Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Thanh Vân Đài

Chương 200


Chính là cây quạt mà Thanh Duy đã chặt trúc tương phi ở sân sau Giang gia để đền cho Tạ Dung Dữ.

Nhìn thấy cây quạt, Thanh Duy không nghi ngờ gì, “Mời ngài dẫn đường.”

Mọi người lên ngựa, cấm vệ quân của Điện Tiền Ti vừa dẫn đường vừa nói: “Mọi ngõ ngách trong thành đều đã bị chặn, cũng không thể đi qua phố Chu Tước được, chúng ta phải đi vòng từ cửa Bắc.”

Khu vực cửa Bắc ít nhà lại còn thưa, chỉ cần thuận lợi đi vòng qua đám đông, nửa canh giờ sau ắt có thể đến được hoàng cung.

Tệ một nỗi là ở trong thành, từ đầu đường đến ngõ hẻm chật kín không chỗ dừng chân, liên tục có người gia nhập đội ngũ biểu tình, trong số đó có người yêu cầu triều đình công khai chân tướng, có người hiểu biết nửa vời cho rằng đang bênh vực công lí, thậm chí cũng có người chẳng biết gì, chỉ đơn giản hùa theo tham gia.

Hôm nay không có buổi chầu, các triều thần đến phiên trực muộn hơn thường lệ, bọn họ hoặc là bị chặn đường, hoặc là kinh hãi trước cảnh tượng này, không dám bước ra ngoài..

Kinh Triệu Phủ doãn nghe bổ đầu bẩm báo xong, lập tức điều động: “Nhanh lên! Tập trung tất cả nha sai trong thành, nhất thiết không được để xảy ra tai nạn!”

Kỳ Minh nhìn đám đông ngùn ngụt, xoay đầu ngựa lại nói với Huyền Ưng vệ, “Xem ra không về cung được rồi, các ngươi theo ta đến tòa tháp ở Bắc thành đợi lệnh, nếu thấy trong cung báo hiệu thì lập tức tới Bắc đại doanh điều binh!”

Cùng lúc đó, cửa phủ thái phó ở phía Nam được đẩy ra, Trương Viễn Tụ nhìn người dân sĩ tử kéo nhau đi ngoài đường, nói: “Đến lúc rồi, chúng ta đi thôi.”

Nhưng y còn chưa bước xuống bậc thềm thì sau lưng đưa tới tiếng chống trượng dồn dập, lão thái phó đuổi theo, “Vong Trần, con định đi đâu?!”

“Đến điện Tuyên Thất.” Trương Viễn Tụ xoay người, từ tốn mỉm cười, “Có thể đi đường sẽ mất thời gian, nhưng chắc chắn vẫn sẽ kịp lúc.”

Giọng y bằng phẳng không cảm xúc, như thể đang nói một chuyện rất bình thường, vậy mà lão thái phó vẫn nghe ra sự khác thường.

Ông ném gậy đi, tập tễnh đuổi theo, đôi mắt đục ngầu ngấn lệ, “Vong Trần, nghe vi sư khuyên một câu, rời khỏi kinh thành đi, đi ngay bây giờ! Đừng cố chấp nữa, cũng đừng nghĩ tới việc xây Tiển Khâm Đài nữa! Cứ giao hết mọi việc còn lại cho vi sư, nếu truy cứu ngọn nguồn thì chuyện này vốn do vi sư…”

“Những năm qua thầy ẩn cư trong núi không màng thế tục, sao biết được bên ngoài thay đổi ra sao? Giao tất cả cho thầy, thầy có thể đưa ra câu trả lời làm hài lòng mọi người được không?” Trương Viễn Tụ ngắt lời lão thái phó, đoạn hạ giọng, “Thầy yên tâm, chờ đến sáng mai mây mù sẽ tản, tháp cao trong núi Bách Dương sẽ tồn tại mãi mãi ở thế gian, mọi việc sẽ kết thúc.”

“Không phải, không phải thế!” Lão thái phó đuổi theo Trương Viễn Tụ xuống thềm, nhưng ông đã già, bậc thềm ẩm ướt khiến ông suýt ngã, may có người hầu chạy đến đỡ. Chỉ là Trương Viễn Tụ đã đi xa, lão thái phó gọi với theo, “Vọng Trần, con quay lại đi, thật ra, thật ra huynh trưởng con không muốn con…”

Nhưng bóng dáng Trương Viễn Tụ đã biến mất ở đầu phố.

Y vẫn nghe thấy lời lão thái phó nói, song chẳng hề ngoái đầu.

Đôi khi chuyện đời nực cười thế đó, kể từ khi y được đặt tên Vong Trần, chấp niệm cứ mãi quanh quẩn trong lòng, chưa từng có ngày quên đi thế tục.

***

Thanh Duy theo cấm vệ quân đi qua ba lớp cửa cung, đến ngoài Huyền Minh Chính Hoa đợi lệnh. Thị vệ ở cửa cung đã nhận được lệnh của Triệu Sơ, giữ nhuyễn ngọc kiếm và ám khí của Thanh Duy rồi cho nàng vào.

Đây là lần đầu tiên Thanh Duy vào đến cấm cung, Phất Y Đài kéo dài một trăm lẻ tám bậc khảm ngọc, nối đến điện Tuyên Thất trên cao.

Thanh Duy bước từng bước mà lên, đến cửa điện Tuyên Thất, cấm vệ quân ra hiệu lùi về sau đợi lệnh.

Thanh Duy không thấy được trong điện, song vẫn loáng thoáng nghe thấy người bên trong đang báo cáo.

“… Ban đầu các sĩ tử này tụ tập trong một quán trà ở bắc thành, bàn bạc với nhau nên cứu Thái tiên sinh như thế nào, rồi không biết đã nghe được gì mà bắt đầu nghi ngờ quyết sách của triều đình đối với cô nhi Cật Bắc…”

Một người khác nói tiếp: “Bố trí di dân Cật Bắc, khai thông thương lộ phục hưng Cật Bắc là thành tích đầu tiên khi tiên đế lên ngôi, còn trước đó, Cật Bắc không tai hoang thì cũng chiến tranh, tình trạng loạn lạc nào chỉ một năm hai năm, lí ra mà nói sách lược của triều đình có công hơn tội, nhưng bây giờ đám người biểu hành ngoài kia lại cho rằng nỗi khổ Cật Bắc phải chịu có liên quan đến chiến dịch sông Trường Độ, bảo là chính vì đánh trận nên Cật Bắc mới càng thêm khổ. Thế vẫn chưa đủ, bọn họ còn bảo đã tìm được nhân chứng là cô nhi Cật Bắc, nói rằng vào hơn sáu năm trước, để xây dựng Tiển Khâm Đài mà tiên đế đã xử lý nhóm sĩ tử dám nói lên sự thật, sau đó xâu chuỗi những sự kiện này lại với nhau, làm như thể triều đình thực sự che đậy giấu giếm!”

Dường như có người thấp giọng đề nghị gì đó, người vừa nói chuyện cao giọng nói, “Giải thích? Giải thích thế nào? Rằng trận chiến sông Trường Độ là sai, cô nhi Cật Bắc bị ngược đãi, để bịt miệng người dân nên triều đình đã bí mật xử quyết thương nhân chứ không công bố tội trạng, mấy năm sau, tiên đế muốn xây Tiển Khâm Đài, có sĩ tử đứng ra nói ra sự thật, tiên đế lại xử lý bọn họ?! Đó mới là ‘sự thật’ bọn họ muốn tin! Thứ đáng sợ nhất không phải là lời đồn vô căn cứ, mà là có kẻ cố tình bóp méo sự thật! Huống hồ vụ án mua bánh danh sách quá chấn động, thật sự có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không rửa sạch!”

Lời ấy vừa thốt ra, trong điện Tuyên Thất nhất thời chìm vào yên lặng.

Triệu Sơ hỏi: “Có phải nữ Ôn thị đã đến không?”

Cấm vệ quân đáp một tiếng, dẫn Thanh Duy vào điện.

Tuy không ít người gọi Thanh Duy là vương phi, nhưng Thanh Duy biết mình vẫn là trọng phạm, không thể tự xưng vương phi, cho nên lúc bước vào điện, nàng dập đầu với Triệu Sơ thưa, “Tội nhân Ôn thị bái kiến Quan gia.”

Triệu Sơ cho nàng bình thân, “Ngươi có thể sớm nhận ra hành động của Đôn Tử, cảnh báo triều đình bắt giam Tào Côn Đức, có phải đã điều tra được gì rồi không?”

Tạ Dung Dữ đứng dưới đài, Thanh Duy nhìn y, thấy y gật đầu thì mới đáp: “Hồi bẩm Quan gia, thảo dân không điều tra được nhiều lắm, chỉ biết vợ con của ân nhân của Tào Côn Đức đã chết thảm ở Cật Bắc, Tào Côn Đức quy hết sai lầm trách nhiệm lên đầu Cố thúc… lên đầu thương nhân Cố Phùng Âm. Trong lúc cứu Cố Phùng Âm, thảo dân mới nhận ra hành động của Đôn Tử. Nghe Cố Phùng Âm nói, Đôn Tử, hay chính là Tào Côn Đức, đã cài tai mắt vào giới nhân sĩ từ rất lâu, bọn họ kích động sĩ tử viết ra hịch văn, còn lợi dụng mong muốn giải cứu Thái tiên sinh của bọn họ, tiết lộ triều đình đã mắc sai lầm trong trận chiến năm xưa, kể cả Tiển Khâm Đài, giật dây bách tính đòi triều đình trả lại chân tướng… Quan trọng hơn hết, sau khi Đôn Tử bắt Cố Phùng Âm, hắn đã ép ông ấy viết một bức huyết thư. Đúng như vị đại nhân vừa rồi mới nói, Đôn Tử đã liên hệ sự bất hạnh cô nhi Cật Bắc, sự che giấu của triều đình, bao gồm cả sự phản đối của các sĩ tử khi bắt đầu xây Tiển Khâm Đài với trận chiến sông Trường Độ, cùng với nhiều “bằng chứng” được chuẩn bị trước, dẫn dắt mọi người nghĩ đến một khả năng khác.”

Cấm vệ quân dẫn Thanh Duy tiến cung đáp: “Mạt tướng đã tăng cường nhân lực truy lùng Đôn Tử, một khi phát hiện sẽ lập tức tróc nã, nhưng đến hiện tại vẫn chưa tìm thấy tung tích của hắn ta.”

Rất đông người đã tụ tập trước cửa cung, quốc lấy dân làm gốc, nước nâng được thuyền nhưng cũng có thể làm lật cả thuyền*, nếu để Đôn Tử công khai bức huyết thư, hậu quả rất khó tưởng tượng.

(*“Quân chủ như thuyền, dân chúng như nước” – đây là đạo lý trị quốc và xử thế được Hoàng đế Đường Thái Tông nhắc tới từ hơn 1000 năm trước.)

Xét cho cùng không phải ai cũng giống Thanh Duy hay Tạ Dung Dữ, hiểu rõ về quá khứ “Thương Lãng rửa tà”, miệt mài truy tìm chân tướng nhiều năm; mà đa số chỉ là nghe đồn vu vơ trong những ngày dài bận bịu, để rồi giờ đây khi có kẻ cố tình hé lộ một góc chân tướng – mà khéo sao lại là bí mật hãi hùng nhất, khiến bọn họ lầm tưởng đấy chính là toàn bộ sự thật, xổ Nho chỉ trích cái gọi là bất công.

Trên điện Tuyên Thất, ai ai cũng lo sốt vó, bức huyết thư kia như một nhúm lửa bén vào dây dẫn, khắc nào còn chưa tìm ra Đôn Tử thì khắc ấy ngòi lửa sẽ càng rút ngắn, cho tới lúc chạm vào cửa cung Tử Tiêu, “thuốc nổ” bùng cháy, thứ bị nghiền nát sẽ không phải là máu xương nát thịt của vạn người, mà đấy chính là lòng dân.

Lòng dân tan thì nền nước lung lay, dẫu có được chắp nối thì cũng để lại sẹo.

Triệu Sơ nhìn Tạ Dung Dữ: “Chiêu vương có đề nghị gì không?”

Ánh mắt Tạ Dung Dữ vô cùng bình tĩnh, cứ như đã có sẵn đáp án trong lòng. Y sắp xếp mạch suy nghĩ, đoạn nói: “Hồi bẩm Quan gia, thần cho rằng sở dĩ dân tâm dao động là vì hiểu sai sự thật, còn nguyên nhân khiến triều đình không tìm được biện pháp đối phó là do… thực ra đến nay chúng ta vẫn chưa biết rõ toàn bộ chân tướng, rốt cuộc danh sách bọn họ dùng để giao dịch từ đâu mà ra? Liệu có nội tình nào đằng sau việc tiên đế quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài? Theo thần thấy, thay vì tạm thời tìm cách xua đuổi dân chúng hay thiết quân luật, thì tốt hơn hết là nên tìm ra đầu đuôi sự thật, trả lại chân tướng.”

Nói rồi, y chắp tay, “Tối qua thần đã có được manh mối quan trọng nhất, đã cử Vệ Quyết đi điều tra, nếu mọi việc suôn sẻ, ngay tối nay sẽ có bằng chứng mới. Ưu tiên hàng đầu bây giờ là, thần đề nghị, về đối ngoại, trước tiên cần cử người tìm hiểu xem những sĩ tử diễu hành này đã nghe được gì, có gì khác với sự thật mà chúng ta biết, sau đó giao cho Hàn lâm soạn công văn làm sáng tỏ; thứ hai, tìm ra ai là người kích động nhân sĩ, cố ý làm loạn, và quan trọng nhất là tìm ra nguyên nhân tại sao người đó làm như vậy, chỉ khi biết tường tận mới có thể dập tắt được ngòi lửa này.”

“Còn về đối nội, Lưu đại nhân,” Tạ Dung Dữ xoay người, thi lễ với Đại Lý Tự khanh, “Tình hình đang vô cùng cấp bách, xin ngài đích thân thẩm vấn Tào Côn Đức, tốt nhất là moi ra được kế hoạch của ông ta. Xin ngài ghi nhớ ông ta là kẻ gian xảo, nếu hỏi trực tiếp thì chưa chắc ông ta đã tiết lộ, cũng may ông ta luôn cảm thấy có lỗi với gia đình Bàng thị, nếu lấy đó làm điểm đột phát thì có thể mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Ngoài ra…”

Tạ Dung Dữ dừng lại một lúc, “Thần còn có một yêu cầu quá đáng, thần hi vọng khi thẩm vấn Khúc Bất Duy, lấy tiền đề dù xảy ra chuyện gì thì Khúc Mậu cũng vô tội, yêu cầu ông ta khai ra toàn bộ. Lúc đặc biệt cần hành sự đặc biệt, mong được Quan gia phê chuẩn.”

Tạ Dung Dữ vừa bẩm xong, có người ngờ vực mà hỏi, “Làm thế liệu có được không? Khúc Bất Duy quá kín miệng, gần một tháng qua ông ta không hề hé răng nửa lời, ngay đến bộ Hình tra khảo mà vẫn không được.”

“Đúng thế, rồi lỡ như Khúc Đình Lam thật sự có tội, thẩm vấn như thế khác gì mất cả chì lẫn chài? Mong Quan gia xét kỹ.”

Nhưng chưa đợi Triệu Sơ trả lời, đường chủ sự của bộ Hình ở ngoài xin được cầu kiến.

Dường như Đường chủ sự có chuyện gấp muốn tâu, vừa hành lễ vừa báo, “Quan gia, bẩm Quan gia, Khúc Bất Duy mới nói, ông ta đồng ý khai!”

Triệu Sơ ngạc nhiên, song chàng chỉ ra lệnh: “Dẫn ông ta đến điện Tuyên Thất.”

Có người trên điện lấy làm bất ngờ, thấp giọng nói, “Sao đột nhiên lại chịu khai thế, hay vì biết sĩ tử bao vây cửa cung nên muốn lấy công đền tội?”

Đường chủ sự chạy ra ngoài điện, nhưng nghe được lời đó lại không khỏi cười khẩy, “Động tĩnh bên ngoài làm gì truyền được đến trong cung, ông ta biết kiểu gì?” Sau đó xoay người vái lạy, “Muôn tâu Quan gia, thần cũng không hiểu vì sao Khúc Bất Duy chịu cung khai, chỉ nghe gác ngục nói, tối qua Khúc Bất Duy nhìn chằm chằm miếng ngọc như ý cả đêm, đến sáng nay thì đột nhiên nghĩ thông.”

Không lâu sau, vị Quân hậu trải qua bao gió sương được dẫn lên đại điện.

Tay chân ông ta bị xiềng xích, mái tóc hoa râm rối bù lất phất trong gió lạnh, ấy nhưng bước đi vẫn vững vàng. Ông ta quỳ rạp xuống ngoài cửa điện, “Quan gia, chỉ cần Quan gia bảo đảm Đình Lam con trai tội thần không bị liên lụy, tội thần sẵn sàng khai ra tất cả những gì mình biết.”
 
Chương 201


“… Mười bốn tuổi, tội thần theo gia phụ ra sa trường, nửa đời chinh chiến bắc nam. Về sau gia phụ mất tại biên giới phía bắc, tội thần thừa kế tước vị của gia phụ.

Năm Hàm Hòa thứ mười hai, Lương bộ Tây Sở xâm lăng, giữa đêm lội sông trèo núi, tướng quân Tây Bắc Thường Xương mất mạng dưới loạn đao của địch, nội trong một ngày tội thần điều quân từ biên giới phía bắc, viện trợ phía nam núi Mang, đại thắng toàn diện, được tấn phong làm Trấn Bắc Hầu. Chỉ tiếc vì trận chiến đó mà lưng của tội thần bị thương không chữa khỏi, không thể lại ra sa trường, đóng quân ở biên giới phía bắc ba năm, đến năm Hàm Hòa thứ mười sáu, tội thần được gọi về kinh sư, đảm nhiệm chức Chưởng sứ binh phòng tại Xu Mật Viện.

Một võ tướng không thể cầm đao khác gì phế nhân, may mắn tội thần xuất thân từ thế gia nhà võ, nắm rõ việc phân quân đóng quân của các bên và quá trình điều binh, chức quan Chưởng sứ binh phòng chính là công việc điều binh khiển tướng, từ trấn áp bắt cướp cho đến áp giải phạm nhân, đều phải được tội thần phê duyệt.

Cuối năm Chiêu Hóa thứ mười một, lần đầu tiên đế đề nghị xây dựng đền Tiển Khâm, tuy đại đa số triều thần ủng hộ song cũng có người phản đối, nhất là các nhân sĩ. Bọn họ nói rằng sau trận chiến sông Trường Độ, Cật Bắc lâm vào cảnh lầm than, sau mười năm, tuy Cật Bắc có vẻ đã khôi phục nhưng kỳ thực vẫn còn rất nhiều người sống trong khổ nạn, xây đền hao tài tốn của, chi bằng dùng nó cứu tế dân. Nói thật, trong triều đại Chiêu Hóa quốc khố khá dồi dào, xây dựng đền hay cứu tế dân chúng đều có thể thực hiện song song, nên dù có lời ra tiếng vào thì tiên đế vẫn bỏ ngoài tai, nhất là khi được những người như lão thái phó hay Trương Chính Thanh ra sức ủng hộ. Đầu năm Chiêu Hóa thứ mười hai, triều đình nhanh chóng quyết định xây dựng đền Tiển Khâm ở núi Bách Dương.

Tin tức vừa truyền đi, đại bộ phận nho sĩ thấy phản đối cũng vô ích nên đã bỏ cuộc, nhưng vẫn còn một số ít rất cực đoan, quyết định của triều đình đã kích động bọn họ nổi dậy. Bọn họ kéo ra đầu đường Chu Tước, tuyên bố trận chiến sông Trường Độ không phải là lựa chọn giữa chủ chiến hay chủ hòa, mà là giữa bách tính và lãnh thổ, cuối cùng triều đình đã từ bỏ người Cật Bắc, bảo vệ đất Cật Bắc. Các nhân sĩ làm loạn trên đường hai ngày, còn xung đột với cả Kinh Triệu Phủ, khiến một quan sai bị thương, tiên đế hay tin nổi giận, lập tức hạ lệnh tống giam bọn họ. Chính tội thần dẫn binh bắt người, thậm chí còn không lên công đường mà bị đưa thẳng vào đại lao, ít ngày sau định tội, xử lưu đày bảy năm. Ắt hẳn chư vị vẫn còn nhớ chuyện này.”

Nói đến đây, Khúc Bất Duy dừng một lúc, có lẽ vì đã quỳ quá lâu nên hai chân ông ta tê rần, đầu gối xê dịch khiến gông cùm trên chân kêu *lẻng xẻng*, “Lưu đày, dẫu chỉ có bảy năm nhưng thật sự quá nặng, chỉ là do tiên đế giết gà dọa khỉ nên toàn triều không ai dị nghị, ngoại trừ lão thái phó phản đối. Đương nhiên tội thần cũng thế, những chuyện ấy liên quan gì đến tội thần? Song vào lúc ấy, Chương Hạc Thư lại đến tìm tội thần…”

***

“… Xin Hầu gia nới tay, sau tiết Khánh Minh, giao các nhân sĩ ấy lại cho vị quan họ Cù mà Chương mỗ đã đề cập.”

Đến tận hôm nay Khúc Bất Duy vẫn nhớ rõ như in, ngày hôm ấy Chương Hạc Thư tìm đến cửa, chưa uống hết chung trà mà đã nói lời trên.

Lúc bấy giờ Khúc Bất Duy đang là Chưởng sứ binh phòng tại Tây phủ, áp giải phạm nhân là bổn phận của ông ta, chỉ định viên quan phụ trách dọc đường cũng không khó, chẳng qua…

“Việc gì bổn hầu phải nghe Chương đại nhân? Họ Cù này là người của Chương đại nhân à?”

“Nếu Khúc Hầu đã hỏi, Chương mỗ đành nói thật vậy.” Chương Hạc Thư khép nắp trà, thở dài một hơi, “Chẳng dám giấu gì, Chương mỗ muốn cứu những sĩ tử ấy, cho bọn họ một lối thoát…”

***

“Chương Hạc Thư nói lưu đày mấy năm chỉ là chuyện nhỏ, nhưng một sĩ tử trong sạch dính phải vết nhơ ấy thì coi như chấm hết, nha môn không nhận, thậm chí cũng không ai dám mướn làm thầy dạy học. Xét cho cùng, tội lỗi của bọn họ cũng đâu có lớn, chỉ vì có người thân bạn bè ở Cật Bắc, lên tiếng bất bình thay nên mới lỡ lời vài câu. Mười năm miệt mài học tập coi như đổ sông đổ bể.

Chương Hạc Thư bảo, chỉ cần tội thần chỉ định viên quan họ Cù ấy áp giải phạm nhân là được, không cần để ý đến những chuyện khác, ông ta sẽ tự giải quyết. Ông ta còn giao cho tội thần thư liên lạc với viên quan ấy, nói lỡ sau này có biến, tội thần cứ giao thư ra, ông ta sẽ gánh chịu trách nhiệm, tuyệt đối không dính dáng đến tội thần.”

“Nên ông đã đồng ý?” Giọng Tạ Dung Dữ sang sảng.

Một lúc lâu sau, Khúc Bất Duy mới gật đầu, “Đúng thế. Vì Chương Hạc Thư đã hứa với tội thần một chuyện: sau này khi đền Tiển Khâm được xây xong, trong số công thần theo ngự giá cúng tế sẽ có một suất dành cho Mậu nhi.”

“Tội thần chinh chiến gần nửa cuộc đời, con cái không ít, nhưng khi bốn đứa đầu chào đời thì tội thần đang ở trên chiến trường, không quá thân thiết với các con. Còn Mậu nhi chào đời đúng lúc tội thần bị thương phải trở về, đó là lần đầu tội thần cảm nhận được niềm vui làm cha, hơn nữa vì vết thương ở lưng nên cũng không còn chú tâm đến sa trường. Lúc ấy tội thần chỉ muốn dạy dỗ Mậu nhi trưởng thành nên người, tiếc rằng…” Khúc Bất Duy cười khổ, “Tiếc rằng dạy không đúng cách, lúc cần chiều lại quá cưng chiều, lúc cần nghiêm lại quá nghiêm khắc, vốn đã không phải măng non tốt, càng dạy càng hỏng.”

“Thời gian ấy tội thần rất buồn, tuy Hầu phủ có thể nuôi được Mậu nhi cả đời, nhưng làm người chí ít vẫn phải có bản lĩnh riêng, như vậy mới được người ta coi trọng. Mậu nhi văn dốt võ nát, không lẽ định ngồi không kế thừa tước vị? Nên lúc Chương Hạc Thư hứa hẹn điều ấy, tội thần đã đồng ý. Tội thần nghĩ, chí ít như thế còn chứng tỏ Mậu nhi là người được tiên đế chọn, con đường mai sau thằng bé đi cũng sẽ dễ dàng hơn.

Tuy nhiên mùa xuân năm ấy, tiên đế đổ bệnh, thái y nói tiên đế cần tĩnh dưỡng một năm, không thể đi đường xa tránh bệnh tình trở nặng, vì vậy tiên đế không thể đến đền Tiển Khâm. Lúc này tiên đế đổi ý, sửa đền Tiển Khâm thành Tiển Khâm Đài, cho gọi đại kiến trúc sư Ôn Thiên rời núi giám sát chỉ huy, chờ ngày hoàn thành sẽ tuyển chọn sĩ tử lên đài cúng tế. Mậu nhi không phải nhân sĩ nên chắc chắn không thể lên Tiển Khâm Đài, Chương Hạc Thư cũng không thể thực hiện lời hứa với tội thần được nữa. Ngày hôm ấy, tội thần đến tìm Chương Hạc Thư tìm cách xoay sở, nhưng Chương Hạc Thư lại rất hưng phấn…”

***

“Khúc Hầu à, đấy rõ ràng là chuyện tốt chứ còn gì nữa! Như vậy những sĩ tử học hành gian khổ sẽ có cơ hội lên đài, ông không biết con đường mây xanh có ý nghĩa như thế nào với một người bị vùi trong bùn đất đâu, bọn họ không cần phải giống tôi như ngày trước…”

Nói đến đây, Chương Hạc Thư dừng lại, nhưng ông ta vẫn hưng phấn vỗ tay, đi qua đi lại.

***

“Tội thần không rõ ông ta đang mừng điều gì, nhưng thấy ông ta như thế, tội thần lại rất tức giận, cảm thấy ông ta nuốt lời. Nhưng Chương Hạc Thư lại thuyết phục tội thần, nói rằng tiên đế là minh quân, còn thái tử… chính là Quan gia, cũng là hạt giống tốt, biên cương đã yên, triều đình phồn thịnh, là lúc văn sĩ đứng ra võ tướng lùi về, nếu chỉ dựa vào một mình Mậu nhi thì có thể đi được bao xa? Nhưng nếu có người dìu dắt thì lại khác. Tội thần và ông ta đã già, nâng đỡ được lúc này lúc kia chứ không thể nâng đỡ cả đời, tương lai mai sau phải dựa vào đồng lứa tuổi trẻ. Chỉ cần chúng tội thần chọn ra những búp măng tốt, ban cho chúng ít ơn huệ, đến ngày chúng thành tre xanh, ắt sẽ tự biết phải báo đáp. Nhưng ơn huệ nào mới khiến một người khắc ghi cả đời?”

Toàn điện im phăng phắc, chỉ có Tạ Dung Dữ nói: “Ơn tri ngộ.”

“Đúng thế, chính là ơn tri ngộ. Chương Hạc Thư nói ông ta có thể lấy được danh sách sĩ tử lên đài, tới lúc đó sẽ chia cho tội thần vài suất, tội thần nhắm được ai thì ông ta sẽ tìm cách để người đó lên Tiển Khâm Đài. Tội thần là võ tướng thô kệch, chỉ biết rất ít đạo lí nông cạn, lúc đó vẫn chưa hiểu hết lời của Chương Hạc Thư, không biết có nên đồng ý hay không. Song, đúng lúc này lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

Chư vị có còn nhớ vào năm Hàm Hòa thứ mười hai, khi Thường Xương tướng quân mất mạng bởi loạn đao của địch, tội thần gấp rút đến núi Mang viện trợ không? Khi tội thần đến nơi, sở dĩ núi Mang vẫn chưa bị tấn công là nhờ một Hiệu úy họ Mao dưới trướng của tướng quân Thường Xương, chính người đó đã dẫn tàn binh chống trả quân địch, về sau Mao Hiệu úy được phong làm Du Kỵ tướng quân, hắn cũng giống tội thần, bị thương trong trận chiến ấy, mấy năm sau được triều đình gọi về. Hắn không xuất thân từ thế gia, nửa chữ bẻ đôi cũng chẳng biết, nhậm một chức quan hão ăn bổng lộc, sống chẳng ra gì. Nhưng nguyên nhân thực sự khiến cuộc sống hắn thay đổi là vào năm Hàm Hòa thứ mười bảy, mười ba tộc Thương Nỗ xâm lăng, hắn nhờ người viết thư, mười bảy lần dâng tấu xin hòa. Tội thần thừa nhận, trong số các đại thần chủ hòa hồi ấy có rất nhiều người sợ không chiến, nhưng Mao tướng quân lại khác, nếu hắn sợ chiến thì đã không bị thương nặng như vậy. Hắn đóng quân ở Tây Bắc nhiều năm, biết rõ nỗi cơ cực của dân chúng Cật Bắc, chắc chắn bọn họ không thể chịu thêm một cuộc chiến nào nữa. Trong tấu thiếp của Mao tướng quân có ghi, nghị hòa chỉ là kế hoãn binh, hắn hi vọng triều đình cử sứ thần đàm phán với mười ba tộc Thương Nỗ, sau đó di tản bách tính Cật Bắc tới phía nam núi Mang, đến lúc đó đánh vẫn chưa muộn.”

“Trong triều đại Hàm Hòa,” Khúc Bất Duy cười khổ, “Lấy đâu ra bạc để di tản dân chúng? Nếu có tiền thật thì đã chẳng có cảnh bán con đổi lương thực. Mà giả sử có bạc để di tản đi chăng nữa, quân quỹ bị trễ mấy tháng tính thế nào đây? Nhưng như tội thần đã nói, Mao tướng quân là người ít học, hắn không lường được những chuyện này, trong lòng trong mắt hắn chỉ có mảnh đất Cật Bắc và người dân ở đó. Hắn chỉ là tướng quân cấp thấp, không có tư cách gặp vua, cũng không thể lên chầu, hắn nhờ người viết tấu thiếp rồi đến Xu Mật Viện quỳ, đến Khinh Triệu Phủ quỳ, đến những phủ đệ nhà tướng mà hắn quen để quỳ. Có người đã bị hắn làm cho cảm động, đã chuyển lời đến hoàng đế Hàm Hòa, thậm chí hắn còn bị phái sợ chiến chủ hòa lợi dụng, dùng làm ngọn thương sắc bén nhất.

Đáng tiếc thay, ngay khi toàn triều tranh cãi, sĩ tử lại nhảy sông.

Một trăm ba mươi bảy sĩ tử trầm mình dưới sông Thương Lãng. Nước sông Thương Lãng rửa sạch cổ tà, thiên hạ chấn động, phái chủ hòa trong triều không dám ho de, tướng quân Nhạc Xung lập tức xin đánh. Chiến hay không chiến đã có câu trả lời, nhưng ai sẽ trả lại tính mạng của một trăm ba mươi bảy sĩ tử ấy đây? Bách tính và các sĩ đại phu lập tức chĩa mũi dùi vào các tướng quân chủ hòa, chỉ trích bọn họ hèn nhát bất tài, ích kỷ hư vọng, nếu bọn họ không khăng khăng chủ hòa thì đã không ép các sĩ tử phải nhảy sông. Để xoa dịu nỗi bất bình của người dân, triều đình ắt phải ra tay, không ít võ tướng bị cách chức phạt bổng, bao gồm vị Mao tướng quân nọ.

Mà chính chuyện này đã gieo mầm bệnh vào lòng của rất nhiều đại thần xuất thân từ binh nghiệp, cảm thấy triều đình trọng văn khinh võ, trước kia khi Quan gia mới kế vị, trong triều đã có tướng quân lạm quyền, có lẽ nhân quả cũng từ đó mà ra. Có điều những chuyện đó để sau hẵng nói, trở lại năm Chiêu Hóa thứ mười hai, lúc triều đình muốn xây dựng Tiển Khâm Đài.

Năm Chiêu Hóa thứ mười hai, tiên đế quyết định sửa đền Tiển Khâm thành Tiển Khâm Đài, đồng thời tuyển chọn sĩ tử lên đài, Chương Hạc Thư nói rằng có thể phân cho tội thần vài suất chọn sĩ tử. Tội thần vẫn còn do dự, không phải sợ phạm tội mà chỉ là không biết danh sách ấy có ích lợi gì hay không. Nhưng, chính vào lúc đó lại xảy ra một chuyện, vị Mao tướng quân kia… đã qua đời.”
 
Chương 202


Trên điện Tuyên Thất không một ai lên tiếng, ắt hẳn đã có người nghe về chuyện này, chẳng qua không quá bận tâm.

“Một sợi thừng vắt trên xà nhà, lúc tội thần chạy đến, Mao tướng quân đã trút hơi thở. Có người nói hắn say rượu nên mới tự treo mình lên, nhưng tội thần biết không phải như thế. Sau khi sĩ tử nhảy sông, hắn bị cách chức, mười năm nghèo khổ vất vả, đã vậy còn bị chỉ trích là đồ hèn nhát sợ không dám chiến. Hắn mà hèn nhát sao? Nếu hắn hèn nhát, việc gì phải dẫn tàn binh phòng thủ núi Mang để rồi bị di chứng suốt đời? Chỉ là hắn… chỉ là hắn, không nghĩ được sâu xa chu toàn. Về sau tội thần mới hiểu, người có xương sống thì quốc gia cũng có, xã tắc cũng có, man tộc Thương Nỗ xâm lấn lãnh thổ Đại Chu, đàm phán hòa bình chính là bẻ gãy xương sống của quốc gia, người bị gãy xương còn không đứng nổi, quốc gia xã tắc mà bị gãy xương, thử hỏi sau này đứng dậy kiểu gì? Cho nên dù nghị hòa chỉ là kế quyền lợi thì các sĩ tử học giả cũng sẽ không đồng ý, bởi vì có một số thứ, tỉ dụ như con tim, tỉ dụ như xương cốt, là không thể nhân nhượng, đó mới là lí do khiến bọn họ nhảy sông. Sĩ tử nhảy sông không sai, tấm lòng chân thành đã được trời đất chứng giám, thế nhưng là ai sai đây? Là lỗi của Mao tướng quân sao? Hay là lỗi của bách tính Cật Bắc chịu khổ? Không phải. Điều duy nhất không ổn là vào thời điểm đó, không hề có lấy một sách lược vẹn toàn, bắt buộc phải đánh đổi.”

Và khi có sự đánh đổi, có những người những chuyện vốn không nên đối lập lại đứng ở hai đầu đen trắng, chẳng hạn như sĩ tử nhảy sông và tướng quân chủ hòa. Mà lại có quá ít người có thể nhìn thấu nhúm tro tàn ở giữa.

“Tội thần đã thấy kết quả của Mao tướng quân, người trung can nghĩa đảm chinh chiến cả đời, cuối cùng lại ra đi tại ngôi nhà xập xệ lọt gió, tội thần thực sự rất đau lòng. Chương Hạc Thư nói đúng, thời chiến loạn cần võ, buổi hưng thịnh chuộng văn, tương lai mai sau văn thần sẽ lấn chiếm võ tướng trên triều, tội thần chỉ nâng đỡ được Mậu nhi một lúc chứ không thể giúp được cả đời, phải có người nâng đỡ dìu dắt nó.

Tội thần chưa bao giờ dám nhận mình là người tốt, kiếp sống trên ngựa rất đơn giản, lại có gia phụ quản giáo nên không có rắc rối nào. Mấy năm sau khi hồi kinh, tội thần từng sống xa hoa đồi trụy, ham công danh lợi lộc, cũng dùng thủ đoạn dơ dáy tích trữ tài sản, trên tay đã nhuốm máu người. Chương Hạc Thư nói, tòa tháp đó là con đường khảm vàng bước lên mây xanh, tội thần tin ông ta, nghĩ rằng… nếu tặng không phần danh sách ấy thì lại giống như động cơ không trong sáng, lỡ có kẻ vong ân phụ nghĩa thì sao? Chi bằng bán nó đi, giao dịch giấy trắng mực đen rõ ràng, sĩ tử lên đài cũng bị tội thần nắm đằng chuôi, không lo sau này sẽ không làm việc cho tội thần.

Chuyện về sau, có lẽ Quan gia và Chiêu vương điện hạ đã biết, tội thần tìm đến viên quan Sầm Tuyết Minh ở Lăng Xuyên, để hắn bán danh sách giúp tội thần. Sầm Tuyết Minh rất được việc, chính hắn chọn mảnh đất hẻo lánh Thượng Khê, hắn nói mình đang nắm trong tay điểm yếu của Tôn huyện lệnh, không lo bị bọn họ khai ra, còn danh sách cứ giao cho sơn tặc núi Trúc Cố bán, dầu gì cũng chẳng ai lại đi liên hệ nhân sĩ lên đài với bách tính giang hồ. Hơn nữa, triều đình đã hạ lệnh trấn áp sơn tặc, về sau cứ lấy danh diệt loạn để bịt miệng là xong.

Cứ thế, Sầm Tuyết Minh tìm được vài khách hàng giúp tội thần, một thư sinh muốn chuộc kĩ nữ, một họa sĩ muốn đoàn tụ với con gái, một tú tài muốn thỏa mãn nguyện vọng nhà cửa vẻ vang cho phụ thân mình… Lúc bấy giờ, tội thần mới hiểu vì sao Chương Hạc Thư nói Tiển Khâm Đài là đài mây xanh. Vì những người ấy, bọn họ có nguyện vọng mà cả đời này khó có thể đạt được, còn Tiển Khâm Đài có thể thỏa mãn nguyện vọng của họ, mở ra con đường dẫn đến mây xanh như một lối đi tắt, trực tiếp dẫn người đến đến bờ kia tâm nguyện.

Tội thần cũng giống thế, tuy nói ra có vẻ đường hoàng, nhưng tội thần chỉ có tâm nguyện là mong Mậu nhi sống một đời yên ổn, xuôi buồm hơn tội thần, ổn định hơn tội thần, thậm chí là cao hơn tội thần. Thằng bé không có tiền đồ, cần người dìu dắt dẫn bước. Vậy còn gì tốt hơn mấy sĩ tử bị mình nắm đằng đuôi, có thể ban ơn cũng có thể thị uy? Đối với tội thần, Tiển Khâm Đài cũng là Thanh Vân Đài.

Tội thần có được suất lên đài là nhờ Chương Hạc Thư, vì vậy cũng không muốn giấu giếm ông ta chuyện buôn bán, không ngờ sau khi biết chuyện, Chương Hạc Thư lại mắng tội thần hành sự không chu đáo. Ông ta nói, tội thần không nên để người ngoài biết được trong tay mình có danh sách, nếu tội thần nhắm được ai thì cứ báo tên họ quê quán cho ông ta, ông ta sẽ có cách để bọn họ xuất hiện trong danh sách được chọn. Nhưng suất đã bán đi, việc đã đến nước này, đành phải tìm cách cứu vãn.

Vốn dĩ chuyện còn đang tốt đẹp, ngờ đâu vào tháng bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Tiển Khâm Đài lại đột nhiên sập…”

Tạ Dung Dữ ngắt lời: “Khúc Hầu cũng không biết nguyên nhân khiến Tiển Khâm Đài sập?”

“Không biết.” Khúc Bất Duy nói, “Ta đâu muốn nó sập, ta còn mong ngóng ngày nó hoàn công cơ mà.”

Nói đoạn, ông ta cười khổ: “Tiển Khâm Đài vừa sập, tất cả đều thay đổi. Những người đã mua suất lên đài lại không thể bước lên đài mây xanh được nữa, nguyện vọng hóa hư vô, đã thế còn phải đền mạng đền bạc, nhất định bọn họ sẽ làm to chuyện. Một khi sự tình vỡ lở thì coi như chấm hết. Tội thần… không phải người tốt, đầu tiên nghĩ đến việc diệt khẩu, mà đúng là tội thần đã làm vậy. Tội thần tìm Sầm Tuyết Minh, bảo hắn lấy lí do trừ phiến loạn để diệt khẩu sơn tặc núi Trúc Cố. Thực ra lúc đó tội thần chỉ muốn diệt khẩu mấy tên thủ lĩnh, nhưng đêm ấy lại xảy ra vài sự cố, Nhị đương gia cùng vài tên sơn tắc không ở trên núi, có kẻ hoài nghi bọn họ đã đi báo tin, nên sau khi Nhị đương gia quay về, đã dứt khoát… giết tất.

Song vẫn chưa đủ, còn những kẻ may mắn thoát chết thì tính sao đây, người nhà của bọn họ phải giải quyết thế nào, tội thần không thể dừng giết người, giấy không bọc được lửa, tội thần đành phải đến tìm Chương Hạc Thư…”

***

“Có giết cũng giết không xong.” Chương Hạc Thư nói, dường như ông ta đã tìm được cách đối phó, nom không có vẻ hốt hoảng, “Trước mắt phải nghĩ cách để bọn họ im miệng.”

“Im miệng kiểu gì hả? Người cũng đã chết, nguyện vọng thành mây khói, chẳng lẽ ta đền bạc cho bọn chúng thì bọn chúng sẽ chịu im chắc?!”

“Dĩ nhiên không phải đền bạc rồi. Việc ông bán danh sách là sai, nhưng bọn họ mua nó thì không sai sao? Giao dịch anh tình tôi nguyện cơ mà. Hơn nữa, chỉ vì Tiển Khâm Đài sập mà nguyện vọng của bọn họ sẽ không thành hiện thực? Không phải Tưởng Vạn Khiêm muốn nở mày nở mặt sao? Thẩm Lan không muốn đoàn tụ với con gái nữa ư? Ông đừng xem thường dục vọ.ng của loài người, đôi khi nó còn quan trọng hơn cả tính mạng. Chỉ cần ông lấy ra đủ thành ý, để họ tin rằng sau này ông sẽ tiếp tục giúp đỡ bọn họ lên đài mây xanh, thì chắc chắn họ sẽ ngậm miệng.”

“Ta làm gì để khiến bọn họ tin tưởng đây? Ta đâu có bản lĩnh để cái đài mây… Tiển Khâm Đài này được xây lại?”

“Ông không cần lo chuyện xây lại Tiển Khâm Đài. Còn về việc ông khiến bọn họ tin tưởng thế nào,” Chương Hạc Thư cười, “Chỉ cần một tín vật là đủ.”

***

“Có phải tín vật chính là thẻ bài của sĩ tử không?” Tạ Dung Dữ hỏi.

“Đúng, chính là thẻ bài. Chương Hạc Thư nói, sĩ tử lên đài là để tưởng nhớ các sĩ tử đã nhảy sông, cho nên thẻ bài của bọn họ được khắc hoa văn Tử kinh mạ vàng của tiến sĩ năm Hàm Hòa thứ mười bảy, hoa văn này được đặc chế, lí ra không ai biết mà mô phỏng được. Nhưng lúc làm thẻ bài, quan viên ở Chú Ấn Cục vô tình nói với Chương Hạc Thư là hồi trước bọn họ đã từng làm thẻ bài tương tự như thế, trong thời kỳ Chiêu Hóa, thẻ bài của Cử nhân ở vài nơi có hoa văn giống thẻ bài của sĩ tử lên đài. Chương Hạc Thư bảo ông ta đã tìm được thợ thủ công, chỉ cần có thể mô phỏng được hoa văn của thẻ bài Cử nhân thì có thể tạo ra một thẻ bài sĩ tử trống. Ông ta tự liên lạc với Sầm Tuyết Minh, dặn hắn dùng thẻ bài trống đứng ra bảo đảm, hứa hẹn lấy một đổi hai, để đám Tưởng Vạn Khiêm im miệng.

Sầm Tuyết Minh quá thông minh, hắn biết Chương Hạc Thư giao chuyện này cho mình thì chắc chắn về sau sẽ diệt khẩu, nên hắn đã giấu tội thần liên lạc với Thẩm Lan, bí mật để lại manh mối trên Tứ Cảnh Đồ rồi biến mất không bóng dáng tung tích. Tội thần tìm hắn rất lâu, nhưng không ngờ hắn lại đóng giả phạm nhân, tự mình lưu đày đến mỏ khoáng Chi Khê, sau đó… cũng không có cách tìm được nữa…”

Tiển Khâm Đài sập, Chiêu Hóa đế bệnh nặng liệt giường, chính sự rối loạn, văn sĩ im bặt, quyền hành rơi vào tay thế tộc trăm năm bất bại, đặc biệt là do một số tướng lĩnh cầm quân đứng đầu, văn võ toàn triều tranh chấp không ngừng, triều đình chẳng khác gì một vũng nước đục, hôm nay gió đông át gió tây, ngày mai gió tây lấn gió đông. Còn lão thái phó đức cao vọng trọng lại đóng cửa tỉnh dưỡng, nửa tháng sau, chuyện đầu tiên ông làm là lên đại điện xin nghỉ hưu, ông nói mình già rồi, không đảm đương nổi, muốn đến sơn trang Khánh Minh nghỉ ngơi.

Chiêu Hóa đế không còn cách nào khác, ông biết mình không còn nhiều thời gian, đành phải giúp Hà thị Chương thị, để bọn họ nâng đỡ Triệu Sơ, sau đó băng hà vào mùa thu năm Chiêu Hóa thứ mười bốn.

Tân đế lên ngôi mà không có thực quyền, ban đầu hai người Chương Hà cũng lao đao trong sóng gió, triều chính lúc đó hỗn loạn thế nào? Dường như ai cũng dòm ngó chằm chặp điểm yếu của đối thủ, chỉ một sơ suất sẽ bị sóng nhấn chìm xuống đáy biển. Vì thế, dù Khúc Bất Duy vẫn luôn tìm kiếm Sầm Tuyết Minh thì ông ta cũng không dám hành động rầm rộ, càng không có cách để Chương Hạc Thư – bấy giờ đã là quốc trượng ra tay.

Cứ như vậy, Sầm Tuyết Minh không khác nào một con cá lọt lưới, biến mất giữa biển khơi.

Mà Khúc Bất Duy lại cho rằng, từ khi Sầm Tuyết Minh biến mất, đài dựng đài sập đều đã bị chôn vùi dưới đống đổ nát, tất cả đã hoàn toàn chìm vào quá khứ.

“Triều đình có căn cơ tốt, chưa tới hai năm sau khi Quan gia kế vị, mọi thứ dần trở nên tốt đẹp. Thế là Chương Hạc Thư đến tìm tội thần, nói đã tới lúc xây lại Tiển Khâm Đài, tội thần cũng không nghĩ nhiều, năm đó đã hứa gì với đám Tưởng Vạn Khiêm thì giờ trả lại cho họ là xong. Tội thần đinh ninh dù xây lại Tiển Khâm Đài thì cũng chẳng có chuyện gì cả. Quan gia và Hoàng hậu tình sâu nghĩa nặng, Chương Hạc Thư lại là phụ thân của Hoàng hậu, Hà gia sẽ bị chúng thần đạp đổ trước, người duy nhất có bản lĩnh, có tư cách lật án là Tiểu Chiêu vương, nhưng ngài đang bệnh chưa khỏi, ngay cả Huyền Ưng Ti cũng phải ngủ đông, làm sao có thể… có thể xảy ra chuyện được?”

Nói tới đây, chính Khúc Bất Duy phải tự giễu bật cười, “Nhưng ai dè lại có chuyện thật. Hóa ra không chỉ tội thần và Chương Hạc Thư chờ ngày Tiển Khâm Đài được xây lại, mà còn nhiều người nữa…”

Khúc Bất Duy nhìn Triệu Sơ rồi nhìn sang Tạ Dung Dữ, nhìn số lượng Huyền Ưng vệ ít ỏi trên đại điện, cuối cùng dừng lại ở Thanh Duy, “Bọn họ cũng đang chờ cái ngày ấy.”

Con rồng ngủ yên trong thâm cung rồi sẽ trở lại ngai vàng của nó, vị vương đang chìm trong đau đớn rồi sẽ thức dậy, những vị tướng vô tội bị liên lụy sẽ đi theo tướng quân mới, nữ cô nhi phải sống cảnh bèo dạt lang thang, không buông bỏ được sự cam tâm rồi sẽ đặt chân lên mảnh đất thị phi này.

Và còn nhiều người nữa, hiệp khách bị nhốt trong cung, sơn tặc nấp trong núi, hay nữ họa sĩ phải xa cách cha mình… Tất cả đều dần thay đổi, điều duy nhất bất biến chính là bụi bặm dưới đống đổ nát, không bị gió thổi bay.

Cho nên chỉ cần một ngày nào đó, có người đào tung khói bụi lên, mọi thứ bị chôn vùi sẽ lại trỗi dậy như cũ.
 
Chương 203


Đại điện lặng đến nỗi nghe thấy cả tiếng kim rơi.

Khai hết đầu đuôi câu chuyện, Khúc Bất Duy như thả lỏng toàn bộ. Mới một chớp mắt đấy thôi mà ông ta già đi trông thấy, cột sống thẳng đứng một đời nay đã bị tà đạo và tội lỗi bẻ cong, trở nên khòm hẳn.

“Bổn vương còn có điều muốn hỏi, Khúc Hầu có biết Chương Hạc Thư lấy được danh sách từ đâu không?”

Khúc Bất Duy lắc đầu: “Ta không hỏi.”

Ông ta vắt óc nhớ lại, “Ta và Chương Hạc Thư chỉ đơn giản làm giao dịch, ta cứu nhân sĩ bị lưu đày giúp ông ta, ông ta cho ta suất lên Tiển Khâm Đài, hai bên không nợ nần nhau, còn về phần ‘bạc’ từ đâu ra, nếu Tiển Khâm Đài không sập thì đó chỉ là chuyện nhỏ, ta không cần phải biết. Nhưng Tiển Khâm Đài lại sập, sự tình quá lớn, đôi khi biết nhiều chưa chắc đã tốt, nên ta mới không hỏi. Nhưng theo ta đoán, có vẻ liên quan đến các sĩ tử bị lưu đày hồi trước.”

Triệu Sơ hỏi Thượng thư bộ Hình: “Đã ghi lại lời khai chưa?”

“Bẩm Quan gia, ghi lại rồi ạ.” Thượng Thư bộ Hình dâng lời khai lên ngự tiền để Triệu Sơ xem.

Triệu Sơ đọc lướt qua, im lặng một lúc rồi nói, “Điện Tiền Ti nghe lệnh, lập tức đưa binh đến Chương phủ, tróc nã Chương Hạc Thư về quy án.”

Cấm vệ quân dẫn Thanh Duy vào cung nhận lệnh, đang định rời đi thì Triệu Sơ gọi lại. Chàng ngồi trên long ỷ, trong mắt như có làn sương chìm nổi, “Hành sự kín đáo vào, tạm thời chuyện này… không được để hậu cung biết.”

Cấm vệ quân lui xuống, Khúc Bất Duy cũng bị dẫn đi, Đường chủ sự ở bộ Hình tiến lên, “Hồi bẩm Quan gia, nếu Khúc Bất Duy đã thừa nhận danh ngạch của Tiển Khâm Đài là do Chương Hạc Thư cung cấp, chứng tỏ danh ngạch này bị tuồn ra từ trong kinh, chắc chắn Hàn Lâm Viện không thoát khỏi liên đới, thần nghe nói lão thái phó đã hồi kinh, giờ có cần triệu ông ấy vào cung không?”

Lúc trước Khúc Bất Duy không chịu khai ra Chương Hạc Thư, triều đình không có bằng chứng, phần nữa cũng vì nể mặt lão thái phó nên mới không triệu ông ấy, còn bây giờ đã có lời khai, cũng có lí do chứng cứ để truyền thẩm.

“Bẩm Quan gia.” Lúc này, một đại quan trên điện chắp tay thưa, “Dù sự thật Khúc Bất Duy khai ra có khủng khiếp đến đâu, thậm chí liên đới cả phó Chưởng sứ Xu Mật Viện đương triều, thì chư vị chớ có quên, điều cần giải quyết bây giờ là cho các sĩ tử bách tính ở cửa cung câu trả lời như thế nào. Trong lòng nhân sĩ, lão thái phó có địa vị ra sao? Triều đình triệu thẩm phó sứ Xu Mật Viện đã đành, nếu bây giờ còn đến phủ thái phó bắt người, tất sẽ khiến nhân sĩ xôn xao, sự tình sẽ càng gay gắt hơn!”

“Từ đại nhân nói có lí.” Một đại quan khác bước ra, “Có thể thấm vấn lão thái phó, nhưng tuyệt đối không thể đến cửa tróc nã, trừ khi thái phó bằng lòng tự vào cung, còn không phải gác chuyện này lại. Thứ cho thần nói thẳng, vừa rồi Chiêu vương điện hạ có nói, muốn xua tản dân chúng chỉ có cách tìm được chân tướng, trả lại sự thật. Nhưng sự thật ấy – theo những gì Khúc Hầu đã khai – lại quá khủng khiếp, dù bất đắc dĩ đến đâu thì đúng là triều đình đã phụ người dân Cật Bắc, và đúng là tiên đế đã xử lý các sĩ tử lên tiếng vì Cật Bắc, bao gồm cái chết của Mao tướng quân, nhân quả thật sự của việc Khúc Bất Duy mua bán danh sách, quốc trượng đương triều thao túng tất cả, nếu công bố những chuyện đó thì sẽ khiến lòng dân càng thêm căm phẫn, lúc đó xoa dịu thế nào đây?”

Ông ta vừa dứt lời, Tạ Dung Dữ còn chưa kịp nói gì thì ngoài điện đưa tới tiếng bước chân dồn dập.

Đại Lý Tự khanh đã thẩm vấn Tào Côn Đức xong, chạy ùa vào suýt đập trúng cửa điện, vái lạy Triệu Sơ, “Bẩm Quan gia, Tào Côn Đức khai rồi… không hẳn khai, mà ông ta đã nói ra hết rồi.”

Trên đỉnh đầu y lâm râm mảng trắng từa tựa tuyết, mọi người đưa mắt nhìn ra ngoài cửa điện, bấy giờ mới thấy tuyết đã rơi chẳng biết tự lúc nào.

Đại Lý Tự khanh không biết phải nói ra sao, dứt khoát quỳ xuống: “Thần dựa theo cách Chiêu vương điện hạ chỉ, dùng gia đình Bàng thị để kích động Tào Côn Đức. Hóa ra từ hơn mười năm trước, sau khi Tào Côn Đức biết được cảnh ngộ của vợ con Bàng thị, ông ta đã ủ mưu cho ngày hôm nay! Ông ta nói, nếu tiên đế muốn xây dựng Tiển Khâm Đài, muốn để người đời ghi nhớ chiến công của mình, ghi nhớ các sĩ tử nhảy sông và tướng sĩ đã hi sinh, vậy thì ông ta cũng thế, ông ta muốn tất cả mọi người phải nhớ tới những nỗi khổ mà người Cật Bắc đã chịu. Ông ta còn nói… còn nói…”

“Còn nói gì nữa?”

“Ông ta nói là đã thu xếp xong xuôi, trong nhân sĩ có người của ông ta, sáng nay Đôn Tử đã đi gặp bọn họ, hơn nữa cũng nói với họ triều đình đã biết tất cả, chẳng qua cố tình giấu giếm mà không công bố.”

Đường chủ sự nổi đóa: “Triều đình biết tất cả lúc nào, không phải triều đình cũng đang điều tra…”

“Triều đình có biết hay không không quan trọng, quan trọng là vì những lời đó, sĩ tử bách tính mới kéo đến cửa cung, đòi triều đình một câu trả lời.” Không đợi Đường chủ sự nói hết, Thượng Thư bộ Hình đã thở dài, “Vừa rồi lão thần còn nghĩ, nếu hôm nay thật sự không tìm được đối sách thì cứ phái người ra cửa cung hòa giải, xem có thể kéo dài được ít bữa không, nhưng giờ xem ra, nước đi này cũng không được rồi…”

Ông ta vừa dứt lời, lòng Thanh Duy chợt lạnh.

Từ lâu nàng đã biết Tào Côn Đức căm ghét Tiển Khâm Đài, vẫn luôn điều tra âm mưu của ông ta, tiếc thay vẫn chậm một bước.

Bên ngoài gió tuyết gào thét, trong điện Tuyên Thất, người nào người nấy vô cùng sốt ruột, thính giác của Thanh Duy rất nhạy, trong gió tuyết, nàng như nghe thấy tràng cười gàn dở của Tào Côn Đức, là sự đắc ý không ai có thể ngăn cản.

“Hèn gì nhân sĩ lại bỗng dưng tụ tập, hóa ra ông ta đã cài cắm người vào!”

“Lão thái giám này điên thật rồi!”

“Ngoài đường quá loạn, nếu Điện Tiền ti không tìm được Đôn Tử, bức huyết thư rơi vào tay nhân sĩ thì phải làm sao đây? Chờ tới khi chúng ta tra được chân tướng thì hoa cúc cũng héo mất!”

“Ta thấy không phải lão ta muốn để thiên hạ biết nỗi khổ của dân Cật Bắc, lão ta muốn thiên hạ đại loạn thì có!”

Ngoài điện lại vang lên tiếng bước chân dồn dập, một tiểu hoàng môn thưa: “Bẩm quan gia, Trương đại nhân đang ở Phất Y Đài thỉnh cầu diện kiến.”

Hôm nay không có buổi chầu, các đại thần đang trực ra về trễ hơn so với mọi khi, không phải bị chặn nửa đường thì cũng là không bước nổi ra cửa. Các viên quan có mặt ở điện Tuyên Thất bây giờ đều ở lại trong cung trực từ đêm qua, ai có cách gì đều đưa ra hết, nên dù trọng phạm như Thanh Duy có lên đại điện cũng không người phản đối – nàng ta biết rõ về vụ án Tiển Khâm Đài, ít nhiều gì cũng đưa ra được vài biện pháp.

Đương khi mọi người thắc mắc không biết vì sao Trương Viễn Tụ lại vào cung lúc này, thì tiểu hoàng môn ở ngoài điện bổ sung, “Trương đại nhân nói, ngài ấy có cách… khuyên được các sĩ tử đang tụ tập ngoài cửa cung.”

Tuyết rơi phất phơ, chốc lát sau, một người mặt mũi hiền từ đứng trên đại điện bái lạy, ánh mắt y không nhiễm gió tuyết, thong dong hơn bất cứ ai ở đây.

Đường chủ sự nóng tính, hỏi thẳng: “Trương đại nhân nói có cách khuyên được nhân sĩ, rốt cuộc là biện pháp thần kì nào thế?”

“Đúng thế, Trương đại nhân, bọn họ đã tụ tập trước cửa cung nửa ngày rồi, lỡ như không khuyên được bọn họ, trời lạnh thế này, nếu có người chết thì hậu quả rất khôn lường!”

Trương Viễn Tụ bình tĩnh nói: “Bẩm Quan gia, biện pháp của thần không dám xưng là thần kì, nếu xét kĩ thì còn rất vụng. Thực ra thần cũng nghĩ giống Chiêu vương điện hạ, chính là cho các nhân sĩ ấy một câu trả lời. Nhưng… Câu trả lời ấy ra sao, nói thế nào, quan trọng là cách thức.”

“Thần cho rằng, ít nhất trong vụ án Tiển Khâm Đài, sự tin tưởng của nhân sĩ và bách tính đối với triều đình bắt nguồn từ sự tin tưởng của đối với ‘sông Thương Lãng rửa sạch cổ tà’, bọn họ biết sự hi sinh oanh liệt của sĩ tử nhảy sông năm xưa, nên mới ủng hộ xây dựng Tiển Khâm Đài; bây giờ bọn họ lại biết những nhơ nhớp liên quan đến nó, nên cật lực phản đối việc tái thiết Tiển Khâm Đài, đòi lại thứ gọi là công lý. Nhưng sự thật vốn có nhiều mặt, chân tướng thế nào cũng rất khó nói, muốn khuyên được bách tính nhân sĩ ở cửa cung, chi bằng trở về căn bản, tìm con đường đơn giản nhất, đó là để hai chữ ‘Tiển Khâm’ trở về trong tim thiên hạ bách tính.”

Y vừa dứt lời, mọi người trên điện đưa mắt nhìn nhau.

Nhưng làm cách nào mới có thể khiến hai chữ ‘Tiển Khâm’ quay về trong tim dân chúng đây?

“Thật ra làm chuyện đó không hề phức tạp, bước khó khăn nhất là khiến nhân sĩ chịu nghe chúng ta nói chuyện.

Thần vốn bất tài, nhưng vì xuất thân nên có quan hệ tốt với nhân sĩ trong kinh. Lần này sau khi hồi kinh, thần nhận lệnh của triều đình điều tra nguyên nhân sĩ tử biểu tình, nhờ vậy mới biết có kẻ tuyên truyền về ẩn tình đằng sau chiến dịch sông Trường Độ năm xưa. Thế là thần đã sai người điều tra xem ai đang tung tin thất thiệt, kích động lòng dân.”

“Sao Trương đại nhân không nói sớm?”

Trương Viễn Tụ từ tốn giải thích: “Lúc đó Trương mỗ cũng không ngờ chuyện lại ầm ĩ đến mức độ này, huống hồ thần chỉ vừa điều tra, tới tận đêm qua mới có được bằng chứng, phát hiện do một nhóm nhân sĩ cầm đầu là Viên Tứ gây rối.”

Nói đoạn, y dâng lên một bức thư, “Đây là thư tay lục soát được ở nhà của Viên Tứ, trao đổi với một người khác về bắt thương nhân Cố Phùng Âm như thế nào, ép ông ấy phải viết huyết thư, làm chứng chiến dịch Cật Bắc có nội tình khác ra sao. Người kia là ai vẫn chưa rõ, nhưng lúc nãy khi thần đứng dưới Phất Y Đài chờ diện kiến, nghe người của Đại Lý Tự nói, việc sĩ tử gây rối rất có thể là âm mưu của Tào Côn Đức, mà hôm qua nội thị Đôn Tử đã bỏ trốn, vậy xem ra người liên lạc với Viên Tứ chính là Đôn Tử.

Chỉ cần dùng phong thư này làm chứng bắt Viên Tứ, nói với nhân sĩ ngoài kia thật ra bọn họ đã bị xúi giục làm loạn, thì chí ít bọn họ sẽ bình tĩnh nghe chúng ta nói chuyện. Đó là bước đầu tiên.

Nhưng, vẫn còn có rất nhiều bách tính tụ tập ngoài cửa cung, triều đình không cho câu trả lời hợp lí thì không được, theo như thần đoán, tuy những bức thư này có thể khiến đa số mọi người bình tĩnh lại, nhưng cũng sẽ có một ít bộ phận vì thế mà trở nên tức giận hơn, dẫu sao việc Cật Bắc rơi vào cảnh khổ là sự thật, mua bán danh ngạch cũng là sự thật, triều đình muốn trấn an nhân sĩ, phải lập tức công khai sự thật.”

“Vậy thì sự thật là gì?” Trương Viễn Tụ dừng một lúc, gỡ lấy bông tuyết đọng trên vạt áo, từ tốn nói, “Ví dụ như vật trong tay thần đây, nhìn xa là tuyết, nhìn gần là băng, một lúc sau lại sẽ hóa thành nước, khi rơi xuống đất, nửa ngày sau sẽ bốc hơi hoàn toàn, hóa thành hư vô. Có người hỏi thần vừa lấy gì từ vạt áo xuống, câu trả lời là tuyết, nhưng thần muốn nói nó là băng, là nước, thậm chí không phải gì hết, thì có được xem là sai không?”

“Sự thật cũng biến hóa giống như thế, phải xem đứng ở góc độ nào để mà giải thích.

Tiển Khâm Đài cũng vậy. Năm Xưa Tiển Khâm Đài mà mọi người nhìn là sự oanh liệt của sĩ tử đã nhảy sông, sự anh dũng của tướng sĩ đã hi sinh. Còn hôm nay mọi người tụ tập ở cửa cung, Tiển Khâm Đài mà bọn họ thấy lại là tội ác mua bán danh ngạch, là nỗi khổ của người dân Cật Bắc sau chiến tranh. Nên điều chúng ta cần làm rất đơn giản, đó là xóa bỏ tội ác mua bán danh sách và nỗi khổ của người Cật Bắc ra khỏi Tiển Khâm Đài, để hai chữ Tiển Khâm không vấy bẩn về lại lòng người, thậm chí còn cao hơn vị trí cũ, cao đến mức không thể hồ nghi, chỉ thế mà thôi.

Vậy cần làm thế nào? Thứ nhất, vụ án mua bán danh sách nặng ở chữ mua bán, theo thần biết, người mua bán chỉ có một mình Khúc Bất Duy, còn về việc sau lưng ông ta có ai, tạm thời triều đình khoan truy cứu đã, chỉ cần nói Khúc Bất Duy lạm dụng phạm pháp, cố ý bôi bẩn hai chữ Tiển Khâm.”

Đường chủ sự ngơ ngác: “Ý của Trương đại nhân là dừng truy cứu Chương Hạc Thư Chương đại nhân?”

Trương Viễn Tụ nhìn ông ta, không trả lời mà nói tiếp: “Thứ hai, nỗi khổ của cô nhi Cật Bắc là thật, dù triều đình nói thế nào cũng không thay đổi được sự thật, chỉ có thể thừa nhận. Nhưng muốn thừa nhận cũng phải có cách, vừa nãy thần đã nói, năm ấy dân chúng ủng hộ xây dựng Tiển Khâm Đài, ủng hộ quyết nghị của triều đình là vì sự oanh liệt của các sĩ tử nhảy sông. Nỗi khổ của cô nhi Cật Bắc có lẽ nằm ngoài tầm tay của triều đình, hoặc là do quan phủ địa phương quản lý không chặt, nhưng sĩ tử lên Tiển Khâm Đài thì không. Nói cách khác, triều đình có thể sai, còn Tiển Khâm, dù thế nào đi chăng nữa cũng không lấm bẩn.

Thần còn giữ bức thư tay của gia huynh hồi còn sống, là bức thư dâng lên triều đình thỉnh cầu trấn an cô nhi Cật Bắc, còn có cả bằng chứng gia huynh và những người bạn cũ lên đài chi tiêu tằn tiện để cứu tế nạn dân Cật Bắc.

Nếu trận chiến sông Trường Độ là sự lựa chọn giữa chủ chiến và chủ hòa, thì những việc làm về sau của gia huynh và các sĩ tử lên đài là nỗ lực ít ỏi của các hậu duệ Thương Lãng Tiển Khâm dành cho Cật Bắc. Triều đình có thể đã phụ dân Cật Bắc, nhưng  những hậu duệ đó thì không.

Vì quá tức giận mà mọi người đã quên rằng không thể truy ngược quá khứ, chỉ có thể thay đổi hiện tại tương lai. Những người chịu khổ ở Cật Bắc đã không còn, và những đau khổ ở nơi đó cũng đã qua. Những gì họ có thể đổi lấy và muốn đổi lấy chính là cái cúi đầu của triều đình. Bọn họ muốn cúi đầu, vậy triều đình cứ cho họ. Cúi đầu xong, Tiển Khâm lại càng sạch sẽ, cũng chứng minh quyết sách tái thiết Tiển Khâm Đài của triều đình không hề sai, đó không những là sự quyết tâm mà còn là sự tỉnh ngộ của triều đình, cho nên triều đình mới xây đài cao, tế vong linh của các sĩ tử nhảy sông, thậm chí còn dựng bia kỷ niệm, khắc tên những sĩ tử đã gieo mình xuống sông, những sĩ tử đã bước lên đài, để thế nhân luôn ghi nhớ về họ.”
 
Chương 204


Thượng thư bộ Hình hỏi: “Ý của Trương đại nhân là… bảo triều đình thừa nhận việc mắc nợ dân chúng Cật Bắc vì đã lựa chọn chống lại man địch, dù về sau có bú đắp song nằm ngoài tầm tay triều đình, quan phủ địa phương cũng không quản lý thấu đáo, nên mới khiến vài nạn dân Cật Bắc không được bố trí thỏa đáng. Nhưng triều đình chỉ có lỗi với Cật Bắc chứ không có lỗi với nhân sĩ sông Thương Lãng, bọn họ nhảy sông là bởi không muốn xương cốt quốc gia bị gãy, muốn Đại Chu bình an lâu dài; sau đó lấy việc các sĩ tử như Trương Chính Thanh chi tiêu tiết kiệm tiếp tế Cật Bắc làm tấm gương sáng. Ngày xưa triều đình xây dựng Tiển Khâm Đài chỉ là để tưởng niệm tấm lòng son của các sĩ binh tướng, nhưng bây giờ khi triều đình tái thiết Tiển Khâm Đài là bởi hối hận trước sự lựa chọn hi sinh Cật Bắc, vì thế mới càng phải để nhân sĩ Tiển Khâm Đài trở thành khuôn mẫu, phải xây đài cao và lập bia đá vì họ?”

“Ý của Trương đại nhân rất hay!” Vị đại nhân họ Từ lúc nãy tiếp lời, “Có câu không ai hoàn hảo, triều đình cũng không có khả năng chu toàn mọi việc, nhưng triều đình cũng đã sớm nhận ra quyết sách ngày ấy không đúng với Cật Bắc, cho nên việc xây lại Tiển Khâm Đài, chính là quyết định đưa ra khi triều đình biết được nhân sĩ tiếp tế Cật Bắc! Hai chữ ‘Tiển Khâm’ vẫn không hề lấm bẩn. Miễn là giải thích theo hướng này, thì kể từ sau triều đại Gia Ninh, các quyết định do triều đình đưa ra chưa từng sai, chỉ cần cúi đầu, mọi người sẽ lần nữa nhìn lại những rắc rối xung quanh, Tiển Khâm Đài hôm nay được xây vì những nhân sĩ nhảy sông và con cháu họ. Cơn giận của bách tính sẽ lắng xuống, Tiển Khâm càng trở nên cao quý hơn bao giờ hết, mối nguy hôm nay cũng sẽ được giải trừ!”

Trương Viễn Tụ chắp tay bái: “Quan gia, thần tự nguyện làm sứ giả, ra cửa cung nói chuyện với nhân sĩ bách tính.”

Mà cũng không ai thích hợp hơn y cả.

Y là con trai của sĩ đại phu Trương Ngộ Sơ, là em ruột của sĩ tử lên đài Trương Chính Thanh, lão thái phó còn là ân sư, là cha nuôi của y, và bây giờ tin tức y sắp cưới Nhân Dục quận chúa đã truyền khắp kinh thành, ai ai cũng kháo rằng y đúng là Tạ Trinh thứ hai.

Nhưng Triệu Sơ còn chưa lên tiếng, trên điện vang lên giọng nói trong trẻo: “Không ổn!”

Thanh Duy nhìn Trương Viễn Tụ: “Đây chính là mục đích của Trương Nhị công tử từ trước tới nay? Để nhân sĩ tụ tập trước cửa cung, đưa ra một câu trả lời mà công tử muốn bọn họ biết, cuối cùng để Tiển Khâm Đài trở thành tòa tháp tưởng niệm nhân sĩ Tiển Khâm và sĩ tử lên đài, vĩnh lập thế gian?”

Đoạn, nàng bái lạy Triệu Sơ: “Bẩm Quan gia, dân nữ cho rằng những điều Trương Nhị công tử nói không ổn, biện pháp này thoạt nhìn có vẻ sẽ giải quyết được vấn đề trước mắt, nhưng thực chất chỉ là tránh nặng tìm nhẹ, chí í… chí ít chúng ta vẫn chưa biết được nguyên nhân thật sự của việc Tiển Khâm Đài sập, lẽ nào chỉ vì mỗi Hà Hồng Vân tráo nguyên vật liệu? Khúc Bất Duy nói danh sách lên đài là do Chương Hạc Thư đưa, vậy Chương Hạc Thư có được danh sách đó từ đâu? Nếu là Hàn Lâm Viện, thì vì sao Hàn Lâm Viện lại phân chia phần danh sách đó? Chúng ta vẫn chưa biết rõ về nguyên nhân kết quả, vậy ra ngoài kia giải thích với mọi người là giải thích cái gì? Giải thích cái chân tướng chúng ta muốn họ thấy sao? Mong Quan gia chưa quên, vì lí do gì mà vụ án Hà thị tráo gỗ, Khúc Bất Duy mua bán suất lên đài lại bị đào lên, chính bởi vì chân tướng bị chôn vùi dưới lớp bụi! Biện pháp của Trương Nhị công tử là muốn dùng hai chữ Tiển Khâm trấn an nhân sĩ, trải đường lui cho triều đình, song y lại quên một điều, đó chính là chân tướng sự thật. Để y ra đàm phán, ắt hẳn có thể xoa dịu cơn giận của dân chúng, đám đông tụ tập tất sẽ giải tán, nhưng dân nữ biết, nếu vào lúc này, nếu dân nữ cũng đứng ngoài cửa cung, nghe được những lời giải thích ấy, dân nữ tuyệt đối không cam lòng!”

Trên điện có người hừ khẽ, ý rằng một đứa con gái dân đen tầm thường như Thanh Duy chỉ biết nói lời sáo rỗng, không biết cân nhắc thiệt hơn, chẳng qua ngại Tạ Dung Dữ nên mới không nói thành lời.

Triệu Sơ hỏi: “Nghe giọng Ôn thị, có phải biết được gì rồi không?”

Thanh Duy suy nghĩ, chắp tay lạy sâu hơn, “Bẩm Quan gia, dân nữ muốn đối chất với Trương Nhị công tử. Nhưng dân nữ không hiểu phép tắc, có lẽ sẽ có vài lời bất kính, mong Quan gia tin rằng dân nữ tuyệt không có ý xúc phạm.”

“Cứ nói.”

Thanh Duy gật đầu, xoay người nhìn Trương Viễn Tụ: “Trương Nhị công tử, anh cho rằng vì sao tiên đế phải xây dựng Tiển Khâm Đài? Là để tưởng niệm các sĩ tử đã nhảy sông?”

Không đợi Trương Viễn Tụ trả lời, nàng nói luôn: “Không cần anh nói, chúng tôi cũng biết câu trả lời. Năm Hàm Hòa thứ mười bảy, sĩ tử gieo mình xuống sông đã khiến tiên đế lúc bấy giờ là thái tử chấn động, lập chí chấn hưng Đại Chu, sau khi đăng quang miệt mài vì việc nước việc dân, lập được công lớn, chỉ vỏn vẹn mười năm đã đưa Đại Chu thoát khỏi cảnh loạn thế. Tiên đế cũng là người, ngài ấy đắc chí với sự phồn thịnh do mình tạo nên, nhưng ngài không thể công khai lập bia cho mình, vậy phải làm gì? Ngài ấy nghĩ đến việc xây dựng Tiển Khâm Đài, cho nên tòa tháp ấy không chỉ tưởng nhớ sĩ tử gieo mình xuống sông hay tướng sĩ hi sinh trong chiến dịch Trường Độ, mà còn để kỉ niệm chiến công của tiên đế, kỷ niệm chính ông – đệ nhất đế vương từ ngày Đại Chu khai quốc đến nay!”

“Tôi xin hỏi Trương Nhị công tử, anh muốn Tiển Khâm Đài là cái gì?”

“Tiển Khâm Đài mà công tử muốn…” Thanh Duy nhìn Trương Viễn Tụ, giọng thấm lạnh, “Là một tòa tháp không liên quan đến tiên đế, tách biệt khỏi hoàng quyền, chỉ là tấm bia tưởng niệm sĩ tử nhảy sông. Nói cách khác, công tử muốn nó tưởng nhớ cha anh mình.”

“Xây lại Tiển Khâm Đài cũng không hẳn là mục đích của công tử, xây lại một tòa tháp để tưởng nhớ sĩ tử mới là mục đích của anh. Anh không muốn trăm năm sau, có người nhìn vào tòa tháp ấy mà nghĩ ngay đến tiên đế, anh muốn điều đầu tiên thế nhân nghĩ đến là sự hi sinh cao cả của các sĩ tử nhảy sông, thậm chí là tên của từng người một!

Nhưng một mình đi đến bước ấy thực sự quá khó, cho nên anh buộc phải hợp tác với Tào Côn Đức.

Thật ra tôi vẫn cảm thấy lạ, mong muốn của anh là xây Tiển Khâm Đài, còn Tào Côn Đức, ông ta cực kỳ căm ghét tòa tháp ấy, vì ông ta cho rằng chính sĩ tử nhảy sông đã đẩy người dân Cật Bắc vào cảnh lầm than, rõ ràng mục đích của hai người hoàn toàn trái ngược nhau, vì sao lại hợp tác với nhau? Nhưng giờ tôi đã biết rồi, mục đích của Tào Côn Đức vừa khéo cho anh một cơ hội, chỉ cần để dân chúng biết rõ về khổ nạn của người dân Cật Bắc thì có thể khiến triều đình phải cúi đầu, chỉ cần triều đình thừa nhận đã không thu xếp thỏa đáng cho người dân Cật Bắc, là có thể xóa bỏ được chiến công của tiên đế ra khỏi Tiển Khâm Đài. Anh nói ‘triều đình có lỗi, còn nhân sĩ Tiển Khâm trong sạch’, ‘Tiển Khâm Đài hôm nay chỉ xây vì các sĩ tử nhảy sông năm xưa’, không phải những điều đó đều tiến hành theo kế hoạch của anh sao?

Vừa rồi anh còn nói, sau khi hồi kinh, anh nhận lệnh điều tra nguyên nhân sĩ tử gây rối, nhờ đó mới tra được Viên Tứ kích động sĩ tử, có thật vậy không?

Không! Anh sớm đã biết Viên Tứ, thậm chí cũng biết Tào Côn Đức, Đôn Tử muốn làm gì, nhưng điều bọn họ làm vừa hay cũng là điều anh muốn, nên anh mới không ngăn cản họ. Anh nói lục soát được thừ tư qua lại của Viên Tứ và Đôn Tử, nhưng có cần lục soát thật không? Tào Côn Đức nuôi chim cắt, chim cắt sẽ gửi thư ra ngoài cung giúp ông ta, nhưng Tào Côn Đức sống ở thâm cung nhiều năm, làm sao chim cắt của ông ta biết được đường đi lối về ở Đại Chu, không phải nhờ có anh hỗ trợ nuôi nó ở ngoài cung sao? Với anh mà nói, việc lấy những bức thư ấy quá dễ dàng, chẳng qua anh vẫn giấu đi không công khai, đợi đến thời điểm thích hợp!

Trong vụ án của Hà Hồng Vân, anh đưa người dân Ninh Châu lên kinh, ép triều đình phải xây lại Tiển Khâm Đài. Trong vụ án của Khúc Bất Duy, anh biết nếu tiết lộ nội tình vụ án tất sẽ khiến mọi người căm phẫn, cho nên anh mặc kệ Tào Côn Đức toan tính sắp đặt, thậm chí còn đồng ý cưới Nhân Dục quận chúa, trở thành Tạ Trinh thứ hai trong lòng nhân sĩ. Tất cả những gì anh làm chỉ vì ngày hôm nay, và hôm nay khi giới nhân sĩ tụ tập trước cửa cung, với Tào Côn Đức mà nói, đây là cơ hội để vạch trần nỗi khổ Cật Bắc, còn với anh, nó là cơ hội để xóa tên tiên đế ra khỏi Tiển Khâm Đài, để hai chữ ‘Tiển Khâm’ hoàn toàn sạch sẽ!”

Lời của Thanh Duy như đá rơi xuống đất, đập thẳng vào lòng rất nhiều người. Nhưng Trương Viễn Tụ lại chỉ cười, nụ cười của y vẫn dịu dàng như thế, song khóe môi nhoẻn cong lại ẩn chứa sự mỉa mai.

Có lẽ y không quan tâm người ngoài đã nhìn ra được gì.

“Ôn cô nương nói không sai, đúng là ta đã sớm biết kế hoạch của Tào Côn Đức.”

Trương Viễn Tụ bình thản nhìn mọi người, “Nhưng thế thì sao? Bây giờ sĩ tử bách tính đang tụ tập trước cửa cung, muốn giải quyết rắc rối, chẳng lẽ còn có cách nào khác ngoài việc để Tiển Khâm sạch sẽ?”

“Còn về việc triều đình muốn trị thần tội bất kính với tiên đế, thông đồng với hoạn quan, thì đợi chuyện hôm nay kết thúc, thần cam tâm chịu phạt.”

“Hơn nữa,” Trương Viễn Tụ hỏi, “Dù ta muốn tái thiết Tiển Khâm Đài chỉ để tưởng niệm sĩ tử nhảy sông, thì có gì sai sao?”

“Để hai chữ Tiển Khâm càng trong sạch thuần khiết, thì có gì sai sao?”

“Không điều tra toàn bộ sự thật, chỉ để mọi người biết được một nửa sự thật mà ngươi muốn bọn họ biết còn không phải là sai?” Đúng lúc này, một âm thanh đanh sắt vang khắp đại điện.

Tạ Dung Dữ từ từ bước tới, dừng lại bên cạnh Trương Viễn Tụ, “Dung túng người làm điều ác, cố ý xúi giục nhân sĩ còn không phải là sai?”

“Ngươi nói muốn xây lại một Tiển Khâm Đài chỉ để tưởng nhớ nhân sĩ, muốn để hai chữ Tiển Khâm không lấm bẩn, nhưng ngươi đã quên bản thân Tiển Khâm mang hàm nghĩa gì, đó là tấm lòng cao cả của các sĩ tử nhảy sông, còn ngươi lại đánh mất lòng chân thành ấy, như thế còn không phải là sai?”

“Nếu có thể lấy lòng thành của ta đổi lại một Tiển Khâm Đài thuần khiết thì có hề gì?” Trương Viễn Tụ nói, “Nếu Chiêu vương điện hạ đã nói vậy, tại hạ cũng có chuyện muốn thỉnh giáo điện hạ.”

“Mười tám năm trước, chúng ta mất đi sinh phụ, hai chữ Tiển Khâm gán lên chúng ta cả đời. Nhưng từ khi Tiển Khâm Đài sập, điện hạ một mực truy tìm chân tướng, tại hạ muốn hỏi, rốt cuộc chân tướng là gì? Là bông tuyết, là phiến băng vụn, hay là hư vô khi nước bốc hơi?”

“Điện hạ còn chưa rõ ư? Tiên đế xây đài cao là để kỷ niệm chiến công của mình; Chương Hạc Thư phân chia danh sách là để thực hiện lí tưởng hàn vi và thế gia ngang hàng; Khúc Bất Duy mua bán danh sách là để trải đường cho con trai mình; thậm chí còn nhiều người hơn, như thương nhân muốn nở mày nở mặt hay người họa sĩ muốn đoàn tụ với con gái. Đối với bọn họ, Tiển Khâm chỉ là hư ảo, trong mắt họ chỉ có mây xanh! Còn chân tướng mà điện hạ tìm kiếm không gì khác ngoài mây xanh, thứ ta muốn làm là xóa bỏ những đám mây cao vời vợi đó ra khỏi Tiển Khâm, chỉ có như thế, Tiển Khâm Đài mới là Tiển Khâm Đài!”

Tạ Dung Dữ nói: “Trương đại nhân nói đúng, thời gian qua, bổn vương cũng chỉ toàn thấy những người xem Tiển Khâm là nấc thang lên trời. Nhưng bổn vương cũng muốn hỏi Trương đại nhân vài câu, tòa tháp ngươi muốn tái thiết là cái gì? Ngươi muốn để Tiển Khâm quay về trong tim bách tính, rốt cuộc Tiển Khâm là cái gì? Là ‘sông Thương Lãng gột sạch cổ tà’ không vết bẩn, hay là tên họ của cha anh ngươi? Là ngươi không cách nào chấp nhận bọn họ ra đi đột ngột! Ngươi chỉ trích những người ngoài kia biến Tiển Khâm Đài thành Thanh Vân Đài, nhưng không phải ngươi cũng muốn nó trở thành bia đá để cha anh ngươi trường tồn hậu thế sao? Trong mắt Trương Vong Trần ngươi, Tiển Khâm Đài có thật sự chỉ là Tiển Khâm Đài không?”

Từng câu từng chữ chất vấn rót vào tai, con tim Trương Viễn Tụ bị hẫng một nhịp.

Bất giác y nhớ lại ngày hôm ấy ở núi mỏ Chi Khê, Chương Đình bê bết máu me nhìn y, hỏi từng chữ một: “Vong Trần, trong mắt huynh, Tiển Khâm Đài, là như thế nào?”

Không phải cũng là Thanh Vân Đài sao?

Hàn khí dâng lên qua lớp áo, Trương Viễn Tụ đưa mắt nhìn, gió tuyết bên ngoài đã thổi mạnh hơn, xuyên qua khe cửa rơi vào đại điện, cơn lạnh ấy khiến y tỉnh táo lại, phất tay cười nhạt, “Chiêu vương điện hạ nói dễ nghe nhỉ, nhưng ngài tìm kiếm chân tướng không biết mệt mỏi là vì cái gì? Tên là Dung Dữ nhưng chẳng thể tiêu dao, không phải người hoàng cung nhưng lại được phong vương mà lớn, phải đeo mặt nạ mới được sống như là chính mình, nay tháo mặt nạ khoác lên phân vị vương, lại lần nữa bó tay bó chân, ngài không hận ư? Dù Tiển Khâm Đài có dựng hay sập, ta vẫn tình nguyện đi vào vòng xoáy ấy, còn ngài không có ngày nào không muốn rời xa. Ngài nói ta muốn xây lại Tiển Khâm Đài là vì cha anh, điều này ta thừa nhận, nhưng ngài dốc sức điều tra chân tướng, còn không phải vì để mở khóa gông cùm ấy sao, chỉ khi sự thật hé lộ thì ngài mới có thể được giải thoát, hai ta kẻ tám lạng người nửa cân, ai mà chẳng có động cơ.”

“Không sai, đúng là ngày trước ta rất hận, cũng cho rằng chỉ cần tra rõ chân tướng thì sẽ được giải thoát.” Tạ Dung Dữ nói, “Nếu nói có gì khác biệt, thì đó chính là ta đã gặp được rất nhiều người cũng giống mình. Ngươi cho rằng việc Tiển Khâm Đài sập chỉ ảnh hưởng đến mỗi sĩ tử lên đài? Không, còn có rất nhiều người chưa từng gặp, thậm chí chưa từng nghe nói đến, một Huyện lệnh ở vùng núi hoang vu, nàng thiếp thất mãi nghệ kiếm ăn, cô kĩ nữ vất vả lên kinh, sơn tặc ở trong núi, họa sĩ mai danh ẩn tích, Tiển Khâm Đài sập hay nước sông Thương Lãng đều để lại trong lòng những người đó vết thương không thể xóa nhòa, bọn họ cũng như ta, đang chờ đợi một chân tướng, chỉ có sự thật mới có thể giải thoát bọn họ, những người đó, nghìn lần vạn lần, không cho phép ngươi giải thích một cách sơ sài!”

“Còn bách tính là gì, ba người thành hộ, mười hộ thành thôn, trăm thôn thành trấn, ba trấn thành huyện, nếu một sự cố ảnh hưởng đến mấy nghìn người, thì kể cả quá khứ lẫn hiện tại, nó đã ảnh hưởng đến hàng vạn người! Mà sợ rằng đó không phải chỉ là một sự cố, mà là vết sẹo trong lòng dân chúng, vết sẹo kết từ ba đời Hàm Hòa, Chiêu Hóa, Gia Ninh, ngươi nói thư sinh và dân chúng ngoài cung hiểu biết không nhiều, ngươi có thể dùng lời để thuyết phục, nhưng bọn họ không phải bách tính sao? Không phải dân chúng sao? Hôm nay ngươi dùng luận điệu này để bác bỏ họ, vậy ngày sau ngươi lấy gì để khiến người trong thiên hạ tin phục?!”

“Ngươi hỏi ta chân tướng là gì đúng không?” Nói đoạn, Tạ Dung Dữ cất bước đi tới cửa điện, kéo mở cửa ra, gió tuyết theo đó lập tức ùa vào, quét qua mặt y, y chìa tay nắm lấy, xoay người lại, “Ngươi nói chỗ tuyết này nhìn xa là tuyết, nhìn gần là băng, rơi xuống đất sẽ tan biến, vậy thì phải để bọn họ thấy quá trình vì sao tuyết trở thành băng, băng tan thành nước và nước bốc hơi như thế nào, đấy mới là sự thật, thay vì nói tuyết là tuyết và băng là băng! Vì sao Tiển Khâm Đài thành Thanh Vân Đài, triều đình đã chọn lựa giữa chủ chiến và chủ hòa như thế nào, sau khi chọn lựa đã phạm sai lầm ở đâu, đưa ra lương sách nào, ai có công ai có lỗi, ai phạm tội đại ác, ai bị xử oan, kể cả huynh trưởng ngươi đã làm gì, Không cần dùng lời hoa mỹ, cũng không cần giải thích thừa thãi, thậm chí danh sách Tiển Khâm Đài từ đâu ra, vì sao Hàn Lâm Viện lại đưa danh sách cho Chương Hạc Thư, phải phô bày rõ ràng đầu đuôi trước mắt mọi người mới đúng!”

“Không phải chỉ xây đài cao không lấm bẩn thì Tiển Khâm Đài mới có ý nghĩa, mà tìm ra sự thật thì tự nó ắt có ý nghĩa.” Tạ Dung Dữ nói, “Ta cũng không biết sự thật là gì, tuy nhiên, chỉ khi hiểu được băng tan thành nước như thế nào, chúng ta mới có thể biết cách giữ được băng. Có thể ngươi nói đúng, suy cho cùng Tiển Khâm cũng chỉ là một đám mây xanh hư ảo, nhưng chí ít chúng ta có thể biết đâu là đúng, đâu là sai, hoặc khi đúng sai lẫn lộn, chúng ta biết phải đi hướng nào. Cố gắng che đậy vết thương đang rỉ máu chỉ khiến nó thêm mưng mủ thối rữa, nứt toác nhiều hơn. Muốn chữa lành thì phải mổ xẻ ra, dù có phải kết thành sẹo gớm ghiếc.”

“Quan, Quan gia.” Nghe những lời Tạ Dung Dữ vừa nói, mọi người trong điện chấn động đến nỗi không thốt nổi nên lời, một lúc lâu sau, Đường chủ sự ở bộ Hình mới chắp tay bẩm Triệu Sơ, “Thần cho rằng Chiêu vương điện hạ nói đúng, vụ án mua bán danh sách Tiển Khâm Đài vẫn chưa tra rõ nội tình, nếu bây giờ đi giải thích với sĩ nhân ở ngoài cung thì quá chiếu lệ, nếu sau này có người khui ra chân tướng sâu hơn, thí dụ như… vì sao danh ngạch của Tiển Khâm Đài lại rơi vào tay Chương Hạc Thư, như thế sẽ càng khiến bách tính mất lòng tin vào triều đình.”

“Ngược lại thần cho rằng, tuy lời Chiêu vương điện hạ nghe có lý, song lại nghĩ đơn giản quá rồi. Chưa nói muốn điều tra tất cả trong một ngày khó khăn như thế nào, mà dù có điều tra được thì do ai ra mặt giải thích đây, làm sao lời của người đó có thể khiến dân chúng tin tưởng? Rồi giải thích xong, làm sao chắc chắn sĩ tử ngoài cung sẽ tản đi, hay càng làm loạn hơn?” Vị đại nhân họ Từ nói, “Hơn nữa, dù những lời Trương đại nhân nói không phải là toàn bộ sự thật, nhưng tuyệt đối không phải chiếu lệ, chí ít đó cũng là một phần sự thật, với những người tụ tập ngoài cung mà nói thì cách giải thích ấy đã đủ, từ từ rồi chuyện cũng tròn, đầu tiên giải quyết việc cấp bách, sau đó thẩm vấn Chương Hạc Thư hay thậm chí là Hàn Lâm Viện, đợi điều tra xong toàn bộ, xem xét tình hình mà chiêu cáo thiên hạ, như vậy chẳng phải tốt hơn sao?”

Đúng lúc này, một Cấm vệ quân hớt hải chạy vào tâu, “Bẩm Quan gia, mạt tướng đã tìm được Đôn Tử, nhưng Đôn Tử công công đã… đã chết.”

Thanh Duy cảm thấy không đúng, nhất thời quên đi phép tắc, “Đôn Tử chết rồi? Chết thế nào?”

Cấm vệ quân giải thích, “Nhân sĩ bách tính bạo động, trong kinh có kẻ lợi dụng cơ hội gây án, quân lính chỉ có thể giữ trật tự ở ngoài chứ không tiến vào được bên trong, Đôn Tử công công… hình như gặp phải kẻ xấu, tiền bạc bị cướp sạch, quần áo xộc xệch, trên người trúng hai đao, tắc thở chết trong tuyết, còn về huyết thư…” Cấm vệ quân lấy ra một cuộn giấy mỏng từ trong tay áo, “Có lẽ là thứ này, mời Quan gia xem.”

Tiểu hoàng môn nhanh chóng dâng cuộn giấy lên ngự tiền, Triệu Sơ xem qua rồi đưa cho quần thần kiểm tra. Thượng thư bộ Hình giao cuộn giấy cho Đường chủ sự bên cạnh, cất bước tiến lên, “Quan gia, thần cũng tán thành với lời của Chiêu vương điện hạ, cho rằng cần phải điều tra rõ chân tướng trước, nhưng tình hình bây giờ… hầy!” Ông ta thở dài một hơi nặng nề, chần chừ một lúc rồi quyết định, “Nếu trong thành có kẻ xấu nhân cơ hội làm loạn, thì việc cấp bách bây giờ là dùng cách của Trương đại nhân, đầu tiên giải tán bớt bách tính tụ tập ngoài kia, thần xin dùng cấp hàm của Thượng thư bộ Hình ra bảo đảm, đợi hết hôm nay, thần nhất định dốc hết sức hỗ trợ Chiêu vương điều tra chân tướng.”

Cấm vệ quân lúc nãy lên tiếng: “Bẩm Quan gia, lúc mạt tướng vào cung thì phát hiện có bách tính không chịu nổi lạnh, đã hôn mê bất tỉnh ngay trước cửa cung. Nhưng đám đông ngoài kia vẫn không có ý định di tản, trái lại càng căm phẫn hơn.”

Đại Lý Tự khanh sải bước đi lên, sóng vai với Thượng thư bộ Hình, “Quan gia, thật ra thần cũng tán thành ý của Chiêu vương đại nhân, cho rằng chân tướng cần được làm rõ, nhưng… việc giải tán dân chúng là điều khẩn cấp, nay xem ra chỉ có thể tạm dùng cách của Trương đại nhân, đầu tiên thuyết phục dân chúng rời đi, thần sẵn sàng dùng thanh danh làm quan nửa đời để bảo đảm, chỉ cần qua được ải trước mắt, thần nhất định không ngủ không nghỉ, sẽ cùng các vị đồng liêu tìm ra sự thật.”

“Bẩm Quan gia không được!” Thanh Duy cuống lên: “Có thể dân nữ không cân nhắc thiệt hơn bằng các vị đại thần ở đây, nhưng dân nữ là bách tính thứ thiệt, hiểu rõ nhất ý dân. Tuy cách của Trương Nhị công tử có thể thuyết phục được hơn nửa đám đông tụ tập ngoài kia, nhưng chắc chắn vào lúc này ở trước cửa cung, vẫn sẽ có người chờ đợi chân tướng thật sự giống dân nữ.”

Nàng nghe nói sau khi vụ án Hà thị khép lại, Phù Đông và Mai Nương đã hoàn lương, mở một quán rượu nhỏ ngoài ngoại ô kinh thành; nàng nghe nói sau khi ông cháu họ Cát và Tú nhi cô nương lên kinh làm chứng xong, bọn họ vẫn chưa về mà đang ở lại kinh thành.

Những gì nàng nghe được chỉ lác đác vài người, nhưng đâu đó ngoài kia vẫn còn rất nhiều người như thế nữa.

“Một khi dân chúng đã đánh mất niềm tin vào triều đình thì rất khó lấy lại. Dù sau này có tìm ra sự thật bố cáo thiên hạ, triều đình cũng không bao giờ xóa bỏ được sự thất vọng trong lòng họ.”

“Trẫm cho rằng…” Triệu Sơ cân nhắc một hồi, đoạn từ tốn lên tiếng, “Chiêu vương nói có lí, tìm ra chân tướng, trả lại chân tướng mới là con đường đúng đắn. Những biện pháp khác chỉ mang tính chiếu lệ.”

“Nhưng Quan gia!”

Vị đại nhân họ Từ đang muốn biện giải, Triệu Sơ đã giơ tay ngắt lời:

“Tiển Khâm Đài đã gây ra vết thương cho quá nhiều người, bọn họ không thể chịu thêm sự thất vọng nào khác nữa.

Tuy trẫm là quân vương, nhưng trong vùng xoáy này, trẫm cũng giống Chiêu vương, Ôn thị và những người Ôn thị đã nhắc đến, là những người đang chờ đợi chân tướng sự thật.

Truyền khẩu dụ của trẫm, cử ba đội cấm vệ quân ở Điện Tiền Ti mở đường, nhất định phải áp giải Chương Hạc Thư đến đây, lâu đến mấy trẫm vẫn chờ, tới khi điều tra rõ mới thôi.”

Điện Tiền Ti đang tìm kiếm Đôn Tử khắp ngõ ngách, thế mà tận chiều tối mới quay về, có thể tưởng tượng khu vực phụ cận thành Tử Tiêu đông đến mức nào, dù có cử ba đội đi mở đường thì e rằng phải đến sáng mai mới đưa được Chương Hạc Thư về.

Nhưng vị hoàng đế trẻ tuổi trầm lặng này rất ít khi mở miệng, còn một khi đã lên tiếng, mỗi lời thốt ra đều nặng nghìn vàng.

Gia Ninh đế đã quyết, chư thần có khuyên cũng vô dụng.

Đại điện Tuyên Thất lần nữa trở nên yên tĩnh, chỉ còn tiếng gió thuyết rít gào ngoài kia, hoàng hôn mênh mông trải dài trước điện, cũng một màu trắng xóa tựa tuyết. ngoài điện hẵng còn sáng, nắng chiều xuyên tầng mây thắp lên một ngọn đèn vàng mờ ảo trên trời. Nội thị gác ngoài đại điện mới sực nhận ra đã đến giờ thắp đèn. Hắn cầm một ngọn nến dài, cùng vài nội thị nối đuôi đi vào, lặng lẽ thắp sáng đèn trong điện. Đại điện lặng đến nỗi có thể nghe thấy tiếng kim rơi, một nội thị không kìm được tò mò lặng lẽ ngẩng đầu lên nhìn, có người sốt ruột ra mặt, có người rất bình tĩnh thong dong, hắn nữ cô nhi đó mím chặt cánh môi, một mực nhìn ra ngoài cung, cũng nhìn thấy hoàng hôn trong đôi mắt trong veo của Tiêu Chiêu Vương, thấy gió tuyết ngập trong mắt Quan gia, còn gió xuân liễu rủ trong mắt Trương Nhị công tử lại biến mất, chìm xuống vực sâu.

Dường như bọn họ đang chờ đợi điều gì đấy.

Nhưng rốt cuộc là gì mà khiến những người này phải chờ đợi?

Nội thị không hiểu.

Không biết đã bao lâu trôi qua, bên ngoài đại điện truyền đến tiếng bước chân gấp gáp, mọi người cùng nhau nhìn ra ngoài, thấy tiểu hoàng môn truyền lời quỳ xuống trước cửa, Đường chủ sự sốt ruột hỏi: “Có phải Chương đại nhân đến không?”

“Không, không phải ạ…” Tiểu hoàng môn chạy gấp thở không ra hơi, lấy lại bình tĩnh mới tâu, “Bẩm Quan gia, là…là lão thái phó vào cung.”

Trương Viễn Tụ chấn động nhìn gã nội thị.

Triệu Sơ cũng ngạc nhiên, đi vòng ra từ sau long án, “Có đúng là lão thái phó không?”

“Vâng ạ. Lão thái phó tự vào cung. Nghe nói sáng sớm nay lão thái phó đã quyết định yết kiến, nhưng do tắc đường xe ngựa không đi được, thái phó buộc phải đi vòng tới cửa bắc.”

Sức khỏe của lão thái phó không tốt, lại còn rất sợ lạnh, nghe bảo ông vừa về kinh là đổ bệnh, hai hôm trước thái y còn đến khám, nói tuy lão thái phó chỉ ở trong nhà chính nhưng các phòng khác cũng đặt than liên tục, người trong phủ sợ nếu thái phó bị lạnh thì bệnh tình càng nặng thêm.

Triệu Sơ nói: “Nhanh tuyên gặp.”

Ánh đèn chiếu nghiêng, một lão giả tóc hạc da gà, quấn áo lông cừu chống gậy bước vào điện, ông chậm rãi đặt gậy gỗ xuống, đầu gối chạm đất hành đại lễ, “Quan gia, thần xin bái kiến Quan gia.”

Lão thái phó là người thầy xuất chúng, học trò khắp thiên hạ, ông mở học phủ từ thời Hàm Hòa, đến đầu năm Chiêu Hóa, gần một nửa văn sĩ trong triều đều là học trò của ông, thậm chí Chiêu Hóa đế cũng từng được ông chỉ dạy.

Dù Triệu Sơ là quân nhưng đương nhiên không thể nhận đại lễ của ông, chàng vội xuống bệ đài, đích thân dìu dậy, “Sao thái phó lại hành đại lễ? Mau đứng lên đi!”

“Quan gia,” Lão thái phó né đi không cho chàng đỡ, kiên quyết dập đầu, “Quan gia, thần đến để nhận tội.”

Triệu Sơ sửng sốt, nhưng rồi nhanh chóng nghĩ đến điều gì đó, ánh mắt lập tức khôi phục bình tĩnh: “Thái phó nói đùa. Thái phó… có tội gì?”

“Không, thần có tội, tội của thần đáng chết muôn lần…”

Lão thái phó đã già, lời nghẹn ngào như gió thì thầm, “Triều đại Chiêu Hóa, tiên đế từng xử lí một nhóm sĩ tử bênh vực Cật Bắc, Chương Hạc Thư đã nhờ Khúc Bất Duy âm thầm cứu họ. Các sĩ tử ấy… thật ra chính là do lão thần nhờ Chương Hạc Thư cứu.”

***

“… Sau năm Chiêu Hóa thứ bảy, sức khỏe của lão thần ngày càng yếu đi, số lượng học trò thu nhận rất ít. Nhưng sau mùa thu năm Chiêu Hóa thứ mười một, quả nhiên có một vài hạt giống tốt ở kì thi Hội, và có một người lão thần rất quý, mẹ của cậu ta là người Cật Bắc… Đúng lúc ấy tiên đế quyết định xây dựng đền Tiển Khâm, trong kinh có rất nhiều sĩ tử phản đối, mà người phản đối kịch liệt nhất lại chính là cậu học trò lão thần xem trọng và những người bạn của cậu ta, cậu ta nói triều đình có lỗi với Cật Bắc, thậm chí mẹ cậu ta đã mất trong chiến tranh, bây giờ thay vì chi sức tiền sức của xây dựng một ngôi đền, chi bằng bỏ tiền cứu trợ Cật Bắc…

Người tuổi trẻ mà, không thể tránh khỏi hành động bồng bột, có đôi khi trong lòng nghĩ một chuyện, lời nói ra lúc đang phẫn nộ lại là chuyện khác, chỉ vài câu nói vô tâm lại bị kẻ cố tình nghe thấy, biến thành bằng chứng mạo phạm triều đình, chỉ trích sĩ tử nhảy sông, cộng thêm việc bọn họ còn có mâu thuẫn với nha môn, đả thương quan sai, tiên đế mới trừng phạt cảnh cáo.

Xử lưu đày thực sự quá nặng, lão thần cầu xin tiên đế khai ân mấy lần, nhưng tiên đế cũng chỉ đổi lưu đày mười năm thành bảy năm. Dù ít năm đi thì cũng ích lợi gì? Bọn họ là nhân sĩ cơ mà, một nhân sĩ bị lưu đày, gánh tội danh xúc phạm triều đình, coi như cả đời không thể làm quan, thậm chí cũng không ai thuê dạy học. Bao năm đèn sách coi như đổ sông đổ bể, lão thần một đời làm thầy dạy học, không đành lòng nhìn chuyện như thế xảy ra. Vào lúc lão thần lo lắng không biết giải quyết thế nào, Chương Hạc Thư đã đến tìm lão thần…”

***

“… Thái phó đại nhân có muốn cứu các sĩ tử bị lưu đày không?” Chương Hạc Thư bước vào cửa phủ thái phó, thấy thị tì vừa lui, liền đi thẳng vào vấn đề: “Theo hạ quan thấy không thể tìm cách công khai rồi, nhưng vẫn còn đường tắt để đi đấy.”

Lão thái phó biết lời Chương Hạc Thư nói có lẽ là biện pháp duy nhất lúc này, ông chần chừ hồi lâu, cuối cùng hỏi: “Dám hỏi Nguyên Khải, đường tắt ấy đi kiểu gì đây?”

“Chuyện này không khó, chỉ cần tìm biện pháp tráo đổi sĩ tử trên đường áp tải, sau đó tìm cách thay tên đổi họ cho bọn họ là xong.”

“Nếu thay tên đổi họ, chẳng phải bọn họ không thể tham dự kì thi khảo hạch vào mùa xuân năm sau sao?”

Chương Hạc Thư cười nói: “Dù gì cũng là người có tội, nên sống lặng lẽ chút. Hơn nữa Quan gia cũng không xử oan bọn họ… Nhưng thái phó đại nhân không cần thấy tiếc, tuy không thể làm quan nhưng vẫn có làm thư lại chẳng hạn, hoặc là mở trường dạy giống thái phó đại nhân đây, truyền dạy thi thư, cũng coi như không phụ bao năm đèn sách, chẳng phải điều thái phó đại nhân tiếc nuối nhất chính là tài học của bọn họ sao?”

***

Lão thái phó nói: “Lão thần biết Chương Hạc Thư đến là có chuyện muốn nhờ vả, lão thần hỏi hắn muốn gì, Chương Hạc Thư nói, hắn nghe bảo sau khi xây xong đền Tiển Khâm, tiên đế sẽ đích thân đến nơi cúng bái, triều đình sẽ chọn con cháu thế tộc đi theo, hắn cảm thấy lão thần có thể khuyên được tiên đế, nên hắn muốn tự chọn vài người học trò, nhờ lão thần nhắc tên của họ với tiên đế.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Thái phó đại nhân, Chương Hạc Thư có đề cập đến lý do tại sao ông ta làm điều này không?”

“Có.” Lão thái phó gật đầu, “Hắn nói tuy mình xuất thân trong thế gia đại tộc, nhưng tuổi thơ của hắn rất cơ cực, thậm chí còn bị người trong tộc đẩy đi gánh tội thay người trong dòng chính, trải qua một phen lận đận mới đi được đến hôm nay, hắn đã hạ quyết tâm, rồi sẽ có ngày học trò nhà nghèo cũng ngang bằng với nhà quý tộc, sẽ có thể tự phát biểu bằng vào bản lĩnh của cá nhân. Những sĩ tử hắn chọn đều là người dòng thứ ở các gia đình quý tộc, có tài và cũng được ăn học đàng hoàng, hắn không mong bọn họ đi vào vết xe đổ như mình ngày trước, mà sẽ xuôi chèo mát mái gió hơn, muốn mở con đường dẫn đến mây xanh cho họ.”
 
Chương 205


“Với lão thần mà nói, dù chọn ai đến đền Tiển Khâm cúng tế cũng không ảnh hưởng tới đại cục, trọng điểm không phải là ‘theo ngự giá’ mà là ở ‘Tiển Khâm’, huống hồ Chương Hạc Thư cũng có ý giúp đỡ người khác, chỉ là chuyện nhỏ, nên lão thần đã đồng ý.” Lão thái phó nói.

“Không lâu sau khi xây dựng đền Tiển Khâm, tiên đế đổ bệnh. Thái y nói tiên đế vất vả quá độ, khó đi nổi đường xa, nên dù đền Tiển Khâm đã xây xong thì tiên đế cũng không thể lên đường. Vậy là ngài ấy quyết định đổi đền thành đài, đến năm sau tuyển chọn sĩ tử lên đài.

Đổi đền thành đài, sĩ tử cúng tế không còn giới hạn ở phạm vi con em thế tộc nữa, đối với Chương Hạc Thư thì đấy là chuyện tốt, lão thần cũng dựa theo cam kết lúc đầu, cho hắn danh ngạch lên Tiển Khâm Đài.”

Nói đến đây, lão thái phó thở dài: “Lão thần sống ở sơn trang Khánh Minh quá lâu, tháng trước mới biết tin Chiêu vương điện hạ phá được vụ án Khúc Bất Duy mua bán danh ngạch, triều đình nể mặt lão thần nên chưa cho truyền thẩm, nhưng lão thần không thể vì thế mà im lặng được, lão thần xin thú nhận với Quan gia, danh sách lên đài bị bán đi chính là từ tay lão thần mà ra.

Nếu Quan gia muốn trị tội hay lấy mạng lão thần, thậm chí bố cáo thiên hạ về tội danh của lão thần, lão thần cam tâm nhận hết. Lão thần chỉ có một thỉnh cầu, đấy là… Vong Trần…”

Đôi mắt đục ngầu của lão thái phó nhắm lại, giọng ồm ồm, “Có lẽ Vong Trần đã đi hơi xa, nhưng cậu ấy chỉ là một đứa trẻ đáng thương, chưa từng làm điều ác, cái chết của cha anh đã cắm rễ quá sâu trong lòng, khiến cậu ấy không cách nào buông bỏ. Lão thần khẩn cầu Quan gia, nếu muốn phạt thì hãy chỉ phạt một mình lão thần, đừng phạt lây cậu ấy, đừng xóa bỏ đường lui của cậu ấy…”

Triệu Sơ không trả lời thẳng, “Nhưng theo như trẫm nghe được thì việc Khúc Bất Duy buôn bán suất lên đài không liên quan tới thái phó, thái phó bị bọn họ che mắt lừa gạt.”

“Không, Quan gia, lão thần không vô tội đâu, thực ra lão thần biết hết, thậm chí… thậm chí Tiển Khâm Đài sập, cũng có liên quan tới lão thần.”

Lời vừa dứt, điện Tuyên Thất lặng một cách lạ kỳ.

Nhưng không ai có vẻ ngạc nhiên.

Quả thật những lời lão thái phó nói đã nằm ngoài dự liệu của mọi người, như mây tích lâu ngày, gió tuyết rồi sẽ kéo tới, nhân quả chất chồng đến hôm nay, chân tướng đập xuống tạo ra âm vang.

“Chương Hạc Thư nhanh chóng soạn xong danh sách sĩ tử, xin lão thần trình lên tiên đế. Nhưng lão thần còn chưa vào cung thì đã được tiên đế triệu kiến, tiên đế nói, ngài muốn chọn ba mươi người trên bảng hạnh lên đài.

Tiển Khâm Đài là từ đền đổi thành đài, sau khi cải tạo đã có bản thiết kế, kiến ​​trúc đơn giản, dựa theo nghi lễ thờ cúng thì không thể chứa quá nhiều người. Ba mươi người trên bảng hạnh, cộng thêm danh sách Chương Hạc Thư đưa cho lão thần thì số người đã vượt quá dự định. Vì vậy lão thần lại đến tìm Chương Hạc Thư…”

***

Chương Hạc Thư nghĩ ngợi, “Thực ra chuyện này cũng dễ giải quyết, nếu vấn đề nằm ở đài thì chỉ cần xây lại là được.”

***

“Hắn nhanh chóng tìm thợ làm một bản thiết kế mới, sau khi trùng tu, đài cao ba tầng chạm mây, dù cử hành nghi thức cúng bái cao nhất thì cũng có thể chứa được hơn ba trăm người. Lão thần đã trình bản thiết kế mới lên cho tiên đế, tuy tiên đế đồng ý nhưng lại nói, đài hùng vĩ thế này, chỉ sợ thợ bình thường không xây nổi, ngài mới giao nhiệm vụ quan trọng nhất lúc ấy cho Tiểu Chiêu vương, sau đó Tiểu Chiêu vương đã đến núi Thần Dương, mời kiến trúc sư Ôn Thiên rời núi.

Tiển Khâm Đài lúc bấy giờ đã bắt đầu được dựng theo bản thiết  kế mới, nhưng khi Ôn Thiên đến núi Bách Dương, sau khi kiểm tra địa hình xung quanh, nói nếu xây đài trong núi thì không được cao hơn đỉnh núi, bằng không sẽ dễ bị gió lớn thổi quét, còn nói mùa hè ở núi Bách Dương mưa nhiều, chân tháp yếu nên khó xây được đài cao chót vót, thế là lại đổi bản thiết kế của Tiển Khâm Đài lần nữa, nhưng ông ấy vẫn dựa theo yêu cầu của triều đình, đảm bảo có thể chịu tải ít nhất một trăm sáu mươi người cùng lúc.”

Nghe đến đây, Thanh Duy sực nhớ đến chiếc hộp gỗ mà Tiết Trường Hưng từng giao cho nàng, bên trong có bốn bản thiết kế, ngoại trừ một bản của đền Tiển Khâm, ba bản về sau đều là bản sửa chữa.

Khi Thanh Duy gặp lại Tiết Trường Hưng lần nữa, nàng từng hỏi ông bản thiết kế ấy có gì khác thường.

Nhưng Tiết Trường Hưng lắc đầu, nói không có gì khác thường cả, chẳng qua ông làm thợ mộc đã lâu, cảm thấy một tòa tháp không nhất thiết phải sửa đổi nhiều lần đến thế.

Đại Chu không có nhiều người giỏi nghề xây dựng, hơn nữa gần như cung vũ đại điện đều được xây ở nơi khuất gió, địa hình bằng phẳng, rất hiếm khi xây dựng đài cao trên núi như thế này. Mà vợ lẫn em rể của Ôn Thiên đều là người Nhạc thị Bách Dương, cho nên Ôn Thiên hiểu rất rõ về địa hình và khí hậu núi Bách Dương, vì thế, cho dù những người thợ khác không nhận thấy điểm bất hợp lí thì ông vẫn có thể nhìn ra thông qua bản vẽ.

Thanh Duy hỏi: “Thái phó đại nhân, Tiển Khâm Đài sập là vì bị sửa đổi quá nhiều lần?”

Nhưng lão thái phó lắc đầu, ông ôn tồn nói với Thanh Duy, “Tiểu cô nương à, suy cho cùng Tiển Khâm Đài cũng được xây theo bản thiết kế của cha cô, một kiến trúc sư như cha cô làm sao có thể phạm lỗi được?”

Nói đoạn, ông cười khổ, “Nếu vấn đề thật sự nằm ở bản vẽ thì đã tốt…”

“Ôn Thiên đến núi Bách Dương, Tiển Khâm Đài bắt đầu được xây dựng. Mùa xuân năm Chiêu Hóa thứ mười ba, lão thần cũng thống nhất danh sách sĩ tử địa phương với với danh sách của Chương Hạc Thư, dâng lên ngự tiền. Vì phân nửa sĩ tử lên đài xuất thân hàn môn, kiểu gì trên triều cũng có thế gia bất mãn. Chính vì lí do đó, vào thời gian ấy, lão thần liên tục bị các quan viên thế tộc tham tấu công kích. Cũng may tiên đế luôn tin tưởng lão thần, văn sĩ Hàn Lâm cũng ủng hộ lão thần, lại có Chương Hạc Thư bí mật hòa giải nên tình hình mới nhanh chóng lắng xuống, nhưng lão thần vẫn không tránh khỏi bệnh tật.

Người già rồi thì dễ bị bệnh, thái y luôn dặn cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, nhưng đến tháng năm năm ấy, xảy ra một sự cố…”

Lúc này, Trương Viễn Tụ khàn giọng hỏi: “Có phải… là ca ca hồi kinh?”

Đó là lần cuối Trương Viễn Tụ gặp mặt Trương Chính Thanh, cho nên y vẫn nhớ rất rõ.

Vốn dĩ Trương Chính Thanh cũng giống Tiểu Chiêu vương, ở núi Bách Dương giám sát việc xây dựng, nhưng khi nghe tin lão thái phó đổ bệnh thì ngày đêm vội vã chạy về kinh. Thế mà vào ngày thứ hai sau khi hồi kinh, hắn và lão thái phó lại cãi nhau to.

“Thằng bé Ức Khâm rất biết tôn sư trọng đạo, luôn tôn kính lão thần, Vong Trần không hiểu vì sao huynh trưởng nó lại cãi nhau với lão thần, lão thần mới nói với nó là Ức Khâm giận ta không biết chăm sóc thân thể, nhưng thật ra không phải, Ức Khâm nó… thấy được một bức thư trong tủ của lão thần.”

“Bức thư này, là của Chương Hạc Thư viết gửi lão thần, lão thần vẫn chưa kịp đốt…”

***

Trương Chính Thanh cầm lá thư, hằm hằm đi vào phòng chính, hắn kìm nén lửa giận, nói với Trương Viễn Tụ đang hầu hạ trước giường, “Tụ đệ, đệ ra ngoài đi, huynh có chuyện muốn nói riêng với thầy.”

Trương Viễn Tụ không chút nghi ngờ, đặt chén thuốc xuống bàn rồi khép cửa lại.

Trương Chính Thanh lập tức ném bức thư xuống đất, “Đây là thứ gì? Thầy thật sự lấy danh sách sĩ tử cúng tế để mà giao dịch?!”

***

“… Ức Khâm chỉ trích đúng lắm, cho dù là vì cứu giúp sĩ tử lưu đày đi chăng nữa thì đó cũng là tư tâm của lão thần, làm sao có thể đem ra giao dịch? Ức Khâm biết được chuyện này, không chỉ thất vọng mà còn rất buồn bã tức giận. Nó nói, tà áo trắng tinh làm sao có thể nhiễm bẩn? Nó còn nói, người xưa đã qua đời…”

“Người xưa đã qua đời, hoài bão của tiền nhân được hậu nhân kế thừa.” Trương Viễn Tụ nhắm mắt, chậm rãi thì thầm.

Đó là những lời cuối cùng mà huynh trưởng nói với y trước khi rời kinh, lời dặn dò mang theo ý quyết tuyệt. Đến nỗi sau khi huynh trưởng đã ra đi, trong bao đêm mất ngủ, những lời này vẫn văng vẳng bên tai y cho đến khi khắc sâu trong tâm trí.

“Người xưa đã qua đời, hoài bão của tiền nhân được hậu nhân kế thừa, Tụ đệ, đệ phải ghi nhớ, Tiển Khâm không lấm bẩn, chí nguyện mãi không đổi. Tiển Khâm Đài sạch sẽ, được xây vì các sĩ tử nhảy sông, không được phép lấm bẩn.”



Lão thái phó nói tiếp: “Ức Khâm ở nhà hai ngày rồi quay về Lăng Xuyên. Lần này nó đi đường rất chậm, đợi khi đến núi Bách Dương thì đã sắp qua tháng bảy…”

***

Từ cuối xuân, mưa bắt đầu rơi trên núi Bách Dương, Ôn Thiên sợ hệ thống thoát nước xảy ra vấn đề, nhiều lần yêu cầu dừng công việc giữa chừng, nhưng sợ trễ kỳ hạn công trình nên cuối cùng chỉ dặn các thợ nhanh chóng đào mương thoát nước.

Vào khoảng tháng bảy, núi Bách Dương có mưa lớn nhiều ngày liên tiếp, Ôn Thiên càng lúc càng lo lắng.

Trên thực tế, vị trí của Tiển Khâm Đài rất không thuận lợi, được xây dựng trên sườn núi, đón gió ngay chính diện, để tránh xảy ra tai nạn trong quá trình xây dựng, Ôn Thiên đã cho người đóng một chiếc cọc gỗ khổng lồ để đỡ đài, nói rằng bao giờ dần hoàn thành công trình thì sẽ tháo dỡ cọc gỗ này.

Đầu tháng bảy, Tiển Khâm Đài sắp sửa hoàn công, nhưng Ôn Thiên thấy mưa lớn xối xả, quyết định chờ đến sáng mồng chín tháng bảy sẽ tháo cọc gỗ, sau đó dặn thợ mộc đào mương thoát nước ngày đêm không nghỉ.

***

“Đáng tiếc mùa hè năm đó mưa không ngớt, đến ngày mồng sáu tháng bảy, mưa càng lúc càng lớn, lúc bấy giờ tất cả thư sinh lên đài đều đã đến Sùng Dương, Chiêu vương điện hạ bận rộn sắp xếp nghi lễ trên đài nên phải xuống núi hai ngày, trong nú Bách Dương chỉ có Ức Khâm ngày đêm đi theo Ôn Thiên. Trong hai ngày đó, Ôn Thiên gần như chỉ bù đầu vào một chuyện, đó là kiểm tra tình trạng thoát nước của kênh mương…”

“Thái phó đại nhân.” Đúng lúc này, Đường chủ sự ở bộ Hình ngắt lời hỏi, “Thứ cho hạ quan nói thẳng, vì sao ngài biết rõ chuyện về Tiển Khâm Đài như thế?”

Đúng vậy, Tiểu Chiêu vương không ở trong núi, Ôn Thiên và Trương Chính Thanh cũng đã qua đời, những người thợ đào kênh mương tuy không bị trừng phạt nhưng cũng không tiếp xúc với lão thái phó, làm sao lão thái phó biết được những chuyện này?

Song, ông chỉ cười khổ bảo, “… Cứ nghe lão phu kể hết đã.”

***

Mồng tám tháng bảy, mưa lớn trên núi Bách Dương chẳng dừng, Trương Chính Thanh thấy Ôn Thiên rầu rĩ thì hỏi: “Giám sát Ôn, có phải có chuyện không ổn không?”

Ôn Thiên chần chừ, cuối cùng vẫn tâm sự, “Chỉ sợ phải dời ngày lên đài cúng tế rồi.”

“Dời ngày?” Trương Chính Thanh nghe thế thì sửng sốt, nhưng trong mắt chẳng có lấy một mối lo, “Dám hỏi giám sát, vì sao cần phải dời ngày? Có phải do trận mưa này không?”

Ôn Thiên gật đầu: “Mưa kéo dài, thoát lũ khó quá, nếu không khơi thông thì kênh mương sẽ bị bồi lắng, phù sa quá dày, nước mưa thoát không kịp, rất dễ chảy ngược về đài. Dù hôm nay đã xây xong thì sau này vẫn cần phải củng cố nhiều lần, không thì đài sập mất, thế thì chi bằng dời ngày sĩ tử lên đài, đợi mưa tạnh rồi tính tiếp.”

“Việc này…” Trương Chính Thanh hỏi, “Có cần xin phép Chiêu vương điện hạ không?”

Ôn Thiên gật đầu, “Cậu xuống núi báo cho điện hạ biết một tiếng, đợi ta kiểm tra xong kênh mương rồi quyết định tiếp vẫn chưa muộn.”

***

Lão thái phó nhìn Tạ Dung Dữ: “Ngày hôm đó điện hạ không hề gặp Ức Khâm ở dưới núi đúng không?”

Tạ Dung Dữ im lặng không đáp.

Ngày mồng tám tháng bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, đúng là y không hề gặp Trương Chính Thanh, đến tận đêm khuya y đội mưa về núi, thậm chí cũng không thấy Ôn Thiên đâu.

Không một ai báo cho y biết cần phải dời ngày lên đài.

“Bởi vì… Ức Khâm cho rằng, điện hạ ngài sẽ không đồng ý.” Lão thái phó nói.

Tiểu Chiêu vương là vương cơ mà, y gần như là người cao quý nhất ở thế hệ bọn họ, tới mức tiên đế dạy dỗ y còn nghiêm hơn cả Gia Ninh đế, huống hồ bấy giờ y vẫn còn nhỏ tuổi, trải đời chưa nhiều, mà lên đài cúng tế là ngày quan trọng, nên cho rằng y không dời ngày cũng là điều hợp lý.

Quan trọng hơn hết, trong lòng Trương Chính Thanh lúc ấy có một bí mật không muốn ai biết…

***

Trương Chính Thanh không đi tìm Tạ Dung Dữ, y ngồi trên một tảng đá bên đường, mưa như trút nước từ trên trời rơi xuống, ý tưởng điên rồ trong lòng ngày một lớn dần, hòa vào màn mưa.

Danh sách sĩ tử lên đài bị lão thái phó dùng để giao dịch.

Các sĩ tử bước lên đài không chỉ để tưởng nhớ sĩ tử nhảy sông Thương Lãng nữa rồi.

Tiển Khâm Đài đã không còn sạch sẽ.

Nếu đã vậy, bọn họ có tư cách gì bước lên đài vào ngày mồng chín tháng bảy?

Mồng chín tháng bảy là ngày giỗ phụ thân hắn cùng bậc tiên liệt nhảy sông.

Trương Chính Thanh nghĩ, nếu có thể dời ba ngày, không, dù chỉ dời một ngày, chỉ cần dời khỏi ngày mồng chín tháng bảy rồi để sĩ tử lên đài tế lễ, thì vạt áo trắng được nước sông Thương Lãng gột rửa sẽ không lấm bẩn.

Trương Chính Thanh sợ rằng nếu Tiểu Chiêu vương biết cần dời ngày lên đài, không những không phê duyệt mà sẽ cùng Ôn Thiên tìm cách giải quyết, thậm chí tìm thấy một điểm kênh mới, cử thêm nhân lực để đào kênh, nên hắn mới không xuống núi tìm Tạ Dung Dữ.

Hắn nhất định phải tìm biện pháp làm cho mọi thứ trở nên cấp bách, để ngày lên đài nhất định phải hoãn lại, để Tiểu Chiêu vương không có thời gian nghĩ cách đối phó.

Trương Chính Thanh đi vòng đến một điểm thoát nước ở phía sau núi, nói với các công nhân đang đào kênh, “Chư vị vất vả rồi, quay về nghỉ ngơi thôi.”

Trong màn mưa, đội trưởng công nhân xoay mặt sang hỏi: “Giám sát Ôn bảo thế à?”

Trương Chính Thanh chỉ cười không đáp, “Sáng mai sĩ tử lên đài rồi, đào kênh mương cũng đâu thể xong ngay trong đêm nay, chư vị về đi, kẻo sáng mai đại quan triều đình và các sĩ tử lên núi, tưởng rằng Tiển Khâm Đài vẫn còn chưa xây xong.”

Các công nhân không lấy làm nghi ngờ, nhanh chóng thu dọn đồ đạc ra về.

Vào nửa đêm khi rất nhiều người đã chìm trong giấc ngủ, Trương Chính Thanh một mình cầm ô đứng dưới mưa, dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn gió, hắn nhìn nước kênh chảy xuôi như dòng sông nhỏ trước mặt, phù sa nhanh chóng tích tụ dưới đáy kênh, dòng nước bị chặn, từ từ hóa thành bãi nước đọng.

Trương Chính Thanh nghĩ, nếu như vậy, hẳn là ngày lên đài có thể sẽ được dời lại.

Giờ Tý đêm hôm ấy, Ôn Thiên không chờ Tạ Dung Dữ kịp, tự mình kiểm tra các kênh mương trong núi, khi đến lưng núi, ông thất sắc khi thấy vũng nước tích tụ và phù sa chắn ngang dòng nước.

Ôn Thiên cuống lên, lập tức đi tìm Huyền Ưng vệ ở gần đấy, yêu cầu hoãn ngày lên đài, kiểm tra tất cả các con kênh xem có tình trạng nước chảy ngược về tòa tháp hay không.

***

“Tiếc thay,” Lão thái phó bật cười, “Huyền Ưng vệ mà Ôn Thiên tìm lại là Đô Điểm Kiểm của Huyền Ưng Ti.”

Khi ấy triều thần sĩ tử đã tề tựu tại huyện Sùng Hương, lão Chỉ huy sứ của Huyền Ưng Ti và Tiểu Chiêu vương xuống núi, việc tuần tra trong núi giao lại cho Đô Điểm Kiểm.

Đô Điểm Kiểm cũng làm hết bổn phận, chỉ có một điểm không ổn, hắn chính là tai mắt liên lạc của Khúc Bất Duy và Chương Hạc Thư ở Lăng Xuyên.

Sĩ tử lên đài mang ý nghĩa to lớn, đối với Ôn Thiên, cúng tế sớm hay muộn một ngày không có gì khác nhau, nhưng đối với các sĩ tử mà nói lại cách biệt một trời một vực, khó khăn lắm mới được tuyển chọn, lên đài vào ngày giỗ mồng chín tháng bảy ắt sẽ nở mày nở mặt, nhưng nếu đẩy sang mồng mười, tất sẽ bị người ta đem ra bàn tán, xuất thân cũng không “chính thống”.

Mà đối với các sĩ tử muốn bước lên trời mà nói, quan trọng nhất chính là “xuất thân” này.

Đô Điểm Kiểm biết được sự khác biệt ấy, do đó khi biết Ôn Thiên muốn dời ngày cúng tế, hắn chỉ hỏi một câu, “Nếu đợi đến sáng lên đài thì liệu đài có sập không?”

“Cũng chưa chắc, nhưng nếu nền móng yếu, cho dù xây xong thì sau này cũng cần gia cố lại, xin Điểm Kiểm đại nhân mau chóng tăng cường nhân lực đào mương, cũng báo cho Chiêu…”

Nhưng chưa đợi Ôn Thiên nói hết, Đô Điểm Kiểm đã đưa mắt nhìn ra sau, hai Huyền Ưng vệ lập tức bước tới kéo Ôn Thiên đi.

Đô Điểm Kiểm giam lỏng Ôn Thiên sau núi, nói rằng đợi xong lễ tế trên đài thì sẽ thả ông ra.

Song, đêm hôm ấy đã được định trước sẽ không yên bình, lại có một thư sinh khác lên núi, nói rằng muốn gặp Ôn Thiên và Tiểu Chiêu vương.

Thư sinh này chính là Từ Thuật Bạch, người về sau đã chết trên đường lên kinh.

Đô Điểm Kiểm lấy cớ qua loa: “Giám sát Ôn và điện hạ đang kiểm tra kênh mương, nếu có việc thì ngươi cứ viết thư đi, đợi giám sát Ôn về, ta nhất định sẽ thay mặt chuyển giao.”

Lúc đó lão chưởng sứ bộ Chuẩn và các Hiệu úy của Huyền Ưng Ti đều có mặt, bao gồm Vệ Quyết và Chương Lộc Chi, nhận được thư cũng không mở ra xem mà gọi một thân tín tới, để người này giao thư cho Ôn Thiên.

Thật ra chính Đô Điểm Kiểm cũng không mong Tiển Khâm Đài gặp chuyện, nhưng hắn không dám để người khác biết mình đã giam lỏng Ôn Thiên, cho tới khi lão Chưởng sứ và các Hiệu úy rời đi, hắn mới vội vàng làm theo lời Ôn Thiên, dẫn người ra sau núi đào kênh mương.

***

Sáng sớm ngày mồng chín tháng bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, mưa to như thác đổ.

Trời vừa hửng sáng, Tạ Dung Dữ đã có mặt dưới Tiển Khâm Đài, đến giờ Dần y mới quay về núi, gần như mất ngủ cả đêm, nhưng y đứng đợi trong mưa đã lâu, sĩ tử lên đài cùng đông đảo quan viên đã tới mà vẫn chẳng thấy bóng dáng Ôn Thiên đâu.

“Không tìm thấy giám sát Ôn đâu, phải làm gì bây giờ?” Có người che ô đứng cạnh y hỏi.

Mưa quá lớn, đài cao như biến mất sau màn mưa, Tạ Dung Dữ ngước mắt nhìn Tiển Khâm Đài, “Cho người tiếp tục tìm kiếm, Tiển Khâm Đài do Ôn tiên sinh xây nên, không có ông ấy, lễ tế sẽ…”

Lễ tế sẽ tạm hoãn ư?

Tạ Dung Dữ dừng lại.

Không có đầy đủ lí do thì làm sao hoãn được buổi lễ trọng đại này đây?

Chỉ huy sứ của Huyền Ưng Ti nhận lệnh, điều động tất cả nhân lực có thể sử dụng để tìm kiếm Ôn Thiên, lão Chưởng sứ bộ Chuẩn dẫn Vệ Quyết cùng Chương Lộc Chi ra sau núi tìm.

Bấy giờ đã quá giờ Mão, sĩ tử lên đài được ấn định vào giờ Mão canh ba, trước đó còn cần tháo gỡ cây cột gỗ chống đài.

Đường núi phía sau hiểm trở, trong rừng rậm giữa tiếng mưa xối xả, cuối cùng lão Chưởng sứ cùng hội Vệ Quyết cũng nghe thấy tiếng kêu cứu của Ôn Thiên.

Ông bị giam trong một căn nhà hoang giữa rừng.

Đầu ngón tay ông bê bết máu, cả cánh tay bầm tím sưng vù, có vẻ như ông đã dùng sức muốn tự mình phá cửa.

Có một lá thư nằm dưới đất.

Chính là thư của Từ Thuật Bạch, trong thư nói những cây cột chính chống đỡ đền Tiển Khâm đã bị thúc phụ Từ Đồ của y tráo đổi, y không biết ai đã xúi giục thục phụ làm chuyện đó, nói với Ôn Thiên là bởi vì không biết những cây cột ấy có ảnh hưởng gì đến Tiển Khâm Đài không.

Từ Thuật Bạch không hiểu rõ chuyện xây dựng, càng không biết Tiển Khâm Đài được xây nên từ đền.

Sao có thể không ảnh hưởng được?

Những cây cột chính đó là giá đỡ căn bản của Tiển Khâm Đài.

Lúc lão Chưởng sứ và mấy người Vệ Quyết tìm được Ôn Thiên, thấy mặt ông tái mét không sắc máu, thậm chí ông còn không kịp giải thích, chỉ run run nói: “Không được lên, không được lên… sẽ sập mất….” Rồi lao vọt về núi Bách Dương.

Nhiều năm sau khi hồi tưởng lại, thật ra chẳng ai muốn Tiển Khâm Đài sập cả.

Mọi người đều cầu chúc cho nó, hi vọng nó có thể đứng sững trên núi Bách Dương, vĩnh trú thế gian.

Chẳng qua con người ai cũng có sự ích kỷ của riêng mình, rồi vì sự ích kỷ đó là bước thêm một bước, hoặc vài bước.

Để lập công và muốn kiếm bạc, Hà Hồng Vân đã tráo đổi cột gỗ xây đền Tiển Khâm.

Sau khi Chiêu Hóa đế biết mình không thể đến đền Tiển Khâm cúng tế, ngài đã đổi đền thành đài, dùng lễ tế trọng đại kỷ niệm chiến công của mình.

Lão thái phó mến mộ tài năng, để cứu sĩ tử bị lưu đày, ông đã dùng danh sách Tiển Khâm Đài giao dịch với Chương Hạc Thư.

Và để các sĩ tử mình nhắm trúng được lên đài, Chương Hạc Thư đã cùng lão thái phó nghĩ cách đổi bản vẽ.

Trương Chính Thanh hi vọng dời lễ tế lùi một ngày, muốn Tiển Khâm Đài được sạch sẽ, đuổi công nhân đào kênh quay về.

Còn Đô Điểm Kiểm, vì để lễ tế được diễn ra đúng kì hạn mà giam lỏng Ôn Thiên môt đêm.

Tiếc thay tất cả đều đã quên, Tiển Khâm Đài chỉ là Tiển Khâm Đài.

Ngày qua ngày, mưa lớn xối xả không ngớt như sự trừng phạt của trời cao vẫn không khiến mọi người nhận ra rằng, bên trên tòa tháp ấy chỉ có sương mù không tan, nào có mây xanh.

Nguyên liệu của đền Tiển Khâm bị tráo đổi, Chương Hạc Thư muốn sĩ tử nhà nghèo được lên đài mà sửa đổi bản vẽ, dù Ôn Thiên đã sửa lại lần nữa thì vẫn không phù hợp với trụ chống bên dưới. Cho dù vậy, Tiển Khâm Đài cũng không đến nỗi sẽ sập ngay tức khắc, nhưng mưa lớn mấy ngày liền khiến cọc gỗ cắm xuống đất mục nát, tuy Ôn Thiên đã cho người dốc sức đào kênh thoát nước, nhưng Trương Chính Thanh đã đuổi công nhân về để dời lễ tế; tuy sau khi Đô Điểm Kiểm giam giữ Ôn Thiên đã đích thân dẫn người đào mương, nhưng ông ta đã quên kiểm tra có nước chảy ngược về tòa tháp hay không.

Lũ kênh tụ dưới đất, con đường xuống núi bị phù sa chặn lại đã lặng lẽ chảy ngược về tòa tháp. Trụ chống lẽ ra còn lâu mới mục nát đã bị ngấm mưa mục ruỗng, lại còn bị hư hại do tòa tháp xây sai, lũ ngầm không thoát được đã trở thành tác động cuối cùng, khiến Tiển Khâm Đài biến thành bèo mất rễ, chỉ được chống đỡ bởi một cây cột gỗ sắp sửa bị tháo dỡ.

Gần đến giờ Mão canh ba, mưa vẫn không có dấu hiệu ngừng rơi.

Tạ Dung Dữ che ô đứng trong mưa, bên cạnh có người hỏi:

“Có cần tháo không?”

“Vẫn chưa tìm được Ôn Thiên, mong điện hạ ra lệnh, có cần tháo không?”

“Đã định là hôm nay rồi, không thể không tháo, tháo đi!”

Mưa ào ào trút xuống che khuất mọi thứ trước mặt y, thậm chí che lấp cả mặt trời. Tạ Dung Dữ không thấy được bên kia ngọn núi, vị kiến trúc sư đang lao về phía mình như điên, chạy về phía tòa tháp sắp sửa sập, dẫu cho ông không thể dùng máu thịt cơ thể để ngăn đài cao nghiêng ngả.

Cơn mưa nặng hạt át hết mọi âm thanh.

Tạ Dung Dữ ngẩng đầu lên, trong mưa, y hoàn toàn không thấy được Tiển Khâm Đài.

Trước khoảnh khắc trời đất tối sầm, y khẽ nói: “Tháo đi.”
 
Chương 206


“Đó chính là toàn bộ…”

Nói xong lời cuối cùng, giọng lão thái phó rệu rã hết hơi, “Đó là toàn bộ nguyên nhân khiến Tiển Khâm Đài sập… Mưa quá lớn, chuyện xảy ra quá đột ngột khiến nhiều người trở tay không kịp. Chiêu vương điện hạ bị thương tự trách, đổ bệnh mấy năm, thật ra việc Tiển Khâm Đài sập vốn không hề liên quan đến ngài.”

Nhưng trong điện không một ai lên tiếng đáp.

Lời kể của lão thái phó như rơi vào khoảng không rộng lớn, Tạ Dung Dữ nhắm mắt, những người khác trên điện như sống lại cơn ác mộng ấy, ngay đến Triệu Sơ cũng lặng thinh.

Trời đã tối đen, chỉ có cung đèn chiếu sáng đại điện, nhưng ánh đèn chói mắt lại khiến người ta cảm thấy hoảng sợ, không bằng bóng tối làm người ta yên tâm.

“Vì sao… thầy biết những chuyện này?” Trương Viễn Tụ khàn giọng hỏi.

Lúc nãy Thượng thư bộ Hình cũng đã hỏi câu đó, bây giờ Trương Viễn Tụ lại hỏi lần nữa, nhưng câu hỏi ẩn chứa nỗi niềm khó tả, tựa hồ y nghe được bí mật nào đó mà người khác không thể nhận ra thông qua lời của lão thái phó, một bí mật đã bị che khuất bởi đá lở.

Trương Viễn Tụ được chính lão thái phó dạy dỗ nuôi lớn, có một số việc y vẫn luôn cảm thấy lạ.

Lão thái phó là người hết lòng tận tụy vì công việc, năm ấy Tiển Khâm Đài sập, tiên đài đổ bệnh nặng, nhưng ông không những không tham gia gánh vác triều chính, trái lại chỉ hồi kinh một lần rồi rời đi, chuyển tới sơn trang Khánh Minh ở, thậm chí còn từ bỏ quyền hành, hoàng đế mới lên ngôi trong cảnh bấp bênh mà ông cũng không xuất hiện.

Đến tiền đồ của sĩ tử ông còn muốn dốc sức cứu vãn, nhưng khi tân đế và Tiểu Chiêu vương bị bao vây bởi nước lửa, tại sao ông không ra tay giúp đỡ?

Thời gian đó bệnh tình của lão thái phó vẫn chưa trở nặng, vẫn có thể ở lại kinh thành, vì sao ông phải chuyển tới Khánh Minh không gặp khách, có thật là vì áy náy chuyện giao dịch danh sách lên đài không?

Trương Viễn Tụ nhớ lại năm mình mười tám tuổi, lão thái phó đặt cho y tên tự Vong Trần, Trương Viễn Tụ từng hỏi, “Thái phó đặt cho anh con tên tự Ức Khâm, nhưng vì sao lại muốn con phải quên đi trần thế?”

Lão thái phó lặng đi một lúc lâu, cuối cùng mới nói: “Thực ra… anh trai con cũng hi vọng con có thể từ bỏ.”

… Anh trai?

Bấy giờ Trương Chính Thanh đã qua đời được hai năm, làm sao lão thái phó biết được tâm nguyện của huynh ấy?

Trương Viễn Tụ hoảng hốt, một suy nghĩ len lỏi khiến y khiếp sợ, “Ca ca đã mất, vì sao thầy biết được những chuyện huynh ấy đã làm?”

Lão thái phó kì vọng rất lớn vào hai anh em họ, luôn mong hai người sẽ thi đậu công danh, nhưng sau khi Tiển Khâm Đài sập, ông lại chỉ dạy Trương Viễn Tụ vẽ tranh, nói rằng công danh lợi lộc chỉ là mây khói.

Mỗi lần Trương Viễn Tụ nhắc đến nguyện vọng “muốn đài cao chạm mây trong núi Bách Dương”, lão thái phó luôn khuyên y núi sông bao la bát ngát, tốt hơn hết nên buông bỏ tâm trí, quên đi trần thế mà gửi tình vào non sông.

Trương Viễn Tụ nhớ lại, năm Chiêu Hóa thứ mười ba sau khi Tiển Khâm Đài sập, y và lão thái phó là một trong những người đến núi Bách Dương sớm nhất, người chết la liệt, Châu doãn Ngụy Thăng đã mất vị trí, trong núi hỗn loạn nơi nơi, y nghe nói huynh trưởng bị vùi lấp dưới đài, tay không đào đá muốn tìm Trương Chính Thanh. Những ngày ấy y gần như ngủ trên phế tích, còn lão thái phó, từ lúc đến núi Bách Dương lại cứ ở mãi trong lều, không gặp ai cho đến khi ngự giá tới.

Trương Viễn Tụ ngỡ rằng lão thái phó lúc ấy cũng giống mình, vì quá đau lòng nên mới không muốn gặp ai.

Nhưng nay ngẫm lại thấy đâu có phải, Trương Chính Thanh còn chưa rõ sống chết, vì sao lão thái phó không tìm? Không phải ông quan tâm huynh ấy nhất sao?

Trương Viễn Tụ nhớ lại, mãi cho tới lúc ngọn lửa thiêu đốt thi thể đề phòng ôn dịch bùng lên, y vẫn không ngừng kiếm thi thể của Trương Chính Thanh, có người nói với y, có thể do bị chôn vùi quá sâu nên mới không đào được thi thể của huynh trưởng y, vì vậy dưới gò mộ đã lập năm năm tại ngoại ô kinh thành, chỉ chôn một bộ áo quan.

Cuối cùng Trương Viễn Tụ nhớ đến, nhà chính của phủ thái phó quay mặt về hướng nam, ấm áp khô ráo, nếu lão thái phó sợ lạnh thì chuyển đến nhà chính là được, việc gì người hầu trong phủ phải đưa than đến chái đông? Hay là, ở chái đông đóng cửa cài then đó, còn có ai khác đang ở?

Giọng Trương Viễn Tụ gần như rời rạc, “Anh trai con… anh trai…”

Lão thái phó dập đầu, “Quan gia, hôm nay vào cung thỉnh tội không chỉ có lão thần, mà còn có một người nữa.”

Canh tư, tiếng gió như bị màn đêm dày đặc bóp nghẹt, phát ra âm thanh nghẹn ngào. Một người đàn ông mặc áo choàng lớn bước vào điện, mũ trùm đầu kéo xuống khiến đối phương không nhìn rõ mặt, giống Thanh Duy lưu vong nhiều năm, nhưng dáng vẻ của anh ta khác với Thanh Duy, Thanh Duy là không thể gặp người, còn anh ta lại không dám gặp người.

Anh ta quỳ xuống hành lễ với Triệu Sơ, hai tay chống trên đất gầy gò nhợt nhạt, “Quan gia.”

Anh ta im lặng hồi lâu, cuối cùng đẩy mũ lên, nhìn Trương Viễn Tụ gọi: “Tụ đệ…”

Trương Viễn Tụ sững sờ nhìn Trương Chính Thanh, sự bàng hoàng khó tin trên mặt đã biến mất, chỉ còn lại vẻ trống rỗng.

Trương Chính Thanh như không nỡ nhìn Trương Viễn Tụ lúng túng như thế, nâng tay lên muốn lại gần y, gọi tiếng nữa, “Tụ đệ.”

Nhưng Trương Viễn Tụ giật mình lùi bước về sau.

Bọn họ vốn là anh em thân thiết, là hai người sống nương tựa lẫn nhau trên này, nhưng sau nhiều năm gặp lại, trong mắt Trương Viễn Tụ không có vẻ vui mừng, thay vào đó là cái nhìn xa lạ, tựa hồ y không hề quen biết cái người “chết đi sống lại” này.

Thực ra Trương Chính Thanh không thay đổi nhiều, chỉ là gầy hẳn đi, trong mắt cũng không còn ý chí của ngày trước.

Ngẫm kĩ thì, Trương Chính Thanh còn sống, mọi người ở đây cũng không quá bất ngờ.

Mồng chín tháng bảy là ngày giỗ của phụ thân Trương Chính Thanh, Tiển Khâm Đài lấm bẩn, anh ta không muốn các sĩ tử lên đài vào ngày giỗ ấy thì sao bản thân có thể bước lên? Tiển Khâm Đài sập trong lúc các sĩ tử lên đài, cái tên Trương Chính Thanh vốn được xếp cuối cùng, huống hồ anh ta còn biết chuyện giao dịch suất lên đài, đuổi công nhân đào mương về, anh ta có thể phản ứng nhanh hơn bất kỳ ai khác, ngay đến Tiểu Chiêu vương còn sống thì sao anh ta lại không sống nổi?

Chẳng qua khi tỉnh dậy, anh ta dần nhận ra mình đã gánh tội nghiệt nặng đến mức nào, từ đấy trở đi không dám đối mặt với ai.

Dù sự cố Tiển Khâm Đài sập không phải lỗi của một mình anh ta, nhưng từng ngày từng đêm sau đó, Trương Chính Thanh luôn nghĩ, nếu anh ta chịu lùi một chút, hoặc nếu bất kì ai trong số họ có thể thỏa hiệp thì đâu đến nỗi lâm vào cảnh này.

Lão thái phó quỳ xuống giải thích với Triệu Sơ, kể rằng năm đó mình đã cứu Trương Chính Thanh như thế nào, sau khi biết chuyện anh ta đã làm thì đã ích kí giấu nhẹm tin tức còn sống ra sao. Trương Chính Thanh bị thương quá nặng, sức khỏe rất yếu, lại thêm bệnh sợ lạnh, tính mạng mấp mé ở bờ vực sống chết, nên ông mới đưa anh ta đến sơn trang Khánh Minh.

Lão thái phó nói, bọn họ không có ý định giấu lâu như vậy, chỉ là hồi đầu bọn họ không hiểu, không hiểu vì sao Tiển Khâm Đài lại sập, đợi đến khi biết rõ sự việc thì tiên đế băng hà, triều chình đại loạn, chỉ một cơn gió nhỏ cũng sẽ ảnh hưởng đến nền móng quốc gia, rồi về sau, bọn họ cứ thế nhìn Trương Viễn Tụ men theo chấp niệm đi càng lúc càng xa, sợ rằng sự thật ấy sẽ khiến y suy sụp, mà lúc đó Trương Chính Thanh đang bệnh rất nặng, bệnh trên người chỉ là thứ yếu, chí mạng là tâm bệnh. Anh ta sợ ra ánh sáng, không dám gặp ai, bị ác mộng giày vò liên tục, thậm chí quá nửa thời gian hồi đó anh ta không hề tỉnh táo. Anh ta bị mắc kẹt trong sự kinh hoàng bất tận, nhưng lại không dám lấy cái chết chuộc tội, nếu sống, anh ta không cách nào đối mặt với người đời, còn chết đi, cũng không có mặt mũi gặp người đã khuất.

Dù bây giờ anh ta đang quỳ trong bóng râm trên điện, nhưng trên trán và mu bàn tay đã chảy rất nhiều mồ hôi, chỉ trong chốc lát, mặt mày trắng bệch, thậm chí cánh môi cũng chuyển sắc xanh.

Mọi người không còn lạ gì trước chứng bệnh ấy, chính là tâm bệnh giống Tạ Dung Dữ, bị ác mộng đoạt lấy hơi thở, sự tự trách đã sinh ra sợ hãi hoảng hốt, thậm chí là ảo giác, khiến người ta mất đi lí trí.

Điểm khác biệt duy nhất là Tạ Dung Dữ vô tội, nên cuối cùng y đã khỏi bệnh, còn Trương Chính Thanh có tội, nên mới mắc bệnh vô phương cứu chữa.

Trương Chính Thanh run rẩy cầu xin Triệu Sơ tha thứ: “Bẩm Quan gia, những chuyện trên đều là tội của tội thần, lẽ ra tội thần phải nhận tội từ lâu. Tội thần sẵn lòng chịu trách nhiệm tất cả, cũng sẵn lòng giải thích chân tướng với bách tính đang chờ ngoài cửa cung, xin Quan gia… xin Quan gia khai ân cho Tụ đệ. Tuy Tụ đệ đã làm sai vài chuyện, nhưng bản tính đệ ấy lương thiện, dù là dẫn bách tính Ninh Châu lên kinh vào năm ngoái, hay là, hay là hợp tác với Tào Côn Đức, đệ ấy cũng chưa từng nghĩ đến việc hại người, mà cũng chưa bao giờ hại ai, chẳng qua đệ ấy quá cố chấp với việc xây dựng Tiển Khâm Đài, đệ ấy quá nhớ phụ thân, nên mới…”

Trương Chính Thanh còn chưa nói hết thì đã bị Trương Viễn Tụ cười khẩy cắt ngang.

“Phụ thân?” Giọng Trương Viễn Tụ ngập ý mỉa mai, “Ta đã không nhớ nổi dáng dập phụ thân ra sao rồi, người nuôi dạy ta chính là huynh! Người dạy ta bốn chữ ‘Tiển Khâm sạch sẽ’ chính là huynh! Ta muốn xây lại Tiển Khâm Đài là vì phụ thân ư? Không, là vì người huynh trưởng chung máu thịt với ta, vì để hoàn thành tâm nguyện của huynh ấy! Nhưng huynh lại, huynh lại…”

Nếu việc Trương Chính Thanh đuổi đi công nhân đào mương để hoàn ngày lên đài đã phá vỡ niềm tin nhiều năm của Trương Viễn Tụ, vậy thì việc Trương Chính Thanh xuất hiện trên đại điện, đã khiến cho Tiển Khâm Đài sạch sẽ sớm được xây lại trong lòng y hoàn toàn sụp đổ.

“Hóa ra Vong Trần có ý nghĩa như thế, thứ huynh muốn ta quên đi không phải quá khứ bụi trần của Thương Lãng Tiễn Khâm, mà là khói bụi tội lỗi dưới phế tích đài sập, huynh ích kỉ đến mức muốn ta quên đi tất thảy, bởi vì huynh hối hận!”

Trương Viễn Tụ lạnh lùng chất vấn, “Vậy thì… Nếu huynh đã biết thầy dùng danh sách lên đài để giao dịch, nế huynh đã quyết định không lên đài vào ngày đó, thậm chí đuổi cả công nhân đào mương về, thì việc gì khi rời đi, lại nói với ta ‘người xưa đã qua đời, hoài bão của tiền nhân được hậu nhân kế thừa’, vì sao còn phải nói ‘Tiển Khâm không lấm bẩn, chí nguyện mãi không đổi’?!”

Trương Chính Thanh mở miệng muốn giải thích, nhưng lại chẳng thể cất nổi nên lời, bởi vì đúng là do anh ta đã sai nên mới khiến Trương Viễn Tụ đi quá xa trên con đường này.

Việc bách tính Ninh Châu khiếu kiện, các dược thương bị hại hay Trương Viễn Tụ lấy đi tội chứng ở mỏ khoáng Chi Khê về sau, hoặc là sĩ tử bách tính căm phẫn chặn cửa cung hôm nay, đều là dẫm vào vết xe đổ của anh ta.

Trương Chính Thanh nói: “Tụ đệ, đệ nghe ta nói đã, tất cả mọi chuyện đều là lỗi của một mình ta, đệ chỉ đi nhầm đường hơi xa, huynh nghe thầy nói đệ chưa từng hại ai, thậm chí còn cứu người giúp người, thợ mộc họ Tiết rồi con gái của Ôn Thiên, nhờ có đệ mà bọn họ mới sống được, đệ vẫn có thể quay đầu, đệ…”

Không đợi Trương Chính Thanh nói hết, Trương Viễn Tụ nhắm nghiền hai mắt.

“Trễ rồi…” Y nói, “Đã quá trễ rồi.”

Kẻ trồng cây chặt cây, kẻ qua sông làm rơi mái chèo, kẻ dựng đài cao tự dỡ bỏ cột trụ, ước nguyện ấp ủ bấy lâu bị đốt sạch trông thật xấu xí, mọi thứ đã làm ngày hôm qua trở nên thật lố bịch, gằn giọng đau đớn nói: “Chẳng thà ngay từ đầu huynh chết luôn đi.”

***

Lần thứ hai bầu không khí lặng thinh bao trùm đại điện.

Một lúc lâu sau, Đường chủ sự mới hỏi: “Bẩm Quan gia, bây giờ có cần bố cáo thiên hạ không?”

Trong điện không người đáp.

Đêm khuya đã qua, trời dần hửng sáng, nhưng… dù đã tìm ra manh mối, không ngờ chân tướng lại bất đắc dĩ đến vậy.

Nó là bước đi vượt qua Tiển Khâm, hướng về mây xanh, bắt đầu từ tiên đế, lão thái phó rồi dần kéo dài, những người liên quan đều có tội đáng chết vạn lần, hoặc về tình có thể tha, song không phải vô tội. Nếu công khai chân tướng ấy, không ai biết thế nhân sẽ phản ứng như thế nào.

Song, người trong điện nghĩ, thay vì để mây xanh tích tụ trên đài cao rồi dẫn đến choáng ngợp, thì bây giờ cần có một bàn tay phủi đi lớp bụi.

Thượng thư bộ Hình bước lên trước một bước, “Quan gia, thần sẵn lòng ra ngoài cửa cung, giải thích tiền căn hậu quả của việc đài sập.”

Đại Lý Tự khanh cũng nói: “Quan gia, thần sẵn sàng đi cùng bộ Hình.”

Triệu Sơ nhìn những người còn lại: “Ý các ái khanh thế nào?”

Viên quan họ Từ do dự: “Có gì… nói nấy?”

Đường chủ sự đáp: “Vậy thì nói.”

Tạ Dung Dữ chậm rãi gật đầu.

Cấm vệ quân của Điện Tiền Ti đứng ngoài điện lập tức quỳ gối, “Bẩm Quan gia, sáng hôm qua mạt tướng đã cử người đến Bắc Đại Doanh triệu tập toàn bộ tướng sĩ của Điện Tiền Ti, hiện bọn họ đã đến ngoài thành Tử Tiêu, chúng mạt tướng nhất định tăng cường phòng bị, nỗ lực bảo vệ an nguy của bách tính, nhất định không để trong kinh xảy ra loạn.”

Triệu Sơ quay lại án, “Bộ Hình và Đại Lý Tự nghe lệnh, trẫm lệnh hai ngươi cùng Chiêu vương đến ngoài cửa cung, giải thích toàn bộ chi tiết nhân quả trong vụ án cho dân chúng được rõ, bao gồm lựa chọn của triều đình trong trận chiến năm xưa, công và tội trong việc thu xếp cho di dân Cật Bắc, đồng thời dẫn theo thái phó và tội nhân Trương Chính Thanh; Ngự Sử Đài, lập tức soạn thảo bố cáo liên quan dán ngoài cổng thành, nêu rõ kết quả xử lí nghi phạm có liên quan đến vụ án Tiển Khâm Đài, đợi sau khi thẩm án kết thúc, triều đình sẽ phát bố cáo tiếp, còn chuyện khác…”

Triệu Sơ ngước lên, nhìn cấm vệ quân đang quỳ ngoài điện đợi lệnh: “Điện Tiền Ti.”

“Có mạt tướng.”

“Chỉnh đốn quân ngũ.”

Bốn chữ cuối vừa dứt, cửa điện Tuyên Thất mở toang, Tạ Dung Dữ cùng bộ Hình và Đại Lý Tự đi ra đầu tiên, theo sau là các quan viên còn lại. Bước chân của họ đầy vững chắc, trật tự tỏa ra các nơi, tiếng kèn chỉnh quân nhanh chóng vang lên trong cung cấm, Huyền Minh Chính Hoa mở ầm ầm, sau đó là cổng cung thứ hai rồi đến thứ ba. Cùng lúc ấy, xung quanh chậm rãi sáng dần, tuyết rơi suốt đêm đã dừng từ lâu. Thanh Duy bước ra khỏi đại điện, ngẩng đầu nhìn lên, vừa qua giờ Mão, có tia nắng mai xuyên qua lớp mây mỏng chiếu xuống.

Tốt quá, Thanh Duy thầm nhủ, sắc trời sáng tỏ. Trời đã sáng rồi.
 
Chương 207


Nửa tháng sau.

Kinh đô thức giấc trong tia nắng ban mai đầu tiên, sau vài trận tuyết rơi, trời trong nhiều ngày liền, bầu trời quang đãng khiến tâm tình tươi sáng hơn, toàn thành sôi động hẳn, trong ngoài ngõ Lưu Thủy gần như chật kín người, tiếng la hét, tiếng rao hàng, từ sáng sớm đã thành dòng người dài bất tận, trước cổng thành cũng có hàng dài người ra vào thành, may thay vụ án đã sắp kết thúc, không cần giới nghiêm nữa rồi.

Đức Vinh đặt vào tay Cố Phùng Âm một hộp bánh ngọt của tiệm Lưu Kí, “Thiên nhi nghe nói nghĩa phụ thích ăn bánh của tiệm này, sáng sớm đã tới đầu ngõ Lưu Thủy mua, được mấy khi hắn chu đáo như thế, nghĩa phụ cầm lấy đi đường ăn lót dạ. Đợi tính toán xong sổ sách cửa tiệm trong kinh, con sẽ cho người đem sổ sách và số hàng hóa còn lại về Cật Bắc.”

Cố Phùng Âm muốn bàn giao cửa tiệm ở kinh thành cho Đức Vinh lo liệu, nhưng Đức Vinh nói có khả năng hắn sẽ không ở kinh thành lâu dài, Cố Phùng Âm không còn lựa chọn nào ngoài đóng cửa tiệm.

Thanh Duy sai Triêu Thiên đưa mấy bộ đồ lông thú mới may cho quản gia, nói với Cố Phùng Âm: “Được rồi Cố thúc, trời lạnh nên thúc đi đường nhớ chú ý nhé, tôi không đưa tiễn nữa.”

Bây giờ Cố Phùng Âm đã biết được thân phận thật của nàng, nửa mừng nửa lo nói: “Thiếu phu nhân khách khí quá, cũng không phải lần đầu lão hủ đến phương bắc, làm phiền thiếu phu nhân mua nhiều đồ cho lão hủ rồi.”

Thanh Duy mỉm cười: “Cố thúc đến Cật Bắc thì nhớ gửi thư về nhé.”

Cố Phùng Âm quyết định sẽ đến Cật Bắc. Đôn Tử đã chết, một phần gia sản ông để lại cho Đôn Tử không ai nhận, Đức Vinh và Triêu Thiên lại không cần cửa tiệm trong kinh, sau mấy ngày nghĩ lui nghĩ tới, Cố Phùng Âm quyết định từ bỏ, dù gì cũng đã già rồi, may mà xương cốt còn chịu được. Ngày xưa ông nhận nuôi trẻ mồ côi, vận chuyển tơ lụa đến Trung Châu, sau đó từ Trung Châu bán đi khắp Đại Chu, nghĩ rằng làm thế là đang giúp Cật Bắc, nhưng nay ngẫm lại mới thấy vẫn còn chưa thấu đáo. Nửa đời tích góp được được rất nhiều tài sản, trước khi quá già ông muốn làm một chuyến cuối cùng, ngày xưa ông bán hàng hóa từ Cật Bắc đi khắp nơi, giờ lại muốn đưa hàng từ nơi khác về Cật Bắc.

Mọi người đứng ngoài cổng thành nói chuyện một lúc, trong khi trời còn sớm, Cố Phùng Âm nhanh chóng lên đường. Đức Vinh dắt xe ngựa tới, “Thiếu phu nhân, về nhà chưa ạ?”

Vầng thái dương nhô chiếu sáng xung quanh, Thanh Duy nghĩ ngợi: “Chưa về, đi dạo xung quanh đi.”

Nàng mặc áo chùng chống lạnh, tuy nhiên áo chùng không có mũ trùm đầu, để lộ gương mặt sạch sẽ. Nàng vốn dĩ đã ưa nhìn, người đã gặp ắt sẽ không quên. Vô tình có quan binh đi ngang qua, có vẻ nhận ra nàng, song lại chẳng nói gì mà chỉ thúc ngựa rời đi. Tuy triều đình vẫn chưa đưa ra phán quyết cuối cùng, nhưng quan viên trong kinh như đạt được thỏa thuận ngầm, không còn hô hoán truy sát nữ Ôn thị nữa.

Đã nhiều năm rồi Thanh Duy mới có thể đi lại trên phố mà không cần trốn tránh.

Triêu Thiên dè dặt hỏi ý: “Thiếu phu nhân, phía đông thành vừa mở một tiệm binh khí, tiểu nhân muốn sang xem.”

“Được.” Thanh Duy gật đầu ngay tắp lự, “Đi xem thế nào.”

Trong thành có sự yên tĩnh khác thường, không phải im ắng vô thanh, mà là dù đứng giữa âm thanh náo nhiệt thì vẫn khiến người ta yên bình thư thái.

Thật ra hôm ấy Tạ Dung Dữ dẫn tam ti đến cửa cung giải thích không mấy thuận lợi, có người nghe được nửa chừng đã kích động, thậm chí có người yêu cầu triều đình lập tức xử tử tất cả nghi phạm, cho đến cuối cùng khi hé lộ tất cả sự thật, mặc dù cơn giận của mọi người đã lắng, thay vào đó lại là sự hoang mang.

Có một số chuyện như vậy đấy, những lời đồn vu vơ rất dễ khiến người ta căm phẫn, còn chân tướng lại là một pho tượng khổng lồ khó tiếp nhận, khi bày ra trước mắt, gần như sẽ khiến tất cả lặng thinh.

Mọi người tụ tập trước cửa cung đã lâu, đợi từ sáng sớm đến tối mịt, nhưng lần này bọn họ không biết đang chờ đợi điều gì, mãi tới khi gió chiều nổi lên, có sĩ tử ngập ngừng nói: “Mọi người đi về thôi.” Thì đám đông mới dần giải tán.

Cùng lúc đó, các bộ nha ti của triều đình bận bù đầu. Chương Hạc Thư, lão thái phó, Trương Chính Thanh đã bị tống giam, Tào Côn Đức cũng bị giam cầm trong cung, trong quá trình thẩm vấn, những người có liên quan đến vụ án cũng lần lượt bị áp giải lên kinh, thư trắng như tuyết rơi bay khắp kinh thành, quan viên ngân đài làm việc liên tục. Mừng là vẫn có tin tốt, hồi sáng Lăng Xuyên gửi thư đến, báo rằng Chương Đình đã tỉnh.

Chẳng rõ có phải là vì nghiệt duyệt hay không, mà khi Khúc Mậu vừa đến Đông An thì Chương Đình lập tức tỉnh dậy.

Khúc Bất Duy đã để lại khúc mắc trong lòng Khúc Mậu, trên đường tới Lăng Xuyên hắn không ngừng gặp ác mộng, không ngày nào ngủ ngon giấc. Hắn nghĩ Chương Đình cũng đồng bệnh tương liên với mình, có lẽ có cách giúp giải tỏa, nhưng khi hắn chạy tới dinh thự, cha của Chương Đình sắp đi mà hắn vẫn ngủ say bất tỉnh nhân sự, Khúc Mậu chợt cảm thấy hóa ra Chương Lan Nhược cũng chỉ vậy mà thôi.

Từ bé đến lớn, Chương Đình luôn ưu tú hơn Khúc Mậu mọi mặt, mà nay chẳng mấy khi Khúc Mậu chiếm thế thượng phong, tự dưng tâm trạng cũng thoải mái hẳn, mây mù trong lòng tan biến, bao mệt mỏi hóa thành hư vô, Khúc Mậu cảm thấy mí mắt nặng trĩu, ngủ gục ngay trước giường Chương Đình.

Người hầu trong phòng thấy đã có Khúc Ngũ gia chăm trước giường, yên tâm đi sắc thuốc.

Mà thật không khéo, đúng lúc này Chương Đình lại tỉnh.

Thật ra Chương Đình đã tỉnh từ lâu, hai ngày qua cũng có mở mắt một lần, nhưng vì quá mệt nên nhanh chóng ngủ thiếp đi. Còn bây giờ Chương Đình lại không nhắm nổi mắt – Khúc Mậu ngáy to đến nỗi hắn không ngủ nổi!

Chương Đình khàn giọng kêu nước mấy lần, nhưng Khúc Mậu ngủ quá say, không nghe thấy.

Chương Đình cố kìm lửa giận đợi người hầu về.

Hay tin Tiểu Chương đại nhân đã tỉnh, người hầu tức khắc mời đại phu và gọi nô bộc đến, ngay cả hội Tề Văn Bách và Tống trưởng lại cũng từ châu phủ chạy tới. Tiếng bước chân và âm thanh líu ríu trong phòng đã đánh thức Khúc Mậu, hắn mở đôi mắt ngái ngủ, khi vươn vai, tình cờ đập vào tay người hầu đang đút thuốc.

Người hầu loạng choạng, đổ nửa chén thuốc vào họng Chương Đình, nửa còn lại hất vào mặt hắn, Chương Lan Nhược còn đang lơ mơ thì bị kéo quay về thế giới thực, hắn tức tối quát lớn: “Khúc Đình Lam, ta đúng là… đúng là nợ ngươi từ kiếp trước!”



***

“… Tề đại nhân nói, bệnh tình của Tiểu Chương đại nhân không còn đáng ngại nữa, nhưng vì vừa dậy nên vẫn phải tĩnh dưỡng thêm ít hôm. Tiểu Chương đại nhân định viết tấu sớ thuật lại đầu đuôi sự tình trong núi Chi Khê hôm ấy, may có Tề đại nhân ngăn ngài ấy lại.”

Thượng thư bộ Hình nhận được thư khẩn, báo cáo lại lúc vào yết kiến cùng Đại Lý Tự khanh.

Triệu Sơ nói: “Chuyện này cứ từ từ, khanh hãy thay mặt trẫm gửi thư, dặn Chương Lan Nhược chú tâm dưỡng bệnh trước.”

“Ngoài ra…” Thượng thư bộ Hình do dự một lúc, “Bẩm Quan gia, năm ngày trước Trương Nhị công tử đã rời kinh rồi.”

Huyền Ưng Ti cùng tam ti đã thẩm vấn Chương Hạc Thư và lão thái phó nhiều ngày, còn Trương Viễn Tụ nói vô tội cũng được mà có tội cũng đúng, chỉ chắc chắn một điều rằng, y chưa thực sự làm hại bất cứ ai. Cái chết của hộ buôn thuốc nằm ngoài dự đoán của y; giúp Tào Côn Đức nuôi chim truyền tin cũng không phải tội ác tày trời; người xúi giục sĩ tử tụ tập ở cửa cung là Tào Côn Đức, tuy y biết mà không báo, nhưng may triều đình giải quyết thích đáng nên chưa gây ra hậu quả xấu nào. Cho nên sau mấy ngày giam giữ Trương Viễn Tụ, Thượng thư bộ Hình đích thân mở cửa lao, nói với y: “Đi đi.”

Trương Viễn Tụ ngước mắt, bình bình hỏi: “Triều đình không trị tội của tôi à?”

Thượng thư bộ Hình không trả lời.

Trương Viễn Tụ suy nghĩ, cuối cùng không hỏi nữa mà lặng lẽ rời đi.

Y không về nhà cũ thành tây mà đến phủ thái phó, nơi y và Trương Chính Thanh cùng nhau lớn lên.

Người của phủ thái phó quả biết tình nghĩa, cho dù lão thái phó và Trương Chính Thanh đã bị bắt giam, tôi tớ trong phủ không ai rời đi. Trương Viễn Tụ ngồi một mình trong thư phòng nơi y từng đọc sách học vẽ ba ngày ba đêm, cuối cùng nói với Bạch Tuyền: “Chúng ta đi thôi.”

Xe ngựa rời kinh vào sáng sớm năm ngày trước, phía trước xe treo một tấm biển có chữ “Trương”, mặc dù lính canh ở cổng thành nhìn thấy, nhưng không biết được ai nhờ vả mà không hề chặn lại.

Thượng thư bộ Hình nói: “Xe ngựa đi về hướng nam, xem ra Trương Nhị công tử muốn đến Lăng Xuyên.”

Nói đoạn, ông chợt quỳ thụp xuống đất, “Bẩm Quan gia, tội thần đáng chết muôn lần.”

Với thân phận của Trương Viễn Tụ bây giờ thì y tuyệt đối không thể rời kinh, chỉ vì có người chạy chọt nên y mới có thể bước ra khỏi cổng thành. Mà người có bản lĩnh để y bình an rời đi, ngoại trừ hoàng đế, chỉ có đại thần quyền cao chức trọng.

Lão thái phó có học trò đệ tử khắp thiên hạ, tuy Thượng thư bộ Hình không được ông truyền dạy, song ngày trước đường làm quan của Thượng thư đại nhân cũng rất chông chênh, may nhờ có lão thái phó mến mộ nhân tài, nhiều lần tiến cử với triều đình nên ông mới có ngày hôm nay.

Lão thái phó đã già, sinh mệnh hay quan lộ đều đã đi đến điểm cuối, chỉ có duy nhất một tâm nguyện, đó là hi vọng Trương Vong Trần có thể quên đi trần thế. Dù bị tống vào lao ngục, lão thái phó cũng chỉ khẩn cầu Thượng thư bộ Hình rằng: “Nói với Vong Trần là nó vẫn chưa đi xa, vẫn có thể ngoái đầu…”

Vì vậy Thượng thư bộ Hình đã nghĩ, nếu đã không phân rõ Trương Viễn Tụ có tội hay vô tội, thì để ông tự ý làm chủ một lần, cũng coi như báo đáp ân tình của lão thái phó.

Triệu Sơ nhìn Thượng thư bộ Hình quỳ gối dưới đại điện thỉnh tội, chậm rãi nói: “Trẫm nhớ trong buổi chầu đầu tiên khi trẫm đăng cơ, các tướng quân và hai vị đại nhân Chương, Hà khắc khẩu không ngừng, trẫm chỉ biết ngồi trên long ỷ mà không thể nói được một lời, như một người ngoài chỉ biết đứng nhìn, cuối cùng Đại Lý Tự Tôn Ngải và các văn sĩ Hàn Lâm phải đứng ra hỏi, ‘ý Quan gia thế nào’. Hai ba năm sau, mỗi lần có buổi chầu triều, hội Tôn Ngải luôn hỏi ‘ý Quan gia thế nào’, dù lúc ấy trẫm trả lời thế nào cũng không quan trọng. Lão thái phó thường nói chưa giúp được gì cho trẫm từ khi trẫm kế vị, nhưng trẫm biết, Tôn Ngải cùng các văn sĩ đều là học trò của ông ấy.”

Trải qua vụ án này, vị hoàng đế trẻ tuổi càng lúc càng chín chắn, “Ái khanh bình thân, trẫm không trách khanh. Con người nào phải cỏ cây mà có thể vô tình, tuy luật pháp nghiêm khắc, nhưng nhìn chung vụ án này ai cũng có tư tâm, không phải vị tiên sinh dạy vẽ cũng vậy sao, thư sinh lên kinh cáo trạng cũng có tư tâm đấy thôi. Đôi khi trẫm cảm thấy, có lẽ trong khuôn khổ pháp luật nên chừa chút đường sống, thế mới thực sự yên ổn được lâu dài.”

Thượng thư bộ Hình đứng dậy, “Đa tạ Quan gia rộng lượng.”

“Chẳng qua,” Triệu Sơ thở dài, “Sự ngoan cường của ba cha con họ Trương là di truyền, triều đình tha thứ cho Trương Vong Trần, có điều, Trương Vong Trần có tha thứ cho bản thân không thì không rõ.”

Triệu Sơ dừng lại, sau đó hỏi: “Tại sao khanh lại nói có mấy người trong vụ án này không thể bị kết án?”

“Là thế này,” Đại Lý Tự khanh tiếp lời, “Chắc chắn nhóm Khúc Bất Duy, Phong Nguyên sẽ bị trừng trị kịch khung, nhưng khó là khó ở Chương Hạc Thư. Tuy Khúc Bất Duy, lão thái phó đều xác nhận cáo buộc Chương Hạc Thư tham gia vào vụ án mua bán danh ngạch, bản thân Chương Hạc Thư cũng đã khai, khổ nỗi, chúng ta lại không có bằng chứng.”

Hay chính là không có vật chứng.

Bằng chứng duy nhất có thể chứng minh Chương Hạc Thư tham gia vào vụ án đó là thẻ bài trống ông ta làm giả, dù Tạ Dung Dữ đã điều tra ra người thợ thủ công, song người kia đã qua đời từ một năm trước, Huyền Ưng Ti đến Khánh Minh một chuyến vô ích.

Nếu chỉ là một vụ án bình thường, nếu tất cả lời thú tội của tội phạm đều nhất quán đầy đủ và bản thân nghi phạm đã nhận tội, vậy chỉ cần kết án là xong. Nhưng vụ án Tiển Khâm Đài liên đới quá rộng, mọi tội danh Chương Hạc Thư phạm phải đều liên quan đến lão thái phó, Trương Chính Thanh và những người khác, nếu không có lấy nổi một bằng chứng vật chứng, đợi tới lúc chiêu cáo thiên hạ thì rất khó để dân chúng tin tưởng.

“Vật chứng là thứ nhất, còn thứ hai…” Đại Lý Tự khanh do dự, “Dù sao thì… Chương Hạc Thư cũng là quốc trượng.”

Tựa hồ để trả lời câu nói ấy, một tiểu hoàng môn hớt hải chạy tới ngoài điện Tuyên Thất, quỳ xuống trước cửa, “Quan gia, ngài mau đến điện Nguyên Đức đi, Hoàng hậu nương nương… nương nương đã lấy mũ phượng và huy y* ra, nói muốn trả lại hoàng từ.”

(*Huy y: Trang phục của bậc Hậu.)

Trả lại mũ phượng và huy y cho hoàng từ là lễ chế chỉ khi phế hậu mới có.

Chẳng lẽ Chương Nguyên Gia muốn… yêu cầu được phế hậu?

Thượng thư bộ Hình và Đại Lý Tự khanh vội vàng bước sang một bên.

Triệu Sơ biến sắc, chàng bước xuống đài, vội vàng đi tới điện Nguyên Đức.
 
Chương 208


Điện Nguyên Đức sau trưa vô cùng yên ắng, nắng chiều chiếu nghiêng soi  rõ những hạt bụi li ti lửng lơ, thị tì gác trước cửa thấy Triệu Sơ đến thì lặng lẽ lui ra.

Chương Nguyên Gia chờ trong điện, nàng mặc áo trắng, vấn tóc hai bên rũ xuống, không cài trâm đeo vòng, là kiểu tóc của tội nhân. Thấy Triệu Sơ, nàng không cung kính bước lên hành lễ nữa – hẳn là do mang thai không tiện đứng dậy, mà chỉ đưa mắt nhìn sang, “Lâu rồi không thấy Quan gia đến.”

Huy y và mũ phượng nằm bên trái nàng, Triệu Sơ nhìn chúng chằm chằm, một lúc lâu sau mới *ừ* một tiếng, “Tiền triều bận rộn.”

Chương Nguyên Gia bật cười.

Nàng biết chứ, sau buổi thấm vấn ở điện Tuyên Thất đêm ấy, triều chính chưa từng bận bịu đến thế, quan viên các bộ chong đèn hằng đêm làm rõ vụ án, còn có đại thân đứng chờ diện kiến ngoài điện Văn Đức từ lúc trời chưa sáng.

Chương Nguyên Gia nói: “Sáng nay nhận được thư gửi từ Lăng Xuyên, báo tin ca ca đã khỏi bệnh, thần thiếp mừng lắm, đọc đi đọc lại bức thư ấy không biết bao nhiêu lần.”

Cách chiếc bàn long phượng, Triệu Sơ ngồi xuống cạnh Chương Nguyên Gia, ôn tồn nói: “Bệnh tình của Chương Lan Nhược không quá đáng lo, trẫm đã dặn dò châu phủ Lăng Xuyên chăm sóc kỹ lưỡng, bây giờ nàng chỉ cần chú ý thân thể, không cần quan tâm chuyện khác.”

“Thần thiếp không có gì để phải quan tâm cả.” Chương Nguyên Gia nói, “Chuyện ở hậu cung đã có cô mẫu lo liệu, cung nhân trong điện Nguyên Đức cũng hầu hạ chu đáo, hồi sáng thái y đến chẩn mạch cho thần thiếp, nói đứa bé trong bụng rất khỏe, nhất định mai sau sẽ thông minh sáng suốt như Quan gia. Chỉ lo lắng mỗi cho Nhân Dục, muội ấy hay tin Trương Nhị công tử ở trong ngục từ chối hôn sự, chạy đến chỗ thần thiếp khóc một hồi, hôm sau lại đi năn nỉ cô mẫu, nói cho dù Trương Nhị công tử có là tội nhân thì cũng bằng lòng làm vợ y, nghe bảo Quan gia phải ban ân chỉ đến Dụ Thân vương phủ, muội ấy mới thôi quậy.”

Triệu Sơ nói: “Nhân Dục được chiều quá, Dụ Thân vương lại ra đi sớm, trẫm đã hứa với phụ hoàng sẽ chăm sóc muội ấy, cứ nhốt muội ấy ở kinh cũng không hay. Ân chỉ lần này của trẫm chỉ là đồng ý để muội ấy tự do đi lại với hai cận vệ. Muội ấy ít trải đời, không biết rằng làm vợ chồng cũng cần duyên phận, trong mắt Trương Vong Trần không có muội ấy, cho dù thành hôn thì sau này cũng sẽ nảy sinh xa cách. Đợi muội ấy trải nghiệm được nhiều điều, nhìn thấy đất trời rộng lớn, ắt sẽ không bị yêu hận nhất thời che mắt.”

“Quan gia luôn có cách hơn thần thiếp.” Chương Nguyên Gia mỉm cười, “Ngày bé cứ đến lễ tết giao thừa, huynh đệ tỉ muội vào cung, nếu có gây họa thì Quan gia cũng luôn hỗ trợ giải quyết. Thần thiếp nhớ có một năm, Tứ ca nhi ở Di Quận vương phủ nghịch ngợm, viết nguệch ngoạc bài điếu văn đọc trong lễ khai xuân của Quan gia, mà hình như điếu văn đó là hoàng chỉ, ba ca ca khác của Di Quận vương phủ phải quỳ ngoài cửa Đông Cung xin Quan gia trách tội. Nhưng Quan gia không trách phạt ai, chỉ dặn cung nhân không được tiết lộ chuyện. Sáng hôm sau, Quan gia mặc trang phục Thái tử, đến lễ khai xuân, đọc nguyên bài điếu văn khó nhớ kia không sót một chữ. Nếu không phải tiểu hoàng môn ở Đông Cung thương Quan gia mà vô tình tiết lộ thì thần thiếp cũng không biết đâu, Quan gia lo Di Quận vương phủ bị phạt, đã thức đêm xem hết các bài điếu văn mừng lễ khai xuân mấy chục năm qua, phát hiện xuân quan ở Huệ Chính Viện thế mà làm biếng, cứ mỗi hai mươi năm là dùng lại bài cũ.”

“Hồi ấy thần thiếp cảm thấy Quan gia không bình thường, trông lạnh lùng mà cũng ít nói, nhưng dù gặp chuyện gì cũng tìm được cách giải quyết.”

Mà sự thật đúng là như vậy.

Mấy năm đầu khi mới đăng cơ, Triệu Sơ bước đi giữa muôn trùng khó khăn, nhưng chàng vẫn bước từng bước ra ngoài, thực hiện lời hứa với tiên đế, tìm được chân tướng mà ngài muốn.

Có lẽ người thường chỉ thấy Tiểu Chiêu vương và Huyền Ưng Ti đã trải qua nhiều chông gai vất vả để làm rõ vụ án, nhưng chưa từng nghĩ rằng trên đoạn đường mưa gió ấy, vị hoàng đế trên điện Tuyên Thất tối cao đã ủng hộ họ thế nào, những lời dị nghị ở tiền triều như ngàn thước sóng vỗ, chính nhờ chàng kiên trì gạt bỏ dư luận thì những người kia mới có thể kiên định bước đi.

“Đúng vậy, nàng vẫn luôn hiểu trẫm.” Triệu Sơ đi vòng qua bàn long phượng, nắm tay Chương Nguyên Gia, “Nên xin nàng hãy chờ trẫm, trẫm tất sẽ tìm được cách.”

Chương Nguyên Gia cụp mắt, “Thì ra biểu huynh đã nói với Quan gia rồi.”

Chương Hạc Thư thuê một người thợ ở Khánh Minh làm giả thẻ bài của sĩ tử lên đài, khi sự tình bại lộ, Chương Hạc Thư không thể không nhờ Chương Nguyên Gia gửi thư ra ngoài, nhắn người thợ kia hãy chạy trốn. Sau đó Chương Nguyên Gia đã giao bức thư ấy cho Tạ Dung Dữ, Vệ Quyết mới Huyền Ưng Ti rời kinh ngay trong đêm tìm nhân chứng vật chứng.

Tiếc rằng vẫn chậm một bước, người thợ kia đã qua đời từ một năm trước.

Sau buổi thẩm vấn ở điện Tuyên Thất đêm ấy, chân tướng đã lộ, từng người một phải đối mặt với nhân quả bản thân gây ra. Tạ Dung Dữ không phải là người nhiều chuyện, sau khi bẩm báo tất cả với Triệu Sơ, y chỉ nói một câu, “Nương nương không nói cho Quan gia là bởi vì không muốn Quan gia phân tâm vì nàng ấy, nhưng thần thân là huynh trưởng, không nỡ nhìn Quan gia và nương nương chia lìa.”



Chương Nguyên Gia nói: “Thần thiếp hiểu ý Quan gia, dù gặp chuyện khó đến đâu, Quan gia vẫn sẽ tìm được cách. Nhưng nếu đã tìm được cách thì Quan gia đã tới thăm thần thiếp sớm hơn rồi đúng không? Vì sao Quan gia không đến? Vì triều chính rối loạn, dân chúng phẫn uất ép Quan gia vào đường cùng, Quan gia biết một khi bước vào điện Nguyên Đức, chính là lúc phải làm ra quyết định.”

“Thiếp hiểu, thiếp hiểu cả mà.” Chương Nguyên Gia nhẹ nhàng nói, “Thiếp biết Quan gia đã rất cố gắng, mọi người ai cũng cố gắng hết, thiếp cũng biết nguyên nhân hậu quả của Tiển Khâm Đài sập, những tội lỗi kia không phải chỉ cần một tờ cáo thị dán lên là xong, mà cần có người đứng ra trả một cái giá thật lớn, trả nợ chuộc tội.”

“Đúng là có người nên trả giá chuộc tội, nhưng không phải là nàng.” Triệu Sơ buông tay Chương Nguyên Gia, đứng dậy nói.

Chương Nguyên Gia nhìn Triệu Sơ, chợt mỉm cười, “Những chuyện khác Quan gia thấu đáo sáng suốt lắm mà, sao không như thế trong chuyện này?”

“Ôn Tiểu Dã có làm sai gì không? Lúc Tiển Khâm Đài sập, thậm chí nàng ấy còn không có mặt. Nhưng tại sao nàng ấy muốn rửa sạch oan khuất cho cha lại khó đến thế, vì Ôn Thiên là tổng đốc công, dù đã điều tra được Hà thị tráo gỗ, Khúc Bất Duy giao dịch suất lên đài, phụ thân thiếp và lão thái phó ba lần đổi bản vẽ, Trương Chính Thanh đuổi công nhân đào kênh, thì ông ấy vẫn phải chịu trách nhiệm trong tai nạn đó, nên tới nay triều đình vẫn chưa ban chiếu thư tha tội.

Lão Chỉ huy sứ của Huyền Ưng Ti có làm gì sai không? Nhưng khi Đô Điểm Kiểm bắt giam Ôn Thiên dẫn đến Tiển Khâm Đài sập, ông ấy buộc phải tự sát tạ tội.

Thiếp biết ca ca đã lấy được bằng chứng lập công trong vụ án này, triều đình có thể ân xá miễn tội liên đới, thậm chí phục chức cho huynh ấy, nhưng khác lắm, ca ca là thần, điều mà hạ thần chú trọng là công tội, còn Hoàng hậu lại khác, đối với bậc Hậu, thiên hạ chỉ biết một chữ ‘Đức’, phụ thân thất đức tức là Nguyên Gia thất đức, không xứng với vị, Nguyên Gia đã không thể tiếp tục ngồi ở vị trí này được nữa rồi.”

Nói đoạn, Chương Nguyên Gia quỳ xuống trước mặt Triệu Sơ, “Quan gia, xin hãy hạ chỉ.”

“Mấy ngày nay, thần thiếp đã tranh thủ bàn giao xong công việc ở hậu cung. Hậu cung còn rất nhiều chuyện lặt vặt, nếu tương lai Quan gia thiếu người xử lý lục cung, có thể cất nhắc để Di tần nắm quyền, nàng ấy có năng lực, giao phó cũng yên tâm. Nếu có chuyện bận lòng, thiếu người tâm sự, Quan gia có thể đến Tỉnh Phương Các tìm Tần quý nhân, Tần quý nhân là người trầm tính, giỏi lắng nghe, rất thân thiện.” Chương Nguyên Gia từ từ nói, “Gần đây thần thiếp đã suy nghĩ rất nhiều, phát hiện có một chuyện thần thiếp luôn làm sai. Vì phụ thần mà sau khi được gả cho Quan gia, khi cảm thấy xa cách với Quan gia, thần thiếp nghĩ hoài không hiểu, cho rằng là vợ chồng cũng có lúc thân sơ, nên đôi khi đã không hạ mình, thậm chí còn trách móc Quan gia. Thế mà ngày thành thân, thiếp đã hạ quyết tâm sẽ làm một Hoàng hậu tốt của Quan gia. Thì ra mấy năm nay, thần thiếp chưa bao giờ là Hoàng hậu mà chỉ là một người vợ bình thường, nếu là Hoàng hậu, nàng không nên giận dỗi chỉ vì bị Quan gia xa lánh, nên hiểu được nỗi lo âu phiền muộn của Quan gia, trong lòng cũng nên có giang sơn xã tắc như Quan gia, chứ không phải chỉ có mỗi hai ta. Vì thần thiếp không làm đến nơi đến chốn, mới khiến Quan gia phải bước đi một mình trên con đường này quá lâu.”

Nghe những lời Chương Nguyên Gia giãi bày, bàn tay Triệu Sơ từ từ siết chặt.

Trời sinh chàng biết khống chế được cảm xúc, nên bao giờ cũng dịu dàng ôn tồn, ngay cả yêu hận cũng hóa hững hờ.

Chỉ có chính chàng biết không phải như vậy.

Chàng còn nhớ ngày gặp Chương Nguyên Gia là trong một buổi cung yến nhiều năm về trước.

Nhẽ ra sau khi Chương Hạc Thư tách khỏi đại tộc Chương thị, con gái của ông ta không có tư cách tham dự cung yến, nhưng La thị mẫu thân của Chương Nguyên Gia là chị em họ với Dụ Thân vương phi, Dụ Thân vương phi rất thích cô cháu gái thùy mị này, nên đã dẫn nàng theo đến cung yến lần đó.

Khi Triệu Sơ vào tiệc, chỉ nhìn qua đã thấy ngay Chương Nguyên Gia, nàng mặc váy lụa màu hạnh, lặng lẽ ngồi trong góc, tựa bông cúc hé nở sau mưa.

Về sau khi tham dự buổi gia yến khác, Triệu Sơ vô tình hỏi một câu trước mặt Vinh Hoa trưởng công chúa, “Nguyên Gia cô nương nhà họ Chương có đến không?”

Trưởng công chúa là ai, nghe một hiểu mười, sau đó trong những buổi cung yến hay gia yến lớn nhỏ, gần như đều có một đệm ngồi dành cho Chương Nguyên Gia. Thỉnh thoảng vào những dịp lễ nhỏ như Thất tịch hay Hàn thực, Triệu Sơ đến cung Tây Khôn thỉnh an, thường hay thấy Chương Nguyên Gia bên cạnh Hà Thái hậu.

Chương Nguyên Gia luôn cho rằng mình và Triệu Sơ dần dần nảy sinh tình cảm trong nhiều lần gặp gỡ sau đó. Về sau có một lần, nàng và Triệu Sơ ngồi trên tháp cao chờ mặt trời mọc, tựa vào nhau mà ngủ thiếp đi, lúc tỉnh lại chẳng biết đã là canh nao. Nàng bồn chồn sợ hãi, sợ bị đối phương nhận ra lòng mình, bởi dẫu sao người nàng thích cũng là Đông Cung thái tử.

Thật ra không lâu sau lần đó, Vinh Hoa trưởng công chúa đã bảo với Triệu Sơ, “Nếu cháu nhìn trúng ai thì cứ việc nói ra, cô mẫu sẽ giúp cháu thưa chuyện với Quan gia.”

Ngay tới Chiêu Hóa đế luôn nghiêm khắc cũng thỏa mãn mong muốn của Triệu Sơ về mặt hôn nhân, “Hoàng đế cô đơn, có một người ở bên tâm sự cũng là phúc hiếm có. Đối với thái tử phi, chỉ cần có đức là đủ, gia cảnh thấp cũng không quan trọng, con luôn là đứa trẻ khiến người khác yên tâm, trẫm tin tưởng ánh mắt của con.”

Thế là Triệu Sơ đã cưới Chương Nguyên Gia như ý nguyện.

Dù rằng trong đêm thành hôn sau khi vén khăn trùm đầu, khói bụi còn sót dưới Tiển Khâm Đài khiến chàng không cách nào cười nổi, nhưng sự dịu dàng ẩn dưới vẻ điềm tĩnh ấy không bao giờ thuyên giảm.

Ngay cả khi quỳ trước giường bệnh của tiên đế, hứa sẽ làm rõ vụ án và trả lại sự thật, rất nhiều lần hạ quyết tâm, chàng cũng chưa từng nghĩ đến việc bỏ nàng.

Nhưng mà… có lẽ đây chính là số phận của bậc đế vương.

Có người bầu bạn cũng chỉ một thời gian, đã ấn định rằng sẽ phải cô đơn trên con đường dài ấy, conư sóng nhân quả của quá khứ đã đẩy họ đến ngã rẽ, nhưng bọn họ không thể bỏ lại tất cả, cùng chạy về bến bờ bên kia như những cặp đôi bình thường.

Đó là lí do tại sao không có biện pháp lưỡng toàn.

Triệu Sơ nói: “Nàng nói những năm qua nàng đã làm sai, nàng không nên chỉ làm vợ của trẫm, mà còn phải là Hoàng hậu của trẫm.”

“Đầu xuân năm Chiêu Hóa thứ mười bốn, trẫm thành hôn, người trẫm chờ đón ở Đông Cung chưa bao giờ là một Hoàng hậu, mà chỉ là người vợ kết tóc của trẫm.”

Triệu Sơ ngồi xuống, nhìn vào đôi mắt ngấn lệ của Chương Nguyên Gia, “Nàng nói đã không đi cùng ta trên quãng đường qua, nàng sai rồi, chính vì hai ta luôn coi nhau như vợ chồng bình thường nên ta mới không thấy cô đơn, giúp ta đi tiếp trong mấy năm nay. Nên về sau dù có xảy ra chuyện gì, thì ở đây,” Triệu Sơ đưa tay đặt lên tim, “Không ai có thể cướp đi vị trí này của nàng.”



Ý chỉ phế hậu được âm thầm ban xuống, trong buổi chầu mấy ngày sau, Triệu Sơ soạn thánh chỉ rồi làm như nhân tiện nhắc đến.

Quần thần im phăng phắc, chỉ có quan viên bộ Lễ đứng ra nhận chỉ.

Thánh chỉ phế hậu vị của Chương thị Nguyên Gia, giáng xuống làm Tĩnh phi, phạt đến chùa Từ Ân hối lỗi chuộc tội, không được về kinh trong vòng mười năm.

Ba hôm sau, Chương Nguyên Gia rời cung, mùa đông năm nay không quá khắc nghiệt, trải qua vài trận tuyết lại có dấu hiệu ấm lên. Ngày Chương Nguyên Gia rời cung, trời đổ cơn mưa, mưa phùn không ngớt, phi tần trong cung đều tới tiễn đưa nàng, ngay cả Vân mỹ nhân đang bệnh cũng có mặt. Chương Nguyên Gia đứng trong làn mưa mỉm cười tạm biệt mọi người, sau đó dẫn y bà và tì nữ, hành trang gọn nhẹ lên đường về nơi xa.

Tối ngày Chương Nguyên Gia rời đi, mũ phượng và huy y đã trả lại hoàng từ được một cô cô trong cung lấy ra, đem về lại điện Nguyên Đức.

Tiểu cung nữ đi cùng cô cô hỏi, “Cô cô, Quan gia bảo chúng ta đưa y phục của phế hậu tới đây, vậy sau này tân hậu mà thấy thì các nô tì nên trả lời thế nào?”

“Tân hậu?” Cô cô bật cười, “Làm gì còn có tân hậu nữa? Thậm chí trong triều đại này, chúng ta cũng sẽ không có Hoàng hậu.”

Nàng thu dọn huy y, đi về phía cửa điện. Trăng tròn vành vạnh, người ở điện Nguyên Đức phần lớn đã tản đi, đêm nay vô cùng yên tĩnh, cũng may đêm không lạnh lắm, mùa đông năm nay cũng ấm áp, cô cô cười bảo: “Mùa đông ấm cũng tốt, thích hợp dưỡng sinh, đợi Tĩnh phi đến chùa Từ Ân, có lẽ tiểu hoàng tử cũng sẽ chào đời bình an.”

Cung nữ lấy làm khó hiểu, “Cô cô, Tĩnh phi là phi tần có tội, con của nàng vẫn được xem là hoàng tử sao?”

“Đương nhiên rồi.” Cô cô nhìn trăng tròn trên cao, “Trong lòng Quan gia, không một đứa trẻ nào hơn con của Tĩnh phi. Đứa bé trong bụng Tĩnh phi chẳng những sẽ là hoàng tử, mà nhiều năm nữa, chờ khi mọi thứ chìm vào quá khứ, cậu ấy sẽ còn là thái tử của chúng ta đấy. Cứ đợi tương lai đi.”
 
Chương 209


“Tí nữa trưởng công chúa có hỏi vì sao ta lên kinh đã lâu mà không đi bái kiến người, ta phải trả lời thế nào đây?”

“Nếu trưởng công chúa không thích món quà ta đã chuẩn bị thì làm sao bây giờ?”

“Ta và quan nhân đã thành thân, vậy mà chưa dâng được ly trà nào cho trưởng công chúa, liệu người có ghét ta không?”

Xe ngựa chạy băng băng trong cung. Từ lâu trưởng công chúa đã nói muốn gặp Thanh Duy, sau đêm thẩm vấn ở điện Tuyên Thất, Tạ Dung Dữ bù đầu vào chính sự, mãi đến hôm nay mới có dịp rảnh dẫn Thanh Duy vào cung. Thanh Duy thấp tha thấp thỏm suốt đường đi, hỏi liên tục câu này đến câu khác.

Đức Vinh đánh xe ngựa, nghe vậy cười nói: “Thiếu phu nhân cứ yên tâm, trưởng công chúa tốt tính lắm, sẽ không làm khó thiếu phú nhân đâu.”

Lưu Phương và Trú Vẫn cũng góp lời: “Đúng vậy đấy ạ, thiếu phu nhân cứ thả lỏng đi, vả lại lúc thiếu phu nhân không ở kinh thành, công tử đã khen người không ngớt lời với trưởng công chúa, nên trưởng công chúa thích người lắm.”

Thanh Duy ngạc nhiên nhìn Tạ Dung Dữ, “Chàng khen ta với trưởng công chúa á?”

“Ừ.” Tạ Dung Dữ khẽ gật đầu, mỉm cười nói, “Chính xác hơn là kể mấy chuyện hồi bé nàng gây họa ở núi Thần Dương, mẫu thân nghe thấy thú vị lắm.”

Thanh Duy bất mãn: “Sao chàng lại…”

Nàng định chất vấn Tạ Dung Dữ sao lại kể trưởng công chúa những chuyện đó, nhưng nghĩ lại thì y có thể nói gì được nữa đây?

Từ nhỏ đến lớn, nàng chưa bao giờ là đại gia khuê tú ở trong khuê phòng.

“Vì thế,” Tạ Dung Dữ điềm đạm nói tiếp, “Mẫu thân ta biết nàng trưởng thành như thế nào, cũng biết nương tử ta thích là người ra sao. Đến trước mặt bà ấy, nàng cứ là chính mình là đủ, nếu bà ấy hỏi gì thì nàng cứ trả lời, yêu ai yêu cả đường đi, bà ấy sẽ thích nàng cho xem.”

Xe ngựa đến thành Tử Tiêu, lính gác trông thấy Đức Vinh, biết Tiểu Chiêu vương vào cung, thế là không kiểm tra thẻ mà mời bọn họ đi vào. A Sầm cô cô đã đứng chờ ngoài điện Chiêu Doãn, thấy Tạ Dung Dữ, bà đi đến đón: “Trưởng công chúa biết điện hạ vào cung, trước giữa trưa đã gác lại rất nhiều công việc, cố ý dành thời gian giám sát nhà bếp làm đồ ăn đấy ạ.”

Vào trong điện, bên trong xếp bàn chính và bàn phụ, bàn phụ là một chiếc bàn dài dành cho hai người ngồi, quả nhiên trên bàn có rất nhiều bánh ngọt. Tạ Dung Dữ và Thanh Duy hành lễ với trưởng công chúa, ngồi vào bàn phụ, trưởng công chúa nhìn Thanh Duy, từ tốn bảo: “Lần trước Trú Vân vào cung, có nhắc qua sở thích ăn uống của con, bổn cung nhớ con không thích ăn ngọt, bánh khoai môn trước mặt con chỉ rưới ít mật mận, con nếm thử xem có vừa miệng không?”

Thanh Duy nghe lời cắn một miếng, dè dặt đặt xuống, “Vừa lắm ạ.”

Trưởng công chúa thấy nàng rụt rè thì bật cười, càng dịu dàng hơn, “Con không phải người trong cung, nếu bổn cung muốn gặp con thì lẽ ra nên hẹn ở phủ công chúa mới phải, nhưng gần đây trong cung trăm nghìn công việc, bổn cung không phân thân nổi, đành làm phiền con một chuyến vậy.”

Phủ công chúa ở thành đông, cách Giang gia không xa, Tạ Dung Dữ đã dẫn Thanh Duy ghé thăm một lần.

Bây giờ Hoàng hậu đã bị phế, mấy người Di tần vẫn chưa quen việc lục cung, thành thử trưởng công chúa khó mà rời cung.

Tạ Dung Dữ vội xua tay, “Con là tiểu bối, phải là con nên vào bái kiến trưởng công chúa mới đúng, với cả dạo này con cũng rảnh rỗi, đi nhiều cũng không sao.”

Nàng dừng lại, nhớ ra mình đã chuẩn bị quà cho trưởng công chúa, lật đật nhận lấy hộp gấm từ tay Trú Vân, đích thân đem đến đặt xuống bàn của trưởng công chúa. Trong hộp là ba vị tiên nhân Phúc, Lộc, Thọ được khắc từ tủy ngọc, đứng trên bệ gỗ hạch đào, bên cạnh còn có hạc tiên và ao sen tạc từ ngọc, bên trái trồng một cây thông xanh, dưới thông xanh có một bàn cờ vây, quân cờ rải rác trên mặt đất.

Trưởng công chúa thích lắm, thấy hầu hết nhân vật trên bệ gỗ đều làm từ ngọc, chỉ có thông xanh và bàn cờ là kết từ lá trúc, bà tò mò hỏi: “Có phải con tự làm không?”

Thanh Duy đáp: “Vâng ạ.”

Nàng không phải kiểu có thể nhanh chóng kết thân với mọi người, miệng không ngọt và càng không cố ý lấy lòng. Nàng nghĩ một lúc, đoạn nói thật: “Thợ làm ngọc là do Quan nhân tìm giúp con, cả Lưu Phương và Trú Vân cũng chọn chất ngọc cùng con, chỉ có thông xanh và bàn cờ là con tự làm, con không khéo như cha con, không làm được mấy thứ tinh xảo, đã khiến trưởng công chúa chê cười rồi.”

Tuy nàng nói vậy, chứ cây thông xanh nhỏ và bàn cờ trông không khác gì đồ thật.

Mặc dù Ôn Tiểu Dã có tính khí của người họ Nhạc, nhưng sự khéo tay này lại được thừa hưởng từ Ôn Thiên.

Trưởng công chúa bỗng nhớ ra Tạ Dung Dữ có một cây quạt nan tre, nghe nói do Thanh Duy tự làm, luôn đem theo bên người, cho nên càng nhìn món quà trước mắt bà lại càng thích. Thanh Duy thấy trưởng công chúa không nói gì, giống như một cô học trò chờ bị phạt trong học đường, thấp thỏm đứng trước bàn, cho tới khi Tạ Dung Dữ gọi “Tiểu Dã”, nàng mới vội vàng về chỗ ngồi.

Trưởng công chúa bảo A Sầm cất bệ gỗ hạch đào, nói với Tạ Dung Dữ, “Dữ nhi, con ra ngoài đi, ta có chuyện muốn nói riêng với Tiểu Dã.”

Tạ Dung Dữ đã thấy thái độ của trưởng công chúa với Thanh Duy, nghe vậy liền yên tâm đáp một tiếng rồi lui ra.

“Sống ở kinh thành đã quen chưa?” Đợi Tạ Dung Dữ rời đi, trưởng công chúa hỏi.

“Quen rồi ạ, người ở Giang gia cũng rất tốt với con.”

“Sau này thì sao? Có định ở lại kinh thành lâu dài không?”

Thanh Duy ngẩn ra, nàng chợt nhớ lại năm ngoái khi xông vào cung cấm, Tạ Dung Dữ dẫn nàng đến điện Chiêu Doãn, trưởng công chúa cũng hỏi nàng hai câu này.

Ở có quen không? Có định ở lại mãi không?

Lúc đó nàng chỉ có một mình không bị ai ràng buộc, nên trả lời rất dứt khoát, nói mình sinh ở chốn dân gian, chỉ thuộc về dân gian, nhưng bây giờ đã khác, nàng không còn một mình nữa, nàng và Tạ Dung Dữ là vợ chồng kết tóc se tơ.

Thanh Duy nghĩ ngợi, đáp: “Con không biết ạ, con vẫn chưa bàn với quan nhân về chuyện này. Trước kia con cảm thấy kinh thành không phù hợp với mình, nhưng sau khi trải qua những chuyện kia, nhất là đêm thẩm vấn ở điện Tuyên Thất, con cảm thấy kinh thành cũng không đến nỗi tệ như con nghĩ, mà thật ra con ở đâu cũng được, kinh đô, Trung Châu, Thần Dương, hoặc là nơi nào đó xa hơn, tùy ý của quan nhân ạ. Có điều dạo này sư phụ con cứ liên tục gửi thư đến, giục con về Thần Dương sửa mộ cho mẹ, trước đó con còn phải ghé Lăng Xuyên một chuyến, lấy lại hài cốt của cha trong khu mộ tù nhân, nên có lẽ phải đi một năm nửa năm ạ.”

Nói đoạn, nàng như nghĩ đến điều gì đó, vội vàng bảo, “Trưởng công chúa đừng lo, nếu người muốn quan nhân ở lại kinh thành thì một mình con làm những chuyện đó cũng được.”

Trưởng công chúa bật cười, “Hai con là vợ chồng, bổn cung đâu thể giữ Dữ nhi ở lại, để con rời kinh một mình được. Hơn nữa các con đã thành thân, cha mẹ của con chẳng phải cũng là cha mẹ của Dữ nhi sao?”

Bà nhìn Thanh Duy, có lẽ vì tính cách dứt khoát nói đi là đi của Ôn Tiểu Dã nên Dữ nhi mới thích con bé đến vậy.

“Với cả, chưa chắc Dữ nhi nó đã muốn ở lại kinh thành. Con có biết vì sao trong kinh không có phủ Chiêu vương không?”

Tạ Dung Dữ là vương, đáng nhẽ ra năm mười tám tuổi nên mở nha xây phủ, vậy mà giờ đây y đã hăm ba, trong kinh vẫn chưa có phủ Chiêu vương. Chớ nói Thanh Duy mỗi lần lên kinh đều ở Giang phủ, mà nhiều năm qua, ngay đến Tạ Dung Dữ cũng chỉ qua lại ba nơi điện Chiêu Doãn, phủ công chúa và Giang gia.

Triều đình chưa từng bạc đãi Tiểu Chiêu vương, không xây phủ Chiêu vương chỉ có thể là ý của Tạ Dung Dữ.

Thanh Duy hỏi: “Chàng không cho xây ạ?”

Trưởng công chúa khẽ thở dài, “Năm năm đầu khi Dữ nhi mới chào đời, thằng bé luôn ở bên phụ thân nó. Phụ thân nó xuất thân từ Tạ thị Trung Châu, Tạ gia ấy, người này còn bất kham hơn người kia. Thuở trẻ, phụ thân của Dữ nhi đi khắp núi sông, thậm chí vượt qua Cật Bắc lên đến Thương Nỗ, đi qua Đông hải tới cả nước khác. Đi càng nhiều, càng biết về sự hùng vĩ của núi sông Đại Chu, càng không chịu nổi khi có dị tộc chà đạp lãnh thổ. Sau khi phụ thân Dữ nhi ra đi, tiên đế phong vương cho thằng bé, đón nó vào cung ở. Thực ra tính Dữ nhi hồi nhỏ giống phụ thân nó lắm, rất khó kiểm soát, có lần phụ thân và các sĩ tử ngâm thơ ca hát ở Huệ Phong Lâu, nó nằng nặc đòi theo bằng được. Nhưng từ khi Dữ nhi vào cung, tính cách bỗng thay đổi, trở nên trầm mặc ít nói, càng lúc càng trầm tính hơn, ta cứ tưởng vì nó thấy buồn do phụ thân qua đời, nhưng nay nghĩ lại mới thấy không hẳn vậy, chung quy là do tiên đế đã quàng hai chữ ‘Tiển Khâm’ lên người nó, trói buộc nó, thành thử nó chỉ có thể là chính mình trong mấy năm đóng giả làm ‘Giang Từ Chu’.”

“Hồi năm Chiêu Hóa thứ hai, tổ mẫu của Dữ nhi lên kinh thăm nó, Dữ nhi từng bảo ‘có thể theo tổ mẫu về Giang Lưu được không’, chỉ trách ta lúc đó ấy nhận ra đó mới là ý muốn của nó, nó luôn biết mình cần gì, đáng nhẽ ra ta nên đồng ý với nó, nếu vậy về sau đã không…”

Nói tới đây, trưởng công chúa hối hận, “Thế hệ nào nợ thế hệ ấy, vì sao lại áp đặt quá khứ của Thương Lãng Tiển Khâm lên người nó, quá không công bằng.”

Tiếc rằng mãi về sau, trưởng công chúa mới phát hiện, ngoài công văn phê duyệt đề tên Thanh Chấp, Tạ Dung Dữ chỉ dùng Dung Dữ khi gửi thư cho người thân.

Phát hiện y không muốn xây phủ Chiêu vương ở kinh thành, là bởi vì dù y sinh ra ở đây lớn lên ở đây, nhưng y lại thấy bản thân chỉ như khách qua đường.

“Sau khi Tiển Khâm Đài sập, bổn cung nghe đại phu chữa trị cho nó nói, lúc đưa người ra, toàn thân bê bết máu, tay phải đã gãy, bên trái bụng rách một đường, chảy máu gần ba ngày, suýt đã không qua khỏi.”

Đáng sợ nhất là khi bị chôn vùi dưới đống đổ nát tối tăm không ánh mặt trời, không biết sẽ chết lúc nào, chỉ nghe thấy những người xung quanh rê.n rỉ trong đau đớn rồi từ từ mất mạng, cuối cùng đổ hết mọi lỗi lầm lên đầu mình, dẫu được cứu nhưng thân thể đã bị hãm sâu.

Thanh Duy im lặng nghe trưởng công chúa kể.

Nàng chưa bao giờ hỏi Tạ Dung Dữ rằng y đã trải qua những gì khi mắc kẹt dưới Tiển Khâm Đài, vì sợ chạm vào vết thương lòng của y. Nhưng nàng đã thấy vết sẹo kéo dài trên tay và bụng trái của y, thậm chí cũng chạm vào rất nhiều lần, giờ nghe trưởng công chúa kể mới nhận ra, cơn ác mộng quấy nhiễu Tạ Dung Dữ bao năm còn đáng sợ hơn nàng tưởng tượng rất nhiều.

Thanh Duy im lặng một lúc rất lâu, sau đó hỏi: “Làm sao mà quan nhân hết tâm bệnh vậy ạ?”

Nếu nàng nhớ không sai, cho đến một năm trước khi Tạ Dung Dữ tháo mặt nạ giữa tuyết đông lạnh giá, bệnh tình của y vẫn còn rất nghiêm trọng, không thể đứng quá lâu ngoài sáng. Nhưng năm tháng sau, khi bọn họ gặp lại nhau ở Chi Khê, bệnh của y đã chuyển biến tốt hơn nhiều. Căn bệnh suốt năm năm ròng không cách nào chữa khỏi, tại sao có thể khá lên chỉ trong vòng năm tháng ngắn ngủi? Dù như Đức Vinh đã nói, vì Tạ Dung Dữ đã quyết định muốn điều tra rõ sự thật đằng sau Tiển Khâm Đài, nhưng còn cơn ác mộng đã ám ảnh y nhiều năm, còn nút thắt chưa thể tháo gỡ trong lòng y thì sao?

Trưởng công chúa mỉm cười.

Hóa ra Dữ nhi không hề nói hết mọi chuyện cho cô nương này, hóa ra thằng bé vẫn còn lưu lại vài gốc rễ tình, âm thầm gieo vào lòng.

Đúng thế, Tạ Dung Dữ đã khỏi bệnh như thế nào?

Lúc ấy Ôn Tiểu Dã bị thương nặng rời kinh, Tạ Dung Dữ đau lòng dẫn đến tái phát bệnh cũ, thậm chí có khuynh hướng nặng thêm, trưởng công chúa đến chăm sóc y, lại thấy y mệt mỏi dựa vào đầu giường, nói: “Mẫu thân đừng lo, con sẽ khỏe lại thôi.”

Trưởng công chúa chỉ xem như y đang an ủi mình, đang định dặn y nghỉ ngơi thì y lại nói tiếp: “Vì con đã nghĩ rõ một chuyện.”

“Nếu triều đình chưa bao giờ xây dựng Tiển Khâm Đài, nếu Tiển Khâm Đài không sập, thì liệu con có gặp được Ôn Tiểu Dã không?”

“Nên là, nếu không tính đến sống chết của người khác, không tính đến những hậu quả sau khi Tiển Khâm Đài sập, nếu chỉ quan tâm tới lợi ích cá nhân, nếu Tiển Khâm Đài sập chỉ là để gặp nàng…”

Tạ Dung Dữ nhắm nghiền mắt, cơn đau tột đỉnh của năm năm trước, hối hận và ác mộng như lăng trì suốt năm năm qua, những ngày tháng không thể ra sáng lướt qua tâm trí, cuối cùng hình ảnh dừng lại ở ngõ Lưu Thủy, có cô gái đội nón đụng đổ rượu của y; trong đêm tân hôn, y cầm gậy như ý vén khăn trùm đầu.

“… Thì con bằng lòng gánh chịu tai họa ấy.”



Trưởng công chúa không giải thích, chỉ từ tốn nói: “Không có gì, nghĩ thông rồi thì ác mộng không còn là ác mộng nữa, bệnh cũng theo đó mà khỏi thôi.”

Đoạn, bà cười bảo: “Tiểu Dã à, nếu con và Dữ nhi đã thành thân, vậy sau này gặp ta cũng đừng gọi là trưởng công chúa nữa, gọi là mẫu thân đi.”
 
Chương 210


Chẳng mấy chốc tà dương đã buông, trưởng công chúa và Thanh Duy tán gẫu thêm một hồi, thấy Tạ Dung Dữ vẫn chưa về thì gọi A Sầm lại hỏi, A Sầm đáp: “Lúc nãy Kỳ hộ vệ ở Huyền Ưng Ti tới tìm, hình như có chuyện gấp nên điện hạ đã đến nha môn rồi ạ.”

Bấy giờ đã sắp sửa kết án, đáng nhẽ ra nha ti các bộ không còn bận rộn nữa, tuy nhiên, sau đêm thẩm vấn ở điện Tuyên Thất, dù cơn giận của sĩ tử trong kinh đã lắng thì khi tin tức lan truyền đến địa phương, vì không có quan viên triều đình đứng ra giải thích nên những lời chất vấn vẫn chiếm đa số, thậm chí có người nghi ngờ triều đình che giấu chân tướng, đưa lão thái phó, Trương Chính Thanh ra làm dê thế tội, có cả sĩ tử địa phương dâng thư, yêu cầu tháo dỡ Tiển Khâm Đài mới xây, chính vì vậy triều đình mới thêm nhiều việc.

Thanh Duy và trưởng công chúa cũng biết chuyện này, nghe nói Tạ Dung Dữ bị gọi đi, tưởng lại có sĩ tử địa phương dâng thư, nào ngờ một lúc sau, Tạ Dung Dữ quay về, vội vã gọi: “Tiểu Dã, nàng lại đây.”

Nét mặt y nom khá nôn nóng, Thanh Duy đoán có lẽ đã xảy ra chuyện, lật đật đi tới, lại nghe thấy y nói nhỏ: “Tào Côn Đức sắp không xong rồi, nàng có thể đến gặp ông ta được không?”

Thanh Duy ngạc nhiên.

Lần trước nàng xông vào cung cấm, dù Tào Côn Đức có dấu hiệu ốm yếu nhưng nhìn qua không có vẻ đáng ngại, sao chưa gì lại trở nặng rồi?

Nhưng ngẫm kỹ cũng chẳng lạ. Tào Côn Đức hít thứ kia gần như từ năm này sang năm nọ, vốn đã có hại cho cơ thể. Lần trước đến Đông xá, nàng thấy hộp gỗ lim đựng thứ bột đó đã bám bụi, nếu không phải bệnh nặng, có thái y dặn dò thì làm gì có chuyện ông ta dễ dàng cai nghiện? Tiếc rằng cuối cùng Tào Côn Đức vẫn không thắng được cơn nghiện, cơ thể đã bị bào mòn quá mức.

Thanh Duy gật đầu.

Tạ Dung Dữ kéo nàng hành lễ với trưởng công chúa: “Xin mẫu thân thứ lỗi tụi con không tiếp chuyện được nữa.”

***

Tào Côn Đức là trọng phạm nên đương nhiên không được ở Đông xá, song có lẽ vì lão đã phục vụ hai đời hoàng đế, cộng thêm đang bị bệnh nặng, thành thử bộ Hình không nhốt lão vào ngục giam.

Hậu viện nha môn có một căn buồng trống, Thanh Duy đẩy cửa ra, một lão già tóc bạc phơ nằm trên giường gỗ đơn sơ.

Tào Côn Đức rất già, nhưng Thanh Duy chưa bao giờ liên hệ lão thái giám này với chữ “già” cả, dường như với những người trôi nổi nay đây mai đó như bọn họ, năm tháng tuổi tác đã bị lu mờ trước sự gian xảo ngày một tăng, cho nên cái “già” không hề nổi bật, thậm chí vào lúc này đây, trông lão cũng không có vẻ già yếu lụm khụm, dầu mặt mày xám xịt nhưng trong mắt vẫn lóe lên tia giảo hoạt, nghe thấy tiếng mở cửa, lão quay đầu lại nhìn rồi bật cười.

Tiếng cười khô khốc, theo sau là tràng ho khan, hiển nhiên đã lâu không được uống nước.

Thanh Duy thoáng dừng chân trước cửa rồi đi tới trước bàn, rót một cốc nước đưa cho Tào Côn Đức.

Tào Côn Đức đã không thể nắm nổi đồ vật, nhận lấy cốc mà tay run bần bật, nước vương vãi ra ngoài. Lão từ từ uống, sau khi uống hết thì khá hơn rất nhiều, ngay tới giọng cũng kéo dài như trước, “Còn tưởng ai đến thăm ta lúc này, ngoài a đầu ngươi ra, còn có ai vào đây nữa.”

Lão nheo mắt nhìn, trong phòng chỉ có một ngọn đèn dầu, lão cẩn thận quan sát Thanh Duy.

Gương mặt Thanh Duy trắng trẻo sạch sẽ, nếu như nhan sắc của nàng ngày bé còn bị hạn chế, phải ngắm nhiều hơn mới thấy được vẻ đẹp của nàng, thì giờ đây nàng đã trưởng thành và lập gia đình, vẻ đẹp được cất giấu bên trong bỗng tỏa ra, không còn tấm áo choàng đen rộng lớn che đậy, trở nên xinh đẹp bắt mắt, nàng đã không cần dùng vết bớt xấu xí kia để che giấu thân phận.

Tào Côn Đức hỏi: “Triều đình đã xóa tội cho cha ngươi chưa?”

Thanh Duy đáp: “Vẫn chưa.”

Tào Côn Đức thong dong nói: “Nhưng mà ấy, muốn xóa tội cho Ôn Thiên cũng đâu dễ? Hắn là tổng đốc công, cho dù có oan cũng phải chịu trách nhiệm, trừ khi có kẻ đứng ra sẵn sàng gánh vác tội lỗi thay hắn, bằng không, dù nặng hay nhẹ, triều đình vẫn phải xử, thân phận con gái của tội danh như ngươi, cũng không xóa nổi.”

Thanh Duy: “Ta biết.”

Thấy Thanh Duy dửng dưng kiệm lời, Tào Côn Đức chợt cười, “Hồi trước nhặt được ngươi, ngươi cũng giống hệt lúc này, nhiều năm trôi qua ngươi vẫn không thay đổi, gặp người mình không thích, một chữ cũng không nói nhiều. Ngay từ đầu ta đã nghĩ nhé, con a đầu này có chính kiến đấy chứ, ít nói nhưng tỉnh táo, giữ ở bên cạnh, mai sau ắt có chỗ cần dùng.”

“Nên nghĩa phụ cứu ta là vì đoán được ta không cam lòng trước sự ra đi vô cớ của phụ thân, có một ngày sẽ điều tra tất cả, đến lúc đó ông có thể thuận thế hành động, cho thiên hạ biết triều đình đã phụ bạc người Cật Bắc thế nào, để mọi người phải phỉ phổ Tiển Khâm Đài?”

“Lại chả?” Tào Côn Đức ung dung đáp, “Nhưng dẫu sao ngươi cũng là trọng phạm, ta không ngờ Tiểu Chiêu vương sẽ khỏi bệnh, dù ngươi có khá đến đâu thì vẫn kém xa Tiểu Chiêu vương.”

“Chỉ có Tiểu Chiêu vương mới có thể điều tra rõ vụ án, mới có thể tạo ra động tĩnh lớn đến thế, để sĩ tử tụ tập trước cửa cung đòi chân tướng.” Giọng Tào Côn Đức thấm đẫm sự đắc chí, “Tuy bây giờ các ngươi đã trấn an được bách tính trong kinh, nhưng có phải đã có sĩ tử địa phương dâng thư bất bình thay Cật Bắc, nghi ngờ chiến công của tiên đế, yêu cầu tháo dỡ Tiển Khâm Đài không?”

Thanh Duy không trả lời.

Tào Côn Đức thật sự quá thông minh, dù ở nơi tối tăm không lọt ánh sáng, lão vẫn đoán được chính xác những chuyện xảy ra bên ngoài.

Thanh Duy không muốn giải thích, Tào Côn Đức có cố chấp của lão, dù nàng có nói chưa chắc lão đã nghe, nên chỉ hỏi: “Có đáng không? Nghĩa phụ có biết vào ngày sĩ tử gây rối, Đôn Tử đã chết.”

Bất thình lình,trong mắt Tào Côn Đức lóe lên vẻ ngỡ ngàng.

Có lẽ lão đã liệu trước được chuyện ấy, nhưng khi nghe từ miệng người khác thì lại là một chuyện, bởi dẫu sao Đôn Tử cũng được một tay lão nuôi lớn.

“Chết thế nào?” Một lúc lâu sau, lão hỏi.

“Sĩ tử tụ tập làm loạn, có kẻ cướp ra tay nhân lúc đông đúc, Đôn Tử không thường xuất cung, luôn mang theo túi tiền bên người, bị kẻ xấu thấy được nên cướp giết.”

“Bị cướp giết?” Tào Côn Đức cười lạnh, “Có thật vậy không?”

Tiếng cười đó đã lấy đi không ít sức lực của lão, lão th.ở dốc, “Nó không thông minh, tính sai một nước cờ rồi.”

Rồi lão hỏi tiếp: “Gã Cố Phùng Âm… cũng chết rồi à?”

“Không, được ta cứu rồi.” Thanh Duy ngẫm nghĩ, cuối cùng quyết định nói rõ với Tào Côn Đức, “Cố thúc đã đóng các tiệm trong kinh, sau này sẽ chuyển việc kinh doanh đến Cật Bắc. Tuy nghĩa phụ luôn nghi ngờ sự lựa chọn của triều đình, nghi ngờ tiên đế dùng việc nhận nuôi cô nhi khích lệ thương nhân, khai thông thương lộ giữa Cật Bắc Trung Nguyên, nhưng không phải mấy năm sau, Cật Bắc đã dần đi lên đó ư. Mai mốt Cố thúc sẽ mở tiệm ở Cật Bắc, nói sẽ đem đồ tốt của Trung Nguyên tới Cật Bắc, để Cật Bắc phát triển hơn nữa.”

“Dối trá.” Nghe Thanh Duy nói xong, Tào Côn Đức phun ra hai chữ.

Lão nói: “Bọn ta đã điều tra Cố Phùng Âm rất rõ, hắn là kẻ giả nhân giả nghĩa. Nếu ngày trước không có Tạ thị giúp đỡ, hắn làm gì kinh doanh nổi, nên hắn mới nịnh bợ Tạ gia, hắn biết lão phu nhân Tạ gia thương Tiểu Chiêu vương nhất, nên hắn nhất quyết đưa hai đứa trẻ hắn hài lòng nhất đến chỗ Tiểu Chiêu vương. Hai đứa nó… tên gì? Cố Đức Vinh, Cố Triêu Thiên, là chủ ở Cố phủ, nhưng đến chỗ của Tiểu Chiêu vương thì lại thành người hầu. Hồi trước hắn nhận nuôi cô nhi cũng thế, Trung Châu bán biết bao nhiêu lụa Cật, ngươi cho rằng vì sao hắn có thể buôn bán lớn? Chính bởi vì nhận nuôi trẻ mồ côi mới có được danh tiếng, kêu gọi mọi người tới cửa tiệm của hắn mua hàng. Hết chuyện này đến chuyện kia, hắn đều khôn khéo tính toán kỹ, ngươi tưởng hắn tốt thật hả, hắn chính là một thương nhân giả nhân giả nghĩa.”

“Cố thúc có dối trá hay không ta không biết, chuyện đó không quan trọng với ta.” Thanh Duy nói, “Ai cũng có tư tâm, nhưng ta cảm thấy, bất kể hành động hay tấm lòng, nếu một người đạo đức giả mà giả nhân giả nghĩa cả đời, không làm hại đến ai, thì đó là người tốt. Còn nếu một kẻ có ý định ban đầu là tốt, trước sau trong sạch, nhưng chỉ cần hắn phạm phải sai lầm một lần, ắt sẽ rơi vào vạn kiếp bất phục.”

Nghe Thanh Duy nói xong, Tào Côn Đức lại cười, nhưng là nụ cười không tiếng động tỏ rõ khinh thường, như thể lão không hiểu lời Thanh Duy nói, mà cũng không muốn hiểu.

Xét cho cùng cũng không chung tư tưởng.

Tào Côn Đức nói: “Ngươi đi đi. Duyên phận của chúng ta đến đây chấm dứt.”

Thanh Duy gật đầu, nhưng ra đến cửa thì bỗng dừng bước, nàng xoay người lại, “Bất kể ra sao thì đến nay ta vẫn cảm kích ơn cứu mạng của nghĩa phụ. Dấu khoanh đỏ trên công văn truy nã, sư phụ chủ động đầu thú có thể giúp ta tạm thời không bị triều đình truy đuổi, nhưng nếu không phải nghĩa phụ giấu ta đi, đưa ta đến Thôi gia, thay đổi thân phận cho ta, nhắc nhở ta đề phòng mọi người, thì chưa chắc ta của lúc đó đã sống nổi.”

Tào Côn Đức không trả lời, lão có vẻ đã quá mệt, nhắm mắt nằm trên giường.

Thanh Duy im lặng, nhìn nắng chiều lững lờ quanh người Tào Côn Đức, trông lão còn mục nát hơn cả hoàng hôn, bèn nói: “Nghĩa phụ luôn nói mình là người không có gốc gác, nhưng nếu không có quê nhà gốc gác thì chấp niệm từ đâu ra? Đợi nghĩa phụ đi, ta sẽ đưa hài cốt của nghĩa phụ về Cật Bắc.”

Tào Côn Đức vẫn không nhúc nhích, mãi tới lúc Thanh Duy đã rời đi.

Cánh cửa đã khép lại từ lâu, hoàng hôn trong phòng dần biến mất, khóe miệng Tào Côn Đức mới run rẩy.

Như một chiếc bình đất sét được cất giữ thật lâu, không chống lại nổi sự xói mòn gió sương, cuối cùng cũng xuất hiện vết nứt.

Nét mặt lão không rõ là khóc hay cười, xen lẫn sự khó chịu và tức giận khi bị người khác phát hiện, sau đó mới dần nhẹ nhõm, cuối cùng cũng bình tĩnh lại.

Thanh Duy rời khỏi bộ Hình, Kỳ Minh tiến lên đón: “Thiếu phu nhân, Ngu hầu có việc nên đã tới Huyền Ưng Ti rồi.”

Thanh Duy gật đầu: “Đi thôi.”

Bấy giờ đã cuối hoàng hôn. Chạng vạng ngày đông bao giờ cũng kéo dài, đầu giờ Thân mây mù bắt đầu dày đặc, nhưng phải chờ đến giờ Tuất mặt trời mới hoàn toàn khuất sau núi, âm dương giao thoa. Trong gió đêm, Thanh Duy theo Kỳ Minh đến Huyền Ưng Ti, sực nhớ hồi xưa cũng có rất nhiều lần giống bây giờ, Đôn Tử đi trước xách đèn, dẫn nàng đi qua trường lang trong cung. Hôm nay phong cảnh vẫn thế, nhưng người đã không còn.

Nghĩ đến đây, Thanh Duy bỗng nhớ lại lúc nãy Tào Côn Đức đã hỏi Đôn Tử chết thế nào.

“Bị cướp giết? Có thật vậy không?”

“Nó không thông minh, tính sai một nước cờ rồi.”

Tào Côn Đức là hạng vô tình, nhưng Đôn Tử được chính tay lão nuôi lớn, biết Đôn Tử bị cướp giết trên phố, vì sao lão không đau lòng hay tức giận mà lại chỉ nghi ngờ, vì sao lão lại nói, Đôn Tử ‘sai một nước cờ’?

Thanh Duy khựng bước.

“Thiếu phu nhân?” Kỳ Minh hỏi.

“Là ai phụ trách điều tra cái chết của Đôn Tử ngày hôm đó?”

“Hình như là Điện Tiền Ti?” Kỳ Minh đáp, “Hôm ấy quá loạn, Điện Tiền Ti tìm được thi thể của Đôn Tử thì giao thẳng cho Kinh Triệu Phủ, có vẻ Kinh Triệu Phủ cũng không kiểm tra kỹ, dù sao cũng là trọng phạm chờ xử tử mà.”

Thấy sắc mặt khác thường của Thanh Duy, Kỳ Minh hỏi: “Có phải thiếu phu nhân nghĩ tới chuyện gì rồi không? Chỗ Ngu hầu có hồ sơ vụ án do Kinh Triệu Phủ đưa tới, thiếu phu nhân có thể đi hỏi Ngu hầu.”

Mặt Thanh Duy trắng bệch: “Nhanh lên, mau dẫn ta đi gặp chàng!”
 
Chương 211


“… Án mạng xảy ra ở ngõ Trường Xuân, hiện trường có dấu vết giãy giụa, tiền bạc trên người Đôn Tử bị lấy sạch, kẻ cướp đã bị bắt ngay trong đêm, bị dẫn đến Kinh Triệu Phủ thẩm vấn.”

Tại Huyền Ưng Ti, thấy Thanh Duy muốn hỏi chi tiết về cái chết của Đôn Tử, Tạ Dung Dữ vừa nhớ lại vụ án vừa lật hồ sơ.

Nội dung ghi trong hồ sơ không nhiều, Tạ Dung Dữ đọc lướt qua, không khỏi nhíu mày.

Thanh Duy mới hỏi: “Quan nhân, có phải vào ngày bách tính tụ tập trước cửa cung, trong kinh chỉ có một mình Đôn Tử gặp nạn thôi không?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, không trả lời mà ra lệnh cho Kỳ Minh, “Ngươi hãy tức tốc đến Kinh Triệu Phủ hỏi xem vụ án của Đôn Tử đã xong chưa, đem lời khai của tên cướp về đây cho ta.”

Kỳ Minh đáp vâng, cưỡi ngựa lao nhanh ra khỏi cung, chưa tới một canh giờ đã quay trở lại.

“Bẩm Ngu hầu, phía Kinh Triệu Phủ nói vào ngày sĩ tử tụ tập ở cửa cung, tuy trong kinh có không ít người gặp cướp bị thương nhưng đúng là chỉ có một mình Đôn Tử chết. Kinh Triệu Phủ đã thẩm vấn tên cướp nhiều lần nhưng hắn ta nhất quyết phủ nhận, hắn nói lúc gặp Đôn Tử thì Đôn Tử đã thoi thóp, hắn chỉ lấy tiền chứ không giết Đôn Tử, do đó mà Kinh Triệu Phủ vẫn chưa nộp công văn kết án.” Kỳ Minh nói, đoạn chắp tay xin lệnh, “Thuộc hạ đã dẫn tên cướp kia đến đây, Ngu hầu và thiếu phu nhân có muốn thẩm vấn không?”

Tên cướp bị dẫn vào, vừa thấy Tạ Dung Dữ thì như bắt được cọng rơm cứu mạng, quỳ thụp xuống đất, “Quan gia, xin quan gia điều tra kỹ, đúng là tiểu nhân có cướp bóc không ít, nhưng tuyệt đối chưa bao giờ làm hại tính mạng ai.”

“Ngươi nói ngươi chưa từng làm hại tính mạng ai, vậy giải thích thế nào về hung khí ngươi để lại cạnh thi thể?” Thanh Duy hỏi.

“Hung khí…” Tên cướp sửng sốt, lại như nhớ ra chuyện gì đó, hắn nói, “Đúng là hôm ấy tiểu nhân có đem theo một con dao găm, nhưng chỉ dùng để hù dọa thôi, thực sự không dám hại ai. Sau đó tiểu nhân gặp vị công tử áo lụa kia, chính là công công gì đó đã chết, ban đầu dự tính dọa để hắn tự nộp tiền ra, nhưng đến gần mới phát hiện trên cổ hắn có vết máu, sắp tắt thở tới nơi rồi, tiểu nhân bèn lục lọi lấy tiền của hắn… Còn con dao găm, vì lúc đó có vị quan đi ngang qua đầu ngõ, tiểu nhân sợ quá, lúc chạy trốn vô tình làm rơi dao găm.”

Kỳ Minh giải thích, “Thuộc hạ đã hỏi Kinh Triệu Phủ rồi, trên thi thể của Đôn Tử có hai vết thương, một đúng như tên cướp vừa nói, là vết bầm ở cổ, vết còn lại là vết đâm trên bụng, ngỗ tác đã nghiệm thi, đó chính là vết đâm chí mạng.”

Nói đoạn, hắn quay sang chất vấn tên cướp, “Ngươi còn không mau khai thật? Đôn Tử công công đã bị chính ngươi dùng dao găm đâm chết. Ngươi nói có quan viên đi ngang đầu ngõ nên ngươi mới làm rơi dao, nhưng đáng tiếc, hôm ấy các sĩ tử lại tập trung ở cửa cung, triều đình dừng buổi chầu, hầu hết quan viên các bộ đều ở trong phủ, ngoại trừ cấm vệ quân của Điện Tiền Ti đang tuần tra. Cấm vệ quân truy lùng Đôn Tử, nếu bọn họ thấy ngươi và Đôn Tử thì đã bắt ngươi ngay lúc đó rồi, làm gì có chuyện tha cho ngươi trốn tới tận đêm?”

“Quan gia, tiểu nhân xin thề là mình nói thật, tuyệt không dối gạt nửa câu.” Hai mắt tên cướp đầy vẻ sợ hãi, xem ra hắn thực sự không nói dối.

Tạ Dung Dữ bỗng nghĩ đến một chuyện, hỏi: “Ngươi nói vì thấy một vị quan ở đầu ngõ Trường Xuân nên mới làm rơi dao găm. Vị quan mà ngươi đã gặp trông như thế nào?”

Tên cướp vắt óc nhớ lại, “Không, không rõ ạ. Tiểu nhân không thấy mặt của người đó, chỉ nhớ y mặc quan bào, có vài người đi theo, tiểu nhân sợ quá nên không nhìn kĩ mà chạy luôn.”

“Quan bào thế nào?”

Tên cướp run run ngẩng đầu lên, nhìn Tạ Dung Dữ thưa, “Hơi, hơi giống đồ đại nhân ngài đang mặc.”

Hôm nay Tạ Dung Dữ không mặc trang phục Ngu hầu của Huyền Ưng Ti, chỉ mặc thường phục màu đen.

Bào phục của quan văn Đại Chu từ tứ phẩm trở lên cũng màu đen.

Nếu tên cướp không nói dối, thì có nghĩa rằng, vị quan hắn gặp ở đầu ngõ ngày hôm đó không phải cấm vệ quân đang đi tuần, mà là một văn thần từ tứ phẩm trở lên.

Chắc chắn người này có nhìn thấy Đôn Tử, nhưng thứ nhất hắn không ra tay cứu giúp, thứ hai cũng không bẩm báo với triều đình, để mặc thi thể của Đôn Tử bị cấm vệ quân của Điện Tiền Ti đưa đi, để mặc tên cướp bị Kinh Triệu Phủ bắt, tới nay vẫn không hé một lời.

Rốt cuộc văn thần này là ai?

Thanh Duy chợt nhớ tới lời của Tào Côn Đức, “Đôn Tử đã tính sai một nước cờ.”

Hôm đó Đôn Tử đến cửa cung là muốn đứng ra làm chứng, tuyên đọc huyết thư đã ép Cố Phùng Âm viết, vạch trần nỗi khổ của cô nhi Cật Bắc. Một khi bức huyết thư này được công khai, ắt sẽ khiến dân chúng phẫn nộ, dù triều đình có tìm ra chân tướng bố cáo thiên hạ, cũng rất khó khiến bách tính tin tưởng, đó cũng là nguyên nhân Điện Tiền Ti dốc toàn lực lùng bắt Đôn Tử.

Nhưng trùng hợp thay, Đôn Tử đã chết, bức huyết thư hắn đem theo đã được Điện Tiền Ti lục soát lấy đi.

Nay ngẫm lại, thật sự có chuyện trùng hợp như vậy ư?

Một khi bức huyết thư bị công khai, hậu quả là dân chúng càng thêm căm phẫn Tiển Khâm Đài, chắc chắn tòa Tiển Khâm Đài mới xây trên núi Bách Dương sau này sẽ không thể sừng sững mãi, và một khi bị chỉ trích phàn nàn quá lớn, triều đình buộc phải tháo dỡ Tiển Khâm Đài. Vậy ai là người không muốn thấy kết quả đó nhất?

Trương Viễn Tụ và Tào Côn Đức là đồng mưu với nhau, cho tới khi sĩ tử tụ tập ở cửa cung thì mục đích của họ vẫn còn thống nhất, nhưng sau đó, tiếng nói mà bọn họ muốn sĩ tử nghe được lại hoàn toàn trái nhau. Một người hi vọng Thương Lãng Tiển Khâm có thể mãi mãi tồn tại trong lòng thế nhân, còn người khác lại hi vọng nỗi oán hận của cô nhi Cật Bắc có thể khiến tòa tháp ấy sụp đổ lần nữa, khác biệt ở chỗ ai đánh cờ cao tay hơn.

Ai muốn Tiển Khâm Đài được hoàn thành nhất?

Ai biết rõ hướng đi của Tào Côn Đức và Đôn Tử nhất?

Ai có thể tìm được Đôn Tử trước Điện Tiền Ti?

Một cơn ớn lạnh dâng lên trong lòng Thanh Duy.

Không phải Đôn Tử bị cướp giết, hắn bị Trương Viễn Tụ giết.

Thanh Duy nhớ lại đêm thẩm vấn nọ, Trương Chính Thanh xuất hiện trên điện Tuyên Thất đã đẩy Trương Viễn Tụ rơi vào hố tuyệt vọng; nhớ lại khi lão thái phó và Trương Chính Thanh khuyên y còn có thể quay đầu, y liên tục nói đã quá trễ; nhớ lại khi Trương Viễn Tụ nhắm mắt, đau đớn nghiến răng nói với Trương Chính Thanh, rằng chi bằng huynh chết đi còn hơn.

Chi bằng chết dưới Tiển Khâm Đài.

Thanh Duy khàn giọng hỏi: “Quan nhân, Trương Nhị công tử… có phải đã đến Lăng Xuyên rồi không?”

Tạ Dung Dữ cũng kịp thời phản ứng, hạ giọng ra lệnh: “Kỳ Minh, lập tức cử người đến Lăng Xuyên, không, đến Tiển Khâm Đài ở núi Bách Dương!”

Chân trời trăng sáng sao thưa, một khắc sau, ba con khoái mã lao ra từ cửa thành Tử Tiêu, phi về hướng nam.

Nhưng cho dù không ngủ không nghỉ chạy xa ngàn dặm, phải ba ngày sau bọn họ mới đến được Lăng Xuyên. Còn Trương Viễn Tụ đã lên đường từ nửa tháng trước, hiện giờ, y đã đứng dưới Tiển Khâm Đài.

Tiển Khâm Đài sừng sững trong gió đêm, sao trời thưa thớt, dưới Tiển Khâm Đài chỉ có hai người lính một già một trẻ canh gác. Cũng đúng thôi, một tòa tháp có gì để gác chứ, huống hồ bên ngoài còn có quân đội trú đóng.

Hai người lính gác cũng chẳng mặn mà tập trung, vốn dĩ việc canh gác Tiển Khâm Đài có thể làm rạng rỡ tổ tông, nhưng khi tòa tháp sắp sửa xây xong thì trong kinh lan truyền vụ án mua bán danh sách, rồi còn kháo nhau gì mà ngày xưa Tiển Khâm Đài sập có liên quan đến lão thái phó, sĩ tử địa phương còn đồng loạt dâng thư, yêu cầu dừng việc xây dựng Tiển Khâm Đài, thậm chí có người còn nói chỉ khi nào không còn tòa tháp xây dựng sau này nữa thì mới răn đe được thế nhân.

Quân lính bọn họ nào lo được nhiều như thế, triều đình muốn làm gì thì làm, dù sao cũng không ảnh hưởng đến họ, hai người gác dưới tháp, thấy sắp đến năm mới, lại nghĩ không biết nên sắm sửa những gì.

Không lâu sau, có tiếng bánh xe lọc cọc vang lên, tiểu binh cảnh giác, thấy một cỗ xe ngựa dừng lại bên đường thì đứng dậy hỏi: “Kẻ nào?”

Hai người bước xuống xe ngựa. Một người đeo hộp đựng sách, nhìn cách ăn mặc có vẻ là người hầu. Người còn lại mặc áo xanh, khí chất tựa mây trắng, nhưng ánh mắt lại lạnh lẽo như thể đã trải qua gió sương.

Có lẽ vì người tới không mặc quan bào, nên phải đến gần thì người lính già mới nhận ra là ai, ngạc nhiên hô lên: “Trương đại nhân?”

“Trương đại nhân, sao ngài lại đến đây?”

Đại án đã kết, triều đình liên tục xử phạt rất nhiều người, người lính già không biết Trương Viễn Tụ có bị dính líu hay không, thấy y bình an vô sự đến đây thì cho rằng y vô tội, cung kính hỏi, “Triều đình cử ngài đến tiếp tục đốc công à?”

Trương Viễn Tụ không trả lời, một lúc lâu sau mới nói: “Ta đến xem thôi.”

Y đưa mắt nhìn Tiển Khâm Đài, “Đã xây xong chưa?”

“Sắp rồi ạ, có điều tấm bia dưới đài vẫn chưa được khắc chữ, bàn thờ cúng trên đài cũng chưa được lau chùi.” Người lính già đáp, “Sĩ tử biểu tình ghê quá, bên này đã đình công mấy hôm rồi, cũng không biết phải làm gì, đang chờ triều đình hạ lệnh ạ.”

Nghe thấy thế, Trương Viễn Tụ nhìn sang tấm bia chưa khắc chữ bên tay trái.

Trên tấm bia ấy, từng có Chiêu Hóa đế muốn khắc lên niên hiệu của mình, còn y lại muốn xóa đi hai chữ “Chiêu Hóa”, chỉ để lại tên của sĩ tử trầm mình dưới sông.

“Ta… lên xem thế nào.” Trương Viễn Tụ nói.

Tiển Khâm Đài được xây lại theo bản vẽ cũ, cổ kính uy nghiêm, 108 bậc đá uốn lượn, mỗi tầng có 36 bậc, nó không được xây trên sườn núi như Tiển Khâm Đài cũ mà nằm ở nơi kín gió giữa hai ngọn núi, phải tới khi lên đến đỉnh tháp, mới cảm thấy gió lạnh giữa đêm đông.

Tiển Khâm Đài cũ đã sập trước khi Trương Viễn Tụ có thể nhìn thấy, về phần tòa tháp mới, lúc y ở đây đốc công thì vẫn chưa xây xong.

Nên Trương Viễn Tụ chưa bao giờ leo lê.n đỉnh Tiển Khâm Đài này.

Bây giờ đứng nơi đây mới cảm nhận được sự bao la của hai ngọn núi, sự rộng lớn của đất trời, còn tòa tháp mới nhỏ bé làm sao.

Trương Viễn Tụ nhớ Trương Chính Thanh từng nói “người thời nay kế thừa ý chí của người đi trước”, nhớ đến hi vọng “thấy đài cao chạm mây giữa núi rừng Bách Dương”.

Ha, hóa ra đây là tòa tháp mà hai anh em họ mong mỏi được xây dựng đấy sao?

Không phải đã biết mây trắng trên trời xa thế nào ư, dù đứng trên tháp duỗi tay ra, vẫn còn cách tận muôn nghìn trùng.

Trương Viễn Tụ cảm thấy lạc lõng, hơn năm năm trước, tình cảm sâu nặng dành cho anh trai lấn át mọi nỗi buồn nhân gian, che mắt y không thấy cảnh lầm than.

Còn bây giờ khi đến đây, bao la trước mắt là cảnh núi sông lặng lẽ, cảm giác kinh hoàng khi có vô số người đã chết mới từ từ ùa đến, y nghĩ, thì ra ngoài Trương Chính Thanh, còn có rất nhiều người khác đã mất mạng dưới tòa tháp này.

Tàn tích xưa ẩn ở nơi ánh trăng không soi thấu đã bị lửa thiêu sạch, rồi về sau bọn họ lại xây một tòa tháp khác ở bên cạnh.

“Bạch Tuyền, chuẩn bị bút mực.”

Người đeo hộp đựng sách khẽ đáp, kê hộp thành bàn, trải giấy ra, hai người lính đi tới giơ đuốc chiếu sáng. Bọn họ không biết chữ, không biết Trương Viễn Tụ đang viết gì, chỉ thấp thoáng thấy sườn mặt trầm tĩnh của Trương Viễn Tụ khi chấp bút, khiến người ta không khỏi nhớ đến một cái tên khác của y – Vong Trần công tử.

Chẳng mấy chốc đã viết xong bức thư, Trương Viễn Tụ bỏ thư vào bao, lại lấy ra một túi gấm từ trong tay áo, giao hết cho hai người lính nọ, “Các ngươi hãy đến Đông An tìm Chương Lan Nhược đại nhân, nhờ ngài ấy phái ngựa chiến lên kinh, giao túi gấm này cho Tiểu Chiêu vương, trình phong thư lên ngự tiền, dâng cho Quan gia.”

Hai người lính cung kính nhận lấy.

Trương Viễn Tụ nói: “Được rồi, các ngươi lui xuống đi.”

“Công tử?” Bạch Tuyền bước lên một bước.

Trương Viễn Tụ mỉm cười, mang theo vẻ nhẹ nhõm chẳng mấy khi, “Xuống đi, ta muốn ở đây một mình một lúc.”

Không có hai ngọn núi che chắn, gió đêm trên đỉnh tháp càng lạnh thấu xương, Trương Viễn Tụ nhớ lại cách đây không lâu khi y vào cung gặp Tào Côn Đức, hành lang chốn thâm cung cũng lộng gió thế này. Lão thái giám xảo quyệt cười nói, “Trong số những người thổ lộ thật lòng với ta, Trương Nhị công tử là người thú vị nhất đấy. Chân lội bùn lầy, hài lấm bẩn nhưng vạt áo vẫn sạch sẽ; hành động rõ quả quyết sát phạt nhưng vẫn nhớ không hại người vô tội, xem ra hai chữ ‘Vong Trần’ mà lão thái phó đặt cũng trói buộc ngài ghê nhỉ.”

Nên tới tận lúc sĩ tử tụ tập ở cửa cung, lão thái giám đó vẫn cảm thấy bản thân sẽ thắng.

Lão biết Trương Viễn Tụ muốn làm gì, nhưng thứ lão đánh cược chính là sự trong sạch của Vong Trần công tử.

Song lão chẳng ngờ Trương Viễn Tụ vẫn ra tay độc, bước một bước lão cho rằng y sẽ không dám.

Cuối cùng, hai chữ “Vong Trần” vẫn không thể níu kéo được y.

Ngày hôm đó, Đôn Tử cầm huyết thư chạy đến thành Tử Tiêu, Trương Viễn Tụ đã chặn hắn lại lúc đi qua ngõ Trường Xuân, xoay mặt sang nói với ám vệ, “Ra tay đi.”

Tiếng rê.n rỉ của Đôn Tử bị tắc trong cổ họng, đúng lúc này, một tên cướp lén lút đến gần, ám vệ buộc phải theo Trương Viễn Tụ ra đầu ngõ tránh.

Tên cướp đến vì tiền chứ không có ý cứu Đôn Tử, thấy bóng dáng quan viên, hắn vội vàng chạy trốn, vô tình làm rơi con dao găm.

Ám vệ đi tới, nhặt con dao lên xin phép Trương Viễn Tụ, “Đại nhân?”

Trương Viễn Tụ hiểu ý ám vệ, nếu dùng dao găm, một người chết càng rõ ràng thì càng dễ thoát tội.

Y đứng yên một lúc lâu, đoạn gật đầu.

Dao găm đâm vào bụng khiến Trương Viễn Tụ nhớ lại rất nhiều năm trước, khi y còn nhỏ, Trương Chính Thanh dẫn y đến bờ sông Thương Lãng, nói với y phụ thân đã tự vẫn ở nơi này.

Trương Viễn Tụ nhặt một hòn đá ở bên bờ, ném xuống nước rồi hỏi, “Phụ thân đã ra đi như thế ạ?”

Tiếng đá rơi xuống sông giống hệt tiếng giết người lúc này.

Sợ Trương Chính Thanh đau lòng nên Trương Viễn Tụ chưa bao giờ nói ra, kỳ thật từ lâu ấn tượng của y về phụ thân đã rất mờ nhạt, bằng không y đã chặt nhặt đá ném xuống sông, trong lòng y, người thân duy nhất trên đời này chính là Trương Chính Thanh.

Nên lúc huynh trưởng nói Thương Lãng rửa sạch vạt áo trắng, y liền nhớ đến hai chữ Tiển Khâm; khi huynh trưởng nói muốn xây tháp, y nghĩ ngay tới tháp cao sừng sững trong núi Bách Dương.

Nay tỉnh giấc mộng, y mới nhận ra những bước mình đã đi thật quá nực cười. Tiển Khâm Đài chỉ là Tiển Khâm Đài, leo lê.n đỉnh tháp mới thấy đâu có gì, trống trải hoang vu, nào mang nhiều ý nghĩa đến vậy.

Những ngày qua Trương Viễn Tụ lại năm mơ.

Giấc mơ lặp đi lặp lại khiến người ta sợ hãi, không phải là nỗi sợ hãi đã ám ảnh y nhiều năm khi không tìm thấy thi thể người thân dư.ới phế tích, cũng không phải là cảnh Trương Chính Thanh đã thỏa mãn nói ra lời hứa trước khi đến Lăng Xuyên, trong giấc mơ, y như biến thành Trương Chính Thanh, vào đêm mưa trước khi Tiển Khâm Đài sập, y đích thân xua đuổi những công nhân đã đào kênh cả đêm.

Nhưng sau khi đuổi người về, y không rời đi như Trương Chính Thanh mà đứng nơi đó suốt đêm, nhìn dòng kênh bị phù sa chặn lại, nhìn nước đọng thành bãi, nước không có chỗ thoát, chảy ngược về phía tòa tháp.

Ở trong mơ, y tuyệt vọng nhìn trời sáng, khàn giọng khuyên những người lên đài là đừng lên nữa, đài sẽ sập đấy, thậm chí còn tìm được Tạ Dung Dữ, xin y đừng tháo cột trụ chống đỡ.

Nhưng người trong mộng đều đã bị chôn vùi trong quá khứ, dẫu y thuyết phục ra sao cũng không thể quay về.

Đã quá muộn rồi.

Cũng như việc Trương Chính Thanh xuất hiện trên điện Tuyên Thất, lão thái phó khuyên y còn có thể quay đầu, muộn rồi. Ngày ông hi vọng Vong Trần có thể quên đi tất thảy, cũng sẽ chẳng đến.

Tiển Khâm Đài sập có liên quan của Trương Chính Thanh, còn y là người thân của anh ta, phải chăng cũng cần chịu trách nhiệm trước tính mạng của những người vô tội ấy?

Nếu chấp niệm của y không quá sâu, nếu trước đó không dẫn bách tính Ninh Châu lên kinh, có phải những thương nhân buôn thuốc đã chẳng chết?

Thậm chí trước khi Đôn Tử chết, ám vệ nhặt dao găm lên hỏi ý y, thật ra y cũng giao động. Khoảnh khắc đó, y đã thấy ánh mắt giãy giụa cầu sinh của Đôn Tử. Y nghĩ, hắn làm gì có lỗi, chỉ là một đứa trẻ Cật Bắc đáng thương. Nhưng cuối cùng, Trương Viễn Tụ vẫn không quay đầu. Lúc ở Phất Y Đài, y chỉ nhặt một nắm tuyết, lau sạch vết máu dính trên ủng, rồi bước vào điện Tuyên Thất.

Đã quá muộn rồi, đôi khi chỉ cần bước sai một bước, con người ta sẽ rơi vào vạn kiếp bất phục.

Ngày xưa y ngước mắt thấy mặt trời, cúi đầu thấy bụi bặm.

Còn giờ đây, y ngước nhìn màn đêm bao la, cúi đầu nhìn đôi bàn tay rỉ máu.

Sau khi rời khỏi đại lao, Trương Viễn Tụ không biết đi đâu, cứ theo trực giác tới Tiển Khâm Đài mới xây này. Khi l.ên đỉnh tháp, y mới phát hiện mình đã đi qua nhiều lối rẽ mà chẳng hề ngoảnh lại, để rồi cuối cùng ra nông nỗi này.

Trong gió đêm lồng lộng, Tiển Khâm Đài không khác gì nước sông Thương Lãng cuồn cuộn. Sông Thương Lãng có thể rửa sạch áo trắng, có phải cũng có thể cuốn trôi bụi trần trên người y?

Dầu gì cũng đã tới bước này, thế thì cứ tiến thêm một bước nữa vậy.

Bước thêm một bước nữa là hoàn toàn có thể buông bỏ tất thảy.

Trương Viễn Tụ lặng lẽ khép mắt lại.



Trên trời mơ hồ có tiếng sấm rền vang, gió lạnh quét qua nửa đêm. Mùa đông Lăng Xuyên tuyết rơi ít, mưa lại nhiều, hai người lính gác dưới đài cảm thấy trời sắp mưa, dợm gọi bạch Tuyền đi tìm chỗ tránh mưa, nhưng đúng lúc này, trong đêm tối truyền đến âm thanh nghe như bị bóp nghẹt.

Tiếng động đó rơi xuống theo gió, khiến người nghe chấn động.

Bạch Tuyền sửng sốt, ném hộp đựng sách xuống mà lao về phía Tiển Khâm Đài, hai người lính ngơ ngác rồi dần biến sắc, tựa hồ nghĩ đến điều gì đó, bọn họ loạng choạng chạy theo Bạch Tuyền.

Sấm đông rền vang trên nền trời, tiếng sấm dậy phủ trùm cả Lăng Xuyên.

Từ lúc tỉnh dậy, Chương Đình vẫn luôn nghỉ ngơi điều dưỡng đầy đủ, nhưng không hiểu sao tối nay lăn qua lộn lại hoài cũng không ngủ nổi, bị tiếng sét đánh làm giật mình bật dậy. Hắn xuống giường định khép cửa sổ, chợt nhác thấy một tên lính lao vào phủ, âm thanh hô hoán như rạch nát màn đêm, “Chương đại nhân, Khúc đại nhân, nguy to rồi!”
 
Chương 212


“Nửa tháng qua, sĩ tử Trung Châu, Khánh Minh, Nhạc Châu cùng những nơi khác liên tục dâng thư. Đúng là có nhiều người ủng hộ quyết sách của triều đình, nhưng vẫn có người nghi ngờ sự thật, thậm chí có sĩ tử quá khích yêu cầu phá dỡ Tiển Khâm Đài mới xây, loại bỏ tận gốc. Vi thần cho rằng, bởi vì đến nay triều đình vẫn chưa đưa ra cáo thị cụ thể, khiến chân tướng bị tam sao thất bản truyền đi, bách tính các nơi mới đồn thổi lung tung.”

Trên điện Tuyên Thất, Thượng thư bộ Lễ bẩm báo với Triệu Sơ.

Triệu Sơ hỏi: “Vẫn chưa viết xong cáo thị à?”

Đại Lý Tự khanh nói: “Đã viết xong rồi ạ, ngặt nỗi vẫn chưa có vật chứng. Nhưng vì sự việc đã xảy ra quá lâu, triều đình không thể đưa ra bằng chứng trong việc lão thái phó cho Chương Hạc Thư vài suất lên đài, hay Chương Hạc Thư nhúng tay vào vụ buôn bán giao dịch về sau, cho dù dán cáo thị, chỉ e bách tính vẫn không phục, nên hiện tại Huyền Ưng Ti vẫn…”

Đúng lúc này, ngoài điện Tuyên Thất chợt có người cao giọng hô: “Điện Tiền Ti đưa thư khẩn từ Lăng Xuyến đến, xin được cầu kiến!”

Triệu Sơ ngẩng đầu, nội thị bên cạnh đáp: “Tuyên.”

Cấm vệ quân của Điện Tiền Ti sải bước vào điện, quỳ xuống dâng lên thư lên, “Bẩm Quan gia, đây là hai bức thư khẩn cùng bằng chứng do Tiểu Chương đại nhân gửi gấp lên kinh, ba đêm trước, Trương Nhị đã…”

Cấm vệ quân mím môi, không nói hết câu. Trên trán hắn lấm tấm mồ hôi, xem ra vừa nhận được thư đã chạy vội vào cung.

Nội thị trình thư lên ngự tiền, Triệu Sơ mở ra xem, sắc mặt chợt thay đổi.

Thượng thư bộ Hình cảm thấy không ổn, hỏi: “Quan gia, Trương Viễn Tụ hắn..?”

Triệu Sơ im lặng, đưa tín vật do Chương Đình gửi tới cho tiểu hoàng môn, “… Vào tối ba hôm trước, Trương Viễn Tụ đã gieo mình từ Tiển Khâm Đài. Trước lúc lâm chung, hắn đã viết một lá thư nhận tội nhờ Chương Lan Nhược gửi lên kinh thành, đính kèm còn có tội chứng giấu ở mỏ khoáng Chi Khê.”

Tiểu hoàng môn nhận lấy tín vật, giao cho đại thần trong điện xem.

Tội chứng mà Trương Viễn Tụ đã giấu là hai thẻ bài trống và thư tay liên lạc giữa Chương Hạc Thư với Sầm Tuyết Minh, bằng chứng rõ ràng.

Triệu Sơ buồn bã nói, “Nửa đêm ba hôm trước, Chiêu vương đến gặp trẫm, nói rằng Đôn Tử không phải bị cướp giết mà bị Trương Viễn Tụ sát hại. Huynh ấy nói, vì cố chấp quá sâu nên Trương Viễn Tụ mới đi lầm đường, chứ bản chất không ác, bao năm nay hành sự luôn có chừng mực, thậm chí còn giúp đỡ nữ Ôn thị hay thợ mộc Tiết Trường Hưng. Sau đêm thẩm vấn ở điện Tuyên Thất, Trương Viễn Tụ rơi vào tuyệt vọng, nếu hai tay còn dính máu thì thật khó quay đầu, chỉ sợ hắn khó tha thứ cho bản thân. Chiêu vương khẩn cầu trẫm tha mạng cho Vong Trần, cũng cử Huyền Ưng vệ lập tức đến Lăng Xuyên, đáng tiếc thay… vẫn chậm một bước.”

Đại điện im phăng phắc.

Một lúc lâu sau, Đại Lý Tự khanh nói: “Vậy thì, bây giờ chúng ta đã có bằng chứng do Trương Vong Trần chuyển giao, tội danh của hội Chương Hạc Thư đã được ấn định, triều đình cũng có thể bố cáo thiên hạ.”

Những người khác đồng loạt chắp tay vái: “Xin Quan gia ân chuẩn, lập tức phát cáo thị bố cáo thiên hạ!”

Nhưng Triệu Sơ không lên tiếng, chàng ngồi lặng một lúc, đoạn, cầm lấy hộp bạch ngọc bên cạnh ngự án.

Chiếc hộp bạch ngọc này đã nằm đó từ ngày Triệu Sơ lên ngôi, nhưng chưa từng được mở ra. Vốn dĩ nó không phải vật phẩm trên hoàng án, nhưng mọi người nhìn nhiều cũng quen, dần dà quên đi sự tồn tại của nó, mãi đến lúc này khi Triệu Sơ mở nó ra, lấy ra một cuộn lụa cũ màu vàng tươi, đại quan trong điện mới kinh hãi.

Vàng tươi, là màu sắc chỉ hoàng đế Đại Chu mới được dùng.

Hóa ra thứ nằm trong hộp ngọc bấy lâu nay chính là một cuộn thánh chỉ.

Triệu Sơ nói: “Từ từ, ở chỗ trẫm còn có một vật.”

***

Trong mùa đông khắc nghiệt năm nay, quan viên các bộ hầu như không có lấy một ngày nghỉ ngơi, dã quỳ nở dọc tường cung Huyền Minh Chính Hoa, tiếc thay người đến người đi quá vội vàng, không kịp dừng chân thưởng thức. Phải sang năm Gia Ninh thứ năm, bảy ngày sau đêm giao thừa, tại cửa cung và cổng thành đồng loạt dán cáo thị. Cáo thị mở đầu từ tranh chấp chủ chiến chủ hòa trong trận chiến sông Trường Độ cho đến tấm lòng son của các sĩ tử nhảy sông; từ tranh chấp khi bắt đầu xây dựng Tiển Khâm Đài cho đến vụ án giao dịch phía sau; từ nữ Ôn thị lên kinh, Tiểu Chiêu vương cùng Huyền Ưng Ti điều tra chân tướng đằng sau đài sập cho đến việc vào một tháng trước, Trương Viễn Tụ nhảy đài tự vẫn.

Cùng với cáo thị được dán lên, còn có hai lá thư được viết dưới tên của tội nhân.

Một là di thư nhận tội của Trương Viễn Tụ, còn một bức khác, chính là chiếu nhận tội của Chiêu Hóa đế đích thân viết trước lúc lâm chung.

Ngày dán cáo thị, bách tính trong kinh đổ xô đến xem, nếu ai không biết chữ sẽ nhờ người bên cạnh thuật lại.

Đến khi đọc xong thư và chiếu nhận tội, đám đông ồn ào lập tức im bặt, đứng nguyên tại chỗ rồi lặng lẽ tản đi.

“… Tôi đời này mệt mỏi bởi hai chữ Tiển Khâm, trót lầm đường lạc lối. Đặt chân lên Tiển Khâm Đài mới rõ, mây mù bủa vây đời, chuyện quá khứ khó lòng cứu vãn, ăn năn cũng vô ích, đường về chật hẹp, khó đi đến cùng. Tên Vong Trần nhưng không buông nổi chuyện trần gian, nay tâm nguyện muốn được vong trần…”

“… Gần đây trẫm tự ngẫm về công tội của mình. Ngày trẫm kế vị lập chí chấn hưng, trăm năm Đại Chu, vào tay trẫm mới hưng thịnh. Trẫm nào phải thánh hiền, lấy đó tự mãn, xây dựng đài cao, muốn lưu danh ngàn năm. Tới khi đài sập, chiến công tan tành, mới hay điều trẫm mong cầu là mây xanh, chớ phải vạt áo sạch. Đài sập không rõ nguyên nhân, trẫm xin chịu trách nhiệm. Trông tòa tháp sập, hòng dựng đài cao trong lòng triều thần, trẫm để lại chiếu chỉ xưng tội này, lấy đó tự trừng phạt bản thân, cũng cảnh cáo răn đe hậu thế…”

Đầu xuân chợt ấm chợt lạnh, cáo thị đã dán nửa tháng, người vây xem cũng dần thưa. Mãi tới đầu tháng hai, Tạ Dung Dữ mới một mình đến cửa thành, chính y đặt bút viết tờ cáo thị nên không còn lạ gì nữa, nhưng lại chưa đọc kỹ chiếu xưng tội. Hoa đào ngoài thành hé nở, mùi hương ngào ngạt khoan khoái, Tạ Dung Dữ đọc từng câu từng chữ trên chiếu xưng tội, trong bụng thở dài: “Đến lúc rồi.”

Sang hôm sau, trời bừng sáng, một tiểu hoàng môn lon ton chạy vào điện Tuyên Thất bẩm: “Quan gia, Chiêu vương, Chiêu vương điện hạ xin cầu kiến.”

Tạ Dung Dữ đến gặp Triệu Sơ là chuyện rất đỗi bình thường.

Nhưng hôm nay lại khác, Tạ Dung Dữ chỉ mặc áo xanh, triều phục và ngọc ấn được y cầm trong tay.

Triệu Sơ đang phê duyệt tấu chương, nghe bẩm báo thì đưa mắt nhìn người đang chờ ngoài điện, có vẻ chàng đã lường trước được kết quả này, thở dài cảm thán, đoạn nói: “Biểu huynh vào đi.”

Tạ Dung Dữ bước vào, lập tức quỳ xuống, “Xin Quan gia trị tội, tước vương vị của thần, ban cho thần được làm bình dân.”

Vương gia bị biếm làm thứ dân vốn là hình phạt, nhưng Tạ Dung Dữ lại dùng chữ “ban”.

“Biểu huynh nghĩ kỹ rồi?”

“Không phải Quan gia đã biết câu trả lời rồi sao?”

Một năm trước, Hà Hồng Vân bị tống vào nhà lao bộ Hình, Tạ Dung Dữ từng xông vào điện Tuyên Thất chất vấn Triệu Sơ về quyền của hoàng đế, đó là lần đầu giữa hai người nảy sinh ngờ vực. Triệu Sơ nhìn sắc mặt phẫn uất của Tạ Dung Dữ, hỏi: “Biểu huynh không muốn điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài nữa à?”

“Tra chứ, sao lại không điều tra? Thần còn mong đến một ngày, Quan gia có thể đồng ý với thỉnh cầu của thần.”

Thỉnh cầu gì?

Đợi chân tướng sáng tỏ rồi lại nói.



“Vì Tiển Khâm Đài mà Chiêu vương phải sống là Chiêu vương, nay sóng gió Tiển Khâm Đài đã qua, thần cũng không cần phong hào Chiêu vương này nữa. Thần họ Tạ, thỉnh cầu của thần là muốn được làm người họ Tạ.”

Triệu Sơ thở dài bảo: “Biểu huynh đứng dậy đi.”

“Hiện giờ sĩ tử địa phương dâng thư tới tấp, bộ Lễ trả lời không xuể, trầm còn định để biểu huynh quản lý bộ Lễ, Hàn Lâm, trấn an sĩ tử.” Triệu Sơ nói, “Nhân tài không thể thiếu, trẫm cũng không e ngại vương gia khác họ, kỳ thật trẫm rất muốn biểu huynh ở lại để phân ưu cùng trẫm.”

Tạ Dung Dữ nói: “Hai năm trước khi Quan gia triệu thần vào cung lúc nửa đêm, có phải đã có ý định này?”

Đêm thu hai năm trước, Tạ Dung Dữ đeo mặt nạ vào cung gặp vua, Triệu Sơ đích thân đưa cho y một bức thư, “Trước lúc lâm chung, phụ thân đã giao cho trẫm hai bức thư, đây là bức thứ nhất.”

Là bức thư của một cô gái tên Phù Hạ ở ngoài cung gửi cho Tiểu Chiêu vương, trong thư ghi rằng Tiển Khâm Đài sập là có nội tình khác. Lúc ấy Tạ Dung Dữ còn đang bệnh, Chiêu Hóa đế mới giấu lá thư này đi, trước khi lâm chung mới đưa cho Triệu Sơ.

Nhưng Tạ Dung Dữ lại hỏi: “Thần có thể biết bức thư còn lại của tiên đế để lại là gì được không?”

Triệu Sơ im lặng rất lâu, đoạn nói: “Nếu bây giờ trẫm đưa cho biểu huynh xem, thì biểu huynh có hứa với trẫm sẽ làm đại thần phụ chính không?”

Tạ Dung Dữ dứt khoát đáp, “Thế thì không cần.”



Còn giờ đây Tạ Dung Dữ đã biết rồi, bức thư còn lại của Chiêu Hóa đế chính là chiếu xưng tội được dán cùng cáo thị.

Triệu Sơ nói: “Hồi nhỏ trẫm cảm thấy biểu huynh lạnh lùng khó gần, về sau trẫm mới phát hiện, thực ra biểu huynh không hề lạnh lùng, chỉ vì huynh không thuộc về thâm cung nên mới tỏ vẻ xa lạ như thế.”

Nói đoạn, chàng thở dài: “Tiếc thay, ngàn quân dễ tìm lương tướng khó cầu, đạo trị quốc cũng thế, nhân tài đáng quý biết bao, trẫm rất mến mộ người tài, luôn muốn biểu huynh ở lại trong triều.”

Tạ Dung Dữ cười bảo: “Thiên hạ nhiều nhân tài, Quan gia đâu thể chỉ dùng một mình thần.”

Hơn nữa, bậc Quân chủ chính trực thanh liêm, người có tài mang lòng hoài bão ắt sẽ tự tìm đến.

Năm năm trước, một chiếu xưng tội đã để Thái tử quỳ trước giường bệnh tiên đế hạ quyết tâm, kiên định vững bước đi xa đến vậy.

Lòng quân vương có đất trời chứng giám, Đại Chu ắt sẽ càng phát triển dưới thời của Gia Ninh đế.

Triệu Sơ mỉm cười, “Được rồi, trẫm phê duyệt thỉnh cầu của biểu huynh.”

Ba hôm sau, triều đình hạ một thánh chỉ, vào cuối giai đoạn xây dựng Tiển Khâm Đài, Tạ thị Dung Dữ được phân công quản lý công việc liên quan tại huyện Sùng Dương, quả thật việc đài sập có phần do giám sát không chặt, nay triều đình tước bỏ phong hiệu Chiêu vương của Tạ thị Dung Dữ, biếm làm thứ dân. Song, niệm có công trong việc truy tìm chân tướng, ngay hôm nay đuổi ra khỏi thành, không có hình phạt nào thêm. Ngoài ra, tổng đốc công Ôn Thiên đã làm tròn chức vụ trong lúc xây đài, không có tội lơ là bỏ mặc, sau khi thảo luận, triều đình quyết định miễn trừ tội danh, cũng xóa bỏ tội liên đới cho nữ Ôn thị và Nhạc thị Ngư Thất…

***

Tạ Dung Dữ và Thanh Duy rời kinh trong một sáng mưa phùn ngày xuân. Vì Tạ Dung Dữ đã lĩnh chỉ “trị tội” nên người khác không thể đến tiễn đưa, sáu người bọn họ ra đi trong âm thầm. Nhưng không sao, lẽ ra hành trình này nên đến từ lâu, không cần phải nói lời tạm biệt.

Mưa phùn rơi nghiêng trên cổng thành, Vệ Quyết cùng mấy người Chương Lộc Chi đứng nhìn về nơi xa, một tên lính mới lấy làm khó hiểu, tò mò hỏi: “Chỉ huy sứ đại nhân, ngài đang nhìn gì thế?”

Vệ Quyết đáp: “Có cố nhân rời đi, ta nhìn tiễn đưa một đoạn.”

Ban trưa, trong ngõ Lưu Thủy tấp nập người qua kẻ lại, ông chủ Đông Lai Thuận nhìn ra đường, ông chủ tiệm bên bèn hỏi: “Ông chủ Ngô đang nhìn gì đấy, có khách đặt bàn hả?”

Ông chủ Ngô lắc đầu: “Ở phía đông thành có một cặp vợ chồng hay tới chỗ tôi ăn Ngư Lai Tiên, hôm trước bọn họ nói sắp sửa rời đi, có thể đi chừng một năm, sai người hầu đến chỗ tôi lấy ít Ngư Lai Tiên. Không biết xe ngựa bọn họ có đi ngang con ngõ này không, tôi muốn đưa tiễn bọn họ một đoạn.”

Sớm hơn nữa, khi buổi chầu vừa bắt đầu, đại thần chờ ngoài điện Tuyên Thất nối đuôi bước vào, không hẹn mà cùng chừa vị trí đầu tiên ở hàng bên trái. Triệu Sơ nhìn xuống, đó chính là chỗ Tiểu Chiêu vương đứng khi ở trên triều.

Nhưng lần này, đã không còn Chiêu vương nữa rồi.

Xe ngựa của Tạ Dung Dữ sắp rời cổng thành, nhưng chưa đi xa thì bỗng có mấy sĩ tử chạy đến cổng thành, quỳ xuống đất dâng lên một bức thư, cao giọng nói: “Thảo dân Lương Trạch, Cử nhân Nhạc Châu, thay mặt cha xin trình thư nhận tội.”

“Vi thần Hà Cao Sầm, Huyện lệnh huyện Hà Nghi Lăng Châu, xin trình thư nhận tội.”

“Thảo dân Hầu Tín…”

Từ đầu xuân khi cáo thị Tiển Khâm Đài được dán lên, có lẽ bị ảnh hưởng bởi chiếu xưng tội của Chiêu Hóa đế và thư nhận tội Trương Viễn Tụ, sĩ tử khắp nơi không còn công kích Tiển Khâm Đài, những người có thân nhân mất mạng dưới Tiển Khâm Đài hoặc tự vấn lại bản thân, hoặc đến cổng thành dâng lên thư nhận tội như bây giờ.

Tuy không nhiều lắm, đài cũ sập rồi đài mới xây, nếu có tiếng nói như thế xuất hiện, âu cũng là chuyện tốt.

Thôi, Tạ Dung Dữ buông rèm xe, bụng nghĩ, dư âm của Tiển Khâm Đài vẫn chưa dứt, y đã làm hết khả năng rồi, những chuyện khác đành giao cho Triệu Sơ vậy.

Vị hoàng đế hiền hậu kiệm lời, ý chí mạnh mẽ ấy sẽ đưa ra câu trả lời khiến hạ thần hài lòng.

Xe ngựa lăn bánh chạy về hướng nam, đầu hè tới Lăng Xuyên, đến khi lấy hài cốt của Ôn Thiên ra khỏi khu mộ tội nhân thì đã vào đông, lúc tiến vào địa giới Thần Dương, mùa thu đã đến.

Thần Dương đầu thu có không khí trong lành, nhà của Thanh Duy nằm ở thị trấn ngoại ô Thần Dương, dựa núi mà xây, nước chảy vờn quanh, tràn đầy linh khí.

Thị trấn vẫn như xưa, thôn dân vẫn là những người ấy.

Dường như có vẻ bọn họ biết chắc Thanh Duy sẽ quay về, nàng xuống ngựa, gọi một người đang giặt giũ bên bờ sông, “thím Cúc!”, lại gọi người đàn ông đeo gùi đựng thảo dược đi từ trên núi xuống, “chú Tứ!”

Bọn họ đáp lại bằng một nụ cười rạng rỡ: “Tiểu Dã về rồi kìa!”

“Cậu con đã về từ mấy tháng trước rồi, đang chờ con ở trên núi đấy!”

“Đại Hổ, mau lại mà xem, đây chính là Tiểu Dã cô cô của mày đấy, hồi bé còn nghịch hơn cả mày.”

Tạ Dung Dữ đi sau lưng Thanh Duy, loáng thoáng nhận ra vài gương mặt quen thuộc trong số những người qua đường, bảy năm trước, y đến Thần Dương mời Ôn Thiên rời núi, đã từng hỏi đường một số người trong đó.

Thị trấn nhỏ ở núi rừng Thần Dương tựa chốn đào nguyên, không bị bào mòn bởi mưa gió ngoài kia.

Điểm khác biệt duy nhất là, Tạ Dung Dữ nghĩ, lần trước khi y tới đây, tình cờ gặp chú chim xanh trong núi một lần; còn nay khi y đến, chú chim xanh ấy vui vẻ nhảy nhót, kéo tay y dẫn đường.

Bảy năm trước, bọn họ không quen không biết, nhưng vô tình cùng nhau rời đi, bảy năm sau, hai người nắm tay trở về.

Trú xứ cũ vẫn cứ là như thế, vui vẻ hiền hòa chào đón họ quay về, phủi đi chuyện đài dựng đài sập, phủi đi sống chết công tội.

“Lại đây!”

Thanh Duy chỉ căn nhà tre trên núi, hớn hở nói.

Nhạc Ngư Thất ôm kiếm dựa cổng, phàn nàn: “Ta mà biết hai đứa chậm chạp thế thì đã đến Lăng Xuyên uống mấy bầu rượu trước khi về rồi, ta thèm Thượng Dao Đài ở đó chết đi được.”

Triêu Thiên nghe được, vác đao chạy hết tốc lực lên núi.

Lưu Phương và Trú Vân bật cười, giúp Đức Vinh chuyển hành lí từ trên xe ngựa xuống.

Nhà cũ gần ngay trước mắt, không rõ có phải xa quê lâu mà sinh lạ hay không, Thanh Duy chợt đi chậm lại, đúng lúc này, nàng nghe Tạ Dung Dữ hỏi nhỏ: “Rừng trúc kia đấy à?”

“Rừng trúc nào?”

Thanh Duy nhìn theo ánh mắt của Tạ Dung Dữ, chợt nhớ lại hồi bé vì đuổi theo một con thỏ, nàng đã chặt trụi rừng trúc trong núi giữa đêm. Về sau Ôn Thiên đến núi Bách Dương, kể những chuyện này cho Tạ Dung Dữ nghe.

Bảy năm trước khi nàng rời nhà, rừng trúc ấy vẫn còn chưa phát triển.

Nhưng hôm nay nhìn lại, nắng thu theo gió hắt lên rừng trúc, trúc xanh tựa biển, biển xanh thành sóng.
 
Chương 213


Hai năm sau.

Sáng sớm Thần Dương được đánh thức bởi tia nắng đầu tiên trong ngày. Nhạc Ngư Thất lên núi, thấy hoa lá bên đường tươi tốt, đoán ra ngay nửa năm qua Thanh Duy vẫn chưa về, vì nếu con bé mà ở nhà, làm gì có chuyện chỗ cây cỏ này mọc cao như thế?

Hai năm trước, Thanh Duy và Tạ Dung Dữ trở về Thần Dương, Nhạc Ngư Thất cùng họ sửa lại mộ cho Nhạc Hồng Anh, hợp táng hài cốt của Ôn Thiên vào mộ, sau đó đi thẳng đến Lăng Châu uống Thượng Dao Đài. Thanh Duy và Tạ Dung Dữ cũng không ở nhà lâu, bọn họ nán lại Thần Dương một tháng rồi đến Bạch Thủy, lên Trung Châu.

Nhạc Ngư Thất biết con a đầu Tiểu Dã ngỗ ngược thế nào, cho nên cũng không ép nàng, chỉ dặn nàng nhớ định kỳ về Thần Dương dọn dẹp, rảnh rỗi báo tin bình an. Nhưng bây giờ chớ nói là thư, nhìn nhà cũ sạch sẽ thế này, có khi là thằng tiểu tử Dung Dữ thuê người lên núi quét dọn thì có.

Nhạc Ngư Thất đang bực mình thì bỗng nghe thấy cửa kêu cái *két*, một đứa bé kháu khỉnh bụ bẫm đẩy mở cửa, ló đầu vào. Đối diện với ánh mắt của Nhạc Ngư Thất, nó cười to, “Nhạc thúc, thúc về rồi à!”

Thằng bé này gọi vai vế loạn hết cả lên, thấy Tiểu Dã thì gọi cô, gặp ông lại kêu thúc, thế hóa ra ông và Ôn Tiểu Dã đồng lứa hả?

Đại Hổ xông vào phòng, dúi xấp thư vào tay Nhạc Ngư Thất, “Nhạc thúc, cô Tiểu Dã gửi thư cho thúc đó, gửi lên núi không ai nhận nên cha mẹ đã cất giúp thúc.”

Thư từ không bao nhiêu, hai năm tổng cộng năm sáu lá, coi như con a đầu Tiểu Dã chưa mất lương tâm.

Nhạc Ngư Thất vơi giận, nói với Đại Hổ: “Cám ơn cháu, tối nay nhớ lên núi, ta dạy cháu mấy chiêu võ nghệ.”

Đại Hổ hoan hô reo lên, nhảy nhót xuống núi.

Thư được sắp xếp theo ngày gửi, đợi Đại Hổ rời đi, Nhạc Ngư Thất mở lá thư đầu tiên từ hai năm trước ra đọc.

“Sư phụ, con và quan nhân đã đến Trung Châu. Giang Lưu Trung Châu là quê của quan nhân, con từng ghé hai lần nhưng quan nhân thì chưa. Bọn con về Tạ gia, có gặp tổ mẫu của quan nhân, tổ mẫu chăm lo cho quan nhân nhiều lắm, cũng rất thích con…

Hồi nhỏ hay nghe mẹ kể chuyện ông bà, kể ông dũng mãnh trên chiến trường thế nào, tiếc rằng chưa bao giờ được gặp ông, luôn vì thế mà nuối tiếc, nhưng nay có tổ mẫu của quan nhân thương yêu, tâm nguyện ấy coi như được thành toàn. Tổ mẫu nói quan nhân bị bắt sống trong cung quá lâu, phải ra ngoài đi đó đi đây, cho nên bà không giữ bọn con ở lại Trung Châu. Nhưng quan nhân hiếu thảo, quyết định ở với tổ mẫu tới tận mùa thu, sau đó sẽ lên Cật Bắc, dẫn Triêu Thiên và Đức Vinh đi thăm Cố thúc, nhân tiện… con muốn sửa lại mộ cho Tào Côn Đức.”

Lá thư thứ hai chắc hẳn được viết sau khi tới Cật Bắc, thư rất ngắn, trên giấy còn dính cát.

“Sư phụ, hiện con đang ở trong lều ngoài sa mạc viết thư cho sư phụ. Xui làm sao, con và quan nhân đến Cật Bắc thật không đúng lúc, Cật Bắc vào thu thường có gió cát, gió cát rất lớn, chỉ cần há miệng là cát lọt đầy họng, khí hậu cũng khô nữa. Triêu Thiên và Đức Vinh là người Cật Bắc nên thích ứng rất nhanh, nhưng còn và quan nhân thì chịu, Lưu Phương càng không chịu nổi, vừa tới Cật Bắc là chảy máu mũi liên tục, may nhờ Cố thúc cho một bài thuốc, nàng ấy mới khá lên. Con cảm thấy Cật Bắc không hợp ở lâu dài, nhưng về sau có một hôm, con và quan nhân đi vào sa mạc, ở nhờ lều của người dân, đêm khuya bước ra lều, thấy sao lấp lánh khắp trời, cát vàng khôi phục ngàn dặm, cảm thấy rất tráng lệ, có lẽnhững nơi trên thế gian này không nên phân biệt bằng khả năng sống, phải có cảnh đẹp thì mới có người đến thưởng thức.”

Đọc tới đây, Nhạc Ngư Thất bật cười, mở lá thư thứ ba ra.

“Sư phụ, đã hơn một năm không gặp, sư phụ có khỏe không? Mà với sư phụ thì làm gì có chuyện không khỏe chứ. Sau khi rời Cật Bắc, con và quan nhân lén hồi kinh một chuyến. Quan nhân rất nhớ trưởng công chúa, con cũng nhớ bà ấy lắm. Đáng nhẽ chúng con nên đón tết với mẫu thân, nhưng con và quan nhân chỉ đón giao thừa với bà rồi nhanh chóng lên đường. Bọn con ở lại quán rượu ngoại ô một đêm, quán rượu này do Phù Đông và Mai Nương mở, vị trí rất đẹp, rượu cũng rất thơm, việc kinh doanh cũng khấm khá. Tiết thúc vẫn theo nghiệp cũ, tiếp tục làm thợ mộc, một năm qua đi từ trời nam đến biển bắc, nhưng Mai Nương nói, nếu thúc ấy được nghỉ thì sẽ về quán rượu ở một thời gian. Rời khỏi kinh thành, con và quan nhân lại tới Khánh Minh. Chắc là vì Chương Hạc Thư nên Tiểu Chương đại nhân không muốn ở lại kinh thành, từ đầu năm đã xin đến Khánh Minh làm Châu doãn, Khúc Đình Lam cũng được điều sang. Quan nhân đến Khánh Minh, đi uống với Chương Lan Nhược và Khúc Đình Lam một bữa, nhưng mà con không đi cùng. Nghe quan nhân nói, Khúc Đình Lam và Chương Lan Nhược đã thành gia lập thất rồi, tuy Khúc Đình Lam ngây ngô nhưng may có Chương Lan Nhược thường giúp đỡ đúng lúc, mà chuyện với Tiển Khâm Đài cũng góp phần giúp hắn tỉnh táo, hắn sẽ không lạc lối nữa đâu, mai sau cũng sẽ ngày một tốt hơn.”



“Sư phụ, con đã đến Nhạc Châu rồi. Sư phụ đoán xem con đã gặp ai ở Nhạc Châu? Là Chi Vân. Chi Vân thay đổi rất nhiều. Trước kia muội ấy không rành đời, chỉ là một tiểu cô nương sống trong khuê các, còn bây giờ, bảy tiệm trà Cừ của Thôi gia ở Nhạc Châu đều do muội ấy quản lý, cửa tiệm có bao nhiêu khách quý, lời nhiều ít thế nào, cần tích hàng bao nhiêu, tiểu nhị phải dùng bàn tính để tính, còn muội ấy nhớ rõ mồn một. Muội ấy cũng thành thân rồi, phu quân do muội ấy chọn, là một Cử nhân bị trong nhà bắt phải thi thố, nghe nói hai người thương nhau nhiều lắm.

Cử nhân không ham công danh lợi lộc, chỉ mở một lớp dạy học nho nhỏ. Hồi đầu năm Chi Vân mới sinh một bé gái, Cử nhân thương nàng vất vả, lại nghĩ nàng không bỏ được tiệm trà, thế là đóng cửa lớp học nửa năm, ở nhà lo toan, chăm sóc vợ con. Hôm chúng con đến Nhạc Châu, Chi Vân ra cổng thành đón, muội ấy dẫn chúng con về Thôi trạch, về viện cũ của con ngày trước. Viện vẫn như thế, nhưng có thêm rất nhiều đồ đạc, Chi Vân nói, nơi đây mãi mãi là nhà của con, muội ấy sẽ luôn để trống viện này cho con…”



“Sư phụ, nếu sau này sư phụ có đến Lăng Xuyên, nhất định nhớ ghé quán trà ở ngõ Hạnh Hoa phía đông thành Đông An nhé. Sư phụ có biết ai mở quán trà này không? Là Diệp Tú nhi. Chính là Tú nhi cô nương đã dẫn con lên núi hồi tới Thượng Khê ấy. Ông cháu họ Cát cũng làm việc vặt trong quán, bây giờ bọn họ không phải là sơn tặc nữa, sau này con mới biết, hóa ra sau khi rời Thượng Khê, quan nhân đã nhờ người làm hộ tịch cho họ. À phải rồi, tiểu phu nhân cũng ở quán trà đó luôn. Tiểu phu nhân thích ca hát, Tú nhi bèn dựng một sân khấu nhỏ ngay trong quán, thỉnh thoảng tiểu phu nhân sẽ lên hát, nhưng hầu hết thời gian đều để học trò của mình lên. Học trò của nàng ấy cũng là cô nhi có thân thế bất hạnh như nàng, chừng bảy tám tuổi, được nàng nhặt về, những lúc rảnh rỗi sẽ phụ việc trong quán, Tú nhi nói quán trà kinh doanh ăn nên làm ra, vẫn đủnuôi mấy người.

Con và tiểu phu nhân về Thượng Khê một chuyến, đi tảo mộ cho Tôn Huyện lệnh và Tần sư gia. Trước mộ có hoa đào chưa nở, tiểu phu nhân bảo chắc là người Thượng Khê đem đến cúng. Tiểu phu nhân còn nói, dù Tôn Huyện lệnh có tội trong vụ án Tiển Khâm Đài thì ông ấy vẫn là một vị quan phụ mẫu tốt, cũng là người tốt, sẽ có người luôn nhớ ông ấy…”



“Sư phụ, hôm trước Tề đại nhân ở Lăng Xuyên mời quan nhân tới Thuận An Các xem tranh, chúng con lại đến hội thi họa, hôm ấy có một bức tranh được bán tới hai nghìn lượng. Sư phụ đoán xem là ai vẽ bức tranh này nào? Là Sấu Thạch. Lúc ấy con mới biết, mấy năm sau khi bọn con rời Lăng Xuyên, họa sĩ Sấu Thạch và họa sĩ Nguyệt Chương bắt đầu nổi tiếng, nhân sĩ Lăng Xuyên đổ xô sưu tầm tranh của họ, bởi vì phong cách vẽ của họrất ngược nhau nên thường có người tranh luận ai vẽ đẹp hơn ai, ngờ đâu Nguyệt Chương và Sấu Thạch lại là anh em, Nguyệt Chương là Doãn Trì, còn Sấu Thạch chính là Doãn Tứ cô nương Doãn Uyển.

… À phải rồi, sư phụ nè, hôm trước con gặp một người khá quen ở đầu đường Đông An. Không biết có phải nhìn nhầm không, mấy năm nay sư phụ đi nhiều nơi, không biết có gặp người ấy không. Mà thôi, trong thư không tiện nói nhiều, đợi bao giờ gặp sẽ kể. Sư phụ nhớtranh thủ thời gian đến tìm Tiểu Dã nha…”



Đọc xong sáu lá thư, chỉ còn lại một lá cuối cùng, là của Tạ Dung Dữ.

“Gửi cữu phụ, từ biệt hai năm, mong ngài vẫn bình an. Cuối hạ đầu thu năm nay, con và Tiểu Dã sẽ đến Tiển Khâm Đài tham quan, tuy vẫn còn tranh luận về việc dựng hay dỡ Tiển Khâm Đài, nhưng nay dư âm đã qua, tiếng oán thán của dân chúng đã lặng, nghe đâu gần đây có rất nhiều người đến cúng tế, nếu cữu phụ có thời gian rảnh, chi bằng đến núi Bách Dương gặp nhau. Tiểu Dã rất nhớngài. Dung Dữ kính bút.”

Đọc tới đây, Nhạc Ngư Thất cột thắt tay nải vừa mở ra, ông nghỉ ngơi một đêm, hôm sau khi trời vừa hửng sáng, lại xách tay nải xuống núi.

Đại Hổ chạy đuổi theo: “Nhạc thúc, Nhạc thúc lại đi nữa hả?”

Thằng bé thất vọng ra mặt, nó chỉ mới học được vài chiêu với Nhạc thúc thôi mà.

Nhạc Ngư Thất nhìn nó, cười bảo, “Làm gì có chuyện một phát ăn ngay. Mấy chiêu thức Nhạc thúc dạy đủ hưởng cả đời rồi, cứ tập luyện cho thành thạo đi!”

“Nhạc thúc, thúc đi đâu đó!” Đại Hổ lon ton đuổi theo.

Nhạc Ngư Thất không ngoái đầu, “Đến điểm hẹn.”
 
Chương 214: Kết thúc chính truyện


Lăng Xuyên năm Gia Ninh thứ tám, mưa phùn kéo đến xua tan cái nóng, trời dịu mát hẳn đi.

Sáng ngày mồng chín, quán trà dưới núi Bách Dương vừa mở cửa, một kiếm khách áo vải dung mạo bất phàm bước tới, ông chủ lật đật ra đón, vừa pha trà vừa nói: “Khách quan ăn uống gì không?”

Dường như người kiếm khách rất khát, uống một hơi cạn chén trà, “Không cần, ta đang đợi người.”

Chốc lát sau, một nhóm người từ dưới chân núi đi về phía quan trà bên này, dẫn đầu là một cặp vợ chồng vô cùng bắt mắt, cô vợ xinh đẹp, người chồng dịu dàng. Người áo xanh tinh mắt, vừa thấy kiếm khách trong quán trà thì rảo bước chạy đến, cao giọng gọi: “Sư phụ!”

“Sư phụ đến Thần Dương bao giờ thế?” Ở trong quán, Thanh Duy uống một chén trà, giơ tay áo lau miệng, hỏi.

“Mới đến thôi.” Nhạc Ngư Thất hỏi, “Còn hai đứa?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Bọn con tới Sùng Dương từ ba hôm trước, ở lại thành hai đêm, sáng sớm hôm nay mới lên núi.”

Một lúc sau, trong quán lại có thêm khách.

Tuy không ai nói chuyện, nhưng tất cả đều biết hôm nay là ngày gì.

Mồng chín tháng bảy. Năm Hàm Hòa thứ mười bảy, các sĩ tử như Trương Ngộ Sơ, Tạ Trinh nhảy sông; năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Tiển Khâm Đài sập.

Giờ đây Tiển Khâm Đài mới đã được xây sắp sửa gần ba năm, đại án Tiển Khâm đã lắng, tuy nhân sĩ vẫn còn tranh cãi về Tiển Khâm Đài nhưng ngày càng có nhiều người đến cúng tế, đặc biệt là vào ngày mồng chín tháng bảy.

Thanh Duy và Nhạc Ngư Thất ngồi trong quán trà tán gẫu một lúc, Đức Vinh gọi chủ quán tới trả tiền, “Chủ quán tính tiền trà đi, để tôi thanh toán.”

Ông chủ không nhận mà nói, “Hôm nay các vị đến cúng tế đúng không? Quán trà của tôi có một nguyên tắc, người đến cúng Tiển Khâm Đài vào ngày mồng chín tháng bảy thì không thu tiền trà.”

Vừa dứt lời, hội Thanh Duy ngạc nhiên.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Ông chủ mở quán trà này bao lâu rồi, sao ngày trước không thấy?”

“Gần được ba năm rồi.” Ông chủ cười bảo, “Hồi trước tôi cũng có mở tiệm bán trà, chỉ là không mở quán nước.”

Ông ta nói tiếng, “Vẫn chưa đến giờ cúng tế, nếu chư vị rảnh rỗi, chi bằng đến chỗ bia sĩ tử tham quan nhé?”

“Bia sĩ tử?”

Ông chủ gọi tiểu nhị tới, đưa bình trà cho cậu ta, dặn cậu ta tiếp khách rồi nói với Thanh Duy: “Tôi và chư vị có duyên, hay là để tôi dẫn chư vị sang.”

Bia sĩ tử được dựng sau núi, tại nơi xây dựng Tiển Khâm Đài cũ, nói là bia nhưng thực chất chỉ là những gò mộ nhỏ. Không biết ai là người đầu tiên lập nên, về sau có người học theo, dựng bia cho thân nhân bạn cũ, dần dà nơi đây trở thành rừng bia.

Thanh Duy nhìn rừng bia trước mắt, trông thấy mộ của các sĩ tử nhảy sông Thương Lãng vào hơn hai mươi năm trước, cũng thấy cả mộ của sĩ tử bách tính mất mạng dưới Tiển Khâm Đài vào chín năm trước. Nàng vừa đi vừa nhìn, tìm được mộ của Từ Thuật Bạch, người lập bia là vợ Từ thị Phù Đông; tìm được mộ của Phương Lưu, người lập bia là phụ thân Tưởng Vạn Khiêm; tìm được mộ của Thẩm Lan, người lập bia là con gái Uyển Uyển; thậm chí nàng còn thấy cả mộ của những chú bác thợ mộc mà nàng quen, người lập bia là bạn hữu Tiết Trường Hưng.

Những người nàng quen biết đã lần lượt tới đây, mang theo nỗi đau có thể đã nguôi ngoai, lập mộ cho người đã khuất rồi lặng lẽ rời đi.

Gió núi thổi lớn, không biết Đức Vinh lấy đâu ra một bó hương, Thanh Duy, Tạ Dung Dữ, Nhạc Ngư Thất, và cả Đức Vinh Triêu Thiên lẫn Lưu Phương Trú Vân cầm hương trong tay, im lặng vái lạy rừng bia mộ.

Ông chủ quán trà dẫn bọn họ đến thấy khung cảnh ấy, như bị gió núi thổi cay mắt, không khỏi đưa tay quệt khóe mắt.

Có lẽ ông ta cũng có quá khứ buồn vui liên quan đến Tiển Khâm Đài, nếu không đã chẳng mở một quán trà ở vùng núi hẻo lánh, gác rất nhiều người một đi không trở về. Nhưng cũng không biết, mà cũng không đào sâu truy hỏi, ai mà chẳng có câu chuyện của riêng mình?

Ở phía trước núi truyền tới tiếng kèn hiệu của quân đội, mọi người tò mò hỏi nhau, “Người của triều đình đến hả?”

“Đông lính thế, khéo là từ kinh thành tới.”

“Người kinh thành? Bọn họ định làm gì? Hay muốn tháo dỡ Tiển Khâm Đài?”

Thanh Duy và Tạ Dung Dữ nghe mọi người xôn xao hỏi nhau, chạy nhanh tới trước núi.

Hóa ra người đến chính là Huyền Ưng vệ, dẫn đầu là hai người mà Thanh Duy và Tạ Dung Dữ quá quen thuộc – chính là Vệ Quyết và Chương Lộc Chi, ngoài ra còn có Thượng thư bộ Hình, Thượng thư bộ Lễ, thậm chí Tề Văn Bách Châu doãn Lăng Xuyên cũng đi cùng.

Trước khi Tạ Dung Dữ rời kinh, Kỳ Minh đã quay về Điện Tiền Ti, trở thành nhất phẩm đới đao thị vệ của Triệu Sơ, còn Vệ Quyết đã thăng lên làm chỉ huy, cai quản toàn bộ Huyền Ưng Ti.

Tạ Dung Dữ cũng không biết vì sao Huyền Ưng Ti lại đến đây, cũng không biết có phải triều đình không chịu nổi lời chỉ trích của sĩ tử mà quyết định phá hủy Tiển Khâm Đài hay không. Nhưng lần trước Tạ Dung Dữ có gặp Tề Văn Bách, y biết Triệu Sơ không hạ bất cứ văn thư nào cho Lăng Xuyên.

Trong tiếng bàn tán xôn xao của đám đông, Vệ Quyết dẫn thợ mộc leo lên Tiển Khâm Đài, hắn thấp giọng ra lệnh gì đó, nhưng gió trong núi quá lớn, Thanh Duy không nghe rõ, ngay sau đó, Huyền Ưng vệ xua đám đông người xem ra khỏi núi, rồi tiếng rìu đục bệ vang lên.

Muốn phá dỡ Tiển Khâm Đài thật sao?

Có người không kìm nổi hô lên.

Đứng ngoài xa không nhìn rõ chuyện gì trên Tiển Khâm Đài, khoảnh khắc ấy, trong đầu Thanh Duy lại vang lên những âm thanh giận dữ thê lương của người đời đối với đài cao, trong những tháng ngày vùng vẫy truy tìm ánh sáng.

“Cái đài này, không lên cũng được!”

“Nhẽ ra không nên xây Tiển Khâm Đài!”

“Tiển Khâm Đài chỉ là một tòa tháp, nó có gì sai?!”

“Tiển Khâm Đài không nên bị vấy bẩn, nó được xây vì các sĩ tử nhảy sông Thương Lãng, vì những tướng sĩ đã hi sinh ở sông Trường Độ!”

“Trong mắt huynh, Tiển Khâm Đài là gì?”

“Nhưng, nhưng dù là gì, Tiển Khâm Đài cũng không phải Tiển Khâm Đài nữa rồi, nó là Thanh Vân Đài!”

“Trong mắt ta, chỉ thấy Tiển Khâm sạch sẽ, không thấy Thanh Vân.”



Kèm theo một tiếng đổ vỡ, động tĩnh ở Tiển Khâm Đài dừng lại, Huyền Ưng vệ ngăn cản mọi người đồng thời rút lui. Đám đông lại ngơ ngác nhìn nhau, lững thững đi về phía trước.

Đứng dưới chân núi, Thanh Duy ngẩng đầu nhìn lên, phát hiện Tiển Khâm Đài không hề bị hủy, tòa tháp vẫn sừng sững nơi ấy, thứ vừa bị tháo dỡ chỉ là cầu thang dẫn lên đài.

Đài cao dựng ba tầng, nhưng giờ đây chẳng còn ai có thể leo lên được nữa.

Thế cũng tốt, dẫu sao cũng đã có người lên Tiển Khâm Đài nhìn rồi, trên đài nào có mây xanh, chỉ có mưa mù không tan.

Mây mỏng trên trời kết thành cơn mưa, mưa phùn giăng mịt mùng, dưới chân núi, không biết ai là người đầu tiên giơ tay, lặng lẽ vái lạy tòa tháp.

Rồi dần dà, sĩ tử, bách tính, Huyền Ưng vệ, đại thần, thậm chí vị quân vương ở kinh thành xa xôi cũng đồng thời chắp tay, vái lạy Tiển Khâm Đài đã mất cầu thang.

Mưa phùn liên miên, có người cúng bái xong rồi rời đi ngay, nhưng cũng có người ở lại, hòng muốn tĩnh tâm trong làn mưa thu.

Thanh Duy nhìn Tiển Khâm Đài qua màn mưa, nhưng ánh mắt lại dán chặt vào chân núi đối diện.

Trong làn sương mờ ảo, nàng trông thấy một công tử mặt mày hiền từ ngồi xe lăn, thư đồng đi sau đeo hộp đựng sách trên lưng, đẩy y rời đi. Công tử ấy có khí chất nổi bật, ánh mắt tĩnh lặng như buông bỏ vạn vật thế gian, chẳng mấy chốc biến mất giữa màn mưa bụi mông lung.

“Nhìn gì thế?” Tạ Dung Dữ khẽ hỏi.

Thanh Duy lắc đầu, “Không có gì, chúng ta đi thôi.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, nắm tay Thanh Duy chậm rãi rời đi.

Bụi đã tan và người cũng đã tản, chỉ còn lại mưa khói bay khắp đất trời, phú cho đài cao.

– KẾT THÚC CHÍNH TRUYỆN –
 
Chương 215: Ngoại truyện 1, 2, 3: Chọn đường tương lai, quyết không hối hận


Mùa thu năm Hàm Hòa thứ mười ba, Thần Dương.

Ôn Thiên đặt quyển sách cuối cùng vào hộp đựng, đẩy cửa bước ra.

Bà con trong thôn đã ở dưới núi đợi tiễn đưa chàng, đi đầu là cụ trưởng thôn tóc hạc da gà, còn có nhà chú Đại Duyệt, Cúc đệ và Cúc muội cũng đến.

Trưởng thôn chống trụ bước tới, đưa cho Ôn Thiên bọc tay nải do bà con trong thôn hùn nhau góp, dặn dò, “Cháu là Cử nhân, tuy dọc đường lên kinh đã có quan phủ lo liệu dọc đường, nhưng cháu vẫn cần để ý đấy.”

“Đúng thế.” Chú Đại Duyệt nói tiếp, “Thời buổi bây giờ quá loạn, đâu đâu cũng có lưu dân, trộm cướp ở Lăng Xuyên như chuyện cơm bữa, hình như phía Bắc còn đang đánh giặc nữa chớ, đừng bảo là dọc đường lên kinh, mà dù vào kinh thành rồi cháu cũng phải cẩn thận.”

Ôn Thiên đáp: “Cháu sẽ chú ý.”

Bọn họ là dân làng tại một thôn nhỏ tên Ngọc Sơn tọa lạc Thần Dương, trấn xây dựa núi, tựa thế ngoại đào viên.

Người dân thôn Ngọc Sơn sống bằng nghề xây dựng, hàng trăm năm qua đã có rất nhiều người thợ nổi tiếng xuất thân từ đây, một trong số đó chính là cha của Ôn Thiên. Đáng buồn thay cha mẹ Ôn Thiên qua đời sớm, chàng được các chú các bác trong thôn nuôi lớn, tới tuổi ăn học, họ còn mời cả Tú tài cà thọt ở thôn bên tới dạy học cho chàng.

Ôn Thiên được trời phú thông minh, không những có tài trong việc xây dựng mà học vấn cũng rất cao, thi Tú tài một lần đã đậu, ba năm sau, chàng đến phủ thành tham dự kỳ thi Hương, tên đề bảng vàng, xếp những vị trí thứ hai, suýt nữa đã thành Trạng nguyên Thần Dương.

Không gì quan trọng hơn học hành, tuy Ôn Thiên không có chí làm quan, nhưng sau mấy ngày suy nghĩ, chàng vẫn quyết định lên kinh tham dự kỳ thi mùa xuân năm sau.

Trưởng thôn hiền từ cười bảo: “Cháu là Cử nhân đầu tiên của Ngọc Sơn chúng ta, nếu sang năm thi đậu, làm quan trong kinh, Ngọc Sơn được dịp nở mày nở mặt!” Đoạn hỏi, “Cháu đã trả lời thư của La Hiệu úy chưa?”

Ôn Thiên gật đầu, “Rồi ạ.”

La Hiệu úy là hiệu úy quân đội ở Thần Dương.

Nhà tình thương ở Thần Dương vô cùng xập xệ, mấy năm qua liên tục nghe nói sẽ trùng tu, mà mãi tới đến mùa thu năm nay bộ Hộ mới phát bạc. La Hiệu úy đến Ngọc Sơn mời thợ xây, ngay từ cái nhìn đầu tiên đã nhìn trúng Ôn Thiên, người thợ theo chú bác sửa nhà lợp ngói từ nhỏ, cũng có chút tiếng tăm.

Hầu hết người ở nhà tình thương đều là lưu dân nghèo khó, ấy là chuyện tốt tạo phúc cho dân chứ còn gì nữa, thế nên Ôn Thiên đồng ý ngay tắp lự, thức mấy đêm liền suy nghĩ nên vẽ bản vẽ ra sao, phải dùng loại gỗ gì, thậm chí còn dùng cành trúc dựng mô hình thô sơ, dự định đưa cho La Hiệu úy xem.

Xui xẻo thay, ngay khi chàng vừa chuẩn bị lên đường tới Thần Dương thì tin tức trúng cử được gửi đến, kỳ thi Hội sẽ được tổ chức vào mùa xuân năm sau. Bởi vì bên ngoài đang loạn lạc, những sĩ tử trúng cử ở rất nhiều địa phương đã bắt đầu lên kinh từ bây giờ. Lên kinh đi thi tức là không thể xây nhà tình thương được nữa, nhưng đường làm quan thênh thang ở ngay phía trước, người thường đều biết phải chọn lựa ra sao. Ôn Thiên do dự nhiều hôm, cuối cùng quyết định viết thư cho La Hiệu úy từ chối công việc.

Mọi người lại dặn dò đôi câu, quan sai tới đón Ôn Thiên đã đến. Ôn Thiên siết chặt hộp đựng sách trên lưng, nhìn núi non trước mặt, vẫy tay chào bà con rồi rời đi.

Từ Thần Dương lên kinh thành có thể đi tắt ngang Trung Châu, nhưng thời gian qua Cật Bắc đang xảy ra chiến tranh, rất nhiều lưu dân tràn vào Trung Châu, thêm việc sơn tặc hoành hành ở Lăng Xuyên nên đường đến Trung Châu rất nguy hiểm, các Cử nhân buộc phải đi vòng từ Minh Châu.

Cũng vì lý do này mà mọi người đã bắt đầu lên kinh dự thi từ rất sớm, thậm chí năm nay châu phủ các nơi cũng cử quan sai hộ tống.

Quan sai Thần Dương đưa nhóm thư sinh đến địa giới giáp Minh Châu, một ngũ trưởng dẫn đầu đón mọi người lên xe, nói, “Đường tới Trung Châu bị phong tỏa rồi, rất nhiều lưu dân Cật Bắc bị chặn bên ngoài, ai còn có sức thì đi vòng tới Minh Châu. Mà sơn tặc ở Lăng Xuyên cũng y chang, gần đây trong phủ thành không được yên ổn, mấy hôm trước còn có đạo tặc làm càn, cướp của rất nhiều phú hộ. Có không ít con em thế gia bị lừa, hôm qua bọn ta bắt được một ổ sơn tặc, các ngươi đoán xem thế nào? Trong số những người bị bắt cóc có con trai của phú thương trong thành, đói tới mức thành da bọc xương luôn rồi.”

Không phải ngũ trưởng muốn hù dọa các thí sinh đi thi, mà chính Châu doãn đại nhân dặn ngũ trưởng nói lời đó, có câu ‘kẻ ăn không hết người lần chẳng ra’, phần đa sĩ tử đều xuất thân hào môn, nào hiểu thấu nỗi khổ thế gian? Cứ nhìn bọn họ là biết, ngoại trừ Ôn Cử nhân, ai cũng có thư đồng đi theo hầu hạ bút mực. Dọa họ một chút, đỡ bọn họ đến phủ thành bị người ta cướp còn giúp người ta đếm bạc.

Một công tử áo gấm đeo ngọc vén rèm nhìn ra ngoài, thấy chỉ có vài quân lính đi theo sau xe, không khỏi cau mày phàn nàn, “Đã vậy thì sao ngươi không phái thêm nhiều người bảo vệ bọn ta?”

“Chớ thấy ít mà xem thường, chỉ cần mặc áo binh này, không ai dám động vào chúng ta đâu, Minh Châu đang trưng binh đấy!” Ngũ trưởng cười nói.

Có người hỏi: “Vì sao phải trưng binh?”

“Các bộ lạc ở Thương Nỗ phía Bắc đang bất ổn, có thể sẽ đánh nhau,cho nên triều đình mới trưng binh, địa điểm trưng binh của Trung Nguyên nằm ngoài Minh Châu. Mọi người chớ xem thường dạo này nhiều trộm cướp, cướp cũng có xấu tốt, có người không kế sinh nhai buộc phải làm giặc cỏ, nhưng luôn hành hiệp nghĩa, bây giờ triều đình trưng binh, không ít nghĩa phỉ đã đến Minh Châu đầu quân, đa số người đi trên đường này đều là nghĩa phỉ, nếu có chuyện thật, thấy bọn ta mặc áo binh, đến lúc đó chẳng phải nhất hô bách ứng sao, sợ cái gì nữa? Nhưng mà tới tối thì các ngươi cẩn thận đấy, đám trộm cướp thích nhất là hành sự ban đêm!”

Đương lúc nói, mọi người đã đến phủ thành Minh Châu.

Nơi dừng chân là một quán trọ trong thành, đã được quan phủ bao trọn. Ngũ trưởng dẫn các thư sinh tới từng phòng riêng một, nói chờ sĩ tử ở các châu huyện còn lại đến đủ rồi mới bắt đầu khởi hành lên kinh.

Ôn Thiên về phòng, nghĩ tới kỳ thi Hội năm sau, chàng biết bây giờ cần phải chăm chỉ học hành, nhưng ngồi vào bàn lật được vài trang sách, mới cảm thấy chán chường làm sao.

Chàng đã trong tình trạng như thế mấy hôm nay, tâm trí cứ bay về nhà tình thương Thần Dương. Trước đó không có ngày nào chàng không ngóng mong nhà tình thương do mình xây nên, dựng nhà cao cửa rộng, cho bách tính lê dân một mái nhà che cchàng chính là tâm nguyện của chàng từ trước đến nay. Nhưng kỳ thi ba năm chỉ có một lần cũng là ước muốn của học trò khắp thiên hạ.

Ma xui quỷ khiến, Ôn Thiên lấy ra bản vẽ gần hoàn chỉnh nằm dưới đáy hòm sách, cùng với mô hình dựng từ cành trúc.

Chàng ngẩn ngơ, chợt trong lòng có quyết định.

Dù bản thân không thể chứng kiến nhà tình thương được dựng nên, nhưng đưa bản vẽ hoàn thiện cho La Hiệu úy xem tham khảo cũng tốt thôi, nói không chừng bọn họ sẽ dùng đến nó, vậy coi như mình cũng đã hết lòng.

Ôn Thiên nói là làm, nhưng tìm khắp hòm sách mới nhớ ra mình không đem theo thước đo.

Hoàng hôn đã buông, nhân lúc trời chưa tối hẳn, Ôn Thiên lật đật ra cửa. Chàng ghé liền mấy tiệm bút mực, tới lúc mua được thước thì trời đã tối om.

Trời vừa tối, chung quanh chìm hẳn trong yên ắng. Gần đây có cướp bóc hoành hành ở phủ thành, gió chiều vừa thổi, các cửa hàng còn đốt đèn trong hẻm nhỏ rối rít đóng cửa.

Thậm chí còn không có người đi đường, Ôn Thiên vội vã chạy về quán trọ, trong lòng vô cùng bất an, chàng tự an ủi cũng may xung quanh đây toàn là phú hộ, sẽ không có kẻ nào dám làm liều. Nhưng ngay sau đó chàng lại cảm thấy không đúng, nghe ngũ trưởng kia nói, bọn đạo tặc hoành hành trong thành chuyên môn nhắm vào phú hộ.

Trên trời sấm giật đùng đoàng, mây che vầng trăng, gió lớn lùa qua, Ôn Thiên áp sát chân tường, chạy nhanh về phía trước.

Ngay đúng lúc này, chàng nghe thấy một tiếng động lạ phát ra từ khoảng sân bên trong tường, dường như là thứ gì đó rơi xuống đất.

“Ai?” Trong sân lập tức có người đi ra kiểm tra. Nhưng người kia còn chưa kịp gần thì bất chợt có một bóng đen lao về phía hắn, bụng nhói lên, hắn r3n rỉ ngã ngửa xuống đất, lập tức tắt thở.

Đứng bên ngoài nghe thấy động tĩnh trong sân, Ôn Thiên không khỏi sợ hãi, đoán chắc tám phần có đạo tặc xông vào.

Chàng không rõ tên cướp có nghe thấy tiếng bước chân của mình hay không, càng không biết nếu bị hắn ta phát hiện thì chàng phải làm gì. Ôn Thiên hoảng hốt nhìn quanh, bất chợt có một bàn tay vươn ra từ trong bóng tối, “Lại đây!” Cứ thế, chàng bị kéo vào con ngõ sau lưng.

Cùng lúc đó, tên cướp trong sân cũng đã nhận ra bên ngoài có người, hắn leo tường trèo ra, từ từ tiến đến vị trí của Ôn Thiên.

Cũng may động tĩnh vừa rồi đã kinh động đến quân lính tuần tra, chẳng mấy chốc đã có lính giơ đuốc chạy tới, tên cướp chần chừ, đoạn bỏ trốn theo hướng khác.

Mượn ánh lửa chiếu sáng ở đầu ngõ, lúc này Ôn Thiên mới thấy thì ra người kéo mình trốn chính là một tên khất cái.

Nhưng bảo là khất cái cũng không chính xác, tuy áo quần có nhiều mảnh vá song khá sạch sẽ, khăn quàng trên cổ quấn mấy vòng, khăn màu đỏ sậm. Hắn không cao, nom tuổi tác chừng mười bảy mười tám tuổi, vóc dáng gầy gò, da trắng môi hồng, nhất là đôi mắt nọ, thoạt nhìn rất lanh lợi và cũng rất giảo hoạt, như chú sói có khứu giác nhạy bén. Đối diện với cái nhìn của Ôn Thiên, hắn ta đưa tay đẩy chàng, “Này, có biết ta mới cứu mạng ngươi không hả?” Hắn giơ ngón cái chỉ về phía tên cướp chạy trốn, “Nếu bị gã kia để mắt thì coi như ngươi đi đời!”

Ôn Thiên còn chưa đáp thì quan sai đã tới, hết nhìn Ôn Thiên lại nhìn sang tiểu khất cái, hỏi: “Kẻ nào?”

Vẻ ngạo mạn trong mắt tiểu khất cái biến mất, hắn ta cuống cuồng kéo tay áo Ôn Thiên, chỉ vào Ôn Thiên nói, “Quan gia, tôi đi chung với y.”

Quan sai lại nhìn Ôn Thiên.

Ôn Thiên biết vì sao tiểu khất cái lại kéo mình – hắn không muốn bị quan phủ kiểm tra. Thời buổi rối ren, ai cũng có nỗi niềm riêng, hơn nữa đúng là tiểu khất cái này đã cứu mình, chàng nợ hắn ta.

Ôn Thiên gật đầu bảo: “Tại hạ là sĩ tử dự thi, người này… là thư đồng tại hạ thuê ở tiệm bút mực.”

Nói đoạn, chàng lấy văn điệp ra cho quan sai kiểm tra.

Xem xong văn điệp, thái độ của quan sai cũng nhẹ nhàng hẳn, “Vậy mời các hạ nhanh chóng về quán trọ, nay trong thành đang bị đạo tặc càn quấy, các hạ chớ ra ngoài vào lúc nửa đêm.”

Đợi quan sai rời đi, tiểu khất cái mới thở hắt một hơi, trong mắt lại dâng lên vẻ đắc chí, tháo khăn quàng cổ xuống, vừa lau mồ hôi trên trán vừa nói, “Đi thôi, ngươi ở đâu? Ta đưa ngươi về.”

Ôn Thiên toan trả lời, nhưng vừa nhìn lướt qua cổ của tiểu khất cái thì sửng sốt, “Ngươi…”

Tiểu khất cái không phát hiện, lau mồ hôi xong lại quấn khăn lên cổ, điềm nhiên nói tiếp, “À phải rồi… Lúc nãy ngươi nói ngươi là gì… khỉ dữ tự đi, nhà ngươi nuôi khỉ hả?”

Đêm tối như mực, Ôn Thiên đi trước, tiểu khất cái cất bước theo sau.

“À, không phải nhà ngươi nuôi khỉ, mà ngươi là sĩ tử dự thi, nếu thi đậu thì sẽ làm quan lớn, kiểu kiểu vậy đúng không?”

“Hèn gì vị quan gia kia lại nể ngươi đến thế.”

“Mà sao tối rồi ngươi còn lang thang ngoài này? Ngươi không biết gần đây trong thành có đạo tặc hoành hành hả?”

Hắn hỏi quá nhiều, Ôn Thiên không biết phải trả lời từ đâu.

Đến quán trọ, tiểu khất cái ngó nghiêng nhìn quanh, thở dài nói: “Quan phủ chu đáo với thư sinh ghê, lại cho các ngươi ở quán trọ tốt thế này!” Đợi đến lúc vào phòng, chàng đi thẳng tới giường ngồi xuống, lại cảm thán, “Phòng này sướng thật đấy!”

Bắt gặp cái nhìn của Ôn Thiên, tiểu khất xấu hổ giải thích: “Thì đây là lần đầu ta tới quán trọ tốt thế này mà, hồi trước bọn ta chỉ ở trong trại… Trong thôn bọn ta, người ngoài tới đều ngủ chung giường hết, là kiểu giường trải từ đầu phòng đến cuối phòng.”

Gió thu thổi nhẹ, gương mặt của tiểu khất cái đỏ bừng, Ôn Thiên nhìn hắn, hỏi: “Ngươi… tên gì?”

“Ta họ Nhạc, tên là…” Tiểu khất cái nói được nửa, rồi sực nhận ra đang ở bên ngoài không được dùng tên thật, vội vàng đổi lời, “Ta là anh lớn trong nhà, bên dưới có một đứa em trai, nó tên Tiểu Thất, vậy ngươi gọi ta là Tiểu Lục đi.”

Hắn lại nhìn ngó xung quanh, chợt nhìn thấy mô hình căn nhà nhỏ làm bằng trúc to chừng một bàn tay ở trên bàn, hai cửa mở lớn, thoáng thấy được cả bàn ghế bên trong, “Ngươi làm thứ này hả? Giỏi ghê!” Tiểu khất cái thở dài, “Ta cũng từng thấy nhà xây từ bùn ở trong chợ huyện, nhưng tay nghề thua xa ngươi nhiều!”

Hắn lại tò mò hỏi: “Không phải ngươi là sĩ tử à? Còn biết làm thứ này nữa hả?”

Ôn Thiên không biết phải trả lời như thế nào, chàng vẫn chưa hài lòng về mô hình ban đầu này, nhưng số tiền bộ Hộ chi trả lại có hạn, nếu dựng nhà tình thương theo bản vẽ của chàng thì rất có thể sẽ vượt quá dự tính, đó cũng là nguyên nhân chàng mãi chưa nộp bản vẽ cho quân ti Thần Dương.

Thấy tiểu khất cái thích mê mô hình, Ôn Thiên hỏi, “Ngươi ở đâu, sáng mai ta đưa ngươi về.”

Tiểu khất cái nghe vậy bèn đặt mô hình xuống, nhìn Ôn Thiên, đôi mắt trong veo, “Ta là người Lăng Xuyên, theo người nhà đến Minh Châu, hôm trước bị lạc, bây giờ không biết đi đâu.” Hắn mím môi, cảm thấy khó nói, “Ta… ta có thể ở chỗ của ngươi ít hôm được không? Tuy ta ăn mặc vậy thôi chứ không bẩn đâu, cũng không bị bệnh, còn đem theo không ít tiền nhé, sẽ không ăn không của ngươi đâu, buổi tối ngủ dưới đất cũng được.”

Rồi như để chứng minh lời mình nói, hắn thò tay vào trong áo lấy ra một xâu tiền, “Chỉ ít hôm thôi, sau mấy hôm nữa, chắc chắn người nhà ta sẽ tìm được ta, ta trả ngươi tiền nè…”

“Không cần.” Ôn Thiên ngắt lời. Chẳng rõ nghĩ đến điều gì mà hai tai chàng đỏ bừng, do dự một lúc, chàng thu dọn sách vở và thước đo trên bàn, “Trong quán trọ có phòng đọc sách, tối nay ngươi ngủ ở đây đi, ta tới phòng đọc.”

Nói đoạn, chàng hấp tấp đi ra cửa.

Tiểu khất cái ở lại quán trọ một lèo những ba hôm.

Nhưng hắn không phải ăn không ngồi rồi, dù sớm hay muộn thì ban ngày đều ra ngoài một chuyến. Tuy quán trọ có cung cấp suất ăn, song đang trong thời buổi loạn lạc, cơm nước chỉ đủ cho một người, thế mà ngày nào trở về tiểu khất cũng xách theo một túi giấy nhỏ, không đùi gà lá sen – ẩm thực trứ danh của Minh Châu thì cũng là bánh rắc đường hạt dẻ, nhờ ké phúc hắn Ôn Thiên mới được thưởng thức. Ôn Thiên cũng hiểu ý của tiểu khất cái, hắn muốn chứng minh mình không ăn ở chùa, cho nên mỗi lần tiểu khất cái đem đồ về, Ôn Thiên đều ăn uống bình thường.

Lúc Ôn Thiên ở trong phòng sửa bản thiết kế, tiểu khất cái sẽ không làm ồn, hoặc tự làm chuyện của mình hoặc ngủ một giấc say sưa, chưa từng quấy nhiễu chàng. Đến ban đêm, Ôn Thiên tới phòng đọc sách, tiểu khất cái lấy làm xấu hổ, cảm thấy mình chẳng khác nào tu hú chiếm tổ, có lỗi với Ôn Thiên.

Đêm hôm đó, Ôn Thiên lại tới phòng đọc sách như mọi khi, tiểu khất cái sắp sửa đi ngủ, bỗng nghe thấy tiếng động lạ ngoài cửa sổ.

Bọn họ ở tầng ba đối diện đường chính, ngoài cửa sổ là bóng đêm đen kịt chứ còn gì nữa đâu? Nhưng tiểu khất cái như cảm ứng được gì đấy, đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài, bên ngoài tối om, vầng trăng treo cao cũng không đủ soi sáng. Tiểu khất cái đang định đóng cửa thì đúng lúc này, một thiếu niên treo ngược đu từ trên mái nhà xuống, cười lạnh nói: “Quả nhiên tỉ ở đây.”

Rồi cậu chàng xoay mình trên không, trượt vào phòng, khinh công của cậu giỏi đến mức đáng nể, hai chân chạm đất không một tiếng động, tiểu khất cái nhìn cậu, ngạc nhiên hỏi: “Tiểu Thất, sao đệ lại đến đây?”

“Sao đệ lại không được đến? Cha biết tỉ lén lút bám theo tới Minh Châu, đã sai người tìm tỉ khắp nơi.” Cậu thiếu niên ngồi xuống trước bàn, lật cốc trà, tự rót cho mình một cốc, vừa uống vừa nói: “Tỉ nè, tỉ cũng ẩu quá đấy, thế mà dây vào Lý mù lòa, không sợ chọc gã nổi điên hả?”

Lại nói thiếu niên anh khí đây chẳng phải ai xa lạ, chính là con nuôi của nghĩa phỉ Lăng Xuyên Nhạc Xung – Nhạc Ngư Thất, còn tiểu khất cái trước mặt cậu lại là con gái của Nhạc Xung, Nhạc Hồng Anh.

Nhạc Hồng Anh nghe thế, tức tối ngồi phịch xuống ghế, “Vì sao cha tới Minh Châu đầu quân mà bắt tỉ ở nhà? Xem thường con gái ông ấy hả?”

Nhạc Ngư Thất đã giải thích với Nhạc Hồng Anh rất nhiều lần rồi, không phải Nhạc Xung không muốn dẫn nàng theo, mà quan phủ không trưng nhận con gái, bọn họ mới đến, không nên làm trái quy định của quan phủ.

Nhạc Hồng Anh nổi giận: “Vừa hay trong thành có đạo tặc, đợi đấy tỉ sẽ bắt được Lý mù lòa cho xem, để cha và đám quan phủ mù mắt kia xem bản lĩnh con gái người ta!”

Nhạc Ngư Thất xì một tiếng: “Cách tỉ bắt gã Lý mù lòa là nấp trong nhà trọ đắt tiền há miệng chờ sung?”

“Đệ đừng coi thường quán trọ này, toàn sĩ tử dự thi nghỉ lại đó.”

“Khỉ… cái gì? Khỉ dữ tự đi? Đệ không thích con đó chút nào.”

“Không phải khỉ dữ mà là sĩ tử, học trò đọc sách ấy.” Nhạc Hồng Anh khịt mũi trước sự vô học của Nhạc Ngư Thất, “Là người từ nhỏ đã đến lớp học, biết đọc biết viết, đọc rất nhiều sách, sau này sẽ lên kinh đi thi, thi xong là làm quan lớn.”

Nghe thấy vâ, sự xem thường trong mắt Nhạc Ngư Thất dần biến mất, lần thứ hai đánh giá căn phòng bằng vẻ kính nể.

“Sao tỉ chui vào được cái chỗ này hay vậy?”

Từ nhỏ hắn lớn lên trong sơn trại, rất ít tiếp xúc với người có học, cùng lắm chỉ biết mỗi ông thầy đồ dưới núi Bách Dương từng đọc Tam Tự Kinh, biết vài chữ nghĩa đủ để viết thư. Đại Chu vốn trọng văn, người đọc sách luôn có địa vị rất cao trong lòng dân chúng.

Nhạc Hồng Anh đắc chí nói: “Lý mù lòa đó cướp của giàu chia người nghèo còn gì. Tỉ theo dõi hắn mấy đêm, có một hôm nhân tiện cứu được một thư sinh, người này tưởng tỉ bị lạc gia đình nên thương xót thu nhận tỉ.”

Nhắc đến thư sinh này, Nhạc Hồng Anh phấn khởi nói, “Y họ Ôn, là người Thần Dương, tính cách tốt lắm, học vấn cũng giỏi, đệ có thấy hộp đựng sách ở trong tủ không? Y đọc hết chỗ sách đó rồi đấy. Y vừa biết viết văn vừa biết vẽ nữa, đúng rồi, có thấy mô hình nhà tre trên bàn không? Là y tự làm lấy.”

Nhạc Ngư Thất liếc Nhạc Hồng Anh, “Hắn giỏi thì sao? Cũng có phải quan nhân của tỉ đâu.”

Không đợi Nhạc Hồng Anh nổi đóa, cậu nói: “Tỉ với hắn cô nam quả nữ ăn chung ở chung, để xem cha biết thì có chặt cái chân chó của tỉ không!”

“Sợ gì, chuyện này đệ không nói, tỉ không nói, làm sao cha biết được? Với lại,” Nhạc Hồng Anh cụp mắt, “Ôn tướng công cũng không biết tỉ là con gái, đợi y lên kinh làm quan lớn, đâu còn nhớ đến tiểu khất cái ở phủ thành Minh Châu.”

Nhạc Hồng Anh không nhắc đến Ôn Thiên nữa, nói với Nhạc Ngư Thất: “Yên tâm đi, tỉ thu xếp hết rồi. Bây giờ quan phủ đang muốn bắt Lý mù lòa, chắc chắn gã sẽ không dại dột đến phố đông nữa, vừa khéo có mấy công tử nhà giàu đang ở tại quán trọ này, mấy hôm nay ta đã nhờ người đi tung tin, không quá hai ngày, kiểu gì Lý mù lòa cũng sẽ xuất hiện cho xem, đợi ta đưa hắn vào tròng, cha sẽ cho ta gia nhập trưng binh thôi, đệ giấu giúp tỉ ít hôm nhé.”

Tỉ đệ họ có thói quen tự hành sự, Nhạc Ngư Thất nghe xong, không nói năng ư hử gì, chỉ đứng lên đi tới cửa sổ, dặn dò: “Lý mù lòa không phải đồ ngốc, tỉ cố ý thả tin dụ hắn cắn câu, làm gì có chuyện hắn không nhận ra. Hơn nữa hắn chỉ cướp bóc chứ không làm hại tính mạng ai, dù bắt được hắn, công lao cũng không to đâu.”

Nói đoạn, Nhạc Ngư Thất đẩy cửa sổ toan nhảy ra ngoài, Nhạc Hồng Anh chợt gọi lại, “Đợi chút.”

Nàng hỏi: “Đệ có đem bạc theo không?”

Nhạc Ngư Thất lục lọi trên người, lấy ra một xâu tiền trong cổ tay áo bên phải, đưa hết cho Nhạc Hồng Anh, hỏi, “Tỉ xài hết tiền rồi à?”

“Không phải…” Nhạc Hồng Anh chần chừ giải thích, “Hôm nay thấy trong chợ có bán món đồ chơi, định mua cho Ôn tướng công làm quà cảm ơn, nhưng không đủ tiền…”

Nhạc Ngư Thất nghe vậy, lại nhìn Nhạc Hồng Anh mấy lần, “Tỉ này, đừng bảo tỉ thật sự nhìn trúng người ta rồi nhé? Người ta là thư sinh thanh bạch, còn tỉ là nữ thổ phỉ đấy.”

***

“Tặng huynh này.”

Nhạc Hồng Anh đặt một chiếc hộp gỗ kiểu cũ lên bàn.

Ôn Thiên bất ngờ, mở ra xem, trong hộp là một ngôi nhà lớn bằng lòng bàn tay.

Không khác mô hình của nhà tình thương ban đầu là bao, điểm khác duy nhất là của chàng xây bằng trúc, còn thứ trước mắt được dựng bằng gỗ và bùn.

Nhạc Hồng Anh nói: “Suốt ngày thấy huynh vẽ nhà vẽ cửa, trùng hợp ta thấy thứ này trong chợ, huynh có thích không?”

Ôn Thiên cầm nhà gỗ nhìn chăm chú, không trả lời.

Nhạc Hồng Anh chợt thấy xấu hổ, lại giải thích, “Ta nghe được tin tức về người nhà rồi, sáng mai ra ngoài thành gặp họ, huynh giúp đã đỡ ta mấy ngày, đây coi như quà cảm ơn…”

Ôn Thiên lơ đãng “ừ” một tiếng, lúc lâu sau mới ngẩng đầu lên, “Ai làm căn nhà gỗ này vậy?”

“Không biết, một tiểu thương ở Lăng Xuyên bán cho ta.” Nhạc Hồng Anh nói, thấy Ôn Thiên rất để ý mô hình nhà gỗ này, nàng nói thêm, “Nhà cửa Lăng Xuyên chỗ ta đều xây như vậy, dựng giữa hai núi tránh gió, để đề phòng mưa nhiều dầm dề nên nền nhà cao luôn xây cao hơn mặt đất.”

Ôn Thiên kinh ngạc: “Xây giữa hai núi?”

Nhạc Hồng Anh gật đầu, “Chắc huynh chưa bao giờ đến Lăng Xuyên nhỉ, Lăng Xuyên nhiều núi, đa số nhà cửa đều dựng trong núi.”

Đúng là Ôn Thiên chưa từng đến Lăng Xuyên, chỉ nghe các chú bác ở trấn Ngọc Sơn kể qua, nói đó là nơi núi liên miên, mưa nhiều vào hè.

Nghe những lời Nhạc Hồng Anh nói, Ôn Thiên như ngộ ra điều gì đó.

Chàng cứ trù trừ chưa giao bản thiết kế nhà tình thương cho quân tư Thần Dương là vì bạc bộ Hộ đưa có hạn, nếu xây theo phương pháp của chàng thì kiểu gì cũng sẽ vượt chi tiêu.

Nhưng, nếu có thể lựa chọn địa điểm mới cho nhà tình thương, lợi dụng địa hình tránh gió che mưa, không phải có thể tiết kiệm được rất nhiều nguyên vật liệu sao?

Do chàng bảo thủ không chịu thay đổi cách nghĩ thôi.

Ôn Thiên như được khai sáng, nói với Nhạc Hồng Anh: “Ta hiểu rồi, cám ơn nhiều.” Nói đoạn, chàng vội vàng trải giấy thước đo.

“Nè!” Nhạc Hồng Anh còn chưa kịp gọi, Ôn Thiên đã nhanh chóng chạy tới phòng đọc sách sửa bản vẽ.

Nhạc Hồng Anh hậm hực ngồi xuống, mới nói sáng mai nàng sẽ đi mà chàng cứ coi như gió thổi bên tai, chỉ biết có bản vẽ này nọ. Chí ít cũng quen nhau mấy ngày mà.

Đương khi thất vọng thì chợt nghe thấy tiếng cửa mở, không ngờ Ôn Thiên quay về.

Chàng nhìn nàng: “Ngày mai xuất phát lúc nào?”

Nhạc Hồng Anh ngơ ngác đáp: “Giờ Thìn?”

Ôn Thiên nói: “Được, sáng mai ta đi tiễn.”

Nhạc Hồng Anh ngớ ra, đoạn lập tức nói: “Không cần đâu!”

Ôn Thiên mỉm cười, gật đầu rồi đi tới phòng đọc sách.

***

Trời đã tối nhem mà Nhạc Hồng Anh vẫn chưa dám ngủ.

Nàng không nói thật với Ôn Thiên.

Ngày mai nàng đi không phải vì tìm được người nhà, mà đoán chắc tối nay Lý mù lòa sẽ đến.

Nàng đã nhờ người tung tin, nói có sĩ tử nhà giàu đang ở tại quán trọ phía đông thành. 

Mà trong thành đang náo loạn chuyện trộm cướp, phú hộ trong thành sợ bóng sợ gió, chi rất nhiều bạc mời hộ vệ canh gác ngày đêm, chỉ có sĩ tử ở quán trọ mới chưa biết tới thế đạo hiểm ác, thiếu đề phòng.

Mà ngày mốt các sĩ tử sẽ bắt đầu lên kinh, tối nay chính là cơ hội lí tưởng nhất, không phải Lý mù lòa thích cướp của giàu chia người nghèo ư, làm sao có thể bỏ qua cơ hội này được?

Đợi Lý mù lòa tới, ắt sẽ kinh động đến quân lính ngoài quán trọ, vị chi hắn chỉ có thể chuồn từ cửa sau.

Cũng có quân lính gác ở cửa sau, nhưng phía tây có một buồng chứa củi sát con hẻm nhỏ, trèo tường nhảy ra trốn trong hẻm chính là lối thoát duy nhất.

Nhạc Hồng Anh sẽ mai phục trong buồng chứa củi, chỉ đợi Lý mù lòa tới, ắt có thể trúng bẫy.

Trời càng lúc càng tối, qua giờ Hợi, đêm tối om gần như không nhìn thấy xung quanh. Nhạc Hồng Anh dùng tay chống má, lim dim ngồi trước bàn, chợt bên ngoài vang lên tiếng hô hoán.

“Người đâu, có trộm lẻn vào quán trọ!”

“Có trộm! Có tặc trộm đồ, còn đả thương người!”

Nhạc Hồng Anh mở bừng hai mắt, thấy bên ngoài sáng rực ánh đuốc, nàng lập tức lao tới buồng chứa củi.

Toàn bộ quán trọ đã bị bao vây, nhưng quân lính vẫn đang lục soát trong nhà, ở hậu viện vô cùng yên ắng.

Nhạc Hồng Anh đẩy cửa phòng củi ra, thấy một bóng người cao lớn nằm dưới đất, mùi mê hương trong phòng đã tản bớt, dù vậy Nhạc Hồng Anh vẫn cẩn thận dùng khăn tay bịt mũi miệng, gọi thử: “Lý mù lòa?”

Người dưới đất không đáp.

Nhạc Hồng Anh lại gần mấy bước, đưa tay đẩy gã Lý mù lòa, thấy gã vẫn không nhúc nhích thì yên tâm, nàng lôi dây thừng ra định trói Lý mù lòa lại giao cho quan phủ, nhưng đúng lúc này, người dưới đất chợt động.

Tên Lý mù lòa bỗng bật dậy, vươn tay ra từ trong bóng tối, chụp lấy Nhạc Hồng Anh.

Nhạc Hồng Anh phản ứng rất nhanh, lắc mình toan tránh đi, nhưng vì bất ngờ nên không thể nhanh hơn được đối phương đã có chuẩn bị.

Tay bị bẻ ngược ra sau, bên tai vang lên tiếng cười của Lý mù lòa: “Hóa ra nữ tặc theo dõi ta gần đây chính là ngươi?”

Nhạc Hồng Anh hừ lạnh: “Đồ tương kế tựu kế!”

Lý mù lòa nói: “Ngươi cố tình tung tin dụ ta cắn câu, ta mà không đến, chẳng phải phụ sự vất vả khổ tâm của ngươi sao. Tiểu cô nương à, ta và ngươi không thù không oán, tại sao ngươi lại giăng bẫy bắt ta?”

Nhạc Hồng Anh mím môi không đáp.

Lý mù lòa lại cười nói: “Khỏi cần nói ta cũng đoán được đại khái. Tiểu cô nương nhà ngươi còn non lắm, đây là lần đầu ngươi xuống núi đúng không? Muốn bắt người ta mà không chịu tìm hỏi lai lịch của đối phương? Ngươi không biết ta nhưng ta biết ngươi đấy, ngươi cũng là người Lăng Xuyên giống ta, cha ngươi chính là Nhạc Xung núi Bách Dương!”

Nói tới đây, gã phá lên cười: “Đường đường là con gái của Nhạc Xung, thế mà tối nay lại rơi vào tay ta, tin này mà truyền đi, khéo người khác cười cho thối mặt!”

“Ai làm người nấy chịu!” Nhạc Hồng Anh la lên, “Tối nay ta rơi vào tay ngươi là do ta tính sai, muốn giết muốn xử cứ việc, không liên quan đến cha ta!”

“Sao không liên quan?” Lý mù lòa nói, “Nhạc Xung hắn suốt ngày tự xưng nghĩa phỉ, thế mà bây giờ lại dẫn các anh em núi Bách Dương đi đầu quân! Chuyện tốt mình hắn hưởng, chỉ khổ các sơn tặc khác bị phỉ nhổ không theo chính đạo! Vừa hay con gái của Nhạc Xung rơi vào tay ta, ta sẽ giao ngươi cho quan phủ, để lại chứng cứ nói tối nay ngươi dẫn ta đến ăn trộm, và những vụ án mà ta phạm vào gần đây đều đồng mưu với Nhạc Xung! Chứ nếu ta đã biết tối nay là bẫy thì việc gì phải tới?”

Lý mù lòa cười sang sảng, đoạn lôi cổ Nhạc Hồng Anh nhảy ra khỏi tường.

Nhưng chưa đi ra khỏi hẻm, đằng trước chợt xuất hiện ánh sáng, Lý mù lòa giật mình, tưởng quan binh tìm đến.

Tuy gã muốn giao Nhạc Hồng Anh cho quan phủ nhưng không muốn xung đột trực diện với họ, đang định trốn sang bên cạnh thì Nhạc Hồng Anh đã gào lên: “Nghĩa sĩ cứu tôi với!”

Bóng người cầm đèn ở đầu ngõ dừng bước, biết trong ngõ có người gặp nạn, cuối cùng nhấc chân đi tới.

Ở khoảng cách gần, ánh đèn soi sáng khuôn mặt người đến, tuấn tú dịu dàng, khí chất nhã nhặn, chính là Ôn Thiên.

Thì ra Ôn Thiên nghe nói có trộm đột nhập vào quán trọ, về phòng không thấy tiểu khất cái đâu, sợ nàng gặp nguy hiểm nên ra ngoài tìm.

Nhạc Hồng Anh thấy mình kéo Ôn Thiên tới thì lại hối hận.

Nàng tính sai rồi, rơi vào bẫy của người khác, một mình chịu đã đành, nhưng nàng tuyệt đối không muốn Ôn Thiên bị liên lụy.

Bất chấp Lý mù lòa giữ chặt cánh tay, nàng giãy dụa cố gắng vùng ra, khuỷu tay suýt gãy, cao giọng nói: “Ôn tướng công, ta có cách thoát thân, huynh chạy nhanh đi, huynh ở lại đây chỉ tổ liên lụy tới ta!”

Nhưng Ôn Thiên đã đến gần hai người.

Lý mù lòa không ngờ Nhạc Hồng Anh lại giãy dụa vùng vẫy, lại còn nhắc nhở đối phương.

Gã hồ nghi nhìn Nhạc Hồng Anh và Ôn Thiên, trong bụng dần sáng tỏ.

Gã còn lấy làm lạ là tại sao sơn tặc như Nhạc Hồng Anh lại có thể lui tới ở quán trọ nơi sĩ tử ở, hóa ra là vì cậu học trò tốt bụng lương thiện đây, thương hại “tiểu khất cái” không có nhà về.

Lý mù lòa cười cợt: “Này tiểu tử, ngươi chưa biết đúng không, ngươi bị nữ tặc này lừa rồi, nó không phải khất cái, càng không phải là nam, nó là…”

“Đàn ông như ngươi bắt nạt một tiểu cô nương làm gì, thả nàng ấy ra!” Không đợi tên Lý mù lòa nói hết câu, Ôn Thiên đã ngắt lời.

Nhạc Hồng Anh ngạc nhiên: “Huynh… biết á?”

Chàng biết nàng là nữ? Biết từ hồi nào? Nếu đã biết, vì sao còn cho nàng ở lại? Không phải thư sinh bọn họ rất coi trọng chuyện nam nữ thụ thụ bất thân sao? Chàng không cảm thấy cô nam quả nữ hai người ở chung một phòng rất khó xử ư?

Ôn Thiên nhìn Nhạc Hồng Anh, không trả lời nàng mà nói với Lý mù lòa: “Ta biết ngươi chính là đạo tặc đang bị quan phủ truy lùng, ngươi bắt nàng vì muốn tìm người gánh tội thay mình, thu hút sự chú ý của quan phủ hòng chạy trốn. Nhưng ngươi có nghĩ đến, mấy ngày nay nàng luôn ở chung với ta, dù làm gì cũng có ta đứng ra làm chứng, nếu ba người chúng ta cứ thế ở đây, đợi quân lính tới thì ngươi chỉ tổ bất lợi, trái lại, nếu ngươi thả nàng đi, ta sẽ xem như chưa từng gặp ngươi, đôi bên bình an mới là thượng sách.”

Lý mù lòa cười lạnh: “Thư sinh nhà ngươi thông minh đấy, vừa nhìn đã nhận ra mục đích của ta. Nhưng ngươi vẫn bỏ sót một chuyện, đó là vì sao ta phải cứ ở đây đợi?”

Nói xong, Lý mù lòa vung tay, một lưỡi đao cực mỏng như tên rời cung, bắn về phía Ôn Thiên.

“Ôn tướng công cẩn thận!”

Nhạc Hồng Anh thốt lên, nhưng đúng lúc này, một bóng người tựa gió xuất hiện từ trên tường, thong thả bứt phiến lá trên cành, tiện tay vung lên, lá bay đập vào đao mảnh, lưỡi đao bị cản lập tức rơi xuống.

Đợi khi Lý mù lòa phản ứng, Nhạc Ngư Thất đã kéo Nhạc Hồng Anh về, cùng lúc ấy, có mấy bóng người xuất hiện trong hẻm, người đi đầu tướng tá phốp pháp, tuổi chừng bốn mươi, chính là Nhạc Xung.

“Tiểu Thất, cha, sao mọi người lại đến đây?” Nhạc Hồng Anh ngạc nhiên, nhìn sang Nhạc Ngư Thất, “Là đệ…”

“Không phải đệ.” Chưa đợi Nhạc Hồng Anh hỏi hết, Nhạc Ngư Thất đã nói, “Lần trước quên nói với tỉ, sau khi cha đầu quân, quan phủ Minh Châu giao cho cha nhiệm vụ đầu tiên, trùng hợp sao chính là truy bắt đạo tặc trong thành. Tối nay cha tự tìm đến đây, đệ không có bán đứng tỉ.”

Nhạc Hồng Anh không biết phải nói gì, nàng vốn định tự bắt Lý mù lòa để giành công với cha, chứng minh con gái cũng có thể tòng quân.

“Ta còn lấy lạ vì sao tối nay quán trọ canh phòng lỏng lẻo, mãi mà không có lính tìm đến, hóa ra cha con hai ngươi trong ứng ngoại hợp, một sáng một tối hòng bắt ta.” Lý mù lòa tưởng Nhạc Hồng Anh và Nhạc Xung hợp tác giăng bẫy, phẫn nộ nói.

Nhạc Xung không giải thích nhiều, chỉ bảo: “Lý Ứng Toàn, cho dù ngươi cướp của giàu chia cho người nghèo thì cũng không phải chính đạo, hãy dừng lại đi.”

“Chính đạo?” Lý mù lòa cười lạnh, “Chính đạo là thứ gì hả? Đầu quân giống như ngươi? Vậy ngươi nói ta hay, sau khi đầu quân, ngươi có làm được gì khác ngoài con ruồi mất đầu không?”

“Có biết bao lưu dân ở Minh Châu lẫn Trung Châu, mỗi ngày có biết bao người đã chết vì thiên tai đói kém, vậy mà ngươi còn quay sang giúp chúng?”

“Nhạc Xung, hồi trước ở Bách Dương ngươi không cướp bóc, không hại người vô tội, ta lấy làm bội phục. Nhưng bây giờ ngươi lại quỳ gối trước quan phủ, bước lên con đường công danh lợi lộc, ta thực sự xem thường ngươi! Còn luôn mồm nói chuyện chính đạo với ta, đồ dối trá! Chính đạo là gì? Tiểu huynh đệ, ngươi biết chính đạo của ngươi ở đâu không?”

Khi nói câu cuối, Lý mù lòa quay sang nhìn Ôn Thiên.

Ôn Thiên bị hỏi đột ngột, chợt không biết nên trả lời ra sao.

Lý mù lòa thấy thế, cười một tràng to: “Ngươi xem, ngươi muốn thi công danh nhưng không phải cũng không biết đường mình đi nằm ở đâu sao? Có thể ngươi chưa bao giờ nghĩ xem bản thân muốn gì, chỉ vì ai ai cũng bảo đấy là con đường đúng đắn, nói học hành có thể một bước lên mây, nên ngươi mới chọn con đường này.”

Nghe những lời ấy, Ôn Thiên thầm phản bác trong bụng, không phải, chàng luôn biết mình muốn làm gì, muốn là gì.

Hơn nửa đời chàng tập trung nghiên cứu chuyện xây dựng.

Nguyện vọng lớn nhất đời chàng chính là xây nhà cao cửa lớn, cho lê dân một mái nhà che mưa chắn gió.

Nhưng chàng không nói ra, bởi vì đúng là con đường mà chàng đang đi trái ngược với tâm nguyện trong lòng.

Lý mù lòa nói: “Ngươi nói cướp của giàu chia cho người nghèo không phải chính đạo, nhưng chí ít ta có thể thấy rõ những người từng được ta giúp đỡ đang dần tốt lên, dù bọn họ chỉ có thể sống thêm một tháng hai tháng, thậm chí chỉ một hôm hai hôm, nhưng trong thời buổi loạn thế ngày nay, chọn lối đi khác có gì là sai?”

Nhạc Xung không trả lời, vì ở đầu hẻm có ánh lửa lan tới, quân lính đến rồi.

Lý mù lòa thấy nói thêm cũng vô dụng, từ đầu gã đã lựa chọn vi phạm thế tục để hành cái nghĩa mình cho là đúng, thì đã lường trước có ngày hôm nay.

Gã đưa hai tay ra: “Nộp ta cho quan phủ đi.”

Nhạc Xung nhìn gã, nhưng không ra tay mà chỉ nói: “Ngươi đi đi.”

Ông vừa dứt lời, tất cả mọi người ở đó, từ Nhạc Hồng Anh, Nhạc Ngư Thất cho đến Ôn Thiên, đều ngạc nhiên nhìn Nhạc Xung.

Nhạc Xung nói: “Ta không tán thành với hành vi của ngươi, nhưng ta đã điều tra, đa số phú hộ bị ngươi trộm đều là gian thương. Ta không biết thời buổi loạn thế có thật sự cần người như ngươi không, nhưng ta luôn cho rằng không phải ngươi đã hết thuốc chữa, nếu nộp ngươi cho quan phủ, hẳn ngươi sẽ bị nhốt vào đại lao tám năm mười năm, bữa đói bữa no nhưng không tới mức chết, thế thì hời cho ngươi quá.”

Lý mù lòa sững sờ, một lúc sau mới thốt ra hai chữ: “Dối trá.”

Gã lạnh lùng nói: “Nếu ngươi đã quyết định tha cho ta, việc gì tối nay phải tốn công giăng bẫy bắt ta?”

“Bắt được ngươi chỉ là chuyện tình cờ, không phải ta sắp xếp.” Nhạc Xung không giải thích, “Nhưng ta cũng muốn nhân cơ hội này nói với ngươi môt chuyện, vào tối năm ngày trước, phú hộ bị ngươi cướp của thực chất không phải gian thương, thật ra hắn đã giúp đỡ không dưới một trăm lưu dân, chi tiêu tằn tiện, góp trăm lượng bạc chỉ để xin quan phủ dựng lán phát cháo từ thiện. Danh tiếng của hắn không tốt là do bị một tên hầu cố ý tung tin xấu, tên này đã lấy trộm tiền trong nhà nên bị hắn đuổi đi.”

“Quả đúng là trong loạn thế có kẻ làm ác, nhưng không phải chỉ có một mình ngươi làm việc thiện, hi vọng mai sau ngươi có thể hành sự cẩn thận, dù ngó lơ chính đạo cũng không nên từ bỏ chính nghĩa, mong rằng ngươi sẽ không hối hận về con đường mình đã chọn.”

Nghe những lời Nhạc Xung nói, hơi nước dâng lên trong mắt Lý mù lòa.

Gã có biệt danh “mù lòa” không phải vì thị lực kém, mà vì ngày bé từng chịu khổ gặp nạn, nay không nỡ nhìn thế gian sống cơ cực.

Gã nhìn Nhạc Xung chăm chú, đoạn gật đầu, “Được, Nhạc Xung núi Bách Dương, hôm nay Lý mù lòa ta nhận ân tình của ngươi, xin ghi nhớ trong lòng!”

Nói đoạn, gã nhảy lên đầu tường, bóng người biến mất trong màn đêm.

Sau khi Lý mù lòa rời đi, Ôn Thiên vẫn còn đắm chìm trong những lời hai người kia vừa nói, mãi vẫn chưa lấy lại bình tĩnh.

Ngươi xem, ngươi muốn thi công danh nhưng không phải cũng không biết đường mình đi nằm ở đâu sao?

Chỉ vì ai ai cũng bảo đấy là con đường đúng đắn, nói học hành có thể một bước lên mây, nên ngươi mới chọn con đường này.



Dù ngó lơ chính đạo cũng không nên từ bỏ chính nghĩa, mong rằng ngươi sẽ không hối hận về con đường mình đã chọn.

Cho tới khi ánh lửa lan đến, Ôn Thiên mới sực hoàn hồn, người đến ngồi trên tuấn mã, chính là tướng quân của quân nha Minh Châu, hắn nhìn xuống Nhạc Xung: “Nhạc Hiếu úy, ngươi bảo bổn tướng quân tin tưởng ngươi, rằng ngươi sẽ bắt được đạo tặc, thế đạo tặc đâu rồi?”

Nhạc Xung chắp tay hành lễ: “Mong tướng quân tha tội, mạt tướng sơ suất đã để đạo tặc tẩu thoát.”

Tướng quân lạnh lùng nhìn Nhạc Xung, sau đó mở miệng: “Nếu đã vậy, ngươi…”

“Xin tướng quân thứ tội, là lỗi của tại hạ, tại hạ bất cẩn bị kẻ tặc bắt được, vì bảo vệ tại hạ nên Nhạc Hiệu úy mới để kẻ tặc chạy thoát.” Chưa đợi vị tướng quân ấy nói hết câu, Ôn Thiên cướp lời.

Chàng cũng không hiểu vì sao mình lại nói thế, chàng chỉ biết rằng, nếu để quân nha biết Nhạc Xung cố ý thả Lý mù lòa chạy thoát, vậy cuộc đời binh nghiệp của Nhạc thị núi Bách Dương sẽ chấm dứt vào lúc này.

Chàng chợt nhớ đến một câu nói nghe được lúc nãy: 

Ta không biết thời buổi loạn thế có thật sự cần người như ngươi không.

Một người hành động vì trái tim mách bảo.

Vậy cứ để chàng mang tội ấy đi.

Dù sau này quan phủ điều tra thì cũng sẽ biết Lý mù lòa bị Nhạc Hồng Anh dụ tới, mà người thu nhận Nhạc Hồng Anh chính là chàng.

Vị tướng quân ngồi trên lưng ngựa lạnh lùng nhìn Ôn Thiên: “Ôn Cử nhân?”

Rồi gã kéo đầu ngựa đổi hướng: “Đi cùng bổn tướng quân.”

***

Ba hôm sau.

Nhạc Ngư Thất dắt ngựa, đưa Nhạc Hồng Anh đến ngoài thành: “Đệ và cha phải theo quân ra bắc, lên Cật Bắc xem tình hình thế nào, về tới núi Bách Dương tỉ nhớ gửi thư đấy.”

Nhạc Hồng Anh ôm tay nải đeo trên vai, gật đầu.

Nhạc Ngư Thất lại bảo: “Cha dặn nếu tỉ đi đường có gặp rắc rối thì cứ báo tên Nhạc thị núi Bách Dương, sẽ không ai làm khó tỉ đâu.”

Nhạc Hồng Anh lại gật đầu, đoạn giục: “Được rồi được rồi, đệ đi lẹ đi, không phải chỗ cha đã điểm binh rồi à? Đệ dám lén chạy ra đây tiễn tỉ, không sợ bị gạch tên hả.”

Nhạc Ngư Thất đưa mắt nhìn quanh, thấy hầu hết đều là người bình thường qua lại, Nhạc Hồng Anh biết võ công, nghĩ có lẽ sẽ không gặp sự cố gì, cậu liền giao dây cương cho nàng rồi trèo lên ngựa của mình, xoay người phất tay, phi nhanh về thành.

Nhạc Hồng Anh nhìn theo bóng lưng Nhạc Ngư Thất, song vẫn chưa lên đường.

Nàng đứng chờ ở cổng thành, chờ từ lúc mặt trời mọc tới tận lúc hoàng hôn buông, chờ tới khi ráng chiều nhuộm lấy tầng mây, Hiệu úy tuần tra đến giao ban với các thủ vệ.

Nhạc Hồng Anh lật đật đi tới, gọi hỏi: “Quan sai đại ca, xin hỏi tình hình các sĩ tử nghỉ ở quán trọ phía đông thành đợt trước thế nào rồi?”

“Sĩ tử nào?”

“Là sĩ tử lên kinh dự thi ấy.”

Quan sai nhìn Nhạc Hồng Anh, thấy nàng không giống người xấu, bèn đáp: “Sĩ tử lên kinh dự thi thì đương nhiên đã lên kinh dự thi rồi, chẳng lẽ còn ở lại Minh Châu?”

Nhạc Hồng Anh bất ngờ: “Thế, thế còn Ôn Cử nhân?”

“Ôn Cử nhân?”

“Là sĩ tử tới từ Ngọc Sơn Thần Dương, người cao gầy, hay đeo hộp đựng sách.”

Nghe mô tả, quan sai bỗng nhớ ra, đa số sĩ tử lên kinh dự thi đều có xuất thân nhà giàu, chỉ có Ôn Cử nhân ở Thần Dương là không dẫn theo thư đồng.

“Hắn ấy hả, hắn không thi nữa, về Thần Dương rồi.”

“Không thi?” Nhạc Hồng Anh ngạc nhiên, “Sao lại không thi?”

“Hình như phạm tội gì đó, nhưng quan phủ làm gì trị tội hắn nhỉ, ây da, không rõ nữa, tiền đồ rộng mở lại không cần, ai mà biết?”

Nhạc Hồng Anh sững sờ chôn chân tại chỗ.

Phạm tội? Tám phần bị nàng làm liên lụy rồi.

Nhưng quan phủ không phạt mà, vì sao chàng vẫn bỏ thi?

Lẽ nào… vì chàng muốn xây nhà?

Tia nắng chiếu xuống đầu, Nhạc Hồng Anh nhảy lên ngựa, dừng ở ngã ba, một hướng về Lăng Xuyên, một hướng dẫn đến Thần Dương.

Nhạc Hồng Anh ghìm cương đi vòng vòng tại chỗ, bỗng nhớ lại đêm hôm ấy, trong ánh đuốc sáng rực, trước khi Ôn Thiên bị tướng quân nọ dẫn đi, nàng đuổi theo gọi lại: “Nè, làm, làm sao huynh nhận ra…”

Nhưng nàng chưa nói hết câu, Ôn Thiên đã mỉm cười.

Chàng biết nàng muốn hỏi gì.

Làm sao huynh nhận ra ta là nữ?

Ôn Thiên giơ tay chạm nhẹ vào cổ.

Cổ của nam và nữ khác nhau, trong cái đêm lần đầu gặp nhau, nàng từng tháo khăn lau mồ hôi trên trán, cần cổ trắng mịn, vừa nhìn đã nhận ra ngay.

Hóa ra ngay từ đầu chàng đã biết nàng là con gái.

Chẳng trách chàng lại đến thư phòng ngủ.

Chẳng trách lúc nói chuyện với nàng, vành tai cứ ửng đỏ..

Nhưng dù vậy, chàng vẫn thu nhận nàng.

Nghĩ đến đây, trong lòng Nhạc Hồng Anh đã có quyết định định, nàng lập tức xoay đầu ngựa, chạy về một hướng ngã ba.

***

Ngày hôm sau khi trời vừa sáng, Ôn Thiên ra khỏi trạm dịch, tiếp tục lên đường.

Đường về Thần Dương xa muôn nghìn dặm, để tiết kiệm tiền nên chàng không mướn xe ngựa, tuy đường sá xa xôi, song bước chân chàng vẫn rất nhẹ nhàng.

So với sự mê muội lúc trước, hiện tại trong lòng đã thông suốt.

Cuối cùng chàng cũng biết mình thực sự muốn gì, và chàng có dũng khí để đưa ra lựa chọn.

Tới lúc về Thần Dương, chàng sẽ giao bản vẽ vừa hoàn thiện cho La Hiệu úy xem, cùng hắn chọn lại vị trí cho nhà tình thương.

Thậm chí từ hôm nay trở đi, sẽ có càng nhiều ngôi nhà dựng lên từ hai bàn tay chàng, trải dài khắp giang sơn đất nước.

Chuyến đi dẫu dài ngàn dặm, nhưng chàng đã thấy được đích đến.

Đúng lúc này, sau lưng đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa, Ôn Thiên ngoái đầu nhìn, cùng lúc đó, người cưỡi ngựa nhanh chóng ghìm cương, xoay người nhảy xuống, nàng quấn khăn quàng đỏ, cao giọng hỏi: “Nè, thợ mộc Ôn, đường về Thần Dương xa như vậy, huynh không sợ gặp kẻ xấu trên đường hả? Có cần thuê hộ vệ không?”

Đôi mắt đẹp láu lỉnh của nàng như chú sói xảo quyệt, nàng chớp mắt nói: “Ta không thu tiền công, chỉ cần huynh lo ba bữa một ngày là được, bỏ lỡ cơ hội này là không có dịp khác nữa đâu!”

– HẾT NGOẠI TRUYỆN ÔN THIÊN, NHẠC HỒNG ANH – 
 
Chương 216: Ngoại truyện 4, 5: Hoa nở thắm tươi (1)


“Tiểu nhị, dâng trà!”

Đầu xuân, hoa đào nở rộ khắp miền Giang Lưu. Ngoài thành có một quán trà, quán chỉ vừa mở cửa đã có nhóm sáu vị khách ghé. Không rõ danh tính sáu người này ra sao, thoạt trông như trai gái giang hồ, song phong thái không hề tầm thường.

Chủ quán nào dám sơ suất, tự tay xách ấm trà vừa lo bưng trà tiếp khách, vừa hỏi: “Nghe giọng các vị, phải chăng từ kinh thành tới?”

Một tôi tớ có gương mặt thanh tú, mặc y phục màu trắng đáp: “Chủ tử nhà tôi là người Giang Lưu, ngày xưa từng ở trong kinh mấy năm.”

Sáu người này không ai khác, chính là nhóm chủ tớ Tạ Dung Dữ.

Thanh Duy nhìn quanh, nơi này nằm gần dịch trạm ngoài thành. Từ xưa vùng đất Giang Lưu đã trù phú, hằng ngày khi cổng thành vừa mở, đội buôn và dân chúng nườm nượp nối đuôi ra vào. Nhưng hiện tại đã là giờ Thìn rồi, thế mà quán trà lại buôn bán rất ế ẩm, thậm chí ngoài thành cũng thưa bóng người đến lạ.

Thanh Duy cất giọng hồ nghi: “Ông chủ, ta nhớ trước kia nơi này tấp nập lắm mà?”

“Chắc khá lâu rồi các vị mới về đây nhỉ?” Chủ quán vắt tấm khăn lau bàn lên vai, “Dạo đây trong thành đang có trộm cướp hoành hành!”

“Trộm cướp?”

Vấn đề trị an ở Trung Châu luôn rất tốt, tới năm Gia Ninh còn được xưng là “đi đường không nhặt của rơi, tối khuya chẳng cần đóng cửa”. Quan phủ cũng trong sạch thanh liêm, Thôi quan đương nhiệm chính là đường huynh của Tạ Dung Dữ – Tạ Lang.

“Chứ sao, động tĩnh vụ này to đấy, lũ đạo tặc kia trộm chỗ nào không trộm, cứ chuyên môn nhằm các trường tư mà hành sự. Những món đồ được giá ở trường tư phía Đông thành bị cuỗm sạch, đại nhân ở nha phủ dẫn người đi truy lùng ngót mấy hôm, vậy mà vẫn chưa tra được manh mối nào.”

Nghe chủ quán nói thế, Tạ Dung Dữ và Thanh Duy lấy làm ngờ vực.

Tạ Lang làm quan có tiếng liêm khiết thanh bạch, cũng được đôi phần bản lĩnh, chẳng phải chỉ là án trộm cắp xoàng thôi sao, cớ gì vẫn chưa tìm ra manh mối? Thêm nữa, ở trường tư vốn có ít vật giá trị, vào ăn trộm dễ còn rùm beng hơn, thì vì sao đạo tặc lại cứ chọn nơi này?

Bấy giờ đang là năm Gia Ninh thứ chín. Năm ngoái Thanh Duy có đi cúng tế Tiển Khâm Đài, theo Nhạc Ngư Thất đến Thần Dương, đầu xuân năm nay nàng và Tạ Dung Dữ quay về Trung Châu ở một thời gian ngắn, ngờ đâu lại gặp phải chuyện thế này.

Thôi, nghĩ nhiều vô ích, cứ đợi họ về nhà hỏi Tạ Lang rồi hẵng tính tiếp.

Tạ phủ Trung Châu tọa lạc tại ngõ Trường Dương thành Giang Lưu. Từ năm Gia Ninh thứ năm đến năm Gia Ninh thứ tám, Thanh Duy đã theo chân Tạ Dung Dữ về đây hai lần.

Tạ gia nhân khẩu đơn sơ, dòng thứ trong nhà đã phân tán đi hết, ở nhà cũ ngoài Tạ lão phu nhân thì chỉ còn lại gia đình con cháu chi thứ hai, Tạ Lang là con thứ của chi này, thi đỗ tiến sĩ vào năm Chiêu Hóa thứ bảy, nhậm chức Thôi quan lục phẩm ở phủ thành Giang Lưu.

Xe ngựa đến Tạ phủ, trông thấy Thanh Duy và Tạ Dung Dữ, đứa hầu nhanh nhảu chạy tới chính đường thông báo.

Chốc lát sau, một bà lão tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào đi ra từ chính viện. 

“Tháng trước nhận được thư là ta đã mong ngày trông đêm, cuối cùng hai cháu cũng đã về.”

Tạ lão phụ nhân đã ngót bảy mươi tuổi mà xương cốt vẫn cứng cáp, cơ thể vẫn dẻo dai, ngặt nỗi đi đứng khó khăn.

Thanh Duy vội bước lên đỡ bà: “Tổ mẫu.”

Khỏi cần dặn dò, Đức Vinh lập tức sai tôi tớ chuyển hết rương hòm vào nhà. Tạ Dung Dữ và Thanh Duy cùng vấn an, đoạn đưa mắt nhìn quanh quất, hỏi: “Sao chẳng thấy ai ở nhà thế ạ?”

“Các cháu về nhanh quá, đám Tạ Tam nhi ra cửa hàng mất rồi, bên nha môn của đại ca cháu phát sinh chút chuyện, hôm qua chị dâu cháu lại đổ bệnh, giờ chắc đang nằm nghỉ, ta không cho người gọi nó dậy.” Nói đoạn, Tạ lão phu nhân ngắm kỹ Thanh Duy qua luồng sáng hắt, “Sao ta nom khí sắc Tiểu Dã kém hơn lần trước thế nhỉ?”

Tạ Dung Dữ nhìn sang Thanh Duy, “Lúc đi đường có nhờ đại phu khám rồi ạ, có lẽ do lên đường gấp gáp nhiều ngày liền nên bị mệt, thêm ảnh hưởng bởi vết thương cũ nên vậy, chỉ cần nghỉ ngơi đầy đủ là khỏe thôi.”

“Không có gì quá đáng ngại thì tốt rồi.” Gạt bỏ nỗi âu lo, Tạ lão phu nhân nở nụ cười, nói: “Nghe ta bảo, hay là các cháu ở lại Giang Lưu một khoảng thời gian đi.”

“Chúng cháu cũng nghĩ vậy đấy ạ.” Tạ Dung Dữ trả lời, đương chuẩn bị sai chưởng sự đi mời đại phu ở Bảo An Đường tới thì đột nhiên trong viện có một người rảo bước đi tới.

Người này diện áo váy sắc vàng tơ, hàng mi thanh mảnh và cặp mắt nhạt màu, chính là trưởng tẩu Ngô thị của Tạ Dung Dữ.

Mặt mày Ngô thị thấm đượm buồn rầu, vịn khung cửa lắp bắp cất tiếng gọi, “Dung Dữ, đệ muội, hai đứa về rồi à.” Trông vẻ có việc muốn cậy nhờ, thị cắn môi, sau cùng mới hạ quyết tâm, tiến về trước mấy bước, lúc nói chuyện lại toan quỳ sụp xuống, giọng nghẹn ngào: “Dung Dữ, lần này đại ca của đệ gặp rắc rối to rồi, xin đệ giúp chàng ấy!”

Thanh Duy đỡ lấy Ngô thị, “Đại tẩu chớ có vậy, đại ca có gặp phải chuyện phiền phức gì, tẩu cứ nói trước xem xem thế nào.”

Ngô thị rưng rưng đứng dậy, thị nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y không phản đối mới cầm khăn tay chấm chấm hốc mắt, “Là… là một vụ trộm cắp ở trường tư.”

“… Ban đầu chỉ mỗi tư thục ở phố Lưu Xuân bị mất trộm, về sau các trường lân cận cũng gặp nạn cắp ấy. Số đồ bị mất tạp nham lắm, nào sách vở, nào ngọc chặn giấy, hình như có cả tập văn mà tụi học trò chép nữa. Đầu tháng hai này, bản sao Hành Vân Sách duy nhất của tiền triều được cất giữ trong hiệu sách Dương Hòa cũng biến mất, thế là chuyện rùm beng lên hết.”

“Đại ca của đệ đã lục soát nhiều ngày nhưng vẫn không tìm ra manh mối. Hôm qua tẩu đến nha môn đưa cơm cho đại ca đệ, nghe thấy phủ doãn quở mắng chàng ấy, trách chàng ấy không biết làm việc…”

“Mấy năm nay nhậm chức, đại ca đệ luôn làm việc cẩn trọng liêm chính, là vị quan tốt biết đối nhân xử thế được người người ngợi khen, có khi nào phải mang nỗi hàm oan thế này?”

Ngô thị nói rồi bắt đầu nấc nghẹn. Thị không nắm quá nhiều thông tin về vụ án, càng nói càng cảm xúc cứ tuôn trào; những vấn đề như “ban đầu án mất trộm xảy ra thế nào”, “thầy đồ của trường tư là ai”, “các trường bị mất đồ có liên quan gì với nhau” mà Tạ Dung Dữ hỏi, thị đều không biết gì.

May thay nói được nửa chừng, Tạ Lang đã về nhà. 

Vốn đang xử án ở nha môn, nghe tôi tớ trong nhà báo Tạ Dung Dữ đã về, Tạ Lang vội vã chạy về ngay.

Vừa vào nhà, thấy Ngô thị kể vụ án mất trộm cho Tạ Dung Dữ nghe, hắn cực kỳ khó chịu. Nhưng Tạ Lang lại ngẫm, trước đây danh tiếng của Tiểu Chiêu vương nổi khắp thiên hạ, quan phủ Giang Lưu ai ai cũng tôn kính, muốn giấu diếm y là chuyện bất khả thi. Nếu không muốn mối phiền hà ngày một bành trướng, chẳng thà cứ nói đúng sự thực, nếu Dung Dữ chịu giúp đỡ thì không còn gì tốt bằng.

Nghe Ngô thị ăn nói lộn xộn, Tạ Lang bèn tiếp lời: “Thầy đồ của trường tư tại phố Lưu Xuân họ Chu, là Cử nhân thời Hàm Hòa. Vì thời thế loạn lạc, ông ấy xin từ quan về quê dựng trường mở lớp. Ông ấy dạy giỏi lắm, các thầy ở trường tư Xuân Dương hay hiệu sách Dương Hòa đều là học trò nhà ông ấy. À chưa hết đâu, vài năm trước trong số học trò của ông ấy còn có người đỗ tiến sĩ, nên chi Chu lão tiên sinh cũng được hưởng tiếng thơm. Không biết là tên trộm nào có mắt không tròng, lại dám giở ngón trộm cắp ngay trên đất của Chu lão tiên sinh. Nếu không thì mọi chuyện đâu đã ầm ĩ đến nước này.”

Thanh Duy hỏi: “Ý đại ca bảo các trường tư bị mất trộm không phải của Chu lão tiên sinh, mà là của học trò ông ấy ư?”

Tạ Lang đáp: “Đúng thế.”

Thanh Duy lẩm nhẩm trong miệng, liệu tình hình thì nhẽ ra vụ án đâu không khó điều tra. Rành rành là lũ trộm cắp kia đang nhằm vào Chu lão tiên sinh, vậy bắt tay điều tra từ chỗ ông ấy là được mà?

Tạ Lang nhìn Thanh Duy, nói: “Ta biết đệ muội đang nghĩ điều gì, muội nghĩ có thể tra từ Chu lão tiên sinh đúng không? Phải đấy, ban đầu chúng ta cũng nghĩ vậy. Chu lão tiên sinh ở tại Giang Lưu đã lâu, bao năm nay chưa từng gây thù chuốc oán với ai. Nhắc tới họ hàng nhà ông ấy, hai đứa chắc chắn phải biết một người, ấy là Chu thị Khánh Minh.”

Chu thị Khánh Minh có công khai quốc, chi của Chu lão tiên sinh ở Giang Lưu là chi nhánh, mà mẫu thân Chu thị của Khúc Mậu chính là đích nữ tộc Khánh Minh.

“Tuy quan hệ thân thích giữa chi họ ở Giang Lưu và dòng tộc Khánh Minh có hơi xa, song muốn tra cuộc đời Chu lão tiên sinh thì cứ tra trên gia phả tộc Chu thị là biết ngay. Lại thêm mấy năm nay ông ấy dốc lòng dạy dỗ, mọi người ai cũng kính trọng, làm gì có ai căm hận ông ấy?”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Huynh có sẵn hồ sơ vụ án đó không?”

“Có, Dung Dữ đệ muốn đọc thì huynh đến nha môn lấy về cho đệ đọc. Hồ sơ vụ án trộm đồ của Chu lão tiên sinh và học trò ông ấy đều ở trên bàn huynh.”

Nói hết câu, Tạ Lang than thở: “Nhắc tới mất trộm, vụ này kể ra cũng lạ, tên trộm kia quả cao tay, khi đến thần không biết, lúc đi quỷ chẳng hay, gần như không để lại vết tích gì. Huynh tốn bao nhiêu ngày tra xét mà cũng không tìm được manh mối có ích nào, thật là khốn đốn trăm bề!”

Vụ trộm cắp này sao mà rối ren quá, bất giác non nửa ngày trời đã trôi qua.

Dùng bữa xong, Tạ lão phu nhân đi nghỉ trưa. Ngày trước Tạ Dung Dữ từng làm việc trong triều, biết đem hồ sơ ở nha môn về nhà là không ổn, bèn quyết định theo Tạ Lang đến nha môn.

Y về phòng thay quần áo, trước khi ra ngoài, Thanh Duy gọi y lại: “Quan nhân, liệu chàng…”

“Không được.” Tạ Dung Dữ đứng trước cửa, mặt quay ngược sáng: “Có phải nàng thấy đạo tặc này hành sự kì quặc, muốn theo ta ra nha môn đọc hồ sơ, thử xem có giúp gì được cho ta không?”

Dứt lời, vẻ ưu sầu hiện lên giữa chân mày y: “Tiểu Dã à, sức khỏe xưa nay nàng chưa bao giờ yếu như lần này cả. Đại phu dặn rồi, nàng cần nghỉ ngơi điều độ, ta cũng đã phái người đi mời y sư ở Bảo An Đường tới, nàng hãy yên tâm ở nhà đợi. Nếu y sư xác nhận nàng không bị làm sao, lúc ấy giúp ta hẵng chưa muộn.”

Tạ Dung Dữ lo lắng là lẽ thường tình. Trên đường về Trung Châu, Thanh Duy ngất xỉu những mấy lần, lần nào tỉnh lại cũng toát mồ hôi lạnh khắp toàn thân, cơ thể yếu ớt suy nhược. Tạ Dung Dữ mời mấy đại phu thăm khám cho nàng, song vẫn không chẩn đoán ra bệnh, về sau nghe nói ngày xưa nàng từng bị thương nặng, bọn họ mới quả quyết phán rằng đây là hậu di chứng của vết thương cũ.

Tạ Dung Dữ rời đi, vốn Thanh Duy định nghe lời khuyên của y, an tâm đợi đại phu tới xem bệnh. Nhưng nằm giường, nàng càng nghĩ càng thấy có điều bất ổn. Khoan bàn đến điểm kì lạ trong vụ án này, chỉ riêng việc kẻ trộm không để lại bất cứ dấu tích nào sau khi hành động, làm Thanh Duy có cảm giác quen thuộc khó hiểu, tựa như đã từng nghe nói ở đâu.

Về đến Trung Châu, Thanh Duy tự thấy sức khỏe đã khởi sắc lên nhiều, không còn mệt mỏi rã rời, hơn nữa đâu phải cứ ở lỳ trong nhà thì mới là nghỉ ngơi, thi thoảng ra ngoài hóng gió, đi dạo đó đâycũng tốt cho sức khỏe.

Nghĩ vậy, Thanh Duy tránh bọn tôi tớ trong phủ, đi tới hậu viện. Tường ngoài hậu viện xây cao có đến mười thước, Thanh Duy lia mắt từ trên xuống dưới: Chỉ mỗi thế mà cũng đòi giữ được chân nàng?

***

Năm Gia Ninh thứ ba, Thanh Duy lên kinh dưới sự trợ giúp của Trương Viễn Tụ, khi ấy Trương Viễn Tụ đưa cho nàng một tờ danh sách, và bảo rằng nếu gặp trở ngại gì thì hãy tìm người có tên trong danh sách nhờ giúp, do lẽ đó nên Thanh Duy mới quen biết Du Thanh ở nha môn Trung Châu.

Về sau Trương Viễn Tụ phạm tội, nhưng triều đình nhân đức độ lượng, không trị tội liên đới của Du Thanh.

Du đại nhân này là người có tài thực thụ, trải qua bao thăng trầm chìm nổi, hiện giờ đã được thăng lên chức phủ thừa phủ Trung Châu.

Lần này Thanh Duy muốn đi tìm Du Thanh.

Tạ Dung Dữ không cho nàng theo ra nha môn xem hồ sơ, vậy nàng đi dạo vòng vòng ở mấy trường bị mất trộm thôi đã được chưa?

Nàng cũng có người quen ở Trung Châu đấy!

Sau khi biết mục đích đến của Thanh Duy, Du Thanh chỉ bảo việc này đơn giản, rồi sai tiểu quan của mình dẫn Thanh Duy ra trường, còn cố ý căn dặn không được làm phiền quan phủ Giang Lưu.

Các trường bị trộm đều nằm gần phố Lưu Xuân.

Tiểu quan nhận lệnh Du Thanh, đưa Thanh Duy đi kiểm tra từng trường một, hễ Thanh Duy sinh thắc mắc gì, nhất định sẽ đáp hết bằng điều mình biết.

Buổi trưa nhanh chóng trôi qua, Thanh Duy theo chân tiểu quan vào hiệu sách Dương Hòa.

Tiểu quan nói nhỏ: “Bản sao Hành Vân Sách duy nhất và cũng được giá nhất bị mất trộm ở đây. Vốn ban đầu việc các trường bị mất trộm chưa lan rộng đi, nhưng thầy Lương của hiệu sách Dương Hòa…” Tiểu quan hơi khựng, phân vân không biết phải diễn đạt ra sao, “Ông này quậy dữ lắm.”

Quậy dữ?

Thanh Duy đương tính hỏi “quậy dữ lắm” cụ thể nghĩa là sao, chợt đằng sau truyền đến tiếng sai dịch: “… Dạ, sách vở bút mực của thư viện đã được lấy về đây cả rồi, chìa khóa nằm ở thư phòng, có người trông chừng xuyên suốt mười hai canh giờ, thầy Lương cứ việc yên tâm…”

Thanh Duy ngoái đầu nhìn, trông thấy một người đàn ông mặc lan sam, có bộ ria mép râu cá trê cong quớt, tuổi trạc ba mươi đang rảo bước vào hiệu sách cùng sai dịch: “… Ta đã suy đi ngẫm lại mất mấy đêm liền, hiện tại không đâu an toàn nổi, chưa biết chừng giặc kia nhằm vào ta thì sao? Hắn đã trộm đồ của hiệu sách Dương Hòa này rồi, nhưng nhà ta thì hắn chưa rớ tới, giả hắn lại mon men tới nhà ta giở trò gì thì ta đây có sống nổi không? Cho nên ta đã mất cả đêm thu dọn những món đồ quý gia chuyển sang cất giữ ở nhà kho bên này, chẳng phải các người nói mười hai canh giờ mỗi ng…”

Lời chưa hết, gã bỗng nhìn thấy một cô gái đẹp thanh nhã, diện váy xanh đứng trong sân, giữa một nhóm rặt những tên sai dịch: “Đây là?”

Tiểu quan ngập ngừng.

Chiêu vương nay chỉ còn là quá khứ. Nhưng sau vụ án Tiển Khâm Đài, danh vọng của công tử Tạ thị không những suy giảm mà còn tăng vọt, hơn nữa còn được đương kim thánh thượng tín nhiệm sâu sắc, nếu nói người trước mặt đây chỉ là một cô gái bình thường thì chẳng là thất lễ với nàng rồi ư?

Thái độ của tiểu quan nhất mực cung kính: “Cô đây là người mà Du đại nhân mời đến giúp bắt trộm.” Đoạn quay sang nói với Thanh Duy, “Tiên sinh đây họ Lương, chính là thầy đồ của hiệu sách Dương Hòa.”

Vừa nghe bảo Thanh Duy được Du Thanh đích thân mời đến, Thầy Lương xem nàng như cao nhân chân chính, lại thấy nàng duyên dáng xương mai, khí phách bất phàm, càng cho là gặp được cứu tinh.

Với thầy Lương mà nói, không thứ gì trên đời này quan trọng hơn Hành Vân Sách, bởi đó là thứ độc nhất vô nhị hắn định sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau như một món gia truyền!

Hắn bước lên vài bước, chắp tay vái chào Thanh Duy: “Nếu các hạ được Du đại nhân nhờ vả đến đây truy bắt tội phạm, vậy nhất định phải hiểu rõ tường tận sự việc. Các hạ chưa biết tên trộm liều lĩnh cỡ nào đâu, hôm ấy tại hạ đã chứng kiến…”

Nói đoạn, thầy Lương tự thuật lại toàn bộ một lượt cho Thanh Duy nghe, rằng là bản sao Hành Vân Sách bị mất thế nào, mất bao giờ, nhiều ngày nay hắn phải đứng cảnh lo buồn nhấp nhổm ra sao. Rồi đến chuyện bản sao kia có nguồn gốc từ đâu, quan hệ với Lương gia như nào, trải qua bao long đong lận đận để tới được tay hắn ra làm sao, rồi khi vào trường khác lại mất những gì, có đáng tiền hay không, rồi lại đến lai lịch gốc gác,… Tóm lại nói rất nhiều, hữu ích vô dụng gì cũng gom vào nói tất, được thêm cái giọng oang oang, tính dễ bị kích động, tiểu quan và Thanh Duy toan ngắt lời mấy lần đều không thành. Đến lúc sắc trời sâm sẩm, thầy Lâm của trường Thu Nùng ở sát vách sang tìm, hắn vẫn còn luyên thuyên chưa chịu ngơi.

Thầy Lâm và thầy Lương là đôi bạn tâm đầu ý hợp, thấy thế, biết bệnh cũ của thầy Lâm tái phát, bèn kéo hắn lại mà tạ tội với tiểu quan và Thanh Duy rồi mới cáo từ rời đi.

Lúc này khỏi cần tiểu quan giải thích, cuối cùng Thanh Duy cũng đã hiểu câu thầy Lương “quậy dữ lắm” có nghĩa là gì rồi.

Tiểu quan nhìn trời, ngày gần hoàng hôn, nắng chiều chớm rọi, đoạn nói: “Mới tí đấy đã tối rồi, phu nhân đã muốn về nhà chưa? Xe ngựa đậu ngay đầu ngõ.”

Thanh Duy nghĩ ngợi: “Tôi hỏi anh, lúc nãy thầy Lương có kể vào buổi tối bản sao Hành Vân Sách bị mất trộm, mọi người vốn đã đuổi kịp tên trộm, nhưng sau sao lại để hắn chuồn mất?”

“Vâng, nói ra thì bữa ấy cũng do tình cờ. Đồ đạc được cất trong hiệu sách Lưu Xuân không phải hàng quý báu, nên ban đầu quan phủ không coi đây là án lớn, ngay chính Chu lão tiên sinh cũng chẳng để bụng. Dần về sau khie nhiều trường tư liên tục bị trộm, lúc ấy quan phủ mới bắt đầu để tâm. Vừa nãy phu nhân đến cũng thấy đấy, trên con đường này, các điểm tư thục như trường Lương Hạ, thư viện Thu Nùng, hiệu sách Dương Hòa xây kề sát nhau, à, phu nhân đã gặp thầy đồ của thư viện Thu Nùng rồi đấy, chính là thầy Lâm mới kéo thầy Lương đi lúc nãy.”

“Ba điểm tư thục Xuân, Hạ, Thu lần lượt bị trộm, quan phủ mới phái lính tuần theo dõi, đó là nguyên nhân tại sao vào hôm điểm tư thục thứ tư là hiệu sách Dương Hòa bị trộm, xung quanh đã có người canh gác.”

“Vào đêm đó, không lâu sau khi trộm đến, lính tuần đã phát giác được, tới khi trộm cuỗm bản sao Hành Vân Sách đi ra, quan sai khắp phố cuống cuồng hoảng hốt. Tổng cộng… khoảng độ hai, ba chục người, chia nhau làm ba ngả truy đuổi…”

Tiểu quan nhớ rõ đêm ấy vào giờ chưa quá muộn, rất nhiều cửa hàng vẫn còn chong đèn.

Giặc vừa ló người, ánh lửa bốn bề tức thì ngùn ngụt, nhóm quan sai đuổi ra phố Lưu Xuân, thấy sắp sửa bắt được kẻ giặc, thế mà hắn lại trèo tường trốn vào một ngõ hẹp.

“Ngõ hẹp kia là chỗ bán tạp hóa, trái phải hai bên đều có cửa hàng. Lạ nằm ở chỗ, sau khi kẻ giặc trốn vào con ngõ, mấy hàng còn mở bán lại không hề bị ảnh hưởng, vẫn buôn bán bình thường. Người của chúng tôi đi hỏi, bọn họ nhất loạt bảo rằng không thấy trộm.” Tiểu quan nói: “À, còn vài điểm lạ nữa nhé, đêm hiệu sách Dương Hòa mất trộm, trên đường còn đọng tuyết, lúc tên trộm chạy trốn, trên lớp tuyết còn in hằn dấu chân; nhưng khi hắn trèo tường trốn vào ngõ thì dấu chân cũng biến mất.”

Thanh Duy nghe tiểu quan kể, nhủ bụng đây rồi. Xuất hiện một cách khó hiểu, biến mất cũng khó hiểu nốt, cảm giác quen thuộc đã thôi thúc nàng đến thăm hỏi ngọn ngành chính là đây. Trộm cướp kiểu này, hình như nàng đã gặp ở đâu.

“Dẫn tôi tới con ngõ kia xem thế nào.”

***

Con ngõ hẹp cách hiệu sách Dương Hòa không xa, ra khỏi ngõ rẽ hai lần là đến nơi.

Tiểu quan soi sáng con đường tên trộm trèo tường đi qua cho Thanh Duy nhìn, bước tới trước chân tường: “Dấu chân hắn biến mất trong đây.”

Đêm qua mưa xuân rơi, dưới chân tường đắp một lớp bùn xuân, Thanh Duy liếc khắp trên dưới: “Không khó.” Nói đoạn, nàng tiện tay ngắt vài phiến lá, ném lên đầu tường, sau đó nhún người nhảy phắt lên bờ tường, chân giẫm lá, sải bước đi nhanh. Đến khi nàng nhẹ nhàng nhảy khỏi bờ tường, giữa lớp bùn chỉ còn dấu nông của lá rụng, nào có dấu chân?

Chứng kiến cảnh ấy, tiểu quan mắt trợn ngược, mồm há hốc. Nếu nói trước đó cậu ta kính trọng Thanh Duy bởi thân phận Chiêu vương phi, thì giờ đây đã thực sự bội phục năng lực của nàng.

Thấu tận chân tướng “giẫm tuyết không dấu” của tên trộm, sự nghi ngờ càng trĩu nặng trong lòng Thanh Duy.

Theo lý, đã có bản lĩnh này, tên trộm có thể thoát thân ngay khi vừa bị quan sai phát hiện, cớ gì phải để họ bám đuôi chạy lòng vòng thêm? Còn nữa, tại sao hắn không muốn lưu lại dấu chân ở con ngõ này? Nhẽ nào trong đây có người hắn muốn bảo vệ?

Thanh Duy sực nghĩ đến lời tiểu quan nói: “Sau khi kẻ giặc trốn vào con ngõ, mấy hàng còn mở bán lại không hề bị ảnh hưởng, vẫn buôn bán bình thường. Người của chúng tôi đi hỏi, bọn họ nhất loạt bảo rằng không thấy trộm.”

Nàng hỏi: “Mọi người đã tra hỏi hết những người bán hàng trên đường đêm hôm ấy chưa?”

“Phu nhân nghi ngờ ở đây có kẻ đồng lõa?” Tiểu quan hỏi, lại nói: “Đã tra hỏi hết rồi, có người b án nước trà, có kẻ buôn tạp hóa, còn có một đôi vợ chồng mở quầy bán bánh rán, đều là thường dân cả, gốc gác trong sạch, được tiếng tốt, không can gì đến phường cướp làng cướp xóm ấy đâu.”

Nói tóm lại, manh mối ngàn điều khê nhiêu, bói không ra một điều rành rõ.

Nếu bảo thoạt đầu Thanh Duy hỏi đến vụ án này cốt chỉ vì muốn giúp Tạ Dung Dữ và Tạ Lang, thì hiện giờ nàng được đà hứng thú thật rồi. Bước phăng phăng về con phố dài, nàng nói ngắn gọn: “Đi, chúng ta dạo tiếp các hàng.”

Màn đêm dần buông, Đức Vinh sốt ruột đi đi lại lại trước cổng Tạ phủ, nghe thấy tiếng tuấn mã hí vang từ đằng xa, một cỗ xe ngựa tiến đến, hắn nhanh nhẹn đi lên vén rèm đón Tạ Dung Dữ, cúi đầu gọi: “Công tử…”

Tạ Dung Dữ ừ tiếng, nhân hỏi: “Đại phu của Bảo An Đường đã đến chưa?”

Đức Vinh ấp a ấp úng: “Đến rồi ạ, nhưng thiếu phu nhân…”

Chẳng đợi hắn thưa tròn câu, Triêu Thiên ho “khụ” một tiếng cắt ngang lời hắn nói: “Bẩm công tử, đại phu đến rồi ạ, cũng khám cho thiếu phu nhân luôn rồi. Thiếu phu nhân uống thuốc xong, chờ công tử suốt buổi chiều, nhưng lúc nãy bỗng nhiên bảo mệt trong người, muốn ngủ một lúc nên đã đi nằm rồi ạ.” Hắn dừng lời, lại xách đao cất tiếng: “Bẩm công tử, chỗ lão phu nhân đã chuẩn bị bữa tối xong xuôi, chỉ chờ công tử đến dùng bữa.”

Tạ Dung Dữ nhìn vẻ “đường đường chính chính” của hắn, biết ngay có chuyện khuất tất, chẳng ừ chẳng hử đi về phía nội viện, đẩy cửa phòng ra.

Xuân Sơn Diệp mới pha trên bàn hẵng còn nguyên xi, đệm giường phẳng phiu ngăn nắp, làm gì có thiếu phu nhân “mệt trong người muốn đi ngủ” nào?

“Nàng đâu rồi?” Tạ Dung Dữ lạnh lùng hỏi.

Triêu Thiên cúi đầu, không dám hé môi.

Tạ Dung Dữ biết hắn quen bao che cho Thanh Duy, bèn nhìn sang Đức Vinh.

Đức Vinh thưa: “Sau trưa lúc đại phu đến, trong phòng đã chẳng còn ai, Thiên nhi tìm thấy dấu chân dưới chân tường ở hậu viện, có lẽ thiếu phu nhân đã trèo tường ra ngoài. Lưu Phương dặn không được để chuyện này đến tai lão phu nhân, cho nên đã cùng Trú Vân sang chỗ lão phu nhân che giấu. Tiểu nhân tính nhờ người đi tìm thiếu phu nhân, nhưng đường đi nước bước của thiếu phu nhân, người thường sao đuổi kịp…” Nói đoạn, hắn ngước mắt thoáng nhìn Tạ Dung Dữ, giọng sợ sệt: “Công tử, công tử có biết thiếu phu nhân đi đâu không?”

Người đối diện im lặng.

Một hồi sau, Tạ Dung Dữ lạnh lùng cất tiếng: “Ở nha môn Trung Châu có một kẻ tên Du Thanh, là người quen của nàng ấy. Ban sáng nàng có nói với ta muốn đến nha môn xem hồ sơ, ta không cho phép. Xem ra là nàng cứng đầu, đã tự đi tìm Du Thanh.”

***

Xe ngựa đến trước ngõ, Thanh Duy vén rèm lên nhìn thoáng hai bên, “Dừng ở đây được rồi.”

Còn xa lắm mới đến Tạ phủ, vị tiểu quan cho rằng nàng đang khách khí: “Để tôi tiễn phu nhân tới cửa.”

Thanh Duy xua tay lia lịa, nhảy xuống xe ngựa rồi đi vòng ra ngõ sau.

Tạ phủ trải dài những ba phố, diện tích rất rộng. Thanh Duy thấy đã khuya, bước nhanh đi đến ngõ sau, định bụng men theo đường cũ nhảy tường chuồn về phòng.

Nàng ôm tâm lí cầu may, vụ án trộm cướp vẫn chưa giải quyết, quan nhân không vùi mình suốt đêm ở nha môn đã là quý lắm rồi, hẳn sẽ không về sớm hơn đâu. Hơn nữa còn có Triêu Thiên bao che cho nàng, nếu quan nhân không hỏi, Đức Vinh cũng sẽ không lắm lời…

Nghĩ đến đây, Thanh Duy vươn người nhảy lên tường cao, bóng đêm hun hút lặng tờ, nàng nhìn quanh quất, mũi chân điểm xuống đất không phát ra tiếng động, đang định lặng lẽ chuồn về phòng thì bất thình lình, có một người bước ra từ chân tường phía sau.

Người tới mặc áo suông xanh lơ, khoác áo chùng trên vai, lạnh lẽo cười mà nói: “Tiểu Dã cô nương vất vả nhỉ, mới tra án xong về đấy hả?”
 
Chương 217: Ngoại truyện 6, 7: Hoa nở thắm tươi (2)


“Ta biết mình nên ở nhà nghỉ ngơi, ta nói thật, nhưng công phu của tên trộm kia ta thấy quen cực, nhất định là đã gặp hay nghe qua ở đâu đó, ngặt cái nghĩ hoài không ra. Với lại ta đã khỏe hẳn hoi rồi, chàng xem mấy bữa nay ta ăn được ngủ được, do đi đường nhọc quá thôi. Đại ca cũng nói án này hóc búa, ta đến kiểm tra các trường ấy là để giúp chàng và đại ca, ta biết chàng lo ta, ta xin lỗi là được chứ gì?”

Trên đường về phòng, Tạ Dung Dữ im ỉm đi đằng trước, Thanh Duy bước theo sau giải thích luôn hơi. Về đến phòng, Tạ Dung Dữ ngồi trước bàn, nhìn nàng: “Lại đây.”

Thanh Duy ngần ngừ, vâng lời ngồi xuống.

Tạ Dung Dữ: “Ta đã nói đỡ hộ nàng với tổ mẫu rồi, rằng chuyến đi làm nàng mệt quá, đêm nay lo mà nghỉ ngơi, sáng mai khỏi phải đi vấn an.”

Thanh Duy gật đầu, đáp mỗi tiếng “ờ”.

Tạ Dung Dữ: “Sáng mai đại phu của Bảo An Đường sẽ lại đến, ông ấy là danh y Giang Lưu, cực kỳ khó mời, tới lúc đó đừng cho người ta leo cây nữa đấy.”

“Ờ.”

Nhìn thái độ nhận sai của nàng cũng khá thành khẩn, giọng Tạ dung Dữ dịu đi: “Ăn gì chưa?”

Thanh Duy lắc đầu.

Thế là Tạ Dung Dữ sai Trú Vân bưng bữa tối đã chuẩn bị sẵn vào, ngồi ăn hết bữa với nàng rồi lại giục nàng đi thay đồ tắm rửa.

Đêm xuân se buốt, chăn mền cũng ngâm ngấm giá lạnh, may sao người Tạ Dung Dữ ấm áp, Thanh Duy vừa tắm xong liền nép sát vào lòng y, luồng hơi ấm rần rật truyền qua lớp áo trong mỏng manh.

Nàng biết lúc này y đã hết giận, ngửa đầu hỏi: “Sao hôm nay chàng về sớm thế?”

“Nàng biết ta đến nha môn xem hồ sơ, đoán ta sẽ về muộn chứ gì?” Bằng không sao nàng lại chọn giờ về chuẩn đến vậy?

Tạ Dung Dữ cúi nhìn Thanh Duy, “Theo nàng thì sao?”

Y không cách nào ngừng lo lắng cho nàng. Đầu xuân hải đường rộ cánh, một nhành hoa hắt bóng lên khung cửa giấy, tấm lưới cửa sổ hở ra một khe, hương hoa đưa thoảng vào phòng. Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, đúng là dạo gần đây Tiểu Dã cô nương của y nhuận sắc ra hẳn, phảng phất mùi thơm, bầu má như nhuộm sắc nụ đào.

Ánh mắt Tạ Dung Dữ dịu như nước, gợn sóng lăn tăn, y cúi mặt.

Trong một thoáng rơi vào cơn mê, Thanh Duy bỗng nhớ ra chuyện quan trọng giữa nhịp thở càng lúc càng nặng nề của y. Từ lần nàng bị đau đầu phải mời đại phu, là y đã kiềm chế bảy tám ngày. Mãi mới có dịp nghỉ tối nay, theo thói quen của y, chỉ e sẽ làm đến tận bình minh mất. Gần đây nàng khi nhớ khi quên, thêm manh mối tra được hôm nay mơ mơ hồ hồ, nếu bị hành tới sáng mới được ngủ, khéo có khi quên khuấy mất thôi.

Thanh Duy đẩy Tạ Dung Dữ: “Khoan khoan, ta có chuyện gấp muốn nói với chàng.”

Tạ Dung Dữ nhổm người dậy, nhìn nàng, ánh nhìn đương hỏi: Giờ này còn chuyện gì gấp hơn nữa?

Thanh Duy nói: “Là manh mối hôm nay ta điều tra được.”

Tạ Dung Dữ ngớ người, muốn nói rồi lại thôi, lúc sau mới thốt lên một chữ: “Nói.”

Thanh Duy nói: “Ta đã đi xem qua những trường tư bị mất cắp, tên trộm rất có bản lĩnh, nếu trường không đề phòng, thì hắn muốn trộm một món đồ là việc dễ như trở bàn tay. Nhưng xui cho số hắn đen, vào đêm đến hiệu sách Dương Hòa thì hành tung tới tai quan sai, bị quan đuổi chạy ba con phố, rơi vào đường cùng buộc phải tung hết bản lĩnh, cuối cùng biết mất tăm hơi.”

“Nghe có vẻ không lạ đúng không? Tuy nhiên, hiệu sách Dương Hòa nằm ngay đầu ngã ba phố Lưu Xuân, có rất nhiều ngả đường có thể chạy trốn, tên trộm này lại đâm đầu chọn ngả khó thoát thân nhất. Thế đã đành, rõ ràng hắn có khả năng cắt đuôi quan sai, nhưng phải tới con ngõ bán tạp hóa chật hẹp mới biến mất, chàng nghĩ vì sao?”

Chẳng đợi Tạ Dung Dữ trả lời, Thanh Duy nói thẳng: “Ta đoán hắn cố ý dẫn quan sai đến phố tạp hóa, hắn muốn quan phủ nghi rằng ở đây có đồng lõa của hắn rồi tra xét con phố.”

Thực tế thì đúng là quan phủ đã tra xét. Tiếc thay không tra được gì, ở đó toàn người làm ăn mua bán yên thân yên phận.

Tạ Dung Dữ nghe Thanh Duy nói xong, lấy làm đăm chiêu, qua một lúc lâu, y xoay người nằm thẳng trên sạp: “Nàng biết vì sao vụ án này đến nay vẫn không có manh mối không?”

Thanh Duy: “Vì sao?”

Tạ Dung Dữ: “Vì không tìm thấy động cơ.”

Thanh Duy khó hiểu.

Tạ Dung Dữ nói tiếp: “Thực ra quan phủ điều tra được rất nhiều manh mối, thí dụ như tên trộm năm lần bảy lượt trộm cắp không phải vì tiền, ít nhất những đồ hắn trộm mất của mấy tư thục Lưu Xuân, Thu Nùng là không quá quý giá, còn bản sao Hành Vân Sách là đồ quý không bán ra ngoài; hơn nữa quan phủ vẫn không tìm thấy có đồ bị trộm được bán ở chợ đen. Tên này ăn trộm không phải vì thù riêng, chưa nói đến Chu lão tiên sinh của Lưu Xuân, mà các thầy đồ ở các nơi Hạ, Thu, Dương cũng chưa bao giờ chuốc thù với ai, học trò ai cũng kính trọng, không có ai bất mãn.”

Thanh Duy hỏi: “Chàng suy luận được từ hồ sơ ở nha môn đấy à?”

Tạ Dung Dữ khẽ gật đầu.

Lạ quá, không phải vì tiền cũng chẳng phải vì thù, vậy giặc kia trộm cắp vì điều gì, đâu thể chỉ là một trò đùa?

Thanh Duy nghĩ hoài không ra, lúc này, Tạ Dung Dữ lại nói: “Thực ra, ta đã nghĩ tới một khả năng.”

Thanh Duy: “Gì cơ?”

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, thốt lên hai chữ: “Nghĩa phỉ.”

Nghe hai chữ “nghĩa phỉ”, tức thì Thanh Duy xốc dậy tinh thần: “Ý chàng là nghĩa phỉ hành hiệp trượng nghĩa?”

Thanh Duy xuất thân từ Nhạc thị, thời Hàm Hòa đời sống cùng khổ, chẳng phải Nhạc thị cũng là nghĩa phỉ của núi Bách Dương đó sao?

Tạ Dung Dữ nói: “Giang Lưu thái bình đã lâu, dù vào Chiêu Hóa những năm đầu cũng rất ít có nghĩa phỉ ẩn hiện, bởi thế quan phủ Giang Lưu mới bỏ sót khả năng này, không nghĩ đến, thành thử không có manh mối.” Còn vì sao y nghĩ ra được, thì một vì nàng Ôn Tiểu Dã ngay cạnh y đây, nguyên xuất thân là nghĩa phỉ; hai vì trong những ngày điều tra chân tướng về Tiển Khâm Đài, những người như Nhạc Ngư Thất mà y từng gặp chắc chắn không phải đam mê bôn tẩu tứ phương.

Thanh Duy chợt minh bạch: “Chàng nói mới thấy mọi chuyện khớp lại rồi. Tại sao tên trộm này chuyên trộm của trường tư, bởi vì điều hắn muốn là khiến sự việc rùm beng lên, muốn thu hút sự chú ý của quan phủ. Trộm Hành Vân Sách không phải mục đích của hắn, mà mấu chốt là thầy Lương chủ nhân của Hành Vân Sách rất thích xé chuyện ra to, y mà quậy lên, sự việc mới được lan truyền, quan phủ mới càng coi trọng. Sau đó, tại sao tên trộm này lại chạy về phố tạp hóa chật chội, chắc chắn vì ở đó có chuyện bất bình, hắn muốn vẽ đường cho quan phủ đến điều tra. Trên phố toàn là dân buôn sống an phận, nhưng chính vì luôn an phận nên mới lâm vào cảnh oan khuất bất công. Còn về chuyện tại sao tên trộm này không báo quan trực tiếp, thì ta nghĩ không ra, liệu có phải có liên quan tới các trường không? Quan nhân, chàng thấy sao?” Nói đoạn, hai tay Thanh Duy chống má, nhoài người cạnh Tạ Dung Dữ hỏi.

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, mãi sau mới hỏi lại: “Nói xong rồi à?”

Thanh Duy “hử?” tiếng khi chưa kịp hiểu gì, ngay sau đó Tạ Dung Dữ đã nhấc người nàng lên, trói quặt một tay nàng ra sau, chống người ngồi dậy.

Tiếng rủ rỉ trong phòng bặt đi, giữa thanh âm hỗn loạn, từng cơn gió thổi lùa qua ô cửa.

Nhánh hải đường chập chờn trong gió xuân.

***

“Mạch tượng của phu nhân vẫn ổn, trước đó suy yếu mệt mỏi chắc mẩm do đi đường vất vả, hoặc cũng do thời tiết khó chịu mà ra, cho nên khi đến Giang Lưu thì chuyển biến tốt ngay.” Trưa hôm sau, đại phu của Bảo An Đường chẩn mạch cho Thanh Duy xong, đã nói như vậy.

Đức Vinh nói: “Nhưng phu nhân nhà tôi đã chu du đây đó từ hồi trẻ, chưa từng gặp tình trạng dị ứng thời tiết, dọc đường đi chúng tôi cũng có mời vài đại phu, đều phán bệnh tình phu nhân rất lạ. Có lẽ tại vết thương cũ trên người gây ra, những xin đại phu chẩn thật kỹ cho phu nhân.” 

Đại phu vuốt chòm râu dài: “Trước đây mạch của phu nhân bị chậm, thêm việc không tìm được nguyên nhân sinh bệnh, đúng là giống suy nhược do vết thương cũ. Bây giờ đã qua đông rét, xuân ấm dễ chịu, nếu vết thương cũ của phu nhân tái phát, cớ sao lại tại phát vào xuân? Còn nữa, vết thương cũ tái phát sẽ khiến bệnh kéo dài lâu, khỏi hẳn trong ba, năm bữa là điều không thể. Vậy nên lão phu dám xin khẳng định, phu nhân hoàn toàn khỏe mạnh, không có gì đáng ngại, chẳng qua…” Đại phu khựng lại, hỏi giọng có phần dè dặt: “Những đại phu trước có từng kê liều thuốc hoạt huyết hóa ứ, bài trừ khí uất cho phu nhân không?”

Tạ Dung Dữ nói: “Có, nhưng ta không cho nàng uống.” Y giải thích, “Nàng tập võ từ nhỏ, cơ thể vốn khỏe mạnh, bao năm nay chưa khi nào đụng ốm đau, hơn nữa đại phu gặp trên đường toàn chẩn “có lẽ” rồi “chắc là”, không thể khẳng định, nên nhà ta chỉ điều dưỡng bằng thuốc an thần.”

Đại phu thở phào nhẹ nhõm: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt.” Nói đoạn, ông thầy đứng dậy xin cáo biệt: “Phu nhân mạnh khỏe, công tử khắc có thể an tâm, nhưng nếu phu nhân từng đổ bệnh thì trước mắt vẫn phải hết lòng an dưỡng. Nghe nói phu nhân tập võ từ bé, lão phu xin khuyên, những ngày kế tiếp… tạm thời đừng dùng công phu nữa.”

Người đương hiện diện trước mặt đây là đại phu giỏi nhất Trung Châu, bì được với cả ngự y chốn cung đình, Tạ Dung Dữ rất tin tưởng lời ông. Y nhẹ nhàng gật đầu, sai người hầu tiễn đại phu ra phủ.

Người hầu trong Tạ phủ rất hiểu chuyện, ra đến ngoài phủ, đưa cho đại phu một túi vải thêu mây phúc lộc cát tường: “Đại phu vất vả rồi.”

Đại phu hoảng hốt, đánh mắt thoáng ngó qua cổng phủ, hỏi: “Hai người vừa rồi chính là Tạ nhị công tử và phu nhân công tử của quý phủ ư?”

Vị danh y Giang Lưu đây thường hay thăm khám cho quý nhân, Tạ nhị công tử mang thân phận gì, có lý lão lại chẳng biết? Mà nay vì vụ Tiển Khâm Đài, Tạ Dung Dữ bị tước phong hàm Chiêu vương, song mấy ai tinh tường sáng suốt đều biết, vị Quan gia ở chốn cung đình xa xôi rất mực tin tưởng y, cộng thêm chỗ đứng của y trong lòng các sĩ phu, kẻ nào dám nói y không phải “vương”?

Rồi nay y quay về Giang Lưu, môn đình vẫn vắng vẻ chẳng phải vì thói đời nóng lạnh vô thường, mà bởi tại ngưỡng cửa quá cao, dẫu thế gia quyền quý Trung Châu có tụ tập, cũng không dám tùy tiện thăm viếng.

Đâm ra đại phu công đường mới hỏi câu này. Ông không thể tin nổi mình lại gặp được Tiểu Chiêu vương và Chiêu vương phi.

Người hầu chu toàn phép lễ, cười nói: “Chứ sao, chuyến này Nhị công tử nhà tôi về Giang Lưu sẽ ở lại lâu, sau này nếu có làm phiền, mong đại phu chớ chê ngại.”

“Phiền chi phiền chi.” Đại phu loanh quanh mấy bước, lại thấp giọng căn dặn: “Lát nữa ngươi nhớ dặn dò toàn phủ nhớ phải chăm chút việc ăn uống của thiếu phu nhân, dạo này… nhất thiết phải nghỉ ngơi kỹ lưỡng, phải tránh dụng võ…”

“Ta đã nói gì nào? Ta khỏe lắm, không bị sao hết, trước đó chỉ tại đi đường mệt, vậy mà chàng chẳng chịu tin ta. Chàng xem có phải đại phu cũng bảo thế không?” Đại phu của Bảo An Đường vừa đi khỏi, Thanh Duy đắc chí nói.

Tạ Dung Dữ ngồi xuống cạnh nàng, bưng chén trà nguội trên bàn, thong dong nói: “Đại phu cũng dặn nàng nên ở nhà điều dưỡng, không được dùng võ, tốt nhất là cũng chớ đi lại lung tung.” 

Thanh Duy luôn miệng đáp “biết rồi”, nhìn y cứ ngồi cạnh không nhúc nhích, ngạc nhiên nói: “Có manh mối cho án mất trộm rồi kia mà, sao chàng vẫn chưa ra nha môn bảo đại ca một tiếng? Đỡ để huynh ấy sốt ruột.”

Tạ Dung Dữ nói: “Ra rồi, nhắn nhủ rồi, ta cũng đi xem các trường tư luôn rồi, đã có manh mối thì án này dễ giải quyết thôi. Nếu không phát sinh chuyện gì ngoài ý muốn, đêm nay sẽ có kết quả cuối cùng.”

Thanh Duy càng thêm kinh ngạc: “Chàng đi hồi nào? Sao ta không biết?”  

Tạ Dung Dữ liếc qua nàng, đậy nắp chén trà, nét cười thong thả hiện trên khóe môi: “Đương nhiên là đi ngay sáng nay, nàng không biết cũng đúng, hôm nay nàng dậy muộn quá.”

***

Trưa hôm ấy, ở ngõ tạp hóa phố Lưu Xuân.

“Đưa đi, đưa hết đi!” Sau tiếng quát tháo, vài quan sai dẫn một cặp vợ chồng đi ra từ quầy hàng bánh bột.

Người phụ nữ trạc đôi mươi, mặc đồ trắng đeo trâm cài, trượng phu nàng ta là một gã què, bị quan sai lôi xềnh xệch ra khỏi con ngõ. 

Đám đông nhốn nháo xúm quanh đầu ngõ, có kẻ bất chấp vớ ai cũng hỏi: “Chuyện gì thế, đại ca đại tẩu Trương gia sao bị dẫn đi vậy?”

Có người thấp giọng trả lời: “Hình như dính líu tới vụ mất trộm.”

Kẻ hỏi không thèm tin: “Sao có thể, đại ca đại tẩu Trương gia là người thật thà, biết điều cả mà!”

Tạ Lang phớt lờ những lời bàn tán, cho quan sai áp giải nghi phạm lên xe tù, nghênh ngang rời đi.

Quan sai vừa đi, đám người hóng hớt cũng giải tán. Bấy giờ, một người đàn ông tầm vóc lực lưỡng, tuổi khoảng ngũ tuần khiêng hai bó củi đi vào ngõ tạp hóa, chủ hàng ăn vặt ở đầu ngõ tiếp đón: “Lý thúc, qua bên đây.”

Lý thúc vừa đi vừa ngoái lại nhìn: “Sao quan phủ lại bắt huynh đệ Trương gia vậy?”

“Chịu, hình như vợ chồng Trương gia là đạo tặc ăn trộm đồ đấy, chúng tôi đâu ai tin. Nhưng cũng đành chịu, quan phủ muốn bắt người, can không nổi!”

Lý thúc “ồ” lên như suy tư điều gì, đặt hai bó củi xuống: “Ông chủ La, củi hôm nay của ông đây.”

Ông chủ La gửi lời cám ơn, thấy Lý thúc bước ra ngoài ngõ bèn lân la hỏi: “Lý thúc này, hôm nay ông còn việc gì làm không?”

Lý thúc tựa hồ có tâm sự, không trả lời.

Ông chủ La cũng không hỏi nữa.

Lý thúc này chuyển đến ở đây vào một năm trước, bảo rằng con cái mất hết, tới Trung Châu nương nhờ đứa cháu, lại không biết người cháu ấy ở đâu. Người trong ngõ tạp hóa thấy lão từng tuổi ấy rồi vẫn thui thủi một mình, mỗi hộ nhà bèn phân cho lão làm ít việc vặt; người trên dưới ngõ đều làm buôn bán nhỏ, đôi khi bận đầu tắt mặt tối, cũng phải mướn người làm công tạm thời.

Lý thúc ra khỏi ngõ, nhưng không đi tới chỗ làm công. 

Lão nghỉ một chốc trong căn nhà tồi tàn ở con đường phía sau, lúc trở ra, đã mặc trên mình chiếc áo khoác ngắn bám bụi bần hàn.

Hoàng hôn chớm buông, lão rời phố Lưu Xuân, bước ngược dòng người, lẳng lặng đi vào con ngõ sau của nha môn.

Trong ngõ, một bức tường cao cỡ nửa trượng chia nha môn làm hai nửa trong và ngoài. Trong tường truyền ra tiếng người huyên náo, hình như các thầy đồ ở trường hay tin chạy tới.

Lý thúc đã có tuổi, thành ra hơi bị nghễnh ngãng, cách bức tường không nghe rõ họ đang nói gì. Nhưng lão không sốt ruột, ngó nghiêng xung quanh, trông thấy mé đầu tường phía Tây lấp ló một góc mái hiên, lão dồn lực vào gót chân, dễ dàng tung mình lên.

Ánh chạng vạng và tấm áo xám tro lão mặc hợp lại thành một, đưa mắt nhìn xuống, lão biết hai người đang đứng trong sân kia, đấy là thầy Lâm của thư viện Thu Nùng và thầy Lương của hiệu sách Dương Hòa – bảo sao om sòm thế.

“Kẻ bán bánh ở ngõ tạp hóa làm ư? Sao mà tôi tin nổi?”

“Chúng có cái tài này thì còn bán bánh bán bủng gì nữa?”

“Thế đã lấy về được Hành Vân Sách của tôi chưa… vẫn đợi xét à? Còn xét đến bao giờ nữa?”

Thầy Lương hay tin tên trộm bị bắt, hấp ta hấp tấp kéo thầy Lâm chạy ngay sang đây. Một tràng câu hỏi tù tì khiến Điển lại chóng mặt.

Điển lại nói: “Hai vị tiên sinh xin hãy bình tĩnh, chi tiết vụ án cứ đợi xem xét thẩm tra. Còn về phần tài sản hai ông bị mất, chúng tôi nhất định sẽ tìm về cho hai ông, chỉ là…” Nói đoạn, Điển lại đau đầu, “Hai ông cũng biết đấy, vụ án này quá ồn ao, Quan gia ở tận kinh thành cũng biết chuyện. Hôm qua Doãn đại nhân của phủ tôi nhận được khẩu dụ quan gia, nhất quyết phải xử nghiêm án này. Nghi phạm được nha môn chúng tôi thẩm tra thôi chưa đủ, còn phải đợi khâm sai trong kinh đến thẩm vấn. Hiện giờ khâm sai còn trên đường đi, thành thử bị trì hoãn lại.”

Lời vừa dứt khỏi, hai ông Lâm – Lương liếc nhau, thầy Lâm hỏi: “Thật thế à?”

“Không thể thật hơn nữa, hoàng phù mang khẩu dụ của quan gia đã được giữ kỹ ở công đường nha môn rồi đây. Chính vì khâm sai sắp đến, lát nữa tại hạ còn phải đưa hai nghi phạm sang quân nha để canh chừng.” Nói rồi, chắp tay vái chào hai vị Lâm – Lương, đi làm nhiệm vụ.

Điển lại vừa đi, thầy Lương hỏi giọng chần chờ: “Họ bảo sẽ áp giải nghi phạm đấy, hay ông tôi đi xem xem? Tôi từng đến ngõ tạp hóa kia rồi, tôi nghĩ người ở đó không giống quân trộm cắp đâu.”

Thầy Lâm lại nói: “Có phải trộm hay không, quyền phán không nằm ở mình, phải nghe quan phủ thôi.”

“Nếu quan phủ phán lầm thì sao? Ông nghe thấy gì chưa? Quan phủ còn phải đợi khâm sai, ngộ ngỡ muốn áp giải phạm nhân lên kinh, chẳng phải hai người họ sẽ chịu oan sao?”

Lâm tiên sinh đánh mắt về nơi giam giữ phạm nhân, giọng ơ hờ: “Áp giải lên kinh còn chẳng tốt sao? Đích thân Quan gia can thiệp, Hành Vân Sách của ông không lo không tìm thấy rồi.” Nói xong câu, hắn nhanh chóng rời đi từ cửa hông nha môn.

Lý thúc nhìn bóng hai người nọ, khịt mũi khinh thường. Lão nhẩm tính giờ giấc trong bụng, chừng nhá nhem quan phủ sẽ áp giải phạm nhân đến quân nha, lão vẫn kịp cứu người.

Huynh đệ Trương gia mắc tật ở chân, kỵ nhất là ẩm thấp lạnh lẽo, không thể ở lâu trong ngục được.

Chẳng mấy chốc đã sang giờ Tuất, cửa hông nha môn mở ra kêu cái *két*, vài tên nha dịch kéo một xe chở tù đi về hướng Đông.

Lý thúc bí mật đuổi theo, khi xe tù ra tới bìa rừng ở ngoại ô, hai tên quan sai đến dịch trạm bàn giao, bằng tốc độ nhanh như chớp giật, lão nhảy khỏi ngọn cây và bổ thẳng xuống hai người ấy. Hai tên còn lại toan hô hoán, song mũi miệng đã bị Lý thúc bịt chặt ngay. Không biết tay lão dính bột phấn gì, hai tên kia hít vào trong phổi, lập tức lăn ra bất tỉnh.

Vợ chồng Trương gia ngồi trong xe sực hoàn hồn, giật mình xen lẫn hoài nghi: “Lý… đại ca?”

“Tôi đây.” Lý thúc tháo khăn che mặt, “Vì tôi mà cả hai liên lụy chuyện này, hai người cứ đi đi, còn lại để tôi.”

Cô vợ Trương gia kinh ngạc hỏi: “Lý đại ca, lão đang nói gì thế? Lẽ nào… lẽ nào lão là người trộm đồ của các trường tư kia?”

Lý thúc không kịp giải thích: “Việc này nói ra dài dòng lắm.” Lão mượn tạm đao thép giắt bên hông tên nha dịch, bổ một nhát đứt rời sợi xích sắt ở xe chở tù, “Tóm lại hai người cứ việc quay về nhà, tôi cam đoan sau khi chuyện nha môn kết thúc, sẽ không một ai gây rắc rối cho hai người nữa.”

Xuống xe ngựa, vợ chồng Trương gia vừa đi được một đoạn, bỗng trong rừng có trận gió nhẹ thổi qua, tạo cơn rung động như đàn chim bay lên.

Lý thúc chợt nhận ra có điều bất ổn, cất cao tiếng quát: “Tránh mau!”

Đúng vào lúc đó, có một người nhảy xuống từ đầu ngọn cây, kẻ này trùm áo chùng đen kín như bưng, giơ tay đánh thẳng về vai trái của Lý thúc.

Lý thúc nghiêng mình né đòn, tung nắm bột thuốc trong tay ra, cứ nhằm mặt kẻ áo đen mà tấn công.

Nhưng dường như kẻ áo đen đã có chuẩn bị, lập tức kéo áo chùng che khuất miệng mũi, nhanh nhẹn lùi về sau.

Lý thúc không biết kẻ này có lai lịch ra sao, nom vóc dáng thì đối phương rõ là con gái, nhưng từng chiêu từng thức phảng phất khí thế của quân trộm cắp giang hồ mới lạ, ngay đến thuốc bột lão chuẩn bị cũng chẳng ăn thua.

Mấy chiêu vừa nãy ả tung ra phải gọi là điêu luyện, dám chắc công phu trên cơ lão lắm. Lý thúc chỉ bảo đối phương không mang thiện ý, dặn vợ chồng Trương gia mau chóng rời đi rồi dụ nữ tặc chạy về một hướng khác.

Nữ tặc và Lý thúc người đuổi kẻ chạy, rừng rậm trước mắt dần thưa, đằng trước sừng sững một ngọn núi cao, khốn sao nó lại là một con đường cụt.

Đã làm thì phải làm đến cùng, Lý thúc định quay đầu đánh liều với nữ tặc, bất thình lình từ hai bên cánh rừng có quan binh chạy ùa ra, chỉ chốc lát, ánh sáng của bó đuốc đã chiếu rọi xung quanh.

Bấy giờ Lý thúc mới nhận ra mình đã mắc bẫy – ban nãy trong rừng có ba con đường: một đường dẫn về thành, một đường dẫn đến quân nha, đường còn lại chính là đường cụt này. Nữ tặc này chưa nắm chắc căn cơ của lão, mới cố tình dẫn lão chạy theo đường này! xx

Quan binh bao vây Lý thúc, Tạ Lang hỏi: “Kẻ trộm đồ của các trường tư chính là ngươi?”

Lý thúc cười lạnh: “Lão còn tưởng quan phủ Giang Lưu rặt một đám vô dụng bất tài, hóa ra vẫn còn khá.”

Dù sao cũng đã bị tóm, không nhất thiết phải đấu nữa, bèn thẳng thắn hỏi rõ nghi hoặc trong lòng: “Các người điều tra ra quan hệ giữa ta và Trương gia bằng cách nào?”

Quan hệ giữa lão với người trong ngõ tạp hóa khá hòa đồng, sao quan phủ lại đoán định lão trộm đồ của trường vì vợ chồng Trương gia? Hơn nữa, vợ chồng Trương gia làm gì biết chuyện lão đi trộm cắp đồ.

“Việc này…” Tạ Lang nghe hỏi, lưỡng lự nhìn Tạ Dung Dữ.

“Không điều tra ra.” Tạ Dung Dữ trả lời dứt khoát.

“Không điều tra ra?”

Tạ Dung Dữ: “Phải, các hạ giấu kỹ đấy, ngoài việc đoán rằng lão có người quen trong ngõ tạp hóa thì bọn ta không điều tra ra được gì nữa.”

“Nếu đã không tra ra được điều gì, vì sao các người còn bắt vợ chồng Trương gia? Các người không sợ bắt lầm người, không thể ép lão phu lộ diện ư?”

“Chẳng phải các hạ là nghĩa phỉ sao?” Tạ Dung Dữ cười nhạt, “Chân cẳng Trương Tứ ca bị tật, cần được chữa trị, nếu bị nhốt vào lao ngục ẩm thấp, kiểu gì chân cũng phế ngay. Dù bọn ta có bắt lầm người, với lòng gan dạ nghĩa hiệp của các hạ, nhẽ nào không thèm cứu? Hẳn các hạ cũng rất hòa thuận với người trong ngõ tạp hóa nhỉ?”

Cái đêm Hành Vân Sách bị đánh cắp, quan binh chạy đến ngõ tạp hóa thì tên trộm biến mất. Về sau quan binh tra hỏi từng hộ từng nhà, người trong ngõ đều bảo đêm ấy không hề bắt gặp tên trộm nào hành tung kỳ lạ. 

Vụ việc đêm ấy phải nói rất chấn động, tên trộm trốn chạy vào ngõ tạp hóa, không lý nào không ai nhìn thấy. Nói thẳng ra, người nhìn thấy trộm thậm chí không chỉ có một; mà sự tình phát sinh đột ngột, người trong ngõ tạp hóa cũng đâu thể bắt tay cùng nói dối.  

Vậy lí do gì khiến người dân ở đó lại khai nhất quán thế?

Chỉ có một cách lý giải duy nhất: ắt hẳn tên trộm là người thường xuyên xuất hiện trong ngõ tạp hóa, thân thiết với mọi người ở đây.

Cộng thêm việc Tạ Dung Dữ suy đoán tên trộm là nghĩa phỉ, Thanh Duy điều tra ra nghĩa phỉ này thuộc diện tình nghi cố ý dẫn quan sai đến ngõ tạp hóa, nghiễm nhiên quan phủ mới nhận định rằng trong ngõ có chuyện bất bình. 

Nghĩa phỉ ăn trộm nguyên là để giúp người, kết cục lại chữa lợn lành thành ra lợn què, làm người trong ngõ bị quan sai bắt đi, thậm chí có khả năng hai chân sẽ bị tàn phế suốt đời, sao lão có thể không ra mặt cứu người?

Sau khi biết hết mọi việc, Tạ Dung Dữ nảy kế sách ngay. Trước hết y cho quan phủ giả cách đưa vợ chồng Trương gia đi, sau đấy tung tin khâm sai đương đến đây nhằm áp giải vợ chồng nhà này sang quân nha để giam giữ, buộc tên trộm Lý thúc đứng ra cứu người.

Hiển nhiên Lý thúc không phải kẻ ngốc, đâu dễ mắc câu trước con mồi người ta mới thả. Hay tin khâm sai sắp đến, đầu tiên lão đến nha đường một chuyến, xác nhận có hoàng phù thật không. Nào ngờ rằng hoàng phù là thật, mà khẩu dụ của quan gia lại là giả.

Đây là lá phù Triệu Sơ lén ban cho Tạ Dung Dữ, cốt đề phòng lúc ở ngoài y gặp chuyện gì nguy cấp, thì còn cái để truyền khẩu dụ thiên tử đặng xoa dịu tình hình.

Nghe Tạ Dung Dữ giải thích xong, Lý thục lạnh lùng đáp trả: “Quan phủ Giang Lưu mời cao nhân đến, hôm nay lão phu chịu thua một nước, rơi vào trong tay các người, lão phu xin nhận, các người muốn chém giết lăng trì, xin mời tự nhiên!”

Vừa dứt lời, đã có hai người từ bên kia cánh rừng rảo bước tới, một người trong số đó chống gậy gỗ. Ấy là vợ chồng Trương gia, họ vẫn chưa rời khỏi.

Khi đến gần, hai người dìu nhau vái lạy Tạ Lang: “Quan gia, van ngài rủ lòng khoan dung độ lượng tha cho Lý đại ca. Lý đại ca không phải kẻ trộm, ban nãy thảo dân đã nghĩ rõ rồi, Lý đại ca trộm đồ của trường, đều chỉ vì… đều chỉ vì chúng tôi!”

Thấy thế, Lý thúc lại nói: “Ôi huynh đệ Trương gia, muội muội Trương gia, hai người đứng lên đi! Việc gì phải năn nỉ quan phủ, quan phủ xưa này đều phục tùng quý nhân, thông đồng với bọn quyền quý làm chuyện xấu, ai đâu nghe dân đen cầu tình?”

Tạ Lang nghe được câu ấy thì bực bội, con người hắn sống thanh liêm, xử án luôn công bằng xác đáng, không a dua xu nịnh ai, cả giận bảo: “Túc hạ đã ăn trộm ăn cắp lại còn hắt nước bẩn lên người quan phủ hả?!”

“Đâu phải khi không mà lão phu nói vậy. Lão phu hỏi ngươi, trước cuối năm nay, quan phủ Giang Lưu có từng nhận được thư cáo trạng Lâm Cư Vưu, thầy Lâm của hiệu sách Thư Nùng cậy thế hiếp người hay không?”

Việc này…

Tạ Lang là Thôi quan Giang Lưu, phàm vụ nào qua tay là nhớ rõ mười mươi, trong ấn tượng của hắn, hắn chưa bao giờ đọc bức thư cáo trạng nào như vậy cả.

Song trước khi thư cáo trạng được đưa tới tay Thôi quan, sẽ có Lục sự* giúp xét qua một lần; nếu thư không quá nhiều, quan phủ lại bận không có thời gian thì những vụ cãi cọ vặt vãnh không cần thiết phải đem lên công đường.

(*Lục sự: chức quan thời xưa, làm công việc ghi chép.)

Tạ Lang nhìn sang Lục sự đứng bên.

Lục sự nhớ ra rồi, chắp tay đáp lời: “Đúng là có thư cáo trạng như thế, kiện Lâm Cư Vưu cậy thế hiếp người, ví dụ như có nhà họ Trương nọ mở hàng bán rượu nước, thì chính thầy Lâm giới thiệu người ta đi sang hàng rượu nước bán ngay bên cạnh; hoặc người nhà này nhờ đại phu về xem bệnh, thầy Lâm lại thọc gậy bánh xe, mời đại phu tới trước; nói chung hễ người nhà này làm cái gì là ông ta phải cản trở bằng được… Hạ quan đọc kỹ thư cáo trạng đấy rồi, cũng đã âm thầm điều tra, nhưng do đơn kiện toàn viết những điều lông gà vỏ tỏi: giới thiệu khách hàng đến tiệm rượu khác, chi nhiều tiền mời đại phu đều không phải hành vi phạm luật; thêm Lâm Cư Vưu chưa từng xỉ vả chửi bới sau lưng nhà họ Trương, nên hạ quan cho là không cần phải đem lên công đường giải quyết, nên mới cho qua thư cáo trạng ấy luôn.”

“Bỏ qua? Lão phu gửi đơn kiện những ba lần! Lần cuối cùng đã ghi rõ thù riêng giữa Lâm Cư Vưu và nhà họ Trương, các ngươi có đoái hoài đến không? Không hề!”

Tạ Lang khẽ nhíu mày: “Thù riêng gì?”

Lục sự nói: “Bẩm đại nhân, thù riêng ấy thuộc vào việc nhà, nên quan phủ càng không tiện trỏ tay. Sự tình như sau: Thầy Lâm của hiệu sách Thu Nùng, tức là Lâm Cư Vưu…”

Hóa ra thời trẻ Lâm Cư Vưu nghèo khổ bần hàn, năm mười bảy tuổi cưới người gái lớn nhà họ Trương ở làng láng giềng, tức Trương thị.

Sau khi cưới vợ, hắn vẫn khổ công dùi mài sách vở; cuối cùng đỗ đạt tú tài, khăn gói lên huyện xa học hành, Trương thị ở nhà đợi hắn về.

Ngờ đâu đi chuyến này, Trương thị đợi mãi chẳng thấy người về. Mười năm đằng đẵng trôi qua, Lâm Cư Vưu bặt âm tin tức, người nhà dưới quê đều tưởng hắn đã chết bên người. Suốt mười năm ròng, Trương thị giúp hắn chăm nom người cha mẹ mắc bệnh nặng, lo việc ma chay cho hai cụ, trong lúc ấy còn nhờ người ta gửi biết bao thư từ cho Lâm Cư Vưu, mà Lâm Cư Vưu chẳng có lấy một lần hồi âm.

Trương thị ở góa, có dịp nọ lên huyện mua rượu cho cha, gặp được Trương Tứ ca bán hàng rượu. Con người Trương Tứ ca chất phác thật thà, chỉ vì cái chân bị tật, sợ làm dở dang con gái người ta nên mãi chưa lấy vợ.

Trương thị và Trương Tứ ca gặp nhau, hai người tâm đầu ý hợp, Trương Tứ ca không để bụng chuyện Trương thị là quả phụ, không lâu sau đã rước thị về nhà.

Lúc Trương thị về làm vợ Lâm Cư Vưu, hắn đã thi đỗ ngay tú tài; khi lấy Trương Tứ ca, việc bán buôn của hàng rượu lập tức phát đạt hẳn.

Mấy năm sau, có người dân từ Trung Châu về, kể cho vợ chồng Trương gia nghe những điều tận mắt chứng kiến ở nơi quê người đất khách, rằng chốn Giang Lưu phồn hoa nhường nào, đồ hàng Giang Lưu quý hiếm ra sao; còn kể đại phu Giang Lưu y thuật cao siêu, trị bệnh tài tình, chứng bệnh khó nhằn oái oăm gì cũng trị được tuốt.

Từ sau khi cưới, Trương Tứ ca và Trương thị sống với nhau êm đềm yên thắm, chỉ có việc đi đứng là ngày càng bất tiện. Hai vợ chồng bèn bàn bạc với nhau, quyết định đóng luôn tiệm rượu, đến Giang Lưu mở cửa hàng khác, vừa buôn bán vừa cầu thầy chữa chạy. 

Ai ngờ sau khi Trương thị đến Giang Nam, có hôm đang trông quầy hàng, bỗng dưng gặp pải chồng trước là Lâm Cư Vưu tới mua rượu.

Hóa ra không phải Lâm Cư Vưu đã chết, hắn lên huyện đi học chưa được bao lâu, thì gặp một lão tiên sinh quen biết rộng ở quan phủ.

Lão tiên sinh còn có một cô con gái bé, nhỏ hơn Lâm Cư Vưu ba tuổi.

Lâm Cư Vưu tự biết mình tư chất bình thường, chỉ dựa vào bản thân thì đến khi nào mới bật lên thành công? Đúng khi này, hắn nhận được thư của Trương thị, viết rằng cha mẹ hắn lâm bệnh nặng, xin hắn khẩn trương trở về.

Vốn Lâm Cư Vưu muốn cáo biệt lão tiên sinh rồi về quê, lão tiên sinh lại bảo với Lâm Cư Vưu rằng sẽ đưa theo người nhà chuyển đến Giang Lưu, dịp này chia tay chẳng biết lúc nào mới gặp lại, dặn hắn ngày sau nhớ giữ gìn sức khỏe; con gái lão tiên sinh nhìn Lâm Cư Vưu, chỉ rưng rưng chực khóc đầy bịn rịn.

Lựa chọn thiện hay ác chỉ mất một ý nghĩ ngắn ngủi.

Lâm Cưu Vưu chợt hạ quyết tâm, hai gối quỳ sụp xuống, câu nói vừa thốt khỏi miệng lại chuyển thành lời thưa khẩn khoản: cha mẹ đã sớm nhắm mắt xuôi tay, kể từ hôm nay, chỉ mong được phụng dưỡng lão tiên sinh cho đến mãi mãi về sau.

Ban đầu Lâm Cư Vưu không phải tên Lâm Cư Vưu, vì lão tiên sinh thương cảnh hắn không cha không mẹ trơ trọi bơ vơ, mới đổi cho hắn theo họ Lâm của mình, đặt tên Cư Vưu, còn chuyển hộ khẩu của hắn vào dưới tên mình.

Lâm Cư Vưu đến Giang Lưu, quyết tâm phải cắt đứt hoàn toàn với quá khứ. Nhưng hắn không cưới con gái nhỏ của lão tiên sinh mà đi lấy cô thiên kim nhà quan thất phẩm. 

Nguyên quan gia thất phẩm định trải đường cho hắn, tiếc thay lòng dạ Lâm Cư Vưu vốn đã chứa tạp niệm, được chiêm ngưỡng chốn Giang Lưu sầm uất phồn thịnh, nào còn tĩnh tâm chịu khó học hành? Thậm chí mỗi công danh cử nhân thôi cũng thi rớt năm lần bảy lượt, quan gia thất phẩm buộc lòng để hắn theo chân Chu lão tiên sinh, lại mượn danh Chu lão tiên sinh cho hắn làm ở hiệu sách, do đó mà người ngoài nhìn hắn ít nhiều cũng sẽ gọi một tiếng “thầy”.

Lúc Lâm Cư Vưu gặp Trương thị ở hàng bán rượu, trong lòng sợ hãi không thôi, hắn lo Trương thị ghi hận hắn, vạch trần hết chuyện xấu của hắn xưa kia. Nếu để cha vợ biết chuyện này, bị tống cổ ra khỏi nhà là hẵng còn nhẹ.

Thế là Lâm Cư Vưu ôm lòng muốn ép vợ chồng Trương gia rời khỏi Giang Lưu. Trương gia buôn rượu bá n nước, hắn sẽ rỉ tai để người ta sang nhà khác uống rượu; khó khăn lắm Trương gia mới mời được danh y đến khám bệnh, hắn lại thọc gậy bỏ ra cả đống tiền mời danh y trước. 

“Lão phu đến Giang Lưu, chịu ơn huệ của huynh đệ Trương gia, biết chuyện này, dĩ nhiên sẽ đứng lên bênh vực họ. Hồi loạn lạc lão phu cũng là hảo hán, cướp giàu cho nghèo, trọng nghĩa khinh tài chỉ là việc cỏn con. Tưởng đâu quan phủ Giang Lưu đạo đức trong sạch, mới đầu lão phu còn giúp đệ đơn theo quy trình, ai ngờ các ngươi không hề nhận! Huynh đệ Trương gia muốn nhân nhượng để an thân, nhưng lão phu thì không dễ để yên như thế! Lâm Cư Vưu vong ơn bội nghĩa, đến cả cha mẹ già bệnh nặng cũng đang tâm vứt bỏ, các người quen rồi, nhưng lão phu đây thấy rất gai mắt! Ngươi hỏi vì sao lão phu lại trộm đồ của các trường ư? Lão phu muốn xé to chuyện này đấy, chẳng phải Chu lão tiên sinh kia đức cao vọng trọng lắm hả? Hành Vân Sách đó chẳng phải là bảo bối của họ Lương gì kia sao? Lão phu trộm hết đồ của chúng đấy! Cho đến khi vụ mất trộm lan truyền để ai ai cũng biết, lão phu sẽ viết cả tội ác của họ Lâm thành bản cáo trạng, dán ở mọi ngóc đường lớn ngõ nhỏ của thành Giang Lưu, để mọi người biết thầy Lâm của hiệu sách Thư Nùng, tức học trò của Chu lão tiên sinh, rốt cuộc là hạng người thế nào!”

Nói ra hết, Lý thúc sảng khoải hẳn ra, cười ha hả nhạo báng. Khi tắt cười, lão nói tiếp: “Hôm nay các người bắt được ta thì sao, ta đã nhờ người chép bản cáo trạng rồi, sáng mai vào ngõ hẻm nào cũng sẽ nhìn thấy thôi. Ván này Lý mù lòa thắng đậm, đáng lắm!”

Lý mù lòa?

Nghe cái tên ấy, Thanh Duy ngạc nhiên vô cùng, nàng biết một người tên “Lý mù lòa”, đoạn bỏ mũ trùm đầu ra: “… Lý tiền bối?”

Nghe tiếng gọi, Lý mù lòa nhìn sang nữ tặc mới truy đuổi mình lúc nãy. Dưới ánh lửa chiếu rọi, dung nhan nữ tặc xinh tươi duyên dáng, song giữa nét mày lại ẩn giấu nét khí khái anh hùng.

Lý mù lòa đã lớn tuổi, trí nhớ không tốt, song khí độ quen thuộc nhường kia, lão chỉ từng được thấy ở duy nhất một người.

“Tiểu a đầu, Nhạc Xung núi Bách Dương… là gì của cô?”

Thanh Duy há miệng, không thốt nên lời.

Ấy là câu chuyện xưa nàng đã được nghe kể vô số lần, nhưng chưa từng tham dự.

Năm Hàm Hòa thứ ba mươi, Ôn Thiên lên kinh dự thi, tình cờ gặp Nhạc Hồng Anh ở Minh Châu. Khi ấy Nhạc Xung dẫn Nhạc thị núi Bách Dương đi tòng quân, vì muốn chứng minh bản thân, Nhạc Hồng Anh tự nguyện một mình đi bắt đạo tặc Lý mù lòa ở thành Minh Châu, về sau được Ôn Thiên cứu giúp, hai người kết duyên từ đó.

Có thể nói, sau này Ôn Thiên thành kiến trúc sư, Nhạc Hồng Anh thuận lợi tòng ngũ đều xuất phát từ đây. 

“Ít nhiều gì cũng xem là một người đặc biệt. Ông ngoại con khuyên hắn cướp của giàu chia cho nghèo chung quy không phải chính đạo, hắn lại nói sống ở đời có một số việc không phải chỉ dựa vào mỗi một chữ “chính” là có thể giải quyết hết, chẳng phải thổ phỉ núi Bách Dương đi lên như vậy sao? Ít nhất cũng sẽ có người dần tốt lên dưới sự giúp đỡ của hắn. Vậy nên đúng hay là sai, đâu ai có thể phân rõ? Tóm lại ta không phân được, cũng lười nói rõ.” Sau này khi kể Thanh Duy nghe về Lý mù lòa, Nhạc Ngư Thất đã nói vậy.

Trong quầng lửa hừng hực, rốt cuộc Lý mù lòa cũng nhận ra người trước mặt là ai: “Cô là… Ôn Tiểu Dã? Nhạc Xung là ông ngoại cô, Ôn Thiên và Nhạc Hồng Anh là cha mẹ cô? Bảo sao công phu của cô tốt thế, tên Nhạc Ngư Thất kia dạy cô hết nhỉ.”

Thanh Duy gật đầu, giọng điệu kính trọng: “Không ngờ lại gặp tiền bối ở Giang Lưu.”

Lý mù lòa cả cười: “Bình sinh người Lý mù lòa ta tôn kính nhất chỉ có một, chính là Nhạc Xung núi Bách Dương! Nước sông gột rửa áo trắng, chiến trường vùi bạch cốt, ông ấy nói được làm được. Lần này được gặp con cháu của cố nhân, đáng, đáng lắm!”

Lão biết những việc mình làm suy cho cùng cũng không phải đường ngay lẽ thẳng, một đời hành hiệp trượng nghĩa rồi nhận lại kết quả như ngày hôm nay, chung quy cũng không tệ.

Lão không muốn làm Thanh Duy khó xử, duỗi hai tay ra: “Gông vào đi.”

Quan sai đắn đo nhìn Tạ Lang, Tạ Lang gật đầu.

Quan sai cầm cùm bước lên, đúng lúc này, xung quanh chợt nổi một trận gió lạ, lửa đương cháy bỗng tắt ngúm.

Một bóng người bất thình lình xuất hiện giữa chốn hoang vu như ma quỷ bước ra từ hư không, đáp nhẹ tênh xuống cạnh Lý mù lòa, chụp lấy vai lão, thì thầm: “Đi.” Dễ dàng dẫn lão thoát khỏi vòng vây của quan binh.

Quan binh toan đuổi theo, nhưng đâu còn nhìn thấy bóng dáng đạo tặc nữa?

Dù là người duy nhất có thể đuổi theo, nhưng Thanh Duy lại đứng bất động. Khi rời đi, bóng người kia lướt ngang qua nàng, nhét vào tay nàng một mảnh giấy. 

Thanh Duy mở giấy ra xem, chữ viết trên đó quá đỗi quen thuộc. 

“Hai nhà Ôn – Nhạc có thể kết duyên, tính ra cũng nhờ Lý mù lòa, lần này coi như sư phụ trả giúp cha con món nợ ân tình ấy.” 

Bên dưới còn một dòng chữ nhỏ nữa, nét chữ nguệch ngoạc, dễ thấy là viết trong lúc vội vàng. 

“Con bị bệnh cơ mà? Sao cứ suốt ngày lang thang thế, còn vậy nữa thì liệu hồn vi sư đánh gãy chân chó của con!” 

Nhạc Ngư Thất biết chuyện sức khỏe nàng yếu đi trong chuyến đi vừa qua, bởi vì Tạ Dung Dữ từng viết thư hỏi ông tổ tiên Ôn thị, Nhạc thị có từng mắc phải chứng bệnh tương tự hay không. 

Một người thích phiêu bạt giang hồ như Nhạc Ngư Thất, bao năm nay quen lối tự do tự tại, hay tin Tiểu Dã bị bệnh, đương nhiên sẽ đến Giang Lưu thăm nàng. Nào ngờ vừa đến Giang Lưu đã gặp cố nhân, rồi tiện thể cứu người ta luôn. 

Hơn nửa năm trời Thanh Duy không gặp Nhạc Ngư Thất, biết ông đã đến Giang Lưu, cao giọng gọi: “Sư phụ —” Nàng đang tính đuổi theo, ngờ đâu chỉ vừa tụ khí dồn lực, bỗng dưng mắt hoa cả lên, chưa kịp trở tay thì chân đã mềm oặt, ngã vào lòng Tạ Dung Dữ hốt hoảng bước sang đỡ nàng, cuối cùng không còn biết trời trăng gì nữa. 

“Lão phu dặn bao nhiêu lần là không được dụng võ, không được dụng võ, sao phu nhân lại không chịu nghe khuyên?” 

“Bắt trộm là việc của quan phủ, đâu nhọc phu nhân phải động tay? Không nhịn được? Thế thì cứ việc trói lại!” 

“Nếu có việc gì bất trắc, mỗi cái mạng quèn này của lão phu chẳng đền đủ đâu!” 

Đại phu của Bảo An Đường nghe tin Chiêu vương phi ngất xỉu tại ngoại thành, lo lắng xách hòm thuốc chạy qua Tạ phủ. Đến Tạ phủ, nom người nửa nằm trên giường mặt mũi tái nhợt, không đợi bắt mạch, ông đã buông lời quở trách. 

Tạ Dung Dữ nói: “Chuyện này là lỗi do ta.” 

Đêm bắt trộm, Thanh Duy đòi đi theo xem, Tạ Dung Dữ biết không ngăn được nên đưa nàng đi cùng, cho rằng có y ở cạnh để mắt là đủ. Nhưng ra tới ngoại thành, đến khi Lý mù lòa cứu vợ chồng Trương thị, Thanh Duy khăng khăng bảo công phu của Lý mù lòa rất quen, chưa biết chừng là cố nhân, muốn thử tay một lần. Mà nàng rất cứng đầu, chỉ vừa dứt câu đã giơ tay tung chưởng về phía Lý mùa lòa. Chẳng đặng đừng, Tạ Dung Dữ và Tạ Lang mới xuất hiện ở phía kia con đường, ngăn chặn cuộc đấu giữa hai người. 

Đức Vinh nói: “Đại phu đừng nói nữa, ông khám cho thiếu phu nhân trước đi.” 

Bấy giờ đại phu mới sực nhận ra, trong cơn nóng ruột ông đã quở lây sang cả Tiểu Chiêu vương, không khỏi hết hồn hết vía; nhưng ông có nhiều kinh nghiệm, ngoài mặt vẫn gượng giữ vẻ nghiêm túc, vì vốn dĩ mời đại phu về xem bệnh, lời của đại phu là quan trọng nhất còn gì! 

Ông ngồi xuống mép sạp, cách tấm mành bắt mạch cho Thanh Duy, Lần trước đến vẫn chưa quá rõ, lúc giống lúc không, ấy mà mới chỉ một hai hôm, mạch tượng đã rõ ràng rồi. 

Ông bình tĩnh thu tay về: “Sức khỏe không có gì đáng ngại, khỏe mạnh lắm, nhưng…” 

Mọi người trong phòng nín thở, đợi ông nói cho trọn câu. 

Đại phu thở hắt một hơi: “Nhưng tôi không tự quyết được, các vị hãy mời y bà về đây.”  

Mọi người ai nấy đều nghệt mặt ra, Đức Vinh lại hỏi: “Đại phu, vì sao phải mời y bà?” 

“Vì sao? Các vị bảo xem vì sao? Lão phu là đàn ông, phu nhân có thai, chẳng lẽ lại mời lão phu khám à? Đương nhiên phải mời y bà rồi!” 

Người trong phòng ngây ra như phỗng. 

“Ông nói gì?” Thanh Duy hất chăn ngồi bật dậy. 

Đại phu thần bí vuốt râu dài. 

Tạ Dung Dữ ngơ ngác hỏi: “Ý đại phu là… nương tử nhà ta… có thai?” 

Tiểu Chiêu vương đích thân hỏi, hiển nhiên phải trả lời rồi, đại phu đứng dậy, kính cẩn vái lạy Tạ Dung Dữ: “Bẩm công tử, người mang thai ban đầu sẽ gặp các triệu chứng khác nhau, thể hiện qua mạch thượng, thông thường phải đủ tháng mới chẩn đoán ra được. Trước đây phu nhân gặp những chứng suy nhược, chóng mặt, nhìn chung là do việc mang thai gây nên. Tuy nhiên tuổi thai chưa đầy một tháng, mạch đập khỏe và có lực, nên đại phu lúc trước mới tưởng do hậu di chứng từ vết thương cũ. Mà nay phu nhân đã có thai hơn một tháng, tại hạ mới dám kết luận.” Nói đoạn, ông lần nữa cúi đầu: “Xin chúc mừng công tử.” 

Nghe đại phu nói xong, Tạ Dung Dữ như đứng giữa làn gió trong lành ấm áp, mãi một lúc lâu vẫn chẳng thể nói nổi thành lời. Bao năm nay y và Tiểu Dã chu du khắp mọi miền non sông, thấy nàng thích tự do thoải mái nên chưa lần nào đề cập đến việc mình muốn có một đứa con, sợ điều đó sẽ trói buộc nàng. Chỉ là trong lòng y vẫn cứ ấp ủ, rồi đến một ngày, sẽ thế nào khi được dõi nhìn một tiểu cô nương giống Tiểu Dã, hay một tiểu công tử tự tại như Tiểu Dã khôn lớn trưởng thành. 

Gió thoảng qua mặt, Tạ Dung Dữ bừng tỉnh trong cơn gió, bỗng nói: “Đức Vinh.” 

“Công tử.” 

“Khéo trời lạnh, chuẩn bị bình ủ nóng cho Tiểu Dã!” 

***

Cuối tháng ba, thành Giang Lưu trăm hoa đua nở, Thanh Duy chầm chậm dạo bước bên bờ sông, bỗng nghe được tiếng ồn từ con phố gần bên đưa tới. 

Nàng nảy lòng hiếu kỳ, cất bước qua xem, trông thấy một người đàn ông tóc tai rối bù, mặt mày bẩn thỉu ôm một chồng sách, bị người ta đẩy ra khỏi một dinh thự nọ. 

Tên coi cửa làm như chỉ nhìn gã một cái thôi cũng sẽ xúi quẩy: “Biến biến biến, lão gia nhà ta đã có lời, tuyệt không mời hạng thầy đồ như ngươi!” 

Có người lắm chuyện lân la đến hỏi han, quanh đó có người giải thích: “Đó là thầy đồ của hiệu sách Thư Nùng hồi trước, tên Lâm Cư Vưu, sau khi chuyện của hắn truyền khắp nơi, bà vợ nhà đòi hủy hôn, cha vợ coi như không quen không biết, Chu lão tiên sinh trục xuất hắn khỏi trường. Hắn không có cơm ăn, phải ra ngoài tìm việc mà làm, bị đuổi ra đấy.” 

Người hóng hớt nghe xong bảo: “Ra là hắn à, đáng đời cái phường ấy!” 

“Chứ sao!” 

Thanh Duy làm bộ đi ngang qua, đứng một lúc giữa đám đông xì xào rồi tiếp tục quay về nơi bờ sông rực sắc hoa.

Bước chân của nàng rõ ràng vui vẻ hơn, làm Lưu Phương và Trú Vân ở đằng sau hớt hải đuổi theo: “Thiếu phu nhân từ từ thôi, công tử dặn rồi, người phải đi chậm thôi.” 

Thanh Duy nhủ thầm trong bụng, kệ chàng chứ, con đường phía trước hoa nở thắm tươi. 

Nàng chỉ việc tiến về phía trước, cần chi phải nghĩ cho nhiều.
 
Chương 218: Ngoại truyện 8: Sớm chiều kề bên


Mùa thu năm Gia Ninh thứ tám, chùa Đại Từ Ân. 

“Nương nương, bước khéo bậc thềm.” 

Trời vừa tạnh mưa, một vũng nước đọng trước cửa chùa. 

Một bàn chân xỏ hài thêu kim tuyến, nạm hạt châu bước qua bậc cửa, chủ nhân đôi hài mặc bộ cung trang tay áo rộng bằng lụa, dáng dấp mỹ lệ đoan trang, chính là Di phi được sủng ái nhất trong cung lúc bấy giờ. 

Di phi chính là Di tần ngày trước, năm Gia Ninh thứ sáu, nàng được tấn lên hàng Phi, nắm quyền hậu cung. Từ đó trở đi, hằng năm cứ mỗi dịp chùa Đại Từ Ân đón lễ thu, là Gia Ninh đế đều sẽ đưa nàng đi theo cùng. 

Di phi nhìn túp nhà quạnh hiu trước mặt, bụng dạ thở dài, hỏi: “Mọi thứ ở đây vẫn tốt cả chứ?” 

“Tốt cả ạ.” Ni cô ở cạnh đáp, “Mấy hôm trước Tịnh nương nương ốm một trận, cũng may nay đã ổn rồi.” Di phi gật gù, bảo với đám thị tì: “Các ngươi lui ra hết đi, bổn cung sẽ vào một mình.” 

Trước nhà treo một tấm mành trúc, người trong phòng nghe tiếng động ngoài mành, bước ra xem, thấy là Di phi, nhún người hành lễ: “Nương nương.” 

Di phi vội đỡ nàng dậy: “Tỉ tỉ cứ vậy thì muội tổn thọ mất, sao muội nhận lễ của tỉ được đây?” 

Chương Nguyên Gia lắc đầu: “Nguyên Gia mang tội, không thể thất lễ.” 

Di phi lại thầm thở than, đảo mắt nhìn quanh, túp nhà đơn sơ, ngoài một bàn dài, một sạp gỗ, thì chỉ còn lại vài giá sách. Món đồ duy nhất làm thêm phong phú là tầng tầng kinh Phật chất chồng trên giá. 

Đã hơn ba năm trôi qua kể từ vụ án Tiển Khâm Đài, ngày nào Chương Nguyên Gia cũng vào Phật đường chép kinh Phật, chữ nàng nắn nót nga ngắn, kinh Phật của Phật đường phổ biến tới dân gian, dân chúng xem cũng thấy thích. 

Có lẽ bởi vì vất vả quá độ, khi thu sang, nàng bị nhiễm lạnh đổ bệnh vài hôm. Di phi trong cung hay tin, lén sai người đưa dược liệu và than củi tới. Chương Nguyên Gia không chối từ ý tốt của nàng, dốc lòng điều dưỡng, hôm nay gặp lại, quả thực bệnh đã khỏi hẳn. 

Đều đặn mỗi năm vào độ lễ thu ở chùa Đại Từ Ân, Di phi sẽ đến thăm nàng, nghĩ tới cảnh ngày thanh tịnh tẻ nhạt của nàng trong núi, bèn kể với nàng những chuyện tai nghe mắt thấy trên đường đi. 

“… Ra khỏi thành sẽ đi đại lộ đường chính, sau đó lên núi là thấy chùa Đại Từ Ân ngay. Thu về lá đỏ phủ khắp núi, đẹp muôn phần. Nhìn lá đỏ, bao phiền não trần gian đều biến mất. Xuân về xin cho vụ mùa gặt hái dồi dào, thu sang thu hoạch rồi lại làm lễ bái tạ, đây là lễ thu của chúng ta. Núi non rợp lá tươi tốt, tỉ sẽ thấy sang năm cũng sẽ là một mùa bội thu…” 

“À, đúng rồi, trên đường đi muội gặp một con cáo đỏ, Xuân quan* của Huệ Chính Viện đùa bảo muốn làm một chuyến săn thu, vậy mà Quan gia cũng đồng ý cho. Mọi người dựng trại hai ngày trong núi, săn được rất nhiều, Quan gia còn đích thân lên ngựa bắn cung, thế muội mới hay Quan gia biết võ…” 

(*Xuân quan: tên một chức quan thời xưa.)

Di phi đang trên đà hứng khởi, bỗng nhiên nhắc tới Triệu Sơ, câu chuyện đột ngột ngưng bặt. 

Tính từ mùa đông rét năm Gia Ninh thứ tư, Chương Nguyên Gia và Triệu Sơ đã cách biệt ba năm ròng rã. 

Năm Gia Ninh thứ năm, Chương Nguyên Gia sinh hạ hoàng tử tại chùa Đại Từ Ân, đặt tên một chữ Tiêu. Triều đình nhân hậu, cho phép nàng giữ Triệu Tiêu bên mình nuôi nấng, mãi đến hơn nửa năm sau mới phái người đón Triệu Tiêu về cung. Nhưng hôm ấy Triệu Sơ không hề xuất hiện. 

Cũng giống như ba mùa lễ thu qua, năm nào Triệu Sơ cũng đến chùa Đại Từ Ân, vậy nhưng chưa một lần ghé thăm Chương Nguyên Gia. 

Chương Nguyên Gia nghe Di phi nhắc Triệu Sơ, ánh mắt vẫn phẳng lặng: “Đại Chu trọng văn, năm xưa lại phải cưỡi trên lưng ngựa đấu tranh giành thiên hạ, nên tất cả hoàng tử đều phải tập võ, Quan gia thành thạo bắn cung cưỡi ngựa là lẽ dĩ nhiên.” 

Cũng phải, cứ nhìn Tiểu Chiêu vương do Chiêu Hóa đế dạy dỗ là biết ngay. 

Bầu không khí gượng gạo bao trùm gian phòng. 

Chương Nguyên Gia cụp mắt, khẽ giọng hỏi: “Quan gia…  có khỏe không?” 

“Vẫn như xưa thôi, tỉ còn chưa hiểu Quan gia sao? Hết lòng hết dạ lo việc nước, nghe Trường Sính nói, Quan gia nghị sự xong sẽ xem trát*, xem trát xong sẽ xem hồ sơ, thường là tận lúc trời sắp sáng mới ngơi làm, mệt tưởng gục đến nơi. Lễ thu năm nay, trên đường đi Quan gia vẫn khỏe khoắn như thường, mấy hôm nay ngấm hơi lạnh tiết thu, lại lâm bệnh…” 

(*Trát: một loại công văn thời xưa.)

Nói tới đây, Dư phi chợt dừng vội. Nàng muốn vả cho mình một phát quá đi thôi, phủi phui cái miệng này! 

Dẫu Chương Nguyên Gia chưa từng nhắc, nhưng người nào tinh mắt sẽ nhận ra sự quan tâm của nàng dành cho Triệu Sơ. 

“Tỉ cứ yên trậm, bệnh tình Quan gia không quá nghiêm trọng, Quan gia còn phải dự ba ngày lễ thu sắp tới mà.” Nói đoạn, Di phi xua tay: “Ôi! Đừng nói chuyện này nữa, tỉ đi theo muội, muội dẫn tỉ đi xem cái này hay lắm.” 

Cách túp nhà của Chương Nguyên Gia có một khoảng rừng um tùm cây cỏ. 

Đương độ ban trưa, gió núi phe phẩy, tiết trời xanh trong. Chương Nguyên Gia nối bước Di phi lại gần, loáng thoáng nghe thấy tràng cười đùa râm ran từ trong rừng vọng ra. 

“Điện hạ, ở đằng kia, để nô tì nhặt cho người.” 

“Điện hạ, bên đây, bên đây.” 

Nhận ra điều gì, Chương Nguyên Gia bất chợt tăng nhịp bước, chẳng mấy chốc đã bắt gặp một dáng hình bé nhỏ khoác áo gấm như mây giữa cánh rừng dày. Tiêu Nhi của nàng kia rồi. 

Những năm qua không phải Chương Gia Nguyên không gặp Triệu Tiêu lần nào, mỗi dịp tết nhất, người trong cung thường đưa Triệu Tiêu vào núi ở dăm ba hôm. Nhưng con trẻ thường hay quên mau, mỗi lần khó khăn lắm mẹ con mới thân thiết thì lại bị ép chia xa; đến ngày tái ngộ, lại phải bắt đầu lần nữa. 

Bóng dáng bé xíu loạng choạng đi nhặt quả bóng gỗ, chợt cảm giác người xung quanh lặng thinh, bèn quay người nhìn về phía rừng. 

Giữa hàng cây cối rậm rạp, có một người phụ nữ mặc đồ trắng, dung nhan tao nhã, dịu dàng đứng lặng ở đấy. 

Tiểu Triệu Tiêu sững người mất cả lúc, rồi bỗng ném phắt quả bóng đi, lảo đảo chạy ào đến chỗ người phụ nữ, cất tiếng gọi lanh lảnh: “Mẫu phi.” Ngay sau đó bổ nhào vào lòng Chương Nguyên Gia. 

Chương Nguyên Gia cũng ngẩn ngơ, cho tới khi hơi ấm của đứa bé lấp đầy vòng tay, mới nhận ra một điều Triệu Tiêu không hề quên nàng. Lần trước chia ly, thằng bé còn chưa tròn ba tuổi, kể từ dạo ấy đến giờ, nó vẫn nhớ rõ nàng là ai. 

Trường Sính nhặt bóng lên, hành lễ với Chương Nguyên Gia, cười nói: “Tiểu điện hạ không tiện tới nhà, đành đợi nương nương ở chỗ này. Đợi cũng khá lâu, nên chúng nô tì mới chơi đạp cúc với điện hạ cho đỡ buồn.” Trường Sính là nội thị theo hầu Triệu Sơ bao năm nay. 

Triệu Tiêu ngửa đầu, nhìn Chương Nguyên Gia: “Di nương nương bảo với Tiêu Nhi chờ ở đây sẽ gặp được mẫu phi, đúng thật rồi nè.” 

Di phi chọc vào trán Triệu Tiêu: “Nhõi con lanh đấy, con nhớ mẫu phi như thế, mẫu phi con mừng không để đâu cho hết đây.” 

Chương Nguyên Gia ngắm kỹ Triệu Tiêu: “Cao lên rồi, phổng phao hơn rồi.” Nom mặt mày đã mang đậm nét của Triệu Sơ, “Nghe nói con đã bắt đầu đi học, học những gì rồi nào?”  

Triệu Tiêu đáp: “Học Thiên Tự Văn, Tăng Quảng Hiền Văn ạ, mẫu phi ơi, con đọc cho mẫu phi nghe nhé?” Rồi làm như đang giành công, chẳng đợi Chương Nguyên Gia trả lời, cậu nhóc đã nghiêm trang đọc vang từng câu từng chữ. 

Nhìn Triệu Tiêu bé bỏng, Chương Nguyên Gia mang máng nhớ lại Triệu Sơ của thuở thiếu thời. 

Có dịp cung yến nọ, họ hàng vào cung, một tiểu công tử nhà Quận vương gia cầm cuốn Thiên Tự Văn hỏi chàng “Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang” nghĩa ra sao.  

Vậy là chàng thái tử trẻ tuổi ngồi giữa một đám trẻ con xúm xít, bằng chất giọng hiền hòa nhã nhặn, giảng giải từng chữ từng câu rằng đây không hẳn là văn chương hiếm có gì. 

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, người nhắm mắt đọc làu Thiên Tự Văn giờ đây đã trở thành tiểu hoàng tử của chàng, nhưng cảnh đời núi non vẫn chẳng hề đổi thay. 

Tuy Chương Nguyên Gia đang ở chùa Đại Từ Ân, song cũng nghe nói mấy chuyện trong cung. 

Năm Gia Ninh thứ sáu, hậu cung tổ chức đại tuyển ba năm một lần. Triệu Sơ nạp năm tú nữ vào hậu cung, từ đó hậu cung không còn hắt hiu lạnh lẽo. 

Từ năm Gia Nguyên thứ bảy, khi trong triều có người khuyên lập Hậu, Triệu Sơ lấy lý do bận rộn quốc sự rồi gạt phắt đi. 

Đến tháng bảy năm nay, trong màn mưa bụi mịt mùng, nấc thang dẫn lên Tiển Khâm Đài đã bị tháo dỡ, từ đó không còn ai có thể lên đài, tất thảy những gì liên quan đến Tiển Khâm Đài cũng đi vào quá khứ.

Đất trời ngoài kia đã thay màu đổi áo, còn nàng lại vùi chân nơi xó núi khuất nẻo, giữa hai người là tấm màn thế gian xưa cũ cách trở chia phôi. 

Trời tối dần, sau đó sẽ là kỳ lễ thu ba ngày. Trước khi đi, Triệu Tiêu lưu luyến vẫy tay với Chương Nguyên Gia, bập bẹ nói: “Mẫu phi ơi, đợi khi hết lễ thu, Tiêu Nhi lại đến chào tạm biệt mẫu phi nhé.” 

***

Sắc trời mờ ảo, tiếng chuông đón lễ vang vọng khắp núi đồi. 

Chương Nguyên Gia thức giấc trước lúc chuông kêu, đứng trước căn nhà, dõi mắt về hướng chùa Đại Từ Ân. 

Giữa bóng cây trập trùng, trông thấy lờ mờ một người đội mũ miện màu đen, dẫn đầu chúng quần thần lạy chầu trời đất. 

Nàng không nhìn rõ diện mạo chàng, nhưng có thể phác họa nên bóng hình chàng trong lòng. 

Năm nào cũng như năm nao, từ phương hướng này nàng có thể nhìn thấy được chàng; chỉ khác ở chỗ, từ năm Gia Ninh thứ năm đến năm Gia Ninh thứ bảy, đằng sau chàng luôn là một khoảng trống. 

Ấy là vị trí mà quần thần để dành cho Tiểu Chiêu vương. 

Chân tướng về vụ Tiển Khâm Đài sụp đổ đã rõ như ban ngày, triều đình được quanh minh như ngày hôm nay, Tiểu Chiêu vương ắt có công đóng góp. 

Tuy Tạ Dung Dữ bị tước phong hàm Chiêu vương, nhưng trong lòng quân chủ và quần thần, y vẫn mãi là “vương” như thuở trước. 

Cho tới năm nay khi thang lên Tiển Khâm Đài bị phá bỏ, sau lưng Triệu Sơ đã không còn chừa chỗ trống nào nữa. 

Nhân gian dồn dập tiến về phía trước, không ai lại giậm chân tại chỗ, triều đình và quân chủ cũng thế – Chương Nguyên Gia nhủ bụng. 

Đêm buông, Chương Nguyên Gia trở về nhà, ngồi trước bàn dài, lật một cuốn kinh văn bắt đầu sao chép. 

Thị tì đứng bên cạnh nghĩ nàng mới vừa khỏi bệnh, bèn khuyên lơn: “Nương nương, kinh văn năm nay người chép xong rồi kia mà, trước mắt cứ tập trung tĩnh dưỡng đã ạ.” 

Chương Nguyên Gia chỉ khẽ “ừ” tiếng, ngòi bút vẫn đưa tiếp chẳng ngừng. 

Thị tì đành thôi không khuyên nữa. 

Lễ thu ở chùa Đại Từ Ân đương diễn ra, nhiều ngày nay những cuốn kinh Phật trên giá sách từ túp nhà trong núi lần lượt được đưa xuống núi, chỉ có một tủ sách là còn đựng kinh Phật. 

Số kinh Phật này không chép cho Phật đường, không chép vì chuộc tội, mà là Chương Nguyên Gia chép cầu phúc cho Triệu Sơ và Triệu Tiêu. 

Hôm qua Di phi lại ghé thăm, vô tình nhắc đến chuyện Triệu Sơ bị bệnh. 

Cuộc đời không ngừng chảy trôi, chỉ có nàng đứng yên một chỗ; thậm chí cả những tình ái và thù hận trong lòng cũng giống hệt như đêm đại hôn năm mười bảy tuổi, vào khoảnh khắc chờ đợi tấm khăn voan được vén lên.  

Ba ngày qua đi trong một chớp mắt, Triệu Tiêu đến từ biệt Chương Nguyên Gia. 

Chàng hoàng tử bé nhỏ đứng giữa tán phong lá đỏ giăng đầy núi, hết sức nghiêm túc nói với Chương Nguyên Gia: “Mẫu phi ơi, thái phó bảo đợi khi nào con học hành thật giỏi, thông đạt lý lẽ, thì có những chuyện con sẽ được tự mình quyết định. Khi về con nhất định cố gắng gấp đôi, đợi có thành tựu, con sẽ tự xin chỉ được đến thăm người.” 

Chương Nguyên Gia cười gật đầu, dịu dàng nói: “Mẫu phi chờ con.” 

Tiếng kèn báo hiệu cung liễn khởi hành vang lần thứ nhất, Trường Sính đứng bên nói: “Tiểu điện hạ, chúng ta phải đi rồi.” 

Triệu Tiêu gật đầu, nắm tay Di phi theo nàng xuống núi. Gần đến chân núi, Di phi cầm lòng không đặng ngoái đầu nhìn, Chương Nguyên Gia vẫn một mình đứng giữa núi trông theo. 

Di thi chợt thấy chua xót trong lòng. 

Di phi là người thẳng thắn, đâu hiểu những điều vòng vo trắc trở, Tiểu Khâm Đài bị làm sao thì liên quan gì tới Chương Nguyên Gia? Nàng chỉ là phụ nữ sống trong chốn cung cấm, nào biết chuyện diễn ra bên ngoài, tính nết chính trực, cũng tốt bụng hòa nhã với mọi người. 

Triệu Tiêu nhìn Di phi, tựa hồ biết nàng đang nghĩ điều gì, lắc tay nàng: “Di nương nương đừng lo, mẫu phi sẽ về đoàn tụ với chúng ta thôi mà.” 

Di phi không kìm được bật cười: “Con là trẻ con, biết cái gì?” 

Triệu Khiêm trả lời rất bài bản: “Đương nhiên là con biết rồi. Phụ thân của mẫu phi phạm tội, mẫu phi chuộc tội cho ông, đó là điều phải làm. Vì mẫu phi từng là hoàng hậu được thiên hạ cung phụng, nên không thể thất đức. Nhưng mẫu thân là người đức hạnh, thanh gia độ thân, lan nhược độ tâm, vậy nên người xứng đáng được tha thứ, người sẽ trở về thôi.” 

Lời Triệu Tiêu nói đã tác động mạnh đến Di phi. 

Thanh gia độ thân, lan nhược độ tâm là gia huấn của Chương thị do Chương Hạc Thư lập nên, mà Chương Hạc Thư là tội nhân, đâu ai dám nói những lời ấy với Triệu Tiêu, ngoài… chính Triệu Sơ. 

Di phi bỗng nhớ tới một vài câu chuyện nhỏ nhặt.  

Mấy năm qua, ai nhìn cũng bảo nàng là phi tử thâm cung được sủng ái nhất, thậm chí Triệu Sơ còn cho nàng vinh dự đặc biệt được theo dự lễ thu mà vốn dĩ chỉ hoàng hậu mới có. Nhưng Di phi biết chỉ vì nàng vô tư phóng khoáng, không chịu các khuôn phép trói buộc, lại thành lòng đối đãi với mọi người, chỉ có nàng không màng cung quy trong những ngày lễ, đến đây thăm Chương Nguyên Gia. 

Cái Tết đầu tiên năm Triệu Tiêu chào đời, Triệu Sơ muốn đưa Triệu Tiêu tới Đại Từ Ân bầu bạn với Chương Nguyên Gia, nhưng Chương Nguyên Gia là con gái tội thần, quan lại quần thần nhất loạt phản đối. Cuối cùng, Triệu Sơ chỉ dửng dưng nói: “Trẫm chỉ có duy nhất một đứa con trai, trẫm hy vọng nó khoan dung nhân từ, nếu không một mai khi kế thừa sự nghiệp thống nhất đất nước, nó phải thống trị thiên hạ thế nào đây?” 

Có cha mẹ đồng hành, tuổi thơ ấu mới trọn vẹn đủ đầy. 

Đến cả mẫu thân ruột thịt cũng không thể tha thứ thì sao làm được bốn tiếng nhân ái khoan dung? 

Những năm nay, mỗi lần Triệu Sơ muốn đưa Triệu Tiêu vào chùa Đại Từ Ân là luôn phải đối mặt bao lời ra tiếng vào. Mà kể từ ngày lên ngôi kế vị, Triệu Sơ đã hiểu rõ một đạo lý: cõi đời này chưa từng có đế vương nào nói giữ lấy lời, là bực quân vương, tức là phải liên tục cân nhắc nên chọn lựa ra sao.  

Về vụ án Tiển Khâm Đài, chàng phải cho người trong thiên hạ một lời giải thích xác đáng nhất. Thế nên, giữa chàng và Triệu Tiêu, chỉ có một người được đặt chân đến ngọn núi rực đỏ màu lá phong này, không thì còn đâu là pháp luật? 

Chương Nguyên Gia là mẫu thân, không thể thiếu vắng trong tuổi thơ của Tiêu nhi. 

Hoàng tử nhỏ ngẩng đầu nhìn lá thu khắp núi: “Phụ hoàng bảo, người sẽ cùng con chờ mẫu thân hồi cung.”  

Trong núi văng vẳng tiếng bánh xe lộc cộc, ngự liễn đã đi xa. 

Xuyên qua bóng cây bạt ngàn, Chương Nguyên Gia nhìn đội ngũ đi dưới chân núi. Lúc này, đằng sau lưng chợt vang lên tiếng bước chân. Khẽ thật khẽ, như gió cuốn lá thu rơi xuống nền đất. 

Chương Nguyên Gia như sực nhận ra điều gì, nhưng nàng không dám tin.

Giọng người kia truyền vào tai: “Trẫm giả bệnh, lừa gạt quần thần, phong cảnh trong núi đẹp nhường này, trẫm không muốn để lỡ, bèn ở lại đây mấy hôm rồi cưỡi khoái mã đuổi theo ngự liễn sau, ắt hẳn lão già bảo thủ kia sẽ không phát hiện ra.” 

Chương Nguyên Gia xoay người lại. 

Triệu Sơ vẫn như xưa, dung mạo sáng láng hiền hòa. 

“Chuyện về Tiển Khâm Đài đã được giải quyết êm đềm, trẫm cũng ra một quyết định, từ nay về sau, sẽ bao dung với bản thân thêm một chút.” 

Chàng nở nụ cười, vươn tay về phía Chương Nguyên Gia: “Lại đây, để trẫm ngắm nàng thật kỹ.” 

Một làn gió trong thổi qua ngọn núi, tiểu thái giám Trường Sính ngủ gà ngủ gật. 

Năm nay đích thân Quan gia lên núi, năm nay rốt cuộc cậu ta không cần phải vất vả lòng vòng trong núi nhặt lá phong nữa rồi. 

Phận đế vương cô đơn, lần nào Quan gia đọc trát thâu đêm ở Hội Ninh điện, đều cắm một nhành phong đỏ vào chiếc lọ ngọc bích đặt ở bên. Nên hằng năm cứ tới chùa Đại Ân Từ, cậu ta sẽ phải đi quanh núi nhặt nhạnh đủ ba trăm sáu mươi nhành phong đỏ. 

Như thể có lá phong này sớm chiều bầu bạn, Quan gia sẽ không còn cô đơn nữa.

Trong làn mây mù giăng khắp núi, lá phong lìa cành, tiểu thái giám đánh một giấc no nê thỏa thích. 
 
Chương 219: Ngoại truyện 9: Lòng ở tứ bề


Trời âm u, ngoài cửa sổ mưa rơi rả rích. 

Tạ Dung Dữ ra khỏi phòng, Triêu Thiên đứng gác ở đầu hành lang lập tức bước lên đón: “Công tử, thiếu phu nhân…” 

Thanh Duy ngủ rồi. 

Tạ Dung Dữ làm dấu im lặng, bước mấy bước: “Sai người đi Đông An, điều tra xem ông cháu Diệp thị ở trang viên phía Tây thành Thượng Khê đang tìm dược liệu gì.”  

Vì để bắt con ma áo xám đêm qua, bọn họ cũng giả ma rồi tình cờ gặp lại Thanh Duy. Triêu Thiên biết thiếu phu nhân đã cấp manh mối này, không hề nghi ngờ mà đáp tiếng “dạ” rồi lui xuống ngay. 

Liền sau đó Tạ Dung Dữ cho gọi hội Chương Lộc Chi tới, căn dặn những việc còn thừa, đến khi quay về phòng, trời đã gần trưa. Y thức trắng một đêm, giờ lại không chút buồn ngủ, xốc dậy tinh thần, nghiền ngẫm thật kỹ tình hình trong thành. 

Thực ra Tạ Dung Dữ không ngạc nhiên khi sẽ gặp lại Thanh Duy ở Lăng Xuyên. Y có thể nghĩ ra còn lý do khác khiến Từ Thuật Bạch chạy lên kinh, Tiểu Dã thông minh, ắt hẳn cũng sẽ nghĩ tới. Y vừa mong nàng đến, vừa mong nàng đừng đến. Tả Kiêu Vệ Ngũ Thông phát hiện tung tích nàng, nha huyện Thượng Khê không phải chốn sạch sẽ, nàng là con gái của Ôn Thiên, cứ tiếp tục lún sâu vào bể thị phi này không phải chuyện tốt. Song, thấy nàng lang bạt đây đó ngoài kia, nay lại hốc hác tiều tụy ra nông nỗi này, thế thì chẳng bằng đi theo bên y.   

Mưa càng lúc càng nặng hạt, Thanh Duy đã ngủ say. 

Nàng ngủ hết sức yên bình, con tim lơ lửng của Tạ Dung Dữ cũng dần dần thả lỏng. Hơn nửa năm nay, từ khi nhận được thư của Triệu Sơ cho đến lúc lật đổ Hà Hồng Vân; từ lúc bệnh cũ tái phát cho đến khi chạy tới Lăng Xuyên, ít có lúc nào y được nửa ngày buông lơi nhàn hạ thế này. Y ngồi vào bàn vuốt thẳng giấy viết thư, lúc đặt bút tay hơi khựng, giữa lúc bất giác, ngòi bút đã tự hạ: “Phụ thân kính yêu.” 

***

Tạ Trinh qua đời vào năm Hàm Hòa thứ mười bảy. 

Nay hồi tưởng lại, có lẽ vào năm gieo mình xuống dòng Thương Lãng, tuổi Tạ Trinh cũng bằng Tạ Dung Dữ hiện giờ. 

Bao năm trôi qua, những hình ảnh về Tạ Trinh trong ký ức của Tạ Dung Dữ đã dần phai nhạt, chỉ nhớ rằng tổ mẫu từng nói: y và phụ thân giống nhau như đúc, sinh ra đã mang đậm tính cách người nhà họ Tạ.  

Tính cách người Tạ gia là thế nào nhỉ? 

Thế gia sừng sững trăm năm trên đất Trung Châu không tồn tại khuôn phép khắc nghiệt như những dòng họ khác, mà luôn thương yêu bao dung cháu con trong tộc. Con em Tạ gia ngoài những người theo thầy trong nhà học vỡ lòng, tương lai mai sau tùy thuộc vào mình, thì còn lại không nhất định sẽ đi đường làm quan; trong đồng lứa, có người làm kinh doanh, có người chuyên nghiên cứu một môn nghệ thuật, cũng có người phóng túng bất tuân sống một đời tự tại. 

Năm mười hai tuổi Tạ Trinh đi xa học hành, Đông vượt trùng dương sang Lưu Cầu, đến Bắc đi qua bảy bộ Thương Nỗ. Chu du hơn nửa bức họa giang sơn, lại nhìn cảnh dân rày đây mai đó, khốn khổ kiếm kế sinh nhai, cuối cùng Tạ Trinh quyết định làm quan, không phải chỉ vì biết nhiều học cao, mà bởi ông thực sự ôm lòng những mong phụng sự đất nước, cứu rỗi nhân dân. 

Họa chăng chịu ảnh hưởng từ nề nếp Tạ gia, sau khi Tạ Trinh làm quan, ông vẫn giữ dáng điệu của quý công tử phong lưu kiệt xuất. 

Năm Hàm Hòa thứ mười hai, ông thi đỗ trạng nguyên, trong bữa tiệc Quỳnh Lâm cười nói dịu dàng kính Vinh Hoa trưởng công chúa một chén rượu, mấy ngày sau có ngay ân chỉ, ông thành phò mã cưới công chúa. 

Người về sau khi nhắc đến chuyện này, kháo nhau rằng Vinh Hoa trưởng công chúa vừa gặp đã đem lòng yên mến Tạ Trinh. 

Thực ra không phải vậy. 

“… Năm ta vào kinh, tình cờ gặp mẫu thân con tại chùa Đại Từ Ân. Khi ấy lưu dân từ khắp các nơi đổ về kinh đô, sân chùa trở thành nơi cứu tế. Mẫu thân con vào chùa lễ Phật, đi đường né trái tránh phải, vẫn bị lưu dân làm bẩn váy. Bà ấy rất bực mình, gọi trụ trì ra chất vấn nguyên do… Nhưng khi bà lễ Phật xong đi ra, lại chỉ sai tì nữ đem bánh ngọt và áo Nho mang theo đặt dưới tán cây bạch quả trong chùa, không nói gì thêm.” 

Từ khi Tạ Dung Dữ có thể ghi nhớ được những việc trên đời, Tạ Trinh đứng ngoài ban công trước cửa sổ trên lầu Túy Tiên, đã kể với y như thế. 

“Sau đó trong bữa tiệc Quỳnh Lâm, mẫu thân con mặc trang phục sĩ tử, giả nam vào dự tiệc, lúc đó ta mới biết cô nương tình cờ gặp ở chùa Đại Từ Ân chính là bà ấy. Từ lâu đã nghe chuyện thánh thượng muốn chọn rể cho công chúa, nên ta đã cố ý đưa bà ấy chén rượu hoa đào ngự ban ngay trước mặt mọi người.” 

Trong ký ức của Tạ Dung Dữ, hầu như y luôn ở cạnh cha trong suốt quãng thời thơ bé. 

Bất kể đi đâu, Tạ Trinh vẫn thích dẫn y đi theo. Thi thoảng Tạ Trinh nhấp mấy chén rượu, nói nhiều hơn bình thường, cũng không kiêng nể gì, kể tất tần tật nào chuyện quốc gia thiên hạ, chuyện tình cảm gái trai cho cậu con thơ. May thay con trai Tạ gia thông tuệ từ sớm, tuy Tạ Dung Dữ nhỏ tuổi nhưng vẫn nghe lọt đôi phần, y cảm thấy mình đã hiểu con người phụ thân. 

Vì vậy vào năm Hàm Hòa thứ mười bảy, tin tức sĩ tử trầm mình xuống sống truyền khắp, y dù đau buồn, nhưng cũng không quá bất ngờ. 

Y hiểu chí nguyện làm quan của Tạ Trinh, từng chứng kiến cảnh ông tranh cãi với phe chủ chiến thế nào trên lầu Xuân Nhật, cũng biết vì sao ông thao thức thâu đêm không ngủ, đổ lệ máu viết thư can. Nhưng Tạ Dung Dữ vẫn không tránh khỏi trầm lặng, sự trầm lặng này không đơn giản chỉ xuất phát từ nỗi bi thương vì mất cha ở tuổi thơ dại, một người trời sinh mẫn tuệ như y, nhạy bén cảm nhận được rằng số phận của mình sẽ thay đổi từ sau ngày sĩ tử nhảy sông. Từ đây gông cùm đã buộc lấy y, sẽ không còn người nào tự do thanh nhàn, đứng trên lầu cao chỉ về dòng Giang Lưu đổ ra biển khơi ở nơi xa vời vợi, nói câu: “Nam nhi Tạ gia, thân đi khắp nơi, lòng ở tứ bề” như Tạ Trinh nữa. 

Nửa năm sau vụ sĩ tử nhảy sông, thánh chỉ sắc phong Chiêu vương đến đúng như đã hẹn. Tổ mẫu ở Trung Châu xa xôi lên kinh thăm Tạ Dung Dữ, trông đứa cháu trở nên lầm lũi kiệm lời, liền bảo: “Thiếu thời phụ thân cháu đi khắp bốn phương, cháu cứ xem như nó đang dạo chơi ở chốn xa, nếu trong lòng có tâm sự hay gặp phải trở ngại gì, hãy cứ viết ra thư.” 

Ngồi trong điện Chiêu Doãn rộng lớn, Tạ Dung Dữ trải một tờ giấy, viết một câu “Phụ thân kính yêu”, rồi không đưa bút nữa. 

Y không biết phải viết gì. 

Nỗi nhớ nhung con trai dành cho cha mà âm dương cách biệt gây ra khiến đầu bút không tài nào hạ xuống, ngày qua ngày sống trong cung buồn tẻ không có gì đáng nhắc, chẳng sánh bằng những câu chuyện lý thú Tạ Trinh từng kể trên lầu Xuân Nhật. 

Tạ Dung Dữ trăn trở bao suy nghĩ, muôn lời vạn chữ hiện trên trang giấy, lại thành ra một câu cụt lủn chẳng đến nơi đến chốn, nhạt thếch như chính cuộc sống của y trong cung. 

“… Nghe nói độ mười hai phụ thân xa nhà cầu học, mà Dung Dữ bị cung cấm kìm chân, không biết ngày nào mới được dạo khắp tứ phương.” 



Lúc Tạ Dung Dữ viết lá thư thứ hai cho Tạ Trinh là năm Chiêu Hóa thứ mười hai. 

Y lớn lên trong cung, bảy tuổi học văn cùng Chiêu Hóa đế, chín tuổi soạn sách ở Hàn lâm, mười hai tuổi đã theo chân lão thái phó đến Hàn lâm dạy học, tranh biện với người. 

Năm mười bốn tuổi lần đầu tiên y tham chính, ban đầu cũng rất ngây ngô, nhưng y  trưởng thành rất nhanh, chỉ mất hơn một năm đã dần thuận buồm xuôi gió. 

Năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Chiêu Hóa đế quyết định sửa đền Tiển Khâm thành Tiển Khâm Đài, cho triệu Tạ Dung Dữ đến: “Việc xây dựng Tiển Khâm Đài, trẫm giao cho khanh phụ trách.” 

Tạ Dung Dữ chợt ngẩng đầu: “Bệ hạ giao cho thần?” 

“Sao, không muốn à?” Chiêu Hóa đế hỏi. 

Không phải Tạ Dung Dữ không muốn, y chỉ thấy ngạc nhiên. 

Mười bảy năm qua, y chưa bao giờ rời khỏi kinh thành, cứ ngỡ sẽ bị vây hãm mãi trong bốn bức tường thành cho đến hết cuộc đời. 

Y nhanh chóng viết thư cho Ôn Thiên, sau đó khởi hành lên đường. 

Khi tới Thần Dương, y mới phát hiện Ôn Thiên mất vợ, đang khẩn trương về quê nhà trông linh cữu vong thê, nhẽ ra y không nên đến làm phiền vào lúc này. 

Tạ Dung Dữ thành khách không mời mà tới, mắt mở trân trân nhìn Ôn Tiểu Dã bỏ nhà ra đi mà không cách nào can ngăn. Y chạy theo ra khỏi căn nhà, cất tiếng gọi: “Cô nương.” 

Nàng chỉ ngoảnh đầu thoáng nhìn qua y, rồi cầm thanh kiếm chậm rãi bước xa, biến mất giữa miền sơn dã. 

Đằng sau vang một tiếng thở dài: “Đó là Tiểu Dã con gái ta.” 

Nói đoạn, như thấy được vẻ ngượng ngùng trong mắt Tạ Dung Dữ, bèn khuyên: “Tính nó là vậy đấy, hồi bé lang bạt ở ngoài với sư phụ quen rồi, nói đi là đi luôn. Điện hạ đừng để bụng, nó đi nhiều nơi lắm, cũng có mấy ngón võ trong người, không gặp nguy hiểm đâu.”

Nam nhi độ thiếu niên ra ngoài du học là chuyện thường ở Đại Chu, nhưng nữ nhi dẫu sao vẫn nên ở trong chốn khuê phòng, có lẽ cả đời cũng không được bước ra ngoài cửa lớn. 

Trông tiểu cô nương kia cùng lắm là mươi ba tuổi, Tạ Dung Dữ rất đỗi kinh ngạc khi nàng có thể tùy ý đi muôn nơi. 

Về sau y nhớ lại, sở dĩ bóng hình áo xanh  trong núi Thần Dương in dấu đậm sâu trong lòng y như thế, ban đầu là vì áy náy, đi cùng với đó là khiếp sợ; dần về sau khi y đến núi Bách Dương, nghe Ôn Thiên kể vô vàn câu chuyện ít ai được biết của Ôn Tiểu Dã, dần dà lại chuyển thành tò mò.  

Đầu đông năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Tạ Dung Dữ ngồi trong phòng sách nơi trông coi núi Bách Dương, nhấc bút viết thư. 

“Phụ thân kính yêu.” 

“… Con ngẫu nhiên gặp một cô gái trong núi Thần Dương, thuở bé được cha dạy học, sau theo Nhạc tiểu tướng quân luyện võ, rất có bản lĩnh, chân đi muôn phương, thân tâm vô ưu, bởi vậy thích đi khắp nơi. Dung Dữ bèn tự ngẫm, những năm nay mình vùi trong cung cấm, phải chăng là tự mình xích mình, mà cứ lầm rằng ngựa xe trói buộc. Phụ thân thường bảo Dung Dữ: lòng ở tứ bề, thân đi bốn phương, chữ tâm đặt trước nghĩa là nhân, chữ thân để sau nghĩa là quả. Giờ đây Dung Dữ đã giác ngộ, đợi khi xây dựng Tiển Khâm Đài, hoặc khi cáo biệt thánh thượng, rời khỏi kinh thành…” 



Tiếc thay Tạ Dung Dữ không được toại nguyện. 

Mồng chín tháng bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, một tiếng “tháo dỡ” trở thành cơn ác mộng từ ấy về sau bủa vây y.

Y mắc tâm bệnh, ngày nào cũng gặp ác mộng, không dám ngửa mặt nhìn thẳng lên trời xanh. 

Nếu nói gông xiềng trên người Tạ Dung Dữ trước đây là sĩ tử nhảy sông quàng lên người y, vậy thì hôm nay, chính tay y lại đeo gông lên người mình. 

Dù y có đeo thêm mặt nạ, biến thành Giang Từ Chu, thì chẳng qua cũng chỉ là trốn tránh. 

May thay thời gian chầm chậm trôi đi, bệnh tình thuyên giảm phần nào, Tạ Dung Dữ biết mình còn chuyện chưa hoàn thành, mùa thu năm Gia Ninh thứ ba, y nhận được lá thư Chiêu Hóa đế để lại cho y từ tay Triệu Sơ. 

Mùa thu năm Gia Ninh thứ ba là một mùa rối ren, Tiển Khâm Đài dự tính sẽ được xây lại, triều đình lần nữa tra rõ nguyên nhân đài sụp đổ, Đại Lý Tự truy bắt một đám nghi phạm, trong số đó có Thôi Hoằng Nghĩa. 

Tạ Dung Dữ nghĩ tới tình hữu nghị của Ôn Thiên, Thôi Hoằng Nghĩa cùng những thợ khác, nhân hôn ước giữa Giang Từ Chu và Thôi Chi Vân, lén cứu Thôi thị một mạng. 

Vậy mà đến đêm tân hôn, y uống say chuếnh choáng, lúc vén khăn voan, giương mắt nhìn kỹ, lại nhìn thấy nàng. 

Là tiểu cô nương y từng gặp một lần trong núi Thần Dương. 

Là người con gái được y khoanh vòng đỏ chói trên công văn truy nã. 

Biết bao năm trôi qua, hình bóng nàng vò võ mặc váy xanh ngoảnh đầu lại vẫn ghi tạc nguyên vẹn trong lòng y. 

Tạ Dung Dữ đã thôi nghĩ suy miên man về quá khứ và hiện tại từ lâu lắm rồi. 

Nhưng giờ khắc này, như định mệnh sắp đặt, y bỗng nhớ đến trước khi Tiển Khâm Đài sụp đổ, nhớ đến lá thư y viết cho Tạ Trinh lúc trong núi Bách Dương cùng với lời cầu mong bé nhỏ muốn rời kinh đô khi ấy. Thậm chí y còn nhớ đến ngày xưa hơn, trên lầu Xuân Nhật, Tạ Trinh chỉ tay về phương xa nói: “Nam nhi Tạ gia, lòng ở tứ bề, thân đi bốn phương.” 

Số mệnh đang chạy theo vòng tuần hoàn, gặp Tiểu Dã, y bỗng có thêm can đảm vùng khỏi xích xiềng. 

Hơn nửa tháng sau khi Tiểu Dã được gả vào Giang phủ, bệnh cũ của Tạ Dung Dữ có tái phát một lần. 

Y đứng ngoài Chiết Chi Cư, muốn thử xem mình có đối mặt được với sụp đổ trong quá khứ hay không, tiếc thay, y thất bại. 

Ba ngày ba đêm ngụp lặn trong mộng, lúc y quay về với ác mộng cũ, song cũng có lúc cũng được mơ những giấc bình yên. 

Trong mơ, y ngồi trước bàn viết thư cho Tạ Trinh, tiếc là sau câu “Phụ thân kính yêu”, y lại lưỡng lự không viết tiếp được nữa. 

Trong cơn mơ hồ, có một bóng người bước lại gần y, bất cần như một cơn gió: “Nghe mẫu thân con nói, con mới vừa thành thân gần đây, còn lĩnh hàm Đô Ngu hầu Huyền Ưng Ti, bao nhiêu là chuyện trọng đại, sao không kể cha nghe?” 

Tạ Dung Dữ ngần ngừ chốc lát: “Con không rõ rốt cuộc mình đang nghĩ gì.”

Tạ Trinh cười: “Đừng nóng vội, có lẽ ngay cả chính con cũng không biết, rằng con cháu Tạ gia có một thiên phú rất đặc biệt, đó là xưa nay luôn tỏ tường lòng mình. Đến khi con bước về phía trước, tự khắc sẽ tìm thấy ánh sáng hy vọng. Khi ấy, con hẵng viết thư cho cha, cha sẽ đợi.” 



Hoàng hôn buông, mưa ngoài cửa sổ dần thưa hạt, ở trên bàn, một lá thư đã viết xong. 

Tạ Dung Dữ chấm mực, cất bút viết đoạn cuối cùng: “Phụ thân, nửa năm trôi qua trong chớp mắt, Hà thị đã đổ, thánh thượng nhân dịp tốt này trải đường lui cho con. Con đường trước mắt tuy gian hiểm, cũng may xa cách nửa năm được ngày trùng phùng, lận đận bôn ba, lòng con đã định, đợi khi mây vén thấy mặt trời, tất sẽ đưa thê tử trở về quê nhà, bái lạy mồ phần.” 

Trên giường vang lên tiếng Thanh Duy nói mớ, đúng lúng ngoài phòng có tiếng gõ cửa, Triêu Thiên nói: “Công tử, đã tra được dược liệu ông cháu Diệp thị tìm là gì rồi, là Hải phiêu tiêu ạ.” 

Vậy là Tạ Dung Dữ gác bút, bước ra cửa. Ngoài khung cửa sau lưng, mưa tan mây hé, rợp ráng chiều soi. 

KẾT THÚC
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom