Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Thanh Vân Đài

Chương 140


Quả là trùng hợp!

Mọi người không khỏi thầm than.

Bọn họ đang ở tạm tại Quy Ninh Trang, mà Doãn Nhị thiếu gia của Quy Ninh Trang lại chính là Sấu Thạch họ muốn tìm.

Tạ Dung Dữ hỏi Chương Lộc Chi: “Ngươi có điều tra được gì về người thầy đã dạy vẽ cho Doãn Trì không?”

“Đã điều tra rồi ạ. Mấy năm nay ở Lăng Xuyên cũng chỉ có vài ba Cử nhân. Người kia họ Thẩm, sau khi rời Doãn gia, ông ấy chủ yếu làm vài việc vặt vãnh kiếm sống qua ngày, bây giờ cả nhà họ đã chuyển đến phủ Khánh Minh. Tề Châu doãn và ông ta là người quen cũ, chính Tề Châu doãn kể cho thuộc hạ những chuyện này.” Chương Lộc Chi đáp.

Kỳ Minh nghĩ bụng, đoạn bảo: “Bẩm Ngu hầu, không phải Thuận An Các nói, năm năm trước có một tiểu thư đồng đã bán tranh giúp Sấu Thạch sao? Nếu Doãn Tứ cô nương thường đi gửi tranh giúp Nhị thiếu gia, vậy có khi nào tiểu thư đồng đó chính là Doãn Tứ cô nương cải trang không?”

Tạ Dung Dữ lập tức nhìn sang Huyền Ưng vệ, Huyền Ưng vệ hiểu ý, chắp tay rời khỏi thư phòng, một lúc sau đã mời Doãn Uyển ở hậu trang đến.

Tuy có ma ma đi theo nhưng Doãn Uyển vẫn rất sợ. Nàng ta vặn xoắn khăn đứng ngoài thư phòng, hành lễ xong cũng chẳng dám nhấc ngước lên nhìn, càng đừng nói là vào thư phòng.

Vệ Quyết cũng không làm khó nàng ta, hắn bước ra cửa, hỏi: “Vì sao tối qua cô cũng có mặt tại hội thi họa ở Thuận An Các?”

“Bẩm, bẩm quan gia, Nhị ca thích hội họa, không dám cho phụ thân biết, mỗi lần có tranh muốn ký gửi ở Thuận An Các, đều nhờ dân nữ chạy chân giúp, tối qua là lần đầu Nhị ca đến hội thi họa, vì thế… dân nữ cũng đi theo.” Doãn Uyển thấp giọng đáp.

Vệ Quyết chỉ mới hỏi mào đầu, thấy nàng ta thành thực trả lời bèn đi thẳng vào vấn đề chính, “Nghe nói Doãn Trì thích vẽ như thế là do thầy giáo Cử nhân dạy dỗ, cô có nhớ người thầy ấy tên gì không?”

Doãn Uyển lắc đầu, “Dân nữ không nhớ tên, chỉ nhớ ông ấy họ Thẩm, Nhị ca gọi ông ấy là thầy Thẩm.”

Nàng ta đáp xong mà Vệ Quyết vẫn không lên tiếng, ý muốn chờ nàng nói tiếp đây mà. Doãn Uyển cố vắt hết óc nhớ lại: “Nhị ca rất thích thầy Thẩm. Kỹ thuật vẽ, dùng mực hay đi bút của huynh ấy đều học từ thầy Thẩm, về sau thầy Thẩm rời đi, huynh ấy buồn bã một thời gian, ngày lễ tết còn viết thư gửi thầy đính kèm tranh tự vẽ, tiếc là… không gửi đi được.”

“Vì sao không gửi đi được?”

Doãn Uyển im lặng một lúc: “Nghe bảo thầy Thẩm đã rời Lăng Xuyên, không biết đã đi đâu.”

Nàng mím môi, “Từ đó trở đi, Nhị ca khổ luyện tập vẽ, tới khi tiến bộ mới gửi tranh của mình đến Thuận An Các bán. Không phải do thiếu tiền thiếu bạc, chỉ là huynh ấy hi vọng có một ngày, tranh của mình sẽ được lan truyền, được thầy Thẩm nhìn thấy.”

Vệ Quyết nói: “Vậy theo như cô nói, hiện giờ Doãn Trì đã thành thạo kỹ năng hội họa, hắn ta muốn tranh của mình được Thẩm Cử nhân thấy, vậy thì chắc chắn không phải mới bắt đầu gửi tranh từ năm nay mà từ nhiều năm trước, hắn đã nhờ cô đem tranh đến Thuận An Các?”

Doãn Uyển nghe hỏi, chần chừ hồi lâu mới gật đầu: “Vâng ạ. Nhưng mấy năm trước Nhị ca vẽ rất ít, phụ thân bất mãn chuyện huynh ấy mê vẽ. Vì… vì huynh ấy sợ phụ thân, nên phải tới năm ngoái khi thi đậu Tú tài, Nhị ca mới vẽ nhiều hơn.”

Điều này cũng giải thích vì sao năm năm trước, tranh của Sấu Thạch lại ít ỏi đến vậy.

Vệ Quyết nói: “Vậy cô nhớ kỹ lại xem, năm năm trước, tức vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Nhị ca của cô có từng nhờ cô đem tranh đến Thuận An Các không?”

Năm năm trước?

Có vẻ như mốc thời gian này đã khiến Doãn Uyển trở nên đề phòng, nàng ta vặn chặt khăn tay. Thân hình bé nhỏ gầy gò đó tựa như chú chim hoảng sợ, nghe câu hỏi ấy, nàng ta bất chợt ngẩng phắt đầu lên nhìn Vệ Quyết.

“Sao, khó nói à?”

Đối diện với ánh mắt sáng quắc của Vệ Quyết, Doãn Uyển lập tức cúi đầu, nàng ta hốt hoảng run rẩy bờ vai, thấp giọng lẩm bẩm: “Có, có đưa vài bức, Nhị ca bảo dân nữ cải trang thành tiểu thư đồng, không ai biết chuyện này cả…” Nàng ta cắn môi, lấy hết dũng khí để hỏi, “Quan gia, Nhị ca chỉ thích mỗi vẽ vời, quan gia tra hỏi như thế, có phải Nhị ca… đã gây ra chuyện gì không?”

Vệ Quyết không đáp, ngoái đầu hỏi ý Tạ Dung Dữ, thấy Tạ Dung Dữ gật đầu thì mới nói: “Cô về đi, nhớ không được tiết lộ chuyện hôm nay với bất kỳ ai.”

Đợi Doãn Uyển rời đi, Kỳ Minh chắp tay nói với Tạ Dung Dữ: “Ngu hầu, nay xem ra, Sấu Thạch gửi tranh ở Thuận An Các năm đó chính là Doãn Trì.”

Tạ Dung Dữ nhìn Vệ Quyết, “Ngươi thấy thế nào?”

Vệ Quyết nói: “Tuy khá trùng hợp, nhưng đam mê hội họa như vậy không phải là thú tiêu khiển của người nhà bình thường, huống hồ Sấu Thạch bắt chước phong cách của Đông Trai tiên sinh, mà tranh của Đông Trai khó bắt chước, cũng chỉ có nhà giàu như Doãn gia mới có cơ hội chiêm ngưỡng tác phẩm của Đông Trai. Lúc mới vào Huyền Ưng Ti, thuộc hạ từng nghe lão chỉ huy sứ nói một câu, khi đã loại bỏ tất cả các khả năng thì điều cuối cùng dù khó tin đến đâu cũng là sự thật. Từ manh mối chúng ta đang có trong tay,  rất có thể Sấu Thạch mà ngày trước Sầm Tuyết Minh tìm đến chính là vị Nhị thiếu gia họ Doãn này.”

Chương Lộc Chi nói ngay: “Bẩm Ngu hầu, nếu Sầm Tuyết Minh đã tìm Doãn Trì trước lúc mất tích, chi bằng chúng ta hãy lập tức tróc nã Doãn Trì, thẩm vấn tung tích của Sầm Tuyết Minh.”

“Không được.” Kỳ Minh nói, “Chương Hiệu úy chớ nôn nóng, Doãn Trì không phạm tội gì cả, chỉ là tranh vẽ được Sầm Tuyết Minh mua đi, chúng ta lấy lý do gì bắt cậu ta?”

Tạ Dung Dữ lên tiếng: “Đức Vinh, hôm trước ta bảo ngươi đi lấy tranh vẽ của Lữ Đông Trai ở nhà, giờ tranh ở đâu rồi?”

Nhà mà Tạ Dung Dữ nói không phải là Thiên gia kinh thành, mà là danh môn Tạ thị ở Trung Châu.

Dù rằng tranh của Đông Trai tiên sinh vô cùng hiếm, nhưng đại tộc như Tạ thị muốn có một bức bản gốc cũng không khó.

Đức Vinh đáp: “Bẩm công tử, người trong tộc bảo tranh vẽ đã trên đường đưa đến Lăng Xuyên rồi ạ.”

Tạ Dung Dữ: “Bao giờ nhận được tranh thì đưa nó đến chỗ Vong Trần, bảo y dựa theo đó mô phỏng lại một bức, không cần giống thần thái cũng được, sau đó đem tranh đến phố Lưu Chương gửi bán, nhớ không được đem tới Thuận An Các, tìm đại một cửa hàng, nói đó là bản gốc của Đông Trai tiên sinh, người đưa tranh,” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, “Tên Sấu Thạch.”

***

Ba ngày sau.

“Nhanh nhanh nhanh, mau chuyển vào trong đi.”

“Một, hai, ba, lên!”

Hoàng hôn vừa buông, trước dinh thự xuất hiện vài gã đàn ông cao to vạm v, lần lượt khiêng bảy bức chạm khắc cao bằng một người dài bằng một người từ trên xe xuống.

Dinh thự là nơi nghỉ ngơi của mệnh quan triều đình, đâu phải chốn tụ tập ồn ào? Quản gia nghe thấy động tĩnh, vội vã đi ra cửa, đang định mắng mỏ thì chợt thấy Khúc Mậu đứng trong ngõ, ông ta bèn dừng lại, đi lên nói: “Khúc Hiệu úy, ngài đây là…”

Hôm qua Khúc Mậu vừa chuyển đến đây. 

Hắn không ở nổi doanh trại nữa rồi, ban đầu dự định chuyển sang Quy Ninh Trang ở chung với Tạ Dung Dữ, nhưng Tạ Dung Dữ quá bận, chưa chắc đã có thời gian chơi với hắn, trùng hợp hôm trước ở nha phủ viết công văn, nghe Tống trưởng lại nhắc đến dinh thự dành cho mệnh quan triều đình. Tống trưởng lại nói, khâm sai từ kinh thành đến thường ghé dinh thự ở, dinh thự ở chỗ này có đến mấy viện, một viện Trương Viễn Tụ ở, một viện khác bị Chương Đình chiếm, số còn lại đều đang bỏ trống. Khúc Mậu mới nghĩ, dù hắn chỉ là một Hiệu úy Thất phẩm, nhưng không phải cũng từ trong kinh đến ư? Cũng miễn cưỡng xem như là khâm sai, mà nếu đã là khâm sai, chuyển đến dinh thự ở cũng không có gì quá đáng. Khúc Mậu nói ra suy nghĩ với Tống trưởng lại, có thể Tống trưởng lại nể mặt cha hắn nên nhanh chóng đồng ý.

Vưu Thiệu đi cạnh Khúc Mậu đáp: “Tháng sau là đại thọ của Hầu gia nhà ta, Hiệu úy mua ít tác phẩm điêu khắc, định một thời gian nữa sẽ chở lên kinh chúc thọ Hầu gia, làm phiền quản sự rồi, mong quản sự lượng thứ.”

Hắn lôi cả Khúc Bất Duy ra rồi thì quản sự đâu dám hó hé gì, chỉ có thể lùi sang một bên để bọn họ khiêng đồ vào.

Có gã hầu đứng trong con ngõ đằng xa, nghe Vưu Thiệu nói xong liền quay về đầu ngõ, chắp tay vái với cỗ xe ngựa đang đậu, “Thiếu gia, là Khúc Ngũ gia mua đồ điêu khắc về dành chúc thọ Khúc hầu.”

Người ngồi trên xe không ai khác mà chính là Chương Đình, hắn vừa tan giờ trực, thấy ngoài ngõ bị chặn bèn sai người hầu đi xem tình hình.

Biết là chuyện tốt Khúc Đình Lam làm, Chương Đình cũng chẳng ngạc nhiên. Hắn và Khúc Đình Lam lớn lên cùng nhau, kẻ kia chỉ giỏi gây rắc rối, không làm nổi chuyện chính. Nghe bảo thời gian trước hắn ta còn chi một khoản tiền lớn mua một bộ tranh, nhưng mới bước ra khỏi cửa thì tranh đã bị trộm mất. Bây giờ Tề đại nhân và Tống trưởng lại ở châu nha đang bận tìm tranh cho hắn, vậy mà hắn đã quẳng chuyện đó lên chín tầng mây, chưa gì đã mua đồ điêu khắc.

Lăng Xuyên vốn nhiều núi, là nơi quy ẩn ưa thích của văn nhân dật sĩ tiền triều, ngoài họa sĩ danh họa ra thì Lăng Xuyên còn nổi tiếng về điêu khắc gỗ. Ban đầu điêu khắc gỗ chỉ xem như đồ dùng trưng bày trong nhà, vì hình dáng khác nhau nên dần dà biến thành thứ thưởng ngoạn, có khắc hình người, có khắc hình động vật, thậm chí là khắc cả cảnh thịnh thế lầu các, sông núi ngút ngàn vào chu vi chỉ chừng một trượng. Dạo gần đây Khúc Mậu tìm kiếm khắp phố phường, góp đủ một bộ “Thất tiên chúc thọ”, bảy bức điêu khắc tiên nhân cao một người rộng một người rất sống động, ở chính giữa là lão thọ tinh nâng bàn đào với gương mặt hiền từ.

Chương Đình cười khẩy, phất tay áo bước xuống xe ngựa, nhìn thẳng vào dinh thự, chẳng buồn liếc Khúc Mậu một lần.

Quản sự thấy thế, thầm nhủ không xong rồi, lập tức theo Chương Đình đi vào viện, vừa sai người pha trà vừa giải thích: “Hạ quan thấy Khúc Hiệu úy có tấm lòng hiếu thảo, không tiện ngăn cản, định đợi ngài ấy chuyển đồ xong sẽ cho người báo cáo, ai ngờ lại chặn đường của Chương đại nhân, mong Chương đại nhân bỏ qua cho.”

Chương Đình chẳng buồn để bụng, chỉ “ừ” một tiếng. Chỉ chốc nữa là màn đêm sẽ buông hẳn, thế nhưng bữa tối vẫn chưa được chuẩn bị xong, Chương Đình bước vào thư phòng, ngồi xuống trước bàn, trải phẳng tờ giấy Tuyên trắng. Quản sự dâng trà, cũng theo vào thư phòng, đặt trà ở đầu bàn, thấy Chương Đình viết xuống giấy trắng hàng chữ “Đạo an quốc thủ sĩ” thì không khỏi chặc lưỡi, “Đây không phải là đề thi của kỳ thi đình năm Chiêu Hóa thứ mười sao? Chương đại nhân cần cù thật đấy.”

Nói thêm, vị quản sự đây không phải là người hầu, ngày trước đậu kỳ thi Cử nhân, làm công việc của nha môn lục sự, hôm nay tới dinh thự cũng là do ca trực luân phiên.

Chương Đình thấy ông ta nhận ra đề thi thì càng thêm kính nể, nói: “Bổn quan là người không có thiên phú, học hành vất vả chưa chắc đã có thể tiến xa, có được hôm nay là nhờ ân đức của Quan gia, không xứng với chức cao, cho nên không dám buông thả dù là thời gian rảnh, huống hồ gia phong vốn như vậy, cũng không thể nói là cần cù.”

Quả thực Chương Đình không nói dối về gia phong.

Tuy Chương Hạc Thư xuất thân từ danh môn Chương thị, nhưng ngặt nỗi lại là thứ xuất, không đến lượt ông ta hưởng đặc quyền con ông cháu cha, năm xưa ông ta trải qua rất nhiều chông gai trắc trở trên con đường thi cử làm quan, nghe bảo phải thi Hương đến những bảy tám lần, cho nên về sau dù đã làm quan, Chương Hạc Thư cũng không hề lười biếng, vẫn thường đọc sách trên đường tới lui nha môn, lúc rảnh cũng hay viết sách luận, chọn đại một trang trong Tứ Thư cũng có thể nhắm mắt đọc. Mà Chương Đình là con trai của Chương Hạc Thư, dĩ nhiên sẽ kế thừa tác phong của cha, càng thêm khắc khổ cần cù.

Chương Đình nói mình không có thiên phú, thực chất không phải thế, chẳng qua phải xem là so với ai mới được.

Trong đồng lứa bọn họ, có thể do ảnh hưởng bởi sự kiện nước sông Thương Lãng tẩy sạch cổ tà năm xưa nên ai ai cũng xuất chúng, Tạ Dung Dữ Trương Viễn Tụ thì miễn bàn, ngay cả Hà Hồng Vân đã đền tội cũng nhạy bén hơn Chương Đình, vì thế Chương Đình càng phải thức khuya dậy sớm, hắn mong rằng tương lai mình cũng có thể giống như cha, hoặc là giống Tiểu Chiêu vương hay Vong Trần, muốn một ngày có thể thi đậu Tiến sĩ bằng chính thực lực của bản thân, nhưng có câu “mới 30 đã đỗ Minh kinh, đã 50 mới đậu Tiến sĩ”, hỏi mấy ai giành được vinh quang khi còn trẻ đây?

Trong thư phòng thoang thoảng mùi mực, dưới ánh nến leo lắt, sự tập trung khiến Chương Đình trông càng lạnh lùng, quản sự không tiện quấy rầy, nhẹ nhàng lui ra.
 
Chương 141


Khi chấm hết một bài nghị chương cũng là lúc ngoài nhà đã tối. Lúc Chương Đình viết sách luận, toán người hầu không ai dám quấy nhiễu, đợi hắn dừng bút thì một tùy tùng mới đẩy cửa vào bẩm: “Công tử, đã chuẩn bị xong cơm tối rồi ạ.”

Lâu lắm rồi Chương Đình mới viết được một bản nghị chương ưng ý, hắn đợi mực khô rồi cẩn thận cất vào hộp, giao cho tùy tùng, “Sáng mai giúp ta đưa cho Vong Trần, nói là nhờ y nhận xét hộ.”

Hắn bước ra khỏi phòng, bấy giờ mới để ý trời đã khuya, vừa ngồi xuống bàn ăn, còn chưa động đũa thì đã nghe thấy tiếng tì bà loáng thoáng đưa đến, chốc chốc lại là tiếng phụ nữ ca hát du dương uyển chuyển, như khóc như kể.

Không cần hỏi cũng biết là ai đã mời nữ tì bà đến.

Hồi chiều Khúc Mậu sai người chở mấy pho tượng gỗ về dinh thự, ồn ào cả buổi, may mà lúc Chương Đình viết sách luận thường tập trung cao độ nên mới không bị hắn ta làm phiền, nhưng hiện tại đã là giờ nào rồi mà hắn ta vẫn chưa chịu dừng, hơn nữa bọn họ còn đang ở dinh thự dành cho mệnh quan triều đình, là nơi có thể mời nữ tì bà đến ư?

Chương Đình ném phăng đũa tre đi, sải bước ra khỏi phòng, đến trong viện bên cạnh thì thấy cửa nẻo khóa chặt, trên cửa sổ phản chiếu bóng dáng mờ ảo của nữ tì bà.

Chương Đình cất bước đi tới, đẩy mạnh cửa phòng, “Khúc Đình Lam, ngày nào ngươi không gây chuyện là ngày đó ngươi không chịu nổi đúng không?! Ngươi không xem ngươi đang ở chỗ nào hả, còn dám mời cả con hát đến?!”

Thấy Chương Đình, Khúc Mậu lấy làm ngạc nhiên. Tối nay rảnh rỗi chẳng biết làm gì, vốn định đến bờ sông nghe nhạc, nhưng cả ngày hôm nay hắn đã mệt rã rời vì mấy bức điêu khắc, thế là sai người lén mời nữ tì bà đến. Hắn định đợi cô ta hát xong hai bài sẽ cho đi, ai dè tên Chương Lan Nhược này, đã mang gương mặt quạu cọ lại còn mọc tai thỏ, hắn đã khép kín cửa nẻo rồi mà vẫn bị hắn ta tóm được.

Khúc Mậu không muốn gây chuyện, song cũng không muốn nhận lỗi, “Ta chán quá nên mới nghe hát một lúc, đàn sáo nhã nhạc, lại không phạm phải quy định, chút chuyện nhỏ này cũng đáng để ngươi khiển trách hả?”

“Chuyện nhỏ?” Chương Đình nổi xung, “Ngươi dám gọi đây là chuyện nhỏ? Khúc Đình Lam, ngươi là người của quân đội, dọn vào dinh thự đã vượt quá quy chế, không những thế ngươi còn không tuân theo quy định, dám gọi nữ tì bà đến, quan viên Lăng Xuyên nể mặt cha ngươi nên mới không nói gì, nhưng nhỡ mà truyền đi, coi như quan kinh thành mất sạch mặt mũi!”

Khúc Mậu ghét nhất là cái vẻ “việc gì ra việc nấy” của Chương Đình, hắn cười lạnh, “Ngươi lớn giọng hơn nữa đi, để đám ngoài kia biết tối nay Khúc gia gia nhà ngươi mời nữ tì bà. Ta thấy ngày nào ngươi không tìm Khúc gia gia gây sự thì ngày đó ngươi khó chịu thì có, ta cũng đã đóng kín cửa sổ rồi, ngươi lại còn dám nghe trộm động tĩnh trong viện ta, Trương Vong Trần ở sát rạt ngay bên cạnh nhưng sao không thấy hắn tới nói gì?”

“Khúc Đình Lam, ngươi thích bị tố cáo đúng không, ta…!”

Hai người bọn họ lời qua tiếng lại, khi sắp sửa cãi vã thì đúng lúc này, tùy tùng của Chương Đình lật đật chạy tới, “Công tử, lão gia gửi thư gấp đến, mời ngài mau quay về.”

Chương Đình vừa nghe, cơn giận dữ tạm thời biến mất, Chương Hạc Thư là người điềm tĩnh, rất ít khi viết thư gấp, hắn nhìn Khúc Mậu, bụng nghĩ không quản nữa, bao giờ hồi kinh sẽ tố cáo sau, đoạn xoay người đi ra khỏi viện, hạ giọng hỏi: “Trong thư phụ thân nói gì?”

“Lão gia không nói rõ, chỉ bảo triều đình đã phái Phong Nguyên Tướng quân đến Lăng Xuyên để thị sát mỏ khoáng, dặn công tử tạm thời ở lại Đông An, đợi Phong Nguyên Tướng quân đến thì giúp điều tra một vị đại nhân đã mất tích từ mấy năm trước, vị đại nhân kia có liên quan tới khu mỏ, hình như là họ… À, họ Sầm…”

Khúc Mậu nhìn theo bóng lưng Chương Đình dần rời xa, thong thả quay vào nhà, nhưng hắn cũng không còn tâm trạng nghe hát sau chuyện vừa rồi nữa, bèn đuổi nữ tì bà đi, rót mấy cốc rượu uống một mình, chẳng mấy chốc cơn buồn ngủ đã kéo đến, hắn lê mình vào phòng ngủ, buông tay nằm vật ra giường, đang định đánh một giấc thì nghe thấy Vưu Thiệu nói: “Ngũ gia, vậy sáng mai giờ Mão tiểu nhân đến gọi ngài nhé?”

Khúc Mậu nhướn mày: “Việc gì gọi ta dậy sớm thế?”

Vưu Thiệu cởi ủng cho Khúc Mậu, “Ngũ gia ngài quên rồi à? Hôm trước ngài bị mất tranh ở Thuận An Các, Tề đại nhân nói sẽ tìm giúp ngài, mấy lần mời ngài đến lấy lời khai nhưng ngài đều từ chối do bận tìm tượng điêu khắc, đã trễ lắm rồi, ngày mai không thể trì hoãn được nữa đâu.”

Khúc Mậu miễn cưỡng mở mắt, nghĩ một hồi lại ảo não nhắm mắt, “Ôi chao, giờ Mão sớm quá, không dậy nổi. Tứ cảnh đồ gì gì đó, cha ta có rồi, biếu thêm bộ nữa chưa chắc ông ấy đã ưng. Ta thấy có vẻ Thanh Chấp rất thích bộ tranh đó, ngày mai ngươi đi nói với Tề châu doãn là bao giờ tìm được tranh thì đưa cho Tiểu Chiêu vương, coi như Khúc gia gia mua tặng cậu ấy.”

Vưu Thiệu đáp: “Tiểu nhân đâu dám nói thế, Ngũ gia phải đích thân đến châu phủ đánh tiếng mới được chứ.”

Nhưng hắn nói xong lại không nghe thấy chủ nhân có động tĩnh gì, Vưu Thiệu ngoái đầu nhìn, chưa gì mà Khúc gia gia nhà hắn đã ngáy khò.

***

Khúc Mậu ngủ thẳng đến trưa hôm sau mới dậy, quá ngọ đi bộ đến bờ sông ăn chút đồ lót dạ, đợi hoàng hôn buông mới ngồi xe ngựa chậm rãi đi tới châu nha.

Có vẻ quan viên châu nha không ngờ hôm nay Khúc Mậu sẽ đến, một tư lại tiến lên chào hỏi, “Khúc Hiệu úy tới có việc gì không ạ? Thật là không khéo, cả Tề đại nhân lẫn Tống đại nhân đều đã đi vắng.”

Tề Văn Bách là vị Châu doãn vô cùng cần cù, bình thường trời chưa tối sẽ không rời nha môn, nhưng bây giờ trời hẵng còn sáng mà ông ta lại không có mặt.

Tư lại như nhìn thấu thắc mắc của Khúc Mậu, bèn giải thích: “Tề đại nhân và Tống đại nhân đến phố Lưu Chương rồi ạ, hình như bên đó đang ồn ào án tranh giả gì đấy, bắt được cả người lẫn tang vật.”

Khúc Mậu “à” một tiếng, nhưng Vưu Thiệu lại càng thắc mắc hơn: “Nếu đã là án, tại sao không áp giải nhân chứng nghi phạm về nha môn mà phải phiền hai vị đại nhân đích thân đi?”

Vừa rồi tư lại ngại quan hệ giữa Khúc Mậu và Tạ Dung Dữ nên không nói rõ, giờ nghe hỏi vậy đành phải thành thật đáp: “Vụ án này do Huyền Ưng Ti phá, nghe bảo Chiêu vương điện hạ cũng tình cờ có mặt ở phố Lưu Chương.”

Nghe nói Tạ Dung Dữ đang ở phố Lưu Chương, Khúc Mậu lấy làm mừng, án iếc gì cũng được sất, dạo gần đây hắn chán cực kỳ, đang rầu vì không có chuyện gì vui, thế là quay về xe ngựa, dặn, “Đi hóng chuyện nào.”

Nhưng phố Lưu Chương không hỗn loạn như hắn tưởng, bách tính đến xem đều bị quan sai ngăn cản bên ngoài, không rõ là có chuyện gì. Đi vào trong, thấy vài ba Huyền Ưng vệ đứng trước một cửa tiệm tên là Điểm Mặc Trai, ngoài Tề Châu doãn và Tống trưởng lại ra, cả Doãn Trì lẫn Doãn Uyển cũng có mặt.

Ông chủ Trịnh của Thuận An Các mới được mời tới, lúc này đang cầm một bức tranh trong tay, cẩn thận kiểm nghiệm. Một lúc sau ông ta cuộn tranh lại, dâng lên Tạ Dung Dữ, “Bẩm quan gia, bức tranh này đúng là đã mô phỏng bức Tây sơn tê hà lưu cảnh của Đông Trai tiên sinh, người bắt chước có kỹ thuật vô cùng tài tình, nhưng chỉ giống bề ngoài chứ không mô phỏng được cái thần, chỉ cần kiểm tra kỹ sẽ không khó để phân biệt thật giả.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, nhận lấy bức tranh.

Ông chủ Mã của Điểm Mặc Trai run rẩy đầu gối, khuỵu xuống đất, “Quan gia, cầu xin quan gia điều tra rõ, tiểu nhân thật sự bị oan!”

Kể ra hắn cũng quá xúi quẩy, hôm qua hắn mới nhận được một vụ làm ăn, người bán tranh nói trong tay mình có bản gốc bức Tây sơn tê hà lưu cảnh của Đông Trai tiên sinh, muốn hắn ra giá. Ông chủ Mã không có mắt nhìn bằng ông chủ Trịnh, không phân biệt được thật giả, lại không muốn bỏ qua vụ làm ăn này – mấy hôm trước trong hội thi họa, một bức mô phỏng Tứ cảnh đồ được bán với giá cao ngất ngưởng đã đồn ầm khắp phố Lưu Chương. Thế là ông chủ Mã bảo người bán tạm thời để tranh lại, đợi hắn mời người kiểm nghiệm rồi hẵng định giá, ai dè người nghiệm tranh còn chưa tới thì khách đã đến rồi. Khách nói muốn chi ngàn vàng mua tranh của Đông Trai tiên sinh, không cần gì khác, ông chủ Mã bị ma xui quỷ khiến, cắn răng bán luôn bức Tây sơn tê hà lưu cảnh. Ai dè mới sang hôm sau, khách hàng đã trả lại tranh, nói mình mua phải hàng giả, không những muốn ông chủ Mã hoàn tiền mà còn muốn kiện hắn lên quan phủ.

Đúng lúc Tạ Dung Dữ cũng đang có mặt ở phố Lưu Chương, nghe chuyện này, y lệnh cho Huyền Ưng vệ bao vây Điểm Mặc Trai, cử người đến châu nha mời hai người Tề Tống, còn anh em Doãn Trì Doãn Uyển cũng được Huyền Ưng vệ mời đến.

Ông chủ Mã khóc lóc khai, “Người bán tranh tự xưng là Sấu Thạch, để lại tranh rồi không thấy tới nữa, khéo nghe được phong thanh nên đã bỏ trốn, nếu quan gia không tin, có thể kiểm tra sổ sách trong cửa hàng.”

Tạ Dung Dữ chỉ hỏi ông chủ Trịnh, “Có phải mấy năm trước, từng có một họa sĩ tên Sấu Thạch gửi bán tranh ở quý các?”

Vì Tạ Dung Dữ mới hỏi thăm Thuận An Các chuyện này nên ông chủ Trịnh vẫn còn ấn tượng, gật đầu lia lịa, “Có, có.” Vừa nói vừa lệnh tiểu nhị quay về các lấy sổ sách năm đó đến.

Tạ Dung Dữ đối chiếu sổ sách, lại nói, “Tống trưởng lại, trước khi Sầm Tuyết Minh mất tích đã từng sưu tầm tranh của Sấu Thạch, cũng là tranh mô phỏng phong cách của Đông Trai, ngươi còn nhớ chuyện này không?”

Chính Tống trưởng lại là người dẫn đường cho mọi người đến nhà cũ của Sầm Tuyết Minh lục soát tranh vẽ, ông nhìn Tề Châu doãn, đáp, “Bẩm điện hạ, hạ quan vẫn còn nhớ ạ.”

Tạ Dung Dữ không hỏi thêm nữa, chỉ nói với Vệ Quyết: “Bắt người lại.”

Vệ Quyết chắp tay đáp vâng, hai Huyền Ưng Ti lập tức đến bên cạnh Doãn Trì, ghì hắn xuống đất.

Có vẻ Doãn Trì không hiểu vì sao mình được mời đến, giờ đột ngột bị bắt giam lại càng thêm khó hiểu, hắn nhìn Tạ Dung Dữ, “Vương gia ngài… ngài có ý gì vậy?”

Vệ Quyết nói: “Huyền Ưng Ti đã có bằng chứng, Doãn Nhị thiếu gia chính là họa sĩ Sấu Thạch đã mô phỏng tranh của Đông Trai hồi ấy. Chứng cứ thế nào Huyền Ưng Ti không tiện tiết lộ tại đây, nhưng nếu trước mắt ngươi dám dùng hàng giả để mưu lợi, thì chỉ có thể mời Doãn Nhị thiếu gia đi cùng bọn ta một chuyến.”

Doãn Trì nghe thế bèn thở phào, hắn nói: “Vậy thì vương gia đã hiểu lầm rồi, hồi học vẽ, Nguyệt Chương không bắt chước phong cách của Đông Trai, Nguyệt Chương chịu ơn của Thẩm tiên sinh, phong cách vẽ của Đông Trai rất khó lường, không phải bậc thầy hội họa trời sinh thì khó mà đạt đến sự uyên thâm, Nguyệt Chương chỉ vẽ tranh thực tế, học theo các tiền bối Thủy Tùng hay Đình Mai cư sĩ, việc này chỉ cần vương gia xem qua tranh của Nguyệt Chương khắc biết.”

Vệ Quyết nói: “Những lời này, đợi Doãn Nhị thiếu gia theo bọn ta về nha môn, đích thân đối chiếu bằng chứng rồi hẵng nói.” Hắn dừng lại, “Dù gì Doãn Nhị thiếu gia cũng đã từng dùng tên Sấu Thạch để bán tranh, Huyền Ưng Ti vẫn cần phải đối chứng.”

Có vẻ Doãn Trì rất tin tưởng Tạ Dung Dữ, lập tức gật đầu: “Cũng được, vậy Nguyệt Chương tạm theo vương gia về nha môn, có hiểu lầm hay không một người rất khó giải thích, nếu có người đối chiếu, chắc hẳn sẽ rõ ngay thôi.” Đoạn, hắn ngoái đầu lại, thấy Doãn Uyển đang nhìn mình đầy lo lắng, bèn an ủi, “Muội yên tâm, huynh sẽ ổn thôi, muội về nhà nói với cha mẹ một tiếng, bảo huynh có chuyện phải đến nha môn nên sẽ về trễ, để cha mẹ khỏi chờ huynh.”

Hắn đã ngoan ngoãn phối hợp thì Vệ Quyết cũng không dùng trọng hình nữa, sai người đưa hắn lên xe ngựa, áp giải về châu nha cùng với ông chủ Điểm Mặc Trai.

Doãn Uyển đứng trên con phố dài, nhìn Huyền Ưng vệ và nha sai nghênh ngang rời đi, nàng ta xoắn khăn chần chừ một hồi, đoạn quay gót xoay người.

Doãn phủ nằm ở phía đông phố Lưu Chương, nhưng khi rời phố Lưu Chương, Doãn Uyển lại không do dự mà rẽ trái, bước chân nàng ta ngày một nhanh, gần như biến thành chạy, gương mặt non nớt đỏ bừng, đôi mắt trong trẻo lộ rõ sự hoảng hốt.

Nàng ta cũng đang chạy đến châu nha, băng qua ngõ hẻm, né cửa chính nha môn, đi đến trước cửa hông nằm phía tây, lấy ra lệnh bài sẫm màu trong túi giao cho lính gác, năn nỉ, “Quan gia, tôi muốn vào gặp người.”

Hai gã lính gác nhìn lệnh bài rồi lại nhìn nhau, cuối cùng cho phép, “Vào đi.”

Doãn Uyển gật đầu, đi vào cửa hông, băng qua một con đường nhỏ đi tới trước căn phòng đang thắp đèn, đập cửa gọi: “Nhạc tiền bối, Nhạc tiền bối, ngài có ở trong đó không? Có chuyện xảy ra rồi.”

Một lúc sau, trong phòng vang lên giọng nói thong dong, “Có chuyện gì.”

Doãn Uyển nghe thấy tiếng, biết Nhạc Ngư Thất đang ở trong phòng, lập tức đẩy cửa ra nói: “Nhạc tiền bối, Nhị ca của tôi bị hiểu lầm là Sấu Thạch, giờ đã bị quan phủ bắt về nha môn để thẩm vấn.” Nàng ta c4n môi dưới, khóe mắt dần ửng đỏ, “Là tôi… đã hại Nhị ca.”

Nhạc Ngư Thất *chậc* một tiếng, “Ta còn tưởng là gì, hóa ra chỉ là chút chuyện cỏn con này.” Ông ta xoay mình ngồi dậy, bước ra ngoài phòng, “Đi, đi xem thế nào.” Lại hỏi, “Vì sao Nhị ca nhà ngươi lại bị bắt? Tề Văn Bách không can thiệp à?”

“Là Huyền Ưng Ti bắt người, Tề đại nhân không làm gì được.” Doãn Uyển nói, “Hình như trên phố xuất hiện tranh mô phỏng của Đông Trai tiên sinh, Huyền Ưng Ti hiểu lầm do… do Sấu Thạch vẽ, nghi ngờ sang Nhị ca.”

“Tranh mô phỏng?” Nhạc Ngư Thất dừng bước.

Ông nghĩ ngợi, đột nhiên la lên: “Tiêu rồi, ngươi mắc bẫy rồi.”

Đó là đầu mùa hè khi hoàng hôn vừa tắt, màn đêm mờ ảo rải đầy đất, Nhạc Ngư Thất còn chưa kịp quay về phòng thì đột nhiên, một bóng cáo ráo xuất hiện trước cửa.

Giọng của Tạ Dung Dữ nhẹ nhàng đưa tới, “Chẳng hay tiền bối là cao nhân phương nào, cớ gì lại muốn trộm ảnh nền của bộ Sơn vũ tứ cảnh đồ?”

Nhạc Ngư Thất chắp tay đứng giữa sân, không trả lời.

Bốn phía không ánh sáng, cả ông và Tạ Dung Dữ như bị bóng đêm nhấn chìm, chẳng thể nhìn rõ đối phương.

Tạ Dung Dữ nói: “Hay là, tiền bối có thể để Doãn Tứ tiểu thư đang nóng lòng muốn cứu anh trai đây đến nha môn một chuyến được không, nếu cứ lần lữa, Huyền Ưng Ti hàm oan người ta cũng không hay đâu.” Y dừng lại, đoạn nhìn sang Doãn Uyển, “Họa sĩ Sấu Thạch, ta nói đúng không?”
 
Chương 142


Doãn Uyển nghe y gọi mình là “Sấu Thạch” thì biến sắc.

Đêm khuya gió lặng, xung quanh yên tĩnh tới nỗi có thể nghe được tiếng kim rơi, một khắc sau, Nhạc Ngư Thất đột ngột cử động, thân hình ông y hệt bóng ma, năm ngón tay khép lại thành lưỡi đao, bổ thẳng vào mặt Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ cứ ngỡ người này sẽ không có ác ý với mình, ai dè hắn ta đột nhiên ra tay, y lập tức lùi về phía sau, không đánh trả mà nghiêng người né tránh.

Nhạc Ngư Thất nào chịu tha cho y? Xông đến gần Tạ Dung Dữ rồi đột ngột biến mất. Ngay sau đó, chợt một luồng gió mạnh ập đến từ phía sau, Tạ Dung Dữ phản ứng rất nhanh, lao vụt sang cạnh chân tường, còn nơi y đứng ban nãy cắm đầy lá – hóa ra không biết Nhạc Ngư Thất bứt được một nhúm lá cây từ đâu lúc nào, dùng lá làm ám khí tấn công.

Nhạc Ngư Thất thấy Tạ Dung Dữ lùi tới chân tường liền nhếch mép, đang định tung chiêu tiếp thì đúng lúc này, chợt một bóng người màu xanh nhảy ra từ đầu tường.

Bóng xanh tung mình trên không tựa chim bay, roi dài trong tay b4n ra, mang theo gió đánh thẳng vào Nhạc Ngư Thất. Nếu Nhạc Ngư Thất không phản ứng nhanh, chỉ e đã bị roi quất trúng tay.

Roi vụt hụt một phát, Thanh Duy thu roi về đáp xuống đất, không nói nhiều nửa chữ, lần nữa vung roi tấn công Nhạc Ngư Thất.

Trước khi đến đây Tạ Dung Dữ đã nói kẻ trộm tranh không có ác ý, nếu không cần thiết thì nàng không cần ra tay. Nàng nấp trên đầu tường, vốn còn đang yên ổn, ai dè kẻ trộm tranh đột ngột ra tay, may nhờ quan nhân nhà nàng tránh kịp thời, nếu không mảnh lá ám khí đã làm hại y rồi! Đã vậy nàng cũng không khách khí nữa, mặc xác kẻ trộm tranh tốt hay xấu, dạy dỗ hắn một trận đã!

Nhạc Ngư Thất thấy Thanh Duy tấn công liên tục thì *chậc* một tiếng, mấy năm trôi qua, tính xấu của con nhóc a đầu quê mùa này vẫn không thay đổi.

Nhưng Nhạc tiểu tướng quân là ai, trận chiến sông Trường Độ năm xưa nguy hiểm là thế, mà ông vẫn có thể dẫn thuộc hạ phá vòng vây giữa thiên quân vạn mã, chớ nói Tạ Dung Dữ, ngay cả Ôn Thanh Duy do chính tay ông dạy dỗ cũng còn kém xa.

Mây cuối trời che lấp vầng trăng, trong sân tối mù, Nhạc Ngư Thất lao đến cạnh một bụi cây trong sân, bẻ một cành liễu, thấy roi lại đánh đến lần nữa, song lần này ông không né tránh mà vung cành liễu lên, đối đầu với roi dài, nhanh chóng làm giảm lực đánh của cây roi.

Thấy chiêu thức đó, Thanh Duy vô cùng ngạc nhiên, một ký ức chợt vụt qua:



“Thấy viên đá này không? Nó là gì?”

Bên dòng suối, Nhạc Ngư Thất nhặt một viên sỏi lên, hỏi.

Ôn Tiểu Dã bé nhỏ ngước đầu nhìn ông, “Thì là… đá sỏi chứ còn gì nữa.”

“Không phải, đây là vũ khí của con.”

Ông lại bẻ một nhành cây xương bồ, hỏi: “Thấy thứ này không? Nó là gì?”

Lần này Ôn Tiểu Dã đã học một biết mười, “Vũ, vũ khí ạ?”

Nhạc Ngư Thất hài lòng gật đầu, “Đúng, cũng là vũ khí.”

Ông lại hái một bông hoa nhỏ bằng móng tay ở dưới chân, “Thấy bông hoa này không? Nó là gì?”

Ôn Tiểu Dã đáp chắc nịch: “Vũ khí!”

“Vũ khí cái con khỉ! Hôm nay con vứt mắt ở nhà không đem theo hả?” Nhạc Ngư Thất quát, “Bông hoa này vừa nhỏ vừa yếu, đánh ra còn không có lực, chẳng thà hái lá còn hơn, thứ này sao có thể làm vũ khí? Sư phụ tiện tay hái cài tóc cho con thôi, xong rồi đấy, về nhà ăn tối nào.”

Ôn Tiểu Dã *à* một tiếng, đón nắng chiều, theo Nhạc Ngư Thất quay về, “Nhưng mà sư phụ, nếu chúng ta đã có đao có gươm, vì sao còn phải nhặt đá dùng xương bồ làm vũ khí?”

“Trong thị trấn cấm binh đao, dân thường như con cùng lắm chỉ có thể giấu một con dao găm, nếu đánh nhau với người ta, lấy đâu ra vũ khí vừa tay để dùng, đương nhiên bên cạnh có gì thì dùng thứ đó. Nhớ cho kỹ, vạn sự vạn vật đều tương sinh tương khắc, lấy nhu thắng cương, lấy cương phá nhu, hoa lá cành, thậm chí nồi niêu gáo chậu cũng dùng được, chưa chắc đã thua đao gươm…”



Thanh Duy ngớ người, miệng lẩm nhẩm: “… Sư phụ?”

Nhưng lúc đánh nhau kỵ nhất là phân tâm, Thanh Duy vừa thất thần, lực của cây roi đã bị cành liễu hóa giải, một khắc sau, Nhạc Ngư Thất rút cành liễu về, roi cũng rơi vào tay ông. Roi đổi chủ, trong khoảnh khắc như biến thành vật sống, tựa con rắn độc lè lưỡi lao vào Thanh Duy.

“Tiểu Dã cẩn thận.” Tạ Dung Dữ phản ứng trước một bước, chụp tay Thanh Duy kéo về sau, quạt trong tay đối đầu với mũi roi.

Roi bị cản thế, chợt rụt về, như mãng xà treo giữa không trưng, đầu rắn lung lay rồi há to cái miệng máu, tiếp tục tấn công một lần nữa.

Thanh Duy cũng đã kịp thời lấy lại tinh thần, mũi chân nàng xỉa xuống đất, khều một cục đá bay lên, vươn tay chụp lấy rồi ném mạnh vào đầu rắn.

Thân roi rút về, phía đối diện vang lên tiếng cười khẽ, “A đầu, lấy nhu thắng cương, lấy cương phá nhu, tiếp thu không tệ.”

Đúng lúc đèn trong phòng cũng được thắp sáng, Doãn Uyển cầm chân đèn đi ra, Thanh Duy mượn ánh nến nhìn sang, thấy Nhạc Ngư Thất đứng trên cành cây như thế ngoại kiếm tiên, bao năm trôi qua ông vẫn chẳng hề đổi thay, mi dài mắt sáng, ngay đến vết sẹo lõm trên lông mày bên trái vẫn như vậy.

Tạ Dung Dữ lập tức thu tay về, “Nhạc tiền bối?”

“Sư phụ, là sư phụ thật sao?” Thanh Duy lên tiếng. Tuy trong lòng đã có suy đoán, nhưng khi tận mắt chứng kiến thì lại khác.

Thanh Duy không kìm nổi sự hân hoan, nàng chẳng màng còn đến xung quanh, mũi chân điểm xuống đất toan nhảy lên đầu cành.

Nhạc Ngư Thất giật mình, lập tức nhảy xuống, lùi về trước cửa phòng, mắng, “Con tưởng mình là bướm, gặp người là lao vào hả? Đã mấy tuổi đầu rồi.”

Ông lại đưa mắt nhìn Tạ Dung Dữ trong sân, “Hai ngươi theo ta vào trong.”

***

Ở bốn góc phòng có đặt giá đèn, ánh nến thắp sáng tựa ban ngày.

Nhạc Ngư Thất khệnh khạng ngồi xuống bàn, nhìn Tạ Dung Dữ, “Oắt con, ngươi đến một mình hả? Không dẫn theo đám chó săn kia à?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Thưa vâng. Vãn bối đoán tiền bối sẽ không có ác ý với mình, hơn nữa ngài còn quen biết Sấu Thạch, nên mới một mình đến gặp tiền bối… Ngoại trừ Tiểu Dã, thân phận nàng ấy đặc biệt nên vãn bối vẫn để nàng ấy đi theo.”

Nói đoạn, y chắp tay vái Nhạc Ngư Thất, “Không biết là Nhạc tiền bối đến đây, trước đó đã xúc phạm nhiều, kính mong tiền bối bỏ qua.”

Nhạc Ngư Thất còn tị nạnh chuyện y gọi Thanh Duy là “Tiểu Dã”, song thấy y có thái độ khiêm nhường lễ độ thì không nói gì thêm.

“Sao sư phụ lại ở Đông An?” Thanh Duy chen vào, “Con tìm sư phụ mấy năm năm, con còn…”

“Dừng dừng!” Nhạc Ngư Thất cười lạnh, “Con còn có tâm tư nghĩ đến ta ư? Chim én Thần Dương chỉ biết làm tổ dưới hiên khi xuân về, còn chú chim ta nuôi không biết đã đậu trên nóc nhà nào rồi.”

Thanh Duy ngơ ngác, không hiểu y đang châm chọc chuyện gì.

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy rồi lại nhìn sang Nhạc Ngư Thất, đôi đồng tử dần trở nên sáng tỏ.

“Chuyện này để sau hẵng nói.” Nhạc Ngư Thất nhìn Tạ Dung Dữ, “Nói chuyện chính đi, làm sao ngươi biết Doãn Uyển là Sấu Thạch, rồi làm sao biết đi theo Sấu Thạch thì có thể tìm được ta?”

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Không khó để biết Doãn Tứ cô nương là Sấu Thạch, cả thảy có ba điểm.”

“Thứ nhất, chính miệng ông chủ Trịnh ở Thuận An Các đã vô tình để lộ.” Tạ Dung Dữ nói, “Hôm trước Khúc Đình Lam bị trộm mất tranh vừa mua, quay về Thuận An Các yêu cầu trả lại tranh. Ban đầu ông chủ Trịnh khăng khăng bảo phải làm đúng quy định, không thể đổi trả, nhưng Doãn Trì lên tiếng khuyên can là ông ta lập tức đồng ý trả lại bạc. Hơn nữa ông chủ Trịnh còn nói rất rõ, Thuận An Các có quy định nghiêm ngặt, nếu không được đích thân họa sĩ đồng ý thì Thuận An Các sẽ không dễ hoàn tiền, như vậy đã chứng minh, nếu Sấu Thạch không phải bản thân Doãn Nhị thiếu gia thì cũng phải là người liên quan đến Doãn Nhị thiếu gia.”

“Thứ hai, Sấu Thạch mô phỏng phong cách của Đông Trai, mà người am hiểu hội họa đều biết rất khó mà nắm bắt được kỹ thuật của Đông Trai, trừ khi là thiên tài bẩm sinh, bằng không, dù khổ luyện mấy năm cũng khó đạt được thành quả. Tiền bối đã xem qua tranh của Doãn Nguyệt Chương, cậu ta theo phong cách thực tế chi tiết, thiên về chân dung chim muông, cảnh vật không phải là sở trường của cậu ta. Theo lời cậu tanói, hồi mới học vẽ, cậu ta đã học theo Thủy Tùng, Đình Mai cư sĩ, thử hỏi trong vòng hai mươi năm ngắn ngủi, làm thế nào mà một người vừa có thể thi đậu Tú tài, lại vừa am hiểu rõ về hai phong cách khác nhau? Đây là điều không thể, cho nên Sấu Thạch am hiểu tinh túy của Đông Trai phải là người liên quan tới Doãn Nhị thiếu gia, nhưng đồng thời không thể là cậu ta.”

Nghe Tạ Dung Dữ nói xong, Thanh Duy lập tức nhớ ra, tối hôm đó trong hội thi họa, mỗi gian nhã các đều được phân phát một cuốn sách, bên trên có ghi tên tranh chữ mà Thuận An Các sưu tầm, Tạ Dung Dữ lật xem, thấy bên trong có tranh của Doãn Trì thì chọn liền mấy bức.

“Về điểm thứ ba, thực ra chính Doãn Tứ cô nương đã tiết lộ cho tiền bối.”

Doãn Uyển đứng bên ngạc nhiên, lạc giọng hỏi: “Chính, chính miệng dân nữ nói với vương gia?”

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Đúng vậy. Doãn Tứ cô nương còn nhớ, cái hôm ta nghi ngờ Doãn Trì là Sấu Thạch, bọn ta đã gọi cô đến thư phòng để hỏi chuyện không?”

Doãn Uyển gật đầu: “Nhớ ạ, vương gia hỏi tôi, hơn năm năm trước, tôi có từng giúp Nhị ca đưa tranh đến Thuận An Các không.” Giọng nàng ta bé như muỗi kêu, “Nhưng lúc ấy tôi nói với vương gia là có, tôi từng giúp…”

Năm năm trước Sấu Thạch để lại tranh ở Thuận An Các, người đưa tranh là một tiểu thư đồng.

Nếu Doãn Uyển thừa nhận mình chính là tiểu thư đồng này, còn thường xuyên giúp Doãn Trì đưa tranh, tương đương với việc ngầm xác nhận Doãn Trì là Sấu Thạch.

“Chính câu trả lời có của Doãn Tứ cô nương đã khiến ta biết Sấu Thạch không phải Doãn Trì, mà là cô.” Tạ Dung Dữ nói, “Sấu Thạch ẩn nấp lâu như thế, chắc chắn sẽ không dễ dàng để ta đoán được mình là ai. Nếu Sấu Thạch là Doãn Trì, vậy khi ta hỏi chuyện đưa tranh mấy năm trước, cậu ta sẽ dặn Doãn Tứ cô nương trả lời thế nào?”

Không đợi Doãn Uyển đáp, Thanh Duy đã nói: “Không đưa.”

“Đúng, sẽ là không đưa. Nếu Doãn Trì là Sấu Thạch, hắn sẽ phủi sạch liên can, nói năm năm trước mình không để thư đồng nào đưa tranh đến Thuận An Các. Trừ phi Sấu Thạch là Doãn Tứ cô nương, cô mới có thể nói mình đã đưa tranh, từ đó đẩy nghi ngờ lên đầu Nhị ca của cô. Cô nghĩ rằng, chỉ cần phong cách vẽ của Nhị ca cô khác với Đông Trai tiên sinh, khi Huyền Ưng Ti thấy tranh của Nhị ca cô thì sẽ đâm đầu vào ngõ cụt. Cô cho rằng không ai có thể đoán ra, một thiếu nữ như cô lại là bậc thầy hội họa trời sinh.”

Doãn Uyển cắn môi, một lúc sau mới gật đầu: “Nhưng vì sao mà vương gia ngài… lại đoán được?”

Tạ Dung Dữ nói: “Bình thường khi nói đến bậc thầy hội họa, mọi người sẽ lập tức nghĩ ngay đến nam giới, nhưng tài năng phân biệt nam nữ. Mà nữ giới thường ít phân tâm giữa đường làm quan hay công danh lợi lộc, nếu chịu dốc lòng học tập ắt hẳn sẽ thành tài. Chẳng hạn như Tân Nhị phu nhân của tiền triều,thơ từ của bà tự do phóng khoáng nhường nào; hoặc ví dụ như Lăng nương tử thuộc danh môn Trung Châu trăm năm trước, thích kinh doanh, vào nam ra bắc, cả đời không lấy chồng; còn cả Tiểu Dã đây, từ nhỏ nàng ấy đã theo Nhạc tiền bối học võ, đông luyện tam cửu hè tập tam phục, bàn về đánh đơn mục tiêu, Huyền Ưng vệ bên cạnh ta không một ai có thể là đối thủ của nàng ấy. Doãn Tứ cô nương đi theo Thẩm tiên sinh từ nhỏ, nếu cô cũng học vẽ, dù là thời gian hay tinh lực đều nhiều hơn so với Doãn Nhị thiếu gia, vậy tại sao Sấu Thạch không thể là cô?”
 
Chương 143


Tạ Dung Dữ nói xong, Doãn Uyển nhỏ giọng đáp: “Vương gia quả thông minh, dân nữ… chính là Sấu Thạch. Người đã gửi tranh ở Thuận An Các ngày trước chính là dân nữ, lần này, cũng chính dân nữ đã đem bức Sơn vũ tứ cảnh đồ và tranh của Nhị ca đến Thuận An Các. Ông chủ Trịnh không biết chuyện, tưởng tất cả số tranh đó là do Nhị ca vẽ, cho nên hôm bị mất tranh, ông chủ Trịnh mới nghe theo lời khuyên của huynh ấy. Vương gia, Nhị ca của dân nữ không biết chuyện gì hết, huynh ấy là người rất tốt, mong vương gia tha cho huynh ấy, kẻo hàm oan nhầm người.”

Tạ Dung Dữ lại nói: “Chuyện này cứ từ từ. Nếu ta đoán không sai, ắt hẳn Doãn Tứ cô nương có quan hệ mật thiết với thầy Thẩm nọ?”

Nếu không, một lão Cử nhân như thầy Thẩm sao có thể dạy vẽ cho một bé gái mới bốn năm tuổi?

Đành rằng là Bá Nhạc và Thiên Lý mã* đi, nhưng lẽ nào Thẩm tiên sinh có mắt thần, biết được bé gái tí tuổi đầu đó sẽ là thiên tài hội họa?

(*Thiên Lý mã vốn là tên gọi của loại ngựa tốt và quý nhất trong các giống ngựa, nhưng rất ít người biết được nó. Song nhờ có Bá Nhạc mà Thiên Lý mã được phát hiện và trở nên nổi tiếng, quý hiếm trong dân chúng.)

Doãn Uyển nghe hỏi liền ngẩn người, vô thức nhìn sang Nhạc Ngư Thất.

“Chuyện này để sau hẵng nói.” Nhạc Ngư Thất nói, “Trả lời câu hỏi của ta trước, vì sao ngươi biết đi theo nó thì có thể tìm được ta?”

“Vì quá trùng hợp.”

“Quá trùng hợp?”

“Đúng thế ạ.” Tạ Dung Dữ đáp, “Vãn bối đang ở tại Quy Ninh Trang, mà Tứ cô nương của trang viên vừa khéo chính là Sấu Thạch, đấy là trùng hợp đầu tiên.

Vãn bối vừa phát hiện Sấu Thạch học theo phong cách của Lữ Đông Trai là trên phố xuất hiện bức Sơn vũ tứ cảnh đồ, đây là điểm trùng hợp thứ hai.

Khúc Mậu vừa mua bức Sơn vũ tứ cảnh đồ thì bức tranh nền lập tức bị trộm, đây là điểm trùng hợp thứ ba.

Thời gian rồi Tề Châu doãn bộn bề nhiều việc, thế mà cái đêm tranh bị trộm, ông ấy lại bất ngờ có mặt tại phố Lưu Chương, đây là điểm trùng hợp thứ tư.”

Tạ Dung Dữ nói: “Thực ra tối hôm đó Tề Châu doãn xuất hiện ở phố Lưu Chương cũng bình thường, có thể ông ấy vừa trực đêm xong, tình cờ đi ngang qua, nhưng điều khiến vãn bối nghi ngờ chính là biểu hiện sau đó của ông ấy – ông ấy biết bức tranh nền của bộ Sơn vũ tứ cảnh đồ bị trộm, một bên thì nói kẻ trộm xảo quyệt, khó có thể đuổi bắt, một bên lại lãnh trách nhiệm, tuyên bố chắc chắn quan phủ sẽ tìm được tranh về. Vãn bối biết Tề Doãn châu là người thế nào, ông ấy được chính tiên đế đề bạt làm quan phụ mẫu Lăng Xuyên, cần cù chịu khó, nói ít làm nhiều. Nhưng tối hôm ấy, đến Huyền Ưng vệ tinh nhuệ nhất cũng không bắt được kẻ trộm tranh, ông ấy lấy đâu ra cơ sở để hứa hẹn? Trừ khi ông ấy đã có manh mối về kẻ trộm tranh, song lại cố tình không tiết lộ. Cộng thêm việc vãn bối ở Quy Ninh Trang cũng là do Tề Châu doãn thu xếp, cho nên vãn bối cả gan suy đoán, có lẽ ba người Tề Châu doãn, kẻ trộm tranh và Sấu Thạch… vốn dĩ có quen biết.”

Nếu chỉ có một trùng hợp thì đã đành, nhưng liên tục xảy ra chuyện trùng hợp lại nói rõ tính liên quan giữa chúng.

“Chỉ thế mà thôi?” Nhạc Ngư Thất hỏi, “Chỉ nhờ có thế mà ngươi chắc chắn ta và Tề Văn Bách cùng phe?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Không, nhờ một chuyện khác mà vãn bối mới chắc chắn ba vị quen biết nhau.”

“Là chuyện gì?”

“Về sau vãn bối có lệnh cho một Hiệu úy Huyền Ưng Ti tên Chương Lộc Chi điều tra nhà họ Doãn. Tuy Chương Lộc Chi là người nóng tính nhưng làm việc rất cẩn thận, khuyết điểm duy nhất là đã tin ai thì rất tin tưởng, còn nếu nghi ai sẽ nghi ngờ đến cùng, nói cách khác, chính là thành lập lập trường. Trước khi Huyền Ưng Ti lên đường đến Lăng Xuyên, Quan gia từng dặn rằng có thể tin tưởng Tề Châu doãn và Tống trưởng lại ở Lăng Xuyên, Chương Lộc Chi ghi nhớ lời này, cho nên lúc tới đây, hắn không hề nghi ngờ manh mối do hai người Tề Tống cung cấp. Hắn điều tra nhà họ Doãn, quá nửa tin tức là nghe ngóng từ châu phủ, kết quả hắn điều tra được gì?

Mọi manh mối liên quan đến Sấu Thạch đều quy về Doãn Trì, Doãn Trì học vẽ từ nhỏ, Doãn Trì mê vẽ, Thẩm tiên sinh dạy vẽ rời đi, Doãn Trì phải chăm lo học hành, bao giờ thi đậu Tú tài mới cầm bút vẽ tiếp, thậm chí khoảng thời gian trên cũng gần với thời điểm các bức tranh của Sấu Thạch xuất hiện. Vậy mà… Chương Lộc Chi lại không tra được một tin tức nào liên quan tới Doãn Tứ cô nương. Nói đâu xa, một cô bé như Doãn Tứ cô nương lại có thể học vẽ từ một Cử nhân đã là chuyện không đơn giản; nàng ta còn nhỏ đã phải sống một mình ở biệt trang, có đơn giản là tránh ảnh hưởng đến việc học của huynh trưởng? Quan trọng hơn cả, Sấu Thạch là người đã để lại tranh cho Sầm Tuyết Minh năm xưa, một tiểu cô nương như nàng ta lại liên quan tới mệnh quan triều đình đã mất tích, lẽ nào trong chuyện này không ẩn chứa điều gì? Nếu đã làm tất sẽ có dấu vết, ta nói rồi, Chương Lộc Chi phá án cực kỳ cẩn thận, nhưng vì sao hắn không điều tra được những manh mối đó? Chính là vì lập trường của hắn, hắn quá tin tưởng Tề Châu doãn, tới mức mỗi lần hắn chạm đến điểm khả nghi hay chỗ thiếu sót nào, thì lập tức những điều ấy đã bị Tề Châu doãn ung dung xóa bỏ. Thành thử cuối cùng, hắn không điều tra được gì cả.”

Chính vì Chương Lộc Chi không điều tra được gì nên Tạ Dung Dữ mới có thể khẳng định, ba người Nhạc Ngư Thất, Tề Văn Bách và Doãn Uyển có quen biết. Trộm tranh ban đêm cũng chỉ là một vụ nhỏ ba người bắt tay bày ra.

Nhạc Ngư Thất nói thẳng: “Cho nên ngươi đã tương kế tựu kế, cố ý cho người bắt chước tranh của Lữ Đông Trai?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Đúng thế, vãn bối mời một vị đại nhân giỏi vẽ mô phỏng bức Tây sơn tê hà lưu cảnh của Đông Trai tiên sinh, sau đó đem tranh đến Điểm Mặc Trai để bán…”

“Ngươi để người đem bán tranh tự xưng là Sấu Thạch, còn nói trong tay mình đã có bằng chứng chứng minh Doãn Trì là Sấu Thạch, ụp tội bán tranh giả lên đầu Doãn Trì. Sau đó ngươi gọi Tề Châu doãn và Tống trưởng lại đến, bắt Doãn Trì đến nha môn ngay trước mặt bọn họ. Ngươi có hai nguyên nhân để làm như vậy, thứ nhất, ngươi biết hai người Tề Tống không hẳn tin tưởng ngươi, để hai người họ theo Huyền Ưng vệ về nha môn là nhằm mục đích tách người; thứ hai, dựa vào tính cách đơn giản của Doãn Uyển, thấy Doãn Trì bị bắt, nó sẽ nghĩ mình đã hại cậu ta, sẽ hốt hoảng báo tin cho ta. Vì vậy ngươi mới để đám chó săn của mình tới nha môn thẩm vấn, còn bản thân âm thầm bám theo Doãn Uyển tìm được ta.” Nhạc Ngư Thất nói.

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Đúng thế, chỉ là vãn bối không ngờ sẽ gặp Nhạc tiền bối ở đây.”

Y dừng lại, đoạn chắp tay bái, “Hóa ra Nhạc tiền bối vất vả như vậy cũng chỉ là thăm dò vãn bối.”

Y không nói thăm dò điều gì, song Nhạc Ngư Thất vẫn hiểu.

Đúng là ông đã sắp đặt đề khó cho y, vốn dĩ muốn xem tiểu tử này có tìm được tranh không, ai ngờ y có thể dùng một hòn đá bắn hạ ba con chim, không những khám phá ra Doãn Uyển là Sấu Thạch, mà thậm chí còn đoán được cả mục đích của ông.

Nhạc Ngư Thất nheo mắt nhìn Tạ Dung Dữ, một lúc sau, chậm rãi thốt ra ba chữ, “Tiểu Chiêu vương?”

Năm ấy khi Chiêu Hóa đế đón Tạ Dung Dữ vào cung, vừa khéo cũng là lúc Nhạc Ngư Thất vừa được thăng hàm tướng quân. Một công tử đại tộc khác họ không những được phong vương mà còn được ban danh hào “Chiêu”, thực sự trong triều có không ít người phản đối, nhưng vào khoảnh khắc văn võ toàn triều trông thấy Tạ Dung Dữ, những tiếng phản đối lập tức biến mất.

Đó là đứa trẻ thế nào? Trầm tĩnh đứng trên điện Tuyên Thất, như tỏa ra ánh hào quang rực rỡ.

Nhiều năm đã trôi qua, tới bây giờ khi Nhạc Ngư Thất gặp lại Tạ Dung Dữ, cảm thấy chữ Chiêu thực sự quá hợp với y – trong màn đêm tĩnh lặng với ánh nến leo lắt, người như ngọc sáng, thân quàng ánh trăng.

Ngoài phòng vọng đến tiếng bước chân, Thanh Duy nhìn sang, hóa ra là hội Vệ Quyết, Tề Châu doãn và Tống trưởng đã đến, Doãn Trì theo sau bọn họ. Trông thấy Tạ Dung Dữ, hắn tiến lên chắp tay vái chào, ôn tồn hỏi: “Vương gia, rốt cuộc đã có chuyện gì thế? Nguyệt Chương vừa tới nha môn thì Vệ đại nhân bảo chỉ là hiểu lầm…” Hắn dừng lại, thấy Doãn Uyển cũng ở trong phòng bèn ngạc nhiên thốt lên, “Uyển Uyển, sao muội lại ở đây?”

Tạ Dung Dữ nói: “Án tranh giả đúng là hiểu lầm thật, còn rốt cuộc chuyện như thế nào…” Y dừng lại, nhìn Nhạc Ngư Thất và Tề Văn Bách, cuối cùng nhìn Doãn Uyển, “Nếu họa sĩ Sấu Thạch đã ở đây, chẳng hay ba vị có thể chỉ dạy?”

Y hỏi vô cùng lễ độ, Tề Văn Bách đâu dám nói không, “Nếu điện hạ đã hỏi, vậy để hạ quan giải đáp giúp, thực ra chuyện này…”

“Thực ra chuyện này rất dài dòng.” Không đợi Tề Văn Bách nói hết, Nhạc Ngư Thất đã ngắt lời, ông đưa mắt nhìn trời, “Khuya lắm rồi, về nghỉ ngơi đi, có chuyện gì đợi sáng mai hẵng nói.”

Vệ Quyết nghe thế, không khỏi nhìn Tạ Dung Dữ.

Huyền Ưng Ti phá án chưa bao giờ trì hoãn, có thể tìm manh mối ngay trong đêm thì tuyệt đối không chờ đến sáng hôm sau. Bây giờ đã tìm được Sấu Thạch, chắc chắn chỉ còn một bước nữa là chạm tới tung tích của Sầm Tuyết Minh.

Nhưng thấy Tạ Dung Dữ gật đầu, Vệ Quyết chỉ có thể chắp tay, dẫn hội Kỳ Minh lui ra.

Tề Văn Bách và Tống trưởng lại nói muốn đưa Doãn huynh muội về phủ, cũng cùng nhau cáo từ.

Lúc này, trong phòng chỉ còn lại ba người Nhạc Ngư Thất, Thanh Duy và Tạ Dung Dữ.

Nhạc Ngư Thất liếc Tạ Dung Dữ, uể oải cất tiếng: “Khuya rồi, ngươi cũng về đi.”

Tạ Dung Dữ muốn nói chuyện giữa mình và Tiểu Dã với Nhạc Ngư Thất, nhưng xem ra ông không có ý định nghe: “Vâng, vậy vãn bối xin cáo từ.”

Vất vả lắm Thanh Duy mới tìm được sư phụ, nhưng chưa nói được bao nhiêu mà sư phụ đã đuổi mình đi, nàng bất đắc dĩ đi theo Tạ Dung Dữ, ai ngờ vừa xoay người thì đã nghe thấy Nhạc Ngư Thất *chậc* một tiếng, “Quay lại, ta chỉ bảo hắn về, con đi theo hắn làm gì? Con a đầu này, rốt cuộc ai mới là người nhà của con hả?”

Thanh Duy ngơ ngác, lúc này mới kịp hiểu ý của Nhạc Ngư Thất.

Nàng không khỏi nhìn Tạ Dung Dữ, Tạ Dung Dữ chỉ im lặng mỉm cười. Thanh Duy mím môi, di bước về sân.

Những đụn mây dày đã tan, ánh trăng như tơ rọi xuống sân nhà, đợi người đi hết, Nhạc Ngư Thất mới nhìn chằm chằm Thanh Duy đứng giữa sân, lạnh lùng cất tiếng, “Nói, rốt cuộc con và Tiểu Chiêu vương đã có chuyện gì?”

Thanh Duy không biết phải trả lời thế nào. Nàng rơi vào lúng túng, bỗng cảm thấy cơn ác mộng đêm hôm trước đã thành sự thật.

“Thì… Chuyện là như vậy đó…”

“Chuyện như vậy là chuyện gì?”

Thanh Duy cụp mắt nhìn mũi hài, “Thì là… Ôi chao con không nói được, con cũng không biết là có chuyện gì nữa…”

Nhạc Ngư Thất hơi hơi hiểu, “Ý con là, con và Tiểu Chiêu vương, đã có chuyện mà không thể nói ra?”

Thanh Duy sững người, tuy nàng không biết rốt cuộc bọn họ đang nói gì, nhưng sư phụ nói như thế… hình như cũng đúng?

Thanh Duy gật đầu.

Nhạc Ngư Thất im lặng một lúc lâu, đoạn lạnh lùng nói, “Được rồi, ta biết rồi.” Ông vươn tay nhặt lấy cành liễu dưới đất, song chưa đợi ông di chuyển thì Thanh Duy đã nhanh chóng vỡ lẽ, nàng lập tức nhảy lên đầu cành, cuống cuồng nói, “Sư phụ đừng làm vậy mà! Chờ con giải thích rồi đánh gãy chân con cũng chưa muộn!”

Nhạc Ngư Thất cười lạnh, “Con còn nhớ sư phụ muốn đánh gãy chân chó của con hả.” Ông quẳng cành liễu đi, “Nói đi, ta muốn xem con có thể giải thích cái gì.”

Thanh Duy nghĩ ngợi, ấp úng nói: “Ban đầu con và y chỉ thành thân giả, không ai xem là thật hết, chỉ ngủ chung với nhau thôi, con cũng đang định xem nên rời đi thế nào… Nhưng sau đó, vì vụ án của Hà Hồng Vân mà cứ kéo dài, hơn nữa con còn bị thương, y chăm sóc con, không hiểu sao lại ở lại, rồi dần dà thành quen…”

Một khi đã quen sẽ từ từ bén rễ, không cách nào nhổ bỏ. Cho tới cuối cùng bị ép buộc mới phải rời đi.

Nhưng Nhạc Ngư Thất lại chỉ ra một trọng điểm, “Ý con là, tuy ngoài mặt hai đứa giả thành thân, nhưng ban đêm thật sự ngủ chung với nhau?”

Thanh Duy ngơ ngác.

Nàng chưa kịp giải thích gì thì Nhạc Ngư Thất lại nói: “Lại còn dần quen? Chẳng phải ý là, hai đứa vẫn thường xuyên ngủ chung giường mỗi đêm?”
 
Chương 144


Đêm khuya tĩnh mịch, chung quanh yên ắng đến nỗi tưởng chừng côn trùng cũng ngừng kêu.

Thanh Duy ngơ ngác nhìn tròng mắt Nhạc Ngư Thất dần trở nên lạnh lẽo, chiếc áo chùng lay động dù trời chẳng nổi gió, một khắc sau, bóng dáng ông chợt biến mất. Đầu óc Thanh Duy ù lên, cơ thể phản ứng nhanh hơn suy nghĩ, lập tức nhảy lên mái nhà, hốt hoảng kêu to: “Sư phụ nghe con giải thích đã!”

Nhạc Ngư Thất đứng trên mái nhà, “Ngủ chung với nhau rồi thì còn giải thích cái gì hả?”

Ông đạp lên mái nhà, thân hình nhẹ nhàng vút lên không, cành liễu trong tay đập cái *chát* xuống mái, Thanh Duy lóng ngóng né tránh, “Tuy con và y ngủ chung, nhưng bọn con…”

Nàng định nói giữa bọn họ chưa hề có chuyện gì.

Nhưng có thật là không có ra chuyện gì không?

Chưa kể hai người… còn hôn môi mấy lần.

Đã bao nhiêu lần nàng ngủ thiếp trong vòng tay y, thức giấc trong vòng tay y. Dẫu Ôn Tiểu Dã có hồn nhiên đến đâu cũng biết đó không phải là chuyện mà nam nữ bình thường nên làm.

Thanh Duy ấp úng đổi lời: “Nhưng giữa bọn con không xảy ra nhiều chuyện…”

Nhạc Ngư Thất: “…”

Roi liễu lập tức như sống dậy, mang theo gió táp phóng thẳng về phía Thanh Duy, Thanh Duy thấy không ổn, ngửa người rơi xuống; trừ mũi chân vẫn dính trên mái nhà thì cả người gần như song song với góc mái. Kế đến, nàng dùng sức đạp mạnh vào mái nhà, lùi nhanh về phía sau, vững vàng đáp xuống sân, xoay người chạy thẳng ra cửa. Nhạc Ngư Thất dùng roi cuốn lấy vài hòn đá ném về phía cửa, chặn đường đi của nàng. Thanh Duy phản ứng rất nhanh, gập chân đạp lên tường, nhảy vọt lên đầu tường.

Nhạc Ngư Thất *chậc* một tiếng, mấy năm không gặp, công phu của con nhóc này đúng là tiến bộ rõ rệt, kinh nghiệm thực chiến cũng được nâng cao, bản lĩnh bỏ trốn cũng ghê gớm đấy.

Thanh Duy đã “thoát” lên đầu tường, nhưng nàng vẫn không dám chọc giận sư phụ, dứt khoát thương lượng: “Hay sư phụ cứ nói thẳng đi, sư phụ định phạt con mấy roi, chỉ cần không nhiều, con sẽ đứng im trong sân chịu trận…”

Nhạc Ngư Thất cười nhạt: “Con còn dám trả treo với ta à, đợi ta đánh gãy chân chó của con, sẽ tiễn luôn thằng oắt kia đi gặp Diêm vương.”

Thanh Duy hoảng hốt, thấy Nhạc Ngư Thất cũng đã nhảy lên, nàng ôm đầu liến thoắng, “Nhưng nếu con không ở với y thì con phải ở với ai? Tiển Khâm Đài sập, cha qua đời, không thể quay về nhà ở Thần Dương nữa, Tào Côn Đức lợi dụng con, con lại không mang họ Thôi, không thể thân thiết với nhà người ta, cứ ra đường là lại cẩn thận đề phòng, chỉ có mình y sau khi biết con là Tiểu Dã…”

Thanh Duy lắc mình tránh đòn roi, “Chỉ có mình y tin tưởng con, đối xử tốt với con, hết lòng bảo vệ con sau khi biết con là Tiểu Dã. Con cũng thích ở với y, chỉ ở bên y con mới được ăn ngon ngủ ngon, nếu mấy năm nay có sư phụ bên cạnh thì con đâu cần bôn ba đây đó, nhưng làm cách gì con cũng không tìm được sư phụ, rốt cuộc sư phụ đã đi đâu?”

Rốt cuộc sư phụ đã đi đâu?

Nghe câu hỏi ấy, động tác của Nhạc Ngư Thất khựng lại. Ông nhìn Thanh Duy đứng trước mặt, một lúc sau, ông từ từ đi xuống, ngồi vào ghế tre giữa sân, im lặng không đáp.

Ánh đèn trong phòng hắt ra qua khung cửa, hòa cùng ánh trăng soi sáng khoảng sân nhỏ.

Thanh Duy thấy có vẻ Nhạc Ngư Thất đã nguôi giận, cũng dè dặt đi xuống, ướm gọi: “Sư phụ?”

Nhạc Ngư Thất không đoái hoài tới nàng, nàng lại xích đến gần, ngồi xổm xuống cạnh ông, vươn tay kéo tay áo ông, nhỏ giọng gọi: “A cữu…”

Nhạc Ngư Thất liếc nàng, một lúc sau, ông lạnh lùng nói: “Tiểu tử này quá thông minh, ta không thích.”

Thật sự quá thông minh, không chỉ vì tối nay y có thể tương kế tựu kế, phá được mê trận Nhạc Ngư Thất đã giăng, mà còn vì sự kỳ vọng được gửi gắm ở y.

Quá nhiều sĩ tử nhảy sông Thương Lãng năm xưa, nên trong khoảnh khắc văn võ toàn triều nhìn thấy Tạ Dung Dữ, bọn họ như lại trông thấy Tạ Trinh tài hoa xuất chúng.

Nghe ông nói “không thích”, hai mắt Thanh Duy chợt tối đi.

Nhạc Ngư Thất lại nói: “Công tử Trinh của Tạ gia là người ra sao? Y xuất thân từ danh môn, đi khắp nơi đây đó từ ngày còn trẻ nên mới có bản tính phong lưu phóng khoáng, y đặt tên con trai mình là Dung Dữ với mong muốn hắn cũng có thể tự do tự tại như mình, nhưng Tạ Dung Dữ thế nào?”

Sau khi Tạ Trinh qua đời, Tạ Dung Dữ được đón vào cung, được gửi gắm kỳ vọng to lớn, từ đấy trở đi phải cần mẫn chăm chỉ, thức khuya dậy sớm, phải tới năm mười bảy tuổi khi tới Thần Dương, đó lại lần đầu tiên y rời kinh.

“Nếu Tạ Dung Dữ thực sự có tính cách giống phụ thân mình, thì những năm tháng hắn bị nhốt trong cung có đúng là cuộc sống hắn mong?” Nhạc Ngư Thất thốt ra bảy chữ, “Thông minh quá bị thông minh hại.”

Nhạc Ngư Thất nhìn Thanh Duy, thấy nàng ỉu xìu thì thong thả nói: “Còn không phải hả? Ta nghe nói sau khi Tiển Khâm Đài sập, hình như hắn bị bệnh mấy năm, thậm chí còn không thể bước ra khỏi cửa trong một năm, mấy năm về sau phải nhờ đeo mặt nạ mới miễn cưỡng gắng gượng. Giờ trông hắn có vẻ đã hết bệnh, cũng đã tháo mặt nạ, nhưng rốt cuộc con có biết bệnh tình của hắn thế nào không? Tiển Khâm Đài là khúc mắc trong lòng hắn, hắn miệt mài truy tìm chân tướng, nếu có một ngày chân tướng thực sự bị vạch trần, liệu có chắc bệnh tình của hắn sẽ không tái phát?”

Nói đến đây, Nhạc Ngư Thất thở dài, “A đầu à, con và hắn ta rất khác nhau.”

Nàng là chú chim tự do lớn lên giữa đất trời bao la.

Còn cõi lòng y lại bị mây mù bao phủ, không chỉ vì Tiển Khâm Đài mà còn vì cuộc đời bị kỳ vọng quá nhiều.

Lúc này, Thanh Duy lại nói: “Con chả quan tâm.”

Nhạc Ngư Thất quay sang nhìn nàng, sắc màu u tối trong mắt nàng đã biến mất, nhường chỗ cho sự bình tĩnh kiên định, ông khựng lại, đoạn hỏi, “A đầu, con thích hắn ta à?”

Thanh Duy ngẩn ngơ.

Dường như nàng chưa bao giờ nghĩ kỹ về câu hỏi này, hoặc là trong tiềm thức đã nghĩ đến nhưng cứ hoài né tránh.

Chỉ là… chuyện tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ không vì mình không để ý mà không xảy ra, nó luôn vô thức hình thành như một đám mây, nảy nở bành trướng, như những mầm cây đâm chồi khi xuân đến, như tuyết phủ giữa những ngày đông giá, như lá lìa cành khi trời bước sang thu, như những bông hoa nở rộ đầu tường trong một sáng ngày hè.

Bây giờ khi nghe sư phụ hỏi, Thanh Duy không còn trốn tránh nữa, nàng cụp mắt nghĩ ngợi, ngay sau đó đã có đáp án cho mình.

Nàng gật đầu: “Vâng, con thích chàng.”

Nhạc Ngư Thất nhìn nàng, đôi mắt nàng trong veo tựa suối nguồn.

Thanh Duy tưởng sư phụ lại mắng mình, ai ngờ ông chỉ nói: “Thích thì cứ thích thôi, chẳng ai hoàn hảo cả, tiểu tử đó chỉ dở ở tâm bệnh, còn lại gì cũng giỏi, rất được phái nữ mến mộ.” Đoạn ông dời mắt, dựa lưng vào ghế, một lúc sau lại thở dài, “Tiểu a đầu trưởng thành rồi, đã có người trong lòng rồi.”

Thanh Duy nhìn Nhạc Ngư Thất, dù thoạt nhìn sư phụ vẫn không thay đổi, nhưng nếu nhìn kỹ, ở khóe mắt người đã có nếp nhăn, ánh mắt cũng thêm sâu hoắm, nàng không khỏi nói: “Sư phụ, rốt cuộc mấy năm qua người đã đi đâu? Sư phụ vẫn chưa nói cho con biết.”

Nàng dừng lại, “Con nghe nói sau khi Tiển Khâm Đài sập, sư phụ đã chủ động đầu thú, sau đó theo ngự liễn của tiên đế hồi kinh, dọc đường đi lại bị cướp xe tù, có thật không ạ?”

Nhạc Ngư Thất nhìn nàng, “Ai nói cho con biết những chuyện này? Lão thái giám Tào Côn Đức?”

Thanh Duy gật đầu: “Hồi ở Thượng Khê con có gặp một sơn tặc là ông Cát, ông ấy cũng nói với con, hơn một tháng sau khi Tiển Khâm Đài sập, sư phụ từng xuất hiện ở Tiển Khâm Đài, còn khuyên ông ấy cứ trốn trong núi, chớ tự tiện hành động. Vì sao lúc đó sư phụ lại xuất hiện ở Thượng Khê, lẽ nào sư phụ cũng đang điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài?”

Nhạc Ngư Thất không đáp, chỉ hỏi ngược lại, “Còn con? Lão già Tào Côn Đức kia không làm khó con chứ.”

Thanh Duy lắc đầu: “Hồi ấy khi nghe hung tin về Tiển Khâm Đài, con trốn ở Sùng Dương chờ tin, nhưng chờ gần một tháng lại chỉ chờ được tin triều đình muốn trị tội cha, còn cha sống chết ra sao con không biết. Sau đó con không đợi nổi nữa, có một buổi tối chạy lên núi Bách Dương, nghe quan sai thủ vệ nói cha và rất nhiều sĩ tử đã bị chôn vùi dưới đá vụn, không tìm được thi thể, tim con đau lắm…”

Lòng nàng quặn thắt đau đớn, đợi lính gác rời đi, Ôn Tiểu Dã quỳ xuống đống đất đá đổ vỡ, dùng tay không đào suốt cả đêm, mãi đến lúc trời hửng sáng, bất thình lình bị một người bịt miệng từ phía sau.

“Con gặp Tào Côn Đức chính vào lúc đó. Bảo ông ta đối xử không tốt với con thì cũng không đúng, cứ coi như ông ta đã cứu mạng con vậy. Cũng chính ông ta đưa con đến Thôi gia, che giấu thân phận giúp con, bảo con nhận ông ta làm nghĩa phụ, sau đó ông ta dụ con lên kinh, dụ con vào nhà họ Giang, có rất nhiều chuyện chỉ cần không vi phạm nguyên tắc thì con sẽ làm theo, dù gì ông ta cũng có ơn với con. Nhưng con cũng biết ông ta đang lợi dụng mình, vì vào thời điểm con mất đi giá trị lợi dụng, ông ta đã tiết lộ thân phận của con cho bộ Hình và Tả Kiêu vệ. Con không biết ông ta có mục đích gì, nhưng chẳng rõ có phải ảo giác hay không, mà sau mấy năm tiếp xúc, con cảm thấy ông ta rất quan tâm đến Tiển Khâm Đài, gần như là… căm ghét?”

Nhạc Ngư Thất trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Con có đề cập những chuyện này với tên tiểu tử Tạ Dung Dữ không?”

Thanh Duy gật đầu, “Có ạ, lúc còn ở Thượng Khê có nói cho y biết. Sau đó một Hiệu úy của Tả Kiêu vệ gây ra chuyện, dẫn đến bạo loạn, Tả Kiêu vệ như rắn mất đầu để nhân chứng bị giết, Trung lang tướng của Tả Kiêu vệ muốn bảo vệ Hiệu úy này, quan nhân… Tiểu Chiêu vương viết thư gửi Quan gia âm thầm trao đổi điều kiện, chàng có thể không truy cứu trách nhiệm của Ngũ Hiệu úy, nhưng đổi lại, Tả Kiêu vệ và các nha môn có liên quan phải ngừng truy nã con, còn về phía Tào Côn Đức, y cũng đánh tiếng với Quan gia rồi, tạm thời Tào Côn Đức không uy hiếp được con, hiện giờ con khá là an toàn.”

“… Tiểu Chiêu vương cũng lợi hại đấy.” Nhạc Ngư Thất khẽ thốt lên câu này.

Ông đứng dậy, xoay người về phòng, “Được rồi, tối nay nói chuyện đến đây thôi, con đi đi.”

Thanh Duy ngạc nhiên, đuổi theo toan vào phòng, “Nhưng sư phụ chưa nói cho con biết những năm qua người đã đi đâu mà, tối nay con không thể ở lại đây được sao?”

Nhạc Ngư Thất không kìm được liếc nàng, giơ tay chỉ ra cửa, “Con gái con đứa đã mấy tuổi đầu rồi hả, ngủ lại chỗ ta còn ra thể thống gì? Hơn nữa dù con ở đây, liệu lòng con có ở lại không? Chỉ e đã xem Tiểu Chiêu vương kia là quan nhân nhà mình từ đời nào rồi.”

Thanh Duy ngẩn ra, *ồ* một tiếng, đang định xoay người thì lại nghe thấy Nhạc Ngư Thất gọi: “Quay lại.”

Ông nghĩ ngợi, “Con quay về thu dọn đi, hai ngày nữa theo ta đến Trung Châu.”

“Đi Trung Châu làm gì ạ?” Thanh Duy hỏi.

“Ngày mai con khắc biết, tóm lại đi sớm về sớm.”

Thanh Duy lại *ồ* một tiếng, toan nhấc chân đi, Nhạc Ngư Thất lại *ài* tiếng nữa.

Ông nhìn Thanh Duy, vẻ mặt đầy phức tạp, một lúc sau mới bảo: “Chuyện của con và tên tiểu tử đó, đợi ta suy nghĩ đã, dù gì cũng phải tìm ngày lành báo cho cha mẹ con, con… Ta biết con có chừng mực, nhớ đấy, con cũng là cô nương được dạy dỗ tử tế, trước khi ta báo tin cho cha mẹ con, nhất định không được để hắn làm… làm…”

Quá khó để nói tiếp, Nhạc Ngư Thất đang sắp xếp từ ngữ thì Thanh Duy đã hiểu ý ông, đáp chắc nịch: “Sư phụ yên tâm, y sẽ không làm đâu.”

Thấy nàng hiểu nhanh như vậy, ông không khỏi nghĩ đến câu “con và y không xảy ra nhiều chuyện”, thế là lửa giận lại bùng lên, “Ta sợ hắn phóng túng chắc? Trừ phi con muốn, ai có thể động vào được con! Ta là sợ con đấy!” Cuối cùng ông đóng cửa cái *sầm*, mắt không thấy tim không phiền, “Xéo nhanh ta nhờ.”
 
Chương 145


“Trung Châu?”

Hôm sau, Tạ Dung Dữ và Thanh Duy ngồi trong phòng ăn sáng, nghe nàng bảo ít hôm nữa phải đến Trung Châu thì lấy làm bất ngờ.

Thanh Duy gật đầu: “Sư phụ nói hai hôm nữa sẽ xuất phát, đi sớm về sớm.”

Tối qua nàng về trễ, rón rén vào phòng, ai ngờ lại thấy Tạ Dung Dữ vẫn đang chờ nàng. Bởi vì sáng nay còn có việc ở nha môn nên cả hai chỉ chợp mắt được một lúc, Đức Vinh bưng canh giúp tỉnh táo lên, Tạ Dung Dữ múc cho Thanh Duy một chén, nghĩ ngợi rồi nói: “Khúc Bất Duy có một căn dinh thự ở Trung Châu.”

Khúc Bất Duy bán danh sách lên Tiển Khâm Đài với cái giá một trăm nghìn lượng một người. Tuy chỉ bán một vài suất, nhưng ông ta giấu cả khoản tiền lớn như thế ở đâu? Năm xưa Tiển Khâm Đài gặp chuyện, Lăng Xuyên cũng như khu vực kinh thành rơi vào rối loạn, chắc chắn ông ta không dám chuyển số bạc đó lên kinh, nghĩ tới nghĩ lui, chỉ có Trung Châu là ổn thỏa nhất. Thứ nhất, Trung Châu gần lăng Xuyên; thứ hai, có nhiều thương nhân qua lại giữa Lăng Xuyên Trung Châu, những năm gần đây nhờ có Trung Châu mà Lăng Xuyên mới ngày càng giàu có, nếu lấy danh nghĩa buôn bán, lần lượt chuyển bạc đến cất ở Trung Châu ắt sẽ không bị phát hiện.

Thanh Duy hỏi: “Sư phụ muốn ta đi trộm bạc tang vật của Khúc Bất Duy?” Rồi nói chắc nịch: “Chuyện này ta làm được.”

Nàng không giỏi kiểm tra hồ sơ truy tìm manh mối, chứ âm thầm theo dõi, bắt giặc lấy tang vật là chuyện nàng rành nhất.

Tạ Dung Dữ thấy nàng đã uống canh xong, sai Đức Vinh đổi cho nàng bộ chén đĩa mới, tự tay múc cháo thập cẩm cho nàng, “Vẫn chưa rõ, đợi hôm nay hỏi Nhạc tiền bối đã.”

Âm thanh nhẹ nhàng của y lọt vào tai, Thanh Duy không khỏi quay sang nhìn y.

Ánh nắng xuyên qua khung cửa, thấy rõ những hạt bụi lơ lửng giữa không trung, sườn mặt y càng trở nên tuấn tú trong ánh ban mai rực rỡ, làn mi dài cụp xuống, ánh mắt đanh sắt khiến cơ thể toát lên vẻ xa cách lạnh lùng. Hình như y cũng để ý đến ánh mắt nàng, liền nhìn sang, “Sao thế?”

Vẻ xa cách trên mặt biến mất, ánh mắt lẫn giọng nói trở nên dịu dàng thân thương.

Con tim Thanh Duy bỗng đập hụt một nhịp, nàng lắc đầu, cụp mắt không đáp.

Bên tai vang vọng câu nói của sư phụ, “A đầu, con thích hắn rồi”.

Hèn gì bấy lâu nay, hễ y đến gần là nàng lại căng thẳng, hóa ra nàng đã thích y rồi.

Ăn sáng xong, cả hội lập tức đến châu nha. Ngoài Tề châu doãn và Tống trưởng lại ra, cả Doãn Trì, Doãn Uyển, thậm chí là Doãn lão gia cũng đang chờ ở nha môn.

Tề Văn Bách dẫn mọi người đến sương phòng tiếp khách trong nha môn, đang định mời Tạ Dung Dữ ngồi thì thấy Nhạc Ngư Thất khoan thai đi đến, Tạ Dung Dữ chắp tay vái chào Nhạc Ngư Thất, “Mời Nhạc tiền bối ngồi.”

Nhạc Ngư Thất *ừ* một tiếng, không khách khí ngồi xuống ghế chủ.

Trong chiến dịch sông Trường Độ năm xưa, triều đình đã phong hàm tướng quân cho Nhạc Ngư Thất, nhưng xét cho cùng cũng chỉ là vị trí lục phẩm, hơn nữa Nhạc Ngư Thất làm quan được ít hôm, than rằng quá gò bó, nhanh chóng từ quan quay về Thần Dương. Bây giờ Chiêu vương điện hạ còn đang ở trong phòng, sao Nhạc Ngư Thất có thể tự ý ngồi ghế chủ? Tề Văn Bách khó xử, rất muốn nhắc nhở Nhạc Ngư Thất một câu, song thấy Tạ Dung Dữ vẫn bình thường thì đành khép miệng.

Tạ Dung Dữ nói thẳng: “Nhạc tiền bối, nghe bảo sắp tới ngài muốn dẫn Tiểu Dã đến Trung Châu, không biết là vì lý do nào?”

Nhạc Ngư Thất nói: “Các ngươi đang điều tra Sầm Tuyết Minh còn gì, Tề Văn Bách đã tìm được manh mối của họ Sầm ở Trung Châu, dù sao ta cũng đang rảnh, đi một chuyến giải quyết cho xong.”

Câu nói ngắt đầu bỏ đuôi, lời lẽ khó hiểu.

Theo những gì Huyền Ưng Ti biết, Khúc Bất Duy có một tòa dinh thự ở Trung Châu, lẽ nào dinh thự này có liên quan đến Sầm Tuyết Minh? Trước khi Sầm Tuyết Minh mất tích, gã ta từng mượn tranh tìm đến Sấu Thạch, trước mắt đã biết Doãn Uyển chính là Sấu Thạch, một cô gái học vẽ đã quá đủ ly kỳ, rốt cuộc nàng ta là nhân vật thế nào trong chuyện này?

Tề Văn Bách thấy Huyền Ưng Ti nghi ngờ, bèn cất tiếng: “Hãy để tại hạ giải thích.”

“Chắc chắn điện hạ và Vệ đại nhân đang cảm thấy kỳ lạ, vì sao Nhạc tiểu tướng quân lại xuất hiện ở Lăng Xuyên.” Ông ta chắp tay với Tạ Dung Dữ và mấy người Vệ Quyết, “Chuyện này phải kể từ đầu. Thực ra vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba, sau khi Tiển Khâm Đài sập, Nhạc tiểu tướng quân nghe được hung tin, chạy thẳng đến Đông An, nói muốn tìm cháu gái mình, tức Ôn cô nương ở bên cạnh điện hạ bây giờ…”

Vào năm Chiêu Hóa thứ mười hai, sau khi Tạ Dung Dữ mời Ôn Thiên xuống núi, Thanh Duy đã bỏ nhà ra đi.

Nhưng nàng cũng không đi xa, ở chỗ của Nhạc Ngư Thất đến mùa xuân năm sau.

Lúc ấy nàng rất giận, giận phụ thân không về thủ tang mẫu thân, không kịp nhìn mẫu thân lần cuối. Nhưng cha con máu mủ ruột rà, giận nhau được bao lâu?

Huống hồ sư phụ cũng nói rồi, nàng buồn vì mẫu thân, lẽ nào phụ thân thấy vui? Cho dù người ngoài nghĩ thế nào đi nữa, chí ít trong lòng Ôn Thiên, Tiển Khâm Đài được xây vì thê tử quá cố của ông.

Đợi tới ngày xây xong, ông hi vọng Tiểu Dã có thể đến xem.

Năm Chiêu Hóa thứ mười ba, vào buổi sáng ngày hè đầu tiên ở Thần Dương, Nhạc Ngư Thất tỉnh giấc, không thấy Tiểu Dã đâu, chỉ có một tờ giấy đặt trên bàn, “Con đi đây, đến xem Tiển Khâm Đài thế nào.”

Năm ấy Ôn Tiểu Dã đã mười bốn tuổi, từ nhỏ theo Nhạc Ngư Thất học võ, công phu hơn hẳn người thường, học trò đã lớn cần trải nghiệm, huống hồ, Nhạc Ngư Thất nghĩ, ông đã đưa nhuyễn ngọc kiếm cho con bé rồi, nó sẽ không gặp nguy hiểm đâu, hơn nữa Ôn Thiên cũng đang ở Lăng Xuyên còn gì.

Thế nên khi Ôn Tiểu Dã rời đi lần này, Nhạc Ngư Thất không đi theo.

Nhạc Ngư Thất vốn là người tùy ý, hơn nửa năm Ôn Tiểu Dã ở chỗ ông là hơn nửa năm ông bị gò bó, nay Ôn Tiểu Dã đã đi, ông cũng được tự do hơn, ông không thích tới Lăng Xuyên góp vui, thế là quay đầu lên Bắc, đi qua Trung Châu vào Mẫn Giang, ngồi thuyền xuôi Tây, đến Khánh Minh tìm một người bạn cũ uống rượu.

Do đó, khi tin dữ Tiển Khâm Đài sập truyền đến tai Nhạc Ngư Thất, lúc bấy giờ đã là hạ tuần tháng Bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba.

Nhạc Ngư Thất nghe tin, lập tức cuống cuồng chạy tới Lăng Xuyên, đêm ngày không nghỉ, nhưng lúc đến nơi, toàn Lăng Xuyên đã bị phong tỏa – nhất là khu vực huyện Sùng Dương, ra vào phải cần có thẻ thông hành do triều đình cấp phát. May thay ngày trước Nhạc Ngư Thất từng làm tướng quân, cũng quen biết vài người trong triều, ông tìm được Thôi quan đang phục vụ ở phủ Lăng xuyên, nhờ người ấy giúp mình làm một thẻ thông hành. Mà Thôi quan đó họ Tề, về sau làm Châu doãn Lăng Xuyên, chính là Tề Văn Bách.

***

Tề Văn Bách nói: “Tại hạ kết nghĩa với Nhạc Ngư Thất hồi còn ở kinh thành. Sau chiến dịch sông Trường Độ, Nhạc tiểu tướng quân về kinh nhận phong hàm tướng quân, đúng lúc gặp tại hạ lên kinh báo cáo, hai người chúng tôi mới gặp mà như đã quen từ lâu, trở thành tri kỷ. Năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Nhạc tiểu tướng quân vất vả tìm được tại hạ, nói rất có thể cháu gái Ôn thị của mình đang bị chôn vùi ở huyện Sùng Dương, nhờ tại hạ làm một tấm thẻ thông thành, ông ấy muốn cứu cháu mình. Nhạc tiểu tướng quân đã có lời nhờ, dĩ nhiên tại hạ sẽ không từ chối, đích thân dẫn Nhạc tiểu tướng quân đến Sùng Dương, không ngờ…”

“Không ngờ lúc ta đến Sùng Dương, chẳng những không tìm được Tiểu Dã, mà đập vào mắt lại là cảnh địa ngục trần gian.” Nhạc Ngư Thất tiếp lời Tề Văn Bách.

***

Tuy nói là địa ngục trần gian, nhưng lúc bấy giờ đã cuối tháng Bảy, vẫn khá hơn rất nhiều so với hồi Tiển Khâm Đài vừa sập.

Nghe nói ngày Tiển Khâm Đài sập, mưa to trút liên miên, đá gạch liên tục rơi từ trên núi xuống, thậm chí mọi người còn không thể lại gần, nói gì đến cứu nạn? Đợi tới khi mưa to tạnh hẳn, mỗi khi tìm được một tảng đá lớn hay một cột gỗ thì bên dưới ắt sẽ có thi thể, ngay cả khi Tiểu Chiêu vương được cứu ra cũng dính đầy máu đầm đìa, không rõ còn sống hay đã chết.

Là người đều có lòng cảm thông. Nhạc Ngư Thất không tìm được Thanh Duy, đành nhờ Tề Văn Bách hỏi thăm khắp nơi, trong mấy ngày chờ đợi tin tức, ông nhớ ra mình từng học băng bó hồi còn ở quân đội, bèn đến lều quân y hỗ trợ.

Cũng tại nơi này, ông gặp được một Cử nhân họ Thẩm.

***

Ba chữ “Thẩm Cử nhân” vừa thốt ra, Doãn Uyển buồn bã hẳn đi, Doãn Trì không khỏi nói: “Thẩm Cử nhân? Có phải ông ấy… là thầy của tôi không?”

Tề Văn Bách nói: “Doãn Nhị thiếu gia chớ sốt ruột, đợi Nhạc tiểu tướng quân kể tiếp. Chờ ông ấy kể xong, cậu tất sẽ biết.”

***

Thẩm Cử nhân này họ Thẩm tên Lan, cũng là một sĩ tử lên Tiển Khâm Đài.

Trong số các sĩ tử được chọn lên đài, đa số những nơi khác đều chọn Tiến sĩ, chỉ có Lăng Xuyên quá nửa là Cử nhân.

Thẩm Lan coi như gặp may, lúc Tiển Khâm Đài sập, ông túm được một gốc cây lớn trong núi, tuy cây gãy nhưng đã cho ông không gian náu mình dưới đống phế tích, dù chân bị thương song không nguy hiểm đến tính mạng.

Vì Nhạc Ngư Thất có liên quan đến Ôn thị nên chỉ đến lều quân y vào lúc vắng người, bấy giờ cũng đã khuya, thế mà Thẩm Lan vẫn còn thức, y nhìn Nhạc Ngư Thất, nói: “Nghĩa sĩ, trông bộ dạng ngài có vẻ không phải là người của quan phủ.”

Nhạc Ngư Thất điềm nhiêm đáp: “Ta chỉ đến hỗ trợ.”

Thẩm Lan nghe được hai chữ “hỗ trợ”, đưa mắt nhìn Nhạc Ngư Thất một hồi, “Nghĩa sĩ đến vào đêm khuya, lại còn che mặt như thế, nếu không phải có nỗi khổ riêng, không tiện gặp người, thì ắt hẳn là đến để hại người.”

Nhạc Ngư Thất không hiểu vì sao người có học như y lại nảy sinh suy đoán ác độc như thế, ông không buồn để ý đến y, vén ống quần của Thẩm Lan lên nhìn vết thương trên đùi, lập tức giật mình kinh hãi. Vết thương của Thẩm Lan đã chảy mủ lở loét, nhưng không hiểu sao lại không có ai bôi thuốc cho y.

Nhạc Ngư Thất nhanh chóng lấy kim sang dược ra, vừa định quay đầu đi rót nước thì Thẩm Lan đã lập tức chụp lấy cổ tay ông, “Rốt cuộc nghĩa sĩ là ai? Có thật đến để giúp tôi không?”

Nhạc Ngư Thất nói: “Ta là ai anh không cần biết, anh chỉ cần biết nếu không cứu chữa, chân của anh sẽ bị tàn phế.”

Nghe lời đó, hai mắt Thẩm Lan trở nên xám xịt, nhưng ngay sau đó lại bừng lên đốm sáng như trông thấy hi vọng, y nén đau gượng dậy, “Nghĩa sĩ đến vào lúc nửa đêm, chỉ vì để cứu người, chắc chắn là người có tình có nghĩa, tại hạ có một yêu cầu quá đáng, mong nghĩa sĩ nhận lời giúp.” Y vẫn nắm chặt cổ tay Nhạc Ngư Thất, “Tại hạ họ Thẩm, tên Lan, tự Thư Từ, người Đông An, có kẻ…” Y nhìn xung quanh, gấp gáp nói, “Có kẻ muốn giết tại hạ, chỉ sợ tại hạ không sống nổi qua đêm nay, nếu có thể, xin ngài hãy bảo vệ con gái của tại hạ.”

Nhạc Ngư Thất có cảm giác chuyện này không đơn giản, lập tức hỏi: “Ai muốn giết anh?”

Thẩm Lan lắc đầu: “Tại hạ cũng không biết, chỉ biết người kia là nhân vật lớn trong triều, thực không dám giấu, tuy tại hạ có thể lên được Tiển Khâm Đài, nhưng…”

Còn chưa nói hết câu, ngoài lều bỗng vọng tới tiếng bước chân của lính tuần – là vệ quân đi tuần đã quay lại, Thẩm Lan lập tức đẩy tay Nhạc Ngư Thất ra, “Nghĩa sĩ đi nhanh đi, xin đừng để bị tại hạ làm liên lụy, hãy nhớ tại hạ họ Thẩm, kính mong nghĩa sĩ bảo vệ tính mạng con gái tại hạ.”
 
Chương 146


Vệ quân kinh thành đang đi tuần quanh lều, Nhạc Ngư Thất không tiện nán lại lâu, nhanh chóng lách ra ngoài.

Nhưng ông không đi xa mà chờ trên một gốc cây gần đó, đợi tới tận sáng hôm sau khi vệ quân đã rút lui, Nhạc Ngư Thất lại tiến vào lều, song Thẩm Lan đã chết.

Tiển Khâm Đài sập quá đột ngột bất ngờ, nhẽ ra sĩ tử may mắn sống sót phải nên được dốc lòng cứu chữa, nhưng bây giờ lại có người bị độc hại chết, Nhạc Ngư Thất dấy lên rất nhiều nghi vấn. Ông nhanh chóng đến tìm Tề Văn Bách, cùng điều tra cái chết của Thẩm Lan, mặt khác, để hoàn thành tâm nguyện của Thẩm Lan, ông quyết định sẽ đi tìm cô con gái mà Thẩm Lan đã nhắc.

Nhưng bất ngờ thay, theo như chi tiết hộ tịch ghi chép, Thẩm Lan không có con gái.

Y mất vợ từ lâu, về sau cũng không tái giả, nửa đời không sinh con, vậy cô con gái này từ đâu ra?

***

Tề Văn Bách nói: “Chuyện càng kỳ quặc thì càng chứng tỏ bên trong có gì đó. Cho nên tại hạ đã phái người âm thầm điều tra, cuối cùng vào tháng Chín cùng năm, đã điều tra ra tung tích con gái của Thẩm Lan.”

***

Đúng là Thẩm Lan có một cô con gái tên Uyển Uyển, được sinh bởi vong thê của ông. Vợ ông qua đời do khó sinh.

Nhắc tới Thẩm gia, tổ tiên nhà họ kinh doanh tranh chữ, cũng được xem là phú hộ Đông An, tiếc thay đến thế hệ Thẩm Lan thì gia nghiệp dần lụn bại. Vốn dĩ ông cha trong nhà không đồng ý hôn nhân giữa Thẩm Lan và vong thê Bạch thị, nói Bạch thị phúc mỏng mệnh khổ, bát tự không hợp với Thẩm gia. Nhưng Thẩm Lan và Bạch thị là thanh mai trúc mã, yêu nhau sâu đậm, dưới sự cương quyết của Thẩm Lan, cuối cùng Bạch thị vẫn qua cửa.

Bạch thị quả đúng là mệnh khổ, vào đêm hạ sinh Uyển Uyển, bà còn chưa kịp nhìn mặt con gái đã ra đi. Rồi sau đó, không biết là cô con gái Uyển Uyển sinh vào giờ âm khắc âm dễ rước họa, hay vốn dĩ Thẩm gia đã hết thời vận, mà ông cha trong nhà lần lượt qua đời, gia nghiệp xuống dốc, con út phòng ba chào đời chưa đến một tháng đã đổ bệnh nặng qua đời. Trưởng bối trong nhà trách rằng toàn bộ những chuyện đó là lỗi của Uyển Uyển, tìm thầy bói đến xem, thầy bói cũng nói Uyển Uyển có số khắc người thân, chặt đứt tài vận, mẹ đẻ nàng ta chết trong lúc sinh nàng ta chính là ví dụ rõ rệt nhất, thế là Thẩm gia nhen nhóm ý muốn đưa Uyển Uyển đi.

May mắn là cũng có người muốn nhận đứa trẻ sinh vào giờ âm khắc âm. Trong số mệnh có cách nói thế này, phúc vận quá vượng cũng không phải chuyện tốt, cây cao quá rừng ắt bị gió thổi quật, cần tìm một đứa trẻ sinh vào giờ âm để áp chế.

Lúc bấy giờ ở Đông An, vừa khéo có một gia đình họ Doãn muốn nhận nuôi đứa trẻ sinh vào giờ âm, Thẩm gia bèn đưa Uyển Uyển đến Doãn gia. Từ đấy trở đi, Uyển Uyển không còn được gọi là Uyển Uyển nữa, nàng đổi sang họ Doãn, tên Doãn Uyển.

***

Nghe đến đây, Doãn Trì ngơ ngác lên tiếng: “Như thế có nghĩa, Uyển Uyển không phải là em gái ruột của tôi, muội ấy họ Thẩm, là Uyển Uyển con gái của thầy Thẩm. Nhưng những chuyện này, vì sao không ai nói tôi biết?”

Tề Văn Bách thở dài: “Phải bắt đầu nói từ đâu đây? Thẩm Lan này, y là một kẻ si tình…”

***

Thẩm Lan là kẻ si tình, cả đời chỉ yêu một mình Bạch thị.

Đêm cưới Bạch thị, ông đã quỳ trong từ đường tổ tông thề thốt, thề rằng cả đời này sẽ không nạp thiếp, suốt đời suốt kiếp chỉ có mình Bạch thị. Ngày Bạch thị còn sống, hai người họ đi đâu cũng có nhau, ân ái tình nồng. Về sau Bạch thị qua đời, có thể tưởng tượng được ông đau đớn đến chừng nào, nghe nói ông không ăn không ngủ chỉ để túc trực linh cữu của Bạch thị, chỉ mới vài tuần đã gầy sọp hẳn đi, nếu người nhà không ôm Uyển Uyển chưa đầy tháng đến cạnh ông, có lẽ ông cũng sẽ đi theo Bạch thị.

Từ đấy trở đi, Thẩm Lan dành hết tình yêu cả đời cho con gái Uyển Uyển, tự tay chăm bẵm dạy dỗ nàng, không cấm đoán trói buộc nàng chỉ vì nàng là con gái, nàng thích vẽ, ông lập tức dạy nàng hội họa, dạy nàng đọc sách biết chữ.

Nếu ông cha trong nhà không lấy cái chết ra uy hiếp, cha mẹ quỳ trong từ đường ba ngày ba đêm, thì chắc chắn Thẩm Lan không bao giờ chịu đưa Uyển Uyển đi.

Năm ấy Thẩm Lan đã có công danh Cử nhân, được triều đình cử đi thí thủ, sau khi Uyển Uyển rời đi, có vẻ Thẩm gia cũng dần khá hơn.

Chẳng ngờ biến khéo thành vụng, khi Thẩm Lan nghe tin Uyển Uyển được đưa đến Doãn gia, vừa hay Doãn gia đang tìm thầy dạy học, ông lập tức từ bỏ chuyện làm quan, tìm tới Doãn gia, nói rằng bằng lòng dạy vỡ lòng cho Doãn Nhị thiếu gia, chỉ mong trong khi dạy học có thể gặp được Uyển Uyển nhà ông.

Cha con Thẩm Lan và Uyển Uyển phải xa cách nhau, Doãn lão gia cũng rất xúc động, hơn nữa Thẩm Lan là Cử nhân, lại chịu dạy vỡ lòng cho Doãn Trì, cớ gì không nhận?

***

“Có thể điện hạ đã từng thắc mắc, vì sao một Cử nhân như Thẩm Lan không làm quan mà lại đi dạy học, vì sao lại cho phép một tiểu cô nương có mặt trong buổi học, rồi vì sao lại chịu dạy vẽ cho cả Doãn Nhị thiếu gia và Doãn Uyển? Bởi vì Doãn Uyển chính là Uyển Uyển, nàng là con ruột của Thẩm tiên sinh.” Tề Văn Bách nói.

Rồi ông lại thở dài, “Có lẽ là ý trời. Doãn Nhị thiếu gia cũng giống Uyển Uyển, là người mê vẽ trời sinh, Thẩm Lan lại là người cởi mở, cho rằng làm người không nên chỉ biết mỗi đọc sách, phải sống theo mong muốn của bản thân, làm chuyện mình thích. Vì thế y đã gác chuyện học hành sang một bên, chuyên tâm dạy vẽ cho Doãn Trì và Doãn Uyển.”

***

Tiếc thay ngày vui ngắn chẳng tày gang, chuyện Doãn Trì miệt mài học vẽ đã bị Doãn gia phát hiện. Doãn lão gia nổi trận lôi đình, cho rằng Thẩm Lan làm lỡ dở chuyện học hành của con trai, không những đuổi Thẩm Lan đi mà còn lo Doãn Uyển sẽ làm ảnh hưởng đến công danh của Doãn Trì, đưa cả Doãn Uyển đến Quy Ninh Trang ở.

***

Doãn lão gia ân hận: “Kể ra, toàn bộ chuyện này đều là lỗi của tôi, lúc đó tôi quá kích động, cũng quá cố chấp, thực chất thầy Thẩm đã từng khuyên nhủ tôi, ông ấy nói cuộc đời con người không phải chỉ có mỗi con đường công danh, nếu có thể vui vẻ làm chuyện mình thích, chí ít trong lòng cũng được thỏa mãn. Ví dụ như kiến trúc sư Ôn Thiên, cũng từng thi đậu Tiến sĩ, nhưng về sau ông ấy miệt mài nghiên cứu xây dựng, chẳng phải bây giờ cũng đã trở thành kiến trúc sư được người người kính nể sao? Thầy Thẩm bảo, cuộc đời con người, điều khó nhất là sống theo mong muốn của bản thân, Doãn gia có điều kiện, Trì nhi cũng chịu khó học hành, vì sao không để Trì nhi theo đuổi hội họa?

Nhưng khi nghe những lời đó, tôi chỉ cảm thấy y đang ngụy biện, cho rằng y… muốn dạy con gái mình học vẽ nên mới nói vậy, làm lỡ dở việc học của Trì nhi.”

Doãn Trì nghe vậy thì la lên: “Cha, cha hiểu lầm thầy Thẩm rồi. Học vẽ là mong muốn của Nguyệt Chương, là Nguyệt Chương biết gia đình thầy Thẩm kinh doanh tranh chữ, năn nỉ thầy ấy nửa năm, bằng không thầy ấy cũng sẽ không chịu dạy vẽ cho Nguyệt Chương.”

Doãn lão gia xót xa nói: “Lúc đó tôi giận đến hồ đồ, không những đuổi Thẩm Lan đi, mà còn nói với y là, tôi biết y muốn đưa con gái về, nhưng Uyển Uyển đã vào hộ tịch của Doãn gia, là người của Doãn gia tôi, cả đời này y đừng mơ dẫn Uyển Uyển về. Giờ nghĩ lại, tôi không nên nói với thầy Thẩm những lời đó, nếu tôi không nói, có lẽ y đã không đi đến bước ấy…”

Vệ Quyết hỏi: “Đi đến bước nào?”

Tề Văn Bách nói: “Chư vị còn nhớ Tứ cảnh đồ không? Không phải bức Sơn vũ tứ cảnh đồ mà Doãn Tứ cô nương mới mô phỏng sau này, mà là bản chính của Đông Trai tiên sinh, bức danh tác Tứ cảnh đồ truyền thế. Tứ cảnh đồ này, năm xưa ở ngay tại Thẩm gia.”

***

Tổ tiên Thẩm gia kinh doanh buôn bán, có một hôm nhận được Tứ cảnh đồ của Lã Đông Trai, xem nó như bảo bối trấn đi3m, nhất quyết không bán.

Điều này cũng giải thích vì sao Doãn Uyển có thể bắt chước phong cách của Lã Đông Trai, vì sao còn trẻ mà có thể vẽ được bức Sơn vũ tứ cảnh đồ, chưa nói tới việc nàng ta là thiên tài hội họa trời sinh, mà đúng là nàng ta được tiếp xúc với bản gốc Tứ cảnh đồ trong suốt thời thơ ấu.

***

Doãn Uyển khẽ cất tiếng: “Hồi còn bé, vì để dỗ tiểu nữ nên phụ thân thường lén đem bức Tứ cảnh đồ đến cho tiểu nữ xem. Lúc ấy tiểu nữ còn quá nhỏ, không hiểu được sự huyền diệu trong bức tranh, nhưng phụ thân lại có cách riêng của ông, Tứ cảnh đồ là một bộ tranh gồm một bức nền và bốn bức phủ, sẽ thay đổi biến hóa theo ánh sáng, kết hợp các bức tranh lại với nhau sẽ thành bốn khung cảnh ở Lăng Xuyên. Phụ thân thường…” Nói đến đây, Doãn Uyển nhớ tới Thẩm Lan, giọng trở nên nghẹn ngào, “Phụ thân thường cất tranh phủ đi, chỉ để lại tranh nền, sau đó tự tay vẽ tranh phủ chồng lên tranh nền cho tiểu nữ xem. Tranh phủ của ông khá đơn giản, chỉ là một chùm sáng thôi, nhưng nếu chồng lên tranh nền thì lúc sẽ thành con mèo con chó, thành chim khách ve sầu. Đấy là…” Doãn Uyển rớm khóc, lệ lăn dài trên má, “Đấy là trò tiểu nữ thích nhất hồi bé, vì vậy phụ thân đã vẽ rất nhiều rất nhiều, ngày nào cũng có tranh mới, không hề trùng lặp. Về sau tiểu nữ thích vẽ, thích phong cách của Đông Trai, quá nửa cũng là vì phụ thân…”

***

Vào năm Chiêu Hóa thứ mười, Thẩm Lan bị đuổi khỏi Doãn gia, câu nói cuối cùng của Doãn lão gia là, Uyển Uyển đã nhập tịch vào Doãn gia, là người họ Doãn, cả đời này ông đừng mơ tới chuyện dẫn Uyển Uyển về.

Thẩm Lan đã mất Bạch thị, cũng không giữ được Uyển Uyển nữa rồi.

Ông còn muốn đích thân gả con gái đi, trao con gái cho tấm chồng tử tế.

Tới lúc này Thẩm Lan mới bắt đầu hối hận, ông hối hận vì sao ngày trước khi thi đậu Cử nhân lại không nhậm chức quan, nếu bản thân có thể bước lên mây xanh, trở thành đại quan nhất ngôn cửu đỉnh, có phải sẽ không ai cướp con gái khỏi tay ông không, có phải khi ông muốn đòi lại Uyển Uyển, không một ai dám từ chối không.

Vậy là Thẩm Lan quyết định làm quan, nhưng đường làm quan không thuận lợi như ông tưởng tượng, có thể do tính cách của ông – ông không thích luồn cúi, càng không nịnh nọt ai, đi bước nào chắc chắn bước đấy, rồi sẽ có ngày thành danh. Nhưng Thẩm Lan không chờ nổi, nếu tới ngày Uyển Uyển đã lớn mà ông vẫn chưa trở thành đại quan nhất ngôn cửu đỉnh thì phải làm sao đây? Ông cần một cơ hội, hay nói cho chính xác, là một lối tắt.

Mà vào năm Chiêu Hóa thứ mười hai, cơ hội đã đến.

Triều đình quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài, vào tháng Bảy năm sau sẽ chọn sĩ tử ở khắp nơi lên đài.

Thực ra ban đầu Thẩm Lan không cho rằng Tiển Khâm Đài sẽ là cơ hội của mình, tuy ông là Cử nhân nhưng không có thành tích, thậm chí còn thua cả Tú tài đã làm quan từ sớm. Mãi cho tới một ngày, một vị Thông phán Lăng Xuyên tên là Sầm Tuyết Minh tìm đến ông.

Sầm Tuyết Minh nói, trong triều có một vị đại quan rất thích Tứ cảnh đồ của Lã Đông Trai, chỉ cần Thẩm Lan bằng lòng bỏ ra bức Tứ cảnh đồ, vị đại quan kia sẽ cho Thẩm Lan một suất lên đài.

Tứ cảnh đồ là bảo bối trấn gia của nhà họ Thẩm, mới đầu Thẩm Lan còn do dự, nhưng danh họa có quý đến đâu cũng chỉ là vật chết, Uyển Uyển lại đang lớn lên từng ngày, thời gian cha con bên nhau được bao lâu đây?

Nếu có thể trở thành sĩ tử được lên Tiển Khâm Đài, có phải người ta sẽ xem trọng ông hơn không, ông muốn đón Uyển Uyển về cũng sẽ dễ dàng hơn.

Thế là Thẩm Lan cắn răng, giao bức Tứ cảnh đồ cho Sầm Tuyết Minh.

Bấy giờ là đầu hè năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Thẩm Lan đến Quy Ninh Trang, gặp Doãn Uyển lần cuối, ông nói: “Uyển Uyển, sắp tới cha phải đến núi Bách Dương một chuyến, con chờ cha nhé, có thể vào mùa thu sang năm cha sẽ đón con về nhà. Sau này cha con ta sẽ ở với nhau, không chia xa nữa.”

Doãn Uyển mất mẹ từ bé, lại phải sống trong cảnh ăn nhờ ở đậu, tuy tuổi còn nhỏ nhưng rất hiểu chuyện, nghe phụ thân nói xong, nàng không hỏi lý do và cũng không hối thúc, thay vào đó chỉ nói: “Cha ơi, kỹ thuật vẽ của con có tiến bộ rồi, bắt chước Đông Trai tiên sinh cũng ra hình thù, con có thể đưa cho cha xem được không? Nếu cha xem, chắc sẽ vui lắm cho xem.”

Vì chuyện của Doãn Trì nên giữa Thẩm Lan và Doãn gia xảy ra xích mích, ông không thể vào trong Quy Ninh Trang. Thẩm Lan bèn bảo: “Uyển Uyển là họa sĩ trời sinh, tranh con vẽ có thể đem bán được rồi, nếu con muốn để phụ thân xem tranh, vậy cứ gửi bán tranh ở Thuận An Các, đợi cha đi núi Bách Dương về sẽ mua xem.”

Doãn Uyển bỗng nhớ tới cảnh sống giữa thiên nhiên* trong bức “núi cao tháp cổ tiếng chuông ngân” thuộc bộ Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh, nhớ ngày trước khi phụ thân vẽ tranh nền con mèo con chó, thường để lại hai chữ “Chẩm Lưu”, bèn gật đầu nói: “Vâng ạ, vậy Uyển Uyển sẽ gửi tranh đến Thuận An Các, lấy tên Sấu Thạch, bao giờ cha trở về, nhớ nhất định phải xem đấy nha.”

(*Từ gốc ở đây là Chẩm Lưu Sấu Thạch, có nghĩa lấy đá làm gối, dùng nước sông rửa miệng và sống tự do trong tự nhiên.)

Vào một ngày đầu hạ mưa liên miên không ngớt, những bức tranh với nét vẽ non nớt, ghi hai chữ “Sấu Thạch” lần lượt được đưa đến Thuận An Các.

Đáng tiếc thay, họa sĩ đợi rồi lại đợi, đợi mùa hè nóng bức qua đi, ngày thu mát mẻ dàn tới, vẫn không đợi được người sẽ đến mua tranh.

Vào Năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Lăng Xuyên bị nhấn chìm trong cơn ác mộng khủng khiếp cuối hè, còn Thẩm Lan, ông mãi mãi ở lại núi Bách Dương, chẳng thể đón con gái về như điều mình hằng mong.
 
Chương 147


Bầu không khí yên ắng bao trùm cả căn phòng.

Một lúc sau, Tạ Dung Dữ mới cất tiếng: “Vậy là số tranh mà Doãn Tứ cô nương đưa đến Thuận An Các dưới danh nghĩa Sấu Thạch đã bị Sầm Tuyết Minh mua đi?”

Doãn Uyển gật đầu.

“Phụ thân ra đi biệt tăm tin tức, tiểu nữ không biết phải tìm ông ấy thế nào, cho tới tháng Chín năm ấy, Sầm Tuyết Minh đến tìm tiểu nữ. Ông ta nói ông ta biết tiểu nữ là Sấu Thạch, mua tranh của tiểu nữ ở Thuận An Các cốt để chờ tiểu nữ đi lấy tiền thì sẽ gặp mặt. Chính ông ta nói cha đã dùng bức Tứ cảnh đồ để đổi lấy suất lên Tiển Khâm Đài, ông ta còn nói…”

Doãn Uyển nghẹn ngào nức nở, một lúc lâu sau mới nói tiếp, “Ông ta còn nói, cha đã chết oan dưới Tiển Khâm Đài. Sau đó ông ta đưa cho tiểu nữ một bức tranh, bảo tiểu nữ cất tranh đi, dặn là sau này khi triều đình điều tra oan khuất của cha, thì tiểu nữ hãy lấy bức tranh đó ra, nó sẽ là bằng chứng rõ ràng.”

Nói đoạn, Doãn Uyển đi tới tủ đứng bên trái, lấy ra một chiếc hộp gỗ dẹt dài.

Một ống tranh nằm ngay ngắn trong hộp, từ từ mở tranh ra, đập vào mắt là khung cảnh đình đài trong mưa.

“Chỉ nhìn qua tiểu nữ cũng có thể nhận ra bức tranh này, là tác phẩm trước khi lâm chung của phụ thân.” Doãn Uyển nói, “Sầm Tuyết Minh giao cho tiểu nữ bức tranh này rồi biến mất, bao năm qua tiểu nữ không hề gặp lại ông ta.”

Tất cả mọi người đồng loạt nhìn bức tranh trong tay Doãn Uyển.

Nhìn qua chỉ là một bức tranh bình thường, màn mưa mông lung gần như tiệp với đình đài, có cất giấu manh mối nào đâu?

Đúng lúc này, tròng mắt Tạ Dung Dữ lóe sáng, “Đây là bức tranh phủ?”

Doãn Uyển gật đầu, “Điện hạ đoán không sai, bức tranh này có thể là tranh phủ của bộ Tứ cảnh đồ.”

Tứ cảnh đồ của Lã Đông Trai được tạo nên từ một bức tranh nền và bốn bức tranh phủ, tranh nền kết hợp với từng tranh phủ sẽ tạo ra khung cảnh mới.

Ngày Doãn Uyển còn bé, Thẩm Lan thường tự vẽ tranh nền, biến ra con mèo con chó trên bộ Tứ cảnh đồ để dỗ nàng vui. Có thể nói, tranh nền Tứ cảnh đồ trông ra sao, Thẩm Lan đã sớm thuộc nằm lòng.

Vệ Quyết nói: “Có nghĩa Sầm Tuyết Minh chỉ giao cho Tứ cô nương bức tranh phủ, muốn biết hắn ta để lại bằng chứng gì thì phải tìm cho được bản gốc Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh?”

Doãn Uyển gật đầu: “Đại nhân nói không sai.”

Chương Lộc Chi nói: “Nhưng… Nếu Sầm Tuyết Minh muốn để lại bằng chứng tố cáo Khúc Bất Duy, vì sao phải rắc rối đến vậy? Sao phải để Thẩm tiên sinh vẽ tranh nền? Ông ta không nói thẳng ra được à? Cả Thẩm tiên sinh nữa, rõ ràng cái chết của ông ấy quá kỳ quặc, lẽ nào năm đó các ngươi không điều tra được gì?”

“Dĩ nhiên có điều tra.” Tề Văn Bách nói, “Hãy để tại hạ giải thích tiếp. Chư vị còn nhớ Thẩm tiên sinh gặp nạn như thế nào không?”

Thanh Duy nói: “Sư phụ đến lều quân y hỗ trợ, gặp Thẩm tiên sinh, sau đó vệ quân đi tuần tra, sư phụ phải nấp ngoài lều, ngày hôm sau, Thẩm tiên sinh đã bị độc hại chết.”

Tề Văn Bách gật đầu: “Đúng thế, cho nên nguyên nhân cái chết của Thẩm Lan nói lạ cũng lạ, nhưng nói rõ ràng cũng rất rõ ràng.”

“Đêm hôm ấy sau khi Nhạc tiểu tướng quân rời lều quân y, ngài ấy không đi đâu xa mà nấp trên cây gần đó, có thể nói ông ấy đã gác lều cả một đêm. Mà ngoài vệ quân đi tuần ban đêm ra, không có bất cứ ai ra vào lều trong tối ấy.”

Nói cách khác, người hại chết Thẩm Lan chỉ có thể là toán vệ quân đi tuần đêm này.

Tề Văn Bách nói tiếp: “Sau khi Tiển Khâm Đài sập, tiên đế nhanh chóng đến Lăng Xuyên, lúc ấy chính Xu Mật Viện toàn quyền tiếp quản tuần phòng vùng núi Bách Dương. Lều quân y mà Thẩm Lan ở vốn được dựng tạm do có quá nhiều bệnh nhân bị thương, được bố trí cho những người không bị thương nặng. Tuy nhiên, mọi việc canh phòng tuần tra lều quân y hay doanh trướng đều phải nghe lệnh Xu Mật Viện, chuyện này chứng minh điều gì?”

Không đợi mọi người trả lời, Tề Văn Bách nói thẳng, “Chứng minh rằng kẻ thực sự muốn giết Thẩm Lan đang ở Xu Mật Viện.”

Ngẫm lại cũng đúng, một sĩ tử trong sạch như Thẩm Lan thì có thù địch gì với lính tuần vô danh? Kẻ muốn diệt khẩu ông ấy chính là kẻ đã sai vệ quân đến lều quân y vào tối hôm đó.

Tề Văn Bách nói tiếp: “Hiện tại Chiêu vương điện hạ đã điều tra ra Khúc Bất Duy, toàn bộ sự việc mới rõ ràng. Năm xưa Khúc Bất Duy bị lợi ích cám dỗ, nhờ Sầm Tuyết Minh bán danh sách lên Tiển Khâm Đài. Sau khi Tiển Khâm Đài sập, Khúc Bất Duy sợ chuyện bị bại lộ, muốn giết Sầm Tuyết Minh diệt khẩu, đổ hết tất cả tội danh lên đầu ông ta. Sầm Tuyết Minh đoán được tâm tư của Khúc Bất Duy, nên trước đó đã chuẩn bị đường lui cho mình. Đầu tiên ông ta âm thầm cứu Thẩm Lan, nhờ ông ấy vẽ một bức tranh phủ của bộ Tứ cảnh đồ, làm bằng chứng chứng minh tội ác của Khúc Bất Duy. Ắt hẳn chính Sầm Tuyết Minh đã thu xếp cho Thẩm Lan ở trong lều quân y, nếu không, dựa vào thủ đoạn của Khúc Bất Duy, chắc chắn Thẩm Lan không thể sống lâu được như thế. Nhưng Sầm Tuyết Minh cũng không hẳn muốn cứu Thẩm Lan, ông ta chỉ đang tranh thủ thời gian cho mình, đợi Thẩm Lan đưa tranh xong, ngay lập tức đã bị vệ quân tuần tra tìm đến, vì thế mới có chuyện vệ quân đầu độc hại chết Thẩm Lan.”

“Nhưng,” Tề Văn Bách thở dài, “Với hạ quan và Nhạc tiểu tướng quân lúc đó mà nói, gần như không biết chút gì, chúng tôi không biết Khúc Bất Duy, không biết vì sao sĩ tử lại chết. Chúng tôi chỉ biết trong Xu Mật Viện có người làm chuyện ác, chư vị có biết điều này có nghĩa gì không.”

Vệ Quyết gật đầu: “Nếu Xu Mật Viện đã phụ trách toàn bộ lính tuần ở núi Bách Dương, như vậy bọn họ cũng chịu trách nhiệm an nguy cho mọi người bao gồm đế vương, hơn nữa ngay lúc ấy, cựu Chỉ huy sứ của Huyền Ưng Ti đã bị xử trảm, Huyền Ưng Ti bị vấn tội từ trên xuống dưới, một khi lính tuần do Xu Mật Viện phụ trách gây chuyện, uy hiếp tới đế vương, thì không chỉ có mỗi núi Bách Dương xảy ra loạn, mà không chừng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ Mẫn Giang phía Nam, hoặc là… cả thiên hạ.”

“Đúng.” Tề Văn Bách nói, “Nên vào lúc đó, hạ quan và Nhạc tiểu tướng quân càng không dám vọng động. Thời gian ấy hai người chúng tôi sống trong cảnh thần hồn nát thần tính, mỗi khi quân lính được điều động hay thay phiên khác thường đều khiến hai chúng tôi căng mình chờ đợi. Và đúng lúc đó, ở Thượng Khê truyền đến một tin tức…”

Thanh Duy nghe tới đây, tròng mắt tối đi: “Sơn tặc núi Trúc Cố đã chết.”

“Không sai, gần như toàn bộ sơn tặc núi Trúc Cố đã chết chỉ trong một đêm.” Tề Văn Bách đáp, “Thực ra tin tức chúng tôi nhận được rất đơn giản, chỉ nói là núi Trúc Cố ở huyện Thượng Khê có sơn tặc tác oai tác quái, giết hại dân chúng, triều đình đã phái binh tiêu diệt. Lệnh diệt phỉ được triều đình ban bổ từ một năm trước, cũng coi như làm việc theo lệnh, nhưng do Tiển Khâm Đài sập nên toàn Lăng Xuyên loạn rơi vào rối loạn, nếu đem ra so sánh, tin tức này gần như không đáng để nhắc đến. Chỉ là, vì tại hạ và Nhạc tiểu tướng quân biết được sự khác thường của Xu Mật Viện, nên mỗi lần binh lính được điều động thì hai chúng tôi rất để ý. Chúng tôi có trực giác sơn tặc núi Trúc Cố chết không đơn giản, sau khi bàn bạc với nhau, chúng tôi quyết định phân chia hành động, Nhạc tiểu tướng quân sẽ đến núi Trúc Cố điều tra, còn tại hạ đến Đông An, điều tra về cô con gái thất lạc của Thẩm Lan.”

Nhạc Ngư Thất tiếp lời Tề Văn Bách, nói: “Lúc ta đến Thượng Khê, cũng giống như những gì về sau các ngươi đã điều tra, gặp được ông cháu họ Cát may mắn sống sót. Theo như ông Cát nói, bọn ta mới biết tội ác mua bán danh sách Tiển Khâm Đài. Ông Cát rất phẫn nộ, nóng lòng muốn giải oan cho sơn tặc núi Trúc Cố, nhưng ta nghĩ đến cái chết của Thẩm Lan, khuyên ông ấy hãy ở lại trong núi, đợi ngày thời cơ chín muồi.”

Tuy nhiên giao dịch danh sách lên đài không hề đơn giản, nếu người này và hung thủ sát hại Thẩm Lan là một, chứng tỏ hắn ta cũng ở Xu mật Viện, hiện giờ đang ở núi Bách Dương. Trong tay ông Cát không có bằng chứng rõ ràng, nếu ông ấy bất chấp để giải oan cho sơn tặc núi Trúc Cố thì chẳng khác gì đổ dầu vào lửa, đẩy mình đến tử vực, thậm chí… kẻ này còn chấp chưởng quyền hành điều động quân sự, một khi hắn ta biết mình đã bị bại lộ, nếu dấy binh tạo phản, tất Lăng Xuyên sẽ rơi vào địa ngục nhân gian.

Tề Văn Bách nói: “Nhạc tiểu tướng quân rời Thượng Khê, nhanh chóng quay về Đông An gặp tại hạ. Có lẽ trước khi chết, Thẩm Lan đã nhờ Sầm Tuyết Minh bảo vệ Uyển Uyển, Sầm Tuyết Minh đã dùng thủ đoạn để xóa bỏ ghi chép việc Doãn gia nhận nuôi Uyển Uyển, nên tại hạ mất rất nhiều thời gian mới có thể tìm được Doãn Tứ cô nương, nhưng khi chúng tôi gặp được cô bé thì Sầm Tuyết Minh đã mất tích. Cũng từ chỗ Doãn Tứ cô nương, chúng tôi lần nữa xác nhận trong triều có người mua bán danh sách lên Tiển Khâm Đài. Chúng tôi muốn tiếp tục điều tra, chỉ tiếc đúng vào lúc này, triều đình đã định tội của Ôn Thiên, cũng hạ lệnh truy đuổi tất cả thân quyến của Ôn Thiên, sau đó Nhạc tiểu tướng quân…”

“Sau đó ta đã bị bắt.” Nhạc Ngư Thất lời ít ý nhiều.

“Sao có thể?” Thanh Duy la lên, “Với bản lĩnh của sư phụ, muốn chạy thoát khỏi truy binh của triều đình có gì khó, kể cả con lúc đó…”

Kể cả nàng lúc đó, chỉ cần muốn trốn thì tuyệt đối sẽ không bị quân lính bắt được.

“Sao lại không thể?” Không đợi Thanh Duy nói hết, Nhạc Ngư Thất đã đanh giọng nói, “Khi ấy vì để điều tra chân tướng mà ta đi lại bên ngoài suốt ngày, còn thường xuyên qua lại với quan viên trong triều, ta cũng không phải là thần tiên, đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma, đương nhiên sẽ bị bắt.”

“Nhưng dù vậy, sư phụ cũng không nên…” Thanh Duy vẫn không tin, nàng cảm thấy Nhạc Ngư Thất đang che giấu điều gì đó.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, thoáng đăm chiêu, chợt một nghi vấn vụt qua, hỏi: “Nhạc tiểu tướng quân bị bắt, không ai trong triều dám tự ý xử phạt, nên Nhạc tiểu tướng quân đã nhân cơ hội ấy để gặp tiên đế?”

“Đúng là có gặp, cũng báo cho ngài ấy biết tất cả những gì bọn ta điều tra được, nhưng…” Nhạc Ngư Thất nói, “Ngài ấy cũng bất lực.”

“Vì sao?” Thanh Duy hỏi.

Tiên đế là hoàng đế, gặp phải án lớn như vậy, lẽ nào không nên điều tra bắt kẻ cầm đầu?

Cũng không thể trách Thanh Duy có thắc mắc như vậy, nàng sống ở chốn dân gian, không hiểu được thế cục trong triều.

Tròng mắt Tạ Dung Dữ tối đi, y trả lời: “Lúc đó… long thể tiên đế không còn khỏe nữa rồi.”

Tiên đế cần mẫn với chính nghiệp, nhiều năm tại vị thường thức khuya dậy sớm, long thể sớm bất an. Khi tin dữ Tiển Khâm Đài sập truyền đến, tiên đế còn không quản ngại đường xa tới Lăng Xuyên, thấy thảm họa ấy, bệnh tình trở nặng không dậy nổi.

Long thể của đế vương liên quan đến vương vị đất nước, mỗi lần thay đổi hoàng quyền luôn là lúc triều chính nhạy cảm nhất, thậm chí sẽ định trước cuộc đời chìm nổi của rất nhiều viên quan. Vào lúc ấy, bất cứ một quyết sách nào cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn thể, chớ nói Xu Mật Viện nắm quyền điều động tuần binh, thậm chí cả Chiêu Hóa đế cũng đành phải đặt sang một bên.

Thanh Duy nói: “Vậy sau khi về kinh, không phải tiên đế có thể điều tra vụ án này à? Sao ngài ấy không điều tra?”

Nhạc Ngư Thất nói: “Đúng là tiên đế đã định ngay khi về kinh sẽ lập tức bắt tay điều tra vụ án mua bán danh sách lên Tiển Khâm Đài, thậm chí trước khi rời Lăng Xuyên, ngài đã cất nhắc Văn Bách làm Châu doãn Lăng Xuyên, chính là để sau này thuận lợi điều tra. Nhưng trên đường về kinh đã xảy ra ba chuyện, tiên đế đành phải gác lại kế hoạch.”

“Ba chuyện gì?”

“Thứ nhất, trong triều có tướng quân chuyên quyền, mượn biến cố Tiển Khâm Đài, cố ý phò tá tiểu hoàng tử lên ngôi; thứ hai, bệnh tình của tiên đế ngày một trở nặng, thái y khẳng định không thể thọ quá một năm; thứ ba, cũng là chuyện quan trọng nhất,” Nói đến đây, Nhạc Ngư Thất nhìn mọi người xung quanh, “Còn nhớ cái chết của Thẩm Lan là do vệ quân tuần đêm gây ra không? Tuy bọn ta không tra được đêm hôm đó ai đã điều vệ quân, nhưng tiên đế có thể, kẻ điều động chính là Chương Hạc Thư.”

Tề Văn Bách nói tiếp: “Lúc bấy giờ tiên đế đã lập đương kim Quan gia Gia Ninh đế làm Thái tử, và con gái của Chương Hạc Thư cũng được định sẽ làm Thái tử phi, hôn sự của hai người họ đã được chuẩn bị từ một năm trước, chỉ đợi tiên đế hồi kinh sẽ thành hôn. Nếu điều tra sâu về án mua bán danh sách lên đài, ắt sẽ bắt tay từ Thẩm Lan, và từ Thẩm Lan, sẽ nhanh chóng điều tra được nhà họ Chương. Mà một khi họ Chương gặp chuyện vào lúc đó, dù có ảnh hưởng đến Thái tử hay không, thì những kẻ có ý định phù chính tiểu hoàng tử lên ngôi sẽ lợi dụng chuyện này để kéo Thái tử ra khỏi Đông Cung, kế đó nâng đỡ một đế vương bù nhìn tấm bé, nắm trọn quyền hành trong tay. Tiển Khâm Đài sập, triều đình căng thẳng, dân chúng hoang mang, nếu lúc ấy thay đổi hoàng quyền, nổ ra chiến sự, thì tình huống tệ nhất, nguy hiểm nhất có thể sẽ ảnh hưởng đến toàn thiên hạ. Thử hỏi, tiên đế có thể điều tra vụ án này vào lúc đó được không? Ngài ấy không thể, hay nói cách khác, ngài ấy không dám. Thậm chí ngài còn lợi dụng thế lực của Chương Hạc Thư, giúp Thái tử ngồi vững ở Đông Cung, đến nỗi dù đã biết Hà gia không sạch sẽ, ông ấy vẫn để Hà thị làm mẫu phi của Thái tử, mượn tay Trung thư lệnh Hà Thập Thanh hộ giá Thái tử, dẫu ngài biết mai sau khi đăng cơ, Thái tử sẽ trở thành một vị hoàng đế không có thực quyền.”

Nghe những lời này, Tạ Dung Dữ cụp mắt.

Y lớn lên trong thâm cung, những năm tháng kia, nếu bảo gần gũi với ai nhất thì chỉ có một mình Triệu Sơ.

Triệu Sơ và Chương Nguyên Gia là thanh mai trúc mã, tình cảm đậm sâu, nhưng kể từ khi Tiển Khâm Đài sập, tất cả mọi thứ đã đổi, hai người họ ngày một xa cách, thậm chí ngay cả biểu huynh xa xôi như Tạ Dung Dữ còn cảm nhận đợc. Hóa ra nguyên nhân đằng sau là như vậy.

Có lẽ khi Chiêu Hóa đế quay về kinh thành từ Lăng Xuyên, khi Triệu Sơ biết Chương Hạc Thư có thể phạm tội, ắt đã ở trong cảnh lưỡng nan đôi đường.

“Vả lại, tuy tiên đế nghi ngờ Chương Hạc Thư, nhưng bằng chứng đâu? Chúng tôi đã điều tra rất nhiều, nhưng không có bằng chứng nào chĩa thẳng vào Chương Hạc Thư. Hơn nữa với thế lực của Chương Hạc Thư lúc đó, ông ta tuyệt đối không thể điều động được cả một quân đội, cho nên cái chết của sơn tặc núi Trúc Cô không thể do một mình ông ta gây nên.” Tề Văn Bách nói, “Mãi tới năm năm sau, Chiêu vương điện hạ mới giúp chúng tôi giải đáp được thắc mắc này. Kẻ giao dịch thực sự chính là Khúc Bất Duy, còn Chương Hạc Thư là đồng mưu của hắn.”

Nên sau đó, mọi người mới không hẹn mà cùng náu mình, sơn tặc may mắn sống sót ở núi Trúc Cố, họa sĩ tên Sấu Thạch ở phủ Đông An, Châu doãn đại nhân ở lại Lăng Xuyên đợi ngày tìm ra chân tướng, Nhạc tiểu tướng quân từng rung chuyển trời đất đột ngột biến mất, Huyền Ưng Ti ngủ đông, và cả vị hoàng đế trẻ tuổi đang trong cảnh khó khăn, không nắm được thực quyền trong tay.

Tất cả bọn họ đều đang âm thầm chờ đợi, chờ đợi một cơ hội trong màn đêm tối tăm không ánh mặt trời.

Và vào mùa xuân năm Gia Ninh thứ ba, cuối cùng cơ hội ấy cũng đã đến.

Các quan viên trong triều với sự dẫn đầu của Chương Hạc Thư đã kiến nghị xây lại Tiển Khâm Đài, sau khi hoàng đế trẻ tuổi gật đầu đồng ý, và xem như trao đổi, phục dụng Huyền Ưng Ti đang ngủ đông, tái điều tra về vụ án Tiển Khâm Đài. Thôi thị ở Nhạc châu bị truy bắt, nữ Ôn thị đang trốn ở Thôi gia hộ tống Thôi tiểu thư lên kinh, nhân cơ hội ấy cứu được thợ mộc Tiết Trường Hưng. Và đồng thời, vị hoàng đế bị vây hãm trong thâm cung đã triệu kiến Tiểu Chiêu vương đang dần khỏi tâm bênh, chàng cho rằng y là người có có năng lực nhất để điều tra chân tướng đằng sau, tiết lộ cho y biết về lời phó thác lúc lâm chung của tiên đế, hi vọng y có thể xua đi mây mù bất tận, trả lại ánh nắng đã qua.
 
Chương 148


“Còn sư phụ?” Thanh Duy hỏi, “Rốt cuộc những năm qua sư phụ đã đi đâu? Sư phụ theo ngự liễn của tiên đế hồi kinh, giữa đường bị cướp cũi tù, những chuyện này có phải là thật?”

Nhạc Ngư Thất không đáp, Tề Văn Bách trả lời: “Thật mà, chẳng qua vụ cướp xe ngục là do tiên đế sắp xếp.”

Ông giải thích: “Nếu Nhạc tiểu tướng quân đường hoàng hồi kinh cùng tiên đế, thứ chờ đợi ông ấy chính là màn thẩm vấn kéo dài bất tận, triều đình sẽ nghiêm khắc kết tội, như thế lấy đâu tự do? Chi bằng mượn cớ ‘cướp cũi tù’ để che giấu hành tung, nấp trong bóng tối âm thầm chờ đợi thời cơ.”

Thanh Duy nói: “Vậy còn sau khi cướp xe ngục? Sư phụ đã đi đâu?”

“Sau đó…” Nhạc Ngư Thất chỉ đáp, “Dĩ nhiên là ta đã rời kinh. Đi đây đi đó, đi không ít nơi.”

“Sư phụ rời kinh?” Thanh Duy hỏi. Không hiểu sao nàng có cảm giác Nhạc Ngư Thất đang lừa mình.

Những năm qua, vì để tìm sư phụ mà nàng đã trải qua biết bao khó khăn trắc trở, nàng không tin nếu Nhạc Ngư Thất được trao trả tự do sẽ không đi tìm nàng. Sau khi Tiển Khâm Đài sập, tuy nàng chưa về Thần Dương nhưng cũng đã đi rất nhiều nơi hỏi thăm tung tích của Nhạc Ngư Thất, song sư phụ cứ như đột ngột biến mất, không hề có tin tức nào. Phải đến khi Thanh Duy nhận được thư của Tào Côn Đức, biết có khả năng Nhạc Ngư Thất đang ở kinh thành, nàng mới vững được lòng tin.

Trực giác mách bảo Thanh Duy Tào Côn Đức không lừa nàng, có lẽ những năm qua Nhạc Ngư Thất không hề rời khỏi kinh thành, chỉ là không nghĩ ra vì sao sư phụ không chịu nói thật với mình.

Đúng lúc này, Vệ Quyết lên tiếng: “Tề đại nhân, Nhạc tiền bối, tại hạ có một nghi vấn, nếu từ lâu Quan gia và các vị đã nghi ngờ Chương Hạc Thư, vậy vì sao vào năm ngoái khi tái điều tra vụ án Tiển Khâm Đài, Huyền Ưng Ti được phục dụng, Quan gia lại không hề nhắc đến họ Chương? Lúc điều tra Hà gia thì thôi, vụ án của Hà Hồng Vân không quá liên quan tới Chương gia, nhưng tại sao trước khi Huyền Ưng Ti đến Lăng Xuyên, Quan gia không tiết lộ cho bọn ta biết Chương Hạc Thư từng liên quan đến giao dịch danh sách lên Tiển Khâm Đài, như thế bọn ta cũng có thể cảnh giác trước.”

Tề Văn Bách nói: “Cũng không trách Vệ đại nhân hỏi câu này, theo lý mà nói, nếu chúng tôi đã thống nhất mục tiêu, ắt hẳn phải nói cho Chiêu vương điện hạ và Huyền Ưng Ti biết đầu tiên. Chỉ là, trước khi trả lời những câu hỏi này, lão phu cũng có câu hỏi, dám hỏi Chiêu vương điện hạ cùng chư vị Huyền Ưng Ti, trong quá trình điều tra, mọi người có từng tra được manh mối nào về Chương Hạc Thư không?”

Điều này…

Vệ Quyết, Chương Lộc Chi và Kỳ Minh đưa mắt nhìn nhau, đồng thời lắc đầu: “Không hề.”

Từ Tôn Huyện lệnh, Tần sư gia ở Thượng Khê cho đến Lý bổ đầu được cài cắm theo dõi, bao gồm cả Sầm Tuyết Minh sau đó, dường như bọn họ chỉ là người của một mình Khúc Bất Duy, không dính dáng tới Chương Hạc Thư.

Có thể nói, nếu không có hai người Nhạc Tề chính miệng tiết lộ cho họ biết Chương Hạc Thư có tham gia, thì chỉ dựa vào bằng chứng hiện tại, Huyền Ưng Ti rất khó nghi ngờ Chương Hạc Thư.

“Đó chính là nguyên nhân.” Tề Văn Bách nói, “Chúng tôi cũng không có bằng chứng để chứng minh tội ác của Chương Hạc Thư. Bằng chứng duy nhất chúng tôi nghi ngờ Chương Hạc Thư là toán vệ quân đã sát hại Thẩm Lan, sau đó được Chương Hạc Thư điều động thuyên chuyển, nhưng không thể gọi đó là bằng chứng được, nó chỉ là suy đoán. Về sau sóng gió qua đi, chúng tôi đã âm thầm thẩm vấn toán vệ quân kia, nhưng bọn chúng rất kín miệng, không điều tra được gì.”

Tề Văn Bách nói tiếp: “Hơn nữa, dám hỏi chư vị, Chương Hạc Thư là người thế nào?”

Tạ Dung Dữ nói: “Chương Hạc Thư xuất thân dòng thứ ở đại tộc Chương thị, mà trong tộc có rất nhiều nhân tài đồng lứa với ông ta, tuy nhiên chỉ có ba người đậu Tiến sĩ, chi của Chương Hạc Thư lại quá bị hắt hủi, không khác gì nhà nghèo, ‘bóng mát’ trong tộc không đến lượt ông ta hưởng, vì vậy ngày xưa ông ta học hành vất vả, dựa vào sức mình đi lên làm quan. Thi đậu lúc còn trẻ tuổi, nhưng sau khi đậu Cử nhân, thi nhiều lần vẫn không đậu Tiến sĩ, bị không ít người trong tộc cười giễu, cũng may ông ta rất kiên trì, cuối cùng vào năm 34 tuổi đã thi đỗ tam giáp Tiến sĩ, từ đấy vào triều làm quan.”

“Con đường làm quan của Chương Hạc Thư cũng chẳng hề suôn sẻ, hồi đầu gặp rất nhiều khó khăn.” Tạ Dung Dữ nhớ lại, nói, “Cụ thể là vụ án gì thì bổn vương không nhớ, đại khái có người thuộc nhánh chính trong tộc hối lộ mệnh quan triều đình, nhưng lại đẩy ông ta ra gánh tội, do đó ông ta đã bị điều đến một huyện thành xa xôi làm Điển bạc, mất những mấy năm mới có thể rửa oan. Chính vì lý do này mà Chương Hạc Thư vô cùng căm ghét quan viên tham ô hối lộ, trong gần hai mươi năm làm quan ông ta có tiếng là thanh liêm, hơn nữa ông ta còn chăm chỉ cần cù, nghe nói trên đường đi về, ông ta đều châm đèn đọc sách, có một thời được đồn đại như giai thoại.”

Nói cách khác, nếu không nhắc đến thành kiến thì Chương Hạc Thư thực sự là một vị quan tốt.

Tề Văn Bách nói: “Hiện giờ chúng ta đã biết suất lên đài được bán với giá một trăm nghìn lượng một người, nếu không có một trăm nghìn lượng thì có thể đổi bằng báu vật giá trị liên thành, thí dụ như Tứ cảnh đồ, còn Chương Hạc Thư, vừa khéo là kẻ xem thường tiền tài, rốt cuộc ông ta tham gia vào việc mua là vì đồng mưu với Khúc Bất Duy, hay vì lý do nào khác? Quan trọng nhất, bất luận là Chương Hạc Thư hay Khúc Bất Duy, rốt cuộc danh sách trong tay bọn họ đến từ đâu?”

Nói đến đây, Tề Văn Bách thở dài, “Kể ra thực xấu hổ, từ khoảnh khắc Tiển Khâm Đài sập vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba cho đến tận hôm nay, suốt năm năm ròng, tôi, Nhạc tiểu tướng quân, thậm chí là tiên đế hay đương kim Quan gia, vẫn luôn điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài. Nhưng mỗi lần chúng tôi điều tra được manh mối nào là lại lâm vào ngõ cụt. Đôi khi chúng tôi còn nghi ngờ có phải năm đó đã suy luận sai rồi không, Chương Hạc Thư chỉ trùng hợp điều động vệ quân, toán vệ quân kia cũng chỉ trùng hợp sát hại Thẩm Lan, thế nhưng chúng tôi biết rõ, trên đời này không thể nào có nhiều trùng hợp đến vậy. Chúng tôi nghĩ tới nghĩ lui, quyết định không tiết lộ cho Chiêu vương điện hạ và Huyền Ưng Ti biết, chúng tôi không muốn can thiệp vào phán đoán của điện hạ, tránh khiến ngài cũng đi vào ngõ cụt như chúng tôi, có lẽ chỉ khi nhìn từ góc độ khác thì mới có thể tìm ra lời giải đáp cho ẩn số này.”

Và cuối cùng, Tạ Dung Dữ đã không khiến bọn họ thất vọng.

Vệ Quyết nói: “Đa tạ Tề đại nhân đã giải thích, tại hạ hiểu rồi.”

Tề Văn Bách lắc đầu, “Vệ đại nhân khách khí.”

Nói đến đây, ông ta sực nhớ ra chuyện gì đó, lập tức chắp tay lạy Tạ Dung Dữ, “Còn về việc trộm bức tranh nền Sơn vũ tứ cảnh đồ của Doãn Tứ cô nương, mong điện hạ bỏ qua.” Ông lược bỏ chi tiết Nhạc Ngư Thất cố ý làm khó Tạ Dung Dữ, giải thích, “Sau khi chúng tôi biết Khúc Bất Duy là kẻ đầu sỏ, nghĩ đi nghĩ lại, quyết định lấy bức Sơn vũ tứ cảnh đồ làm mồi để thử Khúc Mậu.”

Còn vì sao lại thử Khúc Mậu, đương nhiên muốn thông qua phản ứng của Khúc Mậu để xem bản gốc của Tứ cảnh đồ có đang ở trong tay Khúc Bất Duy không.

Nguyên nhân thứ hai không tiện nói ra – đấy là Tề Văn Bách không quá tin tưởng Tạ Dung Dữ.

Không phải vì Tạ Dung Dữ thân thiết với Khúc Mậu, mà vì y là vương gia khác họ nhưng lại cai quản Huyền Ưng Ti – cận vệ của thiên tử. Một người như vậy lại được bổ nhiệm chức quan như thế, ở bất kỳ triều đại nào cũng không hề thích hợp. Dù Triệu Sơ tin tưởng Tạ Dung Dữ đến đâu thì Tề Văn Bách cũng chỉ là hạ thần, mới tiếp xúc sơ sơ nên còn kiêng dè Tiểu Chiêu vương.

Cho nên ông cũng ngầm cho phép Nhạc Ngư Thất ra tay thăm dò Tiểu Chiêu vương.

Tạ Dung Dữ hiểu ý của Tề Văn Bách, chỉ điềm nhiêm đáp lại hai chữ: “Không sao.”

Rồi y hỏi: “Nếu các ngươi đã dùng bức Sơn vũ tứ cảnh đồ để thử Đình Lam, vậy có phải đã biết tung tích bản gốc của Tứ cảnh đồ?”

Tề Văn Bách cảm thấy có lỗi Tạ Dung Dữ, thấy mình lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, nên khi nghe y hỏi, ông lập tức đáp ngay: “Đúng thế. Trong khi điện hạ điều tra Khúc Bất Duy, hạ quan cũng không ngồi không, lợi dụng đầu mối trong tay, chúng tôi đã điều tra ra Khúc Bất Duy cất giữ tang vật ở dinh thự Trung Châu.”

Thanh Duy nói: “Lẽ nào tối qua sư phụ kêu con đi theo người đến Trung Châu là để lấy Tứ cảnh đồ?”

Nhạc Ngư Thất gật đầu: “Không sai, ta nghĩ mãi, cảm thấy chuyện này giao cho con là ổn thỏa nhất.”

Vệ Quyết nói: “Nhạc tiền bối nói có lý, hiện tại Huyền Ưng Ti đang phá án ở Đông An, chắc chắn hội Khúc Bất Duy, Chương Hạc Thư sẽ cảnh giác, nếu bây giờ Huyền Ưng Ti có hành động khác thường, ắt sẽ không thoát khỏi mắt bọn chúng. Nhạc tiền bối có công phu cao cường, hành tung bí mật, nếu ngài ra mặt lấy trộm Tứ cảnh đồ, chắc hẳn bọn chúng sẽ không kịp chuẩn bị.”

Tề Văn Bách lên tiếng: “Tại hạ đã dò la ra vị trí ngôi biệt thự của Khúc Bất Duy, cũng đã thu xếp cho người tiếp ứng dọc đường, chỉ cần Nhạc tiểu tướng quân và Ôn cô nương thuận lợi lấy Tứ cảnh đồ về, ghép lên bức tranh Thẩm Lan để lại, nhất định chúng ta có thể nắm được tội chứng của Khúc Bất Duy.”

Nhạc Ngư Thất gật đầu, sau đó đứng dậy nói với Thanh Duy: “Chuyện này không nên chậm trễ, con đi chuẩn bị đi, chúng ta xuất phát ngay bây giờ.”

Thanh Duy ngạc nhiên: “Ngay bây giờ?”

Nhạc Ngư Thất nhìn nàng: “Sao, con không muốn?”

Thanh Duy dẩu môi, nàng không biết phải nói thế nào.

Không phải nàng không muốn, chỉ là cảm thấy… vội vàng quá, nàng còn tưởng phải đến mai mới tạm biệt quan nhân chứ.

Nhạc Ngư Thất thu trọn vào mắt vẻ mặt của nàng, nhìn sang Tạ Dung Dữ, “Còn cậu? Cậu cũng muốn phản đối?”

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, im lặng một lúc, “Nếu đi bây giờ đúng là có hơi vội thật, Tiểu Dã còn chưa chuẩn bị tay nải hành lý, không biết Nhạc tiền bối có thể cho chúng vãn bối nửa ngày, đợi tới chiều rồi hẵng xuất phát được không?”

Nhạc Ngư Thất nhìn Tạ Dung Dữ rồi lại nhìn Thanh Duy.

Đã thành thân hơn một năm rồi mà còn dính nhau ghê thế à, hồi trước khi Nhạc Hồng Anh lấy Ôn Thiên cũng đâu thấy họ dính như sam đến vậy.

Ông hừ lạnh, đi thẳng ra ngoài, “Đúng giữa giờ Dậu, không được trễ một khắc.”

***

“Tay nải của thiếu phu nhân chỉ có mỗi quần áo, ngoài một túi ngân phiếu, tiểu nhân còn chuẩn bị thêm dây thừng, dao găm, thuốc trị thương, thuốc giải độc, còn có cả độc dược đề phòng và phấn dịch dung, chắc là sẽ không thiếu gì đâu.”

Mặt trời ngả bóng phía tây, ngựa đã được chuẩn bị sẵn sàng, Đức Vinh nói xong thì buộc hai túi hành lý sau yên ngựa giúp Thanh Duy.

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, đội mũ che mặt mới toanh lên cho nàng, lụa che mỏng tựa cánh ve, rất hợp dùng ngày hè, “Đang định tìm một thợ rèn lành nghề rèn cho nàng thanh kiếm mới, chỉ tiếc không kịp rồi, nàng cứ giữ thanh kiếm của ta đi, nó là danh phẩm của Quân khí giám, chí ít cũng vừa tay hơn so với mua bên ngoài.”

Thanh Duy gật đầu, nhận lấy thanh kiếm từ tay y.

Tạ Dung Dữ lại căn dặn: “Ở bên ngoài không như ở nhà, tuy có Nhạc tiền bối đi chung, nhưng mấy ngày tới phải dãi gió dầm sương, nhớ phải chăm sóc mình thật kỹ.”

Thanh Duy đáp: “Ta biết rồi.”

“Nếu không lấy được Tứ cảnh đồ,” Tạ Dung Dữ dừng lại, “Cũng không cần ép mình quá, ta vẫn có cách tiếp tục điều tra, nàng phải nhớ, không gì quan trọng bằng an nguy của nàng.”

Thanh Duy ngước mắt nhìn y.

Cơn gió thổi qua mang theo ráng chiều lọt vào mắt y, dịu dàng tựa ánh trăng trong hồ.

Đối diện với ánh mắt nàng, Tạ Dung Dữ dịu dàng hỏi: “Sao thế?”

Thanh Duy lắc đầu, chưa kịp mở miệng thì nghe thấy con ngựa ở đầu hẻm đã thở phì phò. Nhạc Ngư Thất đã chờ nàng từ một khắc trước, Thanh Duy nhìn sắc trời, sư phụ nói là đúng giữa giờ Dậu, cấm nàng chậm trễ một khắc.

Thanh Duy lại nhìn Tạ Dung Dữ, “Vậy ta đi nhé.”

Tạ Dung Dữ *ừ* một tiếng, “Đi nhanh đi.”

Thanh Duy buộc trường kiếm vào sau yên ngựa, dắt ngựa đi tới đầu hẻm.

Tạ Dung Dữ nhìn bóng lưng nàng, chợt cất tiếng gọi, “Nương tử.” Y không nói nhiều, dừng một lúc rồi nói, “Nương tử, đi sớm về sớm.”

Bóng lưng Thanh Duy chợt khựng lại.

Bất thình lình, nàng xoay gót quay lại, không đợi Tạ Dung Dữ phản ứng đã ùa vào lòng y.

Nàng không biết mình làm sao nữa, cứ như nếu không tạm biệt thế này thì nàng sẽ không cam lòng mà đi.

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên, đoạn dịu dàng mỉm cười, giơ tay ôm lấy nàng, “Ta tiễn nàng ra ngoài thành nhé.”

Thanh Duy ngẩng mặt lên từ trong lòng y, “Thật không?”

“Thật.” Ánh mắt Tạ Dung Dữ như mặt hồ dịu êm, “Miễn là nương tử thích, thế nào cũng được.”

Thanh Duy há miệng toan lên tiếng, nhưng Nhạc Ngư Thất đứng đầu hẻm không nhịn nổi mà *chậc* một tiếng, “Có phải hai đứa đã bị khóa tiên khóa chặt lại với nhau, không bị thiên lôi đánh thì không thể tách ra được đúng không?”

Bị Nhạc Ngư Thất mắng, Thanh Duy lùi bước cách ra, “Đừng tiễn, ta tự đi được, nếu làm sư phụ mất hứng, sau này… sẽ mệt lắm đó.”

Nàng đi về phía tuấn mã, xoay mình lên ngựa, quay người lại nói với y: “Chàng yên tâm, nhất định ta sẽ lấy lại bức Tứ cảnh đồ.”

Trong ngõ dài truyền tới tiếng quất ngựa giòn giã, Thanh Duy thúc ngựa chạy ra đầu hẻm, áo xanh phấp phới dưới chiều tà như cánh chim tung bay.

Tạ Dung Dữ đưa mắt nhìn nàng.

Chú chim xanh y vô tình gặp gỡ giữa núi rừng Thần Dương nay đã trưởng thành, hóa thân thành phượng hoàng xán lạn, không còn phải lang thang lưu lạc, chẳng buồn lo tìm chốn dừng chân, nàng sẽ vỗ cánh chao liệng trên trời không rồi trở về bên y.
 
Chương 149


Kinh đô, thành Tử Tiêu.

“Chương đại nhân, cẩn thận bậc thềm.”

Mưa vừa ngừng rơi, mặt trời chiếu rọi khắp kinh thành, Tào Côn Đức dẫn Chương Hạc Thư đến điện Nguyên Đức, thấy có vũng nước đọng chưa khô bèn lên tiếng nhắc nhở.

Ngày hôm trước là tiệc sinh nhật của Hoàng hậu, Chương Hạc Thư bận việc nên không thể tham dự, Triệu Sơ lập tức đặc biệt phê chuẩn cho Chương Hạc Thư được nghỉ hai ngày, cho phép ông ta vào cung thăm Hoàng hậu.

Tới điện Nguyên Đức, Chương Hạc Thư hành lễ với Chương Nguyên Gia theo phép tắc, Chương Nguyên Gia vội nói: “Phụ thân mau đứng lên đi.” Lại ra lệnh, “Chỉ Vi, nhanh ban đệm.”

Dạo gần đây triệu chứng thai nghén ở nàng đã giảm bớt, sắc mặt cũng hồng hào hơn, tuy chưa rõ bụng bầu song cơ thể đã nở nang hơn trước.

Chỉ Vi dâng chén canh hạt sen giải nhiệt cho Chương Hạc Thư, ông nhận lấy nhưng không dùng, chỉ nhìn Chương Nguyên Gia. Chương Nguyên Gia hiểu ý ông, vẫy lui thị tì, ngồi ngay ngắn, hạ giọng nói, “Phụ thân có lời gì thì cứ nói ạ.”

Chương Hạc Thư im lặng, đặt chén canh xuống bàn cái *cạch*, “Con là Hoàng hậu, nhẽ ra chuyện này không tới lượt hạ thần như ta giáo huấn, nhưng con… vô lý quá mức! Có thai mà không báo cho Quan gia, lại còn giấu giếm mọi người, nếu Quan gia không phát hiện, con còn định giấu chuyện này đến bao giờ? Xét rộng ra thì là tội khi quân đấy! Ngày trước ta dạy con thế nào? Hoàng hậu không những là thê tử của Đế vương mà còn là quốc mẫu, nếu đã hưởng sự cung phụng của bách tính thì phải biết gánh vác trách nhiệm, dù thiệt thòi tới mấy cũng phải nhẫn nhịn, con không còn nhỏ nữa, giận dỗi với Quan gia làm gì?”

Chương Nguyên Gia thấp giọng đáp: “Hôm trước Quan gia có lại đây dùng bữa tối, con gái đã nhận lỗi với chàng rồi.”

Niệm tình nàng đang mang thai, Chương Hạc Thư kìm hãm lửa giận, “Gần đây Quan gia có hay ghé điện Nguyên Đức thăm con không?”

“Có ạ, hầu như ngày nào cũng đến. Cũng miễn cho con gái những chuyện lặt vặt ở hậu cung, bây giờ ngoài chuẩn bị hôn sự cho Nhân Dục ra, con gái không cần lo chuyện nào nữa.”

Nghe nàng nhắc tới hôn sự của Triệu Vĩnh Nghiên, Chương Hạc Thư nhìn nàng, “Nhân Dục Quận chúa là viên minh châu trên tay Dụ Thân vương, Dụ Thân vương mất sớm, lúc lâm chung đã giao phó con gái cho tiên đế. Tiên đế đã quy thiên, hôn sự của Quận chúa, con là Hoàng hậu cần phải đích thân chuẩn bị.” Ông ta nghĩ ngợi, đoạn thở dài, “Nhưng Quận chúa lại tùy hứng quá, bây giờ con bé thích Vong Trần, một mực đòi lấy cậu ta làm chồng. Cha anh Vong Trần mất sớm, được lão thái phó dạy dỗ nuôi lớn, lão thái phó không ép buộc kìm kẹp cậu ta, nếu biết chuyện này, nói không chừng đợi Vong Trần hồi kinh sẽ hỏi ý cậu ta. Nếu con không vội, vi phụ và Vong Trần có tình thầy trò, có thể giúp con hỏi thăm.”

Chương Nguyên Gia ngạc nhiên.

Nàng chưa từng kể phụ thân nghe về cuộc hôn nhân này, vì sao phụ thân biết được tâm tư của Nhân Dục?

Rồi nàng lại nghĩ, mẫu thân thường qua lại với Dụ Thân vương phi, có lẽ mẫu thân biết chuyện từ chỗ Dụ Thân vương phi, sau đó nói cho phụ thân.

Chương Nguyên Gia đáp: “Không cần đâu ạ, hôn sự của Nhân Dục chưa vội lắm, Quan gia đã đề cập chuyện này với lão thái phó rồi, lão thái phó bảo muốn cân nhắc ít hôm, sẽ gửi thư báo Trương Nhị công tử.”

Chương Hạc Thư *à* một tiếng, “Thế cũng tốt.” Dừng một lúc, ông ta giả như vô tình nói, “Nhưng không rõ Vong Trần vẫn chưa thành gia là vì bận rộn công sự không thể phân tâm, hay là trong lòng đã có ai…”

Hai cha con lại nói chuyện một hồi, bỗng tiểu hoàng môn ngoài phòng đi vào thông báo: “Nương nương, Quan gia tới ạ.”

Chương Hạc Thư lật đật đứng dậy, cùng Chương Nguyên Gia ra cửa cung đón. Hôm nay Triệu Sơ tới sớm, vẫn chưa đến giờ Thân, nắng chiều chói chang, thấy Chương Hạc Thư, chàng điềm tĩnh mỉm cười, “Chương đại nhân cũng đang ở đây à.”

Chương Hạc Thư đáp: “Không ngờ lại gặp Quan gia ở đây.”

Ông ta là ngoại thần, không tiện ở lại hậu cung quá lâu, vội vàng cáo biệt: “Lão thân nói chuyện với nương nương cũng nhiều rồi, nếu Quan gia đã tới, lão thần xin cáo lui.”

Nói đoạn, ông ta thi lễ với Triệu Sơ và Chương Nguyên Gia rồi rời khỏi cung điện.

***

Chương Hạc Thư ra khỏi điện Nguyên Đức, để tiểu hoàng môn dẫn đường, chẳng mấy chốc đã tới cửa Huyền minh chính hoa, đi qua tầng tầng cửa cung là đến nơi làm việc.

Mây cuối trời trôi lững lờ, vẫn chưa tới lúc ra về, xung quanh vắng vẻ không tiếng động. Nha môn Lục bộ nằm phía đông, Xu Mật Viện nằm tít sâu bên trong, Chương Hạc Thư ngước mắt nhìn, thấy có người đang đợi ông ở trước cửa. Người này họ Nhan tên Vu, là một viên quan cấp dưới của Chương Hạc Thư.

Chương Hạc Thư khoan thai đi tới, “Có chuyện gì à?”

“Vâng, trong nha môn có việc muốn hỏi ý của đại nhân.” Nhan Vu nói.

Chương Hạc Thư liền gật đầu, “Vừa đi vừa nói.”

Ngoài cửa là một bãi đất trống, đúng lúc gió thổi lớn, đứng nơi đây nói chuyện, lời hòa vào gió rồi nhanh chóng vỡ tan.

“Khúc hầu biết hôm nay đại nhân được nghỉ, chỉ trong một buổi sáng đã ghé phủ hai lần. Cũng may ông ta cẩn thận, chỉ sai người hầu gõ cửa chứ không xuống xe ngựa, dọc đường đi không bị ai phát hiện.”

Chương Hạc Thư hừ lạnh, “Ông ta tức nước vỡ bờ đấy, củ khoai nóng làm bỏng ông ta, tất sẽ mò tới tìm ta.”

“Hồi trước chính ông ta bị cái lợi che mắt, dám giấu ta tự tiện cầm danh sách đi mua bán, lẽ ra phải lường trước có ngày hôm nay. Nay bị Tiểu Chiêu vương dồn vào đường cùng, mà Tề Văn Bách ở Lăng Xuyên ẩn nấp cũng ghê đấy, không ngờ lại là nhân tố được tiên đế chuẩn bị sẵn từ trước, bây giờ ở Đông An không khác gì thùng sắt, Khúc Bất Duy thăm dò được tin tức, chắc chắn mất ăn mất ngủ đến nơi rồi.”

Nhan Vu nói: “Phong Nguyên tướng quân được Khúc hầu cử đi sắp đến Lăng Xuyên rồi, có mặt ông ta, chắc là tình hình sẽ khá hơn?”

“Phong Nguyên tới Lăng Xuyên, cùng lắm chỉ có thể xóa bằng chứng Sầm Tuyết Minh để lại, chuyện Khúc Bất Duy bán danh sách là thật, chỉ cần đào sâu truy cứu, sớm muộn gì Tạ Dung Dữ cũng có thể tóm được cái đuôi của lão ta.” Chương Hạc Thư nói, đoạn hỏi, “Huyền Ưng Ti đã tra được bao nhiêu rồi?”

“Hình như là Từ Thuật Bạch ở Sùng Dương, Phương Lưu ở Thượng Khê, Thẩm lan ở Đông An.” Nhan Vu đáp, “Cũng may chưa điều tra được nhiều về chuyện Khúc hầu bán danh sách, nếu bị Tiểu Chiêu vương moi ra tất cả, chỉ sợ là…”

“Chưa tra được nhiều?” Chương Hạc Thư lạnh lùng nói, “Nội việc bị tra ra ba tên kia đã đủ cho hắn biết Khúc Bất Duy là kẻ đầu sỏ rồi. Nếu năm đó ta không phát hiện sớm, kịp thời ngăn cản lão ta, thì bây giờ không biết kinh thành này có Khúc thị hay không.”

Nhan Vu đáp: “Đại nhân nói chí phải. Nhưng mà, quân tử không đứng dưới chân tường đổ, bây giờ chúng ta và Khúc hầu đang ở trên cùng một chiếc thuyền, có thể cùng nhau qua ải là tốt nhất, còn nếu sóng gió quá lớn, chỉ một sơ sẩy là lật thuyền, nói gì đi nữa danh sách mà Khúc hầu có được cũng là từ chỗ đại nhân ngài, ngài còn phải… lúc cần bỏ phải bỏ, giữ mình mới là điều cần kíp.”

Nhan Vu đã nói đúng trọng tâm, tốt nhất là Khúc Bất Duy qua được ải này, mọi người đều bình an vô sự; nhưng ngộ nhỡ Khúc Bất Duy sa lưới, như vậy phải nghĩ cách không để lão ta kéo mình theo mới được.

Chương Hạc Thư hỏi: “Giờ Khúc Đình Lam đang ở Đông An à?”

“Đúng ạ, nhưng Khúc Ngũ công tử chỉ là công tử bột, sợ rằng có lợi dụng cũng vô ích.”

“Vô ích là vô ích thế nào?” Chương Hạc Thư nói, “Nhà họ Khúc nuông chiều Ngũ công tử này nhất. Nếu hắn ta đã ở Lăng Xuyên, đợi ta đến, ắt sẽ có cách.”

Nhan Vu nghe ra manh mối trong lời của Chương Hạc Thư, “Đại nhân tính đích thân đến Lăng Xuyên một chuyến sao?”

“Không tiện ghé Lăng Xuyên, đi Trung Châu.” Chương Hạc Thư nói, “Ngươi giúp ta gửi một bức thư cho Vong Trần, hẹn hắn nửa tháng sau tới Trung Châu gặp ta.”

“Đại nhân muốn nhờ Trương Nhị công tử giúp?” Nhan Vu ngạc nhiên, “Nhưng Trương Nhị công tử đâu chung đường với chúng ta, từ đầu chí cuối hắn chỉ muốn xây dựng Tiển Khâm Đài. Theo hạ quan thấy, dù gì Đại công tử cũng đang ở Lăng Xuyên, mà cậu ấy cũng đã đồng ý giúp điều tra Sầm Tuyết Minh, chuyện của Khúc gia, chi bằng để Đại công tử giải quyết.”

“Không được, Lan Nhược tính cách thế nào hả, chuyện này quyết không thể giao cho nó.” Chương Hạc Thư quả quyết nói.

Chương Đình cũng giống Nguyên Gia, quen sống trong nhung lụa ấm êm, chưa từng gặp khó khăn lận đận, không thể giống với phụ thân đã trải qua bao thiệt thòi thất bại.

Nghĩ như vậy, Chương Hạc Thư càng hạ quyết tâm tìm Trương Viễn Tụ, ông ta xoay gót chân đi đến Hàn Lâm Viện, hỏi, “Có phải hôm nay lão thái phó cũng vào cung?”

“Vâng, hình như Trương Nhị công tử gửi thư khẩn đến Ngân Đài*, được đưa thẳng tới Hàn Lâm Viện, lão thái phó vào cung lấy thư.”

(*Ngân Đài là một cung điện nằm gần Hàn Lâm Viện.)

Chương Hạc Thư gật đầu, vừa đi đến Hàn Lâm Viện vừa nói về Trương Viễn Tụ.

“Tiển Khâm Đài được xây dựng vì lý do gì? Năm xưa sau chiến dịch sông Trường Độ, nhân sĩ lần lượt lên tiếng bày tỏ, rồi tiên đế đề nghị xây dựng Tiển Khâm Đài, trong triều cũng có rất nhiều đại thần phản đối, nếu không có Trương Chính Thanh dẫn đầu nhóm văn sĩ ủng hộ tiên đế, chưa chắc Tiển Khâm Đài đã được xây dựng. Trương Ngộ Sơ trầm mình xuống sông Thương Lãng, Trương Chính Thanh chết dưới Tiển Khâm Đài, Trương Viễn Tụ trông điềm đạm hiền hậu, nhưng thực tế cậu ta cũng giống cha anh mình, rất có chủ kiến, cha anh mất mạng mà di nguyện chưa thành, cậu ta sao có thể cam tâm, chỉ cần nhìn việc cậu ta hao tâm tổn trí để Tiển Khâm Đài được xây dựng là biết.

Mà một khi có tâm nguyện muốn thực hiện, những chuyện khác ắt sẽ bị bỏ qua. Ngươi quên vụ án của Hà gia ngày trước, chính cậu ta đã dẫn bách tính Ninh Châu bị ảnh hưởng bởi ôn dịch lên kinh à? Rồi vì đâu mà nhân sĩ căm phẫn, tuy là do cái chết của dược thương gây ra, nhưng nếu điều tra ngọn nguồn, không phải vẫn nằm ở bách tính Ninh Châu sao? Trương Vong Trần cực kỳ thông minh, cậu ta mà không lường trước được những chuyện này ư? Có chứ, nhưng cậu ta vẫn làm vậy, vì cậu ta muốn nhân sĩ lên tiếng, chỉ có nhân sĩ đang căm phẫn mới có thể khiến triều đình nhanh chóng đưa ra quyết sách xây dựng Tiển Khâm Đài.”

Nói đến đây, Chương Hạc Thư mỉm cười, “Một khi chuyện Khúc Bất Duy buôn bán danh sách bị tố giác, triều đình sẽ gác lại chuyện xây dựng Tiển Khâm Đài, liệu đó có phải là điều Trương Viễn Tụ muốn?”

Nhan Vu nghĩ ngợi, song vẫn do dự, “Tuy đại nhân nói có lý, nhưng Trương Nhị công tử thế cô lực mỏng, chỉ dựa vào hắn, liệu có thể…”

“Chưa chắc cậu ta đã thế cô lực mỏng.” Chương Hạc Thư nói, “Cậu ta là con trai của Trương Ngộ Sơ, là em ruột của Trương Chính Thanh, là Trung thừa Ngự sử có quyền thế trong triều, quan trọng nhất, không lâu sau, cậu ta sẽ là Quận mã của Nhân Dục Quận chúa. Chuyện tình giữa Trạng nguyên Tạ Trinh và Vinh Hoa Công chúa đã trở thành giai thoại một thời, có khi nào Trương Viễn Tụ bây giờ, ở trong lòng nhân sĩ, sẽ trở thành Tạ Trinh thứ hai?”

Chẳng mấy chốc đã đến Hàn Lâm Viện, một sử quan trẻ tuổi nhấc bào ra đón, “Chương đại nhân, Nhan đại nhân, sao hai vị lại đến Hàn Lâm?”

Nhan Vu nói: “Nghe bảo hôm nay lão thái phó vào cung, Xu Mật Viện có chuyện cần hỏi ý kiến, chẳng hay có thể gặp mặt?”

Sử quan ngẩn người, nha môn quân chính như Xu Mật Viện tìm lão thái phó làm gì?

Hắn ta lùi về sau, chắp tay thi lễ, “Thực không khéo, thái phó đại nhân mới rời đi, hai vị đại nhân lỡ mất rồi.”

Chương Hạc Thư và Nhan Vu nhìn nhau, đáp không sao rồi quay đầu rời đi.

Sử quan trẻ tuổi nhìn bọn họ ra về, đợi tới khi bóng người khuất hẳn mới xoay người và phủ quan, băng qua công đường, đi tới trước một căn phòng, gõ cửa gọi: “Thái phó đại nhân.”

Hắn không đẩy cửa vào mà đứng ngoài bẩm báo: “Thái phó đại nhân, vừa rồi Chương đại nhân và Nhan đại nhân ở Xu Mật Viện có đến tìm, học trò làm theo lời ngài dặn, khéo léo từ chối tất cả khách tới.”

Một lúc sau, trong phòng truyền đến âm thanh già nua, “Đi đi.”

Sử quan hạ giọng đáp *vâng* rồi xoay người rời đi.

Trong phòng yên ắng trở lại, cửa nẻo khép chặt, chỉ hé mở một ô cửa sổ gần nóc nhà. Qua khung cửa nhìn vào, một cụ già tóc hạc da nhăn nheo ngồi trước bàn, trên bàn là bức thư Trương Viễn Tụ gửi đến hôm trước.

Hôm nay ông đã đọc bức thư này mấy lần, nội dung trong thư không có gì lạ, chỉ đôi câu hỏi thăm.

Láo thái phó im lặng, một lúc lâu sau lại cầm thư lên, đọc thầm từng con chữ.

“Kính gửi ân sư.”

“Dạo gần đây không thấy ân sư gửi thư, chẳng hay thầy có bình an...”

thời gian này Vong Trần có đến Đông An, gặp lại người quen cũ, trong lòng hân hoan…”

Cho đến hàng chữ cuối cùng.

Nhìn thấy những dòng ấy, bàn tay cầm thư của lão thái phó không khỏi run rẩy, “… Nay cố nhân đã qua đời, người còn sống nên kế thừa ý nguyện của người đi trước. Huynh trưởng từng viết ‘áo trắng không lấm bẩn, một lòng giữ chí nguyện’, Vong Trần cũng thế, có lẽ đợi tới mùa xuân năm sau khi cỏ cây mơn mởn, ở núi Bách Dương ắt sẽ thấy đài cao chạm mây...”

Áo trắng không lấm bẩn, một lòng giữ chí nguyện.

Đợi tới mùa xuân năm sau khi cỏ cây mơn mởn, ở núi Bách Dương ắt sẽ thấy đài cao chạm mây.
 
Chương 150


Trung tuần tháng Sáu, Lăng Xuyên bước vào thời điểm nóng nhất trong mùa, oi bức tới nỗi ve sầu ngừng cất tiếng, đứng đội nắng chưa đầy nửa khắc đã ướt sũng mồ hôi.

Bạch Tuyền tiễn nhóm quan sai rời khỏi dinh quan, lấy ra hai xâu tiền, “Chư vị vất vả quá, sáng nào cũng đem băng đến, đây là chút tâm ý của Trương đại nhân, chư vị cầm lấy dùng trà.”

Băng ở dinh quan sẽ được chu cấp theo lệ năm ngày một lần, nhưng người đang ở dinh quan gần đây lại là quan lớn trong kinh, vì để lấy lòng Trương Viễn Tụ mà Phủ doãn Đông An còn không tiếc tặng cả mực đỏ Thần Dương, thế thì vài phiến băng có đáng là bao, dĩ nhiên sẽ cung cấp mỗi ngày.

Quan sai vội nói “Trương đại nhân cứ khách khí” rồi nhận bạc, luôn miệng cám ơn.

Tiễn bọn họ rời đi xong, Bạch Tuyền nhanh chóng quay về thư phòng. Ngoài nhà nóng bức nhưng trong phòng lại mát rười rượi, giữa phòng đặt một chậu băng giải nhiệt, gió hè lùa qua ô cửa, lướt qua chậu băng, biến thành cơn gió trong lành.

Trương Viễn Tụ đang mở thư – bức thư được quan sai đưa băng nhân tiện đem đến. Thư của Chương Hạc Thư bị y đặt một bên, còn trong tay là thư của lão thái phó. Lão thái phó đã ngoài bảy mươi nhưng chữ viết vẫn nắn nót có lực, trong thư chỉ nói vào Hạ người càng dần mệt mỏi, đồng thời lo níu chân Trương Viễn Tụ giải quyết công chuyện nên tháng trước mới không gửi thư.

“Còn về việc xây lại đài Tiển Khâm, theo vi sư thấy, đài dựng đài sập là do ý trời, không cần chấp nhất làm gì. Gần nửa năm qua con đã vất vả vì bao công chuyện, chưa từng nghỉ ngơi một ngày, chi bằng xin từ chức giám sát tái xây dựng Tiển Khâm Đài, giải phóng tâm cảnh, Lăng Xuyên có non nước hùng vĩ, nhân cơ hội này du ngoạn một chuyến, quên đi chuyện vặt trần thế, ấy cũng là thú vui…”

Trương Viễn Tụ đọc đến đoạn đây, thầm thở dài trong bụng.

Ngày trước khi tiên đế đề cập đến chuyện xây dựng Tiển Khâm Đài, Trương Chính Thanh một mực ủng hộ tiên đế, lúc ấy lão thái phó là chưởng viện Hàn Lâm, cũng có tình thầy trò với nhóm Trương Ngộ Sơ và Tạ Trinh, vì vậy cũng rất tán thành việc xây đài tưởng niệm. Nhưng sau khi Tiển Khâm Đài gặp chuyện, lão thái phó cho rằng chính mình đã hại các sĩ tử lên đài, áy náy không thôi, kể từ đó từ quan quy ẩn.

Trương Viễn Tụ cứ tưởng nếu đài Tiển Khâm được xây dựng lại, ắt hẳn ân sư sẽ rất mừng, ngờ đâu hồi đầu năm khi triều đình phê duyệt đề nghị tái xây dựng, lão thái phó không những không vui mà còn suy sụp hơn, cả bức thư nhận được hôm nay cũng vậy, ông cũng khuyên y hãy từ bỏ chuyện này.

Đằng sau là đôi lời hàn huyên chuyện nhà, Trương Viễn Tụ nhìn hàng này đến hàng khác, cho tới khi đọc đến hàng cuối cùng, đôi đồng tử co rụt, chân mày nhíu chặt.

Bạch Tuyền đứng cạnh thấy chủ tử luôn điềm tĩnh lại có biểu cảm như thế, bèn gọi: “Công tử?”

Trương Viễn Tụ không nói gì mà chỉ đưa thư cho hắn, Bạch Tuyền nhận lấy, những hàng cuối trong thư viết rằng, “Nhân Dục Quận chúa đã đến tuổi thành hôn, Dụ Thân vương phủ nhắm trúng con, mượn lời Quan gia hỏi ý vi sư. Quận chúa xuất thân cao quý, dịu dàng lương thiện, có thể nói là lương phối, nhưng đây là chuyện chung thân đại sự của con, vi sư cho rằng nên do con quyết định, không biết ý con thế nào.”

Bạch Tuyền ngẩn người, Nhân Dục Quận chúa?

Trong ấn tượng của hắn, Nhân Dục Quận chúa và công tử không có nhiều tiếp xúc, chỉ mới gặp nhau vài ba lần. Có lẽ nàng ta có tình cảm với công tử, bởi kinh thành có rất nhiều con cháu quý tộc, không lý nào Dụ Thân vương phủ lại chọn công tử.

Nhưng bao năm qua công tử chuyên tâm lo liệu chính sự, hầu như không gần nữ sắc, ngươi duy nhất cậu ấy từng để ý dù chỉ một chút không phải là Quận chúa, mà là Ôn cô nương, nhưng Ôn cô nương…

Nghĩ đến đây, Bạch Tuyền bất giác nhìn Trương Viễn Tụ, y đã bắt đầu mở thư của Chương Hạc Thư.

Thư của Chương Hạc Thư do Nhan Vu của Xu Mật Viện đại diện viết, Trương Viễn Tụ im lặng đọc xong, ngoài mặt không biểu hiện cảm xúc, nghĩ một lúc rồi chỉ nói: “Chương Hạc Thư muốn đến Trung Châu.”

Bạch Tuyền còn đang nghĩ tới Thanh Duy, vừa nghe câu ấy thì lấy làm ngạc nhiên, “Đến Trung Châu làm gì? Ông ta biết công tử cho Ôn cô nương một căn nhà ở Trung Châu sao?”

Trương Viễn Tụ ngả lưng ra ghế, ánh mắt dừng ở trên bàn, “Không phải. Ông ta muốn gọi ta đến gặp mặt.” Dừng một lúc rồi nói tiếp, “Hẳn là có liên quan tới Tiển Khâm Đài.”

Y muốn Tiển Khâm Đài được trùng kiến, Chương Hạc Thư cũng vậy, ban đầu hai bên bắt tay chỉ vì mục đích giống nhau, còn rốt cuộc Chương đại nhân có tâm tư gì thì y lười suy đoán. Nhưng nay xem ra, Tiểu Chiêu vương điều tra nguyên nhân Tiển Khâm Đài sập đã dẫn đến sóng gió, khiến đám cá ẩn nấp dưới mặt nước ào ào trồi lên.

Còn y lội sông qua bờ, sớm muộn gì cũng bị ảnh hưởng.

“Công tử, công tử có định đi gặp Chương đại nhân không?”

Trương Viễn Tụ trầm ngâm, đoạn hỏi: “Chương Lan Nhược ở lại Đông An để đợi Phong Nguyên tướng quân à?”

“Vâng, nghe nói Tiểu Chương đại nhân và Phong Nguyên tướng quân muốn đến nơi nào đó gần đây thị sát, nhân tiện tìm một vị đại nhân họ Sầm mất tích từ mấy năm trước.”

Vụ bạo loạn ở Thượng Khê đã được kết án, chiếu theo tính cách của Chương Đình, chắc chắn sẽ quay về núi Bách Dương tiếp tục đốc thúc việc xây dựng Tiển Khâm Đài, thế nhưng hắn không những không rời đi mà còn nán lại Đông An đợi tướng quân gì đó.

Trương Viễn Tụ không đáp, cầm lấy hộp tráp trên bàn, đi sang viện bên cạnh.

Chương Đình đang xem hồ sơ do thuộc hạ đưa tới, nghe báo Trương Viễn Tụ đến liền vội vàng ra đón, “Vong Trần, sao huynh có thời gian rảnh đến chỗ ta thế?”

Trương Viễn Tụ đưa tráp cho hắn, “Mới đọc xong sáng nay nên đến đưa cho huynh.”

Dạo gần đây Chương Đình khá rảnh rỗi, hầu như ngày nào cũng viết một bài sách luận, đặt trong hộp tráp đưa tới chỗ của Trương Viễn Tụ hòng nhờ y chỉ giáo.

“Vong Trần vất vả rồi.” Chương Đình nhận tráp, mời Trương Viễn Tụ vào phòng, lại sai người hầu đi pha trà, “Mỗi lần xem những chỗ Vong Trần chỉ điểm là ta lại tiếp thu được rất nhiều, thường tự trách mình vì sao không suy nghĩ sâu sắc như Vong Trần.”

Trương Viễn Tụ nói: “Chỉ là do kiến giải của Lan Nhược và ta khác nhau mà thôi, sao có thể phân cao thấp, ta đọc văn của Lan Nhược cũng mở mang không ít.”

Nói đoạn, y liếc nhìn chồng hồ sơ đặt bên cạnh Chương Đình, “Lan Nhược đang bận gì à?”

Chương Đình nói: “Đúng thế, là một vụ án cũ ngày xưa, chi tiết nội tình khá rắc rối nên phải xem lại hồ sơ.”

Trương Viễn Tụ nhấp hớp trà, nhìn Chương Đình, nụ cười trong mắt vô cùng dịu dàng, “Phải rồi, ta nghe nói gần đây Lan Nhược đang tìm một thông phán ở phủ Đông An đang mất tích, tên là Sầm Tuyết Minh, gần đây Vong Trần cũng khá rảnh, không biết Vong Trần có thể giúp được gì cho vụ án này không?”

***

Quy Ninh Trang.

“Đây là cây trâm lúc đi ngang qua phủ Khánh Minh, chúng tôi đặc biệt tìm thợ làm cho thiếu phu nhân. Tóc thiếu phu nhân vừa nhiều lại dày, cài trâm nhỏ không được, mà trâm to lại quá phức tạp, thiếu phu nhân không ưng, cây này khá vừa vặn.”

“Còn có cả mũ trùm này nữa, thiếu phu nhân không tiện để lộ thân phận, mỗi khi ra ngoài cần đội mũ che. Mũ này làm từ lụa mỏng, từ trong có thể nhìn ra rõ ràng, nhưng từ ngoài lại không thể nhìn vào, chắc chắn thiếu phu nhân sẽ thích cho xem.”

Trong Phất Nhai Các, Trú Vân và Lưu Phương lần lượt lấy ra từng món đồ đã mua cho Thanh Duy trên đường đến, không quá nửa khắc đã chất đầy một bàn, mà bên cạnh vẫn còn bảy hộp gỗ và năm tay nải chưa mở.

Không lâu sau khi Tạ Dung Dữ và Thanh Duy gặp lại, y nhanh chóng viết thư gọi Lưu Phương và Trú Vân đến Lăng Xuyên, ai ngờ hai người vừa tới Khánh Minh thì lại nhận được thư khẩn của Đức Vinh, nói công tử bảo các nàng cứ đi từ từ, tốt nhất là trì hoãn một hai tháng, còn kèm thêm vài tờ ngân phiếu mấy nghìn lượng, bảo các nàng mua đồ sinh hoạt cho Thanh Duy.

“Trong hộp gấm này là trân châu chúng tôi tìm gần cảng, chỉ lựa toàn hàng thượng phẩm, mất nhiều thời gian lắm nhé, đợi sau này hồi cung có thể mời các cô cô có tay nghề ở Ti Y Cục, Ti Sức Cục khảm vào trang sức hoặc quần áo cho thiếu phu nhân, nếu thiếu phu nhân thích, cũng có thể khảm vào vũ khí nữa. Có tất cả năm hộp gấm giống vậy, cũng có mã não và đá mặt trăng.”

“Còn trong rương này là vải vóc chúng tôi tìm khắp Trung Châu, vừa dày vừa mềm, khó bị kiếm làm rách, túi vải quấn nhuyễn ngọc kiếm ở cổ tay thiếu phu nhân bị xơ hết cả rồi, tôi và Lưu Phương định làm cho thiếu phu nhân thêm vài cái khác để thay.”

“Còn trong rương kia là xiêm áo mới mua cho thiếu phu nhân, hài nhung cho thiếu phu nhân, lư hương ủ tay cho thiếu phu nhân, trà hương cho thiếu phu nhân…”

Triêu Thiên ôm đao ngồi xổm một bên, nhìn Lưu Phương và Trú Vân đọc làu làu những món đồ mua cho Thanh Duy, gãi đầu nói: “Sao cái gì cũng là của thiếu phu nhân thế? Các cô không mua gì cho công tử à?”

Trú Vân nhìn hắn, che miệng cười, “Công tử có thiếu gì đâu, thứ thiếu phu nhân thiếu cũng là thứ công tử thiếu.”

Lưu Phương cũng nói: “Mua cho thiếu phu nhân không phải là mua cho công tử à?”

Triêu Thiên lại gãi đầu, hắn chẳng hiểu gì sất.

Lưu Phương mở một rương gỗ, lấy ra một xấp giấy đưa cho Đức Vinh, “Cái này cậu cầm đi, chỗ này là công thức nấu ăn tôi và Trú Vân sưu tầm được. Công tử nói thiếu phu nhân thích đồ tươi không thích ngấy, tuy không thích ngọt nhưng trong canh và bánh phải có đường, có gì cậu đưa một bản cho nhà bếp, để nhà bếp dựa theo đó mà làm, kiểu gì thiếu phu nhân cũng thích.”

Đức Vinh nói: “Tôi sẽ cho người chép hai bản, đóng thành sách mang theo.”

Trú Vân cười nói: “Cậu đúng là suy nghĩ chu đáo.”

Ngoài phòng vang lên tiếng bước chân, mọi người đồng loạt nhìn ra, là Tạ Dung Dữ đến, y bước vào phòng hỏi, “Đã chuẩn bị xong chưa?”

“Thưa công tử, có thể phải chờ một lúc nữa.” Lưu Phương nói, “Quần áo nhiều quá, chắc phải đợi thiếu nhân trở về, tự tay chọn mấy bộ thích cất tủ, những món trang sức còn lại đã được nô tì và Trú Vân cất vào hộp, cũng đã sắp xếp phân loại những món đồ sử dụng hằng ngày, đang định thu dọn đây ạ.”

Tạ Dung Dữ nói: “Cứ để đồ ở đấy, lát nữa ta sẽ dọn.”

Trú Vân và Lưu Phương ngạc nhiên: “Công tử tự thu dọn?”

Tạ Dung Dữ nói: “Nàng ấy có thói quen cất đồ ở những chỗ cố định, thời gian này các ngươi không đi theo nàng ấy, ta sợ nàng ấy không tìm được.”

Lưu Phương và Trú Vân nhìn nhau, không kìm được mỉm cười.

Hai người các nàng chỉ mới tới hồi sáng nay, trời còn chưa sáng Triêu Thiên đã ra ngoài thành đón, cứ tưởng có thể gặp được thiếu phu nhân, ai dè nửa tháng trước thiếu phu nhân đã đi Trung Châu rồi.

Trú Vân nói: “Bẩm Công tử, nô tì nghe bảo chừng hai hôm nữa thiếu phu nhân sẽ về.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Trong thư nói là ngày mai.”

Triêu Thiên ôm đao đứng cạnh nghe thế, lập tức tỉnh táo hẳn lên: “Công tử, ngày mai thiếu phu nhân và Nhạc tiền bối sẽ về ạ?”

Thời gian này hắn chỉ có một mình, từ sau khi khỏi bệnh công phu cứ như bị chững lại, chỉ mong có cao nhân chỉ điểm một hai.

Mà Nhạc Ngư Thất không phải cao nhân thì là gì?

Đáng tiếc cao nhân mới gặp lại thiếu phu nhân hai hôm đã vội vã dẫn nàng đi Trung Châu, thậm chí Triêu Thiên còn chưa kịp chào hỏi cao nhân.

Hai mắt Triêu Thiên sáng bừng: “Công tử, ngày mai Nhạc tiền bối và thiếu phu nhân về lúc nào? Tiểu nhân sẵn lòng ra cổng thành chờ.”

Tạ Dung Dữ nhìn hắn, chưa kịp sai bảo thì bỗng ngoài sân vang lên tiếng bước chân, một Huyền Ưng vệ vừa chạy tới vừa chắp tay hớt hải cấp báo, “Ngu hầu, Nhạc tiền bối và thiếu phu nhân đã về rồi.”

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên, “Sao nhanh thế? Không phải nói là mai sao?”

“Hình như thiếu phu nhân đi suốt đêm không nghỉ nên nhanh hơn dự tính một ngày, bây giờ Nhạc tiền bối và thiếu phu nhân đã về tới trước cửa, có lẽ Ngu hầu cần…”

Không đợi Huyền Ưng vệ nói hết, Tạ Dung Dữ nhấc chân bước qua ngưỡng cửa, đi nhanh ra khỏi viện.

Chưa đến tiền viện đã nghe thấy tiếng bước chân vội vã ngoài hành lang, dường như cũng có người đang chạy tới hậu viện, giữa chừng lại có tiếng quở mắng của Nhạc Ngư Thất:

“… Bảo con đến châu phủ con lại khăng khăng đòi về trang viên trước, lỡ người mà không ở đây, không phải mất công đi một chuyến nữa hả. Trên đường đi cũng thế, tối không lo ngủ đã cấp bách lên đường, có phải con trói hồn ở Lăng Xuyên không đem theo đúng không, đã mấy tuổi rồi mà còn hành hạ như thế…”

Âm thanh ngày một gần, Tạ Dung Dữ đi vòng qua chỗ rẽ, thấy một bóng người váy xanh xuất hiện cuối hành lang.

Ánh nắng chiếu nghiêng, bóng xanh khựng lại rồi hóa thành cơn gió, cũng giống như lúc rời đi, một khắc sau đã sà vào lòng y, khiến y phải lùi về sau một bước.

Tiếng trách móc vẫn chưa dứt.

“… Gặp muộn một hôm thì chết ai? Không sợ ngã rớt làm hỏng hộp tranh hả, có biết bên trong là trân bảo quý hiếm không…”

Nhạc Ngư Thất rẽ vào hành lang, mở to mắt nhìn rồi hít một hơi lạnh.

Váy xanh chạm vào áo lơ, tựa ráng mây hòa cùng sương mù trên núi.

Nhạc Ngư Thất không nhìn thẳng nổi nữa, ông cao giọng gọi, “Cậu kia, lại đây.”

Triêu Thiên nhiệt tình đi tới: “Nhạc tiền bối có gì dặn dò ạ.”

Nhạc Ngư Thất giơ tay che mắt, ngoảnh phắt đầu đi, “Nhanh gọi đại phu đến khám mắt cho ta, ta sắp mù rồi.”
 
Chương 151


“Tư dinh của Khúc Bất Duy được che giấu rất kỹ, nhìn từ bên ngoài chỉ là một căn nhà bình thường, mà vị trí cũng rất xảo trá – nằm trên con đường tấp nập nhất Giang Lưu. Nếu không nhờ Tề đại nhân điều tra trước, có khi ta và sư phụ phải mất hơn nửa tháng mới tìm ra.”

Trên đường đến châu nha, Thanh Duy ngồi trong xe ngựa kể lại mọi chuyện trên đường đi với Tạ Dung Dữ.

“Nhìn từ ngoài vào căn nhà đó có tổng cộng hai viện, nhưng thực ra còn tận dụng cả góc chết ở đầu phố để xây thêm vài gian bí mật, những gian nhà bí mật này dẫn xuống lòng đất, ở giữa có lối đi dài, trái phải có ba kho, chính giữa có bốn kho chứa đầy bạc trắng! Ta và sư phụ nhẩm tính, nếu danh sách Tiển Khâm Đài được bán với giá một trăm nghìn lượng một người, như vậy Khúc Bất Duy đã bán được khoảng năm suất. Ngoài ra có hai kho chứa đồ quý hiếm ông ta sưu tầm được, riêng tranh vẽ đã lên đến hơn hai trăm bức. Thầy trò ta đúng xui xẻo, trong nhà ông ta đã tăng cường phòng thủ, cứ sau hai nén nhang là lại tuần đêm một lần, thầy trò ta phải tìm từng bức một, một đêm chạy lui chạy tới hai lần, kiểm gần hết hơn hai trăm bức, đến tối thứ ba mới tìm được Tứ cảnh đồ.”

“Chàng có biết vì sao mất nhiều thời gian đến thế không?” Thanh Duy hỏi.

Tạ Dung Dữ cười đáp, “Vì sao?”

“Khúc Bất Duy đặt bức danh phẩm quý hiếm Tứ cảnh đồ chung chỗ với đống tranh vô danh, cuộn tròn nhét đại trong bình sứ, ta với sư phụ suýt đã bị lừa bởi chiêu hỏa mù này của ông ta rồi.”

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, nàng kể việc lấy trộm Tứ cảnh đồ nghe chừng khá đơn giản, nhưng chắc chắn đấy là chuyện cực nguy hiểm, chỉ cần nhìn cách tăng cường phòng vệ ở tư dinh là hiểu. Hơn nữa thuộc hạ của Khúc Bất Duy đều xuất thân từ vệ quân, với tầng tầng canh gác như vậy mà có thể thần không biết quỷ không hay lấy đi Tứ cảnh đồ, có lẽ chỉ có Nhạc Ngư Thất và Ôn Tiểu Dã mới có khả năng này.

Tạ Dung Dữ dịu dàng hỏi: “Có mệt không?”

Thanh Duy ngẩng đầu nhìn y, gật đầu đáp: “Trên đường về ta còn không ngủ tử tế, toàn tranh thủ gấp rút lên đường.”

Ánh mắt Tạ Dung Dữ tựa mặt nước phẳng lặng, một lúc sau y mỉm cười, giơ tay vén tóc mái trước trán nàng, “Tiểu Dã cô nương vội vã trở về làm gì thế?”

Thanh Duy không khỏi sửng sốt:”Không phải chàng bảo ta đi sớm về sớm à?” Nàng nhìn y chằm chằm, vẻ mặt dần giãn ra, “Vậy chàng nói đi, chàng bảo ta về sớm làm gì?”

Vốn chỉ là một câu bông đùa mà thôi, nhưng khi nàng hỏi ngược như vậy lại khơi nên tình ý sâu xa. Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy chăm chú, đang định mở miệng thì bất chợt bên ngoài đưa đến tiếng ghìm cương ngựa, Đức Vinh bẩm, “Thưa công tử, thiếu phu nhân, đã đến nha môn rồi ạ.”

Ngay sau đó, âm thanh niềm nở của Triêu Thiên cũng truyền tới, “Nhạc tiền bối, ngài cứ vào trong trước đi, để tiểu nhân buộc ngựa cho ngài.”

Tề Văn Bách bước ra tiếp đón, thấy Nhạc Ngư Thất và Tạ Dung Dữ đến thật thì mừng rơn, “Không ngờ chuyến này Nhạc tiểu tướng quân lại thuận lợi tới vậy, mới nửa tháng đã về. Tề mỗ còn lo nếu đi đường chậm trễ, không biết phải đối phó với động thái khác thường phía Khúc hầu thế nào, nhưng nay xem ra Tề mỗ lo thừa rồi.”

Vào phòng tiếp khách, ba người nhà họ Doãn cũng có mặt, Vệ Quyết cũng dẫn Huyền Ưng vệ từ doanh trại chạy đến.

Giữa phòng đặt một chiếc bàn dài, Thanh Duy nhanh chóng mở hộp, lấy từng bức Tứ cảnh đồ ở bên trong ra, nói, “Tuy bộ tranh này lấy ở tư dinh của Khúc Bất Duy, nhưng để chắc chắn đây là hàng thật, xin mời Doãn Nhị thiếu gia và Doãn Tứ cô nương hãy kiểm tra.”

Nàng mở tranh nền ra, sau đó chồng từng bức tranh phủ lên.

Bức tranh nền “Lăng Xuyên tấp nập cảnh chiều hôm” cực kì tinh tế, khung cảnh huyên náo được phác họa trên giấy rõ ràng, và khi chồng tranh phủ lên, khung cảnh lập tức thay đổi, mây chiều biến thành suối rừng, lầu các hóa thành tháp cổ, hoàng hôn vắt ngang chân trời nay trở thành chuông xưa trên đỉnh núi, cảnh xa xăm lại có chiều sâu, như nghe tiếng chuông vang vọng trong núi.

Tuy mọi người ở đây đều đã nghe đến sự thần kì của Tứ cảnh đồ, tác phẩm của bậc thầy đúng là có khác, nghe là một chuyện, tận mắt nhìn thấy lại khác.

Hèn gì Khúc Bất Duy chịu dùng danh sách lên Tiển Khâm Đài để đổi một bức tranh thế này.

Doãn Uyển cẩn thận xem kỹ những bức tranh phủ còn lại, nói chắc nịch: “Chư vị đại nhân, đây chắc chắn là bức Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh.”

Tề Văn Bách nói: “Vậy mau đem bức tranh phụ thân cô để lại chồng lên xem đi.”

Doãn Uyển lập tức lấy ra tranh nền phủ lên Tứ cảnh đồ.

Đập vào mắt là cánh rừng trúc xanh mướt, bên dưới là một vòng rào quây tròn, ngoài hàng rào là những tảng đá với hình thù kỳ lạ.

Chương Lộc Chi vừa nhìn thấy tranh liền mở miệng, “Đây không phải là bằng chứng Thẩm Lan để lại sao? Vì sao lại chỉ là một bức họa thế này?”

Hồi trước Sầm Tuyết Minh bảo vệ Thẩm Lan là vì muốn y để lại bằng chứng tố cáo Khúc Bất Duy, Chương Lộc Chi còn tưởng khi chồng tranh nền và tranh phủ lại với nhau, dù không phải một bức thư thì chí ít cũng phải có vài dòng chữ rõ ràng, ai dè lại chỉ là một bức tranh bình thường.

Nhưng ngẫm kỹ thì cũng không trách được, Thẩm Lan vẽ bức tranh này mà không có tranh đối chiếu so sánh, chỉ hạ bút dựa vào trí nhớ để giấu đáp án trong tranh.

Xem ra còn phải phân tích kỹ.

Mọi người xúm quanh bàn nhìn tranh, một thoáng trầm ngâm.

Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Uyển, thấy nàng ta ấp úng mấy lần bèn hỏi: “Doãn Tứ cô nương có nhận xét gì không?”

Doãn Uyển chần chừ, thấp giọng nói: “Nhưng tôi… tôi không biết mình có nói đúng không nữa.”

Tạ Dung Dữ nói: “Trong số mọi người ở đây chỉ có cô nương am hiểu hội họa nhất, mỗi nghề có chuyên môn riêng, cô nương cứ nói chớ ngại.”

Doãn Uyển mím môi, đoạn nói: “Tứ cảnh đồ là tác phẩm đạt đến đỉnh cao của Đông Trai tiên sinh, mực đậm mực nhạt đều có hàm ý, nhờ đó mới có câu giấu bút giữa sáng, giấu mối trong bóng. Nếu cha để lại bức tranh này hòng tiết lộ manh mối, tôi… tôi cho rằng, không nên xem nó như tranh vẽ, mà chỉ nên nhìn vào chỗ sáng.”

Nàng ta nói xong, thấy mọi người có vẻ không hiểu, do dự một lúc rồi trải một tờ giấy trắng ra bàn. Doãn Trì hiểu ý, lập tức lấy bút chấm mực, đưa bút cho nàng.

Doãn Uyển nhận bút, gương mặt lập tức trở nên bình tĩnh, không còn là tiểu cô nương run rẩy sợ hãi nữa, tay trái cầm tay áo, cổ tay phải nâng lên, bút múa trên giấy, chẳng mấy chốc đã vẽ lại những cây tre hiên ngang, “Nếu phụ thân dùng tranh để giấu manh mối, như vậy nơi duy nhất ông ấy có thể sử dụng là ánh sáng trong tranh. Phía sau bên trái là rừng tre, bên phải là bốn cây tre xanh, hàng rào ở phía sau, bên trái là nơi mực nhạt nhất và trông đơn giản nhất, tôi cho rằng, muốn giấu thứ gì đó trong tranh thì chỉ có thể chọn chỗ này. Tôi đã vẽ riêng ra cây tre và hàng rào, mời chư vị xem, nó giống gì?”

Bốn khóm tre đưa ngang, kết hợp với hàng rào bên dưới, chẳng phải là chữ “Khúc” (曲) đấy sao?

Ắt hẳn Thẩm Lan muốn ám chỉ kẻ cầm đầu chuyện giao dịch danh sách Tiển Khâm Đài chính là Khúc Bất Duy.

Vệ Quyết lại bảo: “Nhưng Sầm Tuyết Minh vắt óc tìm kế để Thẩm Lan vẽ tranh phủ, không lí nào chỉ để lại một chữ ‘Khúc’ như có như không này được, hơn nữa chữ Khúc này cũng không thể làm bằng chứng rõ ràng, để tự vệ, chắc chắn hắn ta có để lại manh mối khác.”

Chương Lộc Chi nói: “Có khi nào nằm ở mấy con vịt kia không?”

Mọi người nghe thế thì sững ra, đồng loạt quay sang nhìn hắn, Tề Văn Bách hỏi: “Vịt? Vịt ở đâu?”

Chương Lộc Chi chỉ vào đống đá có hình thù kỳ quái bên dưới rừng tre, nói: “Thế đó không phải là vịt à? Ba con đứng, một con nằm.”

Mọi người nheo mắt nhìn, quả nhiên là mấy con vịt đi lạc rừng tre.

Chỉ vì có mặt ở đây đều là văn nhân nhã sĩ, kể cả Thanh Duy và Nhạc Ngư Thất, vì ảnh hưởng bởi Ôn Thiên nên cũng biết thưởng thức nhã thú, do đó theo quán tính đều cho rằng những vết mực mơ hồ dưới rừng tre là đá tảng, còn người ít học như Chương Lộc Chi lại có thể nhìn ra ngay thực tế.

Tề Văn Bách nói: “Đúng rồi! ‘Vịt lạc rừng tre’, Sầm Tuyết Minh được Khúc Bất Duy giao việc buôn bán danh sách lên đài, rất có thể mấy con vịt này ám chỉ chính Sầm Tuyết Minh.”

Kỳ Minh cũng nói: “Sầm Tuyết Minh vừa giao bức tranh này cho Doãn Tứ cô nương thì mất tích, vậy có khi nào đám vịt này chỉ nơi Sầm Tuyết Minh đang ở không?”

Tạ Dung Dữ lập tức ra lệnh: “Tề Châu doãn, Tống Trưởng lại, lập tức kiểm tra những vụ án trước và sau khi Sầm Tuyết Minh mất tích, đưa tất cả những manh mối có liên quan đến ‘vịt’ và cùng loại với ‘vịt’ cho ta.”

“Vâng.”

“Vệ Quyết, ngươi hãy dẫn Huyền Ưng Ti đi tra xét xung quanh, tìm ra tất cả những thành trấn, làng xóm, bao gồm núi hồ có nuôi vịt.”

“Rõ.”

“Còn Doãn Tứ cô nương, cô hãy đem bức tranh này về kiểm tra thật kỹ, nếu có manh mối mới lập tức báo ngay cho châu phủ.”

“Điện hạ yên tâm, dân nữ biết rồi ạ.”

Đúng lúc này, Doãn Trì nói: “Điện hạ, Nguyệt Chương cũng muốn giúp một tay.” Hắn nhìn bụi tre Doãn Uyển vẽ, nở nụ cười xa xôi, “Không ngờ Uyển Uyển lại tài ba đến vậy, chỉ vài nét bút đã đủ để tại hạ lĩnh giáo. Tuy… kỹ thuật của tại hạ không bằng Uyển Uyển, nhưng thời gian nghiên cứu hội họa không hề kém thua Uyển Uyển, tại hạ sẵn lòng cùng muội ấy kiểm tra bức tranh mà thầy giáo để lại, cùng phân tài bàn bạc, hi vọng có thể giúp được điện hạ.”

Hắn quả là người mê vẽ, điều tra manh mối vẫn không quên gọt giũa kỹ năng.

Trong cái nhìn của hắn về bức vẽ của Doãn Uyển có hâm mộ, có thán phục, nhiều hơn hết là mừng rỡ, và tuyệt nhiên không hề có ghen tị.

Có nhẽ khi người ta thực sự yêu thích điều gì đó, và khi biết núi cao có núi cao hơn, người giỏi có người giỏi hơn, thì sẽ nảy sinh niềm vui “chí ít ta không cô đơn”.

Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Trì, gật đầu nói: “Doãn Nhị thiếu gia đồng ý giúp thì còn gì tốt bằng.”

Vệ Quyết là người dứt khoát, vừa họp xong, hắn nhanh chóng quay về doanh trại điều động Huyền Ưng vệ. Tề Văn Bách muốn tiễn Tạ Dung Dữ một đoạn, nhưng Nhạc Ngư Thất ở đằng sau đã gọi lại: “Này cậu kia, Tiểu Chiêu vương đúng không, cậu ở lại.”

Tạ Dung Dữ dừng bước, xoay người lại vái, “Vâng.”

Nhạc Ngư Thất khoát tay với những người khác, “Được rồi, các ngươi đi đi.”

Tề Văn Bách cảm thấy Nhạc Ngư Thất quá bất lịch sự với Tiểu Chiêu vương, ông dè dặt nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y vẫn điềm nhiên như không, thế là đành dẫn mọi người cáo lui.

Trong phòng, ngoài Nhạc Ngư Thất và Tạ Dung Dữ thì chỉ còn lại mỗi mình Thanh Duy.

Nhạc Ngư Thất liếc nàng, “Con còn đứng đây làm gì, sợ ta ăn hắn hả?”

Than Duy cụp mắt không đáp.

Nàng biết sư phụ nói muốn đánh gãy chân chó của nàng, đưa ai đó đi gặp Diêm vương chỉ là nói đùa chứ không phải thật, nhưng nàng vẫn không muốn đi, nàng sợ sư phụ làm khó y.

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, ôn tồn khuyên nhủ: “Đi trước đi, ta cũng có chuyện muốn nói với Nhạc tiền bối.”

Thanh Duy nhìn y, lưỡng lự một hồi rồi gật đầu.

Nhìn bóng dáng Thanh Duy dần khuất, Nhạc Ngư Thất bỏ đi vẻ mặt hằm hằm sát khí, chắp tay bước ra cửa, nói: “Đi theo ta.”

Hoàng hôn vừa buông, ráng chiều nhuộm mây trời, Nhạc Ngư Thất quay về chỗ ở, vào phòng lấy một bầu rượu rồi ngồi xuống ghế tre giữa sân, ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ, “Nói đi, ngươi làm cách nào mà dụ được con a đầu hoang dã nhà ta vào tròng hả?”
 
Chương 152


Tạ Dung Dữ nói: “Vãn bối và Tiểu Dã là…”

“Dừng.” Nhạc Ngư Thất ngắt lời, “Nếu cậu muốn nói mình và Tiểu Dã do trời xui đất khiến nên mới thành thân giả, sau đó dần dần quen nhau, rồi không hiểu sao lại từ từ động lòng thì dừng gấp, trên đường đi ta bị a đầu kia lải nhải đủ lắm rồi, hai đứa tưởng lừa ta dễ lắm hả? Nếu đã thành thân giả, cần gì phải diễn thật đến thế? Ngay hôm đầu tiên không chia giường ngủ là có vấn đề rồi.”

Tạ Dung Dữ ngẩn người, im lặng một lúc lâu rồi mới nói, “Nhạc tiền bối nói chí phải, đêm tân hôn không chia giường ngủ là lỗi tại vãn bối. Thực ra… vãn bối cứ tưởng mình cưới Thôi thị, nên đã bảo Đức Vinh kê thêm một chiếc giường nhỏ trong thư phòng.”

Sở dĩ y uống say vào tối hôm đó cũng chỉ để lấy cớ đến thư phòng ngủ, đợi sang hôm sau sẽ nói rõ mọi chuyện với Thôi Chi Vân.

Nhưng khi vén khăn dâu lên, y lại đổi ý.

“Vãn bối biết Tiểu Dã đã phải ăn nhờ ở đậu nhiều năm, bơ vơ không chốn nương thân, chẳng dễ gì vãn bối mới gặp được nàng…” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, “Nên vãn bối không đến thư phòng nữa, dẫu sao cũng là đêm tân hôn, vãn bối không muốn khiến nàng cô đơn, cho rằng mình không được yêu mến, dù vãn bối biết chưa chắc nàng đã nghĩ vậy.”

Nhạc Ngư Thất không kìm được nhìn Tạ Dung Dữ, “Nếu ta nhớ không nhầm, lúc trước ngươi chỉ mới gặp Tiểu Dã đúng một lần.”

“Vâng, mùa thu năm Chiêu Hóa thứ mười hai khi vãn bối đến Thần Dương mời Ôn thúc rời núi, đó là lần đầu gặp Tiểu Dã.” Tạ Dung Dữ đáp, “Nhưng sau đó ở núi Bách Dương, Ôn thúc kể không ít chuyện của Tiểu Dã cho vãn bối nghe, ông ấy nói bao giờ Tiển Khâm Đài xây xong thì Tiểu Dã sẽ tới, ông ấy cũng rất mong nàng sẽ tới.”

Nhạc Ngư Thất nói: “Sau đó cậu phát hiện ra Tiểu Dã thành thân với cậu chỉ vì muốn lợi dụng thân phận Ngu hầu và Huyền Ưng Ti hòng điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài sập, có thể nói là chung mục tiêu với cậu, cho nên cậu mới giữ nó lại, từng bước thăm dò?”

“Vâng, lúc đó vãn bối không biết ai là người đứng sau lưng nàng, không dám tự ý ngả bài, buộc lòng phải thăm dò.”

“Ta có thể hiểu là hai đứa muốn điều tra chân tướng sự thật về Tiển Khâm Đài, nhưng cậu có nghĩ đến…” Nhạc Ngư Thất nghiêng người nhổm dậy, nhìn Tạ Dung Dữ đăm đăm, “Có một ngày, cậu sẽ thất bại. Dù cậu có dốc sức đến đâu cũng không bao giờ biết được sự thật, hay thậm chí cậu có điều tra ra chân tướng đi chăng nữa, nhưng Ôn Thiên là tổng đốc công, không cần biết ai đã thay đổi vật liệu, ai đã khiến Tiển Khâm Đài sập, thì ông ấy vẫn phải chịu trách nhiệm, bản thân ông ấy không thể rửa sạch tội danh, Tiểu Dã cũng sẽ là con gái của tội nhân. Hoặc ghê gớm hơn, chỉ riêng sự thật đã đủ khiến cậu mất hết ý chí, đến lúc đó, cậu sẽ làm gì?”

Tạ Dung Dữ im lặng rất lâu, cuối cùng thốt ra tám chữ: “Làm hết khả năng, nghe theo ý trời.”

Y nói: “Hễ còn một tia hi vọng thì vãn bối vẫn sẽ tiếp tục điều tra, có quá nhiều người đã chết vì Tiển Khâm Đài sập. Nhưng… nếu thực sự đến ngày không thể tiếp tục điều tra, nhất định phải đối diện với chân tướng, dẫu kết quả ra sao vãn bối vẫn có thể tiếp nhận. Ngày trước vãn bối có khúc mắc trong lòng, cảm thấy bản thân phải chịu một phần trách nhiệm vì Tiển Khâm Đài sập, nhưng khi lần theo manh mối đi đến hôm nay, vãn bối cho rằng không có gì phải thẹn với lương tâm cả, Ôn thúc càng không nên thẹn, và đã như vậy, Tiểu Dã có phải là con gái của tội nhân hay không cũng có gì quan trọng? Cùng lắm thì…”

Y cụp mắt, nở nụ cười rất nhạt, “Thì vãn bối sẽ đưa nàng ấy bỏ trốn, dù có chết cùng nhau cũng không vấn đề.”

Nhạc Ngư Thất nhìn Tạ Dung Dữ chằm chằm, một lúc sau mới ngồi dựa ra ghế, “Không tệ, không ôm đồm trách nhiệm, không xoáy vào bế tắc, nâng được cũng buông được, làm hết khả năng, nghe theo ý trời, người như vậy dù ở trong hoàn cảnh nào cũng sống được.”

Ông vòng tay làm gối, nhìn nắng chiều trên cao, “Xét cho cùng cũng là đại nạn, ai có thể chi phối ngoài ông trời đây?”

Tạ Dung Dữ thấy Nhạc Ngư Thất trầm ngâm, im lặng một lúc rồi nói, “Nhạc tiền bối, vãn bối có điều muốn hỏi.”

“Hai tháng sau khi Tiển Khâm Đài sập, triều đình hạ lệnh truy nã thân quyến của Ôn thị, Nhạc tiền bối nói mình bị bắt ở Lăng Xuyên.” Tạ Dung Dữ nói, “Thực ra không phải Nhạc tiền bối bị bắt, ngài đã chủ động đầu thú, là vì… Tiểu Dã.”

Nhạc Ngư Thất nhìn tà dương cuối chân trời, khóe miệng nhếch nhẹ nhưng không lên tiếng.

Tạ Dung Dữ nói tiếp: “Tiển Khâm Đài sập, vô số sĩ tử bách tính mất mạng, tiếng lầm than oán thán khắp nơi, tiên đế chém đầu Ngụy Thăng, Hà Trung Lương, thậm chí cựu Chỉ huy sứ của Huyền Ưng Ti vẫn không đủ, Ôn thúc thân là tổng đốc công, xét cho cùng vẫn phải chịu trách nhiệm, nhưng Ôn thúc đã chết dưới Tiển Khâm Đài, nên tiếng than trách mới trút xuống đầu thân quyến Ôn thị, mà Tiểu Dã con gái của Ôn Thiên ắt sẽ phải đứng mũi chịu sào, nên vào lúc đó, chỉ có một cách để giúp Tiểu Dã tránh được nguy hiểm, chính là Nhạc tiền bối dùng thân phận thân quyến của Ôn thị chủ động đầu thú.

Ngài là hậu nhân của Nhạc thị, có công trong chiến dịch sông Trường Độ, là số ít tướng sĩ may mắn còn sót, còn từng được phong làm tướng quân, mà Tiển Khâm Đài xây nên là để tưởng nhớ các tướng sĩ sông Trường Độ. Chỉ khi ngài đầu thú, mọi người mới nghĩ, thôi vậy, dù gì ông ta cũng là tướng quân có công, không thể coi là thân quyến Ôn thị mà xử phạt được, xem ra triều đình cũng công tư phân minh, công là công mà tội là tội, công tội không liên quan, thế là một lần nữa mọi người tiếp tục tin tưởng triều đình, không còn truy cứu việc nữ Ôn thị đang lẩn trốn ở đâu.”

Tróc nã thân quyến Ôn thị có thật là ý của triều đình, ý của tiên đế không?

Không, đó là vì những lời kêu than phẫn hận của bách tính.

Chỉ khi xoa dịu lòng dân mới có thể đổi lại dàn xếp yên ổn.

Nếu Nhạc Ngư Thất  không đầu thú, thì dù Tạ Dung Dữ có khoanh vòng tròn đỏ lên ba chữ “nữ Ôn thị” cũng chưa chắc đã bảo vệ được Thanh Duy.

Tạ Dung Dữ nói tiếp: “Nhạc tiền bối nói mình đã theo ngự liễn hồi kinh, sau đó tiên đế đã dàn xếp vụ cướp xe tù rồi thả ngài ra. Nhưng theo vãn bối thầy, mục đích của việc cướp xe tù không phải là để thả ngài, mà chỉ giúp ngài miễn được tội chết, để ngài có thể ẩn nấp. Nếu vãn bối đoán không sai, những năm qua, ắt hẳn Nhạc tiền bối đã bị giam giữ trong cung, cho tới khi Hà thị ngã ngựa, Quan gia cầm quyền, ngài mới được thả tự do. Đó cũng là nguyên nhân vì sao nhiều năm qua Tiểu Dã không tìm được ngài.”

Chiêu Hóa đế là đế vương, nhân từ song cũng vô tình, sẽ không tốt bụng thả người chỉ vì cảm thấy người ấy vô tội.

Bất cứ chuyện gì cũng phải nhìn toàn cục, nếu mà thả Nhạc Ngư Thất ra, lỡ như có ngày bách tính bắt gặp ông ấy trên đường, biết Nhạc Ngư Thất và nữ Ôn thị không bị trị tội, dân chúng không còn tin tưởng triều đình thì phải làm sao?

Chiêu Hóa đế có thể giữ được mạng sống cho Nhạc Ngư Thất, nhưng trong tình hình lúc ấy, ông buộc phải giam giữ Nhạc Ngư Thất.

Nghe Tạ Dung Dữ nói hết, cuối cùng Nhạc Ngư Thất cũng đưa mắt nhìn y.

Một lúc lâu sau, ông mới lên tiếng: “Cậu không cần cho Tiểu Dã biết những chuyện này.”

Ông cười nhạt, “Những năm qua con bé đã phải gồng gánh quá nhiều thứ, đừng để nó biết mình mắc nợ ai.”

Nàng là cánh chim tự do chao liệng giữa núi rừng Thần Dương, là chú sói nhỏ ngạo nghễ bên dòng suối trong, ông hi vọng nàng có thể mãi mãi như thuở ban sơ.

“Tiểu Dã rất thông minh, có vài việc…” Nói đến đây, Tạ Dung Dữ dừng lại.

Y muốn bảo rằng, có vài việc dù y không nói, sau này rồi cũng có ngày Thanh Duy sẽ tự nghĩ ra, nhưng nói được một nửa y lại thôi, chỉ gật đầu đáp: “Vâng, vãn bối đã nhớ.”

Cuối cùng y cũng đã hiểu vì sao Ôn Tiểu Dã lại kiên cường chói lóa, độc nhất vô nhị đến vậy.

Bởi vì nàng đã được nuôi dạy rất tốt.

Nhạc Ngư Thất, Ôn Thiên, Nhạc Hồng Anh, cuộc sống ở Thần Dương cho nàng đầy đủ tự do bảo ban, đủ để nàng có thể một mình đương đầu với những tháng năm phải trốn chui nhủi.

Nắng chiều rọi sân nhà, nhuộm đen vạt áo màu mây của Nhạc Ngư Thất, ông nói: “Được rồi, cậu về đi, nhớ tìm ngày lành báo chuyện của cậu và Tiểu Dã với cha mẹ con bé.”

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên, sau đó chắp tay bái, “Thứ cho vãn bối hỏi thêm một câu, Nhạc tiền bối đã đồng ý chuyện giữa vãn bối và Tiểu Dã?”

Nhạc Ngư Thất liếc y, “Ta hỏi cậu, lúc Tiểu Dã mới lên kinh trông nó như thế nào?”

Thật ra Nhạc Ngư Thất đã cảm thấy là lạ khi mới gặp lại Thanh Duy, bởi vì sau khi Tiển Khâm Đài sập, Thanh Duy mất sinh phụ, phải sống trong cảnh ăn nhờ ở đậu hoặc lưu lạc bên ngoài, chắc chắn đã trải qua rất nhiều sóng gió vất vả. Ấy thế mà lúc gặp lại nàng ở Đông An, nàng vẫn chẳng khác gì con bé quê mùa ở núi rừng Thần Dương ngày xưa, như chưa từng chịu bất cứ thiệt thòi nào.

Nhạc Ngư Thất vốn muốn hỏi thẳng, nhưng ông biết có nhiều chuyện dù hỏi cũng không có được câu trả lời. Nên ông không đợi Tạ Dung Dữ đến cầu hôn mà dẫn Tiểu Dã rời đi nửa tháng.

Kỳ thực lấy trộm Tứ cảnh đồ ở Trung Châu nào đơn giản như Thanh Duy kể.

Khúc Bất Duy sớm có cảnh giác, bố trí tầng tầng lớp lớp canh phòng ở tư dinh, dù công phu xuất quỷ nhập thần như Nhạc Ngư Thất cũng phải rất cẩn thận. Nhưng điều khiến Nhạc Ngư Thất bất ngờ đấy là Thanh Duy bình tĩnh hơn ông tưởng nhiều, trong mấy ngày ẩn nấp cùng ông giữa phố phường náo nhiệt, nàng cũng từng ra ngoài thăm dò tin tức, song không một ai có thể nhận ra nàng. Thậm chí nàng rất đề phòng, gần như không tin bất cứ ai, có thể mai phục suốt đêm để chớp lấy một cơ hội mỏng manh.

Có thể nói trong việc lấy trộm Tứ cảnh đồ lần này, Thanh Duy mới là chủ lực, Nhạc Ngư Thất chỉ là người hỗ trợ.

Bấy giờ Nhạc Ngư Thất mới vỡ lẽ, hóa ra năm năm lưu lạc đã lưu lại vết tích lên người Thanh Duy, thậm chí còn khắc rất sâu, đến nỗi mỗi khi gặp nguy hiểm, bình tĩnh đối phó gần như đã trở thành bản năng của con bé.

Hồi mới lên kinh, Thanh Duy như thế nào ư?

Tạ Dung Dữ chỉ nhớ khi nàng mới vào Giang phủ, ngoài những lúc thăm dò với y ra, Thanh Duy cực kỳ lầm lì ít nói.

Nhưng với người đã chứng kiến Thanh Duy trưởng thành, Nhạc Ngư Thất ắt có thể hình dung được.

Hình dung được ngày vừa lên kinh, vì để thoát khỏi sự truy đuổi của Huyền Ưng Ti, nàng đã dẫn Chi Vân trốn vào hang động thế nào; hoặc khi bị Vệ Quyết gọi lên công đường, đối diện với màn chất vấn của Huyền Ưng Ti, nàng đã đối đáp ra sao; không để lộ tâm tư khi đối phó với Tào Côn Đức; để bảo vệ Tiết Trường Hưng chạy trốn, nàng đã đội nón lá cố tình làm đổ rượu của Giang thiếu gia; hay lúc đứng bên bờ vực lập lời thề, phóng ra nhuyễn ngọc kiếm, nhảy xuống vách núi để tìm bằng chứng Tiết Trường Hưng lưu lại.

Dáng vẻ cảnh giác cao độ ẩn dưới biểu cảm hời hợt, sự bàng hoàng bất lực khi phải mở mắt chỉ vì một biến động nhỏ, đấy mới là Thanh Duy của năm năm qua.

Nhạc Ngư Thất nói: “Nếu như nó có thể trở lại bình thường trong loạn lạc khốn cùng, vậy ắt hẳn đã có người hết lòng chăm sóc từng li từng tí cho nó trong một năm qua.”

Coi nàng là viên minh châu trong mắt, là ánh trăng trong lòng, cho nàng sự ấm áp và yên ổn bất tận, để nàng có thể trở lại làm chú chim xanh giữa núi rừng Thần Dương năm nào.

Nhìn như chưa bao giờ bị tổn thương.

***

Tạ Dung Dữ quay về Phất Nhai Các là khi mặt trời dần khuất bóng.

Thanh Duy vẫn đang chờ trong sân, thấy y về lập tức đi tới, “Sư phụ ta không làm khó chàng chứ?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, hai mắt đong đầy ánh trăng dập dìu dưới hồ, y cất tiếng gọi, nghe như tiếng thở dài, “Tiểu Dã…”

Thanh Duy thấy y có vẻ lạ, “ừ” một tiếng.

Một khắc sau, y cúi đầu hôn nàng.
 
Chương 153


Nụ hôn lần này rất mãnh liệt, khác hẳn với mọi khi.

Hơi thở ấm áp hòa cùng tình cảm cuồng nhiệt cháy bỏng, thậm chí Thanh Duy còn chưa kịp tiếp đón đã nhanh chóng bị y tấn công, y duỗi tay ôm eo nàng, ép nàng phải lùi dần về phía sau, lùi tới mức suýt chạm vào cửa, khuỵu chân ngồi xuống giường.

Cái nóng ngày hè đã được đêm tối xua tan, cảm giác thanh mát bao trùm căn phòng, ấy thế nhưng hơi thở của y lại khơi lên một đợt sóng nhiệt.

Sóng nhiệt phập phồng hóa tình ý thành mật ngọt, quyện cùng hương rượu dịu êm khiến nàng chìm đắm trong men say nơi này.

“Chẳng phải nàng đã hỏi ta… dặn nàng về sớm làm gì sao.” Tạ Dung Dữ thở gấp, tròng mắt tối sẫm, “Đây chính là điều ta muốn làm.”

Y nhẹ buông cô gái trước mặt, tóc mái, mái tóc lòa xòa rũ hai bên thái dương, hơi thở cũng trở nên dồn dập hơn sau nụ hôn cuồng nhiệt.

Hôm nay lúc ở trên xe ngựa, một câu “chàng nói đi, chàng bảo ta về sớm làm gì” vừa như tra hỏi lại rất thản nhiên của nàng khiến con tim y hẵng còn rung động đến tận bây giờ.

“Còn nàng?” Y hạ thấp giọng, hỏi lại lần nữa, “Nàng vội vã trở về như thế là muốn làm gì?”

Thanh Duy nhìn Tạ Dung Dữ.

Dưới làn mi cong vút là một đôi mắt đẹp, hàng mi rũ nhẹ, đuôi mắt sắc sảo bị màn đêm che khuất, trong mắt chỉ còn lại ngân hà và sương chiều hòa quyện cùng nhau, làm ánh mắt y trở nên thâm thúy sâu nặng, nặng tới mức chìm vào trái tim nàng.

Sao lại có người tuấn tú đến dường này?

Thanh Duy không khỏi nghĩ.

Nàng không lên tiếng, vươn tay đặt lên vai y, ngửa mặt tiến tới gần, chạm vào khóe môi y. Tạ Dung Dữ quay đầu sang, nhanh chóng đón nhận chiếc hôn ấy.

Lần thứ hai hơi thở giao nhau khác với sự tấn công mạnh mẽ ban nãy, nàng cũng lưu luyến tư vị trong đó, như lạc vào con đường dài trong sân vườn vô tận, chỉ biết theo y rẽ hoa vén liễu.

Quấn quít triền miên chẳng biết bao lâu, hai người mới thoáng tách ra, Thanh Duy do dự, lí nhí nói: “Nhưng hôm nay không tiện.”

“Ta biết, Nhạc tiền bối nói chúng ta tìm ngày lành rồi hãy báo cho nhạc phụ nhạc mẫu biết chuyện của chúng ta.” Giọng Tạ Dung Dữ trầm bổng, “Tiểu Dã của ta là cô nương nhà lành mà.”

Lần trước thành thân còn chẳng được dùng tên thật, nói gì đến bái cao đường?

Nàng là cô nương nhà lành, y nên chu toàn đầy đủ cấp bậc lễ nghĩa mới đúng.

Tiếc rằng từ đấy đến giờ trong suốt quãng thời gian dài, tương phùng tạm biệt đều diễn ra vội vã, vướng víu tục lệ, lại quên phải báo chuyện thành thân cho cha mẹ dưới suối vàng.

“Không phải thế.” Thanh Duy cụp mắt, “Hôm nay… trong người ta không tiện.”

Tạ Dung Dữ ngẩn ra, lập tức hiểu ý của nàng, cười bảo: “Không sao.”

Y bế nàng lên rồi nhẹ nhàng đặt xuống giường, cúi người vuốt tóc nàng, dịu dàng hỏi: “Đã chuẩn bị nước tắm chưa?”

Y là người thích sạch sẽ, lúc trở về vẫn chưa tắm rửa, vừa nãy cũng chỉ quấn quít nhau trên sạp nhỏ.

Thanh Duy gật đầu: “Chuẩn bị rồi, cứ cách một khắc là Lưu Phương lại thêm nước ấm.”

***

Hương thơm thoang thoảng trong phòng, dẫu gì Trú Vân và Lưu Phương cũng là cung nữ nên rất biết cách hầu hạ, trời vừa tắt nắng là dùng ngải cứu đuổi muỗi, lại đặt một chậu nước đá ở đầu gió, lúc này mở phanh cửa sổ, gió lùa vào mát lạnh sảng khoái.

Tạ Dung Dữ tắm rửa xong quay vào, chỉ châm một ngọn đèn tù mù, vén rèm lên giường, vươn tay ôm Thanh Duy vào lòng.

Tóc nàng có mùi bồ kết nhàn nhạt, bộ trung y đang mặc mới toanh, lớp lụa vừa mềm lại mỏng, có cảm giác như chạm được hẳn vào da. Thanh Duy rất gầy, khi cả hai mới gặp lại nhau ở Thượng Khê, chỉ một vòng tay của y đã có thể ôm trọn cơ thể gầy guộc của nàng, cũng may bây giờ đã có da có thịt hơn. Nhưng nàng lại không béo, dáng người thon thả mảnh mai, ban ngày thường mặc áo bào Huyền ưng che giấu thân phận nên rất khó nhận thấy, như thể sự mềm mại yêu kiều của nàng chỉ phô bày khi tối về nằm trong vòng tay y.

Đợi bao giờ sự việc xong xuôi, phải mua thật nhiều y phục váy vóc cho nàng mới được.

Người trong lòng cựa quậy, Thanh Duy ngẩng mặt lên, khẽ gọi: “Quan nhân.”

Đã lâu lắm rồi nàng không gọi y như thế.

Hai tiếng “quan nhân” lọt vào tai làm con tim rung động, Tạ Dung Dữ thấp giọng đáp lại.

“Bây giờ chúng ta đã trộm được Tứ cảnh đồ, Khúc Bất Duy chỉ cần kiểm tra nhà kho sẽ biết ngay, sắp tới chúng ta phải đối phó thế nào đây?”

Tạ Dung Dữ cụp mắt nhìn nàng, cười bảo: “Khó khăn lắm mới có thể trở về, thế mà nàng vẫn nghĩ chuyện này à?”

Không phải đang băn khoăn vấn đề này.

Nàng đã nghĩ đến băn khoăn này lúc ở trên đường về, nhưng vẫn không biết phải giải quyết làm sao, định bụng khi về sẽ hỏi quan nhân.

Tạ Dung Dữ nói: “Sớm muộn gì Khúc Bất Duy cũng sẽ biết Tứ cảnh đồ bị trộm, e rằng hiện tại không chỉ Khúc Bất Duy, mà cả phía Chương Hạc Thư, Chương Lan Nhược, thậm chí là Đình Lam đều đã có động tĩnh.”

Chương Đình và Khúc Mậu chưa hẳn đã biết chân tướng, nhưng bọn họ là con trai của hai người Chương Khúc, lại còn đang ở Lăng Xuyên, ít nhiều gì cũng sẽ bị cuốn vào.

“Đi đến bước này thì rất khó tránh khỏi mâu thuẫn, bây giờ điều duy nhất chúng ta có thể làm là phải nhanh lên.”

Phải nhanh chân tìm được bằng chứng Sầm Tuyết Minh để lại.

Thanh Duy gật đầu, “Ta hiểu rồi.”

Người trong lòng im lặng, hơi thở cũng nhẹ đi, Tạ Dung Dữ tưởng nàng đã ngủ, cụp mắt nhìn nàng, lại thấy nàng khép nhẹ rèm mi, sương giăng hai mắt.

“Đang nghĩ gì thế?” Tạ Dung Dữ ôn tồn hỏi.

“Quan nhân, ta nói với chàng chuyện này.” Thanh Duy im lặng một lúc, đoạn nói, “Sư phụ ta lừa ta.”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng không đáp.

“Năm xưa triều đình hạ lệnh truy nã thân quyến của Ôn thị, sư phụ nói ông ấy bị lính triều đình bắt. Thực ra không phải, là ông ấy đã chủ động đầu thú.” Thanh Duy nói.

“Thời gian ấy ta đang ở núi Bách Dương, tuy có Tào Côn Đức bảo vệ nhưng ta vẫn biết tình hình ở huyện Sùng Dương thế nào. Tuy trong huyện được canh phòng cẩn mật, nhưng cũng không khó để trốn thoát vài tốp lính. Chỉ cần muốn thì ta cũng trốn được, huống hồ là sư phụ, làm gì có chuyện ông ấy dễ dàng sa lưới? Rõ ràng ông ấy chủ động đầu thú, ông ấy làm vậy là vì… ta.” Thanh Duy nói, “Sư phụ là người Nhạc thị có công, chỉ khi ông đầu thú thì dân chúng mới hết bất bình, triều đình sẽ thôi truy lùng ta, bằng không, cho dù là Tào Côn Đức đi nữa cũng khó che giấu thân phận giúp ta trong tình hình ấy. Tuy ta không biết rốt cuộc sư phụ đã ở đâu trong mấy năm qua, nhưng ta đoán chắc hẳn ông ấy không được tự do, bởi vì ông ấy sẽ không bao giờ để ta phải một thân một mình, chắc chắn sẽ tới tìm ta.”

Tạ Dung Dữ ôm chặt Thanh Duy, “Nàng nghĩ ra điều này từ lúc nào?”

“Từ lúc sư phụ nói là ta đã thấy lạ rồi.” Thanh Duy đáp, “Không lâu sau thì hiểu ra, kết hợp với tình hình hồi ấy, cũng không khó để đoán.”

Nói đoạn, nàng ngẩng đầu nhìn Tạ Dung Dữ, đôi mắt trong veo tựa gương sáng, “Nhưng ta sẽ không nói cho sư phụ biết là mình đã đoán ra. Sư phụ lừa ta chắc chắn vì không muốn ta gánh vác quá nhiều điều, ông ấy hi vọng ta có thể sống tự do tự tại như quãng thời gian còn ở Thần Dương.”

Vậy thì nàng sẽ vờ như không biết, như mong muốn của Nhạc Ngư Thất.

Thanh Duy nhìn Tạ Dung Dữ, “Hôm nay sư phụ giữ chàng lại nói những gì vậy?”

Tạ Dung Dữ lên tiếng, “Ta hỏi cưới nàng, ông ấy suy nghĩ… rồi đồng ý rồi.”

“Sư phụ đồng ý ư?”

Tạ Dung Dữ đáp phải, “Đúng thế.”

“Ngoài bảo chúng ta tìm ngày lành báo cho cha mẹ biết tin, sư phụ còn nói gì nữa không?” Thanh Duy hỏi.

Tạ Dung Dữ dịu dàng nói: “Nhạc tiền bối không nói gì cả, nhưng nàng đấy, nàng có mong muốn gì không, chẳng hạn tổ chức lại hôn sự lần nữa? Miễn là nàng muốn.”

Y đều có thể thực hiện.

Thanh Duy lắc đầu, thấp giọng nói: “Không cần đâu.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Vì sao?”

Thanh Duy nhìn y.

Ánh đèn tù mù hắt qua lớp rèm, ngưng thành màn sương lượn lờ trong giường. Làn sương ấy dừng trên đôi mắt y, đẹp ngỡ như mơ, sáng tựa sao trời.

Hôn sự lần tới phải đợi đến bao giờ?

Thanh Duy hé môi, nhưng không có cách nào thốt lên thành lời.

Nàng bèn vòng tay ôm cổ y, áp sát người dán vào vành tai y, giọng nhẹ bẫng, “Quan nhân, ta không muốn đợi nữa.”

Từng câu chữ theo gió đưa vào tai, từ từ chạm thấu lòng y, ba chữ “không muốn đợi” như sợi tơ bé nhỏ phe phẩy con tim y, chỉ một thoáng đã làm bùng lên ngọn lửa mãnh liệt. Không đợi Thanh Duy phản ứng, Tạ Dung Dữ giơ tay ôm gáy nàng, quay mặt sang môi kề môi, sau đó chống người nhổm dậy, một tay vòng qua dưới lưng nàng, nhốt nàng ở dưới người.

Đôi mắt lạnh lùng vốn có của y nay nhuốm đầy lửa đỏ, hơi thở càng lúc càng nặng nề, rẽ hoa vén liễu trong khu vườn nhỏ là cảnh đẹp nhân gian khó diễn tả bằng lời.

Y thở hổn hển: “Tiểu Dã, không phải ta đã nói, ban đêm đừng có như vậy…”

Nhưng cả hai vẫn dán chặt lấy nhau, thậm chí nàng có thể cảm nhận rõ ràng sự khác thường của y, dù có cố gắng kiềm chế tới đâu vẫn không thể kìm nén được bản thân mình.

Y vén tóc nàng sang một bên, như chuồn chuồn điểm nước, những chiếc hôn lần lượt rơi xuống vành tai nàng, mí mắt, tóc mai rồi đến cằm…

Như thể nếu làm thế thì có thể giải tỏa, mà cũng chỉ có thể giải tỏa bằng cách này.

“Quan nhân.” Thanh Duy khẽ gọi.

Tạ Dung Dữ khàn giọng đáp lại.

“Nếu chàng muốn…” Nàng đẩy nhẹ y, nhìn vào mắt y, “Ta giúp chàng nhé?”

Tạ Dung Dữ khựng lại, “Nàng giúp ta?”

Thanh Duy gật đầu, chống tay lên vai y, “Không phải còn có rất nhiều cách à? Có thể dùng tay, rồi cả…”

Nàng cảm thấy khó nói ra, cắn nhẹ môi dưới, đôi môi sau nụ hôn căng mọng ướt át.

Tạ Dung Dữ cũng nhìn nàng, tròng mắt càng thêm sâu, “Nàng nghe được thứ này… ở đâu?”

Thanh Duy dẩu môi: “Ta ở bên ngoài biết bao nhiêu năm, có vài chuyện dĩ nhiên là nghe được rồi.”

Nàng nghĩ ngợi, đoạn giải thích: “Hồi còn ở Nhạc Châu, có một lần đang đi tìm sư phụ thì phải vào kỹ viện để trốn quan binh, ở đó có một kỹ nữ rất tốt, không những chứa chấp ta mà còn bảo vệ ta nữa. Chỉ là nàng ấy phải tiếp khách ban đêm, ta buộc lòng ngủ trên cột xà, thỉnh thoảng nàng ấy còn nói chuyện với các tỉ muội về cách lấy lòng quan khách, nên ta cũng nghe được một hai.”

Nhưng hồi ấy nghe chẳng hiểu gì, về sau lang bạt thời gian dài, tiếp xúc với đủ hạng người mới dần hiểu ra.

Bàn tay Thanh Duy men theo vạt áo để mở của Tạ Dung Dữ lần xuống dưới, nhỏ giọng nói: “Quan nhân, ta tình nguyện mà. Chỉ là ta không hiểu cho lắm, chàng dạy ta có được không?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng đăm đăm, trung y cởi nửa, suối tóc xõa tung trên gối, phủ lên đầu vai trắng như tuyết của nàng.

Y nhìn nàng một lúc lâu, cuối cùng chỉ nắm tay nàng, hạ giọng nói: “Không cần.”

“Nếu bắt đầu, chưa chắc ta đã có thể dừng lại.”

“Hơn nữa đây cũng là lần đầu tiên của chúng ta, không thể để nàng chịu tủi được.” Y hôn nhẹ lên tay nàng, “Lần này bỏ qua, về sau ta sẽ từ từ dạy nàng.”

Y ngồi dậy, ôm Thanh Duy vào lòng, ôn tồn hỏi, “Cái kia của nàng, bao lâu nữa thì hết?”

“Hôm nay là ngày đầu tiên, phải năm sáu ngày mới hết sạch được.” Thanh Duy nói.

Nhưng nghĩ một lúc, nàng nhanh chóng bổ sung, “Nếu mà nhanh, ba bốn hôm cũng được.”

Tạ Dung Dữ bật cười, cụp mắt nhìn nàng, “Năm sáu ngày thì năm sáu ngày, chuyện ấy không thể qua loa, ai lại đi cò kè với chính cơ thể của mình hả?” Đôi mắt y trở nên nhẹ nhàng hơn, “Cũng được, gần đây ta đang bận xem hồ sơ, để nhân tiện tìm ngày lành tháng tốt.”

Thanh Duy nói: “Hồi trước chàng xem hồ sơ cả ngày lẫn đêm không biết mệt, là vì chuyện này?”

Đương nhiên là vì vụ án rồi.

Nhưng xem cả ngày lẫn đêm, dĩ nhiên cũng có một phần nguyên nhân ấy.

Tạ Dung Dữ cười khẽ, “Đúng thế, có Tiểu Dã cô nương quyến rũ như vậy ở bên cạnh ta mỗi tối, sao ta có thể không muốn…”
 
Chương 154


Dạo gần đây Đông An vô cùng tấp nập, tiến độ xây lại Tiển Khâm Đài đã đi được hơn nửa, mệnh quan triều đình rồi thương nhân thương hộ, ai ai cũng đổ xô đến nơi này. Vào buổi sớm khi cổng thành vừa mở, dân chúng qua lại như thoi, đến nỗi Chương Đình muốn rời thành cũng phải dừng chân đợi dòng người bớt đông. Cũng may buồng xe rộng rãi thông thoáng, nếu không với bộ quan bào vừa dày vừa nặng hắn đang mặc trên người, kiểu gì cũng sẽ ướt sũng mồ hôi.

Một lúc sau đã đến đình Ngũ Lý, tùy tùng ngoài xe nhổm đầu nhìn một lúc, thấy trên đường có ba người cưỡi ngựa tiến đến, người ở giữa mặc giáp đỏ chính là Phong Nguyện, tùy tùng vội thưa: “Đại nhân, Phong Nguyên tướng quân đến rồi ạ.”

Vùng phía tây Lăng Xuyên có một khu mỏ tên Chi Khê, sản xuất rất nhiều quặng sắt. Nhưng vào Năm Chiêu Hóa thứ mười hai mười ba, số lượng khoáng sản Chi Khê không khớp với con số báo cáo lên triều đình, mà triều đình chỉ mới phát hiện ra sai lệch khi kiểm tra sổ sách vào năm nay.

Thời gian trước Chương Hạc Thư viết thư gửi Chương Đình, bảo hắn hỗ trợ Phong Nguyên tướng quân giải quyết chuyện này.

Bộ Hộ chịu trách nhiệm giám sát mỏ khoáng, nếu có sơ suất, nhẽ ra phải là bộ Hộ phái người đến mới đúng. Nhưng năm năm trước khu vực mỏ khoáng này khá đặc thù – là nơi triều đình phê chuẩn làm quân bị cho Trấn Bắc Quân, do đó Xu Mật Viện để tâm tới chuyện này hơn bộ Hộ, cử hẳn đại tướng quân tứ phẩm đến.

Phong Nguyên xuống ngựa, giao ngựa cho quân lính đi theo, không kịp chào hỏi Chương Đình đã vào thẳng vấn đề: “Có tung tích gì của Sầm Tuyết Minh không?”

Ông ta có tướng tá của một vị võ tướng điển hình, lưng hùm vai gấu, râu quai nón xồm xoàm, tính tình bộp chộp.

Chương Đình không trả lời, chỉ mời ông talên xe ngựa trước, “Tạm thời Chương mỗ vẫn chưa có tung tích của Sầm Tuyết Minh, nhưng Chương mỗ đã sắp xếp thống kê manh mối có liên quan đến vụ án này, làm thành hồ sơ, mời tướng quân xem.”

Phong Nguyên vốn ít học, hễ nhìn chữ là lại đau đầu, cho nên càng không muốn xem đống hồ sơ dày cộm trong tay, chỉ nói với Chương Đình, “Mấu chốt trong vụ án này là ở Sầm Tuyết Minh, hắn ta là người cuối cùng kiểm duyệt sổ sách của khu mỏ trước khi báo lên triều đình, hắn là thông phán, nếu hắn không giở trò, thì làm gì có chuyện cả ngọn núi mỏ khoáng qua mắt được triều đình? Rốt cuộc ngươi có điều tra Sầm Tuyết Minh không thế hả?”

Chương Đình nhì Phong Nguyên chằm chằm, điềm nhiên đáp: “Có điều tra. Nhưng Sầm Tuyết Minh không có vấn đề gì, sổ sách báo cáo đã qua tay hai lần trước khi vào tay hắn, trừ phi đích thân đến mỏ thị sát, còn không rất khó để phát hiện sơ hở, Chương mỗ cho rằng Sầm Tuyết Minh mất tích không liên quan quá nhiều đến vụ án này.” Chương Đình dừng một lúc mới nói tiếp, “Chương mỗ đã kiểm tra sổ án, phát hiện Sầm Tuyết Minh từng phục vụ trong Hổ Tiếu Doanh, nếu Chương mỗ nhớ không lầm, thống lĩnh của Hổ Tiếu Doanh lúc ấy chính là tướng quân, theo lí mà nói ắt hẳn tướng quân có quen biết Sầm thông phán, chẳng lẽ tướng quân không biết gì về tung tích của hắn ư?”

Chương Đình quá hiểu Phong Nguyên là người thế nào.

Hổ Tiếu Doanh nơi Phong Nguyên và Sầm Tuyết Minh phục vụ từng thuộc đại quân chinh Tây, mà tướng soái của đại quân đó chính là Khúc Bất Duy.

Chương Đình nói câu ấy là đang thăm dò, bề ngoài chỉ nói về việc Sầm Tuyết Minh mất tích, nhưng rõ ràng đang muốn truy hỏi lý do Phong Nguyên đến Lăng Xuyên.

Tuy Chương Đình còn trẻ nhưng đã làm quan nhiều năm, biết đạo lí nước trong không có cá, chuyện sổ sách địa phương báo cáo không khớp với số liệu triều đình kiểm tra là điều bình thường, không phải lúc nào cũng do tham nhũng,có thể chỉ vì vài chuyện nhỏ nhặt, do đó chỉ cần con số chênh lệch không quá lớn, triều đình sẽ không điều tra sâu. Chương Đình đã xem qua sổ sách khoáng sản Chi Khê năm Chiêu Hóa thứ mười hai mười ba, con số chênh lệch ở mức chấp nhận được, từ việc bộ Hộ còn không buồn cử người đến kiểm tra là có thể nhận ra. Thế nhưng Xu Mật Viện lại phái hẳn một tướng quân tứ phẩm đến để điều tra, cho nên Chương Đình mới muốn hỏi Phong Nguyên: Có thật ông cất công đến Lăng Xuyên như thế là để điều tra án không? Hay vụ án này chỉ là một cái cớ, thực ra ông đang lấy danh tra án để tìm thông phán Sầm Tuyết Minh đã mất tích từ năm năm trước?

Chương Đình thấy Phong Nguyên không đáp, giọng nhẹ đi, “Vậy theo ý của tướng quân, điều chúng ta cần làm bây giờ là phải tìm cho ra Sầm Tuyết Minh?”

Phong Nguyên gật đầu: “Đúng thế, không chỉ tìm ra hắn mà còn phải tìm được tội chứng hắn để lại.”

Chương Đình đáp một tiếng, ý là đã hiểu.

Thực chất Chương Đình đoán không sai, sổ sách khoáng sản không khớp chỉ là cái cớ, mục đích Phong Nguyên đến Lăng Xuyên lần này chỉ có một, chính là truy tìm Sầm Tuyết Minh.

Hiện tại Tiểu Chiêu vương đã điều tra được Sầm Tuyết Minh, thậm chí biết rõ Sầm Tuyết Minh chính là kẻ trung gian giúp Khúc Bất Duy bán danh sách lên Tiển Khâm Đài, một khi tội chứng Sầm Tuyết Minh để lại rơi vào tay Tiểu Chiêu vương, phía bọn họ chắc chắn sẽ trong tình cảnh lao đao.

Vốn dĩ Phong Nguyên cũng muốn giải thích hết mọi chuyện với Chương Đình, nhưng trước khi đến đây, Khúc Bất Duy đã dặn dò kỹ lưỡng, nói rằng tuy ông ta có được danh sách lên đài từ Chương Hạc Thư, nhưng Chương Đình không hề hay biết những chuyện này, Chương Hạc Thư cũng không muốn để hắn biết, cho nên Phong Nguyên phải chú ý ăn nói, không được để lộ bí mật.

Phong Nguyên là kẻ lỗ mãng, đâu giỏi nói năng che giấu, chỉ dăm đôi ba câu đã khiến Chương Đình nhận ra sơ hở. Ông ta không biết phải xoay sở thế nào, nghĩ một lúc, dứt khoát hỏi thẳng, “Thẩm Lan gì đó, ngươi cũng điều tra rồi chứ?”

“Điều tra rồi.” Chương Đình đáp.

Phong Nguyên từng nói qua trong thư rằng trước khi mất tích, Sầm Tuyết Minh đã tiếp xúc với một sĩ tử may mắn sống sót, sĩ tử này tên Thẩm Lan, nhưng vì bị thương nặng không kịp chữa trị nên đã bất hạnh qua đời vào tháng tám năm Chiêu Hóa thứ mười ba.

Chương Đình nói: “Trong nhà Thẩm Lan buôn bán tranh chữ, năm xưa từng trúng cử, được chọn lên đài cũng không lạ, y cũng không có vấn đề gì khả nghi.” Nói đoạn, hắn nhìn thẳng Phong Nguyên, “Kể ra thì, Sầm Tuyết Minh cũng mất tích không lâu sau khi Tiển Khâm Đài sập, tướng quân lại cất công điều tra Thẩm Lan này… Lẽ nào, chuyện Sầm Tuyết Minh mất tích có liên quan đến Tiển Khâm Đài?”

Hắn dừng một lúc, “Hiện tại Tiểu Chiêu vương cũng đang điều tra nội tình Tiển Khâm Đài sập, chi bằng tướng quân đi hỏi điện hạ đi?”

Phong Nguyên bị Chương Đình chặn họng, không biết nên nói gì.

Ông ta biết Chương Đình đang thăm dò mình, ông không sợ tiết lộ tin tức với Huyền Ưng Ti, chẳng qua cứ giấu giếm như vậy thì rất khó giải quyết công chuyện.

Ông ta bối rối, cứ mở miệng “tóm lại, dù sao, đại khái…” một lúc lâu mà vẫn không nặn ra được một câu đầy đủ, cuối cùng đành khép miệng, vén rèm nhìn ra ngoài cửa sổ.

***

Chẳng mấy chốc đã tới dinh quan, hai người vừa xuống xe thì nghe thấy tiếng ngựa rầm rập phi đến, một người thúc ngựa chạy vào từ đầu ngõ, vừa tới gần đã lập tức xuống ngựa, vái chào hai người Chương Phong rồi cấp báo, “Tướng quân, có chuyện gấp.”

Người này họ Đỗ, là một Hiệu úy thất phẩm, thuộc hạ của Phong Nguyên. Khi Phong Nguyên không có mặt ở đây, mọi chuyện ở Lăng Xuyên đều do hắn giải quyết.

Phong Nguyên cùng Đỗ Hiệu úy bước sang một bên, cúi người nghe hắn thì thầm mấy câu, lập tức biến sắc: “Ngươi nói gì?!”

Rồi ý thức được mình đã phản ứng thái quá, ông ta liếc nhìn Chương Đình một cái, nhích bước ra xa, hạ tông giọng hỏi, “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, tư dinh của Hầu gia ở Trung Châu được canh phòng cẩn mật, sao bức Tứ cảnh đồ có thể bị trộm?”

Đỗ Hiệu úy nói: “Tin chính xác ạ, chắc chắn Sầm Tuyết Minh và Thẩm Lan đã cùng giao kèo để lại bằng chứng, bằng chứng quan trọng nhất ắt nằm ở bức Tứ cảnh đồ bị trộm. Giờ Hầu gia sốt ruột lắm, xin tướng quân lập tức nghĩ cách đối phó.”

Phong Nguyên hỏi: “Có chắc chắn Tứ cảnh đồ bị người của Tiểu Chiêu vương trộm không?”

“Ngoài Tiểu Chiêu vương ra, còn ai thần thông quảng đại như vậy nữa.” Đỗ Hiệu úy nói, “Tuy Huyền Ưng Ti không có động thái, nhưng… không rõ tướng quân đã biết chưa, năm ngoái Tiểu Chiêu vương vừa cưới một phu nhân, người này dùng tên giả Thôi thị, thực chất mang họ Ôn, chính là con gái của kiến trúc sư Ôn Thiên, Nhạc tiểu tướng quân lừng lẫy một thời là sư phụ của cô ta. Cô ta có bản lĩnh cao cường, năm ngoái chỉ một mình dẫn mười mấy tử sĩ đã có thể cướp ngục thành Nam, phía tư dinh Trung Châu nói có lẽ kẻ lấy trộm Tứ cảnh đồ chính là nữ Ôn thị. Vả lại… hình như lúc trước Tả Kiêu vệ cũng phát hiện ra tung tích của nữ Ôn thị tại Lăng Xuyên, nhưng sau đó không hiểu sao lại không điều tra nữa, chắc là đã được Tiểu Chiêu vương bảo vệ.”

Đỗ Hiệu úy lo lắng: “Giờ phải làm gì đây tướng quân? Nếu bức Tứ cảnh đồ thực sự đang ở trong tay Tiểu Chiêu vương, Huyền Ưng Ti tìm được tội chứng của Sầm Tuyết Minh trước chúng ta một bước, hậu quả sẽ rất khó lường.”

Phong Nguyên nhíu mày suy nghĩ, trầm giọng nói: “Vẫn chưa chắc chắn, đừng có cuống. Hơn nữa Tiểu Chiêu vương chỉ là người ngoài, ai biết hắn có thể nhìn ra được gì từ Tứ cảnh đồ, hơn nữa chưa chắc manh mối hắn đang có nhiều hơn chúng ta, có lẽ chúng ta có thể tìm ra Sầm Tuyết Minh trước.” Hắn dừng lại, “Thế này đi, phía ta vẫn làm theo kế hoạch, cùng vị thiếu gia họ Chương này điều tra Sầm Tuyết Minh và Thẩm Lan, còn ngươi đi tìm Ngũ công tử, để cậu ta thăm dò tin tức chỗ Tiểu Chiêu vương.”

“Ngũ công tử?” Đỗ Hiệu úy ngẩn người, “Ý tướng quân là Khúc Ngũ gia?”

Hắn lập tức nói, “Không được, Ngũ gia là công tử bột, không giúp được gì đâu. Cậu ta vẫn chưa biết chuyện của Hầu gia, nói với cậu ta chưa chắc cậu ta đã hiểu, không làm loạn đã tốt lắm rồi, không thể nhờ vả trông cậy được.”

Phong Nguyên nói: “Không cần cậu ta giúp, trái lại cần cậu ta làm loạn đấy. Năm năm nay cậu ta chơi thân với Tiểu Chiêu vương nhất, không phải những chuyện hư hỏng ngày trước đều do Tiểu Chiêu vương xử lý giúp cậu ta sao, triều đình không xử cậu ta là nể mặt Hầu gia ư? Không phải, là nể Tiểu Chiêu vương. Ngũ gia là người trọng nghĩa khí, quan hệ cả hai tốt như thế, vậy mà Tiểu Chiêu vương lại phái thuộc hạ đến nhà cậu ta trộm đồ, ngươi nói cậu ta có nuốt nổi cục tức này không? Không nuốt nổi sẽ gây sự, ngươi hãy xúi cậu ta đi tìm Tiểu Chiêu vương gây sự, ngươi chỉ cần đứng bên nghe ngóng xem Tứ cảnh đồ đang ở đâu là được. Lan truyền tung tích Tứ cảnh đồ cũng được, miễn là Tiểu Chiêu vương không lấy được bằng chứng.”

Đỗ Hiệu úy đã hiểu, chuyện này thì khó gì, chọc giận Khúc Mậu là xong.

Làm công chuyện không nên chậm trễ, hắn lập tức nói: “Tướng quân quả là cao kiến, thuộc hạ lên đường ngay đây.”

***

Hôm nay Khúc Mậu dậy rất sớm, còn kịp cả giờ ăn trưa.

Vụ án ở Thượng Khê đã kết thúc, nay hắn ở lại Đông An cũng không còn chuyện để làm, đáng nhẽ ra nên dẫn tuần vệ quay về bản doanh ở núi Bách Dương. Nhưng thời tiết nóng nực oi bức, về Tiển Khâm Đài đâu sung sướng như ở dinh quan? Gã phủ doãn Đông An chỉ biết nịnh bợ Trương Viễn Tụ, suốt ngày đưa băng đến dinh quan, nhờ thế hắn cũng được hưởng sái một phần nhỏ, mát mẻ đến nỗi chẳng muốn đi đâu, thậm chí cũng còn chẳng buồn nhấc chân đến Đinh Lan Giản ở ven hồ.

Nhắc đến mới nhớ, các cô nương ở Đinh Lan Giản ai cũng mỹ miều, nhưng nếu so sánh, Họa Đống cô nương ở Minh Nguyệt Lâu ở kinh thành lại thú vị hơn, khiến hắn nhớ nhung nhiều hơn.

Khúc Mậu ngồi trên xích đu ngoài hành lang, hai mắt nhắm nghiền, trong đầu ngập tràn nụ cười khúc khích của Họa Đống, bàn tay mảnh mai mềm mại của nàng cùng tiếng thỏ thẻ mỗi khi nằm bên hắn. Hận một nỗi bây giờ đang ở xa, biết thế hắn đã xin Họa Đống khăn tay có mùi hương phấn, để nay lấy ra che mặt, đi ngủ cũng có giấc mơ đẹp.

Khúc Mậu suy nghĩ miên man, chẳng mấy chốc đã thiếp ngủ, nhưng khi sắp sửa tiến vào mộng đẹp cùng Họa Đống thì lại nghe thấy Vưu Thiệu vội vàng chạy tới, “Ngũ gia, có Đỗ Hiệu úy đến ạ.”

Khúc Mậu bực dọc mở trừng mắt, định hỏi là kẻ nào quấy nhiễu mộng đẹp của Khúc gia gia, nhưng vừa thấy rõ người trong sân thì lập tức đứng dậy.

Hắn biết Đỗ Hiệu úy, là người của Phong Nguyên. Mà Phong Nguyên lại là thân tín của cha hắn.

Khúc Mậu đã gây ra không biết bao nhiêu họa lớn nhỏ trong chuyến đến Lăng Xuyên lần này, tuy mỗi lần đều có Tạ Dung Dữ bao che, song chưa chắc đã qua được ải của Khúc Bất Duy.

Khúc Mậu tưởng cha cử Đỗ Hiệu úy đến dạy dỗ mình, thế là vội vàng mời người vào phòng, sai Vưu Thiệu đi chuẩn bị trà.

Đỗ Hiệu úy nhận tách trà, không uống mà nói thẳng, “Không rõ bây giờ Ngũ gia có rảnh để đến chỗ Tiểu Chiêu vương một chuyến được không?”

Khúc Mậu nhìn ra ngoài trời, vẫn còn quá nóng, “Chuyện gì vậy? Ở trong nhà không tốt hơn à?”

Tứ cảnh đồ bị trộm khiến Đỗ Hiệu úy vô cùng sốt ruột, lập tức nói, “Ngũ gia chắc biết Hầu gia có tư dinh ở Trung Châu, là nơi cất chứa đồ cổ tranh chữ sưu tầm được.”

Khúc Mậu đáp: “Biết chứ.”

Hắn còn từng xem qua số tranh chữ đồ cổ ấy, trong số đó có một món tên là Tứ cái gì đồ đấy, có thể thay đổi thành các khung cảnh khác nhau, cha hắn thích không thôi, nhưng chẳng hiểu sao cứ để mãi ở Trung Châu mà không đem về kinh. Chứ không việc gì thời gian trước hắn phải chi ngàn vàng cho bức Sơn vũTứ cảnh đồ tương tự? Không phải vì muốn dỗ cha vui ư?

Đỗ Hiệu úy vỗ đùi, “Thế có lẽ Ngũ gia chưa biết, bức Tứ cảnh đồ Hầu gia cất ở tư dinh đã bị trộm! Mà người ăn trộm nó, chính là Tiểu Chiêu vương!”

Động tác cầm tách trà của Khúc Mậu khựng lại, trợn mắt há mồm: “Có cả chuyện đó sao?”

Có vẻ hắn vẫn chưa tin, “Ta thấy Thanh Chấp không giống người sẽ làm chuyện như thế.”

“Thậm chí còn có chuyện khó tin hơn nữa!” Đỗ Hiệu úy nói, “Năm ngoái Tiểu Chiêu vương mới cưới một cô vợ có bản lĩnh cao cường, Ngũ gia còn nhớ không?”

“Nhớ chứ, không phải là đệ muội của ta à?” Khúc Mậu nói.

Về sau đệ muội mất tích, ngày nào Thanh Chấp cũng phái người đi tìm. Khúc Mậu đã quá quen với chốn tình trường, chỉ một cái liếc mắt cũng đủ nhận ra ai động lòng ai chơi đùa, hắn biết Thanh Chấp thực sự đặt nữ Ôn thị trong tim.

“Có chuyện này hẳn Ngũ gia chưa biết, thực ra Tiểu Chiêu vương đã tìm được nữ Ôn thị ở Lăng Xuyên, cũng chính cô ta đã trộm bức Tứ cảnh đồ, chỉ có cô ta mới có bản lĩnh đến thế.”

Nghe hắn ta nói như vậy, Khúc Mậu nghĩ ngợi một lúc, lập tức xâu chuỗi được mọi chuyện.

Hèn gì gần đây hay có vài Huyền Ưng vệ đội mũ đi theo Thanh Chấp, mà một trong số đó hầu như không hành lễ với bất cứ ai, thậm chí người bên dưới còn kính nể nàng ta, ắt hẳn người này chính là đệ muội.

Đợt trước hắn đòi chuyển đến Quy Ninh Trang ở với Thanh Chấp, Thanh Chấp khăng khăng không đồng ý, hóa ra là kim ốc tàng kiều!

Khúc Mậu vỗ bàn: “Thời gian trước ta còn cùng hắn đến Thuận An Các, hắn nói với ông chủ là thích phong cách của Đông Trai tiền triều, thích Tứ đồ gì đấy, còn mượn bộ Sơn vũTứ cảnh đồ ta đã mua, hóa ra hắn đã nhắm đến bảo vật nhà ta!”

Đỗ Hiệu úy góp lửa: “Ngũ gia xem, chuyện này rất có thể do Tiểu Chiêu vương làm, Ngũ gia nhanh đi hỏi thử đi!”

Lửa giận bùng lên, Khúc Mậu ước gì có thể bóp nát tách trà trong tay, “Không thể cứ để như vậy được! Ta phải đi hỏi cho ra nhẽ!”

“Ngũ gia và Tiểu Chiêu vương chơi thân nhiều năm, ngày trước Tiểu Chiêu vương đóng giả làm Giang thiếu gia, Ngũ gia giận hai tháng rồi cũng nguôi ngoai, không ngờ bây giờ y lại đến nhà trộm đồ, hóa ra chỉ là hạng ngụy quân tử.”

Khúc Mậu đặt tách trà xuống, chắp tay đi đi lại lại, áo bào phấp phới như bay, “Ngươi nói đúng, hắn thật quá quắt, ăn hiếp quá đáng!”

“Ăn hiếp quá đáng!” Đỗ Hiệu úy phụ họa.

Khúc Mậu ngoái đầu nhìn chằm chằm Đỗ Hiệu úy, “Tạ Thanh Chấp hắn với Khúc Đình Lam ta có quan hệ thế nào? Không phải chỉ là một bộ tranh thôi ư? Sao không nói thẳng với ta? Nếu nói thẳng, Khúc Đình Lam ta nhất định sẽ đích thân lấy tranh đến cho hắn, việc gì phải đi trộm? Đang xem thường Khúc Ngũ gia ta hả?!”

Đỗ Hiệu úy lại phụ họa: “Đúng là xem thường Ngũ… Hả?”

Khúc Mậu: “Lại còn để đệ muội ra tay! Tư dinh của cha ta có biết bao vệ binh canh chừng, không sợ đệ muội bị thương hả!”

Đỗ Hiệu úy: “…”

Khúc Mậu bất chấp trời nắng nóng, vén bào đi thẳng ra ngoài viện, “Không được, ta phải đích thân tìm Thanh Chấp hỏi rõ mới được! Bộ tranh kia đáng giá thế nào cũng chỉ chừng một vạn tám ngàn lượng, hắn cảm thấy ta không chi ra nổi số tiền này hả, sợ cha ta hỏi tới mà ta không biết ứng phó, không thể giúp hắn mua lại tranh từ tay cha sao? Hừ, hắn quá coi thường Khúc tán tài ta rồi…”

Đỗ Hiệu úy nhìn theo bóng lưng vội vã của Khúc Mậu.

Chọc giận thì chọc giận rồi đấy.

Nhưng… hình như có gì đó sai sai?
 
Chương 155


“Theo như bức tranh phủ của bộ Tứ cảnh đồ, tất cả chỗ này là manh mối liên quan đến ‘vịt’ mà chúng thuộc hạ tìm được.”

Trong thư phòng, Vệ Quyết lần lượt trải những cuộn thẻ tre ra bàn, “Có tất cả 7 ngôi làng nổi tiếng về vịt; có 4 ấp liên quan đến truyền thuyết về vịt; hàng quán chuyên bán vịt lại nhiều hơn nữa, chúng thuộc hạ chỉ liệt kê được 23 nhà; khoảng 6 nơi có địa hình giống vịt, có lẽ sẽ có thiếu sót vì bản đồ bị giới hạn, vài gò núi hồ nước không được vẽ vào; số còn lại không biết phải phân thế nào, tính theo lớn nhỏ thì có hơn trăm cột.”

Kỳ Minh tiếp lời: “Sầm Tuyết Minh là thông phán nên rất nhiều vụ án ở địa phương do chính gã báo lên triều đình, chỉ tính trong vòng hai năm trước khi gã mất tích, tổng cộng có bảy tám mươi vụ án qua tay gã, nhưng dường như không có vụ nào liên quan đến vịt. Dĩ nhiên nếu điều tra kỹ, rất có khả năng sẽ phát hiện ra manh mối mới, ngặt nỗi… chi tiết quá rườm rà rắc rối, cứ thế điều tra thì biết tới khi nào? Nhiệm vụ của Vệ Chưởng sứ còn vất vả hơn, nhưng hiện giờ số Huyền Ưng vệ ở Lăng Xuyên còn không vượt quá ba trăm, tuy có châu phủ hỗ trợ song chúng thuộc hạ vẫn không đủ nhân lực.”

Nghe hai người nói xong, Chương Lộc Chi lấy làm chán chường, “Còn tưởng thiếu phu nhân thuận lợi đem Tứ cảnh đồ về thì chúng ta có thể bước gần hơn đến chân tướng, ai dè một bước này lại khó quá trời. Mọi người nói xem, vì sao Sầm Tuyết Minh đã để lại manh mối mà không viết rõ ra đi? Việc gì khiến chúng ta phải khổ sở như vậy.”

Thực chất Huyền Ưng Ti đã trải qua rất nhiều gian nan vất vả tương tự, chẳng qua trước đó bọn họ phá án quá suôn sẻ nên mới cảm thấy thế, Chương Lộc Chi cũng chỉ cảm thán chứ không phàn nàn oán trách chi.

Tạ Dung Dữ trầm ngâm, đoạn bảo: “Ta cho rằng Sầm Tuyết Minh sẽ không để lại manh mối mông lung như vậy.” Y nhìn mọi người, “Các ngươi có nghĩ vì sao Sầm Tuyết Minh lại giấu manh mối trong bức Tứ cảnh đồ không?”

“Vì sao?” Chương Lộc Chi hỏi.

“Vì Tứ cảnh đồ nằm trong tay Khúc Bất Duy.” Thanh Duy tiếp lời, “Sầm Tuyết Minh mất tích là vì không muốn làm con dê thế tội cho Khúc Bất Duy. Nhưng rất khó để che giấu thân phận giữa biển người, chắc chắn gã cũng không được sống tự do thoải mái, rất có thể gã cũng hi vọng sớm ngày thấy ánh mặt trời. Gã đã nghĩ ra một cách để đảm bảo bản thân sẽ khó bị Khúc Bất Duy bắt, đó chính là để lại manh mối trong Tứ cảnh đồ. Vì một khi Tứ cảnh đồ bị tìm thấy, chứng tỏ triều đình đã bắt đầu nghi ngờ Khúc Bất Duy, gã ta xuất hiện sau, thứ nhất sẽ không phải làm kẻ thế tội cho Khúc Bất Duy, gã hai, hắn có thể chỉ ra tội chứng của Khúc Bất Duy hay thậm chí là Chương Hạc Thư, lấy công chuộc tội tránh tội chết.”

Kỳ Minh bừng tỉnh, “Thiếu phu nhân nói quả không sai, vậy xem ra Sầm Tuyết Minh sẽ không để lại manh mối mông lung như vậy, chẳng qua lúc đó gã chỉ có thể lợi dụng Tứ cảnh đồ, còn họa kỹ của Thẩm Lan lại có hạn.”

Thanh Duy gật đầu đáp: “Đúng thế.” Nàng nhìn xấp thẻ tre mà Vệ Quyết đặt trên bàn, rút ra hai thẻ, “Nên ta cho rằng, manh mối ‘vịt’ này phải rất trực quan, tuyệt đối không thể là truyền thuyết hay hàng quán, chi bằng Huyền Ưng Ti kiểm tra thêm những thôn làng nổi tiếng về vịt, hoặc địa hình giống vịt đi.”

“Và cả vụ án nữa.” Vệ Quyết nói, “Nếu Sầm Tuyết Minh cũng hi vọng chúng ta có thể tìm ra gã, rất có khả năng gã đang ở nơi nào đó trong số các vụ án gã tiếp quản.”

Chương Lộc Chi thở dài, “Nhưng không phải Tiểu Kỳ Minh mới nói có rất nhiều vụ án à…”

Vệ Quyết nhìn Tạ Dung Dữ, “Ngu hầu, sáng nay thư khẩn của Quan gia đã đến nơi, trong thư nói Xu Mật Viện cử tướng quân Phong Nguyên tới Lăng Xuyên vì một vụ án mỏ khoáng?”

“Ngu hầu đã lệnh cho thuộc hạ điều tra vụ này rồi.” Kỳ Minh tiếp lời, “Mỏ khoáng Chi Khê nằm phía tây bắc Lăng Xuyên, số lượng khoáng sản báo cáo mấy năm trước không khớp với con số bộ Hộ kiểm tra, Sầm Tuyết Minh cũng từng tiếp quản vụ này, có điều trước khi đến tay gã thì đã qua tay hai lần, gã chỉ điểm chỉ ký tên, không quá liên quan, thuộc hạ…” Kỳ Minh nhìn Tạ Dung Dữ, chần chừ nói, “Thuộc hạ cho rằng, có lẽ vụ án này chỉ là danh nghĩa ngụy trang, Phong Nguyên tướng quân lấy đó làm cớ đến Lăng Xuyên tìm Sầm Tuyết Minh, không biết Ngu hầu và Vệ Chưởng sứ thấy thế nào?”

Vệ Quyết trầm ngâm chốc lát, “Ta cũng đoán chỉ là cái cớ.” Hắn cau mày, “Thiếu phu nhân nói không sai, hẳn manh mối Sầm Tuyết Minh để lại phải rất trực quan, đáng tiếc chúng ta vẫn còn thiếu một điểm đột phá, nếu có thể tìm được tin tức từ phía Khúc Bất Duy ắt có lẽ sẽ suôn sẻ hơn…”

Đúng lúc này, chợt một Huyền Ưng vệ ở bên ngoài cấp báo, “Bẩm Ngu hầu, Khúc Hiệu úy đến ạ.”

Chương Lộc Chi cuống cuồng, “Chắc chắn Khúc Bất Duy đã phát hiện ra Tứ cảnh đồ bị mất nên mới để Khúc Hiệu úy đến truy hỏi, Ngu hầu tuyệt đối không thể gặp ngài ấy.”

Nhưng lời vừa dứt, mọi người trong phòng đồng loạt nhìn về phía hắn, không ai lên tiếng.

Chương Lộc Chi nhìn quanh, gãi đầu bảo, “Sao vậy? Thuộc hạ nói gì sai sao?”

Kỳ Minh còn trẻ, không kìm được bật cười, “Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, dĩ nhiên Đô hầu phải gặp chứ.”

Vệ Quyết nói: “Khúc Hiệu úy đến vào lúc này ắt không đơn giản, mong thiếu phu nhân và Ngu hầu hãy gặp ngài ấy một lần, hi vọng có thể tìm được điểm đột phá.” Nói đoạn, hắn chắp tay cúi đầu, dẫn các Huyền Ưng vệ rời khỏi thư phòng.

Cửa thư phòng mở rộng, Vệ Quyết vừa lui ra thì Khúc Mậu đã hùng hổ bước vào.

Hắn mặc áo lam tơ tằm, bấy giờ mặt trời đã lên cao đỉnh đầu, mồ hôi đổ ướt trán, vừa vào thư phòng, hắn lập tức quét mắt nhìn Tạ Dung Dữ và Thanh Duy đang đội nón che mặt, sau đó ngồi phịch xuống ghế, cười lạnh nhìn Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ không đổi sắc, ra lệnh cho Đức Vinh, “Mau pha cho Đình Lam cốc trà Ngân châm giải nhiệt.”

Khúc Mậu vung tay, dấm dẳn nói, “Khỏi, ta uống không nổi trà của Tiểu Chiêu vương điện hạ.”

Tạ Dung Dữ ôn tồn hỏi, “Sao thế, là ai chọc tức huynh à?”

Khúc Mậu nghĩ bụng, là cậu chứ còn ai.

Nhưng hắn không huỵt toẹt ra mà trái lại còn úp úp mở mở, nhướn mày nhìn lướt qua Thanh Duy, ra vẻ “ta đây biết hết nhưng ta cóc nói”, thong thả bảo: “Cái người lạ mặt này, hình như lúc trước gặp đâu đó rồi ấy nhỉ.”

Tạ Dung Dữ im lặng nhìn hắn.

Khúc Mậu lập tức nhìn quanh, “Thư phòng này sao đơn điệu thế nhờ, chẳng tôn được thân phận vương gia của cậu chút nào, theo ta thấy… cần treo thêm vài bức danh họa mới phải.”

Nói đoạn, hắn khoát tay cho Vưu Thiệu tiến vào, sau đó lệnh cho hắn ta đặt toàn bộ các cuộn tranh lên bàn, khoan thai nói: “Chi bằng ta tặng cậu mấy bức này, thấy cậu có vẻ rất thích chúng.”

Tạ Dung Dữ còn lạ gì với những cuộn tranh trên bàn, chính là bộ Sơn vũTứ cảnh đồ của Doãn Uyển, hôm trước y đã lấy được tranh nền từ chỗ Nhạc Ngư Thất, đem trả lại cho Khúc Mậu cùng với bức tranh phủ.

Sự gượng gạo bao trùm căn phòng, Vưu Thiệu im lặng lui ra.

Khúc Mậu cho rằng mình đã biểu hiện rất trầm ổn, nhưng thấy Tạ Dung Dữ vẫn im lặng thì lại mất kiên nhẫn, thúc giục: “Nói, cậu có nhận hay không?”

Tạ Dung Dữ nhìn y, không trả lời mà chỉ nói: “Tiểu Dã, còn không mua bái kiến Đình Lam.”

Thanh Duy đứng bên đáp lại, vén màn lụa lên, “Khúc công tử, đã lâu không gặp.”

Khúc Mậu giật mình, không ngờ Tạ Dung Dữ lại ngửa bài với mình nhanh đến vậy, toan lên tiếng thì Tạ Dung Dữ đã xua tay cản, nhẹ nhàng nói: “Đúng là ta đã gặp lại nàng ấy ở Thượng Khê, không nói với huynh bởi vì Tiểu Dã đang là khâm phạm, Tả Kiêu vệ vẫn đang đuổi bắt nàng ấy. Ta biết tính tính huynh, nếu huynh biết nàng ấy ở đây thì kiểu gì cũng sẽ bảo vệ nàng ấy giúp ta, nhưng làm như thế sẽ xảy ra xung đột với Tả Kiêu vệ, ngộ nhỡ Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu vệ có hiềm khích, mà sau đó còn thêm vụ bạo loạn ở nha huyện nữa, chẳng phải huynh sẽ gánh thêm cái tội không làm tròn trách nhiệm sao? Nên ta mới nghĩ, tốt nhất không nên gây thêm rắc rối cho Tuần Kiểm Ti.”

Hôm nay Khúc Mậu đùng đùng tới đây đâu phải vì tranh bị trộm, chẳng qua cảm thấy Thanh Chấp không xem hắn là tri kỷ, chuyện lớn đến thế mà không đánh tiếng cho hắn biết trước. Giờ nghe y giải thích xong, cơn giận lập tức tan biến.

Đúng lúc Đức Vinh đi vào, châm trà cho Khúc Mậu, “Mời Ngũ gia uống trà giải nhiệt ạ, công tử nhà nô tài cũng chỉ nghĩ cho ngài mà thôi.”

Triêu Thiên cũng theo Đức Vinh vào phòng, đặt hộp tranh lên bàn. Hộp tranh mở ra, bên trong chính là bốn bức tranh phủ của bộ Tứ cảnh đồ.

Tạ Dung Dữ giải thích tiếp: “Còn về chuyện lấy tranh, thực tình ta cũng chẳng muốn giấu giếm huynh, ngặt nỗi Khúc hầu cất bộ Tứ cảnh đồ quá kĩ, nếu ta hỏi mượn chưa chắc ông ấy đã đồng ý, nhưng ta lại có việc cần gấp, đành mạo muội đưa ra hạ sách này, định dùng xong sẽ trả lại ngay, ai ngờ huynh lại nghe được tin trước. Hay là vầy, giờ ta trả lại huynh bốn bức tranh phủ, còn bức tranh nền, bao giờ ta dùng xong sẽ lập tức trả lại.”

Khúc Mậu nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y nói lời thản nhiên, không che giấu việc mình trộm tranh, và tuy tranh trộm từ chỗ Trung Châu nhưng lại đem trả cho hắn, chứng tỏ y rất tin mình.

Như thế mà gọi là trộm tranh à? Chỉ là mượn dùng chút thôi.

Ngay tức khắc, cơn giận của Khúc Mậu tan biến không còn sót móng nào, hắn khoanh tay đi hai bước, “Cậu phải nói sớm chứ! Nếu cậu thích bức tranh này, có gì mà ta không thể đem cho cậu hả? Chẳng qua thang không đủ dài, bằng không Khúc gia gia ta còn có thể hái sao trên trời xuống cho cậu!” Chợt hắn dừng mắt ở hộp tranh Tứ cảnh đồ, đẩy về lại, “Cậu cứ giữ nó đi, cần gì mà mượn với trả? Cậu định làm nhục ta hả! Tranh này coi như huynh trưởng ta tặng cho đệ muội, đệ muội giữ đi, phía cha ta mà trách ta cũng sẽ gánh hết!”

Thanh Duy: “… Đa tạ.”

Khúc Mậu lại trách Tạ Dung Dữ, “Cậu cũng thật là, biết đệ muội có bản lĩnh rồi, nhưng để Huyền Ưng vệ đi trộm tranh là được mà? Không được nữa thì đến tìm ta, ta sẽ phái mấy tên có công phu tốt cho cậu, ta lạ gì tư dinh nhà ta nữa, ta cũng có thể đi lấy tranh cho cậu! Cậu để đệ muội đi làm gì? Lúc nãy cậu còn nói đệ muội đang là khâm phạm, ta thực sự không thích nghe chút nào! Khâm phạm cái gì, ta không chấp nhận, cậu nói xem, lúc cái đài kia sập đệ muội mới mấy tuổi, sao có thể phạt nàng ấy được? Theo ta thấy, triều đình xây cái đài đó đúng thừa thãi, sáu năm trước không nên xây, bây giờ cũng không nên xây lại, Hàng ngàn quan binh thay phiên nhau giám sát dưới cái nắng oi bức, đó mà là cuộc sống của con người à? May mà bây giờ Khúc gia gia còn có thể ở dinh quan ăn uống vui vẻ, chứ không có khi đã cháy nắng mà chết trên công trường rồi, cậu nói có đúng không?”

Tạ Dung Dữ: “… Đúng.”

Khúc Mậu nói một tràng dài, cảm giác mình thật là oai, hắn vui vẻ ngồi phịch xuống ghế, cầm cốc trà lên nhấp vài hớp, “À phải rồi, cậu nói có chuyện gấp nên mới để đệ muội trộm tranh, rốt cuộc là chuyện gì thế.”

Tạ Dung Dữ nhìn Khúc Mậu.

Đình Lam tâm tư đơn giản, nhưng kẻ hôm nay đã ép hắn đến đây có thể không hề đơn giản.

Ắt hẳn phía Khúc Bất Duy đã phát hiện ra chuyện trộm tranh, do đó mới cử người xúi Khúc Mậu thăm dò.

Nhưng chuyện này cũng nằm trong dự tính của y, nếu bọn họ cử người đến can thiệp thì y cũng có thể can thiệp ngược lại, Khúc Bất Duy là kẻ trong cuộc, chắc chắn trên tay có manh mối mà y không biết, nếu làm rối tung mọi chuyện, phía đối phương tất sẽ loạn, đến lúc ấy đáp án tự sẽ xuất hiện.

Tạ Dung Dữ thong thả nói: “Năm xưa có một sĩ tử lên Tiển Khâm Đài tên Thẩm Lan, là một Cử nhân. Nhà ông ấy có truyền thống kinh doanh tranh chữ, có quan hệ sâu xa với Tạ thị Trung Châu, mà bức Tứ cảnh đồ trong tay Khúc hầu vốn dĩ thuộc về Thẩm gia. Thẩm Lan đó có một cô con gái, về sau phải gửi con vào nhà khác. Năm năm trước Tiển Khâm Đài sập, Thẩm Lan chết dưới Tiển Khâm Đài, không hiểu sao Tứ cảnh đồ lại vào tay Khúc hầu. Danh họa đổi chủ cũng bình thường, có điều gần đây con gái của Thẩm Lan đến tìm Tạ thị, nói là hi vọng có thể được ngắm bức Tứ cảnh đồ, dù gì đó cũng là món đồ duy nhất phụ thân nàng ta để lại, ta hết cách rồi nên mới đưa ra hạ sách này.”

“Hóa ra còn có nội tình như thế.” Khúc Mậu nói, “Là chuyện tốt mà, sao cậu không nói sớm cho ta biết.”

Tạ Dung Dữ không trả lời, chỉ hỏi: “Có phải sáng nay Phong Nguyên tướng quân đã đến Đông An?”

Khúc Mậu đáp: “Đúng thế, Chương Lan Nhược còn đi đón ông ấy.” Hắn khịt mũi, “Ta chẳng muốn nhắc tới hắn ta chút nào, suốt ngày chê bai ta ở lì trong dinh quan, chứ còn hắn? Cậu nói xem chuyện của Xu Mật Viện thì liên quan gì tới hắn, hắn thó chân vào làm gì? Còn không phải vì phủ doãn Đông An nịnh nọt Trương Vong Trần, được cung cấp băng mỗi ngày, nên hắn mới bắt chước ta đòi hưởng sái à…”

Tạ Dung Dữ nói: “Ta chưa nói cho huynh biết chuyện này là vì vụ án mà Phong Nguyên tướng quân và Chương Thị lang cùng giải quyết, rất có thể liên quan đến Thẩm Lan. Thứ Thẩm Lan để lại đã bị cất giấu nhiều năm, bất đắc dĩ, ta đành phải để nương tử đến Trung Châu trộm tranh.”

Khúc Mậu líu lưỡi, “Sĩ tử trong sạch như Thẩm Lan mà vướng vào án gì được?”

Tạ Dung Dữ nhìn y, một lúc lâu sau mới bình tĩnh nói, “Đúng thế, ta cũng thấy lạ, một sĩ tử trong sạch sao có thể vướng vào án được? Nghe nói hình như có liên quan đến một vị đại nhân họ Sầm ở Lăng Xuyên, nhưng ta nghĩ mãi mà vẫn không ra.”
 
Chương 156


Khúc Mậu ngẫm nghĩ, đoạn vỗ bàn cái rầm, “Ta biết ngay mà! Chắc chắn tên Chương Lan Nhược đã giở trò rồi. Bảo sao ta thấy lạ, chuyện của Xu Mật Viện liên quan gì tới Công bộ Thị lang như hắn? Hắn đến Lăng Xuyên là để giám sát việc xây dựng Tiển Khâm Đài, cho nên chỉ cần có dính dáng tới Tiển Khâm Đài, hắn tất có thể dùng danh nghĩa khâm sai trợ giúp điều tra, danh ngôn chính thuận ở lại Đông An làm biếng!”

Hễ nhắc đến Chương Đình là Khúc Mậu không cần biết công vụ phức tạp rắc rối ra sao, hắn bảo: “Cậu nói rõ xem rốt cuộc vụ án này thế nào, ta sẽ về thăm dò Chương Lan Nhược giúp cậu.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, sau đó kể ra chuyện của Sầm Tuyết Minh, Thẩm Lan và những chuyện khác. Khúc Mậu càng nghe càng phẫn nộ, lúc rời đi, dưới chân như có tia lửa tóe lên.

Tạ Dung Dữ nhìn theo bóng lưng Khúc Mậu, gọi một Huyền Ưng vệ đến, “Đi theo cậu ta đến dinh quan nghe ngóng, có tin gì thì về bẩm báo ta biết.”

***

Trong dinh quan, Phong Nguyên đang “được” Chương Đình trình bày chi tiết lớn nhỏ của vụ án khu mỏ, ông ta vốn là dân nhà võ, chỉ quen va chạm đao thương chứ nào biết đào sâu tra án, trong lòng sốt ruột, lập tức nói với Chương Đình, “Hay là vầy, chúng ta chia làm hai hướng, cậu điều tra manh mối ở đây, còn ta ghé Mông Sơn Doanh một chuyến, phái binh mã đến khu mỏ Chi Khê rồi tính tiếp…”

Vẫn chưa rõ tung tích của Sầm Tuyết Minh ra sao, lại thêm Tiểu Chiêu vương đang dồn ép từng bước, ông ta không dám chậm trễ khắc nào, vừa dứt lời là đứng dậy rời đi.

Nhưng còn chưa ra đến giữa sân thì đã thấy Khúc Mậu xuất hiện.

Thời tiết hôm nay oi bức nóng nực, Khúc Mậu còn chạy đi chạy lại mấy chuyến nên mặt mày đỏ bừng, vừa đến chỗ của Chương Đình là đi thẳng vào phòng khách, không khách khí cầm chung trà lên uống cạn một hơi rồi ngồi phịch xuống ghế, cười lạnh nhìn Chương Đình, “Bận lắm hả?”

Chương Đình sầm mặt.

Người hầu nhanh chóng tiến vào, thay mới nước trà đã bị Khúc Mậu uống hết.

“Khúc Đình Lam, hiện tại bổn quan đang bận công vụ, ngươi có chuyện gì thì nói nhanh, còn nếu không có, khuyên ngươi đừng làm chuyện xấu hổ mất mặt ở đây.”

Khúc Mậu *xì* một tiếng khinh bỉ, cười khẩy, “Thì sao, ngươi được quyền bịa đặt tội danh cho sĩ tử, lấy danh tra án để ở lại Đông An, còn ta không được phép tham gia hả? Chương Lan Nhược, hay ngươi dạy ta đi, dạy ta cách có thể quang minh chính đại trốn việc như ngươi đi?”

Chương Đình không biết Khúc Mậu đang nói lung tung cái gì, mà hắn cũngchẳng quan tâm, “Vưu Thiệu, đưa thiếu gia nhà ngươi về đi.”

Khúc Mậu đứng dậy, giũ mạnh tay áo, quan sát Chương Đình, “Ngươi không nhận đúng không? Trên đường tới đây ta đã hỏi thăm rõ rồi, vụ án mà ngươi đang điều tra có liên quan đến một khu mỏ, vì sao ngươi lại điều tra, là bởi vì ngươi đã liên hệ vụ án này với một người ở phủ Đông An ngày xưa, tên là Sầm Tuyết Minh. Hiện giờ Sầm Tuyết Minh đang mất tích, ngươi cảm thấy việc gã ta mất tích có liên quan đến sĩ tử từng lên Tiển Khâm Đài, nên ngươi mới danh ngôn chính thuận ở lại Đông An tra án.”

Chương Đình bất giác nhìn sang Phong Nguyên.

Phong Nguyên cũng ngạc nhiên, ông ta có tiết lộ gì với Khúc ngũ gia đâu.

Chương Đình cau mày, Phong Nguyên không nói, vậy Khúc Mậu nghe được tin tức này ở đâu?

Nhưng Chương Đình không định giải thích với Khúc Mậu, chỉ bảo: “Án của triều đình tự triều đình có cách xử lý, Khúc Đình Lam, bình thường ngươi đã không quan tâm chính sự, giờ lại ở chỗ ta ăn nói lung tung, có sức lực ấy thì tự đi kiểm điểm xem bản thân có phạm vào tội không làm tròn trách nhiệm hay không.”

“Ta ăn nói lung tung?” Khúc Mậu tất có chuẩn bị, thong thả vặc lại Chương Đình, “Ta hỏi ngươi, có thật các ngươi đang điều tra vụ án khu mỏ không? Hay ngoài sáng mượn cớ tra án, thực chất là tìm kiếm gã họ Sầm kia? Ta không sợ nói ngươi biết, họ Sầm mà ngươi tìm vướng vào một vụ án ở Thượng Khê, bây giờ không phải ngươi đang lợi dụng gã để hất chậu nước bẩn lên đầu Thẩm Lan hả?”

Chương Đình ngạc nhiên, “Sầm Tuyết Minh vướng vào một vụ án ở Thượng Khê?”

Vì sao hắn không nghe ai nói đến chuyện này.

Phong Nguyên lật đật ra mặt, “Dĩ nhiên bọn ta đang điều tra vụ án khu mỏ rồi. Mấy trăm binh mã ở Mông Sơn Doanh đang đợi để đến khu mỏ đây, vừa rồi Chương đại nhân còn thúc giục lão phu mau dẫn binh đi đấy.”

Quan hệ giữa ba người họ rất vi diệu, Chương Đình vốn là Thị lang tam phẩm, Phong Nguyên còn là tướng quân tứ phẩm, hà tất phải để ý đến một Hiệu úy nhỏ bé, nhưng Khúc Mậu và Chương Đình lớn lên cùng nhau, mà cha của Khúc Mậu còn là chủ tử của Phong Nguyên.

Khúc Mậu *chậc* một tiếng, “Cái gì mà phái binh đến khu mỏ, ta thấy mấy người tung chiêu hỏa mù thì có, mới nãy mấy người nói mình đang bàn chính sự, thực chất là bàn cách để tìm ra Sầm Tuyết Minh đúng không?”

Chương Đình không trả lời.

Khúc Mậu nhìn hắn, biết hắn bị mình nói trúng tim đen thì cực kỳ đắc ý, đến nỗi cơn giận lúc tới đây cũng tan biến, “Được rồi, dù gì chuyện Sầm Tuyết Minh mất tích cũng không đơn giản, năm xưa Thẩm Lan chết oan, vì tư tâm nên ngươi mới tiếp nhận vụ án để ở lại Đông An trốn việc, thôi thì ta cũng không vạch trần ngươi, nhưng nếu ngươi đã biết Thẩm Lan bị oan, ta khuyên ngươi hành sự đừng có quá tuyệt tình, mấy bức danh họa mà ông ta để lại như Tứ cảnh đồ gì đấy rốt cuộc đã đi đâu, hay ngươi mở một mắt nhắm một mắt, đừng truy xét chuyện đó nữa?”

Hiếm khi Khúc Mậu ở trên cơ Chương Đình một lần, thấy hắn ta vẫn im lặng thì coi như hắn đã ngầm đồng ý, sẽ không lấy lại Tứ cảnh đồ, thế là hài lòng giũ áo, dẫn Vưu Thiệu rời đi.

Bầu không khí im ắng bao trùm phòng khách.

Khúc Mậu có thể không biết rốt cuộc mình đã nói gì, nhưng Chương Đình lại hiểu rất rõ.

Sầm Tuyết Minh vướng vào một vụ án ở Thượng Khê, cái chết của sĩ tử Thẩm Lan cũng quá kỳ lạ, mà lần này Phong Nguyên đến đây rõ ràng là để điều tra hai người bọn họ, lẽ nào mục đích của Phong Nguyên thực sự có liên quan tới Tiển Khâm Đài?

Nếu đúng như vậy, phụ thân có biết nội tình khi gửi thư bảo mình hỗ trợ Phong Nguyên không?

Thấy Chương Đình sầm mặt lạnh, Phong Nguyên biết hắn đang suy tư những lời Khúc Mậu nói, ông ta không rõ phải giải thích thế nào, cứ ấp úng chần chừ, cuối cùng lại thấy Chương Đình mở miệng trước, “Không phải tướng quân đang vội điều binh sao? Thời giờ không còn sớm, tướng quân hãy mau đến Mông Sơn Doanh đi, những chuyện khác đợi ta sắp xếp lại manh mối rồi bàn sau.”

Chương Đình thở phào, bụng nghĩ thôi thì từ từ cũng được, chứ chuyện lớn như vậy, ông ta cũng không biết phải bắt đầu từ đâu, bèn đáp: “Được, vậy lão phu đi trước.”

***

Sau khi Phong Nguyên rời đi, Chương Đình ngồi một mình trong phòng khách rất lâu, nắng sau trưa xuyên qua khung cửa, chiếu sáng cả can phòng, làm đôi mắt dài hẹp của Chương Đình càng trở nên sâu hoắm.

Một lúc sau, hắn gọi người hầu tới, “Đi hỏi xem hôm nay Khúc Đình Lam đã đi đâu.”

Không khó để biết hướng đi của Khúc Mậu, người hầu nhanh chóng quay về, “Bẩm công tử, hôm nay Khúc Ngũ công tử đến chỗ Tiểu Chiêu vương ạ.”

Chương Đình ngẩn ra, “Ta biết rồi, ngươi lui xuống đi, ta muốn ở lại đây một lúc nữa.”

Khúc Đình Lam là kẻ bất tài, không bao giờ nhúng tay vào công vụ, cho nên, vụ án khu mỏ hay những manh mối liên quan đến Sầm Tuyết Minh và Thẩm Lan, chắc chắn do Tiểu Chiêu vương nói cho hắn biết.

Tiểu Chiêu vương đến Thượng Khê để điều tra nội tình Tiển Khâm Đài sập, cụ thể tra gì hắn không rõ. Nhưng Chương Đình có nghe nói, cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố ở Thượng Khê năm xưa hay vụ bạo loạn ở Thượng Khê đợt trước đều có liên quan đến Tiển Khâm Đài.

Khúc Đình Lam nói Sầm Tuyết Minh vướng vào một vụ án ở Thượng Khê.

Có phải điều này chứng minh, Huyện lệnh và sư gia Thượng Khê đã chết, cùng với rất nhiều sơn tặc chết oan đều có liên quan tới Sầm Tuyết Minh?

Nếu như thế, vì sao Phong Nguyên còn muốn tìm người này? Vì sao phụ thân lại bảo mình giúp Phong Nguyên tìm người này?

Chẳng lẽ… Khúc hầu và phụ thân, cũng có liên quan đến Tiển Khâm Đài năm xưa?

Nhưng… vì cớ gì? Chương Đình nghĩ.

Phụ thân là người chính trực kỉ luật, vì sao phải nhúng tay vào vụ án này? Ngày xưa con đường làm quan của phụ thân đầy chông gai trắc trở, nhờ bản thân nỗ lực cố gắng mới đậu Tiến sĩ, ai dè lại bị dòng họ đẩy ra gánh tội thay cho một người ở chi chính, mất mấy năm mới có thể gột rửa oan khuất. Kể từ đó phụ thân rất hận chuyện bất công, vạch rõ giới hạn với gia tộc Chương thị, thậm chí còn không màng đến thân phận thế gia, nhiều lần đứng ra minh oan cho sĩ tử hàn vi. Người như phụ thân sao nay lại lội xuống vũng bùn ấy? Cho dù tình thế trong có rối ren khó giữ mình đến đâu, nhưng ít nhất cũng phải có nguyên tắc và giới hạn cuối chứ.

Chương Đình lắc đầu, hắn nghĩ, có thể mình hiểu lầm rồi, có khi phụ thân còn chẳng hay biết gì. Chuyện lớn như vậy, sao bản thân lại tự tiện suy đoán với tầm nhìn hạn hẹp thế được?

Chương Đìnhbước ra khỏi phòng khách, đi tới thư phòng, căn dặn tùy tùng, “Chuẩn bị bút mực, ta có thư khẩn gửi về kinh thành.”

Tùy tùng lại hỏi: “Công tử muốn viết thư gửi lão gia ạ?” Hắn nhanh nhảu nói, “Công tử, hiện giờ lão gia không ở kinh thành đâu, hình như đến Trung Châu rồi.”

Chương Đình khựng bước, lòng nặng nề, “Từ lúc nào?”

“Khoảng nửa tháng trước ạ.” Tùy tùng đáp, “Tiểu nhân cũng chỉ mới nhận được tin sáng nay.”

Tuy Chương Hạc Thư quản chưởng quân vụ nhưng phó sứ Xu Mật Viện lại chỉ là văn sai, bình thường không hay rời kinh, thế mà bây giờ phụ thân lại đến Trung Châu, điều này có nghĩa gì?

Cảm giác bất an ngày một lớn dần, trong lòng như có tảng đá chực chờ rơi xuống, đập hắn tan xương nát thịt. Hắn nhớ đến dáng vẻ muốn nói lại thôi của Phong Nguyên lúc nãy, lập tức nói với tùy tùng: “Chuẩn bị ngựa, ta muốn đi gặp Phong Nguyên tướng quân.”

Phong Nguyên đang trên đường tới Mông Sơn Doanh.

Bị Khúc Mậu đâm ngang phá rối khiến ông ta cảm thấy bất an, cho nên đi đường không quá nhanh, vừa mới ra khỏi thành thì nghe thấy sau lưng vọng đến tiếng ngựa phi, là Chương Đình đánh ngựa đuổi theo.

Hoàng hôn vừa buông, Chương Đình nhanh chóng siết cương dừng ngựa, hỏi thẳng, “Phong Nguyên tướng quân, ta muốn biết sự thật.”

Phong Nguyên líu lưỡi, “Sự… sự thật gì chứ?”

Tuấn mã đi lòng vòng tại chỗ, Chương Đình nhìn chằm chằm Phong Nguyên, “Ông đến Đông An là vì muốn tìm Sầm Tuyết Minh đúng không? Nếu ta đoán không sai, bây giờ Tiểu Chiêu vương cũng đang tìm Sầm Tuyết Minh, vì sao bọn ông lại đối đầu với Tiểu Chiêu vương? Có phải Tiển Khâm Đài sập năm ấy có liên quan đến các ông không? Còn nữa, phụ thân ta… có phải cũng tham gia vào vụ án này?”

Phong Nguyên bị một tràng câu hỏi làm cho á khẩu.

Khúc Bất Duy đã dặn ông ta không được tiết lộ điều gì với Chương Đình.

Nhưng Chương Lan Nhược đâu phải tiểu tử lên ba, dễ dàng bị lừa bởi đôi câu vài lời. Hắn là Công bộ Thị lang, làm quan trong triều đã lâu, chỉ cần một ngọn gió thổi một cọng cỏ lay cũng có thể nhìn ra manh mối, bây giờ còn bị Khúc Đình Lam quậy cho một trận như thế, những gì nên nghe hay không nên nghe đều lọt cả vào tai, nào có thể lừa nổi nữa?

Phong Nguyên thở một hơi thật dài, thôi, nói đơn giản vậy, “Thực ra nếu xét kỹ thì chuyện này không liên quan nhiều tới Chương đại nhân, chuyện là năm ấy triều đình xây dựng Tiển Khâm Đài, tình cờ trong tay Chương đại nhân có danh sách những người lên đài…”



***

Màn đêm buông, Chương Đình mới từ ngoài thành quay về.

Hắn không biết mình cưỡi ngựa về dinh quan thế nào, cũng không nhớ bản thân xuống ngựa ra sao, tùy tùng đi lên nghênh đón, hình như hắn có nghe mà cũng như không nghe rõ, trong đầu chỉ toàn những lời Phong Nguyên vừa nói.

Kỳ thật Phong Nguyên nói rất đơn giản, thậm chí ông ta còn không nói nhiều về vụ án Thượng Khê, chỉ bảo năm xưa nhờ một vụ việc mà phụ thân hắn tình cờ có được danh sách lên Tiển Khâm Đài, sau đó Khúc Bất Duy nảy sinh lòng tham, muốn bán ba bốn suất, nhưng đã bị phụ thân ngăn cản. Bây giờ Tiểu Chiêu vương đang điều tra lý do Tiển Khâm Đài sập, vô tình lôi vụ án này ra, Khúc Bất Duy muốn xóa bỏ tội chứng nên Chương Hạc Thư mới bảo mình hỗ trợ.

Phong Nguyên còn nói, dù là Chương Hạc Thư hay Khúc Bất Duy, bọn họ đều không liên quan chút nào đến chuyện Tiển Khâm Đài sập, hai người họ vẫn hi vọng Tiển Khâm Đài được hoàn thành, chẳng qua Huyền Ưng Ti điều tra sai hướng mà thôi.

Tuy Phong Nguyên nói khó hiểu, nhưng Chương Đình có thể nghe rõ.

Rõ ràng tới nỗi hắn không dám đào sâu suy nghĩ, không dám nghĩ sơn tặc núi Trúc Cố đã chết thế nào, lý do thực sự đằng sau vụ bạo loạn Thượng Khê mà mình giải quyết.

Hắn cũng không dám vào phòng, hắn cảm thấy đống hồ sơ mà mình đang giữ đã hóa thành yêu ma quấn lấy người phụ thân, muốn kéo cả hắn vào cơn ác mộng.

Hắn cứ đứng đực giữa sân, thầm nhủ, tốt nhất vẫn nên đến Trung Châu một chuyến, đích thân hỏi rõ phụ thân.

Có khi nào Phong Nguyên đã lừa hắn không? Nhỡ đâu phụ thân chẳng dính dáng gì đến Tiển Khâm Đài thì sao? Không chừng phụ thân còn chẳng hay biết gì?

Dù lúc nào hắn vẫn luôn tin tưởng phụ thân mình.

“Lan Nhược.”

Không biết Chương Đình đã đứng trong sân bao lâu, cho tới khi sau lưng vang lên tiếng gọi ôn tồn.

Chương Đình hít thật sâu, quay người lại, cảm xúc ngoài mặt đã bị che giấu, “Vong Trần có chuyện gì à?”

Không rõ Trương Viễn Tụ đến từ lúc nào, Bạch Tuyền cũng đi theo.

“Hồi sáng nghe thấy tiếng cãi cọ ở chỗ của huynh, vì Phong Nguyên tướng quân cũng có mặt nên ta không tiện ghé sang, huynh…” Trương Viễn Tụ nhìn Chương Đình, tuy hắn đã che giấu rất tốt nhưng Trương Viễn Tụ vẫn có thể nhìn ra sự hốt hoảng nơi đáy mắt, “Huynh không sao chứ?”

Chương Đình lắc đầu, nhỏ giọng đáp: “Không sao, chỉ là… có hơi mệt.”

Giọng Trương Viễn Tụ nhẹ nhàng như làn gió mát, “Có phải vì chưa tìm được tung tích của Sầm Tuyết Minh không?” Y dừng một lúc, “Nhắc đến thật xấu hổ, trước đó ta đã nói sẽ giúp Lan Nhược tìm vị Thông phán họ Sầm này, nhưng bận quá nên vẫn chưa giúp gì được.”

Chương Đình đáp: “Không sao, Vong Trần đừng để ý.”

Trương Viễn Tụ thấy hắn không có tâm trạng, bèn nói: “Được, vậy Lan Nhược huynh nghỉ ngơi sớm, ta về đây.”

Nói đoạn, y xoay người toan rời đi.

“Vong Trần.”

Chương Đình nhìn bóng lưng của Trương Viễn Tụ, gọi lại, “Sầm Tuyết Minh đó… không cần tìm nữa, ta giải quyết chuyện trong tay xong, hai hôm nữa sẽ đến Trung Châu một chuyến, vụ án này… cứ gác lại đi.”

Trương Viễn Tụ nhìn hắn, khẽ gật đầu.

Chương Đình cũng không nán lại trong sân quá lâu, nhanh chóng quay về phòng.

Trương Viễn Tụ cũng quay về viện, gió đêm lượn lờ, lặng lẽ cuốn đi hơi nóng ban ngày, thổi qua chậu băng đặt xung quanh, thổi phà hơi lạnh khắp cả dinh quan.

Trong màn đêm yên tĩnh, chợt trên không trung truyền đến tiếng chim vỗ cánh, Trương Viễn Tụ ngước mắt nhìn, một con chim cắt dừng chân trên mái nhà.

Bạch Tuyền cũng thấy con chim đó, trên chân trái của nó còn buộc một ống tre đưa tin, Bạch Tuyền khẽ nói, “Công tử, phía Tào công công có tin.”

Trương Viễn Tụ “ừ” một tiếng, xoay người bước ra thư phòng, nhẹ buông một câu, “Giấy không bọc được lửa, sóng ngầm mạnh dần, sóng cả nổi lên, người dừng chân bên bờ rồi cũng bị cuốn vào.”

Y đi tới cạnh bàn, lấy một mảnh giấy trắng đã được cắt nhỏ, “Lấy thư đi.”

Chim cắt được huấn luyện rất tốt, khi Trương Viễn Tụ viết thư hồi âm thì nó ăn thóc lúa trên tay Bạch Tuyền, thoạt nhìn ngoan ngoãn không giống ác điểu chút nào.

Chẳng mấy chốc Trương Viễn Tụ đã viết thư hồi âm xong, đưa mảnh giấy cho Bạch Tuyền, “Chương Hạc Thư sắp tới Trung Châu à?”

“Bẩm cậu, có lẽ cũng đến được hai hôm rồi.”

Trương Viễn Tụ nhíu mày nghĩ, “Ngươi đến nha môn xin nghỉ giúp ta, bảo là ta đang đổ bệnh không thể tiếp khách, sau đó quay về thu thập hành lý, sáng sớm ngày mai lập tức xuất phát đến Trung Châu.”
 
Chương 157


Thư được nhét vào ống trúc, chim cắt vỗ cánh chao liệng vài vòng trên không, vụt qua bầu trời Đông An thẳng hướng kinh thành.

Màn đêm buông bao phủ toàn Đông An, nhưng từ góc nhìn của chim cắt vẫn còn rất nhiều nhà chong nến thắp đèn, trong số đó có một trang viên khang trang rộng lớn. Một người mặc áo choàng huyền ưng xuống ngựa trước cửa, sải bước vào trang viên.

Người này chính là Huyền Ưng vệ được Tạ Dung Dữ cử đến dinh quan nghe ngóng tin tức.

“Bẩm Ngu hầu, Khúc Hiệu úy vừa về dinh quan là xảy ra tranh chấp với Tiểu Chương đại nhân, đã tiết lộ sơ về vụ án của Sầm Tuyết Minh cũng như cái chết của Thẩm Lan cho Tiểu Chương đại nhân biết rồi.”

Chương Lộc Chi lập tức hỏi: “Tiểu Chương đại nhân có đề cập tới chuyện gì không?”

Huyền Ưng vệ lắc đầu, “Trông Tiểu Chương đại nhân có vẻ không biết sự tình, nghe xong thì rất ngạc nhiên.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Còn Phong Nguyên?”

“Phong Nguyên tướng quân cũng không nói gì, Khúc Hiệu úy nghi ngờ bọn họ kiếm cớ bí mật truy tìm Sầm Tuyết Minh, Phong Nguyên tướng quân đứng ra giảng hòa, nói bọn họ thực sự chỉ điều tra án, còn sắp dẫn binh đến mỏ Chi Khê.”

Chương Lộc Chi cười lạnh: “Dẫn binh? Đóng kịch cũng ra ngô ra khoai nhỉ.”

Mọi người trong thư phòng tiếp tục im lặng.

Manh mối về “vịt” quá mơ hồ, tuy đã tiếp tục thu hẹp phạm vi nhưng e rằng vẫn phải mất mười ngày nửa tháng mới có đột phá. Vốn dĩ để Khúc Mậu nhúng tay vào là vì hi vọng trong tình huống cấp bách, hội Phong Nguyên sẽ để lộ vài thứ gì đó, nhưng nay xem ra không được như ý rồi.

Tạ Dung Dữ bỗng hỏi: “Dẫn binh đến mỏ Chi Khê? Nguyên văn của Phong Nguyên là gì?”

Huyền Ưng vệ cẩn thận nhớ lại, “Phong Nguyên tướng quân chỉ nói mình đến Lăng Xuyên là để điều tra vụ án mỏ khoáng, mấy trăm nhân mã ở Mông Sơn Doanh đang chờ ông ta dẫn binh đến khu mỏ.”

Mấy trăm nhân mã?

Tạ Dung Dữ nhíu mày, chợt một tia sáng nơi đáy mắt lóe lên, “Kỳ Minh, ngươi hãy lập tức điều động 18 Huyền Ưng vệ tinh nhuệ theo ta đến Chi Khê.”

“Rõ.”

“Vệ Quyết, ngươi hãy quay về Mông Sơn Doanh điểm binh, đợi Phong Nguyên rời đi thì dẫn toàn bộ binh mã còn lại tới Chi Khê, nhớ phải che giấu hành tung trên đường.”

Vệ Quyết chắp tay đáp rõ, song lại do dự hỏi, “Nhưng bẩm Ngu hầu, vì sao lại là Chi Khê? Không phải khu mỏ kia chỉ để ngụy trang à?”

Tạ Dung Dữ nói: “Mới nhìn thì đúng là khu mỏ đó giống ngụy trang thật, nhưng các ngươi ngẫm kỹ mà xem, sau khi phe ta lấy được Tứ cảnh đồ, hội Khúc Bất Duy, Chương Hạc Thư có biết chúng ta đang nắm giữ manh mối nào không?”

Chương Lộc Chi lắc đầu: “Không thể biết được.”

“Đúng, bọn chúng không biết, nên chúng sẽ lường tới tình huống tệ nhất, chúng sẽ đoán rằng manh mối Sầm Tuyết Minh để lại là một bức thư hoặc một địa điểm rõ ràng, chứ không phải là một bức tranh mơ hồ. Vì thế, trong tình huống này, chúng làm gì?”

Thanh Duy nói: “Chắc chắn chúng sẽ tiêu hủy bằng chứng trước khi chúng ta tìm ra.”

“Hay nói cách khác, bọn chúng muốn tranh thủ thời gian.” Tạ Dung Dữ gật đầu, “Năm năm qua Khúc Bất Duy không tìm được Sầm Tuyết Minh không có nghĩa là Chương Hạc Thư không thể. Bắt đầu từ khi xảy ra vụ án ở Thượng Khê, Chương Hạc Thư đã nhúng tay vào việc này, suốt từ đó đến giờ với chừng ấy thời gian, có lẽ ông ta đã phát hiện được tung tích của Sầm Tuyết Minh. Nếu phát hiện ra tung tích, chắc chắn bọn chúng sẽ tiêu hủy bằng chứng nhanh nhất có thể, nếu chậm trễ, tất sẽ bị chúng ta – phe đang nắm giữ ‘manh mối rõ ràng’ nhanh chân đến trước.”

Vệ Quyết vỡ lẽ: “Ý của Ngu hầu là, để tranh thủ thời gian, sau khi Phong Nguyên đến Lăng Xuyên thì nhất định sẽ vào thẳng vấn đề – khẩn cấp tìm nơi Sầm Tuyết Minh đang ẩn náu.”

“Nhưng bọn chúng không thể không đề phòng chúng ta, do đó chúng sẽ làm gì?”

“Lấy cớ… giấu cớ?” Thanh Duy không chắc chắn lắm, “Bọn họ vin vào vụ án nhìn rất gượng ép là mỏ Chi Khê để tất cả cho rằng, khu mỏ chỉ là cái cớ ngụy trang hòng phân tán sự chú ý của chúng ta, trên thực tế, khu mỏ vốn là mục đích của bọn chúng, chúng dùng cớ giấu cớ, muốn chúng ta bị phân tâm để cầm chân chừng một hai ngày?”

Đừng nói là một hai ngày, chỉ cần tìm ra Sầm Tuyết Minh trước nửa ngày là có thể tiêu hủy bằng chứng.

Thanh Duy thắc mắc: “Nhưng… lòng dạ bọn chúng thâm sâu như thế, quan gia nhận ra bằng cách nào?”

Tạ Dung Dữ nhẹ nhàng nói: “Ta không tự nhận ra, là Phong Nguyên buột miệng.”

Đối mặt với chất vấn của Khúc Mậu, Phong Nguyên hốt hoảng nói phía Mông Sơn Doanh có mấy trăm nhân mã đang chờ đến khu mỏ.

Nếu thời gian không gấp gáp, lấy mấy trăm nhân mã đóng kịch cũng được.

Nhưng cả nhà Khúc thị bao gồm tính mạng của Phong Nguyên đều đang dựa vào chứng cứ mà Sầm Tuyết Minh để lại, trong tình hình ấy bọn họ lại điều một số lượng lớn binh mã đến khu mỏ, chẳng phải rất kỳ lạ ư.

Vệ Quyết nói: “Thuộc hạ hiểu ý Ngu hầu rồi, đường đến mỏ Chi Khê rất xa, cưỡi khoái mã cũng mất chừng mười ngày, kính mong Ngu hầu dẫn binh tinh nhuệ đi trước một bước, còn về phía Nhạc tiểu tướng quân…”

“Để ta đi báo với sư phụ.” Thanh Duy nói.

Nàng nói đi là đi, vừa dứt lời, chân như thoa mỡ bước nhanh ra cửa.

Tạ Dung Dữ nhìn theo Thanh Duy rồi thôi, ngẫm nghĩ một lúc, đoạn căn dặn: “Chuyện hôm này nhớ ghi vào hồ sơ, tính là Đình Lam có công mật báo, chưa hết…” Ánh mắt y lướt qua bức Tứ cảnh đồ mà Khúc Mậu muốn tặng cho Thanh Duy, “Thêm bộ Tứ cảnh đồ này nữa, coi như là bằng chứng mà Đình Lam, Nhạc tiền bối và nương tử nhà ta cùng đệ trình, báo cáo chi tiết cho triều đình.”

Chưa tới giờ Tý, Nhạc Ngư Thất và Thanh Duy cùng quay về Quy Ninh Trang. Hành lý tay nải đã chuẩn bị xong xong, đêm tháng Sáu tiết trời oi ả, hơn hai mươi người vận trang phục gọn nhẹ, cưỡi ngựa băng qua màn đêm Lăng Xuyên, thẳng hướng Tây Bắc.

***

Trung Châu, thành Giang Lưu.

Tháng Bảy thời tiết giảm thấp, tuy vẫn chưa hết đợt nóng nhất năm song ở Trung Châu đã mát mẻ hơn nhiều.

Sáng sớm hôm ấy, một cỗ xe ngựa chậm rãi dừng lại trước một căn nhà. Căn nhà này nằm trên con phố vắng vẻ ở phía Tây thành Giang Lưu, nghe bảo là nơi nghỉ dưỡng của một quan viên kinh thành.

Người gác cổng nhanh chóng đi ra đón, khom lưng vái lạy vị công tử trẻ tuổi cùng người hầu của y, “Trương Nhị công tử, Chương đại nhân đã chờ trong sảnh ạ.”

Bước vào cửa sẽ gặp bức phù điêu cá chép hóa rồng, vòng qua phù điêu, Trương Viễn Tụ dẫn Bạch Tuyền đi vào sảnh, vái chào Chương Hạc Thư, “Học trò bái kiến thầy.”

Chương Hạc Thư mỉm cười, “Vong Trần đi đường vất vả, trà nước đã được chuẩn bị, mau uống đi nào.”

Nói rồi, ông ta ra hiệu cho Trương Viễn Tụ ngồi ở ghế đầu bên phải, còn mình đích thân rót trà.

Chương Hạc Thư cũng chỉ vừa tới Giang Lưu, mà đến đây là để giải quyết chuyện quan trọng liên quan tới tính mạng, dẫu thế ông ta vẫn không có vẻ hốt hoảng gấp gáp, trái lại còn thong thả phẩm trà cùng Trương Viễn Tụ, nói những chuyện bên lề, “Phải rồi, trước khi đến đây lão phu đã bái phỏng lão thái phó, nghe ông ấy nói, Quan gia muốn ban hôn cho cậu và Nhân Dục quận chúa, có thật không vậy?”

Trương Viễn Tụ thong thả đáp: “Đúng ạ.”

Chương Hạc Thư *ừ* một tiếng, “Quả là chuyện tốt mà, cậu cân nhắc sao rồi?”

Trương Viễn Tụ nhìn ông ta, đoạn cười bảo: “Còn không phải do thư của thầy gọi đến Trung Châu, nên Vong Trần làm gì có thời gian cân nhắc? Vong Trần hay lo nghĩ, trên đường đi chỉ toàn nghĩ rốt cuộc thầy đã gặp rắc rối gì, còn chuyện của mình lại gác sang một bên, thậm chí cũng chưa kịp viết thư hồi âm.”

Chương Hạc Thư bị y chiếu ngược, vẫn điềm tĩnh nhấp trà, “Thế cũng được. Là thầy trò nên lão phu cũng không xem cậu là người ngoài, về Nhân Dục quận chúa, có chút hoạt bát, cũng ngây thơ trong sáng, chưa chắc đã lọt vào mắt Vong Trần. Theo lão phu thấy, Vong Trần trông thì điềm đạm nhưng thực chất rất dã tâm, người được cậu để mắt không những phải có sức sống mạnh mẽ, mà còn phải rắn rỏi kiên định, thú vị hơn nữa là nghĩa hiệp can đảm, sống tự do tự tại, thế có phải tốt không? Tiếc thay có bao nhiêu cô gái như vậy, chỉ có thể gặp chứ không thể cầu, mà dầu cho tình cờ gặp được một người, nhưng nếu không đúng thời cơ, cũng chỉ sợ có người nhanh chân đến trước.”

Không cần nghĩ cũng biết Chương Hạc Thư đang ám chỉ ai.

Ý cười trong mắt Trương Viễn Tụ biến mất, y lạnh nhạt nói: “Thầy vất vả đến Trung Châu chỉ để hỏi Vong Trần thích ai thôi ư? Đây đâu phải tính cách của thầy. Nếu Vong Trần nhớ không nhầm, hồi trước thầy từng ngồi tù oan khoảng chừng mười ngày, do đó mà đi đứng bất tiện, nếu không phải chuyện trọng đại liên quan tới tính mạng thì thầy việc gì phải lặn lội đường xa vất vả thế này?”

Chương Hạc Thư thở dài: “Người hiểu ta, chỉ có Vong Trần.”

Ông ta chậm rãi nói: “Cũng hết cách rồi, Tiểu Chiêu vương đã điều tra ra lão Khúc mua bán danh sách lên Tiển Khâm Đài, chuyện đến bước này, nếu ta không đề phòng trước thì thứ chờ ta chính là lửa thiêu thân.”

Nhắc đến chuyện lớn nhường ấy mà giọng điệu ông ta vẫn thật nhẹ nhàng.

“Vậy thầy định làm thế nào?”

“Vong Trần có thích cờ không?” Chương Hạc Thư hỏi, “Chắc là có nhỉ. Lão thái phó nuôi dạy cậu không quá hà khắc, thứ dạy dỗ cậu nhiều nhất không phải thi thư mà là kỳ họa. Đánh cờ có rất nhiều bí quyết, nào là đánh phải thư thả, không nên ham thắng, nhưng vào lúc nguy cơ cũng hóa vô dụng, theo ta thấy, tất cả không bằng nước bỏ Xe giữ Tướng.”

Trương Viễn Tụ nói toạc hẳn ra, “Ồ, thầy cho rằng đến nước này rồi thì chắc chắn Khúc Hầu gia không thể giữ được nữa, nên tính hi sinh Khúc thị để bảo vệ bản thân?”

Y thong thả bảo: “Nhưng Khúc hầu đường đường là Quân hậu tam phẩm, đâu dễ bị vứt bỏ như thế? Bây giờ thầy và Khúc hầu là châu chấu trên cùng một sợi dây, ông ta mà rơi, thầy không nghĩ ông ta sẽ nhảy ra cắn ngược lại thầy sao?”

“Quân hậu thì sao? Quân hậu cũng là người, là người tất có điểm yếu, một khi có điểm yếu, thiếu gì cách khiến ông ta ngậm miệng.” Chương Hạc Thư nói.

Trương Viễn Tụ nhìn Chương Hạc Thư chằm chằm: “Thầy muốn lợi dụng Khúc Đình Lam?”

Chương Hạc Thư thở dài: “Ta cũng hết cách rồi, ai bảo không khéo Đình Lam đang ở Trung Châu. Cũng không phải ta muốn lợi dụng hắn, chỉ là để hắn tự chứng tự tội danh của cha hắn mà thôi. Năm ấy Khúc Bất Duy lấy đi danh sách Tiển Khâm Đài từ tay ta, cậu cho rằng chỉ vì tiền tài chứ không phải bất mãn với triều đình? Ông ta bất mãn lắm chứ, trong chiến dịch sông Trường Độ, ông ta là một trong những tướng soái chủ hòa, về sau Nhạc Xung đánh thắng trận, Chiêu Hóa đế không hài lòng với thái độ sợ chiến của ông ta nên đã triệu hồi ông ta về kinh, nhốt ở mảnh đất tấc vuông kinh thành. Một tướng soái chỉ biết chém giết như ông ta đâu chịu ngồi không ở kinh thành, hơn nữa ông ta vẫn khăng khăng chủ hòa là không sai, trong lòng nảy sinh căm phẫn, cho nên mới nhúng tay vào vụ Tiển Khâm Đài.

Tướng quân bất mãn triều đình có nghĩa gì? Nói lớn thì đấy là mưu phản, chẳng qua sự chống đối đó tạm thời được giấu trong bóng tối, không bị ai thấy. Giờ ta để Đình Lam khơi cái ý định đó ra, cũng coi như lập công vì triều đình.”

Trương Viễn Tụ không kìm được cười lạnh: “Đúng là đã muốn sợ gì thiếu lý do, thầy chỉ dựa vào chuyện Khúc hầu bất mãn với triều đình mà chụp cho ông ta cái danh ‘mưu phản’, Vong Trần thấy thầy nào phải bỏ Xe giữ Tướng, thầy muốn diệt khẩu toàn bộ Khúc thị thì có.”
 
Chương 158


Trương Viễn Tụ nói: “Khúc Đình Lam sai chỗ nào? Cậu ta chỉ là công tử bột tâm tư đơn thuần, thầy muốn khiến Khúc hầu ngậm miệng thì dễ, nhưng nếu thầy hãm hại Khúc Đình Lam, Chu thị mẫu thân cậu ta liệu sẽ khoanh tay ngồi yên? Chu thị Khánh Minh không dễ dây vào đâu.”

Chương Hạc Thư nói: “Lão phu tự có cách, không cần Vong Trần lo lắng. Tới lúc ấy, chỉ cần Vong Trần giúp lão phu một việc nhỏ là được.”

“Là việc gì?”

“Phong Nguyên không phải đối thủ của Tiểu Chiêu vương, thuộc hạ của hắn cũng không đánh lại Huyền Ưng Ti. Bằng chứng mà Sầm Tuyết Minh để lại và cả hắn ta, rồi cũng sẽ rơi vào tay Tiểu Chiêu vương. Nhưng còn Vong Trần cậu? Trước sau cậu chỉ là người ngoài, sẽ không ai nghi ngờ cậu, tới khi ấy chỉ cần cậu đi trước một bước, tiêu hủy phần chứng cớ về Chương thị là xong.”

Trương Viễn Tụ không tỏ ý nhận lời hay không, “Ta có một thắc mắc, năm xưa triều đình quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài, danh sách lên đài vốn dĩ do Hàn Lâm phân phối, vì sao viên quan của Xu Mật Viện như thầy lại có danh sách?”

“Vì một vụ án nên Hàn Lâm và ta đã có trao đổi.” Chương Hạc Thư điềm tĩnh nói, ông ta nhìn Trương Viễn Tụ, “Vong Trần muốn nghe tiếp không? thực ra chuyện này cũng đơn giản lắm, lão phu sẽ nói những gì mình biết.”

Lúc ấy Chưởng viện Hàn Lâm Viện là lão thái phó.

Nói cách khác, người lấy danh sách để trao đổi với Chương Hạc Thư chính là thái phó?

Trương Viễn Tụ do dự, không lên tiếng.

Chương Hạc Thư nhận ra tâm tư của y, không nói tiếp mà chỉ bảo: “Cậu không cần hỏi. Cậu chỉ cần biết, nếu chỉ bị lộ chuyện Khúc Bất Duy mua bán danh sách thì chí ít triều đình có thể ngăn chặn ngay từ đầu, nhưng nếu cứ để mặc Tiểu Chiêu vương tiếp tục điều tra, kiểu gì manh mối cuối cùng cũng sẽ bại lộ, rồi không phải mọi cố gắng của Vong Trần thành vô ích à, sợ là triều đình sẽ ngừng xây lại Tiển Khâm Đài. Trước kia trong triều từng có người phản đối kế hoạch xây dựng Tiển Khâm Đài, nếu không nhờ huynh trưởng cậu kiên quyết ủng hộ tiên đế, liệu núi rừng Bách Dương có thấy được đài cao không? Bây giờ Vong Trần kế thừa ý nguyện của cha anh, điều cậu mong mỏi nhất, chẳng phải là đài cao thấu mây trên núi Bách Dương sao?”

Trương Viễn Tụ im lặng một lúc rất lâu, cuối cùng mới nói: “Nếu không muốn ai biết thì đừng có làm, xem ra thầy cũng không phải người thần thông, cũng có lúc cần tới người giúp tiêu hủy bằng chứng phạm tội.”

“Thân đứng trong bùn ắt sẽ lấm bẩn, chỉ cần rửa sạch là được. Lão phu tin rằng với tài trí của Vong Trần, không cần lão phụ dạy, đến lúc đó hẳn tự biết cần làm gì.” Nói đoạn, Chương Hạc Thư vươn tay mời, “Mau uống trà đi.”

Trong sảnh lặng tiếng vắng âm thanh.

Sắc trời nhuộm ráng chiều, người bình thường chẳng ai dùng trà vào giờ này. Trương Viễn Tụ nhấp một hớp, đưa mắt nhìn ra sân. Bức thạch bích cá chép hóa rồng ở trong sân có hai mặt, mặt hướng vào trong là đàn cá chép bơi quanh long môn, sóng biển dâng trào; mặt hướng ra ngoài khắc hình một con cá chép nhảy vút cao quá long môn, đuôi quẫy bọt sóng, như thể muốn nói nó mới là con cá may mắn.

Chợt lúc này, một người hầu lật đật chạy tới, “Lão gia, không ổn rồi, thiếu gia đã đến dinh thự.”

Chương Hạc Thư ngạc nhiên: “Đình nhi? Sao nó lại đến đây?”

Người hầu thấy Trương Viễn Tụ cũng đang ở trong sảnh thì do dự, được Chương Hạc Thư cho phép mới bẩm: “Hình như Khúc Ngũ gia đến chỗ thiếu gia làm loạn.”

“Bức Tứ cảnh đồ ở tư dinh của Khúc hầu bị trộm, Phong Nguyên tướng quân biết tin, lo lắng Tiểu Chiêu vương có được manh mối về tung tích của Sầm Tuyết Minh nên đã xúi Khúc Ngũ gia đi thăm dò, ai dè Khúc Ngũ gia lại chất vấn ngược lại thiếu gia. Khúc Ngũ gia đã nghe được vài chuyện về vụ án của Sầm Tuyết Minh từ chỗ Tiểu Chiêu vương, còn không biết giữ mồm giữ miệng mà nói toạc ra, thiếu gia nghe xong, bắt đầu nghi ngờ lão gia, cho nên…”

Chương Hạc Thư sầm mặt.

Tên Phong Nguyên này, đúng là ngu ngốc y hệt chủ của gã. Tứ cảnh đồ bị trộm thì thôi, quan trọng là phải đối phó thế nào, tình hình thế này mà lại đi thăm dò Tiểu Chiêu vương, sợ Tiểu Chiêu vương biết chưa đủ nhiều hả?

Chỉ e điểm kì quặc ở mỏ khoáng Chi Khê cũng đã bị Tiểu Chiêu vương nhìn thấu.

Chương Hạc Thư sầm sì không lên tiếng, Trương Viễn Tụ đặt cốc trà xuống, bảo: “Xem ra thầy còn có việc nhà cần giải quyết, vậy Vong Trần xin phép đi trước.”

***

Tiết Đại thử* còn chưa qua đã có thể cảm nhận được cái mát trời Thu, gió chiều cuộn vòng lướt qua mặt đất, đem đến từng cơn ớn lạnh rùng mình.

(*Tiết Đại thử là giai đoạn trời oi bức, nắng nóng nhất trong năm.)

Trương Viễn Tụ vừa rời đi không lâu thì Chương Đình đã đến. Hắn xuống ngựa trước cửa, đẩy người canh cửa ra, rảo bước vào nhà, có vẻ như đi đường gấp gap nên trên trán túa đầy mồ hôi, thấy Chương Hạc Thư đứng trong phòng khách, hắn há miệng, lại chẳng nói nên lời.

Thấy dáng vẻ hấp tấp của hắn, Chương Hạc Thư quở trách, “Nặng là gốc của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động, quân tử hành tẩu không lìa xe chở nặng*, cha đã dạy anh thế nào, anh quên rồi hả?”

(*Đây là câu nói của Lão Tử, có nghĩa người làm việc đáng tin cậy luôn biết nặng nhẹ, không hành động kiểu bốc đồng, làm việc trầm ổn không nóng vội, dù suốt ngày rong ruổi vẫn không bỏ mất sự trang trọng (ngụ ý từ xe chở nặng).)

Chương Đình dằn lại tâm trạng, dừng bước chắp tay vái chào, “Phụ thân.”

Chương Hạc Thư “ừ” một tiếng, xoay người đi vào nhà, “Vào đi.”

“Đột nhiên đến Trung Châu, có chuyện gì không?” Chương Hạc Thư đặt chung trà lên bàn, sửa sang tay áo, thong dong hỏi.

Chương Đình thân cao, nay đứng trong sảnh trông càng thêm cao ráo mà cô độc. Hắn rất giống Chương Hạc Thư, nhưng thoạt nhìn có vẻ lạnh lùng cao ngạo hơn, gờ mi cao, mắt hẹp dài, “Con trai ở Lăng Xuyên nghe được vài tin đồn, nói là… Sầm Tuyết Minh mà phụ thân bảo con tìm giúp vướng vào một vụ án ở Thượng Khê, chưa hết, việc gã mất tích vào năm năm trước thực chất liên quan tới Tiển Khâm Đài.”

Gió chiều thốc đến từ tứ phía, không hiểu sao gió hôm nay mạnh hơn mọi khi, cái lạnh ngày Thu đột ngột đến y hệt sự hốt hoảng không cách nào xóa bỏ trong mắt Chương Đình.

“Con trai nhờ người hỏi về vụ án ở Thượng Khê rồi, dường như Huyện lệnh và sư gia Thượng Khê đã lôi kéo sơn tặc núi Trúc Cố giao dịch suất lên Tiển Khâm Đài, mà người xúi bọn họ làm chuyện đó chính là Sầm Tuyết Minh.”

Tuy chuyện buôn bán là bí mật nhưng Chương Đình vốn là Thị lang tam phẩm, không khó để biết chuyện này, huống hồ Tiểu Chiêu vương cũng không định giấu hắn.

Chương Hạc Thư nhìn Chương Đình, nói: “Thì sao?”

Thì sao ư?

Chương Đình ngạc nhiên ngẩng đầu, sửng sốt một lúc, “Vậy, những chuyện này… phụ thân đều biết?” Hắn dừng lại, cảm thấy khó tiếp nhận, “Phụ thân đã biết Sầm Tuyết Minh có liên quan tới chuyện buôn bán suất lên đài? Cũng biết cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố có nỗi oan, thậm chí sĩ tử Thẩm Lan cũng bị chết oan? Nếu phụ thân đã biết, vì sao còn bảo con hỗ trợ Phong Nguyên tìm Sầm Tuyết Minh? Lẽ nào… lẽ nào phụ thân thật sự nhúng tay vào rắc rối này?”

Chương Hạc Thư thong thả nói: “Ta tự có lí do của mình, anh không cần quan tâm, làm xong bổn phận là đủ rồi.”

“Bổn phận của con là gì? Nối áo cho giặc, trợ giúp Phong Nguyên tìm Sầm Tuyết Minh để đối đầu với Tiểu Chiêu vương?” Chương Đình vô cùng khó hiểu, “Phụ thân! Sầm Tuyết Minh chỉ là một Thông phán, gã lấy đâu ra danh sách lên Tiển Khâm Đài? Không lẽ là từ phụ thân và Khúc hầu? Nhưng lúc đó, phụ thân là Chưởng sứ quan Xu Mật Viện, Khúc hầu chỉ là Quân hậu tam phẩm, làm sao có được danh sách?”

“Nếu anh đã không ngại vất vả chạy đến Trung Châu chỉ để hỏi cha chuyện đó, thì cha có thể nói cho anh biết. Khoảng hơn sáu năm trước vào lúc xây dựng Tiển Khâm Đài, triều đình từng lưu đày một nhóm sĩ tử, cha đã dùng mánh khóe để cứu họ, cho nên Hàn Lâm Viện mới đưa tặng cha danh sách.”

“Nhưng… Nhưng phụ thân cần danh sách này làm gì?” Chương Đình hỏi, “Phụ thân là người thanh liêm. Hồi thi đậu đậu Tiến sĩ, tiền đồ rạng rỡ ở ngay trước mặt, nhưng lại bị Chương thị đẩy ra gánh tội thay, phải chịu cực hình trong lao ngục hơn mười ngày, nhưng phụ thân quyết không nhận tội, do đó mà đường làm quan trở nên chông gai trắc trở hơn, phải mất mấy năm sau phụ thân mới được minh oan, những chuyện này phụ thân quên đã rồi ư! Bình sinh phụ thân ghét nhất mưu hại bất công, thông đồng cầu kết, ghét nhất những thứ bẩn thỉu trong thế gia, thậm chí không tiếc cắt đứt quan hệ với Chương thị, nhưng vì sao, vì sao bây giờ phụ thân lại làm ra chuyện mình ghét nhất, phạm vào tội ác tày đình như thế?”

“Tội ác tày đình?” Nghe bốn chữ này, Chương Hạc Thư không khỏi bật cười, “Là lỗi của cha ư? Vậy anh nói cha xen, rốt cuộc cha sai ở đâu? Đâu là đúng, đâu là sai.”

Ông nhìn Chương Đình, người con trai được ông nuôi lớn thật quá ngay thẳng. Nhưng đôi khi, người quá ngay thẳng khó tránh khỏi ngây thơ đến buồn cười, không bao giờ hiểu được giữa thị phi đen trắng làm gì có chính tà tuyệt đối.

Chương Hạc Thư bình thản nói, “Thôi thì cha nói cho anh biết, chính vì trải qua những chuyện đó, cha mới không hi vọng Hàn Lâm Viện sẽ phân phối danh sách này.”

“Ban đầu khi định tuyển chọn sĩ tử lên Tiển Khâm Đài, triều đình chỉ chọn ở kinh thành và những nơi như Ninh Châu, Trung Châu, sau đó mới mở rộng đến vùng nghèo khó như Lăng Xuyên, Đồng Châu, anh có biết người thúc đẩy là ai không? Chính là cha. Nếu trong tay cha không có danh sách này, Hàn Lâm Viện còn lâu mới chịu kết hợp với các triều thần văn sĩ hàn môn, đối đầu với trọng thần thế gia để chia đều danh sách khắp cả nước? Anh tưởng không cần đấu tranh là có thể chia đều số lượng dễ như vậy hả?

Anh cho rằng vì sao những Tú tài, Cử nhân kia lại có được suất lên đài? Vì sao Hàn Lâm Viện lại chọn sĩ tử lên đài dựa vào tài học phẩm chất chứ không phải bối cảnh xuất thân? Chính nhờ cha. Cha không muốn danh sách lọt vào tay đám quý tộc đó, cha không muốn những chuyện mình trải qua sẽ lặp lại với người khác!”

Chương Đình nói: “Phụ thân cho rằng nếu có được bản danh sách đó thì có thể thực hiện sự công bằng chân chính sao? Để những người dòng thứ như phụ thân, thậm chí là học trò nhà nghèo cũng có cơ hội? Nhưng làm sao phụ thân dám đảm bảo mình công bằng? Còn nữa, phụ thân giải thích chuyện danh sách vào tay Khúc hầu thế nào?”

“Khúc Bất Duy chỉ là sự cố. Về sau khi biết chuyện, ta đã cố gắng sửa chữa.”

“Kết quả của việc sửa chữa là sơn tặc núi Trúc Cố bị giết trong một đêm? Huyện lệnh và sư gia Thượng Khê cũng mất mạng trong trận bạo loạn nhiều năm sau?”

“Đó là tự Khúc Bất Duy làm ra, ông ta bị lòng tham che mắt, giết chóc vô số, nhưng đầu óc ông ta quá đơn giản ngu dốt, nếu để cha làm thì đâu có chuyện tay chân dính bẩn, cũng không lộ liễu thô bạo như vậy. Nhưng nghĩ kỹ mà xem, danh sách quý báu như thế bán một trăm nghìn lượng một suất là quá rẻ, nhẽ ra nó phải vô giá, cha sẽ không dùng để buôn bán.”

Tiếng gió ngoài nhà càng trở nên lớn lên, nghe như thú gầm bừng tỉnh, bóng đêm đã bao trùm.

Chương Đình nheo mắt nhìn Chương Hạc Thư, “Vậy trong mắt phụ thân, danh sách đó là gì? Là nấc thang để thực hiện lý tưởng của mình? Hay là viên đá còn thiếu để xây nên mộng? Phụ thân cho rằng chỉ bản thân mới cứu được những sĩ tử hàn vi bị mắc kẹt trong dơ bẩn bất công?  Chỉ có đài cao này mới thực hiện được giấc mộng mây xanh chí lớn của mình, cho nên trong mắt phụ thân, bản danh sách ấy mới vô giá đến vậy? Nhưng Tiển Khâm Đài cũng chỉ là đài cao mà thôi! Nó được xây dựng vì tấm lòng của sĩ tử nhảy sông! Vì sự trung dũng của tướng sĩ đã hi sinh trên sông Trường Độ! Đáng nhẽ ra nó phải sạch sẽ, không nên trở thành một công cụ, trở thành nấc thang lên trời của các người…”

“Thấy anh vội vàng chạy đến Trung Châu như thế, có lẽ đã biết được đại khái những gì Tiểu Chiêu vương đã điều tra trong một năm nay.” Không đợi Chương Đình nói hết, Chương Hạc Thư đã ngắt lời, “Vậy anh hãy đi mà hỏi Tiểu Chiêu vương, đi hỏi nữ Ôn thị kia, trên quãng đường này, bọn họ đã nhìn thấy gì, trải qua chuyện gì.

Vì sao Từ Thuật Bạch phải lên Tiển Khâm Đài? Vì hắn vừa không có tiền lại không có quan chức, nên hắn lựa chọn lên Tiển Khâm Đài, đợi đạt được danh vọng sẽ chuộc thân cho ả kĩ nữ trong lòng!

Hay Tưởng Vạn Khiêm ở Thượng Khê, một thương nhân vất vả nửa đời dành dụm được số tiền kếch xù, nỗi nhục ở rể luôn là cơn ác mộng của ông ta, ông ta muốn nở mày nở mặt nhưng con trai quá kém cỏi, chỉ có thể đậu mỗi Tú tài,  cho nên ông ta không tiếc tiền mua suất lên đài cho Phương Lưu, để gia tộc Tưởng thị được rạng rỡ ở quê nhà!

Thậm chí cả Thẩm Lan ở Đông An, hắn yêu vợ yêu con gái nhưng quá hèn nhát, không ngăn cản được trưởng bối trong nhà cho đi đứa con gái sinh giờ âm khắc âm, sau đó lại giả mù sa mưa đến Doãn gia làm thầy dạy học, thi đậu Cử nhân mấy năm mà vẫn còn long đong, sợ rằng không bao giờ có thể đón con gái về, quyết định dùng Tứ cảnh đồ đổi suất lên Tiển Khâm Đài, đợi một bước lên mây trở thành đại quan, sẽ quang minh chính đại đón Doãn Uyển về nhà!

Đây chỉ là những gì Tiểu Chiêu vương điều tra được, còn rất nhiều chuyện khác chưa tra được thì sao? Những sĩ tử kia, từng người bọn họ, hoặc vì danh, hoặc vì lợi, hoặc vì dục vọng, vì tâm nguyện không cách nào thực hiện, cho nên mới bước lên Tiển Khâm Đài. Trong số họ, có ai thực sự tưởng nhớ những sĩ tử, những tướng sĩ kia?! Không hề! Nếu đã thế, cha muốn tự tay phân phát danh sách cũng có gì sai! Cha cũng như họ, cũng vì tâm nguyện của bản thân!”

“Nhưng… Nhưng phụ thân làm thế…” Gió táp ùa vào cửa sổ, nghe những lời Chương Hạc Thư nói, Chương Đình ngơ ngác rất lâu, “Nhưng phụ thân làm thế, Tiển Khâm Đài không còn là Tiển Khâm Đài nữa. Phụ thân xem nó như nấc thang thực hiện tâm nguyện của mình, một tòa tháp leo lên là có thể chạm đến đỉnh cao mây trời, nó đâu còn là Tiển Khâm Đài, mà là đài mây xanh.”

“Chính là đài mây xanh, là Thanh Vân Đài!” Chương Hạc Thư nói, “Từ khi tiên đế quyết định xây tháp đài này, từ khi nó được gán với ý nghĩa kia, khi tất cả tranh nhau xem ai là sĩ tử được chọn lên đài, hi vọng bản thân có thể trở thành một trong số đấy, thì nó không còn đơn giản được xây vì những sĩ tử và tướng sĩ đã hi sinh nữa, nó thỏa mãn dục vọng của mỗi một cá nhân, nó thực hiện ước mơ mà bọn họ không thể với tới, nó chưa bao giờ là Tiển Khâm Đài, nó là Thanh Vân Đài!”
 
Chương 159


“Không, không phải như vậy, phụ thân sai rồi…”

Nghe những gì Chương Hạc Thư vừa nói, Chương Đình rơi vào hoang mang, nhưng rốt cuộc phụ thân đã sai ở đâu thì hắn không thể chỉ ra.

Những sĩ tử đã được Tiểu Chiêu vương điều tra, Thẩm Lan, Phương Lưu, kể cả Từ Thuật Bạch, không phải bọn họ đều vì dục vọng riêng nên mới bước lên Tiển Khâm Đài sao? Thậm chí trong danh sách ban đầu, không phải con em thế gia được hưởng ơn nhờ cha ông cũng tranh giành nhau, mong rằng mình có thể được chọn lên Tiển Khâm Đài ư?

Chương Đình muốn nói, nhưng, con người mà!

Đấy mới chính là con người, dù thiện hay ác, trong lòng vẫn sẽ có dục vọng không thể kiềm chế.

Tại sao phải yêu cầu sự thuần túy?

Đến mức Tiển Khâm Đài biến thành Thanh Vân Đài, còn phụ thân hắn, để bù đắp thiếu sót của bản thân nên mới độc chiếm vài suất lên đài, ông có lỗi lầm gì?

Chương Đình có cảm giác tảng đá lớn treo cao trong lòng trên suốt quãng đường mình đến đây đã rơi xuống tự lúc nào không hay, đập nát niềm tin xưa nay của hắn, chỉ còn lại sự dạy dỗ cũng lung lay chống đỡ hắn nói ra lời kế tiếp, “Nhưng… Theo con thấy, nước sông Thương Lãng, tẩy sạch cổ tà, trong số nhiều người lên Tiển Khâm Đài, nhìn đài tháp được xây nên, dù chỉ một người tưởng nhớ những sĩ tử trầm mình năm ấy, thì Tiển Khâm Đài vẫn xứng với cái tên của nó, chẳng hạn như… chẳng hạn như Tiểu Chiêu vương, Vong Trần, cả nữ Ôn thị…”

“Nữ Ôn thị?” Chương Hạc Thư cười khẩy, “Anh đi mà hỏi Ôn Thiên đã qua đời, vì sao ông ta đồng ý rời núi xây dựng Tiển Khâm Đài? Còn không phải là để truy điệu người vợ quá cố của mình? Tiểu Chiêu vương được cử đến núi Bách Dương khi chỉ mới mười bảy tuổi, anh tưởng từ nhỏ được phong hàm đón vào cung, gánh lấy kỳ vọng của biết bao người sau khi sĩ tử trầm mình là mong muốn của y? Y cực kỳ ghét chuyện đó, Tạ Trinh phụ thân y đặt cho y cái tên Dung Dữ là mong y có thể tự do tự tại, nhưng nhiều năm qua, y có ngày nào được sống tự tại không? Mất cha từ tấm bé, thời niên thiếu bị nhốt trong thâm cung, cho dù mấy năm trước phải sống dưới tên của người khác, nhưng không phải cũng bị tâm ma quấn thân, không thể thấy mặt trời sao? Con cho rằng vì sao y lại dốc sức tìm ra chân tướng như thế? Vì những sĩ tử đã mất mạng kia ư? Không, y cũng chỉ vì bản thân y. Không ai hơn y mong muốn được cởi bỏ xiềng xích, bước ra khỏi vũng bùn này, chỉ là y che giấu quá giỏi khiến người ngoài không tài nào nhìn ra.

À phải rồi, còn cả Trương Vong Trần. Hắn lại khác với Tiểu Chiêu vương, Tiểu Chiêu vương muốn thoát khỏi vũng bùn này, còn hắn lại liều mạng nhảy vào. Lão thái phó thương hắn số khổ nên mới đặt cho hắn cái tên Vong Trần, hi vọng hắn có thể quên đi những hỗn loạn trần thế. Nhưng anh nhìn hắn đi, anh tưởng hắn rời kinh hai năm không quan tâm thế sự là xuất phát từ khiêm tốn, không nhiễm bụi trần? Từ khi nữ Ôn thị lên kinh, hắn nhúng tay vào ít lắm sao? Hắn làm tất cả những chuyện này vì điều gì? Vì sợ rằng trên núi Bách Dương không có đài cao, trăm năm sau sẽ không còn ai nhớ tới cha anh hắn đã chết oan.

Cha nói rồi, Thanh Vân Đài thỏa mãn dục vọng của mỗi một cá nhân, dù là Tiểu Chiêu vương hay Vong Trần đi nữa, và cả nữ Ôn thị kia, bọn họ cũng chỉ vì mình, chưa bao giờ vì người khác.”

Chương Đình kinh ngạc nhìn Chương Hạc Thư, trong khoảnh khắc, người cha vĩ đại thanh liêm trong mắt hắn lại trở nên vô cùng xa lạ, ngay đến lời thốt ra cũng khiến hắn không cách nào thích ứng.

Có lẽ, hắn chưa bao giờ hiểu phụ thân.

Phụ thân không chỉ là người thân của hắn mà còn là một cá nhân riêng lẻ có máu có thịt, từ lúc ông còn bé cho tới tuổi thiếu niên, rồi đi đến tuổi già hôm nay, biết bao vui buồn trắc trở từng trải đã ủ thành chấp niệm và tâm nguyện của ông bây giờ, trong đó có rất nhiều chuyện mà Chương Đình thân làm con không thể nào chứng kiến.

Thậm chí hắn không có tư cách để chỉ trích.

Chương Đình cúi đầu, người cũng sắp sửa vào tuổi ba mươi, lúc này ở hắn không còn sự kiêu ngạo lạnh lùng nữa, thay vào đó trong mắt lại toát lên vẻ đau đớn bàng hoàng, thậm chí là mơ màng ngơ ngác.

Thấy hắn như thế, Chương Hạc Thư hạ giọng bảo: “Anh không muốn giúp Phong Nguyên thì không cần giúp, cũng không cần tìm Sầm Tuyết Minh nữa, về Lăng Xuyên đi, nếu anh không muốn ở lại Đông An thì có thể tới núi Bách Dương tiếp tục đốc công, nếu không muốn đốc công thì viết tấu xin hồi kinh, Quan gia cũng không ép anh làm gì, nói tóm lại, anh không cần tới mỏ khoáng Chi Khê.”

“Tại sao không thể đến mỏ khoáng Chi Khê?” Chương Đình làm quan nhiều năm, khứu giác vô cùng nhạy bén, hắn bình tĩnh hỏi, “Mỏ khoáng bên kia sắp có loạn à?”

“Anh không cần biết.” Chương Hạc Thư nói, “Anh đi đi, nếu bị ai biết anh đột nhiên đến Trung Châu, đối với cả anh và cha đều không có lợi.”

Chương Đình há miệng như muốn nói gì đó.

Nhưng cuối cùng hắn chẳng thể thốt lên dù chỉ một từ, im lặng cười khổ, xoay người bước ra viện.

Hắn đứng giữa sân một lúc, nhìn bức tượng phù điêu khắc hình cá chép vượt long môn. Bức phù điêu này được Chương Hạc Thư mời thợ thiết kế riêng, một con cá bình thường lại nhảy cao quá ngọn sóng, như vậy là có thể bay xa vạn dặm, thực hiện nguyện vọng trong lòng sao?

Chương Đình không biết.

Gió đêm như sóng lớn thốc vào trong sảnh, Chương Hạc Thư im lặng nhìn Chương Đình rời đi. Đình viện trống trơn, sống lưng thẳng tắp cuối cùng cũng thả lỏng, xệ thành lưng gù. Cuộc tranh chấp lần này khiến ông ta vô cùng mệt mỏi, như già đi rất nhiều chỉ trong nháy mắt.

Lão bộc nhẹ nhàng đi vào nhà, dâng một chén canh gừng, nói: “Lão gia, chú ý cơ thể.”

Hồi trước lão bộc này cũng là một sĩ tử, vì bị người ta hàm oan mà phải ngồi tù, đường làm quan coi như chấm hết, may mắn được Chương Hạc Thư cứu giúp nên đi theo ông ta hầu hạ để báo đáp.

Chương Hạc Thư nhận lấy chén canh, “Vong Trần đâu rồi?”

“Trương Nhị công tử đã rời đi từ một khắc trước rồi ạ.” Lão bộc đáp, “Lão gia, có cần cử người đuổi theo dặn dò không?”

“Không cần, Vong Trần là người thông minh, tự biết phải làm thế nào.” Chương Hạc Thư nói, dừng một lúc lại hỏi, “Lan Nhược cũng đi rồi hả?”

“Lúc đi trông thiếu gia có vẻ rất buồn, lão nô lo quá, tính cách thiếu gia như vậy, chỉ sợ sẽ suy sụp.”

Nhưng còn có thể làm gì được?

Ông ta trải qua bao trăm cay ngàn đắng mới đi được đến ngày hôm nay, Tiển Khâm Đài sắp sửa được xây xong, ngàn vạn lần không thể xảy ra chuyện vào lúc này.

Chương Hạc Thư chỉ nói: “Cứ mặc nó. Về lệnh điều binh khẩn, ngươi cho người đem đi đi.”

“Đã làm rồi ạ, ấn giả… của bên trên cũng đã làm xong, chỉ đợi Khúc Ngũ công tử điểm chỉ, một khi binh lính được điều động, chuyện coi như thành.”

Binh mã địa phương cũng thuộc về triều đình, không phải chỉ cần tướng quân ra lệnh là có thể điều binh, mà phải có cả hổ phù do triều đình cấp. Nhưng trong tình huống nguy cấp vẫn còn một cách khác, đó là tướng lĩnh đóng quân lấy lệnh khẩn của Xu Mật Viện điều binh trước, sau đó sẽ báo lên triều đình.

Trên lệnh điều binh khẩn cần có chữ ký của tướng lĩnh đóng quân, binh mã huy động cũng không được vượt quá một nghìn, rồi sau đó là công hay tội, tướng lĩnh đóng quân phải chịu trách nhiệm toàn bộ.

Chương Hạc Thư dự đoán binh mã của Phong Nguyên sẽ va chạm với Huyền Ưng Ti của Tiểu Chiêu vương tại khu mỏ Chi Khê.

Còn mâu thuẫn lớn chừng nào, phải xem thanh củi Sầm Tuyết Minh cháy mạnh đến đâu.

Về phần Chương Hạc Thư muốn tự vệ, chỉ cần làm một chiêu nhỏ trong đó là xong.

Phong Nguyên đã dẫn binh đến khu mỏ Chi Khê, nhưng đội ngũ của ông ta dùng để tìm người tra án, không thể đánh giặc, một khi đội ngũ của ông ta có va chạm với Huyền Ưng Ti, ông ta chỉ có thể nhượng bộ. Nhưng ông ta có thật muốn nhượng bộ không? Chắc chắn không, vì chỉ cần bị Tiểu Chiêu vương nắm được tội chứng, thứ chờ ông ta chính là tội chết. Nên trong tình huống xấu nhất, ông ta sẽ động binh với Huyền Ưng Ti.

Mà chuyện Chương Hạc Thư muốn làm chính là đổ tội binh loạn lên đầu Khúc Mậu – ông ta sẽ để người của mình dụ Khúc Mậu ký vào lệnh điều binh khẩn được làm giả, biến việc Phong Nguyên dẫn binh là làm theo lệnh của Khúc Mậu.

Nếu trong binh loạn, Phong Nguyên có thể lấy được tội chứng trước Tiểu Chiêu vương thì không còn gì tốt hơn; còn nếu tội chứng vẫn rơi vào tay Tiểu Chiêu vương, Khúc Bất Duy sẽ bị hỏi tội, vào lúc này, Chương Hạc Thư có thể uy hiếp Khúc Bất Duy bằng lệnh khẩn này.

Ông sẽ nói với Khúc Bất Duy là, ông nhìn xem, nếu ông không khai ra ta thì với tội danh mua bán suất lên đài, chỉ có ông cùng vài tên thuộc hạ chết. Còn nếu ông khai ra ta, ta sẽ trình tờ lệnh khẩn mà con trai ông đã ký lên triều đình. Người kinh thành đều biết Đình Lam chỉ là công tử bột, chắc chắn chính ông đã sai khiến hắn chống đối triều đình, điều động binh mã. Hầu gia như ông xúi giục một tướng quân và Huyền Ưng Ti động binh nhằm mục đích gì? Đó là lạm quyền đế vương, mưu đồ làm phản! Năm xưa ông buôn ban danh sách vốn dĩ là do bất mãn với triều đình, bây giờ cha con Khúc thị làm phản, tru di cửu tộc là chuyện chắc chắn. Nên ông hãy nghĩ cho kỹ, rốt cuộc là ông không khai ra ta, chỉ chết một mình ông, hay để ta trình lên tờ lệnh khẩn này, cả ông và ta lẫn cả nhà Khúc thị đều phải đền tội?

Giữa hai bên nên chọn bên nhẹ hơn, là người đều biết phải chọn thế nào.

Chương Hạc Thư chợp mắt nghỉ ngơi một lúc, đoạn từ từ mở mắt, “Bây giờ Tiểu Chiêu vương đang không ở Đông An, Vong Trần, Lan Nhược cũng đến Trung Châu, chỉ có một mình Đình Lam ở dinh quan, là lúc dễ gạ gẫm nhất, ngươi hãy đốc thúc kẻ dưới để hắn ký vào lệnh khẩn, tìm cách lừa hắn tới Chi Khê. Hành động nhanh vào, dù Sầm Tuyết Minh có khó tìm đến đâu, chỉ cần Tiểu Chiêu vương ở lại khu mỏ ít hôm ắt sẽ nhanh chóng phát hiện ra tung tích của hắn.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom