Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Thanh Vân Đài

Chương 120


“Ta… ta hại chết Trù Trù bao giờ hả?” Lý thị tái mét mặt mày, “Con nhỏ Trù Trù có tính trộm vặt, nhiều lần trộm đồ trong nhà ta, ta đã muốn xử nó từ một năm trước rồi, từng nói qua với lão gia vài lần, nhưng lão gia cứ gạt phăng bảo chuyện nhỏ. Lão gia bảo ta rời đi mà giữ lại con chuột to như thế ở trong nhà à?! Nếu không có ta để mắt, chẳng phải đồ trong nhà sẽ bị cuỗm mất à? Sao không được xử lý nó hả! Ai mà ngờ… ai mà ngờ nó lại chết…”

Dư Hạm hừ lạnh, “Bà còn chống chế á! Lão gia đã nói với ta rồi, nói bà muốn xử lý Trù Trù, nhưng ông ấy không muốn làm hại tính mạng người ta, song không lay chuyển được bà nên mới phải tới chỗ ta trốn ít hôm. Ai dè bà lại độc ác đến vậy, gọi ma quỷ tới, còn hại chết Trù Trù!”

“Ta bảo xử lý Trù Trù cũng chỉ là muốn lão gia dẫn nó tới nha môn, dọa cho nó biết mặt chứ đâu phải muốn mạng của nó!” Lý thị nói, “Đúng… đúng là ta có trách nhiệm… trong cái chết của Trù Trù… Nhưng sáng hôm đó… ta chỉ để người nha môn dẫn nó đi, ta đâu biết nó sẽ chết…”

Nghe bà ta nói thế, Tạ Dung Dữ khẽ chau mày.

Chương Lộc Chi lập tức hỏi: “Người của nha môn dẫn Trù Trù đi lúc nào?”

“Là… là sáng hôm nó chết.” Lý thị run run đáp.

“Bà bảo xử lý Trù Trù chính là muốn kéo nàng ta đến nha môn?”

Lý thị gật đầu, rồi vội vàng giải thích, “Không phải cáo trạng thật, nói gì đi nữa nó cũng đi theo dân phụ mấy năm, nếu thực sự kéo nhau đến nha môn thì thanh danh hỏng mất, không tìm được việc nữa, về sau biết sống thế nào? Dân phụ chỉ muốn lão gia hù nó chút, để nó quỳ gối trên công đường nhận sai, không dám trộm đồ nữa là được. Cuối cùng hôm đó lão gia cũng đã đồng ý, để người ở nha môn tới dẫn nó đi, không ngờ…”

“Bà nói láo, tính nết lão gia thế nào hả, ông ấy chưa bao giờ để ý chuyện ở nha môn, sao có thể phí tâm vì một nha hoàn trong phủ được?” Dư Hạm nói, “Hơn nữa hôm ấy lão gia ở trang viên chỗ ta cả ngày, mãi tới lúc Trù Trù chết, Tần sư gia mới đến gọi ông ấy đi, bà nói lão gia để người nha môn dẫn Trù Trù đi, bộ ông ấy nằm mơ sai người đi chắc?!”

Lý thị mới lật đật nói: “Ta thực sự không nói láo, đúng là lão gia lệnh cho người tới dẫn Trù Trù đi mà. Ta còn tưởng… còn tưởng là lão gia giết Trù Trù, nên ta mới…”

Nói xong, bà ta ngơ ngác bảo: “Nếu không phải lão gia giết Trù Trù, vậy ai giết?”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Hôm đó là ai đến nhà bà dẫn Trù Trù đi?”

“Là Lý bổ đầu ở nha môn.” Lý thị đáp, vội vàng giải thích, “Vương gia, dân phụ thực sự không nói dối, lúc Trù Trù bị Lý bổ đầu dẫn đi, hai đứa con nhỏ của dân phụ cũng có mặt, dân phụ còn bảo hai đứa lấy đó làm răn mà, trẻ con hẳn không nói dối, vương gia sai người đi hỏi là biết.”

Tạ Dung Dữ đưa mắt nhìn Kỳ Minh, Kỳ Minh gật đầu rời đi.

Tạ Dung Dữ bảo: “Nói thế tức là, những năm qua tuy chân tay Trù Trù không sạch sẽ, nhưng niệm tình cô ta đã hầu hạ nhiều năm nên bà vẫn bao dung với cô ta, tới tận một tháng trước, khi Tôn Nghị Niên đột ngột bảo bà rời khỏi Thượng Khê, bà mới lo sau khi mình đi, trong nhà không còn ai để mắt đến a hoàn Trù Trù, nên bà hi vọng Tôn Nghị Niên dẫn cô ta tới nha môn, dọa cô ta một trận. Nhưng Tôn Nghị Niên không chịu, thế là hai người cãi nhau, sau đó ông ta bỏ đến trang viên của Dư thị. Bà ở nhà đợi ít hôm, cho tới buổi sáng nọ, Lý bổ đầu ở nha môn bỗng tìm đến cửa, nói Tôn Huyện lệnh đã chịu xử lý Trù Trù, muốn dẫn cô ta đi, có đúng vậy không?”

Lý thị lúng túng gật đầu: “Đúng vậy…”

Tạ Dung Dữ lại hỏi Dư Hạm: “Trong mấy ngày Tôn Nghị Niên ở trang viên của cô, có phải ông ta đã nói với cô Lý thị muốn xử lý Trù Trù, nhưng ông ta không muốn hại tính mạng người ta?”

“Đúng ạ.”

“Ông ta có nói Lý thị muốn giết hại Trù Trù không?”

“Chuyện này… không có.”

“Vậy có phải Tôn Nghị Niên đã nóI, vì Lý thị muốn dẫn Trù Trù đến nha môn nên có khả năng Trù Trù sẽ chết?”

Dư Hạm ngẩn ra, chợt nhớ tới ánh mắt tuyệt vọng của Tôn Nghị Niên lúc đó, về sau nàng cũng đã từng nhìn thấy ánh mắt ấy một lần nữa, chính là lúc ông nói không mong rằng có thêm người sẽ mất mạng vì núi Trúc Cố.

Dư Hạm toan mở miệng, nhưng Tạ Dung Dữ đã có được đáp án từ biểu cảm của nàng ta, xoay sang hỏi Lý thị, “Bà đã nói với bao nhiêu người muốn đưa Trù Trù đến nha môn, để Tôn Nghị Niên dọa cô ta?”

“Bẩm vương gia, ngoài lão gia ra, dân phụ không nói với ai cả.” Lý thị nhíu mày nhớ lại, “Nhưng, nhưng có một lần, dân phụ bực mình lão gia không chịu giúp chuyện này, bèn đến nha môn tìm ông ấy, ép ông ấy bắt Trù Trù tới nha môn, lúc đó có vài người đang ở chỗ của lão gia, ắt hẳn đã nghe được.”

“Trong số những người đó có Lý bổ đầu không?”

Lý thị vắt óc nhớ lại, rồi chợt la lên: “Có, có.”

“Như thế có nghĩa, Lý bổ đầu biết chuyện bà muốn xử lý Trù Trù?” Tạ Dung Dữ ngừng một lúc, đoạn nói, “Vậy liệu có khả năng, người thực sự muốn dẫn a hoàn Trù Trù đi không phải là Tôn Nghị Niên, càng không liên quan đến ma quỷ, mà chính là Lý bổ đầu này, rồi người giết hại Trù Trù cũng là Lý bổ đầu.”

Lý thị nói: “Có thì có thể, nhưng, tại sao…”

“Đúng thế, Ngu hầu, tại vì sao?” Chương Lộc Chi đứng bên nghe Tạ Dung Dữ thẩm vấn, ban đầu còn theo kịp, nhưng tới khúc này lại lấy làm khó hiểu.

Tạ Dung Dữ đảo mắt nhìn mọi người, thấy ngoài Vệ Quyết ra Huyền Ưng vệ nào cũng có vẻ hoang mang, bèn nói: “Ta hỏi các ngươi, vì sao Thượng Khê lại bị phong tỏa?”

“Chuyện này… dĩ nhiên là vì vụ án ‘ma giết người’.”

Mà người bị hại trong vụ án ấy chính là Trù Trù.

“Vậy người chết vì ‘ma’ có thể là người khác không?”

Vệ Quyết đáp: “Không thể.”

“Tại sao?”

“Nếu như ngọn núi bị phong tỏa, thì người bị ‘ma’ hại chết tuyệt đối không thể là người bình thường, chí ít phải khiến cho vụ việc căng lên. Trù Trù là người trong phủ Huyện lệnh, tại sơn thành như Thượng Khê, nơi tôn quý nhất chính là phủ đệ của Huyện lệnh đại nhân, chỉ có người ở phủ Huyện lệnh chết gần nha huyện thì vụ án ‘ma giết người’ mới đủ gây chấn động, để rồi lúc nha huyện ban bổ lệnh phong tỏa núi, sẽ không một ai cảm thấy nghi ngờ, đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai, cũng là lý do quan trọng nhất, chiếu theo tình hình lúc đó, chỉ có Trù Trù chết mới không khiến người ngoài nghi ngờ, khiến người ta thực sự tin rằng là bị ma giết.”

Vệ Quyết dừng một lúc, đoạn nói: “Làm sao để tin một người bị ma giết? Đầu tiên, tử trạng phải rất thê thảm, thứ hai, không hiểu được nguyên nhân cái chết, song hai điểm này có thể tạo ra, mấu chốt là ở điểm thứ ba, sau khi cô ta mất, không có ai nghi ngờ cũng không có ai báo quan, tất cả những người liên quan đều im lặng, thà tin rằng cô ta bị ma giết chứ không muốn hỏi nhiều về vụ án này nửa câu.”

“Người có liên quan đến Trù Trù bao gồm ai? Thứ nhất là Lý thị, dĩ nhiên Lý thị sẽ không gặng hỏi, vì bà ta tưởng Trù Trù do Tôn Nghị Niên sai người giết; thứ hai là Dư thị, Dư thị không tính là người liên quan, nàng ta chỉ là người biết chuyện, nhưng Lý thị là chủ mẫu của nàng ta, đúng như nàng ta nói, dù trong lòng có nghi ngờ thì nàng ta vẫn sẽ giấu giếm giúp Lý thị; thứ ba là Tôn Nghị Niên, vì sao Tôn Nghị Niên cũng không hỏi nhiều? Vì ông ta biết kiểu gì Trù Trù cũng sẽ chết, thậm chí còn biết có người muốn lợi dụng Trù Trù – người được chọn phù hợp nhất để gây ra vụ án ‘ma giết người’, phong tỏa cả tòa thành Thượng Khê, nên khi Lý thị muốn đưa Trù Trù tới nha môn, ông ta mới cực lực phản đối, vì ông ta biết Trù Trù có thể sẽ mất mạng, đó cũng là lý do về sau khi đến trang viên của Dư thị, ông ta đã nói ra câu không có lời đáp ‘Lý thị muốn xử lý Trù Trù, nhưng ông ta không muốn làm hại ai’.”

“Vậy câu hỏi cuối cùng.” Nói đến đây, Vệ Quyết hạ giọng, “Nếu Tôn Nghị Niên đã biết Trù Trù sẽ chết, vì sao lại không dám lên tiếng?”

“Vì ông ta không còn quyền hành ở nha huyện Thượng Khê nữa.” Đúng lúc này, Thanh Duy lên tiếng, “Mà kẻ thực sự thao túng chính là kẻ đã ra lệnh phong tỏa núi.”

“Tiền đề của việc hạ lệnh phong tỏa là vụ án ‘ma giết người’.” Tạ Dung Dữ tiếp lời Thanh Duy, “Do đó, kẻ tìm cách sát hại Trù Trù, mượn chuyện ấy để gây xôn xao dư luận chính là kẻ đang nấp trong nha môn, là kẻ thực sự chúng ta cần tìm.”

Trong chuyện này, bất luận là Tôn Nghị Niên, Tần Cảnh Sơn hay thậm chí là Cảnh Thường núi Trúc Cố, việc bọn họ bán danh sách lên Tiển Khâm Đài ít nhiều gì cũng là bị ép buộc.

Tuy về sau Cảnh Thường đã chết, Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn sống tạm bợ, nhưng bọn họ biết nhiều chuyện như vậy, lẽ nào kẻ chủ mưu không phái người theo dõi nhất cử nhất động của bọn họ sao?

Từ lâu kẻ chủ mưu đã cài tai mắt vào nha huyện Thượng Khê, vậy nên đấy mới là nguyên nhân Tôn Nghị Niên thường nói ông ta không thể làm chủ được nha môn.

Hiện Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn đã chết, Tạ Dung Dữ không thể hỏi được thông tin về kẻ chủ mưu từ bọn họ.

Nhưng không sao, bắt được tai mắt của hắn là đủ rồi.

Chương Lộc Chi nghe xong, lập tức bừng hiểu, “Tức có nghĩa, kẻ này chính là Lý bổ đầu đã lấy cớ để dẫn Trù Trù đi vào ngày hôm ấy?”

Rồi như để chứng minh cho suy đoán này, Kỳ Minh nhanh chóng quay về, thưa: “Bẩm điện hạ, thuộc hạ vừa tới Quy Ninh Trang hỏi chuyện, hai đứa con nhà họ Tôn đã xác nhận, ngày hôm đó đúng là Lý bổ đầu đã bắt a hoàn Trù Trù đi, ngoài ra thuộc hạ còn hỏi vài nô bộc ở Tôn phủ và nha sai bị Tuần Kiểm Ti bắt về, bọn họ đều chứng thực hôm a hoàn Trù Trù chết, chỉ có Lý bổ đầu cùng một điển bạc ở nha môn, không có mặt Tôn Huyện lệnh và Tần sư gia.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, rồi y không hỏi nhiều về Lý bổ đầu nữa, quay sang nhìn Lý thị và Dư thị: “Câu hỏi cuối cùng, ở Thượng Khê có chỗ nào không được đến không?”
 
Chương 121


Câu nói cuối cùng Tôn Nghị Niên trước khi chết là: Không được… đi.

Nhưng ông ta chưa kịp nói rốt cuộc là không được đi đâu.

Lý thị và Dư Hạm đưa mắt nhìn nhau, cùng lắc đầu: “Bẩm vương gia, dân phụ không biết.”

Tạ Dung Dữ cũng đoán bọn họ không biết, đoạn sai một Huyền Ưng vệ dẫn bọn họ quay về.

Đợi Lý thị và Dư Hạm rời đi, Tạ Dung Dữ mới hỏi: “Đã tìm được Lý bổ đầu chưa?”

Hôm nha môn Thượng Khê xảy ra bạo loạn, Tần Cảnh Sơn chết trong loạn binh, người nha môn bỏ chạy tứ phía, Lý bổ đầu cũng biến mất vào lúc đó. Tuần Kiểm Ti, Tả Kiêu Vệ cùng Huyền Ưng Ti đã truy đuổi tư lại và sai dịch nhiều ngày liền, bắt được hầu hết mọi người ngoại trừ Lý bổ đầu.

Chương Lộc Chi xấu hổ đáp: “Bẩm Ngu hầu, thuộc hạ thất trách… tới giờ vẫn chưa tìm ra tung tích của Lý bổ đầu.”

Tạ Dung Dữ khẽ nhíu mày, không phải y trách cứ gì Chương Lộc Chi, chỉ là lạ một điều, Tuần Kiểm Ti, Tả Kiêu Vệ lẫn Huyền Ưng Ti giăng lưới không một kẽ hở, rốt cuộc Lý bổ đầu này thần thông đến mức nào mà có thể thoát khỏi sự truy lùng của ba quân?

“Không cần tìm ngoài núi, sai người quay về Thượng Khê, thử lên núi lùng bắt xem sao.”

“Rõ.”

Tạ Dung Dữ thấy Chương Lộc Chi có vẻ tự trách, bèn nói: “Đừng lo, nếu Lý bổ đầu này là tai mắt thì kiểu gì cũng để lại đầu mối, tìm được thì tốt còn không tìm được cũng không sao, điều tra rõ lý lịch của hắn, ắt hẳn có thể tìm ra manh mối. Kỳ Minh, thư mật từ trong kinh đã đến chưa?”

Bức thư mật này ắt hẳn là thư trao đổi giữa Tần Cảnh Sơn và Tôn Nghị Niên.

Kỳ Minh đáp: “Đang trên đường đưa tới ạ.”

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Giờ ngươi hãy gửi thêm một bức thư nữa, xin Quan gia điều người điều tra thêm về Lý bổ đầu theo hướng Tôn Nghị Niên, Tần Cảnh Sơn.”

“Rõ.”

Các Huyền Ưng vệ cảm thấy chán nản.

Mà ngẫm cũng đúng, bọn họ tìm được Tôn Nghị Niên nhưng Tôn Nghị Niên lại bị giết, điều tra tới tai mắt Lý bổ đầu thì Lý bổ đầu lại mất tích. Dẫu cho bọn họ từng truy ra tung tích mơ hồ để bắt ông cháu Cát, tìm được Tưởng Vạn Khiêm làm rõ chân tướng cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố, song cái cảm giác đã tới cửa mà không cách nào bước qua thực sự khiến người ta mệt mỏi.

Thực ra vẫn còn một manh mối vô cùng quan trọng mà y chưa tiết lộ, ban nãy y đã định nói ra, nhưng ngẫm một hồi rồi lại thôi, thay vào đó chỉ nói: “Hôm nay thẩm vấn đến đây là đủ rồi, về đi.”

Hôm nay Huyền Ưng Ti mượn địa bàn của châu phủ Lăng Xuyên, lúc rời khỏi công đường, một quan viên đang chờ ở ngoại nha vội vàng đi tới bái lạy: “Điện hạ thẩm vấn án xong rồi ạ?” Sau đó giải thích, “Châu doãn đại nhân đã ra ngoài xử lý công vụ, nếu điện hạ cần gì thì cứ sai sử hạ quan.”

Viên quan này họ Tống, là Trưởng lại bên cạnh Tề Châu doãn Lăng Xuyên.

Đúng là Tạ Dung Dữ có chuyện đang cần giải quyết thật, y dừng bước, “Bổn vương nhớ sau khi Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu Vệ đến Đông An, bọn họ đã đóng doanh trại ở Mông Sơn ngoại ô phía Tây hai mươi dặm?”

“Điện hạ nói phải ạ.” Tống Trưởng lại lập tức sáng tỏ, “Điện hạ muốn gặp Khúc Hiệu úy và Ngũ Hiệu úy? Hạ quan sẽ sai người đi báo ngay.”

Tạ Dung Dữ nghĩ ngợi: “Gọi người của Tuần Kiểm Ti đến là được rồi. Ngoài ra, đưa danh sách bổ nhiệm miễn nhiệm của quan viên tư lại cùng hồ sơ nhân sự ở Thượng Khê trong mười năm qua đến Quy Ninh Trang.”

Lần trước khi điều tra Tôn Huyện lệnh và Tần sư gia, Huyền Ưng Ti đã từng yêu cầu những tập văn kiện này một lần.

Tống trưởng lại đáp ngay: “Vâng, hạ quan sẽ đi sắp xếp liền, chỉ cần liên quan tới nhân sự ở nha huyện Thượng Khê mười năm qua, bao gồm ghi chép về cuộc đời của tư lại, danh sách phạm tội lẫn lập công, hạ quan sẽ đưa tất tần tật đến trang viên.”

Tạ Dung Dữ liếc hắn, khẽ gật đầu rồi đi thẳng ra ngoại nha.

Vệ Quyết đi sau Tạ Dung Dữ, nói với Tống trưởng lại: “Hôm nay đa tạ châu phủ đã cho Huyền Ưng Ti mượn chỗ.”

“Vệ đại nhân nói gì thế.”

Tống trưởng lại khách khí một hồi, cung kính tiễn mọi người rời đi.

***

Tuy quá trình thẩm vấn hôm nay khá lộn xộn, nhưng cũng may đã tiến thêm một bước đến gần chân tướng. Quay về Quy Ninh Trang, Huyền Ưng vệ phân công làm việc: sắp xếp bằng chứng, điều binh truy đuổi tội phạm, người nào bận việc của người nấy. Tống trưởng lại cũng chuẩn bị rất nhanh, Tạ Dung Dữ chỉ vừa tới thư phòng mà hắn đã lần lượt đưa hồ sơ đến.

Bấy giờ đã qua chính ngọ nhưng Tạ Dung Dữ vẫn không nghỉ, sắp xếp từng hồ sơ một rồi ngồi trước bàn lật xem.

Thanh Duy cũng ở thư phòng, nhưng nàng không quen ngồi vào bàn cho lắm, may mà Tạ Dung Dữ hiểu tính nàng nên đã đặt sẵn đêm bồ đoàn dưới đất. Dẫu gì nàng cũng đang rảnh, thế là ngồi xếp bằng xuống đệm, thuận tay cầm lấy một tập hồ sơ.

Chốc lát sau, Đức Vinh gõ cửa đi vào, đặt chén thuốc lên bàn rồi khom lưng nói: “Sáng tối cần hai lần thuốc, sáng nay công tử vẫn chưa uống, bây giờ cần bổ sung ạ.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, uống cát chén thuốc, “Triêu Thiên thế nào rồi?”

“Đã khỏe hơn nhiều rồi ạ, không còn sốt cao nữa, lúc sáng cũng đã tỉnh lại, thần thái tươi tỉnh, còn nói chuyện với tiểu nhân một lúc.” Đức Vinh nói xong, đặt bánh hoa sen tươi mới xuống bàn, “Hôm nay công tử về sớm, tiểu nhân đã dặn phòng bếp chuẩn bị cơm, công tử và thiếu phu nhân muốn về Phất Nhai Các dùng bữa hay dùng ngay tại thư phòng?”

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, thấy nàng vẫn ngồi khoanh chân, có vẻ không định đổi chỗ, “Dùng ở thư phòng.”

Đức Vinh vâng dạ, nhân tiện cầm chén thuốc rời khỏi thư phòng.

Hành văn trên hồ sơ khá khó hiểu, dù rằng Thanh Duy cũng là người từng đọc sách – hồi trước nàng còn bị Ôn Thiên ép đọc Luận Ngữ và Mạnh Tử mà – nhưng khi giở ra trang đầu tiên, mới ba dòng đã quáng mắt, mười dòng não phình to, Thanh Duy cảm thấy mình không tài nào chịu nổi.

Chẳng hiểu Tạ Dung Dữ đọc hồ sơ suốt ngày kiểu gì.

Nghĩ đến đây, nàng không khỏi lén lút nhìn Tạ Dung Dữ.

Tối qua y bị nàng làm phiền một trận, không được ngủ ngon, cốc trà đậm trong tay cũng sắp uống cạn.

Thanh Duy chợt nhớ ra Tạ Dung Dữ vừa uống thuốc, giờ uống thêm trà đậm như thế liệu có tốt cho cơ thể không?

Chẳng phải bệnh của y vẫn chưa khỏe hẳn ư, bệnh của y là bệnh hiếm gặp nên cũng không rõ cần điều trị theo phương pháp nào.

Đức Vinh thật là, bảo nàng chăm sóc y nhưng không cho nàng biết phương pháp. Nàng đâu giỏi chăm sóc người ta.

“Đọc không vào thì đi nghỉ một lúc đi, nhìn ta làm gì?” Tạ Dung Dữ lật trang giấy, mắt không rời sách, nói.

Thanh Duy thất thần: “Sao ngài biết ta không đọc vào?”

Tạ Dung Dữ liếc quyển sách trong tay nàng: “Có một trang mà nàng đọc mất nửa nén hương.”

Thế là Thanh Duy nghiêm túc đặt sách sang một bên: “Không đọc nữa, công văn giới tri thức viết toàn ngắt đầu bỏ đuôi, ngắn gọn lồng hàm ý, cứ như kiểu viết thêm một chữ là phải đền một lượng bạc vậy, quá khó hiểu.” Nói đoạn, nàng đứng dậy vỗ vào vạt áo, “Ta ra ngoài một lúc đây.”

Rồi không đợi Tạ Dung Dữ trả lời, nàng đẩy cửa đi ra.

Thanh Duy ra ngoài tìm Đức Vinh.

Nàng đi một vòng Y Sơn Viện mà vẫn không thấy Đức Vinh đâu, nghĩ có lẽ vết thương của Triêu Thiên chưa lành, Đức Vinh đi chăm sóc hắn, thế là xoay người đi tới phòng thuốc.

Trong phòng thuốc chỉ có mỗi Hàn đại phu.

Hàn đại phu chính là người khám chữa bệnh cho Triêu Thiên, vì thế ông ta cũng biết thân phận của Thanh Duy, vừa thấy nàng thì vội vàng bái lạy: “Thiếu phu nhân.”

Phòng thuốc nồng nặc mùi đông y lẫn lộn ngọt đắng, Thanh Duy chần chừ, đoạn nói ra ý đồ đến đây: “Đại phu, ta muốn hỏi thăm ngài về chứng bệnh của quan… điện hạ.”

Nàng dừng một lúc, không hiểu sao lại cảm thấy khó có thể mở lời tiếp, “Là thế này, điện hạ đã bị bệnh nhiều năm, thời gian này lại không có a hoàn săn sóc, còn thường xuyên làm việc vất vả, ta… lo ngài ấy cứ như thế thì cơ thể sẽ không trụ nổi, bệnh tình tái phát, nên hi vọng đại phu chỉ điểm một ít, nên chăm sóc điện hạ thế nào… Chẳng hạn như nên uống thuốc lúc nào, có gì kiêng cử không, bình thường cần chú ý những gì.”

Hàn đại phu ngạc nhiên, chợt nói: “Thiếu phu nhân đến vì chuyện này?”

Trước đó một hôm, Đức Vinh đã dặn ông ta rằng, “Nếu thiếu phu nhân nhà tôi đến hỏi về chứng bệnh của điện hạ, làm phiền đại phu cứ nói là ‘tâm bệnh khó chữa’, không được để phu nhân biết bệnh của điện hạ đã khỏi.”

Tuy Hàn đại phu không hỏi Đức Vinh vì sao phải làm thế, nhưng ông đã ngoài năm mươi, sao ông có thể không hiểu phu xướng phụ tùy, đường mật ngọt ngào giữa vợ chồng son?

“Chuyện đó… nguyên nhân căn bệnh của điện hạ, ắt hẳn thiếu phu nhân cũng biết nhỉ?” Hàn đại phu nói, “Tuy nguyên nhân là tâm bệnh, nhưng tâm bệnh quá nặng, dần dà để lại tật trên người.”

Thanh Duy gật đầu.

Hàn đại phu thở dài: “Thiếu phu nhân lo lắng cũng đúng, vốn dĩ không phải không chữa được, nhưng thiếu phu nhân biết đấy, điện hạ vất vả ngày đêm, thực sự quá lao lực, hên là bệnh tình không tái phát, chứ một khi đã phát tác… Nói tóm lại, thật sự cần phải có người túc trực ở bên.”

Thanh Duy nghe thế thì sốt ruột hẳn lên, “Ta thấy y vừa uống thuốc xong đã uống trà đặc, cảm thấy không ổn, sợ dược tính và trà khắc nhau, vốn muốn khuyên y đừng uống, nhưng tối qua y mất ngủ, ban ngày bận rộn công vụ, không uống trà sẽ không tỉnh táo, liệu có biện pháp gì khác không?”

“À, chuyện này thì thiếu phu nhân không cần lo, phương thuốc tại hạ kê không xung khắc với trà, uống cũng không sao. Nhưng thiếu phu nhân lo cũng phải, đạo dưỡng sinh xem trọng điều hòa, tốt quá hóa dở, uống trà nhiều chung quy cũng không hay. Thiếu phu nhân cần nhớ, sáng tối điện hạ cần uống thuốc một lần, tuy không cần kiêng cử gì đặc biệt nhưng cần ăn đồ loãng, bình thường cũng phải giữ tinh thần khỏe khoắn, không được căng thẳng tức giận, phải có người túc trực để ý, vả lại vào ban đêm dễ bị bóng đè, chí ít phải có người ở bên, cứ thế dần dà sẽ khỏe lại.”

Thanh Duy gật đầu: “Ta nhớ rồi, đa tạ đại phu.”

Hàn đại phu thấy nàng lễ phép như vậy, không khỏi bật cười: “Nhưng thiếu phu nhân chớ lo quá, thuốc thang của điện hạ đều được chuẩn bị kỹ càng sáng tối, nếu thiếu phu nhân muốn tận tâm thì chuẩn bị mứt hoa quả cho điện hạ là được rồi.”

“Chuẩn bị mứt hoa quả?” Thanh Duy ngẩn ra.

“Đúng thế. Bệnh của điện hạ, tâm đắng, thân đắng, thuốc cũng đắng. Thuốc đắng khó uống, thiếu phu nhân chuẩn bị ít mứt quả, điện hạ sẽ hiểu được tấm lòng của phu nhân.”

Thuốc đó… đắng ư?

Nhưng tối qua sau khi y uống thuốc, nàng với y… Rõ ràng nàng có nếm mà, không những không đắng mà còn có chút ngọt.

Dù lúc ấy nàng đang hốt hoảng, nhưng tối hôm qua đâu phải bọn họ chỉ chạm nhẹ, thậm chí còn… còn hơi lâu, vị ngọt trong sự dịu dàng quấn quít ấy vấn vương giữa hàm răng y, thậm chí còn là nguyên nhân khiến nàng rơi vào ảo giác, nàng vẫn nhớ rõ mà.

Tuy Thanh Duy không phải là người giỏi chăm sóc người khác, nhưng nghe đến đây, lo lắng vừa rồi bỗng tan biến thành sương, mọi tâm tư đều bị chữ “đắng” thu hút, sinh ra bao mối hoài nghi.

Nhưng nàng không thể hiện ra mặt, “Chẳng hay đại phu có thể cho ta một toa thuốc được không?”

Phương thuốc Tạ Dung Dữ dùng là đương quy thêm táo ngọt, nhưng không sao, Đức Vinh đề phòng rất chu đáo, đã dặn dò Hàn đại phu chuẩn bị một toa thuốc khác.

Hàn đại phu nói được, lấy ra toa thuốc đã viết sẵn từ trong hòm thuốc, đưa cho Thanh Duy, “Nếu thiếu phu nhân muốn bốc thuốc thì không cần, chỗ tại hạ có đủ dược liệu.”

Thanh Duy cất toa thuốc đi, “Chỉ là chuẩn bị đề phòng thôi, lỡ mai mốt chuyển đi nơi khác, dù không có danh y như Hàn đại phu, chỉ cần có toa thuốc này ta cũng yên tâm được phần nào.”

“Đúng thế, chỉ cần điều dưỡng theo toa thuốc, đợi một thời gian, nhất định điện hạ có thể bình phục.”
 
Chương 122


Thanh Duy rời khỏi phòng thuốc, rảo bước đi ra ngoài trang viên.

Từng đến Đông An một lần, nàng vẫn nhớ ở quanh đây có hiệu thuốc nào. Nắm chặt toa thuốc, trong lòng Thanh Duy dần dà nảy sinh bao hoài nghi, rõ ràng chén thuốc ấy có vị ngọt, tại sao đại phu lại nói đắng? Lẽ nào đại phu cố ý giấu diếm nàng, muốn nàng làm hại quan nhân?

Song, vừa đi tới tiền trang thì bỗng nghe thấy tiếng trách móc vọng đến.

Thanh Duy ngước mắt lên nhìn, người tới chính là Khúc Mậu – sáng nay Tạ Dung Dữ bảo Tống Trưởng lại đi mời Tuần Kiểm Ti, ắt hẳn Khúc Mậu đã được thông báo nên dẫn người sang.

Khúc Mậu vẫn mặc chiếc áo lam như xưa, đi theo sau là Khưu hộ vệ cùng vài tuần vệ, và đứng trước mặt hắn là một cô gái đang cúi gằm đầu.

Khúc Mậu liếc mắt nhìn cô gái kia, tiếp tục mắng: “Không dẫn đường đã đành, đến pha trà cũng không biết nốt, rốt cuộc trang viên các ngươi nuôi hạ nhân kiểu gì thế hả?”

Thanh Duy đứng rất xa, chỉ trông thấy cô gái ấy còn rất trẻ, mặc một chiếc váy trắng mộc mạc, có lẽ là a hoàn trong trang viên.

Quy Ninh Trang là trang viên của một hộ họ Doãn tại Đông An, sau khi Tạ Dung Dữ đến đây, nhờ Tề Châu doãn mở lời nên bọn họ mới nghỉ ngơi chỗ này. Hơn nữa vì trong trang viên đang tạm giữ Dư Hạm, Tưởng Vạn Khiêm cùng với nhân chứng nghi phạm quan trọng, nên cho dù Phất Y Viện mà Huyền Ưng Ti đang ở khá là rộng, song không cho phép hạ nhân trang viên tự tiện ra vào, tiểu a hoàn này không dẫn đường cũng dễ hiểu.

Thanh Duy thấy tiểu a hoàn bị Khúc Mậu mắng đến nỗi hai vai run bần bật, vốn định đi tới giải thích giúp, nhưng xét cho cùng nàng đang là khâm phạm, không tiện lộ diện trước mặt người ngoài, đành nấp ngoài tường im lặng quan sát.

Cũng may không lâu sau, Tạ Dung Dữ cùng hội Vệ Quyết đã đi ra.

Kỳ Minh bước lên, hành lễ với Khúc Mậu, “Khúc Hiệu úy, đã có chuyện gì vậy ạ?”

Khúc Mậu lướt qua Kỳ Minh, nói thẳng với Tạ Dung Dữ: “Trang viên này nuôi dưỡng hạ nhân kiểu gì thế? Lúc nãy ta gặp nó ngoài cửa, bảo nó dẫn ta đến thư phòng, nó nói không biết đường, ta bảo mình khát, nhờ nó pha giúp ấm trà, nó nói không biết chỗ pha trà ở tiền trang, phải về hậu trang lấy lá trà, bảo ta đợi nửa canh giờ! Ta thì không sao, nhưng cậu đường đường là Chiêu vương điện hạ, vậy mà đến chỗ thâm sơn cùng cốc này lại bị người ta thất lễ thế ư?!”

Tạ Dung Dữ không khỏi đưa mắt nhìn a hoàn nọ.

Tiểu a hoàn nghe nói là Tiểu Chiêu vương đến thì càng sợ hãi hơn, vội quỳ thụp xuống không dám ngước mắt nhìn.

Đúng lúc này, một ma ma vội vã đi tới từ hành lang đàu bên kia, quỳ xuống cạnh tiểu a hoàn, cuống cuồng giải thích: “Xin các quý nhân thứ tội, Uyển tỉ muội không phải hạ nhân trong trang viên mà là cô nương trong nhà! Vừa nãy… Nàng ấy vội về nhà, lúc đi tới cửa tiền trang, đã va chạm phải quý nhân, nô tì xin nhận tội thay nàng ấy, nếu quan gia muốn uống trà, nô tì sẽ đi pha cho ngài…”

Bà ta vừa dứt câu, tất cả mọi người đều lấy làm ngạc nhiên, Khúc Mậu giật mình hỏi: “Nàng ta là cô nương của quý phủ?”

“Vâng, là Tứ cô nương trong nhà.”

Vệ Quyết không khỏi nhíu mày, “Đã là cô nương quý phủ thì vì sao thời gian này không về phủ mà ở, ở lại trang viên còn ra thể thống gì?”

Nói ra câu đó không phải vì không hiểu nhân tình, chỉ là Huyền Ưng Ti toàn là nam, tiểu cô nương này còn chưa lấy chồng mà lại ở chung trang viên với cánh nam giới, nếu bị đồn ra ngoài thì thanh danh nàng ta sẽ hỏng mất.

Ma ma lườm Doãn Uyển, “Hổi bẩm quý nhân, Tứ cô nương không khỏe trong người, bao năm qua đều tĩnh dưỡng ở trang viên, nàng ấy sống cách đây rất xa, ở Phủ Thúy Các tại góc Tây Bắc, bình thường ra ngoài cũng đi cửa nhỏ, không quấy rầy quý nhân, nên khi lão gia mời các quý nhân đến trang viên, đã… đã quên nói chuyện này.”

Con gái nhà mình mà cũng không nhớ ư?

Nhưng danh môn vọng tộc mà, nhà nào chẳng có chuyện riêng, những khúc chiết trong đó ai nói rõ được.

Khúc Mậu không khỏi quan sát Doãn Uyển.

Nàng ta run rẩy tựa chú thỏ nhỏ, chỉ mới thế thôi mà mặt đã trắng bệch. Thực ra cũng không thể trách hắn tưởng nàng là a hoàn được, nàng ăn mặc thực sự quá mộc mạc, trên mái tóc chỉ cài độc một cây trâm hoa, không có nữ trang gì khác, thậm chí so ra còn thua kém hơn cả đầy tớ trong phủ.

Tuy Khúc Mậu có tính cách thiếu gia nhưng chí ít vẫn biết phân rõ trái phải, lúc nãy hắn mắng Doãn Uyển vì lầm tưởng nàng ta là a hoàn, bây giờ đã biết nàng cũng là chủ nhân như mình, không biết đường không pha trà cũng hợp tình hợp lý.

Hắn nói: “À, không có gì, lúc nãy ta đã thất lễ, cô đứng dậy đi.”

Doãn Uyển không dám đứng lên, nàng biết trước mắt đều là quý nhân, mà người tôn quý nhất trong số họ vẫn chưa lên tiếng.

Thế là Tạ Dung Dữ cũng nói: “Cô nương đứng dậy đi.”

Lúc này Doãn Uyển mới gật đầu, vâng dạ đứng lên. Nàng ta định rời trang viên, nhưng sau sự việc này thì không dám đi tới cửa nữa, khom người vội vã quay về hậu trang.

***

Khúc Mậu không để trong lòng chút chuyện nhỏ đó. Hắn theo Tạ Dung Dữ đi vào Y Sơn Viện, dọc đường đi thấy kỳ hoa dị thạch, đình đài mái cong, sơn thủy lượn quanh thì không khỏi ngạc nhiên: “Rốt cuộc Doãn gia kinh doanh gì mà trang trí Quy Ninh Trang ghê gớm thế này. Ôi, biết thế ta chuyển đến chỗ cậu ở quách cho rồi. Cậu không biết đấy thôi, doanh trại Mông Sơn kia đâu phải nơi cho người ở, ban đêm ngủ trong màn mà cũng nghe được tiếng ngáy ở bên cạnh.”

Tạ Dung Dữ liếc hắn, “Nghe nói Khúc hầu đã viết thư quở mắng huynh?”

“Đâu chỉ quở mắng? Ông ấy còn xin Quan gia phạt ta một năm bổng lộc kìa!” Khúc Mậu hừ lạnh, “Phạt bổng lộc cũng thôi, ta họ Khúc tên Phá Gia hiệu Tán Tài Cư Sĩ, triều đình không cho ta bạc, ta không biết về nhà lấy à? Nhưng cậu nói xem chuyện ở Thượng Khê liên quan gì đến ta! Là cha ta muốn ta đến Thượng Khê, việc tra án đã có cậu, kẻ gây gổ là bọn ở nha môn, ta chỉ góp mặt cho có thôi, có nhúng tay vào chính sự đâu, không làm chính sự thì ta sẽ không thêm rắc rối! Bây giờ thì hay rồi, cha ta cho rằng ta là đứa phế vật, cảm thấy ta ở Thượng Khê vô tích sự, thế là xin triều đình điều Chương Đình, Trương Viễn Tụ từ Sùng Dương gần đây tới, cùng nhau kết án. Trương Vong Trần đã đành, nhưng Chương Lan Nhược… Trong kinh ai chẳng biết Khúc Tán Tài ta và họ Chương kia không hợp nhau, thế mà còn để ta làm việc chung với hắn? Không nói nữa, mấy ngày tới ta sẽ đến chỗ của cậu, nếu họ Chương tìm đến cửa thì nhờ cậu ngăn cản giúp ta.”

Khúc Mậu kết giao không cần biết thân phận cao thấp. Hắn là công tử con vợ cả Hầu phủ, ngày trước qua lại với Giang Từ Chu có thể coi như Giang Từ Chu với cao, nhưng tính cách hai người hợp nhau, hắn vẫn coi y là tri kỉ. Rồi đột nhiên Giang thiếu gia biến thành Tiểu Chiêu vương cao quý, trong lòng Khúc Mậu vô cùng khó chịu, nhưng hắn là người thoáng tính, chỉ sau nửa năm khúc mắc bé nhỏ ấy đã tan biến, cảm thấy cần gì phải quan tâm y là ai, y vẫn là chính y thôi.

Thấy Tạ Dung Dữ không đáp, Khúc Mậu bắt đầu to tiếng: “Sao? Không muốn ta chuyển qua hả, núi cao hoàng đế xa, lẽ nào cậu còn giấu nàng Kiều trong trang viên?”

Hắn vừa dứt lời, Tạ Dung Dữ lập tức dừng bước, Kỳ Minh đi theo sau ho một tiếng, đánh trống lảng, “Khúc Hiệu úy, hôm nay Đô Ngu hầu mời ngài đến là muốn hỏi về tình hình bạo loạn ở Thượng Khê hôm đó.”

Khúc Mậu nào biết gì về công vụ, xảy ra đánh nhau hắn là người trốn trước, có giết người thì cũng chạy đầu tiên, dù trời có sập nhưng miễn không sập trúng hắn là mọi sự đại cát, quả nhiên hắn nói: “Ta biết gì đâu? Lúc ấy ta trốn trong công đường, mở hé cửa sổ nhìn, thấy Tần sư gia dẫn theo người liều mạng xông vào nha môn, hô hoán ghê lắm, ôi, loạn cực, sau đó bọn chúng bắn tên, ta không dám thò đầu nhìn nữa, đợi tới lúc đi ra thì mọi người chết hết rồi.”

Tạ Dung Dữ nói: “Trong nha môn có một Lý bổ đầu, hôm đó huynh có trông thấy hắn không?”

Khúc Mậu “a?” lên, “Nha môn Thượng Khê còn có bổ đầu họ Lý ư?”

Tạ Dung Dữ: “…”

Kỳ Minh: “…”

Vị gia này ở Thượng Khê hơn nửa tháng, ngày ngày ở nha môn đối mặt với mọi người mà vẫn không nhớ được toàn bộ sao?

Hộ vệ Khưu Minh đi theo sau Khúc Mậu trả lời: “Bẩm điện hạ, trước khi nha môn Thượng Khê xảy ra bạo loạn thì đã không thấy tung tích của Lý bổ đầu đâu, hôm đó thuộc hạ có bẩm báo với ngài về chuyện này rồi.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Sau đó ngươi có thấy hắn không?”

Khưu Minh nghĩ ngợi, chắp tay hồi bẩm: “Không ạ, nhưng lúc ấy thực sự quá loạn, thuộc hạ cũng không để ý nhiều.”

“Sau bạo loạn nha môn, bổn vương nhớ Huyền Ưng Ti, Tả Kiêu Vệ cùng Tuần Kiểm Ti chia nhau theo ba hướng Đông Tây Nam truy đuổi tư lại bỏ chạy, vậy mà Tuần Kiểm Ti cũng không phát hiện ra tung tích của Lý bổ đầu?”

Khưu Minh đáp: “Không ạ, thuộc hạ chỉ bắt được lục sự đang lẩn trốn.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng.

Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, đến thư phòng, Kỳ Minh nhanh nhẹn bước lên đẩy cửa.

Thanh Duy đội mũ mạng, vốn đứng đằng sau Huyền Ưng vệ nghe bọn họ nghị sự, nhưng vì có người của Tuần Kiểm Ti nên nàng không tiện đi theo tới thư phòng, đến bên ngoài Y Sơn Viện bèn dừng chân.

Trời vẫn chưa tối, Thanh Duy nhớ đến toa thuốc của Tạ Dung Dữ, thoáng nghĩ ngợi, cảm thấy Tạ Dung Dữ hỏi thăm tung tích truy bắt Lý bổ đầu rồi kiểu gì tối về cũng sẽ nói rõ với mình, thế là nàng quyết định rời khỏi trang viên.

Khúc Mậu ví Đông An là chốn thâm sơn cùng cốc, thực ra không đến nỗi như vậy, Đông An là phủ thành Lăng Xuyên nên rất phồn hoa, tửu lâu cửa tiệm mọc san sát, tận lúc trăng treo đỉnh đầu mà đèn đóm vẫn sáng trưng.

Thanh Duy cưỡi ngựa đến một tiệm thuốc gần đó, đưa toa thuốc cho đại phu đang ngồi bên trong, “Đại phu, phiền ông xem giúp ta toa thuốc này dùng để trị bệnh gì?”

Vị đại phu này đã lớn tuổi, râu tóc bạc phơ, cầm lấy toa thuốc híp mắt nhìn, thấy bên trên có tô hợp trà hương, sâm đỏ, xuyên khung và dược liệu thì nói: “Phương thuốc này chủ yếu điều trị tâm bệnh, uống vào giúp điều hòa bên ngoài, chủ yếu là an thần, người dùng thuốc này hẳn là mắc các triệu chứng như sợ hãi ác mộng, đổ mồ hôi, có điều…”

“Có điều cái gì?” Thanh Duy hỏi ngay.

“Có điều thuốc trong toa này rất quý, chỉ người giàu mới chi nổi.”

Nói như vậy, toa thuốc Hàn đại phu cho nàng là thật, thực sự trị bệnh cho Tạ Dung Dữ?

Thanh Duy nghĩ ngợi, nhờ ông chủ bốc thuốc giúp, sau đó nói: “Xin hỏi ông chủ, trong tiệm có chỗ sắc thuốc không?”

Ông chủ chỉ về phía rèm cửa bên tay trái, “Ra sân sau, bên tay trái có phòng thuốc, trong đó có dược đồng có thể hỗ trợ sắc thuốc, cô nương chỉ cần đưa thuốc cho nó là được.”

Thanh Duy gật đầu rồi đi tới phòng thuốc, đưa dược liệu cho dược đồng, kiên nhẫn chờ từ lửa lớn cho đến lửa nhỏ, tới khi thuốc sôi sùng sục, mùi đắng chát bay khắp phòng, dược đồng hỏi: “Xin hỏi cô nương muốn đem thuốc về nhà hay dùng ngay ở đây?”

Thanh Duy cắn môi: “Dùng ở đây luôn, lấy giúp ta một chén.”

Nước thuốc đen đặc như mực được đổ vào chén, Thanh Duy đợi nó nguội, múc một muỗng đưa lên miệng.

Đầu lưỡi nếm phải vị đắng ngắt, thể như nuốt sống phải Hoàng Liên.

Quả đúng như chữ “đắng” mà Hàn đại phu nói.

Trong đầu Thanh Duy nổ ầm, nàng thả muỗng vào lại trong chén.

Vị thuốc này không đúng!
 
Chương 123


Giờ Hợi, Tạ Dung Dữ bước ra khỏi thư phòng, Đức Vinh đi lên đón: “Công tử.”

Tạ Dung Dữ ừ một tiếng, “Tiểu Dã đâu?”

Đức Vinh theo chân Tạ Dung Dữ quay về Phất Nhai Các, “Vừa về cuối giờ Tuất, tiểu nhân hỏi thiếu phu nhân có muốn dùng bữa tối không, thiếu phu nhân lại bảo không.”

Thanh Duy ra vào tự do, Tạ Dung Dữ chưa bao giờ gò bó nàng.

Tạ Dung Dữ cũng không nghĩ nhiều mà chỉ hỏi: “Nàng có nói mình đi đâu không?”

“Không ạ. Nhưng nghe người ở Y Sơn Viện bảo tối nay từng thấy thiếu phu nhân ở gần phòng thuốc, có lẽ là muốn đến thăm Triêu Thiên nhưng chưa vào phòng.”

Tạ Dung Dữ lại “ừ” tiếng nữa.

Y đang bận tâm chuyện Lý bổ đầu mất tích, dẫu không hỏi được chút thông tin nào từ Tuần Kiểm Ti, nhưng sau khi xem hồ sơ nửa ngày thì y đã tìm ra vài manh mối. Tạ Dung Dữ mãi băn khoăn công vụ, đến tận lúc quay về Phất Nhai Các, Đức Vinh mới dừng bước, “Công tử, vậy lát nữa tiểu nhân sẽ đem thuốc đến như thường lệ.”

Tạ Dung Dữ đáp lại rồi một mình đi vào sân, băng qua con đường trải đá trên mặt hồ im ắng, đẩy cửa vào phòng.

Y tưởng Thanh Duy đã ngủ, chẳng ngờ khi đẩy cửa ra lại thấy nàng ngồi trước giường La Hán gần cửa sổ.

“Tiểu Dã?”

Thanh Duy mở mắt nhìn y, thật lâu sau mới cất tiếng: “Sao muộn thế này mới về?”

Tạ Dung Dữ cầm lấy que đồng khều đèn sáng lên, đoạn ngồi xuống bàn vuông bên cạnh nàng, “Xem sổ sách mới biết Lý bổ đầu từng là sai dịch ở nha phủ Đông An, cảm thấy chuyện này lạ nên gọi hội Vệ Quyết đến họp, thành thử về trễ.”

Thanh Duy “ừ” một tiếng.

Tạ Dung Dữ không khỏi quay sang nhìn nàng, nàng đã đổi xiêm y, không mặc áo bào huyền ưng giấu mình như ban ngày nữa, thay vào đó là bộ váy dài màu xanh của nàng, bội kiếm cũng được tháo ra, đang cầm trong tay thanh đoản kiếm mà nàng thuê thợ rèn đúc. Đức Vinh nói nàng về trễ, ắt hẳn cũng chưa dùng cơm, nhưng bánh hoa sen trên bàn vẫn còn y nguyên, không phải nàng thích bánh xốp nhất sao?

Chẳng lẽ là bị bệnh, nhưng Tiểu Dã lại dễ dàng đổ bệnh thế ư?

Tạ Dung Dữ khẽ chau mày, toan mở miệng thì ngoài phòng vang lên tiếng gõ cửa, Đức Vinh thưa: “Công tử, đến lúc uống thuốc rồi.”

Thanh Duy không nhúc nhích, Tạ Dung Dữ đáp một tiếng, để Đức Vinh cầm bát thuốc vào phòng, uống cạn chén thuốc như thường lệ rồi bảo: “Dọn đi.”

Đợi Đức Vinh rời phòng, lần thứ hai khép cửa phòng lại, Thanh Duy bất thình lình mở miệng, giọng lạnh tanh: “Ngài uống thuốc này đã bao lâu rồi?”

“… Khoảng năm sáu năm.” Cách chiếc bàn vuông vức, Tạ Dung Dữ nhìn thẳng vào mắt nàng.

“Uống từ năm năm trước đến tận bây giờ mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm?” Giọng Thanh Duy cao lên.

Tạ Dung Dữ không đáp.

Nếu là bình thường, hễ y nhắc đến manh mối vụ án thì chắc chắn Tiểu Dã sẽ truy vấn ngay, nhưng hôm nay khi y nói Lý bổ đầu từng là sai dịch ở phủ nha Đông An, nàng lại làm như không nghe thấy, chỉ lo hỏi chuyện thuốc thang.

Xem ra không phải đổ bệnh mà là nổi giận.

Nhưng vì cớ gì lại giận?

“Thực ra đã đỡ nhiều rồi, chẳng qua thỉnh thoảng bệnh tình sẽ lại tái phát.”

Thanh Duy nhìn y, tiếp tục truy hỏi: “Vậy ngài vẫn uống toa thuốc của ngày trước?”

Người của Y Sơn Viện nói hôm nay nàng từng xuất hiện gần phòng thuốc, lẽ nào không phải đi thăm Triêu Thiên mà là hỏi thăm về bệnh tình của y?

Tạ Dung Dữ thong thả đáp theo trực giác, “Không hẳn, đại phu khác thì toa thuốc cũng khác, nhưng công dụng tương tự, chỉ điều chỉnh chút thôi.”

“Điều chỉnh như thế nào?”

“Dựa theo bệnh tình.”

“Có thể điều chỉnh đến mức dược vị khác nhau hẳn ư?”

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy chằm chằm, hồi chiều nàng từng rời khỏi trang viên, chớ bảo là đi thử thuốc nhé?

“Thuốc kia rất đắng, nhưng cũng có thang thuốc vị nhẹ hơn chút.”

“Có thật là chỉ nhẹ một chút không?”

Tạ Dung Dữ dừng một lúc, gằn giọng hỏi: “Vậy nương tử cho rằng là gì?”

Thanh Duy thấy y đề phòng như vậy thì trong lòng càng thêm bực bội, cách chiếc bàn vuông, nàng nhìn thẳng vào y, “Nếu thang thuốc kia thực sự chỉ có vị nhẹ hơn chút, vậy vì sao lần nào Đức Vinh đưa tới ngài cũng có thể uống cạn một hơi? Vì sao hồi trước lúc ở Giang gia, lần nào ngài cũng tránh mặt ta mà uống, nhưng bây giờ lại cứ uống trước mặt ta?” Nàng dừng một lúc, nói chém đinh chặt sắt, “Ngài nghĩ ta không biết gì hả, ngài đã khỏi bệnh từ lâu rồi, ngài và Đức Vinh hùa nhau lừa ta!”

Tạ Dung Dữ im lặng, đoạn nhẹ nhàng nói: “Tiểu Dã à, ta bị bệnh thật, còn về thang thuốc ấy…”

“Ngài đừng gạt ta nữa!” Nhớ lại ngày xưa khi ở Giang gia, nàng và y từng “giao tranh” mấy bận nhưng không lần nào chiếm được thế thượng phong, Thanh Duy gấp gáp nói, “Ta nói ngài hay, ta đang giữ bằng chứng trong tay đấy!”

Tạ Dung Dữ nghe thế thì không khỏi bật cười, nhìn chú sói nhỏ xù lông trước mắt, “Ồ, nàng có bằng chứng gì?”

Thanh Duy nhìn Tạ Dung Dữ chằm chặp, *bộp* một tiếng, đập toa thuốc xuống bàn, “Đây là toa thuốc ngài và Đức Vinh dùng để lừa ta, ta đã thử vị thuốc này rồi, cực kỳ đắng và khó uống, nhưng vị thuốc mà ngài dùng mấy hôm rồi…”

“Vị thuốc ta dùng mấy hôm rồi thế nào?” Tạ Dung Dữ nhìn nàng đăm đăm.

Rõ là giọng y rất trầm, trầm đến mức dịu dàng xen lẫn trấn an, nhưng Thanh Duy nghe vào tại lại cảm thấy có vẻ mỉa mai, nhất là ý cười trong mắt y, không phải khiêu khích thì là gì?

Con người nàng rất dễ bị kích động.

Vốn dĩ nói không lại sẽ động thủ, mà bây giờ còn bị k1ch thích như thế…

Thanh Duy nhắm mắt hạ quyết tâm, nghĩ bụng, lần đầu lạ lần sau quen, thêm lần nữa cũng không rớt miếng thịt nào, nàng sợ cái gì! Thế là vươn người qua bàn vuông, áp sát Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ sửng sốt, trơ mắt nhìn nàng bất thình lình tới gần.

Là cơn cuồng phong hòa lẫn mềm mại ẩm ướt.

Nàng xâm chiếm răng môi y một cách không quy tắc, rồi chẳng đợi y chào đón đã nhanh chóng rút lui, đoạn dừng lại cách y một tấc, thở hổn hển nhìn y đầy đe dọa, thốt ra hai chữ: “Nó ngọt.”

Tạ Dung Dữ: “…”

Thanh Duy: “Tối qua là vị ngọt, tối nay cũng là vị ngọt.”

Rồi nàng gõ tay lên toa thuốc trên bàn, “Nhưng vị của toa thuốc này lại rất đắng. Đấy còn không phải là bằng chứng ư? Bằng chứng vững như núi.”

Nàng cách y rất gần, hơi thở hòa vào nhau, tròng mắt y dần trở nên sâu hút, “Hồi chiều nàng rời trang viên là để kiểm tra toa thuốc này?”

“Ngài nghĩ sao?” Thanh Duy nói, “Ngài đã khỏe bệnh từ lâu, nhưng vẫn cùng Đức Vinh gạt ta, cả Hàn đại phu nữa, nói gì mà tâm bệnh của ngài khó chữa, luôn cần có người túc trực ở bên, rõ ràng mấy người cùng một giuộc!”

Nàng tức tối, “Hại ta lo mình không biết cách chăm sóc, tốt bụng đi tìm đại phu hỏi thăm bệnh tình của ngài, lại lo đại phu dùng toa thuốc giả hại ngài nên mới vào thành hỏi rõ. Lo âu hơn nửa ngày, hóa ra là ta bị lừa! Vị thuốc mà ngài uống, rõ ràng… rõ ràng là nước đường ép từ táo, là táo ngọt mà!”

Tạ Dung Dữ ngẩn ra.

Đầu lưỡi nhạy thật đấy.

Y thấy Thanh Duy toan bỏ đi, lập tức đưa tay chụp lấy cổ tay nàng, kéo nàng vào lòng mình, giọng nhẹ lại, “Tiểu Dã à, ta không biện minh chuyện thuốc thang, chính ta cố ý giấu nàng, là ta sai.”

Dừng một lúc, Tạ Dung Dữ rồi nói tiếp, “Đáng nhẽ ra ta nên giải thích rõ với nàng, nhưng thời gian này quá bận, còn nàng cứ muốn chuyển ra khỏi trang viên, chỉ là ta… không muốn nàng rời đi, nhưng không biết phải giữ nàng ở lại thế nào, cứ sợ rằng nàng sẽ đột ngột biến mất giống lần trước.”

“Tiểu Dã.” Y gọi, mí mắt khẽ hé mở, con ngươi sạch sẽ thoáng lấp lánh, giọng nhẹ đến nỗi tựa tiếng thở dài, “Vì sao không muốn ở lại bên ta? Ta có điểm nào không tốt?”

Âm thanh nhẹ như tiếng thở dài ấy khiến Thanh Duy ngẩn ngơ.

Hình ảnh mây mù sóng cả trong vuông màn hôm nao bỗng tái hiện.

Đúng, vì sao nàng không ở lại bên y? Ở cùng y có gì không tốt?

Nhưng một khắc sau, Thanh Duy chợt hoàn hồn.

Y quá dễ khiến nàng xao động.

Nàng sống gần hai mươi năm mà chưa từng gặp ai có thể mê hoặc người khác đến vậy, mỗi lời nói mỗi hành động, từng ánh mắt từng tiếng thở dài đều sánh ngang vu thuật.

Thanh Duy bỗng cựa người ra, mò lấy đoản kiếm bên cạnh, bước nhanh về giường xách lấy tay nải đã chuẩn bị từ trước, đẩy cửa đi ra mà chẳng buồn ngoái đầu: “Nếu ngài đã khỏe và không cần ai chăm sóc nữa, vậy thì ta… vậy thì ta đi đây.”

Thực ra đâu cần rời đi vội vã đến thế. Nàng hiểu lý do y gạt nàng, cũng không quá tức giận.

Chỉ là… không hiểu vì cớ gì nàng cảm nhận được nguy cơ từ vực sâu thăm thẳm, cảm thấy nếu bây giờ không đi thì sẽ không bao giờ rời đi được.

Ánh trăng trong sân tựa làn nước trong veo, bóng đêm thanh nhàn.

Tạ Dung Dữ chạy ra khỏi phòng, gọi với lại: “Tiểu Dã.”

Thanh Duy thấy y đuổi theo thì cắn răng, mũi chân điểm lực trên mặt đất, phi thân đáp lên cây du giữa sân, đỡ kiếm ngang người, “Cấm ngài lại gần!”

Vị trí của nàng rất bất ổn: đứng trên cành cây chực gãy và sau lưng là ao nước. May thay nàng giỏi khinh công, tuy khó khăn song vẫn có thể đứng vững, nhìn Tạ Dung Dữ dưới sân, nói: “Ta đã suy nghĩ từ lâu rồi, ta là khâm phạm, đi theo ngài chỉ tổ thêm vướng bận. Trong Huyền Ưng Ti có Vệ Quyết, có Kỳ Minh và Chương Lộc Chi, bên cạnh ngài còn có Triêu Thiên, không thiếu một đứa như ta. Đợi vụ án Thượng Khê kết thúc, về sau ngài điều tra của ngài, ta điều tra của ta, liên lạc qua thư là đủ.”

Nàng phiêu bạt bao năm trời, chực chờ chuẩn bị chính là số mệnh của nàng. Vậy mà năm ngoái chỉ mới tạm dừng chân nương tựa một hồi, lại khiến nàng chìm trong cơn mơ suốt tận nửa năm nay, ban đêm thường mơ thấy y và Giang phủ.

Dã trong Ôn Tiểu Dã nghĩa là hoang dã, không nên đâm rễ chôn sâu đến vậy. Chuyện lần trước đã khiến nàng thương gân động cốt, không biết lần tới có phải là cửu tử nhất sinh chăng.

Tạ Dung Dữ ôn tồn nhìn nàng: “Ngày Thượng Khê xảy ra bạo loạn, Hiệu úy Tả Kiêu vệ Ngũ Thông tự ý rời cương vị, tin tức truyền về kinh, Trung lang tướng dâng tấu xin tha cho Ngũ Thông, ta đã thỉnh quan gia phê duyệt, nhưng coi như trao đổi, ta lệnh cho Tả Kiêu vệ tạm ngưng truy bắt nữ Ôn thị. Tuy ta chưa thể rửa sạch oan danh cho nàng ngay lập tức được, nhưng nàng hãy tin ta, nhất định ta có thể bảo vệ nàng thật tốt.”

Người đàn ông đứng giữa sân mặc áo trắng thắt lưng xanh, gương mặt khôi ngô tuấn tú, như biến thành từ ánh trăng bàng bạc trong trẻo, chính là hình ảnh nàng liên tục trông thấy trong cơn mơ nửa năm qua.

Thanh Duy nói: “Sở dĩ năm ngoái ta rời Nhạc Châu, ngoài việc đưa Chi Vân lên kinh thì ta muốn tìm sư phụ hơn. Ông ấy là người thân duy nhất của ta trên thế gian này, nhưng đã bặt vô âm tín năm năm, hiện tại vụ án Thượng Khê đã kết thúc, ta cũng thành người tự do, bây giờ muốn đến Thần Dương tìm ông ấy trước.”

“Nửa năm trước ta đã phái người đến Thần Dương nghe ngóng rồi, Nhạc Ngư Thất không hề xuất hiện ở Thần Dương trong năm năm qua. Nếu nàng không yên tâm, thật sự muốn đến Thần Dương một chuyến, vậy đợi xong chuyện ta sẽ đi cùng nàng.”

“Đi cùng làm gì?” Thanh Duy nói, “Đợi xong chuyện, nguyện vọng của ta cũng giống như ông ngoại và sư phụ, đi khắp đất bắc trời nam, hành nghĩa vì hiệp. Còn ngài là vương, phụ thân ngài là nhân sĩ, ngài được tiên đế chỉ dạy nuôi lớn, ngay từ khi chào đời chúng ta đã khác nhau, sống cuộc sống khác nhau, tầm nhìn mai sau tất cũng sẽ khác nhau.”

Tạ Dung Dữ bình thản nói: “Nàng không phải là ta, sao nàng biết được tầm nhìn của ta?”

Thanh Duy đáp: “Vậy không nói tương lai, nói hôm nay đi. Giờ ngày nào ta cũng đi theo ngài, cùng ra cùng vào như thế sao được, sau này ngài không định cưới vợ hả? Làm việc gì cũng phải dứt khoát, chi bằng chia tách nhau lúc này.”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng: “Ta không muốn chia xa nàng.”

“Không chia xa lẽ nào phải sống chung với nhau cả đời? Trong kinh thành có trăm nghìn danh gia vọng tốc, tới lúc ấy Thiên gia chọn phi cho ngài, ngài định giải thích thế nào? Lẽ nào ngài định để đứa dân đen như ta làm vương phi của ngài?”

“Ôn Tiểu Dã, nàng đang nghĩ gì vậy?”

Nghe đến đây, Tạ Dung Dữ chợt phì cười, âm thanh dịu dàng tựa ánh trăng, “Nàng vốn là vương phi của ta mà.”

Nàng là vương phi của ta mà.

Gió đêm hây hây.

Trong chớp mắt, đầu óc Thanh Duy trở nên bối rối.

Nàng nhìn Tạ Dung Dữ, mọi lời phân trần đến bên bờ môi hòa cùng màn đêm quấn thành nút thắt quay ngược về lồng nguc, tâm trí tinh thần trống trơn mịt mù.

Nàng há miệng, song lại quên phải nói gì.

Vốn nàng dùng khinh công đáp lên cành cây, nhưng vì mất kiểm soát nên cành cây dưới chân đã không chịu nổi sức nặng của một người.

Tiếng gãy *răng rắc* giòn tan.

Một khắc sau, Tạ Dung Dữ nhìn thấy Ôn Tiểu Dã cầm kiếm rơi tõm xuống ao nước ngay trước mắt.
 
Chương 124


“Bẩm công tử, canh sâm đã xong rồi ạ.”

Tiếng của Đức Vinh đưa đến từ ngoài phòng.

“Đem vào đi.” Một lúc sau, Tạ Dung Dữ đáp.

Đức Vinh vâng dạ, mắt nhìn thẳng đẩy cửa đi vào, đặt canh lên bàn, không dám nhìn vào trong buồng ngủ.

Công tử thật là, nửa đêm nửa hôm lại bảo chuẩn bị nước nóng để tắm, còn nấu canh sâm nữa chứ, không phải hạ nhân như hắn phàn nàn chuyện phục vụ, chỉ là tinh lực bùng nổ lửa bén củi khô, thiếu phu nhân chịu không nổi thì sao?

Đức Vinh nhắm mắt rời khỏi phòng, đóng cửa lại rồi nói: “Công tử, có cần tiểu nhân sang phòng tắm bên cạnh dọn dẹp không ạ?”

“Đi đi.”

Chén canh nóng được đặt trên bàn, Tạ Dung Dữ bưng tới cạnh giường, “Tiểu Dã, lại uống nào.”

Thanh Duy quấn chăn kín mít ngồi trên giường, ngoảnh mặt đi nơi khác, “Không uống.”

“Không uống cũng được.” Thấy nàng còn đang xấu hổ, Tạ Dung Dữ cười cười, “Bệnh rồi thì để ta chăm sóc nàng.”

Thanh Duy liếc sang nhưng lại không dám ngước nhìn y, tầm mắt chỉ dừng ngang y phục, thấy vạt áo trước thấm nước mảng rộng – có thể bị ướt do lúc nãy ôm nàng đi lên, “Ngài, ngài đi tắm đi, cứ để chén canh ở đó, lát nữa ta sẽ uống…”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, hình như có căn dặn thêm vài chuyện, đoạn rời khỏi phòng.

Nhưng Thanh Duy không nghe rõ y nói gì, y vừa đi, nàng lập tức giơ tay che mắt, ngã nhào xuống gối.

Tới tận lúc này mà trong đầu nàng vẫn nổ ầm ầm, chỉ ước có thể quên quách cảnh rơi xuống hồ nước tối nay.

Mà thực tình nàng cũng không nhớ nhiều, nước hồ lạnh buốt cũng chẳng xóa được câu “vương phi” đầy chắc nịch, đến khi nàng có phản ứng thì Tạ Dung Dữ đã bế nàng lên, gọi Đức Vinh vào phòng chuẩn bị nước tắm.

Trung y rộng rãi sạch sẽ nàng đang mặc còn là của y, cũng là y giúp nàng lau khô tóc. Lẽ ra tối nay nàng đã quyết tâm rời đi rồi, tiếc rằng nếu đã làm gì thì nên làm một mạch cho xong, sau ba bốn lần, hồng nhạn vỗ cánh lại sẩy chân ướt sũng, nàng chẳng hiểu tại sao mình lại thua thảm đến thế nữa, quần áo trên người như chiếc kén trói chặt nàng, có cảm giác không cách nào rời đi được nữa.

***

Tạ Dung Dữ tắm rửa rồi quay về phòng, thấy Thanh Duy vẫn ôm đầu gối ngồi trên giường như vừa nãy, nhưng có vẻ đã chịu uống canh – trên bàn chỉ còn lại một chiếc chén trống rỗng.

Đột ngột rơi xuống hồ nước như thế, chớ nói nàng, ngay đến y cũng không kịp phản ứng.

Thực ra nàng không hề nhếch nhác như mình nghĩ, nước trong hồ cũng không sâu, chỉ cao ngang eo nàng, nhờ thói quen tập võ từ nhỏ nên nàng vẫn có thể đứng vững trong hồ, chẳng qua gương mặt ngơ ngác của nàng lúc ấy quả là buồn cười.

Đương nhiên y không thể cười, ôm nàng lên khỏi mặt hồ, nàng cứng người co ro trong lòng y, y biết nàng vẫn chưa hoàn hồn. Đưa nàng vào phòng tắm nghi ngút hơi nóng, y còn hỏi: “Sao nào, có muốn ta cởi áo giúp không?” Thì nàng mới sực tỉnh, lóng ngóng đẩy y ra khỏi cửa.

***

Tạ Dung Dữ tắt đèn, vén rèm bước lên giường, dịu dàng gọi: “Tiểu Dã.”

Thanh Duy xoay sang nhìn y.

Ánh trăng sáng tỏ xuyên qua khung cửa chiếu rọi vào phòng, tựa làn sương mỏng ôm ấp nàng, biến nàng như trở thành giấc mơ hư ảo.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, đang định mở miệng thì Ôn Tiểu Dã bỗng cựa quậy, móc chân qua đầu gối y và khóa nửa phần dưới của y, giữ cố định bằng một tay rồi ngồi ngang trên người y, mắt trong veo giọng cũng lanh lảnh: “Hai câu hỏi.”

Tạ Dung Dữ: “…”

Sao nàng lại thế này? Nàng có biết làm thế là rất không ổn không?

Nhưng cũng được, xem như nàng đã hết xấu hổ lúng túng.

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng: “Nàng hỏi đi.”

Thanh Duy do dự, “Ta nghe người ta nói, năm ấy khi triều đình ban lệnh truy nã, chính ngài đã khoanh đỏ vào tên ta, vì sao ngài lại làm thế, vì để cứu ta sao?”

“… Đúng.”

“Lúc ấy ta và ngài không quen không biết, vì sao ngài lại cứu ta?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng chăm chú, nhẹ nhàng đáp: “Ta cảm thấy mình có lỗi với tiểu cô nương đó, chính ta đến Thần Dương mời phụ thân của nàng ấy đi, khiến nàng ấy rơi vào cảnh bơ vơ, nên dẫu sao đi nữa ta cũng phải bảo vệ tính mạng nàng ấy.”

Thanh Duy ngẩn ngơ, không ngờ y lại nghĩ như vậy.

Nhưng chính bản thân phụ thân muốn xây dựng Tiển Khâm Đài, dù Tiển Khâm Đài có sập cũng không thể đổ trách nhiệm lên đầu y.

Nàng mở miệng, toan cất tiếng thì Tạ Dung Dữ lại cười nói: “Vả lại, lần ta đến Thần Dương cũng là lần đầu tiên ta thực sự xuất cung sau mười hai năm.”

Thanh Duy sửng sốt: “Trước đó ngài chưa bao giờ rời khỏi thành Tử Tiêu?”

“Nếu không tính đi chùa chiền tế trời tế tổ, thỉnh thoảng về phủ công chúa thăm tổ mẫu thì,” Tạ Dung Dữ đáp, “Chưa bao giờ.”

Hồi năm tuổi y đã được đón vào cung, như bao hoàng tử khác phải học văn tập võ, tuân thủ cung quy, không được biếng nhác dù chỉ một ngày. Năm Chiêu Hóa thứ mười hai, y mười bảy tuổi, lần đầu rời kinh đến Thần Dương, trông thấy tiểu cô nương kia đi giữa núi rừng, mới biết thế gian này còn có người sống khác mình đến vậy, đôi mắt trong veo chẳng bận tâm lo lắng, thích yêu thì yêu thích ghét thì ghét, không bị bất cứ ai trói buộc hạn chế, đeo bọc tay nải dắt một thanh kiếm là có thể vô tư rời đi.

Là sự tự do phóng khoáng mà y chỉ biết ước ao khát vọng trong những năm tháng xưa.

“Vậy sau đó ngài cưới Chi Vân, nhưng phát hiện cưới nhầm ta mà vẫn không từ hôn, cũng là vì giúp ta?”

Tạ Dung Dữ từ tốn nói, “Tiểu Dã, đây đã là câu hỏi thứ tư rồi.”

“Trả lời ta.” Thanh Duy quyết không từ bỏ.

“Không phải.” Tạ Dung Dữ nói.

Thanh Duy giật mình, không hiểu sao trong lòng chợt cảm thấy khó chịu. Thể như khi nàng đặt câu hỏi thì trong lòng đã có sẵn đáp án mong muốn.

“Lúc trước khi xảy ra cướp ngục thành Nam, Huyền Ưng Ti cho gọi nàng và Thôi Chi Vân đến Kinh Triệu Phủ thẩm vấn, ta đã đoán là do nàng làm. Về sau Quan gia triệu ta vào cung, đưa ra phong thư Vương Nguyên Thưởng tố giác vụ án ôn dịch, hi vọng ta làm Đô Ngu Hầu của Huyền Ưng Ti để điều tra rõ sự việc, thực chất ta không muốn lắm.” Tạ Dung Dữ nói, “Hồi ấy… Ta vẫn còn bị bệnh, rất bài xích những chuyện có liên quan đến Tiển Khâm Đài, sở dĩ đồng ý là do một nửa vì tiên đế, còn nửa kia, chính là để giúp nàng.”

Ngày ấy vì cứu Tiết Trường Hưng mà Thanh Duy bị Huyền Ưng Ti để mắt, Tạ Dung Dữ biết nếu không có người âm thầm hỗ trợ thì nàng khó có thể đào tẩu, thế nên đã tiếp nhận chức Đô Ngu Hầu Huyền Ưng Ti.

Y từng bảo mình thực sự đã cử người đi tìm nàng, tới khi biết nàng sống ở Thôi gia mới yên tâm.

Nghe thấy thế, cảm giác khó chịu trong lòng Thanh Duy từ từ biến mất, lực giữ tay y cũng dần buông lơi, nàng thả lỏng tay, cụp mắt nói: “Câu hỏi cuối cùng… Hồi trước ta từng hỏi ngài rồi. Cưới ta và cưới Chi Vân, có gì khác nhau không?”

Đúng là nàng từng hỏi một lần, nhưng lúc ấy nàng chưa đợi được y đáp thì lại đột nhiên không muốn biết nữa.

Tạ Dung Dữ nhướn mắt nhìn nàng, âm thanh tựa màn đêm, “Muốn biết hả?”

Thanh Duy ngoảnh mặt đi, “Tốt nhất ngài nên thành thật trả lời.”

Tạ Dung Dữ nhổm dậy, thoáng nhớ lại, “Cưới Thôi Chi Vân là để bảo vệ Thôi gia, lúc đó ta cũng đã có lời với mẫu thân, Thôi Chi Vân mà qua cửa thì mẫu thân sẽ đón nàng ấy đến chùa Đại Từ Ân ở một thời gian, về sau sẽ tìm người tốt cho nàng. Nhưng rồi…”

Rồi vào đêm tân hôn, y vén khăn voan, thấy người đến là nàng.

Bao năm nay y luôn kiếm tìm nàng, không chỉ dừng ở việc nàng sống ở Thôi gia, dùng tên giả con gái Thôi thị.

Y biết nàng đã phải lang bạt một mình nhiều năm để đi tìm người thân duy nhất còn trên đời.

Tiểu cô nương tự do tự tại giữa rừng núi đã không còn nhà, thành lục bình mất rễ, bị thế gian dòng đời đẩy đưa, nhưng rồi đến một ngày, nàng lại va vào y.

Đúng là đêm tân hôn y đã uống say, nhưng vào khoảnh khắc vén khăn voan trông thấy là nàng, đầu óc y chợt trở nên tỉnh táo, chẳng qua không muốn bản thân nghĩ nhiều.

Tạ Dung Dữ nhìn thẳng Thanh Duy, “Lúc ấy ta chỉ lấy làm ngạc nhiên, cớ gì tiểu cô nương này lại va vào chỗ ta?”

“Rồi ta lại nghĩ…” Y cúi xuống, đặt một nụ hôn mềm mại ấm áp lên mi mắt nàng, “Từ giờ trở đi, nhất định ta phải đối xử tốt với nàng ấy.”
 
Chương 125


Không gian trong màn lặng như tờ.

Bàn tay ấm áp vòng ra sau lưng nàng, chiếc hôn ở mắt dần di chuyển xuống, tựa làn gió mát trong đêm, dịu dàng lướt qua chóp mũi, hai má rồi dừng lại trên môi.

Không vào sâu thêm.

Tựa bông hoa phiến lá lìa cành cuối xuân, khẽ khàng đáp xuống mặt hồ, dập dềnh trên sóng rồi bị gió thổi bay, bay về nơi bình yên nhất trên thế gian này.

Hương vị khiến người ta mụ mị trầm luân.

Thanh Duy cảm thấy khó mà thoát nổi, gần như phải dùng hết sức mới tránh ra được một tấc.

Nàng chống tay lên vạt áo y, ngực khẽ nhấp nhô, cụp mắt nói: “Nhưng ta không có cách nào làm vương phi của ngài.”

Không chỉ vì nàng là khâm phạm.

Trước khi nàng được rửa oan, chân tướng Tiển Khâm Đài được làm rõ, thì cả cuộc đời nàng đã định sẵn vô duyên với chốn kinh thành phồn hoa.

Huống hồ… Sở dĩ Ôn Tiểu Dã là Ôn Tiểu Dã chính vì nàng sống tự do tự tại, thậm chí trong những năm tháng phiêu bạt cũng sống theo ý mình, nếu có ngày nàng bị bắt phải sống trong thâm phủ nhà cao cửa rộng, trở thành vương phi phải tuân thủ cung quy thì nàng không còn là Tiểu Dã nữa rồi.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, giọng chìm vào màn đêm, “Không cần làm vương phi, nàng vẫn có thể là nương tử của ta.”

Sự hứa hẹn và nhượng bộ ẩn trong đó quá nhiều, nhưng Tạ Dung Dữ không giải thích.

Tiểu Dã rất nhạy bén, có đôi khi chỉ nói một đã hiểu mười, thứ nàng cần vượt qua chính là thứ trong tim nàng.

Quả nhiên nàng ngước mắt nhìn y, đôi mắt sáng ngời đầy thận trọng, “Nếu Thiên gia chọn phi cho ngài thì ngài làm gì?”

“Ôn Tiểu Dã à.” Tạ Dung Dữ mỉm cười, “Về việc chọn phi, không ai có thể là chính thê của ta ngoài nàng.”

Y nhẹ nhàng gạt lọn tóc trên má nàng ra sau tai, nhẹ nhàng trấn an, “Hôm ấy nàng bảo muốn suy nghĩ thêm. Nàng có thể suy nghĩ tiếp, ta bằng lòng chờ nàng.”

Thanh Duy cụp mắt, nghĩ ngợi một lúc rồi khẽ nói: “Ta có vài quy tắc, ngài có tuân thủ được không?”

“Nàng nói đi.”

“Ngài…” Nàng bối rối, không biết bản thân bây giờ có phải là lén ước hẹn hay không, nếu cha mẹ mà biết, nhất là sư phụ, liệu có trách mắng nàng không, “Trước khi ta nghĩ xong, tạm thời ngài không được xem ta là nương tử của ngài.”

“Được.”

“Nếu ta đã nghĩ kỹ mà vẫn quyết định sẽ đi, ngài không được ngăn cản ta.”

“… Được.”

“Còn nữa…” Thanh Duy mấp máy môi, “Trước khi ta nghĩ xong, trong phòng ngài ngoài Trú Vân Lưu Phương ra thì không được có a hoàn nào khác hầu hạ, ngài ra ngoài cũng không được dẫn cô gái nào theo, nếu không có công vụ ngài cũng không được đến thanh lâu xem ca kịch, cũng không được giống lần trước, gọi ca cơ vũ cơ ở tửu lâu với Khúc Đình Lam, ta biết bản thân mình lắm chuyện, cũng biết từ nhỏ vương tôn công tử các ngài không thiếu oanh yến bên người…”

“Ôn Tiểu Dã, rốt cuộc nàng xem kịch nhiều hay nghe thoại bản nhiều vậy hả, ai nói với nàng ta không thiếu oanh yến bên người từ nhỏ?” Nghe đến đây, Tạ Dung Dữ không kìm được nói.

Không biết có phải vì tính tình phong lưu lúc giả vờ làm Giang Từ Chu ngày trước đã để lại ấn tượng sâu đậm cho nàng hay không, khiến nàng hiểu lầm y cũng chơi bời trác táng, nhưng sự thật trước mười bảy tuổi y toàn sống trong thâm cung, sau lại chuyển đến Giang phủ, mấy năm đổ bệnh trong lòng như có sương mù che lấp, làm gì còn có tâm tư sưu tầm yến tước giữa muôn tía nghìn hồng?

“Bao năm qua, ta chỉ gặp mỗi một chú chim xanh giữa núi rừng Thần Dương, khó khăn lắm nàng ấy mới bay đến bên ta, nhưng chỉ dừng chân chốc lát rồi suốt ngày muốn vỗ cánh bay đi, ta còn sợ mình không giữ được nàng ấy.”

Thanh Duy ngẩn ngơ.

Nàng biết y đang nói mình, bỗng cảm thấy có cơn gió lướt qua con tim.

Nàng mím chặt môi, một lúc lâu sau mới nói: “Ngài cũng có quy tắc của mình chứ? Ta sẽ tuân theo.”

Nàng không phải người không phân rõ phải trái, đã định ra quy tắc để y tuân thủ, có qua có lại, dĩ nhiên y cũng có thể đặt ra.

Nhưng xưa nay y luôn bao dung nàng, Thanh Duy cho rằng y sẽ không nói gì.

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, mắt ngọc mày ngài, tóc dài tựa thác, chú chim xanh giữa núi rừng Thần Dương năm nao đã trưởng thành, hóa thân thành chim loan đẹp tuyệt trần, chỉ nhìn thôi cũng bị hớp hồn.

“Quy tắc của ta rất đơn giản.” Tạ Dung Dữ nói, “Ta có thể chờ nàng, nhưng mà, Tiểu Dã à, ta là đàn ông.”

“Trước khi nàng suy nghĩ kỹ, về sau ban đêm cấm nàng áp sát dựa gần nữa, nhất là…” Y dừng lại, giọng khàn khàn xen lẫn mê hoặc, “Nhất là tư thế này.”

Tư thế gì cơ?

Y ngồi dựa đầu giường, nàng ngồi ngang trên người y chế ngự.

Song lúc nãy y nghiêng người tới, nàng và y thực sự rất gần nhau.

Ôn Tiểu Dã rời nhà xa cách người thân từ thuở nhỏ nên khá ngây thơ trên chữ tình, nhưng trong mấy năm lang bạt nàng đã tiếp xúc đủ hạng người, sao có thể không hiểu chuyện nam nữ.

Tạ Dung Dữ vừa nói xong, không hiểu sao bàn tay đặt sau lưng nàng bỗng nóng lên, rồi nàng chợt cảm nhận được sự khác thương rất rõ ràng ở y.

Cứ như bị ném vào lò nung, vành tai nàng bỗng nhiên bốc cháy, nàng luống cuống xoay người đi xuống, trùm chăn che kín mặt, gần như cuộn tròn trong góc giường.

Tạ Dung Dữ bật cười: “Nhớ chưa?”

“Nhớ, nhớ rồi.” Cũng không dám quên nữa, Thanh Duy đáp.

***

“Vết thương ngoài da đã lành, chấn thương xương sườn cũng là loại chấn thương xương dễ chữa lành nhất, lẽ ra cậu nên đi lại nhiều hơn, vấn đề là chân phải của cậu bị gãy xương. Nhưng cậu mới nằm được gần nửa tháng rồi nên ra ngoài phơi nắng cũng không sao.”

Trong sương phòng ở Y Sơn Viện, Triêu Thiên ăn mặc chỉnh tề, được Đức Vinh đỡ xuống giường, Thanh Duy đứng bên nhìn đề phòng hắn sẩy chân té ngã.

Đức Vinh chần chừ nói: “Thật sự có thể ra ngoài sao? Cậu ta bị thương nặng thế, vết thương cũng nhiều, tiểu nhân cho rằng vẫn nên nằm thêm một tháng nữa.”

Hàn đại phu đứng bên giường cười bảo: “Thiếu phu nhân nói đúng đất, xương sườn bị gãy thì ba ngày sau có thể đi lại được rồi, người bình thường rạn xương đùi cần nằm thêm một tháng, nhưng Cố hộ vệ không phải người bình thường, ngoài những ngày đầu tiên bị sốt cao ra thì vết thương lành rất nhanh, hôm nay nắng đẹp, chống gậy ra ngoài đi lại chắc không sao đâu.”

Triêu Thiên có Thanh Duy và Hàn đại phu ủng hộ, nhanh nhảu bảo: “Thiếu phu nhân nói chí phải, đại phu cũng nói rất đúng, ta tập võ từ nhỏ, tuy không có sở trường nhưng được cái sức chịu đựng giỏi, hiện trên người đã không còn thương tổn gì nữa rồi, nếu mà nằm nữa thì nấm mốc mọc trong kẽ xương mất, ta chỉ muốn ra ngoài thôi.”

Nói đoạn, hắn mặc kệ Đức Vinh có ngăn cản hay không, chống dậy đứng lên. Hắn sức khỏe, một tay chống gậy, chỉ mỗi chân trái cũng có thể đi lại tự nhiên. Đức Vinh hốt hoảng đuổi theo, lại ngoái đầu xin ý của Hàn đại phu, thấy Hàn đại phu gật đầu mỉm cười thì mới khó xử đi theo ra khỏi phòng.

Triêu Thiên ưa hoạt động chứ không thích ngồi một chỗ, bình thường bắt hắn ngồi vào bàn viết thư là đã hành hạ tính mạng hắn rồi, huống chi nằm trên giường mấy ngày trời. Hắn đi dọc đường một đoạn, cảm thấy toàn thân sảng khoái thoải mái, lại thấy cửa viện ở ngay phía trước, bèn nói: “Ta đi thỉnh an công tử đã.”

Đức Vinh ngăn lại: “Ta thấy ngươi lại muốn bị công tử mắng thì có.”

Triêu Thiên nhìn Thanh Duy, thấy nàng không khác gì chú chim bay nhảy đi theo mình, lúc bay trên cành cây, lúc lại dừng chân trên núi giả, cực kỳ hâm mộ, không khỏi hỏi: “Thiếu phu nhân lại luyện công phu à?”

Thanh Duy: “… Khinh công chưa tốt, ta muốn tập thêm.”

Triêu Thiên không hiểu vì sao Thanh Duy lại cảm thấy khinh công chưa tốt, cho rằng thiếu phu nhân đã lợi hại như vậy rồi mà vẫn còn cố gắng, hắn càng phải ra sức noi theo mới phải, bèn bảo: “Lần trước thiếu phu nhân bị Tả Kiêu vệ truy đuổi nhưng không bị thương, còn rời kinh một mình mấy ngày, thế mà giờ vẫn ổn.”

Thanh Duy nói: “Ta khác cậu, lần trước ta may mắn, không thương tổn gân cốt.” Nói xong, nàng hất cằm chỉ về sương phòng, “Về nghỉ ngơi đi.”

Phu nhân chủ tử đã hạ lệnh, Triêu Thiên đành phải tuân theo, xoay người để Đức Vinh đỡ về.

Thanh Duy không khích lệ Triêu Thiên nữa, nhảy xuống khỏi ngọn núi giả, hỏi Đức Vinh: “Không phải cậu nói Trú Vân và Lưu Phương sắp tới à, bao giờ thì bọn họ tới nơi?”

“Bẩm thiếu phu nhân, khoảng vài hôm nữa.” Đức Vinh đáp, “Hai người họ khác tiểu nhân và Triêu Thiên, xuất thân là cung nhân nên đi đường cũng chậm hơn.”

Thanh Duy biết Trú Vân vốn là y nữ, Lưu Phương từng học nghệ tại Thượng Phục Cục, còn Triêu Thiên và Đức Vinh sinh ra ở Cật Bắc, là cô nhi sau trận chiến sông Trường Độ, mãi tới sáu năm trước mới chuyển lên kinh thành, đi theo Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ đối xử với bọn họ tốt hơn nhiều so với hạ nhân bình thường.

Nghĩ đến Cật Bắc, Thanh Duy chợt nhớ ông ngoại và sư phụ cũng từng chinh chiến nơi đó, đang đang định hỏi Triêu Thiên Đức Vinh vài chuyện thì đúng lúc này, tiếng bước chân dồn dập vội vã đột nhiên vang lên ở ngoài sân, người đến là Kỳ Minh, chắp tay cúi đầu với Thanh Duy: “Thiếu phu nhân, chẳng hay người có thời gian rảnh đến Lạc Hà Viện một chuyến được không?”

Thanh Duy gật đầu, cùng hắn rời khỏi sân: “Có chuyện gì thế?”

“Là thế này, phong thư về Tôn Huyện lệnh và Tần sư gia từ trong kinh đã được gửi đến, hình như Ngu hầu đã tìm ra manh mối quan trọng nào đó, lệnh thuộc hạ lục soát vật ngoại thân của Lý thị và Dư thị. Nhưng hai người họ không chịu phối hợp, liên thủ khóc lóc lăn lộn, thuộc hạ thấy hai người họ là nhân chứng nên không định dùng vũ lực, đành kính nhờ thiếu phu nhân sang thuyết phục giùm.”
 
Chương 126


Tiếng tranh cãi của Dư Hạm và Lý thị vang đến nỗi chưa bước chân vào Lạc Hà Viện đã có thể nghe thấy, Thanh Duy đứng ngoài nhìn, Dư Hạm chắn ngang trước mặt hai đứa bé hòng ngăn cản Huyền Ưng vệ tiến tới lục soát, nàng ta lạnh lùng nói, “Lục soát ta và phu nhân chủ tử đã đành, ngay đến bọn trẻ cũng không tha, chỉ là một đứa con nít, nó giấu được gì trên người hả?”

Thanh Duy không khỏi nhíu mày.

Dưới sự quản lý của Tạ Dung Dữ, Huyền Ưng Ti vô cùng tuân thủ quy tắc, cho dù muốn kiểm tra một đứa bé cũng không đến mức phải đao to búa lớn, làm hai đứa con của Tôn Nghị Niên òa khóc như vậy.

Kỳ Minh trông thấy vẻ mặt khó hiểu của Thanh Duy, bèn giải thích: “Thiếu phu nhân hẵng khoan.”

“Thực ra hôm thẩm vấn, Ngu hầu từng nghi ngờ Tưởng Vạn Khiêm cấu kết với Lý thị che giấu manh mối, Ngu hầu có nói cho thiếu phu nhân biết không?”

Thanh Duy gật đầu: “Y nói với ta rồi.”

Hôm thẩm vấn trên công đường, Tạ Dung Dữ cố ý không thẩm vấn chung Tưởng Vạn Khiêm với Lý thị.

Nhưng mỗi khi hỏi tới chỗ quan trọng, ví dụ như vì sao bọn họ lại trốn khỏi Thượng Khê, do ai tìm cách, quan hệ giữa Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn ra sao, lời khai của cả hai lại không quá khác nhau.

Càng lạ hơn nữa, nếu quan hệ vợ chồng giữa Lý thị và Tôn Nghị Niên thật sự bình thường chứ không hục hặc như lời đồn, thì vì sao khi Tôn Nghị Niên chết, người vợ kết tóc của ông là Lý thị lại không hề có vẻ đau buồn?

“Ngu hầu ngờ rằng Tôn Nghị Niên và Tưởng Vạn Khiêm có giao dịch.” Kỳ Minh nói.

“Giao dịch?”

“Tức là Tôn Huyện lệnh dùng tính mạng của mình để trao đổi với Tưởng Vạn Khiêm ‘lá bùa hộ mệnh’ bảo vệ người nhà mình.”

Kỳ Minh chau mày, như thể không biết phải giải thích với nàng thế nào, nghĩ một lúc lâu mới đưa ra kết luận, “Ngu hầu nói, cả Thượng Khê này chỉ có Tưởng Vạn Khiêm mới có cách bảo vệ người nhà của Tôn Huyện lệnh, cho nên Tôn Huyện lệnh đã dùng tính mạng của mình để mua một ‘lá bùa hộ mệnh’ từ Tưởng Vạn Khiêm. Ngay từ đầu Lý thị đã biết kiểu gì Tôn Huyện lệnh cũng chết nên mới không đau buồn. Và bây giờ bức thư trong kinh gửi tới đã xác nhận suy đoán của Ngu hầu, thứ mà Huyền Ưng Ti đang tìm bây giờ chính là ‘bùa hộ mệnh’ đó.”

Hắn dừng một lúc, “Thực ra thuộc hạ đến tìm thiếu phu nhân là ý của Ngu hầu, Ngu hầu bảo, chỉ cần nói ‘bùa hộ mệnh’ với thiếu phu nhân thì thiếu phu nhân tự khắc biết rõ cần tìm cái gì.”

Nhưng Thanh Duy lại không rõ.

Tiếng mắng chửi lại vọng ra từ Lạc Hà Viện, Thanh Duy đưa mắt nhìn sang, hóa ra một Huyền Ưng vệ muốn xông vào phòng của Lý thị, bị Dư Hạm chặn ngoài cửa, hai bên tiếp tục giằng co. Thanh Duy thấy vẫn còn thời gian, bèn nói với Kỳ Minh: “Ngươi cho ta biết nội dung của bức thư gửi đến từ kinh thành đi.”

***

“Bẩm Ngu Hầu, nghe nói thư từ trong kinh đã đến rồi?”

Lại nói chuyện bên này. Vệ Quyết đang ở nha môn thì nhận được tin, gấp rút cưỡi ngựa quay về trang viên, đi thẳng vào thư phòng của Tạ Dung Dữ.

Thư phòng mở rộng, Tưởng Vạn Khiêm co rúm quỳ cạnh y, ngoài Chương Lộc Chi, sau lưng chỉ có hai Huyền Ưng vệ canh giữ.

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, đưa phong thư trên bàn cho hắn, “Xem thư đi.”

Giấy viết thư là giấy trắng thượng phẩm, Vệ Quyết cầm lên, mới đầu không để ý lắm, nhưng khi mở bức thư, nhận ra chữ viết thì ánh mắt lập tức sững lại, kính cẩn cầm thư làm lễ rồi mới dám đọc tiếp – bởi lẽ bức thư này là Triệu Sơ viết gửi Tạ Dung Dữ.

Trong kho hồ sơ của châu phủ Lăng Xuyên, chi tiết liên quan đến trận huyết chiến trên núi Trúc Cố năm xưa – thậm chí là mối quan hệ giữa Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn – đã bị xóa bỏ, nên Tạ Dung Dữ mới kính nhờ Triệu Sơ điều tra ở kinh thành, Vệ Quyết cũng biết chuyện này. Nhưng tra án rắc rối, không phải thấm vấn vài nhân chứng, tìm vài bằng chứng là xong, mà cần có thời gian xem xét một đống hồ sơ, Vệ Quyết không ngờ Quan gia lại dốc sức đến mức này.

“Thanh Chấp biểu huynh mạnh khỏe, trước đó huynh nhờ trẫm điều tra về Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơ, gần đây trẫm đã đối chiếu hồ sơ của bộ Lại và bộ Hình, có thu hoạch rồi.

Hai người Tôn, Tần sinh đầu năm Hàm Hòa, nguyên quán Thượng Khê, đậu Tú tài vào năm Chiêu Hóa. Tần Cảnh Sơ từng thi Cử nhân hai lần, vào năm Chiêu Hóa thứ tư và thứ bảy. Năm Chiêu Hóa thứ tư, Tần Cảnh Sơ rơi xuống nước trước kì thi Hương, không đậu. Năm Chiêu Hóa thứ bảy, Tần Cảnh Sơ lại ngộ sát anh họ Trương Kỳ trước kì thi Hương, dẫn lên quan phủ, bị tước công danh, từ đó không thể làm quan.

Song, trẫm và Đại Lý Tự đã kiểm tra hồ sơ, đối chiếu manh mối, phát hiện trong vụ án này đã xử sai, kẻ giết người thực sự không phải là Tần Cảnh Sơ, mà là Tôn Nghị Niên.

Tôn, Tần là bạn chí cốt. Năm Chiêu Hóa thứ bảy, cả hai cùng tham gia thi Hương. Vì Trương Kỳ liên tục vòi vĩnh Tần Cảnh Sơ chu cấp, thậm chí còn uy hiếp tính mạng nên Tôn Nghị Niên rất bất mãn về Trương Kỳ. Đêm xảy ra án mạng, Trương Kỳ uống say, gặp hai người Tôn, Tần ở bờ hồ, tiếp tục yêu cầu Tần Cảnh Sơ đưa tiền. Vì bảo vệ bạn tốt mà Tôn Nghị Niên đã sẩy tay đẩy Trương Kỳ xuống nước, hại Trương Kỳ chết đuối. Hôm sau, xác chết của Trương Kỳ được phát hiện, hai người Tôn, Tần đến nha môn đầu thú, ai cũng nhận mình là kẻ giết người. Vì lúc xảy ra án mạng không có nhân chứng, hai bên liên tục tranh nhau. Mà người xử án lúc đó, là một thôi quan họ Sầm ở nha phủ Đông An…”

Đọc đến đây, Vệ Quyết dừng lại, không khỏi ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ, “Thôi quan họ Sầm… Là Sầm thông phán ở phủ Đông An đang mất tích?”

Tạ Dung Dữ gật đầu.

“… Sau đó Sầm thôi quan kết án, kết luận Tần Cảnh Sơ ngộ sát, tấu lên triều đình tước công danh. Tôn Nghị Niên từng kêu oan giúp Tần Cảnh Sơ nhiều lần nhưng đều vô ích. Về sau, Tôn Nghị Niên ra sức học hành, thi đậu vào năm Chiêu hóa thứ chín, thí thủ một năm rồi về Thượng Khê làm Huyện lệnh.

Từ khi Tần Cảnh Sơ vào ngục cho đến lúc Tôn Nghị Niên thi đậu, trong quãng thời gian ấy, hồ sơ liên quan đến vụ án Trương Kỳ rơi xuống nước ở bộ Hình hay Đại Lý Tự đều đã bị tiêu hủy, chứng tỏ kẻ đứng đằng sau có thủ đoạn cao tay. Sở dĩ trẫm chắc chắn hung thủ là Tôn Nghị Niên là bởi khi lục sự ở nha môn thu xếp hồ sơ vụ án, đã sao chép lại một bản lời khai, mặc dầu lời khai gốc đã bị tiêu hủy, nhưng may mắn thay bản dự trữ vẫn còn. Lời khai được đính kèm cuối thư, biểu huynh có thể xem, qua đó không khó để nhận ra, sau khi Trương Kỳ rơi xuống nước, hai người Tôn, Tần đã đến nha môn đầu thú, mà lời khai của Tần Cảnh Sơ rất lộn xộn, mâu thuẫn chồng chất, trái lại lời khai của Tôn Nghị Niên vô cùng rõ ràng, cam đoan chính mình giết Trương Kỳ.

Mặt khác, vào tháng Năm năm Chiêu Hóa thứ mười ba, tức hai tháng trước khi Tiển Khâm Đài sập, Tôn Nghị Niên từng trình một bản công văn lên châu phủ Lăng Xuyên, bên trongcó kẹp một bức thư nhận tội, nói rõ năm xưa chính mình mới là người giết Trương Kỳ.

Theo lời Tôn Nghị Niên, vào năm Chiêu Hóa thứ mười, sau khi làm Huyện lệnh Thượng Khê, lương tâm ông ta luôn bị cắn rứt, vì thế đã tìm đến Sầm Tuyết Minh xử án năm xưa, muốn rửa oan cho Tần Cảnh Sơ. Khi ấy Sầm Tuyết Minh đã thăng lên làm thông phán phủ Đông An. Ông ta nói với Tôn Nghị Niên, muốn cứu Tần Cảnh Sơ thì chỉ cần dùng bút pháp Xuân Thu làm giả lời khai, khai thành Tần Cảnh Sơ ngộ sát phòng vệ là được. Vì thương nhân Thượng Khê là Tưởng Vạn Khiêm và Tần Cảnh Sơ là người quen cũ, nên Sầm Tuyết Minh đã cùng Tôn Nghị Niên, Tưởng Vạn Khiêm làm giả lời khai, lật lại bản án.

Tần Cảnh Sơ quay về Thượng Khê, trở thành phụ tá của Tôn Nghị Niên, cho đến năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Sầm Tuyết Minh đột ngột tìm đến hai người, yêu cầu bọn họ làm một chuyện lớn. Còn chuyện lớn thế nào thì Tôn Nghị Niên không nói rõ trong thư nhận tội, chỉ nói đến lúc này ông ta mới nhận ra, sở dĩ năm xưa Sầm Tuyết Minh xử sai chính là vì chờ điều này, muốn nắm trong tay cái thóp của nha huyện Thượng Khê, còn bản thân mình nối áo cho giặc, gieo gió gặt bão, cam tâm nhận tội chết. Trẫm cũng đính kèm bức thư nhận tội của Tôn Nghị Niên vào sau thư, biểu huynh có thể xem…”

Đọc đến đây, Vệ Quyết vội lật tới trang cuối, quả nhiên trong thư nhận tội của Tôn Nghị Niên có viết một hàng chữ bằng máu: “Tôn mỗ gieo gió gặt bão, hối hận cả đời, nếu triều đình vấn tội, cam chịu nhận cái chết”.

“… Biểu huynh nói vụ huyết án ở núi Trúc Cố có thể liên quan đến giao dịch danh sách Tiển Khâm Đài, giờ trẫm nghĩ, danh sách lên Tiển Khâm Đài chỉ có ở trong kinh, còn hai người Tôn, Tần cách xa triều đình, khó với tới đô thành. Nên trẫm suy đoán, có lẽ từ ban đầu, danh sách được núi Trúc Cố buôn bán vốn nằm trong tay Sầm Tuyết Minh. Sầm Tuyết Minh là thông phán, mà trách nhiệm của thông phán là liên lạc giữa kinh thành và địa phương; thứ hai nữa, trong thư nhận tội của Tôn Nghị Niên có thuật lại, năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Sầm Tuyết Minh tìm ông ta làm chuyện lớn, rất có khả năng đó chính là giao dịch danh sách lên Tiển Khâm Đài.

Còn vì sao không phải Tôn Nghị Niên trực tiếp đứng ra giao dịch danh sách mà phải mượn tiếng núi Trúc Cố, trẫm không ở Lăng Xuyên nên khó có thể kiểm chứng, việc này đành phó thác lại cho biểu huynh.

Năm Chiêu Hóa thứ mười ba, ban đầu phong thư báo cáo của Tôn Nghị Niên được giao vào tay châu doãn Lăng Xuyên, nhưng châu doãn Lăng Xuyên hồi ấy là Ngụy Thăng, mà biểu huynh cũng biết Ngụy Thăng là kẻ vô trách nhiệm, cậy quyền đi lên, hắn không hề kiểm tra thư từ công văn của Tôn Nghị Niên mà cứ thế chuyển thẳng lên kinh thành. Lúc thư vừa tới kinh thành thì cũng là lúc Tiển Khâm Đài sập, các bộ trong kinh rơi vào rối loạn, cũng bỏ qua việc kiểm tra thư từ, không bị rơi vào tay giặc. May nhờ thế mà bức thư nhận tội này vẫn được giữ đến nay, có thể nói lưới trời tuy thưa song khó lọt.

Trước khi viết thư, trẫm đã phái người điều tra Sầm Tuyết Minh. Ngày trẻ hắn ta từng phục vụ quân ngũ, nhưng vì bị thương nên về sau đã đến nha môn địa phương làm quan, tính cách khôn khéo. Không lâu sau khi Tiển Khâm Đài sập, tức vào mùa Thu năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Sầm bỗng biến mất, tới nay vẫn không có tin tức, biểu huynh đang ở Đông An, có thể điều tra kỹ kẻ này.

Phải dừng bút tại đây, chúc biểu huynh bình an, giữ gìn sức khỏe.”

Có lẽ Triệu Sơ biết Tạ Dung Dữ sẽ giao phong thư này cho Huyền Ưng vệ đọc nên câu chữ khá đơn giản, nói sao viết vậy.

Vệ Quyết xem thư xong, lại nhìn Tạ Dung Dữ, “Hôm trước Ngu hầu điều tra được Lý bổ đầu từng tiếp xúc với một viên quan phủ nha phủ Đông An, phải chăng chính là Sầm thông phán này?”

Bổ đầu chỉ là một chức danh cấp thấp, còn thông phán thường tiếp xúc trong kinh thành, dẫu phẩm cấp không cao song vẫn hơn châu phủ, Lý bổ đầu và Sầm thông phán, có thể nói một kẻ lăn lộn dưới đất, một kẻ áo gấm sang trọng nhìn trời, vậy mà lại từng có liên lạc, vì thế nên mới khiến Tạ Dung Dữ để tâm.

Theo điều tra, Lý bổ đầu đến Thượng Khê nhậm chức chính là do Sầm thông phán phái đi.

Tạ Dung Dữ nhìn Tưởng Vạn Khiêm quỳ bên dưới, “Ông có biết Sầm Tuyết Minh này không?”

Tưởng Vạn Khiêm không đọc thư, không biết Tạ Dung Dữ đã nắm rõ chân tướng năm xưa, run sợ đáp: “Từng, từng nghe đến, nhưng không quen.”

Tạ Dung Dữ thong thả nói: “Nếu có biết, vậy vì sao lần trước bổn vương thẩm vấn ông, ông không khai ra người này?”

“Bẩm, bẩm vương gia, thảo dân cứ nghĩ… người này không quan trọng, nên mới không khai.” Tưởng Vạn Khiêm cụp mắt, không dám nhìn Tạ Dung Dữ, “Hôm ấy vương gia hỏi thảo dân về danh sách mua bán ở núi Trúc Cố, thảo dân nhớ lại, Sầm đại nhân… không có liên quan nhiều đến chuyện này, nên…”

“Không liên quan nhiều?” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, y đứng dậy, đi vòng qua bàn, dừng chân trước mặt Tưởng Vạn Khiêm, “Vậy để bổn vương đổi cách hỏi. Việc giao dịch danh sách lên Tiển Khâm Đài, vì sao lại diễn ra ở Thượng Khê, vì sao lại do một sơn tặc như Cảnh Thường đứng ra thực hiện?”

Tưởng Vạn Khiêm lắc đầu: “Thảo, thảo dân không biết.”

“Ông không biết, vậy hãy để bổn vương trả lời thay ông.” Tạ Dung Dữ thong thả nói, Thượng Khê hẻo lánh, núi bao bốn phía, dù xảy ra chuyện gì thì bên ngoài chưa chắc đã biết; thứ hai, Cảnh Thường chiếm cứ thương đạo dưới chân núi Trúc Cố, kết giao rộng rãi với các thương hộ, lúc mua bán mà qua lại với thương nhân, ắt sẽ không bị nghi ngờ; thứ ba, và cũng là điểm quan trọng nhất, trước đây khi triều đình quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài, đồng thời đã ra lệnh diệt phỉ Lăng Xuyên, có lệnh diệt phỉ này, tương đương có quyền sinh sát sơn tặc Lăng Xuyên, đã giết được thỏ cần gì chó săn, nếu ngộ nhỡ có chuyện xảy ra, chỉ cần hai chữ ‘diệt phỉ’ là lập tức có thể diệt khẩu.

Cho nên, giao dịch danh sách ở Thượng Khê không phải là chuyện bất ngờ, Thượng Khê là nơi thiên thời địa lợi nhân hòa, là nơi được lựa chọn. Và người lựa chọn Thượng Khê chính là Sầm Tuyết Minh, chuyện này ông không biết ư?”

Tưởng Vạn Khiêm nuốt nước bọt, không dám trả lời.

Tạ Dung Dữ nói tiếp: “Sầm Tuyết Minh lợi dụng vụ án sai của hai người Tôn Tần để nắm thóp bọn họ, ép bọn họ dụ dỗ Cảnh Thường, bán danh sách lên Tiển Khâm Đài ở núi Trúc Cố. Còn ông, ngay từ đầu đã tham gia vào án sai này, không có chuyện ông không biết gì về việc Sầm Tuyết Minh đã làm. E rằng năm xưa ông khổ sở bức bách Tần Cảnh Sơn không hẳn vì muốn nhờ sư gia tìm tiền đồ cho Phương Lưu. Mà sự thực trái ngược hoàn toàn, ông biết Sầm Tuyết Minh chọn trúng núi Trúc Cố, nên mới hi vọng Phương Lưu có được tên trong danh sách lên đài, đáng tiếc danh sách hữu hạn; mà Tần Cảnh Sơ niệm tình ơn cứu giúp của ông, cũng khổ sở khuyên ông đừng giao du với kẻ xấu, nhưng ông không nghe, cầm một trăm nghìn lượng bạc trắng, còn nhờ Tần Cảnh Sơ dẫn ông lên núi để mua danh sách.”

Một trăm nghìn lượng bạc không phải con số nhỏ, dù Tưởng Vạn Khiêm là phú thương cũng khó mà có được chỉ trong vài ngày ngắn ngủi.

Hôm ấy, Tạ Dung Dữ nghe Tưởng Vạn Khiêm nói mình có được bạc trong bảy ngày thì đã cảm thấy ông ta che giấu điều gì đó, nhưng y không nói ra, mãi tới hôm nay mới vạch trần.

Tưởng Vạn Khiêm lau mồ hôi trên trán, ông ta tưởng lý do mình đưa ra ngày hôm trước đã rất chặt chẽ, chẳng ngờ đến một chi tiết nhỏ như thế mà Tiểu Chiêu vương cũng không bỏ qua.

“Bổn vương hỏi ông, khi Tiển Khâm Đài sập, đến mấy trăm sơn tặc trên núi Trúc Cố còn bị diệt khẩu, còn ông – một kẻ đã giao dịch mua bán, vì sao bọn chúng lại bỏ qua cho ông?”

“Bổn vương cũng trả lời thay ông.” Tạ Dung Dữ nói, “Vì bọn chúng không thể giết ông, ông là phụ thân của sĩ tử lên đài. Sau khi Tiển Khâm Đài sập, cái chết của các sĩ tử trở thành đề tài khiến dư luận xôn xao, nếu lúc đó ông chết sẽ rất dễ bị kẻ khác nghi ngờ, và cũng tương tự, lúc ấy sóng gió ở Lăng Xuyên đang lớn, Tôn Nghị Niên thân là Huyện lệnh Thượng Khê, những kẻ đó cũng không tiện diệt khẩu ông ta.”

“Câu hỏi thứ ba, khó khăn lắm ông mới chi ra được một trăm nghìn vạn lượng mua suất lên đài cho Phương Lưu, về sau cả người lần của đều mất, ngoài bất an, có thật ông không hề oán giận? Sau khi Tiển Khâm Đài sập, ông đã theo Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơ đến Đông An, có thật chỉ vì muốn hỏi thăm rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chứ không phải hỏi Sầm Tuyết Minh cách giải quyết?”

Tưởng Vạn Khiêm run lên bần bật, nghe đến đây, lấy hết dũng khí ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ cũng nhìn ông ta với ánh mắt lạnh thấu xương lẫn huy hiếp, con tim Tưởng Vạn Khiêm chợt hẫng một nhịp, lời cứ thế bật thốt, “Vương, vương gia nói đúng… lúc ấy thảo dân… đúng là đi tìm Sầm đại nhân hỏi cách.”

Nếu kiểm tra kỹ, lời khai của Tưởng Vạn Khiêm ngày hôm đó có rất nhiều chi tiết bất hợp lý.

Thí dụ như sau khi Tiển Khâm Đài sập, vì sao Tưởng Vạn Khiêm vừa chạy tới Đông An đã lập tức quay về?

Rồi Tưởng Vạn Khiêm thân là thân phụ, sau khi Phương Lưu mất, vì sao ông ta có thể che giấu nỗi đau mất con mấy năm liền?

Lại như, trong vụ án Thượng Khê, có người chết có người còn sống, có kẻ mất tích có kẻ bị trừ khử, vì sao Tưởng Vạn Khiêm vẫn sống tốt?

Tạ Dung Dữ nói: “Kẻ thực sự buôn bán danh sách không phải Sầm Tuyết Minh, mà là quan trên của ông ta, ắt hẳn là nhân vật trong triều. Có điều ông là phụ thân của sĩ tử lên đài, trong tình huống ngày đó, vị đại nhân kia tạm thời không thể giết ông, nhưng phải làm gì để ông sống đây? Kẻ đó phải bồi thường cho ông. Ông đến Đông An hỏi ý Sầm Tuyết Minh, không lâu sau Sầm Tuyết Minh đích thân đến Thượng Khê, ắt hẳn đem đến cho ông thứ bồi thường từ vị đại nhân nọ.”

Tạ Dung Dữ cúi xuống, nhìn Tưởng Vạn Khiêm chòng chọc, “Hiện tại sự thật đã rõ, danh sách Tiển Khâm Đài do đại nhân trong triều tuồn ra, Sầm Tuyết Minh là cấp dưới của hắn, chính Sầm Tuyết Minh đã chọn Thượng Khê cho vị đại nhân kia, tìm cách thực hiện chuyện buôn bán. Trong đó, Hai người Tôn Tần là con rối Thượng Khê mà Sầm Tuyết Minh khống chế, Cảnh Thường núi Trúc Cố là thứ công cụ có thể vứt bỏ bất cứ lúc nào, còn ông là bên mua. Về sau Tiển Khâm Đài sập, ông tới Đông An hỏi ý Sầm Tuyết Minh, Sầm Tuyết Minh làm theo ý của vị đại nhân kia bồi thường cho ông, nhưng không lâu sau ông ta lại mất tích, vì sao?

Bởi lẽ nếu bổn vương là đại nhân kia, kẻ tiếp theo bổn vương sẽ giết chính là Sầm Tuyết Minh. Danh sách mua bán, bao gồm toàn bộ núi Trúc Cố cũng là do ông ta lên kế hoạch, ông ta đã biết quá nhiều, ông ta biết bổn vương là ai, càng biết bổn vương làm gì, nếu giết ông ta, cắt đứt mọi liên hệ giữa bổn vương và các ngươi, thì những người như ông, như Tần Cảnh Sơn, chỉ biết hắn ta chứ không biết bổn vương, bổn vương có thể an nhàn yên thân. Đó chính là nguyên nhân Sầm Tuyết Minh mất tích.”

Chỉ là chưa chắc Sầm Tuyết Minh đã bị diệt khẩu, ở Thượng Khê vẫn còn nhiều người sống biết chuyện, cần phải có người để mắt đến, việc cuối cùng Sầm Tuyết Minh làm là điều Lý bổ đầu tới Thượng Khê, là một nanh vuốt khác của vị đại nhân nọ. Từ đấy trở đi, Thượng Khê nằm trong tay Lý bổ đầu, còn Sầm Tuyết Minh cũng đoán bản thân đã hết tác dụng, không lâu sau sẽ bị diệt khẩu, nên ông ta buộc phải mất tích, không rõ sinh tử, cũng không bao giờ xuất hiện nữa.

“Sầm Tuyết Minh mất tích từ năm năm trước, bây giờ Tôn Nghị Niên lẫn Tần Cảnh Sơ cũng đã chết, ngay cả Lý bổ đầu cũng biến mất, nhưng vì sao ông vẫn còn sống tốt?” Tạ Dung Dữ nhìn Tưởng Vạn Khiêm chằm chằm, hỏi.

Tưởng Vạn Khiêm run rẩy nói: “Vương gia… muốn biết điều gì…”

“Bùa hộ mệnh.” Tạ Dung Dữ lời ít ý nhiều.

“Bùa hộ mệnh… gì cơ?”

“Năm năm trước khi Tiển Khâm Đài sập, ông đến Đông An gặp Sầm Tuyết Minh. Vị đại nhân kia đã để Sầm Tuyết Minh đem bồi thường đến cho ông, đó chính là thứ duy nhất ông có thể tiếp xúc trực tiếp với vị đại nhân kia. và món đồ bồi thường hắn đưa cho ông, tất nhiên phải đủ sức nặng, đủ đến mức ông có thể dùng nó bảo toàn tính mạng, thậm chí dùng nó để uy hiếp hắn ta, bằng không, một người mất con lẫn của như ông sao có thể ngậm bồ hòn mấy năm mà không hề oán hận? Mà bây giờ sóng gió lại kéo đến Thượng Khê, người trong vòng xoáy lần lượt chết oan, còn ông vẫn sống, tại sao? Còn không phải vì trong tay ông có tấm bùa hộ mệnh mà năm đó vị đại nhân kia đã bồi thường cho ông ư?”

***

“Ta biết rồi.” Nghe Kỳ Minh nói xong, Thanh Duy bảo, “Chưa chắc Tưởng Vạn Khiêm đã vô tội như ông ta nói, sau khi Phương Lưu chết, không phải ông ta không oán hận, ông ta đến Thượng Khê tìm Sầm Tuyết Minh, Sầm Tuyết Minh thay quan trên bồi thường cho ông ta. Mà thứ bồi thường này, vì có liên quan trực tiếp đến vị quan trên đó nên đã trở thành tấm bùa hộ mệnh trong tay Tưởng Vạn Khiêm, đấy cũng là lý do vì sao bao năm qua, người quan trên kia thà phái Lý bổ đầu canh chừng Tưởng Vạn Khiêm chứ không diệt khẩu ông ta. Mãi tới đầu mùa xuân năm nay, quan nhân… Ngu hầu của các ngươi điều tra đến Thượng Khê, người quan trên này mới lo rằng bí mật mua bánh danh sách sẽ bị tiết lộ, nên mới nảy ý diệt khẩu hết tất cả những kẻ biết chuyện ở Thượng Khê. Từ lâu Tôn Nghị Niên đã không thiết sống, nên ông ta dùng tính mạng mình trao đổi với Tưởng Vạn Khiêm, hi vọng Tưởng Vạn Khiêm có thể sử dụng bùa hộ mệnh để bảo vệ vợ con mình.”

“Còn về việc vì sao Tôn Nghị Niên dùng tính mạng mình để trao đổi… Thành ý!” Thanh Duy nhấn mạnh, “Cấp trên muốn giết người diệt khẩu, chết một người thì bớt một người biết bí mật, quan trên sẽ yên tâm hơn, cho nên Tôn Nghị Niên cam tâm chịu chết, đem theo bí mật xuống mồ, phần thành ý đó cộng thêm bùa hộ mệnh vốn có, dùng nó để đổi lấy khả năng sống sót cho Tưởng Vạn Khiêm và vợ con.”

“Thiếu phu nhân quả thông minh.” Kỳ Minh nói, “Lý thị lẫn Dư thị đều là nhân chứng chứ không phải nghi phạm, lại còn có hai đứa con nít, theo lí mà nói Huyền Ưng Ti không thể lục soát đồ vật tùy thân của họ, nhưng đương nhiên sự cấp tòng quyền, muốn lục soát ắt có cách, chẳng qua Ngu hầu có nói, ‘bùa hộ mệnh’ này có thể là bất cứ thứ gì, một lá thư một địa điểm, thậm chí là một câu nói, chỉ lục soát chưa chắc đã tìm ra, hiện Ngu hầu đã triệu Tưởng Vạn Khiêm để thẩm vấn, nhưng Ngu hầu không tin lão ta, hi vọng có thể cùng tiến hành song song với thiếu phu nhân.”

Thanh Duy đã hiểu.

Quả đúng như lời Tạ Dung Dữ nói, bùa hộ mệnh bảo toàn tính mạng chưa hẳn là đồ vật, nó có thể là địa điểm hoặc câu nói, nên không phải chỉ cần “lục soát” là xong, mà cần dựa vào dụ dỗ lừa phỉnh, nàng có quen Dư Hạm, cũng biết Lý thị, dễ đạt được tin tưởng, vì thế người dụ dỗ hẳn phải là nàng.

Thanh Duy lại nhìn vào Lạc Hà Viện, thấy Dư Hạm vẫn đang giằng co với Huyền Ưng Ti, nghĩ ngợi nửa khắc rồi nói, “Ta có cách rồi.” Đoạn sải bước đi vào.

Vừa thấy Thanh Duy, Dư Hạm lập tức la lên: “Cô đến đúng lúc lắm!” Nàng ta cầm khăn chỉ thẳng vào Huyền Ưng Ti, “Không phải cô quen biết với vị vương gia kìa hả? Mau tố cáo bọn họ với vương gia đi, đúng là không coi vương pháp ra gì, bắt nạt hà hiếp trẻ nhỏ vô tội!”

Thanh Duy chẳng buồn để ý, chỉ hỏi Huyền Ưng vệ trước mắt, “Đã lục soát xong chưa?”

Huyền Ưng vệ trong sân vái Thanh Duy, đáp: “Vẫn chưa ạ, còn có sương phòng của Lý thị và hai đứa bé là chưa lục soát.”

Thanh Duy bèn nói: “Không cần lục soát nữa, trước khi chết Tôn Nghị Niên đã từng cho Dư thị một rương vàng, lấy đi là được.”

“… Dựa vào đâu mà lấy vàng của ta?” Dư Hạm ngớ ra, sau đó giậm chân thật mạnh, chỉ vào Thanh Duy, “Thế mà ta còn coi cô là người tốt, đến để giúp ta, ban đầu ta tốt bụng thu nhận cô, cô… cô lừa Tú nhi của ta đi ta còn chưa tính, giờ cô lại lấy oán trả ơn!”

Thanh Duy nói: “Ta đang giúp cô đấy tiểu phu nhân à, tội danh của Tôn huyện lệnh đã định, hiện đã tấu lên triều đình, chỉ chờ xử liên đới. Mà cô chỉ là thiếp thất ông ta nuôi bên ngoài, không dính dáng bao nhiêu, lấy đi một rương vàng coi như cô có lòng nhận tội, về sau sẽ là người tự do.”

Dư Hạm không tin nàng.

Lý thị nói lão gia đã chết, tức không có đối chứng, bọn họ sẽ không bị dính dáng tội danh nào cả.

“Cô muốn lấy vàng, sao không lấy của bà ta luôn?” Dư Hạm chỉ vào Lý thị, lạnh lùng hỏi, “Lão gia cho mỗi người bọn ta một rương vàng, cô chỉ lấy của mỗi ta thì sau này ta biết sống sao?”

Thanh Duy nhìn Lý thị, Lý thị không dám nhìn nàng, kéo hai đứa con nấp vào trong góc phòng.

“Không cần lấy vàng của bà ta, bởi lẽ tội danh của bà ấy không nhẹ đến mức một rương vàng là có thể đền được, lừa gạt mệnh quan triều đình là tội tày trời, huống hồ các người tưởng Tôn Nghị Niên chết là sẽ không có đối chứng à?” Thanh Duy dừng một lúc, “Tưởng Vạn Khiêm đã khai hết rồi.”

***

Đến tình tiết quan trọng nhất thì Tưởng Vạn Khiêm lại cứng miệng: “Thảo dân, thảo dân không biết vương gia nói bùa hộ mệnh gì cả.”

Tạ Dung Dữ bảo, “Nếu ông không có bùa hộ mệnh, vậy sau khi Phương Lưu chết, ông chạy tới Đông An tìm Sầm Tuyết Minh làm gì?”

“Sầm, Sầm đại nhân chỉ cho thảo dân một khoản tiền, nói vị đại nhân kia sẽ không hại thảo dân. Lúc đó… thảo dân đã suy sụp, nghĩ bụng chỉ cần có thể giữ được mạng, giữ được gốc rễ là đủ, không có yêu cầu gì khác.”

Tạ Dung Dữ lại lạnh lùng cất tiếng: “Là ai bảo ông, rằng ông có thể giữ được mạng sống?”

***

“Bà ta có sống được hay không, có bị dính líu hay không, khó nói lắm.” Thanh Duy lại nhìn Lý thị, hờ hững bảo, “Bao nhiêu sơn tặc núi Trúc Cố đã chết? Tướng quân diệt phỉ năm xưa đã không còn, dĩ nhiên món nợ này sẽ đổ lên đầu Tôn Nghị Niên. Hai người cũng biết sơn tặc oan khuất thế nào rồi đấy, lấp một hai cái mạng còn lâu mới đủ. Bà ta mà chết, ta lấy vàng của bà ta làm gì, người không còn, dĩ nhiên vàng sẽ được nộp lên triều đình.”

“Cô, cô đừng có hàm hồ.” Lý thị lên tiếng, “Lão gia nói rồi, ông ấy bị ép phải lên núi Trúc Cố, ông ấy rất hối hận, chuyện này vốn không phải là mong muốn của ông ấy, càng không liên quan gì tới ta, đàn bà như ta cớ gì phải bỏ mạng vì vậy?”

Thanh Duy nói, “Có phải lão gia nhà bà còn nói, chỉ cần bà lấy được món đồ mà Tưởng Vạn Khiêm giao cho bà, cuộc đời về sau ắt có thể bình an vô ưu, nhưng hiện tại bà đang ở đâu? Chạy trốn chưa được mấy ngày đã bị bắt về, đợi tới lúc Tưởng Vạn Khiêm đền tội, bà nghĩ mình có thể sống qua ải này à?”

***

Tạ Dung Dữ nói: “Tưởng Vạn Khiêm, thứ mà ông xem là bảo vệ tính mạng, rốt cuộc bảo vệ tính mạng từ tay ai? Là vị đại nhân ban đầu bán danh sách cho ông, hay từ tay của bổn vương?”

“Vương, vương gia là Tiểu Chiêu vương điện hạ danh tiếng lẫy lừng, lẽ nào định vu oan thảo dân.” Nghe lời đó, Tưởng Vạn Khiêm run rẩy nói, “Đúng là thảo dân đã mua một suất lên đài, nhưng thảo dân… thảo dân chỉ là nhất thời hồ đồ, dù muốn trị tội, vương gia cũng không thể lấy mạng của thảo dân được.”

***

Thanh Duy chẳng buồn để ý Lý thị, quay sang nói với Dư Hạm: “Tiểu phu nhân, lúc ở Thượng Khê ta đã nói dối để cô thu nhận ta, ta biết cô thực chất là người tri ân trọng tình, bởi dù đã bị Tôn Nghị Niên phụ bạc, nhưng cô vẫn một lòng bảo vệ Lý thị. Cô nể tình Tôn Nghị Niên cho cô trang viên yên thân, ít nhiều gì cũng đã che mưa cản gió năm năm cho cô, nên trong lòng cô cũng xem Lý thị là chủ mẫu của mình. Tôn Nghị Niên bị giết hại ngay tại mộ phần, chính mắt cô cũng thấy rồi đấy, đến bản thân mình ông ta còn không lo nổi, cô tin ông ta có thể bảo vệ được người sống ư? Đừng để mất cơ hội.”

Dư Hạm nghe vậy, tỏ ra do dự, “Nhưng cô toàn lừa ta, cớ gì ta phải tin cô?”

Thanh Duy thấy Dư Hạm không phản đối, bèn bảo: “Cô không cần tin ta, nhưng cô phải tin vào sự thật. Sao cô không thử nghĩ đi, vì sao ta biết Tưởng Vạn Khiêm từng giao đồ cho bà ta?”

***

“Mua suất lên đài, hối lộ mệnh quan triều đình, tội thứ nhất; ngụy tạo bằng chứng, sửa đổi vụ án Trương Kỳ rơi xuống nước, ấy là tội thứ hai; không biết hối cải, dám lừa gạt bổn vương, tội thứ ba.” Tạ Dung Dữ liệt kê tội trạng của Tưởng Vạn Khiêm, “Tội chồng tội, triều đình muốn xử nhẹ cũng không được, huống hồ tội danh của ông còn liên quan đến Tiển Khâm Đài, dẫu miễn tội sống cũng khó tránh khỏi tội chết.”

Y biết Tưởng Vạn Khiêm cố sống tạm bợ bao năm qua không hẳn là do sợ chết, ông ta nhất quyết không chịu giao “bùa hộ mệnh”, chứng thực tội trạng của mình, có lẽ là để bảo vệ danh tiếng của họ Tưởng.

Dầu gì thứ ông ta để ý nhất trong đời chính là danh tiếng của Tưởng gia, chẳng phải trước kia ông ta không tiếc chi một trăm nghìn lượng bạc để Phương Lưu lên đài, mưu cầu tiền đồ hòng muốn Tưởng gia được nở mày nở mặt sao?

Đánh rắn phải đánh dập đầu, Tạ Dung Dữ nói, “Ông có biết tội sống mà bổn vương nói là như thế nào không?”

Đột nhiên giọng của Tạ Dung Dữ khiến Tưởng Vạn Khiêm trở nên hoảng hốt, “Tội sống… như thế nào?”

“Triều đình đã tìm được thư nhận tội của Tôn Nghị Niên, không có ‘bùa hộ mệnh’, chỉ dựa vào nhân chứng là ông Cát cùng với lời khai của ông, vẫn có thể chứng thực được tội danh mua bán bất hợp pháp của ông, và với tội danh đó…” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, gằn từng chữ, “Trăm năm sau, hễ là con cháu Tương thị ở Thượng Khê, suốt đời không được làm quan.”

***

“Tiểu phu nhân.” Thanh Duy nói, “Nếu cô thực sự muốn giúp chủ mẫu của mình, vậy nghĩ xem nếu tương lai không tiền không bạc, làm sao chăm sóc được đại gia đình đây.”

Tình vợ chồng giữa Lý thị và Tôn Nghị Niên đã hao mòn, nhưng vào khoảnh khắc nguy cấp, Lý thị vẫn nguyện tin ông ta, thậm chí không tiếc rời bỏ cố hương đến nơi xa xôi, chẳng phải vì hai đứa con nhỏ ư?

Đánh rắn phải đánh dập đầu, Thanh Duy nói: “Bởi nếu Lý thị mà chết, vẫn còn hai đứa nhỏ cần cô chăm sóc, nếu cô không có bản lĩnh, e rằng chúng sẽ phải chịu khổ theo cô mà thôi.”

Lý thị nghe thế thì tái mặt, Dư Hạm ngẩn ra: “Đâu phải bà ấy đã giết sơn tặc núi Trúc Cố, một chút, một chút cũng không dính líu đến bà ấy… Có cách nào bảo vệ bà ấy không?”

***

Tưởng Vạn Khiêm ngồi phịch xuống đất, “Tôi vất vả một đời, cũng là vì… vì danh tiếng Tưởng gia…”

***

“Có.” Thanh Duy nói, “Chỉ cần tiểu phu nhân nói sự thật cho ta biết, ta tất sẽ nghĩ cách giúp tiểu phu nhân.”

Nàng nhìn thẳng Dư Hạm, “Tiểu phu nhân biết ta có bản lĩnh ấy mà.”

Dư Hạm cũng nhìn Thanh Duy.

Nàng ấy có không? Có, ngày trước khi ở Thượng Khê, chỉ có mình nàng ấy không sợ ma; Tú nhi cũng thích nàng ấy, tự nguyện đi theo nàng ấy; rồi còn cả vị vương gia có bề ngoài như trích tiên nữa, lúc nào cũng dẫn nàng ấy theo, rất coi trọng nàng ấy.

“Được rồi.” Dư Hạm cắn răng, bước về phía cô con gái ba tuổi sau lưng Lý thị, “Giấu làm gì nữa, đưa cho nàng ấy đi!”

Nhưng Lý thị lại xông lên ngăn cản, “Không được! Lão gia đã nói rồi, chỉ có nó mới có thể bảo vệ được tính mạng chúng ta!”

“Lão gia đã chết rồi, bà còn tin ông ấy làm gì! Hơn nữa dù đại quan trong kinh có bỏ qua cho mẹ con bà, liệu vương gia ở trang viên này có bỏ qua không?” Dư Hạm lấy ra một vật từ xiêm y của cô bé, ném cái *cạch* xuống đất, “Lấy nó đi!”

***

“Tôi nói, tôi nói…” Tưởng Vạn Khiêm lẩm bẩm, “Sầm Tuyết Minh ông ta… cho tôi hai tấm thẻ gỗ.”

***

Thanh Duy nhìn vật dưới đất, là một tấm thẻ gỗ có khắc hoa văn trông khá phức tạp, nàng nhặt lên nhìn, “Đây là gì?”

***

“Thẻ gỗ?”

“Là thẻ gỗ.” Tưởng Vạn Khiêm đờ đẫn gật đầu, “Hai tấm thẻ dùng để khắc danh sách sĩ tử lên đài, giống hệt thứ Phương Lưu đã cầm lên đài ngày trước.”

“Sầm Tuyết Minh nói, vị đại nhân kia hứa với tôi, mấy năm sau, chắc chắn sẽ để Tiển Khâm Đài được xây lại, còn tôi mất con vì Tiển Khâm Đài đã sập, hôm khác sẽ bồi thường gấp đôi cho tôi, dùng hai tấm thẻ gỗ của sĩ tử lên đài làm tin.”
 
Chương 127


Tạ Dung Dữ hiểu rồi.

Thứ Tưởng Vạn Khiêm nói không phải là tấm thẻ gỗ bình thường, mà là bảng tên được bộ Lễ đặc chế riêng dành cho sĩ tử lên đài năm xưa, mỗi một sĩ tử đều có một tấm thẻ, bên trên khắc họ tên và quê quán.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Hiện nó đang ở đâu?”

“Không ở chỗ tôi…” Tưởng Vạn Khiêm đáp, “Tôi đã đưa cho Tôn huyện lệnh rồi, bây giờ… có lẽ là ở chỗ Lý thị.”

Đúng lúc này, Huyền Ưng vệ ở ngoài thư phòng bẩm báo: “Bẩm Ngu hầu, thiếu phu nhân đến ạ.”

Cửa thư phòng bật mở, Thanh Duy bước vào nhà, giao một tấm thẻ gỗ cho Tạ Dung Dữ, “Ngài nhìn xem, có phải ngài tìm thứ này không?”

Tạ Dung Dữ đưa tay nhận lấy, gỗ đàn hương hình vuông, viền chỉ vàng, bề mặt được khắc hình hoa tử kinh mạ vàng, độ khéo léo đạt mức khó có thể sao chép, là thứ được cục Chú Ấn thuộc bộ Lễ đặc chế vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba.

Điểm khác biệt duy nhất là thẻ bài trong tay y không khắc tên, là một thẻ bài trống trơn.

Tưởng Vạn Khiêm co rúm mình ngó ra cửa phòng, thấy Kỳ Minh đã dẫn Lý thị lẫn Dư Hạm tới, biết có ngoan cố cũng vô ích, dứt khoát khai báo tất cả, “Tuy rằng thảo dân… không, tuy tội nhân, tội nhân che giấu tội của Sầm đại nhân, nhưng chuyện liên quan đến Tôn đại nhân và Tần sư gia, tội nhân đều nói thật, hai người họ là tri kỷ, sau huyết án núi Trúc Cố, Tôn đại nhân trở nên suy sụp, một mình Tần sư gia cáng đáng công vụ ở nha huyện… Phương Lưu đã chết dưới Tiển Khâm Đài, trong lòng tộin nhân cũng hối hận lắm, nhưng người mất rồi, tội nhân biết làm gì được nữa đây, năm ấy mất hơn một trăm nghìn lượng mua suất lên đài, chỉ có mỗi Tần sư gia khuyên tội nhân chớ làm vậy, nhưng tội nhân đã bị ma quỷ ám ảnh, đặt chân lên con đường không lối về… Vương gia, tội nhân thật sự biết lỗi rồi, dù vương gia có định tội gì đi nữa, tội nhân cũng cam tâm nhận hết, chỉ xin vương gia đừng làm liên lụy đến nhà họ Tưởng…”

Tạ Dung Dữ liếc ông ta, “Ông nói Sầm Tuyết Minh cho ông hai tấm thẻ bài, vậy tấm còn lại đâu?”

Tưởng Vạn Khiêm ngẩn ra, vội đáp: “Tội nhân không dám lừa vương gia, trước khi rời Thượng Khê, tội nhân đã giao hết cả hai tấm cho Tôn đại nhân rồi.”

Tạ Dung Dữ lại đảo ắt nhìn Lý thị, Lý thị rất sợ y, run rẩy đáp: “Ở chỗ dân phụ, chỉ có một tấm này.”

Chương Lộc Chi nghe tới đây thì không nhịn được “chậc” một tiếng, chụp lấy cổ áo sau của Tưởng Vạn Khiêm, “Còn không mau thành thật khai báo? Ngươi đã giấu tấm bảng tên kia ở đâu rồi hả?!”

“Bảng tên không ở chỗ ông ta đâu.” Chưa đợi Tưởng Vạn Khiêm trả lời, Tạ Dung Dữ đã nói, “Ông ta đem theo nó mới là không an toàn.”

Vừa dứt lời, Thanh Duy lập tức hiểu ra.

Đúng thế, nếu Tưởng Vạn Khiêm đem theo thẻ bài chạy trốn, tặc nhân đuổi bắt được ông ta, vừa hay có thể giết người hủy chứng; nhưng ngược lại, nếu thẻ bài không ở trên người ông ta, vậy một tấm thẻ bài không biết đã giấu nơi đâu mãi mãi sẽ là mối họa ngầm, tặc nhân sẽ không dám tự tiện động đến ông ta.

Đến khoảnh khắc cuối cùng, tấm thẻ bài đó, nằm trên người người khác mới là bùa hộ mệnh, còn nằm trên người Tưởng Vạn Khiêm lại biến thành bùa đòi mạng.

Thanh Duy hỏi Trú Vân: “Lúc ông giao bảng tên cho Tôn Nghị Niên, ông ta có nói gì không?”

Tưởng Vạn Khiêm vắt óc nhớ lại, “Ông ấy chỉ nói, ông ấy muốn bảo vệ tính mạng người nhà, từ lâu đã không quan tâm đến sống chết bản thân. Còn lại… Chỉ dặn dò tôi mấy việc chạy trốn, bảo tôi cải trang thành quản gia trong phủ, sẽ để tiểu thiếp làm bình phong cho tôi, chạy trốn từ đường tắt, nếu bị tặc nhân phát hiện,” Nói đến đây, Tưởng Vạn Khiêm do dự nhìn Dư Hạm, “Thì cứ rời đi trước, không cần để ý đến cô tiểu thiếp…”

Dù biết Tôn Nghị Niên đã phụ bạc mình, nhưng lòng Dư Hạm vẫn quặn thắt, “Ông ấy nói vậy thật sao? Ông ấy bảo ông chạy đi, không cần để ý tới ta?”

Tưởng Vạn Khiêm gật đầu, lật đật nói, “Nhưng ông ấy còn bảo, ông ấy còn bảo mình có lỗi với cô, nói cô vốn nên theo gánh gát đi bốn bể, thế mà lại bị ông ấy nhốt ở trang viên với mình bao nhiêu năm…”

“Ông ta còn biết ta ở với ông ấy nhiều năm cơ hả!” Dư Hạm giậm chân, vừa tức tối vừa đau lòng, “Vậy mà ông ấy nói sau này sẽ xem ta như người nhà, sẽ đối xử thật tốt với ta, nhưng tới cuối, lại dùng một hộp vàng mua tính mạng của ta!”

Nàng ta vừa dứt lời, Tạ Dung Dữ như nghĩ đến điều gì đó, đột nhiên nhìn sang Dư Hạm.

Thanh Duy cũng nhận thấy ánh mắt y, lập tức bừng tỉnh, nàng hỏi: “Tiểu phu nhân, ngoài hộp vàng ra, Tôn huyện lệnh còn cho cô thứ gì không?”

“… Chỉ có một hộp vàng thôi, không còn gì nữa.” Dư Hạm đáp.

Tạ Dung Dữ nhìn vào mắt Chương Lộc Chi, Chương Lộc Chi hiểu ý, hai ba bước đi ra khỏi cửa, Dư Hạm vốn bực bội, nhưng thấy thế thì cũng đoán được Chương Lộc Chi muốn lấy tráp vàng của mình, lập tức đuổi theo bằng được, song đã bị Huyền Ưng vệ ở cửa ngăn cản, nàng ta quát lớn, “Các ngươi, đám quan lớn các ngươi, khi không lấy bạc của người ta, đồ tim gan phèo phổi đen tối…”

Thời gian năm năm phó mặc dòng nước cuốn đi, bầu bạn bao năm là vậy, cuối cùng nàng chẳng còn gì ngoài tráp vàng này, nàng không thể bỏ nó được!

Chẳng mấy chốc Chương Lộc Chi đã quay lại, hắn là người nóng tính, không có kiên nhẫn lấy từng thỏi vàng ra mà lật ngược tráp lại, đổ tất cả xuống đất, Dư Hạm vội cựa người ra xông đến nhặt lấy, gom góp từng thỏi đặt vào trong khăn, tựa như muốn gói ghém lại năm tháng đã giao phó sai lầm.

Hộp gỗ trống trơn, thoạt nhìn rất bình thường, Chương Lộc Chi gập tay lại, ném mạnh xuống đất.

*Cach* một tiếng, hộp gỗ nứt gãy, đáy hộp bị trật ra để lộ một ngăn nhỏ, Vệ Quyết tinh mắt, tuốt thanh đao huyền ưng ra khỏi vỏ, thanh đao sắc bén cạy đáy, để lộ một tấm gỗ hoàn hảo không tróc vảy, bên trên khắc hình hoa tử kinh, y hệt tấm của Lý thị.

Dư Hạm nhìn tấm thẻ bài đó, động tác gom vàng đột ngột dừng lại.

Đấy chẳng phải là tấm thẻ mà bọn họ đang nói đến sao? Chẳng phải phu nhân chủ tử đã nói, tấm thẻ đó có thể bảo vệ được tính mạng ư?

Vì sao nó lại ở chỗ nàng?

Trong mơ màng, bên tai nàng bỗng vang vọng câu nói ban nãy của Tưởng Vạn Khiêm, “ông ấy còn bảo mình có lỗi với cô, nói cô vốn nên theo gánh gát đi bốn bể, thế mà lại bị ông ấy nhốt ở trang viên với mình bao nhiêu năm…”

Nàng cụp mắt, chậm rãi buông ra những thỏi vàng đang gom góp, nhưng thỏi vàng chói lóa khiến nàng hoa mắt, chẳng hiểu sao lại như nhìn thấy nụ cười khổ sở trên khuôn mặt của Tôn Nghị Niên khi nói những lời này, tựa những lần ông ấy mơ màng sau khi ho4n ái với nàng.

Đọc sách thánh hiền, làm quan phụ mẫu, tiếc thay chỉ vì một án sai mà phải lầm bước, sau huyết án núi Trúc Cố, ông ấy  đã xây những ngôi mộ áo mũ sau núi, cũng chôn luôn sự sống của mình, từ đấy biến thành cái xác biết đi.

Nhưng cái xác biết đi cũng là người, suy cho cùng vẫn muốn được sưởi ấm, năm năm bầu bạn ít nhiều cũng để lại dấu vết trong lòng ông, chưa hẳn là yêu, nhưng cũng có tình.

Đủ để khiến ông giấu tấm bùa hộ mệnh này vào tráp vàng mà nàng sẽ không vứt bỏ.

Có thể việc ông ấy làm chẳng đáng bao nhiêu, nhưng đó đã là tất cả những gì ông có thể báo đáp.

Vệ Quyết nhặt tấm thẻ bài, dâng lên Tạ Dung Dữ: “Ngu hầu.”

Tạ Dung Dữ nhận lấy, quét mắt nhìn ba người Dư Hạm, “Dẫn bọn họ lui, để bọn họ khai lại lần nữa.”

***

“Năm Gia Ninh thứ hai, việc trùng kiến Tiển Khâm Đài do một viên ngoại lang bộ Lễ đề xuất, lúc ấy đa số triều thần đều phản đối, sau đó Quan gia hỏi ý lão thái phó, dùng một câu ‘để sau hẵng bàn’ để gác lại chuyện này. Đến đầu năm Gia Ninh thứ ba, Chương Hạc Thư dẫn đầu, tổng cộng tám đại quan lần nữa dâng tấu xin tái xây dựng Tiển Khâm Đài, khi đó số người tán thành và phản đối chia làm nửa, hai bên tranh chấp không ngớt, một tháng sau, số người tán thành biến thành sáu phần, thế là Quan gia gật đầu đồng ý, cũng hứa rút kinh nghiệm từ Tiển Khâm Đài sập năm Chiêu Hóa thứ mười ba, điều tra triệt để một lần nữa…”

Màn đêm gần buông mà trong thư phòng vẫn còn người, Vệ Quyết đứng trước bàn, nhắc lại lý do trùng kiến Tiển Khâm Đài:

“Mùa xuân năm nay, khâm sai Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài dẫn đoàn đến Lăng Xuyên, Nhạc Châu để truy vấn nghi phạm năm xưa, cũng áp giải tội nhân mang trọng tội hồi kinh, trong đó bao gồm Thôi Hoằng Nghĩa – nhân chứng trong vụ án Hà thị. Còn Hà thị sau khi bị bắt, tội danh đánh tráo gỗ, giam giữ dược thương, nâng giá thuốc đã được chiêu cáo thiên hạ, khiến nhân sĩ phẫn uất, vì để trấn an dân tình, cuối cùng triều đình nhất trí quyết định xây lại Tiển Khâm Đài, thế là đầu xuân năm nay đã điều vệ đội từ các quân nha đến Lăng Xuyên, do thị lang bộ Công là Tiểu Chương đại nhân cùng Trương đại nhân ở Ngự Sử Đài đốc công.”

Nói đến đây, Vệ Quyết dừng lại: “Dĩ nhiên ban đầu Quan gia đồng ý tái xây dựng Tiển Khâm Đài là bị ép buộc, lúc đó Quan gia đang… trong tình cảnh vô cùng khó khăn, chỉ có thể đồng ý xây lại mới có thể đổi lấy quyền phục dụng Huyền Ưng Ti, về sau, cũng chỉ có… Tóm lại, quay về ban đầu, tạm không nhắc đến viên ngoại lang ở bộ Lễ, thì việc xây lại Tiển Khâm Đài là do Chương Hạc Thư cầm đầu đề xuất.”

Tạ Dung Dữ biết Vệ Quyết lược bỏ không nhắc đến chuyện gì.

Về sau, cũng chỉ có lật đổ Hà thị, Triệu Sơ mới có thể cầm quyền, mới có thể điều người của mình vào các nha các bộ, mới thực sự có năng lực điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài sập đổ.

Âu cũng là thủ đoạn của đế vương, không quan trọng.

Nhưng hôm nay Tưởng Vạn Khiêm đã nói, người cho ông ta tấm thẻ bài đã từng hứa rằng, mấy năm sau nhất định sẽ để Tiển Khâm Đài được trùng kiến.

Hay nói cách khác, kẻ đã thổi lên mưa gió lần này chắc chắn nằm trong phe ủng hộ xây lại Tiển Khâm Đài.

“Ngu hầu, giờ chúng ta có cần gửi tin đến Quan gia, điều tra kỹ Chương Hạc Thư và phe phái Chương thị không?” Vệ Quyết hỏi.

Tạ Dung Dữ ngả lưng ra ghế, giơ tay xoa ấn đường, “Vẫn chưa đến lúc.”

Chương Lộc Chi thở một hơi thật dài, “Đúng thế, hai tấm thẻ bài đó là Sầm Tuyết Minh cho Tưởng Vạn Khiêm, không thể dùng nó chỉ hướng vào Chương Hạc Thư được, hơn nữa có quá nhiều người đề nghị xây lại Tiển Khâm Đài, chỉ dựa vào một lời khai của Tưởng Vạn Khiêm cũng không thể bắt được người, trái lại còn dễ bứt dây động rừng.”

“Không hẳn.” Tạ Dung Dữ nói, “Có lẽ Chương Hạc Thư không sạch sẽ, nhưng…”

Y dừng lại, “Ta ngờ rằng, kẻ bán suất lên đài ở núi Trúc Cố không phải ông ta, mà là người trong quân.”

Thanh Duy ngạc nhiên: “Sao lại thế? Vì quân đội đã giết sơn tặc núi Trúc Cố?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, nhẹ nhàng nói: “Còn nhớ Trù Trù phủ Huyện lệnh chết lúc nào không?”

“Ngày thứ hai sau khi Triêu Thiên giả ma xuất hiện ở núi Trúc Cố.”

Tạ Dung Dữ nói: “Còn lời khai của Lý thị lại là, mấy hôm trước khi Trù Trù chết, Tôn Nghị Niên đã bắt đầu thu xếp cho bà ta rời Thượng Khê, điều này chứng tỏ gì?”

“Ý Ngu hầu là trước khi Huyền Ưng Ti đến Thượng Khê, tặc nhân đứng ra buôn bán đã biết hướng đi của Huyền Ưng Ti, cho nên định đến Thượng Khê diệt khẩu?” Vệ Quyết hỏi.

Tạ Dung Dữ nói: “Đầu năm nay triều đình hạ lệnh xây lại Tiển Khâm Đài, các quân nha đã điều vệ đội đến núi Bách Dương, Huyền Ưng Ti cũng mượn danh nghĩa này để tới Lăng Xuyên, sau đó Huyền Ưng Ti dừng chân ở Đông An, chỉ có hơn mười người theo ta đến Thượng Khê.”

“Vệ đội mấy trăm người chỉ thiếu mười người, trừ quân đội theo các ngài đến thì những người khác không thể phát hiện được.” Thanh Duy nói.

Trong khi đó Chương Hạc Thư lại ở Xu Mật Viện, tuy Xu Mật Viện chấp chưởng quân chính, nhưng vẫn chưa có tư cách nắm giữ binh quyền.

Người này biết rõ chiều hướng của Huyền Ưng Ti như thế, ắt hẳn phải nằm trong quân.

Lúc này, Kỳ Minh nói: “Ngu hầu, ngài còn nhớ trong thư Quan gia gửi tới có nói, Sầm Tuyết Minh mất tích kia từng phục vụ trong quân lúc trẻ không? Ông ta là tay sai của vị đại nhân bán danh sách, nói không chừng trong này có liên hệ gì đó.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Ngươi lập tức đến nha phủ điều tra xem Sầm Tuyết Minh từng làm việc cho ai khi còn ở trong quân, việc này cũng không khó điều tra.”

Kỳ Minh vâng dạ, nhanh chóng rời đi.

Tạ Dung Dữ có cảm giác dường như cả hội đã đến rất gần đáp án, nhưng lại bỏ sót chi tiết nào đó khiến bọn họ cứ vòng vòng bên cạnh lời giải.

Trong thư phòng chỉ còn lại tiếc sột soạt lật giở hồ sơ, Chương Lộc Chi là người thô kệch, đừng nói hồ sơ, ngay cả việc sắp xếp lời khai hắn cũng không làm nổi, thế là khoanh chân ngồi dưới đất, dựa vào gác sách nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi đột nhiên mở bừng mắt, “Ngu hầu, ngài có cảm thấy chỗ này rất lạ không?”

Tạ Dung Dữ đưa mắt nhìn hắn.

Chương Lộc Chi gãi đầu: “Thuộc hạ là kẻ thô lỗ, cũng không biết nghĩ đúng không nữa, nhưng thuộc hạ cảm thấy, hình như chúng ta đang bị theo dõi.”

Tạ Dung Dữ cất tiếng: “Nói nghe xem nào.”

“Thực ra thuộc hạ đã có cảm giác này từ lâu rồi, bắt đầu từ khi vào núi Trúc Cố đã bị theo dõi để mắt. Ngài xem, chúng ta điều tra được Tôn Nghị Niên thì Tôn Nghị Niên chết, điều tra được Lý bổ đầu thì Lý bổ đầu mất tích, ngay cả Tưởng Vạn Khiêm cũng thế, may nhờ có Triêu Thiên liều chết bảo vệ. Như thể mỗi bước đi của chúng ta đều có kẻ âm thầm đối đầu, nhưng chúng ta ở ngoài sáng, không thể thấy được kẻ địch, nhất là… khi chúng ta vẫn còn ở Thượng Khê, nha huyện Thượng Khê bao gồm Tôn Huyện lệnh và Lý bổ đầu đều là con mồi của chúng ta, nhưng, ngoại trừ nha huyện Thượng Khê, còn có ai đang ngăn cản chúng ta điều tra bọn họ? Có thể đối đầu với Huyền Ưng Ti, Tả Kiêu Vệ và Tuần Kiểm Ti?”

Tạ Dung Dữ nói: “Thực ra ta cũng nghi ngờ Tả Kiêu Vệ và Tuần Kiểm Ti, nhưng chắc chắn không phải Tả Kiêu Vệ, bằng không Ngũ Thông đã không rời đi trước khi xảy ra bạo loạn.”

“Tuần Kiểm Ti cũng không có khả năng.” Vệ Quyết nói, “Năm ngoái khi xảy ra hỏa hoạn ở giáo trường núi Dương Pha, cha con nhà họ Trâu bị tống vào ngục, Tuần Kiểm Ti đã được Quan gia đích thân dọn dẹp, nhất là nhánh phái tới Lăng Xuyên.”

Đầu năm nay, Khúc Bất Duy xin lệnh để Khúc Mậu dẫn nhánh vệ đội này đến Lăng Xuyên, sở dĩ Triệu Sơ đồng ý là để tiện cho Tạ Dung Dữ hành động, bởi dẫu Khúc Mậu có hoang đường đến đâu thì vẫn đáng Tạ Dung Dữ tin cậy.

“Điểm lạ nhất là lần này Huyền Ưng Ti không hành động suôn sẻ à?” Thanh Duy hỏi.

Không suôn sẻ ư? Không, thực ra bọn họ rất suôn sẻ.

Chỉ mới đến Thượng Khê vài hôm đã tìm được ông cháu Cát, biết được bí mật mua bán, sau đó tuy Thượng Khê xảy ra bạo loạn, nhưng bọn họ vẫn cứu được Tưởng Vạn Khiêm, còn suýt giữ được Tôn Nghị Niên. Chẳng qua là cuối cùng, vào khoảnh khắc quan trọng nhất lại bị ngáng chân.

Có vẻ như đối phương cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ, tuy điều cả tử sĩ nhưng vẫn rất cẩn thận, chỉ giơ tay ngăn cản vào thời điểm cấp bách.

Hệt như rắn độc và đại bàng, Huyền Ưng Ti là đại bàng, còn đối phương là rắn độc nấp trong bụi cỏ, lè lưỡi trừng mắt theo dõi đại bàng trên cao, vừa cẩn thận đuổi bắt con mồi trong cỏ vừa không dám ló đầu, sợ bị đại bàng trên cao phát hiện.

Mà rắn độc như hình với bóng, đang ẩn trong bóng tối theo dõi sát sao khiến mọi người trong thư phòng ớn lạnh sống lưng.

Thanh Duy không có tâm trạng giúp chỉnh sửa lời khai nữa, cảm thấy thư phòng vốn rộng rãi bỗng trở nên chật hẹp, đúng lúc muốn ra ngoài thì một Huyền Ưng vệ đến báo, “Bẩm Ngu hầu, nhân chứng Dư thị đã khai xong, nói muốn cầu khiến thiếu phu nhân.”

Thanh Duy bèn nói với Tạ Dung Dữ: “Ta đi gặp nàng ấy.”

***

Đêm đã khuya, ánh trăng trong sân tựa tơ ươm, Dư Hạm không trang điểm, mắt nhỏ mày ngài, toát lên vẻ đẹp thanh thuần. Nàng ta cầm một túi vải trong tay, không nhìn Thanh Duy mà nhìn vào bụi lan bên cạnh, “Lúc nãy ta nghe quan gia thẩm vấn mình nói, bao giờ ta điểm chỉ vào bản cung trạng thì vị vương gia kia của cô sẽ thả ta đi, có thật không?”

Nàng ta không phải là nhân chứng quan trọng gì, Tạ Dung Dữ không cần phải giữ nàng ta lại.

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Thật.”

“Các người đã lấy thẻ bài mà oan gia cho ta, về sau ta có gặp nguy hiểm không?”

Thanh Duy nói: “Không biết, nhưng thẻ bài đã ở trong tay Huyền Ưng Ti, những kẻ đó động đến cô cũng vô ích.”

“Thế cũng tốt, thẻ bài kia, coi như ta đưa cho các cô. Còn thứ này,” Nàng ta do dự, chợt xoay mặt sang, nhét túi vải nặng trĩu vào tay Thanh Duy, gần như mất kiên nhẫn, “Cầm đi!”

Thanh Duy mở túi vải ra nhìn, bên trong là số vàng mà Tôn Nghị Niên để lại cho nàng ta, “Tiểu phu nhân?”

Dư Hạm đưa mắt nhìn trăng sáng, vén lọn tóc ra sau tai, “Núi Trúc Cố chết quá nhiều người, có người còn chẳng biết gì đã phải hít khói bụi, bị đuốc thiêu cháy, ta dẫu gì cũng là người Thượng Khê…”

Nàng ta không biết phải biểu đạt thế nào, nàng ta chưa bao giờ nói những lời đó, thế là vẫy khăn, “Ây da, tóm lại, oan gia kia của ta là Huyện lệnh chốn nghèo đói, lấy đâu ra lắm tiền thế, nhất định số vàng này chẳng sạch sẽ gì, khéo có khi dùng mạng người đổi lấy rồi. Ta đi theo ông ấy năm năm, năm năm qua ngày nào ông ấy cũng ăn năn hối hận. Con người ta đó, không phải tri ân tất không báo, năm năm trước đoàn hát đã giải tán, ta không còn nhà để về, chính ông ấy đã thu nhận ta, rồi về sau lại lợi dụng ta, để ta mạo hiểm bảo vệ họ Tưởng rời đi, ta nhận, coi như ta nợ ông ấy. Nhưng ông ấy.. cuối cùng lại cho ta thẻ bài kia, các cô nói nó có thể bảo vệ được tính mạng, ta cũng chẳng biết nó bảo vệ tính mạng kiểu gì, chỉ là cảm thấy… chung quy ông ấy vẫn nhớ đến ta dù chỉ chút đỉnh. Nếu đã có nhớ, coi như mấy năm nay ta đã không phó thác sai người. Ta không cần số vàng đó nữa, các cô cầm đi, chia cho họ hàng người nhà của sơn tặc, không thì cho người nghèo ấy, xem như ta thay ông ấy bồi thường, hi vọng ông ấy ở dưới cửu tuyền được yên lòng. Nhưng ông ấy đã phụ bạc ta, trả hết món nợ với ông ấy, từ giờ trở đi, ta và ông ấy coi như đã xong, không còn quan hệ gì sất.”

Lúc trước nàng ta cố chấp giữ vàng bởi chẳng qua cảm thấy mình sống nhầm mấy năm, phải đổi lại thứ gì đó bằng được.

Con người mà, đã bỏ ra tất muốn có hồi báo.

Nên chỉ cần chứng minh dù chỉ có nửa tình ý thôi, thì nàng ta có thể trả lại số vàng không sạch sẽ kia.

Thanh Duy nhìn Dư Hạm, lúc này mới phát hiện mình đã xem thường nàng ấy, hóa ra nàng ấy không chỉ trọng tình, mà con người sở dĩ là người, bởi vì dẫu có hèn mọn đến mức kẹt trong bùn lầy, vẫn có thể kiên cường đưa ra chọn lựa.

Thanh Duy hỏi: “Sau này tiểu phu nhân định đi đâu, về Thượng Khê à?”

“Chưa biết nữa, chắc về lại nghề cũ, ca diễn trong đoàn hát thôi. Chẳng phải ông ấy bảo ta nên đi bốn bể à? Bốn bể thì không cần, Lăng Xuyên rộng lớn đến thế, ta đi tới đi lui ở Lăng Xuyên cũng đủ rồi.” Nói đoạn, Dư Hạm lấy làm đắc chí, “Cô không biết đấy thôi, nếu mà hát hay, được thăng tiến là có thể ăn no uống say rồi, trong đoàn hát cũ của ta có một lão sinh đã bốn mươi năm mươi tuổi, mà người Thượng Khê toàn giành nhau nghe ông ấy hát đấy.”

Rồi nàng ta nhìn Thanh Duy, “Bao giờ Tú nhi quay về?”

Thanh Duy lắc đầu: “Ta không biết.”

Dư Hạm cũng không để ý lắm, “Cô nói với nó, bao giờ về nhớ tìm ta, ta ở Lăng Xuyên chờ nó, đợi nó về… Sau này không làm chủ tớ nữa, ta đã không còn là tiểu phu nhân của ai nữa rồi, nó thông minh, làm tỉ muội với ta đi.”

Thanh Duy gật đầu: “Ta nhớ rồi, Dư cô nương.”

Dư Hạm nghe nàng gọi thế bèn bật cười, “À phải rồi, quan gia lúc nãy có hỏi ta, ta quên bảo, sáng hôm rời Thượng Khê, chính Tần sư gia đã đến đón ông ấy ở trang viên của ta, hình như khuyên ông ấy đến nha môn đầu thú với vương gia đi, không phải bọn họ làm sai chuyện à. Vì thế mà hôm đó dù ta đã chạy nửa đường, cảm thấy ông ấy nghĩ không thông nên mới quay về tìm.”

Nói xong, nàng nói với Thanh Duy, “Được rồi, ta về đây, hai ngày nữa ta sẽ đi, cô không cần tiễn ta đâu. Cô đúng là xúi quẩy, vừa tới Thượng Khê, núi Trúc Cố đã bị điều tra triệt để, bao tội ác ẩn trong bóng đêm đã bị phơi ra ngoài sáng. Nhưng thế cũng hay…” Nàng ta vẫy tay với Thanh Duy, đi theo Huyền Ưng Ti, quay gót về Lạc Hà Viện, “Con người không thể sống trong mộng cả đời được, mơ rồi cũng đến ngày tỉnh. Mai mốt nhớ tới nghe ta hát nha.”



Thanh Duy dõi mắt nhìn Dư Hạm rời đi, đứng trong màn đêm một hồi rồi quay về thư phòng.

Tạ Dung Dữ đang nói chuyện với Vệ Quyết, thấy nàng về thì xoay mặt sang, “Dư thị đi rồi à?”

Thanh Duy “ừ” một tiếng, đặt bọc vải lên bàn, “Nàng ấy trả lại vàng, nói muốn chia tiền cho thân nhân của sơn tặc núi Trúc Cố.”

Tạ Dung Dữ nhìn bọc vải, ngoái đầu gọi Chương Lộc Chi: “Sáng mai ngươi đến nha phủ điều tra hộ tịch của Dư thị, nếu vẫn là nô tịch thì tìm cách đổi thành lương tịch đi.”

Chương Lộc Chi gãi đầu, đáp một tiếng.

Thanh Duy nói: “Dư thị còn bảo, vào sáng ngày nha huyện Thượng Khê xảy ra bạo loạn, Tần sư gia đã đến trang viên thành Tây gặp Tôn Nghị Niên một lần.”

Vệ Quyết nghe thế, đồng tử co lại, “Tần Cảnh Sơn? Ông ta có nói gì không?”

“Ông ta khuyên Tôn Nghị Niên ra đầu thú.”

Thanh Duy vừa dứt lời, Vệ Quyết và Tạ Dung Dữ không khỏi nhìn nhau.

Một Huyền Ưng vệ đi theo Tạ Dung Dữ nhạy bén giải thích: “Không giấu gì thiếu phu nhân, vừa nãy Ngu hầu và Vệ Chưởng sứ cũng vừa hay phát hiện ra điểm bất thường của Tần sư gia.”

Thanh Duy hỏi: “Là gì?”

Thanh Duy đẩy một bản hồ sơ đến, ngón tay thon dài gõ lên trên, “Nàng nhìn câu này đi.”

Đó là lời khai của Tưởng Vạn Khiêm, là câu nói dối của ông ta, quan hệ giữa ông ta và Tần sư gia không đến mức tốt đẹp như vậy, năm đó chính ông ta ép Tần Cảnh Sơn trả ơn, dẫn mình lên núi Trúc Cố mua danh sách lên Tiển Khâm Đài.

Vệ Quyết nói: “Nếu quan hệ giữa Tần sư gia và Tưởng Vạn Khiêm đã không tốt, như thế vào sáng hôm nha huyện xảy ra bạo loạn, ông ta dẫn binh đến nha huyện vì mục đích gì? Ban đầu chúng ta cho rằng ông ta có ý ngăn cản Huyền Ưng Ti, không để Huyền Ưng Ti đuổi theo Tưởng Vạn Khiêm chạy trốn, nhưng giờ nhìn lại, ông ta không có đủ động cơ để làm vậy. Tưởng Vạn Khiêm đã giao dịch với Tôn Nghị Niên, nhưng Tần Cảnh Sơn không tham gia vào giao dịch đó. Dĩ nhiên ông ta cũng có thể vì giúp bạn mình hoàn thành giao dịch mà liều mạng lần cuối, nhưng suy đoán này quá khiên cưỡng, Tần Cảnh Sơn liều mình đã đành, tại sao phải dẫn theo nhiều nha sai đến thế? Ông ta không phải người giống như vậy.”

“Nên bọn ta có suy đoán khác.” Tạ Dung Dữ nói, “Tần Cảnh Sơn, có thể không phải đến ngăn cản Huyền Ưng Ti, mà trái lại, thực ra đến để đầu thú?”

“Và lời của Dư Hạm đã xác nhận điều này?” Thanh Duy nói.

Nàng chau mày, “Nhưng thế không khớp, nếu Tần Cảnh Sơn tới đầu thú thì không thể có chuyện xảy ra bạo loạn được. Đánh nhau với Tuần Kiểm Ti rồi cả Tả Kiêu Vệ, cuối cùng phải bỏ mình, vậy có lợi gì cho ông ta?”

Chương Lộc Chi nói: “Thuộc hạ cũng nghĩ thế, hôm đó mọi người truy đuổi Tưởng Vạn Khiêm, Ngu hầu bảo thuộc hạ ở lại nha huyện, chính mắt thuộc hạ nhìn thấy Tần Cảnh Sơn dẫn nha sai và đội ngũ của Tuần Kiểm Ti nảy sinh tranh chấp. Nói ông ta đến đầu thú thì lại không hợp lý.”

Tạ Dung Dữ nhắm mắt.

Y có trực giác ngày hôm đó Tần Cảnh Sơn đến là để đầu thú, luồng suy nghĩ này cứ quanh quẩn trong đầu y.

Nhưng Tiểu Dã nói cũng đúng, nếu Tần Cảnh Sơn đến đầu thú, vì sao ông ta phải xảy ra tranh chấp với Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu Vệ, tháo binh cung khai không phải tốt hơn à?

Hay là, ông ta biết trong nha huyện có người sẽ làm hại mình?

Ai sẽ hại ông ta đây?

Tả Kiêu Vệ? Không thể nào.

Tuần Kiểm Ti? Lúc nãy đã nói rồi, không thể là Tuần Kiểm Ti được.

Hoặc giả Tuần Kiểm Ti vô tội, nhưng người mà bọn họ nghe lệnh lại không sạch sẽ? Song Hiệu úy của vệ đội này là Khúc Mậu, e rằng đến mặt của thuộc hạ tròn méo ra sao Khúc Mậu còn chẳng nhớ, có thể làm được một chuyện là tốt lắm rồi. Hắn vừa đến Thượng Khê, có quá nửa công chuyện đều do hộ vệ Khưu Minh của hắn hỗ trợ, ngay đến giải quyết hậu họa ở Thượng Khê cũng là Khưu…

Vừa nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ đột ngột mở bừng mắt.

Đúng rồi, Khưu Minh?!

“Chương Lộc Chi, sáng hôm Thượng Khê xảy ra bạo loạn, là ai nói với chúng ta không thấy tung tích Lý bổ đầu?” Không phải Tạ Dung Dữ không biết câu trả lời, chỉ là y muốn xác nhận lần nữa.

“Bẩm Ngu hầu, là Khưu hộ vệ bên cạnh Khúc Hiệu úy.”

Vệ Quyết nói, “Ngu hầu, mấy hôm trước khi ngài tìm Khúc Hiệu úy hỏi thăm tung tích của Lý bổ đầu, cũng là Khưu hộ vệ nói với chúng ta, Tuần Kiểm Ti không hề phát hiện Lý bổ đầu.”

Nhưng Lý bổ đầu chỉ là người, sao có thể trốn thoát khỏi sự theo dõi của ba quân Huyền Ưng Ti, Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu Vệ?

Trừ phi… có kẻ cố tình che giấu tung tích của hắn ta.

Đúng lúc này, ngoài thư phòng vọng đến tiếng gõ cửa, là Kỳ Minh quay về.

Kỳ Minh dâng lên một tập sổ sách, “Bẩm Ngu hầu, đã điều tra ra rồi, ngày trước Sầm Tuyết Minh từng phục vụ ở Mông Sơn Quân, Tây Bắc Đồng Lưu Quân, cuối cùng vì bị thương nên thoái chức ở Hổ Khiếu Doanh trong Chinh Tây Quân, tới Lăng Xuyên.”

Đồng Lưu Quân, Hổ Khiếu Doanh đều thuộc đại quân Chinh Tây.

Mà chủ soái của đại quân chinh phạt này chính là Quân hậu Khúc Bất Duy.

Tạ Dung Dữ nhắm mắt, chợt bên tai vang vọng lời oán trách của Khúc Mậu khi mới đến Thượng Khê:

“Chẳng biết cha ta nghĩ gì nữa, khăng khăng kêu ta tới Lăng Xuyên, ta chỉ là thằng phế vật, lẽ nào ông ấy còn trông cậy phế vật ta đây chết đi sống lại?”

“Mọi khi hay có Vưu Thiệu đi theo ta, dù gì, Tuần Kiểm Ti còn có sử lương, nhưng ông già ta không yên tâm ta, sai Khưu Minh để mắt đến ta, nhưng thế cũng hay, mấy chuyện vô tích sự để Khưu Minh làm đi, ta chỉ việc tìm một kịch viện nghe hát là được.”

Nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ đứng bật dậy, trải một tờ giấy trắng lên bàn, “Tiểu Dã, nàng còn nhớ lời cuối cùng Tôn Nghị Niên để lại là gì không? Thuật lại nguyên câu cho ta.”

Chính nàng đến gần lắng nghe câu nói cuối cùng của Tôn Nghị Niên.

Thanh Duy gật đầu, “Ông ta nói, ‘Các ngươi đừng đi, đi…’ sau đó ta hỏi lại, ông ta chỉ nói, không được… đi.”

Tạ Dung Dữ viết năm chữ đầu ra giấy, “Các ngươi đừng đi, đi”.

Y nhìn chăm chú dòng chữ này, ánh mắt trầm như nước, bỗng gác bút xuống cái *cạch*, “Lúc trước chúng ta cứ tưởng Tôn Nghị Niên khuyên chúng ta không nên đến đâu đó, thực ra không phải, ông ta đã cho chúng ta câu trả lời rồi.”

“ ‘Chớ có đi’ tức là đừng đi về. Vậy vì sao lại không nên quay về?”

Nói đoạn, Tạ Dung Dữ đổi sang bút son, gạch bỏ chữ “đi”, đổi thành chữ khác, là một chữ “Khúc” đỏ thẫm.

“Vì trong thành có người của Khúc Hầu.”

Tạ Dung Dữ ngước mắt nhìn mọi người, “Mà người đã ra lệnh Sầm Tuyết Minh buôn bán danh sách lên đài, phái tướng quân tiêu diệt sơn tặc núi Trúc Cố, phái người theo dõi động tĩnh của Huyền Ưng Ti, chính là Quân hậu Khúc Bất Duy.”

“Chúng ta suy đoán không sai, Tả Kiêu Vệ sạch sẽ, Tuần Kiểm Ti cũng sạch, Khúc Bất Duy không có cách nào cài người vào hai nha môn này, nhưng ông ta biết Khúc Mậu làm việc không ra gì, nên mới cố tình lợi dụng điều đó, lấy danh tranh thủ cơ hội cho Khúc Mậu để điều cậu ta đến Thượng Khê, lại lấy cớ lo Khúc Mậu không làm nên chuyện, danh ngôn chính thuận phái tùy tùng đắc lực của mình theo Khúc Mậu đến Thượng Khê, âm thầm tiếp quản Tuần Kiểm Ti, để Tuần Kiểm Ti làm việc cho mình. Khỏi phải nói Lý bổ đầu, hắn đã chết từ lúc Khưu Minh cho chúng ta biết hắn biến mất rồi. Còn Tần sư gia, có lẽ vào buổi sáng ngày cuối cùng, thông qua Tôn Nghị Niên, biết được người thực sự bán suất lên đài chính là Khúc Bất Duy, rồi vì Khúc Mậu là con trai của Khúc Bất Duy, ông ta cho rằng toàn bộ Tuần Kiểm Ti đều là người của Khúc Hầu, nên mới dẫn binh đến nha huyện quyết liều mạng. Còn Khưu Minh đã lợi dụng sự hiểu lầm đó ông ta, vào lúc ông ta đến nha môn, tiếp cận bất kỳ ai có thể bảo vệ mình, đã ra tay giết ông ta trong hỗn loạn.”
 
Chương 128


Ba hôm sau, tại kinh thành.

“Hầu gia từ Bắc đại doanh đến ạ?”

Sẩm tối, lính gác nha môn ở cửa Xu Mật Viện vừa giao ban, thấy một người mặc giáp, mày rậm mắt hổ phóng ngựa đến, ghìm cương trước cửa nha môn, chính là Quân hậu tam phẩm đương triều Khúc Bất Duy.

Khúc Bất Duy đi thẳng vào nội nha, “Chương Phó sứ có ở nha môn không?”

“Có ạ, sau buổi chầu Chương đại nhân về thẳng nha môn, hiện vẫn chưa đi.” Lính gác đi theo sau Khúc Bất Duy, đáp. Đang nói chuyện thì thấy Chương Hạc Thư từ trong nha môn đi ra, lập tức bái lạy, “Chương đại nhân.”

Chương Hạc Thư thấy Khúc Bất Duy, trong mắt lộ vẻ ngạc nhiên, “Sao hôm nay Hầu gia lại đến Xu Mật Viện?”

“Bộ Hộ nói số lương thực năm ngoái khu vực Cật Bắc nạp lên không khớp với sổ sách của bọn họ, nên lão phu đến hỏi xem sổ sách đóng quân ở Cật Bắc.”

Từ sau chiến dịch sông Trường Độ, mười ba bộ Thương Nỗ lần lượt tan rã, hơn mười năm sau vẫn không đáng để tâm, cho nên biên giới phía Bắc Đại Chu trừ thỉnh thoảng có loạn dân vượt biên ra thì không có chiến sự. Để tổng chỉ huy đóng quân ở biên giới, các Quân hậu về kinh tập trung tinh lực ở biên giới Đại Chu, ngoài truy bắt thổ phỉ, điều họ bận tâm nhất chính là tích trữ lương thực, cho nên thường xuyên qua lại với bộ Hộ.

Chương Hạc Thư đáp không khéo, “Vì Chương mỗ muốn xem kỹ danh sách Cật Bắc nên tối qua đã đem về phủ mất rồi, Hầu gia gấp lắm không, nếu không gấp thì để mai, Chương mỗ cho người đem đến quân nha được không?”

“Cũng không hẳn gấp gáp, chỉ là sáng mai lão phu phải về Bắc đại doanh, đi đi về về khéo mất ba ngày.” Khúc Bất Duy nói, gọi lính gác lúc nãy tới, giao dây cương cho hắn để hắn buộc ngựa giúp mình, đoạn nói với Chương Hạc Thư, “Cũng được, dù gì hai ta thuận đường, ta đến nhà ông lấy là được.”

Chương Hạc Thư gật đầu, cười bảo, “Vậy làm phiền Hầu gia rồi.”

Mới quá giờ giao ban, người hầu nhà họ Chương đã kéo xe ngựa chờ sẵn bên ngoài, Chương Hạc Thư và Khúc Bất Duy nhường nhau lên xe, đến khi đi được một đoạn, Chương Hạc Thư mới hỏi: “Thượng Khê xảy ra sự cố?”

Trong xe đốt nhang xua muỗi, mùi hơi nồng, Khúc Bất Duy bèn vén rèm lên nhìn ra ngoài, chắc chắn không có ai bám theo mới nói: “Kế hoạch là để Khưu Minh theo Mậu nhi đến Lăng Xuyên, nhân lúc còn sớm mà chấm dứt Thượng Khê là xong. Chẳng ngờ trong đám sơn tặc núi Trúc Cố lại có một kẻ còn sống, là lão già sau núi, hình như họ Cát, nấp trong núi những sáu năm!”

Chương Hạc Thư “ừ” một tiếng, ông ta đã nghe về chuyện này rồi.

“Ông cũng biết đấy, chuyện bán danh sách năm đó là Sầm Tuyết Minh làm giúp ta. Hắn là kẻ rất thông minh, năm xưa hắn ta dùng một vụ án xử sai để nắm thóp Tôn Nghị Niên, bởi cảm thấy Tôn Huyện lệnh này có bản lĩnh, không chừng sẽ có ngày phát huy tác dụng. Lúc trước khi xây Tiển Khâm Đài, chẳng phải triều đình muốn dẹp loạn tặc sao, vừa hay trên núi Trúc Cố ở Thượng Khê có sơn tặc, Tôn Nghị Niên lại làm Huyện lệnh ở Thượng Khê, thế là Sầm Tuyết Minh mới nói với ta, không nơi nào tốt hơn Thượng Khê.”

Thứ nhất, Thượng Khê bị phong tỏa, chẳng ai ngờ trên tay của gã thủ lĩnh một ngọn núi phong tỏa lại có danh sách lên đài; thứ hai, triều đình đã hạ lệnh diệt phỉ, một khi xảy ra chuyện sẽ thuận lợi diệt khẩu.

“Rồi Tiển Khâm Đài sập, sau khi xử lý sạch núi Trúc Cố, ta tìm một bổ đầu đến Thượng Khê theo dõi đám Tôn Nghị Niên, Sầm Tuyết Minh quá thông minh, hắn biết có Lý bổ đầu rồi thì mình sẽ thành vô dụng, đoán ra ta sẽ xử hắn tiếp, thế là đột ngột biến mất, tới nay vẫn không chưa ra. Không biết có phải hắn cố ý để lại lão sơn tặc họ Cát ấy có không, hòng giữ cho mình một đường lui, nếu ta không phái Khưu Minh đi theo Mậu nhi đến Thượng Khê thì còn lâu mới phát hiện. Hơn nữa hắn còn cố ý để Tôn Nghị Niên biết kẻ đầu sỏ thực sự chính là ta.”

Thực ra không khó để Tôn Nghị Niên biết kẻ giật dây chính là Khúc Bất Duy, chưa chắc cần Sầm Tuyết Minh nói cho ông ta – ban đầu khi giao dịch danh sách Tiển Khâm Đài, Sầm Tuyết Minh vừa đến Thượng Khê đã tìm tới Tôn Nghị Niên, trong lúc nói có lẽ sẽ để lộ vài manh mối; sau đó sơn tặc núi Trúc Cố bị tiêu diệt, tướng quân được Khúc Bất Duy điều đi cũng do Tôn Nghị Niên dẫn lên núi; thậm chí sau khi Tiển Khâm Đài sập, Tưởng Vạn Khiêm đến Đông An đòi Sầm Tuyết Minh giải thích, cũng là Tôn Nghị Niên giúp ông ta.

Nhưng Khúc Bất Duy cố chấp cho rằng Sầm Tuyết Minh cố ý tiết lộ với Tôn Nghị Niên, Sầm Tuyết Minh hi vọng có người biết mình không phải chủ mưu, như thế nếu có ngày triều đình giáng tội thì không đến nỗi hắn ta phải một mình gánh tất.

“Sau khi dọn dẹp núi Trúc Cố, Tôn Nghị Niên đã suy sụp, nghe nói mấy năm nay còn không động đến công vụ, tìm một phòng ngoài sống mơ mơ màng màng, ta còn tưởng hắn là kẻ thư sinh yếu đuối, không chịu nổi đả kích, nhưng lần này khi Khưu Minh đến Thượng Khê lại cảm thấy hắn có thái độ lạ với Mậu nhi, thăm dò mới hay, hóa ra hắn biết hết cả rồi. Khưu Minh hành động rất nhanh, cho sĩ tử mai phục trước hòng kết liễu hắn, nhưng hiện không biết Tiểu Chiêu vương đã điều tra được bao nhiêu rồi.”

Chương Hạc Thư hỏi: “Khưu Minh đâu?”

Khúc Bất Duy nói, “Đang trên đường về kinh. Giờ đang cần dùng người, tạm thời không thể động đến hắn.”

Chương Hạc Thư nhắm mắt, dựa vào thành xe dưỡng thần, một lúc sau mới nói: “Ông không cần đoán nữa, nhất định Tạ Dung Dữ đã biết hết rồi.”

“Nói thế là có ý gì? Hắn đã biết chuyện Sầm Tuyết Minh giao dịch danh sách?”

“Không chỉ vậy.” Chương Hạc Thư mở mắt nhìn Khúc Bất Duy, “Chỉ là một thông phán bé nhỏ, lấy đâu ra danh sách? Hắn đã đoán được là ông rồi.”

Chương Hạc Thư có đôi mắt nhỏ dài, gờ mi cao, Chương Đình giống ông ta ở hai điểm này, cho nên ai cũng nói Tiểu Chương đại nhân lạnh lùng, nhưng thoạt nhìn Chương Hạc Thư không hề lạnh lùng, có lẽ vì đã ở tuổi tứ tuần, khóe mắt cụp xuống cho ông ta thêm nét hiền hòa, giọng nói cũng từ tốn, “Ông đã quên trong vụ án Hà thị, Tạ Dung Dữ phán đoán như thế nào hả? Hắn ta rất thông minh, có quyết đoán, lại nhạy bén, không uổng công năm xưa tiên đế dốc lòng bồi dưỡng, lần này hắn đến Thượng Khê, vừa điều tra được Tôn Nghị Niên thì Tôn Nghị Niên chết, tra ra Lý bổ đầu thì Lý bổ đầu mất tích. Chắc chắn hắn sẽ không tin đó là trùng hợp, tất đoán được ở Thượng Khê có người đang đối đầu với mình. Hắn sẽ không nghi ngờ Tả Kiêu Vệ, còn Tuần Kiểm Ti do chính hắn và Quan gia đích thân thanh trừng, tuy khó khăn, nhưng cuối cùng có thể hắn đã thông qua Khưu Minh tra đến ông, nói không chừng bây giờ hắn còn biết cả Sầm Tuyết Minh.”

Khúc Bất Duy nghe thế, không khỏi chặc lưỡi: “Nhưng không phải lúc trước ông nói Tiểu Chiêu vương thông minh quá tất bị thông minh hại à, nên mới không thể gượng dậy sau vụ Tiển Khâm Đài, năm năm sinh tâm bệnh, bây giờ dù hắn ta có đứng dậy được cũng không cần lo, vì sao chưa tới một năm mà hắn đã đột ngột khỏi bệnh?”

“… Là ta đã xem thường hắn.” Hai mắt Chương Hạc Thư tối đi.

Thực ra bản thân ông ta cũng không hiểu, vì sao mới nửa năm mà Tiểu Chiêu vương đã khỏi bệnh. Rõ ràng nửa năm trước khi y vừa tháo mặt nạ, còn từng nằm dài trên giường bệnh một thời gian.

Khúc Bất Duy không kìm được thở dài, “Ta nói rồi, ban đầu không nên nghe theo ông! Núi Trúc Cố đã chết nhiều như thế thì dứt khoát diệt tận luôn đi, chấm dứt Tôn Nghị Niên, Tưởng Vạn Khiêm, như thế hôm nay đã không có rắc rối, còn để bảng tên lọt vào tay Tiểu Chiêu vương!”

Chương Hạc Thư chậm rãi nói: “Tiển Khâm Đài sập, nhân sĩ phẫn nộ, Tưởng Vạn Khiêm là cha của sĩ tử mất mạng, ông mà diệt khẩu hắn ta lúc đó là do thấy mình bị phát hiện chưa đủ nhanh, muốn thêm mồi đuốc hả? Huống hồ sơn tặc núi Trúc Cố chết cũng đủ để Tạ Dung Dữ phát hiện ra điểm nghi hoặc, nếu ông diệt khẩu cả Huyện lệnh Thượng Khê, e rằng triều đình sẽ lập tức tra ra ông, thì hôm nay chưa biết có được phủ Khúc hầu hay không, mà trái lại đúng là không cần đau đầu vì chuyện trước mắt.”

Đoạn, Chương Hạc Thư đanh giọng: “Huống hồ năm đó ta chỉ nói với ông, trong tay ta có danh sách lên đài có thể do chúng ta tự quyết, là tự ông đem nó đi giao dịch, nếu không phải về sau ta phát hiện, ngăn chặn kịp thời, thì đợi ông bán thêm mấy suất nữa, liệu giấy có bọc được lửa không? Kế hoạch vốn nên thực hiện từ từ, nhưng ông lại bị cái lợi che mắt, muốn một bước lên trời, bây giờ chuyện xảy ra rắc rối, sắp bị người ta nhổ tận gốc, ông lại tới nói với ta năm đó ta không giúp ông đến nơi đến chốn?”

Khúc Bất Duy nghe thế, há miệng mấy lần nhưng không cất nổi thành lời. Chương Hạc Thư mắng đúng, chính ông ta đã gây họa, cũng là ông bị lợi che mắt, “Vậy ông nói đi, giờ chúng ta cần làm gì?”

Đung lúc này, người hầu trước xe kéo cương một cái, xe ngựa chạy chậm dần, cuối cùng dừng lại, Chương Hạc Thư nói: “Đến nơi rồi.” Sau đó vén rèm xuống xe.

Khúc Bất Duy cũng bỏ đi sự hốt hoảng trong mắt, điềm nhiên bước xuống xe, theo Chương Hạc Thư vào phủ đệ.

Hoàng hôn đã nồng, Chương Hạc Thư đến chính đường, vẫy lui hạ nhân, cầm trà nóng lên nhấp một ngụm, “Ông có chắc Lý bổ đầu đã chết không?”

“Chắc chắn.” Khúc Bất Duy nói, “Đích thân Khưu Minh ra tay, đã báo với ta rồi.”

Chương Hạc Thư nghĩ ngợi, “Vậy hiện tại vẫn chưa đến nỗi nguy cấp. Tuy trong tay Tạ Dung Dữ có thẻ bài trống của sĩ tử lên đài, nhưng thẻ bài đó do bộ Lễ đặc chế, có thể chỉ ra bất cứ ai, không điều tra ra ông đâu; bằng chứng của Tưởng Vạn Khiêm cùng lắm chỉ quy về Sầm Tuyết Minh, dựa vào một kẻ có vẻ như đã phục vụ ở Trấn Bắc Quân, cũng không thể nghi ngờ ông được. Hắn ta không có bằng chứng chính xác, Lý bổ đầu đả chết, hắn cũng không có nhân chứng trực tiếp, dù có tra ra ông thì cũng chỉ là suy đoán từng bước, nhưng suy đoán không được dùng làm bằng chứng, bây giờ hắn ta không thể động đến ông.”

“Mà bước tiếp theo của hắn,” Chương Hạc Thư dừng lại, “Chắc chắn sẽ điều tra trực tiếp về Sầm Tuyết Minh mất tích, vì rất có thể Sầm Tuyết Minh sẽ để lại vài manh mối hòng đề phòng, nên việc cần kíp trước mắt, ngoại trừ phái người theo dõi động tĩnh của Tạ Dung Dữ, quan trọng hơn cả là phái một kẻ nhạy bén đến Đông An, sớm tìm ra tung tích của Sầm Tuyết Minh, xóa đi trước một bước.”

Nhưng ai có thể theo dõi động tĩnh của Tạ Dung Dữ, ai có thể là kẻ nhạy bén này đây?

Khúc Mậu là phế vật thế nào, Khúc Bất Duy là cha ruột của hắn nên hiểu rõ hơn ai hết, hắn chỉ có phá gia là giỏi, còn hễ giao cho việc gì cũng xôi hỏng bỏng không. Để Khúc Mậu theo dõi Tạ Dung Dữ, không bị Tạ Dung Dữ chiếu ngược cũng hay, huống hồ những chuyện này, vốn Khúc Mậu cũng không biết.

Khúc Bất Duy nói: “Không phải Lan Nhược đang ở Đông An à? Chi bằng để cậu ta hỗ trợ theo dõi Tiểu Chiêu vương?”

Thượng Khê xảy ra bạo loạn, nha huyện để trống, rất nhiều chuyện đang chờ xử lý, mấy hôm trước Triệu Sơ đã hạ lệnh điều Chương Đình và Trương Viễn Tụ đến Đông An.

Nhưng ông ta vừa dứt lời, Chương Hạc Thư lại không lên tiếng.

Khúc Bất Duy nói: “Ta biết tính của thằng bé Lan Nhược, làm gì cũng chú trọng chính trực, nhưng không phải đang gấp lắm sao? Tiểu Chiêu vương không dễ để kẻ khác theo dõi đâu, hiện chỉ có Lan Nhược là danh ngôn chính thuận cùng hắn cộng sự, cùng lắm ông lấy cớ gạt Lan Nhược, để cậu ta chú ý giúp chúng ta tạm ít hôm, rồi ta sẽ tìm người đến. Năm ngoái ông nói muốn mượn chuyện tháo dỡ tửu xá hòng thử xem Giang Từ Chu có phải là Tiểu Chiêu vương hay không, tuy Lan Nhược không tình nguyện, nhưng chẳng phải vẫn làm theo đấy sao?”

Khúc Bất Duy thấy Chương Hạc Thư vẫn im lặng, không khỏi nói, “Không thì, ông tìm Trương Viễn Tụ đi! Không phải hắn luôn muốn xây lại Tiển Khâm Đài à, nếu Tiểu Chiêu vương vạch trần tất cả thì Tiển Khâm Đài xây lại thế nào?”

“Vong Trần không được, hắn không chung đường với chúng ta.” Chương Hạc Thư nói. Dừng một lúc, ông ta mới hạ giọng, “Để ta nghĩ thêm đã, ông cũng nghĩ xem năm đó có để lại manh mối gì ở chỗ Sầm Tuyết Minh không, trước mắt rất có thể Tạ Dung Dữ sẽ điều tra thông phán này.”

Khúc Bất Duy nghe ông ta nói thế, thở phào một hơi.

Bọn họ là châu chấu trên cùng một sợi dây thừng, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, dù cho ngày trước chính ông ta là kẻ gây họa, nhưng nếu ông ta gặp chuyện thì Chương Hạc Thư cũng không thoát được.

“Ông nói đúng, chỗ Sầm Tuyết Minh…”

Nhưng còn chưa dứt lời, ngoài nhà bỗng vọng đến tiếng gõ cửa dồn dập, lão bộc trong phủ bẩm báo: “Lão gia, không xong rồi, trong cung xảy ra chuyện.”

Chương Hạc Thư kéo cửa ra, “Đã có chuyện gì?”

“Là người của Hoàng hậu nương nương trong cung truyền tin, nói mấy hôm nay nương nương thường xuyên khó chịu, tối hôm nay bỗng ngất xỉu, mới rồi Quan gia có đến thăm ngài ấy, không hiểu sao đùng đùng nổi giận, ngay cả… ngay cả ly ngọc hoa văn cây liền cành trên tủ của Hoàng hậu nương nương, cũng bị Quan gia đập vỡ.”

Chương Hạc Thư ngạc nhiên.

Ông biết Triệu Sơ quan tâm Nguyên Gia đến mức nào.

Hai người họ thân thiết nhau từ nhỏ, chớ nói nổi giận, Triệu Sơ còn chưa từng lớn tiếng nói chuyện với Nguyên Gia bao giờ.

“Lão gia, có cần để phu nhân vào cung xem sao không?”

Chương Hạc Thư nghĩ ngợi, lại hỏi: “Hiện trong cung có ai đến điện Nguyên Đức khuyên nhủ không?”

“Hình như không ạ, gần đây trưởng công chúa đã đến chùa Đại Từ Ân, còn Thái hậu…”

Hà thị vừa ngã, tuy không dính dáng đến Thái hậu nhưng sau chuyện đó bà cũng đã nản chí, ngày ngày bầu bạn cùng đèn xanh tượng phật, lâu lắm rồi không hỏi chuyện trong cung.

Chương Hạc Thư suy nghĩ: “Để phu nhân đến phủ Dụ Thân vương tìm Nhân Dục Quận chúa.”

“Nhân Dục Quận chúa?”

“Nói gần đây có vẻ Hoàng hậu không khỏe, phu nhân lo lắng, muốn vào cung thăm nhưng mấy ngày nay trong phủ lại có nhiều chuyện, không thể đi được.”

Quan gia muốn tránh xa Chương thị, sao Chương Hạc Thư có thể không phát hiện. Bây giờ Quan gia và Hoàng hậu xảy ra tranh chấp, mẫu thân của Hoàng hậu mà vào cung, Quan gia sẽ nghi ngờ là làm sao Chương gia biết được tin nhanh như thế, khác nào thêm dầu vào lửa. May mà gần đây Hoàng hậu có lo liệu hôn sự cho Nhân Dục Quận chúa, nên Quận chúa vào cung làm lễ với Hoàng hậu cũng bình thường.

***

Đêm đã khuya, Triệu Vĩnh Nghiên giao thẻ bài ở cửa cung, theo tiểu hoàng môn đến điện Nguyên Đức.

Nàng biết gần đây Chương Nguyên Gia không khỏe, vốn nghĩ Hoàng hậu còn trẻ, nghỉ ngơi ít hôm sẽ hết bệnh, ai dè lại nghe biểu thẩm ở Chương gia nói, Hoàng hậu không những không khỏe mà càng thêm suy nhược.

Triệu Vĩnh Nghiên vô cùng lo lắng, chân rảo bước càng nhanh, ngờ đâu vừa tới ngoài điện Nguyên Đức thì lại thấy thị tì quỳ khắp sân, còn chưa lại gần đã nghe thấy tiếng ly cốc rơi vỡ, sau đó là giọng nói đầy phẫn nộ của Triệu Sơ, “Chuyện lớn như thế mà nàng cũng dám gạt trẫm!”
 
Chương 129


Triệu Vĩnh Nghiên giật mình, Quan gia là người điềm tĩnh, càng chưa từng nặng lời với Hoàng hậu một câu, đã bao lâu rồi mới thấy ngài ấy nổi trận lôi đình như vậy?

Nàng dừng chân trước cửa cung, tiến không được mà lùi chẳng xong.

Tiểu hoàng môn dẫn đường quỳ ngoài điện bẩm báo: “Quan gia, Nhân Dục Quận chúa vào cung thăm nương nương ạ.”

Thật lâu sau, trong điện Nguyên Đức mới vọng ra tiếng lạnh lùng của Triệu Sơ, “Lui hết cả đi.”

Tức là không cho phép Triệu Vĩnh Nghiên vào thăm.

Thấy Chỉ Vi đi ra, Triệu Vĩnh Nghiên vội bước tới, bồn chồn hỏi: “Chỉ Vi cô cô?”

Chỉ Vi liếc nàng, lắc đầu rồi nói nhỏ: “Quận chúa theo nô tì ra ngoài cung chờ một lúc.”

Triệu Vĩnh Nghiên đành theo nàng ra khỏi sân, nhưng không kìm được ngoái đầu lui, chỉ mới chốc đó thôi mà bóng đêm đã thêm sâu, mây đen che kín trăng, điện Nguyên Đức sừng sững trong bóng tối, chỉ có trước cửa sổ phản chiếu chiếc bóng mơ hồ, Triệu Vĩnh Nghiên nhận ra, chiếc bóng đó là giá đèn nhiều cành trong phòng ngủ của Hoàng hậu.

Chương Nguyên Gia dựa vào giường nhỏ bên cạnh giá đèn, vừa vào hè, ban đêm không lạnh lắm nhưng nàng lại đắp cả tấm chăn nhung, sắc mặt nhợt nhạt.

Chiếc cốc vỡ vụn dưới đất là dấu vết của cuộc tranh chấp, trong đó có cả chiếc cốc hoa văn cây liền cành, màu xanh ngọc sáng trong, là món đồ nàng thích nhất, nó vốn là một cặp, chiếc còn lại nằm ở chỗ Triệu Sơ, là món quà chàng tặng nàng năm vừa lên làm Thái tử.

Triệu Sơ đứng bên cạnh, im lặng chờ thái y đắp khăn lụa lên cổ tay Chương Nguyên Gia, chẩn mạch cho nàng.

Sắc mặt chàng vẫn còn nặng nề, chàng biết dạo gần đây Chương Nguyên Gia không khỏe, tuy không đến thăm thường xuyên nhưng hễ có thời gian là chàng lại đến một chuyến, đáng tiếc nàng không những khỏe lên, mà chiều hôm nay còn đột ngột ngất xỉu. Nếu không phải chàng mặc kệ nàng ngăn cản, gọi Đổng thái quản chưởng Thái Y Viện đến bắt mạch cho nàng, thì còn lâu chàng mới phát hiện, hóa ra nàng đã có thai hơn hai tháng!

Lúc này Triệu Sơ mới nhớ đến sự thay đổi của Chương Nguyên Gia gần đây, sợ lạnh sợ nóng, khẩu vị thay đổi, thèm ngủ và dễ kinh động.

Thực ra từ đầu chàng cũng đã để ý đến những dấu hiệu này ở nàng, cũng từng gọi người ở Thái Y Viện đến hỏi, nhưng chàng nghĩ nàng là Hoàng hậu, con nối dõi liên quan đến phúc quốc xã tắc, chắc chắn nàng sẽ không giấu diếm, ai ngờ nàng lại làm bậy đến thế, y quan đến chẩn mạch, nàng sai Chỉ Vi vươn tay thay mình cho y quan bắt mạch, mặc kệ bản thân mệt mỏi.

Đổng thái y bắt mạch xong, cất khăn lụa, cúi đầu bẩm với Triệu Sơ: “Bẩm Quan gia, vì nương nương đang thai nghén, ăn uống không tốt nên trong người thiếu hụt rất nhiều, đây là chuyện chẳng đặng đừng, may mà nương nương có thai nhưng không tùy hứng, vẫn luôn ăn đồ bổ dưỡng nên bào thai trong bụng vô cùng khỏe mạnh, vi thần sẽ kê một toa thuốc phù hợp cho nương nương, về sau chỉ cần chăm sóc kỹ lưỡng, tĩnh tâm nghỉ ngơi, qua ba tháng đầu, triệu chứng thai nghén sẽ tự biến mất.”

Triệu Sơ chắp tay nhìn Chương Nguyên Gia, “Viết toa thuốc xong thì đưa trẫm xem.”

Đổng thái y vâng dạ, vái lạy Triệu Sơ lần nữa rồi lui ra ngoài điện kê đơn.

Triệu Sơ im lặng nửa khắc, đoạn vén bào ngồi xuống bên giường, hạ giọng nói: “Thái y mới nói nàng cần được chăm sóc kỹ lưỡng, trẫm thấy người trong cung nàng chẳng ra gì cả, Hoàng hậu đương triều có thai hai tháng, ngoài nàng và Chỉ Vi dám dối gạt tai thánh ra thì chẳng một ai phát hiện. Đám cung nhân này, thay mới đi cho rồi, đích thân trẫm sẽ lo chuyện này.”

Ánh mắt Chương Nguyên Gia dừng ở giá đèn nhiều cành, giọng nhẹ bẫng, “Quan gia biết thần thiếp quen người thế nào mà, đừng nói là thị nữ thiếp thân của thần thiếp, dù thị tì trong điện Nguyên Đức đi theo thần thiếp mấy năm, nếu Quan gia mà đổi, thần thiếp không quen người mới thì càng không tĩnh dưỡng được.”

Triệu Sơ quay mặt sang nhìn nàng, đến tận lúc này rồi mà nàng không nghĩ xem mình đã làm sai chuyện gì, chỉ lo bảo vệ Chỉ Vi, bảo vệ người trong cung mình.

“Nếu nàng thực sự chú ý đến cơ thể mình, chú ý đến đứa trẻ trong bụng thì nàng đã không giấu giếm chuyện lớn như thế. Nếu không phải hôm nay trẫm mời Đổng thái y tới, nàng còn định giấu đến khi nào?”

Chương Nguyên Gia cụp mắt, một lúc lâu sau mới nói: “Quan gia nói đúng, chuyện này thần thiếp sai, thần thiếp là Hoàng hậu, không nên lấy con cháu Thiên gia ra làm trò đùa. Chỉ là… thần thiếp sợ quan tâm nhiều ắt sẽ loạn, thấy gần đây Quan gia vất vả chính sự, không hi vọng Quan gia sẽ phân tâm vì chuyện khác, nên mới giấu Quan gia.”

Bọn họ đã cãi nhau một trận, chàng không vui, nàng cũng chẳng sung sướng, tuy bây giờ nàng đã nhận sai nhưng rõ ràng vô cùng miễn cưỡng.

“Chuyện khác? Hai ta có con và nàng gọi đó là chuyện khác? Nếu nàng thực sự quan tâm đến trẫm, nếu trong lòng nàng thực sự có trẫm thì nàng đã không nói ra hai chữ đấy, nhà bình thường người ta, vợ có thai, chẳng phải phu quân luôn là người đầu tiên biết tin ư, nhưng trẫm lại…”

“Quan gia đang nói về dân chúng bình thường, còn chúng ta là nhà đế vương, sao có thể giống vợ chồng bình thường?” Chẳng đợi Triệu Sơ nói hết câu, Chương Nguyên Gia đã nhìn sang, “Ngày trước thần thiếp cũng muốn cùng Quan gia làm đôi vợ chồng bình thường không giấu giếm nhau, nhưng Quan gia là quân vương, phải chăm lo đại sự quốc gia, dĩ nhiên thần thiếp chỉ có thể làm tròn bổn phận của Hoàng hậu, không dám tiến xa.”

Triệu Sơ nghe thế, tức giận bật cười.

“Không dám tiến xa là cái gì? Bổn phận của Hoàng hậu là cái gì?!” Chàng đứng dậy, chắp tay đi lui đi lại, “Nếu nàng muốn bàn chuyện bổn phận, vậy trẫm nói nàng biết, về quốc gia, nàng là Hoàng hậu, là mẹ của một nước, đứa bé trong bụng nàng sẽ là trưởng tử của trẫm, là đại công chúa của trẫm, chuyện này liên quan đến thiên hạ xã tắc, nàng cố tình giấu giếm là sai; về gia đình, nàng là vợ trẫm, trẫm có con nhưng không phải chính miệng nàng báo tin, mà là một thái y hốt hoảng lật đật báo cho trẫm biết, nàng không hề làm tròn bổn phận của mình!”

Chàng nhìn thẳng vào Chương Nguyên Gia, “Chuyện lớn như thế mà nàng lại giấu trẫm lâu đến vậy, rốt cuộc là vì sao?”

“Không phải thần thiếp vừa nói rồi sao?” Chương Nguyên Gia lạnh lùng đáp, “Chúng ta là nhà đế vương, không như phu thê bình thường, có rất nhiều quy củ phép tắc và giới hạn vô hình, thần thiếp luôn muốn làm tròn bổn phận Hoàng hậu, tự vấn đã rất cố gắng rồi, nhưng thần thiếp lại không khiến người vừa lòng, luôn khiến Quan gia thất vọng, nay cũng chỉ có thể cố gắng không đem lại thêm phiền phức cho Quan gia.”

Nàng coi chuyện có thai là phiền phức.

Triệu Sơ đanh giọng: “Chương Nguyên Gia, bắt đầu từ tối nay cho đến bây giờ, trẫm không hề nghe thấy một câu thật lòng từ miệng nàng! Rốt cuộc trẫm đã làm sai chuyện gì để khiến nàng hời hợt với trẫm như thế? Trẫm bận chính sự, có thể không quan tâm nàng, nhưng đó không phải là lý do để nàng giấu giếm trẫm, ngày trước chúng ta thân thiết thế nào, có gì mà không thể….”

“Vì Quan gia không tin tưởng thần thiếp!” Chương Nguyên Gia đột ngột nhìn sang, lạnh lùng ngắt lời, “Quan gia muốn nghe thiếp nói thật? Vậy thiếp nói thẳng! Quan gia bây giờ đã không còn tin thần thiếp nữa rồi.”

“Từ ngày thiếp làm Hoàng hậu, có ngày nào Quan gia thôi phòng bị với thần thiếp không? Quan gia bận rộn chính vụ thức khuya dậy sớm, lao tâm khổ trí chong đèn đến sáng, mỗi lần thần thiếp lo lắng đến thăm, lần nào quan gia cũng chiếu lệ với thần thiếp. Có thật sự là Quan gia không muốn thần thiếp phải vất vả cùng mình? Hay ngài đang đề phòng thần thiếp?

Những năm qua thiếp thường đặt tay lên ngực tự vấn, rốt cuộc mình đã làm sai điều gì, vì sao mình đã cố gắng làm vợ chàng, làm Hoàng hậu của chàng, nhưng vẫn không được tin tưởng? Sau đó thiếp mới nghĩ, có phải vì phụ thân và ca ca mình hay không, mấy năm nay bọn họ phất lên quá nhanh, còn chàng là đế vương muốn kiểm soát hạ thần, nhưng điều này cũng không đúng, Chương thị là danh môn, trong triều còn rất nhiều gia tộc có thể lấn át Chương thị, ngày trước có Hà thị, nay Hà thị đổ, vẫn còn rất nhiều nguyên lão và quân hậu trọng thần, thậm chí là hàn lâm văn sĩ. Nhưng nếu không phải vì Chương thị thì là vì cái gì?”

Triệu Sơ nhìn Chương Nguyên Gia.

Từ nhỏ nàng đọc nhiều thi thư, thông minh tuệ mẫn, biết không tìm được câu trả lời ở hậu cung nên đã tìm đến tiền triều.

Triệu Sơ né tránh ánh mắt nàng, “Những chuyện này không liên quan đến nàng, nàng đừng suy đoán nữa.”

“Quan gia không muốn cho thiếp một đáp án ư? Vì sao thiếp đã nói ra mà Quan gia không chịu nghe? Hay Quan gia hi vọng hai ta mãi mãi như thế, mãi mãi rạch ròi giới hạn?”

“… Nếu vì trẫm hời hợt lạnh nhạt mà khiến nàng bất mãn, trẫm không trách nàng. Chính vụ trên triều rất phức tạp, có chuyện trẫm không tiện nói với nàng, nhưng bất kể là gì đi nữa, đó cũng không phải là lý do nàng giấu trẫm chuyện mang thai, trẫm chỉ hi vọng khi nàng là Hoàng hậu thì vẫn nên nhớ mình còn là vợ của trẫm.”

“Nhưng thiếp không làm được.” Chương Nguyên Gia nói, “Quan gia muốn một Hoàng hậu đúng mực, vậy thiếp sẽ đúng mực đến cùng, Quan gia muốn một người vợ kết tóc, vậy vì sao chúng ta không thể thân thiết như trước?”

Chương Nguyên Gia nhìn Triệu Sơ, “Hai ta lớn lên cùng nhau, được gả cho Quan gia là nguyện vọng duy nhất của thiếp từ nhỏ đến lớn. Năm Tiển Khâm Đài sập, Quan gia sa sút như biến thành người khác, lúc đó thiếp chỉ muốn được thành hôn với Quan gia càng sớm càng tốt, thiếp muốn mình ở bên Quan gia, giúp Quan gia phấn chấn lấy lại tinh thần. Ngày thành hôn, Quan gia vén khăn trùm đầu của thiếp, thiếp lại chẳng thấy nụ cười trên mặt Quan gia, thiếp tự an ủi mình, có thể do Quan gia vừa lên ngôi, bị triều chính làm cho mệt mỏi quá độ, rồi mọi thứ sẽ dần tốt hơn thôi. Nhưng đã mấy năm rồi mà vẫn chẳng khá hơn, chỉ thấy thiếp và Quan gia ngày càng xa cách không rõ lý do.”

“Không phải Quan gia muốn biết vì sao thiếp giấu ngài chuyện có con ư?” Nói đến đây, Chương Nguyên Gia nhếch mép, để lộ nụ cười đắng chát, “Đúng, không muốn khiến Quan gia phân tâm, tuân thủ bổn phận Hoàng hậu đều chỉ là cái cớ thiếp qua loa với Quan gia. Thiếp cố ý giấu đấy, người thân thiết khắng khít nhất bỗng không còn tin tưởng mình nữa, nghĩ nát óc cũng không hiểu tại sao, thiếp muốn Quan gia cũng phải trải nghiệm cảm nhận mà thiếp đã nếm trải mấy năm nay!”

Nói đoạn, nụ cười đắng chát biến thành cười nhạt, “Một danh môn ngoại thích chức cao lại khiến Quan gia kiêng kị đến thế ư, hay vốn dĩ lòng đế vương là như vậy…”

“Chương Nguyên Gia!” Triệu Sơ lạnh lùng ngắt lời, “Nàng có biết mình đang nói gì không!”

Chương Nguyên Gia không buồn để ý tới chàng, vẫn tiếp tục nói, “Hay vốn dĩ lòng đế vương là như vậy, kiêng dè sinh nghi ngờ, nghi ngờ càng thêm nặng, đứng giữa nhân gian cũng không sánh bằng chỗ cao, lạnh nóng ra sao người thường cũng khó hiểu. Trước kia thiếp nghĩ Quan gia sẽ không như thế, công tâm mà nói thì Quan gia cũng chỉ là người phàm, không phải ngoại lệ, rồi cũng thèm khát mây trên cao, không còn là Hoàng thái tử lòng dạ ngay thật của ngày xưa nữa rồi.”

Những lời này đả kích quá nặng nề.

Thái y ở ngoài điện đã kê đơn xong, đang muốn đi vào trình cho Triệu Sơ xem, nhưng nghe thấy thế thì đầu gối không khỏi mềm nhũn, vội quỳ sụp xuống mặt đất lạnh băng, chờ cơn thịnh nộ của đế vương.

Song bất ngờ thay, ông ta không thấy lửa giận của Gia Ninh đế đâu.

Bởi khi Triệu Sơ nghe những lời ấy, thoạt tiên đô đồng tử bị chấn động dữ dội, sau đó chuyển sang mờ mịt, cuối cùng chàng cụp mắt, trong đôi mắt sâu hoắm nhuộm vẻ bi thương hoang mang đầy bất lực.

Có thể vì chàng quá điềm tĩnh, đến tướng mạo cũng tuấn tú dịu dàng, nhất là đối với nàng, chàng chưa bao giờ thật sự nổi giận.

Chỉ là chàng cảm thấy bất lực, vì bản thân không có cách nào giải thích chuyện này.

Chàng phải nói với nàng thế nào đây, mình hời hợt với nàng không phải vì lòng kiêng kỵ của đế vương, mà là vì sự cố trời long đất lở nhiều năm về trước, vì một lời hứa tất phải tuân theo, không chỉ vì phụ hoàng mà còn vì chính chàng.

Còn nàng lại quá thuần khiết, nếu biết tất cả những điều ấy thì sẽ tiếp nhận ra sao đây?

Triệu Sơ cảm thấy chán nản, làn mi dài tạo nên bóng mờ nơi mắt, đoạn đường này đúng là đầy cô độc mà, ngay đến người chàng cho rằng là thân thiết nhất cũng bị chính chàng đẩy ra xa.

Chương Nguyên Gia nhìn Triệu Sơ.

Mây mù tích tụ bấy lâu nay trong mắt chàng cuối cùng không biến thành giông bão mà hóa thành sương giá, hóa thành một tiếng thở dài lặng lẽ bên môi.

Chàng đứng lặng không nói lời nào, như quay về dáng vẻ của Hoàng thái tử trẻ tuổi năm xưa.

Và khi nàng nhận ra nỗi buồn trong mắt chàng, bất chợt thấy hối hận.

Ngày xưa hai người từng thân thiết lắm mà, không giấu giếm nhau chuyện gì, muốn bên nhau mọi khoảnh khắc, từng nụ cười từng câu nói của chàng luôn khiến lòng nàng rung rinh.

Nhiều năm trôi qua, đôi bên luôn hết lòng nghĩ cho đối phương, chưa bao giờ cãi nhau như lần này.

Nàng vốn là Hoàng hậu mà, đã nhẫn nại mấy năm rồi, sao không tiếp tục nhẫn nhịn thêm?

Chương Nguyên Gia lập tức mềm lòng, nàng cảm thấy mình không nên nói như thế, nàng không biết lời nói của mình có làm tổn thương chàng không, khiến chàng trở nên cô đơn buồn bã đến vậy, vành mắt nàng hoen đỏ, “Quan gia à, thiếp…”

“Chuyện hôm nay, trẫm không trách nàng.” Triệu Sơ nhẹ nhàng nói, “Mấy năm nay trẫm toàn bận chính sự, thiếu quan tâm đến nàng, nàng có giận âu cũng bình thường. Người bên cạnh nàng, đi hay ở do nàng tự quyết, lúc nãy trẫm chỉ tức giận nói thế mà thôi, sẽ không tự ý đổi người trong cung nàng, nàng đang mang thai, nhớ nghỉ ngơi cho tốt, trẫm có thời gian rảnh sẽ lại thăm nàng.”

Nói đoạn, chàng im lặng một lúc lâu, giọng khản đặc, “Có thể nàng không hiểu được cách làm của trẫm, nhưng, chắc nàng không biết…” Chàng dừng một lúc, “Kỳ thật trẫm rất mong đợi đứa bé trong bụng nàng, không liên quan đến xã tắc quốc gia, chỉ đơn giản vì đó là con của chúng ta.”

Nói đoạn, chàng thôi nhìn Chương Nguyên Gia, xoay người bước ra cửa, dặn thái y vài câu rồi đẩy cửa điện, một mình bước vào màn đêm sâu hút.
 
Chương 130


Triệu Vĩnh Nghiên được cung nhân dẫn vào điện.

Ly cốc bể dưới đất đã được dọn dẹp, nhưng từ dáng vẻ kín miệng của cung nhân vẫn có thể cảm nhận được bầu không khí lạnh lẽo sau tranh chấp. Triệu Vĩnh Nghiên không biết đã xảy ra chuyện gì, nàng thấy vành mắt Chương Nguyên Gia hoen đỏ, bên má có vệt nước mắt, bèn ngồi xổm trước đầu gối nàng, ngẩng đầu hỏi nhỏ: “Nương nương, nương nương cãi nhau với Quan gia à?”

Chương Nguyên Gia giơ tay lau khóe mắt, “Sao muội lại đến đây?”

“Dạo gần đây nương nương khó chịu trong người, mãi không thấy khỏe lên, nên Nhân Dục vào cung thăm.” Triệu Vĩnh Nghiên tựa vào đầu gối nàng, giọng dỗ dành, “Thứ cho Nhân Dục không tuân thủ phép tắc, để chắc chắn nương nương vẫn khỏe, dù trời khuya đến mấy thì Nhân Dục cũng phải vào.”

Ban đêm cửa cung có giới nghiêm, vào cung giờ này là vi phạm quy định, nhưng vì nàng là con gái của Dụ Thân vương nên lính canh mới nhắm mắt bỏ qua.

“Vừa vào tới điện Nguyên Đức thì gặp Quan gia nổi cáu, còn đuổi hết cung nhân ra khỏi điện, thị tì quỳ rạp đầy sân, Nhân Dục sợ chết đi được. Nhưng lo cho nương nương nên Nhân Dục không dám đi, đành đứng chờ bên ngoài. Cứ tưởng sẽ phải chờ một đêm chứ, ai dè chốc lát sau Quan gia đã đi ra.” Nói đến đây, Triệu Vĩnh Nghiên lắc nhẹ tay Chương Nguyên Gia, cười bảo, “Chính Quan gia bảo Nhân Dục vào nói chuyện với nương nương đấy, huynh ấy còn đặc cách cho phép Nhân Dục ở lại điện Nguyên Đức tối nay. Nương nương à, Quan gia biết sai rồi, nương nương đừng giận huynh ấy nữa.”

Chương Nguyên Gia im lặng rất lâu, nhẹ nhàng nói: “Không phải lỗi của Quan gia, Quan gia rất tốt, là ta làm sai nói sai, còn chàng luôn bao bọc tha thứ cho ta.”

“Nương nương tốt thế mà, sao có thể làm sai được?” Triệu Vĩnh Nghiên giả bộ ngạc nhiên, sau đó cười nói, “Nhưng Quan gia cũng tốt tính, chắc chắn giữa hai người có hiểu lầm gì rồi, chỉ cần nói rõ ra là có thể nhanh chóng tháo gỡ khúc mắc thôi.”

Nhanh chóng tháo gỡ khúc mắc.

Nghe lời đó, Chương Nguyên Gia không khỏi nhìn ô vuông trên cùng ơ kệ gỗ bên trái, đó là nơi nàng đặt ly ngọc cây liền cành, nhưng hiện tại ô vuông trống trơn.

Triệu Sơ đã tặng nàng chiếc ly ngọc ấy.

Có lẽ vì mất mẹ từ nhỏ, có lẽ vì Chiêu Hóa đế dạy dỗ quá nghiêm khắc, Triệu Sơ thân là Hoàng trưởng tử nhưng không hề tự phụ kiêu ngạo, chàng luôn khiêm tốn với mọi người. Chương Nguyên Gia nhớ năm xưa khi chàng vừa được phong làm Thái tử, lúc ở bộ Lễ kiểm tra cống phẩm, thấy ly ngọc cây liền cành trong số những món đồ Trung Châu cống nạp, nước ngọc lẫn hoa văn đều rất tự nhiên, chàng thích vô cùng, muốn tặng cho nàng, nhưng từ nhỏ tới lớn chàng chưa bao giờ lấy thứ đồ nào ngoài phân lệ của mình. Cứ nghĩ mãi nghĩ mãi, hỏi thăm được cặp ly ngọc này bị đem vào kho, đợi tới Tết sẽ lấy ra làm quà phân phát cho các cung, thế là chàng mới sai người cầm phân lệ của mình, đi tìm Tào Côn Đức, khách khó hỏi, “Đợi đến lễ Tết, có thể phát cặp ly ngọc đó cho Đông Cung được không, Bổn cung có thể đổi bằng thứ khác.”

Hoàng thái tử đã ngỏ lời, Nội Thị Tỉnh sao dám không theo, thế là hôm sau đưa ly ngọc đến Đông Cung.

Đến bây giờ Chương Nguyên Gia vẫn nhớ dáng vẻ sung sướng của Triệu Sơ khi nhận được cặp ly ngọc ấy, nhớ chàng mặc thanh sam, rảo nhanh bước chân qua cung điện trùng điệp, đi tới cạnh nàng, tặng một chiếc cho nàng, trong mắt là ý cười rạng rỡ.

Chỉ Vi bưng thuốc tới, ôn tồn nói: “Nương nương, uống thuốc thôi ạ. Nô tì đã sắc theo toa thuốc của Đổng thái y, Quan gia cũng đã xem qua toa thuốc này.”

Triệu Sơ là quân vương, biết gì về y thuật đâu. Chẳng qua chàng biết rất nhiều dược liệu, biết thuốc nào có vị đắng, vì chàng nhớ nàng không thích đắng.

Chương Nguyên Gia gật đầu, nhận lấy chén thuốc nhấp một ngụm, quả nhiên nước thuốc không hề đắng, có lẽ chàng đã dặn kỹ thái y.

Trên thực tế với tư cách là hoàng đế, chàng đã làm tất cả những gì mình có thể làm. Chương Nguyên Gia hối hận không thôi, nàng cảm thấy tối nay mình không nên tranh chấp với chàng, nàng là Hoàng hậu cơ mà, trên những đám mây mới là vùng đất của những chiếc gai, thân ở chốn cao, vốn cần nhẫn nhịn những điều người thường không thể.

Sao cứ phải cố tìm hiểu làm gì, trong bụng đã mang cốt nhục của chàng, còn so đo gì nữa?

Chương Nguyên Gia dần bình tĩnh lại, nghĩ bụng dù đang mang thai, mình vẫn cần phải giải quyết sự vụ hậu cung thật tốt. Nàng uống hết chén thuốc, nhìn Triệu Vĩnh Nghiên, “Lần trước nói đến hôn sự của muội, muội bảo mình đã có ý trung nhân, nhân phẩm tựa trăng sáng trên cao. Gần đây bổn cung nghĩ mãi, có phải người này là…” Nàng dừng một lúc, “Trương Nhị công tử, Trương Viễn Tụ?”

Triệu Vĩnh Nghiên sửng sốt, mắt hạnh mở lớn, “Sao nương nương biết hay thế?”

Quả nhiên là Trương Viễn Tụ.

Chương Nguyên Gia cười bảo, “Lúc trước bổn cung có nhắc đến chuyện này với Quan gia, Quan gia nói, ắt hẳn người đó không thuộc tông thất. Muội là Quận chúa, ngoài tông thất ra thì cũng chỉ mới gặp vài công tử kinh thành chưa có hôn phối, lại còn như trăng sáng nữa chứ, dĩ nhiên bổn cung có thể đoán được là y.”

Vành tai Triệu Vĩnh Nghiên dần ửng đỏ, nàng cụp mắt, giọng bé như muỗi, “Nhân Dục… Nhân Dục gặp chàng trong bữa tiệc Quỳnh Lâm hai năm trước. Chàng là Bảng nhãn, là người trẻ tuổi nhất trong các Tiến sĩ, là người nổi bật nhất. Yến tiệc Quỳnh Lâm… Nhân Dục lén tới tham dự, vốn chỉ định nấp ở sân sau xem vui thôi, chẳng ngờ nhặt được mặc bảo chàng dùng để viết lên quạt, để quên trong đình. Nhân Dục mới trả mặc bảo lại cho chàng, chàng còn chuyển lời đến Nhân Dục.”

Chương Nguyên Gia biết Trương Viễn Tụ là người thế nào, dịu dàng tựa mây trắng ló dạng, phong thái lời nói khiến đối phương như tắm gió xuân.

“Lúc đó không có cảm giác gì, ai dè về sau…”

Ai dè về sau, bóng dáng dưới trăng kia đã khảm vào tim nàng, liên tục nằm mơ hai năm, tới tận bây giờ vẫn không thể xóa nhòa.

Triệu Vĩnh Nghiên thấy khó mà mở miệng nói ra những lời ấy, bèn đổi lời, “Mùa xuân năm nay Nhân Dục theo mẫu thân hồi kinh, gặp lại chàng ở ngoài đình Thập Lý, chàng đang chuẩn bị lên đường đến Lăng Xuyên cùng Lan Nhược biểu ca… Chàng vẫn còn nhớ Nhân Dục, thấy xa giá của phủ Dụ Thân vương, còn nói với Nhân Dục, ‘Quận chúa vẫn khỏe chứ’…”

Chương Nguyên Gia nhìn vẻ ngượng ngùng của Triệu Vĩnh Nghiên, không khỏi hỏi, “Muội thích y lắm hả?”

Triệu Vĩnh Nghiên không đáp, ngước mặt nhìn Chương Nguyên Gia: “Nương nương, vì sao hồi ấy cô mẫu lại lấy dượng Tạ?”

Cô mẫu của Triệu Vĩnh Nghiên chính là mẫu thân của Tạ Dung Dữ, là Vinh Hoa trưởng công chúa.

Tạ Trinh xuất thân từ danh môn Tạ thị ở Trung Châu, phong nhã hào hoa, tài năng có một không hai, văn chương ông viết ra có thể khiến tứ hải chấn động, năm xưa Vinh Hoa công chúa thích ông, nghe nói đã để mắt đến công tử Tạ gia tại yến tiệc Quỳnh Lâm.

Về sau Thiên gia ban hôn cho Triệu Vinh Hoa và Tạ Trinh, tài tử giai nhân, công chúa và công tử danh môn đã trở thành giai thoại một thời.

“Thanh Chấp biểu ca chẳng khác gì thiên nhân, nhìn huynh ấy thôi cũng biết được phong thái của dượng Tạ năm xưa, Nhân Dục…” Triệu Vĩnh Nghiên cắn môi, “Không dám so mình với cô mẫu, nhưng rất ngưỡng mộ chuyện tình của bà ấy.”

Chiêu Hóa đế không có con gái, nên Triệu Vĩnh Nghiên có phân vị cao nhất trong số những cô gái tông tộc đồng lứa.

Công chúa và phò mã, quận chúa và quận mã, quả thực rất giống giai thoại của hai mươi năm trước.

“Nương nương.” Triệu Vĩnh Nghiên nhìn Chương Nguyên Gia, “Nương nương hỏi Nhân Dục có thích chàng không, Nhân Dục cũng không biết, nhưng ngoài chàng ra, Nhân Dục chưa từng nghĩ đến việc lấy người khác.”

Chương Nguyên Gia ngẫm nghĩ một lúc lâu, “Thực ra không phải là không được.” Nàng nói, “Tuy Trương nhị công tử không xuất thân từ danh gia vọng tộc, nhưng phụ thân y là sĩ đại phu nhảy sông Thương Lãng, huynh trưởng mất mạng dưới Tiển Khâm Đài, lão thái phó xót y, coi y như con trai mình, nếu ý trung nhân của muội là y, không phải chỉ cần ý chỉ tứ hôn là có thể quyết định được hôn sự này, e rằng phải nhờ Quan gia hỏi ý của lão thái phó đã.”

Đại Chu trọng sĩ trọng văn, huống hồ lão thái phó đức cao vọng trọng, năm xưa chấp chưởng Hàn lâm, học trò đông không đếm xuể. Trương Viễn Tụ là người lão thái phó coi trọng nhất, chuyện chung thân của y nên để lão thái phó làm chủ.

“Nhân Dục bằng lòng ạ.” Triệu Vĩnh Nghiên nói ngay, “Xin Quan gia và nương nương lo liệu cho Nhân Dục.”

Chương Nguyên Gia gật đầu: “Được rồi, đợi hôm nào Quan gia rảnh, bổn cung sẽ bẩm việc này với chàng.”

***

“Mời quý khách vào trong!”

Đông An sắp vào hè, chỉ mới hạ tuần tháng Năm mà từ đầu đường đến cuối ngõ đã bốc hơi nóng.

Ông chủ Hứa ở Tàng Phong Các vừa mở cửa đã gặp ngay bốn khách quý.

Đây là lần đầu ông ta thấy khách tới cao quý như vậy: công tử mặc trường sam màu trắng ở giữa quả thực không giống người phàm, núi sông tạc mi mắt, phong thái thanh cao, chỉ vừa đặt chân vào cửa thôi mà sóng nhiệt ngoài phố như bị y đẩy lùi.

Cô gái đi cạnh y mặc váy xanh, vóc dáng mảnh mai, tiếc rằng đội mũ trùm nên không thấy rõ mặt. Thậm chí đến hai tùy tùng đi sau bọn họ cũng có phong thái bất phàm, nhìn là biết người nhà giàu.

Ông chủ Hứa không dám làm ngơ, nhiệt tình đón chào, “Quý khách đến chọn đao kiếm ạ?”

Thanh Duy đáp phải, nói: “Có đao tốt không? Đem ra xem nào.”

“Có ngay có ngay.” Ông chủ Hứa liến thoắng, dẫn bọn họ vào trong, “Mấy thứ ngoài cửa hàng toàn là đồ bình thường, đao kiếm tốt nằm ở bên trong, mời quý khách theo tại hạ.”

Tàng Phong Các là cửa hàng binh khí trên phố Lưu Chương.

Phố Lưu Chương là một trong những con phố tấp nập xa hoa nhất phủ Đông An, văn nhân mạc khách đều ưa tụ tập tại ở Thuận An Các chỗ này. Năm xưa Lăng Xuyên nghèo khó, không quá trọng văn, song sáu năm trước khi triều đình xây dựng Tiển Khâm Đài, làn gió sùng văn ngày một thịnh hành, ngoài Thuận An Các ra, các tiệm thư họa, bút mực ở phố Lưu Chương dần dà mọc lên như nấm, thậm chí Thuận An Các còn tổ chức đại hội thi họa mỗi tháng một lần. Về sau Tiển Khâm Đài sập, phố Lưu Chương tiêu điều một thời gian, nhưng kể từ khi Gia Ninh đế kế vị, hỗn loạn dần ổn định, đau thương cũng dần vơi, nhất là khi năm nay triều đình quyết định xây lại Tiển Khâm Đài, phố Lưu Chương lần nữa khôi phục cảnh phồn thịnh năm xưa.

Tàng Phong Các lựa chọn lối đi riêng, là tiệm binh khí duy nhất ở phố Lưu Chương, được sửa sang khá tao nhã, là bởi học văn cũng không thể quên võ, chuyện kinh doanh cũng khấm khá.

“Hình như ta chưa thấy thanh đao này bao giờ.” Triêu Thiên thấy một thanh loan đao treo trên tường thì đưa tay lấy xuống, thân đao khá nhỏ, đầu đao cong, thoạt giống miêu đao nhưng lại ngắn hơn.

“Đây là miêu đao đầu cong.” Thanh Duy nói, “Lăng Xuyên nhiều sơn tặc, loại vũ khí này bắt nguồn từ thổ phỉ, hình dạng đao được thiết kế để kê sát tay dùng, vừa là đao mà cũng có thể là dao găm, khá tiện lợi.”

Tuy nàng không lớn lên ở Lăng Xuyên nhưng gốc Nhạc thị bắt nguồn tại đây, hồi bé khi còn ở quê nhà Thần Dương, nàng thường nghe mẹ và sư phụ kể chuyện nơi này.

Triêu Thiên nói: “Thiếu phu nhân am hiểu nhiều ghê!”

Ông chủ Hứa cười bảo: “Thanh miêu đao đầu cong này chưa phải là hàng tốt nhất đâu, trong tiệm tại hạ còn có vũ khí do đại sư Chí Minh chế tạo riêng đấy.” Nói đoạn, ông ta dẫn nhóm Triêu Thiên đi tới trước một bức tường khác, “Đại sư Chí Minh là thợ đao kiếm nổi tiếng nhất Lăng Xuyên, đao kiếm do ông ấy chế tạo không một ai chê, quý khách có thể xem.”

Triêu Thiên nhìn lên bức tường trước mặt, binh khí treo trên đó vẫn còn nằm trong vỏ, đúng là không uổng công chuyến đi lần này.

Thực ra từ lúc đến Lăng Xuyên hắn đã muốn hỏi thăm nơi nào có đao tốt, cái danh đại sư Chí Minh chẳng khác gì sấm bên tai hắn, không ngờ công tử lại đích thân dẫn hắn đến đây mua.

Bên ngoài lại có khách đến, gọi ông chủ, ông chủ Hứa đáp lại rồi nói với nhóm Triêu Thiên: “Đi ra ngoài theo cửa nhỏ còn có nơi tập võ, tuy sân không lớn lắm, nhưng nếu quý khách ưng ý thanh nào thì có thể tới đó dùng thử.” Nói đoạn, ông ta ra ngoài tiếp khách.

Triêu Thiên hăng hái chọn một thanh đao, chưa thử mà đưa cho Thanh Duy xem trước.

Thanh Duy rút đao ra, quơ thử một đường rồi nhìn kỹ, “Hoa văn lẫn hình dạng đều rất tốt, lưỡi đao được rèn rất sắc, cầm không trơn tay, bản thân ta thấy hơi nặng, nhưng nếu cậu cầm chắc là vừa đấy.”

Nhận được sự thừa nhận của nàng, Triêu Thiên xác định đấy là đao tốt, tốt hơn bất cứ thanh đao nào hắn đã từng dùng trước đây, sau đó lại quay sang hỏi ý Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ áng chừng, “Đúng là không tệ.”

Triêu Thiên hào hứng ra ngoài thử đao.

Thanh Duy xem lần lượt từng binh khí treo trên tường trong lúc chờ hắn, nghĩ bụng đại sư Chí Minh không hổ là đại sư, mỗi một thanh đao kinh qua tay ông đều là hàng tốt cả.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, nhẹ nhàng nói: “Thích cái nào thì cứ việc chọn.”

Không thể thường xuyên sử dụng nhuyễn ngọc kiếm, mà huyền ưng đao lại là vân đầu đao, nàng cầm không vừa tay. Bình thường khi đánh nhau, nàng toàn vớ phải thứ gì thì dùng thứ đó.

Đúng là nàng cần một món vũ khí tốt.

Thế là Thanh Duy cũng chẳng khách khí, tháo một thanh trọng kiếm xuống, nói với Tạ Dung Dữ, “Ta muốn thử thanh kiếm này.”

Tạ Dung Dữ đưa mắt nhìn trọng kiếm, nói với Đức Vinh: “Lấy bạc đi thanh toán đi.”

Đức Vinh vâng dạ, không đợi Thanh Duy phản ứng đã sải bước đi ra phòng ngoài, một lúc sau quay về, bẩm, “Công tử, đã thanh toán xong rồi ạ, ông chủ nói đây là hộp kiếm tặng thiếu phu nhân.”

Thanh Duy chặc lưỡi, nhìn thanh kiếm trong tay: “Nhưng ta vẫn chưa thử mà.”

Tạ Dung Dữ nói: “Giờ thử vẫn chưa muộn, không thích thì chọn cái khác.”

Nhìn là biết thanh trọng kiếm này có giá trị không rẻ, Thanh Duy đâu dám chọn cái khác nữa, thế là rút kiếm ra toan đi thử, nhưng Tạ Dung Dữ vừa nhìn qua đã ngăn nàng lại, “Được rồi, chuôi của trọng kiếm này chỉ là thứ phẩm, nàng đem về dùng tạm ít hôm, có gì ta sẽ tìm người làm cho nàng một chuôi kiếm tốt hơn.”

Thanh Duy nói: “Sao lại là thứ phẩm?”

Chuôi trọng kiếm này cũng được do đại sư Chí Minh làm ra mà.

Tạ Dung Dữ nói: “Tuy hình dạng trơn tru nhưng dày mỏng không đều; hoa văn tạm được, song thiếu kỹ thuật; mũi kiếm tuy sắc nhưng chưa đến mức chém đứt tóc; nhất là phần chuôi kiếm, tuy chuôi kiếm không trượt tay nhưng lại không được đính ôn ngọc, lúc đánh nhau dễ ảnh hưởng đến hổ khẩu.”

Thanh Duy ngẩn ra: “Nhưng chế tác của thanh kiếm này cũng không khác mấy so với thanh của Triêu Thiên mà.”

Lúc nãy Triêu Thiên hỏi y đao thế nào, rõ ràng y bảo không tệ.

Tạ Dung Dữ thong thả nói: “Hắn dùng không tệ, nhưng nàng mà dùng thì chỉ đáng thứ phẩm, nếu nàng không muốn lãng phí, bao giờ không cần nữa cứ thảy cho Triêu Thiên.”

Triêu Thiên mới hào hứng thử đao bước vào: “…”
 
Chương 131


“Trọng kiếm sáu mươi lượng bạc trắng, đao rẻ hơn, năm mươi tám lượng. Vừa nãy mua kiếm quan khách đã đưa tại hạ ngân phiếu một trăm lượng, giờ trả thêm mười tám lượng là được.”

Triêu Thiên chọn đao xong rồi đi đến quầy, ông chủ Hứa vừa gảy bàn tính vừa báo tổng tiền.

Đức Vinh đặt hai đĩnh bạc trị giá mười lượng lên quầy, ông chủ Hứa nhận lấy, đang định trả lại tiền thừa thì Đức Vinh nói: “Ông chủ không cần thối, công tử nhà ta muốn hỏi ông vài chuyện.”

Quan khách trước mắt ra tay hào phóng, ông chủ Hứa đâu dám từ chối, “Quý khách cứ hỏi ạ.”

“Là vầy, công tử nhà ta là nhân sĩ Trung Châu, đến Lăng Xuyên thăm bạn cũ, định mua ít tranh chữ đem tặng. Từ lâu nghe nói phố Lưu Chương tấp nập tiệm tranh chữ, không biết cửa tiệm nào tốt nhất?”

“Các vị hỏi đúng người rồi đây, tại hạ đã kinh doanh ở con phố này sáu bảy năm, quen biết hết chủ tiệm lân cận. Nếu chỉ là tranh chữ thì có Mặc Hương Trai, Thập Sơn Lâu, bọn họ đều có vài tác phẩm nổi tiếng, còn nếu bảo tiệm nào kinh doanh được nhất, thì không nơi nào vượt qua Thuận An Các.”

Đức Vinh nói: “Nhưng bọn ta nghe nói tranh chữ mà Thuận An Các bán chủ yếu là tác phẩm của họa sĩ trong nhà, công tử nhà ta lo không mua được đồ quý.”

“Quan khách nói không sai, đúng là Thuận An Các có thuê họa sĩ.” Ông chủ Hứa nói, “Ây da, chuyện này phải kể từ đầu, thực ra ban đầu Thuận An Các chỉ là cửa tiệm bút mực bình thường, nhưng sáu năm trước triều đình cho xây dựng Tiển Khâm Đài còn gì, phong trào sùng văn ở Lăng Xuyên cũng dần lan rộng, dân chúng bình thường, hễ trong nhà rủng rỉnh tiền bạc là lại mua tranh chữ đẹp. Ông chủ Trịnh của Thuận An Các rất khôn, nghĩ dân chúng mua tranh chữ cũng chỉ là học làm sang, sẽ không chi nhiều tiền, bèn thuê mướn vài thư sinh biết vẽ tới trước tiệm mình viết chữ bán tranh, lại định kỳ tổ chức thi hội trong tiệm, triệu tập văn nhân nhã sĩ làm thơ xướng họa, cứ thế, thanh danh Thuận An Các ngày một vang xa, tranh chữ tiệm ông ta bán không đắt, nhưng do có cái danh Thuận An Các nên được mọi người khen ngợi, vì vậy ai cũng thích đổ xô đến Thuận An Các mua tranh.

Quan khách lo không mua được đồ quý ở Thuận An Các, tại hạ đảm bảo không cần phải băn khoăn làm gì. Mấy năm nay thanh danh của Thuận An Các không hề giảm, rất nhiều danh gia nhã sĩ sẵn lòng gửi tranh của mình đến đó bán, cộng thêm trong các còn tổ chức cuộc hội thi họa mỗi tháng một lần, hễ có được món đồ trân phẩm, ông chủ sẽ đem ra cho người giám định, thưởng thức hay bán đi. Quan khách biết đấy, Lăng Xuyên được bao quanh bởi núi non, mấy chục năm nay tuy nhiều sơn tặc, nhưng tại tiền triều trăm năm trước, đây cũng là nơi mà ẩn sĩ danh gia thích tới quy ẩn, cho nên có rất nhiều đại sư thi họa ra đời ở đây, cũng có rất nhiều trân phẩm lưu lạc nhân gian. Quan khách muốn mua tranh tốt, chi bằng đến Thuận An Các hỏi một câu, xin một ghế trong hội thi họa cuối tháng này, ắt hẳn sẽ không thất vọng đâu.”

Ông chủ Hứa giới thiệu rất kỹ, Đức Vinh nghe xong, ngoái đầu xin ý của Tạ Dung Dữ, thấy Tạ Dung Dữ gật đầu bèn bảo: “Hóa ra là vậy, đa tạ ông chủ, bọn ta sẽ đến Thuận An Các xem sao.”

Ông chủ Hứa vội nói khách khí, tiễn bọn họ rời tiệm.

Tạ Dung Dữ vốn bận công vụ, hôm nay ra ngoài đương nhiên không phải mua đao cho Triêu Thiên, mua đao chỉ là việc nhân tiện, mục đích chính là muốn hỏi thăm về Thuận An Các này.

Tạ Dung Dữ biết kẻ đầu sỏ giao dịch danh sách lên đài là Khúc Bất Duy, nhưng trong tay y không có bằng chứng thực, không thể trực tiếp điều tra vị quân hậu này được, huống hồ vụ án này còn liên quan đến việc trùng kiến Tiển Khâm Đài, nếu bây giờ mà đào bới thì kiểu gì cũng sẽ bị ngăn cản.

Sau đó Tạ Dung Dữ nhớ ra, theo tính cách kỹ lưỡng của Sầm Tuyết Minh, không lý nào trên núi Trúc Cố còn sót lại nhân chứng sống là ông Cát được, chỉ e sau khi Tiển Khâm Đài sập, Sầm Tuyết Minh lo Khúc Bất Duy lôi mình ra làm dê thế tội nên mới cố ý chừa đường lui, việc này cũng giải thích vì sao Tôn Nghị Niên biết Khúc Bất Duy – là Sầm Tuyết Minh cố ý tiết lộ với ông ta.

Nếu Sầm Tuyết Minh đã khổ tâm để lại nhân chứng cho mình, vậy ắt hẳn gã sẽ để lại thêm nhiều bằng chứng khác nữa.

Thế là Tạ Dung Dữ bắt tay điều tra, phát hiện trước khi Sầm Tuyết Minh mất tích đã từng đến Thuận An Các vài lần, thế nên mới có ý định đến phố Lưu Chương.

Trải qua vài năm kinh doanh, nay Thuận An Các đã là một tòa nhà rộng rãi khang trang, bình phong trúc trong lầu vô cùng trang nhã, đèn vuông bàn dài, không giống cửa tiệm mà giống nhã các chuyên phẩm trà giám họa hơn, ông chủ Trịnh đang thu dọn tranh cuộn ở bên trong, thấy hội Tạ Dung Dữ tới thì vội vàng nghênh đón, “Mời quý khách vào trong, quý khách muốn xem tranh hay có tranh gửi bán?”

Đức Vinh nói: “Công tử nhà ta muốn chọn vài bức tranh quý.”

“Chẳng hay là tranh quý kiểu nào ạ?” Ông chủ Trịnh hỏi, “Tranh truyền thần non nước, tranh chân dung chi tiết, tranh họa nhàn nhã, hay là tác phẩm của danh gia nào?”

Đức Vinh nói, “Là thế này, công tử nhà ta là nhân sĩ Trung Châu, đến Lăng Xuyên bái tế bạn cũ, hồi còn sống người bạn cũ này rất thích sưu tầm tranh chữ, nghe nói từng ghé thăm Thuận An Các mấy lần, công tử nhà ta không quan tâm mua tranh dạng gì, chỉ cần bạn cũ thích là được.”

Ông chủ Trịnh thấy người tới có vẻ cao quý, đoán chừng người kết giao cũng là nhân vật tai to mặt lớn, may là trong mấy năm ông ta bán tranh chữ đã gặp không ít quan lớn hay hậu duệ quý tộc, bèn là bảo, “Xin hỏi bạn cũ của các hạ tên họ là gì, nếu các hạ tiện cho biết, tại hạ có thể kiểm tra sổ sách mấy năm nay.”

Tạ Dung Dữ nói: “Y họ Sầm, tên là Sầm Tuyết Minh.”

Ông chủ Trịnh ngạc nhiên: “Hóa ra là thông phán đại nhân về hưu, đại nhân đã qua đời rồi ư?”

Sau khi Tiển Khâm Đài sập, Lăng Xuyên rơi vào cảnh hỗn loạn, bên ngoài không biết Sầm Tuyết Minh mất tích, triều đình cũng không thông cáo nên người bình thường cứ tưởng gã đã từ quan.

Ông chủ Trịnh nghĩ ngợi, đoạn gọi một người làm tới, sai hắn đi lấy sổ sách năm Chiêu Hóa thứ mười ba đến, sau đó dẫn nhóm Tạ Dung Dữ vào nhã các bên cạnh, rót trà cho họ. Một lúc sau, người làm đem sổ sách tới, ông chủ Trịnh lật đi lật lại, “Quan khách nói không sai, trước khi Sầm đại nhân về hưu, đúng là ngài ấy từng đến tệ các mua vài bức tranh.”

Thanh Duy hỏi: “Y đến đây lúc nào? Có nhớ mua tranh gì không?”

“Là tháng Chín trong năm. Còn về tranh gì thì tại hạ thực sự không nhớ được. Tranh ngài ấy mua cũng không quá quý, họa sĩ cũng không có danh tiếng, tên là Sấu Thạch.” Ông chủ Trịnh chỉ vào hai chữ “Sấu Thạch” trên sổ cho Thanh Duy và Tạ Dung Dữ xem, “Có lẽ vị họa sĩ này chỉ gửi bán vài tranh ở Thuận An Các, nếu không tại hạ đã có ấn tượng rồi. Nếu các hạ muốn biết hồi còn sống thông phán đại nhân mua tranh gì, chi bằng đến chỗ ở cũ của ngài ấy xem sao, nói không chừng ở đó vẫn còn tác phẩm của họa sĩ Sấu Thạch.”

Thanh Duy nói: “Ông chủ có thể ghi lại cho bọn ta danh sách tranh mà Sầm đại nhân đã mua được không?”

“Dĩ nhiên là được.” Ông chủ Trịnh lập tức sai người làm sao chép lại, sau đó tiễn nhóm Tạ Dung Dữ ra khỏi lầu các, vừa đi vừa nói, “Bao giờ các hạ xác định thông phán đại nhân thích họa tác thế nào thì có thể nói với tệ các, tệ các mướn rất nhiều họa sĩ, am hiểu đa phong cách, ắt hẳn có thể vẽ được kiểu mà Sầm đại nhân thích. À phải rồi,” Ông chủ Trịnh chợt dừng lại, nháy mắt ra hiệu với người bên cạnh, chẳng mấy chốc, người làm cầm một tấm thiệp mời đến, “Cuối tháng này tệ các có hội thi họa, sẽ có không ít danh họa kỳ họa đến góp mặt, nếu các hạ có hứng thú thì cứ việc ghé xem.”

Đức Vinh nhận tấm thiệp mời, “Đa tạ ông chủ.”

Dù Thuận An Các có bài trí phong nhã thế nào đi nữa thì vẫn là nơi kinh doanh, hội thi họa nói thẳng ra là triển lãm tác phẩm, ai trả giá cao sẽ mua được. Dù gì ông chủ Trịnh cũng là thương gia, thấy Tạ Dung Dữ có vẻ phong nhã thì cho rằng đã gặp được khách sộp, rất lo y sẽ không đến hội thi họa, nên ông ta nhiệt tình tiễn y ra tận ngoài cửa, vừa đi vừa nói: “Nếu các vị đã lặn lội từ Trung Châu xa xôi đến, chi bằng nếm thử ít đặc sản lăng Xuyên đi, tiệm cơm ở khu Cẩm Đông nổi tiếng nhưng mùi vị lại khá bình thường, tại hạ biết một quán, cách phố Lưu Chương không xa, tên là Nguyệt Thượng Thực, đi thẳng ra khỏi con phố phía trước, băng qua hai con ngõ là đến nơi. Đồ ăn ở quán này ngon cực, nhất là món khoai nướng, là món chính gốc đấy.”

Thanh Duy ngạc nhiên: “Khoai hầm?”

“Đúng thế, thực ra món này vốn của sơn tặc Lăng Xuyên. Ngày trước Lăng Xuyên nghèo, sơn tặc không có thịt ăn, thế là nướng khoai lên, rắc thêm chút muối, xem như thịt cá mà ăn, nhưng do khó điều chỉnh độ lửa nên chẳng có nhiều nơi làm ra được món chính gốc, mà tiệm Thượng Nguyệt Thực làm ngon nhất, gọi thêm một bầu Thiêu Đao Tử, có thể nói là mỹ vị nhân gian.”

Mỗi vùng một phong tục, sơn tặc không phải chuyện hay ho, nhưng dần dà cũng thành tập tục mới.

Thanh Duy nhớ năm xưa lúc ở Thần Dương, Nhạc Ngư Thất cũng hay nướng khoai ăn, kèm theo một bầu Thiêu Đao Tử. Ông nói hồi nhỏ ông không được ăn thứ này, toàn róc vỏ cây ở trên núi Lăng Xuyên, sau được Nhạc Xung nhặt về, kín đáo dúi cho ông một củ khoai nướng, ông cảm thấy sơn hào hải vị mà thiên nhân ăn cũng không bì được.

Thanh Duy rất muốn đến Thượng Nguyệt Thực, nếm lại mùi vị của khoai nướng lần nữa, nhưng nàng biết Tạ Dung Dữ làm việc không trì hoãn, hôm nay y ra ngoài là để điều tra Sầm Tuyết Minh, có được danh sách số tranh mà Sầm Tuyết Minh đã mua, bây giờ cần phải đến nha môn.

Chiều hôm buông, sóng nhiệt ban ngày đã bị hoàng hôn đẩy lùi, gió nổi lên, hơi lạnh cũng theo đến.

Đức Vinh kéo xe ngựa tới, lấy ra hai chiếc áo khoác ở trong xe, đưa cho Tạ Dung Dữ rồi hỏi, “Công tử, giờ ta đến nha môn luôn ạ?”

Tạ Dung Dữ nhận lấy áo khoác, nhìn sang Tạ Dung Dữ, đang định mở miệng thì chợt thấy Thanh Duy nhíu mày.

Dường như nàng cảm nhận được điều gì đó, quay phắt đầu lại.

Đúng giờ đèn đóm điểm sáng, các tiệm nơi thì thắp đèn, nơi chào hỏi khách, người qua lại không đông, phóng mắt nhìn có thể thấu cuối phố, không có gì khác biệt.

Nhưng rõ ràng vừa nãy nàng cảm thấy có gì đó không đúng.

Như trong chớp mắt ấy, có ai đó đang nhìn nàng chăm chú.

Tạ Dung Dữ nhìn theo ánh mắt nàng, cũng không phát hiện được gì, nhưng y biết giác quan của Tiểu Dã rất nhạy, bèn ra lệnh: “Triêu Thiên, ngươi qua đó kiểm tra xem thế nào.”

Triêu Thiên đáp một tiếng, xách thanh đao mới toan đi đến đầu kia con phố, song đã bị Thanh Duy cản lại, “Được rồi, cậu chỉ mới khỏi bệnh, có thể là ta đã nhầm.”

Nàng có giác quan nhạy bén, thị giác cực tốt, chỉ cần bị nàng phát hiện thì gần như không ai có thể thoát khỏi tầm mắt, hơn nữa nàng cũng phản ứng nhanh như gió, song trên phố phường chẳng hề có dấu hiệu khác thường, có thể chỉ là ảo giác lúc gió nổi.

Thanh Duy vừa nói vừa bước lên xe, “Tới nha môn thôi.”

Nhưng Tạ Dung Dữ đã kéo nàng lại, nàng chỉ mặc mỗi chiếc váy xanh mỏng manh, y mở rộng áo chùng khoác lên vai nàng, ôn tồn hỏi: “Muốn đến nha môn?”

Thanh Duy hỏi: “Không đi à?”

Tạ Dung Dữ thắt dây giúp nàng, “Chẳng phải Tiểu Dã cô nương muốn tới Thượng Nguyệt Thực ăn khoai nướng ư?”

Thanh Duy ngạc nhiên: “Sao ngài biết?”

Tạ Dung Dữ bật cười, chỉ hỏi ngược lại: “Đúng nhỉ, sao ta lại biết được?”

Có lúc Ôn Tiểu Dã rất dễ đoán.

Khoai nướng cần có Thiêu Đao Tử đi kèm.

Năm ngoái khi hai người vừa thành thân, lúc nào nàng cũng đem theo bên mình một túi Thiêu Đao Tử. Hồi ấy nàng chỉ một lòng tìm kiếm Nhạc Ngư Thất, trong khi bản thân nàng lại không thích rượu, cho nên không cần nghĩ cũng biết túi Thiêu Đao Tử đó dùng để biếu ai.

Thanh Duy ảo não, nàng đã gạt phăng suy nghĩ đó đi rồi, y không nhắc đến đã đành, y vừa nhắc, nàng lại càng muốn đi.

Nàng dè dặt hỏi: “Có được không?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, “Nàng nói xem?”

Có bao giờ y từ chối yêu cầu nào của nàng đâu.

Thượng Nguyệt Thực nói xa không xa, bảo gần cũng chẳng gần.

Tạ Dung Dữ vươn tay về phía nàng, “Muốn ngồi xe ngựa, hay là cùng đi bộ?”

Bóng đêm vừa khéo, đèn vừa mới lên, gió dần lớn mạnh, nhưng đã khoác áo chùng nên chẳng còn thấy lạnh.

Thanh Duy thảy thanh trọng kiếm vừa mua vào tay Triêu Thiên, rảo bước đi tới bên cạnh Tạ Dung Dữ, “Đi bộ đi!”

***

Đợi bóng người rời xa, từ sau cửa hàng trong phố có một người bước ra.

Người này cũng mặc áo chùng, dáng vẻ cao ráo, cầm trong tay một cây sáo trúc, đội mũi che kín nửa gương mặt, chỉ để lộ phần cằm góc cạnh.

Người này nhìn chằm chặp bóng lưng Thanh Duy từ xa, thấy nàng vui vẻ đi cạnh Tạ Dung Dữ, gió đêm thổi bay áo chùng trên người nàng, để lộ đôi bàn tay nắm chặt nhau, kẻ trên phố không kìm được “chậc” một tiếng ghét bỏ.
 
Chương 132


Ngày hôm sau.

Căn nhà trước mắt thoạt nhìn không hề tầm thường, giống nhà ngói nông canh, Tống trưởng lại lấy khóa đồng mở cửa, “Tranh chữ Sầm thông phán sưu tầm không nhiều, mấy năm trước hạ quan đã thu dọn một lần, sau này cũng chỉ định kỳ phái người đến dọn dẹp, tránh bị mối mọt ẩm mốc.”

Nơi này chính là nhà cũ của Sầm Tuyết Minh.

Lại nói tuy Sầm Tuyết Minh kẻ trí trá, nhưng trong thời gian làm quan lại có danh tiếng không tệ, vợ của gã mất sớm, kể từ đó không hề tục huyền, trước khi mất tích vẫn một mình ở đây.

Tạ Dung Dữ để Kỳ Minh dẫn Huyền Ưng vệ vào kiểm tra tranh chữ, còn mình hỏi Tống trưởng lại, “Năm xưa khi Sầm thông phán mất tích, vì sao lại là ngươi hỗ trợ thu dọn nhà cũ?”

Án mất tích được treo ở nha phủ Đông An, Tống trưởng lại là quan ở Lăng Xuyên, theo lý mà nói vụ án này không đến lượt hắn nhúng tay vào.

Tống trưởng lại cười bảo: “Chẳng phải năm ấy Lăng Xuyên có loạn à, Ngụy Thăng bị chém, rất nhiều quan viên chịu tội liên đới, cũng không ít người từ chức, án ở nha châu rồi án ở nha phủ, rối bòng bong cả lên, lúc ấy hạ quan còn là tri huyện nhỏ nhoi, phải lo những việc lặt vặt không ai làm.” Hắn dẫn Tạ Dung Dữ và Thanh Duy đi vào nhà, lại thở dài, “Thông phán đại nhân mất tích không phải án nhỏ, cần phải điều tra kỹ càng, nhưng thứ nhất, nha môn không không có nhiều nhân lực để phân công, thứ ai, ai đoán được ông ấy mất tích? Mọi người tưởng ông ấy đã cấu kết với Ngụy Thăng, bỏ chạy trong đêm. Sau đó Tề đại nhân đến nhậm chức, cũng từng phái người đi tìm rồi, nhưng kết quả cũng vô ích.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng.

Thực ra Vệ Quyết đã lục soát căn nhà này từ mấy hôm trước, song không tìm được manh mối hữu dụng. Có điều Vệ Quyết có thói quen rất tốt, hễ là nơi hắn từng lục soát thì đồ vật sẽ được thu dọn gọn gàng, được sắp xếp thành danh mục, tạo thành danh sách. Nhờ thế mà hôm nay Kỳ Minh dẫn người đến lục soát rất nhanh, chẳng mấy chốc đã kiểm kê xong.

Tổng cộng có sáu cuộn tranh, Tạ Dung Dữ đứng trong sảnh mở lần lượt từng cuộn một, ngoại trừ hai bức thuộc về người khuyết danh, bốn bức còn lại quả nhiên là tranh của Sấu Thạch.

Trước khi mất tích Sầm Tuyết Minh từng đến Thuận An Các mua tranh của Sấu Thạch, Tạ Dung Dữ còn tưởng tranh này có gì quý báu, nhưng nay xem ra, ngoài nét đậm nhạt loang màu ổn định thì kỹ năng cũng bình thường, Tạ Dung Dữ nói: “Đưa hai bức khuyết danh ta xem.”

Tranh khuyết danh là tranh mô phỏng, dựa theo danh tác tiền triều.

Tạ Dung Dữ không khỏi cau mày, xem ra Sầm Tuyết Minh cũng không phải người yêu tranh, nếu không gã không chỉ sưu tầm hai bức tranh mô phỏng, nhưng nếu gã đã không thích tranh, vậy vì sao trước lúc mất tích còn mua bốn bức tranh của Sấu Thạch?

Hay là, trọng điểm không ở tranh vẽ mà nằm ở họa sĩ Sấu Thạch?

Tạ Dung Dữ hỏi Tống trưởng lại: “Hôm nay Trương Nhị công tử có ở nha môn không?”

Tống trưởng lại đáp lời: “Có ạ, dạo gần đây cả Trương đại nhân lẫn Chương đại nhân đều ở nha môn, cùng Tề đại nhân giải quyết công việc của huyện Thượng Khê.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, bảo Kỳ Minh cất tranh, vừa đi ra ngoài vừa bảo: “Gửi thiệp cho Trương Viễn Tụ, mời hắn quá ngọ đến trang viên gặp bổn vương.”

***

Ít hôm trước Chương Đình và Trương Viễn Tụ đã đến Đông An, vì bọn họ cũng là đại quan nên cũng ở dinh thự riêng, cộng thêm phải đến Thượng Khê nên vẫn chưa thể tới gặp Tạ Dung Dữ.

Thiệp được gửi đi vào ban sáng, chưa đến trưa Trương Viễn Tụ đã gửi thiệp về, nói rằng quá ngọ sẽ đến đúng giờ.

Hồi Thanh Duy gặp lại Tạ Dung Dữ ở Thượng Khê, nàng đã kể cho y biết lúc trước mình thoát khỏi cuộc truy đuổi của Tả Kiêu vệ thế nào, rồi lại rời thành ra sao. Nhờ thế Tạ Dung Dữ mới biết chính Trương Viễn Tụ đã cứu Thanh Duy, thậm chí về sau Thanh Duy có thể bình an rời kinh cũng nhờ Trương Nhị công tử thu xếp. Hồi đầu năm Trương Viễn Tụ đến Trung Châu phá án, y còn từng gặp Thanh Duy một lần, Thanh Duy có thể đến Lăng Xuyên cũng nhờ có y hỗ trợ. Tiếc rằng lúc đó Thanh Duy từ biệt vội vã, đến hôm sau Trương Viễn Tụ tìm tới dịch xá thì người đã đi rồi.

Hôm nay Trương Viễn Tụ sẽ đến, Thanh Duy nói muốn gặp mặt cám ơn ơn tương trợ của Trương Nhị công tử, dĩ nhiên Tạ Dung Dữ sẽ đồng ý.

Vừa quá giờ ngọ, Kỳ Minh đã đến bẩm: “Ngu hầu, có Trương đại nhân đến ạ.”

Ngoài thư phòng ánh nắng chan hòa, Trương Viễn Tụ mặc thanh sam, mặt tựa ôn ngọc, được Huyền Ưng vệ dẫn vào, vừa đến gần, y lập tức hành lễ với Tạ Dung Dữ: “Bái kiến Chiêu vương điện hạ.”

Sau đó dời mắt nhìn sang cô gái đứng bên cạnh, như lấy làm bất ngờ: “Ôn cô nương?”

Thanh Duy nói: “Hồi đầu năm ở Trung Châu ta ra đi gấp gáp, chưa kịp cám ơn Trương Nhị công tử, mong Trương Nhị công tử chớ trách.”

Trương Viễn Tụ mỉm cười: “Chỉ là việc tiện tay thôi mà, Ôn cô nương cần gì để bụng.”

Sau đó nói với Tạ Dung Dữ, “Nghe bảo điện hạ cho gọi hạ quan là vì muốn giám định tranh?”

Tạ Dung Dữ gật đầu, dẫn Trương Viễn Tụ vào thư phòng, mở những bức tranh đã lục soát hồi sáng ra, “Bổn vương tìm được mấy bức tranh nay ở nhà cũ của cố nhân. Hiện người này đã mất tích, bổn vương muốn tìm tung tích của hắn, không rõ Trương Nhị công tử có nhìn ra manh mối nào từ tranh vẽ không?”

Trương Viễn Tụ đưa mắt nhìn tranh: “Xin điện hạ chờ một lúc.”

Kể ra thì, giữa Tạ Dung Dữ và Trương Viễn Tụ cũng có quan hệ sâu xa.

Phụ thân bọn họ đều là nhân sĩ nhảy sông Thương Lãng. Trương Ngộ Sơ thi đậu Tiến sĩ trước Tạ Trinh vài năm, khi Tạ Trinh vào làm quan, văn chương của ông còn được Trương Ngộ Sơ kính nể, nói công tử Tạ gia hành văn phóng khoáng, ẩn chứa tấm lòng cứu thế. Sau sự kiện nhảy sông khuyên gián, bọn họ cũng là hai người mà triều đình luyến tiếc nhất.

Sau chuyện đó, Tạ Dung Dữ gần năm tuổi được đón vào cung, còn lão thái phó vẫn đang chưởng quản Hàn Lâm lúc ấy đã nhận nuôi hai anh em Trương Chính Thanh, Trương Viễn Tụ.

Chiêu Hóa đế dạy dỗ nghiêm nghị, tuy Tạ Dung Dữ là vương nhưng không có lấy một khắc rảnh rỗi, cho đến năm mười sáu tuổi thi đậu Tiến sĩ, ngoài Triệu Sơ ra y gần như không thân thiết với bất cứ ai, vì vậy giao tình giữa y và Trương Viễn Tụ cũng chẳng mấy sâu đậm, chỉ gặp mặt chào nhau vài câu trong yến tiệc cung đình. Lão thái phó dốc hết hi vọng lên người Trương Chính Thanh, cũng dạy bảo khai sáng rất nhiều cho Trương Viễn Tụ. Đặc biệt sau khi Tiển Khâm Đài sập, Trương Chính Thanh mất mạng dưới đài, lão thái phó suy sụp, suốt ngày đắm chìm trong thi họa, vốn dĩ ông cũng là đại sư hội họa, thế nên đã dốc lòng truyền hết kỹ thuật cho Trương Viễn Tụ, chính vì vậy nên hôm nay khi cần giám định tranh, Tạ Dung Dữ mới mời Trương Nhị công tử đến.

Trương Viễn Tụ xem từng bức một, lại thỉnh giáo Tạ Dung Dữ, “Điện hạ có biết thứ tự sưu tầm của những bức tranh này không?”

“Tranh của Khuyết danh hắn có từ trước, còn bốn bức tranh của Sấu Thạch được hắn mua trước khi đột ngột biến mất.”

“Vậy thì lạ thật.” Quan điểm của Trương Viễn Tụ cũng giống Tạ Dung Dữ, “Tranh của Khuyết danh là tranh mô phỏng, kỹ thuật bình thường, có thể thấy người bạn cũ của điện hạ không phải là người thích tranh. Còn vị họa sĩ Sấu Thạch này, tài hội họa bình thường, song kỹ năng loang màu đi nước lại rất tài tình, nhưng nói thật có rất nhiều tranh vẽ đẹp hơn của hắn nhiều, không thể có chuyện mua đến bốn bức được. Theo đó mà xem…”

Trương Viễn Tụ nghĩ ngợi, cuối cùng đưa ra kết luận giống của Tạ Dung Dữ, “Có lẽ tranh vẽ không quan trọng, mà quan trọng ở người vẽ.”

Nói cách khác, những bức tranh cuối cùng mà Sầm Tuyết Minh đã mua vốn không phải vì tranh, mà là nhắm vào bản thân Sấu Thạch.

Trương Viễn Tụ cầm lấy tranh của Sấu Thạch lên xem, đột nhiên nói: “Không biết điện hạ có từng nghe nói đến Đông Trai tiên sinh?”

“Là Lữ Đông Trai tiền triều đã ẩn cư trong núi?” Tạ Dung Dữ hỏi.

“Đúng thế.” Trương Viễn Tụ nói, “Tranh của Đông Trai tiên sinh thuộc kỹ thuật đơn giản, ban đầu không được mấy ai đánh giá cao, nói tranh ông ấy vẽ chỉ chú trọng ánh sáng và ý cảnh, chứ không nắm giữ được bút pháp cơ bản. Cho tới khi bức Tứ cảnh đồ ra đời, Đông Trai tiên sinh mới được mọi người sùng bái, trở thành danh gia.”

Lúc này, Thanh Duy lên tiếng hỏi: “Tứ cảnh đồ là gì?”

Tạ Dung Dữ nhẹ nhàng nói: “Là danh tác của Đông Trai tiên sinh, nói đơn giản là một bức tranh có thể thay đổi thành bốn cảnh.”

Thanh Duy ngạc nhiên, tranh vẽ kiểu gì mà có thể thay đổi?

Nàng muốn hỏi tiếp, nhưng Tạ Dung Dữ và Trương Viễn Tụ đang bàn chính sự, nàng không tiện làm phiền nên chỉ tiếp tục lắng nghe.

Trương Viễn Tụ nhìn hai người một cái rồi cụp mắt, “Nếu hạ quan nhìn không nhầm, thì vị họa sĩ tên Sấu Thạch này đã mô phỏng kỹ thuật của Đông Trai tiên sinh. Cách đi bút hay loang mực đều rất giống.”

Tạ Dung Dữ dừng lại, “Có chắc không?”

Trương Viễn Tụ chắp tay vái hắn, “Hạ quan được thái phó ân sư truyền dạy, có thể nói khá tự tin trong việc giám định.”

Tranh của Lữ Đông Trai không lưu truyền nhiều, nhiều năm trước bức Tứ cảnh đồ nổi tiếng nhất từng xuất hiện một lần, về sau lại thất lạc. Thời gian đó cũng có họa sĩ bắt chước phong cách của ông ta, nhưng cuối cùng tranh vẽ bị người ta cười đùa là Đông Thi bắt chước nhăn mặt, còn có đại họa sĩ tuyên bố, “Bắt chước phong cách của Đông Trai, nếu không phải đệ tử chân truyền thì cũng phải khổ luyện mười năm”, ý là, muốn học theo phong cách của Lữ Đông Trai, nếu không phải được đích thân ông ta truyền dạy thì chắc chắn trong tay phải có bản chính của ông ta, dựa theo đó khổ luyện mười năm, như vậy mới có thể nắm bắt được phần nào.

Lời của Trương Viễn Tụ đã chỉ ra một manh mối.

Tài hội họa của Sấu Thạch khá bình thường, nhưng kỹ thuật loang màu đậm nhạt lại được sử dụng vô cùng tài tình, không phải là đệ tử của Lữ Đông Trai, xem ra Sấu Thạch này không đơn giản, ắt hẳn trong tay phải có bản chính của Lữ Đông Trai.

Trước mắt Sầm Tuyết Minh đang mất tích, muốn tìm được gã, chỉ có thể bắt tay từ Sấu Thạch trước.

Nếu đã biết Sấu Thạch bắt chước Lữ Đông Trai, mà phong cách vẽ của Lữ Đông Trai lại rất hiếm, vậy lần sau đến Thuận An Các hỏi thăm xem có tranh nào tương tự không là được.

***

Trương Viễn Tụ biết Tạ Dung Dữ giám định tranh vẽ là để điều tra án, nên y rất chừng mực, không hỏi nhiều nửa câu liên quan đến vụ án, tập trung xem tranh, xem xong thì dừng.

Vì Tạ Dung Dữ mời Trương Viễn Tụ đến giúp nên khi giám định xong, đích thân tiễn y ra ngoài.

Bấy giờ hẵng còn sớm, hơi nóng vừa vơi, gió mát hây hây ngoài hành lang, đến tiền trang, Tạ Dung Dữ dừng chân, nhìn Thanh Duy đi bên cạnh, nói: “Nghe Tiểu Dã bảo, may hồi trước ở kinh có Trương Nhị công tử giúp đỡ, nếu không đã lành ít dữ nhiều, Tạ mỗ vẫn chưa đích thân cám ơn công tử.”

Trương Viễn Tụ nghe xưng hô “Tiểu Dã” thì cũng nhìn sang Thanh Duy, thong thả đáp: “Điện hạ khách khí rồi.”
 
Chương 133


Trương Viễn Tụ nói: “Thực chẳng dám giấu giếm, hạ quan và thợ mộc Tiết quen biết đã lâu, năm ngoái cũng do chính hạ quan thu xếp cho thợ mộc Tiết lên kinh. Năm xưa Tiển Khâm Đài sập, Hà thị treo đầu dê bán thịt chó, ung dung ngoài vòng pháp luật, nếu không lôi ra kẻ cầm đầu thì rất khó để xây lại Tiển Khâm Đài, tại hạ cũng chỉ góp phần nhỏ giúp đỡ Ôn cô nương mà thôi, điện hạ mới là người vất vả.”

Tạ Dung Dữ đáp: “Đấy là bổn phận của bổn vương, nói gì vất vả.”

Trong lúc nói chuyện, Kỳ Minh đi tới bái kiến: “Bẩm điện hạ, Tiểu Chương đại nhân và Khúc Hiệu úy đang cãi nhau ở ngoài trang viên, xin điện hạ ra xem thế nào.”

Tạ Dung Dữ nhíu mày, “Sao cả hai bọn họ đều đến?”

“Nghe nói sáng nay tình cờ gặp nhau trên phố Lưu Chương, Chương đại nhân bảo Khúc Hiệu úy đến nha môn nhưng Khúc Hiệu úy không chịu, đi thẳng đến Quy Ninh Trang, Chương đại nhân bám theo, hình như Doãn Tứ cô nương ở trang viên đi cùng Khúc Hiệu úy.”

Hắn đang nói về Tứ cô nương Doãn Uyển của Doãn gia, người ốm yếu bệnh tật nên phải ở Quy Ninh Trang một thời gian.

Nói gì đi nữa Quy Ninh Trang cũng là trang viên của người nhà họ Doãn, Huyền Ưng Ti chỉ mượn tạm nơi này, Chương Đình và Khúc Mậu tranh chấp đã đành, lại còn kéo cả Doãn Uyển vào, Tạ Dung Dữ đành phải ra xem sao.

Thanh Duy dừng bước, “Trương Nhị côngg tử, ta không tiện gặp người ngoài, hôm nay chỉ tiễn huynh đến đây thôi.”

Trương Viễn Tụ dịu dàng đáp: “Ôn cô nương chớ khách khí.”

***

“Tiểu Chương đại nhân đã xử lý xong công việc ở Thượng Khê, định gửi công văn tâu lên Quan gia, hôm Thượng Khê xảy ra bạo loạn, trong nha môn chỉ có một Hiệu úy có mặt, chính là Khúc Hiệu úy, cho nên Tiểu Chương đại nhân mới bảo ngài ấy phụ mình một phần, Khúc Hiệu úy lần lữa từ chối, kéo dài mấy hôm nay rồi, khéo có khi ngài ấy còn chưa đụng vào bút. Tối qua Khúc Hiệu úy đến Lâm Thủy Hà nghe hát suốt đêm, sáng nay Tiểu Chương đại nhân hay tin, nổi trận lôi đình, lập tức dẫn nha sai đến ven sông chặn người. Hai bên đụng nhau ở phố Lưu Chương, lúc ấy Doãn Tứ cô nương còn đi theo Khúc Hiệu úy, Khúc Hiệu úy nói muốn đưa Doãn Tứ cô nương về trang viên, không thể theo Tiểu Chương đại nhân tới nha môn, bây giờ hai người họ đang cãi nhau ầm ĩ ở ngoài trang viên.”

Kỳ Minh vừa đi theo Tạ Dung Dữ ra ngoài vừa thuật lại tình hình.

Nghe thấy thế, một tia lạnh xẹt qua trong mắt Tạ Dung Dữ, Chương Lan Nhược đã rời Thượng Khê tới đây từ mấy hôm trước, vì sao đến tận bây giờ vẫn chưa nộp công văn.

Nhưng y không nói gì, ra ngoài trang viên, quả nhiên thấy Chương Đình và Khúc Mậu đang còn tranh chấp, Doãn Uyển ôm tranh chữ trong tay, co ro rúc mình nấp sau lưng Khúc Mậu, xem ra bị dọa không nhẹ.

Từ xa xa thấy Tạ Dung Dữ và Trương Viễn Tụ đi tới, Chương Đình lập tức thôi cãi cọ, hành lễ với hai người, nén giận mà hỏi Trương Viễn Tụ: “Sao hôm nay Vong Trần lại đến Quy Ninh Trang?”

Trương Viễn Tụ không nói chuyện giám định, chỉ bảo: “Tới Đông An mấy hôm rồi mà ta vẫn chưa bái kiến Chiêu Vương điện hạ, hôm nay có thì giờ rảnh nên ghé.”

Chương Đình lần nữa vái chào Tạ Dung Dữ, “Sau khi đến Đông An, hạ quan phải lo nhiều chuyện rắc rối, vốn muốn đến trang viên bái kiến điện hạ nhưng lại không tìm được thời gian rảnh, mong điện hạ chớ trách.”

Lời thốt ra, Tạ Dung Dữ còn chưa đáp lại thì Khúc Mậu đã cạnh khóe: “Ồ, lúc không có ai sao không thấy ngươi ân cần thế, bây giờ Tiểu Chiêu vương vừa đến, ngươi lại ‘mong chớ trách’. Ngươi đến Đông An đã lâu song cứ lần lữa chuyện thăm viếng vương gia, nhưng để khiến Khúc gia gia nhà ngươi phải ngậm cục tức mà cũng hao tâm tổn huyết phết nhỉ. Sao hả? Bây giờ nha sai Lăng Xuyên đều chỉ nghe theo mỗi lệnh của Chương Lan Nhược ngươi hả? Muốn đưa Khúc gia gia nhà ngươi về nha môn à, nói ngươi biết, không có cửa! Khúc gia gia nhà ngươi là người của quân nha, không liên quan gì đến nha môn châu phủ, công văn tờ trình tự ngươi đi mà viết, muốn Khúc gia gia nhà ngươi cầm bút hả, nằm mơ!”

“Khúc Đình Lam!” Chương Đình vốn kiêu ngạo, không ưa dây dưa với người khác, huống hồ bây giờ đang có mặt cả Tiểu Chiêu vương và Vong Trần, nhưng Khúc Mậu thật sự quá đáng, hắn không nhịn nổi nữa rồi, có thể nói hai người họ cãi cọ từ nhỏ đến lớn, “Ngươi bớt lừa người đi, hôm Thượng Khê xảy ra bạo loạn, chỉ có mình ngươi là Hiệu úy có mặt ở nha môn, đừng nói phải viết một phần công văn, lẽ ra ngươi phải viết toàn bộ tấu chương mới đúng! Bổn quan đã nhường ngươi lắm rồi, nhưng ngươi cứ thoái thác ba phen bốn lượt, đừng trách bổn quan tấu lên triều đình ngươi lơ là cương vị, cách chứ Hiệu úy Tuần Kiểm Ti của ngươi!”

Khúc Mậu ngạc nhiên bật cười: “Giờ thì sao? Lấy việc cách chức ra uy hiếp Khúc gia gia nhà ngươi hả? Làm như ta thèm quan tâm đến cái chức này lắm không bằng. Nói ngươi biết, Khúc gia gia nhà ngươi đã chán làm quan từ lâu rồi, chi bằng cách chức sớm đi, ta tiếp tục là công tử ăn chơi, bên tai cũng đỡ ồn!”

Hai người tiếp tục cãi nhau, ánh mắt Tạ Dung Dữ dừng lại ở Doãn Uyển, “Sao Doãn Tứ cô nương lại ở đây?”

Doãn Uyển run rẩy sợ hãi, mà Tạ Dung Dữ còn là vương gia, đột nhiên bị y hỏi thì run bắn lên, lắp bắp một lúc lâu mới nói: “Sáng nay… Sáng nay dân nữ đến phố Lưu Chương, gặp được Khúc công tử ở đó, công tử nhờ dân nữ dẫn đường, hỏi ở đâu có bán tranh đẹp.”

Tạ Dung Dữ nhìn ống tranh nàng ta ôm trong ngực, Kỳ Minh đứng bên hiểu ý, xin phép Doãn Uyển rồi cầm lấy mở ra cho Tạ Dung Dữ nhìn, chỉ là tranh sơn thủy bình thường, kỹ thuật cũng không có gì nổi bật.

Tạ Dung Dữ ra hiệu Kỳ Minh trả tranh lại cho Doãn Uyễn, “Tranh này là của ai?”

“Bẩm, bẩm vương gia… là Nhị ca của dân nữ vẽ ạ.” Doãn Uyển run rẩy đáp, nàng biết ở trước mặt vương gia biết gì phải đáp nấy, thế là giải thích tiếp, “Nhị ca của dân nữ là Tú tài, từ nhỏ thích thư họa, bình thường… cũng lén vẽ tranh, đem đến phố Lưu Chương gửi bán, huynh ấy không dám cho cha mẹ biết, nên nếu có tranh bán không được, đều nhờ dân nữ dọn giúp, sáng nay dân nữ đến phố Lưu Chương là để lấy tranh giúp Nhị ca.”

Tuy viết chữ vẽ tranh rất tao nhã, nhưng với đại đa số mọi người đó chỉ là thú vui bên cạnh việc đọc sạch. Doãn gia giàu có, dư giả tiền tài, hi vọng con em trong tộc có thể làm quan, nên cũng không muốn bọn họ sa đà vẽ vời, bỏ lỡ sự nghiệp. Doãn Nhị thiếu gia lén người nhà đem tranh đi bán, chuyện này cũng dễ hiểu.

Tuần vệ đi cạnh Khúc Mậu nói: “Bẩm điện hạ, sắp tới là đại thọ của Hầu gia, Khúc Hiệu úy muốn mua tranh chữ quý để biếu tặng. Sáng nay gặp phải Doãn cô nương ở phố Lưu Chương, nghĩ nàng ấy là dân bản xứ nên nhờ nàng ấy chỉ đường, sau đó thì gặp Tiểu Chương đại nhân.”

Tạ Dung Dữ không thể hiện biểu cảm, chỉ sai người đưa Doãn Uyển về trang viên, sau đó hỏi Chương Đình: “Tấu trình mà Chương thị lang muốn có quy chế gì không?”

Chương Đình thôi cãi cọ với Khúc Mậu, đáp lời Tạ Dung Dữ, “Không có quy chế nào cả, chỉ cần thuật rõ tình hình bạo loạn ở Thượng Khê là được, thêm một bản chứng từ.” Hắn giải thích, “Hạ quan biết không đến mức cần tấu trình, chỉ là công văn gửi lên ngự tiền có liên quan tới việc bổ nhiệm bãi nhiệm quan chức ở Thượng Khê về sau, nhân sự đi ở ra sao không thể lơ là, nên hạ quan muốn làm cho trót.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, hắn ta cẩn thận như thế cũng là chuyện tốt.

Tạ Dung Dữ bèn ra lệnh: “Kỳ Minh, ngươi gọi Chương Lộc Chi tới đây, bảo hắn cùng Đình Lam đến nha môn, ngày Thượng Khê xảy ra bạo loạn hắn cũng có mặt ở nha môn.”

Khúc Mậu tái mặt, cãi nhau nãy giờ mà vẫn phải đến nha môn, thế không phải là hắn thua à, nhưng hắn biết Tạ Dung Dữ đang giúp mình nên không tiện phản đối, “Chương Lộc Chi là kẻ cục mịch, thêm ta nữa, khéo ba ngày cũng không nặn ra nổi một chữ.”

Trương Viễn Tụ nói: “Có bằng chứng chéo giữa Huyền Ưng Ti và Khúc Hiệu úy thì chỉ cần thuật miệng là được, còn tấu trình có thể để lục sự nha môn viết, hai vị chỉ cần điểm chỉ là xong.”

Khúc Mậu nhìn Trương Viễn Tụ, “Thật không?”

Trương Viễn Tụ đáp: “Lan Nhược cũng muốn hoàn thành công việc mà, trình tự là thế, mong Ngũ công tử thông cảm cho, tới lúc ấy viết tấu trình xong, nếu Ngũ công tử chưa yên tâm, Vong Trần có thể giúp làm lại.”

Nghe Trương Viễn Tụ nói xong, bực bội trong lòng Khúc Mậu tiêu tan hơn nửa, hắn còn không quên châm chọc Chơng Đình, “Nếu ngươi mà biết lễ bằng một nửa Vong Trần công tử thì Khúc gia gia nhà ngươi đã viết xong tấu trình kia từ đời nào rồi.”

Chương Đình chẳng buồn để ý đến hắn, cáo biệt Tạ Dung Dữ rồi quay đầu bước đi, Khúc Mậu chờ Chương Lộc Chi đến rồi cũng cưỡi ngựa rời khỏi, Trương Viễn Tụ nhìn bóng lưng bọn họ, nói với Tạ Dung Dữ, “Điện hạ, vậy hạ quan cũng xin phép cáo từ, nếu sau này điện hạ cần giám định tranh vẽ, cứ cho người thông báo Vong Trần một tiếng là đủ rồi, không cần đưa thiệp làm gì.”

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Làm phiền Trương Nhị công tử.”

***

Bạch Tuyền đã sai người hầu kéo xe ngựa chờ sẵn trên đường, thấy Trương Viễn Tụ tới, cậu vén rèm lên mời y lên xe, dâng cốc trà xanh.

Hoàng hôn buông, xe ngựa lăn bánh trên con đường thưa thớt bóng người, rồi rẽ vào con ngõ yên tĩnh.

Lúc này Bạch Tuyền mới hỏi: “Công tử đã gặp Ôn cô nương ở trang viên à?”

Trương Viễn Tụ không đáp, y vén rèm trông ra ngoài, cảnh hoàng hôn bị tường cao trong ngõ che khuất, mí mắt mỏng của y không chịu nổi ánh nắng chiều tà, hơi nước dần dần dâng lên ở đáy mắt.

Một lúc lâu sau, y mới đáp, “Gặp rồi.”

Bạch Tuyền là thư đồng theo Trương Viễn Tụ từ nhỏ, chủ nào tớ nấy, thành thử nói chuyện cũng nhẹ nhàng, “Gặp được là tốt rồi, chắc chắn Ôn cô nương đi theo Tiểu Chiêu vương, công tử cũng không cần phí tâm tìm nàng ấy nữa.”

Đích thân Trương Viễn Tụ đã tiễn Thanh Duy rời kinh.

Tới đầu xuân năm nay, Trương Viễn Tụ nhậm chức Ngự sử, đến Trung Châu phá án, vừa khéo Thanh Duy phiêu bạt đến nơi này. Nàng lưu lạc mấy tháng, thời gian ấy cũng nghĩ ra điểm khác thường trong cái chết của Từ Thuật Bạch, muốn đổi tuyến đường đến Lăng Xuyên điều tra Từ Đồ, nhưng xui thay đúng lúc đó triều đình lại hạ lệnh trùng kiến Tiển Khâm Đài, ra vào Lăng Xuyên bị kiểm soát gắt gao.

Thanh Duy nhớ lại lúc nàng rời kinh, Trương Viễn Tụ từng đưa cho nàng một tờ danh sách những người nàng có thể nhờ cậy, trong đó có một quan viên làm việc tại nha môn Trung Châu.

Thanh Duy làm theo cách Trương Viễn Tụ đã chỉ, gửi cho vị quan nọ một bức thư, không ngờ đêm ấy người tới gặp nàng không phải ai khác mà chính là Trương Viễn Tụ.

Xa nhau ba tháng, đông đi xuân về, Trương Viễn Tụ không ngờ sẽ gặp lại nàng như thế.

Nhìn nàng có vẻ không tốt lắm, bôn ba đường xá vất vả, đến mức vết thương đáng lẽ nên khỏi từ lâu vẫn chưa lành, thế là Trương Viễn Tụ nghĩ, dường như mỗi lần y gặp lại nàng thì nàng luôn trong tình cảnh khổ sở, mong manh song vẫn kiên cường, lật đật lại vội vã. Nhưng nàng không đề cập đến vết thương của mình, chỉ xin y giúp nàng đến Lăng Xuyên.

Trương Viễn Tụ nói: “Chỉ là cái nhấc tay thôi, xin Ôn cô nương đợi khoảng hai ngày, đợi tại hạ chuẩn bị văn điệp* cho cô nương xong, sẽ phái xe ngựa đích thân tiễn cô nương một đoạn. Cô nương còn cần gì nữa không?”

(*Văn điệp: giấy thông hành thời cổ đại.)

Thanh Duy nghĩ ngợi, đoạn bảo: “Ta muốn ở khách xá ngủ một giấc đầy.”

Bôn ba ngàn dặm luôn trong tinh thần sẵn sàng lên đường, đã lâu lắm rồi nàng chưa được nghỉ ngơi, nói gì đến việc ban đêm ngủ một giấc tử tế. Mỗi lần ngủ, nàng lại mơ thấy mình quay về Giang phủ, nhưng khi thức giấc mới phát hiện mình vẫn đang ở chốn hoang vu bên ngoài, không thể không mở mắt nhìn trời.

Thanh Duy nói ra một cách bình thản bâng quơ.

Nhưng Trương Viễn Tụ lại nghe ra sự cô quạnh trong đó, con tim bất giác đập hụt một nhịp, gật đầu bảo: “Được, tại hạ sẽ thu xếp cho cô nương.”

Tiếc là đợi tới sáng hôm sau, khi Trương Viễn Tụ tìm đến khách xá, trong phòng chẳng còn bóng dáng ai.

Tay nải y chuẩn bị cho nàng được nàng gửi trả ở quầy, không lấy một xu tiền, chỉ cầm mỗi văn điệp.

Y lại tìm kiếm trong phòng, nhưng chẳng còn gì ngoài một tờ giấy ghi hai chữ “đa tạ”, mọi thứ được dọn dẹp sạch sẽ, ngay đến chăn nệm cũng gọn gàng vuông vức, thể như nàng chưa bao giờ bước chân vào nơi này.
 
Chương 134


Cứ cách nửa tháng lão thái phó lại gửi thư cho y một lần, chủ yếu tán gẫu chuyện phiếm trong nhà, thi thoảng lại chỉ điểm thơ văn. Bình thường sang hôm sau Trương Viễn Tụ sẽ hồi âm, nhưng bấy giờ đã là hạ tuần tháng năm mà vẫn chưa nhận được thư của tháng này.

Về đến dinh thự, Trương Viễn Tụ hỏi: “Đã có thư của ân sư chưa?”

Bạch Tuyền đáp: “Chưa ạ, hôm nay tiểu nhân còn đến bưu dịch một chuyến để hỏi.”

Dinh thự vắng lặng, Trương Viễn Tụ dừng bước trong bóng chiều, đoạn quay đầu đi về thư phòng.

Thư phòng được thiết kế thanh nhã, Trương Viễn Tụ ngồi xuống trước bàn, vuốt phẳng một tờ giấy trắng, Bạch Tuyền nhanh nhảu lấy ra một thỏi mực trong hộp gỗ đàn hương. Thỏi mực mới toanh, Trương Viễn Tụ nhìn sang, nhận ra đó là mực đỏ Thần Dương, giá trí rất cao, Bạch Tuyền nói, “Hồi sáng phủ doãn đại nhân phái người đưa tới, tiểu nhân là người hầu, không tiện từ chối.”

Đại Chu vốn trọng sĩ trọng văn, hơn nữa Tiển Khâm Đài còn được tái khởi công, địa vị của văn sĩ trên triều tăng cao, có chiều hướng giống với triều đại Chiêu Hóa năm xưa. Cộng thêm Hà thị đã ngã, cục diện trên triều gần như xoay chuyển hoàn toàn, không chỉ ảnh hưởng đến thế gia vọng tộc mà còn cả quan viên thế hệ trước, nhân tài cũ mới lần lượt thay đổi, Trương Viễn Tụ như viên minh châu xuất hiện trong cơn sóng cả ấy, cho nên khi đến địa phương, tất sẽ có người xun xoe lấy lòng.

Trương Viễn Tụ không nói gì, một năm qua y đã gặp quá nhiều cảnh nịnh nọt như vậy rồi, thực sự chẳng có thời giờ đẩy đưa. Dù gì bọn họ cũng đang ở dinh thự, bao giờ rời đi thì để mực lại là xong.

Bạch Tuyền rót thêm nước vào nghiên mực, đổi sang thỏi khác, “Nhưng hôm nay nhận được thư từ Du đại nhân ở Trung Châu, bảo là đã tìm được nhà mà công tử muốn rồi, ở huyện Cẩm Bình Trung Châu, Huyện lệnh nơi đó là người quen cũ của ông ấy, nhà cửa cũng được Huyện lệnh đứng tên nên sẽ không ai phát hiện đâu, khế đất cũng được gửi tới rồi.”

Bạch Tuyền dừng một lúc, “Chỉ là, bây giờ Ôn nương đã có Chiêu vương điện hạ che chở, chưa chắc đã muốn ở lại Trung Châu, có khi công tử phải nhờ Du đại nhân sang lại căn nhà này?”

Trương Viễn Tụ không đáp, nghiền mực xong, y nhấc bút viết vào giấy, “Kính gửi ân sư.”

“Dạo gần đây không thấy ân sư gửi thư đến, chẳng hay thầy có bình an. Cũng đã hai tháng kể từ khi Tiển Khâm Đài được xây lại, mọi chuyện dần vào quỹ đạo, vụ án bạo loạn ở Thượng Khê cũng đã kết thúc, ít hôm nữa sẽ trình tấu chương lên ngự tiền, thời gian này Vong Trần có đến Đông An, gặp lại người quen cũ, trong lòng hân hoan…”

Du đại nhân chính là viên quan mà Thanh Duy đã nhờ vả hồi lưu lạc Trung Châu. Về sau Thanh Duy ra đi không từ biệt, Trương Viễn Tụ bèn nhờ người này bí mật tìm một căn nhà ở huyện Cẩm Bình.

Đúng là y có ý tìm nhà cho Thanh Duy, song không xuất phát từ nhiệt tình ân cần. Năm xưa khi Tiển Khâm Đài gặp chuyện, lão thái phó liên tục nhắc đi nhắc lại nỗi oan của Ôn thị. Ân sư cao tuổi bùi ngùi thở dài, nói Ôn Thiên là bậc thầy kiến trúc một đời, không ngờ lại bỏ mạng chôn mình trong tình cảnh ấy; Hà thị thay xà đổi cột, lừa gạt giấu diếm là lỗi của Ôn Thiên ư? Không phải. Nhưng Ôn Thiên là tổng đốc công, bất kể Tiển Khâm Đài sập vì lý do gì đi nữa thì ông ấy cũng phải chịu trách nhiệm.

Chẳng qua không phải triều đình xử tử Ôn Thiên mà ông ấy cùng rất nhiều sĩ tử đã bị chôn vùi dưới Tiển Khâm Đài, thế nên mỗi lần lão thái phó nhắc đến oan khuất của Ôn thị, Trương Viễn Tụ cho rằng ông chỉ đang than thở mà thôi. Mãi tới khi gặp Thanh Duy, Trương Viễn Tụ mới hiểu rõ ý nghĩa đằng sau hai chữ oan khuất. Lần đầu gặp nhau là ở thi hội Hàn lâm, rành rành là thiếu nữ đẹp như hoa, vậy mà phải vẽ vết ban xấu xí lên mắt trái; rồi về sau để lấy được bằng chứng phạm tội của Hà thị, nàng không tiếc mạo hiểm vào tù gặp Thôi Hoằng Nghĩa, lộ cả thân phận; lúc nàng lê lết tấm thân bị thương, cắn răng chịu đựng theo y né tránh cuộc truy đuổi, Trương Viễn Tụ đã nghĩ, rốt cuộc nàng có lỗi gì? Nàng chỉ là một cô nương mười chín tuổi, thậm chí còn nhỏ hơn y hai tuổi, thậm chí lúc Tiển Khâm Đài sập, nàng chỉ mới là một cô bé chưa dậy thì.

Chưa trải thế sự đã phải lang bạt chân trời, ngày Thanh Duy rời kinh, Trương Viễn Tụ không yên tâm, cuối cùng vẫn quành đầu xe ngựa, đứng trông theo từ xa.

Tuyết bay lất phất đầy trời, nhìn theo bóng dáng lẻ loi khi nàng dắt ngựa, đến nỗi nửa năm sau mỗi lần nhớ lại, Trương Viễn Tụ luôn cảm thấy mình chưa làm đến nơi đến chốn, về sau khi gặp lại ở Trung Châu, y mới có suy nghĩ tìm cho nàng một chỗ yên thân.

Chưa hẳn là tình, chẳng qua đối với Ôn Tiểu Dã, ít nhiều gì cũng khiến y thương xót.

Nhưng nay xem ra bản thân đã làm chuyện uổng công rồi.

Chỉ chớp mắt đã viết đến cuối thư, Trương Viễn Tụ nhấc bút chấm mực, “Ngày trước khi tiên đế bàn việc xây dựng đền Tiển Khâm, trong giới nhân sĩ có không ít tiếng ồn ào phản đối, nhưng huynh trưởng một mực kiên quyết bảo vệ quan điểm của tiên đế. Huynh trưởng ngày đêm mong ngóng Tiển Khâm Đài hoàn thành, chẳng ngờ ý trời trêu ngươi, đài lại sập. Nay cố nhân đã qua đời, người còn sống cần kế thừa ý nguyện của người đi trước. Huynh trưởng từng viết ‘áo trắng không lấm bẩn, cần giữ vững chí nguyện’, Vong Trần cũng vậy, có lẽ đợi tới mùa xuân năm sau khi cỏ cây mơn mởn, ở núi Bách Dương ắt sẽ có đài cao chạm mây. Đêm đã khuya, xin được dừng bút tại đây, mong ân sư luôn bình an mạnh khỏe.”

***

“Vương gia bình an!”

“Đây là thằng con nhà tôi tên Doãn Trì, tự Nguyệt Chương, là đứa thứ hai trong nhà.”

“Nó là thằng ăn hại từ nhỏ, đầu óc lanh lợi nhưng không lo học hành, chỉ biết nghiền mực vẽ tranh, có thi Tú tài nhưng không đậu thi Hương. Nghe nói hai đứa con ở nhà đã đường đột vương gia, nay thảo dân dẫn chúng đến tạ lỗi với vương gia.”

Hôm trước Khúc Mậu và Chương Đình gây gổ một trận ở Quy Ninh Trang, Doãn lão gia biết được chuyện này, hai hôm sau đã dẫn Doãn Nhị công tử và Doãn Tứ cô nương đến cửa.

Thực chất cũng chẳng cần tạ lỗi, hôm đó Doãn Uyển chỉ xui xẻo gặp phải Khúc Mậu mà thôi, Doãn Trì còn chẳng hề xuất hiện, có lẽ Doãn lão gia chỉ muốn nhân cơ hội này để kết thiện duyên với Chiêu vương điện hạ.

Tạ Dung Dữ đành phải tiếp, ai bảo Quy Ninh Trang là sản nghiệp của Doãn gia chứ.

Tống trưởng lại ở bên nói: “Hồi Điện hạ mới đến Đông An, Doãn lão gia rất muốn tới viếng thăm, ngặt nỗi điện hạ bề bộn công việc, Doãn lão gia sợ làm phiền ảnh hưởng nên mãi tới hôm nay mới đến cửa, mong điện hạ chớ trách.”

Tạ Dung Dữ nói: “Doãn lão gia hào phóng cho mượn dinh thự, bổn vương còn chưa cám ơn, sao có thể trách tội được. Hơn nữa tranh chấp ở ngoài trang viên hôm trước cũng là vì chính sự mà ra, Doãn Tứ cô nương tự dưng bị cuốn vào, hy vọng không mạo phạm cô nương.”

Doãn lão gia đã nghe ngóng hỏi thăm từ trước đó rồi, biết Tiểu Chiêu vương là người của Tạ thị danh môn Trung Châu, được Tiên Chiêu Hóa đế đích thân dạy dỗ, mười sáu tuổi đã thi đậu Tiến sĩ, thân phận cao quý vô cùng. Doãn lão gia rất ngưỡng mộ người trí thức, mong ngóng trong nhà cũng có được một anh tài như thế, thế là bèn bảo Doãn Trì đọc một bài văn của mình, mong được Tạ Dung Dữ chỉ điểm cho. Doãn Trì không giỏi học hành, thi đậu Tú tài cũng là nhờ gậy của cha thước của thầy, đọc văn mà cứ lắp bắp vấp váp, mãi không nói ra được ý, Doãn lão gia đứng bên thấy thế thì sốt ruột, chỉ hận không thể ra trận thay hắn, Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Trì, đợi hắn đọc xong một đoạn mới hỏi, “Doãn Nhị công tử thích thi họa?”

Vừa nghe đến hai chữ thi họa, Doãn Trì lập tức tỉnh táo hẳn, đầu lưỡi cũng trơn tru hơn, “Bẩm điện hạ, từ nhỏ thảo dân đã thích vẽ vời, Lăng Xuyên có phong cảnh đẹp, thảo dân chỉ ước có thể sống thêm trăm năm, thu hết núi non quê hương vào giấy Tuyên trắng.” Hắn dừng lại, nhớ ra phụ thân vẫn còn đứng bên cạnh, thế là lại lắp bắp nói đạo lý, “Nhưng thảo dân chỉ nghĩ vậy thôi, người học trò nên xem việc giúp đỡ thiên hạ, cứu tế chúng sinh là nhiệm vụ của mình, thi họa chỉ là thứ tiêu khiển.”

Tạ Dung Dữ bật cười, “Say mê thi họa có gì xấu, bổn vương cũng thích.”

“Điện hạ cũng thích?” Doãn Trì nhìn Tạ Dung Dữ, vị Chiêu vương điện hạ trong tin đồn trông rất trẻ, thậm chí còn trẻ tuổi hơn mình, không khỏi nảy sinh cảm giác gần gũi cùng trang lứa, “Không biết điện hạ thích tranh của họa sĩ nào?”

“Bổn vương thích Lữ Đông Trai.” Tạ Dung Dữ nói, “Không giấu diếm gì, lần này đến Lăng Xuyên, bổn vương đã nhờ người tìm lại tác phẩm của Đông Trai tiên sinh, đáng tiếc vẫn không có kết quả.”

Doãn Trì nói: “Có quá ít tranh của Đông Trai tiên sinh được lưu truyền, lần cuối bức Tứ cảnh đồ nổi tiếng nhất từng xuất hiện là từ hơn mười năm trước, không biết đã được nhà nào sưu tầm.” Hắn cười nói, “Mà bản thân Đông Trai tiên sinh cũng quả truyền kỳ, ông là người hào sảng không gò bó, thích nước non, cả đời không thành gia lập thất, bảo ‘kết giao dăm ba tri kỷ, cuộc đời này thế là đủ’, sống tại đời mấy mươi năm, chân giẫm khắp non sông, cuối cùng về với Lăng Xuyên, lưng đeo tranh vẽ hòa vào núi rừng. Mỗi lần thảo dân đọc truyện về cuộc đời ông ấy, thường nghĩ ông ấy đã giẫm mây quay về Cửu Tiêu, làm thần tiên tiêu dao.”

Doãn Trì mê đắm tranh vẽ, cứ nhắc tới tranh là miệng không có khắc nào khép lại, trong lúc nói còn lén nhìn Doãn lão gia, thấy ông không có ý ngăn cản thì bảo với Tạ Dung Dữ: “Nếu Chiêu Vương điện hạ thích tranh của Đông Trai tiên sinh, chi bằng tối nay đến hội thi họa ở Thuận An Các xem thế nào.”

Tạ Dung Dữ biết hội thi họa đó, hôm trước ông chủ Trịnh ở Thuận An Các đã tặng thiệp cho y.

Y hỏi: “Sao, trong hội thi họa có danh họa của Đông Trai tiên sinh à?”

“Không phải thế.” Doãn Trì nói, “Đông Trai tiên sinh là người Lăng Xuyên, rất nhiều dân chúng Lăng Xuyên ngưỡng mộ ông ấy, còn học theo phong cách của ông ấy nữa. Nhưng phong cách của Đông Trai tiên sinh lại không dễ mô phỏng, toàn bắt chước bừa, thỉnh thoảng mới có một hai bức tranh ổn, điện hạ có thể mua sưu tầm.”

Thực ra Tạ Dung Dữ nhắc đến Lữ Đông Trai không hẳn chỉ vì chuyện tranh vẽ, hôm trước Trương Viễn Tụ có nói, Sấu Thạch bắt chước phong cách của Lữ Đông Trai. Trước khi mất tích, Sầm Tuyết Minh đã có hành vi khác thường là mua tranh của Sấu Thạch, xem ra tối nay cần phải đến hội thi họa một chuyến.

Hai người lại nói sang chuyện khác, nhưng chủ yếu vẫn loanh quanh đề tài hội họa. Doãn Trì nói mình tập vẽ từ thuở thiếu niên, sau khi thành thục thì đem tranh đến Thuận An Các gửi bán. Cứ thế mấy năm, có tranh bán được, cũng có tranh không bán được, vì không dám để người nhà biết nên lần nào cũng nhờ em gái Doãn Uyển đang ở Quy Ninh Trang đi lấy tranh hộ.

Hắn mê vẽ, hễ nhắc đến vẽ là quên hết mọi thứ, mãi tới khi trời nhá nhem mới sực hoàn hồn, hắn cảm thấy trò chuyện với Tạ Dung Dữ vô cùng hợp ý, lúc tạm biệt còn nói lần sau sẽ đến.

Đức Vinh tiễn người nhà họ Doãn đi rồi vội vàng chạy vào, “Công tử, vậy ta có đến phố Lưu Chương không?”

Tạ Dung Dữ nhìn sắc trời, “Nương tử nhà ta đâu rồi?”

“Thiếu phu nhân đợi trong viện một lúc rồi, có lẽ bây giờ đã tới Y Sơn Viện, để tiểu nhân đi gọi thiếu phu nhân.”

Vết thương của Triêu Thiên đã lành nên ngày nào cũng đều đặn tập võ một canh giờ, Thanh Duy tới chỉ điểm cho hắn.

Tạ Dung Dữ nói: “Bảo Kỳ Minh đi gọi người, còn ngươi hãy đi chuẩn bị xe ngựa, xuống phòng bếp lấy thêm ít bánh sen.”

Không biết hội thi họa kéo dài đến bao giờ, bánh sen là món mà gần đây Tiểu Dã rất thích ăn.

Đức Vinh vội vâng dạ, xuống bếp cho bánh sen vào cặp lồng, nghĩ một lúc lại quay về Phất Nhai Các lấy áo chùng mà thiếu phu nhân thích mặc, trà hương thiếu phu nhân thích, cốc sứ thiếu phu nhân quen dùng, tóm lại chỉ cần là món đồ riêng của thiếu phu nhân thì không được để sót. Dù có phải hi sinh lợi ích của công tử cũng tuyệt đối không thể khiến thiếu phu nhân khó chịu phân nửa.

***

Ban đêm vừa lên đèn, cả hội đến phố Lưu Chương, ông chủ Trịnh đang đứng chờ ngoài cửa Thuận An Các.

Vì Doãn Trì mà bọn họ đến trễ, cũng may hội thi họa vẫn chưa bắt đầu. Ông chủ Trịnh đích thân dẫn cả hội vào trong các, băng qua lối đi chật hẹp giữa gian lầu cùng đình viện cây cỏ xanh mướt, chẳng mấy chốc đã đến bên trong Thuận An Các.

Bên trong có lầu cao ba tầng hình chữ Hồi (回), ở giữa đặt một sân khấu, bốn phía xung quanh là các căn buồng theo thứ tự. Diện tích buồng nhã các không quá lớn, cho nên bất kể ngồi ở buồng nào cũng có thể thấy rõ tranh chữ được triển lãm ở trên sân khấu.

Ông chủ Trịnh dẫn hội Tạ Dung Dữ vào một căn nhã các tên Ngọa Vũ, nói: “Hội thi họa ở Thuận An Các không giống những nơi khác, mỗi vị khách đến đây đều có một căn phòng riêng, nếu muốn xem tranh, mời quý khách xem cái này…”

Ông chủ Trịnh cầm lấy một cuốn sách mỏng trên bàn, đưa cho Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ nhận lấy nhìn, trong sách liệt kê tên các tác phẩm mà Thuận An Các sưu tầm được, còn ghi chú thêm phong cách cũng như kỹ thuật, dưới cùng là lời bình về tác phẩm và tên của họa sĩ, nếu vật sưu tầm là chữ thì người viết chữ sẽ đề mấy bút vào sách.

“Sở dĩ Thuận An Các có được ngày hôm nay là nhờ vào tuân thủ quy định. Quý khách đến hội thi họa đều ở trong buồng của mình, không gặp gỡ nhau, nếu muốn xem bức nào có thể đánh dấu vào sách, một lúc sau tiểu nhị sẽ đưa đến. Như thế thứ nhất là để tránh mâu thuẫn, thứ hai là để tránh khách khứa tụ tập nhìn tranh, làm ảnh hưởng đến tâm huyết của họa sĩ. Nếu quý khách xem tranh xong và rất thích tác phẩm, muốn gặp mặt nói chuyện với họa sĩ, hoặc muốn mời về phủ dạy vẽ thì phải hỏi Thuận An Các trước. Thuận An Các sẽ theo ý của họa sĩ, họa sĩ muốn gặp thì gặp, nhưng cũng có người không thích bị lộ mặt, vậy Thuận An Các tuyệt đối sẽ không tiết lộ gì về thân phận của người đó. Còn nữa…”

Ông chủ Trịnh thấy Tạ Dung Dữ đặt sách xuống, lập tức xách bình châm trà cho y, “Tuy tranh chữ trong sách đây là đồ thượng phẩm, nhưng chưa đến mức để gọi là trân phẩm. Lát nữa tới giờ Tuất, Thuận An Các sẽ cho triển lãm các trân phẩm đã thu mua được trong một tháng qua ở trên sân khấu. Nếu quý khách thích thì giơ thẻ ra giá, nói trắng ra là đấu giá, ai trả giá cao sẽ mua được. Nếu có người ra giá, tiểu nhị sẽ gọi tên nhã các, thí dụ như căn nhã các của quý khách tên Ngọa Vũ, quý khách muốn mua tranh, chịu chi một trăm lượng, thì tiểu nhị sẽ hô là ‘Ngọa Vũ Các, một trăm lượng’, xin quý khách ghi nhớ tên của nhã các mình, chốc lát nữa là bắt đầu hội thi họa rồi.”

Nhã các có cửa sổ trông ra sân khấu, nhìn qua cửa sổ, mỗi căn nhã các đều được thắp đèn lung linh rất đẹp. Thanh Duy đứng trước cửa sổ nhìn một lúc, nhưng không cách nào nhận ra là ai đang ngồi trong những căn buồng ấy, hậm hực quay về bên cạnh Tạ Dung Dữ.

Tạ Dung Dữ thấy nàng không vui, ôn tồn hỏi: “Sao thế?”

Thanh Duy lắc đầu.

Không phải nàng không có hứng thú với hội thi họa lần này, chỉ là không hiểu sao nàng có trực giác ai đó đang quan sát mình.

Lúc nãy khi vừa tới Thuận An Các, cái nhìn theo gió đưa tới như có kim đâm, nhưng khi nàng ngoái nhìn lại chẳng phát hiện ra điểm bất thường nào.

Đây đã là lần thứ hai nàng có cảm giác này, Thanh Duy không rõ có phải là ảo giác hay không, tuy thời gian nàng né tránh truy binh cũng từng trông gà hóa cuốc, nhưng gần đây nàng đi theo quan nhân, rõ ràng được ăn no ngũ kỹ mà.

Đến giờ Tuất, đèn treo ở bốn góc tối đi, trên sân khấu thắp một dãy đèn cao, chiếu sáng tựa ban ngày. Ông chủ Trịnh bước lên sân khấu, phát biểu vài câu rồi bảo tiểu nhị đi giới thiệu trân phẩm mà tối nay sẽ triển lãm.

Đầu tiên là tác phẩm của họa sĩ Thủy Tùng tiền triều, ông chủ Trịnh nói, “Thủy Tùng có sở trưởng về chim muông hoa lá, thể hiện cảnh chi tiết đầy tinh tế, bức Đỗ quyên bên vách núi này là danh tác được vẽ năm ông ấy làm quan…”

Thanh Duy ngồi trước cửa sổ, chống cằm ngắm nhìn nhưng chẳng vào.

Kể ra Ôn Thiên cũng thích tranh chữ đấy, nhưng Thanh Duy lại không được di truyền chút nào về mảng này, đặt trước mặt nàng một bức danh họa, cùng lắm nàng có thể chỉ ra được tốt xấu, nhưng tốt ở đâu xấu ở đâu thì nàng không thể nói rõ.

Tối nay Tạ Dung Dữ đến vì Sấu Thạch, chỉ cần trên đài không phải triển lãm bức họa phong cách của Lữ Đông Trai thì y sẽ xem sách, chọn liên tục mấy bức, tiếc nỗi không có bức nào mô phỏng giống.

Đương lúc mất hứng, chợt nghe thấy ông chủ Trịnh ở trên sân khấu nói: “Gần đây bổn các có được một bức họa, tuy không hẳn là trân phẩm, họa sĩ cũng vô danh, nhưng sở dĩ đặt trên sân khấu triển lãm là vì, bức tranh này rất đặc biệt, nó chính là bức Tứ cảnh đồ.”

Tứ cảnh đồ?

Ba chữ này vừa được thốt ra, đừng nói là Thanh Duy và Tạ Dung Dữ, các nhã các xung quanh cũng lập tức xôn xao.

Tứ cảnh đồ của Lữ Đông Trai nức tiếng xa gần, có người yêu thích tranh nào mà chưa từng nghe đến. Nhưng Tứ cảnh đồ thất truyền đã lâu, lần cuối xuất hiện là từ mười năm trước, Tứ cảnh đồ của Thuận An Các từ đâu mà ra? Ông chủ Trịnh nói họa sĩ là Khuyết danh, rốt cuộc đã có chuyện gì?

Ông chủ Trịnh không nói dối, đoạn vỗ tay, hai tiểu nhị lập tức mở ra một bức tranh ở trên sân khấu.

Tác phẩm vẽ theo lối vẩy mực, là cảnh núi non trong mưa.

Tạ Dung Dữ nhìn kỹ, cảm thấy bức tranh này thực sự rất giống phong cách của Lữ Đông Trai, loang màu vừa phải, đậm nhạt phù hợp, bất kể là mây mù trên trời hay bóng cây trong núi đều có thế sấm rền, họa kỹ cực tài tình.

Nhưng một bức tranh như thế vẫn chưa đáng để gọi là trân phẩm.

Thanh Duy chợt nhớ Tạ Dung Dữ có nói, Tứ cảnh đồ là một bức tranh có thể thay đổi.

Đúng lúc này, một tiểu nhị khác cầm một ống tranh đến rồi mở ra, tranh vẽ cảnh đình đài trên núi, từ phong cách nét vẽ có thể nhận ra người vẽ bức này chính là người đã vẽ bức lúc trước.

Tiểu nhị giơ cao tranh trước ngọn đèn, đợi mọi người nhìn rõ xong thì chồng lên bức tranh trước.

Hai bức nhập làm một, chỗ mực nhạt chìm xuống, mực đậm nổi lên, đậm nhạt đan xen tạo nên đường cong mới, thoắt cáigiữa màn mưa mênh mông xuất hiện một mái đình tránh mưa, có bóng người trên núi đang chạy nhanh tới đình.

Vẫn chưa hết, lại có tiểu nhị mở ra bức tranh khác, chồng bức mới lên bức cũ, khung cảnh mới lại xuất hiện, có người đang ngắm cầu vồng trên đỉnh núi sau khi cơn mưa qua, có người trở về nhà trong khói bếp xế chiều, bức cuối cùng không có người, chỉ là cảnh mưa dần ngớt hạt, một chú mèo nấp dưới lá ló đầu ngó nhìn.

Ngày hôm nay tề tựu nơi đây đều là những người yêu tranh, cũng từng nghe nói đến bức Tứ cảnh đồ, nhưng chính mắt trong thấy lại khác, từng tiếng tán thưởng liên tục vọng ra từ trong nhã các, ngay cả Thanh Duy cũng bị bức tranh này thu hút, nàng hỏi Tạ Dung Dữ: “Như vậy Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh có tổng cộng năm bức?”

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Bức tranh đầu tiên gọi là tranh gốc, những bức đặt lên để thay đổi gọi là tranh phủ. Nhưng Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh còn tuyệt hơn bức chúng ta đang xem nhiều, tranh nền của ông ấy chỉ là cảnh phố phường Lăng Xuyên vào buổi tối, đặt tranh phủ lên là thành khung cảnh phồn thịnh nổi tiếng nhất Lăng Xuyên, núi non chùa miếu tiếng chuông, giặt giũ rửa chân bên bờ Bạch Thủy, sông uốn cong chảy về biển, thác nước cao trăm trượng.”

Trước khi Tứ cảnh đồ ra đời, thường có người chê bai tranh của Đông Trai chỉ chú trọng chấm phá dùng mực mà xem thường kỹ năng đi bút, cho tới khi Tứ cảnh đồ ra đời, ý chôn trong nét, những lời chất vấn mới dần dà biến mất.

Tạ Dung Dữ nói: “Lữ Đông Trai được xưng là thiên tài hội họa, nhưng sự xuất hiện của Tứ cảnh đồ đã chứng minh một điều.”

“Là gì?”

“Dù là thiên tài, muốn trở thành bậc thầy chân chính cũng chỉ có thể chăm chỉ luyện tập, hiểu được mấu chốt mới có thể đột phá, chứ không có đường tắt để đi. Nên các họa sĩ kế tục ông ấy đã thay đổi phong trào của các bậc tiền bối, đến triều đại bây giờ, hầu hết chúng đều là những tác phẩm có nền tảng vững chắc.”

Tạ Dung Dữ lại nhìn bức tranh trên sân khấu lần nữa.

Bức Tứ cảnh đồ của họa sĩ Khuyết danh khiến y nhớ đến Sấu Thạch, có điều vì quá xa nên không thể chắc chắn.

Ông chủ Trịnh bảo tiểu nhị cất bức Tứ cảnh đồ đi, nói: “Chư vị xem qua tranh, ắt hẳn có hiểu biết về Tứ cảnh đồ, tuy bổn các không thể tìm được bản gốc của Đông Trai tiên sinh, nhưng nắm được phong cách thôi cũng đủ là độc nhất vô nhị trong hàng vạn rồi, hẳn chư vị phải biết giá trị của bức tranh này, khởi điểm ba trăm lượng, mời chư vị ra giá.”

“Ba trăm lượng!”

Có người đã bắt đầu giơ thẻ.

“Ba trăm năm mươi lượng!”

“Bốn trăm lượng.”

“Năm trăm lượng!”

Tiếng ra giá thay nhau vang lên, chẳng mấy chốc, bức Tứ cảnh đồ vô danh này đã đạt đến mức tám trăm lượng.

“Vô Hương Các, tám trăm lượng, có ai ra giá cao hơn không ạ?”

Tạ Dung Dữ nhìn Đức Vinh, Đức Vinh hiểu ý, giơ thẻ lần đầu trong tối nay.

“Ngọa Vũ Các, một nghìn lượng.”

Tiếng hô vừa dứt, toàn bộ lầu các xôn xao, suy cho cùng cũng chỉ là tranh mô phỏng, họa sĩ cũng khuyết danh, bán ra một nghìn lượng thực sự quá cao.

Ai dè tiếng xôn xao vẫn chưa dừng, lại có người ra giá, tiểu nhị hô to, “Thính Đào Các, một nghìn năm trăm lượng.”

Đức Vinh nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y không thể hiện gì thì giơ thẻ lên lần nữa.

“Ngọa Vũ Các, một nghìn tám trăm lượng.”

“Thính Đào Các, hai nghìn lượng!”

“Ngọa Vũ, hai nghìn ba trăm lượng.”

“Thính Đào, hai nghìn năm trăm lượng!”

Các căn phòng xung quanh không khỏi ồ à trầm trồ, những tiếng kinh ngạc thổn thức lần lượt truyền tới, thậm chí có người còn nói thẳng, “Chỉ là tranh mô phỏng thôi mà, có tốt đến mấy cũng không đáng với cái giá này!”

Tạ Dung Dữ cũng chau mày, y mua tranh là để tra án nên mới không tiếc chi ngàn vàng, nhưng bình thường, khi một người thích tranh chịu bỏ ra khoản tiền lớn thì chủ yếu là nhờ danh tiếng của họa sĩ, còn họa sĩ của bức Tứ cảnh đồ này chỉ là khuyết danh, rốt cuộc ai đang tranh với y đây?

Đức Vinh nhìn nét mặt Tạ Dung Dữ, hỏi, “Công tử, chúng ta còn ra giá nữa không?”

Tạ Dung Dữ nói: “Ra đi, thử xem giới hạn cuối của hắn là gì.”

Chẳng mấy chốc, ông chủ Trịnh lại thấy Ngọa Vũ Các giơ thẻ, “Ngọa Vũ, hai nghìn bảy trăm lượng.”

Thính Đào theo sát nút, “Thính Đào, ba nghìn lượng!”

“Ngọa Vũ, ba nghìn một trăm lượng.”

“Thính Đào, ba nghìn năm trăm lượng.”

“Ngọa Vũ, ba nghìn sáu trăm lượng.”

Bầu không khí yên ắng bao trùm toàn lầu, mọi người gần như ngừng thở, đợi xem bức Tứ cảnh đồ vô danh này sẽ được bán với giá cao bao giờ, nhưng đúng lúc này, bên phía Thính Đào đột ngột im lặng.

Ông chủ Trịnh tưởng Thính Đào đã từ bỏ, đương lúc chốt khách mua thì lại thấy Thính Đào giơ thẻ.

“Thính Đào, năm… nghìn lượng!”

Đức Vinh lại quay đầu hỏi ý: “Công tử?”

Tạ Dung Dữ thong thả nói: “Không giơ nữa, điều tra về người mua tranh đi.”

Muốn xem tranh còn nhiều cách, người chi giá cao để mua tranh mới thú vị.

Có viên ngọc sáng Tứ cảnh đồ phía trước, những bức tranh phía sau trở nên đơn điệu hẳn. Ông chủ Trịnh cũng biết chuyện này, vì vậy sau khi Tứ cảnh đồ được định giá thì chỉ đưa ra vài bức tranh đặc sắc, rồi sớm kết thúc hội thi họa.

***

Hội họp từ lúc nắng chiều tắt, cuộc vui giải tán khi trời đã khuya.

Tạ Dung Dữ bước ra khỏi lầu, không đi ngay mà dặn hội Vệ Quyết canh chừng cửa sau cũng như cửa hông ở Thuận An Các, sau đó dẫn Thanh Duy lên nhã các ở tầng hai bên ngoài ngồi, quan sát người từ trong đi ra.

Không lâu sau, Kỳ Minh nhận ra bóng người áo lam quen thuộc trong đám đông, lấy làm ngạc nhiên: “Ngu hầu?”

Chẳng đợi Tạ Dung Dữ ra lệnh, hắn nhanh chóng chạy xuống lầu, vái chào Khúc Mậu, “Sao Khúc Hiệu úy lại ở đây?” Còn nói, “Ngu hầu đang ở trên lầu dùng trà.”

Khúc Mậu bực bội bước vào phòng, ngồi phịch xuống ghế, uống cạn cốc trà, “Sao cậu lại ở đây? Vừa rồi ở đây có tổ chức hội thi họa, cậu có vào không?”

Tạ Dung Dữ nói: “Đến trễ nên không vào.”

Khúc Mậu đập tay thật mạnh xuống bàn, tức tối mắng, “Lúc nãy không biết là tên khốn phương nào, nghèo mạt rệp có chút bạc cũng dám ganh đua giành tranh với ta. Một bức tranh của họa sĩ khuyết danh mà hắn khiến ta phải mua đến năm nghìn lượng! Năm nghìn lượng đấy! Tưởng Khúc phá gia ta ăn chay hả?” Khúc Mậu vung tay, cắn răng nghiến lợi, “Còn phá của hơn cả ta? Hôm nay Khúc gia gia sẽ để ngươi biết cái danh Tán tài cư sĩ của ta từ đâu mà ra!”

Tạ Dung Dữ: “…”
 
Chương 135


Đúng lúc này hội Vệ Quyết cũng đi vào từ cửa hông, thấy Khúc Mậu, Vệ Quyết lộ vẻ ngạc nhiên, tia nghi ngờ vụt qua đôi mắt ưng, “Hóa ra người mua bức Tứ cảnh đồ là Khúc Hiệu úy?”

Khúc Mậu đương còn bực bội: “Nếu Khúc gia gia ta biết ai là kẻ đã đẩy giá, chắc chắn ta phải lột da lóc xương bằng được!”

Tranh của Sấu Thạch bắt chước phong cách của Đông Trai, còn bức Tứ cảnh đồ được đấu giá ở hội thi họa tối nay lại khéo rơi vào tay Khúc Mậu, quả là trùng hợp.

Tạ Dung Dữ bình tĩnh hỏi: “Sao huynh lại mua bức tranh mô phỏng này?”

Khúc Mậu *hả* một tiếng, bảo, “Chẳng phải sắp đến sinh nhật của cha ta à, đợt rồi ở Thượng Khê ta chẳng làm được trò trống gì, ông ấy viết thư giáo huấn ta một trận, ta mới định bụng chuẩn bị một món quà mừng thọ dỗ ông ấy. Thực ra cũng không định mua bức tranh đó, nhưng dạo trước ta đi loanh quanh chỗ này, vô tình gặp được Tứ cô nương Doãn gia, theo chân nàng ta tới đây, ông chủ Thuận An Các thấy ta tìm quà mừng thọ thì bảo tranh của tiệm ông ta rất phù hợp, còn cho ta một tấm thiệp của hội thi họa, thế là ta đến thôi.”

Đối với Hầu phủ có thực ấp vạn hộ mà nói, năm nghìn lượng chẳng thấm vào đâu. Khúc Mậu nói chuyện với Tạ Dung Dữ một lúc thì cũng vơi bớt lửa giận, hắn ngửa đầu ra sau, day nhẹ ấn đường, “Nói thật nhé, ta thấy hội thi họa này chẳng thú vị gì sất, ông chủ với đám văn nhân nhã sĩ kia mở mồm toàn văn vẻ, xém chút nữa đã ru ngủ gia gia ta đây rồi, nên ta mới chọn bức đắt nhất để mua, bức nào được giành giật nhiều nhất thì ta lấy bức đó…”

Bên ngoài có người gõ cửa, là ông chủ Trịnh đem bức Tứ cảnh đồ tới.

Để đề phòng có kẻ thèm muốn họa phẩm mà làm phiền người mua tranh, vì vậy sau khi hội thi họa kết thúc, người hầu của bên mua sẽ trao tiền cho tiểu nhị được chỉ định, cuối cùng ông chủ sẽ đích thân đem tranh tới.

Thấy Tạ Dung Dữ cũng có mặt, ông chủ Trịnh chẳng mấy ngạc nhiên, hai người họ đều nói giọng quan kinh thành, quen nhau cũng không lạ. Ông ta lần lượt mở bộ Tứ cảnh đồ ra theo thứ tự, nói: “Một tranh nền bốn tranh phủ đều ở đây, mời quý khách kiểm tra. Ban nãy vì để thu hút chú ý nên tại hạ cố tình nói nó là Tứ cảnh đồ, thực chất lúc họa sĩ gửi bán có bảo không dám xúc phạm đến Đông Trai tiên sinh, cho nên chỉ đặt tên là Sơn vũ tứ cảnh đồ, mời quý khách xem nơi này.”

Ông ta giơ tay chỉ vào góc trái bên dưới bức tranh, đúng là có viết một hàng chữ nhỏ “Sơn vũ tứ cảnh đồ”.

Nay nhìn gần mới thấy, kỹ xảo dùng mực quả rất giống với Sấu Thạch, nhưng có thật là do tự tay Sấu Thạch vẽ không thì Tạ Dung Dữ không dám chắc, họa kỹ của bức tranh Sơn vũ tứ cảnh đồ rất tinh tế, chỉ trong năm năm ngắn ngủi đã tiến bộ tới mức này, lẽ nào là chuyên gia hội họa trời sinh?

Khúc Mậu cất tranh, ông chủ Trịnh đích thân tiễn bọn họ ra về, nói với Tạ Dung Dữ: “Tối nay ở hậu đường còn có rất nhiều họa sĩ ở lại, quý khách đã xem sách, nếu ưng mắt họa sĩ nào, tại hạ có thể giới thiệu.”

Tối nay không một ai biết người nào đã đấu giá với Khúc Mậu, nhưng ông chủ Trịnh thì có. Bây giờ thấy bọn họ có quen nhau, vốn dĩ chỉ cần thương lượng là có thể mua được tranh với giá một nghìn lượng, chẳng qua vì không thể trao đổi nên để cho Thuận An Các hời những mấy nghìn lượng, nay ông chủ Trịnh hỏi thế cốt có ý bồi thường.

Tạ Dung Dữ nói không cần, “Ta chỉ thích tranh của Lữ Đông Trai, nếu có bức nào có phong cách tương tự, xin ông chủ để ý giúp ta.”

Hiếm khi thấy một vương gia lá ngọc cành vàng như Tạ Dung Dữ thích gì đó, Khúc Mậu không khỏi tò mò: “Lữ Đông Trai là ai?”

Tạ Dung Dữ: “…”

Tất cả mọi người: “…”

Hóa ra ngươi chỉ nhắm mắt mua tranh, còn ông chủ nói gì ngươi không nghe?

Vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc đã ra đến ngoài Thuận An Các, ông chủ Trịnh dừng chân trước cửa, “Quý khách mua được tranh, cũng đã trả tiền, tại hạ tiễn quý khách rời khỏi lầu, cuộc mua bán này xem như đã ấn định tiền trao cháo múc, đây vốn là quy định của bổn các, từ giờ trở đi, bức Sơn vũ tứ cảnh đồ không còn liên quan đến bổn các nữa. Tạm biệt quý khách.”

Khúc Mậu coi lời ông ta như gió thổi bên tai, người hầu kéo xe ngựa đến nhưng hắn không lên, đòi đi chung với Tạ Dung Dữ, “Lần trước ta đã bảo muốn chuyển đến ở trang viên của cậu còn gì, chuyện này thế nào rồi…”

Thanh Duy đi theo phía sau, gió đêm lướt qua khiến nàng thấy lạnh, bèn khép áo chùng lại. Áo chùng của nàng màu đen, mũ trùm cũng phủ lụa đen, người không biết sẽ tưởng nàng là ám vệ ở Huyền Ưng Ti.

Tạ Dung Dữ đang đi đến Thượng Nguyệt Thực – Thanh Duy nhận ra phương hướng, biết y lại muốn dẫn nàng đi ăn khoai nướng. Ấy nhưng, còn chưa kịp vui vẻ thì đúng lúc này, một cơn gió nhẹ sượt qua tai. Thanh Duy đưa mắt nhìn, tên trộm xuất hiện quá nhanh, không khác gì bóng ma vô hình xuất hiện bên cạnh người hầu của Khúc Mậu, ngay trước khi đám đông kịp thời phản ứng thì hắn đã giơ tay ra, giật lấy cuộn tranh trong tay người hầu.

Cuộn tranh đó là tranh nền trong bộ Sơn vũ tứ cảnh đồ, không có nó, bốn bức tranh phủ cũng mất đi giá trị.

Thấy hắn ta sắp sửa bỏ trốn, Thanh Duy lập tức đuổi theo, giơ tay bổ xuống sau vai hắn. Nhưng tên trộm như có mắt mọc sau lưng, ngay khi một chưởng ập đến, hắn ta ngoái đầu bình tĩnh tiếp chiêu của Thanh Duy, mũi chân điểm lực lên tường, tung mình nhảy lên mái nhà.

Thanh Duy phi thân đuổi theo, cùng lúc đó, hội Vệ Quyết Kỳ Minh cũng hoàn hồn, cùng Thanh Duy đuổi theo kẻ trộm.

Đêm đã khuya, phố Lưu Chương sáng rực ánh đèn, tên trộm mặc đồ đen, khoác thêm áo choàng rộng thùng thình, chớ nói mặt mũi, đến thân hình ra sao cũng khó có thể nhận ra. Hắn ta có thân pháp vừa nhanh lại nhẹ nhàng, gần như đạp gió mà đi, ngoại trừ Thanh Duy, chỉ có Vệ Quyết và Kỳ Minh là theo kịp.

Không hiểu sao Thanh Duy lại có cảm giác, kẻ trộm tranh này chính là kẻ đã theo dõi mình gần đây. Nàng không dám dùng nhuyễn ngọc kiếm, Tạ Dung Dữ có mua cho nàng một thanh trọng kiếm, tiếc là không đem theo. Mà có đem theo cũng vô dụng, xách theo đồ nặng càng không đuổi kịp. Trông thấy cửa hàng bên đường có giăng dây thừng, nàng quơ tay chụp lấy. Dây vào tay nàng lập tức biến thành vật sống, thừng dài hơn trượng như rắn phóng mình về phía trước, đập thẳng vào áo của tên trộm.

Mà tên trộm phản ứng cũng rất nhanh, khi lưỡi rắn ở phía sau sắp sửa tấn công, hắn ta lách mình né tránh rồi đối mặt với Thanh Duy, mũi chân điểm lên góc mái nhà, áo choàng được gió nâng như cánh chim, lao về phía mái nhà cao hơn.

Chỉ trong chớp mắt, tên trộm cùng Thanh Duy và mấy người Vệ Quyết vụt qua vụt lại giữa nóc nhà, chẳng mấy chốc đã biến mất trong tầm mắt của mọi người. Lúc này Khúc Mậu mới giật mình phản ứng, quát đám tuần vệ đi theo mình: “Các ngươi còn ngẩn ra đó làm gì, nhanh đuổi theo!”

***

Không phải Khúc Mậu tiếc bạc đã bỏ ra, mà vất vả lắm Khúc Ngũ gia hắn mới có thể lết mình đến hội thi họa một chuyến, nhưng vừa mua được tranh thì lại bị trộm mất, bảo hắn nuốt cục tức này thế nào đây? Hắn chắp tay đi tới đi lui trên đường, không lâu sau thấy nhóm Thanh Duy quay về.

Tạ Dung Dữ bất ngờ: “Không đuổi kịp à?”

Thanh Duy nắm mũ trùm, không lên tiếng.

Kỳ Minh đáp: “Tên trộm chạy quá nhanh, và có vẻ hắn biết chúng thuộc hạ không muốn làm hỏng tranh, hễ chúng thuộc hạ ra tay là hắn lại giơ tranh ngăn cản, không những thế hắn ta còn rất quen thuộc đường phố khu vực này, ba người chúng thuộc hạ hợp lực, nhưng… vẫn không bắt kịp.”

Vệ Quyết nói: “Lúc về chúng thuộc hạ có gặp Tề Châu doãn và Tống trưởng lại, nghe chuyện này, hai người họ đã ngay lập tức điều động tìm kiếm xung quanh.”

Đúng lúc này, tùy tùng Vưu Thiệu của Khúc Mậu lên tiếng: “Ngũ công tử, chúng ta vừa mua được tranh thì đã bị mất cắp, quá trùng hợp, liệu có thể bảo ông chủ bồi thường được không?”

Kỳ Minh nói: “Lúc nãy khi chúng ta rời khỏi Thuận An Các, ông chủ có nói ra khỏi cửa là coi như tiền trao cháo múc, bức Sơn vũ tứ cảnh đồ không còn liên quan đến bọn họ nữa.”

Kỳ Minh chỉ nhắc nhở chứ không có ý khác, nhưng tối hôm nay Khúc Mậu làm gì cũng không suôn sẻ, hắn đang vô cùng bực tức, nghe thấy thế thì lại càng trái tính, nói luôn: “Sao không thể bắt bọn họ bồi thường hả? Phải bắt đền bằng được!”

Nói đoạn, hắn quay đầu trở lại Thuận An Các.

Thuận An Các vẫn còn khách nên chưa đóng cửa, thậm chí trong nhã các còn có người chờ gặp họa sĩ, ông chủ Trịnh đang giới thiệu mọi người gặp mặt, thấy nhóm Khúc Mậu quay về thì tưởng Tạ Dung Dữ muốn mua tranh, niềm nở tiếp đón: “Sao quý khách lại quay lại thế?”

“Vì sao ta quay lại ư? Ông chủ còn mặt mũi mà hỏi hả.” Vưu Thiệu hừ lạnh, “Công tử nhà ta vừa mua tranh ở chỗ ông xong, chưa gì đã bị trộm mất, hay là chính ông chủ Trịnh làm chuyện mua bán đen tối, một mặt bán tranh một mặt sai trộm canh chừng bên ngoài, trộm tranh về bán lại lần nữa. Hèn chi không cho bất cứ ai biết thân phận người mua, hóa ra là có ý định bán mới đây mà.”

Phải một lúc sau ông chủ Trịnh mới hiểu ý Vưu Thiệu, ngạc nhiên nói: “Bức Sơn vũ tứ cảnh đồ bị trộm?”

Khúc Mậu nói: “Vừa nãy ở đằng kia bọn ta đuổi theo tên trộm cả buổi, bộ ông không nghe thấy hả, vừa ra khỏi chỗ ông thì tranh bị trộm, còn không phải ông làm?! Tiểu gia nói ông biết, hoặc là đền tranh hoặc là đền bạc, chọn một trong hai!”

Ông chủ Trịnh rất lấy làm tiếc khi biết bức Sơn vũ tứ cảnh đồ bị trộm, nhưng thấy Khúc Mậu khăng khăng nhận định mình là đồng bọn của tên trộm thì không khỏi tức giận, lạnh lùng nói: “Quý khách nói sai rồi, trong các lu bu bận rộn bao nhiêu chuyện, lúc nãy tại hạ còn vào trong tính tiền, thực sự không biết bức Tứ cảnh đồ bị trộm. Quý khách mất tranh, tại hạ cũng tiếc thay, nhưng vừa rồi khi tiễn quý khách rời đi, tại hạ đã nói rồi, ra khỏi cửa là coi như tiền trao cháo múc, bức Sơn vũ tứ cảnh đồ không còn liên quan đến Thuận An Các nữa. Thuận An Các mở cửa mấy năm nay, nói thật, không phải chưa từng bán ra bức tranh nào năm nghìn lượng, năm ngoái tại hạ còn tìm được một bức bản gốc của Dụ Đức hoàng đế tiền triều, bán ra hơn mười nghìn lượng, bao nhiêu lần tổ chức hội thi họa cũng chẳng gặp chuyện gì. Nếu chỉ vì các hạ gặp trộm ở gần Thuận An Các mà hắt gáo nước bẩn lên Thuận An Các, thứ cho tại hạ không nhận. Tại hạ không sợ nói thẳng, Thuận An Các có được ngày hôm nay là nhờ làm ăn chân chính, có quy định nghiêm ngặt rõ ràng, dù thiên vương có đến cũng phải tuân thủ quy định trong các. Vừa rồi ở bên trong, Thuận An Các tìm đủ cách bảo vệ thân phận người mua, chẳng phải có câu ‘của cải không nên để lộ ra’ đấy sao, trước đó quý khách không dị nghị gì, rồi bây giờ rõ ràng đã ôm tranh trong người, bất cẩn bị trộm mất, Thuận An Các chỉ có thể lấy làm thông cảm, nhưng đó không phải là chuyện bổn các phải chịu trách nhiệm, thậm chí bổn các cũng tuyệt đối không chịu trách nhiệm.”

Giọng ông ta sang sảng, nhất thời thu hút sự chú ý của mọi người, ngay đến họa sĩ trong lầu cũng đi ra.

Ngẫm cũng đúng, dù Thuận An Các và tên trộm có cùng một giuộc đi nữa thì làm gì có chuyện trộm cắp ngay trước cửa nhà mình. Hơn nữa, cả con phố Lưu Chương đều bán tranh chữ, tại sao Thuận An Các có thể độc chiếm vị trí đầu? Chính là nhờ làm ăn rõ ràng.

Tạ Dung Dữ cảm thấy chuyện tối nay quá kỳ lạ, đương lúc suy nghĩ thì chợt thấy có người chen đến bên cạnh, thấp giọng gọi: “Điện hạ.”
 
Chương 136


Tạ Dung Dữ quay mặt sang, ra là hai anh em Doãn Trì Doãn Uyển, “Hai người cũng đến hội thi họa à.”

Doãn Trì đáp: “Thảo dân là họa sĩ của Thuận An Các, tối nay…” Hắn lôi ra quyển sách ở hội thi họa, toan vượt mặt Kỳ Minh muốn chỉ cho Tạ Dung Dữ xem, Tạ Dung Dữ thấy thế, ra hiệu Kỳ Minh nhường đường, “Tối nay thảo dân gặp may, có tranh được khách quý để mắt nên giờ đang đợi tính tiền.”

Tạ Dung Dữ nhìn sách, cái tên Doãn Trì dùng để ký là Nguyệt Chương, vẽ tranh mỹ nữ, tối nay y còn chọn mấy bức.

Lúc Doãn Trì ở trong lâu đi ra đã trông thấy Tạ Dung Dữ, dáng vẻ cao quý áo xanh ống rộng tựa trích tiên, khiến người khác không chú ý cũng khó. Hồi chiều hắn trò chuyện với Tạ Dung Dữ rất tâm đầu ý hợp, cảm thấy không một quý công tử nào trên đời này phong lưu hào phóng bằng Tiểu Chiêu vương, nên lúc ở xa đã muốn đến chào hỏi, vất vả lắm mới chen được lại gần, hắn không ngừng bắt chuyện, “Tối nay Nguyệt Chương có thể đến được hội thi họa là nhờ cả điện hạ đấy ạ.”

“Điện hạ cũng biết phụ thân không thích Nguyệt Chương mê đắm tranh vẽ mà, đừng nói là hội thi họa, bình thường qua lại phố Lưu Chương thôi phụ thân cũng không vui rồi. Hôm nay tán gẫu với điện hạ một buổi, phụ thân biết điện hạ cũng thích tranh chữ, thế là bảo không nên phân biệt học hành thú vui, lúc ấy mới ngầm cho phép Nguyệt Chương tham dự.”

Vừa nói hắn vừa nhìn Khúc Mậu, “Sao thế ạ, vị khách đã mua bức mô phỏng Tứ cảnh đồ là bạn của điện hạ?”

Khúc Mậu và ông chủ Trịnh vẫn còn cãi nhau.

“Ông lên kinh đến ngõ Lưu Thủy mà hỏi, từ trước tới nay chỉ có Ngũ gia nhà ta để kẻ khác biết mùi, còn muốn kiếm chác từ Ngũ gia ta hả, khéo kẻ như thế còn chưa được đẻ! Tối nay bọn ta nói thẳng, Thuận An Các các ngươi bắt buộc phải bồi thường bức Sơn vũ tứ cảnh đồ, không đền thì mời quan phủ tới giải quyết, nói tóm lại phải cho ta một câu trả lời!”

Mời quan phủ đến giải quyết? Nhìn là biết nhóm người này có dây tơ rễ má với quan phủ, quan sai mà tới, chẳng phải ai hơn ai quá rõ rồi ư?

Tuy rất bực mình nhưng ông chủ Trịnh vẫn phải nhường bước, “Đó là định của Thuận An Các, một khi tranh đã được bán đi, ra khỏi cửa Thuận An Các là coi như tiền trao cháo múc. Nếu các hạ mất tranh ở gần đây, vậy được, hai bên lùi một bước, bức Sơn vũ tứ cảnh đồ có giá năm nghìn lượng, bỏ đi tiền chia cho họa sĩ, Thuận An Các lấy hai nghìn lượng, trả lại hai nghìn lượng. Nhưng họa sĩ gửi bán tranh ở Thuận An Các là vì tin tưởng chúng tôi, chuyện mất tranh không liên quan đến họa sĩ, Thuận An Các không thể bảo họa sĩ trả lại bạc được, nếu làm mất chữ tín thì Thuận An Các còn kinh doanh gì nữa!”

Đối với Khúc Mậu, hai nghìn lượng bạc cũng chỉ như bố thí ăn mày, hắn quay lại đây là do không nuốt trôi cục tức chứ đâu phải vì đòi bạc?

Doãn Trì đứng cạnh nhìn, thấy hai bên lại sắp cãi nhau thì không khỏi lo thay cho ông chủ Trịnh.

Hắn biết quy định ở Thuận An Các rất nghiêm ngặt, ông chủ Trịnh sẵn lòng chi ra hai nghìn lượng là vì kiêng dè thân phận của Khúc Mậu, sợ hắn là con cháu nhà thế tộc nào đó. Nhưng ông chủ Trịnh đã đánh giá thấp Khúc Mậu, nhà huân tước hiển hách đâu thể so với thế tộc bình thường, nói gì tới người sau lưng hắn – Tiểu Chiêu vương nổi tiếng khắp thiên hạ. Những năm qua Thuận An Các kiếm được rất nhiều tiền, chỉ vì cuộc mua bán chừng nghìn lượng mà xảy ra mâu thuẫn với nhà công hầu hoàng thân, thực không đáng.

Ông chủ Trịnh cãi nhau nãy giờ cũng chỉ vì “quy định” trong các, Doãn Trì nghĩ ngợi, đoạn tiến lên khuyên nhủ: “Theo tại hạ thấy, chi bằng tính thế này đi, tạm thời tối nay Thuận An Các không bán bức Tứ cảnh đồ, đem trả lại toàn bộ năm nghìn lượng. Các bức tranh phủ vẫn còn, chỉ mất bức tranh nền, tài hội họa của họa sĩ Khuyết danh kia cao siêu thế kia mà, vẽ lại bức tranh nền chắc sẽ không khó bằng tranh phủ. Huống hồ sau chuyện này, họa sĩ Khuyết danh cũng không lỗ lã gì, phong cách của Đông Trai tiên sinh khó bắt chước, giờ coi như hắn đã có thanh danh, về sau tranh hắn vẽ còn lo không bán được ư? Trả lại tiền bán tranh, khách hài lòng, đồng thời thể hiện sự thấu tình đạt lý của Thuận An Các và họa sĩ.”

Tuy những lời này nghe có vẻ ‘của người phúc ta’, nhưng đấy đúng là biện pháp giải quyết tốt nhất trước mắt. Ông chủ Trịnh nhìn Doãn Trì, im lặng không lên tiếng.

Dường như cuối cùng ông ta cũng chịu nhượng bộ, thở một hơi thật dài: “Được rồi, chỉ lần này thôi, không phá lệ lần thứ hai.” Nói đoạn, bảo tiểu nhị đem ngân phiếu đến, đưa cho Vưu Thiệu đứng cạnh Khúc Mậu, “Khách quan nhận đi, năm nghìn lượng, không thiếu một xu. Nhưng tại hạ xin nói thêm, tối nay trả lại bạc là quyết định của Thuận An Các, nếu họa sĩ không chịu, vậy tạm thời coi như tranh vẫn được bán, Thuận An Các sẽ chịu lỗ ba nghìn lượng đặt cọc thay họa sĩ, họa sĩ cứ việc đến lấy.”

Ông chủ Trịnh nói vậy khác gì chửi xéo Khúc Mậu hẹp hòi. Kỳ thực Khúc Mậu cũng đã bình tĩnh lại rồi, hắn mua tranh là để chúc thọ cha, chắc chắn Khúc Bất Duy sẽ rất thích bức Sơn vũ tứ cảnh đồ đó cho mà xem. Khúc Mậu không thích thứ phong nhã, nhưng hôm nay không ngại vất vả đến phố Lưu Chương, còn chẳng phải vì muốn cha hắn có sinh nhật vui vẻ ư? Tốn bao nhiêu tâm huyết, thế mà bức tranh muốn có lại bị trộm mất, tưởng đền hắn năm nghìn lượng là xong hả? Khúc Mậu nói thẳng, “Tiểu gia không cần năm nghìn lượng này, ông mời họa sĩ ra đây, nếu hắn có thể vẽ ra bức đẹp hơn, chớ nói năm nghìn lượng, tiểu gia sẽ chi thêm gấp mười lần, năm mươi nghìn lượng mua tranh của hắn!”

Vừa thốt ra bốn chữ “năm mươi nghìn lượng”, xung quanh không khỏi hít sâu. Đã từng gặp không ít kẻ phá gia, nhưng vị trước mắt đây quả là vô tiền khoáng hậu, dẫu tranh của họa sĩ Khuyết danh có đẹp đến mấy thì cũng không phải bản gốc của Đông Trai, một nghìn lượng là đã quá đủ, đâu đáng giá hơn mười nghìn lượng?

Nhưng ông chủ Trịnh cũng không vừa, thấy Khúc Mậu trái không được phải không xong, cơn giận lại lần nữa bùng lên, “Không được! Đã là họa sĩ đứng tên ‘khuyết danh’ ở bổn các, bổn các cam kết tuyệt đối không để lộ thân phận! Quy định là quy định, dù quan khách có thân phận tôn quý đến đâu cũng tuyệt đối không thể gặp họa sĩ! Năm nghìn lượng này quan khách muốn lấy thì lấy, bổn các không phục vụ nữa, người đâu, tiễn khách!”

Hơn mười tiểu nhị lập tức xông đến, toan kéo Khúc Mậu ra ngoài. Nhìn sơ cũng biết toán tiểu nhị này biết võ, nhưng tuần vệ đi cạnh Khúc Mậu đâu phải ăn chay, khi hai bên sắp sửa đánh nhau thì đúng lúc này, ở ngoài lầu có người cao giọng hô: “Tề đại nhân tới!”

Tề đại nhân chính là Châu doãn Lăng Xuyên Tề Văn Bách, thân hình trung bình, mặt trắng râu dài, xấp xỉ tuổi tứ tuần, nho nhã lịch sự. Ban nãy khi hội Thanh Duy đuổi theo tên trộm, tình cờ gặp được Tề Văn Bách và Tống trưởng lại trên đường, hai người bọn họ lập tức điều động nha sai tìm khắp ngõ ngách. Vệ Quyết thấy Tề Văn Bách tới, liền hỏi: “Tề đại nhân, đã tìm ra tên trộm chưa?”

Tề Văn Bách đáp: “Vẫn chưa.”

Ông nhìn Tạ Dung Dữ, sợ tiết lộ thân phận của y nên không dám hành lễ, chỉ nói, “Bổn quan đã nghe về rắc rối ở hội thi họa tối nay rồi, bổn quan cũng đã cho người điều tra, bước đầu xem ra kẻ trộm tranh không liên quan tới Thuận An Các. Nếu Khúc… công tử muốn tranh chứ không cần tiền, vậy tạm thời ông chủ cứ lấy lại ngân phiếu năm nghìn lượng này đi, đợi tới lúc quan phủ bắt được tên trộm, nếu tranh có hư hỏng gì, đến lúc đó đền bù vẫn chưa muộn.”

Năm xưa Tiển Khâm Đài sập, dưới cơn thịnh nộ Chiêu Hóa đế đã chém đầu Ngụy Thăng, Tề Văn Bách là châu doãn lăng Xuyên bổ nhiệm sau Ngụy Thăng, trong năm năm ông đảm nhiệm địa phương rất thái bình, nhờ vậy mà dân chúng xưng ông là thanh thiên. Nhưng quan với dân ít qua lại, tuy ông chủ Trịnh đã nghe đến danh tiếng của Tề Châu doãn song không chú ý nhiều, nay thấy ông giải quyết không thiên vị, không nịnh nọt trèo cao thì vô cùng cảm động, vội nói: “Mọi chuyện do Tề đại nhân làm chủ, thảo dân tuyệt đối không cãi một câu.”

Khúc Mậu làm ầm chuyện lên cũng chỉ vì bức Sơn vũ tứ cảnh đồ, nay Tề Văn Bách đã chịu can thiệp, hắn cũng không phải người không biết lý, bằng lòng chờ thêm ít hôm, để xem châu doãn này có thể tìm được tranh về hay không.

Có quan phủ làm chủ, người hóng hớt cũng dần giải tán, tuy Doãn Trì và Doãn Uyển chung đường với Tạ Dung Dữ nhưng nào dám ngồi chung với y, đành cáo từ trước. Tề Châu doãn tiễn Tạ Dung Dữ đến đầu phố, đoạn cúi người nói: “Hay tin điện hạ đến hội thi họa, hạ quan vốn định đến tiếp ngài, ai ngờ lại gặp phải kẻ trộm tranh, xin điện hạ yên tâm, hạ quan nhất định sẽ tìm lại tranh về giúp Khúc Hiệu úy.”

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Tề đại nhân vất vả rồi.”

Khúc Mậu cũng rất mệt, chỉ nói một tiếng “vất vả” rồi thôi, thậm chí hắn còn quên luôn chuyện chuyển tới Quy Ninh Trang, ngáp một cái thật dài rồi bước lên xe ngựa. Tạ Dung Dữ nhìn hắn, gọi lại: “Đình Lam.”

Khúc Mậu ngoái đầu.

Tạ Dung Dữ đứng trong màn đêm, gương mặt không biểu cảm, “Có thể cho ta mượn xem những bức tranh phủ kia được không?”

Khúc Mậu đáp luôn, “Được chứ.” Sau đó ngoắt tay gọi Vưu Thiệu, “Đưa tranh cho bọn họ đi.”

Tạ Dung Dữ không ngờ lại mượn tranh thuận lợi đến thế, y lấy làm bất ngờ song không để lộ ra mặt, chỉ bảo Kỳ Minh tới lấy tranh. Kỳ Minh nhận tranh, nói, “Đa tạ Khúc Hiệu úy, Ngu hầu thưởng thức ít hôm, nhất định sẽ hoàn trả nguyên vẹn.”

Khúc Mậu “à” một tiếng, nói với Tạ Dung Dữ: “Có gì đâu, nếu cậu thích tranh này thì ta tặng cho cậu cũng được.” Vả lại còn chưa biết có thể tìm được bức tranh nền hay không, giờ hắn buồn ngủ lắm rồi, ngáp cái nữa rồi vịn tay Vưu Thiệu lên xe ngựa, lẩm bẩm nói, “Lăng Xuyên có gì nổi tiếng ngoài tranh chữ nữa nhỉ? Chạm khắc? Được rồi, ngày mai Khúc gia gia sẽ đổi sang đi xem chạm khắc…”

Khúc Mậu vừa đi, Tạ Dung Dữ cũng dẫn Thanh Duy về phủ.

Tề Văn Bách cung kính tiễn đưa, cùng Tống trưởng lại lùi sang một bên nhường đường, cho tới khi bóng dáng của Huyền Ưng vệ biến mất khỏi con phố, Tề Văn Bách đứng trong gió lạnh một lúc rồi mới lên xe ngựa, nói với phu xe: “Nhanh!”

Giờ Tý đã trôi qua quá nửa, dù ở phố Lưu Chương rất nóng nhưng càng đi về phía tây lại càng lạnh. Châu nha nằm ở thành tây, xe ngựa dừng trước cửa nha môn, Tề Văn Bách vội vã xuống xe, dẫn Tống trưởng lại đi thẳng vào nội nha, vòng qua Đông Viện, đi đến trước một căn phòng đã điểm đèn, Tề Văn Bách dừng bước, gõ cửa gọi: “Nhạc tiểu tướng quân?”

Rồi ông ta đẩy cửa ra mà không đợi bên trong đáp lại, trong căn phòng không lớn không nhỏ có một chiếc giường tre, kẻ trộm tranh mặc đồ đen ngồi bên trên, gối tay dựa lên giường, cầm túi nước da trâu uống say sưa, và thứ đang nằm trải bên tay ông, không phải là bức tranh nền trong bộ Sơn vũ tứ cảnh đồ đấy sao?

Tề Văn Bách vội la lên: “Nhạc tiểu tướng quân, ngài thật là… Sao ngài lại trộm thứ này làm gì?”

Khúc Mậu thì thôi không nói, nhưng rõ ràng Tiểu Chiêu vương rất muốn bức Tứ cảnh đồ này.

Nhạc Ngư Thất chẳng buồn để bụng, “Chuyện riêng, các ngươi không cần quan tâm.”

“Nhưng…” Tề Văn Bách và Tống trưởng lại trố mắt nhìn nhau, “Rốt cuộc là chuyện riêng gì mà phải liều mạng đắc tội với Tiểu Chiêu vương?”

Nghe ba chữ “Tiểu Chiêu vương”, Nhạc Ngư Thất lập tức ngồi bật dậy, chống tay lên đầu gối, nói: “Khoảng hai mươi năm trước, ta có nuôi một chú chim ở núi Thần Dương. Chim xanh rất không nghe lời, ương bướng bất trị, con người ta vốn không có kiên nhẫn, nhưng chỉ với chú chim này, ta dạy dỗ uốn nắn từng chút từng chút một, bao nhiêu nhẫn nại trong đời đều dành hết cho nó.”

“Nhưng có một ngày, bất đắc dĩ ta phải chia tay nó.” Nhạc Ngư Thất ngồi ngược ánh sáng, ngay cả âm thanh cũng như hòa vào bóng đêm, ông bật cười, “Đến lúc ta gặp lại thì chú chim nhỏ đã trưởng thành rồi, nó bay khỏi rừng trúc núi Thần Dương, dừng chân đậu trên mái nhà kẻ giàu, lại không hề hỏi ý ta. Các ngươi nói xem, chú chim xanh và mái nhà vàng ngọc, bên nào đáng quý hơn?”

Tề Văn Bách và Tống trưởng lại không biết ông muốn nghe lời nào, đành lựa chọn im lặng.

Mà Nhạc Ngư Thất cũng không định nghe bọn họ trả lời, tự nói tiếp: “Đương nhiên là chim xanh rồi. Danh gia vọng tộc đời nào cũng có, Hoàng đế cũng thay đổi qua từng triều đại, nhưng một chú chim xanh tự do tự tại, ngàn đời muốn cầu cũng khó. Cho nên, dù hắn ta là người thế nào, muốn có được chú chim xanh của ta? Qua ải của ta rồi hẵng tính.”

Đoạn, ông lại nằm xuống giường, vòng tay làm gối, uể oải nói, “Không phải là tìm tranh sao? Có kẻ muốn làm cháu rể của ta, dĩ nhiên ta phải thử bản lĩnh của hắn trước.”
 
Chương 137


“Lại đây! Nấp cái gì mà nấp?”

Trong rừng vang vọng tiếng quát lớn.

“Bơi sướng lắm phải không? Sao không bơi thêm mấy dặm nữa, bơi quách ra biển luôn đi?”

Bấy giờ đã gần chính ngọ, trời sáng choang, Nhạc Ngư Thất đứng trong bóng râm ngược sáng, quắc mắt nhìn cô bé cao chưa đến hông mình. Cô bé đi chân trần, bộ đồ dúm dó trên người vừa được hong khô, đám cỏ dưới mỏm đá có lẽ là nơi nó ngủ tối qua, đống lửa bên cạnh cũng mới được nó dập tắt thấy rõ, vì trong tay nó đang cầm một con cá nướng cháy khét – đứng từ đằng xa ông cũng có thể ngửi thấy.

“Ta tìm con suốt cả đêm, con thì sung sướng quá, màn trời chiếu đất ngủ một giấc no say, trời sáng còn biết nhóm lửa cơ đấy. Con to gan lắm, có phải định lập trại ở chỗ này, thỏ hoang chó sói phải gọi con một tiếng Sơn đại vương?”



Thanh Duy đắm chìm trong mộng, nàng vẫn còn nhớ đây chuyện hồi nàng bảy tuổi, thi bơi với cá, bơi hơn nửa ngày đi hai mươi dặm, cuối cùng lạc đường, phải ngủ trong núi một đêm.

Lạ một điều, dẫu biết là mơ nhưng nàng vẫn chưa tỉnh, co ro mình đứng bên cạnh Nhạc Ngư Thất, không dám nhìn thẳng vào ông. Chẳng biết đôi hài của nàng đã rơi chỗ nào, buổi sáng ra suối bắt cá lại làm rớt đá đánh lửa, cũng may đống lửa tối qua chưa tắt, đủ để nàng nướng chín cá, tuy nướng khét nhưng vẫn khá thơm. Nàng đói lả đến nơi rồi, cả ngày hôm qua gần như không có gì vào bụng, giờ nghe thấy Nhạc Ngư Thất ngừng mắng, nàng không đáp mà dè dặt đưa cá lên miệng cắn một miếng.

Nhạc Ngư Thất bực quá bật cười, xoay người bỏ đi.

Thanh Duy biết mình đã sai, vội vã đuổi theo, thấp giọng giải thích, “Con muốn học bản lĩnh lên trời xuống biển của cữu cữu, cữu cữu không chịu dạy, chẳng lẽ con không được tự giác ngộ à?”

“Cha con nói rồi, chỉ cần con học thuộc Luận ngữ, Mạnh tử thì có thể theo cữu cữu học công phu. Mẹ cũng đã đồng ý, thế mà cữu cữu không chịu dạy.”

“Cữu cữu là đồ hẹp hòi!”

Nhạc Ngư Thất xoay phắt người lại, khí thế như gió, dọa Ôn Tiểu Dã lùi nửa bước.

Ông cười lạnh: “Con muốn tự giác ngộ? Con tưởng luyện công giống như tu tiên trong truyện, hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt rồi đại chu thiên tiểu chu thiên rồi vận chuyển bách bát hồi là có thể đạt thành công đức? Không! Đó là sự vất vả khó khăn đổ máu!”

“Tiểu Dã không sợ vất vả!” Ôn Tiểu Dã lập tức đáp.

Nhạc Ngư Thất dừng mắt ở đôi chân nàng, ống quần vén cao, bùn đất dính trên đùi.

“Lên đi.” Ông nói.

Không đợi Ôn Tiểu Dã phản ứng, một khắc sau cổ áo bị nhấc lên, nàng đã nằm trên lưng cữu cữu rồi.

***

“Muốn làm học trò của ta cũng được thôi.”

Hôm sau, Nhạc Ngư Thất dẫn Ôn Tiểu Dã đến bờ sông, thong thả nói.

Cạnh chân ông là một chiếc thùng gỗ, trong thùng có mười con cá, “Thấy bụi bạch dương bên bờ không? Con hãy bơi thi với mười con cá này, bơi tới bờ bên kia, hái một chiếc lá bạch dương, nếu con quay về trước mười con cá này thì ta sẽ nhận con làm đồ đệ. Nghe rõ chưa?”

Ôn Tiểu Dã gật đầu.

“Vậy…”

Nhạc Ngư Thất cầm thùng gỗ lên, toan đổ xuống sông thì đúng lúc này, Ôn Tiểu Dã cũng hành động rất nhanh, nàng lôi ra nắm gạo cất sẵn trong ngực, rải hết xuống sông rồi lao mạnh xuống nước, lấy hết sức bơi đến bờ bên kia, ngậm phiến lá vào miệng, tới lúc nàng bơi về mà mấy con cá chỉ mới tranh xong mồi.

Nàng đưa chiếc lá cho Nhạc Ngư Thất, lau sạch nước trên mặt, đắc chí nói, “Con thắng rồi.”

Nhạc Ngư Thất im lặng nhìn nàng chằm chằm, chợt bật cười sang sảng.

Ông chắp tay sau lưng, đứng giữa núi rừng xanh mướt, thong thả nhả chữ: “Quỳ xuống bái sư đi.”

“Cữu cữu đồng ý dạy con ạ?!”

“Ta bảo không dạy con bao giờ?”

Nó tưởng học võ chỉ là khua tay múa chân, không cần căn cơ ư? Nếu không có ông chỉ điểm cho nó, tí tuổi đầu như nó lấy đâu ra bản lĩnh hơn thua kia?

Ôn Tiểu Dã vâng lời quỳ xuống đất, ngoan ngoãn hành lễ sư đồ.

Nhạc Ngư Thất nói: “Nếu con muốn vào sư môn của ta, có mấy câu ta phải nói trước. Con đường học võ cũng không khác học văn học vẽ, nhìn thú vị nhưng quá trình rất nhàm chán, phải biết giữ kiên trì. Hôm qua khi con nói muốn theo ta học võ, có nhắc đến chữ ‘ngộ’, giác ngộ không sai. Tới khi căn cơ của con đã được củng cố vững chắc, muốn nỗ lực hơn nữa để thập toàn thì lúc đấy phải dựa vào giác ngộ. Giác ngộ không giới hạn ở bất cứ đâu, ví dụ như lúc nãy con dùng mồi dụ cá, nhanh tay hái được lá trước, đó cũng là một dạng võ công. Vu hồi bách chuyển, thuận lợi làm đầu, đó chính là võ đạo của Nhạc Ngư Thất ta.”

Ôn Tiểu Dã nghiêm túc gật đầu: “Con nhớ rồi ạ.”

Nhạc Ngư Thất nhìn nàng: “Còn nữa, hiện tại con đã bái ta làm thầy thì từ nay không được gọi cữu cữu nữa, gọi sư phụ đi.”

“Một ngày làm thầy, cả đời làm cha.”

“Con là đệ tử đầu tiên của sư môn ta, và rất có thể cũng là người cuối cùng, quy củ thế nào tạm thời dựa vào thói quen của ta, con nghe cho kỹ đây.”

“Bị ức hiếp mà không ức hiếp lại, vi sư sẽ đánh gãy chân chó của con.”

“Bị lợi dụng mà không biết đường lợi dụng lại, vi sư sẽ đánh gãy chân chó của con.”

“Bị lừa mà không biết, bị sỉ nhục mà không tức, trái lại còn khóc hộ, thì không những vi sư sẽ đánh gãy chân chó của con mà còn dốc ngược con lên, xem đầu óc con có bị úng nước không. Đã nhớ chưa?”

Ôn Tiểu Dã gật đầu, “Nhớ rồi ạ.”

“Còn nữa…” Nhạc Ngư Thất nhìn thẳng Ôn Tiểu Dã, một lúc lâu sau mới nói, “Về sau hễ là đại sự, nhất là chung thân đại sự, tất phải hỏi ý vi sư, vi sư sẽ kiểm tra giúp con, bằng không…”

Không đợi Nhạc Ngư Thất nói hết, Ôn Tiểu Dã ngẩng đầu, khó hiểu nói, “Sư phụ, chung thân đại sự là cái gì vậy?”



“Quỳ xuống!”

Núi xanh nước biếc trong trí nhớ bỗng biến mất, chớp mắt sau, Thanh Duy đi đến căn nhà tre giữa núi rừng Thần Dương – vốn là nơi ở của sư phụ nàng, từ sau khi rời đi vào năm mười bốn tuổi, nàng chưa lại ghé thăm nơi này lần nào. Lúc này nàng đã lớn, nhưng sư phụ vẫn giống hệt ngày xưa, ông cao gầy, đưa lưng về phía nàng, cầm sáo trúc trên tay, giọng lạnh tanh, “Lớn rồi nên gan cũng to lên có phải không? Dám giấu cha mẹ con, giấu cả vi sư lén định chuyện chung thân, còn không mau quỳ xuống?!”

Thanh Duy vừa nghe quát, hai đầu gối lập tức quỳ sụp xuống.

Nàng toan giải thích rằng mình và y chỉ thành thân giả, không ai xem là thật, nhưng rồi không biết vì sao về sau lại thành như bây giờ. Nàng cụp mắt, trong lòng cảm thấy áy náy, định ngoan ngoãn nhận sai với Nhạc Ngư Thất, nhưng lời đến bên môi chợt hóa thành, “Chỉ… chỉ là con muốn ở bên y.”

Nhạc Ngư Thất nói: “Con muốn ở bên hắn, thế hắn có muốn ở bên con không? Cứ cho là muốn đi, bây giờ hai đứa có tình với nhau, nhưng con có chắc sau này hắn có thể đường hoàng cưới con không? Thân phận hai đứa khác xa nhau, sau này con vào vương phủ của hắn làm vương phi, hay hắn rời kinh làm vợ chồng bình thường cùng con?”

“Hắn ta ra đời ở danh môn Tạ thị, được phong vương từ nhỏ, được đích thân tiên đế dạy dỗ bảo ban, cực tôn cực quý, hắn còn có người nhà ở kinh thành, hắn có chịu rũ bỏ hết tất cả những điều đó để sống cuộc sống bình dị với con không?”

Nhạc Ngư Thất dừng lại, “Ôn Tiểu Dã, con thích hắn, liệu hắn có thích con không?”

Nghe câu hỏi này, đầu óc Thanh Duy trở nên rối bời.

Thích y? Ai nói nàng thích y, nàng còn đang suy nghĩ cơ mà?

Nhưng không đợi Thanh Duy nghĩ xong, Nhạc Ngư Thất đã nói: “Hôm bái sư, vi sư đã cảnh cáo con thế nào?”

Thanh Duy ấp úng: “… “Bị lợi dụng mà không biết đường lợi dụng lại, sư phụ sẽ đánh gãy chân chó của con.”

“Còn gì nữa?”

““Bị lừa mà không biết, bị sỉ nhục mà không tức, trái lại còn khóc hộ, sư phụ sẽ đánh gãy chân chó của con.”

“Còn gì nữa?”

Thanh Duy dừng lại: “Hễ… Hễ là chung thân, đại sự, phải hỏi ý của sư phụ trước, nếu không…”

“Nếu không cái gì?”

Nếu không cái gì thì Thanh Duy đã quên rồi, hình như lần đó sư phụ không nói gì cả, nàng bèn đoán, “Nếu không sư phụ sẽ đánh gãy chân chó của con?”

Nhạc Ngư Thất cười lạnh, “Vi sư ngu dốt, đánh gãy chân con không phải để thằng oắt kia được lợi ư? Vi sư không những muốn đánh gãy chân con, mà còn muốn đưa nó đi gặp Diêm vương, đách quan tâm hắn là thiên vương lão tử nào, đừng hòng ai ngăn cản!”



Nghe thấy hai chữ “Diêm vương”, Thanh Duy đổ mồ hôi lạnh ròng ròng, nàng đột ngột mở bừng hai mắt, nhìn thấy con ngươi trong trẻo ở đối diện mới giật mình nhận ra mình chỉ đang nằm mơ.

Tạ Dung Dữ dịu dàng nói: “Tỉnh rồi à?”

Y cũng vừa mới dậy, rửa mặt mặc áo, đang cúi người nhìn nàng thì thấy làn mi nàng rung lên, một lúc sau đã tỉnh.

Thanh Duy nhìn quanh, may quá, nàng vẫn đang ở trong phòng tại Quy Ninh Trang, trời trong xanh nắng chan hòa, sư phụ vẫn chưa tìm đến cửa.

Nàng vẫn còn ngái ngủ, nhìn Tạ Dung Dữ một hồi, đột nhiên sợ hãi nói: “Ta có một chuyện muốn nói với ngài.”

“Nếu sư phụ ta tìm đến… Ngài mau chạy đi.”

Nàng gãy chân chó thì cùng lắm cũng giống Triêu Thiên ngã gãy chân thôi, nghỉ dưỡng hơn một tháng sẽ ổn, sư phụ hay độc miệng chứ thực chất rất mềm lòng, ắt hẳn sẽ mạnh tay với nghịch đồ là nàng đâu.

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên, không khỏi bật cười: “Nếu sư phụ nàng tới, không phải ta nên xin ông ấy cưới nàng à?”

Tối qua bọn họ về rất khuya, lúc này đã sắp đến giờ Thìn, Tạ Dung Dữ kéo Thanh Duy dậy, thấy tấm chăn mỏng trên vai nàng tuột xuống bèn khoác thêm áo cho nàng, tự tay đem nước và chậu gỗ đến cho nàng rửa mặt.

Thanh Duy vẫn còn mơ màng, nàng không rõ mình đang thế nào nữa.

Không hiểu vì sao kẻ trộm tranh tối qua khiến nàng nhớ đến sư phụ, nàng biết thiên ngoại hữu thiên, đa số người trong giang hồ đều có võ công lợi hại hơn nàng, không thể đoán mò thân phận người ta chỉ vì không đuổi kịp, hơn nữa nếu thực sự là sư phụ, tại sao sư phụ không đến gặp nàng.

Thanh Duy khó hiểu nhìn Tạ Dung Dữ, “Nếu ngài xin sư phụ cưới ta, lỡ sư phụ ta hỏi những câu hóc búa thì ngài có đáp được không?”

Tạ Dung Dữ khoác áo cho nàng, nụ cười bên môi rất nhạt, chậm rãi nói: “Vậy Tiểu Dã cô nương có thể tiết lộ ta hay, Nhạc tiền bối sẽ hỏi ta những câu hóc búa thế nào được không?”
 
Chương 138


Thanh Duy nghiêm túc gật đầu.

Nàng nhớ lại những câu mà Nhạc Ngư Thất đã hỏi trong mơ.

“Con có chắc sau này hắn ta sẽ đường hoàng cưới con không?”

Quan nhân đã nói rồi, nàng chính là vương phi của y.

“Hắn được phong vương từ nhỏ, còn có người nhà ở kinh thành, hắn có chịu rũ bỏ hết tất cả những điều đó để sống cuộc sống bình dị với con không?”

Câu này làm khó quá, lẽ nào ở bên y là cứ phải bắt y từ bỏ người nhà? Nàng không hỏi được.

“Ôn Tiểu Dã, con thích hắn, liệu hắn có thích con như vậy không?”

Thanh Duy mím môi, hỏi câu này đi.

Nàng nhìn Tạ Dung Dữ, “Ngài… có thích ta không?”

Tạ Dung Dữ vừa đẩy mở cửa, gió trời len qua chấn song lùa vào, y dừng bước trong làn gió, ngoái đầu nhìn, buồn cười đáp, “Ôn Tiểu Dã, ta cho rằng nàng phải biết chứ?”

Nàng có biết không? Trong mơ màng, hình như nàng biết thật. Vì ngay từ những khoảnh khắc ban đầu, y đã luôn đối xử tốt với nàng.

Là kiểu tốt độc nhất vô nhị, là sự nuông chiều dung túng cùng mười phần đáng tin, đến mức mà mỗi lần ở bên y, nàng lại bất giác tin tưởng dựa dẫm.

Nhưng bây giờ khi nghe y hỏi thế, nơi nào đó trong tim nàng như được mở ra, sự tò mò mà nàng cất giữ cẩn thận, chưa từng chạm vào tuôn trào như suối, khiến nàng không kìm được hỏi ngược lại, “Ngài thích ta từ lúc nào vậy? Từ cái nhìn đầu tiên à?”

Ôn Tiểu Dã quả đúng là Ôn Tiểu Dã, vô cùng trực tiếp, không hề vòng vo.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, “Đây cũng là câu hóc búa mà sư phụ nàng muốn hỏi?”

Thanh Duy mím môi không đáp.

Tạ Dung Dữ bật cười, “Không phải từ cái nhìn đầu tiên. Nhưng cũng không lâu lắm, từ sau khi nàng được gả đến.”

Thanh Duy ngẩn ra, “Sao nhanh vậy.”

Bây giờ ngẫm lại, quả đúng là nhanh thật. Có lẽ ngay từ cái nhìn đầu tiên đã cảm thấy nàng rất đặc biệt, bóng dáng lẻ loi giữa núi rừng để lại ấn tượng sâu đậm trong trái tim y, như số phận định sẵn trong đời, để rồi mai sau khi gặp lại thì tự nhiên rung động, huống hồ duyên số cũng tác hợp.

Hai người vẫn chưa ăn sáng, lúc này đang đi trên hành lang thông đến ngoại viện, Tạ Dung Dữ cẩn thận suy nghĩ, ôn tồn nói, “Vì Tiểu Dã cô nương đáng yêu thế cơ mà, chỉ cần dành vài ngày bên nàng là sẽ thích nàng thôi.”

Thanh Duy nhìn y: “Thật không?”

Tạ Dung Dữ cụp mắt nhìn nàng, trong đôi mắt trong trẻo nhuộm sắc trời, “Sao, Tiểu Dã cô nương của ta không tin bản thân có sức hút như vậy à?”

Y áp sát lại gần, giơ tay nhẹ nhàng nâng cằm nàng lên, giọng trầm khàn xen lẫn sự mê hoặc, “Vậy để ta chứng minh cho nàng xem.”

Bất thình lình, một cảm giác mềm mại ập xuống cánh môi với nhịp điệu mạnh mẽ tấn công, vừa ngấu nghiến vừa tiến sâu hơn.

Nàng lọt thỏm giữa vòng tay y, lưng tựa vào cột trụ trên hành lang, cảm nhận được gió thổi nâng làn váy.

Nhưng lạ thay, nàng không hề nghe thấy âm thanh nào khác ngoài tiếng con tim đang đập và hơi thở của y.

Tựa cánh bướm đậu trên nhụy h0a, ý xuân dạt dào, chim ngừng ca hát, gió nhẹ hây hây, chỉ còn lại tia nắng chói chang xen lẫn với nhiệt độ hơi thở của y, hóa thành màn mưa lặng lẽ, hòa quyện giao nhau mọi cảm xúc.

Thanh Duy gần như có thể cảm nhận được tình ý nồng nàn ở y, cho đến khi trên hành lang có tiếng bước chân, y mới dần chậm lại, biến mưa xuân thành màn sương mỏng, chuồn chuồn lướt nước vài lần rồi tách nhau ra, trong mắt thấm nhuần men say, nhìn nàng chăm chú, “Đã tin chưa?”

Đầu óc Thanh Duy trống rỗng, quên khuấy mất y muốn nàng tin vào điều gì, chỉ biết ngơ ngác gật đầu.

Tạ Dung Dữ mỉm cười, nắm tay nàng đi trên hành lang. Đức Vinh đứng chờ ở cuối đường, thấy chủ tử và phu nhân chủ tử đi đến, hắn không dám ngẩng đầu, cố ý đi sau hai vị chủ tử nửa bước, ánh mắt dán vào mặt đất, “Bữa sáng đã chuẩn bị xong ở phòng khách, Kỳ hộ vệ vừa mới đến, đang ở thư phòng chờ công tử ạ.”

Họa kỹ của Sấu Thạch rất giống với Khuyết danh đã vẽ bức Sơn vũ tứ cảnh đồ, Tạ Dung Dữ nghi ngờ hai người này là một. Ngặt nỗi y không am hiểu sâu về hội họa, vì thế để chứng minh suy đoán của mình, tối qua khi vừa trở về, y lập tức sai Kỳ Minh đem bức họa của Sấu Thạch và bức Tứ cảnh đồ cho Trương Viễn Tụ xem, Kỳ Minh mới đi lúc sáng sớm, thế mà giờ đã trở lại rồi.

Tạ Dung Dữ nhanh chóng dùng xong bữa sáng với Thanh Duy, sau đó tới thư phòng, Kỳ Minh lập tức vái chào, “Sáng nay thuộc hạ đã đưa tranh đến dinh thự, Trương đại nhân nhìn qua, cũng cảm thấy Sấu Thạch và Khuyết danh là một. Kết luận của y cũng giống của Ngu hầu, cho rằng kỹ thuật vẽ của hai người này rất giống nhau, nhưng nếu là cùng một người thì lạ thật, trong vòng năm năm lại tiến bộ đến mức này, ắt hẳn là thiên tài hội họa trời sinh. Trương đại nhân không dám chắc chắn, nói là cần phải xem kỹ hơn, hi vọng Ngu hầu cho y nửa ngày, nửa ngày sau, y sẽ sai người đến bẩm báo.”

Khúc Bất Duy là kẻ đã bán danh sách lên Tiển Khâm Đài, đáng tiếc Huyền Ưng Ti không có bằng chứng xác đáng, chỉ có thể bắt tay từ kẻ trung gian là Sầm Tuyết Minh.

Trước khi mất tích, Sầm Tuyết Minh đột nhiên mua tranh của Sấu Thạch một cách bất thường, từ đó chắc chắn Sấu Thạch chính là manh mối quan trọng.

Nếu có thể chứng minh Sấu Thạch và Khuyết danh là một, như vậy không những chứng tỏ Sấu Thạch đang ở Lăng Xuyên mà trong một tháng qua hắn còn từng xuất hiện ở Thuận An Các, thậm chí còn bán tác phẩm của mình, ắt sẽ giúp Huyền Ưng Ti thu hẹp phạm vi điều tra.

Bởi vì chỉ cần tìm được Sấu Thạch, tìm được Sầm Tuyết Minh là sẽ có hi vọng.

Hai bên bắt tay tiến hành, phía Tạ Dung Dữ mời Trương Viễn Tụ kiểm tra tranh, dĩ nhiên bên kia sẽ phái người đến Thuận An Các điều tra Khuyết danh.

Hiềm một nỗi quy định ở Thuận An Các vô cùng nghiêm ngặt, bọn họ đã được dịp chứng kiến rồi, nếu hỏi trực tiếp thì chắc chắn ông chủ sẽ không tiết lộ, trái lại còn đề phòng bọn họ, nên tối qua khi Tạ Dung Dữ về trang viên, y đã lập tức sai Vệ Quyết chọn một Huyền Ưng vệ lạ mặt, đóng giả làm công tử nhà giàu tới Thuận An Các bán tranh. Còn tranh đã được Tạ Dung Dữ chuẩn bị ngay từ khi bắt tay điều tra Sấu Thạch – là bức danh họa của đại sư Nguyệt Phi tiền triều, xuất hiện ở Trung Châu, vô cùng quý hiếm.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Phía Tề Châu doãn nói thế nào?”

Kỳ Minh đáp: “Sáng nay Tề đại nhân có phái cấp dưới đến báo, bảo là đã sai người đi điều tra thân phận của kẻ trộm. Nhưng thực sự quá khó tìm ra tung tích của tên trộm này, sợ rằng phải kiểm tra từng nhà một, không thể xong ngay trong chốc lát, ông ấy hi vọng Ngu hầu cho ông ấy thêm thời gian, nhất định ông ấy sẽ tìm được bức tranh nền trong bộ Sơn vũ tứ cảnh đồ của Khúc Hiệu úy.”

Kỳ Minh dừng một lúc mới nói tiếp, “Thuộc hạ nghĩ, dù sao Ngu hầu cần bộ Sơn vũ tứ cảnh đồ cũng chỉ để kiểm tra xem Khuyết danh có phải là Sấu Thạch hay không, tuy không có tranh nền nhưng vẫn còn tranh phủ, không ảnh hưởng đến kế hoạch của Ngu hầu, nên thuộc hạ cũng không giục Tề đại nhân.”

“Ta cảm thấy tên trộm này rất lạ.” Đúng lúc này, Thanh Duy lên tiếng.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, “Sao lại nói thế?”

“Hắn ta có võ công cao cường, nếu thực sự nhắm vào tranh thì dựa vào bản lĩnh của hắn, hoàn toàn có thể cướp được tất cả bộ tranh, nhưng vì sao hắn không lấy đi hết mà chỉ cướp có một bức? Ta thấy lúc hắn giật tranh rõ là tiện tay, kiểu như tiện tay giật bức nào thì lấy bức đó, không có ý lựa chọn, vậy rốt cuộc mục đích của hắn là gì? Hay hắn ta là thế ngoại cao nhân nổi hứng trêu đùa? Nhưng chơi đùa kiểu gì mà đáng để hắn bất chấp nguy hiểm, trộm tranh ngay trước mặt đông đảo Huyền Ưng vệ và tuần vệ?”

Nghe Thanh Duy nói xong, ánh mắt Tạ Dung Dữ chợt tối đi.

Thực ra có một câu Tạ Dung Dữ chưa nói – y biết kẻ trộm không nhắm vào tranh mà là nhắm vào mình, bởi vì trong số những người có mặt ở hội thi họa tối qua, người muốn bức Sơn vũ tứ cảnh đồ này chính là Tạ Dung Dữ y. Mục tiêu thực sự của tên trộm là y.

Tạ Dung Dữ im lặng một lúc, “Tạm thời cứ giao việc tìm trộm cho châu phủ, Huyền Ưng Ti tập trung điều tra Sấu Thạch trước.”

Y gần như có thể chắc chắn, Sấu Thạch, Sầm Tuyết Minh, bao gồm cả tên trộm tranh, giữa ba người này có liên quan mật thiết với nhau, chỉ cần điều tra ra Sấu Thạch thì ắt sẽ tra được toàn bộ manh mối.

Chưa đến chính ngọ, Vệ Quyết đã dẫn Huyền Ưng vệ từ Thuận An Các quay về. Người hôm nay đóng giả làm công tử nhà giàu đến Thuận An Các bán tranh tên là Vi Hoài, tuổi tác xấp xỉ Kỳ Minh, chỉ mới cập quan, thấp hơn Kỳ Minh nửa cái đầu, bộ dạng đoan trang, khoác lên mình lan sam, người không biết còn tưởng hắn là thư sinh nho nhã.

Vừa gặp Tạ Dung Dữ, Vi Hoài lập tức bẩm báo: “Ngu hầu, sáng nay thuộc hạ nhận lệnh đến Thuận An Các bán tranh…”

***

Vi Hoài là người Trung Châu nên cũng nói chuyện bằng khẩu âm Trung Châu, hắn đến Thuận An Các từ rất sớm, khi Thuận An Các mới vừa mở cửa.

Tối qua Khúc Mậu làm ầm một trận khiến ông chủ Trịnh rất sợ ảnh hưởng đến việc làm ăn, ai dè sáng nay vừa mở cửa đã có khách quý đến, ông ta mừng xiết, nhiệt tình mời Vi Hoài vào trong, ánh mắt lướt qua cuộn tranh hắn đang ôm, hớn hở nói: “Xin hỏi quý khách đến mua tranh hay là bán tranh?”

Vi Hoài ra vẻ chần chừ, một lúc sau mới hạ giọng nói: “Bán tranh.”

Hắn trải cuộn tranh ra bàn, ông chủ Trịnh kiểm tra, vừa nhìn đã biết đây là bức Hoàng hôn lội suối qua sơn xá của Nguyệt Phi đại sư tiền triều, cực kỳ hiếm hoi. Nhưng ông chủ Trịnh là ai, trong đời đã nhìn không ít danh họa, thế là ông ta mỉm cười gật đầu, coi như chấp nhận mua tranh, đợi Vi Hoài lên tiếng. Vi Hoài bảo: “Đây, đây là tranh nhà ta sưu tầm được, nghe nói cứ quý các thường tổ chức hội thi họa vào mỗi tháng, không phân biệt hiếm hay thường, nên ta mới đem đến định giá.”

Ông chủ Trịnh nói: “Quý khách nói không sai, xưa nay Thuận An Các thu mua tranh vẽ không phân biệt là hiếm thường, tuyệt đối không để người mua hay chủ bán phải chịu thiệt. Quý khách để tại hạ định giá, tại hạ sẽ cho ngài một cái giá hợp lý, tuy Nguyệt Phi là họa sĩ nổi tiếng tiền triều nhưng không phải là thiên tài hội họa, danh tiếng cũng xếp dưới Thủy Tùng, còn lâu mới sánh bằng Đông Trai, có điều bức Qua sơn xá này đúng là rất nổi tiếng, đủ để đem bán tại hội thi họa. Thế này đi, tại hạ sẽ khởi điểm với mức giá năm trăm lượng, nếu bán được giá cao, tiền bán sẽ chia bốn sáu, Thuận An Các bốn phần, các hạ sáu phần.”

Ông chủ Trịnh quả là có mắt chọn hàng, lúc Tạ Dung Dữ giao tranh cho Huyền Ưng Ti cũng đã nói bức tranh này trị giá trên năm trăm lượng.

Nghe thấy mức giá đó, Vi Hoài có vẻ không dị nghị gì, hắn cúi đầu, giọng bé như muỗi vo ve, “Giá cả không phải vấn đề, có điều… có điều bức tranh này, là ta lấy trộm trong nhà, phải đến Lăng Xuyên, ta mới dám lén đem đi bán, nên không thể để tiết lộ danh tính được, không biết quý các có thể giữ bí mật giúp ta không?”

“Chuyện này khó gì.” Ông chủ Trịnh nghe thế thì bừng hiểu, ông ta đã gặp không ít công tử phá của như hắn, “Thuận An Các coi trọng bảo vệ tính riêng tư, trong hội thi họa, đừng nói là người bán với người mua, mà thậm chí giữa người mua cũng sẽ không chạm mặt nhau, không ai biết ai đã mua tranh nào. Sau khi đã ấn định giao dịch, trả tiền tại chỗ, chỉ cần ra khỏi Thuận An Các là coi tiền trao cháo múc, không còn bất cứ liên quan nào đến Thuận An Các và chủ bán nữa.” Ông ta nói, đoạn lấy ra khế ước trong tủ quầy, chỉ vào một điều khoản, “Mời quý khách xem, chỉ cần người mua cầm tranh ra khỏi cửa lớn Thuận An Các, coi như mối mua bán này đã kết thúc, Thuận An Các sẽ nhanh chóng tính tiền cho chủ bán, sòng phẳng ba bên, quý khách không cần lo.”

Vi Hoài nhìn khế ước, lộ vẻ đăm chiêu.

Như vậy tức là tối qua khi Khúc Hiệu úy đòi Thuận An Các đền tranh, ông chủ Trịnh không đồng ý một phần là do quy định, phần khác là vì ngay khi Khúc Mậu rời khỏi các, chuyện mua bán giữa Thuận An Các và Khuyết danh cũng đã thành, cho dù sau này có xảy ra chuyện gì, Thuận An Các cũng phải trả cho Khuyết danh ba nghìn lượng.

Vi Hoài dần sáng tỏ, song ngoài mặt vẫn ra vẻ do dự, “Nhưng… Ta nghe nói tối qua quý các có giao dịch hỏng, nhẽ ra họa sĩ đã được ba nghìn lượng, nhưng cuối cùng lại phải hoàn trả cho người mua…”

“Chuyện tối qua… tại hạ không tiện tiết lộ quá nhiều.” Ông chủ Trịnh nghiêm mặt, nhưng dẫu gì cũng liên quan đến chuyện làm ăn về sau, ông ta đành giải thích một câu, “Tại hạ chỉ có thể nói cho ngài biết, Thuận An Các có được ngày hôm nay là nhờ vào sự tin tưởng của họa sĩ và người mua. Mua tranh không ít, nhưng chẳng mấy khi được danh phẩm, vì sao Thuận An Các có thể lớn mạnh ở phố Lưu Chương, còn không phải nhờ có người bán giống ngài sẵn lòng đem tranh đến gửi ư? Thực không giấu gì, ở Thuận An Các người bán là trên hết, bất kể là giá bán tranh hay đấu giá trong hội thi họa, chúng tôi đều công khai minh bạch với người bán. Lấy bức tranh này của quý khách làm ví dụ đi, chúng tôi muốn đem nó triển lãm ở hội thi họa, vậy thì ngày tổ chức chúng tôi sẽ mời ngài đến. Ngài không muốn tiết lộ thân phận cũng được, nếu mà tới, ngài có thể đóng giả làm họa sĩ, chờ ở hậu đường, đợi hội thi họa kết thúc, tự khắc có người đến trả tiền cho ngài; hoặc thậm chí ngài có thể cải trang thành người mua, Thuận An Các sẽ phân cho ngài một gian riêng, ngài có thể tận mắt xem tranh của mình được bán thế nào, với mức giá ra sao. Còn về bức Sơn vũ tứ cảnh đồ tối qua, tại hạ chỉ có thể nói với ngài rằng, Thuận An Các tuyệt đối không hi sinh lợi ích của người bán, dù là lúc Thuận An Các quyết định hủy giao dịch hay để quan phủ phán xử, chúng tôi đều đã được họa sĩ Khuyết danh đồng ý…”

***

“Thuộc hạ sợ làm ông ta nghi ngờ nên không hỏi thêm gì, gửi bức Qua sơn xá lại rồi rời đi.” Vi Hoài đáp.

Tạ Dung Dữ cân nhắc một lúc, chỉ ra trọng điểm, “Ông ta nói, nếu người bán có tranh được bán đấu giá tại hội thi họa thì vào ngày tổ chức hội thi họa, Thuận An Các chắc chắn sẽ mời người đến?”

Vi Hoài đáp phải, “Nhưng thuộc hạ nghĩ, thân phận của Khuyết danh bí ẩn như vậy, dù Thuận An Các có mời cũng chưa chắc đã đến.”

“Không, hắn có đến đấy.” Tạ Dung Dữ điềm tĩnh nói.

“Sao cơ?” Trong thư phòng, Kỳ Minh lẫn Vi Hoài đồng thanh hỏi.

“Còn nhớ tối qua, ông chủ Trịnh quyết định hủy giao dịch bức Sơn vũ tứ cảnh đồ lúc nào không?” Tạ Dung Dữ nói, “Là ngay sau khi ông ta và Đình Lam tranh chấp.”

“Từ khi bức Sơn vũ tứ cảnh đồ được bán đi cho tới xảy ra tranh chấp với Đình Lam, ông chủ Trịnh không hề rời khỏi Thuận An Các nửa bước, nếu ông ta nói ‘hủy giao dịch Sơn vũ tứ cảnh đồ, chúng tôi đều đã được họa sĩ Khuyết danh đồng ý’, vậy rốt cuộc ông ta được Khuyết danh đồng ý vào lúc nào? Chỉ có thể là ngay tại Thuận An Các.”
 
Chương 139


“Ý của Ngu hầu là,” Kỳ Minh ngạc nhiên, “Nếu Khuyết danh chính là Sấu Thạch, như vậy tối qua Sấu Thạch cũng có mặt tại Thuận An Các?”

Tạ Dung Dữ nói: “Hiện giờ vẫn chưa thể chắc chắn.”

Cần đợi Trương Viễn Tụ giám định tranh của bọn họ xong, mới biết liệu Khuyết danh đã vẽ bức Sơn vũ tứ cảnh đồ có phải là Sấu Thạch hay không.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Chương Lộc Chi đâu rồi?”

Những ngày gần đây Chương Lộc Chi cực kỳ chán chường. Hắn nghĩ, mới tháng trước ở Thượng Khê còn theo Ngu hầu phá án, đấu trí so tài khoái làm sao. Thế mà bây giờ khi đến Đông An, Ngu hầu lại không để hắn đi theo nữa, lúc thì sai hắn thăm dò thân phận của Sấu Thạch, khi lại bảo hắn đi nghe ngóng Doãn gia.

Sấu Thạch chỉ từng xuất hiện một lần vào mấy năm trước, để lại vài bức tranh ở Thuận An Các rồi biệt tăm. Chớ nói ông chủ Trịnh, ngay cả tiểu nhị cũng không hề có ấn tượng gì về hắn, Chương Lộc Chi vắt óc tìm kế, khó khăn lắm mới biết năm xưa người đem tranh của Sấu Thạch đến Thuận An Các là một tiểu thư đồng.

Doãn gia càng không có gì để điều tra, thương gia trong sạch như bọn họ, muốn biết gì cứ việc đến châu phủ hỏi.

Chương Lộc Chi đã làm xong mớ chuyện vụn vặt được giao, những ngày qua toàn ở Quy Ninh Trang đợi lệnh, không dám làm phiền Tạ Dung Dữ. Không có việc gì làm, hắn đành so tài võ nghệ cùng với Triêu Thiên, sau ít hôm, võ nghệ tiến bộ không ít.

Một lúc sau, Chương Lộc Chi được gọi đến, Tạ Dung Dữ hỏi: “Đã điều tra được gì về Doãn gia chưa?”

“Hồi bẩm Ngu hầu, thuộc hạ đã điều tra rồi ạ.” Chương Lộc Chi đã thuộc làu gốc gác Doãn gia, lập tức đáp, “Tổ tiên Doãn gia vốn buôn bán tơ lụa, từng có một thời gian xuống dốc trong triều đại Hàm Hòa, đến năm Chiêu Hóa, có lẽ do tình hình xã hội được cải thiện nên chuyện kinh doanh cũng xuôi chèo mát mái. Doãn lão gia là lái buôn chính trực, từ nhỏ đã theo chân cha chú học tính toán, về sau lớn lên kế thừa gia sản, cưới Lâm thị – con gái độc nhất của thế gia dệt vải Đông An – làm vợ, sau đó nạp thêm hai lương thiếp. Một thê hai thiếp đã sinh cho Doãn lão gia ba thiếu gia bốn cô nương. Đại thiếu gia là con dòng chính, mới cưới vợ mấy năm trước, cậu ta cũng giống Doãn lão gia, học tập chuyện kinh doanh từ nhỏ, Doãn lão gia hi vọng tương lai cậu ta sẽ tiếp quản gia nghiệp, vì thế đã giao cửa hàng ở Đông An cho cậu ta quản lý. Tam thiếu gia còn nhỏ, đang ở tuổi nghịch bùn. Còn Nhị thiếu gia, chính là Doãn Trì mà Ngu hầu đã gặp, cậu ta và đại ca mình là con ruột Lâm thị hạ sinh, nhờ có thiên phú đọc gì nhớ nấy mà trong ba vị thiếu gia, Doãn lão gia coi trọng cậu ta nhất, mong rằng mai sau cậu ta có thể thi đậu công danh, giúp Doãn gia nở mày nở mặt. Tới mức mà khi Doãn Nhị thiếu gia đến tuổi đi học, Doãn lão gia không tiếc mời một Cử nhân đến dạy vỡ lòng.”

Có câu nói không gì sánh bằng học hành đi lên. Thương nhân không thiếu tiền tài, đáng tiếc vị thế không cao, chỉ khi trong tộc có người làm quan thì mới có thể tiến thêm bước nữa. Từ Đồ lẫn Tưởng Vạn Khiêm đều như vậy, dĩ nhiên Doãn gia cũng không phải ngoại lệ.

Chương Lộc Chi chẹp miệng: “Đến kẻ ít học như thuộc hạ cũng biết, dạy vỡ lòng cho một đứa con nít đâu cần học vấn uyên thâm? Mời một Tú tài là đủ rồi, vậy mà năm đó Doãn lão gia mời đến cả Cử nhân, chứng tỏ rất hi vọng con trai thành tài, chẳng ngờ mời Cử nhân mà lại rước về rắc rối.”

Mọi người nghe thế, trong mắt toát lên vẻ hồ nghi.

Vì sao mời thầy dạy là Cử nhân lại là rước rắc rối về? Lẽ nào Tú tài có thể dạy trẻ nhỏ, còn Cử nhân không dạy nổi?

“Cũng không phải chuyện gì to tát.” Chương Lộc Chi nói, “Chỉ là Doãn Nhị thiếu gia mê vẽ từ nhỏ. Hồi hai ba tuổi khi còn chưa biết chữ, cậu ta đã thích cầm cành cây vẽ xuống đất, thấy cá vẽ cá, thấy mèo vẽ mèo, trẻ con vẽ vời cũng là chuyện tốt, chứng tỏ sự thông minh lanh lợi, nên Doãn lão gia cũng không cấm cản. Nhưng vẽ vời chỉ nên là thứ tiêu khiển giải trí, quá say mê sẽ ảnh hưởng đến học hành, vì thế khi tới tuổi vỡ lòng, Doãn lão gia dặn dò Doãn Nhị thiếu gia, bảo cậu ta dẹp chuyện vẽ tranh sang một bên, lo học hành cho tốt. Vốn dĩ Doãn Nhị thiếu gia cũng nghe lời, nhưng không ngờ người thầy mà phụ thân mời đến cũng là người mê vẽ.”

Mà năm ấy, một Cử nhân ở Lăng Xuyên được kính nể thế nào?

Thí dụ, vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba, đa số các sĩ tử được triều đình chọn lên Tiển Khâm Đài đều là Tiến sĩ, chỉ có lác đác vài Cử nhân, mà ở Lăng Xuyên chỉ có ba Tiến sĩ, quá nửa là Cử nhân, số còn lại là Tú tài.

Lăng Xuyên vốn là nơi nghèo khó, thời kỳ Hàm Hòa loạn tặc trỗi dậy, trong vòng trăm dặm chưa chắc có được một người biết chữ, do đó chẳng mấy ai thi Tú tài, thi Hương lại càng ít. Mãi đến thời Chiêu Hóa thì tình hình như vậy mới có cải thiện, thế nhưng nhân sĩ vẫn còn khan hiếm, phải mất mấy chục năm mới thay đổi được.

Khi Doãn Trì sáu tuổi, Chiêu Hóa đế chỉ vừa đăng cơ vài năm, là lúc Lăng Xuyên rất thiếu Cử nhân. Vì vậy Doãn lão gia hết lòng tin tưởng người thầy Cử nhân mình mời đến, giao hết việc học hành của Doãn Trì cho y, bản thân không động đến.

“Thầy Cử nhân say mê tranh vẽ, Doãn Trì cũng say mê tranh vẽ, thầy trò tâm đầu ý hợp, từ đó trở đi, mỗi lần dạy học xong, thầy Cử nhân sẽ chỉ điểm hội họa cho Doãn Trì, cũng truyền dạy kỹ thuật của mình cho cậu ta.”

Sở thích của con trẻ cũng giống như một nhúm lửa nhỏ trên đất hoang, nếu không ai để ý, chỉ cần một cơn mưa hay một cơn gió cũng đủ dập lửa, nhưng người thầy Cử nhân ấy đã dẫn Doãn Trì vào thế giới hội họa, kể từ đấy lửa cháy đồng hoang, không gì có thể dập tắt.

“Cứ thế bốn năm năm sau, có một lần, thầy giáo Cử nhân dẫn Doãn Trì đến mé nước vẽ…. vẽ cái gì thì thuộc hạ quên rồi… Tóm lại, hôm đó bọn họ đến bờ sông vẽ tranh, Doãn Tứ cô nương cũng có mặt, rồi không biết sơ suất thế nào mà Doãn Tứ cô nương rơi xuống nước, tuy thầy giáo Cử nhân đã nhanh chóng cứu Tứ cô nương, nhưng lúc ấy đã vào cuối thu, khi đưa về Doãn gia còn đổ bệnh một trận.

Thế là Doãn gia bắt đầu nghi ngờ về Cử nhân, nghĩ rằng đang yên đang ổn y dẫn hai đứa trẻ đến bờ sông làm gì? Hơn nữa, Hơn nữa Doãn Tứ cô nương đã ốm yếu từ nhỏ, lá gan cũng nhỏ, sở thích duy nhất là xem Nhị ca nhà mình vẽ vời. Nếu nó đi theo Doãn Nhị, vậy chắc chắn Doãn Nhị lại vẽ gì đó. Thế là Doãn lão gia đã mời một thầy giáo khác đến kiểm tra học vấn của Doãn Nhị, kết quả khiến ông ta cực kỳ thất vọng, Doãn Nhị không những không giỏi giang như ông ta hi vọng, mà những năm qua, Doãn Trì thông minh bẩm sinh lại chỉ đạt thành tích bình thường, quá nửa thời gian đều dồn vào hội họa.

“Doãn lão gia đau lòng ôm đầu, nhanh chóng đuổi Cử nhân đi, mời thầy giáo khác đến dạy học. Còn Lâm thị sợ Doãn Tứ cứ kè kè bên cạnh sẽ khiến Doãn Nhị không thể tập trung học hành, vì vậy đã đưa Doãn Tứ đến Quy Ninh Trang ở một mình, bảo là bao giờ Doãn Nhị thi đậu Cử nhân mới đón nàng về nhà.”

Nghe đến đây, Thanh Duy lập tức hiểu ra. Nàng còn thấy lạ vì sao một cô nương như Doãn Uyển lại ở trang viên vắng vẻ, hóa ra là có chuyện như vậy. Lần trước khi Doãn lão gia đến trang viên, trông hai cha con có vẻ khá lạnh nhạt.

Doãn lão gia nhìn hiền lành là thế mà vẫn thiên vị con trai hơn con gái.

Chương Lộc Chi nói: “Ngu hầu lệnh cho thuộc hạ điều tra Doãn gia cũng như thư pháp hội họa có liên quan. Nhà họ Doãn liên quan rất nhiều đến thi họa, chuyện về sau Ngu hầu cũng biết rồi đấy, tuy Doãn lão gia đã đổi thầy dạy cho Doãn Nhị, nhưng Doãn Nhị đã quá lún sâu vào hội họa, thi đậu Tú tài cũng nhờ thầy răn đe nghiêm khắc mới được, bây giờ Doãn lão gia đã nản chí, không muốn để ý tới cậu ta nữa.”

Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, “Chỉ tra được chừng này?”

Chương Lộc Chi đáp: “Chỉ thế thôi ạ, Doãn gia là gia đình trong sạch, chuyện của bọn họ đến châu phủ hỏi là rõ.”

Đúng lúc này, Vệ Quyết nói: “Ngu hầu, thuộc hạ nghi ngờ người Khuyết danh đã vẽ bức Sơn vũ tứ cảnh đồ chính là Doãn Trì.”

Tạ Dung Dữ nói: “Lý do?”

“Theo như Ngu hầu nói, tối qua Khuyết danh có mặt tại Thuận An Các, còn ông chủ Trịnh phải được Khuyết danh đồng ý mới chịu hủy vụ mua bán, nhưng lúc đó ông chủ Trịnh không thể phân thân, cho nên Khuyết danh này chỉ có thể là người đã khuyên can trong lúc tranh chấp. Tối qua có rất nhiều người khuyên can ông chủ Trịnh, nhưng rõ ràng ông chủ Trịnh chỉ quyết định hoàn lại tiền sau khi nghe Doãn Trì khuyên.

Chỉ có Khuyết manh mới có thể khiến ông chủ Trịnh đổi ý, như vậy họa sĩ vẽ bức Sơn vũ tứ cảnh đồ rất có khả năng chính là Doãn Trì.”

Vệ Quyết dừng một lúc, “Vốn dĩ thuộc hạ còn đang nghĩ, Doãn Trì còn quá trẻ tuổi, khó lòng vẽ ra được bức Sơn vũ tứ cảnh đồ. Nhưng nay nghe báo cáo của Lộc Chi, thuộc hạ có thể chắc chắn bảy tám phần.”

Kỳ Minh nói: “Vệ Chưởng sứ nói thế cũng khiến thuộc hạ sực nhớ, lúc ông chủ Trịnh trả lại ngân phiếu có nói rất rõ là, nếu Khuyết danh muốn lấy lại ba nghìn lượng thì cứ việc đến lấy, xem như Thuận An Các chịu lỗ vì hắn. Lúc ấy thuộc hạ còn cảm thấy thừa thãi, chuyện mua bán ai đời lại oang oang trước bàn dân thiên hạ, nhưng nay xem ra, ông ta cố ý nói cho Doãn Nhị công tử nghe.”

Bỗng đúng lúc này, ngoài phòng vang lên tiếng gõ cửa, một Huyền Ưng vệ ở bên ngoài cất tiếng: “Bẩm Ngu hầu, phía Trương đại nhân đã có trả lời ạ.”

Chương Lộc Chi bộp chộp, lập tức đẩy cửa ra, “Nói thế nào.”

Huyền Ưng vệ khom người dâng tranh, “Trương đại nhân nói, tuy tài nghệ tiến bộ nhanh đến mức khó tin, nhưng Sấu Thạch mấy năm trước và Khuyết danh đã vẽ bức Sơn vũ tứ cảnh đồ hôm nay đúng là cùng một người.”

Nói cách khác, nếu Khuyết danh chính là Doãn Trì, thì dù là tranh vẽ của Sấu Thạch mà Sầm Tuyết Minh từng mua năm xưa hay Tứ cảnh đồ Khúc Mậu mua được với giá năm nghìn lượng hôm nay, tất cả đều từ tay Doãn Trì mà ra.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom