Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Tuhfa - vallennox

  • Tác giả Tác giả admin
  • Ngày gửi Ngày gửi
Tuhfa - vallennox

admin

Thánh Ngự Hư Không
Đại Thần
Tham gia
11/6/23
Bài viết
920,326
VNĐ
900,499
[Diendantruyen.Com] Tuhfa - vallennox

Tuhfa - vallennox
Tác giả: vallennox
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tác giả: vallennox

Edit: josee

Thể loại: theo phong cách phương Tây, ngôi thứ nhất, kì ảo, 1×1, OE.

Giới thiệu

Sẽ không có ai truy lùng tôi chỉ vì tôi đã lãng phí bao nhiêu mực đắt tiền, và có lẽ cũng sẽ không có ai đọc được những gì tôi viết.

Tôi có thể viết bất cứ điều gì tôi muốn.

Trong tủ có những lọ mực côn trùng, đủ để viết nên cuộc đời của cả trăm người.

May mắn thay, tôi không muốn viết về cả trăm người, tôi chỉ muốn viết về cậu, Tuhfa. Hãy kiểm nghiệm xem liệu loại mực này có xứng với danh tiếng của mình là tồn tại lâu hơn cả những kí ức hay không.

Lời tựa: Tiếp theo sẽ dùng ngôn ngữ của cậu để viết.
 
Chương 1: Trang 1 - 4


Tiếp theo tôi sẽ dùng ngôn ngữ của cậu để viết, bởi vì ngôn ngữ của tôi thiếu từ vựng. Không phải kiểu thiếu mà người ngoài đảo tưởng tượng, ngôn ngữ của tôi có mười bốn bộ từ khác nhau, dùng để miêu tả những cơn sóng khác nhau, nhưng khi nói về con người thì sẽ không có nhiều bộ từ phù hợp. Vì vậy, để thuận tiện, chỉ vì thuận tiện thôi nên tạm thời tôi sẽ mượn ngôn ngữ của cậu. Không phải vì sợ hãi, và chắc chắn cũng không phải vì nịnh nọt. Đôi khi người ta phải từ bỏ sự tao nhã để đổi lấy sự chính xác. Tiếng mẹ đẻ của tôi bị ám ảnh bởi mười bốn con sóng, sáu trận động đất, bốn cơn mưa và vô số thuật ngữ hàng hải, cũng như núi lửa và trên hết là núi lửa, thật dễ hiểu tại sao chúng tôi lại bỏ qua những thứ còn lại.

Hôm nay tôi lại đi ngắm núi lửa, từ xa. Khói vẫn chưa tan, bình minh thoạt nhìn như bóng hoàng hôn nhuốm màu loang lổ, từ bến tàu có thể cảm nhận được những rung động dưới nước. Tôi nằm xuống đất, áp tai phải xuống, cố gắng hết sức để từng tấc da chạm vào cát, nhắm mắt lại lắng nghe bài hát sâu lắng của núi lửa. Những hòn đảo mới đang được hình thành, và có thể trong hai mươi hay ba mươi năm nữa, những con người mới sẽ lái những con tàu mới đến đó rồi đốt lên những đống lửa mới. “Lửa trại mới”, đây là một khởi đầu tốt đẹp, tốt hơn bất cứ điều gì tôi nghĩ ra trong vài ngày qua. Tôi không biết bắt đầu từ đâu với một câu chuyện. Những câu chuyện của người ngoài đảo thường quen bắt đầu bằng tên của nhân vật chính, nhưng nếu bắt đầu bằng tên trước, chúng ta sẽ buộc phải nhảy đến giữa câu chuyện thay vì bắt đầu.

Lần đầu gặp nhau, cậu đã cười nhạo tên tôi, hay đúng hơn là cậu cười vì tôi không có tên. Vào đêm đầu tiên của mùa buôn bán, bên cạnh đống lửa khổng lồ ở bến cảng, tôi là đứa trẻ duy nhất đến từ Icahn, tôi là người Icahn đầu tiên mà cậu nói chuyện, và cậu có thể được tha thứ cho sự thiếu hiểu biết của mình. Cậu không biết rằng trẻ em trên đảo không có tên, chỉ có đại từ. Người ngoài đảo đặt tên cho trẻ sơ sinh một cách bất cẩn, bất kể chúng có sống sót hay không hoặc có phù hợp với cái tên đó hay không, điều này thật không hợp lí và không công bằng, đây không phải là phong tục của hòn đảo.

Trước khi tôi có tên riêng, mẹ Pucia đã gọi tôi là “Cá Nhồng bé nhỏ” – hơi khó phát âm trong ngôn ngữ của cậu, nhưng trong ngôn ngữ của hòn đảo thì “Cá Nhồng” chỉ có hai âm tiết nên nó là một đại từ rất phổ biến dành cho trẻ em, cùng vần điệu với nó còn có “Cá Ngựa”, “Gỗ Lũa”(1) và “San Hô”. Trên đảo, cậu có thể thử đứng ở quảng trường dưới chân núi lửa và hét tên bất kỳ loài cá nước mặn nào, và ít nhất năm hoặc sáu đứa trẻ sẽ đáp lại.

(1) Gỗ lũa: phần lõi cứng còn sót lại của các cây gỗ sau khi chết, sau quá trình chịu tác động bào mòn của thiên nhiên.

Các bà mẹ khác đều chấp nhận biệt danh do mẹ Pucia đặt cho tôi vì mẹ Pucia chính là người đã sinh ra tôi. Theo phong tục, trước khi người ta lấy tên, mẹ bầu nên chọn một đại từ. Tôi xuất thân từ một gia đình nhỏ, tổng cộng chỉ có bốn người mẹ và ba người cha, cha tôi Lira và tôi trông giống nhau nhất, nhưng người thân thiết nhất với tôi là cha Cormoran. Các bà mẹ đã sớm quyết định rằng chú cá nhồng nhỏ sẽ trở thành thương nhân mới trên biển, bởi vì họ cảm nhận được rằng chú cá lớn hơn đã trở nên bất động và có thể về với núi lửa bất cứ lúc nào. Họ đã đúng, vị thương nhân già hoạt động trên đường biển đã trụ vững thêm hai mùa đông nữa và qua đời trước khi biển được thông thương trở lại. Trước khi chết, không biết tại sao ông ấy lại bò ra khỏi cabin, có lẽ muốn gọi người ở ruộng mía gần đó, tóm lại, rất nhanh đã có người phát hiện ra thi thể của ông, nằm ở ngưỡng cửa, một tay duỗi thẳng về phía trước, đã cứng ngắc rồi. Các linh mục vội vã chạy tới, mang theo vải tang, bọc thi thể rồi đẩy người đã khuất xuống miệng núi lửa. Những gì núi lửa tạo ra luôn quay trở về với núi lửa.

Đương nhiên, cha Cormoran đã tiếp quản đội tàu buôn, và ông vốn là thuyền phó – theo ngôn ngữ của tôi, “thuyền phó” có nghĩa đen là “người gọi cá voi”, có lẽ liên quan đến việc các thủy thủ đầu tiên thuần hóa cá voi để kéo tàu. Mùa buôn bán tiếp theo, tôi theo cha Cormoran lên tàu, điều này không phù hợp với lẽ thường nhưng cũng không làm trái quy định, hạm đội chưa bao giờ quy định trẻ em không được phép lên tàu, bởi vì chưa từng có ai có ý tưởng như vậy. Có người lén hỏi linh mục rằng người chưa có tên có mang lại xui xẻo cho cuộc hành trình hay không, có thể linh mục nói “không”, có thể linh mục không biết, hoặc có thể người ta không muốn xúc phạm người mới. Tóm lại, tôi trên tàu buôn chỉ mới mười ba tuổi, mang theo một túi vải đựng những viên đường thô, một bàn cờ gấp lại, tất nhiên là cả những quân cờ, vài miếng cá muối và một miếng nhỏ màu nâu sẫm – pha lê núi lửa.

Bàn cờ là một trách nhiệm. Các mẹ nhìn tôi đóng gói đồ đạc nhưng không đưa ra một lời khuyên nào, có lẽ đang đợi tôi tự mình tìm hiểu. Tôi nghĩ đây là trò chơi thú vị nhất trên thế giới nhưng không ai trên tàu muốn chơi với tôi. Thực ra chị tôi cũng có mặt trên tàu, nhưng chị ấy là một thủy thủ, và sau chuyến đi này chị ấy đã có thể tạo dựng được tên tuổi cho mình. Chị không có thời gian cũng như không có ý định nói chuyện với em trai cá nhỏ của mình. Tôi ở trong cabin thuyền trưởng cả ngày, thi đấu với chính mình. Nếu cha và thuyền phó của ông vào xem bản đồ, tôi sẽ lên boong nhìn ra biển, nhìn ngọn núi lửa lớn nhất, nó đứng trong làn nước xanh thẫm, vẫn còn cách rất xa tàu buôn, nhưng cái bóng của nó đã bao phủ mặt biển và chạm vào cánh buồm của chúng tôi. Vào một đêm rất yên tĩnh, bạn có thể nghe thấy tiếng nói trong giấc ngủ của núi lửa, phát ra từ sâu dưới đáy đại dương, khiến hộp sọ của bạn và các tấm ván thân tàu run lên và rung chuyển.

Giữa cuộc hành trình, con tàu đến nơi gần ngọn núi lửa nhất, hoàn toàn bị bóng của nó bao phủ. Vào lúc chạng vạng, mọi người bước ra khỏi boong, mang theo những mảnh pha lê núi lửa nhỏ. Cha Cormoran cầu nguyện cho mọi người và là người đầu tiên ném mảnh pha lê của mình xuống biển. Những người khác làm theo, hàng chục mảnh màu nâu đen mịn màng bay về phía làn nước đỏ như máu – một nửa là màu của hoàng hôn, một nửa không, một vùng biển rải rác những miệng núi lửa nơi magma đập như những mạch máu lộ ra. Tôi đọc thầm một lời cầu nguyện và ném thật mạnh mảnh pha lê núi lửa của mình để núi lửa nhận ra chúng tôi và con thuyền của chúng tôi, bảo vệ chúng tôi đi qua an toàn.

Có lẽ những mảnh pha lê thực sự có tác dụng. Chúng tôi đến Đảo Lớn sớm hơn nửa ngày so với dự kiến, mọi người đều rất vui vẻ vì lễ kỷ niệm ở cảng vẫn chưa kết thúc, đống lửa vừa được đốt lên và ngọn lửa vẫn chưa chạm đến những khúc gỗ trên cùng. Cha Cormoran mua cho tôi và chị gái tôi mỗi người hai con cá nướng bọc lá chuối. Tôi chưa từng nhìn thấy loại cá này bao giờ nhưng không vì thế mà tôi mê ngay hương vị của nó, lớp da giòn và nhân thịt cay cay bên trong bụng cá làm bỏng lưỡi. Ăn xong, tôi ngồi trên một tảng đá và liếm chỗ muối và dầu mỡ còn sót lại trên lá chuối. Chị gái tôi muốn đi uống rượu, nhưng cha cấm chị ấy đi một mình, hai người lặng lẽ tranh luận một lúc, cha Cormoran quay đầu lại liếc nhìn đống lửa đang ngày càng sáng hơn trong ánh hoàng hôn, rồi nhìn tôi.

“Con có thể tự mình tìm được chiếc thuyền không, cá nhỏ?”

Tôi trả lời rằng tôi có thể tìm thấy nó.

“Trở về thuyền, cha dẫn San Hô đi mua chút rượu rồi sẽ quay lại ngay.”

“Con cũng muốn đi.”

“Không.” Cha và chị gái tôi nói cùng một lúc.

Thế là trời tối, tôi một mình bước đi trên con phố đông đúc dẫn ra bến cảng, lưỡi và vòm miệng đau nhức vì cá nướng nóng rát. Tất cả các ngọn đuốc bên đường đều được thắp sáng, đám người nhảy múa xô đẩy nhau, có người hất đổ ngọn đuốc, than đang cháy lăn xuống đất, người ta la hét, chửi bới rồi cười lớn. Đột nhiên có ai đó nắm lấy vai tôi, đó là một người đàn ông trông giống thủy thủ, anh ta hét vào mặt tôi nhưng tôi không hiểu gì. Anh buông ra và lại nói, chậm rãi hơn, nhưng tôi sợ đến mức quay người lao vào con hẻm hẹp giữa các ngôi nhà, lao về phía trước hết sức mà không chú ý đến phương hướng. Tiếng trống, tiếng bước chân và tiếng ồn ào của đám đông nhảy múa nhanh chóng biến mất. Khi tôi hụt hơi chạy ra khỏi bóng tối, đống lửa trại chợt hiện ra trước mắt, giống như một ngọn núi lửa nhỏ, hơi nóng dâng trào, tiếng gỗ kêu răng rắc rất lớn, giống như tiếng mười chiếc rìu ngẫu nhiên đập vào một phiến đá. Ở đây cũng có người đang nhảy múa, ngọn lửa và bóng tối nhảy múa cùng nhau khiến số người dường như đông gấp đôi.

Đây là một kiểu nhảy khác với kiểu nhảy trên đường phố, tôi phát hiện ra điều đó sau khi lén xem một lúc. Những người xung quanh đống lửa trại trông cũng tầm tuổi tôi, nhiều nhất cũng chỉ lớn hơn hai ba tuổi, cả trai lẫn gái, đều cầm giáo, mũi giáo lóe lên, khi chạm vào nhau sẽ phát ra tiếng kêu leng keng. Mỗi khi trống thay đổi nhịp, họ sẽ ném ngọn giáo của mình cho bạn nhảy. Cậu ở ngay đó, không thể không nhìn thấy, chàng trai cao nhất không mặc áo, ngực và cánh tay đẫm mồ hôi, trông như một lớp dầu dưới ánh lửa. Tôi có thể nhìn thấy hình xăm trên vai cậu và ánh sáng đáng sợ của ngọn giáo khi nó quay. Tôi chưa bao giờ nói cho cậu biết lý do tại sao tôi lại có mặt ở nơi đốt lửa trại đêm đó, tôi luôn giải thích đó “chỉ là trùng hợp thôi” vì nó không phải là nói dối. Nhưng câu trả lời trung thực hơn là thế này: cậu nổi bật vì ngọn lửa, vũ khí, màn đêm hay bất cứ thứ gì. Tôi muốn đến gần hơn, tôi muốn nhìn rõ hơn.

Nhìn xem, tôi đã đưa ra một quyết định sáng suốt ngay từ đầu. Nói sự thật bằng ngôn ngữ của người khác sẽ dễ dàng hơn.

Sau đó, cậu gần như đã giết tôi.

Đó là sự thật, không phải là một lời buộc tội. Cậu không làm gì sai cả, cậu nhìn thấy tôi, chúng ta nhìn nhau một lúc và cậu nhận thấy cậu bé kỳ lạ này không có cây giáo trong tay nên cậu quyết định ném cây giáo của mình cho tôi. Trong trí tưởng tượng của cậu, tôi sẽ dễ dàng cầm lấy vũ khí và tham gia điệu nhảy. Nhưng tôi quá sợ hãi, rụt cổ lại, bước sang một bên, may thay, nếu không ngọn giáo có thể đã xuyên qua mạng sườn của tôi và ghim tôi xuống cát. Mũi giáo sượt qua bắp tay của tôi nhanh và sắc bén đến mức tôi thậm chí không cảm thấy đau đớn. Ngọn giáo cắm sâu vào cát và đứng đó bất động.

Máu chảy xuống cánh tay tôi, mọi người xung quanh đều dừng lại, nhìn tôi rồi quay lại nhìn cậu. Cậu chạy tới, rút ngọn giáo của mình ra và kéo tôi ra khỏi đám đông đang nhảy múa. Tiếng trống lại vang lên, một chàng trai khác lấp đầy khoảng trống mà cậu để lại, bóng tối lại rung chuyển, hàng chục ngọn giáo lại chém vào nhau một cách gọn gàng.

Bàn tay trái của tôi chảy nhiều máu hơn tôi tưởng. Cơn đau trở nên sắc bén như mũi giáo, cậu ném ngọn giáo xuống đất, lấy một mảnh quần áo trong đống quần áo ném trên đá, xé nó thành dải hai hoặc ba lần và buộc chặt vết thương của tôi. Cơn đau càng tăng, tôi hét lên, cậu vỗ nhẹ vào lưng tôi và nói tiếp. Ngôn ngữ của chúng ta không cách xa nhau đến thế, nhưng chúng cũng không giống như những người ủng hộ chủ nghĩa bành trướng tuyên bố, và tôi sẽ để cậu tiếp tục cho đến khi tôi nghĩ cậu hẳn đã nhận thấy rằng dù sao thì tôi cũng không hiểu, sau đó tôi thừa nhận rằng tôi không hiểu.

“À.” Cậu nói, tôi tưởng cậu sẽ bỏ đi hoặc tìm người bán hàng tới, nhưng cậu vừa thay đổi sang ngôn ngữ của tôi. “Đáng lẽ cậu nên nói với mình sớm hơn.”

Nhưng tôi không biết cậu có nói được ngôn ngữ của tôi không, tôi không có sự tự tin đó. Cậu có thể khá chắc chắn rằng sớm hay muộn thì những người khác cũng sẽ thông thạo ngôn ngữ của cậu, vì nó không chỉ là ngôn ngữ chung trong thương mại mà còn là ngôn ngữ của hợp đồng và luật pháp, của thơ ca và nghệ thuật nấu chảy, của lịch sử và giá cả hàng ngày. Các thuyền trưởng dùng nó để cãi vã và các nhà lãnh đạo tôn giáo dùng nó để thuyết giáo. Còn với chúng tôi, hòn đảo nhỏ bên kia núi lửa, chúng tôi luôn ngạc nhiên mỗi khi có người ngoài đảo nói tiếng mẹ đẻ của mình.

Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên tương tự. Cậu trông có vẻ tự mãn và nói với tôi rằng cha cậu là một trong những đại biểu của Hội đồng Thương mại Đảo Lớn, rằng cậu có thể nói tiếng địa phương của bốn hòn đảo thương mại lớn và rằng cậu đã đọc “Biên niên sử về những ngọn núi lửa” của chúng tôi. Bản thân tôi chưa đọc nên cố tình không theo dõi chủ đề. Tôi đoán cậu đã quá quen với việc nhận được những lời khen ngợi nên cậu hơi thất vọng khi tôi không thể hiện sự ngưỡng mộ ngay lập tức.

Bên đống lửa đằng kia, các thanh niên nam nữ hét lên “Ho!” và ném giáo vào tay nhau. Tôi lo lắng nhìn chằm chằm, sợ ai đó có thể bị đâm vào đầu, nhưng rõ ràng đêm đó tôi là người duy nhất không biết cách sử dụng vũ khí.

“Mình xin lỗi.” Cậu nói: “Tất nhiên là mình không có ý giết người.”

Tôi không nhớ rõ mình đã nói gì, có lẽ tôi chẳng nói gì cả, tôi chỉ cười. Cậu hỏi xem máu đã ngừng chảy chưa, rồi bắt đầu giải thích điệu nhảy trước mặt cậu, ai là người tham gia và tại sao họ lại cầm giáo. Tôi không nghe, tôi không quen với giọng nói của cậu, và tôi đang nhìn vào đôi mắt của cậu, đôi mắt đen, giống như những người thủy thủ mô tả, và mái tóc của cậu cũng cùng màu. Hình xăm trên vai cậu là một con chim hải âu, sau này, khi chúng ta gặp nhau lần thứ tư, ngực trái của cậu cũng sẽ được bao phủ bởi một hình xăm, một con cá nhồng, thứ mà cậu cho rằng “đương nhiên” là đại diện cho tôi.

Tôi thực sự hy vọng rằng cậu chỉ đang đùa.

Chúng tôi cùng nhau đi đến nơi tàu buôn neo đậu, tôi không mời cậu, cậu cũng không nói gì, cậu chỉ tự nhiên đứng dậy và đi bên cạnh tôi. Cậu nói tên mình, dùng ngọn giáo vẽ những dòng chữ giống như cây nho trên cát: “Tuhfa”, hai âm tiết, có nghĩa là món quà(2). Theo tôi, đó là một cái tên lạ, cậu cũng có quan điểm tương tự về tên của tôi, cậu nhiều lần hỏi tôi về “tên thật” của tôi, tôi đã giải thích hai lần nhưng cậu vẫn nghi ngờ và cho rằng tôi cố tình nói đùa.

(2) Trong tiếng Uzbek (ngôn ngữ chính thức của Uzbekistan), “Tuhfa” có nghĩa là món quà.

“Nhưng mình biết đội trưởng của các cậu, và ông ấy không dùng động vật làm tên.”

“Ông ấy không cần nữa, ông ấy đã trưởng thành rồi.”

“Mọi người có thực sự gọi cậu là ‘Cá Nhồng’ trên đảo của cậu không?”

“Thật mà.”

“Vậy tương lai cậu định đặt cho mình cái tên gì?”

Tôi không biết, thực sự. Nó phụ thuộc vào những gì cậu đã làm để thuyết phục linh mục rằng cậu đã trưởng thành. Có những người đi biển giống như chị tôi. Có những người làm việc suốt cả mùa hè, như bố Lira. Hay như mẹ tôi Noor, người quản lý bộ sưu tập sách cho các linh mục nhờ trí nhớ tuyệt vời của bà. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch của mẹ, có lẽ tôi sẽ chọn “Meilanbao”, nghĩa là “cuộc hành trình”. Hay “Panleripan” – “người đàn ông đi dạo cùng cá heo.” Nếu mọi việc thực sự diễn ra theo đúng kế hoạch của mẹ thì có lẽ tôi và cậu đều sẽ hạnh phúc hơn. Tôi không cần phải ngồi đây và viết tất cả những điều này ngay bây giờ. Tôi dùng loại mực rất tốt, quá tốt đối với tôi, tôi không nhớ tên chính thức, là loại thường được bán trong những chai bạc nhỏ ở chợ, có nguồn gốc từ những loài côn trùng có vỏ cứng sống trong tro núi lửa. Hàng năm sẽ có hai hoặc ba người chết trong khi thu thập nguyên liệu thô, vì vậy trong một số ngôn ngữ của vùng biển phía Nam, nó được gọi là “mực máu”, nhưng chúng tôi thường gọi nó là “mực côn trùng”. Các linh mục dùng nó để ghi chép vì mực của côn trùng không bao giờ phai. Nếu họ biết tôi đang viết gì bằng loại mực này, có lẽ họ sẽ tống tôi lên ca nô, tước đoạt nước ngọt của tôi và đày tôi ra biển khơi. Nhưng sẽ không có ai truy lùng tôi chỉ vì tôi đã lãng phí bao nhiêu mực đắt tiền, và có lẽ cũng sẽ không ai đọc được những gì tôi viết. Tôi có thể viết bất cứ điều gì tôi muốn. Trong tủ có những lọ mực côn trùng, đủ để viết nên cuộc đời của cả trăm người. May mắn thay, tôi không muốn viết về một trăm người, tôi chỉ muốn viết về cậu, Tuhfa. Hãy kiểm nghiệm xem loại mực này có xứng với danh tiếng của mình và tồn tại lâu hơn cả những kí ức hay không
 
Chương 2: Trang 5 - 9


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

May mắn thay, lần thứ hai chúng tôi gặp nhau không có ai bị thương. Một lần nữa trên Đảo Lớn, bốn năm đã trôi qua. Vết thương do ngọn giáo gây ra đã lành từ lâu mà không để lại dấu vết, như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Tôi không nói cho ai biết nguyên nhân thực sự khiến tôi bị thương, khi được hỏi thì tôi nói rằng mình bị xe bán hàng ở chợ làm trầy xước, không ai thắc mắc về câu trả lời này. Tôi thực sự không cần phải nói dối, nhưng tôi không buồn giải thích lý do tại sao tôi lại có mặt ở chỗ lửa trại. Và chị gái tôi có lẽ sẽ chộp lấy điều đó để không ngừng cười nhạo tôi.

Về đến nhà, vết thương đã đóng vảy. Tôi kể lại câu chuyện tương tự cho các bà mẹ, và mẹ Pucia nhận xét rằng vết sẹo phẳng đến mức trông giống như vết đâm hơn, nhưng bà đã không truy hỏi tiếp. Ngôi nhà luôn trong tình trạng hối hả, nhộn nhịp như thường lệ khi một thủy thủ trở về, cha Cormoran mang quà cho mọi người, hôn từng người mẹ và được kéo đến để nhận nụ hôn từ hai người cha còn lại. Mỗi khi nghĩ về cha mẹ, điều đầu tiên hiện lên trong đầu tôi luôn là cảnh tượng này: ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi đá, ngôi nhà thơm mùi chiếu rơm, cá nướng, vải bông mới, và mọi người đều ở đó, mỉm cười, ôm nhau, hôn nhau, chia sẻ những viên đường mía và lợn rừng khô từ Đảo Lớn.

Tôi cứ tưởng năm sau mình có thể ra khơi lần nữa nhưng không ngờ cha Cormoran lại không có dự định như vậy. Chị gái tôi hiện là thủy thủ chính thức của đội tàu buôn và được mệnh danh là “Sanggu”, có nghĩa là “khả năng phi thường”. Khi đã trưởng thành, cô chuyển đến căn nhà riêng của mình mà bố Sinta và cô đã cùng nhau xây dựng vào mùa hè năm ngoái. Tôi muốn lẻn vào qua cửa sổ khi Sanggu đi vắng, nhưng không may con chó của cô ấy luôn đuổi tôi ra ngoài, cuối cùng, bố Sinta đã tóm lấy con chó, trói nó vào cây dừa rồi đuổi tôi ra bãi biển để vớt tảo đỏ dính nhớp.

Khi tôi mười bốn tuổi, tôi dành nhiều thời gian ở ngoài trời vào mùa hè. Nếu không làm việc trên cánh đồng mía với bố Lira thì tôi cũng đang học cách làm mồi và bắt cá từ bố Sinta, ông cũng cố dạy tôi cách nhận biết hàng chục loài động vật có vỏ và rong biển xuất hiện ngoài biển khơi, nhưng tôi không nhớ nhiều lắm. Tôi không có tài trồng trọt, cũng không có tài chèo thuyền, đó là điều chắc chắn, thậm chí có đêm tôi còn nghe thấy cha mẹ tôi lặng lẽ nói chuyện, bàn bạc xem liệu cá nhỏ có nên học dệt vải hay không, nhưng tôi không nghe được kết luận. Họ đóng cửa phòng ngủ lại và âm thanh biến thành những tiếng vo ve không thể xác định được.

Càng về cuối hè, thời tiết càng xấu đi rõ rệt, đoàn tàu buôn vẫn chưa từ Đảo Lớn trở về, muộn hơn những năm trước mấy ngày, nhưng đây không phải là vấn đề, thậm chí có lúc đoàn tàu còn chậm tận hai tuần. Tôi bắt đầu đi đến đền với mẹ Noor mỗi ngày. Bà dạy tôi đọc và viết, rồi bảo tôi tập viết chữ Đảo Lớn – ngôn ngữ của cậu – trên biên bản thu hoạch sắn đã bỏ đi. Vào đêm chúng ta gặp nhau lần đầu tiên, cậu đã viết nó trên cát. Mảnh mai, quanh co, được điểm xuyết bởi những nốt nhạc đóng mở và các chấm nhỏ li ti, giống như dấu vết do côn trùng nhiều chân bò trên bãi cát ẩm để lại.

Chính trong ngôi đền, tôi đã khám phá ra niềm đam mê thực sự của mình: ngôn ngữ. Tôi có thể ngồi đó suốt bốn năm tiếng đồng hồ, nhai ngấu nghiến một tập thơ viết bằng ngôn ngữ của các hòn đảo bên ngoài kia. Tôi không hề thích thơ ca chút nào, chỉ thích nghiền ngẫm những từ xa lạ, nghiền ngẫm cách viết và phát âm rồi chép lại nó. Khi còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi việc sưu tầm những chiếc vỏ sò xinh đẹp với nhiều hình dạng khác nhau và cẩn thận giấu chúng trong những chiếc hộp gỗ nhỏ, giờ đây tôi cũng thu thập từ vựng mới theo cách tương tự. Đôi khi đi dạo trên bãi biển, hay nằm trên chiếu rơm vào ban đêm, tôi không khỏi chơi đùa với những “vỏ sò” mà mình có, xâu từng cái một vào chiếc vòng cổ cấu tạo từ ngữ pháp và thưởng thức những câu từ mới.

Ngôn ngữ giống như một cánh cửa sổ, hay một cuộc sống mới. Thế giới đã tan vỡ và được ghép lại với nhau theo logic mới. Ví dụ, theo cách hiểu của Icahn, núi lửa là sự kết hợp giữa “ngọn lửa” và “núi”, điều tương tự cũng đúng trong cách hiểu của Đảo Lớn. Nhưng trên quần đảo băng giá xa hơn một chút về phía bắc, người ta hiểu nó là “núi tan”, dùng magma tương tự như tuyết tan. Ở phía nam, ngôn ngữ chung của Quần đảo Rừng Xanh không đề cập đến lửa hay núi mà chỉ nói đến “đá khói”, có lẽ là do núi lửa ở khu vực đó nhỏ và hầu hết đều không hoạt động, qua nhiều thế hệ họ chỉ nhìn thấy khói và hiếm khi gặp magma.

Tôi đọc mọi thứ, những lời cầu nguyện, cáo phó, những lời tiên tri, hồ sơ thương mại, kế hoạch đóng tàu, sách hướng dẫn làm đường. Khác với Đảo Lớn, chúng tôi hầu như không có sách chuyên sưu tầm truyện. Truyện hư cấu là truyền miệng chứ không phải viết, thường là do cha mẹ kể. Dù trong cùng một bối cảnh, các gia đình khác nhau sẽ kể những cốt truyện khác nhau và họ tùy ý thay đổi, mối quan hệ của các nhân vật cũng được điều chỉnh để phù hợp với nhiều đối tượng khán giả khác nhau. Mọi thứ viết ra đều là thơ. Trong ngôn ngữ của tôi, “thơ” và “lịch sử” là những từ cùng nguồn gốc. Thơ là ký ức, ghi lại những sự kiện có thật trên thế giới. Điều quan trọng là nội dung và tác động vô hình của những nội dung này đối với con người. Kỷ luật, nhịp điệu và vẻ đẹp chiếm ưu thế sau. Chính vì vậy mà khi lần đầu đọc thơ của những hòn đảo bên ngoài, tôi rất ngạc nhiên, tôi tưởng tất cả những chuyện tình bất ngờ đó đều là sự thật lịch sử, không hiểu sao “lịch sử” của những hòn đảo bên ngoài lại bị thống trị bởi các nàng tiên đầm phá(1) và những bản tình ca. Bài thơ dài về cô gái dập tắt ngọn núi lửa khiến tôi đặc biệt bối rối: Làm sao một người có thể thách thức được ngọn núi lửa? Ai có thể sống sót trở về sau khi chứng kiến điều kỳ diệu như vậy?

(1) Đầm phá: là một loại hình thủy vực ven bờ, nước lợ, mặn hoặc siêu mặn, thường có hình dáng kéo dài, được ngăn cách với biển bởi hệ thống đê cát dạng cồn đụn và có cửa thông với biển.

[Diendantruyen.Com] Tuhfa - vallennox


Đương nhiên, tôi hỏi mẹ Noor, bà cười một lúc rồi dừng lại, chậm rãi giải thích cho tôi về thơ của người dân đảo ngoài, khái niệm “hư cấu”, “giải trí” là gì và đôi khi mọi người viết ra những tưởng tượng của mình rồi chia sẻ chúng với nhau. Trong trường hợp của chúng tôi, truyện là những thứ truyền miệng, thanh tao và là “thứ yếu”, nhưng điều này không xảy ra ở tất cả các đảo, trên Đảo Lớn đều có những người chuyên viết truyện để kiếm sống. Trên các hòn đảo phía nam có rừng nhiệt đới bao phủ, kể chuyện là một nghề được tôn trọng và người ta có thể được bầu vào hội đồng cùng với các thương nhân hàng hải.

Điều này có thể có nghĩa rằng những gì tôi đang viết là một bài thơ theo nghĩa chặt chẽ nhất của Icahn.

Vào mùa đông, tôi là người duy nhất leo núi lên ngôi đền mỗi ngày. Mẹ Noor có thai trước mùa buôn bán, và việc ra ngoài không còn thuận tiện nữa khi thời tiết trở lạnh rõ rệt. Có bốn con đường lên núi lửa, không có con đường nào dễ đi, những con đường tương đối bằng phẳng bị gió lạnh thổi dữ dội, trong khi những con đường núi được che chở bởi những tảng đá khổng lồ lại vô cùng hiểm trở. Cân nhắc hai nỗi đau, tôi chọn con đường lộng gió, không những rộng hơn ba con đường còn lại mà còn được lát đá. Mỗi buổi sáng, tôi quấn mình trong chiếc áo khoác len bồng bềnh, che đầu, mặt và tai bằng chiếc khăn quàng cổ của mẹ Pucia, rồi cúi đầu đi lên và nghiêng người sang một bên để chống lại sự lấn chiếm liên tục của gió mạnh.

Lối vào đền thấp như hầm mỏ, tỏa ra mùi muối và mùi gỗ, phải đi khoảng hai mươi bước thì nó mới dần dần mở ra. Không khí ấm áp ùa ra, bàn tay và đôi má lạnh cóng của tôi bắt đầu hơi râm ran. Tôi cởi khăn quàng cổ và từng lớp quần áo, chỉ để lại chiếc áo cotton và quần dài. Núi lửa của Đảo Icahn đã không hoạt động trong nhiều năm, nhưng ít nhất một “mạch” magma vẫn chạy xuyên qua ngọn núi, có lẽ đó là thứ khổng lồ đã kết nối chúng tôi với Đảo Lớn. Nham thạch liên tục tỏa nhiệt.

Để đến thư viện, trước hết phải đi vòng qua hồ nước ở trung tâm ngôi đền. Khi tôi nói “hồ nước”, người ta có thể tưởng tượng ra một tác phẩm được sắp xếp bằng đá hình vuông hoặc tròn, khảm bằng đá cuội hoặc khảm trắng, nhưng “hồ nước” của ngôi đền chỉ đơn giản là một vùng trũng hình chữ bát(2) với nước chỉ ngập đến mắt cá chân ở điểm sâu nhất, không có ranh giới rõ ràng, hòa quyện với những phiến đá màu cát xung quanh. Người đến cầu nguyện ném những mảnh pha lê núi lửa nhỏ xuống nước nên đáy hố luôn đầy những mảnh đá đen cỡ ngón tay. Ánh nắng nhạt và những giọt nước nhỏ xuống từ khe hở hình tròn trên đỉnh hang, vùng nước nông bị đá nướng chín, bốc hơi thành sương mù.

(2) Hình chữ bát: 凹

Để ngăn hơi nước, thư viện có hai cánh cửa, sau khi đi qua cánh cửa thứ nhất, hành lang rẽ sang bên phải, không có đuốc nhưng mọi người có thể di chuyển về phía trước bằng cách cảm nhận những lỗ thông hơi mảnh mai, những lỗ thông hơi này được khoan xuyên qua tường đá, để núi đón không khí lạnh tràn vào. Cánh cửa thứ hai thấp hơn, vừa vặn với tôi mười bốn tuổi, vài năm nữa tôi sẽ phải cúi xuống. Cửa đá rất nặng, khi đẩy ra sẽ luôn làm phiền người bên trong, bình thường sẽ là linh mục tập sự, nhưng tôi thường đến rất sớm nên bên trong không có người. Không khí lạnh và khô – điều kiện cần thiết để bảo quản sổ sách và hợp đồng. Các lỗ thông gió trên tường đá rộng bằng hai lòng bàn tay và được trang bị vách ngăn bằng gỗ có thể đóng lại khi trời quá lạnh hoặc có tuyết. Nhưng theo những gì tôi có thể nhớ, những vách ngăn này chưa bao giờ bị đóng. Tôi mặc lại quần áo, hết lớp này đến lớp khác, quấn chiếc khăn quàng lên tận cằm.

Tại đây tôi đã đọc xong cuốn “Biên niên sử về những ngọn núi lửa”, lẽ ra không nên nói “đã đọc” mà phải là “liếc nhanh từng tập rồi trả nhanh lại, thề không bao giờ đụng đến nữa”. Cuốn sách này cực kỳ nhàm chán, nếu cậu nói rằng cậu đã đọc nó, tôi rất nghi ngờ rằng cậu thực sự mới đọc trang đầu tiên của tập đầu tiên, đó chỉ là lời khoe khoang. Nhưng hầu hết mọi người sẽ không vạch trần cậu, bởi bản thân họ cũng chưa đọc cuốn sách đó. Chỉ có những linh mục tập sự mới chịu khó nghiên cứu từng từ dưới sự giám sát chặt chẽ và ghi nhớ nó với nỗi khổ sở gấp đôi. Đôi khi những người bạn tập sự của tôi sẽ lén đưa cho tôi những món quà nhỏ – thường là những món ăn không có trong làng và nhờ tôi chép lại một hoặc hai chương cho họ để họ lẻn ra ngoài chơi.

Tôi không theo đạo, và niềm tin của tôi vào núi lửa đã biến mất từ lâu trước khi tôi sẵn sàng thừa nhận điều đó với chính mình. Bất cứ khi nào mọi người kìm nén sự tò mò và lịch sự hỏi tôi tại sao tôi lại quen biết nhiều linh mục như vậy, tôi đều thành thật trả lời: “Khi tôi còn nhỏ, họ đã hối lộ tôi và tôi đã viết một nửa số kinh thánh cho họ”. Phản ứng đầu tiên của mọi người sau khi nghe điều này là bật cười, cho rằng tôi là một kẻ xảo quyệt không chịu chia sẻ bí quyết nịnh nọt.

Ảo tưởng đeo bám trong ký ức tuổi thơ của tôi là núi lửa và đại dương đều sẽ mãi mãi yên bình. Nhưng sự thật là tranh chấp đã bắt đầu từ trước khi chúng tôi ra đời, hoặc khi những người định cư đầu tiên đốt đống lửa trại đầu tiên trên hòn đảo đầu tiên. Năm mà cậu và tôi gặp nhau trên Đảo Lớn, phép thuật chính thức bị cấm ở Quần đảo phía Bắc, các pháp sư cùng với các tàu buôn chạy trốn và hầu hết đều định cư trên Đảo Lớn. Bọn họ buôn bán độc dược và bùa chú, lấn át việc kinh doanh của dược sư, đại diện của dược sư lập tức đến hội đồng phản đối, pháp sư tiếp tục phân tán về phía đông nam. Đồng thời, đảo Icahn không chỉ có tranh chấp về nghề cá với các đảo phía Bắc mà còn gần như phá vỡ hiệp định thương mại với Đảo Lớn do tuyến đường vận chuyển. Hai hòn đảo lớn và nhỏ ở phía đông đang trên bờ vực nội chiến. Một cuộc chiến đã bắt đầu ở đâu đó phía nam. Tôi không nhớ họ là hai bộ tộc nào. Cả hai bên đều đã chết hết. Một nhóm cướp biển chiếm đóng hòn đảo quê hương của họ trong một thời gian ngắn. Nhưng chỉ chưa đầy một năm, họ đã chết vì bệnh dịch, không có ai sống sót. Không ai đến gần hòn đảo nữa và rừng nhiệt đới lại nuốt chửng nó.

Sau này chúng tôi thường nói rằng muốn quay trở về thời thơ ấu, về cái thời đại dương này vẫn còn “hợp lý”. Nhưng sự thật là cái thời đó chưa bao giờ tồn tại. Trong những năm tháng yên bình trên đảo buôn bán, núi lửa vẫn phun trào xóa sổ một, hai ngôi làng hẻo lánh, liệu có ai viết thơ về chúng không?

——

Lần thứ hai tôi đến thăm Đảo Lớn là vào mùa thu. Tôi mười bảy tuổi và từ lâu tôi đã không còn thích chơi cờ. Ngày trước ngày khởi hành là ngày thu hoạch, mọi người đều bận rộn chặt mía hoặc hun khói, tôi chuẩn bị mảnh pha lê núi lửa, viên đường mía và cá hồi khô, ngoài ra tôi còn mang theo lưỡi câu tôi làm hồi hè, hai cuộn dây câu, một con dao và vài mảnh gỗ nhẵn – mực và giấy được dành riêng cho các linh mục, những người khác phải sử dụng mảnh gỗ hoặc phiến đá để thay thế. Tôi định ghi lại một điều gì đó, mặc dù tôi không biết chính xác nó là gì.

Lần này chỉ có một chiếc tàu, không phải để kinh doanh, hoàn toàn không có không khí lễ hội của mùa buôn bán. Khi đi qua núi lửa, thuyền dừng lại lâu hơn tôi nhớ, hai vị linh mục đọc kinh dài trước khi vẫy tay ra hiệu cho những người khác ném pha lê núi lửa xuống nước. Tôi kêu lên một cách thiếu kiên nhẫn, nghĩ rằng sẽ không có ai nghe thấy mình, nhưng cha Cormoran đã quay đầu lại như một con cá heo cảnh giác và nháy mắt với tôi.

“Tại sao các linh mục lại đến Đảo Lớn?” Tôi hỏi vào cuối ngày hôm đó trong cabin của thuyền trưởng. Cha Cormoran đang đan một chiếc áo len nhỏ cho em gái tôi. Mùa đông sắp đến rồi.

“Thảo luận gì đó.” Cha trả lời mà không rời mắt khỏi kim đan.

“Có chuyện gì thế?”

“Ta không biết, cá nhỏ.”

“Con tưởng đàm phán là công việc của một thương nhân.”

“Đôi khi không.” Cha liếc nhìn tôi rồi đưa tay điều chỉnh góc độ của ngọn đèn dầu cá voi để ánh sáng có thể chiếu sáng bộ quần áo chưa dệt xong tốt hơn, “Hơn nữa, cha tin chắc con sẽ biết nhiều hơn cha.”

“Tại sao? Con thậm chí còn không biết họ bắt con để làm gì.”

“Con sẽ sớm biết thôi, phải không?”

Tôi không nói nữa. Cha Cormoran ngân nga khe khẽ, đan tay áo trái một cách khéo léo. Một lúc sau, ông hắng giọng: “Cá Nhồng?”

Tôi nhìn ông ấy.

“Khi chúng ta trở lại đảo Icahn, có lẽ con có thể đặt cho mình một cái tên, hiểu không? Đừng hỏi quá nhiều. Hãy làm theo những gì các linh mục bảo con.”

Tôi trả lời “Con hiểu” mặc dù tôi chẳng hiểu gì.

Đảo Lớn vào mùa thu nhìn từ xa có màu xanh xám thay vì màu xanh tươi vào mùa hè. Bến tàu vắng tanh, ít thuyền và người, chợ cũng vắng, không có người bán hàng, thùng chở hàng hay những tấm rèm sặc sỡ bắt mắt, những sạp đá trông như những dãy tổ ong khoét rỗng. Tất nhiên là không có lửa trại ở quảng trường, nhưng có thể dễ dàng biết được lửa ở đâu qua những vết cháy sém trên gạch đá.

Cha Cormoran vẫn ở trên tàu cùng các thủy thủ. Nhưng vị linh mục đã đưa tôi đi cùng với những người học việc và đi thẳng đến Hội đồng Đảo Lớn. Cả hai giáo sĩ đều mặc áo choàng dùng cho những dịp trang trọng, phần thân trên có màu đỏ tươi, càng xuống phía dưới màu càng đậm, viền áo hoàn toàn chuyển sang màu đen carbon. Màu núi lửa. Thỉnh thoảng có một tín đồ cúi chào họ, nhưng hầu hết đều không nhìn chúng tôi. Người lạ là chuyện bình thường ở đây và cư dân của Đảo Lớn đã nhìn thấy những điều kỳ lạ hơn chúng tôi.

Hội đồng là một tòa nhà đơn giản bằng gỗ và đá, những viên đá trên các bức tường bên ngoài có cũ có mới không đồng nhất. Có vẻ như ban đầu nó được dự định xây dựng như là một nơi tụ tập che mưa một cách vội vàng, nhưng khi được sử dụng, người ta nhận ra rằng cần phải bổ sung thêm nhiều phòng hơn, rồi vài căn phòng khác được xây dựng một cách bừa bãi trên mặt đất, cuối cùng những căn phòng không ngừng tăng lên tạo thành một hành lang kết nối với hội trường.

Một người đàn ông đang dựa vào cửa, tôi tưởng cậu ta là lính canh, nhưng người đàn ông này không có vũ khí và trông có vẻ lười biếng. Khi chúng tôi nhìn thấy vị linh mục, anh ấy đứng thẳng dậy, lau mái tóc đen bù xù, chào đón chúng tôi rồi giải thích rằng đại biểu của Quần đảo phía Nam vẫn chưa đến và yêu cầu chúng tôi đợi bên trong. Anh ấy nói ngôn ngữ của chúng tôi, với giọng hơi nhẹ, nhưng cú pháp của anh chính xác và cách lựa chọn động từ của anh mang tính thành ngữ.

Cho đến thời điểm này, tôi đã không nhận ra cậu, sau bốn năm trôi qua, và thành thật mà nói, tôi hiếm khi nghĩ đến cậu. Nhưng khi cậu quay lại và bước vào tiền sảnh, có thể vì nét mặt cậu, hoặc vì những chiếc lông chim hải âu ló ra dưới chiếc cổ áo rộng, tôi chợt nhớ ra. Cậu dường như không nhận ra tôi, đôi mắt cậu quét qua tôi không ngừng. Tảo Lam(3), người bạn linh mục tập sự của tôi, nhẹ nhàng kéo khuỷu tay tôi, lúc đó tôi mới nhận ra mình đang đứng yên, lúng túng chạy vài bước để đuổi kịp vị linh mục.

(3) Tảo lam: hay còn gọi là vi khuẩn lam hoặc tảo lục lam, là một ngành vi khuẩn có khả năng quang hợp.

Phòng hội đồng được trải đầy đệm, tạo thành một vòng tròn lỏng lẻo xung quanh ngọn lửa. Gỗ thông dày hơn cánh tay được xây thành hình tháp, kêu tanh tách và cháy, khói bay thẳng lên và thoát ra ngoài qua giếng trời. Không hiểu sao trong không khí lại có mùi rong biển luộc, có lẽ nó đến từ bên ngoài. Các linh mục ngồi khoanh chân trên những chiếc đệm gần đống lửa, theo sau là những người học trò của họ. Tôi thực sự có thể chọn ngồi bên phải, xa ngọn lửa nhất và gần cửa nhất. Nhưng tôi đã đi sang bên trái và ngồi cạnh cậu. Cậu liếc nhìn tôi và mỉm cười, với ngọn lửa nhảy múa trong đôi mắt đen của cậu, giống như bốn năm trước. Kể cả khi ngồi xuống, cậu vẫn cao hơn tôi, và tôi phải hơi nghiêng đầu mới nhìn được mặt cậu, điều đó thật thô lỗ, nhưng cậu cũng đang nhìn tôi nên chắc là bỏ qua vậy. Tôi hồi hộp quan sát đường nét gò má và chiếc mũi của cậu, mơ hồ lo lắng rằng mình đã nhận nhầm người.

“Xin chào.” Cuối cùng, cậu lên tiếng trước, “Tên mình là Tuhfa.”

Tôi muốn trả đũa bằng một câu châm biếm, khôi phục lại một số điểm mà không ai quan tâm và bằng cách nào đó bù đắp cho sự xấu hổ của bốn năm trước. Hoặc tôi nên hỏi làm sao cậu có thể quên nạn nhân bất ngờ của một ngọn giáo theo cách dễ dàng như vậy, nhưng sự ứng biến chưa bao giờ là thế mạnh của tôi, không phải bây giờ, chắc chắn không phải ở tuổi mười bảy, và tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trả lời thành thật.

“Mình biết.”
 
Chương 3: Trang 10 - 12


Tiếng chuông reo làm gián đoạn cuộc trò chuyện bất ngờ của chúng tôi, hai con chó sói đồng cỏ màu nâu và đen chạy vào, nằm thở hổn hển cạnh đống lửa. Theo sau là các thủ lĩnh và phó thủ lĩnh của Quần đảo phía Nam, đều mặc áo choàng màu xanh đậm dài đến mắt cá chân, bọn họ trông giống như một đống cỏ khô có chân, khi ngồi xuống trông càng giống đống cỏ khô hơn.

Vị linh mục quay lại nhìn tôi, không nói gì, vẫy tay chào tôi rồi đưa cho tôi một lọ mực nhỏ, một cây bút lông và một cuộn giấy. Cho đến lúc này tôi mới biết rằng nhiệm vụ của tôi không chỉ là dịch những gì người dân đảo phía Nam nói mà còn phải viết ra những thuật ngữ và lập luận mà họ đưa ra. Hai vị linh mục tập sự lần lượt phụ trách các hòn đảo phía bắc và Quần đảo Đôi ở phía đông, mỗi hòn đảo Đôi đều cử một người đại biểu, họ đi cách xa nhau, như thể vừa cãi nhau và không có ý định hòa giải.

Vừa mới bắt đầu nói chuyện, tôi đã căng thẳng đến mức không thể nghĩ được gì, miệng lọ mực quá nhỏ, tay tôi run liên tục, khó có thể đưa đầu bút vào. Hoặc mực nhúng quá ít nên chỉ viết được vài dòng là hết, hoặc mực nhúng quá nhiều làm nhỏ giọt khắp nơi. Tôi thầm cảnh báo bản thân không được lãng phí mực, nhưng cuối cùng lại càng lãng phí nhiều mực hơn. Ngôn ngữ của đảo phía Nam đầy âm vọng, dịch ra cũng giống như bắt chim bay, người ta phải cố gắng nhảy lên cao nên sẽ thường xuyên bị rơi xuống không trung.

“Mỏ than.” Cậu đột nhiên ngắt lời và chạm vào vai tôi: “Họ đang nói về những mỏ than mới được phát hiện ở phía Bắc.”

Tôi vô thức che tờ giấy lại, không muốn người ta thấy mình đang viết nguệch ngoạc vì chưa hiểu rõ, và ngay lập tức tôi cảm thấy xấu hổ vì hành động này. Cậu mím môi, có thể đó là một nụ cười, có thể không. Tôi biết mình nên nói lời cảm ơn, nhưng người đứng đầu lại bắt đầu nói và tôi phải quay lại chú ý.

Mỏ than. Khi biết đến từ này, cuộc trò chuyện sẽ trở nên dễ hiểu hơn một chút. Nhưng vấn đề này đã nhanh chóng được thông qua, giờ quyền phát biểu thuộc về đại biểu hội đồng vu y(1), bà phàn nàn về lượng lớn pháp sư nước ngoài tràn vào và yêu cầu các đảo phía bắc “đưa họ về”. Vừa nói, bà vừa nghịch sợi dây chuyền trên cổ tay, phải một lúc lâu tôi mới nhận ra thứ đeo trên đó không phải là một hạt đá mà là một hộp sọ chim kích cỡ nhỏ, chỉ lớn hơn móng tay một chút, có chuỗi dây chuyền vàng mảnh được xâu qua hốc mắt của nó.

(1) Vu y: một người có hai danh tính. Không chỉ có thể giao tiếp với ma và thần mà còn có thể làm thuốc, là người chuyên về y học hơn những pháp sư bình thường.

Giếng trời tối sầm lại, và mặc dù ngọn lửa đang cháy ầm ĩ, nhưng căn phòng lại ngày càng lạnh hơn. Hai con sói đang ngủ cạnh đống lửa, cằm tựa vào chân và tiếng ngáy của chúng giống như những trận động đất nhỏ. Tôi rất muốn đổi chỗ với chúng.

“Chúng ta đã từng gặp nhau rồi đúng không?” Cậu đột nhiên hỏi, chạm vào vai tôi lần nữa.

Phải, chúng ta đã gặp nhau, nhưng tôi không biết diễn tả tình huống đó như thế nào ngoài câu: “Ừ, cậu suýt đâm xuyên đầu mình.” Sẽ là kiêu ngạo nếu tôi nói: “Bốn năm trước, bên đống lửa trại.” Cậu không có lý do gì để nhớ đến tôi. Cậu trở nên nổi bật trong bất kỳ nhóm nào, và tôi, giống như cái tên tuổi thơ của tôi, chỉ là một trong hàng ngàn con cá.

Sau đó, cậu tự trả lời câu hỏi của chính mình, nói rằng cậu nhớ tôi vì tôi có một cái tên lạ, cậu biết nó liên quan đến cá, nhưng cậu không thể nhớ rõ nó là loại cá gì.

“Công bằng mà nói, ‘Tuhfa’ cũng kỳ lạ như vậy.” Tôi nói.

“Quà tặng là biểu tượng của tình hữu nghị. Cậu biết người ta nói gì mà, thương mại—“

Dựa trên tình hữu nghị. Đã lâu rồi tôi không nghĩ đến câu này, tôi từng nghe người ta lặp lại nó ngay cả ở những trạm buôn bán xa xôi nhất. Một số bộ tộc không quen với ngôn ngữ chung của đảo buôn bán thậm chí sẽ dùng câu này để chào hỏi những thương nhân lạ, có thể họ lầm tưởng rằng đó là một câu “xin chào” dài dòng. Sau này, khi các tuyến đường, trạm buôn bán và tình hữu nghị sụp đổ, tôi không bao giờ được nghe lại câu nói đó nữa. Cậu và tôi, chúng ta là thế hệ cuối cùng coi tình bạn là điều hiển nhiên và coi ngôn ngữ của những hòn đảo bên ngoài là một cuộc phiêu lưu mới chứ không phải một sự xúc phạm. Những con tàu chở hàng hóa và quà tặng chứ không phải kẻ thù. Khi ở bên cậu, tôi luôn sử dụng ngôn ngữ của cậu, nhưng cậu lại thích sử dụng ngôn ngữ của tôi. Chúng tôi nhìn vào thế giới của nhau theo cách này, không phải để làm tổn thương hay chinh phục mà vì đó là điều tự nhiên đối với chúng tôi.

Một tiếng chuông vang lên từ đâu đó phía trên. Hai con sói khổng lồ tỉnh dậy và vểnh tai lên. Các phó thủ lĩnh, thủ lĩnh và linh mục cuối cùng cũng đứng dậy chuẩn bị rời đi, không có ai vui vẻ, không có sự nhượng bộ, cũng không có thỏa thuận. Sự đồng thuận duy nhất là quay lại đây vào sáng mai. Tôi theo linh mục ra ngoài, cố ý đi cuối cùng để được đi cùng cậu. Người bạn tập sự của tôi để ý và thì thầm vào tai người chị sinh đôi của cô ấy, cả hai đều quay lại nhìn chúng tôi và cười khúc khích.

“Mình không thể không nhận thấy rằng những linh mục của các cậu trông giống hệt nhau.”

“Họ là sinh đôi. Tất cả các linh mục đều như vậy.”

Cậu nghĩ rằng điều này là không thể. Tôi phải giải thích cho cậu những điều kỳ diệu nho nhỏ mà đảo Icahn thường chứng kiến, bất cứ khi nào vị linh mục qua đời, sẽ luôn có một cặp sinh đôi được sinh ra vào năm sau và được gửi đến đền vào khoảng mười tuổi. Đây là nghề duy nhất mà con người không được tự do lựa chọn. Cậu rất quan tâm và hỏi một số câu hỏi. Cuối cùng chúng tôi cũng ăn tối cùng nhau – tôi lặng lẽ rời khỏi tầm mắt của linh mục và cùng cậu đi qua khu chợ vắng. Lúc đó, mặt trời sắp bị nước biển nhấn chìm hoàn toàn, tiếng bước chân của chúng tôi vang vọng trên quảng trường, hình như có thứ gì đó đang chuyển động trong các cửa hàng giống như tổ ong, nhưng khi nhìn kỹ lại thì chẳng có gì cả. Trên ngọn đồi cách đó không xa phủ một màu tím sẫm, bầu trời giống như những đôi bàn tay dị dạng, mở ra hướng lên trời. Cậu nói cậu không hề sợ hãi, nhưng cậu đi rất nhanh, tôi phải chạy mới đuổi kịp cậu, cuối cùng cả hai chúng tôi chạy hết một đoạn đường và chỉ chậm lại khi nhìn thấy những ngọn đuốc xung quanh làng, chúng tôi thở hổn hển, đổ mồ hôi đầm đìa, rồi nhìn nhau mỉm cười theo cách không thể giải thích được, cả hai đều tưởng rằng mình đã giấu nỗi sợ hãi rất tốt.

Chúng tôi đi ăn món cá nướng nhồi đầy gia vị, bên bờ hồ ồn ào, nhà thơ vừa đàn vừa hát bài thơ tự sự về hạm đội Đảo Lớn đánh bại Vua “Sói Tuyết”. Khán giả dậm chân xuống đất theo nhịp trống, tạo nên âm thanh như thể hàng trăm đội quân đang thực sự tập hợp lại. Cậu quay đầu nhìn nhà thơ, còn tôi nhìn mặt hồ, lần đầu tiên tôi thấy nhiều nước ngọt tụ tập một chỗ như vậy, vùng nước nông trên bờ phản chiếu ánh đuốc, xa hơn nữa là ánh trăng ẩm ướt, lan dần về phía bên kia rừng cây. Đó là lý do tại sao tôi thích đi bộ đường dài trong mỗi lần ghé thăm sau này, trên Đảo Lớn, người ta thường có cảm giác như vùng đất này không có điểm kết thúc. Cánh đồng lúa mì là một khu vực chứ không phải một mảnh đất nhỏ phía sau cabin, sau những ngọn đồi lại là những ngọn đồi, rải rác trên đó là đàn bò. Thung lũng sâu và những tán chuối rộng mềm mại đung đưa trong gió. Biển không còn chắn lối cuối mỗi con đường, và nếu nằm trên thảm cỏ đủ lâu, bạn thậm chí có thể quên mất nó tồn tại. Ở đâu đó trong vịnh, cậu đã giấu một chiếc thuyền nhỏ, và cậu nói về nó với niềm tự hào vô cùng vì cậu đã tự tay đóng nó, từng tấm ván một. Cậu mơ ước một ngày có thể chèo thuyền đến những vùng biển xa hơn Quần đảo phía Nam, đến những vùng biển không có trong hải đồ, nơi người ta nói rằng không có núi lửa, rồi dùng những bài hát cổ để gọi cá voi, để chúng dẫn thủy thủ đến những nơi ngoài tầm với của những chiếc thuyền buồm thông thường.

Chúng tôi đi dạo trên sườn đồi ngập ánh trăng trong khi nói chuyện về cá voi. Làng ở phía sau bên phải, ánh lửa bập bùng giữa rừng cây, tiếng nhạc đã bị gió thổi bay đi. Nước biển ồn ào vỗ vào những tảng đá dưới chân núi, nhưng chúng tôi lại bận ngắm sao, cùng tìm kiếm một chòm sao – cậu gọi là “Đuôi Cá”, tôi gọi là “Mái Chèo”, đó là bốn ngôi sao được sắp xếp ngay ngắn từ trên xuống dưới, phía trên còn có ba ngôi sao nữa xòe ra như chiếc vây đuôi. Đó là do phía nam.

Cơn gió cuối cùng đã đẩy chúng tôi ra khỏi sườn đồi và lao vào những tảng đá lởm chởm. Trời lạnh đến nỗi chúng tôi ôm nhau rúc vào giữa hai tảng đá hình tấm khiên, bụi cây tạo thành một tổ chim tạm bợ xung quanh. Cậu nói chúng ta nên quay lại làng, và tôi đồng ý, nhưng không ai trong chúng tôi di chuyển. Tôi muốn trò chuyện với cậu lâu hơn một chút, nhưng giờ nghĩ lại, cậu thực sự cũng làm như vậy. Tại sao chúng tôi lại có quá nhiều điều để nói, vì lợi ích của núi lửa? Giống như tôi và cậu đang vô thức tích trữ những lời nói, câu nói này, chỉ chờ trao gửi cho nhau. Tôi đã kể cho cậu nghe huyền thoại về Icahn: khi tất cả cá voi trên biển cất tiếng hát cùng một lúc, magma sẽ nuốt chửng tất cả các hòn đảo và biển sẽ chuyển sang màu đỏ. Cậu hỏi, màu đỏ ở đây chỉ đơn giản là ám chỉ magma thôi hay nó còn ngầm ám chỉ cái chết.

Đôi khi cậu có tài tiên tri hơn bất kỳ vị linh mục nào.

Cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy mặt trời mọc. Nhưng lúc đầu chúng tôi bị sai phương hướng, khi chúng tôi bắt đầu nhận thấy mây đã đổi màu và chạy về phía đông để nhìn thì mặt trời đã mọc được một lúc rồi. Gió vẫn thổi dữ dội và những đám mây thấp đang di chuyển nhanh về phía bắc, để lộ mặt nước lấp lánh. Tóc cậu đẫm sương dính vào trán và gáy, đuôi uốn cong, nắng sớm ướt át khiến đôi mắt cậu có màu nâu sẫm. Đó là lần đầu tiên chúng tôi nghiêm túc quan sát nhau dưới ánh nắng, cơ hội này thật hiếm có, dường như chúng tôi luôn gặp nhau trong bóng đêm, lúc đầu là do trùng hợp, sau đó là do cố ý.

Tôi muốn mô tả chi tiết về cậu khi cậu còn trẻ, nhưng điều hiện lên trong đầu tôi lúc này lại là một Tuhfa lớn tuổi hơn, chức vụ Chủ tịch Hội đồng quấn quanh Tuhfa giống như một sợi dây xích. Những kí ức về mặt trời mọc đã hoàn toàn bị gián đoạn. Đối với cậu, cuộc gặp gỡ thứ hai của chúng ta thật “vui vẻ”, nhưng với tôi đó là một cuộc phiêu lưu lệch lạc. Cha Cormoran tưởng tôi đang ở cùng với linh mục, còn vị linh mục lại tưởng tôi đã trở lại tàu, tôi đã vô tình thực hiện một màn lừa dối đẹp mắt. Chúng tôi chia tay nhau ở quảng trường chợ, tôi chậm rãi đi về phía tòa nhà xấu xí nơi đặt Hội đồng, lúc này vừa lạnh vừa đói. Hai chị em tập sự đã ở đó, vừa nhìn thấy tôi liền mỉm cười đắc thắng rồi thấp giọng hỏi: “Thế nào rồi?”

Tôi giả vờ không hiểu họ đang hỏi gì. Mặc dù tình dục không phải là chủ đề cấm kỵ, ít nhất là không phải với hòn đảo của chúng tôi. Tôi không muốn giải thích về đêm hôm trước, không muốn tiết lộ rằng “chúng tôi vừa dành cả đêm để nói chuyện trên sườn núi”, điều mà đối với tôi dường như còn thân mật hơn cả tình dục.

Cậu lẻn vào giữa cuộc họp, đã thay quần áo mới, mái tóc ẩm ướt và được chải gọn gàng về phía sau. Chúng tôi nhìn nhau nhưng cậu không đến gần mà đi tới chỗ Đại biểu Hội đồng Đảo Lớn, đá chiếc đệm mềm vào tường rồi ngồi trong bóng tối nơi ánh lửa không chiếu tới được.

Tảo Lam vỗ vỗ cánh tay tôi, không biết tại sao cô ấy lại làm như vậy, có lẽ cô ấy muốn an ủi, tưởng lầm rằng tôi đã ngủ với cậu nhưng cậu lại vạch ra ranh giới rõ ràng với tôi.

Chiều hôm đó chúng tôi nhổ neo và ra khơi trong cơn mưa nhẹ, vị linh mục tỏ vẻ trịnh trọng, dùng vạt áo choàng để che mưa cho chiếc hộp gỗ trong tay, chiếc hộp gỗ có phù điêu này chuyên được dùng để đựng hiệp ước, nhưng nó lại trống rỗng, hôm nay cũng giống như ngày hôm trước, quá nhiều tranh chấp và quá ít sự đồng thuận. Bến tàu vắng tanh, những hạt mưa nhảy múa trong các vũng nước ngày càng sâu. Cha Cormoran, người có trực giác luôn làm tôi phải ngạc nhiên, hỏi tôi tối qua có gặp ai không và chuyện gì đã xảy ra.

Tôi nói không và mỉm cười với ông ấy.

Tôi ngủ rất lâu trong cabin thuyền trưởng, quấn trong hai chiếc chăn. Nửa đêm tôi thức dậy, mưa to trút xuống boong tàu, thân tàu kêu cọt kẹt lắc lư, ngọn đèn treo trên tường lắc lư từ bên này sang bên kia. Xa xa, có lẽ ở đuôi tàu, các thủy thủ đang la hét để căng buồm. Tôi mơ thấy nước biển đỏ như máu, tiếng cá voi rên rỉ xuyên qua tiếng mưa, tay cậu nằm trong lòng bàn tay tôi, bị dung nham bắn vào mu bàn tay, tôi đau đớn hét lên, buông ra, lập tức tỉnh lại. Cha Cormoran ngủ trên một chiếc võng khác, chiếc áo khoác len nhỏ của ông đã được đan sẵn trên bàn. Tôi xoa xoa bàn tay phải để xua đi nỗi đau giả còn sót lại trong giấc mơ. Dầu cá voi trong đèn đã cháy hết từ lâu, ánh nắng xám xịt từ cửa sổ lọt vào, bầu trời trong xanh, nếu hướng gió cho phép, ngày mai chúng tôi sẽ về nhà.

Tôi không thể nói rằng tôi đã tìm được cậu từ chuyến đi này, nhưng ít nhất, đúng như cha Cormoran dự đoán, tôi đã có được một cái tên. Đến lần thứ ba chúng ta gặp nhau, tôi sẽ cho cậu biết tên. Theo tiêu chuẩn của thơ tự sự, đến đó là nơi câu chuyện bắt đầu.
 
Chương 4: Trang 13 - 16


Có hai từ cho “ký ức”. Một là “Da Qinan”, kí ức của cá nhân, hay kí ức truyền miệng. Cái còn lại là “Pei Jianan”(1), ký ức viết, ghi chép. Tôi chọn “ký ức” thứ hai, các linh mục cũng không phản đối, tuy đây không phải là một cái tên truyền thống thường được đặt cho người phiên dịch, người ghi chép hay người trông coi sách, và nó phù hợp với một linh mục hơn, nhưng công bằng mà nói, tôi cũng không phải là một người phiên dịch, người ghi chép hay người trông coi sách theo nghĩa truyền thống.

(1) Raw là 裴加南, mình tra nghĩa của từng từ thì thấy không có cái nào liên quan đến nghĩa mà tác giả nói cả nên có lẽ đây chỉ là phiên âm tiếng Trung của một cái tên nước ngoài nào đó khác thôi, nhưng mình tra lại cả cụm lần nữa thì vẫn không thấy hiện ra từ nào có vẻ là từ gốc của nó nên đành để tạm như vậy. Từ “Da Qinan” cũng tương tự, raw là 达其南.

Giống như người dân Đảo Lớn kỷ niệm lễ trưởng thành, chúng tôi cũng kỷ niệm ngày đặt tên của các thành viên trong gia đình. Thói quen của mỗi gia đình sẽ hơi khác nhau một chút, nhưng quá trình thực hiện thì đều giống nhau: chuẩn bị đồ ngọt và mỗi phụ huynh sẽ tặng một món quà. Thế là tôi nhận được bảy món quà, hầu hết đều đã thất lạc, chỉ có chiếc vòng cổ do cha Cormoran tặng là vẫn còn nguyên vẹn vì thường xuyên được đeo, nó đã cùng tôi đi đến tận tảng đá hoang vắng này. Tôi quấn chiếc vòng cổ quanh cổ tay để có thể nhìn thấy khi viết, điều đó khiến tôi bớt cô đơn hơn một chút.

Hôm qua tôi mới chuyển da thú và gối đến phòng thư tịch, ở đấy ấm áp hơn, căn phòng bằng đá sáng sủa hơi chìm xuống đất, tránh gió lạnh tốt hơn phòng ngủ bên cạnh. Cách bài trí của căn phòng có phần giống căn phòng mà chúng tôi đã sống một thời gian ngắn ở Quần đảo phía Nam: rộng rãi nhưng được trang trí sơ sài, có bàn làm việc và ghế bành, phần còn lại của không gian chứa đầy kệ và tủ. Tôi ngồi dưới giếng trời, từ bình minh đến hoàng hôn, có rất nhiều kỷ niệm, không biết có viết ra được một nửa hay không.

Thỉnh thoảng tôi lại ra biển vào sáng sớm, khi trời chưa sáng hẳn, những ngọn núi lửa phía xa sẽ hiện rõ hơn, những đám lửa giận dữ cuồn cuộn sau những đám mây đen. Lần nào tôi cũng mong sẽ có một chiếc thuyền xuất hiện, nhưng cho đến hiện tại – vẫn chẳng thấy đâu.

——

Hôm nay tôi đã lục lọi hết các tủ, cuối cùng cũng tìm thấy một bộ hoàn chỉnh của “Biên niên sử về những ngọn núi lửa”, tôi đã cười như điên và phải dựa vào tủ để thở. Để có mặt ở đây, cho đến thời điểm này, tôi không thể bỏ được bộ kinh văn tôn giáo cực kỳ nhàm chán này. May mắn thay, trong tủ sách còn có “Tuyển tập thơ về các hòn đảo” do Quần đảo phía Nam biên soạn, với bản dịch sang ba thứ tiếng. Khi muốn thoát khỏi những suy nghĩ, tôi ôm cuốn sách này và cuộn tròn trên giường. Cuốn “Tuyển tập thơ” này rõ ràng không được thiết kế để đọc hàng ngày, nó được đặt trong một chiếc hộp gỗ đặc biệt, bọc trong một chiếc bìa da tẩy trắng, ngoài ra còn có trang trí bằng kim loại ở gáy và hai mặt của cuốn sách. Nó khá nặng, nếu chẳng may bị va vào ngực thì sẽ để lại những vết bầm nhỏ màu đỏ như máu.

Trong cuốn sách này, tôi đã đọc “Thủy thủ kì lạ Gotta”. “Gotta” trong ngôn ngữ của Quần đảo phía Nam có nghĩa là “mực”, toàn bài thơ được sáng tác bằng nhịp trống và múa, trong sáng, ngắn gọn, đầy vần điệu xảo quyệt, và sẽ thú vị hơn nếu hát bằng giọng Quần đảo phía Nam. Đó là phiên bản mà chúng tôi đã nghe, được trình bày bởi một cặp nhà thơ du hành. Người đàn ông đến từ Quần đảo phía Bắc, mái tóc và lông mày màu xám mang tính biểu tượng của anh ta có thể được nhìn thấy rõ ràng ngay cả khi nhìn từ xa. Anh ta chơi trống lắc. Nữ thi sĩ thì rất có thể đến từ Đảo Lớn hoặc gần đó, với đôi mắt nâu sẫm và mái tóc đen. Cô hát bằng ngôn ngữ của rừng rậm, và khi cốt truyện tiến triển, cô búng ngón tay và biến làn khói trắng dày đặc từ lư hương thành những con cá heo đang nhảy, những con mực có xúc tu vẫy, những con hải âu và những người đàn ông nhỏ bé chèo thuyền, khiến khán giả vỗ tay bật cười tán thưởng. Đây khó có thể coi là phép thuật, chỉ có thể nói là một trò lừa đường phố để thu hút khách hàng, nhưng nếu cô ấy làm điều này ở các hòn đảo phía bắc, “Đội tuần tra Tuyết” mặc đồng phục sẽ sớm đến trục xuất những người biểu diễn táo bạo này, và nếu họ tìm được cơ hội đút lót một ít tiền, đội tuần tra có thể sẽ tha cho trống lắc và đàn lia của họ, nhưng không có ngoại lệ, những người bị buộc tội là “pháp sư” sẽ bị dồn lên thuyền, vứt trên những tảng đá gần đó, cách duy nhất để rời khỏi những tảng đá đó là thuê thuyền đánh cá. Những người đánh cá lảng vảng quanh các tảng đá như những con kền kền tuyết, chờ cướp những đồng tiền cuối cùng từ túi của các linh hồn tội nghiệp này. Tuy nhiên, với phép thuật đã tuyệt chủng ở phương Bắc, công việc kinh doanh này không hề dễ dàng thực hiện.

Xem một buổi biểu diễn không nằm trong kế hoạch ban đầu của chúng tôi. Vừa xuống tàu không lâu, cậu đã bị bệnh, có thể là do khí hậu ở Quần đảo Rừng Xanh, nhưng tôi nghi ngờ chính là do con cóc đỏ như máu khủng khiếp kia hơn, nó nằm lặng im co ro trên bậu cửa sổ, giống như một miếng xác chết lạnh lẽo, đột nhiên nó nhảy dựng lên khi chúng tôi đang xách hành lý qua cửa, đập vào mặt cậu, ngã phịch xuống đất rồi nhảy ra khỏi cửa nhanh đến mức không thể nhìn rõ. Vùng da dính đầy chất nhầy lập tức sưng lên, cậu nói mình cảm thấy ổn nhưng đến tối thì lại bắt đầu sốt. Tôi đã đến gặp vu y nhưng bà ấy khẳng định rằng cóc vô hại và người dân địa phương thường dùng chất tiết ra màu đỏ như máu của chúng để chữa say sóng. Bà thuyết phục tôi mua hai chai rượu lên men, một dãy niêu đất tròn chất thành đống ở góc lều, bịt kín bằng bùn trộn cỏ khô. Tôi mua một chai rồi đi bộ dọc theo con đường rừng mờ ảo, đi thật chậm để tránh làm vỡ cái chai.

Rượu trong suốt, có màu xanh nhạt, có mùi thơm hỗn hợp kỳ lạ của rễ cỏ, ớt và trái cây thối, mỗi người chúng tôi nhấp một ngụm, rồi cùng nhau phát ra âm thanh ói mửa. Tôi lấy làm tiếc về số tiền tôi đã lãng phí vào việc này và cậu nói rằng cậu chỉ hy vọng chúng ta không gặp phải một lời nguyền nào đó. Rõ ràng, một số vu y trong rừng thường trộn một số tạp chất “ít độc hại” vào “thuốc” để đảm bảo khách hàng buộc phải quay lại “chữa bệnh” do nghe thấy ảo thanh hoặc nôn mửa.

Vì vậy, sáng hôm sau, khi nhận thấy tình trạng sức khỏe của cậu ngày càng trầm trọng, tôi không biết có nên đến gặp vu y lần nữa hay không. Các thành viên khác trong đoàn đã dậy sớm và đang chuẩn bị đi chợ chăn nuôi. Tôi đã chặn người trưởng đoàn lại và thuyết phục anh ta đến nhìn cậu. Anh ấy nghĩ rằng cậu “chỉ cần nghỉ ngơi và chúng ta không thể làm được gì nhiều hơn.”

Chắc chắn là trông cậu không có vẻ chỉ cần nghỉ ngơi nên tôi quyết định ở lại chăm sóc cậu. Tôi hầu như không rời khỏi căn nhà đó trong hai ngày tới, và cậu có thể không nhớ điều này, nhưng cơn sốt của cậu chưa bao giờ nguôi. Tôi ngồi ở mép giường, thỉnh thoảng thay khăn lau trán cho cậu, nghĩ xem nên nói thế nào với gia đình cậu nếu cậu không may chết ở đây. Tôi biết trong nhà người dân Đảo Lớn chỉ có một mẹ một cha, tôi nên viết một hay hai lá thư thôi? Làm thế nào để mở đầu? Bằng giọng điệu nào? “Thưa ngài, tôi rất tiếc phải thông báo với ngài rằng Tuhfa đã chết vì sốt cao không rõ nguyên nhân trong nhiều ngày…”

Buổi tối bên ngoài luôn có tiếng trống lục lạc, khi đến gần cửa sổ, tiếng trống dường như phát ra từ bụi cây đối diện với cửa sổ, nhưng khi đến gần cửa thì lại nghe như là tiếng ở bên ngoài cửa. Đây có lẽ là một trò lừa của rừng rậm, tôi nghĩ đến những bài thơ tự sự đã đọc trong thư viện lạnh lẽo lộng gió của đền, tôi chợt hiểu tại sao các anh hùng của Quần đảo phía Nam luôn lạc vào rừng hoang. Sau này, khi tôi kể cho các thành viên khác trong đoàn về sự việc này, hoá ra không ai nghe thấy tiếng trống. Có lẽ tôi nhớ nhầm, hoặc có thể là ảo giác do vò rượu lên men gây ra.

Ngày thứ ba cậu dậy sớm, vỗ nhẹ vào tay và tóc tôi, cũng đánh thức tôi dậy. Trời vẫn chưa tối hẳn, chỉ còn lại một đoạn nến ngắn, vừa đủ để thắp sáng bấc đèn. Chúng tôi nhìn nhau trong ánh sáng, cuối cùng lại cười một cách khó hiểu, cậu hỏi tôi có mua được con vẹt nổi tiếng – mặt hàng xuất khẩu phổ biến nhất của Quần đảo phía Nam không, trên đường đến đây tôi đã nói về nó rất nhiều lần. Đáng tiếc chợ chăn nuôi đã buôn bán được ba ngày rồi, hải cẩu, sói đồng cỏ và vẹt được huấn luyện qua một chút chắc đều đã bán hết, chỉ còn lại những con vật ốm yếu với dáng vẻ bơ phờ và uể oải.

Tôi nói không rồi hỏi cậu có muốn xem cây cầu treo để đền bù không.

Thế là chúng tôi đi chơi, lần đầu tiên sau ba ngày. Chúng tôi ở gần nhau không phải để tỏ ra thân mật mà là vì chân cậu còn chưa vững, một bên mặt dính đầy chất nhầy cóc còn hơi sưng tấy như bị lửa đốt. May mắn thay, cầu treo không xa và rất dễ tìm, chỉ cần đi về phía cái cây cao nhất đảo là được. Tất cả những cây cầu treo đều dẫn đến cây cổ thụ, hơn trăm năm qua, cư dân trong rừng đã từng chút một xây dựng lối đi trên không giống như mạng nhện này, ban đầu là để tránh dã thú và các loại côn trùng độc không tên ở dưới gốc cây, về sau lại trở thành một phần của lối sống. Chúng tôi đi vòng quanh gốc cây cổ thụ, vừa đi vừa ngước nhìn những cây cầu treo và những ngôi nhà trên cây đủ hình thù, cho đến khi phải thu hồi tầm mắt vì choáng váng.

Sau đó, giữa tiếng kêu không ngớt của con vẹt, tôi nghe thấy tiếng trống lục lạc nhịp nhàng. Chúng tôi leo lên một trong những cây cầu treo và loạng choạng đi về phía nguồn phát ra âm thanh. Trống đánh từ trái sang phải, nhưng luôn ở phía trước, cây cầu treo men theo những cành ngang dày đặc rồi bất ngờ đi xuống, chúng tôi loạng choạng trượt về phía bãi rừng trống như hai hạt đậu. Nhà thơ du hành đã ở đó, hương đã được thắp và có một vòng người nghe, tất cả đều mặc áo choàng màu xanh lục với những sắc thái khác nhau, đến nỗi những người ngoài cuộc đột nhiên xen vào trong số họ – bao gồm cả hai chúng tôi – trông như những cây nấm mọc lệch giữa đống cỏ khô.

Lúc đầu cậu cũng vui vẻ như tôi, vỗ tay khi nhìn thấy con mực bốc khói, nhưng một lúc sau nụ cười nhạt dần. Tôi chạm vào tay cậu, lo cậu lại sốt, nhưng không phải, “Tôi lại nghĩ đến chuyện khác”, cậu nói. Tôi đại khái hiểu nó là gì, và có lẽ nó giống như những gì tôi nghĩ. Phép thuật không tránh khỏi gợi nhớ đến lệnh cấm đối với các hòn đảo phía bắc, những pháp sư lang thang ở các cảng ăn xin, và những tin đồn mà chúng tôi đều đã nghe nhưng không muốn đào sâu, về những “pháp sư” bị đày xuống biển vốn không hề có tài năng phép thuật nào cả mà chỉ vì họ bất mãn với nhà vua hoặc có tranh chấp cá nhân với các thành viên Đội tuần tra Tuyết. Lệnh cấm này cũng có xu hướng dần dần di chuyển về phía nam, trên đảo Icahn và thậm chí trên Đảo Lớn đều có những tiếng nói cấm phép thuật, những tiếng nói này hiện tại vẫn còn rất nhỏ và ngượng ngùng, nhưng chúng tôi không thể đảm bảo rằng chúng sẽ không trở nên lớn hơn.

Mọi người không quan tâm chuyện gì đã xảy ra với các pháp sư. Phép thuật và hóa học, pháp sư và dược sư có thể hoán đổi cho nhau trên hầu hết các hòn đảo, nếu mất cái này, bạn có thể tìm đến cái kia. Và phép thuật không đáng tin cậy đến mức khó có thể phân biệt được sự khác biệt giữa một pháp sư thực sự và một lang băm đường phố tồi tàn.

Tiếng trống chấm dứt. Người phương Bắc tóc bạc và nhà thơ tóc đen nắm tay nhau và cúi chào, chào những khán giả. Người ta ném vỏ sò và đồng xu vào gáo dừa, tôi đếm số tiền mang theo và bỏ một đồng xu vào đó. Không có màn biểu diễn tiếp theo, nhà thơ cất chiếc gáo dừa chứa đầy tiền lẻ, giơ tay lên lư hương thả một đàn cá chuồn gồm tia lửa và tro lao thẳng về phía khán giả, làm dấy lên một tràng cảm thán và tiếng vỗ tay khác. Khi tôi định thần lại, nhìn mặt đất bùn làm sân khấu, người, nhạc cụ, lư hương đều đã biến mất.

Chúng tôi đi bộ trở lại qua một cây cầu treo khác, và tất nhiên là chúng tôi bị lạc trong mạng nhện khổng lồ gồm dây thừng, rêu và những tấm ván gỗ. Trong lúc cố gắng quay lại gốc cây cổ thụ, chúng tôi phát hiện ra suối nước nóng và lại vui mừng khôn xiết. Những dòng suối đầy khói được điểm xuyết bằng những ngọn núi lửa thấp – không đủ để gọi là “núi”, vì ngọn nhỏ chỉ tới ngực, còn ngọn lớn thì không cao hơn cây cối xung quanh. “Đá khói”, chúng tôi đồng thanh nói, bằng phương ngữ của Quần đảo phía Nam. Cậu nháy mắt với tôi, cởi quần áo rồi bước xuống nước.

Tôi đứng đó, không biết phải làm gì, hơi nước cuồn cuộn như sóng biển táp vào mặt tôi, đặc và nóng, thoang thoảng mùi lưu huỳnh. Cậu dùng hai tay bưng nước lau mặt và cổ, tôi nhìn dòng nước chảy qua bờ vai và bộ ngực trần của cậu, suýt chút nữa đã vấp phải bãi đá. Cậu ngước nhìn tôi và nói: Đến đây đi, cá nhỏ.

Chỉ có cha mẹ và chị gái tôi mới gọi tôi là cá nhỏ, ngoài ra tôi cũng không còn dùng cái tên này nữa. Nhưng tôi không phản đối, cậu có quyền gọi tôi bằng bất cứ cái tên nào cậu thích. Có vẻ như qua nụ cười của cậu, cậu cũng hiểu được điều này. Tôi cuộn áo và quần lại rồi đặt chúng lên phiến đá. Nước suối nóng đúng như tôi mong đợi, mang lại cảm giác ngứa ran dễ chịu. Những viên sỏi trượt dưới chân, và những chiếc lá giống như sợi chỉ của một loại thực vật chịu nước nào đó đung đưa một cách uể oải trong các kẽ đá. Hơi nước che mắt tôi như một trò nghịch ngợm rồi nhanh chóng tan biến. Lẽ ra tôi nên tiến tới và hôn cậu, nhưng tôi đã không làm thế. Mọi người không phải lúc nào cũng nhận ra rõ ràng cảm xúc của mình và họ thường chỉ tỉnh ra khi xem xét lại ký ức của mình. Tôi để lại một khoảng cách rộng bằng bàn tay giữa chúng ta, và cậu không bình luận gì cũng như không đến gần hơn. Chúng tôi nói về cây cầu treo, về địa chất tuyệt vời của Quần đảo phía Nam, chỉ những chú cóc trong suốt đang bơi lội trong làn nước nóng với nhau và kêu lên vui sướng như trẻ con.

Tôi không nhớ rõ bằng cách nào mà chúng tôi tìm được đường về, có lẽ là người dân địa phương đã thương hại những thương nhân lạ đang lang thang trên cầu treo và đưa chúng tôi về. Nhưng tôi nhớ rõ rằng vào lúc chạng vạng, cây cầu treo trông như sợi nấm phát sáng, treo lủng lẳng giữa những tán cây, người dân địa phương trồng cây Sihe – nghĩa là “lửa trắng” – trên dây treo, một loại cây nho nở hoa quanh năm. Bản thân những “ngọn lửa trắng” không phát ra ánh sáng nhưng sau khi trời tối, chúng sẽ thu hút một lượng lớn ong sữa phát sáng, đủ để thắp sáng cây cầu treo. Vừa đi, chúng tôi vừa giơ tay dọa những con côn trùng nhỏ ăn phấn hoa, nhìn chúng bay đi từng đàn rồi từ từ quay trở lại dây treo, như những tia lửa từ từ rơi xuống.

Đêm đó tôi mơ thấy một đàn ong trắng vo ve vỗ cánh, lóe sáng trên vịnh tối tăm, cây cầu treo chìm trong sương đêm ẩm ướt, không thấy điểm cuối. Rất lâu sau khi tôi rời Quần đảo phía Nam, giấc mơ này thỉnh thoảng vẫn ghé thăm tôi. Đôi khi cậu ở trên cầu treo, đôi khi không, và tôi hy vọng cậu sẽ ở đó tối nay. Để tiết kiệm dầu cá voi, những ngày này tôi cố gắng chỉ viết vào ban ngày. Còn về việc phải làm gì sau khi dầu cá voi cạn kiệt hoàn toàn, tôi không biết.

Chúc ngủ ngon, Tuhfa, dù cho cậu ở đâu.
 
Chương 5: Trang 17 - 20


Trong khi làm lưỡi câu, tôi nhớ đến một trò chơi của trẻ con, chắc hẳn cậu đã từng chơi trò đó, tôi nghĩ trẻ con nào cũng từng chơi trò này, các hòn đảo khác nhau có tên gọi khác nhau nhưng luật chơi lại không khác nhau nhiều. Trong trường hợp của tôi, trò chơi có tên là “Ngày mai”, một cái tên khá lạnh lùng, vì nội dung của trò chơi là những đứa trẻ giả vờ rằng hòn đảo quê hương của chúng đã bị phá hủy hoàn toàn bởi một vụ phun trào núi lửa và chúng phải mang theo một lượng thức ăn hạn chế cùng các công cụ đến một hòn đảo mới để “sống sót”. Khi chị gái tôi và tôi chơi trò chơi này nhiều năm trước, chúng tôi đã trộm những viên đường trong nhà và giả vờ như đó là khẩu phần ăn của thủy thủ. Tôi và chị kéo những chiếc lá dừa rộng rãi trên bãi biển ra rồi ngồi lên, chị dùng cành dài làm mái chèo, còn tôi cầm những tảng đá lớn nhỏ, sau đó, khi chúng tôi tránh được magma không tồn tại và “đi thuyền” thành công đến hang nhỏ trong vịnh, những hòn đá này sẽ trở thành bếp lò, bàn ăn hoặc bàn thờ tưởng tượng.

Ở đây, mỗi ngày là một trò chơi không bao giờ kết thúc của “ngày mai”. Nhưng “ngày mai” đã đến rồi, nên có vẻ như tên của trò chơi nên đổi thành “Hôm nay”, và tôi là người duy nhất chơi.

Dầu cá voi chắc chắn là một vấn đề, và một vấn đề khác, dù ít cấp bách hơn, là thức ăn. Bão mùa đông thường nhốt các linh mục hay học giả đang tham khảo sách cổ vào đây nên ngôi nhà này ngay từ khi xây đã có kho chứa đủ thức ăn cho sáu người trong một mùa đông, cộng thêm một ít củi, bấc và dầu cá voi. Nhưng không ai có thể đoán trước được tình cảnh hiện tại của tôi nên tôi quyết định mỗi tối bắt đầu từ ngày mai sẽ ra bãi biển để đào trai. Sau khi làm lưỡi câu, tôi đi ra đầm câu cá, phần thịt trai thừa có thể dùng làm mồi. Nếu mọi việc suôn sẻ, sẽ không cần phải sử dụng hết ngũ cốc, pho mát và thịt khô trong kho chứa thức ăn cho đến mùa đông.

Nỗi lo lắng về lương thực này không phải lúc nào cũng được người dân Đảo Lớn và Quần đảo phía Nam cảm nhận, trong thế giới của họ không có mùa đông thực sự, cây cối thường xanh tươi và mặc dù không có quả mọng trong hai tháng lạnh nhất nhưng vẫn có thể chăn thả gia súc, cá vẫn còn đó và củ được thu hoạch quanh năm. Ở nơi tôi sống, mùa đông kéo dài ba tháng, cá di chuyển về phía nam theo dòng hải lưu chỉ để quay trở lại vào mùa xuân năm sau. Ngọn núi lửa mà chúng tôi coi như thần thánh sẽ trở thành rào cản lớn nhất khi thời tiết chuyển lạnh, có nhiều dòng nước ngầm và xoáy nước khiến thuyền không thể đi đến ngư trường khác. Đó là lý do tại sao ở Icahn, ngày thu hoạch là ngày quan trọng nhất trong năm, trong khi ở Đảo Lớn, nổi bật là ngày đầu tiên của mùa buôn bán. Tôi không thể tưởng tượng được Quần đảo phía Bắc đã sống sót như thế nào sau mùa đông khắc nghiệt kéo dài nửa năm, có lẽ khí hậu đã sinh ra những kẻ bành trướng? Hay là loại người này sớm muộn gì cũng sẽ xuất hiện, có thể ở bất kỳ hòn đảo nào, và hắn thành thạo trong việc sử dụng những lý do khập khiễng như “pháp sư độc ác”?

Chúng tôi đã cãi nhau về chuyện đó. Đó là lần thứ tư chúng ta gặp nhau, cậu 22 tuổi, đã tham gia Hội đồng Đảo Lớn được một năm. Ấn tượng của tôi về cậu vẫn còn nguyên khi tôi cùng đoàn lữ hành đến Quần đảo phía Nam cách đây ba năm. Cậu đã cắt tóc rất ngắn, theo kiểu thủy thủ. Đó là thành quả cậu tự cắt tóc bằng một con dao ngắn, có chỗ thì dài, có chỗ lại quá ngắn. Khi chúng ta gặp lại nhau tại khán phòng Hội đồng Đảo Lớn, cậu đã để tóc dài giống như các thành viên hội đồng khác, buộc gọn gàng bằng một dải ruy băng màu xanh. Màu xanh là màu của thương nhân hàng hải, chiếm nhiều ghế nhất. Những người màu đen là dược sư, những người màu vàng là đại diện cho ngư dân và người chăn nuôi, còn những người màu đỏ là các nhà lãnh đạo tôn giáo, tôi không nhớ nhiều về những người khác.

Lần này tôi vẫn đi cùng linh mục và vẫn đảm nhiệm việc dịch thuật lẫn ghi biên bản cuộc họp, nếu đạt được thỏa thuận thì tôi cũng phải soạn thảo hiệp ước. Nhưng cậu cũng biết khả năng xảy ra bất cứ điều gì đều sẽ được hội đồng “đàm phán” nên tôi vẫn chưa quen với ngôn ngữ pháp lý cần thiết cho hợp đồng lắm.

Tất cả các đại biểu của Quần đảo phía Bắc, những người được triệu tập đến cuộc họp, đều vắng mặt. Mười sáu con tàu tấn công Quần đảo Đôi, đốt cháy bến cảng cùng những con tàu bên trong. Một đại biểu của Hội đồng biển Đông đã trốn thoát và quẫn trí hạ cánh xuống Đảo Lớn hai tuần sau vụ tấn công. Theo ông, những kẻ tấn công không thèm che giấu danh tính, mười sáu chiếc thuyền dài đều là người phương Bắc, thậm chí còn có gia huy của một trong những vị vua được vẽ trên đó ở một nơi dễ thấy. Những người lính mặc áo da hải cẩu chiếm đóng đảo Bắc đầu tiên, đến ngày thứ ba họ vượt qua cầu đất hẹp và nắm quyền kiểm soát đảo Nam. Các đại biểu tình cờ lại đang phun thuốc trừ sâu tại một trang trại tảo đỏ ở Quần đảo phía Nam để đuổi sên biển, khi thấy khói dày đặc bốc lên từ làng, họ bỏ chạy ra biển khơi trên một chiếc thuyền nhỏ chắc chắn không thích hợp để di chuyển trên đại dương.

Khi tôi và vị linh mục đến, Hội đồng Đảo Lớn đã bình phục sau cú sốc ban đầu và bước vào giai đoạn nghi ngờ, đại khái chia thành bốn phe: Một phe tin rằng cần phải giúp Quần đảo Đôi trục xuất người phương Bắc, và nhắc nhở mọi người có mặt đừng quên hơn 80 năm trước Vua “Sói Tuyết” cũng đến từ Quần đảo phía Bắc, những tên cướp biển dưới sự chỉ huy của ông luôn là những con quái vật khát máu mà các nhà thơ thích viết về. Một nhóm bày tỏ sự do dự, chỉ ra rằng thỏa thuận giữa các đảo là một thỏa thuận thương mại không bao gồm nghĩa vụ hỗ trợ quân sự. Ý kiến thứ ba là “Lỡ đại biểu này phóng đại thì sao”, phe khác phản bác rằng Đảo Lớn có thể cử tàu đến đảo Đôi bất cứ lúc nào, không cần phải nói dối về điều gì đó có thể dễ dàng xác minh, nếu tình hình là đúng, tất cả các Quần đảo phía Bắc nên bị loại khỏi các thỏa thuận thương mại và tàu của họ sẽ bị cấm cập cảng.

Hai chiếc Clipper được phái ra, một chiếc về phía bắc, và ba vị vua được yêu cầu cử đại biểu đến Hội đồng Đảo Lớn để giải thích về vụ tấn công. Một chiếc thuyền khác đi đến Quần đảo Đôi. Đi đi về về phải mất năm ngày, cho dù thời tiết và hải lưu không tốt cũng tối đa không quá bảy ngày. Tuy nhiên, mười tám ngày sau khi tàu rời cảng, tức là ngày thứ tư sau khi tôi đến Đảo Lớn, người đưa tin vẫn mất tích.

Bầu không khí trong căn phòng ảm đạm, bị bao phủ bởi một đám mây đen của sự bối rối, tức giận và sợ hãi. Cậu và tôi nhìn nhau vài lần bên đống lửa, cuối cùng cậu đứng dậy và bước ra ngoài. Tôi nhìn xuống tờ giấy và lọ mực, không ai nói gì, không có lời nào đáng ghi lại. Tôi nói muốn ra ngoài nghỉ ngơi một lát, hai vị linh mục giơ tay đồng ý.

Tôi tìm thấy cậu trên bến tàu, hai chúng ta đứng dưới bóng ngọn hải đăng, nhìn ra bầu trời tối dần. Lửa chưa nhóm lên, những người lính gác hải đăng đang khiêng củi, một bó hai bó, nhét vào thúng buộc bằng dây gai để người trên đỉnh tháp cẩu lên. Ngoại trừ hai chiếc thuyền đánh cá đang quay về hướng Tây Bắc, biển vắng tanh.

Tôi nhận xét về mái tóc và áo choàng của cậu, ngừng nói về tình hình chưa rõ ràng ở biển Đông Bắc và người đưa tin mất tích, nhưng chủ đề duy nhất cậu muốn nghĩ đến là Quần đảo Đôi. Khi cậu nói chiến tranh sẽ đến, cậu sử dụng cách chia động từ để diễn tả một sự thật đã được thừa nhận. Ngư dân sẽ sử dụng dạng “đến” này khi nói về những đàn cá quay trở lại vào mùa xuân. Những đàn cá luôn quay trở lại cùng với dòng hải lưu, không bao giờ làm bạn thất vọng.

Tôi không đồng tình với sự bi quan của cậu, khi đó tôi vẫn chưa rũ bỏ được quán tính của thế giới cũ nên vẫn có niềm tin vào các nghi thức, lẽ thường và sự tín nhiệm của con người. Có thể đây là một quyết định vội vàng của một vị vua nào đó. Lập luận của tôi là thế này. Đừng quên rằng người phương Bắc có ba vị vua. Trước đây đã từng có những kẻ cuồng chiến với tham vọng đầy kiêu ngạo, nhưng hai người nắm quyền còn lại luôn có thể kiểm soát được kẻ nào vượt qua ranh giới. Một khi kiểm soát được, hệ thống an toàn này chưa bao giờ thất bại.

Cậu không bị thuyết phục. Cậu hỏi tôi “nếu” – sau từ này, cậu đã thay đổi cú pháp và thêm hậu tố uyển ngữ(1) vào động từ để tạo tình huống hư cấu. Nếu chiến tranh trở nên không thể tránh khỏi, liệu Icahn có tham gia không? Với thủy thủ đoàn, vài chiếc thuyền và những chú cá heo đã được thuần hóa của chúng tôi?

(1) Uyển ngữ: là thuật ngữ ngôn ngữ học và văn học dùng để chỉ lối nói tinh tế và tế nhị. Nó là biện pháp tu từ ngược lại với ngoa dụ, và ở phương diện nào đó, nó khá gần với nhã ngữ.

Tôi nghĩ cậu hỏi nhầm người rồi, tôi không có thẩm quyền quyết định và ý kiến của tôi cũng không quan trọng. Cậu có vẻ hơi khó chịu khi nói rằng đây chỉ là tình huống giả định chứ không phải một cuộc thảo luận chính thức. Vì vậy tôi ngập ngừng nhắc lại ý kiến của linh mục rằng đảo Icahn không muốn dính líu đến bất kỳ tranh chấp nào.

“Mình không hỏi linh mục nghĩ gì.” Cậu nói, “Mình muốn biết suy nghĩ của cậu.”

Tôi không có ý kiến gì khác. Suy cho cùng, đảo Icahn chỉ có hai cách để tự bảo vệ mình, và cả hai đều nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng tôi: một là nó nằm ở một địa điểm xa xôi, không có hạm đội nào sẵn sàng tiêu tốn năng lượng và lương thực dự trữ để chiếm đóng một hòn đảo cằn cỗi. Thứ hai là các dòng hải lưu nguy hiểm quanh núi lửa, ngay cả tàu thuyền của chúng tôi cũng có lúc gặp nguy hiểm chứ đừng nói đến tàu thuyền ở các hòn đảo bên ngoài không có cá heo dò đường. Tuy nhiên, nếu bất kỳ tù trưởng, vua, chủ tịch hay nhà lãnh đạo tôn giáo nào quyết tâm chiếm đảo Icahn về làm chủ, chúng tôi thậm chí có thể không còn nơi nào để trốn thoát.

Đây không phải là câu trả lời cậu muốn nghe. Giải pháp tốt nhất trong đầu cậu là tập hợp tất cả các hạm đội mà cậu có thể tập hợp được, không chỉ đánh đuổi người phương bắc khỏi Quần đảo Đôi mà còn buộc họ phải trở về những bến cảng đầy băng của họ, viết lại hoàn toàn các hiệp định thương mại hiện có và thêm mới điều khoản ngăn chặn vị Vua “Sói Tuyết” thứ hai xuất hiện trên bất kỳ hòn đảo nào.

Tôi không thể tin vào tai mình, để bác bỏ cậu, tôi thậm chí còn bảo vệ Quần đảo phía Bắc. Tôi chỉ ra rằng chúng ta nên kiên nhẫn chờ đợi người đưa tin quay lại. Tại sao cần phải thảo luận về “nếu như” và “giả sử” trước khi biết “thực sự là gì”? Tôi trách cậu đã suy nghĩ “quá bạo lực” và rút ra một số lý do mà ngay cả tôi cũng không tin lắm: Có thể Quần đảo phía Bắc đã trải qua một mùa đông đặc biệt khắc nghiệt, có thể đã xảy ra một vụ phun trào và magma đã phá hủy đất nông nghiệp. Hơn nữa, làm sao biết chắc là hạm đội của nhà vua ra ngoài cướp bóc, nhỡ là dân đảo đói khát thì sao?

Không hề nhận ra, chúng tôi đều cao giọng, lọt vào mắt xanh của người gác hải đăng, buộc chúng tôi phải đổi thành những lời thì thầm bực tức, giống như hai con rắn đang phun lời vào nhau. Cậu nói rằng sự hèn nhát của tôi làm cậu thất vọng, Quần đảo phía Bắc sẽ không hài lòng với ruộng đồng và hải sản của Quần đảo Đôi trừ khi họ bị trừng phạt thỏa đáng, và hình phạt này phải được tất cả các đảo buôn bán cùng nhau thực hiện. Đảo Icahn sẽ không được bảo vệ nếu đứng ngoài, những người lính mặc áo da hải cẩu một ngày nào đó sẽ xuất hiện ở cảng của chúng tôi, không phải vì đói khát hay vì bất kỳ tranh chấp nào, đơn giản vì họ có thể. Khi cậu nói những điều này, cậu luôn sử dụng ngôn ngữ của tôi, nhưng các câu lại theo cấu trúc tiếng mẹ đẻ của cậu, những từ kết luận mô tả tương lai giả định đối với tôi nghe vừa chính xác vừa đầy ngụy biện, như thể một bức tranh tự mâu thuẫn, đồng thời không thể xác định hoàn toàn hướng của các đường nét. Nhưng chúng tôi không quan tâm đến ngữ pháp, cuộc tranh cãi ở đây hoàn toàn sụp đổ rồi biến thành những cuộc tấn công lẫn nhau vô nghĩa.

Tôi là người đầu tiên bỏ chạy, tôi thậm chí còn không buồn kiếm cớ, chỉ quay người bỏ đi, cậu không nói gì, cũng không đuổi theo tôi. Tôi tự nhủ không được nhìn lại và sải bước trở lại phòng hội đồng. Cuộc đàm phán vẫn bị đình trệ, và một trong những linh mục đã ngủ quên, dựa vào người anh em sinh đôi của mình. Bên cạnh đống lửa là một vị đại biểu hội đồng buộc dải ruy băng màu vàng, đầu cúi xuống ngực, như đang thờ một ngọn núi lửa, ở đây cũng có thể nghe thấy tiếng ngáy của ông ta.

Cậu đã không quay trở lại phòng hội đồng. Trời tối đen, không có ai thông báo người đưa tin đã trở về, mọi người tản mác rời khỏi hội trường. Chỗ nghỉ chuẩn bị cho du khách trên Đảo Lớn gần bến tàu, cách chợ trời không xa, là dãy chòi đá hai tầng san sát nhau, tầng một dành riêng cho khách, tôi không biết phòng ngủ ở đó thế nào và tôi chưa bao giờ vào trong đó. Tôi ngủ trên tầng hai của phòng cho người hầu, có bốn chiếc giường rơm nhức nhối, lúc đó linh mục tập sự không đến nên tôi chọn chiếc giường đối diện với cửa sổ mái và nằm đó một mình, nhìn chằm chằm vào bầu trời đêm trống rỗng.

Mặt trăng từ từ di chuyển vào tầm nhìn và dừng lại ở giữa giếng trời. Tôi đứng dậy, ngồi một lúc, lại nằm xuống, rồi lại đứng dậy, bước lên ghế, nắm lấy khung cửa sổ rồi trèo lên mái nhà. Ánh trăng sáng ngời, hiện rõ từng đường nét không đều nhau của mỗi viên đá. Tôi trượt xuống đất dọc theo hàng dừa cạnh ngôi nhà đá và đi vào rừng.

Những khu chợ vắng vẻ không còn khiến tôi sợ hãi nữa, cũng không còn trống trải như tôi nhớ nữa. Đi đường tắt, tôi đi qua tổ ong của các cửa hàng, đi từ bóng tối ra ánh trăng, để rồi lại bị bóng tối nuốt chửng. Cho đến lúc này, tôi vẫn không biết mình định nói gì với cậu, tôi chỉ muốn gặp cậu và hàn gắn cuộc trò chuyện bị mắc kẹt của chúng ta bởi những tảng đá hung dữ của hòn đảo phía bắc.

Hầu hết các ánh lửa trên đường đều được dập tắt, những ngôi nhà cao thấp bị chôn vùi trong bóng tối không đồng đều. Cửa sổ nhà cậu vẫn còn ánh sáng và ngọn đuốc trước cửa nhà cậu vẫn đang cháy. Ban đầu tôi định đi vòng đến chỗ bóng tối sâu nhất và bí mật gõ lên ô cửa sổ, nhưng cuối cùng tôi lại bước vào chỗ có ánh lửa rồi gõ cửa.

Nếu cậu ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi, cậu đã giấu nó rất tốt. Cậu đứng đó, không bước thêm một bước về phía cửa, cũng không mời tôi vào. Tôi ngay lập tức thấy hối hận khi gõ cửa, ngọn đuốc kêu lách tách khiến tôi có cảm giác như mình không còn nơi nào để trốn. Vốn tưởng rằng đứng ở đây thì tự nhiên sẽ nghĩ ra từ ngữ thích hợp, nhưng hy vọng này rõ ràng đã tiêu tan. Cậu và tôi nhìn nhau, không biết điều gì đã thôi thúc tôi nói những lời tiếp theo, có lẽ cảm hứng cuối cùng cũng đã đến với tôi, hoặc có thể là do cậu như sẵn sàng đóng sầm cửa trước mặt tôi.

Tôi gọi tên cậu và cánh cửa lại mở ra.

“Con tàu của cậu vẫn ở đó chứ?”

Cậu không trả lời ngay, tôi nín thở. Sau đó, cậu mỉm cười, không rõ lắm, nhất là trong ánh lửa bập bùng. Cậu vẫn đang mặc áo hội đồng, nhưng mái tóc của cậu không còn gọn gàng như buổi tối nữa, mà như thể đã bị vò rối. Tôi nhớ mình đã nghĩ, trông cậu rất giống một con ưng biển đang ngắm nhìn mặt nước, nhưng không rõ cậu đang săn gì. Cuối cùng cậu cũng lên tiếng, xác nhận rằng tất nhiên chiếc thuyền vẫn ở nguyên chỗ cũ, đã không được sử dụng trong nhiều năm và bản thân cậu gần như quên mất nó tồn tại.

Tôi không nói gì nữa, hiệp định đình chiến vừa hình thành giữa chúng tôi mong manh như sợi tơ nhện, tôi và cậu cứ nắm chặt một đầu, tôi lo nếu nói thêm một lời nữa thì nó sẽ đứt. Cậu tháo đuốc ra và tôi đi bên cạnh cậu về phía sườn đồi dẫn ra vịnh.
 
Chương 6: Trang 21 - 23


Chiếc áo choàng cản trở chuyển động của cánh tay cậu, câu nhanh chóng cởi nó ra. Chiếc thuyền bị vùi một nửa trong cát, khi lật thuyền, chúng tôi quấy rầy một đàn cua nhỏ, trong ánh lửa, mai của chúng sáng lên ánh kim loại, giống như những chiếc cúc có chân. Cả hai chúng tôi đều giật mình và đứng yên. Chỉ mất ba cái chớp mắt để những loài giáp xác sáng bóng này chui xuống nền cát ướt rồi biến mất.

Đèn lồng được thắp sáng và treo ở mũi tàu. Chúng tôi cùng nhau đẩy thuyền xuống nước và trượt vào đầm ngập ánh trăng. Cậu bắt đầu bằng cách nói về quá trình đóng thuyền, người đã xin lời khuyên, gỗ đến từ đâu, những cân nhắc nào khi chọn sơn và mất bao lâu để sơn hoa văn trên thân tàu. Lúc này tôi mới nhận ra thân tàu không hề bị nấm mốc bám đầy, còn có hoa văn sơn vẽ, nhưng lớp sơn đã phai và bong ra, chỗ này có một cái đuôi cá đầy gai, chỗ kia là một chiếc sừng cừu lẻ loi, không biết là cái gì. Có lẽ bức tranh gốc là vậy, cậu thậm chí còn không nhớ nó.

Không rời đầm, chúng tôi chèo thuyền ra rìa rặng san hô rồi buông mái chèo. Sóng vỗ vào các ghềnh đá tạo thành sương mù lung linh trong ánh trăng rồi rơi xuống như mưa phùn. Nước trong đầm êm ả, chúng tôi nằm cạnh nhau dưới đáy thuyền ngắm bầu trời đêm. Cậu nói con tàu này được đóng cho những chuyến đi dài, nhưng nó chưa bao giờ đi xa hơn cái hồ này. Cậu luôn tự hứa với mình rằng sẽ có cơ hội trước khi chính thức bước vào Hội đồng, nhưng cơ hội này đã không bao giờ đến. Cha mẹ cậu không ngăn cản nhưng họ cũng không giúp đỡ. Niềm đam mê chèo thuyền của họ chỉ mang tính chức năng và chỉ giới hạn ở mức giá bán chạy nhất trong mùa. Cậu có những kế hoạch khác cho mình, mơ mộng trở thành nhà thơ hải âu của thơ sử thi, sở hữu một con tàu, những người bạn chim biển trung thành và thông minh, một cây đàn lia và danh tiếng bất diệt.

Tôi hỏi về hình xăm mới của cậu – con cá nhồng.

“Ồ, đúng vậy.” Cậu đáp, như thể vừa phát hiện trên người mình có thêm một hình vẽ, “Mình định tìm cơ hội cho cậu xem, nhưng.”

Chúng tôi đều nhớ đến chữ “nhưng” nên lại rơi vào khoảng im lặng ngắn ngủi, rồi cậu quay người sang một bên, tựa đầu vào tay trái, nhìn tôi và xin lỗi về những điều cậu đã nói dưới ngọn hải đăng trước đó. Tôi trả lời rằng không ai trong chúng ta phải xin lỗi, rằng không ai làm gì sai cả, “và”, tôi vội nói thêm: “Mình thực sự không nghĩ chính ‘Những người dân đảo đói khát’ đã tấn công Quần đảo Đôi.”

Cậu nói cậu biết, tôi thở dài vào bầu trời đêm. Cậu ậm ừ trầm ngâm và chạm vào cánh tay tôi nên tôi nằm nghiêng rồi nhìn vào mắt cậu.

“Khi nào cậu định hỏi ‘Tại sao cậu lại chọn xăm thứ này?’”

“Nếu cậu thực sự muốn nói thì…“

“Bởi vì nó tượng trưng cho cậu.” Cậu chạm vào con chim hải âu trên vai. “Đây là một giấc mơ” những ngón tay của cậu di chuyển đến cơ thể sọc của con cá nhồng. “Và đây là cậu.”

Sẽ là nói dối nếu tôi khẳng định rằng tôi không hề mong đợi câu nói này. Trên thực tế, tôi đã mong đợi cậu sẽ nói điều đó, nhưng việc tưởng tượng nó và nghe nó bằng chính đôi tai của mình là hai việc khác nhau. Trong tưởng tượng, lẽ ra tôi nên đáp lại bằng một câu trả lời chân thành, thậm chí là tán tỉnh, bắt đầu một điệu nhảy ve vãn, nhưng tâm trí đóng băng của tôi chỉ cung cấp cho tôi một câu “Ừ?” ngu ngốc.

Cậu nhéo vai tôi, tuyên bố tôi cứng đơ như một con cá sắp bị làm thịt, rồi nói thêm: “Đùa thôi.”

Phần nào? Bao nhiêu là trò đùa? Tôi chỉ muốn hét vào mặt cậu. Tôi thực sự không thể biết được cậu có đang “đùa” hay không. Có lẽ tôi thực sự không quan trọng đến thế, có lẽ cá nhồng trên Đảo Lớn còn có ý nghĩa khác mà tôi không biết. Cậu đột nhiên ngừng cười, thở dài, trượt lòng bàn tay từ vai đến cổ tôi, nhẹ nhàng đặt lên má tôi: “Trời ơi, cá nhỏ.” Cậu lại thay đổi sang ngôn ngữ của tôi: “Mình hy vọng…“

Cậu đã không nói hết. Tiếng còi vang lên từ hướng cảng, the thé và ma quái vào giữa đêm. Cả hai chúng tôi quay lại và ngồi dậy, nhìn nhau, nắm lấy mái chèo rồi chèo về bãi biển.

Toàn bộ hòn đảo dường như được đánh thức, những ngôi nhà vừa rồi vẫn còn tối tăm giờ đã tràn ngập ánh nến. Người lính canh nheo mắt và đánh lửa bằng đá, thắp sáng ngọn đuốc đã tắt. Tôi dừng lại cách ngôi làng khoảng mười bước rồi vùng ra khỏi tay cậu, cậu bối rối quay lại, nhưng cậu đã sớm hiểu tại sao. Chúng tôi nhìn nhau lần cuối, cậu chạy về làng, tôi lao vào rừng và đi một quãng đường dài tới bến tàu.

Khi ánh sáng của ngọn hải đăng lờ mờ sau những tán cây, tiếng tù và dừng lại, thay vào đó là tiếng chuông gấp gáp báo hiệu tàu thuyền vào bến. Đến lúc hụt hơi chạy ra bãi biển, thật khó để tìm được một chỗ đứng trên bến tàu. Mọi người nghểnh cổ lên nhìn, còn anh chị em của họ thì vác những người anh em đang trợn mắt há hốc mồm lên vai. Tôi bám vào mép bến và quan sát những người lính canh giúp người đưa tin từ boong tàu lên rồi bế cô ấy đến phòng họp. Cậu và cha cậu đi bên cạnh, thỉnh thoảng ghé sát vào người đưa tin để lắng nghe lời nói của cô ấy. Nhiều lính canh hơn được cử đến những túp lều bằng đá nơi du khách nghỉ qua đêm, đánh thức một số đại biểu đang ngủ say.

Đám đông chặn đường nên tôi phải nhảy khỏi bến tàu, bơi vào bờ trong nước sâu đến thắt lưng rồi chạy vào hội trường. Hai linh mục đã đến, không mặc áo choàng, mắt sưng tấy vì ngủ quên. Họ liếc nhìn quần áo ướt sũng của tôi, ngước lên nhìn mặt tôi một lúc, nhưng cũng không hỏi gì.

Người đưa tin nằm trong chăn đệm, rõ ràng đã đói mấy ngày, không biết khi nào mới có nước ngọt. Chiếc Clipper thường chở đồ dùng gấp đôi số ngày của chuyến đi nhưng thời gian khởi hành của cô lại dài hơn dự kiến rất nhiều. Canh rong biển hấp được mang đến cho cô, vu y dùng thìa gỗ nhỏ đút cho cô, mỗi lần cô chỉ được uống hai ba ngụm để tránh nôn mửa. Nhìn lại, tôi vẫn ngạc nhiên trước sự im lặng của phòng hội đồng chật kín người, không chỉ các đại biểu mà cả những người dân đảo ngồi dưới đất bám vào cửa sổ, nhưng ai nấy đều nín thở và giọng nói run run của sứ giả ở khắp mọi nơi. Mọi người đều có thể nghe thấy nó. Cô là người được phái đến Quần đảo Đôi, cô không biết tình hình hiện tại của người bạn đồng hành đến Quần đảo phía Bắc, nhưng xét theo những gì cô thấy và nghe được ở vùng biển phía Đông, có lẽ tình hình khá nguy hiểm.

Chỉ còn lại một vị vua ở Quần đảo phía Bắc, cô tuyên bố, và một làn sóng rì rầm vang lên khắp căn phòng, lan từ ngọn lửa ra cửa, rồi tắt dần khi cô tiếp tục. Chỉ còn một vị vua, sứ giả nhắc lại. Vua Atukwa, người lớn tuổi nhất trong ba vị vua phương Bắc, đã xử tử hai vị vua còn lại và con cái của họ, tuyên bố mình là người cai trị duy nhất của Quần đảo phía Bắc. Để đổi lấy sự ủng hộ của các quý tộc, Vua Atukwa đã hứa tặng Quần đảo Đôi như một phần thưởng. Ngay sau khi hạm đội hoàng gia đổ bộ, tất cả các đại biểu đều bị bắt và các tàu buôn bị đốt cháy. Sau đó, các quý tộc đến và chia đất nông nghiệp trước những tấm bản đồ trong thư viện.

Sau này tôi giải thích với cha mẹ: Hãy tưởng tượng nhét ba con cua gai độc vào một cái nồi đất, đổ một ít nước biển vào rồi để chúng chiến đấu, cuối cùng con thắng cuộc sẽ xuất hiện, ăn thịt đối thủ thua cuộc và phát triển thành kích thước lớn hơn ban đầu. Khi người ta mở nắp, họ sẽ thấy những con sống sót vẫy càng cua trong nước thải hôi hám với sự hung dữ đến mức có thể cắt đứt ngón tay cái của một người.

Nói tóm lại, những giả định tồi tệ nhất của cậu đã được xác nhận, và nó thậm chí còn tệ hơn một chút so với những gì cậu mong đợi. Trong những bài thơ tự sự và những bản ballad, mỗi hòn đảo đều tuyên bố rằng vị Vua “Sói Tuyết” đã bị hạm đội của chính mình “đánh bại nặng nề”, nhưng nếu đọc những văn bản đáng tin cậy hơn, chúng ta sẽ thấy rằng chìa khóa để kiềm chế tên bạo chúa thực chất là hai vị vua khác ở Quần đảo phía Bắc và quân của họ được triển khai gần trại “Sói Tuyết”. Nếu trước đây chúng tôi có chút hy vọng nào, chúng tôi đã nghĩ rằng những con cua gai độc trong lọ có thể duy trì sự cân bằng tinh tế thông qua việc cho ăn cẩn thận. Rồi đêm đó khi sứ giả trở về, hy vọng này đã hoàn toàn tan vỡ, người ta chợt phát hiện ra hai con cua gai độc còn lại đã chết, con còn sống sót đã tự đập vỡ chiếc bình, chạy vòng quanh và đâm thủng cổ họng của hơn một người.

Các đại biểu bắt đầu đặt câu hỏi, “Làm thế nào mà cô trốn thoát được?”, “Có phải tất cả các quý tộc đều ủng hộ Atukwa không?”, “Các đại biểu trên Quần đảo Đôi có an toàn không?” Bốn năm người đang nói chuyện cùng một lúc, không thể nghe rõ, người dân đảo xung quanh cũng đang hò hét. Cha cậu cứ đập gậy vào cột cho đến khi mọi người im lặng. Lính canh thấp giọng trò chuyện với ông ấy một lúc rồi giải tán và yêu cầu người dân trên đảo rời đi. Những đứa trẻ được bế ra khỏi bậu cửa sổ, những tấm lưới cửa sổ bằng gỗ được đóng lại và cố định bằng dây thừng, mọi người xếp hàng ra khỏi phòng họp, tiếng bước chân và tiếng trò chuyện xa dần. Có người cho củi thông khô chưa chín vào lửa, lửa cháy phát ra tiếng lốp bốp lớn và khói trắng dày đặc. Không ai lên tiếng, hồi lâu trong phòng hội nghị chỉ có tiếng gỗ kêu răng rắc, sau đó, một vị đại biểu hội đồng mặc áo ngủ trầm giọng hỏi câu đầu tiên, như đang niệm chú gì đó, những người phía sau đặt câu hỏi, tìm kiếm sự xác nhận, đào bới chi tiết, tất cả đều sử dụng cùng một giọng điệu nhẹ nhàng và cẩn thận. Người đưa tin lặp lại những gì cô đã nói, và một lần nữa, cho đến khi không còn chỗ cho sự bối rối hay nghi ngờ, cho đến khi mọi người lại im lặng, mỗi người đều đang tiêu hóa nỗi sợ hãi nhức nhối trong tâm trí.

Ngay sau bình minh, cuộc bỏ phiếu bắt đầu. Không cần đợi các đại biểu phía Bắc, chúng tôi đều biết họ sẽ không đến.

Không có hậu quả ngoài ý muốn. Đảo Lớn và Quần đảo phía Nam đồng ý thành lập các hạm đội “chỉ để phòng thủ”, và các linh mục của Icahn đã bỏ phiếu chống lại mọi đề xuất không liên quan đến thương mại. Tôi vùi đầu vào việc viết lách, ghi chép mọi quyết định, không hề ngẩng đầu lên nhìn cậu.

Các linh mục để tôi lại Đảo Lớn với tư cách là quan sát viên, đại biểu không chính thức hoặc sứ giả danh dự. Tôi tiễn họ lên thuyền và về nhà. Chúng tôi nghĩ đó chỉ là một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nên một chiếc thuyền đưa tin nhỏ được cử đến, do chị tôi cầm lái. Tôi nằm trên tảng đá viết vội một lá thư và đưa cho Sanggu, nhờ chị ấy chuyển cho cha mẹ chúng tôi. Chúng tôi ôm nhau trên ván cầu, cô ấy thì thầm rằng tôi không nên ở lại, tôi chưa kịp trả lời thì người thủy thủ đã gọi to tên tôi, chỉ hai con cá heo dùng để đưa tin và hỏi tôi có biết dùng chúng không.

Tất nhiên là tôi biết.

Sau khi tàu nhổ neo rời bến, tôi tiếp tục đứng trên bãi biển một lúc, cảm thấy hơi choáng váng, không biết là do thiếu ngủ hay do hoảng sợ. Con cá heo lượn vòng cách đó không xa, đuổi theo chiếc thuyền và bạn đồng hành bị buộc dây một lúc rồi lao trở lại, nửa đầu nhô ra, vây đuôi đập xuống nước và kêu the thé chờ hiệu lệnh. Tôi xuống nước bơi tới, vuốt ve đầu, lưng bọn nó rồi thổi hai tiếng huýt sáo một dài một ngắn ra hiệu bọn nó có thể thoải mái vui chơi nhưng không được quá xa đảo và phải chú ý nghe tiếng gọi. Chúng lao về phía biển khơi như những mũi tên, một trong số chúng cọ xát mạnh vào tôi trong sự phấn khích, suýt làm tôi ngã xuống nước.

Sau đó – tôi hứa là tôi không có kế hoạch gì trước đó, chỉ hành động hoàn toàn theo bản năng, tôi quay người và đi về phía ngôi làng, đến nơi ở của cậu. Cậu đang ở đây, chuẩn bị nghỉ ngơi và tôi rất biết ơn vì cậu đã không hỏi tôi tại sao tôi vẫn ở đây hoặc tôi dự định làm gì. Tôi cởi quần áo ướt ra rồi mặc bộ đồ ngủ của cậu vào, cùng cậu leo lên giường, tay cậu đặt sau eo tôi, kéo tôi lại gần, tôi nắm lấy tay cậu, nhắm mắt lại.

Cũng chính ngày hôm đó, giấc mơ ấy lại ập đến, không phải giấc mơ về cây cầu treo mà là giấc mơ nước biển biến thành máu, mưa đá và tro bụi núi lửa cuốn xuống cùng nhau, và tôi vẫn nắm lấy tay cậu cho đến khi cho đến khi cơn đau rát buộc tôi phải buông tay. Tôi tỉnh dậy trong ánh sáng lờ mờ của buổi chiều, run rẩy đưa tay phải ra ánh sáng, làn da còn nguyên vẹn không có dấu vết gì nhưng phải một lúc sau cơn đau mới dịu bớt. Cậu cũng thức dậy và hỏi tôi có ổn không.

Đó chỉ là một giấc mơ. Tôi trả lời như vậy vì lúc đó tôi không hề biết rằng giấc mơ này sẽ lặp lại một lần, ba lần, mười hai lần và cuối cùng trở thành hiện thực.
 
Chương 7: Trang 24 - 27


Trang 24

2 lưỡi câu cá

1 cuộn dây câu

6 cuộn sợi bông

3 cái đục đá

1 hộp đinh gỗ

3 hộp đinh sắt

1 cái búa



3 giỏ trai

1 giỏ hến khô

2 con cá thu

1 con cá chẽm

1 con cá hồng

7 con hàu

1 rổ rong biển

1 bó rong biển phơi nắng



Cá hồng có nhiều ở góc Đông Nam, cá vược thì phụ thuộc vào may mắn

Không có cá heo

Sửa chữa tàu?

Trời mưa, mưa mưa mưa

—————————

Trang 25-27

Nhưng vào một ngày nọ, toàn bộ hòn đảo trông khác hẳn, chuẩn bị cho cuộc chiến sắp xảy ra vào một thời điểm không xác định. Không còn trẻ em chơi đùa ở bến cảng nữa vì những chiếc cọc nhọn được chôn dưới nước để ngăn cản tàu chiến dài và hẹp của phương Bắc cập bến. Có một bãi đá bằng phẳng ở phía đông bắc của Đảo Lớn, và các cuộc tuần tra đã được tăng cường ở đó. Tháp canh thô sơ được dựng lên một cách vội vã, ẩn hiện dưới tán cây đung đưa trong gió, nhìn từ xa giống như một tổ chim khổng lồ.

Tiếng đập búa ngày đêm vang lên từ xưởng đóng tàu, xưởng rèn cũng vậy, nhưng chính ở xưởng rèn sau đó, chúng tôi gặp phải rắc rối đầu tiên: Quần đảo phía Bắc là nguồn cung cấp quặng sắt chính nên việc mua thêm quặng là bất khả thi. Người dân phải sử dụng bất cứ thứ gì có sẵn trên đảo: những chiếc đinh từ những chiếc thuyền đánh cá bỏ hoang, những chiếc cuốc thừa, những chiếc lao cũ bỏ quên dưới đáy thuyền, những lư hương bằng gang, những ngọn giáo không lưỡi dùng trong các nghi lễ tôn giáo.

Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng mình có thể trở thành một tay giáo khá giỏi. Không phải là tôi không giỏi sử dụng vũ khí, chỉ là chưa có ai nghĩ đến việc dạy tôi. Cậu đã thuyết phục tôi “thử” vào mỗi buổi chiều trên bãi biển cạnh đầm phá. Trước tiên hãy tập các động tác với một thanh gỗ dài, sau đó cậu buộc các bao cát nhỏ vào gậy để mô phỏng trọng lượng của kim loại. Không ngày nào mà tay và vai tôi không đau, thậm chí có khi còn khó ngủ. Nhưng khi tôi sử dụng một ngọn giáo thật, cơn đau đã biến mất từ lâu. Tôi quyết tâm đánh bại cậu, dù chỉ một lần, và tất nhiên cậu biết động cơ này và đang cố gắng hết sức để ngăn cản tôi làm điều đó. Mùa hè đến nhanh, cát nóng dưới chân, mỗi khi giáo va vào nhau, cậu sẽ mỉm cười nhe chiếc răng nanh ra. Tôi lùi lại một bước, giữ khoảng cách, đưa mũi giáo về phía trước và tấn công lần nữa.

“Hãy lừa đối thủ của cậu.” Cậu nhắc nhở tôi và tôi đã làm đúng như vậy, sử dụng thủ thuật tốt nhất của cậu, giả vờ đi bên phải và tấn công từ bên trái vào giây phút cuối cùng. Cậu thực sự đã nhìn thấy nó, nhưng quán tính không thể khôi phục nên cậu loạng choạng. Tôi đã phát hiện ra sơ hở này, hất vũ khí ra khỏi tay cậu rồi đánh gục cậu trên bãi biển. Cậu thở dài lên trời và dang tay thừa nhận thất bại. Tôi đâm ngọn giáo của mình xuống cát và cúi đầu nhìn cậu. Vào lúc đó – tôi không biết có thể diễn đạt rõ ràng được không: giống như được quay trở lại suối nước nóng của Quần đảo phía Nam, và tôi cũng bị thôi thúc như vậy, tràn đầy khao khát được tiếp xúc cơ thể. Tôi muốn chạm vào con chim hải âu trên vai cậu, có thể bằng ngón tay, có thể bằng môi.

Tôi đưa tay ra, dừng lại một cách lịch sự, các ngón tay xòe rộng, cậu nhìn tôi một lúc, nắm lấy tay tôi, để tôi kéo cậu lên khỏi cát. Chúng tôi phủi cát khỏi ống quần, nhặt giáo và đi về phía làng mà không nói về chuyện gì khác ngoài bữa tối.

Đổi lại, tôi sẽ cố gắng chỉ cho cậu cách ra lệnh cho một con cá heo. Điều làm tôi ngạc nhiên là cậu dường như không thể học cách sống chung với những kẻ thông minh này, họ khiến cậu lo lắng và cậu liên tục thay đổi cao độ huýt sáo của mình, khiến những chú cá heo bơi vòng quanh cậu một cách điên cuồng và tạo ra những tiếng “rít” bối rối.

Cậu cho rằng đó là do nước sâu đến ngực khiến cậu khó thở, rồi hỏi tôi cá heo có tên không.

Không hẳn vậy, nhưng những người huấn luyện có kinh nghiệm có thể sử dụng các loại còi cao và thấp khác nhau để gọi những chú cá heo khác nhau. Khi nghe thấy “độ cao khác nhau”, cậu nhăn mặt, đưa ngón trỏ và ngón cái vào miệng rồi thổi ra một âm thanh dài, đáng lẽ đây là tín hiệu “nhảy”, nhưng âm điệu hoàn toàn sai, hai con cá heo ngoi lên từ mặt nước, cái đầu hé mở tạo ra một loạt tiếng “ta ta” nhẹ nhàng mà không hề cử động.

Tôi đã bỏ cuộc sau hai ngày. Cậu thì bỏ cuộc sau năm ngày, thà đứng trên bờ nhìn tôi nhét bức thư gửi linh mục vào lọ thủy tinh rồi buộc vào phía sau lỗ phun nước và trước vây lưng của con cá heo, miệng chai hướng về phía trước để nó không cản trở việc bơi lội và không dễ bị tuột ra. Tôi cho nó ăn nửa xô cá hồi cắt thành từng khúc lớn, tạo hình vòng tròn bằng tay trái rồi huýt sáo hai lần. Cá heo nhảy về phía tây bắc, giống như một lưỡi dao cắt xuyên qua mặt nước, chẳng mấy chốc ngay cả những gợn sóng cũng không còn thấy nữa.

Con cá heo còn lại bị mùi cá tươi hấp dẫn, dùng cái mõm trơn trượt ấn vào tay tôi đầy hy vọng, tôi ném những miếng thịt cá còn lại ra xa, con cá heo lao tới cắn, ném miếng thịt lên không trung, bắt lấy, lại ném lên không trung, lại nhảy lên bắt và lặp lại trò chơi này nhiều lần trước khi nuốt chửng thịt cá. Tôi nhìn lại cậu, và dường như cậu đã nhìn tôi được một lúc, mỉm cười khi bắt gặp ánh mắt của tôi. Sóng xô đẩy tôi, tôi bơi về phía bãi biển, cậu bước vào chỗ nước nông, giúp tôi leo lên những tảng đá trên bờ, gần như có thể nói là cậu đã bế tôi lên. Chúng tôi ngồi đó, vai kề vai, ngắm đàn cá heo và nhìn về phía chân trời phía bắc. Hôm đó là một ngày nhiều mây, mây không dày đặc nhưng có sương mù, vẫn có thể nhìn thấy bóng dáng của rạn san hô xa nhất, nhưng ở xa hơn nữa thì khó có thể nhìn thấy rõ ràng.

Đây là một trong những khoảnh khắc tôi thích nhớ đến nhất.

Sau khi mọi sự chuẩn bị đã được thực hiện, mọi người được tự do. Các buổi biểu diễn của nhà thơ lại tiếp tục với tần suất như cũ, và người thợ rèn lại tiếp tục sửa bình, giày cùng ấm trà. Vào một buổi chiều tràn ngập quả mâm xôi và bánh kếp, người ta có thể quên rằng Quần đảo phía Bắc thậm chí còn tồn tại. Tôi mượn một cây đàn lia, khi không có việc gì làm, tôi ngồi trên nóc ngôi nhà đá, quay mặt ra bến cảng, học chơi những bài đồng dao đơn giản dành cho trẻ mẫu giáo. Tôi luôn gọi ngôi nhà này trong tâm trí là “nơi ở của linh mục”, chưa bao giờ là “nơi ở của tôi”. Tôi hầu như không ở đó ngoại trừ việc ngủ. Sau này cậu nói: “Chúng ta đã lãng phí rất nhiều thời gian.” Đó là sự thật, lẽ ra chúng tôi có thể sống cùng nhau và tôi không hiểu tại sao cả hai chúng tôi đều không nghĩ đến việc này vào thời điểm đó.

Như cậu có thể tưởng tượng, mùa buôn bán năm đó rất vắng vẻ. Không có một chiếc thuyền nào từ vùng biển phía đông đến, điều này xác nhận lời nói của người đưa tin, họ không có một chiếc tàu buôn nào, thậm chí càng khó có khả năng người phương Bắc xuống phía nam làm ăn như thường lệ. Niềm vui duy nhất là cha Cormoran đã đến đúng hẹn. Tôi ước tính chuyến đi và đợi trên bờ trước vài ngày. Ngay khi chiếc tàu buôn quen thuộc xuất hiện, tôi lập tức chạy ra bến tàu giúp các thủy thủ buộc dây cáp và dựng ván cầu. Cha nhìn hệ thống phòng thủ của bến cảng và đứng ở mép boong rất lâu trước khi xuống tàu, cảnh tượng đó chắc hẳn khiến ông thấy khó chịu, tất cả những cây cột, tháp canh, máy bắn đá và những bức tường ván có lỗ để bắn tên, dù các linh mục có thích hay không thì chiến tranh cũng đã lan rộng ra vùng biển này. Cha nhìn thấy tôi, bước vài ba bước ra khỏi ván cầu, ôm tôi vào lòng và áp trán vào trán tôi.

Cuối ngày hôm đó tôi đã giới thiệu cha Cormoran với cậu, và mặc dù cậu đã gặp ông ấy trước đó nhưng lúc đó cậu chỉ biết ông ấy với tư cách là một thuyền trưởng lái buôn chứ không phải với tư cách là một trong những người cha của tôi. Tôi vẫn còn nhớ bữa tối của chúng tôi: cá hầm nước dừa, thịt lợn nướng lát, khoai lang nướng trong tro than, và những quả mọng tươi đựng trong bát gỗ có màu tím, đỏ và vàng.

Mùa buôn bán đáng thất vọng này lại càng có một kết thúc ảm đạm hơn, tin tức về những cuộc tấn công của cướp biển đến từ các trạm buôn bán xa xôi, những thương nhân có cơ hội trốn thoát đã đến Đảo Lớn với tay không, khuôn mặt đầy máu và gầy gò như một nhóm của những bộ xương được bọc trong giẻ rách. Theo mô tả của họ, các tàu cướp biển không có dấu hiệu rõ ràng, nhưng các thủy thủ đều có mái tóc hoa râm và nhiều người trong số họ mặc áo khoác da hải cẩu.

Sự căng thẳng đã quay trở lại, “như vết chích của một con bọ cạp cuộn tròn”, theo phương ngữ Quần đảo phía Nam. Đảo Lớn phái hạm đội đầu tiên truy tìm lộ trình của các thương nhân, tìm kiếm cướp biển và bảo vệ các hòn đảo nhỏ trên đường đi. Đoàn xe này tổng cộng đã cử đi sáu vòng, mỗi lần năm sáu chiếc tàu, tôi và cậu tham gia vào vòng áp chót. Nhưng từ đầu đến cuối không ai phát hiện ra con tàu của người phương Bắc, dù chỉ một chiếc. Dấu vết duy nhất là một sợi dây dài được xoắn từ da hải cẩu, rõ ràng là tác phẩm của một nghệ nhân phương Bắc. Một ngư dân kiếm sống bằng nghề đánh bắt nhím biển đã nhặt được sợi dây da nhỏ này từ những tảng đá nằm giữa Đảo Lớn và Quần đảo phía Nam, dòng hải lưu ở khu vực đó rất phức tạp và không rõ sợi dây trôi dạt từ đâu. Có lẽ là một tên cướp biển mới đi ngang qua, hoặc có lẽ chỉ là tàu buôn, dây thừng bằng da hải cẩu là vật dụng phổ biến trong những chuyến đi xa.

Rồi mùa đông đến gần. Ngay cả ở gần Đảo Lớn, gió và sóng cũng bắt đầu trở nên không mấy thân thiện, thậm chí một vị vua điên rồ như Atukwa cũng khó có thể cử tàu chiến tấn công trong thời tiết như vậy. Mọi người lại thư giãn và sẵn sàng tổ chức lễ hội thu hoạch như đã định. Tôi rất mong đợi, và sự mong đợi này thậm chí còn làm vơi đi nỗi buồn không thể về nhà thường xuyên. Tôi chưa bao giờ thấy lễ hội thu hoạch trên Đảo Lớn, các tàu buôn luôn rời đi trước khi mùa thu đến. Tôi thậm chí đã nói với cậu rằng, nếu chiến tranh diễn ra như thế này thì nó cũng không tệ lắm. Lúc đó cậu đang làm việc khác, ngẩng đầu nhìn tôi, không trả lời.

Tôi không bao giờ nói bất cứ điều gì như thế nữa.

Chúng tôi cùng nhau đi dự lễ hội thu hoạch, thực ra cũng không khác gì đảo Icahn là mấy, chỉ khác ở chỗ đông người hơn, đống lửa lớn hơn, hơn chục nhà thơ cùng biểu diễn, từ tình yêu đến lịch sử, rồi đến những cuộc phiêu lưu anh hùng, điều này là không thể trên đảo Icahn, hầu hết thời gian chúng tôi thậm chí không thể mời một nhà thơ. Cậu đã thay quần áo lễ hội và đội vương miện hoa, nhất quyết yêu cầu tôi mặc cùng màu với cậu. Tôi chưa bao giờ đánh giá cao đường diềm trên bộ trang phục này, nó luôn khiến tôi nhớ đến những dải vải dài trên cột buồm dùng để xác định hướng gió. Chúng tôi đã uống rất nhiều rượu chưng cất trong gáo dừa và khiêu vũ – tôi không thường nhảy, nhưng tôi cảm thấy thoải mái khi được bao quanh bởi hầu hết những người lạ. Khi đã thấm mệt, chúng tôi rời đống lửa trại và lang thang từ đầu này đến đầu kia của chợ. Cậu khuyến khích tôi đến gặp pháp sư để xăm hình con vật nào đó, “Có thể là con nhỏ, cho may mắn” nhưng tôi rất sợ kim xương và thứ sơn có mùi lạ. Cậu không thể thuyết phục tôi đến gần lều của pháp sư, vì thế nên cậu bẻ một cành cây, nhúng vào tro than và vẽ một con cá nhỏ ở bên trong cổ tay tôi: “Nhìn này, đem lại một số nguồn cảm hứng.”(1)

(1) Raw là “看看,提供一些灵感”。 Mình không hiểu lời này lắm nên để tạm như vậy, bạn nào hiểu thì nói với mình để mình sửa nha.

Một buổi tối vui vẻ, tôi thậm chí còn không nhớ nó đã kết thúc như thế nào. Khi bị đánh thức bởi tiếng còi tàu, chúng tôi đã ngủ trên cát, quấn chiếc chăn từ đâu không biết. Trời vẫn chưa sáng, nhưng những ngọn đuốc còn lại vẫn sáng. Tiếng tù và tiếp tục kêu, xa xa có tiếng đáp lại từ bãi biển, bóng người mơ hồ chạy về phía bến tàu. Chúng tôi đứng dậy, nheo mắt nhìn ra biển, trên nền mây xanh xám, bóng dáng dài hẹp của con tàu chiến hiện lên vô cùng rõ ràng.
 
Chương 8: Trang 28 - 30


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Có tất cả mười bốn con tàu, và tin tức nhanh chóng lan truyền từ những người canh gác. Tôi theo cậu về phía bến tàu, nhưng cậu dừng lại và đẩy tôi quay trở lại làng. Tôi phản đối và chuẩn bị liệt kê nhiều lý do khác nhau, nhưng cậu lại nói “Đây là vấn đề pháp lý, hòn đảo mẹ của cậu không tham gia chiến tranh”, rồi “Bây giờ không phải là lúc để tranh cãi”, và cuối cùng là “Pei Jianan, hãy đến nơi an toàn”.

Cậu hiếm khi sử dụng cái tên này. Tôi đứng yên, cậu siết chặt tay tôi, quay người bỏ chạy, chẳng bao lâu sau cậu đã bị trộn lẫn với những cái bóng khác, không còn nhìn rõ nữa. Tôi trở về nơi ở của vị linh mục trong bóng tối, trèo lên mái nhà với mảnh giấy và cây bút trong miệng, tôi nhìn ra vịnh và ghi lại những gì đang diễn ra trước mắt cho hòn đảo quê hương của mình. Suy cho cùng thì đây là công việc của tôi và là công việc duy nhất tôi có thể làm.

Lúc đầu, trong bóng tối của buổi sáng sớm, tất cả những gì có thể nhìn thấy rõ ràng là ánh lửa thỉnh thoảng bùng lên trên biển. Cây cối chặn dây cáp treo, nhưng thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy tiếng “vù” không thể nhầm lẫn, người ta la hét – không phải tiếng la hét vì đau đớn, mà một phần là từ những người canh gác trên tháp quan sát chỉ vị trí của địch, một phần từ quân phòng thủ trên bãi biển liên lạc với nhau, xen lẫn những khẩu hiệu mọi người cùng nhau kéo vật nặng. Bóng tối và ánh lửa cùng di chuyển, một loạt mũi tên rực lửa bất ngờ rơi xuống biển, một con tàu không may nào đó bốc cháy, ngọn lửa gặm nhấm cánh buồm, cột buồm và boong tàu, thoáng chốc chiếu sáng một vùng nước nhỏ xung quanh, vùng vẫy trong nước là những cái bóng trông nhỏ bé và xa xăm, khó có thể tưởng tượng được đó là người sống.

Đó là một ngày nhiều mây và phải rất lâu nữa bình minh mới ló dạng. Mặt trời luôn bị mây che khuất, ánh sáng mờ ảo chiếu xuống những chiếc tàu chiến chưa hoàn thiện và những mảnh vụn trôi nổi, những mảnh vỡ lớn vẫn đang cháy và va chạm vào nhau. Các tàu chiến của quân phương Bắc bắt đầu rút lui, ì ạch xuyên qua các vật thể nổi vỡ vụn, tạo thành đội hình phòng thủ, che chắn cho nhau lao ra biển khơi. Tôi nghi ngờ kế hoạch ban đầu của họ là xông vào bãi biển trước bình minh, nhưng mọi thứ không hề diễn ra theo kế hoạch. Hạm đội Đảo Lớn không truy đuổi, không tàu chiến nào đuổi kịp tàu chiến của hòn đảo phía bắc, cũng không có tàu thuyền nào ở vùng biển này có khả năng “truy đuổi”. Tôi từ giếng trời nhảy trở lại căn nhà đá, ném giấy bút lên giường, đi xuống lầu, đi ra ngoài rồi chạy ra bãi biển.

Gần như mọi con tàu đều vào bến cảng theo một góc chéo, nhưng may mắn thay, những người dược sư và pháp sư đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc này. Những chiếc cáng được đưa đến, rượu đổ lên vết thương cũng đã có sẵn, dược sư xếp những chai lọ đủ kích cỡ, còn các pháp sư loại bỏ đá, bột và những mảnh thịt co lại, đen thui trông giống như trái tim động vật khô. Tôi di chuyển giữa những thủy thủ đang rên rỉ, tìm kiếm cậu mà không thực sự muốn nhìn thấy khuôn mặt của cậu ở đây.

Thi thể cũng được đưa lên bờ và đặt sau một bụi cây, mặt phủ lá dừa. Tôi lấy hết can đảm đi tới đó nhìn xem, cậu cũng không có ở đó, tôi thở phào nhẹ nhõm, đi về phía bến tàu trên bãi cát ướt đẫm máu. Trời bắt đầu mưa nhẹ, có lẽ trời đã mưa được một lúc nhưng tôi lại tưởng đó là sương biển dính. Chiếc thuyền cuối cùng quay trở lại, mớn nước(1) sâu đến mức sóng đã dâng cao lên đến tận boong. Những tay chèo sống sót đã bỏ tàu và phải nhờ đến dây cáp cùng nhiều đôi tay để kéo tàu vào vị trí có thể sửa chữa. Cậu đây rồi, sợi dây quấn quanh cánh tay, đi theo tiếng gọi kéo tàu chiến không dễ gì hơn việc kéo một con cá voi mắc cạn. Tôi lê bước qua vùng nước sâu đến thắt lưng, nửa chạy nửa bơi để đến chỗ cậu và cũng nắm lấy sợi dây. Cậu liếc nhìn tôi, mỉm cười rồi quay lại nhìn sợi dây cáp.

(1) Mớn nước là độ chìm của tàu – khoảng cách theo chiều thẳng đứng, vuông góc với mặt nước, tính từ đáy tàu lên đến mặt nước.

Điều này khó hơn tưởng tượng. Cát dưới đáy nước không có độ bám tốt, sóng cũng không giúp ích được gì, chúng ập vào như nắm đấm khiến người ta đứng không vững. Con thuyền dường như không có dấu hiệu di chuyển nào dù chỉ một chút, và rồi, rất chậm, tôi không nhận thấy, nước rút xuống hông, rồi đến đầu gối tôi. Sợi dây làm sờn lòng bàn tay tôi, cuối cùng chân tôi rời khỏi mặt nước và bước vào cát ướt, rồi đến cát khô. Người thủy thủ buộc dây cáp vào cọc gỗ, tôi buông tay, ngồi xuống bãi biển, thở một hơi dài. Cậu nằm xuống cạnh tôi, dang rộng hai tay và nhắm mắt lại. Cậu có những mảnh gỗ vụn trên tóc, những vết nứt sắc nhọn. Tôi nhớ lúc cậu đi đến chiến hạm đã mặc bộ quần áo rực rỡ của lễ hội thu hoạch, bây giờ áo khoác buộc ngang eo, tua rua dính đầy máu, nhưng trên người không có vết thương. Tôi đưa tay giúp cậu phủi những mảnh gỗ vụn, cậu mở mắt ra, nắm lấy ngón tay tôi, bóp thật mạnh rồi buông ra.

Tôi hỏi cậu liệu điều này có được tính là một chiến thắng không.

Cậu ngồi dậy nhìn con tàu đang bốc khói, hồi lâu mới quay lại lắc đầu.

Nó thực sự không được tính. Đếm thiệt hại mất ba ngày, tôi chép kết luận của hội đồng vào một lá thư, nhét vào chai rồi gửi cá heo về đảo Icahn. Hầu như tất cả các con tàu quay về cảng đều cần sửa chữa, một nửa trong số đó không thể hạ thủy được nữa và phải tháo dỡ, ván gỗ dùng làm củi, đồ sắt được đưa đến thợ rèn để rèn lại rồi được sử dụng trên các tàu khác. Trong số những chiếc tàu không quay trở lại, có hai chiếc bị chìm và một chiếc bị cháy, may mắn là hầu hết thuyền viên đều đã trốn thoát, kế hoạch trục vớt thi thể vẫn chưa hoàn thành vào thời điểm tôi thả đàn cá heo ra ngoài.

Tôi đã đồng hành với cậu đến dự đám tang. Trong số những người thiệt mạng có hàng xóm và bạn bè cùng lớn lên với cậu. Tôi viết từ “đồng hành” vì ngôn ngữ của cậu không phân biệt giữa “được mời có mặt như một phần bản chất tự nhiên của ai đó”(2) và “có mặt cùng ai đó”. Tại đám tang, tôi thực sự rơi vào tình huống thứ hai. Một người quan sát trong sự lo lắng, một người ngoài cuộc thực sự, đứng ở rìa ngoài của đám đông, luôn chú ý đến việc mọi người đang làm và vội vàng bắt chước theo. Không có nghi lễ tương tự trên Icahn, tất nhiên chúng tôi nói lời từ biệt với người đã khuất, nhưng “đám tang” cuối cùng là chuyện giữa núi lửa, người quá cố và linh mục, gia đình không tham gia. Không ai ngoại trừ linh mục biết miệng núi lửa trông như thế nào và chúng tôi không được phép hỏi về nó, nhưng hầu hết mọi người đều không tò mò về nó.

(2) Nguyên văn là “受到邀请,作为某人的自然延伸到场”, mình không hiểu rõ nghĩa của câu này lắm nên đành để tạm như vậy, nhưng ý tác giả muốn nói thì có vẻ như kiểu “đồng hành” đầu tiên là chỉ những người thân, người có quen biết của người quá cố, kiểu thứ 2 thì chỉ là người đi theo một người nào đó đến dự thôi.

Có lẽ chúng tôi có thể mô tả nó theo cách này: Trên hòn đảo quê hương của tôi, cái chết là điều “riêng tư”. Ở Đảo Lớn, cái chết là một “đoàn”, dân làng tháp tùng (loại “đồng hành” đầu tiên kể trên) người đã khuất về “Đảo An Nghỉ” – đây không phải là một đại từ thi ca mà là một danh từ riêng, không ai dạy tôi, tôi chỉ tự suy luận ra từ cấu trúc ngữ pháp. Người ta phải đi bộ qua vùng bãi triều để leo lên nghĩa trang có cái tên đầy chất thơ này. Lúa mì, cây ăn quả, sắn, mía mọc bừa bãi trên sườn đồi, tôi tưởng là một sự ngẫu nhiên nào đó, nhưng sau này tôi mới biết đó là cố ý. Trên Đảo Lớn, hạt giống được chôn cùng người, trong mộ không có dấu vết nào khác ngoại trừ những cây con đâm xuống đất vào mùa xuân năm sau. Loại hạt giống do họ hàng gần lựa chọn, có người chọn loại trái cây mà người đã khuất suốt đời yêu thích, còn đa số thì chọn hạt ngũ cốc. Nếu người quá cố không có người thân còn sống thì rắc một nắm hạt lúa mì lên.

Thơ đóng vai trò trung tâm trong tang lễ. Người ta bắt đầu ca hát khi đào mộ, giọng nhẹ nhàng, lời bài hát bắt đầu lặp lại sau sáu dòng, tôi nghe hai lần và cuối cùng cũng có thể rụt rè hát theo. Sau gieo hạt giống là một bài hát khác, và tôi thích bài này hơn, một phần vì nó ngắn hơn, một phần vì chủ đề của nó chính là hạt giống. Nếu bài hát trước nói về cái chết thì bài hát này nói về cuộc sống. Những hạt giống thức dậy và lớn lên trong bóng tối, những ngày nắng kéo theo gió biển rồi mưa, những quả hoặc hạt lúa mì rơi xuống đất, trở về bóng tối, chờ đợi lần vỡ đất tiếp theo. Đoạn điệp khúc cuối cùng kết thúc, đám tang cũng kết thúc, mọi người nói chuyện nhẹ nhàng, ôm nhau, áp trán hoặc má vào nhau, chia nhau thêm trái cây và hạt rang rồi lần lượt ra về. Tôi đứng đó, nhìn theo bóng lưng của cậu, cho đến khi xung quanh gần như không có ai, tôi mới chậm rãi bước tới, nhìn chằm chằm vào chân mình, cố gắng không phát ra âm thanh nào, nhưng cậu đã sớm nhận ra và quay lại. Tôi nắm lấy bàn tay đang dang ra của cậu, và cậu kéo tôi lại, áp má cậu vào má tôi rồi hỏi tôi có phiền khi ở lại đây với cậu một lúc không.

Tất nhiên là cậu biết câu trả lời trước khi hỏi.

Chúng tôi ngồi cạnh một bụi dâu đen vì tôi nhớ mùi của bụi cây. Cậu đã kể cho tôi nghe về bạn bè của cậu, tất cả đều rất chi tiết, nên tôi thực sự không thể nhớ được họ. Nó không liên quan gì đến kỹ năng kể chuyện của cậu, cũng không phải vì tôi nghĩ bạn bè của cậu không quan trọng. Có lẽ vì cuối cùng tôi cũng hôn cậu nên khoảnh khắc này đã dâng trào và cuốn trôi những ký ức khác như một cơn giông bão. Suy cho cùng, ký ức của con người khác với việc ghi lại vụ thu hoạch lúa mì, chúng không những không chú ý đến năm và số lượng chính xác mà còn thường chồng chéo, ép chặt rồi biến dạng lẫn nhau. Nếu bạn kể lại, lỗi sẽ càng rõ ràng hơn, hãy tưởng tượng việc ép bùn ướt vào một cái khuôn đầy những góc nhọn và ống cong không đồng đều, bề mặt có thể trông mịn màng nhưng không thể vừa khít hoàn toàn. Ngôn ngữ là một cái khuôn không đáng tin cậy, nhưng có còn hơn không. Ngay cả bây giờ, ngồi đây, cầm bút, với tư cách là kẻ độc tài của trang giấy này, tôi lo lắng rằng đây không phải là cách tốt nhất để kể câu chuyện. Tôi lật đi lật lại những đoạn trước, tự hỏi liệu có cách nào kể câu chuyện hay hơn không.

Kết luận: Không. Tôi là một người ghi chép, không phải một nhà thơ, và tôi không có khán giả nào để làm hài lòng.

Ngũ cốc và quả mọng trong nghĩa trang khơi dậy sự tò mò không đáng có, tôi muốn hỏi cậu, việc nhặt đồ ăn trong nghĩa trang có phải là điều cấm kỵ không? Nếu vậy, nó có thể bị phá vỡ trong trường hợp nạn đói không? Do bầu không khí nên tôi chưa bao giờ nói ra. Không ngờ sau ngần ấy năm, tôi đã tìm được câu trả lời trong căn nhà đá nơi tôi hiện đang ẩn náu. Theo cuốn “Quần đảo du kí” viết cách đây 86 cái mùa hè, cư dân Đảo Lớn thường chôn cất người thân đã khuất của mình trên ruộng mía hoặc ruộng lúa mì do gia đình họ canh tác, nếu không sở hữu đất đai thì họ sẽ bị chôn ở ngư trường. Ở đây tác giả còn thêm một ghi chú bằng cỡ chữ nhỏ hơn: “Ngoại trừ ngư dân và pháp sư, tất cả cư dân trên Đảo Lớn đều có đất riêng.” Vì vậy, tôi suy luận rằng phong tục gieo hạt đã phát triển theo cách này, và rằng tại một thời điểm nào đó trong quá khứ không được ghi lại, có lẽ vì bệnh dịch hạch, một lãnh đạo hội đồng đã quyết định rằng tất cả các xác chết nên được chuyển đến một hòn đảo bên ngoài vùng thủy triều. Người chết không còn được phép yên nghỉ trong vườn cây ăn quả và ruộng đồng nữa nên người ta mang cây ngũ cốc và cây ăn quả đến cho họ. Từ quan điểm này, không có lời nguyền hay điều cấm kỵ nào gắn liền với cây trồng trên Đảo An Nghỉ. Tôi cá là cậu không biết lịch sử này, tôi chép nó vào một tờ giấy khác để khi gặp lại tôi sẽ kể cho cậu nghe.

Thi thể của những người lính phương Bắc cũng được vớt lên, không ai chịu kéo lên bờ nên chất đống trên những chiếc tàu chiến vội vã bị bỏ đi. Không biết những người này tin vào điều gì, hội đồng đã triệu tập một pháp sư tóc bạc, người đã định cư trên Đảo Lớn từ nhiều mùa hè trước và đã trốn về phía bắc ngay khi ngửi thấy mùi buộc tội pháp sư. Hội đồng đã ủy quyền cho ông ta thực hiện “bất kỳ nghi thức thích hợp nào” để “xoa dịu linh hồn người chết.” Thế nên người ta từ xa trên bờ nhìn pháp sư chèo thuyền tam bản(3), dùng cành cây quất vào nước biển rồi vẫy những cành ướt về phía tàu chiến. Gió thỉnh thoảng thổi lên tiếng hát của ông ta nhưng không ai hiểu được ông ta đang hát gì. Cuối cùng, theo mô tả của những người có mặt lúc đó, những lưỡi lửa đột nhiên phóng lên ở đầu cành, rung rinh như có ý chí, quấn quanh chiếc tàu chiến bị hư hại, lan ra với tốc độ của ngọn lửa pháp sư rồi nuốt chửng toàn bộ con tàu và những xác chết bên trong.

(3) Thuyền tam bản hay còn gọi là xuồng ba lá, là một loại thuyền gỗ có xuất xứ từ Trung Quốc, có đáy tương đối bằng phẳng và dài từ 3,5 đến 4,5 m. Đôi khi trên thuyền tam bản có dựng những lán nhỏ làm nơi trú tạm trên sông nước.

[Diendantruyen.Com] Tuhfa - vallennox


Chúng tôi không nhận ra điều này, chúng tôi quá bận hôn và làm tình. Xin lỗi, tôi có thể tưởng tượng cậu sẽ cau mày khi đọc dòng này. “Làm tình” là một từ hiếm khi được sử dụng trong văn viết. Mọi người không ngại nói nó bằng lời và họ thực sự rất muốn làm như vậy. Tuy nhiên, các nhà thơ tử tế thường chọn cách thay thế uyển ngữ. Tôi viết cả một đoạn về nghiên cứu lịch sử của nghĩa trang, tôi nghĩ chắc là để hoãn việc sử dụng động từ nóng bỏng này. Tóm lại, đây là lần đầu tiên chúng tôi đến một hòn đảo cô độc, xung quanh là cuộc sống xào xạc, phủ đầy bùn lầy và những đám cỏ vàng úa. Đó không phải là những gì tôi tưởng tượng, không phải những gì cậu tưởng tượng, nhưng tất cả chúng ta đều đồng ý rằng nó tốt hơn những gì chúng ta tưởng tượng, bởi vì nó là sự thật, và kể từ đó, nó có thể lặp lại được. Chiều tối, nước biển lặng lẽ dâng lên dữ dội đến bãi triều, chúng tôi chạy đua với sóng, nước bắn tung tóe khắp nơi. Khi chúng tôi thở hổn hển đến được bờ bên kia, nước đã ngập từ mắt cá chân đến ngực, và Đảo An Nghỉ đã co lại thành một cái bóng gồ ghề, co ro một mình trong làn nước biển mờ ảo. Khi chúng tôi bước đi dưới bóng cây đung đưa, chúng tôi không thể không dừng lại và hôn nhau. Khi đi ngang qua bến tàu, tàu chiến đang bốc cháy sắp chìm, chỉ còn sót lại một đoạn nhỏ trên mặt nước, không rõ là mũi tàu hay đuôi tàu, ngọn lửa đung đưa yếu ớt trong bóng tối dâng trào. Cậu và tôi dừng lại, ôm nhau, nhìn ngọn lửa cho đến khi nó bị sóng biển tiêu diệt.
 
Chương 9: Trang 31 - 34


“Mình có thể hỏi một câu hỏi thông thường được không?”

Cậu nói vậy, cậu lại chọn hỏi khi tôi vừa mới tỉnh dậy, chắc hẳn cậu cho rằng mình khá thông minh, nhưng không ngờ rằng tôi đã chờ đợi câu hỏi này từ rất lâu. Các thủy thủ Icahn chỉ đơn giản gọi nó là “vấn đề đó” và nó là điều mà bất cứ ai có người yêu ở ngoài đảo đều không thể tránh khỏi. Trong trí tưởng tượng của những hòn đảo buôn bán khác, Icahn là nơi sinh sống của một đàn thỏ rừng không biết xấu hổ và giao phối bừa bãi. Vì vậy, “câu hỏi” luôn xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong nhiều dịp khác nhau, với nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng bản chất của vấn đề vẫn như cũ. Và khuôn khổ cậu chọn để xây dựng cho nó là “vấn đề về phong tục”.

Tôi mời cậu hỏi bất cứ điều gì cậu muốn.

Cậu bắt đầu với cha Cormoran, khen ngợi tài hùng biện của ông, sau đó cẩn thận hỏi cha và mẹ khác của tôi là người như thế nào, rồi hỏi thêm về việc họ “hòa hợp” như thế nào, đồng thời xin lỗi vì sự tò mò của cậu, khẳng định rằng cậu không chắc những câu hỏi này có phù hợp hay không. Mặc dù cậu đã nghe nhiều tin đồn về phong tục của đảo Icahn, nhưng chắc chắn cậu không tin tất cả.

Tôi giữ vẻ mặt nghiêm túc, mong tỏ ra kiên nhẫn và không mấy bận tâm, nhưng cuối cùng lại úp mặt vào gối mà cười, gần như không thể dừng lại. Cậu ngay lập tức ngừng nói và ngồi đó, cau mày, có lẽ vì bối rối, nhưng tôi nghĩ chủ yếu là vì xấu hổ. Cậu nhận ra rằng chiến lược của mình đã thất bại nhưng cậu không biết câu nào sai. Tôi muốn chấm dứt sự xấu hổ của cậu càng sớm càng tốt, nhưng tôi cũng muốn cậu tiếp tục xấu hổ trong một khoảng thời gian. Cuối cùng, cậu phát ra một âm thanh kỳ lạ nằm ở đâu đó giữa tiếng cười và tiếng rên rỉ, xoa xoa đôi tai đỏ ửng của mình.

Tôi hỏi cậu liệu cậu có muốn tìm hiểu xem tôi có người yêu nào khác không. Cậu nhắm mắt lại và gật đầu như thể vô tình dẫm phải sỏi nhọn.

“Hơn nữa” Tôi tiếp tục: “Cậu lo lắng rằng một ngày nào đó mình có thể sẽ tìm năm thủy thủ xinh đẹp khác cùng ngủ với chúng ta trên chiếc giường này.”

“Mình không nghĩ vậy.”

“Cậu chưa từng nghĩ đến những thủy thủ xinh đẹp, hay cậu chưa từng nghĩ đến việc gia nhập?”

“Đều không nghĩ đến.”

Ít nhất là phần thủy thủ đã được nghĩ đến, tôi đoán. Tôi đã tự mình suy nghĩ, khi mới biết giới tính là gì, hình ảnh tưởng tượng yêu thích nhất của tôi là một thủy thủ khỏa thân có khuôn mặt mơ hồ, đôi khi với làn da ngăm đen, đôi khi với mái tóc dài màu xám, tùy theo tâm trạng của tôi. Có lẽ vì vậy mà tôi không có người yêu nào đáng nhắc đến ở Icahn, và ngay cả trong số những thương nhân hàng hải cùng tuổi, không ai có chung sự tò mò với tôi về thế giới bên ngoài hòn đảo – điều này chắc hẳn nghe rất xa lạ đối với cư dân trên Đảo Lớn. Khi một người chọn trở thành thủy thủ, liệu người đó có tinh thần phiêu lưu không? Người đó có một chút khao khát biển cả và những điều chưa biết đi kèm với nó không?

Mối liên hệ giữa đi biển và tinh thần phiêu lưu là một ý tưởng tinh túy của Đảo Lớn, xuất phát từ một tâm hồn được nuôi dưỡng từ lâu bằng thơ tự sự. Đối với người dân đảo Icahn, biển và đất nông nghiệp có rất ít sự khác biệt, nói cách khác, biển chỉ là một loại đất nông nghiệp đặc biệt, một cách kiếm sống, không tốt hơn hay kém hơn những cách kiếm sống khác. Các thủy thủ đã huấn luyện cá heo ghi lại hướng gió và dòng hải lưu theo mùa, không phải để thám hiểm mà chỉ đơn giản là để có được những hàng hóa mà chúng tôi không thể tự sản xuất được: lông thú và kim loại từ các hòn đảo phía bắc, sản phẩm dồi dào từ Đảo Lớn, những con vẹt thông minh do người miền Nam nuôi dưỡng, v.v. Sau khi có được, họ hài lòng và không còn mong muốn đi thuyền xa hơn nữa, hàng ngoại cũng không làm thay đổi lối sống ban đầu của họ. Sự thờ ơ với việc khám phá này còn thể hiện ở ngôn ngữ, hầu hết mọi người có thể nói được hai hoặc ba tiếng địa phương bên ngoài đảo, nhưng họ chỉ sẵn sàng học vừa đủ để thương lượng giá cả. Niềm đam mê thơ ca và ngôn ngữ của tôi hoàn toàn là ngẫu nhiên, và nếu không có mẹ Noor, hoặc không có cậu, niềm đam mê này đã tàn lụi từ lâu.

Nếu cha Cormoran trẻ hơn hai mươi tuổi, ông có thể là hình mẫu lý tưởng của tôi về một người tình. Nhưng tôi không nói với cậu ý tưởng này để không củng cố thêm sự hiểu lầm hiện có. Người dân đảo Icahn không phải là những con thỏ cuồng giao phối, hãy để tôi giải thích cho cậu, và nếu cậu không sẵn lòng có thêm người yêu thì tôi cũng vậy. Trên đảo Icahn cũng có những gia đình chỉ có một đôi tình nhân, tuy rất hiếm và bản thân tôi cũng chưa từng thấy gia đình nào như vậy, nhưng khi mẹ tôi Ida còn nhỏ, hàng xóm của bà đều như thế này, một người mẹ và một người cha, họ có một cặp sinh đôi nhưng ngôi đền đã lấy đi con của họ. Sau đó cặp linh mục được cử đến Quần đảo phía Nam để thờ một bệ thờ nhỏ ở đâu đó trong rừng rậm.

Cậu thấy đấy, thực ra không có quy định bằng văn bản nào cả, nó giống như một thỏa thuận hơn. Nếu mọi người muốn thêm hoặc bớt các điều khoản thì cần phải có sự đồng ý của tất cả các bên ký kết, đôi khi không thể đạt được sự đồng thuận và ai đó có thể rút lui khỏi cuộc đàm phán. Nội dung thỏa thuận nhìn chung là giống nhau, nhưng chi tiết sẽ không giống hệt nhau, không khó hiểu rằng dù bán vẹt cùng loài thì những điều kiện mà Nam Đảo đàm phán với chúng ta chắc chắn sẽ khác với các điều kiện do cậu thương lượng.

“Nhưng…” Cậu hỏi: “Mọi người không ghen tị sao?”

Họ ghen tị với ai? Logic cơ bản của cậu khi nói điều này là tình yêu có thể được đo lường theo một cách nào đó, giống như loại mực đắt tiền được bán bằng thìa. Bất cứ ai thấy thiếu một thìa thì sẽ quay lại quầy hàng của người bán hàng và phản ánh cho đến khi nhận được thìa. Nhưng trên thực tế, mỗi người khác nhau về mức độ yêu thương mà họ sẵn sàng cho và nhận. Cha Sinta của tôi thích ở bên vợ/chồng hoặc con cái bất kỳ lúc nào, nhưng cha Cormoran lại dành hơn nửa năm ở biển, mẹ Noor thích dành thời gian cho sách, còn mẹ Pucia không ngần ngại ôm hôn con cái nhưng lại không có hứng thú kể chuyện trước khi đi ngủ. Họ chăm sóc con cái như bao bậc cha mẹ khác, thỉnh thoảng cãi vã rồi làm lành, nói chuyện về hàng xóm, đếm thu hoạch năm nay và quan hệ tình dục với cửa phòng ngủ bị khóa sau khi chúng tôi ngủ quên, tưởng rằng chúng tôi không nghe thấy gì. Làm sao họ có thể ghen tị được? Bắt đầu với ai?

“Vậy nếu mình nói, mình chỉ muốn cậu là của riêng mình và cậu đồng ý, đó có phải là điều khoản hợp lệ không?”

“Đúng.” Tôi trả lời: “Trừ khi mình tìm được năm thủy thủ đẹp trai hơn cậu.”

“Chúc cậu may mắn.” Cậu dài giọng, nghiêng người hôn lên mũi tôi, cuối cùng cũng tiêu hóa được câu nói đùa.

Cậu không phải là người duy nhất hỏi tôi “vấn đề về phong tục”, nhưng cậu chắc chắn là người lịch sự nhất. Một đêm nọ, tôi bị đánh thức bởi tiếng gõ cửa, và có hai người lạ ở ngoài, trông như đã uống quá nhiều rượu cất, mời tôi đi “ngủ” với những lời lẽ lắp bắp, sau khi tôi nói không, họ lại lặp lại câu hỏi tương tự, như thể tôi không nghe rõ chứ không phải là không quan tâm. Một trong những người lạ chặn cửa với hình xăm ốc xà cừ nhỏ trên má trái hỏi: “Tại sao không?” rồi nói thêm: “Không phải những người như em thích một phòng ngủ sôi động sao?”

Tôi không biết điều gì đã khiến tôi tức giận, giọng điệu của anh ta hay cách diễn đạt “những người như em”. Tôi chộp lấy cây giáo dựng dựa vào tường cạnh cửa, chĩa vào mũi của “ốc xà cừ” và nói rằng tôi rất vui khi được ** hắn bằng ngọn giáo. Hai người đàn ông rõ ràng tỏ ra sợ hãi, không hẳn là vì vũ khí mà nhiều khả năng là vì ngôn từ thô tục. Tôi thấy mọi người luôn rất ngạc nhiên khi bị người ngoài dọa giết hoặc bạo lực tình dục, họ không nên ngạc nhiên, vì chỉ có một số cách để người ta xúc phạm người khác, bất kể họ nói ngôn ngữ gì.

Tôi đóng sầm cửa lại và dùng ngọn giáo của mình leo trở lại tầng hai của ngôi nhà đá. Nếu cậu đã từng nghe tin đồn ở đâu đó về việc tôi dã man đến mức nào thì có lẽ nó đến từ đêm đó. Ngoài ra còn có tin đồn rằng tôi đã dùng giáo đâm vào tinh hoàn của “ốc xà cừ”, điều đó là sai, nhưng tôi không ngại nếu như mọi người tin nó là sự thật.

Không ngờ chúng tôi lại đến Quần đảo phía Nam. Thực ra tôi không có lý do gì để đi, nhưng tôi rất muốn nhìn thấy lại những cây cổ thụ to lớn như những ngọn đồi và những đàn ong trắng phát sáng nên đã theo cậu lên tàu dưới hình thức quan sát. Mục đích của cuộc hành trình không mấy dễ chịu, cậu và cha cậu sẽ cầu viện. Thiệt hại đối với hạm đội Đảo Lớn nghiêm trọng đến mức nếu người phương Bắc quyết định mở cuộc tấn công vào thời điểm này thì hoàn toàn có thể chiếm được toàn bộ hòn đảo chỉ trong nửa ngày. Đảo Lớn cần hạm đội của thủ lĩnh phía Nam, dù chỉ là hợp đồng thuê trong mùa đông. Và, theo thỏa thuận mới, họ có nghĩa vụ phải giúp đỡ.

Vào đêm thứ hai trên biển, giấc mơ lại đến.

Tôi chưa bao giờ tìm ra điều gì đã gây nên giấc mơ này. Thậm chí sau này, khi các linh mục tham khảo tất cả các cuốn sách có sẵn, buộc tôi phải chịu đựng những nghi lễ lên đồng kéo dài, và thậm chí bắt tôi ngâm mình trong hồ nước của ngôi đền nửa ngày, họ vẫn nhận được nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Điều duy nhất tôi có thể chắc chắn là nó không liên quan gì đến tâm trạng và ý chí của tôi, giấc mơ này sẽ đến bất kể tôi vui, chán nản, buồn bã hay lo lắng. Nhưng nếu tôi nhắm mắt cầu nguyện cho nó đến, nó thường tránh mặt tôi và để tôi trôi nổi trong những suy nghĩ hỗn loạn rải rác suốt đêm. Tảo Lam, người bạn tập sự cũ của tôi, suy đoán rằng điều này có liên quan đến magma, càng đến gần núi lửa, cậu càng dễ gặp ác mộng, nhưng điều này không thể giải thích tại sao tôi lại mơ thấy biển máu ở khu rừng phía nam, trong số tất cả các đảo buôn bán, các đảo phía nam là xa núi lửa nhất, không chỉ ngọn núi lửa lớn nhất, mà cách xa bất kỳ ngọn núi lửa nào có thể kể tên được. Một suy nghĩ khác mà cô có là vì Tuhfa cũng xuất hiện trong giấc mơ nên có lẽ cậu ấy là người gây ra? Nhưng điều đó thật vô nghĩa. Đôi khi chúng tôi ngủ quên sau khi làm tình, lúc đó cậu không có trong giấc mơ của tôi. Có khi tôi ngủ một mình ở nhà trên đảo Icahn, nhưng cậu lại sát cánh cùng tôi trong giấc mơ. Thỉnh thoảng, các linh mục xuất hiện trong giấc mơ, thậm chí có lần mẹ Pucia cũng xuất hiện. Cuối cùng, chúng tôi đoán rằng có lẽ nó liên quan đến cuộc hành trình, việc đi biển, hoặc dự định đi biển, có thể khiến tôi mơ thấy núi lửa. Mặc dù điều này không giải thích được tại sao tôi không hề có giấc mơ này trong chuyến trở về, nhưng chúng tôi không có câu trả lời nào tốt hơn.

Lần này trong giấc mơ, tôi ở một mình và gần miệng núi lửa hơn. Mặt đất rung chuyển ầm ầm, tựa như bạn đang đứng trên lưng một con cá voi khổng lồ có thể lật nhào bất cứ lúc nào. Miệng núi lửa trông giống như một ống khói khổng lồ đảo ngược, ở sâu trong đó có ánh sáng đỏ ẩm ướt nhấp nháy, nếu nhảy xuống, không biết phải mất bao lâu mới rơi vào dung nham. Một cơn chấn động khác làm rung chuyển cả ngọn núi, tôi lùi lại hai bước, lúc này tôi mới nhận ra cách đó không xa có một chiếc bàn đá phẳng, hình bầu dục, đặt trên một tảng đá lửa thấp, được đánh bóng nhẵn đủ cho bốn người nằm cạnh nhau. Có lẽ đây là nơi các linh mục tạm thời đặt thi thể, sau lễ tang, thi thể được bọc trong vải dệt sẽ bị đẩy vào miệng núi lửa không bao giờ đóng lại. Những hình chạm khắc phù điêu trên mép bàn đá có thể xưa kia rất tinh xảo và đẹp đẽ, nhưng giờ đây chúng đã cũ kỹ đến mức khó có thể phân biệt được là sóng hay ngọn lửa. Tôi ngập ngừng đưa tay ra chạm vào hình chạm khắc, thậm chí tôi còn có thể cảm nhận được những vết nứt nhỏ bằng ngón tay của mình.

Một âm thanh the thé rung chuyển theo ngọn núi lửa, có lẽ đã vang lên từ lâu nhưng luôn xen lẫn với những tiếng động khác. Sau khi tôi để ý, âm thanh đó ngày càng rõ ràng hơn, tách biệt với những tiếng động khác, giống như tiếng còi cá heo và phát ra từ sâu trong núi lửa. Tôi đi về phía miệng núi lửa – chính xác là “bò”, trận động đất mạnh đến mức tôi không thể đứng vững được. Bạn có thể cảm nhận được hơi ấm của tảng đá từ lòng bàn tay đến đầu gối, giống như chạm vào cơ thể đang sốt của ai đó. Tôi chậm rãi bò tới mép và nhìn xuống.

Tiếng còi biến thành tiếng hét, tôi vô thức bịt tai lại, nhưng hành động này không có tác dụng gì trong giấc mơ của tôi, tiếng hét vang vọng trong đầu tôi. Tảng đá biến thành cát đen mềm mại, toàn bộ mảnh đất sụp xuống, bao bọc tôi trong ánh sáng đỏ rực của vực sâu tối tăm. Sau đó.

Đó không phải là núi lửa, tôi phát hiện ra

Tôi đã nhìn thấy một cái

Sau đó tôi lơ lửng trong nước, nhưng tôi có thể thở, tôi có thể nhìn thấy những bong bóng nổi lên và tôi có thể cảm nhận được lực cản của nước. Trước mặt tôi là một con cá voi được hình thành từ magma, cũng trôi nổi trong làn nước biển mờ ảo, ánh sáng đỏ mờ chiếu sáng những đàn cá xung quanh và những mảnh đá nhanh chóng chìm xuống. Đàn cá trông không hề hoảng sợ, chỉ lười biếng giải tán khi đuôi cá voi đỏ như máu vung lên, rồi nhanh chóng tập hợp lại với nhau, vô số vảy phản chiếu ánh lửa.

Đôi mắt của con cá voi magma hướng về phía tôi, đôi mắt của nó là những quả cầu đá đen bọc trong ngọn lửa. Nó há miệng và dung nham chảy xuống tấm sừng hàm(1). Đàn cá vẫn không trốn thoát, tôi cũng không hề sợ hãi, bơi về phía trước, đưa tay chạm vào dòng dung nham đang chảy róc rách.

(1) Tấm sừng hàm của cá voi là những tấm sừng song song, mọc xuống từ hai bên hàm tạo thành các tấm sừng ở cá voi. Mỗi bên hàm có tới 150 – 400 tấm, mỗi tấm có hình tam giác và các sợi rỗng, ở mép trong các sợi đó tách ra thành các tua. Các tấm sừng hàm dùng để lọc thức ăn trong nước biển.

Tôi tỉnh dậy trong căn nhà nhỏ, quần áo và gối ướt đẫm mồ hôi, tay phải đau đến mức tưởng như xương đang tan chảy. Tôi ngồi dậy, run rẩy nhìn bàn tay mình trong ánh sáng xám xịt của buổi sáng, da, móng tay và các khớp còn nguyên vẹn, không có dấu vết gì. Tôi vẫn ở nguyên chỗ cũ cho đến khi cậu gõ cửa và hỏi sao tôi không đi ăn sáng. Tôi mặc quần áo sạch sẽ, mở cửa và khẳng định mình đã ngủ quên. Cậu không hỏi nữa, cậu đưa cho tôi một quả táo và nói với giọng thoải mái về điều gì đó, tôi không nghe, tôi vẫn đang nghĩ về đôi mắt rực lửa của con cá voi, tôi biết mình phải đến nói chuyện với linh mục về việc này.

Cho nên sau khi tàu cập bến tôi không cùng cậu đi gặp thuyền trưởng, không phải tôi không muốn nói cho cậu biết, mà là tôi không biết phải diễn tả thế nào. Cơn ác mộng? Một con cá voi đang cháy trên biển? Cậu sẽ không hiểu, ít nhất là không vào lúc đó. Tôi nhìn cậu đi lên cây cầu treo dẫn vào nơi ở của tù trưởng, quay lại đi vào rừng, tra hỏi tất cả những người bạn gặp trên đường, cho đến khi con đường rừng hẹp dẫn tôi đến một bệ thờ bằng đá. Bệ thờ phủ đầy rêu, nhưng nước trong bát đá trong vắt, có ba bốn mảnh pha lê núi lửa.

Ngôi đền đơn giản và trông giống một cái hang phủ đầy cỏ dại. Tôi ngập ngừng đứng trước cửa, vị linh mục nhìn thấy tôi rồi đứng dậy. Trong bóng tối bên trong ngôi đền, tôi chỉ có thể nhìn thấy nửa trên của chiếc áo choàng màu đỏ tươi, nửa dưới hòa quyện với bóng tối. Đầu của vị linh mục giống như đang ở trên một ngọn lửa, lơ lửng trong không khí.

“Cơn ác mộng.” Tôi nói. Hai vị linh mục gật đầu không nói gì, người bên trái làm động tác mời. Tôi thở dài và bước vào trong bóng tối ẩm ướt.
 
Chương 10: Trang 35 - 37


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Tôi nói về cá voi trước, đây không phải là một lựa chọn hay, thực ra đáng lẽ tôi nên nói về miệng núi lửa trước, bởi vì vị linh mục rõ ràng không cho rằng con cá voi magma khổng lồ là một dấu hiệu cảnh báo. Tôi dừng lại uống nước, chưa kịp nói xong thì họ đã lấy ra một túi đường mía giã nhỏ trộn với gia vị khô và trấn an tôi rằng đây không phải là cơn ác mộng. Mặc dù rất hiếm khi dung nham, cá voi và đàn cá xuất hiện cùng lúc trong giấc mơ nhưng không có thứ nào trong số đó là điềm xấu cả, có lẽ chỉ là do đi đường vất vả mà thôi. Đi lấy chút nước suối nóng, uống gói thuốc ngọt này, ngày mai sẽ thấy dễ chịu hơn.

Tôi hỏi miệng núi lửa có ý nghĩa gì.

Hai linh mục nhìn tôi chằm chằm như thể họ vừa mới tỉnh dậy. Họ là một cặp sinh đôi, hay còn gọi là anh chị em ruột, trông hơn cha mẹ tôi khoảng chục tuổi, không chỉ độ cong của gò má và sống mũi giống hệt nhau mà những nếp nhăn ở khóe mắt cũng rất giống nhau. Cuối cùng, người bên trái lên tiếng trước, tôi thầm quyết định đó là người chị.

“Hãy kể cho tôi nghe về miệng núi lửa mà cậu đã nhìn thấy.”

Vì vậy, tôi kể cho họ tất cả những gì tôi có thể nhớ, nữ linh mục chỉ ngắt lời tôi một lần, hỏi tôi về các chi tiết của chiếc bàn đá và việc tôi có vô tình nghe thấy bất kỳ linh mục nào nói về đám tang không. Tôi nói không, và đó là sự thật, không ai ngoại trừ các linh mục và người tập sự được biết về các nghi thức trong tang lễ, hay thậm chí là đề cập đến chúng. Mặc dù một số người tập sự trước đây và các linh mục hiện tại là bạn của tôi, nhưng họ chưa bao giờ đề cập đến bất cứ điều gì tôi không nên biết trước mặt tôi, chứ đừng nói đến nghi thức trong tang lễ. Trong thư viện của đền có một số cuốn sách không được phép đọc, được khóa trong những chiếc hộp gỗ chạm khắc bằng lửa, mẹ Noor không có chìa khóa, theo lời bà, bà chưa từng nhìn thấy những cuốn sách trong đó dù chỉ một lần. Khi vị linh mục cần những cuốn sách đó, ông luôn lấy hẳn chiếc hộp gỗ đi, một hai ngày sau mới chuyển toàn bộ trở lại và đặt vào đúng vị trí ban đầu. Có thể hình dung ở đó ghi lại những thứ như cầu nguyện hay lễ vật cần thiết cho buổi lễ, nếu không đánh bất tỉnh linh mục và lấy đi chìa khóa thì hoàn toàn không nhìn thấy được. Và điều kiện tiên quyết để “hạ gục” là người dân phải biết chính xác chìa khóa là linh mục nào.

“Cậu có thể đảm bảo về sự đáng tin cậy của cậu và gia đình rằng cậu chưa từng nghe bất kỳ linh mục nào mô tả về miệng núi lửa không? Cậu hẳn hiểu rằng nếu cậu nói dối linh mục của núi lửa, núi lửa sẽ khiến cánh đồng của cậu cằn cỗi và cá không bao giờ đến gần ngư trường của cậu?” Nam linh mục bên phải, người em trai sinh đôi nói.

Tất nhiên tôi có thể đảm bảo điều đó và tôi ngày càng mất kiên nhẫn với những câu hỏi lặp đi lặp lại của họ.

“Có vẻ như chúng tôi chưa hỏi tên cậu. Cậu…?”

Ký ức bằng văn bản, tôi trả lời, nhưng khi còn nhỏ, tôi thường được gọi là Cá Nhồng.

“Pei Jianan, cha mẹ cậu có ai là pháp sư không?”

Không.

“Dược sư?”

Cũng không.

“Tôi đoán rằng cậu cũng không thân quen với ông bà của mình?”

Không thực sự quen thuộc. Từ “ông bà” chỉ tồn tại trong ngôn ngữ của cậu; đối với chúng tôi, nó được gọi là “cha mẹ trước”. Đó là một thuật ngữ bao quát không chỉ đề cập đến cha mẹ của cha mẹ mà còn đề cập đến cha mẹ của ông bà, cha mẹ của cha mẹ của ông bà và tất cả những người đã từng chia sẻ cùng một cây sự sống với chúng tôi. Tôi chỉ biết mẹ của cha Lira là người huấn luyện cá heo, vì chính cha tôi kể lại câu chuyện hồi nhỏ bị một con cá heo quá nhiệt tình kéo ra biển và suýt chết đuối. Ngoài ra, tôi không còn ký ức gì nữa, một số người trong số họ đã chết từ trước khi tôi sinh ra, những người khác, có lẽ cha mẹ tôi đã đến thăm vào dịp lễ hội thu hoạch, nhưng không bao giờ đưa tôi và các anh chị em của tôi đi cùng. Có thể người dân Đảo Lớn sẽ cho rằng chúng tôi “thờ ơ”, nhưng chúng tôi không ghét cha mẹ trước, và họ cũng không có ý nghĩ gì với chúng tôi, chỉ là chúng tôi thuộc hai gia đình khác nhau và có thể đến thăm nhau mà thôi, nhưng không ghé thăm cũng là bình thường.

Hai linh mục thậm chí còn yêu cầu kiểm tra tài năng phép thuật của tôi, điều mà tôi không có. Tôi không thể biến khói từ lư hương của mình thành bất cứ thứ gì khác ngoài khói, tôi chưa bao giờ nhìn thấy ma, tôi chưa bao giờ đoán trước được cái chết của ai, tôi chưa bao giờ bị ảo giác hay co giật khi ở gần núi lửa. Họ mang ra một mảnh pha lê núi lửa to bằng nửa gáo dừa và hỏi tôi nhìn thấy gì bên trong, tôi chỉ thấy quặng đen có viền mỏng trong mờ như khói đông đặc, còn ở giữa thì mờ đục. Một tấm gương đen cong cong kéo khuôn mặt tôi thành một hình thù kỳ lạ. Có ánh lửa không? Không. Cậu có nghe thấy âm thanh bất thường nào không? Không. Nếu vậy, cậu hẳn có thể nhìn thấy sương mù trắng? Cũng không.

Cuối cùng, hai linh mục còn bối rối hơn cả tôi và thúc giục tôi quay lại Icahn càng sớm càng tốt để tìm kiếm sự giúp đỡ từ các linh mục lớn tuổi.

Tôi nói “Tôi sẽ” nhưng trong thâm tâm tôi biết rằng tôi sẽ không quay lại sớm vì tôi không muốn. Tôi rời khỏi ngôi đền mục nát phủ đầy rêu và cỏ dại, ôm chặt gói trà thảo dược. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã cân nhắc đến việc vứt nó đi, nhưng cuối cùng, với hy vọng mờ nhạt “có lẽ nó có thể giúp ích được?”, tôi leo lên cây cầu treo gần nhất và hỏi người đi bộ đầu tiên tôi gặp chỉ đường đến suối nước nóng.

Cậu chỉ xuất hiện trong ngôi nhà trên cây của tôi vào buổi tối, lúc đó tôi đã khám phá ngôi nhà trên cây ở phía bên này của cây cổ thụ. Chúng nhỏ hơn những ngôi nhà trên mặt đất, phần đế cắm sâu vào cây, như thể chúng đang lớn lên cùng với những cây cổ thụ. Thật dễ dàng để nhận ra những ngôi nhà trên cây cũ kĩ hơn, gần mặt đất hơn và có lẽ cũng lâu đời như những cây cầu treo. Những thân cây âm thầm lớn lên gần như đã nuốt chửng nó hoàn toàn, chỉ còn lại mái hiên nhô ra và những ô cửa sổ xây vào trong cây vẫn còn nhìn thấy rõ.

Đồ đạc trong ngôi nhà trên cây đều giống nhau, bao gồm một chiếc giường, một chiếc ghế, một chiếc bàn và một chiếc hộp gỗ rỗng. Có một chiếc chuông treo ngoài cửa sổ, tôi không biết đó là vật trang trí hay công cụ để triệu hồi thứ gì đó, tôi cố lắc nó nhưng không có gì xảy ra. Không có ai xuất hiện, và cũng không có cả đàn vẹt bay lên (như tôi tưởng tượng).

“Cái đó để làm gì vậy?” Cậu hỏi, vừa nhận ra tiếng chuông.

Tôi nói tôi không biết và hỏi cuộc gặp với tù trưởng diễn ra thế nào.

“Không tệ, chúng ta có được một ít thuyền. Còn về số lượng cụ thể của ‘một ít’ này, có lẽ phải hai ngày nữa chúng ta mới biết được. Mình không nói trước mặt tù trưởng, nhưng mình nghĩ ông ấy thực sự sợ hãi. Ông ấy không ngờ hạm đội phương Bắc lại có thể gây ra nhiều thiệt hại như vậy. Thành thật mà nói, chúng mình cũng như vậy. Mình nghĩ rằng ít nhất.” Cậu làm một cử chỉ mơ hồ và không nói gì thêm nữa. Cậu bước đến bên cửa sổ và nghịch nghịch chuỗi chuông nhỏ không rõ mục đích.

Ít nhất là gì? Ít nhất hãy giáng cho người phương Bắc một đòn mạnh như họ đã làm với Đảo Lớn? Ít nhất cậu không cần phải đến gặp tù trưởng để cầu xin sự giúp đỡ nữa? Cậu chưa bao giờ nói hết câu đó và tôi cũng không hỏi thêm. Cậu nói rằng cậu sắp phải rời đi rồi quay lại ngôi nhà trên cây của mình, bất cứ lúc nào cũng sẽ có người đến gặp cậu để bàn bạc về hạm đội. Tôi nói lát nữa tôi sẽ ra ngoài xem có nhà thơ nào biểu diễn tối nay không.

Cuối cùng chúng tôi không làm được điều nào ở trên. Nụ hôn “tạm biệt ngắn gọn” ngày càng dài hơn cho đến khi chúng tôi ngã lên giường và nằm đó rất lâu. Khi tôi thức dậy thì trời đã tối, chiếc chuông nhỏ trong gió phát ra những tiếng “đinh” nhẹ nhàng, có thể thực sự là một loại vật trang trí nào đó, hoặc một vật nhỏ mang lại may mắn, không có công dụng rõ ràng. Cậu đang ngủ rất sâu, không có gì che phủ cậu. Ngay cả vào mùa đông và vào ban đêm, nhiệt độ trong rừng vẫn giống như giữa mùa hè trên đảo Icahn, ở những nơi nhiều gió, đủ mát nhưng cậu vẫn sẽ đổ mồ hôi chỉ sau một cử động nhỏ. Cậu nằm sấp, chân trái duỗi thẳng, chân phải cong, ánh trăng chiếu sáng cặp mông trần, lưng và vai trái của cậu nhưng khuôn mặt lại bị bóng tối che phủ. Tôi ngắm nhìn những đường cong gợn sóng của cơ bắp hồi lâu, vẫn ngỡ ngàng vì sao mình lại có được một chàng người yêu xinh đẹp đến vậy, rồi cúi xuống hôn lên vai cậu, nhưng cậu vẫn chưa tỉnh dậy.

Tôi vẫn còn nhớ tiếng cú vọ ngoài kia, tiếng lá xào xạc và tiếng rên rỉ trầm thấp không thể giải thích được, không biết đó là con sói ở đằng xa hay chính cái cây cổ thụ kia. Một số pháp sư cho rằng họ có thể giao tiếp với cây cổ thụ, tìm hiểu những gì đang xảy ra sâu trong lòng đất thông qua hệ thống rễ khổng lồ của bà (đương nhiên, những pháp sư này cho rằng cây cổ thụ là một “bà”), dự đoán vụ thu hoạch trái cây năm sau, và thậm chí còn nhìn thấy tương lai của toàn bộ bộ tộc, nhưng chưa từng có bằng chứng tài liệu nào cho thấy có pháp sư nào đã tiên đoán thành công tương lai. Tôi nhẹ nhàng đẩy cánh tay cậu ra, lặng lẽ rời khỏi giường, bước ra ngoài ngôi nhà trên cây và đứng trên cầu thang gỗ bao quanh gốc cây. Không có con mắt nào ngoại trừ lũ cú để ý đến tôi, nên tôi không mặc quần áo, trần truồng đứng trước những thân cây giống như pháo đài. Tôi thử đặt tay lên, vỏ cây xù xì, những chỗ thắt nút phồng lên gợi nhớ đến bàn tay chưa nắm chặt hết hoặc trái tim dị dạng. Tôi áp tai vào đó, áp cả người vào thân cây, nhắm mắt lại và chờ đợi lời gợi ý đến.

Chẳng có gì cả, ngay cả gió cũng ngừng thổi, rừng rậm trở nên yên tĩnh, tiếng nước róc rách từ một con lạch nào đó cũng trở nên trong trẻo. Những con cú gọi nhau, và một số loài côn trùng không rõ danh tính phát ra một tiếng kêu the thé sâu trong bụi cây tối tăm, nghe như một sợi dây bị đứt. Lũ kiến bò qua người tôi, tôi lùi lại hai bước, nhảy lên một cách hài hước rồi vỗ vào tay, đùi, ngực và bụng. Điều này giống như một trò đùa của cây cổ thụ. Tôi lui vào căn nhà trên cây, mò mẫm tìm bình nước trong bóng tối, vội vàng rửa sạch những chỗ tưởng rằng kiến đã bò qua, lau khô rồi lại bò lên giường. Cậu trở mình trong giấc ngủ và nằm ngửa. Tôi nhắm mắt lại rồi đếm hơi thở của cậu. Tôi đã sẵn sàng gặp lại con cá voi với ánh sáng đỏ mờ của nó, nhưng giấc mơ đã không trở lại nữa, có lẽ nó liên quan gì đó đến trà ngọt thảo dược mà linh mục đưa ra, cũng có thể là không.

Những con vẹt đến từ sáng sớm, nhưng không phải tiếng kêu của chúng đã đánh thức tôi mà là việc những tên trộm lông lá nhỏ bé này đã cởi được sợi dây buộc hành lý và lôi chiếc túi vải nhỏ đựng pha lê núi lửa ra. Những viên đá rơi xuống đất đánh rầm, lũ vẹt sợ hãi bỏ chạy, làm đổ chiếc bình, khiến nó bị vỡ. Tôi ngồi trên giường, choáng váng và khô mắt, phải rất lâu tôi mới suy ra được đại khái chuyện gì đã xảy ra từ những vết nước, những mảnh đất sét và chiếc túi vải bị mở ra. Cậu đã biến mất, để lại một vài loại trái cây trên bàn, tất cả đều đã bị lũ vẹt ăn mất rồi mổ thành từng mảnh.

Tôi không đến ngôi đền trong rừng nữa, vào ngày thứ ba sau khi viếng thăm linh mục, hạm đội Đảo Lớn nhổ neo rời đi, có thêm mười tàu chiến so với lúc đến, cùng với thủy thủ của bốn bộ tộc khác nhau, họ có đủ khả năng để đối phó với bất kỳ sự xâm nhập nhỏ nào có thể xảy ra trong mùa đông. Nếu mọi việc suôn sẻ, khi mùa hè đến, tất cả các tàu chiến bị hư hỏng sẽ được sửa chữa và những chiếc mới sẽ được hạ thủy. Tôi cùng cậu lên kế hoạch cho mùa đông và mùa hè tới, hoàn toàn quên mất rằng tôi chỉ là vị khách tạm thời. Một buổi sáng khi tôi đi cho cá heo ăn, tôi thấy con tôi thả đi đã quay trở lại, tôi tháo chai, đổ thịt cá xuống nước và để chúng tự ăn. Chiếc lọ đựng những mảnh gỗ mỏng, linh mục sẽ dùng nó để thay thế giấy bất cứ khi nào ông không muốn lãng phí giấy vào những thông tin không quan trọng. Thông điệp rất ngắn gọn và đơn giản: Tôi phải quay lại đảo Icahn ngay lập tức cùng đàn cá heo. Không có lý do nào được đưa ra, nhưng tôi đoán có lẽ là do cặp sinh đôi trong rừng đã kể với linh mục trên đảo về giấc mơ của tôi.

Bây giờ cậu đã biết tại sao tôi đột nhiên bị yêu cầu rời đi, lời giải thích của tôi lúc đó rất mơ hồ, đó là vì tôi đã thiếu mất một đoạn nhỏ trong “cơn ác mộng”. Không có thuyền nào đón nên tôi phải tự chèo thuyền kayak(1) với hai con cá heo buộc ở mũi thuyền, chúng có thể giúp tôi tiết kiệm sức lực nhưng tôi chủ yếu dựa vào cánh tay trong suốt hành trình. Cậu đưa tôi đến bến tàu và hỏi tôi có quay lại sớm không.

(1) Thuyền kayak: là một loại thuyền có kích thước nhỏ & hẹp, được điều khiển bằng sức người nhờ vào việc chèo, nó được thiết kế để có thể sử dụng bằng chèo tay.

[Diendantruyen.Com] Tuhfa - vallennox


Có, tôi trả lời.

Nghĩ mà xem, Tuhfa, cậu thường cười vì sự thiếu mới lạ trong thơ tự sự và cái kết có thể đoán trước được của nó. Khi đến lượt chúng tôi, thực sự cũng không có nhiều “sự mới mẻ”. Trong bất kỳ bài thơ tự sự nào, nếu xuất hiện đoạn hội thoại như thế này, người ta gần như chắc chắn rằng nhân vật chính sẽ không đạt được điều mà họ mong đợi.
 
Chương 11: Trang 38 - 40


Đây thực sự là lần thứ hai tôi đến hòn đảo đá nhỏ, nơi tôi hiện đang cư trú, một khu bảo tồn nhỏ chứa đựng những cuốn sách cổ. Trước chuyến thăm đầu tiên của tôi, tôi thậm chí còn không biết có một nơi như vậy tồn tại giữa đại dương bao la.

“Lẽ ra ngay từ đầu cậu không nên biết.” Tảo Lam nói. Chắc chắn cô ấy có một cái tên linh mục, nhưng tôi thích gọi cô ấy là Tảo Lam hơn, cũng như cô ấy và chị gái vẫn gọi tôi là “Cá Nhồng”. “Chỉ có linh mục và học giả trên mỗi hòn đảo mới biết vị trí của nó, và đó là khu vực trung lập.”

“Khu vực nào cơ?” Cô ấy dùng một từ không phổ biến trong phương ngữ phía Bắc.

Trung lập. Cô ấy nói điều đó một lần nữa bằng phương ngữ của Icahn, và sau đó, như thể sợ tôi không hiểu tiếng mẹ đẻ của cô ấy, cô ấy lặp lại bằng ngôn ngữ của Đảo Lớn. Tầng hầm cổ nhất trên đảo được bí mật xây dựng dưới thời Vua “Sói Tuyết”, các pháp sư ở các hòn đảo phía Bắc nhận được sự giúp đỡ của các linh mục trong cung điện để giấu sách vào hộp gỗ đựng cá và vận chuyển ra ngoài để tránh bị tiêu hủy. Sau chiến tranh, thay vì gửi sách về, họ lại di chuyển nhiều hơn. Tin tức được giữ bằng những giọng nói trầm thấp cẩn thận, trên những mảnh giấy nhỏ, đằng sau những cánh cửa đóng kín, rồi lan truyền chậm rãi qua nhiều ngôi đền, nhà nguyện, lều vu y và thư viện. Một tầng hầm được mở rộng thành hai, ba, sáu và thêm các khối đá nhô ra ngoài. Những bản thảo quý giá dễ vỡ được tập trung về đây từ nhiều hòn đảo khác nhau, một hệ thống lưu trữ được đánh số đã được thiết lập, phòng viết và phòng ngủ xuất hiện, rồi ai đó nghĩ đến nhu cầu mở ra không gian để lưu trữ thực phẩm và nấu nướng, tiếp đó là đồ dùng cho mùa đông, sau khi mọi thứ đã thoải mái, có người mang đến bàn cờ và xúc xắc, chất thành đống ở một nơi dễ thấy trong tủ, xét về độ hao mòn thì có vẻ người ta thường chơi với chúng. Khi tôi mới đến đảo, giếng trời là cải tiến mới nhất, để tiết kiệm dầu cá voi thắp sáng, người ta gắn kính trong suốt đến mức tưởng như không tồn tại, loại kính này chỉ có thể nung ở Quần đảo phía Bắc, sản phẩm của các xưởng khác luôn có lẫn tạp chất loại này hay loại khác. Bây giờ tôi lo lắng về sự hỏng hóc ngoài ý muốn của nó, mảnh kính này đã trở thành di vật, đến từ một thế giới chết chóc, không thể thay mới và cũng không thể thay thế.

Lưu ý rằng tính từ được sử dụng ở trên là “trung lập” chứ không phải “bí mật”. Một số vị vua, tù trưởng và lãnh đạo hội đồng biết đến sự tồn tại của một nhà kho nhỏ như vậy, mặc dù họ không biết vị trí chính xác của nó ở đâu. Nếu nhất định phải hỏi thì họ có thể dễ dàng nhận được câu trả lời, nhưng họ vốn không thực sự quan tâm, cứ để cho những con ốc mượn hồn ẩn náu trong thư viện chơi đùa với những lời cầu nguyện và bài thơ của chúng, dù sao cũng chẳng ảnh hưởng gì. Đảo đá nhỏ không có tên, khi nói về nó trong thư từ và trong những cuộc trò chuyện, chắc chắn sẽ có một số hiểu lầm khi tham khảo, không rõ “đảo nhỏ” ám chỉ một hòn đảo nhỏ nói chung hay ngôi đền trí tuệ – hòn đảo đá cô đơn. Cái tên yêu thích của tôi được người phương Bắc đặt cho nó, dịch theo nghĩa đen sang ngôn ngữ của Đảo Lớn, là “Tổ của chim sấm”. Trong tôn giáo của họ, chim sấm đại diện cho trí tuệ tiềm ẩn.

Tôi chỉ ở nhà một đêm trước khi lên đường tới “Tổ của chim sấm”. Sau khi rời cảng Đảo Lớn, tôi vất vả chèo thuyền suốt hai ngày đêm, đến sáng thứ ba, đàn cá heo kéo chiếc thuyền kayak êm ái qua vùng núi lửa. Đường nét của đảo Icahn hiện ra ở phía xa vào khoảng giữa trưa, và đến buổi chiều, cuối cùng tôi cũng tháo được đám cá heo rồi chèo một mình qua quãng đường còn lại, kéo chiếc thuyền kayak lên bãi biển. Tôi đứng đó một lúc, không biết mình đang chờ đợi điều gì, có lẽ đang chờ ai đó đón mình, hoặc có lẽ tôi muốn quan sát xem hòn đảo quê hương có gì khác lạ không. Bãi biển và những túp lều thấp sau hàng cây trông vẫn giống hệt như lúc tôi rời đi, thực sự tôi hơi thất vọng vì tôi đã đi lâu như vậy, lẽ ra hòn đảo này cũng phải thay đổi một chút – không biết những người khác có nghĩ như vậy không. Tôi đoán đây thực chất là một loại tự phụ. Tại sao một hòn đảo lại phải thay đổi chỉ vì sự vắng mặt của tôi?

Cánh cửa nhà chúng tôi hé mở, em gái út Cá Hồng Bạc của tôi đang lăn lộn với con chó trong vũng bùn trước sân, tôi chưa từng nhìn thấy chú chó con này bao giờ, nhưng chắc nó mới được nuôi gần đây. Con chó chú ý đến tôi đầu tiên, lăn qua, đứng dậy rồi vừa sủa vừa lùi lại. Cá Hồng Bạc ngẩng đầu lên, mắt mở to, trong giây lát tôi lo nó không nhận ra mình, nhưng Cá Hồng Bạc đã nhanh chóng chạy tới ôm lấy eo tôi. Tôi bế nó lên và bước vào nhà.

Khi họ nhìn thấy tôi, mọi thứ trong nhà như dừng lại trong giây lát. Đột nhiên tôi bị vùi trong những cái ôm và những nụ hôn, không biết người cha nào đã xoa bột mì lên mặt tôi, cũng không biết thứ súp màu nâu trên quần áo của tôi là từ bàn tay của người mẹ nào. Họ hỏi tôi nhiều câu hỏi cùng một lúc và tôi không biết nên trả lời câu nào trước. Chị tôi kéo tôi đến bàn ăn rồi bảo tôi ngồi xuống, mẹ Noor yêu cầu mọi người im lặng, chạm vào mặt tôi và nói họ không biết tôi về, nếu không họ đã làm kẹo cho tôi rồi.

Những lá thư từ các linh mục đến một cách đột ngột. Tôi trả lời mà không nói gì thêm. Họ hỏi tôi có cần đến Đảo Lớn nữa không và nếu có thì khi nào. Tôi chỉ có thể thành thật trả lời là tôi không biết. Tôi đã hy vọng được gặp cha Cormoran, nhưng ông không có ở đó, không có gì ngạc nhiên khi ông được cử đến một trạm buôn bán hẻo lánh nào đó để mua nguyên liệu làm hương cho ngôi đền.

Đêm đó tôi ngủ trong phòng ngủ thời thơ ấu của mình, mặc dù tôi có cabin riêng, giống như những người lớn khác chưa lập gia đình. Nhưng tôi đã đi xa quá lâu, mẹ Noor kể với tôi rằng mái nhà gỗ đã bị sập trong trận mưa lớn vào mùa hè năm ngoái, cỏ dại đã xâm chiếm mọi nơi mà mặt trời có thể chiếu sáng. Cha tôi giúp tôi lấy lại đồ đạc cá nhân nhưng không sửa lại mái nhà – tất nhiên là không, đó là trách nhiệm của một mình tôi.

Sau khi tôi rời nhà, phòng ngủ cũ của tôi trở thành nơi chứa đựng những món đồ bừa bộn, cồng kềnh. Chiếc khung cửi bị hỏng che mất hoàn toàn cửa sổ và tôi phải bước qua nhiều hộp, thùng để đến được giường của mình. Chiếc giường nhỏ hơn tôi nhớ, chiếc chiếu rơm có mùi hôi khó chịu do lâu ngày không sử dụng. Không giống như Đảo Lớn đầy đuốc, những đêm ở nhà mang đến thứ bóng tối dày đặc không thể xuyên thủng. Thế nên tôi không thổi tắt nến mà nằm đó, nhìn những cái bóng nhảy múa và ngọn lửa mỏng manh.

Giấc ngủ đến cùng với cá voi magma.

Lần này nó không phải ở trong làn nước tối tăm mà trôi nổi trong sương mù, những đỉnh nhọn màu đen thỉnh thoảng xuyên qua sương mù, rồi lại bị bao phủ. Tôi thấy mình đang đứng ở lối vào đền, cuối con đường núi hẹp, phía sau là bức tường đá lửa kiên cố và phía trước là vách đá phủ đầy sương trắng. Con cá voi lơ lửng giữa không trung như không có trọng lượng, vây và đuôi đung đưa một cách uể oải.

Magma nhỏ giọt từ nó, nhanh chóng nguội đi thành những giọt pha lê núi lửa, rơi xuống những đám mây đang dâng trào.

Bạn là ai? Tôi hỏi, không phải bằng giọng nói, suy nghĩ của tôi vang vọng trong thung lũng, nên không cần phải nói, bạn là ai? Bạn muốn gì?

Câu trả lời của cá voi cũng là tiếng vọng trong thung lũng. Không một lời, không một ngôn ngữ nào, gần với tiếng gầm trầm của sóng vỗ vào đá hơn. Tôi bịt tai lại nhưng hành động này chẳng có tác dụng gì, tiếng sóng lăn tăn trong hộp sọ tôi.

Hát đi, giọng nói ầm ĩ đáp, cảm giác như bị sóng đập thật mạnh vào đầu, tôi lùi lại một bước, ngồi xổm sát vào tảng đá, cảm giác nếu không tựa vào cái gì đó thì tôi sẽ bị cuốn xuống đường núi, lăn xuống vực thẳm sương mù. Hát đi, hát đi.

Hát gì cơ? Tôi nghĩ, rồi nghe thấy ý nghĩ đó vang vọng khắp những bức tường đá, hát gì cơ?!

Sau đó tôi mở mắt ra và nhìn chằm chằm vào những đốm sáng trên tường. Lúc bình minh, có người gõ cửa nhẹ nhàng nhưng rất kiên trì. Nến đã tắt từ lâu, tôi ngồi bên giường, nhìn chằm chằm vào khối sáp vô hình, đợi cho đến khi tiếng sóng trong tai lắng xuống rồi mới đứng dậy, đi vòng quanh các thùng, hộp để mở cửa.

Con chó con vừa nhìn thấy tôi lại sủa, mẹ Pucia nhẹ nhàng dùng chân đẩy nó ra và nói với tôi rằng các linh mục đang đợi ngoài cửa, tôi phải đi theo họ ngay lập tức. Tôi gật đầu rồi lùi một bước vào phòng ngủ, sau đó dừng lại, không chắc mình có cần thu dọn đồ đạc hay không. Cuối cùng, tôi quyết định rằng mình sẽ không cần phải đi lâu và muộn nhất tối nay tôi sẽ về nên đóng cửa phòng ngủ mà không lấy gì cả.

Ý nghĩ này quá lạc quan. Suốt buổi sáng, tôi bị thẩm vấn trong đền, chỉ có thể miêu tả là “thẩm vấn”, các linh mục trông rất nghiêm túc, và mười hai người trong số họ đối mặt với tôi một mình, trong thời gian này, họ chỉ cung cấp nước lạnh trong gáo dừa và thức ăn nhạt nhẽo như bánh mỳ cắt lát. Những câu hỏi của họ cũng giống như những câu tôi đã nghe ở ngôi đền trong rừng, chỉ dài hơn và chứa đầy những chi tiết quá chính xác, như thể họ đang so sánh trải nghiệm của tôi với trải nghiệm của một người vô danh nào đó. Nhưng khi tôi hỏi: “Trước đây có ai từng nằm mơ như vậy không? Khi nào? Cuối cùng thì chuyện gì đã xảy ra?”, các linh mục đều không trả lời.

Buổi chiều bận rộn với đủ loại nghi lễ, ngôi đền đóng cửa ngột ngạt, mùi hương trầm khiến tôi buồn ngủ. Tảo Lam liên tục chọc vào vai tôi khiến tôi phải tỉnh táo. Cuộc tra tấn kết thúc ở hồ bơi, tôi ướt sũng bò ra ngoài, Tảo Lam đưa cho tôi một chiếc áo choàng bằng vải lanh sáng màu mà những người tập sự mặc, tôi mặc vào, trong đầu vẫn đang suy nghĩ xem các bà mẹ sẽ nói gì khi nhìn thấy nó trong bữa tối. Ngay lúc đó, hai vị linh mục lớn tuổi nhất thông báo rằng họ sẽ đến bến tàu.

“Tại sao? Đi đâu?” Tôi lặng lẽ hỏi.

“Suỵt.” Tảo Lam và chị gái cô đồng thời nói.

Chúng tôi đi đến bãi biển từ phía bên kia núi mà không đi ngang qua nhà tôi hay có cơ hội nói chuyện với cha mẹ tôi. Phải đến khi con tàu rời cảng, Tảo Lam mới nhắc đến hòn đảo nhỏ, vùng trung lập nơi trí tuệ được cất giữ. Tôi dựa vào lan can, nhìn đảo Icahn chìm dần theo sóng và hỏi cô tại sao cô lại nghĩ giấc mơ của tôi đã thu hút sự chú ý của linh mục.

“Cậu nhớ huyền thoại về cá voi phải không? Không phải huyền thoại biến thành các ngôi sao, mà là huyền thoại liên quan đến biển, ‘Khi họ hát cùng nhau, nước…’”

“Tớ nhớ.”

“Không có phiên bản thần thoại nào đề cập đến cá voi magma và chúng mình thường cho rằng những con cá voi trong văn bản chỉ là những con cá voi sống bình thường, có màu xám, nhưng thần thoại chưa bao giờ được biết đến vì độ chính xác của chúng. Chúng mình cần đảm bảo rằng đây không phải là…lời tiên tri.” Cô ấy do dự khi nói đến từ tiên tri, như thể bản thân cô cũng không tin vào sự tồn tại của những lời tiên tri. “Đừng lo lắng, mình không nghĩ vậy đâu. Khả năng cảm nhận phép thuật của cậu cũng tương đương với khả năng của một con sên biển.”

“Cảm ơn.”

Sau đó chúng tôi nói chuyện về chiến tranh một lúc. Cô tự hỏi chuyện gì đang xảy ra trên Đảo Lớn và mọi người nghĩ gì, sau đó hỏi tại sao Vua Atukwa muốn chiến đấu và tại sao ông ấy nghĩ mình có thể thắng. Tôi có câu trả lời cho hai câu hỏi đầu tiên, nhưng tôi không thể trả lời hai câu hỏi cuối cùng. Tôi không biết tại sao, cả hai vị vua còn lại có lẽ đã bị sát hại dã man cũng vậy. Có lẽ mọi cuộc chiến đều bắt đầu như vậy, chỉ cần một người tình cờ chiếm được một ngai vàng nào đó ở đâu đó, uống thứ rượu độc tẩm ngọc châu, những lời nịnh hót cùng đao kiếm rồi say sưa trong giấc mơ chiến thắng và chinh phục mãi từ đó về sau, hoặc rơi xuống vực thẳm lạnh giá, sợ hãi rút kiếm chém vào bất cứ thứ gì chuyển động. Chúng ta thường cho rằng những đại biểu hội đồng, các thượng phụ(1) trong toà án, các vị vua và tù trưởng này phải sở hữu một trí tuệ sâu sắc mà không ai có thể sánh bằng. Suy nghĩ cho rằng những nhà lãnh đạo này đã đi sâu vào bể trí tuệ và tìm ra giải pháp tốt nhất khiến họ yên tâm, giống như thể họ đang ở trên một con tàu buôn gặp được gió xuôi.

(1)Thượng phụ còn được gọi là Trưởng phụ hay Mục thủ, là các giám mục bậc cao nhất trong Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương, và Cảnh giáo.

Nhưng thực tế chiến tranh chỉ là một ý nghĩ trong đầu, và cái đầu đó có thể đội vương miện nhưng thực chất nó vẫn là cái đầu của con người, không khác mấy cái đầu của cậu hay của tôi.

Cậu sẽ đồng ý với tôi, nhưng Tảo Lam thì có thể không, nên tôi đã không nói với cô ấy. Tôi có thể đoán được câu trả lời của cô ấy, cô ấy sẽ nói “Nhưng, các linh mục sẽ biết rõ hơn, đó là điều chắc chắn”, hoặc cô ấy có thể nói “Mặt khác, có rất nhiều người thông minh giúp họ đưa ra quyết định.” Suy nghĩ của tôi quay lại với lời tiên tri, và tôi hỏi nó nói về cái gì, ai đã ghi lại nó cách đây bao nhiêu năm và điều gì đã xảy ra vào lần cuối cùng nó xuất hiện.

Tảo Lam nhìn tôi nói, đây chính là lý do chúng ta đến đảo đá nhỏ, trong tất cả những bản thảo và sách cổ đó, có thể có một chương, một trang hoặc một dòng chữ có thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi của chúng ta, có lẽ.
 
Chương 12: Trang 41 - 43


Khi nói đến những lời tiên tri, đặc biệt là những lời tiên tri được ghi lại trong quá khứ, bất kỳ học giả có trình độ nào cũng sẽ cảnh báo người đọc phải đặc biệt cẩn thận và coi mọi lời tuyên bố như thể nó chỉ là chuyện hoang đường. Trước khi một lời tiên tri được ghi lại, nó thường trải qua nhiều lần kể lại bằng lời nói, tạo thành ít nhất ba nhánh. Người ghi chép luôn có sở thích riêng của mình khi lựa chọn giữa tất cả các phiên bản khác nhau này. Cái gì vị linh mục này chọn giữ, vị linh mục khác có thể chọn cắt tỉa. Hơn nữa, chúng ta đương nhiên hy vọng rằng lời dự đoán sẽ trở thành sự thật và chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện những sửa đổi nhỏ để làm cho nó phù hợp với sự kiện này hoặc sự kiện kia đã xảy ra.

Điều đó không có nghĩa là mọi thứ đều không thể tin được. Một cái cây cho dù có bao nhiêu cành thì thân vẫn như cũ, những cành giống nhau thì có thể bổ trợ cho nhau. Ví dụ, lời tiên tri về “Bức tường băng” bắt đầu bằng một câu chuyện tương tự: một thợ săn mất tích nhiều ngày trở về từ cánh đồng băng, tuyên bố đã chứng kiến một cái ác không thể tưởng tượng được, cảnh báo rằng “bức tường băng sẽ chôn sống tất cả mọi người” và rồi chết trong đau đớn. Nhưng hai phiên bản chính của đoạn kết vẫn tồn tại, một phiên bản nói “chiếc lông sắt sẽ cứu chúng ta”, và phiên bản còn lại thì khẳng định “câu trả lời là lửa từ thiên đường”. Không khó để hiểu tại sao lại có sự khác biệt như vậy, ở những nơi thờ phụng chim sấm, bạn sẽ được nghe các nhà thơ miêu tả vị thần chim sấm tốt bụng dùng chiếc mỏ và móng vuốt “sắt” của mình để xuyên qua lớp băng dẫn các tàu buôn đông cứng ra khỏi bến cảng. Nhưng trên những hòn đảo tin vào Giáo phái Mặt trời, các linh mục đã dạy cho nhiều thế hệ tín đồ cách Đức Tổng Giám mục Mahada sùng đạo triệu hồi lửa từ trên trời để đốt cháy một lối thoát khỏi lớp băng dày bao vây cảng, cho phép các tàu buôn đi qua. Người ta cố tình lựa chọn (hoặc thậm chí bịa đặt) những yếu tố khiến khán giả hài lòng nhất để điền vào câu chuyện của riêng mình, nhưng chủ đề chính vẫn được giữ nguyên: lời cảnh báo về cái chết của người thợ săn, bến cảng đóng băng, “bức tường băng” sau đó đã bị sức mạnh của các vị thần làm cho tan biến.

Nghiên cứu những lời tiên tri liên quan đến cá voi phức tạp hơn một chút, không phải vì cốt truyện mà là vì những con số. Cá voi đều quá phổ biến và đủ to lớn để trở nên đáng sợ. Mỗi hòn đảo đều có ít nhất một lời tiên tri liên quan đến cá voi. Theo một lượng nhỏ tài liệu tôi đã đọc, cá voi có thể là điềm tốt hoặc điềm xấu, báo trước sản lượng đánh bắt cá dồi dào và cũng báo trước việc ngư trường bị bỏ hoang, có khi là thiên thần nhân từ, có khi là mối đe dọa của ma quỷ dưới đáy biển. Tôi sớm từ bỏ việc đọc từng đoạn và tập trung tìm kiếm những đoạn đề cập đến “hát”, “giai điệu” hoặc “âm nhạc”.

Không có sự kết hợp nào như vậy. Tuy nhiên, Tảo Lam đã tìm thấy một bài hát cổ điển phổ biến ở Quần đảo Đôi cách đây khoảng năm mươi sáu mươi mùa hè, cần hai người trở lên mới hát được vì nội dung hoàn toàn là tán tỉnh nhau và đầy những ẩn dụ nghịch ngợm, về sau bài hát trở nên ít “ẩn dụ” hơn và trực tiếp nói về cơ thể con người cùng hai bộ phận chúng ta thường sử dụng để tìm kiếm hạnh phúc. Con cá voi xuất hiện ở phần sau của bài hát, như một lời khen ngợi, bởi vì nó – tôi không nghĩ mình cần phải nói điều đó.

Đảo đá nhỏ chưa bao giờ là nơi sôi động, nhưng lần trước đến đây, tôi vẫn có thể cảm nhận được sự sống từ mọi ngóc ngách. Hình vẽ bậy trên bức tường đá lặng lẽ tăng lên mỗi ngày, mặc dù tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai đang vẽ trên đó. Trong phòng viết luôn có người, và ai cũng muốn giành lấy vị trí có ánh sáng tốt nhất. Đôi khi, qua kệ sách, bạn có thể nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng gần đó, tiếng sột soạt nhẹ nhàng của áo choàng, tiếng một cuốn sách được lấy ra, mở ra, cất đi hoặc đặt lại về chỗ cũ. Thỉnh thoảng, trên ghế lại xuất hiện những chiếc khăn choàng bị bỏ quên, đâu đâu cũng thấy bút chấm và bút lông kiểu cũ, tất cả đều bẩn thỉu, lông vũ thì đã bị sờ đến mức rách rưới.

Nhưng bây giờ chỉ có tiếng gió.

Ngay cả vào ban ngày, tôi cố gắng tránh bước vào thư viện vắng người vì sợ nghe thấy tiếng bước chân của chính mình. Căn bếp quá rộng, sau khi trời tối trông như một cái hang dưới đáy biển, ngọn lửa của bếp lò chỉ soi được một góc nhỏ, tôi nấu vội, rồi nhanh chóng xách nồi chạy trốn. Khoảnh khắc tồi tệ nhất là khi tôi đi câu cá trở về, mặt trời đã gần lặn, chỉ còn hướng núi lửa là vẫn tỏa ra thứ ánh sáng đỏ âm u. Bãi biển vắng tanh, những tòa nhà bằng đá không có ánh sáng, mỗi lần bước vào ô cửa tối tăm, tôi phải chịu đựng một cảm giác hoảng loạn nhẹ nhưng không thể kiểm soát được, sau khi mò mẫm thắp ngọn đèn dầu cá voi, nỗi sợ hãi này dần dần lắng xuống.

Tóm lại là lời tiên tri. Cuối cùng, văn bản gần nhất mà các linh mục có thể tìm thấy về giấc mơ của tôi không phải là một lời tiên tri được lưu trữ chính thức mà là một vài câu rời rạc được viết nguệch ngoạc bên lề một tập thơ. Nhà văn kể lại giấc mơ của em gái mình: một con hải âu rực lửa đậu trên một tảng đá, lông của nó được tạo thành từ magma, trong giấc mơ chị gái ông chạm vào mỏ hải âu và bị bỏng các ngón tay.

Các linh mục ngay lập tức tìm thấy tất cả những tuyển tập thơ trong cùng một bộ, tổng cộng có sáu tập, tất cả đều được sao chép và minh họa bởi một học giả tên là “Yumaso”. Trong tập bốn và sáu, chúng ta lại thấy nét chữ giống nhau ở lề, lần này Yumaso nói về những trận động đất kỳ lạ kéo dài suốt mùa hè và nghe như “những con thú khổng lồ đang rên rỉ dưới lòng đất”.

Không ai biết về hòn đảo quê hương của Yumaso nên một đợt tìm kiếm khác lại bắt đầu. Những bản đồ dẫn đường cũ được đào ra và so sánh với nhật ký của tàu buôn, cuối cùng chúng tôi xác nhận rằng hòn đảo quê hương của học giả Yumaso đã bị phá hủy bởi một vụ phun trào núi lửa cách đây 82 mùa hè. Yumaso tình cờ đến đảo đá nhỏ và sống sót sau thảm họa, ông tiếp tục ở lại đây trong ba mùa đông, cuối cùng rời đến Đảo Lớn để kiếm sống. Ngoài tập thơ, tên của Yumaso còn xuất hiện bốn lần trong các tập tin rời rạc khác, hai lần trong sách mượn và trả, một lần trong yêu cầu chung với 23 học giả khác để sửa lại mái của phòng viết, lần khác là đăng ký hành khách trên tàu buôn ra khỏi đảo. Sau đó không có ghi chép nào, hay nói đúng hơn là không có ghi chép nào mà chúng tôi có thể tìm thấy.

Tám mươi hai năm trước, tức là năm thứ tư sau khi cuốn “Quần đảo du kí” được viết. Tôi lật qua cuốn “Quần đảo du kí” vì mục đích này và đã tìm thấy hòn đảo bị biến mất, có lẽ nó khá kín đáo và không có đặc điểm nào đáng nói, bởi vì “Quần đảo du kí” chỉ dành cho nó nửa trang, mô tả ngắn gọn về khí hậu “lạnh khô”, vùng nước sâu “đáng kinh ngạc” được bao bọc ba mặt bởi núi non và “thậm chí không sợ sóng thần”. Không có ghi chép về hàng hoá, không có ghi chép về hải quan, không có ghi chép về tiếng địa phương. Yumaso luôn viết bằng ngôn ngữ của Đảo Lớn, chúng tôi nghi ngờ rằng ông ấy xuất thân từ một gia đình thương nhân hàng hải, thậm chí có thể là những người nắm quyền lực. Có thể ông ấy đã được học ở Đảo Lớn, hoặc có thể ngôn ngữ của Đảo Lớn được sử dụng rộng rãi tại địa phương, chúng tôi không biết và chúng tôi đã mất cách để biết nó.

Chúng tôi quay trở lại Icahn với những câu hỏi chưa được giải đáp – chưa được giải đáp đối với tôi, còn đối với các linh mục, kết luận đã rõ ràng: đó không phải là một lời tiên tri, chỉ là nét nguệch ngoạc bên lề của một học giả đã chết từ lâu. Nếu nó thực sự có giá trị thì chắc chắn phải có ai đó đã nghiên cứu nó. Nếu hải âu magma có liên quan gì đó đến các vụ phun trào núi lửa, tại sao không coi sự kiện này là một lời tiên tri? Bản thân Yumaso có quyền làm như vậy. Hơn nữa, giấc mơ này không phải của ông, liệu chúng ta có thể tin được rằng Yumaso đã kể thật câu chuyện về người chị gái thậm chí còn không để lại tên của mình?

Đương nhiên, tôi bắt đầu chuẩn bị quay về Đảo Lớn, nhưng các linh mục lại chậm chạp không đưa ra mệnh lệnh. Khi tôi hỏi, họ tỏ ra ngạc nhiên và không hiểu tại sao tôi vẫn sẵn sàng “ra ngoài” nơi có nguy cơ chiến tranh. Tôi cho rằng ít nhất phải để mắt đến những hòn đảo bên ngoài để biết “hướng cá và tiếng gió” – đây là một câu nói địa phương, theo cách nói của cậu, nó có nghĩa là “sự phát triển của các sự kiện”, nhưng vấn đề là các linh mục không còn hứng thú với bất kỳ đàn cá hay tiếng gió nào nữa. Bọn họ dự định đợi một mùa hè, hai mùa hè, nhiều nhất là năm mùa hè, hoặc là Quần đảo phía Bắc hoặc là Đảo Lớn cuối cùng cũng sẽ cạn kiệt sức lực. Mọi người sẽ soạn thảo các hiệp định mới, thương mại sẽ trở lại bình thường, nó sẽ luôn trở lại bình thường. Cho đến lúc đó, người dân đảo Icahn sẽ khôn ngoan nếu ẩn náu trong góc nhỏ được núi lửa bảo vệ của chúng tôi, như chúng tôi đã làm kể từ khi bắt đầu có ghi chép.

Các linh mục không trực tiếp cấm tôi rời đảo nhưng lại nói rõ rằng họ sẽ không cung cấp cá heo. Việc này gần giống như phong tỏa, và vào mùa đông, không có cách nào thoát khỏi các dòng xoáy và dòng nước ngầm gần núi lửa mà không có cá heo. Tôi lại trở về nhà, từ chối sự thuyết phục của cha mẹ, mang theo ít hành lý và chuyển đến căn nhà gỗ nhỏ không có mái che.

Đó là một mùa đông cô đơn – không phải phàn nàn, tôi cố tình tự mình đi tìm nỗi cô đơn này. Lần đầu tiên tôi dành thời gian dọn sạch cỏ dại mọc trong nhà, nơi thực sự có tất cả mọi thứ, giống như một khu rừng thu nhỏ. Tôi xua đuổi một tổ chuột và cạy đi tất cả những tấm ván sàn mục nát, đen xì. Trong bếp đá có một đống xương nhỏ đã lâu không dùng, nhìn hộp sọ thì chắc là một con thỏ xui xẻo, tôi đào một cái hố nông trong đám cỏ dại màu vàng sau nhà rồi nhét những mảnh xương gãy đó vào trong.

Tiếp theo là nhiều công việc mộc khác nhau, vốn là chuyên môn của cha Sinta. Chúng tôi đo kích thước, xác định chiều dài và góc của các tấm ván, sau đó đi tìm loại cây phù hợp. Những ngày ấy trời rất lạnh, tôi khoác chiếc áo da dê đi mượn, một mình lê bước trong rừng dưới chân núi, dùng dây da đo thân cây rồi đánh dấu, hôm sau tôi đưa cha về chặt cây và làm sạch cành lá, mất ba ngày để kéo gỗ đi, hai ngày nữa mới xử lý xong gỗ và vá mái nhà.

Tôi vẫn còn nhớ ngôi nhà nhỏ đó trông như thế nào, sau khi được trùng tu lại đã trở thành một tổ ấm nhỏ ấm cúng. Một cửa sổ hướng ra núi, cửa sổ còn lại hướng ra vùng đất hoang và biển xa hơn. Mảnh đất hoang nhỏ đó cũng là của tôi, tôi có thể trồng mía và lúa mì, thậm chí tôi còn định mang cây dâu đen từ Đảo Lớn về xem có trồng được cây ngọt không. Tôi cũng nghĩ đến vị trí, trồng dưới cửa sổ hướng ra núi, sẽ có đủ ánh sáng mặt trời, nhà gỗ có thể chắn gió cho bụi cây. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó cậu đến thăm, tưởng tượng chúng tôi đi bộ trên bãi cỏ chết giá lạnh đến bờ biển rồi quay lại, chia sẻ bánh sắn và súp cá trước lò sưởi bằng đá.

Năm đó tuyết rơi mà Icahn thì không thường xuyên có tuyết nên tôi nhớ rất rõ. Bọn trẻ rất vui mừng và nhảy nhót trên bãi biển, giơ tay đuổi theo những bông tuyết. Đây là lần đầu tiên hầu hết bọn chúng nhìn thấy tuyết, đáng tiếc tuyết quá nhẹ và không bao giờ tích tụ, nó chuyển thành mưa lạnh thấu xương vào buổi trưa, bọn trẻ nhanh chóng biến mất không dấu vết. Tôi ăn bữa trưa một mình, quấn chăn len, khắc trước đống lửa một mảnh gỗ nhỏ còn sót lại sau khi sửa mái nhà, tôi muốn khắc một con vẹt. Đường nét thô đã lộ ra, nhưng góc mỏ khó xử lý, tôi đặt khối gỗ và con dao sang một bên rồi nằm xuống. Dự định ban đầu là nghỉ ngơi một lát rồi đứng dậy thêm củi vào đống lửa, nhưng tôi đã ngủ quên mất, cuộn tròn trong chăn, gối lên tay, mơ về mùa hè và cậu.
 
Chương 13: Trang 44 - 47


Người ta không bao giờ tưởng tượng được lần cuối cùng họ rời khỏi nhà là khi nào, khi nào và bằng cách nào. Tuy nhiên, nếu có cách nào đó để biết chắc chắn về thông tin này thì tôi cũng không muốn biết. Trong thơ có rất nhiều câu chuyện như thế này: nhân vật chính nhận được một lời tiên tri và từ đó sống trong sợ hãi, tìm mọi cách để thoát khỏi kết cục đã định trước, nhưng chính vì trốn thoát mà họ lại rơi vào cạm bẫy trong lời tiên tri.

Đây là cách tôi có được cái tên thứ hai trong đời. Cậu đã biết nửa sau của câu chuyện này nên tôi chỉ cần điền nửa đầu thôi. Tôi kể về căn nhà gỗ của mình, về mùa đông khi mưa và tuyết lần lượt kéo đến. Mùa xuân thì không có gì đáng nói, tôi dự định rời đảo vào mùa hè nên không bận rộn chuẩn bị gieo hạt lúa mạch xuân như những người khác, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi có thể trốn ở nhà đọc thơ, ca hát hay đan vòng hoa trong rừng như người dân Đảo Lớn, những hành vi này rất đáng ngờ trên đảo Icahn và sẽ khiến hàng xóm của tôi lo lắng. Hàng ngày, tôi dậy sớm, xách cuốc ra ngoài, gặp cha Lira trên cánh đồng lúa mì, rồi cùng ông kiên nhẫn xới đất đóng băng để chuẩn bị một chiếc nôi mềm cho hạt lúa mạch. Chúng tôi ít nói chuyện, điều đó khiến tôi thấy thoải mái hơn, chúng tôi chẳng có điểm chung gì cả. Cha Lira luôn im lặng, giống như những con vật kỳ lạ trong tranh minh họa sách cổ nửa thực nửa hư cấu, chúng to lớn, khỏe mạnh và khó nắm bắt nhưng đôi mắt luôn nhìn xuống, trông rất ngoan ngoãn. Tôi luôn nghĩ cha Lira và cha Cormoran hoàn toàn đối lập nhau, và có lẽ đó là lý do tại sao cả hai cùng trở thành cha tôi. Giống như câu nói xưa của Đảo Lớn, thế nào là gỗ, thế nào là mộng, tôi đã quên từ ngữ chính xác, tôi uống chút rượu trong bữa tối để có thể viết nhanh hơn, nhưng lại không chính xác bằng…dù sao thì cậu cũng biết tôi muốn nói gì mà.

Thỉnh thoảng Cá Hồng Bạc đến xem chúng tôi làm việc với những chú chó con của nó. Khi thời tiết ấm lên, quả bóng lông nhạy cảm này cuối cùng đã quyết định rằng tôi không phải là kẻ xấu xa xâm nhập và sẵn sàng để tôi vuốt ve đầu mình. Khi cánh đồng lúa mì không còn bận rộn, em gái tôi sẽ xin tôi đưa nó ra biển. Chúng tôi tìm kiếm một chiếc thuyền tam bản nhàn rỗi trên bãi biển, đặt chú chó con và bữa trưa vào đó, tôi giả vờ đảm bảo rằng không có ai chú ý xung quanh mình rồi tôi và em gái sẽ đẩy thuyền vào đầm và chèo vào mép. Về mặt pháp lý mà nói, thuyền tam bản chỉ cho phép bạn đi xa đến đây, không được đi xa hơn. Tuy nhiên, nếu thời tiết tốt và biển lặng, tôi sẽ lẻn qua rạn san hô và chèo ra ngoài cho đến khi dừng lại gần ngọn núi lửa đầu tiên nhô lên khỏi mặt nước. Ngọn núi lửa nhỏ đã tắt từ lâu, đỉnh núi chỉ nhô lên khỏi mặt nước một phần nhỏ, một con cá heo lười biếng nhảy là đã có thể vượt qua. Các thủy thủ sử dụng nó để đánh dấu vùng biển, nơi vùng nước hiền hòa xung quanh đảo Icahn gặp vùng biển rộng nguy hiểm và xa hơn nữa là những dòng xoáy cùng sóng gió. Nguy hiểm nhất là ngọn núi lửa dưới lòng đất, nó sẽ ném dung nham và những con tàu không may bay lên trời vào một lúc nào đó.

Chúng tôi chia sẻ bánh không men và súp cá nguội trên thuyền tam bản, nhìn bóng tối xanh xám lờ mờ của ngọn núi lửa phía xa. Em gái tôi hỏi “núi lửa” được nói như thế nào trong ngôn ngữ của Đảo Lớn, nên tôi bắt đầu nói về việc địa lý của bốn hòn đảo buôn bán ảnh hưởng như thế nào đến quan điểm của họ về núi lửa. Tôi thấy nó thú vị, nhưng em gái tôi nhanh chóng mất hứng thú. Trước mỗi chuyến về nhà, tôi bắt Cá Hồng Bạc hứa với tôi nhiều lần rằng nó sẽ không khoe khoang về những chuyến du ngoạn này với đám bạn chơi cùng, nhưng tôi đoán nó đã không giữ lời hứa. Nếu là tôi chắc tôi sẽ không tuân theo.

Trở về hòn đảo quê hương không vui như tôi tưởng tượng. Tất nhiên là tôi nhớ cậu, nhưng đó không phải là toàn bộ lý do. Mặc dù đã trở lại với ngôn ngữ mẹ đẻ tự nhiên của tôi, nhưng không ai ở đây thực sự nói được ngôn ngữ của tôi, ngôn ngữ của tôi, chỉ của Pei Jianan. Nó không hoàn toàn thuộc về đảo Icahn, cũng không thuộc về Đảo Lớn mà là hai sợi dây dính vào nhau, hay một bát bột mì với nước, người ta có thể biết trong đó có hai thành phần khác nhau nhưng không thể tách rời được nữa. Cậu có thể hiểu khi tôi mô tả nó theo cách này không? Có thể không? Cậu có thể là người cuối cùng trong đại dương không thể hiểu được cảm giác này, Tuhfa. Ngay từ khi cậu được sinh ra, cậu đã đến điểm hội tụ của tất cả các ngôn ngữ, được bao bọc an toàn trong chiếc tổ mềm mại của ngôn ngữ chung. Tiếng mẹ đẻ của cậu đã vạch ra ranh giới giữa “sự ngu dốt” và “kiến thức”, cậu có thể ra vào thoải mái và tiếp thu một ngôn ngữ ngoài đảo như chơi, nhưng không học cũng không sao. Những người khác chỉ có thể chọn leo lên núi ngữ pháp và lội qua dòng thác từ vựng xa lạ, chỉ bằng cách này, họ mới có thể hiểu được hợp đồng và mở khoá kiến thức kỹ thuật được bọc trong lớp vỏ cứng của ngôn ngữ xa lạ. Đó không hẳn là một sự lựa chọn, phải không?

Một tôn giáo đã thất truyền từ lâu, phổ biến ở rìa Quần đảo phía Nam khoảng một trăm bốn mươi mùa hè trước, từng cấm các tín đồ của mình cầu nguyện bằng ngôn ngữ của các hòn đảo bên ngoài, và nghiêm cấm việc dịch các văn bản tôn giáo vì họ tin rằng những từ xa lạ sẽ thay đổi vĩnh viễn cuộc đời một con người. Linh hồn, đồ vật và cảm xúc chỉ được phép có một cái tên, để không làm hoen ố sự trong sạch của thần – họ thờ một loại thần nước nào đó nên những lời cầu nguyện chứa đầy hình ảnh liên quan đến nước. Trớ trêu thay, tất cả những điều này lại được ghi lại bằng ngôn ngữ của Đảo Lớn, một thứ ngoại ngữ “không trong sạch”, ngôn ngữ dành riêng cho thần nước đã chết. Tôi đang nghĩ mớ học thuyết lộn xộn này có thể có một điều đúng, tất nhiên đó không phải là sự thuần khiết của các vị thần, mà là phần ngôn ngữ và tâm hồn. Tôi nói được bốn thứ tiếng, cậu có thể nói được năm thứ tiếng. Đối với chúng ta, đại dương này sẽ luôn được chia thành bốn hoặc năm phần bằng nhau. Mọi thứ sẽ luôn có nhiều hơn một cái tên, và chúng ta không có cách nào ngăn cản những từ “dư thừa” đó bật lên, không thể không nhìn thấy tất cả các quỹ đạo ngữ pháp được phân nhánh cùng một lúc, giống như chính chúng ta đã bước vào bốn hoặc năm cuộc sống phân nhánh cùng một lúc, hay một cây nho kỳ lạ cùng lúc vươn ra bốn hoặc năm tua có chiều dài khác nhau.

May mắn thay, vị thần nước bị lãng quên không biết rằng những người như chúng tôi tồn tại. Nếu chúng tôi sinh ra sớm hơn một trăm sáu mươi năm, chúng tôi có thể đã gây ra một cuộc thánh chiến. Và ngày nay các học giả sẽ nghiên cứu thơ tự sự, suy ngẫm về cuộc đời chúng tôi và tranh luận về những điều chúng tôi có thể đã nói hoặc không.

Tôi nghĩ điều đó nghe cũng hay đấy.

Tảo Lam nói rằng các linh mục lớn tuổi đã thảo luận sau lưng tôi và đồng ý rằng tôi đã mắc phải nhiều thói quen xấu từ Đảo Lớn, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc “nghiện tưởng tượng”, “lười biếng”, “kén ăn” và “quá tò mò”. Tôi không buồn tranh luận với những cái trước, nhưng tôi không hiểu sao cái cuối cùng lại có thể là một thiếu sót.

Cho đến khi thời tiết ấm lên, tôi lại mắc kẹt trong tâm trạng bất đắc dĩ và lo lắng, mưa gió lạnh buốt khiến tôi tức giận, không muốn nói chuyện với ai, dù cho đó là ai. Cha mẹ tôi phàn nàn rằng tôi đãng trí hoặc nhạy cảm và cáu kỉnh, họ không biết làm thế nào để hòa hợp với tôi, ngay cả cha Cormoran cũng không thể hỏi tôi đang nghĩ gì. Tôi trốn trong cabin, đóng gói hành lý, lại mở chiếc túi vải nhỏ ra rồi đóng lại. Tôi liên tục nhớ lại con đường biển đến Đảo Lớn, tưởng tượng con thuyền chầm chậm lướt qua những ngọn núi lửa cao chót vót, tưởng tượng nhìn thấy bến tàu của Đảo Lớn từ xa. Cuối cùng, trong mọi tình huống tưởng tượng, cậu sẽ ở đó đợi tôi, người dễ thấy nhất trong đám đông.

Nhưng trận động đất xảy ra trước mùa hè.

Đó là một buổi sáng ẩm ướt, nhưng may mắn là mặt trời đã lên cao nên tôi có thể nhìn thấy bàn ghế và ổ khóa cửa mà không cần thắp nến. Quấn trong chăn và đứng chân trần trên bãi cỏ phủ sương, ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu tôi là “Yumaso”.

Mặt đất không hề lắc lư mà rung chuyển, kèm theo một tiếng rì rầm trầm thấp, không rõ từ đâu đến, hình như ở dưới chân, nhưng lại tựa như ở sâu trong núi. “Con thú khổng lồ rên rỉ”, đây là cách Yumaso mô tả. Tôi chợt hiểu ý ông ấy. Trong giấc mơ của tôi có một âm thanh và sự rung chuyển tương tự, giống như một con cá voi bị mắc kẹt trong một tảng đá, lăn lộn vùng vẫy nhưng không thể thoát ra. Tôi loạng choạng đến gốc cây và ôm lấy thân cây. Những người khác cũng chạy ra khỏi nhà, nắm tay nhau bắt đầu cầu nguyện, đảo Icahn thường xuyên xảy ra động đất, mọi người không tỏ ra hoảng sợ mà chỉ có chút bối rối, nhiều cái đầu quay lại nhìn xung quanh, tìm kiếm nguồn gốc của tiếng động lạ.

Mọi người không hiểu. Tôi muốn chạy tới và hét vào mặt họ. Mọi người không biết, mọi người sẽ không tin vào điều đó đâu. Nhưng tôi không hề nhúc nhích, ôm chặt lấy thân cây như một đứa trẻ bị hóa đá. Lúc các linh mục tìm thấy tôi rất lâu sau khi trận động đất lắng xuống, tôi vẫn ở đó, giống như một cây nấm khổng lồ phủ len, bám vào chân cây. Họ cho tôi một ít rượu chưng cất và dẫn tôi vào đền như ngư dân kéo con hải mã đã chết.

Tôi bị nhốt trong đền suốt mùa hè, rồi cả mùa đông. Đối với tôi, thời gian là bóng tối xen kẽ, những giấc mơ, bóng tối, những giấc mơ lại xâm chiếm, rồi lại trở về bóng tối. Tôi không có câu trả lời cho những câu hỏi của các linh mục. Những giấc mơ của tôi giống như những hình ảnh lấp lánh trong sương biển vào một buổi sáng mùa đông lạnh giá. Người ta có thể nhìn thấy hình dáng đại khái của những ngôi nhà gỗ và khu chợ, nhưng bạn không thể yêu cầu tôi nói cho bạn biết những ngôi nhà không tồn tại đó có bao nhiêu cửa sổ, hay những loại trái cây được bán ở chợ. Hai linh mục tập sự đi theo tôi suốt ngày, một cặp anh em sinh đôi, không lớn hơn Cá Hồng Bạc là mấy. Họ đứng gác bên ngoài phòng tôi, không bao giờ ngăn cản tôi ra ngoài, nhưng cũng không bao giờ để tôi rời khỏi tầm mắt của họ. Ngay cả khi tôi trằn trọc và lang thang trên hành lang thấp của ngôi đền vào đêm khuya, hai cậu trai này vẫn âm thầm theo dõi từ phía sau.

Người đến gặp tôi thường là cha Cormoran. Giống như một con cá heo, ông ấy là nguồn thông tin duy nhất của tôi. Ông kể rằng năm đó đội tàu buôn không ra khơi vì đường biển đến đảo buôn bán nào cũng không còn an toàn, nếu không có tàu chiến hộ tống thì rất dễ bị tấn công, mặc dù đảo Icahn chưa chính thức tham gia chiến tranh, bạn có thể tưởng tượng rằng bọn cướp biển không hề quan tâm đến vấn đề pháp lý. Hơn nữa, “trận động đất khiến người dân trên đảo sợ hãi”, nói xong câu này ông dừng lại, như thể ông không có ý định nói cho tôi biết. Tôi nhìn chằm chằm vào ông, vì vậy ông tiếp tục. Mặc dù các linh mục bị cấm nói về những lời tiên tri, nhưng đây là một hòn đảo nhỏ. Mọi người đều biết tại sao tôi lại ở trong đền. Mọi người bắt đầu tránh mặt gia đình tôi, những người bạn chơi cùng của em gái tôi cũng bỏ chạy ngay khi họ nhìn thấy em ấy, những người hàng xóm đã không còn sẵn lòng giúp đỡ trong vụ thu hoạch lúa mạch nữa và từ chối nhận sự giúp đỡ từ cha Lira.

Cũng chính từ ông mà tôi đã nghe nói về cha của cậu. Tôi không biết làm sao cha Cormoran biết được, có lẽ ông ấy có thể nói chuyện với cá heo. Ông kể với tôi rằng những người lính mặc áo khoác da hải cẩu đã đổ bộ lên bãi biển ở phía bắc hòn đảo và nhanh chóng bị đẩy lùi ra biển, nhưng họ đã cho nổ thứ gì đó trên bãi biển, có thể là một thùng chứa đầy thuốc súng, làm nổ tung ngọn hải đăng, sau đó người ta tìm thấy Chủ tịch hội đồng giữa một đống thi thể cháy đen.

Tôi có thể nhìn thấy tất cả trong tâm trí mình, ngọn hải đăng với chân đế phủ một lớp muối và từng bó củi được cẩu lên trong một chiếc thúng vì không có ròng rọc, phía dưới nơi tôi đã ngu ngốc bảo vệ Quần đảo phía Bắc, hoàn toàn chỉ để bác bỏ cậu. Tôi tưởng tượng cậu đang đi bộ qua vùng bãi triều đến Đảo An Nghỉ, trên tay cầm hạt ngũ cốc. Tôi đứng dậy và lo lắng đi đi lại lại trong phòng cho đến khi cha Cormoran đỡ tôi ngồi xuống, đặt tay lên vai tôi cho đến khi hơi thở của tôi dịu lại.

Hãy cho tôi một chiếc thuyền, một cặp cá heo và để tôi quay trở lại Đảo Lớn. Mỗi lần gặp vị linh mục lớn tuổi, tôi đều lặp lại yêu cầu đó, từ ngày gieo lúa mạch cho đến lễ hội thu hoạch tiếp theo. Cuối cùng, tôi thậm chí còn không đề cập đến cá heo, chỉ yêu cầu một chiếc thuyền kayak và tôi sẽ tìm đường ra. Vì vậy, những linh mục tập sự đặt biệt danh cho tôi là “Kaali”, một từ đa nghĩa thường dùng để chỉ “mộng du”, nhưng nghĩa đen là “linh hồn lạc lối”, thường được dùng để chế nhạo những thủy thủ không thích cập bến. Dần dần, người ta gọi tôi bằng cái tên này, lúc đầu tôi không đáp lại, nhưng sau đó tôi không còn nài nỉ nữa. Đó là một cái tên rất thích hợp, mặc dù tôi ghét phải thừa nhận điều đó.

Đêm cuối cùng của tôi ở Icahn rất lạnh, sau nửa đêm tuyết bắt đầu rơi, lẽ ra tôi không nên để ý đến tuyết, căn phòng nhỏ ấm áp và tôi ngủ thoải mái trong hai chiếc chăn lông cừu. Mấy ngày nay tôi không hề mơ, thậm chí tôi còn thầm hy vọng lời nguyền này cuối cùng sẽ buông tha tôi và nhảy vào người khác như ếch cây độc. Nhưng đêm hôm đó, hạm đội do magma hình thành đã thổi tù và bay vào tâm trí tôi, những người lính quấn trong lửa đã đạp cửa và chém cổ tôi bằng một thanh kiếm thiêu đốt. Tôi tỉnh dậy thở hổn hển, sờ đi sờ lại cổ họng để che đi vết thương không hề tồn tại. Trên bàn có nửa bình trà thảo mộc đã nguội, tôi uống hết một hơi, cùng với những mảnh lá cỏ đã chìm xuống đáy ấm. Ngoài cửa sổ yên tĩnh, tuyết nhẹ như vụn rơi lặng lẽ. Xa xa về phía Tây, có một vùng biển nhỏ tỏa ra ánh sáng đỏ nhạt như vết bầm tím, một ngọn núi lửa dưới đáy biển đang phun trào.

Tôi không muốn quay lại giường nên mặc quần áo và chuẩn bị đi lang thang. Hai tên tập sự gác cửa vốn đã quen với thói quen ăn đêm kỳ lạ của tôi nên không nói một lời đứng dậy, khoác áo choàng len rồi đi theo tôi. Bằng cách này, tôi đã cứu được mạng sống của ba người, của chính tôi và của hai linh mục tập sự này. Hạm đội phương bắc xuất hiện vào sáng sớm, và có lẽ tôi là người đầu tiên trên đảo chú ý đến tàu chiến, trên Icahn không có lính canh, vì không có tàu nào đến đây vào mùa đông. Sau này tôi mới biết người phương Bắc mất 1/5 số tàu khi đi qua vành đai núi lửa, nhưng số còn lại cũng đủ chiếm hòn đảo quê hương của tôi.

Hai linh mục tập sự vẫn kiễng chân lên, nhìn ra ngoài với vẻ tò mò hơn là sợ hãi. Về phần tôi, bị thúc đẩy bởi ký ức kinh hoàng về trận hải chiến, tôi lập tức hạ quyết tâm và kéo hai người tập sự về bến tàu. Tôi nhảy lên chiếc thuyền gần nhất và hét lên bảo những người tập sự trẻ tuổi đang do dự đi theo tôi, và dù vì sốc hay bối rối, họ đã làm theo. Tôi gọi lũ cá heo, nhưng không quay lại xem có bao nhiêu con đáp lại. Một số ở trong chuồng và tôi không có thời gian để ý đến chúng. Tôi nghe thấy tiếng dây cung, một mũi tên sượt qua cánh tay tôi, rơi xuống nước biển, mũi tên thứ hai cắm vào thân tàu khiến hai người tập sự sợ hãi co rúm lại thành một quả bóng. Tôi chèo hết sức cho đến khi hụt hơi rồi dừng lại và quay đầu nhìn hòn đảo quê hương. Mặt trời đã mọc nhưng vẫn chưa rời khỏi đám mây mỏng, ánh lửa lóe lên giữa những tán cây thấp, giống như một đàn đom đóm khổng lồ ăn thịt độc ác, nhảy từ ngôi nhà gỗ này sang ngôi nhà gỗ khác, và cuối cùng là ngôi đền trên núi bốc cháy. Tôi nghe thấy tiếng thút thít, tưởng là mình, nhưng thực ra đó là hai người tập sự, gục dưới đáy thuyền, khóc như những đứa trẻ sợ hãi, bị nỗi sợ hãi muộn màng lấn át. Tôi lấy áo choàng len lau mặt và không nói nên lời, chỉ bắt đầu kéo họ lên rồi đặt mái chèo vào tay họ. Những chú cá heo lượn vòng quanh thuyền, thỉnh thoảng lại nhảy lên quan sát chúng tôi, một số con dường như cảm nhận được cảm xúc của chúng tôi nên ghé sát vào thuyền, dùng mõm gõ nhẹ vào thân thuyền và phát ra những âm thanh the thé buồn bã.

Tại sao điều này lại xảy ra? Cặp sinh đôi hỏi, từng lời nói đều lấm lem nước mắt và nước mũi, chúng ta còn có thể đi đâu được nữa?

Như thường lệ, tôi không có câu trả lời cho câu hỏi trước, nhưng với câu hỏi sau, có lẽ họ cũng hiểu như tôi rằng chỉ còn một nơi để đi.
 
Chương 14: Trang 48 - 50


Trên tàu không có thức ăn nhưng may mắn là năm chiếc bình đất đựng nước ngọt đều đầy. Tổng cộng có hai mươi bảy con cá heo đi theo con tàu này, đảo Icahn có sáu bảy mươi con cá heo được thuần hóa quanh năm, tôi chỉ bắt đi không đến một nửa, nhưng tôi không có gì để phàn nàn, nếu không có chúng, chúng tôi sẽ không thể đến Đảo Lớn nhanh như vậy.

Tôi và hai người tập sự thống nhất trình tự luân phiên để đảm bảo lúc nào cũng có một người chèo và một người thức vào ban đêm. Sau đó, chúng tôi tháo lưới đánh cá trong cabin, dùng dây cáp xoắn lại thành dây cương đơn giản rồi đặt lên lưng những chú cá heo, khi một nhóm bơi lội mệt mỏi thì sẽ thay thế bằng nhóm tiếp theo, sau đó tốc độ của thuyền sẽ nhanh hơn rất nhiều và chúng tôi không phải tiêu tốn chút sức lực nào. Khi đi qua vùng núi lửa, ba chúng tôi sợ hãi không dám ngủ, ngơ ngác nhìn ra biển. Vì không có ai mang theo pha lê núi lửa nên hai người tập sự đọc một lời cầu nguyện đơn giản, cởi những chiếc cúc nhỏ trên cổ áo choàng rồi ném xuống biển làm vật hiến tế.

Đây là cách tôi đến Đảo Lớn lần thứ năm: đói, nhếch nhác, cực kỳ mệt mỏi, với một đàn cá heo mà không ai biết phải làm gì và hai linh mục tập sự còn chưa có tên chính thức. Họ không nói được nhiều ngôn ngữ của hòn đảo nên tôi phải dịch từ đó ra, và chỉ khi đó tôi mới nhận ra rằng tôi đã không hỏi tên họ trong hai năm qua. Cá Ngựa và Cá Bơn, đó là tên gọi của họ, tôi không buồn hỏi ai là Cá Ngựa và ai là Cá Bơn. Tôi chộp lấy tên lính canh Đảo Lớn đầu tiên mà tôi có thể tìm được rồi hỏi anh ta Tuhfa ở đâu, nhưng anh ta không biết. Tôi ngăn người thứ hai lại, người này lẩm bẩm nói: “Có lẽ là trong phòng hội đồng.”

Tôi để những người tập sự trên bãi biển và đi thẳng đến tòa nhà bằng đá xấu xí. Dọc đường có nhiều trạm kiểm soát và hầm trú ẩn hơn tôi nhớ, những con phố nơi người bán hàng dựng quầy trước đây đều bị hàng rào gỗ chặn lại. Không có nhà thơ hay trẻ em nào chạy nhảy hò hét hào hứng giữa khoảng không gian rộng mở bên hồ, những ngôi nhà gỗ đều im ắng, cửa không mở, cửa sổ gỗ đóng kín, nhiều hơn một ngôi nhà được treo lá dừa khô bày tỏ lời chia buồn. Tôi đi vòng qua hàng rào gỗ chặn cửa hội trường thì bị một tên lính canh cầm giáo chặn lại, tên lính canh thấp hơn tôi nửa cái đầu, trông như một đứa trẻ, lẽ ra cậu ta nên chơi bóng ở bãi đất trống bên hồ thay vì canh gác ở đây.  Tôi nói với cậu ta tên của tôi và rằng tôi muốn gặp Tuhfa, nhưng lính canh không nhận ra tôi, đẩy tôi lại rồi nói rằng bây giờ cậu không gặp ai cả, đặc biệt là những người từ ngoài đảo. Ngay khi tôi đang cân nhắc xem mình có đủ sức để hạ gục cậu ta hay không, một tên lính canh khác đang uống canh rong biển trên bậc thang xa hơn một chút đã nhận ra tôi và nhẹ nhàng đẩy gã nhỏ cầm giáo ra, để tôi đi vào.

Ngọn lửa vẫn cháy trong đại sảnh như thường lệ, mùi gỗ thông quyện với mùi rong biển luộc vẫn thường trực. Người đưa tin chắc hẳn cũng cảm thấy như vậy khi cô được giúp đỡ trong ngần ấy năm về trước: một niềm nhẹ nhõm tràn ngập, lấn át chút ý chí cuối cùng mà cô đã dùng để chèo thuyền trốn thoát một mình. Tôi rất ngạc nhiên khi cô ấy có thể tiếp tục nói lâu như vậy, bởi vì rõ ràng là tôi không thể làm được việc như vậy. Tôi chỉ kịp nhìn rõ mặt cậu, thấy cậu đứng dậy chạy về phía tôi, rồi ngọn lửa tắt trước mắt tôi, toàn bộ căn phòng biến mất, và tôi thậm chí không thể nhớ được cảm giác ngã xuống nền đất là như thế nào.

——

Theo lời cậu nói thì tôi chỉ ngủ được một đêm rồi tỉnh lại. Nhưng trong ấn tượng của tôi, khoảng thời gian bất tỉnh đó giống như một làn sương mù tăm tối không có hồi kết, tôi lơ lửng trong đó, không có ý thức hay trọng lượng. Thỉnh thoảng có vài giọng nói gọi tên tôi, nhưng tôi chính là làn sương mù dày đặc này, sương mù không có tên người nên đương nhiên tôi không cần phải đáp lại.

Tôi thức dậy dưới ánh nắng chói chang, tưởng mình vẫn đang ở trong đền nhưng ngoài cửa sổ đã có bóng cây đung đưa, trong đó có cây chuối lá rộng như được phủ một lớp dầu cá ẩm ướt. Cậu bước tới từ phía bên kia của căn phòng và ngồi ở mép giường, trên tay cầm nửa chiếc gáo dừa và một loại trà nào đó đang văng tung tóe trong đó. Cậu đỡ tôi ngồi dậy và đưa gáo dừa cho tôi, nhưng tôi giả vờ như không nhìn thấy, tôi sờ kỹ vào tay cậu trước để đảm bảo không có tro rơi xuống, rồi mới chạm vào má cậu. Cậu cười, quay đầu lại cắn nhẹ vào ngón trỏ của tôi, chắc đang nghĩ đó là trò tán tỉnh. Nhưng tôi thậm chí còn không nghĩ đến chuyện tán tỉnh, tôi thực sự đang kiểm tra, tôi phải chắc chắn rằng cậu không phải là ảo ảnh do một con cá voi magma tạo ra. Đầu óc rối bời của tôi bị thu hút bởi tiếng chim hót líu lo, tôi quay lại nhìn những cây chuối bên ngoài, rồi say mê nhìn chằm chằm vào những đốm sáng trên bậu cửa sổ. Cậu gọi tên tôi, đặt gáo dừa xuống, ôm mặt tôi trong tay và yêu cầu tôi nhìn cậu.

Cậu ổn chứ, cá nhỏ? Cậu hỏi.

Cổ họng tôi lại tắc nghẽn, một cơn đau nhói lan ra từ mắt tôi rồi từ từ chiếm lấy toàn bộ đầu óc của tôi. Cuối cùng, khi tôi đã nói được, điều đầu tiên tôi nói đến là căn nhà gỗ của mình, mùi của những tấm ván mới cắt và những bụi dâu đen mà tôi chưa bao giờ có cơ hội trồng. Cậu ngồi đó lắng nghe mà không ngắt lời hay yêu cầu tôi “nói rõ hơn đi”, vì vậy nên tôi đã nhổ hết những mảnh vụn tích tụ ra và đổ đi một ít mỗi ngày. Không phải lúc nào cậu cũng rảnh rỗi nên có khi tôi quấn chăn ngủ cả ngày, có khi một mình đi lang thang trên sườn đồi, nếu hai tên tập sự vô tình nhìn thấy tôi thì sẽ chạy đến như chó con, không phải để giám sát mà chỉ để nói vài lời với tôi, bằng ngôn ngữ chung của chúng tôi. Tôi là điều duy nhất trên hòn đảo xa lạ này cho phép họ xác nhận sự tồn tại của đảo Icahn, là một nơi neo đậu cảm xúc.

Một buổi tối, cậu mang cho tôi giấy, mực và bút chấm, mực là mực than cốc(1) thông thường, loại làm từ vỏ cây và nhựa cây. Tôi nửa đùa nửa thật hỏi Hội đồng Đảo Lớn xem họ có muốn một bản ghi đều đặn như nhật ký không. Cậu phủ nhận và nói rằng nó chỉ để cho tôi có một cách khác để giết thời gian thôi. Tôi có thể viết bất cứ điều gì tôi thích. Nếu tôi viết thơ tự sự thì cậu tin chắc có thể tìm được nhà thơ để sáng tác nhạc cho tôi.

(1) Than cốc là một loại nhiên liệu xám, cứng và xốp có hàm lượng cacbon cao và ít tạp chất, được tạo ra bằng cách nung nóng than mỡ hoặc dầu trong môi trường yếm khí – một quá trình chưng cất phá hủy.

Không có thơ thì tôi không biết phải viết gì. Cuối cùng, tôi đã viết “nhật ký”, một bản tường trình khô khan, sắp xếp những mảnh rời rạc theo trình tự thời gian. Cậu hỏi tôi có thể đưa bản ghi chép này cho hội đồng xem không. Tất nhiên là tôi có thể. Thực ra, tôi viết nó chỉ cho họ thôi. Tôi cố tình dỡ bỏ căn nhà gỗ và không đề cập đến bụi dâu đen mà tôi đã hình dung. Tôi không đề cập đến cả việc em gái tôi và chiếc thuyền tam bản của chúng tôi đã trôi trái phép ra biển khơi.

Khi Hội đồng Đảo Lớn mời tôi “trả lời một hai câu hỏi”, tôi nghĩ họ quan tâm đến hạm đội phương Bắc nên tôi đã cố gắng để nhớ lại số hiệu, hình dáng, cờ hiệu của các con tàu, đồng thời chuẩn bị xin lỗi vì trí nhớ “cực kỳ mơ hồ” của mình bởi “sáng sớm ánh sáng yếu” và bởi tôi “hoảng loạn”. Tuy nhiên, hầu hết các câu hỏi mà các đại biểu đặt ra đều xoay quanh trận động đất. Họ muốn biết “tiếng động lạ” ở đâu và tần suất xuất hiện của nó là bao nhiêu, “Ngoài ra, khi đi ngang qua vành đai núi lửa, các cậu có thấy điều gì bất thường không?”

Vì thế tôi hỏi có phải Đảo Lớn từng trải qua một trận động đất tương tự không?

Tôi nhìn cậu, nhưng người đàn ông bên cạnh cậu đeo dải ruy băng đỏ đã trả lời, có lẽ là một nhà lãnh đạo tôn giáo nào đó, nhưng tôi không biết con diệc xanh trên áo choàng của anh ta tượng trưng cho đức tin nào. Anh ta nói với giọng chậm rãi và thận trọng rằng Đảo Lớn đã xảy ra một trận động đất vào cuối mùa xuân năm ngoái, trong ký ức mà người dân trên đảo có thể truy tìm, trận động đất cuối cùng xảy ra cách đây hơn mười mùa hè và một số ống khói đã bị sập. Ngoài ra không có tổn thất nào khác. Lần này không còn cảm giác như trước nữa, thay vì rung chuyển, nó giống như cộng hưởng hơn, giống như việc đưa tay ra chạm vào đầu trống vừa bị đánh mạnh.

“Giống như một âm thanh rắn chắc.” Tôi xen vào, các đại biểu lẩm bẩm không rõ ràng và gật đầu.

Tôi gần như muốn nói ngay tại chỗ về lời tiên tri và học giả Yumaso, nhưng cuối cùng tôi quyết định tôn trọng truyền thống không nói công khai về đảo đá nhỏ và giữ im lặng. Ngoài ra, tôi không chắc các đại biểu sẽ nghĩ gì về tôi nếu tôi nói: “Tôi có một giấc mơ về một con cá voi yêu cầu tôi hát, vì vậy tôi nghĩ rằng một ngày nào đó rất gần núi lửa có thể sẽ phun trào và tất cả chúng ta sẽ bị nướng chín”.

Hôm đó cậu ra khỏi phòng rất muộn, tôi không biết chính xác là khi nào và tôi cũng không đợi cậu. Khi cậu tìm thấy tôi trên sườn đồi hướng về phía nam, tôi thực sự ngạc nhiên và hỏi cậu làm sao cậu biết tôi ở đâu. Cậu cười rồi nói không biết, vậy nên chỉ có thể tìm kiếm những nơi mà cậu nghĩ tôi sẽ đi, từng nơi một. Cậu đến đầm phá trước đó nhưng không tìm được tôi, sau đó mới đi tới sườn núi này.

Áo choàng của cậu vừa vặn trên nền đất. Viết xong câu này tôi mới nhận ra là đọc không ổn lắm, ý tôi là chiếc áo choàng ngăn cách hoàn toàn với sỏi và cỏ ẩm, đủ rộng để chúng tôi nằm cạnh nhau. Đó là một đêm không quang đãng, không thấy một ngôi sao nào, thỉnh thoảng có gió thổi qua mùi bùn và rong biển thối kỳ lạ, vào một đêm như vậy, ngọn hải đăng ở cảng đáng lẽ phải rất nổi bật, nhưng thực tế ở đó chỉ là những bóng đen chồng lên nhau, với một ngọn lửa nhỏ bập bùng trong đó.

Chúng tôi trò chuyện một lúc về đảo Icahn. Nhìn lại, cuộc tấn công của người phương Bắc đơn giản là không thể tránh khỏi. Sau khi chiếm đảo Icahn, Vua Atukwa ngay lập tức có được một cảng không có sương giá, khí hậu ôn hòa hơn và mặc dù có ít cánh đồng trồng trọt nhưng ông vẫn có thể nuôi sống đội quân đang ngày càng lớn mạnh của mình. Hơn nữa, giờ đây họ đã ở gần Đảo Lớn hơn và đường tiếp tế của họ được rút ngắn. Quan trọng hơn, hạm đội rút lui không còn phải mạo hiểm bão tuyết để quay trở lại với khí hậu khắc nghiệt của đảo mẹ, với cá heo, chúng có thể lao vào vành đai núi lửa và dễ dàng thoát khỏi hạm đội Đảo Lớn đang truy đuổi.

Tôi không hiểu tại sao các linh mục lại không nghĩ đến tất cả những điều này.

“Không phải là mình không nghĩ đến điều đó”, cậu nói: “Nhưng mình không muốn nghĩ như vậy. Nếu họ đi đến kết luận mà cậu vừa đưa ra, điều đó có nghĩa là cần phải xây dựng hệ thống phòng thủ cảng, binh lính cần phải được huấn luyện, tàu chiến cần được chế tạo, và tàu chiến cần được điều động thường xuyên. Người tuần tra vành đai núi lửa, cần cái này, cần cái kia, thời gian, gỗ, ngũ cốc, quặng, con người. Tốt hơn là nên tự nhủ: ‘Không, người phương Bắc sẽ không đến, vì núi lửa rất nguy hiểm, vì chúng ta không ‘khiêu khích’ người phương bắc, và vì chẳng có gì đáng để cướp bóc trên hòn đảo này cả’. Thật đáng tiếc cho Atukwa, sự tồn tại đơn thuần của một hòn đảo trong đại dương cũng đã là một sự khiêu khích với hắn.”

“Giá như chúng ta chuẩn bị sớm hơn vài mùa hè…“

“Rất có thể sẽ không có gì khác biệt. Có lẽ sẽ khiến người phương Bắc mất thêm vài chiếc tàu, nhưng kết quả cuối cùng vẫn như nhau.”

Tôi thở dài: “Ít nhất mình cũng mang theo cá heo.”

“Ít nhất thì cậu cũng mang theo cá heo.” Cậu chạm vào cánh tay tôi. “Mình rất vui vì cậu đã quay lại, mặc dù mình thực sự hy vọng rằng đó không phải là một cuộc chạy trốn. Mình mong cậu sẽ không bao giờ rời đi, tất nhiên trừ khi là cậu muốn quay lại, nghĩa là nếu có thể đuổi được người phương Bắc…”

Khi lo lắng, cậu sẽ nhanh chóng rơi vào hố cát của những điều vô nghĩa, tôi thực lòng mong rằng điều này không xảy ra khi cậu thường phải tham gia vào việc ra quyết định trong hội đồng. Tôi đặt tay lên cánh tay cậu để nói với cậu rằng tôi hiểu ý cậu, và có một điều nữa mà tôi muốn nói với cậu, điều mà tôi đã không nói trong hội đồng vì nó liên quan đến một hòn đảo mà cậu có thể chưa bao giờ nghe nói đến, thêm nữa là một lời tiên tri mà tôi không biết liệu nó có được tính là một lời tiên tri hay không.
 
Chương 15: Trang 51 - 53


“Hát gì cơ?”

Câu hỏi đầu tiên cậu hỏi đúng như những gì tôi mong đợi, giá như tôi có được câu trả lời.

“Có lẽ là một loại ẩn dụ nào đó?” Cậu tiếp tục liệt kê ý kiến của mình, và tôi tiếp tục nhún vai, tỏ vẻ không chắc chắn: “Có lẽ đó không phải là một bài hát theo nghĩa đen. Cậu có nghĩ nó sẽ là một câu thần chú không?”

“Mình không biết, Tuhfa.”

“Cậu đã nhìn thấy một con cá voi phải không? Nhưng chị gái của Yumaso lại nhìn thấy một con chim.”

“Ừ, một con hải âu.”

“Có lẽ nó liên quan đến phạm vi bùng phát, cậu có nghĩ vậy không? Nếu hải âu báo trước một hòn đảo, thì cá voi…”

Cậu chưa nói hết và cậu cũng không cần phải nói hết. Chúng tôi im lặng một lúc, cậu cắn móng tay cái, còn tôi kéo mạnh đám cỏ khô trên mặt đất, chúng thực sự khỏe hơn tôi nghĩ, giống như gân động vật khô bám vào đất. Tôi rũ bỏ mảnh vụn trên tay, vô thức nhìn về phía đông nam, tìm kiếm ngọn núi lửa, lại nhớ ra mình không ở đảo Icahn, tôi chuyển sự chú ý sang cậu và hỏi tiếp theo chúng ta nên làm gì.

“Mình nghĩ chúng ta nên nói với mọi người.”

Ý tưởng hay, xét về mặt logic. Ý tưởng tồi, xét về tính khả thi. Cậu đã tiếp thu tất cả những gì tôi kể với cậu: những con cá voi magma, hòn đảo đá nhỏ, những câu viết đứt quãng được viết bên lề của một học giả đã chết từ lâu, ngày tận thế núi lửa có thể đã xảy ra hoặc cũng có thể không, Nhưng đó là vì tôi là người nói và cậu là người lắng nghe. Thuyết phục người khác khó hơn rất nhiều, giống như cốt truyện phổ biến nhất trong thơ tự sự, khi nhân vật chính cố gắng nói với người khác về lời tiên tri, phản ứng đầu tiên của mọi người là phản kháng, sau đó là bối rối, cuối cùng là chán nản, nghĩ rằng nhân vật chính đang quấy rối cuộc sống yên bình của họ theo một cách không cần thiết.

Một lời tiên tri bản chất là một câu chuyện, vốn dĩ tôi nghĩ thứ khiến người ta chú ý lắng nghe chính là những thăng trầm của cốt truyện, cứ sau hai dòng là nó phải kỳ quái, ngoằn ngoèo và bùng nổ lên màu sắc mãnh liệt. Không ai muốn nghe về những người trồng chuối trên Đảo Lớn, nhưng nếu tôi nói: “Những người trồng chuối vô tình giải phóng tà linh cổ xưa khi khai hoang đất rừng”, tai người ta có thể vểnh lên ngay. Vì vậy tôi đã từng mô tả trải nghiệm của Yumaso như một lời cảnh báo về ngày tận thế, khẳng định rằng các linh mục của Giáo hội Núi lửa đã tìm thấy bằng chứng trong sách cổ. Hãy thức tỉnh đi, cư dân Đảo Lớn! Hãy coi chừng núi lửa!

Nhưng tôi sớm phát hiện ra rằng điều này cũng không hiệu quả. Cốt truyện quá bạo lực và có thể nghe như một lời đe dọa. Mọi người nghe xong thậm chí còn chế nhạo, sau đó quay đầu rồi quên mất nó. Tôi cũng đã học cách loại pháp sư của Icahn ra khỏi câu chuyện vì nó đi quá xa so với trải nghiệm hàng ngày, như vậy mọi người cũng sẽ mất hứng thú. Điều khiến tôi hơi buồn là nhiều người trên Đảo Lớn không biết hòn đảo quê hương của tôi cụ thể nằm ở đâu, họ có thể đếm được ba hoặc bốn mặt hàng được xuất khẩu từ đảo Icahn, nhưng có người cho rằng đảo Icahn là một phần của Quần đảo phía Bắc, và lại có người khẳng định rằng nó nằm ở vùng Đông Bắc, thậm chí có đại biểu còn cho rằng nó nằm ở vùng biển phía Nam.

Việc này tốt hơn với cậu. Mặc dù cậu chưa phải là Chủ tịch hội đồng nhưng mọi người có thể thấy rằng một ngày nào đó cậu sẽ đạt được nó. Các thủy thủ, thương gia và đại biểu lớn tuổi là những khán giả tốt nhất của cậu. Các vu y có thể không thích cậu nhưng vẫn sẽ ủng hộ cậu khi đến thời điểm bỏ phiếu. Tuy nhiên, sức hút của cậu cũng có giới hạn, những người chăn cừu coi cậu như một trò đùa, còn những người đại diện cho ngư dân lại cho rằng cậu đã bị “người tình nhỏ” của mình lừa dối. Tại sao họ luôn nghĩ “nhỏ” là miệt thị? Nếu chúng tôi đánh nhau nghiêm túc, tôi không nghĩ vị đại biểu đó có thể là đối thủ của “người tình nhỏ”, nhưng cậu đã kéo tôi đi trước khi tôi kịp nói gì.

Thay đổi chiến lược và suy nghĩ lại về khán giả của cậu. Chúng ta cần tìm một người đã biết về sự tồn tại của đảo đá nhỏ, có nhiều khả năng tin vào lời tiên tri hơn những người khác và có một ghế trong hội đồng. Các nhà lãnh đạo tôn giáo có vẻ là lựa chọn phù hợp nhất, nhưng họ quá rời rạc, không thân thiện với nhau và có “cái tôi quá nhạy cảm”, theo cậu, dù cho chúng ta ghé thăm nơi nào trước thì những người còn lại đều sẽ cảm thấy khó chịu và cho rằng mình đang bị hắt hủi. Không, khán giả lý tưởng sẽ là người đối lập với đám ruy băng đỏ, một nhóm người không tin vào thần linh và phép thuật của pháp sư, nhưng có thể bị thuyết phục bằng bằng chứng.

Thế là, vào một buổi chiều mùa đông u ám, tôi một mình vào rừng và lê bước sang bên kia hồ tìm kiếm chỗ ở của dược sư. Họ sống cùng nhau, như những con ong, kiên nhẫn bảo trì một tòa nhà gỗ cũ, sửa chữa, cải tạo và mở rộng nó, dần dần biến nó thành một pháo đài hình bán nguyệt, to gần bằng phòng hội đồng, và giống như phòng hội đồng, cửa luôn mở, tôi vẫn còn nhớ mùi của cây cói bao phủ khắp hành lang, khô ráo và thơm ngát. Chiếc kệ gỗ gần cửa nhất đựng những loại thuốc mỡ và cồn thuốc thông dụng, kệ rất thấp, để những đứa trẻ được cha mẹ gửi đến đây có thể tự lấy dễ dàng hơn, một cậu bé tựa đầu vào kệ ngủ gật, chiếc túi nhỏ đựng tiền lẻ đã rơi xuống đất, có lẽ là một người tập sự. Tôi lay cậu bé dậy, thì thầm lời xin lỗi, chỉ cho cậu bé thấy chiếc túi nhỏ trên sàn và hỏi cậu nên tìm thầy ở đâu. Dược sư tập sự chỉ một ngón tay lên trời.

Tôi bước vào hành lang và đi về phía cầu thang, đi qua những chiếc bàn dài, những đám cỏ khô xào xạc dưới chân tôi. Không ai liếc nhìn tôi khi mà các dược sư còn đang bận rộn nghiền hạt, cân bột thô và một nhóm người còn đang khuấy một thứ bột nhão tỏa ra mùi chua nồng nặc. Tôi bước đến gần lan can, cầu thang rộng đến mức tôi có cảm giác mình như một con bọ nhỏ đang chậm rãi bò dọc theo thân cây. Các phòng ở tầng hai đều đóng kín cửa nên tôi không nhìn rõ bên trong có gì, hành lang rẽ ra phía xa, dẫn đến nhiều phòng hơn ở một bên, bên còn lại dẫn đến một không gian cao và tối, tôi lén quyết định sẽ đi vào xem xét trước khi rời đi, rồi tiếp tục bước lên.

Điểm cao nhất là phòng viết, chiếm gần như toàn bộ không gian, sáng sủa và lạnh lẽo, có rất nhiều cửa sổ, mỗi cái đều cao và rộng đến mức khiến người ta lo lắng không biết những cột gỗ mỏng có thể đỡ được mái nhà hay không. Người tôi tìm đang ở cửa sổ thứ tư, đang sao chép danh sách thực vật nào đó. Theo mô tả của cậu, tôi cứ tưởng đại diện hội đồng Dược sư là một ông già khô héo, nhưng đại diện Ashayo trông còn trẻ hơn cả cha Cormoran, dải ruy băng đen được tết trên mái tóc đen khiến người ta khó nhận ra. Tôi sẽ không bao giờ quen với những cái tên trên Đảo Lớn. “Ashayo” là một động từ, mang nghĩa “tìm kiếm, truy lùng.” Đối với tai tôi, loại tên riêng này được gắn vào một câu cũng giống như cát nhúng vào bột. Tôi có thể tưởng tượng cậu đang tranh cãi: “Nhưng chẳng phải cá và rong biển còn kỳ lạ hơn sao?” Có lẽ vậy, nhưng ít nhất chúng tôi vẫn đang sử dụng danh từ.

Tôi nhắc đến tên của cậu, nhưng Ashayo đã nhận ra tôi, vào ngày tôi trốn thoát cùng đàn cá heo và ngất xỉu trong phòng họp, anh không chỉ có mặt mà còn là người đầu tiên ra tay giúp đỡ. Tôi không nhớ gì về chuyện đó, nhưng dù sao tôi cũng cảm ơn anh và nói rằng tôi muốn nói chuyện với anh về đảo đá nhỏ, rằng linh mục của Icahn đã tìm thấy thứ gì đó trong bộ sưu tập mà có thể anh quan tâm.

Ngay khi nghe thấy đảo đá nhỏ, Ashayo đặt bút xuống và ra hiệu cho tôi đi theo anh, hướng tới cây cầu hình tròn ở phía bên kia. Anh mở một cánh cửa nhỏ mà trước đây tôi không để ý tới, so với phòng viết, căn phòng nhỏ tối tăm và ngột ngạt hơn, thoang thoảng mùi ôi thiu nhưng đã bị che khuất bởi hương trầm. Trên tường có một phiến đá phẳng gắn hình các tuần trăng, bên dưới có một chiếc giỏ mây ném đầy xương ố vàng, tôi cố tránh xa đống xương khả nghi và chen vào cạnh kệ sách. Tôi kể lại mọi chuyện ngắn gọn, lựa chọn từ ngữ cẩn thận, loại bỏ tính từ nếu có thể và chỉ đưa ra những mô tả đơn giản nhất, ít nói về những giấc mơ hay cá voi mà nói nhiều hơn về các bộ sưu tập sách cùng học giả Yumaso. Tôi có thể nói rằng lúc đầu anh không thực sự lắng nghe và cũng không thực sự chú ý đến tôi cho đến khi tôi nói đến vấn đề về trận động đất ở Icahn. Có người gõ cửa giữa chừng, nhưng Ashayo phớt lờ và tiếp tục hỏi tôi về tần suất động đất, sau đó anh hỏi tôi linh mục của đảo Icahn nghĩ gì về chuyện này, có ghi chép nào liên quan trong “Biên niên sử của những ngọn núi lửa” không? Những bộ sưu tập sách khác trong đền?

Có lẽ là không, tôi nói, nếu không thì các linh mục sẽ không cần phải đến hòn đảo nhỏ đầy đá này. Cho dù ngôi đền không bị phá hủy thì hiện tại cũng đã bị quân phương Bắc chiếm đóng, bất kỳ cuốn sách không có bản sao nào trên đảo đá nhỏ chỉ có thể coi là bị thất lạc.

“Vậy tất cả bằng chứng của cậu chỉ là một giấc mơ và vài dòng viết cách đây hơn tám mươi mùa hè.”

Nếu vậy thì sao? Tôi gần như hét vào mặt dược sư, đây không phải là cách mọi người hiểu về đại dương này sao?

“Nếu cậu muốn miêu tả nó theo cách đó, thì đúng vậy.”

Dược sư xoa xoa sống mũi: “Dĩ nhiên linh mục của cậu sẽ tin vào những lời tiên tri và những thứ tương tự, ta tôn trọng điều đó, nhưng thỉnh thoảng động đất có rất nhiều nguyên nhân, và những gì cậu nói đều không tính…“

Có một tiếng gõ cửa khác. Dược sư thở dài, mở chốt rồi mở cửa, một người tập sự trẻ đứng bên ngoài, thở hổn hển, mặt và cổ đầy mồ hôi, như thể đã chạy rất xa. Cậu ta yêu cầu Ashayo đi đến bến tàu ngay lập tức, nơi mọi người đang tụ tập. “Vì cá voi.” Cá voi gì? “Ngài sẽ biết nếu ngài tự đi xem nó, ngay bây giờ.”

Thế nên tôi đã mất cơ hội tìm hiểu lối đi tối tăm trên tầng hai dẫn tới đâu. Chúng tôi vội vã đến bãi biển, càng đến gần bến tàu thì người ở đó càng đông, và cuối cùng giống như lội qua đám đông xem đốt lửa trại ở lễ hội thu hoạch. Người tập sự đi trước, lẩm bẩm xin lỗi rồi đẩy người dân đảo sang một bên để Ashayo đi qua, tôi bám sát phía sau dược sư, anh dừng lại mà không báo trước, tôi suýt chút nữa đã va vào lưng anh.

Có nhiều hơn một con cá voi mắc cạn trên bãi biển, nhìn quanh, từ bến tàu đến mũi đất, cứ cách vài bước lại có một con thú khổng lồ sắp chết, một số còn đang vùng vẫy, vài thủy thủ do dự đến gần, nhưng nhanh chóng bị chiếc vây đuôi co giật làm cho sợ hãi bỏ đi. Vu y cũng đến, đám đông im lặng dịch sang một bên, để bà lão đi bộ đến bãi biển, một cô gái trẻ theo sát phía sau, kéo theo một chiếc giỏ khổng lồ, vu y chậm rãi đi dọc theo bãi biển đến mũi đất và chữa bệnh. Nói chuyện với từng cái xác cá voi, lấy ra một thứ gì đó không rõ từ trong giỏ rồi rắc lên bãi cát xung quanh chúng. Bên cạnh tôi, Ashayo nhìn chằm chằm vào vu y và khịt mũi khinh thường, nhưng không nói gì.

Bằng chứng này đã đủ chưa? Tôi thực sự muốn hỏi anh, anh còn muốn xem gì nữa?

Nhưng tôi đã không nói.
 
Chương 16: Trang 54 - 57


Một sự trùng hợp ngẫu nhiên: Tôi vừa viết xong về cá voi mắc cạn hai ngày trước, và sáng nay tôi lại tình cờ gặp một con cá heo chết. Anh chàng tội nghiệp này chắc đã bị sóng đẩy lên vào lúc nào đó trong đêm khuya, vì chiều hôm qua khi tôi phơi rong biển lên, trên bãi biển chẳng có gì cả. Bãi biển phía Tây thoai thoải, phía Đông cao hơn một chút, cũng nhiều đá hơn, xác cá heo mắc kẹt giữa những tảng đá, trên bụng có một vết bỏng dài hơn cánh tay, chỉ nhìn vết thương thôi tôi đã cảm thấy bụng mình đau âm ỉ. Thậm chí nó còn không thể thoát khỏi ngọn núi lửa ngầm dữ dội.

Tôi đã cân nhắc đến việc chôn con cá heo, nhưng tôi không muốn chạm vào cái xác trương phồng và cũng không có dụng cụ để di chuyển nó. Cuối cùng, tôi nhặt hai mảnh gỗ lũa lên, “cứu” con cá heo chết giữa những tảng đá rồi đẩy nó ra biển một cách nhẹ nhàng nhất có thể. Ban đầu những cơn sóng chống lại tôi, cứ cuốn xác nó về nên tôi đành phải bước ra ngoài, đến khi nước ngập tới ngực thì đàn cá heo mới trôi được ra biển. Tôi ngồi trên rạn san hô ẩm ướt nhìn, rất lâu sau khi xác cá heo biến mất, tôi vẫn ngồi đó, không muốn cử động, không muốn quay lại, không muốn đối mặt với tình cảnh thực ra mình chẳng có việc gì để làm, và cũng không muốn tiếp tục viết. Một giọng nói trong đầu tôi cứ hét lên: Tuhfa sẽ không đọc thứ này đâu! Sẽ không có ai đọc thứ này đâu! Vô nghĩa! Vô nghĩa!

Loại mệt mỏi này kỳ thực đã xuất hiện từ mấy ngày trước, tôi không còn ngồi cả ngày ở bàn làm việc như trước nữa, cũng không còn vội vã quay lại khi đi câu cá. Chắc là do thời tiết, hôm qua tôi bận phơi rong biển vì trời hiếm ánh nắng và mưa rất lâu, dù trời tạnh mưa trong chốc lát thì cũng kéo theo một làn sương mù dày đặc màu xám, như muốn chôn vùi tôi và hòn đảo. Sương mù khác với những gì tôi nhớ, dày hơn và có mùi tro.

Nhưng bây giờ, trời đã tạnh, rong biển cũng được xếp ngay ngắn trên kệ, cá đã được thái lát và ướp muối, trong nồi có hến sạch, xác cá heo đã về với biển, tôi biết lấy cớ gì đây? Tôi chỉ có thể quay lại phòng viết và tiếp tục viết về mùa đông ảm đạm đó. Đó là những ngày cuối cùng của “tự do”(theo lời của cậu, không phải của tôi), đến mùa hè, cậu đã được bầu làm Chủ tịch hội đồng. Nhưng mùa đông trước đó và mùa xuân ngắn ngủi sau đó, cậu vẫn thuộc về tôi chứ không thuộc về Đảo Lớn.

Đó là một mùa đông tồi tệ, theo mọi nghĩa của từ này. Thời tiết lạnh đến mức một đàn cừu được cởi trói đã chết cóng trên sườn núi, điều mà chưa một ai trên Đảo Lớn chứng kiến trong nhiều thế hệ. Tệ hơn nữa, hầu hết mọi người đều không có lò sưởi trong nhà, người ta phải đào một cái hố bùn giữa phòng và đốt một đống lửa bên trong, kết quả là ít nhất mười ngôi nhà gỗ đã bị thiêu rụi. Kể từ đó, Hội đồng đã ban hành lệnh tạm thời tuyên bố rằng không được phép đốt lửa trong nhà trừ khi có lò sưởi hoặc lò than bằng đồng. Vào những đêm đặc biệt lạnh giá, phòng hội đồng sẽ mở cửa, đốt lửa trại và cho mọi người ngủ bên trong. Bọn trẻ rõ ràng nghĩ đây là một trò chơi đặc biệt, nhảy thành nhóm quanh đống lửa trại rồi hát những bài hát thiếu nhi không tên.

Xác cá voi vẫn đang thối rữa trên bãi biển, nếu hướng gió không tốt, mùi hôi thối có thể ngửi thấy ở mọi ngóc ngách trên Đảo Lớn, hoàn toàn không thể tránh khỏi. Người ta cố gắng hết sức để xử lý những cái xác cá voi nhỏ hơn, cưa xác thành từng mảnh nhỏ rồi dùng thuyền kéo từng mảnh ra biển khơi, còn xác lớn hơn thì người ta không biết phải làm gì. Pháp sư cố gắng triệu hồi ngọn lửa ma thuật để đốt cháy chúng, nhưng ba hoặc bốn cái xác cá voi đã rút cạn sức lực của họ, buộc họ phải hỗ trợ lẫn nhau và trốn trong căn lều tối tăm ngủ một ngày. Những chiếc xương bị đốt cháy để lại những vết cháy đen lớn trên bãi biển, phần còn lại chỉ có thể tiếp tục thối rữa.

Cậu có một lò sưởi trong nhà, nhưng chúng tôi hiếm khi dành thời gian ở đó. Sửa chữa một chiếc thuyền là một công việc tốn rất nhiều thời gian và sức lực, trên thuyền không có chỗ nào thuận tiện cho việc buộc cá heo, hình dạng đáy thuyền không phù hợp, khi bị cá heo kéo, thuyền có thể bị lật, vì vậy trước tiên cậu cần thực hiện một số sửa đổi. Sau đó mái chèo và cánh buồm mới sẽ được chế tạo để chống chọi với những cơn gió mùa đông. Các dược sư dệt một tấm vải khổng lồ, nhìn như vải bạt nhưng hình như không phải, phủ một lớp dày màu xám xen lẫn những dải vải vụn màu xanh đậm, nhìn từ xa trông như những đám rong biển trôi nổi. Nó sẽ là nơi trú ẩn khi chúng tôi đến được Quần đảo Đôi, miễn là chúng tôi không đến “quá gần” – tôi vẫn không chắc đây có phải là một trò đùa hay không. Dược sư nói câu này với vẻ mặt nghiêm túc, và cũng không có ai xung quanh anh cười. Tuy nhiên, mục đích mọi người sửa chữa con tàu này chính xác là để “đến gần” Quần đảo Đôi, không chỉ để đến gần mà còn để cập bến, đặt chân lên bãi biển và bước vào làng…Mọi việc phải được thực hiện trước mặt quân lính phương Bắc.

Ashayo có một “người bạn nghiên cứu các bài hát dân ca cổ” sống trên Quần đảo Đôi. Người bạn này tình cờ là một pháp sư. Nếu chúng tôi muốn biết về các bài hát và những lời tiên tri thì không ai trong đại dương này biết rõ hơn anh ta. Nhưng Ashayo đã mất liên lạc với anh ta kể từ khi bắt đầu chiến tranh, và không thể biết liệu pháp sư này còn sống hay không. Nhưng dược sư tràn đầy hy vọng: “Cậu ấy giống như một con sứa. Nhìn qua thì có thể bị giết chết chỉ bằng một cây gậy mỏng, nhưng thực ra nó rất nguy hiểm và mạnh hơn mọi người nghĩ nhiều. Cậu đã bao giờ nhìn thấy một hòn đảo có thể xua đuổi sứa chưa? Chưa từng? Vậy thì đúng rồi đấy.”

Vì mục đích bảo mật, bất cứ khi nào chúng tôi nói về người bạn pháp sư vô danh này ở nơi công cộng, chúng tôi đều sử dụng biệt danh “sứa”. Cậu cho rằng điều này thật nực cười, ai sẽ nhớ những thông tin tầm thường như vậy? Ai sẽ tiết lộ nó cho người phương Bắc? Cho dù có thì cũng sẽ bị phát hiện sớm thôi. Nhưng Ashayo nhất quyết phải làm như vậy, bởi vì vùng biển này đã khác xưa, kẻ thù vẫn là kẻ thù, nhưng đồng minh không nhất thiết vẫn là đồng minh. Dược sư cũng có chủ ý cử người canh thuyền mỗi đêm, thỉnh thoảng không ngủ được lại vượt sườn đồi ra đầm phá ngồi đó cho đến rạng sáng với cậu tập sự xui xẻo được giao nhiệm vụ gác đêm. Tôi chưa bao giờ hỏi tên họ và họ cũng chưa bao giờ hỏi về đảo Icahn, có lẽ vì họ không quan tâm hoặc vì họ không biết cách hỏi.

Tôi buộc con cá heo vào thuyền trong một buổi sáng sớm se lạnh và đi vòng quanh Đảo Lớn, mọi chuyện diễn ra khá suôn sẻ nên tôi không thể giải thích được nguồn gốc của sự hoảng loạn và nghi ngờ đang lớn dần trong tôi. Tôi từ bãi biển chạy về nhà, đánh thức cậu dậy và nói có lẽ cậu không cần phải tham gia vào cuộc phiêu lưu này, nó không đáng, mình có thể đi một mình, và hơn nữa, cậu chưa bao giờ học được cách gọi cá heo, có lẽ mình nên mang theo cặp linh mục tập sự đi cùng, Đảo Lớn không thể để mất một trong những ứng cử viên Chủ tịch hội đồng được. Cậu vẫn chưa tỉnh hẳn, cau mày, có vẻ đang suy nghĩ, hồi lâu mới nói: “Sáng sớm lạnh lắm phải không?”

Tôi hít một hơi thật sâu và chuẩn bị lặp lại bài phát biểu vừa trình bày. Nhưng cậu đã kéo tôi vào chăn, quấn cả hai chúng tôi như một con nhện quấn quanh bướm đêm, chóp mũi cậu cọ vào mũi tôi. Sáng hôm đó quả thật rất lạnh, so sánh với nhiệt độ cơ thể của cậu, cuối cùng tôi cũng cảm nhận được.

“Đó là thuyền của mình, cá nhỏ, không đuổi mình đi được đâu.”

Con tàu đó đã có quá nhiều thay đổi, nó cũng có thể là con tàu của mình. Nghe tôi nói, cậu bật cười, chợt cắn vào vai tôi, tôi giật mình muốn ngồi dậy, nhưng tay cậu vòng qua eo tôi và chiếc chăn bừa bộn khiến chúng tôi gần như ôm nhau lăn xuống đất. Cậu và tôi lúng túng di chuyển, phát ra những tiếng cười khúc khích ngớ ngẩn, và rồi môi cậu tìm thấy môi tôi, lần đầu tiên sau nhiều ngày.

Cuộc phiêu lưu nào cũng đáng giá. Sau này, cậu đã nói như vậy, vẫn đang bị chôn nơi sâu thẳm. Vì vậy, mỗi khi tôi nhớ lại câu này, kí ức thính giác luôn chồng lên kí ức xúc giác. Thời gian còn lại trong ngày chúng tôi không ra ngoài, thậm chí không rời khỏi giường, ngoại trừ việc đốt củi vào lò sưởi. Nhưng tôi không muốn ở lại trong những ký ức tương tự quá lâu, nó sẽ cứ nhắc nhở tôi rằng nơi tôi đang ở có điều gì đó thiếu sót.

Một vấn đề còn lại trước khi chúng tôi đi: tôi.

Tôi trông không giống người dân của Quần đảo Đôi, không có giải pháp nào nhưng đó không phải là trở ngại. Trên Quần đảo Đôi có một khu định cư thương mại nhỏ, kế hoạch của chúng tôi là sau khi cập bến sẽ nhanh chóng lẻn vào nơi đó, vấn đề là tôi không thể giả vờ là một người dân Đảo Lớn. Tóc của tôi quá nhạt, nhưng cũng không đủ sáng để được coi là người phương Bắc. Ý tưởng về khăn xếp nhanh chóng bị loại bỏ, vì không ai ở đại dương này đội khăn xếp, ngoại trừ các bà mẹ trên đảo Icahn và các vu y ở một số hòn đảo nhỏ phía nam. Các dược sư đã thử nhuộm tóc đen cho tôi bằng cách dùng một loại rễ cây nghiền trộn với bột quặng cay nồng nhưng không thành công, một vùng lớn sau gáy tôi bị nhuộm đen nhưng tóc chỉ chuyển thành một màu xám nâu bẩn thỉu, với mảng này đậm hơn và mảng kia nhạt hơn. Cuối cùng, Ashayo đổi thuốc và rửa sạch thứ màu nâu kỳ lạ, nói chính xác hơn là rửa sạch tất cả các màu sắc.

“Giống như đang đội một đầu len.” Cậu nhận xét vào buổi tối hôm đó, sau khi tôi từ rừng về.

“Tôi là một thương gia buôn quặng đến từ Quần đảo phía Bắc và tôi ăn một con hải cẩu con mỗi đêm.”

Cậu thậm chí không cười, chỉ nhướn mày, đi vòng qua bàn về phía tôi, đưa ngón tay chải qua mái tóc mới màu bạc của tôi rồi kéo nhẹ: “Không tệ đâu. Cậu có thể nói tiếng phương bắc không, người buôn quặng?”

Cũng không hẳn là không thể, nhưng chúng tôi hy vọng mình sẽ không phải nói tiếng phương Bắc trong suốt chuyến đi và nếu mọi việc suôn sẻ, chúng tôi sẽ không phải nói chuyện với bất kỳ ai ngoại trừ “sứa”. Theo địa chỉ mà Ashayo đưa cho, chúng tôi đã lên kế hoạch cho những điểm cập bến tốt nhất trên bản đồ, có ba nơi, nếu gặp đội tuần tra, chúng tôi sẽ chuyển sang nơi tiếp theo, nếu thực sự không thể cập bến, chúng tôi sẽ trực tiếp quay trở lại Đảo Lớn.

Chúng tôi khởi hành trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng sớm, vùng biển gần đó an toàn nên cánh buồm đã được kéo lên. Gió thổi thật hoàn hảo, con thuyền lướt trên mặt nước như một mũi tên bay thấp, và chúng tôi đã vượt qua cột mốc đầu tiên trước khi mặt trời mọc. Tôi nhớ đã chỉ cho cậu một đàn cá voi ở đằng xa, cùng lúc đó, một đàn hải âu cất cánh từ hòn đảo hoang vắng, trống trải, thoáng chốc đã đổ bóng xuống. Tôi đặt mái chèo xuống và cúi người lấy bình đất chứa nước ngọt.

Đây là giây phút cuối cùng tôi còn nhớ, giữa lúc nhắm và mở mắt, cậu cùng con thuyền biến mất, bầu trời chuyển sang màu xanh xám, sỏi rơi như hạt mưa, không lớn hơn hạt lúa mì, gõ nhẹ vào đầu và vai tôi. Tôi đứng thẳng lên, nhận ra mình đang quỳ trên mặt nước biển như thủy tinh, sở dĩ tôi nói “như thủy tinh” là vì nước biển cứng, đông đặc, hoàn toàn trong suốt và vẫn giữ được hình dạng sóng cuộn. Mặt trời là một quả cầu magma treo lơ lửng, tỏa ra ánh sáng đỏ đục. Tôi có thể nhìn rõ đáy biển sâu, không giống như đang ở trên biển mà có cảm giác như lơ lửng trong không trung, choáng váng đến chóng mặt, những rặng núi dưới đáy biển trông như những vết sẹo chưa lành, và vùng đồng bằng xám xịt lấm tấm những miệng núi lửa. Có thứ gì đó giống như các sợi chỉ phát sáng giữa những tảng đá, tôi nheo mắt nhìn và nhận ra chúng đang chảy magma, giống như những mạch máu đang đập. Tôi nhắm mắt lại, ôm mình đợi một lúc, mong rằng ảo ảnh sẽ tự biến mất, nhưng không phải vậy, tôi đứng dậy, nhìn chằm chằm vào “mạch máu” dày đặc nhất rồi bước về phía trước.

Những mạch magma nối liền tất cả các hòn đảo, mỗi bước tôi đi, mạng lưới mạch máu này trong tâm trí tôi trở nên rõ ràng hơn, tôi nên diễn tả nó như thế nào đây? Tôi không hẳn là “nhìn thấy”, tôi chỉ biết, giống như tôi có thể hiểu được ngôn ngữ của cá voi, đó không phải là ngôn ngữ, không phải “phát hiện” mà là nhắc nhở, như chợt nhớ đến một dòng thơ đã lãng quên từ lâu. Tất cả các hòn đảo đều từng là những ngọn núi lửa cằn cỗi, rồi vào một ngày nào đó, tất cả các ngọn núi lửa sẽ có người sinh sống, họ đốt lửa và hát những bài ca.

Tiếng hát của cá voi vang lên từ đáy đại dương sâu thẳm, nước biển đông đặc khẽ rung chuyển, phát ra âm thanh lớn như băng vỡ. Những con sóng ứ đọng lại bắt đầu nhảy lên, tôi chìm xuống nước, như một mảnh lá khô nhỏ, từ từ chìm xuống đáy biển. Magma không còn giống mạch máu nữa mà là một dòng sông đầy giận dữ. Tôi cúi xuống chạm vào, tay phải của tôi đau đớn, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, tôi nhìn thấy tất cả những nơi mà magma có thể chạm tới. Tất cả những ngọn núi tối tăm, tất cả những hòn đảo, những ngọn núi lửa dưới nước sắp trở thành vùng đất mới, những hòn đảo không tên đã biến mất từ lâu và sâu hơn cả đại dương, có một trái tim rực lửa đang đập, đẩy tảng đá nóng chảy lên cao từng chút một, nó tụ lại dưới Đảo Lớn, dưới Icahn, dưới Quần đảo phía Bắc, dưới những khu rừng rậm rạp của Quần đảo phía Nam, nhiều áp xe(1) sắp vỡ tung.

(1) Áp xe: là tên gọi của một tổ chức viêm nhiễm, khu trú thành một khối mềm, bên trong chứa đầy mủ cấu tạo từ vi khuẩn, xác bạch cầu và các mảnh vụn. Áp xe dễ dàng được nhận diện trên lâm sàng với các đặc điểm sau: là một khối mềm, lùng nhùng, da vùng áp xe thường nóng, đỏ, sưng nề, chạm vào thấy đau.

Rồi tôi tỉnh dậy, nằm ngửa trong đáy tàu, cậu gọi tên tôi và đặt tay lên trán tôi. Tôi ngồi dậy, tựa vào mạn thuyền, liếc nhìn tay phải, lần này cơn đau không còn là ảo giác nữa, ngón tay và mu bàn tay nổi lên mụn nước, da sưng tấy đỏ bừng như bị bỏng bởi nước sôi. Cậu cũng chú ý tới, hít một hơi rồi hỏi chuyện gì đã xảy ra, cậu nhanh chóng nhận ra và hỏi tôi đã mơ thấy gì. Tôi đang định nói thì cậu lại lắc đầu: “Chúng ta nên quay lại đảo ngay.”

Không. Tôi nói, đây có lẽ là lần duy nhất tôi ra lệnh cho cậu, cầm mái chèo lên, chúng ta sẽ đến Quần đảo Đôi, càng sớm càng tốt, mình sẽ kể cho cậu nghe chuyện gì xảy ra trên đường đi.
 
Chương 17: Trang 58 - 60


Vào ngày cuối cùng của chuyến hành trình, chúng tôi cuộn buồm, cởi trói cho cá heo, che người bằng vải rằn ri, chỉ chèo thuyền vào ban đêm và từ từ tiến đến đích.

Mặc dù bản đồ trong bộ sưu tập của Đảo Lớn đã cũ nhưng bờ biển vẫn không có nhiều thay đổi. Những ngọn núi cao ngăn cách Quần đảo phía Nam và Quần đảo phía Bắc vẫn đứng vững, dưới chân núi vẫn còn những bãi đá cằn cỗi. Theo mô tả của các thủy thủ trên Đảo Lớn, nước rất nông, sóng cao và dữ dội, khiến nó không phù hợp để làm nơi neo đậu với các con tàu lớn – không phù hợp với bất kỳ con tàu nào trừ khi tình hình cũng tuyệt vọng như của chúng tôi.

Kế hoạch là chèo vào những tảng đá trong bóng tối và giấu con thuyền sau những tảng đá đó. Sóng đẩy thuyền, sương sớm vẫn đọng, bầu trời không sáng như lẽ ra phải thế, không nhìn thấy gì rõ ràng, sau khi thuyền lẩn vào trong bóng núi, trời trở nên tối hơn, như thể một mảng đêm nhỏ vẫn còn ẩn náu ở đó. Khi tìm chỗ neo đậu, tôi thực sự lo lắng con thuyền sẽ gặp nạn bất cứ lúc nào, toàn thân căng thẳng chuẩn bị cho việc chẳng may bị rơi xuống nước. Không biết vị thần nào – chắc chắn không phải thần núi lửa – đã ban may mắn cho chúng tôi. Chiếc thuyền bị sóng đẩy vào giữa hai tảng đá giống như cái vây, chúng tôi vội thả neo và nhìn nhau hồi lâu, thấy hơi không tin vào việc thuyền đã thực sự dừng lại.

Chúng tôi bơi vào bờ, cởi bỏ quần áo trước khi xuống nước, đội qua đầu rồi mặc vào trong lúc run rẩy trên bãi đá. Vị pháp sư nghiên cứu dân ca sống ở Quần đảo phía Nam, nghĩa là chúng tôi phải leo lên một sườn núi có lưng cá, không cao lắm và đường đi lại rất tốt, xét theo vết lún thì có vẻ như xe chở hàng thường xuyên đi ngang qua, ven đường có trồng những bụi cây, tạo thành bức tường uốn lượn cản gió biển. Khi chúng tôi đến gần ngôi làng, vài bóng người hiện ra từ màn sương biển, bốn ngư dân, đang đẩy một chiếc xe chở đầy rong biển. Tôi hơi cúi đầu nhìn bụi cây, cậu tiếp tục sải bước về phía trước mà không thèm liếc nhìn bốn người ngư dân, tôi liếc nhìn bốn người đó, họ không hề chú ý đến chúng tôi, ít nhất trông bề ngoài là vậy.

Mọi thứ giống như một chuyến đi bình thường, đơn giản đến kinh ngạc, như thể tàu chiến phương Bắc chưa từng đến, như thể mấy năm qua chưa hề có chuyện gì xảy ra, như thể các trạm buôn bán vẫn còn đó, còn chúng tôi chỉ là những người buôn bán nhỏ trên một chặng dừng ngắn. Tôi đã nghĩ rằng ít nhất sẽ có một thử thách kéo dài bất ngờ nào đó mà cậu và tôi sẽ buộc phải triệu hồi một loại trí tuệ ẩn sâu nào đó để giải quyết, giống như – vâng, tôi biết tôi nói điều này rất nhiều, bởi vì tôi đã được tưới tắm bởi thơ tự sự mà trưởng thành, các thể loại truyện phiêu lưu đều là tọa độ của tôi. Mọi người không nên trách tôi vì thường xuyên đối chiếu những trải nghiệm của bản thân với thơ ca.

Người lính phương Bắc đầu tiên chúng tôi gặp ngày hôm đó đang canh giữ lối vào làng, ngôi làng này trước đây chắc chắn chưa có “lối vào” chuyên dụng, bởi vì hàng rào gỗ trông rất mới, xiêu vẹo cắt ngang một cánh đồng lúa mì, tay nghề rất kém, nhiều sợi dây rơm đã bị tuột. Cậu không hề chậm lại chút nào, khi đi ngang qua người lính, cậu nói “chào buổi sáng”, người gác cổng vẫn còn thức lẩm bẩm điều gì đó và đang bận nghiên cứu những thứ kinh tởm mà anh ta đào ra từ lỗ mũi mà không thèm nhìn chúng tôi. Tôi nhanh chóng theo sau cậu, tự hỏi sự bình tĩnh của cậu đến từ đâu.

Ngôn ngữ chung của Quần đảo Đôi không khác nhiều so với Đảo Lớn, ngoại trừ một số thành ngữ địa phương khó hiểu ở cực bắc của hòn đảo, còn lại chỉ là sự thay đổi về trọng âm và trật tự từ. Điều hơi khó xử là họ dùng nghề nghiệp của một người làm kính ngữ, kính ngữ là một phần của tên, không phải là không thể bỏ qua, nhưng nghe sẽ rất kỳ lạ. Địa chỉ mà Ashayo đưa ra là nơi không có người ở, và xét theo những dây leo che kín cửa sổ thì có thể thấy nó đã bị bỏ trống hơn một mùa hè. Và tôi cũng không dám hỏi người dân đảo về nơi ở của pháp sư, bởi vì tôi không chắc liệu mình có nên sử dụng cấu trúc “pháp sư” cộng với “tên” hay không. Nếu người nghiên cứu dân ca hiện đang sống ẩn dật như một ngư dân, tôi có thể sẽ đẩy anh ta vào nguy hiểm.

Cậu nói chúng ta nên gõ cửa nhà hàng xóm, cậu vừa nói xong thì cửa cabin đối diện mở ra, như thể người dân đang nghe lén, một người đàn ông thò đầu ra ngoài hỏi chúng tôi có cần giúp đỡ không. Trông anh ta thật khác thường, lúc đó cậu có để ý không? Cứ như thể những bộ phận khác nhau trên cơ thể anh ta thuộc về những độ tuổi khác nhau. Mái tóc dày và bồng bềnh, như thể mới lớn, đôi mắt sáng nhưng khuôn mặt lại đầy nếp nhăn, thậm chí cả trên cổ. Đôi tay đó là đôi bàn tay của người nông dân, thô ráp và khỏe khoắn, dưới da nổi lên những mạch máu giống hệt cha Lira.

“Chúng tôi muốn đến thăm hàng xóm của anh.” Tôi trả lời, tránh nêu tên.

Người đàn ông không thể phân biệt được tuổi tác mím môi như nếm phải thứ gì đó khó chịu, nhìn chằm chằm vào bàn tay bị bỏng của tôi: “Đó là sao vậy?”

“Tai nạn.”

“Súp nóng? Hay trà nóng?”

“Tôi không nghĩ chuyện này có liên quan gì tới anh.”

“Trông có vẻ đau. Nếu không muốn mất bàn tay này thì hãy giữ cho nó khô ráo và đừng làm vỡ các vết phồng rộp, hiểu không?” Anh ta nói, hất cằm về phía căn nhà gỗ bỏ hoang. “Pháp sư Aganon đã chết.”

“Anh ta chết như thế nào?” Cậu ngắt lời.

“Bị sứa đốt vài mùa hè trước.”

Tôi nhìn cậu và cậu nhìn tôi. Nếu tình huống không tệ đến thế, có lẽ tôi đã cười ngay tại chỗ, khi Ashayo nghĩ ra biệt danh “sứa”, có lẽ anh sẽ không bao giờ nghĩ rằng nguyên nhân cái chết của bạn mình lại là do loại vật nhỏ mềm yếu này. Sau đó, trước khi người đàn ông đóng cửa lại, tôi hỏi liệu chúng tôi có thể đến nhà của vị pháp sư quá cố và lấy một số đồ lưu niệm hoặc bằng chứng để chuyển cho bạn của vị pháp sư quá cố, dược sư Ashayo được không.

Phải mấy ngày sau tôi mới biết cậu cho rằng tôi cố ý sắp xếp đoạn này để công khai tên của Ashayo nhằm quan sát phản ứng của đối phương. Cảm ơn vì đã đánh giá tôi quá cao, nhưng sự thật là tôi không hề nghĩ tới chiến lược nào cả, tôi thực sự chỉ định đi dạo quanh ngôi nhà bỏ hoang và có thể nhặt một vài cuốn sách cũ. Tôi không dám khẳng định rằng “mọi thứ sẽ rất khác nếu không có câu này”, nhưng ít nhất nó cũng dẫn đến một bước ngoặt bất ngờ.

Người đàn ông không rõ tuổi tác nhìn chúng tôi không chớp mắt, không đóng cửa, không đi ra và không mời chúng tôi vào. Tôi cũng nhìn chằm chằm vào anh ta, giống như người ta nhìn chằm chằm vào một con sói đồng cỏ căng thẳng, sợ rằng nó có thể lao tới hoặc bỏ chạy. Khi “hàng xóm” lên tiếng lần nữa, giọng nói của anh ta dường như đã khác, nhẹ nhàng hơn, các âm tiết cũng mất đi vẻ thô ráp. Sau đó tôi mới nhận ra rằng “góc cạnh” này thực ra chỉ là một sự ngụy trang.

“Cậu không đến từ hòn đảo này phải không?”

Tôi lắc đầu với anh ta.

“Đi vào bên trong.”

Chúng tôi đứng yên.

“Vào đi, nhanh lên. Tôi là Aganon, cậu vẫn chưa đoán ra à?”

Tất nhiên là không, đây không phải là điều có thể “đoán ra” ngay lập tức. Chúng tôi rúc vào căn nhà nhỏ tối tăm và trao đổi tin tức như cướp biển trao đổi đồ ăn trộm. Có người đã chết vì bị sứa đốt, nhưng không phải pháp sư Aganon mà là người hàng xóm ngư dân của anh ta, chỉ vài ngày trước cuộc đột kích của tàu chiến phương bắc. Sau khi nhận ra nghị viện đã bị chiếm và bến cảng bị phong tỏa hoàn toàn, vị pháp sư lập tức rời khỏi ngôi nhà gỗ của mình và trốn trong nhà của người hàng xóm đã chết.

“Nhân tiện, tôi đã chiếm được danh tính của ông ấy.” Anh ta nói mà không hỏi một câu nào.

“Người phương Bắc gõ cửa từng nhà để ‘thanh trừ’ ma thuật. Tôi mang xác Muta ra cho họ xem, khẳng định rằng pháp sư đã chết. Quân lính không tin và kêu gọi tất cả người dân đảo sống gần đó đến nhận diện thi thể. Tôi lo sợ rằng ai đó sẽ vạch trần tôi – cậu biết đấy, không phải ai cũng thích tôi, nhưng mọi người đều nói với người phương bắc: ‘Đúng, đây là Aganon, anh ta đã chết’. Tôi gần như đã đứng đó và khóc, gần như vậy, nhưng tôi không thực sự rơi nước mắt. Tôi và đại biểu hội đồng ngư dân cùng nhau đào một cái hố và chôn ‘pháp sư’ trong đó, từ đó trở đi, tôi là ‘ngư dân Muta’.”

Sau đó anh ta hỏi về Ashayo, muốn biết mọi thứ về dược sư. Ở đây không giúp được gì nên tôi chỉ có thể đến bên cửa sổ, vén tấm rèm dính dầu mỡ lên rồi lén nhìn ra những con đường và cánh đồng vắng tanh. Ngôi nhà gỗ của pháp sư bị mắc kẹt một mình trong đám cỏ dại, mái nhà trông như có thể sụp đổ hoàn toàn bất cứ lúc nào, thật khó để tưởng tượng mỗi ngày khi Aganon nhìn vào ngôi nhà cũ của mình thì sẽ có cảm giác gì. Tôi đang phân vân liệu anh ta đã vứt bộ sưu tập sách của mình sang bên kia đường hay bí mật chuyển chúng đến đây, tôi cắt ngang cuộc trò chuyện rời rạc giữa cậu và pháp sư rồi hỏi anh ta câu hỏi này.

“Trong một hang động, cạnh biển.” Aganon trả lời. “Quân lính của nhà vua thường xuyên vào khám xét nhà và tịch thu những vật phẩm mà họ cho là có liên quan đến phép thuật. Lấy cớ là để ‘bảo vệ người dân trên đảo khỏi những lời nguyền độc ác’, nhưng chúng ta đều biết rằng họ chỉ muốn cướp phá đồ đạc. Tất cả những thứ có giá trị đều phải cất giấu. Bản thảo và sách là những thứ đặc biệt nguy hiểm, không thể đặt chúng trong bất kỳ ngôi nhà nào, ngay cả những ngôi nhà không có người ở cũng không tránh khỏi. Ashayo đã yêu cầu cậu tìm gì?”

Không phải dược sư cử tôi đi tìm thứ gì đó, mà là tôi rất cần tìm một bài hát, không biết tên, không biết giai điệu, nhưng tôi phải tìm nó. Tôi kể lại toàn bộ sự việc một lần nữa, ngắn gọn nhất có thể, có lẽ tôi đã kể câu chuyện này hơn trăm lần kể từ khi trốn khỏi hòn đảo quê hương. Những người nghe khác nhau sẽ luôn bị thu hút bởi các yếu tố khác nhau bên trong nó, giống như những con chim biển khác nhau lao đi tìm những loại thức ăn khác nhau. Tất nhiên, chính con cá voi và bài hát được yêu cầu từ nó đã thu hút sự chú ý của Aganon. Anh ta ngồi xếp bằng trên đệm, kéo sợi gai dầu(1) lỏng lẻo trên quần rồi nói ra câu trả lời mà tôi vẫn luôn chờ đợi.

(1) Sợi gai dầu: một loại vải sợi làm từ cây gai dầu.

“Có lẽ tôi biết ‘con cá voi’ đó là gì.”

——

Sự giúp đỡ của người khác, với tư cách là món hàng rẻ nhất đồng thời cũng đắt nhất trong đại dương này, tất nhiên đều có cái giá của nó. Pháp sư Aganon yêu cầu một mức giá hợp lý, anh ta chỉ muốn rời khỏi Quần đảo Đôi và đến một nơi mà anh ta có thể sử dụng lại tên thật của mình. Thỏa thuận đã được đàm phán thành công và chúng tôi trốn trong cabin cho đến khi trời tối rồi lên đường ra bãi biển.

Theo “luật” do người phương Bắc đơn phương áp đặt, người dân đảo không được phép rời khỏi nhà sau khi trời tối. Những người lính sẽ khóa cửa từng ngôi nhà gỗ vào buổi tối và mở từng cửa một vào sáng hôm sau. Thế là mỗi gia đình đều bí mật mở thêm một lối thoát cho mình, có thể là cửa sổ hoặc một đường hầm nông đào dưới chuồng. Quân đồn trú thực ra đều biết điều đó, nhưng vì các cảng của đảo Nam và đảo Bắc đã bị tàu chiến chặn lại nên không cần phải lo lắng về việc người dân trên đảo ra ngoài vào lúc nửa đêm. Đêm đó chúng tôi trèo ra ngoài qua giếng trời, buộc dây vào ống khói, trượt xuống đất, lao vào cánh đồng hoang, trèo qua hàng rào gỗ dưới đám cỏ dại che phủ, bám vào vách đá hướng về nơi cất sách.

Tôi biết các sản phẩm giấy lẽ ra phải được bảo vệ trong hộp gỗ và vải bố, nhưng chúng tôi không có thời gian cho việc đó. Cậu và Aganon đào chiếc hộp gỗ ra khỏi cát, còn tôi nhét tất cả đồ đạc vào túi vải, mỗi người một túi rồi buộc vào vai và lưng bằng dây thừng để dễ di chuyển. Khi tôi chạy ra khỏi hang, một chiếc tàu chiến chạy tới cách đó không xa, cột buồm tỏa ra những ngọn lửa ma thuật chói lóa, giống như một sân khấu chuyển động. Tất cả chúng tôi đều cúi xuống, dựa vào những tảng đá, chờ đợi ánh sáng trắng lạnh lẽo của ngọn lửa ma thuật biến mất. Tôi không hiểu làm thế nào Atukwa có thể đạt được sự nhất quán về mặt logic, trong khi vừa xâm chiếm các hòn đảo thương mại khác với danh nghĩa hủy diệt phép thuật, vừa không muốn từ bỏ ngọn lửa ma thuật sáng sủa và rẻ tiền. Tuy nhiên, nhà vua không bao giờ cần phải nhất quán với chính mình, phép thuật mà ông sẵn sàng sử dụng tất nhiên là tốt, nếu người khác dám sử dụng phép thuật tương tự, họ sẽ là kẻ phản bội xấu xa.

Đoạn đường vượt qua sườn núi là đáng sợ nhất, chúng tôi không dám sử dụng bất kỳ phương tiện chiếu sáng nào mà chỉ có thể tiến về phía trước bằng cách chạm vào bụi cây ven đường. Cả cuộc hành trình chỉ để lại bóng tối, cái lạnh, gió mạnh và nỗi sợ hãi trong ký ức tôi. Bầu trời đêm và biển hòa vào nhau, sóng vỗ vào vách đá tạo nên âm thanh ầm ầm. Cuốn sách đè nặng lên lưng tôi như một hòn đá, còn sợi dây cứa vào da vai tôi, chắc là đang chảy máu. Cậu đang nắm lấy bàn tay không bị bỏng của tôi, ngón tay của cậu cũng lạnh như tôi, chỉ có lòng bàn tay là còn hơi ấm.

Sách không được chạm vào nước nên tôi phải để cậu bơi ra rạn san hô trước rồi kéo thuyền vào bãi cạn. Chúng tôi xách túi vào và cùng nhau đẩy thuyền ra biển, ít nhất là ra khỏi ngư trường để có thể gọi cá heo vào. Ánh sáng trắng lạnh lẽo của chiến hạm phương Bắc lại xuất hiện, nhấp nháy, chậm rãi tiến đến. Chúng tôi chèo hết sức và nước gầm ầm ĩ đến mức tôi lo rằng toàn bộ Quần đảo Đôi sẽ bị đánh thức. Phía cảng va vào một tảng đá ngầm ẩn dưới nước, âm thanh nghe rất khó chịu nhưng may mắn là không có nước vào. Chúng tôi quay lưng chạy trốn lên mặt trăng, tìm kiếm dấu vết của cá heo trong bóng tối.
 
Chương 18: Trang 61 - 63


Đây là lần thứ hai trong đời tôi gọi cá heo trên biển vào đêm khuya nên độ sắc bén của tiếng huýt sáo vẫn ngoài dự đoán, thậm chí còn khơi dậy trong lòng tôi nỗi sợ hãi, như thể âm thanh đó đã làm phiền đến một số sinh vật sống khác ngoài cá heo, khiến nó hoặc chúng mở mắt dưới đáy biển tối tăm và nhìn vào chiếc thuyền nhỏ này.

Quái vật dưới nước có thể là giả nhưng tàu chiến phương Bắc lại vô cùng chân thực. Con tàu lớn với quả cầu lửa màu trắng trên cột buồm quay chậm, nhưng không tăng tốc độ tiếp cận, bóng tối che phủ tốt hơn dự kiến, những người lính không thể ngay lập tức phát hiện ra chúng tôi đang ở đâu. Tôi lại huýt sáo thúc giục cá heo đi tiếp. Lần này tàu chiến đã tìm được phương hướng, tiếng còi vang lên. Không cần phải trốn nữa, tôi đứng dậy và gọi lần thứ ba, đàn cá heo đang đến, tôi không thể nhìn rõ nhưng có thể nghe thấy tiếng kêu chói tai của chúng. Tôi mò mẫm dây cương trong bóng tối, thầm chửi rủa khi vây cá heo cọ vào tay tôi rồi biến mất. Aganon giơ tay phải lên, ngọn lửa ma thuật màu trắng bốc cháy từ tay anh ta, tụ lại thành một quả cầu ánh sáng có kích thước bằng nửa con tàu, như thể nó là mặt trăng bị kéo xuống. Với sự hỗ trợ của ánh sáng trắng, tôi bắt tất cả lũ cá heo, hít một hơi thật sâu và thổi tín hiệu “đi”.

Con thuyền lao về phía trước, cả tôi và gã pháp sư đều ngã xuống. Ba người chúng tôi nằm dưới đáy thuyền để tránh những mũi tên có thể bay tới. Khi tôi cảm thấy đã an toàn và lén đưa mắt lên để nhìn trộm, tất cả những gì còn lại của tàu chiến chỉ là một chấm trắng nhấp nháy ở phía xa. Những đỉnh núi ngăn cách Quần đảo Đôi từ từ rút đi, biến thành một cái bóng có kích thước bằng lòng bàn tay.

Khi Quần đảo Đôi hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt, Aganon thu nhỏ ngọn lửa ma thuật có kích thước bằng quả dừa, lơ lửng giữa không trung, chiếu sáng ba túi vải nằm trong đáy tàu. Anh ta bắt đầu đếm sách, lẩm bẩm một mình, chuyển chúng từ bao này sang bao khác, theo một quy tắc phân loại nào đó mà chỉ anh ta mới biết. Từ túi thứ hai, anh ta lấy ra một chồng giấy buộc bằng dây thừng, khoanh chân ngồi xuống và bắt đầu đọc dưới ánh sáng lạnh lẽo do phép thuật tạo ra, tập trung đến mức dường như anh ta đang ở trong thư viện của đảo đá nhỏ chứ không phải trên một chiếc thuyền ọp ẹp.

Tôi ngồi trên mũi tàu và ngắm cá heo. Những tấm lưng nhẵn nhụi của chúng thỉnh thoảng nhô lên khỏi mặt nước, phản chiếu ánh trăng và lóe lên ánh sáng bạc mờ ảo, rồi lại bị bóng tối nuốt chửng. Cậu đang ngủ, quấn chăn len dày, đầu tựa vào mạn thuyền, quần áo ướt chất đống dưới chân. Tôi ngáp một cái, đang tính ôm cậu vào ngủ chung, đúng lúc này, Aganon hét lên “Nó đây rồi”, khiến tôi giật mình suýt rơi xuống nước. Cậu cũng giật mình tỉnh dậy, ngồi lên và nheo mắt nhìn quả cầu lửa trắng lơ lửng.

Pháp sư cẩn thận đặt một mảnh giấy lên trên chồng sách, quả cầu lửa nhỏ từ từ hạ xuống và bay thẳng lên phía trên tờ giấy đã sờn. Đó là một bản nhạc – ít nhất tôi đoán đó là một bản nhạc. Phương pháp ký hiệu khác với các bản nhạc thông thường. Nó trông giống như nhiều hình vẽ đang nhảy múa, với những dòng chữ tương ứng bên dưới mỗi hình. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ngôn ngữ này, nhưng với cách viết một dòng ký hiệu và một dòng văn bản này, nếu không phải là một bài hát thì tôi không thể tưởng tượng được nó là gì.

Aganon chỉ dịch đơn giản mấy câu đầu tiên, anh ta bỗng nhiên lại trở nên hưng phấn, bắt đầu nhớ lại mình và Ashayo đã giải mã ngôn ngữ cổ này hơn mười mùa hè trước như thế nào, những tấm bia đá gì, những khế ước cổ xưa nào có từ một trăm mùa hè trước, bốn điều trên đóng vai trò là bàn đạp cho nhau, nhưng tôi không hiểu anh ta đang nói về điều gì. Cậu ngắt lời anh ta, với một giọng điệu thực sự tò mò mà tôi chưa bao giờ có thể bắt chước được, cậu yêu cầu Aganon tiếp tục kể cho cậu nghe điều gì đặc biệt ở bản nhạc này.

“Đó không phải là một bản nhạc.” Ngón tay của pháp sư lướt qua dòng chữ đầu tiên: “Phù chú. Dòng trên cùng là một động tác nhảy. Trong khi nhảy, ta hát những lời bên dưới. Chỉ có lời bài hát, không có giai điệu. Tôi và Ashayo không biết tại sao. Có lẽ hòn đảo này cho rằng bất cứ ai có thể đọc những bản thảo này đều biết giai điệu nên không cần ghi thêm. Hoặc có lẽ có một số bản nhạc đặc biệt, nhưng nó chưa từng được lưu truyền.”

Tôi hỏi anh ta làm thế nào anh ta có thể chắc chắn rằng đó là bài hát tôi cần.

“Chắc chắn không phải cái này, đây là dành cho lễ trừ tà, đúng ra phải là cái tiếp theo.” Những ngón tay của Aganon trượt xuống cuối tờ giấy và dừng lại ở một hàng hình bóng nhỏ đang nắm tay nhau, “Phần văn bản có nội dung ‘Làm thế nào để dập tắt núi lửa’, phần giữa bị hư hại nặng quá, bỏ qua đi, rồi ‘Người nói chuyện với núi lửa là người ở giữa’. Tôi nghĩ đó là về cậu, ‘người nói chuyện với núi lửa’.”

Tôi hỏi từ nào ở đây ám chỉ cá voi.

“Tôi không nghĩ rằng tất cả những người ‘nói chuyện với núi lửa’ đều nhìn thấy cá voi, có thể núi lửa mang đến những hình ảnh khác nhau cho những người đối thoại khác nhau, một ảo ảnh định hướng, giống như một con quái vật tuyết chỉ xuất hiện trước mắt người thợ săn, đôi khi là một con nai sừng tấm, đôi khi là một con hải mã, đôi khi lại là một cột đá trắng chết tiệt. Chị gái của Yumaso cũng nhìn thấy con vật magma và bị bỏng tay, phải không? Ashayo chắc chắn sẽ nói ‘chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi’, nhưng trong trường hợp của tôi thì như thế này là đủ bằng chứng rồi.”

Tôi lật sang trang tiếp theo để xem lời bài hát, nhưng ở trang tiếp theo, hình minh họa chiếm trọn cả trang. Những ngọn lửa khổng lồ bốc lên từ biển, bao quanh là những con tàu to bằng móng tay, một loại đường nét màu đen nào đó kéo dài ra từ những con tàu này, quấn lấy ngọn lửa và khống chế nó. Bạn phải nhìn thật gần mới phát hiện ra rằng những “đường” đó thực chất là những câu ngắn nối từ đầu đến cuối, chúng hẳn là cùng một câu, vì những nét giống nhau được lặp lại theo từng khoảng thời gian.

Tôi hỏi pháp sư điều đó có nghĩa là gì.

“Bài hát.” Anh ta trả lời: “Chính xác thì đó chỉ là một từ, cụ thể là ‘bài hát đó’. Trong ngôn ngữ này, mạo từ xác định rất đặc biệt. Nó được dùng cho những thứ không cần giải thích và ai cũng biết đến. Biển, mặt trời, những hòn đảo…“

“Tôi có thể tìm thấy bài hát đó trong những cuốn sách này không?”

“Tôi không thể nói điều đó là không thể. Nhưng có hàng ngàn bài hát ở đây…”

“Điều đó có nghĩa là”, cậu ngắt lời ở đây, nói điều mà tôi luôn cảm thấy xấu hổ khi nói ra: “Anh chẳng giúp ích được gì cho chúng tôi cả, pháp sư Aganon.”

——

Không thể nói là “chẳng giúp ích được gì”, ít nhất thì pháp sư đã giúp chúng tôi tìm ra nghi thức chính xác. Trước khi một người có thể mở ổ khóa, trước tiên người đó phải tìm được ổ khóa, đúng không? Theo ẩn dụ này, chiếc chìa khóa thực chất đã tồn tại rồi, nó vẫn luôn ở đó, mọi người đều biết nhưng họ chỉ nhắm mắt làm ngơ.

Chúng tôi đã tặng dược sư Ashayo món quà tuyệt vời nhất giữa đại dương: một người bạn đã mất. Sau đó, anh trở nên rất nồng nhiệt với tôi, nhưng tình bạn này dường như không kéo dài đến tận nghị viện, nơi anh vẫn thường xuyên bắt lỗi với những đề xuất của cậu. Theo tôi, Hội đồng là một đám cá heo bướng bỉnh không thể bắt được, chúng luôn lao vào những hướng bất ngờ ở những thời điểm không thể đoán trước được, nhưng cuối cùng chúng lại luôn tìm được con đường di cư phù hợp, thật đáng ngạc nhiên. Giữa Vua Atukwa và cá heo điên, tôi sẽ luôn chọn cái sau.

Không có gì bí mật rằng hầu hết các đại biểu đều không thích tôi, họ không những không giấu giếm mà còn tỏ ra thù địch như một con chim giao phối khoe lông đuôi, sợ tôi không thể nhận ra vì “khác biệt văn hoá”. Tôi đóng vai người ngoài cuộc im lặng và thân thiện, đó là vai diễn thường xuyên của tôi. Tôi sẽ không đến phòng hội đồng trừ khi được mời, và ngay cả khi tôi đi, tôi cũng sẽ không đến gần cậu, cố gắng tránh nói chuyện với cậu. Mặc dù mọi người đã biết chúng tôi ngủ cùng nhau nhưng đó là một phần cuộc sống riêng tư của cậu, còn trong phòng lại là một câu chuyện khác.

Chúng tôi hiếm khi gặp nhau vào mùa hè năm đó sau khi trở về từ Quần đảo Đôi. Tôi đang nghĩ về âm nhạc còn cậu thì đang lội qua đầm lầy chính trị của mình. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng nếu cậu được bầu, mọi thứ sẽ ổn. Chúng tôi sẽ có nhiều thời gian hơn và ít trở ngại hơn. Dù thua cũng không sao, ít nhất chúng tôi có thể có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cậu nhận được sự hỗ trợ của các dược sư, thương nhân và vu y, nhưng cậu vẫn cần phải thu phục các thợ thủ công và các nhà lãnh đạo tôn giáo. Đối thủ lớn nhất vẫn là ngư dân và những người chăn nuôi, ảnh hưởng của họ đang ngày càng trở nên lớn mạnh. Chiến tranh cần lương thực và con người, mà họ thì cung cấp cả hai. Đồng thời, hoạt động buôn bán bị gián đoạn mỗi ngày, quyền kiểm soát của các thương nhân hàng hải đối với hội đồng cũng suy yếu đi một chút. Nếu các thương nhân vẫn có số ghế như ba năm trước thì sẽ không có sự cạnh tranh này.

“Hơn nữa, mọi người đang mệt mỏi”, cậu nói. Đêm khuya, chúng tôi ngồi trên bãi biển với chiếc đèn lồng ở giữa, “Họ muốn cho Atukwa một ít mỡ với hy vọng ông ta sẽ im lặng”.

Tôi nghi ngờ “sự im lặng” mua được này sẽ chỉ kéo dài hơn hai mùa hè.

Cậu gật đầu và không tiếp tục chủ đề. Thật là bất thường, cậu thích nói về Vua Atukwa, nếu cậu là anh hùng trong thơ ca thì Atukwa sẽ là quái vật biển của cậu. Cậu thường phàn nàn về sự thiển cận của ngư dân, thở dài và cho rằng “người ta không thể dùng mỡ để giết sói”. Tôi sẽ đồng ý rồi cả hai chúng tôi sẽ cảm thấy thoải mái trong im lặng.

“Cá nhỏ, có chuyện này.”

Vậy ra đây là những gì cậu thực sự muốn nói, nó có lẽ sẽ không mấy dễ chịu. Thế nên tôi quay đầu nhìn cậu không nói, chờ cậu lấp đầy sự im lặng. Cậu vội kết luận rằng đây là một trò lố bịch và mang tính chính trị, rồi sau đó nói với tôi rằng Hội đồng yêu cầu cậu “giải thích” về mối quan hệ của chúng ta. Nếu cậu không phải là ứng cử viên cho vị trí Chủ tịch, sẽ không ai thèm ngó ngàng đến chúng tôi lần thứ hai, nhưng vì cậu đang tìm kiếm vị trí này với khả năng huy động hạm đội nên tất nhiên tôi, với tư cách là người ngoài đảo, sẽ “phải hứng chịu một số công kích”. Cậu cầu xin tôi tha thứ, nói rằng nhất định phải nói điều gì đó “nghe có vẻ gay gắt” để dập tắt sự nghi ngờ của đối phương.

Dĩ nhiên, tại sao không? Tôi thậm chí không nghĩ cậu cần phải xin phép tôi.

“Cứ nói những gì cậu nghĩ cần phải nói.” Tôi nói với cậu: “Đừng lo lắng cho mình.”

Cách diễn đạt của cậu thật thông minh, Tuhfa. “Giải thích”! Nghe có vẻ rất lịch sự và vô hại. Phải đến cái đêm cậu bị thẩm vấn tôi mới hiểu mình đang phải đối mặt với điều gì. Đây là cơ hội phát biểu cuối cùng trước cuộc bầu cử, khoảng một nửa số người trên đảo chen chúc vào hội trường, nửa còn lại vẫn đi xem biểu diễn thơ. Bốn pháp sư canh giữ chiếc hộp gỗ lớn khảm ngọc trai, họ không thể được bầu làm Chủ tịch hay tham gia biểu quyết nên luôn đóng vai trò là lính danh dự. Bên trong hộp gỗ là pha lê núi lửa được đánh bóng thành những hạt mịn. Trong ba ngày nữa, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, mọi người sẽ lần lượt đến, nhận những lá phiếu này dưới sự giám sát của pháp sư, đi vòng quanh đống lửa và bỏ những hạt pha lê vào túi vải tượng trưng cho các ứng cử viên khác nhau. Tôi đang đứng ở phía sau bên phải của căn phòng, cậu sẽ không thể nhìn thấy tôi. Ngọn lửa, đám đông và những cây cột đã đủ để che chắn. Chủ đề chuyển từ cung cấp lúa mì sang huấn luyện thủy thủ, rồi đến phòng thủ, đại biểu Ngư dân nói gì đó mà tôi không nghe rõ, nhưng những người đứng ở hàng đầu bật cười, còn những người phía sau vươn cổ vỗ nhẹ vai của những người phía trước yêu cầu họ chuyển lời. Cậu cũng mỉm cười, quay về phía khán giả, có thể là do đám đông đã im lặng trong chốc lát, hoặc có thể đơn giản là do giọng nói của cậu truyền tải từng từ rõ ràng.

“Pei Jianan của đảo Icahn chỉ là khách của tôi, và cậu ấy sẽ chỉ là khách.”

Những người xung quanh chuyển sự chú ý về phía tôi như thể chợt nhận ra sự hiện diện của tôi. Để giữ gìn sự tự trọng không biết có còn nguyên vẹn hay không, tôi tiếp tục đứng tại chỗ, nhìn chằm chằm vào cậu. Sự chú ý của cậu đã quay trở lại với ứng viên còn lại, nghiêng người về phía trước để lắng nghe mọi lời nhận xét ngu ngốc của anh ta với vẻ tò mò dường như là sự thực trên khuôn mặt cậu. Tôi lùi lại một bước, rồi lại bước nữa, quay người, chen qua đám đông và rời khỏi căn phòng.
 
Chương 19: Trang 64 - 65


Tôi thực sự không tức giận, không chỉ để giữ thể diện. Tôi cảm thấy như mình đã thức tỉnh. Có lẽ nó còn tệ hơn cả sự tức giận. Người ta phải có hy vọng mới có được sự tức giận. Đó là một phiên bản bạo lực của sự thất vọng. Tôi đã hiểu đối thủ của tôi là Hội đồng, hay nói cách khác là tham vọng kiên định của cậu, chống lại nó là chống lại cậu, tôi sẽ không bao giờ có cơ hội chiến thắng.

Tôi không muốn đi đến những nơi dễ tìm, tôi lang thang bên hồ một lúc, cuối cùng nhặt được một ngọn đuốc bên đường và đi vào rừng. Tổ ong lớn của dược sư được thắp sáng, với ánh nến lung linh ở hầu hết các cửa sổ, và một vài căn phòng được thắp sáng bởi ngọn lửa ma thuật yếu ớt nhưng ổn định. Tôi không tìm thấy Ashayo rồi nhớ ra anh đang ở trong phòng họp nên gõ cửa phòng pháp sư Aganon. Anh ta ở đó, mùn cưa dính trên quần và trên sàn, còn căn phòng sặc mùi nhựa thông và cá nướng. Anh ta đang chế tạo một cây đàn lia, thân đàn chưa thành hình vứt trên giường, còn vật liệu làm dây thì treo bên cửa sổ, đung đưa trong gió.

Tôi nói tôi muốn tìm một nơi để qua đêm.

Anh ta không hỏi tại sao, và tôi rất biết ơn vì điều đó, có lẽ anh ta sẽ không nghe được lời khai của cậu cho đến sáng hôm sau, lúc đó tôi sẽ tìm lý do khác để tránh chủ đề này, có thể là trốn thẳng vào rừng, tìm bụi rậm mà trốn, giống như một con thỏ. Aganon dẫn tôi đến cuối hành lang tầng hai và vào một cái sảnh nhỏ hình tròn không có đèn. Pháp sư thắp một ngọn nến rồi chỉ cho tôi bốn căn phòng nhỏ không khóa.

“Phòng dành cho khách, hãy chọn đi.”

Tôi mở cánh cửa ở phía bên phải và cảm ơn vị pháp sư. Anh ta gật đầu, đưa cây nến cho tôi, quay người trở lại hành lang, bước hai bước rồi quay lại, hỏi rằng anh ta nên nói gì khi Tuhfa tìm thấy nơi này.

Vậy là anh ta biết. Tôi luôn nghi ngờ rằng các dược sư có một số hình thức liên lạc mà họ không chia sẻ với những người dân đảo khác, kể cả Hội đồng. Có thể là một con vẹt, hoặc có thể là cậu học trò nhỏ này hay cậu bé kia, với đôi mắt như chim ưng và đôi tai như thỏ, kín đáo và cũng chạy rất nhanh.

“Cứ nói là tôi chưa từng đến đây.” Tôi trả lời.

Thật ngạc nhiên là tôi ngủ rất ngon. Mùi cói(1) khô trong phòng khiến tôi nhớ đến ngôi nhà của mình trên đảo Icahn, không có cửa sổ và bóng tối tĩnh lặng, trong vắt. Một tiếng gõ cửa đã đánh thức tôi vào lúc nào đó trong đêm. Tôi biết đó là cậu. Tôi có thể nghe thấy ai đó đang nói chuyện với cậu, có lẽ đang yêu cầu cậu rời đi. Rồi giọng của Ashayo tham gia vào, cuộc trò chuyện trở nên căng thẳng trong một lúc, nhưng nó không bao giờ xảy ra cãi vã. Mọi thứ lại trở nên yên tĩnh, tôi chìm vào giấc ngủ lần nữa, không biết khi nào trời mới sáng.

(1) Cói: tên gọi của một loài thực vật thuộc họ cói (Cyberaceae), chủ yếu được sử dụng để dệt chiếu cói và sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ như túi, làn, dép, nón cói và nhiều các mặt hàng khác.

Cậu đã không đến vào ngày hôm sau và trong vài ngày tiếp theo. Để chào mừng cuộc bầu cử chủ tịch mới, lửa trại được đốt lên trong làng, các cô gái và chàng trai biểu diễn múa giáo, tiếng đàn lia, sáo và trống dần lắng xuống cho đến tận sáng sớm. Tôi nhìn từ xa phía bên kia hồ, ngồi trên bãi cỏ ướt, nhìn chằm chằm vào những hình thù nhỏ bé trong ánh lửa, nghĩ về lần đầu chúng tôi gặp nhau, và tự hỏi liệu sẽ có ai cũng gặp được tình yêu của đời mình bên đống lửa trại đêm nay hay không.

Không ai thắc mắc về sự hiện diện của tôi nên tôi tiếp tục sống trong căn phòng ngủ dành cho khách không có cửa sổ. Tôi cảm thấy như tôi luôn xuất hiện ở những nơi không thuộc về mình. Khi còn nhỏ, tôi ở trong một ngôi đền, sau này khi đến Đảo Lớn, tôi lại ở làng của người khác, rồi tôi thực sự đã rời làng và sống giữa các dược sư. Một con cá nhồng giữa đàn mực. Nếu ai đó đặt cho tôi cái tên thứ ba thì đó sẽ là “Dahal”, vị khách, người ngoài hành tinh.

Aganon đã hoàn thành cây đàn lia của mình, nó trông rất giống đàn lia, nhưng độ cong của cổ đàn khác và có thêm một sợi dây, chắc hẳn là một biến thể từ Quần đảo Đôi của đàn lia. Ashayo thường phái chúng tôi đi hái nấm và thảo dược nên tôi và pháp sư thường hát trong rừng, chủ yếu là Aganon hát, còn tôi chịu trách nhiệm gõ thân cây để đi cùng anh ta. Anh ta dạy tôi một bài thơ tình ngắn, mà anh ta nói là bài dân ca được ghi lại lâu đời nhất trên đại dương này, của một bộ tộc đã tuyệt chủng từ lâu, các thành viên không định cư trên bất kỳ hòn đảo nào mà trôi dạt trên biển bằng thuyền. Ngoài tôi, anh ta và Ashayo, những người duy nhất có thể hát bài hát này chỉ có những thuyền nhân vô danh đã chết từ hàng trăm năm.

Ngày cậu tìm thấy tôi trong rừng, pháp sư và tôi đang làm bài thơ ngắn cho loài chim, bình thường chúng tôi không đi xa đến thế, nhưng hôm đó là một ngày nắng, không quá nóng và đã có mùi của mùa thu trong không khí. Chúng tôi săn những cây nấm bụ bẫm và đi bộ đến một con suối được bao quanh bởi những cây cói. Nghe thấy tiếng cành cây gãy, tôi lập tức chộp lấy con dao găm của mình và vị pháp sư đặt cây đàn lia của mình xuống. Trên Đảo Lớn không có động vật lớn nguy hiểm, nhưng có những con nhện xám săn mồi theo đàn sâu trong rừng, thường có thể dùng lửa và tiếng động lớn để xua đuổi chúng, nhưng nếu không may gặp phải một đàn đặc biệt đông đúc và đói khát, chúng vẫn rất nguy hiểm.

Cậu đẩy bụi cây sang một bên rồi bước ra ngoài, dừng lại cách chúng tôi bốn, năm bước, đột ngột như bị một sợi dây vô hình kéo lại. Aganon hơi cúi đầu xuống để tỏ lòng kính trọng với Chủ tịch, nhưng tôi không làm vậy. Cậu cúi đầu chào lại pháp sư, hỏi liệu anh ta có thể cho chúng tôi nói vài lời được không.

Pháp sư liếc nhìn tôi, gói cây đàn lia và chiếc giỏ mây đựng nấm lại, rồi cũng mang giỏ của tôi đi. Rất lâu sau khi anh ta biến mất trong rừng, chúng tôi vẫn đứng ở chỗ cũ, cách nhau một khoảng cách không dài cũng không ngắn. Tôi đợi cậu nói trước, và dường như cậu cũng đang chờ đợi điều tương tự, nên tôi ngồi xuống một tảng đá bên suối, rút hai chiếc cói ra và bắt đầu buộc những ngọn cỏ dài thành nút thắt.

“Mình không biết cậu đang ở trong hội trường.” Cậu chọn bắt đầu bằng câu này.

Liệu sẽ có gì khác biệt không? Tôi hỏi và trực tiếp trả lời cho cậu, điều đó sẽ không có gì khác biệt, cậu sẽ không thay đổi tuyên bố của mình vì lý do này.

Trông cậu có vẻ bực bội, nhưng ít ra cậu cũng không phủ nhận, vì cậu cũng hiểu đó là lời nói dối, lời thoại đã được thiết kế từ trước sẽ không thay đổi chỉ vì tôi có mặt hay vắng mặt. Cậu đã nói hai lần: “Nhưng chẳng phải mình đã nói trước với cậu rồi sao? Mình không nhận được sự đồng ý của cậu à?”, giống như cậu thực sự không thể hiểu được. Tuhfa, “giải thích mối quan hệ của chúng ta” và “cậu ấy chỉ có thể là khách” là hai cấp độ hoàn toàn khác nhau, cậu không thể lấy cái trước để che đậy cái sau.

Sau đó, cậu đã xin lỗi và nói rằng đó chỉ là một màn biểu diễn cần thiết chứ không phải ý nghĩ thực sự của cậu. Nhưng tôi vốn biết tất cả những điều này, và tôi chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu của cậu – tất nhiên là nó tồn tại, phải không? Nếu không, sẽ không có gì buộc một người phải đi cùng một người khác trong chuyến hành trình đến một hòn đảo có nhiều tàu phương bắc sinh sống, đơn giản chỉ vì người sau nói rằng mình được dẫn dắt bởi một giấc mơ. Tôi không muốn những lời xin lỗi và cầu xin của cậu. Thực ra, tôi không mong đợi được nghe bất kỳ lời tuyên bố đầy cảm xúc nào. Tôi chỉ muốn nhận được một sự…xác nhận? Khẳng định? Bằng chứng hay dấu hiệu? Để chứng minh rằng ít nhất tôi cũng có một nơi để thuộc về trong đại dương này, một nơi mà tôi có thể ngừng tồn tại như một “vị khách viếng thăm”.

Vì vậy, cậu thấy đấy, cảm giác này – hãy tạm gọi nó là nỗi buồn cho đến khi một từ phù hợp hơn xuất hiện trong đầu – không phải là thứ có thể chống lại được bằng cách cảnh báo trước.

Cậu hỏi cậu có thể làm gì để đổi lấy sự tha thứ, nhưng tôi không muốn cậu thay đổi bất cứ điều gì. Cậu chưa bao giờ tỏ ra giả dối với người khác, và tôi cũng không cảm thấy bị phản bội hay xúc phạm. Tôi chỉ đánh giá lại hoàn cảnh của mình trong đại dương này. Cậu ngồi xuống bãi cỏ trước mặt tôi, nắm lấy tay tôi, tôi cho phép cậu làm như vậy, điều này dường như khiến cậu ngửi thấy mùi hy vọng và hỏi tôi khi nào tôi sẽ “về nhà”.

Nhà nào? Lẽ ra tôi phải có nhiều hơn một cái, nhưng dường như tôi lại chẳng có cái nào cả. Cho dù đó là nơi nào thì tôi cũng sẽ không quay lại trong một thời gian ngắn. Nếu là trước đây, tôi sẽ kể cho cậu nghe tất cả những điều này một cách chi tiết, từ đêm ngắm sao mái chèo trên sườn đồi, giữa chúng tôi đã không còn bí mật gì nữa. Nhưng lần này tôi chỉ cảm thấy mệt mỏi và không muốn bộc lộ cảm xúc của mình cho cậu thấy. Thế là tôi trả lời mình không biết, rút tay về, đứng dậy và định rời đi. Cậu đi theo tôi, tôi nói: “Không, Tuhfa”, nên cậu dừng lại. Tôi bước về phía hồ mà không ngoảnh lại.

Sau ngày hôm đó, Đảo Lớn lại trải qua một trận động đất khác, mọi tảng đá đều rung chuyển cùng với tiếng ồn ào phát ra từ mặt đất. Trang trại được cho là đã bị sập, một miệng hố khổng lồ nuốt chửng cả nửa trang trại và cậu được gọi đến để giải quyết nó. Trong vòng vài ngày, các thủy thủ tuần tra ngoài biển mang về tin tức Hạm đội phương Bắc đang tập hợp. Tôi lẻn vào những ngôi nhà đá cạnh chợ trời, những ngôi nhà dành cho du khách sau một thời gian dài nghỉ buôn bán trông đã đổ nát, cửa sổ vỡ chưa sửa, còn những con cú làm tổ trong ống khói. Tôi trèo lên mái nhà và nhìn qua chiếc soái hạm(1) của cậu, giống như cha cậu, cậu tin rằng Chủ tịch Hội đồng phải ở trên tàu cùng với những người lính.

(2) Soái hạm: là một chiến hạm được dùng bởi chỉ huy trưởng của một nhóm tàu chiến hải quân.

Đoàn tàu khởi hành vào buổi tối, tôi đợi đến nửa đêm rồi ngủ gục trên bãi biển, dựa vào thùng gỗ chứa đầy nước ngọt. Tôi thoáng mơ thấy hạm đội quay trở lại, thấy tiếng súng, tiếng bước chân, tiếng kêu của những người bị thương. Có ai đó lắc mạnh vai tôi để đánh thức tôi, tất cả những âm thanh đó vẫn còn đó và không phải là mơ. Các tàu chiến từ từ tiến vào, những ngọn đuốc và ngọn lửa ma thuật thắp sáng bến cảng nhưng bầu trời vẫn tối tăm. Người đánh thức tôi dậy là một cô học trò trẻ, chưa đầy mười tuổi.

“Theo tôi”, cô ấy nói rồi kéo tay tôi, “Chủ tịch cần cậu.”

Đây là lời nguyên bản của cô ấy, cậu cần tôi. Đó là sự hiểu biết của cô ấy hay cậu yêu cầu cô ấy nói điều này? Tôi chạy qua bãi biển, trong đầu không tự chủ được hình dung cậu bị một mũi tên xuyên qua ngực, chờ đợi để từ biệt tôi lần cuối. Tình huống thực tế có phần phù hợp với trí tưởng tượng man rợ của tôi, khi tôi đến nơi, Ashayo đã lấy ra mũi tên cắm trên đùi cậu. Máu ở khắp mọi nơi, trên cát, trên quần áo của cậu, trên cánh tay của Ashayo. Trông cậu xanh xao lắm, tôi quỳ xuống cạnh cáng, ngại chạm vào cậu vì sợ chạm vào là cậu sẽ tan biến. Tuy nhiên, cánh tay của cậu vẫn khỏe mạnh, khi cậu kéo tôi xuống, tôi cảm nhận được. Môi chúng tôi chạm vào nhau. Cậu giữ sau gáy tôi. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt của mọi người sau lưng mình, giống như vô số mũi tên nhỏ. Tôi đã cố gắng giải thích cho cậu rằng đây không phải là thời điểm thích hợp và cũng không phải nơi thích hợp, nhưng tôi chỉ kịp phát ra ba âm tiết đầu tiên trước khi nghẹn ngào phần còn lại của câu.

“Cho họ nhìn.” Cậu nói, áp môi mình vào môi tôi, “Đừng đi, cá nhỏ.”

Tôi sẽ không đi đâu cả.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top