Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Thanh Vân Đài

Chương 180


Nghe bẩm báo xong, Tạ Dung Dữ lập tức nhíu mày, gọi Kỳ Minh theo mình đến điện Chiêu Doãn.

Thanh Duy là người ngoài mà lại lẻn vào cung trốn, vậy chắc hẳn đã đặt cược hoặc y hoặc trưởng công chúa đang ở điện Chiêu Doãn. Cái thai của Hoàng hậu đã lớn nên trưởng công chúa hỗ trợ chưởng quản lục cung, gần như đêm nào cũng ở cung cấm, tối nay điện Chiêu Doãn vô chủ, một khi Tào Côn Đức dẫn cấm vệ quân đến lục soát, Thanh Duy chắc chắn không thể trốn được.

Nha môn lục bộ cách điện Chiêu Doãn khá xa, nếu ngồi kiệu thì nhanh mấy cũng mất nửa canh giờ. Tạ Dung Dữ bước đi như bay, vừa chạy tới điện Chiêu Doãn thì cấm vệ quân cũng từ trong đi ra. Trưởng cấm vệ quân vừa trông thấy y, vội vàng tiến tới bái kiến: “Điện hạ.”

Tạ Dung Dữ sầm mặt, “Đã có chuyện gì?”

“Hồi bẩm điện hạ, mạt tướng nhận được tin có kẻ tặc xông vào điện Chiêu Doãn, để đảm bảo an nguy cho người trong cung, buộc lòng tiến hành lục soát.” Trưởng cấm vệ quân đáp, đoạn lùi một bước hành đại lễ, “Chuyện khẩn cấp nên mạt tướng không kịp bẩm báo cho điện hạ và trưởng công chúa, lát nữa nhất định sẽ tới chỗ Quan gia nhận phạt, mạt tướng chỉ làm tròn chức trách, mong được điện hạ thông cảm.”

Tạ Dung Dữ thấy trưởng cấm vệ quân có vẻ áy náy, đoán có lẽ hắn chưa bắt được người, song vẫn hỏi: “Đã tìm được chưa?”

“Chưa ạ, nhưng đề phòng kẻ tặc xảo trá, mạt tướng đang định tìm nơi khác.”

Kỳ Minh nói: “Lục cung phòng bị nghiêm ngặt, làm gì có chuyện kẻ tặc tự tiện xông vào? Dù Điện Tiền Ti nhận được tin thì cũng phải tra xét trước, ngộ nhỡ chỉ là tin nhảm, vô duyên vô cớ khiến lục cung hốt hoảng, hôm nay kinh động tới điện hạ, chẳng lẽ hôm khác muốn kinh động đến Quan gia và Hoàng hậu nương nương hả?”

Kỳ Minh xuất thân từ Điện Tiền Ti, có quen biết với vị trưởng cấm vệ quân này, Hắn là người ôn tồn dễ chịu, đâu mấy khi nghiêm nghị như vậy, trưởng cấm vệ quân biết hắn đang nhắc nhở mình Chiêu vương điện hạ không vui, thế là thành khẩn tạ tội, nói rằng sau khi trở về nhất định sẽ kiểm tra nguồn tin rồi đưa người rút lui.

Cấm vệ quân vừa đi, Kỳ Minh nói: “Thuộc hạ sẽ dẫn người đi tìm thiếu phu nhân ngay.”

Tạ Dung Dữ lại bảo: “Không cần, nàng ấy đã đi rồi.” Chỉ mới đấy thôi mà y đã hiểu ra ẩn ý đằng sau hành động lần này của Thanh Duy, căn dặn, “Phái người đến Điện Tiền Ti, bắt kẻ đã tung tin lại đây.”

Hành tung của Thanh Duy ở ngoài cung đã bị bại lộ, trốn vào cung là để tránh thị vệ truy đuổi, nàng tuy to gan nhưng rất thận trọng, nếu không chắc y ở điện Chiêu Doãn thì trọng phạm như nàng hẳn không thể ở lại lâu được, chắc chắn nàng đã dùng cách gì đó, biết tối nay điện Chiêu Doãn không có người nên đã rời đi trước khi cấm vệ quân đến lục soát.

Hơn nữa, nói thẳng ra Võ Đức Ti chính là nha môn giữ cổng, cổng thành Tử Tiêu, bốn cổng thành bên ngoài, thậm chí cửa ải gần kinh đô cũng do bọn họ trông coi, không lẽ bọn họ tập trung binh lực truy lùng trọng phạm thì không cần làm việc khác nữa sao? Thanh Duy trốn một lúc, Võ Đức Ti không tìm được người, tất nhiên sẽ rút lui.

Tạ Dung Dữ rời cung, vừa bước lên xe ngựa thì sực nhớ ra một chuyện, vén rèm dặn Kỳ Minh: “Tìm vài người quen cũ của ngươi ở Điện Tiền Ti, bảo bọn họ lấy lí do ‘báo tin nhầm’ để cầm chân Võ Đức Ti.”

Xe ngựa thẳng tiến Giang phủ, Tạ Dung Dữ nắm chặt quạt tre trong tay, hai mắt khép lại, dựa vào vách xe trầm tư.

Đầu năm nay Giang Trục Niên đảm nhiệm chức Viên Ngoại lang ở bộ Lễ, vừa vào xuân đã đến Khanh Minh, Ninh Châu mở học phủ, chỉ là, dù Giang Trục Niên đã rời nhà nhưng chắc chắn Tiểu Dã sẽ biết y đang ở Giang gia chờ nàng. Nàng một thân một mình không có chỗ trú ở kinh thành, chỉ cần Võ Đức Ti rút lui, kiểu gì nàng cũng sẽ tới Giang phủ.

Xe ngựa nhanh chóng dừng trước cửa phủ, Đức Vinh nghe thấy động tĩnh bèn chạy ra đón, thấy Tạ Dung Dữ thì ngạc nhiên, “Sao tối nay công tử về sớm thế, tiểu nhân còn định đến cửa cung đón…”

Còn chưa nói hết câu, Tạ Dung Dữ đã đáp một tiếng ngắt lời, rảo bước lướt qua hắn, vội vã đi về Đông viện.

Đức Vinh đang định đuổi theo thì sực nhận ra điều gì đó, lập tức dừng bước, đồng thời cũng cản lại hội Triêu Thiên và Lưu Phương vừa tới.

Đông viện im lìm, trong phòng cũng chẳng thắp đèn, Tạ Dung Dữ chắc chắn Thanh Duy đang ở đây, vội đẩy cửa phòng ra, gọi nhỏ, “Tiểu Dã.”

Trong phòng không ai trả lời

Nương theo ánh trăng trăng bạc dịu dàng, hai mắt quen dần với bóng đêm, có thể phân biệt được hình dáng của mọi vật trong nhà, quả nhiên trong phòng không có ai. Tạ Dung Dữ đang định sang viện bên tìm thì đúng lúc này có tiếng động vang lên từ sau cửa sổ. Tạ Dung Dữ ngớ người, sải bước đi tới, giật mở khung cửa, gió thu ùa vào, cô gái đang trèo cửa sổ lập tức va vào y, nàng mặc áo đen, suối tóc buộc đuôi ngựa phất phơ trong làn gió đêm, vẻ mặt sửng sốt như thể không ngờ y lại mở cửa nhanh như vậy.

Tạ Dung Dữ bật cười: “Sao không vào cửa chính mà lại trèo cửa sổ?”

Cửa sổ chạm trổ như một khung tranh cổ, đóng khung chàng công tử anh tuấn, đã lâu không gặp, nụ cười ấy còn dịu dàng hơn cả ánh trăng, Thanh Duy ngơ ngác, nhất thời chẳng nói nên lời.

Thực ra Thanh Duy đã về từ một khắc trước, đã có bài học bị Tào Côn Đức bán đứng một lần, làm gì có chuyện nàng để bị bán lần hai? Ra khỏi Đông xá nhưng nàng không đi xa mà nấp gần đấy, chỉ cần trưởng công chúa hoặc Tiểu Chiêu vương có ở điện Chiêu Doãn, chắc chắn Đôn Tử sẽ không mật báo, vì cho dù có dẫn cấm vệ quân đến thì họ cũng không dám lục soát cung điện, ngược lại, nếu Đôn Tử báo tin, như vậy chứng tỏ tối nay không có ai ở điện Chiêu Doãn. Thanh Duy đợi một lúc, quả nhiên Đôn Tử lật đật chạy ra, Thanh Duy nhanh chóng quyết định, lập tức rời khỏi thành Tử Tiêu.

Võ Đức Vệ ở ngoài cung cũng đã rút lui hơn phân nửa, Thanh Duy quay về Giang phủ song không dám vào bằng cửa chính, thứ nhất nàng lo Võ Đức Vệ đột ngột quay đầu, thứ hai, chắc là do tâm trạng càng gần nhà càng hồi hộp lo sợ, nào có nương tử nào như nàng, quan nhân mới lên kinh nửa tháng đã đuổi theo bằng được. Thế là nàng múc nước giếng ở sân sau, rửa sạch lớp hóa trang trên mặt, vừa mới rón rén đi dưới cửa sổ thì nghe thấy tiếng bước chân từ trong sân vọng tới, có người đẩy cửa gọi Tiểu Dã.

Nhẽ ra nàng nên đáp lại, nên đi vào từ cửa chính như y nói, nhưng nàng lại quá hồi hộp, vô thức nhảy cửa sổ, để bây giờ đối diện với y gần trong gang tấc, Thanh Duy ngơ ngác gọi: “Quan nhân.”

Lần trước khi vội vã từ biệt ở Chi Khê, nàng cũng gọi một tiếng như vậy.

Hai chữ ấy theo gió thu rót vào tai, chạm vào tim Tạ Dung Dữ. Không biết có thần lực gì mà mỗi lần nàng gọi đều khiến lòng y rạo rực râm ran.

Tạ Dung Dữ không đáp, vươn tay ôm eo nàng, cúi mặt xuống.

Tựa làn gió mát mẻ ngày thu chạm vào vò rượu ủ bụi đã lâu, dải lụa đỏ trên vò nhẹ bay, hương rượu hòa quyện cùng gió thu ôm trọn thân mình, biến thành mỹ tửu ngất ngây. Trong mỹ tửu có mật ong dịu nhẹ, nhưng sao nồng độ vẫn còn mạnh quá, theo bờ môi y rải hoa vén liễu nơi nàng, rượu càng lúc càng nồng, nồng đến mức dù ngồi trên bệ cửa nàng cũng phải vòng tay ôm y để giữ thăng bằng; nồng tới nỗi nàng gần như chẳng nghe thấy tiếng gió thét gào, bên tai chỉ còn lại hơi thở ngày một nặng nề của nhau

Cuối cùng Tạ Dung Dữ cũng buông nàng ra, tựa vào trán nàng, giọng hổn hển đượm ý cười, “Tối nay nương tử có tiện không?”

Nhưng chẳng đợi nàng trả lời, y đã bế nàng lên ôm vào nhà. Y biết nàng dám đến cửa tìm mình thì tất nhiên đã tính toán ngày rồi. Trong phòng không một tia sáng, gió đêm xóa nhòa đường nét mọi vật, Thanh Duy nằm trên vai Tạ Dung Dữ, khẽ đáp: “Nhưng ta vẫn chưa tắm…”

Tạ Dung Dữ đặt nàng lên giường, áp người xuống, chạm môi vào trán nàng rồi lần xuống mí mắt, “Ta cũng chưa, đợi lát nữa tắ.m chung…”

Gió lùa qua cửa thổi vù vù, cả phòng ngủ như chìm xuống đáy hồ, xung quanh gợn sóng trong veo.

Bỗng Thanh Duy cảm thấy mình như đóa hồng dại sắp nở vào lúc bình minh, trút bỏ cánh hoa tàn, bung nở nụ mới giữa màn đêm u ám; lúc lại cảm thấy mình như biến thành chú chim nhỏ trong dãy núi Thần Dương, mây đen giăng khắp trời, lôi kiếp giáng liên tục, cơn mưa xối xả dội nàng ướt sũng, buộc lòng cởi bỏ lớp áo ngoài, hóa thành chim loan mọc ra đôi cánh mới đầy sắc màu.

Và nụ hôn của y như chứa đựng ma lực thần kì, từng chiếc hôn rơi làm dịu bớt sự sợ hãi trước khi thiên kiếp đến.

Nàng vươn tay nắm chặt vai y.

Nàng từng nói mình không sợ đau, dù là đao phủ cũng chưa chắc khiến nàng nhíu mày. Song lần này lại khác, như cánh chim xanh chờ đợi kết quả phán xét của thiên đình, như đóa hồng dại sắp sửa chào đón tia nắng chói chang nhất trong hai mươi năm qua, lại giống như năm ngoái lúc nàng ngồi đây, cũng là nơi này, chờ một đôi tay cầm gậy như ý vén khăn trùm đầu.

Nụ hôn ướt át nóng bỏng rơi lên vành tai nàng, say mê gọi nàng: “Tiểu Dã…”

Rồi sau đó thiên kiếp đã đến.

Chắc chắn sẽ đau, sự chờ đợi căng thẳng khiến nàng lo lắng không thôi, thậm chí có một khoảng thời gian đầu óc trống rỗng kéo dài, cứ như nàng đang đứng giữa đồng tuyết mênh mông.

Thấy nàng run rẩy, Tạ Dung Dữ lại chẳng đành lòng, nhẹ nhàng gọi: “Nương tử.”

Một lúc sau, Thanh Duy mới ậm ờ đáp lại, nàng gom góp thần hồn tan tác, hé mở mắt, ánh mắt dần lấy lại tiêu cự, nàng kéo cổ y xuống, hôn lên khóe môi y.

Tạ Dung Dữ thở dài một hơi.

Vừa dứt tiếng thở dài, mưa xuân rơi trong khoảng giường khép rèm, mưa trút xối xả, sóng vỗ thủy triều dâng, dâng cao vô tận bao phủ cả đêm thu, nhấn chìm kinh thành nơi nàng lặn lội ngàn dặm đường xa đến tìm.
 
Chương 181


Thanh Duy chẳng nhớ mình đã ngủ thiếp từ lúc nào, nàng mệt đến nỗi Tạ Dung Dữ phải tắm rửa giúp nàng. Lại một hồi triền miên trong nước, lúc rời thùng tắm nàng đã hoàn toàn kiệt sức, trong cơn mê, nàng nhớ Tạ Dung Dữ dùng chăn bọc mình lại, nhẹ nhàng đỡ nàng ngồi trên ghế, gọi Lưu Phương và Trú Vân vào phòng dọn giường.

Thực ra Thanh Duy rất dễ thức giấc, nhất là khi trong phòng còn có người đi lại. Hoặc là do động tác của Trú Vân và Lưu Phương quá nhẹ, hoặc có lẽ nàng chưa bao giờ mệt mỏi đến thế, như chú cá sông bơi lạc vào biển rộng, nước biển dâng cao, ngọn sóng mênh mông liên tục ập đến nhấn chìm toàn thân, chẳng mấy chốc đã say giấc.

Ban đầu nàng ngủ chưa sâu, nhớ lại trước khi đến Chi Khê, Tạ Dung Dữ đã tìm ngày báo chuyện của hai người với cha mẹ. Nhạc Hồng Anh được an táng ở núi Thần Dương, vẫn chưa lập bài vị; thi thể của Ôn Thiên được triều đình chôn trong khu tội nhân ở huyện Sùng Dương, Thanh Duy không cách nào đưa đi được, thế là Tạ Dung Dữ đã mời người khắc lại bài vị. Bài vị đặt trước hương án, Thanh Duy và Tạ Dung Dữ dâng hương, Tạ Dung Dữ nói gì đó nàng không nhớ, hình như bảo là cưới nàng làm vợ, sẽ đối xử tốt với nàng cả đời, trong khi đó Nhạc Ngư Thất đứng một bên, chỉ nói một câu lơ đễnh mà đến giờ nàng vẫn nhớ rõ, “Không còn quản thúc được con nhóc quê mùa này nữa rồi, lưu lạc bên ngoài mới mấy năm đã tự ý lấy chồng, còn chẳng thèm thông báo cho ta một tiếng, nếu hai vị thấy khó chịu thì cứ việc giáo huấn, thỉnh thoảng về báo mộng cầm roi đánh nó một trận thật đau, ta tuyệt đối không ngăn cản.”

Thanh Duy chột dạ không nói nổi nên lời, cứng ngắc học theo Tạ Dung Dữ vái ba lạy, lúng túng nói “con gái bất hiếu”, hoàn thành thủ tục lễ nghĩa rồi lui xuống.

Thế mà tối nay ở trong mơ, nàng đột nhiên quay trở về ba tháng trước, đứng trong từ đường dâng hương cho Ôn Thiên và Nhạc Hồng Anh. Từ đường được quét tước sạch sẽ, không nhiễm một hạt bụi, trái cây trên bàn thờ tươi rói mọng nước, nhưng hương trước bài vị đã cháy gần hết, Thanh Duy tiện tay rút một cây hương mới, châm hương trên ngọn đèn, cung kính bái lạy, “Cha mẹ, lần trước có mặt cậu nên Tiểu Dã sợ ông ấy cười nhạo nên không nói nhiều, cha mẹ đừng trách con nhé. Cha mẹ đừng lo, tuy mấy năm nay Tiểu Dã có chịu khổ một chút, nhưng bù lại học được thêm rất nhiều điều mới mẻ, làm rất nhiều chuyện chưa bao giờ nghĩ tới, vui lắm ạ. Con còn gặp được người mình yêu, chàng cũng rất thích con, cậu nói đúng, con tự ý lấy chàng là vì con cảm thấy, miễn là nơi có chàng thì con có thể dừng chân ổn định, cũng không ai khiến con yên tâm hơn chàng, cứ như trên đời này ngoài ngôi nhà ở Thần Dương ra, con lại có thêm một nơi để về, cho nên không phải con hấp tấp quyết định đâu. À đúng rồi, người này cha cũng quen đấy, chàng họ Tạ, tên Dung Dữ…”

Khói xanh từ cây hương trong tay lay động, sương khói nhanh chóng tụ lại, che đi tất cả sự vật trước mắt. Làn khói xanh bay lên rồi từ từ chìm xuống, cho đến khi tắt hẳn, từ đường vẫn là từ đường lúc nãy, nhưng trước hương án, đột nhiên xuất hiện một người tuy tóc mai đã điểm bạc, song mi mắt vẫn sáng ngời.

Thanh Duy giật mình gọi, “Cha?”

Ôn Thiên mỉm cười, giọng mơ màng tựa khói xanh, “Tiểu Dã, lại đây, cho cha ngắm con nào.”

Thanh Duy lập tức rảo bước đi tới, ngồi xổm bên đầu gối Ôn Thiên.

Vì cuộc cãi cọ ở núi Thần Dương ngày trước mà Thanh Duy chẳng thể gặp được Ôn Thiên một lần cuối cùng.

Ôn Thiên vỗ tóc Thanh Duy, cười bảo: “Tiểu Dã lớn phổng lên rồi, mà dáng dấp vẫn không thay đổi nhỉ.”

Thanh Duy ngẩng đầu, “Cha, cha mẹ nghe thấy hết những lời con vừa thưa với hai người rồi ạ?”

“Đương nhiên.” Ôn Thiên nói, “Phu quân của con, Tiểu Chiêu vương, cha biết mà.”

Nói xong, ông lâm vào trầm tư, “Lần đầu gặp cậu ấy ở Thần Dương, cha đã nghĩ sao trên đời này lại có tiểu công tử xuất chúng đến thế, khiêm tốn hữu lễ, hiếu học cầu tiến, thông tuệ bác học, ngoại hình không khác gì trích tiên. Chỉ tiếc thông minh quá lại dễ tổn thương, sau khi tới núi Bách Dương, cậu ấy nói với cha đến đây giám sát Tiển Khâm Đài là lần đầu tiên cậu ấy được rời nhà, cha nghe mà xót xa. Nam nhi thiếu niên nên chu du khắp nơi mới phải, cớ gì lại chôn chân ở thâm cung, huống hồ Tạ thị Trung Châu theo gia phong tự do cởi mở, cậu ấy là tiểu công tử Tạ gia, nhẽ ra phải kế thừa tính cách của cha ông mới đúng. Nhìn cậu ấy là cha lại nhớ tới con, tiểu a đầu con được cậu chăm sóc từ nhỏ, dẫn đi đây đi đó, xa như sông Bạch Thủy hay Lăng Châu cũng đi. Hồi đầu kể chuyện của con với cậu ấy chủ yếu để giải khuây, sau đó thấy cậu ấy thích sơn thủy nên cha mới kể thêm vài chuyện, rồi dần dà nảy sinh tư tâm. Năm ấy con đang còn tuổi hoa, hai năm nữa là cập kê rồi, tuy con là khúc thịt trong lòng cha nhưng trước đó cha chưa bao giờ nghĩ tới việc gả con đi, thế mà từ lúc gặp tiểu công tử Tạ gia, cha lại không khỏi nghĩ, nếu Tiểu Dã nhà ta lấy được người như thế thì tốt biết bao. Trực giác mách bảo cha Tiểu Chiêu vương chắc chắn sẽ thích tính cách của con, có điều thân phận hai đứa cách một trời một vực, làm sao mà quen nhau được? Trước khi hoành thành Tiển Khâm Đài cha cứ nghĩ mãi chuyện này, định bụng đợi xây Tiển Khâm Đài xong sẽ để con và cậu ấy gặp nhau một lần, thậm chí còn nói với cậu ấy, vào ngày Tiển Khâm Đài hoàn thành con cũng sẽ đến xem… Ai mà biết cha lại làm việc dư thừa, tự hai đứa đã có duyên phận, không cần người ngoài sắp xếp…”

Ông vừa nói xong, làn khói xanh chỉ thuộc về giấc mơ này lại lan tỏa, đưa Ôn Thiên lẫn chiếc ghế ông đang ngồi chìm vào hư ảo.

Trong ảo ảnh ấy, Ôn Thiên xoa đầu Thanh Duy lần nữa, từ tốn nói: “Được rồi, bây giờ con đã có người chăm sóc, cuối cùng cha cũng có thể yên tâm.”

Nói đoạn, ông đứng dậy tiến về cửa từ đường.

Ngoài cửa từ đường không có sân, chỉ có một quầng sáng trắng dịu dàng, như thể kết nối với nó không phải là nhân gian mà là vùng đất xa lạ nơi người trần không thể chạm tới.

Giấc mơ này đẹp quá, nó có thể nối liền hai đầu âm dương, bù đắp mọi thiếu thốn.

Thanh Duy đuổi theo hai bước, “Cha sẽ lại đến thăm con nữa chứ?”

“Cha bây giờ đã là người cõi khác, có mẹ con bầu bạn cùng, chỉ vì còn lo cho con nên mới quay về gặp một lần, thấy con sống khỏe thì cha yên tâm rồi. Con vẫn còn quãng đường rất dài trên trần thế, cha đã ở ngoài lục hợp, nếu không có chuyện gì, sau này sẽ không tới nữa.” Ôn Thiên nói, nhìn ra được vẻ quyến luyến trong mắt Thanh Duy, trước khi bước vào vùng sáng ngoài kia, ông cúi người gọi, “Lại đây nào, để cha nói con biết một bí mật.”

Thanh Duy nghe lời bước đến.

“Ở dưới địa phủ, cha đã lén xem sách sinh tử của Diêm Vương, bên trên viết rằng con và Dung Dữ sẽ sống một đời bình an suôn sẻ, ân ái đến bạc đầu, nắm tay nhau tới già.”

Nói rồi, ông giơ tay áo lên, “Đi đi.”

Ảo ảnh tan biến trong quầng sáng, Thanh Duy đuổi theo la lớn: “Cha!” Nhưng lại bị quầng sáng đẩy lùi, khói xanh trong từ đường lần nữa hiện lên, bao phủ khắp phòng, làm nhòe đi tầm mắt Thanh Duy, cũng khiến giấc mộng trở nên mơ hồ.

Xung quanh chỉ còn lại mênh mông trống rỗng, Thanh Duy nhắm mắt, rơi vào mộng cảnh sâu thẳm.

***

Thanh Duy nặng nề mở mắt, một lúc sau mới nhớ mình đang ở đâu. Nhìn bầu trời cũng không đoán được thời gian, nàng định ngồi dậy, nhưng chỉ mới nhổm nhẹ mà dưới thân đã ê ẩm đau nhức. Lưu Phương và Trú Vân ở bên ngoài nghe thấy động tĩnh, vén rèm lên, đem trà xanh và chậu nước đến, đỡ nàng ngồi dậy, hầu hạ nàng rửa mặt súc miệng.

Bấy giờ đã là cuối thu, trong phòng đốt chậu than nhỏ, Lưu Phương đưa một chén canh gừng tới, “Bữa sáng đang được hâm nóng, thiếu phu nhân dùng canh trước đi ạ.”

Tạ Dung Dữ đang ngồi bên bàn xem hồ sơ, nghe tiếng động bèn đặt sách xuống, “Để ta.”

Lưu Phương và Trú Vân đưa chén muỗng cho y, khẽ khàng lui xuống.

Tạ Dung Dữ múc một muỗng đút cho Thanh Duy, thấy nàng im lặng nhai nuốt thì hỏi, “Đang nghĩ gì vậy?”

Thanh Duy chần chừ, “Hình như… ta mơ thấy cha về.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Nhạc phụ đại nhân có dạy bảo gì không?”

Thanh Duy lắc đầu.

Quả đúng là thần kì, mấy năm nay nàng mơ thấy Ôn Thiên rất nhiều lần, nhưng lần này người trong mơ vô cùng chân thật, chân thật đến nỗi giống như đêm qua ông thực sự xuất hiện trước mặt nàng vậy. Đúng thế, vì là mơ nên lúc tỉnh nàng chẳng nhớ gì, cố vắt óc cũng chỉ nhớ được đôi điều nhỏ nhặt, “Cha nói ông ấy biết chúng ta đã thành thân, ông ấy và mẹ vẫn ổn, bảo chúng ta không cần lo.”

Tạ Dung Dữ nói: “Ta đã xin ý chỉ của Quan gia rồi, đợi chuyện trong kinh kết thúc sẽ dẫn nàng tới Lăng Xuyên, đưa hài cốt của nhạc phụ về Thần Dương, hợp táng cùng nhạc mẫu.”

Thanh Duy khẽ gật đầu, uống hết chén canh, chợt nàng nghĩ đến chuyện, vội hỏi, “Sao chàng lại ở nhà, hôm nay không cần đến nha môn hả?”

Tạ Dung Dữ đặt chén xuống, “Dậy muộn rồi.”

Thanh Duy ngẩn người, trước đây y chỉ có dậy sớm hoặc dậy sớm hơn,  không ngờ cũng có ngày vì dậy muộn mà trì hoãn công việc.

Nhưng cũng chẳng thể trách Tạ Dung Dữ, tối qua y trở về khi chưa tới giờ Hợi, sau một hồi điên loan đảo phượng rồi tắm táp rửa ráy, lúc bế nàng lên giường thì cũng đã sắp giờ Dần*. Thanh Duy mệt lả không còn sức lực, mà y nào phải người sắt, chợp mắt ngủ một canh giờ, đến khi tỉnh đã quá giờ điểm mão. Cũng may ở triều đình không ai xét nét chuyện y có lên nha môn hay không, hơn nữa y cũng đã tra án liên tục nửa tháng qua, toàn bộ sự việc đều đã và đang đi đúng hướng, nên buổi sáng y sai Triêu Thiên tới nha môn một chuyến, cầm hết hồ sơ về, mấy ngày tới sẽ giải quyết công chuyện ở nhà.

(*Giờ Hợi: từ 9 đến 11 giờ tối; giờ Dần: từ 3 đến 5 giờ sáng.)

Tuy trong phòng có đặt chậu than nhưng cái mát lạnh của mùa thu vẫn lùa vào, thấy Thanh Duy chỉ mặc trung y mỏng manh, Tạ Dung Dữ  bèn khoác thêm áo choàng cho nàng. Hơi thở của y ngay gần kề, Thanh Duy hỏi: “Thế hôm nay chàng ở nhà với ta hả?”

Thanh Duy chỉ đơn thuần hỏi không có ý gì khác, nhưng Tạ Dung Dữ lại ngừng động tác, đưa mắt nhìn nàng, tròng mắt lấp lánh, “Đúng thế, nàng định thế nào đây?”

Thanh Duy ngẩn người, vừa hoàn hồn thì y đã áp sát.

Y quả nhiên là người có xuất chúng, việc gì cũng làm được, trải qua một đêm luyện tập, bây giờ y càng tinh tấn hơn, những chiếc hôn đã đủ ngất ngây, động tác tay cũng trở nên quen thuộc, lúc nhẹ thì râm ran ngứa ngáy, lúc mạnh thì càng rõ dục v.ọng cháy bỏng, ngay sau đó từ trên giường truyền đến tiếng t.hở dốc như sóng biển dập dềnh, nếu không có ánh nắng hướng tây chiếu vào phòng gọi thần trí Thanh Duy quay về, chưa chắc hôm nay nàng đã có thể dậy nổi.

Nàng cắn m.ôi dưới của Tạ Dung Dữ, “Đang ban ngày ban mặt.”

Tạ Dung Dữ nhích ra, “Nương tử còn để ý chuyện này cơ à?”

Có câu không biết không sợ, lần trước ở Chi Khê, ai là người đòi thử một lần giữa ban ngày cho bằng được đây?

“Không phải thế.” Thanh Duy nói, “Ta vừa mới về, ngoài Trú Vân Lưu Phương ra vẫn chưa gặp ai ở Giang gia, lại còn đóng cửa phòng hai ngày, thử hỏi ta phải ăn nói kiểu gì đây?”

Tạ Dung Dữ mỉm cười, “Được, vậy đợi đến tối.”

Bấy giờ đã quá chính ngọ, Thanh Duy vừa thức, Lưu Phương và Trú Vân đem bữa trưa đến, Tạ Dung Dữ ngồi ăn cùng nàng, đang nói chuyện thì Lưu Phương ở ngoài bẩm: “Công tử, có khách ghé nhà ạ.”

Đức Vinh là người tinh ý, nếu là khách bình thường thì đã bị đuổi khéo rồi, nhưng nay Lưu Phương lại đến báo, xem chừng khách tới không tầm thường.

“Là ai?”

“Là Cố lão gia ở Trung Châu ạ.”

Tạ Dung Dữ nghe nói họ Cố thì nghĩ ngợi, nhưng nghe chữ Trung Châu thì chợt nhớ ra, “Cố thúc?”

“Vâng ạ, ông ấy tới làm Triêu Thiên và Đức Vinh mừng ra mặt, không ngờ lại được gặp Cố lão gia ở kinh thành, Cố lão gia nói có việc muốn nhờ công tử nên nô tì đến bẩm ạ.”

Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, “Ta đi gặp Cố thúc một lát.”

Thanh Duy gật đầu, nhìn y rời khỏi phòng.

Kể ra cũng nhờ Cố Phùng Âm mà Thanh Duy mới vào được kinh thành, nhưng sau cuộc hội ngộ tối qua, cả hai quấn quít đến tận bây giờ, nàng có rất nhiều chuyện chưa kịp kể cho Tạ Dung Dữ. Chuyến đi lần này vì để tự vệ mà nàng đã lừa Cố Phùng Âm, trong lòng lấy làm áy náy, nếu bây giờ Cố lão gia đã đến, vậy đợi ông bàn chuyện với quan nhân xong, nàng sẽ đi ra xin lỗi.

Thanh Duy vừa ăn vừa lơ đãng nghĩ, nhưng rốt cuộc Cố lão gia muốn nhờ quan nhân chuyện gì nhỉ, trên đường đi đâu có nghe ông ấy nói gì.

Nghĩ đến đây, Thanh Duy chợt nhớ lại một câu nói của Cố Phùng Âm, “Hai người thân này của lão hủ giờ đang hầu hạ một vị quý nhân. Nếu vị quý nhân này chịu giúp chuyện của tướng công nhà Giang cô nương thì đỡ rồi.”

“Giang cô nương” giật thót, lập tức ném đũa đi, tiêu rồi, “tướng công Tạ gia bị ngồi tù oan” nhà nàng!
 
Chương 182


Thanh Duy hốt hoảng chạy tới nhà chính.

Nhưng khi đến nơi, nàng cảm thấy cứ thế xông vào lại quá đường đột, chưa chắc Cố Phùng Âm đến đây vì chuyện của nàng. Thế là thanh Duy im lặng nấp sau rèm, nghe xem bọn họ nói gì.

“… Lão hủ vốn định gửi thư, nhưng vụ án Tiển Khâm Đài gây nên xôn xao quá lớn, chắc chắn điện hạ cũng bận lắm, nếu báo cho điện hạ trước thì kiểu gì ngài cũng phái người tới đón, vậy không phải thêm phiền sao, dầu gì cũng đã lên kinh, hôm nay đến cửa cũng không khác gì.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Cố thúc đã có chỗ ở chưa?”

“Có rồi, lão hủ có cửa tiệm trong thành, sân viện cũng đã được quét dọn đâu vào đấy.” Cố Phùng Âm lại do dự, “Chỉ là lão hủ có một chuyện muốn nhờ vả, chẳng hay điện hạ có thể ra mặt giúp đỡ được không?”

Thanh Duy kìm nén tiếng thở, nấp sau rèm khấn lên vái xuống, hi vọng đừng là chuyện của nàng.

“Là vầy, lần này lão hủ vội vàng lên kinh, giữa đường đi gặp phải giặc cướp, may mắn được một cô nương giúp đỡ. Cô nương này là người Lăng Xuyên, trong nhà mở võ quán nên cũng biết chút võ công. Cô nương ấy đã được trong nhà hứa hôn, vị hôn phu cũng rất có tiền đồ, thi đậu công danh, còn giữ một chức quan nhỏ ở kinh thành, tiếc là mấy tháng trước, hình như vị hôn phu gặp chuyện gì đó nên bị ngồi tù oan, ân nhân cô nương của lão hủ rất lo, quyết định lên kinh kêu oan. Lão hủ được cô nương giúp đỡ nên đường lên kinh cũng đồng hành cùng nhau. Nàng ấy rất hiểu lễ nghĩa, là con gái nhưng không hề yếu ớt, trên đường đi cũng rất chăm sóc lão hủ, thành ra lão hủ cũng thương nàng. Mà kinh thành rộng lớn bao la, dù cô nương ấy có bản lĩnh tới mấy cũng biết đi đâu tìm người kêu oan đây? Thực chẳng dám giấu gì, bọn ta chỉ mới ghé nhà trọ hôm qua thôi, nhưng vì chuyện của vị hôn phu mà nàng ấy chạy vạy cả đêm không về, lão hủ lo cho nàng lắm, nghĩ tới nghĩ lui, chỉ biết nhờ cậy mỗi điện hạ, không biết điện hạ có thể tiện tay giúp được không?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Việc nhỏ ấy mà, ta sẽ sai người đi hỏi thăm. Chẳng biết vị hôn phu của cô gái ấy tên gì, làm ở nha môn nào?”

“Lão hủ không biết tên, nhưng mà tình cờ thật, y cũng họ Tạ giống điện hạ, hiện là quan sai ở Ti Thiên Giám, hình như trông coi đồng hồ nước.”

Tạ Dung Dữ nghe thấy chữ “Tạ” thì khựng lại, y đột nhiên nhớ ra, tối qua Kỳ Minh bẩm báo hình như nàng lên kinh cùng một thương nhân Trung Châu?

Rồi lần trước ở Chi Khê, kẻ bạc tình “suốt ngày hái hoa bắt bướm, kết thân với thiên kim nhà giàu hòng trèo cao” mà nàng bịa chuyện… không phải cũng họ Tạ sao?

Tạ Dung Dữ hỏi: “Vậy xin hỏi cô nương ấy họ gì?”

“Nàng ấy họ Giang, ghép từ chữ Công và bộ Thủy.”

Tạ Dung Dữ mỉm cười, bỗng quay đầu nhìn về phía tấm rèm. Thanh Duy vừa mới vén rèm nhìn vào nhà chính, thấy y không nói không rằng đột ngột nhìn lại thì lập tức thả rèm xuống, lùi về phía sau mấy bước – cứ như thể y biết nàng ở chỗ này.

Tạ Dung Dữ dựa vào lưng ghế, cơ thể giãn ra, “À, thế Giang cô nương ấy còn nói gì nữa không, Cố thúc cứ nói.”

“Cũng không nói gì nhiều, chỉ bảo là trưởng bối trong nhà phản đối cuộc hôn nhân này, nhất là một ông cậu bên ngoại luôn ngáng chân thọc gậy, nếu không nàng đã cưới chồng từ lâu, nào có chuyện phải chờ đến hôm nay…”

Cố Phùng Âm kể chuyện về “Giang cô nương” rồi lại ngồi thêm một lúc nữa, thấy trời không còn sớm bèn đứng dậy ra về.

Tạ Dung Dữ sống trong cung nhiều năm, nếu không tính tổ mẫu và các vị trưởng bối trong tộc đi đường xa đến thì chỉ có mỗi Cố Phùng Âm là người ngoài kinh mà y đã gặp. Cố Phùng Âm có quan hệ sâu xa với Tạ thị, ngày trước ông kinh doanh làm giàu cũng nhờ có Tạ thị giúp đỡ. Sau trận chiến sông Trường Độ, ba mươi nghìn tướng sĩ chết trận, khu vực Cật Bắc có rất nhiều trẻ mồ côi, Cố Phùng Âm dẫn đầu nhận nuôi những đứa trẻ đó. Thậm chí hồi ấy ông còn viếng thăm phủ công chúa ở kinh thành, nói trong số tụi nhỏ có vài đứa thông minh nhanh nhẹn, có thể làm thị vệ cho tiểu công tử. Vốn dĩ đó chỉ là câu nói đùa, bởi người ngoài cung mà không qua lớp lớp tuyển chọn thì sao có thể đường hoàng đi cạnh Chiêu vương. Nhưng về sau xảy ra chuyện Tiển Khâm Đài, Tạ Dung Dữ đeo mặt nạ biến thành Giang Từ Chu, không thể dùng người hầu ngày trước nữa, thế là Vinh Hoa trưởng công chúa đích thân chọn Cố Triêu Thiên và Cố Đức Vinh, đưa tới kinh thành phồn hoa.

Tạ Dung Dữ tiễn Cố Phùng Âm ra tận cổng, nói với Triêu Thiên và Đức Vinh: “Mấy ngày tới các ngươi không cần hầu hạ trong phủ, cứ việc qua ở với Cố thúc.”

“Chớ chớ.” Cố Phùng Âm xua tay, “Lão hủ sợ thêm việc cho điện hạ lắm, nếu không phải vì chuyện của Giang cô nương thì lão hủ cũng chẳng dám tới cửa đâu, điện hạ bận rộn công sự, sao có thể đưa hai đứa nó qua ở với lão được. Hơn nữa lão hủ còn phải lo chuyện cửa tiệm, cũng không có thời gian ở với chúng.”

Cố Phùng Âm ngoắt gọi Triêu Thiên và Đức Vinh, hai người cùng tiến tới, gọi: “Nghĩa phụ.”

Cố Phùng Âm nhìn họ, nhiều năm không gặp, ông đã già đi còn hai đứa nhỏ này đã lớn, nhất là Triêu Thiên, cao đến mức mà khi nhìn hắn, ông lại tự hỏi liệu có phải trần nhà hơi thấp không, cũng may nhà cửa trong kinh thường to lớn rộng rãi. Ông nắm tay Triêu Thiên và Đức Vinh, vỗ nhè nhẹ, “Được rồi, gặp được các con là nghĩa phụ yên tâm lắm rồi. Các con phải phục vụ điện hạ chu đáo, đừng gây thêm rắc rối cho ngài ấy, đã biết chưa?”

Ba cha con không nói nhiều, dầu gì Cố Phùng Âm cũng ở lại kinh thành ít hôm, Triêu Thiên và Đức Vinh sẽ đến thăm ông.

Tạ Dung Dữ xoay người đi về Đông viện, còn chưa bước vào sân đã nhác thấy vạt áo xanh lướt qua cuối hành lang, y bật cười, đến trước cửa phòng, chưa kịp mở cửa thì Thanh Duy đã kéo ra, chỉ mới chốc lát mà nàng đã thay sang trang phục đi đường, mặc váy xanh khoác áo chùng đen đội nón che mặt, bên hông còn giắt một thanh đoản kiếm phòng thân.

Tạ Dung Dữ ngạc nhiên, “Nương tử muốn ra ngoài à?”

Thanh Duy đáp phải, “Sư, sư phụ dặn ta ít chuyện, ta phải đi làm.” Nói đoạn, nàng chẳng nhìn y mà bước thẳng ra ngoài, gọi: “Đức Vinh, chuẩn bị xe ngựa!”

Đức Vinh đã chờ bên ngoài Đông viện, nghĩ ngợi một lúc, cuối cùng hắn giả vờ như mình không có mặt, không lên tiếng trả lời. Hắn im lặng thì thôi, nhưng vẫn còn Triêu Thiên đó, tối qua nghe nói thiếu phu nhân về thì hớn hở cả đêm, Đức Vinh mà không cản là hắn đã chạy ùa đến chào thiếu phu nhân rồi. Bây giờ nghe thấy thiếu phu nhân gọi, hắn sao có thể không ra mặt, vậy là mặc Đức Vinh ngăn cản, hắn lắc mình xuất hiện trước sân, “Thiếu phu nhân muốn đi đâu ạ?”

“Đến tiệm binh khí xa nhất trong thành.”

Triêu Thiên đáp “vâng” rồi lập tức đi chuẩn bị xe ngựa.

Thanh Duy còn chưa lên xe, Tạ Dung Dữ đã cầm quạt vén rèm, ngồi vào trong xe, vươn tay về phía nàng, “Nương tử.”

Thanh Duy nhìn y chằm chằm: “Chàng đi theo làm gì?”

“Công việc thôi.” Tạ Dung Dữ ung dung đáp, “Nghe nói ở Ti Thiên Giám có một tiến sĩ họ Tạ phải ngồi tù oan, ta được người nhờ vả nên định đi giải quyết chuyện này, trùng hợp là tiệm binh khí cách xa đây nhất nằm ở thành đông, mà nơi quản đồng hồ nước của Ti Thiên Giám cũng ở thành đông.”

Thanh Duy ngớ người, vén rèm xe lên, “Triêu Thiên, để ta xuống xe.”

Triêu Thiên mới vừa vung roi đã lật đật ghìm cương.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Nương tử không đến tiệm binh khí nữa à?”

Thanh Duy xuống xe: “Không đi nữa, ta đang là trọng phạm, không tiện đi lại trong thành. Ta tới Đông Lai Thuận ăn Ngư Lai Tiên đây… Chàng lại đi theo làm gì?”

“Trùng hợp quá đi mất, em gái của ông chủ Đông Lai Thuận là chị em dâu của phu nhân chính giám Ti Thiên Giám, ta thấy trong chuyện này mà điều tra từ đầu thì có hơi rườm rà, chi bằng hỏi thẳng chưởng sứ nha môn.” Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, bỗng bật cười, “Ta có để bụng đâu, nàng chạy làm gì, sao thế, Tiểu Giang nương tử tình duyên lận đận bị đánh về nguyên hình nên xấu hổ hả?”

Thanh Duy không đáp.

Không phải nàng xấu hổ, chẳng qua lần nào cũng bị y bắt quả tang nên thấy mất mặt mà thôi.

Tạ Dung Dữ lại cười bảo: “Nàng học đâu ra khả năng bịa chuyện thế hả? Lần trước thì bảo ta trêu hoa ghẹo nguyệt cậy thế cao môn hại nàng phải đào hôn, lần này ta lại bị ngồi tù oan, buộc nàng phải lặn lội đường xa giải cứu, còn có một lần bịa quá dữ, gì mà ta nhiễm phong hàn đổ bệnh nặng không dậy nổi, trước lúc lâm chung chỉ muốn uống một ngụm rượu.”

Thanh Duy hoảng hốt, hai chuyện đầu nàng thừa nhận, nhưng chuyện cuối y nghe từ đâu?

“Ta bịa chuyện chàng bệnh nặng không dậy nổi lúc nào?”

“Không hả? Hồi mới cưới ta vài ngày, nàng đến Chiết Chi Cư điều tra Phù Đông nhưng không tìm được cô ta, nàng quay sang tìm cụ bà trong ngõ hỏi thăm chuyện của Chiết Chi Cư, tự xưng mình ở xa được gả lên kinh, quan nhân bị cảm lạnh, bệnh nặng khó qua khỏi, chỉ muốn uống một hớp rượu của Chiết Chi Cư xua hàn.”

Cuối cùng Thanh Duy cũng nhớ ra, hình như có chuyện đó thật.

Tạ Dung Dữ bật cười, bỏ mặc Triêu Thiên đang giữ xe ngựa, đi tới nắm tay Thanh Duy kéo nàng vào nhà, nói, “Không tệ, cũng có tiến bộ.”

“Tiến bộ gì?”

“Lần đầu là ta sắp chết, lần thứ hai ta chỉ trêu hoa ghẹo nguyệt, đến lần ba thì ta thành người tốt thật rồi, gặp chuyện còn phải nhờ nàng giúp đỡ, chứng tỏ ở trong lòng nương tử, địa vị của vi phu đã dần cao lên, không uổng công Cố thúc khen ‘Tiểu Giang nương tử’ có tình cảm sâu đậm với ‘tướng công Tạ gia’.”

Thanh Duy biết y sẽ không hơn thua chuyện này với mình, nhưng mấy chuyện nàng bịa… lần này còn đỡ, chứ hai lần trước thực sự quá đáng, bèn hỏi, “Chàng không để bụng thật chứ?”

Trên bàn chất đống hồ sơ đang xem dở, Tạ Dung Dữ vào nhà, vừa sắp xếp vừa nhìn nàng, “Có, nhưng giờ để bụng cũng ích gì, tối sẽ đòi lại.”

Nói đoạn, y hỏi: “Nhạc tiền bối bảo nàng đến tiệm binh khí mua phổ xếp hạng binh khí thật à?”

“Giả thôi.” Thanh Duy nhìn y dọn dẹp, ngồi xuống trước bàn, hai tay chống cằm, “Sư phụ còn ghét đọc sách hơn cả ta, từng là thổ phỉ thì biết được bao nhiêu chữ, về sau cha mẹ lấy nhau, nhờ có cha ta kiên nhẫn dạy bảo mà ông ấy mới biết được chút ít. Ông ấy luyện võ là nhờ tự giác tự ngộ, binh phổ võ phổ mà vào tay ông thì cũng thành thiên thư mà thôi.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, thầm sắp xếp lại những chuyện cần làm một lần, nói với Thanh Duy, “Giờ ta còn phải viết công hàm trả lời, nàng về nghỉ ngơi đi, viết xong ta sẽ dẫn nàng tới Đông Lai Thuận ăn Ngư Lai Tiên.”

Thanh Duy lắc đầu, vẫn ngồi trước bàn, “Ta ở đây cùng chàng.”

Tạ Dung Dữ dừng lại, Tiểu Dã không phải kiểu thích bám người, luôn luôn tìm chuyện mình muốn làm, nàng đã nói muốn ở lại đây thì nhất định là vì nàng chỉ muốn ở bên cạnh y lúc này. Vừa nghĩ đến đây, con tim Tạ Dung Dữ mềm đi, y trải giấy trắng ra bàn, hiếm khi làm hai việc cùng lúc, vừa viết vừa nói chuyện với nàng, “Sao Nhạc tiền bối không lên kinh?”

Nghe thấy y hỏi về Nhạc Ngư Thất, Thanh Duy sực nhớ tới một chuyện, “Tính ra ta vẫn chưa hỏi chàng đấy, tối hôm qua Tào Côn Đức bán đứng ta, chàng đã cử người điều tra xem ai là kẻ đến Điện Tiền Ti báo tin chưa?”

Tối qua người báo tin là Đôn Tử, nhưng Đôn Tử là trợ thủ đắc lực của Tào Côn Đức, nên dĩ nhiên người đến Điện Tiền Ti tố giác là kẻ khác.

Thanh Duy không phải là kiểu thù dai nhưng nếu có cơ hội, tất nhiên nàng sẽ báo thù. Đến tận hôm nay nàng vẫn chưa quên một đao bị Tả Kiêu vệ chém trong mưa tuyết mùa đông năm ngoái, vì có Tào Côn Đức báo tin nên Tả Kiêu vệ mới truy đuổi nàng, còn lần này tuy chỉ lôi ra được một tai mắt của Tào Côn Đức nhưng cũng đủ nàng cảm thấy khoái trá.
 
Chương 183


Tạ Dung Dữ nói: “Điều tra rồi, có lẽ bây giờ Kỳ Minh đã bắt được tai mắt của Tào Côn Đức rồi đấy.”

Thanh Duy: “Bắt được thì tốt quá, phải thẩm vấn thật kỹ vào. Ta thấy Tào Côn Đức là lão thái giám trong thâm cung, hành sự bất tiện, lão ta muốn mưu đồ chuyện gì, tất có đồng đảng trong triều.”

Tối hôm ấy khi nàng lẻn vào cung trốn, mục đích thật sự ngoài việc cắt đuôi Võ Đức Ti là: thứ nhất, báo thù một đao trong tuyết mùa đông năm ngoái; thứ hai, bắt được tai mắt của Tào Côn Đức.

Thanh Duy nói tiếp: “Thời gian rồi ta cũng khá rảnh, thỉnh thoảng lại nghĩ về Tào Côn Đức. Lão ở trong thâm cung đã hai mươi năm, nếu có dây dưa rễ má gì với Tiển Khâm Đài thì nhất định cũng là chuyện trước khi vào cung. Lão xuất thân từ nông hộ trí thức nhà nghèo, năm mười tuổi bị bán đến Cật Bắc. Lão sống ở Cật Bắc bảy tám năm, nếu không nhờ một người tốt bụng giúp đỡ thì sao sống sót nổi. Người kia họ Bàng, vì nhớ ơn nên Tào Côn Đức luôn gọi người đó là huynh trưởng ân nhân. Sau này khi Cật Bắc nổ ra chiến loạn, cũng nhờ Bàng huynh đó hỗ trợ mà Tào Côn Đức mới lên được kinh thành.

Năm Tiển Khâm Đài sập, ta trốn ở chỗ Tào Côn Đức một thời gian, có vài chi tiết lúc ấy ta không để ý, nhưng giờ học hỏi biết thêm nhiều, ngẫm lại mới thấy lão vẫn còn giữ vài thói quen của người Cật Bắc, ăn sáng nhiều, ăn trưa ít, không ăn tối, còn nữa, lễ cô hồn của người Cật Bắc không phải rằm tháng bảy mà là ngày cuối tháng bảy, lão cũng cúng lễ vào ngày đó. Làm lễ long trọng lắm, sáng tắm gội chiều dâng hương, đến tối còn đọc kinh siêu độ vong linh hai canh giờ, người sống sờ sờ như lão tự dưng cúng lễ cô hồn làm gì? Chắc chắn có liên quan đến Bàng huynh của lão. Thậm chí ta còn nghe bảo tổ tiên của tiểu đồ đệ Đôn Tử mà lão dốc lòng bồi dưỡng cũng là người Cật Bắc.”

Nói đến đây, Thanh Duy đổi giọng, “Nhưng có một chuyện ta thấy lạ lắm, theo lí mà nói chỉ có hai chuyện lớn liên quan tới Tiển Khâm Đài, một là sĩ tử trầm mình xuống sông Thương Lãng mười tám năm trước, hai là trận chiến sông Trường Độ ở Cật Bắc. Mà Bàng huynh của Tào Côn Đức đã mất từ hơn hai mươi năm trước, lúc chiến tranh nổ ra thì khéo người kia đã là bộ xương khô dưới suối vàng, thế thì liên quan gì đến Tiển Khâm Đài được nhỉ?”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Bàng huynh đó có hậu duệ gì không?”

Thanh Duy lắc đầu đáp: “Không rõ nữa, những tin tức đó đều là ta hỏi sư phụ lúc ở Trung Châu, Cật Bắc và Trung Nguyên cách nhau bởi núi cao và sa mạc rộng lớn, tin tức bế tắc, về sau còn xảy ra thiên tai, lại có quá nhiều người chết trong trận chiến sông Trường Độ, có nhiều chuyện nếu không đến tận nơi thì khó mà nghe được. Không phải chàng hỏi vì sao sư phụ không lên kinh à, ta và sư phụ vốn về Thần Dương, nhưng ta đổi ý lên kinh, sư phụ nói trong kinh toàn quyền quý, chán, bèn đi thẳng lên Cật Bắc, có vẻ ông rất quen thuộc Cật Bắc. Ta có dự cảm, chỉ cần điều tra họ Bàng này hoặc là con cháu của người đó có liên quan thế nào tới Tiển Khâm Đài, thì có thể biết những năm qua Tào Côn Đức đang mưu đồ chuyện gì.”

Trước mắt nàng chỉ có thể chờ tin của Nhạc Ngư Thất.

Những lời Thanh Duy nói đã nhắc nhở Tạ Dung Dữ, năm xưa có quá nhiều tướng sĩ hi sinh trong trận chiến sông Trường Độ, không phải trên triều không có lời ra tiếng vào, mới đầu khi tiên đế quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài cũng có không ít sĩ tử phản đối. Nói không chừng có thể lấy đây là điểm đột phá, mở ra lại những chuyện cũ năm xưa.

Tiển Khâm Đài mới được xây ở ngoài núi Bách Dương, nằm gần huyện thành hơn, còn di chỉ của Tiển Khâm Đài cũ lại nằm trong rừng sâu núi thẳm, hồi trước để đề phòng bệnh dịch nên triều đình đã ra lệnh thiêu cháy những thi thể bị chôn vùi không thể tìm ra. Dù thi thể không còn thì những cột xà cháy đen vẫn cắm nơi đó, là những thứ tồn tại lâu dài hơn mạng sống, giờ đây nó bị kẻ cố ý vạch trần từng việc một, sự thật dần tuôn ra muôn phương, gây ra lớp lớp hỗn loạn khắp nơi – học trò nhân sĩ trong kinh gây chuyện, đại quan trong triều lại càng chỉ trích Tiển Khâm Đài dữ dội. Tạ Dung Dữ không biết khi lật hết lên những phiến đá cháy đen ấy, tất cả rồi sẽ phải đối mặt với điều gì.

Y chỉ biết, mình và Tiểu Dã đi đến đến ngày hôm nay, tuyệt không hối hận.

Viết xong công hàm trả lời, ngoài nhà đã ngả bóng hoàng hôn, Tạ Dung Dữ dọn dẹp bàn đọc sách, cầm lấy áo khoác rồi nói với Thanh Duy: “Đi thôi.”

“Đi đâu?”

“Đông Lai Thuận.” Tạ Dung Dữ dịu dàng nói, “Không phải nàng bảo muốn đi ăn Ngư Lai Tiên à?”

Thanh Duy kéo tay áo y lại, “Ta chỉ buột miệng nói thế thôi, buổi trưa ăn trễ, giờ vẫn chưa đói.”

Tạ Dung Dữ cười cười, “Đến lúc đó lại đói cho xem.”

“Hầy.” Thanh Duy vẫn giữ y lại, do dự nói, “Ta không muốn đi thật mà. Người ta… khó chịu, không muốn đi đâu.”

Tạ Dung Dữ ngẩn người, đoạn hiểu rõ ý nàng.

Đêm qua quấn quít mấy hồi, y nếm được vị lại càng muốn nhiều hơn, cuối cùng đã làm nàng mệt mỏi.

Nhưng đấy cũng là lần đầu y làm chuyện đó, chưa khống chế được lực, “Có cần mời nữ thầy thuốc đến xem giúp nàng không?”

Thanh Duy cụp mắt, “Không phải khó chịu đó. Mà là… rã rời, mỏi nhừ.” Nàng không biết phải mô tả thế nào, nghĩ một lúc lâu mới nói, “Giống như luyện công ấy, nếu luyện lại sau thời gian dài nghỉ tập thì cơ thể sẽ nhức mỏi ê ẩm, nhưng nếu ngày nào cũng tập, dần dà sẽ quen thôi.”

Thanh Duy chỉ đơn thuần đưa ra ví dụ, nhưng Tạ Dung Dữ lại hiểu theo ý khác, “Nương tử có ý này?”

Hoàng hôn buông cũng là lúc âm dương giao hòa, sắc trời lờ mờ, nắng chiều chiếu nghiêng tựa ánh đèn lưu ly, Tạ Dung Dữ ôm nàng đặt lên bàn, âm sắc nặng nề như nước hồ dập dềnh trong đêm, “Vậy làm quen trước nhé?”

***

Sáng hôm sau, lúc Tạ Dung Dữ dậy, Thanh Duy vẫn còn say ngủ.

Tuy là quãng thời gian tân hôn vui vẻ nhưng chuyện cần làm vẫn phải làm, dù không cần đến nha môn điểm mão thì hôm nay y vẫn phải đến Khúc Hầu phủ một chuyến.

Khúc Hầu phủ nằm ở phía nam kinh thành, xuất phát từ Giang phủ cũng mất ít nhất nửa canh giờ, Đức Vinh biết chủ cần ra ngoài nên đã chuẩn bị sẵn xe ngựa, lúc này đang chờ trước cửa.

Khúc Bất Duy gặp nạn, ít nhiều cũng ảnh hưởng tới Quân Hậu phủ, một vọng tộc quyền quý đã từng chói lóa nhất nay lại vắng như chùa bà đanh, sở dĩ không lụn bại là nhờ hai lý do, thứ nhất, chính thê của Khúc Bất Duy, mẹ đẻ của Khúc Mậu xuất thân từ Chu thị, mà Chu thị là danh gia vọng tộc, tổ tiên còn là công thần khai quốc lập nên Đại Chu, rễ sâu lá tốt, bảo vệ con gái và cháu ngoại không phải là chuyện khó; thứ hai, tuy Khúc Bất Duy bị khép trọng tội nhưng Khúc Mậu lại lập được công trong vụ án lần này, sau khi kết án không những không bị phạt mà thậm chí còn được ban thưởng.

Xe ngựa của Tạ Dung Dữ dừng ngoài cửa Hầu phủ, Chu thị đã đứng chờ từ lâu, bà rất đúng mực, biết Khúc Bất Duy bị Tiểu Chiêu vương tống vào thiên lao nhưng trong mắt không hề có cảm xúc dao động, vẫn cung kính chào một tiếng: “Điện hạ.” Thấy y bảo mình đến gặp Khúc Mậu thì sai Vưu Thiệu đi gọi người.

Một lúc sau, Vưu Thiệu ngượng ngùng đi tới, bẩm với Tạ Dung Dữ: “Điện hạ, Ngũ gia nhà tiểu dân… tối qua đến Minh Nguyệt Lâu uống rượu, uống say bét nhè, canh ba mới về, giờ không gọi dậy nổi, ngài xem…”

Tạ Dung Dữ biết Khúc Mậu thích uống rượu, cũng biết tửu lượng của hắn không cao, uống nhiều là lại nói sảng, nhưng y không biết có người uống nhiều đến mức không dậy nổi, hắn là kiểu chỉ cần xách tai gọi hai ba tiếng là lập tức tỉnh. Giờ Vưu Thiệu không gọi được hắn, chứng tỏ chỉ có một lý do: không muốn gặp.

Thật ra đây đã là lần thứ hai Tạ Dung Dữ đến cửa.

Trên đường từ Chi Khê hồi kinh, Khúc Mậu cứ ngơ ngơ ngác ngác.

Tại sao Chương Lan Nhược lại bị thương nặng, tại sao lại để hắn giao ra túi gấm đó, tại sao Phong Nguyên lại bị bắt, hắn chẳng biết gì cả. Đến khi cả đoàn rời khỏi Trung Châu, hắn mới chậm rãi hoàn hồn, nửa đêm chạy tới trước xe cũi nhốt Phong Nguyên, dồn dập hỏi: “Phong thúc? Phong thúc rốt cuộc làm sao thế? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, sao thúc lại bị giam?”

Hai tay Phong Nguyên đeo cùm sắt, râu tóc hoa râm phấp phới giữa gió rét đầu thu, trông ông ta già khọm hẳn đi, thấy Khúc Mậu thì há miệng, nhích lại gần song cũi, “Ngũ công tử, bảo, bảo vệ Hầu gia, đúng là Hầu gia ngài ấy đã làm sai chuyện, nhưng, những kẻ khác thì không sao? Tội của Hầu gia không đến mức đấy, không đến mức đấy!”
 
Chương 184


Khúc Mậu không biết rốt cuộc phụ thân đã làm sai chuyện gì. Bấy giờ hắn mới sực nhớ Chương Đình đã từng hỏi mình một câu: Khúc Đình Lam, nếu có một ngày, ngươi phát hiện ra sự thật mình luôn cho là đúng thực chất là sai, người ngươi tin tưởng nhất làm chuyện không thể tha thứ, lúc đó ngươi sẽ làm gì?

Khúc Mậu bắt đầu hồ nghi, có phải thời gian qua hắn luôn bị lừa không?

Chính vì hắn nên Phong thúc mới thành ra như vậy; bộ tranh Tứ cảnh đồ và chiếc hộp gỗ mà hắn và Chương Lan Nhược liều mạng cướp về cũng dùng để hại người – hại người của mình.

Khúc Mậu thức trắng một đêm, sang hôm sau, hắn đi tìm Tạ Dung Dữ.

Trời thu buốt giá, Khúc Mậu đứng trong gió, ngơ ngác hỏi: “Có phải cậu… lại lừa ta không?”

Tạ Dung Dữ im lặng, một lúc sau mới cất tiếng, “Đúng vậy. Có vài việc nhẽ ra ta không nên lừa huynh.”

Vậy là Tạ Dung Dữ đã kể hắn nghe, hộ vệ Khưu Minh theo hắn đến Thượng Khê giải quyết công chuyện thực ra là tai mắt của cha hắn, được cử đến để canh chừng người ở nha môn Thượng Khê.

Cũng chính Tạ Dung Dữ nói cho hắn biết nguyên nhân thật sự đằng sau cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố.

Bộ danh họa hiếm thế được phụ thân hắn cất giữ ở tư dinh Trung Châu có dính máu học trò, ghi lại cuộc sinh ly tử biệt của một cặp cha con,và trong hộp gỗ được hắn và Chương Đình cướp về đều là bằng chứng phạm tội của cha hắn.

Bình sinh Khúc Mậu chưa bao giờ đối mặt với thị phi lớn đến vậy, hắn vừa như nghe hiểu lại như không nghe được gì. Hắn ngơ ngơ ngác ngác, thậm chí hắn không cần biết rốt cuộc Khúc Bất Duy đã phạm phải tội gì, sẽ chịu hậu quả ra sao, chỉ bắt được duy nhất một câu hắn nghe hiểu, “Tóm lại là cậu đã lừa ta?”

Kỳ Minh đứng bên chen lời: “Ngũ công tử, vì bất đắc dĩ nên Ngu hầu mới gạt ngài, trước khi tra rõ án không thể tiết la…”

“Ngươi câm mồm, ta chỉ nghe hắn nói!” Khúc Mậu tức giận cắt ngang.

Trắng đen nhẹ tựa lông hồng, gió thoảng đã tan, nhưng phẫn nộ chất chứa trong lòng càng lâu càng không có chỗ ph.át tiết, Khúc Mậu biết mình là kẻ phế vật không học hành, vì thế hắn chọn sống có nghĩa khí, sống là chính mình, cho nên khi núi cao sạt lở, hắn chỉ thấy sự nghĩa khí vỡ nát.

Hắn đẩy mạnh Tạ Dung Dữ, “Tại sao? Lúc trước cậu đóng giả làm Giang Từ Chu lừa ta, ai cũng bảo vì cậu có tâm bệnh, phải đeo mặt nạ mới sống được, không phải ta cũng tha thứ cho cậu sao? Ta tự nhủ là mình cũng không quen Giang Từ Chu thật, người mà ta làm bạn mấy năm nay luôn là Tạ Thanh Chấp cậu! Trong kinh có biết bao con cháu nhà giàu, Khúc Đình Lam ta có tiếng bại gia, đồng lứa gặp ta lúc nào cũng khinh bỉ coi thường, nhưng bọn chúng thì tài giỏi chỗ nào? Dù ta ngốc, ta ngu xuẩn, nhưng trí nhớ không tệ mắt cũng không mù, ta biết bao năm qua chỉ có Tạ Thanh Chấp cậu thật sự kết bạn với ta, không xem thường ta, cho nên ta vẫn coi cậu là huynh đệ tốt, chuyện gì cũng nghĩ tới cậu, nhưng tại sao cậu lại lừa ta?!”

Cho tới lúc hồi kinh, Khúc Mậu quỳ gối trên điện Tuyên Thất, nghe Ngự sử trước thềm đọc từng công lao một: Giao nộp Tứ cảnh đồ; liều mình đối đầu với kẻ ác, đoạt lại di vật của Sầm Tuyết Minh giao nộp cho triều đình.

Khúc Mậu chỉ biết ngơ ngác, hắn làm những chuyện này từ khi nào, rốt cuộc mấy chuyện đó liên quan gì đến mình?

Hắn cảm thấy mình không gánh nổi vinh hạnh đặc biệt đấy, nếu xét kĩ thì đệ muội nhà hắn mới là người mạo hiểm trộm Tứ cảnh đồ, hắn chỉ tiện tay đưa sang thôi; vật lộn trong hang cũng là vì giúp Chương Lan Nhược, còn chiếc túi gấm kia là Chương Lan Nhược giao cho hắn, nhưng hắn cũng đã ném đi, chính Trương Viễn Tụ cầm về trả lại.

Thế mà người trên triều nghe xong lại cười khen hắn khiêm tốn, nói Khúc Bất Duy có đứa con tốt, quả đúng là có dòng máu của Chu thị.

Trên đại điện, vị hoàng đế còn trẻ hơn hắn ôn tồn nói, hắn vì việc nước không quản tình nhà, sau khi kết án sẽ luận công ban thưởng.

Nghe thấy mấy chữ “vì việc nước không quản tình nhà”, Khúc Mậu mới nhận ra chính mình đã đẩy phụ thân vào thiên lao Dẫu có lúc phụ thân rất nghiêm khắc nhưng lại cực kỳ chiều hắn, nếu cho hắn một cơ hội, có lẽ hắn sẽ không làm như vậy, chí ít… chí ít lúc giành lấy hộp gỗ trong hang, hắn sẽ ném nó vào biển lửa, để nó hoàn toàn biến mất.

Khái niệm trắng đen rõ ràng ngày trước nay bị bôi lên thứ màu vẩn đục, Khúc Mậu quỳ trên điện Tuyên Thất, liế.m đôi môi khô nứt, nói: “Nhà thần có tiền, thần không cần Quan gia thưởng.” Hắn không cầu công danh lợi lộc, thậm chí chưa từng muốn làm quan, hắn chỉ muốn một trận đòn của phụ thân.

Người xung quanh bật cười.

Cũng chính vì hắn nên đại quan trong triều mới tin Hầu phủ trong sạch, tội lỗi của Khúc Bất Duy chỉ do một mình ông ta gánh chịu. Nhưng Hầu phủ vẫn trải qua giai đoạn khó khăn, những ngày qua, ngoài Tạ Dung Dữ, gần như không có người đến thăm. Chu thị đoan trang đứng ngoài cửa đón khách, người hầu trong phủ thấy Tiểu Chiêu vương đến thì vô cùng kính sợ.

Vưu Thiệu lại đi mời Khúc Mậu, Khúc Mậu vẫn không chịu gặp.

Tạ Dung Dữ ngồi một lúc, cám ơn Chu thị rồi đứng dậy rời đi. Chu thị tiễn Tạ Dung Dữ ra ngoài cửa, nhưng khi bước chân lên xe, bà lại gọi y lại.

“Điện hạ.” Chu thị nhún gối cúi đầu, “Thiếp thân biết Hầu gia phạm phải tội nặng, liên lụy tới rất nhiều người, chết muôn lần cũng không thể tha thứ. Thời gian qua nếu không nhờ điện hạ lót đường cho Mậu nhi, có lẽ cả Hầu phủ đã bị liên lụy, làm sao còn được như hôm nay. Dù người trong phủ có nghĩ thế nào, thiếp thân vẫn phải thay già trẻ cả phủ tạ ơn điện hạ. Chỉ là Mậu nhi nó… ngây thơ từ nhỏ, Hầu gia rất chiều thằng bé, thiếp thân cũng cho rằng, con trai xuất thân từ nhà Quân hậu, nếu không thể cha truyền con nối thì tương lai rất khó đảm đương chức lớn, chi bằng cứ sống ngây thơ. Bởi lẽ người nhiều tâm sự khó có được một ngày vui vẻ, có gì xấu nếu có thể hồn nhiên vô lo cả đời? Dù sao đi nữa cũng có của nải, thiếp thân cũng không cố khuyên nó vất vả học hành. Chỉ tiếc người ngây thơ dễ cố chấp với yêu hận trước mắt, hôm nay thằng bé tránh mặt điện hạ là vì chưa tháo gỡ được khúc mắc, mong điện hạ lượng thứ. Thật ra Mậu nhi không ngốc, trái tim thằng bé cũng trong sáng, mong điện hạ tin tưởng nó, chỉ cần cho nó thêm ít thời gian, nó có thể suy nghĩ kỹ càng.”

Tạ Dung Dữ nói: “Phu nhân nói quá rồi, vốn là ta có lỗi với huynh ấy, cũng hiểu tính cách của huynh ấy, nhẽ ra bây giờ ta không nên tới cửa, chỉ là…”

Y định nói Khúc Bất Duy thà chết chứ không chịu khai ra Chương Hạc Thư, e rằng đã bị Chương Hạc Thư nắm trong tay điểm yếu nào đó, mà lúc ấy ở Lăng Xuyên, điểm yếu có thể bị Chương Hạc Thư nắm ắt hẳn là Khúc Mậu. Chuyện Khúc Mậu đột nhiên xuất hiện tại khu mỏ Chi Khê rất lạ, y lo Khúc Mậu chính là ải thoát hiểm của Chương Hạc Thư.

Nhưng dù y có nói ra những chuyện này, liệu Khúc Mậu có chịu gặp y không? Chu thị nói đúng, Khúc Mậu là người ngây thơ nhưng trong sáng,  đi từ trắng tới đen, nối từ đầu óc đến trái tim, hắn phải tự mình hiểu ra.

Chắc chắn hắn sẽ nghĩ ra.

Tạ Dung Dữ lắc đầu: “Thôi, cũng không có gì. Hôm nay đường đột đến cửa, Thanh Chấp xin cáo từ.”

***

Rời khỏi Hầu phủ vẫn chưa tới giờ trưa. Thời gian qua ngày nào cũng có sĩ tử học trò biểu tình gây sự, xe ngựa đi qua phố Chu Tước bị đám đông chặn lại, gần như không thể tiến tới. Tuy rằng trong cung đã tăng cường cấm vệ quân đến các nơi trong thành, nhưng vì Triệu Sơ không cấm triệt để nên cấm vệ quân chỉ có thể nỗ lực duy trì trật tự. Cấm vệ quân thấy xe ngựa của Giang gia bị kẹt ở đầu đường thì vội vàng đi tới kiểm tra, rèm xe vén lên, quả đúng là Tiểu Chiêu vương đang ngồi bên trong. Trưởng cấm vệ quân giật mình, lập tức ra lệnh quân lính thông đường. Binh lính dàn hàng trên đường phố đông đúc, người qua lại vội vàng né tránh, một người đàn ông trung niên mặc áo vải thô không kịp né kịp,và vào một học trò, mà người này còn đang tức tối, thế là mắng: “Xô đẩy cái gì đấy?”

Người đàn ông mặc áo vải thô vội chắp tay xin lỗi: “Xin lỗi xin lỗi.”

Người học trò liếc hắn, mà cơn giận vốn cũng chẳng nhằm vào hắn, thấy hắn đã xin lỗi bèn khoát tay cho qua.

Người đàn ông lội ngược dòng người đi tới con ngõ gần đấy, trong ngõ có một cỗ xe ngựa không treo bảng tên, một người đàn ông mặt chữ điền, mày dài ngồi trong xe, chính là Nhan Vu – đại quan thuộc hạ của Chương Hạc Thư.

Tuy Chương Hạc Thư bị cách chức tạm thời, nhưng ông ta đã ở trong triều nhiều năm, kiểu gì cũng có tai mắt ở nha môn.

Sáng nay Nhan Vu định đi gặp Chương Hạc Thư, mà Chương phủ nằm gần Hầu phủ, thế là vô tình bắt gặp xe ngựa của Giang gia, biết người bên trong là Tiểu Chiêu vương nên phải rẽ vào ngõ núp – đang ở đầu sóng ngọn gió, làm gì cũng cần cẩn thận – đợi Tiểu Chiêu vương rời đi mới vội vàng chạy tới Chương phủ, được lão quản gia mời vào đại sảnh.

Chương Hạc Thư ngồi trong sảnh thong thả dùng trà, vừa thấy gã tới thì cười nói: “Tới đúng lúc lắm, gần đây ta có được ít Thúy Loa thượng phẩm, đang lo không ai phẩm trà, lão Viên, pha cho Tôn Sóc một cốc.”

Thấy ông ta điềm nhiên thong thả, Nhan Vu sốt ruột xoay người khép cửa, la lên: “Chương đại nhân nhà tôi ơi, sao bây giờ ngài vẫn còn tâm trạng mà uống trà thế? Ngài có biết mới vài hôm mà Đại Lý Tự đã thẩm vấn Khúc Bất Duy ba lần không! Sáng sớm hôm nay Tiểu Chiêu vương còn đến Hầu phủ, ừ thì Khúc Bất Duy đã bị nắm thóp nên không khai ra ngài, nhưng tờ lệnh điều binh đó là kế của chúng ta, lẽ nào ngài không sợ bị Tiểu Chiêu vương tra ra manh mối? Hơn nữa ngài không thấy vụ việc ở Chi Khê lần này rất lạ ư? Sầm Tuyết Minh biết danh sách là từ tay chúng ta mà ra, chắc chắn trong tay hắn có bằng chứng phạm tội của chúng ta, nhưng vì sao trong số di vật hắn để lại lại không có thứ gì liên quan đến chúng ta? Ngài không nghi ngờ Tiểu Chiêu vương lén giấu bằng chứng, đợi tới thời điểm mấu chốt mới lấy ra đối phó với chúng ta sao?”

Vì sao Khúc Bất Duy không khai ra Chương Hạc Thư? Rất đơn giản, trước khi khu mỏ Chi Khê xảy ra chuyện, Chương Hạc Thư đã cho thuộc hạ lừa Khúc Mậu kí vào tờ lệnh điều binh, trên đó ghi rõ gần một ngàn binh mã dưới trướng Phong Nguyên là do Khúc Mậu hỗ trợ cùng Xu Mật Viện xin điều động. Giờ đây Khúc Bất Duy đã sa lưới, Phong Nguyên bị khép tội, gần ngàn binh mã kia cũng thành phản quân, chỉ cần giao từ lệnh điều binh cho triều đình thì Khúc Mậu sẽ trở thành đồng mưu của bọn họ, toàn bộ Hầu phủ ắt chịu liên lụy, có tẩy cũng không sạch. Lệnh điều binh được chia làm hai, trong tay Chương Hạc Thư có một bản, trước khi Khúc Bất Duy ngồi ngục, Chương Hạc Thư đã đưa nó cho Khúc Bất Duy xem, Khúc Bất Duy tự hiểu nếu khai ra Chương Hạc Thư thì sẽ gánh chịu hậu quả thế nào.

Chương Hạc Thư thong thả nói: “Lệnh điều binh tổng có hai bản, một bản trong tay Phong Nguyên đã bị tiêu hủy từ lâu, còn một bản nằm trong tay ta, chỉ cần dọa Phong Nguyên là đủ, Tiểu Chiêu vương sẽ không biết được đâu.Còn vì sao tội chứng Sầm Tuyết Minh để lại lại không liên quan tới chúng ta ư?”

Ông ta dùng nắp trà hớt bọt, cười bảo, “Còn có thể vì sao nữa? Trương Vong Trần đã che giấu giúp chúng ta rồi.”
 
Chương 185


“Trương Vong Trần? Vì sao ngôn quan Ô Đài* như hắn lại che giấu bằng chứng giúp chúng ta?”

(*Ô Đài tức Ngự Sử Đài.)

Chương Hạc Thư nói: “Ngươi chớ quên ngày xảy ra binh biến Chi Khê, Trương Vong Trần đã vào núi trước tất cả mọi người, sau đó hang động phát nổ, đường lên núi bị đá chặn, hắn đã chờ sẵn trên sườn núi, chỉ cần muốn giúp thì đương nhiên có cách…”

Chương Hạc Thư dừng lại, có lẽ vì Chương Đình cũng bị trọng thương vì giành giật tội chứng, ông ta không muốn nói ra chuyện Trương Viễn Tụ đã giấu tội chứng gì.

Thấy Chương Hạc Thư không nói tiếp, Nhan Vu cũng không hỏi thêm. Nhưng những điều ấy không đủ để an ủi gã, một khi đã làm nhất định sẽ để lại manh mối, huống hồ lệnh điều binh mà Chương Hạc Thư dùng để uy hiếp Khúc Bất Duy là do gã đi xin Xu Mật Viện, lỡ như còn manh mối nào đó chưa xóa sạch, lỡ như Khúc Ngũ gia ngây ngô lại nhận ra manh mối ở lệnh điều binh, không cho ai tiêu hủy nó thì sao? Nhưng Nhan Vu không tiện hỏi ra, vì nếu hỏi đồng nghĩa với việc không tin tưởng Chương Hạc Thư, gã nghĩ lui nghĩ tới, cuối cùng nuốt hết những chuyện khẩn cấp vào bụng, phụ họa Chương Hạc Thư: “Có điều lúc này Quan gia lại tỏ thái độ quá bình thường. Trong vụ án mua bán hạn ngạch này, Hàn Lâm nên là phía bị kiểm tra đầu tiên, mà điều tra Hàn Lâm tức là điều tra lão thái phó, có lẽ Quan gia cảm thấy kẻ sĩ trong kinh biểu tình quá nhiều, nếu lão thái phó bị vấn tội, kiểu gì bọn họ cũng tạo phản. Quan gia sợ không kiểm soát được tình hình nên định việc lớn hóa nhỏ, thời gian trước còn ám chỉ Tam Ti bỏ qua Hàn Lâm. Chính việc này đã khiến Tiểu Chiêu vương ngày nào cũng đến bộ Lễ kiểm tra thẻ bài gì đó.”

Chương Hạc Thư nói: “Ngươi chớ xem thường hoàng đế của chúng ta, thái độ của y trong việc điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài còn kiên quyết hơn Tiểu Chiêu vương. Ngươi tưởng chỉ cần một vị vương gia khác họ như Tạ Dung Dữ dẫn đội quân của Thiên tử đến Lăng Xuyên tra án thì trong triều không ai phản đối? Ít nhiều cũng có người ở Ngự Sử Đài hay hai bộ Binh Lễ ngầm dâng tấu can gián, ngươi không thấy sóng gió là bởi vì đã có y ngăn chặn giúp Tiểu Chiêu vương. Đã đến bước này chắc chắn y sẽ không dừng lại, nhưng tại sao không điều tra Hàn lâm? Là vì lão thái phó đức cao vọng trọng? Hay vì chuyện sĩ tử biểu tình? Không phải, y là vì tiên đế.” Chương Hạc Thư nói, đưa tay vỗ ngực, thở dài một tiếng, “Tiên đế có thẹn trong lòng.”

“Năm Hàm Hòa thứ mười bảy, 13 bộ Thương Nỗ xâm lăng, văn võ toàn triều chủ hòa, đến lúc sĩ tử trầm mình mới có trận chiến sông Trường Độ. Lòng trung thành son sắt của các sĩ tử là điều chắc chắn, nhưng ta hỏi ngươi, các đại quan chủ hòa có thật sự vì sợ mà không chiến? Trong bọn họ lẽ nào không ai khuyên nhủ từ tận đáy lòng, dưới tình hình ấy, chiến tranh thật sự tốt hơn cầu hòa ư? Nếu không vì sao sau đó lại có sĩ tử phản đối xây dựng Tiển Khâm Đài? Đáng tiếc tiên đế không nghe, tiên đế bị lời lẽ nhiệt huyết làm lóa mắt, ông ấy…”

Chương Hạc Thư còn chưa nói hết thì lão quản gia đi vào bẩm báo: “Lão gia, Lỗ Tam ở tiệm tơ lụa phố Đông đến, nói lụa khói mềm mà phu nhân đặt ở tiệm đã hết, có thể đổi sang loại khác được không?”

Chương Hạc Thư nói: “Là người mình cả, bảo hắn vào mà thưa.”

Một lúc sau, lão quản gia dẫn một người hầu mặc áo vải thô đi vào, người này dáng cao lưng thẳng, vừa thấy Chương Hạc Thư, lập tức thưa: “Chương đại nhân, người của Hoàng hậu nương nương nhắn gửi, hỏi bên ngoài đã xảy ra chuyện gì.”

Người hầu này chính là người từng nhận được ân huệ của Chương Hạc Thư, là thị vệ ở cửa cung hỗ trợ chuyển tin ra ngoài.

Nhưng Chương Nguyên Gia không biết hắn, người gửi tin ắt hẳn là Chỉ Vi.

Chương Hạc Thư nhíu mày, “Hoàng hậu bảo ngươi đến?”

“Bẩm Chương đại nhân, Hoàng hậu nương nương cảm thấy tiền triều có vẻ bất ổn mà không thăm dò được tin tức, một tháng qua sống trong cảnh bất an, Chỉ Vi cô cô sợ sẽ ảnh hưởng đến long thai nên đã tiết lộ chuyện tiểu nhân là người đưa tin. Nương nương nghe xong… cũng không trách Chỉ Vi cô cô, chỉ bảo nàng ấy nhắn hỏi trong nhà có bình an không.”

Chương Hạc Thư nghĩ ngợi, “Ngươi hãy trả lời trong nhà vẫn ổn, bảo Hoàng hậu đừng lo…”

“Chương đại nhân!” Tinh thần vừa mới ổn định của Nhan Vu lại lần nữa lung lay, “Bây giờ chúng ta có ai ổn đâu! Không ai ổn hết! Tôn Sóc biết ngài muốn Hoàng hậu yên tâm dưỡng thai, không cần lo lắng về ngài, nhưng ngộ nhỡ… ngộ nhỡ xảy ra chuyện, Hoàng hậu đột ngột nhận được tin dữ thì sao có thể chịu nổi? Chỉ sợ nàng cũng sẽ bị liên lụy! Nếu Hoàng hậu đã để Chi Vi hỏi, chứng tỏ nàng cũng không quan tâm tai mắt ngài cài cắm bên cạnh, dù là tránh nặng tìm nhẹ, chúng ta cũng nên nói cho nàng biết tình hình hiện tại, chưa nói việc có thêm trợ lực, mà một khi chúng ta không tiện hành động, nói không chừng có vài lời hoặc vài tin tức, vẫn có thể thông qua Hoàng hậu nương nương chuyển ra ngoài kinh! Ngài đã quên chuyện thẻ bài sĩ tử rồi sao?”

Thấy Chương Hạc Thư do dự, Nhan Vu tiếp tục khuyên nhủ: “Chương đại nhân, Quan gia có tình với Hoàng hậu, chưa kể Hoàng hậu đang mang long thai, nàng chắc chắn sẽ không sao đâu!”

Cuối cùng Chương Hạc Thư cũng bị thuyết phục, ông ta thở dài một hơi: “Cũng được!”

***

Sáng sớm ngày hôm sau, khi giọt sương vẫn còn vương trên lá, cánh cửa thư phòng Giang gia bật mở. Trước đó Kỳ Minh đã được người gửi tin tới, vừa vào thư phòng, hắn lập tức trình lên một phong thư, “Bẩm Ngu hầu, đã có thông tin về thẻ bài của sĩ tử rồi.” Sau đó hành lễ với Thanh Duy, “Thiếu phu nhân.”

Trong khi Tạ Dung Dữ đọc thư, Kỳ Minh trình bày: “Phía bộ Lễ nói tuy không thể phục chế thẻ bài của sĩ tử lên đài năm xưa, nhưng có thể thay đổi chế ra dạng gần giống. Cử nhân Lăng Xuyên năm Hạm Hòa thứ 17, tiến sĩ năm Chiêu Hóa đầu tiên và cử nhân Trung Châu năm Chiêu Hóa thứ 7, thẻ bài của họ đều khắc cùng một dạng hoa văn.”

Năm xưa khi xây dựng Tiển Khâm Đài, triều đình đã tuyển chọn tổng cộng 157 sĩ tử. 157 người này sẽ nhận được thẻ bài do cục Đúc ấn của bộ Lễ đặc chế, nó tượng trưng cho sĩ tử lên đài, bởi vì thẻ bài không thể phục chế nên đó là thứ độc nhất vô nhị. Nhưng kỳ quặc ở chỗ, khi Tạ Dung Dữ điều tra Tưởng Vạn Khiêm, ông ta đã nói vì không muốn ông ta tiết lộ chuyện mua bán nên Khúc Bất Duy đã cho ông ta hai thẻ bài trống, bảo là đợi bao giờ xây xong Tiển Khâm Đài, hứa cho ông ta hai hạn ngạch lên đài, lấy thẻ bài trống này làm chứng.

Nếu thẻ bài của sĩ tử không thể phục chế thì cục Đúc ấn chắc chắn sẽ không làm dư, vậy rốt cuộc thẻ bài trống này từ đâu ra?

Chính vì điều đó nên Tạ Dung Dữ mới cùng bộ Lễ khẩn cấp điều tra.

Còn có một suy nghĩ nhưng y chưa nói. Thủ đoạn của Khúc Bất Duy quá ghê rợn, xảy ra chuyện là trực tiếp giết người biệt khẩu, vụ huyết án ở núi Trúc Cố là thí dụ, cho nên việc sử dụng thẻ bài trống không giống phong cách của Khúc Bất Duy, trái lại giống thủ đoạn của Chương Hạc Thư hơn, huống hồ việc tái xây dựng Tiển Khâm Đài cũng là do Chương Hạc Thư đề xuất. Chỉ cần chứng minh những thẻ bài này từ tay Chương Hạc Thư mà ra, chứng thực ông ta là đồng bọn với Khúc Bất Duy, khi đó triều đình sẽ có bằng chứng tróc nã ông ta.

Thư của cục Đúc ấn viết khá đơn giản, chỉ nói đổi thẻ bài của cử nhân, tiến sĩ thay đổi thành thẻ bài trống cho sĩ tử lên đài, cứ thế vàng thau lẫn lộn. Tạ Dung Dữ xem xong, hỏi Kỳ Minh: “Bộ Lễ nói thế nào?”

Kỳ Minh đáp: “Bộ Lễ biết đây là bí mật nên tạm thời chưa công bố, chỉ nhờ thuộc hạ đến xin chỉ thị của Ngu hầu là liệu có thể cử Huyền Ưng vệ đến các nơi như Trung Châu, Lăng Xuyên thu thập thẻ bài có cùng kiểu hoa văn để kiểm chứng được không?”

Tạ Dung Dữ nhanh chóng quyết định: “Được, bảo Vệ Quyết lập tức tới doanh trại triệu tập nhân sự.”

Rồi y nói với Thanh Duy: “Ta đến nha môn đã.” Lại lệnh Đức Vinh chuẩn bị xe ngựa, cấp tốc đi tới thành Tử Tiêu.

Bấy giờ cũng chẳng còn quá sớm, xe ngựa dừng trước cửa cung thì cũng sắp giờ Thìn, vậy mà điện Tuyên Thất vẫn đang trong buổi chầu, thị vệ ở cửa cung vừa thay ca, có vài người thấy Tiểu Chiêu vương thì bước lên bái kiến: “Chiêu vương điện hạ.”

Tạ Dung Dữ mắt nhìn phía trước, đi thẳng đến Huyền Ưng Ti.

Các thị vệ đến cửa cung phía tây giao ban với thị vệ trực đêm, một người trong đó sực nhớ chuyện gì, báo với thị vệ trưởng: “Xem trí nhớ của thuộc hạ kìa, phía Nội Thị Tỉnh nói phải dọn sạch mái ngói ở cửa lầu trước mùa đông, đề phòng tuyết đọng quá dày, chúng ta canh chừng ở đây, bây giờ tạp dịch vẫn chưa tới, có cần đi hỏi không?”

Trưởng thị vệ khoát tay, ra hiệu hắn đi đi.

Thị vệ này lập tức đi ra sau cửa cung, vẫy tay với một thái giám đang quét tước, hạ giọng rỉ tai.

Thái giám siết chặt chổi, đáp lại một tiếng “đã rõ”, sau đó chạy thẳng vào cung như có việc cấp bách. Hắn là người thấp kém nhất trong cung, di chuyển qua lại chẳng khác nào u hồn ban ngày, không ai chú ý tới sự tồn tại của hắn, xem hắn như vết rêu trên tường, hạt bụi dưới chân, không muốn tới gần. Nên khi bất cẩn va vào Chỉ Vi, hắn sợ tới mức quỳ sụp xuống, “Cô cô tha mạng, cô cô tha mạng.”

Trong thâm cung, Hoàng hậu nương nương có tiếng lương thiện hiền lành, do đó vị cô cô hầu hạ nàng cũng rất hiểu lí lẽ, nàng không ghét bỏ thái giám thấp hèn trước mắt mà gọi hắn đứng dậy, dịu dàng nói, “Đừng sợ, ta không trách ngươi đâu. Mà ngươi đấy, sao lại hớt ha hớt hải vậy, có chuyện gì à?”

***

Cửa điện Nguyên Đức mở rộng, Chỉ Vi đến Thái Y Viện lấy thuốc an thần đã về, nàng nhìn cung nhân đi tới đi lui thì biết Chương Nguyên Gia đã dậy, bước đến cửa tẩm điện, nhận lấy bát thuốc từ tay cung nữ, dặn: “Để ta hầu hạ, các ngươi ra ngoài cả đi.”

Đợi các cung nhân rời đi, Chỉ Vi đặt chén canh lên bàn, chạy ào tới trước giường của Chương Nguyên Gia, quỳ dưới đất, nức nở nói: “Nương nương, xảy ra chuyện rồi! Lão gia bị oan bị cách chức tạm thời, Đại thiếu gia cũng gặp nạn trọng thương, ngài mau cứu nhà mình đi!”
 
Chương 186


Mới sáng nay Chương Nguyên Gia bị đau đầu, đang ngồi tựa ghế nghỉ ngơi, nhưng khi nghe thấy thế thì bật dậy, “Cái gì cơ? Sao phụ thân lại bị cách chức, sao ca ca lại bị trương? Không phải ca ca… đến Lăng Xuyên giám sát công việc sao?”

“Ngài ấy bị thương ở Lăng Xuyên ạ.” Chỉ Vi đáp, “Hồi đầu năm Tiểu Chiêu vương đến Lăng Xuyên điều tra vụ án Tiển Khâm Đài, trùng hợp có liên quan đến công việc của Đại thiếu gia, về sau vì giúp Tiểu Chiêu vương lấy bằng chứng mà Đại thiếu gia đã xung đột với kẻ ác, bất cẩn va chạm bị thương ở đầu. Nhưng nương nương yên tâm, Đại thiếu gia vẫn giữ được mạng, hiện đang dưỡng thương ở Lăng Xuyên.”

Vừa nghe ba chữ “Tiển Khâm Đài”, bàn tay của Chương Nguyên Gia đặt trên chăn lập tức siết chặt, tòa tháp này cũng chính là vướng bận trong lòng Triệu Sơ.

“Nhưng theo như ngươi nói, ca ca đã lập công vì triều đình, vậy tại sao phụ thân lại bị cách chức?”

“Châu doãn Lăng Xuyên đã dâng tấu vạch tội lão gia, cáo trạng lão gia có liên quan đến vụ án mua bán hạn ngạch Tiển Khâm Đài. Trước mắt chủ mưu là Khúc Hầu đã ngồi ngục, trong triều cho rằng hai nhà Chương Khúc chơi thân với nhau, chắc hẳn có tham gia, nhưng vì không có bằng chứng nên Quan gia quyết định tạm cách chức lão gia. À phải rồi, Mỹ nhân ở Lạc Phương Trai hồi trước khóc cả đêm ấy, phụ thân nàng ta cũng bị hạch tội vì chuyện này, nghe nói nha sai của Đại Lý Tự xông vào nhà nàng ta trong đêm, bắt đi hơn mười nam đinh. Nương nương, bây giờ trong triều ai cũng sợ bóng sợ gió, hễ dính líu chút xíu đến vụ án này là coi như không thoát nổi. Sĩ tử trong kinh lại biểu tình quá rầm rộ, người ngoài nghe gió đoán mưa, tuy lão gia chịu oan nhưng ngài ấy đã ở Xu Mật Viện nhiều năm, ít nhiều cũng có vài lần ‘chiếu cố’ Khúc Hầu, đảng phái trong triều mọc lên như nấm, nếu bị kẻ cố ý chụp lấy đó làm cớ đánh đồng lão gia, thì lão gia muốn trở mình cũng khó lắm ạ!”

Chương Nguyên Gia giật mình: “Ngươi vừa nói, phụ thân bị cách chức tạm thời… là ý của Quan gia?”

Chỉ Vi cắn môi gật đầu, “Cũng là Thượng thư ở các nha môn Đại Lý Tự can gián.”

Chính Chương Hạc Thư sai người bảo Chỉ Vi thuật lại những lời trên. Chương Nguyên Gia nhìn thì ôn tồn nhưng thực ra rất giống anh trai Chương Đình, nàng cũng cố chấp, giữ phép tắc, nếu chỉ xét riêng vụ án Tiển Khâm Đài, Chương Nguyên Gia là Hoàng hậu hậu cung, có thể sẽ muốn nhúng tay vào chuyện tiền triều. Nhưng ngược lại, nếu đổ cho sóng gió này thành tranh đấu phe phái, nói rằng sở dĩ Chương Hạc Thư gặp cảnh ngộ như bây giờ là vì trong triều có người mượn án đấu đá, biết phụ thân bị đối xử bất công, làm con gái ít nhiều cũng nên giúp đỡ một chút.

Vì Chương Nguyên Gia đang mang thai, một tháng qua gần như ngủ không ngon, khuôn mặt gầy hẳn đi trông thấy, nàng nắm chặt khăn tay, trán rỉ mồ hôi, những lời Chỉ Vi nói đã khiến nghi ngờ chồng chất trong lòng nàng nổ tung, biến thành hàng ngàn mớ hỗn độn. Cuối cùng nàng cũng biết Triệu Sơ đang bận rộn gì, cũng biết vì sao những người xung quanh nàng không hẹn mà cùng im lặng đến thế – vì đó là lệnh của Triệu Sơ. Chương Nguyên Gia cố gắng sắp xếp lại mớ bòng bong, nàng hỏi, “Phụ thân có bảo cần ta làm gì không? Còn ca ca? Vì sao ca ca không về giúp phụ thân?”

Chỉ Vi không nói chuyện Chương Đình còn đang hôn mê cho Chương Nguyên Gia biết, “Đại thiếu gia bị thương ở khu mỏ Lăng Xuyên, giờ cả khu mỏ bị nổ đánh sập, quân giám sát khu mỏ bị bắt, Đại thiếu gia ở lại giải quyết hậu họa, khả năng phải một thời gian nữa mới có thể hồi kinh. Lão gia nói ngài ấy có cách qua được ải trước mắt, chỉ là hơi mất thời gian, hi vọng nương nương thông qua con đường của mình để gửi một bức thư ra ngoài kinh.”

Chương Nguyên Gia nghe xong lời đó, bàn tay siết khăn từ từ thả lỏng, nàng ngồi xuống ghế mềm, nghĩ một lúc rồi nói với Chỉ Vi: “Ngươi lại đây, giúp bổn cung một chuyện.”

Chỉ Vi áp tai tới, nghe xong thì biến sắc, “Nương nương không được đâu, Mỹ nhân ở Lạc Phương Trai đã bị giam giữ, bình thường đã không thể triệu kiến, nếu giờ mà nương nương đi gặp nàng ta, chỉ sợ Quan gia…”

“Bổn cung nói sao thì làm vậy!” Chẳng đợi Chỉ Vi nói hết, Chương Nguyên Gia lạnh lùng ngắt lời, chầm chậm vỗ bụng, “Đến lúc này rồi, bổn cung không thể bàng quan được nữa…” Nàng nhắm mắt, “Đi nhanh đi.”

Chỉ Vi đành quỳ xuống đất vâng dạ, đoạn vội vã rời đi.

***

Trời âm u, mây sà thấp xuống nóc cung lầu, mãi tới khi buổi chầu kết thúc mà trời vẫn chưa sáng. Một tiểu hoàng môn đứng rụt cổ trong gió lạnh cuối thu, dẫn vị đại quan lên Phất Y Đài, “Trương đại nhân, mời đi bên này.”

Gần đây triều chính bận rộn, Triệu Sơ đổi buổi chầu từ ba ngày một lần thành một ngày một lần, đại thần nào không có việc khẩn cần yết kiến thì không cần lên chầu mỗi ngày. Sáng sớm nay Trương Viễn Tụ đi lo liệu công chuyện ở ngoại ô, vừa về tới nha môn thì nghe báo Triệu Sơ triệu kiến, thế là vội vàng đến dưới Phất Y Đài chờ cho truyền.

Buổi chầu vừa kết thúc không lâu, Trương Viễn Tụ lên điện, bái kiến Triệu Sơ, “Yết kiến Quan gia.”

Triệu Sơ khép tấu chương lại, “Nghe nói sáng nay Trương khanh tới ngoại ô điều tra, tình hình thế nào rồi?”

Thời gian qua trong kinh có nhiều sĩ tử học trò biểu tình, để giải quyết tình hình, triều đình đã lệnh Hàn Lâm, bộ Lễ và Ngự Sử Đài cùng điều tra nhu cầu của các sĩ tử. Cha của Trương Viễn Tụ là Sĩ đại phu Trương Ngộ Sơ, hắn rất có danh vọng trong giới nhân sĩ, nghiễm nhiên là người thích hợp nhất trong việc này.

“Bẩm quan gia, quá nửa sĩ tử biểu tình là do bất mãn vụ mua bán danh sách hạn ngạch Tiển Khâm Đài, trong lòng mọi người, Tiển Khâm Đài là biểu tượng sạch sẽ thành kính, sao có thể thành thủ đoạn để vơ vét của cải? Chỉ cần nghiêm trị đầu sỏ rồi bố cáo thiên hạ, vậy sóng gió ắt sẽ qua.”

Triệu Sơ gật đầu, “để Trương khanh đảm nhiệm việc này thì trẫm yên tâm rồi.” Chàng lại nói, “Thật ra hôm nay trẫm truyền gọi khanh là vì việc riêng. Hồi Trương khanh còn đốc công ở Lăng Xuyên, Trương khanh có nhận được bức thư nào do lão thái phó gửi không?”

Trương Viễn Tụ đáp: “Có ạ, thần cũng đã đọc rồi.” Y biết Triệu Sơ muốn hỏi chuyện gì, dừng một lúc rồi nói, “Thần không có của nả tài sản, được Quan gia tứ hôn mà vô cùng cảm kích. Có câu cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, thần biết mình nên tuân theo, nhưng… Thứ nhất, thần chưa có công lao lập nghiệp, chỉ sợ mình không xứng với Nhân Dục quận chúa, phụ ý tốt của Quan gia và ân sư; thứ hai,” Trương Viễn Tụ im lặng một lúc rồi nói tiếp, “Thứ hai, cũng là quan trọng nhất, bậc tiên liệt ở trên cao, thần không dám lấn lướt, tuy thần không quan tâm những lời chỉ trích song tự thấy bản thân vẫn chưa đủ, không dám tự so với Tạ công.”

Trương Viễn Tụ đã nói thẳng như thế, Triệu Sơ còn không rõ ý mới lạ.

Bậc tiên liệt mà y nhắc đến không phải ai khác, chính là Tạ Trinh phụ thân của Tiểu Chiêu vương.

Trương Viễn Tụ cưới Triệu Vĩnh Nghiên cũng giống năm ấy Tạ Trinh kết thân với Vinh Hoa trưởng công chúa, đều là một đôi sĩ tử hoàng nữ, bất luận người ngoài nhìn nhận thế nào thì ắt hẳn cũng vô tình hoặc cố ý so sánh y với Tạ Trinh. Ví mà năm ấy Tạ Trinh còn sống, dựa vào tài năng xuất chúng của mình thì có lẽ ông đã là trọng thần tể tướng. Nếu cưới Nhân Dục quận chúa, Trương Viễn Tụ sẽ coi như nối tiếp hình ảnh của Tạ Trinh, ắt sẽ nhờ vậy mà cải thiện danh vọng trong lòng nhân sĩ. Nhưng đi quá nhanh nào phải chuyện tốt, ở nơi cao không chịu nổi rét lạnh, tuy y đã là cây cao vượt rừng song liệu có biết gió lớn trên đỉnh?

Triệu Sơ nhìn Trương Viễn Tụ, vị đại thần trẻ tuổi đứng trên đại điện trong nắng thu, hai mắt tĩnh lặng tựa nước hồ ngày xuân, cái nhìn sâu thẳm như có thể thu trọn mọi thứ, chẳng trách tiểu cô nương chưa hiểu đời như Vĩnh Nghiên lại thích y.

Triệu Sơ nói: “Thực ra ban đầu là phía Dụ Thân Vương phủ nhắc đến hôn sự này, có lẽ nhìn trúng nhân phẩm xuất chúng của khanh chứ không có ẩn ý gì khác.Trẫm cũng giống lão thái phó, cho rằng vẫn nên để khanh tự nguyện. Được rồi, trẫm đã hiểu nỗi lòng của khanh, giờ khanh còn đang do dự, trẫm cho khanh thêm thời gian suy nghĩ, nghĩ cho kĩ rồi trả lời, bất cứ lúc nào.”

Chỉ mới đấy thôi mà dưới Phất Y Đài đã có vài đại thần đợi yết kiến, Trương Viễn Tụ tạ ơn rồi lui ra khỏi điện.

Đi được một đoạn, y như sực nhớ ra chuyện gì đó, bước chân dừng lại, xoay người nói với lão thái giám ngoài kia: “Chẳng biết công công có tiện không, Trương mỗ có việc muốn đến Huệ chính viện, có thể nhờ công công dẫn đường được không?”

Huệ chính viện xây ở Đông Cung, là nơi Thái tử ở. Sau khi Triệu Sơ đăng cơ, Đông Cung bỏ trống, Huệ chính viện chỉ còn lại các phường quan thường trực, còn các quan viên khác dần được điều đến tam tỉnh lục bộ. Vì gần đây Trương Viễn Tụ đang xử lý chuyện sĩ tử biểu tình, mà các phường quan đều xuất thân từ sĩ tử nên y mới muốn gặp bọn họ một lần. Nhưng Trương Viễn Tụ là ngoại thần, nếu đi lại ắt kiểu gì cũng sẽ bị cấm vệ quân tra hỏi, vì vậy mới làm phiền Tào Côn Đức dẫn đường.

Tào Côn Đức hất phất trần, “Trương đại nhân nói đùa gì vậy, tôi nào dám nói bất tiện hay không.” Đoạn, lão gọi Đôn Tử đi báo tin rồi dẫn đường cho Trương Viễn Tụ.

Hai người một trước một sau bước đi trong cung, được một lúc, Tào Côn Đức dần đi chậm lại, thủng thẳng nói: “Nhưng phải chúc mừng Trương nhị công tử mới được, vô tâm trồng liễu mà liễu thành rừng, đợi cưới được quận chúa thì trên triều đình Đại Chu này, mỗi câu ngài nói ra đều có trọng lượng, không còn phải như trước, chỉ vì xây lại một tòa tháp mà vất vả khổ tâm, từ ngàn dặm xa xôi để tôi đưa một đứa bé cô nhi về kinh thành.”

Trương Viễn Tụ hai mắt nhìn thẳng, nói: “Công công và ta mỗi người có nhu cầu riêng, Vong Trần hao tâm tổn huyết, lẽ nào công công thì không.”

Giọng Tào Côn Đức the thé, lúc nào cũng cười cười như đeo một lớp mặt nạ, “Hôm nay Trương Nhị công tử tới tìm tôi chắc không phải chỉ để ôn chuyện đâu nhỉ, sao, tôi đã làm gì khiến Trương nhị công tử khó chịu à?”

“Không có gì, chỉ là nhắc nhở công công một câu, người ông muốn ta đã đưa lên kinh thành rồi, ông có oán báo oán có thù báo thù, vụ án Tiển Khâm Đài dừng lại ở đây, không cần làm những chuyện thừa thãi nữa.”

“Chuyện thừa thãi?” Nghe đến đây, Tào Côn Đức cười giễu, “Mấy hôm trước Ôn Tiểu Dã xông vào cung, tôi cho người tố cáo cô ta theo đúng phép tắc, nào đã đến đến mức lấy mạng cô ta, thế mà lại làm phật ý Trương nhị công tử sao?”
 
Chương 187


“Trương Nhị công tử bảo tôi đừng làm chuyện thừa thãi, nhưng công tử thì khác gì.”

Tào Côn Đức thủng thẳng nói, “Tôi tuy già nhưng trí nhớ còn tốt. Năm ngoái Tiết Trường Hưng nhảy vách núi, hình như là được Trương Nhị công tử cứu; lúc sau Ôn Tiểu Dã có thể an toàn tháo chạy khỏi kinh thành, ít nhiều cũng nhờ Trương Nhị công tử giúp đỡ. Ai cũng nói công tử là người thiếu quyết đoán, nhưng nhìn mỗi chuyện ngài đã làm mà xem, quả là quyết đoán sát phạt. Nói riêng vụ Hà gia tích trữ thuốc men, nếu không nhờ công tử dẫn bách tính Ninh Châu bị ảnh hưởng bởi ôn dịch lên kinh, đi đầu gây rối, thì làm gì có chuyện sĩ tử biểu tình sau này. Còn giờ vụ án mua bán danh sách đã bị lộ, Trương Nhị công tử biết nếu cứ để Tiểu Chiêu vương tiếp tục điều xa, sớm hay muộn cũng phải gác lại việc xây dựng Tiển Khâm Đài. Chi Khê núi lở đá mòn, ai biết được có kẻ sẽ giấu đi bằng chứng về Chương Hạc Thư. Công tử vẫn luôn nắm rõ lúc nào cần tuốt gươm, lúc nào cần thu về, thế mà cứ gặp Ôn Tiểu Dã là lại rối lên, lẽ nào trong lòng Trương Nhị công tử, Ôn Tiểu Dã có địa vị rất đặc biệt?”

Trong số các đại thần trên triều, không chỉ có mỗi Chương Hạc Thư muốn trùng kiến Tiển Khâm Đài. Nhưng đâu phải ai cũng quyền thế lớn mạnh như ông ta để mà có thể đổi chác với Thiên tử. Vậy cần làm gì đây đây? Rất dễ, chỉ cần tìm cơ hội ra tay trợ giúp là xong. Đầu xuân năm Gia Ninh thứ ba, cơ hội ấy đã đến, Gia Ninh đế đồng ý xây lại Tiển Khâm Đài, triều đình cử quan viên ở các bộ tái điều tra vụ án cũ, tróc nã một nhóm nghi phạm bao gồm Thôi Hoằng Nghĩa, cùng lúc ấy, thợ mộc Tiết Trường Hưng quyết định lên kinh, tự thân điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài sập. Nhưng chỉ dựa vào một thợ mộc nào đủ gây nên sóng gió, Trương Viễn Tụ biết Ôn Tiểu Dã còn sống, thậm chí còn biết nàng được Tào Côn Đức cứu, thế là y đã viết thư cho Tào Côn Đức, mời lão tìm cách để cô con gái của Ôn Thiên lên kinh.

Thực ra Tào Côn Đức biết Trương Viễn Tụ bao che Thanh Duy chưa chắc đã vì sinh tình, nhưng đúng là nàng ta rất đặc biệt đối với y, dù gì nàng ta bước vào đầm rồng hang hổ này, ít nhiều cũng có nguyên nhân từ y, nhưng Tào Côn Đức muốn nói như vậy để kích y.

“Ta và công công đã hứa với nhau rồi còn gì.” Trương Viễn Tụ không hề bị Tào Côn Đức chọc giận, giọng điệu vẫn dửng dưng, “Công công giúp đỡ lúc ta cần, và để báo đáp, ta cũng sẽ giúp công công hoàn thành tâm nguyện. Công công muốn trả thù cho Bàng tiên sinh còn gì, bây giờ ta đã đưa kẻ thù tới kinh thành rồi đấy. Để ta nhắc nhở công công một câu, công công muốn làm gì thì làm sớm đi, trong kinh toàn là người có đầu óc, nếu chậm một bước để lộ sơ hở, khéo có khi tâm nguyện của công công sẽ thành bọt biển.”

Tào Côn Đức híp mắt bật cười, “Trong số những người thổ lộ thật lòng với ta, Trương Nhị công tử là người thú vị nhất đấy. Chân lội bùn lầy, hài lấm bẩn nhưng vạt áo vẫn sạch sẽ; hành động rõ quả quyết sát phạt nhưng vẫn nhớ không hại người vô tội, xem ra hai chữ ‘Vong Trần’ mà lão thái phó đặt cũng trói buộc ngài ghê nhỉ. Chuyện đến nước này rồi, tôi muốn hỏi Trương Nhị công tử một câu, nếu làm lại từ đầu, Trương Nhị công tử có muốn để Ôn Tiểu Dã lên kinh không?”

Trương Viễn Tụ không đáp, tỏ vẻ chẳng buồn nói chuyện, đưa mắt nhìn về góc Đông Cung nơi xa, bước chân dừng lại, “Đa tạ công công đã dẫn đường, đã đến Huệ chính viện rồi, công công có thể dừng bước.”

Phường quan ở Huệ chính viện biết Trương Viễn Tụ đến nên đã đứng chờ từ trước. Có nhẽ đối đáp với Tào Côn Đức quá phí sức nên Trương Viễn Tụ thấy rất mệt, giải quyết chính sự thì trời cũng đã tối, y không về nha môn trực ban mà đi thẳng về nhà.

Thời gian qua lão thái phó không ở kinh thành, Trương Viễn Tụ ở căn nhà nhỏ tại thành Tây – chính là nhà cũ của thái phó, nơi ngày trước Thanh Duy dưỡng thương.

Nhà cũ cách thành Tử Tiêu rất xa, xuất phát từ cửa cung mất tận nửa canh giờ. Trời cuối thu, gió chiều thổi từng cơn se lạnh, người qua đường chẳng có mấy ai, Trương Viễn Tụ vén rèm xe, cảnh phố phường tiêu điều giống hệt Lăng Xuyên giới nghiêm năm nào.

Trương Viễn Tụ nhớ lại lời Tào Côn Đức hỏi, nếu bắt đầu lại từ đầu, y có có muốn để Ôn Tiểu Dã lên kinh không?

Trương Viễn Tụ không biết “từ đầu” của Tào Côn Đức bắt đầu từ đâu, là vào mùa xuân năm Gia Ninh thứ ba khi y viết thư cho Tào Côn Đức, hay là sáu năm trước lúc y theo lão thái phó đến Lăng Xuyên.

Tháng Năm năm Chiêu Hóa thứ mười ba, lão thái phó bệnh nặng, đợi tới khi bệnh tình đỡ lên, hai thầy trò lên đường đến Lăng Xuyên thì đã là trung tuần tháng sáu. Cho nên khi tin dữ Tiển Khâm Đài sập truyền tới, bọn họ vẫn còn đang trên đường đi, tới tận bây giờ Trương Viễn Tụ vẫn nhớ rõ vẻ mặt đau xót của lính đưa tin, “Đã xảy ra chuyện rồi ạ, Tiển Khâm Đài sập, Đại công tử và rất nhiều sĩ tử lên đài đã bị chôn vui bên dưới, kể cả Tiểu Chiêu vương… cũng lành ít dữ nhiều, xin thái phó đại nhân và Trương Nhị công tử nén đau buồn.”

Mới đầu Trương Viễn Tụ còn không tin.

Mẫu thân y mất sớm, phụ thân cũng hóa thành tà áo trắng trong nước sông Thương Lãng, huynh trưởng như cha, Trương Chính Thanh là người thân duy nhất của y, từ nhỏ đến lớn, điều mà Trương Chính Thanh nói với y nhiều nhất là các sĩ tử nhảy sông năm ấy anh hùng như thế nào, tuy cha đã qua đời nhưng anh em họ nên tự hào về điều đó.

Về sau Chiêu Hóa đế muốn xây dựng Tiển Khâm Đài, dẫu cho triều đình chỉ trích thì Trương Chính Thanh vẫn ủng hộ tiên đế.

Năm Chiêu Hóa thứ mười hai, trước khi Trương Chính Thanh đến núi Bách Dương, câu y nói nhiều nhất với Trương Viễn Tụ là, “Đợi sang năm cỏ cây xanh mướt, trong núi Bách Dương ắt sẽ thấy đài cao chạm mây.”

Vì vậy Trương Viễn Tụ cũng ngóng trông ngày thấy được đài cao chạm mây.

Nhưng… vì sao một tòa tháp không vết nhơ lại có thể sập? Cũng như huynh trưởng, đang sống yên lành tại sao lại qua đời?

Xe ngựa lao như điên đến Lăng Xuyên, cho tới khi nhìn thấy cảnh địa ngục nhân gian sau khi đài sập, Trương Viễn Tụ mới thật sự chấp nhận chuyện huynh trưởng đã không còn. Chẳng nhớ là quan viên nào đã nói với y, “Rất ít sĩ tử lên đài còn sống, thi thể bị chôn vùi quá sâu, khó mà đào lên, xin Trương Nhị công tử nén bi thương, triều đình sẽ điều tra đến cùng, sẽ tìm ra chân tướng.”

Có lẽ khi đau lòng đến tột đỉnh, con người ta sẽ luôn làm vài chuyện vô ích.

Năm ấy Trương Viễn Tụ vẫn chưa đến mười sáu, khi nghe câu ấy, suy nghĩ đầu tiên không phải là chân tướng đúng sai, y chưa từng gặp mẫu thân, cũng chẳng nhớ rõ dáng vẻ của phụ thân, y chỉ có một huynh trưởng và huynh trưởng cũng chỉ có mình y, giờ đây huynh ấy đã không còn, dù gì đi nữa y cũng phải tìm được thi thể của huynh ấy.

Nếu triều đình không giúp y tìm thi thể của huynh trưởng, vậy y sẽ tự tìm.

Suốt mấy ngày y không ngủ quỳ trên đống đổ nát, dùng tay không hòng muốn đào ra thi thể của Trương Chính Thanh. Có người đi qua cảm thấy xót xa, toan đi tới thuyết phục, song đều bị lão thái phó chặn lại, “Cứ kệ nó, có lẽ chỉ như thế thằng bé mới thấy dễ chịu.”

Rồi vào một buổi sáng về sau, cuối cùng Trương Viễn Tụ cũng không chịu nổi gục xuống đống phế tích. Tới lúc y tỉnh dậy, trông thấy có một tiểu cô nương váy xanh ở đằng xa thoăn thoắt né tránh thị vệ tuần tra, tìm kiếm gì đó khắp bốn phía.

Y im lặng, lúc định rời đi thì chợt thấy tiểu cô nương này bị người ta bịt miệng từ phía sau đưa đi.

Người đưa nàng ta đi là một vị thái giám, Trương Viễn Tụ biết ông ta họ Tào.

Tuy đau đớn vô ngần nhưng Trương Viễn Tụ vẫn nhận ra manh mối, trong đống đổ nát thê lương này, đâu đâu cũng là người buồn thương xót xa, có ai lại đi né tránh thị vệ tuần tra?

Sang ngày hôm sau, Trương Viễn Tụ đến tìm Tào Côn Đức, “Người được công công cứu là trọng phạm phải không? Công công định bao che cho trọng phạm?”

Tào Côn Đức nhìn y: “Ta biết cậu, cậu là Nhị công tử Trương gia.” Rồi lão nói, “Đúng thế, con gái của Ôn Thiên – kiến trúc sư Tiển Khâm Đài chính là người mà ta đã cứu.”

Nghe lời ấy, Trương Viễn Tụ đi thẳng đến sở nha tạm thời dưới chân núi.

Tào Côn Đức thong thả nói: “Cậu muốn hại chết nó hay sao mà định đến sở nha tố cáo?”

“Tiển Khâm Đài mà cha cô ta giám sát đã sập, huynh trưởng của ta mất mạng dưới tòa tháp ấy, vì sao ta không được tố cáo cô ta?”

Tào Côn Đức lắc đầu, “Cậu nghĩ đơn giản quá rồi.”

Cánh cửa sau lưng Tào Côn Đức chỉ khép hờ, lão vẫy tay để Đôn Tử lui xuống, một lúc sau, tiểu cô nương mặc váy xanh ngày hôm qua bước ra, nàng ta lại đến chỗ phế tích trong rừng, cũng giống như y mấy ngày trước – quỳ dưới đất liều mạng đào bới.

Tào Côn Đức chậm rãi lại gần, “Này cô bé, con đang tìm gì thế?”

“Cha của con.” Một lúc sau, Thanh Duy mới trả lời, “Cha con bị chôn dưới này.”

Vừa dứt lời, nàng như nhận ra điều gì đấy, có lẽ là Ôn Thiên sẽ không bao giờ trở về nữa, hoặc có lẽ lần từ biệt vội vã trong núi Thần Dương là lần cuối nàng được gặp phụ thân, đột nhiên nước mắt cứ tuôn rơi, rơi xuống mu bàn tay, rơi lên đất đá, ấy thế mà nàng vẫn chẳng hề hé môi, giơ tay áo lau nước mắt rồi tiếp tục đào bới, ngón tay bật máu.

Khoảnh khắc ấy, chợt Trương Viễn Tụ có cảm giác đồng bệnh tương liên.

Tào Côn Đức quay đầu nhìn y.

Trương Viễn Tụ hiểu ý Tào Côn Đức, cứ như lão đang hỏi, “Bây giờ cậu có còn thấy tòa tháp đó sập là lỗi của cô bé đó nữa không?”

Cậu suy nghĩ quá đơn giản, có một ngày rồi cậu sẽ hiểu.

Và về sau đúng là y cũng dần hiểu ra, biết rằng Tiển Khâm Đài sập là vì có kẻ lén tráo đổi vật liệu, dẫn tới căn cơ không vững, không thể chống đỡ để nhiều người lên đài.

Thậm chí y cũng biết không nên quy trách nhiệm lên một người, có kẻ lấy đó mưu lợi, có kẻ lòng dạ xâu xa, thậm chí việc xây hay không xây tòa tháp cũng đều bị vụ lợi.

Nhưng thế thì sao?

Dù có bắt được kẻ đầu sỏ tráo vật liệu, dù điều tra rõ ràng chân tưởng thì huynh trưởng có sống lại được không?

Mỗi đêm nằm mơ, y lại mộng thấy Trương Chính Thanh đắc chí nói “trong núi Bách Dương sẽ thấy đài cao chạm mây”, thấy vị huynh trưởng vào ngày giỗ sĩ tử trầm mình mỗi năm, dẫn y quỳ xuống trước bài vị của phụ thân, dạy y nói “nước sông gột tà, trắng không vết bẩn”.

Điều Trương Viễn Tụ nuối tiếc chính là Trương Chính lại không thể nhìn thấy Tiển Khâm Đài “cao vút chạm mây” như hằng mong.

Có nhẽ vì tiếc nuối quá sâu, chẳng biết tự lúc nào mà giấc mơ của Trương Chính Thanh dần biến thành mộng của Trương Viễn Tụ.

Là giấc mơ đài cao chạm mây.

Y nghĩ, y phải giúp huynh trưởng hoàn thành tâm nguyện.
 
Chương 188


Xe ngựa đến nhà cũ, Bạch Tuyền đứng chờ trước cửa, vừa thấy Trương Viễn Tụ bước xuống thì lập tức dâng lên một bức thư, “Thư của Chương đại nhân gửi ạ.”

Trương Viễn Tụ không nhận, đi thẳng vào phủ, “Viết gì?”

“Chỉ nói cám ơn thôi ạ.”

Sau khi hồi kinh, Trương Viễn Tụ và Chương Hạc Thư chưa gặp nhau lần nào, Chương Hạc Thư là muốn tránh nghi ngờ, còn Trương Viễn Tụ lười đến cửa, dẫu sao cũng chẳng phải người chung lối.

Chương Hạc Thư ở nhà nhiều ngày, thấy quan binh triều đình không tìm đến cửa thì biết đã được Trương Viễn Tụ giúp, tất sai người gửi thư cảm tạ.

Mỗi lần từ nha môn về nhà, Trương Viễn Tụ luôn đọc sách nửa canh giờ rồi mới dùng cơm tối, Bạch Tuyền biết thói quen của y nên khi vào thư phòng, hắn lấy nước sạch cho y rửa tay, đoạn ngần ngừ nói: “Công tử, lão thái phó sắp hồi kinh rồi.”

Trương Viễn Tụ đang rửa tay thì khựng lại, “Tin từ lúc nào?”

“Hồi sáng nay ạ, hình như là người ở phủ thái phó buột miệng, lão thái phó biết chuyện sĩ tử trong kinh biểu tình nên quyết định tạm thời quay về.”

Lão thái phó đã lớn tuổi, những năm qua hễ trời chuyển thu là lại tới điền trang ở ngoại ô phủ Khánh Minh tránh đông. Trang viên ấy nằm sâu trong núi, tin tức bị o bế, mà phủ thái phó lại ít nhân sự, dù trong kinh có ồn ào ra sao thì lão thái phó cũng rất khó hay tin.

Hiện giờ tam ti đang điều tra vụ án mua bán danh sách Tiển Khâm Đài, thái độ của triều đình đã nêu rõ vấn đề: nếu triều đình không điều tra Hàn Lâm, vậy chí ít trong mắt người ngoài, Hàn Lâm vô tội, có thể danh ngạch bị tuồn ra từ quan phủ địa phương; nhưng một khi triều đình điều tra Hàn Lâm, dù chỉ truyền thẩm lão thái phó thì tính chất của vụ án cũng sẽ thay đổi. Nên xuất phát từ tư tâm, Trương Viễn Tụ không hi vọng lão thái phó quay về vào thời điểm này.

Trương Viễn Tụ cảm thấy lão thái phó hồi kinh là vì mình.

Cũng như năm xưa khi ông đặt tên “Vong Trần” cho y, bao năm qua ông luôn lo lắng y đi quá xa mà quên mất lối về, nên luôn cách ghì y lại.

Tào Côn Đức hỏi, nếu chuyện bắt đầu lại từ đầu thì y còn để Ôn Tiểu Dã lên kinh không?

Có lẽ Ôn Thanh Duy đã thổi bùng nhúm lửa thành cháy lớn, mọi việc đều nằm ngoài dự đoán của y, lật đổ Hà gia trùng kiến Tiển Khâm Đài vẫn chưa đủ, lại còn thiêu cháy cả Chương gia, Hàn Lâm, bao gồm tất cả bọn họ.

Lúc ấy Trương Viễn Tụ đã không trả lời, nhưng bây giờ y rất muốn hỏi vặn lại, y không để Ôn Tiểu Dã lên kinh thì nàng ta sẽ không đến ư?

Vào khoảnh khắc mỏ Chi Khê phát nổ, y đứng giữa sườn núi, trông thấy cô gái thúc ngựa lao như điên mà đến, nàng mặc áo chùng đen, gương mặt lấm máu, tóc xanh tựa sóng bay trong gió, núi rung đất chuyển cũng chỉ cản được nàng trong tức thời, rồi có lẽ vì quá lo lắng cho Nhạc Ngư Thất, nàng lại lao nhanh lên trên núi.

Khoảnh khắc ấy, Trương Viễn Tụ vô cùng ngưỡng mộ tinh thần gan dạ của nàng, thậm chí y còn nghĩ hay cứ bỏ đi, quan tâm đến đống bằng chứng ấy làm chi? Cứ để chân tướng được phơi bày, dẫu gì Chương Hạc Thư cũng phạm tội ác tày trời, việc gì mình phải giúp ông ta, chi bằng cứ phô hết toàn bộ, cứ vậy rời đi.

Nhưng y không thể, nếu phó sứ Xu Mật Viện hay Hàn Lâm Viện, thậm chí cả tiên đế đều bị dính líu, như vậy Tiển Khâm Đài sẽ không bao giờ được trùng kiến nữa.

Ít nhất cũng không được để tòa tháp ấy thể lấm bẩn.

Có lẽ là ý trời, khi Trương Viễn Tụ đến chỗ vùng đất trống, trùng hợp trông thấy túi gấm bị Khúc Mậu ném đi.

Đấy là nơi gần sơn động phát nổ nhất, thi thể bên cạnh đã chết từ lâu, xa xa còn có tứ chi đứt lìa, Khúc Mậu là người duy nhất có thể ngồi dậy, hắn đỡ Chương Đình, sợ tới nỗi hốc mắt đỏ hoe, liên tục gọi: “Ngươi cố trụ chút nữa, ta sẽ sai người mời đại phu, cố trụ chút nữa đi, xin ngươi đấy…”

Nên hắn không hề để ý tới Trương Viễn Tụ.

Nhưng Chương Đình lại nhìn chằm chặp vào vị khách không mời mà đến.

Hắn nhìn Trương Viễn Tụ nhặt túi gấm lên, im lặng kiểm tra vật chứng bên trong, lấy đồ ra giấu vào trong tay áo. Ánh mắt hắn ánh lên nỗi thất vọng vô cùng.

Nên hắn mới hỏi: “Vong Trần, trong mắt huynh, Tiển Khâm Đài là gì?”

“Ít nhất trong mắt ta, chỉ có vạt áo sạch sẽ, không thấy mây xanh.”

Vong Trần, huynh thật sự có thể vong trần sao?

Nam tử Đại Chu này, ngoại trừ số ít người được trưởng bối đặt tên tự hồi bé thì gần như đều lấy tên tự vào năm mười tám tuổi.

Năm Gia Ninh đầu tiên, Trương Viễn Tụ mười tám tuổi, lão thái phó hỏi: “Trong đời này Viễn Tụ có nguyện vọng gì không?”

Trương Viễn Tụ đáp: “Học trò chỉ có một tâm nguyện, đó là xây dựng Tiển Khâm Đài cho cha anh đã qua đời, nếu có ngày thấy được đài cao chạm mây trên núi Bách Dương, cuộc đời học trò vậy là đủ.”

Lão thái phó nghe vậy thì im lặng rất lâu, đoạn thở một hơi thật dài, “Vi sư đã nghĩ ra tên tự cho con, từ nay trở đi, con sẽ được gọi là Vong Trần.”

Trương Viễn Tụ biết lão thái phó muốn níu mình lại.

Nhưng trên đời này có nhiều chuyện đã được định trước, chỉ với bằng lực của một người sao thay đổi được quỹ đạo?

Cũng như việc dù y không viết thư cho Tào Côn Đức, Ôn Tiểu Dã rồi cũng sẽ lên kinh; vị Chiêu vương ngủ say trong bóng đêm rồi vẫn sẽ mở mắt, tháo gỡ tấm mặt nạ; và vị đế vương ngủ đông trong thâm cung đang bình tĩnh chờ đợi thời cơ, rồi vẫn sẽ vén lên một góc bản án cũ. Từng người một trong số họ đều đã đi quá xa.

Trương Viễn Tụ đọc sách xong, ra khỏi thư phòng, mây trên cao ấy mà lại nhiều hơn ban sáng, đè nặng vòm trời như muốn trĩu xuống.

Tuyết sắp rơi rồi.

***

Tuyết đã rơi, xung quanh sáng sủa hẳn lên, cuốn đi mây đen mịt mù ở kinh thành bao ngày qua, nhìn bầu trời bừng sáng, dường như lòng người cũng sảng khoái hẳn.

Hôm tuyết ngừng rơi, Giang gia cũng náo nhiệt hơn. Người còn chưa tới mà ở Đông viện đã vọng đến tiếng nói chuyện, “Ba bó tre, hai bó củi, một lọ cơm hồ, cũng đem theo áo khoác cũ của nô tì và Lưu Phương rồi ạ.”

“Đủ hết chưa?” Một cô gái với âm thanh trong trẻo hỏi lại.

“Đủ rồi thưa thiếu phu nhân.” Đức Vinh đáp.

“Được rồi, đi thôi.”

Bọn họ không đi từ cửa chính mà ra ngoài từ cửa hông ở Đông viện. Đức Vinh là trẻ mồ côi, được Cố Phùng Âm nhận nuôi mới không phải chịu cảnh đói khổ lạnh lẽo. Bản thân đã từng chịu khổ nên luôn nhớ ơn người đã che mưa chắn gió cho mình, cho nên cứ gặp khất cái trên đường là hắn lại sẽ bố thí một ít – năm xưa ở Trung Châu, hắn và Triêu Thiên thắt lưng buộc bụng, đưa bánh mì cho một ông cụ bị bệnh ba năm liền. Kinh thành giàu có phồn hoa, bọn họ đang ở nhà cao cửa rộng nên cũng muốn giúp đỡ người nghèo, thế là Đức Vinh cho mèo hoang ăn uống. Hắn ở Giang gia mấy năm, bọn mèo hoang gần đấy đều quen hắn, cứ vào đông là lại kéo đến chỗ hắn xin ăn. Mèo hoang rất thông minh, biết hắn là người hầu nhà giàu nên không hề đi theo vào phủ, ăn đồ xong thì kêu “meo meo” mấy tiếng rồi chạy đi.

Năm nay tuyết đầu mùa rơi sớm, mây đụn thành cụm mấy hôm liền rồi bất chợt đổ tuyết, đè bẹp ổ mèo hoang ở ngõ sau. Đức Vinh nói muốn xây ổ mới cho lũ mèo, thế là Thanh Duy Triêu Thiên cùng những người khác nhân tiện đi cùng.

Tạ Dung Dữ đứng từ xa nhìn sang, thấy mọi người luôn tay luôn chân, nhất là Thanh Duy, không hổ là đệ tử được Ôn Thiên đích thân truyền dạy, tay nghề khéo vô cùng, chỉ chốc lát đã ráp xông ổ mèo. Mèo hoang thấy Đức Vinh cũng có mặt, một con trong đó không đi xa mà đứng bên cạnh liế.m móng vuốt, nó cũng là con đầu tiên trông thấy Tạ Dung Dữ, ngoác miệng kêu to.

Thanh Duy vô thức nhìn lại, thấy Tạ Dung Dữ đã về thì đưa áo cho Trú Vân, dặn nàng ấy lót vào trong ổ, sau đó đứng dậy rồi lau tay bằng khăn tay. Hôm nay nàng mặc váy cùng áo khoác ngắn, có lẽ vì gây nên trông khá phong phanh. Nhưng Tạ Dung Dữ biết nàng không quá gầy, ít  nhất khi y ôm nàng sau khi cởi phục trang, nơi cần da thịt đều có, giống hệt con người nàng, tràn trề sức sống.

Tạ Dung Dữ đưa lò sưởi cầm tay cho nàng, nhìn khóe mắt ửng đỏ vì chăm chú, cười nói: “Tiểu Dã cô nương xong ‘việc’ rồi hả?”

Thanh Duy gật đầu, “Chỗ này xong rồi, lát nữa còn phải dọn tuyết, mấy ngày nay không luyện công phu, trong sân đầy tuyết, sao chàng lại về?”

Những năm qua nàng không có ai che chở, sống nhờ vào thực lực, hầu như chưa từng lười luyện công, chỉ có Tạ Dung Dữ mới biết nguyên nhân khiến nàng ngày càng chểnh mảng.

Đúng lúc này Triêu Thiên đi đến: “Thiếu phu nhân, để tiểu nhân đi dọn tuyết cho.”

“Đi nhanh đi.” Thanh Duy nói.

Tạ Dung Dữ nắm tay nàng, dắt nàng vào sân. Sáng sớm nay chàng lên triều chầu, đáng nhẽ phải về nha môn nhưng lại ra ngoài vì có công chuyện, tình cờ đi ngang qua Giang gia nên nhân tiện ghé thăm nàng, “Về một lúc rồi ta lại đi.”

“Tiểu Dã.” Tạ Dung Dữ dừng bước, “Sáng nay ta vào cung thỉnh an mẫu thân, mẫu thân ta nói muốn gặp nàng.”

Thanh Duy đang định giao lò sưởi cho Lưu Phương cầm, nhưng chưa kịp thì đã bị lời ấy làm sợ tới mức tay run lên, lò sưởi rơi xuống, cũng may nàng nhanh tay chụp lấy, đoạn nhìn Tạ Dung Dữ, “Trưởng công chúa muốn gặp ta?”

Lần trước gặp Vinh Hoa trưởng công chúa là chuyện ngoài ý muốn, vì nàng tự ý xông vào cung mà thái độ của trưởng công chúa khá nghiêm khắc, hỏi liền mấy câu rất gây sức ép, nàng cảm thấy ấn tượng đầu tiên về mình trong mắt trưởng công chúa đã hỏng.

Thanh Duy căng thẳng: “Tại sao trưởng công chúa lại muốn gặp ta?”

Tạ Dung Dữ cảm thấy buồn cười: “Bà ấy là mẫu thân của ta, còn nàng là nương tử của ta, lẽ nào không nên gặp?”
 
Chương 189


“Đúng là cần gặp, nhưng…” Thanh Duy ngần ngừ, “Ta không biết phải nói gì với trưởng công chúa.”

Nàng có hơi sợ bà ấy.

Tạ Dung Dữ bảo: “Người nhà với nhau thì còn nói gì nữa, nói chuyện trong nhà thôi. Có thể mẫu thân ta sẽ hỏi vài thủ tục nạp thái nạp cát* ở Thần Dương, hoặc là Nhạc tiền bối có ưa thích gì không, tới lúc ấy ta sẽ phụ đỡ nàng.”

(*Nạp thái: Đưa đồ cưới đến nhà gái, nay gọi là “dạm hỏi”; Nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi, nay gọi là “ăn hỏi”.)

Nạp thải nạp cát gì đó, chẳng phải là nghi lễ chỉ có trong lễ cưới thôi sao?

Thanh Duy nói: “Nhưng giờ mà chúng ta cũng cần hỏi mấy chuyện ấy?”

“Chúng ta thì làm sao?” Giọng Tạ Dung Dữ nhiễm ý cười, nắm tay Thanh Duy bóp nhẹ.

Y luôn biết vừa phải, dừng một lúc rồi nói, “Hồi đó hai ta nào dùng tên thật để thành thân, giờ mà tổ chức thì lại khá phiền. Nhưng thể diện cần có vẫn phải có, chí ít cũng phải bù sính lễ cho nàng chứ đúng không?”

Y bật cười, “Mà cũng có phải đi gặp ngay trong hôm nay đâu, độ này mẫu thân ta đang ở trong cung, chưa thể về phủ công chúa.”

Thanh Duy đã có nghe về chuyện này, Hoàng hậu mang thai, chuyện ở hậu cung đành nhờ Vinh Hoa trưởng công chúa giải quyết. Biết có thể kéo dài thêm ít hôm, Thanh Duy thở phào trút được gánh nặng.

Quay về Đông viện, người hầu trong sân đi tới đưa thư, “Bẩm công tử, thư từ Cật Bắc gửi ạ.”

Chữ trong thư khá nguệch ngoạc, mục người nhận đề tên Tạ Dung Dữ, nhưng thư lại gửi thẳng đến Giang gia – xem ra là thư của Nhạc Ngư Thất rồi.

Thanh Duy và Nhạc Ngư Thất chia tay nhau ở Trung Châu, Thanh Duy theo Cố Phùng Âm ra bắc lên kinh, còn Nhạc Ngư Thất chạy đến Cật Bắc điều tra Tào Côn Đức. Từ biệt hai tháng, có lẽ Nhạc Ngư Thất đã hỏi thăm được ít chuyện.

Tạ Dung Dữ đưa thư cho Thanh Duy, Thanh Duy mở ra đọc, “Quả nhiên có tin về Tào Côn Đức.”

“Trong thư nói gì?”

“Chàng còn nhớ vị huynh trưởng ân nhân họ Bàng mà Tào Côn Đức đã gặp khi lưu vong tới Cật Bắc không? Tên họ người này là Bàng Nguyên Chính, không có y thì Tào Côn Đức đã không sống nổi. Sư phụ đã hỏi thăm dân Cật Bắc về người này, nghe một ông cụ ở bên kia bảo, Bàng Nguyên Chính đã mất vào năm Hàm Hòa mười bốn.”

Tạ Dung Dữ nói: “Năm Hàm Hòa mười hai mười ba, ở Cật Bắc xảy ra thiên tai, Đại Chu lâm vào cảnh loạn li, lương thực cứu tế của triều đình cũng như ở châu phủ có hạn, cuộc sống ở Cật Bắc vô cùng cực khổ, thậm chí có cả việc bán con đổi lương thực. Bàng Nguyên Chính mất vì thiên tai à?”

“Đúng thế.” Thanh Duy gật đầu, “Trong thư sư phụ nói, khi Tào Côn Đức bị bán đến Cật Bắc đã được Bàng Nguyên Chính giúp đỡ, sống chung với nhau bảy tám năm như người nhà. Hồi ấy thiên tai hoành hành, đời sống cùng khổ, ba ngày chưa chắc đã có nổi bữa cơm, Bàng Nguyên Chính cảm thấy cứ ở lại Cật Bắc không ổn, bèn nảy ý định rời đi. Lúc ấy y đã thành gia, có vợ và một đứa con trai sáu tuổi, mà vợ lại còn đang mang thai, cho nên y không thể rời đi, quyết định nhường cơ hội ấy cho Tào Côn Đức.

Y thấy Tào Côn Đức từng đọc sách lại còn rất thông minh, chỉ cần có cơ hội, tương lai ắt sẽ làm nên sự nghiệp. Y xin được một suất trong đội xe la rời Cật Bắc, gần như vét hết của cải làm lộ phí cho Tào Côn Đức. Tình hình hồi ấy có thể tóm tắt bằng một câu: rời Cật Bắc thì sống, ở lại thì chết. Hành động đó của Bàng Nguyên Chính đồng nghĩa với việc nhường cơ hội sống cho Tào Côn Đức, Tào Côn Đức mới hứa rằng đợi ông ta lên kinh tìm được lối thoát, chắc chắn sẽ đưa cả nhà Bàng Nguyên Chính thoát khỏi biển khổ.

Nhưng sinh kế gian nan vất vả, Tào Côn Đức mất hẳn hai năm mới đặt chân đến được kinh thành, nhưng khi ấy Bàng Nguyên Chính đã qua đời. Song Tào Côn Đức vẫn chưa biết chuyện, ông ta chỉ có một thân một mình, người ở Cật Bắc muốn viết thư gửi cho ông ta cũng không biết gửi đi đâu, huống hồ về sau ông ta còn vào cung, gần như cắt đứt liên lạc với bên ngoài. Đến tận năm Chiêu Hóa đầu tiên, khi được tấn thăng làm áp ban ở Nội Thị Tỉnh thì ông ta mới có cách gửi thư ra ngoài, nhưng lúc ấy trận chiến sông Trường Độ cũng đã kết thúc từ lâu.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Bàng Nguyên Chính đã qua đời, vậy còn vợ con của y?”

“Sư phụ viết thư nói chuyện này đây. Năm Chiêu Hóa đầu tiên, Tào Côn Đức hay tin Bàng Nguyên Chính qua đời, vì muốn báo đáp ơn tương trợ nên ông ta đã tìm đủ cách nghe ngóng tin tức về vợ con của ân nhân. Vợ con của Bàng Nguyên Chính vẫn còn sống sau trận chiến sông Trường Độ, chỉ là sau đó… không rõ tung tích.”

Không rõ tung tích?

Trực giác mách bảo Tạ Dung Dữ chuyện này khá vô lí, đang định gọi người tới hỏi thì Đức Vinh đi vào Đông viện, nghe thấy chủ tử đang nói chuyện ở Cật Bắc hồi ấy liền lên tiếng: “Sau trận chiến sông Trường Độ, trẻ mồ côi và dân tị nạn ở Cật Bắc nhiều vô số kể, dù triều đình có cứu tế cũng khó sống nổi, may nhờ có nghĩa phụ đến Cật Bắc nêu gương thương nhân nhận nuôi cô nhi.”

Có thể nói đây chính là thành tích đầu tiên sau khi Chiêu Hóa đế lên ngôi, thương nhân nhận nuôi cô nhi, và để báo đáp, triều đình miễn giảm thuế hành thương, khai thông thương lộ từ Cật Bắc đến Trung Nguyên, bấy giờ mới giúp Cật Bắc thoát khỏi cảnh nghèo khó vì thiên tai chiến tranh liên miên.

“Cô nhi được nhận nuôi cũng được xếp thứ tự trước sau.” Đức Vinh nói, ví dụ như hắn và Triêu Thiên chẳng hạn, cha của cả hai là tướng sĩ hi sinh trong chiến trận nên sẽ được ưu tiên chọn trước, thậm chí còn được cho ăn học đàng hoàng, từ bé cả Đức Vinh và Triêu Thiên đều có thầy dạy viết chữ, thấy Triêu Thiên thích tập võ, Cố Phùng Âm còn mời cả sư phụ tới dạy. Mà trái lại, cùng là cô nhi nhưng nếu là dân tị nạn, dù được nhận nuôi thì cũng chắc khác gì con ở kẻ hầu, “Mới rồi công tử và thiếu phu nhân nói đến ba người mẹ con Bàng gia đúng không, nếu không tìm được tung tích của bọn họ ở Cật Bắc, vậy có lẽ là được nhà giàu nào đó mua về rồi, thiếu phu nhân có thể nhờ Nhạc tiền bối đến những nơi giàu có như Trung Châu hay Khánh Minh hỏi thăm thử.”

“Trong thư sư phụ cũng nói thế, bây giờ ông ấy đã về Trung Châu, nói là sẽ nhân tiện điều tra chim cắt mà ta thấy ở Trung Châu ngày trước, sư phụ còn nói…” Thanh Duy đang đọc thư, nhưng đọc đến hai dòng cuối cùng thì khựng lại.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Sao vậy?”

Thanh Duy siết chặt bức thư, một lúc lâu sau mới lắc đầu: “Không có gì.”

Tạ Dung Dữ với tay lấy thư đọc một lượt, đúng là không có gì thật, Nhạc Ngư Thất nói con chim cắt bay từ kinh thành đến Trung Châu được nuôi trong một nhà giàu, cụ thể là ngõ Lưu Hoa thành Giang Lưu, theo manh mối này thì dường như chẳng liên quan đến Tào Côn Đức.

Tuy Tạ Dung Dữ là người Trung Châu nhưng y sinh ở kinh thành, cũng lớn lên tại kinh thành, không quá quen thuộc Giang Lưu. Đang định cho người đi thăm dò thì một Huyền Ưng vệ ở bên ngoài hớt hải chạy vào bẩm báo: “Nguy rồi Ngu hầu, bên phố Chu Tước đã xảy ra chuyện!”

“Sáng nay Lâm Đại thiếu gia nhà Thái bộc tự ra cửa hốt thuốc, ai dè va phải sĩ tử biểu tình, có sĩ tử nhận ra cậu ấy, hai bên lời qua tiếng lại rồi lao vào đánh nhau, hiện giờ cả con phố ùn tắc rất đông, à phải rồi, cả Khúc Ngũ công tử cũng đi cùng…”

Khúc Bất Duy bị hoạch tội, toàn bộ đại quan có dính dáng đến ông ta đều bị tống vào thiên lao, bao gồm Lâm Thiếu khanh của Thái bộc tự. Vụ án mua bán danh sách đã gây nên sóng to gió lớn trong giới nhân sĩ, lửa giận không chỗ ph.át tiết trút lên triều đình, trút lên đầu người nhà thân quyến của các đại quan ngồi tù. Lâm Thiếu khanh vừa vào ngục, phu nhân Tần thị ngã bệnh, Lâm Đại thiếu gia muốn ra ngoài hốt thuốc cho mẫu thân, nhưng ngày nào sĩ tử cũng biểu tình gây chuyện, hắn như con chuột luồn lách trên phố, mỗi một bước ra cửa đều khó vô cùng. Nhưng khi thấy mẫu thân ngày một bệnh nặng, hắn đành năn nỉ Khúc Mậu đi cùng, xin Khúc Mậu niệm tình chơi bời ngày xưa, theo hắn đến hiệu thuốc. Hắn nghĩ bụng, dù gì Khúc Mậu cũng đã lập công vì triều đình, ắt bọn sĩ tử sẽ nể mặt hắn ta.

Tạ Dung Dữ nhíu mày: “Kinh Triệu Phủ và Tuần Kiểm Ti đâu?”

“Sĩ tử quá đông, gây mất trật tự hỗn loạn, bách tính bên đường cũng bị cuốn vào, Kinh Triệu Phủ và Tuần Kiểm Ti ra sức ngăn cản nhưng vẫn ngoài tầm kiểm soát, hiện giờ Kinh  Triệu Phủ đã cho người vào cung mời Cấm vệ quân, song chưa rõ có người chết không…”

Nghe thấy thế, Tạ Dung Dữ lập tức bước nhanh ra khỏi phủ.

***

Trên đường Chu Tước la hét ầm ĩ.

Xung quanh hiệu thuốc nháo nhào hết lên, không biết ai là bên khởi xướng mâu thuẫn trước, người bị cuốn vào gần như bị nhấn chìm trong đám đông lôi kéo, phải gắng sức lắm mới không để bị giẫm đạp. Hắn nhớ mang máng dường như có người nhận ra đầu sỏ trong vụ án, tên là Lâm gì đó, rồi người kia lời qua tiếng lại, cuối cùng thành ra thế này. Người nào người nấy phẫn nộ hằm hằm, hận không thể đích thân ra tay trừng trị thân quyến của đám ác độc nọ, cứ như thể chính bọn họ đã tước đoạt đi cơ hội công bằng. Thế rồi đám đông mất khống chế, kéo nhau chen chúc trước hiệu thuốc. Người bị kẹt bên trong cảm nhận rõ ràng dưới chân có người, hắn nghe thấy tiếng r.ên rỉ la đau, hắn rất muốn cúi xuống kéo người ấy, nhưng hắn không thể, bởi một khi thả lỏng, hắn tất sẽ bị bị đám đông nuốt trọn.

Rồi đột nhiên, hắn nghe được tiếng vó ngựa, dường như cuối cùng cũng có người lao vào ngõ, xua tản đám đông. Mũi tên của Điện Tiền Ti mặc giáp bạc đội mũ sắt ép đám đông phải tách ra, trước khi hắn sắp đứt hơi, người của Điện Tiền Ti đã nắm chặt tay hắn kéo hắn ra khỏi đám người, sau đó nhận ra hắn: “Vưu Thiệu?”

Vết thương trên người Vưu Thiệu vẫn chưa lành hẳn, bấy giờ đã kiệt sức hoàn toàn, song hắn chẳng buồn quan tâm, vội vã chỉ vào hiệu thuốc, “Nhanh, nhanh cứu Ngũ gia, Ngũ gia còn ở trong đó.”

Bao nhiêu là người chen chúc nhau trong hiệu thuốc. Chủ tiệm khép cửa muộn, tủ thuốc bị đập nát chưa nói, tệ hơn là đã có người chết. Điện Tiền Ti lập tức chen tới, tới khi xua được người bên trong ra thì đã có hai người chết – một là tiểu nhị hiệu thuốc, hai là một người phụ nữ đến lấy thuốc. Thiếu gia nhà họ Lâm may mà vẫn còn thở, song chẳng khá hơn được là bao, người ngợm dính đầy máu do trầy xước, quần áo rách nát, trên trán sưng vù một cục, nằm bất tỉnh từ nãy đến giờ.

Cấm vệ quân cứu Vưu Thiệu nheo mắt nhìn, chợt thấy trong góc có một cái sọt thuốc lớn lật úp trên mặt đất, hình như bên trong có người ngọ nguậy. Hắn ta đi tới giở sọt thuốc lên, quả nhiên là Khúc Mậu.

Khúc Mậu thế mà gặp may, trước khi đám đông ập đến thì hắn đã chui vào sọt thuốc trong góc, nhờ đấy mới bảo vệ được tính mạng. Trên người hắn cũng bị bầm tím, một khắc ngạt thở vừa rồi khiến hắn cứ tưởng mình sẽ chết tại đây.

“Ngũ, Ngũ gia ngài không sao chứ?” Vưu Thiệu chạy vào hiệu thuốc.

Khúc Mậu lắc đầu, còn chưa mở miệng thì thấy có người khiêng thi thể của tiểu nhị và người phụ nữ đi qua, theo sau chính là Lâm thiếu gia. Dạ dày nôn nao, Khúc Mậu suýt đã nôn tại chỗ.

Đây không phải lần đầu tiên hắn thấy thi thể, hồi ở mỏ Chi Khê hắn còn chứng kiến cảnh tượng kinh khủng hơn nhiều, ấy thế mà không lần nào ghê rợn bằng cảnh hôm nay.

Thật ra Khúc Mậu đâu thân thiết với Lâm Đại thiếu gia, cùng lắm cũng chỉ là bạn nhậu. Nhưng sáng nay khi hắn ta tới năn nỉ, nghĩ thế nào hắn lại đồng ý.

“Đình Lam, ta xin ngươi đấy, mẫu thân ta mà không có thuốc nữa thì mất mạng mất.”

“Đình Lam, ngươi là người duy nhất có thể giúp được ta, chỉ một lần này thôi, ngươi đi lấy thuốc với ta, lỡ mà gặp ai, nhờ ngươi phủ nhận vụ án này không liên quan đến ta là được.”

Từ sau khi hồi kinh, Khúc Mậu đã đóng cửa nhiều ngày liền.

Hắn vốn chẳng muốn gặp bất kì ai.

Nhưng hắn nghĩ, Lâm Thiếu Khanh của Thái bộc tự bị cha hắn làm liên đới, mà cha hắn lại bị chính hắn đưa vào tù, cho nên trong chuyện này hắn nhất định phải giúp.

Nào ngờ mới đến hiệu thuốc, đám đông sĩ tử vừa thấy hai người thì như điên lên, liên tục chất vấn về vụ án, chất vấn bọn họ vì sao lại nối áo cho giặc, mấy trăm người mất mạng dưới núi Trúc Cố phải thì tính thế nào. Dẫu Lâm thiếu gia quả quyết giải thích chuyện đó không liên quan tới bọn họ, nhưng toán sĩ tử vẫn bất chấp lao tới.

“Đều là lỗi của các ngươi!”

“Chính các ngươi đã hại chết bọn họ!”

Bao lời chất vấn tựa như ma âm, đến giờ vẫn còn văng vẳng bên tai.

Cấm vệ quân thấy Khúc Mậu tái mặt thì gọi vệ binh tới dặn dò vài câu, dẫn Khúc Mậu ra sân sau hiệu thuốc, bước vào một căn dược phòng, “Xin Khúc Hiệu úy tạm thời nghỉ ngơi tại đây, đại phụ khám bệnh trong tiệm đã bị thương, để tại hạ cho người đi mời đại phu ở chỗ khác.” Đằng trước còn rất nhiều chuyện cần giải quyết, Cấm vệ quân nói xong bèn nhấc chân rời đi.

Khúc Mậu mất hồn ngồi xếp bằng, thấy Cấm vệ quân toan đi thì vội vàng chụp cổ tay hắn lại, lắp bắp hỏi: “Tại sao, bọn họ lại, hận ta như thế?”

“Ta và họ không thù không oán, sao họ lại căm hận ta đến vậy?”
 
Chương 190


Nhắc đến chuyện này lại chẳng biết nói sao.

Dù rằng máu chảy lênh láng khắp núi Trúc Cố, nhưng nội tình vụ án vẫn đang được điều tra, ấy vậy mà bên ngoài đồn đại biết bao nhiêu điều, sĩ tử bách tính nổi cơn thịnh nộ là chuyện dễ hiểu, triều đình cũng khó áp chế.

Cấm vệ quân không biết trả lời ra sao, đành khuyên nhủ Khúc Mậu: “Yên tâm chớ nóng ruột.” Rồi ào chạy ra ngoài.

Khúc Mậu ngơ ngác ngồi trong phòng thuốc, một lúc sau chợt nghe thấy tiếng cãi cọ đinh tai ngoài kia. Tạp âm từ xa lọt vào tai y hệt những lời chất vấn của sĩ tử trước đó, khiến Khúc Mậu cảm thấy sợ hãi đang xen hốt hoảng. Nhưng trải qua chuyện này, dường như hắn đã biết lửa giận của họ từ đâu mà thành, những suy đoán trong lòng như sợi dây thừng kéo hắn bước ra sân.

May mắn có tấm rèm che ngăn cách hiệu thuốc với bên ngoài, hắn có thể nhìn ra rõ ràng, song người ngoài kia lại không trông thấy hắn.

Đám đông đã được giải tán, nhưng mầm họa hôm nay vẫn chưa được giải quyết, bởi lẽ chẳng có kẻ đầu sỏ. Kinh triệu phủ doãn mới tới được một khắc, ra lệnh bắt lấy những sĩ tử cầm đầu biểu tình và người học trò đã động thủ với Lâm thiếu gia. Phần đa bọn họ đều là những người đã đậu kì thi Hương, lên kinh thành chờ đến hội thi năm sau, đương lúc sĩ khí sôi trào, nghe thấy phủ doãn quát nạt thì bực tức bật lại: “Vì sao ta không thể đánh chúng! Cha bọn chúng mua bán danh ngạch Tiển Khâm Đài, diệt khẩu biết bao nhiêu người? Bọn chúng không biết thì không có tội, vậy lẽ nào sơn tặc núi Trúc Cố có tội?!”

“Vì sao Tiển Khâm Đài lại sập, vốn dĩ là tòa tháp tượng trưng cho lòng kiên trung son sắt, nhưng chỉ vì ha.m muốn cá nhân của bọn chúng mà đã bị vấy bẩn, đấy là trời phạt!”

“Nghe nói có một sĩ tử họ Từ biết được chân tướng, từ chối bước lên Tiển Khâm Đài, lên kinh cáo ngự trạng, nào ngờ giữa chừng lại bị Khúc tặc truy đuổi hạt chết ở vùng đồng hoang mông quạnh, lẽ nào triều đình định nhân nhượng kẻ ác, không cho bọn ta được minh oan?!”

Từng câu từng chữ bọn họ thốt lên tựa những hòn đá chọi vào tim Khúc Mậu, thể như vụ nổ ở núi Chi Khê hôm nao vẫn chưa hẳn biến mất, mãi tận hôm nay làn sóng nhiệt mới ập về phía hắn, đập tan ý chí thành từng mảnh.

Đúng lúc này có một văn sĩ mặc lan sam, hai mắt cáo chen qua đám đông, chắp tay vái lạy phủ doãn.

Khúc Mậu nhận ra người đó – dường như ông là một trong những kẻ cầm đầu sĩ tử biểu tình, mọi người gọi ông ta là Thái tiên sinh, ban nãy khi có sĩ tử quá tức giận mà ném cán cân sách vở về phía họ, vị Thái tiên sinh này cũng thờ ơ đứng ngoài nhìn, như thể đang nhìn một món đồ rẻ mạt.

Thái tiên sinh cất tiếng: “Bẩm đại nhân, chuyện ngày hôm nay là lỗi của thảo dân. Thảo dân vô năng khiến sự tình mất kiểm soát, cuốn cả dân chúng vô tội vào, làm hai người mất mạng. Nếu triều đình muốn vấn tội, thảo dân cam tâm lĩnh phạt…”

Ông ta vừa dứt lời, trong nhân sĩ có kẻ cao giọng, “Thái tiên sinh sai ở đâu, cớ gì phải lãnh phạt”, “Đúng vậy, có phải Thái tiên sinh muốn giết người đâu, nếu triều đình muốn truy cứu thì cũng phải phạt cả thiếu gia nhà họ Lâm và họ Khúc”.

Thái tiên sinh giơ ta, chặn lại những lời dị nghị, “Nếu triều đình muốn vấn tội, thảo dân tuyệt đối không phàn nàn một lời, nhưng! Thảo thân tuyệt đối không thừa nhận hôm nay chúng thảo dân đã làm sai, Khúc Bất Duy mua bán danh sách, lạm sát người vô tội là phạm phải tội ác tày đình, mong triều đình nghiêm trị không tha!”

“Khúc tặc tội đại ác, mong triều đình nghiêm trị không tha!”

“Khúc tặc tội đại ác, mong triều đình nghiêm trị không tha!”

Những tiếng hô vang của sĩ tử khác nào ma âm rót vào tai Khúc Mậu, đẩy hắn loạng choạng bước lùi về sau. Ánh nắng quang đãng sau trận tuyết rơi hắt lên người hắn, khiến hắn cảm thấy không còn chỗ lẩn tránh. Hắn muốn vắt óc biện hộ cho phụ thân, nhưng lại phát hiện đến một cái cớ đàng hoàng cũng không thể nghĩ ra.

Ngay lúc này, hắn nghĩ đến một người.

Bao năm qua mỗi lần gặp chuyện khó khăn, Khúc Mậu cũng luôn nghĩ đến người ấy, chẳng qua “chuyện khó khăn” hồi trước chỉ là quên đem bạc lúc hái hoa ngắt bướm, hoặc tự dưng gây chuyện không biết gỡ rối thế nào, còn bây giờ, hắn thực sự đã lâm vào đường cùng.

Hắn chụp lấy cánh tay Vưu Thiệu, hốt hoảng nói: “Nhanh lên, mau đi tìm hắn cho ta, ta muốn gặp hắn!”

Và trời xanh như nghe được tiếng hắn, chẳng mấy chốc, một bóng người mặc đồ đen xuất hiện trước hiệu thuốc. Giang gia nằm khá xa phố Chu Tước, lúc Tạ Dung Dữ đến, Kinh triệu phủ doãn đã xoa dịu tâm trạng của đám đông sĩ tử, Tạ Dung Dữ đang định hỏi phủ doãn đầu đuôi sự việc thì tấm rèm trong tiệm được vén lên, Vưu Thiệu cúi đầu đứng thẳng, nhỏ giọng gọi: “Điện hạ.”

Tạ Dung Dữ bừng hiểu, dặn dò phủ doãn vài câu rồi theo Vưu Thiệu đi tới sân sau.

Tuyết đọng trong sân vẫn chưa được quét tước, Khúc Mậu mệt mỏi ngồi sõng soài dưới đất, biết Tạ Dung Dữ tới mà chẳng buồn ngẩng đầu, nắng chiếu nhẹ nhưng không cách nào xua tan sương mù trong mắt. Một lúc sau, Khúc Mậu mới cất tiếng: “Cha ta ông ấy, có phải đã hại chết rất nhiều người không?”

Tạ Dung Dữ không đáp.

Nếu hắn đã hỏi câu đó thì chứng tỏ hắn đã biết đáp án.

Khúc Mậu uể oải nói: “Ta không hiểu. Không phải nói cha ta ăn gian danh sách Tiển Khâm Đài sao, nhưng chuyện ấy liên quan gì đến giết người? Ăn gian là không đúng, bán nó đổi tiền là của bất nghĩa, ta biết chứ, ta bồi thường thay ông ấy không được ư… Những ngày qua, ta đã quyên góp tiền bạc, bán hết bảo bối mà ta vất vả sưu tầm. Cậu có biết… ta có một miếng ngọc như ý màu đồng thau ở Cổ Việt, ta thích lắm… nhưng ta vẫn đem đến cửa tiệm cầm ba nghìn lượng. Thế mà… Thế mà bọn họ nói, đền bạc vẫn không đủ, có đền gấp ba cũng không cứu được cha ta, vì cha ta đã hại chết người.”

Miếng ngọc như ý của Khúc Mậu có thể nói là cổ phẩm vô giá, nếu thật sự đem đi bán chí ít cũng phải hơn mười nghìn lượng.

Ba nghìn lượng, quả đúng là bán rẻ.

Thực ra những Khúc Mậu cũng đã hỏi Tạ Dung Dữ những câu đó một lần khi ở trên đường hồi kinh, song lúc ấy là vừa hay tin dữ trong kinh, hắn hỏi chỉ với mục đích trút giận, lời người ngoài nói cũng xem như gió thổi bên tai.

Nhưng Tạ Dung Dữ biết, lần này hắn đã thật sự nghiêm túc lắng nghe.

Thế là y kiên nhẫn giải thích: “Trước khi Tiển Khâm Đài được xây xong, Hầu gia đã bán đi mấy suất lên đài, sau đó Tiển Khâm Đài sập, giấc mơ một bước lên mây của những người mua cũng hóa thành bọt biển, Hầu gia sợ bọn họ hoặc người nhà của họ kéo tới cửa, cho nên để che giấu chuyện xấu đó, ông ấy đã giết không ít người.”

Khúc Mậu há miệng, hắn vẫn mặc áo lam, song đôi mắt chưa bao giờ lặng im đến thế, “Ta biết mà, ta đã đến núi Trúc Cố ở Thượng Khê, nghe nói sơn tặc ở ngọn núi đó, chỉ vì giúp cha ta bán danh sách… mà về sau đã bị diệt khẩu.”

Hắn chỉ hồ đồ chứ nào có ngốc, có vài việc chỉ cần chịu động não, hắn ắt có thể nghĩ ra.

Cuối cùng giờ đây hắn đã vỡ lẽ, hóa ra ban đầu không phải tình cờ mà Khúc Bất Duy xin Hoàng đế cho hắn đến Thượng Khê.

“Rồi còn một thư sinh họ Từ ở Lăng Xuyên nữa, y muốn lên kinh cáo trạng tội của cha ta, nhưng đã bị diệt khẩu trên đường đi. Nghe bảo người nhà y đã chết cả, có một kĩ nữ si tình với y đã tìm kiếm rất nhiều năm, nhưng vẫn không tìm được.”

Khúc Mậu hỏi: “Đó là nguyên nhân vì sao sĩ tử ngoài kia căm hận ta đến thế?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Hiện tại chân tướng vẫn chưa được làm rõ, nhưng mua bán danh sách quả là tội ác đầy bất bình, huống hồ còn liên quan đến cả tính mạng, dân chúng nổi giận là điều dễ hiểu, triều đình cũng không thể trấn an, muốn giải quyết rắc rối thì chỉ có cách truy rõ chân tướng.”

Lúc này Khúc Mậu mới ngẩng đầu nhìn y: “Truy rõ chân tướng. Đây là chuyện mà từ đó tới giờ cậu vẫn đang làm?”

Tạ Dung Dữ khẽ gật đầu.

Khúc Mậu lại im lặng một lúc rất lâu, “Vậy cha ta, có phải sẽ lên đoạn đầu đài không?”

“… Chắc chắn.”

“Dù ta có làm gì cũng vô dụng?”

“Tội không thể tha.”

Nước mắt chợt lăn xuống, Khúc Mậu ngồi trên nền tuyết, cố gắng kìm nén dòng lệ nhưng chẳng thành, hắn khóc nấc nói: “Thực ra cha ta ông ấy… đối xử rất tốt với ta, tốt vô cùng.”

Khúc Mậu cũng biết tội lỗi mà Khúc Bất Duy đã phạm phải nặng đến mức nào.

Chẳng qua ban đầu hắn không cách nào tiếp nhận được, nên mới cố ý ôm hết trách nhiệm vào mình, cho rằng mình đã hại phụ thân.

Thậm chí hắn cũng biết Khúc Bất Duy sa vào cảnh ngộ ấy cũng không phải lỗi của Tạ Dung Dữ, dẫu Tạ Dung Dữ không điều tra vụ án này thì vẫn sẽ có người khác mà thôi, bởi lẽ đã có quá nhiều oan khuất bất công bị chôn vùi bên dưới.

“Sau khi hồi kinh, ta có nhờ quan hệ để vào tù thăm cha. Ta muốn dập đầu nhận lỗi với cha, nhưng cha không trách ta, ông ấy không cho ta quỳ, còn ép ta phải vạch rõ giới hạn với ông ấy, bảo ta nói với triều đình từ rày trở đi sẽ không nhận ông ấy làm cha nữa… Nhưng, ta sao làm nổi… Cha ta ông ấy, vẫn đối xử với ta rất tốt, tốt vô cùng.”

Khúc Mậu từ từ lấy lại bình tĩnh, giơ tay áo gạt lệ, “Thanh Chấp, ta không muốn ở lại kinh thành này nữa.”

“Ta muốn đi tìm Chương Lan Nhược.” Hắn nói, “Lúc ở Lăng Xuyên, Chương Lan Nhược đã hỏi ta, nếu có một ngày những điều ta cho là đúng thực ra đều là sai, người ta tin tưởng nhất làm chuyện không thể tha thứ thì ta sẽ làm gì?”

Lúc ấy hắn còn thơ ờ mà đáp dù Khúc Bất Duy bị triều đình trị tội thật, thì khi gặp ông ấy, hắn vẫn sẽ dập đầu trước ông ấy mà thôi.

Nhưng đến hôm nay khi hắn tới trước cửa ngục nhốt Khúc Bất Duy, phụ thân hắn lại không cho phép hắn dập đầu.

Và khi hắn biết hết chân tướng sự thật, cũng chẳng còn dũng khí phục lạy.

Bởi nếu hắn quỳ gối, tức là quỳ trên xương khô của những người chết oan.

“Ta cảm thấy lúc Chương Lan Nhược hỏi ta câu đó, hắn đã biết đáp án rồi. Cho nên hắn mới có thể liều mạng giành lấy bằng chứng lại như vậy. Ta muốn tới Lăng Xuyên, đợi hắn tỉnh, sẽ hỏi hắn câu trả lời của hắn là gì.”

Tuy Khúc Mậu có công nhưng dẫu sao cũng là con trai của trọng phạm, với thân phận ấy khó mà rời đi, song Tạ Dung Dữ vẫn đồng ý, “Ta sẽ cho người đưa huynh đến Lăng Xuyên.”

Khúc Mậu đứng lên, nhìn thẳng vào Tạ Dung Dữ, “Tạ Thanh Chấp, trước kia ta cho rằng mình rất hiểu cậu, nhưng đến bây giờ ta mới nhận ra, vốn dĩ ta chẳng nhìn thấu cậu là người thế nào. Năm Chiêu Hóa thứ mười bốn, khi cậu đeo mặt nạ đứng trước mặt ta nói mình là Giang Tử Lăng, rốt cuộc cậu đã nghĩ gì.”

Hôm ấy cũng là một ngày đầu đông giá rét tuyết phất phơ, Tiểu Chiêu vương đang bệnh đeo mặt nạ đi trong ngõ Lưu Thủy, nghe nói đây là nơi mà con em thế gia trong kinh thích lui tới nhất, nhưng với y đó chỉ là cảnh phố phường xa lạ, ánh nắng trên cao khiến y thất thần, để rồi bất cẩn va phải vị công tử áo lam đã ngà say.

Công tử áo lam thấy y đeo mặt nạ, giơ tay chỉ vào y, “Ngươi là cái gã Giang, Giang…”

Tạ Dung Dữ không muốn làm Chiêu vương trong thâm cung, ma xui quỷ khiến lại đáp là: “Giang Tử Lăng.”

Khúc Mậu bước tới vỗ vào vai y, “Ta biết ngươi mà, sao rồi, dưỡng thương đỡ chưa? Lại đây lại đây, uống rượu nào.” Rồi kéo y vào Minh Nguyệt Lâu ở đối diện.

Tuy đeo mặt nạ, nhưng khí chất phong thái của y chẳng thuyên giảm.

Ngày hôm ấy,các cô nương ở Minh Nguyệt Lâu như phát điên lên, nhất trí cho rằng Khúc Mậu đã phỉnh được một tiên nhân giáng trần. Thực tế Khúc Mậu chẳng qua thân thiết với Giang Từ Chu thật, mấy lần về sau kéo Tạ Dung Dữ đi uống rượu cũng chỉ vì một lí do – chỉ khi có y thì những cô nương hồng bài mới chịu ló mặt.

Rồi dần dà không hiểu sao mà cả hai lại thân nhau hơn. Khúc Mậu cảm thấy Giang Từ Chu đối xử với mình rất khác. Xung quanh hắn, nếu không phải công tử bột dăm ba bữa tìm hoa vấn liễu thì cũng là những kẻ có học kênh kiệu coi thường hắn, hắn có cảm giác khắp cái kinh thành này, người thành tâm thành ý kết bạn với hắn, không chỉ xem hắn là phường bạn nhậu, cũng không khinh thường hắn, chỉ có một mình Giang Từ Chu. Đến nỗi hồi ấy hắn còn thất vọng là vì sao mười mấy năm trước, khi hắn kết bạn với quyền quý trong kinh thì lại bỏ sót Giang Tử Lăng.

Mãi về sau hắn mới phát hiện, Giang Tử Lăng đã mất từ lâu, người bên cạnh hắn tháo mặt nạ ra, lại chính là Tiểu Chiêu vương sống trong thâm cung, thanh danh vang khắp chốn kinh thành.

Khúc Mậu hỏi: “Tại sao người như cậu lại chịu kết bạn với một đứa phế vật dốt nát kém cỏi như ta? Là vì ngày nào cũng đi với ta thì người khác mới tin cậu là Giang Tử Lăng?”

Tạ Dung Dữ đáp: “Không phải.”

“Vì trong một thời gian rất dài, chính ta cũng không biết mình là ai.”

Rốt cuộc là tiểu công tử Tạ gia tiêu dao tự tại như hi vọng của Tạ Trinh, hay là vị Chiêu vương làm người thanh liêm như Chiêu Hóa đế mong đợi. Trên lưng y đeo gánh nặng mang tên Tiển Khâm Đài, đeo cả kì vọng của tiên đế lẫn các lão thần, ngày qua ngày bị vùi lấp trong chốn thâm công, Sâu thẳm trong y đã bị xiềng xích trói buộc, ngay cả những kí ức thời thơ ấu cũng trở nên nhạt nhòa. Năm Chiêu Hóa thứ mười hai là lần đầu tiên y rời kinh, dẫu chỉ là đến núi Bách Dương giám sát tiến độ xây dựng, nhưng y cảm thấy mình thích cuộc sống tự do ở ngoài cung hơn. Tạ Dung Dữ định bụng, đợi bao giờ Tiển Khâm Đài xây xong sẽ xin Chiêu Hóa đế được đi xa đây đó. Bao năm qua y luôn sống vì kì vọng của người khác, y muốn rời đi, muốn tìm hiểu rốt cuộc bản thân là người thế nào, đi tìm xem mình thích gì, ghét gì. Ấy vậy mà Tiển Khâm Đài lại sập, khiến y bị mắc kẹt trong một cơn ác mộng khác không cách nào thoát ra. Mãi tới lúc đeo mặt nạ lên.

Có thể gặp được Khúc Mậu ở trên đường ngày hôm đó chính là duyên phận.

Từ trước đến nay y chưa tiếp xúc với con cháu thế gia nào lại bất học vô tài như thế, thân lắm cũng chỉ làm bạn với Triệu Sơ. Nhìn Khúc Mậu thoải mái cười, tùy ý giận, ngây ngô song rất chân thành, không cậy thế cậy quyền mà cũng chẳng khinh ai, y thế mà lại đâm lòng hâm mộ.

Cuộc hành trình đi xa của y đã vỡ vụn dưới tòa tháp sập, ngồi thuyền trên sông tựa như một giấc chiêm bao, y mong muốn có thể tìm về.

“Kết bạn với huynh là vì huynh rất chân thành, huynh luôn là chính mình, chưa từng giấu giếm.” Tạ Dung Dữ nói, “Đó là điều mà lúc ấy ta không làm nổi.”

Cho nên y chưa bao giờ coi thường hắn.

Khúc Mậu luôn nói bản thân là phế vật, nhưng trên đời này nào có phế vật thật sự, bất cứ ai cũng có ưu điểm mà người khác không thể sánh được.

Nghe lời ấy, Khúc Mậu chợt bật cười, là nụ cười thật lòng đầu tiên trong nhiều ngày qua. Có lẽ cảm thấy tình nghĩa huynh đệ của mình mấy năm qua cũng không uổng phí.

Nhưng nghĩ tới phụ thân, tâm trạng lại ủ dột.

Hắn nói: “Nếu thuận lợi, sáng mai ta sẽ đi Lăng Xuyên luôn. Nếu… Nếu ta không trở kịp về tiễn biệt cha, cậu nhớ để ông ấy được ra đi dễ chịu chút, coi như… coi như tẫn hiếu giúp ta.”

Tạ Dung Dữ gật đầu đáp: “Được.”

“Còn có thứ này.”

Khúc Mậu đã đứng trong tuyết rất lâu, tay chân tê dại vì cóng lạnh, thò vào tay áo, mò mẫm mãi mới lôi ra được một tờ giấy, “Hồi trước ở Đông An có mấy gia tướng đến tìm ta, nói Phong thúc tự ý điều binh là trái lệnh triều đình, nên nhờ ta điểm chỉ vào một tờ lệnh điều binh cho Phong thúc. Sau đó ta đến Chi Khê, dọc đường gặp được Chương Lan Nhược, hắn có nhắc nhở ta, nói lệnh điều binh đó có vấn đề, nên khi đi ngang qua lều của Phong thúc, ta đã tiện ta lấy lại tờ quân lệnh, định đợi hồi kinh sẽ hỏi cha. Vốn dĩ ta cũng không nghĩ nhiều, nhưng sau đó mỏ núi Chi Khê nổ, trước khi hôn mê Chương Lan Nhược lại nhắc nhở ta rằng tờ lệnh điều binh rất kì lạ, ta phải cẩn thận. Cha đã bị đày vào thiên lao, sau khi hồi kinh ta không dám tin tưởng bất cứ người nào, giấu tiệt đi không nói với ai. Nhưng giờ vô ích rồi, dù gì ta cũng không cứu được cha, cho cậu tờ lệnh điều binh đấy, cậu xem nó có hữu dụng gì không.”

Khúc Mậu giao lệnh điều binh có dấu điểm chỉ của mình cho Tạ Dung Dữ, dừng một lúc rồi nói: “Bảo trọng.” Đoạn, hắn dẫn Vưu Thiệu rời đi.
 
Chương 191


“… Nếu mạt tướng đoán không sai thì chắc chắn vì tờ lệnh điều binh này nên Khúc Bất Duy mới không khai ra Chương Hạc Thư.”

Sau hai ngày, Vệ Quyết kết thúc cuộc điều tra ngầm, trở về Huyền Ưng Ti trình bẩm với Tạ Dung Dữ.

“Chương Hạc Thư đã lợi dụng tờ lệnh điều binh, đổ tội Phong Nguyên tự ý điều binh lên đầu Khúc Mậu. Một khi Chương Hạc Thư lấy ra tờ giấy lệnh, Khúc Mậu sẽ từ hạ thần có công biến thành đồng lõa với Khúc Bất Duy, cha con một nhà Hầu phủ ắt bị trị tội, người trong Hầu phủ cũng không một ai thoát nạn. Khúc Bất Duy không muốn làm hại người nhà nên mới không khai ra Chương Hạc Thư.”

Kỳ Minh mới bảo: “Vậy để Vệ Chưởng sứ nói cho Khúc Bất Duy biết là chúng ta đã đưa Khúc Hiệu úy rời thành bình an, chỉ cần ông ta khai ra Chương Hạc Thư, chúng ta nhất định sẽ tìm cách giữ Hầu phủ được bình an.”

“Nói rồi, nhưng cũng chẳng có mấy tác dụng.” Vệ Quyết đáp, “Lệnh điều binh rất khó làm giả, chỉ cần Khúc Mậu đã điểm chỉ thì đấy chính là bằng chứng khó chối cãi. Dù Huyền Ưng Ti tin tưởng Khúc Mậu thì tam ti vẫn dựa vào bằng chứng để phá án, huống hồ trên triều còn có biết bao con mắt đang nhìn chằm chặp, nên vẫn là câu nói ấy, đối với Khúc Bất Duy, quyết chết không khai ra Chương Hạc Thư mới là biện pháp tốt nhất bảo vệ Khúc Mậu.”

Nói đoạn, hắn dừng một lúc, “Hay là, điện hạ có thể ăn miếng trả miếng, dùng tờ lệnh điều binh này uy hiếp Khúc Bất Duy, buộc ông ta khai ra Chương Hạc Thư, bằng không sẽ công khai nó. Nhưng mạt tướng cho rằng Khúc Bất Duy sẽ không bị điện hạ uy hiếp, ông ta không ngốc, ông ta biết điện hạ sẽ không mạo hiểm tính mạng của Khúc Mậu.”

Tạ Dung Dữ nói: “Ta nhớ cần thông qua rất nhiều quy trình mới xin được lệnh điều binh. Phong Nguyên lấy lí do điều tra danh sách mỏ khoáng để đến Lăng Xuyên, nếu không động đao gươm thì xin lệnh điều binh làm gì, Xu Mật Viện cũng chưa chắc đã phê duyệt. Nhưng, Chương Hạc Thư muốn đảm bảo có được lệnh điều binh này, xem ra đã có người của ông ta hỗ trợ. Đã điều tra là ai ở Xu Mật Viện hỗ trợ phê duyệt lệnh điều binh chưa?”

“Bẩm điện hạ, đã tra rồi, chính là Nhan đại nhân Nhan Vu ở Xu Mật Viện.”

Nhan Vu?

Tạ Dung Dữ không có nhiều ấn tượng về người này, chỉ nhớ gã là trưởng quan Xu Mật Viện, bình thường không có nhiều tiếp xúc với Chương Hạc Thư. Nhưng gần đây trong thời gian Chương Hạc Thư được cho “nghỉ”, gã là một trong số ít những người không ngoảnh mặt quay lưng với ông ta, thậm chí còn tới cửa viếng thăm một lần.

“Bắt kẻ này lại.” Tạ Dung Dữ nói.

“Ai, Nhan Vu ư?”

Các Huyền Ưng vệ chấn động.

Vệ Quyết nói: “Nhưng Nhan Vu làm việc theo quy trình, Huyền Ưng Ti không có đủ lí do để bắt hắn.”

Tạ Dung Dữ nói: “Không cần tìm lí do, cứ lấy cớ đi.” Y nghĩ ngợi, “Cứ nói lời khai của Phong Nguyên có dính dáng tới Nhan Vu, mời hắn đến nha môn hỏi chuyện.”

Còn sau khi tới nha môn, vì sao bắt người lại thì đợi sau hẵng nghĩ.

Nhờ có tờ lệnh điều binh của Khúc Mậu mà mọi người đã điều tra được sâu thêm. Chương Hạc Thư dám dùng Nhan Vu vào chi tiết mấu chốt quan trọng đó, bằng trực giác Tạ Dung Dữ cảm thấy chỉ cần cạy được miệng Nhan Vu thì Chương Hạc Thư có chạy đằng trời.

Huyền Ưng vệ được điều động ngay trong đêm, như cơn gió lốc lặng thầm quét qua kinh thành.

Cũng may Khúc Mậu chưa kể với ai về tờ lệnh điều binh mà mình đã lén giấu đi. Huyền Ưng Ti âm thầm tiến hành kiểm chứng toàn bộ, tuy Nhan Vu đoán được sớm muộn gì Tạ Dung Dữ cũng sẽ để mắt đến mình, nhưng khi Huyền Ưng vệ tới cửa, gã vẫn vô cùng bất ngờ. Vệ Quyết khách khí nói, “Mời Nhan đại nhân đến nha môn hỗ trợ điều tra.” Nhưng ngữ điệu không cho phép từ chối.

Đại quan tứ phẩm đương triều bị dẫn đi, toàn triều lẫn bách tính lại dấy lên bao lời đồn đoán.

Các buổi chầu trong những ngày qua lúc nào cũng có tranh chấp, may thay Tạ Dung Dữ lấy cớ rất khéo, chỉ nói “hỗ trợ điều tra” chứ không bảo là “bắt giữ”, cộng thêm có Triệu Sơ chống lưng, cuối cùng những lời dị nghị cũng bị dập tắt.

Song, bầu không khí trên triều vẫn rất nặng nề, dường như càng đến gần chân tướng thì lòng người càng nôn nao, và khi phạm vi ảnh hưởng ngày càng lớn rộng, ai cũng tự hỏi liệu đã có bao nhiêu người liên đới trong bản án này.

Có lẽ cũng bị ảnh hưởng bởi bầu không khí trong kinh thành mà chỉ mới ít hôm, thời tiết trở lạnh hẳn đi. Hoàng đế ngày đêm bận rộn, thời gian đến hậu cung dần ngắn lại, thậm chí cũng ít ghé điện Nguyên Đức của Hoàng hậu. Trái lại Chương Nguyên Gia có vẻ đã khỏe hơn, đối với người đang mang thai thì mỗi một tháng là một trở ngại, những trở ngại đầu đã qua, đến mùa đông buốt giá, nàng không những không sợ lạnh mà tinh thần càng tươi tắn hơn.

Thời gian này Chương Nguyên Gia không cần giải quyết chuyện của lục cung, chẳng mấy khi có dịp rảnh rỗi, nàng bèn mời các phi tần trong hậu cung đến tụ tập. Hậu cung của Triệu Sơ khá ít, tính cả Chương Nguyên Gia thì chỉ có sáu vị có phong hàm, ngoài Hoàng hậu ra, cao nhất là vị trí Tần. Người ít thì bớt tranh chấp, bình thường các tần thiếp cũng không mấy khi gặp Triệu Sơ nhiều, trái lại càng kính trọng Hoàng hậu hơn. Bọn họ nhận lời của Hoàng hậu, đến tiếp chuyện với nàng mấy hôm, thấy nàng vui vẻ bèn đề nghị đợi hoa mai ở Phức Hương Viên nở, sẽ cùng Hoàng hậu đi thưởng mai.

Và trùng hợp làm sao, chỉ trong vòng ba ngày sau tiết hàn thực, hoa mai bung nở, sắc mai tươi tắn phản chiếu ánh nắng khiến tâm tình thư thái, Di Tần đùa bảo, “Đợi lúc hoa mai rụng thì chắc tiểu hoàng tử cũng đã chào đời, trong cung nhàm chán, có thêm một đứa bé, chúng tỉ muội cũng có việc tìm vui.”

Chương Nguyên Gia cười đáp: “Nếu biết muội giỏi pha trò như vậy thì nhẽ ra bổn cung đã cho gọi các muội đến từ lâu. Mấy ngày nay bổn cung không nghỉ ngơi tốt, cơ thể cũng mệt mỏi.” Nói đoạn, nàng đưa mắt nhìn quanh, “Chỉ tiếc Vân muội muội lại không đến.”

Vân muội muội chính là Mỹ nhân ở Lạc Phương Trai, người đã khóc cả đêm vì trong nhà gặp chuyện.

Phụ thân của nàng là Lâm thiếu khanh ở Thái Bộc Tự, năm Gia Ninh đầu tiên nàng tiến cung tấn thăng làm Mỹ nhân. Tính tình Chương Nguyên Gia tính khá mềm mỏng, cũng sống hòa thuận với người cũ trong cung.

Có thể vì mang thai nên nói rầu rĩ là rầu rĩ ngay. Những ngày qua Chương Nguyên Gia thường nhắc tới Vân Mỹ nhân trước mặt mọi người, cho nên hội Di Tần cũng biết Hoàng hậu đang lo cho tỉ muội, lại nghĩ Vân mỹ nhân cũng không bị giáng tội liên đới, chỉ ưu sầu đổ bệnh, thế là liền cùng Hoàng hậu đến thăm Vân Mỹ nhân, để nàng giải sầu cũng tốt.

Lạc Nguyệt Trai của Vân mỹ nhân cách đó rất gần, vừa tới nơi, nội thị ở cửa viện lật đật chạy ra đón: “Hoàng hậu nương nương vạn an, người ở trong viện này đang đổ bệnh, nương nương đang mang long thai, không thể để nàng tới gần nương nương được.”

Chương Nguyên Gia còn chưa kịp lên tiếng thì Di Tần đã quở: “Gần xa cái gì hả, bổn cung biết Vân muội muội đang đổ bệnh, nhưng đấy chỉ là tâm bệnh, phải gặp người mới khuây khỏa được, nương nương lo cho Vân muội muội nên mới muốn vào thăm, thế mà ngươi dám lắm mồm ngăn cản.”

“Đúng thế.” Chử Quý nhân phụ họa, “Hôm nay là tiết hàn thực, mọi năm các tỉ muội hậu cung thường tề tựu vào dịp này, cùng lắm là bọn ta theo nương nương vào, là tâm bệnh thì cũng có hơi bệnh, bọn ta sẽ che chắn cho nương nương.”

“Chuyện này…” Tiểu hoàng môn ngần ngừ. Người của Quan gia chỉ chuyển lời rằng không để Vân mỹ nhân đi gặp Hoàng hậu, chứ không dặn không cho phép Hoàng hậu vào, hơn nữa bọn nô tài như họ nào dám ngăn cản, ở hậu cung ai mà chẳng biết Hoàng hậu chính là người trong lòng Quan gia.

Đương lúc tiểu hoàng môn nghĩ trái nghĩ phải, Chương Nguyên Gia nhẹ nhàng bảo: “Bổn cung thích đoàn viên, Chử muội muội nói không sai, vào dịp này năm ngoái, các tỉ muội trong hậu cung còn quây quần bên nhau. Hôm trước bổn cung nghe Vân muội muội khóc mà lo lắm, chỉ muốn vào nói chuyện với muội ấy đôi câu mà thôi, nếu công công không yên tâm thì có thể đi theo…”

Tiểu hoàng môn là chức quan nội thị hèn mọn nhất, nào dám làm theo lời Chương Nguyên Gia.

Hắn thấy dầu gì cũng có nhiều nương nương đi cùng, thế là không chặn cửa nữa, để Chương Nguyên Gia và mọi người vào.

Lạc Phương Trai không lớn, Vân Mỹ nhân nghỉ ngơi ngay tại phòng ngủ trong nội viện, đúng là nàng đang mắc tâm bệnh, chỉ mới một tháng mà cơ thể vốn nở nang đã gầy sọp hẳn đi, nghe thấy tiếng bước chân lộn xộn thì tưởng nô tì tới đưa thuốc, đang định bảo người nhẹ tiếng chút, nhưng vừa mở mắt lại thoáng thấy tay áo viền chỉ vàng, nàng hốt hoảng bật dậy: “Nương nương, sao… sao mọi người lại đến đây?”

Tỉ muội hậu cung vốn hòa thuận không có lục đục, nên khi hội Di Tần thấy Vân Mỹ nhân gầy ra nông nỗi đó thì tiến tới nắm tay nàng, “Nếu không nhờ Hoàng hậu nương nương quyết tới gặp muội, mọi người cũng đâu biết muội lại bệnh nặng thế này.”

Vân mỹ nhân lấy làm ngạc nhiên, Chương Nguyên Gia muốn đến gặp nàng ư?

Vào lúc này?

Chương Nguyên Gia nhìn thẳng vào mắt nàng ta, nói: “Các ngươi ra ngoài canh chừng, có vài lời bổn cung muốn nói riêng với Vân muội muội.”

Nghĩ rằng Hoàng hậu muốn tâm sự chuyện riêng tư, mọi người đáp một tiếng rồi cùng nhau lui xuống.

Chương Nguyên Gia lại nói: “Chỉ Vi, ngươi cũng ra ngoài đi.”

Trong phòng chỉ còn lại hai người Chương Nguyên Gia và Vân Mỹ nhân, Chương Nguyên Gia ngồi xuống bên giường, im lặng một lúc rồi nói: “Sau khi phụ thân muội bị đày ngục, mẫu thân muội đổ bệnh, mọi người trong nhà kẻ đi người tản, vì mua thuốc cho mẫu thân muội mà ca ca muội bất cẩn bị thương, cũng may là cứu được. Hiện giờ cả mẫu thân lẫn ca ca muội vẫn khỏe, Kinh Triệu Phủ nhận được lệnh của Chiêu vương đã hỗ trợ thu xếp cho cả nhà. Bổn cung chỉ nghe ngóng được vài tin đó mà thôi.”

Vân Mỹ nhân cụp mắt, một lúc lâu sau mới cười khổ bảo: “Hóa ra Hoàng hậu đã biết hết rồi.”

Chương Nguyên Gia nắm tay nàng: “Đúng vậy, những chuyện đã biết ta đều nói cho muội, vậy muội có thể kể ta nghe những chuyện mình biết được không?”

Không đợi Vân Mỹ nhân trả lời, nàng nói luôn, “Muội có thể nhận được tin trước cả khi Lâm thiếu khanh bị bắt để mà cầu khẩn Quan gia ngay trong đêm, chứng tỏ muội biết rõ chuyện ở ngoài cung.”

Nàng nhìn ra ngoài viện, hạ giọng nói: “Bao năm nay ta quá hồ đồ, bị phụ thân cài cắm người bên cạnh mà vẫn hồn nhiên vô tri, chỉ gần đây khi cố dò xét mới biết được. Chính vì thế Quan gia mới không tin tưởng ta, không nói ta biết chuyện gì, ta không trách chàng, nhưng ta không muốn nghe lời một phía từ phụ thân. Xin muội hãy nói ta biết, rốt cuộc Tiểu Chiêu vương đã điều tra được gì ở Lăng Xuyên, vì sao ca ca ta vẫn chưa về, có phải vì phụ thân ta không? Và cả Tiển Khâm Đài sập, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
 
Chương 192


Vân Mỹ nhân đăm đăm nhìn làn khói bốc lên từ chậu than, một lúc lâu sau mới cất tiếng: “Tốt nhất nương nương cứ mặc kệ đi. Nương nương là người trong lòng Quan gia, dù có xảy ra chuyện thì Quan gia cũng sẽ bảo vệ nương nương. Nương nương cứ vờ như không biết gì, cũng đừng nhúng tay vào vụ án Tiển Khâm Đài.”

“Đến nước này rồi mà muội còn bảo bổn cung đừng nhúng tay vào sao?” Chương Nguyên Gia nói, “Thế khi Lâm Thiếu khanh phải vào ngục, Vân muội muội có ngồi yên nổi không?”

Thật ra từ mấy tháng trước khi Chương Hạc Thư vào cung thăm nàng, Chương Nguyên Gia đã cảm nhận được điều bất thường.

Lúc ấy nàng đang lo liệu hôn sự cho Nhân Dục, Triệu Vĩnh Nghiên chỉ lén kể cho mình nàng biết mình thích Trương Viễn Tụ. Vì mặt mũi con gái người ta nên Chương Nguyên Gia chỉ nói lại với một mình Triệu Sơ, dù bị các thị nữ nghe lỏm thì làm cách nào mà đưa được tin ra ngoài? Nhưng vừa vào cung, Chương Hạc Thư lại hỏi về hôn sự của Nhân Dục quận chúa và Trương Viễn Tụ.

Chương Nguyên Gia nói: “Thị nữ hầu cận của ta đã bị phụ thân mua chuộc, nó nói với ta phụ thân chịu công kích nên mới bị bãi chức, còn ca ca bị thương ở Chi Khê do lấy bằng chứng, vì vậy chưa thể trở về. Nhưng ta hiểu rõ ca ca nhà mình, huynh ấy đến Lăng Xuyên là để giám sát công việc ở núi Bách Dương, tuyệt đối không có chuyện tự ý rời bỏ cương vị, nếu không có bằng chứng về tội danh của phụ thân, chắc chắn huynh ấy tin tưởng triều đình sẽ trả lại sự trong sạch cho phụ thân, cũng không cần đến Chi Khê làm gì. Mà nếu huynh ấy đã đến Chi Khê, chứng tỏ là…” Chương Nguyên Gia cắn môi, biết thời gian gấp gáp, phải lấy lời thật đổi lời thật, “Chứng tỏ trong mắt huynh ấy, tội chứng ở nơi đó thực sự có dính dáng đến phụ thân, huynh ấy áy náy nên mới rời cương vị, lấy bằng chứng vì triều đình.”

Chương Nguyên Gia siết chặt tay Vân Mỹ nhân, nhìn vào mắt nàng ta: “Tuy phân vị của hai ta có chênh lệch nhưng tình cảnh lại chẳng khác nhau. Vào chốn hậu cung, chúng ta không chỉ sống vì Quan gia mà còn sống vì nhà mẹ, đôi khi sống quá lâu trong thâm cung mà quên mất lai lịch của mình, cho rằng chuyện bên ngoài chỉ là chìm nổi trong thế tục, không liên quan tới bản thân. Thực ra không phải thế, thân ở Thiên gia, hưởng sự phụng dưỡng của vạn dân thì cũng đeo lên gông xiềng của thần dân, đây là điều mà ca ca đã nói với ta trước khi được gả cho Quan gia. Chúng ta có thể mất tự do, nhưng cũng không được phép đánh mất chính mình, nên phải sống một cuộc đời đúng sai, đúng không? Muội kể ta biết đầu đuôi sự việc đi, còn về chân tướng thế nào, ta sẽ tự tìm hiểu…”

Vân Mỹ nhân rưng rưng nhìn Chương Nguyên Gia, rõ ràng Chương Nguyên Gia đâu phải nói để khuyên nhủ nàng, ấy thế mà sau khi nghe xong, bao nỗi phiền muộn vơi đi không ít, những ngày qua nàng cứ chìm đắm trong gia tộc tai bay vạ gió, suýt quên cả đúng sai.

Nàng gật đầu: “Thực ra thiếp thân biết không nhiều lắm, chỉ nghe nói năm ấy Khúc hầu bán một số suất lên Tiển Khâm Đài, còn về việc danh sách từ đâu mà ra…”

***

Chương Nguyên Gia không nán lại Lạc Phương Trai quá lâu, lúc đi ra thì nắng chân trời đã tắt, mây đen kéo đến, dường như tuyết sắp rơi rồi. Chương Nguyên Gia than mệt, cho các tần thiếp ra về, dẫn Chỉ Vi về điện Nguyên Đức.

Kỳ thực Vân Mỹ nhân cũng chẳng nói nhiều, chỉ nói nàng biết vì để che giấu tội lỗi mà Khúc Bất Duy đã phạm phải rất nhiều tội ác, hơn nữa có người nói rằng danh sách ông ta dùng để buôn bán vốn từ tay Chương Hạc Thư, nhưng vì hiện tại chưa có bằng chứng nên Triệu Sơ mới chỉ tạm cách chức Chương Hạc Thư.

Chương Nguyên Gia không biết nên tin Triệu Sơ hay tin phụ thân.

Nhưng ít nhất những hồ nghi và hoang mang của nàng đã có lời giải.

Là sự lạnh nhạt của Triệu Sơ dành cho nàng sau khi Tiển Khâm Đài sập; là gương mặt không ý cười của vị Hoàng đế trẻ tuổi trong đêm thành thân; và cả vách ngăn chắn giữa nàng và Triệu Sơ trong nhiều năm qua.

Sau khi ngẫm ra những điều ấy, Chương Nguyên Gia không còn buồn bã u sầu. Có thể những cảm xúc lẽ ra nên có đã cạn kiệt từ lâu, và nàng cũng sớm dự liệu được ngày hôm nay. Chương Nguyên Gia vô cùng bình tĩnh, vào lúc này, nàng chỉ nghĩ đến bức thư do Chương Đình gửi vào cung.

Nội dung bức thư không có gì đặc biệt, chỉ dặn nàng chăm sóc bản thân chu đáo, “Dù có gặp chuyện gì cũng phải suy nghĩ thấu đáo, ghi nhớ gia huấn, phân rõ đúng sai, đưa ra quyết định không thẹn với lương tâm.”

Gia huấn của Chương thị là “thanh gia độ thân, lan nhược độ tâm”.*

(*Câu này có nghĩa làm người cần giữ mình trong sạch, thánh đường sẽ soi sáng nhân tâm.)

Chương Đình viết bức thư này vào mùa hè năm nay, trước khi hắn đến Chi Khê lấy bằng chứng.

Bây giờ nghĩ lại, ca ca viết thư để nhắc nhở mình sao?

“Nương nương.” Thấy xung quanh không còn ai, Chỉ Vi khẽ gọi, “Nương nương đã hỏi rõ chưa ạ?”

Trước khi đến Lạc Phương Trai, Chương Nguyên Gia nói với Chỉ Vi là tin tức trong cung bị phong tỏa, muốn tìm cách moi tin của Chương Hạc Thư thông qua Vân Mỹ nhân, cho nên các nàng đã lên kế hoạch mấy hôm rồi.

Chương Nguyên Gia dừng bước, xoay mặt nhìn Chỉ Vi mà cứ như nhìn một người xa lạ.

Chỉ Vi giật mình, run rẩy gọi: “Nương nương, nương nương sao thế ạ?”

Chương Nguyên Gia lắc đầu, ánh mắt xa lạ thảng như ảo giác, trong đáy mắt phản chiếu mây mù nặng nề, “Ta hỏi rồi, tình cảnh của phụ thân bây giờ không ổn lắm, nếu không có người giữ ông ấy lại, đợi đến lúc ca ca về, chỉ sợ đã muộn…”

“Hôm trước phụ thân có bảo muốn gửi một bức thư ra ngoài kinh thông qua ta đúng không, ngươi đi chuyển lời đi, nói bổn cung sẽ gửi thư giúp ông ấy.”

***

Trận tuyết thứ hai và trận tuyết đầu tiên thường rất khốc liệt, buổi sáng trời trong là thế, vậy mà đến chiều, toàn kinh thành đã bị mây đen bao phủ, tuyết rơi như muối, đến tận sáng hôm sau vẫn chưa tan, đường phố vừa được quét dọn lại lập tức phủ một màu trắng xóa, đặc biệt là phủ thái thú ở nam thành, vì trong phủ đã lâu không có người ở, tuyết trước cửa đọng dày hơn so với những nhà khác. Buổi sáng khi lão thái phó về phủ, chẳng may ngã trước bậc thềm, người già không chịu nổi cú ngã, đến trưa thì toàn thân ta nóng bừng, trong phủ kẻ sắc thuốc, người mời đại phu, bận cả đến giữa trưa, cuối cùng lúc này tuyết mới chịu ngừng rơi, người hầu cầm chổi định ra ngoài dọn tuyết thì thấy một cỗ xe ngựa dừng trước cửa.

Trương Viễn Tụ xuống xe, dẫn Bạch Tuyền đi vào phủ, vừa đi vừa hỏi người hầu: “Sao rồi?”

“Thật ra lão gia ngã không nặng lắm, có lẽ đổ bệnh do bị cảm lạnh trên đường đi. Lão gia hay tin trong kinh có chuyện nên vội vã lên đường, hai đêm liền không hề ghé dịch trạm nghỉ ngơi. Cũng may sáng nay đại phu đã tới khám, nói chỉ cần dưỡng bệnh ít hôm, quen với khí hậu trong kinh là sẽ đỡ hơn.”

Đương lúc nói, Trương Viễn Tụ vén rèm bước vào phòng, người hầu đang định mớm thuốc cho lão thái phó, thấy người vào bèn thưa: “Nhị công tử đến rồi.”

Trương Viễn Tụ sải bước đi tới, đệm gối sau lưng lão thái phó rồi đỡ ông ngồi dậy, nhận lấy bát thuốc, “Đưa ta.”

Phủ thái phó đìu hiu cũng có nguyên nhân, lão thái phó mất vợ rồi lại mất con, về sau cũng không tục huyền, nửa đời chăm lo mở học phủ, dạy học dạy người. Những năm tháng ấy, có quá nửa văn sĩ trong triều đều là học trò của ông, thậm chí cả Chiêu Hóa đế cũng từng được ông dạy dỗ khi còn là Thái tử. Nên giờ đây dù đã hơn bảy mươi tuổi, lão thái phó vẫn có danh vọng rất cao trong lòng nhân sĩ.

Lão thái phó cảm thán: “Chỉ vấp ngã thôi mà, người dưới cứ chuyện bé xé ra to, nằng nặc gọi con về, làm trễ nãi chính sự của con rồi.”

“Khí hậu trong kinh không bằng trang viên Khánh Minh, mới đầu đông mà đã lạnh buốt, dễ đau nhức toàn thân. Dù bọn họ không nói thì Vong Trần cũng về.” Trương Viễn Tụ nói, đưa mắt nhìn quanh nhà rồi gọi người hầu đến, “Sai người đặt thêm hai chậu than, dùng loại than đỏ tốt nhất, tính vào sổ sách của ta.”

Bát thuốc trong tay hẵng còn nóng, khói bốc lên che mờ mặt y, “Thầy muốn về kinh thì cũng nên cho người báo trước với con một tiếng, như vậy con mới cử người đi đón được. Lần này thầy gấp gáp hồi kinh, lỡ mà không thích ứng nổi thì khó chịu cả mùa đông mất.”

Lời y nói chứa ý trách móc, người bên dưới nghe lại không cảm thấy có gì không ổn, thầy trò họ giống như cha con, tuy phàn nàn nhưng cũng xuất phát từ lòng quan tâm của phận làm con.

Lão thái phó đã già, hai mắt đục ngầu, đôi khi không nhìn rõ biểu cảm, “Nếu vi sư báo trước với con thì con có đồng ý không? Con sẽ viết thư ngăn cản ta, nói trong kinh quá lạnh, đợi đến mùa xuân năm sau rồi tính tiếp.”

“Ta đã biết tin chuyện ở kinh thành rồi. Thanh Chấp đã tìm được bằng chứng ở Lăng Xuyên, lần ra được Tiển Khâm Đài dính dáng đến vụ án mua bán danh ngạch. Thằng bé Thanh Chấp thừa hưởng tài năng của cha nó, chỉ cần là chuyện muốn làm thì ắt sẽ làm được. Bây giờ kinh thành hỗn loạn như vậy, làm sao ta có thể không về.”

Trương Viễn Tụ nhìn chằm chằm bát thuốc, thấy hơi nóng đã ngớt, tự nếm thử một muỗng, nhưng vẫn còn nóng, “Chiêu vương điện hạ là nhân tài ở thế hệ bọn con, ngay từ lần đầu tiên tham gia vào việc triều chính, mọi công việc đều được y giải quyết một cách xuất sắc, ngoại trừ… Lần này cũng vậy, Tiển Khâm Đài dính dáng đến vụ án mua bán danh ngạch, tin tức truyền đi, nhân sĩ trong kinh bất bình căm phẫn, cũng may là sắp kết án, đợi triều đình trừng phạt những kẻ đáng bị trị tội, sự việc rồi sẽ lắng xuống.”
 
Chương 193


“Thực sự có thể lắng xuống được sao?”

Lão thái phó nhìn Trương Viễn Tụ, “Con không cần giấu giếm, trên đường về kinh vi sư đã hỏi thăm rồi.”

“Danh sách sĩ tử lên Tiển Khâm Đài xuất phát từ Hàn lâm, Quan gia không điều tra Hàn lâm là nể mặt lão thần này, nhưng Hàn lâm không thể không có lời báo cáo với triều đình. Chỉ có ta biết rõ các sĩ tử được tuyển chọn như thế nào, muốn tháo chuông phải tìm người buộc chuông.”

“Quả là vậy. Nhưng tiên đế mới là người đề nghị xây dựng Tiển Khâm Đài, và cũng chính tiên đế yêu cầu tuyển chọn sĩ tử lên đài, chỉ vì tiên đế đã băng hà mà bảo thầy là người buộc chuông sao?” Trương Viễn Tụ nói, “Nhân sĩ trong kinh diễu hành biểu tình chỉ là chuyện nhất thời, đợi triều đình xử trí Khúc Bất Duy xong, công bố thiên hạ thì sự việc sẽ đâu lại vào đấy.”

Y vừa nói vừa múc thuốc đưa đút, lão thái phó phất tay đẩy ra, âm thanh già nua cất lên từng câu chữ nặng nề, “Không phải, năm xưa khi tiên đế quyết chí xây dựng Tiển Khâm Đài, trong triều cũng có nhiều người phản đối, nhưng quá nhiều người hi sinh trong trận chiến sông Trường Độ, cũng có quá nhiều cô nhi bơ vơ, thực sự rất đáng thương… Chính ta và Ức Khâm, cùng các văn sĩ Hàn lâm một lòng ủng hộ tiên đế, vì vậy, mà về sau tiên đế còn trừng phạt một nhóm sĩ tử…”

Ức Khâm là tên tự của Trương Chính Thanh, huynh trưởng của Trương Viễn Tụ.

“Thầy à.” Trương Viễn Tụ ngắt lời, “Dù quá khứ đã xảy ra chuyện gì thì con chỉ biết, thầy và huynh trưởng muốn xây dựng Tiển Khâm Đài là để người đời sau ghi nhớ lòng chân thành của các sĩ tử đã trầm mình, sự kiên trường của các tướng sĩ đã hi sinh. Vạt áo không lấm bẩn, đấy mới là ý nghĩa của cái tên Tiển Khâm Đài. Dù là Hà Hồng Vân hay Khúc Bất Duy, thậm chí là kẻ nào khác đi chăng nữa, muộn lợi dụng Tiển Khâm Đài làm gì thì bản thân tòa tháp cũng không có lỗi, ‘đài cao chạm mây giữa núi rừng Bách Dương’, đấy chính là tâm nguyện của huynh trưởng, cũng là tâm nguyện của con…”

“Vong Trần à con không hiểu đâu, con có bao giờ hỏi huynh trưởng mình chưa, thật ra chưa chắc Ức Khâm đã muốn con…”

Trương Viễn Tụ đáp: “Con chỉ nhớ vào ngày trước khi huynh trưởng đến núi Bách Dương, huynh ấy đã dạy con, ‘chỉ khi dựng nên đài cao Tiển Khâm, các sĩ tử trầm mình mới sống mãi trong tim người đời’, trong số các sĩ tử ấy có phụ thân con, và bây giờ còn có cả huynh trưởng của con.”

Nói đoạn, y lại đưa thuốc đến, “Để lâu nữa là thuốc nguội mất, thầy uống đi đã.”

Lão thái phó nhìn y, y quá thông minh, ông còn chưa mở miệng mà đã biết ông muốn nói gì, chẳng qua là đã nhiều năm trôi qua, tâm nguyện biến thành chấp niệm, y không muốn nghe bất cứ lời nào nữa.

“Quan gia có ý ban hôn cho con và Nhân Dục quận chúa, con thấy thế nào?”

“Vẫn đang nghĩ ạ. Hôm trước Vong Trần đã bẩm với Quan gia rồi. Quan gia nói có thể cho Vong Trần suy nghĩ thêm ít ngày.” Lão thái phó uống hết chén thuốc, Trương Viễn Tụ nhận lấy đặt xuống bàn, “Nhưng suy nghĩ xong, Vong Trần cảm thấy cưới con gái của Dụ Thân vương đúng là mối nhân duyên tốt, đồng ý cũng được.”

“Con muốn nghe ý kiến của vi sư không?”

“Xin thầy chỉ giáo.”

Lão thái phó giơ tay lên, chậm rãi nắm lấy cổ tay Trương Viễn Tụ, “Vong Trần à, con hãy rời đi đi.”

“Đừng cưới quận chúa gì hết, đừng để bị vùi lấp ở đây, cũng đừng làm Tạ Trinh tiếp theo. Con không phải Tạ Trinh, người đi trước đã qua đời, triều đình Đại Chu cũng đã vững, không cần hết mình với chấp niệm đền nợ nước, nếu có hoài bão thì cứ làm đi, với bản  lĩnh của con, làm châu quan hay phủ quan mưu phúc cho dân nào khó, đi đến đâu mà chẳng làm nên? Con hãy đi đi, Vong Trần à, chuyện ở kinh thành cứ giao cho vi sư, chờ ngày nào đó giải quyết ổn thỏa rồi hẵng trở về.”

Lão thái phó siết chặt cổ tay Trương Viễn Tụ, những đường gân trên mu bàn tay già nua hết cuộn lại thắt, đôi mắt đục ngầu toát lên tia trông chờ tha thiết, như thể ông chịu vất vả hồi kinh chỉ để nói những lời này với y.

Trương Viễn Tụ nhớ lại lúc ở Lăng Xuyên, lão thái phó đã viết một bức thư cho y, “Còn về việc trùng kiến Tiển Khâm Đài, theo vi sư thấy, đài dựng đài sập đều là chuyện trời định, đừng có cố chấp quá.”

Nhưng, nếu người cố chấp có thể dễ dàng bị dao động chỉ bởi một lời nói, thì y đã chẳng phải nhặt túi gấm lúc mỏ khoáng Chi Khê phát nổ.

Ánh mắt Trương Viễn Tụ lạnh lẽo tựa nước hồ nằm sâu trong sơn cốc, núi cao cản gió, mặt hồ không một gợn sóng, “Vâng, nhưng không phải lúc này. Vong Trần chỉ là người thường, không có hoài bão to lớn, chỉ duy một tâm nguyện. Đợi nguyện vọng được hoàn thành, Vong Trần sẽ theo ý ân sư, cùng thầy rời khỏi kinh thành.”

Sức khỏe của lão thái phó vốn đã yếu, nay lại còn trúng gió cảm lạnh, nói nhiều lời như vậy, chẳng mấy chốc đã thấm mệt. Trương Viễn Tụ cho ông uống thuốc xong, thấy ông không giấu được vẻ uể oải thì dặn dò vài câu rồi rời đi.

Năm xưa khi Tiển Khâm Đài sập, tiên đế bệnh nặng, lão thái phó cũng đổ bệnh, tuổi càng cao càng sợ nóng sợ lạnh, từ đó trở đi, có quá nửa thời gian trong năm lão thái phó nghỉ ngơi tại sơn trang Khánh Minh. Dinh cũ thành Tây ở kinh thành giao cho Trương Viễn Tụ, tuy vẫn có người ở lại phủ thái phó dọn dẹp quét tước, song ngoài sách vở ra thì trong phủ không có đồ vật quý báu, không cần quản lí quá nhiều.

Trương Viễn Tụ bước ra khỏi phòng lão thái phó, thấy một người hầu đang đưa than tới chái nhà phía Đông.

Trong phủ chỉ có một mình thái phó là chủ, không lẽ người hầu đổ bệnh mà cũng dùng đến than sưởi ấm?

Trương Viễn Tụ lấy làm hồ nghi, gọi quản gia đến hỏi, quản gia đáp, “Thưa Nhị công tử, không phải người hầu đâu ạ, sáng nay đại phu đến nhà khám bệnh, nói nhà chính đã lâu không có người ở nên âm u ẩm thấp, không bằng chái Đông khô ráo ấm áp, chúng tiểu nhân mới định xông hơi chái Đông để lão gia chuyển sang đấy ở.”

Trương Viễn Tụ gật đầu, nhấc chân toan đến chái Đông phụ giúp dọn dẹp, nào ngờ Bạch Tuyền vội vàng chạy vào nội viện, dâng lên một tấm thiệp.

“Công tử, là thiệp mời gia yến của Ngôn đại nhân.”

Ngôn đại nhân là Thị lang bộ Lễ, cũng là huynh trưởng của Dụ Thân vương phi. Triệu Sơ có ý ban hôn cho Nhân Dục quận chúa và Trương Viễn Tụ, không ít đại thần trong triều đã nghe đồn. Ngôn Thị lang là cậu của Triệu Vĩnh Nghiên, mở tiệc nhà nhưng vẫn gửi thiệp đến mời Trương Viễn Tụ, không cần nói cũng biết ông ta muốn thăm dò gì.

Bạch Tuyệt hạ giọng hỏi: “Công tử, công tử có định dự tiệc không?”

Đến dự tiệc chỉ có người nhà, mà Trương Viễn Tụ và Ngôn Thị lang có là người nhà hay không vẫn còn chưa chắc.

Trương Viễn Tụ không trả lời, đợi ra khỏi cửa phủ thái phó, bước lên xe ngựa, y mới điềm nhiên nói, “Để ta nghĩ đã.”

Thực ra cũng chẳng nghĩ gì, lão thái phó nói đúng, nhân sĩ trong kinh biểu tình khó mà kết thúc êm đềm được.

Vụ án mua bán danh ngạch đã khiến sĩ tử bách tính quay sang căm thù tòa tháp, có không ít sĩ tử biểu tình yêu cầu triều đình dừng việc xây dựng Tiển Khâm Đài. Chờ đến khi Tiểu Chiêu vương công bố chân tướng vụ án, không biết chúng nhân sĩ ngập tràn căm phẫn sẽ gây nên mưa gió thế nào đây.

Muốn để Tiển Khâm Đài được đứng thẳng giữa núi rừng Bách Dương, ắt phải có một người nhất ngôn cửu đỉnh trong lòng nhân sĩ đứng ra, nói cho bọn họ biết dù có chuyện gì đi chăng nữa, bản thân Tiển Khâm Đài không hề sai, không nhiễm một hạt bụi.

Mà người này, chỉ có thể là Tạ Trinh thứ hai.

Được mất thế nào y đã cân nhắc từ lâu, y nhất định phải làm Tạ Trinh thứ hai.

Dầu cho ấn tượng của y về Nhân Dục quận chúa rất nhạt nhòa, không nhớ nổi nàng ấy trông như thế nào, là người ra sao.

Trương Viễn Tụ vén rèm, nói với Bạch Tuyền: “Giúp ta báo lại với Ngôn đại nhân, bảo ta sẽ đến dự tiệc.” Nhưng nghĩ một lúc lại nói, “Không, đưa ta đến Ngôn phủ, đích thân ta sẽ cảm tạ Ngôn đại nhân.”

***

Giờ Tuất trời tối om, Trương Viễn Tụ mới bước ra khỏi Ngôn phủ. Ngôn Thị lang giữ y lại dùng bữa, Trương Viễn Tụ khéo léo từ chối, nói đợi đến gia yến vẫn chưa muộn. Y bước lên xe ngựa, dặn Bạch Tuyền chở về phủ thái phó kiểm tra tình hình. Nào ngờ xe vừa chạy vào ngõ thì đột ngột dừng lại, Bạch Tuyền đứng ngoài gọi: “Công tử.”

Trương Viễn Tụ cảm thấy lạ, vén rèm lên, trông thấy một cô gái mặc đồ đen đội nón che mặt đứng trong ngõ.

Tuy người ấy không lộ mặt nhưng Trương Viễn Tụ vẫn nhận ra nàng, “Ôn cô nương, trùng hợp quá.”

“Không hề.” Một lúc lâu sau, Thanh Duy mới cất tiếng đáp. Nàng tháo nón, để lộ gương mặt trắng mịn, “Khi vừa biết tin lão thái phó sẽ hồi kinh, ta đã chờ Trương Nhị công tử ở đây mấy ngày.”

“Chẳng hay Trương Nhị công tử có thể bớt thời gian nói chuyện một lúc được không?”

Trương Viễn Tụ gật đầu, bước xuống xe, bảo Bạch Tuyền đánh xe ra khỏi ngõ, còn mình cầm lồng đèn bước tới. Thanh Duy thấy người ngoài đã rời đi, không vòng vo mà nói thẳng, “Tào Côn Đức là hoạn quan, sống trong thâm cung nhiều năm nhưng chuyện gì cũng dính dáng, không bỏ sót thông tin nào ở ngoài cung, chứng tỏ ông ta có đồng đảng trong triều, đồng đảng này liệu có phải là Trương Nhị công tử?”

Trương Viễn Tụ đứng trong tuyết, gương mặt không biểu cảm tựa ôn ngọc.

Nghe Thanh Duy hỏi, y không trả lời.

Nàng có thể đến tìm để hỏi y, chứng tỏ nàng đã biết đáp án.

“Năm ngoái Tiết thúc nhảy vách núi rồi được công tử cứu, có lẽ không phải là trùng hợp nhỉ? Công tử đã muốn trùng kiến Tiển Khâm Đài từ nhiều năm nay, nên công tử mới làm quen Tiết thúc, biết được thúc ấy muốn lên kinh điều tra Tiển Khâm Đài thì bắt tay với Tào Côn Đức, một mặt lấy lí do Tiết Trường Hưng gặp nạn để dụ ta lên kinh, mặt khác mượn tay ta khơi mào điều tra chuyện Hà gia đổi nguyên vật liệu, ép triều đình đang phải xây lại Tiển Khâm Đài để trấn an nhân sĩ. Nơi Tiết thúc rơi xuống vốn là địa điểm gặp gỡ mà công tử đã thỏa thuận trước với thúc ấy, nên công tử mới có thể dễ dàng tìm được người.”

“Vì sao công tử biết ta còn sống, là Tào Côn Đức nói cho công tử, hay vốn dĩ công tử đã nhận ra ta?”

“Mùa đông năm ngoái khi ta bị Tả Kiêu vệ truy sát, công tử xuất hiện đúng lúc cũng không phải là chuyện trùng hợp. Nếu ta đoán không nhầm, tuy công tử hợp tác với Tào Côn Đức nhưng mục đích của cả hai không giống nhau, mục đích của công tử chỉ là trùng kiến Tiển Khâm Đài, và khi ấy triều đình cũng đã đồng ý sẽ xây dựng lại, công tử không cần thiết phải hại ta, nhưng công tử lại biết rõ hành động của Tào Côn Đức. Công tử biết khi ta hoàn toàn đứng về phía Tiểu Chiêu vương, không còn giá trị lợi dụng nữa, thì Tào Côn Đức sẽ lập tức tố giác ta để diệt khẩu, đấy mới là nguyên nhân công tử cứu ta trước mọi người.”

Trương Viễn Tụ nhìn Thanh Duy, một lúc sau mới lên tiếng: “Nếu Ôn cô nương đã biết thì hà tất phải hỏi nhiều như vậy. Sự việc đã tới nước này, dù Ôn cô nương có oán hận gì với Vong Trần, Vong Trần cũng cam tâm nhận lấy, tuyệt không biện bạch.”
 
Chương 194


“Ta chẳng oán hận gì cả.” Thanh Duy nói, “Vì ta tin Trương Nhị công tử thật lòng muốn giúp đỡ ta, nếu không công tử đã không nói cho ta biết địa chỉ của Du đại nhân ở Trung Châu rồi.”

Hồi năm ngoái lúc Thanh Duy rời kinh, Trương Viễn Tụ lo nàng không có chỗ để đi nên đã đưa cho nàng danh sách những người mà y tin tưởng nhất. Sau đó Thanh Duy quyết định đến Lăng Xuyên, nhờ Du đại nhân ở Trung Châu giúp đỡ, ngày hôm sau Trương Viễn Tụ lại đích thân đến gặp nàng.

“Ta thấy chim cắt ở Trung Châu. Dân gian chẳng mấy ai nuôi chim cắt chứ đừng nói việc dùng cắt gửi thư. Rồi có người đã kiểm tra giúp ta, phát hiện con chim này được nuôi tại ngõ Lưu Hoa thành Giang Lưu, đó lại chính là địa chỉ nhà của Du đại nhân. Du đại nhân là quan địa phương chưa tới thất phẩm, việc gì phải nuôi chim cắt, nhưng ông ấy lại là người Trương Nhị công tử tin tưởng nhất, từ đấy suy ra, ông ấy đã nuôi con chim đó giúp Trương Nhị công tử.”

“Tâm tư Trương Nhị công tử vốn khó dò, nếu không phải vì giúp ta, cớ gì tiết lộ cho ta về địa điểm bí mật như vậy.”

Trương Viễn Tụ mới hỏi: “Đấy là nguyên nhân mà cô nương chờ ta ở chỗ này?”

Khi Thanh Duy vừa phát hiện được manh mối, nàng vốn có thể nói cho Tạ Dung Dữ biết đầu tiên, nhưng, một khi Tiểu Chiêu vương điều động Huyền Ưng Ti điều tra y thì y khó mà thoát được.

Có ơn trả ơn, lúc trước Trương Viễn Tụ đã giúp nàng khi gặp khó khăn, thì giờ đây nàng cũng sẵn sàng giúp y bất kể hiềm khích cũ.

Hóa ra mục đích nàng chờ ở đây lại giống lão thái phó.

Thanh Duy nói: “Ta biết mỗi người đều có chấp niệm của riêng mình, dăm ba câu nói của ta chưa chắc đã khiến Trương Nhị công tử đổi ý, nhưng ta vẫn tin rằng Trương Nhị công tử có thiện chí giúp người, bản chất không xấu, chẳng qua bị chấp niệm trói buộc nên mới đi tới ngày hôm nay. Giờ đây đại cuộc vẫn chưa định, chỉ cần Trương Nhị công tử chịu quay đầu thì vẫn còn kịp. Hôm nay ta đến đây, chỉ có một thỉnh cầu.”

“Mời Ôn cô nương nói.”

“Nếu Trương Nhị công tử hợp tác với Tào Côn Đức, vậy ắt phải biết mục đích ông ta lên kế hoạch trong nhiều năm qua là gì. Trực giác mách bảo ta chuyện Tào Côn Đức muốn làm không đơn giản, ta không muốn có rắc rối nào xảy ra thêm nữa, hi vọng Trương Nhị công tử có thể tiết lộ với ta những gì mình biết.”

Trương Viễn Tụ hỏi: “Đấy là suy đoán của Ôn cô nương?”

“Không chỉ có thế.” Thanh Duy nói thật, “Ta đã điều tra về Bàng tiên sinh ở Cật Bắc, là ân nhân của Tào Côn Đức, thậm chí cả tung tích vợ con của Bàng Nguyên Chính.”

Hai mắt Trương Viễn Tụ lóe lên vẻ bất ngờ, như thể không ngờ nàng lại hành động nhanh đến vậy, nhưng cuối cùng đã biến mất trong ánh mắt dửng dưng, “Ôn cô nương cũng đã nói mỗi người đều có chấp niệm riêng đấy thôi, ta có thì Tào công công cũng có, đúng là ta biết được nhiều hơn Ôn cô nương thật, nhưng đáng tiếc, thứ cho ta không thể trả lời.”

Thanh Duy cũng không lấy làm bất ngờ.

Nàng nhìn thẳng vào y qua ánh đèn lồng le lói, gương mặt rõ vẻ thất vọng.

Rồi nàng chẳng nói gì nữa, quay gót đi tới đầu ngõ.

Vẻ mặt thất vọng ấy khiến Trương Viễn Tụ lấy làm khó chịu, y cất giọng gọi: “Ôn cô nương.”

“Ôn cô nương đã chờ ở đây bao lâu rồi?”

Thanh Duy xoay người lại: “Có quan trọng không?”

Không quan trọng.

Hình như nàng đã tới đây từ sau trưa, thấy y ngồi xe đến Ngôn phủ nhưng không ra mặt, cứ đứng đợi đến lúc y từ Ngôn phủ trở về. Ngôn Thị lang là cậu của Nhân Dục quận chúa, y đồng ý tham dự gia yến của Ngôn gia, có lẽ sau này sẽ làm quận mã. Nhưng cho dù Thanh Duy có chặn đường y thì y sẽ không cưới Triệu Vĩnh Nghiên ư? Cũng như việc lão thái phó lặn lội ngàn dặm lên kinh chỉ để khuyên nhủ y hãy quên hết trần thế này đi, thì y sẽ nghe lời sao?

Trương Viễn Tụ nói: “Ôn Tiểu Dã, nếu một năm trước Thôi gia không gặp chuyện, Tiết Trường Hưng không bị tống vào ngục, Tào Côn Đức cũng không báo cho cô biết có lẽ Nhạc Ngư Thất đang ở kinh thành, thì cô có lên kinh không?”

Thanh Duy không do dự đáp: “Tất nhiên sẽ lên.”

Không một ai có thể xúi được nàng lên kinh, ngoài những oan khuất bất công trong bao năm nàng lưu vong, không sớm thì muộn, nàng vẫn sẽ đặt chân đến mảnh đất thị phi này.

Trương Viễn Tụ mỉm cười.

Nhìn đi, kỳ thực mỗi người đều có con đường đã định, tất thảy nhân quả đều do chính mình tự chọn, người ngoài nào có thể can thiệp. Nên cho dù y không viết phong thư gọi nàng lên kinh thì kết quả cũng không thay đổi. Và trên thực tế y cũng chỉ có thể tự tay chèo con thuyền của mình mà thôi.

“Tiểu Chiêu vương đối xử với cô có tốt không?”

Thanh Duy không đáp, đó là chuyện riêng của họ, không liên quan tới y.

Nhưng câu trả lời đã quá rõ ràng.

Trương Viễn Tụ nói: “Thật ra ta biết cô vẫn còn sống, cũng biết Tào Côn Đức để cô đến Thôi gia hòng đổi họ.”

“Về sau Thôi Hoằng Nghĩa lại đến Nhạc Châu. Trùng hợp làm sao, vào năm Gia Ninh đầu tiên, lão thái phó đặt cho ta tên tự Vong Trần, cũng đề nghị ta nên đến Nhạc Châu. Ông ấy bảo tuy Nhạc Châu không sung túc bằng đất Trung Châu, cũng không sầm uất như phủ Khánh Minh, nhưng là nơi an cư cách xa chốn thị phi. Lúc ấy suy nghĩ đầu tiên của ta chính là, hình như cô cũng ở Nhạc Châu.”

Y vẫn nhớ tiểu cô nương liều lĩnh tìm người th.ân dưới phế tích Tiển Khâm Đài.

Từ chân trời đến góc bể, có người đồng bệnh tương liên quả là chuyện may mắn.

Hoặc có lẽ chấp niệm khi ấy vẫn chưa quá sâu, Trương Viễn Tụ có ý định quên đi bụi trần mà đến Nhạc Châu.

Nhưng cuối cùng y đã không làm vậy, lão thái phó đặt tên tự cho Trương Chính Thanh là Ức Khâm*, nhưng lại muốn y quên đi cõi tục, như thế là sao chứ?

(*Ức trong hồi ức, ghi nhớ; Khâm trong vạt áo.)

Y chọn con đường thi cử, đến Ninh Châu thí thủ.

Mãi mấy năm sau khi gặp lại nhau trong hội thơ Hàn lâm, vết ban đỏ trên mắt trái nàng cũng chẳng giấu được nét phong tình quyến rũ, màn sương giăng nơi đáy mắt đã tan biến, thay vào đó là ánh nhìn trong veo.

Bấy giờ Trương Viễn Tụ mới phát hiện, tiểu cô nương đồng bệnh tương liên với mình đã trưởng thành rồi, cũng đã khỏi “bệnh”, chỉ có y vẫn bị “cơn bệnh” cắn nuốt.

“Ôn Tiểu Dã.” Trương Viễn Tụ nói, “Giờ ngẫm lại mới thấy, may mà hai ta có duyên mỏng.”

Cũng dừng lại ở duyên mỏng.

***

Thanh Duy bước ra khỏi ngõ, bầu trời hoàn toàn tối đen. Thật ra hôm nay nàng không đến một mình, nhân sĩ trong kinh diễu hành biểu tình, thân phận của nàng lại khá nhạy cảm, không tiện một mình ra ngoài. May mà Triêu Thiên có thân phận thị vệ, được phép đeo đao đi lại. Triêu Thiên đứng chờ tại con ngõ bên cạnh, thấy Thanh Duy tới, hắn chạy đến đón, “Thiếu phu nhân, hắn ta có nói không?”

“Không nói gì cả.” Thanh Duy lắc đầu.

Hôm nay nàng đến tìm Trương Viễn Tụ không chỉ để thăm dò mục đích của Tào Côn Đức, mà nếu có thể hỏi được manh mối về Chương Hạc Thư thì càng tốt.

Song thái độ của Trương Viễn Tụ đã quá rõ ràng, không để lộ bất cứ chữ nào.

“Sư phụ đã hồi âm chưa?”

“Lúc sáng tiểu nhân có đến dịch trạm một chuyến, vẫn chưa có thư của Nhạc tiền bối.”

Khi Thanh Duy phát hiện căn nhà nuôi chim cắt ở Giang Lưu là dinh thự của Du đại nhân, nàng đã lập tức gửi thư cho Nhạc Ngư Thất, nhờ ông trực tiếp điều tra Du Thanh ở nha phủ Trung Châu. Thư được gửi gấp đến Trung Châu, chưa tới hai ngày sẽ nhận được, với tốc độ làm việc của Nhạc Ngư Thất, cộng thêm có Tề Văn Bách hỗ trợ, chắc hẳn sẽ nhận được thư hồi âm trong thời gian này.

Tuy Thanh Duy sẵn lòng cho Trương Viễn Tụ cơ hội, không để Tạ Dung Dữ biết chuyện y cấu kết với Tào Côn Đức, thậm chí còn đích thân đến khuyên y quay đầu, nhưng nàng biết tình hình đang rất khẩn cấp, không thể trì hoãn quá lâu, cũng không cho Trương Viễn Tụ thời gian giải quyết.

Thanh Duy nghĩ ngợi một hồi, cảm thấy đã đến nước này thì nàng không cần thiết phải giấu giếm giúp Trương Viễn Tụ, chi bằng nói rõ với Tạ Dung Dữ, để Huyền Ưng Ti sớm có đối phó. Nàng và Triêu Thiên nhanh chóng quay về Giang gia, nào ngờ chẳng những Tạ Dung Dữ đi vắng mà Đức Vinh cũng không có nhà.

Gọi một người hầu đến hỏi, người hầu đáp: “Hồi giờ Tuất công tử có về nhà một chuyến, vốn định chờ thiếu phu nhân về rồi cùng dùng bữa, nhưng Kỳ hộ vệ ở nha môn lại chạy đến nói Khúc hầu ở trong ngục đổ bệnh nặng, sợ xảy ra chuyện nên mời công tử tới xem thế nào. Trước khi đi công tử dặn có thể tối nay sẽ không về được, Đức Vinh đã thu dọn đồ đạc đưa vào cung cho công tử rồi ạ.”

Thanh Duy nói: “Khúc hầu bị bệnh?”

Khúc Bất Duy không những là chủ mưu trong vụ án mua bán danh sách lên đài mà còn là nghi phạm đang bị bắt giữ, là người duy nhất biết nguồn gốc của danh sách, trước khi chân tướng được sáng tỏ, ông ta phải sống. Thanh Duy biết đây là vấn đề lớn, tối nay Tạ Dung Dữ phải nghỉ lại nha môn, nhưng nàng không muốn trì hoãn chính sự chỉ vì một sự cố ngoài ý muốn, thế là gọi Triêu Thiên đến, kể hết những chuyện nghe được từ Trương Viễn Tụ trong tối nay, bao gồm việc y là đồng mưu với Tào Côn Đức, có nuôi chim cắt ở tư dinh của Du Thanh, rồi giục hắn vào cung báo cho Tạ Dung Dữ biết.
 
Chương 195


Màn đêm buông, trong đại lao đuốc cháy sáng rực.

“Hồi chiều ông ấy vẫn còn ổn, tự dưng tới tối lại la đau bụng, không biết ăn phải đồ hư hỏng hay bị bệnh g. Mới nãy thái y vừa đến, giờ đang chẩn mạch cho Khúc hầu.”

Tạ Dung Dữ vừa đến đại lao bộ Hình, Đường chủ sự ở bộ Hình lập tức bẩm báo.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Đã kiểm tra lính canh ngục chưa?”

“Kiểm tra rồi, mọi người vẫn bình thường.”

Hai người vừa nói vừa đi tới phòng giam phía cuối. Khúc Bất Duy đã dần hồi phục sau cơn đau bụng, ngồi xếp bằng trên manh chiếu, thái y bắt mạch kê thuốc, thấy kinh động đến cả Tiểu Chiêu vương thì vội thưa: “Bẩm điện hạ, phạm nhân Khúc Bất Duy bị đau bụng là do tuyết rơi quá lạnh, mà đại lao lại ẩm ướt âm u. Dù gì ông ấy cũng đã ngoài năm mươi, ở lâu chỗ này, xương cốt không chịu nổi.”

Tạ Dung Dữ gọi một tên lính gác đến, dặn hắn đi lấy khăn khô và chậu than sưởi ấm, lại thấy gió lùa qua khung cửa trên cao liền sai người che chắn.

Khúc Bất Duy cười lạnh: “Đừng tưởng bố thí ít lòng tốt thì ta sẽ cảm kích. Những gì cần nói ta đã nói, ngươi có hỏi gì cũng vô ích.”

Tạ Dung Dữ đang kiểm tra danh sách gác ngục mấy ngày qua, chẳng buồn đưa mắt nhìn, “Bổn vương biết Hầu gia sẽ không khai thêm, cũng không muốn Hầu gia tốn thời gian ở đây, chẳng qua có người nhờ vả chăm sóc Hầu gia nên tối nay bổn vương mới đến, Hầu gia chớ nghĩ nhiều.”

Đường chủ sự thấy lòng tốt của Tiểu Chiêu vương bị xem nhẹ thì không cam tâm, lên tiếng nói, “Có lẽ Khúc hầu còn chưa biết, hiện giờ Nhan Vu ở Xu Mật Viện đã bị Huyền Ưng Ti bắt, chuyện Hầu gia không muốn nói, bọn ta sẽ tự hỏi từ người khác, lưới trời tuy thưa song khó lọt, không lẽ Hầu gia tưởng chỉ có mình mình nắm giữ bí mật?”

Nhan Vu là thân tín của Chương Hạc Thư, những năm qua đã giúp Chương Hạc Thư rất nhiều chuyện, nhưng bề ngoài lại ít tiếp xúc với Chương phủ.

Khúc Bất Duy nghe tin Nhan Vu sa lưới thì chấn động, song ngoài mặt vẫn tỏ vẻ bình thản, “Có người nhờ vả chăm sóc ta, ngươi được ai nhờ hả?”

Không đợi Tạ Dung Dữ đáp, ông ta nói, “Những gì cần khai lão phu đã khai, chính lão phu hạ lệnh giết sơn tặc núi Trúc Cố; cũng chính lão phu sai người diệt khẩu đám Từ Thuật Bạch hay Thẩm Lan; kể cả vụ bạo loạn ở nha môn Thượng Khê, cũng là lão phu đứng sau tính kế. Chẳng qua ban đầu lão phu chỉ định diệt khẩu đám thủ lĩnh sơn tặc biết chuyện, nhưng sau đó xảy ra vài việc, khiến toàn bộ sơn tặc trên núi chết, chuyện này lão phu nhận, bao nhiêu mạng người các ngươi cứ tính lên hết đầu lão phu. Lão phu bán được bốn trăm nghìn lượng cộng thêm một bộ danh họa truyền đời, các ngươi có thể tìm bộ Lễ mà thanh toán, xem xem lão phu cần bồi thường bao nhiêu, đợi lão phu chết, các ngươi cũng có thể tịch thu của cải cũng như ruộng đất phong hầu của lão phu.”

Tạ Dung Dữ đã xem xong danh sách, dặn Đường chủ sự tăng cường nhân lực canh gác đại lao, đoạn thong thả nói: “Bổn vương đã nhờ bộ Lễ tính rồi, tổng cộng Hầu gia phải bồi thường bảy trăm nghìn lượng, nhưng chút tiền bạc này Hầu gia không cần quan tâm, đã có người trả giúp ông.”

Nói đoạn, Tạ Dung Dữ thấy phòng giam cũng đã được sửa sang đâu vào đây, xoay người toan rời đi, nhưng bị Khúc Bất Duy gọi lại, “Là ai trả thay ta?”

Tạ Dung Dữ dừng bước,”Không phải Hầu gia bảo không còn gì để nói với bổn vương ư, giờ lại muốn nói rồi hả? Hầu gia không cố kỵ tờ lệnh điều binh nữa à?”

Nghe thấy ba chữ “lệnh điều binh”, tròng mắt Khúc Bất Duy co lại. Đường chủ sự hiểu chuyện, lập tức ra dấu tay dẫn lính gác rời đi.

Khúc Bất Duy nhìn Tạ Dung Dữ chằm chặp, “Lệnh điều binh gì?”

“Còn là lệnh điều binh nào có thể khiến Hầu gia sợ bóng sợ gió đến vậy? Thuộc hạ của Phong Nguyên thành quân phản loạn, lệnh điều binh, dĩ nhiên là quân lệnh điều động phiến quân phản loạn đấy rồi.”

Tạ Dung Dữ nói, “Đình Lam mắc mưu của Chương Hạc Thư nên mới bị dụ điểm chỉ vào lệnh điều binh, hiện trong tay Chương Hạc Thư đang giữ một tờ quân lệnh, chỉ cần Hầu gia nói nhiều một chữ, Chương Hạc Thư sẽ lấy ra tờ quân lệnh ấy, chẳng phải vậy sao?”

Khúc Bất Duy cau mày, “Sao ngươi biết được chuyện này.”

“Là Đình Lam đưa cho bổn vương. Chương Lan Nhược từng nhắc nhở cậu ấy lệnh điều binh rất lạ, do đó cậu ấy mới để ý, lén lấy lại tờ quân lệnh ở chỗ Phong Nguyên, cất giữ tới tận bây giờ.”

“Tối nay bổn vương đến đây cũng vì được Đình Lam nhờ chăm sóc Hầu gia.” Tạ Dung Dữ nói, “Hầu gia luôn cho rằng việc mình sai chỉ mình mình gánh là đủ, sẽ không dính dáng đến già trẻ trong nhà, nhưng có bao giờ nghĩ tới việc Đình Lam mà biết phụ thân mình trở thành tù nhân thì sẽ thế nào không?”

Khúc Bất Duy kinh ngạc lắng nghe, hốt hoảng hỏi: “Thằng nhãi này được nuông chiều quá rồi, lão mặc kệ nó thế nào, chỉ cần Chu gia giúp, dù trời sập cũng không sập trúng đầu nó, hơn nữa…” Khúc Bất Duy nhìn Tạ Dung Dữ, lại cười khẩy, “Không phải nó là bạn tốt với Chiêu vương điện hạ sao.”

Tạ Dung Dữ nói: “Cậu ấy đi Lăng Xuyên rồi.”

“Tuy Đình Lam hồ đồ nhưng không ngốc, trước khi đi, cậu ấy biết Hầu gia đã phạm trọng tội, có lẽ cảm thấy không tiếp nhận nổi nên nhất mực đòi rời đi. Cậu ấy còn nói, có thể sẽ không kịp về đưa tiễn Hầu gia.”

Khúc Bất Duy không nhúc nhích, chỉ xoay mặt đi, “Thằng ôn đó cút xa chừng nào hay chừng ấy.”

Tạ Dung Dữ nói tiếp: “Nhưng trước lúc đi, cậu ấy đã trả hết nợ cho Hầu gia ở chỗ bộ Lễ. Không chỉ bảy trăm nghìn lượng, cậu ấy bồi thường một triệu hai trăm nghìn lượng. Nhà kho của Hầu gia ở Trung Châu đã được sung công, số bạc trên là cậu ấy đem đồ trong nhà đi bán, thậm chí bán cả bảo bối đồ cổ sưu tầm nhiều năm nay. Cậu ấy còn muốn bồi thường nhiều hơn nữa, nhưng không cách nào trả nổi. Hầu gia có biết vì sao cậu ấy lại như vậy không? Vì cậu ấy nói, ngoài bảy trăm nghìn lượng cần phải bồi thượng ra, cậu ấy còn phải đền cả những tính mạng mà Hầu gia đã nợ, chỉ tiếc có đền bao nhiêu cũng không cứu vãn nổi.”

“Bổn vương biết chắc chắn Hầu gia đã cân nhắc được mất nên mới không khai ra Chương Hạc Thư. Nhưng ông có bao giờ nghĩ đến điều Đình Lam thực sự muốn? Cậu ấy rút sạch tiền bạc là vì điều gì? Tại sao cậu ấy phải rời khỏi đây?” Tạ Dung Dữ hỏi.

“Còn nữa.” Tạ Dung Dữ tiến lên một bước, đặt một khối ngọc như ý xuống chiếu rơm Khúc Bất Duy ngồi. Khúc Bất Duy sửng sốt, đó là khối ngọc như ý đồng thau Cổ Việt lưu truyền trăm nghìn năm, về sau vào tay bà nội của Khúc Mậu, trước lúc lâm chung bà đã giao lại cho Khúc Mậu. Khúc Mậu là người có mới nới cũ, chỉ riêng khối ngọc như ý này được hắn cất rất kỹ, là báu vật hắn vô cùng yêu thích, “Vì cứu Hầu gia mà Đình Lam cầm cả miếng ngọc như ý này. Cổ ngọc vô giá lại chỉ đổi được ba nghìn lượng, thành thứ không đáng giá, mất công lắm bổn vương mới có thể chuộc về. Hầu gia cứ giữ lấy mà niệm tưởng đi.”

Nói xong, Tạ Dung Dữ chẳng buồn đếm xỉa đến Khúc Bất Duy, bước thẳng ra khỏi nhà giam.

Đường chủ sự ở ngoài tiến lên đón, hạ giọng hỏi, “Điện hạ, liệu Khúc hầu có khai không?”

“Chưa biết, thử xem sao đã.” Tạ Dung Dữ day ấn đường. Thật ra hai ngày nay Huyền Ưng Ti vẫn không tra hỏi được gì từ Nhan Vu, mãi vẫn không tìm được điểm đột phá.

“Hầy, thẻ bài trống mà Chương Hạc Thư dùng để bảo đảm với Tưởng Vạn Khiêm rất khó mô phỏng, chỉ có thể là thẻ bài cải chế của sĩ tử hồi ấy. Tiếc là có điều tra cũng không nổi, năm Hàm Hòa thứ mười bảy, năm Chiêu Hóa đầu tiên, năm Chiêu Hóa thứ bảy, có biết bao nhân sĩ nhận được thẻ bài, ai biết Chương Hạc Thư chọn của người nào, khác gì mò kim đáy bể!” Đường chủ sự ủ rũ cúi đầu, “Nếu điều tra được Chương Hạc Thư dùng thẻ bài cải chế năm nào thì tốt biết bao.”

Tạ Dung Dữ không đáp.

Đúng là mò kim đáy bể thật, nhưng trên con đường mọi người đã đi cho đến ngày hôm nay, có bước nào mà không trải qua chông gai vất vả, có manh mối quý giá nào mà không được tìm thấy từ những bộ sách tre dày nặng?

Ra khỏi đại lao, gió đêm thổi phần phật, Tạ Dung Dữ rảo bước về phủ nha. Tuy đã sai người để mắt theo dõi Khúc Bất Duy nhưng vẫn cần thận trọng, phòng giam chỉ mới vừa tăng cường nhân lực, đề phòng có chuyện xảy ra, tối nay y quyết định ở lại nha môn. Y gọi người đem lời khai của Nhan Vu đến, đang định kiểm tra thì đúng lúc này, Kỳ Minh dẫn một nội thị bước vào, “Bẩm điện hạ, trưởng công chúa nói muốn gặp ngài.”

“Gặp vào giờ này?” Tạ Dung Dữ hỏi. Hiện tại đã cuối giờ Hợi, đợi y đến điện Chiêu Doãn thì cũng sẽ quá giờ Tý*.

(*Giờ Hợi: từ 9 đến 11 giờ tối; giờ Tý: từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng.)

“Vâng ạ.” Nội thị là người cũ trong điện Chiêu Doãn, vô cùng đáng tin, “Trưởng công chúa nói khuya đến mấy cũng chờ, xin điện hạ nhất định phải đến.”

Tạ Dung Dữ biết không thể thoái thác, dọn dẹp quyển án rồi theo nội thị đến điện Chiêu Doãn.

Gió thổi ngày một mạnh dần, tuy trời rét buốt nhưng vẫn thấy được đụn mây dày đặc trên cao. Dạo gần đây triều chính bận rộn, dù đã là canh giờ này rồi nhưng các phòng trực bên ngoài Huyền Minh Chính Hoa vẫn sáng đèn, Tạ Dung Dữ men theo ngọn đèn đi đến điện Chiêu Doãn, A Sầm dẫn y vào nội điện của trưởng công chúa, khép cửa lại rồi lui xuống.

Trong điện Tứ Minh, trưởng công chúa mặc cung trang, đợi Tạ Dung Dữ hành lễ xong, bà mới nói: “Không phải mẫu thân muốn gặp con.”

Bà đứng dậy, “Nguyên Gia, cháu đi ra đi.”

Có người bước ra từ sau bình phong, Chương Nguyên Gia nhún người chào Tạ Dung Dữ, “Biểu huynh.”

Hầu hết đồng lứa bọn họ đều bằng tuổi nhau, tuy Tạ Dung Dữ là huynh trưởng nhưng lại là người lạnh lùng nhất, công bằng mà nói Chương Nguyên Gia không thân thiết với y, chỉ gặp mặt vài lần ở các buổi cung yến. Nhưng, nếu tối nay đã quyết định gặp Tạ Dung Dữ thì ắt hẳn nàng đã suy nghĩ kỹ càng, nên khi trưởng công chúa vừa rời đi, Chương Nguyên Gia nói thẳng: “Biểu huynh, Nguyên Gia đã biết biểu huynh đến Lăng Xuyên để điều tra việc gì rồi.”

Trên bàn còn đặt nửa chén canh sâm, Chương Nguyên Gia đang mang thai, khó thức khuya nổi, có lẽ phải uống canh sâm mới thức được đến giờ này. Tạ Dung Dữ không đáp mà mời Chương Nguyên Gia ngồi xuống, sau đó bảo, “Hoàng hậu nương nương đang mang long thai, chỉ cần yên tâm nghỉ ngơi là được, không cần để ý chuyện của tiền triều.”

“Làm sao Nguyên Gia có thể yên tâm nổi? Chẳng lẽ đến cả biểu huynh cũng chiếu lệ với muội thế ư?” Chương Nguyên Gia nói, “Tối nay Chương Gia mạo hiểm gặp mặt biểu huynh, ắt hẳn biểu huynh cũng biết mục đích của Nguyên Gia là gì. Nguyên Gia chỉ hi vọng biểu huynh nói thật với muội, có phải phụ thân muội… ông ấy có tội không?”

Tạ Dung Dữ im lặng một lúc, “Trước mắt vẫn chưa thể kết luận.”

Chợt y hỏi ngược lại, “Nương nương đã phát hiện ra tai mắt của Chương Hạc Thư cài cắm bên cạnh mấy năm nay rồi à?”

“Sao biểu huynh biết, là Quan gia nói sao?” Chương Nguyên Gia ngạc nhiên.

Nhưng vừa hỏi xong, tự nàng đã biết đáp án.

Triệu Sơ và Tạ Dung Dữ chưa bao giờ kể với nhau những chuyện nhỏ nhặt này.

Tiểu Chiêu vương vốn nhạy cảm minh mẫn, lại còn sống trong cung thời gian dàn, có điều lạ thường nào mà y chẳng thể nhìn ra? Bao năm nay Chương Hạc Thư luôn hành sự nhanh hơn người khác một bước, cộng thêm việc đế hậu ngăn cách, chỉ cần động não là dễ dàng nhận ra.

Tạ Dung Dữ hỏi như vậy là vì không muốn vòng vo nữa, quyết định nghiêm túc nói chuyện với nàng.

“Biểu huynh nói đúng. Mấy năm nay, quả thật muội quá vô tri.”

Tạ Dung Dữ nói, “Tối nay nương nương gặp thần không phải chỉ để tâm sự những chuyện này chứ.”

“Vâng, Nguyên Gia còn có một yêu cầu quá đáng.”

Chương Nguyên Gia im lặng một lúc, đoạn đứng dậy, đi vòng qua bàn vuông, hít một hơi thật sâu rồi bất thình lình quỳ xuống trước mặt Tạ Dung Dữ. Tạ Dung Dữ nhíu mày, đỡ nàng dậy trước khi đầu gối nàng chạm đất, “Nương nương làm gì vậy? Chúng ta quân thần khác biệt, đại lễ như thế thần không nhận nổi.”

“Quân thần khác biệt sao?” Chương Nguyên Gia nhìn Tạ Dung Dữ,”Nếu phụ thân muội có tội, muội nào còn mặt mũi mà làm ‘quân’?”

Nàng lùi về sau một bước, khuỵu gối xuống, “Nguyên Gia có một thỉnh cầu quá đáng, giao phó cả tài sản tính mạng cho biểu huynh, mong biểu huynh chấp thuận.”

Nói đoạn, hai tay nàng dâng lên một bức thư, “Để lừa được lòng tin của phụ thân, muội đã dụ dỗ thị tì trao đổi tin tức với ông ấy, hiện giờ ông ấy đang trong tình cảnh khó khăn, phải viết thư tay nhờ muội gửi ra ngoài kinh. Muội vẫn chưa mở thư ra, giờ trao lại y nguyên cho biểu huynh, manh mối bên trong hẳn sẽ giúp ích rất nhiều cho biểu huynh lần ra chân tướng Tiển Khâm Đài.

Nguyên Gia chỉ có một thỉnh cầu, nếu cả nhà Chương thị vô tội, xin biểu huynh nhất định phải trả lại trong sạch cho nhà muội.

Ngược lại, nếu phụ thân thật sự có tội, Nguyên Gia nguyện ý cùng phụ thân nhận lấy mọi hình phạt.”
 
Chương 196


Chữ kí bên ngoài đúng là nét của Chương Hạc Thư, Chương Nguyên Gia mím môi, ngón tay cầm bao thư siết chặt đến mức trắng bệch.

Đưa ra quyết định ấy nào có dễ gì, sau khi nhận được thư của phụ thân, Chương Nguyên Gia trằn trọc mất ngủ mấy đêm, thậm chí nàng còn nghĩ, nếu bức thư này có thể cứu được phụ thân, nàng sẵn sàng giúp ông gửi bức thư này ra ngoài kinh.

Nhưng Chương Đình đã bảo nàng phải làm chuyện đúng đắn.

Mối quan hệ giữa hai anh em rất tốt, từ bé đến lớn gần như chưa từng cãi nhau. Hồi xưa khi Chương Hạc Thư bận rộn chính sự, luôn là Chương Đình dẫn Chương Nguyên Gia đến trường học; hay về sau khi Chương Hạc Thư tách ra khỏi gia tộc Chương thị, ông vẫn dùng gia huấn “thanh gia độ thân, lan nhược độ tâm” dạy bảo, và cũng chính Chương Đình là người dạy Chương Nguyên Gia biết ý nghĩa của gia huấn.

“Về yêu cầu quá đáng mà muội nói,” Chương Nguyên Gia nói tiếp, “Trước khi làm rõ chân tướng, xin biểu huynh đừng để Quan gia biết được chuyện tối hôm nay.”

Nàng cụp mắt, chợt nhoẻn miệng cười, “Từ ngày thành thân với Quan gia, muội cứ tưởng mình mới là người khoan dung cho chàng, khoan dung cho sự bận rộn thờ ơ cũng như sự im lặng xa cách của chàng.Nhưng không phải, đến tận hôm nay muội mới hiểu thì ra chàng đang trong tình cảnh tiến thoái lưỡng nan như vậy, và chàng luôn thông cảm cho muội nhiều nhất.”

Bởi vì dù có ngăn cách đến đâu, toàn hậu cung vẫn có thể nhận ra chàng chỉ sủng ái duy một mình nàng.

“Chàng luôn là một vị Hoàng đế tốt, con đường đi đến ngày hôm nay đầy chông gai gập ghềnh, chẳng qua chàng đi nhanh quá, Nguyên Gia không đuổi kịp. Bây giờ giông tố đã đến, muội không muốn mình là người ngáng chân chàng, muội mong chàng mãi kiên định như ngày xưa ấy, mọi quyết định đưa ra sẽ không dao động chỉ vì bất cứ ai.”

Tạ Dung Dữ nhận lấy phong thư, “Được, thần hứa với nương nương.”

Đợi Chương Nguyên Gia đứng dậy, y lùi về sau một bước, khom người vái lạy, “Thần cũng tạ ơn đại nghĩa của nương nương.”

Thấy Chương Nguyên Gia cắn môi chần chừ, Tạ Dung Dữ biết nàng muốn hỏi điều gì: “Nương nương không cần lo cho lệnh huynh, đúng là lệnh huynh đã bị thương ở Chi Khê, nhưng bây giờ đã dần khỏe lại rồi, sáng nay thần nhận được tin do Tề đại nhân ở Lăng Xuyên gửi, bảo rằng ít hôm nữa có thể lệnh huynh sẽ tỉnh…”

Nói chuyện với Chương Nguyên Gia xong, Tạ Dung Dữ không nán lại điện Chiêu Doãn mà đi thẳng ra về.

Y vốn là người điềm đạm bình tĩnh, nhưng không rõ vì sao tối nay lại rất sốt ruột. Trước mắt thứ duy nhất có thể chứng minh Chương Hạc Thư tham gia vào vụ án mua bán chính là thẻ bài trống được làm giả, nhưng việc điều tra thẻ bài chẳng khác gì mò kim đáy bể, Huyền Ưng Ti và bộ Lễ đã bắt tay điều tra nhiều ngày, thế mà chỉ tìm được phương pháp mô phỏng tấm thẻ. Trực giác mách bảo Tạ Dung Dữ rằng bức thư trong tay có manh mối mà y muốn, nên khi vừa rời khỏi điện Chiêu Doãn, y lập tức mở thư ra đọc, Huyền Ưng vệ bên cạnh nhanh tay thắp đèn soi sáng.

Thư được gửi cho một tư lại ở huyện Tân Tập ngoại ô kinh thành, bảo hắn ta đến Khánh Minh thu tiền thuê của ông chủ tiệm rèn phía đông thành.

Chương Hạc Thư là người cẩn trọng, trong thư dùng toàn ám hiệu, song Tạ Dung Dữ vẫn có thể hiểu được đại khái.

Y cất bức thư, “Vệ Quyết đâu rồi?”

“Vệ đại nhân đang ở nha môn ạ.” Huyền Ưng vệ đáp, “Bây giờ Ngu hầu có về bộ Hình không? Để thuộc hạ đi gọi Vệ đại nhân.”

Để tìm được tội chứng của Chương Hạc Thư, mấy ngày nay Tạ Dung Dữ thường xuyên qua lại giữa các nha môn, nghe thế bèn nói, “Không cần, ta sẽ đến thẳng Huyền Ưng Ti.”

Mãi mới có manh mối, y phải đích thân đưa mới được. Đến Huyền Ưng Ti, hội Vệ Quyết Chương Lộc Chi vẫn chưa ngủ, xem thư xong, Vệ Quyết nói: “Chính là đây rồi, chắc chắn hồi đó Chương Hạc Thư đã tìm thợ thủ công lành nghề để làm giả thẻ bài lên đài, hẳn ông chủ của tiệm rèn phía đông thành Khánh Minh chính là kẻ đó. Thu tiền thuê là ám hiệu, có lẽ đang báo tin giục người bỏ trốn. Nay phong thư đã rơi vào tay chúng ta, chỉ cần bắt được tư lại huyện Tân Tập và người của tiệm rèn trước Chương Hạc Thư là xem như bắt được cả nhân chứng lẫn tang vật.”

Vệ Quyết lập tức tập trung nhân lực, chia binh làm hai, một đội đến huyện Tân Tập bắt tư lại, một đội theo hắn đến Khánh Minh bắt người, còn lệnh cho Chương Lộc Chi thẩm vấn Nhan Vu ngay trong đêm, lấy nội dung trong thư làm điểm đột phá.

Vệ Quyết muốn đi ngay bây giờ, nhưng vừa mở cửa ra thì suýt va phải hai người đang định bước vào. May thay người tập võ vốn nhanh tay nhanh mắt, Vệ Quyết né người tránh được, Triêu Thiên cũng kéo Đức Vinh lùi về sau, hành lễ: “Vệ đại nhân.”

Vệ Quyết gật đầu rồi rời đi.

Tạ Dung Dữ thấy Triêu Thiên và Đức Vinh chảy mồ hôi đầy đầu, hỏi, “Sao đấy? Trong nhà có chuyện gì hả?”

Đức Vinh thưa: “Triêu Thiên có chuyện gấp muốn bẩm báo với công tử, mới chạy một vòng trong cung.”

Trên đường vào cung Triêu Thiên gặp được Đức Vinh, cả hai đến bộ Hình trước rồi mới đến điện Chiêu Doãn, nhưng vừa tới nơi thì nghe A Sầm cô cô nói Tạ Dung Dữ vừa rời đi, thế là lại vòng về Huyền Ưng Ti.

“Là thiếu phu nhân bảo tiểu nhân gửi lời.” Triêu Thiên nói.

Hắn cẩn thận thuật lại chuyện Thanh Duy phát hiện Tào Côn Đức và Trương Viễn Tụ là đồng bọn ra sao, “Thiếu phu nhân bảo, Trương Nhị công tử có ơn cứu mạng với mình nên muốn trả ân tình, đáng tiếc Trương Nhị công tử không nghe thiếu phu nhân khuyên nhủ, không chịu tiết lộ. Nhưng thiếu phu nhân vẫn lờ mờ nhận ra Tào Côn Đức đang âm mưu chuyện gì đó, nàng rất sốt ruột, mấy hôm trước đã gửi thư cho Nhạc tiền bối, nhờ tiền bối điều tra vị đại nhân họ Du ở Trung Châu, nhưng đến hôm nay Nhạc tiền bối vẫn chưa hồi âm. Thiếu phu nhân nói, tuy từ nửa năm trước Quan gia đã cho người theo dõi Tào Côn Đức, nhưng Tào Côn Đức lòng dạ thâm sâu, cũng đã tính toán kỹ lưỡng từ lâu, ở ngoài cung còn có Trương Nhị công tử giúp đỡ, nếu lão ta muốn làm gì, chỉ sợ trở tay không kịp, nên xin công tử phải đề phòng thật kỹ. Vụ án sắp được làm rõ, không thể xảy ra sự cố vào lúc này được.”

Tạ Dung Dữ gọi một Huyền Ưng vệ đến, bảo hắn thuật lại nguyên văn lời của Thanh Duy cho Triệu Sơ, nhân tiện bổ sung, “Thời điểm đặc biệt cần hành sự đặc biệt, xin Quan gia tìm lí do giam giữ Tào Côn Đức.”

Huyền Ưng vệ do dự, “Nhưng bẩm Ngu hầu, bây giờ đã trễ rồi…”

Tạ Dung Dữ nhìn trời, “Vẫn chưa đến canh tư, đi đi, chắc chắn Quan gia vẫn đang xem trát.”

Huyền Ưng vệ nhận lệnh, cấp tốc chạy vào cung cấm, đưa thẻ bài trước Huyền Minh Chính Hoa. Cùng lúc đó, tại cửa nam thành Tử Tiêu, Vệ Quyết dẫn lính phi ngựa lao nhanh. Các nha môn như bộ Lễ, bộ Hình và Đại Lý Tự chong đèn suốt đêm, các viên quan người kiểm tra hồ sơ, người viết tấu chương trước bàn, ai ai cũng tập trung đầy nghiêm túc, gần như quên đi mệt mỏi. Trong màn đêm không có tuyết rơi ấy, mỗi ngọn đèn thắp sáng như đôi mắt thú lặng lẽ mở to, và những con người không ngủ bôn tẩu đó đây cũng như côn trùng tìm kiếm sự sống trước khi gió tuyết ập đến, không chỉ đánh hơi được mùi nguy cơ trong gió, mà còn thoát khỏi bóng tối, nhìn thấy ánh bình minh của ngày hôm sau.

Nhưng cũng trong đêm đó, có một ống tre nhỏ rung lên, tro tàn rơi xuống. Trong Đông xá, Tào Côn Đức thở dài: “Già rồi, trời trở lạnh, cầm không nổi cả một ống tre.”

Trong phòng ngập ngụa thứ mùi hương sa đọa, những mảnh vụn trên đĩa vàng sắp bị đốt cháy. Chỗ mảnh vụn ấy được cạo từ một phiến thạch cao. Lần trước khi Thanh Duy xông vào Đông xá, phiến thạch cao đó còn to chừng quả đấm, thế mà mới qua có vài hôm, nó chỉ còn lại chút ít bằng đầu móng tay. Sức khỏe của Tào Côn Đức đã đi xuống, lão vốn hạ quyết tâm cai bỏ thứ này, nhưng không hiểu sao sau khi gặp mặt Thanh Duy, cơn nghiện lại tái phát, không cách nào kìm nén. Những ngày gần đây lại càng lún sâu hơn, chỉ cần rời đi một khắc là như bị rút cạn sức lực. Thôi, dù gì từ nửa năm trước Triệu Sơ cũng đã nghi ngờ lão, phái người theo dõi lão, bây giờ còn lấy cớ “sợ lão vất vả”, không để lão theo hầu, thế thì lão cũng thuận theo tự nhiên bầu bạn với phiến thạch cao, chẳng cần lo giữa chừng bị gọi đến điện Tuyên Thất.

Đôn Tử phủ tấm thảm nhung lên đầu gối Tào Côn Đức, thấp giọng dặn: “Sư phụ, cẩn thận bị lạnh.”

Một lúc lâu sau, Tào Côn Đức mới chậm rãi mở mắt từ cơn mê, nói một câu không đầu không đuôi, “Đến lúc rồi.”

Tuy lời khó hiểu nhưng Đôn Tử nghe hiểu, đầu gối quỳ phịch xuống sàn, đau đớn gọi: “Sư phụ!”

Tào Côn Đức nhìn hắn, ánh mắt đầy trìu mến, “Đi đi, ta đã lo lót cho ngươi từ mấy năm trước rồi, nhớ kỹ lời ta đã dạy mà công bố ra ngoài, phải báo mối thu cần báo. Còn nhớ những bất hạnh mà ngươi đã chịu không, còn nhớ những nỗi khổ mà cô nhi Cật Bắc như ngươi gặp phải không, bọn nó không may mắn nhặt về được cái mạng như ngươi. Ta ấy, sẽ ở đây dựng tường đồng vách sắt, cản đao gươm giúp ngươi một lúc.”

“Vâng.” Đôn Tử dập đầu ba lần, đáy mắt ngấn lệ, “Đôn Tử cảm tạ sư phụ.”
 
Chương 197


Đêm trăng treo cao, trong một gian phòng tại quán trà nọ phát ra tiếng cốc chén va chạm. Một nhóm thư sinh học trò quây quần bên chiếc bàn dài, vừa kiểm tra hịch văn mới viết vừa lo lắng ngóng cổ chờ đợi.

Một người mặc áo sam sờn cũ mất kiên nhẫn, đặt cốc trà lên bàn cái *cạch*, hỏi, “Viên Tứ, nhân chứng mà ngươi nói bao giờ mới đến hả!”

“Đúng thế, Thái tiên sinh đã bị giam trong nhà lao của Kinh Triệu Phủ mấy ngày rồi đấy! Nói cho cùng thì người chết ở phố Chu Tước hôm ấy cũng có phải lỗi của Thái tiên sinh đâu, ai bảo Lâm thiếu gia và Khúc thiếu gia dám ra mặt lúc này? Triều đình đã không trừng trị đám tội nhân ấy đã đành, còn bắt cả Thái tiên sinh, Thái tiên sinh làm gì có lỗi? Chỉ là dẫn dắt chúng ta biểu tình đòi chân tướng thôi mà! Viên Tứ, không phải ngươi nói có cách để triều đình thả Thái tiên sinh hả, là cách gì, ngươi mau nói đi!”

Người tên Viên Tứ là gã một trung niên mặt lan sam ngồi trong góc, mặt hình chữ điền, tướng tá xấu xí, được cái phong thái khá trầm ổn, nghe mọi người thúc giục, gã vẫn không sốt ruột, “Chư vị à, ta đã nói rồi, triều đình bắt Thái tiên sinh cũng không sai, hôm ấy đã có người chết, ắt phải có người chịu trách nhiệm, Thái tiên sinh dẫn đầu nhóm chúng ta, dĩ nhiên triều đình sẽ bắt ông ấy. Muốn để triều đình thả người vô tội thì chỉ có một cách, đó là chứng minh chúng ta có lí do chính đáng để diễu hành trên phố, cũng có lí do để chỉ trích mạt sát hai kẻ tội nhân kia, chính triều đình không trả ta công bằng nên mới khiến ta phẫn nộ!”

“Nhưng làm sao để chứng minh được triều đình không trả lại sự công bằng mà chúng ta muốn? Không phải triều đình cũng đang điều tra vụ án Tiển Khâm Đài sao? Chúng ta biểu tình cũng chỉ để ép triều đình gấp rút làm rõ vụ án, công khai sự thật với toàn thiên hạ.”

“Nên ta mới bảo chư vị chớ sốt ruột.” Viên Tứ nói, “Chư vị thật sự cảm thấy những cải cách triều đình đưa ra sau sự việc sĩ tử nhảy sông là công bằng sao? Không hề, sau trận chiến sông Trường Độ, Cất Bắc rơi vào cảnh tan hoang, và triều đình đã làm không ít chuyện bẩn thỉu để giải quyết tình hình đó. Ta nói rồi, ta có một cố nhân biết rõ năm ấy triều đình đã làm sai điều gì, ta cũng chỉ thuật lại nội tình thôi, chư vị cứ chờ người đó giải thích trực tiếp.”

“Quanh đi quẩn lại vẫn phải chờ nhân chứng của ngươi! Đã hẹn giờ Tý là đến, hiện tại đã sắp giờ Dần mà vẫn chưa thấy bóng dáng đâu, còn đợi nữa khéo đợi tới sáng mất!” Người mặc áo sam sờn cũ sốt ruột quát, “Viên Tứ, có phải vốn dĩ không có người này, ngươi đang bịa chuyện lừa bọn ta đúng không!”

Viên Tứ không đáp, trả lời gã là tiếng cửa đẩy mở, mọi người đồng loạt nhìn sang, một thanh niên mặt mũi sáng sủa bước vào. Nếu người trong cung có mặt ở đây ắt sẽ nhận ra hình dáng người này nom tương tự tiểu thái giám bên cạnh Tào Côn Đức, cái người mà ngay cả một cái tên cũng chẳng có, chỉ vì lúc mới vào cung, hắn luôn nằm rạp xuống đất để các chủ nhân giẫm lên bước qua, nên được gọi là “Đôn Tử”. Nhưng bây giờ hắn đã thay sang áo dài, trông chẳng khác gì thư sinh bình thường, chỉ có đôi mắt sâu hoắm ấy là khiến người ta không phân biệt được quá khứ và hiện tại của hắn.

“Tào tiên sinh đến rồi.” Viên Tứ đứng bật dậy, đón Đôn Tử vào nhà.

Đôn Tử nheo mắt nhìn, “Kính chào chư vị, tệ nhân họ Tào, tên một chữ Tuệ, lấy ý từ câu cốc lúa bội thu.”*

(*Chữ Tuệ có nghĩa là bông lúa.)

“Ngươi chính là nhân chứng mà Viên Tứ đề cập?” Các sĩ tử bán tín bán nghi nhìn Đôn Tử.

Trận chiến sông Trường Độ đã trôi qua mười tám năm, những người biết về nguyên nhân kết quả của chiến dịch ấy chí ít đã đứng tuổi, mọi người cứ ngỡ nhân chứng mà mình chờ là một người già Cật Bắc, ngờ đâu người tới lại trẻ thế này.

Đôn Tử đáp: “Không sai, người mọi người đang chờ chính là tôi, tôi là cô nhi Cật Bắc năm xưa.”

“Nhưng trông dáng vẻ công tử, ta thấy không giống cô nhi lắm.”

“Đúng thế, giọng công tử cũng là giọng quan trong kinh, nghe không giống sống ở Cật Bắc.”

“Lấy gì chứng minh ngươi là người Cật Bắc?”

“Phải, bọn ta đâu dễ bị dắt mũi, trừ phi ngươi chứng minh được mình là người Cật Bắc!”

Đôn Tử không đáp, xem chừng hắn cũng đã đoán được các sĩ tử sẽ nghi ngờ mình, nét mặt dửng dưng không xao động, chỉ đơn giản cởi áo khoác giao cho Viên Tứ. Đám đông không biết hắn muốn làm gì, im lặng nhìn hắn. Đôn Tử tiếp tục tháo các áo, cởi ngoại sam ra. Cởi ngoại sam vẫn còn có áo trong, tiếp tục cởi áo ra, cuối cùng chỉ còn lại bộ áo lót. Nhưng Đôn Tử vẫn chưa dừng lại, khi hắn cởi nốt áo lót, người trong quán trà hít sâu một hơi.

Trên làn da trầ.n trụi không có lấy một nơi hoàn hảo, sẹo chằng chịt sẹo, dễ nhận thấy đó là những vết thương cũ, thậm chí vì cơ thể phát triển, một số vết sẹo nứt toác ra rồi hình thành lớp da mới, nhưng những vết thương ấy quá mức gớm ghiếc, không biết do đâu mà nên, có vết roi quất, cũng có dấu than nung, dưới ngực trái còn có một mảng da lõm vào, hẳn là di chứng của việc gãy xương sườn không được điều trị.

Đám đông chấn động không thốt nổi nên lời, Đôn Tử đổi khẩu âm, nói bằng giọng quê nhà Cật Bắc, “Không ai lại tự tạo vết thương như thế lên người mình cả, trừ những cô nhi Cật Bắc trải qua vất vả gian khổ, không sống nổi tại quê hương.”

“Vậy bây giờ chư vị đã chịu tin tưởng lời ta, nghe ta giải thích chưa?”

***

Một con ngựa lao nhanh trong màn đêm tảng sáng, dừng lại trước cửa Giang phủ, người cưỡi bị ngã khi xuống ngựa, nhưng hắn bất chấp cơn đau chạy thẳng vào phủ, lớn tiếng gọi: “Thiếu phu nhân, có thư rồi, có thư của Nhạc tiền bối rồi!”

Người này là hộ vệ ở Giang gia.

Tối qua sau khi về nhà, Thanh Duy bồn chồn bất an liên tục, tuy nàng đã dặn Tạ Dung Dữ cần cảnh giác đề phòng Tào Côn Đức, nhưng Tào Côn Đức đã lên kế hoạch mười mấy năm, đâu dễ bị kẻ khác phá hỏng âm mưu? Tới tận nửa đêm dù đã lên giường nằm, Thanh Duy vẫn dựng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Nên lúc Triêu Thiên và Đức Vinh vừa trở về, nàng lập tức tỉnh ngủ. Tuy nghe Triêu Thiên kể Quan gia đã cho người giam giữ Tào Côn Đức, nàng vẫn không cách nào thả lỏng nổi, giục hộ vệ trong nhà đến dịch trạm kiểm tra xem đã có thư của Nhạc Ngư Thất chưa, may thay kết quả không khiến nàng thất vọng, thư gấp của Nhạc Ngư Thất đã được gửi đến.

Thanh Duy vừa nhận được thư là ngay lập tức khui ra đọc, Nhạc Ngư Thất không giỏi văn vẻ, viết thư rất ngắn gọn, thế mà trong phong thư lại có đến ba trang giấy, thậm chí còn chẳng có lời mở đầu:

“Gửi Tiểu Dã, vi sư đã điều tra Du Thanh ở Trung Châu như lời con dặn. Hắn ta đúng là thân tín của Trương Viễn Tụ, là người liên lạc của Trương Nhị công tử tại địa phận Trung Châu. Hắn rất kín miệng, vi sư phải dùng vài biện pháp mà con không cần quan tâm mới cạy được miệng hắn.

Hắn không biết nhiều về chuyện của Tào Côn Đức, cũng không có liên quan tới ân nhân của Tào Côn Đức. Nhân tiện vi sư cũng hỏi thăm về tung tích của vợ con Bàng Nguyên Chính. Mấy năm sau khi Bàng Nguyên Chính qua đời, Cật Bắc nổ ra chiến tranh, chính là trận chiến sông Trường Độ. Sau trận chiến, Cật Bắc rơi vào đường cùng, người dân trước đó còn miễn cưỡng sống lay lắt thì giờ đây cũng không sống nổi nữa. Mà lương thực cứu tế của triều đình lại có hạn, đành nhờ bách tính hỗ trợ tìm cách. Trung Châu có một thương nhân, chính là Cố Phùng Âm mà con biết, ông ta đến Cật Bắc làm ăn, xót xa trước cảnh dân chúng lầm than, sau khi trở về Trung Châu ông ta đã nhận nuôi cô nhi Cật Bắc. Nhờ có ông ấy mở đường cộng thêm sự khích lệ của triều đình, nghĩa cử ấy dần thành phong trào, các thương nhân Trung Châu và Khánh Minh cũng bắt đầu nhận nuôi cô nhi Cật Bắc.

Bây giờ ta mới hiểu triều đình khích lệ không phải chỉ là đôi ba lời tán dương, mà có chính sách thiết thực. Ví dụ như Giang Lưu, lúc ấy quan phủ Giang Lưu đã tuyên bố những ai nhận nuôi từ năm cô nhi trở lên sẽ được miễn giảm ba phần thuế hành thương, nếu các phú thương nhận nuôi trẻ cô nhi có kinh doanh qua lại Cật Bắc thì không những miễn giảm toàn bộ thuế, mà còn được quan phủ tài trợ. Rõ là chuyện tốt đúng không? Không chỉ giải quyết được sinh kế của dân chúng Cật Bắc, mà mặt khác, thông qua việc kinh doanh, triều đình có thể đưa Cật Bắc thoát khỏi khổ nạn. Ta nghe người ta nói trà Cừ và lụa Cật nổi tiếng của Cật Bắc cũng phất lên vào lúc đó.

Nhưng tiếc thay chuyện gì cũng có hai mặt, quyết sách như vậy cũng có hậu quả tiêu cực. Các thương nhân hồi ấy chỉ chọn cô nhi thân quyến của tướng sĩ đã hi sinh, không chọn những đứa trẻ khác. Nhận nuôi cô nhi của tướng sĩ sẽ vẻ vang hơn, đám trẻ ấy cũng được đối xử tử tế, à, cái thằng oắt hay đến xin ta chỉ dạy võ công, tên Cố Triêu Thiên gì đó, không phải cũng thế sao. Còn những đứa trẻ khác, ăn không đủ no mặc không đủ ấm, có được nhận nuôi hay không, sau nhi nhận nuôi sẽ gặp chuyện gì, nhất nhất nghe theo ý trời. Hầu hết chính sách của quan phủ lúc ấy là nhận nuôi năm người miễn giảm ba phần thuế, mười hai người miễn giảm mười phần, hai mươi người miễn giảm bảy phần. Nhận nuôi càng nhiều thì thu thuế càng thấp, nhưng hai mươi người, dù nhận về làm người hầu kẻ ở thì cũng là hai mươi cái miệng ăn chờ đút, nên là…”

Dường như viết đến đây, Nhạc Ngư Thất không kìm nén nổi xúc động, vết mực nhỏ xuống giấy để lại một chấm to, ông bèn xuống dòng viết tiếp:

“Nên đã có thương nhân lợi dụng kẽ hở, nhận nuôi rất nhiều cô nhi, nhưng đợi quan phủ ghi danh xong thì quay ra vứt bỏ, ba ngày không có được bữa cơm, sống chẳng bằng một con chó, còn không cho phép họ ra ra cửa tìm ăn, sợ quan phủ mà biết sẽ bị trừng trị, thế là giam người lại, tụi trẻ chịu không nổi, không lâu sau đều đã qua đời. Dĩ nhiên quan phủ có cử người định kỳ đến hỏi thăm, cũng sẽ kiểm tra tình trạng của dân tị nạn và cô nhi, nhưng người đông như thế, kiểu gì cũng để sót, hơn nữa ai chẳng biết giả vờ đóng kịch? Quan phủ đâu thể sai người đến ở lì tại nhà các thương nhân được.

Thật ra thế đã còn tốt chán, có vài kẻ có sở thích biế.n thái, lấy việc tra tấn làm mua vui, thậm chí… quá khủng khiếp ta không muốn nói nhiều, cô nhi và dân tị nạn được nhận nuôi bị hành hạ đủ kiểu, chí ít lúc ở Cật Bắc còn được coi là người, nhưng rời khỏi Cật Bắc lại chẳng phải là người nữa rồi. Theo lời khai của Du Thanh, vợ con của Bàng Nguyên Chính bất hạnh bị một gia đình như trên nhận làm người hầu. Gia chủ nhà này họ Liêu, thực sự quá đốn mạt, ba mẹ con đến Liêu gia chỉ mới một năm mà bị hành hạ vô cùng dã man. Bấy giờ là năm Chiêu Hóa đầu tiên, cũng vào năm đó, Tào Côn Đức tấn thăng lên áp ban Nội Thị Tỉnh, có được cách gửi tin ra ngoài cung.

Về phần Tào Côn Đức, nói hắn độc ác cũng không ngoa, nhưng nếu chỉ xét riêng việc này thì khá là đáng nể. Hắn rời Cật Bắc đã nhiều năm, cắn răng tịnh thân làm thái giám, cũng có được địa vị máu mặt trong cung, vậy mà vẫn nhớ ơn Bàng Nguyên Chính nhường cho mình rời khỏi Cật Bắc. Ăn cám trả vàng, được bao nhiêu người làm được chuyện này. Tào Côn Đức luôn hi vọng có thể báo đáp Bàng Nguyên Chính, nên sau khi biết tin y đã qua đời, vợ con cũng bị hành hạ mà ra đi, hắn ôm hết mọi tội lỗi vào mình, cho rằng vì không thể báo đáp Bàng thị sớm hơn nên mới khiến bọn họ rơi vào kết quả ấy. Sau đó, Tào Côn Đức quyết định trả thù cho mẹ con Bàng gia.

Theo lí mà nói, kẻ thù của hắn là ai quá rõ còn gì, chính là gia chủ họ Liêu nhận nuôi mẹ con Bàng thị. Nhưng chuyện này kể ra cũng lạ, trước khi Tào Côn Đức tìm được mẹ con Bàng thị thì gia chủ họ Liêu đã chết, vụ án hành hạ cô nhi sông Trường Độ từ lớn hóa nhỏ, khép án qua loa. Nghe Du Thanh nói, sở dĩ Tào Côn Đức hợp tác với Trương Viễn Tụ là vì hắn còn có thù cũ chưa báo, vẫn có kẻ thù đang ung dung ngoài lưới trời, hắn đang chờ đợi thời cơ thích hợp để tố giác tội ác của kẻ đó, nên mới ẩn nấp trong cung.

Đây là toàn bộ tin tức về Tào Côn Đức ta moi được từ chỗ Du Thanh. Chắc chắn hắn ta đã che giấu manh mối về Trương Viễn Tụ, tiếc rằng ta không cách nào hỏi được. À phải rồi, ta cũng đã điều tra Đôn Tử như con yêu cầu. Khéo làm sao, tuy Tào Côn Đức không thể cứu được mẹ con Bàng thị từ tay Liêu gia, nhưng ma xui quỷ khiến thế nào lại cứu được một đứa bé may mắn còn sống. Còn về con chim cắt con đã thấy ở Trung Châu lần trước, nó đúng là chim cắt do Tào Côn Đức nuôi, chuyên đưa tin qua lại giữa kinh thành và Trung Châu. Tiểu Dã, ta cảm thấy chuyện lần này rất không đơn giản, rốt cuộc Tào Côn Đức muốn làm gì, kẻ thù của hắn là ai, hắn đang chờ đợi điều gì, dù hiện tại vẫn chưa sáng tỏ, nhưng một khi đã lộ thì nhất định sẽ có manh mối, con ở kinh thành cần chú ý đề phòng. Giữ gìn sức khỏe.”

Thanh Duy cau mày đọc hết đoạn cuối, không khỏi lấy làm khó hiểu, nếu đúng như Nhạc Ngư Thất nói, gia chủ họ Liêu đã chết, vậy kẻ thù của Tào Côn Đức là ai? Lão nói chờ thời cơ thích hợp, vậy thời cơ như thế nào?

Thanh Duy chợt nghĩ đến Cố Phùng Âm đang ở kinh thành, mà gia chủ họ Liêu cũng là người Trung Châu, không chừng Cố Phùng Âm cũng biết ông ta.

Nàng định sai Đức Vinh và Triêu Thiên đi hỏi thăm, nhưng vừa ngước lên thì lại thấy Đức Vinh siết chặt bức thư, hai tay run bần bật, mặt cắt không còn giọt máu, hắn nhìn Thanh Duy, trong đôi mắt luôn bình tĩnh toát lên vẻ thất thố chưa từng có: “Thiếu phu nhân, nguy, nguy rồi…”
 
Chương 198


Trong quán trà tại kinh thành.

“… Sau trận chiến sông Trường Độ, trẻ mồ côi ở Cật Bắc nhiều không đếm xuể, tôi là một trong số đấy. Nhưng một đứa xuất thân hèn mọn như tôi được nhận nuôi cũng chỉ giúp các thương nhân góp đủ người giảm thuế, gặp được người tốt, miễn cưỡng còn có miếng cơm ăn, chứ nếu gặp phải kẻ không ra gì, thứ chờ đợi chúng tôi chính là địa ngục.”

Đôn Tử nhìn quanh, ánh mắt lạnh lẽo, “Hồi ấy tôi được một nhà họ Liêu nhận nuôi, làm người hầu một năm. Chư vị thấy cơ thể tôi rồi đấy, chắc hẳn cũng biết trong một năm ngắn ngủi đó tôi đã bị ngược đãi như thế nào, nhưng chưa hết…”

Nói đoạn, Đôn Tử nắm lấy dây khố, kéo một cái.

Khố rơi xuống đất, đập vào mắt là vết sẹo kinh khủng.

Các nhân sĩ không khỏi hô lên, có người xoay mặt đi không đành lòng nhìn thẳng.

Cái hồi Tào Côn Đức cứu Đôn Tử thì ông ta đã vào áp ban ở Nội Thị Tỉnh, với địa vị của lão ta, tìm một căn nhà cho Đôn Tử sống yên thân không khó, việc gì phải để đứa trẻ số khổ ấy cũng thành thái giám như mình?

Nhưng thực chẳng đặng, bởi lúc Tào Côn Đức gặp Đôn Tử, gã đã không còn lành lặn.

Lúc này, một nhân sĩ lên tiếng: “Ta rất thông cảm trước cảnh ngộ của Tào huynh đệ, nhưng, kẻ xấu hại ngươi không có ở đây, chuyện đã qua nhiều năm, nay nhắc lại có được gì không?”

“Đúng vậy, công bằng mà nói quan phủ làm cũng không sai, Tào huynh đệ xui xẻo nên mới gặp phải kẻ ác.”

Bọn họ tập trung ở đây chỉ với một mục đích là cứu Thái tiên sinh. Vẫn câu nói cũ, trừ phi có thể chứng minh triều đình không xử lí công bằng, bọn họ không có cách nào yêu cầu quan phủ thả người.

“Chư vị đừng nóng nảy, tôi vẫn chưa nói hết.” Đôn Tử nói tiếp, “Chư vị chỉ thấy ác nhân họ Liêu đã chết, nhưng mọi người có biết triều đình trị tội hắn ta thế nào không? Triều đình không hề công khai tội ác của hắn, mà chỉ bí mật xử tử, đồng đảng của hắn, gia quyến của hắn vẫn đang ung dung sống ngoài kia.

Lúc ấy có bảy người chúng tôi được họ Liêu nhận nuôi, ngoài tôi ra, sáu người còn lại không ai sống sót, trong đó có một nhà ba mẹ con. Hơn nữa theo tôi được biết, năm ấy ở Trung Châu hay Khánh Minh, không chỉ có một ác thương như tên họ Liêu. Nhưng hễ động đến chuyện này là quan phủ lại bí mật xử quyết, không hề truy cứu! Chư vị có biết vì sao không? Vì quan phủ không dám công khai sự việc, sợ dân chúng ngừng tán dương khen ngợi. Như thế khác gì làm dơ bẩn thành tích của tiên đế!

Thậm chí, hồi ấy có một phú thương rất nổi tiếng ở Trung Châu, chẳng những ông ta đẩy chúng tôi vào hố lửa, mà dù đã biết chúng tôi bị ngược đãi vẫn bao che cho họ Liêu, chính ông ta đã bắt tay với quan phủ ém nhẹm chuyện đó, coi tính mạng của mấy chục người chết vì ngược đãi như trò đùa, trái ngược hoàn toàn với tiếng tăm của ông ta!”

Nói đến đây, Đôn Tử dừng một lúc, giọng từ căm phẫn trở nên nặng nề, “Mà điều quan trọng nhất, tôi muốn hỏi chư vị, trận chiến sông Trường Độ có thật sự cần đánh không? Chư vị ngẫm mà xem, trước trận chiến Cật Bắc thế nào? Sau trận chiến Cật Bắc lại ra sao?!”

Trước trận chiến sông Trường Độ, Cật Bắc bị ảnh hưởng bởi thiên tai nạn đói, người Cật Bắc dẫu nghèo song chí ít có thể sống lay lắt qua ngày; nhưng sau trận chiến sông Trường Độ, khắp Cật Bắc đâu đâu cũng là tiếng lầm than, cô nhi vô số, triều đình mới phải cùng thương nhân nhận nuôi trẻ mồ côi.

Lúc này, người áo sam cũ sờn lên tiếng: “Tào huynh đệ nói thế, tại hạ mới nhớ ra, hồi trước khi đánh trong triều có người chủ hòa, sau khi sĩ tử nhảy sông thì triều đình mới quyết định ứng chiến mười ba bộ Thương Nõ.”

“Đúng rồi, ta cũng nhớ năm Chiêu Hóa mười một mười hai gì đấy, tiên đế đề nghị xây dựng Tiển Khâm Đài, có không ít người kịch liệt phản đối, nhân sĩ trong kinh bảo, xây đài chỉ tổ hao tài tốn của, chẳng thà dùng số tiền đó thu xếp cho di dân Cật Bắc. Về sau các sĩ tử ấy còn bị khép tội.”

“Dù có đánh trận hay không, thì nếu nhìn từ góc độ này…” Các sĩ tử ngồi trong góc đưa mắt nhìn nhau, “Triều đình thật sự bất công với Cật Bắc?”

“Lại còn có mặt mũi dựng tháp kỉ niệm chiến công!”

Người áo sam sờn cũ hỏi lại: “Tào huynh đệ, ngươi có cam đoan những gì mình nói là thật không?”

“Tôi dám lấy tính mạng ra thề!” Đôn Tử giơ ba ngón tay thề độc, lại nói tiếp, “Trong tay ta còn có nhân chứng quan trọng, chính là phú thương Trung Châu bắt tay với quan phủ bao che họ Liêu.”

“Hiện giờ phú thương này đang ở đâu?”

“Đã bị người của tôi bắt được rồi. Ông ta đang ở khá xa chỗ này, nếu chư vị bằng lòng chờ tôi một canh giờ, tôi sẽ dẫn ông ta đến, để chính miệng ông ta nói ra sự thật.”

“Được!” Người áo sam sờn cũ hô lớn, đoạn xoay đầu nhìn nhân sĩ trong phòng, “Các vị, bây giờ xem ra triều đình thật sự đã che giấu điều gì đó về vụ án Tiển Khâm Đài, bao gồm cả trận chiến sông Trường Độ hơn mười năm trước, mà chúng ta hoàn toàn không hề hay biết! Sự việc không nên chậm trễ, tôi đề nghị chúng ta nên đến phố Chu Tước ngay bây giờ, yêu cầu triều đình công khai chân tướng, thả Thái tiên sinh!”

“Đến phố Chu Tước làm gì? Theo ta thấy, đến thẳng trước cửa cung đi!”

“Đúng, giả dối cũng được gì! Chi bằng đến thẳng cửa cung! Nhiều cô nhi Cật Bắc chết như vậy, bao nhiêu oan khuất bất bình cũng bị chôn vùi dưới Tiển Khâm Đài, lẽ nào không đủ để triều đình trả cho chúng ta một sự thật!”

Các sĩ tử trong quán trà đã bị oán hận căm phẫn đốt cháy, người áo sam cũ gật đầu thật mạnh, nói với Đôn Tử: “Nếu đã vậy, làm phiền Tào huynh đệ hãy đưa ác thương kia đến cửa cung, để ông ta phơi bày tội ác trước mặt bách tính thiên hạ.”

***

Tại Giang gia.

Thấy Đức Vinh biến sắc, Thanh Duy hỏi: “Có phải ngươi nhớ ra chuyện gì rồi không?”

“Thiếu phu nhân.” Đức Vinh nuốt nước bọt, “Có thể cho phép tiểu nhân đọc tờ thư cuối được không?”

Thanh Duy không do dự đưa lá thư trong tay cho hắn, Đức Vinh lia mắt đọc, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, “Có lẽ tiểu nhân biết gia chủ họ Liêu nhận nuôi vợ con của Bàng Nguyên Chính.”

“Ông ta là bạn của nghĩa phụ, kinh doanh đồ sứ. Vì để được giảm thuế, có một lần ông ta đã đến nhà hỏi nghĩa phụ nhận nuôi cô nhi Cật Bắc như thế nào. Nghĩa phụ là người tốt bụng, để khuyến khích ông ta trợ giúp cô nhi Cật Bắc mà còn dẫn tiểu nhân đi gặp ông ta. Nghĩa phụ cũng từng khuyên ông ta, bảo cứ liệu sức mà làm, nói nhận nuôi trẻ không giống nuôi chó nuôi mèo, chỉ cần cho miếng cơm là xong, nếu đã nuôi thì phải đối xử tốt, ai mà dè…”

Đức Vinh mím môi, một lúc lâu sau mới nói, “Tiểu nhân không biết một năm sau đã xảy ra chuyện gì, chỉ biết di dân Cật Bắc được gia chủ họ Liêu dẫn về đã lành ít dữ nhiều… Ngày hôm ấy ông ta tới tìm nghĩa phụ, nói quan phủ đã điều tra đến mình, xin nghĩa phụ làm chứng rằng ông ta vô tội. Nghĩa phụ rất tức giận, nói ông ta phải tự chịu trách nhiệm trước những chuyện đó, nghĩa phụ không giúp được, thậm chí còn vì thế mà đổ bệnh. Về sau… Hình như đại nhân ở phủ Giang Lưu cũng đến nhà, bàn bạc với nghĩa phụ về vụ án của gia chủ họ Liêu, cụ thể thế nào tiểu nhân không nhớ, chỉ nhớ bọn họ dặn nghĩa phụ không được công bố chuyện này ra ngoài. Trong thời gian ấy ở Giang Lưu đồn đãi rằng nghĩa phụ không xứng với danh tiếng, bao che kẻ ác, nhưng tiểu nhân tin tưởng nghĩa phụ, để ngoài tai những lời đó nên dần cũng quên đi, bây giờ mới sực nhớ…”

Chợt, Đức Vinh ngạc nhiên nhìn Thanh Duy, “Thiếu phu nhân, trong thư Nhạc tiền bối viết Tào Côn Đức có thù muốn báo, chẳng lẽ kẻ thù của lão là nghĩa phụ? Xét cho cùng chính nghĩa phụ đã khuyến khích gia chủ họ Liêu nhận nuôi cô nhi, cũng chính nghĩa phụ che giấu tội danh cho ông ta, nếu không việc gì nghĩa phụ lại đột ngột lên kinh?”

Nghe hắn nói thế, Thanh Duy lập tức bừng tỉnh, mấy điểm nghi vấn trước đó nàng không tài nào đoán ra đã được liên kết với nhau, chân tướng hé lộ.

Phải rồi, nàng còn bảo sao có thể trùng hợp đến vậy, nàng muốn lên kinh, Cố Phùng Âm cũng lên kinh.

Hóa ra con chim cắt nàng thấy ở Trung Châu thực sự có nhét thư của Tào Côn Đức, chẳng qua bức thư đó không gửi cho Trương Viễn Tụ hay Du Thanh, mà nhờ Du Thanh đưa cho Cố Phùng Âm, mục đích để ép Cố Phùng Âm lên kinh thành.

Cố Phùng Âm bồn chồn lo lắng suốt quãng đường lên kinh, lúc đến nơi, không những ông không ở cùng Triêu Thiên Đức Vinh, mà mấy lần hai người họ đến cửa tiệm thăm ông, ông cũng tránh mặt từ chối gặp. Thanh Duy còn tưởng cha con nuôi ba người họ không quá thân thiết, nhưng nay xem ra, có lẽ Cố Phùng Âm biết Tào Côn Đức muốn tìm mình trả thù nên mới không muốn kéo hai người con nuôi vào.

Mà quan trọng nhất, với địa vị của Tào Côn Đức ngày hôm nay thì đáng lí ra lão đã có thể báo thù từ lâu, nhưng trong thư Nhạc Ngư Thất nói Tào Côn Đức đang đợi thời cơ phù hợp.

Thời cơ ấy là gì đây?

Thanh Duy thấy chim cắt ở Trung Châu là vào nửa tháng sau khi Tạ Dung Dữ lấy được bằng chứng ở Chi Khê, chỉ vài ngày trước khi tin tức truyền đến Bắc Kinh, vừa đủ để chim cắt bay đi bay về.

Tào Côn Đức đang chờ ngày chân tướng sáng tỏ.

Vì sao lão lại chọn thời cơ này? Ngoài việc trả thù Cố Phùng Âm, lão ta còn muốn làm gì nữa?

Một dự cảm rất xấu kéo đến, Thanh Duy không có thời gian suy nghĩ, nhanh chóng quyết định: “Đức Vinh, ngươi lập tức vào cung tìm quan nhân, bảo chàng cho ta mượn người, trước mắt phải bảo vệ được Cố thúc.”

“Triêu Thiên, ngươi theo ta đến cửa tiệm của Cố thúc.”

***

Sắc trời dần sáng, một đêm lặng gió, chân trời không thấy hừng đông, mây dày đặc nhưng tuyết chẳng rơi, Thanh Duy vội vàng lao đến cửa tiệm phía tây thành, gấp gáp xuống ngựa.

Vị quản gia của Cố phủ lo lắng đi vòng vòng trước cửa, thấy Thanh Duy và Triêu Thiên tới thì ngạc nhiên: “Giang cô nương, Tam thiếu gia, sao hai người lại cùng đến đây?”

Ông ta không biết thân phận thật của Thanh Duy, hỏi như vậy cũng không lạ.

Triêu Thiên giải thích: “Đây là phu nhân của gia chủ của tôi.”

Quản gia còn chưa luận ra phu nhân của gia chủ chính là Chiêu vương phi thì Thanh Duy đã hỏi: “Lưu quản gia, Cố thúc đâu rồi?”

“Tôi đang lo lắng đâu, lúc nãy đột nhiên có mấy gã đàn ông cao to đến tiệm, rồi lão gia đi theo bọn họ.”

“Cụ thể là lúc nào?”

“Nửa canh giờ trước, khi trời vẫn chưa sáng.”

Thanh Duy nhíu mày, chạy nhanh tới đâu thì vẫn trễ một bước rồi.

Lưu quản gia thấy sắc mặt Thanh Duy khác lạ, bèn hỏi, “Giang cô nương, có phải đã xảy ra chuyện rồi không?” Ông vỗ đùi, thất vọng nói, “Tôi đã bảo mà, lúc ấy tôi cảm thấy đám đàn ông kia quá kỳ cục, nhẽ ra tôi nên ngăn lão gia lại mới đúng!”

Thanh Duy an ủi: “Lưu quản gia đừng nóng, trả lời vài câu hỏi của tôi đã.”

“Thứ nhất, thực ra Cố lão gia lên kinh không phải để giải quyết vấn đề kinh doanh, mà là vì nhận được một bức thư trong kinh gửi tới đúng không?”

Lưu quản gia chần chừ, Cố Phùng Âm không cho phép tiết lộ chuyện này với bất cứ ai, nhưng bây giờ thấy lão gia bị kẻ xấu bắt, ông ta không nghĩ được nhiều đến thế, “Không giấu gì Giang cô nương, đúng là lão gia nhận được một bức thư nên mới quyết định lên kinh. Thực tế mấy ngày nay lão gia ở cửa tiệm cũng không bận gì, chỉ kiểm tra sổ sách các nơi, có ý định phân chia gia sản. Đêm qua lão gia còn nói, trong số các thiếu gia trong nhà thì Chúc Nhị thiếu gia thông minh nhất, giao cho cậu ấy lo liệu chuyện kinh doanh ở kinh thành và Trung Châu, nếu thiếu gia không cáng đáng nổi, Tiểu Chiêu vương sẽ giúp cậu ấy.”

Cố Nhị thiếu gia chính là Đức Vinh.

Lời này của Cố Phùng Âm nghe như muốn bàn giao hậu sự.

Thanh Duy lại hỏi: “Đây không phải là lần đầu tiên Cố thúc nhận được thư như thế đúng không?”

Nếu Tào Côn Đức đã nhận định kẻ thù là Cố Phùng Âm từ lâu, vậy chắc chắn đã từng liên lạc với ông từ rất nhiều năm trước, bằng không Cố Phùng Âm đã chẳng lập tức lên kinh ngay khi nhận được thư của lão ta.

Quả nhiên không sai, Lưu quản gia đáp:”Đúng là không phải lần đầu lão gia nhận được thư như vậy. Chúng tôi đã nhận được thư tổng cộng hai lần, lần thứ nhất là vào, vào…”

“Năm Chiêu Hóa đầu tiên?” Thanh Duy hỏi.

Năm Chiêu Hóa đầu tiên, Tào Côn Đức biết được tung tích của vợ con Bàng thị, cứu Đôn Tử, viết thư chất vấn Cố Phùng Âm.

“Đúng đúng, là năm Chiêu Hóa đầu tiên, lão gia nhận được thư thì rất áy náy, còn đổ bệnh một thời gian, nói gì mà mình đã làm sai chuyện, sẽ bị báo ứng.” Lưu quản gia đáp, “Lá thư thứ hai được gửi đến vào khoảng hai năm trước, sau khi nhận được thư, lão gia buồn rầu nhiều hôm liền.”

Hai năm trước là lúc triều đình quyết định trùng kiến Tiển Khâm Đài.

Ắt hẳn trong bức thư thứ hai Tào Côn Đức đã hẹn Cố Phùng Âm lên kinh, bởi vì áy náy, Cố Phùng Âm đồng ý với yêu cầu của Tào Côn Đức, đợi đến mùa thu năm nay khi nhận được bức thư thứ ba, ông mới lên đường cùng Thanh Duy đến kinh thành.

Xem ra Cố Phùng Âm đã bị người của Tào Côn Đức dẫn đi rồi. Nhưng rốt cuộc ông ấy đã đi đâu?

Thanh Duy biết nếu chỉ có mỗi mình mình và Triêu Thiên, tìm kiếm một người bị giấu đi ở kinh thành rộng lớn này chẳng khác nào mò kim đáy bể. Nhưng Tào Côn Đức tìm Cố Phùng Âm là để trả thù, mỗi một giờ một khắc trôi qua, tính mạng Cố Phùng Âm sẽ càng thêm nguy hiểm. Cũng may Đức Vinh đã vào cung mượn người của Tạ Dung Dữ, thay vì chạy vòng vòng như ruồi mất đầu, tốt nhất nàng nên chờ chi viện của Huyền Ưng vệ.

Thanh Duy sốt ruột đi vòng vòng tại chỗ, nửa canh giờ sau, đầu đường mới có tiếng vó ngựa đưa tới – là Kỳ Minh cùng các Huyền Ưng vệ, Đức Vinh cũng đi theo.

Thanh Duy rảo bước đi tới: “Sao giờ mới đến hả?”

Kỳ Minh vừa xuống ngựa vừa giải thích: “Chẳng hiểu sao sáng nay các sĩ tử lại đồng loạt kéo đến cửa cung biểu tình, lấp kín mọi ngõ ngách.Nếu không có Ngu hầu sớm đề phòng, yêu cầu bọn thuộc hạ rời cung đợi lệnh của thiếu phu nhân từ trước khi trời sáng, thì chưa chắc thuộc hạ đã đến kịp, mong thiếu phu nhân không trách cứ.”

Thanh Duy nhận ra tông giọng của mình đã quá gay gắt, nàng bình tĩnh nói: “Ngươi đừng hiểu lầm, ta không có ý trách mọi người, chỉ là sốt ruột quá thôi.”

Rồi nàng hỏi: “Tào Côn Đức đã bị bắt chưa?”

“Quan gia vừa nhận được tin là ngay lập tức cử người tới Đông xá dẫn Tào Côn Đức đi, nhưng… không thấy Đôn Tử đâu.”

Thanh Duy không bất ngờ, nếu Tào Côn Đức không có nước đi dự bị thì đã không phải là Tào Côn Đức.

Tào Côn Đức là đại thái giám, tuy triều thần nể mặt lão nhưng cũng không coi trọng lão, cho nên, dù bản lĩnh của lão lớn đến đâu thì cũng chỉ có thể mua chuộc được nội thị và thị vệ trong cung. Hai năm qua Thanh Duy thuận lợi ra vào Đông xá, ngoài có Đôn Tử dẫn đường thì cũng có công của thị vệ gác cửa hông. Nếu nói thị vệ ở đó không phải người của Tào Côn Đức thì Thanh Duy không tin. Hẳn phải có thị vệ trong ứng ngoại hợp thì một nội thị như Đôn Tử mới có thể thuận lợi rời cung.

Đôn Thị không có nhà ở tại kinh thành, nhưng các thị vệ thì có.

“Nếu ta nhớ không nhầm thì Võ Đức Ti chịu trách nhiệm canh gác cổng thành và ngoài cửa cung đúng không?” Thanh Duy hỏi.

“Đúng thế.”

“Được rồi, các ngươi hãy đến Võ Đức Ti lấy danh sách trực ban tới đây, ta muốn điều tra xem hai năm qua mỗi lần ta ra vào Đông xá thì ai là người canh gác cửa hông, những kẻ đó làm việc dưới quyền ai, có nhà ở đâu trong kinh thành.”

Kỳ Minh lấy làm ngạc nhiên.

Thanh Duy hỏi lại: “Sao thế? Chuyện này khó khăn hả?” Nàng biết tự tiện lấy danh sách trực ban của nha môn khác không phải điều dễ dàng, nhưng chuyện đang cấp bách, khó đến mấy cũng phải làm.

“Không phải.” Kỳ Minh nói, sau đó gọi một Huyền Ưng vệ ở sau lưng, Huyền Ưng vệ đáp một tiếng, dâng ba bộ sách lên, Kỳ Minh giải thích: “Trước khi thuộc hạ rời cung, Ngu hầu đã cử người đến các quân nha lấy chỗ sổ sách này giao cho thuộc hạ. Lịch trình trực ban của Võ Đức Ti trong ba năm qua đều nằm ở đây, Ngu hầu nói, tuy không biết thiếu phu nhân đã điều tra được gì, nhưng chắc chắn sổ sách này sẽ có ích cho thiếu phu nhân.” 
 
Chương 199


Trong ngõ Dư Câu phía bắc kinh thành có một căn nhà xập xệ, chủ nhà chỉ trở về một lần một tuần, và luôn xách đao về vác đao đi, hàng xóm láng giềng nhìn riết cũng thành quen. Sống ở đất kinh kỳ, có hoàng thân quốc thích thì đương nhiên cũng có tam giáo cửu lưu, mà ở ngõ Dư Câu còn hạ đẳng hơn thế, dẫu án mạng có xảy ra, người sống xung quanh vẫn ăn ngủ bình thường.

Ngày hôm nay khi trời còn chưa tỏ, cánh cửa căn nhà cũ bị đẩy ra cái “két”, tiếng bước chân lộn xộn phá vỡ sự im ắng buổi sáng. Hàng xóm nghe thấy cũng chỉ tưởng chủ nhà xách đao về, nhắm mắt toan ngủ tiếp, nhưng bất thình lình lại nghe thấy một tiếng hét sợ hãi, chốc chốc lại xen lẫn tiếng mắng chửi. Tên khất cái đầu đường kìm lòng không đặng, tò mò đẩy cửa ra định quát nạt, nhưng vừa thấy cảnh tượng trong sân thì hai mắt hoa lên.

Ở trong sân đâu phải hạng hạ đẳng nào, rành rành là các thị vệ mặc trang phục đỏ sẫm. Giữa sân đặt một chiếc ghế tử đằng, ngồi bên trên là một công tử ánh mắt âm trầm, mà kì quặc hơn là có một lão giả ăn mặc sang trọng đang quỳ trước mặt vị công tử đó.

Tên khất cái biết mình đã bắt gặp bí mật của người ta, đang định xoay người bỏ chạy thì bị một bàn tay kéo vào nhà, sau gáy chợt lạnh đi, để rồi không còn biết gì nữa.

Đôn Tử chẳng buồn cau mày, dặn dò Võ Đức vệ: “Dọn sạch sẽ vào.”

Đoạn, hắn quay sang nhìn người quỳ dưới đất: “Nói tiếp đi.”

Bây giờ Cố Phùng Âm đã biết nội thị trước mắt chính là đứa trẻ ở Liêu gia may mắn sống sót năm xưa, “… Cậu nói không sai, đúng là năm ấy chính già đã khuyến khích Liêu huynh nhận nuôi cô nhi Cật Bắc, nhưng không ngờ về sau mọi chuyện lại ra nông nỗi ấy… Già biết cậu còn sống, vốn định nhận nuôi cậu, nhưng không tìm được cậu…”

“Chết đến nơi rồi còn giả làm Bồ tát cái gì?!” Đôn Tử cười khẩy, “Không phải ngay từ đầu chính ông đẩy ta và vợ con Bàng thị vào hố lửa sao? Rõ ràng ông có thể đứng ra làm chứng tố giác tội lỗi của tên ác quỷ kia, nhưng đằng này ông lại bắt tay với quan phủ bao che cho hắn!”

Cố Phùng Âm không đáp.

Những lời Đôn Tử nói là thật, bao năm qua ông luôn sống trong ăn năn hối hận. Chính ông đã khuyên Liêu huynh nhận nuôi cô nhi, cũng chính ông chọn người giúp, rồi sau đó khi quân lính khiêng thi thể của vợ con Bàng thị đi ra từ Liêu gia, Cố Phùng Âm còn không dám nhìn lâu, nhiều năm về sau chưa từng có một ngày yên lòng.

Một lúc lâu sau, ông mới thở dài, “Oan có đầu nợ có chủ, năm ấy sư phụ cậu đã viết thư chất vấn già, già biết kiểu gì cũng sẽ có ngày hôm nay, cậu có oán già, hận già, hay thậm chí muốn lấy mạng già, già cũng nhận. Già cũng để lại một phần gia sản cho cậu, coi như đền bù cho những chuyện cậu đã gặp phải.”

“Đền bù? Chỉ mấy đồng bạc là có thể xóa bỏ được những gì ta đã phải chịu ư? Cái mạng già của ông có thể đổi lại tính mạng của những người Cật Bắc phải chịu bất công không!” Đôn Tử rít lên đầy phẫn nộ, rồi chậm rãi lấy lại bình tĩnh, song âm điệu vẫn nặng nề lạnh lùng, “Ta muốn ông đến trước cửa cung nhận tội, xé bỏ lớp mặt nạ giả nhân giả nghĩa của ông trước mặt đám đông, ông có chịu không?”

Cố Phùng Âm im lặng một lúc, đoạn đáp: “Được.”

“Ta còn muốn ông phải tự tay viết một bức huyết thư, liệt kê rõ ràng mọi tội trạng.”

Cố Phùng Âm dứt khoát đáp, “Được.”

Đôn Tử nhìn lên Võ Đức vệ sau lưng, Võ Đức vệ hiểu ý, ném xuống đất một mảnh lụa trắng và một con dao găm.

Cố Phùng Âm rạch ngón tay, viết ra việc năm đó mình đã tận tình giúp đỡ cô nhi ở Cật Bắc như thế nào, dẫn đến sai lầm lớn gián tiếp gi.ết ch.ết hàng chục người dân Cật Bắc, và cả việc không đứng ra làm chứng để bảo toàn danh tiếng của mình.

Đôn Tử đứng bên cạnh nhìn, thấy ông sắp sửa viết xong thì chụp lấy cổ tay ông, “Đợi đã, đoạn cuối này, ông phải viết theo những gì ta nói.”

“Năm xưa khi mười ba tộc Thương Nỗ xâm lăng, thực ra không nhất thiết phải thực hiện chiến dịch sông Trường Độ, chỉ vì triều đình chủ chiến mới dẫn đến thảm họa Cật Bắc, buộc dân tị nạn phải rời bỏ quê hương, đến nơi khác cầu sinh. Lúc bấy giờ tiếng ai oán lầm than vang khắp Cật Bắc, về sau còn thêm vụ án Liêu Xương ngược đãi cô nhi, nhưng triều đình lại cứ che giấu tội ác ấy. Để ngăn Cật Bắc lật lại chuyện cũ, vạch trần vết nhơ của trận chiến sông Trường Độ mà triều đình không tiếc tay che đậy tội ác, giả thái bình. Hôm nay tôi xin thề với những gì đã nghe nhìn trong mấy chục năm qua, từng câu từng chữ tôi nói đều là thật, nỗi bất hạnh của di dân Cật Bắc xuất phát từ chiến dịch sông Trường Độ, từ sự thờ ơ và ruồng bỏ của triều đình, từ….”

Cố Phùng Âm nghe Đôn Tử nói một nửa, bàn tay khựng lại, hốt hoảng la lên: “Không được, già không thể viết như vậy, những gì cậu nói… không đúng, không hề đúng! Cậu chỉ thấy được sự bất hạnh của dân Cật Bắc sau trận chiến, nhưng cậu có từng nghĩ nếu như không đánh trận chiến ấy, một khi ngoại tộc xâm lăng, dân Cật Bắc sẽ như thế nào?! Hơn nữa không phải quan phủ cố ý che giấu tội ác của Liêu huynh, quan phủ không công khai là vì còn có rất nhiều cô nhi Cật Bắc được đối xử tử tế, nếu lật tẩy chuyện ấy thì khác nào dập tắt sự hỗ trợ tích cực của các châu phủ. Già thừa nhận bản thân không ra làm chứng đúng là có phần muốn giữ danh tiếng, nhưng quan phủ làm thế là vì nghĩ cho đại cuộc! Cậu quá cực đoan rồi, một quyết sách vốn có hai mặt, nếu già viết như vậy, mọi người sẽ chỉ tập trung vào mặt bất hạnh xấu xa ấy, mà ngôn ngữ là thứ vũ khí sắc bén có thể giết người, để mọi người đổ tai nạn Cật Bắc lên trận chiến sông Trường Độ thì cậu được lợi gì?!”

Đôn Tử điềm nhiên nói: “Không lợi gì cả, chỉ là trong mắt ta, đó chính là sự thật.”

Lại chẳng thế? Mười mấy năm qua, ai cũng ca ngợi lòng chân thành của các sĩ tử nhảy sông, sự anh dũng của những tướng sĩ đã hi sinh, nhưng tuyệt chẳng ai hay dân Cật Bắc đã phải sống trong cảnh địa ngục lầm than.

Sĩ tử đã kéo đến cửa cung, thời cơ sắp đến. Hắn và sư phụ âm thầm chờ đợi từ lâu, trong hôm nay, bọn họ sẽ vạch trần những thứ bẩn thỉu tối tăm đã bị che giấu, khiến đất trời đảo điên.

Đôn Tử gắt giọng, “Ông buộc phải viết, không viết cũng phải viết, người đâu!”

Hai Võ Đức vệ tiến tới khống chế Cố Phùng Âm, một tên khác nắm lấy tay ông, ép ông cầm bút viết những dòng cuối, “Nếu cậu ép già viết, đến cửa cung, già nhất quyết sẽ không làm theo lời cậu, già…”

“Ông nghĩ mình còn mạng để đến cửa cung ư?” Đôn Tử cầm khăn lau tay, “Nhân chứng Cật Bắc chỉ cần mình ta là đủ rồi. Còn phần ông, tất cả mọi người đều biết Cố lão gia ở Trung Châu đã lên kinh, ông ta không còn mặt mũi đối diện với tội ác của mình, trước khi tự vẫn đã để lại huyết thư, nhờ ta đưa đến cửa cung công bố với mọi người. Không cần lo bọn họ có nghi ngờ ta hay không, dầu gì cũng là nét chữ bút tích của ông, thi thể của ông và một phần gia sản ông chia cho ta chính là bằng chứng mạnh mẽ nhất.”

Nói đoạn, Đôn Tử cất bức huyết thư, định ra lệnh cho người động thủ thì bất thình lình, ở cửa vang lên tiếng động. Hắn ta lập tức lắc mình tránh ra, nhưng Võ Đức vệ giơ đao lại chậm một nhịp, bị hòn đá đánh trúng cổ tay, trường đao rơi xuống đất kêu cái *choang*, Thanh Duy nhân đấy nhảy vào sân, đồng thời thét lớn: “Triêu Thiên!”

Một canh giờ trước, Thanh Duy nhận được danh sách trực ban của Võ Đức vệ, nhanh chóng tìm ra lính gác khả nghi, sau đó phát hiện những tên lính này đều là thuộc hạ của một Hiệu úy họ Triệu ở Võ Đức Ti. Triêu Thiên và Huyền Ưng vệ khẩn cấp chạy đến Kinh Triệu Phủ, từ nha môn lấy được tài liệu lưu trữ về Hiệu úy họ Triệu nọ, tra ra địa chỉ nhà của hắn ta. Có tổng cộng ba căn nhà, căn nào cũng ở nơi vắng vẻ. Thanh Duy và hội Kỳ Minh chia ba hướng tìm kiếm, đúng như dự đoán, Cố Phùng Âm bị dẫn đến ngõ Dư Câu ở phía bắc thành.

Quá nửa nhân số Huyền Ưng Ti đang làm nhiệm vụ ở ngoài kinh, do đó số người gấp rút viện trợ Thanh Duy hôm nay cũng không nhiều, hiện tại lại còn chia ra ba quân, thành thử chỉ có vài người đi theo Thanh Duy, khó địch nổi đội ngũ Võ Đức vệ trong sân. Nhưng mục tiêu của mọi người vô cùng rõ ràng, biết nhiệm vụ cấp bách là cứu Cố Phùng Âm, thậm chí còn không cần báo hiệu cho nhau – Triêu Thiên dẫn người ngăn cản Võ Đức vệ, Thanh Duy lao lên, giật lấy thanh gươm bên hông của kẻ trước mặt, gươm vào tay, sắp sửa cắt đứt dây trói Cố Phùng Âm.

Đúng vào lúc này, một bàn tay chợt vươn tới kéo Cố Phùng Âm lùi lại ba bước, khiến Thanh Duy chém hụt.

Kẻ đó chính là Đôn Tử. Không ngờ hắn lại biết võ công.

Nhưng dù võ công của Đôn Tử có cao đến đâu cũng không địch lại nổi học trò của Nhạc Ngư Thất. Vừa thấy Đôn Tử tung chưởng, Thanh Duy nhẹ nhàng né mình, nhanh chóng lao lên phía trước, chỉ dăm ba chiêu đã giành lại được Cố Phùng Âm từ tay Đôn Tử.

Song, võ công của Võ Đức vệ trong sân không phải hạng xoàng, lại còn đông hơn Huyền Ưng vệ.Thanh Duy nhận định tình hình, giải cứu Cố Phùng Âm và đưa ông rút lui, nào ngờ Cố Phùng Âm lại thấy Đôn Tử leo tường định bỏ trốn, vùng ra khỏi tay Thanh Duy, hô to: “Giang cô nương, cứ mặc kệ già, lấy lại huyết thư, mau lấy lại huyết thư!”

Thanh Duy hỏi: “Huyết thư gì?”

Không đợi Cố Phùng Âm trả lời, nàng đẩy ông cho Triêu Thiên lo rồi nhanh chóng đuổi theo Đôn Tử. Vài tên Võ Đức vệ thấy thế cũng lao đến, không tiếc mạng sống hòng giữ chân Thanh Duy, cùng lúc đó, sau bức tường trong ngõ tối vang lên tiếng ngựa hí – hóa ra Đôn Tử đã liệu được sẽ có biến, chuẩn bị ngựa chiến sẵn từ trước.

Thanh Duy nóng ruột nóng gan, tuy nàng không biết huyết thư gì nhưng có thể đoán được nó rất quan trọng, tám phần có liên quan tới âm mưu của Tào Côn Đức, nàng nhanh chóng giải quyết Võ Đức vệ, tung người nhảy ra ngoài tường.

Ngờ đâu, chỉ mới đấy thôi mà bên ngoài đã rơi vào cảnh hỗn loạn. Thanh Duy đuổi theo ra khỏi ngõ, thấy sĩ tử và bách tính từ bốn phương tám hướng đổ xô lên phố, không biết bọn họ đã nghe được gì mà trong mắt hằn rõ sự tức giận, la hét đòi triều đình trả lại chân tướng. Thanh Duy sửng sốt, hồi sáng nghe tin sĩ tử chặn đường nàng còn bỏ ngoài tai, nhưng tình hình lúc này… còn có thể gọi là biểu tình bình thường được sao?

Tất nhiên không thể đuổi kịp Đôn Tử rồi, nàng bị mắc kẹt giữa đám đông, muốn thoát thân cũng khó. Không lâu sau, Triêu Thiên và những người khác tìm được nàng, thấy cảnh trước mắt cũng điếng người, “Thiếu phu nhân, đã, đã có chuyện gì thế này…”

Thanh Duy lắc đầu, đang định hỏi Cố Phùng Âm thì đầu đường lại vang lên tiếng vó ngựa, các thị vệ Điện Tiền Ti mặc giáp cầm thương cố gắng mở đường, đến cạnh Thanh Duy.

Dù sao Thanh Duy cũng là trọng phạm, Huyền Ưng vệ cảnh giác đứng chắn trước mặt nàng, cũng may cấm vệ quân không có hành động lỗ mã.ng, người dẫn đầu rất lễ phép hành lễ với Thanh Duy, “Hẳn người chính là Vương phi điện hạ, thuộc hạ phụng lệnh Quan gia, trong kinh có biến, mời Vương phi điện hạ lập tức vào cung.” Nói xong, hắn biết Thanh Duy không dễ dàng tin mình, liền lấy ra một cây quạt nan tre, “Đây là tín vật của Chiêu vương điện hạ, hiện tại điện hạ cũng đang chờ vương phi ở điện Tuyên Thất.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom