Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 100: Bất hòa


Bùi Thận bận rộn bên ngoài mất hai ba ngày, khó khăn lắm mới khiến Nam Kinh ổn định lại. Mười lăm tháng sáu y mới trở về Bùi phủ ở Nam Kinh để bái kiến tổ mẫu cùng mẫu thân.

Bùi Thận vòng qua bức ảnh bích. Mấy gã sai vặt đứng trực dưới hành lang thấy y trở về, lập tức chạy vào hướng viện sau, luôn miệng hô “Điện hạ đã trở lại, điện hạ đã trở lại”.

Vẻ mặt Bùi Thận lạnh xuống. Phụ thân còn chưa lên ngôi, lấy đâu ra điện hạ.

Trần Tùng Mặc lập tức sai người túm mấy gã sai vặt lại, lạnh giọng mắng chửi: “Ai cho phép chúng bây ăn nói quàng xiên!” Dứt lời, hắn hô thân vệ tới đánh đám sai vặt mỗi đứa mười gậy.

Đám sai vặt cứ tưởng sẽ được tiền thưởng, ngờ đâu phải lãnh gậy, lại không dám kêu khóc, chỉ có thể cố run run nhịn đau.

Bùi Thận lạnh lùng hỏi: “Người của viện nào đây?”

Gã sai vặt dẫn đầu run rẩy đáp: “Bẩm Gia, là người trong viện của Hồn nhị gia.”

Bùi Thận nhíu mày. Hồn ca nhi độ này càng thêm không an phận, khiến những người chung quanh cũng cư xử ngạo mạn theo. Lòng y không vui, men theo hành lang sải bước về phía cửa nhỏ.

Con đường này ánh mặt trời rọi chiếu, bầu trời trong vắt, không khí thoảng hương lan dìu dịu, tre trúc ngát xanh. Nhưng y vội vã bước đi, chẳng có tâm trí đâu mà ngắm cảnh. Chỉ có lúc ngang qua một lu sen tịnh đế, khóe miệng Bùi Thận mới khẽ nhếch lên.

Chờ mọi việc ở Nam Kinh đều xong cả, y sẽ đón Thẩm Lan và Triều Sinh đến đây. Kể từ ấy có thể mãi mãi cận kề bên nàng, Bùi Thận mỉm cười, cả trái tim như đều ấm lên.

Nghĩ tới điều này, bước chân y ngày càng nhanh hơn, chớp mắt đã đến được Xương Dụ Đường.

Kinh đô bị chiếm đóng, cả nhà già trẻ của Phủ Ngụy Quốc công đều chuyển đến Nam Kinh ở chung với Bùi phủ. Hôm nay Bùi Thận trở về nhà, mới vừa bước vào cửa sân, đã thấy trong phòng chính mọi người cười cười nói nói, tranh nhau ra nghênh đón. 

“Thận ca nhi.” Lão tổ tông đã ngoài bảy mươi đứng vị trí trước nhất, thấy Bùi Thận tới, vội đưa tay nắm lấy tay áo y, hai mắt rưng rưng nói: “Con và cha con có khỏe không?”

Bùi Kiệm cùng Bùi Thận bôn ba chinh chiến khắp nơi, cũng đã mấy năm không về nhà. Nghe vậy, lòng Bùi Thận có hơi phập phồng, nâng bà dậy rồi đáp: “Tổ mẫu, mấy ngày trước cha đi từ Hồ Quảng thẳng đến Kinh đô, nên không kịp đến gặp ngài.”

Lão tổ tông thoáng chốc lại khóc nức nở. Mọi người vây quanh vừa khuyên bảo vừa dỗ dành một phen, bấy giờ bà mới từ từ ngưng nước mắt.

Bùi Thận lại quay sang vái chào mẫu thân của mình.

Đại thái thái sắp lên làm Hoàng Hậu, cả người lúc này đều nhẹ nhõm hơn, ôn hòa nắm tay Bùi Thận, luôn miệng nói: “Thận ca nhi sống bên ngoài khổ cực biết bao.”

Bùi Thận cũng không để bụng, nói với mẫu thân vài câu thì quay sang vái chào những trưởng bối cùng huynh đệ tỷ muội khác trong nhà.

Bùi gia sắp có một vị hoàng đế, cho nên dòng chính, dòng phụ, hễ là những người có chút liên quan đều tranh nhau đến thăm hỏi, cả sân đều vang tiếng nói cười rộn rã.

Bùi Thận tâm sự cùng mọi người một phen, kế đó lại ăn bữa tiệc tẩy trần rồi bảo ai về nhà nấy, chỉ chừa lại tổ mẫu, mẫu thân và đệ đệ cùng cha cùng mẹ Bùi Hồn.

Bùi Thận mở miệng nói: “Tổ mẫu, mấy ngày nữa con sẽ phái người hộ tống cả nhà đến kinh đô để sum họp với phụ thân.”

Đại thái thái hân hoan vô cùng, không ngờ một mệnh phụ phu nhân nhất phẩm như mình rốt cuộc lại trở thành Hoàng hậu. Bà vui vẻ gật đầu liên tục: “Được, được chứ.”

Lão tổ tông cùng Bùi Hồn cũng vui vẻ gật đầu đồng ý.

Bùi Thận thấy mọi người đều nhận lời, lúc này mới nói: “Hồn ca nhi, mấy gã sai vặt đến đón ta ở sân ngoài thật là ngạo mạn. Đệ nhớ để ý quản lý lại một phen.”

Bùi Hồn sửng sốt nhưng không dám bác lời Bùi Thận, chỉ đành ấm ức gật đầu.

Thấy Bùi Hồn như vậy, Đại thái thái đau lòng nói: “Thận ca nhi, Hồn ca nhi là em trai ruột thịt của con, sao con vừa về đã mắng nó?”

Bùi Thận cau mày: “Phụ thân chưa lên ngôi, lấy đâu ra Thái Tử điện hạ? Lời này nếu lan truyền ra ngoài kia, chắc chắn sẽ có người bảo Bùi gia kiêu ngạo. Khi ấy chẳng phải vô cớ rước lấy tai họa?” Dứt lời, y lại nói: “Hồn ca nhi, thần bất mật tắc thất thân. Phải thận trọng từ lời nói đến việc làm mới là con đường đúng đắn về lâu dài.”

Bùi Hồn lắp bắp đáp lời. Bùi Thận vừa nhìn đã biết nó nghe không lọt tai. Thôi, chờ tới Kinh đô lại nói phụ thân dạy dỗ lại nó vậy.

Nghĩ đến đây, Bùi Thận muốn đứng lên xin lui, vẫn còn cả núi công việc đang chờ y. Ai ngờ Đại thái thái thấy y sắp rời khỏi, liền vội đứng dậy nói: “Hồn ca nhi đã cưới vợ sinh con từ sớm, dưới gối bây giờ đã hai trai một gái. Con thì hay rồi, đến giờ này vẫn không có ai bầu bạn cạnh bên.” Bà định nhân đây đề cập đến Lục Nương bên phía nhà mẹ đẻ của mình, rất là xinh xắn thông minh.

Ai ngờ Đại thái thái chưa kịp mở miệng, Bùi Thận đã vui vẻ cười nói: “Mẫu thân, con đã có một đứa con trai chừng sáu tuổi, tên là Triều Sinh. Đợi mai này đến Kinh đô, con sẽ bảo nó đến vái chào gia đình ta.”

Lời này của y quá mức đột ngột. Đại thái thái ngẩn người, nghĩ thầm Thận ca nhi năm đó vì khăng khăng muốn dùng nghi thức của vợ cả để chôn cất một đứa nha hoàn vào mộ tổ, đã cãi nhau với phụ thân nó rùm beng. Bây giờ bảy năm đã qua, con trai cũng đã được sáu tuổi. Có thể thấy nó đã quên nha hoàn kia rồi.

Quên rồi thì tốt, tốt lắm. Đại thái thái ngó lơ cảm xúc không vui thoáng qua, hào hứng gật đầu. Lão tổ tông cũng cười rộ lên, luôn miệng nói “Là chuyện tốt, là chuyện tốt.”

Bùi Hồn kém ca ca của mình năm tuổi, từ nhỏ tới lớn cũng không thân cận. Nhưng dù gì cũng là huynh đệ, hay tin y có con trai hắn cũng mừng thay cho y, liền mở miệng nói: “Đại ca yên tâm, Duẫn ca nhi cũng đã năm tuổi, đệ sẽ bảo nó rủ cháu trai chơi cùng.” 

Lòng Bùi Thận rất là vui sướng, chợt nghe Đại thái thái lại nói: “Nếu đã sinh con cho con, nhà chúng ta cũng không phải hạng người hà khắc. Chờ con thành hôn rồi thì đón mẹ ruột của Triều Sinh vào, ban cho nàng làm Tài nhân cũng được.” (1)

Gương mặt Bùi Thận trở lạnh, nhưng nhớ tới đây là mẹ ruột của mình, y nén cơn giận nói: “Mẫu thân, ta với nàng tâm đầu ý hợp, tất nhiên là muốn cưới nàng làm vợ.”

Ba người nghe mà sững sờ. Đại thái thái dù không mấy gần gũi với đứa con trai này, nhưng ngẫm mình là phận mẫu thân, bèn há mồm nói: “Con gái nhà ai mà không mai mối, không sính lễ đã sinh con cho người khác, đúng là không biết xấu hổ. Người như vậy sao xứng làm Thái Tử Phi?”

Bùi Thận giận dữ khó nhịn, lại không thể nổi cáu với mẫu thân của mình, chỉ có thể nói: “Mẫu thân, nàng tất nhiên là tốt nhất. Dưới gầm trời này không nữ nhân nào có thể bì kịp nàng.” Nói rồi, y cố nén lửa giận, chỉ nói mình vẫn còn việc công cần giải quyết mà kính cẩn xin lui.

Bùi Hồn ngạc nhiên nhìn theo bóng đại ca đi xa, quay đầu thấy mẫu thân tức run cả người, hắn cuống quít bưng chén trà, luôn miệng nói: “Mẫu thân đừng giận, đừng giận. Đại ca gần đây bận bịu vô cùng, có lẽ suốt đêm chưa chợp mắt, đầu óc lâng lâng nên nói lỡ lời, không phải chống đối mẫu thân đâu.”

Đại thái thái buồn bã âu sầu, lau nước mắt khóc than: “Hồn ca nhi, mẹ chỉ còn có con mà thôi.”

Bùi Hồn lại nhõng nhẽo dỗ dành một hồi, mới khiến Đại thái thái nín khóc mỉm cười.

Lão tổ tông ngồi cạnh thấy vậy, thở dài nói: “Hồn ca nhi, con về trước đi.”

Bùi Hồn nhìn mẫu thân, lại không dám trái ý tổ mẫu, đành phải mở miệng xin lui.

Lão tổ tông kế đó lại cho lui tất cả nha hoàn vú già. Đến lúc chỉ còn lại bà cùng Đại thái thái, bà mới mở miệng nói: “Con xem xem ban nãy mình nói những gì? Sao lại bảo mình chỉ có Hồn ca nhi?”

Đại thái thái quản lý việc trong phủ nhiều năm, trên dưới phủ này ai nấy đều kính trọng. Mấy di nương của phu quân đều không sinh được con cái, chỉ xem như vật bài trí mà thôi. Ngay cả mẹ chồng cũng hiếm khi làm mình mất mặt. Đại thái thái nghe vậy, hơi có chút bất mãn nói: “Lão tổ tông, câu này của con sai chỗ nào chứ? Thận ca nhi vì một đứa hồ ly tinh mà chống đối con!”

Lão tổ tông thấu rõ mọi sự, vẫn cố nhịn tức mà khuyên nhủ: “Con không phải không biết, nam nhân lúc đắm chìm trong tình ái, tuyệt đối không nghe được người khác nói xấu người trong lòng nửa câu. Đó đâu thể gọi là chống đối con được?”

“Huống hồ năm đó lúc Kiệm ca nhi vừa thành hôn với con, ta có từng bêu rếu con câu nào?”

Đại thái thái cúi đầu, im lặng không nói.

Thấy thế, lão tổ tông lại khuyên: “Thận ca nhi là Thái Tử, theo quy định của các triều đại trước, để phòng ngừa ngoại thích chiếm quyền, Thái Tử Phi thậm chí kể cả là Hoàng Hậu, chỉ cần xuất thân trong sạch, là lương dân là được rồi.”

Vẻ mặt Đại thái thái hơi giãn ra, nhưng vẫn không muốn nhận sai, đành tìm cớ nói cho qua chuyện: “Thận ca nhi là con trai trưởng, trước giờ đều là Công gia dạy dỗ nó, con muốn cũng không quản lý được.” Dứt lời, lại nói: “Chỉ là thê tử của Hồn ca nhi là đích thứ nữ của Tề Quốc Công, lúc này triều đại thay đổi, Hồn ca nhi mai này cũng thành Vương gia, có cần tuyển thêm vài Tài nhân cho nó không?”

Lão tổ tông bị sự bất công của Đại thái thái chọc tức muốn ngã ngửa, nhưng ngẫm lại mới rồi, bà chỉ mắng: “Câu “chỉ có Hồn ca nhi ’ ban nãy con nói nếu để Thận ca nhi nghe được, nó chắc hẳn không vui vẻ gì. Vô duyên vô cớ chia rẽ huynh đệ chúng, con và Hồn ca nhi được lợi lộc gì đâu?”

Đại thái thái ngẩn ra, rốt cuộc nhận thấy lời nói của mình không đúng, chỉ là vẫn không chịu hạ mình nhận sai, mạnh miệng nói: “Chia rẽ gì kia chứ? Thận ca nhi đã thừa kế tước vị, giờ đây lại sắp lên làm Thái Tử, mai đây sẽ còn lên tới Hoàng đế. Còn Hồn ca nhi thì chẳng có gì trong tay. Đều là thịt rơi từ trên người con xuống, con đâu nỡ để nó thiệt thòi?”

Thấy Đại thái thái vẫn ngang bướng hồ đồ, lão tổ tông cả giận: “Thận ca nhi dù có không thừa kế tước vị chăng nữa, cũng vẫn là tiến sĩ cập đệ tự thân nó vất vả học hành thi cử mà nên. Bây giờ được vị trí Thái Tử, cũng do chính nó theo cha lao lên chiến trường chém giết mà có, chứ nó mắc nợ gì Hồn ca nhi? Sao con có thể cư xử bất công đến vậy?” 

Đại thái thái theo bản năng phản bác: “Hồn ca nhi cũng có kém cạnh gì đâu.”

Lão tổ tông cười lạnh một tiếng: “Nếu con cho rằng Hồn ca nhi làm ăn được việc, thế thì bảo nó theo cha ra chiến trường, đánh cược tính mạng để giành lấy tương lai đi!”

Đại thái thái đâu nỡ để Hồn ca nhi lấy tính mạng đổi tiền đồ, đành lúng ta lúng túng nói: “Bây giờ thiên hạ yên bình, lấy đâu ra chiến tranh nữa chứ?”

Lão tổ tông bắt đầu mất kiên nhẫn: “Nếu không còn chiến tranh nữa, thế thì bảo nó chăm chỉ đọc sách, lại đi thi tiến sĩ đi. Xem thử Hồn ca nhi có chịu nổi học hành gian nan không.”

Đại thái thái không còn lời nào để nói, đành phải giải thích: “Con cũng biết Hồn ca nhi thua kém Thận ca nhi một khoảng lớn. Nhưng cũng chính vì lẽ đó, nếu con không thiên vị nó một chút, con sợ sau này nó phải chịu khổ.”

Thấy Đại thái thái rốt cuộc thừa nhận bản thân bất công, lão tổ tông thở dài một tiếng: “Hồn ca nhi văn không được võ không xong, miệng tuy ngọt đấy nhưng hành vi lại không thoả đáng lắm. Nếu con cũng thấy nó không bằng Thận ca nhi, sao không nghĩ đến chuyện bảo nó hòa thuận với huynh trưởng, lại cứ mở miệng chia rẽ huynh đệ hai đứa, tội gì phải thế?”

“Tất nhiên là con sẽ dặn dò Hồn ca nhi hòa thuận với huynh trưởng. Nhưng lão tổ tông hôm nay cũng thấy đó, Hồn ca nhi hân hoan phái đám sai vặt ra đón, còn Thận ca nhi thì sao chứ? Vậy mà bảo người đánh đám sai vặt một trận tả tơi. Chẳng quan tâm mặt mũi của Hồn ca nhi kiểu đó, có chỗ nào ra dáng một người huynh trưởng không?”

Lão thái thái chỉ cảm thấy mỏi mệt, thở dài nói: “Ta hỏi con, Thận ca nhi dạy Hồn ca nhi hành động cẩn thận, có sai chỗ nào không?”

Đại thái thái lại không nói nên lời, chỉ lau nước mắt: “Con cũng biết Thận ca nhi nói không sai, nhưng rõ ràng nó có thể bảo với Hồn ca nhi, để Hồn ca nhi tự đi quản lý kẻ dưới. Sao cứ phải đánh người trước mặt toàn bộ người trong phủ như thế? Làm mất hết cả mặt mũi Hồn ca nhi.”

Lão thái thái ngồi trên ghế chủ tọa, vốn định nói Hồn ca nhi không có chính kiến, vừa nghe thuộc hạ biện minh, Hồn ca nhi nhất định sẽ không phạt chúng.

Lại muốn nói Thận ca nhi nếu không đe dọa ngay trước mặt mọi người như thế, e là nô bộc trong phủ sẽ càng sinh thói kiêu căng ngang ngược, sớm muộn gì cũng rước lấy tai hoạ.

Nhưng bà nhìn con dâu cả vẫn cố chấp mạnh miệng, biết nó có một vạn cách để phản bác mình. Nghĩ đến đây, lão thái thái rốt cuộc không nói nên lời, chỉ mệt mỏi xua tay: “Chỉ mong con chớ có ầm ĩ đến độ huynh đệ hai đứa bất hòa.”

Đại thái thái thấp giọng đáp: “Đều là con trai của con cả, tất nhiên con cũng mong chúng nó hòa thuận lẫn nhau.”

Bùi Thận đi thẳng ra phủ, vốn định hôm nay bái kiến tổ mẫu cùng mẫu thân rồi xử lý công việc ở Nam Kinh cho xong, sau đó y sẽ quay lại Hồ Quảng để đón Thẩm Lan. Ai ngờ hôm nay lại không thuận lợi như vậy.

Y nén cơn tức, lạnh mặt phân công công việc, rồi mới giục ngựa ngày đêm lao đến Hồ Quảng.

Hôm đó, Thẩm Lan đang ghé kiểm tra cửa tiệm ở mặt tiền đường.

Sau khi trở về Võ Xương, Thẩm Lan lần nữa khai trương những cửa tiệm của mình, lại mua một tòa nhà mới và vài món đồ gia dụng.

Bây giờ đã là hai lăm tháng sáu, Khoáng Giám Thuế Sứ vừa đi khỏi, sưu cao thuế nặng cũng giảm bớt, đời sống nhân dân cải thiện tốt hơn, đường phố dần chớm đông đúc trở lại.

Tiệm dược liệu nằm cạnh quán rượu “Thạch luyện xuân”, tiệm mì nằm cạnh sạp trái cây, tiệm đồ da, tiệm trống, tiệm rèm, tiệm giày……

Thẩm Lan ngắm cảnh phố xá tràn ngập sức sống, đến tận khi về nhà, môi nàng vẫn còn vương nét cười, tâm trạng hết sức nhẹ nhõm thư thái. 

Nàng cầm cái mặt nạ Quan Công vừa mua cho Triều Sinh, vén rèm định xuống, chợt thấy có người nam tử mặc áo gấm đội ngọc quan đứng trước cửa nhà, dáng người anh tuấn, khí độ hiên ngang

Vẻ mặt Thẩm Lan lạnh xuống. Ban ngày ban mặt mà người này dám công khai đứng trước cửa nhà nàng, không dưng lại khiến hàng xóm láng giềng xì xào bàn tán.

Nàng đã không vui, lại nhớ tới người của Bùi Thận dạy Triều Sinh làm quen với máu, càng thêm khó chịu trong lòng.

“Ngài tới làm gì?” Thẩm Lan lạnh mặt sửa soạn xuống xe.

Bùi Thận phi nhanh mấy ngày đến gặp nàng, lại vì nàng mà chống đối mẫu thân, lúc này nghe giọng nàng lạnh nhạt, không khỏi thấy ngực như mắc nghẹn, xăm xăm sải bước leo lên xe lừa.

Hộ vệ của Thẩm Lan giật mình định la lên, lại bị nhóm thân vệ đứng cạnh tóm lấy thét bảo họ câm miệng.

Xe lừa vốn chật hẹp, vóc người Bùi Thận lại cao lớn. Thẩm Lan bị y đè trong xe, gương mặt rét lạnh định mắng chửi, lại nghe Bùi Thận thì thầm: “Nếu nàng mắng ta to tiếng, mấy người ngoài kia chắc chắn sẽ nghe thấy.”

Thẩm Lan nghẹn lại, nhủ bụng người này mới mấy ngày không gặp mà đã càng thêm mặt dày. Nàng cũng không phải hạng dịu ngoan gì, thấp giọng đáp: “Ngài đúng là đồ vô lại!”

Giọng nàng khẽ khàng, thỏ thẻ, cho dù chứa đầy giận dữ nhưng không chút gì giống tiếng mắng chửi, ngược lại nghe như lời tán tỉnh.

Bùi Thận cười khẽ, thấy tâm trạng tốt hơn chút đỉnh, y ung dung mở miệng: “Nàng gọi ta là kẻ vô lại, dĩ nhiên ta phải làm những chuyện xấu xa rồi.” Dứt lời, hai mắt y sáng quắc sán lại gần nàng.

Thẩm Lan biết người này muốn dọa nàng, bèn lạnh lùng nói: “Ta còn chưa tính sổ với ngài đâu đấy.”

Bùi Thận nhướng mày khó hiểu: “Lại làm sao nữa?” Y ở Nam Kinh, có chọc ghẹo gì được nàng đâu?

“Hạc Bích tiên sinh mà ngài đưa tới ấy, nói Triều Sinh chưa thấy máu là không tốt, khiến Triều Sinh mấy ngày trước đòi tới cửa chợ xem chém đầu.”

Có vậy thôi? Bùi Thận không cho là đúng: “Nó cũng sáu tuổi rồi, thấy chút máu thì có làm sao?”

Thấy y như thế, Thẩm Lan nhíu mày: “Ta không phải là không cho nó thấy máu.” Thời buổi loạn lạc, khắp nơi rung chuyển. Nàng cũng không cố ý tạo ra một căn phòng ngăn cách con mình với những mặt trái của thời cuộc.

“Ý ta là Triều Sinh vẫn còn quá nhỏ, ngài có thể chờ đến khi nó mười bảy, mười tám tuổi, tính cách đã định hình xong, không tới nỗi chịu kí.ch thích mà thay đổi thì mới để nó thấy máu.”

Mười bảy, mười tám tuổi? Bùi Thận cảm thấy nàng đúng là tốt bụng, cười nói: “Năm ta mười bảy tuổi, đi học có rảnh sẽ theo phụ thân đến doanh trại, người chết cũng đã gặp cả rồi.”

Thấy Thẩm Lan lại sắp phát bực, Bùi Thận vội vàng nói: “Chính bản thân nàng năm mười lăm tuổi trốn khỏi Lưu trạch, cũng biết cầm ghế đập đầu hai bà vú gác cửa, ấy cũng là đổ máu đấy thôi.”

Thẩm Lan hơi bực, nhường nửa bước: “Thế thì cũng chờ đến lúc Triều Sinh mười bốn, mười lăm tuổi đã chứ. Sáu tuổi thật sự còn quá nhỏ.” 

Sao mà được? Mười bốn, mười lăm tuổi đều đã bắt đầu học cách quản lý, sao có thể vẫn chưa thấy máu được đây?

Bùi Thận không muốn cãi cọ với nàng, mỉm cười nói: “Vậy nàng đi hỏi Triều Sinh xem nó muốn học tập tăng cường năng lực, hay là muốn nàng một mực bảo vệ nó đến tận khi mười bốn, mười lăm tuổi?”

Thẩm Lan im lặng. Nàng biết Triều Sinh rất thích Hạc Bích tiên sinh, cũng rất vui lòng học tập.

Lần đầu chặn họng được Thẩm Lan, Bùi Thận hớn hở cười nói: “Ta và nàng đều không tầm thường, sao nàng có thể coi Triều Sinh thành một đứa trẻ tầm thường được?”

Thẩm Lan bực bội nói: “Cho dù nó đúng là thông minh đó, nhưng cũng không nên mới năm, sáu tuổi đã đi thấy cảnh giết người.” Tuổi này vẫn còn là tuổi đi nhà trẻ, chơi đùa với bạn bè kia mà.

Bùi Thận chỉ cảm thấy tánh nết nàng quá dịu dàng, trái tim cũng quá lương thiện, y cười nói: “Sao lại che chở con trẻ kiểu này được? Thế theo ý nàng, hồng thủy, hạn hán, xác người khắp nơi, đầy đường đều là thi thể đủ loại hình hài. Lẽ nào đứa trẻ năm, sáu tuổi phải tự che hai mắt, để không nhìn thấy xác người?”

Nói đến đây, Bùi Thận không khỏi cảm thấy quái lạ. Nàng xuất thân từ lò ngựa gầy, những chuyện bẩn thỉu ở chỗ tú bà nhiều không đếm xuể, sao lại hình thành nên tính cách thế này? Dường như lớn lên từ chốn phồn hoa trù phú, từ bé đến lớn chưa từng thấy qua việc gì xấu xa cả.

Bùi Thận tuy cảm thấy hơi lạ, nhưng điều này cũng không ảnh hưởng y thừa dịp Thẩm Lan lơ đễnh, thò tay nắm lấy đôi tay mảnh khảnh của nàng. Mân mê ngắm nghía chốc lát, Bùi Thận mới thỏa mãn nói: “Nếu nàng nuôi Triều Sinh lớn lên thành người quá mức nhân từ, e là nó sẽ bị kẻ khác lột da róc xương mất thôi.”

Thẩm Lan hơi giật mình, rồi chìm vào im lặng.

Bản thân nàng đến từ một thời đại khác, vốn mang trong mình những tư tưởng khác biệt. Nàng vẫn luôn sợ mình sẽ truyền lại cho Triều Sinh những thứ không hợp thời đại, để cho nó đau khổ cả đời.

So với như thế, chẳng thà để nó làm một người bình thường trong thời đại này.

Thẩm Lan thở dài một tiếng: “Có lẽ ngài nói đúng.”

Thấy vẻ mặt nàng nhạt xuống, lòng Bùi Thận thít chặt, chẳng rõ câu nào khiến nàng không vui, liền vội trêu nàng cười: “Thế bây giờ nàng đã cho phép ta nhúng tay vào chuyện Triều Sinh rồi?”

Thẩm Lan chẳng còn gì hứng thú: “Ngài vốn là cha nó, dạy dỗ nó là trách nhiệm của ngài.”

Bùi Thận ngẩn người, khóe miệng hơi nhếch lên, niềm vui trong lòng y tựa những đợt sóng cuộn trào không dứt.

Y như thế khiến Thẩm Lan chẳng hiểu ra sao: “Ngài cười gì đó?”

Mặt mày Bùi Thận tràn ngập ý cười, y nhào tới nhẹ nhàng hôn lên cánh môi nàng.

Thùng xe quá nhỏ, Thẩm Lan không kịp né, vừa lúc bị hôn trúng. Nàng tức muốn hộc máu: “Ngài bị bệnh có đúng không!”

Bệnh thì bệnh đi. Lâu ngày không gặp nàng, y nhớ nàng vô cùng.

Bùi Thận đỏ mắt, trái tim nóng ran ôm choàng lấy nàng, thủ thỉ: “Đây là chính nàng nói đấy. Ta là cha của Triều Sinh.” 

Thẩm Lan nhịn cơn tức: “Ngài muốn xen vào chuyện Triều Sinh, ta cũng không ngăn được.” Dứt lời, nàng lấy khăn ra sức lau chùi môi mình, giận dữ ném khăn sang bên, đẩy Bùi Thận dợm bước xuống xe.

Nếu ngày xưa thấy nàng thế này, Bùi Thận nhất định phải nổi cáu. Giờ đây y bị sáu năm thời gian mài mòn, chẳng còn đâu nữa sự kiêu căng ngạo mạn thời son trẻ, thế là mặt dày nói: “Nàng cứ việc lau. Nàng lau một cái, ta hôn một lần. Để xem nàng lau nhanh hay là ta hôn nhanh hơn?”

Thẩm Lan khó thở, chỉ hận không thể tát cho y một cái: “Bùi Thận, ngài chớ có được đằng chân, lân đằng đầu. Ta đồng ý ngài can thiệp vào chuyện của Triều Sinh bởi vì ngài là cha nó. Nhưng ta và ngài thì chẳng có liên quan gì cả đâu!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 101: Ngày sau


Bùi Thận nghe nhiều những lời lạnh nhạt, tuy vẫn thấy lòng khẽ nhói, nhưng bất giác cũng đã quen mấy phần.

Y cười cười: “Sao lại không liên quan? Ta là phụ thân của Triều Sinh, nàng là mẫu thân của nó. Giữa hai ta đã có Triều Sinh thì sẽ có dính dáng đến nhau.”

Dây dưa cả một đời.

Thẩm Lan bực y không biết xấu hổ, nhịn tức phân trần với y: “Ngài đã từng thấy vợ chồng người khác hòa ly rồi chứ? (1) Ta với ngài cũng như những cặp vợ chồng hòa ly ấy vậy. Tuy vẫn còn con cái, nhưng hai bên đã không can hệ gì nhau nữa.”

Bùi Thận ngẩn ra, lại chẳng hề có chút bực tức nào. Đôi mắt y ngậm cười, tựa lên vách thùng xe trêu: “Ý nàng là giờ nàng đã chịu nhận mình là vợ ta rồi?”

Thẩm Lan không những không cười, ngược lại bị y khích đến khuôn mặt rét căm vì giận: “Ta ôn tồn giải thích với ngài, ngài lại không biết xấu hổ bỡn cợt cười đùa.”

Nói đến đây, lửa giận của Thẩm Lan hơi ngừng lại, thoáng thấy vài phần mỏi mệt. Nàng lắc đầu nói: “Trước kia ngài chẳng bao giờ chịu nghe ta nói, luôn dùng lời lẽ lấy lệ ta. Bây giờ ngài vẫn như cũ chưa hề thay đổi, chẳng qua học được thói vô lại. Hễ là thứ ngài không muốn nghe, ngài liền ngắt lời hoặc kiếm chuyện khác nói lái đi.” Dứt lời, Thẩm Lan không muốn nói gì thêm nữa, đứng lên dợm bước ra ngoài xe.

“Ai ——” Bùi Thận nhẹ nhàng kéo lấy dải lụa hoa mai màu xanh lục nơi eo nàng, rồi ôm nàng vào lòng.

“Nàng chớ giận ta……” Bùi Thận còn chưa dứt câu, cúi đầu liền thấy Thẩm Lan vô cảm nhìn y chằm chằm.

Bùi Thận cười gượng hai tiếng rồi buông tay để Thẩm Lan đứng dậy.

Thẩm Lan vuốt phẳng những nếp nhăn trên áo váy, nhàn nhạt nói: “Bùi Thận, sáu năm trước ngài muốn đùa giỡn ta ra sao cũng được, chớ hề bận tâm đến suy nghĩ của ta. Sáu năm sau, ngài vẫn hệt như thế.”

Bùi Thận nghĩ bụng, thực ra cũng có thay đổi rồi đấy chứ. Y giải thích: “Nàng vừa liếc mắt nhìn ta, ta không phải đã vội buông tay sao? Sao lại bảo là không bận tâm gì nàng?”

Thẩm Lan lạnh lùng đáp: “Ta không cho ngài lên xe, cuối cùng ngài vẫn lên đấy thôi? Ta không cho ngài hôn môi, còn ngài thì vừa lên được xe đã hôn ta. Ngài có hỏi ý ta chưa?”

“Chuyện tình yêu vốn là thuận lẽ tự nhiên. Lòng ta có nàng, nên vừa gặp đã cầm lòng không đậu. Nếu nàng thấy bị coi khinh, thế thì ta đây nhận lỗi cùng nàng.”

Thẩm Lan sửng sốt, thấy tức giận trong lòng hơi nguôi. Lời này của y vậy mà nghe cũng có mấy phần chân thành. 

Thấy vẻ mặt nàng dịu đi, Bùi Thận lại thò tay kéo tay nàng, cất giọng khàn khàn: “Ta nhớ nàng chịu không nổi.”

Thân hình cao lớn cường tráng của Bùi Thận ghì chặt Thẩm Lan trong xe. Ngón tay thô kệch chậm rãi cầm lấy bàn tay mềm mại của nàng. Lúc da thịt chạm vào nhau, Bùi Thận mãn nguyện than nhẹ một tiếng, nhưng cũng ngay sau đó, chỉ mỗi mười ngón tay đan vào nhau đã không còn đủ để thỏa mãn cơn khát của y nữa.

Đôi mắt y sáng rực như hai đốm lửa, nóng hừng hực đầy tính đe dọa. Từng cái quét mắt nhìn qua như chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống nàng từ đầu tới chân.

Thẩm Lan khẽ run lên, theo bản năng tránh khỏi tầm mắt y, giật phăng bàn tay y xuống, cắn răng nói: “Ngài nhớ ta thì có thể không màng ý ta ra sao, cưỡng ép nắm tay ta, còn muốn hôn ta nữa? Ta là một con người, không phải là bình hoa bài trí trong nhà ngài, muốn ngắm nghía thưởng ngoạn lúc nào cũng được!”

Bùi Thận cảm thấy vô cùng oan uổng: “Làm gì có ai một lòng một dạ muốn cưới món đồ trang trí về nhà?  Ta đã muốn cưới nàng, dĩ nhiên sẽ kính trọng nàng, yêu thương nàng.”

Dứt lời, y nghiêm mặt nói: “Nàng không phải muốn ta bận tâm đến ý kiến của nàng, tôn trọng nàng sao? Chỉ cần nàng thành hôn với ta rồi, mọi thứ ta đều đồng ý cả.”

Mấy ngày nay Thẩm Lan đã suy nghĩ đâu vào đấy. Nàng lắc đầu nói: “Ta không có ý định thành hôn với ngài. Nếu ngài thật tình tôn trọng nguyện vọng của ta, vậy thì chớ đến quấy rầy cuộc sống của ta nữa.”

Bùi Thận sầm mặt không nói tiếng nào. Đây mới là điểm khác biệt lớn nhất giữa y và Thẩm Lan.

Thẩm Lan mấy lần nhắc đến hai chữ tôn trọng, Bùi Thận tất nhiên có thể hiểu được nàng bận tâm điều gì. Chung quy lại là muốn lắng nghe ý kiến của nàng, bình thường có việc gì thì phải bàn bạc cùng nàng, không được nhốt nàng trong nhà gì đó.

Những điều này Bùi Thận đều có thể đồng ý. Y có thể tôn trọng Thẩm Lan, nhưng tiền đề là là hai người phải thành hôn mới được.

Nhưng sự tôn trọng mà Thẩm Lan muốn lại là yêu cầu Bùi Thận tôn trọng quyết định của nàng. Cho phép nàng sống cuộc đời của mình, từ nay về sau ai đi đường nấy. Đây là việc Bùi Thận quyết không nhịn được. Cho nên y tìm đủ cách bỡn cợt, trêu đùa để không phải nhắc đến.

Nhưng hôm nay vẫn bị từ chối.

Bùi Thận hít sâu một hơi, nhìn chằm chằm nàng hỏi: “Đêm đó ở Thuế Thự, nàng nói nàng không biết. Có thể thấy được lòng nàng rốt cuộc vẫn có ta. Ta cũng biết ngày xưa bản thân đối xử với nàng không tốt. Sau này, hai chúng ta và Triều Sinh có thể cùng nhau hướng về phía trước, được không?”

Thẩm Lan ngẩn ra. Một trời tình ý của Bùi Thận đều gói cả vào lời này, có thể ví như móc hết ruột gan ra thổ lộ.

Giả như trở về được những buổi ban sơ ấy, khi nàng và Bùi Thận chỉ vừa gặp nhau. Lúc đó nàng vẫn chưa bị Bùi Thận đánh gậy, nhục mạ, vẫn chưa vì đạt được tự do mà chịu nhiều khổ đau đến vậy, có lẽ nàng sẽ nhận lời.

Nhưng hôm nay……

“Bùi Thận, thực ra ngài là một người vô cùng tốt. Nhân phẩm, năng lực, mọi thứ đều là xuất sắc. Vừa là một vị quan tốt biết lo cho dân, lại là một tướng tài trăm trận trăm thắng.”

Tim Bùi Thận căng phồng bởi những vui sướng chen nhau trào lên không ngớt, dường như có thể nổ tung bất cứ lúc nào. 

Gương mặt y toàn là mừng rỡ, nắm chặt lấy tay Thẩm Lan: “Ta trong lòng nàng……”

Nhưng chưa dứt câu, Thẩm Lan đã chậm rãi từng chút một rút ra những ngón tay mảnh khảnh của mình.

Nàng tỉ mỉ ngắm nghía đôi tay mình. Thon dài, tinh xảo, đầu ngón tay tựa búp măng, nom rất là xinh đẹp.

“Ngài nhìn đôi tay này của ta xem. Ngày xưa từng ôm lấy ghế dài, chịu từng gậy từng gậy đánh lên người ta. Từng nắm cây sào trúc, đội gió lạnh chèo thuyền trên Thái Hồ. Từng nắm chặt cái gối, mặc ngài vẽ tranh trên lưng để nhục mạ ta.”

Bùi Thận nghe xong, chợt ngẫm ra bao nhiêu chua xót, khó khăn mở miệng: “Nếu biết có ngày ta sẽ thương nhớ nàng đến vậy, ta nhất định đã……”

Thẩm Lan lắc đầu: “Quá muộn rồi, Bùi Thận.”

“Nước sông quá lạnh.”

Đằng sau bốn chữ nhẹ tênh này, là không biết bao nhiêu gian khổ, không biết bao nhiêu nước mắt của Thẩm Lan.

Sóng gió ngập trời ập lên cơ thể. Nàng bị từng cơn sóng đè xuống lòng sông không kịp ngẩng đầu, tưởng chừng như không thở nổi. Sau những mênh mông sóng vỗ là cái lạnh kéo tới, lạnh đến run rẩy cả người, lạnh đến da thịt như mất hết cảm giác.

Thẩm Lan đầy bụng thẫn thờ. Vẻ mặt nàng nhàn nhạt, nhưng từng chữ thở ra lại hệt như sấm chớp rền vang, từng tiếng bổ ầm ầm vào trái tim Bùi Thận.

“Bùi Thận, năm đó ta vứt bỏ hết thảy mà nhảy vào sông đánh cược tánh mạng, không phải vì để được ở bên ngài.”

“Giờ đây nếu ta nhận lời với ngài, há chẳng khiến Thẩm Lan của sáu năm trước phải thất vọng?”

Hai câu này cơ hồ đánh cho Bùi Thận tan tác không còn manh giáp. Y lần nữa nhớ lại cảnh tượng Thẩm Lan dứt khoát nhảy vào lòng sông, thà rằng đánh cược tánh mạng giữa sông sâu sóng cả cũng phải vùng thoát khỏi y.

Khóe mắt y cay xè, nghiêm túc nói:” Là do ta không tốt.”

Đêm đó ở Thuế Thự, Bùi Thận cũng nói lời tạ tội. Chỉ là câu xin lỗi khi ấy vốn được y chuẩn bị sẵn sàng, định trước sẽ lấy ra giảng hòa cùng Thẩm Lan.

Còn lời xin lỗi tại khoảnh khắc này lại là thật tâm cảm thấy cần xin lỗi. Bởi y chưa từng nhận thức rõ ràng được những gì bản thân làm đã đem đến cho Thẩm Lan những tổn thương nặng nề, sâu sắc đến vậy.

“Ngài không cần phải xin lỗi ta.” Thẩm Lan lắc đầu, “Ngài tổn thương ta, nhưng cũng đã cứu ta khỏi tay giặc Oa, lại dùng mối quan hệ của mình để giúp ta chữa bệnh.”

Thẩm Lan cười cười: “Chuyện xưa nghĩa cũ chẳng cần nhắc nữa. Ơn cũng được, thù cũng xong, toàn bộ đều coi như xóa bỏ.”

Bùi Thận chua xót ngóng nhìn nàng, vội vã hứa hẹn: “Sau này ta sẽ đổi xử tốt với nàng.” Dứt lời, y lại vội vàng nói: “Chắc chắn mà. Ta sẽ để nàng luôn vui vẻ, không bao giờ……”

Thẩm Lan đã hạ quyết tâm đâu vào đấy, cứ thế tiếp tục nói: “Ta biết chuyến này ngài tới Hồ Quảng hẳn là để dẫn ta cùng Triều Sinh về kinh đô. Triều Sinh chẳng có tội tình gì, nó muốn ở cùng ngài hay ở cùng ta, cứ để nó tự lựa chọn vậy.”

“Còn về chuyện giữa hai ta.” Thẩm Lan cười nói: “Sau này ta làm thương nhân của ta, ngài làm quan tốt của ngài.” Nói tới đây, nàng còn có tâm trạng trêu Bùi Thận: “Nói nhầm rồi, giờ ngài đã là Thái Tử, sau này sẽ là chủ của vạn dân. Chẳng còn dính líu gì đến ta nữa.”

Nàng nói nghe có vẻ hết sức phóng khoáng, rõ ràng đã hạ quyết tâm cắt đứt quan hệ cùng y. Là yêu hay hận gì thì nàng cũng không để bụng nữa, cho nên mới có thể tỏ ra thong dong, tự do như vậy.

Bùi Thận nhìn mà thấy tim như bị đao cắt, đau đến y không thốt nổi câu nào, khóe mắt càng lúc càng cay xè.

Đờ đẫn hồi lâu, Bùi Thận lại lần nữa mở miệng: “Thật sự không cách nào cứu vãn được ư?” Lời vừa cất lên, mới chợt nhận ra giọng y ú ớ nghẹn ngào đến vậy.

Thấy y ăn nói khép nép, hoàn toàn chẳng còn vẻ ngạo mạn trước kia, Thẩm Lan không đành lòng, thoáng thấy chút gì cay đắng. Ngặt nỗi nếu đã quyết tâm chia lìa, ngại chi không nói những lời tuyệt tình hơn?

“Ngài là quý tộc nhiều đời, lại là tiến sĩ cập đệ. Có dạng nữ nhân nào trong thiên hạ mà ngài không chiếm được. Sau này ngài nhất định sẽ có……”

Bùi Thận lắc đầu: “Ta chỉ cần nàng.”

Thẩm Lan tưởng chừng không thở nổi, biết y vẫn không chịu buông tay. Nàng không khỏi sinh bực: “Ngài đã làm quan, dĩ nhiên cũng biết con đường làm quan hiểm ác, chuyện không như ý chiếm tám, chín phần mười. Tình trường cũng như quan trường vậy, sao có thể việc gì cũng trôi chảy? Huống hồ mai đây ngài lên làm Hoàng đế, gánh vác vạn dân trên vai, càng nên dốc lòng cần cù việc nước, chăm lo cho đời sống nhân dân. Việc gì cứ cố chấp loay hoay mãi trong tình yêu chứ?”

Bùi Thận hơi giật mình, chợt ngơ ngác nhìn nàng.

Thẩm Lan cũng không rõ y rốt cuộc có nghe hay không, nàng nhẫn tâm bước thẳng xuống xe, thấy ngoài xe thân vệ, hộ vệ đứng cách thật xa để bảo vệ xe lừa.

Cách xa thế này chắc sẽ không nghe thấy nàng cùng Bùi Thận nói chuyện.

Thẩm Lan thật sự không muốn dây dưa giữa mình và Bùi Thận bị người khác xầm xì bàn tán. Bây giờ biết bọn hộ vệ không nghe thấy, nàng cũng không buồn để ý đến họ, chỉ lo bước tới trước định đẩy cửa vào nhà.

“Từ từ ——”

Thẩm Lan nhíu mày quay đầu lại, thấy Bùi Thận xuống khỏi xe lừa, đứng trong con hẻm.

Thẩm Lan ngẩn ra, không rõ y định làm gì, chợt nghe Bùi Thận từ đằng xa nói vọng lại: “Thẩm Lan, chuyện giữa hai ta nói đúng ra chỉ có hai việc. Thứ nhất, lòng nàng hận ta, không cách nào lãng quên quá khứ. Điều ta cần làm là khiến nàng buông bỏ thù hận.”

“Thứ hai, nàng muốn ta tôn trọng ý kiến của nàng, ta đương nhiên có thể làm được. Nhưng tiền đề là nàng phải thành hôn với ta. Còn sự tôn trọng mà nàng muốn là lựa chọn rời khỏi ta để sống cuộc đời của mình. Đây là điều ta kiên quyết không thể chấp nhận. Muốn giải quyết nút thắt này chỉ có một cách, thay đổi ý định của nàng, khiến nàng chịu thành hôn với ta.”

Thẩm Lan ngơ ngác đứng sững sờ tại chỗ, nghe Bùi Thận đĩnh đạc nói tiếp.

“Hai việc này tưởng chừng như không giống nhau, thực tế đều cùng chung cách giải quyết —— khiến nàng cũng yêu ta!”

Bùi Thận cao giọng cười to, vui sướng đến đỉnh điểm.

Y trước nay chưa từng ái mộ ai, thế cho nên va phải tình yêu chỉ đành bó tay chịu trói, luôn nghĩ phải thuần phục nàng giống như thuần phục thuộc hạ dưới quyền vậy.

Nhưng nàng dũng cảm lại thông minh, cốt cách kiêu hãnh không khuất phục. Bùi Thận dù cố đến đầu rơi máu chảy, vẫn cảm thấy thật khó mà nắm bắt được suy nghĩ của nữ tử, lại không rõ Thẩm Lan muốn gì cần gì, vòng đi vòng lại mãi đến tận hôm nay.

Ngờ đâu cuối cùng vẫn là Thẩm Lan đánh thức y. Một câu “Tình trường cũng như quan trường”, để Bùi Thận như bừng tỉnh từ cơn mộng mị.

Y quả thật không rành rẽ chuyện tình yêu, nhưng như thế thì sao chứ? Chỉ cần lấy tình yêu đem so với làm quan, Bùi Thận lập tức có thể suy luận ra.

Hiện giờ y muốn để Thẩm Lan yêu mình, là y có việc xin nhờ Thẩm Lan. Thế thì không thể xem nàng như cấp dưới, rồi dùng đủ mọi cách thuần phục nàng. Mà nên xem nàng như quan trên, hoặc như đồng liêu vậy. Ngày xưa ngẫm nghĩ tâm tư của những người này thế nào, thì giờ đây cũng nghiền ngẫm suy nghĩ của nàng hệt như thế ấy.

Lại lấy ra những thủ đoạn kết giao đồng minh, kéo bè kết phái tung hoành trên quan trường, y không tin không thể khiến Thẩm Lan nảy sinh hảo cảm với mình!

Bùi Thận rũ sạch mông lung, tim như chợt bừng lên nắng hạ. (2)

Mặt mày y tràn đầy sức sống, cất cao giọng nói: “Ta Bùi Thủ Tuân đường đường đấng nam nhi bảy thước, có sai thì nhận, có lỗi sẽ sửa. Mọi chuyện ngày xưa, đều do ta có lỗi với nàng.”

Khi ấy bầu trời trong vắt cao xanh, ánh dương rực rỡ chói lòa. Từng mảng nắng trải lên người y, chiếu ra những tia sáng lóa mắt như ngọc trai, ngọc bích.

Thẩm Lan ngơ ngẩn nhìn y, không hiểu người này định xin lỗi hay là làm gì. Nhưng y cười đến khiến nàng hoảng hốt, theo bản năng sập cửa, lại vẫn nghe rõ mồn một tiếng cười sung sướng không coi ai ra gì của Bùi Thận.

Cười cười cười! Thẩm Lan phát bực, vung tay ném chiếc mặt nạ mua cho Triều Sinh ra ngoài, gắt lên: “Ngài cười cái gì mà cười!”

Mắt Bùi Thận ngập gió xuân, cười khanh khách chụp lấy mặt nạ, tung hứng trên tay.

Mặt trời sáng rọi, hoa cỏ mướt xanh, Thẩm Lan đứng trước cánh cửa gỗ mun, Bùi Thận tựa vào con ngựa lông vàng đốm trắng, hai người đứng cách con hẻm lát đá xa xa ngóng nhìn nhau.

Gương mặt Bùi Thận trong trẻo lạ thường, như gió xuân phấp phới, như tuyết tan mưa tạnh, cười đến thỏa thích vô cùng. Y quay người nhảy lên ngựa, vung roi giục ngựa rời đi, chỉ để lại một câu ——

“Ngày cũ qua rồi, ngày sau sẽ khác!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58: Ngũ Thành Binh Mã Tư


Khi Thẩm Lan tỉnh lại, mặt trời cũng đã lên cao. Nàng nằm ngẩn người một lát, đang chuẩn bị ngồi dậy thì chợt nghe có tiếng gõ cửa.

“Tiến vào đi.” Thẩm Lan nói.

Có bà vú chừng bốn mươi tuổi, mặc váy màu xanh ngọc bích, bên trên là áo đạo bào màu vàng lúa chín bưng một chiếc thau đồng bước vào, rồi đặt lên bàn gỗ bách phủ bóng.

“Bẩm phu nhân, Lý cai trạm phái ta tới hầu hạ phu nhân.” Bà vú kia cười nói: “Ta họ La, phu nhân có gì cứ sai ta đi làm là được.”

Thẩm Lan vén màn lụa lên, xỏ giày vải trắng đế bằng thêu chim anh vũ hái đào, mỉm cười đáp: “Đa tạ La nương tử.”

La nương tử thoáng ngẩng đầu, vậy mà đứng sững sờ ngây dại. Hồi lâu sau, bà như người vừa tỉnh mộng, chậc lưỡi tấm tắc không thôi. Nàng này xinh đẹp như thế, ngỡ đâu là trong tranh bước ra?

Thẩm Lan rửa mặt chải đầu xong, La nương tử bưng đồ ăn sáng tới. Thẩm Lan dùng chén cháo sữa bò, lại uống một chén nước ấm pha mật ong, lúc này mới tò mò hỏi: “La nương tử, ta cứ ngồi mãi trong phòng cũng buồn chán. Gần trạm Long Giang có chỗ nào cảnh đẹp mà chơi vui không?” 

La nương tử ngẩn ra, vội đáp: “Trạm Long Giang chỉ là trạm dịch thôi, đâu có thắng cảnh chi đâu.”

Thẩm Lan nhìn bà một chút, thấy bà cụp mi rũ mắt đứng đó, nghĩ chắc có lẽ bà đã được dặn dò trước rồi.  Nếu không, người bình thường nhất định sẽ nhân lúc này mà giới thiệu tỉ mỉ các chốn đông tây nam bắc để cầu ban thưởng.

“Thôi.” Thẩm Lan chậm rãi nói: “Nếu thế, La nương tử lui xuống đi.”

La nương tử gật đầu, dọn dẹp chén đũa rồi đi thẳng ra cửa.

Cánh cửa vừa mở ra, Thẩm Lan nhìn thấy ngoài cửa có hai thân vệ của Bùi Thận ôm đao đứng gác. Nàng biết đây nói là hộ vệ, kỳ thật là để giám thị.

Cánh cửa khép lại, La nương tử đã ra ngoài. Thẩm Lan không có việc gì để làm, đành ngồi ngẩn người trên ghế hoa hồng.

Lần này tách khỏi Bùi Thận là để tìm cơ hội chạy trốn. Nhưng lúc này thủ vệ nghiêm ngặt, trốn không được, nàng cũng chỉ có thể đợi thêm, chờ Bùi Thận lơ là.

Có lần này làm nền, lần kế tiếp nàng muốn tách khỏi Bùi Thận, y có lẽ sẽ yên lòng hơn. Lặp đi lặp lại đến khi Bùi Thận lơi lỏng tinh thần, nàng kiểu gì cũng có thể tìm được cơ hội.

Nghĩ đến đây, Thẩm Lan hơi bình tĩnh lại, từ từ rút cuốn《 Tạ Tiểu Nga Truyện 》 ra đọc.

Bên này nàng đang đọc sách, bên kia Bùi Thận đã vào được thành Nam Kinh.

Bùi gia năm đó theo Thái Tổ khai quốc, được ban tước Ngụy Quốc Công. Sau đó Thành tổ dời đô về Yến Kinh, dòng chính của Bùi gia cũng cùng theo đến Yến Kinh, còn các chi thứ thì ở lại Nam Kinh.

Bùi Thận chuyến này mang mười lăm thân vệ và Cẩm Y Vệ, để lại mười người cho Thẩm Lan, bản thân y dẫn năm người cưỡi ngựa đến cầu Huyền Tân, nơi đặt nhà tổ của Bùi gia. 

Nhà tổ vốn được xây theo quy chế của phủ Quốc công, dù đã tháo bảng “Ngụy Quốc Công phủ” đổi thành “Bùi phủ”, nhưng diện mạo vẫn lẫy lừng như cũ, đầu thú sơn son, chữ triện nhũ vàng.

Rõ ràng y đã sớm sai người tới báo tin, nhưng lúc này cửa lớn vẫn đóng chặt, chỉ có chỗ cửa hông phía tây có hai gã sai vặt đang đứng.

Phòng ốc mà để trống lâu ngày không ai ở sợ là sẽ hư hại đi ít nhiều. Cho nên năm đó khi tổ tiên Bùi Thận đi Yến Kinh, đã giao lại nhà tổ cho các chi thứ quản lý.

Tu hú chiếm tổ chim khách lâu ngày, bây giờ đã tự xem mình là chủ nhà rồi.

Bùi Thận cười lạnh trong lòng, nhưng ngoài mặt vẫn chưa lộ vẻ gì, chỉ sai người đi tìm Ngũ Thành Binh Mã Tư của Nam Kinh. Nói xong, y cầm roi ngựa chuôi ngọc chỉ chỉ: “Bình Sơn, bảo hai gã kia mở cửa chính ra.”

Bình Sơn là một trong mấy thân vệ của Bùi Thận, nghe lệnh y giục ngựa tiến lên.

Bùi Thận đứng từ xa nhìn lại, thấy Bình Sơn nói mấy câu với hai gã sai vặt, giống như bắt đầu cãi vã.

“Bẩm Gia, hai gã kia nói phải bẩm với lão gia của chúng trước đã.” Bình Sơn vội nói.

Bùi Thận thong thả nói: “Roi ngựa trong tay ngươi chỉ để trưng thôi sao?”

Bình Sơn sửng sốt. Tánh nết Gia vốn dĩ không phải hạng bạo ngược, hiếm khi quất roi kẻ dưới. Nhưng hắn nhận lệnh, không nói hai lời xoay người nhảy xuống ngựa, bước qua quất hai gã sai vặt mỗi người một roi.

Hai người ngã xuống đất, kêu la ối oái.

“Hai người các ngươi nếu vẫn không mở cửa, roi trong tay ông nội đây cũng không phải để trang trí đâu!” Bình Sơn vốn cao to lực lưỡng, dữ tợn uy hiếp trông rất là đáng sợ.

Hai gã sai vặt sợ hãi vô cùng, vẻ mặt đưa đám xin tha: “Bẩm ông nội, không phải bọn con không chịu mở cửa. Mà lão gia đã dặn rồi, mấy ngày nay ai tới cũng phải vào bằng cửa phía tây cả.”

Bình Sơn sửng sốt than thở: “Lão gia nhà ngươi to gan thật đấy.” Dứt lời, hắn đi vòng qua hai người vào cửa phía tây, rồi ngoặt ra cửa chính, mở cánh cổng màu đỏ ra.

Hai gã sai vặt hoảng hốt bò dậy đi bẩm báo lão gia nhà mình.

Bùi Thận lúc này mới xuống ngựa, chậm rãi đi vào bằng cửa chính.

Mới vừa bước qua bức vách bằng đá vân cẩm bên ngoài, chợt gặp một người đàn ông trung niên mảnh khảnh đang vội bước tới. Người này đầu đội khăn lưới, mặc áo trực chuyết dệt lụa hoa, chân mang ủng độn, eo đeo bạch ngọc khắc li long, thấy Bùi Thận thì chắp tay hành lễ: “Có phải là Thận ca nhi đấy không?”

Bùi Thận hơi suy tư một chút, cũng chắp tay hành lễ: “Tiểu chất Bùi Thận, không dám nhận Nhị thúc vái chào.”

Bùi Vinh ngẩn ra, hỏi y: “Thận ca nhi có từng gặp ta chưa? Nếu chưa sao biết ta là Nhị thúc?”

Bùi Thận nhìn ông ta, cười nói: “Trước khi tới đây, trưởng bối ở nhà có nói rằng Đại bá thì vóc người trung trung, Nhị thúc dáng mảnh khảnh, Tam thúc thì hơi đ.ẫy đà, dặn ta chớ có nhận lầm.” Trước lúc tới đây, Bùi Thận có tìm Đàm Anh lấy ba bức họa của ba người này để xem.

Nhị thúc Bùi Vinh cười giả lả: “Ở phương xa mà còn nhớ đến chúng ta ở đây, thật là quý hóa quá!”

Bùi Thận cũng cười: “Dĩ nhiên là phải nhớ chứ. Mà Nhị thúc, Đại bá đâu?”

Bùi Vinh hơi ngừng lại, ông ấy thì đang ngồi trong sảnh chính chờ, chỉ bảo mình tới đón người. Nghĩ đến đây, vẻ mặt Bùi Vinh hơi lãnh đạm: “Đang ở từ đường chờ cháu đấy.”

Bùi Thận liếc nhìn ông ta, mỉm cười: “Nhánh bên này từ hồi đi theo dời đô cũng đã lâu chưa về. Lần này ta cố ý xin nghỉ để về quê tế tổ. Không biết từ đường đã mở chưa?”

“Mở rồi mở rồi.” Bùi Vinh vốn không định đoái hoài Bùi Thận. Nhưng thấy y mới tới đã đánh người hầu, mở cổng chính, hùng hổ bước vào, lúc này ông chỉ muốn nhanh chóng đuổi tên sát thần này đi.

“Mở rồi thì tốt.” Bùi Thận cười nói: “Nhị thúc, bây giờ mở từ đường tế tổ, chi bằng gọi hết con cháu trong nhà tới tham dự.”

Bùi Vinh ngẩn ra, nhưng lời đề nghị này cũng không tiện từ chối, thế là gật đầu đồng ý. 

Hai người vừa đi vừa tán gẫu vài câu, cuối cùng cũng tới từ đường cây cối xum xuê, xà nhà chen đấu củng.

Vừa bước vào từ đường, y trông thấy chừng bảy tám người nam đứng trước đình châu đầu ghé tai, khe khẽ nói nhỏ.

Bùi Thận nhíu mày, cho rằng đám người này thật là không biết phép tắc. Từ đường là chốn linh thiêng, sao được phép gây ồn ào?

“Thận ca nhi đấy phỏng?” Đại bá Bùi Hiện chào đón.

Bùi Thận chào hỏi bảy, tám người kia, sau đó dẫn đầu đẩy cửa gỗ của từ đường.

Vào được từ đường, thấy trụ bằng gỗ nam, xà từ gỗ đàn, xây theo kiểu ba gian nối liền, cũng không hoa văn chạm trổ gì, chỉ lát gạch vuông sơn bóng, giản dị mà trang trọng.

Bùi Thận nhìn hơn trăm tấm bài vị xếp tầng tầng lớp lớp trước mặt, cầm lấy ba nén hương đã được châm.

Y cúi người lễ bái mấy lần, chờ khói lượn vòng bay lên, nhẹ nhàng tan biến trong không khí xong mới cắm hương vào trong lư hương ba chân bằng sứ Tuyên Đức.

Kế tiếp nhẽ ra phải dâng rượu và thức ăn, trái cây và đồ lễ, nhưng người của Bùi phủ lại chưa chuẩn bị.

“Cháu đừng lo, đã sai người đi mua rồi.” Đại bá Bùi hiện vuốt râu cười nhạt.

Bùi Thận âm thầm cười lạnh, cũng biết những người này không phải ra oai phủ đầu với y. Chẳng qua Bùi gia Yến Kinh và Bùi gia Nam Kinh đã phân cách hơn trăm năm, tình cảm cũng phai nhạt dần. à 

Lại thêm Nam Kinh là cố đô, vẫn còn giữ đủ sáu bộ quản lý. Những người này ở Nam Kinh cắm rễ hơn trăm năm, tự cho là cây to cành lớn, xưng huynh gọi đệ với cả quan Thượng thư chính nhị phẩm, kề vai sát cánh với phiên vương, được cấp dưới bợ đỡ, nên mới không coi Tuần phủ tòng nhị phẩm như y ra gì, làm lơ những gì y yêu cầu.

Tiếc thay những người có chí có tài một là cống hiến ở Yến Kinh tích lũy kinh nghiệm chờ ngày gặt hái, hai là xin ra xa nhậm chức quản lý một vùng. Còn những người tới Nam Kinh nhậm chức không phải là để dưỡng lão thì cũng là bị biếm ra đây dưới danh nghĩa thăng chức, không còn cơ hội ngóc đầu trở lại.

Đám người Bùi gia cũng không chịu cố mà nghĩ xem Tuần phủ tay nắm thực quyền so với Thượng thư chăm hoa, phiên vương nuôi chim thì ai mới là kẻ quyền hành hơn.

“Không sao, từ từ cũng được.” Bùi Thận cười nói. Thấy sắc mặt của Bùi Hiện dịu lại, Bùi Thận ân cần hỏi han: “Đại bá, các huynh đệ còn lại trong phủ đã tới cả chưa?” Chỉ mới một lát trôi qua, mọi người tất nhiên chưa kịp tới đủ, sẽ có vài người không đến.

Bùi Hiện chột dạ ho khan vài tiếng, cười giả lả: “Sắp tới rồi sắp tới rồi.” Nói xong, ông ta quay sang quát bọn sai vặt mau đi mời các thiếu gia đến.

Bùi Thận lẳng lặng chờ, ước chừng một canh giờ trôi qua, ngày đã tới đầu giờ Thân, đàn ông trong phủ đều tới đủ, đồ lễ cũng mua về xong.

“Người đó là ai?”

“Nháo nhào gọi tiểu Gia tới đây làm gì?”

“Cha, con còn đang bận đọc sách, sao tự dưng kêu ra tế tổ?”

Bùi Thận không để ý tới những lời rì rầm phía sau. Y đích thân viết và đọc văn tế, đốt hết các chậu than lên, kính cẩn dâng rượu và thức ăn, cuối cùng coi như kết thúc buổi lễ tế.

Thấy tế tổ đã xong xuôi, Bùi Hiện thở phào nhẹ nhõm, sắp sửa mở miệng đuổi tên sát thần này đi, bỗng nhiên quét mắt trông thấy có người vội vàng chạy tới từ cửa tròn. 

“Ồn ào cái gì đó! Cái loại không nền không nếp!” Bùi Hiện mắng chửi.

“Lão gia! Lão gia!” Quản gia áo quần xốc xếch, khuôn mặt kinh hoàng: “Ngũ Thành Binh Mã Tư xông vào! Ngũ Thành Binh Mã Tư!”

Bùi Hiện sửng sốt, tiện đà giận dữ nói: “Đúng là không biết phép tắc! Con chó con mèo ở đâu ra cũng dám chui vào nhà này!”

Bùi Hiện đang định ra cửa cản, lại thấy Chỉ huy sứ của Nam Thành Binh Mã Tư dẫn mấy chục tên lính bước vào, liếc mắt trong đám người trông thấy Bùi Thận liền chắp tay chào hỏi.

Bùi Thận ấm giọng đáp lễ: “Làm phiền chư vị.”

Chỉ huy sứ của Nam Thành Binh Mã Tư – Giang Tùng, đầu đội nón sắt màu đỏ, mặc giáp thép lá liễu, chân mang giày da, dáng người cường tráng, nghiêng người nép sang bên: “Không dám nhận lễ của Bùi đại nhân.”

Thấy hai người hàn huyên, Bùi Hiện ngạc nhiên hỏi: “Hai người quen nhau sao?”

Ai ngờ Giang Tùng không thèm quan tâm, nghiêm mặt nói: “Bùi Liễn, ba năm trước có người cáo trạng ngươi xâm chiếm ruộng đất. Bùi Kỳ, hai tháng trước có người cáo ngươi tự ý cho vay nặng lãi. Còn Bùi Dao, mua bán sang tay chuyển nhượng đồ cổ. Bùi Tuyên đánh giết hai lương dân.”

Liệt kê xong, hắn phất tay: “Dẫn đi!” Mấy tên lính bước ra đeo gông vào cả bốn người kia.

Bốn người đâu chịu để yên, giãy giụa không ngừng, liên tục mắng chửi ầm ĩ.

“Ta bị oan mà!”

“Chúng bay làm gì đó?!”

“Làm càn! To gan!”

Trong này có con trai ruột của Bùi Hiện cũng bị gông cổ, Bùi Hiện hoảng hốt, nghe con trai hét thảm mà lòng đau như cắt, liên thanh hô: “Nhanh thả người ra!”

Hô mấy câu mà vẫn thấy Giang Tùng không thèm ngó ngàng, Bùi Hiện vừa tức vừa sợ. Đám người này lúc trước cũng nhận hối lộ mà du di, sao bây giờ lại một hai phải xử lý theo pháp luật?

Ông ta đột nhiên nhìn về phía Bùi Thận đang đứng trong đình, tức đến run cả người: “Bùi Thận mày giỏi lắm! Có phải mày sai kẻ khác vu oan con ta?!”

Bùi Thận ung dung đáp: “Cháu mới tới Nam Kinh có nửa ngày thôi.” Nói xong, y mỉm cười nhìn Bùi Vinh ngơ ngác đứng cạnh: “Nhị thúc, Đại bá gặp tai họa bất ngờ chắc là tinh thần đã rối loạn, thúc an ủi ngài ấy nhé.”

Bùi Vinh thấy tình thế xoay chuyển quá nhanh, vẫn chưa kịp phản ứng, chợt nghe Bùi Thận gọi mình mới hoàn hồn, ngờ nghệch lên tiếng đáp lại Bùi Thận. 

Thấy ông ta còn sững sờ, Bùi Thận chửi thầm thứ ngớ ngẩn, đành phải nhắc lại: “Nhị thúc, Đại bá bị bóng đè, nhanh phái người dẫn ngài ấy đi nghỉ ngơi đi.”

Bùi Vinh ngây ngô nhìn qua Bùi Hiện đang nổi trận lôi đình, lại nhìn sang Bùi Thận đang ấm giọng ân cần, bấy giờ mới chợt nhận ra dụng ý của y, ông ta hân hoan vui mừng nói: “Còn đứng đực cả ra đó làm gì? Đứng nhìn đại ca ta lên cơn điên sao? Mau dẫn đại ca đi nghỉ ngơi!”

Chuyện này cứ quyết định như thế, Bùi Hiện giận tím mặt, liên tục dùng tiếng địa phương Nam Kinh mắng mỏ: “Bùi Vinh! Đồ con rùa con dê! Đồ chó má ngu dốt……”

Hai đứa con trai của Bùi Vinh cũng hoàn hồn, lập tức phái thư đồng dẫn Đại bá rời khỏi.

Một trận xung đột chấm dứt nhẹ nhàng. Từ đây về sau, Bùi phủ ở Nam Kinh là do Bùi Vinh quản lý.

Bùi Vinh hớn hở nhìn đại ca nhà mình bị kéo đi, chắp tay nói: “Cháu à, không gạt gì cháu, Đại ca và mấy đứa con trai lâu nay quen thói ngang ngược kiêu ngạo, suốt ngày làm xằng bậy. Nhưng không ngờ còn dám dính líu tới mạng người, quả thật là bại hoại nền nếp gia phong của Bùi phủ ta.” Nói xong, ông ta vờ vịt thở dài.

Bùi Thận chẳng bận tâm ai là người quản lý Bùi phủ ở Nam Kinh. Nếu Bùi Vinh không được, lại đổi người khác lên thay là xong. Y mở miệng cảnh cáo: “Nhị thúc, Bùi gia là danh môn trăm năm, kính mong Nhị thúc phải biết coi chừng, chớ có làm xấu danh dự của Bùi thị.”

Bùi Vinh vỗ ngực, sắp sửa thề thốt bảo đảm, phía cửa tròn lại nghe những tiếng bước chân vội vã.

Có thôi đi không thì bảo! Bùi Vinh tức giận, há mồm trách mắng: “Không biết phép tắc hả! Ầm ĩ như thế còn ra thể ……” Còn nửa câu mắc nghẹn trong cổ họng, không thốt nên lời.

Bởi vì người tới lại là hai tên lính mặc áo giáp mang giày da.

“Tổng Lý Lương Trữ – Đề Đốc Quân Vụ – Tuần Phủ Sơn Tây – Thiêm Đô Ngự Sử Đô Sát Viện – Ngụy Quốc Công thế tử – Bùi đại nhân có ở đây không?”

Bùi Thận nhíu mày: “Có việc gì?”

Hai tên lính thấy y, bất chợt thở phào nhẹ nhõm, thấp giọng nói: “Đại nhân nhà ta cho mời Bùi đại nhân qua phủ gặp mặt.”

Bùi Thận ngạc nhiên: “Đại nhân nhà ngươi là vị nào?”

Tên lính khom người nói: “Không dám nói thẳng tên huý của Đại nhân, Đại tư mã sai bọn thuộc hạ tới mời ngài.”

Ngũ Thành Binh Mã Tư trực thuộc Binh Bộ, chắc hẳn do y phái người đi mới Ngũ Thành Binh Mã Tư cho nên đã kinh động đến Thượng thư Binh Bộ.

Nhưng Thượng thư Binh Bộ tìm y làm gì? Bùi Thận nổi lòng hồ nghi, bình tĩnh đáp: “Ngươi dẫn đường đi.” Nói rồi, y cưỡi ngựa đi thẳng tới nha môn Binh Bộ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59: Cáo già xảo quyệt


Nha môn Binh Bộ nằm gần cổng Quang Hoa, cách cầu Huyền Tân không xa lắm. Bùi Thận cưỡi ngựa chỉ mất thời gian khoảng hai nén hương đã tới nơi.

Bùi Thận quay người nhảy xuống ngựa, được tiểu lại dẫn vòng qua cửa nghi môn, vào sân trong. Y nhìn thấy hành lang hai bên lác đác có vài quan viên qua lại hối hả, vẻ mặt nôn nóng.

Y nổi lòng nghi ngờ, tiếc là Đàm Anh hiện không ở cạnh. Mà y vì vội vã vào thành, cho nên cũng chưa liên lạc với Cẩm Y Vệ ở Nam Kinh, tạm thời không rõ chuyện gì đang xảy ra.

Bùi Thận vừa suy tư, vừa nhìn về phía ông lão đang đứng khoanh tay trong đình. Người này mặc quan phục, đội mũ cánh chuồn, đeo thắt lưng sừng tê, chân đi ủng đen, thỉnh thoảng liếc nhìn ra cửa.

Thượng thư Binh Bộ vốn chẳng liên can gì đến y, sao lại phái người ra tiếp đón? Bùi Thận sinh nghi, bước nhanh tới chắp tay thi lễ: “Sao dám phiền Phạm đại nhân ra tiếp đón chứ?”

Phạm Ý Chi thần sắc vội vàng, cố gắng bình tĩnh vuốt râu cười nói: “Lão phu đã là bộ xương bước nửa chân vào đất rồi, Bùi đại nhân lúc này vẫn đang độ đơm hoa kết trái. Ta ra nghênh đón một lần thì có làm sao?”

Bùi Thận vội vàng khom lưng: “Phạm đại nhân năm nay mới năm mươi lẻ sáu, tinh thần quắc thước, hà cớ chi lại nói những lời này?”

Hai người đẩy đưa vài câu, Phạm Ý Chi lúc bấy giờ mới dẫn Bùi Thận vào sảnh, ngồi xuống ghế, sai người bưng trà thơm lên. 

“Không biết Phạm đại nhân tìm ta có chuyện gì?” Bùi Thận hớp ngụm trà Kiến Châu, cười hỏi.

Phạm Ý Chi nãy giờ chẳng qua cố tỏ ra bình thường để hàn huyên, lúc này nghe Bùi Thận hỏi, rốt cuộc không thể che giấu thêm, vội vàng nói: “Ta nhớ rằng Bùi đại nhân vào thành sáng nay đúng không?”

Bùi Thận thật sự không biết Phạm Ý Chi này ý định ra sao, liền đáp: “Vâng, lúc canh ba giờ Tỵ, vào thành từ cổng Kim Xuyên.”

Nghe vậy, Phạm Ý Chi hơi nhoài người ra trước, vội hỏi tiếp: “Nếu thế, lúc Bùi đại nhân tới có từng nghe tin tức về giặc Oa chưa?”

Thấy ông ta nhíu mày, dáng vẻ cực kỳ sầu lo, Bùi Thận suy tư chốc lát, chỉ cảm thấy phỏng đoán của mình quá mức vớ vẩn, bèn thử dò xét: “Chưa từng nghe nói tới, chỉ nghe đâu vùng Giang Chiết Lưỡng Quảng luôn có giặc Oa quấy phá.” Nói xong, y lại nói: “Có chuyện gì sao đại nhân?”

Phạm Ý Chi thấy Bùi Thận không thể cung cấp thêm thông tin gì, thất vọng nhưng vẫn cố gượng trả lời: “Mạt Lăng Quan đã thất thủ.”

Bùi Thận sửng sốt, không ngờ suy đoán của mình lại trở thành sự thật.

Mạt Lăng Quan là cửa ngõ vào thành Nam Kinh. Nơi này thất thủ nghĩa là giặc Oa có thể đánh thẳng vào dưới chân…

…… thành Nam Kinh.

Bùi Thận cảm giác hít thở khó khăn. Thấm Phương lúc này còn đang ở bên ngoài thành Nam Kinh.

Thấy Bùi Thận đột ngột đứng dậy, Phạm Ý Chi ngạc nhiên: “Bùi đại nhân sao vậy?”

Bùi Thận lạnh lùng nói: “Tóm lại đã xảy ra chuyện gì?”

Người trẻ này không quá lễ phép, hai đầu chân mày của Phạm Ý Chi nhíu chặt đến nỗi có thể kẹp chết ruồi bọ. Nhưng ngẫm lại, bản thân ông ta tìm tới Bùi Thận cũng không ôm mục đích tốt đẹp gì cho cam. Nghĩ vậy, ông ta thoáng nguôi cơn tức, dịu giọng giải thích.

“Tướng thủ thành của Mạt Lăng Quan là La Tông và Từ Thanh trưa nay phóng ngựa vào Nam Kinh, báo rằng giặc Oa đêm qua tiến công với quy mô lớn, công đánh Mạt Lăng Quan. Hai người họ cùng ngàn tướng sĩ cố gắng chống cự, nhưng rốt cuộc không địch lại, cho nên vọt ngựa đến báo với lão phu, để lão phu chuẩn bị sớm.”

Bùi Thận liếc nhìn ông ta một cái, cười lạnh trong lòng. Cưỡi ngựa báo tin? Rõ ràng là thủ không được, bỏ thành mà chạy. 

Nhưng giờ không phải lúc truy cứu trách nhiệm. Cấp bách nhất hiện nay là phải nhanh chóng tìm hiểu tình huống.

“Hai người họ có nói giặc Oa tổng cộng bao nhiêu người không?”

Phạm Ý Chi lắc đầu: “Chỉ nói hàng ngàn hàng vạn, đầy khắp núi đồi.”

Bịa chuyện lừa gạt người khác chắc? Bùi Thận cười lạnh: “Toàn là những người thâm niên trong nghề binh, chẳng lẽ đếm số người cũng nhẩm không ra?”

Phạm Ý Chi chuẩn bị giải thích, Bùi Thận lại nói: “Huống hồ mấy ngàn giặc Oa tiến quân vào Nam Kinh, các châu các huyện dọc đường cớ sao không hề biết chút động tĩnh nào?” Cẩm Y Vệ bên kia cũng không có tin báo tới.

Bùi Thận nói tiếp: “Chỉ có một toán giặc Oa nhỏ mới có thể ẩn nấp như thế. Mà toán này chắc hẳn không tới một trăm, có lẽ chỉ chừng mấy chục tên mà thôi.” Một đám hơn trăm người, ăn uống cũng là cả một vấn đề, kiểu gì dọc đường cũng để lại dấu vết. Chắc hẳn La Tông và Từ Thanh bỏ thành mà chạy, lại khuếch đại số lượng giặc Oa hòng thoát tội.

Dứt lời, Bùi Thận đứng dậy nói: “Nếu đã biết là toán nhỏ giặc Oa đánh tới, bản quan có vài việc phải dặn dò thuộc hạ. Đại nhân xin hãy chờ trong chốc lát.” Nói rồi y bước ra cửa, để lại Phạm Ý Chi nhăn mày buồn bực.

Bùi Thận ra khỏi sảnh, khuôn mặt lập tức sa sầm xuống, lạnh giọng gọi thân vệ đang đứng gác tới: “Bình Sơn, ngươi đi với Trương Tử. Một người hai ngựa, tức khắc chạy về trạm Long Giang báo tin giặc Oa tập kích. Bảo Đàm Anh dẫn phu nhân nhanh chóng vào thành Nam Kinh.”

Bình Sơn chắp tay xin vâng, vội chạy ra khỏi nha môn.

Bùi Thận sắc mặt âm trầm, bình tĩnh nhìn theo bóng Bình Sơn. Không phải y đích thân đi làm, trong lòng vẫn một mực âu lo. Đứng đó một lúc lâu, y thở một hơi kiềm nén cơn nóng ruột, quay người nói: “Phạm đại nhân đừng lo, đám này chắc hẳn chỉ là toán giặc Oa nhỏ thôi.” Thành Nam Kinh rất cao. Chỉ một nhóm nhỏ giặc sẽ không đủ sức phá được thành. 

Thấy y trở về, Phạm Ý Chi cười khổ: “Lão phu cũng nghĩ như vậy. Nhưng La Tông và Từ Thanh một mực báo rằng đây là đại quân giặc Oa tiến đánh. Thà rằng tin là có, không thể cứ bỏ qua được đâu.” (1)

Nếu thật sự chỉ có mấy trăm tên giặc Oa, ông có thể động viên lính Vệ sở chung quanh, bá tánh sống ở Nam Kinh trợ giúp. Chỉ cần thủ được thành Nam Kinh, cho dù ông bị tước cái mũ cánh chuồn trên đầu, dù sao vẫn còn giữ được tánh mạng.

Nhưng nếu phán đoán sai lầm, giặc Oa quả thực tấn công với quy mô lớn, mà ông chỉ chuẩn bị tiếp đánh chừng mấy trăm tên. Khi ấy mất thành, trăm vạn bá tánh trôi giạt khắp nơi, bị giặc Oa cướp bóc tàn sát, ông có chết muôn lần cũng không đền hết tội.

“Lão phu suy tư tới lui, lại thương nghị với thái giám trấn thủ là Vương đại đang, cuối cùng quyết định đóng chặt cửa thành, vận động bá tánh ra thủ thành.”

Bùi Thận hiểu ý. Bản triều đã nhiều năm lơi lỏng quân đội, trông cậy vào lính tá, chẳng bằng bảo bá tánh tới thủ thành cho xong.

“Hôm nay mời Bùi đại nhân qua phủ tương ngộ, đó là vì nghe Bùi đại nhân đánh tan quân Yêm Đáp ở Đại Đồng, chắc hẳn rất có kinh nghiệm trong chiến sự.”

Phạm Ý Chi tuổi già, bấy giờ cũng chẳng màng thân phận mình lớn hơn, chỉ lo rưng rưng giọt lệ già nua, chắp tay thi lễ: “Quốc gia lâm nạn, khẩn cầu Bùi đại nhân nể tình trăm vạn bá tánh ở Nam Kinh này mà dốc lòng tương trợ.” Nói rồi, ông quỳ xuống lạy dài không chịu dậy.

Quả là một vị Thượng thư Binh Bộ lo cho dân cho nước, cứu giúp thế nhân.

Nếu Bùi Thận là người bộc trực, sợ là đã tin tưởng hoàn toàn.

Chưa nói tới y là Tuần phủ Sơn Tây, lấy đâu ra quyền hành điều động quân trấn thủ Nam Kinh? Cho dù nói là quân tình khẩn cấp, y tiền trảm hậu tấu, hợp sức với Phạm Ý Chi trấn thủ Nam Kinh, phòng ngự giặc Oa, thì thứ chờ đợi y sau khi xong việc chắc chắn không phải là luận công ban thưởng, mà là chịu tội bỏ tù.

Bởi vì Nam Kinh là cố đô, giặc Oa đánh tới dưới chân thành Nam Kinh, quốc triều này còn biết để mặt mũi chỗ nào? Quan lại trong thành Nam Kinh chỉ sợ hơn nửa sẽ bị cách chức, tháo mũ cánh chuồn.

Phạm Ý Chi này đâu phải đang thay bá tánh cầu xin? Chẳng qua cố tìm một kẻ đủ năng lực ra chết thay mà thôi. Chưa biết chừng còn tính toán rằng Bùi Thận vì muốn tránh tội, sẽ nỗ lực khiến việc này từ việc lớn thành việc nhỏ, việc nhỏ thành không có. Đến lúc đó, Phạm Ý Chi ông ta cũng có thể thơm lây, giảm bớt tội trạng. 

Bùi Thận biết rõ hết thảy. Chỉ tiếc y đã vào ván cờ này, nếu từ chối Phạm Ý Chi, chờ đánh xong giặc Oa bên trên hạch tội xuống, y cũng phải bị hỏi tội chung.

Tình thế khó xử, tới lui không đường.

Bùi Thận cười lạnh, đúng là gừng càng già càng cay. Nhưng y tu thân dưỡng tính tốt, đưa tay nâng Phạm Ý Chi đứng dậy, ôn tồn bảo: “Phạm đại nhân sao phải như thế. Quốc triều an nguy, vốn chính là chức trách của tất cả chúng ta.”

Phạm Ý Chi thấy y đồng ý, nhẹ thở phào một hơi, dựa thế đứng lên. Hai người nịnh qua hót lại mấy câu,  Bùi Thận lúc này mới nói: “Nếu buổi trưa La Tông, Từ Thanh đã vào thành, có lẽ giặc Oa cướp bóc ở Mạt Lăng Quan một lúc cũng sẽ đuổi theo tới.”

Phạm Ý Chi nghiêm mặt: “Lão phu và Vương đại đang sớm đã hạ lệnh kéo cầu treo, đóng chặt cửa thành, phát bố cáo, tập trung thanh niên trai tráng trong thành lên thành trấn giữ. Vương đại đang lúc này đang tuần tra ở cổng thành.”

Đúng là đã chuẩn bị trước đâu vào đấy cả rồi. Bọn họ tìm tới y chỉ để kéo y xuống nước mà thôi. Bùi Thận nghĩ trong lòng, ngoài mặt không lộ vẻ gì, chỉ vờ vịt thở dài một tiếng: “Phạm đại nhân suy nghĩ chu toàn, Thủ Tuân xin được noi theo.”

Phạm Ý Chi vốn đang lo âu, thấy y thở dài liền vội vã hỏi han: “Có phải có chỗ nào chưa ổn hay không?”

Bùi Thận thương hại: “Nếu giặc Oa thật sự dẫn đại quân tiếp cận còn đỡ. Thành Nam Kinh chỉ cần thủ vệ thỏa đáng, xong chuyện nếu triều đình hỏi tội thì tệ nhất cũng chỉ là mất chức mà thôi. Nhưng nếu là toán nhỏ giặc Oa mà có thể đánh một lèo thẳng tới tận dưới chân thành thế này, mặt mũi triều đình mất sạch, danh dự tuổi già của Phạm thế bá đây, e là khó mà giữ được.”

Lời này thật sự chọc trúng nỗi ưu phiền của Phạm Ý Chi. Lời nói có trọng lượng nhất khắp vùng Nam Kinh này chỉ có Thượng thư Bộ Binh và thái giám trấn thủ.

Thái giám kia có người quen trong cung, lại không quản lý việc chiến sự. Tức là tất cả tội trạng đều sẽ rớt lên đầu Thương thư Bộ Binh ông đây.

“Hiền chất liệu có cách hay nào?” Nếu Bùi Thận đổi xưng hô thành thế bá, Phạm Ý Chi lập tức theo đó bò lên, thân thiết gọi y là hiền chất.

Bùi Thận cười đáp: “Cách thì thật ra là có.” Nói rồi, thấy Phạm Ý Chi nôn nóng bứt rứt, bản thân y cũng lo lắng tình hình phía ngoài thành, cùng với Thẩm Lan có thể gặp phải giặc Oa bất cứ lúc nào, thế là cũng vội vã nói thẳng không giấu giếm.

“Nếu muốn phá trận này, ta phải diệt sạch đám giặc Oa này đi.” Bùi Thận nói nhẹ như mây bay gió thoảng, mà mây gió đưa sát khí mãnh liệt thổi ra ngoài.

Phạm Ý Chi sao lại không muốn? Nhưng ông ta cũng chẳng thể làm gì hơn. Chế độ kế thừa quân hộ sớm đã lụi bại. Lính tá bây giờ không phải là già cả tàn phế, thì cũng là một đám ăn không ngồi rồi, chỉ chờ nhận lương bổng.

Hồi lâu sau, Phạm Ý Chi đành cười khổ nói: “Không dối gạt gì hiền chất, quân trấn giữ Nam Kinh lâu nay không theo kỷ cương, chỉ mỗi trấn thủ Nam Kinh cũng đã cố hết sức. Lão phu còn phải chiêu mộ thêm trai tráng tới thủ thành, đó là bởi sợ đám lính này không làm nên chuyện.”

Bùi Thận lăn lộn chốn quan trường lâu nay, tất nhiên cũng rõ Vệ sở các nơi bại hoại tới độ nào. Ngay cả năm đó ở Sơn Tây, y cũng phải huấn luyện binh tướng tận ba năm trời mới có thể một trận đã đánh tan quân Yêm Đáp.

Dù đã nắm rõ tình hình, nhưng Bùi Thận vẫn kiên trì với biện pháp ra khỏi thành đánh giáp với giặc Oa, bởi vì trong đầu y đã định hình được kế hoạch. 

“Quân trấn thủ Nam Kinh trong ba thiên hộ sở trước, giữa, sau ước chừng quân số khoảng ba ngàn người. Thế bá chỉ cần truyền lệnh, nói rằng Tuần phủ Sơn Tây đánh tan quân Yêm Đáp vừa lúc đang ở Nam Kinh.”

Bùi Thận chậm rãi nói: “Lại hỏi ba ngàn người này, liệu có chịu cùng ta ra khỏi thành, gắng sức tranh đấu đổi lấy giàu sang phú quý?”

Chú thích:

1 Nguyên văn: Ninh khả tín kỳ hữu, bất khả tín kỳ vô: Nó có nghĩa là người ta thà tin rằng điều gì đó có xảy ra hoặc điều gì đó tồn tại hơn là tin rằng nó không tồn tại, mọi người được khuyên không nên tùy tiện phủ nhận những điều không thể xác định được, tốt hơn hết là nên chuẩn bị trước. (baidu)

Bản đồ giặc Oa (Oa khấu/ Nụy khấu) đánh vào vùng duyên hải của Trung Quốc. Màu xám đậm chỉ những khu vực đã bị ảnh hưởng trước đó, màu xanh nhạt thể hiện những vùng bị ảnh hưởng từ năm 1540 đến 1565 (thời kì Minh Thần Tông). Nhà Minh có cố gắng hạn chế tình hình này bằng cách ban hành luật Hải cấm, ngưng giao thương đường biển. Tuy nhiên luật này khiến nhiều người Trung Quốc trở thành buôn lậu hoặc cướp biển chứ không chấm dứt được nạn này. (Nguồn: Wikipedia)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60: Giặc Oa


Phạm Ý Chi hơi giật mình, liên tục gật đầu đồng ý. Những người tham gia quân ngũ cũng không phải kẻ ngốc. Nếu tướng lĩnh dẫn quân là đồ bỏ, dĩ nhiên không ai chịu theo để mà toi mạng. Nhưng danh tiếng của Bùi Thận đang vang dội, phố lớn ngõ nhỏ đều bán sách viết về y. Lúc này y nói muốn ra khỏi thành đấu với giặc Oa, chắc chắn sẽ có người xin theo mong đổi lấy tiền đồ.

“Thời gian hai nén hương có đủ không?” Bùi Thận hỏi.

Phạm Ý Chi nhanh chóng đáp: “Đủ rồi đủ rồi.” Nói xong, ông gọi tiểu lại truyền tin này xuống, sau đó chân thành tha thiết nói: “Hiền chất, ra khỏi thành nguy hiểm cỡ nào. Thật sự là vất vả cho hiền chất.”

Bùi Thận khịt mũi trong lòng, nhưng ngoài mặt chưa hề biến sắc: “Thế bá nói gì vậy, đây là việc nên làm.”

Hai người hàn huyên vài câu, ngồi đợi chốc lát mới thấy có tiểu lại tới bẩm rằng người Bùi đại nhân cần đã đến.

Bùi Thận đi ra ngoài, thấy hơn trăm người đàn ông đang đứng trước sân lát gạch xanh của nha môn. Y lạnh lùng đảo mắt một lượt. Trong này có trai tráng lực lưỡng cao bảy tám thước, cũng có thiếu niên lang vóc người trung đẳng, khuôn mặt thanh tú, lại cũng có những người đàn ông trung niên thân thể gầy ốm, tay chân khô cứng. 

Bùi Thận vừa nhìn đã biết nhóm người này tốt xấu lẫn lộn, khó mà phân loại đồng đều. Mà lại dũng mãnh thì ít ỏi, khôn lỏi thì phần đông.

Nhưng đây vốn cũng nằm trong dự tính của y.

Bùi Thận trước hết gọi những người đi đứng không vững, dáng người gầy ốm ra ngoài. Đám người này chừng chín mười người.

Bùi Thận lại hỏi: “Muốn giàu sang phú quý đứng bên phải, có nợ máu với giặc Oa đứng bên trái.”

Mọi người nhìn nhau, lại chia ra hai hàng mà đứng. Bùi Thận liếc qua một vòng, muốn đổi đời và có mối thù với giặc Oa có số người bằng nhau.

Cũng đúng thôi. Loạn giặc Oa kéo dài đã năm năm, hại đến không ít bá tánh vùng Giang Nam. Nam Kinh dù chưa bao giờ bị giặc Oa tấn công, nhưng vệ sở các nơi có truyền thống kết hôn qua lại, có quan hệ họ hàng với nhau. Mấy ngày trước Ngô Tùng Sở, Nam Hối Sở, Lâm Sơn Vệ, Quyên Đảo Sở ở Phúc Ninh Châu đều bị tàn sát. Trong số những người đã mất, chưa biết chừng cũng có thân bằng quyến thuộc, bạn cũ lâu năm của Nam Kinh vệ.

Bùi Thận quát to: “Những người bên phải theo ta đi!” Dứt lời, y phóng lên ngựa.

Nghe vậy, mọi người đều ngạc nhiên. Nhóm bên phải muốn đổi đời, giật mình vội đuổi theo.

“Đại nhân xin chờ đã!”

Bùi Thận ghì cương ngựa, trông thấy một thiếu niên lang rắn rỏi trợn mắt quát to: “Đại nhân cớ gì bỏ qua đám người không đội trời chung với giặc như chúng ta? Lại đi chọn cái đám xem thời xét thế, luồn cúi đầu cơ này chứ?”

Đầu cơ? Nhóm bên phải muốn tranh tiền đồ, cơ bản cũng có vài phần sức lực đánh đấm, nghe vậy giận dữ trợn mắt nhìn lại. Có vài người phẫn nộ định nhào tới đấm thiếu niên kia. 

Bùi Thận không thèm để ý đám người kia, cầm roi ngựa chỉ vào thiếu niên lang: “Ngươi tên là gì?”

Thiếu niên cho rằng Bùi Thận muốn phạt hắn, gân cổ lạnh lùng đáp: “Vu Thành An.”

“Vì sao phải giết giặc Oa?” Bùi Thận cũng lạnh giọng đối mặt.

“Tỷ tỷ của ta gả cho một tiểu kỳ ở Ngô Tùng Sở. Mấy ngày trước Ngô Tùng Sở bị càn, tỷ tỷ…” Vu Thành An nói tới đây nghiến răng nghiến lợi, tròng mắt như nứt toác ra.

Mọi người đều lặng đi, một nữ tử rơi vào tay giặc Oa kết cục thế nào, ai cũng tự hiểu lấy.

“Mẹ ta vốn sức khỏe không tốt, nghe tin này chỉ gượng được hai ngày rồi đi.” Vu Thành An lúc này hai mắt đỏ hồng, nghẹn ngào khôn kể, hận đến máu cuộn trào trong lồ/ng ngực, “Kiếp này nếu không giết sạch lũ Oa, ta thẹn làm phận con cái!”

“Tên nhóc nói hay lắm! Có chí khí!” Bùi Thận tán dương. Vu Thành An hớn hở, định hỏi vậy đại nhân có dẫn theo hắn không, ai ngờ Bùi Thận trở mặt mắng: “Nhưng lên chiến trường, bản quan không cần dùng nhất chính là những người hào khí như ngươi!”

Dứt lời, y cũng không thèm nhìn đến thiếu niên nữa, giục ngựa chuẩn bị rời đi.

Nhưng lời này càng khiến toàn trường tức giận. Bên trái bốn mươi hai người, ai cũng có nợ máu với giặc Oa, đâu phải chỉ mỗi mình Vu Thành An?

Ai hơi sợ sệt thì nói “Đại nhân nói cho rõ đã!”, “Nói cho rõ rồi đi!”. Người nóng tính thì hét lên “Đồ khốn!” “Tại sao dẫn bọn hắn chứ không dẫn bọn ta đi?”

Cảm xúc của đám đông cuộn trào phẫn nộ, ào ào lên tiếng. Hai bên trái phải đều bị nhóm lên ngọn lửa kích động, bắt đầu xô đẩy lẫn nhau, những kẻ cộc cằn đã bắt đầu xắn tay áo lên đòi đánh.

Bốn thân vệ còn lại của Bùi Thận lập tức xúm lại vây quanh y, rút đao cảnh cáo. Tiếc thay đám đông đã mất lí trí, toàn trường hỗn loạn thế này, ai còn bận tâm tới bốn tên thân vệ cầm đao?

Người ở hai phe nhanh chóng xúm vào đánh nhau. Tên tiểu lại trước đó đi tập hợp những người này thấy vậy, nháo nhào hoảng hốt.

Nếu trận ẩu đã này diễn tiến thành cơn binh biến, thấp cổ bé họng như hắn sao gánh nổi tội lớn thế này?

Tiểu lại run chân đứng không vững, thiếu chút ngã rạp xuống đất, liên tiếp hô “Đại nhân”, “Đại nhân”.

Bùi Thận cũng không thèm nhìn hắn, quét qua cảnh đám người trước mắt bừng bừng cơn giận, lao vào hỗn chiến, y cao giọng cười to: “Không tệ lắm, như thế này mới tính là có mấy phần chí khí.”

Một đội quân sợ nhất không phải đối mặt với những tướng tài siêu quần bách thắng, mà sợ nhất đó là những tàn quân tướng yếu không thể đánh trận. 

Mọi người ngẩn ra, ngưng nắm đấm, ngừng câu chửi, ào ào nhìn sang Bùi Thận.

Bùi Thận tiếp tục cười nói: “Dừng lại làm gì? Tiếp tục đi chứ!”

Bị y nhắc nhở một câu như thế, mọi người đâu còn tâm trạng mà đánh tiếp nữa.

Thấy họ dừng tay, Bùi Thận lúc này mới cười lạnh: “Đã có dũng khi giơ nắm đấm đánh lẫn nhau, sao không lấy phần sức lực này mà đánh vào giặc Oa, lại muốn đánh vào người đồng bào mình?”

Một câu chất vấn sắc bén khiến đám người đỏ mặt lặng câm.

Vu Thành An rốt cuộc không nhịn được nữa, trợn mắt nhìn Bùi Thận: “Đồng bào gì chứ! Ta không thể lên chiến trường, cũng coi là đồng bào sao?”

Vu Thành An tức giận vô cùng: “Hôm nay ta phải hỏi cho ra lẽ. Ta có chỗ nào không bằng đám tiểu nhân luồn cúi đầu cơ kia? Vì sao ta tình nguyện ra khỏi thành bán mạng đánh giặc Oa, đại nhân lại không chịu nhận.” Dứt lời, hắn phẫn hận hỏi: “Chẳng lẽ đại nhân thu hối lộ của bọn chúng?!”

Hắn mới dứt câu, đám người phía sau vội vàng ba chân bốn cẳng tới túm lấy quần áo hắn, ý bảo hắn đừng nói nữa.

“Ông nội đây năm đó đánh mọi rợ ở phía bắc, tên tiểu tử nhà ngươi còn không biết đã dứt sữa chưa đâu!” Thấy hắn bất kính với đại nhân nhà mình, một tên thân vệ của Bùi Thận hung tợn vung roi định quất xuống.

“Nghiêm Thất.” Bùi Thận chặn lại.

Nghiêm Thất bất mãn lui ra. Bùi Thận lúc này mới nói: “Ngươi vẫn chưa hết hy vọng, cứ níu chặt không buông. Vậy ta cũng không ngại nói cho ngươi hay.”

Bùi Thận ngồi trên lưng ngựa cao cao nhìn xuống, lạnh lùng nói: “Các ngươi nếu đã đến để báo thù cho thân bằng quyến thuộc, có thể thấy tất nhiên đều là những người có lòng thương máu thịt.”

“Những người đến đây để đổi giàu sang phú quý, chỉ có thể đánh thuận chiều gió. Còn những người như các ngươi, lại có thể đánh ngược chiều gió.”

Nghe vậy, sắc mặt đám người Vu Thành An hơi dịu lại. Ai cũng thích nghe lời hay ý đẹp, chỉ là vẻ mặt bọn họ vẫn nghiêm nghị như cũ.

Bùi Thận thấy những người bên trái tới để kiếm tiền đồ bị mấy chữ “đánh thuận chiều gió” làm đỏ cả mặt, lòng hẳn rất là tức tối.

Bùi Thận hài lòng, tiếp tục nói: “Cũng chính vì vậy, ta mới không thể dẫn các ngươi lên chiến trường được.”

Không đợi mọi người đặt câu hỏi, Bùi Thận giải thích: “Lên chiến trường, điều đầu tiên cần nhớ đó là tuyệt đối tuân theo hiệu lệnh của chủ tướng. Còn các ngươi khi lên chiến trường, gặp phải giặc Oa, liệu có thể gắng nhịn không lao đến đánh?”

“Các ngươi đã đến để báo nợ máu, tất phải là hạng quý trọng thân tình. Lại thêm các ngươi đều là người Nam Kinh, quen biết hiểu rõ lẫn nhau.”

Bùi Thận tàn nhẫn nói: “Chủ tướng nếu muốn lấy thương vong đổi thương vong, lấy chết đổi quân, hoặc là dùng quân yểm trợ dụ địch. Đến lúc đó nếu thấy đồng bào gặp nạn, các ngươi liệu có thể trơ mắt không cứu?”

Gió thu phần phật, giọng của Bùi Thận lạnh như băng sương: “Lâm trận cần biết tĩnh tâm chờ thời. Đám người chỉ nghĩ đến giết chóc như các ngươi thì không nên lên chiến trường đâu.”

Toàn trường lặng ngắt như tờ.

Đám người Vu Thành An đỏ mắt, lớn giọng hô: “Bọn ta lên chiến trường chắc chắn một mực nghe theo hiệu lệnh của đại nhân!”

“Ta cũng nghe!”

“Nghe nghe!”

Mọi người ầm ĩ đồng tình, kể cả nhóm người tới vì phú quý cũng thế.

“Nghe theo hiệu lệnh của đại nhân!”

“Nghe theo hiệu lệnh của đại nhân!”

Tiếng gầm của hơn trăm người hòa vào nhau, chấn động núi rừng, vang thẳng trời mây.

Bùi Thận lúc này mới thở dài một tiếng, dựa vào đó nói tiếp: “Thôi, nếu các ngươi đã chịu nghe hiệu lệnh của ta, thế thì cũng hãy theo ta ra khỏi thành chém giết giặc Oa.” 

“Tuân lệnh!” Tổng cộng tám mươi hai người hùng hổ xin vâng.

Không còn vẻ rời rạc tan rã như ban nãy nữa.

Bùi Thận biết, nhóm tám mươi hai người không qua đào tạo bài bản này cuối cùng cũng có một chút khả năng chiến đấu.

Tiếp đó vẫn còn cần phải huấn luyện thêm.

Bùi Thận dẫn tám mươi hai người cùng bốn thân vệ đi về phía trường huấn luyện của Binh Bộ.

Y chia tám mươi sáu người thành bảy tổ, mỗi tổ mười một người, dư ra chín người cho làm lính hậu cần, lính thổi kèn…

Sau đó, y sai người lấy binh khí từ trong kho vũ trang của Nam Kinh ra.

Bùi Thận ra lệnh: “Không nên dùng đao và súng bắn.” Đao quá ngắn, còn súng bắn thì khó ở tốc độ nạp thuốc, mà nếu thuốc súng kém chất lượng còn có thể dẫn tới nổ lớn.

“Chỉ dùng bốn loại vũ khí gồm khiên, thương dài, bồ cào, lang tiển.” Bùi Thận sợ thuộc hạ chưa từng nghe tới loại vũ khí cuối cùng, y lại dặn: “Lang tiển là vũ khí thường dùng ở vùng Chiết Giang. Nam Kinh là cố đô, trong kho chắc chắn sẽ có thứ này.”

Dứt lời, y lại nói: “Nhanh mang tất cả tới đây.”

Tên tiểu lại bị phái tới làm việc cho Bùi Thận, ban nãy sợ đến hai chân run rẩy, bây giờ cố gượng dẫn mấy tên lính đi tìm vũ khí mang tới.

Bùi Thận nhận lấy, lạnh lùng nói: “Bây giờ sự tình khẩn cấp, buổi tối giặc Oa có lẽ sẽ ập đến. Ta không nhiều lời vô ích. Các ngươi chia đội hình theo lời ta lúc nãy đi.”

Từ ba năm trước khi còn đang nhậm chức Ngự sử tuần muối Lưỡng Hoài, Thạch Kinh Luân tới báo việc yêu cầu miễn thu thuế tàu thuyền, Bùi Thận sớm đã ý thức được loạn giặc Oa sẽ diễn tiến ngày một trầm trọng.

Căn cứ vào tình báo do Cẩm Y Vệ sưu tập, Bùi Thận từng suy đoán nếu muốn đánh giết giặc Oa, phải dùng loại binh khí có kích thước lớn hơn đao của giặc Oa, ngoài ra cũng cần tấn công kết hợp phòng thủ, cho nên y dùng thời gian ba năm thiết kế chỉnh sửa ra bộ trận hình này.

Mọi người theo lệnh Bùi Thận xếp thành bảy thế trận nhỏ. Hàng đầu tiên là hai người cầm khiên, hàng thứ hai là một người nắm thương dài, hàng thứ ba là hai người cầm lang tiển, hàng bốn, năm mỗi hàng là hai người cầm thương dài, hàng thứ sáu là hai người ôm bồ cào.

“Khi giặc Oa tấn công, nếu địch chỉ có một người, cầm thương dài, cầm đao đâm từ trên cao xuống, người cầm khiên lập tức nâng khiên lên để chặn công kích của quân địch. Người cầm thương lại nhào lên đâm giết địch.”

“Lang tiển bên trái thì thủ bên trái, men theo cử động của thương bên trái. Lang tiển bên phải thì thủ…”

Trong lúc Bùi Thận đang huấn luyện toán lính, thì Bình Sơn mang nhiệm vụ báo tin cuối cùng đã tới được trạm Long Giang.

Lúc này đã vào cuối giờ Thân, nắng chiều buông xuống, sắc thu vắng lặng.

Thấy phòng ốc nơi đây vẫn nguyên vẹn, tiếng người ồn ào, Bình Sơn thở hổn hển thầm nghĩ may mà tới kịp.

Kịp là tốt rồi.

Hắn xoay người xuống ngựa, cũng chẳng màng con ngựa đang kiệt sức, vội ném dây cương cho lính ở trạm dịch rồi lao vụt vào trong.

“Bình Sơn?” Đàm Anh đang ngồi ngoài sảnh ngắm nghía xung quanh, chợt thấy Bình Sơn ngoài cửa vọt vào, dáng vẻ vội vàng nóng nảy, nhìn đông ngó tây nên chạy ra đón: “Sao về sớm vậy? Hay bên phía đại nhân có……”

Chưa kịp nói xong đã bị Bình Sơn ngắt lời, hắn xông đến trước mặt Đàm Anh, hạ giọng nói: “Đại nhân có lệnh, giặc Oa tập kích. Đàm đại nhân hãy nhanh chóng dẫn phu nhân vào thành Nam Kinh lánh nạn.”

Đàm Anh ngạc nhiên. Giặc Oa? Sao lại có giặc Oa đánh thẳng tới dưới chân thành Nam Kinh được? Sao hắn chưa hề nhận được tin gì? 

”Đại nhân nghe tin này từ đâu vậy?” Đàm Anh ráo riết hỏi.

“Đàm đại nhân!” Bình Sơn vội vã đến độ rộp cả miệng, “Ngài đừng bận tâm là tin từ đâu nữa! Việc khẩn cấp bây giờ là nhanh chóng chạy vào thành Nam Kinh lánh nạn trước đã!”

Đàm Anh đột nhiên cũng phản ứng kịp, vội vàng nói: “Ngươi nhanh đi báo cho Lý cai trạm, bảo hắn thông báo cho bá tánh và lính trong trạm dịch, ta sẽ đi tìm phu nhân.” Dứt lời, hắn vội chạy lên lầu.

Đang vào thời gian ăn tối, Thẩm Lan ngồi ăn chén mì nước suông. Sợi mì trắng nõn mượt mà được xoắn lại, chính giữa đặt một cái trứng chiên, bên trên thả nhúm rau xanh, dùng chung với nước gà nóng hầm hập, ăn vào ấm nóng cả dạ dày, rất là dễ chịu.

Thẩm Lan ăn xong đang sửa soạn đứng lên cho tiêu cơm, chợt nghe ván cửa vang tiếng gõ ầm ầm.

“Phu nhân, ti chức là Đàm Anh, phu nhân lúc này có tiện gặp mặt không?”

Có việc gì mà phải gặp nàng? Âm điệu vội vã của hắn khiến Thẩm Lan sinh nghi: “Ngài tiến vào đi.”

Đàm Anh lập tức đẩy cửa ra, cúi đầu chắp tay chắp tay thi lễ: “Bẩm phu nhân, đại nhân phái người đưa tin báo giặc Oa đánh tới chân thành Nam Kinh. Mời phu nhân nhanh chóng theo ti chức chạy vào thành Nam Kinh lánh nạn.”

Giặc Oa?! Thẩm Lan giật mình thảng thốt: “Giặc Oa sao lại đánh tới Nam Kinh rồi?”

Đàm Anh cũng không hiểu ra sao, chỉ đành thấp giọng nói: “Không rõ tình hình lúc này cho lắm, cũng có thể chỉ là sợ bóng sợ gió mà thôi.”

Thẩm Lan lắc đầu, nàng cho dù khinh thường Bùi Thận nhưng cũng không thể không thừa nhận, người này chắc chắn không phải hạng người dễ dàng kích động hoang mang. Nếu y đã phái người truyền tin, vậy tin này nhất định không phải tin giả.

“Đi ngay lập tức!” Thẩm Lan không muốn nói nhiều, đứng dậy nhắm thẳng ra ngoài.

Thấy nàng nghe lời như vậy, Đàm Anh mừng thầm, nhưng sợ nàng lại bắt bẻ nọ kia như lúc có mặt Bùi đại nhân, hắn rào trước: “Phu nhân có hành lý gì cần dọn theo không?”

Thẩm Lan không thể hiểu nổi: “Tai họa trước mắt còn dọn hành lý cái gì? Nhanh chóng chạy vào thành Nam Kinh mới là việc trọng yếu nhất.”

Dứt lời, nàng bước ra ngoài, ngay lúc sắp ngang qua Đàm Anh, bỗng nhiên nàng quay sang nói: “Đàm đại nhân, ngài cũng đừng có ý tưởng đánh ta ngất xỉu để dẫn đi cho dễ. Ta nhất định sẽ không bỏ chạy.”

Suy nghĩ trong lòng Đàm Anh bị nàng nhận ra, hắn cười giả lả hai tiếng: “Phu nhân nói đùa, ti chức không dám.”

Hắn không dám? Dù có phải giải trình lại với Bùi Thận đi nữa, Đàm Anh chỉ cần một câu nhẹ bẫng rằng sợ phu nhân gây sự giữa đường là xong.

Dù gì đi nữa, Thẩm Lan cũng đâu phải chủ nhân đàng hoàng, chỉ là đứa thiếp hầu mà thôi.

Thẩm Lan nhìn hắn, sợ Đàm Anh không tin mình, cố chấp đánh nàng ngất đi. Sớ lỡ gặp phải giặc Oa, nghĩa là nàng chỉ có thể giao toàn bộ tánh mạng vào tay đám người Đàm Anh.

Như thế cũng không phải tác phong của Thẩm Lan.

Nghĩ đến đây, Thẩm Lan vừa chạy vừa giải thích: “Đàm đại nhân, ta nếu thề thốt bảo đảm ta sẽ không chạy, đại nhân chắc hẳn khó mà tin được.”

Đàm Anh nghiêm mặt: “Bẩm phu nhân, ti chức không dám.”

Thẩm Lan cười nhạo, biết rõ đây là lối lừa gạt thường thấy trên quan trường, nàng cũng không bận tâm, chỉ lo nói tiếp: “Không phải ta không muốn chạy, mà là ta không thể chạy. Vì ta biết giặc Oa tàn nhẫn bạo ngược ra sao. Chúng tàn sát bá tánh cho hả giận, gian dâm phụ nữ, bắt trẻ nhỏ hai ba tuổi mổ bụng moi tim…… Ta nếu chạy rồi đụng phải giặc Oa, nhất định sẽ bị bắt làm doanh kỹ, rồi bị thay phiên cưỡng hi.ếp đến chết.” Gặp phải tình huống thế này, phương án tốt nhất chính là chạy vào nơi có thành trì cao, dễ thủ khó công như thành Nam Kinh.

Thấy nàng lâm vào hoàn cảnh này nhưng chưa hề sợ sệt biến sắc mà ngược lại vẫn tỉnh táo lý trí để phân tích tình hình, bình tĩnh đưa ra ý kiến, Đàm Anh không nhịn được sinh lòng khâm phục, cảm thấy nàng rất là gan dạ, cuối cùng hoàn toàn bỏ qua ý định đánh nàng ngất xỉu.

Hai người chạy nhanh ra sảnh ngoài, thế nhưng sảnh ngoài, phòng kề, mấy trăm căn phòng khác đều là cảnh người la ngựa hí, hỗn loạn không thôi.

“Con gái, giặc Oa tới rồi! Chạy mau chạy mau!”

“Quăng bỏ đống vải nhuộm chàm đó đi!”

“Đừng cầm theo trà Thứ Xuân! Cầm theo trà lá giải ấy!”

Thương nhân từ nam chí bắc cuống quít lựa lấy những hàng hóa quan trọng để mang đi, có người vứt cả hàng lại, chỉ lo giữ người. Đám người điên cuồng chen nhau chạy tới chuồng ngựa của trạm dịch hoặc vội vã phóng lên những con thuyền trên sông.

Đàm Anh giận dữ: “Tên Lý Trọng Hằng này làm ăn kiểu gì vậy!” Bảo hắn báo cho bá tánh chạy về Nam Kinh lánh nạn thôi mà, cảnh tượng quỷ quái này là sao?

Lý Trọng Hằng trong phòng lao vụt ra, vừa lúc nghe Đàm Anh mắng hắn. Vốn tính tình bướng bỉnh quái dị, hắn đâu chịu nhịn, giương giọng quát lại: “Ai mà ngờ được lúc nãy ông đây nói chuyện với Bình Sơn, đụng phải một tên thương nhân tới tìm ta. Hắn nghe tin giặc Oa tới, quýnh quáng khiến đám người lao xao theo.”

Đàm Anh tức hộc máu, lại bị một người thương nhân chạy vội sượt trúng, lập tức càng thêm phẫn nộ: “Bây giờ còn nói mấy chuyện này làm gì? Nhanh chóng theo bọn ta về Nam Kinh đã.”

Thẩm Lan sợ gương mặt của mình chuốc lấy tai hoạ nên xé một góc áo che mặt lại, nói: “Lý đại nhân, nếu ngài biết cưỡi ngựa thì chở theo một người nữa. Nếu không biết cưỡi thì nhờ Đàm đại nhân chở ngài. Chúng ta lập tức lên đường.”

“Ta biết cưỡi ngựa.” Lý Trọng Hằng đáp.

Một hàng người vội ra cửa. Mấy người thuộc hạ của Đàm Anh đã nắm ngựa chờ sẵn bên ngoài. Thẩm Lan không biết cưỡi ngựa, lúc này không kiềm được chửi thầm Bùi Thận trong bụng.

“Phu nhân, xin thứ cho!” Đàm Anh đang chuẩn bị bế Thẩm Lan lên ngựa sau đó nhảy lên cưỡi chung, chợt nghe trong tiếng ồn áo náo động có vài người hét lên “Giặc Oa tới!”, “Giặc Oa tới!”

Thẩm Lan xiết chặt lấy cương ngựa, nghĩ bụng ai mà hốt hoảng đến độ bảo giặc Oa đã tới rồi vậy chứ.

“Giết người!”

“Bờ sông toàn là giặc Oa!”

“Giặc Oa xuống thuyền rồi!”

Thẩm Lan giật mình một cái, đột nhiên ý thức được rằng —— giặc Oa thật sự đã tới rồi.

“Nhanh lên! Lùi vào trạm dịch! Lùi vào trạm dịch!” Đàm Anh nhanh tay túm lấy Thẩm Lan đẩy vào trong trạm dịch. Đám thuộc hạ theo sát phía sau, ùa vào trong.

Nhóm thương nhân chưa kịp chạy khỏi trạm dịch hoảng loạn la hét. Bên ngoài có vài người nghe tiếng cảnh báo, cũng vội chạy vào trạm dịch đóng cửa lại, khung cảnh lộn xộn mất kiểm soát.

“Keng!” Những mảnh sứ vỡ nát văng tung tóe.

Mọi người đột ngột im thin thít.

Thẩm Lan ném cái ly sứ xuống nhằm khiến sảnh người yên lặng lại. Nàng nhìn quanh bốn phía, thấy hàng hóa nằm lăn lóc đầy đất, ghế gãy bàn nghiêng, ai ai cũng kinh hoàng thảng thốt.

“Cô nương này quậy phá gì đó!” Cơn tĩnh lặng qua đi, lập tức có người lên tiếng mắng mỏ.

Đàm Anh rút đao. Lưỡi đao sáng loáng cùng ánh nhìn lạnh toát liếc qua, đám người lại im lặng.

Thẩm Lan quay sang Lý Trọng Hằng: “Đàm Anh, phòng bếp có củi khô bị ẩm, nhân lúc giặc Oa chưa kịp vây kín trạm dịch này, ngài nhanh phái hai người chạy ra ngoài đốt củi này để cột khói bay lên cho thành Nam Kinh thấy, họ sẽ biết trạm Long Giang đã xảy ra sự cố.”

Nàng trong lòng Bùi Thận chẳng đáng một xu. Lại thêm Bùi Thận không có lính trong tay, nhất định sẽ không tới cứu nàng.

Nhưng trạm Long Giang cách Nam Kinh rất gần. Bên đó thấy cảnh tượng này, chắc chắn sẽ phái người đến tra xét.

Lúc này cũng chỉ đành trông cậy vào quân thủ thành của Nam Kinh.

“Được!” Đây cũng là chức trách của hắn, Đàm Anh lập tức chọn hai người đi làm.

“Lý cai trạm, ngài quen với trạm dịch này nhất. Ở đây nơi nào là nơi dễ thủ nhất?” Thẩm Lan nhìn chằm chằm Lý Trọng Hằng.

Thấy Lý Trọng Hằng lắc đầu, nhóm thương nhân vừa dấy lên hy vọng khi nghe Thẩm Lan nhắc tới Nam Kinh lần nữa lâm vào tuyệt vọng.

“Đừng hốt hoảng!” Thẩm Lan trách mắng: “Đàm Anh, Bình Sơn, ta không thạo việc chiến sự, hai người cảm thấy thủ chỗ nào là tốt nhất?”

Đàm Anh nhìn ra ngoài. Cửa đã đóng lại, không ai chen vào được, bên ngoài văng vẳng giọng nói trọ trẹ của giặc Oa. Vẻ mặt hắn nặng nề: “Nếu là nơi bốn phương thông nhau, thủ chỗ nào cũng thế. Ta thủ ngay tại đây vậy!”

Bình Sơn cũng gật đầu xưng vâng.

Thẩm Lan nhìn sang số lượng hơn trăm thương nhân và lính trạm dịch, lạnh lùng nói: “Còn sững ra đó làm gì! Nhanh chóng tìm cái bàn, cái rương, chặn kín cửa vào, cửa sổ nơi này lại.”

Mọi người thấy nàng tuy che mặt, chung quanh lại có mười thuộc hạ giỏi giang hỗ trợ, nói chuyện cũng có lý có cứ, liền tự giác hành động theo lệnh.

Giặc Oa phía ngoài còn đang bận cướp vàng bạc tiền của của những người bị giết, cho nên vẫn còn thời gian cho đám người trong này khiêng vác. 

Sau khi lấp kín tất cả các cửa, mọi người mồ hôi đầm đìa thở phào một hơi.

Thẩm Lan thở hổn hển kéo xong một cái rương gỗ to nặng, mới lạnh lùng nói: “Ta chỉ nói ba việc.”

“Thứ nhất, Nam Kinh chắc chắn sẽ tới cứu chúng ta.”

Lời này vừa thốt ra, một lão già nằm oặt trên đất nức nở: “Quan phủ đều là bọn khốn! Làm gì có chuyện tới cứu chúng ta!”

“Đúng vậy! Chỉ biết vòi tiền của bọn ta mà thôi.” Có người thương nhân mệt đến ướt đẫm mồ hôi, buồn bã ngồi rạp xuống đất nói.

Mọi người ôm nhau khóc rưng rức.

Trong này cũng có hai học trò được triều đình ưu ái, mở miệng cãi lại, nhưng nói một hồi những thứ chi, hồ, giả, dã, bị những người khác dè bỉu ngược lại.

Thấy tinh thần của mọi người bắt đầu sa sút, Thẩm Lan chuẩn bị cất lời, chợt nghe Lý Trọng Hằng cười to ba tiếng, chỉ vào Thẩm Lan nói: “Các ngươi có biết nàng là ai?”

Mọi người đồng thời nhìn về phía Thẩm Lan, Lý Trọng Hằng cười nói: “Con gái út của Thương thư Binh Bộ Nam Kinh – Phạm Ý Chi chính là nàng.” Phạm Ý Chi đúng là có một đứa con gái độ tuổi tương đương. Lý Trọng Hằng cũng không phải bịa đặt.

Mọi người vui mừng quá đỗi, ngay cả ông lão nãy giờ nằm oặt dưới đất cũng bò dậy. Lúc này ai cũng chắc mẩm rằng thành Nam Kinh sẽ phái người tới cứu bọn họ.

Thẩm Lan vốn cũng định dùng chiêu này, nhưng ngặt nỗi nàng không biết nhiều về triều đình, định bụng bảo Đàm Anh nói. Ai ngờ Lý Trọng Hằng đã giành mở miệng trước, nên nàng cũng thôi ý định nhờ Đàm Anh.

“Tất cả trốn ra sau bàn! Giặc Oa sẽ bắn tên trước tiên!” Đàm Anh nhận quyền chỉ huy.

Thẩm Lan bình tĩnh trốn vào sau cái bàn mà Đàm Anh chọn.

Quả nhiên chớp mắt sau đó, mũi tên từ bốn phương tám hướng bắn vào ghim xuống đất, găm vào hàng hóa, bàn ghế……

Thẩm Lan im lặng nhẩm đếm, ước chừng qua một hai phút, mưa tên đã ngừng lại.

Đàm Anh mừng rơn, cao giọng nói: “Số lượng mũi tên và tiếng bước chân bên ngoài không nhiều lắm, đây là toán giặc Oa nhỏ!”

Bốn chữ “toán giặc Oa nhỏ” khiến đám người hân hoan trở lại.

Ngoài kia tiếng người trọ trẹ, Thẩm Lan không có khả năng nghe hiểu tiếng Nhật năm sáu trăm năm trước ở chiều không gian khác. Nhưng đám thương nhân ở đây ra bắc vào nam, thậm chí có những người chuyên làm ăn trên biển, rất có năng khiếu ngôn ngữ bẩm sinh, cho nên bọn họ có thể nghe nói được tiếng Phúc Kiến, Quảng Đông và cả tiếng Oa.

“Đại nhân, lũ giặc Oa bảo chúng ta nhanh chóng đầu hàng, nếu không chúng sẽ đốt lửa.” Một người thương nhân đứng ra phiên dịch tiếng Oa.

Đàm Anh cười nhạo: “Trong trạm có nhiều hàng hóa của cải thế này, chúng chưa cướp được, sao có thể cam lòng đốt lửa?” Mà cho dù có đốt thật, bọn chúng cũng phải thử và thất bại trước đã.

Thẩm Lan hạ giọng thì thầm: “Đàm đại nhân, bảo người thông dịch nói với giặc Oa chúng ta sẽ đầu hàng. Nhưng bọn chúng phải đảm bảo tính mạng cho chúng ta. Sau đó lại bảo một vài người khác cãi lại người thông dịch, tỏ vẻ không chịu đầu hàng.”

Đàm Anh hiểu ý, đây là để kéo dài thời gian!

Bên ngoài chỉ có một vòng giặc Oa, đếm sơ khoảng độ bốn mươi tên. Bọn chúng cạo nửa đầu, mặc áo một lớp, không đeo đai lưng. Có tên cầm đại thái đao, có tên tay cầm liềm tay cầm thương, có tên cầm đả đao, giáo ba lưỡi…

Tốp bảy tám tên Oa khác thì vừa khiêng vừa vác hàng hóa lăn lóc dưới đất lên trên thuyền.

Phía xa còn có hai tên đang đứng gác.

“Khói! Sao khói vẫn chưa dập!” Thủ lĩnh giặc Oa phồng mang trợn mắt.

Mấy tên Oa khác nhảy nhót tới lui xách nước dập lửa. Chúng đi tới đi lui ven sông, bê từng thùng nước tạt vào đống củi cháy.

Nhưng chúng nào hay khói báo động vốn là phải làm ướt củi lửa mới có thể tạo ra cột khói đen. Tạt nước có thể dập lửa, nhưng cột khói càng ngày càng bốc lên cao vút tận trời.

Cách đó mười lăm dặm ở thành Nam Kinh, lính thủ thành đã chạy đi báo tin. Bùi Thận đang mải luyện binh ở trường huấn luyện, bỗng nhận được tin báo thấy trạm Long Giang đốt khói báo động.

Bùi Thận biến sắc, cả gương mặt phủ một màu tối sầm u ám. Y biết rõ giờ vẫn chưa phải thời điểm tốt nhất để dẫn quân ra đánh. Thứ nhất là vì huấn luyện chỉ mới qua loa. Thứ hai, chờ họ chạy được tới trạm Long Giang, chưa biết chừng lũ Oa cũng đã đốt giết, cướp bóc xong xuôi.

Chính ra mà nói, thời cơ chín muồi nhất là lúc lũ Oa không thể đánh hạ được thành Nam Kinh, quay đầu bỏ chạy, phe y sẽ tụ họp cùng các chi binh khác cắn ngược lại.

Mà không phải là lúc này.

Bùi Thận vừa suy tư, vừa ra lệnh: “Ai biết cưỡi ngựa thì cầm vũ khí lên ngựa, chở theo một người không biết cưỡi! Những người còn lại, chạy bộ!” Y cũng biết bảo lính chạy bộ đến trạm Long Giang, thứ nhất chậm chạp, thứ hai suy yếu sức chiến đấu. 

Nhưng sự tình khẩn cấp! Chẳng còn cách nào khác!

Bùi Thận cưỡi ngựa dẫn đầu, theo sau là hơn mười con ngựa phi nước đại. Còn dư chừng năm mươi người chạy bộ, tất cả nhanh chóng nhắm thẳng trạm Long Giang.

Trạm Long Giang.

Sau bao nỗ lực, lũ Oa cuối cùng dập được cột khói báo động. Chúng bắn một cơn mưa tên vào trong nhà, lại chiêu hàng nhưng vô ích. Thủ lĩnh giặc Oa đang định giơ đao tấn công, bên trong bỗng tỏ ý muốn đầu hàng?

Ngay lập tức có mấy tên Oa gào lên: “Đầu hàng! Bảo bọn hắn mở cửa!”, “Đi vào cướp tiền, cướp đàn bà!”, “Giết hết chúng nó!”

Ai biết bên trong mới vừa nói dứt câu đầu hàng, tiếp đó lại nghe những tiếng bì bõm bập bẹ vang lên, tất cả đều là tiếng Hán chúng nghe không hiểu.

Thủ lĩnh giặc Oa cẩn thận lắng nghe một lát, cũng vẫn không hiểu, nhưng hắn đã nhận ra: “Cãi nhau! Bọn chúng bắt đầu cãi nhau!”

“Cãi nhau để làm gì?” Có tên Oa ngây ngô hỏi.

“Jiro Noda, chắc là có người muốn đầu hàng, nhưng lại có người không chịu cho bọn họ đầu hàng.”

“Nội chiến.” Có tên Oa xoắn lưỡi học theo tiếng Hán, thiếu chút nữa cắn trúng vào lưỡi.

“Chờ bọn họ đánh nhau! Chúng ta tiết kiệm sức lực!”

“Bây giờ đánh vào đi! Vọt vào đi! Bên trong có ăn có uống có tiền! Còn có cô nương đẹp!”

Lũ Oa ý kiến khác nhau, trước hết đã xảy ra nội chiến. Nhưng thủ lĩnh không phải đứa ngốc, sợ người bên trong muốn kéo dài thời gian, quát tháo mấy câu rồi thổi tù và phát động tấn công.

Vừa nghe thấy tiếng thổi tù và, sắc mặt Đàm Anh trở nên nặng nề: “Đây là sắp tấn công.”

Thẩm Lan nãy giờ vẫn nhẩm tính thời gian. Từ lúc có khói báo động đến lúc này chỉ mới chừng mười phút trôi qua.

Cổng Kim Xuyên của Nam Kinh cách nơi này mười lăm dặm, giả sử vận tốc ngựa phi nhanh nhất là 30km/h, để tới được đây mất khoảng mười lăm phút. *

*1 dặm Trung Quốc cổ đại = 500 mét. 15 dặm là khoảng 7,5 Kilomet. Công thức tính thời gian = quãng đường chia vận tốc.

Nếu có thể kéo dài thêm mười phút, biết đâu tình hình sẽ thay đổi.

“Đàm Anh! Nói với chúng, chúng ta sẽ đầu hàng ngay lập tức! Sẽ mở cửa ngay lập tức!”

Người thông dịch run run chuyển lời này sang tiếng Oa. Đàm Anh lại sai người lê cái bàn đi tới đi lui trên sàn, giả dạng tiếng dời bàn ra khỏi cửa. Giặc Oa lúc này nửa tin nửa ngờ, Thẩm Lan tiếp tục nhẩm được đến số năm mươi.

Chưa được một phút, giặc Oa tiếp tục hối thúc.

“Đang mở, đang mở đây.” Người thông dịch đổ mồ hôi đầy đầu.

Lần này, Thẩm Lan chỉ đếm tối đa được ba mươi số, giặc Oa bên ngoài đã bắt đầu kêu la quang quác.

“Saburo Takeuchi, lũ nó đùa giỡn chúng ta!”

“Gi/ết chết chúng nó!!”

Tiếng tù và lần nữa vang lên. Lão già ban nãy nằm oặt trên đất đột nhiên khóc lóc thảm thiết mà rống to lên mấy câu tiếng Oa trọ trẹ.

Lý Trọng Hằng biến sắc. Hắn đọc nhiều sách vở, cũng từng tự học một ít tiếng Oa. Chỉ là tự thấy không thông thạo bằng người thông dịch kia cho nên không tự đứng ra để cử.

Thẩm Lan hỏi: “Người nọ nói gì đó?”

Lý Trọng Hằng đối diện ánh mắt trong trẻo sâu thẳm của Thẩm Lan, khuôn mặt hiện lên vẻ không đành lòng, quay đầu đi: “Ông ta nói trong này có các cô nương. Ông ta nguyện dâng các cô nương này ra, xin giặc Oa đừng giết ông ta.”

Những người ra ngoài bôn ba đa phần là đàn ông, nhưng cũng có một vài người dẫn theo vợ con đi cùng. Họ nghe lời này, trăm người buột miệng mắng chửi không thôi.

“Cái loại bôi tro trát trấu vào mặt tổ tiên!”

“Dòng thứ hèn nhát!”

“Đồ chó má khốn nạn!”

Tiếng địa phương khắp nơi ào ào mắng ông già kia xối xả.

Thẩm Lan vừa nổi cơn tức, thấy quần chúng phẫn nộ như thế, nàng hơi nguôi cơn giận, cao giọng nói: “Các vị, lũ Oa ngoài kia muốn tông cửa xông vào. Chờ chúng vào được đây, vợ con chúng ta đều bị bắt gian dâm. Tất cả chúng ta đều phải chết!”

Nàng lặp lại lần nữa: “Đều phải chết!”

Chữ “chết” này kí/ch thích đến thần kinh căng cứng của tất cả mọi người.

Cảm thấy đã gợi ra được nỗi sợ đối với cái chết của đám người, Thẩm Lan lại kiên định nói: “Chúng ta cố gắng chút nữa. Gắng chừng một nén hương nữa thôi, cha ta nhất định sẽ đến cứu ta!” 

Đúng đúng! Vẫn còn Thượng thư Binh Bộ Nam Kinh kia mà!

Mọi người lúc này cuối cùng nhớ ra, cảm thấy bọn họ vẫn còn hy vọng sống sót.

Đàm Anh tức khắc nói: “Các vị tựa lưng vào vách tường, hợp sức dùng bàn ghế chặn kín cửa sổ, không cho giặc Oa xông vào là được!”

Hơn trăm người xắn tay vào làm theo, chẳng ai còn để ý đến lão già bị đánh té xuống đất, không biết sống hay chết kia nữa.

“Lấy bàn ghế chặn cửa vào!”

“Chặn cả cửa sổ nữa!”

Biết bên trong có cô nương đẹp, có tiền mà không vào được, giặc Oa tức tối phẫn nộ kêu la.

Thủ lĩnh nhìn trái ngó phải, cuối cùng thổi tù và lệnh vài người đi chặt một cây cột buồm nhỏ lại đây.

Mười người mỗi bên, bọn chúng nâng cột buồm, tông ầm ầm vào cửa sổ.

Phía sau cửa sổ cũng chỉ có bảy, tám người đứng chắn, sao đọ lại sức công phá cùng lúc của hai mươi tên Oa?

“Rầm! Rầm! Rầm!”

Chỉ sau ba tiếng tông cửa, chiếc bàn chắn đổ sụp xuống, bảy tám người đứng đó hớt hải chạy tán loạn.

Lập tức có ba bốn tên Oa tranh thủ thời cơ chui vào.

“Phu nhân, mau rời khỏi đây!” Lòng Đàm Anh nóng như lửa đốt. Bọn họ chỉ có mười người, chia nhau vừa bảo vệ một nữ tử vừa bảo vệ một thư sinh, thật sự có hơi quá sức.

“Đi theo ta đi.” Thẩm Lan thấp giọng nói, “Giặc Oa không nhiều như chúng ta tưởng, cưỡi ngựa chạy tứ tán ra. Có thể thoát được bao nhiêu hay bấy nhiêu.” Dứt lời, nàng túm lấy Đàm Anh chạy ra cửa.

Nhưng vừa thấy giặc Oa xộc vào, đám người rốt cuộc như bọt nước sôi sùng sục mà cướp đường chạy tán loạn ra ngoài.

“A!!”

“Giết người!”

“Đừng giết ta! Đừng giết ta!”

Mấy tên giặc Oa đã mở cửa chính để bọn còn lại xông vào. Chúng cười gằn dữ tợn, lê những thanh đao nhuốm máu, bước từng bước lại gần những cô nương, phu nhân trong đám người.

“Cô nương đẹp!”

“Tiền! Thật là nhiều tiền!”

Chúng cười khằng khặc, tàn nhẫn mổ bụng đứa trẻ bảy tám tuổi, chém lìa đầu những người đàn ông, xé toạc áo quần của đàn bà con gái.

Máu vương vãi khắp nơi, tiếng gào rống man rợ hòa với tiếng kêt hét thê lương thảm thiết… Một khung cảnh mà cả đời này Thẩm Lan cũng không cách nào quên được.

Đều là người, đều là đồng bào…… Thẩm Lan trào nước mắt.

“Phu nhân! Đừng ngẩn người!” Đàm Anh như kiến bò trên chảo nóng, cố sống cố chết túm lấy nàng chạy ra bên ngoài.

Ngặt nỗi Thẩm Lan lớn lên xinh đẹp, dù che mặt vẫn có thể thấy được một đôi con mắt trong veo lúng liếng. Lũ Oa vì thế đã sớm để ý tới nàng.

Bảy tám tên Oa tay cầm đại thái đao chém tới. Đao này dài tận bốn, năm thước, khiến Đàm Anh không thể cận chiến với giặc Oa, chỉ đành dẫn toán hộ vệ vừa đánh vừa lui.

*thước = 40 centimet. Kiếm Odachi (Đại thái đao) có thể dài đến trên dưới 2 met, nặng trên dưới 5 kilogram

Đoàn người cố sức ra được tới phần đất hoang ngoài công, có lẽ trông thấy Thẩm Lan dẫn nhiều hộ vệ, giặc Oa tụ lại chỗ nàng ngày càng đông.

Ban nãy mọi người tranh nhau chạy trốn, hộ vệ cũng bị tách ra, nàng cũng lạc mất Lý Trọng Hằng. Hiện nay theo bảo vệ Thẩm Lan chỉ có Đàm Anh, Bình Sơn cùng một người tên A Lục.

Bình Sơn vì che chở Thẩm Lan mà bị chém trúng một nhát. Máu của hắn bắn ra nhuộm đỏ nửa người Thẩm Lan, bản thân hắn bắt đầu loạng choạng đứng không vững.

Đàm Anh trúng tên vào tay phải, cố nén cơn đau giơ đao chống cự. A Lục võ công kém nhất nên bị chém hai đao, phải nhờ Bình Sơn cõng chạy. 

Nhóm bốn người dựa cả vào nỗ lực chống đỡ của Đàm Anh và Bình Sơn.

Thẩm Lan chưa hề nói những câu như nàng không cần bọn họ bảo vệ. Nàng tự biết dù có nói, họ cũng sẽ không nghe. Trái tim nàng đập mãnh liệt, cố hết sức bình tĩnh quan sát bốn phía.

Rốt cuộc nàng nhìn thấy được đường sống!

“Đàm Anh! Chỗ kia có hai con ngựa!”

Đàm Anh và Bình Sơn liếc nhìn thoáng qua, nín thở vừa đánh vừa lui về hướng ngựa đứng. Tiếc thay giặc Oa cũng không phải ăn chay, bảy tám tên chém trên chặt dưới, khiến Đàm Anh dù có ba đầu sáu tay cũng đành bất lực.

Đàm Anh không gượng nổi đến trước ngựa, ăn trúng ba nhát chém, máu phun như suối, khuỵu xuống bất tỉnh.

May thay đám hộ vệ thất lạc lúc nãy kịp tụ lại, tiếp tục cản giặc Oa.

Giặc Oa thấy lại có hộ vệ tới cứu nàng, không biết tổng cộng bao nhiêu đứa. Chúng quyết định muốn bắt giặc, trước hết phải bắt tướng. (1) Nhưng lại không nỡ lấy đao chém nàng, sợ chém chết cô nương đẹp, thế là chúng định dùng tên bắn vào hai cánh tay nàng.

Mũi tên kia vừa to vừa cứng, đủ mạnh đến độ đâm xuyên áo giáp, xé gió bay tới như rắn độc phồng mang tung mình.

“Phu nhân! Coi chừng!” Bình Sơn hô to một tiếng, chuẩn bị xả thân nhào tới.

Thẩm Lan không tập võ, không phản ứng kịp tình huống này. Nàng chỉ có thể trơ mắt nhìn mũi tên nhắm thẳng cánh tay mình bay nhanh tới.

Nguy hiểm nghìn cân treo sợi tóc, bỗng một mũi tên khác từ đâu vụt ra, đâm ngược vào đuôi rồi chẻ mũi tên của lũ Oa thành hai nửa.

“Đại nhân ——” Bình Sơn gào lên.

Thẩm Lan sững sờ quay đầu lại, trông thấy nơi xa cát bụi cuộn mù, người trên lưng ngựa kéo cung nhắm bắn, mũi tên găm thẳng vào trán giặc Oa.

…… Là Bùi Thận. Thẩm Lan ngơ ngác nghĩ.

Nhưng y sao lại ở đây? Y lấy đâu ra binh lính chứ?

Bùi Thận trông thấy Thẩm Lan vẫn còn nguyên vẹn, hơi nguôi đi lòng khiếp sợ. Y lập tức giục ngựa đến cạnh nàng, nhanh chóng phái người nổi trống giết địch.

Đội kỵ binh cưỡi ngựa chạy tới vẫn giữ nguyên thể lực, có thể kết trận ngay lập tức.

Đại thái đao dài bốn năm thước, nhưng thương có thể dài tới một trượng tám thước. Dài hơn tấc nào thì lợi hơn tấc nấy. Đàm Anh kiếm ngắn hơn của giặc Oa, cho nên hắn bị động ăn đánh. Lúc này đây, giặc Oa gặp phải thương dài, cũng chỉ có thể bị động bị đánh.

Thương dài kết hợp khiên chắn, lại dùng lang tiển và bồ cào tấn công kết hợp phòng ngự, bắt đầu truy sát giặc Oa.

Lính chạy bộ hồi phục thể lực cũng tham chiến. Bảy tổ ra tay giết địch, toàn bộ đám Oa nhanh chóng bị tiêu diệt.

Bùi Thận cẩn thận rà soát ba lần, xác định không để lọt tên Oa nào, lúc này mới chạy đi gặp Thẩm Lan.

Thẩm Lan ngẩng đầu, trông thấy trên áo giáp của Bùi Thận toàn là máu, bên trên còn hằn những vết chém. Nàng ngơ ngẩn nhìn hồi lâu, chợt hỏi: “Sao ngài không an tọa trong thành Nam Kinh mà lại tới đây vậy?”

Bùi Thận chửi thầm nàng đúng là cái đồ vô tâm. Y trăm đắng ngàn cay chạy tới cứu nàng, nàng lại vẫn vu hãm y máu lạnh. 

“Ta nếu không tới cứu, hôm nay nàng chắc chắn phải bỏ mạng.” Bùi Thận xụ mặt nói.

Thẩm Lan cảm xúc phức tạp khó phân, đầu óc cũng còn chậm chạp trì trệ, chầm chậm chớp mắt, hỏi: “Ngài vì sao phải tới cứu ta?”

Bùi Thận không hiểu ra sao: “Nàng là thiếp của ta. Nếu không cứu nàng, ta có còn là đàn ông nữa không?”

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích: 

1 cầm tặc trước cầm vương, một trong 36 kế Binh pháp Tôn Tử
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61: Ác mộng


Nghe y đáp, Thẩm Lan chỉ nở nụ cười tự giễu.

Mà Bùi Thận thấy mặt nàng tái mét, lại cho rằng nàng bị giật mình kinh sợ nên mới thế. Y không kiềm được thấy lòng hơi xót, thở dài một tiếng, bước lại cầm lấy đôi tay nàng.

Vừa chạm vào, quả đúng là lạnh như ngâm nước đá.

“Giặc Oa tuy đã bị diệt, nhưng để phòng ngừa có kẻ chạy thoát quay lại làm loạn, nàng hãy theo ta vào thành Nam Kinh đi thôi.” Bàn tay ấm nóng của Bùi Thận bọc lấy tay của Thẩm Lan.

Hơi ấm nhẹ nhàng khiến sắc mặt Thẩm Lan từ từ dịu lại. Nàng chớp đôi mắt khô rát, gật đầu: “Khi nào đi thì gọi ta là được, nhưng còn Đàm Anh và những hộ vệ kia thì sao?”

Thấy nàng khẽ chau mày đẹp, hai mắt u sầu, Bùi Thận mềm giọng an ủi: “Trên người bọn họ có phương thuốc báu của Cẩm Y Vệ nên đã cầm được máu rồi. Ta sẽ phái người cưỡi ngựa khỏe mang họ vào Nam Kinh, ở đó đã có thầy thuốc chờ sẵn.”

Thẩm Lan nghe xong mới thở phào nhẹ nhõm, nghiêm túc nói: “Tổng cộng mười người tính cả Đàm Anh, đều dùng cả tánh mạng để bảo vệ ta. Không phải vì họ coi trọng ta, mà là bởi ngài đã hạ lệnh cho họ phải dẫn được ta về Nam Kinh. Nguyện hy sinh tánh mạng để thực hiện mệnh lệnh của ngài, có thể thấy những người này trung tâm với ngài thế nào. Ngài chớ đừng xử bạc với họ.”

Nghe nàng nói tốt cho đám hộ vệ, Bùi Thận cảm thấy hơi buồn cười, lại ấm giọng an ủi: “Nàng yên tâm, có công sẽ được thưởng, có tội ắt bị phạt. Ta nhất định sẽ không bạc đãi họ.”

Thẩm Lan lúc này mới gật đầu, đứng dậy nâng một cái rương gỗ bọc da đưa cho y. 

Bùi Thận nhận lấy mở ra, thấy bên trong nào trâm vàng nạm li long bằng ngọc, thoa vàng chế tác bằng kỹ thuật lũy ti, trâm mạ hoa sen khảm đá quý…. Chừng hơn mười món nằm chen nhau, đều là những trang sức y mua cho nàng lúc ở Tô Châu.

Thẩm Lan giải thích: “Bọn họ tuy theo lệnh ngài mới bảo vệ ta bằng cả tánh mạng, nhưng ta lại không thể nghĩ như vậy. Ơn cứu mạng không có gì báo đáp, đành lấy chút vàng bạc tục tằng thay lời cảm tạ.” Dứt lời, nàng lại nói: “Ngài chuyển lời tới họ thay ta, nếu sau này họ cần ta làm gì, cứ nói một câu là được.”

Bùi Thận khép rương lại, nhìn nàng cười khanh khách: “Nàng dùng vàng bạc cùng một lời hứa hẹn để cảm ơn bọn hộ vệ, vậy còn ta thì sao? Nàng định cảm ơn ta thế nào?”

Thẩm Lan sửng sốt không biết nói gì.

Nếu lấy vàng bạc châu báu, những thứ này vốn là Bùi Thận đưa cho nàng. Nếu nói quan cao lộc hậu, nàng cũng chẳng đáp ứng được.

Tính tới tính lui, nàng chẳng có gì trong tay cả.

Tới nơi này hơn bốn năm, nỗ lực giãy giụa, gian nan cầu sinh, chưa hề dám nghỉ ngơi dù chỉ một lát. Vậy mà cuối cùng vẫn như bèo dạt theo dòng nước, lưu lạc lênh đênh.

Thẩm Lan mất hết hứng thú, chỉ nhàn nhạt đáp: “Ta chỉ có hai bàn tay trắng. Ngài nếu có gì cần, cứ tự lấy đi là được.”

Bùi Thận hãi hùng khiếp vía, lời này nghe thế nào cũng toát ra một vẻ chán đời bất cần. Nhìn thì có vẻ là cần gì cứ lấy, nhưng ẩn bên dưới lại là thái độ bàng quan chẳng màng, không bận lòng điều gì nữa.

Bùi Thận cũng không rõ nàng đã gặp chuyện gì. Rõ ràng trước lúc y đi diệt Oa nàng vẫn ổn, sao bây giờ lại thành ra thế này? Y suy tư luôn mãi, cuối cùng cho rằng do nàng gặp phải cảnh tượng giặc Oa giết người, kinh hoàng hoảng hốt, tinh thần mệt mỏ nên mới đâm ra buồn bã chán đời.

Phải tìm thầy thuốc kê cho nàng ít thuốc an thần mới được. Thành Nam Kinh hình như cũng có vài thầy thuốc phụ khoa có tiếng tăm, cũng nhân đây chữa cho dứt cái bệnh tay chân lạnh lẽo của nàng.

“Ta cứu nàng cũng không phải để đòi thù lao.” Bùi Thận mỉm cười, định bụng bỏ qua chủ đề này. Ai ngờ Thẩm Lan vốn đã uể oải, nghe xong câu này lại càng thêm mỏi mệt.

Bùi Thận thấy gương mặt nàng trắng như tờ giấy, dường như vẫn trong cơn kinh hoàng, lòng y mềm nhũn ra, dùng hai tay bọc lấy khuôn mặt nàng để ủ ấm. 

Ánh mắt Thẩm Lan thất thần vô định, tựa như đang chìm trong dòng suy tư dài đằng đẵng nào đó.

Khoảnh khắc mũi tên của giặc Oa lao tới, là Bùi Thận đã cứu nàng. Nếu không nàng hôm nay chắc chắn chết trong tay lũ Oa, mà còn là sống sờ sờ bị cưỡng h.iếp luân phiên cho tới chết.

Giống như cô gái ban nãy ở sảnh ngoài, bị lũ Oa xé toạc áo quần để chơi đùa, sau đó một kiếm cắt cổ.

Máu phun thật cao, rồi bắn tung tóe xuống mặt đất, lên bàn ghế…

Bùi Thận trước nay cho rằng tánh nết nàng quá mức bướng bỉnh, luôn chờ một ngày nào đó có thể đánh gãy được ngạo khí trên người nàng. Nhưng giờ đây thấy tinh thần nàng hoảng hốt, cuộn tròn co ro một góc trên giường hệt một pho tượng pha lê sắp vỡ, y lại bỗng nhiên cảm thấy những thứ đó chẳng quá quan trọng nữa.

“Đừng sợ.” Bùi Thận thả nhẹ giọng, ôm nàng vào lòng, chậm rãi vu.ốt ve sống lưng cho nàng.

Thẩm Lan tựa vào lòng y, những mảnh giáp lạnh băng khiến nàng hơi tỉnh táo lại.

“Ngài vẫn còn công vụ bên ngoài phải lo liệu đúng không?” Thẩm Lan cố gượng nói, “Kiểm kê chiến công, thẩm vấn mục đích và hướng đi của giặc Oa, báo cáo tình hình cho quan trên. Nhiều việc phải làm như vậy, ngài mau đi đi.” Nói rồi, Thẩm Lan tự động rời khỏi vòng tay y.

Hơi ấm trong ngực không còn, Bùi Thận bỗng thấy buồn bã mất mát, đành đứng dậy cười nói: “Nàng đợi thêm một lúc, chờ ta xử lý công việc nơi đây xong sẽ lập tức đưa nàng về Nam Kinh.” Dứt lời, y nâng đao bước ra ngoài.

Bùi Thận vừa đi, trong phòng lần nữa quay trở về tĩnh lặng.

Gió thu phần phật, ánh tà dương vàng vàng lẻn qua song cửa sổ, nhuộm cả căn phòng một sắc hoàng hôn đỏ đậm.

…… Đỏ đậm.

Hệt như máu.

Thẩm Lan gập người nôn khan. Nàng biết đây là phản xạ tự nhiên của cơ thể khi gặp phải kíc/h thích.

Người bình thường chưa từng thấy máu, gặp phải hiện trường tai nạn xe cộ đều sẽ như vậy, càng đừng nói tới tàn sát trên chiến trường. Thấy tay rời chân cụt khắp nơi, máu bắn tung toé, thấy giặc Oa cưỡng gian phụ nữ, hành hạ trẻ con tới chết, bị phản xạ cũng bình thường.

Thẩm Lan thậm chí đoán được tối nay mình sẽ nằm mơ thấy ác mộng.

Bùi Thận cũng đoán được nàng sẽ gặp ác mộng, cho nên vừa vào Nam Kinh, y đã phái người cho mời Trương viện phán của Thái Y Viện ở Nam Kinh đến.

Trương viện phán đã vào độ tuổi xưa nay hiếm (1), râu tóc bạc trắng, cho nên cũng không cần kiêng kị nam nữ gì cả, đi thẳng vào buồng trong, sai người nhấc mành để khám bệnh.

“Trương đại nhân, nàng ban ngày gặp cảnh giặc Oa giết người, có thể kê ít thuốc giúp an thần không?” Bùi Thận hỏi.

Trương viện phán chắp tay nói: “Bùi đại nhân chớ lo, lão phu sẽ lưu ý.” Dứt lời, ông tỉ mỉ bắt mạch, quan sát bựa lưỡi, lại hỏi han một số mặt khác, sau đó nói: “Phu nhân có phải nhiều năm trước từng rơi xuống nước?”

Thẩm Lan hơi giật mình, nghĩ bụng vị này quả thực có năng lực khám chữa bệnh chuyên sâu, nàng đáp: “Bốn năm trước ta từng sơ ý sẩy chân té xuống giếng.” Lục Châu vốn là rơi xuống giếng chết đi, sau đó Thẩm Lan mới đến. 

“Vậy thì đúng rồi.” Trương viện phán nói, “Trong người phu nhân vẫn còn hàn khí nằm lại từ dạo đó mới khiến cho một năm bốn mùa tay chân lúc nào cũng lạnh lẽo.” Ông an ủi: “Phu nhân cứ yên lòng, chỉ cần uống mấy đơn thuốc an thần, bổ ấm là được.”

“Đa tạ ngài.” Thẩm Lan nghe vậy cười nói: “Đêm khuya mà vẫn phiền ngài đến đây một chuyến quá.”

Trương viện phán vuốt râu cười nói: “Phu nhân uống thuốc xong thì ngủ một giấc, qua hôm sau sẽ bình thường trở lại.”

Ông ghi đơn thuốc rồi đứng dậy chuẩn bị ra về, chỉ là trước khi đi bỗng nhiên liếc nhìn Bùi Thận một cái.

Bùi Thận hiểu ý, đứng lên tiễn Trương viện phán ra ngoài.

Hai người ra khỏi cửa đứng trong đình, đêm trăng thu đầy sương, vẻ mặt Trương viện phán nghiêm túc: “Bùi đại nhân, vị phu nhân này không phải là tướng sống thọ.”

Bùi Thận chỉ cảm thấy hít thở sao mà khó khăn, đầu óc cũng lâng lâng mờ mịt không quá tỉnh táo.

Hơi lạnh ráo hoảnh của trời thu, dường như khiến mỗi cái hít vào thở ra đều mang theo mùi máu tanh nồng. Thật lâu sau, Bùi Thận mới cắn răng hỏi: “Xin hỏi Trương đại nhân có ý gì?”

Trương viện phán thấy sắc mặt y nôn nóng, rõ ràng là có tình cảm với vị phu nhân kia, ông không khỏi thở dài trong lòng. Người có tình khó mà thành quyến thuộc.

“Tình huống của vị phu nhân này có ba vấn đề. Thứ nhất đó là đột nhiên gặp phải kinh hãi chấn động, cái này không quá nghiêm trọng, chỉ cần an thần tĩnh dưỡng, thời gian trôi qua quên hết chuyện gặp giặc Oa hôm nay là được.”

“Thứ hai đó là, đầu óc căng thẳng đã nhiều năm, tinh thần không được thoải mái. Riêng về điều này, chỉ mỗi uống thuốc là không thể nào chữa triệt để. Bệnh trong tâm cần phải làm gì? Phải để mỗi ngày của nàng trôi qua trong vui sướng, bớt suy tư sầu lo, mới mong có thể lành bệnh.”

Bùi Thận lặng im không đáp. Thẩm Lan nghĩ những gì, sao y lại không rõ?

Nhưng khó khăn lắm mình mới cứu được nàng, nàng lúc này mềm mại dỡ hết mọi phòng bị xuống. Nếu bảo Bùi Thận buông tay tại đây, y là trăm ngàn lần không chịu.

Kết quả, y đành phải trầm mặc nghe thầy thuốc nói tiếp.

“Thứ ba, gốc rễ trong con người nàng vốn dĩ không quá khỏe mạnh, hàn khí nằm trong người nhiều năm chưa tan. Ngoại trừ bốn năm trước từng rơi xuống giếng, gần đây liệu có giang gió lạnh để hàn tà vào người hay không?”

Lòng Bùi Thận hơi chát: “Mấy ngày trước, nàng từng một mình chèo thuyền trên sông đêm hơn nửa canh giờ.”

“Vậy thì đúng rồi.” Trương viện phán vừa thấy quái lạ vị phu nhân này đang yên đang lành sao lại đi chèo thuyền, vừa vuốt râu nói: “Phong hàn đã nhiễm từ khi ấy, chưa loại bỏ triệt để.”

Bùi Thận đang chuẩn bị bảo ông ấy ghi đơn thuốc, Trương viện phán lại nói: “Nhưng hàn khí của phu nhân không chỉ mỗi hai thứ này. Nàng có phải từng uống những thuốc gì mang tính lạnh?”

Bùi Thận hơi giật mình, lắc đầu nói: “Nàng chỉ uống mấy thang thuốc chữa phong hàn và thuốc bổ…”. Y khẽ ngừng lại, hồi lâu sau mới trầm giọng đáp: “Nàng từng uống mấy thang thuốc tránh thai.”

Trương viện phán hiểu rõ: “E rằng chính là nó. Thuốc tránh thai tính lạnh. Dù cho bào chế tỉ mỉ ra sao, uống vào người thời gian dài cũng sẽ khiến người nữ bị nhiễm hàn.”

Bùi Thận khó hiểu: “Thuốc tránh thai này trong phủ đã dùng lâu nay, chưa từng xảy ra bất trắc gì, sao có thể như thế?”

Trương viện phán giải thích: “Những người bình thường cơ thể khỏe mạnh, dù có uống thuốc tránh thai liên tục một năm, chỉ cần ngưng thuốc điều dưỡng lại sẽ ổn. Nhưng vị phu nhân kia có lẽ là từ nhỏ đã không được nuôi dưỡng cẩn thận, cái gốc cơ thể rất là kém cỏi, lại thêm chịu lạnh mấy trận, uống thuốc tránh thai, tất nhiên từ đó gây trở ngại đến đường con cái sau này.”

Lòng Bùi Thận từng chút một chìm xuống, thấp giọng nói: “Có thể chữa được chăng?”

Trương viện phán lắc đầu: “Nếu bây giờ ngưng thuốc tránh thai, điều dưỡng kỹ càng, họa may có thể được một đứa. Nếu vẫn uống tiếp, sợ rằng đời này sẽ đứt duyên con cái.”

Bùi Thận không hề do dự: “Vậy thì ngưng thuốc tránh thai. Mời Trương đại nhân kê giúp đơn thuốc cho.”

Trương viện phán cẩn thận viết đơn thuốc, lại liếc qua Bùi Thận nói: “Bùi đại nhân tinh thần mạnh mẽ, thể trạng cường tráng. Nhưng phu nhân kia cơ thể yếu ớt, nếu muốn điều dưỡng cho ổn, một mực nhớ lấy phải cấm chuyện phòng the.” 

Bùi Thận hơi tiếc nuối, nhưng ngoài mặt không tỏ vẻ gì: “Cần dưỡng đến khi nào thì được?”

Trương viện phán gác bút: “Người ta nói mùa xuân nảy mầm, mùa hạ phát triển, mùa thu gặt hái, mùa đông tích trữ. Mùa đông này là thời cơ thích hợp để dự trữ nuôi dưỡng nguyên khí, đợi đến ngày xuân sang năm, sinh khí nảy mầm, đến ngày hè sinh khí phát triển, ngày thu sẽ là thời điểm tốt để thu hoạch.”

Từ giờ đến mùa thu năm sau ước chừng còn khoảng mười tháng. Bùi Thận tính toán một lúc, cảm thấy mình vẫn có thể nhịn được.

Trương viện phán lại dặn dò: “Ngoài ra, đại nhân thường ngày nhớ để ý khuyên lơn, chớ để phu nhân kia lại âu sầu suy tư thêm nữa. Nếu không, không chỉ là vấn đề con cái, mà tuổi thọ cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn.”

Bùi Thận nghiêm cẩn gật đầu, cầm đơn thuốc rồi tiễn Trương viện phán ra về.

Chờ y quay lại, phòng bếp đã sắc thuốc xong mang lên, Thẩm Lan đang đau khổ nhăn nhó uống thuốc.

“Lớn tướng vậy rồi mà uống thuốc vẫn sợ đắng.” Bùi Thận cười đưa cho nàng hai quả táo tàu: “Này, đặc sản Nam Kinh đấy.”

Thẩm Lan héo hon chẳng buồn nhúc nhích, cũng mặc kệ y cười chê, cầm lấy táo tàu cắn từng miếng một.

“Khuya rồi, nàng cần ngủ sớm chút.” Bùi Thận dặn dò: “Thầy thuốc bảo nàng bớt suy tư lại, đừng để lao lực quá.”

Thẩm Lan uể oải khẽ ừ rồi nhắm mắt ngủ.

Ban ngày Bùi Thận đã xử lý công việc xong xuôi, lúc này tắm rửa xong tháo ủng lên giường, ôm nàng vào lòng đi ngủ.

Trăng thu trong trẻo, bầu trời như được gột rửa bởi màn sương. Cây ngô đồng nghiêng nghiêng in bóng lên cửa sổ. Mưa thu lác đác khẽ rơi khiến không khí lạnh từ từ ùa lên.

Nhưng giấc mơ của Thẩm Lan lại rất nóng.

Máu tưới đầy trời, có người bị cứa cổ, máu phụt lên thật cao rồi bắn tung tóe lên mặt nàng, ấm nóng mà đặc sệt.

Nam nữ trẻ tuổi, cụ già hom hem, đứa bé còn để chỏm, bị chúng cắt như cắt lúa, từng người từng người nối nhau ngã xuống. Trước khi chết, bọn họ trừng mắt, không ngừng chất vấn Thẩm Lan: “Vì sao thấy mà không cứu?”

“Cô cứu con với!”

“Cô còn sống, thế ta thì sao?”

“Tại sao cô không cứu lão?”

Thẩm Lan hét lên một tiếng mở choàng mắt, trán đổ mồ hôi ròng ròng.

Bùi Thận bị nàng làm bừng tỉnh, thấy gương mặt nàng lúc này trắng bệch, dáng vẻ hãi hùng run rẩy, y vội vã ôm chặt nàng vào lòng, tì lên trán nàng, ấm giọng nói: “Nằm mơ sao?”

Trong màn tối đen, chỉ còn tiếng tim đập vững chãi của Bùi Thận là chân thực. Hai mắt Thẩm Lan cay cay, không nói lời nào mà áp mặt vào vò/m ngực ấm nóng của y, lắng nghe tiếng con tim y đập thật mạnh mẽ và mãnh liệt.

Một nhịp, một nhịp, lại một nhịp.

Nàng hiếm hoi mới dịu ngoan thế này, lòng Bùi Thận như mềm tan thành một vũng nước đường ngọt lịm, ngọt đến độ sắp chảy được ra thành mật.

“Đừng sợ, có ta đây.”

Nghe y thốt ra câu này, hốc mắt Thẩm Lan cay xè, dùng gương mặt cọ cọ vào y. Bùi Thận vừa thương vừa yêu, ôm lấy nàng thật chặt, bốn tay đan vào nhau, khẽ khàng thủ thỉ bên tai nàng: “Mơ thấy những gì vậy?”

Thẩm Lan há mồm, khô khan nói: “Rất nhiều người đã chết.” Ta tận mắt thấy họ chết đi. Hệt như lá rụng, rồi rơi ào xuống đất.

Bùi Thận không muốn nàng nhớ lại những cảnh tượng kinh khủng đó, nhưng cũng biết hôm nay nếu không chấm dứt chuyện này, sợ là nàng đêm nào cũng sẽ mơ thấy ác mộng, y tiếp tục ấm giọng hỏi: “Còn nữa không? Còn mơ thấy gì nữa?”

Thẩm Lan ngẩng đầu, ngơ ngác nhìn Bùi Thận, khàn giọng đáp: “Bọn họ hỏi ta, vì sao không cứu bọn họ?”

Bùi Thận vốn tưởng nàng bị ám ảnh cảnh giặc Oa giết người, nhưng không ngờ được nàng lại đang tự trách chính mình. 

“Nàng ngốc lắm, cả ngày cứ nghĩ ngợi miên man không đâu.” Bùi Thận biết nàng xưa nay mềm lòng, nhưng không nghĩ nàng lại mềm lòng đến nỗi như vậy. Y mở miệng nói: “Giặc Oa tới, tất cả mọi người tứ tán chạy trốn, ai lo thân nấy. Nàng cứ mải lo cho người khác, vậy có ai lo cho nàng không?”

“Không phải.” Thẩm Lan lẩm bẩm: “Ta chỉ là cảm thấy, con người không nên sống trong thời cuộc như vậy.”

Bùi Thận thoáng ngây ra, sau đó cười hỏi: “Vậy nàng cho rằng người nên sống trong thời cuộc ra sao? Giống như Văn cảnh chi trị? Hay là như Trinh Quán thịnh thế?”

Thẩm Lan rũ mắt không nói lời nào. Hồi lâu sau, nàng trả lời: “Vận nước điêu đứng, trăm nghề đều gặp khó khăn. Lẽ nào các quan trong triều hàng ngày chỉ lo trồng hoa chăm cỏ?”

Nàng chỉ là một nữ tử, lại đi nhọc lòng chuyện quốc gia đại sự. Bùi Thận bị nàng chọc cười: “Nàng yên tâm, ta đều đã tính cả rồi. Chắc chắn ngày sau không để nàng gặp phải cảnh này nữa.”

Thẩm Lan lắc đầu: “Ta chẳng qua cảm thấy mình có lẽ nên làm gì đó.”

Bùi Thận thấy dáng vẻ yêu nước thương dân của nàng thật là thú vị, cũng hùa theo hỏi: “Vậy nàng định phát cháo à? Hay là định đi chùa thắp hương cầu phúc? Nếu cần tiền thì cứ nói với ta là được.”

Thẩm Lan chợt thấy chẳng còn hứng thú nữa. Nàng đến cả tiền cũng phải hỏi Bùi Thận mới có, thật ra cũng chẳng thể góp sức làm nên cơ sự gì.

“Ta chỉ là nói nói vậy thôi.” Thẩm Lan qua loa, “Khuya rồi, ngủ thôi.”

Bùi Thận thấy nàng không quá muốn tán gẫu, nghĩ bụng nàng chắc là mệt nhọc. Y cười nói: “Giờ nàng đã hiểu bên ngoài thời cuộc không yên, sau này chớ có rời khỏi ta nữa đấy.”

Thẩm Lan giật mình trầm mặc, để mặc Bùi Thận ôm lấy nàng, nặng nề chìm vào giấc ngủ.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

*Một số thuật ngữ mảng Đông y sẽ được giữ nguyên bao gồm: Phong hàn, hàn tà, hàn khí, bắt mạch, nguyên khí… Các nàng có thể click vào các từ bôi đậm để tìm hiểu thêm thông tin nhé.

1 Tuổi “cổ lai hi”: tuổi xưa nay hiếm, ý chỉ 70 tuổi trở lên. Lấy ý từ câu “Nhân sinh thất thấp cổ lai hi” của Đỗ Phủ trong bài Khúc Giang Kỳ 2. Câu này cũng được Bác Hồ trích lại trong Di chúc của mình.

2 Văn cảnh chi trị: thời thịnh trị của Hán Vũ Đế, Trịnh Quán thịnh thế: thời thịnh trị của Đường Thái Tông. Điểm chung hai thời kì này là “quốc chính trong sạch, kinh tế phồn vinh, xã hội an định, võ công hưng thịnh.”, đặc biệt thời Đường mảng văn hóa thi ca, nhạc họa cực kỳ phát triển. (Wikipedia)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62: Tình ý


Sáng hôm sau, Bùi Thận ra ngoài lo làm công vụ. Thẩm Lan ăn không ngồi rồi, thêm chi đây là Bùi phủ ở Nam Kinh, sống nhờ trong dinh thự của gia đình người khác, nàng cũng không tiện đi dạo lung tung nên chỉ ngồi ngẩn người ở hành lang.

“Phu nhân, có Nhị thái thái đứng ngoài bảo là tới thăm.” Nha hoàn Xuân Lan hầu hạ nàng bước tới bẩm báo.

Thẩm Lan đêm qua mơ thấy ác mộng, tinh thần vốn đang uể oải, lại thêm vừa uống thuốc an thần gây buồn ngủ, đâu có sức xã giao với ai. Nàng xua tay: “Không gặp.”

Xuân Lan vẫn chưa nhích chân, chỉ cẩn thận khuyên nhủ: “Phu nhân, suốt ngày loanh quanh trong phủ cũng buồn, thôi thì có người tán gẫu cũng tốt mà.”

Thẩm Lan biết Xuân Lan là nha hoàn của Bùi gia, dù tạm thời bị điều tới hầu hạ nàng nhưng vẫn không dám trái ý Nhị thái thái, cho nên mới gắng khuyên nàng. 

Nàng không muốn Xuân Lan khó xử, thế là kéo một tấm chăn len mỏng đắp lên đầu gối, bảo Xuân Lan mời khách tiến vào.

Nhị thái thái từ cửa tròn đi vào, búi tóc đen tuyền vấn cao, cài đầy một nhúm thoa vàng, tai đeo ngọc trai Đông Bắc bóng loáng, mặc áo dệt kim cùng chiếc váy lụa xếp sáu li màu hồng.

Nhị thái thái ăn mặc cầu kỳ lộng lẫy đến nơi, giương mắt trông thấy một cô nương áo quần mộc mạc nằm tựa trên ghế gỗ, tóc mai hơi xõa, cũng chưa đánh phấn tô son, nhưng gương mặt nàng thanh tao diễm lệ, tựa như được điêu bằng ngọc thành.

“Đúng là tiên nữ hạ phàm.” Nhị thái thái bước vội tới trước, cười khanh khách cầm tay Thẩm Lan.

Thẩm Lan cũng mặc nàng nắm, nâng mắt cười nói: “Ta lười biếng, người cũng không dậy nổi, mời Nhị thái thái ngồi xuống chơi.” Nói đoạn, nàng kéo Nhị thái thái ngồi xuống một cái ghế khác.

Nhị thái thái hôm nay vốn là đến lấy lòng nàng, cho nên cũng chẳng bận lòng nàng thất lễ, luôn miệng khen: “Ta cũng không thích lễ nghi phiền phức rườm rà, tánh nết phu nhân hợp ý ta lắm. Thế này người ta bảo là tâm tính ngây thơ như đứa trẻ vừa sinh, tất thảy đều thuận lẽ tự nhiên mà thành.”

Thẩm Lan ngờ vực liệu người này có phải cần xin Bùi Thận giúp đỡ việc gì, nàng mở miệng: “Như Nhị thái thái đây mới hay, hào sảng nhanh nhẹn thế này, thật là khiến người khác cực kỳ hâm mộ.”

Hai người tung hứng vài câu, Nhị thái thái chưa nói việc chính, Thẩm Lan cũng tuyệt nhiên không nhắc. Hai người cứ thế tán gẫu lòng vòng. 

Nhị thái thái thấy nàng vững như núi, cuối cùng không nhịn nổi, nghiêng người kề sát vào tai nàng thì thầm: “Muội muội của ta ơi, không gạt gì muội, ngoài kia tin đồn nhảm nhí đã bắt đầu lan truyền, muội nhớ lưu ý nhiều hơn.”

Thẩm Lan không hiểu ra sao, đành cười nói: “Ta từ hôm qua đã chôn chân trong viện này rồi, nào hay tin đồn bên ngoài nó ra làm sao đâu.” Nàng tò mò hỏi: “Thế ngoài kia có chuyện gì?”

Nhị thái thái nhìn qua nhìn lại nàng một hồi, thấy khuôn mặt nàng lộ vẻ mỏi mệt, không nhịn được sinh lòng thương hại, thế là dịu dàng an ủi: “Cũng không phải chuyện gì nghiêm trọng. Chẳng là hôm qua trông thấy mấy thương nhân tới từ trạm Long Giang, gặp ai cũng kể rằng may sao hôm ấy họ vừa hay gặp con gái út của quan Thương thư Bộ Binh cũng trú tại trạm Long Giang.”

Thẩm Lan hơi giật mình, lạnh nhạt nói: “Những người thương nhân này quả là may mắn.”

“Đúng vậy.” Nhị thái thái than thở: “Nhưng người nọ thật là không hiểu chuyện. Cứ đi nói lung tung rằng hôm qua Bùi đại nhân đối xử với con út của Thương thư Binh Bộ Phạm Ý Chi kia rất là thân mật, cho rằng hai nhà hẳn là sắp thành hôn.”

Thẩm Lan đến tận lúc này mới rốt cuộc hiểu được Nhị thái thái tới để làm gì.

Hôm qua lúc chống giặc Oa, nàng đã xé vải che mặt. Lúc Bùi Thận ôm nàng quay về Nam Kinh, lại lấy áo khoác bọc nàng kín mít. Vị Nhị thái thái này không biết nàng mạo danh con gái út của Phạm Ý Chi, cho nên nghe được tin này mới vội vàng tới báo cho nàng để lấy lòng. Cũng không biết cuối cùng Nhị thái thái cần gì để đổi lại?

“Đa tạ Nhị thái thái.” Thẩm Lan cười nói: “Ta sẽ lưu ý.” Chỉ thế rồi không nói gì thêm.

Nhị thái thái vò khăn ra chiều sốt ruột. Phu nhân này nghe tin đàn ông nhà mình sắp cưới vợ, mà sao trông chẳng hề có chút gì là giận dữ?

“Phu nhân, nàng kia không biết tuổi tác thế nào, nhưng đã dám tranh chấp với lũ Oa, nhất định tánh nết cũng hung dữ tàn nhẫn. Phu nhân hãy lo chuẩn bị sớm.”

Nhị thái thái lại nói thêm ít câu sau đó mới đứng dậy rời đi.

Vào đêm, sương rơi trên ngói, trăng sáng trời quang.

Bùi Thận cầm đèn lồng quay về, thấy Thẩm Lan chỉ mặc áo đơn mỏng tang đứng trong sân, ngửa đầu ngắm vài ba ngôi sao thưa, sắc mặt y sầm xuống.

“Nha hoàn viện này làm việc chẳng ra gì. Thấy chủ sinh bệnh yếu ớt, cũng không biết đi ra khuyên lơn.” Nói rồi, y tháo áo choàng trên người xuống, sau đó bế Thẩm Lan vào phòng.

“Ngài đừng bực họ.” Thẩm Lan chợt hoàn hồn nói.

Nha hoàn vú già hoang mang quỳ sụp xuống hành lang. Sắc mặt Bùi Thận lạnh lùng, nhủ thầm ngày mai phải kêu Bùi Vinh đổi một đám khác tới hầu.

Thẩm Lan thấy y lạnh mặt không đáp, nàng ra hiệu bảo Xuân Lan dẫn đám người lui xuống, đừng đứng đây chướng mắt đến y.

“Tánh nết nàng thật là ngược ngạo.” Bùi Thận khịt mũi.

Thẩm Lan không muốn y nói tiếp việc này, đành đổi qua chủ đề khác: “Ban ngày Nhị thái thái của Bùi gia tới tìm ta, nói là ngoài kia người ta đang đồn ngài sắp thành hôn với con út của Phạm Ý Chi. Ta cũng không biết ý của bà ấy là gì?”

Bùi Thận thì lại hết sức rõ ràng. Ngày xưa Bùi gia đều dựa vào Bùi Hiện ra ngoài xã giao, kể cả xã giao với Phạm Ý Chi cũng là do Bùi Hiện lo liệu.

Bằng cách này, hệ thống của Google sẽ nhận diện và đẩy blog nhà mình lên trang đầu của lượt tìm kiếm. Nhiều bạn khác sẽ có thể được đọc free hơn, và từ đó giảm hoặc ngưng tiếp tay cho các hành vi đánh cắp thông tin của các page reup nhé.

Thôi thì, mưa nào mà hỏng tạnh? Đúng hong

Mà bây giờ Bùi Hiện bị y giam lại, Bùi Vinh nhân đây lên nắm quyền. Bỗng dưng nghe nói y định kết thân với Phạm Ý Chi, sợ Phạm Ý Chi sẽ nói đỡ cho Bùi Hiện, cho nên mới phái phu nhân nhà mình tới đây thám thính tình hình. 

“Không có gì to tát cả.” Bùi Thận cười nói: “Nếu nàng thích Nhị thái thái thì mời bà ấy tới tán gẫu chuyện trò. Nếu không thích, cứ đuổi đi là được.”

Dứt lời, y kề sát vào Thẩm Lan: “Nàng đang giận đấy ư?”

Thẩm Lan chẳng hiểu ra sao, kinh ngạc nói: “Sao ta lại giận chứ?”

Thấy mặt mày nàng thờ ơ, nói chuyện từ tốn chậm rãi như thường, Bùi Thận chẳng biết vì sao thấy lòng hơi bực bội. Y sầm nét mặt: “Nếu ta thật sự cưới con gái út nhà Phạm Ý Chi về, nàng cũng không tức giận?”

Thẩm Lan ngơ ngẩn, sau đó rũ mắt, lãnh đạm đáp: “Dù sao ngài cũng phải cưới vợ cả. Với ta mà nói, cưới ai cũng thế mà thôi.”

Bùi Thận bị câu này của nàng chọc giận, mặc dù không biết mình giận chuyện gì, nhưng nghĩ cảnh y vất vả một chuyến chạy đi cứu nàng, lại lo mời Thái y về khám cho nàng, buột miệng mắng: “Đúng là thứ vô tâm!”

Tư dưng bị ăn mắng, mặt Thẩm Lan cũng lạnh xuống: “Không phải ngài bảo ta phải “Nịnh nọt chủ mẫu, tự cam ti tiện” sao? Sao bây giờ ta bảo ai đến cũng được, ta đều hầu hạ cả, ngài lại nổi giận vậy?” Nàng châm chọc: “Bùi đại nhân nay thế này mai thế khác, thật là khó chiều!”

Bùi Thận hận nhất dáng vẻ lạnh nhạt chẳng bận lòng này của nàng. Vui sướng giận hờn gì cũng đều chẳng phải dành cho y. 

“Ngày mai ta sẽ đi Phạm phủ cầu hôn.” Bùi Thận mặt mũi tối sầm, gằn từng chữ một.

Thẩm Lan hơi giật mình, sau đó cúi đầu: “Chúc mừng đại nhân.” Nói đoạn, nàng quay người vào trong đi ngủ.

Thấy nàng như vậy, Bùi Thận càng thêm phẫn nộ, oán hận phất tay áo bỏ đi.

Lâm Bỉnh Trung bị y để lại ở Sơn Tây, Trần Tùng Mặc thì ở Kinh đô, Đàm Anh và Bình Sơn đều đang dưỡng thương. Bây giờ hầu cạnh Bùi Thận là đệ đệ của Bình Sơn – Bình Nghiệp.

Bình Nghiệp cầm cái đèn lồng vội vàng chạy theo Bùi Thận: “Đại nhân định đi đâu? Ti chức dẫn đường cho ngài.”

Bước chân Bùi Thận khựng lại. Đây là ở Bùi phủ, y chỉ yêu cầu một viện để Thẩm Lan nghỉ ngơi, cho nên lúc này chẳng còn chỗ nào để đi cả.

Bình Nghiệp thấy y dừng lại, gãi đầu: “Đại nhân sao không đi tiếp?”

Bùi Thận hậm hực quát: “Quay về!”

Bình Nghiệp rốt cuộc nhận ra đại nhân nhà mình không có chỗ nào để đi. Hắn tốt bụng khuyên nhủ: “Đại nhân đừng tức giận. Vợ chồng cãi nhau ấy mà, cãi nhau đầu giường làm lành cuối giường thôi. Mà lại, đại nhân sắp sửa cưới vợ, phu nhân kia sinh sự hờn dỗi cũng là chuyện thường.”

Bùi Thận cứng họng, nghe vậy càng thêm bực mình, mắng một câu “Ai nói ta sắp cưới vợ?!” Y bỗng ngừng chân: “Ngươi còn chưa cưới vợ, lấy kinh nghiệm đâu ra vậy?”

Bình Nghiệp cũng giống hệt ca ca Bình Sơn của mình, tính tình có phần khờ khạo, nghe vậy cười khúc khích: “Ti chức đúng là chưa cưới. Nhưng ca ca suốt ngày bị chị dâu cào. Lần trước ca ca của ti chức chỉ mới liếc nhìn tiểu nương tử đi ngang, vậy mà bị chị dâu cào mặt đến tứa cả máu.” 

Nương tử nhà người ta ai ai cũng biết ghen tuông. Nàng thì hay rồi, cả ngày đóng vai Bồ Tát! Bùi Thận bực mình không thôi, lạnh mặt quay về viện.

Thẩm Lan đã lên giường nằm. Nàng uống thuốc xong, đang lim dim sắp ngủ, chợt thấy màn lụa bị vén lên, ánh nến lấp lóe lọt vào trong, nàng lười biếng mở miệng: “Sao thế?”

Thấy nàng vẫn còn tâm trạng ngủ được, cảm xúc của Bùi Thận càng thêm khó tả, lạnh mặt nói: “Nàng ngủ ngon nhỉ.”

Thẩm Lan lờ mờ đoán được y lên cơn điên vì lẽ gì, lại thêm hôm qua được y cứu một mạng, cảm xúc trong lòng nàng cũng rối rắm khó phân, muôn ngàn lời lẽ xoay vòng tới lui, cuối cùng chỉ hỏi: “Ngài cuối cùng ý muốn thế nào?”

Bùi Thận đột nhiên tắt tiếng. Bởi chính y cũng không rõ mình muốn thế nào. Chỉ là thấy trong ngực như mắc nghẹn, cho nên cũng không muốn để nàng thư thái. 

Thấy y không nói lời nào, Thẩm Lan dứt khoát đứng dậy, lạnh mặt nói: “Ngài sắp cưới vợ, ta vô cùng hân hoan chúc mừng, ngài vẫn cứ là khó chịu. Chẳng có lẽ ta phải mặt mày đưa đám, ngài mới vui lòng sao?”

Tâm tư của Bùi Thận bị nàng chọc trúng, ngặt nỗi không thể há mồm hỏi nương tử nhà khác đều biết ghen, sao độc mỗi nàng chẳng có phản ứng gì? Hoặc là, muốn hỏi càng sâu chút thêm nữa.

Rằng nàng có tình ý với y không?

Nhưng những lời thế này, sĩ phu Nho giáo như Bùi Thận sao có thể nói ra ngoài miệng. Y chỉ đành nghiêm mặt chờ Thẩm Lan đề cập tới.

Nhưng Thẩm Lan mảy may bất động, Bùi Thận hết cách, đành tự mình lấp liếm: “Đâu ai bắt nàng phải mặt mày đưa đám. Nhưng ta sắp sửa cưới vợ, nàng lại chẳng tỏ vẻ gì, khác nào một khúc gỗ chứ?”

“Vậy ngài bảo ta phải có phản ứng chi đây? Trên đời này làm gì có chuyện vô lý đến thế? Làm thiếp cho ngài, vừa phải tự cam thấp hèn như khúc gỗ không vui không buồn, mặc cho chủ mẫu hạch sách, lại vừa phải vui sướng buồn giận như một người bình thường, lúc nào cũng dỗ cho ngài vui lòng.”

Thẩm Lan cảm thấy mỏi mệt vô cùng: “Ta đối với ngài vốn chẳng có tình ý gì, là ngài ép ta làm thiếp. Bây giờ xem ra, làm thiếp cho ngài yêu cầu cao quá, ta làm không nổi.” 

Nghe nàng nói mấy chữ “đối với ngài vốn chẳng có tình ý gì”, Bùi Thận vừa tức vừa hận. Phảng như trái tim lộn một vòng trong bụi gai chi chít, chỗ nào cũng cảm thấy đau, đến nỗi chỉ hít thở cũng có thể nghe loáng thoáng mùi máu tanh.

“Được, được lắm! Nàng đối với ta vốn chẳng có tình, là ta ép nàng!” Bùi Thận tức giận đan xen, chuẩn bị phất tay áo rời đi.

Thấy y nổi cơn thịnh nộ, Thẩm Lan chán ngán: “Ta chỉ là đứa thiếp hầu. Ngài muốn cưới ai, ta cũng không làm gì được.” Nói xong, nàng biếng nhác nói: “Khuya rồi, đi ngủ thôi.”

Thẩm Lan kéo chăn mỏng đắp lên người, nhắm mắt đi ngủ. Bùi Thận đứng sững một chỗ bực mình không thôi. Thật lâu sau, y mới mở miệng hỏi: “Câu vốn chẳng có tình ý của nàng ban nãy, là thật hay giả đấy?”

Thẩm Lan cực kỳ buồn ngủ, không muốn tiếp tục tranh cãi gì thêm, nàng qua loa đáp: “Giận thì nói vậy thôi.”

Bùi Thận vừa mừng vừa sợ định hỏi tiếp, nghi ngờ nàng có phải chỉ lấy lệ với y hay không, nhưng rồi lại thấy thật vô nghĩa. Dù sao nàng cũng không phải lần đầu nói không muốn làm thiếp. Chẳng qua lúc này trắng ra, mới nói những lời không có tình cảm gì với y gì đó. 

Nghĩ đến đây, Bùi Thận lại bắt đầu oán hận. Y muốn nữ nhân kiểu gì mà chẳng có, tội gì cứ phải dốc sức treo trên người nàng?

Chi bằng nghe theo lời thái y nói, cũng miễn cho nàng suốt ngày nhọc lòng bỏ trốn, hao mòn tuổi thọ. Huống hồ nếu nàng đã một mực muốn chạy, để nàng ra ngoài biết bên ngoài gian khó cỡ nào, khi ấy mới hiểu được chỗ tốt của y.

Nhưng nghĩ đi rồi thì nghĩ lại, mình vất vả bao lâu mới dây dưa được cùng nàng tới bây giờ, chỉ thiếu chút nữa sẽ thành công, bảo y cứ thế mà buông tay, y đâu chịu đồng ý?

Bùi Thận bần thần hồi lâu, bao nhiêu suy tư đảo lộn trong óc, cuối cùng không nhịn được hỏi tiếp: “Nàng có chắc chỉ là giận mới nói vậy không?”

Thẩm Lan lầu bầu đáp lại. Bùi Thận lúc này mới nguôi cơn tức. Nàng chọc giận y đã quen, chưa biết chừng trong lòng cũng có mấy phần tình cảm với y, chẳng qua mạnh miệng thì nói thế.

Bùi Thận tháo ủng lên giường, duỗi tay ôm Thẩm Lan vào lòng, thủ thỉ: “Ban nãy ta cũng giận nên mới nói vậy thôi. Con gái của Phạm Ý Chi thì liên can gì ta chứ?”

Thẩm Lan mơ mơ màng màng nghĩ, không phải người này thì cũng có người tiếp theo, có gì khác đâu?

Bùi Thận ôm nàng thật chặt, tiếp tục dỗ dành: “Đừng giận ta nữa. Đợi mai này nàng nuôi cơ thể khỏe mạnh lại thì sinh cho ta một đứa.” Đến lúc có con, nàng cũng nên hết hy vọng. 

Thẩm Lan chỉ coi như y ngủ mơ nói mớ, lẩm bẩm lấy lệ vài tiếng, sau đó chìm vào giấc ngủ.

Bùi Thận thấy nàng đã vào mộng đẹp, không nhịn được mắng một câu “Vô tâm”. Y hạ quyết tâm, chờ sinh một đứa, lại chờ năm rộng tháng dài qua đi, thế nào cũng chờ được đến ngày nàng có tình với mình.

Nghĩ thế, Bùi Thận thấy lòng bình tĩnh lại, cũng nhắm mắt đi ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63: Chào năm cũ


Bùi Thận ngày ngày đi sớm về trễ, Thẩm Lan thì uống thuốc, đầu óc cả ngày mơ mơ màng màng. Cứ thế trôi qua mấy ngày, Bùi Thận đột nhiên bảo nàng thu dọn hành lý.

“Sắp phải đi sao?” Thẩm Lan uể oải mà uống một chén nước pha mật ong, “Cũng đâu có gì mà phải thu dọn. Thiếu gì đợi về tới Sơn Tây lại mua vậy.”

Bùi Thận cười nói: “Không về Sơn Tây nữa.”

Thấy Thẩm Lan kinh ngạc ngóng nhìn, Bùi Thận hạ giọng giải thích: “Ta vốn là Tuần phủ Sơn Tây, nhưng bây giờ đã được điều sang làm Tuần phủ Chiết Giang rồi, chúng ta đổi lộ trình đi Hàng Châu nhậm chức.” (Bản đồ ở cuối bài)

Thẩm Lan hơi giật mình, hồi lâu sau, nàng ngẩng đầu hỏi: “Là do trận đánh Oa ở thành Nam Kinh sao?”

Bùi Thận nhướng mày, kinh ngạc trước phản ứng nhanh nhạy của nàng, y gật đầu nói: “Chính xác.”

Tổng cộng năm mươi ba tên Oa đổ bộ từ Cao Phụ, Chiết Giang, một đường vượt qua Hàng Châu, Thuần An, Hấp Huyện, Giang Ninh, đánh thẳng tới dưới chân thành Nam Kinh. Trong đó chỉ kể riêng Giang Ninh, binh lính bỏ mạng hoặc bị thương đã lên đến hơn ba trăm người. Quân thủ thành của Mạt Lăng Quan thậm chí phải bỏ thành mà chạy, mặt mũi của quốc triều đều mất sạch.

Nếu không phải y bắt được đám Oa ở trạm Long Giang, tiếp tục để chúng len lỏi thêm nữa, e là còn mất mặt nhiều hơn. 

Chính vì lẽ này, Tuần phủ Chiết Giang – Đặng Hào, Thượng thư Binh Bộ Nam Kinh – Phạm Ý Chi bị cách chức, liên đới thêm mấy chục người khác bị bãi quan.

Bùi Thận cũng nhân có công bắt giặc Oa, đổi sang nhậm chức Tuần phủ Chiết Giang, nhận nhiệm vụ thanh trừ giặc Oa.

“Khi nào đi?” Thẩm Lan hỏi.

Bùi Thận ấm giọng nói: “Mai đi ngay, ngồi thuyền từ trạm Long Giang tới trạm Cô Tô trước, sau đó qua trạm Tùng Lăng, Bình Vọng, Gia Hưng đến trạm Võ Lâm.”

Thẩm Lan khẽ ừ, lại hỏi: “Bình Sơn và Đàm Anh sao rồi?”

“Đứng lên đi lại được rồi.” Bùi Thận cười nói: “Nàng yên tâm đi.”

Không sao là tốt rồi. Lòng Thẩm Lan hơi khuây khỏa, nàng ngẩng đầu nói: “Vậy ta đi thu dọn ít quần áo.” Tuy không cần mang vác cồng kềnh, nhưng dù sao cũng cần mang ít món áo quần để tắm rửa hằng ngày.

Sớm hôm sau, chào từ biệt người của Bùi phủ xong, Bùi Thận dẫn Thẩm Lan lên thuyền hướng về Hàng Châu.

Ngày tháng trên thuyền rất là buồn chán, trong tầm mắt chỉ thấy mặt sông mênh mang, gió sông lạnh lẽo cùng cỏ lau mọc hai bên bờ.

Đã vào tháng mười, tiết trời lúc này càng thêm rét lạnh. Một số đường sông cạn đã bắt đầu đóng băng. Những người lái đò hai bờ mặc áo đơn, ngày đêm không ngừng phá băng, dây thừng thô ráp mài hai bả vai trầy trụa, vết thương sưng đỏ rồi bầm xanh bầm tím lại.

Thẩm Lan trông thấy, rất là không đành lòng, nhưng cuối cùng bất lực, nàng ngày càng trở nên trầm lặng hơn. 

Sức khỏe nàng không được tốt. Bùi Thận không muốn nàng ra đầu thuyền hứng gió, càng vui khi thấy nàng không ra nữa mà chỉ ngồi trong khoang sưởi ấm.

Trung tuần tháng mười, Bùi Thận Thẩm Lan hai người cuối cùng đến được trạm Võ Lâm ở Hàng Châu. Xuống khỏi thuyền, Bùi Thận an trí Thẩm Lan ở vào viện sau của nha môn Tuần phủ rồi vội vã ra ngoài đi gặp đồng liêu, cấp dưới.

Thẩm Lan thật sự không muốn mua thêm đồ đạc gì, cũng không có hứng thú chọn mua. Nàng chán chường sửa sang viện sau một phen rồi dọn vào ở.

Ai ngờ nàng mới vừa dọn dẹp xong, liền có nha hoàn tới báo có phu nhân Tri phủ Hàng Châu đến thăm hỏi.

Có lẽ là do uống thuốc thời gian dài, lại hoặc là bất lực trước những mảnh đời khó khăn, Thẩm Lan những ngày gần đây mỏi mệt khác thường.

Đó là một cảm giác mệt mỏi từ sâu trong tinh thần. Giống như một người sắp chết đuối vùng vẫy quá lâu, tay chân đều bắt đầu rệu rã, mãi cho đến khi đến tiếng kêu cứu cũng càng ngày càng nhỏ, rồi dần dần chìm hẳn.

“Không gặp.” Thẩm Lan lắc đầu: “Nếu có việc gì, kêu tướng công nàng đi tìm Bùi Thận.” Nói rồi, Thẩm Lan cởi áo khoác chuẩn bị đi nghỉ ngơi.

Mấy nha hoàn ở đây đều là Trần Tùng Mặc mới chọn mua về. Bùi Thận tới Chiết Giang nhậm chức, Trần Tùng Mặc cùng Lâm Bỉnh Trung cũng từ Kinh đô, Sơn Tây tề tựu lại đây.

Thấy Thẩm Lan nói không gặp, đám nha hoàn cũng không dám trái ý. Một người ra ngoài từ chối, những người còn lại vội vàng trải giường gấp chăn, pha trà châm hương.

Thẩm Lan uống xong một chén thuốc, mơ màng chìm vào giấc ngủ.

Cửa sổ hoa mận khảm thủy tinh màu trong suốt sạch sẽ lúc này hơi hé nửa cánh, để lộ vài nhánh ngô đồng trước hành lang. Trên án gỗ sồi khắc hoa văn linh chi trước cửa sổ có bày một chiếc lò Bác Sơn,  trong lò châm hương tứ khí, khói thơm nhè nhẹ tỏa ra quanh quẩn trong không khí.

Thẩm Lan ngủ một lát thì tỉnh, nàng vén tấm màn vẽ bức Tuyết cảnh hàn lâm lên, trông thấy Bùi Thận ngồi trên sập bằng gỗ hoàng hoa lê, đang nhàn nhã hớp chén trà Kiến Châu.

Thẩm Lan ngạc nhiên: “Mới giờ Dậu mà ngài đã về rồi sao? Không cần đi xã giao, gặp mặt cấp dưới ư?”

Bùi Thận đứng dậy ôm nàng ra khỏi giường, trong phòng đã đốt than sưởi khiến cả căn phòng đều ấm áp lên. 

“Cũng giữa tháng mười rồi, mùa đông khiến việc di chuyển trên sông ngày càng khó khăn hơn. Giặc Oa độ này cũng bớt sinh sự hẳn.” Bùi Thận kéo chăn mỏng đắp lên, lại ôm nàng vào lòng cười hỏi: “Ban ngày phu nhân của Tri phủ Hàng Châu tới, sao nàng không gặp?”

Thẩm Lan tuy vừa ngủ một giấc, nhưng lòng nàng mang nhiều tâm sự, cơ thể vẫn uể oải như trước, nghe vậy lắc đầu nói: “Nếu có việc cần, nàng sẽ còn đến tìm gặp ta lần nữa. Nếu không có việc gì, vậy cũng không cần gặp làm chi.”

Thấy nàng tựa như chú mèo quen thuộc mà tựa vào lòng mình, tim Bùi Thận cũng ấm nóng hừng hực, cúi đầu cười: “Mấy ngày nay thấy tinh thần nàng không tốt, nên ta mới cố ý dặn Tri phủ Hàng Châu bảo phu nhân nhà hắn tới trò chuyện với nàng. Ai ngờ nàng lại không chịu gặp.”

Nghe vậy, Thẩm Lan ngơ ngẩn một lát, liếc y nói: “Người ta đang làm vợ cả yên lành, ai lại muốn tới gặp đứa thiếp hầu như ta, ngài cứ một hai bắt người ta phải tới làm gì.”

Bùi Thận bị nàng nói sững ra, rồi chợt cười: “Nàng ngốc lắm. Nàng là người của ta, phu nhân kia vốn là nên đến chào hỏi nàng một tiếng. Nếu có thể dỗ cho nàng vui lên, thì nàng ta lại càng có thể diện trước mặt phu quân của mình chứ sao.”

Thẩm Lan biết đây gọi là xã giao giữa các phu nhân với nhau. Nhưng cảm giác bị một đám người tung hứng nịnh nọt, rồi nói những lời sáo rỗng vô nghĩa thì có gì thú vị kia chứ?

“Thật là vô vị.” Thẩm Lan lắc đầu: “Chẳng thà thả ta ra ngoài đi dạo còn hơn.”

Bùi Thận nhìn nàng một chút, thấy gương mặt nàng lạnh lẽo tái nhợt tựa sương tuyết, chẳng hề có sức sống. Ở Bùi phủ mới dưỡng lại được vài phần, hiện nay cũng đều bị tàu xe mệt nhọc làm tiêu hao sạch sẽ.

“Bây giờ mà ra ngoài làm chi?” Bùi Thận cuộn thêm chăn bọc nàng thật kín kẽ, “Sức khỏe nàng chưa tốt, ngoan ngoãn uống thuốc nuôi cho khỏe mạnh lại đã. Chờ qua mùa đông rồi, nếu sức khỏe nàng khá lên, ta sẽ dẫn nàng ra ngoài chơi.”

Thẩm Lan thất vọng, nếu không ra ngoài, sao có thể tìm được cơ hội đây. 

“Ngài bận rộn như vậy, biết bao giờ mới rảnh dẫn ta ra ngoài chơi chứ?” Thẩm Lan cẩn thận hỏi dò: “Hay là ta dẫn theo mấy người ra ngoài đi dạo loanh quanh một lát?”

Bùi Thận sao mà chịu thả nàng ra khỏi tầm nhìn của mình, lại cứ nghe nàng nhắc mãi muốn ra ngoài, lòng y hơi không vui, giở giọng cảnh cáo: “Ngoài kia vẫn còn đầy lũ Oa, chớ có chạy lung tung.”

Thẩm Lan nghĩ bụng, y mới rồi còn nói đông tới ngay cả lũ Oa cũng ít sinh sự, lúc này lại lôi giặc Oa ra làm cớ, thật là mâu thuẫn.

Nhưng nàng không thể ra ngoài, cũng lười cãi nhau với Bùi Thận, chỉ nói: “Thế khi nào ngài mới có thời gian?”

Bùi Thận ngẫm nghĩ: “Chờ tới Tết đi. Hai mươi bốn tháng chạp quan phủ sẽ đóng cửa ăn Tết, chắc khi đó sẽ rảnh thôi.”

Từ giờ tới Tết còn hơn một tháng nữa. Thẩm Lan gật đầu: “Ngài chớ có gạt ta đấy.”

Bùi Thận bật cười: “Ta lừa nàng làm gì?” Nói đoạn, y lại hạ giọng: “Kể ra, nàng theo ta cũng đã lâu nay. Năm đó ở Sơn Tây chiến sự căng thẳng, một mình ta cũng không có tâm trạng đón Tết. Nàng lại là nha hoàn, không tiện tự ý quyết định, cho nên cũng qua loa cho xong.”

Bùi Thận nói một hồi, thấy lòng cũng mềm nhũn ra: “Năm nay là năm đầu tiên hai ta ăn Tết đàng hoàng. Bắt đầu từ Lạp Bát mùng tám tháng chạp cho đến ngày Rồng Ngóc Đầu mùng hai tháng hai sang năm đều chiều ý nàng cả. Nàng muốn ăn Tết ra sao thì cứ làm thế đó.”

Ăn tết à.

Thẩm Lan chớp mắt thấy hơi hoảng hốt, chợt nghe một nỗi chua xót ùa về. Người thân bạn hữu chẳng còn, bản thân nàng phiêu bạt tha hương, một năm nữa trôi qua cũng chỉ khiến lòng thêm hoang vắng.

“Sao vậy?” Bùi Thận thấy nàng mất tập trung, đôi mày nhẹ vương chút u sầu, nhíu mày hỏi: “Ai chọc nàng không vui sao?”

Thẩm Lan gắng nuốt cả trời tâm sự xuống đáy lòng, mỉm cười lắc đầu. 

Hơn một tháng lại trôi qua, ngày dần bước vào kì rét đậm. Trời đổ tuyết lông ngỗng ba ngày liên tục, ngàn tán tùng, vạn ao nước đều phủ một màu tuyết trắng, tuyết rơi dày đến độ làm ranh giới giữa trời và đất như mờ hẳn đi.

Thẩm Lan mặc áo váy màu hồng thêu hoa chần bông thật dày, lại phủ thêm áo choàng lông thú mới được Bùi Thận cho phép mở cửa sổ ngắm tuyết.

Trên mái đình, dưới hành lang đều bị tuyết phủ, trong viện một mảnh trắng xoá, chỉ thừa lại một vệt xanh nơi bầu trời.

Thẩm Lan hà hơi lên cửa sổ khảm pha lê, chờ hơi nước tụ lại bám lên cửa, sau đó lại cười khúc khích lau đi, lại hà hơi rồi lau đi, lặp đi lặp lại vô cùng vui vẻ.

Bùi Thận trông mà tức cười, cầm cuốn sách vỗ nhẹ lên đầu nàng: “Không được ngắm lâu đâu đấy, coi chừng cảm lạnh.”

Thẩm Lan suốt ngày uống thuốc, lúc nào cũng buồn ngủ mê man, lại bị nhốt trong nhà bấy lâu, sớm đã trông đến ghét mấy cành ngô đồng trong sân. Bây giờ thấy cảnh tuyết mới mẻ, nàng không nhịn được vui sướng cười nói: “Mai là ngày mùng tám tháng chạp, bếp đã chuẩn bị cháo rồi, ngài có muốn gửi tặng cấp dưới?

Thấy nàng hôm nay rốt cuộc hơi tỉnh táo hơn, còn nghĩ được tới chuyện tặng cháo mùng tám tháng chạp, tâm trạng Bùi Thận cũng tốt hơn nhiều, mỉm cười nói: “Tất nhiên là phải tặng rồi.”

Thẩm Lan nhìn y cười: “Lần trước ngài đã hứa khi nào ăn Tết sẽ dẫn ta ra ngoài chơi đấy.”

Ra là nhắc cháo mùng tám tháng chạp là để nhắc y chuyện này. Bùi Thận thấy nàng mở to hai mắt mong đợi nhìn mình, y nén cười nói: “Đến hội đèn lồng tết Nguyên Tiêu, ta sẽ dẫn nàng ra ngoài dạo chơi.”

Khóe miệng Thẩm Lan nhếch lên, vui vẻ quay đầu đi ngắm tuyết.

Nàng hiếm hoi mới cao hứng như vậy, lòng Bùi Thận cũng rộn niềm vui: “Có muốn lấy ít tuyết về pha trà không?”

Thẩm Lan ngạc nhiên: “Đây là phong tục tập quán gì sao?”

Bùi Thận bước tới ôm nàng vào lòng, cười đáp: “Tuyết thủy phanh trà thiên thượng vị, quế hoa tác tửu nguyệt trung hương. Nếu nàng thích thì bảo bọn nha hoàn cạo lấy lớp tuyết mỏng đọng trên tán tùng, rồi đem cất vào trong cái vại cũ, đóng kín niêm phong một năm chờ mùi bùn đất biến mất. Sang năm có thể lấy ra pha trà, mát lạnh tuyệt vời, còn thoảng hương thơm ngào ngạt.”

Thẩm Lan cũng không biết y lại nổi cơn nghệ sĩ gì, lắc đầu: “Ngài không cho ta ra ngoài chơi tuyết thì chớ, còn bắt ta tận mắt nhìn người khác chơi, thật sao mà tàn nhẫn.”

Bùi Thận bị nàng chọc cười, ghì nàng vào lòng, hứa hẹn: “Chờ nàng khỏe rồi, ăn Tết năm sau, năm sau, cả những năm sau này nữa, nàng muốn chơi thế nào thì chơi thế ấy.” 

Tết năm sau…… Ngày tháng thế này bao giờ mới chấm dứt? Thẩm Lan cúi đầu, lặng im không đáp.

Mùng tám tháng chạp, ăn cháo mùng tám tháng chạp.

Hai mươi ba tháng chạp, cúng ông Táo.

Hai mươi bốn tháng chạp, quét dọn nhà cửa.

Hai mươi chín tháng chạp, dán hình hai vị Môn thần ôm kiếm lên cửa, lấy giấy đỏ viết câu đối xuân, treo dây may mắn khắp nơi trong nhà.

Đêm ba mươi, khắp nơi đốt đèn sừng dê, đầu giường treo Bát Bảo Cát Tường.

Bùi Thận và Thẩm Lan chuẩn bị quà mừng cho đám nha hoàn nô bộc, lại ban thưởng thêm chút vàng bạc. Chờ cúng kiếng xong, hai người ngồi cạnh nhau chuẩn bị ăn bữa cơm đoàn viên.

“Đưa tay qua đây.” Bùi Thận vẫy tay.

Thẩm Lan sửng sốt đưa tay qua, thấy Bùi Thận rút trong tay áo ra một chuỗi đồng tiền vàng dùng dây đỏ xâu lại thành cái vòng, cẩn thận cột vào cổ tay của Thẩm Lan.

Tiền vàng, dây đỏ, cổ tay trắng nõn, trông rất là đẹp mắt. Bùi Thận ngắm nghía một lát mới cười nói: “Cho nàng tiền mừng tuổi.”

Thẩm Lan hơi giật mình, mỉm cười nói: “Ta đâu phải con nít, đâu cần ngài mừng tuổi cho.”

Bùi Thận cũng cười: “Sức khỏe nàng không tốt, tiền này để trừ tà cầu bình an mà thôi.” Nói rồi, y khẽ vuốt tóc mai của nàng, dịu dàng nói: “Cầu cho nàng năm mới vạn sự trôi chảy, không bệnh không đau, tai qua nạn khỏi.”

Dưới hiên treo bó vừng khô, trong lò đốt mấy cành cây bách xông nhà, trên bàn rượu Đồ Tô nóng hổi, trái cây bọc đường xếp chồng lên nhau, tiếng pháo nổ lách tách rộn rã.

Thẩm Lan vuốt ve mấy đồng tiền trên cổ tay, giữa làn khói tỏa từ mấy cành bách ngẩn ngơ trông sang gương mặt tươi cười của Bùi Thận. Thật lâu sau, nàng rũ mi mắt, lặng yên không nói.

Bùi Thận cũng không biết nàng đang nghĩ gì, chỉ nâng khóe môi mỉm cười, vui vẻ nắm tay nàng, trong tiếng cười đùa rôm rả của đám nha hoàn, thị vệ, đút cho nàng một chén rượu Đồ Tô.

Chào năm cũ, đón tân xuân, một năm mới lại bắt đầu.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Vòng tay Thận tặng Lan: link mua tại đây

Chú thích:

Phong tục Tết cổ truyền Trung Quốc tham khảo tại đây (Tiếng Trung)

Bản đồ cho các nàng hình dung đường đi từ Nam Kinh đến Hàng Châu
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 64: Hội Nguyên Tiêu kết thúc


Qua đêm giao thừa, từ mùng một đến mùng năm Bùi Thận chỉ ở nhà đón tiếp cấp dưới tới chúc mừng năm mới liên tục không dứt.

Mùng bảy ăn củ cải, mùng tám cúng sao hội.

Mùng chín đến mười bốn tháng giêng vốn là thời gian để các gia đình mời gánh hát gánh múa về nhà diễn mừng xuân. Nhưng lần này Bùi Thận sợ nàng lại gặp những tiên sinh mù hát những khúc nhạc diễm tình, bán những thứ thuốc men linh tinh bậy bạ, cho nên không cho phép mời gánh tuồng về nhà, chỉ bảo nếu nàng thích thì mua một gánh hát hí nhỏ để nuôi riêng trong phủ.

Thẩm Lan mất sạch hứng thú, chỉ ngóng chờ đến ngày Nguyên Tiêu.

Mười lăm tháng giêng, Bùi Thận thay trung y mới màu trắng, mặc áo trực chuyết từ lụa Sơn Tây, khoác áo choàng xanh thêu hoa văn như ý bằng vàng, đeo dây eo móc hộp hương khắc li long bằng bạch ngọc, tay cầm quạt Kim Xuyên.

Thẩm Lan thì búi tóc kiểu thiêu tâm, giữa trán đính hoa mai, nghiêng nghiêng cắm một cây thoa phượng hoàng vàng khảm ngọc trai, thay áo đối khâm màu trắng, váy gấm dệt màu xanh ngọc lục bảo, mang ủng da dê, khoác áo choàng nhung đỏ thêu trăm bướm vờn hoa.

Lúc này trăng soi trên mái đình sắc trắng lành lạnh, có người mỹ nhân xuyên qua hành lang ngập mai đỏ, mang theo làn gió ấm lả lướt đến gần. 

Bùi Thận trông mà ngây dại.

“Đi thôi.” Thẩm Lan nói.

Bùi Thận ngẩn người một lúc, bỗng dưng cảm thấy có phần hối hận: “Nàng hôm nay sao lại trang điểm thế?”

Thẩm Lan không hiểu ra sao: “Hiếm hoi mới ra ngoài một chuyến chứ sao.”

Bùi Thận khe khẽ thở dài: “Lát nữa ra ngoài nàng đeo mạn che mặt lại, được chứ?”

Thẩm Lan nhíu mày: “Mạn che vốn là để chắn gió cát. Hàng Châu này lấy đâu ra gió cát, ta đeo nó làm chi? Huống hồ lễ lộc đầu năm, bên trên dỡ lệnh cấm, cho phép cả phụ nữ chốn khuê phòng ra ngoài dạo chơi, vì sao ta phải đeo mạn che?”

Bùi Thận tự biết mình đuối lý, ngại ngùng nói: “Ngoài kia thế nào cũng có mấy tên ăn chơi rượu chè, để chúng nhìn trúng thì phiền thay.”

Thẩm Lan biết rõ Bùi Thận thế này chẳng qua là do nổi lòng ham mu.ốn chiếm hữu mà thôi, nàng mới không chiều ý y, lạnh lùng nói: “Chẳng lẽ ngài thấy ta lâu lâu mới vui vẻ một ngày, nhất định phải sinh sự với ta?”

Bùi Thận nghẹn họng, chỉ đành mặc Thẩm Lan cứ thế ra ngoài.

Hai người ra từ cửa nách nhỏ viện sau của nha môn Tuần phủ. Vừa ra khỏi cửa, đã thấy quán ăn, quán trọ, nhà ở hai bên đường đều dùng những cây gỗ dài để treo đèn lồng đủ màu, cao thấp chen nhau, tựa như mười dặm sao trời luân phiên nhấp nháy.

Dưới đèn ngựa xe như nước, áo quần như nêm. Tiếng người cười nói khắp nơi. Dù là thiếu nữ khuê phòng, hay là bà lão ven đường, học sinh sĩ tử, nông dân khuân vác, ai ai cũng nắm tay nhau ngắm đèn treo.

Dưới những quán xá hai bên đường, những người bán hàng rong và người đi đường đang hò hét, ồn ào dưới ánh đèn rực rỡ.

“Đèn quả bóng đây! Đèn quả bóng đây! Đèn quả bóng dây tơ vàng đây!

“Đây là bướm đội đầu bằng giấy vàng đen, mới công tử đến xem.”

“Ngọc mận, liễu tuyết, lá bồ đề——”

Thẩm Lan nổi hứng mua lấy mười mấy đèn quả bóng nhỏ. Đèn này thì ra là lấy giấy màu trắng cắt ra, cẩn thận dán lên quả trám. Từng cụm đèn quả bóng làm từ quả trám nối đuôi với đủ màu sắc và hoa văn khác nhau trông rất đẹp mắt. 

“Nếu nàng thích thì cứ mua đi.” Bùi Thận ôm một nắm định gắn lên tóc nàng, ai ngờ Thẩm Lan lại không chịu.

“Ai cũng cài lên tóc thì có gì mới mẻ chứ?” Dứt lời, nàng cầm từng chùm đèn treo lên dải lụa xanh lá cây bên eo.

Bùi Thận buồn cười, cũng để mặc Thẩm Lan treo chùm đèn quả bóng, bướm đội đầu lên váy áo nàng. Một đường dạo tới, y nắm chặt lấy tay nàng không buông, sợ nàng đi lạc mất. Trẩy hội nô nức, người tới người lui tấp nập, chợt thấy có người dựng sân khấu hát tuồng.

“Người cao đi ngắm đèn, chen chúc đến độ phải duỗi cổ ra. Người lùn đi ngắm đèn…” (1)

“Nhị gia có hỉ, ba ngọn đèn. Thi đậu tam nguyên, bốn ngọn đèn. Bốn mùa như ý, năm ngọn đèn……” (2)

Thẩm Lan nghe được bật cười, nghỉ chân một lát rồi vừa nhịn cười vừa bước lên phía trước. Bên này thậm chí còn ồn ào náo động hơn sân khấu ban nãy.

“Tiên sinh đừng hát truyện Tạ Tiểu Nga nữa! Đổi cái khác đi! Cái khác đi!”

“Đừng đá cầu thế Phật đỉnh châu nữa, đá thế tiễn đao quải đi.”

“Tên đá bình đằng trước kia, đừng choán chỗ người ta nhảy lộn nhào chứ!”

Thẩm Lan qua hai con phố, chen vào trong đám người, xem nhảy dây, đá cầu, múa rối bằng gậy, nuốt đao phun lửa……

Nàng bị Bùi Thận dắt tay vừa đi vừa ngẩng đầu nhìn.

Đèn cung đình, đèn bạc, đèn pha lê, đèn kéo quân, đèn bình phong, đèn chuế châu, đèn da dê, đèn cá chép, đèn Hà Thần …… Chỉ mỗi hai con phố này đã bày nhiều vô số, có thể đếm được không dưới trăm loại đèn.

“Mấy ngày trước nghe tri phủ Hàng Châu nói cửa hàng Lâm thị ở Tiền Đường làm một cái đèn bánh xe khổng lồ, cao đến mấy trượng. Nàng có muốn đi xem thử không?”

Bùi Thận vừa nói xong, hai người liền đi ngang qua một chiếc đèn ngao sơn không biết do ai làm. Hai con rồng vàng ngậm đèn ngọc lượn vòng, thần phật vờn quanh, phát ra ánh sáng kì ảo.

Còn có mấy tiểu nhị mặc áo quần ngắn lấy giấy hồng óng ánh treo lên đèn ngao sơn, bên trên có đề dòng chữ “Tiệm vàng Lý gia ở phố trước tặng một chiếc đèn ngao sơn.”

Thẩm Lan không nhịn được mà bật cười, thì ra là quảng cáo à. 

Bùi Thận cũng cười, vừa cười vừa dắt Thẩm Lan tiến về phía trước. Vừa đến phường Phong Ninh, hai người chợt thấy ngọn núi bằng đèn cao đến mấy trượng, với hàng chục ngàn chiếc đèn lồng được treo trên hơn chục cọc tre cao chót vót. Nào đèn cá chép, đèn con cua, đèn sư tử ……

“Cao quá.” Thẩm Lan ngẩng đầu khen ngợi. Thì ra ở lầu ba của quán rượu kế bên, người hầu trà vẫn đang lấy gậy dài để tiếp tục treo thêm đèn lên ngọn núi kia.

Bùi Thận thấy nàng nhìn chiếc đèn con cua vài lần, y mỉm cười nói với tiểu nhị mặc áo xanh kế đó: “Gỡ chiếc đèn con cua kia xuống đây.”

“Bẩm công tử, đèn này phải đoán trúng câu đố chữ thì mới được lấy.” Nói đoạn, hắn giơ gậy lên móc chiếc đèn con cua xuống.

Thẩm Lan sán lại gần, thấy trên đèn viết câu đố rằng: “Ỷ lan càn, đông quân khứ dã. Thiếu hoa gian, hồng nhật tây trầm.”

Bùi Thận đọc qua đã đoán được đáp án là chữ “môn”, y quay sang cười hỏi Thẩm Lan: “Nàng đã đoán ra chưa?”

Thẩm Lan suy nghĩ một lát, cười nói: “Có phải chữ “môn” không?” (門)

Bùi Thận gật đầu cười khanh khách: “Thật là thông minh.”

Hiếm hoi mới nghe người này nói vài câu dễ nghe, tâm trạng Thẩm Lan hết sức thư thái, vui vẻ cầm lấy đèn con cua, tò mò lắc tới lắc lui.

Bùi Thận thấy thế, trêu nàng: “Người ta đều thích nào đèn hoa sen, đèn tiên nhân, lắm quá thì cũng đèn cá chép, đèn như ý là cùng. Nàng lại đi thích đèn con cua?”

Thẩm Lan lắc qua lắc lại chiếc đèn, cũng cười: “Con cua thì có gì không tốt chứ? Tràn trề sức sống, dũng cảm kiên cường.”

Bùi Thận nghe xong, vậy mà cũng gật gù hùa theo: “Thế thì nàng nên lấy một chiếc đèn rùa đen mới đúng.” Cầu cho nàng cũng như rùa kia khỏe mạnh an khang, sống lâu trăm tuổi.

Thẩm Lan khịt mũi một tiếng, cho rằng y chê cười mình nên không thèm để ý tới, đang chuẩn bị bước về phía trước, ai ngờ Bùi Thận cầm cây quạt chỉ về phía chiếc đèn kéo quân chạm bạc trên cao, cười hỏi: “Đèn rùa đen thì không có, vậy có thích chiếc kia không?”

Thẩm Lan ngẩng đầu nhìn lên, thấy ngọn đèn kéo quân kia chủ yếu dùng bạc điêu khắc thành, tua rua bốn góc đều được chạm bằng bạc. Gió nhẹ thổi qua, tua rua lung lay hệt như thật. Bốn bức tường đèn đều vẽ chân dung các mỹ nhân, dưới ánh nến nhảy múa, các mỹ nhân uốn lượn, cá ngoi rồng lặn hết sức sống động.

“Đẹp.” Thẩm Lan lẩm bẩm.

Bùi Thận nghe nàng khen đẹp, ngay lập tức định bảo tiểu nhị gỡ đèn xuống, bỗng lại bị Thẩm Lan kéo kéo ống tay áo, chỉ về phía xa.

Bùi Thận nghi ngờ nhìn về phía nàng chỉ tay, thấy có một sĩ tử mặc lan sam sai tiểu nhị đọc câu đố trên ngọn đèn kéo quân kia.

Tên tiểu nhị thấy nhiều công tử tiểu thư đều đang nhìn chằm chằm ngọn đèn chạm bạc này, thế là chắp tay thi lễ, cao giọng nói: “Các vị già trẻ mời nghe cho kỹ. Câu đố của đèn này đó là Nhân nhân giai đái tử chiêm mạo, quân thật tân lai chuyển nhất quan, môn trạng tống hoàn vương giới phủ, lộ công thân thượng bất tằng hàn. Đáp án là tên của bốn người.”

Mọi người nghe xong câu đố, tiếng bàn tán vang lên xôn xao, nhưng vẫn chưa ai tìm ra được đáp án.

Sĩ tử mặc lan sam lúc nãy bảo tiểu nhị đọc câu đố, bây giờ liên tục liếc nhìn thiếu nữ đứng cạnh, dáng vẻ đoán chừng không tìm được đáp án để lấy đèn tặng cho nàng. Hắn nôn nóng đến độ vò đầu bứt tai, dù vậy vẫn cố tỏ vẻ bình tĩnh.

Thẩm Lan buồn cười, níu lấy ống tay áo Bùi Thận khẽ nói: “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Ngài cho người khác một cơ hội đi.”

Bùi Thận cười nhạo: “Hắn cầu thục nữ của hắn, ta cũng có thục nữ ta muốn cầu. Đều phải tự dựa vào bản lĩnh của chính mình thôi.”

Thẩm Lan hơi giật mình, lại nghe Bùi Thận cao giọng nói: “Đáp án phải chăng là Trọng Trường Thống, Tư Mã Thiên, Tạ An Thạch, Ôn Ngạn Bác, đúng không?”

Tên tiểu nhị mở đáp án ra nhìn, thấy quả đúng là bốn người này. Tuy tiếc đứt ruột, hắn cũng chỉ đành lấy ngọn đèn kia xuống mang ra. 

Thẩm Lan tay trái cầm đèn con cua kiểu con nít, tay phải cầm đèn chạm bạc lộng lẫy mỹ miều. Thấy bốn phương tám hướng đều là những ánh mắt hâm mộ, lòng nàng khó tránh khỏi thấy buồn cười.

Sĩ tử mặc lan sam thấy đèn chạm bạc bị người khác cầm đi, cắn môi nhanh tay cầm một ngọn đèn cá chép quay sang tặng cho thiếu nữ.

Thiếu nữ nắm khăn tay ném về phía hắn, rồi lại liếc nhìn hắn một cái, sau đó chui vào trong đám đông. Sĩ tử hân hoan hớn hở vội nhặt khăn tay lên, co chân đuổi theo.

Bùi Thận thấy vậy, cầm quạt chọt chọt trán Thẩm Lan: “Người kia chỉ dùng một chiếc đèn cá chép thô sơ tầm thường đã đổi được chiếc khăn tay. Ta giúp nàng thắng một chiếc đèn chạm bạc đẹp thế này, nàng định lấy gì tặng lại cho ta đây?”

Thẩm Lan liếc nhìn y một cái, cầm chiếc đèn con cua đưa cho Bùi Thận. Lúc này mới rảnh tay cầm một cái đèn quả bóng nhỏ trên eo đưa cho y. 

“Thưởng cho ngài.”

Bùi Thận kinh ngạc bật cười: “Nàng có đến mấy chùm mà chỉ cho ta một cái, có phải hơi keo kiệt không chứ?”

Hai mắt Thẩm Lan lúng liếng: “Ngài tặng ta một ngọn đèn, ta đưa ngài một quả bóng. Lấy một đổi một, sao lại là keo kiệt?” Nói đoạn, nàng lấy lại đèn con cua, thong thả dạo bước về phía trước.

Bùi Thận vừa cười vừa cất đèn quả bóng vào tay áo, đuổi theo nàng nói: “Hôm nay tri phủ Hàng Châu định đốt pháo hoa, nhẩm tính canh giờ chắc cũng sắp rồi đây.”

Y vừa dứt lời, Thẩm Lan liền nghe thấy từng tiếng nổ lớn “Đùng! Đùng! Đùng!”.

Nàng xoay người lại, ngẩng đầu trông thấy giữa màn đêm là vô vàn những đóa thủy tiên bừng nở, trắng nhạt pha vàng, sống động hệt như thật.

Đầu tiên là thủy tiên tháng giêng, rồi đến hoa đào tháng hai, sơn trà tháng ba…… Cho đến mai đỏ tháng mười hai đua nhau nở rộ.

Đèn đuốc sáng trưng, pháo hoa đầy trời, sao rơi như mưa.

Những ánh sao ấy phản chiếu ánh sáng lấp lánh vào trong đôi mắt Thẩm Lan. Bùi Thận nhìn nàng, đáy lòng thốt nhiên cảm thấy một cảm giác đủ đầy, vững lòng hơn bao giờ hết.

Xem xong trận pháo hoa, Thẩm Lan đã cảm thấy mỹ mãn, nhếch môi cười hỏi: “Còn gì để chơi nữa không?”

Bùi Thận cầm tay nàng cười khanh khách: “Đi tới đằng trước nữa sẽ gặp cổng Võ Lâm. Có muốn tới  cổng sờ đinh không?”

Thẩm Lan hơi giật mình, tò mò hỏi: “Đây là phong tục gì thế?”

Bùi Thận nhìn nàng một cái, sau đó mỉm cười nói: “Trên cổng thành có nhiều cây đinh cũ bằng đồng. Chữ đinh trong cây đinh (釘) đồng âm với chữ đinh trong con cái (丁), ngụ ý cầu con cái cho phụ nữ.”

Nụ cười trên khuôn mặt Thẩm Lan vụt tắt. Nàng cúi đầu ngắm chiếc đèn chạm bạc, nhàn nhạt nói: “Sờ đinh gì chứ, chỉ là mê tín mà thôi.”

Thấy nàng không hề có chút mong đợi nào như những người phụ nữ khác, dường như không muốn sinh con cho mình, lòng Bùi Thận hơi có không vui, lạnh mặt nói: “Nàng cớ sao không muốn đi?”

Thẩm Lan ngẩn người hồi lâu, sau đó cố ý chọc vào chỗ đau của y: “Sinh đứa con gái thì cũng thôi. Lỡ như là con trai, Bùi đại nhân chẳng lẽ muốn có con cả mà lại là con thứ sao? Ngài không phải sợ gia đạo không yên à?”

Bùi Thận đã sớm ngẫm xong việc này, bấy giờ khoanh tay thong thả đáp: “Những gia đình như chúng ta tuy nói là thừa kế tước vị, nhưng suy cho cùng, vị trí thừa kế cũng chỉ có một. Tất cả những đứa con trai trong nhà, không luận xuất thân đích hay thứ, ai cũng phải dựa vào chính mình. Nếu hai ta có con trai, cứ bảo nó lo đọc sách thi cử, tự mình xây dựng tương lai là được.”

“Ta không muốn.” Tất thảy niềm hân hoan Thẩm Lan có nãy giờ đều tan biến đâu mất, nàng cũng lạnh nhạt nói: “Sinh con ra rồi, cả đời này đều chẳng thể gọi ta một tiếng “Mẹ”.”

Thẩm Lan dứt câu, cầm đèn chạm bạc đưa cho Bùi Thận: “Trả lại cho ngài.” Nói rồi, nàng cầm lấy đèn con cua của mình, quay lưng bỏ đi.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Áo đối khâm Thẩm Lan mặc: link mua tại đây

Áo choàng nhung đỏ: link mua tại đây

Chú thích:

Tầm 2020 có một nhóm bạn đã phục dựng lại đèn con cua truyền thống của Việt Nam, tham khảo ảnh tại đây

Ăn mặc và trang điểm của phụ nữ Trung Quốc cổ đại trong các dịp lễ tham khảo tại đây (tiếng Trung)

1+2: Hai câu trích trong vở hí kịch Vợ chồng ngắm đèn

Đôi nét về con đích và con thứ: con đích là do vợ cả sinh ra, có quyền lợi tuyệt đối về việc thừa kế chức tước, tài sản và được ưu tiên phân bổ nguồn lực trong gia đình. Con thứ là do vợ lẽ sinh ra, nói là vợ lẽ, nhưng những người này không được tính là vợ (thê), mà là bậc dưới từ thiếp trở xuống sinh ra. Con thứ không được ưu tiên thừa kế và phân bổ nguồn lực trong gia đình. Ngoài ra ở Trung Quốc cổ đại, các con thứ sẽ gọi mẹ cả là mẹ, còn mẹ ruột thì gọi bằng chức danh (ví dụ phu nhân hoặc di nương). Ở Việt Nam thì mình chưa đọc thấy tư liệu về vấn đề này. Chi tiết hơn về con trưởng đích tham khảo tại đây (tiếng Việt)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 65: Thợ cài trâm


*Nguyên văn Sáp đái bà: người chuyên hỗ trợ đeo trang sức đội đầu cho các phụ nữ quý tộc mỗi lần đi tiệc.

Thấy nàng từ từ đi xa, Bùi Thận bất mãn trong lòng. Vốn định tranh cãi với nàng, nhưng y ngẫm lại, tánh nết nàng trước nay bướng bỉnh lạ kì, dù có cãi cọ tới lui cũng chưa hẳn thuyết phục được nàng, chưa biết chừng ngược lại còn ăn trận mắng. Thế là y nghĩ bụng chờ năm tháng dần trôi, sinh mấy đứa nhóc là được.

Quay về phủ, Thẩm Lan đi nghỉ ngơi. Bùi Thận cũng chưa từng nhắc lại chuyện sinh con, chỉ ngày ngày đi sớm về trễ, bận bịu huấn luyện sĩ tốt, thanh trừ giặc Oa.

Tháng ba cuối xuân, hoa đào nở rộ, sông xuân ấm áp, Thẩm Lan sáng sớm đã nhận được một tờ thiệp mời.

Ngoài thiệp vẽ vòm hoa vàng nhạt, bên trên viết “Ngày mười lăm tháng ba, phi lai phong hạ, liễu châu đình bạn, Ký Viên trúc đào, cung hầu tảo lâm. Ngu (1) Tôn Yểu Nương, khấu đầu bái.”

Thẩm Lan vuốt ve tấm thiệp, trầm ngâm suy tư.

Chờ khi chập choạng tối Bùi Thận trở về, Thẩm Lan mới mở miệng hỏi: “Ngài có biết Tôn Yểu Nương là vị nào không?”

Tên này vừa nghe đã biết là tên nữ, Bùi Thận nào hay người này là ai, cầm thiệp lên đọc xong, mới cười nói: “Ký Viên là vườn tư nhân của tri phủ Hàng Châu – Trình Điển. Vậy Tôn Yểu Nương này có lẽ là phu nhân của hắn.”

Phu nhân Tri phủ Hàng Châu ba lần bốn lượt mời nàng làm gì? Thẩm Lan suy nghĩ một lát, hỏi: “Không biết nàng tìm ta có chuyện gì?”

Bùi Thận cười nói: “Hẳn là lần trước nàng ta đến, nàng không chịu gặp. Nàng ta sợ hãi trong lòng, cho nên vừa qua năm mới liền gửi thiệp mời nàng đi Ký Viên dạo chơi.” Nói rồi, y nhìn nàng một cái: “Nàng nếu thích thì cứ đi cũng được.”

Thẩm Lan kinh ngạc: “Thật là họa hoằn lắm thay. Không phải ngài nói trước mùa thu ta không được ra ngoài sao?”

Bùi Thận nghĩ thầm từ đêm Nguyên Tiêu hai người tan rã trong không vui, nàng tâm sự trùng trùng, ban đêm lăn qua lộn lại khó ngủ. Chi bằng nhân dịp này thả nàng ra ngoài cho tinh thần thư thái chút đỉnh.

Bùi Thận gắp một đũa hoa hòe ngâm mật cho nàng, mỉm cười nói: “Ta không cho nàng ra ngoài cũng chỉ vì sức khỏe nàng chưa tốt. Cực khổ nuôi qua một mùa đông mới có chút khởi sắc, chứ không phải cố ý nhốt nàng trong nhà.”

Thẩm Lan cười lạnh trong lòng, nghe Bùi Thận nói tiếp: “Nếu nàng muốn ra ngoài dự tiệc cũng được, chỉ cần đồng ý một yêu cầu của ta thôi.”

Thẩm Lan nhìn y nhủ thầm, chắc lại là không được tách khỏi nha hoàn, không được nảy sinh ý định chạy trốn gì đó nữa, thế là gật đầu: “Ngài cứ nói.”

Bùi Thận nghiêm mặt: “Không được đi tới những nơi lạnh lẽo, những chỗ trên cao, hoặc là đi lên thuyền, mấy nơi dễ gặp gió giống như vậy, toàn bộ đều không được đi. Có chịu không?”

Thẩm Lan hơi giật mình, rũ mí mắt không đáp. Hồi lâu sau, nàng nghĩ mấy lời này của y cũng chỉ là kỹ xảo dụ dỗ thôi, nàng gật đầu đồng ý, lại hỏi: “Ngài còn gì dặn dò nữa không?”

Bùi Thận sửng sốt, buồn bực nói: “Làm gì còn dặn dò chi nữa?”

Vẻ mặt Thẩm Lan nhàn nhạt: “Không cần ta kết giao với các vị phu nhân trong tiệc sao?”

Bùi Thận bị nàng chọc cười, chọt trán nàng nói: “Tiệc này chẳng qua là để đám phu nhân tới tìm vui cho nàng. Nàng cứ tùy tâm là được, muốn làm thế nào thì làm thế đó.”

Thẩm Lan ngẫm nghĩ, đây chính là chỗ tốt của quyền hành đấy thôi. Nàng thở dài một tiếng, gương mặt toát ra mấy phần uể oải.

Bùi Thận buông đũa, ôm lấy nàng vào lòng, nhẹ giọng dỗ dành: “Nàng thích thì đi, không thích thì khỏi đi cũng được.”

Khó khăn lắm mới có cơ hội ra ngoài, Thẩm Lan không muốn bỏ qua, bèn lắc đầu: “Ở nhà ngột ngạt bấy lâu, ra ngoài hít thở không khí cũng tốt.”

Hai người lại tán gẫu ít câu, rồi mới rồi tắm gội thay quần áo, lên giường nghỉ ngơi.

Qua thêm mấy ngày, hôm nay đã tới mười lăm tháng ba, Thẩm Lan sửa soạn chỉn chu rồi ngồi xe ngựa đến Ký Viên dự tiệc.

Ký Viên nằm gần đình Liễu Châu, diện tích chừng hơn hai mươi mẫu đất, lưng tựa núi, mặt hướng ra Tây Hồ, đình đài lầu các trải rộng, hoa thơm cỏ lạ chen nhau. 

Thẩm Lan vừa xuống xe ngựa, liền có tỳ nữ bước tới dẫn đường. Vòng qua bức ảnh bích, đi dọc hành lang xuyên qua mấy vòm cửa tròn, nàng chợt thấy trước mặt rộng rãi thoáng đãng lên.

Thì ra trong Ký Viên người ta đã san bằng vài mẫu đất, rồi dẫn một nhánh nước từ Tây Hồ vào, còn trồng hoa đào dọc theo đó.

Bây giờ đang độ cuối xuân, phi đào, bích đào, đào khỉ đế, đào nhân diện, phi vũ thùy chi …… Phải đâu hơn mười loại đào, từ trắng tinh tới hồng phấn, hồng nhạt, hồng đỏ rung rinh trong gió xuân.

“Phu nhân nếu muốn thưởng đào, mời vào trong đình Võ Lăng an tọa.” Nha hoàn dẫn đường có lẽ là tỳ nữ tâm phúc của Tôn Yểu Nương, mồm miệng lanh lợi, ôn hòa dễ gần, dẫn Thẩm Lan vào đình Võ Lăng.

Đình này xây giữa rừng đào, Thẩm Lan men theo đường mòn lát đá vào trong, nhìn thấy trước mặt có một đình nhỏ mái nhọn, dòng suối trong vắt uốn lượn chảy qua. Cạnh đình có một tảng đá gồ ghề sừng sững như vách đá tự nhiên, bên trên có khắc bốn chữ “Võ Lăng dật sắc”.

Thẩm Lan vừa bước đến gần, liền thấy có một phụ nhân mặc áo chần bông đỏ thẫm ra đón, cười khanh khách nói: “Bùi phu nhân đã đến rồi sao?”

Thẩm Lan chưa kịp trả lời, phụ nhân kia đã thân thiết níu cánh tay nàng, tươi cười: “Bùi phu nhân, ta là người phát thiệp mời Tôn Yểu Nương. Ngài gọi ta Yểu Nương là được.” Nói rồi, nàng dẫn Thẩm Lan vào trong, giới thiệu những phụ nhân khác đang ngồi.

Yểu Nương cười nói: “Nàng đanh đá này là con dâu cả của Diệp gia ở Tiền Đường – Diệp Phán Nương. Hôn phu của nàng đến Hồ Châu nhậm chức Tri phủ. Nàng dù là đanh đá chút nhưng tánh nết rất là hiếu thuận, vì thế ở lại nhà bên này để phụng dưỡng cha mẹ chồng, chăm sóc các con.”

Diệp Phán Nương bị bảo là đanh đá lập tức nắm quạt tròn chỉ về phía Yểu Nương mắng: “Á à Tôn Yểu Nương, dám bôi nhọ ta trước mặt Bùi phu nhân!”

Những người còn lại ngồi trong đình cười rộ lên.

Thẩm Lan nhìn Diệp Phán Nương, thấy nàng này vóc dáng cao gầy, người cũng thon thả, xương gò má lại cao, luận tướng mặt trông có hơi khắt khe khó gần. Nàng biết rõ Diệp Phán Nương là Tri phủ phu nhân mà phải ở lại trong nhà, chắc hẳn là được cha mẹ chồng thương nhưng chồng thì không mấy mặn mà.

“Người nết na hiền thục này là phu nhân của Huyện lệnh huyện Tiền Đường – La Tứ Nương, gọi nàng Tứ Nương là được.”

La Tứ Nương lập tức đứng lên hành lễ.

Thẩm Lan hiểu ý, xui xẻo ba đời mới phải làm tri huyện của huyện lỵ. Huyện Tiền Đường và huyện Nhân Hòa đều trực thuộc quản lý của thành Hàng Châu, cũng tức là La Tứ Nương ngày ngày phải gặp mặt lãnh đạo trực tiếp của mình là Tôn Yểu Nương. Sao có thể không nết na hiền thục?

Cũng cùng lẽ đó, Huyện lệnh phu nhân của huyện Nhân Hòa – Mạnh Lục Nương cũng là một người tánh nết hiền lành.

Yểu Nương lại chỉ vào phụ nhân cuối cùng đeo vàng bạc đầy người, cười nói: “Người này thì dễ rồi, Lâm Bảo Châu. Cái đèn ngao sơn hôm trước ở hội Nguyên Tiêu là do nhà chồng nàng làm đấy.” Nói rồi, nàng sán lại gần Thẩm Lan, dùng một âm lượng mà mọi người đều có thể nghe thấy, cười nói: “Nhà nàng này có cửa hàng vàng bạc, rất là giàu có. Ngài cứ tới nhà nàng tống tiền là được.”

Nghe vậy, Lâm Bảo Châu nhanh nhẹn cười nói: “Mai mốt nếu Bùi phu nhân tới cửa hàng nhà ta mua  trang sức trâm thoa, ta sẽ giảm ngay nửa giá lấy thảo.” Lời này nghe đầy mùi nịnh nọt, nhưng dân không đấu với quan, cũng không còn cách nào khác. 

Thẩm Lan rất nhanh đã nhận biết xong những người trong này. Tôn Yểu Nương, Diệp Phán Nương đều là Tri phủ phu nhân. La Tứ Nương, Mạnh Lục Nương là Tri huyện phu nhân. Còn Lâm Bảo Châu xuất thân thương nhân, chuyên vào vai phụ chọc cười góp vui.

Buổi tiệc thế này thông thường cũng nhàm chán, chỉ là đám người cười nói liên thanh, cố ý kể ra những chuyện thú vị ở nhà mình.

Tôn Yểu Nương đang kể về mấy đứa nhóc trong nhà: “Có lần phu quân dẫn Minh ca nhi nhà ta ra ngoài chơi. Lúc đó ngang qua một cửa hàng đồ cổ, phu quân mới lấy một bức họa không biết tác giả nào vẽ cho Minh ca nhi xem. Họa kia hình như là vẽ phỏng theo một bức của Long Miên Cư Sĩ. Mọi người đoán xem lúc thấy bức họa, Minh ca nhi nói gì?”

Mọi người tò mò nhìn nàng, thấy nàng bĩu môi xua tay, học theo ngữ điệu của đứa trẻ, nghiêm túc bi bô nói: “Không được! Không được!”

Thẩm Lan bị cách nàng bắt chước chọc cười. Mọi người cũng cười ha ha lên. Tôn Yểu Nương lại nói: “Phu quân hỏi nó sao mà không được? Nó mới nói ông quan chăn ngựa trong tranh này ——” dứt lời, nàng lại diễn vẻ mặt nghiêm trang: “Không có đẹp bằng cha.”

Mọi người lại cười ầm lên.

Thẩm Lan biết quan chăn ngựa trong tranh thường thường áo quần đơn giản, nhiều khi trên tranh còn dính bụi bặm, sao bì được với áo gấm của Tri phủ, nhìn qua tất nhiên không thể đẹp bằng.

Lý Bảo Châu thấy mọi người cười xong mới tấm tắc khen: “Minh ca nhi thông minh kháu khỉnh, Lan tỷ nhi mềm mại đáng yêu. Yểu Nương thật là tốt số.”

Nhắc tới cặp trai gái nhà mình, vẻ mặt Tôn Yểu Nương dịu dàng hơn, nhưng giọng điệu lại mang trách móc: “Nhắc Lan tỷ nhi ta mới nhớ. Nó mới sáu tuổi, người bé tí như hạt đậu, cô tặng trang sức tới làm gì. Mấy món kia khảm nào đá quý nào ngọc trai, còn nhiều hơn mấy sợi tóc trên đầu Lan tỷ nhi cộng lại nữa.”

Nghe nàng tự chế giễu đứa con gái út như vậy, đám người lại một phen cười nghiêng ngả, nói may mà Lan tỷ nhi không có mặt ở đây nghe mẹ nó kể xấu mình.

Thoáng thấy Thẩm Lan cũng đang cười, Tôn Yểu Nương lại đang định tự trêu đùa để dỗ nàng vui lên, ai ngờ Lý Bảo Châu cười xong ôm bụng nói: “Yểu Nương nhắc trang sức cho tóc khiến ta chợt nhớ đến một chuyện thú vị.”

Thấy Thẩm Lan tò mò nhìn qua, Lý Bảo Châu lập tức phấn chấn nói: “Những gia đình như chúng ta, muốn sửa soạn trang điểm thì đã có nha hoàn bà vú làm cho. Nhưng các gia đình trung lưu ngoài kia thì khác.”

Thấy nàng úp úp mở mở, Diệp Phán Nương liên tục gắp mấy miếng thịt hươu cho nàng, thúc giục: “Có gì vui thì kể nhanh nhanh đi.”

Lý Bảo Châu không dám tiếp tục úp úp mở mở, nhanh nhẹn nói: “Lần gần đây nhất ta đi dự bữa tiệc, trong đó có vợ của mấy Diêm thương buôn muối mới phất lên, cắm châu ngọc đầy cả đầu. Nếu mỗi thế thì cũng không có gì. Những gia đình như chúng ta cũng đâu thiếu mấy cây trâm vàng? Dè đâu…”

Nàng kể một hồi cũng không nhịn được cười, khiến mọi người ồn ào hối thúc: “Đừng cười nữa, nhanh kể tiếp đi.”

Lý Bảo Châu nén cười: “Mấy người kia chải búi tóc cao, bên trên cắm đầy thoa vàng, đá quý, ngọc ngà, cổ cứng đờ không dám nhúc nhích. Họ sợ trâm vòng trên đầu rơi xuống, đành ngồi im cứng còng như khúc gỗ vậy.” 

Mọi người cười rộ lên. Diệp Phán Nương cười đến mức ôm bụng. Lý Bảo Châu nói tiếp: “Bên cạnh còn đi theo hai, ba tì nữ vừa đỡ lấy các nàng, vừa lo nhìn lom lom dưới nền gạch, có gì còn nhặt trâm, thoa bị rơi lên nữa!”

Đám người cười đến vỡ bụng. Thẩm Lan không thích giễu cợt người khác, lại không tiện ra vẻ quá khác người, cũng hùa theo cười hai tiếng.

Tôn Yểu Nương cười đau cả hông, hỏi: “Trang điểm kiểu nào mà tới nỗi như vậy?”

Lý Bảo Châu nén cười giải thích: “Sau đó ta cũng qua hỏi han sự tình. Các nàng mới nói xu thế mới ở Hàng Châu là tìm thợ cài trâm về trang điểm cho mình.” Nói xong nàng lại tiếp: “Hôm nay ta cũng dẫn theo hai thợ cài trâm tới, nhất định phải tái hiện lại khung cảnh tức cười buổi hôm ấy cho mọi người xem.”

Lý Bảo Châu nói đoạn, vẫy tay bảo hai nha hoàn ngồi xuống bất động sắm vai người mẫu tóc, rồi lại phái người gọi hai thợ cài trâm đang chờ ngoài vườn vào.

Thẩm Lan buồn tẻ nhai miếng thịt hươu nướng, ngắm nghía cảnh sắc một lát, mới thấy nha hoàn dẫn một người mặc bỉ giáp xanh lông két cùng một người khoác áo xanh sẫm vào đình chào hỏi. Hai người khom lưng hành lễ, hô bái kiến các phu nhân, thái thái.

“Các ngươi hóa trang lại hai nha hoàn này thành dáng vẻ phu nhân của hai Diêm Thương họ Tiền và họ Vương trong tiệc của Triệu phu nhân hôm mười sáu tháng hai là được.”

Hai thợ cài trâm nghe lệnh Lý Bảo Châu, ngẩng đầu đứng dậy bắt tay vào làm.

Thẩm Lan cầm nửa miếng bánh hoa hồng ngạc nhiên sửng sốt.

Người mặc bỉ giáp xanh lông két, đội khăn trùm đầu, bên trên cắm cây trâm mạ vàng rõ ràng chính là Ngọc Dung. Là Ngọc Dung mà năm đó Tứ thái thái muốn đi bắt gian, đích thân Thẩm Lan túm lấy nàng từ biệt viện của Tứ lão gia đấy thôi.

Sao nàng lại ở đây? Còn trở thành thợ cài trâm nữa?

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

1 Ngu: tiếng tự xưng tỏ ý khiêm tốn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 66: Não úng nước


Ngọc Dung rõ ràng cũng nhận ra Thẩm Lan, nhưng chần chờ một lát, thấy nàng ngồi trên ghế chủ tọa, áo quần đẹp đẽ quý giá, cuối cùng không dám tới nhận, chỉ cúi đầu cầm chiếc lược ngọc bắt đầu chải chuốt cho nha hoàn đang ngồi.

Cố nhân gặp nhau không dám nhận. Thẩm Lan cười khổ một tiếng, yên lặng chờ Ngọc Dung và người thợ cài trâm còn lại trang điểm cho hai nha hoàn kia xong.

Một lúc sau, hai nha hoàn ban nãy đã thành búi tóc cao cắm đầy ngọc ngà châu báu, nhưng cũng vì thế mà chỉ có thể ngồi im như cọc gỗ.

Đám người thấy dáng vẻ cứng còng của hai nàng lại bật cười một trận. Thẩm Lan cũng hùa theo cười mấy tiếng, mới quay sang hai thợ cài trâm nói: “Hai người các cô nếu mặc kệ đẹp xấu, cứ ghim hết trâm hoa thoa phượng lên đầu thế này, làm ăn không bền lắm đâu.”

Ngọc Dung bất lực nói: “Dạ bẩm cũng chỉ là nghe lệnh quý nhân mà thôi.”

Mọi người mới vỡ lẽ, có lẽ là hai phu nhân của Diêm Thương vì muốn khoe giàu cho nên yêu cầu trang điểm như vậy, cũng không phải do tay nghề của thợ có vấn đề.

Thẩm Lan mỉm cười nói: “Đã thế thì các cô hãy thử trang điểm lại cho hai nha hoàn của ta, để ta cũng chiêm ngưỡng xem tay nghề thực tế của các cô ra sao.”

Ngọc Dung và thợ cài trâm còn lại nghe vậy, nhanh nhẹn bắt tay vào làm. Ngọc Dung chải cho nha hoàn Tử Ngọc búi tóc cuộn tròn giấu phần đuôi, cắm lên một cây trâm khắc đào trúc linh chi bằng gỗ nam.

Người còn lại thì chải cho nha hoàn Lục Nhụy kiểu tóc búi chóp nhọn Hàng Châu, cắm trâm vàng tạo hình hoa loa kèn chế tác kiểu lũy ti, hai bên cài thêm thoa đính ngọc trai gạo.

Thẩm Lan bình phẩm: “Đều đẹp.”

Hai thợ cài trâm mừng thầm, có câu này của nàng, sau này muốn làm cho khách hàng quý nhân sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Đám người Tôn Yểu Nương, Diệp Phán Nương cũng phụ họa theo. Thẩm Lan lúc này mới cắn môi, hàm ý nói: “Không biết chỗ Yểu Nương có nơi nào để thay quần áo không?”

Tôn Yểu Nương hiểu ý, đây là uống nhiều rượu muốn đi nhà xí. Nàng liền phái hai nha hoàn tâm phúc dẫn Thẩm Lan đi noãn các để thay quần áo.

Thẩm Lan đứng dậy chuẩn bị đi, lại cố ý chỉ vào hai thợ cài trâm: “Đình này gió lớn quá, thổi tóc tai ta tán loạn cả. Hai người các cô tay nghề cũng ổn, theo vào giúp ta chỉnh trang lại đi.”

Dứt lời, nàng mỉm cười với đám người trong đình: “Tóc của ta độ này toàn là do Tử Ngọc và Lục Nhụy chải cho. Hôm nay ta cũng thử làn gió mới xem sao, thử xem ngoài kia có xu hướng gì mới mẻ.”

Mọi người lập tức cười rộ lên, Tôn Yểu Nương cũng chọc cười: “Hai nha hoàn của Bùi phu nhân ta thấy rất là sáng sủa nhanh nhẹn, chắc hẳn tay nghề cũng cao, sao mà kém hai thợ cài trâm này được.”

Thẩm Lan cũng làm bộ gật gù: “Đúng là Bụt chùa nhà không thiêng nhỉ.”

Mọi người lại cười ầm lên, Thẩm Lan cũng cười một lát rồi mới dẫn theo Tử Ngọc, Lục Nhụy cùng hai thợ cài trâm đi về phía noãn các. 

Noãn các nóng hừng hực, Thẩm Lan phái Tử Ngọc đi ngâm chén trà, lại lệnh Lục Nhụy đứng gác bên ngoài, đừng để ai tiến vào.

Chủ đang thay quần áo, tất nhiên không thể để ai tới quấy rầy. Lục Nhụy cũng không nghĩ gì nhiều, thật thà cầm cái ghế con tới ngồi gác trước cửa.

Thẩm Lan lúc này mới chỉ vào Ngọc Dung nói: “Cô tới trang điểm cho ta trước.” Nói rồi, nàng quay sang thợ cài trâm còn lại: “Hai người các cô tay nghề sàn sàn như nhau, nhưng cô lớn tuổi hơn, chắc có lẽ cũng nhiều kinh nghiệm hơn. Chờ một lát ta trang điểm xong, cô xem lại rồi bổ sung thêm, được chứ?”

Thợ cài trâm lớn tuổi hơn nghe nàng nói ngọt, lập tức gật đầu cười ngồi xuống cạnh Lục Nhụy, chờ Thẩm Lan lát nữa cho gọi nàng.

Tách hết tất cả mọi người đi rồi, thấy trong noãn các chỉ còn lại mình và Ngọc Dung, Thẩm Lan mới mở miệng hỏi: “Cô sống có tốt không?”

Nghe nàng không hỏi gì khác, chỉ hỏi mình sống ra sao, hai mắt Ngọc Dung đỏ lên, nước mắt rưng rưng muốn quỳ xuống dập đầu cho Thẩm Lan, lại bị Thẩm Lan đỡ lấy, trách móc: “Cô làm gì vậy?”

Ngọc Dung nức nở: “Ngày đó ta bị đưa ra khỏi Kinh đô, chưa kịp tạ ơn cứu mạng của tỷ tỷ.”

Thẩm Lan lắc đầu: “Ơn cứu mạng cái gì, chẳng qua bèo nước gặp nhau, giúp được thì giúp mà thôi.”

Ngọc Dung lau nước mắt nói: “Tỷ tỷ ở hiền gặp lành, bây giờ thành quý nhân, cũng coi như là qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai.”

Thẩm Lan cười khổ, biết nàng cho rằng mình đã thành thiếp chính thức của Bùi Thận, có danh có phận, cuộc sống trôi chảy. Ai hay những nỗi chua xót nàng mang trong lòng?

Thẩm Lan không muốn nói những việc đau lòng, cười hỏi: “Không nói những thứ này. Rồi cô làm sao mà từ Kinh đô lại tới được Hàng Châu?”

Ngọc Dung chậm rãi kể ra: “Ta nghe lời tỷ dạy, kể hết toàn bộ sự tình cho vị công tử tới thẩm tra. Công tử sau đó phái người đưa ta rời Kinh.”

“Người kia có hỏi ta muốn đi đâu. Mẹ đi đánh cá gặp rồng hút nước đã mất sớm. Ta không còn chỗ để về, nghĩ tới nghĩ lui, chỉ nhớ mẹ ta hay nói mình quê ở Gia Hưng, có năm đi lạc ngày tết Thượng Nguyên, rồi bị mẹ mìn bán tới huyện Dịch. Ta nghĩ dù sao cũng không biết đi đâu, chi bằng đi Gia Hưng vậy, biết đâu còn có thể tìm lại người thân của mẹ ta.”

Thẩm Lan nghi ngờ: “Đã là đi Gia Hưng, sao cuối cùng lại tới Hàng Châu?”

Ngọc Dung thở dài: “Người dẫn ta đi cũng là người được việc, đưa ta bình an tới Gia Hưng.”

Thẩm Lan biết người này chắc là một trong những thân vệ của Bùi Thận. Lý do hộ tống Ngọc Dung đi xa đến vậy, cũng đơn giản muốn bảo đảm Ngọc Dung không thể cẩu thả với Tứ lão gia được nữa.

“Tới Gia Hưng theo lời mẹ, ta cũng tìm tới nơi có đền thờ bằng đá, nhưng đâu tìm được gì.” Ngọc Dung thở dài man mác: “Ta đổi vài nơi, tiền bạc cũng hết sạch, lại còn bị mấy kẻ lưu manh theo đuôi. Nếu không phải có ca ca của Bành gia dẫn theo bảy tám huynh đệ tới Gia Hưng bán cá, kịp thời đuổi lũ vô lại kia đi, e rằng ta phải bị bán đi lần nữa.”

Ngọc Dung nói đến đây vừa khóc vừa cười, Thẩm Lan an ủi vài câu, cũng có thể đoán được sự tình tiếp theo. Vị ca ca Bành gia này anh hùng cứu mỹ nhân, Ngọc Dung xiêu lòng. 

“Bành tam ca tánh nết thật thà, nói với ta huynh ấy là dân Hàng Châu chuyên đánh bắt cá, không phải dân địa phương Gia Hưng lại thêm có bảy tám huynh đệ đi cùng. Nếu không cũng không dám trêu chọc lũ vô lại ấy.”

Thẩm Lan nghĩ thầm Bành tam này quả là người thật thà. Hắn không phải người Gia Hưng nên mới dám chọc tới bọn lưu manh của Gia Hưng, vì hắn biết lũ này không trả thù được tới tận Hàng Châu.

“Vậy cô với Bành tam ca đã thành hôn chưa?” Thẩm Lan cười hỏi.

Ngọc Dung giận dỗi liếc nàng một cái, e lệ gật đầu. Thẩm Lan cười: “Đây là chuyện tốt. Cô làm thợ cài trâm, hắn đánh cá kiếm tiền. Hai vợ chồng cùng nhau cố gắng sinh sống thật tốt.”

Ngọc Dung ngại ngùng mỉm cười, nhưng khẽ chau mày đẹp, dường như vẫn có chút lo lắng u sầu. Thẩm Lan đang định hỏi thêm, chợt nghe tiếng Tử Ngọc ban nãy bị nàng sai đi ngâm trà gõ cửa.

Thẩm Lan đành thôi, ngồi xuống trước tấm gương gỗ tử đàn, để Ngọc Dung rửa mặt trang điểm cho nàng.

Nàng thay quần áo trang điểm xong, kêu thợ cài trâm còn lại vào một lúc để che lấp, lại ra ngồi với đám người Tôn Yểu Nương thêm chốc nữa, mới tan cuộc về phủ.

Nàng về tới phủ đã là cuối giờ Thân.

Thẩm Lan tắm gội thay quần áo xong, bếp bưng lên chén cháo sữa bò. Gạo thơm hầm với sữa bò mấy canh giờ trên lửa nhỏ, mềm mịn thơm nức. Ăn với chân giò hun khói thái mỏng, măng non mùa xuân cắt hạt lựu, há cảo gói nấm, thật là ngon miệng vô cùng.

Bùi Thận quay về nhà, thấy Thẩm Lan đã dùng nửa chén cháo sữa bò, ăn được thêm hai cái há cảo, y cười: “Gần đây nàng ăn uống khá hơn đấy.” Nói xong, y bảo Tử Ngọc cầm tiền đi thưởng cho đầu bếp.

Thẩm Lan gặp lại người xưa, biết được những gì mình làm hôm ấy coi như là một việc thiện, cho nên tâm trạng rất là thoải mái, nàng nghe vậy cũng cười: “Ta ngắm cảnh đẹp vườn đào, tâm trạng tất nhiên là tốt hơn rồi.’

Bùi Thận đi rửa tay rồi ngồi xuống dùng bữa chung: “Nếu nàng thích thì lúc nào cơ thể khỏe mạnh hẳn thì cứ đi thường xuyên cũng được.”

…… Cơ thể khỏe mạnh hẳn à. Thẩm Lan cầm một miếng há cảo, vẻ mặt nhạt xuống: “Bây giờ mới trung tuần tháng ba, đến lúc nào ta mới được coi là khỏe hẳn?”

Bùi Thận cười đáp: “Ta cũng đâu nào hay. Cứ nghe theo lời thầy thuốc đi thôi.” Nói rồi, y lại an ủi nàng: “Thái y lần trước xem mạch cho nàng ở Nam Kinh nói chờ tới đầu thu là tốt rồi.”

Thẩm Lan nhẩm một chút, đầu thu là tháng bảy, cách bây giờ ước chừng còn hơn ba tháng.

“Nàng cứ yên tâm thả lỏng tinh thần, khỏe mạnh càng sớm thì có thể ra ngoài chơi càng sớm.” Bùi Thận dặn dò.

Thẩm Lan gật đầu, chần chừ hỏi: “Giờ cũng mới tháng ba, tới đầu tháng năm chắc Tây Hồ sẽ có hội đua thuyền rồng, ta có thể đi xem chứ?”

Bùi Thận nhìn nàng mấy lần. Nàng gần đây ngày càng thêm ngoan ngoãn, còn biết hỏi xin phép mình nữa. Cũng không biết là ngoan thật hay giả ngoan đây? 

Bùi Thận vừa cân nhắc vừa cười nói: “Chờ tới đầu tháng năm, ta nhất định dẫn nàng đi xem đua thuyền rồng.”

Thẩm Lan chẳng qua chỉ là muốn được ra ngoài nhiều hơn, dù sao cũng tốt hơn ỉu xìu ở nhà nên mới nhân tiện nhắc tới đua thuyền rồng tết Đoan Ngọ. Nghe Bùi Thận đồng ý, nàng lại được nước bò lên: “Nhắc mới nhớ hôm nay ta gặp được một người nhà có mở cửa hàng vàng bạc trang sức tên là Lý Bảo Châu. Ta có thể tới cửa hàng đó chơi được không?”

Bùi Thận lắc đầu: “Nàng chưa khỏe hẳn, sao có thể suốt ngày ra ngoài đi lại. Nuôi thêm ít lâu nữa thôi, ta sẽ không ngăn nàng nữa.”

Thẩm Lan tuy thất vọng nhưng không muốn chọc tức Bùi Thận, sợ ngay cả Đoan Ngọ cũng không được ra ngoài, nàng đành thôi ý nghĩ kia, gác đũa xuống mỉm cười: “Ta no rồi, ngài cứ ăn từ từ.” Nói đoạn, nàng đứng dậy vén rèm châu đi vào phòng trong. 

Nàng vừa đi, Bùi Thận cũng thấy cơm nước trở nên nhạt thếch, chỉ ăn cho chắc bụng rồi tắm gội thay đồ, khoác cái áo đạo bào màu xanh bằng lụa Sơn Tây, đi vào phòng trong tìm Thẩm Lan.

Vén tấm mành lên, y chợt thấy dưới ánh đèn vàng ấm áp, nàng tựa lưng lên chiếc gối xanh thẫm, cầm nửa cuốn sách nhàn nhã lật xem. Chắc có lẽ là ban nãy ngâm bồn tắm, tóc mây nàng xanh thẳm, thơm hòa quyện quẩn quanh như lan xạ, má phấn ửng hồng như đang e ấp khiến hải đường cũng phải tự thẹn không bằng.

Bình phong gấm, xuân ấm, giai nhân thong thả đợi chờ.

Lòng Bùi Thận nóng hừng hực, bước lên ôm lấy Thẩm Lan, thấp giọng cười: “Đừng đọc sách nữa. Chờ tới đầu thu là tốt rồi.”

Đầu thu gì kia chứ? Thẩm Lan chẳng hiểu ra sao, thấy y sán lại gần người nóng hầm hập, nàng đẩy y: “Đừng có dựa gần lại đây, nóng quá.”

Bùi Thận nhủ bụng nàng nóng chỗ nào, ta mới nóng đây này. Vừa nghĩ ngợi, y vừa vịn lấy eo Thẩm Lan, kéo nàng ôm vào lòng.

Thẩm Lan bị y khóa chặt, giãy giụa không thoát, nàng buồn bực nói: “Ngài rốt cuộc muốn làm gì?”

Bùi Thận nhịn mấy tháng trời, lúc này đã hết sức vượng hỏa, đã thế còn bị nàng cọ tới cọ lui đến mức thất thần. Nhưng y cũng biết nàng đối với việc kia trước nay không mấy ham thích, nhất định không chịu giúp y phen này, thế là mắng một câu: “Đúng là thứ vô tâm mà.”

Thẩm Lan vô cớ bị mắng, tức tối đạp y một cái, cũng mắng lại: “Đang yên lành ngài nổi cơn gì thế!”

Bùi Thận tiếp tục sấn tới, giận dỗi cắn đôi môi đỏ của nàng, bấy giờ mới thả tay nói: “Ta đi tắm đây.”

Không phải vừa tắm gội xong à? Thẩm Lan bị cắn đau, hít sâu một hơi, cáu bẳn nghĩ y tắm nhiều như vậy, coi chừng đầu óc cũng bị úng nước theo!

Chú thích:

Bài viết của Bảo tàng lịch sử Hồng Kong về nguồn gốc lễ hội đua thuyền rồng tết Đoan Ngọ, tham khảo tại đây

1 noãn các: gian phòng nhỏ có lò sưởi, có thể thông hoặc tách biệt với nhà chính
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 67: Thuyền rồng Đoan Ngọ


Lại qua mấy ngày, trời ngả hoàng hôn, Thẩm Lan ngồi xuống dùng bữa tối. Nàng ăn xong tắm rửa sạch sẽ, mãi đến giờ Tuất canh ba, Bùi Thận mới trở về.

Thấy y về, Thẩm Lan cầm khăn lau tóc, nhàn nhạt nói: “Ngài mấy ngày nay sao về ngày càng muộn hơn vậy?”

Bùi Thận ôm chầm lấy nàng, cười nói: “Nàng độ này đã biết nhớ ta rồi sao?”

Thẩm Lan liếc nhìn y, nghĩ thầm nàng làm gì mà quan tâm đến y, chẳng qua bận tâm giặc Oa đang quấy rối những đâu mà thôi, nàng mỉm cười: “Hàng Châu cũng đã có giặc Oa sinh sự rồi sao?”

Bùi Thận nhẹ nhàng bâng quơ: “Làm gì có ngày nào là chúng không sinh sự?” Nói rồi, sợ nàng lại sinh ra ý nghĩ bậy bạ, y lại nói: “Tộc Thát Đát ở khu vực chín trấn biên thành, tộc Nữ Chân ở Liêu Đông, giặc Oa ở Đông Nam, thổ ty ở Vân Quý nổi loạn. Khu vực Chiết Giang hiện nay không kể giặc Oa, thợ mỏ ở mỏ bạc Nghĩa Ô cũng đang bạo động. Nơi nào cũng hết sức loạn lạc, nàng chớ có chạy lung tung.”

Thẩm Lan thở dài một tiếng: “Dưới gầm trời này còn có chỗ nào yên ổn không chứ?”

Bùi Thận cười nhạo: “Làm gì còn chốn nào là yên ổn đâu?”

Vừa dứt lời, chợt nghe bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa: “Bẩm Gia, có tin cấp báo.”

Là giọng của Trần Tùng Mặc.

Bùi Thận lập tức đứng lên bước ra cửa. Trần Tùng Mặc cầm đèn sừng dê đi đằng trước dẫn đường, thì thầm: “Gia, Đàm Anh tới.”

Bùi Thận ngừng bước, rồi lại nhanh chân vội vã chạy vào thư phòng. 

Thấy Bùi Thận tiến vào, Đàm Anh chắp tay hành lễ. Bùi Thận ôn hòa hỏi: “Vết thương ra sao rồi?”

Đàm Anh nhếch miệng cười: “Đã khá lên nhiều.” Nói rồi, cũng không chờ Bùi Thận hỏi sâu hơn, hắn vội nói: “Đại nhân, Bệ hạ ba ngày trước uống vào mấy viên Kim Đan loại mạnh cùng rượu bách hoa, lại uống thêm thuốc hỗ trợ sinh con có tính nóng, tối đó ngất đi không tỉnh lại. Thái y châm cứu xong, nói rằng chỉ có thể kéo dài thêm năm sáu ngày.”

Bùi Thận phút chốc kinh ngạc sửng sốt, nhưng rồi lại thấy không có gì đáng phải bất ngờ. Bệ hạ ngự trên ngai hai mươi năm, nào là cầu đạo uống đan dược, nào là để có con trai bất chấp uống những phương thuốc lung tung bậy bạ, có thể sống tới nay cũng đã xem như sống thọ rồi.

Bùi Thận hỏi tiếp: “Đã chọn được người làm Thái Tử chưa?”

Đàm Anh cười khổ: “Chỉ huy sứ chỉ bảo ta tới báo cho đại nhân. Lâm thiếu bảo cùng Uyển Quý phi không biết tìm đâu ra một đứa bé trai sáu tháng trong cung, bảo đấy là mấy tháng trước Bệ hạ lâm hạnh một cung nữ để lại. Một hai đòi lập đứa bé này làm Thái Tử.”

Bùi Thận cười lạnh: “Bệ hạ lâu nay không con, đường sinh dục chắc chắn có vấn đề. Huyết thống đứa trẻ này vẫn còn cần nghi vấn.” Y lại hỏi: “Hai vị các lão Trần, Thôi nói thế nào? Có phải định lập con trai của Ích Vương hoặc Kinh Vương?”

Đàm Anh cười khổ nói: “Quả đúng vậy. Trần các lão muốn lập con trai trưởng của Ích Vương đã qua hai mươi tuổi, lý do là quốc gia cần người đủ tuổi cai trị. Thôi các lão lại cho rằng Ích Vương là em trai thứ ba bên nội của Bệ hạ, lớn nhỏ có thứ tự, cho nên theo lý phải lập con trai của Kinh Vương là em trai thứ hai bên nội của Bệ hạ mới đúng. Nhưng ngặt nỗi, con trai trưởng của Kinh Vương sớm đã qua đời, chỉ còn lại đứa con trai thứ hai mới vừa ba tuổi.”

Bùi Thận cười lạnh một tiếng. Ba phái này ý đồ đã rõ rành rành.

Nếu lập bất kì con trai của phiên vương nào thì chúng cũng có cha mẹ để nương tựa. Phe Uyển Quý phi, Lâm thiếu bảo cứ muốn lập một đứa bé không nơi nương tựa, dễ bề lên làm Thái Hậu, buông rèm nhiếp chính hai mươi năm.

Trần các lão là người Giang Tây. Đất phiên của Ích Vương cũng vừa lúc ở Giang Tây. E rằng hai người này sớm đã liên hệ lẫn nhau, cho nên mới lấy cớ quốc gia cần người đủ tuổi cai trị đòi lập Ích Vương Thế tử đã thành niên.

Thôi các lão bình thường hết sức hòa hợp với Trần các lão, nhưng nếu Trần các lão quả thật muốn lập con trưởng của Ích Vương, sau này có thể dựa vào công phò tá này mà vinh hoa phú quý lẫy lừng. Thôi các lão sao có thể cam lòng làm lính cả đời? Nên mới lấy cớ lớn nhỏ có thứ tự để đẩy con trai thứ hai của Kinh Vương lên, nhằm mưu lợi về mình.

“Đại nhân, trong triều đã có dấu hiệu sinh loạn, sợ rằng chưa tới năm sáu ngày nữa, tin Bệ hạ băng hà sẽ truyền đi khắp hai kinh mười ba tỉnh.” Đàm Anh cười khổ: “Ba phái lúc này đều đang muốn mượn sức Chỉ huy sứ.”

Bùi Thận suy nghĩ một lát, “Nhìn như đã loạn, nhưng thực ra cần chờ xem ý Bệ hạ ra sao.”

Ai cũng tranh giành nhau, nhưng Hoàng đế còn chưa chết đâu.

“Đây chính là điểm mấu chốt.” Đàm Anh buồn bực, “Bệ hạ tỉnh lại một lần, cho lui hết mọi người, chỉ chịu gặp Uyển Quý phi, cũng không biết đã nói những gì.” 

Sắc mặt Bùi Thận bỗng chốc trở nên khó coi. Đàm Anh không khỏi thở dài: “Vị Bệ hạ này của chúng ta, trước giờ làm việc rất là tùy hứng. Việc nước điêu tàn không bận lòng, chuyện dân không hỏi, chỉ lo quỷ thần.” (1)

Bùi Thận sầm mặt: “Ngươi bảo Chỉ huy sứ chuẩn bị sẵn sàng đi. E rằng người lên ngôi sau rốt sẽ là đứa bé mà Uyển Quý phi chọn.”

Đàm Anh chua chát: “Thật sự không còn cách nào khác sao?”

Bùi Thận lắc đầu: “Ai cũng vì cái lợi của mình. Đối với Bệ hạ, dù là lập con của Ích vương hay con của Kinh Vương, cũng đều là con của anh em thôi, sẽ không xem ngài là cha ruột. Sợ chuyện xưa sẽ lặp lại lần nữa.”

Năm đó Hiếu Tông Đế không con, mới chọn con trai của em ruột mình là Hoài Dương Vương lên kế vị. Ngờ đâu người này đăng cơ xong vẫn một mực xem phụ thân mình là Hoài Dương Vương chứ không phải Hiếu Tông Đế.

“Bệ hạ sợ hãi chuyện xưa tái diễn, so với đưa ngôi vị hoàng đế cho một đứa cháu họ hàng xa, chi bằng đưa cho con trai mình, dù là con trai giả cũng được.” Bùi Thận lại nói: “Huống hồ Bệ hạ sinh bệnh hoa mắt ù tai, nhưng cực kì tín nhiệm Uyển Quý phi, chưa biết chừng thật sự cho rằng đó là con ruột của mình.”

Đàm Anh hết cách: “Đứa bé mới sáu tháng lên ngôi vua, lại thêm huyết thống có vấn đề, quốc triều lần này chắc chắn phải chịu rung chuyển.” Hễ ai đã sẵn có những tư tưởng phản nghịch, mượn cớ này đều sẽ phản cả mất thôi.

Bùi Thận nhẹ gật đầu, thầm nghĩ việc đến nước này còn có thể làm được gì.

“Vua nào tôi nấy, Chỉ huy sứ hãy chuẩn bị thoát thân sớm, nhân đó tiến cử em trai của Uyển Quý phi là Lâm Thông, ít ra còn có thể tặng phe này một ơn huệ cuối cùng.” Bùi Thận dặn dò.

Đàm Anh chán nản cười khổ. Đây chính là nỗi buồn của Cẩm Y Vệ và Đông Xưởng. Họ dựa vào sự tin tưởng của đế vương mà có được quyền thế lẫy lừng. Oái ăm thay, vua nào tôi nấy!

Tân hoàng đăng cơ, nhất định sẽ đổi Chỉ huy sứ của Cẩm Y Vệ thành tay chân thân tín của mình. Chỉ Huy sứ mới lên cũng sẽ đổi Trấn phủ sứ thành người của mình. Tầng tầng đổi xuống dưới, đến cả Đàm Anh cũng phải bị thay máu.

“Đại nhân, chẳng lẽ thật sự không còn cách nào nữa ư?” Vì tương lai của chính mình mai này, Đàm Anh hỏi lại lần cuối.

Bóng đêm thăm thẳm, Bùi Thận không đáp, thật lâu sau mới nói một câu: “Đợi ngày sau lại nói.”

…… Ngày sau.

Đàm Anh sốt ruột vô cùng, sao chờ được tới sau này. Hắn hạ giọng thấp hết sức có thể, khàn khàn như tiếng cú đêm vọng lại.

“Đại nhân, ngài chỉnh đốn quân lính biên cảnh phía Bắc còn để lại ba vạn lính tinh nhuệ, đều là những người thân tín lâu năm. Sau đó ngài đi Đông Nam luyện binh, danh ngạch có hai vạn người. Quốc Công gia ở Vân Quý trấn áp thổ ty làm phản đã sáu, bảy năm nay chưa về kinh, trong tay cũng có ba vạn lính tinh nhuệ. Cha con ngài hợp lại nắm giữ mười vạn binh, tính thêm bộ hạ cũ các đời phủ Quốc Công tích góp cũng bảy tám vạn người ở khu vực Kinh đô và các vùng lân cận, thêm mạng lưới tình báo của Cẩm Y vệ vào nữa. Cần gì phải——”

“Câm miệng.” Ánh mắt Bùi Thận bén như đao, “Những lời mê sảng này chớ có nhắc lại nữa.”

Đàm Anh bị quát, trống ngực đổ dồn, mặt mũi đỏ lên, hít thở sâu mấy lần mới ép xuống những suy nghĩ cuồng loạn trong bụng, thấp giọng nói: “Thuộc hạ lỡ lời.”

Thần bất mật tắc thất thân, sự bất mật tắc hại thành. Bùi Thận dù cho thực sự có suy nghĩ đó cũng tuyệt đối không lộ ra với ai cả, y lạnh lùng nói: “Đàm Anh, vết thương của ngươi chưa lành, đầu váng mắt hoa thế này, tốt hơn là nên về nghỉ đi.”

Đàm Anh thở dài, hạ giọng nói: “Câu này ta nói cũng không phải để dò xét đại nhân, mà quả thật là lời từ đáy lòng của Chỉ huy sứ và cả chúng ta nữa.

Nói rồi, hắn nghiêm giọng nói: “Cẩm Y Vệ là dây leo sống dựa vào Bệ hạ. Hiện nay cây đại thụ Bệ hạ sắp ngã, cây non mới mọc lại không để bọn ta tiếp tục leo lên. Cùng đường bí lối, bọn ta cũng chỉ đành cố gắng tìm lối khác mà thôi.”

Đêm dần sâu hơn, Đàm Anh khom người chắp tay thi lễ: “Mong Bùi đại nhân thận trọng suy xét.”

Bùi Thận trầm mặc thật lâu, ôn hòa đáp: “Đàm Anh đừng lo lắng quá. Thời gian còn dài, thế cuộc chưa chắc đến nông nỗi như thế, hãy bình tĩnh đợi ngày sau lại nói.”

Đây là lần thứ hai Bùi Thận nhắn tới ngày sau. Đàm Anh được nhắc nhở hai lần, dường như hơi ngộ ra điều gì. Đây là định tiếp tục quan sát xem thời thế sẽ phát triển theo hướng nào.

Hắn thở phào một hơi, tốt xấu coi như cũng có chút hy vọng. Hắn chắp tay cáo lui, ra khỏi cửa thư phòng, ẩn mình vào bóng đêm sâu thẳm.

Bùi Thận không nói một lời, ngồi yên lặng ở thư phòng hồi lâu, đoạn mới gọi Trần Tùng Mặc rọi đèn quay về phòng.

Vài ngày sau, đúng cuối tháng ba, tin Hoàng đế băng hà truyền tới. Thẩm Lan sững sờ, bảo nha hoàn trong phủ tháo những đồ trang trí màu sáng xuống, chuyển tất cả thành màu nhạt.

“Sao đột ngột vậy chứ?” Thẩm Lan ngạc nhiên nói: “Bệ hạ không con, vậy ai lên kế vị?”

Bùi Thận ăn tối, thong thả ung dung đáp: “Bệ hạ đâu phải không con. Vẫn còn một đứa bé sót lại trong hậu cung đấy thôi.”

Kinh đô giành giật không thôi. Uyển Quý phi có Bệ hạ chống lưng, cuối cùng vẫn hơn một nước cờ, mạnh mẽ nâng đứa bé sáu tháng lên ngôi, đổi niên hiệu thành Duyên Hưng.

Thẩm Lan kinh ngạc, trước khi chết mới lòi ra đứa bé này, chẳng lẽ vấn đề huyết thống không ai nghi ngờ sao?

Nàng vừa suy tư, vừa hỏi: “Quốc tang trăm ngày, vậy ta còn có thể đi xem đua thuyền rồng tết Đoan Ngọ không?”

Bùi Thận ngẩn ra, cười nói: “Đất nước có quốc tang, theo lý thì thành hôn, tang ma, gả cưới đều không được phép. Làm gì mà còn có hội thuyền rồng?”

Thẩm Lan cười cợt: “Ngài chớ gạt gẫm ta. Đừng nói trời cao hoàng đế xa, quan lại Kinh thành ai ăn no rửng mỡ chạy đi quản lý dân chúng ở Đông Nam năm nay có ăn mừng tết Đoan Ngọ hay không. Lại nói nếu bá tánh tổ chức tự phát, chẳng lẽ quan phủ định bắt hết từ người giàu đến bình dân? Mà có khi sai dịch chịu trách nhiệm bắt người cũng bận đi xem đua thuyền rồng ấy chứ.”

Bùi Thận nhủ thầm nàng quả là gan to bằng trời, kiêu ngạo khó uốn nắn, y tiếc rẻ cười cười: “Bình dân áo vải tất nhiên có thể đi xem, chỉ có ta thì không tiện đi thôi.” Bùi Thận làm người cẩn thận, nhất định không chịu để lộ điểm yếu mình đi chơi bời giữa lúc quốc tang vào tay đối thủ.

Nghe y nói không đi, Thẩm Lan cố nén niềm hân hoan, tỏ ra bình tĩnh nói: “Ngài không đi thì thôi, ta tự đi.”

Nàng còn chẳng buồn ra vẻ, mở miệng nói ngay có thể đi một mình, đúng là cái đồ vô tâm. Nghĩ vậy, Bùi Thận oán giận cầm cuốn sách gõ lên trán nàng, mắng nàng một câu vô tâm.

Tâm trạng Thẩm Lan vô cùng thư thái, đếm tới đếm lui, cuối cùng cũng chờ được tới tết Đoan Ngọ.

Mùng năm tháng năm, xương bồ thiết ngọc, giác thử đôi kim. (2)

Vốn phải là cảnh tượng vô cùng náo nhiệt, nhưng nay đang giữa quốc tang, mọi người không dám cắm hoa lựu đỏ, cũng không thể dán giấy đuổi ngũ độc lên cửa, chỉ có thể treo ít ngải cứu ngoài hiên.

Sáng sớm, Thẩm Lan ăn bánh ú tro chấm đường, bánh trôi ngũ sắc mỗi màu một cái, lại uống một chén rượu hùng hoàng nhỏ.

Thẩm Lan ăn sáng xong, thay bộ váy áo màu nhạt bằng vải mịn. Tử Ngọc và Lục Nhụy gắn một chùm bánh ú tro trang trí lên vạt áo nàng, lại treo một con hổ làm từ ngải cứu lên cây trâm gỗ trên tóc nàng, lúc này mới theo nàng ra ngoài.

Bên ngoài có chiếc xe ngựa hai bánh phủ vải bố xanh chờ sẵn ở cửa nách, Bình Sơn cùng hai, ba thân vệ nữa đứng vây quanh. 

Quốc tang đến nay đã qua một tháng. Tân hoàng gian nan đăng cơ. Nhưng đứa bé sáu tháng có thể nào xử lý việc nước? Kinh đô lúc này vẫn ầm ĩ không thôi. Thời điểm mấu chốt như thế này, tay chân đắc lực của Bùi Thận như Trần Tùng Mặc, Lâm Bỉnh Trung đâu có thời gian ngơi nghỉ, cho nên lần này mới phái Bình Sơn làm hộ vệ.

“Làm phiền Bình đại ca.” Thẩm Lan cười nói.

Bình Sơn làm người thật thà, nghe vậy chắp tay nói: “Ty chức không dám.” Nói rồi, hắn hô người đánh xe một tiếng, xe ngựa chậm rãi lắc lư lăn bánh qua con đường lát đá xanh.

Tử Ngọc, Lục Nhuỵ cũng theo hầu phía ngoài xe. Trong xe chỉ có mình Thẩm Lan ngồi.

Chốc lát sau, xe ngựa dừng lại. Thẩm Lan vén rèm lên nhìn, thấy quanh Tây Hồ thậm chí là cả vùng bốn đê ba đảo (3) đều là biển người tấp nập, ngựa xe dập dìu. Nơi nơi đều dựng mái che nắng, những người bán rong quang gánh khắp nơi. Còn có những rạp cao vây lại bằng vải vóc do giới quan lại nhà giàu dựng lên để ngắm cảnh. Phía trên mặt hồ phải đến trăm ngàn thuyền nhỏ, trên thuyền chen vai chật kín những người là người.

Thấy Thẩm Lan xuống xe, Bình Sơn chắp tay nói: “Bẩm phu nhân, thuộc hạ đã phái người hẹn chỗ rồi. Mời phu nhân đến lầu hai của Thanh Nhuận Trà Lâu để xem thuyền rồng.”

Thẩm Lan gật đầu: “Đi thôi.” Nói rồi, nàng dẫn đầu bước về phía trước.

Bình Sơn trước đó đã được Trần Tùng Mặc dặn riêng về thành tích vĩ đại trong quá khứ của vị phu nhân này. Hắn sợ nàng lại nảy ra ý gì, một mực chăm chú bám sát lấy nàng.

Đua thuyền rồng ở Tây Hồ mỗi năm, già trẻ nam nữ kéo tới vây xem nhiều không kể xiết. Thẩm Lan hào hứng đi tới, lôi hai nha hoàn chen vào đám đông.

Bình Sơn sốt ruột trong lòng, dẫn ba tên thân vệ nhanh chóng đuổi theo. Ai ngờ Thẩm Lan túm tay áo của Tử Ngọc, Lục Nhuỵ đi tuốt đằng xa, chui thẳng vào đám người.

Đám thân vệ lòng như lửa đốt, lớn tiếng hô “Phu nhân”, “Phu nhân —— đừng đi tới trước nữa.”

Ngặt nỗi dòng người cắt ngang, chen lấn xô đẩy, Bình Sơn không đuổi kịp Thẩm Lan, chỉ đành trợn to mắt dõi theo bóng nàng.

Mà Thẩm Lan vì đang quốc tang, ăn mặc chỉ là áo váy vải mịn tầm thường, rất khó bề phân biệt. Ngay cả chủ cũng ăn mặc nhạt nhòa, hai nha hoàn càng không cần phải nói.

Mới đi thêm một đoạn ngắn, chỉ một cái chớp mắt, Thẩm Lan cùng hai nha hoàn đã hoàn toàn lẩn vào dòng người không thấy tăm hơi nữa.

Bình Sơn như đứng trên đống lửa, vội phái ba thân vệ chia nhau ra tìm.

Còn Thẩm Lan lúc này đã sớm thả tay áo của hai nha hoàn ra, dạo bước lên đê Tô. Đứng trên đê Tô một lát, chợt có người kéo lấy cánh tay nàng. Thẩm Lan quay đầu nhìn, thấy người tới chính là Ngọc Dung.

Ngọc Dung dẫn Thẩm Lan bước lên thuyền của Bành tam.

Bành tam đánh cá kiếm tiền. Mỗi khi Tây Hồ tổ chức đua thuyền rồng, chỉ cần đón khách ra xem đua thuyền đã được không ít, thêm chi nếu vớt được người ngã xuống nước cũng sẽ được hậu tạ rất nhiều bạc.

Một năm mới có dịp kiếm kha khá, Bành tam nhất định không dễ gì bỏ qua. Cho nên hôm ấy Thẩm Lan không kịp ôn chuyện cũ, chỉ hẹn gặp Ngọc Dung ở đê Tô Tây Hồ.

Lên thuyền, Thẩm Lan nhìn về phía Bành tam đen gầy mà rắn chắc, bảo hắn chèo thuyền về hướng Thanh Nhuận Trà Lâu.

Thấy thuyền bắt đầu lướt đi, Thẩm Lan lập tức mở miệng: “Ngọc Dung, cô có thiếu tiền không?”

Ngọc Dung ngẩn ra một lúc lâu mới nhẹ vỗ về bụng, thở dài: “Gầm trời này có ai là không thiếu tiền đâu. Đánh cá, cài trâm thì được mấy đồng chứ? Nếu không thiếu tiền, Bành tam ca cũng không cần bươn chải tới tận Gia Hưng để tìm nơi tiêu thụ cá, cũng không cần hàng năm đi lướt thủy triều trên sông Tiền Đường với hy vọng lãnh thưởng.”

Thẩm Lan biết rõ Ngọc Dung cũng không phải kẻ khờ, nếu đã chịu tới gặp nàng, nhất định là có việc muốn nhờ. Có thể là xin một ơn huệ để tìm việc làm cho Bành tam, hoặc cũng có thể là muốn cậy nhờ quan hệ.

Thẩm Lan thấp giọng nói: “Thời gian gấp rút, ta nói ngắn gọn thế này.” Nàng ngừng một chút mới nói tiếp: “Ta muốn nhờ hai vị đưa ta rời khỏi Hàng Châu.”

Ngọc Dung kinh ngạc không thôi: “Tỷ, tỷ không phải, vì sao muốn bỏ đi……”

Thẩm Lan cười chua chát: “Cô đừng nghĩ ta sống thế này là tốt, cũng chỉ có tô vàng nạm ngọc bề ngoài mà thôi.” Nói rồi, nàng vén tay áo lên, trên cánh tay trắng muốt hiển hiện một mảng bầm xanh tím.

Ngọc Dung vừa ngạc nhiên vừa tức giận: “Tuần phủ đại nhân hắn ta đánh tỷ?”

Thẩm Lan sáng nay né khỏi nha hoàn, tự mình đập tay thật mạnh vào bàn gỗ ở nhà. Da dẻ nàng mềm mại, chỉ cần như vậy đã nổi lên vết sưng đỏ bầm.

Thẩm Lan chua xót nở nụ cười: “Ta cũng không ngại kể với cô. Nếu còn không mau trốn đi, e rằng ta chẳng sống được bao lâu nữa.” Nói rồi, nàng thả tay áo xuống, sợ Ngọc Dung muốn nhìn tiếp lên phần da thịt nguyên vẹn phía trên thì sẽ lộ ra sơ hở. 

Ngọc Dung cắn môi, yên lặng không đáp.

Thẩm Lan biết Ngọc Dung tuy có phần biết ơn nàng, nhưng cũng không phải hạng quả cảm nghĩa khí gì. Ngược lại, nàng này có phần khôn lanh lõi đời, có lẽ sẽ e sợ quyền thế của Tuần phủ mà không dám đưa Thẩm Lan trốn đi.

Thấy Ngọc Dung chần chừ, dường như muốn mở miệng từ chối, Thẩm Lan thì thầm nói: “Ta thấy cô vỗ về bụng, là có thai rồi sao?”

Ngọc Dung sững ra, nhẹ gật đầu.

Thẩm Lan hỏi một câu, lại không tiếp tục nhắc đến đứa bé nữa, chỉ bình tĩnh nói: “Nếu xong việc, ta giao cô ba trăm lượng ngân phiếu.”

Hơi thở của Ngọc Dung trở nên dồn dập hơn. Ngay cả Bành tam nãy giờ lẳng lặng chèo thuyền, bây giờ cũng hơi ngừng lại.

Ba trăm lượng bạc lấy ra mua đất, cũng đủ mua được bốn năm chục mẫu đất canh tác loại tốt nhất. Nàng không cần tiếp tục bôn ba làm nghề cài trâm, tam ca cũng không cần liều mạng đánh cá nữa. Con cái của hai người có thể đi học, sau này thi đậu cử nhân, ra làm quan lớn.

Mặt Ngọc Dung đỏ rần, Bành tam cũng đứng yên bất động.

Thẩm Lan hạ giọng: “Bây giờ cô chưa trả lời ngay cũng không sao cả. Chỗ ta có năm lượng bạc, cô cầm lấy đi. Nếu cô bằng lòng, hãy cầm chỗ bạc này tới hối lộ chưởng quầy của cửa hàng bạc nhà Lý Bảo Châu. Nói rằng cô muốn lui tới cửa hàng thường xuyên để dễ dàng làm quen với khách khứa quý nhân, tiện hành nghề thợ cài trâm. Khi nào cô dàn xếp xong chuyện ở bên đó, ít lâu sau ta sẽ tới cửa hàng bạc tìm cô.”

Đây là hợp tác hai bên cùng có lợi. Ngọc Dung trang điểm cho khách bằng trang sức của cửa hàng bạc. Nếu làm đẹp, khách hài lòng, cửa hàng bán được trang sức, Ngọc Dung cũng được tiền thưởng cho việc cài trâm.

Nghe vậy, Ngọc Dung quả thực hơi rục rịch.

Thẩm Lan lại cố ý nắm chặt năm lượng bạc, thấp giọng thì thầm: “Nếu cô không muốn cứu mạng ta, đây coi như phí bịt miệng. Từ nay về sau, ba trăm lượng kia coi như không có duyên với cô cùng đứa bé này.”

Đáy lòng Ngọc Dung khẽ run lên, nhận lấy năm lượng bạc, vẻ mặt trù trừ. 

Thẩm Lan không nhìn nàng thêm nữa, mở miệng nói: “Ngừng thuyền đi.”

Bành tam chọn một nơi hơi xa Thanh Nhuận Trà Lâu rồi thả Thẩm Lan xuống.

Thẩm Lan vừa lên bờ, nhanh chóng định bước vào quán trà. Ngờ đâu chưa đi được mấy bước, chợt nghe phía sau có người gọi nàng.

“Vương Lãm.”

Thẩm Lan ngạc nhiên quay đầu lại, trông thấy Dương Duy Học mặc áo trực chuyết, buồn bã nhìn nàng.

Thật lâu sau, Thẩm Lan mới mở miệng, tiếng nói hơi chát: “Sao huynh lại ở đây?”

Dương Duy Học cười khổ một tiếng, dắt Thẩm Lan tới một chỗ yên tĩnh, rồi mới từ từ kể ra: “Ngày ấy ta đi tìm cô. Phu quân cô câu nào cũng hô nội tử, lúc ấy ta cũng bị y làm cho rối rắm quay mòng. Nhưng hồi sau về nhà mới thấy không đúng lắm.” Vợ chồng ai cãi nhau mà đến nỗi thê tử chạy xa cả ngàn dặm?

“Ta sợ cô bị người ta lừa bắt đi nên hôm sau khiến gã hầu tới hỏi thăm xem sao. Dè đâu gã hầu nhà ta bị một đám đàn ông lực lưỡng cảnh cáo. Mấy hôm sau, gian nhà cô ở cũng thành vườn không nhà trống.”

Thấy Thẩm Lan cười buồn, Dương Duy Học cũng thở dài: “Nhà ta ở Tô Châu là gia tộc lớn. Quản sự trong nhà quen với bách hộ Cẩm Y Vệ Tô Châu là La Bình Chí, bèn hối lộ tiểu kỳ dưới trướng hắn, khi đó ta mới hay tin trong kinh thành có nhân vật tai to mặt lớn tới. Nhưng vẫn chưa hay danh tính là ai.”

“Ta mới lòng vòng tìm tới tình nhân của La Bình Chí, hối lộ ít tiền để nàng kia tìm hiểu tin tức. La Bình Chí miệng kín như bưng, mãi đến hai tháng sau, nhân lúc say rượu mới lộ ra ba chữ Bùi đại nhân.”

“Cả triều văn võ, người họ Bùi, tuổi tác ước chừng hai mươi mấy, khí độ cao quý cũng chỉ có Thế tử của phủ Ngụy Quốc Công mà thôi. Dù đã gặp mặt y, nhưng hôm ấy trời tối đen, ta nhìn không quá rõ, cho nên lờ mờ vẽ lại bức họa người ấy cầm đi hỏi người lớn trong nhà xem có giống Ngụy Quốc Công Thế tử không. Khi ấy có người thúc phụ trước làm quan trong kinh thành đã về hưu từng gặp y một lần. Đến đây ta mới chính thức xác nhận người nọ là Bùi Thủ Tuân.”

Nghe hắn hối hả bôn ba đến vậy chỉ để tìm hiểu an nguy của nàng, Thẩm Lan tràn trề cảm động không thể nói thành lời, nàng cúi người hành lễ: “Có thể làm bạn cùng Dương huynh, quả thực là phước phận ba đời ta tu được.”

Dương Duy Học lại thở dài: “Biết y là Bùi Thận, hay tin y tới Hàng Châu nhậm chức, ta mượn cớ du ngoạn Tây Hồ, ngắm thuyền rồng ngày Đoan Ngọ để tới gặp cô một lần. Thanh Nhuận Trà Lâu là nơi xem đua thuyền nổi tiếng của giới quan lại quý tộc, ta liền tới đây rảo quanh thử vận may.” Nói rồi, hắn bật cười: “Xem ra, vận may của ta đúng là không tệ lắm.”

Khóe mắt Thẩm Lan ửng đỏ, chân thành nói: “Bèo nước gặp nhau mà thôi, Dương huynh lại lo lắng an nguy của ta đến vậy, quả thực không hổ là người quân tử.”

Nghe nàng khen mình, Dương Duy Học vậy mà thấy hơi ngại ngùng. Tuổi trẻ nhiệt tình, nếu nói trong này không lẫn mấy phần tình riêng, đó là nói dối. Mà hiện giờ thấy nàng chải búi tóc của thiếu phụ đã có chồng, lòng hắn không ngăn được niềm chua xót.

Dương Duy Học gác xuống muôn ngàn suy tư, quan tâm nói: “Cô bây giờ sống có tốt không?”

Trước nay chỉ có Thẩm Lan hỏi người khác sống thế nào, giờ đây chợt có người đến hỏi mình sống ra sao, chóp mũi Thẩm Lan cay xè, hạ giọng nói: “Dương huynh, hôm nay thời gian ta có ít ỏi, cần nhanh chóng tới Thanh Nhuận Trà Lâu, không kịp ôn chuyện. Mong Dương huynh bỏ quá cho.”

Dương Duy Học vốn là người hào sảng, nghe vậy cũng không ngại, chỉ thấp giọng nói: “Nếu cô cần tìm ta, hãy tới cửa hàng tơ lụa Sử gia ở phố Mã Tiền ngoài Bắc Quan, đó là do một lão bộc lâu năm nhà ta sau khi chuộc thân thì ra mở tiệm.”

Thẩm Lan gật gật đầu, thu lại nỗi lòng, chắp tay thi lễ rồi xoay người rời đi.

Dương Duy Học ngẩn ngơ dõi theo bóng nàng, lặng lẽ buông một tiếng thở dài.

Thẩm Lan vào quán trà, người hầu trà liền chạy ra đón. Thẩm Lan nhanh chóng lấy túi tiền đưa cho người hầu trà: “Ta mới để lạc mất hộ vệ đi cùng, đành phải tới đây trước, dắt ta lên lầu hai đi.”

Người hầu trà được tiền thưởng, lần mò thấy bên trong có bạc vụn, cười khanh khách nói: “Mời phu nhân ngồi.”

Thẩm Lan thấy hắn nhận tiền thưởng, khẽ thở phào, nếu vậy có thể đổ là tiền bạc trên người nàng đều đã đem thưởng hết cho gã hầu trà. Dù sao cũng chẳng ai bận tâm người hầu trà được thưởng bao nhiêu bạc.

Thẩm Lan bình tĩnh lên lầu, trông thấy tên hộ vệ đứng gác ngoài cửa một phòng chữ “Lan” rõ là thân vệ của Bùi Thận mà nàng từng gặp – Bình Nghiệp.

“Phu nhân.” Bình Nghiệp ngạc nhiên, vò đầu bứt tai nói: “Ca ca của ty chức đâu? Sao không tới cùng phu nhân?”

Thẩm Lan chán chường đáp: “Người đi đường quá nhiều, ta lạc cả đám hộ vệ và bọn nha hoàn rồi.”

Bình Nghiệp không biết nói gì hơn, đành đón Thẩm Lan vào phòng, rồi ra cửa đứng gác.

Thẩm Lan vào được tới phòng mới dám nhẹ nhàng thở phào, may mà tới nơi trước bọn hộ vệ.

Nàng cầm chén sứ rót miếng trà Vạn Xuân Bạc Diệp, rồi cầm chén trà thong thả mở cửa sổ ngắm cảnh đua thuyền rồng.

Trên mấy chiếc thuyền rồng, đầu rồng bằng gỗ sơn màu ngẩng lên, đuôi rồng thẳng tắp, hai bên trái phải ba mươi người đàn ông vạm vỡ cầm mái chèo. Trước sau mỗi thuyền có hai cái trống lớn bằng da bò, liên tục bị gõ vang ầm ầm.

Hai bờ sông ùng ục như nước sôi, tiếng người ồn ào náo động rung trời, cổ vũ gào thét không ngớt. Chỉ có những chiếc thuyền rồng lao vút lên như mũi tên rời cung, băng băng xông thẳng về phía trước.

Thẩm Lan hết sức chăm chú xem trận đua, lát sau chợt nghe bên ngoài loáng thoáng tiếng ồn, nàng biết là Bình Sơn đã dẫn theo đám hộ vệ chạy tới.

Quả nhiên ngay sau đó cửa phòng bị mở ra, Thẩm Lan nghe tiếng nhìn lại, Bình Sơn thấy nàng yên ổn ngồi trong phòng mới thở phào một hơi, lau đi mồ hôi chảy dài trên trán: “Phu nhân sao đi nhanh đến vậy?”

Thẩm Lan nhún vai đáp: “Ta dẫn Tử Ngọc và Lục Nhuỵ đi được một đoạn, tự dưng quay lại chẳng thấy ai nữa. Ta không biết làm sao, nhớ lại ban nãy ngươi nhắc tới Thanh Nhuận Trà Lâu nên vội vã chạy tới đây tìm các ngươi.” Nói xong, nàng vội hỏi: “Đã tìm thấy Tử Ngọc và Lục Nhuỵ chưa?”

Bình Sơn gật đầu: “Bẩm tìm được rồi, gặp nhau trên đường tới quán trà.” Nói rồi, hắn lui ra, hai nha hoàn lảo đảo chạy vào phòng, tóc tai rũ rượi, mồ hôi đầm đìa, hai mắt cũng đỏ hồng trông như sắp khóc đến nơi.

Thẩm Lan áy náy: “Xin lỗi hai em, ta cứ đi tới đi tới nên bị dòng người xô đi mất.”

Hai nha hoàn quệt nước mắt, không dám trách nàng, đành phải thấp giọng nói: “Phu nhân, lần sau đừng vứt lại chúng nô tỳ nữa.”

Thẩm Lan nhẹ giọng an ủi một hồi, mới kêu các nàng tiếp tục cùng xem hội đua thuyền rồng.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

Phong tục ăn tết Đoan Ngọ của Việt Nam các bạn có thể đọc thêm trong cuốn Đất lề quê thói (sách viết về phong tục nếp sống, nếp sinh hoạt của người Việt từ thời cổ đại cho đến những năm 19xx)

Một số kiêng kỵ ngày tết Đoan Ngọ ở Việt Nam tham khảo tại đây

1 Câu cuối trong bài Giả Sinh của Lý Thương Ẩn. Bản dịch của Tạ Trung Hậu trang Thivien

2 xương bồ là lá bồ diệp dùng để xông nhà trừ tà ngày tết Đoan Ngọ. Giác thử là bánh chưng nhọn, tức là bánh ú tro ở Việt Nam. Hai cụm này kiểu như là một câu chúc may mắn ngày tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc nên mình giữ nguyên nhé.

3 bốn đê ba đảo: cảnh Tây Hồ Hàng Châu nổi tiếng với bố cục “Nhất sơn, nhị tháp, tam đảo, (tam) tứ đê, ngũ hồ”. Trong đó ba đảo gồm Tiểu Doanh Châu, Hồ Tâm Đình, Nguyễn Công Đôn, bốn đê gồm Cô Sơn, đê Bạch, đê Tô, đê Dương Công. Chi tiết tham khảo tại đây (tiếng trung). Mười thắng cảnh Tây Hồ xem tại đây (tiếng Việt)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 68: Dần khỏe lại


Đến khi tan hội đua thuyền đã là đầu giờ Dậu. Thẩm Lan ở lại quán trà dùng đĩa bánh ôn đào, uống thêm chén sữa hạnh nhân rồi mới dẫn đám hộ vệ nha hoàn rời khỏi.

Nàng về đến phủ vào cuối giờ Dậu. Lúc này chiều hôm buông xuống, sao trời dần tỏ, Bùi Thận vẫn chưa trở về. Thẩm Lan cũng không vội, thong thả rửa mặt thay quần áo.

Qua thêm non nửa canh giờ, Bùi Thận mới vừa dẫn Trần Tùng Mặc, Lâm Bỉnh Trung về phủ, chợt nghe Bình Sơn tới bẩm rằng phu nhân ban nãy đi lạc.

Bùi Thận hơi ngừng chân, lạnh giọng hỏi: “Đã có chuyện gì?”

Bình Sơn là người thật thà, cũng kể tỏ tường những gì mình biết: “Khu vực đỉnh Phi Lai ở Tây Hồ rất là đông đúc tấp nập, không tiện đi xe ngựa nữa, cho nên phu nhân xuống xe đi bộ. Ty chức đang định dẫn phu nhân tới Thanh Nhuận Trà Lâu, ai ngờ phu nhân bước tới trước mấy bước, mà dòng người đông quá khiến bọn ty chức bị chen tách ra.”

Advertisement

Vẻ mặt Bùi Thận nhạt xuống: “Sau đó làm sao tìm được phu nhân?”

Bình Sơn thành thật đáp: “Phu nhân tự đi tới Thanh Nhuận Trà Lâu gặp Bình Nghiệp trước.”

Bùi Thận ngẫm nghĩ một lát, hỏi: “Nàng đi lạc lúc nào? Rồi lúc nào thì tới quán trà?”

Bình Sơn nhớ lại: “Ước chừng đi lạc vào khoảng cuối giờ Thìn. Bình Nghiệp nói phu nhân tới quán trà lúc giờ Tỵ hai khắc.”

Nghe vậy, sắc mặt Bùi Thận hơi dịu lại. Thời gian chỉ hai ba khắc mà thôi, nếu bước đi vội vã, thì đúng là có thể từ đỉnh Phi Lai tới được Thanh Nhuận Trà Lâu. 

*khắc = 15 phút

Nói vậy, có vẻ đúng là bị dòng người xô đẩy tách ra, rồi vội chạy tới tụ lại ở quán trà.

Bùi Thận lạnh lùng nói: “Tự đi lãnh mười gậy đi.”

Bình Sơn nhẹ thở phào. Lãnh mười gậy này xong, chuyện này cũng coi như bỏ qua.

Bùi Thận xua tay bảo mọi người lui ra, lúc này mới cầm ngọn đèn sừng dê mà Trần Tùng Mặc mang tới đi về hướng viện trong.

Thẩm Lan tắm gội xong xuôi, bước ra khỏi phòng tắm, chợt thấy Bùi Thận ngồi trên ghế gỗ nam khắc hoa văn rồng lượn, ung dung đọc sách.

Thẩm Lan khẽ ngừng chân, đoạn ngồi xuống sập La Hán năm thành để Tử Ngọc và Lục Nhụy lau khô tóc cho nàng.

Vắt khô tóc rồi, hai nha hoàn sửa soạn châm hương trải giường thì bỗng Bùi Thận xua tay nói: “Khỏi cần, lui xuống đi.”

Tử Ngọc, Lục Nhụy nhìn nhau, không dám trái ý Bùi Thận, thế là uốn gối hành lễ, đóng cửa xin lui.

Trong nhà một mảnh lặng im, chỉ có ánh sáng leo lắt từ ngọn nến trên giá cắm nến bằng sứ thanh hoa tám mặt lẳng lặng rọi sáng không gian yên tĩnh.

Thật lâu sau, Bùi Thận gác cuốn《 Đàm Ý Ca Truyện 》Thẩm Lan đang đọc dở xuống, ôn hòa hỏi: “Tóc đã khô chưa?”

Thẩm Lan gật đầu đứng dậy nói: “Hôm nay mệt nhọc cả ngày trời rồi, ta đi ngủ trước đây.” Nói xong, nàng vén rèm châu lên, định bước vào buồng trong.

Thấy vẻ mặt nàng bình tĩnh như thường, làm như chưa hề có chuyện gì xảy ra, Bùi Thận không khỏi cười lạnh, nhưng ngoài miệng vẫn ấm giọng hỏi: “Hôm nay nghe nói nàng đi lạc à?”

Lòng Thẩm Lan nhảy dựng, nhưng vốn có chuẩn bị trước, nàng chỉ gật đầu đáp: “Ta lần đầu được xem hội đua thuyền, hào hứng quá nên cứ bước tới trước cố nhìn cho rõ. Chờ hoàn hồn lại, mới thấy chẳng còn bóng hộ vệ hay nha hoàn nào ở cạnh nữa.”

Bùi Thận gật đầu: “Ra thế.”

Thẩm Lan cho rằng mình đã qua cửa, đang lén lút thở phào. Bùi Thận đột nhiên khẽ cười một tiếng.

“Thế có gặp được Dương Duy Học không?”

Thẩm Lan hãi hùng khiếp vía, mặt mũi biến sắc. Y muốn dọa nạt nàng thôi, hay là thật sự đã tra được Dương Duy Học? 

Thẩm Lan do dự tới lui, không biết nên phản ứng thế nào cho đúng. Nàng đứng đưa lưng về phía Bùi Thận, hít sâu mấy lần để giấu đi nét sợ hãi trên khuôn mặt, mới quay lại nhíu mày nói: “Ngài nói vớ vẩn gì đó? Chuyện này thì liên quan gì tới Dương Duy Học?”

Không đợi Bùi Thận nổi nóng, Thẩm Lan đã lạnh mặt: “Ta chẳng qua chỉ ra ngoài một chuyến, ngài vậy mà nghi ngờ ta? Đã vậy, ngài chịu thả ta ra ngoài làm gì? Sao không nhốt ta trong nhà làm một con rối gỗ, mặc ngài chơi đùa cho xong?” Dứt lời, nàng ném rèm châu đang vén xuống, sầm mặt bỏ vào buồng trong.

Bùi Thận không ngờ bị nàng bắt bẻ ngược, đứng sững sờ tại chỗ. Chờ y tỉnh táo lại, không khỏi thấy bất mãn trong lòng. Tưởng đâu gần đây đối xử tốt với nàng, cuối cùng cũng có thể khiến nàng trở nên ngoan ngoãn nghe lời, ngờ đâu vẫn là cái vẻ kiêu căng khó dạy bảo như vậy.

“Nàng chớ có được voi đòi tiên.” Bùi Thận xốc rèm châu theo vào buồng trong, cảnh cáo: “Hôm nay nàng vùng thoát khỏi bọn nha hoàn hộ vệ để làm gì, tự nàng biết lấy!”

Thẩm Lan vốn đã lên giường, nghe vậy vén chăn ngồi dậy, lạnh lùng nói: “Ta đã làm gì lén lút vụng trộm để ngài phải tới quở trách ta thế này!” Dứt lời, nàng nói một hơi: “Ngài đã nhìn ta không vừa mắt, chi bằng trước đánh ta năm gậy, nhốt ta lại, hoặc là lột xiêm y của ta ra, sau đó vẽ thêm một bức mai đỏ giữa trời tuyết lên? Dù sao mấy thứ này Bùi đại nhân cũng có thể làm ra được!”

Bùi Thận bị nàng chọc tức muốn ngã ngửa. Ngặt nỗi những việc này y đúng là đã từng làm ra, y cáu bẳn gắt lên: “Nàng đúng là cái đồ ăn cháo đá bát! Suốt ngày chỉ nhớ mấy chuyện này. Sao lúc ta cứu nàng khỏi tay lũ Oa, tìm thầy thuốc chữa bệnh cho nàng, nuôi nàng cơm ngon áo đẹp không thấy nàng nhớ tới?”

Thẩm Lan cười lạnh: “Đúng vậy, Bùi đại nhân đối với ta thật là tốt biết mấy. Cá chép Trường Giang, gạo thơm tiến cống, trà lá Đồng Sơn, lụa bạc tơ vàng lộng lẫy chói mắt. Cơm ngon áo đẹp nơi nào sánh được với ngài?”

Bùi Thận khịt mũi một tiếng: “Nàng biết thì tốt.”

Thẩm Lan tức đến đau thắt cả ngực, trách mắng: “Nhìn thì áo gấm lụa là, của ngon vật lạ, nhưng ta có phải đang sống không? Cả ngày chỉ được đọc mấy cuốn tiểu thuyết viết chuyện gió trăng tài tử giai nhân. Cái gì mà Đàm Ý Ca Truyện, Trương Sinh Thải Loan Đăng Truyện nằm đầy trên đầu giường ta. Ngài cho là ta không biết ngài tơ tưởng những gì sao!”

“Ta buồn chán ở viện sau không được ra ngoài. Mở mắt thấy một mảnh trời vuông vức, nhắm mắt thấy tấm màn lụa vuông vuông. Sống thế này thì có gì tốt đẹp ghê gớm lắm thay?”

Thẩm Lan nói tới đây, tàn nhẫn bấu vào lòng bàn tay mình, đau đến mức khiến mắt nàng rưng rưng đẫm lệ: “Ta làm thiếp vốn đã thấp hơn người khác một bậc. Trước nay ngài quen coi ta như chim chóc nuôi ngoài hành lang, rảnh rỗi mang ra cho ăn cho uống, chơi đùa một chốc thì cũng thôi. Bây giờ quá đáng tới độ không chứng không cứ cũng tới nghi ngờ ta, vu cho ta lén gặp người khác!”

Thấy đáy mắt nàng ngấn lệ, Bùi Thận đã hơi mềm lòng. Chỉ là bảo y hạ mình xuống xin lỗi, đó là chuyện khó khăn muôn vàn.

Hồi lâu sau, y mới bước lại lấy tay áo lau nước mắt cho nàng, giọng cũng dịu xuống mấy phần: “Ta có nghi ngờ gì nàng đâu? Nhân tiện thì hỏi một câu thôi.”

Thẩm Lan biết tỏng người này không có bằng chứng trong tay, mới chịu buông tha nàng dễ dàng như vậy. Ban nãy nhắc tới Dương Duy Học ước chừng cũng là để gạt nàng thôi. Hễ là hôm nay nàng ứng phó không ổn, y nhất định sẽ điều tra xem Dương Duy Học đang ở nơi nào.

Thấy vẻ mặt nàng lãnh đạm, Bùi Thận dịu dàng nói: “Hôm nay nàng ra ngoài chơi cũng đã mệt rồi, ít nữa cứ nghỉ ngơi trong nhà đã.”

Thẩm Lan cười lạnh, biết Bùi Thận tuy không có chứng cứ nhưng cuối cùng vẫn ôm mối nghi ngờ, cho nên quyết định nhốt nàng trong nhà không để nàng ra ngoài nữa.

Thẩm Lan thấu rõ mọi sự. Nếu nàng giả vờ ngoan ngoãn sau khi được dỗ dành, Bùi Thận ngược lại sẽ sinh nghi, thế là nàng giở giọng châm chọc: “Ngài cứ việc nhốt ta lại luôn đi.”

Bùi Thận nghẹn lời, tự biết mình đuối lý, ấm giọng an ủi: “Ta đâu phải định nhốt nàng? Chờ nàng khỏe hẳn tất nhiên là có thể tự do ra ngoài.”

Vẻ mặt Thẩm Lan bấy giờ mới dịu lại, hơi nguôi cơn tức, lầm bầm một câu: “Bị ngài chọc một trận, cũng chẳng biết bao giờ mới khỏe lên được.” 

Bùi Thận tức đến bật cười, mắng: “Ta thấy nàng chắc cũng sắp khỏi hẳn rồi đấy, còn có sức bắt bẻ ta kia mà.” Y lại nói: “Mai mời thầy thuốc đến khám lại cho nàng xem sao.”

Nhắc tới thầy thuốc, mặt Thẩm Lan nhăn nhó: “Thuốc đắng muốn tê cả lưỡi. Thầy thuốc ở Nam Kinh còn cố bỏ thêm cho ta thật nhiều cam thảo, cuối cùng đắng đã đành, còn thêm vị chát, chẳng thấy ngọt ở đâu cả.”

Nghe nàng lầu bầu oán trách, không khí chừng như dịu đi, Bùi Thận cũng cười rộ lên: “Thế nàng cho đây là đang ăn kẹo tổ chim à.” Lại nói: “Trong thành Hàng Châu cũng có nhiều thầy thuốc có tiếng tăm. Nhưng ta nghĩ dù sao vẫn nên mời ngự y tới một chuyến thì tốt hơn.”

Thẩm Lan có hơi kinh ngạc: “Vị bên Nam Kinh chịu tới đây ư?”

Bùi Thận nhẹ nhàng bâng quơ: “Cháu trai duy nhất của ngài ấy không theo nghề y. Ta định tiến cử hắn tới thư viện Lộc Minh để đi học.”

Thẩm Lan ngơ ngẩn nhìn Bùi Thận, rồi thở dài một tiếng, không nói gì thêm nữa.

Một hai tháng nữa lại trôi qua, bấy giờ đã là đầu tháng bảy, cái nóng bức của mùa hè chưa tan đi mà gió heo may mùa thu đã bất chợt ùa về. Thẩm Lan ăn không ngồi rồi, đứng tựa cửa sổ ngắm mưa lất phất.

Mưa thu nhảy múa rơi trên sàn gạch đá xanh, nhẹ nhàng rửa sạch bụi chuối tây xanh mướt. Cơn mưa rào khiến những khóm trúc được tỉa tót cẩn thận tươi tỉnh lên, bóng tùng bóng bách trước đình càng thêm xanh ngắt.

Thẩm Lan đang xem chăm chú, chợt thấy Bùi Thận dẫn Trương viện phán tiến vào. Nha hoàn bà vú dâng lên khăn bông mềm, lau đi những giọt mưa còn vương trên áo quần cả hai.

Trương viện phán trông thấy Thẩm Lan, vuốt râu cười nói: “Nhìn sắc mặt của phu nhân thì thấy khí huyết bây giờ đủ đầy hơn nhiều.”

Thẩm Lan thả cây quạt tròn thêu bức lá đỏ mùa thu trong tay xuống, cười khanh khách đứng dậy nói: “Phiền ngài ngàn dặm xa xôi tới đây một chuyến, thật là ngại quá.”

Trương viện không khỏi đùa nàng: “Bùi đại nhân và phu nhân tình sâu như biển. Nếu lão phu không thể chữa khỏi cho phu nhân, chẳng phải buồn cho thế gian này thiếu đi một đôi tình lữ sao.”

Thẩm Lan im bặt không đáp, có lẽ Trương đại phu cho rằng nàng là vợ của Bùi Thận nên mới nói những lời như vậy.

Thấy vẻ mặt nàng nhạt nhẽo chẳng biết đang suy tư gì, Bùi Thận hắng giọng nói: “Phiền Trương viện phán vậy.”

Trương viện phán bắt mạch cho Thẩm Lan xong, trầm ngâm một lát mới hỏi: “Chu kì kinh nguyệt của phu nhân có đều đặn không?”

Trương viện phán đã qua bảy mươi, thành một cụ ông râu tóc bạc phơ, nên những người trong phòng cũng không có gì phải ngại ngùng e thẹn nữa.

Tử Ngọc thấp giọng đáp: “Bẩm đều đặn ạ.” Những tháng gần đây đều tới đúng vào mùng năm đầu tháng, không lệch một ngày. 

Trương viện phán lại bắt mạch kỹ càng lần nữa, đổi xem cả tay trái lẫn tay phải, ông trầm tư một lát, mới cười nói: “Phu nhân bây giờ đã rất tốt rồi.”

Tinh thần Thẩm Lan thả lỏng ra, cười đáp: “Nhờ công Trương viện phán cả.”

Nghe nói nàng đã khỏe, Bùi Thận thở phào nhẹ nhõm, tán gẫu thêm với Trương viện phán vài câu, rồi mới đứng lên tiễn người ra cửa.

Ngoài hiên mưa rơi nặng hạt, leng keng như hạt châu lăn trong mâm ngọc. Nương tiếng mưa rơi, Bùi Thận khoanh tay trầm giọng hỏi: “Trương viện phán, cơ thể nàng thật sự đã khỏe hẳn rồi sao?”

Trương viện phán biết lần trước ông gọi y ra riêng để nói chuyện, khiến y sợ hãi trong lòng, nên lúc này mới tránh khỏi vị phu nhân kia để hỏi lại lần nữa.

Thấy Bùi Thận vẫn đang nhìn mình, Trương viện phán vuốt râu cười nói: “Tất nhiên là đã khỏi hẳn thật rồi.”

Khuôn mặt Bùi Thận lúc này mới giãn ra, lại húng hắng nói: “Vậy chuyện phòng the……”

Trương viện phán cười cười: “Nếu muốn sinh con thì không còn trở ngại gì nữa.” Nói rồi, ông lại dặn dò vài câu “Đừng để nhiễm lạnh”, “Ăn uống thì kỹ càng một chút”, mới theo chân nha hoàn dẫn đường về phòng nghỉ cho khách. Ông đường sá xa xôi tới đây chỉ ở tạm Hàng Châu mấy ngày sẽ phải về lại Nam Kinh.

Bùi Thận nhìn ông đi khỏi, cũng chưa vội quay vào nhà, chỉ là vẻ mặt tĩnh lặng ngắm mưa rơi trên mái ngói, không nói một lời. Hồi lâu sau, y mới rời khỏi hành lang, dời bước đến thư phòng để xử lý việc công.

Đến tối, nhà bếp đưa lên món cơm túi tiền, dùng gạo tẻ ngâm vào nước ngải cứu. Chân giò hun khói, cồi sò, thịt cá hố, gà tam hoàng cắt hạt lựu, lấy lá sen gói lại, đem đi hầm trên lửa nhỏ.

Thẩm Lan mở lá sen ra, mùi thơm xông lên mũi khiến khẩu vị nàng không tệ lắm, ăn được một chén cơm lá sen rồi mới đứng lên đi tắm rửa.

Lúc này đã vào giữa giờ Tuất, trăng ẩn sao thưa, trời đen như mực. Thi thoảng nghe từng tiếng mưa lành lạnh nện lên những chạc tùng chạc bách ngoài đình.

Thẩm Lan tắm gội xong, rảnh rỗi không có việc gì, vẩn vơ nghĩ dạo gần đây Bùi Thận về nhà ngày một muộn hơn, hẳn là công sự ngày càng thêm bận rộn.

Mới nghĩ tới Bùi Thận, liền thấy y cất bước tiến vào, cười nói: “Sao chưa ngủ? Hay là đang đợi ta đấy phỏng?”

Thẩm Lan trừng y một cái: “Ta ở nhà cả ngày, không phải đọc sách thì là ngủ, tối tới làm gì còn ngủ nổi.” Dứt lời, nàng lại nói: “Sách trong phòng này toàn là tiểu thuyết giai nhân tài tử, ta đã đọc phát chán rồi, ít ra ngài cũng đổi mấy cuốn khác tới đây đi chứ.”

Bùi Thận nghe nàng nói thời gian buồn tẻ, khẽ cười một tiếng: “Ta đi tắm trước đã.” Nói đoạn, y đứng lên đi vào nhà tắm.

Bóng đêm dần sâu, Thẩm Lan cũng có phần buồn ngủ, thế là đứng dậy vén rèm đi vào buồng trong.

Chừng ba mươi phút sau, Thẩm Lan đang lim dim chuẩn bị chìm vào giấc ngủ, chợt thấy bên cạnh nóng hừng hực, bên tai là giọng Bùi Thận khàn khàn thủ thỉ.

“Không phải nàng nói thời gian trôi qua rất nhàm chán sao? Vậy bây giờ làm những việc thú vị có được không?” Nói rồi, y cúi người xuống.

Bên ngoài mưa hơi ngớt, sương dần dày lên, tí tách từng giọt rơi mãi đến bình minh.

Trong nhà màn gấm chăn thêu, sóng đỏ cồn cào, hương ngào ngạt, sương rưng rưng, cá nước vui đùa xuân ấm nồng.

Lời Editor: Gần đây mình thấy có một vài bạn thắc mắc liệu Thẩm Lan đã thích Bùi Thận chưa?

Vì tác giả vẫn chưa hé lộ nhiều về nội tâm của Lan, mình xin phép trích lại một số đoạn suy tư của Thẩm Lan để cả nhà cùng bàn luận nhé.

Chương 61 – Trong màn tối đen, chỉ còn tiếng tim đập vững chãi của Bùi Thận là chân thực. Hai mắt Thẩm Lan cay cay, không nói lời nào mà áp mặt vào vòm ng/ực ấm nóng của y, lắng nghe tiếng con tim y đập thật mạnh mẽ và mãnh liệt.

Một nhịp, một nhịp, lại một nhịp.

Nàng hiếm hoi mới dịu ngoan thế này, lòng Bùi Thận như mềm tan thành một vũng nước đường ngọt lịm, ngọt đến độ sắp chảy được ra thành mật.

“Đừng sợ, có ta đây.”

Nghe y thốt ra câu này, hốc mắt Thẩm Lan cay xè, dùng gương mặt cọ cọ vào y.

Chương 63 – Thẩm Lan vuốt ve mấy đồng tiền trên cổ tay, giữa làn khói tỏa từ mấy cành bách ngẩn ngơ trông sang gương mặt tươi cười của Bùi Thận. Thật lâu sau, nàng rũ mi mắt, lặng yên không nói.

Chương 68 – Thẩm Lan có hơi kinh ngạc: “Vị bên Nam Kinh chịu tới đây ư?”

Bùi Thận nhẹ nhàng bâng quơ: “Cháu trai duy nhất của ngài ấy không theo nghề y. Ta định tiến cử hắn tới thư viện Lộc Minh để đi học.”

Thẩm Lan ngơ ngẩn nhìn Bùi Thận, rồi thở dài một tiếng, không nói gì thêm nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 69: Nữ Bồ Tát


Sớm hôm sau, ánh nắng vừa le lói nơi chân trời, Thẩm Lan mơ màng nghe tiếng sột soạt bên cạnh, có lẽ là Bùi Thận đã tỉnh dậy.

Thấy nàng buồn ngủ không nhấc nổi hai mí, Bùi Thận thấp giọng cười mắng: “Sao vô tích sự đến thế này kia chứ.”

Thẩm Lan bị y đánh thức, lờ mờ mở mắt, đột nhiên cảm thấy cả người vô cùng nhức mỏi, lại nghe y mắng mình vô dụng, nàng không khỏi tức tối, mỉa mai đốp lại: “Bùi đại nhân hầu hạ ta cả đêm mà vẫn dậy sớm nổi, quả thật là được việc.”

Bùi Thận được dỡ lệnh cấm, mặt mày hớn hở thoả mãn, bị nàng đốp chát bắt bẻ cũng không giận, chỉ véo nhẹ má nàng, cười nói: “Mồm mép mấy câu thôi, ta chẳng tranh cãi với nàng.” Nói rồi, y bước xuống giường, hô nha hoàn vào thay quần áo.

Thẩm Lan buồn ngủ không chịu nổi, định nhắm mắt ngủ thêm, ngặt nỗi chưa uống thuốc tránh thai, thế là biếng nhác hỏi: “Thuốc tránh thai đâu?”

Bùi Thận đang bảo nha hoàn thắt cho mình cái dây đeo hoa mai màu xanh đá, nghe vậy mới nhớ Trương viện phán chưa nói với nàng nếu còn uống thuốc tránh thai nữa sẽ ảnh hưởng tới đường sinh nở sau này, y mỉm cười: “Thuốc tránh thai gì chứ? Sau này không cần uống tiếp nữa.”

Thẩm Lan sửng sốt, vẻ mặt hơi lạnh đi: “Cứ bảo nhà bếp đun một chén tới đây đi. Để lòi ra một đứa con thứ, mặt mũi ai cũng khó coi lắm.”

Bùi Thận cũng sầm mặt, kiềm nén cơn giận đuổi đám nha hoàn ra ngoài, mới lạnh giọng hỏi: “Nàng không muốn sinh con cho ta?”

Thẩm Lan lúc này đã tỉnh cơn buồn ngủ, nàng tựa lên gối lụa xanh thẫm thêu hoa văn như ý, lạnh nhạt nói: “Hôm Nguyên Tiêu ta đã nói một lần rồi.” 

Bùi Thận tất nhiên vẫn còn nhớ rõ, nàng đã nói đứa bé sinh ra rồi cả đời cũng không thể gọi nàng là mẹ. Chỉ là hôm ấy y nghĩ rằng Thấm Phương là tạm thời băn khoăn mà thôi, không ngờ đã nửa năm trôi qua, nàng vẫn chưa chịu thông suốt.

“Sao nàng cứ mãi cố chấp ương bướng như vậy? Nàng là thiếp, con thứ sinh ra nếu gọi nàng là mẹ, chẳng phải là đạo lí luân thường đảo ngược, không còn thể thống gì?”

Thẩm Lan biết người này gần như là điển hình của giới học giả rập khuôn giáo lý (1), vô cùng coi trọng phép tắc tôn ti, nhưng vẫn bị dăm ba câu của y chọc đến tức ngực.

Hồi lâu sau, nàng cắn răng nói: “Bây giờ ngài lại nhắc tới thể thống, phép tắc với ta? Phép tắc đó là trước khi lấy vợ mà sinh con thứ, là xấu mặt, là khó coi. Ta muốn theo phép tắc uống thuốc tránh thai, ngài lại không chịu? Vậy ở đây ai mới là người không tuân phép tắc, chẳng ra thể thống gì?”

Bùi Thận bị nàng mỉa mai, không khỏi nổi giận, mặt mũi sa sầm nói: “Thế nàng có biết thuốc này nếu uống quá nhiều, mai này sẽ ảnh hưởng đến đường sinh nở của nàng không?”

Thẩm Lan hơi giật mình, thật lâu sau mới lạnh lùng đáp: “Dù là cả đời không sinh, cũng vẫn tốt hơn để con ta làm con thứ, mãn kiếp đều thấp hơn người khác một bậc.”

“Giỏi, giỏi lắm.” Bùi Thận giận đến độ cười lạnh không ngừng, mặt mũi tối tăm phất tay áo bỏ đi.

Thấy y đi khỏi, Thẩm Lan cũng chẳng vui vẻ gì, đứng lên hô tên Tử Ngọc, bảo nàng tới nhà bếp đun một chén thuốc tránh thai.

Tử Ngọc chần chừ lén liếc nhìn nàng, thấp giọng nói: “Phu nhân, Gia trước khi đi có dặn không cho phép nhà bếp đun thuốc tránh thai.”

Nghe vậy, gương mặt vốn đang nhạt nhẽo của Thẩm Lan nay càng thêm rét lạnh. Thấy nàng như thế, Tử Ngọc cũng không dám khuyên, chỉ rũ đầu nhìn chằm chằm mũi chân của mình.

Thẩm Lan không muốn khó xử nàng, thở dài: “Em ra ngoài đi.”

Tử Ngọc khe khẽ thở phào, trù trừ dịch chân ra cửa, thấy sắc mặt Thẩm Lan tái mét, nàng không đành lòng, cuối cùng vòng trở lại, hạ giọng khuyên nhủ: “Phu nhân chớ giận, xin nghe nô tỳ nói một lời.”

Thẩm Lan ngẩng đầu lẳng lặng nhìn nàng.

Thẩm Lan thường ngày đối xử với đám nha hoàn rất là hiền lành, thêm chi Tử Ngọc đã hầu hạ nàng, nghĩa là tương lai sau này đều lệ thuộc cả vào Thẩm Lan nên những lời sau đây đều xuất phát từ tận đáy lòng.

“Phu nhân, nô tỳ chưa từng học chữ đọc sách, không rõ những đạo lý đao to búa lớn, nhưng cũng biết thế gian này đàn ông bạc bẽo phần đông. Phu nhân hãy nhân lúc còn được sủng ái, nhanh chóng sinh hạ một đứa con, để cuộc sống mai này còn có chốn nương tựa.” Dứt lời, nàng tiếp tục khuyên lơn: “Chuyện thuốc tránh thai, phu nhân đừng trái ý Gia nữa. Ngừng thuốc, cầu lấy một đứa con đi thôi.”

Thẩm Lan cười hờ hững: “Ta biết rồi.”

Thấy nàng vẫn là vẻ mặt nhàn nhạt, cũng không biết có nghe lọt hay không, Tử Ngọc thở dài, thấp giọng nói: “Phu nhân có muốn dùng bữa sáng chưa?”

Thẩm Lan lúc này làm gì còn tâm trạng nào mà ăn sáng, nàng lắc đầu: “Em lui xuống đi, để ta yên tĩnh một lát.”

Tử Ngọc than thầm một tiếng, khom người cáo lui. 

Trong nhà một mảnh yên tĩnh, chỉ có khói bay lượn lờ tỏa ra từ lò hạc Tuyên Đức. Ngoài cửa mưa bụi triền miên, rả rích như tiếng gì đang vỡ vụn.

Thẩm Lan ngồi thần người một lúc, không còn sót chút buồn ngủ nào.

Đến tối, Bùi Thận bận rộn cả đêm không về, sai Trần Tùng Mặc tới báo y ngủ lại ở thư phòng. Thẩm Lan chỉ ngóng trông y đừng trở về, nghe vậy cũng mừng thầm.

Bảy tám ngày liên tục, Bùi Thận chưa hề trở lại. Thẩm Lan vui vẻ thảnh thơi, mỗi lần đều chỉ gật đầu đáp rằng biết rồi.

Ai ngờ lần này, Trần Tùng Mặc báo tin xong vẫn chưa chịu đi ngay, hắn nán lại trong đình, hắng giọng hỏi: “Phu nhân còn gì cần dặn dò nữa không?”

Nàng thì có chuyện gì dặn dò Trần Tùng Mặc chứ? Thẩm Lan cười cười: “Không có, huynh về đi.”

Trần Tùng Mặc hết cách, chỉ đành quay lại thư phòng.

Ở thư phòng, Bùi Thận đang bàn việc với những sư gia phò tá mình, chờ tàn cuộc đã là lúc canh một.

Mưa bụi lác đác rơi trên người, chẳng mấy chốc đã thấm ướt cả áo quần. Bùi Thận lệnh cho nha hoàn bung dù tiễn các sư gia ra về. Y quay vào bên trong nghỉ tạm một lát, chợt nghe tiếng Trần Tùng Mặc thì thầm với Lâm Bỉnh Trung đang đứng gác ngoài cửa.

Bùi Thận xoa nhẹ ấn đường, gọi: “Trần Tùng Mặc đâu? Vào đây.”

Trần Tùng Mặc hết đường trốn, đành đẩy cửa bước vào.

Bóng đêm thăm thẳm, ánh trăng cùng vài ngôi sao thưa bị phủ mờ, chỉ còn ngọn nến mỡ bò lớn trên giá cắm nến bằng đồng khắc hình lá sen yên ắng rọi sáng căn phòng.

“Nàng có nói gì không?” Bùi Thận nhàn nhạt nói.

Trần Tùng Mặc nhủ thầm không ổn, cắn răng nói: “Bẩm Gia, phu nhân cũng không dặn gì thêm.”

Bùi Thận lập tức nổi giận, đồng thời cũng không khỏi cảm thấy tự giễu. Y mấy ngày liên tục không về, nàng vậy mà không hỏi tới nửa lời. Đúng là hạng vô tâm vô tình.

Nhưng y xưa nay vui buồn không lộ ra mặt, bề ngoài trông vẫn không hề khác thường. Thật lâu sau, y mới xua tay bảo Trần Tùng Mặc lui xuống.

Trần Tùng Mặc lén lút thở phào, nhìn vẻ mặt thương xót của Lâm Bỉnh Trung, hắn không khỏi thở dài. Chẳng biết những ngày tháng bị kẹp ở giữa thế này bao giờ mới chấm dứt?

Trần Tùng Mặc đang định tán gẫu với Lâm Bỉnh Trung vài câu, lại nghe sau lưng vang lên tiếng Bùi Thận.

“Cầm đèn tới đây.”

Trần Tùng Mặc sửng sốt, nhanh nhẹn giơ đèn liêu ti đi trước dẫn đường.

Đêm khuya tĩnh lặng, Thẩm Lan sớm đã chìm vào mộng đẹp, nhưng trong cơn mơ màng, phảng như nghe bên ngoài có tiếng động đậy.

Thẩm Lan bị đánh thức, lờ mờ mở mắt, nghe thấy có ai đẩy cửa tiến vào. Nàng giật mình thon thót, sắp sửa đứng lên, bỗng thấy lũ lượt nha hoàn vú già nối đuôi vào, người cầm đèn, người đi đánh nước tới.

Vậy là Thẩm Lan biết, Bùi Thận đã trở lại. 

Bên ngoài mưa bụi rả rích hơn mười ngày nay. Bùi Thận đêm khuya trở về, áo quần thấm ướt, mặt lạnh như tiền. Y vào nhà rồi cũng không thèm nhìn tới Thẩm Lan, chỉ đi thẳng vào phòng tắm.

Thấy y như vậy, Thẩm Lan không hỏi sợ hãi trong lòng. Người này rõ là tâm trạng không tốt, cáu giận quay về đây, chẳng biết một lát còn nổi cơn tam bành thế nào nữa.

Nghĩ đến đây, Thẩm Lan vội nằm xuống vờ như đã ngủ. Nàng ngủ rồi, trăm sự chớ có phiền nhiễu nàng.

Ba mươi phút sau, Bùi Thận tắm gội thay quần áo xong, khoác cái áo đạo bào ra ngoài, thấy nàng quay lưng về phía mình, dường như đã ngủ mất.

Bùi Thận càng thêm tức giận, sầm mặt cho lui hết nha hoàn vú già ra ngoài. Chờ đám người cáo lui, trong nhà chỉ còn mỗi hai người, Bùi Thận lúc này mới lạnh mặt vén màn lụa lên giường.

Thẩm Lan nằm trong góc, chừa lại cho y hơn nửa phần giường. Vốn nghĩ bấy nhiêu cũng đủ để y lăn qua lộn lại, ai ngờ Bùi Thận chẳng nói chẳng rằng thò tay kéo nàng vào lòng.

Thẩm Lan chỉ cho rằng Bùi Thận ôm nàng như thói quen, thế là vẫn tiếp tục vờ ngủ. Dè đâu Bùi Thận một tay nắm eo nàng, tay kia bắt đầu tháo dây buộc đồ lót của nàng ra.

Thẩm Lan không giả vờ nổi nữa, mở mắt ra nói: “Ngài làm gì đó?”

Bùi Thận cười lạnh: “Sao không giả vờ nữa đi?”

Thẩm Lan bị giọng điệu của y hù cho khiếp vía, níu chặt lấy dây buộc áo lót không để y tháo ra. Nàng không được uống thuốc tránh thai, nào dám tiếp tục ân ái với Bùi Thận. Nàng mềm giọng nói: “Gia, ta lại tới ngày nữa rồi.”

Bùi Thận đâu hay chu kì của nàng là khi nào, nhưng y vẫn không biến sắc đáp: “Ban nãy ta đã hỏi Tử Ngọc rồi, rõ ràng vẫn chưa tới.” Dứt câu, y lại định tháo dây áo nàng ra.

Thẩm Lan bị hành động của y làm cho hoảng hốt, không khỏi bị lời này gạt gẫm, cho rằng Bùi Thận thật sự đã hạ mình hỏi thăm Tử Ngọc, nàng lạnh giọng: “Ngài bức ép ta như vậy, đâu phải là hành vi quân tử?”

Bùi Thận ngẩn ra, phẫn nộ cười lạnh: “Ta không phải quân tử, nàng cũng chỉ là đứa thiếp hầu. Nếu đã là đồ chơi, ắt phải tự biết thân biết phận mình!” Nói rồi, y lạnh lùng hỏi: “Nàng muốn tự cởi hay để ta?”

Bị y đôi ba câu châm chọc, Thẩm Lan vừa tức vừa hận, cảm thấy vô cùng nhục nhã: “Ta dù là đứa thiếp, thì cũng là một người đang sống sờ sờ. Ngài ba lần bốn lượt dùng lời lẽ làm nhục ta, bây giờ lại muốn cưỡng đoạt ta, quả là hạng tiểu nhân nông cạn!”

Bị nàng mắng là hạng người ti tiện nông cạn, Bùi Thận giận tím mặt, phẫn hận vô cùng. Chỉ là y xưa nay có lòng kiêu ngạo riêng của bản thân, nhất định không nhào tới ép buộc người khác, y tức giận nói: “Khá khen cho lòng bất khuất kiên cường của nàng!”

Thẩm Lan cau mày quắc mắt, không chịu nhường nửa bước.

Thấy nàng mặt mày bướng bỉnh, Bùi Thận đã cáu giận đến đỉnh điểm, chợt cười lạnh một tiếng, thong thả nói: “Đoan Ngọ mấy ngày trước nàng đi lạc, Bình Sơn và đám hộ vệ đều bị phạt rồi, nhưng hai đứa nha hoàn vẫn chưa đâu.” Dứt lời, y chuẩn bị đứng dậy đi gọi người.

Thẩm Lan gấp gáp nhào lên níu lấy tay áo y, lạnh lùng nói: “Ngài đừng có kiếm cớ. Chuyện giữa hai ta, liên can gì đến người khác?”

Bùi Thận thấy nàng ngay cả đối xử với bọn nha hoàn cũng tình sâu nghĩa nặng như vậy, chỉ có mỗi mình y suốt ngày chịu cảnh cau mày quắc mắt, không một giây nào dịu ngoan. Y vừa đau lòng lại tức giận, oán hận nói: “Không theo hầu sát bên chủ, lẽ nào không nên bị phạt sao?”

Thẩm Lan hôm đó cố tình vùng khỏi đám hộ vệ nha hoàn, vốn dĩ áy náy trong lòng. Bây giờ nàng cùng Bùi Thận khắc khẩu lại liên luỵ người khác, càng thêm hổ thẹn vô cùng, lạnh giọng đáp: “Ngài muốn thế nào?” 

Nghe giọng điệu nàng như thế, Bùi Thận càng thêm giận dữ, cười khẩy một tiếng: “Nàng nghĩ sao?”

Thẩm Lan biết y muốn nàng tình nguyện cởi xiêm y, chủ động hạ mình cầu xin. Y thậm chí không phải thực sự muốn làm chuyện đó, chỉ là muốn bẻ gẫy sự kiêu ngạo của nàng, muốn nàng cúi đầu xin tha mà thôi.

Nghĩ đến đây, Thẩm Lan chỉ cảm thấy da mặt của nàng hệt như bị người ta xé xuống. Lòng tự tôn bị giày xéo đến máu chảy đầm đìa.

Cả người Thẩm Lan run lên, cắn nát cả thịt trong má, mắt đẹp lúc này ầng ậc nước.

Thấy nàng khổ sở đến vậy, Bùi Thận cũng chẳng hả hê gì cho cam. Một mặt y nghĩ bụng, hay là thôi vậy, mặt khác lại nghĩ nhất định phải nhân lúc này uốn nắn nàng một phen.

Bùi Thận chìm trong muôn vàn suy tư, bỗng thấy Thẩm Lan ngẩng đầu, đôi mắt u buồn óng ánh, sầu bi cất tiếng nói: “Hai ta vì đâu cứ phải sống mái với nhau thế này?”

Thấy dáng vẻ nàng ai oán trách than, cơn tức của Bùi Thận hơi phai nhạt. Y vẫn lạnh mặt, nhưng giọng điệu không khỏi dịu đi mấy phần: “Trước nay chỉ có nàng làm trái ý ta. Chứ ta có lúc nào xử bạc với nàng?”

Thẩm Lan đẫm lệ rưng rưng, sợ hãi nức nở: “Hôm nay ngài thế này, ta sợ lắm.”

Trông nàng yếu đuối đáng thương, quyến luyến dịu dàng, Bùi Thận đã nghi ngờ nàng giả vờ, lại không nhịn được mềm lòng. Y ngồi xuống ôm lấy nàng, thở dài: “Nếu biết sợ, sau này nghe lời chút, chớ có bướng bỉnh ngạo mạn như thế nữa.”

Thẩm Lan tựa vào ngực y, nghe y nói tánh nết mình không tốt, nàng cả giận: “Tánh nết ta chính là thế đó. Ngài thích thế nào thì tùy!” Dứt lời, nàng vùng ra khỏi lòng y.

Bùi Thận vừa tức vừa buồn cười, câu “thích thì tùy” của nàng cho thấy nàng đã chịu thua.

Y dù vui mừng, nhưng lại có bệnh đa nghi, sợ nàng chỉ là giả vờ cam chịu, thế là cố tình đưa tay tháo dây buộc áo lót của nàng. 

Thẩm Lan vội đè lại tay Bùi Thận, lắc đầu rủ rỉ: “Ngài ít gì cũng cho ta chút thời gian, để ta ngẫm lại kỹ càng đã.”

Hai người đối chọi gay gắt mấy lần, sao có thể quay ngoắt đổi ý được? Thẩm Lan cố tình làm ra vẻ do dự thế này mới càng đáng tin hơn.

Bùi Thận đến đây mới yên lòng, nhưng quá khứ bị Thẩm Lan lừa gạt nhiều lần, y rốt cuộc không dám dễ dàng tin tưởng, liền cười nói: “Vậy nàng cứ suy nghĩ ít lâu đi. Chờ nàng nghĩ kỹ, xác định xong rồi, hai ta sinh một đứa.”

Thẩm Lan biết tỏng Bùi Thận muốn nàng sinh một đứa bé ra mới chịu an tâm hoàn toàn. Nhưng nàng đây cũng chẳng qua là kế hoãn binh thôi.

“Được rồi, nhưng trước khi ta suy nghĩ xong, ngài không được cưỡng ép ta, cũng không được phép trái ý ta, chuyện gì cũng phải chiều theo ta. Ta nói một thì ngài không được nói hai, ta bảo đi hướng đông thì ngài không được……”

Càng nói càng ngang ngược, Bùi Thận tức giận buột miệng: “Ta đây đang thỉnh tượng Bồ Tát trong miếu về thờ đó sao?”

Thẩm Lan gật gật đầu: “Ngài nếu muốn gọi ta nữ Bồ Tát, thật ra ta cũng không ngại đâu.”

Bùi Thận vừa bực mình vừa buồn cười, cười mắng: “Nữ Bồ Tát, nàng chớ có được voi đòi tiên.”

Thẩm Lan lầu bầu: “Nữ Bồ Tát mệt rồi, muốn nghỉ ngơi.”

Nàng vắt hết óc đấu với Bùi Thận, lúc này đã cạn kiệt sức lực, muốn sửa soạn đi ngủ, bỗng Bùi Thận lại nói: “Nhưng nàng muốn làm Bồ Tát cũng phải có kỳ hạn thôi chứ, há có thể làm mãi đến ngàn năm vạn kiếp?”

Thẩm Lan biết y chỉ cho phép nàng suy nghĩ trong một khoảng thời gian nhất định, nàng chần chừ đáp: “Một năm?”

Bùi Thận cười mắng: “Bồ Tát không chỉ có tấm lòng bao la để thương người, mà lá gan cũng lớn nữa đấy nhỉ!” Nói rồi, sợ nàng lại sinh sự chống đối, y cũng nói trắng ra: “Chỉ được suy nghĩ trong vòng một tháng, không hơn.”

Thẩm Lan đối phó trận này, chẳng qua là để tranh thủ lấy thêm chút tự do hành động, lại cố gắng kéo dài thời gian, không cần phát sinh chuyện ân ái với y thôi. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

“Một tháng thì một tháng.” Thẩm Lan buồn ngủ nói: “Nữ Bồ Tát ngày mai muốn đi cửa hàng tơ lụa và tiệm vàng để mua ít đồ bố thí. Ngài đừng có cản ta.”

Bùi Thận nghe mà tức cười. Thấy nàng nhíu mày mỏi mệt, y không khỏi nhẹ vuốt ve đôi má nàng, lại ôm nàng vào lòng, mới thỏa mãn nhắm mắt lại.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

1 nguyên văn Đạo học tiên sinh: chỉ những người rập khuôn, cổ hủ, không linh hoạt
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 70: Thật thật giả giả


Sáng hôm sau, Thẩm Lan được Bùi Thận cho phép, dẫn theo nha hoàn hộ vệ đi thẳng tới chợ Bắc Quan, Hàng Châu.

Bắc Quan nằm ngoài cổng Võ Lâm, giáp với sông Thượng Đường, cảng Đức Thắng, là nơi thương nhân tụ tập, hàng hóa lưu thông từ xưa đến nay.

Thẩm Lan khó khăn lắm mới có cơ hội ra ngoài hít thở không khí, nàng vừa đi vừa ngắm nghía, ngay cả sạp thịt hàng cá ven đường cũng không bỏ qua. Chờ đi dạo đã thấm mệt, nàng ghé vỉa hè mua ít thức ăn nhẹ lót dạ, ngồi nghỉ ngơi một lát, lại lựa hai cửa hàng tơ lụa vào dạo một vòng, tốn hơn nửa buổi chiều.

Về đến phủ, nàng vội vàng tắm gội thay quần áo. Bùi Thận mãi chưa trở lại, Thẩm Lan chờ cơm tối hơi tiêu, cũng không đợi Bùi Thận mà lo ngủ trước.

Canh hai, Bùi Thận mới lo xong công việc, sai Trần Tùng Mặc giơ ngọn đèn sừng dê, bung chiếc ô giấy lụa phù dung hồng quay về viện sau.

Đêm sâu sương lạnh, trăng ẩn sao thưa, mưa thu tí tách tí tách rơi. Bùi Thận ngang qua hành lang, nương tiếng mưa rơi, bỗng nhiên hỏi: “Đã điều tra rồi chưa?”

Trần Tùng Mặc hiểu ý, lập tức gật đầu: “Phu nhân hôm nay tới hai cửa hàng tơ lụa dạo quanh. Một cửa hàng ở khu vực cầu Lục Gia, chủ yếu bán đồ đạc phía nam, phần nhiều có tơ lụa Tô Hàng, vải bông Tùng Giang, tất cả đều là hàng cao cấp. Cửa hàng còn lại nằm ở hẻm Phạm Phủ, bán lụa là cùng một số loại chỉ thêu.”

“Bình Sơn đưa tiền rồi hỏi thăm tiểu nhị của hai chỗ này. Họ đều là người địa phương sống lâu năm tại đây, gần đây không nhận người mới vào làm, cũng không quen biết gì gia tộc Dương thị ở Tô Châu cả.”

“Ngoài ra, Bình Sơn cũng đi hỏi thăm thêm hàng xóm láng giềng sống quanh cửa hàng. Cửa hàng ở cầu Lục Gia là con cháu kế thừa của tổ tiên để lại, đến nay cũng đã hơn bốn mươi năm. Còn cửa hàng ở hẻm Phạm Phủ là do một người góa chồng lập nên, bây giờ đã giao lại cho con trai lo liệu, tuổi đời cũng đã hai mươi năm. Cả hai đều không hề có gì bất thường.” 

Bùi Thận gật đầu, nhủ thầm Bắc Quan là nơi đặt trạm thu thuế hải quan nội địa, nổi tiếng với chợ đêm cùng thuyền bè chở khách trên kênh đào ngày đêm tấp nập. Y nhàn nhạt nói: “Nàng có đến gần bến tàu hay thuyền bè không?”

Trần Tùng Mặc lắc đầu: “Phu nhân chỉ đi tới những điểm thú vị thôi. Đi ngang qua tiệm cá sẽ hỏi thăm giá ốc, thấy một một quán trà bán nước đun từ lá lúa cũng sẽ mua thử một chén để uống, còn ghé sạp nhỏ mua vài ba quả hồng vuông Tiêu Sơn. Ngang qua một nhà, thấy bà lão đang nấu lá tre, phu nhân nghỉ chân nhìn một lát, còn tò mò bước lên bắt chuyện hỏi han.”

Bùi Thận biết nàng bị vây trong nhà quá lâu, khó khăn lắm mới khỏe hẳn, cho nên mới muốn đi tới những nơi tưng bừng náo nhiệt nhất mà dạo cho đã thèm.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện tới cửa viện sau, Trần Tùng Mặc do dự một lát, khom người nói: “Gia, vậy lần sau phu nhân ra ngoài, có cần theo sau hỏi thăm cẩn thận như hôm nay nữa không?”

Bùi Thận nhàn nhạt đáp: “Không cần.” Mưa thu kéo dài hơn nửa tháng, mực nước trên sông Phần, Vị Hà, Hoàng Hà tăng vọt. Nếu gây vỡ đê, khu vực ba tỉnh Hà Nam, Sơn Tây, Sơn Đông e là lưu dân sẽ nổi lên bốn phía. Triều đình chắc chắn sẽ trưng thêm lương thực từ khu vực Tô Hàng, thuế hải quan nội địa sẽ chồng thêm thuế thuyền bè. Nếu còn vướng vào loạn giặc Oa, Hồ Lỗ, Nữ Chân, Bùi Thận rút đâu ra người nữa để mà theo rà soát những nơi Thẩm Lan đi liệu có gì bất thường?

Bùi Thận đi thẳng vào phòng chính của viện sau, thấy mùng màn đã buông xuống, trong nhà yên ắng không tiếng động, y đoán Thẩm Lan hẳn đã ngủ say, liền hạ giọng dặn dò Tử Ngọc: “Ngày mai nói với phu nhân, bên ngoài độ này rất là bất ổn, bảo nàng bớt ra ngoài lại.” Rút củi dưới đáy nồi là được rồi, việc gì phải phí thêm người đi kiểm tra.

Tử Ngọc nào dám hỏi vì sao không cho phu nhân ra ngoài, chỉ gật đầu bảo dạ.

Bùi Thận dặn dò xong, tắm gội thay quần áo trở về. Y vén rèm châu, xốc mùng màn, thấy nàng ngủ ngon lành, cánh tay ngọc ngà trắng sứ vươn ra ngoài, gò má xinh xắn ửng hồng, dáng vẻ ngây thơ như đứa trẻ.

Bùi Thận bỗng thấy lòng nhộn nhạo, nhưng ngặt nỗi y đã đồng ý tuân theo kỳ hạn một tháng với nàng, thế nên chỉ đành thở dài một tiếng, ra ngoài tắm lại một lần, mới quay về ôm Thẩm Lan chìm vào giấc ngủ.

Hôm sau, lúc Thẩm Lan tỉnh lại đã không còn thấy bóng dáng Bùi Thận đâu nữa. Tử Ngọc Lục Nhụy bưng thau đồng, khăn bông tới rửa mặt cho nàng. Tử Ngọc vắt khô khăn đưa cho Thẩm Lan, trù trừ nói: “Phu nhân, Gia tối hôm qua có dặn độ này ngoài kia loạn lạc, bảo phu nhân hạn chế ra ngoài.”

Thẩm Lan khẽ ngừng lại, rồi nghĩ y chỉ bảo nàng bớt ra ngoài, chứ không phải cấm tiệt không cho nàng đi. Huống hồ trước đó vài ngày y vừa đồng ý để nàng làm Bồ Tát một tháng, hẳn là không đến nỗi đòi cấm túc nàng ngay lúc này. 

Thẩm Lan thong thả lau mặt, gật đầu: “Ta biết rồi, ít đi là được.”

Đã là cuối tháng bảy, Bùi Thận ngày ngày đi sớm về trễ. Thẩm Lan thì ngủ sớm, lần nào cũng bỏ lỡ phút giây gặp mặt. Nhưng nàng vốn cũng muốn bỏ lỡ, cho nên không quá bận lòng.

Bùi Thận bảo nàng bớt ra ngoài, Thẩm Lan cũng giả vờ nghe lời ở lì trong phủ qua năm sáu ngày, mới dẫn hộ vệ nha hoàn ra ngoài đi dạo một lần.

Mưa thu rả rích rơi suốt tháng bảy, đến tận tháng tám vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại.

Thẩm Lan vốn định bụng nghỉ ngơi bốn, năm ngày, chờ tới mùng bảy, mùng tám tháng tám sẽ tới cửa hàng bạc tìm Ngọc Dung. Dùng mấy lần ra ngoài trước đó lót đường, lần này hẳn là sẽ không ai sinh lòng nghi ngờ nàng.

Thẩm Lan đã tính toán đâu ra đấy xong, ngờ đâu chuyện nàng lo lắng nhất đã xảy ra.

Thẩm Lan từ đợt uống thuốc điều trị cơ thể, chu kì đến luôn rất chính xác. Mỗi tháng đều đúng vào mùng năm, hiếm khi xê xích gì nhiều. Vậy mà lần này đã là mùng bảy mùng tám, quỳ thủy của nàng mãi vẫn chưa tới.

Nàng không dám chắc chắn, sợ mình suy nghĩ nhiều vì chỉ lệch có hai ngày mà thôi. Nhưng cũng sợ nếu là thật sự mang thai, nên làm thế nào cho đúng? Muốn bỏ thai, Bùi Thận nhất định không cho phép. Nếu sinh ra nó, vậy chẳng phải cả đời đều bị nhốt ở nơi này?

Viện sau chỉ là một ô vuông bé tí. Nàng phải khom lưng cúi đầu, tự xưng di nương với con ruột của mình, uốn gối hành lễ với chủ mẫu tương lai, tồn tại dựa vào sự sủng ái nuông chiều của Bùi Thận…

Nghĩ đến đây, lòng Thẩm Lan trào dâng một nỗi tuyệt vọng. Bản thân nàng hệt như bị ngâm dưới nước đá, nghẹn ngào không thở nổi. Lục phủ ngũ tạng ngày càng buốt giá, tưởng như có gió bắc thổi vào tận xương cốt, đau đến nàng tái mét không còn chút máu. 

Nàng ngồi trên ghế ngơ ngẩn trông ra cửa sổ, thấy ngoài hiên mưa phùn lành lạnh, từ từ gột rửa thảm cỏ xanh ngắt trong vườn.

Mưa gió triền miên, sầu giăng ngập lối. (1)

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

Lịch sử Chợ đêm Bắc Quan tham khảo tại đây (tiếng trung)

1: nguyên văn “Tà phong tế vũ, loạn sầu như chức.” câu trích trong bài Hạ tân lang – Cửu nhật của Lưu Khắc Trang thời Tống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 71: Chuẩn bị


Thẩm Lan ôm bầu tâm sự ngồi bần thần hồi lâu, bỗng nhiên cao giọng hô: “Tử Ngọc.”

Tử Ngọc đang ngồi bên ngoài vừa gác vừa thắt dây đeo, nghe tiếng đẩy cửa vào: “Phu nhân cần gì ạ?”

Thẩm Lan cười nói: “Bên ngoài mưa phùn, tiết trời se se lạnh. Em đi bảo nhà bếp làm một nồi nước lẩu tới đây, đun thêm ba chỉ heo, gà tam hoàng, chấm với thù du, hoa tiêu, vừa tươi vừa cay, lại thả thêm ít bắp cải, thịt, cá cắt lát và mì vào, ăn cho ấm người lên.”

Tử Ngọc xin vâng rồi đi ra ngoài.

Tới rồi buổi tối, Bùi Thận chưa về, Thẩm Lan nhúng lát thịt dê mỏng vào nồi lẩu gà, ba chỉ. Hơi nóng phả lên mịt mờ, lát thịt xoay tròn trong nồi nước dùng đỏ chót, cay tê đầu lưỡi, nóng hôi hổi.

Chẳng mấy chốc cả người Thẩm Lan đã rịn mồ hôi, nàng nói với Tử Ngọc: “Ta nóng quá. Em xuống bếp pha chén nước mật ong lạnh đi, nhớ là phải ngâm bằng nước giếng cho mát, dùng để giải nhiệt giải khát còn gì bằng, nhanh nhanh lên nhé.”

Thẩm Lan liên tiếp giục giã, Tử Ngọc cũng không nghĩ gì nhiều, chỉ vội vàng đem nước tới. Thẩm Lan uống cạn một hơi trước, lại tiếp tục vừa ăn lẩu vừa uống nước.

Bùi Thận gần đây cũng không biết đang bận việc gì, y ngày ngày đi sớm về trễ, luôn không chạm mặt với Thẩm Lan.

Hôm sau, Thẩm Lan lại dẫn hộ vệ nha hoàn ra ngoài. Cũng như những lần trước đó, nàng dạo quanh bên ngoài một lúc, rồi chọn một cửa hàng tơ lụa vào xem, sau đó mới đi tới cửa hàng vàng bạc của nhà Lý Bảo Châu.

Cửa hàng vàng bạc này dưới trướng quản lý của Lý Bảo Châu, nên cũng đã sớm được dặn dò riêng. Chưởng quầy thấy ái thiếp của Tuần phủ đại nhân ghé chơi, lập tức bước ra niềm nở chào đón, cười khanh khách nói: “Phải chăng là Bùi phu nhân?”

Thẩm Lan gật đầu, cười nói: “Ta rảnh rỗi không có việc gì làm cho nên ghé qua dạo một lúc.”

Chưởng quầy hơn bốn mươi tuổi, vuốt râu mỉm cười: “Phu nhân ghé chơi quả như là rồng đến nhà tôm.” Nói rồi, ông hô tiểu nhị dâng trà, lại mời Thẩm Lan dời bước lên lầu hai. 

Thấy Thẩm Lan vào trong, bọn hộ vệ theo như bình thường đứng gác cổng trước cổng sau.

Thẩm Lan lên lầu hai, được chưởng quầy dẫn vào một gian phòng riêng. Trong phòng có bàn ghế gỗ nam sơn đen, trên tường treo bức họa phỏng lại phong cách tranh non nước của Mễ Phất, trên bàn bày cái lục bình, bên trong cắm mấy cành hoa quế tỏa hương nhàn nhạt, bài trí hết sức là thanh nhã.

“Mời phu nhân xem.” Chưởng quầy đích thân bê lên hơn mười hộp gỗ, mở ra bên trong nào ngọc lục bảo, đá điên bất lạp, ngọc trai Đông Bắc, hổ phách, kim nha (2)…… phải đến hơn hai mươi viên đá quý.

“Phu nhân có thích món nào không ạ?”

Thẩm Lan có cầm theo ngân phiếu hơn ba trăm, nhưng đó là để dùng làm việc, sao có thể bỏ ra mua ngọc ngà đá quý được. Nàng nhàn nhạt nói: “Ta không thích đá quý, có trang sức nào kiểu dáng tinh xảo không?”

Chưởng quầy lập tức mỉm cười: “Tất nhiên là có, trâm thoa, vòng tay, ngọc bội, hoa điền (3) hoa thắng, cái gì cũng có.” Lại nói: “Phu nhân chờ một lát.” Ông dẫn theo mấy tên hầu xuống dưới nâng lên chừng hơn hai mươi chiếc hộp khác.

Chưởng quầy mở hết số hộp ra, trên nền lớp lót bằng vải nhung, trâm hồng ngọc khắc hai đóa hải đường cùng cuống, trâm lũy ti bướm vờn hoa khảm đá, thoa điểm thúy đính ngọc trai Đông Bắc màu hồng nhạt, vòng tay chạm bạc hoa sen bung nở…… tất cả đều là những món tinh xảo độc đáo, số lượng hiếm có trong cửa hàng này.

Thẩm Lan cười cười, mở miệng nói: “Tử Ngọc, Lục Nhụy, lần trước Đoan Ngọ liên luỵ đến hai em, giờ xuống lầu lựa mấy món trang sức các em thích đi, ta trả tiền.”

Lục Nhụy hớn hở vui mừng, Tử Ngọc sau niềm hân hoan chợt nói: “Bên cạnh phu nhân dù sao cũng phải có người ở lại hầu hạ mới thỏa. Thôi thì Lục Nhụy đi trước, chờ nàng chọn xong thì nô tỳ lại đi.”

Thẩm Lan xua tay: “Chưởng quầy còn dẫn thêm hai bà vú tới đứng đây, làm gì nhất định phải cần tới hai em. Nhanh đi đi, chốc lát rời khỏi đây còn phải đi dạo những nơi khác nữa.”

Nghe vậy, Tử Ngọc không nói gì thêm, vui vẻ dẫn Lục Nhụy cùng đi xuống lầu.

Thấy trong phòng chỉ còn lại chưởng quầy và hai bà vú đứng nâng hộp, Thẩm Lan liền lấy ra một chiếc hoa tai đá quý điêu thành hình hoa ngọc lan định đeo lên thử, nhưng loay hoay một lúc mãi chưa đeo được.

Chưởng quầy nhân đó nói: “Phu nhân có cần hô thợ cài trâm tới hầu không ạ?” Người này đã nhận tiền của Ngọc Dung cho nên cố gắng đề cử nàng.

Thẩm Lan nhíu mày: “Kêu lên đây thử xem sao.”

Lát sau, Ngọc Dung chải búi tóc cao, mặc chiếc áo ngoài bằng vải mịn màu vàng, cúi đầu lặng lẽ tiến lên.

Thấy nàng đến, Thẩm Lan liếc nhìn chưởng quầy, thong thả nói: “Ông là đàn ông, đứng ở đây không tiện lắm, dẫn theo mấy bà vú này ra ngoài đứng chờ đi thôi.”

Chưởng quầy nhìn qua những món trâm vòng quý giá trên bàn, không chút do dự khom người cáo lui. Mấy thứ này vốn chính là để tặng không cho ái thiếp của Tuần phủ đại nhân. Đừng nói làm hỏng hay làm mất, cho dù Thẩm Lan có cầm bẻ gẫy ngay trước mặt mình, chưởng quầy cũng sẽ vờ như không thấy.

Thấy chưởng quầy dẫn bà vú cáo lui, trong phòng chỉ còn lại nàng và Ngọc Dung, Thẩm Lan đứng lên thì thầm: “Ngọc Dung, cô đã chịu tới, chắc hẳn đã suy nghĩ kỹ càng.”

Ngọc Dung gật đầu: “Không gạt gì tỷ tỷ, việc lớn như vậy, ngày thường sao mà dám làm? Nhưng lúc này quả thật hết cách.”

Nàng chua xót nói: “Bành gia vốn là nhà đò, xưa nay lấy thuyền làm nhà, suốt ngày ngâm mình trên sông đánh cá, chưa tới ba mươi tuổi đã bệnh tật đầy người. Thế thì cũng thôi đi, ngờ đâu thuế khóa mỗi năm thêm nặng. Mấy ngày trước mới đóng thuế cá hết hai lượng bạc, tiểu giáp (1) lại đến xin dầu cá, lông vũ, bóng cá, keo dán dây câu đủ thứ, lại đòi thêm ít bạc. Còn phải dâng cống cá hoa vàng. Bên Tuần Kiểm Tư ngày ngày phái tiểu giáp xuống hối thúc, một hai ép chúng ta giao nộp cá hoa vàng. Nhưng giống cá này vốn quý hiếm ít ỏi, làm sao có thể dễ dàng đánh bắt được?”

“Đây cũng chỉ mới là tốn tiền. Nhưng người lớn trong nhà nói mưa thu kéo dài thế này, e rằng phía bắc sẽ gặp thiên tai, đến lúc đó triều đình nhất định sẽ trưng người đi vận chuyển lương thực đến vùng thiên tai. Nếu cha chồng và tam ca phải đi, cả nhà sẽ chết đói mất thôi. Nhưng nếu là không đi, lấy đâu ra đủ tiền đóng phạt xin miễn?”

Ngọc Dung nói đến nghẹn ngào, Thẩm Lan khẽ thở dài. Thiên hạ loạn lạc, dân sinh gian nan.

Thẩm Lan an ủi nàng vài câu, Ngọc Dung lau nước mắt, ngừng khóc nói: “Tỷ tỷ, ta nghĩ tới nghĩ lui, chi bằng ít lâu nữa, tỷ tỷ cũng làm như hôm Đoan Ngọ, vùng thoát khỏi nha hoàn, hộ vệ rồi lên thuyền của tam ca. Sau đó chèo về phía Bắc Quan, đi dọc kênh đào, muốn chạy đi đâu thì chạy.”

Cách này phải nói là quá ngây thơ.

Thẩm Lan lắc đầu: “Ta hỏi cô, lần trước Đoan Ngọ hai ta gặp nhau, cô nhắc tới Bành Tam đi lướt thủy triều trên sông Tiền Đường với hy vọng lãnh thưởng là có ý gì?”

Ngọc Dung chua chát: “Đánh cá cực khổ thì có thể được mấy đồng? Để kiếm thêm tiền, mỗi năm sóng triều lên ở sông Tiền Đường, tam ca sẽ dẫn mấy huynh đệ bơi giỏi cầm cờ màu, lướt lên đầu ngọn sóng. Nếu cờ không ướt, sẽ có thể nhận được tiền thưởng từ những người vây xem hai bên bờ sông.”

Thẩm Lan thở dài một tiếng, quả đúng như nàng nghĩ.

“Tam ca nhà cô đã bơi giỏi đến vậy, nếu mười bảy tháng tám ta rơi xuống sông Tiền Đường, sóng to gió lớn ngập trời như thế, liệu Bành tam có thể kéo ta bơi ra xa vài trăm thước, trèo lên bờ chạy trốn?”

Ngọc Dung nghẹn họng ngơ ngác nhìn Thẩm Lan, không thốt nên lời. 

Thẩm Lan cười khổ. Nàng nghĩ nếu lại chạy trốn, Bùi Thận cho dù tiêu tốn thời gian mấy năm cũng nhất định phải đào cho ra tung tích của nàng. Thẩm Lan trốn tới đâu cũng không thoát được.

Chỉ còn một kế duy nhất, đó là khiến Bùi Thận cho rằng nàng đã chết.

Nhưng phải lựa chọn kiểu chết ra sao quả đúng là khó khăn muôn vàn. Nếu chọn tự thiêu, chưa nói tới kiếm đâu ra xác người bị cháy, chỉ mỗi việc đưa được xác vào trong phủ Tuần phủ đã là một nhiệm vụ độ khó cực cao.

Nếu vờ rơi xuống vực hoặc bị thú vật trong rừng xé xác, tới lúc Bùi Thận chạy xuống đáy vực tìm nàng, lấy đâu ra những mảnh chân tay rời rạc cùng với một lượng máu lớn như vậy để giả dạng hiện trường? Huống hồ, nếu nàng thật sự đứng trước mặt đám người nhảy xuống vực, không chết cũng phải tàn phế.

Nếu nói thắt cổ tự vẫn hoặc là dùng thuốc giả chết, ngừng thở mấy ngày nằm vào quan tài, sau khi hạ huyệt thì nhờ người đào ra. Cách này lại càng quái dị hơn nữa. Nàng làm sao có thể chắc chắn thắt cổ tự vẫn sẽ không biến thành chết thật? Rồi phải đi đâu để tìm thuốc giả chết?

Nghĩ tới nghĩ lui, cách duy nhất có thể thực hiện chính là rơi vào sông Tiền Đường, ngay trước mắt mọi người bị nước cuốn đi, không còn khả năng sống sót. Đến lúc đó chẳng cần vết máu, thi thể cũng không biết bị trôi tới đâu, như thế mới thật sự ổn thỏa.

“Phu nhân, ta cũng không biết tam ca có thể cứu tỷ hay không?” Ngọc Dung nào dám bảo đảm chắc chắn.

Thẩm Lan thấp giọng nói: “Bành Tam nếu đã lướt sóng mấy năm mà vẫn chưa sứt mẻ gì, chắc hẳn cũng biết nơi nào sóng lớn trông có vẻ nguy hiểm kỳ thực không đến nỗi nào, nơi nào thích hợp lên bờ. Đây là điều bảo đảm thứ nhất.”

“Ngoài ra, Bành Tam ngoại trừ lướt sóng lấy thưởng, có phải còn kiêm thêm việc cứu người rơi sông?”

Ngọc Dung hoảng sợ gật đầu: “Hàng năm ngày hội xem sóng đều sẽ có người rơi xuống nước. Tam ca cứu được người, người nhà bọn họ ít nhiều cũng thưởng chút tiền.”

Thẩm Lan gật đầu nói tiếp: “Hắn đã có kinh nghiệm cứu người, vây đây chính là điều bảo đảm thứ hai.” Dứt câu, nàng lại hỏi: “Việc này chớ để nhiều người biết đến. Bành tam trong nhà đứng thứ ba, vậy trên dưới có huynh đệ gì không?”

Ngọc Dung cũng hơi vững lòng lại: “Có hai đệ đệ, một đứa mười bảy, một đứa mười lăm đều giỏi bơi lội, từ hồi năm, sáu tuổi đã xuống nước phụ giúp gia đình.

Thẩm Lan gật đầu: “Ta vốn cũng biết bơi, có thể nhịn thở dưới nước chừng hơn trăm số, chờ ba người Bành tam kéo ta bơi ra xa. Cái này là điều bảo đảm thứ ba.”

Thẩm Lan quê quán ở vùng sông nước, nếu nói chỉ biết chèo thuyền chứ không rành bơi lội, đó là nói đùa.  Nàng khi đó gạt Bùi Thận mình không biết bơi, chẳng qua nghĩ bụng thứ mình biết chớ để Bùi Thận hay thì tốt hơn. Cũng không ngờ rằng lúc này sẽ cần dùng đến.

Nghe vậy, Ngọc Dung tuy thở phào một hơi, nhưng cuối cùng vẫn còn khó xử: “Tỷ tỷ, tam ca không có ở đây, ta thật sự không dám tự ý nhận lời.”

Thẩm Lan gật đầu nói: “Không sao, cô về thương lượng lại với Bành tam. Nếu là chắc chắn, chịu đồng ý, cô hãy mở cửa sổ lá liễu trên lầu một của cửa hàng bạc ra, cắm một cành hoa quế lên trang trí. Ta đi ngang qua trông thấy sẽ hiểu được.”

Hai người hẹn nhau xong, Thẩm Lan ngồi xuống để Ngọc Dung cài trâm vòng trang sức, lại đợi thêm một lát rồi xuống lầu, thấy Tử Ngọc Lục Nhụy chọn trái lựa phải, cuối cùng chọn được một cái vòng bạc mảnh khắc hoa và một đóa hoa nhung mẫu đơn.

Thẩm Lan thanh toán tiền rồi dẫn đám nha hoàn hộ vệ quay về phủ.

Bùi Thận bận đến độ không rảnh đoái hoài đến nàng, y nghỉ ngơi hẳn ở thư phòng, không hề đặt chân tới viện sau.

Thẩm Lan mừng thầm trong bụng. Thời gian qua thêm bốn năm ngày, sáng sớm nàng ăn một chén mì nước nấu tôm tươi, sau đó dẫn theo nha hoàn hộ vệ ra ngoài.

Đi ngang qua cửa hàng vàng bạc, nàng vén màn xe, quả nhiên trông thấy cành hoa quế cài trên cửa sổ lá liễu. Thẩm Lan khẽ cười một tiếng, biết Ngọc Dung đã nhận lời.

Đến được khu Bắc Quan, Thẩm Lan cũng giống như những lần trước dạo quanh khắp nơi, cuối cùng tới cửa hàng tơ lụa Sử gia ở phố Mã Tiền.

Thấy Thẩm Lan dẫn mấy nha hoàn vào cửa hàng, hộ vệ Bình Nghiệp không khỏi than thở: “Ca, phu nhân cách bốn năm ngày sẽ ra ngoài đi dạo một chuyến. Một chuyến kéo dài cả ngày. Áo quần trang sức chẳng lẽ đẹp đến thế sao?”

Bình Sơn trừng mắt nhìn đệ đệ, mắng: “Đừng nói bậy. Lo ra canh gác cửa sau đi.”

Mọi người theo Thẩm Lan ra ngoài nhiều lần vẫn chưa xảy ra chuyện gì, tinh thần cũng hơi lỏng lẻo, nghe vậy cũng chỉ cười đùa phân công nhau đứng gác.

Thẩm Lan vào cửa hàng này, chưởng quầy nhìn thấy chất liệu dệt kim thêu hoa trên người nàng, cười khanh khách ra chào phu nhân.

Thẩm Lan chưa nói gì, chỉ làm khẩu hình miệng hai chữ: “Vương Lãm.”

Chưởng quầy hơi sững ra. Ông đâu hề biết đọc khẩu hình, nhưng người kì lạ như vậy, chắc có lẽ chỉ có Vương Lãm mà công tử nhà mình từng dặn qua.

Nghĩ vậy, chưởng quầy chắp tay cười: “Mời phu nhân ngồi. Lão đi lấy mấy loại vải vóc đang thịnh tới đây.” Dứt lời, ông sai tiểu nhị dâng trà, rồi bước vào viện sau lấy những hàng hóa tốt nhất để mang ra.

Không bao lâu sau, chưởng quầy liền mang tới những nguyên liệu vải vóc, đặt lên bàn để Thẩm Lan lựa chọn.

“Mời phu nhân xem. Hai khúc vải này là gấm hoa đỏ, sa tanh đan chỉ vàng. Hàng này là vận chuyển trực tiếp từ trấn Thịnh Trạch ở Tô Châu tới đây đó.” 

Thẩm Lan ngắm nghía, bình phẩm: “Màu sắc tươi sáng, hoa văn cũng đẹp. Chỉ là ta thích đơn giản chút, có không?”

Chưởng quầy nịnh nàng một câu, rồi mới chỉ vào mấy khúc tơ lụa khác: “Phu nhân quả là biết nhìn hàng. Mời phu nhân xem mấy loại này, vải nhung đấu la của Lưu Cầu, vải bố của Cao Ly, còn có vải bố của Tây Dương, lụa của Oa quốc, tất cả đều là hàng tuyển chọn đặc biệt ra.”

Chưởng quầy giới thiệu lần lượt từng thứ một, Thẩm Lan cũng không chê người này nói nhiều, thỉnh thoảng cũng đáp lại đôi câu, nghe ông thao thao bất tuyệt nói gần nửa canh giờ.

Chưởng quầy đang giới thiệu cao hứng, chợt thấy một tên tiểu nhị đứng bên cạnh nháy nháy mắt.

Chưởng quầy thấy, lập tức mắng: “Thật là không biết phép tắc! Khách quý đang đứng đây, ai cho ngươi xen mồm!” Quát xong, ông khom người xin lỗi: “Mong phu nhân chớ trách, tên hầu này nó không hiểu chuyện.”

Thẩm Lan cười cười: “Không sao.”

Thấy Thẩm Lan vẫn chưa trách hắn, tên tiểu nhị kia cũng khẽ thở phào, thấp giọng nói: “Chưởng quầy, ở ngoài người ta giao hàng tới, đang đứng đợi ngài ra kiểm hàng thanh toán tiền.”

Chưởng quầy nghe vậy, lập tức liếc nhìn Thẩm Lan. Thẩm Lan hiểu ý, nghiêng tay làm đổ chén trà lên người.

“Ai nha, phu nhân.” Tử Ngọc cùng Lục Nhụy cuống quít cầm khăn ra lau. Ngặt nỗi váy lụa hồng thêu hoa của Thẩm Lan đã bị trà thấm ướt thành một mảng.

May mà mỗi lần ra ngoài, Lục Nhụy luôn đem theo một hai bộ áo quần để thay, nàng ôm rương gỗ nhỏ sơn đen hỏi: “Chưởng quầy, chỗ này của các ông có nơi thay quần áo chứ?”

Chưởng quầy vội gật đầu: “Viện sau có chỗ thay quần áo đấy.” Nói rồi, ông gọi đứa con gái trong nhà ra dẫn Thẩm Lan đi phòng khách bên trái của viện sau.

Phòng dành cho khách này diện tích không quá rộng, trong phòng chỉ có tấm bình phong bằng lụa dựng đối diện cửa để ngăn cách không gian.

Thẩm Lan nói: “Áo quần để đó, các em lui ra ngoài đi.”

Quần áo của Thẩm Lan hàng ngày đều là nàng tự thay, Tử Ngọc và Lục Nhụy thả rương đựng quần áo xuống rồi khép cửa xin lui.

Thấy hai người đi rồi, Thẩm Lan mới đi ra sau bình phong, quả nhiên thấy Dương Duy Học mỉm cười nhìn nàng.

Thẩm Lan thở dài một tiếng, lấy tờ giấy đã viết sẵn trong tay áo ra nói: “Ta vốn tưởng Dương huynh đã trở về Tô Châu, định bụng nhờ chưởng quầy gửi giấy này cho huynh. Dè đâu huynh vẫn còn đang ở Hàng Châu thế này.” 

Dương Duy Học chắp tay nói: “Ta nhất định phải giải quyết cho xong việc của cô đã, rồi mới có thể yên tâm quay về học hành được.”

Thấy hắn nghĩa hiệp như vậy, Thẩm Lan không khỏi cảm động: “Dương huynh là người quân tử chân tình, vậy thì ta đây cũng không thể làm tiểu nhân.” Nói đoạn, nàng mới kể rõ ràng hết thảy quá khứ làm ngựa gầy, bỏ trốn gặp được Bùi Thận, thậm chí bị bức ép làm thiếp, mấy lần đào vong thất bại cho Dương Duy Học nghe.

Dương Duy Học nghe mà thảng thốt không thôi. Hắn sớm đã đoán trước thân phận Thẩm Lan có lẽ không phải đường đường chính chính gì cho cam, nhưng cũng chẳng ngờ nàng lại xuất thân từ lò ngựa gầy. Nhưng thấy nàng bất khuất kiên cường, lỗi lạc tiết tháo, hắn không kiềm được sinh lòng kính nể.

Trầm mặc hồi lâu, Dương Duy Học lúc này mới nói: “Vậy sắp tới cô tính thế nào?”

Thẩm Lan thì thầm: “Dương huynh là quân tử, ta không dám cầu gì hơn, chỉ mặt dày nhờ Dương huynh hai việc.”

Dương Duy Học tưởng nàng định nhờ hắn giúp nàng chạy trốn, không ngần ngại mà nhận lời ngay: “Bạn bè cần giúp, từ chối sao đành.”

Thẩm Lan cười nói: “Thứ nhất, ta muốn Dương huynh trở về Tô Châu, coi như sau khi từ biệt ở Tô Châu đã không còn gặp lại ta nữa.”

Dương Duy Học sững ra, Thẩm Lan nói tiếp: “Thứ hai, hôm nay là mùng mười tháng tám. Ba tháng sau, một năm sau ta sẽ lần lượt nhờ người nhắn bình an hai lần cho Dương huynh.” Ba tháng cũng đủ làm Bùi Thận hết hy vọng. Cho dù y có nghi ngờ rồi phái người theo dõi Dương Duy Học, ba tháng cũng phải thu người về. Một năm sau, Thẩm Lan cuối cùng cũng có thể dừng chân ổn định cuộc sống.

Dương Duy Học vội hỏi với theo: “Báo tin? Cô muốn đi đâu?”

Thẩm Lan chỉ cười: “Nếu Dương huynh mãi không nhận được lời nhắn của ta, vậy thì nhờ Dương huynh tới quan phủ tố cáo hai người Ngọc Dung, Bành Tam tự ý giam giữ gia quyến nhà quan.”

Dương Duy Học kinh hãi: “Nói vậy tức là sao?”

Thẩm Lan cười khổ. Một người nữ yếu ớt như nàng, mang theo mấy trăm ngân phiếu trốn đi. Hễ là Ngọc Dung Bành Tam nổi lòng tham thì mất tiền đã đành, nếu đem nàng bán vào nhà chứa kiếm tiền, hoặc nhốt nàng làm kỹ nữ tiếp khách trên thuyền, tiếp hết người này đến người khác…

“Chỉ để phòng hờ mà thôi.” Nói xong, nàng đưa tờ giấy trong tay cho hắn: “Trên đây là địa chỉ của Ngọc Dung, Bành Tam.”

Dương Duy Học nôn nóng nhận lấy tờ giấy, luôn miệng hỏi: “Cô có việc gì thì cứ nói ra, sao mà phải đến nỗi này?”

Nàng đang định mở miệng, lại nghe thấy bên ngoài Tử Ngọc cao giọng gọi: “Phu nhân đã xong chưa?”

Thẩm Lan đáp lại: “Chưa.” Nàng vội dặn dò Dương Duy Học: “Nếu lúc đó thư báo bình an hoặc lời nhắn báo bình an đến, hễ là không có ám hiệu hai ta hẹn trước, Dương huynh chớ vội tin.” Nàng sợ có người ép nàng viết thư báo bình an.

Nói đến đây, Thẩm Lan thuận miệng nói: “Ta và Dương huynh quen nhau vào tháng bảy tại trạm Càn Ninh ở Thương Châu, hơi đổi một chút, lấy bốn chữ Lan Nguyệt Thương Càn làm ám hiệu.” Ám hiệu này quái lạ khác thường, chắc chắn sẽ không có người tình cờ nói trúng.

Dương Duy Học nghe nàng dặn dò, trong lòng sốt ruột âu lo, hắn đang định khuyên nữa, Thẩm Lan đã mở rương ra lấy quần áo.

Dương Duy Học chẳng biết làm sao, chỉ đành vòng ngược ra sau bình phong, nghe bên ngoài vang lên những tiếng sột soạt.

Một người đàn ông như hắn trốn sau tấm bình phong nghe một cô nương thay quần áo, Dương Duy Học không khỏi đỏ mặt. Hắn ngẩn ngơ suy nghĩ lung tung, rồi chợt vội mắng mình tơ tưởng bậy bạ, hành động như kẻ tiểu nhân.

Thẩm Lan thật ra cũng chưa cởi áo quần ra đổi, sợ bộ y phục mới khiến đám hộ vệ nghi ngờ rồi báo cho Bùi Thận. Nếu dính líu tới Dương Duy Học thì quả không hay.

Nàng chỉ kéo áo lụa trắng thấp xuống, rồi đổi vị trí của dải lụa đeo bên hông nhằm che khuất vết trà đọng.

Sửa soạn đâu vào đấy xong, Thẩm Lan quay về hướng bình phong chắp tay thi lễ: “Dương huynh, ơn đức này vạn không dám quên. Nếu ta có thể sống sót, nhất định dốc lòng báo đáp ân tình của huynh.”  Nói rồi, nàng nhấc rương lên đi ra ngoài.

Dương Duy Học nghe nàng nói tới sống sót, lòng nóng như lửa đốt, đứng sau bình phong luôn miệng hỏi với theo: “Sống sót tức là sao? Lời này của cô nghe sao như lời trăn trối?”

Thẩm Lan thở dài một tiếng, nàng vốn là ôm lòng liều chết tới thử một phen.

Thành, đó là chết mà lại sống.

Bại, thôi thì ngọc nát hương tan.

Chú thích:

Sóng triều và hội xem sóng trên sông Tiền Đường: xem tại đây (Tiếng Việt). Sóng rất cao nha mọi người khoảng chừng 9 mét, nhảy vào là rất nguy hiểm. Không khuyến khích học theo ~~

1 tiểu giáp: người phụ trách công việc nông thôn thời phong kiến

2: tên các loại đá quý cổ, có thể tham khảo từ cuốn《 ngũ tạp trở · vật bộ tứ 》của Tạ Triệu Chiết thời nhà Minh (“Kim thế chi sở bảo giả, hữu miêu nhi nhãn, tổ mẫu lục, điên bất lạt, mật tịch, kim nha…… Đẳng loại, nhiên giai tương khảm thủ sức chi dụng.”)

3: hoa điền: trang sức đính giữa trán
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 72: Ta là ta


Thẩm Lan đã hạ quyết tâm thì sẽ không tiếp tục do dự thêm nữa.

Mùng mười tháng tám, nàng gặp Dương Duy Học.

Mười bốn tháng tám, Thẩm Lan lần nữa ra ngoài dạo chơi.

Buồi chiều về phủ, nhà bếp mang lên một chén cơm trân châu, một nồi hải sản chưng trứng, nghêu nướng, tôm tươi, cồi sò, bào ngư… đều được cắt thành từng miếng bày ra bên dưới, phía trên chưng canh trứng, lại nhỏ lên vài giọt dầu mè.

Thẩm Lan ăn ngon lành. Nàng dùng bữa tối xong, đang nhận lấy khăn bông Tử Ngọc đưa tới chuẩn bị rửa tay, bỗng nhiên nghe Tử Ngọc nói: “Phu nhân, hiện giờ đã là mười bốn, mà ngài mãi vẫn chưa tới ngày. Có cần mời thầy thuốc đến khám một chuyến?”

Thẩm Lan hơi ngừng lại, ung dung nói: “Mời thầy thuốc cái gì? Thuốc thang đắng nghét, ta chẳng thích uống nữa đâu.”

Tử Ngọc vội la lên: “Phu nhân, đâu phải là chuyện đắng hay không chứ?” Nàng thì thầm: “Trễ thế này, sợ là có rồi.” Mấy ngày trước nàng đã định nhắc nhở phu nhân, nhưng lại sợ mình nghĩ lầm, không dưng khiến phu nhân mừng hụt, nên mới cố tình chờ qua chín ngày cho chuẩn rồi mới nhắc.

Nghe vậy, Thẩm Lan liền thở dài một tiếng: “Có đâu mà có? Hôm mùng bảy ta mới vừa uống một vò nước mật ong lạnh ngâm nước giếng, em quên rồi sao?”

“Ai nha, nô tỳ lúc đó quên phải nhắc phu nhân.” Tử Ngọc ảo não, “Gần đến kỳ, sao có thể ăn đồ lạnh được chứ.”

Thẩm Lan nghĩ bụng, nếu không phải để che giấu chu kì tới chậm, nàng cũng không đến nỗi đi uống nước mật ong lạnh căm căm kia, ngọt gắt cả cổ.

“Chuyện này em chớ có nói cho Gia hay. Khiến ngài ấy mừng hụt một hồi, đến lúc đó ngược lại muốn trách tội ta.”

Tử Ngọc gật gật đầu, từ ngày được mua cho vòng tay bạc, Tử Ngọc càng thêm thân cận với Thẩm Lan, tất nhiên cũng sẽ suy nghĩ cho nàng: “Nô tỳ hiểu.”

“Chuyện gì mà đừng nói cho ta hay?”

Thẩm Lan hoảng hồn giương mắt nhìn lên, thấy Bùi Thận cất bước vào trong viện, thần sắc nhàn nhạt mỉm cười nhìn nàng.

Tử Ngọc cuống quít quỳ rạp xuống đất định mở miệng, lại thấy Thẩm Lan không hề nao núng nói: “Ngài nghe nhầm rồi.”

Bùi Thận nghe nàng đáp, vẻ mặt đã có mấy phần không vui, bước vào lạnh nhạt nói: “Nàng không muốn nói cũng chẳng sao. Ta hỏi Tử Ngọc là được.” Dứt lời, y lệnh Trần Tùng Mặc dẫn Tử Ngọc ra ngoài dò hỏi.

Thẩm Lan phiền muộn thở dài: “Mười bảy tháng tám ta muốn ra ngoài xem sóng thủy triều lên, sợ ngài cản không cho. Tử Ngọc mới rồi còn đang khuyên ta.”

Nếu nàng ban nãy nói thẳng muốn đi xem sóng, Bùi Thận nhất định không chịu tin. Lúc này y lấy Tử Ngọc uy hiếp nàng, nghe được đáp án nàng muốn đi xem sóng, Bùi Thận hơi có phần tin tưởng.

Vẻ mặt y giãn ra, khẽ cười: “Muốn đi xem sóng?”

Thẩm Lan gật đầu, hai mắt lấp lánh: “Ta chỉ mới được xem hội chùa, còn chưa bao giờ trông thấy cảnh nước dâng. Hội chùa chẳng qua cũng chỉ là hoạt động của con người, sóng triều dâng lại thể hiện uy lực của đất trời. Nếu không đi xem thì thật là đáng tiếc.”

Đôi con mắt nàng long lanh như bóng núi, linh động rực rỡ, lanh lợi thông minh, bao hàm trong đó niềm khao khát và chờ đợi nhìn chằm chằm lấy y. 

Bùi Thận đã lâu không thấy nàng cao hứng đến vậy, lại nghĩ nếu có thể đồng ý dẫn nàng đi xem sóng, chắc hẳn kế sách dụ dỗ, cho phép nàng ra ngoài dạo chơi gần đây càng có thể phát huy được tác dụng.

Nghĩ đến đây, Bùi Thận hơi rục rịch sắp sửa nhận lời, nhưng rồi không khỏi nhớ tới dịp Đoan Ngọ lần trước. Xem sóng cũng giống Đoan Ngọ vậy, đều là những nơi biển người tấp nập đông đúc. Nếu lại lạc nữa…

Bùi Thận liền đổi giọng: “Ta gần đây thật là bận quá, e rằng không rỗi rãi dẫn nàng đi.”

Thẩm Lan không chút do dự: “Ta tự mình đi cũng được.”

Bùi Thận bị nàng chặn họng, thầm mắng nàng đúng là vô tâm, y hắng giọng nói: “Hội xem sóng năm nào cũng có hơn trăm người bỏ mạng, quá nguy hiểm. Chờ năm tới nếu rảnh, ta đích thân dẫn nàng đi.”

Thẩm Lan sao có thể để dăm ba câu của y lừa gạt, nàng lắc đầu: “Lần trước ngài hẹn khi nào nhậm chức Sơn Tây sẽ dẫn ta đi hội chùa Minh Ứng Vương, cuối cùng giữa đường lại vòng sang Chiết Giang. Ai biết năm sau ngài có thể lại tới nơi khác nhậm chức hay không?”

Bùi Thận nhủ thầm lời này quả cũng có lý, nhưng ngoài mặt vẫn không biến sắc nói: “Giặc Oa chưa quét sạch, ta có thể đi nơi nào khác chứ?”

Thẩm Lan thấy y lúc này chỉ dây dưa ở việc xem sóng, chừng như đã không nhớ rõ việc Tử Ngọc ban nãy, nàng thở phào một hơi nhẹ nhõm. So với xem sóng, nàng càng sợ việc mình có khả năng mang thai bị Bùi Thận phát hiện.

Thấy nàng hồi lâu không đáp, Bùi Thận cười nói: “Thực ra thì Hàng Châu cũng không phải nơi đẹp nhất để ngắm sóng đâu. Nếu muốn xem sóng, nhất định phải tới trấn Diêm Quan ở Hải Ninh, ở đó có một đoạn đê biển cực kỳ thích hợp để ngắm sóng.” Nói đoạn, y lại hứa hẹn: “Chờ năm sau, ta sẽ dẫn nàng tới Hải Ninh để xem.”

Thấy y khăng khăng một mực không cho phép nàng mười bảy tháng tám ra ngoài xem sóng, Thẩm Lan hừ lạnh một tiếng: “Ngài nếu sợ ta xảy ra chuyện, thôi thì phái bảy tám chục tên hộ vệ vây kín lấy ta cho xong.”

Nghe nàng chủ động yêu cầu tăng thêm hộ vệ, không giống như là muốn chạy trốn, lại tựa như thật sự muốn đi xem sóng, Bùi Thận khẽ thở phào, cười mắng: “Gần đây bận lắm, đâu ra nhiều người đến vậy mà phái tới cho nàng dùng.” Chỉ cần không cho nàng đi xem sóng chẳng phải ổn thỏa hơn sao.

Nghĩ vậy, Bùi Thận cười nói: “Hôm nay hải sản chưng trứng ăn ngon chứ?”

Thẩm Lan thấy y đổi đề tài cũng vờ bất mãn khịt mũi, gật đầu nói: “Hương vị không tệ lắm.”

Hai người lại tán gẫu mấy câu, Bùi Thận dùng bữa tối xong thì tắm gội nghỉ ngơi. 

Mười bảy tháng tám, Thẩm Lan đồng ý với Bùi Thận không đi xem sóng nhưng vẫn ra ngoài.

Xe ngựa mới đi được một đoạn, Thẩm Lan chợt vén màn xe ra lệnh: “Đi tới phía ngoài cửa Hầu Triều đi.”

Bình Sơn sững sờ, vội nói: “Phu nhân, Gia đã dặn không cho đi xem sóng.”

Thẩm Lan nhàn nhạt nói: “Ai nói ta muốn đi xem sóng?” Nàng từ tốn giải thích: “Phía ngoài cửa Hầu Triều giáp ranh với nước đục, ở đó chất đống những cá là cá thành cả khu chợ. Mấy lần ra ngoài ta đều chỉ đi tới cửa hàng vàng bạc, tơ lụa thôi, đã chán ngấy rồi, còn chưa được xem chợ cá đâu.”

Bình Sơn nhất thời khó xử, do dự không biết làm sao. Thẩm Lan lại nói: “Ngươi cứ yên tâm, ta chắc chắn sẽ không đi xem sóng.”

Nghe nàng hứa hẹn nhiều lần, Bình Sơn rốt cuộc nhẹ thở phào, lệnh cho xa phu đánh xe ngựa tới ngoài  cửa Hầu Triều.

Thành Hàng Châu chen chúc, ngoài thành cũng là cảnh dân cư dày đặc, phòng ốc san sát nối tiếp nhau, không hề có kẽ hở.

Thẩm Lan vén rèm nhìn một chốc, thấy đã đến ngoài cửa Hầu Triều, nàng cười nói: “Không đi chợ cá nữa, đổi qua đi đình Chiết Giang.” Đình Chiết Giang chính là một trong những chỗ đẹp lý tưởng nhất để xem sóng dâng.

Bình Sơn tắt tiếng, bất lực nói: “Phu nhân không phải đã đồng ý với thuộc hạ sẽ không đi xem sóng sao?”

“Ta đổi ý.” Thẩm Lan không hề biến sắc.

Bình Sơn ngạc nhiên, hắn xưa nay là người thật thà, thấy Thẩm Lan chơi xấu, chỉ đứng đực ra đó gãi đầu, không biết thế nào cho phải.

Thẩm Lan liền khuyên nhủ: “Bình Sơn, ngươi không dám đánh ngất ta thì không làm gì được ta đâu. Ngươi nhất định không lay chuyển được ta. Dù không đi xe ngựa chăng nữa, ta vẫn có thể cuốc bộ tới xem sóng như thường.”

Nghe nàng nói gì mà đánh ngất, Bình Sơn lập tức chắp tay nói: “Thuộc hạ không dám.”

Thẩm Lan cười cười: “Thay vì dây dưa với ta tại đây thế này, chi bằng khiến người đi báo cho đại nhân nhà ngươi xem ngài ấy nói sao. Nếu ngài cho phép ta đi xem sóng thì tốt, nếu là không cho, ngươi nhận lệnh rồi lại đánh ngất ta mang về cũng không muộn.”

Lời này của nàng cũng chỉ để dỗ dành những người khờ khạo như Bình Sơn đây thôi. Lúc xem sóng chung quanh bao nhiêu là người, đương trường đánh ngất Thẩm Lan, chẳng phải vô cớ rước lấy phê bình? Bùi Thận thà rằng tự mình đến dẫn nàng về, chứ tuyệt đối sẽ không hạ lệnh như thế.

Bình Sơn tánh nết thật thà, biết không còn cách khác, cũng chỉ đành mặc Thẩm Lan xuống xe ngựa đi về phía trước. Hắn sợ lại tái diễn sự việc hôm Đoan Ngọ, tức khắc chỉ hai tên hộ vệ, một trước một sau bảo vệ Thẩm Lan, rồi quay sang phái đệ đệ Bình Nghiệp đi báo tin cho Bùi Thận.

Lúc này đã là cuối giờ Tỵ, thời gian ước chừng đến giữa trưa. Trước sau của Thẩm Lan đều là hộ vệ, trái phải là nha hoàn, nàng bị vây kín mít tiến thẳng về đình Chiết Giang. 

Mười hai tháng tám đến hai mươi mốt tháng tám chính là khoảng thời gian xem sóng. Hai sườn bên ngoài đình Chiết Giang đã sớm dựng hơn ba mươi dặm lều nối dài, lúc này chen chúc những người là người, loạn xị bát nháo. Có những gia đình giàu có dựng những đài cao, dùng màn gấm lụa màu vây lại. Cũng có những bá tánh chen hai bên bờ con đê dài, duỗi cổ ngắm sóng.

“Phu nhân, mời bước vào trong đình.” Bình Sơn hướng dẫn.

Đình Chiết Giang bị phu nhân của Tri phủ Hàng Châu – Tôn Yểu Nương chiếm, thấy Thẩm Lan tới, lập tức dẫn tỳ nữ nô bộc nhường ra nửa mái đình.

Thẩm Lan đang định tán gẫu với Tôn Yểu Nương đôi câu, chợt nghe tiếng người ồn ã hai bên bờ sông lúc này sôi sùng sục như chảo dầu nóng, chấn động một góc trời.

“Sóng tới! Sóng tới!”

“Nhìn kìa nhanh lên!”

“Đừng đẩy ta! Lùi ra sau đi! Lùi ra!”

Bá tánh hai bờ có người hoan hô nhảy nhót, có người la hét thất thanh, cũng có những người liều mạng xô đẩy muốn lùi về sau, sợ bị thủy triều cuốn đi mất.

Thẩm Lan đứng trong đình nhìn ra, thấy trên mặt sông trắng xoá, dòng nước trong vắt như gương, mà bên dưới nước ngầm cuộn trào mãnh liệt. Phía trước thấy một dải sóng trắng từ xa tiến lại, hướng thẳng về bờ.

Ngay sau đó, thủy triều bỗng trở nên vô cùng dữ dội. Từng cơn sóng chồng lấy nhau, nối tiếp nhau, sóng sau cao hơn sóng trước, vun vút rít gào, ầm ầm như sấm nổ. Cuồng phong thổi vù vù, kéo sóng đục ập vào những tảng đá.

Đến khi thủy triều vào tới bờ, cột sóng hung dữ vọt cao đến mấy trượng, tựa như muốn nuốt lấy cả bầu trời. Thế nước như quả núi đứng sừng sững giữa không gian, trời đất tưởng như đảo ngược.

Những đợt sóng hỗn loạn hùng vĩ ập mạnh vào bờ. Bá tánh vây xem gần đó vội vã che mặt lùi về sau, sợ bị sóng lớn cuốn đi.

Thẩm Lan đang than thở trước sức mạnh ghê gớm của tự nhiên, chợt thấy giữa những đợt sóng bàng bạc lấp ló những đốm đen đang nhúc nhích. Nàng mở to mắt nhìn kỹ lại, mới thấy đó là hơn trăm người đàn ông xõa tóc xuất hiện giữa những làn sóng dữ dội.

Một số người buộc những lá cờ nhỏ vào tay chân, số khác cầm những chiếc gậy có đính tua rua và những dải lụa sặc sỡ, số khác nữa thì cầm những lá cờ lớn nhiều màu sắc, nối đuôi nhau đuổi theo những con sóng, cố gắng lướt lên mặt thủy triều.

Đình Chiết Giang cách bờ sông khá xa, Thẩm Lan thực ra không nhìn rõ được trong đám người này liệu có ba huynh đệ họ Bành hay không.

Nàng đang định nhìn cho rõ hơn, chợt nghe đám người kinh ngạc ồ lên. Thẩm Lan trông về phía xa, mới thấy có một người đàn ông vạm vỡ tay cầm cờ màu lướt lên đầu ngọn sóng. Lá cờ kia phấp phới tung bay theo gió, vậy mà chưa hề mảy may bị ướt.

“Hay lắm! Ông đây thưởng!”

“Có người đứng đầu rồi!”

“Xiếc lăn cây ơi, cố lên! Cố lên!”

“Rối nước múa đẹp lắm! Đẹp hơn những đội khác! Thưởng! Thưởng!”

Những người ngồi trong đình và cả những người vây xem hai bên bờ đều trầm trồ khen ngợi, lại có người thổi sáo gõ chiêng, chuẩn bị vàng bạc thức ăn, báo rằng đã tìm được người đứng đầu, chỉ chờ những người còn lại tranh vị trí thứ hai. 

Thẩm Lan ngồi trong đình, nhìn chằm chằm mặt sông không chớp mắt.

Nàng chăm chú xem hội, mà Bùi Thận ở phủ lúc này cũng hết sức chăm chú bận bộn việc công, bỗng nghe Bình Nghiệp tới báo Thẩm Lan một hai đòi đi xem sóng, bây giờ đã ngồi trong đình Chiết Giang.

Sắc mặt Bùi Thận hơi sầm xuống, rõ ràng đã nói với nàng không được đi xem sóng. Nàng giờ lại dám công khai trái ý y, đúng là ngày càng to gan.

Y lạnh lùng nói: “Phái thêm hai hộ vệ qua đó.”

Bình Nghiệp đáp lời, quay người rời khỏi.

Thấy Bình Nghiệp đi rồi, Trần Tùng Mặc tiếp tục thấp giọng nói: “Bẩm Gia, phía Cẩm Y Vệ tới báo Hoàng Hà vỡ đê, ngàn mảnh ruộng tốt của Sơn Tây đều bị úng nước. Lưu dân mấy chục vạn người lục tục đổ vào các nơi. Bên này gặp thủy tai, ngờ đâu Thiểm Tây lại chịu hạn hán. Dân đói Vương Nghênh Tường giết Huyện lệnh huyện Trừng, lôi kéo mấy vạn lưu dân cùng khởi nghĩa.” (Bản đồ ở cuối bài)

Bùi Thận sầm mặt ngồi trên ghế nghe bẩm. Triều đình nhất định sẽ phái đại quân xuống trấn áp Vương Nghênh Tường, không đáng phải lo. Chỉ là việc cứu trợ dân đói, dù có phát xuống núi vàng núi bạc, cuối cùng cũng không đến được tay dân.

Bùi Thận ngồi đó tiếp tục nghe. Nhưng càng nghe, y càng cảm thấy bực bội, thấp thoáng có mấy phần mất bình tĩnh.

Ý thức được bản thân đang bực bội, Bùi Thận có hơi kinh ngạc. Y còn trẻ đã nên tên tuổi, từng được Thủ phụ bình rằng “Gặp việc lớn, biết tĩnh tâm thận trọng”, đã rất nhiều năm chưa từng có cảm xúc phập phồng nóng nảy thế này.

Nghĩ đến đây, Bùi Thận xo/a nắn ấn đường. Có lẽ là do việc công quá bận, đã lâu không nghỉ ngơi đàng hoàng mà ra. Y chỉnh đốn lại ý nghĩ, vừa nghe Trần Tùng Mặc báo tin, vừa đọc những tấu chương, thư từ lui tới trên bàn, rồi nhấc bút viết phản hồi.

Bùi Thận xử lý xong những việc khẩn cấp cũng đã là nửa buổi chiều. Nhìn ánh tà dương bên ngoài cửa sổ, chẳng biết vì sao, y vẫn thấy nỗi lòng không yên. Hồi lâu sau, y gác bút, đứng lên ra lệnh: “Đi tới đình Chiết Giang.”

Mà Thẩm Lan bấy giờ cũng đang nóng lòng chờ ngày dần ngả về tây, chiều hôm buông xuống, khách đến dạo chơi tan bớt về nhà. Những đầu người chen chúc trên bờ cũng dần dần thưa thớt.

Thẩm Lan cười nói: “Yểu Nương nếu muốn đi cứ hãy tự nhiên. Ta hiếm hoi mới ra ngoài một chuyến, tính ngồi trong đình này xem lâu lâu chút.”

Ai ngờ Tôn Yểu Nương hôm nay có lẽ là quá hưng phấn khi được xem sóng, không nhận ra được ý tiễn khách trong câu nói của nàng, cảm thấy Bùi phu nhân chưa đi, sao mình có thể đi được. Nàng ta chớp mắt, cười ha ha: “Cũng có việc gì gấp gáp đâu. Ta cũng bị vây trong chốn khuê phòng bấy lâu, hiếm lắm mới có cơ hội ra ngoài chơi, tất nhiên phải chơi cho tận hứng mới được.”

Thấy Tôn Yểu Nương không đi, Thẩm Lan cũng không sao cả, chỉ cười nói: “Vậy thì ta không ngồi thẫn thờ trong đình nữa. Xem sóng mà ngồi xa thế này thì có gì vui? Phải lại gần bờ mới được.”

Tôn Yểu Nương kinh ngạc khuyên ngăn: “Bùi phu nhân chớ trách. Nhưng thủy triều rất là dữ dội, hàng năm đều có mấy trăm người vì đứng xem sóng gần bờ mà bỏ mạng.”

Thẩm Lan cười đáp: “Ta chỉ là tò mò muốn xem thôi. Nếu thấy sóng to lại gần, tất nhiên sẽ vội bỏ chạy.” Nói xong nàng đứng lên bước ra khỏi đình, đi thẳng về hướng con đê dài bên bờ sông.

Bình Sơn vốn đang đứng gác ngoài đình nhìn nàng lom lom, thấy nàng vừa nhúc nhích, lập tức dẫn hai tên hộ vệ theo đuôi, phát hiện Thẩm Lan vậy mà đang tiến thẳng về mép sông

“Phu nhân!” Bình Sơn vội la lên: “Bờ sông quá nguy hiểm, không thể đi được.”

Thẩm Lan cười nhạo: “Các ngươi ai cũng cho ta là đồ ngốc sao? Thấy sóng to ập đến, lẽ nào tự ta không biết chạy?”

Thấy nàng một hai đi tới bờ sông cho bằng được, Bình Sơn cản không nổi, chỉ đành kéo theo cả đám nha hoàn, hộ vệ, sát sao theo từng bước chân nàng.

Ai ngờ tới cạnh bờ rồi, chuẩn bị bước lên con đê, Thẩm Lan lại nói: “Các ngươi đứng yên chỗ này đi.”

Bình Sơn còn đang sửng sốt, Tử Ngọc đã vội vàng khuyên nhủ: “Phu nhân sao có thể một mình lên đê được!”

Thẩm Lan cười cười: “Đê này nằm ven mặt sông, trên sông không có thuyền, ta lại không biết bơi, có chạy đằng trời. Đừng lo ta sẽ trốn.” Nói rồi, nàng lại giải thích: “Ta chỉ là muốn một mình đi xem sóng mà thôi.” 

Nàng nói xong liền bước lên đê. Bình Sơn vội vàng định đuổi theo, lại nghe Thẩm Lan xoay người quát lớn: “Các ngươi có phải chỉ coi Bùi Thận là chủ, còn ta chẳng là thá gì đúng không?”

Bình Sơn Tử Ngọc, cùng mấy người còn lại nào dám nhận câu này, luân phiên chắp tay thi lễ, cuối cùng chỉ có thể đứng yên trên bờ nhìn nàng từng bước đi lên con đê.

Đúng lúc hoàng hôn và đêm tối giao nhau, trăng sao mờ ảo, bóng đêm dần sẫm, đám đông đã tan, chỉ còn những ngọn sóng như cũ cuộn trào trên mặt sông mênh mang.

Thẩm Lan đứng một mình lẻ loi trên đê ngắm sóng.

Trời vẫn chưa tối hẳn. Nền trời trong vắt sắc xanh lành lạnh như gương, bên trên lấm tấm vài ba ngôi sao thưa thớt mờ mờ ảo ảo. Mặt sông bao la vẳng lại từng tiếng sóng vỗ cùng ánh trăng thăm thẳm mịt mờ.

Bùi Thận đến được đình, liếc mắt một cái liền trông thấy Thẩm Lan đang đứng cuối con đê giáp với bờ sông.

Tóc mây mờ sương phủ, vạt áo bay phấp phới, dường như muốn mượn gió bay lên.

Bùi Thận bất chợt hoảng hốt, rồi lại sầm mặt xuống, vội chạy ra khỏi đình đi thẳng về phía con đê.

Bình Sơn tầm nhìn tốt, thấy Bùi Thận đã tới mới trộm thở phào nhẹ nhõm, hô vang: “Phu nhân, Gia tới.” Nói rồi, hắn lại bước lên đê, khuyên: “Sóng lại bắt đầu đánh tới rồi. Phu nhân nhanh quay về đi thôi.”

Thẩm Lan không đoái hoài tới Bình Sơn, nàng một mực nhìn lấy mặt sông, thấy sóng lớn dần dần thành hình, cuộn trào dâng về phía nàng. Trăng sao như lục tục rơi xuống lòng sông, rồi bị bọt sóng ào tới đánh vỡ tan.

Nàng tiếc nuối nghĩ, nếu có thể vớt được lên thì tốt biết mấy.

Nghĩ đến đây, Thẩm Lan ngẩng đầu định ngắm trăng sao trên trời, nhưng quay đầu lại thấy vẻ mặt vừa hoảng vừa giận của Bùi Thận đang xăm xăm bước tới. Nàng đứng từ xa mỉm cười nhìn về phía y.

Bùi Thận trông thấy nụ cười ấy của nàng, chợt cảm thấy hãi hùng khiếp vía, buột miệng thốt lên: “Thấm Phương, lại đây!”

Nơi xa, Bùi Thận co giò chạy tới, Tử Ngọc khản giọng gọi nàng, Bình Sơn cũng bước thật nhanh về phía nàng. Gió trên mặt sông không ngừng gào thét, sóng to ngập trời quét đến trước mặt……

Thẩm Lan thả người gieo thẳng vào lòng sông.

Khoảnh khắc nhảy xuống, nàng ngỡ như trông thấy Bùi Thận ngừng chân, cả gương mặt chỉ đọng lại một vẻ mờ mịt.

Thẩm Lan nghĩ, Thấm Phương sẽ không bao giờ qua đó nữa, Thấm Phương muốn chết. Nhưng nghĩ lại thì, điều đó có liên can gì ta chứ?

Tên của ta là Thẩm Lan.

Tận mắt thấy Thẩm Lan bị sóng cuốn đi, Bùi Thận đầu tiên là nghệch ra một chút, ngẩn ngơ bước tới mấy bước.

Đến khi hoàn hồn nhận ra Thẩm Lan nhảy sông tự sát, khóe mắt y như muốn nứt toác ra, ngực quặn lên đau nhói, đương trường phun ra một búng máu.

“Gia ——” Trần Tùng Mặc hoảng sợ thét lên.

Bùi Thận không rảnh màng đến hắn, chỉ lo co giò xông như điên lên con đê.

Trần Tùng Mặc cùng Lâm Bỉnh Trung đằng sau bị hù nhảy dựng, gắt gao túm chặt lấy y.

“Buông tay!” Bùi Thận giận tím mặt, liều mạng giãy giụa. Sức y lớn đến độ hai người hợp lực đều không túm nổi.

Trần Tùng Mặc thấy thế, quay về phía đám người Bình Sơn còn đang sững sờ tại chỗ gào lên: “Còn đứng đó làm gì? Mau tới đây giúp một tay!”

Bình Sơn đứng ở giữa con đê, ngơ ngác nhìn sóng to ngập trời, nghe vậy cũng giật mình tỉnh lại, xoay người chạy như điên.

Lâm Bỉnh Trung níu không được Bùi Thận đang giãy giụa, đành luôn miệng la lên: “Sóng lớn quá! Gia! Cứu không được! Cứu không được nữa!”

Nghe thế, Bùi Thận bỗng nhiên thôi vùng vẫy, chỉ ngơ ngẩn nhìn ra trước mắt. Bóng đêm mênh mông, dòng sông cuồn cuộn chảy, sóng nối đuôi nhau ập vào đá ầm ầm như sấm bổ. Nào đâu còn thấy bóng ai?

Đúng rồi, nàng không biết bơi. Nếu rơi xuống nước, chỉ có một đường chết.

Bùi Thận đột nhiên hoàn hồn, lạnh lùng nói: “Tìm! Sống phải thấy người, chết phải thấy xác!”

Hạng người bất khuất kiên cường như nàng, nhất định là tìm cách chạy trốn. Không biết bơi ư? Đúng là nực cười! Người không biết bơi nào lại dám can đảm chèo thuyền mấy canh giờ? Chẳng lẽ không sợ rơi xuống sông chết chìm sao?

Bùi Thận không dễ gì tin, y bình tĩnh lại, lập tức nói: “Đi điều Thủy quân tới, lại lấy tiền bạc đi tìm những dũng sĩ dám lướt sóng, bảo họ đi lục soát hai bên ven sông.”

Trần Tùng Mặc và Lâm Bỉnh Trung liếc nhìn nhau, nghĩ bụng Gia đúng là điên rồi. Sóng lớn như thế, một người con gái yếu ớt như phu nhân bị cuốn đi, sao mà sống nổi?

Lâm Bỉnh Trung cuối cùng thẳng tính hơn, cố cắn răng nói: “Thưa Gia, sông Tiền Đường thông ra biển. Nếu xác trôi theo hướng đó, e rằng sẽ không còn tin tức gì nữa.”

Nghe hắn nhắc tới chữ xác, thần sắc Bùi Thận lạnh lẽo như đao, ánh mắt như muốn cắn nuốt người trước mặt. Lâm Bỉnh Trung chưa từng thấy dáng vẻ y thế này bao giờ, không khỏi cảm thấy kinh hãi.

Bùi Thận gằn từng chữ một: “Sống phải thấy người, chết phải thấy xác.”

Trần Tùng Mặc và Lâm Bỉnh Trung không biết làm sao, đành phải nghe lệnh Bùi Thận. Một người đi điều Thủy quân, một người đi tìm dũng sĩ, sau đó điều động người theo dọc bờ sông tìm kiếm thi thể của Thẩm Lan.

Lúc bấy giờ, Thẩm Lan khó khăn lắm được ba huynh đệ họ Bành kéo lên bờ.

Bốn người toàn thân ướt đẫm, nằm liệt trên bờ há miệng thở dốc. Ngọc Dung chờ sẵn trong lùm cỏ lau, vội vàng nắm tay nải bằng vải bố chạy ra đỡ Bành tam dậy, nghẹn ngào gọi một tiếng Tam ca.

Biết nàng lo lắng cho mình, Bành Tam đưa bàn tay thô kệch đen gầy nắm lấy tay Ngọc Dung, yên lặng an ủi nàng.

Thẩm Lan giãy giụa đứng lên, lập tức lấy từ túi tiền ngân phiếu ba trăm lượng gói trong bao giấy dầu đưa sang: “Đa tạ bốn vị trợ giúp.”

Bành Tam nhận lấy túi tiền, thấy Thẩm Lan xoay người muốn đi, vội gọi lại: “Phu nhân xin chờ một lát.”

Thẩm Lan hơi ngừng bước, dưới ánh trăng vằng vặc, lòng nàng lạnh xuống, mỉm cười nói: “Còn việc gì sao?”

Bành Tam đâu hay Thẩm Lan đang nghĩ gì. Hắn dù là người thật thà, mồm miệng cũng không hề vụng về, chỉ là không quá nhanh nhẹn mà thôi. Hắn vội nói: “Có thi thể.”

Thẩm Lan sửng sốt, vui mừng suy đoán: “Mỗi năm người đến sông Tiền Đường xem sóng, bị cuốn đi phải đến mấy trăm người. Chắc hẳn huynh không chỉ lướt sóng, cứu người, mà cũng kiêm luôn cả chèo thuyền nhặt xác nữa?”

Bành Tam không ngờ nàng thông minh như vậy, đoán ngay trúng phóc, hắn lập tức gật đầu.

Ngọc Dung đứng ra giải thích thay Bành Tam: “Từ mười hai tháng tám bắt đầu xem sóng cho tới hôm nay mười bảy, Tam ca đã nhặt được hơn ba mươi cái xác, nam nữ già trẻ đều có cả. Trong đó có một người vóc dáng thân hình tương tự với phu nhân, chỉ là lớn hơn vài tuổi. Tam ca quyết định giữ lại.”

Thẩm Lan sửng sốt, im lặng không nói được gì. Hồi lâu sau, nàng thì thào: “Thi thể người kia cũng có người nhà. Nếu để nàng thế chỗ cho ta, người nhà tìm không được nàng, chắc là sẽ buồn lắm.”

Suy bụng ta ra bụng người, nghĩ đến cảnh cha mẹ nàng người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, Thẩm Lan cảm thấy chua xót không thôi.

Nghe nàng vậy mà lo lắng việc này, Ngọc Dung phì cười: “Phu nhân à, xác của người phụ nữ này lúc được Tam ca vớt lên, mặt mũi cùng nửa người đã bị đá ngầm dưới sông đâm nát. Áo quần thì rách rưới tả tơi. Đây rõ ràng là một người ăn mày, lấy đâu ra người nhà kia chứ? Người như họ, chỉ có quan phủ chịu thu xác chứ đâu có ai tới lãnh về? Cuối cùng một tấm chiếu ném vào bãi tha ma, để mặc chó hoang tới cắn xé. Chẳng thà thế chỗ phu nhân, chết rồi có thể được làm đám ma thật lớn, còn được hương khói thờ phụng. Xuống dưới đất cũng không đến mức bị người ta ăn hiếp.”

Thẩm Lan thở phào một hơi, thu lại lòng thương hại vô ích của mình, nhanh chóng hỏi: “Thi thể đó giờ đang ở đâu?”

Bành Tam tiến lên mấy bước, vạch lùm cỏ lau ra, chỉ về phía cái xác nằm đó. 

Thẩm Lan biết cỏ lau mọc thành lùm cực kỳ dày. Chờ đến khi Bùi Thận tìm được, nhất định cũng mất bốn, năm ngày. Lúc ấy xác đã sớm trương phình do ngâm nước, lại cộng thêm quá trình phân hủy, làm sao còn có thể phân ra ai là ai? Chỉ có thể dựa vào quần áo trâm vòng để nhận dạng thôi.

Nghĩ vậy, Thẩm Lan không nói hai lời, cởi ra áo quần trên người, thay đồ mà Ngọc Dung chuẩn bị sẵn trong tay nải.

Ba huynh đệ họ Bành đã sớm lùi ra xa, không dám nhìn sang.

Ngọc Dung vừa giúp Thẩm Lan thay quần áo, vừa cười: “Phu nhân năm đó tặng ta bộ xiêm y, lúc này đây ta cũng tặng lại cho phu nhân một bộ.”

Thẩm Lan nhớ lại chuyện cũ năm xưa cũng khẽ mỉm cười. Hôm qua gieo nhân thiện, hôm nay gặt quả lành.

Cởi ra áo sam lụa Sơn Tây trắng cùng váy thêu hoa dệt kim.

Tháo xuống vòng ngọc đá quý, gỡ ra trâm bạc thoa vàng.

Thay vào áo vải thô ráp, xỏ đôi giày vải cứng đơ. Vinh hoa phú quý rũ xuống như bụi đất, cung vàng điện ngọc can hệ gì ta?

Thẩm Lan nhìn trăng sáng treo cao trên bầu trời, gió thu phần phật, dòng sông cuồn cuộn sóng vỗ không ngừng, nàng bất giác lã chã rơi lệ.

Tiền Đường nghe sóng triều vang dội, mới tỉnh ra rằng ta là ta.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

Sóng triều và hội xem sóng trên sông Tiền Đường: xem tại đây (Tiếng Việt).

Câu cuối cùng của chương này trích từ bài thơ làm trước khi viên tịch của nhà sư Lỗ Trí Thâm trong Thủy Hử khi dừng chân tại chùa Lục Hòa – Hàng Châu, chi tiết tham khảo tại đây

Đọc thêm vể sự kiện loạn Cao Nghênh Tường cuối thời Minh tại đây (Tác giả có thay đổi tên nhân vật và thời gian một chút nhưng tổng thể sẽ y theo sự kiện lịch sử, mọi người có thể tham khảo để hiểu thêm bối cảnh câu chuyện.)

Tác giả có lời muốn nói:

Câu thơ cuối cùng lấy từ bài thơ trước khi viên tịch của Lỗ Trí Thâm ở chùa Lục Hòa trong 《 Thủy Hử Truyện 》.

Câu gốc đó là  “…… Chợt tỉnh tháo tung dây thừng vàng, tới đây giật phăng chiếc khóa ngọc. Tiền đường nghe sóng triều vang dội, mới tỉnh ra rằng ta là ta”.

Nói ra có thể sẽ thấy hơi lố lăng, nhưng khi ta đọc lại Thủy Hử Truyện đọc thấy bài thơ này, bỗng nhiên nghĩ tới hình ảnh nữ chính nhảy vào sông Tiền Đường, thoát khỏi vinh hoa phú quý, gông xiềng trói buộc, tìm thấy bản ngã của mình cho nên có linh cảm viết ra áng văn này.

Thế nên ta nhất định phải viết đến tình tiết này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 73: Triều Sinh


Tháng bảy năm ấy, Phần Hà, Vị Hà, Hoàng Hà vỡ đê, lưu dân các tỉnh lên đến hơn mười vạn.

Tháng tám, Vương Nghênh Tường khởi nghĩa tại huyện Trừng, Thiểm Tây, quy mô dần dần to lớn, cầm đầu hơn hai mươi vạn lưu dân quét qua ba vùng Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam. Triều đình điều Tổng đốc đặc khu ba biên của Thiểm Tây (1) là Lưu Côn xuống bình định nhưng không có kết quả.

Tháng mười một, hoàng đế được chừng một tuổi sốt cao ngất lịm, cả nước quốc tang trăm ngày.

Tháng mười hai, con trai cả của Ích Vương đăng cơ làm vua, đổi niên hiệu thành An Khang, định ban chết cho Uyển Quý phi, Lâm Thái bảo cùng Kinh Vương và đứa con trai thứ hai.

Tháng một năm Bính Tý, Kinh Vương hợp lực với Uyển Quý phi khởi binh mưu phản, giết chết con cả của Ích Vương, nâng Kinh Vương lên ngôi, đổi niên hiệu thành Kiến Võ.

Tháng ba cùng năm, Hoài Dương Vương bừng bừng dã tâm, bên trong hợp sức với Bạch Liên giáo, bên ngoài bắt tay với giặc cướp mở cửa Kinh đô, cưỡng ép Kinh Vương nhường ngôi. Hoài Dương Vương ngồi lên ngai vàng, đổi niên hiệu là Diên Hi.

Tháng tám, hơn mười một phiên vương các nơi như Huy Vương ở phủ Khai Phong, Hà Nam, Lộ Vương ở Nam Dương, Sùng Vương ở Nhữ Ninh tự ý chiếm lãnh thổ, một nửa đất Trung Châu rơi vào tay chư hầu.

Nông dân mất đất Võ Tam Khải đứng lên khởi nghĩa, dẫn hơn hai mươi vạn lưu dân tàn sát gần một vạn con cháu của các phiên vương.

Tháng ba năm Đinh Sửu, các vùng Chiết Giang, Quảng Châu, Phúc Kiến tiếp tục gặp nạn giặc Oa trầm trọng.

Tháng tám cùng năm, Tứ Xuyên sinh loạn An Xa.

Tháng tư năm Mậu Dần, thổ ty ở Vân Quý lại làm phản.

Tháng sáu, Thiệu hòa thượng khởi nghĩa ở Giang Tây.

Cùng tháng đó, những mảnh ruộng đắp bờ ở Hồ Quảng gặp vỡ đê, lũ lụt quá lớn, hải tặc nghiêm trọng.

Thiên hạ đại loạn.

Tháng tám mùa thu hoạch vụ Thu, Võ Tam Khải tự phong Đãng Thiên tướng quân. Tháng mười đánh vào kinh đô, chém chết Hoài Dương Vương, đổi tên nước thành Đại Thuận, niên hiệu Chiêu Ninh.

Thiên hạ chấn động.

Tháng một năm Kỷ Mão, sáu bộ của Nam Kinh đề cử Mân Vương cai quản vùng Vũ Cương ở Hồ Quảng lên kế vị, đổi niên hiệu thành Gia Hòa, điều Ngụy Quốc công Bùi Kiệm dẫn quân đánh phía bắc của Đại Thuận, thế tử Bùi Thận nhận lệnh bình định khu vực phía nam.

Lúc ấy cách thời điểm Thẩm Lan nhảy sông đã được hơn ba năm.

Lại thêm ba năm nữa trôi qua, mùng năm tháng ba, phủ Võ Xương tỉnh Hồ Quảng.

Vừa lúc gặp tiết thanh minh, mưa dầm tầm tã, phố xá ướt mưa, người đi đường than khóc.

Người có tiền thì đãi khách ở nhà, mời nhạc công tạp kỹ về diễn, rồi giao hương nến, vàng mã cho người hầu đi ra cúng mộ. Người không có tiền thì cũng ráng vét kẽ moi ra ít giấy tiền vàng mã đi thăm tổ tiên. Thế nên đường phố trong thành Võ Xương ùn ùn chật ních người đều đang đi về phía ngoại thành.

Chen chúc thế này, Bùi Thận có thể nào cưỡi ngựa vào thành cho được? Y chỉ khoác áo tơi đấu lạp, dẫn bảy tám thân vệ dắt ngựa đi về nha môn Tuần phủ.

Từ cổng Bình Hồ vào thành, một đường đi hướng phố Pha Tử, thấy không phải hương nến lượn lờ thì cũng là giấy tiền vàng mã đang bị đốt cháy, Bùi Thận bất giác nhớ tới Thấm Phương.

…… Sáu năm rồi. Nàng hẳn là đã đầu thai rồi chăng.

Gương mặt Bùi Thận bị hương khói lượn lờ che phủ, mơ hồ không thấy rõ ràng, chỉ nghe giọng y nhàn nhạt nói: “Gửi thư về, bảo Bùi Vinh cứ chiếu lệ cũ mà làm.”

Trần Tùng Mặc lập tức đáp lời, trong bụng không khỏi thở dài. Từ ngày Thấm Phương cô nương được chôn xuống phần mộ quê tổ ở Nam Kinh, Gia sợ phía Nam Kinh không để bụng, hàng năm đều sẽ phái hộ vệ mang tiền bạc về, bảo Bùi phủ mời cao tăng đến mở pháp hội Thủy Lục, lại thỉnh thêm đạo sĩ về làm nghi lễ độ vong.

Ngày trước Gia có bao giờ tin những thứ này? Bây giờ thì ngược lại, cậy nhờ cả đạo sĩ lẫn hòa thượng, chỉ mong Thấm Phương cô nương có thể đầu thai đến một kiếp khác tốt đẹp hơn.

Trần Tùng Mặc nghĩ đến đây lại không nén được thở dài, đang định tiếp tục đi tới, bỗng thấy Bùi Thận ngừng chân, xa xa nhìn về phía mái hiên bên đường.

Đó là một cửa hàng bán gạo. Gần đây mưa dầm, làm gì có mấy ai ra mua gạo? Chưởng quầy nhàn nhã ngồi sau quầy, nhìn một đám hơn mười đứa nhóc chen trong nhà trú mưa.

Cả đám đều chừng năm, sáu tuổi. Trong đó có hai đứa ăn mặc hơi giàu có hơn, một đứa búi tóc bằng dây thừng, mặc quần trắng, khoác cái áo đạo bào nhỏ màu xanh ngọc. Một đứa khác béo lùn chắc nịch, đầu đội mũ thêu kim tuyến, mặc một bộ quần áo may từ vải gấm Tống đỏ thẫm.

Chúng ngồi dưới đất, bên cạnh để cái khay chứa những nhánh cỏ dại được bện lại với nhau. Lấy cỏ đã bện mang ra kéo co, cỏ bên nào bị đứt thì bên ấy thua. Những đứa còn lại chia ra hai phe đứng đằng sau hò hét cổ vũ.

“Triều Sinh! Cố lên! Cố lên!”

“Quan Tăng đừng để thua!”

Có mấy đứa còn chơi trò lừa gạt, luôn miệng kêu “Thẩm Triều Sinh! Mẹ ngươi tới kìa! Mẹ ngươi tới kìa”

Thẩm Triều Sinh mảy may bất động, đám bạn chơi chung phía sau tức giận nói: “Đúng là không biết xấu hổ! Còn dám chơi trò lừa gạt!”. Những đứa khác học theo, ồn ào nói “Quan Tăng, cha ngươi tới”, “Thầy tới!”. 

Quan Tăng vừa nghe, khịt mũi nói: “Đừng hòng lừa ta!” Nói rồi, nó dùng hết sức lực từ hồi bú mẹ ra mà túm lấy nhánh cỏ.

Thẩm Triều Sinh nhìn thì không béo bằng Quan Tăng, nhưng cậu nhóc từ bé đã ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, lại thêm sức lực cũng lớn, không phải tạng người mũm mĩm lỏng lẻo như Quan Tăng, bấy giờ cũng ra sức túm nhánh cỏ.

Xoẹt một tiếng, nhánh cỏ của Quan Tăng đứt đoạn.

Quan Tăng ngơ ngác nhìn nhánh cỏ đứt đôi trên tay, trợn mắt bò dậy khỏi mặt đất, hét lên: “Lại lần nữa.”

Triều Sinh cũng cười hì hì bò dậy, nhe răng lè lưỡi, vênh váo kiêu căng nói: “Ngươi đi học đọc sách không lại ta, đá cầu cũng không bằng ta, đấu cỏ cũng thua nốt. Ta mới không thèm chơi lại.”

Cậu nhóc vừa dứt lời, bảy tám đồng bọn phía nhau nhao nhao lè lưỡi trêu chọc, vỗ tay hoan hô để bỉ bôi đối thủ: “Quan Tăng thua! Quan Tăng thua! Quan Tăng thua lại còn khóc mếu.”

Bảy tám đứa còn lại tính cả Quan Tăng tức đến trợn to mắt, mấy đứa nóng tính chực chờ nhào lên đánh nhau, còn có mấy đứa không phục, ồn ào nói: “Đấu cỏ thắng thì có gì ghê gớm chứ!”, “Coi chừng hải tặc ở hồ Động Đình bắt hết các ngươi đi!”

Bùi Thận chính bởi nghe được hai chữ hải tặc mà dừng chân. Y vừa bình định xong khu vực Tứ Xuyên, trên đường thắng trận trở về triều đình Nam Kinh, mang hai mươi vạn đại quân ngang qua Hồ Quảng lại nhận được ý chỉ lệnh cho y nhân đó dẹp luôn hải tặc ở hồ Động Đình.

Hiện giờ ngay cả lũ trẻ năm, sáu tuổi cũng biết tới hải tặc hồ Động Đình, có thể thấy được nạn trộm cướp ở Hồ Quảng nghiêm trọng ra sao.

Nhưng lũ trẻ cũng không phát giác được có người đang quan sát chúng. Quan Tăng nổi giận đùng đùng, nhớ tới nó đọc không thuộc bài, bị thầy phạt đã đành, bây giờ đấu cỏ cũng thua, thù mới hận cũ cộng lại, nó hung tợn nói: “Thẩm Triều Sinh, cái đồ con hoang khắc chết cha ruột! Bây giờ mẹ ngươi sắp thành thân, bà ta cũng không cần ngươi nữa.”

Bùi Thận nhíu mày, con cái nhà ai mà không biết dạy dỗ như vậy.

Chưởng quầy vốn ngồi trong cửa hàng mỉm cười nhìn lũ trẻ, nghe xong câu này, vẻ mặt cũng sầm xuống. Thẩm Triều Sinh là con trai của bà chủ, ông tất nhiên phải bảo vệ. Có điều cha của Quan Tăng lại là Tri phủ của Võ Xương, cũng không thể nào dễ dàng đắc tội được.

Chưởng quầy sắp sửa đứng lên giảng hòa, chợt thấy Triều Sinh mím chặt môi nhìn Quan Tăng chằm chặp, hệt như một con sói non hung ác. Quan Tăng bị trừng đến sợ hãi, miệng cọp gan thỏ nói: “Ngươi nhìn ta làm gì! Ta cũng không hề nói ẩu!”

“Ngươi nói bậy bạ gì đó!” Bành Ngọc chơi chung với Triều Sinh tức đỏ cả mặt.

Triều Sinh rõ ràng không vui, nhưng lại thu vẻ phẫn nộ mà mỉm cười: “Quan Tăng, ngươi thua thì mắng người khác là con hoang. Vậy lúc đi học ngươi đọc bài không thuộc, thầy có từng mắng ngươi là con hoang?”

Đám trẻ ha ha cười rộ lên. Quan Tăng tức giận mặt mũi đỏ bừng. Mấy đứa chơi chung với nó cũng đều là con cái nhà Tri huyện, Kinh lịch, lúc này cũng giơ nắm đấm sấn sổ bước tới trước.

“Đi cản lại.” Bùi Thận ra lệnh.

Trần Tùng Mặc sửng sốt, không biết Gia vì sao lại quan tâm đến lũ trẻ đánh nhau. Hắn quay sang lựa hai tên thân vệ vẻ mặt hung dữ, định bụng tới dọa lũ trẻ này một phen.

Hai tên thân vệ mới đi tới cửa, lại nghe Thẩm Triều Sinh hét lớn một tiếng: “Đồ nhát gan! Có dám cùng ta ra ngoài đánh nhau hay không!” Cửa hàng này là của mẹ, cũng không thể đánh hư hỏng thứ gì được.

“Có gì mà không dám!” Quan Tăng năm nay sáu tuổi, lớn hơn Thẩm Triều Sinh một tuổi, hùng dũng oai vệ, hiên ngang bước ra khỏi cửa chính cửa hàng gạo. Triều Sinh theo sát phía sau, đám nhóc còn lại vây quanh đi theo ra ngoài.

Thấy chúng sắp sửa đánh nhau, chưởng quầy lo lắng chạy vội ra hô “Đừng đánh đừng đánh”, lại lấy kẹo tổ chim, kẹo hổ phách chia cho lũ trẻ.

Triều Sinh lẫn Quan Tăng đều là con nhà giàu có, đâu thiếu thốn kẹo bánh gì? Chỉ có mấy đứa nhóc sau lưng Triều Sinh tha thiết nhìn kẹo hổ phách mấy lần. Ngặt nỗi Triều Sinh không lên tiếng, lũ trẻ cũng không bước tới lấy kẹo.

Quan Tăng giễu cợt vài câu “Nghèo kiết xác”, không thèm để ý đến chưởng quầy, tiếp tục dẫn người ra ngoài. Triều Sinh còn cười hì hì nói: “Đông thúc đừng mách lại với mẹ của cháu nhé.” Nói rồi, cậu nhóc cũng dẫn người chạy nhanh như chớp ra ngoài.

Chưởng quầy đau khổ nhăn nhó. Thằng nhóc Triều Sinh này tuổi nhỏ nhưng lắm trò, đã thông minh lại bướng bỉnh. Làm trái ý nó, nó nhất định sẽ tìm cách khác để chỉnh mình. Nhưng tóm lại, phu nhân mới là bà chủ của ông.

Suy nghĩ tới lui một hồi, chưởng quầy Trương Đông rốt cuộc phái tên tiểu nhị đi báo cho bà chủ rằng thiếu gia đánh nhau với con trai của Tri phủ Võ Xương.

Triều Sinh mới ra cửa, trông thấy dưới hiên có hai người cao to đang đứng, trên mặt còn có một vết sẹo lâu năm thật dài, nhìn qua rất là hung dữ. Nhưng cậu nhóc không hề tỏ vẻ sợ sệt, cười hì hì nói: “Hai vị thúc thúc có muốn vào tiệm nhà cháu mua gạo không?”

Hai tên thân vệ nhìn nhau, nhịn không được quay đầu lại nhìn Bùi Thận. Triều Sinh lanh lợi nhìn theo tầm mắt của bọn họ, thế là trông thấy Bùi Thận đang đứng cạnh vỉa hè.

Giựa bầy ngựa lông vàng đốm trắng, người dẫn đầu tuy chỉ mặc áo tơi đội đấu lạp, lại mơ hồ có thể thấy được bên trong là áo trực chuyết xanh ngọc bằng lụa thêu con lân, đai lưng bằng bạch ngọc, bên hông treo dải gấm bện bốn màu, nhìn qua đã biết là một vị công tử con nhà phú quý.

Triều Sinh thấy người này, đứng từ dưới hiên hô lớn: “Thúc thúc nếu muốn mua gạo, cứ tới cửa hàng gạo của Thẩm gia.” Nói rồi, cậu nhóc học vẹt theo lời mẹ: “Gạo Cố Thủy, gạo Quang Châu, gạo ở đâu cũng có.”

Nhanh mồm dẻo miệng thế này, từa tựa thấp thoáng mấy phần bản lãnh của Thấm Phương năm đó.

Nhớ tới Thấm Phương, Bùi Thận không cười nổi nữa, chỉ nhàn nhạt dặn dò một câu: “Đừng đánh nhau, nhanh nhanh về nhà đi.” Nói rồi, y dắt ngựa tiếp tục tiến về phía trước.

Ngoài trời đang mưa tí tách, Quan Tăng bắt đầu mất kiên nhẫn, trừng mắt nói: “Thẩm Triều Sinh, ngươi có đánh nữa hay không!”

Triều Sinh quay đầu lại mỉm cười, Quan Tăng giật thót, sắp sửa há mồm, chợt cảm giác sau lưng nặng trịch.

“Ai nha.” Nó bị ghì xuống đất hốt hoảng la lên, cố gắng giãy giụa hệt như một con rùa đen mập mạp.

Ra là Triều Sinh thừa dịp nói chuyện với Bùi Thận, phái Bành Ngọc vòng ra sau lưng đám Quan Tăng xuất chiêu “Núi Thái Sơn ập xuống”.

“Bành Ngọc, túm nó lại!” Thẩm Triều Sinh hét lớn một tiếng, giơ nắm đấm lao tới. Đám bạn chơi cùng đồng thanh hô “Đả đảo Quan Tăng”, “Xông lên” rồi cũng giơ chân vọt lên.

Thấy Quan Tăng bị đè dưới đất, lũ bạn chơi cùng quang quác kêu lên, cũng nhào tới trước.

Hai đám trẻ quần ẩu túi bụi.

Bùi Thận đi được vài bước, sau lưng nghe được tiếng “Ai nha ai nha”, kèm thêm tiếng khóc hu hu của con nít, bèn quay đầu nhìn lại.

Cảnh tượng đám trẻ cao còn chưa tới cẳng chân của y quần ẩu nhau thật sự có hơi buồn cười. Trần Tùng Mặc vừa tức cười vừa hạ giọng hỏi ý: “Gia, có cần đi cản lại không?”

Bùi Thận liếc nhìn cửa hàng gạo, nhàn nhạt nói: “Trong ấy sẽ tự phái tiểu nhị ra cản.” Trương Đông cuống quít phái hai tên tiểu nhị cao lớn chạy tới, định bụng tách lũ trẻ ra.

“Đừng đánh nữa! Đừng đánh nữa!” Trương Đông bối rối đến độ xoay mòng mòng.

Tình hình chiến đấu đang tới cao trào, khi mà Quan Tăng cùng chúng bạn lớn tuổi hơn còn phe Triều Sinh đã quen lăn lộn bên ngoài, thể lực rất tốt, khiến cho chiến cuộc tạm thời không phân cao thấp.

Chính vào lúc này, không biết từ đâu có hai đứa nhóc chừng năm, sáu tuổi đội mưa thình lình lao ra, tay cầm cái đòn gánh trong tiệm gạo, hét lớn một tiếng rồi tham gia vào trận đánh.

Thẩm Triều Sinh chen chúc trong đám trẻ chợt hô to một tiếng: “Viện binh tới! Đánh tiếp cho ta!”

Trong lúc hỗn loạn, cũng không biết Quan Tăng bị ai đấm hai cú, vừa đau vừa tức mà òa khóc. Nó vừa khóc, khí thế bên này liền xẹp xuống, lại nghe Thẩm Triều Sinh hô gì mà viện binh tới, nó khóc bù lu bù loa cả lên.

Chẳng mấy chốc, đám Thẩm Triều Sinh đã đánh cho đám Quan Tăng khóc lóc kêu gào.

Cả lũ đứa nào trông cũng nhếch nhác thê thảm. Một chiếc giày của Thẩm Triều Sinh không biết đã bị ai dẫm rớt, mặt cũng ăn phải một đấm. Nhưng nó không những không sợ, còn ngẩng đầu ưỡn ngực đi vào tiệm gạo cầm kẹo hổ phách trên quầy ra.

Cậu nhóc đứng trên bậc thềm, bắt chước giọng điệu của mẹ, nói: “Trận này ai ai cũng có công lao, ai cũng sẽ được thưởng cả.” Nói rồi, nó cầm từng viên kẹo chia xuống cho đám đàn em dưới trướng mình.

Chúng bạn chơi cùng vui mừng khôn xiết ăn kẹo. Có vài đứa nhà nghèo, quanh năm suốt tháng chẳng mấy khi được ăn kẹo, hết sức thèm thuồng. Có vài đứa vì thắng mà vênh váo cầm kẹo quơ quơ trước mặt đám Quan Tăng, rồi mới bỏ tọt vào miệng.

Thấy mọi người ăn kẹo xong rồi, Triều Sinh lại nói: “Bành Ngọc trước tiên chặn được Quan Tăng, ghi công đầu, được chia năm viên kẹo, tất cả có phục hay không?”

“Phục!” Bảy, tám đứa còn lại đồng thanh đáp.

Bành Ngọc mỹ mãn nhận lấy năm viên kẹo, nghe Triều Sinh lại nói: “Tiểu Thất và Xuyên Tử khiêng đòn gánh tới giúp chúng ta, cũng ghi công, có phục hay không?”

Mọi người lại lớn tiếng đồng ý.

Hành vi của Triều Sinh khiến Bùi Thận bật cười, không khỏi tán dương: “Quả đúng là đứa trẻ tinh nghịch, mồm mép lanh lợi.” Không chỉ biết bắt giặc phải bắt vua trước, còn biết phái người chiếm cơ hội trước, thậm chí còn biết để lại một nhánh quân yểm trợ làm vốn riêng. Thế thì cũng thôi, đánh trận xong lại còn biết luận công ban thưởng.

Đúng là một nhân tài đáng bồi dưỡng.

Y vốn định hỏi thăm đứa trẻ này con cái nhà ai, nhưng nghĩ lại thì đứa trẻ này cũng mới năm, sáu tuổi, sao biết tương lai ngày sau thế nào? Thế là y cũng thôi ý định này.

Thấy thắng bại đã rõ, số người trên đường cũng thưa dần, Bùi Thận ôn tồn nói: “Lên đường thôi.” Nói rồi, y dẫn theo chúng thân vệ giục ngựa rời đi. 

Bùi Thận cảm thấy buồn cười, chưởng quầy Trương Đông lại chỉ cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Thiếu gia đánh cho con trai duy nhất của Tri phủ Võ Xương bật khóc!

“Thiếu gia của ta ơi! Nhanh thả tay ra!” Trương Đông cuống quít định bế Triều Sinh lên, khóe mắt chợt liếc thấy đầu đường có một chiếc xe du bích từ từ đi tới.

Trương Đông thở phào, nhắc nhở một tiếng: “Thiếu gia nhìn kìa, chắc hẳn phu nhân đã đến rồi.”

Thẩm Triều Sinh xa xa nhìn lại, phút chốc mặt ủ mày chau, ngay cả kẹo hổ phách đang ngậm trong miệng cũng trở nên nhạt thếch.

Mà Bùi Thận lúc này giục ngựa lao nhanh, vội vàng vụt qua, trông thấy chiếc xe du bích chậm rãi tiến lại gần, không khỏi thấy lòng chợt hoảng hốt.

Y năm đó cười đùa với Thấm Phương, nói gì mà “Lang kỵ thanh thông mã, thiếp thừa du bích xa”…… Nghĩ đến đây, Bùi Thận chỉ thấy lòng chua xót, đầy bụng thẫn thờ.

Y quay đầu ngựa, không tiếp tục nhìn chiếc xe ấy nữa, chỉ một mực lao thật nhanh về phía trước.

Thẩm Lan ngồi trong xe ngựa tựa lên chiếc gối mềm, nhắm mắt nghỉ ngơi. Nghe được tiếng vó ngựa lộc cộc bên ngoài, nàng cũng không để ý mấy. 

Lát sau, xe ngựa dừng lại trước cửa tiệm gạo.

Triều Sinh không còn chút hy vọng nào. Cậu nhóc rớt mất một chiếc giày, đôi vớ trắng lúc này ướt đẫm, mặt bị ăn một đấm, nhìn hết sức tội nghiệp. Nhưng cậu nhóc hình như vẫn thấy chưa đủ, trộm liếc xe ngựa, đằng hắng nói: “Các ngươi đọc sách không giỏi bằng ta liền tới đánh ta. Về sau còn dám nữa hay không?”

Quan Tăng sợ bị đánh nữa, lắc đầu.

“Còn dám dẫn ta trốn học nữa không?”

Cả lũ sửng sốt, không phải ngươi trốn học trước sao?

“Hỏi các ngươi đó? Còn dám bắt ta trốn học nữa hay không hả!”

Đám đánh thua nào dám phản bác, luôn miệng đáp” Không dám, không dám.”

Triều Sinh còn định hỏi lại, nhưng nhận ra xe ngựa mảy may bất động, bèn chột dạ vẫy tay: “Ai về nhà nấy đi thôi.”

Hai bọc nước mắt của Quan Tăng lập tức chảy tràn. Bảy tám đứa trẻ thút tha thút thít, khập khiễng đi xa. Đám bạn của Triều Sinh thấy thế, cũng dẫn nhau giải tán về nhà.

Thẩm Lan mở mắt, thấy màn xe bị vén lên, Triều Sinh hì hục tự bò lên.

Nó lén lút liếc nhìn Thẩm Lan một cái, thấy vẻ mặt nàng vẫn như thường, không phân rõ là có tức giận hay không. Nó bèn nép vào một góc xe ngựa, để lộ chiếc vớ trắng ướt đẫm nước mưa cùng với khuôn mặt vừa lãnh một cú đấm nhìn nàng.

Thấy thế, Thẩm Lan khịt mũi một tiếng, thong thả hỏi: “Con khỉ quậy ở đâu ra thế này?”

Triều Sinh tội nghiệp rủ rỉ: “Không phải khỉ quậy, là Triều Sinh đây mà.”

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

*Đọc thêm về sự kiện loạn Cao Nghênh Tường cuối thời Minh tại đây (Tác giả có thay đổi tên nhân vật và thời gian một chút nhưng tổng thể sẽ y theo sự kiện lịch sử, mọi người có thể tham khảo để hiểu thêm bối cảnh câu chuyện.)

**Tết thanh minh là một dịp được tổ chức nhằm tiết thanh minh, vào ngày này các gia đình sẽ ra mộ người thân tổ tiên để sửa sang và cúng mộ còn gọi là đi tảo mộ, ngoài ra thời gian này gần cuối mùa xuân nên còn có hội đạp thanh du xuân. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có đề cập đến: “Thanh Minh trong tiết tháng ba / Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh”. Đọc thêm tại đây

1 đặc khu ba biên của của Thiểm Tây thời nhà Minh gồm Duyên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 74: Đường lui


Da thịt trẻ nhỏ non mềm, gương mặt sau khi lãnh một nắm đấm không khỏi bắt đầu sưng nề. Lại thêm bên ngoài mưa phùn mênh mông, áo quần Triều Sinh thấm mưa, vớ trắng ướt đẫm hệt như chú gà con lạc bầy, ủ rũ héo hon nom thật là đáng thương.

Thẩm Lan biết tỏng tất cả chỉ là vờ vịt làm bộ, nhưng thấy dáng vẻ nó vẻ thê thảm tội nghiệp vô cùng, nàng cuối cùng vẫn mềm lòng.

“Lại đây.” Thẩm Lan vẫy tay.

“Mẹ.” Triều Sinh lộc cộc chạy tới, cười hì hì nhào vào lòng Thẩm Lan.

Thẩm Lan ôm cậu nhóc, đưa tay sờ áo lụa bên trong của nó thấy vẫn còn khô nên chỉ cởi áo đạo bào khoác ngoài cùng tất vớ ra.

Thấy thế, nha hoàn Thu Diên đứng cạnh đưa tay sang: “Phu nhân để em làm cho.”

“Đệ không muốn Thu Diên tỷ tỷ, đệ muốn mẹ thôi.” Triều Sinh nói rồi cọ khuôn mặt nhỏ múp míp của mình lên mặt Thẩm Lan, bi ba bi bô gọi tiếng “Mẹ”.

Thẩm Lan biết đây là làm sai, cho nên mới làm nũng với nàng. Nàng chớp mắt, nhận lấy áo choàng nhung gấm thêu hoa quấn kín Triều Sinh lại, sau đó hung ác chọt vào vết sưng trên mặt cậu nhóc.

“Xi ——” Triều Sinh đau đến nhe răng trợn mắt.

Thẩm Lan lúc này mới khịt mũi: “Giờ đã biết đau rồi đấy phỏng?”

Thấy ngay cả áo quần xốc xếch và làm nũng đều không có tác dụng, Triều Sinh bấy giờ thật sự héo rũ xuống, ngoan ngoãn đứng trước mặt Thẩm Lan.

Thấy nó cuối cùng chịu đàng hoàng, Thẩm Lan mới lấy ít thuốc bôi từ lọ men gốm mai đỏ ra, nhẹ nhàng thoa lên mặt Triều Sinh. 

“Mẹ thật là tốt.” Triều Sinh ngọt ngào nói: “Triều Sinh thích mẹ nhất trên đời.”

Thẩm Lan lại khịt mũi: “Lát về đến nhà ta tính với con sau.” Nói rồi, nàng lại dặn: “Ngồi ngay ngắn đợi, ta có việc vào nói với Đông thúc của con.”

Nàng nhét cho Triều Sinh hai miếng rim gừng: “Thu Diên, trông chừng nó ăn hết.”

Triều Sinh nhai miếng rim gừng, khoang miệng bỗng chốc nóng bừng bừng, cả người cũng theo đó ấm nóng lên. Cậu nhóc định nhổ ra, nhưng hai mắt Thu Diên nhìn chằm chằm không rời, Triều Sinh đau khổ nhăn nhó, cố mà trẹo trọ nhai xong hai miếng gừng.

Lúc này Thẩm Lan đã xuống xe ngựa, theo Trương Đông vào viện sau của cửa hàng gạo.

Viện sau của cửa hàng gạo chất đầy bốn chồng bao gạo thật cao, nào lúa mạch, gạo tẻ, thậm chí còn có một ít ngũ cốc các loại như hạt bo bo, hạt đậu nành.

Thẩm Lan vào đến nơi, cũng không kiểm tra gì, chỉ tìm một góc khuất, thì thầm: “Gạo thóc trong hồ Động Đình tạm thời đừng lấy ra.”

Trương Đông sửng sốt, nhíu mày nói: “Phu nhân, thời gian trước chúng ta cất trữ lương thực là bởi vì bốn phía ầm ĩ loạn lạc, Hoàng đế cũng đổi người liên tục mấy lần liền. Bây giờ Ngụy Quốc công vất vả bao lâu mới dẹp yên phía bắc, lẽ nào thiên hạ vẫn tiếp tục loạn sao?”

Thẩm Lan nhàn nhạt đáp: “Cũng chỉ để phòng hờ bất trắc mà thôi.”

Bốn năm trước Hồ Quảng bị trận lũ lụt, Thiệu hòa thượng dẫn binh mã đánh từ Giang Tây áp sát Hồ Quảng. Nếu không phải phu nhân sáng suốt, sớm đã cất giấu lương thực trên hòn đảo nhỏ ở hồ Động Đình, lại dẫn cả đám bọn họ chèo thuyền nhỏ trốn vào trong hồ, e rằng tất cả đều đã bị quân phản loạn giết sạch.

Nghĩ đến đây, Trương Đông nghiêm túc nói: “Phu nhân xưa nay biết nhìn xa trông rộng, ta nghe theo phu nhân dặn dò là được.” Nói rồi, ông hạ giọng, trù trừ: “Phu nhân, ngoài kia người ta đồn rằng Ngụy Quốc công sắp lên làm hoàng đế.”

Thẩm Lan nghiêm nghị nét mặt. Cha của Bùi Thận, Ngụy Quốc công – Bùi Kiệm. Trấn thủ ở Vân Quý lâu năm, chiến đấu với thổ ty làm loạn, ba năm trước từ Vân Quý bị điều đi chinh chiến phía bắc.

Bấy giờ, chiến cuộc phía bắc đã xong, Kinh đô cũng chớm an ổn lại. 

“Lời đồn ở đâu truyền đến?” Thẩm Lan nhíu mày hỏi.

Trương Đông lắc đầu: “Lũ trẻ trong nhà hát vè lại cho ta nghe. Khắp nơi đều đồn như vậy, ngay cả những người vùng thôn quê hẻo lánh cũng phải tấm tắc nhắc tới mấy câu.”

Thẩm Lan chỉ thấy rùng mình. Hoàng đế vừa lên ngôi của triều đình nhỏ Nam Kinh là Mân Vương xuất thân từ Võ Cương, Hồ Quảng. Nơi này vốn chính là nơi thế lực hắn mạnh mẽ nhất. Lúc này Bùi Kiệm vừa mới đánh trận lấy lại Kinh đô xong, Hồ Quảng liền có lời đồn như thế, cũng không biết là ai tung tin ra? Lẽ nào triều đình Nam Kinh lại nổi lên cơn sóng gió gì? (Đọc thêm bối cảnh ở chú thích)

Lúc lâu sau, Thẩm Lan thở một hơi thật dài: “Huynh lại chôn thêm ít gạo thóc ở hồ Động Đình đi. Dọc đường qua châu, phủ các nơi cũng nhớ lưu ý tìm những hộ gần sông để mua thêm lương thực.”

Nghe vậy, Trương Đông càng thêm chần chừ do dự, rốt cuộc nói: “Phu nhân, ngài nghĩ lời đồn này rốt cuộc là thật hay giả?”

Thẩm Lan nhìn ông, cười hỏi: “Thật thì sao mà giả thì thế nào? Chẳng lẽ huynh định hiến gạo thóc trước để lấy thảo sao?”

Trương Đông cười khổ một tiếng: “Phu nhân nói đùa. Chẳng qua chỉ mong có thể sinh sống an ổn thôi.”

Thẩm Lan lại thở dài, thà làm chó thời bình còn hơn làm người thời loạn.

“Huynh yên tâm đã. Cho dù Ngụy Quốc công thật sự muốn tạo phản, cũng không đến nỗi làm ra những chuyện tàn sát dân lành.” Bùi Kiệm thế nào nàng không biết, nhưng kỷ luật của quân lính dưới trướng Bùi Thận cực kỳ nghiêm ngặt.

Trương Đông gật đầu:” Cũng đúng. Nghe nói Ngụy Quốc công Thế tử tiêu diệt giặc Oa ở Chiết Giang, Phúc Kiến, lại đi bình định Tứ Xuyên, cũng chưa hề động tới dân lành mảy may.” Nói rồi, ông lại hung tợn nói: “Nếu thật sự đổi người khác làm hoàng đế cũng tốt. Cứ việc giết sạch đám con cháu hoàng tộc suốt ngày ức hiếp người khác kia cho xong.”

Thẩm Lan lặng im không đáp. Lúc trước nàng bị vây trong nhà, không thông tin tức, không rõ vì sao thiên hạ lại loạn đến thế này? Bây giờ bôn ba bên ngoài sáu năm, cuối cùng cũng phần nào lý giải.

Chưa bàn đến những vấn đề khác, chỉ mới nói về vấn đề con cái nối dõi của phiên vương các nơi đông đúc hùng hậu, đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy bại của Đại Yến rồi.

Chỉ tính Hà Nam đã có gần vạn con cháu của phiên vương. Đất đai nửa tỉnh đều nằm trong tay các phiên vương lớn. Nông dân bị cướp đất ở Hà Nam có thể không tạo phản sao?

Trương Đông chính là bị chiếm mất ruộng vườn mà chạy nạn tới Hồ Quảng, sau đó được Thẩm Lan thu nạp. Cho nên nhắc tới đám phiên vương này, Trương Đông chẳng có lấy chút hảo cảm nào, dữ dằn mắng mỏ hai câu.

“Trương ca, những chuyện này vốn không can hệ gì đến chúng ta. Huynh cứ lo sắp xếp ổn thỏa chuyện lương thực ở hồ Động Đình trước đã.” Thẩm Lan thở dài: “Nói cho cùng, giữ được tánh mạng mới là cái quan trọng nhất.”

Trương Đông cũng thở dài một tiếng, Thẩm Lan lại dặn thêm: “Ngày mai ta sẽ bảo Bành Hoằng Nghiệp tới tìm huynh.” Bành Tam năm đó theo Thẩm Lan tới Hồ Quảng, đổi tên thành Hoằng Nghiệp. Từ đây sống chung với lưu dân khác từ Nam Trực Lệ là Cung Trụ Tử, hai người chia nhau quản lý hơn trăm chiếc thuyền đánh cá trong tay Thẩm Lan.

Trương Đông lên tiếng đáp lời, rồi lại thì thầm: “Phu nhân, mấy ngày trước bên phủ Đức An bắt được ba tên “rồng trắng”, trong đó có một cái là nội quỷ trà trộn.” 

Thẩm Lan sầm mặt xuống, lạnh lùng nói: “Cứ làm theo quy tắc cũ, xử trí ngay trước mặt chúng huynh đệ ở phủ Đức An.”

Nàng không chỉ sở hữu cửa hàng gạo ở Võ Xương, mà toàn bộ mười lăm phủ thuộc Hồ Quảng, một nửa đều có cửa hàng gạo thóc của nàng.

Thẩm Lan năm đó có thể xây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, toàn bộ dựa vào chữ nhân chữ nghĩa, thưởng phạt rạch ròi. Tiệm gạo tiệm thóc của nàng mỗi khi đến cuối năm kiểm kê xong rồi, sẽ chia phần lãi xuống cho các cấp nhân sự coi như phần thưởng.

Thời cuộc loạn lạc, gạo đắt như vàng. Trộm lương thực trong tiệm cũng như trộm tánh mạng của tất cả mọi người. Những tên trộm gạo này dù cho Thẩm Lan bỏ qua không xử lý, e là cũng sẽ bị bọn tiểu nhị ở phủ Đức An sống sờ sờ đánh chết.

Nói xong việc xử lý bọn trộm gạo, lại dặn dò thêm vài việc, Thẩm Lan mới quay trở lại xe du bích.

Thẩm trạch chỉ là gian nhà hai sân, đằng trước bàn công việc, đằng sau dùng để ở. Không phải Thẩm Lan mua không nổi nhà có sân vườn, rường cột chạm trổ. Chỉ là nàng cảm thấy tiền tài chớ để lộ ra. Thời buổi này, việc gì phải trang hoàng quá lộng lẫy? Cảm thấy mình là con tép riu không đủ gây chú ý, hay là cho rằng quân phản loạn quá ít?

Về đến Thẩm trạch, nha hoàn Xuân Quyên nhanh nhẹn bưng tới ba chén nước gừng. Nước gừng màu nâu nằm gọn trong chén sứ trắng, khói nóng tỏa ra nghi ngút.

Triều Sinh nghiêm túc nói: “Mẹ, con đi học bài đây.” Rồi nhanh như chớp chạy biến ra ngoài cửa.

“Quay lại đây.”

Triều Sinh cứng đờ, quay lại cười giả lả: “Dạ mẹ?”

Thẩm Lan từ tốn nói: “Con mắc mưa, uống hết chén nước gừng này đã.”

Triều Sinh chạy không kịp, nó ngay cả miếng gừng rim cũng không muốn ăn, càng đừng nói tới nước gừng vừa cay vừa nóng đó. Cậu nhóc nhào vào lòng nàng, dẹo trái dẹo phải nũng nịu: “Mẹ ơi, con yêu mẹ nhất!”

Thẩm Lan mảy may bất động, không hề biến sắc nói: “Mẹ cũng vậy.” Nói đoạn, nàng bưng chén nước gừng tới trước mặt nó.

Triều Sinh hết chỗ trốn, khổ sở bóp mũi bưng chén uống cạn. Thẩm Lan lúc này mới hài lòng: “Thu Diên, em cũng uống một chén đi. Uống xong rồi thì theo Xuân Quyên đi nghỉ ngơi một lát.”

Mưa phùn tiết thanh minh kéo dài không ngớt, ý lạnh vấn vương quanh quẩn trong không khí. Trong nhà đốt lên vài chậu than, lại trải thảm len thật dày để làm ấm.

Thẩm Lan ôm Triều Sinh, nhẹ giọng hỏi: “Hôm nay vì sao trốn học?”

Triều Sinh chớp mắt, ngọt ngào đáp: “Mẹ ơi, con sai rồi. Sau này con không dám nữa.”

Thẩm Lan biết nó đang cố lảng tránh vấn đề, nàng khịt mũi: “Con không chỉ trốn học, lại đánh nhau với bạn cùng lớp, lý do vì sao?” 

Triều Sinh ngẩng đầu ưỡn ngực, hợp tình hợp lý nói: “Ban nãy mẹ ngồi trong xe không nghe rõ ư? Là do Quan Tăng đọc bài không bằng con, đấu cỏ cũng thua dưới tay con. Nó đánh con trước, nên con mới đánh trả thôi.”

Hiểu con không ai bằng mẹ. Thẩm Lan không hề tin lấy một chữ.

Nàng “À” một tiếng thật dài, vờ như mình thật sự tin tưởng, bỗng đột nhiên hỏi: “Con vỡ lòng từ năm ba tuổi, tới nay đã được hai năm, chưa từng trốn học một ngày. Vậy hôm nay tại sao lại muốn trốn học?”

“Quan Tăng hẹn con ra đấu cỏ mà!”

Hàng mi cậu nhóc khẽ run, cố giấu đi mấy phần chột dạ, Thẩm Lan khẽ cười: “Đấu cỏ thôi mà, sao phải cố tình vùng thoát khỏi thư đồng của con?”

Triều Sinh cứng đờ, hai cánh tay ngắn cũn ôm cổ nàng, vùi đầu vào hõm cổ Thẩm Lan lẳng lặng không đáp.

Thẩm Lan nhẹ nhàng vỗ về sống lưng cậu nhóc, chậm rãi chờ nó mở miệng. Chẳng mấy chốc, nàng cảm thấy chỗ hõm cổ hơi nóng lên.

Triều Sinh khóc.

Lòng Thẩm Lan hơi chát, giọng nàng dịu dàng: “Hôm nay là thanh minh, có phải con trốn học để đi bái cha con?”

Thật lâu sau, Triều Sinh rầu rĩ dạ một tiếng.

Thẩm Lan không biết nên nói thế nào cho phải. Năm đó nàng sinh hạ Triều Sinh, giả thành quả phụ tới được Hồ Quảng, trên tay ôm theo một cái lọ sứ rỗng, bịa rằng trên đường chạy nạn trượng phu sinh bệnh mà chết, nàng không chịu bỏ lại trượng phu dọc đường, nhất định phải tìm nơi an cư xuống rồi an táng hắn cho đàng hoàng phải đạo, để hắn có thể hưởng được hương khói con cháu thờ phụng.

Dựa vào cái danh trung trinh có tình có nghĩa này, nàng cùng gia đình Ngọc Dung, Bành Tam mới có thể khiến lưu dân tin ở nàng, đồng ý làm việc dưới trướng nàng, sau đó chậm rãi mọc rễ đâm chồi tại Hồ Quảng.

Nàng vì thế còn đặt mua một mảnh đất mộ để an táng chiếc vại sứ kia, hàng năm dắt Triều Sinh tới cúng mộ.

“Hôm trước chẳng phải mẹ đã dẫn con đi cúng mộ rồi sao? Hôm nay nghĩ gì mà lại muốn đến thăm cha vậy?” Thẩm Lan nhẹ giọng nói: “Có phải ở trường có chuyện gì không vui? Con không muốn kể với mẹ, cho nên đi kể với cha?”

Triều Sinh vẫn vùi đầu nơi hõm cổ Thẩm Lan không chịu ngẩng lên. Hồi lâu sau, cậu nhóc rầu rĩ nức nở: “Mẹ ơi, có phải mẹ sắp thành thân rồi chăng?”

Thẩm Lan sửng sốt, nàng rốt cuộc hiểu ra hết thảy.

Có lẽ là lúc đi học Quan Tăng nói với Triều Sinh mẹ ngươi sắp thành thân gì đó, Triều Sinh tức giận trốn học, muốn đi ngoại thành thăm cha, đồng thời mượn danh nghĩa đấu cỏ để đánh Quan Tăng một trận cho hả giận.

Nghĩ đến đây, Thẩm Lan thở dài một tiếng, trịnh trọng nói: “Triều Sinh, mẹ bảo đảm với con, nhất định sẽ không bỏ mặc Triều Sinh.”

Triều Sinh nghe vậy, tựa lên vai nàng khóc nức nở không ngừng.

Thẩm Lan áy náy vô cùng. Nàng lừa Triều Sinh tế bái bình sứ rỗng năm năm trời, nàng sao lại không thấy giày vò kia chứ. 

Lòng Thẩm Lan hỗn tạp đủ loại cảm xúc, nhẹ nhàng vỗ về tấm lưng của Triều Sinh. Triều Sinh khóc một lúc mới ngừng, lầu bầu nói: “Mẹ, Quan Tăng nói mẹ phải gả cho Tam thúc của nó, thật sao?”

Thẩm Lan lạnh mặt xuống. Tam thúc của Quan Tăng cũng tức là tam đệ của Tri phủ phủ Võ Xương. Người này không mê tiền, cũng không háo sắc, nhưng lại ham mê luồn cúi, mấy ngày trước vừa mới dâng một đám cô nương cho Tuần phủ Hồ Quảng xong.

“Tất nhiên là không rồi.” Thẩm Lan vuốt tóc Triều Sinh, cười khanh khách: “Mẹ hứa với Triều Sinh nếu muốn gả cho ai, nhất định phải kể cho Triều Sinh đầu tiên.”

Triều Sinh lúc này mới lau nước mắt, nín khóc mỉm cười, nhưng mãi mà không thể ngưng khụt khịt. Cậu nhóc xấu hổ nói: “Mẹ ơi, mẹ có thể nào đừng kể với ai chuyện… con khóc không?”

Thẩm Lan không kiềm được bật cười, nhưng nàng tôn trọng lòng tự trọng của nó, thế là trịnh trọng đáp: “Mẹ hứa, chắc chắn không kể với ai cả.”

Triều Sinh lưu luyến cọ lên khuôn mặt Thẩm Lan: “Mẹ ơi, vậy mẹ lại kể thêm về cha cho Triều Sinh nghe được không?”

Thẩm Lan sợ Triều Sinh bởi vì không có cha mà sinh lòng tự ti, cho nên từ bé đã luôn kể cho nó rằng cha nó trên đường chạy trốn đã bảo vệ mẹ con nàng ra sao.

Nàng hy vọng ở trong lòng Triều Sinh, cha sẽ là một hình tượng cao lớn sừng sững, đồng thời cũng hết mực thương yêu cậu nhóc.

Nghĩ tới đây, lòng Thẩm Lan phức tạp khôn kể. Chẳng rõ nhiều năm sau Triều Sinh biết được sự thật rồi, liệu có hận nàng hay không.

“Mẹ ơi.” Thấy Thẩm Lan vẫn chưa hé răng, Triều Sinh mở to đôi mắt sáng lấp lánh giục giã.

Thẩm Lan cười cười, nhẹ vỗ về tóc mai cậu nhóc, chậm rãi kể: “Cha của Triều Sinh là một vị anh hùng. Năm ấy chúng ta gặp giặc Oa, cho nên chạy nạn ra khỏi Hàng Châu ……”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 75: Thanh thản


Sớm hôm sau, gió xuân tháng ba vi vu thổi, trời vẫn còn se se lạnh. Nhà bếp bưng lên hai chén cháo khiếm thực hầm củ cải, một đĩa bánh cuộn gà cùng với hai ly sữa bò nóng hầm hập.

Sữa bò kia cho vào nồi đun sôi cùng ít rượu ngon và hạt sương lấy từ những khóm hoa, cho ra một loại hương vị ngòn ngọt. Triều Sinh thích uống thứ này, bê ly lên uống ừng ực, lại ăn thêm hai cái bánh cuộn gà rồi cười hì hì nói: “Thưa mẹ, con đi học.”

Thẩm Lan thả muỗng sứ xuống, lắc đầu: “Hôm nay không phải đi học, chúng ta cùng đi phủ Đức An.”

Triều Sinh sửng sốt, ngồi trên ghế hoa hồng, ngẩng đầu tò mò hỏi: “Mẹ ơi, có phải bên phủ Đức An xảy ra chuyện gì hay không?” Cậu nhóc nhận thức sớm, lờ mờ nhớ được hồi hai tuổi mẹ ôm mình chạy vào đảo nhỏ ở hồ Động Đình để trốn binh hỏa.

“Không có gì.” Thẩm Lan vuốt ve búi tóc của con trai, cười nói: “Chỉ là lâu nay mẹ không dành thời gian cho Triều Sinh nhiều, cho nên nhân dịp này đưa con đi dạo, cũng tiện qua đó kiểm kê sổ sách, kho hàng.”

Bùi Thận mới bình định Tứ Xuyên quay về, lúc này đã tới Hồ Quảng. Đại quân thì chia ra đóng quân ở bảy, tám vệ sở như Võ Xương vệ, Giang Hạ vệ, Hàm Ninh vệ vân vân.

Tin tức lớn thế này, nhất định cần phải phân bổ gạo thóc. Tiểu nhị dưới trướng Thẩm Lan hôm qua đã báo tin lên.

Nàng lần này dẫn theo Triều Sinh chủ yếu là để tránh né Bùi Thận mà thôi.

“Vậy con đi nhắn với đám Bành Ngọc, Trụ Tử đã.” Triều Sinh nhảy xuống khỏi ghế hoa hồng, hân hoan chạy ra chào tạm biệt các bạn. 

Thấy nó dẫn thư đồng ra ngoài, Thẩm Lan đang chuẩn bị tiếp tục ăn cơm, chợt nghe Thu Diên tới báo bên ngoài có người hầu do phu nhân của Tri phủ Võ Xương phái tới.

Thu Diên chần chừ: “Phu nhân, ma ma kia tự xưng họ Dư, dẫn theo mấy nha hoàn tới, sắc mặt không đẹp đẽ gì, còn nổi giận đùng đùng.”

Thẩm Lan gật đầu, hẳn là hôm qua Triều Sinh đánh nhau với Quan Tăng, mẹ của Quan Tăng nổi giận nên hôm nay phái người hầu tới hỏi tội.

“Để bà ta vào đi.” Thẩm Lan rửa tay, lột trái quýt Phàn Giang từ tốn ngồi ăn tráng miệng.

Nàng ăn quýt xong, Thu Diên dẫn một ma ma chừng bốn mươi tuổi, gương mặt đầy đặn nổi giận đùng đùng vào nhà.

Dư ma ma mặc áo ngắn tay màu vàng lúa chín thêu hoa văn như ý, chải búi tóc cao gọn gàng, bên trên cắm vài cây trâm vàng óng ánh.

Thẩm Lan cười khanh khách chào hỏi: “Ma ma tới tìm ta phải chăng có chuyện quan trọng?”

Dư ma ma lạnh mặt, gằn từng tiếng một nói: “Thẩm Triều Sinh này còn nhỏ mà tâm tính độc ác, hung bạo quá mức, cả gan đánh Quan Tăng thành như vậy. Phu nhân khiến ta tới hỏi xem Thẩm nương tử bình thường dạy con kiểu gì? Sao mà dạy ra được cái loại hung hăng như tội phạm tử hình như thế?”

Sắc mặt Thẩm Lan cũng sa sầm xuống. Tuy sớm đoán được Dư ma ma là tới hỏi tội, nhưng nàng không thản nhiên nổi. Rõ ràng do Quan Tăng gây sự trước, mà vị Dư ma ma này nói chuyện quá mức khó nghe.

Thần sắc nàng nhàn nhạt: “Chẳng qua là trẻ con đùa giỡn với nhau thôi.”

Dư ma ma vẫn lạnh mặt, gằn giọng: “Đúng là con cái nhà buôn bán, không biết nề nếp phép tắc là gì.”

Thẩm Lan không biến sắc: “Khiến ma ma phải cười chê rồi.” Nói xong, nàng lại nhàn nhạt tiếp tục: “Ma ma mắng một đứa nhỏ năm tuổi là đồ độc ác, hung hăng như tội phạm tử hình, quả thực là có gia giáo thay.”

Dư ma ma sửng sốt, có lẽ không ngờ một người phụ nữ gia đình thương nhân như nàng lại cả gan đến vậy. Đến khi hoàn hồn lại, bà ta cả giận nói: “Cô ra vẻ ta đây như vậy, lẽ nào không sợ ta về bẩm lại với Tri phủ phu nhân?”

Thẩm Lan cười cười: “Ma ma nói đùa, ngày đó Thiệu hòa thượng áp sát Hồ Quảng, trong tay Vương Tri phủ không còn lấy một tên lính, cuối cùng vẫn phải đến gần thuyền của ta mới giữ được một mạng.” Nàng mỉm cười: “Ma ma bây giờ trách mắng con trai của người có ơn với Vương Tri phủ, dù cho Tri phủ phu nhân có biết, người phải bị trách tội cũng sẽ là bà.”

Dư ma ma biết nàng này đang uy hiếp mình, nếu để Vương Tri phủ vướng phải cái tiếng vong ơn bội nghĩa, chủ chắc chắn sẽ lập tức bán bà ta ra khỏi nhà.

Khuôn mặt Dư ma ma cứng đờ, nhẫn nhịn cúi người nói: “Là lão nô sáng nay uống nhầm nước đái ngựa, bị mỡ heo làm mờ con mắt cho nên lỡ mồm nói bậy.”

Thẩm Lan cười cười, nàng ngưng câu chuyện, bước tới nắm tay Dư ma ma nhét vào đó mấy lượng bạc vụn.

Dư ma ma cầm túi tiền ước chừng độ nặng, thấy lòng hơi dịu lại, nhưng tóm lại còn có vài phần tức giận, lại phải về báo cáo kết quả cho chủ ở nhà, bèn cười nói: “Phu nhân, Triều Sinh ấy mà, tánh nết hơi bất hảo. Mong phu nhân gọi nó ra đây để mà uốn nắn một phen.”

Đây là muốn Thẩm Lan dạy dỗ xử phạt Triều Sinh trước mặt Dư ma ma.

Triều Sinh đánh nhau cố nhiên là có sai, nhưng dù sao đi nữa cũng do Quan Tăng độc mồm độc miệng trước. Huống hồ Thẩm Lan dù có muốn phạt Triều Sinh, cũng chắc chắn không bao giờ có chuyện phạt nó trước mặt người khác.

Thẩm Lan lắc đầu cười: “Dư ma ma nói đùa, hôm qua Triều Sinh còn bị đấm một cú vào mặt. Bọn trẻ con ấy mà, hôm nay cãi nhau, hôm sau lại làm hòa, cần gì phải quát mắng nặng nề.” Dứt lời, nàng lại nhét cho bà ta một túi bạc.

Dư ma ma cảm thấy vừa lòng, chút bất mãn sót lại bây giờ cũng tiêu tan: “Phu nhân, Triều Sinh lãnh hai bạt tai của phu nhân, nhớ phải ở nhà dưỡng cho khỏe lại, mấy ngày nay chớ nên ra ngoài.”

Thẩm Lan hiểu ý, Dư ma ma thu tiền, bịa cái cớ để gạt Tri phủ phu nhân, nhưng lại sợ bị phát hiện cho nên mới muốn Triều Sinh ở nhà nghỉ mấy ngày, chờ qua cơn sóng gió này. 

“Ma ma nói phải lắm.” Thẩm Lan dứt lời, kêu Thu Diên lấy hai cân trầm đàn hương, một vò rượu hoa đào, năm cân quýt Phàn Giang, năm cân bạch quả để làm quà đền bù.

Dư ma ma dẫn đám nha hoàn hộ viện ôm quà đền bù cười khanh khách rời đi.

“Phu nhân, mấy người này thật là tham lam!” Xuân Quyên tức giận không thôi: “Rượu hoa đào là hàng cống phẩm, quýt Phàn Giang đắt đỏ, bỏ vào lu cát vàng, phủ lá thông khô lên, chờ tới cuối tháng ba lấy ra đem bán, có thể lời một khoản kếch xù. Chưa kể đàn hương cùng bạch quả, đều là……”

“Được rồi.” Thẩm Lan ôn hòa mỉm cười: “Làm buôn bán, chủ yếu là hòa khí sinh tài. Huống hồ oan gia nên giải đừng nên kết mà.”

Xuân Quyên oán hận nói: “Sớm biết thế này, ba năm trước Hồ Quảng gặp lũ lụt nửa tháng, phu nhân việc gì phải dẫn người chèo thuyền nhỏ đi khắp nơi cứu nạn, cứu phải cái tên Vương tri phủ không có lương tâm ấy.”

Thẩm Lan nghĩ bụng nàng chẳng qua là người nơi khác tới, vất vả mạo hiểm cứu người, cũng chỉ mong lấy được cái tiếng người làm việc thiện mà thôi.

Năm đó, Thẩm Lan không cài toàn bộ trang sức trâm vòng lên cái xác kia. Thứ nhất bản thân nàng cũng cần ít vốn liếng, thứ hai nhảy xuống nước lớn như vậy mà mọi thứ vẫn còn y nguyên, quả thực là một lỗ hổng lớn.

Vì thế Thẩm Lan giữ lại hai cây trâm vàng. Sau khi tới được Hồ Quảng, nàng nạy đá quý bên trên ra mang đi cầm, sau đó đun chảy trâm thành vàng, bán đi đổi một khoản tiền.

Nhờ cái danh thủ tiết thờ chồng, có tình có nghĩa, nàng dùng tiền mua gạo và thuyền từ tay nông dân ở Hồ Quảng, chèo thuyền tới các khu vực lân cận như Tứ Xuyên, Giang Tây để bán lại hàng hóa kiếm lời rồi từ đó neo đậu lại chốn này. 

Sau đó nhờ chuyện cứu người trong cảnh lũ lụt, cái danh thiện của Thẩm Lan càng được lan xa. Những bá tánh mất đất được nàng cứu đến cậy nhờ nàng, lưu dân các vùng tới Hồ Quảng không còn nơi nào để đi, nghe danh tiếng tốt bụng nghĩa hiệp của nàng cũng tới gia nhập dưới trướng nàng. Đến lúc này, bản đồ sự nghiệp của Thẩm Lan mới chính thức bành trướng diện tích.

“Vài thứ ngoài thân thôi, ngàn vàng tan hết còn kiếm lại được mà.” Thẩm Lan chọt chọt má nàng: “Được rồi, miệng của em vểnh đến độ có thể móc được cả can dầu lên rồi đấy.”

“Phu nhân cứ thế mãi thôi.” Xuân Quyên lầm bầm một câu, giận dỗi nói: “Ước gì bên trên cử một vị cỡ Thanh Thiên đại nhân tới đánh giết hết đám quan lại chó má này cho xong.”

Thẩm Lan nghĩ bụng chuyện này e rằng không thể. Thời cuộc thối nát thành thế này, dù cho phía bắc có an ổn lại, cũng chưa biết mai này ra sao đâu.

Nàng sắp sửa khuyên Xuân Quyên bớt giận, lại bỗng nghe tiếng Thu Diên bên ngoài hô: “Phu nhân, phủ Tuần phủ gửi thiệp tới.”

Thu Diên mới vừa tiễn Dư ma ma, đã nhận lấy thiệp mời lớn chừng năm tấc trong tay gã sai vặt.

Thẩm Lan cầm thiếp lên đọc, ra là mời nàng ngày mai tới phủ Tuần phủ Hồ Quảng để dự tiệc.

Thẩm Lan trầm ngâm hồi lâu, sau đó bỗng nhiên nói: “Thu Diên, em đi tìm Cốc chưởng quầy, bảo ông ấy hỏi thăm Lý lão gia, Triệu lão gia có nhận được thiệp mời của Tuần phủ Hồ Quảng không?” Cốc Trọng là một người khác dưới trướng Thẩm Lan phụ trách việc buôn bán gạo thóc.

Thu Diên đáp lời rồi vội vàng rời đi.

Thẩm Lan đợi chừng nửa canh giờ, Cốc chưởng quầy mới chạy vội đến.

Tới được phòng bàn công việc của Thẩm Lan, Cốc Trọng bẩm: “Phu nhân, Lý lão gia, Triệu lão gia cũng đều nhận được thiệp mời cả.”

Thẩm Lan thở dài một tiếng, này hai người với nàng nữa chính là ba nhà buôn lương thực lớn nhất khu vực Hồ Quảng này.

“Phu nhân, Tuần phủ đột nhiên phát thiệp mời những nhà buôn lương tới dự tiệc, liệu có phải định đòi nộp lương thực hay không?” Lại nói: “Nghe nói Ngụy Quốc công Thế tử dẫn binh vào Hồ Quảng, quân đội kiểu gì cũng cần phải ăn mới sống được chứ.”

Thẩm Lan trầm ngâm: “E là đúng vậy. “ Nhưng nếu vậy, nàng càng không thể đi dự tiệc. Lỡ như đụng phải Bùi Thận, đó chẳng phải là tự tìm đường chết sao.

“Cốc thúc, ngày mai thúc thay ta đi dự tiệc, lý do là hôm thanh minh đi thăm vong phu trở về, trong lòng ta khổ sở, uống rượu rồi nhiễm phong hàn, không tiện ra ngoài lây bệnh cho các vị khách quý.”

Cốc Trọng gật đầu, lại trù trừ hỏi: “Vậy phu nhân, ta rốt cuộc có nên nộp lương hay không? Nếu có, thì phải đưa bao nhiêu?”

Thẩm Lan trầm ngâm: “Thúc quan sát trong tiệc những người còn lại đưa bao nhiêu thì chúng ta đưa bấy nhiêu.” Theo số đông, không quá khác người là an toàn nhất.

Cốc Trọng đồng ý, Thẩm Lan lại nói: “Nếu trong bữa tiệc xuất hiện Ngụy Quốc công Thế tử, hoặc Tuần phủ nhắc tới Thế tử, thúc liền lén xin bái phỏng Thế tử, sau đó nộp ra hai vạn thạch lương thực.”

“Hai vạn thạch!” Cốc Trọng bật thốt: “Phu nhân sao phải tới mức này? Hai vạn thạch này mà nộp đi rồi, coi như chúng ta làm không công nửa năm trời!”

Thẩm Lan thở dài: “Trong tay Tuần phủ Hồ Quảng không có lính, nếu ông ta đòi lương thực, chúng ta đưa mấy trăm thạch lấy lệ đã đành. Nhưng nếu Ngụy Quốc công Thế tử cho đòi, người ta trong tay nắm hai mươi vạn hùng binh, chúng ta nào dám không đưa chứ?”

Cốc Trọng vội nói: “Cho thì cho, nhưng cần gì nhiều đến vậy? Tận hai vạn thạch lương thực! Ruộng vườn chúng ta có tổng cộng cũng mười khoảnh. Phu nhân còn hô giá cao để thu mua khoai núi Phúc Kiến, khoai Quảng Đông, khoai lang, còn có bắp vùng duyên hải, lại chi tiền thuê người tới trồng trọt làm vườn giàu kinh nghiệm, còn nuôi một đội buôn cá chạy từ bắc chí nam, ao cá mới đào còn đang nuôi cá trắm đen, cá mè…… Có cái nào trong số này là không tốn tiền kia chứ!”

Cốc Trọng lải nhải không ngừng: “Phu nhân còn không chịu tăng giá gạo giá ngũ cốc lên, một mực muốn bình ổn giá. Bình ổn giá là chuyện của quan phủ, bọn họ cũng mặc kệ, phu nhân thì hay rồi……” Nói tới đây, ông thở một hơi thật dài.

“Phu nhân là người nhân hậu.” Nói rồi, ông nở nụ cười tự giễu: “Nếu không phải phu nhân có lòng thương người, một ông lão như ta dẫn theo đứa cháu gái từ Thiểm Bắc trốn vào Hồ Quảng, e là cũng đói chết.”

Thẩm Lan thở dài: “Chuyện cũ đừng nhắc lại làm gì, người dù sao cũng phải hướng về phía trước.” Nàng an ủi: “Cốc thúc, hai vạn thạch này nộp cho Tuần phủ, e là cũng sẽ bị tầng tầng lớp lớp tham ô mất. Nhưng đưa vào tay Ngụy Quốc công Thế tử, ít ra cũng có thể phát được tới tay lính tráng, coi như đúng tác dụng của chúng.” 

Bùi Thận vừa không uống máu binh, cũng không sai khiến quân lính làm chuyện bây bạ, kỷ luật quân đội nghiêm ngặt, lương thưởng phát xuống đầy đủ. Lại thêm thiên phú về mặt quân sự của y cực kỳ cao, trăm trận trăm thắng. Chỉ mới mấy năm ngắn ngủi, y đã có thể xây được đội quân khí thế hùng mạnh.

Thẩm Lan cười nói: “Ta làm giàu nhờ đất Hồ Quảng, nếu nộp lên hai vạn thạch có thể dẹp được loạn hải tặc cho Hồ Quảng, cũng coi như báo đáp lại ân tình của bá tánh Hồ Quảng.”

Cốc Trọng lại thở một hơi thật dài: “Phu nhân thật sự không giống người làm ăn chi cả.”

Tối ngủ chỉ cần sáu thước, ngày ăn chỉ ba chén cơm. Giàu sang thêm nữa cũng để làm gì đâu?

Thẩm Lan cười cười: “Để lòng thanh thản mà thôi.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom