Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết

Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết
Tác giả: Mario Puzo
Tình trạng: Đã hoàn thành




Nguyên tác: Fools Die

Đó là cuốn tiểu thuyết lôi cuốn người đọc bởi các Casino xa hoa, lộng lẫy - đấu trường của mưu trí, gan lì và may rủi của những tay chơi lớn, nhữngkẻ mưu đồ xảo quyệt và những nàng mồi chài vô cùng hấp dẫn

Một thế giới mà tham sân si được đẩy lên tột đỉnh cùng với sự phản trắc lừa lọc, trong đó đàn ông sử dụng quyền lực của họ không chút khoan nhượng, đàn bà không chút ngượng ngùng, nơi chỉ có những kẻ mạnh nhất, khôn ngoan nhất mới tồn tại, và Những kẻ điên rồ phải chết.

Lối viết mạnh mẽ, khốc liệt, không kiêng dè của Mario Puzo lần này xoáy sâu vào lối sống trụy lạc của ngành công nghệ giải trí Hoa Kỳ. Từ chuyện ông nhà văn luôn cổ xúy cho quan niệm giới nữ chỉ là phương tiện cho đàn ông, cho đến cô diễn viên có đời sống tình dục lưỡng tính, tất cả đều hừng hực sức sống, rất hiện thực và sống động (thậm chí dù cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1978).

Những mánh khóe và con người của casino cũng được tác giả vẽ ra vớinhững chi tiết thú vị. Lối sống thực dụng, với tiền bạc và nhục dục bủa vây, khiến những con người trong thế giới ấy trở nên xa lạ với đa phần cuộc sống chúng ta, nhưng cũng rất gần gũi bởi những mong muốn và đam mê đều rất thật.

Đây là cuốn sách ưa thích của Mario Puzo, chứng tỏ ông đã dày công tạo nên những nhân vật có chiều sâu. Dù họ vẫy vùng trong vòng xoáy của tiền bạc, ảo vọng, tình dục, họ vẫn có những suy tư, những lúc chiêm nghiệm cuộc sống và tất nhiên, có cả tình yêu chân thật, dù đôi khi nó lệch lạc do lối sống của chính họ.

Ghi chú: Tiểu thuyết này có nhiều đoạn có nội dung chỉ dành cho người lớn, liên quan đến bạo lực, tình dục.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Nghe tôi nói đây, tôi sẽ kể cho các bạn sự thật về cuộc đời một người đàn ông, sẽ nói với các bạn sự thật về tình yêu của y cho đàn bà, rằng y chưa bao giờ ghét họ. Chắc các bạn nghĩ rằng tôi lạc đề mất rồi. Hượm đã!

Thật thế. Bạn đang đối mặt một bậc thầy ma thuật đây mà. Ai vậy? Tôi đây chứ còn ai vào đó nữa! Hãy nhìn vào mắt ta đây này?

Bạn có tin rằng một người đàn ông có thể thực sự yêu thương một người dàn bà mà vẫn thường xuyên… phải bội nàng? Về chuyện thân xác thì chẳng có gì đáng nói rồi, nhưng còn phải bội nàng trong tâm hồn trong chốn thâm cung bí nhiệm và nên thơ nhất của hồn viễn mộng khôn khuây của riêng mỗi con người? Vâng, chuyện tế nhị lắm, chẳng dễ dò lần được đâu, nhưng đàn ông muôn đời vẫn thế?

Bạn có muốn biết bằng cách nào đàn bà có thể yêu bạn, cho bạn "bội thực" tình yêu để đầu độc thể xác và tinh thần bạn, đơn giản chỉ để hủy diệt bạn? Và, vượt khỏi tình yêu đam mê, nàng chọn giải pháp cắc cớ, trớ trêu là đếch thèm yêu bạn nữa? Và cùng lúc lại làm cho bạn chóng mặt, choáng váng với cơn cực khoái… của thằng khờ? Bạn cho rằng điều đó là bất khả? "Phán" như thế thì… quá dễ!

Ấy, sao lại vội bỏ đi? Đây không phải là một tiểu thuyết diễm tình loại… hai xu rưỡi đâu nhé?

Tôi sẽ cho bạn cảm thấy cái đẹp đớn đau của một đứa bé, tình trạng bị kích dục thuần sinh vật của một con đực thiếu niên, cái tính khí thất thường ưa rước lấy tai ương, thèm tự tử của con cái non nớt. Và rồi (đây mới là phần cứng) cho bạn thấy bằng cách nào thời gian cuốn đàn ông và đàn bà vào cái vòng xoáy ma thuật, làm biến chất cả tâm hồn và thân xác họ.

Và rồi dĩ nhiên còn có TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC.

Đừng bỏ đi xa! Tình yêu đích thực có đấy hoặc là tôi sẽ làm cho nó thực sự hiện hữu. Ta nào phải hạng bậc thầy ma thuật mà chẳng làm nên công nghiệp để ghi danh.

Cái bọn vô tích sự ấy thì nói làm quái gì? Nó có đáng cái giá của nó chăng? Còn về chuyện trung thành tính dục thì sao nhỉ? Nên chăng? Đó có phải là tình yêu? Ngay cả điều ấy có nhân bản không, cái đam mê trái khoáy chỉ muốn làm tình với mỗi một người thôi? Và nếu chuyện đó không ổn, bạn có còn được món quà thưởng nào để thử nghiệm tiếp? Nó có thể tác dụng cả hai chiều không? Tất nhiên là không, dễ thấy quá. Và tuy thế…

Đời sống là một trò hề… vĩ đại, và chẳng có gì buồn cười hơn là cuộc du hành của tình yêu qua thời gian. Nhưng một bậc thầy ma thuật cao cường có thể làm cho cử toạ của mình cùng lúc vừa khóc vừa cười. Còn cái chết lại là chuyện khác. Tôi sẽ không bao giờ tạo ra được lời đùa của cái chết. Chuyện ấy vượt quá quyền năng pháp thuật của tôi.

Tôi vẫn luôn tinh nhạy với cái chết. Hắn không lừa tôi được đâu! Tôi điểm mặt hắn tức thì. Hắn thích đến trong cái lốt hoá trang quê mùa ngớ ngẩn với dáng một tay thợ gặt cầm lưỡi hái; một cái bướu xấu xí vô duyên bỗng dưng lớn phỗng phao nhanh như thổi; hay con chuột chù gớm ghiếc tiêm truyền bệnh dịch hạch vào tận xương tuỷ người ta; hay giấu mặt sau cơn sốt ban nhiệt xoàng chỉ làm cho mặt em bé đỏ hồng lên một tí trông càng xinh thêm ra thôi.

Rồi bỗng nhiên cái sọ người nhăn nhở kia xuất hiện, đoạt lấy nạn nhân đem đi, một cách thật bất ngờ. Nhưng với tôi thì "hắn" đừng hòng! Tôi vẫn đợi hắn đây. Tôi đã phòng bị chu đáo cả rồi.

Song song với cái chết, tình yêu là một trò trẻ con nhưng lại làm ta phát mệt, dù trọn đời ông vẫn tin vào tình yêu hơn là cái chết. Nhưng với đàn bà lại là chuyện khác. Họ có một bí mặt đầy quyền năng. Họ không bao giờ có tình yêu nghiêm túc.

Nhưng một lần nữa, xin đừng bỏ đi xa. Và một lần nữa, đây không phải là chuyện tình. Hãy quên tình yêu đi.

Không quên được thì cũng xin tạm thời lờ nó đi. Tôi sẽ chỉ cho bạn tất cả những tầm với của quyền lực. Trước tiên là cuộc đời của nhà văn nghèo đang tranh đấu để vươn lên. Nhạy cảm. Tài năng. Có lẽ còn có chút thiên tài nữa đấy.

Tôi sẽ cho bạn thấy người nghệ sĩ bị biến chất và vong thân như thế nào trong quá trình vị nghệ thuật của anh ta. Và tại sao như thế cũng thật đáng dời cho hắn.

Tôi sẽ cho bạn thấy hắn ta như một tên tội phạm xảo quyệt, đã có được khoảng thời gian tung hoành trong đời y. A, một nghệ sĩ "chân chính" cảm thấy mềm vui như thế nào khi cuối cùng hắn trở thành một kẻ lừa đảo. Bấy giờ, bản chất cốt yếu của y hiện ra trong chốn thập mục sở thị cho người người nhìn thấy, chẳng còn đùa nghịch vòng quanh về danh giá của y nữa. Hắn lộ diện chân tướng là một kẻ giỏi xoay sở, một kẻ đồng lõa. Một kẻ thù của xã hội ra mặt rõ ràng thay vì giấu mặt sau cái âm đ*o của con điếm mệnh danh là nghệ thuật. Thế là trút được gánh nặng. Nhẹ nhàng khinh khoái biết bao! Một niềm vui cho kẻ khôn ngoan với óc hài hước, quỷ quyệt. Và rồi hắn lại trở thành một con người đứng đắn đàng hoàng như xưa. Eo ôi? Đau khiếp lắm khi mang danh là kẻ lừa đảo Nhưng điều đó đã giúp cho bạn chấp nhận xã hội và tha thứ cho đồng loại của mình. Một khi điều đó đã hoàn tất, không còn ai nên làm một kẻ lừa đảo nữa trừ phi hắn thực sự cần tiền!

Rồi tiến về một trong nhĩrng câu chuyện thành công lý thú nhất trong lịch sử văn học.

Chuyện đời tư của những con người khổng lồ trong nền văn hoá của chúng ta. Đặc biệt là một tay hoang đàng chi địa dám bán trời không văn tự. Một con người của giới thượng lưu trí thức ưu tú đấy! Thế là giờ đây chúng ta có giới tài năng nghèo khó đang phấn đấu vươn lên, giới lừa đảo và giới văn học "cấp cao". Tất cả được buộc vào với đầy rẫy tình dục, một số ý tưởng rối rắm mà bạn sẽ không thấy sốc khi bị nhồi sọ và có thể còn thấy hay ho nữa là khác. Và cuối cùng hướng đến một kết thúc nổ tung ra tan tành nơi kinh thành điện ảnh hoa lệ Hollywood với nhân vật chính-người hùng của chúng ta - ăn ngấu nghiến, nuốt chửng mọi tưởng thưởng, tiền bạc, danh vọng cùng bao nhiêu đàn bà đẹp - Và… đừng bỏ đi xa chứ - đừng bỏ đi xa - tất cả đã biến thành tro tàn như thế nào.

Như thế chưa đủ sao? Bạn từng nghe mọi chuyện này trước đây rồi? Nhưng hãy nhớ rằng ta dây là một bậc thầy ma thuật nhé. Ta có thể hoá phép cho tất cả những nhân vật này sống thực. Ta có thể chỉ cho các bạn thấy họ thực sự nghĩ và cảm thế nào. Bạn sẽ khóc cho họ, cho tất cả bọn họ, tôi hứa như thế. Hoặc có thể sẽ cười. Dầu thế nào chúng ta cũng sắp được một mẻ vui và học được đôi điều về đời sống. Những điều thực ra cũng… chẳng có ích chi mấy. Vì có cái dại nào giống cái dại nào đâu?

A, ta biết bạn đang nghĩ gì. Cái thằng con hoang láu cá đó đang tìm cách câu móc để chúng ta tò mò lật trang sách của hắn đây. Nhưng, chờ tí nhé, đó chỉ là một câu chuyện mà tôi muốn kể cho các bạn nghe chơỉ. Có gì phiền đâu nào? Ngay cả nếu tôi có coi câu chuyện này là nghiêm chỉnh, nhưng ai bắt các bạn cũng phải thế? Mua vui cũng được một vài trống canh… xin phép các bạn cho "tại hạ " được khép nép nhắc lại lời của Nguyễn tiên sinh.

Cũng xin được khoe với các bạn là tôi đã hân hạnh được đọc tuyệt tác ấy rồi đấy nhé

Tôi chỉ muốn kể một câu chuyện cho các bạn nghe chơi thôi, không hề dám có cao vọng hão huyền nào khác.

Tôi chẳng khát khao thành công, danh vọng hay tiền tài.

Nhưng chuyện đó dễ thôi, phần lớn đàn ông hay đàn bà cũng đều không khát khao chi ba cái thứ tầm thường đó;

Khi tôi còn trẻ, có vài nàng đã từng thỏ thẻ bên tai: không thực đấy, chẳng vờ tí nào đâu. Hơn thế nữa tôi chẳng thèm muốn tình yêu.

Em yêu anh vì anh có đôi mắt nhung với hàng mi dài cong vút mơ màng. Tôi gật đầu. Sau đó họ yêu tôi vì tôi thông minh. Rồi vì tôi có quyền uy địa vị và lắm bạc nhiều tiền. Rồi họ mê tài tôi. Rồi vì tâm hồn tôi. OK, lý do nào tôi nghe cũng… lọt tai cả! Người đàn bà duy nhất làm tôi hoảng sợ là người yêu tôi vì chính con người của tôi. Tôi đã có những kế hoạch cho nàng. Tôi có thuốc độc và dao găm và những hốc tối tăm trong hầm rượu để giấu đầu nàng. Nàng không được phép sống. Đặc biệt là nếu nàng lại còn trung thành về phương diện tình dục, không bao giờ nói dối và luôn luôn đưa tôi lên trên mọi sự và trước mọi người.

Sẽ có vô khối tình yêu trong sách này nhưng nó không phải là sách tình yêu. Nó là một quyển sách chiến tranh. Cuộc chiến tranh cũ giữa những người đàn ông vốn là những người bạn thực sự của nhau. Cuộc chiến tranh mới nhưng bất tuyệt, giữa đàn ông và đàn bà. Chắc là một câu chuyện cũng… cũ rích nhưng bây giờ mới được nói công khai huỵch toẹt. Các chiến binh Giải phóng Phụ nữ cứ nghĩ rằng họ đề xướng cái gì mới lắm đấy, nhưng chỉ là những đạo quân đi ra từ những ngọn đồi du kích.

Những người đàn bà ngọt ngào luôn phục kích đàn ông: từ trong nôi, từ trong nhà bếp và trong phòng ngủ. Và cả nơi mộ phần của con cái họ, nơi không phải để nghe lời cầu xin khoan dung.

A, phải rồi, thằng cha này chắc là căm hận đàn bà lắm đây; hẳn các bạn nghĩ thế. Nhưng tôi không bao giờ ghét họ. Và họ sẽ hiện ra trong từng trang sách của tôi như là những kẻ tốt dẹp hơn đàn ông rất nhiều, rồi các bạn sẽ thấy. Nhưng sự thật là chỉ có đàn bà mới có khả năng làm cho ta khổ đau điên đảo đến bấn loạn thần hồn và họ đã làm thế, kể từ chiếc nôi trở đi, nhưng phần lớn đàn ông cũng có thể nói điều ấy. Và chẳng có thể làm được gì (để thay đổi tình trạng đó).

Tôi đã đưa ra một mục tiêu lạ lùng ở đây. Tôi biết - tôi biết - nó có vẻ không thể chống lại đến như thế nào.

Nhưng, cẩn thận nhé. Tôi là một người kể chuyện… ba xạo lắm đấy, chứ chẳng phải là một trong những nhà nghệ sĩ đa cảm, tế nhị đến mong manh, dễ tổn thương như các bạn lỡ có nhã ý nghĩ như thế đâu. Tôi đã thu kỹ mọi "miếng nghề" cần thiết. Tôi vẫn còn vài món ngạc nhiên chưa dọn ra trên bàn tiệc hết đâu.

Nhưng đủ rồi. Hãy để tôi dâng bữa đại yến hầu quý khách. Này đây, món khai vị…

Nguyên bản tiếng Anh FOOLS DIE,( Tiếng pháp : C est idiot de mourir ) Nhà xuất bản SIGNET BOOK
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Vào cái ngày may mắn nhất đời của Jordan Hawley, chàng ta đã phải bội ba người bạn thân nhất của mình.

Nhưng vẫn cứ vô tư, chàng ta lang thang qua phòng chơi xúc xắc của khu Casino khổng lồ thuộc khách sạn Xanadu, đang tự hỏi không biết nên chơi trò gì sắp tới đây. Vẫn còn sớm - mới nửa chừng buổi chiều - chàng vừa thắng được mười ngàn đô-la. Nhưng chàng đã chán con xúc xắc đỏ lấp lánh lăn vòng qua thảm nỉ xanh.

Chàng đi ra khỏi phòng, tấm thảm màu tím chìm xuống dưới chân và chàng di chuyển về phía vòng quay của bàn roulett xinh xắn với những hộp đỏ và đen xen giữa hai trọng điểm số không màu xanh lục và hai số không. Chàng đánh liều vài ván không cần tính toán, thua và đi về phòng chơi blackjack.

Những bàn blackjack được sắp thành hai dãy. Chàng đi giữa hai dãy bàn đó giống như một tù binh đi qua hai hàng quân gươm giáo tuốt trần sáng quắc của phe chiến thắng. Những quân bài với mặt lưng màu xanh bóng lấp lánh ở mỗi bên. Chàng vượt qua an toàn và đi về phía mấy tấm cửa kính khổng lồ dẫn ra ngoài để đi vào những đường phố của kinh đô cờ bạc thế giới, Las Vegas. Từ đây chàng có thể nhìn xuống khu Strip với những khách sạn xa hoa lộng lẫy nằm sát bên nhau.

Dưới ánh sáng mặt trời chói chang của bang Nevada, cả một tá khách sạn cùng mang tên Xanadu long lanh rực rỡ với những biển hiệu đèn néon cả triệu watt. Các khách sạn dường như đang tan ra thành một không gian sương mù lấp lánh kim nhũ và ánh thép bạc, một ảo ảnh có thể vươn tới. Jordan Hawley bị dính bẫy bên trong casino máy lạnh với số tiền được bạc của mình. Thật là khùng điên nếu đi ra ngoài vì nơi đâu cũng là những casino khác đang chờ đón chàng ta, với những rủi may chưa biết được. Còn ở đây chàng là kẻ thắng, và chẳng mấy chốc nữa chàng sẽ gặp bạn bè. Ở đây chàng được che chở khỏi sa mạc vàng rực nóng nung người ngoài kia.

Jordan Hawley quay người khỏi cửa kính và ngồi xuống bàn blackjack gần nhất. Những con phỉnh một trăm đôla màu đen, những mặt trời cháy xém nhỏ xíu, dồn trong đôi bàn tay chàng. Chàng nhìn người chia bài rút bài ra từ cái hộp gỗ thuôn dài. Jordan đánh cá khá bạo trên hai vòng nhỏ. Chàng gặp vận đỏ. Chàng chơi cho đến khi mọi con bài được rút hết ra. Người chia bài thường làm rơi bài ra và khi anh ta xáo bài lại, Jordan bỏ qua chỗ khác.

Mấy cái túi của anh đầy các con phỉnh. Nhưng chuyện đó chẳng có gì phiền cả bởi vì chàng đang mặc một áo khoác thể thao được thiết kế đặc biệt, hiệu Sy Devore Vegas Winner dành cho những tay chơi cờ bạc ở Las Vegas. Chiếc áo có sọc màu đỏ thẫm trên nền vải thiên thanh và đặc biệt có những túi kéo rất rộng, có thể chứa được nhiều, tạo cho bạn một tâm trạng lạc quan.

Bên trong chiếc áo jacket ấy còn có những cái hốc đặc biệt, cũng có dây kéo, rất sâu, khiến không một tên móc túi tài ba cỡ nào có thể thọc tay vào. Phần thắng của Jordan được cất giữ an toàn và chàng còn khối không gian có sẵn để nhét thêm nhiều nữa, nhiều hơn nữa. Chưa từng có người nào nhét đầy được mọi cái túi của chiếc áo jacket "Người thắng bạc ở Las Vegas" cả.

Khu casino được chiếu sáng bởi nhiều đèn chùm khổng lồ lại trở nên xanh mờ vì ánh sáng néon được phải chiếu bởi thảm màu tím sậm. Jordan bước ra khỏi vùng ánh sáng đó, đi vào vùng tối mờ mờ của quầy bar với trần thấp và khoảng bục nhỏ dành cho những người tạm thời rời vòng cương toả của cuộc đỏ đen để xả hơi, nhâm nhi một tí. Ngồi ở một bàn nhỏ, chàng có thể nhìn ra khu casino như một khán giả nhìn lên sân khấu rực ánh đèn mầu.

Như thôi miên chàng chăm chú nhìn những người đánh bạc trôi dạt, chìm đắm trong những trò dàn dựng rối rắm, từ bàn này qua bàn kia. Giống như chiếc cầu vồng bảy sắc vắt ngang qua bầu trời trong xanh, chiếc vòng quay roulett lấp lánh những con số đỏ đen phối hợp với cách bài trí của chiếc bàn. Những con bài với mặt lưng màu xanh trắng nằm trên những bàn nỉ xanh dương.

Những con xúc xắc vuông màu đỏ với diểm trắng lấp lánh như những con cá bay trên những chiếc bàn hình cá voi. Đàng xa kia, nơi các dãy bàn chơi blackjack, những người chia bài hết phiên mình, đứng lên xoa hai tay đưa cao lên không để chứng tỏ rằng họ không giấu mấy con phỉnh trong lòng tay.

Sân khấu của casino bắt đầu đầy người với nhiều diễn viên hơn: những kẻ sùng bái Thái dương thần nữ từ ngoài hồ tắm đi vào, những người khác từ các sân tennis, các sân golf, hay từ các cuộc làm tình miễn phí hoặc phải tổn phí trong hàng ngàn phòng của tổ hợp khách sạn Xanadu. Jordan chỉ vào một chiếc áo jacket Vegas Winner khác đang đi qua sàn casino. Đó là Merlyn, được bạn bè gọi thân mật là Thằng nhóc Merlyn. Merlyn vẫy tay chào anh lúc đi ngang qua vòng quay roulett mà hắn rất mê tuy rằng hắn ít khi chơi môn này vì biết cái tỷ lệ tiền xâu 5,5% chém rất ngọt vào tiền được của các tay chơi; chẳng khác nào lưỡi bảo kiếm "chém sắt như bùn" chặt đầu không vấy máu của các tay du hiệp lừng lẫy thời Xuân thu Chiến quốc bên Tàu!

Từ trong bóng tối Jordan vẫy một cánh tay có sọc màu đỏ thẫm, và Merlyn sải bước trở lại như thể cậu ta đang đi ngang qua lớp lớp lửa hồng hừng hực nơi luyện ngục, bước qua cái sân khấu chói chang của sàn casino và ngồi xuống. Mấy cái túi có dây kéo của Merlyn không phồng lên với những con phỉnh trong tay cậu ta cũng chẳng có cái nào.

Họ ngồi đó không nói gì nhưng cảm thấy thoải mái với nhau. Merlyn trông giống một vận động viên điền kinh lực lưỡng trong chiếc áo jacket màu xanh lam sọc đỏ của cậu ta. Cậu ta trẻ hơn Jordan ít nhất mười tuổi và mái tóc đen tuyền. Trông cậu ta cũng có vẻ rạng rỡ hơn, sẵn sàng hơn để lao vào cuộc chiến đấu với số mệnh trong đêm nay.

Từ khu đánh bài ở góc xa của casino, họ thấy Cully Cross và Diane bước qua đường ray màu xám thanh lịch, di chuyển trên sàn casino để tiến về phía họ. Cully cũng đang mặc chiếc áo jacket Vegas Winner. Diane trong chiếc áo dài mùa hè màu trắng, xẻ cổ thấp trông rất mát mẻ, nơi hai nụ hoa lấp lánh nhũ ngọc trai màu trắng.

Merlyn vẫy tay và họ tiến đến qua các bàn casino mà không chệch hướng. Và khi họ ngồi xuống, Jordan gọi thức uống cho cả bọn bởi anh biết họ muốn thức gì.

Cully chỉ tay vào mấy cái túi phồng lên của Jordan:

- Này, - anh ta nói - Cậu bỏ rơi bọn này, đi đánh lẻ và đã gặp hên!

Jordan cười:

- Chút chút thôi.

Cả bọn tò mò nhìn anh ta trong lúc anh ta trả tiền thức uống và "boa" cho cô tiếp viên bằng một con phỉnh đỏ trị giá năm đô Las Vegas. Anh nhận ra những cái liếc mắt. Anh không biết tại sao họ lại nhìn mình có vẻ kỳ khôi như vậy. Jordan đã ở Vegas ba tuần và đã thay đổi thấy sợ trong ba tuần đó. Chàng đã sụt đến hai mươi pao.

Mái tóc vàng pha lẫn sợi xám của chàng nay đã dài hơn, bạc thêm nhiều. Khuôn mặt chàng, dẫu vẫn còn đẹp trai chán, nhưng cũng hiện rõ nét hốc hác, phờ phạc; làn da đổi "tông " xam xám. Anh có vẻ thiếu sinh khí. Thế nhưng anh không ý thức được điều đó bởi vì anh vẫn cảm thấy khoẻ chán. Một cách rất ư ngây thơ vô số tội, anh vẩn vơ thắc mắc về ba con người này những người bạn mới trong ba tuần nay của chàng và bây giờ đã là những người bạn quý hoá nhất trên đời?

Người mà Jordan mến nhất là Thằng nhóc Merlyn.

Merlyn có chút tự phụ rằng mình là một tay chơi "máu lạnh" ăn hay thua gì cũng cứ tỉnh rụi! Không bao giờ lộ rõ mặt xanh mặt đỏ hay mặt trắng bệch! Tiền cờ bạc là "của phù vân" ấy mà! Các cụ ông, cụ bà từ xưa đã từng dạy như thế? Của phù vân thì cứ để ngoài ngõ. Trừ có một lần, một vố thua quá đậm đã làm cu cậu xiểng liểng, mặt cứ đờ ra ngơ ngác thất thần hồi lâu khiến Jordan rất lấy làm khoái chí. Đấy nhé? Đừng có mà bắc bậc làm cao, cho mình là kỳ nhân dị sĩ coi chuyện được thua chẳng nghĩa lý gì! Chẳng qua là… chưa dủ đô đấy thôi. Đến "ngưỡng " rồi mà "đổ" thì mặt anh nào mà chẳng méo xệch!

Thằng nhóc Merlyn không bao giờ nói nhiều. Hắn chỉ quan sát mọi người. Jordan biết rằng Merlyn vẫn theo dõi mọi điều anh làm, hắn đang cố hình dung anh là loại nhân vật nào. Điều này cũng làm anh thấy vui vui vì thấy cu cậu khá tức cười với ý định đó. Cu cậu vẫn từn kiếm những điều rối rắm và không bao giờ chấp nhận rằng chàng - Jordan - đúng là con người đã trình làng với bà con cô bác. Nhưng Jordan thích bè bạn với cậu ta và mấy người kia. Họ làm dịu đi nỗi… "trống vắng chiều nay" của chàng. Và bởi vì Merlyn có vẻ sẵn sàng hơn đam mê hơn trong cuộc chơi nên Cully đã đặt cho cậu ta biệt danh Thằng nhóc.

Chính Cully mới là người trẻ nhất, mới hai mươi chín. Nhưng cũng hơi lạ, hình như chàng ta là thủ lĩnh của nhóm. Họ gặp nhau nơi đây ba tuần trước tại chính casino này, và chỉ có một điểm chung. Họ là những tay chơi truỵ lạc. Cuộc chơi phóng đãng kéo dài ba tuần của họ được coi là phi thường bởi vì tỷ lệ lấy xâu ở casino lẽ ra đã vùi họ dưới mấy lớp cát của hoang mạc Nevada chỉ trong ít ngày đầu thôi.

Jordan biết rằng mấy người kia, Cully Cross và Diane, cũng đang thắc mắc về chàng, nhưng chàng cứ lờ đi anh chẳng mấy tò mò bất cứ ai trong bọn họ. Thằng nhóc có vẻ còn trẻ và quá thông minh để làm một tay chơi suy đồi nhưng Jordan chưa hề cố phân tích kỹ tại sao. Thực sự ra điều ấy cũng chẳng quan hệ mấy đối với chàng.

Cully thì chẳng có gì để phải thắc mắc về chàng ta hay là hình như thế. Hắn ta là týp tay chơi suy đồi kiểu cổ điển, nhưng thuộc hàng thiện nghệ. Hắn ta có thể đoán đúng đến hơn chín mươi phần trăm trường hợp con bài tẩy của các đối thủ trong bài xì phé hay tụ bài nào dằn non, tụ bài nào hoác, tụ bài nào trúng trong môn xì dách và hầu hết mọi ngón lừa bịp của thuật… cờ gian bạc lận.

Nói chung là một chuyên gia lão luyện trong ngành. Thằng nhóc thì không. Jordan là một tay cờ bạc điềm đạm có khả năng tư duy "trừu tượng hoá" ở mức độ cao trong lúc Thằng nhóc là kẻ máu mê nhưng lại diễn vai phớt lờ khá đạt trong phần lớn trường hợp. Nhưng Jordan không có ảo tưởng nào về mình. Hiện thực giờ đây thì chàng đang thuộc về "giai cấp" của họ, "giai cấp" những tay chơi suy đồi. Nghĩa là một kẻ đánh bạc chỉ để mà đánh bạc và như thế thì phải thua thôi. Giống như một anh hùng khi ra trận tất yếu phải chết. Hãy chỉ cho ta một kẻ đánh bài và ta sẽ chỉ cho anh một thằng thua bạc; hãy chỉ cho ta một anh hùng và ta sẽ chỉ cho anh… một xác chết; Jordan lẩn thẩn triết lý vụn.

Mấy tay kia đều sắp cạn nhiên liệu, chắc đều sắp phải rời nơi này sớm, có lẽ trừ Cully. Nơi đây Cully có thể xoay nhiều nghề: ma cô, cò mồi, phe vé, những trò xoay xở linh tinh để kiếm tí nơi các casino. Đôi khi hắn ta còn móc ngoặt với các tay chia bài, với đám hồ lì, kín đáo chơi đá giò lái nhà cái cho khách ăn để chia chác, kiếm tí rơm nhai đỡ đói, một trò nguy hiểm.

Cô gái, Diane, thực ra là kẻ ngoài cuộc. Nàng ta làm việc như một tay chơi cò mồi của nhà cái và nàng vừa nghỉ xả hơi từ bàn đánh bạc. Nàng đến với ba người đàn ông duy nhất ở Las Vegas mà nàng cảm thấy có quan tâm đến mình.

Như một tay chơi mồi, nàng đánh bài bằng tiền của casino, thắng hay thua đều là tiền của casino. Nàng không tuỳ thuộc vào chuyện hên xui may rủi trong bài bạc mà tuỳ thuộc vào đồng lương cố định hàng tuần nhận từ casino.

Sự hiện diện của nàng chỉ cần thiết tại bàn đánh bài vào những giờ vắng khách vì các tay chơi bài sẽ bỏ đi khỏi những bàn trống; nàng là tờ giấy bẫy đối với đàn ruồi.

Vì thế nàng phải ăn mặc cho thật khiêu khích, bắt mắt… nàng có mái tóc đen dài khá gợi cảm một cái miệng rộng đôi môi dày thấm đẫm dục tính và một thân hình gần tuyệt hảo với dáng trường túc bất tri lao. Nửa thân người trên của nàng hơi mảnh mai nhưng hợp với ngoại hình tổng thể của nàng. Và ông chủ khu đánh bài cho số điện thoại riêng của nàng cho các tay chơi lớn. Đôi khi ông chủ hoặc một tay chơi trung gian sẽ thì thầm rằng một trong các tay chơi muốn chiêm ngưỡng toàn bộ dung nhan nàng trong phòng rỉêng của anh ta. Nàng được chọn cách từ chối, nhưng đó là một lựa chọn cần sử dụng thận trọng. Khi nàng thuận tình, cũng không phải là người khách sẽ trả trực tiếp cho nàng. Ông chủ đưa cho nàng một thẻ đặc biệt trị giá năm mươi hay một trăm đô Las Vegas mà nàng có thể đổi ra tiền mặt ở một quầy đổi của casino.

Nàng ghét làm điều này. Nên nàng sẽ nhờ một trong các cô gái chơi mồi khác cầm thẻ đi đổi giùm nàng, trả công năm đô. Khi Cully nghe chuyện này, chàng ta bèn làm bạn với nàng. Chàng ta thích những người đàn bà dịu dàng vì dễ… giật dây họ.

Jordan ra hiệu cho cô tiếp viên mang thêm thức uống. Anh cảm thấy thư giãn. Chuyện gặp vận hên và nghỉ ngơi sớm trong ngày cho chàng ta một chút ảo tưởng về đức hạnh của mình. Làm như một vị thần lạ lùng nào đó đã thương mến chàng, thấy chàng là người thiện tâm và đang tưởng thưởng chàng vì những hy sinh mà chàng đã cống hiến cho cuộc đời từ trước đến nay, nhưng giờ đây chàng đã bỏ lại phía sau. Và chàng có ý thức về tình đồng chí đồng đội với Cully và Merlyn.

Họ thường ăn điểm tâm chung với nhau. Và luôn luôn uống một chầu sương sương vào buổi chiều muộn trước khi bắt đầu trận đánh lớn để hủy diệt đêm dài.

Đôi khi họ xuống bar làm một chầu nhẹ lúc nửa đêm để mừng chiến thắng, dĩ nhiên là người may mắn đãi trọn chầu đó. Trong ba tuần vừa qua, họ dã trở thành bằng hữu mặc dầu tuyệt đối chẳng có điều gì chung và tình bè bạn đó sẽ tan di cùng vởi cơn máu mê đỏ đen của họ.

Nhưng giờ đây, chưa rã đám, họ mến nhau chi lạ! Sau một ngày thắng lợi, Thằng nhóc Merlyn đã kéo cả ba người vào cửa hàng quần áo và mua cho mỗi người một chiếc jacket Vegas Winner. Ngày hôm đó cả ba đều thắng và đã mang chiếc áo jacket một cách mê tín kể từ ấy đến giờ không lúc nào rời áo.

Jordan đã gặp Diane vào cái đêm khổ nhục đoạn trường nhất của nàng, cùng đêm mà chàng gặp Merlyn lần đầu tiên. Ngày hôm sau đó, chàng đã mua cho cô ly cà phê vào một lúc nghỉ xả hơi của nàng và họ đã trò chuyện với nhau nhưng chàng đã không nghe những gì nàng nói. Nàng cảm thấy rằng chàng thiếu hứng thú và thấy bị thương tổn. Thế nên chuyện đó rồi chẳng đi đến đâu. Sau đó chàng hối hận, nhất là trong cái đêm chàng nằm chèo queo một mình, không ngủ được trong căn phòng được bài trí khá lộng lẫy của mình. Vì hàng đêm vẫn khó ngủ, chàng đã phải dùng thuốc nhưng chúng thường đem đến cho chàng những cơn ác mộng khiến chàng kinh hoàng.

Dàn nhạc jazz sẽ đến trong chốc lát, thính phòng đầy người. Jordan để ý ánh mắt mọi người nhìn mình khi anh "boa" cho cô tiếp viên một con phỉnh đỏ trị giá năm đô Las Vegas. Họ nghĩ anh hào phóng. Nhưng đơn thuần là vì anh không muốn phải bận tâm suy nghĩ chuyện "boa" bao nhiêu mới được. Anh cảm thấy vui vui khi nhận ra "mệnh giá" của mình đã thay đổi. Anh vẫn luôn luôn tỉ mỉ và sòng phẳng nhưng không bao giờ hào phóng một cách vô tổ chức. Đã có một thời, phần anh trong chiếc bánh đời được định mức và chuẩn hoá trên bậc thang giá trị. Mọi người đều được hưởng phần thưởng tương ứng.

Thế nhưng cuối cùng, cái hệ định chuẩn đó lại trục trặc và không hiệu quả. Giờ đây anh ngạc nhiên về sự phi lý khi đã từng một lần xây dựng nhân sinh quan của mình trên cơ sở lập luận đó.

Ban nhạc đang đi qua chỗ tối để tiến lên sân khấu. Chẳng mấy chốc họ sẽ chơi rất to khiến không còn ai có thể nói chuyện được và đây vẫn luôn là dấu hiệu cho ba người đàn ông khởi động cuộc chơi nghiêm chỉnh.

- Đêm nay mình hên ghê, - Cully nói. - Mình trúng được mười ba lần bên cửa tài.

Jordan mỉm cười. Anh chàng luôn luôn đáp ứng lại vẻ hồ hởi ở Cully. Jodan thích Cully bởi vì hắn ta không bao giờ ngớt cái mồm huyên thiên và cứ từ con gà nhảy qua con lừa mà chẳng cần sự đáp ứng của ai cả. Điều này làm cho hắn ta trở nên cần thiết đối với nhóm bởi vì Jordan và Thằng nhóc Merlyn chẳng bao giờ nói nhiều. Và Diane, cô gái chơi bài cò mồi, lúc nào cũng tươi cười nhưng cũng chẳng nói nhiều.

Khuôn mặt nhẵn nhụi với những nét nhỏ nhắn hơi tối của Cully bỗng sáng lên với lời lẽ tự tình.

- Mình sắp sửa giữ con xúc xắc trong một giờ, - chàng ta nói. - Mình sẽ ném ra một trăm số mà không có số bảy. Các cậu hãy đánh theo mình.

Dàn nhạc jazz bắt đầu tấu rầm rộ như thể hậu thuẫn cho Cully.

Cully thích bài craps mặc dầu ngón nghề tinh xảo nhất của hắn là môn blackjack. Jordan thích bài baccarat vì môn này chỉ hên xui may rủi thuần tuý chứ không khéo tay tráo trở gì được. Merlyn mê roulett bởi vì cậu ta thấy đó là trò chơi mang tính ma thuật, huyền ảo nhất. Nhưng Cully đã tuyên bố tính "bất khả sai lầm" của y đêm nay đối với môn craps nên cả đám phải chơi môn này để cùng hưởng vận đỏ với chàng ta. Họ là bạn bè, không thể để chàng ta xúi quẩy. Họ đứng lên đi về khu chơi xúc xắc và cùng đánh cá theo Cully.

Diane mở lời, lần đầu tiên:

- Đánh theo anh ấy!

- Trông anh không có vẻ may mắn cho lắm đối với tôi - Merlyn nói với Jordan.

Chuyện cô ta kể ra vận may của Jordan cho những bạn chơi khác là trái với luật lệ. Có thể họ đòi vay tiền anh hoặc anh có thể cảm thấy bị xúi quẩy. Nhưng lần này Diane đã biết khá rõ về Jordan và thấy anh không quan tâm đến những chuyện mê tín thường thấy mà những tay chơi khác vẫn kiêng kỵ.

Cully Countdown lắc đầu:

- Mình có linh cảm. - Chàng ta vung cánh tay phải, lắc con xúc xắc tưởng tượng.

Nhạc vang lên dồn dập, họ không còn nghe được tiếng nói nhau. Nhạc giục giã họ bước ra khỏi cung thánh trong bóng mờ để bước vào sân khấu là sàn casino. Giờ đây có thêm nhiều tay chơi nữa, nhưng họ vẫn có thể di động thoải mái. Diane đã hết giờ nghỉ xả hơi, trở về bàn bài baccarat, đánh bài bằng tiền của nhà cái để lấp chỗ trống. Nhưng không hăng say cho lắm. Với tính cách là tay chơi cho nhà cái, thắng hay thua cũng là tiền của nhà cái, nàng "bất tử" một cách đáng ngán. Vì thế nàng bước chậm rãi hơn người khác.

Cully dẫn đường. Họ là ba chàng Ngự lâm pháo thủ trong bộ áo jacket thể thao màu lam sọc đỏ Vegas Winner. Cully nôn nao và tự tin. Merlyn đi theo với bước chân hầu như chẳng kém phần nôn nao, máu mê cờ bạc của cu cậu đang sôi sùng sục. Jordan đoạn hậu chậm rãi hơn, những phần thắng lớn nhét trong người làm cho chàng có vẻ nặng kí hơn hai người kia. Cully đang cố gắng đánh hơi một bàn chơi xúc sắc nào đang nóng. Cuối cùng hắn ta dẫn đồng bọn đến bàn bên kia đường vạch trống và cả ba nối đuôi nhau để Cully sẽ lấy con xúc xắc đầu tiên.

Lúc đầu họ đánh cò con, cuối cùng Cully nắm được những khối lập thể nho nhỏ màu đỏ trong đôi bàn tay "may mắn" của chàng ta.

Thằng nhóc đánh hai mươi đô. Jordan hai trăm. Cully năm mươi. Họ đều mua nhiều số, trừ số bảy. Cully cầm con xúc xắc lên, rất tin tưởng, và ném mạnh chúng vào góc bàn bên kia. Rồi nhìn trừng trừng và trố mắt ra kinh ngạc, không tin nổi ở đôi mắt mình: tai hoạ tệ hại nhất đã xảy ra. Số bảy. Thằng nhóc mất một trăm và bốn mươi, Cully ba con phỉnh năm mươi, Jordan rơi khỏi tay mất mười bốn con phỉnh một trăm đô.

Cully lầm bầm cái gì đó và bỏ đi xa. Bị chấn động sâu sắc giờ đây hắn ta quyết chí chơi môn blackjack thật thận trọng. Hắn ta phải đếm mỗi con bài từ chiếc giày để tìm ra ưu thế đối với người chia bài. Đôi khi được việc, nhưng đó là một cuộc xay nghiền dai dẳng. Đôi khi chàng ta nhớ rõ được từng con bài, hình dung ra cái nào còn lại trong chiếc giày, nắm được lợi thế hơn mười phần trăm đối với người chia bài (1) và chàng ta đánh một thế rất lớn mười phần trăm đó, chàng ta vẫn gặp xui và thua.

Và rồi đếm bài ở chiếc giày khác. Như vậy là giờ đây cánh tay phải thần kì của chàng ta đã phải bội chàng.

Cully chỉ còn phần tiền vốn của mình thôi. Một đêm trước mặt hắn ta quả là một cuộc lao dịch nặng nề. Anh phải chơi rất khôn ngoan và không được xui xẻo.

Merlyn cũng lạc lối về. Cũng chỉ còn phần tiền vốn của mình thôi, nhưng lại không có "kỹ năng chuyên môn" để hậu thuẫn cho cuộc chơi của mình. Cậu ta phải van vái thần may mắn thôi.

Jordan còn lại một mình, đi lòng vòng quanh casino chàng yêu cảm giác cô đơn giữa đám đông và tiếng rì rầm trong khu casino. Cô đơn mà không cô lập. Làm bạn với những người xa lạ độ một giờ rồi chẳng bao giờ tái ngộ. Những con xúc xắc vẫn lách cách không ngừng.

Anh lang thang qua khu chơi blackjack với những cái bàn hình móng ngựa sắp thành nhiều dãy thẳng hàng. Anh lắng nghe tiếng sột soạt của quân bài được kéo ra.

Cully đã chỉ cho anh và Merlyn "mánh" này. Một tay chia bài được móc ngoặc, với đôi tay nhanh nhẹn, khéo léo khó có thể bị phát hiện bằng mắt. Nhưng nếu bạn lắng nghe thật kĩ, bạn có thể nghe được tiếng lách cách rất nhẹ khi anh ta rút quân bài thứ nhì ra, từ dưới con bài trên cùng của cỗ bài.

Một hàng người dài đang được tạo thành để lấy suất ăn tối, mặc dầu mới bảy giờ. Chưa đến giờ sát phạt kịch liệt nơi casino. Chưa có tay đánh lớn. Và dĩ nhiên chưa có tay thắng lớn. Jordan vân vê mấy con phỉnh đen trong tay và nảy sinh chủ ý. Rồi anh bước tới một bàn chơi crap hầu như còn trống và cầm con xúc xắc đỏ lấp lánh lên.

Jordan kéo phéc-mơ-tuya túi ngoài của chiếc jacket Vegas Winner và rút mấy con phỉnh đen trị giá một trăm đô-la một con ra đặt.

Anh đánh hai trăm trên hai khe hỗ trợ con số chính và mua tất cả các số kia, mỗi số năm trăm đô. Anh nắm con xúc xắc trong gần một giờ. Sau mười lăm phút đầu luồng điện nơi bàn tay nóng bỏng của anh chạy qua khắp casino và chiếc, bàn đầy người.

Anh nhấn mạnh các độ cá của mình ở giới hạn năm trăm đô, và các con số ma thuật tiếp tục lăn ra khỏi bàn tay anh. Trong tâm hồn mình, anh khu trục con số bảy định mệnh xuống địa ngục. Anh cấm chỉ nó xuất hiện.

Mặt bàn của anh đầy tràn những con phỉnh đen. Các túi áo jacket của anh căng phồng hết cỡ. Cuối cùng tâm hồn anh không thể tập trung lâu hơn, không thể yểm quyết lâu hơn nữa con số bảy định mệnh, và con xúc xắc chuyển từ tay anh sang tay chơi kế tiếp. Những tay chơi khác đứng quanh bàn reo hò chúc mừng anh. Ông chủ sòng đưa cho anh mấy hộp kim loại để mang các con phỉnh của anh đến quầy đổi tiền của casino. Merlyn và Cully xuất hiện.

Jordan mỉm cười với hai người.

- Mấy cậu có đánh theo mình không vậy? - anh hỏi.

Cully lắc đầu:

- Tôi chỉ nhập sòng ở mười phút sau cùng, - anh ta nói. - Tôi trúng được chút ít.

Merlyn cười:

- Tôi không tin vào vận may của anh. Tôi đứng ngoài.

Merlyn và Cully hộ tống Jordan đến quầy thu quỹ để đổi tiền. Jordan bàng hoàng khi tổng số trị giá các hộp kim loại lên đến hơn năm mươi ngàn đô-la. Và mấy túi áo của anh vẫn còn căng phồng một lố phỉnh nhựa nữa.

Merlyn và Cully bỗng nhiên tràn đầy kinh sợ. Cully nói một cách nghiêm túc:

- Jordan, đây là lúc anh phải rời cái hang động đổ bác này. Anh mà ở lại thì sẽ của thiên trả địa thôi, uổng lắm.

Jordan cười:

- Đêm xuân hãy còn dài mà.

Anh vui khi thấy hai bạn mình nghĩ rằng số tiền kia lớn lao quan trọng đến thế. Nhưng sự căng thẳng tác động lên anh. Anh thấy thấm mệt. Anh nói:

- Mình về phòng ngủ một giấc ngắn để dưỡng sức đây Mình sẽ gặp các bạn và có lẽ chúng ta nên liên hoan một chầu vào lúc nửa đêm. OK?

Người phát ngôn trong quầy đã đếm và tính xong số thẻ và quy ra tiền và nói với Jordan:

- Thưa ông muốn lấy tiền mặt hay séc? Hay là ông muốn chúng tôi giữ hộ số đó cho ông ở đây và ghi biên nhận cho ông?

Merlyn nói:

- Lấy séc đi.

Cully nhíu mày với lòng tham đầy ưu tư, nhưng rồi nhận thấy rằng những chiếc túi trong bí mật của Jordan vẫn còn đầy các con phỉnh, nên anh chàng cười:

- Một tấm séc vẫn an toàn hơn, - Chàng ta nói.

Cả ba dứng đợi. Cully và Merlyn cặp hai bên sườn Jordan; anh nhìn qua bên kia họ đến khu casino sáng rực rỡ. Cuối cùng người thủ quỹ xuất hiện trở lại với một tấm séc răng cưa màu vàng và trao cho Jordan.

Ba người quay lại với nhau trong một cú quay người hầu như vô thức; áo jacket của họ ánh lên màu xanh sọc đỏ dưới các bảng đèn Keno sáng choang. Rồi Merlyn và Cully dìu hai bên khủy tay Jordan và đẩy anh vào một trong các hành lang hình nan hoa, đi về phòng anh.

Một căn phòng xa hoa lộng lẫy. Những bức màn màu vàng tươi, một chiếc giường khổng lồ mạ bạc. Đúng kiểu cho dân đánh bạc lớn. Jordan tắm nước nóng cho thư giãn rồi đọc sách để dỗ giấc ngủ. Nhưng các con chữ cứ như các em vũ nữ uốn éo nhảy múa loạn xạ mà giấc ngủ thì cứ ngập ngừng mãi chẳng đến. Ngủ làm sao được với số tiền quá lớn vừa rơi vào tay mình. Qua các cửa sổ, những ngọn đèn néon của khu biểu diễn thoát y vũ Vega strip liên tục hắt ra những luồng ánh sáng màu cầu vồng, rọi lên tường của phòng anh. Anh kéo các bức màn ra che cho kín hơn, nhưng trong đầu óc, anh vẫn còn nghe tiếng gầm rống lan qua khu casino mênh mông như tiếng lướt ván trên bãi biển dội vào. Rồi anh tắt hết mọi ánh sáng trong phòng, lên giường mằm. Một động tác đánh lừa hợp lúc thế nhưng đầu óc anh không để bị lừa. Anh không thể buông mình vào giấc ngủ.

Rồi Jordan lại cảm thấy nỗi lo sợ quen thuộc và nỗi xao xuyến khủng khiếp: nếu buông mình vào giấc ngủ, hồn chàng sẽ phiêu diêu vào cõi u minh nào đấy, mãi mãi không quay về. Chàng ao ước được ngủ nhưng lại không thể, chàng quá sợ hãi, quá kinh hoàng. Nhưng sẽ chẳng bao giờ chàng có thể hiểu được tại sao lại kinh hoàng khiếp đảm đến thế?

Chàng bị cám dỗ dùng thuốc ngủ trở lại, chàng đã làm như thế mới vào mấy ngày đầu của tháng nay thôi và đã ngủ được nhưng trong những cơn ác mộng không thể chịu nổi. Và ngày hôm sau chàng bị suy nhược, thất thần, chẳng thà mất ngủ còn hơn, như hiện nay.

Jordan lại bật đèn lên, ra khỏi giường và mặc quần áo vào Chàng móc hết mọi cái túi ra, cả bóp ví nữa.

Chàng kéo phéc-mơ-tuya mọi túi trong túi ngoài của chiếc áo jacket Vegas Winner và dốc ngược nó lại để cho mọi con phỉnh đen, xanh, đỏ đều trút ra trên tấm trải bằng lụa. Những tờ một trăm đô-la vun thành một đống cao, những con phỉnh đen và đỏ tạo thành những đường xoắn ốc kỳ lạ và nhtlng cấu thức thành ô với nhiều sắc độ khác nhau.

Để giết thời giờ, anh bắt đầu đếm tiền và xáo trộn các con phỉnh. Anh qua được một giờ.

Anh có hơn năm ngàn đô-la tiền mặt. Anh có tám ngàn đô-la bằng những con phỉnh đen trị giá một trăm đô và sáu ngàn đô-la bằng những con phỉnh xanh trị giá hai mươi lăm đô-la và gần một ngàn đô-la bẳng những con phỉnh dỏ trị giá năm đô-la. Anh ngạc nhiên. Anh lấy tấm séc lớn hình răng cưa của Khách sạn Xanadu ra khỏi ví và ngắm nghía hàng chữ đỏ và đen và tổng số tiền viết bằng mực xanh dương. Năm mươi ngàn đô-la. Anh "nghiên cứu" nó thật cẩn thận! Có ba chữ ký của ba người trên tấm séc. Một trong ba chữ ký đó khiến anh đặc biệt lưu ý bởi vì nó rất lớn và chữ viết rất rõ. Alfred Gronevelt.

Và anh vẫn còn bối rối. Anh nhớ có đổi một số con phỉnh lại thành tiền mặt nhiều lần trong ngày nhưng anh không nhận ra rằng đã hơn năm ngàn đô-la. Anh quay về chiếc giường và tất cả những đống phỉnh được xếp đâu ra đấy kia bây giờ đổ nhào vào nhau thành một đống lộn tùng phèo. Và bây giờ anh hài lòng. Anh vui sướng vì có đủ tiền để ở lại Las Vegas chơi bài dài dài chưa phải đi Los Angeles để bắt đầu công việc mới. Bắt đầu một sự nghiệp mới, một cuộc đời mởi, và có lẽ là một gia đình mới. Anh đếm lại toàn bộ số tiền, cộng với tấm séc. Anh có mệnh giá bảy mươi mốt ngàn đô-la. Anh có thể đánh bạc thả ga cho đến… thiên niên kỷ mới?

Anh tắt đèn chong cạnh giường để mình có thể nằm đó, trong bóng tối với tiền bạc chung quanh, ôm ấp thân hình mình. Anh cố ngủ để đánh bạt nỗi hãi hùng vẫn luôn đến bao trùm lên anh trong căn phòng tối. Anh nghe nhịp tim mình đập càng lúc càng dồn dập hơn cho đến cuối cùng anh phải bật đèn lên lại và đứng lên ra khỏi giường.

***

Tuốt trên cao, bao quát toàn cảnh thành phố, trong dãy phòng ở lầng mái, người chủ khách sạn Alfred Gronevelt cầm điện thoại lên. Ông gọi phòng chơi xúc xắc và hỏi Jordan trúng bao nhiêu. Ông được cho biết là Jordan đã thâu tóm hết phần lời của bàn xúc xắc trong cả đêm đó. Rồi ông gọi ngược về tổng đài bảo cô nối đường dây với Xanadu Số năm. Ông cầm máy chờ và lơ đãng nhìn ra cửa sổ tầng mái và có thể thấy dãy đèn néon đủ màu xanh đỏ tím vàng như con trăn gió phóng loang loáng trên các bảng hiệu của khu Trình diễn thoát y vũ Las Vegas. Và xa hơn là vòng cung sa mạc và núi đen thẫm đang quây bọc lại hàng vạn tay chơi bạc đang cố đánh đổ nhà cái, đang động não dữ dội và tháo mồ hôi dầm đìa để vồ lấy hàng triệu đô-la giấy bạc nằm khíêu khích nơi các quầy thủ quỹ. Qua bao năm tháng vô số tay chơi dã bỏ nắm xương tàn trên khu Thoát y vũ với ánh đèn màu lòe loẹt đó.

Thế rồi ông nghe giọng của Cully qua điện thoại. Cully là Xanadu Số năm (Gronevelt là Xanadu Số một).

- Cully này, chiến hữu của anh quất chúng ta nặng tay đấy, - Gronevelt nói. - Anh chắc chắn chơi hợp lệ đấy chứ?

Giọng Cully thấp xuống:

- Vâng, thưa ông Gronevelt. Anh ta là bạn tôi và chơi trung thực. Anh ta sẽ trả lại thôi trước khi rời khỏi nơi đây.

Gronevelt nói:

- Hắn muốn gì cũng ráng chiều ý hắn. Đừng để hắn sổng ra đi lang thang xuống khu Thoát y vũ, ném tiền của chúng ta cho đám "tuốt tuồn tuột" vơ hết. Hãy vây bọc cho kỹ vào.

- Đừng lo! - Cully nói.

Nhưng Gronevelt bắt được ý hài hước trong giọng nói của hắn ta. Trong một thoáng ông hơi thắc mắc về Cully. Cully là điệp viên của ông ta có nhiệm vụ kiểm tra ngầm mọi hoạt động của casino và báo cáo những tay chia bài đang móc ngoặc với chính y để chơi phản lại nhà cái. Ông đang có những kế hoạch lớn cho Cully một khi chiến dịch này kết thúc. Nhưng bây giờ thì ông thắc mắc:

- Còn tay kia nữa, trong băng của anh - Thằng nhóc đó thì sao? - Gronevelt nói. - Hắn chơi cỡ nào, ở góc độ nào, hắn làm quái gì ở đây trong ba tuần?

- Hắn chơi cò con thôi. - Cully nói. - Một thằng nhóc dễ thương. Không có gì phải lo lắng về hắn, ông Gronevelt à. Tôi biết phải làm gì cho ông mà.

- OK, - Gronevelt nói.

Khi gác máy, ông ta mỉm cười Cully chưa biết rằng mấy ông chủ ở các khu đánh bài than phiền về chuyện Cully được phép ở lì trong khu casino bởi vì chàng ta là một nghệ sĩ bị phá sản? Rằng tay quản lý khách sạn đã than phiền về Merlyn và Jordan được phép giữ quá lâu những căn phòng mà khách sạn đang rất cần vì có nhiều tay chơi mới vẫn đến mỗi cuối tuần. Điều mà không một ai biết đó là Gronevelt đang bối rối về mối giao tình giữa ba người kia. Quan hệ đó kết thúc như thế nào sẽ là cuộc trắc nghiệm thực sự về Cully.

***

Trong phòng mình, Jordan đang cố chống trả cơn thôi thúc anh trở lại casino. Anh ngồi vào một trong các ghế bành và đốt một điếu thuốc. Mọi chuyện bây giờ có vẻ xuôi chèo mát mái. Anh có bạn bè, anh gặp vận đỏ, thắng được số tiền lớn. Anh tự do, không phải lo nghĩ chuyện kiếm sống, chuyện gia đình… Anh chỉ hơi mệt mỏi thôi. Anh cần một cuộc nghỉ ngơi vui chơi thoải mái ở một nơi nào đó, đi xa càng tốt.

Anh nghĩ đến Cully, Diane và Merlyn. Bây giờ họ đang là ba "hảo bằng hữu", anh mỉm cười với ý nghĩ đó.

Họ biết nhiều điều về anh. Họ đã cùng nhau qua nhiều giờ nơi phòng giải khát của casino, tán gẫu, thư giãn giữa các cuộc chơi căng thẳng. Jordan không bao giờ tỏ ra ấm ở, giữ kẽ. Anh sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi, mặc dầu anh không bao giờ hỏi lại câu nào. Thằng nhóc vẫn thường hỏi nhiều câu rất nghiêm trọng, với sự quan tâm thấy rõ khiến Jordan không bao giờ công kích.

Để làm một cái gì đó giải khuây, anh lấy chiếc vali của mình từ trong tủ ra, mở nắp. Vật đầu tiên đập vào mắt anh là khẩu súng nhỏ cầm tay anh đã mua trên đường về nhà. Anh chưa từng nói với bạn bè về chuyện súng đạn bao giờ. Vợ anh đã bỏ anh và mang theo đàn con. Nàng bỏ anh để theo người khác và phản ứng đầu tiên của anh là giết tên "tiếm vị" kia. Một phản ứng thật xa lạ với bản chất thật của anh khiến cho đến bây giờ anh vẫn không ngớt ngạc nhiên. Tất nhiên là anh chỉ nghĩ thế chứ chưa hề làm gì. Vấn đề bây giờ là làm sao thoát khỏi cái của nợ này đây. Tốt nhất là tháo rời nó ra và ném nó rải rác mỗi nơi một mảnh. Anh không muốn mình phải chịu trách nhiệm về chuyện có ai đó bị thương tổn bởi khẩu súng mình mua. Nhưng ngay bây giờ, anh đặt nó vào một góc và ném mấy bộ quần áo vào trong vali, rồi ngồi xuống lại.

Anh không chắc là mình muốn rời Las Vegas cho lắm rời xa cái hang động được thắp sáng rực rỡ của khu casino. Anh đang thoải mái ở đấy. Anh đang an toàn ở đấy. Việc anh chẳng cần thực sự để tâm đến chuyện thắng thua là chiếc áo khoác mầu nhiệm của anh chống lại số mệnh. Và nhất là cái hang động casino này khép lại mọi nỗi thống khổ khác và mọi cạm bẫy khác của đời sống đối với anh.

Anh lại mỉm cười, nghĩ đến chuyện Cully lo lắng cho số tiền thắng của anh. Xét cho cùng anh nên làm gì với số tiền này? Tốt nhất có lẽ là gửi về cho vợ anh.

Nàng là một người phụ nữ tốt, một bà mẹ thương con, một người đàn bà có đức hạnh và cá tính. Sự kiện nàng đã bỏ anh sau hai mươi năm chung sống để kết hôn với người yêu cũ cũng không hề và không thể thay đổi những nhận định đó. Bởi vì vào lúc này đây, khi nhiều tháng đã trôi qua, Jordan thấy rõ vợ anh đã quyết định đúng. Nàng có quyền hưởng hạnh phúc chứ. Quyền được sống cuộc đời mình ở mức phát triển trọn vẹn mọi khả năng nhất. Và nàng đã nghẹt thở khi sống với anh. Không phải vì anh là người chồng xấu. Mà chỉ là một người chồng không hợp lý. Anh đã là một người cha tốt. Đã thực hiện mọi nghĩa vụ của mình. Lỗi duy nhất của anh đó là sau hai mươi nãm anh không đem lại được hạnh phúc cho người vợ nữa.

Bạn bè biết chuyện của anh. Ba tuần anh trải qua với họ ở Vegas hình như là cả ba năm và anh đã có thể nói với họ hơn là với ai khác ở nhà. Chuyện tâm tình tuôn ra dễ dàng hơn bên cốc rượu, sau nhung bữa ăn nhẹ vào nửa đêm.

Anh biết rằng họ nghĩ anh thuộc loại máu lạnh. Khi Merlyn hỏi về chuyện anh có quyền được thăm viếng con hay không, toà xử thế nào, Jordan chỉ nhún vai. Merlyn hỏi anh có khi nào gặp lại vợ con thì Jordan cố gắng trả lời một cách thành thật:

- Tôi không nghĩ thế, - anh nói - Họ ổn cả mà.

Và Merlyn bắn vào anh:

- Còn anh, anh có cảm thấy ổn không?

Và Jordan cười, không hề giả vờ hay gượng gạo, anh cười cái cách mà Thằng nhóc nhắm bắn vào anh.

Vẫn còn cười, anh nói:

- Vâng, mình thấy ổn lắm.

Và rồi, một lần cho trót, anh bắn trả Thằng nhóc về cái tội tọc mạch đến khiếm nhã của cu cậu. Anh nhìn thẳng vào mắt cậu ta và nói, lạnh băng:

- Không còn gì để xem nữa đâu. Điều cậu thấy là thế này đây. Chẳng có gì rắc rối cho lắm. Người ta chẳng quan trọng mấy đối với người khác. Khi cậu lớn hơn tí nữa, cậu sẽ thấy cái "đạo sống" nó là như thế?

Merlyn nhìn lại anh và cúi mặt xuống rồi nói rất nhỏ nhẹ:

- Đó có phải là điều làm anh mất ngủ, đúng không?

Jordan nói:

- Ừ, đúng vậy.

Cully sốt ruột nói:

- Ai mà ngủ được nơi cái tổ quỷ này. Hãy tọng vào họng vài viên thuốc ngủ.

- Chúng mang lại cho tôi nhiều cơn ác mộng, - Jordan nói.

- Không không phải đâu, - Cully nói. - Tôi muốn nói là mấy ả kia kìa.

Anh ta chỉ vào ba em mồi chài đang ngồi uống nước quanh bàn. Jordan cười. Đó là lần đầu anh nghe câu "đặc ngữ" đó của Las Vegas. Bây giờ anh mới hiểu tại sao thỉnh thoảng Cully ngừng chơi với lời thông báo rằng chàng ta sắp uống vài viên thuốc ngủ.

Nếu có khoảng thời gian dành cho "những viên thuốc ngủ biết đi" thì đó là tối nay, nhưng Jordan đã thử chuyện ấy trong tuần lễ đầu tiên ở Vegas. Anh vẫn có thể làm chuyện ấy bất kỳ lúc nào, nhưng chưa bao giờ anh thực sự cảm thấy nhẹ người, hết căng thẳng, sau đó. Một đêm nọ, có một em mồi chài, bạn của Cully, dụ anh chơi trò "nhất kiếm xuyên nhị bàn"(1).

Nàng ta dẫn theo cô bạn thân. Chỉ thêm năm mươi đô-la thôi và hai em sẽ phục vụ anh chu đáo vì anh quá đỗi dễ thương! Anh OK. Thật khoái với bốn và hai chung quanh mình. Quay bên nào cũng gặp. Rất tiện nghi và xin anh cứ tuỳ nghi. Rồi một em đong đưa đầu anh trên ngực mình. Em ru anh ngủ, một tối mùa thu… trong khi em kia cưỡi lên người anh, dạng hai chân ra. Và đến giây phút căng thẳng cuối cùng, như cuối cùng chàng đã đến, ít ra là đang đầu hàng xác thịt mình, anh bắt gặp cô nàng đang dạng chân cưỡi lên người anh, trao đổi một nụ cười ranh mãnh với cô gái anh đang gối đầu lên ngực. Và anh hiểu rằng, giờ đây khi anh đã xong phần mình đến lượt hai nàng có thể hành lạc như ý thực sự họ muốn. Anh nhìn ngắm trong khi cô gái vừa rồi cưỡi trên người anh nhào qua đè lên cô kia với vẻ đam mê cuồng nhiệt còn hơn cả khi với anh. Anh không hề tức giận mà thấy có vẻ ngồ ngộ, hay hay. Nhìn theo góc độ nào đó, hình như sự phối cặp đó lại tự nhiên hơn. Anh đã cho thêm hai cô một trăm đô-la. Hai nàng nghĩ vì họ đã rất điệu nghệ với anh, nhưng thật ra vì nụ cười tinh nghịch kín đáo kia, vì sự phải bội ngọt ngào kia. Và cô gái nằm dưới trong cơn phấn khích sau cùng lúc cực khoái đã quơ bàn tay ra một cách mù quáng bấu chặt lấy bàn tay Jordan, và anh đã xúc động đến phát khóc.

Và tất cả các "viên thuốc ngủ biết đi" đều đã giở mọi tuyệt kỹ để chiều anh hết ý. Họ là chất kem ngọt ngào "bổ dưỡng", lắm em còn vương mùi hương đồng cỏ nội chưa dễ một sớm một chiều đã phôi pha… Có em tóc còn thơm mùi gỗ quý, có em chân còn dính tí bùn non…

Các nàng cho ta chút tình vụn, nắm tay ta dung dăng dung dẻ chẳng thiếu chút hồn nhiên, để cùng nhau đi dùng bữa ăn chiều, đi nghe ca nhạc đôi chút, rồi vào đánh bạc cò con tí tỉnh với những đồng tiền vừa được boa. Rất dễ thương và sòng phẳng, không ao giờ dám lừa đảo hay xoáy cái gì của bạn. Một cuộc trao đổi thuận mua vừa bán, từ đó nảy sinh cảm tình giữa những bạn hàng quen mối làm ăn có uy tín với nhau. Tất cả chỉ tốn có một tờ trăm đô-la, đó là "ong mật" (a honeybee), theo từ điển tiếng lóng của Cully. Một cuộc mặc cả. Ôi, Chúa, đó là một cuộc mặc cả. Nhưng anh không bao giờ có thể để cho mình bị đánh lừa ngay cả trong những chuyện nhỏ nhặt.

Dẫu sao họ vẫn tốt hơn những viên thuốc ngủ bình thường, họ không đem lại ác mộng cho anh. Nhưng họ cũng không giúp anh ngủ được. Ròng rã cả ba tuần liền, anh thực sự không ngủ được tí nào.

Mỏi mệt, Jordan lại mở cái hộc trên đầu giường ra. Anh không nhớ mình đã rời chiếc ghế. Lẽ ra anh nên tắt đèn và cố dỗ giấc ngủ. Nhưng sự kinh hoàng sẽ trở lại.

Không phải một nỗi sợ tinh thần mà là một khủng hoảng thể chất mà thân xác anh không chế ngự nổi, ngay cả khi tâm hồn anh trụ vững và tự hỏi cái gì đang xảy ra. Không còn lựa chọn nào khác. Anh phải xuống lại khu casino.

Anh cất tấm séc năm mươi ngàn đô-la vào vali. Anh sẽ chơi bằng tiền mặt và các con phỉnh.

Jordan thu tóm mọi thứ khỏi chiếc giường và nhét đầy vào các túi áo jacket. Anh đi ra khỏi phòng mình, xuống sảnh đường và tiến vào phòng casino: Những tay chơi thứ thiệt giờ đây đang vây quanh các bàn vào nhung giờ đầu tiên của buổi rạng sáng. Họ đã thu xếp mọi việc đâu vào đấy cả rồi, họ đã rảnh rỗi khỏi mọi bận tâm khác để dành toàn bộ sức lực chiến đấu chống lại "số mệnh"! Tay cầm tiền, họ đứng ở hàng trước sát mấy chiếc bàn chơi crap. Những ông chủ thầu khu đó, với những que đánh dấu màu trắng, đang chờ họ chơi cạn hết mấy con phỉnh để rồi ký đổi một ngàn hoặc vài ba ngàn đô-la khác. Trong những giờ tới, có những người sẽ ký đổi cả gia tài mà không bao giờ biết tại sao. Jordan nhìn về mút đầu kia của casino.

Một vòng quây màu xám bạc thật trang nhã bao bọc chiếc bàn chơi baccarat hình bầu dục ngăn cách với sàn chơi casino. Một vệ sĩ có vũ trang đứng ở cổng vào, bởi vì ở bàn baccarat các tay chơi dùng tiền mặt là chính, chỉ xài mấy con phỉnh thế tiền lẻ thôi. Ở hai đầu chiếc bàn trải nỉ xanh dương đó có hai chiếc ghế tháp cao, ngồi trong hai chiếc ghế đó là hai tay kiểm soát viên, nhìn chăm chăm mấy tay hồ kè và việc trả tiền; sự tập trung của họ chỉ được nguỵ trang mong manh qua bộ đồng phục mà mọi nhân viên làm việc trong casino đều mặc bên trong vòng quây baccarat. Hai tay kiểm soát nhìn lom lom mọi động thái của ba tay hồ lì và tay chủ sòng điều hành hoạt động của bàn baccarat. Jordan bắt đầu đi về hướng họ, cho đến khi anh có thể thấy rõ khuôn mặt của mấy tay hồ lì trong bộ đồng phục.

Bốn vị Thánh thắt cà-vạt đen hát tụng ca mừng người thắng, hát ai ca chia buồn kẻ thua. Là những anh chàng đẹp trai, với động tác nhanh nhẹn duyên dáng, họ làm vui cho trò chơi mà họ quản lý. Nhưng trước khi Jordan có thể đi qua chiếc cổng xám bạc vương giả, Cully và Merlyn bước tới trước mặt anh.

Cully nói nhỏ nhẹ:

- Họ chỉ còn muời lăm phút nữa sẽ ra đi. Hãy đứng ngoài cuộc. Bàn baccarat đóng cửa lúc ba giờ sáng.

Đúng lúc đó một trong các vị Thánh thắt cà-vạt đen kêu vọng ra, gọi Jordan:

- Chúng tôi sắp dỡ chiếc giày cuối đây, ông Jordan à. Chiếc giày của chủ ngân hàng đấy.

Anh ta cười lớn. Jordan có thể thấy tất cả các quân bài được rút ra trên bàn, để sấp, rồi được cào lại trước khi xào bài, mặt trong bày ra.

Jordan nói:

- Hai cậu vào cùng chơi với mình nhé! Mình sẽ đặt tiền và ta sẽ đánh cá tới mức giới hạn mỗi cửa bài.

Điều đó có nghĩa là với mức giới hạn là hai ngàn đô-la mỗi cửa, Jordan sẽ đánh cá mỗi lần sáu ngàn đô-la.

- Anh điên à? - Cully nói. - Anh có thể trắng tay đấy!

- Ngồi xuống đó đi, - Jordan nói. - Mình sẽ cho cậu mười phần trăm nếu cửa cậu thắng.

- Không, - Cully nói và lảng ra xa, đứng tựa người vào tường phòng baccarat.

Jordan nói:

- Merlyn, ngồi đánh cho tôi một cửa nhé?

Thằng nhóc Merlyn mỉm cười với anh và nói nhỏ:

- Vâng đệ sẵn sàng làm lính đánh thuê cho anh.

- Cho cậu mười phần trăm, - Jordan nói.

- OK, đàn anh điệu nghệ quá, - Merlyn đáp.

Cả hai đi qua cổng và ngồi xuống bàn. Diane cầm chiếc giày mới đựng bài lên và Jordan ngồi xuống ở chiếc ghế cạnh bên cô để có thể cầm chiếc giày tiếp theo. Diane nghiêng đầu về phía anh.

- Jordan, đừng chơi nữa! - nàng nói.

Anh không đánh cá nơi cửa nàng lúc nàng rút những quân bài xanh ra khỏi chiếc giày. Diane thua, mất hai mươi đô-la của casino và mất quyền rút bài. Cô đưa chiếc giày qua cho Jordan.

Jordan bận rộn moi hết các túi ngoài của chiếc jacket Vegas Winner. Những con phỉnh đen và xanh, những tờ trăm đô-la. Anh đặt một chồng tiền cược trước mặt Merlyn. Rồi anh cầm chiếc giày lên và đặt hai mươi con phỉnh đen vào lô Chủ ngân hàng.

- Cậu cũng làm thế đi, - anh bảo Merlyn.

Merlyn đếm hai mươi con phỉnh loại một trăm đô-la từ đống bạc trước mặt và đặt chúng vào lô Chủ ngân hàng.

Tay hồ lì đưa một lòng bàn tay lên cao để cho Jordan biết là đã đến giới hạn mức đặt tiền. Rồi nhìn khắp lượt bàn để xác định là mọi người đã đặt tiền xong hết. Lòng bàn tay hắn ta rớt xuống ở một cửa đang vẫy gọi và hắn hô to với Jordan:

- Một quân bài cho Tay chơi.

Jordan rút các quân bài ra. Một cho hồ lì, một cho anh. Rồi một con khác nữa cho anh. Tay hồ lì nhìn quanh bàn rồi ném hai quân bài của mình cho người đánh cược số tiền cao nhất vào cửa Tay chơi. Người đó quan sát ngắm nghía mấy quân bài thật cẩn thận rồi cười và úp hai con bài đó xuống. Anh Tay chơi có khuôn mặt tỉnh như Tây, có vẻ chắc ăn lắm. Jordan lật ngửa hai con bài của mình lên mà không thèm nhìn vào. Hai con bài hình.

Thế là bù trất. Jordan đẩy chiếc giày qua Merlyn. Merlyn đẩy chiếc giày qua tay chơi kế bên. Có một lúc Jordan cố gắng ngưng chiếc giày lại, nhưng có điều gì đó trên nét mặt của Merlyn chận tay anh lại. Không một ai trong hai người nói gì.

Cái hộp màu nâu vàng tự động di chuyển chầm chậm quanh bàn. Tiếng bạc đang xen kẽ. Chủ Ngân hàng thắng.

Rồi Tay chơi thắng. Không có thắng liên tiếp cho bên nào. Jordan vẫn cứ đánh một mặt Chủ ngân hàng, nhồi thêm lên, và đã thua hơn mười ngàn đô từ chính chồng tiền và phỉnh trước mặt anh. Merlyn vẫn từ chối đánh cược. Cuối cùng Jordan có lại chiếc giày lần nữa.

Anh đánh cược đến mức giới hạn hai ngàn đô. Anh với tới đống tiền của Merlyn, lấy ra một xấp tiền mặt và ném vào lô Chủ ngân hàng. Anh thoáng nhận ra là Diane không còn ở bên cạnh anh nữa. Rồi anh sẵn sàng. Anh cảm thấy một con sóng quyền lực cuồn cuộn dâng lên, rằng anh có thể khiến các con bài ra khỏi chiếc giày theo ý mình muốn theo kiểu "cầu được ước thấy".

Bình thản không chút xúc động, Jordan cho qua hai mươi bốn tua. Bàn baccarat đông người dần và mọi tay chơi ở bàn đều đang cá cược vào Nhà băng, theo vận đỏ.

Đến tua thứ mười, tay hồ lì trong khu giữ tiền cúi người xuống kéo ra những con phỉnh đặc biệt có mệnh giá năm trăm đô-la. Chúng có màu trắng kem viền vàng trông thật đẹp.

Cully đang tựa vào hàng rào chấn song, quan sát. Diane dứng với anh Tay chơi. Jordan vẫy tay cho họ. Lần đầu tiên anh thấy hứng khởi. Tận cùng đầu kia của cái bàn một tay chơi Nam Mỹ hét lên "Maestro" khi Jordan đập vào vòng thứ mười ba của anh ta. Và rồi cả bàn trở nên yên ắng đến kỳ lạ khi Jordan nhấn Tay chơi xuống.

Anh rút bài từ chiếc giày ra, không chút cố gắng, đôi bàn tay anh dường như chảy tự do. Không một lần nào có quân bài nhảy hay trượt lúc anh rút nó ra từ chỗ giấu trong chiếc giày gỗ. Không bao giờ anh tình cờ làm lộ mặt trước của quân bài nào. Mỗi lần anh đều lật nhanh con bài của mình cũng với một động tác nhịp nhàng như thế, không cần nhìn vào bài, để cho người hồ lì trưởng xướng lên tên và số của quân bài. Khi người hồ lì nói "Một quân bài cho Tay chơi", Jordan rút nó ra dễ dàng không hề cường điệu, màu mè. Khi người hồ lì xướng "Một quân bài cho Chủ ngân hàng" Jordan lại rút bài ra nhanh gọn, nhẹ nhàng, không chút xúc động.

Cuối cùng đến lượt thứ hai mươi lăm. Anh rút cho Tay chơi đang ở cửa người hồ lì, vì mọi người đều đang vào cửa Chủ ngân hàng.

Jordan đẩy chiếc giày qua Merlyn; anh chàng từ chối và đẩy qua cửa kế tiếp. Merlyn cũng có một chồng các con phỉnh năm trăm đô-la chạy chỉ vàng trước mặt vì họ đã thắng ở cửa Chủ ngân hàng, họ phải trả cho nhà cái 5% tiền xâu. Tay hồ lì đếm các thẻ tiền xâu so với các số ghế. Hơn năm ngàn đô-la. Điều đó có nghĩa là Jordan đã thắng một trăm ngàn đô-la trong canh bạc nóng bỏng đó. Và mọi con bạc quanh bàn đều được hưởng ké vận đỏ của anh.

Cả hai kiểm soát viên ở trên mấy chiếc ghế cao đều gọi điện thoại cho tay quản lý casino và chủ Khách sạn, báo tin buồn. Một đêm xui xẻo ở bàn baccarat là một trong số ít những nguy cơ nghiêm trọng đối với biên độ lợi nhuận của casino. Không phải điều ấy chẳng có nghĩa gì đối với việc kinh doanh cờ bạc trường kỳ, song le đối với những tai họa tự nhiên, vẫn cần một con mắt

trông chừng. Đích thân ông chủ lớn Gronevelt từ trên tầng mái chót vót hạ cố bước xuống, lặng lẽ đi vào vòng quầy baccarat, đứng trong một góc với chủ sòng bài, quan sát Jordan thấy ông ta từ khóe mắt mình và nhận ra nhân vật đó là ai, vì Merlyn đã có lần nói cho anh biết.

Chiếc giày đi quanh cái bàn và vẫn còn lại một chiếc giày Chủ Ngân hàng rụt rè. Jordan đếm một số tiền nhỏ. Rồi anh lại cầm chiếc giày.

Lần này, không chút cố gắng và thật dễ dàng, đôi bàn tay vung ra nhanh chóng, nhẹ nhàng như một vòng đạn đạo, anh thực hiện giấc mộng của tay chơi baccarat. Anh rút mọi quân bài trong chiếc giày ra và đều thắng điểm. Jordan xếp hàng chồng, hàng chồng con phỉnh vàng trắng chất lên cao trước mặt mình.

Jordan ném bốn con phỉnh trắng vàng vào người hồ lì trưởng:

- Biếu các bạn đấy! - anh nói.

Người chủ sòng baccarat nói với anh:

- Này ông Jordan, sao ông không ngồi đây, chúng ta đếm rồi đổi toàn bộ số tiền này thành séc?

Jordan nhét cái đống khổng lồ những tờ một trăm đô-la vào áo jacket, rồi những con phỉnh đen trị giá một trăm đô-la, để lại vô số những con phỉnh trắng vàng với mệnh giá năm trăm đô trên bàn:

- Ông có thể đếm số đó giùm tôi! - anh nói với chủ sòng. Anh đứng lên để giãn chân tay, gân cốt, rồi nói, với giọng rất bình thường - Ông có thể đưa ra chiếc giày khác?"

Tay chủ sòng do dự và quay qua tay quản lý casino đang đứng bên Gronevelt. Tay quản lí casino lắc đầu để tỏ ý không. Ông ta theo dõi Jordan và điểm danh chàng như là "tay chơi thoái hóa". Chắc chắn Jordan sẽ ở lại Las Vegas cho đến khi thua lại hết. Nhưng đêm nay vận đỏ chàng đang "vượng". Tại sao lại tính ăn thua vào lúc vận may của người đó đang lừng? Ngày mai các con bài sẽ ra theo thứ tự khác hẳn. Chàng ta không thể hên mãi và rồi chẳng chóng thì chầy kết cục chàng ta cũng sẽ đến thôi, việc gì phải nóng vội. Tay quản lý casino đã từng thấy chuyện này quá nhiều lần rồi. Nhà cái có vô số cơ hội để thâu tóm cả thiên hạ hàng đêm với tiền xâu và những vận may:

- Dẹp sòng! - Tay quản lý casino hạ lệnh.

Jordan cúi đầu. Anh quay sang nhìn Merlyn và nói:

- Tính đi và cậu lấy mười phần trăm của tiền thắng nơi cửa cậu.

Ngạc nhiên thay, anh bắt gặp một tia nhìn hầu như đầy muộn phiền trong đôi mắt Merlyn và chàng ta nói:

- Không.

Mấy tay hồ lì đang tính những con phỉnh trắng vàng của Jordan và chồng chúng lại thành đống để các kiểm soát viên, chủ sòng và người quản lý casino có thể theo dõi việc đếm tiền của họ. Cuối cùng họ cũng đếm xong.

Chủ sòng nhìn lên và nói có vẻ cung kính:

- Thưa ông Jordan, ông được hai trăm chín mươi ngàn đô-la Ở đây. Ông có muốn ghi chung vào một tấm séc duy nhất không?

Jordan gật đầu. Các túi trong của anh vẫn còn đầy cộm những con phỉnh khác và cả tiền giấy nữa. Anh không muốn trả chúng lại.

Những tay chơi khác đã rời cái bàn và vòng quây khu baccarat khi người quản lý casino nói rằng sẽ không đưa chiếc giày nào ra nữa. Chủ sòng vẫn còn thì thầm.

***

Cully đã vượt qua đường ray và đứng bên cạnh Jordan, cũng như Merlyn đã làm thế, cả ba trông giống những thành viên của một băng đảng đường phố nào đấy trong những chiếc jacket thể thao Vegas Winner.

Giờ đây Jordan thực sự thấm mệt, quá mệt để còn có thể chơi crap hay roulette. Còn bài blackjack thì quá chậm với giới hạn năm trăm đô-la. Cully nói:

- Anh đừng chơi nữa. Ôi lạy Chúa! Tôi chưa từng bao giờ thấy chuyện như thế này. Từ đây anh chỉ có thể đi xuống. Không thể đỏ như thế này nữa được đâu.

Jordan gục gặt đầu, tán đồng.

Nhân viên an ninh mang những cái khay đựng các con phỉnh của Jordan và các biên nhận có chữ ký của chủ sòng về quầy thủ quỹ. Diane nhập vào với nhóm và hôn Jordan một cái. Cả bọn đều khích động kinh khủng. Vào thời khắc đó Jordan cảm thấy thực sự hạnh phúc. Anh thực sự là người hùng. Mà không cần phải chém ai. Làm người hùng ư quá dễ? Chỉ cần đánh cược một số tiền lớn vào việc phân phối bài. Và thắng.

Họ phải đợi tấm séc từ quầy thủ quỹ quay lại.

Merlyn chế nhạo Jordan:

- Anh giàu quá rồi, anh có thể làm bất kỳ điều gì anh muốn. Có tiền mua tiên cũng được mà!

Cully nói:

- Anh ta phải rời Vegas đi thôi.

Diane siết chặt tay Jordan. Nhưng Jordan nhìn trừng trừng vào Gronevelt, đang đứng cùng với người quản lý casino và hai kiểm soát viên đã bước xuống mấy chiếc ghế cao của họ. Bốn người đang thì thầm với nhau. Bỗng nhiên Jordan nói lớn:

- Xanadu Số một, xin mời quyết đấu tay đôi với tôi, dám không?

Gronevelt tách ra khỏi mấy người kia và khuôn mặt ông ta đột ngột hiện ra giữa vùng ánh sáng chói chang.

Jordan có thể thấy rằng ông ta già hơn là anh từng nghĩ.

Ước chừng khoảng bảy mươi, nhưng trông hãy còn hồng hào khoẻ mạnh lắm. Một mái tóc bạc nhưng cứng, dày, được chải gọn ghẽ. Khuôn mặt đỏ au một màu da thuộc chín. Nét mặt kiên quyết, thân thể tráng kiện, chưa hề oằn xuống với gánh nặng tuổi tác. Jordan có thể thấy rằng ông ta chỉ phản ứng nhẹ nhàng khi bị gọi tên bằng mã số điện thoại.

Gronevelt cười với anh. Ông ta không có sắc giận.

Nhưng có điều gì đó nơi ông đáp ứng lại thách thức, mang trả lại dòng nhựa rạo rực của thời thanh xuân sôi nổi, khi ông cũng là một tay chơi thoái hoá. Giờ đây ông đã tạo ra cho mình một thế giới an toàn, một cuộc sống ở trong tầm kiểm soát. Ông từng hưởng thụ mọi khoái lạc, từng cánh vác nhiều trách nhiệm, từng hứng chịu một số nguy cơ nhưng rất hiếm khi gặp được cơn "run rẩy" thuần tuý của một chấn động tâm thần đột ngột mà sâu sắc như thế này. Sẽ dịu ngọt biết mấy nếu ta nếm lại một lần. Vả chăng ông cũng muốn xem Jordan sẽ đi xa đến đâu, cái gì khiến anh chàng vớ đậm được đến thế?

Gronevelt nói nhẹ nhàng:

- Anh có tấm séc ghi hai trăm chín mươi ngàn đô-la từ quầy thủ quỹ, đúng không?

Jordan gật đầu.

Gronevelt nói:

- Tôi sẽ bảo chúng cho bài vào một chiếc giày. Chúng ta chơi một cửa thôi. Ăn đúp hay thua sạch. Nhưng anh phải bắt cửa Tay chơi, tôi cửa Chủ ngân hàng. Chịu không?

Jordan gật đầu.

Mọi người trong vòng quây baccarat tỏ vẻ sửng sốt.

Mấy tay hồ lì nhìn ông chủ lớn Gronevelt với vẻ ngạc nhiên thích thú. Ông ta không chỉ đang chơi trò phiêu lưu một số tiền khổng lồ, trái với mọi luật lệ về casino, mà còn có nguy cơ mất giấy phép mở sòng bài nếu như Uỷ ban quốc gia về cờ bạc khắt khe về chuyện đánh cá này.

Gronevelt mỉm cười với họ và hạ lệnh:

- Xào bài và cho vào giày đi.

Vào lúc đó ông chủ sòng baccarat đi qua cổng của vòng quây và đưa cho Jordan tờ giấy màu vàng hình thuôn, cạnh răng cưa: chính là tấm séc trị giá hai trăm chín mươi ngàn đô. Jordan nhìn vào nó chỉ vài giây ngắn ngủi thôi rồi đặt vào lô Tay chơi và mỉm cười với ngài Gronevelt:

- Chúng ta vào cuộc nhé?

Jordan thấy Merlyn lui ra xa và tựa vào rào chắn màu xám bạc. Một lần nữa Merlyn lại chú tâm "nghiên cứu" anh chàng lạ đời này. Diane bước xéo qua bên mấy bước, sững sờ. Jordan thích thú khi thấy họ ngạc nhiên đến thế. Điều duy nhất mà anh không thích đó là đánh cá chống vận đỏ của chính mình (vì vừa rồi anh đánh vào cửa Chủ Ngân hàng và thắng lớn còn bây giờ phải chấp nhận thách thức của Gronevelt và đánh vào cửa Tay chơi).

Anh ghét ý tưởng mình lại rút bài ra khỏi chiếc giày và đánh cá chống lại cửa mình. Anh quay sang Cully.

- Cully rút bài giùm mình đi, - anh nói.

Nhưng Cully kinh hoảng bỏ đi xa. Rồi Cully liếc nhìn tay hồ lì đã trút các quân bài khỏi cái hộp nhỏ dưới bàn và đang chồng chúng lên để xào bài. Hình như Cully rùng mình trước khi quay người lại để đối mặt với Jordan.

- Jordan, một cú bịp đấy.

Cully nói khẽ như thể anh ta không muốn có ai nghe. Anh bắn một tia nhìn điện chớp vào Gronevelt; lão ta đang trừng trừng nhìn Cully. Nhưng anh vẫn tiếp tục:

- Nghe này, Jordan. Cửa Chủ ngân hàng lúc nào cũng có lợi thế hơn cửa Tay chơi hai phẩy năm phần trăm. Ai chơi cũng thế. Đó là lý do tại sao tay nào đánh vào cửa Ngân hàng cũng phải trả đến năm phần trăm tiền xâu. Nhưng bây giờ nhà cái nắm cửa Ngân hàng. Với cú đánh cá bằng số tiền lớn cỡ này thì tiền xâu không có nghĩa gì. Tốt hơn là giành hai phẩy năm phần trăm lợi thế, bất kể tiền xâu. Anh hiểu điều đó chứ, Jordan? - Cully cố giữ giọng nói bình thường, nhỏ nhẹ. Giống anh ta đang lý luận để dỗ dành một đứa bé.

Nhưng Jordan cười:

- Mình biết mà, - anh ta nói.

Gần như anh nói rằng anh còn dựa vào đó, nhưng thật ra không đúng.

- Thế nào, Cully, rút bài cho tôi đi. Tôi không đi ngược lại vận may của mình.

Tay hồ lì xào cỗ bài lớn rồi ngắt ra mấy phần đặt chúng kế bên nhau. Anh ta đưa con bài trổng màu vàng cho Jordan cúp bài. Jordan nhìn Cully. Cully quay lưng lại đi ra xa không nói thêm lời nào. Jordan đưa tay ra và cúp bài. Bây giờ mọi người đều tiến tới cạnh mép bàn.

Những taỳ chơi bên ngoài vòng quây thấy chiếc giày mới, muốn nhào vô ăn thua tiếp nhưng bị tay vệ sĩ cản lại. Họ bắt đầu phản đối. Song bỗng dưng họ rơi vào yên lặng.

Họ tụ tập chung quanh bên ngoài rào chắn. Người hồ lì lật mặt con bài đầu tiên mà anh ta vừa rút trong chiếc giày ra. Con bảy. Anh ta rút bảy quân bài ra khỏi chiếc giày ngang qua bàn, đến chỗ Jordan. Jordan ngồi xuống ghế của mình. Thình lình Gronevelt lên tiếng:

- Một tay thôi.

Người hồ lì đưa cánh tay mình lên và nói:

- Ông Jordan, ông đang bắt cửa Tay chơi, ông hiểu không? Bàn tay tôi đưa lên như là Chủ Ngân hàng sẽ là bàn tay ông chống lại.

Jordan cười:

- Tôi hiểu.

Người hồ lì có vẻ do dự và nói:

- Nếu ông muốn, tôi có thể rút bài từ chiếc giày.

- Không, - Jordan nói. - Như vậy cũng được mà.

Anh thực sự thấy hứng khởi. Không chỉ vì tiền mà vì quyền lực tuôn trào từ anh bao trùm lên những người khác ở casino.

Người hồ lì nói vừa đưa lòng bàn tay ra:

- Một quân bài cho tôi và một quân bài cho anh. Rồi một quân bài cho tôi và một quân bài cho anh. Cứ thế?

Hắn đưa lòng bàn tay ra với điệu bộ đóng kịch, sát vào Jordan và nói:

- Một quân bài cho Tay chơi.

Jordan nhanh nhẹn và không cần chút cố gắng, rút các quân bài lưng màu xanh từ chiếc giày có khe. Hai bàn tay của anh, một lần nữa, lại rất ư duyên dáng không hề ngập ngừng. Chúng vượt qua khoảng cách của thảm nỉ xanh dương đến đôi bàn tay chờ đợi của người hồ lì; anh nhanh chóng lật ngửa chúng lên và rồi đứng sững sờ vì con chín bất khả chiến bại. Jordan không thể thua. Cully đứng phía sau anh buột miệng reo lên:

- Con Chín thần kỳ!

Lần đầu tiên Jordan nhìn vào hai quân bài trước khi lật qua. Anh đang rút bài cho cửa của Gronevelt và vì thế mong gặp những quân bài thua. Bây giờ anh mỉm cười và lật lên quân bài của Chủ Ngân hàng:

- Lại cũng con chín! Thế thì hoà. - Jordan cười lớn. - Tôi đỏ ghê. Và ông cũng quá may mắn.

Jordan ngước nhìn lên Gronevelt.

- Chơi nữa? - anh hỏi.

Gronevelt lắc đầu.

- Thôi!

Rồi bảo với hồ lì, người chủ sòng bài và người kiểm soát:

- Dẹp sòng!

***

Gronevelt bước ra khỏi vòng quây. Ông đã hưởng thú đánh cá lớn, nhưng với bề dày kinh lịch của mình ông cũng thừa biết là không nên căng sợi dây đời sống đến giới hạn nguy hiểm. Mỗi thời điểm, chỉ một cơn choáng váng ngất ngây thôi. Ngày mai ông sẽ còn phải "đấm mõm" Uỷ ban cờ bạc quốc gia về vụ đánh cá "phi chính thống" vừa rồi. Phải biện minh cho sự tương thích của hành động đó bằng quy luật "đa kim ngân phá luật lệ" ở mức độ nào cho lọt tai quý vị trong "Ban hội tề Kỳ bẽo" cũng sẽ là một vấn đề khá nhức đầu! Rồi ngày kia sẽ còn phải "hội thảo" khá dài hơi với cái thằng Cully lá mặt lá trái nữa chứ. Có thể ta đã lầm người chăng, lão phân vân tự hỏi.

Giống như những cận vệ, Cully, Merlyn và Diane quây quần quanh Jordan để hộ tống anh ra khỏi vòng quây baccarat. Cully tóm lấy tờ séc màu vàng khía răng cưa từ mặt bàn nỉ xanh dương lên, nhét vào trong túi áo bên ngực trái của Jordan, kéo dây phéc-mơ-tuya lại cho an toàn. Jordan cười rạng rỡ. Anh nhìn vào đồng hồ. Mới bốn giờ sáng. Đêm hầu như đã qua.

- Chúng ta đi ăn điểm tâm và uống cà phê đi, - anh nói.

Anh dẫn cả bọn vào quán cà phê của casino.

Khi ngồi yên chỗ, Cully nói, như vậy là anh ấy có gần bốn trăm ngàn đô.

- Chúng ta phải đưa anh ấy ra khỏi đây!

- Jordy, anh phải rời Vegas đi thôi, anh giàu rồi. Giờ đây, với bấy nhiêu tiền, anh muốn… mua tiên cũng được. Hãy đi đi để vui chơi cho thoả chí. Tội gì ở đây để rồi lại trắng tay.

Jordan thấy rằng Merlyn đang nhìn anh đầy chủ ý. Nhìn… kiểu gì mà thấy muốn nổi sùng!

Diane chạm vào cánh tay Jordan và nói:

- Thôi đừng đánh bạc nữa anh. Em xin anh đấy! - Đôi mắt nàng sáng lên.

Và bỗng nhiên Jordan nhận ra rằng họ đang hành động như thể anh vừa thoát khỏi hang hùm nọc rắn hay vừa được ân xá khỏi án lưu đày. Anh cảm thấy họ hạnh phúc vì anh, cho anh. Và để tưởng thưởng tấm lòng bè bạn chí tình đó, anh nói:

- Bây giờ để mình chia phần cho các bạn, cả em nữa, Diane à. Mỗi người hai mươi thiên nhé.

Cả bọn đều hơi sửng sốt. Rồi Merlyn nói:

- Tôi sẽ lấy số tiền đó khi anh lên máy bay rời khỏi Vegas.

Diane hăng hái tán thành:

- Đúng đấy, bọn này sẽ chỉ nhận phần tiền ấy ngay trước lúc anh lên máy bay để rời nơi đây thôi. Nhất trí chứ, Cully?

Cully không nhiệt thành đến thế. Có gì sai quấy đâu nếu ngay từ bây giờ ta nhận mỗi người hai mươi ngàn đô-la rồi đưa anh ta lên máy bay sau. Đấy là món quà hoàn toàn tự nguyện của anh ta mà. Cuộc chơi đã qua. Họ đâu phải ngại chuyện đem lại xúi quẩy cho anh ta nữa. Nhưng Cully có mặc cảm phạm tội và không thể nói ra ý nghĩ của mình. Và chàng ta biết rằng điều có lẽ sẽ là cử chỉ lãng mạn cuối cùng trong đời mình: chứng tỏ một tình bạn trung thực, như hai tên ngốc Merlyn và Diane kia. Họ không biết rằng Jordan khùng hay sao? Rằng anh ta có thể tuột khỏi tay họ và sẽ đánh thua toàn bộ gia tài?

Cully nói:

- Nghe dây này, chúng ta cần giữ cho anh ấy tránh xa mấy bàn bài bạc. Chúng ta bảo vệ và trông chừng anh ấy cho đến ngày mai lúc máy bay cất cánh di Los Angeles.

Jordan lắc đầu:

- Tôi sẽ không đi Los Angeles. Phải đến nơi nào xa hơn nữa kia. Bất cứ nơi nào trên hành tinh. - Anh mỉm cười với họ. - Mình chưa từng ra khỏi nước Mỹ.

- Chúng ta cần một bản đồ, - Diane nói. - Em sẽ gọi tay Trưởng ban tạp vụ. Anh ta có thể kiếm cho chúng ta một bản đồ thế giới. Cũng như bất kỳ chuyện gì chúng ta cần đến.

Nàng nhấc máy điện thoại của quầy ăn lên và gọi.

Tay Trưởng ban tạp vụ rất tháo vát và giỏi xoay xở, từng giúp nàng rất nhiều việc, kể cả những việc hơi rối, chẳng hạn tìm giùm một bác sĩ phá thai lậu.

Bàn an nhanh chóng được dọn đầy thực phẩm, nào trứng, thịt muối, bít-tết nhỏ để ăn điểm tâm và bánh ngọt tráng miệng. Cully đã gọi món ăn cho xứng với những vị nhà giàu mới… được bạc.

Trong khi ăn, Merlyn hỏi:

- Anh sẽ gửi mấy tấm séc cho các con của anh chứ?

Cậu ta không nhìn Jordan; anh chàng này yên lặng ngắm cậu rồi nhún vai. Anh thực sự chưa nghĩ đến chuyện ấy. Vì lý do nào đó, anh bỗng nổi giận với Merlyn sao lại hỏi câu đó, những chỉ thoáng qua thôi.

- Tại sao anh ấy phải cho tiền cho mấy đứa nhỏ? - Cully nói. - Anh ấy đã lo cho con cái khá tốt. Có lẽ cậu còn sắp nói là anh ấy nên gửi mấy tấm séc cho vợ cũ của anh ấy nữa đấy hẳn.

Nói xong Cully cười lớn như thể đó là một điều vượt quá biên giới của tính khả thi, và Jordan lại hơi nổi sùng.

Anh đã tạo ra một hình ảnh sai lạc về vợ mình. Thật ra nàng tốt hơn thế nhiều.

Diane đốt một điếu thuốc. Nàng đang uống cà phê, và khuôn mặt nàng thoáng một nụ cười hơi nhuốm vẻ suy tư! Trong một lúc, bàn tay nàng chà xát vào cánh tay áo của Jordan trong một cử chỉ đồng loã và cảm thông làm như thể chàng cũng thuộc cánh chị em ta và nàng đang liên minh chặt chẽ với chàng để thành lập một mặt trận thống nhất giữa những kẻ "tâm phúc tương cờ" chứ nào "phải người trăng gió vật vờ hay sao"! Nghĩ thế là nhầm to đấy!

Vào lúc ấy, tay Trưởng ban tạp vụ đích thân mang đến một bản đồ Atlas cỡ lớn. Jordan đút tay vào túi và lấy ra tờ một trăm đô la tặng anh ta để uống… cà phê gọi là lấy thảo! Anh chàng hí hửng "lên lớp" một điều gì đó.

Diane bắt đầu mở tấm bảrl đồ ra.

Thằng nhóc Merlyn vẫn còn chăm bẳm vào Jordan.

- Thấy thế nào? - Cu cậu hỏi.

- Tuyệt, - Jordan trả lời. Anh cười, vui thích với nhiệt tình của họ.

Cully nói:

- Anh mà xáp vô đám bài bạc nào thì bọn này trùm bao bố khiêng anh đi đấy. Không đùa đâu. Anh ta đập mạnh tay xuống bàn, - Dứt khoát nghỉ. Không chơi nữa.

Diane đã trải tấm bản đồ lên mặt bàn, che lên trên mấy đĩa thức ăn dỡ. Họ cùng chăm chú nhìn vào bản đồ, trừ Jordan. Merlyn xướng tên một thành phố châu Phi.

Jordan điềm đạm bảo rằng anh không thích du lịch đến cái châu lục nóng như đổ lửa đó.

Merlyn đang ngừa người ra sau, không nghlên cứu bản đồ với những người khác. Câu ta đang quan sát Jordan và Cully, làm mọi người ngạc nhiên khi nói:

- Đây là một thành phố ở Bồ Đào Nha mà tôi biết, gọi là thành phố Mercedas.

Họ ngạc nhiên vì một vài lý do khiến họ không hề nghĩ rằng chàng ta lại có thể sống ở nơi nào khác ngoài Vegas. Thế mà bây giờ, bỗng dưng chàng ta lại biết một thành phố nào đó tít bên Bồ Đào Nha.

- Đúng vậy, Mercedas, - Cully nói. Xinh xắn và ấm áp. Bãi biển thật đẹp. Một casino nhỏ với giới hạn tiền cược tối đa là năm mươi đô-la và chỉ mở cửa có sáu giờ mỗi đèm. Bạn có thể chơi thoải mái mà chẳng hề hấn gì đáng kể. Anh thấy thế nào, Jordan Chịu đi Mercedas không?

- Chịu, Jordan đáp.

Diane bắt đầu vạch hành trình:

- Từ Los Angeles vượt qua vòng cung Bắc cực đến London. Rồi bay một mạch đến Lisbon. Rồi em đoán là người ta đi bằng ô tô đến Mercedas.

- Không phải, - Cully nói. - Có máy bay đến một thành phố lớn gần đó, nhưng tôi quên tên thành phố gì rồi. Và phải đảm bảo sao cho anh ấy rời London nhanh. Các sòng bài ở đó cũng sát phạt nhau kinh lắm.

Jordan nói:

- Mình phải đi ngủ một tí đây.

Cully nhìn anh ta:

- Ôi Lạy Chúa, đúng vậy, trông anh phờ phạc quá. Lên phòng và ngủ một giấc đi. Chúng tôi sẽ thu xếp mọi chuyện cho. Chúng tôi sẽ đánh thức anh dậy trước giờ máy bay cất cánh. Và đừng có lò mò xuống lại casino nhé. Tôi và Thằng nhóc Merlyn sẽ trấn giữ cửa ải vào khu đánh bài đấy.

Diane nói:

- Jordan, anh đưa cho em ít tiền để mua vé đi.

Jordan rút ra một nắm lớn những tờ một trăm đô-la từ trong túi ra và đặt lên bàn. Diane cẩn thận đếm lấy ba mươi tờ.

- Vé hạng nhất cũng không tốn hơn ba ngàn đô, đúng không? - cô hỏi.

Cully lắc đầu:

- Nhiều lắm là hai ngàn, - Cully nói. - Nhưng nhớ đặt khách sạn luôn cho anh ấy.

Anh ta gom những tờ bạc còn lại trên bàn và nhét vào túi áo Jordan.

Jordan đứng lên và thử thuyết phục họ lần cuối:

- Bây giờ chia phần cho các bạn được chưa?

Merlyn nhanh nhảu đáp lời:

- Không, đợi đến khi anh sắp lên máy bay đã.

Jordan bắt gặp tia nhìn từ ái trên khuôn mặt Merlyn. Rồi Merlyn nói:

- Ngủ tí cho khoẻ đi, khi nào kêu anh dậy, bọn này sẽ giúp anh thu xếp hành trang.

- OK.

Jordan nói và rời quán càphê rồi đi vào hành lang dẫn về phòng mình. Anh biết Cully và Merlyn đã theo chân anh đến đầu hành lang để chắc ăn rằng anh không dừng lại để đánh bài. Anh mơ hồ nhớ rằng Diane đã hôn từ biệt anh và cả Cully đã bấu vào vai anh tỏ tình thân thiết. Ai có thể nghĩ rằng một anh chàng như Cully lại đã từng đến xứ Bồ Đào Nha!

Khi Jordan vào phòng mình rồi, anh khoá trái cửa chính hai vòng, và cài then ngang. Giờ đây anh tuyệt đối an toàn, anh ngồi xuống mép giường. Và bỗng dưng anh giận khủng khiếp. Anh nhức đầu như búa bổ và toàn thân run lên không kiểm soát được.

Sao bọn họ dám tỏ tình thân thiện với anh? Sao bọn họ dám tỏ ý thương xót anh? Họ không có lý do nào? Chẳng có lý do nào để làm như thế. Anh chưa hề than vãn với ai. Anh chưa hề cầu cạnh cảm tình của họ. Anh chẳng bao giờ khuyến khích tình yêu mến từ nơi họ. Anh không ao ước chuyện đó. Nó làm anh thấy ớn.

Anh tựa lưng vào mấy chiếc gối, mệt mỏi đến độ không cởi nổi quần áo ra. Chiếc áo jacket, phồng lên với những con phỉnh và giấy bạc, trở thành… quá ư bất tiện nên anh lột phăng nó ra và bỏ mặc nó rơi tuột xuống bàn thảm. Anh nhắm mắt và nghĩ mình sẽ rơi vào giấc ngủ ngay thôi. Nhưng rồi nỗi khủng khiếp kia bỗng lại như luồng điện mạnh chạy suốt người anh, buộc anh đứng bật dậy. Anh không thể kiểm soát cơn run bắn của chân tay mình.

Bóng tối của căn phòng bắt đầu chập choạng những bóng ma nhỏ xíu lúc rạng sáng. Jordan nghĩ anh có thể kêu bà vợ cũ và cho nàng biết số tiền lớn mình vừa thắng được. Nhưng anh lại thấy mình không thể. Và cũng không thể nói với các con mình hay với bất kỳ người bạn cố tri nào. Trong những mảnh xám cuối cùng còn sót lại của đêm nay không có một người nào trên đời này mà anh muốn làm loá mắt với vận đỏ lạ lùng của mình. Giờ này không có một ai chia sẻ với anh được cái niềm vui thắng bạc lớn được cả một gia tài của anh.

Anh đứng dậy ra khỏi giường để sửa soạn hành lý. Anh đã giàu và anh phải đi Mercedas để nghỉ ngơi, vui chơi. Nhưng ô kìa! Sao bỗng dưng anh thấy buồn chi lạ.

Anh bắt đầu thổn thức, nức nở rồi cơn tủi thân, hờn giận đột ngột trào ra như làn nước lũ, đục phá con để tâm hồn. Để tâm hồn anh vốn mong manh và nhiều vết rạn, chẳng mấy chốc đã tan vỡ trước những dòng lũ cuồn cuộn của cơn hồng thủy phi lý chìm lấp, cuốn phăng đi mọi ý chí hay suy tưởng. Anh chợt thấy khẩu súng nằm trong vali và rồi tâm hồn anh quay cuồng trong những vòng nước xoáy. Quá trình diễn tiến của những cuộc đánh bạc suốt mười sáu giờ vừa qua nhảy múa trong đầu óc thành những vòng luân vũ dồn dập không ngừng: con xúc xắc lấp lánh những con số thắng, những bàn chơi blackjack với các cửa thắng, bàn chơi baccarat hình thuôn đầy những nét mặt nhợt nhạt của những con bài chết được lật ngửa ra. Phủ óng lên những con bài đó là một người hồ lì, thắt nơ đen trên áo sơ mi trắng đưa cao lòng bàn tay về phía mặt anh và xướng lêa: "Một quân bài cho Tay chơi".

Với một động tác dịu dàng, nhanh gọn, Jordan cầm khẩu súng lên trong bàn tay phải của mình. Tâm hồn anh trở lại sáng suốt và lạnh như băng. Và rồi một cách chắc chắn và nhanh nhẹn như khi rút hai mươi bốn con bài thắng liên tiếp trong ván baccarat hoang đường, anh đưa mũi súng chạm vào phần mềm nơi cổ mình và… bấm cò.

Trong giây phút thiên thu dó anh cảm nhận sự buông rời dịu ngọt khỏi nỗi kinh hoàng vẫn thường xuyên ám ảnh hồn anh. Và ý nghĩ có ý thức sau cùng là anh sẽ chẳng bao giờ đỉ du lịch, nghỉ ngơi ở Mercedas nữa.

Chú thích:

(1) Tức là Cully đã có được đến 55% cơ may thắng cuộc, còn người chia bài chỉ có 45% cơ may

(2) Một gươm đâm thủng hai mâm. Tục ngữ có câu: "Có tiền mua mâm, đâm cho thủng
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Thằng nhóc Merlyn bước ra khỏi cánh cửa kính của casino. Cậu ta thích nhìn mặt trời mọc trong khi nó còn là một cái đĩa vàng lạnh để cảm nhận không khí mát dịu đang thổi nhẹ nhàng từ các dãy núi viền quanh thành phố giữa sa mạc. Đó là thời điểm duy nhất trong ngày mà cậu ta bước ra khỏi khu casino thường xuyên được điều hoà không khí. Họ vẫn thường dự tính một cuộc đi chơi dã ngoại nơi những miền núi đó. Diane đã xuất hiện với một cái giỏ lớn đựng thức ăn. Thế nhưng Cully và Jordan không chịu rời casino.

Chàng ta đốt một điếu thuốc, thưởng thức những làn khói dài, chậm, mặc dầu chàng ít khi hút thuốc. Mặt trời đang lấp lánh và đã ửng đỏ hơn, một thiên hà vô tận những ngọn đèn néon. Merlyn quay người đi trở lại vào trong casino và khi anh ta đi qua các cửa kính, anh có thể nhận ra Cully trong chiếc áo khoác Vegas Wiuner đang hối hả đi qua phòng chơi xúc xắc, rõ ràng có ý tìm kiếm chàng. Họ gặp nhau trước vòng quây baccarat. Cully dứng dựa vào một trong các chiếc ghế có bậc thang. Khuôn mặt mảnh mai, u tối của anh ta méo mó đi vì cú sốc dữ dội pha lẫn thù ghét và kinh hoàng.

- Thằng khốn Jordan, - Cully nói - hắn lừa bọn mình mỗi đứa mất hai mươi thiên rồi. - Rồi anh ta cười, nụ cười méo xệch vì đau đớn. - Hắn tự làm nổ tung cái sọ dừa của hắn. Hắn ăn nhà cái hơn bốn trăm ngàn đô-la để rồi lại cho nổ tung óc não hắn ra khắp nơi.

Merlyn hình như chẳng tỏ ra ngạc nhiên tí nào.

Chàng ta uể oải dựa ngửa người vào vòng quây baccarat, điếu thuốc rơi tuột khỏi tay.

- Đểu thật, - Chàng ta thốt lên. - Đúng là số mệnh muốn chơi khăm.

- Tốt hơn chúng ta nên đợi ở đây và chộp lấy Diane khi cô nàng từ sân bay trở về, - Cully nói. - Chúng ta có thể chia phần tiền từ việc trả lại vé máy bay.

Merlyn nhìn anh ta, không phải vì ngạc nhiên mà vì hiếu kì. Cully lại chai lì đến thế sao? Chàng không nghĩ thế, chàng đã thấy nụ cười đau khổ trên khuôn mặt Cully, một khuôn mặt cố làm ra vẻ xơ cứng nhưng vẫn hằn nét choáng váng gần như sợ hãi. Merlyn ngồi xuống ở bàn baccarat còn đóng cửa. Anh ta cảm thấy hơi chóng mặt vì thiếu ngủ và kiệt sức. Giống như Cully, anh thấy tức giận nhưng vì một lý do khác. Anh đã nghiên cứu Jordan khá kỹ, quan sát mỗi hành vi cử chỉ của anh ta. Đã ma mãnh dẫn dắt anh ta kể lại toàn bộ tiểu sử đời riêng. Anh đã đánh mùi thấy rằng Jordan không muốn rời Las Vegas. Rằng có điều gì bất ổn nơi tâm hồn anh ta. Jordan chưa bao giờ nói với họ về khẩu súng. Và Jordan luôn luôn phản ứng rất phù hợp khi anh ta thấy Merlyn quan sát mình. Merlyn nhận thức rằng Jordan đã đánh lừa mình.

Lần nào cũng thế. Anh ta đã lừa cả bọn. Điều làm cho Merlyn choáng váng đó là chàng ta đã nhận diện hoàn toàn con người Jordan trong suốt thời gian họ quen biết nhau ở Las Vegas. Chàng ta đã lắp ghép tất cả các mảnh rời đó lại với nhau nhưng chỉ vì thiếu tưởng tượng, đã không thấy được bức tranh toàn diện.

Tất nhiên bởi vì giờ đây Jordan đã chết, Merlyn biết rằng sẽ không thể có kết cuộc nào khác. Ngay từ khởi thủy Jordan đã bị số mệnh dóng dấu ấn "Người phải chết ở Las Vegas".

Chỉ có Gronevelt là không ngạc nhiên. Rút lên cheo leo trên tầng mái, qua bao năm tháng, những đêm dài nối tiếp những đêm dài, ông chưa hề cân nhắc đến cái ác vẫn phục kích trong tâm hồn con người. Ông đã có kế hoạch chế ngự nó. Ngay bên dưới phòng thu quỹ của ông lúc nào cũng ẩn chứa hàng triệu đô-la tiền mặt mà vô khối kẻ vẫn chăm chắm muốn cuỗm đi, và ông phải thao thức hàng đêm, dệt ra những tấm lưới an toàn để ngăn chận những âm mưu dó. Và từ đó đi đến chỗ biết mọi cái ác làm ta chán ngán; những giờ phút trong đêm ông nghĩ đến những điều huyền nhiệm khác và càng sợ cái thiện trong tâm hồn con người hơn nữa. Rằng đó là nguy cơ còn lớn hơn đối với thế giới của ông và ngay cả đối với bản thân ông.

Khi cảnh sát báo cáo về vụ nổ, Gronevelt lập tức gọi đến văn phòng Quận trưởng cảnh sát và để cho họ phá cửa vào phòng. Nhưng phải có người của ông hiện diện. Để kiểm kê trung thực. Có hai tờ séc của casino trị giá tổng cộng ba trăm bốn mươi ngàn đô-la. Và có gần một trăm ngàn đô-la bằng giấy bạc và các con phỉnh nhét trong các túi còn kéo lại giữ những con phỉnh chưa đổ ra trên giường.

Gronevelt nhìn qua các cửa sổ nơi tầng mái của ông, mặt trời sa mạc đỏ lửng đang vượt qua các ngọn núi cát.

Ông thở dài. Jordan sẽ chẳng bao giờ có thể giữ được thành quả của vận đỏ của hắn. Ngoài cách duy nhất đó.

Nhưng giờ đây Gronevelt phải bắt tay vào giải quyết bao nhiêu công việc. Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề để nghĩ ngợi lan man, lơ lửng trên tầng bình lưu nữa! Primum vivere, deinde philosophari (sống đã triết lý sau).

Cần phải đấm mõm báo chí để im đi vụ tự tử này. Để cho các phương tiện truyền thông đại chúng bươi ra tùm lum chuyện một người thắng bạc bốn trăm ngàn đô-la ở casino tự làm nổ tung cái sọ của hắn, khiến óc lẫn máu bay vung vãi khắp nơi, quả thật chẳng phải là một hình ảnh nên được quảng bá về chỗ làm ăn của mình?

Và ông lại càng không muốn tin đồn lan toả khắp nơi rằng có thể đấy là một vụ giết người được dàn cảnh khéo léo để casino thu hồi lại những gì đã mất? Nghe vậy thì bố đứa nào dám vào sòng chơi bài nữa! Những cái mồm độc địa sẽ kháo nhau: "Chớ dại mà đặt chân vào sòng của lão Gronevelt ấy. Không để lại tài sản thì phải để lại mạng sống. Eo ôi, khiếp quá? Chớ dại!". Để đến mức đó thì lão có mà dẹp tiệm đi ngủ sớm?

Đành phải giã từ ngôi cao của một đại gia casino ở kinh đô cờ bạc thế giới để quay về quê nhà chăn gà nuôi lợn phu giúp bu nó vậy! Một viễn cảnh hoàn toàn không mấy phấn khởi, nếu không muốn nói là tuyệt đối không thể chấp nhận?

Vậy nên, cần phải thực hiện những nước đi khôn khéo ông chỉ định những cuộc gọi cần thiết cho các văn phòng của mình ở Bờ Đông. Một vị cựu thượng nghị sĩ của Thượng viện Mỹ, một con người có tiếng là chính trực không chê vào đâu được, được nhờ mang tin buồn đến cho người mới thành goá phụ. Và báo cho nàng biết rằng người chồng vừa quá cố của nàng đã để lại một gia tài với tiền được bạc mà nàng có thể mang về khi nàng nhận xác chồng. Mọi người đều sẽ kín tiếng, không có ai bị lừa, công lý được thực hiện. Cuối cùng sẽ chỉ còn là một câu chuyện phiếm mà các tay chơi bài tán gẫu với nhau lúc trà dư tửu hậu thôi. Nhưng đối với Gronevelt, chuyện này quả thật chẳng phấn khởi chút nào. Ông đã thôi không muốn hình dung ra bộ mặt của các tay chơi từ lâu lắm rồi.

Tang lễ diễn ra đơn giản thôi; người chết được mai táng trong một nghĩa trang Tin Lành vây bọc bởi sa mạc một màu cát vàng. Bà goá phụ Jordan bay đến và lo lắng hết mọi thứ. Nàng cũng đã được Gronevelt và nhân viên của ông ta cho biết qua về số tiền Jordan đã thắng và trả đầy đủ cho nàng không thiếu một xu. Các tờ séc được viết sang tên nàng và toàn bộ tiền mặt tìm thấy trên người chết. Vụ tự tử được ém nhẹm đi với sự hợp tác của các giới chức hữu quan cũng như báo chí. Để tránh cho Las Vegas cái hình ảnh tồi tệ về một người vừa thắng bạc bốn trăm ngàn đô-la rồi chỉ vài tiếng đống hồ sau đó đã chết nát đầu trong phòng ngủ ở khách sạn Xanadu, sát ngay khu casino? Một hình ảnh gây ngán ngại cho bất cứ tay chơi nào, dầu có máu cách mấy khi nghĩ đến cảnh tượng ấy, cũng thấy muốn chùn chân!

Bà quả phụ Jordan ký một biên nhận cho các tờ séc và tiền. Gronevelt yêu cầu nàng giữ kín mọi chuyện song có lẽ không cần thiết. Nếu người đàn bà này xinh xắn chôn chồng ở Las Vegas, mà không mang xác chồng về quê nhà, không để cho các con của Jordan đến dự lễ tang, như vậy là nàng cũng có vài con bài cần giấu.

Gronevelt, ông cựu thượng nghị sĩ và các vị luật sư hộ tống quả phụ ra khỏi khách sạn đến chiếc xe limousine đang chờ nàng (chiếc xe là một nhã ý của khách sạn Xanadu, cũng như mọi cái khác đều là do nhã ý - tức là được miễn phí). Thằng nhóc, vẫn chờ đợi nàng từ trước giờ, bước tới trước mặt họ. Cậu ta nói với bà goá phụ xinh đẹp:

- Thưa bà, tôi tên là Merlyn và là bạn của ông nhà. Tôi xin phép được nói lời chia buồn cùng bà.

Goá phụ thấy rằng cậu ta đang cố tình quan sát nàng, "chiếu tướng" nàng. Nàng biết ngay là cậu ta không có ẩn ý, rằng cậu ta thành thật. Nhưng trông cậu ta hơi quá chú tâm. Nàng đã thấy cậu ta nơi nhà nguyện làm lễ tang với một cô gái trẻ mặt sưng lên vì khóc nhiều. Lúc đó nàng tự hỏi tại sao chàng ta lại không đứng sát cô nàng kia. Có lẽ bởi vì cô gái trước đây đã cặp bồ với Jordan.

Nàng ôn tồn đáp lời:

- Tôi hài lòng là ở đây anh ấy cũng có bạn.

Nàng thấy chuyện anh chàng trẻ này nhìn trừng trừng vào nàng cũng hơi ngồ ngộ. Nàng biết rằng nàng có một phẩm chất đặc biệt nó lôi cuốn đàn ông, không hẳn vì nhan sắc, bởi trí thông minh của nàng còn ghi dấu ấn lên nhan sắc đó mà khá nhiều người đàn ông đã nói với nàng rằng đó là một sự kết hợp rất hiếm hoi. Bởi vì nàng đã phản bội chồng nhiều lần trước khi nàng tìm được người đàn ông mà nàng quyết định sống chung. Nàng tự hỏi không biết anh chàng trẻ này có biết về nàng và Jordan không và điều gì xảy ra vào cái đêm cuối cùng nầy.

Nhưng nàng không mấy quan tâm, không cảm thấy mình có lỗi gì. Cái chết của chàng, nàng biết, như không có người nào khác có thể biết được, là một hành vi tự ý và tự chọn. Một hành vi ma mãnh của một người đàn ông lành tính.

Nàng cảm thấy hơi được phỉnh nịnh bởi tia nhìn mãnh liệt như bị cuốn hút mà chàng trai trẻ đang phóng vào nàng. Nàng không thể biết rằng chàng ta không chỉ thấy làn da tươi mát mịn màng và cái khung xương hoàn hảo bên dưới, cả cái miệng đỏ hồng và đầy nhục cảm nhưng vẫn rất thanh nhã, mà chàng ta còn thấy cả và sẽ luôn luôn còn thấy cả khuôn mặt nàng như hiện thân của mặt nạ tử thần.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Khi tôi nói với người vợ goá của Jordan rằng tên tôi là Merlyn, nàng phóng một tia nhìn lạnh lùng nhưng cũng hữu nghị, không mặc cảm tội lỗi hay hằn thù. Tôi nhận ra một người đàn bà nắm toàn quyền kiểm soát cuộc đời mình không phải bằng tính đểu giả hay quá dễ dãi với mình mà bằng trình độ thông minh hiếm thấy ở phụ nữ. Tôi hiểu tại sao Jordan chưa bao giờ nói một lời nặng chống lại nàng. Nàng là một người đàn bà rất đặc biệt, loại người mà khối đàn ông yêu thích. Nhưng tôi không muốn biết nàng. Tôi đã quá nghiêng về Jordan. Mặc dầu tôi vẫn luôn luôn cảm nhận sự lạnh lùng, ý ruồng rẫy của anh đối với cả bọn tôi, dưới cái vẻ lịch sự và thân tình.

Lần đầu tiên tôi gặp Jordan, đã biết có điều gì đó thiếu đồng bộ nơi anh. Đó là ngày thứ nhì tôi ở Las Vegas và tôi đã bỏ bàn chơi blackjack để nhảy qua bàn baccarat.

Baccarat hoàn toàn là một trò chơi may rủi với tiền đặt tối thiểu là hai mươi đô-la một lần. Người ta hoàn toàn phó thác vào bàn tay của số mệnh và tôi vẫn luôn luôn ghét cảm thức này. Tôi vẫn luôn cảm thấy rằng có thể kiểm soát định mệnh của mình nếu cố gắng đúng mức.

Tôi ngồi xuống nơi bàn baccarat hình bầu dục dài và trông thấy Jordan ở đầu kia. Anh ta là một chàng rất ư đẹp trai, quá niên trạc ngoại tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Anh ta có làn tóc dày, trắng, không phải bạc vì tuổi tác mà do "gien" bạch tạng bẩm sinh.

Lúc đó chỉ có anh ta với tôi và một tay chơi khác, cùng với ba tay chơi mồi của nhà cái để cho đủ tay. Một trong ba nàng chơi mồi là Diane, ngồi dưới Jordan hai cửa, mặc đồ theo kiểu quảng cáo công việc mà nàng đang làm, nhưng tôi mải quan sát Jordan.

Ngày đó, anh ta tỏ ra là một tay chơi bài đáng nể. Chẳng bao giờ anh ta tỏ vẻ vui mừng hí hửng khi được, cũng chẳng bao giờ tỏ vẻ thất vọng cay cú khi thua. Lúc cầm chiếc giày, anh ta rất thiện nghệ với đôi tay trắng ngà lịch lãm. Nhưng khi quan sát anh ta xếp các tờ trăm đô-la thành đống, tôi bỗng nhận ra rằng thực sự anh ta chẳng bận tâm mấy đến chuyện được, thua.

Tay chơi thứ ba ở bàn là một "nồi súp-de" một kẻ chơi bài xấu tính đang theo đuổi những cú đánh thua. Y nhỏ con, gầy ốm, đầu hói, dù tóc còn đen và khá dày. Thế nhưng thân thể y lại toát ra năng lượng sung mãn. Mọi động tác đều quyết liệt, mạnh bạo. Cách y ném tiền xuống để đánh cá cách y vơ gom tiền khi thắng, cách y đếm những tờ giấy bạc trước mặt mình và giận dữ lùa chúng vào một đống để chỉ ra rằng y đang thua. Cầm chiếc giày, y rút bài ra mà không kiểm soát khiến cho rất thường khi một quân bài sẽ lật nhanh hoặc bay qua khỏi bàn tay đang với ra của người hồ lì. Nhưng người hồ lì vẫn thản nhiên với phong cách lịch sự không hề thay đổi. Một con bài Tay chơi bay trong không khí, nghiêng về một bên.

Cái anh chàng trông bần tiện kia lại chơi mánh muốn thêm một con phỉnh đen giá một trăm đô-la vào tiền đánh của mình. Tay hồ lì nói:

- Xin lỗi ông A, ông làm thế không được.

Cái miệng giận dữ của ông A càng tăng gia tính bần tiện rõ nét hơn:

- Người nói cái đếch gì thế, ta chỉ mới rút ra một quân bài. Ai bảo là ta không được quyền đánh thêm?

Người hồ lì nhìn lên người kiểm soát ngồi ở chiếc ghế thang bên phải, phía trên Jordan. Người ngồi thang gật đầu nhẹ và người hồ lì nhã nhặn thưa:

- Thưa ông A, đúng như ông nói ông có quyền cá thêm.

Khá chắc ăn rồi, quân bài đầu tiên cho Tay chơi là một con bốn, dưới trung bình. Nhưng ông A vẫn thua khi Tay chơi rơi vào cửa ông. Chiếc giày qua tay Diane.

Ông A đánh cá Tay chơi chống lại Nhà băng của Diane. Tôi nhìn xuống bàn chỗ Jordan. Cái đầu trắng cúi xuống. anh ta chẳng tỏ ra quan tâm đến ông A chút nào.

Nhưng tôi thì có. Ông A đặt năm tờ một trăm đô-la lên cửa Tay chơi. Diane rút các quân bài một cách máy móc.

Ông A lấy các quân bài của Tay chơi. Ông ta nặn đến cong các con bài rồi ném tay xuống một cách giận dữ.

Hai quân bài hình. Bù lại, Diane có hai quân bài cộng lại thành năm. Tay hồ lì xướng lên:

- Một quân bài cho Tay chơi.

Diane rút con bài khác cho ông A. Lại một quân hình khác. Không có gì. Tay hồ lì xướng lên:

- Nhà Băng thắng.

Jordan đã đánh cá vào Nhà băng. Tôi đã sắp sửa đặt cược vào Tay chơi, Jordan và tôi đưa tiền của mình vào cửa Nhà băng.

Diane lại thắng lần thứ nhì với quân bài chín nguyên số, so với quân bài bảy của ông A. Ông ta trừng mắt nhìn Diane đầy ác ý như thể doạ nạt không cho cô thắng. Cách ứng xử của cô gái không chê vào đâu được.

Cô rất thận trong giữ tính trung lập, không tham chiến, thận trọng làm một nhân viên một cách máy móc.

Nhưng bất kể mọi chuyện cô làm, khi ông A đánh một ngàn đô-la trên cửa Tay chơi và Diane lại ném ra một quân bài chín nguyên số bất khả chiến bại thì ông A đấm mạnh tay xuống bàn và nói:

- Đồ cái lỗ đếch! - và nhìn nàng đầy tức giận.

Tay hồ lì đứng thẳng lên không một nét nào trên mặt thay đổi. Tay kiểm soát viên nghiêng người tới trước giống như Đấng Jchovah đưa đầu ra khỏi Thiên đàng.

Sòng bài có vẻ căng thẳng.

Tôi quan sát Diane. Mặt cô hơi cau lại. Jordan xếp đống tiền của mình như thể không biết đến chuyện gì đang xảy ra. Ông A đứng lên và đi đến chủ sòng ở bàn giấy gần đó. Ông ta thì thầm. Chủ sòng gật đầu. Mọi người ở bàn cũng đều đứng lên để giang tay duỗi cẳng cho đỡ mỏi, trong khi một chiếc giày mới được dồn bài vào ông A bỏ đi, qua cái cổng xám bạc về phía hành lang dẫn đến các phòng khách sạn. Tôi thấy chủ sòng đến bên Diane, nói gì đó với nàng và rồi nàng cũng rời vòng quây baccarat. Chẳng khó khăn gì lắm để hình dung ra những chương hồi kế tiếp. Diane đang đi "quay một vòng" với ông A và thay đổi vận đỏ đen với ông ta.

Mấy người hồ lì mất khoảng năm phút để xào bài và cho bài vào giày mới. Tôi bỏ ra để đánh cá vài ván roulett. Khi tôi quay lại, chiếc giày đang chuyền quanh bàn. Jordan vẫn ngồi nguyên chỗ cũ và có hai tay chơi bài mồi đàn ông ngồi bàn.

Chiếc giày vòng quanh bàn ba lần và chẻ ra ngay trước khi Diane quay lại. Trông nàng thất sắc, miệng trễ ra, toàn bộ khuôn mặt có vẻ như rời ra từng mảnh mặc dầu vừa mới được điểm trang lại. Nàng ngồi xuống giữa tôi và một trong những tay hồ lì lo việc gom tiền hoặc chung tiền. Anh ta cũng nhận thấy có điều gì bất ổn nơi nàng. Có một lúc anh ta nghiêng đầu thấp xuống và tôi nghe anh ta thì thầm:

- Em ổn chứ, Diane? - Đó là lần đầu tôi nghe tên nàng.

Nàng gật đầu. Tôi trao chiếc giày, nhưng hai tay nàng run run khi rút các con bài ra khỏi chiếc giày. Nàng cúi đầu thật thấp để giấu những giọt lệ long lanh trong đôi mắt. Cả khuôn mặt nàng tràn đầy nỗi xấu hổ, tôi không thể nghĩ ra được từ nào khác để mô tả. Bất cứ điều gì mà ông A đã làm đối với nàng trong phòng ông ta, chắc chắn là sự trừng phạt vận đỏ của nàng đã chống lại ông ta.

Người hồ lì di chuyển nhẹ nhàng về phía chủ phòng và anh ta đi qua đập nhẹ vào cánh tay Diane. Nàng rời chỗ ngồi và một tay chơi mồi nam thay chỗ Diane, đến ngồi ở một trong các chiếc ghế dọc theo rào chắn, với một nàng chơi mồi khác chiếc giày vẫn tiếp tục nước bài chẻ, từ Nhà băng đến Tay chơi rồi lại từ Tay chơi đến Nhà băng. Tôi đang cố tìm cách chuyển cá cược của mình cho kịp lúc, để bắt cho đúng nhịp chẻ của bài. Ông A quay lại bàn, ngay chỗ ông ta đã để lại tiền với thuốc lá và hộp quẹt.

Trông ông ta có vẻ như một người mới. Ông đã tắm rửa và chải lại đầu tóc. Còn cạo râu ria nhẵn thín nữa. Trông không còn có vẻ bần tiện chút nào? Ông ta không thư giãn được với bất kỳ phương tiện gì, nhưng ít nhất cũng không chiếm chỗ như một trong những cơn gió xoáy mà bạn thấy trong các màn thoát y vũ hài hước.

Lúc ngồi xuống, ông ta nhận ra Diane ngồi dọc theo rào chắn và đôi mắt ông ta rực lên như than hồng gặp gió. Ông ta gửi đến nàng một cái cười ma mãnh, có tính cảnh cáo và không kém phần nham nhở? Tội nghiệp Diane, nàng chỉ biết bối rối quay đầu.

Nhưng bất kỳ ông ta đã làm điều gì, dù khủng khiếp thế nào, cũng đều thay đổi chẳng những tâm trạng của ông ta mà cả vận may của ông ta nữa. Ông ta đánh vào cửa Tay chơi và thắng liên tục. Trong khi đó những kẻ dễ thương như Jordan và tôi lại đang bị ám. Điều đó làm tôi nổi sùng lên, cảm nhận cả một nỗi bất bình trước tình cảnh bất công không hiểu nổi đó của trời đất? Cộng với lòng từ ái tương lân đối với nàng Diane bạc phận, tôi quyết định phải phá thối cái vận đỏ của thằng cha A chó đẻ này.

Hẳn các bạn cũng từng có kinh nghiệm nơi sòng bài có những người mà khi chơi với họ ta thấy vui vẻ thoải mái, dầu ăn hay thua. Và cũng có những tay chơi xấu tính, khiến khi chơi bài với họ ta thấy bực bội và đau đớn như bị kim chích vào đít?

Ở bàn baccarat đau đớn, khó chịu nhất là khi gặp cái thằng mặt… dầu hắn chọn cửa Nhà băng hay Tay chơi. Khi cầm được hai con bài đầu tiên, hắn bèn dành cả một phút dài như thiên thu để nặn hai con bài từng chút, từng chút một, bắt cả bàn phải chờ đợi đến sốt ruột để đón nhận cái giây phút định mệnh đầy căng thẳng.

Và tôi sắp sửa nhập vai cái thằng khó ưa đó để chọc tức lão A cho bõ ghét. Hắn ngồi ở ghế số hai còn tôi ngồi ghế số năm. Vậy là chúng tôi ngồi cùng bên nửa phần của cái bàn và do đó có thể "đấu nhãn" với nhau ở tầm tác xạ hiệu quả. Tôi cao hơn hắn ta một cái đầu và cũng "đô con" hơn. Trông tôi người ta cứ tưởng như mới hai mươi mốt tuổi. Không ai có thể đoán tôi đã ngoài ba mươi, có ba con với một bà vợ đã quay về New York mà tôi đã bỏ. Như vậy, rõ ràng, tôi là một mặt tiếp xúc khá êm ái đối với một kẻ như thằng cha A này. Về thể lực, chắc chắn là tôi khoẻ hơn hắn, nhưng hắn là một thằng xấu chơi hợp pháp và rõ ràng có tiếng tăm ở Las Vegas. Tôi chỉ là một thằng ngốc đang trở thành một tay chơi thoái hoá.

Giống như Jordan, tôi hầu như lúc nào cũng đánh vào cửa Nhà băng trong môn baccarat. Nhưng khi lão A cầm giày, tôi chơi đối đầu với lão và đánh cửa Tay chơi.

Khi tôi có hai quân bài Tay chơi, tôi nặn chúng thật tỉ mỉ, thật chi li trước khi úp mặt bài xuống bàn. Lão A loay hoay cả thân hình quanh ghế ngồi; lão thắng, những không thể giữ được tự chủ nữa và trong tua sau, lão giục:

- Thôi đi, đồ nỡm, nhanh lên nào!

Tôi để mấy quân bài của mình sấp mặt xuống bàn và bình thản nhìn y. Vì lý do nào đó mà đôi mắt tôi bắt gặp Jordan ở cuối đầu bàn bên kia. Anh ta đang đánh cá cửa Ngân hàng cùng với lão A, nhưng anh ta vẫn cười tươi. Thật chậm rãi, tôi nhẩn nha nặn các con bài.

Tay hồ lì nói:

- Ông Merlyn này, ông đang nắm chủ bài. Cả bàn đang đợi ông đấy.

Hắn gửi đến tôi một nụ cười rất tươi và rồi hữu nghị:

- Chúng không thay đổi dầu ông có nặn bài vất vả đến thế nào!

- Hẳn thế rồi.

Tôi nói và ném các quân bài ngửa mặt với biểu hiện chán ngán của kẻ thua cuộc. Thế là ngài A lại cười tươi như hoa. Nhưng rồi, khi thấy mấy quân bài của tôi, lão ta bỗng nghệch mặt ra.

Tôi có con chín, số nguyên, quân bài "bất khả chiến bại".

Hắn ta chửi thề!

- Tôi lật ngửa bài của mình khá nhanh đấy chứ? - Tôi lịch sự hỏi hắn ta.

Hắn phóng vào tôi một tia nhìn sát nhân dữ dội và xáo lại đống tiền của hắn. Hắn vẫn chưa bắt bài. Tôi nhìn xuống đầu bàn kia và Jordan vẫn đang cười, một nụ cười vui thích thật sự, mặc dầu anh ta cũng thua vì đánh theo cửa lão A. Tôi còn tiếp tục chọc ngứa lão ta trong suốt cả giờ tới.

Tôi có thể thấy lão A được thế trong casino này.Tay ngồi trên thang đã để lão đi xa với một vài mánh khóe "khiếu nại". Mấy tay hồ lì cư xử với lão một cách nhũn nhặn trông thấy. Bởi vì hắn đang đánh những tiếng bạc đến năm trăm đô-la hay một ngàn đô. Tôi chỉ đánh cò con mỗi ván hai mươi đô. Thế nên nếu có chuyện lộn xộn thì tôi sẽ là… con chiên ghẻ mà nhà cái sẽ loại bỏ không thương tiếc!

Nhưng tôi đang chơi đúng luật lệ quá mà? Lấy lý do gì đòi lôi cổ tôi ra? Chính gã kia đã gọi tôi là đồ nỡm, đồ ôn dịch, thế mà tôi chẳng hề nổi nóng đốp chát trả miếng lại cơ mà! Khi người hồ lì bảo tôi lật quân bài của mình nhanh hơn lên, tôi đã làm theo một cách rất thiện chí. Sự kiện lão A hiện đang sôi lên sùng sục đó là một khuyết điểm của người chơi bài. Sẽ mất thể diện biết bao cho casino nếu lại đi bênh lão ta mà xử ép tôi. Họ không thể để lão A ra đi với bất kỳ hành vi xúc phạm nào bởi vì điều đó sẽ làm nhục họ cũng như tôi. Với tính cách là một tay chơi hoà nhã thì tôi, theo một nghĩa nào đó, là khách mời của họ và có quyền được hưởng sự bảo vệ của nhà cái.

Bây giờ tôi thấy tay kiểm soát viên đối diện với tôi bước xuống khỏi chiếc ghế thang, cầm cái điện thoại gắn liền vào đó lên. Y gọi hai cuộc. Trong khi quan sát anh ta, tôi để lơ việc đánh cá khi lão A cầm chiếc giày. Tôi ngưng việc đánh bài một lát và thư giãn trong ghế. Những chiếc ghế nơi bàn baccarat được bọc nhung, lụa, rất sang trọng và tiện nghi. Bạn có thể ngồi trong đó suốt mười hai tiếng đồng hồ, và nhiều người vẫn làm như thế?

Sự căng thẳng nơi bàn đánh bài có vẻ chùng ra khi tôi từ chối đánh cá vào chiếc giày nơi tay lão A. Họ nghĩ rằng tôi đang thận trọng hay nhát gan như gà con. Chiếc giày tiếp tục tiếng bạc chẻ. Tôi để ý thấy hai gã to đùng mặc đồ comple, thắt cravat đàng hoàng đi qua cổng baccarat. Họ đến bên chủ sòng; tay này rõ là đã nói với họ rằng cơn sốt đã qua và họ có thể thư giãn, bởi vì tôi có thể nghe hai con khỉ đột kia cười tồ tồ và nói chuyện tếu.

Lần tới khi lão A cầm chiếc giày, tôi đặt hai mươi đô-la vào cửa Tay chơi. Thế rồi, tôi ngạc nhiên biết mấy khi thấy người hồ lì nhận hai quân bài Tay chơi lại không ném cho tôi mà ném về đầu kia của cái bàn, gần Jordan. Đó là lần đầu tôi biết mặt Cully.

Cully có khuôn mặt của một chiến binh da đỏ, sẫm và rắn, nhưng vẫn dễ mến nhờ cái lỗ mũi bự một cách hơi bất thường. Anh ta nhìn xuống bàn chơi bài và cười với tôi và cả với lão A. Tôi nhận thấy anh ta đánh cá bốn mươi đô-la vào cửa Tay chơi. Anh ta bắt luôn hai mươi đô-la của tôi thế là anh ta lấy luôn mấy quân bài Tay chơi đang bay qua. Cully ngay tức thì lật mặt chúng lên. Bài xấu và lão A thắng anh ta. Lão ấy thấy mặt Cully lần đầu và cười toét miệng.

- Chào Cully anh làm gì lại đi chơi bài baccarat ở đây, hở anh chàng nghệ sĩ phá sản vì ham chơi bậy?

Cully mỉm cười:

- Thì cứ nhắp nhắp nhún nhún hoài mỏi chân quá.

Ngồi đánh bài cho đôi chân được nghỉ xả hơi tí mà.

Lão A bảo:

- Cá với tôi đi, anh chàng đĩ trai kia. Chiếc giày này sắp chuyển sang Nhà băng đấy.

Cully chỉ cười lớn. Nhưng tôi để ý anh ta đang quan sát tôi Tôi đặt phần cá hai mươi đô-la của mình vào cửa Tay chơi. Cully lập tức đặt xuống bốn mươi trên cửa Tay chơi để chắc chắn là anh ta sẽ nắm bài. Anh ta lập tức lật bài lên và lão A lại thắng anh ta.

Lão reo lên:

- Tốt quá, Cully, anh là bùa may mắn cho ta đấy cứ tiếp tục đánh cá chống lại ta đi.

Người hồ lì trả tiền thắng cho cửa Nhà băng và cung kính nói:

- Thưa ông A, ông đã đến giới hạn.

Lão A cân nhắc một lát:

- Tiếp tục đi, - lão nói.

Tôi biết rằng mình phải thật thận trọng. Tôi giữ bộ mặt lạnh như tiền. Tay hồ lì chia bài đưa lòng bàn tay lên để ngưng lại việc rút bài trong giày cho đến khi mọi người đã đặt tiền xong. Anh ta liếc nhìn tôi thăm dò. Tôi chẳng làm động tác nào. Tay hồ lì nhìn về đầu kia của sòng bài.

Jordan đánh cá vào Nhà băng cùng với lão A. Cully đặt một trăm đô-la vào cửa Tay chơi, và không rời mắt quan sát tôi.

Người hồ lì chia bài để bàn tay rơi xuống, nhưng trước khi lão A kịp rút một quân bài ra khỏi chiếc giày, tôi ném chồng tiền trước mặt mình vào cửa Tay chơi.

Đàng sau tôi, tiếng nói chuyện vo ve của chủ sòng với hai người bạn của ông ta liền ngưng lại. Đối diện tôi, người ngồi trên thang nghiêng đầu ra khỏi Thiên đàng.

- Tiền đang chơi, - tôi nói.

Điều ấy có nghĩa là người hồ lì chỉ có thể đếm sau khi việc đánh cá được quyết định. Các quân bài sấp mặt qua thảm nỉ xanh. Tôi nặn bài thật nhanh và ném chúng ra. Chỉ có lão A có thể thấy tôi hơi xị mặt xuống như thế nào như thể tôi vớ phải những con bài quá tệ. Nhưng khi tôi lật lên lại là chín nút. Người hồ lì đếm chồng tiền của tôi. Tôi đã đặt một ngàn hai trăm đô-la và đã thắng.

Lão A dựa ngửa người ra nơi lưng ghế và đốt một điếu thuốc. Lão thực sự đang nóng mặt, tôi có thể cảm nhận được lòng thù ghét của lão. Tôi làm bộ cười cầu tài và nói:

- Rất tiếc. - Hoàn toàn giống như một thằng nhóc dễ thương. Lão trừng mắt nhìn tôi.

Ở đầu bàn đàng kia, Cully tình cờ đứng dậy và bước xuống ngồi bên cạnh tôi, trong một cái ghế ở giữa tôi và lão A. Cully vỗ vào cái hộp và nói:.

- Này, Cheech, hãy theo tôi. Tôi cảm thấy may mắn. Tôi sẽ trúng liên liếp khi vung cánh tay phải ra đây.

Vậy ra lão A tên là Cheech. Một cái tên nghe ra có điềm triệu lắm đây. Nhưng rõ ràng Cheech thích Cully và rõ ràng Cully là một người nắm vững thuật đắc nhân tâm. Bây giờ anh ta quay về phía tôi trong khi Cheech đánh vào cửa Nhà băng.

- Nào Chú nhóc, - anh ta nói. - Chúng ta hãy đứng chung một chiến tuyến, đánh tan cái casino thổ tả này đi. Hãy theo tôi.

- Anh thực sự cảm thấy may mắn? Tôi hỏi, mắt hơi mở to.

- Tôi có thể thả ra chiếc giày. - Cully nói. - Tôi không bảo đảm chắc chắn, nhưng tôi có thể thả chiếc giày ra.

- Vậy thì thử xem, - tôi nói.

Tôi đặt hai mươi đô-la vào cửa Ngân hàng. Tất cả chúng tôi cùng đánh một cửa: tôi, Chcech, Cully, Jordan ở đầu xa kia của cái bàn. Một trong các tay mồi phải chơi cửa Tay Chơi và nhanh chóng lật ra một con sáu.

Cully lật ra hai con bài hình và tiếp tục rút ra một con hình khác thế là được tổng cộng không cả ba, nước bài xấu nhất trong môn baccarat. Cheech thua mất một ngàn đô-la, Cully một trăm, Jordan năm trăm. Tôi chỉ mất hai mươi đô-la còm. Tôi là người duy nhất tiến gần đến Cully.

Tôi lắc đầu nuối tiếc:

- Ái chà, thế là mình toi mất hai mươi đô.

Cully cười nhăn nhở và trao chiếc giày qua cho tôi. Nhìn qua anh ta, tôi có thể thấy bộ mặt lão Cheech tối sầm lại, nặng như chì, đang tức giận cành hông. Tôi có thể đọc được tâm địa lão như thể đọc một cỗ bài lật ngửa trên thảm xanh.

Tôi đánh hai mươi đô-la vào cửa Ngân hàng chờ đến lượt mình rút các con bài ra. Tay hồ lì phụ trách chia bài là anh chàng trẻ tuổi đẹp trai lúc trước đã hỏi thăm Diane.

Chàng mang một chiếc nhẫn kim cương trên bàn tay mà chàng ta đang đưa lên cao để ngăn tôi rút bài cho đến khi mọi người đều đặt cá xong. Tôi thấy Jordan đặt tiền xuống bàn. Vào cửa Ngân hàng, như thường lệ, anh ấy đang đánh theo tôi.

Cully ném một tờ hai mươi vào cửa Ngân hàng. Anh quay sang Cheech và nói:

- Nào, đánh cùng cửa với bọn này đi. Thằng nhóc này coi bộ hên đấy.

- Hên à? Coi bộ như hắn vẫn còn đang vọc… thì có? - Cheech nói đốp chát.

Tôi có thể thấy mấy tay hồ lì đồng loạt quay nhìn tôi để xem tôi phản ứng thế nào.

Trên chiếc ghế thang cao tay kiểm soát viên ngồi thẳng người làm bộ tỉnh bơ. Trông tôi to con và khoẻ lắm mà. Để xem hắn có dám chơi không, họ nghĩ. Không dám.

Thế là cả đám "hơi bị" thất vọng!

Cheech đặt ba trăm đô-la xuống cửa Tay chơi. Tôi rút bài và thắng. Tôi tiếp tục rút bài và Cheech tiếp tục đánh cá ngược lại tôi. Hắn gọi một người tính điểm: Được thôi, cũng không còn nhiều bài trong chiếc giày nữa, nhưng tôi rút ra với cung cách đánh bài hoàn hảo, không "nặn" bài lâu không reo hò khi thắng, không cáu có lúc thua. Tôi tự hào về mình vô kể? Mấy tay hồ lì trút trống cái hộp và dồn bài lại để đưa vào chiếc giày mới. Mọi người nộp tiền xâu. Jordan đứng lên casino duỗi chân tay cho đỡ mỏi. Cheech và Cully cũng làm thế. Tôi nhét phần tiền thắng vào túi. Chủ sòng mang sổ ghi điểm đến cho Cheech ký. Mọi việc diễn ra suôn sẻ. Một thời điểm êm ả, dễ chịu.

- Này, Cheech - tôi nói. - Anh cho ta là thằng tồi hả?

Tôi cười lớn, gay gắt. Rồi tôi bắt đầu đi quanh cái bàn, rời xa chủ bàn baccarat và tiến sát đến bên hắn ta.

Hắn không còn có thể cưỡng nổi việc thụi tôi một quả, cũng như một tay hồ lì tà vạy không thể cưỡng được việc chộp một con phỉnh trị giá một trăm đô-la bị lạc.

Và tôi đón đỡ dễ dàng. Hay là tôi tưởng thế. Nhưng Cully và hai tay vệ sĩ to như hai con Kingkong đã xen vào giữa hai chúng tôi không biết từ lúc nào. Một vệ sĩ đã chộp lấy nắm đấm của Cheech trong bàn tay hộ pháp giống như ta chộp một quả banh m. Cully kê vai vào húc tôi, bẩy tôi ra xa.

Cheech la lớn với tay vệ sĩ to đùng kia.

- Thằng đồ chó đẻ. Mày có biết ta là ai không? Không biết bố mày đây là ai à?

Tôi ngạc nhiên khi thấy con Kingkong kia buông tay Cheech ra và bước lui. Hắn đã đạt mục đích. Ngăn chặn chứ không phải trừng phạt. Trong khi đó không ai nhìn tôi. Họ đều bị thu hút bởi cơn cuồng nộ hiểm ác của Cheech; tất cả, trừ tay hồ lỳ trẻ với chiếc nhẫn kim cương.

Cậu ta nói rất từ tốn:

- Thưa ông A, ông hơi quá rồi đấy.

Với cơn giận dữ vút ra như roi quất, Cheech lao đến phóng vào tay hồ lì trẻ một đấm ngay vào mũi. Cậu ta lảo đảo thối lui. Máu tuôn ra chảy tràn xuống vạt áo sơ- mi trắng của cậu ta vào sau chiếc áo tuxedo màu xanh đen. Tôi chạy vượt qua Cully và hai con Kingkong kia và giáng một quả thôi sơn vào thái dương của Cheech, khiến y đổ vật xuống sàn. Nhưng y lại nẩy bật dậy ngay. Tôi ngạc nhiên quá sức. Chuyện nghiêm trọng lắm rồi đây. Tay này đã tuôn nọc độc ra rồi đấy.

Và rồi tay kiểm soát viên bước xuống khỏi chiếc ghế cao và tôi có thể thấy anh ta thật rõ ràng dưới ánh đèn sáng rực của bàn baccarat. Mặt anh ta có nhiều nếp nhăn và nhợt nhạt như thể máu anh ta đã đông lại và đổi sang màu trắng bởi bao nhiêu năm ngồi trong phòng máy lạnh. Anh ta đưa một bàn tay ma quái lên và nói nhỏ nhẹ:

- Ngưng lại.

Mọi người thấy lạnh băng. Tay kiểm soát viên xỉa một ngón tay dài, xương xẩu ra và nói:

- Cheech, không được manh động. Ông đang gây rắc rối to rồi đấy. Tin tôi đi, - giọng anh ta trang trọng một cách lặng lẽ.

Cully đang dắt tôi qua cổng và tôi rất muốn bỏ đi.

Nhưng tôi thực sự bối rối bởi một vài phản ứng. Có điều gì đó toát ra mùi chết chóc từ khuôn mặt của tay hồ lì trẻ, ngay cả với máu đang chảy ra từ mũi cậu ta. Cậu ta không hề tỏ ra sợ hãi hay bối rối, hay bị thương đến nỗi không còn khả năng đánh trả. Nhưng cậu ta không hề động thủ.

Và mấy tay hồ lì kia cũng không đến giúp cậu ta. Họ đều nhìn Cheech với vẻ kinh hoàng, không phải do sợ hãi, mà vì lòng thương hại.

Cully đang đẩy tôi qua khu casino, ngang qua hàng trăm tay cở bạc đang lào xào thốt ra những lời chửi thề hay những lời cầu xin tạp nham hổ lốn nơi sòng tài xỉu, sòng blackjack, sòng roulett. Cuối cùng chúng tôi đến được chỗ tương đối yên tĩnh là quán cà phê.

Tôi thích quán cà phê với ghế bàn màu xanh dương và màu vàng: Các nàng tiếp viên trẻ xinh như mộng với đồng phục màu vàng: áo hở nách hở ngực, váy ngắn cũn cỡn, nom thơm ngon còn hơn chả chó! Tường chung quanh toàn bầng kính trong suốt; bạn có thể nhìn thấy thế giới bên ngoài với những thảm cỏ xanh rờn được chăm sóc cẩn thận, xén tỉa rất tỉ mỉ, đẹp mắt, một hồ nước màu thiên thanh, những cây cọ được chăm sóc đặc biệt để tăng trưởng cao lớn khác thường. Cully dẫn tôi đến một trong những quầy đặc biệt rộng, một cái bàn lớn đủ cho sáu người ngồi, có điện thoại tại chỗ. Anh ta đến chiếm chỗ đó như có quyền tự nhiên.

Trong lúc chúng tôi đang uống cà phê, Jordan tản bộ ngang chỗ chúng tôi. Cully lập tức nhào ra, tóm lấy cánh tay anh ta:

- Này, anh bạn! Ngồi xuống đây uống càphê, tán gẫu với bọn này cho vui.

Jordan lắc đầu và rồi thấy tôi ngồi trong quầy, anh ta cười với tôi, một nụ cười hơi kỳ dị, có lẽ vì lý do nào đó anh ta thích tôi nên đã đổi ý và sà vào bàn chúng tôi.

Và cuộc hội ngộ đầu tiên giữa chúng tôi - Jordan, Cully và tôi - đã diễn ra như thế. Ngày hôm đó ở Vegas, khi tôi gặp anh lần đầu, trông Jordan cũng chẳng đến nỗi nào, mặc dầu mái tóc anh có bạc trắng. Gần như có một vẻ kín kẽ không thâm nhập được ở nơi anh làm tôi e dè, nhưng Cully lại chẳng để ý: Tay Cully này thuộc loại bán trời không mời thiên lôi, bán đứng bố vợ lấy tiền ngồi bia ôm? Một anh chàng thuộc hàng "vô pháp vô thiên" chẳng kiêng gì sất!

Tôi vẫn còn tiếp tục đóng vai một thằng nhóc ngây thơ:

- Ô này! Cheech bị đau gì thế? - tôi nói Lạy Chúa, tôi cứ nghĩ rằng chúng ta đều được vui vẻ cả đấy chứ.

Cái đầu cua Jordan nhô lên, và lần đầu tiên có vẻ như anh ta quan tâm tới những gì đang xảy ra. Anh ta mỉm cười nữa, như khi bạn cười với một đứa bé đang cố làm ra vẻ khôn lanh hơn lứa tuổi của nó. Nhưng Cully không tỏ ra hào hứng đến thế?

- Nghe đây, Nhóc, - anh ta nói. - Tay kiểm soát viên sẽ đến làm phiền cậu trong vài giây nữa thôi. Chứ cậu nghĩ hắn ta ngồi vào cái ngôi cao nghệu đó để làm gì? Đế ngoáy mũi và ngáp vặt? Hay để nhìn ngắm mấy cái bánh dầy kẹp chả đi qua lượn lại?

- Tất nhiên là không phải thế rồi, đồng ý, - tôi nói. - Nhưng không ai có thể nói là đệ có lỗi. Cheech đã hành động quá đáng. Còn đệ đây, các bạn hẳn cũng phải thừa nhận, đã xử sự rất đúng phong cách quý tộc, không có gì để phàn nàn đệ cả.

Cully cười thân thiện với tôi:

- Đồng ý là cậu đã xử sự khá tốt. Cậu thật sự khôn ngoan. Cheech đã quá nông nổi, bộp chộp và rơi ngay vào bẫy. Nhưng có một điều cậu chưa hình dung ra. Cheech là một con người nguy hiểm. Vì thế việc khẩn cấp trước mắt của tôi là giúp cậu thu xếp hành trang và đưa cậu lên máy bay gấp. Tiếng tăm hay thể diện trong ba chuyện này có là cái quái gì đâu. Merlyn à.

Tôi không trả lời anh ta. Tôi kéo chiếc áo thể thao lên và chỉ cho anh ta thấy bộ ngực trần và bụng của mình.

Một vết sẹo dài, xấu xí thấy sợ, tím thẫm như con đỉa nằm vắt ngang trên đó. Tôi nhe răng cười với Cully và hỏi anh ta:

- Anh biết cái gì đó không?

Bây giờ anh ta tỏ ra cảnh giác, rất linh hoạt với bộ mặt giống điều hâu.

Tôi chậm rãi cho anh ta biết:

- Tôi đã tham chiến, - tôi nói. - Tôi bị đạn súng liên thanh tự động và họ phải khâu không biết bao nhiêu mũi. Anh nghĩ tôi chịu để mất mặt trước mọi người à?

Cully không bị ấn tượng. Nhưng Jordan vẫn còn cười.

Mọi điều tôi nói đều thật. Tôi đã từng dấn mình vào chốn can qua, từng mang kiếp chinh nhân, từng đi đánh trận tận bên Châu Âu, Viễn Đông, nhưng chưa hề bị thương.

Cái mà tôi chỉ cho Cully thấy chỉ là vết mổ túi mật của tôi thôi họ đã thử một đường mổ mới nên đã để lại cái vết sẹo đầy ấn tượng đó! Và bây giờ tôi đem ra khoe mẽ để hù doạ mấy anh bạn này chơi!

Cully thở dài và nói:

- Này Chú nhóc, có lẽ chú chì hơn là người ta vẫn tưởng, nhưng chú vẫn chưa đủ chì để ở lại đây đương đầu với Cheech đâu.

Tôi nhớ lại Cheech đã nẩy bật dậy rất nhanh sau khi bị tôi đấm ngã và tôi bắt đầu lo. Trong một phút dao động, tôi còn nghĩ đến cả việc để cho Cully đẩy mình lên máy bay. Nhưng rồi tôi lắc đầu.

- Xem nào, mình đang cố giúp cậu mà! - Cully nói. - Sau những gì đã xảy ra, Cheech sẽ luôn để mắt đến cậu đấy, và cậu thì không thể làm đồng đảng với Cheech được, tin tôi đi.

- Tại sao không? - Jordan hỏi vặn.

Cully trả lời rất nhanh:

- Bởi vì Chú nhóc quá nhân đạo trong khi lão Cheech kia hoàn toàn thiếu tính người.

Đấy, nhiều tình bạn đã khởi phát từ những tình huống buồn cười như thế. Đến thời điểm đó, chúng tôi cũng còn chưa biết trở thành một đám bạn chơi thân thiết ở Vegas. Thực ra chúng tôi đang hơi bực bội lẫn nhau.

Cully nói:

- Mình sẽ đưa cậu ra phi trường.

- Cậu là một anh chàng quá ư dễ thương, - tôi nói. - Mình mến cậu. Bọn mình đã trở thành bồ tèo với nhau nhờ cái sòng baccarat này đấy. Nhưng lần tới nếu cậu còn nói là cậu sắp đưa mình ra phi trường để tránh voi chẳng xấu mặt nào, thì e rằng cậu sẽ thức dậy trong nhà thương đấy.

Cully cười xoà:

- Thôi nào, - anh ta nói. - Cậu đã đấm ngã Cheech và hắn lại bật lên ngay. Vậy là cú đấm của cậu hãy còn chưa đủ đô. Đúng không nào?

Nghe câu đó tôi phì cười bởi vì đúng là như vậy.

Tôi thoát khỏi tính tự nhiên của mình. Và Cully tiếp tục:

- Cậu phô trương những vết đạn trên người, nhưng điều đó chẳng làm cho cậu trở thành chú lính chì dũng cảm đâu. Mà sẽ làm cho cậu thành nạn nhân của một tên bạt mạng. Bây giờ nếu cậu chỉ cho mình thấy một tên nào đấy mang những vết sẹo vì những viên đạn do cậu tặng cho hắn, chắc là mình sẽ có ấn tượng hơn. Và nếu như Cheech đã không bật dậy nhanh đến thế sau khi cậu đấm hắn vào màng tang có lẽ mình cũng đã có ấn tượng nhiều hơn. Thôi nào mình đang hành động vì lợi ích của bạn mà, không đùa đâu.

Ờ, nói gì thì anh ta cũng có lý. Nhưng có lý hay vô lý thì đối với tôi lúc này chẳng có mảy may khác biệt nào. Tôi chẳng thấy thích thú gì để quay về nhà với bà vợ và ba đứa con và sự thất bại của đời tôi. Chốn này thích hợp với tôi hơn. Phòng casino thích hợp với tôi hơn. Cờ bạc đúng là con đường dành cho tôi. Bạn có thể vẫn cô đơn mà không đơn độc. Và luôn luôn có điều gì đó xảy ra giống như bây giờ đây. Tôi cũng chẳng "chì" lắm đâu, nhưng điều mà Cully không nắm bắt được đó là hầu như chẳng có gì làm tôi sợ hãi nữa, bởi vì vào cái thời điểm đặc biệt đó trong đời, tôi chẳng coi cái đếch gì là quan trọng cả.

Vì thế tôi nói với Cully:

- Vâng, cậu có lý. Nhưng mình không thể rời nơi này trong vài ngày nữa.

Bây giờ anh ta thực sự kiểm tra tôi. Rồi anh ta nhún vai. Anh ta cầm tờ séc lên, ký vào, rồi đứng lên rời bàn:

- Gặp các bạn sau, anh ta nói, rồi bỏ tôi lại với Jordan.

Cả hai chúng tôi đều rất ngại ngùng. Không ai muốn ở cùng với người kia. Tôi cảm nhận rằng cả hai chúng tôi đều đến Vegas cho một mục đích giống nhau, là để ẩn mình khỏi thế giới thực. Nhưng chúng tôi không muốn thô lỗ; riêng Jordan do bản chất khả ái. Và mặc dầu tôi thường không khó khăn khi tách rời khỏi người khác tôi lại thấy nơi Jordan có điểm gì đó khiến tôi tự nhiên ưa thích anh. Điều này hiếm khi xảy ra khiến tôi không muốn làm tổn thương tình cảm của anh khi bỏ anh một mình.

Thế rồi Jordan lên tiếng:

- Cậu đánh vần tên cậu xem?

Tôi đánh vần từng chữ cái cho anh nghe. M-e-r-l-y-n. Tôi nhận thấy anh không còn hứng thú lắm và tôi cười với anh:

- Đó là một trong những cái tên cổ lỗ sĩ ấy mà.

Anh hiểu ngay và cười ngọt ngào với tôi.

- Chắc bố mẹ cậu đã nghĩ rằng lớn lên cậu sẽ thành một pháp sư, - anh hỏi. - Và cậu đã cố trở thành nhân vật đó ở bàn baccarat?

- Không đâu, tôi nói. - Merlyn là tên cuối của tôi. Tôi đã thay nó. Tôi không muốn làm Vua Arthur, cũng không muốn làm hiệp sĩ Lancelot.

- Pháp sư Merlyn cũng có những chuyện rắc rối của ông ta, - Jordan nói.

- Đúng, - tôi nói. - Nhưng ông ta không bao giờ chết.

Jordan và tôi đã trở thành bạn bè như thế đó. Chúng tôi đã khởi đầu tình bạn bằng một cuộc tâm sự đầy tình cảm kiểu học trò như vậy.

***

Ngày hôm sau cuộc ẩu đả với Cheech, tôi viết bức thư ngắn thường lệ cho vợ, báo cho "y thị" biết rằng vài ngày nữa tôi sẽ về nhà. Rồi tôi lang thang qua khu casino và thấy Jordan ở một bàn chơi crap. Trông anh có vẻ thất thần. Tôi chạm vào cánh tay anh; anh quay lại và cười với tôi, nụ cười ngọt ngào vẫn luôn luôn làm tôi thích. Có lẽ bởi vì tôi là người duy nhất mà anh nở nụ cười dễ dàng.

- Bọn mình ăn sáng đi, - tôi nói. Tôi muốn anh nghỉ ngơi thư giãn đôi chút. Rõ ràng anh đã đánh bạc suốt cả đêm rồi.

Không nói lời nào, Jordan thu gom hết mấy con phỉnh của mình và đi với tôi đến quán cà phê. Tôi vẫn còn cầm bức thư trên tay. Anh nhìn bức thư và tôi nói:

- Hàng ngày tôi vẫn thư từ đều đặn cho bà xã.

Jordan gật đầu và gọi bữa điểm tâm. Anh gọi bữa đầy theo kiểu ở Vegas. Dưa chua, trứng và thịt muối, bánh mì và cà phê. Nhưng anh ăn, nhấm nháp có mấy miếng, rồi uống cà phê. Tôi kêu một miếng bít-tếch còn hồng mà tôi thích ăn vào buổi sáng nhưng chỉ ở Vegas thôi hiếm khi ở nơi khác.

Trong khi chúng tôi đang ăn. Cully lướt vào như làn gió, tay phải anh đầy những con phỉnh đỏ trị giá năm đô-la.

- Đủ tiêu vặt trong ngày, - anh nói, đầy tự tin.

Anh ngồi xuống với chúng tôi và gọi phần ăn điểm tâm với cà phê.

- Merlyn, mình có tin lành cho cậu đây, - anh nói. - Cậu không cần phải rời bỏ nơi này nữa. Đêm rồi, Cheech đã phạm sai lầm lớn.

Bây giờ, vì lý do nào đấy, điều ấy thực sự làm tôi bực. Anh vẫn tiếp tục hành động như thế. Cứ như vợ tôi, vẫn luôn mồm bảo tôi nên làm gì, không nên làm gì, phải điều chỉnh sao cho phù hợp. Tôi chẳng phải tự mình làm cái gì cả. Nhưng tôi cứ để cho anh ta nói. Jordan, như thường lệ, chẳng nói tiếng nào, chỉ quan sát tôi khoảng một phút. Tôi có cảm tưởng anh đọc được ý nghĩ của tôi.

Cully có kiểu ăn nói bộp chộp. Người anh tràn trề năng lượng, giống như Cheech. Chỉ có khác là năng lượng nơi anh hình như được nạp đầy với thiện chí muốn làm cho mọi chuyện diễn ra êm ái, suôn sẻ hơn:

- Các cậu hẳn còn nhớ tay hồ lì mà Cheech đã dấm cho trào máu mũi, ướt đẫm cả áo sơ-mi? Xui cho y là thằng nhóc đó lại là cháu cưng của ngài Cảnh sát trưởng ở Las Vegas.

Tôi chẳng có ý thức nào về chuyện này. Cheech là một tay chì thực sự, một sát thủ, một tay đánh bạc lớn, có lẽ là một trong những động cơ đẩy cho Vegas xoay tròn.

Vậy thì đối với y, cháu của một Cảnh sát trưởng đã là cái thớ gì? Và nếu cái mũi của thằng nhóc có bị nhuộm đỏ thì cũng đã sao nào?

- Chuyện đâu có gì mà ầm ĩ!

Anh chàng Cully tỏ ra khoái chí khi chộp được cơ hội để "lên lớp" tôi.

- Này này, cậu ngố ơi, tớ bảo cho mà biết, - Chàng Cully hí hửng nói - Ngài Cảnh sát trưởng của Las Vegas chẳng hề kém cạnh tí nào so với các đấng Vua già đối với thần dân thuở xưa đấy. Tuy ngài có mập thù lù nhưng vẫn rất oai phong đường bệ với khẩu Stetson đeo trễ bên sườn. Ngài thuộc về một trong những vọng tộc danh gia cố cựu của xứ Nevada này từ những ngày mới khai hoang lập ấp. Hàng năm, dân chúng bầu một ngài lên. Thế nên lời của ngài là… luật lệ! Mọi khách sạn trong thành phố này đều phải dâng hậu lễ cho ngài. Mọi casino đều nài nỉ ân huệ có một đứa cháu của ngài đến làm việc và trả lương cho anh chàng ấy ở mức cao nhất, ngang với lương của kiểm soát viên. Bây giờ cậu phải hiểu là vị Sếp này coi Hiến pháp Hiệp Chủng Quốc và Tuyên ngôn Nhân quyền chỉ là một lầm lạc hay chỉ là của những kẻ ngây thơ về chính trị, không hơn không kém?

Chẳng hạn, bất kỳ du khách nào đều phải đăng ký tạm trú ngay khi bước chân đến thành phố này. Phớt lờ "sắc lệnh" của ngài thì biết mùi ngay! Và sếp cũng không ưa đám hippies. Cậu có để ý rằng thành phố này vắng bóng hẳn những tay tóc dài? Ngài cũng không khoái dân da đen, da màu cho lắm, hoặc bọn lang thang, ma cà bông, bọn cái bang từ một túi đến chín túi? Có lẽ Las Vegas là thành phố duy nhất ở Mỹ không hề có bóng dáng bọn đệ tử cái bang. Ngài thích gái cần cho công cuộc kinh doanh casino, nhưng ngài lại không ưa bọn ma cô, chủ chứa.

Ngài không để ý chuyện một chàng dắt mối cố bám vào cô bạn gái của hắn ta. Nhưng nếu có tên láu cá nào tổ chức đường dây gái gọi hãy coi chừng. Các ả giang hồ vẫn thường tự treo cổ trong các buồng giam, tự cắt đứt mạch máu cổ tay. Những tay cờ bạc cháy túi thường tự tử trong nhà tù. Hay những sát nhân, những kẻ biển thủ tiền ngân hàng. Rất nhiều người trong nhà tù tự "giải quyết" đời mình như thế. Nhưng có bao giờ các bạn nghe một tên ma cô tự tử chưa? Chuyện lạ? Vâng nhưng ở Las Vegas lại là chuyện thường ngày, ba tên ma cô đã tự tử trong nhà tù của Sếp. Nói thế các bạn đủ hình dung ra bức tranh toàn cảnh chưa?

- Vậy rồi chuyện gì xảy ra với Cheech? - tôi hỏi. - Hắn ta đang nằm hộp à?

Cully cười:

- Hắn không bao giờ đến đó. Hắn nài nỉ Gronevelt giúp đỡ.

Jordan thì thầm:

- Xanadu Số một?

Cully nhìn anh, hơi sững. Jordan cười:

- Khi không đánh bạc, mình nghe điện thoại chơi và tình cờ phát hiện mã số của lão ấy?

Trong một phút, Cully có vẻ hơi không được thoải mái. Rồi anh ta tiếp tục:

- Cheech yêu cầu Gronevelt che chở hắn và đưa hắn ra khỏi thành phố.

- Gronevelt là ai vậy? tôi hỏi.

- Là chủ khách sạn Xanadu này đấy, - Cully nói.

- Và để mình nói cho các cậu nghe, lão ta cũng đang có vấn đề. Cheech không đơn độc, các cậu cứ biết thế?

Tôi nhìn anh ấy. Tôi không biết điều đó nghĩa là gì.

- Cheech có dây mơ rễ má với ông ta, - Cully nói đầy chủ ý. - Nếu trùng trình thì Gronevelt buộc phải giao y cho Sếp. Vậy nên giờ đây Cheech đang nằm ở bệnh viện Community. Hắn bị… nứt sọ, bị nội thương trầm trọng cần phải phẫu thuật vân vân… và vân vân…

- Ôi lạy Chúa, - tôi buột miệng thốt lên.

- Chẳng phải thế đâu, Cully nói. - Chỉ là một cái mánh để tránh bị bắt giam thôi, để vuốt ve Sếp. Và khi Cheech bình phục, hắn sẽ vĩnh viễn bị cấm chỉ ló mặt ở Las Vegas. Không những thế, lão chủ sòng baccarat cũng bị tống cổ luôn. Lão có trách nhiệm trông nom thằng cháu của Sếp mà. Để cháu cưng của Sếp bị đánh như vậy, còn ra thể thống gì. Sếp nổi trận lôi đình, quạt cho lão ấy một luồng nộ khí như cơn gió giật cấp mười, cuốn lão ta văng khỏi Las Vegas xa lắc? Lão sẽ phải đến mấy hòn đảo bé tí xíu nơi biển Ca-ri-bê để tìm kế sinh nhai.

- Sẽ không có ai khác dám thuê lão? - tôi hỏi.

- Vâng, đúng là phải như thế, - Cully nói. - Có một chủ sòng bị đuổi đã lẻn trở lại thành phố và làm việc ở một sòng khác. Tình cờ Sếp đặt chân vào nơi đó và lôi y ra khỏi casino. Quất cho một trận lòi phân vãi đái. Thế là ai nấy đều hiểu ra cái thông điệp không lời kia.

- Sếp đánh người ta đến té dái vãi phân trước mặt bàng dân thiên hạ, vậy mà vẫn không sao cả ư? Công ước về nhân quyền để đâu? Nền dân chủ của xứ sở Huê Kỳ này để đâu? - Tôi ngây thơ hỏi.

- Nên nhớ rằng Sếp là một đại diện cho ý dân. Vậy ý Sếp tức là ý Trời vậy. Một tam đoạn luận có nền tảng lô-gic hẳn hoi. Ai còn nói gì được nữa?

Khi Cully dứt lời, lần đầu tiên Jordan cười lớn, cười sảng khoái. Một nụ cười bộc trực, xua tan đi vẻ xa cách, lạnh lùng mà người ta thường thấy toát ra nơi anh.

Chiều tối hôm đó, Cully mang Diane đến quầy nơi Jordan và tôi đang nghỉ xả hơi sau thời gian lao động nặng nhọc, vất vả với mấy con bài! Nàng đã phục hồi sau những gì lão Cheech đã giày vò, hành hạ nàng trong đêm trước.

Thấy rõ là nàng khá thân thiết với Cully. Và cũng hiển nhiên là thằng cha Cully đang đem nàng làm mồi nhử tôi và Jordan. Chúng tôi có thể ẵm nàng lên giường bất cứ lúc nào, tuỳ thích.

Cully nói đùa nhẹ nhàng về cặp tuyết lê và đôi trường túc của nàng, về cái miệng tình tứ xinh xắn, về cách nàng dùng cái đuôi tóc được cột lại như một chiếc roi da để quất vào "cháu bé" của bạn như thế nào, khiến bạn chẳng những không thấy xót xa cho thằng nhỏ mà lại thấy tê mê! Một ngón "độc chiêu" của riêng nàng, được một nàng "devadasi" đệ tử của nữ thần Kali bên Ấn Độ truyền thụ! Anh chàng này tán nghe ngọt đến độ con kiến trong lỗ cũng phải chui ra! Nhưng nhất là, hoà lẫn với những lời tán tụng có hơi… sống sượng đó, là những nhận định trang trọng về tính tình trung hậu đáng mến của nàng, chẳng hạn như: "Đây là một trong số hiếm hoi những cô gái nơi thành phố này không bao giờ vòi vĩnh, thúc ép hay dối gạt anh. Nàng không bán thân vì một cuộc đánh cá tự do. Nàng thực sự là kẻ có lòng, nàng không thuộc về cái thành phố ma quỉ này". Và rồi để chứng tỏ lòng mến mộ của mình, anh ta ngửa lòng bàn tay ra cho Diane gạt tàn thuốc vào để nàng không phải nhọc công vươn người tới cái gạt tàn. Đó là một biểu hiện tính "ga-lăng" của dân chơi phong nhã thành Vegas, tương đương với việc quỳ xuống để hôn tay một nữ công tước cao sang vậy!

Diane rất trầm mặc, và tôi hơi muốn lẫy khi thấy nàng có vẻ quan tâm đến Jordan nhiều hơn tôi. Xét cho cùng, chẳng phải chính tôi đã làm nhục lão Cheech mà ai cũng kiềng mặt đó, là để rửa hận cho nàng? Nàng chẳng có mảy may xúc động nào với chút ân tình đó sao?

Nhưng khi đứng lên vì đến tua làm việc trở lại, nàng đã nghiêng người qua bàn hôn vào má tôi và mỉm một nụ cười buồn, nàng nói:

- Em vui mừng thấy anh không sao. Em đã rất lo lắng cho anh. Nhưng lẽ ra anh không nên bốc đồng như thế!

Và rồi nàng ra đi.

Trong những tuần tiếp theo, chúng tôi kể chuyện đời cho nhau nghe và biết hơn về nhau. Một chầu sương sương vào buổi chiều là một nghi lễ không thể thiếu và phần lớn thời gian chúng tôi dùng bữa chung vào lúc một giờ sáng khi Diane hết ca làm ở bàn baccarat. Nhưng mọi chuyện còn tuỳ may rủi trong bài bạc. Nếu ai đó đang vận đỏ, sẽ tạm bỏ bữa ăn để đánh liếp. Điều này thường xảy ra với Jordan nhiều lần nhất.

Nhưng rồi có những buổi chiều, dù chúng tôi ngồi ngoài trời, chung quanh hồ nước và tán gẫu dưới ánh mặt trời sa mạc gay gắt. Hoặc những cuộc đi dạo nửa đêm dọc theo khu Thoát y vũ ngập trong ánh đèn néon muôn màu với những khách sạn lấp loáng rực rỡ như những ảo ảnh thần kỳ ngay giữa hoang mạc. Hoặc khi đứng tựa người vào cái hàng rào xám bạc vây quanh bàn baccarat.

Và trong những lúc đó chúng tôi cùng kể chuyện đời cho nhau nghe.

Chuyện của Jordan có vẻ đơn giản và tầm thường nhất và anh cũng có vẻ là con người bình thường nhất trong bọn. Anh đã từng có một cuộc sống hoàn toàn hạnh phúc và một số mệnh bình thường như nhiều người. Một con người khá có tài về quản trị và vào tuổi ba mươi lăm đã có công ty riêng, chuyên doanh ngành sắt thép khá thành công đã đem lại cho anh một cuộc sống sung túc.

Anh cưới một cô vợ đẹp, có với nhau ba đứa con, một căn nhà lớn tiện nghi và tất cả những thứ họ mong muốn. Bạn bè, tiền bạc, sự nghiệp và tình yêu. Tất cả kéo dài được hai mươi năm. Và rồi, như Jordan nói, vợ anh bỗng vượt trội khỏi anh. Anh đã tập trung mọi năng lực để giữ cho cuộc sống gia đình an toàn, thoát khỏi những nỗi kinh hoàng của một nền kinh tế rừng rậm, điều ấy đã thu hút hết mọi ý chí và năng lượng nơi anh. Vợ anh đã làm tròn bổn phận của vợ đảm, mẹ hiền. Nhưng đến một thời điểm nào đó, nàng mong ước nhiều hơn từ đời sống. Nàng là một người đàn bà trí tuệ (dầu khái niệm này hình như là một mâu thuẫn trong ngôn từ!) hiếu kỳ, thông minh, đọc nhiều hiểu rộng. Nàng ngốn ngấu những quyển tiểu thuyết và kịch bản, ưa tham quan các viện bảo tàng, gặp gỡ mọi nhóm hoạt động văn hoá của thành phố, và nàng nôn nao chia sẻ mọi điều với Jordan. Anh càng yêu nàng nhiều hơn. Cho đến cái ngày nàng bảo với anh là nàng muốn ly dị! Thế là chàng hết yêu nàng, hết yêu con cái, hết yêu gia đình, hết yêu công việc. Chàng đã làm mọi thứ trong đời vì cái tổ ấm gia đình. Chàng đã bảo vệ cho vợ con khỏi mọi nguy cơ của thế giới bên ngoài, đã xây dựng những pháo đài bằng tiền bạc và quyền lực, không bao giờ lại nghĩ rằng những cánh cửa lại có thể bị mở ra từ bên trong.

Điều đó anh không kể ra, nhưng tôi nghe ra. Anh chỉ nói đơn giản là anh đã không "tăng trưởng đồng bộ với vợ mình". Rằng anh đã quá chìm ngập vào trong việc kinh doanh và đã thiếu sự quan tâm đúng mức đối với gia đình. Rằng anh không hề trách móc nàng một lời khi nàng ly dị anh để kết hôn với một trong những người bạn của anh. Bởi vì người bạn đó rất đồng điệu với nàng; họ cùng có những sở thích giống nhau, cùng có loại trí tuệ tương đồng, và cảm quan nhạy bén trong hưởng thụ và thưởng thức đời sống.

Vậy là anh, Jordan, đã đồng ý với mọi điều mà vợ mình muốn. Anh đã bán cơ sở kinh doanh của anh và cho vợ hầu như toàn bộ số tiền. Luật sư của anh bảo rằng anh quá hào phóng và sau đó sẽ hối tiếc cho mà xem. Nhưng Jordan bảo rằng thật ra như thế cũng chẳng phải là hào phóng gì đâu bởi vì anh đủ khả năng làm ra tiền nhiều hơn thế trong khi vợ anh và chồng mới của cô ta không thể làm được:

- Các bạn đừng nghĩ là tôi trông chờ vào chuyện may rủi nơi sòng bạc nhé, - Jordan nói- Nhưng tôi là một tài năng trong kinh doanh. Tôi nhận được rất nhiều lời mời chào làm việc từ khắp mọi miền đất nước. Nếu máy bay của tôi đã không hạ cánh xuống Las Vegas ngoài dự tính, thì ngay giờ này tôi đã đang làm việc để tiến tới một triệu đô-la đầu tiên của mình ở Los Angeles.

Một câu chuyện tốt đẹp nhưng tôi nghe hình như có chút gì giả tạo, bởi vì sao mà quá cao thượng quá văn minh.

Một trong những điều bất ổn là tôi biết rằng anh chẳng hề ngủ được suốt nhiều đêm liền. Mỗi buổi sáng, tôi đều xuống khu casino để đánh thức nỗi thèm ăn cho bữa điểm tâm bằng trò ném xúc xắc. Và tôi đều gặp Jordan ở bàn crap. Rõ ràng là anh ta đã đánh bài suốt đêm. Đôi khi quá mệt mỏi, anh ta lại đổi qua sòng roulett hay sòng blackjack. Và cùng với ngày qua, trông anh ta càng ngày càng thảm não hơn. Anh giảm cân thấy rõ, đôi mắt đầy những lằn đỏ. Nhưng anh vẫn luôn dễ thương, ăn nói nhỏ nhẹ. Và không bao giờ có lời than phiền vợ mình.

Đôi khi, lúc Cully và tôi một mình nơi quầy hay trong bữa ăn tối, Cully hỏi:

- Cậu có tin nổi cái anh chàng Jordan dở hơi đó không? Cậu có tin nổi rằng một thằng cha nào đó bị vợ cho nghỉ chơi lại vẫn đối xử quá ư dễ thương như hắn? Và cậu có tin nổi rằng hắn ta nói về nàng như thể cô ta là cái âm đ*o kỳ diệu nhất trên đời?

Tôi đáp:

- Nàng chẳng phải là người đàn bà kỳ diệu nhưng nàng là vợ anh ta trong hàng chục năm và là mẹ của mấy đứa con, là chỗ dựa cho niềm tin của anh ta - một tín đồ Thanh giáo khư khư ôm lấy quả cầu gai ném vào mình.

Chính Jordan đã khiến tôi bắt đầu thổ lộ tâm tình. Một ngày nọ, anh ấy bảo:

- Cậu đặt ra hàng lô câu hỏi, nhưng cậu lại chẳng nói gì nhiều.

Anh ngừng một lát như thể anh đang tự hỏi mình có thực sự quan tâm dù để nêu câu hỏi hay không. Rồi anh nói:

- Tại sao cậu ở đây lâu thế?

- Tôi là nhà văn, - tôi bảo anh.

Và tiếp tục từ đó sự kiện tôi đã từng xuất bản một quyển tiểu thuyết gây ấn tượng cho cả hai chàng và phản ứng đó luôn làm tôi thích thú. Nhưng điều thực sự làm họ ngạc nhiên là tôi đã ba mươi mốt tuổi và đã trốn chạy khỏi một bà vợ với ba đứa con.

- Tôi cứ tưởng cậu nhiều lắm là hai mươi lăm, - Cully nói. - Với lại cậu không đeo nhẫn cưới.

- Tôi chẳng bao giờ đeo nhẫn gì cả, - tôi nói.

Jordan nói đùa:

- Cậu không cần nhẫn. Trông mặt cậu biết ngay là anh chàng chuyên gạt vợ để đi chơi bậy rồi.

Vì lý do nào đó mà tôi đã không thể tưởng tượng anh ta lại nói đùa kiểu đó khi anh ta đã có vợ và sống ở Ohio. Rồi có lẽ anh ta thấy đùa như vậy hơi sống sượng.

Hoặc có lẽ tâm hồn anh ta không mấy phóng khoáng như anh ta làm ra vẻ thế. Hoặc có lẽ một điều gì đó mà vợ anh ta đã từng nói và giờ anh ta ngẫm nghĩ lại thấy vui vui.

Với tôi thế cũng tốt thôi. Dẫu sao, tôi cũng kể cho họ câu chuyện hôn nhân của tôi, và trong quá trình đó, tôi vô tình để lộ ra rằng cái vết sẹo trên bụng tôi mà tôi đã đem khoe với họ như là một thứ chiến thương ghê gớm hoá ra chỉ là vết mổ túi mật! Đến điểm đó của câu chuyện, Cully cười lớn và nói:

- Cậu đúng là một nghệ sĩ loại cực kỳ… nhảm nhí!

Tôi nhún vai cười và tiếp tục kể câu chuyện đời mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Tôi không có lịch sử. Cũng chẳng nhớ mặt mũi các đấng sinh thành mình ra sao. Chẳng có ông bác, ông chú, ông cậu nào, chẳng có anh em họ hàng, chẳng biết quê hương bản quán mình ở đâu. Chỉ có mỗi người anh lớn hơn tôi hai tuổi. Vào tuổi lên ba, lúc đó anh tôi - Artie - mới lên năm, cả hai chúng tôi bị mẹ đem bỏ trong một viện mồ côi ở vùng ngoại ô New York. Tôi chẳng có hồi ức nào về bà.

Tôi không kể chuyện này cho Cully, Jordan và Diane nghe. Tôi không bao giờ nói về những chuyện này. Ngay cả với anh Artie, người thân thiết với tôi trên cuộc đời này hơn bất kì ai.

Tôi không bao giờ nói về chuyện này bởi vì nghe có vẻ cảm động sướt mướt quá, mà thật ra cũng không hẳn như vậy. Cô nhi viện nơi chúng tôi sống khá khang trang, sạch sẽ, ngăn nắp với một hệ thống trường học tốt và một nhà quản lý thông minh. Nơi chốn đó đã làm tốt công đức đối với chúng tôi cho đến khi Artie và tôi cùng rời nơi đó.

Năm ấy, anh mười tám tuổi và đã tìm được việc làm và chỗ ở. Tôi trốn viện để đến sống với anh. Sau vài tháng tôi cũng xa anh, khai gian tuổi mình để nhập ngũ và ra trận trong Thế chiến 2. Và giờ đây, mười sáu năm sau, tại thành phố Vegas này, tôi kể lại cho Jordan cùng Cully và Diane về cuộc chiến và cuộc đời tôi, như sau đây.

Điều trước tiên mà tôi làm sau cuộc chiến là ghi danh vào các lớp học viết văn tại Học viện nghiên cứu xã hội. Thuở đó ai cũng muốn làm nhà văn, cũng như hai mươi năm sau ai cũng hy vọng trở thành nhà làm phim.

Tôi đã nhận thấy là tìm bạn trong quân đội rất khó. Ở trường học thì dễ hơn. Tại đó, tôi gặp được người vợ tương lai của mình. Bởi vì tôi không có gia đình, trừ người anh hiện ở xa, nên tôi dành nhiều thời giờ cho trường học hay lang thang nơi các tiệm caféteria hơn là quay về phòng trọ đơn côi của mình ở Grove Street. Thời đó thật vui.

Thỉnh thoảng tôi gặp may và tán tỉnh được một em xiêu lòng chịu về chung sống với tôi độ vài ba tuần. Mấy anh chàng tôi đánh bạn, tất cả đều sau khi ra khỏi quân đội và đến trường dưới tấm thẻ G.I(1), đều sử dụng loại ngôn ngữ của tôi. Có điều phiền là họ đều quan tâm đến đời sống văn học còn tôi thì không. Tôi chỉ muốn trở thành nhà văn bởi vì tôi vẫn luôn luôn mơ tưởng đến các câu chuyện. Những cuộc phiêu lưu huyền hoặc làm tôi cách ly với thế giới chung quanh.

Tôi tự phát hiện rằng tôi đã đọc nhiều hơn bất kì ai khác, ngay cả những tay đang nghiên cứu để soạn luận án tiến sĩ về văn học. Thực sự tôi không có nhiều chuyện để làm, dù tôi luôn chơi bài. Tôi tìm ra một quán sách ở Phố Đông gần Đường Số mười và mỗi ngày vẫn đánh cá về bóng đá, bóng rổ, bóng chày. Tôi viết vài truyện ngắn và khởi thảo một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tôi gặp vợ tôi nơi một trong những lớp dạy viết truyện ngắn.

Nàng là một cô gái mang hai dòng máu Ireland và Scotland nhỏ nhắn nhưng nửa thân trên khá nở nang với đôi mắt xanh biếc to tròn và rất ư nghiêm trang về mọi chuyện. Nàng phê bình những truyện ngắn của người khác một cách cẩn thận, với lời lẽ ôn tồn nhưng không kém khắt khe. Nàng chưa có cơ hội để phê phán tôi bởi vì tôi vẫn chưa đưa truyện nào ra đọc cho lớp nghe. Nàng đọc truyện của nàng. Và tôi rất ngạc nhiên ở đó là một truyện hay mà lại rất tếu nữa, nói về các ông chú. Ông bác người Ireland của nàng, tất cả đều là những con sâu rượu. Vì thế khi câu truyện được đọc xong, cả lớp nhào tới nàng để cổ vũ cho cái nguyên mẫu người Ireland say rượu. Khuôn mặt xinh xắn của nàng bỗng méo xệch đi vì kinh ngạc và cảm thấy bị xúc phạm. Cuối cùng, nàng được cho một cơ hội để trả lời.

Nàng có một giọng nói êm ái du dương và than vãn:

- Nhưng tôi đã lớn lên với người Ireland. Họ đều uống rượu. Điều đó không đúng sao?

Nàng nói mấy lời ấy với thầy giáo, tình cờ cũng là người Ireland. Tên ông ta là Maloney và là một hảo bằng hữu của tôi. Mặc dầu không lộ ra, song vào lúc đó, ông ta cũng đang ngà ngà.

Maloney dựa ngửa vào lưng ghế và long trọng tuyên bố:

- Tôi không rõ, vì tôi là người Bắc Âu.

Chúng tôi cười rộ lên và nàng Vallie tội nghiệp bối rối cúi đầu. Tôi bênh vực nàng bởi vì đó là một truyện hay song tôi biết nàng sẽ chẳng bao giờ trở thành một nhà văn thực sự. Mọi người trong lớp đều có tài nhưng chỉ một số ít có đủ sức lực và hoài bão để đi suốt chặng đường dài đau khổ, đánh cá cả cuộc đời vào chuyện viết lách.

Tôi là một trong số đó. Tôi cảm thấy nàng không thế. Bí mật cũng đơn giản thôi. Sống để viết, đó là điều duy nhất tôi muốn làm.

Gần đến cuối kỳ hạn tôi mới trình làng truyện ngắn của mình. Ai cũng thích. Sau buổi học, Vallie đi đến với tôi và hỏi:

- Tại sao trong khi em nghiêm trang như thế và mọi điều em viết ra lại nghe đầy chất hài hước? Còn anh vẫn luôn đùa cợt và hành động như thể anh chẳng đứng đắn chút nào, thế mà truyện của anh lại làm cho em khóc?

Nàng nói nghiêm chỉnh, như thường lệ. Vừa đủ không gượng, không rườm lời. Và tôi dẫn nàng đi uống cà phê. Tên nàng là Vallie O Grady, một cái tên nàng không mấy ưa vì quá đặc chất Ireland. Đôi khi tôi nghĩ nàng lấy tôi chỉ vì muốn thoát khỏi cái tên O Grady. Và nàng bảo tôi gọi nàng là Vallie. Tôi ngạc nhiên khi phải mất hơn hai tuần mới đưa được nàng lên giường.

Nàng không phải là cô gái tự do, dễ dãi như các em gái khác ở cái Làng Văn này và nàng muốn chắc dạ là tôi phải biết rõ điều ấy.

Phải vượt qua một yêu sách vô lý trong đó tôi phải làm sao dụ cho nàng say trước đã để nàng có thể kết tội tôi đã lợi dụng "yếu điểm chủng tộc" để đưa nàng vào tình trạng bất khả kháng! Nhưng trên giường, nàng đã làm tôi ngạc nhiên thích thú!

Trước đây tôi chưa si mê nàng đến thế, nhưng nàng thật tuyệt khi ở trên giường. Tôi đoán rằng có những người đặc biệt tương thích về tình dục, họ đáp ứng nhau trong xung động tình dục ở mọi mức độ và trên từng cây số!

Trong trường hợp của mình, tôi nghĩ rằng vì cả hai chúng tôi đều cả thẹn, đều quá thu mình vào nội tâm, nên chúng tôi không được thoải mái với các đối tác tính dục khác. Và rằng chúng tôi đã cung ứng cho nhau trọn vẹn vì một lý do huyền bí nào đó, phát xuất từ tính cả thẹn của đôi bên. Dẫu sao thì sau cái đêm hôm ấy đêm gì, bóng dương lồng bóng trà mi chập chùng đó, chúng tôi trở nên bất khả phân ly, dính nhau như đôi sam. Chúng tôi cùng đi đến mọi rạp hát lớn nhỏ trong Làng Văn, xem hết mọi cuốn phim nội cũng như ngoại. Chúng tôi đến các nhà hàng Ý và tiệm ăn Tàu, thưởng thức đủ món khoái khẩu rồi quay về phòng tôi quần thảo nhau tơi bời cho đến nửa đêm, tôi sẽ đưa nàng đến trạm xe điện ngầm để nàng có thể về với gia đình ở Queens. Nàng vẫn còn chưa đủ lì để ở lại với tôi qua đêm. Cho đến một lần cuối tuần nọ, nàng không còn có thể cưỡng được nữa. Nàng muốn ở cùng tôi ngày Chủ nhật để sáng dậy làm món điểm tâm cho tôi và cùng tôi đọc mấy tờ báo Chủ nhật trong suốt buổi sáng. Vậy là nàng vận dụng những lời nói dối thông thường của các cô gái đối với bố mẹ và ở lại đêm với tôi.

Một dịp cuối tuần thật đẹp. Nhưng khi trở về nhà, nàng rơi vào một cuộc đụng độ nảy lửa. Cả nhà nhào đến xỉa xói nàng và khi tôi gặp lại nàng vào tối thứ hai, nàng đầm đìa nước mắt.

- Ôi chà! - tôi nói. - Vậy thì chúng ta cưới nhau đi!

Ngạc nhiên, nàng nói:

- Em có dính bầu đâu.

Và nàng càng ngạc nhiên hơn khi tôi phá ra cười lớn. Nàng thực sự thiếu ý thức hài hước, trừ khi nàng viết văn.

Cuối cùng tôi phải thuyết phục nàng rằng tôi nói điều đó nghiêm chỉnh, rằng tôi thực sự muốn cưới nàng và nàng đỏ mặt rồi khóc ngon lành.

Thế là vào dịp cuối tuần sau đó, tôi đến nhà bố mẹ nàng ở Queens, ăn cơm cùng gia đình nàng tối chủ nhật đó. Quả là một đại gia đình với bố mẹ, ba cậu con trai, ba cô con gái, tất cả đều còn trẻ hơn Vallie. Bố nàng là một công nhân lớn tuổi của Tammany Hall và kiếm sống bằng công việc chính trị nào đó. Có mấy ông chú, ông cậu đến chơi và ông nào cũng đã ngà ngà song đều vui tính, dễ chịu, không có gì phiền. Mặc dầu tôi không thường uống rượu, tôi cũng nhâm nhi tí tỉnh và chúng tôi đã có khoảng thời gian thoải mái với nhau.

Bà mẹ có đôi mắt nâu láo liên. Rõ ràng Vallie thừa hưởng tính dục từ bà mẹ và tính thiếu hài hước từ ông bố. Tôi có thể thấy ông bố và các ông chú, ông cậu quan sát tôi với đôi mắt lờ đờ, cố phán đoán xem tôi có thuộc loại ranh con láu cá dụ dỗ để phá đời con gái của Vallie yêu dấu của họ không, và lỡm nàng về chuyện cưới hỏi để rồi sau khi con ong đã tỏ đường đi lối về, liễu chán hoa chê thì sẽ quất ngựa truy phong vù đi mất dạng hay không.

Cuối cùng ông O Grady đưa thẳng vào trọng điểm:

- Khi nào hai anh chị định tiến hành lễ cưới đây?

Tôi biết nếu tôi trả lời ấm ở, tôi có thể bị vỡ mồm dập mũi từ những cú đấm của ông bố và mấy ông chú, ông cậu, ngay tại chỗ và liền tức khắc. Tôi có thể thấy rằng ông bố ghét tôi vì chuyện đã "đóng ốc vít" cô con gái bé bỏng của ông trước khi cưới hỏi nàng. Nhưng tôi hiểu ông. Chuyện dễ hiểu quá mà. Vả chăng, tôi đâu có lừa dối. Tôi không bao "vờ" lừa dối ai. Hay là tôi tự nghĩ thế, cho nên tôi cười thẳng thắn và đáp:

- Ngay sáng mai, nếu hai bác cho phép!

Tôi cười bởi vì tôi biết câu trả lời đó làm họ yên tâm nhưng lại là câu trả lời mà họ không thể chấp nhận ngay. Họ không thể chấp nhận bởi vì như vậy tất cả bạn bè của họ sẽ nghĩ rằng chắc cô Vallie đã mang bầu nên mới phải gấp thế?

Cuối cùng chúng tôi thoả thuận thu xếp vào một ngày khoảng hai tháng sau để sẽ có thông báo chính thức và chuẩn bị lễ cưới cho được long trọng sự thể. Đối với tôi, như thế cũng ổn. Tôi không biết chắc là chúng tôi có thực sự yêu nhau hay không. Tôi hạnh phúc và thế là đủ. Tôi không còn cô độc, và có thể bắt đầu câu chuyện đời thực sự của mình. Cuộc sống sẽ hướng ngoại hơn để quân bình lại bản chất hướng nội tự nhiên nơi tôi. Sẽ có một gia đình với vợ con đề huề và gia đình bên vợ sẽ là gia đình của tôi. Sẽ định cư nơi một khu nào đấy của thành phố này, sẽ là thành phố của tôi. Sẽ không còn là một cá thể cô đơn trơ trọi nữa. Chúng tôi sẽ tổ chức những ngày lễ và những ngày sinh nhật. Nói vắn tắt là, lần đầu tiên trong đời, tôi sẽ có cuộc sống bình thường. Cuộc sống quân ngũ trước đây thực sự cũng không có gì đáng kể nữa. Và trong mười năm tới, tôi sẽ làm việc để xây dựng địa vị của mình trong xã hội.

Những người duy nhất tôi biết mình sẽ mời dự dám cưới là anh tôi, Artie, và vài bạn thân ở trường viết văn.

Nhưng có một vấn đề. Tôi phải giải thích cho Vallie rằng tên thực của tôi không phải là Merlyn. Hay đúng hơn tên gốc của tôi không phải là Merlyn. Sau chiến tranh tôi đã đổi tên mình một cách hợp pháp.

Tôi phải giải thích cho quan toà rằng tôi là một nhà văn và rằng Merlyn là cái tên tôi chọn làm bút danh. Tôi nêu ra cái tên Mark Twain làm thí dụ. Quan toà gật đầu như thể ông ta từng biết hàng trăm nhà văn đã làm việc đó.

Sự thực là vào thời đó, tôi mang cảm thức huyền nhiệm về việc viết văn. Tôi muốn nó thuần tuý, không bị vẩn đục. Tôi sợ trở thành gượng gạo nếu có ai đó biết điều gì về tôi và biết rõ tôi là ai. Tôi muốn viết về những con người phổ quát.

Chính nhờ những mối quan hệ chính trị của ông bố vợ O Grady, tôi có được việc làm như một nhân viên dân sự Liên bang, một Trưởng phòng văn thư GS-6 của các Đơn vị dự bị của quân đội Mỹ.

Sau khi có con, đời sống hôn nhân có phần tẻ nhạt nhưng vẫn còn hạnh phúc. Vallie và tôi chẳng bao giờ đi ăn ngoài. Vào những ngày lễ, ngày nghỉ, chúng tôi đến ăn uống với gia đình nàng hay đến nhà anh Artie của tôi.

Khi tôi làm việc ban đêm, nàng và các bạn ở cùng chung cư sẽ đi thăm viếng lẫn nhau. Nàng làm bạn với nhiều người. Vào những đêm cuối tuần, nàng sẽ đi thăm các căn hộ của họ khi họ tổ chức những party nho nhỏ, còn tôi ở lại giữ nhà, trông chừng bọn trẻ và viết lách. Tôi chẳng bao giờ đi đâu. Khi đến lượt nàng khoản đãi, tôi ghét chuyện ấy và tôi đã không khéo giấu được sự bực mình.

Và Vallie bực vì chuyện ấy. Tôi nhớ một lần tôi vào phòng ngủ để trông chừng đám nhóc và đọc mấy trang bản thảo. Vallie rời bỏ đám khách để đến tìm tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được tia nhìn bị xúc phạm khi nàng thấy tôi chăm chú đọc bản thảo, như vậy hiển nhiên là tôi rất miễn cưỡng trong việc quay lại với nàng và các bạn nàng.

Chính sau một trong những vụ việc lặt vặt đó mà tôi phát ốm lần đầu tiên. Tôi thức giấc lúc hai giờ sáng và thấy đau quặn thắt bao tử và khắp cả lưng.

Tôi không đủ tiền để đi khám bác sĩ tư, vậy nên ngày hôm sau tôi đến bệnh viện Cựu chiến binh và rồi họ làm mọi thứ xét nghiệm trong vòng một tuần lễ. Họ không thể tìm thấy cái gì, nhưng rồi tôi lại bị cơn đau khác tấn công dữ dội và chính từ những triệu chứng lâm sàng, họ chẩn đoán là tôi bị đau túi mật.

Một tuần sau, tôi trở vào bệnh viện với cơn đau khác, và họ tống đầy moóc-phin vào người tôi. Phải bỏ hai ngày làm việc. Thế rồi vào khoảng một tuần trước Giáng Sinh, ngay lúc sắp hoàn tất công việc ban đêm, tôi lại bị một cơn đau đến xanh mặt (Tôi chưa kể rằng tôi đang làm thêm buổi tối cho một ngân hàng để kiếm tiền tiêu vào dịp lễ Noël). Cơn nhức nhối chịu không nổi.

Nhưng tôi nhớ tôi có thể đến bệnh viện Cựu chiến binh ở đường Hai mươi ba. Tôi kêu một chiếc taxi chở và bỏ tôi xuống khoảng nửa dãy phố cách cổng vào. Lúc đó đã quá nửa đêm. Khi chiếc taxi đi xa, cơn đau tấn công tôi kịch liệt đau quằn quại như điên. Tôi quỳ gối, ôm bụng, gập cong người trên đường phố tối mờ. Cơn đau toả ra khắp lưng tôi. Tôi nằm bẹp xuống hè phố lạnh giá. Không có ai chung quanh, chẳng có ai để giúp tôi. Cổng vào bệnh viện còn cách cả trăm bước. Tôi bị cơn đau làm tê liệt đến không còn nhúc nhích nổi. Tôi cũng hết còn thấy sợ nữa. Thật ra, tôi đang mong ước phải chi mình chết đi, để cho cơn đau cũng tiêu đời luôn. Đếch cần phải để lại một lời trối trăng cuối cùng nào cho vợ con hay ông anh yêu quý của mình. Chỉ muốn mình tan biến vào hư không. Có một lúc tôi đã nghĩ đến nhân vật Merlyn huyền thoại.

Đúng rồi, tôi chẳng phải là một pháp sư tài ba nào cả. Tôi nhớ mình đã một lần lăn tròn để mong dừng lại cơn đau và lăn đến lề vỉa hè, sát miệng cống. Cái nắp đậy miệng cống đã trở thành chiếc gối cho tôi tựa đầu.

Và giờ đây tôi có thể thấy những ánh đèn Noël nhấp nháy trang trí cho một cửa hàng gần đó. Cơn đau rút xuống một chút. Tôi nằm đó, nghĩ rằng mình là một con thú tật nguyền, một sinh vật thật yếu đuối, mỏng manh, giòn vỡ. Này đây tôi là một nghệ sĩ đã có một quyển sách được xuất bản, và hơn một nhà phê bình đã từng gọi tôi là thiên tài, một trong những niềm hy vọng của nền văn học Hoa Kỳ. Thế mà niềm hy vọng đó lại đang hấp hối như một con chó bên miệng cống. Mà chẳng phải lỗi tại tôi. Chỉ vì tôi không có tiền trong nhà băng. Chỉ vì chẳng có ai thực lòng quan tâm tôi sống hay chết. Đó là sự thật bao trùm toàn bộ vấn đề. Lòng thương thân cũng có tác dụng gần như thuốc phiện.

Tôi không biết phải mất bao lâu mới bò ra khỏi miệng cống. Không biết phải mất bao lâu để bò đến cổng vào bệnh viện, nhưng cuối cùng tôi cũng đến cái vòng cung ánh sáng kia. Tôi nhớ người ta đặt tôi vào một chiếc ghế đẩy và đưa tôi đến phòng cấp cứu, tôi trả lời những câu hỏi và rồi như có phép ma thuật, tôi nằm trong một chiếc giường trắng ấm áp, tôi thấy buồn ngủ một cách khoan khoái, không đau đớn. Tôi biết họ đã tiêm moóc-phin.

Khi tôi thức giấc, một tay bác sĩ trẻ đang xem mạch. Tay này trước đây đã điều trị cho tôi, tên ông ta là Cohn. Ông ta cười và nói:

- Họ đã gọi vợ ông. Bà ấy sẽ đến đây chăm sóc ông khi mấy đứa trẻ đã đến trường.

Tôi gật đầu và nói:

- Tôi đoán là mình không thể đợi đến Noël cho cuộc phẫu thuật đó.

Bác sĩ Cohn trông có vẻ hơi nghĩ ngợi và rồi ông reo lên vui vẻ:

- Được rồi, đã đến thế này tại sao ông không đợi đến sau Giáng Sinh? Tôi định thời biểu vào ngày hai mươi bảy. Ông có thể hưởng đêm Noël vui vẻ, sau đó mình sẽ tính.

- OK, - tôi nói.

Tôi tin ông ấy. Ông ta bảo với bệnh viện xếp tôi vào danh sách bệnh nhân ngoại trú. Ông ta là người duy nhất có vẻ hiểu được khi tôi nói rằng tôi không muốn giải phẫu trước ngày Noël. Tôi nhớ lời ông nói: "Tôi không rõ ông có ý nói chuyện gì nhưng nhất trí với ông là có muốn mổ xẻ gì cũng hãy để đến sau lễ rồi tính".

Tôi không thể giải thích rằng mình phải tiếp tục làm hai việc cho đến lễ Giáng sinh để các con của tôi có được đồ chơi và quần áo mới và vẫn còn niềm tin vào ông già Noël.

Rằng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với gia đình, hạnh phúc của gia đình, đó là điều duy nhất tôi có được.

Tôi vẫn luôn nhớ đến vị bác sĩ trẻ đó. Trông ông ta thật giống một diễn viên điện ảnh đóng vai bác sĩ, ngoại trừ ông ta rất khiêm cung hoà nhã, rất xuề xoà dễ mến.

Ông ký giấy cho tôi về nhà với tư cách bệnh nhân ngoại trú, cấp cho tôi một mớ moóc-phin để giảm đau. Nhưng ông ta có những lý do riêng. Vài ngày sau khi mổ, ông ta bảo tôi, và tôi có thể thấy ông vui sướng như thế nào khi nói điều ấy với tôi:

- Nghe này, ông là một người còn trẻ bị sỏi mật mà các cuộc xét nghiệm không tìm thấy gì. Chúng tôi tiếp tục chẩn đoán qua các triệu chứng lâm sàng. Nhưng chẳng có gì. Tôi đã xem rất kỹ. Khi về nhà, ông đừng lo ngại gì. Ông sẽ lại tốt như một cỗ máy mới toanh ấy thôi.

Vào lúc đó, tôi không biết ông ta muốn nói cái quỷ gì. Chỉ sau đó gần cả năm tôi mới biết là ông ta đã sợ tìm thấy bệnh ung thư nơi tôi. Và đó là lý đo tại sao ông ta đã không muốn giải phẫu cho tôi trước lễ Giáng Sinh mà muốn để tôi còn được hưởng một dịp lễ Noel vui vẻ trước khi lên đường về chầu Chúa!

Chú thích:

(1) G.I: quân nhân Mỹ
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Tôi nói với Jordan, Cully và Diane về chuyện anh tôi, Artie và vợ tôi, Vallie, đến thăm và chăm sóc tôi hàng ngày như thế nào, trong khi vợ của Artie lo chăm sóc lũ nhóc của chúng tôi. Tôi thấy Cully mỉm cười có vẻ e thẹn.

- Được rồi, - tôi nói. - Cái vết sẹo mà tôi đưa các bạn đó là vết mổ sỏi mật, chứ chẳng phải là vết đạn súng liên thanh. Nếu các anh có tí trí tuệ, hẳn các anh đã biết thừa đi rằng, thằng nào lỡ ăn nhiều kẹo đồng như vậy thì còn sống thế nào được để mà nói phét.

Cully vẫn tiếp tục cười chúm chím, coi bộ ngây thơ nhưng lại ngầm ý đểu. Anh ta nói:

- Có lúc nào cái ý tưởng này chạy ngoằn ngoèo qua đầu óc cậu không, rằng thì là khi anh cậu và vợ cậu rời bệnh viện, có thể hai người vù đến một bãi đáp nào đó đánh một quả nhanh, trước khi về nhà? Có phải đó là lý do khiến cậu xa vợ?

Tôi cười muốn vỡ bụng, và tôi biết mình phải nói với họ về Artie đôi chút.

- Anh ấy rất bô trai, - tôi nói. - Chúng tôi trông giống nhau lắm, nhưng anh ấy lớn tuổi hơn thôi sự thật thì tôi là một thứ phiên bản viết bằng than hoạt tính của ông anh tôi. Đôi môi tôi quá dày. Túi mắt tôi quá trũng sâu. Lỗ mũi quá bự. Trông tôi có vẻ quá thừa sinh lực. Nhưng các bạn nên thấy tận mặt Artie. Tôi bảo họ rằng lý do tôi cưới Vallie chính vì nàng là người duy nhất trong số các cô bạn gái của tôi đã không mê ông anh điển trai của tôi.

Anh Artie của tôi phải nói là đẹp trai ở mức độ thanh thoát đến khó tin. Đôi mắt anh giống như đôi mắt của các bức tượng Hy Lạp. Tôi nhớ khi cả hai chúng tôi còn là hai chàng trai trẻ độc thân, thì biết bao cô gái đã si mê anh, đã khóc như mưa vì anh, doạ tự tử nếu không lấy được anh. Và anh đã rất bối rối, phiền muộn vì chuyện đó. Bởi vì thực sự anh không bao giờ nhận thức rõ nét đẹp của mình. Anh còn hơi có ý tự ti vì thấy mình có phần thấp bé, với tay chân đều mảnh dẻ, nhỏ nhắn. "Xinh xắn, dễ thương như một em bé" - một cô đã từng thốt lên với vẻ ngưỡng mộ!

Nhưng điều khiến Artie khổ tâm lại chính là cái ma lực hấp dẫn phái nữ đó ở nơi anh. Cuối cùng anh đâm ra ghét nó. Ôi, còn tôi lại thèm khát nó biết bao! Chưa từng có cô gái nào si tôi kiểu cuồng dại, cuống quýt như thế. Giờ đây, tôi thích nó biết bao, sự si tình mê đắm vì những nét ngoại hình hấp dẫn, cái tình yêu chẳng phải có được vì những đức tính như lòng nhân hậu, bản lĩnh, thông minh, tài ba trí tuệ, hay duyên dáng ý nhị, hay sức sống mạnh… Nói vắn tắt là, tôi thèm muốn biết bao được yêu theo cách không cần phải nhọc công tìm kiếm, không phải tốn quá nhiều hơi sức để chinh phục. Tôi thích thứ tình yêu đó theo cách tôi thích nhưng khoản tiền "hoạnh tài" vớ được khi gặp vận đỏ trong cờ bạc.

Artie thường mặc những bộ quần áo không hợp với người anh. Anh cố ý ăn mặc theo cách không hợp với ngoại hình của mình, cố ý làm giảm đi vẻ hấp dẫn của mình. Anh chỉ có thể thấy thoải mái và thể hiện con người tự nhiên của mình với những ai anh thực sự quan tâm và cảm thấy an toàn. Không thì anh chỉ biểu hiện một nhân cách mờ nhạt vô bản sắc, theo kiểu vô thưởng vô phạt, để giữ mọi người ở một cự ly vừa phải. Nhưng ngay cả với thế thủ kín kẽ như vậy, anh vẫn tiếp tục vướng mắc vào những mối tơ tình rối rắm ngoài ý muốn. Bởi thế anh phải lấy vợ khi còn rất trẻ và có lẽ là người chồng trung thành duy nhất ở cái thành phố New York đầy rẫy những động nữ quái, hồ ly này.

Trong lúc làm việc với tư cách là chuyên viên nghiên cứu sinh hoá cho Cục quản lý lương thực và Hoá dược liên bang thì những phụ tá và nhân viên nữ thuộc quyền cũng tranh nhau si tình anh. Cô bạn thân nhất của vợ anh và chồng của cô ta chiếm được lòng tin cậy của anh và họ đã có một tình bạn lớn trong khoảng năm năm.

Artie buông lơi phòng thủ. Anh tin tưởng họ. Anh bộc lộ bản ngã tự nhiên của mình. Đùng một cái cô bạn thân của vợ anh si mê anh, phá vỡ cuộc hôn nhân với chồng và công bố tình yêu của mình trước toàn thể thế giới. Hành động đó tạo ra vô khối rắc rối và nghi ngờ từ phía vợ của Artie. Đó cũng là lần duy nhất tôi thấy anh nổi giận với chị. Một cơn giận chết người. Chị kết án anh đã khuyến khích sự mê đắm của ả kia.

Anh nói với chị bằng giọng lạnh lùng nhất mà tôi từng nghe một người đàn ông nói với vợ mình:

- Nếu cô tin điều đó, thì hãy ra khỏi đời tôi.

Một câu nói rất khó tưởng tượng ở nơi anh khiến vợ anh gần như bị suy sụp tinh thần vì hối hận. Tôi thực sự nghĩ là chị ấy hy vọng anh có lỗi để chị có thể nắm lại anh phần nào. Bởi vì chị hoàn toàn ở trong tầm quyền lực của anh.

Chị ấy biết một điều về anh mà tôi cũng biết nhưng rất ít người khác biết được. Anh không thể chịu nổi việc mình gây đau khổ cho người khác. Bất kỳ người nào hay bất kỳ vật gì. Anh không bao giờ có thể trách móc ai. Đó là lý do tại sao anh ghét những người đàn bà si tình anh.

Tôi nghĩ anh là một người nhiều nhục cảm, lẽ ra anh đã có thể yêu rất nhiều phụ nữ một cách dễ dàng và hưởng thụ điều đó, nhưng anh không bao giờ có thể chịu đựng nổi những xung đột. Thực tế là vợ anh nói rằng điều duy nhất nàng còn thiếu trong quan hệ vợ chồng đó là nàng có thể sử dụng một đôi lần đấu đá. Không phải là nàng chẳng bao giờ xung đột với Artie. Đã là vợ chồng sao tránh khỏi. Nhưng nàng nói rằng những cuộc đấu đá giữa họ chỉ là những vụ đấm một chiều, tất nhiên là theo cách hình dung tượng trưng. Nàng đã chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu và rồi anh sẽ quét đi với một nhận xét lạnh lùng khiến nàng bật khóc nức nở.

Nhưng với tôi thì khác. Anh đối xử với tôi như với một đứa em nhỏ. Anh hiểu tôi hơn cả vợ tôi nhiều. Và anh không bao giờ nổi giận với tôi.

Tôi phải mất hai tuần lễ để hồi phục từ cuộc giải phẫu trước khi tôi đủ khoẻ để về nhà. Vào ngày cuối ở bệnh viện, tôi nói lời từ giã bác sĩ Cohn và ông chúc tôi may mắn.

Cô điều dưỡng mang quần áo tới cho tôi và bảo tôi phải ký một số giấy tờ trước khi tôi có thể rời viện. Cô đi kèm tôi đến văn phòng. Tôi thực sự cảm thấy buồn bực khi không có ai đến để đưa tôi về nhà. Chẳng có người bạn nào. Chẳng có người thân nào trong gia đình. Cả Artie.

Tất nhiên là họ không biết rằng tôi đang về nhà một mình. Tôi đang thấy mình như một đứa con nít chẳng được ai yêu thương, chăm sóc. Tôi phải về nhà một mình, sau một cuộc phẫu thuật nghiêm trọng, trong xe điện ngầm, như thế coi được không? Lỡ tôi thình lình bị ngất hay đột quỵ thì sao? Ôi Chúa? Tôi thấy buồn bực quá. Rồi tôi phá ra cười.

Sự thực là Artie có hỏi ai sẽ đưa tôi về nhà và tôi bảo là Vallie. Vallie nói nàng sẽ đến bệnh viện, và tôi đã bảo nàng rằng, thôi khỏi, tôi sẽ kêu taxi nếu Artie không kêu được.

Vậy là nàng giả định rằng tôi đã bảo Artie. Còn đám bạn bè tôi tất nhiên nghĩ rằng hẳn là phải có ai đó trong gia đình đưa tôi về. Sự thực trong vấn đề này là tôi muốn nuôi dưỡng một mối phẫn uất theo kiểu oái ăm, buồn cười. Để chống lại mọi người.

Ngoại trừ là có ai đó lẽ ra đã phải biết. Tôi vẫn luôn nuôi dưỡng chút tự hào (rởm) là mình có thể tự túc mọi thứ. Rằng tôi đếch cần mặt nào lo cho tôi. Rằng tôi có thể sống hoàn toàn đơn độc và thu mình vào nội tâm.

Nhưng lần này tôi lại mong muốn một biểu hiện tình cảm quá mức mà thế giới vẫn dọn ra ê hề.

Và thế là khi tôi quay về khu bệnh nhân và thấy Artie đang xách cái vali của tôi, hầu như tôi muốn tuôn trào nước mắt. Đầu óc tôi tan biến đi và tôi ôm chầm lấy anh. Đó là một trong những lần hiếm hoi trong đời mà tôi làm điều đó. Rồi tôi vui sướng hỏi:

- Làm thế nào mà anh biết rằng hôm nay em xuất viện?

Artie cười buồn, vẻ mỏi mệt:

- Chú thật nhảm. Tôi gọi Vallie. Cô ấy nói cô nghĩ rằng tôi đang đón chú, rằng chú đã bảo cô ấy như thế?

- Tôi đâu có nói với nàng như thế?

- Ồ thôi nào, - Artie nói. Anh nắm lấy cánh tay tôi, dẫn tôi ra khỏi khu bệnh nhân. - Tôi biết phong cách của chú rồi, - anh nói. - Nhưng như thế là không tốt với những người vẫn lo lắng cho chú. Chú làm như thế là không phải với họ.

Tôi không nói gì cho đến khi chúng tôi ra khỏi bệnh viện và ngồi vào trong xe của anh:

- Em đã nói với Vallie rằng anh có thể đến. Em không muốn nàng phải nhọc công vì chuyện không đáng gì.

Artie đang lái xe giữa đám xe cộ dày đặc nên anh không thể nhìn tôi. Anh nói bình thản nhưng có lý có tình:

- Chú không thể làm như thế với Vallie. Chú có thể hành động như vậy với tôi, được thôi. Nhưng làm như thế với Vallie là không được.

Anh hiểu tôi như không ai trên đời có thể hiểu được tôi đến thế. Tôi không cần phải giải thích rằng tôi đã thấy mình là kẻ thua cuộc tệ hại đến như thế nào. Việc tôi không thành công trong tư cách là một nghệ sĩ đã làm tôi nao núng tinh thần; nỗi xấu hổ về sự thất bại trong việc lo cho vợ con đã làm tôi lạc hướng. Tôi không thể yêu cầu ai làm bất cứ điều gì cho mình. Tôi không chịu nổi việc yêu cầu ai đó đưa tôi từ bệnh viện trở vê nhà.

Ngay cả vợ tôi.

Khi chúng tôi về đến nhà, Vallie đang chờ tôi. Nàng mang một cái nhìn ngơ ngác, sợ hãi trên khuôn mặt khi nàng hôn tôi. Ba người chúng tôi ngồi uống cà phê trong nhà bếp. Vallie ngồi xích lại gần tôi và vuốt ve tôi:

- Em không hiểu nổi, - nàng nói. - Tại sao anh không kể với em?

- Bởi vì chú ấy muốn làm người hùng, - Artie nói.

Nhưng anh nói thế nhằm đánh lạc hướng thôi. Anh biết tôi không muốn nàng biết là thực sự tôi đã suy sụp tinh thần đến mức nào. Tôi đoán là anh nghĩ rằng không nên để cho nàng biết điều ấy. Và ngoài ra, anh đặt niềm tin nơi tôi. Anh biết tôi sẽ bật dậy. Rằng tôi sẽ ổn thôi. Ai mà chẳng có lúc xuống tinh thần. Ngay cả anh hùng cũng có lúc thấm mệt.

Sau chầu cà phê, Artie ra đi. Tôi cám ơn anh và anh đáp lại tôi bằng nụ cười nhạo báng nhưng tôi có thể thấy rằng anh lo lắng cho tôi. Tôi để ý thấy một tia nhìn co thắt trên khuôn mặt anh. Cuộc sống bắt đầu làm anh hao mòn. Khi anh ra khỏi nhà, Vallie dìu tôi vào giường để nghỉ ngơi. Nàng giúp tôi cởi bỏ quần áo, rồi cũng trần truồng nằm xuống giường cạnh tôi.

Tôi rơi ngay vào giấc ngủ. Tôi cảm thấy bình yên.

Sự tiếp xúc với cái cơ thể ấm áp của nàng, đôi tay nàng mà tôi tin cậy, cái miệng không phản bội của nàng, và đôi mắt, và làn tóc đưa tôi vào giấc ngủ êm đềm hơn bất kỳ viên thuốc ngủ nào. Khi tôi thức dậy, nàng đã đi. Tôi có thể nghe tiếng nàng trong nhà bếp và tiếng của bọn trẻ về nhà từ trường. Mọi việc hình như ổn cả, đâu vào đấy Đối với tôi đàn bà là… cung thánh, là nơi ẩn náu, dù được sử dụng cho mục đích vị kỷ, nhưng làm cho mọi chuyện khác trở nên có thể chịu đựng được. Làm thế nào mà tôi hay bất kỳ người đàn ông nào khác, chịu đựng được mọi nỗi khảm kha ma chiết của đời sống nếu không có chốn bảo bọc thâm nghiêm kia. Lạy Chúa có lẽ tôi sẽ về nhà mà lòng đầy lo lắng về công việc, sốt vó về nợ nần, cứ nhập tâm về thất bại tối hậu của mình trong đời sống bởi vì tôi sẽ chẩng bao giờ là một nhà văn thành công. Và mọi nỗi đau sẽ tan biến bởi tôi sẽ dùng bữa tối cùng với gia đình, tôi sẽ kể chuyện cho lũ trẻ và tôi sẽ hưởng hương đêm với người vợ yêu trong niềm tin cậy hoàn toàn. Có vẻ như một phép lạ. Và tất nhiên rồi, cái phép lạ thực sự đó là không chỉ Vallie và tôi, nhưng còn vô số hàng triệu triệu những người đàn ông khác với bầu đoàn thể từ của họ nữa. Và trong hàng ngàn, hàng vạn năm. Khi tất cả qua đi, cái gì sẽ giữ con người lại với nhau. Cũng chẳng sao nếu chẳng phải chỉ toàn là tình yêu và đôi khi có thể chỉ là hận thù thuần tuý. Nhưng bây giờ tôi đã có một lịch sử.

Và rồi mọi thứ vẫn trôi tuột đi xa…

Ở Vegas, tôi kể lại toàn bộ chuyện này qua những mảnh rời, đôi khi qua những lúc nhâm nhi ở quầy bar, đôi khi trong buổi ăn nhẹ sau nửa đêm ở quán cà phê. Và khi tôi chấm dứt, Cully nói:

- Chúng tôi vẫn chưa hiểu tại sao cậu lại rời xa vợ cậu?

Jordan nhìn anh ta với vẻ coi thường.

Jordan đã thực hiện phần còn lại của cuộc hải hành trên chiếc thuyền viễn xứ, vượt quá tôi xa lắc.

- Tôi đã bỏ vợ con đâu nào? - tôi nói. - Tôi chỉ mới nghỉ ngơi thư giãn tí thôi mỗi ngày tôi vẫn viết thư vấn an cụ thân mẫu của các con tôi cơ mà. Có những buổi sáng tôi cảm thấy hình như mình thích về nhà và sắp bước lên máy bay.

- Thật thế sao? - Jordan hỏi. Không hề có ý mỉa mai, nhạo báng. Anh thật sự muốn biết.

Diane không nói gì, nàng rất kiệm lời. Nhưng giờ đây nàng vỗ lên đầu gối tôi và nói:

- Em tin anh.

Cully nói với nàng:

- Căn cứ vào đâu mà cô lại đi tin vào bất kỳ thằng vớ vẩn nào?

- Phần lớn đàn ông đều nhảm nhí cả! - Diane nói. - Nhưng Merlyn thì không, đúng ra là chưa.

- Cám ơn cô nương đã có lời chiếu cố đặc biệt đối với tại hạ, - Tôi nói.

- Rồi anh cũng sẽ đến chỗ đấy thôi, - Diane nói, lạnh.

Tôi không thể cương được:

- Thế em nghĩ sao về Jordan?

Tôi biết nàng mết Jordan. Cũng như Cully, Jordan không biết bởi vì anh ta không muốn biết và bất cần.

Nhưng giờ đây anh quay về phía Diane với khuôn mặt dò hỏi một cách lịch sự như thể anh ta quan tâm tới ý kiến của nàng. Vào đêm đó trông anh có vẻ suy sụp thực sự.

Xương mặt anh bắt đầu nhô ra qua lớp da trắng bệch đầy vẻ bệnh hoạn.

- Không, em không nói anh, - Cô phân trần với anh.

Và Jordan quay đầu qua chỗ khác. Anh không muốn nghe điều ấy.

Cully mặc dù trông rất cởi mở và dễ làm thân, lại là người sau cùng thổ lộ tâm sự, và rồi giống như mọi người trong đám, anh ta cũng giữ lại phần cốt lõi nhất, mà tôi không phát hiện ra, mãi cho đến nhiều năm sau này. Trong khi đó, anh ta vẫn đưa ra một bức tranh trung thực về nhân cách của mình, hay có vẻ như thế. Chúng tôi đều biết anh ta có mối quan hệ bí mật nào đó với ông chủ khách sạn, Gronevelt. Nhưng cũng đúng anh ta là một tay chơi thoái hoá. Jordan không mấy hứng thú với Cully nhưng tôi phải nhận rằng mình có. Mọi cái gì vượt ra khỏi khuôn khổ bình thường đều làm tôi quan tâm. Tôi không đưa ra những phán đoán đạo đức. Tôi cảm thấy mình đứng trên mọi chuyện thị phi, vì đã trở thành môn đồ đời thứ… tám mươi mấy của thầy Lão, thầy Trang từ lâu rồi. Nên chỉ nghe thôi, miễn bình? Bởi bình kiểu nào cũng bị đụng. Không đụng bên này thì lại đụng bên kia, dễ bị chúng chửi lắm!

Cully là một tấm gương giáo dục. Và là một nguồn cảm hứng. Chưa từng có ai chơi trên cơ anh ta được. Chỉ anh ta chơi lấn sân người ta thì có. Một bản năng mưu sinh thoát hiểm rất tinh nhạy và biến hoá. Một khát vọng sống sôi nổi, đặt cơ sở trên tính vô luân, bất cần những nguyên tắc đạo lý.

Tuy vậy, anh ta lại rất dễ ưa. Anh có óc hài hước, biết tạo sự vui nhộn, quan tâm đến mọi thứ, có khả năng phiếm luận về mọi đề tài có thể quan hệ với phụ nữ theo một phong cách hoàn toàn phi tình cảm và rất hiện thực sống sượng, khiến phụ nữ nhăn mặt như cắn phải trái me chua nhưng vẫn rất khoái, muốn cắn tới hoài?

Mặc dầu sự kiện là anh ta bị "viêm màng túi" kinh niên, song anh ta vẫn có khả năng rủ rê bất cứ em gái nào đang làm việc trong khách sạn này đi du lịch dã ngoại, lên đỉnh Vu Sơn vầy cuộc mây mưa mà không phải tốn đồng nào, chỉ hao tí nước bọt qua cái miệng tán rất dẻo của anh ta. Những câu chuyện lãng mạn ngọt ngào hơn đường cát, mát hơn đường phèn khiến các em rất đẹp lòng phỉ dạ, sẵn lòng coi tình cảm có giá hơn những đồng đô-la bẩn thỉu kia nhiều! Nói đại thể là anh ta có lắm ngón nghề làm các em mê mệt, kể cả khi các em bị anh ta cố tình chơi lỡm cũng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, không nói gì được anh ta. Mà có nói cũng đâu đủ lợi khẩu để đấu lại với miệng lưỡi lẻo lự của anh ta. Cho nên thôi thì lỡ dại một lần thì hẵng lấy làm bài học nhớ đời mà kiềng mặt anh ta vậy. Vả chăng, nghĩ cho cùng, các em chẳng lỗ lã gì mấy. Coi như thỉnh thoảng "làm công quả" một lần để ban phước cho kẻ khó vậy!

Mà anh ta làm vậy chẳng phải để tiết kiệm tiền bạc đâu. Có bao nhiêu tiền thì Cully cũng nướng vào các cuộc đỏ đen hết. Anh ta làm thế vì cảm thức quyền lực, rằng mình có thể "khiển" được các em như di chuyển các quân cờ. Anh ta đặc biệt cảm thấy bị thách thức nếu cô gái nổi tiếng kén cá chọn canh, chỉ làm tình với người nào mình thích mà thôi.

Gặp phải các cô thực sự cứng cạy, Cully phải đi những nước cờ cao hơn, nghĩa là phức tạp hơn. Anh chàng sẽ cố gắng len lỏi vào trong đầu óc các nàng, bơm các nàng với những lời bốc thơm đến ngạt mũi. Than thở về tình trạng bất lực của mình trừ phi có hứng thú thật sự hoặc hiểu rõ về cô gái. Anh ta sẽ gửi tặng các nàng vài ba món quà nho nhỏ, nhét vào ví họ những tờ hai mươi đô-la để các em đi xe. Tuy thế vẫn có những em tinh khôn sẽ không để anh đặt chân vào cửa phòng em. Trong trường hợp đó, anh sẽ chuyển kênh các em. Anh sẽ bắt đầu nói về một người bạn nào đó vừa giàu có lại rất ư dễ thương và tốt bụng, thích quan tâm đến các em thuần tuý chỉ vì tình bạn. Người bạn đó sẽ gặp họ để uống một chầu cho vui. Đó là một nghiệp chủ lớn kinh doanh quần áo thời trang ở New York hay một tay đại lý xe hơi ở Chicago.

Cully sẽ nói với cô gái đi dùng bữa với bạn anh ta. Đi ăn tối với một người đàn ông giàu có, sang trọng, dễ mến có gì đâu mà ngại? Vả chăng, em đâu phải còn "gin", còn ngây thơ trong trắng chửa biết đời là cái chi chi mà hòng gạt em? Hồ ly tinh giấu đuôi đây này ngán mặt thằng nào! Không có gì để mất vậy tại sao không dám chơi để may ra vớ được chẳng con thu, con chim thì cũng con tôm, con tép?

Thế là hai người đi ăn tối. Anh chàng kia sẽ nhét vào ví em vài trăm đô-la để em đi xe hoặc hôm sau sẽ gửi cho em một món quà đáng giá. Anh chàng lúc nào cũng lịch sự, duyên dáng, không bao giờ thúc ép.

Nhưng sẽ có những phần áo lông thú, xe hơi bóng lộn nhẫn kim cương nhiều carats được nhìn thoáng thấy trong tương lai. Cô gái sẽ lên giường với ông bạn giàu sang đó. Và sau khi anh ta biến, cô gái kia không kịp níu áo chàng, đành nhào vào lòng Cully để kiếm lô an ủi.

Cully không hề biết ân hận. Lập trường anh ta là mọi phụ nữ chưa chồng đều là những "gái chơi không chuyên" mồi chài bạn với những mánh lới quảng cáo tân kỳ, kiểu này hay kiểu khác, kể cả tình yêu chân thành, và rằng, do đó bạn có quyền chơi xỏ lại họ. Anh chỉ tỏ ra chút lòng trắc ẩn với những cô gái thực sự khù khờ, cảm thấy nhục nhã khi bị gạt và âm thầm chịu đựng, không nói gì. Đôi khi anh ta sẽ đi tìm các nàng và nếu các nàng thực sự quẫn bách về tiền bạc, anh sẽ nói với họ rằng đó chỉ là chuyện đùa chơi và sẽ nhét cho họ một vài trăm đô-la. Và đối với Cully đó là một trò đùa. Một chuyện vui để kể cho đám bạn tạp nham, linh tinh của anh ta nghe chơi. Cả bọn sẽ cười hô hố và chúc mừng anh ta không bị các em trấn lột. Những tay chơi đểu này đều có ý thức cảnh giác cao độ đối với đàn bà, coi đàn bà là kẻ thù truyền kiếp, nhưng kẻ thù này lại nắm giữ những "trái cấm" quá ngon mà đàn ông luôn thèm thuồng đến rỏ dãi, đó là hai quả tuyết lê mơn mởn và trái điều lộn hột có đủ vị chua, chát, mặn, nồng? Cái mâm tam quả không thể thiếu trong món tráng miệng cho đàn ông! Thế nhưng bọn họ lại bất bình cho rằng mình phải trả giá cắt cổ, phải đầu tư quá nhiều tiền bạc, thời gian và công sức mới hưởng cái phần thưởng phù du kia chỉ trong năm, mười phút. Họ cần sự bầu bạn của đàn bà, họ cần sự mềm mại của đàn bà ở chung quanh mình. Họ có thể trả tiền vé máy bay cả vài ngàn đô-la để đem các cô gái theo họ từ Vegas đến London chỉ nhằm có em ở bên cạnh. Nhưng họ vui vẻ chấp nhận chuyện đó. Xét cho cùng, cô nàng tội nghiệp phải khăn gói quả mướp, xa cha lìa mẹ, vượt qua năm non bảy núi và cả một đại dương để theo anh cùng.

Kiếm được đồng tiền cũng chua lắm, chứ đâu dễ. Nàng phải lúc nào cũng ở trong tư thế "ba sẵn sàng" hoặc là một cú "bắt ốc vít" nhanh hoặc là một cú "thổi kèn saxo" ngay trước bữa ăn mà không cần được báo trước hay những thủ tục lịch sự thông thường. Và nhất là không được tranh cãi hay nhiễu sự. Đây là con chim. Hãy nâng niu, cưng chiều nó. Đừng thắc mắc anh có yêu em không. Đừng có trì hoãn với câu "Để ăn xong đã". Đừng có nại lý do em muốn đi tham quan phong cảnh trước đã. Đừng có bảo là, để em ngủ tí đã, lát nữa đi cưng, bây giờ hãy khoan, để đêm nay đi, hay tuần tới, hay sau lễ Noël hẵng hay. Dẹp, dẹp ba cái trò dục hưỡn cầu mưa đó, đã bảo bây giờ nghĩa là ngay bây giờ! Phục vụ ân cần, nhanh chóng với đầy đủ mọi lớp lang bài bản, với tất cả các khoản và mọi thứ các cái? Là những tay chơi lớn, họ đòi hỏi mọi dịch vụ đều phải "đáng đồng tiền bát gạo".

Kiểu tán tỉnh của Cully, theo tôi thấy, có vẻ rất ma mãnh, thế nhưng đàn bà thích anh ta hơn những người đàn ông khác nhiều. Làm như thể họ hiểu anh, nhìn thấy rõ mọi mánh khóe của anh nhưng vẫn vui lòng chấp nhận mọi trò nỡm đó của anh, coi như chuyện đùa chơi. Một vài cô gái anh đã từng tặng cho quả lừa nhưng sau đó vẫn trở nên thân thiết với anh sẵn sàng siết ốc vít để anh đỡ cảm thấy cô đơn trống vắng. Và Trời ạ, có lần Cully ốm và thế là cả một binh đoàn giang hồ kiều nữ tấp nập đến phòng anh nơi khách sạn, rửa ráy cho anh, đút cho anh ăn rồi thổi kèn cho anh nghe những giai điệu du dương để làm cho anh thư giãn và đi vào giấc ngủ êm ái. Hiếm khi Cully nổi giận với cô gái nào, và khi đó anh sẽ nói một cách phũ phàng "Cút xéo" ngắn gọn và rất đanh đá nhằm tạo hiệu ứng tàn phá. Có lẽ là một cuộc quay ngoắt 180 độ từ chỗ cảm mến mà anh tỏ ra với họ trước đó mà anh làm mất xấu. Và cũng có lẽ tại anh chẳng có lý do nào để đối xử tệ với nàng cho nên anh bèn phản ứng kiểu ngang phè như thế cho các nàng chán mà buông anh ra vì anh đã bội thực, hết ngốn nổi nữa?

Nhưng mặc dầu chân tướng anh như thế, song cái chết của Jordan vẫn làm Cully dao động tinh thần. Anh ta nổi giận với Jordan. Anh cho vụ tự tử như một thách thức cá nhân. Anh tự thoá mạ về việc đã trùng trình không vồ ngay hai mươi ngàn đô-la để rồi xôi hỏng bỏng không trơ mỏ cả đám, nhưng tôi có cảm nhận rằng chuyện đó thực sự không làm anh tiếc nuối nhiều. Mấy ngày sau tôi vào casino và thấy anh đang đánh blackjack cho nhà cái. Anh đã nhận làm việc và không đánh bạc cho mình nữa. Tôi không thể tin rằng anh ta nghiêm chỉnh. Nhưng thực sự là thế. Theo như tôi biết có vẻ như anh đang nhất quyết tu tỉnh làm ăn!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Một tuần lễ sau cái chết của Jordan, tôi rời Vegas, theo tôi nghĩ sẽ mãi mãi, và quay về New York.

Cully tiễn ra phi trường và chúng tôi ngồi uống cà phê nơi trạm chờ tàu. Tôi hơi ngạc nhiên thấy rằng Cully thực sự dao động vì sự ra đi của tôi.

- Cậu sẽ quay lại, - anh nói. - Mọi người đều quay lại với Vegas. Và tôi luôn có mặt tại đây. Rồi chúng ta lại sẽ có khoảng thời gian vui vẻ với nhau.

- Tội nghiệp Jordan, - tôi than thở.

- Ờ - Cully nói. - Mình sẽ không bao giờ, trong suốt cuộc đời có thể hình dung ra chuyện ấy. Tại sao anh ta làm chuyện đó? Phải chăng do ma đưa lối quỷ dẫn đường?

- Anh ấy chẳng bao giờ có vẻ may mắn, - Tôi nói.

Chúng tôi bắt tay khi nghe thông báo phải lên tàu.

- Nếu về nhà, cậu có gặp chuyện buồn tình, hãy gọi cho mình, - Cully nói. - Bọn mình chí cốt với chau mà. Mình mong được chia xẻ vui buồn với bạn. - Anh ta còn ôm tôi thắm thiết. - Cậu là một con người hành động, - anh ta nói. - Cậu sẽ luôn luôn lao vào hành động. Như thế cậu sẽ luôn gặp rắc rối. Nhớ gọi cho mình.

Thực sự tôi không tin là Cully nói thật lòng, mà chỉ đãi bôi thôi. Bốn năm sau, anh ta thành công lớn còn tôi lại gặp rắc rối to phải trình diện trước một hội thẩm đoàn đang truy tố tôi. Và khi tôi gọi Cully, anh đã bay ngay đến New York để giúp tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Thoát khỏi ánh sáng ban ngày ở Miền Tây, chiếc phải lực cơ khổng lồ lướt vào vùng bóng tối đang lan dần của các múi giờ Miền Đông. Tôi kinh sợ cái thời điểm chiếc máy bay sẽ đáp xuống và tôi sẽ phải đối mặt với Artie và anh sẽ đưa tôi về khu nhà ở Bronx, nơi vợ con tôi đang chờ. Tôi đã khéo mua sắm quà cho họ: những máy bán hàng tự động nhỏ xíu cho mấy đứa nhỏ, một chiếc nhẫn cẩn ngọc trai cho Vallie, làm tôi tốn hết hai trăm đô-la. Cô gái ở hàng lưu niệm của khách sạn Xanadu đòi năm trăm đô-la nhưng Cully đã giành được khoản chiết khấu đặc biệt cho tôi.

Nhưng tôi không muốn nghĩ đến lúc tôi bước qua ngưỡng cửa vào nhà và gặp những khuôn mặt của người vợ và ba đứa con. Tôi cảm thấy mình có tội nhiều. Eo ôi, hãi quá? Khi mường tượng ra cái kịch cảnh nặng nề mà tôi phải trân mình chịu đựng. Khiếp? Chẳng biết thần kinh của tôi có chịu đựng nổi thử thách khắc nghiệt đó hay không. Vì thế để tạm quên đi cái ám ảnh gây căng thẳng bồn chồn kia, tôi nghĩ về những gì đã xảy ra cho mình ở Vegas.

Tôi nghĩ về Jordan. Cái chết của anh ấy không làm tôi sầu khổ nhiều ít ra là ngay lúc này. Vả chăng xét cho cùng, tôi cũng chỉ mới quen biết anh trong vòng ba tuần lễ cũng chưa thực sự đã hiểu về anh. Nhưng tôi tự hỏi cái gì trong nỗi buồn của anh lại có vẻ cảm động thấm thía đến thế? Một nỗi buồn tôi chưa từng cảm thấy và hy vọng sẽ không bao giờ cảm thấy. Tôi vẫn luôn ngờ ngợ một điều kỳ dị nơi anh và vẫn để tâm thăm dò anh như nghiên cứu những nước đi của một ván cờ. Đây là một con người đã sống một cuộc đời hạnh phúc bình thường. Một tuổi thơ êm đềm. Đôi khi anh đã nói với chúng tôi về điều đó, về việc anh ta hạnh phúc như thế nào khi còn là một đứa trẻ thơ. Rồi một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Một đời sống tốt đẹp Mọi chuyện diễn ra suôn sẻ đối với anh ta cho đến cái năm cuối cùng đó. Vậy thì tại sao anh đã không hồi phục nổi. Thay đổi hay là chết, có một lần anh đã nói như thế. Điểm cốt tuỷ của đời sống là ở đó. Và đơn giản chỉ vì anh đã không thể thay đổi. Lỗi tại anh.

Trong suốt ba tuần lễ ở casino đó, khuôn mặt anh đã trở nên mỏng hơn như thể cái khung xương bên dưới đang nhô ra phía ngoài để đưa dấu hiệu cảnh báo. Và thân thể anh bắt đầu nhăn nhúm lại trong thời gian ngắn.

Nhưng không có điều gì phản bội anh và ước muốn của anh. Giờ đây, khi hồi tưởng những ngày đó, tôi có thể thấy rằng mọi điều anh nói và làm đều nhằm đánh lạc hướng tôi. Khi tôi từ chối việc anh chia phần cho tôi với Cully và Diane mỗi người hai mươi ngàn đô, ngay lúc đó, đơn giản chỉ vì tôi muốn chứng tỏ sự cảm mến tôi dành cho anh là thành thực. Tôi đã nghĩ điều ấy có thể giúp ích cho anh. Nhưng anh đã mất khả năng đối với điều mà Austen gọi là "sự ban phúc của lòng cảm mến".

Tôi đoán anh nghĩ rằng nỗi tuyệt vọng hay cái gì đó mà anh đang cảm thấy, là đáng xấu hổ. Anh là một người Mỹ vững vàng, nên thật tồi tệ khi cảm thấy mình sống mà chẳng làm nên tích sự gì, chẳng ghi được bàn thắng nào.

Vợ anh đã giết anh. Nói thế thì quá đơn giản. Hay tuổi thơ của anh, hay bố mẹ anh, hay anh chị em của anh?

Ngay cả nếu những vết sẹo của tuổi thơ lành rồi; bạn cũng không bao giờ thoát khỏi tình trạng có thể bị tổn thương. Tuổi tác không phải là lá chắn chống lại sự tổn thương về tâm linh.

Giống như Jordan, tôi đã đến Vegas do một ý thức trẻ con về sự phản bội. Vợ tôi đã kiên trì chịu đựng cuộc sống đạm bạc cùng với tôi trong năm năm trong khi tôi viết quyển sách đầu tay, không hề than vãn.

Nàng không hạnh phúc lắm về chuyện đó, nhưng đã sao nào, tôi vẫn sống những ngày đêm yên ấm ở nhà. Khi quyển tiểu thuyết đầu tiên của tôi bị từ chối, không ai chịu xuất bản và tôi buồn muốn vỡ tim, nàng đã cay đắng nói:

- Em đã biết là anh sẽ không bao giờ bán được quyển đó.

Tôi sững người. Nàng không biết tôi cảm thấy thế nào hay sao? Đó là một trong những ngày khủng khiếp nhất của đời tôi, và tôi yêu nàng hơn bất kỳ ai khác trên đời này. Tôi đã cố giải thích. Đây là một quyển sách hay.

Chỉ có điều đoạn kết bi thảm quá và nhà xuất bản muốn anh viết lại một đoạn kết "có hậu" và anh đã từ chối (Tôi đã tự hào về điều đó biết bao. Và tôi đã hành động rất đúng. Thực thế, tôi luôn luôn hành động đúng trong công việc của mình). Tôi đã nghĩ vợ tôi sẽ tự hào về tôi.

Điều này chứng tỏ mấy anh nhà văn đúng là… quá khờ, chẳng biết gì về tâm lý… các bà xã.

Các anh nhà văn, nhà thơ chúa là mơ mộng hão. Cứ ngỡ mình tạo được chút danh là đủ cho vợ con cảm thấy lâng lâng hạnh phúc, chỉ cần uồng nước lã cũng đã thừa năng lượng bay vút lên chín tầng mây? Ấy thế mà nàng lại nổi trận lôi đình. Chúng tôi đã sống trong nghèo khổ triền miên, tôi nợ nần tứ giăng, rồi sẽ đến đâu tôi nghĩ mình là cái đếch gì, ôi lạy Chúa? (Thật ra, thì không đúng hẳn những lời vừa rồi đâu, vì suốt đời vợ tôi không hề nói tiếng: "cái đếch gì"). Nàng nổi cơn đến độ kéo rốc cả đạo quân dưới trướng đùng đùng ra đi, bỏ mặc thành trì cho địch quân (tức là thằng tôi khốn khổ này đây) độc quyền chiếm lĩnh. Cũng may là đến gần chiều tối, tiếng gọi của bếp lửa khiến lòng nàng xao xuyến, bèn kéo quân quay về "tái chiếm" lãnh thổ. Ấy thế mà chính nàng cũng từng có lần ôm mộng làm "nữ văn sĩ" cơ đấy.

Ông bố vợ tôi giúp chúng tôi thoát khỏi cảnh nợ nần bối rối. Nhưng một ngày kia ông chạy đâm sầm vào tôi khi tôi vừa bước ra khỏi một hiệu sách cũ, hai tay khệ nệ ôm cả một chồng sách. Thấy thế ông bỗng nổi sùng. Có lẽ ông lẩm bẩm trong bụng: "Rõ chán thật? Lại vớ phải anh con rể mọt sách vô dụng! Đúng là con gái ta có số khổ?".

Hôm đó lại là một ngày xuân đẹp trời, với ánh kim quang chiếu sáng rạng ngời. Bố vợ tôi vừa bước ra khỏi văn phòng trông ông có vẻ héo tàn, cau có. Trong khi đó tôi đang đủng đỉnh cười tươi với dự tưởng về việc sẽ ngốn ngấu thoả thuê chồng ấn phẩm dưới tay mình.

- Bố sư khỉ! - Ông thốt lên, - Tôi cứ nghĩ anh đang viết sách đấy chứ. Vậy nhưng anh đang làm cái đếch gì vậy?

Không là nhà văn nhưng cụ dùng từ nghe cũng ngộ ghê? Vài năm sau đó, quyển sách kia được xuất bản đúng như ý tôi, được giới phê bình đánh giá tốt, nhưng chỉ được một số nhuận bút khá là khiêm tốn. Bố vợ tôi thay vì chúc mừng tôi chỉ nói những lời rất, rất thực dụng sát mặt đất như thế này:

- Này con, ta thấy văn chương chữ nghĩa chẳng làm ra mấy tí đô-la. Đấy, công lao vắt óc năm năm của con chỉ được cái giá bèo đến thế ư? Thôi, ta khuyên anh, hãy tập trung vào cái việc dĩ thực vi tiên, lo chuyện cơm áo gạo tiền cho gia đình trước đã.

Mấy lời của ông bố vợ nghe sao mà thốn cái lỗ nhĩ? Khiến tôi quay quắt. "Làm cái gì cho ra tiền đây?"

A! Eureka! Ta đã tìm ra rồi! Hãy đến Las Vegas thừ thời vận, may ra vớ bẫm? Nhất bản sinh vạn lợi? Rất nhanh chóng. Không phải hao tốn calori. Có lý, có lý?

Xét cho cùng, tại sao họ lại phải đồng cảm với tôi nhỉ? Tại sao họ phải quan tâm chia sẻ cái trò lập dị quái gở của tôi về cái gọi là sáng tạo nghệ thuật? Việc gì họ phải bận lòng? Họ tuyệt đối có lý. Nhưng tôi sẽ không bao giờ lại cảm nhận về họ như trước đây nữa.

Người duy nhất hiểu tôi là anh Artie yêu quý, thân thiết nhât trên đời. Nhưng ngay cả anh, trong năm rồi, tôi cũng mơ hồ cảm thấy anh hơi thất vọng về tôi, mặc dầu không bao giờ anh hé lộ điều đó. Đấy, người thân thiết, gần gũi nhất trên đời yêu thương tôi nhất, mà còn thế?

Thế là đầu óc tôi lại lãng đi khỏi chuyện quay về nhà và tôi nghĩ về Vegas. Cully chẳng bao giờ nói về mình, mặc dầu tôi hỏi anh nhiều câu. Khi được hỏi, anh ta sẽ kể về cuộc đời hiện tại nhưng rất ít khi tiết lộ chuyện gì về mình trước khi vào Vegas. Buồn cười là hình như tôi là người duy nhất tỏ ra hiếu kỳ. Jordan và Cully hiếm khi hỏi han tôi câu nào. Nếu họ hỏi, có lẽ tôi đã kể cho họ nghe nhiều hơn.

Mặc dù Artie và tôi lớn lên trong viện mồ côi nhưng nơi đó cũng chẳng tệ lắm và có lẽ còn tốt hơn nhiều so với những trường thiếu sinh quân hay các trường nội trú đắt tiền mà những người giàu gửi con họ vào để cho rảnh nợ. Artie là anh, còn tôi tuy là em nhưng lại luôn luôn to con hơn và khoẻ hơn, ít ra là về phương diện thể lực. Nhưng về tinh thần thì anh lại rất kiên cường và chính trực hơn.

Anh mê khoa học còn tôi lại yêu những điều hoang tưởng. Anh miệt mài đọc sách hoá học, toán và nghiền ngẫm những thế trận cờ vua. Anh dạy cờ vua cho tôi, nhưng tôi thường mất kiên nhẫn; đó không phải là một trò cờ bạc nên không mấy hấp dẫn với tôi? Tôi chỉ mê tiểu thuyết. Nào Alexandre Dumas, Charles Dickens rồi Sabatini, Hemingway, Fitzgerald và sau này Joyce, Kafka và nhất là Dostoevsky.

Tôi thề rằng chuyện mình là trẻ mồ côi ấy sẽ không có ảnh hưởng nào lên nhân cách của tôi. Tôi cũng giống như bất kỳ đứa trẻ bình thường nào khác. Sau này trong đời không ai có thể đoán là hai anh em chúng tôi chưa từng biết mặt bố mẹ mình.

Cái hiệu ứng duy nhất có vẻ trái tự nhiên và lệch lạc đố là thay vì là anh em thì Artie và tôi đã trở thành bố mẹ của nhau. Dầu sao, chúng tôi đã rời viện mồ côi lúc còn đang độ tuổi thiếu niên, Artie kiếm một công việc còn tôi đến sống với anh rồi Artie yêu một cô gái và đã đến lúc tôi phải rời đi, tôi vào quân ngũ, tham dự cuộc chiến lớn, thế chiến 2. Khi tôi xuất ngũ năm năm sau đó, Artie và tôi lại trở về là anh em. Anh đang là ông bố của một tiểu gia đình còn tôi là một cựu chiến binh. Lần duy nhất tôi nghĩ về chúng tôi như đã từng là những đứa trẻ mồ côi là khi Artie và tôi ngồi tâm sự trong nhà anh đến khuya và vợ anh mệt quá nên đi ngủ trước. Chị hôn Artie chúc ngủ ngon trước khi rời chúng tôi. Và tôi nghĩ rằng Artie và tôi là những người đặc biệt. Khi còn trẻ thơ chúng tôi chưa từng được hôn và chúc ngủ ngon.

Song thực ra có thể nói rằng chúng tôi chưa bao giờ sống nơi viện mồ côi đó. Cả hai chúng tôi đều thoát ly thực tại qua sách vở. Tôi mê nhất là truyền thuyết về vua Arthur và Các hiệp sĩ bàn tròn. Ngoài bản chính của Malory, tôi còn đọc cả các phiên bản và dị bản khác.

Và tôi đoán rằng thời đó tôi đã nghĩ về vua Arthur như là anh Artie của tôi. Tên của hai người cũng giống nhau, và trong đầu óc thơ dại của mình lúc đó, tôi thấy họ rất giống nhau về nhân cách từ ái của họ. Nhưng tôi không bao giờ đồng hoá mình với bất kỳ một hiệp sĩ dũng cảm nào, chẳng hạn như Lancelot. Và tôi cũng chẳng hứng thú lắm với Chiếc cốc thiêng. Tôi không muốn làm Galahad.

Nhưng tôi rất mê Merlyn vì pháp thuật cao cường của ông; ông có thể hoá ra con chim ưng hay bất kỳ con vật nào. Ông biến mất rồi lại tái hiện. Có những khi vắng mặt lâu ngày. Và nhất là tôi thích đoạn ông nói với vua Arthur rằng ông không thể làm cánh tay phải của vua được nữa. Lý do là Merlyn trót yêu một cô gái và dạy pháp thuật cho cô ta. Và rằng cô ta sẽ phản bội Merlyn và sẽ dùng chính những phù chú của ông để chống lại ông. Và thế là ông sẽ bị giam cầm nơi một hang sâu trong cả hàng ngàn năm trước khi lời chú hết linh nghiệm. Rồi lúc đó ông sẽ trở lại trần gian. Đấy, một người tình phải như thế, một pháp sư phải như thế. Ông ta phải sống lâu hơn, vượt qua mọi kẻ khác. Và thế là, khi còn là một đứa trẻ, tôi đã cố gắng làm một pháp sư Merlyn để phò tá anh Artie của mình làm vua Arthur. Và khi chúng tôi rời viện mồ côi, chúng tôi đã đổi họ thành Merlyn. Và chúng tôi không bao giờ kể lại chuyện mình đã là trẻ mồ côi. Dù là giữa chúng tôi hay bất kỳ ai khác.

Máy bay hạ xuống dần. Vegas đã là cái hang động Camelot của tôi, một phúng dụ mà pháp sư cừ khôi Merlyn có thể giải thích dễ dàng. Giờ đây tôi đang quay trở về thực tại. Phải giải thích đôi điều với anh tôi và vợ tôi.

Tôi gom mấy gói quà lại với nhau trong lúc máy bay lăn bánh vào bãi đáp của nó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Trái với sự lo lắng quá mức của tôi, mọi sự lại diễn ra khá là suôn sẻ. Artie không truy vấn tôi về chuyện tại sao tôi đã chạy khỏi Vallie và đám nhóc. Anh đã mua được một chiếc xe mới và anh báo tin vui là vợ anh lại có bầu. Đứa con thứ tư. Tôi chúc mừng anh lên hàng bố bốn sao. Tôi nhủ thầm phải ghi nhớ việc gửi hoa tặng bà chị dâu trong vài ngày tới. Nhưng rồi tôi xoá phần ghi nhớ đó. Người ta không thể gửi hoa tặng vợ một anh chàng nào khi người ta nợ anh chàng ấy hàng mấy ngàn đô-la. Và khi trong tương lai có thể còn phải mượn tiền anh chàng ấy dài dài. Chuyện ấy không làm phiền gì Artie song chị dâu tôi có thể cho là buồn cười lắm chứ.

Trên con đường về khu chung cư Bronx nơi gia đình tôi đang sống, tôi hỏi Artie câu quan trọng:

- Valie cảm thấy thế nào về em?

- Cô ấy hiểu, - Artie nói. - Cô ấy không điên. Cô sẽ vui mừng gặp lại chú. Chú cũng không khó hiểu cho lắm đâu. Với lại chú vẫn viết thư về nhà hàng ngày và thỉnh thoảng có gọi điện thoại cho cô ấy. Chú chỉ cần một cuộc nghỉ ngơi ngắn để xả hơi thôi mà.

Anh làm cho chuyện này nghe ra có vẻ bình thường. Nhưng tôi có thể thấy rằng chuyện mình đã bỏ nhà cửa vợ con đi "bụi đời" cả tháng đã làm anh… phát hoảng về tôi. Thực sự anh đã rầu thối ruột!

Và rồi chúng tôi đang lái xe qua khu nhà dành cho người có thu nhập thấp, nơi vẫn luôn khiến tôi xuống tinh thần. Đó là một khu nhà cao tầng rộng lớn được xây thành những khối lục giác cao ngất ngưởng, do chính quyền dựng lên để cho thuê hoặc bán trả góp với giá rất rẻ cho dân nghèo thành thị. Tôi có một căn hộ năm phòng chỉ với giá năm mươi đô-la mỗi tháng, kể cả tiện nghi điện nước hơi đốt. Và trong mấy năm đầu, kể cũng được. Đã có những quá trình sàng lọc diễn ra. Những người cư ngụ đầu tiên là những người lao động nghèo nhưng cần cù làm việc và tôn trọng pháp luật. Nhưng do tính chịu thương chịu khó và cần kiệm họ đã thăng tiến dần trên nấc thang kinh tế và họ đã dọn ra ngoài, kiếm được những căn nhà riêng. Còn giờ đây chúng tôi đụng đầu với thành phần dân nghèo "cứng cạy" nhất, những kẻ không có khả năng kiếm ăn một cách lương thiện hoặc không muốn lương thiện. Những kẻ nghiện ma tuý, nghiện rượu, những gia đình thiếu ông bố hoặc sống nhờ quỹ an sinh xã hội. Nói chung là những gia đình thuộc thành phần gay cấn và ưa gây hấn. Phần lớn những kẻ mới đến này là dân da đen, vậy nên Vallie cảm thấy mình không thể than vãn bởi vì người ta sẽ nghĩ là cô có đầu óc kỳ thị chủng tộc. Nhưng tôi biết rằng gia đình chúng tôi cần sớm rời xa nơi này, rằng chúng tôi cần chuyển đến một khu da trắng. Tôi không muốn bị mắc nghẽn trong một viện tâm thần.

Tôi chẳng cần quan tâm đến ý kiến của ai đó nghĩ rằng như thế là vướng hơi hướng chủng tộc. Tôi chỉ biết là tôi đang bị tràn ngập bởi số đông những người không ưa màu da của tôi và lại là những kẻ có rất ít để mất, dầu họ có làm chuyện gì. Ý thức cho tôi biết rằng đó là một tình huống nguy hiểm.

Và có thể diễn biến tệ hơn. Tôi chẳng thích người da trắng mấy, vậy thì tại sao tôi lại phải yêu người da đen?

Bố mẹ của Vallie sẽ giúp chúng tôi số tiền trả trước một phần để mua nhà. Nhưng tôi sẽ không lấy tiền từ họ. Sẽ chỉ lấy tiền từ anh Artie của tôi thôi, Artie may mắn.

Chiếc xe dừng lại:

- Anh lên nhà uống với em ly cà phê, nghỉ ngơi tí rồi hẵng đi! - Tôi nói.

- Anh phải về nhà ngay, - Artie nói. - Vả chăng, tôi không muốn chứng kiến màn diễn cương sắp xảy ra. Chú liệu mà đối phó sao cho đáng mặt trượng phu!

Tôi nhoài người ra ghế sau và kéo chiếc vali ra khỏi xe.

- Tất nhiên là phải thế?

Tôi đáp lời anh một cách quả quyết, đồng thời như một cách tự lên dây cót tinh thần cho mình trước khi đặt chân vào đấu trường, ứng chiến cùng Sư tử nương nương!

- Cám ơn rất nhiều về việc đã đón em. Vài ngày tới em sẽ lại nhà anh chị chơi.

- OK, - Artie nói. - Chú chắc mình có tiền chứ?

- Em đã nói là em trở về trong tư thế kẻ chiến thắng mà.

- Pháp sư Merlyn tài ba. - Anh nói và cả hai chúng tôi cùng cười.

Tôi đi xuống con đường nhỏ dẫn đến cửa vào căn hộ của mình. Tôi chờ tiếng động cơ xe rồ lên khi anh phóng đi nhưng tôi đoán anh còn quan sát cho đến khi tôi di vào trong toà nhà. Tôi không quay nhìn lại. Có chìa khoá trong túi nhưng tôi vẫn gõ cửa. Tôi cũng không hiểu tại sao. Làm như thể tôi không có quyền sử dụng chìa khoá đó vậy. Khi Vallie mở cửa, nàng đợi cho đến lúc tôi bước vào và đặt vali nơi phòng ăn trước khi ôm hôn tôi. Nàng thật lặng lẽ, nhợt nhạt nhẫn nhục. Chúng tôi hôn nhau rất phải phép, làm như thể chẳng có chuyện gì lớn xảy ra đối với việc đã xa nhau lâu lần đầu tiên sau mười năm chung sống.

- Bọn nhóc muốn gặp anh lắm đấy, - Vallie nói.

- Nhưng khuya rồi. Chúng có thể gặp anh sáng mai, trước khi đi học.

- Được rồi, - Tôi nói.

Tôi muốn vào phòng ngủ của chúng để nhìn mặt chúng một tí nhưng tôi sợ làm chúng thức giấc và chúng sẽ làm rộn Vallie. Trông nàng rất mệt mỏi.

Tôi xách vali vào phòng ngủ của chúng tôi và nàng đi theo tôi. Nàng bắt đầu mở vali ra và tôi ngồi trên giường. Quan sát nàng. Nàng rất có năng lực. Nàng lôi ra những cái hộp mà nàng biết là quà tặng và đặt chúng trên tủ gương trang điểm. Quần áo dơ nàng chất thành đống riêng để bỏ giặt hoặc hấp. Rồi nàng mang quần áo dơ vào phòng tắm, ném chúng vào giỏ. Nàng không đi ra, vì thế tôi theo nàng vào trong đó, nàng đang tựa người vào tường, khóc tấm tức.

- Anh bỏ em! - Nàng nói và tôi cười.

Bởi vì điều đó không đúng và bởi vì điều đó không phải là điều để nàng nói. Lẽ ra nàng đã có thể chứng tỏ chất trí tuệ hay gây xúc cảm, thế nhưng nàng chỉ đơn giản nói với tôi điều nàng cảm thấy một cách rất đơn giản, chất phác. Giống như cách nàng viết những truyện ngắn hồi còn học ở trường viết văn. Bởi vì nàng quá thật thà khiến tôi đâm ra tức cười. Và tôi đoán mình cười vì giờ đây tôi biết mình thừa khả năng quay nàng như dế và xử lý được toàn bộ tình huống theo ý mình!

Đấy các "toa" thấy "moa" ngon lành chưa? Đại đội trưởng chứ đâu phải đại đội phó? Tôi đắc chí thấy mình sao mà bản lĩnh, tài trí, đáng mặt trượng phu quá chừng!

Tôi có thể tỏ ra đầy trí tuệ, và dí dỏm, và dịu dàng làm cho nàng cảm thấy OK. Tôi có thể chứng tỏ với nàng rằng chuyện tôi rời nàng và lũ nhóc một thời gian ngắn đâu có là cái sự cố gì ghê gớm lắm. Chuyện vặt thôi mà.

- Anh vẫn viết thư đều đặn cho em mỗi ngày, - Tôi nói. - Anh đã gọi điện thoại cho em ít nhất là bốn hay năm lần.

Nàng vùi mặt vào trong vòng tay tôi:

- Em biết, - nàng nói. - Chỉ có điều em không bao giờ chắc được anh có quay về nhà hay không. Em bất cần mọi chuyện khác. Em chỉ yêu anh, em chỉ muốn có anh bên em là đủ.

- Anh cũng thế, - tôi nói.

Đó là cách dễ nhất để nói lên điều ấy. Nàng muốn làm cái gì đó cho tôi ăn và tôi nói không. Tôi tắm nhanh một phát và nàng đang đợi tôi trong giường.

Nàng luôn luôn mặc áo ngủ dù chúng tôi sắp làm tình và tôi sẽ phải cởi áo nàng ra. Đó là tính trẻ thơ mang dấu ấn người công giáo ngoan đạo nơi nàng và tôi thích nét e ấp đó. Nó tạo cho việc làm tình của chúng tôi có tính nghi lễ. Và thấy nàng nằm đó chờ đợi, tôi vui vì thấy mình đã chung tình với nàng. Còn nhiều tội lỗi khác phải tính sổ, nhưng ít nhất đó là một tội mà tôi chưa phạm. Vào thời điểm đó và nơi đó, tôi không biết nó có đem lại điều gì tốt đẹp cho nàng hay không.

Để đèn ngủ mờ cẩn thận không gây tiếng động có thể đánh thức bọn trẻ, chúng tôi ân ái theo cách vẫn làm từ hơn mười năm nay. Nàng có một thể hình đẹp với bộ ngực vẫn gọn gàng, ngon mắt và nàng đón nhận lạc thú một cách tự nhiên và hồn nhiên. Mọi phần trên cơ thể nàng đều đáp ứng một cách nhạy bén và nồng nhiệt. Cuộc ái ân của chúng tôi hầu như lúc nào cũng thoả mãn và tối nay cũng thế. Sau đó nàng êm đềm rơi vào giấc ngủ say, tay nàng còn cầm tay tôi cho đến khi nàng trở mình quay người.

Nhưng tôi - hay đúng hơn là chiếc đồng hồ sinh học nơi tôi - đã bay nhanh hơn thời gian ba giờ. Lúc này, khi tôi an toàn nơi nhà mình với vợ con, tôi không thể tưởng tượng tại sao mình đã chạy trốn. Tại sao tôi đã lên Las Vegas gần cả tháng qua các sòng bạc ở Vegas, trong cô đơn và cắt đứt liên hệ với bên ngoài. Giờ đây tôi cảm thấy thư giãn như một con thú đã tìm được chốn ẩn thân an toàn nơi khu bảo tồn động vật hoang dã. Tôi thấy hạnh phúc, dù nghèo khổ và bị dính bẫy vào hôn nhân và chịu gánh nặng của con cái. Tôi vẫn hạnh phúc dù chưa thành đạt khi tôi còn có thể nằm trong giường bên cạnh vợ mình - người vẫn yêu tôi và sẵn sàng trợ lực tôi để chống lại toàn thể thế giới! Và rồi tôi nghĩ Jordan hẳn cũng đã cảm thấy như thế. Nhưng tôi không phải là Jordan. Tôi là pháp sư Merlyn, tôi sẽ làm cho mọi chuyện xuất hiện và biến đi đúng theo ý mình.

Bí quyết là hồi tưởng tất cả nhưng điều tốt đẹp, tất cả những khoảng đời hạnh phúc. Phần lớn thời gian của mười năm vợ chồng chung sống hạnh phúc. Có lẽ tôi đã quá hạnh phúc so với những phương tiện, những tình huống và những tham vọng của tôi. Tôi nghĩ đến cảnh casino cháy rực lên trong sa mạc, và Diane đánh bạc với tính cách chim mồi không có cơ hội nào để thắng hay thua, để được hạnh phúc hay bất hạnh. Và Cully đang sau bàn, trong chiếc khăn yếm màu xanh dương, đánh bạc cho nhà cái. Và Jordan đã chết.

Nhưng giờ đây, nằm trong giường nhà của cảnh gia đình đang diễn ra êm đềm, tôi cảm nhận được một sức mạnh ghê gớm. Tôi sẽ làm cho chúng được an toàn đối với thế giới và cả đối với tôi.

Tôi chắc rằng tôi có thể viết một quyển sách khác và kiếm được nhiều tiền. Tôi chắc rằng Vallie và tôi sẽ hạnh phúc mãi mãi, rằng cái vùng trung lập lạ lùng kia đã chia cắt chúng tôi sẽ bị phá bỏ; tôi sẽ không bao giờ phản bội nàng hay sử dụng ma thuật để ngủ cả ngàn năm.

Tôi sẽ không bao giờ là một Jordan.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Đứng trong dãy phòng trên mái của Gronevelt, Cully nhìn trừng trừng qua những cửa sổ lớn. Ba ngọn đèn néon xanh đỏ của khu Thoát y vũ chạy dài vươn đến những ngọn núi đen thẫm bao quanh sa mạc. Cully không nghĩ về Merlyn hay Jordan hay Diane. Anh đang sốt ruột đợi Gronevelt đi ra khỏi phòng ngủ, chuẩn bị những câu trả lời và biết rằng tương lai của mình sắp đem đặt cược.

Đó là dãy phòng rộng lớn với một quầy rượu nơi phòng khách, một nhà bếp lớn phục vụ cho phòng ăn tiếp tân; tất cả mở ra về hướng sa mạc, bao vòng cung các ngọn núi. Trong lúc Cully di chuyển không ngừng về cửa sổ bên kia, Gronevelt đi qua khung cửa vòm của phòng ngu.

Gronevelt ăn mặc lịch sự không chê được với tóc tai râu ria cắt tỉa cẩn thận, dù đã sau nửa đêm. Ông ta đến chỗ bar rượu và hỏi Cully:

- Làm một ly nhé?

Giọng Miền Đông của ông có lẽ là giọng New York hay Boston hoặc Philadelphia. Chung quanh phòng khách là các kệ đầy sách. Cully thắc mắc không biết thực sự Gronevelt có đọc chúng không? Những tay phóng viên báo chí viết về Gronevelt có lẽ đã từng ngạc nhiên khi nghĩ vậy.

Cully đi đến bar rượu và Gronevelt làm một cử chỉ bảo anh thích uống thứ gì cứ việc tự tiện rót. Cully lấy một cái ly và rót vào ít Scotch Whisky. Anh để ý thấy Gronevelt chỉ uống soda không thôi.

- Cho đến nay anh đã làm tốt công việc của mình, - Gronevelt nói. - Nhưng anh đã giúp tên Jordan đó ở bàn baccarat. Như thế là anh đã hành động chống lại tôi. Anh lãnh tiền tôi mà đi chống với tôi.

- Anh ấy là một người bạn của tôi, - Cully nói. - Đó không phải là một cuộc lớn cho lắm. Và tôi biết anh ta là loại người sẽ xử đẹp với bạn bè nếu anh ta thắng.

- Anh ta có cho anh gì không, - Gronevelt hỏi, - Trước khi anh ta tự hạ mình đo ván?

- Anh ấy sắp sửa cho chúng tôi mỗi người hai mươi ngàn đô, tôi và cái thằng nhóc hay cặp kè với chúng tôi và Diane, cô gái tóc vàng chơi mồi ở bàn baccarat.

Cully có thể thấy rằng Gronevelt tỏ ra hứng thú và không có vẻ giận dữ lắm về chuyện anh đã giúp Jordan.

Gronevelt bước tới bên khung cửa sổ lớn và ngắm nhìn những ngọn núi bao quanh sa mạc đang ánh lên màu đen lấp lánh trong đêm trăng.

- Nhưng anh chẳng bao giờ lấy được tiền đó, - Gronevelt nói.

- Tôi thật ngốc, - Cully nói. - Thằng nhóc nói hắn sẽ chờ cho đến khi chúng tôi đưa Jordan lên máy bay, thế là tôi và Diane nói rằng chúng tôi cũng chờ. Đó là một sai lầm mà tôi sẽ không bao giờ lặp lại.

Gronevelt bình thản nói:

- Ai mà chẳng phạm sai lầm. Điều đó không quan trọng lắm, trừ phi đó là một sai lầm chết người. Anh nói thế chứ anh sẽ còn phạm nhiều sai lầm nữa chứ chưa hết đâu. Bảy mươi chưa gọi là lành mà. - Ông uống cạn ly soda của mình. - Anh có biết tại sao anh chàng Jordan lại có hành động lạ lùng như vậy không?

Cully nhún vai:

- Bị vợ bỏ. Lấy đi hết mọi thứ. Tôi đoán mò thế thôi. Nhưng có lẽ, về thể chất anh ta gặp chuyện trục trặc có thể là anh ta bị ung thư. Mấy ngày cuối trông anh ta hốc hác thấy sợ.

Gronevelt gật đầu:

- Thế con nhỏ ở bàn baccarat đó "ngọt" tốt chứ?

Cully lại nhún vai:

- Xài được.

Vào lúc đó Cully ngạc nhiên thấy một cô gái trẻ từ khu phòng ngủ, bước vào phòng khách. Cô ta trang điểm cẩn thận, ăn mặc đầy đủ để đi ra ngoài. Cái túi xách vắt vẻo trên vai cô. Cully nhận ra cô ta là một trong những nàng bán khỏa thân trình diễn các sô tạp kỹ trên sân khấu của khách sạn. Không phải là vũ công mà chỉ là một phô diễn viên. Cô ta đẹp và anh nhớ rằng đôi vú trần của cô trên sân khấu trông ngon tuyệt!

Cô gái hôn lên môi cụ Gronevelt. Cô coi như Cully chẳng hề có mặt và Gronevelt cũng không giới thiệu nàng. Ông ta đứng dậy đưa nàng đến cửa và Cully thấy ông rút ví tiền ra, nhón lấy một tờ trăm đô-la. Ông nắm tay cô gái lúc ông mở cửa và tờ trăm đô-la biến đi. Khi nàng ra đi, Gronevelt quay lại vào phòng và ngồi xuống một trong hai chiếc ghế sofa. Rồi ông ta lại phác một cử chỉ và Cully ngồi xuống một trong các chiếc ghế nệm mút, đối diện ông.

- Tôi biết tất cả về anh, - Gronevelt nói. - Anh là một nghệ sĩ thoái hoá. Anh là một người thợ giỏi với một cỗ bài. Từ công việc anh đã làm cho tôi, tôi biết rằng anh khôn lanh lắm. Tôi đã giao anh kiểm tra mọi đường đi nước bước khu casino.

Cully gật đầu và chờ đợi.

- Anh là tay chơi nhưng không phải là tay chơi biến chất. Thực ra thì anh đoán trước được nước bài. Nhưng anh biết mọi nghệ sĩ suy đồi cuối cùng đều muốn ném anh ra ngoài từ lâu. Tôi ngăn họ. Anh biết chuyện ấy chứ?

Cully vẫn chờ đợi.

Gronevelt vẫn nhìn thẳng vào mắt anh:

- Tôi đã nắm rõ mọi hành vi của anh, trừ một chuyện. Mối quan hệ giữa anh với Jordan và cách anh làm việc với hắn và thằng nhóc kia. Và với con nhỏ mà tôi biết anh chưa từng ngủ với nó lần nào. Vậy nên, trước khi chúng ta đi xa hơn, yêu cầu anh giải thích mọi chuyện đó?

Cully tranh thủ thời gian để suy nghĩ và trả lời rất thận trọng:

- Ông biết rằng tôi là người biết xoay xở. Jordan là một mẫu người lạ lùng. Tôi có linh cảm mình có thể chiếm được cảm tình của anh ta. Thằng nhóc và cô gái cùng lọt vào một khung.

Gronevelt nói:

- Thằng nhóc đó là thằng đếch nào thế? Cái trò quảng cáo nhố nhăng mà hắn tạo ra với Cheech là một trò nguy hiểm và phiền toái lắm đấy.

Cully nhún vai:

- Thằng nhóc đó dễ thương mà.

Gronevelt nói, gần như với giọng khả ái:

- Anh thích hắn. Hẳn là anh thực sự thích hắn và Jordan, nếu không anh đã chẳng bao giờ đứng chung phòng tuyến với họ để chống lại tôi.

Bỗng dưng Cully có một linh cảm. Anh đang nhìn chăm chăm vào hàng trăm bộ sách chen kín trên các kệ quanh phòng.

- Vâng, tôi thích họ. Thằng nhóc đã viết một quyển sách, không kiếm được bao nhiêu tiền. Người ta không thể đi qua suốt cuộc đời mà chẳng bao giờ thích ai. Họ thực sự là những anh chàng dễ mến. Không hề có chút căn cốt xoay sở mánh mung. Người ta có thể đặt niềm tin vào họ. Họ không bao giờ định chơi trên cơ mình. Tôi nghĩ đó sẽ là một kinh nghiệm mới cho tôi.

Gronevelt cười. Ông đánh giá nét hóm hỉnh, trí tuệ trong nhận xét đó và cảm thấy thích. Mặc dầu ít người biết điều đó, Gronevelt thực ra hiểu biết rộng rãi. Nhưng ông coi chuyện đó là một tật xấu cần che giấu hơn là một giá trị để phơ trương.

- Thằng nhóc đó tên gì? - ông hỏi thẳng thừng nhưng ông thực sự quan tâm - Quyển sách đó có tựa đề là gì?

- Tên hắn là John Merlyn, - Cully nói. - Tôi không biết quyển sách.

Gronevelt nói:

- Tôi chưa từng nghe tên hắn. Cái tên nghe ngộ ghê. - Ông yên lặng một lát, ngẫm nghĩ. - Đó là tên thật của hắn?

- Vâng! - Cully đáp.

Có một khoảng lặng dài như thể Gronevelt đang cân nhắc điều gì và rồi cuối cùng ông ta thở dài và nói với Cully:

- Tôi sắp mang lại một bước đột phá quan trọng cho đời anh. Nếu anh làm công việc được giao đúng như cách tôi bảo và nếu kín miệng, anh sẽ có cơ hội quý để làm ra nhiều tiền và trở thành một trong những người điều hành của khách sạn này. Tôi thích anh và đánh cuộc vào anh. Nhưng hãy nhớ kỹ là, nếu anh chơi xỏ tôi, anh sẽ gặp rắc rối lớn đấy. Tôi nhấn mạnh, rắc rối lớn. Anh có một ý niệm tổng thể về những gì tôi đang nói hay không?

- Thưa ông, vâng ạ, - Cully nói. - Điều đó không làm tôi sợ. Ông đã biết tôi là kẻ hay xoay sở. Nhưng tôi cũng đủ khôn ngoan để trung thực với người tôi cần trung thực.

Gronevelt gật đầu.

- Điều quan trọng nhất là biết thủ khẩu như bình.

Và trong khi nói điều này đầu óc ông lang thang quay về cái buổi chiều ông đã trải qua với cô gái phô diễn. Một cái miệng kín như bưng. Hình như đó là điều duy nhất trợ lực cho ông trong lúc này. Trong một thoáng, ông ta chợt có cảm thức về sự rã rời của ý chí, sự rơi rụng của quyền lực, một cảm thức dường như đã đến thường xuyên hơn trong năm rồi. Nhưng ông biết rằng chỉ cần bước xuống và đi ngang qua khu casino là mình lại được nạp lại năng lượng. Giống như người khổng lồ An-tê trong thần thoại Hy Lạp, ông thu nạp sức mạnh khi tiếp xúc với mặt đất cho sự sống của sàn nhà khu casino, từ tất cả những kẻ ông quen biết - những con người giàu sang, tiếng tăm, quyền lực - họ đến đây để bị sát phạt bởi con xúc xắc và những cái bàn lót thảm màu xanh dương của ông. Những ông đã im lặng quá lâu và ông thấy Cully đang ngắm nghía ông đầy chủ ý, với sự hiếu kỳ và trí thông minh cùng đang làm việc với tần suất cao. Ông đang cho người trợ lý mới của mình một chút lấn lướt.

- Thủ khẩu như bình, - Gronevelt nhắc lại. - Và cậu phải bỏ tất cả những trò xoay sở linh tinh, đặc biệt là với các nàng "đĩ,điếm". Sao, họ muốn quà tặng? Nếu như họ xén anh nơi này một trăm, nơi kia một ngàn. Hãy nhớ rằng họ phải được trả sòng phẳng. Đừng bao giờ để nợ một cái gì với người đàn bà. Bất kỳ cái gì. Dứt khoát là không. Không để bị cào bằng với các em điếm hạng sang.Trừ phi anh là một thằng ma-cô hay một thằng tồi! Hãy nhớ lấy điều ấy. Hãy cho họ một Con ong mật.

- Những một trăm đô-la cơ à? - Cully hỏi đùa. - Thế năm mươi đô-la thôi không được sao? Tôi đâu có làm chủ cả một casino.

Gronevelt cười ruồi:

- Hãy vận dụng trí phán đoán của anh. Nhưng nếu nàng ta chiều cậu hết ý thì một Con ong mật là phải giá quá rồi!

Cully gật đầu và chờ đợi. Cho đến bây giờ, mới toàn là chuyện bên lề. Gronevelt chưa đề cập đến cái cốt lõi. Và ông ta đưa ra điều chủ yếu.

- Vấn đề lớn nhất của tôi hiện nay là, - Gronevelt nói - thuế khoá quá nặng. Cậu cũng biết là người ta chỉ có thể làm giàu trong bóng tối. Một số ông chủ khách sạn khác đang tính chi li từng đồng trong phòng kế toán với các đối tác của họ. Một bọn tồi! Cuối cùng thì đám Liên Bang (PBI) cũng sẽ tóm được chuyện gian dối. Có ai đó xì ra và thế là chúng sẽ điều tra, khởi tố. Rồi sẽ phát sinh bao nhiêu chuyện rắc rối bực mình. Vô phúc đáo tụng đình, anh cũng biết đấy. Tất nhiên là tôi tối kỵ chuyện ấy. Nhưng phải chi li tính toán chỗ nào đồng tiền thực sự hiện diện. Và đó là điều mà anh sắp giúp tôi.

- Tôi sẽ làm việc nơi phòng kế toán? - Cully hỏi.

Gronevelt lắc đầu lia lịa.

- Anh sẽ cầm cái, giữ sòng, - ông nói. - Ít nhất cũng một thời gian. Và nếu làm tốt, anh sẽ thăng lên trợ lý riêng cho tôi. Tôi hứa chắc như vậy. Nhưng anh phải chứng tỏ với tôi qua quá trình công tác. Và mọi mặt khác. Anh hiểu ý tôi chứ?

- Chắc chắn rồi, - Cully đáp. - Có nguy cơ nào không?

- Chỉ từ nơi anh thôi, - Gronevelt nói.

Và bỗng dưng ông ta trừng trừng nhìn Cully, lặng lẽ và đầy chủ ý, như thể ông đang nói một điều gì đó nhưng không dùng lời mà ông vẫn muốn Cully phải lãnh hội được, theo kiểu các bậc đạo sư Đông phương hàm ý "dư dục vô ngôn" ta không muốn nói, nhưng nếu phải cơ duyên người được làm đệ tử tâm truyền của ta thì ắt là người phải hiểu!

Cully nhìn vào mắt ông và khuôn mặt của Gronevelt chùng xuống một chút với nét biểu lộ mệt mỏi, khinh đời và Cully liền "hoác nhiên đại ngộ". Nếu không tự chứng tỏ được mình, nếu chơi phải thùng, chắc chắn anh sẽ có được cơ hội tốt để vùi thây nơi hoang mạc ngoài kia? Anh biết rằng điều đó sẽ làm phiền lòng ông Gronevelt lắm đấy, và ành cảm thấy một mối dây ràng buộc kỳ lạ với ông ta. Anh muốn "tái trấn an" ông.

- Ông Gronevelt à, xin ông đừng quá ưu tư, - anh nói. - Tôi sẽ không bao giờ phản bội ông đâu. Tôi trân trọng những gì ông đang làm cho tôi. Tôi sẽ không bỏ ông đâu.

Gronevelt chầm chậm gật đầu. Ông quay lưng lại phía Cully và nhìn đăm đăm, qua khung cửa sổ mở rộng, về phía sa mạc và đồi núi trập trùng xa

- Lời nói chẳng có nghĩa gì, - ông nói. - Tôi tin rằng anh đủ khôn ngoan. Hãy lên trình diện tôi vào trưa mai và tôi sẽ nói rõ mọi việc. Và còn một việc khác nữa.

Cully tỏ vẻ chăm chú.

Gronevelt nói gay gắt:

- Hãy vất đi cái áo jacket thổ tả mà anh với đám bạn của anh vẫn thường mặc. Cái gọi là Kẻ chiến thắng ở Las Vegas đó. Mấy người không biết cái áo jacket đó chọc ngứa mắt tôi như thế nào khi tôi thấy ba thằng các anh mặc cái áo ấy đi tới đi lui nơi casino của tôi. Và điều đầu tiên anh có thể nhắc nhở tôi là bảo thằng chủ cửa hàng quần áo mắc dịch kia đừng có đặt thêm loại áo jacket đó nữa.

- Xin vâng, thưa ông chủ! - Cully mau mắn đáp.

- Chúng ta uống với nhau một ly nữa rồi anh có thể đi, Gronevelt nói. - Tôi còn phải kiểm tra casino một lát.

Họ uống thêm một ly, và Cully ngạc nhiên khi Gronevelt cụng ly với anh như thể để ăn mừng mối quan hệ mới giữa hai người. Điều đó khích lệ anh hỏi ông ta chuyện gì đã xảy ra với Cheech.

Gronevelt buồn bã lắc đầu.

- Tôi có thể cho cậu biết những sự kiện đời sống trong thành phố này. Cậu biết là Cheech ở bệnh viện. Chính thức là hắn ta bị xe đụng. Hắn sẽ bình phục, nhưng cậụ sẽ không bao giờ thấy mặt hắn ở Vegas nữa cho đến khi chúng ta có một Cảnh sát trưởng mới.

- Tôi nghĩ Cheech có quen biết nhiều, Cully nói.

Anh nhấm nháp ly rượu. Anh ta rất tinh nhạy. Anh ta muốn biết ở tầm cỡ của Gronevelt, mọi chuyện diễn biến thế nào.

- Hắn quen biết lớn ở Miền Đông, - Gronevelt nói. - Thực ra, bạn bè của Cheech muốn tôi giúp hắn thoát khỏi Vegas. Tôi đã bảo họ tôi không có chọn lựa nào khác.

- Tôi không cho là như vậy, - Cully nói. - Ông có gân cốt cứng cựa hơn tay Cảnh sát trưởng chứ.

Gronevelt dựa ngửa vào thành ghế và uống chầm chậm. Với tư cách là bậc trường thượng khôn ngoan, ông vẫn thường lấy làm thích thú khi bảo ban cho đám trẻ.

Và ngay cả khi làm thế, ông biết rằng Cully đang nịnh ông, rằng có lẽ chàng ta đã có sẵn mọi câu trả lời.

- Xem này. - Ông nói - Luôn luôn chúng ta có thể dàn xếp mọi chuyện rắc rối với chính quyền liên bang, với các luật sư và các quan toà ăn cánh với chúng ta; chúng ta có các thẩm phán và các chính trị gia. Bằng cách này hay cách khác, chúng ta có thể xác lập mọi việc với ngài Thống đốc bang hay với các Uỷ ban kiểm tra cờ bạc. Văn phòng cảnh sát trưởng sẽ điều hành thành phố theo cách chúng ta muốn. Tôi có thể nhấc điện thoại lên và gần như có thể trục xuất bất kỳ ai khỏi thành phố này.

Chúng ta đang xây dựng hình ảnh của Vegas như một nơi chốn tuyệt đối an toàn cho các tay cờ bạc. Chúng ta không thể làm điều ấy mà không có viên Cảnh sát trường. Bây giờ, để hành xử, ông ta phải thực sự có quyền đó và chúng ta phải trao cho ông ta quyền lực đó. Chúng ta phải làm cho ông ta thấy thoải mái. Ông ta cũng phải là một loại người cứng rắn với một số giá trị nào đó. Không thể để một tên ngang ngược xấc xược như Cheech đấm cháu ông ta dập mũi mà lại chịu bỏ qua, bất kỳ vì áp lực nào. Ông ta phải bẻ gãy cẳng tên đó. Và chúng ta phải để ông ấy làm thế. Tôi phải để ông ta làm. Cheech phải chấp nhận chuyện đó. Cả những vị tai to mặt lớn ở New York cũng phải chấp nhận. Một cái giá phải trả, không lớn lắm!

- Ông Cảnh sát trưởng oai vậy sao? - Cully hỏi.

- Phải thế, - Gronevelt nói. - Đó là cách duy nhất để chúng ta có thể điều hành thành phố này. Và ông ta là một kẻ khôn ngoan, một chính trị gia tốt. Ông ta sẽ còn giữ chức đó trong mười năm nữa.

- Sao lại là mười năm? - Cully hỏi.

Gronevelt cười.

- Ông ta sẽ quá giàu để chỉ làm việc mười năm. Mà lại là một công việc rất gay go, lúc nào cũng phải lo đối phó với ba bên bốn bề. Giàu rồi thì tội gì.

Sau khi Cully đi, Gronevelt chuẩn bị xuống khu casino. Bấy giờ gần khoảng hai giờ sáng. Ông gọi đường dây đặc biệt cho viên kỹ sư của toà nhà bảo bơm dưỡng khí thuần chất qua khắp hệ thống điều hoà không khí của casino để giữ cho các tay chơi khỏi buồn ngủ. Ông quyết định thay áo sơ-mi. Vì một vài lý do mà áo của ông đã trở nên ẩm ướt, dính rít khó chịu trong lúc nói chuyện với Cully. Và trong khi thay áo, ông nghĩ nhiều về Cully.

Ông nghĩ mình có thể đọc con người ấy như đọc một trang sách mở rộng. Cully đã tin rằng mối giao tình với Jordan là một điểm chống lại anh ta dưới mắt Gronevelt.

Trái lại, Gronevelt đã vui thích khi Cully về phe Jordan ở bàn baccarat. Điều đó chứng tỏ rằng Cully không phải là kẻ xoay sở một chiều, một cò mồi sơ đẳng. Nó chứng tỏ rằng chàng ta là một tay gian hùng có cỡ từ trong cốt cách.

Bởi vì Gronevelt đã là một tay đại gian hùng suốt cả đời mình. Ông biết rằng kẻ xoay sở đích thực vẫn có một tia lửa nhân đạo, một chút lòng từ ái hào hiệp, sẵn sàng giúp người. Điều này không mâu thuẫn. Những đức tính đó đã tạo cho anh ta sự khả tín. Để chuẩn bị cho mục đích tối hậu. Tất nhiên là một tay gian hùng phải tinh ranh xảo quyệt và nhẫn tâm khi cần thiết. Và Cully lại có một trái tim. Anh ta đã chứng tỏ điều ấy khi đứng bên Jordan ở bàn baccarat và thách thức Gronevelt.

Nhưng giờ đây câu đố bí hiểm đặt ra cho Gronevelt là: Cully đã hành động thực tình hay xảo trá? Ông cảm thấy rằng Cully rất tinh khôn. Thực tế là, chàng ta tinh khôn đến độ Gronevelt biết rằng ông sẽ không cần kiểm soát Cully trong một thời gian. Cully sẽ tuyệt đối đáng tin và trung thực trong vòng ba năm tới. Hắn có thể cắt xén những khoản nho nhỏ vì biết rằng đó là phần thưởng chính đáng cho việc làm tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng chỉ thế thôi, không hơn. Đúng thế, trong vài ba năm tới đây Cully sẽ là cánh tay mặt tin cậy của ông, Gronevelt nghĩ. Nhưng sau đó ông sẽ phải dè chừng dù Cully có làm việc tận tuỵ đến đâu để chứng tỏ tính trung thực khả tín, lòng trung thành và ngay cả lòng cảm mến thực sự đối với chủ mình. Đó sẽ là cái bẫy lớn nhất. Một tay gian hùng có hạng, Cully có thể sẽ phản ông một cú đích đáng, khi thời cơ chín muồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Bố của Vallie thu xếp cho tôi khỏi mất việc.

Khoảng thời gian "hoang đàng chi địa" của tôi được tính vào thời gian nghỉ phép và nghỉ bệnh, vì thế tôi vẫn được trả lương cho cả tháng lang thang ở Vegas. Nhưng khi tôi trở lại đơn vị thì cấp chỉ huy của tôi, một Thiếu tá quân đội chính quy, có vẻ tức giận. Tôi chẳng mấy lo lắng về chuyện đó. Nếu bạn là nhân viên dân sự của Bộ Quốc phòng và bạn không có tham vọng, cũng không để tâm lắm đến chuyện sĩ diện lặt vặt, thì cấp chỉ huy chẳng có mấy tí quyền lực đối với bạn.

Tôi đảm nhiệm chức phụ tá hành chánh văn thư cho các đơn vị quân dự bị. Vì các đơn vị chỉ gặp nhau mỗi tuần một lần để huấn luyện, tôi phải chịu trách nhiệm về mọi công tác hành chánh văn thư của cả ba đơn vị được giao. Tôi có tổng cộng sáu trăm con người để phải lưu tâm, tính sổ lương, quay ronéo các sổ quân bạ của họ, bao thứ giấy tờ liên quan khác. Tôi phải kiểm tra công tác hành chánh của những đơn vị do nhân viên dự bị thực hiện. Họ soạn thảo báo cáo buổi sáng cho những cuộc họp, cắt đặt lệnh thăng thưởng, sửa soạn đợt bổ nhiệm.

Nghe thì cũng rộn chuyện lắm song thực ra công việc cũng dễ ợt? Chỉ trừ khi các đơn vị đi dự trại huấn luyện hè trong hai tuần. Lúc đó thì tôi khá bận rộn.

Văn phòng làm việc của chímg tôi có không khi thân mật, hữu nghị. Có một nhân viên dân sự khác tên là Frank Alcore lớn tuổi hơn tôi và thuộc một đơn vị dự bị mà anh phục vụ với tư cách Trưởng phòng quản trị. Với kiểu lập luận rất có cơ sở thực tế, Frank nói với tôi về chuyện móc nối để kiếm chác. Tôi làm việc bên cạnh anh gần hai năm và không hề biết anh ta vẫn tham nhũng và ăn hối lộ đều đều?

Quân dự bị của nước Mỹ là một kho béo bở không bao giờ cạn. Chỉ việc đi dự họp hai giờ mỗi tuần, bạn vẫn được lãnh lương trọn ngày. Cộng với tiền ăn ở. Và trong hai giờ đó, bạn chỉ đến nghe những chỉ thị trong lúc có thể lơ mơ ngủ gà ngủ gật để dưỡng sức.

Phần lớn những người quản trị dân sự gia nhập lực lượng quân dự bị. Trừ tôi. Chiếc mũ pháp sư của tôi đã tiên đoán những biến cố lớn trong tương lai. Rằng có thể một cuộc chiến tranh khác sắp xảy ra và các đơn vị dự bị sẽ là những nhóm đầu tiên được gọi vào lực lượng chính quy.

Mọi người đều nghĩ tôi điên. Frank Alcore nài nỉ tôi gia nhập. Trong Thế chiến 2, suốt ba năm tôi vẫn chỉ là một anh lính trơn "đơ-zèm cùi bắp" nhưng Frank bảo tôi rằng anh có thể vận động cho tôi được đồng hoá Trung sĩ nhất, căn cứ trên thâm niên công vụ của tôi trong tư cách một Trưởng ban quản trị của quân đội. Đó là một quả bóng, vừa làm nhiệm vụ yêu nước vừa lãnh được hai suất lương. Nhưng tôi ghét ý tưởng phải nhận mệnh lệnh trở lại ngay cả chỉ có hai giờ mỗi tuần và hai tuần trong mùa hè. Là một nhân viên dân sự, tôi cũng phải theo bao hướng dẫn của cấp trên. Nhưng có một khác biệt lớn giữa mệnh lệnh và hướng dẫn.

Mỗi lần đọc các bài báo về Lực lượng dự bị được huấn luyện kỹ của xứ sở Huê-Kỳ, tôi đều lắc đầu. Trên một triệu người chẳng được cái tích sự gì. Tôi tự hỏi tại sao họ chưa dẹp quách toàn bộ đám đó đi. Nhưng rất nhiều thành phố nhỏ tuỳ thuộc vào số lương trả cho quân dự bị để vận hành nền kinh tế của chúng. Nhiều chính trị gia trong các thể chế pháp lý và quốc hội bang là những sĩ quan dự bị cao cấp và kiếm được những khoản lương bổng hậu hĩ từ đó.

Và có một điều xảy đến làm thay đổi cả cuộc đời tôi. Chỉ thay đổi có một thời gian ngắn nhưng thay đổi theo hướng tốt hơn về cả hai phương diện kinh tế và tâm lý. Tôi trở nên một kẻ bất chính. Do rơi vào guồng máy cơ cấu quân sự của nước Mỹ.

Một thời gian ngắn sau khi tôi quay về từ Vegas, những chàng trai trẻ ở Mỹ đều biết rằng nhập ngũ vào chương trình "nhiệm vụ tích cực" trong sáu tháng sẽ cho họ cái lợi được tự do trong mười tám tháng. Một chàng trẻ trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, chỉ cần đầu quân vào chương trình quân dự bị và thi hành sáu tháng nghĩa vụ quân chính quy ở các bang ngay tại Mỹ. Sau đó đi lính năm năm rưỡi trong quân dự bị. Có nghĩa là hàng tuần đi dự họp mất hai gìờ và làm nghĩa vụ tích cực trong hai tuần ở trại hè. Nếu chàng ta chùng chình và đợi đến khi có lệnh gọi nhập ngũ, chàng ta sẽ phải đi lính chiến đấu hai năm ròng, có thể là tận chiến trường Triều Tiên.

Tình hình ngày càng căng. Ngày càng nhiều chàng trai trẻ được gọi đến dưới cờ. Cuba và Việt Nam đã hiện ra nơi chân trời mịt mờ khói lửa. Vào thời ấy, tôi nhận thấy có điều gì ám muội đang diễn ra. Và chuyện ấy phải là rất đáng ngại mới khiến tôi nhận ra bởi vì tôi tuyệt đối chẳng có hứng thú gì với công việc hay khung cảnh làm việc.

Frank Alcore lớn tuổi hơn tôi, đã có vợ và hai con. Về ngạch trật dân sự chúng tôi ngang cấp nhau chúng tôi phục vụ riêng rẽ, anh phụ trách các đơn vị của anh, tôi lo các đơn vị của tôi. Chúng tôi có bậc lương ngang nhau khoảng một trăm đô-la mỗi tuần.

Nhưng anh thuộc về đơn vị quân dự bị, mang cấp bậc trung sĩ nhất và hàng năm còn được lãnh thêm cả ngàn đô. Vậy mà anh vẫn lái chiếc xe Buick mới đi làm và đậu xe nơi một garage gần bên, tốn ba đô-la mỗi ngày.

Anh ta chơi cá độ tất cả các môn bóng: bóng đá, bóng rổ, bóng chày và tôi biết như vậy tốn đến bao nhiêu. Tôi tự hỏi anh ta lấy tiền ở đâu ra mà chơi bạo thế. Tôi hỏi đùa anh ta và anh nháy mắt bảo tôi là kiếm tiền cũng đơn giản như là ta đang giỡn thôi, có khó gì đâu?

- Ồ, ở đâu dzậy? Chỉ ngộ, ngộ cho tiền cò!

Anh cười:

- Này, cậu hai, cậu chớ có lo, hết tiền cậu cứ xuống kho lấy xài Kho bạc Nhà nước ngay trước mũi cậu chớ đâu!

Tôi biết anh chỉ ba hoa để khoả lấp thế thôi. Thế rồi một ngày kia anh ta dẫn tôi đi khao một chầu "đáng kể" nơi một nhà hàng Ý sang trọng ở Đại lộ Số Chín và lật ngửa con bài tẩy lên.

Lúc uống cà phê, anh hỏi:

- Này Merlyn, mỗi tháng cậu đưa vào danh sách các đơn vị của cậu bao nhiêu tên? Chỉ tiêu từ Washington định cho cậu là bao nhiêu?

- Tháng rồi là ba mươi, - tôi đáp. - Biến động trong khoảng từ hai mươi lăm đến bốn mươi tuỳ theo số mất.

- Những điểm tuyển quân đó giúp ta hái ra tiền đấy! - Frank nói. - Bạn có thể kiếm được món khơ khớ hàng tháng.

Tôi không đáp ứng. Anh tiếp tục:

- Hãy để tôi sử dụng năm trong số ấy của bạn, - anh nói. Tôi sẽ cho bạn mỗi điểm một tờ cứng, hàng tháng.

Tôi không dễ bị đổ. Năm trăm đô-la mỗi tháng là một sự gia tăng thu nhập một trăm phần trăm cho tôi. Nhưng tôi vẫn "em chã" và bảo anh ta quên chuyện ấy đi. Lúc ấy tôi còn nhiều sĩ diện và tự ái lắm. Tôi chưa bao giờ làm điều gì bất lương trong đời mình. Trở thành một kẻ ăn hối lộ, đối với tôi, là chuyện bất xứng. Xét cho kỹ, tôi là một nghệ sĩ cơ mà? Một tiểu thuyết gia cỡ lớn đang chờ nổi tiếng đây! Làm chuyện bất lương là tầm thường hoá chính mình, là bôi bác cái hình tượng tự thân đẹp đẽ mà tôi đã tự tạo cho mình. Chuyện vợ con tôi có sống mấp mé bờ vực nghèo khổ cũng chưa quan trọng lắm. Tôi có phải làm thêm việc buổi tối để trang trải cơm áo gạo tiền cũng không sao. Tôi là một người hùng bẩm sinh? Mặc dầu ý tưởng về các chàng trai chịu trả tiền để được ghi tên vào danh sách tòng quân làm tôi thấy thích thích.

Frank không bỏ cuộc.

- Cậu không phải chịu nguy cơ nào cả đâu, anh ta nói. - Những danh sách đó có thể nguỵ tạo dễ dàng, không có sổ cái. Cậu không phải lấy tiền từ đám lính tò te đó đâu. Cũng chẳng cần phải kỳ kèo thương lượng gì hết. Tôi sẽ lo mọi chuyện, cậu chỉ có việc ghi danh chúng khi tôi OK. Sau đó là tiền bạc sột soạt từ tay tôi chuyển sang tay cậu. Rốp rẻng, ngon lành, sòng phẳng!

À nếu anh ta cho tôi một trăm hẳn anh ta phải bỏ túi được hai trăm. Và anh ta có khoảng mười lăm "khe" của riêng phần anh để nhét vào, và với cái giá hai trăm mỗi khe thì hàng tháng anh ta lượm sơ sơ ba ngàn đô? Có điều tôi chưa biết là anh ta không thể sử dụng cả mười lăm khe đó cho riêng mình. Các sĩ quan của đơn vị anh cũng phải lo cho một số người. Các chính trị gia, dân biểu, nghị sĩ gửi các cậu ấm vào làm lính kiểng, lính ma. Và thế là giật mất phần bánh khỏi miệng Frank khiến anh nổi giận một cách chính đáng? Nhưng đố dám kêu ca bởi đã ăn xôi chùa phải nghẹn họng! Anh chỉ còn bán được có năm "khe" hàng tháng. Nhưng dầu sao thì cái khoản ngoại bổng một ngàn đô-la mỗi tháng cũng thơm quá ấy chứ? Tuy nhiên, tớ đây vẫn đếch thèm? Lỡ làm anh hùng - À phải trong sạch tới cùng. Nga tử sự tiểu, thất tiết sự dại chết đói chuyện nhỏ, đánh mất trinh tiết, khí tiết mới là chuyện lớn? Hãy giữ vững khí tiết, hỡi nhà tiểu thuyết sẽ thành danh vang dội, tôi tự nhủ lòng.

Những lý do tự khoan miễn mang đủ mọi kiểu dáng mà người ta có thể tạo ra để cuối cùng là chịu móc ngoặc.

Tôi đã từng phác thảo một chân dung tự hoạ. Khá đẹp! Tôi trọng danh dự và sẽ không bao giờ nói dối hoặc đánh lừa bạn bè, người quen. Rằng tôi sẽ không bao giờ làm bất kỳ điều gì thấp hèn để trục lợi. Tôi nghĩ mình cũng giống như anh Artie. Nhưng Artie là người trung thực từ trong cốt tuỷ. Không có áp lực nào có thể khiến anh trở nên thoái hoá, biến chất. Anh thường kể tôi nghe câu chuyện về những áp lực trong công việc. Với tư cách là một kỹ sư hoá học xét nghiệm các loại tân dược cho Cục Quản lý lương thực và dược phẩm Liên bang, anh ở vào một vị thế có quyền lực. Anh làm ra khá tiền, nhưng khi thực hiện các cuộc xét nghiệm, anh cho nhiều loại dược phẩm mà các dược sĩ liên bang đã thông qua là chưa đạt yêu cầu chất lượng. Thế rồi nhiều công ty dược phẩm khổng lồ đã cho người tiếp cận anh và ngỏ ý với anh rằng họ có nhiều công việc dành cho anh, với lương bổng hậu hĩ chưa từng thấy. Nếu chịu "uyển chuyển" hơn một ư, anh sẽ mau thăng tiến hơn. Artie xua họ đi. Rồi cuối cùng một trong những loại thuốc mà anh đã phủ quyết lại được chấp thuận "trên đầu anh". Một năm sau, loại dược phẩm đó bị buộc phải tái kiểm và bị cấm lưu hành bởi vì những hiệu ứng độc hại đối với bệnh nhân - Có vài người đã chết sau khi dùng loại thuốc đó. Toàn bộ sự việc được đưa lên báo chí và Artie trở thành người hùng trong một thời gian. Anh còn được đề bạt lên cấp quản lý cao trong cơ quan. Nhưng được ngầm hiểu rằng không bao giờ anh có thể lên cao hơn nữa. Rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở thành thủ trưởng cơ quan, vì anh thiếu hiểu biết về những yêu cầu chính trị của công việc. Anh chẳng thèm quan tâm và tôi lấy làm tự hào về ông anh đầy tiết tháo của mình.

Tôi muốn sống một cuộc đời đáng quý trọng, đó là cao vọng của tôi. Tôi tự hào là một người thực tế, vì thế không chờ đợi mình hoàn hảo hay chí thiện. Nhưng khi lỡ làm điều gì bậy, tôi liền thấy bất mãn và tự chế giễu chính mình, và thường tự hứa phải dứt khoát không tái phạm điều ấy nữa. Nhưng trong thâm tâm tôi thường thất vọng bởi vì có vô khối chuyện bậy mà người ta có thể phạm và vì thế tôi vẫn thường thấy ngạc nhiên.

Giờ đây tôi phải bán cho mình cái ý tưởng trở thành kẻ móc ngoặc. Muốn thành một người khả kính, biết trọng danh dự bởi vì khi nói sự thật tôi cảm thấy bình yên hơn là khi nói dối. Khi mình vô tội, sẽ cảm thấy thoải mái hơn là khi có tội. Tôi đã nghĩ ra rồi. Đó là một ước muốn có tính thực dụng chứ không hề lãng mạn. Nếu như thấy làm kề nói dối hay trộm cắp mà dễ chịu hơn, có lẽ tôi đã làm thế. Và do đó tôi đã khoan dung hơn với nhưng ai đã hành động như vậy. Đó là cái nghiệp của họ, chứ không hẳn là một chọn lựa đạo đức. Đức lí không có liên quan gì ở đây Nhưng tôi không thực sự tin hẳn vào điều đó.

Trong cốt tuỷ, tôi vẫn tin vào thiện ác như là những giá trị đạo đức. Và nếu như cần phải nói sự thật, tôi vẫn luôn muốn ganh đua với người khác. Do đó, muốn là một người tốt hơn đáng trọng hơn. Tôi cảm thấy thoả mãn khi mình không tham lam tiền bạc trong lúc bao nhiêu người khác sẵn dàng hạ mình để có. Khinh thường hư danh, trung thực với phu nữ, tự chọn làm một kẻ vô tội. Tôi hài lòng không hoài nghi về động cơ hành động nơi người khác, và trong hầu hết mọi việc tôi tin họ. Sự thật là tôi chưa bao giờ tin vào chính mình. Sống có danh dự là một điều, sống liều lĩnh lại là một điều khác.

Nói tóm lại là chẳng thà chấp nhận bị lừa hơn là lừa người khác, thất vọng hơn là gây thất vọng cho người, tôi sẵn lỏng chấp nhận xoay xở khi nào tôi chưa trở thành một kẻ gian hùng, cơ hội. Chẳng thà bị nguỵ tạo, bị lạm dụng chứ nhất quyết không làm một nghệ sĩ trá nguỵ.

Và hiểu rằng đây là một thứ áo giáp mà tôi giấu mình, rằng nó không thực sự đáng ngưỡng mộ. Thế giới không thể gây tổn thương cho tôi nếu không thể làm cho tôi thấy mình phạm tôi. Nếu tôi nghĩ tốt về mình thì người khác có nghĩ xấu về tôi, cũng đâu thành vấn đề? Tất nhiên không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Bộ áo giáp có những kẽ hở. Và qua năm tháng, tôi đã phạm một số sơ suất. Và tuy thế - tuy thế tôi cảm thấy ngay cả điều này, ra vẻ chính trực một cách tự mãn, éo le thay, lại là sự xảo trá ở cấp thấp nhất! Rằng tính đạo đức của tôi đặt nền móng trên một tảng đá lạnh lùng. Rằng đơn giản chỉ vì không có cái gì trong cuộc đời khiến tôi khao khát đến độ nó có khả nãng làm hư hỏng tôi. Điều duy nhất mà tôi muốn làm là sáng tạo một tuyệt tác nghệ thuật. Không phải vì danh tiếng, vì tiền bạc hay vì quyền lực, hay tôi nghĩ như thế. Hoàn toàn chỉ vì lợi ích cho nhân loại. A, tôi nhở có lần vào thuở thiếu niên, hoang mang với mặc cảm tội lỗi và ý nghĩ về sự bất xứng của bản thân mình, tuyệt vọng đến buồn nôn trước hiện sinh phi lý, tôi chạy trốn thực tại bằng cách đắm mình vào bộ tiểu thuyết đồ sộ "Anh em nhà Karamarov"của Dostoevsky. Quyển sách đó đã làm thay đổi đời tôi. Cho tôi sức mạnh tinh thần cho tôi thấy được vẻ đẹp dễ tổn thương nơi mọi con người dù, bên ngoài họ có thể tầm thường ti tiện đến đâu. Và luôn nhớ cái ngày cuối cùng tôi buông quyển sách ra, trả nó lại cho thư viện của trường rồi đi ra trong ánh nắng vàng chanh của một chiều thu nhẹ mơn man aa thịt. Lòng tôi lâng lâng một niềm vui thanh thoát như vừa nhận được một thiên khải.

Và thế là tôi chỉ mong ước viết được một quyển sách có khả năng làm cho người khác cảm nhận được điều mà ngày đó mình cảm nhận. Với tôi, đó là sự thi triển quyền năng tối hậu và thuần khiết nhất. Và thế là khi quyển tiểu thuyết được xuất bản, quyển sách mà tôi đã mất cả năm năm mới viết ra, mà tôi đã chịu bao đớn đau dằn vặt để xuất bản mà không có sự thoả hiệp hay nhượng bộ nào về nghệ thuật, thì bài điểm sách đầu tiên mà tôi đọc được lại gọi đó là một quyển sách bẩn thỉu, suy đồi một quyển sách lẽ ra không bao giờ nên viết và một khi được viết rồi thì cũng đừng bao giờ đem in ấn, phát hành.

Quyển sách đem lại cho tôi rất ít tiền bạc. Nhưng sau đó nó nhận được nhiều bài tán dương. Nhiều nhà phê bình nhất trí rằng tôi đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật thực sự và quả thực, trong một chừng mực nào đó, tôi đã đong đầy được tham vọng của mình. Vài người còn viết thư rằng tôi có thể viết lời đề tặng quyển sách của mình cho Dostoevsky tôi thấy rằng niềm an ủi từ những bức thư này không đền bù được cảm thức về sự bác bỏ mà thất bại thương mại của quyển sách đem lại cho tôi.

Tôi nảy sinh ý tưởng khác về một kiệt tác thực sự, một quyển tiểu thuyết "Tội ác và trừng phạt" của tôi. Nhưng nhà xuất bản không chịu ứng tiền trước cho tôi. Không có nơi nào chịu. Tôi đành gác bút. Nợ nần chồng chất, dồn lên thấy phát ngợp. Gia đình tôi bị bủa vây trong cùng khổ. Con cái tôi không có những thứ mà những đứa tre khác có. Vợ tôi phải chịu thua chị kém em, chẳng có được niềm vui đua đòi, mua sắm. Tôi phải đi đến Vegas. Và thế là tôi không thể viết. Bây giờ, chuyện đã quá rõ. Để trở thành một nghệ sĩ và người tốt như mong muốn, tôi cần phải kiếm chút đỉnh tiền hối lộ một thời gian để thoát khỏi cơn ngặt nghèo trước mắt và tháo gỡ bớt những vttớng mắc đang trói tay bậc anh tài. Than ôi? Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt, anh hùng khi gấp cũng khoanh tay. Mong các bạn vô vàn thông cảm cho kẻ sĩ cuối cùng này của nước Mỹ, cái xứ sở rất ư thực dụng và sùng bái tiền bạc, vật chất này! Không biết xứ sở của các bạn có giống vậy chăng? Nếu trên mặt đất này có xứ xở nào mà người ta chỉ sống với những giá trị tinh thần thuần tuý, khinh thường của cải thế gian thì tôi mong ước biết bao, sau một giấc ngủ, thức dậy thấy mình trở thành công dân của cái xứ sở trong mơ đó!

Thế nhưng Frank Alcore cũng còn phải mất đến sáu tháng sau mới đốn ngã tôi được. Mà cũng còn phải nhờ đến vận may nữa cơ đấy! Tôi bị "dính chấu" bởi Frank vì anh ta là một tay chơi thiện nghệ. Khi anh ta mua món quà cho vợ, luôn luôn là có vật gì đó anh ta có thể cầm cố nơi tiệm cầm đồ nếu như anh ta hết tiền mặt. Và điều tôi thích là cách anh sử dụng tài khoản kiểm soát của mình.

Vào những ngày thứ bảy, Frank thường ra ngoài, dẫn gia đình đi mua sắm. Tất cả cấc thương gia láng giềng đều biết anh và họ đổi tiền mặt cho các tấm séc của anh.

Nơi cửa hàng thịt, anh sẽ mua những phần thịt bò hay thịt heo ngon nhất, tốn mất khoảng bốn mươi đô-la. Anh sẽ đưa cho người bán thịt tờ séc một trăm đô-la và lấy lại sáu mươi đô-la tiền thối. Chuyện tương tự cũng xảy ra ở cửa hàng rau quả và cả ở hàng rượu. Đến trưa ngày thứ bảy, anh ta sẽ có khoảng hai trăm đô-la tiền thối lại từ việc mua sắm và sẽ dùng số tiền đó để đánh cá các độ bóng đá, bóng rổ, bóng chày. Nếu ăn, thì sáng sớm thứ hai, anh đem tiền đến ngân hàng để cho vào tài khoản của mình.

Nếu thua, anh để cho các tấm séc bị trả lại. Rồi trong tuần anh sẽ xoay sở những khoản tiền lót tay từ các anh tân binh muốn đi vào chương trình sáu tháng để trả cho các tờ séc kia.

Frank thường rủ tôi đến dự những trận đấu bóng bàn đêm và anh bao hết mọi khoản kể cả bánh hot dogs.

Anh ta có bản chất hào phóng tự nhiên và khi tôi giành trả tiền, anh đẩy bàn tay tôi qua một bên và nói đại ý là: "Những người lương thiện làm sao có đủ tiền để ghiền thể thao". Tôi vẫn luôn thấy thoải mái vui vẻ với anh, và trong công việc. Trong giờ ăn trưa chúng tôi chơi bài giải trí và tôi thường thắng được anh năm, bảy đô, không phải vì tôi chơi hay hơn.

Mọi người đều tìm được lí do khoan miễn cho sự vấp ngã về đức hạnh của mình. Sự thật là bạn bắt đầu vấp ngã, khi bạn đã "dọn mình để rước lấy vấp ngã".

Một buổi sáng nọ tôi đến sở làm thì đại sảnh bên ngoài văn phòng của tôi đông nghịt những chàng trai đến tòng quân vào chương trình sáu tháng. Thực tế là cả kho vũ khí đều đầy ắp người. Tất cả các đơn vị đều bận rộn, suốt cả tám tầng nhà, trong việc ghi danh đầu quân.

Người khách đầu tiên của tôi là một ông già nhỏ thó mang theo một cậu thanh niên độ hai mươi mốt tuổi để ghi danh đầu quân. Anh ta đến ghi vào danh sách của tôi.

- Rất tiếc, chúng tôi sẽ chỉ gọi anh sớm nhất là sáu tháng sau.

- tôi nói.

Ông già có tôi mắt xanh với nhãn lực rất có thần toát ra uy quyền đầy tự tin.

- Tốt hơn anh nên hội ý với thượng cấp của anh, - ông ta nói.

Vào lúc đó tôi thấy ông chủ tôi, thiếu tá Quân chính quy, cuống quít ra dấu cho tôi qua ngăn cửa kính. Tôi đứng lên và đi vào văn phòng của ông. Tay thiếu tá này đã từng tham dự thế chiến 2 rồi chiến tranh Triều Tiên, với đủ thứ huân, huy chương đầy trên ngực. Thế nhưng giờ đây ông ta đang tháo mồ hôi hột và rất bồn chồn.

- Thưa thiếu tá, - tôi nói - Lão già kia bảo tôi nên nói chuyện với thiếu tá. Lão ấy muốn con lão được ghi tên trước mọi người vào danh sách. Tôi bảo lão ta rằng tôi không làm thế được.

Thiếu tá gắt om lên:

- Hãy cho lão ta cái gì lão muốn. Lão ấy là một đại biểu Quốc hội đấy.

- Thế còn danh sách đã lập rồi thì sao? - tôi hỏi.

- Dẹp mẹ cái danh sách của anh đi, - lão thiếu tá gào lên.

Tôi quay về bàn giấy của mình nơi vị đại biểu quốc hội và kẻ được ông bảo hộ đang ngồi. Tôi bắt đầu thực hiện các mẫu đăng ký nhập ngũ. Bây giờ tôi biết được tên chú nhóc. Hắn ta đáng giá cả hàng trăm triệu đô-la đấy, trong một ngày không xa. Gia đình hắn là một trong những huyền thoại về thành công vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Và giờ đây hắn lọt vào văn phòng của tôi, đăng ký vào chương trình sáu tháng để tránh phải thi hành hai năm "quân dịch tích cực".

Vị đại biểu xử sự rất hoàn hảo. Ông ta không biểu thị uy quyền với tôi, không làm cho tôi nghĩ rằng, quyền lực của ông ta khiến tôi làm sai lệch luật lệ. Ông ta nói chuyện điềm đạm, hữu nghị, nhắm đúng tâm để buông tên. Người ta phải phục cách ông ta "xử sự" với tôi. Ông ta cố gắng làm cho tôi cảm thấy tôi đang làm ơn cho ông và nêu ra rằng nếu có điều gì ông có thể làm giúp, tôi cứ việc gọi đến văn phòng của ông. Chú nhóc vẫn cứ câm như thóc trừ khi phải khai khẩu để trả lời những câu hỏi khi tôi đánh máy vào mẫu đăng ký đầu quân của cậu ta.

Nhưng tôi hơi cảm thấy "quê độ" mà không hiểu tại sao. Tôi không phản đối về phương diện đạo đức, việc sử dụng quyền lực, ngay cả việc lạm dụng nó. Chỉ có điều họ đã lướt qua đầu tôi mà tôi chẳng thể làm gì được nên mới thấy buồn trong "cái" bụng! Còn cái thằng nhóc kia, tại sao hắn không thể thi hành nghĩa vụ quân sự trọn hai năm để góp phần bảo vệ cái xứ sở đã từng và vẫn còn ưu đãi cho gia đình hắn đến như thế?

Thế nên tôi bèn kín đáo thi thố một "chiêu" nhỏ mà họ không thể biết được. Tôi khuyên chú nhóc vào ngành M.O.S (Military Occupational Specialty), một chuyên ngành của quân đội mà hắn sẽ được huấn luyện.

Tôi khuyên cậu ta đăng ký vào một trong những chuyên ngành điện tử của đơn vị. Thật ra tôi tin chắc rằng thằng nhóc này sẽ là một trong những chàng lính dự bị đầu tiên được gọi vào hàng ngũ chiến đấu một khi sơn hà nguy biến. Đó là một cú bắn tầm xa nhưng đâu có ai nhận ra.

Viên thiếu tá bước ra kêu thằng nhóc vào, bảo hắn lặp lại lời thề tận trung báo quốc của người chiến sĩ. Rồi mọi người bắt tay nhau. Thằng nhóc cố giữ tự chủ cho đến khi hắn và lão đại biểu quốc hội bắt đầu bước ra khỏi văn phòng tôi. Lúc đó thằng nhóc nở nụ cười chúm chím với lão kia.

Đó là nụ cười của đứa bé khi thực hiện một trò rắn mắt hay ma mãnh và qua mặt được người lớn, một nụ cười khó ưa trên khuôn mặt của một kẻ hậu sinh khả ố.

Nhất là trong tình huống này. Tôi hiểu rằng nụ cười đó thực ra không làm hắn trở thành một kẻ xấu xa, nhưng nụ cười đó đã xá tội cho tôi về việc đã đưa hắn vào cái bẫy chuyên ngành quân sự.

Frank Alcore đã nhìn toàn bộ sự việc từ bàn giấy của anh ta, phía bên kia của căn phòng. Anh ta không để phí chút thời gian nào.

- Bao giờ cậu mới thôi làm một thằng thủ dâm tinh thần? - Frank hỏi. - Lão đại biểu ấy móc mất một trăm đô-la từ túi của bạn. Và chỉ có Trời biết lão hưởng được bao nhiêu trong vụ áp phe lính kiểng này. Tầm cỡ lão ít ra cũng phải được đấm mõm dăm ba ngàn đô. Thằng nhãi đó mà lọt vào tay tớ, ít ra là tớ cũng bóp nặn được năm Con ong mật. Để vụt mất một con bò sữa quá béo bở thật phí của giời?

Anh nổi giận một cách tích cực! Khiến tôi phì cười.

- A, cậu không chịu nhìn sự việc một cách nghiêm chỉnh đúng mức, - Frank nói. - Cậu có thể vồ được những món tiền khơ khớ, rất khoẻ mà cũng rất an toàn, để giải quyết bao nhiêu chuyện nhức đầu cho cậu để cho vợ con cậu mặt tươi lên một tí, nếu cậu chịu nghe lời tớ.

- Không, tôi dứt khoát không, - tôi nói.

- Thôi được, thôi được, - Frank nói. - Nhưng cậu làm ơn làm phước giúp cho mình nhé. Mình cần một khe trống. Cậu có thấy cái thằng nhóc tóc đỏ ở bàn mình không? Nó sẽ chi năm trăm. Nó đang chờ giấy gọi thi hành nghĩa vụ quân sự bất cứ ngày nào. Một khi đã có giấy báo, hắn không còn có thể đăng ký vào chương trình sáu tháng được nữa. Như vậy là trái quy định. Vì thế mình phải đăng ký cho cu cậu ngay hôm nay. Và mình không còn khe nào trong các đơn vị của mình nữa. Mình muốn cậu ghi tên hắn vào các đơn vị của cậu và mình sẽ cưa đôi khoản này với cậu. Mong cậu giúp cho một lần này thôi!

Anh nài nỉ với vẻ tuyệt vọng vì thế tôi động lòng và nói:

- Thôi được, gửi thằng nhóc đến cho tôi. Nhưng tiền thì anh cứ giữ hết. Tôi không muốn lấy.

Frank gật đầu:

- Cám ơn. Tôi sẽ giữ luôn phần của cậu. Khi nào cậu đổi ý cứ thẳng thắn cho tôi biết.

Đêm hôm đó, khi tôi về nhà, Vallie cho tôi ăn món súp và tôi chơi đùa với lũ trẻ trước khi chúng đi ngủ. Sau đó Vallie bảo nàng cần một trăm đô-la để mua quần áo, giày dép cho lũ nhóc vào dịp lễ Phục Sinh. Nàng chẳng nói gì về chuyện sắm sửa cho nàng, mặc dầu cũng giống như mọi tín đồ Công giáo việc sắm một bộ quần áo mới trong dịp lễ Phục Sinh đối với nàng cũng hầu như là một nghĩa vụ tôn giáo.

Sáng hôm sau, tôi vào văn phòng và nói với Frank:

- Nghe đây, tôi đã đổi ý. Tôi lấy nửa của tôi.

Frank vỗ vai tôi:

- Cậu không còn trẻ con nữa. Thế mới phải chứ, - anh nói.

Anh khoèo tôi vào phòng vệ sinh nam và rút ví ra, đếm năm tờ năm mươi đô-la trao tay tôi.

- Mình sẽ có khách hàng khác trước cuối tuần.

Tôi không trả lời anh.

Đó là lần duy nhất trong đời tôi mà tôi đã làm một chuyện thực sự không tử tế. Và tôi đã không cảm thấy có gì ghê gớm cho lắm. Và ngạc nhiên thay tôi lại thực sự cảm thấy hứng thú. Tôi vui như sáo sậu, và trên đường về nhà tôi mua quà cho Vallie và đám nhóc. Khi đến nhà và đưa cho Vallie một trăm đô-la để mua sắm quần áo mới cho lũ trẻ, tôi có thể thấy nàng có về nhẹ người vì sẽ không phải xin tiền bố mẹ. Đêm đó tôi ngủ ngon giấc như chưa từng có trong bao năm rồi.

Sau đó tôi độc lập tác chiến, không cần dựa vào Frank nữa. Toàn bộ nhân cách của tôi bắt đầu tay đổi.

Thật là một ám ảnh thường xuyên khi làm kẻ chịu móc ngoặc. Chuyện kiếm chác bất chính đó đã lấy đi những gì tốt đẹp nhất nơi tôi. Tôi bỏ cả việc viết văn; trong thực tế tôi đã mất hứng thú đối với quyển sách mới mà tôi đang sáng tác. Lần đầu tiên trong đời, tôi tập trung vào công việc chính quyền.

Tôi bắt đầu nghiên cứu những bộ sách dày cộm về các luật lệ và quy định trong quân đội, tìm kiếm tất cả những kẽ hở pháp lí qua đó những ai đang phục vụ dưới cờ có thể thoát khỏi quân đội. Một trong những điều đầu tiên tôi học được đó là những tiêu chuẩn giám định y khoa để phân loại sức khoẻ cho thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự được hạ thấp hay nâng cao một cách khá tuỳ tiện. Một chàng trai trong đợt khám tháng này có thể được coi là thiếu sức khoẻ để phục vụ quân đội nhưng sáu tháng sau lại được xếp hạng "chiến đấu vì sức khoẻ tốt".

Tất cả tuỳ thuộc vào chỉ tiêu tuyển quân do Washington đưa ra. Và có thể còn tuỳ thuộc cả vào sự phân bổ ngân sách. Có những điều khoản quy định rằng những ai đã từng qua trị liệu sốc vì rối loạn tinh thần thì không thể được tuyển mộ vào quân đội. Nhưng kẻ đồng tính ái cũng vậy. Hay là nếu anh ta đang làm công việc với chuyên môn kỹ thuật cao, nếu cho làm lính thì quá phí phạm nhân tài.

Rồi tôi nghiên cứu các khách hàng của tôi. Họ ở trong độ tuổi từ mười tám tới hai mươi lăm và những "món nóng sốt" thường ở độ tuổi hăm hai, hăm ba, vừa tốt nghiệp cao đẳng hay đại học và kinh hoàng với ý nghĩ phí phạm hai năm tuổi trẻ trong quân ngũ. Họ cuống cuồng đi đăng ký vào quân dự bị và chỉ phải thi hành sáu tháng nghĩa vụ tích cực.

Những kẻ này đều có tiền hoặc xuất thân từ những gia đình giàu có hoặc ít ra cũng khá giả. Họ đều được đào tạo để đi vào những ngành nghề chuyên môn. Một ngày nào đó, họ sẽ là giai cấp trung lưu lớp trên, nhưng kẻ giàu sang, những người lãnh đạo trong những lãnh vực khác nhau của đời sống Mỹ. Trong thời chiến tranh, họ sẽ tìm cách để vào trường Sinh viên sĩ quan. Bây giờ họ đang mong muốn được vào làm thợ nướng bánh hay sửa quần áo hay bảo trì cơ khí ô tô trong quân đội. Một người trong bọn họ ở tuổi hai mươi lăm đã có địa vị nơi Thị trường chứng khoán New York; một người khác là chuyên gia ngành bảo hiểm. Vào thời đó, thị trường chứng khoán Wall Street đang sôi động với những cổ phiếu mới vừa được phát hành đã tăng vọt lên mười điểm và đám này phất lên nhanh chóng. Tiền bạc luân lưu thông suốt. Họ trả tiền tôi và tôi trả cho anh Artie số tiền mấy ngàn đô-la mà tôi nợ anh. Anh ngạc nhiên và hơi tò mò. Tôi bảo anh là tôi gặp hên trong bài bạc. Tôi quá xấu hổ để nói sự thật cho anh biết và đó là một trong những lần hiếm hoi mà tôi nói dối anh.

Frank trở thành nhà tư vấn của tôi:

- Hãy trông chừng mấy thằng nhãi ranh này, - anh nói - Chúng là một bọn chạy chọt xoay sở. Phải tỏ ra cứng cựa để chúng nể nang cậu.

Tôi nhún vai. Tôi không hiểu những phân biệt đạo đức tế nhị của anh.

- Chúng đều la một lũ khóc nhè, - Frank nói. - Tại sao chúng không thể đi quân dịch trong hai năm để phục vụ tổ quốc thay vì chạy chọt để vào cái trò nhảm sáu tháng này? Cậu và tớ, bọn mình đều đã tham chiến, đã chiến đấu vì xứ sở và bọn mình chẳng có được gì vẫn nghèo rớt năm bảy hạt mồng tơi. Còn bọn đó, xứ sở này đã ưu đãi chúng rất nhiều. Gia đình chúng giàu sang, quyền thế. Chúng được những chỗ làm ngon lành, tương lai xán lạn. Thế mà, cái lũ khốn đó còn trốn tránh nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Thế có phải là bất công hay không?

Tôi ngạc nhiên về cơn giận của anh, bởi vì thường thì anh rất dễ tính, cởi mở, không nói tiếng nặng với ai.

Và tôi biết lòng ái quốc của anh là thành thật, chứ không phải lên gân hay giả tạo.

Trong những tháng tiếp theo, tôi chẳng mấy khó khăn để tạo ra số khách hàng cho mình. Tôi lập hai danh sách: Một là danh sách phân công chờ chính thức; còn cái kia là danh sách riêng của tôi về những kẻ lo lót. Tôi cẩn thận không quá tham lam. Và tôi kiếm thêm ngàn đô-la mỗi tháng một cách trôi chảy êm xuôi trót lọt. Trong thực tế là các khách hàng của tôi phải tranh nhau, phải đấu thầu, và tôi nâng giá lên ba trăm đô-la mỗi cậu em.

Nhưng mặt khác tôi cũng "chiếu cố" cho một số em trong "diện chính sách": các em nghèo mà ngoan, các chàng văn, thi, nhạc sĩ, nói chung là giới văn nghệ sĩ. Đó là phần thuế nộp cho "giáo hội văn nghệ" mà tôi tự định ra cho mình, bởi vì từ lâu tôi đã ngưng viết lách, không còn cảm thấy sự thúc đẩy phải viết nữa, đồng thời lại bức rứt thấy mình có tội khi trốn chạy nghiệp dĩ. Trong thực tế, tôi đang đùn cao tội lỗi lên cũng nhanh như đang đùn cao tiền bạc. Và cố cứu chuộc tội lỗi của mình theo cách cổ điển của người Mỹ, đó là "hành thiện". Dầu tôi không biết, nhưng tôi đã tạo ra được nhiều bạn bè tốt trong các đơn vị mà về sau chính họ sẽ cứu mạng cho tôi.

Frank cằn nhằn tôi về việc thiếu bản năng kinh doanh. Anh cho rằng tôi quá hiền lành, rằng tôi cần phải cứng rắn hơn, nếu không mọi người sẽ lợi dụng tôi, sẽ lấn lướt tôi. Nhưng anh lầm. Tôi không quá hiền lành dễ thương như anh nghĩ, hay như bao người khác vẫn nghĩ.

Bởi vì tôi đang nhìn về phía trước. Chỉ cần huy động chút thông minh tối thiểu, tôi đủ biết rằng chuyện làm ăn này thế nào cũng có ngày "bể mánh". Có quá nhiều người dính líu vào. Hàng trăm công chức dân sự làm công việc giống tôi đang ăn hối lộ. Hàng ngàn lính dự bị đang đăng ký vào chương trình sáu tháng chỉ sau khi trả một khoản phí đầu quân. Đó là một điều vẫn còn chọc ngứa tôi, khi thấy thiên hạ hăng hái tranh nhau chi tiền để được vào làm lính!

Một ngày nọ, có ông kia khoảng độ ngũ tuần đến với con trai. Ông ta là một doanh gia giàu có và cậu con là một luật sư tập sự. Ông bố ôm theo một bó thư giới thiệu, gởi gắm, của các chính trị gia. Ông ta nói chuyện với ông thiếu tá, rồi ông ta trở lại vào cái đêm họp mặt các đơn vị và gặp vị đại tá quân trừ bị. Họ rất lịch sự với ông ta nhưng chỉ ông ta qua tôi với chỉ tiêu thông thường.

Thế là ông bố dẫn cậu con đến bàn giấy của tôi để ghi tên chú nhóc vào danh sách chờ chính thức. Tên ông ta là Hiller và tên cậu con là Jeremy.

Ông Hiller chuyên doanh về xe hơi, ông có một tổng đại lý xe Cadillac. Tôi bảo cậu con điền vào bảng phỏng vấn thông thường và chúng tôi tán gẫu với nhau.

Cậu con không nói gì, trông cậu có vẻ bối rối. Ông Hiller nói:

- Cháu nó phải đợi bao lâu trên danh sách này!

Tôi dựa ngửa vào lưng ghế và buông ra câu trả lời thường lệ:

- Sáu tháng!

- Cháu sẽ được gọi nhập ngũ trước thời hạn đó, - ông Hiller nói. - Tôi rất trân trọng nếu như anh có thể làm được gì để giúp cháu.

Tôi đáp lửng lơ:

- Tôi chỉ là một thư ký văn thư. Những người duy nhất có thể giúp ông là những sĩ quan mà ông đã nói chuyện với họ rồi đó. Hay là ông có thể thử bàn với ông đại biểu quốc hội xem.

Ông ta nhìn thật lâu, xoáy sâu vào tôi rồi lấy ra danh thiếp đưa cho tôi:

- Nếu có khi nào anh mua xe hơi, hãy đến gặp tôi. Tôi sẽ tính giá vốn cho anh.

Tôi nhìn tấm thiếp của ông và cười:

- Ngày nào tôi mua được xe Cadillac thì chắc là tôi không cần phải làm việc ở đây nữa đâu.

Ông Hiller trao đến tôi một nụ cười hữu hảo.

- Tôi cũng áng chừng là như thế, - ông nói. - Nhưng nếu anh có thể giúp tôi, thì thật quý hoá quá.

Ngày hôm sau tôi nhận được cú phôn của ông Hiller.

Ông ta có sự vồn vã dễ làm thân của một người chào hàng kiêm nghệ sĩ. Ông ta hỏi thăm sức khoẻ của tôi, hỏi tôi có vui không và nhận xét rằng hôm nay thật là đẹp trời Và rồi ông ta nói ông ta rất có ấn tượng với sự lịch thiệp của tôi, hiếm thấy nơi một viên chức chính quyền khi tiếp xúc với công chúng. Rất ấn tượng và đầy lòng biết ơn nên khi ông nghe nói có một chiếc Dodge, chạy mới một năm, đem chào bán ông đã mua nó và sẵn lòng để lại cho tôi với giá vốn. Tôi có vui lòng gặp ông dùng bữa trưa và bàn chuyện đó?

Tôi nói với ông Hiller rằng tôi không thể gặp ông để cùng đi ăn trưa nhưng tôi sẽ ghé phòng trưng bày xe của ông trên đường về nhà sau giờ làm việc. Ông ta ở Roslyn, Long Island, không hơn nửa giờ chạy xe từ khu chung cư của tôi ở Bronx. Và trời vẫn còn sáng khi tôi đến đó. Tôi đậu xe và đi loanh quanh nhìn các chiếc xe Cadillac và tôi bị tác động mạnh bởi thói ham muốn của giai cấp trung lưu. Nhưng chiếc Cadillac với kiểu dáng đẹp thuôn lài, bóng mượt và vững chãi; chiếc thì sơn màu vàng sẫm, chiếc khác màu trắng kem, màu xanh đậm hay màu đỏ như lửa. Tôi nhìn vào bên trong và thấy phần trang trí lộng lẫy với những chiếc ghế ngồi sang trọng. Tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến xe cộ, nhưng vào lúc ấy, tôi thèm thuồng một chiếc Cadillac vô cùng.

Tôi đi về dãy nhà xây tường gạch và đi qua một chiểc Dodge màu xanh trứng chim két. Một chiếc xe rất xinh xắn mà có lẽ tôi đã thích ngay nếu như trước đó tôi không đi nghía các em Cadillac đẹp mê hồn kia. Tôi nhìn vào trong xe. Ghế nệm cũng tiện nghi, êm ái đấy nhưng không sang mấy. Quá xoàng!

Nói tóm lại là, tôi đang phản ứng theo phong cách của một anh mới phất, giàu xổi nhờ của hoạnh tài. Có điều gì đó thật buồn cười đã xảy ra trong tôi từ mấy tháng qua. Lúc lấy món hối lộ đầu tiên, tôi rất áy náy, sượng sùng. Tôi đã nghĩ tôi sẽ bớt tập trung về mình; tôi vẫn luôn quá tự hào là mình chẳng bao giờ gian dối. Vậy rồi tại sao tôi lại quá vui với vai trò kẻ ản hối lộ lẻ tẻ, kẻ xoay sở linh tinh?

Sự thật là tôi trở nên một người hạnh phúc bởi vì tôi đã trở nên một kẻ phản bội đối với xã hội. Tôi thích lấy tiền để phản bội lại niềm tin của mình như một viên chức chính quyền. Thích xoay xở với đám nhóc đến gặp tôi. Tự che giấu, giả vờ, lừa phỉnh với sự thích thú ranh ma. Nhiều đêm nằm thao thức, nghĩ ra những mưu thuật trá nguỵ mới, tôi cũng ngạc nhiên về sự thay đổi ấy nơi mình. Và hình dung ra là tôi đang báo thù phục hận cho việc mình đã bị khước từ việc trở thành một nghệ sĩ, rằng đang được bù trừ cho cái di sản vô giá trị của tôi như một đứa trẻ mồ côi. Cho sự kiện mình chẳng làm nên công nghiệp gì để lưu danh với đời. Phải chăng vì tài bất cập chí, lực bất tòng tâm, hay chỉ vì sinh bất phùng thời, đầu thai nhầm thế kỷ!

Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng đã tìm được cái gì đó mà mình có thể làm tốt; cuối cùng đã thành công như một người lo được cho vợ cho con. Và cũng khá kỳ lạ, tôi đã trở nên một người chồng, người cha tốt hơn. Tôi hướng dẫn cho các con làm bài tập ở nhà. Và bây giờ vì đã thôi viết lách, tôi có nhiều thời giờ dành cho Vallie hơn. Đi xem xi-nê, xem kịch, có thể thuê một người giữ trẻ và trả tiền gia nhập các câu lạc bộ. Mua quà tặng nàng. Tôi bảo Vallie rằng tôi kiếm được thêm nhờ cộng tác với vài tạp chí. Thực ra thì năm khi mười hoạ tôi mới đăng được một bài với tiền nhuận bút rất tượng trưng nhưng cứ nói phóng lên.

Tôi là một tên trộm cắp hạnh phúc, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, tôi vẫn biết rằng sẽ có một ngày phải tính sổ lại Thế là tôi từ bỏ mọi ý tưởng mua chiếc Cadillac và thu xếp việc mua chiếc Dodge màu trứng két.

Ông Hiller có một văn phòng rộng với những bức hình chụp vợ con trên bàn giấy. Không có cô thư kí nào và tôi hi vọng rằng đó chỉ vì ông ta đủ khôn ngoan, đã tìm cớ để cô ta đi chỗ khác để cô ta không thấy tôi. Tôi thích bàn việc với những kẻ khôn ngoan. Tôi rất ngại những kẻ ngu.

Ông Hiller bảo tôi ngồi xuống và rút một điếu xì gà và hỏi han sức khoẻ của tôi. Rồi ông đi vào vấn đề:

- Anh đã thấy chiếc Dodge màu xanh ấy chưa? Xe đẹp đấy chứ? Kiểu dáng hoàn hảo. Tôi có thể để anh mua nó. Hiện anh đang lái chiếc gì vậy?

- Một chiếc Ford đời 1950, - tôi nói.

- Tôi để anh sử dụng nó như một trao đổi bù thêm tiền, - ông Hiller nói. - Anh có thể lấy chiếc Dodge với năm trăm đô-la tiền mặt và chiếc Ford của anh.

Tôi giữ vẻ mặt thẳng thắn. Rút năm trăm đô-la từ ví ra, tôi nói:

- Tôi nhất trí với đề nghị của ông.

Ông Hiller nhìn, hơi có vẻ ngạc nhiên:

- Anh chắc là giúp được con tôi, anh hiểu chứ.

Ông thực sự hơi lo là tôi không nắm bắt được ý ông. Lại một lần nữa tôi ngạc nhiên, thích thú biết bao với những vụ giao dịch làm ăn nho nhỏ này. Tôi biết mình có thể bắt lão nhượng bộ. Rằng có thể lấy chiếc Dodge chì bằng cách đổi chiếc Ford cũ mèm của mình. Thực sự trong cuộc đổi các này tôi được lợi cả ngàn đô-la ngay dù có bù thêm cho lão năm trăm. Nhưng tôi thấy không nên mặc cả riết róng quá, kiểu vắt chày ra nước, khó lưu lại được chút tình cảm. Tôi vẫn còn chút máu anh hùng lục lâm, nghĩa khí giang hồ kiểu Robin Hood trong người.

Tôi vẫn nghĩ về mình như một kẻ chỉ lấy tiền từ người giàu vì đã làm được điều gì đáng với đồng tiền của họ.

Nhưng điều làm tôi thích thú nhất là nét lo lắng trên khuôn mặt ông ta, sợ tôi không nắm bắt được cái ý rằng đây là một vụ hối lộ chứ không phải chuyện mua bán bình thường. Vì thế tôi nói rất thản nhiên không cười, rất thực tiễn:

- Con trai ông sẽ được ghi vào danh sách chương trình sáu tháng, trong vòng tuần này.

Vẻ nhẹ nhõm và tôn trọng lộ rõ trên mặt ông Hiller.

Ông nói:

- Tối nay chúng tôi sẽ hoàn tất mọi giấy tờ, và tôi sẽ lo biển số lưu thông. Mọi chuyện cứ thế tiến hành.

Ông ta nghiêng người tới trước để bắt tay tôi.

- Tôi đã nghe nói về anh nhiều lắm, - ông nói. - Mọi người đánh giá anh cao.

Tôi hài lòng. Tất nhiên tôi biết ông ta có ý nói gì.

Rằng thì là tôi có được cái "danh thơm tiếng tốt" là một kẻ móc ngoặc lương thiện. Xét cho cùng, đó cũng là một cái gì sáng giá đấy chứ? Một thành tựu đáng tự hào!

Trong khi các loại giấy tờ được đám thư ký thảo ra, ông Hiller tán gẫu với tôi song có chủ ý. Ông cố khám phá xem coi tôi độc lập tác chiến hay nằm trong dây chuyền của đại tá và thiếu tá. Ông ta khôn lanh lắm. Hẳn là do bẩm sinh nhưng cũng có do công việc rèn luyện, tôi đoán thế. Trước tiên ông ta khen tôi thông minh nhạy bén nắm bắt nhanh chóng mọi chuyện. Rồi ông bắt đầu đặt những câu hỏi. Ông e ngại rằng nhị vị sĩ quan có thể nhớ mặt con ông.

- Họ có nhớ mặt cháu nó không? Họ có sẽ hỏi tại sao thằng bé lại nhảy vào danh sách quá nhanh gọn vậy không? - ông Hiller thắc mắc.

Ông điểm đúng huyệt, nhưng tôi hoá giải dễ dàng:

- Tôi có hỏi ông câu nào về chiếc xe Dodge đâu? - Tôi vặn lại.

Ông Hiller mỉm cười thân mật với tôi:

- Tất nhiên rồi, - ông nói. - Anh biết rõ công việc của anh. Nhưng đấy là con tôi. Tôi không muốn thấy nó bị dính vào chuyện lôi thôi do những gì tôi làm.

Tâm trí tôi bắt đầu phiêu du. Tôi đang nghĩ đến Vallie sẽ vui mừng biết bao khi nàng thấy chiếc Dodge màu xanh: nàng thích màu xanh và nàng ghét chiếc xe Ford cà tàng, cũ rích.

Tôi cố gắng buộc mình phải suy nghĩ về câu hỏi của ông Hiller. Tôi nhớ cậu con Jeremy của ông để tóc dài và mặc một bộ comple cắt rất khéo với chiếc áo gì-lê, sơ-mi, cà vạt đúng mốt.

- Ông bảo Jeremy chịu khó cắt tóc ngắn và mặc quần áo thể thao khi tôi gọi cậu ta vào văn phòng, - tôi nói. - Họ sẽ không nhớ cậu ấy.

Ông Hiller có vẻ nghi ngờ:

- Jeremy chắc không thích làm như vậy, - ông nói.

- Vậy thì cậu ta không phải làm thế, - tôi nói. - Tôi không tin vào chuyện bảo người khác làm những gì mà họ thấy không thích. Tôi sẽ lo chuyện đó. - Tôi nói cho xong chuyện vì hơi sốt ruột.

- Thế thì tốt quá, - ông Hiller nói. - Tôi phó thác chuyện đó vào tay anh.

Khi tôi lái chiếc xe mới về nhà, Vallie rất vui sướng và tôi chở nàng với lũ nhóc dạo một tua quanh phố phường.

Chiếc Dodge lướt êm như mơ và chúng tôi bật radio lên. Chiếc Ford cũ của tôi không có radio. Chúng tôi dừng xe, ghé vào quán ăn bánh pizza, uống nước giải khát, bây giờ đối với chúng tôi là chuyện quá thường nhưng là điều trước đây chúng tôi ít khi làm từ khi lập gia đình, vì chúng tôi phải dè xẻn từng xu. Rồi chúng tôi dừng nơi một cửa hàng bánh kẹo, dùng kem soda, mua một con búp bê cho con gái và đồ chơi chiến tranh cho hai cậu con trai. Và tôi mua cho Vallie một hộp chocolate Schraff. Tôi là ông hoàng Aga Khan và như thể tôi vừa tặng cho nàng một viên kim cương lớn bằng viên kim cương Ritz.

Tôi nhớ lại những ngày tôi phải đem cầm cố chiếc máy đánh chữ để cầm cự qua tuần. Nhưng đó là trước khi tôi bỏ đi Las Vegas. Từ lúc ấy thời vận tôi đã đổi thay.

Không còn phải làm cùng lúc hai việc nữa; hai mươi ngàn đô-la cất trong những kẹp bản thảo cũ, để dưới đáy tủ quần áo. Một cuộc làm ăn thịnh vượng có thể tạo nên cả một sản nghiệp cho tôi, trừ phi toàn bộ guồng máy bị tháo tung hoặc một thoả hiệp toàn cầu khiến các siêu cường không cần phải tốn nhiều tiền đến thế cho quân đội nữa.

Lần đầu tiên tôi hiểu được tính toán và công việc của những ông chủ công nghiệp chiến tranh và các ông tướng cảm thấy thế nào. Sự đe doạ của một thế giới ổn định có thể dìm tôi trở lại cảnh cùng khổ. Không phải là tôi mong muốn có một cuộc đại chiến mới nhưng không thể không mỉm cười khi nhận ra rằng tất cả những cái gọi là thái độ tự do của tôi đang hoà tan trong niềm hi vọng rằng Nga với Mỹ sẽ không quá hữu nghị với nhau, ít ra là trong lúc này.

Vallie hơi ngáy nhẹ, điều đó không làm phiền tôi. Nàng phải vất vả với đám nhóc, lo chăm sóc nhà cửa và chăm sóc cho cả tôi nữa. Nhưng thật lạ là tôi luôn thức khuya dầu tôi có mệt mỏi đến đâu. Nàng vẫn luôn ngủ trước tôi. Đôi khi tôi thức dậy viết mấy trang cho quyển tiểu thuyết của mình trong nhà bếp và tự nấu món gì đó để ăn và chỉ quay lại giường lúc ba hay bốn giờ sáng.

Nhưng bây giờ tôi không viết tiểu thuyết nữa, vì vậy tôi không có việc gì để làm. Tôi mơ hồ nghĩ rằng tôi nên bắt đầu viết trở lại. Xét cho cùng, tôi đã có thời giờ và tiền bạc. Nhưng sự thật là tôi thấy đời mình quá hứng khởi, quay cuồng với việc thương lượng và nhận hối lộ và lần đầu tiên có quyền tiêu tiền cho những chuyện điên rồ nho nhỏ.

Nhưng vấn đề lớn là tìm nơi đâu để cất giấu an toàn số tiền mặt của tôi, đề phòng trường hợp bị nghi ngờ, khám xét. Tôi không thể cất ở nhà. Tôi đã nghĩ đến ông anh Artie. Anh có thể gửi vào ngân hàng, trong tài khoản của anh và anh sẽ nhận lời nếu tôi yêu cầu anh làm chuyện đó. Nhưng tôi không thể. Vì anh trung thực một cách gắt gao. Anh sẽ hỏi tôi tiền đâu tôi có và tôi sẽ phải nói rõ cho anh biết. Anh chưa từng bao giờ làm điều gì bất lương để vụ lợi cho mình hay cho vợ con. Anh thực sự liêm chính, đúng mực. Anh sẽ làm cho tôi, nhưng anh sẽ không bao giờ cảm nhận về tôi như trước nữa. Và tôi không thể chịu đựng điều đó. Có những việc bạn không thể làm hoặc không nên làm. Và yêu cầu Artie giữ tiền cho tôi là một trong những việc đó. Đây sẽ không phải là hành động của một người anh em hay một người bạn.

Tất nhiên là, có những người anh em mà bạn sẽ không yêu cầu giữ tiền hộ vì họ sẽ giữ luôn cho bạn do vì quá nhiệt tình, sợ bạn sẽ bị hư hỏng bởi tiền bạc. Tôi nghĩ đến một người khác - Cully. Tôi sẽ hỏi anh ta về cách tốt nhất để cất giấu tiền bạc, khi anh đến đây lần tới. Cully sẽ biết bởi vì đó là ngón sở trường của anh ta. Và tôi phải giải quyết vấn đề. Tôi có linh cảm rằng tiền bạc sắp chảy vào càng lúc càng nhanh hơn.

Tuần sau, tôi đưa Jeremy Hiller vào anh sách quân dự bị mà không gặp trở ngại nào và ông Hiller rất biết ơn đến nỗi ông ân cần mời tôi đến chỗ đại lý của ông để thay bộ vỏ ruột mới cho chiếc Dodge của tôi. Tự nhiên tôi nghĩ đây là do lòng biết ơn và tôi vui vì ông ta là một doanh nhân. Trong lúc tay thợ cơ khí thay bộ săm lốp mới vào chiếc xe tôi, ông Hiller đưa ra một đề nghị mới với tôi.

Ông ta khởi động bằng cách dọn ra vài món khai vị dễ chịu. Với một nụ cười ngưỡng mộ, ông ta khen tôi khôn ngoan, trung thực và tuyệt đối đáng tin cậy. Làm ăn với tôi thật dễ chịu và nếu có khi nào tôi thôi làm cho nhà nước, ông sẽ dành cho tôi một việc làm tốt. Tôi nuốt ngon lành những "món nhắm" quá ư "bắt mồi" kia, bởi trong đời tôi ít được ai khen, quá ít! Ngoại trừ ông anh Artie của tôi và vài tay điểm sách chưa mấy nổi danh. Tôi còn không đoán được cả điều gì sắp xảy ra nữa là.

- Tôi có một người bạn thân đang cần anh giúp vô cùng, - ông Hiller nói. - Ông ấy có cậu con rất cần được đăng ký đầu quân vào chương trình sáu tháng của quân dự bị.

- Chắc là được thôi, - tôi nói. - Gửi cậu ta đến gặp tôi và bảo cậu ta nhắc tên ông.

- Song le, có một vấn đề lớn, - ông Hiller nói. - Cậu ta đã nhận giấy gọi nhập ngũ.

Tôi nhún vai:

- Nếu vậy thì cu cậu hết dịp may rồi. Nói với bố mẹ cậu ta hãy hôn tạm biệt con họ trong hai năm.

Ông Hiller cười:

- Anh có chắc rằng một chàng trai khôn khéo như anh lại không làm được điều gì cả sao? Anh mà cũng chịu bó tay à? Khối tiền đấy. Bố cậu ấy là một nhân vật, rất ư quan trọng.

- Không, tôi chịu. Những quy định của Quân đội rất rõ. Một khi chàng trai nhận được giấy gọi nhập ngũ thì anh ta không còn đăng ký vào chương trình sáu tháng của quân dự bị được nữa. Đám quan chức ở Washington đâu có ngốc nghếch đến thế. Nếu không mọi người ai cũng đợi có gìấy gọi nhập ngũ rồi mới đăng ký vào quân dự bị.

Ông Hiller nói:

- Ông này mong muốn được gặp anh. Ông ta muốn vận dụng mọi khả năng, anh biết tôi muốn nói gì chứ?

- Không còn điểm nào có thể chen vào được. Tôi chịu, không có cách gì giúp ông ấy được.

Lúc đó ông Hiller hơi nghiêng người về phía tôi và nói:

- Anh cứ đến gặp ông ta giùm tôi, - ông nói.

Và tôi hiểu. Tôi chỉ cần đến gặp ông kia thôi, ngay dầu tôi có từ chối, thì ông Hiller cũng là người hùng đối với ông ta. Được rồi, vì bốn bộ săm lốp mới, tôi có thể bỏ nửa giờ để nói chuyện với một ông nhà giàu, dù rằng chuyện sẽ chẳng đến đâu.

- OK, - tôi đáp.

Ông Hiller viết trên một mẩu giấy nhỏ và đưa cho tôi. Tôi nhìn vào. Tên người đó là Eli Hemsi và có số phôn. Eli Hemsi là tên tuổi lớn nhất trong ngành công nghiệp may mặc ở Mỹ, hay gặp rắc rối với công đoàn, có dính líu đến giới tội phạm có tổ chức. Nhưng ông ta cũng là một trong số những nhân vật sáng chói của thành phố. Một người mua các chính trị gia, một trụ cột nâng đỡ những công cuộc từ thiện. Nếu như ông ta quả là cái nhân vật to đùng đó thì hà cớ gì mà sư tử lại phải nhờ đến chuột nhắt (là cái thằng tôi bé tí tẹo này). Tôi đặt câu hỏi đó với ông Hiller.

- Bởi vì ông ấy khôn lắm, - ông Hiller nói. - Ông ta là dân Do Thái Sephardic, những kẻ tinh khôn nhất trong đám Do Thái vốn vẫn được coi là tinh khôn khó ai bì. Ngoài cái gốc Do thái, giống này còn mang các dòng máu Ý, Tây Ban Nha và Arập và sự pha trộn này đã tạo ra họ là những sát thủ ghê hồn ngoài chuyện họ là những kẻ tinh khôn quá cỡ? Thế nên lão Eli Hemsi không muốn để con trai mình thành con tin cho một tay chính trị gia cáo già nào có thể kỳ kèo với ông ta những khoản ân huệ quá lớn. Vậy nên, lão nghĩ đến với anh sẽ được "rẻ, đẹp, bền" hơn. Vả chăng, tôi cũng có hót với lão rằng anh hết ý, rất đáng tin cậy. Chơi bài lật ngửa luôn, tôi có thể nói thẳng với anh rằng hiện nay anh là người duy nhất có thể giúp ông ta. Còn những tay tai to mặt lớn lại rất ngại bước vào lãnh vực quân đội, bởi đó là "miền đất dữ", rất nhạy cảm. Mấy tay chính trị gia ớn lắm, không muốn dây vào.

Tôi nghĩ đến tay đại biểu quốc hội đã đến văn phòng tôi Vậy là lão ấy có bùa "gươm đâm không thủng, đạn bắn đi lệch" hay sao? Hay có lẽ lão đã đến cuối sự nghiệp chính trị rồi nên đếch cần giữ kẽ nữa? Ông Hiller vẫn đang nghía tôi cẩn thận.

- Đừng hiểu lầm tôi, - ông nói. - Tôi cũng gốc Do Thái. Nhưng với dân Do thái Sephardic anh nên rất tiểu tâm nếu không họ sẽ lấn lướt anh. Những kẻ "khôn ăn người" mà! Vậy nên khi anh đến gặp lão ấy, nhớ động não, hết công suất nhé!

Ông tạm ngưng và hỏi tôi, vẻ lo lắng.

- Anh không phải dân Do Thái chứ?

- Tôi cũng không rõ, - tôi nói.

Lúc đó tôi nghĩ đến mình cảm nhận như thế nào về thân phận trẻ mồ côi. Chúng tôi đều bất bình thường. Không biết về cha mẹ mình, chúng tôi không bao giờ nghĩ ngợi chuyện mình gốc Do Thái hay Ireland hay là gốc quái quỷ gì.

***

Ngày hôm sau tôi gọi ông Eli Hemsi nơi văn phòng ông Giống như những vị đàn ông có vợ khi liên lạc chuyện làm ăn, những ông bố của các khách hàng của tôi chỉ cho tôi số điện thoại nơi làm việc. Nhưng họ cần có điện thoại riêng của tôi, phòng trường hợp họ phải tiếp xúc với tôi ngay. Tôi đã nhận rất nhiều cú điện thoại khiến Vallie ngạc nhiên. Tôi bảo nàng đó là những cuộc gọi liên quan đến chuyện cá độ và những bài viết cho tạp chí.

Ông Hemsi yêu cầu tôi đến văn phòng ông trong giờ ăn trưa và tôi đến. Đó là một trong các toà cao ốc của trung tâm may đo trên Đại lộ Số Bảy chỉ cách kho quân nhu mười phút chạy xe. Một cuộc dạo chơi dễ chịu trong không khí mùa xuân.

Trong toà nhà, người tiếp tân dẫn tôi đi qua những showrooms trưng bày những kiểu quần áo mới cho mùa tới. Rồi tôi được đưa qua một cánh cửa nhỏ đi vào dãy văn phòng ông Hemsi. Cô tiếp tân chuyển giao tôi cho cô thư ký của ông Hemsi, một phụ nữ trung niên nghiêm túc, phục sức rất lịch sự. Bà ta đưa tôi vào phòng trong.

Ông Hemsi trông khôi ngô tuấn vĩ như một kỵ sĩ Cô-dắc với bộ comple cắt may thật vừa khéo, áo sơ-mi trắng loại cực sang với cà vạt đỏ sẫm. Nét mặt ông rất sắc sảo nhưng tia nhìn lại nhuốm vẻ buồn man mác. Trông ông có dáng dấp quý tộc và vẻ bề thế của một bậc trưởng thượng khả kính. Ông đứng lên từ bên kia bàn giấy và nắm cả hai bàn tay tôi trong đôi tay ông để chào đón tôi. Ông nhìn sâu vào mắt tôi. Ông sát người vào tôi và nói rất nghiêm trang:

- Ông bạn tôi nói đúng, anh có một trái tim nhân hậu. Tôi biết anh sẽ giúp tôi.

- Thực sự tôi không thể giúp ông đâu. Tôi muốn lắm, nhưng tôi không có khả năng, - tôi nói.

Và tôi giải thích toàn bộ về quy định tuyển quân cho ông nghe như tôi đã nói với ông Hiller. Tôi có vẻ lạnh lùng hơn là tôi muốn nói. Tôi không thích những người nhìn sâu vào mắt tôi.

Ông ngồi đó, gục gặc đầu một cách trang nghiêm. Rồi làm như không hề nghe tôi nói một lời nào, ông ta cứ nói tiếp, giọng ông thực sự buồn bã.

- Bà vợ đáng thương của tôi hiện nay sức khoẻ rất kém. Bây giờ mà phải xa con chắc bà ấy chết mất. Bà ấy sống chỉ vì thằng con đó. Nếu nó phải đi xa cả hai năm dằng đẵng, chắc bà không sống nổi. Ông Merlyn, ông phải giúp tôi. Nếu ông làm việc này cho tôi, tôi sẽ làm cho ông được hạnh phúc suốt phần đời còn lại.

Không phải điều đó thuyết phục tôi. Không phải tôi tin vào một lời nào của ông. Nhưng câu chót của ông tác động đến tôi. Chỉ có vua chúa mới có thể nói với một người nào đó "Ta sẽ làm cho người được hạnh phúc suốt phần đời còn lại". Ông ta tin vào quyền lực của mình quá Nhưng tất nhiên lúc đó tôi nhận ra rằng ông ta đang nói về tiền bạc.

- Để tôi suy nghĩ xem, - tôi nói. - May ra có thể tôi tìm được diệu kế gì chăng.

Ông Hemsi gục gặt đầu một cách thật trầm trọng:

- Tôi biết anh sẽ cố. Tôi biết anh có một trí tuệ thông minh và tấm lòng nhân hậu, - Ông nói. - Anh đã có con chứ?

- Vâng, có, - tôi đáp.

Ông hỏi tôi có mấy đứa chúng bao lớn, trai hay gái. Ông hỏi thăm vợ tôi, hỏi nàng mấy tuổi. Ông xử sự kiểu thâm tình như một ông chú ông bác. Rồi ông hỏi địa chỉ và điện thoại nhà riêng của tôi để có thể liên lạc trực tiếp khi cần.

Khi tôi từ biệt, ông đích thân tiễn tôi đến thang máy. Tôi thử nghĩ mình đã làm xong việc. Tôi không có ý tưởng nào về việc gỡ cậu con ông ta khỏi cái lưỡi câu của bên động viên quân chính quy.

Và ông Hemsi nói đúng tôi thực sự có một tấm lòng nhân hậu. Tôi có trái tim khá trung thực để không tìm cách đánh lừa nỗi lo lắng của ông và bà vợ ông để rồi không làm được chuyện gì. Và tôi có một cái đầu khá thông minh để không vướng vào một con cá đã dính câu bên Quân đội. Cậu ta đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ và sẽ đi vào Quân đội chính quy trong tháng tới. Mẹ cậu sẽ phải sống không có cậu.

Ngay ngày hôm sau Vallie gọi điện thoại cho tôi lúc tôi đang làm việc. Giọng nàng rất hồ hởi phấn khởi.

Nàng bảo tôi là nàng vừa nhận được một phần hàng đặc biệt với năm thùng quần áo mới toanh. Quần áo đủ loại cho đám nhóc cho mùa thu đông sắp tới, đẹp khỏi chê. Cũng có một thùng riêng cho nàng. Toàn thứ đắt tiền chúng tôi chưa từng bao giờ có thể mua nổi.

- Có một danh thiếp. - nàng bảo. - Từ ông Hemsi. Ai vậy? Merlyn, quà đẹp lắm. Tại sao ông ấy cho anh quà đó?

- Anh viết mấy tập giới thiệu doanh nghiệp của ông ấy, - tôi nói. - Tiền bạc không bao nhiêu nhưng ông có hứa gửi cho lũ trẻ nhà mình ít quà. Nhưng anh nghĩ không có gì nhiều.

Tôi nghe được vẻ hài lòng trong giọng nói của Vallie:

- Ông ấy thật khả ái. Toàn bộ các thùng quà chắc phải đáng giá hơn cả ngàn đô.

- Tuyệt quá. - tôi nói. - Tối nay anh sẽ nói với em rõ hơn.

Sau khi gác máy, tôi kể với Frank về những chuyện đã xảy ra về ông Hiller, nhà buôn xe Cadillac.

Frank lác mắt nhìn tôi:

- Cậu mắc câu rồi đó, - anh nói. - Ông ta chờ đợi cậu làm điều gì đó cho ông ta. Cậu làm thế nào để gỡ rối đây?

- Biết làm quái gì đây, - tôi nói - Tôi không thể nghĩ ra tại sao tôi lại đồng ý đi gặp lão ta.

- Tại vì những chiếc Cadillac mà cậu đã thấy nơi phòng trưng bày của Hiller, - Frank nói. - Cậu cũng giống như mấy thanh niên da màu kia. Bọn chúng sẵn sàng quay về những căn chòi xác xơ ở châu Phi nếu chúng có thể ngồi vào chiếc Cadillac chạy loanh quanh vài vòng.

Tôi nhận ra một chút trục trặc trong diễn từ của anh. Hầu như anh đã định nói "bọn da đen" nhưng đã kịp chuyển sang "đám da màu". Tôi tự hỏi phải chăng vì anh thấy xấu hổ khi nói ra những từ thô lỗ hay vì anh nghĩ tôi có thể cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng anh nói đúng về chuyện những chiếc Cadillac khiến tôi mắc câu. Đó là lý do tại sao tôi đã đồng ý gặp Hemsi theo lời Hiller. Trên đường về, đầu óc tôi đã mơ màng nghĩ đến có lúc mình sẽ chễm chệ ngự trên một trong những chiếc xe bóng loáng, sang trọng đó.

Đêm đó, khi tôi về nhà, Vallie đã tổ chức một màn trình diễn thời trang với đám nhóc cho tôi thưởng làm.

Năm thùng quần áo khổng lồ để cho nàng và lũ trẻ tha hồ phô diễn mọi kiểu y trang lộng lẫy. Vallie hồ hởi, rạng rỡ như đã từ lâu tôi chưa từng thấy. Lũ trẻ hài lòng nhưng không quá quan tâm đến quần áo ở tuổi clrúng, ngay cả con gái tôi. Có lẽ tôi cần kiếm một nhà sản xuất đồ chơi có con trai sắp phải tòng quân, để đem lại niềm vui cho đám con của tôi hơn.

Nhưng rồi Vallie chỉ ra rằng nàng phải có những đôi giày mới cho tương thích với những bộ quần áo mới.

Tôi bảo nàng hãy nán lại một thời gian và tôi ghi sổ để nhớ kiếm một cậu con trai của ông chủ xưởng giày.

Bây giờ, điều lạ lùng là có lẽ tôi đã cảm thấy rằng ông Hemsi đang bảo trợ cho tôi nếu như quần áo ông cho chỉ thuộc loại thường. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy sự tủi thân của người nghèo nhận đồ cũ của người giàu. Đàng này quà tặng của ông toàn là thứ hàng "xịn" với chất lượng thượng hảo hạng mà tôi sẽ không bao giờ dám mua sắm, dù tôi có vơ vét được tiền hối lộ đến bao nhiêu đi nữa. Số quà này đáng giá cỡ năm ngàn đô, chứ không phải một ngàn như vợ tôi tưởng đâu. Tôi liếc qua tấm danh thiếp đính kèm. Đó là một thiếp doanh nhân với tên họ Eli Hemsi và chức vụ Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc cùng tên hiệu của hãng xưởng với địa chỉ và số phôn. Ngoài ra không có dòng chữ viết nào. Ông Hemsi thật khôn ngoan đúng mực. Không có một bằng chứng trực tiếp nào rằng chính ông ta gửi lô hàng đó cho tôi và tôi không có gì để phải phiền ông ta cả.

Khi đến văn phòng, tôi đã nghĩ rằng có lẽ tôi nên gửi trả lô quà lại cho ông Hemsi. Nhưng sau khi thấy Vallie vui sướng đến như thế nào với các thùng quà, tôi biết rằng ý định kia là bất khả thi? Tôi nằm thao thức đến ba giờ sáng, cố nghĩ ra những cách nào giúp cho con trai ông Hemsi thoát khỏi vòng lưới của luật động viên.

Ngày hôm sau, khi đi vào văn phòng, tôi quyết định: sẽ không thực hiện cái gì trên giấy tờ có thể lưu lại dấu vết để hồi tố tôi một hoặc hai năm sau. Chuyện này mà để vướng là rối lắm đấy. Bởi vì ăn tiền để đưa một thanh niên lên đầu danh sách cho chương trình sáu tháng là một chuyện, còn vớt anh ta ra khỏi lưới động viên sau khi anh ta đã nhận lệnh gọi nhập ngũ, lại là một chuyện khác.

Vì thế, việc đầu tiên tôi làm là gọi đến trung tâm nhập ngũ của Hemsi. Tôi gặp một thư ký ở đó, một anh chàng làm công việc đại khái giống như tôi. Tôi tự giới thiệu lí lịch nhân thân và kể cho anh ta nghe câu chuyện tôi mới nghĩ ra. Tôi nói với anh ta rằng Paul Hemsi đã đăng ký vào danh sách của tôi cho chương trình sáu tháng và rằng tôi đã ghi tên anh ta hai tuần trước rồi nhưng tôi đã gửi thư cho anh ta mà lại ghi nhầm địa chỉ. Rằng chuyện này hoàn toàn là lỗi của tôi và tôi cảm thấy bức rứt về điều đó và rằng có thể tôi gặp rắc rối trong công việc nếu gia đình cậu ta làm om sòm lên vụ này. Tôi hỏi anh ta xem bên động viên có thể hủy bỏ thông báo nhập ngũ để tôi có thể ghi danh anh ta không? Tôi sẽ gửi mẫu chính thức thông thường cho bên trung tâm nhập ngũ, chửng tỏ rằng Paul Hemsi đã đăng ký vào chương trình sáu tháng của quân dự bị, và họ có thể lấy anh ta ra khỏi sổ đăng ký nhập ngũ. Tôi đã vận dụng, theo tôi nghĩ một giọng nói của một người đàng hoàng tử tế cố gắng để điều chỉnh một sơ sót. Trong khi diễn màn kịch ứng tác này, tôi bóng gió gợi ý rằng nếu anh ta có thể giúp tôi chuyện này thì tôi sẽ giúp đưa một người bạn của anh ta vào chương trình sáu tháng.

Cái mánh lới tân kỳ này tôi vừa mới nghĩ ra trong đêm trước, lúc nằm thao thức không ngủ được. Tôi hình dung ra rằng những tay thư ký bên trung tâm động viên có lẽ được tiếp xúc bởi những thanh niên đang quýnh lên vì sắp bị gọi nhập ngũ và chắc là bọn họ nhận được nhiều lời đề nghị. Và tôi nghĩ rằng nếu một tay thư ký có thể đưa một khách hàng vào chương trình sáu tháng ắt là sẽ được đền ơn đến cả ngàn đô-la chứ không ít.

Nhưng anh chàng bên trung tâm động viên xử lý chuyện này có vẻ rất bình thường, vô tư, đến nỗi tôi không nghĩ là anh ta bắt được cái ý là tôi đang đề nghị một áp-phe với anh ta. Anh ta nói được thôi, anh ta sẽ rút giấy báo nhập ngũ, rằng chuyện đó không thành vấn đề lắm và bỗng nhiên tôi có cảm tưởng rằng có những kẻ tinh khôn hơn tôi đã từng tung hứng màn xiếc kỹ xảo này.

Dẫu sao, ngày hôm sau, tôi cũng nhận được bức thư báo từ bên trung tâm động viên và tôi gọi cho ông Hemsi, bảo ông gửi cậu con đến văn phòng tôi để đăng ký.

Mọi chuyện diễn ra xuôi chèo mát mái. Paul Hemsi là một chú nhóc dễ thương, ăn nói nhỏ nhẹ, rất rụt rè, cả thẹn, hay là cậu ta tỏ ra như thế với tôi. Tôi bảo cậu ta tuyên thệ, chuẩn bị giấy tờ cho đến khi có lệnh gọi. Tất cả được thực hiện suôn sẻ, êm thắm, không gặp trở ngại nào. Quả thật tôi đã gặp hên khi nuốt trôi được cái món "quá hớp" này.

Giờ đây tôi nhận ra rằng toàn bộ hành động này đang trở nên khá nóng và liên quan đến nhiều nhân vật thế lực. Nhưng đâu phải vô vớ mà tôi là pháp sư Merlyn?

Tôi đội chiếc mũ đầy sao lên và bắt đầu suy nghĩ kỹ về mọi chuyện. Một ngày nào đó toàn bộ những chuyện này sẽ bể mánh hết! Lúc đó thì chưa biết cái thân phận thằng tôi rồi sẽ như thế nào? Tôi đã thủ một vỏ bọc khá kỹ, trừ tiền bạc còn cất trong nhà. Tôi phải đem giấu tiền chỗ khác. Đó là việc cần kíp trước tiên. Và rồi tôi phải chứng tỏ những nguồn thu nhập khác để có thể công khai tiêu tiền.

Tôi có thể đem tiền gửi cho Cully ở Las Vegas.

Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu Cully chơi trò láu cá hay giở quẻ với tôi? Hay la anh ta bất đắc kỳ tử? Còn để hợp pháp hoá tiền bạc, tôi đã từng có những chào mời viết những bài điểm sách và bài cho các tạp chí, nhưng tôi vẫn từ chối. Tôi là một người kể chuyện thuần tuý, một nhà văn hư cấu. Đối với tôi, và đối với nghệ thuật của tôi, thì viết bất kỳ cái gì khác cũng có vẻ như là tự hạ mình? Nhưng bây giờ thì khác. Tôi đã là một kẻ móc ngoặc thì còn có cái gì dưới mình nữa đâu?

Frank yêu cầu tôi đi ăn trưa với anh và tôi đồng ý. Trông anh ta phởn phơ hứng chí lắm. Đúng dáng điệu một con người đang ăn nên làm ra, vồ đâu trúng đấy!

Anh ta vừa qua một tuần thắng độ liên tiếp và tiền bạc vẫn vô đều đều. Chẳng chút bận tâm chi đến những gì tương lai có thể mang lại, anh ta cứ tin rằng mình vẫn sẽ tiếp tục thắng và rằng toàn bộ cái mưu đồ ăn hối lộ sẽ cứ vận hành trơn tru mãi mãi. Dù không nghĩ mình là một pháp sư nhưng anh ta vẫn tin vào một thế giới ma thuật, huyền ảo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Khoảng gần hai tuần sau, người đại lý của tôi thu xếp một cuộc hẹn cho tôi với Tổng biên tập của tổ hợp tạp chí Everyday Magazines. Đây là một tổ hợp ấn phẩm dìm dư luận quần chúng Mỹ với thông tin và giả thông tin, tình dục và giả tình dục, văn hoá và triết lý nặng đầu.

Những tạp chí điện ảnh, phiêu lưu cho công nhân áo xanh, một nguyệt san thể thao, câu cá săn bắn, những tờ tạp chí cười Nhà lãnh đạo của tổ hợp nghiêng về quan điểm lái những người trẻ biết thưởng thức văn học và điện ảnh tiền phong.

Đó thực sự là một hổ lốn thức ăn tinh thần thuộc dạng tạp- pí-lù. Everyday thu dụng nhiều nhà văn tự do bởi vì họ phải in ấn nửa triệu chữ mỗi tháng. Người đại lý bảo tôi rằng ông Tổng biên tập biết anh Artie của tôi và rằng anh Artie đã gọi điện thoại cho ông ấy để dọn đường cho tôi.

Ở tổ hợp Everyday Magazines, mọi người đều có vẻ như lạc chỗ. Dường như không có ai thuộc về nơi đó. Ấy thế mà họ lại làm ra được những tờ tạp chí mang lại lợi nhuận cao. Buồn cười thật đấy, thế nhưng trong hệ thống nhà nước liên bang, tất cả chúng tôi đều thích nghi, ai nấy đều vui vẻ cả làng và tuy vậy tất cả chúng tôi đều làm việc rất tơ lơ mơ, chẳng phải nhọc công sức gì mấy.

Tổng biên tập, Eddie Lancer, đã cùng học với anh Artie của tôi ở Đại học Missouri, và chính anh tôi là người đầu tiên đã gợi ý việc này cho người đại lý của tôi. Tất nhiên Lancer biết ngay rằng tôi không thích hợp với công việc chỉ sau hai phút phỏng vấn. Thực tế là như vậy. Quả là tôi chả biết gì về hậu trường của một tạp chí. Nhưng với Lancer điều này lại là một lợi thế! Anh ta chẳng coi kinh nghiệm là cái thớ gì. Điều Lancer tìm kiếm là những con người hoang tưởng, rối loạn tinh thần! Và sau này, anh ta nói với tôi là tôi rất đủ phẩm chất về phương diện đó. Eddie Lancer cũng là một nhà tiểu thuyết; anh ta đã xuất bản một quyển sách mà tôi rất thích, đúng một năm trước đây. Anh biết quyển tiểu thuyết của tôi và nói anh thích quyển đó và bảo rằng điều đó rất có trọng lượng trong chuyện xin việc làm. Trên bảng trước mặt anh có một tựa đề lớn cắt ra từ tờ Times: "Chiến tranh nguyên tử gây ảnh hưởng tồi tệ đến thị trường chứng khoán Wall Street".

Thấy tôi đang nhìn vào mảnh cắt đó, anh nói:

- Cậu có nghĩ là cậu có thể viết một truyện ngắn mô tả một anh chàng lo lắng về hiện tượng đó?

- Được chứ, - tôi nói.

Và tôi bắt tay vào ngay. Tôi viết câu chuyện về một giám đốc trẻ lo lắng về các cổ phiếu chứng khoán của anh ta xuống quá nhanh sau khi những quả bom nguyên tử rơi xuống. Tôi không phạm sai lầm là đi chế giễu anh chàng đó hay tỏ ra mình đạo dức.

Tôi viết thẳng tuột ra. Nếu người ta chấp nhận tiền đề cơ bản, thì người ta chấp nhận anh chàng đó. Nếu người ta không chấp nhận tiền đề cơ bản, thì đó là một chuyện phúng dụ đầy chất hài hước.

Lancer rất thích truyện đó.

- Cậu hợp với tạp chí của bọn này lắm đấy, - anh nói. - Ý tưởng chủ đạo là làm sao tạo ra được một biểu tượng hai mặt. Làm sao cho kẻ ngốc đọc thấy thích mà người khôn đọc vẫn thấy hay. Thế mới là người viết giỏi.

Anh dừng lời một lát:

- Cậu khác với Artie, anh cậu, nhiều lắm!

- Vâng, tôi biết, - tôi nói. - Và anh cũng vậy.

Lancer cười toét miệng:

- Chúng tôi là bạn thân hồi học chung với nhau. Artie là con người trung thực nhất mà tôi từng gặp. Cậu biết không, khi anh ấy yêu cầu tôi phỏng vấn cậu, tôi hơi ngạc nhiên đấy. Đó là lần đầu tiên mà tôi được biết anh ấy chịu mở miệng xin một ân huệ đấy.

- Anh ấy chỉ làm điều đó vì tôi thôi, - tôi nói.

- Con người thẳng thắn nhất mà tôi từng biết trong đời mình, - Lancer nói.

- Cái tính đó dễ mang vạ lắm, - tôi nói.

Và chúng tôi cùng cười.

Lancer và tôi biết rằng cả hai chúng tôi đều là những kẻ biết mưu sinh thoát hiểm. Có nghĩa là không thẳng thắn mấy, rằng chúng tôi đều là những con người cơ hội chủ nghĩa, những kẻ giỏi xoay sở ở một mức độ nào đấy. Lý do khoan miễn đó là chúng tôi còn có những quyển sách phải viết ra. Vì thế chúng tôi phải "mưu sinh thoát hiểm" dù gặp bất kì tình huống nào. Mọi người ai cũng cần có lý do khoan miễn đặc biệt và vững chắc cho mình.

Tôi ngạc nhiên biết bao (nhưng Lancer thì lại chẳng ngạc nhiên chút nào), khi mình trở nên một nhà văn viết cho tạp chí rất ăn khách. Tôi có thể viết vô khối chuyện phiêu lưu hay chuyện chiến tranh loại loàng xoàng để giải trí, đọc xong rồi quên đi. Tôi có thể viết những chuyện tình ướt át pha chút khiêu dâm nhẹ cho tờ tạp chí văn nghệ của tổ hợp. Tôi có thể viết bài điểm phim kiểu làm bộ làm tịch, ra vẻ khinh khỉnh hay một bài điểm sách kiểu khen ư, chê tí, có chút trịch thượng. Hoặc tác uy tác phúc bằng cách viết một nhận xét nhiệt tình khiến cho người ta muốn đi ra ngoài tìm xem hay đọc cái gì mà hay quá như vậy. Tôi không bao giờ ký tên thật nơi những bài viết lình tinh loại đó. Nhưng tôi không xấu hổ về chúng.

Tôi biết rằng chúng là loại phó phẩm, hàng kém chất lượng, thế nhưng tôi vẫn thích chúng. Tôi yêu chúng vì cả đời mình, cho đến lúc ấy, tôi chưa chứng tỏ được một tài năng nào đáng tự hào. Tôi là một anh lính bét-dem, đi lính ba bốn năm trời chẳng được cái huân chương nào, chẳng nhích lên được chút nào trong cái "hệ thống quân giai" để được mang lon thầy cai, thầy đội, mà vẫn cứ trần xì cái quân hàm "đơ-zèm-cùi-bắp". Chẳng có lon lá gì, nên lúc nào mở lời tán tỉnh đều bị các em khinh khỉnh nhìn bằng nửa con mắt! Tôi chẳng đàn ngọt hát hay, cũng không có chút năng khiếu máy móc, chẳng biết chữa vít lửa cho chiếc xe hư, không trồng được một cây kiểng nào.

Tôi là một tay đánh máy loại cò mổ và cũng chưa phải là một kẻ ăn hối lộ loại sừng sỏ. Tôi chỉ chắc chắn một điều: tôi là một nghệ sĩ, nhưng chuyện đó đâu có gì đáng để khoe khoang khoác lác? Đó là một loại tín ngưỡng, một thứ đạo, hay là một thứ sở thích tiêu khiển cá nhân.

Nhưng giờ đây tôi thực sự đã chứng tỏ mình có "tài năng": một nhà văn chuyên viết chuyện lăng quăng, thuộc hàng tay nghề cao! Và tôi yêu thích điều đó. Đặc biệt là từ khi, lần đầu tiên trong đời, tôi có khả năng kiếm sống tốt với nghề viết. Một cách hợp pháp.

Tiền từ các bài báo được khoảng trung bình bốn trăm đô-la mỗi tháng. Còn công việc bên quân đội mang lại cho tôi hai trăm đô-la mỗi tuần. Và dường như công việc kích phát năng lượng, tôi lại khởi đầu viết quyển tiểu thuyết thứ nhì. Eddie Lancer cũng đang viết một quyển sách mới và chúng tôi dùng phần lớn thời giờ làm việc chung với nhau để đàm đạo về các quyển tiểu thuyết của chúng tôi hơn là nói về các bài báo.

Cuối cùng chúng tôi trở thành "cánh hẩu" với nhau đến độ sau sáu tháng cộng tác với tính cách nhà văn tự do, anh đề nghị tôi phụ trách một chuyên mục của tạp chí. Nhưng tôi không muốn bỏ cái khoản ngoại bổng từ hai đến ba ngàn đô-la mỗi tháng mà tôi vẫn còn kiếm được đều đều nhờ vị trí công tác bên quân đội. Việc ăn hối lộ diễn ra gần hai năm mà không gặp trở ngại nào. Giờ đây tôi có thái độ giống như Frank. Tôi không nghĩ sẽ có chuyện gì xảy ra. Như vậy, sự thật là tôi thích sự hào hứng và việc vận dụng mưu thuật để làm một tên trộm!

Đời tôi đang gặp lúc thời vận hanh thông. Việc viết lách diễn tiến tốt và mỗi thứ bảy tôi mang Vallie và lũ nhóc ra chơi ở Long Island, nơi những căn nhà riêng cho từng gia đình đang mọc lên như cỏ dại. Chúng tôi đã đăng ký mua nhà biệt lập. Bốn phòng ngủ, hai phòng tắm.

Chúng tôi chỉ còn đợi mười hai tháng nữa là nhận được nhà mới. Bây giờ là lúc phải yêu cầu anh Eddie Lancer một ân huệ nhỏ.

- Tôi vẫn luôn thích Las Vegas, - tôi bảo Eddie. - Tôi thích làm một phóng sự về nơi đó.

- Được thôi, bất cứ lúc nào, - anh nói. - Nhớ viết về những kẻ móc nối nơi đó.

Và anh thu xếp mọi chi phí. Rồi chúng tôi bàn về mục minh hoạ màu mè cho câu truyện. Chúng tôi vẫn luôn hội ý với nhau vụ này bởi vì đây là đề tài có nhiều chuyện tếu lắm, giúp chúng tôi cười đùa xả láng. Như thường lệ, cuối cùng Eddie tìm ra một ý tưởng rất hiệu quả. Một cô gái đẹp với quần áo rất "nghèo" trong một điệu vũ ngoáy mông cực kỳ khiêu khích và ác chiến? Và từ lỗ rốn của nàng, một con xúc xắc đỏ lăn ra chỉ rõ con số 11 may mắn. Dòng chữ bắt mắt trên trang bìa sẽ là "Hãy tìm vận may với các cô nàng ở Las Vegas".

Trước tiên phải có một sự vụ lệnh công tác. Đó là một món béo bở. Tôi sắp phỏng vấn nhà văn nổi tiếng nhất ở Mỹ, Osano.

Eddie Lancer cho tôi sự vụ lệnh công tác cho tờ tạp chí "soái hạm lệnh kỳ" tờ Everyday Life, lá cờ đầu của tổ hợp thông tin. Sau đó, tôi có thể đi Las Vegas viết loạt bài điều tra phóng sự kia, kết hợp việc chung với việc riêng, kiêm luôn du hí bằng tiền cơ quan. Làm việc như thế, thích thật?

Eddie Lancer nghĩ rằng Osano là nhà văn lớn nhất ở Mỹ và anh ta quá "khớp" cái uy danh vang dội đó nên không thể tự mình làm cuộc phỏng vấn. Tôi là người duy nhất trong ban biên tập không bị ấn tượng. Ông nổi danh cỡ nào cũng mặc, có gì mà tôi rét. Biết đâu một ngày kia, tôi còn nổi danh hơn cả ông nữa kìa! Tôi không tin là Osano giỏi đến độ như người ta tán tụng. Với lại tôi không tin bất kỳ nhà vãn nào thuộc loại hướng ngoại. Trong khi Osano đã xuất hiện trên tivi hàng trăm lần, làm giám khảo ở Liên hoan phim Cannes, bị bắt vì dẫn đầu những người tuần hành phản đối, chẳng cần biết là họ phản đối cái đếch gì? Và hăng hái viết lời giới thiệu ở trang bìa cho mọi quyển tiểu thuyết mới ra của bạn bè ông ta.

Vả chăng, ông ta đã đi đến thành công bằng con đường dễ dàng.

Quyển tiểu thuyết đầu tiên của ông, xuất bản khi ông mới hai mươi lăm, đã làm ông nổi tiếng khắp thế giới. Ông xuất thân từ gia đình giàu có, tốt nghiệp đại học Yale. Ông chưa từng biết đến chuyện phải đấu tranh gian khổ cho nghệ thuật của mình như thế nào. Và nhất là, tôi không ưa ông ta mấy, bởi vì tôi đã từng gửi cho ông ta quyển tiểu thuyết đầu tiên của tôi, hi vọng một lời giới thiệu nhưng ông ta lờ tịt đi, làm như chẳng nhận được nó. Lão này "chảnh" quá, không điệu với đàn em chút nào!

Khi tôi đi phỏng vấn Osano, thì uy thế nhà văn của ông ta đối với các nhà xuất bản đang có chiều khựng lại.

Ông ta vẫn còn có thể đòi một khoản ứng trước khá lớn cho một quyển sách, ông ta vẫn còn có những nhà phê bình ca ngợi mình. Nhưng phần lớn sách của ông thuộc loại phi hư cấu (non-fiction). Trong suốt mười năm qua, ông ta không còn khả năng viết ra một tác phẩm hư cấu nữa. Ông ta đang làm việc cho kiệt tác của mình, một trường thiên tiểu thuyết nó sẽ là tác phẩm văn chương vĩ đại nhất kể từ "Chiến tranh và Hoà bình". Tất cả các nhà phê bình đếu nhất trí như thế. Cả Osano cũng khẳng định như thế. Một nhà xuất bản đã ứng trước cho ông hơn một trăm ngàn đô-la và còn phải chờ cỡ mười năm sau may ra tác phẩm mới hoàn tất. Trong khi đó ông viết những quyển sách phi hư cấu về những đề tài nóng bỏng mà vài nhà phê bình cho rằng còn hay hơn nhiều quyển tiểu thuyết nữa. Ông ta cứ đẻ ra sòn sòn vài tháng một quyển và lượm những tấm séc béo bở bỏ túi. Nhưng mỗi quyển bán ra càng ít đi. Ông đã làm công chúng độc giả của mình thấy nhàm. Nên cuối cùng, ông chấp nhận lời mời làm tổng biên tập cho một tạp chí điểm sách có ảnh hưởng nhất trong nước.

Vị tiền nhiệm của Osano đã đảm đương công việc đó trong hai mươi năm. Một anh chàng với những bằng cấp uy tín từ những đại học danh tiếng, một con người uyên bác, gia đình giàu sang quyền quý. Nhưng lại là một anh chàng luyến ái trái khoáy suốt đời. Chuyện này cũng không sao, có điều càng lớn tuổi ông ta lại càng trơ tráo về khoản đó khiến người ta dễ bị sượng. Một chiều nắng quái, ông ta bị bắt gặp đang đè lên cậu trai giúp việc văn phòng, đàng sau chồng sách cao mà ông ta dựng lên như một bức bình phong trong văn phòng của mình.

Nếu như cậu trai nọ là một tác giả nổi tiếng, có lẽ đã chẳng có chuyện gì xảy ra. Và nếu những quyển sách mà ông ta dùng để dựng lên bức tường đó đã được giới thiệu có lẽ sự việc cũng không tệ lắm. Nhưng những quyển sách đó chưa từng đến tay người viết điểm sách nào. Thế là ông ta đành về hưu non với hàm biên tập danh dự.

Với Osano, ban quản trị biết rằng họ sẽ không gặp rắc rối. Osano hoàn toàn bình thường về phương diện tình dục. Ông ta khoái đàn bà, mọi kích cỡ và mọi kiểu dáng thể hình, mọi lứa tuổi, từ mười lăm đến một trăm mười lăm không chê em nào? Cứ nghe mùi hương bốc ra từ âm đ*o là đủ khiến ông ta quay tròn, rồi lờ đờ như kẻ nghiện heroin. Ông ta làm tình với các em "rồng lộn" cũng thành kính như một tay nghiện heroin thận trọng đưa một "ngao" lên mũi hít để được đắm mình vào xứ sở "tê lê mê".

Nếu ngày nào Osano chưa "phất cờ" một lần là lúc ấy ông ta còn bứt rứt bồn chồn, chưa thể suy nghĩ được cái gì cho ra hồn? Nhưng ông ta không mắc thói phô trương, không hề thích triển lãm chuyện đó cho thiên hạ thập mục sở thị. Ông ta luôn cẩn thận khoá cửa phòng lại mới hành sự. Đôi khi đó là một cô choai choai mê sách. Lúc khác lại là một ả lẳng lơ, thông thái rởm nghĩ rằng ông ta là nhà văn Mỹ vĩ đại nhất hiện còn sống. Hoặc là một nữ tiểu thuyết gia đang khao khát sách của mình được giới thiệu rầm rộ, được đánh giá tốt ông ta không hề xấu hổ khi sử dụng cái đòn bẩy là nhà biên tập, danh tiếng của một tiểu thuyết gia có tiếng vang trên văn đàn quốc tế và cái điều rộn chuyện nhất trong đầu ông ta, đó là tư cách một người ứng tuyển giải Nobel văn chương. Ông ta cho rằng chính giải Nobel văn chương mới thực sự làm cho những phụ nữ thượng lưu trí thức nể vì. Và trong suốt ba năm qua. Ông ta đã vận động một chiến dịch rầm rộ để giành giải Nobel với sự trợ lực của tất cả các bạn văn của ông ta; ông ta có thể trưng ra với các bà ấy những bài viết trong các tập san văn học đề cử ông ta vào giải thưởng cao quý đó.

Cũng khá kỳ lạ là Osano không ý thức lắm về những vẻ quyến rũ ngoại hình của mình. Cái từ tính nơi con người ông ta. Ông ăn mặc lịch lãm, tiêu nhiều tiền cho quần áo, tuy vậy thực ra ông ta không hấp dẫn vì thể chất. Mặt ông ta khá xương xẩu, đôi mắt ông ta màu xanh dương nhợt nhạt. Nhưng ông ta toả ra sức linh hoạt mạnh mẽ, thu hút mọi người như nam châm. Thực vậy, một phần rất lớn tiếng tăm của ông ta không hẳn do thành tựu văn học mà do nhân cách của ông, trong đó gồm cả một trí tuệ nhanh nhạy, sáng chói, dễ thu hút đàn ông cũng như đàn bà.

Nhưng trên hết, có lẽ ông có cả đào hoa lẫn hồng loan chiếu mệnh làm sao ấy, khiến phụ nữ điên lên vì ông. Có những kẻ săn thú có tay sát thú, câu có tay sát cá, tán gái thì có tay sát đàn bà. Đúng là các em, các nàng, các mệ gặp ông đều ngả rạp như rạ. Quái lạ! Quái lạ thật! Hay là người ông tiết ra chất pheromone đặc biệt, khiến phụ nữ ngửí vào là mê mệt hết biết? Quả là có những chi tiết có thể giải thích được, nhưng hình như cũng còn có khía cạnh huyền bí?

Riêng tôi chẳng hề thích tác phẩm của ông ta lại càng chẳng mong chờ mình sẽ mê ông ta! Tác phẩm là con người. Trừ phi nó đã chứng tỏ là không thật. Xét cho cùng, vẫn có những vị lương y như từ mẫu, những thầy cô giáo hết lòng vì học trò, những luật sư trung thực, những chính trị gia lý tưởng, những phụ nữ đức hạnh. diễn viên lành mạnh, nhà văn khôn ngoan. Và Osano cũng thế, bất chấp cái kiểu câu đàn bà của ông ta, bất chấp nét cay độc trong tác phẩm của ông ta thực tế vẫn là một con người dễ chịu khi tiếp xúc và cũng không bực bội gì mấy khi nghe ông ta nói chuyện ngay cả khi nói về tác phẩm của mình.

Dù sao, với tư cách tổng biên tập của tạp chí điểm sách, ông ta cũng làm chủ cả một đế quốc nho nhỏ. Hai thư ký. Hai mươi người đọc sách. Và một số lượng lớn cộng tác viên là những cây bút phê bình tự do từ những tác giả hàng đầu đến những nhà thơ chết đói, những tiểu thuyết gia lận đận, những giáo sư đại học và đám thượng lưu trí thức ông dùng tất cả và ghét tất cả. Và ông điều hành tạp chí giống như một người điên.

Trang nhất của một tờ tạp chí ra ngày chủ nhật là cái mà một tác giả thèm thuồng nhất. Osano biết điều đó. Khi ông xuất bản một quyển sách, đương nhiên người ta đưa ông lên trang nhất, trong tất cả các tờ điểm sách của cả nước. Nhưng ông ghét hầu hết các nhà văn hư cấu, ông ganh tị với họ. Hoặc ông sẽ chơi xỏ nhà xuất bản quyển sách kia. Ông sẽ lấy một quyển tiểu sử của Napoleon Đại đế hoặc Nữ hoàng Catherine do một giáo sư đại học đăng ký viết và đặt lên trang nhất. Cả quyển sách cũng như bài báo đều rất khó đọc, nhưng Osano khoái chí vì đã chọc tức được mọi người!

Lần đầu tiên tôi gặp Osano. Ông ta sống theo mọi câu chuyện văn chương, mọi cuộc phiếm đàm, mọi hình tôi với một vẻ ý nhị rất tự nhiên. Và cũng có những cung cách phù hợp với mỗi câu chuyện.

Tôi đi đến Hampstons, nơi Osano có một căn nhà mùa hè và thấy ông ta đang ẩn dật (theo lời ông) như một vị vua già. Vào tuổi năm mươi, ông ta có sáu đứa con từ bốn cuộc hôn nhân khác nhau và vào thời điểm đó, ông ta chưa có các cuộc hôn lễ thứ năm, thứ sáu và cuối cùng là thứ bảy. Ông mặc quần dài tennis màu xanh và áo jacket tennis cũng màu xanh may cắt đặc biệt để giấu cái bụng bự ra vì uống bia của ông. Khuôn mặt có ấn tượng sắc sảo, phù hợp với một nhà văn sắp được giải Nobel. Mặc dầu đôi mắt xanh dương có vẻ hiểm, nhưng ông có thể tỏ ra dịu dàng tự nhiên. Hôm nay gặp ngày ông dịu dàng. Vì ông cầm đầu tờ tạp chí văn học ra ngày chủ nhật có uy nhất, nên ai cũng nịnh ông ta một cách khúm núm mỗi lần ông xuất bản cái gì. Ông ta không biết rằng tôi chẳng khoái ông, bởi vì tôi là một nhà văn không thành công với một quyển tiểu thuyết đã in nhưng bán rất ít và quyển thứ hai còn đang đau đẻ. Chắc là thế rồi, ông ta đã từng viết một tiểu thuyết vĩ đại. Nhưng phần còn lại của những gì ông viết đều là đồ bá láp và nếu như tờ Everyday Life cho phép, tôi sẽ vạch ra cho cả thiên hạ nhìn thấy cái này thực sự được tạo ra bằng những chất liệu nào.

Tôi viết bài báo trơn tru và tôi "bắt chết" ông ta đúng y bon vào những yếu huyệt. Nhưng Eddie Lancer từ chối không đăng. Lúc đó họ đang muốn Osano viết một câu chuyện chính trị lớn, không muốn ông ta nổi giận.

Vậy là tôi phí mất một ngày. Song về lâu về dài, cũng chẳng mất đi đâu, mà như thế lại hoá hay. Vì hai năm sau, Osano gọi tôi đến và đề nghị tôi làm phụ tá cho ông tại một tạp chí văn chương mới, dĩ nhiên cũng vào hàng tầm cỡ nhất nước. Osano nhớ đến tôi; ông đã đọc câu truyện mà Eddie bỏ không đăng, thích cái tính thẳng ruột ngựa của tôi, hoặc giả như ông nói thế. Ông nói vì tôi là một nhà văn tốt, biết đồng cảm với những điều tâm đắc trong tác phẩm của ông nên "kết" tôi.

Vào ngày sơ ngộ đó chúng tôi ngồi trong vườn nhà ông và nhìn lũ con ông chơi tennis. Tôi phải nói rằng ông thực sự yêu và xử sự hoàn hảo với đám con. Có lẽ bởi vì bản thân ông cũng là một trẻ thơ. Bằng cách nào đó, tôi khiến ông nói về đàn bà, về tình dục và phong trào giải phóng phụ nữ. Ông ta mê đề tài đó ngay. Ông tỏ ra có óc hài hước và thích đùa. Dù trong các bài viết, ông vẫn luôn luôn là một người khuynh tả kịch liệt, song ông cũng là một anh chàng Texas có tinh thần yêu nước cực đoan. Về tình yêu, ông nói rằng mỗi khi si tình cô gái nào. Ông luôn luôn thôi ghen tuông với vợ. Rồi ông lên giọng chính khách - nhà văn lớn và nói:

- Không người đàn ông nào được phép cùng lúc, ghen với hơn một người đàn bà - trừ phi hắn là dân Porto Rico.

Ông cảm thấy mình được phép nói đùa về người Porto Rico vì nguồn gốc chủng tộc của ông rất rõ ràng, không thể nghi ngờ.

Bà quản gia la mắng lũ trẻ đang đánh nhau vì tranh cãi một ván tennis. Một bà quản gia đầy vẻ uy quyền và trịch thượng, làm như là mẹ người ta ấy! Và so với tuổi tác của bà (nghĩa là cũng xấp xỉ cỡ tuổi Osano) thì quả là một phụ nữ đẹp. Có một lúc tôi thắc mắc. Đặc biệt là khi bà ta liếc xéo chúng tôi có phần miệt thị trước khi quay vào trong nhà.

Tôi lái qua đề tài đàn bà và ông ta hưởng ứng ngay. Ông ta dùng giọng khinh bạc, uy quyền, thích hợp với một nhà văn đã từng nói nhiều về mình hơn bất kỳ tiểu thuyết gia nào, kể từ Hemingway.

- Nghe này, chú nhóc, - ông nói - Tình yêu cũng giống như cái toa xe lửa đồ chơi màu đỏ kia mà chú em nhận được vào dịp sinh nhật lần thứ sáu của mình. Món quà đó làm chú sướng như điên và không thể rời xa nó. Nhưng rồi sớm hay muộn bánh xe sẽ long ra, giây cót sẽ chùng không vận hành ngon lành nữa. Lúc đó, chú vất nó vào một xó và quên đi. Si tình, tuyệt. Nhưng lúc nào cũng yêu, yêu dai dẳng suốt đời thì quả là một tai hoạ!

Tôi hỏi ông, một cách điềm đạm và kính cẩn (như ông nghĩ là phải như thế):

- Còn về đàn bà thì sao, ông có nghĩ họ cảm thấy như lúc trước, từ khi họ đòi quyền độc lập suy nghĩ như đàn ông?

Ông liếc nhìn tôi như ánh chớp bằng đôi mắt màu xanh dương lạ lùng để bắt mạch tôi. Tôi vững vàng đương đầu. Và ông tiếp tục:

- Phong trào giải phóng phụ nữ nghĩ rằng chúng ta có quyền lực và kiểm soát cuộc đời của họ. Một cách ngớ ngẩn thì một cậu trai tân nghĩ rằng đàn bà trong sạch hơn đàn ông về phương diện tình dục. Đàn bà sẽ ngủ với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi đâu, chỉ có điều họ lại ngại chuyện đàm tiếu

- Những chuyện quan hệ của ông với phụ nữ cũng nổi tiếng gần như những quyển sách của ông, - tôi nói. - Ông xử lý đàn bà như thế nào?

Osano cười toét miệng:

- Sao chú em chẳng thèm lưu tâm chuyện tôi viết sách như thế nào?

Tôi nói nhũn nhặn:

- Những tác phẩm của ông đã tự nói lên rồi.

Ông lại nhìn tôi khá lâu, vẻ trầm tư, rồi tiếp tục:

- Đừng bao giờ đối xử quá tốt với đàn bà. Đàn bà thường đeo theo những thằng say rượu, mê cờ bạc, ma cô, chủ chứa, cả những đứa vũ phu. Họ không thể chịu đựng lâu một chàng trai hiền lành tốt bụng. Chú mày biết tại sao không? Bởi vì họ chán. Họ không muốn hạnh phúc. Cái cảnh gia đình yên ấm coi vậy mà cũng dễ gây nhàm chán lắm.

- Ông có tin vào lòng chung thủy không? - Tôi hỏi.

- Tin quá đi chứ. Nghe này, yêu nghĩa là biến đối tượng luyến ái thành trung tâm điểm của cuộc đời bạn. Khi điều đó không còn hiện hữu, có nghĩa tình yêu đã vỗ cánh bay đi hay đã trở thành một cái gì khác rồi. Có thể là một cái gì đó tốt hơn, thực tiễn hơn. Tình yêu, về cơ bản, là một mối tương quan không thẳng thắn, không bền vững, hoang tưởng. Đàn ông tệ hơn đàn bà ở khoản đó. Một người đàn bà có thể làm tình hàng trăm lần mà không hề cảm thấy lần nào giống lần nào. Nhưng đúng là bước xuống dốc đầu tiên là khi bạn thèm "ngủ" như điên mà nàng lại đếch muốn? Đó chính là bước khởi đầu của cuộc "Thệ phản đại ly giáo" vậy! Nghe đây, không có một lý do khoan miễn nào đáng được chấp nhận cả? Đừng có nũng nịu "anh ơi, em nhức đầu quá", thôi để lúc khác. Đếch, đừng có màu mè. Ngay bây giờ hoặc không bao giờ? It s now or never! Một khi em rộng mồm bắt đầu từ chối trận cầu hữu nghị trên sân nệm với bạn thì mọi chuyện coi như thôi hết rồi, lịch sử đã sang trang! Hãy bắt đầu tìm một "hậu thuẫn mới" đi là vừa. Đừng bao giờ chấp nhận một lý do khoan miễn nào.

Tôi hỏi ông về những người đàn bà "siêu mẫn cảm" về tình dục, có khả năng đạt đến mười lần cực khoái so với một lần nơi người đàn ông. Ông xua tay qua bên.

- Đàn bà không đi thẳng đến đỉnh cực khoái như đàn ông, - ông nói. - Đối với họ, đó là một cảm giác tê mê êm dịu, lâng lâng. Không giống đàn ông. Đàn ông thực sự ngu dại hẳn đi khi phóng tinh. Freud nhìn thấu suốt nhiều điều lắm nhưng ông ta lại để lọt mất điểm đó. Đàn ông mới thực sự phất cờ. Còn đàn bà thì không.

Vậy là ông ta không thực sự tin vào điều đó, dầu xét theo khía cạnh nào, nhưng tôi biết ông đang nói gì. Ông vẫn thích dùng văn phong khuếch đại mà!

Rồi tôi lái câu chuyện qua đề tài trực thăng. Ông đưa ra một thuyết, theo đó trong hai mươi năm nữa, xe hơi sẽ lỗi thời, và mọi người sẽ có một chiếc trực thăng riêng. Chỉ cần vài hoàn thiện kỹ thuật. Cũng giống như khi xe hơi có tay lái trợ lực với những bộ thắng rất nhạy giúp cho phụ nữ cũng có thể lái xe nhẹ nhàng và an toàn thì họ đâu còn thích đi xe lửa nữa vì không chủ động được lộ trình và thời gian.

- Đúng thế, - ông nói - Điều đó hiển nhiên quá rồi.

Một điều khác cũng hiển nhiên không kém đó là chính vào buổi sáng hôm đó ông bị tổn thương về chuyện đàn bà. Vì thế ông bật trở lại.

- Đám trẻ ngày nay, không biết đầu óc chúng nghĩ thế nào ấy. Chúng nói với bạn tình của mình, ồ được thôi em cứ ngủ với ai mà em thấy thích. Anh vẫn yêu em. Bọn chúng toàn nghĩ bậy bạ. Nghe này, bất cứ thằng nào khi biết rằng con bồ nó sẽ ngủ lung tung với bao kẻ lạ, đều nghĩ rằng cô ả là đứa lẳng lơ đĩ thoã, cặp chơi thì tạm chứ rước về làm vợ, đếch được!

Tôi thấy thốn bởi lối so sánh đó và lấy làm ngạc nhiên. Văn hào Osano với những bài viết được quý bà, quý cô đặc biệt mê thích. Bộ óc sáng chói nhất trong giới văn học Hoa Kỳ. Một tâm hồn hoang dại, khoan dung nhất. Như vậy, hoặc là tôi không nắm được quan điểm của ông, hoặc là chính ông ta toàn nghĩ bậy bạ?

Tôi thấy bà quản gia đang đánh mắng mấy đứa nhóc ở gần đó. Tôi nói:

- Ông uỷ nhiệm cho bà quản gia quyền hành hơi quá lớn đấy.

Bây giờ ông nhạy bén đến độ ông nắm bắt ngay được mọi chuyện không cần phải cố gắng. Ông biết chính xác tôi cảm thấy thế nào về những gì tôi đã nói tự nãy giờ. Có lẽ đó là lý do ông nói sự thật cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện về bà quản gia. Để may miệng tôi lại.

- Bà ấy là đệ nhất phu nhân của tôi đấy, - ông nói. - Mẹ của ba đứa lớn nhất của tôi đấy.

Ông cười khi thấy tia nhìn của tôi.

- Ô không đâu, tôi không còn bắt ốc vít với bà ấy nữa. Và chúng tôi sống bên nhau rất thơm thảo. Tôi trả cho bà số lương tháng rất hậu hĩ nhưng không trợ cấp. Bà ấy là người vợ duy nhất mà tôi không trả trợ cấp.

Rõ ràng ông ta chờ đợi tôi hỏi tại sao không. Và tôi đã hỏi.

- Vì khi tôi viết quyển sách đầu tiên và trở nên giàu ngay sau đó từ tiền tác quyền, chuyện đó tác động đến đầu óc bà. Bà ganh tị về chuyện tôi nổi tiếng và được quá nhiều người để ý. Bà cũng muốn được người ta để ý. Thế rồi có một chàng trai trẻ, một trong những người ngưỡng mộ tác phẩm tôi, đáp ứng khát vọng đó và bà chịu ngay. Bà lớn hơn chàng ta năm tuổi, nhưng vẫn còn ướt át hấp dẫn chán. Bà thực sự si tình và tôi chấp nhận chuyện đó. Có điều bà không nhận ra, đó là chàng ta "đá bèo" với mục đích hạ nhục tiểu thuyết gia lừng danh Osano là chính. Thế là bà lại đòi li dị và chia đôi gia tài. Với tôi, chuyện ấy cũng được thôi. Hắn làm cho bà mê mệt trong hai năm và tiêu xài hết tiền. Bà quên luôn cả con cái. Bà trở lại là một cô gái đôi mươi, mới yêu lần đầu. Tất nhiên là thỉnh thoảng bà cũng có đến thăm con, nhưng còn phải dành nhiều thời giờ dung dăng dung dẻ với chàng kép trẻ đi khắp thế gian, tiêu xài thoải mái bằng tiền của tôi, và chiều chuộng chàng ta từng li từng tí. Đến khi cạn tiền, chàng liền quất ngựa truy phong, bay vèo một mạch mất tiêu! Lúc đó nàng lại quay về với con. Nhưng nàng đã tự truất quyền làm mẹ khi bỏ rơi chúng cả hai năm trời. Nàng bù lu bù loa, tạo ra một hoạt cảnh ồn ào là làm sao em có thể sống mà không có chúng? Tôi bèn cho nàng công việc làm quản gia vậy.

Tôi lạnh lùng nói:

- Đấy có lẽ là điều tồi tệ nhất mà tôi từng được nghe.

Đôi mắt xanh dương rực lên trong một lúc. Nhưng rồi ông mỉm cười và nói:

- Tôi đoán là nó có vẻ như thế. Nhưng anh hãy đặt mình vào địa vị của tôi. Tôi thích có con cái quanh mình. Tại sao mà người bố lại không bao giờ được giữ con khi ly dị. Sao lại vô lý như thế? Chú mày có biết rằng đàn ông không bao giờ bình phục nổi từ chuyện đó? Và trước nay họ vẫn phải chịu đựng chuyện đó. Còn ta đếch chịu như vậy. Ta giữ lại con và tục huyền liền tuýt xuỵt. Và khi bà vợ mới bắt đầu giở quẻ, ta hô biến.

Tôi nói, hơi trầm ngâm:

- Thế còn bọn trẻ? Bọn chúng cảm nhận thế nào về việc mẹ chúng thành một nữ quản gia?

Đôi mắt xanh dương lại ánh lên:

- Ồ có gì đâu. Tôi đâu có hạ thấp bà ấy. Bà chỉ là quản gia trong thoả ước riêng giữa chúng tôi mà thôi; bề ngoài bà ấy giống như một gia sư tự do hơn. Nghe này, tôi có nghĩ đến việc cho bà ấy nhiều tiền hơn, mua cho bà ấy một căn nhà và cho bà ấy được độc lập hơn. Nhưng bà ta là một cái âm đ*o choáng váng giống như tất cả đàn bà trên thế gian này. Bà ta lại sẽ buông tuồng phóng túng như cũ, và sẽ lại gây rắc rối cho tôi trong khi tôi cần dành tất cả tâm lực cho những quyển sách của mình. Vì thế, tôi phải dùng tiền để khiển. Bà ta sống phong lưu sung túc là nhờ tôi. Và bà ta biết là nếu đi chệch hướng, lạng quạng là sẽ phải cạp đất mà ăn. Tuy là hạ sách nhưng xem ra lại được việc đấy!

- Có thể nào ông lại là người chống phụ nữ? - tôi cười cười hỏi.

Ông phá ra cười:

- Chú mày nói điều đó với một người đã từng bốn lần lên xe hoa như ta ấy à? Làm sao phủ nhận điều ấy. Nhưng được rồi. Theo một nghĩa nào đấy thì ta thực sự chống Phong trào giải phóng phụ nữ. Bởi vì bây giờ phần lớn chị em ta rất ư là nhảm nhí. Có lẽ không phải lỗi tại họ. Nghe này, bất cứ người nữ nào mà hai ngày còn lơ là chuyện phất cờ thì ta hãy tránh xa ra! Trừ phi là nàng ta phải vào bệnh viện trong một chiếc xe tải thương. Ngay cả khi nàng còn mang đến bốn mươi mũi khâu trong âm đ*o? Ta đếch cần biết nàng thấy sướng hay không thấy sướng! Có khi chính ta cũng đếch thấy sướng nhưng phải ra quân với đấu pháp "bóng đá tổng lực", liên tiếp tràn lên uy hiếp khung thành đối phương và sút rất căng nhưng rồi lại sút dội xà ngang khung thành để rồi đành nằm lăn trên sân cỏ, thở le lưỡi? Bởi đó là bổn phận tối thiêng liêng của thằng đàn ông; nếu như hắn yêu em nào thì hắn phải quật nhào em đó cho hết biết trời đất, quên cả họ tên! Cùng nhau phóng ào ào vào siêu xa lộ tình ái? Ôi lạy Chúa! Con không biết tại sao con vẫn cứ tiếp tục lấy vợ! Con đã thề con sẽ không làm thế nữa, vậy mà rồi con cứ bị dính chấu! Rõ khổ! Lấy vợ rồi lại bỏ vợ. Bỏ vợ để rồi lại lấy vợ. Thật là cái vòng lẩn quẩn vô nghĩa!

- Với sự điều kiện hoá thích hợp, ông không nghĩ là đàn bà có thể trở nên đồng đẳng và bình đẳng?

Osano lắc đầu:

- Họ quên rằng họ già nhanh hơn đàn ông. Một anh chàng năm mươi tuổi vẫn có khả năng tóm thâu không biết mấy em. Một phụ nữ năm mươi muốn ngốn trai tơ coi bộ hơi bị khó! Nhưng khi nào họ nắm được dây cương quyền lực thì chưa biết thế nào. Có thể họ sẽ thông qua những đạo luật để bình đẳng hoá mọi sự giữa đàn ông và đàn bà. Nền dân chủ của chúng ta vận hành như thế đấy. Chuyện đó thì cũng nhảm. Nghe đây, đàn bà biết rõ chuyện đó lắm. Họ chẳng nên than phiền. Ngày xưa họ chẳng biết là họ có quyền tổ chức công đoàn để đoàn kết đấu tranh cho nữ quyền đâu. Vậy mà họ đâu có thể bị sa thải dầu cho họ làm việc có bết bát đến như thế nào. Bết bát trên giường. Bết bát trong nhà bếp. Và thử hỏi có ai còn thấy hứng thú với vợ sau vài ba năm? Nếu như anh ta còn thấy hứng thú, thì nàng quả là một cái âm đ*o mạ vàng rất quý hiếm đấy! Vậy mà giờ đây bọn họ còn đòi bình đẳng nữa! Hãy để tôi đối phó với họ. Sẽ cho họ thứ bình đẳng mà họ muốn. Tôi biết tôi đang nói gì chứ; tôi đã từng lấy vợ bốn lần rồi mà. Và mỗi lần đều là một bài học nhớ đời.

Ngày đó Osano thực sự ghét đàn bà. Một tháng sau, tôi cầm một tờ báo hàng ngày lên và đọc thấy tin ông ta lấy vợ lần thứ năm. Một nữ diễn viên trong một nhóm kịch nhỏ, độ bằng nửa số tuổi ông ta. Ấy, cái lương thức của nhà văn lỗi lạc nhất nước Mỹ biểu thị ra như thế đấy.

Tôi chưa từng bao giờ mơ tưởng rằng một ngày nào mình sẽ làm việc cho ông ta và sống cùng ông ta cho đến khi ông chết, là một chàng độc thân kỳ diệu nhưng vẫn yêu đàn bà.

Ngày ấy, tôi nắm bắt điều đó qua bao nhiêu chuyện vô nghĩa. Ông ta điên rồ với đàn bà. Đó là điểm yếu của ông và ông ghét cay ghét đắng cái điểm yếu đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Cuối cùng tôi cũng chuẩn bị chuyến hành trình đến Las Vegas để gặp lại Cully. Đó sẽ là cuộc tái ngộ đầu tiên sau hơn ba năm, ba năm kể từ khi Jordan tự làm vỡ toang óc trong phòng mình - một người vừa mới thắng được bốn trăm ngàn đô-la.

Chúng tôi vẫn giữ liên lạc với nhau, Cully và tôi. Mỗi tháng anh vẫn gọi điện cho tôi vài lần và hàng năm anh vẫn gửi quà Giáng Sinh cho tôi cùng vợ con tôi, những món tôi nhận ra là đến từ cửa hàng lưu niệm của Xanadu Hotel, nơi tôi biết anh có thể mua được chúng với giá "nội bộ", hoặc ngay cả không phải tốn đồng nào. Nhưng dầu sao anh cũng khả ái và chu đáo khi làm điều đó với chúng tôi. Tôi đã kể với Vallie về Cully nhưng không bao giờ cho nàng biết về Jordan.

Tôi biết Cully đang giữ vị trí khá ngon lành nơi khách sạn bởi vì cô thư ký của anh ta trả lời điện thoại nhân danh ông Chủ tịch. Và tôi tự hỏi không biết làm thế nào chỉ trong vòng vài ba năm mà anh ta đã leo cao đến thế?

Giọng nói của anh qua điện thoại và cung cách giọng nói của anh đã thay đổi; anh nói giọng trầm, thành thật, lịch sự, nồng ấm hơn. Một diễn viên đang vào một vai khác.

Điện đàm phần lớn là những cuộc tán gẫu lan man về những tay thắng lớn và những tay thua lớn, và những chuyện tếu về những nhân vật đang ở khách sạn. Nhưng không bao giờ anh nói lời nào về mình. Cuối cùng một trong hai người chúng tôi sẽ nhắc đến Jordan, thường là vào cuối cuộc gọi, hoặc có thể việc nhắc đến Jordan sẽ kết thúc cuộc gọi. Anh ấy là viên đá thử của chúng tôi.

Vallie sửa soạn vali cho tôi tôi sắp qua kì nghỉ cuối tuần, như vậy tôi sẽ chỉ mất một ngày làm việc ở cơ quan. Và trong một tương lai xa hơn, mà tôi đã đánh hơi ra, việc cộng tác với tạp chí sẽ tạo cho tôi vỏ bọc đối với bọn cớm, về lý do tại sao tôi đi Vegas.

Bọn trẻ còn ngủ trong khi Vallie sửa soạn hành lý cho tôi vì tôi sẽ ra đi sớm vào buổi mai. Nàng cười nhẹ với tôi:

- Ôi Trời, lần rồi anh đi sao mà lâu biền biệt. Em đã nghĩ anh sẽ chẳng thèm quay về với mẹ con em nữa rồi đấy.

- Lúc đó anh cần phải trốn đi xa, - tôi nói. - Mọi chuyện lúc ấy cứ càng ngày càng tồi tệ.

- Nhưng, từ đó mọi chuyện đã thay đổi, - Vallie nói, vẻ trầm ngâm. - Ba năm trước, vợ chồng mình nghèo rớt mồng tơi, có những lúc thật quẫn bách. Ôi chao, em nhớ nhiều khi em phải chạy về xin bố mẹ ít tiền mà còn phải giấu, sợ mình la. Còn mình làm như thể là mình chẳng còn yêu em nữa.

Nhưng cuộc du hành đó đã thay đổi mọi sự. Anh khác hẳn khi anh trở về. Anh không còn cáu kỉnh với con cái. Rồi anh lại được thêm việc làm với các tạp chí nữa.

Tôi cười với nàng:

- Hãy nhớ là anh trở về với tư cách kẻ thắng. Thêm được mấy ngàn đô. Biết đâu nếu như anh trở về với tư cách kẻ thua thì có lẽ là một câu chuyện khác.

Vallie đóng vali lại.

- Không, - nàng nói. - Anh khác hẳn. Anh hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn với em và với đám nhóc.

- Anh đã thấy ra cái gì mình thiếu.

- Ờ phải rồi, - Nàng nói. - Thế còn bao nhiêu những ả nõn nà của Las Vegas để đâu?

- Anh chẳng để ý đến. Lúc đó anh chỉ dồn tiền đánh bài để mong kiếm chác thôi.

Toàn là chuyện đùa tếu, nhưng cũng có phần nào nghiêm chỉnh. Nếu tôi nói sự thật với nàng, rằng tôi chẳng bao giờ nhìn người phụ nữ nào khác, có lẽ nàng sẽ chẳng tin tôi đâu. Nhưng tôi có thể nêu ra những lý do nào đấy.

Cảm thấy mình thật có tội về việc mình là một người chồng và người cha kém cỏỉ, chẳng lo nổi cho gia đình, không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho vợ con, nên tôi không dám chất chồng thêm vào đó cái tội phản bội nàng.

Và sự kiện nổi bật đó là chúng tôi quá "hợp rơ" với nhau trên giường? Nàng đúng là đối tượng luyến ái hoàn hảo của tôi. Còn tôi tự nghĩ mình chính là người trong mộng của nàng?

- Tối nay mình có làm việc không? - nàng hỏi.

Thực ra là nàng muốn biết chúng tôi sắp làm tình với nhau không để nàng chuẩn bị sẵn sàng ứng chiến.

Rồi sau cuộc ái ân, thường thì tôi sẽ dậy ngồi vào bàn viết, còn nàng chìm sâu vào giấc ngủ êm đềm, thoả mãn, thẳng một giấc tới sáng. Một giấc ngủ ngon tôi rất thèm nhưng hiếm khi có được.

- Có, - tôi nói. - Anh muốn làm việc. Với lại anh quá khích động về chuyến đi nên cũng khó ngủ được lắm.

Lúc đó gần nửa đêm. Nàng đi vào nhà bếp, đun cho tôi một ấm cà phê mới và chuẩn bị vài miếng sandwiches.

Tôi sẽ làm việc đến ba bốn giờ sáng rồi chợp mắt một lát để sau đó cùng thức dậy với nàng vào sáng mai.

Điều tệ hại nhất đối với một nhà văn, ít ra là đối với tôi khi tôi làm việc tốt, nảy sinh chứng mất ngủ. Nằm trên giường nhưng tôi không bao giờ có thể tắt đi cái cơ hành vận chuyển của óc não cứ tiếp tục nghĩ về quyển tiểu thuyết đang hình thành. Trong bóng đêm, những nhân vật hiện ra với tôi sống thực đến độ tôi quên cả vợ con và đời sống thường ngày. Nhưng đêm nay tôi có một lý do kém phần văn nghệ hơn. Tôi muốn Vallie đi ngủ để tôi có thể lấy ra cái bó lớn số tiền hối lộ từ chỗ cất giấu.

Từ cái tủ quần áo trong phòng ngủ, lục lọi sâu vào góc khuất nhất, tôi lấy ra cái áo jaket "Las Vegas Winner" và mang nó vào phòng ăn. Từ lúc ở Las Vegas về nhà đã ba năm nay, tôi chưa hề mặc lại chiếc áo này. Những màu sắc chói sáng rực rỡ của nó đã phai mờ đi nhiều trong bóng tối của tủ quần áo, nhưng nó vẫn còn khá sặc sỡ. Tôi khoác chiếc áo đó lên người và đi vào phòng ăn.

Vallie liếc nhìn cái áo và nói:

- Merlyn, anh đừng mặc cái áo lố lăng ấy.

- Chiếc jacket may mắn của anh mà, - tôi nói. - Với lại, đi máy bay mà mặc áo này cũng thuận tiện.

Tôi biết nàng đã giấu cái áo đó sâu trong tủ để tôi đừng thấy nó và không bao giờ nghĩ đến việc mặc nó. Nàng không dám ném nó đi. Bây giờ đúng là lúc cái áo jacket trở nên thật có ích cho tôi.

Vallie thở ra:

- Anh mê tín quá.

Nàng lầm. Tôi chẳng mê tín mấy đâu ngay dù tôi từng nghĩ rằng mình là một pháp sư và thực sự không phải là cùng một thứ.

Sau khi Vallie hôn tôi để đi ngủ, tôi uống ít cà phê và nhìn lướt qua bản thảo mà tôi lấy ra từ bàn giấy của tôi để ở phòng ngủ. Tôi dành gần một giờ để biên tập lại.

Sau đó tôi đi vào phòng ngủ và thấy Vallie đang ngủ say.

Tôi hôn nàng thật nhẹ. Nàng không động đậy. Giờ đây tôi thấy việc nàng hôn chúc tôi ngủ ngon thật đáng yêu.

Một nụ hôn chất phác, chân thật của một người vợ hiền; dường như nụ hôn đó bảo bọc cho chúng tôi lánh xa mọi nỗi cô đơn và phản bội của thế giới bên ngoài. Và thường khi lúc nằm trên giường trong những giờ sáng sớm, khi Vallie còn say ngủ và tôi lại không ngủ được, tôi sẽ hôn nàng nhẹ lên môi, hi vọng nàng sẽ thức giấc để làm tôi bớt cô đơn bằng cách ân ái với nhau. Nhưng lần này tôi ý thức rằng mình đã trao nàng nụ hôn của tên Judas phản bội, chỉ một phần là do lòng yêu mến, còn thực sự là để chắc rằng nàng sẽ không thức giấc khi tôi lục lọi để lấy ra số tiền tôi giấu nàng.

Tôi khép cánh cửa phòng ngủ rồi đi đến cái tủ lớn trong đó có cái hòm thật bự đựng đầy bản thảo cũ của tôi, các bản sao cuốn tiểu thuyết và bản thảo gốc của quyển sách tôi đã mất cả năm năm trời để viết và đã mang lại cho tôi được vỏn vẹn ba ngàn đô-la. Cả một đống hổ lốn những giấy tờ lung tung mà tôi từng nghĩ sẽ làm cho mình trở nên giàu có, danh tiếng và được trọng vọng. Tôi đào xuống đến cái cặp bìa màu đỏ được ràng lại bằng dây thun. Lôi nó ra và mang vào nhà bếp. Vừa nhâm nhi cà phê, tôi vừa đếm tiền. Hơn bốn mươi ngàn đô. Mấy lúc gần đây tiền bạc đã chảy vào túi tôi rất nhanh. Tôi đã trở thành "sao" trong số những kẻ ăn hối lộ, với những khách hàng giàu có, tin cậy. Những tờ hai mươi đô, khoảng bảy ngàn đô-la bằng tờ trăm, tôi bỏ vào trong năm phong bì dài mà tôi đã mang đến từ bàn giấy của mình. Rồi tôi nhét những phong bì đầy tiền đó vào những cái túi khác nhau của chiếc áo jacket Vegas Winner. Tôi kéo phéc-mơ-tuya các túi áo và treo áo vào lưng dựa của chiếc ghế tôi ngồi.

Trong buổi sáng, khi Vallie ôm tôi để tạm biệt, có lẽ nàng sẽ thấy có cái gì đó cồm cộm nơi mấy túi áo nhưng tôi sẽ nói với nàng đó là những bản thảo cho các bài báo mà tôi mang theo tới Vegas.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Khi tôi ra khỏi máy bay, Cully đang đợi tôi ở cửa trạm đến. Sân bay thuở đó còn nhỏ nên từ máy bay xuống tôi phải đi bộ. Người ta đang tiến hành xây dựng một cánh khác cho trạm đến - Vegas đang tăng trưởng.

Và Cully cũng thế!

Trông anh ta khác lạ đi nhiều, cao hơn và thon thả hơn. Và anh ta ăn mặc bảnh bao thanh nhã với bộ comple Sy Devore và áo sơ mi loại thể thao. Tóc cũng cắt theo kiểu khác. Tôi ngạc nhiên khi anh ôm chặt tôi và nói:

- Vẫn là Merlyn thuở xưa. - Anh cười khi thấy tôi mặc cái áo jacket Vegas Winner và bảo tôi nên vứt nó đi.

Đến khách sạn, anh dành một phòng lớn cho tôi với một quầy bar đầy rượu và hoa trên bàn:

- Chắc là anh đang phấn phát lắm, phải không? - Tôi nói.

- Ừ, thì cũng gọi là đang ăn nên làm ra, - Cully nói. - Mình đã hết mê bài bạc rồi. Mình đứng phía bên kia của các bàn chơi bài. Cậu biết đấy.

- Vâng, - tôi nói.

Giờ đây tôi thấy Cully quả có hơi buồn cười bởi dường như anh đã là một con người khác hẩn. Tôi không biết có nên theo đuổi tiếp kế hoạch ban đầu của mình và uỷ thác cho anh hay không. Trong ba năm, một con người có thể thay đổi. Và xét cho cùng, chúng tôi cũng chỉ biết nhau có vài tuần.

Nhưng khi chúng tôi ngồi uống chung với nhau, anh nói rất chân thành:

- Này nhóc, mình thực sự rất vui khi gặp lại cậu - Cậu có bao giờ nghĩ về Jordan không?

- Thường xuyên, - tôi nói.

- Tội nghiệp Jordan, - Cully nói. - Anh ấy bỏ đi trong khi vừa mới thắng được cả bốn trăm ngàn đô. Chính sự kiện đó đã làm tôi bỏ ham mê cờ bạc. Và cậu biết không, từ lúc anh ấy mất đến nay, mình lại gặp hên kinh khủng. Nếu mình đi đúng nước cờ thì có lẽ kết cuộc mình sẽ là nhân vật "thượng đỉnh" của khách sạn này.

- Cậu có hoang tưởng chăng? - tôi nói. - Còn ông Gronevelt để đâu?

- Mình là con cưng số một của ông ấy, - Cully nói. - Ông ấy hoàn toàn tín nhiệm mình. Ông ấy tin tưởng mình như mình tin tưởng cậu vậy. Khi đến chỗ ấy, thì mình có thể dùng một phụ tá. Bất cứ khi nào bạn muốn dời gia đình về Vegas, bạn cũng sẽ có được việc làm tốt với mình.

- Cám ơn, - tôi nói.

Tôi thật sự xúc động. Cùng lúc tôi thắc mắc về cảm tình mà anh dành cho tôi. Tôi đã biết anh không phải là người dễ bận tâm đến người khác. Tôi nói:

- Về việc làm thì chưa thể trả lời cho anh ngay từ bây giờ. Nhưng tôi đến đây để thỉnh cầu anh một ân huệ. Nếu như anh không thể thì tôi sẽ thông cảm thôi. Xin cứ nói thẳng và dù câu trả lời thế nào đi nữa, chúng ta cũng vẫn sẽ có ít ra là vài ba ngày vui vẻ bên nhau.

- Mình hứa sẽ làm cho cậu, Cully nói. - Bất kỳ chuyện gì.

Tôi cười:

- Hẵng đợi đến khi bạn nghe đã, - tôi nói.

Trong một lúc Cully có vẻ nổi sùng:

- Mình đếch có thắc mắc đó là chuyện gì. Mình hứa chắc. Nếu chuyện mình làm được, dứt khoát mình sẽ làm cho cậu.

Tôi nói thật với anh về toàn bộ chiến dịch hối lộ. Rằng tôi đã "vồ" được một mớ nhắm kha khá, hiện đang cất trong túi áo jacket và cần phải tìm chỗ "giếm" kỹ, đề phòng trường hợp lỡ may toàn bộ chiến dịch này bị bể mánh.

Cully nghe một cách chăm chú, quan sát nét mặt tôi. Cuối cùng anh ta cười toét miệng.

- Anh cười cái quái gì? - tôi gắt anh ta.

Cully lại cười:

- Cậu có giọng giống như một kẻ đang xưng tội với ông cố đạo rằng hắn ta đã giết người. Nhảm, chuyện cậu đang làm thì thằng đếch nào mà chẳng làm nếu như hắn có cơ hội. Nhưng tôi phải thú nhận là mình có hơi ngạc nhiên đấy. Mình không thể hình dung ra cái cảnh cậu bảo một anh chàng nào đấy rằng chàng ta phải nộp một khoản tiền mãi lộ.

Tôi có thể cảm nhận khuôn mặt mình đang đỏ nhừ lên.

- Tôi không hề đòi hỏi cậu trai nào phải xì tiền ra cả, - tôi nói. - Luôn luôn là họ tự nguyện đến. Và không bao giờ tôi lấy tiền trước. Sau khi tôi làm được việc cho họ thì họ có thể trả cho tôi khoản đã hứa, hoặc họ có thể chơi tình vờ "quăng cho tôi cục lơ" thì tôi vẫn tỉnh bơ chứ chẳng hề nghĩ chuyện làm hại họ. - Tôi cười với anh. - Tôi chỉ khều nhẹ chứ không móc ngoặc

- Chú mày còn non hột lắm, - Cully nói. - Trước tiên, ta nghĩ chú lo lắng hơi quá mức cần thiết. Chuyện này hình như là loại tác vụ còn có thể tiếp tục đến vô cùng tận. Và ngay cả nếu như có "bể mánh" đi nữa thì điều tệ hại nhất có thể xảy đến cho cậu đó là cậu sẽ mất việc và bị một án treo. Nhưng cậu có lý ở chỗ phải "ém quân" vào nơi an toàn. Đám nhân viên FBI đó là lũ chó săn thực sự thiện chiến và khi chúng tìm được, chúng sẽ ẵm trọn gói và thế là cậu công cốc.

Tôi hứng thú với những gì anh nói, nhất là phần đầu. Một trong những cơn ác mộng là tôi sẽ đi tù và Vallie với lũ trẻ sẽ không có tôi bên cạnh. Đó là lý do tại sao tôi đã giữ mọi chuyện này không cho vợ mình hay. Tôi không muốn nàng lo lắng. Với lại tôi cũng không muốn nàng nghĩ xấu về tôi. Nàng vẫn mang hình tượng của tôi như là một nghệ sĩ thuần khiết, không bị làm hỏng bởi những toan tính mưu lợi tầm thường.

- Điều gì khiến anh nghĩ là tôi không đi tù nếu tôi bị phát hiện? - tôi hỏi Cully.

- Đó đâu phải là trọng tội, - Cully nói. - Xem nào, cậu đâu có cướp nhà băng hay bắn giết một ông chủ tiệm nào hay lừa đảo một goá phụ giàu có, khát tình nào. Cậu chỉ nhận tiền từ những chàng trai đang tìm cách chạy chọt đút lót để giảm bớt thời gian thi hành nghĩa vụ quân sự. Ôi trời đó quả là một mưu đồ gian lận khó tin. Những chàng trai tốn tiền để được vào quân đội. Sẽ không ai tin nổi chuyện đó. Hội thẩm đoàn sẽ cười đến đau bụng mất.

- Đúng vậy, chính tôi cũng thấy sao mà oái ăm thật! - tôi nói.

Cully bỗng đột ngột trở lại vẻ làm ăn nghiêm chỉnh.

- Được rồi, cậu nói cho mình biết cậu muốn mình làm gì bây giờ. Cứ nói, mình làm ngay thôi. Và nếu bọn Liên bang tóm cậu, hãy hứa rằng cậu sẽ gọi cho mình ngay. Mình sẽ gỡ cậu ra. OK?

Anh cười với tôi, thật thân thiết, Tôi cho anh biết kế hoạch của tôi. Rằng sẽ đổi số tiền mặt của tôi thành những con phỉnh, mỗi lần một ngàn đô-la và đánh bạc nhưng đánh cò con thôi. Tôi sẽ làm điều đó trong mọi casino ở Vegas và rồi khi tôi đem các con phỉnh đổi lại tiền, chỉ lấy một biên nhận, để tiền lại phòng thủ quỹ như để dành đánh bạc. FBI sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nhìn vào các casino. Và các biên lai tiền mặt tôi có thể gửi Cully và lấy bất cứ khi nào tôi cần tiền.

Cully mỉm cười:

- Tại sao cậu không để cho mình giữ tiền mặt cho cậu? Cậu không tin mình sao?

Biết anh đùa, nhưng tôi xử lý tình huống một cách nghiêm chỉnh:

- Tôi đã nghĩ về chuyện đó, - tôi nói. - Nhưng sẽ như thế nào nếu có chuyện gì xảy ra cho anh? Chẳng hạn một vụ rơi máy bay. Hay bỗng dưng anh trở chứng lên cơn ghiền cờ bạc trở lại? Hiện nay thì tôi tin anh. Nhưng tôi làm sao biết được anh sẽ không lên cơn bất tử vào ngày mai hay năm tới.

Cully gật đầu tỏ ý tán đồng. Rồi anh hỏi:

- Còn anh Artie của cậu thì sao? Anh ấy không giữ tiền cho cậu được à?

- Tôi không thể yêu cầu anh ấy làm việc này cho mình được, - tôi nói.

Cully lại gật đầu:

- Ừ, mình đoán cậu không thể. Anh ấy quá chân thực, đúng không?

- Vâng, - tôi nói. Tôi không muốn giải thích cặn kẽ cảm nghĩ của tôi về việc đó. - Anh thấy kế hoạch của tôi có gì chưa ổn? Anh nghĩ kế hoạch đó có khả thi?

Cully đứng lên và bắt đầu đi lại trong phòng:

- Không tệ, - anh nói. - Nhưng không nên có thẻ tín dụng trong mọi casino. Chuyện ấy có vẻ đáng ngờ lắm. Nhất là tiền bạc nằm ở đó thời gian lâu. Như thế đầy vẻ ám muội. Thường người ta chỉ để tiền lại ở phòng thủ quỹ cho đến khi họ đánh thua hết hoặc họ rời Vegas. Cậu hãy làm như thế này. Mua những con phỉnh ở tất cả các casino và đưa vào phòng thủ quỹ ở đây. Canh chừng, cứ ba hay bốn lần mỗi ngày đổi ra tiền mặt lấy vài ngàn và lấy một biên nhận. Như vậy, mọi biên lai tiền mặt của cậu sẽ trả ở phòng thủ quỹ của chúng tôi. Rồi nếu bọn Liên bang thọc mũi vào hay viết thư hỏi khách sạn, đều phải qua tôi. Và tôi sẽ bao che cho cậu.

Tôi lo lắng cho anh:

- Chuyện đó có đưa anh vào rắc rối không? - tôi hỏi anh.

Cully thở ra, vẻ nhẫn nhịn:

- Mình vẫn làm trò đó hoài. Vẫn bị điều tra từ Cục Thuế thu nhập. Về chuyện những người đã thua bạc hết bao nhiêu. Mình gửi những hồ sơ cũ cho họ. Chẳng có cách nào họ truy mình được. Mình sẽ làm cho những hồ sơ trở nên vô hiệu khi họ điều tra.

- Lạy Chúa! - tôi nói. - Tôi không muốn hồ sơ gửi tiền của tôi biến đi. Tôi sẽ không thể thu lại tiền từ những biên nhận của tôi.

Cully cười:

- Ồ Merlyn, - anh nói. - Cậu đúng là một thằng ăn hối lộ tay mơ. Bọn Liên bang không đến đây với một băng kiểm toán vì cậu đâu. Chúng chỉ gửi một bức thư hoặc một trát đòi hầu toà. Nhân dây, cũng xin nói là chúng chẳng nghĩ đến làm chuyện đó đâu. Hoặc chúng ta hãy nhìn vấn đề theo cách khác. Nếu bạn tiêu tiền hơi vung tay quá trán một tí và chúng phát hiện thu nhập của bạn vượt quá những gì bạn kiếm được một cách công khai, thì bạn có thể nói là bạn được bạc. Họ không thể chứng minh điều khác.

- Và tôi cũng không chứng minh được điều tôi làm, - tôi thắc mắc.

- Được chứ sao không, - Cully nói. - Tôi sẽ làm chứng cho cậu, cùng với người chủ sòng và người hồ lì. Rằng cậu đã hên lạ lùng với con xúc xắc. Vậy thì đừng lo lắng gì về chuyện phải đối phó khi có vấn đề. Chuyện gay nhất của cậu là giấu những biên nhận của thủ quỹ casino ở đâu.

Cả hai chúng tôi nghĩ về chuyện đó một lát. Rồi Cully tìm thấy giải pháp:

- Cậu có luật sư không? - anh hỏi.

- Không. Nhưng anh Artie của tôi có người bạn là luật sư, - Vậy thì cậu hãy thảo một chúc thư, - Cully nói.

- Trong chúc thư đó, hãy nêu là có ký thác tiền mặt ở khách sạn này với tổng số ba mươi ba ngàn đô-la và cậu để lại số tiền đó cho vợ cậu. À này, khỏi phải nghĩ đến tay luật sư của anh cậu nữa. Chúng ta sẽ dùng một luật sư mà tôi biết, ở Vegas đây, chỗ thân tín. Rồi luật sư sẽ gửi bản copy chúc thư của cậu cho Artie trong một phong bì được niêm phong đúng thủ tục pháp lý. - Bảo Artie đừng mở ra. Như vậy anh ta sẽ không biết gì và sẽ không gặp rắc rối. Cậu chỉ cần bảo anh rằng đừng mở phong bì mà cứ cất giữ giùm cho cậu. Luật sư cũng sẽ gửi một bức thư theo mục đích đó. Như vậy Artie sẽ không có chuyện gì. Và anh ấy cũng sẽ không biết gì. Cậu chỉ việc phịa ra một câu chuyện để giải thích tại sao cậu muốn anh ấy giữ chúc thư.

- Artie sẽ không đòi tôi kể chuyện đâu, tôi nói. - Anh ấy sẽ làm và không bao giờ đặt câu hỏi.

- Cậu thật có phước mới được một người anh tốt như vậy, - Cully nói. - Nhưng giờ đây cậu làm gì với các tờ biên nhận? Bọn Liên bang sẽ đánh hơi ra cả một căn hầm nhà băng nếu thấy cậu có một tờ. Tại sao cậu không chôn vùi chúng trong đống bản thảo cũ như cậu đã làm với tiền mặt. Ngay cả nếu chúng điều tra lục lọi, chúng cũng sẽ không bao giờ để ý đến ba thứ giấy tờ linh tinh đó đâu!

- Tôi không thể chơi trò may rủi đó! - tôi nói. - Cho tôi được lo lắng về các tờ biên nhận. Điều gì xảy ra nếu tôi đánh mất chúng?

Cully không nắm bắt được hay cố tình làm như vậy.

- Chúng tôi có ghi lại trong hồ sơ, - anh nói. - Chúng tôi chỉ bắt cậu ký một tờ giấy xác nhận rằng cậu đã đánh mất các tờ biên nhận khi cậu nhận tiền.

Cậu chỉ phải ký khi nhận tiền mà thôi.

Tất nhiên anh biết tôi sắp làm gì. Rằng tôi sẽ xé các tờ biên nhận nhưng không nói cho anh để anh không bao giờ có thể biết chắc, để anh không có thể làm rối tung lên với những hồ sơ lưu trữ của casino còn nợ tiền tôi. Có nghĩa là tôi không tin anh hoàn toàn, nhưng anh vẫn dễ dàng chấp nhận điều này.

Cully nói:

- Mình đã đặt một bữa tối linh đình cho cậu với vài người bạn nữa. Hai trong số những cô nàng xinh gái nhất trong đám trình diễn các sô tạp kỹ hấp dẫn.

- Phần tôi, xin kiếu các nàng, - tôi nói.

Cully ngạc nhiên:

- Ối giời, bộ cậu chưa chán với việc phải khoan mãi một lỗ trong bao nhiêu năm?

- Không, - tôi nói. - Tôi chưa chán.

- Cậu nghĩ mình sẽ suốt đời trung thành, làm một "tiết phu trọn đạo" thờ Bà?

- Thưa anh, đúng thế ạ, - tôi nói, cười lớn.

Cully lắc đầu cười xoà vì không ngờ gặp được một thằng đại ngốc hiếm thấy trong đời như tôi.

- Vậy thì cậu đích thị là pháp sư Merlyn rồi.

- Chính tôi đấy, - tôi nói.

Thế là chúng tôi cùng đi ăn tối, nhưng chỉ có hai người. Và rồi Cully đi lòng vòng với tôi tới mọi casino ở Las Vegas trong lúc tôi mua các con phỉnh trị giá hàng ngàn đô-la. Cái áo jacket Vegas Winner thật là đắc dụng.

Tại các casino chúng tôi cụng ly với các chủ sòng các tay quản lý và các em trình diễn sô. Họ đều đối xử với Cully bằng sự trọng thị đúng mức và đều có những truyện hay để kể về Vegas. Thật vui.

Khi quay về Xanadu, tôi đưa các con phỉnh vào phòng thủ quỹ và lấy một biên nhận cho mười lăm ngàn đô-la. Tôi cất kỹ nó vào ví. Cả đêm tôi chưa đánh tiếng bạc nào. Cully đang đeo sát tôi.

- Mình phải chơi chút ít, - tôi nói.

Cully cười kiểu móc ngoặc:

- Tất nhiên là cậu làm thế rồi. Cứ chơi đi. Nhưng ngay khi nào cậu thua đến năm trăm đô-la, là tớ bẻ tay cậu tức khắc đấy, Tại bàn chơi crap tôi rút ra năm tờ một trăm đô-la và đổi chúng thành những con phỉnh. Tôi đánh cá năm đô-la cho tất cả các con số. Tôi thắng và thua. Tôi chuyển sang cách chơi cờ bạc cũ của tôi đi từ crap đến blackjack và roulette. Cách chơi nhẹ nhàng, dễ dàng, đánh cá nhỏ, ăn thua theo mức độ cò con. Đến một giờ sáng, tôi thọc tay vào túi và lấy ra hai ngàn đô-la để mua phỉnh. Cully không nói gì.

Tôi bỏ mấy con phỉnh vào túi áo jacket và đi đến phòng thủ quỹ và đổi chúng thành biên lai tiền mặt khác.

Cully đang đứng tựa vào một cái bàn crap bỏ trống, nhìn tôi. Anh gật đầu, đồng ý:

- Thế là cậu đã rửa được chúng, - anh nói.

- Pháp sư Merlyn mà, - tôi nói. - Đâu phải là tay cờ bạc nhếch nhác, thoái hoá.

Và đúng thế. Tôi chẳng hề cảm thấy bị kích động như trước kia. Không có gì thôi thúc tôi phải chơi liều. Tôi đã có đủ tiền để mua cho gia đình một căn nhà và tài khoản ngân hàng cho những việc khẩn cấp. Tôi có những nguồn thu nhập dồi dào. Tôi đang hạnh phúc. Tôi yêu vợ và đang viết một quyển tiểu thuyết. Đánh bạc cũng vui đấy nhưng chỉ thế thôi. Nguyên cả buổi tối hôm ấy tôi chỉ thua mất hai trăm đô.

Cully kéo tôi vào shop cà phê để dùng hamburger và sữa.

- Mình phải làm việc ban ngày, - anh ta nói - Mình có thể tin là cậu không đánh bài chứ?

- Đừng lo, - tôi nói. - Tôi còn bận rộn để đổi tiền mặt ra phỉnh khắp cả thành phố. Tôi sẽ giảm xuống mức mua con phỉnh năm trăm đô-la thôi để bớt bị chú ý.

- Ý nghĩ hay, - Cully nói. - Thành phố này có nhiều nhân viên FBI hơn là thương gia đấy.

Anh ngừng một lát:

- Cậu chắc là mình không muốn có một em để ngủ? Tôi có vài cô xinh ra phết. - Anh nhấc một trong những điện thoại nội bộ ở quầy điện thoại.

- Tôi mệt quá, - tôi nói.

Và đúng thế. Ở đây, tại Las Vegas, dang là hơn 1 giờ sáng, nhưng ở New York hiện là 4 giờ sáng, và tôi vẫn còn theo "đồng hồ sinh học" của New York.

- Nếu cậu cần gì, cứ việc đến văn phòng của mình, - anh nói. - Ngay cả chuyện cậu cần tán gẫu để giết thì giờ.

- OK, nếu cần tôi sẽ đến.

Ngày hôm sau, gần trưa tôi mới dậy và gọi điện thoại cho Vallie. Không có tiếng trả lời. Lúc đó là 3 giờ chiều ở New York, và là chiều thứ bảy. Có lẽ Vallie đã đem bọn nhóc về nhà cha mẹ nàng ở Long Island. Vì thế tôi gọi về đó và gặp bố nàng. Cụ hỏi mấy câu thăm dò có vẻ nghi ngờ về chuyện tôi đang làm gì ở Vegas. Tôi giải thích là tôi đang đi tham quan thực địa để lấy tài liệu viết một bài báo. Cụ không tỏ ra dễ bị thuyết phục và cuối cùng Vallie đến điện thoại. Tôi bảo sẽ kêu taxi từ phi trường về nhà.

Với các lần gọi như thế, chúng tôi thường có những cuộc tán gẫu giữa vợ chồng. Tôi không thích điện thoại.

Tôi biết vào ngày sau nàng cũng ở nhà cha mẹ và tôi không muốn gọi cho nàng ở đó. Và cũng nhận thấy việc nàng và con cái về nhà cha mẹ nàng làm tôi bực. Một sự ganh tị trẻ con. Vallie và lũ nhóc là gia đình của tôi. Họ thuộc về tôi là những người thân thuộc duy nhất mà tôi có trừ Artie. Và tôi không muốn chia sẻ họ với ông bà ngoại. Tôi biết chuyện ấy có vẻ ngở ngẩn, nhưng vẫn sẽ không gọi lại. Vả chăng, cũng chỉ có hai ngày thôi và nàng có thể gọi tôi bất cứ lúc nào.

Tôi dành ngày đó đi khắp các casino ở phố Thoát y vũ và ở khu trung tâm thành phố. Ở đó tôi đổi tiền mặt lấy những con phỉnh trị giá hai hay ba trăm đô. Rồi tôi lại đánh bạc chút ít trước khi di chuyển qua casino khác.

Tôi thích cái nóng khô hanh của Vegas vì thế tôi đi bộ từ casino này đến casino khác. Tôi dùng bữa trưa muộn ở nhà hàng Sands, ngồi kế bên bàn của các nàng "móc câu" đang dùng bữa trước khi đi làm. Họ trẻ trung, xinh đẹp và lạc quan. Vài người mặc quần áo thể thao cưỡi ngựa hay đua xe mô-tô. Họ cười đùa, đấu hót líu lo giống như những cô bé mới lớn. Họ chẳng để ý gì đến tôi, và tôi ăn bữa trưa làm như chẳng để ý gì đến họ. Nhưng tôi cố gắng nghe cuộc đàm thoại của họ. Có một lần tôi nghĩ là nghe được cái tên Cully được nhắc tới.

Tôi kêu taxi trở về Xanadu. Các bác tài taxi ở Vegas rất thân thiện và sẵn sàng giúp đỡ. Bác tài này hỏi tôi cần gì không và tôi nói không, cám ơn. Khi tôi rời xe, bác ta chúc tôi một ngày vui vẻ và cho tôi tên của một nhà hàng đặc sản Trung Quốc.

Trong ca sino của Xanadu, tôi đổi tất cả các con phỉnh thành biên nhận tiền mặt và cất vào ví. Bây giờ tôi có chín biên nhận và chỉ còn hơn khoảng mười ngàn tiền mặt để đổi. Tôi trút hết số tiền mặt còn lại ra khỏi áo jacket Vegas Winner và đưa vào túi một áo jacket thường.

Tất cả đều là tờ một trăm nằm gọn trong hai phong bì.

Rồi vắt chiếc áo Vegas Winner lên cánh tay trái và lên văn phòng của Cully.

Có nguyên một cánh của khách sạn dành cho công tác hành chánh quản trị. Tôi đi theo hành lang và qua dãy văn phòng của Nhà điều hành. Đến một tấm biển gỗ đề "Phụ tá điều hành của Chủ tịch".

Ngồi ở văn phòng phía ngoài là một cô thư ký trẻ rất xinh. Tôi xưng tên và cô báo vào văn phòng phía trong. Cully hiện ra, đến bắt tay và ôm tôi. Cách biểu hiện mới này của anh vẫn còn làm tôi hơi bỡ ngỡ. Nó có vẻ quá phô trương, quá ngoại hướng, không đúng phong cách quen thuộc trước đây giữa chúng tôi. Anh thực sự có một phòng làm việc rất kiểu cách với những ghế bành tay dựa trông bề thế, với ánh sáng dịu và những bức tranh trên tường, tranh sơn dầu bản gốc.

Tôi không biết chúng có tác dụng gì không. Anh cũng có ba màn hình TV đang hiển thị. Một cái hiển thị hành lang khách sạn. Một cái khác hiển thị những bàn crap của casino đang hoạt động. Màn hình thứ ba hiển thị bàn baccarat.

Khi nhìn vào màn hình đầu tiên, tôi thấy một cậu trai mở cửa phòng mình nơi hành lang và dìu cô gái trẻ vào, với bàn tay chàng trên mông nàng.

- Những chương trình tốt hơn mình có ở New York, - tôi nói.

Cully gật đầu.

- Tôi phải để mắt đến mọi thứ trong khách sạn này, - anh nói.

Anh ấn mấy nút nơi hộp điều khiển đặt trên bàn giấy, và ba cảnh trên TV thay đổi. Chúng tôi thấy cảnh bãi đậu xe của khách sạn, một bàn blackjack đang hoạt động và cô thủ quỹ của quán cà phê đang ghi tiền.

Tôi ném cái áo jacket Vegas Winner lên bàn giấy của Cully:

- Bây giờ anh muốn làm gì cái áo ấy thì làm, tôi nói.

Cully nhìn trừng trừng vào cái áo jacket hồi lâu.

Rồi anh nói, vẽ lơ đãng:

- Cậu đã đổi tiền mặt hết chưa?

- Phần lớn. - tôi nói. - Tôi không cần cái áo jacket đó nữa. - Tôi cười. - Vợ tôi cũng ghét nó như anh vậy.

Cully cầm cái áo lên.

- Tôi không ghét nó. - anh nói. - Gronevelt không thích thấy nó lởn vởn quanh đây. Cậu nghĩ điều gì xảy đến cho chiếc áo của Jordan?

Tôi nhún vai:

- Có lẽ vợ anh ấy đem tất cả quần áo cũ của anh ấy cho Đội quân Cứu thế?

Cully dùng tay thử xem trọng lượng cái áo.

- Nhẹ, - anh nói. - Nhưng may mắn. Jordan thắng hơn bốn trăm ngàn đô-la khi mặc cái áo đó. Và rồi anh ấy tự tử. Đúng là đồ khùng.

- Ờ, khùng thật, - tôi phụ hoạ.

Cully đặt chiếc áo jacket nhẹ nhàng xuống bàn giấy.

Rồi anh ngồi xuống và dựa ngửa vào ghế.

- Cậu biết đấy, tôi nghĩ cậu điên khi từ chối hai mươi ngàn đô. Và đã thực sự rất bực khi cậu khiến tôi phải theo cậu để cũng không lấy phần của tôi. Nhưng có lẽ đó là điều may mắn nhất từng xảy đến cho tôi. Vì nếu lấy số tiền đó, có lẽ rồi cũng đánh bạc thua hết để rồi trở nên thẫn thờ chán nản. Nhưng cậu biết đấy sau khi Jordan tự tử và tôi không lấy số tiền kia, tôi có phần tự hào. Không biết giải thích điều đó như thế nào. Nhưng cảm thấy mình không phản bội anh ấy. Và cậu cũng không. Diane cũng không. Chúng ta đều là những kẻ xa lạ với anh ấy, nhưng chỉ có ba chúng ta quan tâm đến Jordan phần nào. Có, song chưa đến mức cần thiết, tôi nghĩ vậy. Thế mà chuyện đó không có ý nghĩa nhiều lắm với anh ấy Nhưng cuối cùng có ý nghĩa nào đấy với tôi. Cậu không cảm thấy thế à?

- Không, - tôi nói. - Tôi chỉ không ham muốn gì mấy đồng tiền hoạnh tài của Jordan. Tôi đã biết anh ấy sắp tự hủy.

Điều đó làm Cully sững sờ:

- Thế thì cậu đáng nguyền rủa quá, pháp sư Merlyn à! Cậu quá bậy.

- Không phải tôi ý thức rõ, - tôi nói. - Nhưng với một thứ linh cảm lờ mờ. Tôi không ngạc nhiên khi anh báo tin đó cho tôi. Anh nhớ không?

- Nhớ, - Cully nói. - Cậu chẳng tỏ ra thảng thốt tí nào.

Tôi lơ đi:

- Thế còn Diane thì sao?

- Nàng thực sự đau khổ vì chuyện đó, - Cully nói. - Cô ấy yêu Jordan. Cậu biết không, mình ngủ với nàng ta vào cái ngày đám tang. Một cú kỳ quái nhất đời mình. Nâng làm tình trong lúc khóc lóc như điên dại. Mình đạt đến cảm giác khoái lạc cùng lúc với cảm thức về sự thô bỉ, trâng tráo và lòng ân hận, xấu hổ và rồi là một nỗi buồn tê tái về tấn bi hài kịch của đời người

Anh thở dài.

- Sau đó nàng say sưa liên miên mấy tháng liền và thường xuyên gục đầu khóc trên vai tôi. Rồi nàng gặp một anh nhà giàu ngốc nghếch và hiện nay, nàng là một hiền nội nghiêm túc tại một nơi nào đó của bang Minnesota.

- Vậy anh sẽ làm gì với chiếc jacket này? - tôi hỏi anh ta.

Bỗng dưng Cully cười nhăn nhở:

- Mình sắp đem cái áo này cho Gronevelt. Nào, mình cũng muốn cậu gặp ông ấy.

Anh đứng lên khỏi chiếc ghế chộp lấy cái áo jacket và đi ra khỏi văn phòng. Tôi đi theo anh. Chúng tôi đi dọc theo hành lang. Cô thư ký đưa chúng tôi vào văn phòng riêng, rộng mênh mông của ông Gronevelt.

Gronevelt đứng lên khỏi ghế ngồi. Trông ông có vẻ già hơn hình ảnh tôi nhớ về ông. Chắc phải vào khoảng cuối thất tuần, tôi nghĩ. ăn mặc thật trang nhã, sang trọng.

Mái tóc bạc trắng làm ông trông giống một ngôi sao điện ảnh trong một vai nào đó. Cully giới thiệu chúng tôi với nhau.

Gronevelt bắt tay rồi trầm giọng nói:

- Ta có đọc quyển sách của cậu. Hay lắm. Hãy cứ thế và rèn luyện thêm nữa. Một ngày không xa đâu, cậu sẽ thành danh.

Tôi ngạc nhiên. Gronevelt đi trở lại việc kinh doanh cờ bạc, có một thời ông đã là một con người rất tồi tệ và ông vẫn còn là một người được nể sợ ở Vegas. Vì một vài lý do, tôi không bao giờ nghĩ rằng ông ta lại là người mê đọc sách. Lại một phát bắn trượt mục tiêu.

Tôi biết rằng những ngày thứ bảy và chủ nhật là thời gian bận rộn cho những người như Gronevelt và Cully - những vị quản lý các khách sạn lớn ở Vegas, như khách sạn Xanadu. Họ có những bạn hàng quen thân từ khắp mọi nơi trên nước Mỹ bay tới cho những cuộc nghỉ cuối tuần để đánh bạc và giải trí đủ mọi trò. Vì thế tôi nghĩ chỉ nên ra mắt chào Gronevelt rồi rút lui sớm.

Nhưng Cully lại thấy cái áo jacket Vegas Winner lên cái bàn giấy khổng lồ của Gronevelt và nói:

- Đây là cái cuối cùng. Rốt cuộc thì Merlyn cũng chịu vứt nó đi.

Tôi để ý thấy Cully đang cười nhăn nhở. Một đứa cháu cưng đang chế giễu ông bác đang sưng sỉa nhưng hắn biết cách ứng phó. Và tôi cũng nhận thấy Gronevelt diễn vai của ông. Một ông bác biết đùa chơi với thằng cháu, một đứa hay gây rối, nhưng về lâu về dài lại là đứa tài năng nhất và là kẻ đáng tin cậy nhất. Đứa cháu sẽ kế nghiệp mình.

Gronevelt bấm chuông gọi cô thư ký, và khi cô vào, ông bảo cô:

- Mang cho ta một cái kéo lớn.

Tôi thắc mắc không biết một cô thư ký của ông Chủ tịch khách sạn Xanadu lại lấy một cái kéo lớn để làm gì vào lúc sáu giờ chiều của một buối tối thứ bảy. Cô trở lại với cái kéo cầm tay chỉ trong vòng hai phút. Gronevelt lấy cái kéo và bắt đầu cắt chiếc áo jacket Vegas Winner của tôi. Ông nhìn vẻ mặt đờ ra của tôi và nói:

- Anh không biết ta ghét ba đứa anh đến thế nào đâu khi các anh cứ lượn lờ ngang qua casino của ta và mặc ba cái áo jacket chết tiệt này. Nhất là cái đêm mà Jordan vớ đậm một quả làm ta muốn xiểng liểng.

Tôi nhìn ông biến chiếc áo jacket thành một đống giẻ lớn trên bàn và rồi tôi nhận ra ông đang chờ tôi trả lời ông:

- Ông thực sự không bận tâm ai thắng ai thua, đúng không? - tôi hỏi.

- Chuyện này không liên quan gì đến số tiền thắng bạc, - Gronevelt nói. - Nó tệ hại khủng kiếp. Cully đây từng mặc cái áo ấy và là một tay chơi thoái hoá. Hắn vẫn còn như thế và mãi mãi sẽ là như thế. Hắn chỉ dịu cơn tạm thời đấy thôi.

Cully làm một cử chỉ phản đối, nói:

- Cháu là một doanh gia mà?

Nhưng Gronevelt xua tay và Cully tịt ngòi, nhìn những mảnh vải bị cắt vụn trên bàn.

- Ta có thể sống với sự may mắn. - Gronevelt nói. - Nhưng ta không tha thứ được những trò xảo quyệt, láu cá, Gronevelt đang táy máy với lớp lót bằng lụa giả rẻ tiền của chiếc áo, cắt nó ra thành những mảnh vụn, nhưng chỉ là cho hai bàn tay bận rộn thế thôi, trong lúc ông đàm đạo ông nói thẳng với tôi:

- Còn anh, Merlyn, anh là một trong những tay chơi cờ bạc dở nhất mà tôi từng gặp trong hơn năm mươi năm ở trong ngành kinh doanh này. Anh còn tệ hơn một tay chơi thoái hoá. Vì anh là một tay chơi lãng mạn! Anh nghĩ anh là một trong những nhân vật giống như trong tiểu thuyết của Ferber, cô ta cho một tay chơi ngốc nghếch thành kẻ anh hùng. Anh đánh bạc như một thằng ngốc. Lúc thì anh theo một hệ thống, lúc thì anh zigzag lung tung. Nghe ta nói đây, anh là một trong số ít người nơi cuộc đời này mà ta tha thiết khuyên nên bỏ chơi cờ bạc. Và rồi ông đặt kéo xuống, và cười thật cởi mở, thân thiện với tôi.

- Nhưng nói sao được, bởi cách chơi đó thể hiện đúng cái bản chất nghệ sĩ lông bông của anh mà.

Thực sự tôi có hơi tự ái chút chút! Và ông cũng nhận thấy điều ấy. Tôi tự cho mình là một tay chơi khôn ngoan, biết điều tiết luận lý học với ma thuật huyền học?

Biết pha trộn lô-gíc với ma-gic bằng công thức và liều lượng tương thích để cho ra một hổ lốn thần kỳ! Có khả năng chuyển nguy thành an, chuyển bại thành liệt! Bố già lõi đời Gronevelt hình như đọc được tâm hồn tôi.

- Merlyn, - ông nói. - Ta thích cái tên đó. Hợp với anh lắm. Theo những gì ta từng đọc, thì tay ấy cũng chẳng phải là một pháp sư cao cường gì lắm đâu. Và anh cũng đếch phải.

Ông cầm cây kéo lên và bắt đầu cắt trở lại.

- Mà này, hồi ấy thế quái nào anh lại đi đánh nhau với cái thằng hạ tiện phách lối kia?

Tôi nhún vai:

- Tôi chẳng ham đánh nhau đâu. Nhưng ông biết sự thể như thế nào rồi đấy. Hồi ấy tôi đang cảm thấy buồn bực về chuyện rời xa gia đình. Mọi sự đang diễn tiến theo chiều hướng tồi tệ. Nên tôi đang tìm cách trút cơn Tarzan nổi giận xuống đầu một ai đó.

- Cậu nhắm sai người rồi, - Gronevelt nói. - Cully đã cứu cậu. Với sự giúp đỡ nho nhỏ của tôi.

- Cám ơn, - tôi nói.

- Tôi mời cậu ta làm việc, nhưng cậu ta không muốn, - Cully nói.

Điều đó làm tôi ngạc nhiên. Hiển nhiên là Cully đã bàn chuyện ấy với Gronevelt trước khi anh mời tôi làm việc. Và rồi bỗng dưng tôi nhận ra rằng Cully có lẽ đã nói với Gronevelt mọi chuyện về tôi. Và chuyện khách sạn sẽ bao che cho tôi như thế nào nếu như đám Liên bang đến điều tra tôi.

- Sau khi đọc quyển sách của anh, ta nghĩ có thể dùng anh như một người phụ trách Giao tế nhân sự, - Gronevelt nói. - Một nhà văn hay như anh hẳn là thích hợp với vai trò này.

Tôi không muốn nói với ông rằng đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Nên tôi nói trớ đi:

- Xin cám ơn rất nhiều về thịnh tình của ông. Nhưng rất tiếc là vợ tôi sẽ chẳng chịu rời New York đâu, vì gia đình bố mẹ cô ấy ở đó.

Gronevelt gật đầu.

- Có lẽ tốt hơn anh không nên sống ở Vegas, vì cách đánh bạc của anh. Lần tới anh đến đây, chúng ta sẽ cùng đi ăn tối với nhau nhé.

Chúng tôi hiểu những lời đó như là lời cáo từ khéo và ra đi.

Cully có hẹn đi ăn với vài tay chơi lớn đến từ California mà anh không thể hủy, vì thế tôi đi ăn một mình. Anh đã dành một suất bữa ăn tối có biểu diễn tạp kỹ của khách sạn cho tôi. Thế là tôi đến. Đó là hoạt cảnh bình thường ở Vegas với các cô múa phụ hoạ gần như khoả thân các màn ca vũ nhạc với một ca sĩ ngôi sao và vài màn tạp kỹ. Màn duy nhất gây ấn tượng cho tôi là màn Người đẹp với đàn gấu.

Một người đàn bà đẹp bước ra sân khấu với sáu con gấu khổng lồ và nàng điều khiển chúng làm đủ trò. Sau khi mỗi con gấu hoàn thành một trò, người đàn bà lại hôn lên miệng con gấu đó và nó sẽ lập tức lê bước lùi về vị trí của nó ở đường biên. Những con gấu với bộ lông rất dày khiến chúng trông hoàn toàn phi giớitính, giống như đồ chơi. Nhưng tại sao người đàn bà lại dùng nụ hôn như một trong những dấu hiệu điều khiển của nàng? Theo sự hiểu biết của tôi, thì gấu đâu có hôn để biểu thị tình cảm. Và rồi tôi nhận ra rằng nụ hôn nhằm gửi đến công chúng, một cái ném về phía khán giả. Rồi tôi lại thắc mắc phải chăng người đàn bà đã làm điều ấy với ý thức như một dấu hiệu của lòng ngạo mạn, một lời miệt thị tinh tế?

Tôi vẫn luôn ghét các đám xiếc và từ chối dẫn đám con đi xem xiếc. Vì thế cũng chưa bao giờ thực sự thích các màn xiếc thú. Nhưng màn này đã mê hoặc tôi đủ để tôi phải theo dõi suốt từ đầu đến cuối. Có lẽ một trong các con gấu sẽ tạo sự ngạc nhiên.

Khi màn trình diễn chấm dứt, tôi lang thang ra ngoài, đi vào các casino để đổi phần tiền còn lại ra các con phỉnh và rồi đổi các con phỉnh thành biên nhận tiền mặt. Đã gần mười một giờ đêm.

Tôi bắt đầu chơi crap, và thay vì đánh nhỏ để kiềm giữ tổn thất ở mức thấp nhất, tôi lại thình lình nổi hứng sảng, đánh cá những ván đến năm mươi và một trăm đô-la. Tôi đang thua khoảng ba ngàn đô-la thì Cully đến sau tôi, dẫn đầu đám tay chơi lớn đến bàn và lập tín dụng cho họ.

Anh ta ném một cái nhìn mỉa mai, nhạo báng vào những lần đánh ra trên tấm thảm xanh trước mặt tôi.

- Này, cậu không đánh bạc nữa chứ? - anh nói với tôi.

Tôi cảm thấy "quê độ" quá và khi con xúc xắc mở ra tôi lấy phần còn lại của các con phỉnh của tôi, đi đến phòng thủ quỹ và đổi chúng thành biên nhận. Khi tôi quay lại Cully đang đợi tôi.

- Bọn mình kiếm gì uống đi, - anh nói.

Và anh dẫn tôi đến quầy cocktail nơi trước đây chúng tôi vẫn thường bù khú với Jordan và Diane. Từ vùng tối đó chúng tôi nhìn ra khu casino được chiếu sáng rực rỡ.

Khi chúng tôi ngồi xuống, cô tiếp viên nhận ra ngay Cully, liền đon đả đến trình diện và chờ lệnh tức thì.

- Vậy là cậu lại rơi ngoài toa tàu, Cully nói. - Cái trò đỏ đen ma quái đó nó giống như bệnh sốt rét cứ tái phát hoài.

- Anh cũng thế? - Tôi hỏi.

- Cũng lai rai đôi khi? - Cully nói. - Có điều tôi không bao giờ bị trọng thương. Cậu thua hết bao nhiêu?

- Chừng khoảng hai thiên, - tôi nói. - Tôi đã đổi phần lớn tiền thành biên nhận. Tôi sẽ hoàn tất việc đó trong tối nay.

- Ngày mai là chủ nhật, - Cully nói. - Tay luật sư bạn tôi đang sẵn sàng vậy sáng sớm mai cậu có thể thảo chúc thư và gửi cho anh cậu. Rồi tôi sẽ dính như keo với cậu cho đến khi tôi đưa cậu lên chuyến bay buổi chiều đi New York.

- Chúng ta đang cố làm một chuyện giống như đã từng thử một lần với Jordan, - tôi nói đùa.

Cully thở dài:

- Tại sao anh ta làm chuyện đó? Vận may dang thay đổi. Anh ta sắp làm kẻ chiến thắng nữa. Anh ta chỉ cần níu vào đó.

- Có lẽ anh ấy không muốn thúc đẩy vận may, - tôi nói.

- Chắc là tôi đang đùa ấy mà, - Cully nói.

Sáng hôm sau Cully bấm chuông phòng tôi và chúng tôi cùng ăn điểm tâm. Sau đó anh chở tôi xuống phố Vegas Strip đến một văn phòng luật sư, ở đó chúc thư của tôi được tạo ra và chứng thực. Tôi lặp lại đôi ba lần rằng anh tôi Artie, phải được gửi một bản copy của chúc thư. Khi tôi nhắc lại đến lần thứ tư, Cully sốt ruột cắt ngang:

- Mọi chuyện đều đã được giải thích kỹ càng cả rồi anh ngố à. Đừng có mà lẩm cẩm ông cụ non nữa. Mọi chuyện sẽ được thực hiện đúng từng li từng tí. Cứ yên chí ăn no ngủ kỹ!

Khi chúng tôi rời văn phòng, Cully chở tôi dạo quanh thành phố và chỉ cho tôi thấy công cuộc xây dựng mới đang liên tục phát triển. Toà cao ốc sừng sững như ngọn thảp vươn lên trời xanh của khách sạn Sands, lấp lánh màu vàng tươi rực rỡ giữa bầu trời sa mạc.

- Thành phố này vẫn đang tăng trưởng và không ngừng tăng trưởng, - Cully nói. - Sa mạc hầu như vô tận trải dài đến các ngọn núi xa mút mắt.

- Không gian còn bao la, - tôi nói.

Cully cười:

- Rồi cậu sẽ thấy. Cờ bạc là người khách đang đến.

Chúng tôi dùng bữa ăn trưa nhẹ, và rồi để tưởng nhớ thời xưa, chúng tôi vào khách sạn Sands, bỏ ra mỗi người hai trăm đô-la để chơi crap. Cully nói kiểu tự hào:

- Hãy xem thập nhị huyền công từ cánh tay phải của ta đây!

Rồi với vẻ mặt trang nghiêm, nhuốm phần huyền bí, tay trái vẽ một vòng tròn, tay phải cầm con xúc xắc vung lên, anh vừa hô:

- Hey presto! Cấp cấp như luật lệnh! Sáu mặt sặc máu luôn! - Vừa ném con xúc xắc ra.

Và anh vẫn kém may mắn như tự bao giờ khiến cả hai đứa thua nhẵn luôn bốn trăm đô. Nhưng tôi nhận thấy anh không để tâm vào chuyện ấy. Anh không còn mê bài nữa. Chắc chắn anh đã thay đổi.

Anh lái xe đưa tôi ra phi trường và củng chờ với tôi ở cổng cho đến khi tôi lên máy bay.

- Hãy gọi cho mình ngay nếu như cậu gặp chuyện rắc rối nào, - Cully nói. - Và lần tới khi cậu đến đây chúng ta sẽ dùng bữa với Gronevelt. Ông ấy quý cậu và đó sẽ là một người thân rất tốt cho ta.

Tôi gật đầu. Rồi rút các biên lai tiền mặt ra khỏi túi. Những biên lai của ba mươi ngàn đô-la gửi phòng thủ quỹ của casino, khách sạn Xanadu. Các khoản chi phí của tôi cho cuộc hành trình, tiền thua bạc và tiền vé máy bay, tổng cộng ước chừng ba ngàn đô. Tôi đưa các biên nhận tiền mặt cho Cully.

- Hãy giữ những cái này giùm mình, - tôi nói. - Tôi đã thay đổi quyết định.

Cully dếm những tờ biên nhận. Mười hai tờ. Anh kiểm lại tổng số tiền:

- Cậu tin tưởng mình đến mức giao các chi phiếu ngân hàng này cho mình? - anh hỏi. - Ba mươi ngàn đô, một con số khá lớn đấy.

- Mình phải tin tưởng một ai chứ, - tôi nói. - Vả chăng, mình đã thấy cậu từ chối hai mươi ngàn đô-la của Jordan khi cậu còn trên răng dưới dép kia mà.

- Chỉ tại vì cậu đã làm mình phải thấy xấu hổ nếu mừng rỡ vồ ngay khi anh ấy mở lời, - Cully nói. - OK, mình sẽ giữ kỹ cái này cho cậu. Và nếu như có chuyện thật cần kíp, mình có thể cho cậu mượn tiền mặt từ tài khoản của mình, có cái này bảo chứng. Để giúp cậu không lưu lại dấu vết nào.

- Cám ơn Cully, - tôi nói. - Cám ơn về phòng ở khách sạn, về những bữa ăn và về mọi chuyện. Nhất là cám ơn rất nhiều đã giúp mình gỡ rối.

Tôi cảm nhận cơn trào dâng thực sự của cảm tình đối với anh. Anh là một trong số những người bạn hiếm hoi của tôi. Và tuy thế tôi vẫn ngạc nhiên khi anh ôm tôi để từ biệt khi tôi bước lên máy bay.

Và trên chiếc phải lực cơ bay từ vùng sáng sang các múi giờ tối hơn ở miền Đông, chuồn nhanh khỏi mặt trời đang lặn xuống ở miền Tây, và chìm vào bóng tối, tôi nghĩ về cảm tình của Cully dành cho tôi. Chúng tôi biết nhau quá ít. Và tôi nghĩ vì cả hai đều có ít người mà chúng tôi có thể thực sự quen biết. Giống như Jordan. Và chúng tôi phải chia sẻ nỗi thất bại cỉta Jordan và sự đầu hàng của anh trước cái chết.

Từ sân bay, tôi gọi Vallie để báo cho nàng biết tôi đã về nhà sớm hơn dự tính một ngày. Không ai trả lời.

Tôi không muốn gọi về nhà bố mẹ nàng nên kêu taxi chạy về Bronx. Vallie vẫn chưa có ở nhà. Tôi lạỉ thấy ganh tị, bực bội là nàng đã mang lũ nhóc về thăm ông bà ngoại ở Long Island. Nhưng rồi nghĩ mình lẩm cẩm quá.

Tại sao nàng phải ở nhà một mình ngày chủ nhật nơi căn hộ chúng tôi khi nàng có thể hoà vào không khí vui nhộn của gia đình nàng, với anh chị em và bạn bè, nơi bọn trẻ có thể rong chơi ngoài đồng cỏ xanh tươi, giữa không khí trong lành?

Tôi có thể chờ nàng. Nàng sẽ về nhà sớm thôi. Trong khi chờ đợi, tôi gọi điện thoại cho Artie. Vợ anh đến nhấc điện thoại lên và nói Artie đã lên giường sớm vì cảm thấy không được khoẻ. Tôi bảo chị đừng đánh thức anh ấy vì không có gì quan trọng. Và với một chút cảm thức hoảng sợ, tôi hỏi Artie có sao không. Chị nói anh chỉ thấy mệt thôi vì thời gian gần đây đã làm việc quá căng chứ cũng chẳng có gì, không đến nổi phải gọi bác sĩ. Tôi nói sẽ gọi Artie hôm sau, trong giờ làm việc, rồi gác máy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Năm tiếp theo đó là năm hạnh phúc nhất đời tôi.

Tôi đang chờ xây nhà. Đây là lần đầu tôi có được căn nhà riêng của mình, và tôi có một cảm thức ngồ ngộ về chuyện đó. Rằng cuối cùng, giờ đây tôi cũng giống như bao người khác. Chúng tôi sẽ có một gia đình độc lập, riêng biệt hẳn và không còn lệ thuộc vào xã hội và người khác.

Tôi nghĩ điều này phát sinh từ sự kiêng kỵ ngày càng lớn nơi tôi đối với khu nhà ở mà tôi đang sống trong đó. Vì những phẩm chất xã hội tốt của họ, nhiều người da đen và da trắng đã thăng tiến trong nấc thang xã hội và trở nên không thích hợp khi ở lại trong khu nhà ở nữa, khi họ kiếm được quá nhiều tiền. Và khi họ dọn vào, đen hay trắng, cũng thường là những kẻ sẽ sống trọn bếp ở đó. Đa số là dân nghiện ma tuý, nghiện rượu, ma cô, chủ chứa, đầu trộm đuôi cướp và thậm chí cả những đứa hiếp dâm.

Trước làn sóng xâm lấn mới, cảnh sát ở khu chung cư phải "lui quân chiến lược". Đám người mới đến còn ngang ngược, vô chính phủ hơn. Chúng phá hoại mọi thứ.

Thang máy hết chạy được nữa, cửa kính các phòng lớn bị ném vỡ và không bao giờ được sửa chữa. Khi tôi từ chỗ làm việc về nhà, những chai rượu rỗng không lăn lóc trên lối đi chung và năm, ba người ngồi say ngật ngưỡng trên các băng ghế đặt bên ngoài các lô nhà. Vallie luôn lo đi đón con ở trạm xe buýt khi chúng tan trường. Đã có lần nàng từng hỏi tôi có nên dọn về nhà bố mẹ nàng ở nhờ cho đến khi nhà riêng của chúng tôi xây xong. Nàng đưa ra gợi ý này sau chuyện một bé gái da đen mới mười tuổi bị hãm hiếp rồi bị ném xuống từ trên mái một cao ốc. Tôi nói không; chúng tôi nên chịu đựng một thời gian. Chúng tôi sẽ ở lại. Tôi biết Vallie đang nghĩ gì, nhưng nàng quá xấu hổ để nói toạc ra điều đó. Nàng sợ đám da đen. Vì nàng đã được giáo dục và điều kiện hoá như một người có đầu óc phóng khoáng tin vào sự bình đẳng giữa người và người, nàng không thể nhìn nhận sự kiện là nàng sợ tất cả đám người da đen đang sống ở quanh nàng.

Tôi có một quan điểm khác. Tôi là người thực tế chứ không giáo điều, cố chấp (ấy là tôi tự nghĩ thế, còn thực tế thế nào xin để hạ hồi phân giải). Điều đang xảy ra là thành phố New York đang biến những dự án nhà ở thành những khu ghéttô mới cho người da đen, cô lập người da đen với phần còn lại của cộng đồng da trắng.

Thực tế là dùng các dự án chúng cư này như một vòng đai y tế. Những khu Harlem tí hon được tẩy trắng với chủ nghĩa tự do đô thị. Và tất cả đám cặn bã kinh tế của tầng lớp lao động da trắng bị cách ly nơi đây, những kẻ được giáo dục quá bết bát nên không kiếm sống nổi, hay quá không thích nghi để cùng nhau gìn giữ cơ cấu gia đình.

Những ai có tí chút của cải tiền bạc chắt mót được sẽ chạy ra vùng ngoại ô hoặc nhà riêng hay các căn hộ thương mại để sống. Nhưng cán cân quyền lực vẫn chưa chuyển đổi. Người da trắng vẫn đông hơn người da đen ở nơi đây với tỉ lệ hai trên một. Tôi hình dung khu nhà này vẫn khá an toàn ít ra là trong vòng mười hai tháng chúng tôi còn phải sống ở đây. Tôi chẳng thực sự quan tâm đến chuyện gì khác. Thú thật là tôi xem thường tất cả đám người ở đó. Họ sống như thú vật, không có chút ý chí hay nghị lực nào, chỉ mong kéo lê ngày qua ngày với rượu và ma tuý chỉ để giết thời gian bất cứ khi nào họ kiếm được mấy thứ đó. Nơi này đang trở thành một viện mồ côi tồi tàn.

Nhưng nếu thế tại sao tôi còn ở đó? Tôi là cái gì?

Một phụ nữ da đen trẻ với bốn đứa con nhỏ sống cùng tầng với chúng tôi. Cô ta có thể hình rắn chắc, trông rất gợi tình, đầy chất hài hước ý nhị, sinh động và tinh thần lạc quan. Người chồng đã bỏ cô trước khi cô dọn vào ở chúng cư này, và tôi chưa bao giờ thấy bóng dáng anh ta. Ban ngày người phụ nữ ấy là một bà mẹ tốt; bọn trẻ luôn sạch sẽ tinh tươm, lúc nào cũng được mẹ đưa đón đi học đến tận chỗ trạm xe buýt dừng. Nhưng ban đêm bà mẹ lại bỏ lơ không chăm sóc lũ trẻ nữa. Sau bữa ăn tối, chúng tôi có thể thấy cô ấy chưng diện rất mướt, đi đến nơi hẹn với bạn tình trong khi lũ nhóc bị bỏ mặc ở nhà một mình.

Đứa lớn nhất cũng chỉ mới mười bốn tuổi.

Vallie thường lắc đầu tỏ vẻ ái ngại và tôi bảo nàng đâu phải việc của mình. Đèn nhà ai nấy sáng, rỗi hơi đâu đi lo chuyện tầm phào?

Nhưng một đêm, đã khuya, khi chúng tôi đi ngủ, chúng tôi nghe tiếng rú của xe chữa lửa. Và chúng tôi có thể ngửi thấy mùi khói ngay trong căn hộ của mình. Cửa sổ phòng ngủ của chúng tôi nhìn thẳng qua căn hộ của người đàn bà da đen, và giống như một cảnh trong phim, chúng tôi có thể thấy những ngọn lửa nhảy múa trong căn hộ đó và đám trẻ nhỏ chạy ngang qua. Vallie nhảy ra, vẫn mặc áo ngủ, kéo một tấm chăn khỏi giường và chạy vụt ra khỏi cửa. Tôi chạy theo nàng. Chúng tôi vừa kịp lúc để thấy cánh cửa chính của căn hộ kia bật mở và bốn đứa trẻ chạy ùa ra lối đi hành lang. Đàng sau bọn trẻ, có thể thấy lửa cháy phừng phừng trong căn hộ. Vallie đang chạy dọc lối đi hành lang theo sau bọn trẻ và tôi thắc mắc không hiểu nàng đang làm cái gì vậy. Nàng chạy cuống cuồng, tấm chăn trong tay nàng kéo lê trên sàn.

Rồi tôi thấy điều nàng đã thấy. Bé gái lớn nhất, đi ra sau cùng, hét những đứa nhỏ hơn chạy đi, đã bắt đầu ngã xuống.

Lửa cháy trên lưng con bé. Rồi nó trở thành một ngọn đuốc sống. Nó ngã xuống sàn xi măng, nằm hấp hốỉ. Vallie nhào đến, bọc nó trong tấm chăn. Những làn khói xám toả lên trên họ trong lúc lính chữa lửa tuôn vào lối đi hành lang với vòi rồng.

Mấy người lính chữa lửa mang nạn nhân đi và Vallie quay về với tôi trong căn hộ. Xe cấp cứu chạy vào lối đi nội bộ của chung cư. Rồi thình lình chúng tôi thấy người mẹ trong căn hộ đối diện chúng tôi. Cô ta đập tay thình thình vào cửa kính và gào khóc như điên. Máu chảy loang lổ trên quần áo cô. Tôi không biết cô ta đang làm trò quái quỷ gì và rồi nhận ra rằng cô ấy đang tự xiên người mình vào những mảnh kính vỡ! Eo ơi! Trông hãi quá!

Những người chữa lửa đến sau cô, bước ra từ những đóng khói còn cuộn lên từ những đám lửa vừa bị dập tắt nơi đồ đạc đã cháy thành than. Họ kéo cô ra khỏi khung cửa sổ và rồi chúng tôi thấy cô bị trói vào một cái cáng, đưa vào xe cấp cứu.

Cũng may là nhờ sự can thiệp kịp thời của những người lính cứu hoả nên chỉ duy nhất căn hộ đó bị cháy thôi và lửa đã không lan sang các căn kế cận. Còn cô bé bị cháy, theo họ nói, sẽ bình phục mặc dầu bị phỏng nặng.

Người mẹ vài ngày sau đã xuất viện.

Chiều thứ bảy tuần sau, Vallie mang lũ trẻ về nhà bố mẹ nàng để tôi được yên tĩnh viết sách. Tôi đang làm việc có trớn ngon lành thì bỗng nghe tiếng gõ vào cửa nhà mình. Đó là một tiếng gõ rụt rè mà tôi chỉ thoáng nghe được từ bàn làm việc của mình.

Khi tôi mở cửa thì thấy một anh chàng da đen gầy gò với nước da màu kem chocolate. Anh ta có hàm râu thưa và tóc chải thẳng. Anh thì thầm tên mình, nhỏ đến độ tôi không nghe rõ nhưng tôi cứ gật đầu. Rồi anh ta nói:

- Tôi muốn đến để ngỏ lời cám ơn ông bà về những gì ông bà đã làm cho đứa con tội nghiệp của tôi. - Và tôi hiểu ra rằng anh ta là người cha trong cái gia đình vừa bị hoả hoạn kia.

Tôi hỏi ông ta có muốn vào uống một ly nước với tôi không.

Tôi nhận thấy anh ta gần như muốn khóc, cảm thấy xấu hổ và nhục nhã trong lúc nói lời cảm ơn. Tôi nói với anh ta rằng vợ tôi đi xa, nhưng tôi sẽ cho nàng biết là anh có ghé chúng tôi. Anh ta bước vào cửa để chứng tỏ rằng anh không xúc phạm nếu từ chối bước vào nhà tôi, nhưng anh không muốn uống gì.

Tôi cố gắng kềm chế nhưng hình như vẫn để lộ ra là tôi thật sự ghét anh ta. Ghét từ cái đêm xảy ra hoả hoạn.

Hẳn rằng anh ta cũng là một trong những người da đen bỏ mặc cho vợ con sống nhờ vào trợ cấp xã hội, còn mình cứ việc rong chơi, sống cuộc đời riêng. Tôi đã đọc nền văn chương viết về những gia đình đổ vỡ, ly tán của người da đen ở New York. Và những xung đột xã hội đã khiến những người đó rời bỏ vợ con như thế nào. Trên phương diện nhận thức, tôi hiểu điều đó nhưng tôi vẫn thấy dị ứng với hiện tượng đó trên phương diện cảm xúc. Họ là ai mà đòi cái quyền sống riêng cuộc đời mình? Bản thân tôi cũng có sống riêng cho mình được đâu?

Nhưng lúc đó tôi thấy khuôn mặt với màu kem chocolate kia đang dầm đìa nước mắt. Và tôi để ý hai hàng lông mi dài trên đôi mắt màu nâu hạt dẻ hiền từ của anh ta. Và rồi tôi nghe ra những lời thiết tha của anh:

- Này ông, - anh ta nói. - Con gái bé bỏng đáng thương của tôi đã chết mới hồi sáng say. Cháu chết trong nhà thương đó.

Anh ta bắt đầu rời đi nhưng anh tôi giữ anh ta lại và anh nói:

- Cái vết bỏng không đến nỗi quá nặng, người ta nghĩ rằng con bé sẽ qua khỏi thôi, ấy thế mà cháu lại vắn số. Tôi đến thăm cháu và mọi người trong nhà thương đó nhìn chằm chằm vào tôi. Ông biết không? Tôi là bố con bé? Thế thì lúc đó tôi ở đâu? Lúc đó tôi đang làm gì? Giống như họ đang phỉ báng tôi vậy? Ông biết không?

Vallie có cất một chai rượu lúa mạch đen nơi phòng khách để dành cho bố nàng và các anh em nàng khi họ đến thăm. Cả Vallie và tôi không ai thường uống. Nhưng tôi không biết nàng để chai rượu đó ở đâu.

- Chờ tí, - tôi nói với con người đang khóc trước mặt tôi. - Anh cần một ly rượu đấy.

Tôi tìm thấy chai rượu nơi nhà bếp và rót ra hai ly. Cả hai chúng tôi đều uống liền một hơi và tôi có thể thấy anh ta đỡ hơn.

Và khi nhìn ngắm anh, tôi nhận ra rằng anh ta không đến để ngỏ lời cảm ơn kẻ gọi là người cứu mạng con gái anh. Anh đến để tìm một người nào đó hầu trút bầu tâm sự về nỗi muộn phiền và mặc cảm tội lỗi của mình. Vì thế tôi lắng nghe và ngạc nhiên vì anh ta đã không thấy sự phê phán trên mặt tôi.

Anh uống cạn ly của mình và tôi rót thêm một ly Whisky cho anh. Anh ta thả người xuống chiếc ghế sofa vẻ mệt mỏi.

- Ông biết cho, tôi không bao giờ muốn rời xa vợ con đâu. Nhưng cô ta quá tràn trề sinh lực và quá mạnh về chuyện ấy. Tôi phải làm việc vất vả. Tôi làm một lúc hai việc và để dành tiền. Tôi muốn cho gia đình mình một căn nhà và nuôi dạy con cái tử tế. Nhưng cô ấy muốn vui chơi, hưởng thụ. Cô ấy quá mạnh và tôi phải rời xa. Nhiều lần tôi cố gặp mặt con nhưng cô ấy cấm cản. Thế rồi chúng tôi càng lúc càng xa nhau và tôi đã gặp một người đàn bà thích sống theo lối sống của tôi và tôi trở nên một người lạ ngay cả với các đứa con mình. Và bây giờ mọi người đều phỉ báng tôi vì con gái của tôi chết. Làm như tôi là một trong những chàng trai lông bông kia, bỏ vợ già ở nhà để chạy theo các cô nhân tình trẻ.

- Chính vợ anh đã để tụi trẻ ở nhà một mình. - tôi nói.

Anh thở dài:.

- Không thể trách cô ấy. Cô ta sẽ hoá rồ mất nếu đêm nào cũng phải ở nhà. Và cô ấy không có tiền để thuê một người giữ trẻ. Tôi có thể chịú đựng cô ấy hoặc cũng có thể tôi đã giết cô ấy, hoặc điều này hoặc điều kia.

Tôi không thể bình luận gì mà chỉ nhìn anh ta và anh ta nhìn tôi. Tôi thấy ra nỗi nhục nhã nơi anh ta khi thổ lộ tất cả những điều này với một người lạ mà đó lại là một người da trắng. Và rồi tôi nhận thức rằng tôi là người duy nhất mà anh ta có thể biểu lộ nỗi xấu hổ của mình. Bởi vì tôi không thật sự để tâm và bởi vì Vallie đã dập tắt ngọn lửa đang đốt cháy con gái anh ta.

- Tôi thấy cô ta gần như tự giết mình trong đêm đó! - tôi nói.

Anh ta lại tuôn nước mắt:

- Ồ, cô ấy yêu con thực mà. Chuyện để bọn trẻ ở nhà một mình không có nghĩa gì. Cô ấy yêu chúng. Và cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho mình, đó là điều đáng lo. Người đàn bà này rồi sẽ tràn ngập trong men rượu để tự hủy hoại mình. Tôi không biết phải làm gì cho cô ấy.

Tôi chẳng có thể bình luận gì về chuyện này. Trong đầu tôi chỉ nghĩ, thế là mất toi một buổi làm việc. Nhưng thôi cũng đành vậy. Cuối cùng anh ta uống cạn ly Whisky và đứng lên. Lại tia nhìn tủi hổ đó hiện trên mặt anh ta lúc lặp lại lời cảm ơn vợ chồng tôi về những gì chúng tôi đã làm cho con bé. Rồi rời nhà tôi.

Tối đó khi Vallie dẫn lũ nhóc về nhà, tôi kể lại cho nàng toàn bộ câu chuyện. Thế là nàng vào phòng ngủ nằm khóc mãi trong khi tôi phải loay hoay làm món xúp cho bọn nhóc. Và tôi nghĩ về chuyện mình đã quá vội khi kết tội người đàn ông đó trước khi mình gặp và biết được chút gì về anh ta. Chỉ căn cứ vào những quyển sách mình đã đọc tôi đã đem anh ta đánh đồng cá mè một lứa với những đứa nghiện ngập rượu chè, xì ke ma tuý đến sống ở khu này. Tôi đã nghĩ anh ta chạy trốn cái thế giới cùng khổ buồn thảm của mình để tự giải thoát hay tìm vui thú riêng cho bản thân, bỏ mặc vợ con, nên mới đưa đến việc con gái anh ta chết cháy. Anh ta sẽ không bao giờ tha thứ cho mình; anh ta sẽ tự trừng phạt nặng nề hơn là tôi đã từng kết tội anh ta, vì sự hời hợt, bất cận nhân tình.

Một tuần sau lại xảy ra vụ một cặp vợ chồng da trắng ở khu đối diện đánh nhau và anh chồng cắt cổ chị vợ vì cái tội chị ta ưa mèo mỡ. Cũng may là chứa đến nỗi tử thương và chị vợ đa tình trông lại càng lãng mạn một cách đầy kịch tính với vòng băng màu trắng quanh cổ khi chị ta đưa đến đàn con đến trường.

Tối biết là chúng tôi nên dọn nhà đi là vừa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Tại các trung tâm tuyển mộ quân dự bị, việc hối lộ đang bước vào thời kỳ nở rộ và lần đầu tiên trong đời công chức của mình, tôi được xếp hạng "ưu tú" vì chuyện ăn hối lộ tôi đã dụng công nghiên cứu tất cả những quy định rắc rối của ngành và do đó đã trở thành một tay thư ký rất hiệu năng, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này.

Từ vốn kiến thức đặc biệt đó, tôi đã "sáng chế" ra một hệ thống con thoi cho các khách hàng của mình. Khi họ hoàn tất sáu tháng nghĩa vụ tích cực và trở về đơn vị của tôi, tôi có cách "phù phép" để đưa họ vào danh sách chỉ bị gọi trong trường hợp chiến tranh.

Không phải trình điện hàng tuần, không phải dự những khoá huấn luyện hè hàng năm. Thế là "giá biểu dịch vụ" của tôi tăng lên, ngoài ra còn thêm mối lợi khác nữa: khi tôi "hoán vị" họ sang danh sách kia, tôi lại dôi ra chỉ tiêu để đưa vào biên chế những con mồi mới tự nguyện hiến tiền để làm lính kiểng, lính ma, nhất cữ lưỡng tiện. Đúng là khi con người ta gặp thời ăn nên làm ra, thì hình như có cái lực huyền bí nào đó giúp con người ta trở nên thông minh sáng dạ, tính việc đâu ra đấy, phơi phới như điều gặp gió?

Một buổi sáng nọ tôi giở tờ Daily News và ngay trên trang đầu đập vào mắt tôi là tấm hình lớn của ba chàng trai trẻ có duyên nợ với tôi. Tôi giật thót người.

Hai trong ba chàng trai là những cậu trai tôi vừa mới đưa vào danh sách đăng ký nhập ngũ ngày hôm trước. Mỗi em đều nộp phong bì với bốn tờ trăm thẳng băng, tim tôi nhảy loạn mấy nhịp và tôi cảm thấy hơi chới với, chuyện này có thể là cái gì khác hơn ngoài một bài phanh phui toàn bộ vụ ăn không sạch của tôi? "Hệ thống con thoi" tinh vi của tôi đã bị bể mánh?

Tôi có đọc bài báo, chàng trai đứng giữa là con của vị chính trị gia tên tuổi nhất bang New York. Bài báo hoan nghênh cuộc tòng quân đầy tình cảm ái quốc của chàng con trai yêu quý của ngài chính trị gia kia, thế thôi.

Tuy vậy bức hình đăng báo làm tôi phát hoảng, tôi bị ám ảnh về việc tôi phải đi tù, bỏ Vallie với lũ nhóc bơ vơ. Tất nhiên tôi biết rằng bố mẹ nàng sẽ chăm sóc cho con cháu, nhưng tôi sẽ không có ở đó. Tôi sẽ mất gia đình mình, thế nhưng khi tôi đến văn phòng và thổ lộ với Frank, anh ta cười lớn và lại nghĩ là chuyện hay; hai trong số những khách hàng của tôi lại được lên trang nhất của tờ Daily News, chuyện ngộ ghê? Anh cắt bức ảnh đó ra và dán lên tấm bảng nội san của đơn vị quân dự bị. Đó là một trò đùa ý nhị trong nội bộ chúng tôi. Viên thiếu tá nghĩ rằng dán tấm hình đó lên có tác dụng làm tăng tinh thần của đơn vị!

Một khi đã nhận ra rằng nỗi hoảng sợ kia chẳng qua là do thần hồn nát thần tính chứ thật ra là chả có gì mà phải teo vòi, tôi trấn tĩnh tinh thần trở lại. Giống như Frank, tôi bắt đầu tin rằng chuyện làm ăn "lăng quăng" của mình có thể còn dài dài đến một tương lai vô tận. Và rất có thể là như thế, trừ lúc xảy ra khủng hoảng Berlin khiến Tổng thống Kennedy quyết định ra lệnh động viên hàng trăm ngàn quân trừ bị, một biến cố rất không may.

Kho quân nhu trở nên một nhà thương điên khi tin tức loan truyền là các đơn vị trừ bị sắp được gọi vào quân đội để thi hành nghĩa vụ tích cực. Những kẻ né tránh chuyện này và đã trả tiền để được đăng ký vào chương trình sáu tháng nhốn nháo cả lên. Điều làm cho người ta đau nhất, cay cú nhất đó là họ, những chàng trai thuộc thành phần ưu tú nhất của quốc gia, những luật sư tài ba, những chuyên gia thị trường chứng khoán, những tài năng trong lĩnh vực quảng cáo thế mà họ lại bị qua mặt và chơi xỏ bởi "kẻ ngốc nghếch nhất trong tất cả các loài thụ tạo" đó là quân đội Mỹ! Họ đã bị đánh lừa bởi chương trình sáu tháng, phải tốn công sức, tiền của và sau đó cứ yên chí lớn, chẳng hề lưu ý đến cái sự cố nho nhỏ có thể xảy ra. Rằng họ có thể bị gọi đi thi hành nghĩa vụ tích cực và phải tái ngũ lên đường tòng chinh ra miền hoả tuyến, đánh đấm nhau ra trò cho đến khi nai vạt móng, chó lè lưỡi, máu đổ đầu rơi thực sự chớ chẳng chơi? Thế là những kẻ tinh ranh của chốn thị thành lại đi ăn quả lừa của mấy anh ngố nhà quê! Bản thân tôi cũng chẳng thích thú gì chuyện này mặc dầu tôi vẫn tự chúc tụng mình đã không bao giờ trở nên một thành viên của quân dự bị, vì nỗi cám dỗ được lãnh một lúc hai đầu lương. Tuy nhiên chuyện làm ăn của tôi thì ôi thôi rồi nồi xôi! Đâu còn nữa cái thời hàng tháng đều đều đút vào túi cái khoản ngoại bổng một ngàn đô-la miễn thuế! Và tôi còn phải gấp gáp dọn về nhà mới ở Long Island. Còn điều này nữa: tôi chưa bao giờ nhận thức rằng điều này có thể đưa đến tai hoạ mà tôi đã thấy trước từ lâu. Tôi quá bận rộn thực hiện đống giấy tờ khổng lồ liên quan đến việc đưa các đơn vị của tôi chính thức vào nghĩa vụ tích cực.

Có những thứ tiếp liệu và đồng phục cần được trưng dụng và mọi thứ lệnh huấn luyện cần được đưa ra, và rồi còn có cuộc chạy tán loạn để thoát ra khỏi lệnh tái ngũ.

Ai cũng biết quân đội có những điều lệnh và những quy định đối với những trường hợp nguy cấp, những kẻ nằm trong chương trình dự bị trong ba hoặc bốn năm qua và sắp sửa hết thời hạn nghĩa vụ quân sự càng đặc biệt sửng sốt. Trong những năm đó sự nghiệp của họ đã phát triển họ đã lập gia đình có con cái, họ đã qua mặt được lãnh chúa quân sự của Mỹ, và rồi tất cả trở thành ảo mộng!

Nhưng hãy nhớ rằng đây là những con người thông minh ưu tú nhất của nước Mỹ, những người khổng lồ trong tương lai về các lĩnh vực kinh doanh, tư pháp hay truyền thông, họ đâu dễ dàng đầu hàng số mệnh. Một anh chàng trẻ phụ tá cho ông bố trên thị trường hối đoái Wall Street cho cô vợ vào viện tâm thần rồi đưa vào hồ sơ trường hợp xin miễn giảm, hoãn dịch vì lý do gia cảnh khó khăn trên cơ sở là, thưa quý anh, vợ em bỗng dưng bị suy nhược thần kinh nên nó đâm ra khùng điên ba trợn, vậy kính xin quý anh xét duyệt cho em được tạm hoãn thi hành quân dịch để em ở nhà chăm sóc vợ cho trọn đạo tao khang, cho tròn nghĩa đá vàng!

Tôi gửi hồ sơ đó đi, được bổ túc với các chứng từ chính thức từ các bác sĩ và bệnh viện nhưng không ăn thua. Washington đã từng nhận được hàng ngàn hàng vạn trường hợp xin miễn giảm kiểu đó và đã công bố quan điểm dứt khoát là không ai được xuất ngũ vì lý do gia cảnh khó khăn. Một thư phản hồi nói rằng anh chồng tội nghiệp kia sẽ được tái ngũ vào nhiệm vụ tích cực và hội đồng Hồng thập tự sẽ xác minh khiếu nại của anh ta.

Chắc là Hội Hồng thập tự đã làm việc tốt bởi vì một tháng sau khi đơn vị của anh chồng được đưa đến pháo đài Lee bang Virginia thì cô vợ với bệnh suy nhược thần kinh kia, bước vào văn phòng của tôi xin những chứng từ cần thiết để đi thăm chồng ở trung tâm huấn luyện. Cô nàng tươi như hoa và rõ ràng khoẻ như vâm, khoẻ đến nỗi cô nàng không thể tiếp tục đóng trò yếu đuối bệnh hoạn được để có thể nằm vạ nơi dưỡng đường, hoặc có thể các bác sĩ cũng không muốn đi quá xa trong việc tiếp tay cho cái màn kịch bệnh tưởng ấm ở kia nữa.

***

Ông Hiller đến thăm tôi về cậu con Jeremy của ông, tôi bảo ông là tôi chẳng thể làm được gì, song ông cứ nài nỉ mãi, khiến cuối cùng tôi phải cười xoà mà nói đùa rằng nếu như cậu con ông là một kẻ đồng tính luyến ái, thì có khả năng cậu ta được xuất ngũ khỏi quân dự bị và cũng không bị gọi thi hành nghĩa vụ tích cực. Có một khoảng lặng dài ở đầu kia của điện thoại rồi ông cám ơn tôi và gác máy. Thế rồi hai ngày sau Jeremy Hiller đến và nộp đủ các giấy tờ cần thiết để xin xuất ngũ trên cơ sở cậu ta đồng tính luyến ái, tôi bảo cậu ta rằng chuyện đó sẽ dính mãi trong hồ sơ lý lịch của cậu ta đấy, rằng về sau sẽ có một lúc nào đó trong đời cậu ta có thể phải hối tiếc vì mang một lý lịch chính thức như vậy, tôi có thể thấy cậu ta tỏ ra miễn cưỡng và rồi cuối cùng cậu ta nói:

- Bố tôi nói rằng thế vẫn tốt hơn là bị giết trong cuộc chiến tranh.

Tôi gửi giấy tờ đi chúng bị trả về, không có trường hợp nào được chấp thuận, Hiller phải tái ngũ, một hội đồng trưng binh sẽ đánh giá trường hợp của cậu ta, lại thêm một cú trợt huớt!

Tôi ngạc nhiên là Eli Hemsi lại không gọi cho tôi. Paul, cậu con ông ta cũng không hề chường mặt ở kho quân khu từ khi các thông báo tái ngũ để thi hành nghĩa vụ quân sự được gửi đi, nhưng bí mật đó được vén màn khi tôi nhận được những giấy tờ qua đường bưu điện từ một bác sĩ nổi tiếng với các quyển sách về tâm lý trị liệu, những giấy tờ này chứng nhận rằng Paul Hemsi đã nhận nhiều lần trị liệu sốc thuộc diện vì tổn thương thần kinh, liên tục trong ba tháng qua và không thể được gọi tái ngũ để thi hành nghĩa vụ tích cực. Vì điều đó sẽ là một tai hoạ cho sức khoẻ của anh ta, tôi nhìn lên điều luật rất nghiêm của quân đội. Chắc chắn là ông Hemsi đã tìm được con đường xuất ngũ. Hẳn là ông xin ý kiến tư vấn từ những người cao cấp hơn tôi. Tôi gửi hồ sơ đó đến Govemors Island. Và cuối cùng chúng quay về nhưng lần này với những lệnh đặc biệt cho Paul Hemsi xuất ngũ khỏi quân đội Hoa Kỳ. Tôi thắc mắc không biết Hemsi bố phải tốn hết bao nhiêu để chơi được tuyệt chiêu này hẳn là không dưới bốn năm chục ngàn đô-la.

Tôi cố gắng giúp đỡ tất cả những ai cứu xét cho xuất ngũ vì hoàn cảnh khó khăn. Tôi làm thế nào cho chắc rằng hồ sơ đến được Govemors Islland và gọi đường dây đặc biệt để kiểm tra, nói cách khác tôi rất có tinh thần hợp tác với tất cả khả năng của mình, đối với mọi khách hàng của tôi, nhưng Frank Alcore thì trái lại.

Frank đã được gọi tái ngũ, cùng với đơn vị của mình, để thi hành nghĩa vụ tích cực và anh nghĩ việc lên đường chinh chiến khi non sông réo gọi là điểm danh dự của kẻ làm trai, anh không hề viện ra hoàn cảnh khó khăn để mưu cầu việc miễn hoãn quân dịch mặc dầu với cha mẹ già, và gánh nặng thê nhi, anh có đủ lý do để đề xuất việc đó. Anh khó có cảm tình với bất kỳ ai trong đơn vị mình tìm cách tránh né việc tái ngũ một năm, với tư cách trưởng phòng hành chánh của tiểu đoàn, vừa với tính cách một viên chức dân sự, vừa là thượng sĩ thường vụ tiểu doàn.

Anh cố tình bỏ quên mọi yêu cầu miễn hoãn vì lý do khó khăn, anh gay gắt đối với mọi yêu cầu loại đó trong mức độ quyền lực của mình, không ai trong đám người của anh tránh tré được lệnh tái ngũ để thi hành nghĩa vụ tích cực, ngay cả những người có cơ sở chính đáng, và rất nhiều những anh chàng bị anh làm lơ lại chính là những người đã chi cho anh khá nhiều đô-la để được đăng ký vào chương trình sáu tháng. Lúc Frank và các đơn vị của anh rời kho quân nhu để lên đường rời pháo đài Lee, có biết bao chàng cay cú nguyền rủa.

Tôi biết bị chế giễu về việc không dính vào chương trình quân dự bị rằng chắc là tôi phải biết có điềm gì đó, nhưng lời đồn đó có kèm ý nể nang, tôi đã là kẻ duy nhất trong ban quân nhu không bị cám dỗ bởi giữa hai đầu lương và sự vắng bóng của nguy cơ tiềm ẩn trong đó; dù cho tỷ lệ đó là một ngàn ăn một về việc bị gọi thi hành nghĩa vụ tích cực, tôi vẫn chống lại mọi cám dỗ, hoặc tôi có khả năng nhìn vào tương lai? Điều mỉa mai là có cả đống cựu binh đệ nhỉ thế chiến bị "dính chấu và họ không thể tin điều đó, cay thật? Chỉ duy có Frank Alcore là không lấy làm điều "mình đã hưởng nhiều khoản ngoại bổng" giờ đây phải trả giá. Anh cười:

- Merlyn, mình đã luôn nghĩ cậu là thằng khờ nhưng giờ đây cậu đã khôn ra nhiều đấy.

Vào cuối tháng đó khi mọi người lên đường, tôi mua cho Frank một món quà, đó là một đồng hồ đeo tay với đủ thứ linh tinh trên đó: ba người lái, hai cửa sổ, kim la bàn ngày tháng bảo đảm chống va chạm. Tôi tốn cho món quà mất hai trăm đô-la nhưng không tiếc vì tôi thật sự mến Frank, và tôi đoán rằng mình cũng cảm thấy hơi có tội vì trong khi anh ấy phải ra đi còn mình vẫn bình chân như vại, anh cảm động với món quà và ôm tôi trìu mến:

- Lúc nào lỡ gặp vận bĩ, anh có thể đem cầm nó kiếm tí tiền còm cũng được, - tôi nói đùa và hai chúng tôi cùng cười.

Hai tháng kế tiếp sau đó, kho quân nhu trống vắng lạ lùng một nửa số đơn vị đã thi hành nghĩa vụ tích cực trong chương trình tái ngũ, chương trình sáu tháng kể như tiêu chẳng còn là món bở để kiếm chác nữa, tôi được hưởng nhàn vì không còn vụ phe phẩy nào nữa, chẳng có việc gì khác để làm thế là tôi lao vào quyển tiểu thuyết của mình, cả trong giờ hành chánh.

Còn thiếu tá chỉ huy trưởng thường ra ngoài rong chơi, trung sĩ thường vụ cũng bắt chước theo. Vắng Frank, tôi thấy đơn độc trong phần lớn thời gian ở văn phòng. Vào một trong những ngày đó một chàng trẻ bước vào và ngồi trước bàn giấy của tôi tôi hỏi cậu ta:

- Tôi có thể giúp được gì cho cậu?

Cậu ta hỏi lại tôi, có nhớ cậu ta không? Có một cách mơ hồ, cậu ta xưng tên Muray Nadelson.

- Ông đã lo cho tôi như một ân huệ. Vợ tôi bị ung thư…

Thế rồi tôi nhớ lại cảnh ấy. Chuyện này xảy ra gần hai năm trước.

Một trong những khách hàng của tôi đã thu xếp cho tôi gặp Muray Nadelson. Ba người chúng tôi cùng đi ăn trưa với nhau. Khách hàng quen của tôi là một tay môi giới chứng khoán lanh lợi, sắc sảo tên là Buddy Stove. Một tay chào hàng siêu hạng. Và anh ta đã thuyết minh vấn đề cho tôi. Vợ của Murray Nadelson bị bệnh ung thư. Việc chữa trị rất tốn kém và Murray không thể cáng đáng chi phí, nếu như ở trong quân dự bị. Với lại cậu ta cũng sợ chết khiếp nếu phải thi hành nghĩa vụ quân sự năm và đi đánh nhau ở nước ngoài. Tôi hỏi tại sao cậu ta không làm đơn xin hoãn dịch vì lý do gia cảnh khó khăn, căn cứ trên sức khoẻ của người vợ. Cậu ta đã thử chuyện đó nhưng đơn đã bị bác.

Chuyện ấy nghe không ổn, nhưng tôi làm lơ. Buddy Stove giải thích rằng một trong những hấp dẫn nhất của chương trình nghĩa vụ quân sự sáu tháng đó là người ta được thi hành nghĩa vụ quân sự ngay tại Mỹ và Murray Nadelson có thể đem vợ theo sống ở gần căn cứ huấn luyện của mình. Sau sáu tháng đó, người ta cũng muốn làm sao cho cậu ta được chuyển về nhóm kiểm soát để cậu ta không phải trình diện hàng tuần. Thực sự cậu ta cần ở gần vợ càng nhiều càng tốt.

Tôi gật đầu. OK, tôi có thể làm chuyện này. Thế rồi Buddy Stove ném quả bóng lõm ra. Anh ta muốn mọi chuyện này đều miễn phí. Nghĩa là tôi làm công quả thôi! Để đức cho các con anh mà? Tại vì thằng bạn Murray của em nghèo lắm, chẳng có được một xu dính túi.

Trong lúc đó Murray không thể nhìn vào mắt tôi. Cậu ta cứ cúi đầu. Tôi thoáng có ý nghĩ có thể là một chuyện vờ vịt nhưng rồi tôi không thể tưởng tượng là có người nào lại đi nói vợ mình bị ung thư để chỉ khỏi phải trả một mối tiền nhỏ. Và rồi tôi có một ảo tưởng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu lỡ như có một ngày toàn bộ vụ việc này đổ bể và báo chí đăng rùm beng lên là tôi đã buộc một anh chàng phải trả hối lộ để lo cho anh ta, trong khi vợ anh ta bị ung thư. Có lẽ tôi sẽ trở nên kẻ để tiện nhất trên đời, ngay cả dưới mắt tôi. Thế là tôi nói:

- Được rồi, tôi giúp anh.

Và nói với Murray là tôi hy vọng bệnh tình của vợ anh sẽ thuyên giảm. Đến đó kết thúc bữa ăn trưa.

Tôi hơi bực bội một tí. Tôi đã có chủ trương là sẽ đăng ký cho bất kỳ ai vào chương trình sáu tháng nếu người đó nói là mình không thể trả tiền. Điều đó đã xảy ra nhiều lần rồi. Tôi sẵn sàng làm công quả khoản đó. Nhưng việc chuyển sang việc kiểm soát và tránh né được năm năm nghĩa vụ trù bị là một cú làm ăn đáng giá. Đây là lần đầu tôi được yêu cầu ban phát điều đó miễn phí.

Bản thân Buddy Stove từng phải trả năm trăm đô-la cho ơn huệ đặc biệt đó, chưa kể hai trăm đô-la lúc đăng ký đầu quân. Dù sao tôi cũng làm cho mọi việc cần thiết được thực hiện êm ái và hiệu quả. Murray Nadelson sẽ thi hành nghĩa vụ trong sáu tháng, rồi tôi hoán đổi cậu ta sang nhóm kiểm soát, nơi đó cậu ta chỉ là một cái tên trên bảng phân công.

Còn giờ đây. Murray Nadelson là cái quái gì mà đến ngồi trước bàn giấy của tôi? Tôi bắt tay cậu ta và chờ đợi.

- Tôi vừa nhận được cú điện thoại của Buddy Stove, - Murray nói. - Anh ấy bị gọi tái ngũ từ nhóm kiểm soát. Họ sẽ đưa anh ấy đi thi hành nghĩa vụ quân sự tích cực.

- Thật rủi cho Buddy, - tôi nói.

Giọng tôi không có vẻ đồng cảm cho lắm. Tôi không muốn Buddy nghĩ rằng tôi sẽ giúp đỡ. Nhưng Murray Nadelson đang nhìn thẳng vào mắt tôi như thể cậu ta đang "lên gân" để nói một điều gì mà cậu ta thấy khó nói. Vì thế tôi dựa ngửa ra nghế ngồi và nói:

- Tôi không thể làm gì cho anh ta đâu!

Nadelson lắc đầu cách quả quyết:

- Anh ấy biết điều đó.

Cậu ta ngưng một lát.

- Ông biết là tôi chưa bao giờ đền ơn ông một cách xứng đáng đối với tất cả những gì ông đã làm cho tôi. Ông là người duy nhất đã giúp dỡ tôi mà không đòi gì. Tôi muốn nói là tôi không bao giờ quên những gì ông đã làm cho tôi. Đó là lí do tại sao tôi đến đây hôm nay. Có lẽ tôi có thể giúp ông.

Bây giờ đến lượt tôi bối rối. Tôi không muốn cậu ta đưa tiền cho tôi vào lúc đã quá trễ như thế này. Chuyện gì đã qua là đã qua. Và tôi thích ý tưởng có một vài thiện nghiệp trong đời mình mà chỉ cần riêng mình biết.

- Quên chuyện đó đi, - tôi nói.

Tôi vẫn còn cảnh giác. Tôi không muốn hỏi vợ cậu ta có khá hơn không, tôi không bao giờ tin chuyện đó. Và tôi cảm thấy bất an khi cậu ta cảm thấy biết ơn đến thế về cảm tình của tôi khi mọi chuyện chỉ là giao tế nhân sự

- Buddy bảo tôi đến gặp ông, - Nadelson nói. - Anh ấy muốn cảnh báo cho ông là nhân viên FBI đang có mặt rất đông ở Fort Lee, đang thẩm vấn nhiều binh sĩ trong các đơn vị của ông. Về chuyện chi tiền để đăng lính ấy mà. Họ đặt những câu hỏi về ông và về Frank Alcore. Và ông bạn Alcore của ông hình như đang gặp rắc rối to. Khoảng hai mươi người đã đưa ra bằng chứng là họ đã "nộp cống" cho ông ấy. Buddy nói sẽ có một phiên khoáng đại hội thẩm ở New York để luận tội ông ấy trong vài tháng nữa. Ông ấy không biết về phần ông thì thế nào, anh ta muốn tôi lưu ý ông nên thận trọng trong lời nói cũng như trong việc làm. Và nếu như ông cần một luật sư anh ấy sẽ tìm cho ông.

Trong một lúc, hầu như tôi không thấy được cả cậu ta. Cả thế giới đột ngột tối sầm lại, tôi cảm thấy choáng váng đến xây xẩm cả mặt mày, gần phát buồn nôn. Chiếc ghế của tôi hình như lao tới trước. Tôi thấy những ảo tưởng về nỗi bất hạnh nhảy múa trước mắt: mình bị tù tội, Vallie kinh hoàng, cha nàng giận dữ, anh Artie xấu hổ và thất vọng về tôi. Chẳng phải là cuộc bông đùa vui vẻ nữa mà là sự vi phạm luật lệ xã hội và phải trả giá.

- Lạy Chúa! - tôi nói. - Làm thế nào mà họ đánh hơi ra chuyện này? Từ hồi có lệnh gọi tái ngũ, đâu có ai làm gì nữa. Cái gì làm họ theo dấu?

Nadelson dường như thấy có lỗi đối với những đồng đội đã đưa hối lộ vài người, họ lấy làm tức giận về việc bị gọi tái ngũ nên đã viết thư nặc danh cho FBI tố chuyện đã chi tiền để đăng ký vào chương trình sáu tháng. Họ muốn đẩy Alcore vào chỗ rắc rối, họ thoá mạ ông ta, một số người tức giận vì ông ấy triệt họ khi họ cố né lệnh gọi tái ngũ và rồi khi nhập trại, ông ấy là một tay thượng sĩ rất hăng hái với nhiệm vụ thi hành quân lệnh răm rắp, binh sĩ dưới quyền, dĩ nhiên là không ưa kiểu đó, vậy là họ muốn đẩy ông ta vào rắc rối để trả đũa và họ đã làm như thế.

Trí óc tôi chạy đua với biến cố. Đã gần một năm từ khi tôi gặp Cully ở Vegas và giấu tiền, khi đó tôi đã tích luỹ được thêm mười lăm ngàn đô-la khác. Và chúng tôi còn phải dọn gấp rút về nhà mới ở Long Island. Mọi sự đang rạn nứt và có thể đổ vỡ vào thời điểm tệ hại nhất, và nếu như đám FBI thẩm tra mọi người đến pháo đài Lee, họ sẽ nói chuyện với hàng trăm anh chàng mà tôi đã từng nhận tiền, bao nhiêu người trong số đó sẽ khai là đã chi tiền cho tôi.

- Stove có chắc là sắp có một phiên khoáng đại hội thẩm để luận tội Frank hay không? - Tôi hỏi Nadelson.

- Hẳn là phải có! - Murray nói. - Trừ phi chính quyền muốn bưng bít toàn bộ sự việc và dấu nhẹm đi.

- Có cơ may nào cho việc đó không? - Tôi hỏi.

Murray Nadelson lắc đầu:

- Không, nhưng Buddy hình như nghĩ rằng ông có thể né tránh được, những anh chàng có liên hệ với ông đều nghĩ là ông tốt, không bao giờ thúc ép chuyện tiền nong như Alcore. Không ai muốn đẩy ông vào chỗ rắc rối và Buddy rỉ tai họ là đừng nên làm cho ông dính dáng vào.

- Hãy cám ơn anh ấy giùm tôi, - tôi nói.

Nadelson đứng lên và bắt tay tôi:

- Tôi muốn cám ơn ông lần nữa, cậu ta nói. - Nếu ông thấy cần một nhân chứng xác nhận cho ông hoặc ông muốn FBI hỏi tôi, tôi luôn chờ đợi để làm hết sức mình.

Tôi bắt tay cậu ta và thực lòng thấy biết ơn.

- Tôi có thể giúp cho bạn việc gì không? - Tôi nói. - Có thể nào bạn bị từ chối vào nhóm kiểm soát không?

- Không đâu! - Nadelson nói - Tôi có một đứa con nhỏ, chắc ông nhớ, và vợ tôi mới mất hai tháng trước đây Vì thế tôi an toàn.

Tôi sẽ không bao giờ quên được khuôn mặt chàng ta khi nói điều đó ngay cả giọng nói cũng đầy sự tự căm ghét cay đắng. Và khuôn mặt chàng ta có vẻ xấu hổ và thù ghét. Chàng ta tự phỉ báng mình vì còn sống. Thế mà chàng ta đâu có thể làm gì khác hơn là theo dòng đời đã diễn ra. Chăm sóc cho đứa con dại, sáng sáng đi làm, đáp ứng yêu cầu của một người bạn và đến đây để báo động cho tôi và nói lời cám ơn về chuyện tôi đã làm cho anh ta mà vào lúc đó, anh ta đã cảm thấy quan trọng với mình nhưng bây giờ thực sự chẳng còn có nghĩa gì với anh ta nữa. Tôi rất tiếc đã nghĩ sai về chuyện vợ anh ta, bây giờ tôi tin hoàn toàn rằng anh ta là người trung thực, tôi cảm thấy xốn xang đã nghĩ không hay về anh ta và có lẽ anh ta đã cứu vãn điều đó lần cuối. Vì mấy năm trước đây khi anh ta cúi đầu trong lúc Buddy Stove năn nỉ tôi giúp, hẳn là anh ta đã biết rằng tôi nghĩ cả hai đều đang nói dối. Đây là một cuộc phục thù nho nhỏ và anh ta đã hoàn tất rất nhẹ nhàng.

***

Tôi trải qua một tuần lễ bồn chồn lo sợ trước khi sự cố cuối cùng xảy đến, đó là một ngày thứ hai, và tôi ngạc nhiên khi viên thiếu tá bước vào văn phòng sớm hơn thường lệ. Lão ta ném cho tôi một tia nhìn giễu cợt trong lúc lão bước vào văn phòng riêng.

Đúng mười giờ có hai người đàn ông bước vào và yêu cầu gặp thiếu tá. Tôi biết ngay họ là ai họ hầu như đúng y những gì văn học và điện ảnh mô tả về họ. Trang phục kiểu bảo thủ với comple cà vạt trông rất chững chạc, anh chàng lớn hơn độ tuổi bốn mươi lăm với nét mặt sắc sảo anh chàng kia trẻ hơn với thân hình dong dỏng cao.

Tôi chỉ họ vào văn phòng của viên thiếu tá, họ nói chuyện với ông ta khoảng ba mươi phút, rồi họ đi ra và đứng trước bàn giấy của tôi, người lớn tuổi hơn hỏi, theo nghi thức:

- Anh có phải là John Merlyn?

- Vâng, tôi đây, - tôi đáp.

- Chúng tôi có thể nói chuyện với anh trong phòng riêng được không? Chúng tôi đã được phép thủ trưởng của anh.

Tôi đứng lên và dẫn họ vào một trong các phòng họp buổi tối của đơn vị, cả hai liền rút từ túi ra thẻ công vụ màu xanh cho tôi xem. Tay lớn tuổi hơn tự giới thiệu:

- Tôi là James Wallace của cục điều tra liên bang. Còn đây là Tom Hannon.

Anh chàng Hannon cười thân thiện với tôi:

- Chúng tôi muốn hỏi anh vài câu, anh không phải trả lời mà không hỏi ý kiến luật sư, nhưng nếu anh trả lời chúng tôi, thì bất kỳ điều gì anh nói cũng có thể được dùng để chống lại anh, rõ chứ?

- Rõ! - tôi nói.

Tôi ngồi xuống ở một đầu bàn và họ ngồi xuống mỗi người mỗi bên của cái bàn để tôi bị kẹp ở giữa.

Anh chàng lớn tuổi hơn Wallace hỏi:

- Anh có ý tường nào về việc tại sao chúng tôi đến đây không?

- Không! - tôi nói.

Tôi đã quyết định rằng tôi sẽ không đưa ra một lời nào ngay cả một lời đùa dí dỏm, sẽ không để lộ một cử chỉ luống cuống nào gợi cho họ biết tôi có một ý tưởng nào đó về lý do tại sao đến đây, nhưng rồi sao nào?

Hannon nói:

- Với hiểu biết cá nhân, anh có thể cho biết tất cả những thông tin nào về việc Frank Alcore nhận hối lộ từ những quân dự bị, vì bất kỳ lý do nào đó?

- Không, - tôi nói.

Mặt tôi không biểu lộ điều gì tôi đã quyết định không làm diễn viên không biểu hiện ngạc nhiên, không cười không có gì kích động những câu hỏi thêm hay tấn công. Cứ để cho họ nghĩ tôi đang bao che cho bạn. Chuyện đó bình thường thôi ngay cả nếu tôi không có tội.

Hannon nói:

- Anh có bao giờ lấy tiền từ bất kỳ quân dự bị nào vì bất kỳ lý do nào không?

- Không! - tôi nói.

Wallace nói rất chậm rãi có cân nhắc kỹ:

- Anh biết tất cả về chuyện này, anh chỉ ghi danh những người trong hạn tuổi tòng quân khi nào họ chịu chi cho anh một số tiền để làm điều ấy, anh biết rằng anh và Frank Alcore có khả năng thao tác khéo léo để vận dụng những danh sách đó theo ý đồ của các anh. Nếu phủ nhận chuyện này, anh đang nói đối với một sĩ quan liên bang, đó là tội ác. Bây giờ tôi hỏi lại anh lần nữa, anh có bao giờ lấy tiền hoặc của đút lót nào khác để dành ưu tiên việc đăng ký đầu quân cho người này đối với người khác?

- Không! - tôi nói.

Haunon bỗng bật cười:

- Chúng tôi đã điểm huyệt được người bạn chí cốt Frank Alcore của anh rồi. Chúng tôi có bằng chứng rằng hai người làm ăn trong vụ này, và rằng có thể anh còn liên kết với những viên chức hành chánh quân sự khác hoặc cả với những sĩ quan nơi dây để đòi hối lộ. Nếu anh thành thật khai báo với tất cả những gì anh biết, sẽ tốt cho anh nhiều hơn đấy.

Không có câu hỏi nào, vậy nên tôi chỉ nhìn anh ta mà không trả lời. Bỗng nhiên Wallace nói, bằng giọng đều đều, điềm đạm:

- Chúng tôi biết anh là đầu sỏ của tác vụ này.

Thế là lần đầu tiên tôi phá vỡ luật lệ của chính mình đặt ra. Tôi cười lớn. Một tiếng cười tự nhiên đến độ họ không thể công kích. Thực tế, tôi thấy Hamnon cũng mỉm cười. Lý do khiến tôi cười là cái từ "đầu sỏ". Lần đầu tiên toàn bộ vụ việc đập vào tôi giống như một cái gì vút ra từ một phim hạng B và tôi cười bởi vì tôi đã chờ dợi Hannon nói điều gì tương tự như thế, bởi trông hắn ta khá non nớt. Tôi đã nghĩ Wallace là người nguy hiểm, có lẽ vì rõ ràng anh ta là người chủ chốt.

Và tôi cười, vì biết rõ ràng họ đã lạc lối. Họ đang truy tìm một mưu đồ tinh vi, một đường dây có tổ chức với một "đầu não". Nếu không, có lẽ những nhân vật nặng ký của FBI sẽ không tốn thì giờ đến thế. Họ không biết rằng chỉ có dúm mấy anh cạo giấy xoay sở để kiếm thêm tí ngoại bổng. Họ đã quên và không hiểu rằng đây là New York, nơi mọi người hàng ngày vẫn phạm luật, trong tình huống này hay tình huống khác. Họ không thể quan niệm là mọi người đều có thể bị móc ngoặc. Nhưng tôi không muốn họ nổi giận về tiếng cười của mình vì thế tôi nhìn thẳng vào mắt Wallace và nói với vẻ hối:

- Tôi ước chi mình được làm đầu sỏ của cái gì đó, thay vì chỉ là một anh kí quèn.

Wallace nhìn tôi đầy chủ ý, rồi nói với Hannon:

- Cậu còn muốn hỏi gì nữa không? Hannon lắc đầu Wallace đứng lên.

- Cảm ơn đã trả lời câu hỏi của chúng tôi.

Cùng lúc Hannon đứng lên, và tôi cũng thế. Trong cùng một lúc cả ba chúng tôi cùng đứng lên, sát nhau và gần như chẳng nghĩ gì, tôi đưa tay ra và Wallace bắt lấy.

Tôi cũng bắt tay Hannon và chúng tôi cùng ra khỏi phòng, xuống hành lang qua phòng của tôi. Họ gật đầu chào từ biệt, đến đầu cầu thang đưa xuống phòng dưới, còn tôi đi về phía văn phòng mình.

Tôi hoàn toàn lạnh nhưng không hoảng hốt. Không hề một tí. Tôi ngạc nhiên về chuyện mình đưa tay ra bắt. Chính động tác đó làm tan biến sự căng thẳng nơi tôi. Nhưng tại sao tôi làm như vậy? Tôi nghĩ động tác đó bắt nguồn từ sự biết ơn nào đấy. Rằng họ đã không cố để làm nhục hay hạ gục tôi. Rằng họ đã giữ cuộc phỏng vấn trong một giới hạn văn minh. Rằng họ có chút tội nghiệp cho tôi. Rõ là tôi có tội nhưng ở tầm cỡ bé xíu. Một anh kí quèn xoay sở kiếm thêm tí tiền còm để cà phê thuốc lá hay nhiều lắm là chút quà cho vợ con. Chẳng bõ bèn gì.

Dằn mặt tí thế là được rồi. Tất nhiên họ cũng có thể đưa tôi vào tù nhưng không cố tâm lắm. Hoặc có thể cũng thấy tức cười về những chàng trai chi tiền để được vào làm lính. Và rồi tôi phá ra cười.

Bốn mươi lăm ngàn đô-la đâu phải là tiền lẻ để tiêu vặt. Tậu ô tô, xây nhà lầu được đấy. Tôi đã để cho lòng tự thương hại dẫn đi quá xa.

Về văn phòng mình, viên thiếu tá xuất hiện ở cửa văn phòng và ra hiệu vào gặp ông ta. Tay thiếu tá mang đủ thứ huân huy chương trên đồng phục. Ông ta đã từng xông pha trên trận mạc trong thế chiến 2 và ở Triều Tiên. Trên ngực ông ta có ít nhất là hai mươi huân huy chương lấp lánh.

- Cậu ứng phó thế nào? - Ông hỏi, cười cười.

Tôi nhún vai:

- Cũng tạm được, tôi đoán vậy.

Viên thiếu tá lắc đầu, ngạc nhiên:

- Họ bảo tôi là chuyện này đã kéo dài nhiều năm nay rồi. Các cậu làm thế nào hay vậy? - ông ta lại lắc đầu tỏ ý thán phục.

- Tôi nghĩ đó là chuyện nhảm, - tôi nói. - Tôi chẳng bao giờ thấy Frank lấy của ai một xu. Chỉ là do một số người nổi giận vì bị gọi tái ngũ để thi hành nghĩa vụ tích cực.

- Ờ, - thiếu tá nói. - Nhưng ở pháo đài Lee họ đang có lệnh đưa lên máy bay khoảng một trăm anh chàng đó đến New York để xác chứng trước một khoáng đại hội thẩm. Chuyện đó thì không thể coi thường được đâu.

Ông ta ngắm nghía tôi có vẻ tươi cười, trong một lúc:

- Cậu ở trong binh chủng nào khi đánh nhau với Đức quốc xã?

- Đệ tứ sư đoàn thiết giáp. - tôi nói.

- Cậu được một ngôi sao đồng trong quân bạ, - thiếu tá nói - Không ghê gớm lắm nhưng cũng là một cái gì.

Trong số các huân huy chương trên ngực ông ta có huy chương Sao bạc và Hùng tâm bội tinh (purple heart).

- Chẳng đáng gì đâu, tôi nói - Tôi chỉ di tản được một số viên chức dân sự Pháp dưới làn đạn. Tôi không nghĩ là mình từng giết được tên lính Đức nào.

Viên thiếu tá gật đầu:

- Không đáng kể lắm, ông đồng ý. Nhưng cũng hơn là những tên kia chưa từng làm được gì. Vậy thì, nếu tôi có thể giúp được gì cho cậu, cứ cho tôi biết nhé!

- Cám ơn thiếu tá, - tôi đáp.

Và khi tôi đứng lên để ra đi, viên thiếu tá nói một cách giận dữ, gần như với chính mình:

- Hai cái thằng con hoang đó bắt đầu đặt những câu hỏi với tôi và tôi bảo chúng cút xéo chỗ khác. Chúng nghĩ có thể tôi cũng dính vào đây.

Ông ta lắc đầu:

- Thôi được, cậu ráng mà chùi mép cho sạch. Làm một tên tội phạm không chuyên quả thật là hoài công.

Tôi bắt đầu phản ứng lại mọi chuyện giống như một kẻ sát nhân trong phim biểu lộ cực hình của tội lỗi tâm lí.

Mỗi khi chuông nơi căn hộ tôi ở reo lên vào thời gian bất thường, tôi cứ giật lên thon thót. Nghĩ đó là những tay cớm của FBI. Trong khi thật ra chỉ là một trong những người láng giềng hay một trong những người bạn Vallie ghé qua để tán gẫu hay mượn cái gì đó. Tại văn phòng tôi, nhân viên FBI mỗi tuần ghé vài lần, thường là với vài chàng trẻ nào đó, rõ ràng là để nhận dạng tôi. Tôi đoán là những quân dự bị đã từng chi tiền để được vào chương trình sáu tháng. Một lần Hannon đến để chuyện gẫu rồi xuống căn tin lấy cà phê và sandwiches lên cho chúng tôi và viên thiếu tá. Trong lúc trò chuyện, Hannon nói với tôi, bằng cái giọng dễ thương nhất có thể tưởng tượng được:

- Merlyn này, bạn là một người tốt. Mình thật sự ghét ý tưởng đưa bạn vào tù. Như bạn biết mình đã từng bắt buộc phải đưa nhiều người rất dễ thương đi tù. Mình luôn luôn nghĩ điều đó thật xấu hổ, phải chi họ biết tự cứu mình hơn một chút.

Viên thiếu tá dựa người ra sau ghế, quan sát phản ứng của tôi. Tôi chỉ nhún vai và ăn sandwiches. Lập trường của tôi là chẳng việc gì phải trả lời những nhận xét kiểu đó và chỉ trả lời khi nào, chiếu theo luật tôi phải trả lời. Còn không thì cứ lờ, coi như không có gì. Tội vạ gì lại muốn tỏ ra thông minh, giỏi lí luận ở những khoản đó, cho bị va vào những tảng đá ngầm! Tớ đây đếch chơi dại? Đừng có ngứa cổ ở những chỗ không đúng lúc, đúng nơi, đúng người, đúng việc! Nên minh triết bảo thân là thế đấy? Cho nên tôi bèn đánh trống lảng. Tôi hỏi viên thiếu tá xin có thể được nghỉ phép vài ngày để giúp vợ tôi trong việc mua sắm mừng Giáng Sinh hay không. Thật ra trong lúc này cũng chẳng có việc gì nhiều và chúng tôi có một nhân viên dân sự trong văn phòng thay thế cho Frank Alcore, đủ khả năng trông coi cửa hàng trong khi tôi nghỉ phép. Thiếu tá nói được thôi. Vả chăng, cái anh chàng Hannon này ngớ ngẩn lắm. Câu nói của anh ta về việc gửi hàng lố người đi tù là một câu ba hoa ngạo sự! Anh chàng còn quá trẻ để có thể gửi hàng lố những người dễ thương hay khó thương vào tù. Tôi coi anh ta chỉ là một chàng tập sự, một chàng tập sự dễ thương, nhưng không phải là kẻ sắp gửi tôi đi tù. Và nếu anh ta làm được, thì có lẽ tôi là người thứ nhất.

Chúng tôi tán gẫu một lúc và Hannon ra đi. Viên thiếu tá nhìn tôi với lòng kính trọng mới. Và rồi ông ta nói:

- Ngay cả nếu bọn họ chẳng ngắt véo được gì nơi anh, tôi cũng gợi ý anh nên tìm một việc làm khác.

***

Lễ Giáng Sinh vẫn luôn là ngày hội trọng đại đối với Vallie. Nàng thích đi mua quà cho bố mẹ, con cái, cho tôi và các anh chị em của nàng. Và lễ Giáng Sinh năm đó nàng có nhiều tiền để tiêu pha mua sắm hơn là bất kỳ năm nào trước. Hai cậu con trai có hai chiếc xe đạp còn cất trong tủ. Một áo ấm bằng len Ireland nhập khẩu cho bố nàng một khăn choàng đắt tiền, sang trọng cho mẹ nàng. Tôi không biết nàng mua gì cho tôi.

Nàng luôn giữ bí mật chuyện đó. Còn quà của tôi cho nàng là một chiếc nhẫn kim cương nhỏ, món nữ trang thật sự mà tôi mua cho nàng từ khi quen biết nhau cho tới giờ. Tôi chưa bao giờ mua cho nàng nhẫn đính hôn. Trong bao nhiêu năm trời trước đó không ai trong chúng tôi tin vào chuyện vô nghĩa mang tính tư sản kiểu đó. Sau mười năm, nàng đã thay đổi nhưng tôi chẳng bận tâm mấy. Tôi biết là món quà sẽ làm nàng vui lòng.

Thế là vào đêm Noel, bọn trẻ giúp nàng trang hoàng cây thông trong khi tôi làm việc trong phòng. Valie vẫn chưa có ý tưởng nào về chuyện rắc rối mà tôi gặp phải trong công việc. Tôi viết mấy trang cho cuốn tiểu thuyết của mình rồi ra nhìn để trầm trồ tán thưởng cây Noel. Nó được trang hoàng với các quả chuông xanh đỏ vàng với những dải viền bằng giấy bạc lóng lánh. Trên đỉnh là một ngôi sao rực rỡ. Vallie không thích dùng đèn điện nhấp nháy trên cây Noel. Bọn trẻ rất háo hức, và phải mất một thời gian lâu mới dỗ được chúng chịu lên giường và nằm yên. Nhưng chúng vẫn thậm thò thậm thụt ra vào và chúng tôi không dám gắt gỏng với chúng nhất là vào đêm Giáng Sinh. Cuối cùng chúng mệt mỏi quá mới chịu đi ngủ. Tôi kiểm tra chúng lần cuối. Chúng mặc những bộ đồ pyjama mới và trước đó đều đã đánh răng súc miệng, tắm rửa sạch sẽ thơm tho, trông chúng xinh đẹp như những thiên thần nhỏ đến nỗi tôi không dám tin chúng là con mình, thuộc về mình. Vào lúc ấy, tôi thật sự thấy lòng mình tràn ngập niềm yêu thương vô bờ đối với Vallie.

Cảm thấy thực sự may mắn. Tôi quay lại phòng khách.

Vallie đang vui vẻ sắp những gói quà Noel sáng lên với các dấu hiệu Giáng Sinh dưới cây thông. Không biết bao nhiêu là quà. Tôi vào lấy gói quà tôi mua cho nàng và đặt dưới cây:

- Anh chẳng mua sắm được gì nhiều cho em, - tôi nói có vẻ e thẹn, - Chỉ một món quà nhỏ thôi.

Tôi biết nàng sẽ không bao giờ ngờ rằng nàng đang được nhận được một chiếc nhẫn kim cương thật. Nàng cười và cho tôi một nụ hôn, nàng chưa hề thật sự quan tâm đến cái gì nàng nhận được vào dịp Giáng Sinh, nàng thích mua quà cho người khác đặc biệt là cho lũ con, rồi tôi và cho gia đình nàng.

Bọn nhỏ có bốn hay năm món quà trong đó có cả một chiếc xe đạp mà chúng tôi hì hục lắp ráp đến gần ba giờ sáng mới xong. Và chúng tôi biết bọn trẻ sẽ bật ra khỏi giường ngay lúc chúng thức giấc. Chúng tôi chỉ còn bốn giờ để nghỉ. Rồi sau đó sẽ ra xe về nhà bố mẹ Vallie cho một ngày lễ hội tưng bừng.

- Chúng ta nên đi ngủ để giữ sức cho ngày mai, - tôi nói.

Vallie nằm dài ra trên sàn nhà.

- Em nghĩ mình sẽ nghỉ ngay tại đây, - nàng nói.

Tôi nằm xuống bên cạnh nàng, và rồi cả hai chúng tôi quay người nằm nghiêng để có thể ôm nhau thật chặt.

Chúng tôi nằm đó, mệt nhọc nhưng hài lòng với hạnh phúc tràn ngập. Vào lúc đó có một tiếng gõ mạnh vào cửa. Vallie nhanh chóng đứng lên, với tia nhìn ngạc nhiên trên khuôn mặt nàng và nàng liếc tôi có ý dò hỏi. Chớp nhoáng chỉ trong vòng một phần tư giây, tâm hồn nặng trĩu mặc cảm tội lỗi của tôi đã dàn dựng nên một kịch cảnh với toàn bộ lớp lang. Hẳn nhiên đó là những nhân viên FBI. Họ đã cố ý chờ đến đêm Noel, đến lúc tâm lý tôi lơ lỏng cảnh giác nhất. Họ đến đây với một lệnh truy nã trên tay họ, sẽ tìm thấy mười lăm ngàn đô-la tôi đang giấu trong nhà và sẽ mang tôi đi tù. Họ sẽ đề nghị để cho tôi được hưởng trọn đêm lễ Giáng Sinh với vợ con nếu như tôi thành thật khai báo. Nếu không, tôi sẽ bị hạ nhục: Vallie sẽ ghét tôi vì để bị bắt ngay vào ngày lễ Giáng Sinh. Bọn trẻ sẽ khóc lóc, và sẽ bị tổn thương tâm lí suốt đời. Chắc hẳn trông tôi có vẻ ốm bất ngờ hay sao ấy và Vallie hỏi tôi:

- Anh có sao không vậy?

Lại một tiếng gõ lớn vào cửa vang lên. Vallie bước ra khỏi phòng khách và đi xuống hành lang để trả lời. Tôi có thể nghe nàng nói với ai đó, và tôi đi ra ngoài lấy thuốc uống. Nàng đang quay lại từ hành lang và quẹo vào bếp. Trong đôi tay nàng là bốn bình sữa.

- Đó là người bán sữa, anh ta giao sữa sớm để có thể quay về với gia đình trước khi lũ nhóc của anh ta thức giấc. Anh ấy thấy ánh đèn qua cửa nhà chúng ta, nên anh ta gõ cửa và chúc mừng gia đình mình mùa Giáng Sinh vui vẻ.Thật là một người dễ thương.

Nàng đi vào bếp. Tôi đi theo nàng và ngồi yếu ớt trên một chiếc ghế. Vallie ngồi kế bên tôi:

- Em cá thế nào anh cũng nghĩ đó là một tay láng giềng khùng điên hay một tên tội phạm nào đó. Lúc nào anh cũng nghĩ là chuyện xấu nhất sẽ xảy ra.

Nàng hôn tôi say đắm.

- Chúng mình đi ngủ nhe anh.

Nàng còn tiếp tục hôn tôi dính chặt và chúng tôi lên giường, nàng thì thầm:

- Em yêu mình.

- Anh yêu em, - tôi đáp.

Và tôi cười trong bóng tối. Mình đúng là tên trộm vặt nhát gan nhất ở phương Tây, tôi tự nghĩ thầm.

***

Nhưng rồi ba ngày sau lễ GiángSinh, một người lạ bước vào văn phòng tôi và hỏi tôi có phải là tên John Merlyn không? Khi tôi nói đúng thế anh ta trao cho tôi một bức thư được gấp lại. Trong lúc tôi mở thư thì anh ta đi ra ngoài. Bức thư được in bằng những chữ cái lớn của thứ tiếng Anh cổ:

TOÀ ÁN QUẬN CỦA HIỆP CHỦNG QUỐC

Rồi bằng chữ in lớn, bình thường QUẬN NAM CỦA THÀNH PHỐ NEW YORK

Rồi tên và địa chỉ của tôi và ở cuối bằng chữ lớn, nội dung như sau:

"Xin chào

Bản toà lệnh cho đương sự, rằng mọi việc riêng cũng như mọi lý do khoan miễn phải để qua một bên, đương sự phải đích thân ra hầu toà trước khoáng đại hội thẩm nhân dân của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ".

Tiếp theo là thời gian và địa điểm được quy định rồi kết thúc:

"Đương sự đã vi phạm điều 18 trong Luật hình sự Mỹ".

Tiếp theo, toà bảo rằng nếu tôi không ra trình diện toà, tôi sẽ bị coi là khinh thường và bất tuân lệnh toà và sẽ chịu hình phạt của pháp luật.

À ít ra thì bây giờ tôi cũng đã biết tôi đã phạm vào luật nào. Điều 18 Luật Hình sự Mỹ. Tôi chưa từng nghe về nó. Tôi đọc lại trát toà lần nữa. Tôi bị mê hoặc bởi câu thứ nhất. Trong tư cách nhà văn, tôi thích viết cách đó. Chắc là họ đã lấy câu đó từ luật lệ cổ của Anh. Và cũng ngộ là một khi các luật gia muốn rõ ràng và giản ước thì họ có thể rõ ràng và giãn ước đến như thế nào, không còn chỗ nào để ngộ nhận. Tôi đọc lại câu ấy lần nữa: "Bản toà lệnh cho đương sự, rằng mọi việc riêng cũng như mọi lý do khoan miễn phải để qua một bên, đương sự phải đích thân ra hầu toà trước khoáng đại hội thẩm nhân dân của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ".

Hay thiệt! Có thể chính Shakespeare đã viết ra câu này cũng nên! Và giờ đây, khi cuối cùng chuyện phải đến đã đến, tôi ngạc nhiên thấy mình phấn chấn hẳn lên, muốn mau mau xông vào đấu trường thư hùng một trận, dù thắng hay bại cũng phải ra ngô ra khoai cho rồi. Cứ để mập mờ, lửng lơ mãi nó căng thẳng thần kinh lắm. Vào cuối ngày làm việc, tôi gọi điện thoại đến Las Vegas và gặp Cully nơi văn phòng của anh. Tôi kể lại cho anh những gì đã xảy ra và cho anh biết trong một tuần nữa tôi phải sẽ ra trình diện trước Khoáng đại hội thẩm. Anh bảo tôi cứ giữ vững tinh thần, đừng lo sợ gì cả. Anh sẽ bay đến New York vào ngày hôm sau và sẽ gọi về nhà tôi từ khách sạn anh ở tại New York.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Trong bốn năm kể từ khi Jordan chết, Cully đã tự tạo cho mình thành cánh tay phải của Gronevelt. Không còn là một nghệ sĩ thoái hoá nữa, trừ ra trong tim mình, hiếm khi anh chơi cờ bạc. Người ta gọi anh bằng tên thực, Cully Cross. Mã số điện thoại của anh là Xanadu số hai. Và quan trọng hơn cả, giờ đây Cully được có quyền "Cây bút chì" - một quyền lực được thèm muốn nhất ở Las Vegas. Với việc ghi tháu những chữ đầu trong tên họ của mình, anh ta có thể ban phát những phòng ở miễn phí, đồ ăn thức uống miễn phí cho những khách hàng và bạn bè nào mà anh muốn chơi đẹp. Anh chưa có được quyền sử dụng không hạn chế "cây bút chì", một đặc quyền vương giả dành riêng cho các chủ nhân khách sạn và những nhà quản lý casino quyền thế hơn, nhưng điều ấy cũng sẽ tới thôi. Cully bắt cú gọi của Merlyn lúc đến trong casino nơi phòng chơi blackjack, lúc bàn số 3 đang bị nghi ngờ có tay chơi đang "trổ ngón". Anh hứa với Merlyn sẽ đến New York và giúp anh ta. Rồi anh trở lại để quan sát bàn số 3. Trong suốt ba tuần qua, ngày nào bàn này nhà cái cũng thua tiền. Theo quy luật bách phân của Gronevelt, thì chuyện này là bất khả; hẳn là có mánh mung gian lận gì ở đây rồi. Cully đã cho thực hiện tác vụ địêp báo. Con mắt từ trên trời đã cho quay lại những cuốn videotape ghi cảnh bàn đánh bài dưới mọi góc cạnh: Từ trên nhìn xuống, từ dưới sàn nhìn lên và từ bốn hướng, đã đích thân quan sát, nhưng vẫn chưa có thể hình dung được chuyện gì đang diễn ra nơi mảnh đất lắm người nhiều ma đó. Và anh không muốn tường trình như thế cho Gronevelt cho đến khi anh giải quyết được câu đố bí hiểm kia. Anh cảm thấy rằng bàn đó đang bị một làn "hắc xạ quang" chiếu ngang nên mới "xui tận mạng" như thế, nhưng anh biết Gronevelt sẽ không bao giờ chấp nhận lối giải thích mê tín đó. Gronevelt tin tưởng rằng trong trường kỳ, nhà cái không thể nào thua, rằng các quy luật về tỷ lệ bách phân không phụ thuộc vào may rủi mà có thể căn cứ vào xác suất được đặt ra từ thời Pascal - nhà tư tưởng và toán học thiên tài của Pháp. Giống như những kẻ mê cờ bạc tin tưởng một cách huyền bí vào vận may của họ, Gronevelt lại tin tưởng vào tỷ lệ bách phân. Các sòng bài của ông không thể nào thua. Sau khi nghe cú gọi của Merlya, Cully lại đi đến bàn số 3. Là chuyên gia về mọi trò cờ gian bạc lận, anh đi đến quyết định tối hậu là các tỷ lệ bách phân đã hoá rồ, không cón tuân theo quy luật nữa? Anh sẽ làm một tường trình đầy đủ cho Gronevelt và để cho ông ta quyết định xem nên hoán chuyển các tay phụ trách bàn hay nên sa thải họ.

Cully rời casino và theo lối cầu thang qua shop cà phê lên tầng 2 dẫn đến phòng Ban điều hành. Anh kiểm tra văn phòng mình xem có thư từ, lời nhắn gì không rồi đi vào văn phòng Gronevelt. Gronevelt đã lên phòng ở trong khách sạn. Cully gọi điện thoại nội bộ và được lệnh đến. Gronevelt đang ngồi một mình. Trông ông rất trẻ trung và rất khỏẻ mạnh so với lứa tuổi thất tuần muộn của mình. Ông vừa mới đọc sách và quyển sách còn để mở trên bàn. Ông bảo Cully đến quầy rượu và Cully lấy một ly Scotch -Whisky pha soda cho ông và một cho anh.

Rồi họ ngồi đối mặt nhau:

- Cháu không phát hiện được cái gì gian lận nơi bàn blackjack thua ấy cả, - Cully nói.

- Không thể thế được, - Gronevelt nói. - Anh đã học được nhiều điều trong bốn năm qua, nhưng có một điều anh không chịu nhìn nhận đó là định luật về tỷ lệ bách phân. Không thể bàn đó thua số tiền cỡ đó trong ba tuần mà không có chuyện ám muội xảy ra.

Cully nhúm vai.

- Vậy cháu phải làm gì?

Gronevelt bình thản nói:

- Tôi sẽ ra lệnh cho tay quản lý sa thải mấy tay cầm cái. Muốn hoán chuyển họ đến bàn khác để xem chuyện gì xảy ra. Nên sa thải chúng ngay là hay hơn.

- OK, - Cully nói - Ông là chủ nhân

Anh nhắp một ngụm rượu:

- Bác còn nhớ anh bạn Merlyn của cháu, anh chàng viết sách ấy không?

Gronevelt gật đầu:

- Một đứa dễ thương đấy, - ông nói.

Cully đặt ly rượu xuống bàn. Anh thực sự không mê rượu lắm, nhưng Gronevelt không thích uống một mình.

Anh nói:

- Thằng gà con ấy than thở là hắn bị dính vào một vụ bể mánh. Hắn cần cháu giúp. Cháu phải bay đi New York tuần tới để gặp mấy người của mình vì vậy cháu nghĩ có thể đi sớm một chút, vào ngày mai, nếu bác cho phép.

- Được thôi! -Gronevelt nói - Nếu ta có thể giúp được gì, cháu cứ nói cho ta biết. Thằng ấy là một nhà văn có tài đấy.

Ông nói điều này như thể ông cần có một lý do khoan miễn để giúp đỡ Merlyn rồi ông thêm:

- Lúc nào chúng ta cũng có thể cho cậu ta một công việc làm ở đây

- Cám ơn, - Cully nói. - Trước khi bác sa thải những tay cầm cái đó, xin hãy cho cháu thêm một lời giải thích. Nếu bác nói đó là một trò gian lận thì cháu tin nó là trò gian lận. Cháu chỉ tức là cháu không sao hình dung được chuyện đó diễn ra như thế nào.

Gronevelt cười:

- Được thôi, - ông nói. - Nếu bác ở vào tuổi cháu, ắt bác cũng phải tò mò như thế thôi. Để cho cháu thấy ra sự việc, hãy bảo đem mấy videotape đến đây rồi bác cháu mình cùng xem và xét qua một vài việc. Sau đó cháu có thể lấy chuyến máy bay đi New York ngày mai với đầu óc thoải mái. Nhất trí chứ? Hãy xem những cuốn băng ghi lại ca đêm, từ tám giờ tối đến hai giờ sáng để chúng ta thâu tóm đủ khoảng thời gian hoạt động nhộn nhịp nhất của cả sòng bài.

- Tại sao bác chọn những thời điểm đó? - Cully hỏi.

- Phải thế. - Gronevelt nói.

Khi Cully cầm điện thoại lên, Gronevelt nói.

- Gọi phục vụ buồng và đặt vài món ăn cho bác cháu mình.

Trong khi ăn, hai người xem phim video quay cảnh bàn thua. Cully không thưởng thức được món ăn bởi vì quá để ý đến cảnh phim. Nhưng Gronevelt hình như chẳng màng liếc mắt đến màn hình. Ông ăn nhấm nháp chậm rãi, dùng hết nửa chai vang đỏ và phần bít tết của mình.

Nửa chừng phim bỗng tắt lúc Gronevelt ấn nút "OFF" trên bộ phím điều khiển.

- Cháu không thấy gì à? - Gronevelt hỏi.

- Thấy gì đâu? - Cully đáp.

Gronevelt dựa ngửa ra ghế và đốt một điếu xì gà Havana to tướng. Ông được hút mỗi ngày một điếu và ông thường hút sau bữa ăn tối.

- Cháu không thấy ra vì mánh này lại đơn giản đến không ngờ.

Ông bảo chàng Gronevelt gọi viên quản lý casino.

Rồi ông bật video lên lại để hiện cảnh bàn blackjack đáng nghi đang hoạt động. Trên màn hình, Cully có thể thấy viên quản lý casino đi đến phía sau tay cầm cái, với hai nhân viên an ninh mặc thường phục đi kèm. Trên màn hình, viên quản lí thọc tay vào khoang tiền của nhà cái và lấy ra một chồng con phỉnh đỏ trị giá năm đô-la một con. Gronevelt tắt màn hình. Mười phút sau viên quản lý đến và ném mạnh ra một chồng con phỉnh năm đô-la lên bàn giấy của Gronevelt. Và Cully ngạc nhiên biết mấy khi thấy các con phỉnh không rời ra.

- Ông nói đúng! - Viên quản lý casino nói với Gronevelt.

Cully cầm cái khối hình trụ màu đỏ lên. Trông nó giống như một con phỉnh năm đô-la, nhưng thật ra nó là một khối lăng trụ có đường kính của con phỉnh năm đô-la với bên trong rỗng. Dưới đáy cái nắp đáy di chuyển thụt vào phọt ra bằng lò xo. Cully nhấn lò xo và cái ống phun ra năm con phỉnh trị giá một trăm đô-la mỗi con.

- Cháu thấy nó làm việc như thế nào chưa, - Gronevelt nói. - Một chiến hữu đến chơi và đưa chồng phỉnh này để đổi. Tay cầm cái đặt nó vào một hàng trước chồng phỉnh một trăm, nhấn lò xo và cái đáy hút vào những con phỉnh một trăm. Một lát sau hắn đổi tiền cho tên đó và rút ra năm trăm đô-la. Hai lần mỗi đêm, thế là một ngàn đô-la mỗi ngày, khỏi thuế. Chúng làm giàu trong bóng tối!

- Lạy chúa, - Cully nói:

- Cháu không theo kịp những tay này.

- Đừng nghĩ chuyện đó. - Gronevelt nói - Hãy đi New York giúp cho bạn cháu và lo cho xong việc đó đi. Cháu sẽ đi giao một số tiền, vậy hãy lên gặp ta khoảng một giờ trước khi cháu lên máy bay. Và rồi khi cháu trở về, ta sẽ có vài tin lành cho cháu. Cuối cùng thì cháu sắp đi vào hành động và gặp vài nhân vật quan trọng đây.

Cully cười:

- Cháu không giải quyết được cái trò ma giáo nho nhỏ kia ở bàn blackjack, vậy mà cháu vẫn được thăng cấp?

- Vẫn, - Gronevelt nói. - Cháu chỉ cần có thêm chút kinh nghiệm và một trái tim cứng rắn hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Trên chuyến bay đêm đến New York, Cully ngồi khoang hạng nhất, nhâm nhi một ly soda. Trong lòng anh là một cái vali bằng kim loại được bọc da bên ngoài và được trang bị một bộ phận khoá rất phức tạp. Bao lâu mà Cully còn giữ chiếc vali thì không có gì có thể xảy đến cho hàng triệu đô-la bên trong đó. Chính anh ta cũng không thể mở chiếc vali đó ra được. Ở Vegas, Gronevelt đã đếm tiền trước mặt Cully, đặt vào lại thật ngăn nắp trước khi khoá lại và trao tận tay Cully. Người ở New York không bao giờ biết bằng cách nào và khi nào tiền đến nơi. Chỉ có Gronevelt quyết định. Thế nhưng Cully rất bối rối để chiếc vali bên cạnh mình, anh nghĩ về những năm tháng qua. Anh đã đi được một đoạn đường khá xa, đã học được nhiều và sẽ còn đi xa hơn và còn học hỏi nhiều hơn. Nhưng biết rằng đang lao vào một cuộc sống đầy nguy hiểm, đang ăn thua lớn. Tai sao Gronevelt đã chọn anh? Ông ấy đã nhìn thấy gì? Và đã dự kiến những gì? Cully Cross, với chiếc vali kim khí trong lòng, thử đoán số mạng mình. Anh đang vận dụng cả "mười hai thành công lực"của kí ức, nhuệ trí và trực cảm để phát hiện điều gì mà mỗi vận may trong cuộc đời mình thêm vào và cố đoán xem những gì đang tiềm ẩn trong chiếc "hộp đen" định mệnh.

Gần bốn năm trước, Gronevelt bắt đầu lấy Cully làm trợ thủ thân tín nhất của mình. Trước đó Cully đã là điệp viên của ông ở khách sạn Xaradu rất lâu trước khi Merlyn và Jordan đến và đã làm tốt công việc đó.

Gronevelt chỉ hơi thất vọng khi anh trở thành bạn với Merlyn và Jordan. Và tức giận khi Cully đứng về phía Jordan trong ván bài baccarat nổi tiếng kia. Cully đã nghĩ thôi thế là hết đường làm ăn ở đây rồi, thế nhưng lạ thay chính ngay sau sự cố đó, Gronevelt lại cho anh việc làm thực sự. Cully vẫn thường thắc mắc về chuyện đó. Trong năm đầu Gronevelt bảo Cully làm người chủ phòng của các bàn blackjack, một con đường khá lạ lùng để bắt đầu con đường của một trợ thủ thân tín. Cully ngờ rằng mình lại được sử dụng như một gián điệp giống như trước đây mà thôi. Nhưng Gronevelt đã dự mưu chu đáo một mục tiêu đặc biệt trong đầu ông ta. Ông đã chọn Cully làm người khởi động mồi nước trong chiến dịch "hớt váng kem" của khách sạn. Gronevelt nhận định rằng những tay chủ khách sạn thực hiện việc "hớt tiền" trong phòng đếm tiền của casino là những anh ngốc, rằng sớm hay muộn thì đám FBI cũng sẽ tóm được họ. Việc "hớt váng kem" ngay tại phòng đếm tiền là quá lộ liễu. Các tay chủ hay người đại diện của họ đích thân gặp nhau tại đó và mỗi người lấy ra một số tiền bằng nhau trước khi họ báo cáo về Uỷ ban cờ bạc của Nevada. Ông thấy làm như vậy là liều lĩnh một cách khờ khạo.

Nhất là khi năm hay sáu tên chủ cãi nhau chí choé về chuyện nên "cắt ngọn" bao nhiêu. Gronevelt đưa ra một hệ thống ưu việt hơn nhiều. Hay là thế, theo như ông nghĩ và tự hào nói với Cully. Ông biết Cully là một "thợ cơ khí" loại cực giỏi có thể "phù phép" để chia bài lớn nhỏ cho ai tuỳ. Anh ta có khả năng chia cho mình, hoặc cho một tay con nào đó, những con bài tốt nhất. Và cho những tay chơi khác những con bài cũng tốt nhưng là loại hạng nhì hay hạng ba. Và thế là một giờ trước ca đêm nặng nhất - ca từ nửa đêm đến bốn giờ sáng, Cully sẽ tường trình lên Gronevelt và nhận chỉ thị. Vào một lúc nào đó trong khoảng thời gian trên, có thể là lúc một giờ sáng hay bốn giờ sáng, một tay chơi trong bộ comple màu nào đó (theo quy ước) sẽ thực hiện một loạt đánh cá theo kiểu bắt đầu với một trăm đô-la rồi năm trăm đô-la rồi hai mươi lăm đô. Đây là dấu hiệu để nhận dạng khách hàng "đặc sủng"; anh ta sẽ được thắng từ mười đến hai mươi ngàn đô-la trong vài giờ đánh bạc. Anh ta sẽ chơi bài lật ngửa, một điều chẳng có gì bất thường đối với những tay chơi lớn trong bài blackjack. Nhìn thấy thế bài của anh ta, Cully có thể dành con bài thích hợp nhất cho vị khách hàng thượng đế kia bằng cách chia những con bài kém hơn cho làng. Cully không biết bằng cánh nào mà cuối cùng tiền sẽ quay về với Gronevelt và các đối tác của ông ta. Anh chỉ làm công việc của mình mà không đặt câu hỏi nào. Và không bao giờ mở miệng.

Giống như việc anh có khả năng biết được những con bài nào còn lại trong chiếc giày, theo thứ tự từ trên xuống dưới, anh dễ dàng theo dấu việc thắng bạc của những tay chơi được bố trí sẵn kia và qua một năm. Anh tính ra rằng trung bình anh phải để mất mười ngàn đô-la trên một tuần cho những tay chơi đánh thuê cho ông Gronevelt. Qua một năm làm việc với tư cách người cầm cái, anh tính chính xác từng con số đó. Khoảng tròn nửa triệu đô-la, xê xích độ mười ngàn đến hai chục ngàn thôi.

Một cú mánh ngon, không bị thuế cũng không phải chia chác với các cổ đông khác trong khách sạn và trong casino, ngoài phần trăm cho những tay đánh thuê. Để giữ cho việc thua bạc không bị để ý, Gronevelt hoán chuyển Cully đến những bàn khác nhau hằng đêm. Và đôi khi cũng đổi ca cho anh ta. Cully còn phải lo về chuyện tay quản lí casino nắm phần chia bài. Trừ trường hợp là, có lẽ Gronevelt đã cảnh báo anh ta lơ đi.

Gronevelt đã bắt đầu sự nghiệp "kì bẽo" của mình ở Steubenvile, Ohio, dưới sự bảo vệ của băng đảng nổi tiếng ở Steubenvile với sự kiểm soát nền chính trị địa phương của họ. Ông ta đã thực hiện móc ngoặc phi pháp và rồi tìm đến Nevada. Nhưng ông ta mang chủ nghĩa ái quốc kiểu tỉnh lẻ. Mọi chàng trai trẻ ở Steubenvile muốn kiếm một chân chia bài hay hồ lì ở Vegas đều tìm đến Gronevelt.

Nếu không thể thu xếp cho cậu ta một công việc làm ở casino của mình, ông cũng gửi gấm cậu ta cho một casino khác. Bạn có thể gặp một đệ tử của ông ta ở Steubenvile, Ohio, ở Bahamas, Putpuerto Rico, ở Riviera tận bên Pháp và ngay cả ở London. Riêng ở Reno và Vegas thì lính của Gronevelt kể hàng mấy trăm. Nhiều người trong số họ giờ đây đã là quản lý casino hay chủ sòng. Gronevelt là một lãnh chúa trên thảm xanh.

Gronevelt có thể chuyển điệp viên từ hàng trăm thuộc hạ dưới quyền, thực tế là tay quản lí ở Xanadu, là dân Steubenvile. Vậy tại sao Gronevelt lại chấm Cully, một kẻ tương đối xa lạ một dân xứ khác? Cully vẫn thường thắc mắc về điều đó. Và dĩ nhiên về lâu về dài, khi hiểu được tình tiết rắc rối phức tạp của hệ thống kiểm tra chéo, anh biết rằng mình được chọn bởi vì mình có thể hy sinh trong trường hợp có chuyện trục trặc xảy ra. Anh sẽ chịu phạt, cách này hay cách khác.

Gronevelt, dù tật mê sách vở của ông đã đi từ Cleveland đến Vegas với một thứ tiếng tăm kinh người, ông không phải là loại người để kẻ khác đùa cợt chơi lỡm và giỡn mặt bằng cách mời xơi quả lừa và ông đã chứng minh điều đó với Cully trong mấy năm qua. Một lần bằng cách nghiêm chỉnh và lần khác với tính hài hước cao cấp, một thứ hóm hỉnh đặc biệt trong trò chơi trí tuệ của giới đồ bác ở Las Vegas.

Sau một năm, Cully được cấp văn phòng kế bên văn phòng của Gronevelt và được bổ nhiệm làm trợ lý đặc biệt cho ông Nhiệm vụ của anh bao gồm cả việc lái xe đưa Gronevelt đi loanh quanh thành phố và theo ông ta đến tận tầng trệt của casino, ban đêm khi Gronevelt thị sát một vòng để chào các bạn cũ và các khách hàng quen và nhất là những người từ nơi khác đến. Gronevelt cũng bảo Cully làm phụ tá cho viên quản lý casino để anh có cơ hội học hỏi được những đường dây mối nhợ của các trò cờ bạc. Cully làm quen với các tay trưởng ca các chủ sòng, các tay cầm cái và hồ lì ở mọi sòng bài.

Mỗi sáng Cully ăn điểm tâm vào khoảng mười giờ sáng ở dãy phòng của Gronevelt. Khi lên đó, anh sẽ lấy các số liệu về thắng thua trong hai mươi bốn giờ qua từ trưởng phòng tài chính. Anh sẽ đưa cho Gronevelt mảnh giấy nhỏ trong lúc họ ngồi ăn điểm tâm, và Gronevelt sẽ nghiên cứu các con số trong lúc dùng món tráng miệng.

Các con số thắng thua ở phòng tài xỉu, sòng blackjack, baccarat, roulette được ghi lại rất đơn giản ở hai cột thắng thua.

Các máy đánh bạc chỉ được kết toán mỗi tuần một lẩn và các số liệu đó được tay quản lý casino cho Gronevelt biết trong một bảng tường trình đặc biệt. Các máy đó thường đem lại lợi nhuận một trăm ngàn đô-la mỗi tuần. Đây là món hoạnh tài thực sự.

Casino không bao giờ bị xui xẻo với các máy đánh bạc. Đó là khoản tiền chắc chắn bởi vì những cái máy đánh bạc đó được thiết kế để chỉ "nhả ra" một tỷ lệ bách phân định sẵn đối với tiền đút vào mồm nó. Khi tỷ lệ thắng thua trên các máy bị lệch đi, điều đó chỉ có thể là một trò gian lận nào đó đang diễn ra.

Điều này không đúng cho các môn chơi khác như crap, blackjack và nhất là baccarat. Trong những trò chơi này, nhà cái được coi là ăn được mười sáu phần trăm trên số tiền đánh ra nhưng ngay cả nhà cái cũng có thể bị xui xẻo Đặc biệt là ở môn baccarat những tay chơi lớn đôi khi lặn sâu và bắt được một mẻ đáng kể! Baccarat có biên độ dao động rất rộng. Có đêm, bàn baccarat thua số tiền lớn bằng với toàn bộ lợi nhuận của tất cả các sòng khác trong ngày, nhưng cũng có những tuần lễ liền mà bàn baccarat thắng những khoản tiền khổng lồ. Cully chắc rằng Gronevelt có hớt váng kem nơi bàn baccarat nhưng anh không thể hình dung bằng cách nào. Rồi anh để ý khi một đêm, bàn baccarat quét sạch những tay chơi nặng kí từ Nam Mỹ đến, nhưng số liệu ngày hôm sau lại ít hơn con số lẽ ra chúng phải đạt. Cơn ác mộng đối với mọi casino là gặp phải những tay chơi số đỏ đúng vào ngày "giao hội các hành tinh". Khiến y vơ cả làng vét sạch luôn nhà cái, trúng một quả quá ư đậm đà, trong khoảnh khắc làm nên lịch sử!

Và lịch sử Las Vegas cũng đã từng biết đến những khoảng thời gian khi các bàn crap nóng lên hằng tuần khiến cho casino may mắn lắm mới hoà vốn nếu đem tất cả các phần lời ở các sòng khác bù lỗ vào. Đôi khi ngay cả những tay chơi blackjack lại trở nên tinh ranh và hạ nhà cái thua liểng xiểng cả ba, bốn ngày liền. Nhưng riêng trong trò roulette, cả tháng rất hiếm khi có một ngày nhà cái thua. Còn trò vòng quay định mệnh và keno thì người chơi chỉ là những con vịt ngồi cho casino mà thôi.

Nhưng đấy mới chỉ là những kiến thức thuộc loại "cơ hành vận chuyển" trong việc quản lý một casino, những kiến thức mà bạn có thể học qua sách vở -và bất kì ai cũng có thể học được - nếu được huấn luyện đúng bài bản và đủ thời gian. Nhưng làm đệ tử ruột của Gronevelt, Cully còn học được nhiều hơn thế nữa. Gronevelt làm cho mọi người biết rằng ông ta không tin vào chuyện hên xui may rủi. Với Gronevelt, vị thần thực sự, vị thần bất khả ngộ, đó là tỷ lệ bách phân. Và ông quyết liệt hậu thuẫn cho quan điểm đó - bất cứ khi nào mà sòng keno bị vồ đi cái phần thưởng lớn trị giá hai mươi lăm ngàn đô-la, là Gronevelt đuổi hết đám nhân viên phụ trách sòng keno đó. Hai năm sau ngày Xanadu Hotel bắt đầu đi vào hoạt động thì gặp đại hạn, xui tận mạng. Trong ba tuần lễ liền casino không có một ngày thắng và thua tổng cộng gần nửa triệu đô-la - Gronevelt nổi đoá, sa thải đồng loạt toàn bộ nhân viên, trừ tay quản lý vốn là đồng hương ở Steubenvile. Và hình như có hiệu quả. Qua đợt sa thải đó, lợi nhuận nhích lên lần, chấm dứt những cú vớ đậm của các tay chơi. Casino phải thu được năm mươi ngàn đô-la mỗi ngày về tiền thắng để khách sạn cân bằng thu chi. Và theo như Cully biết, Xanadu chưa từng bao giờ có năm nào chịu lỗ. Ngay cả với việc Gronevelt ăn bớt gần nửa triệu đô-la.

Trong các năm mà anh cầm cái và "hớt váng kem" cho Gronevelt, Cully chưa từng bao giờ bị cám dỗ mắc vào sai lầm mà người khác, vào địa vị anh, dễ dàng mắc phải, đó là theo voi ăn bã mía, kiếm tí chút riêng cho phần mình. Xét cho cùng nếu dễ kiếm như thế, tại sao Cully không cho một anh bạn chí cốt mỗi ngày đảo một vòng kiếm chừng năm bảy trăm đô-la thôi rồi cưa đôi, nhẹ nhàng. Thế là hàng tháng cũng tư túi riêng được sáu bảy ngàn đô, quá khoẻ! Nhưng Cully biết chuyện đó mang tính định mệnh chứ chẳng chơi. Vả chăng anh còn nuôi những mưu đồ ở tầm vóc lớn hơn nhiều. Anh cảm nhận được nỗi cô đơn nơi Gronevelt, nhu cầu tình bạn mà chỉ có anh đem lại. Và điều ấy quả đã xứng công. Vào khoảng hai lần mỗi tháng, Gronevelt mang Cully theo ông đi săn lùng đồ cổ. Họ sẽ mua những thứ như đồng hồ vàng lâu năm, những bức hình đóng trong khung mạ vàng từ thời sơ khai của Los Angles và Las Vegas. Họ đi lùng những máy xay cà phê kiểu xưa, những xe hơi đồ chơi cũ, những đầu máy xe lửa hay tháp chuông nhà thờ, những con búp bê Trung Hoa hay Nhật Bản, những hộp đựng nữ trang thời nữ hoàng Victoria, những cốc uống bia của Bắc Âu. Những món đồ này thường có giá trị từ một trăm đến hai trăm đô-la, hiếm khi đắt hơn. Trong những chuyến đi đó, Gronevelt thường tiêu hết vài ngàn đô. Ông và Cully sẽ ăn tối tại Los Angeles và ngủ một đêm tại khách sạn Beverly Hills, rồi bay về Vegas trên chuyến bay sớm.

Cully sẽ mang những thứ đồ cổ tạp pín lù đó trọng vali của anh và khi đến Xanadu sẽ cho nhân viên gói lại thành những gói quà thanh lịch và giao đến dãy phòng của Gronevelt. Rồi hàng đêm - hay gần như hàng đêm, Gronevelt sẽ bỏ vào túi một vài món, đi xuống casino tặng cho một tay chơi cao cấp - Chủ mỏ dầu hoả ở Texas hay chủ nhân cửa hàng thời trang ở New York - hàng năm vẫn đến chơi ở các sòng bài của ông và ném vào đó mỗi người từ năm mươi đến một trăm ngàn đô-la chỉ nhằm mua chút cảm giác hồi hộp tí cho vui thôi, chứ số tiền đó đối với họ chỉ là khoản vứt đi nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ!

Cully vẫn thường ngạc nhiên thích thú trước vẻ duyên dáng của Gronevelt vào những dịp đó. Gronevelt sẽ mở gói quà ra, cầm lấy chiếc đồng hồ vàng và giới thiệu với vị khách quý kia:

- Vừa rồi tôi đi Los Angeles và thấy vật nầy tôi lại nghĩ ngay đến bạn, - ông ta nói với tay chơi sộp đó. - Nó hợp với bạn lắm đấy tôi đã bảo thợ lau chùi và chỉnh lại. Bây giờ nó chạy rất đúng giờ.

Rồi ông nói thêm vẻ không được hài lòng cho lắm:

- Họ bảo tôi nó được làm ra từ 1870, nhưng ai mà biết được? Bạn cũng biết mấy tay bán đồ cổ là chúa phịa.

Và như thế ông tạo được ấn tượng là ông đã rất dụng công chăm chút và nghĩ đến vị khách hàng đó. Ông còn bóng gió ngụ ý là cái đồng hồ này giá trị lắm đấy. Và rằng ông còn phải tốn công sức để cho nó vận hành tốt nữa. Mà thật ra cũng có tí sự thật trong tất cả những chuyện ấy. Chiếc đồng hồ sẽ vận hành hoàn hảo, ông có nghĩ đến vị khách ở một mức độ khá chu đáo, hơn tất cả mọi điều khác. Đó là cảm thức về tình bạn rất riêng tư.

Gronevelt đã có một tặng phẩm để tạo được cảm tình khi giới thiệu một trong những kỉ vật đó với sự long trọng, quý mến khiến cho người nhận cảm thấy được vuốt ve tự ái hơn.

Và Gronevelt dùng đặc quyền "Cây bút chì" rất hào phóng. Những tay chơi lớn tất nhiên là được hưởng trọn gói RFB (phòng, thức ăn uống miễn phí) nhưng Gronevelt cũng ban cả đặc ân này cho cả những tay chơi chỉ đánh cá mỗi lần năm đô-la, nếu như ông biết đó là những vị nhiều tiền lắm của, nhưng chưa bén mùi cờ bạc và chưa say máu. Ông là bậc thầy trong nghệ thuật dụ khị người ta vào cuộc đỏ đen và càng lâu càng lậm? Thế mới xứng danh là phù thủy cáo già biết cách "hoán vị tiền" trong túi người ta nhảy qua túi mình chứ!

Một bài học khác mà Gronevelt dạy Cully là đừng có lường gạt các cô gái trẻ. Gronevelt đã từng nổi giận và lên lớp anh rất nghiêm khắc.

- Từ đâu anh nảy sinh cái ý tưởng đi lừa gạt những con bé tội nghiệp đó để ăn bánh khỏi trả tiền? Anh nghĩ xem, làm như thế có khác gì hành động của một tên móc túi. Mà lại đi trổ tài xoáy, lấy trộm những đồng tiền ít ỏi của các cô gái nghèo khổ yếu đuối chỉ nhờ có chút vốn trời cho để kiếm sống qua ngày? Anh là hạng người nào vậy? Anh ở đâu ra mà lại đi xoay xở kiếm chác từ âm đ*o của chúng? Và hãy nhớ rằng một khi anh quỵt chúng Con ong mật đó, thì anh cũng tự cào bằng mình với chúng rồi. Hay đúng ra, còn tệ hơn. Dứt khoát từ nay hãy bỏ ba cái trò khỉ ấy nhé! Ta mà còn nghe anh làm những chuyện linh tinh như thế thì đừng nhìn mặt ta nữa!

Ông vừa nói vừa gằn giọng như một thầy giáo đang quất roi vào mông đứa học trò hư vậy.

Lạ thay, Cully mặt cứ trơ lì ra lại còn cười hì hì trước cơn thịnh nộ của ông. Rõ ràng là Gronevelt đã nghe về những trò ma mãnh của anh với phụ nữ, nhưng rõ ràng là Gronevelt không hiểu đàn bà bằng anh, Cully, kẻ đã rọi kính chiếu yêu để thấy rõ mồn một tim đen của các nàng! Ô la la? Ông ta đâu có thấy ra cái khuynh hướng thống dâm bẩm sinh nơi đàn bà. Nhà danh hoạ Picasso đã chẳng từng hùng hồn tuyên bố "đàn bà là những cỗ máy để chịu đau khổ" đấy hay sao? Họ sẵn lòng - và họ có nhu cầu - bị lừa gạt để cảm nhận cái thú đau thương của việc bị lừa gạt và bị phản bội! Đó là cái biện chứng lạ lùng mâu thuẫn của mâu thuẫn, hủy thể của hủy thể, vực sâu lại kêu gọi vực sâu, vì tâm hồn đàn bà là những vực sâu!

Nghĩ thế nhưng anh không phản đối ông, anh nói có chút chế giễu:

- Không phải dễ như cụ tưởng đâu. Có khi cả ngàn Con ong mật cũng không mua được tình yêu của các em đấy!

Không hiểu sao Gronevch lại cười xoà và đồng ý. Ông còn kể cho anh nghe một câu chuyện tếu về mình.

Vào buổi sơ khai của khách sạn Xanadu, có một nữ lưu đến từ bang Texas miền Viễn Tây là nữ thừa kế triệu phú của một đại gia dầu hoả đến đây tìm cái thú giỡn tiền để nguôi ngoai nỗi phiền muộn mất chồng. Ông đã tặng nàng một cái quạt giấy Nhật Bản loại đồ cổ mà ông đã mua với giá năm mươi đô-la. Món quà chẳng đáng giá bao nhiêu ấy mà lại làm cho nàng goá phụ xinh đẹp, giàu có kia xao xuyến và mết ông. Nhưng Gronevelt lại không lấy làm sung sướng! Bởi vì dù còn lớn hơn nàng cả chục tuổi, đã qua ngũ thập, song ông vẫn cứ thích gặm cỏ non, chứ cỏ sồn sồn nhai nó trệu trạo lắm không khéo lại sái cả quai hàm? Thế nhưng, vì sự nghiệp chung, vì cái danh tiếng hiếu khách của Xanadu ông phải đưa nàng lên một phòng của khách sạn và phục vụ gối chăn cho nàng một đêm với sự vồn vã ân cần chu đáo để làm đẹp lòng nữ thượng đế! Khi nàng rời giường, do thói quen và do lính đồi truỵ ngông cuồng hoặc có lẽ với cái ý thức hài hước độc ác của Las Vegas, ông đã nhét vào tay nàng một Con ong mật (tờ một trăm đô-la) và bảo nàng tự mua lấy món quà cho vừa ý. Cho mãi đến tận ngày nay, ông cũng không hiểu tại sao mình lại làm chuyện quái quỷ như vậy.

Vị nữ thừa kế của công ty dầu khí nhìn xuống Con ong mật và nhét nó vào ví. Nàng cám ơn chàng một cách duyên dáng và thản nhiên như không.

Rồi nàng vẫn tiếp tục đến khách sạn để đánh bạc, có ngày thua năm, bảy ngàn đô-la một cách tỉnh bơ. Nàng nghĩ gì về Gronevelt, về hành động báng bổ điên rồ của ông ta? Những ý nghĩ từ vực sâu thăm thẳm của hồn nàng, may ra chỉ có trời biết.

Ba năm sau, Gronevelt tìm nhà đầu tư để phát triển kinh doanh của mình. Ông muốn xây thêm phòng ngủ, phòng trình diễn ca vũ nhạc và nhiều nhà hàng ăn uống để giữ chân khách trong khách sạn và các casino của mình, không để họ lang thang sẽ bị các nơi khác tranh giành mất mối. Và ông lại tiếp cận với nữ triệu phú kia (đúng là Gronevelt đã luyện được đức tính "đẹp trai không bàng chai mặt" đến mức thượng thừa) Lạ thay, nàng lại gật đầu và bảo "được thôi".

Nàng tức khắc viết một tấm séc, ký tên và trao cho ông với một nụ cười ngọt ngào, trong một cử chỉ phi thường nồng hậu! Một tấm sec ghi lệnh chi một trăm ngàn đô-la.

- Bài học rút ra từ câu chuyện này là… - Gronevelt kết luận, - Đừng bao giờ đối xử với một nàng rồng lộn giàu sang lịch lãm như với một khung cửa hẹp âm u, nghèo nàn.

Đôi khi đến Los Angeles, Gronevelt còn đi lùng mua sách cổ. Nhưng thường là trong những lúc tâm trạng phấn chấn, ông sẽ bay đi Chicago dự buổi bán đấu giá sách hiếm. Ông có một sưu tập sách quý trong một kệ sách bằng kính, khoá kỹ nơi phòng ông. Khi Cully dọn vào văn phòng mới, anh gặp một món quà của Gronevelt ấn bản lần đầu tiên về một cuốn sách về cờ bạc in năm 1847.

Cully hứng thú đọc và giữ trên bàn giấy của mình một hồi lâu. Rồi sau đó không biết làm gì với quyển sách đó, anh mang trả lại cho Gronevelt, anh nói:

- Cháu quý món quà bác cho nhưng cháu thấy mình giữ thì cũng phí, vậy cháu xin gửi lại cho bác.

Gronevelt gật đầu không nói gì. Cully thấy rằng mình đã làm cho ông ta thất vọng, nhưng cũng lạ chuyện đó lại giúp gắn bó thêm mối liên hệ giữa họ. Vài ngày sau anh thấy quyển sách trong kệ đặc biệt được khoá kỹ của Gronevelt. Lúc đó anh biết là không phạm sai lầm và anh cảm thấy hài lòng là Gronevelt đã chứng tỏ với anh một dấu hiệu của lòng quý mến trung thực đến như thế, dù cho có bị đánh lạc hướng. Nhưng cũng từ đó anh thấy ra được những khía cạnh khác nơi con người Gronevelt mà anh luôn biết rằng ắt phải tồn tại nơi nhân cách của ông.

Cully đã tập thành thói quen có mặt khi các phỉnh của casino được mang ra đếm ba lần mỗi ngày. Anh đi theo các chủ sòng. Lúc họ đếm các con phỉnh trên tất cả các bàn, từ blackjack, roulette, crap và tiền mặt ở sòng baccarat. Anh còn vào cả phòng thủ quỹ của casino để đếm các con phỉnh đó. Tay quản lý phòng ở đó lúc nào cũng có vẻ hơi bối rối khi chạm đôi mắt Cully, nhưng rồi anh lại cho ràng chuyện đó là do bản tính đa nghi của mình thôi chứ tiền mặt và các con phỉnh đựng trong tủ sắt so với sổ sách lúc nào cũng ăn khớp với nhau rất chính xác. Và tay quản lý phòng thủ quỹ lại là một thành viên tín cẩn của Gronevelt từ những ngày đầu khởi nghiệp.

Nhưng một ngày kia, có một cái gì thúc giục, Cully quyết định bảo lôi các khay đựng con phỉnh ra khỏi két sắt. Về sau này anh chẳng bao giờ hình dung được sự giục giã kỳ lạ đó. Nhưng một khi những khối nhỏ kia được kéo ra khỏi bóng tối của két sắt và được kiểm tra tỷ mỉ thì hai khay đựng những con phỉnh màu đen trị giá một trăm đô-la một con là những con phỉnh giả. Chúng chỉ thuần là những khối lăng trụ màu đen. Trong bóng tối của két sắt được đặt tuốt trong cùng nên chẳng bao giờ được dùng đến, chúng vẫn được coi là phù hợp trong những lần đếm hàng ngày. Tay quản lý phòng thủ quỹ có vẻ kinh hoàng và bị sốc mạnh, nhưng cả hai đều biết rằng trò ma giáo này không thể thực hiện nếu không có sự đồng ý của anh ta. Cully nhấc điện thoại lên và gọi cho Gronevelt. Lập tức Gronevelt xuống phòng thủ quỹ và kiểm tra các con phỉnh. Tổng cộng giá trị các con phỉnh nơi hai khay lên đến một trăm ngàn đô-la.

Gronevelt xỉa một ngón tay điểm mặt người quản lý phòng thủ quỹ. Một thời điểm kinh hoàng. Khuôn mặt nâu sậm như thuộc da của Gronevelt bỗng trắng bệch ra, nhưng giọng nói của ông vẫn dõng dạc, quyết liệt:

- Hãy vác cái thây thối tha của người ra khỏi nơi đây. Rồi ông quay qua bảo Cully - Bảo hắn bàn giao tất cả chìa khoá cho anh, - ông nói. - Và rồi triệu tập tất cả các chủ sòng của ba ca đến văn phòng tôi ngay lập tức. Ta đếch cần biết hiện chúng đang ở đâu, đang làm gì. Những ai đang nghỉ ngơi nơi đâu cũng phải bay về ngay Las Vegas và lập tức vào phòng của ta để kiểm tra.

Rồi Gronevelt đi ra khỏi phòng thủ quỹ và mất dạng.

Trong lúc Cully và tay quản lý đang làm giấy tờ bàn giao chìa khoá, hai chàng khỉ đột mà trước giờ Cully chưa hề thấy, bước vào phòng. Nhưng tay quản lý chắc là biết họ vì mặt anh ta bỗng tái nhợt và hai tay anh ta bắt đầu run, không kiểm soát được.

Hai tên kia gật đầu với tay quản lý và anh ta gật đầu lại, một trong hai tên nói:

- Khi anh xong việc ông chủ muốn gặp anh tại phòng làm việc của ông.

Họ nói với tay quản lý và lờ đi Cully. Cully nhấc điện thoại lên và gọi cho Gronevelt:

- Có hai người xuống đây bảo là ông gửi họ đến.

Giọng Gronevelt lạnh băng:

- Đúng thế, - ông nói.

- Cháu muốn kiểm tra cho chắc thôi, - Cully thưa.

Giọng ông có phần dịu đi:

- Ý tưởng hay đấy! - ông nói. - Cháu đã làm tốt việc này đấy. - Rồi một khoảng lặng ngắt. - Phần hậu kỳ không còn là chuyện của cháu nữa, Cully à. Hãy quên đi! Cháu hiểu chưa?

Giọng ông giờ đây hầu như rất khả ái và có cả một chút âm sắc buồn bã, mệt mỏí trong đó.

Tay quản lý phòng thủ quỹ trong mấy ngày sau, còn được thấy mặt ở lòng vòng Las Vegas, rồi sau đó mới biến mất. Sau một tháng, Cully được biết rằng vợ anh ta có làm một báo cáo người thân mất tích. Lúc đầu anh không thể tin vào hàm ý trong câu chuyện đó dù những lời bàn tán râm ran khắp thành phố là tay quản lý kia đã bị chôn vùi trong sa mạc. Anh không dám gợi ý điều gì liên quan đến vụ đó, ngay cả một cách bóng gió với Gronevelt và Gronevelt không bao giờ nhắc tới chuyện đó với anh nữa. Ngay cả để khen anh đã làm tốt công việc. Điều này cũng càng hay cho anh. Cully không muốn chuyện mình làm tốt công việc đã đưa đến hậu quả là tay quản lý kia đã ngủ yên dưới lòng hoang mạc.

Nhưng trong mấy tháng vừa qua, Gronevelt đã chứng tỏ nhuệ khí của ông ta trong một phương cách ít ma quái hơn. Với sự linh lợi điển hình của Vegas trong việc nắm bắt các cơ hội làm ăn một cách nhạy bén và linh hoạt.

Tất cả các casino ở Vegas đều đã khởi động việc tạo một sân chơi lớn và đưa ra những lời rao hàng hấp dẫn cho những tay cờ bạc nước ngoài. Người Anh ngay lập tức bị loại bỏ khỏi danh sách mặc dầu cái lịch sử lẫy lừng là những kẻ thua bạc lớn nhất trong thế kỷ mười chín của họ. Sự cáo chung của đế quốc Anh cũng đồng nghĩa với ngày tàn của các tay đánh bạc Ăng-lê tầm cỡ thế giới. Những số tiền hàng triệu triệu từ Ấn Độ, Úc, các đảo ở Biển Nam, Canada không còn rót vào trong két sắt của các ông trùm đổ bác nữa. Giờ đây Anh quốc là một xứ nghèo; những người giàu nơi xứ này phải vất vả tìm cách để lách thuế và duy trì tài sản của họ. Số ít có khả năng đánh bạc thì lại thích các câu lạc bộ thượng lưu quý phái ở Pháp, ở Đức và ngay tại London hơn.

Người Pháp cũng bị gạch sổ. Người Pháp ít đi du lịch nên chẳng mặn mà với chuyện qua tít bên Mỹ để thử vận may nơi kinh đô cờ bạc Las Vegas.

Nhưng người Đức và người Ý lại được chấm điểm cao và được ve vãn kỹ. Nước Đức với nền kinh tế hậu chiến phát triển phồn vinh đã tạo ra rất nhiều triệu phú, và người Đức thích du lịch, thích chơi cờ bạc và thích "trả thù dân tộc" với các cô gái Mỹ ở Las Vegas, chẳng là khi nước Đức bại trận năm 1945 thì các cô gái Đức phải đeo theo các chàng trai GI (lính Mỹ) để kiếm bánh mì mà!

Có cái gì đó nơi phong cách sống của Vegas nó hấp dẫn tinh thần Nhật-nhĩ-mãn mang họ về những hoài niệm của Oktoberfest (Lễ hội Tháng mười) và có lẽ cả của Gotterdammerung. Người Đức cũng là những tay chơi tốt tính và khéo léo hơn những người khác.

Những triệu phú người Ý rất có giá ở Vegas. Họ đánh bạc rất liều lĩnh, vô quy tắc trong lúc say rượu. Hình như họ có những nguồn tiền không bao giờ cạn, vì không ai trong bọn họ chịu trả thuế thu nhập cả. Những khoản tiền đáng lẽ phải đi vào ngân khố chính phủ ở Rome lại lọt vào két sắt của các casino ở khắp nơi. Các cô gái ở Vegas thích các nhà triệu phú Ý vì những món quà hào phóng của họ và vì trong thời gian ở đây, họ lao vào việc làm tình cũng mê mẩn say đắm như khi họ vùi đầu trong các trò đỏ đen.

Những tay chơi Mehico và Nam Mỹ còn được đánh giá cao hơn nữa. Không ai biết những gì đang thật sự diễn ra ở Nam Mỹ, nhưng nhiều chuyên cơ đã được phái đến đó để mang các nhà triệu phú đồng cỏ đến Vegas. Mọi thứ đều được phục vụ miễn phí đối với những tay chơi hoang tàng coi tiền như cỏ rác kia. Họ đến, mang theo cả vợ con và bạn gái để cùng vung tay đốt tiền nơi các sòng bài cho vui. Các vị khách sộp này cũng được các nàng lượn lờ ở Las Vegas rất thích vì cách làm tình sôi sổi cuồng bạo và cách chi tiền hào phóng. Một hôm Cully đang ở văn phòng của Gronevelt thì tay quản lý casino đến với một vấn đề đặc biệt. Một tay chơi Nam Mỹ, loại siêu hạng, đã yêu cầu gửi đến phòng anh ta tám cô gái tóc vàng và tóc đỏ nhưng đừng có các cô tóc nâu và không cô nào thấp hơn năm feet sáu inches (tức từ 1m70 trở lên).

Gronevelt tiếp nhận yêu cầu một cách điềm nhiên.

Ông hỏi:

- Anh ta muốn phép lạ đó xảy ra lúc nào trong ngày?

- Khoảng năm giờ chiều nay, - tay quản lý nói. - Anh ta muốn sau đó mang cả đám đi ăn tối rồi giữ họ lại suốt đêm

Gronevelt không cười:

- Được rồi, cứ đáp ứng đúng yêu cầu. Nhưng dặn các cô gái phải tìm mọi cách giữ riệt con mồi ở khách sạn này. Đừng để hắn vung tiền vào phố Thoát y vũ hay các casino khác.

Lúc người quản lý bắt đầu rời đi, Gronevelt nói:

- Hắn sắp giở trò gì với tám cô gái vậy?

Tay quản lý nhún vai:

- Tôi đã đặt câu hỏi đó với hắn. Hắn nói vì hắn có con trai đi cùng.

Lần đầu tiên trong cuộc đối thoại, Gronevelt mỉm cười:

- Đó là điều ta gọi là niềm tự hào đích thực của ông bố đấy, - Ông nói. Sau khi tay quản lý casino rời phòng, ông lắc đầu và nói với Cully - Hãy nhớ là họ đánh bạc nơi họ ăn ngủ và nơi nào họ làm tình. Khi ông bố chết, cậu con sẽ tiếp tục đến đây - Với ba ngàn đô, anh ta sẽ có một đêm nhớ đời. Anh ta sẽ mang lại hàng triệu đô-la cho Xanadu trừ phi cách mạng nổ ra nơi xứ sở anh ta.

Nhưng chiếc huy chương vàng dành cho các nhà vô địch, hạt ngọc vô giá mà mọi ông chủ casino thèm muốn, lại là những vị thượng khách đến từ châu Á - những tay chơi người Nhật. Họ là những tay đánh bạc làm người ta dựng tóc gáy và họ luôn đi thành đoàn đến Vegas. Những tay chóp bu của một tổ hợp công nghiệp đến đánh bài bằng những số tiền lậu thuế, và nhiều khi số tiền thua của họ trong một lần lưu trú bốn ngày có thể vượt quá một triệu đô-la. Và chính Cully đã đánh hơi ra được món bở lớn nhất từ Nhật Bản đem về cho khách sạn Xanadu và cho Gronevelt.

Cully thuở ấy đang thực hiện một "áp-phe tình ái" với một em vũ nữ trong đoàn Oriental Follies trình diễn ở một câu lạc bộ múa thoát y. Em gái được gọi Daisy thay vì cái tên Nhật của em rất khó phát âm. Và mặc dầu mới độ tuổi đôi mươi song em đã kinh qua cuộc trường chinh cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời ở Las Vegas từ năm năm qua. Em là một nữ vũ công "bá chấy" tuổi đời tuy hãy còn non nhưng khôn ngoan sắc sảo chẳng hề kém cạnh các bậc liền anh liền chị? Có điều em lại nghĩ đến việc giải phẫu thẩm mỹ để có đôi mắt người đẹp phương Tây và một bộ ngực nguy nga đồ sộ như các cô đào "Văm" ở kinh đô điện ảnh Hollywood! Cully hãi quá và bảo nàng rằng làm như thế này sẽ tự hủy hoại vẻ hấp dẫn "đặc trưng" của mình. Cuối cùng Daisy cũng chỉ chịu nghe lời khuyên của chàng khi chàng làm bộ sướng tê lê mê khi áp mặt vào đôi quả tuyết lê nhỏ nhắn xinh xắn của nàng!

Hai anh chị trở nên thân thiết đến độ nàng dạy cho chàng tiếng Nhật trong khi nằm với nhau trên giừơng và chàng ở lại qua đêm. Buổi sáng nàng sẽ làm cho chàng món cháo Nhật Bản để ăn điểm tâm và Cully ngạc nhiên thấy rằng món cháo sao ngon ghê, với mùi vị đậm đà, thật dễ chịu cho bao tử sau một đêm tửu sắc vất vả?

Chính Daisy đã báo cho anh sự kiện là một trong những nhà đại tài phiệt của Nhật Bản đang dự định làm một chuyến ngao du Kinh thành cờ bạc Las Vegas. Daisy vẫn thường được gia đình gửi cho báo chí Nhật bản qua đường hàng không; nàng nhớ cố hương và thích thú đọc mọi chuyện về nước Nhật.

Nàng bảo Cully rằng một nhà tài phiệt tiếng tăm ở Tokyo, tên là Fummiro, trong một cuộc phỏng vấn của báo chí, đã cho biết rằng ông sẽ tới Hoa Kỳ để mở những chi nhánh hải ngoại cho công ty sản xuất máy truyền hình của ông. Daisy nói rằng Fummiro tiên sinh nổi tiếng ở Nhật là một tay chơi cờ bạc thuộc loại làm cho thiên hạ khiếp vía với những canh bạc đứng tim. Chắc chắn trong chuyến Mỹ du sắp tới, ông ta cũng không thể nào bỏ qua Las Vegas. Nàng cũng cho anh biết Fummiro còn là một tay dương cầm tài ba, đã từng học tập, rèn luyện ngón đàn trong nhiều năm ở châu Âu và lẽ ra đã trở thành một nhạc sĩ chuyên nghiệp có hạng nếu như bố ông đã không ra lệnh cho cậu cả phải đảm đương việc điều hành công ty của gia đình.

Ngày ấy Cully gọi Daisy đến văn phòng của mình ở Xanadu và đọc một bức thư cho nàng viết ra trên giấy có tiêu đề của khách sạn. Với sự tư vấn của Daisy, anh dụng công tế bút "chế tác" ra một bức thư đặc biệt quan tâm đến phép lịch sự nhuần nhị của người Nhật để tránh mọi sự mạo phạm có thể làm phật lòng ngài Fummiro khả kính. Trong bức thư để Fummiro tiên sinh nhã giám, anh trân trọng thỉnh mời tiên sinh làm vị thượng khách danh dự tại khách sạn Xanadu vào bất kỳ thời điểm nào và lưu trú lại bao lâu tuỳ ý Ngài. Anh cũng mời tiên sinh cứ mang bao nhiêu quan khách mà Ngài muốn và toàn bộ tuỳ tùng, kể cả những vị đồng sự kinh doanh của tiên sinh tại Hoa Kỳ. Với một thứ uyển ngữ tinh tế, Daisy cho Fummiro tiên sinh biết rằng, ngài sẽ không tốn một xu nào về mọi chuyện đó. Cả những buổi xem ca vũ nhạc kịch cũng miễn phí. Trước khi gửi thư đi, cần trình cho Gronevelt để được duyệt bởi anh còn chưa được toàn quyền với "Cây bút chì". Gronevelt chấp thuận và bây giờ nếu những người Nhật này đến, họ sẽ là khách hàng của Cully. Anh sẽ là "chủ nhà" tiếp đón họ.

Phải mất ba tuần lễ trước khi anh nhận câu trả lời. Và trong thời gian đó. Cully đã tranh thủ học hỏi thêm Daisy. Anh được học là phải luôn luôn mỉm cười trong khi nói chuyện với một khách hàng Nhật Bản. Phải luôn luôn biểu lộ phong cách lịch sự tối đa trong giọng nói và trong cử chỉ.

Nàng bảo anh là, khi có một tiếng suỵt nhẹ trong diễn từ của một người Nhật thì đó là một dấu hiệu phẫn nộ, một biển báo nguy hiểm. Giống như tiếng khè của rắn. Cully nhớ lại tiếng suỵt đó trong điễn từ của những người Nhật trong các phim về Thế chiến 2. Trước đây anh cứ nghĩ đó chỉ là điệu bộ kiểu cách của diễn viên thôi.

Khi việc phúc đáp đến, nó được thực hiện trong hình thức một cuộc gọi từ văn phòng Chi nhánh Hải ngoại của Công ty Fummiro ở Los Angeles. Khách sạn Xanadu có sẵn hai phòng dành cho Fummiro tiên sinh, Chủ tịch - Tổng giám đốc của Japan Worldwide Sales Co. và ông Niigeta, Phó Tổng điều hành hay không? Thêm mười phòng khác cho các thành viên của đoàn tuỳ tùng. Cuộc gọi được đưa về Cully bởi vì người gọi đặc biệt yêu cầu phải được tiếp xúc với đích thân ngài Cully và anh trả lời xác nhận. Rồi, quá vui sướng, anh gọi ngay Daisy và bảo nàng rằng anh sẽ đưa nàng đi mua sắm trong vài ngày tới. Anh bảo nàng rằng anh sẽ sắm sửa cho mười phòng dành cho Fummiro mọi thứ cần thiết để cho mọi thành viên trong đoàn của ông đều thoải mái. Cô bảo anh đừng làm thế. Rằng điều ấy sẽ làm cho Ngài Fummiro mất mặt nếu như phần còn lại của đoàn ông đều được ăn ở với những tiện nghi như nhau. Rồi Cully yêu cầu Daisy đúng ngày hôm đó bay đi Los Angeles mua những bộ Kimono mà ông Fummiro có thể mặc trong phòng riêng. Cô bảo anh điều này cũng có thể làm phật ý Ngài Fummiro bởi ông ta tự hào là rất sành nếp sống phương Tây. Cully lại moi óc cố tìm một khía cạnh nào đó để chiếm ưu thế, gợi ý rằng Daisy nên đi gặp Fummiro và tình nguyện làm thông dịch viên cho ông ta. Daisy cười bảo rằng có lẽ đó là điều mà ông Fummiro tối kị bởi ông sẽ rất không thoải mái với một cô gái Nhật phương Tây hoá cứ kè kè theo bên và nhìn ông lom lom nơi một xứ sở xa lạ.

Cully chấp nhận mọi quyết định của cô. Nhưng anh nhấn mạnh một điều. Anh yêu cầu Daisy làm món cháo Nhật Bản trong thời gian ông Fummiro lưu trú ba ngày tại khách sạn Xanadu. Cully sẽ đến căn hộ của cô, mỗi sáng sớm để lấy và cho người mang đến phòng ông Fummiro khi ông ấy gọi bữa điểm tâm. Daisy lầu bầu nhưng hứa sẽ làm như thế?

Xế chiều hôm đó Cully nhận cú gọi từ ông Gronevelt:

- Một chiếc piano để làm cái quái gì ở dãy phòng Bốn Mươi - Gronevelt hỏi. - Tôi vừa nhận cú gọi từ quản lý khách sạn. Anh ta bảo anh chuyển kênh và làm rối tung cả lên.

Cully giải thích việc ông Fummiro sắp đến và những sở thích đặc biệt của ông ta. Gronevelt cười nụ và nói:

- Hãy lấy chiếc Rolls của bác khi anh đi đón ông ấy ở phi trường.

Chiếc xe này ông chỉ dùng để đưa đón các tay phú gia địch quốc Texas hay những khách hàng cưng chiều mà đích thân ông sẽ thù tiếp.

Ngày kế, Cully đến phi trường với ba tay phục vụ của khách sạn, chiếc Rolls-Royce và hai chiếc Cadillac.

Anh lo lót để cả ba chiếc xe được chạy thẳng vào tận dường băng đỗ để các vị khách của mình không phải đi qua trạm đến và khỏi mất công làm thủ tục hải quan.

Chuyện đó đã có người lo. Và anh chào Ngài Fummiro ngay khi Ngài bước xuống các bậc cầu thang máy bay.

Ngài Fummiro rất dễ nhận ra giữa đám tuỳ tùng.

Ông ta cao nhất trong bọn, rất cao so với người Nhật. Và ông ta lại đẹp trai với những nét bề thế, khoáng đạt, đôi vai rộng, tóc đen nhánh. Người ta có thể tưởng ông là một ngôi sao điện ảnh Hollywood đang diễn một vai người nước ngoài khiến cho ông có vẻ người phương Đông một cách hơi giả tạo. Thoáng trong một giây, ý tưởng lóe lên đầu óc Cully rằng đây có thể là một mưu đồ được dàn dựng kỹ.

Trong số những người khác, chỉ có một người đứng sát vào Fummiro. Anh ta thấp hơn Fummiro một tí nhưng lại ốm hơn nhiều. Anh có hàm răng hô của một người Nhật trong tranh hí hoạ. Những người còn lại nhỏ con và kín đáo có vẻ không muốn lộ diện. Tất cả điều mang những chiếc vali samite màu đen loại sang trọng.

Cully chìa tay ra với vẻ tự tin, chững chạc cho ông Fummiro và nói:

- Tôi là Cully Gross của Xanadu Hotel - Xin chúc mừng ông đến Las Vegas!

Ông Fummiro chớp lên một nụ cười rạng rỡ lịch sự. Răng ông trắng bóng, đều đặn và ông nói một thứ tiếng Anh hơi nhẹ, không nhấn rõ âm lắm "Very pleased to meet you" (Hân hạnh được gặp ông).

Rồi ông giới thiệu người răng hô là ông Niigeta, phó tổng điều hành của ông. Ông xướng nho nhỏ tên của những người khác, tất cả nghiêng người bắt tay Cully đúng nghi thức lễ tân. Cully gpm vé hành lý của họ và bảo đảm mọi hành lý sẽ được giao đến tận phòng họ ở khách sạn. Anh hướng dẫn họ đến những chiếc xe đang chờ.

Anh với Fummiro và Niigeta vào trong chiếc Rolls, mấy người kia vào hai chiếc Cadillacs. Trên đường về khách sạn, anh nói với các vị khách rằng tín dụng đã được thu xếp.

Fummiro vỗ vào chiếc vali mà Niigeta đang cầm ở tay và nói:

- Chúng tôi có mang tiền mặt đây. - Hai người cười với Cully. Cully cười đáp lại. Anh nhớ phải mỉm cười bất cứ khi nào lên tiếng trong lúc anh nói với họ về tất cả những tiện nghi của khách sạn và về việc họ có thể xem bất cứ màn trình diễn nào ở Vegas. Trong một phần tư giây, anh đã nghĩ đến việc nêu ra chuyện bầu bạn của phụ nữ nhưng một bản năng nào đó khiến anh kịp giữ lời.

Ở khách sạn, anh dẫn họ đi thẳng đến các phòng và bảo một thư ký quầy tiếp tân mang mẫu đăng ký đến cho họ ký. Tất cả đều ở chung một tầng. Fummiro và Niigeta có hai phòng liền nhau với cửa thông qua lại Fummiro đi xem qua phòng của các thành viên khác trong đoàn. Cully bắt gặp vẻ hài lòng trong ánh mắt của ông ta, khi ông nhận ra rằng phòng của ông ta hơn xa về mức sang trọng và tiện nghi. Nhưng đôi mắt Fummiro thực sự sáng lên khi ông thấy chiếc piano nhỏ đặt trong phòng mình. Lập tức ông ta ngồi xuống, chạy thử mấy âm giai và nghe ngóng. Cully hi vọng đàn lên giây đúng. Anh không biết chắc, nhưng Fummiro gật đầu thật mạnh, cười rộng miệng, mặt sáng lên vẻ hài lòng, nói "Tốt lắm hay lắm" và gật đầu, giật giật bàn tay của Cully để biểu lộ ý tình thiết. Rồi Fummiro ra hiệu cho Niigeta mở cái vali mà anh ta mang theo. Đôi mắt Cully hơi căng phồng ra. Những xấp bạc thẳng băng, xếp ngay ngắn, đầy cứng vali. Anh không có ý niệm có thể là bao nhiêu.

- Chúng tôi muốn ký gửi số tiền này nơi phòng thủ quỹ của các ông, - ông Fummiro nói. - Như vậy chúng tôi có thể rút tiền khi cần trong thời gian chúng tôi ở đây

- Vâng, được ạ, - Cully nói.

Niigeta đóng vali lại và hai người cùng đi xuống phòng, tắm rửa, nghỉ ngơi.

Họ đi vào phòng người quản lý casino nơi đó tiền được đếm trước mặt ba người. Tổng cộng là năm trăm ngàn đô-la. Sau đó tay quản lý casino sẽ cùng với Cully chỉ cho các tay chủ sòng, các tay kiểm soát, nhận dạng Fummiro và Niigeta. Từ đó ở bất cứ sòng nào trong casino, hai vị khách Nhật Bản này chỉ cần đưa lên một ngón tay, lấy ra các con phỉnh rồi ký vào sổ. Họ sẽ được đối xử như ông hoàng, với tất cả sự tôn kính, trọng thị đúng mức.

Một lòng tôn kính đặc biệt thuần khiết vì chỉ liên quan đến tiền bạc mà thôi! Bỏ qua một bên mọi phân biệt đối xử vì màu da, sắc tộc, tôn giáo, chính trị hay gì gì khác!

Trong ba ngày liên tiếp theo sau đó, Cully có mặt ở khách sạn từ sáng sớm với món cháo điểm tâm của Daisy.

Dịch vụ buồng đã nhận được lệnh thông báo cho anh ngay khi ông Fummiro gọi bữa điểm tâm. Cully sẽ để cho ông ta một giờ để ăn rồi sẽ đến gõ cửa phòng ông để chào buổi sáng.

Anh sẽ gặp ông Fummiro đang ngồi trước cây đàn piano, đặt cả tâm hồn vào ngón đàn, tô cháo đã ăn hết để trên cái bàn sau lưng ông. Trong những lần hội kiến buổi sáng đó, Cully thu xếp các vé xem trình diễn ca vũ nhạc kịch và những chuyến tham quan ngoạn cảnh của ông Fummiro và bạn bè. Ông Fummiro luôn luôn tươi cười lịch sự và tỏ vẻ biết ơn và ông Niigeta sẽ từ phòng mình đi qua cánh cửa thông để chào Cully và khen anh về món cháo điểm tâm mà rõ ràng là ông cũng chia sẻ. Cully nhớ luôn luôn mỉm cười và gật đầu giống như họ.

Trong khi đó, trong ba ngày đánh bạc ở Vegas, băng mười tay chơi Nhật bản này đã gây khủng bố cho các casino ở Vegas. Họ đi chung với nhau, đánh bạc chung một sòng. Khi Fummiro cầm chiếc giày đựng bài ở bàn baccarat lên, tất cả đều đánh cửa Nhà băng cùng với ông, ở mức giới hạn. Họ trúng mấy ván lớn nhưng may là không phải ở Xanadu. Họ chỉ thích chơi baccarat và họ chơi với một "niềm vui sống" mang tính cách người Ý hơn là Đông phương. Fummiro sẽ vỗ tay vào cạnh chiếc giày và đập bàn khi ông ta rút được một con bài lớn cho mình. Ông ta là một tay cờ bạc si mê và hả hê khi thắng được một ván bài vài ngàn đô-la. Điều này làm Cully ngạc nhiên. Anh biết Fummiro làm chủ một gia tài lớn hơn nửa tỉ đô-la. Vậy thì sao một tiếng bạc nhỏ như vậy (dầu là đã đến mức giới hạn ở Vegas) lại làm cho ông ta khích động đến thế?

Chỉ có một lần anh thấy chất thép đằng sau cái mặt tiền tươi cười tráng lệ của Fummiro. Một đêm nọ. Niigeta đặt một ván cá vào cửa tay chơi khi Fummiro cầm chiếc giày lên. Fummiro nhìn Niigeta rất lâu, đôi mày cong lại và nói điều gì đó bằng tiếng Nhật. Lần đầu tiên bắt được tiếng suỵt nhẹ mà Daisy đã cảnh báo cho anh biết để tránh. Niigeta lí nhí mấy tiếng gì đó để xin lỗi qua hàm rặng hô và lập tức chuyển tiền sang cùng cửa với Fummiro.

Lần du ngoạn đó là một thắng lợi lớn cho tất cả mọi người. Fummiro và đoàn tuỳ tùng trở về Nhật Bản sau khi ăn chơi đã đời vẫn còn lời cả trăm ngàn đô-la, nhưng họ đã thua hai trăm ngàn đô-la ở Xanadu. Họ đã bù đắp số mất đó ở những casino khác. Và họ đã khởi động một huyền thoại ở Vegas. Một băng mười tay chơi Nhật Bản trong những bộ comple đen bóng rời một casino này để đến một casino khác dài dài trên phố Thoát y vũ. Họ là một dấu hiệu gây kinh hoàng, đi vào casino giống như những phu nhà táng đến nhặt tử thi của các chủ sòng. Tay chủ sòng baccarat sẽ được biết từ tay tài xế chiếc Rolls-Royce là cả đám sắp đi đâu và gọi đến cho casino đó sữa soạn trải thảm đỏ đón khách. Tất cả các chủ sòng góp thông tin cho nhau. Chính theo cách đó mà Cully được biết rằng Niigeta là một anh chàng tham dâm hiếu sắc thích chơi gái hơn là đánh bài.

Cully đưa tiễn họ ra phi trường khi họ rời khách sạn để đến Los Angeles. Anh lấy một trong những chiếc đồng hồ cổ của Gronevelt để biếu Fummiro với lời chúc mừng của chính Gronevelt. Bản thân Gronevelt cũng đến dừng lại một lát ở bàn ăn của các vị khách Nhật, tự giới thiệu mình và biểu lộ lòng mến khách của gia chủ.

Fummiro thật sự nhiệt tình trong những lời cám ơn của ông, và Cully hoàn tất những cú bắt tay theo thông lệ và mỉm cười thật tươi khi các vị khách bước lên máy bay.

Cully quay nhanh trở về khách sạn, gọi điện thoại cho nhân viên dời chiếc piano ra khỏi phòng Fummiro, sau đó bước vào văn phòng của Gronevelt. Ông bắt tay anh nồng nhiệt và ôm anh thắm thiết để tỏ lời khen.

- Một cuộc tiếp khách hoàn mỹ nhất mà ta từng thấy trong bao nhiêu năm ở Vegas này, - Gronevelt nói, - Ở đâu anh tìm ra cái món cháo Nhật bản đó vậy?

- Từ một thiếu rlữ tên là Daisy, - Cully nói. - Bác đồng ý để cháu mua tặng cô ta một món quà nhé?

- Anh có thể dùng một ngàn đô-la vào việc đó - Gronevelt nói. - Anh đã tạo một mối quan hệ sáng giá lắm với đám Nhật đó. Hãy duy trì mối dây liên lạc. Những món quà đặc biệt và những thiệp chúc, thiệp mời vào dịp Giáng Sinh, lễ tết. Cái anh chàng Fummiro đó là một tay cờ bạc bốc đồng nhất mà ta từng gặp.

Cully nhíu mày:

- Cháu chỉ hơi băn khoăn về việc phục vụ các khoản "đệ tam khoái" kia cho anh ta, anh nói. - Bác cũng thấy đấy Fummiro là một anh chàng quá đỗi dễ thương và cháu không muốn tỏ ra suồng sã lúc mới gặp nhau lần đầu.

Gronevelt gật đầu:

- Cháu nói đúng. Đừng lo, anh ta sẽ còn quay lại. Và nếu anh ta muốn chuyện "đảo điên loan phượng" tất nhiên anh ta sẽ biết mở miệng yêu cầu. Anh ta từng bước chân vào chốn ăn chơi lẫy lừng khắp nơi trên thế giới, chứ có phải là một cậu trai tân chưa làm lễ "khai trinh" đâu mà ngại miệng chuyện đó.

Như thường lệ, Gronevelt đã nói đúng. Ba tháng sau Fummiro trở lại và sau khi thưởng lãm màn "thoát y vũ" ở một quán rượu, ông ta sốt tiết lên, yêu cầu được "đối tác" với một nữ vũ công tóc vàng, chân dài. Cully biết rằng nàng ấy vẫn thường xuyên thực hiện các phi vụ biệt kích, mặc dầu đã chính thức kết hôn với một tay cầm cái ở khách sạn Sands. Sau màn trình diễn, anh gọi tay quản lý sân khấu và yêu cầu anh ta hỏi ý kiến cô gái xem có chịu đi uống nước với ngài Fummiro và anh hay không?

Việc đó được thu xếp và Fummiro yêu cầu cô gái cùng đi dùng bữa ăn khuya. Cô gái nhìn Cully "theo thể nghi vấn" và anh gật đầu. Rồi anh để hai người họ với nhau. Anh về văn phòng và gọi tay quản lý sân khấu để bảo anh ta sắp xếp lại người trình diễn cho sô nửa đêm. Sáng hôm sau, Cully không đến phòng Fummiro sau bữa điểm tâm. Trưa đó anh gọi đến nhà cô gái bảo cô khỏi bận tâm đến các sô diễn trong khi ngài Fummiro còn ở đây.

Trong thời gian đó, Daisy đã chỉ dẫn cho một trong các bếp trưởng của Xanadu cách biến chế món cháo Nhật Bản và món này đã chính thức được đưa vào thực đơn điểm tâm của Xanadu. Cully được biết thêm một điều là Fummiro luôn luôn xem quay lại một số sô trên tivi phương Tây. Ông ta thích nó. Đặc biệt là cô gái ngây thơ tóc vàng diễn vai một nữ vũ công rất táo bạo nhưng đầy nữ tính, song vẫn rõ nét hồn nhiên vô tội. Cully bèn động não tưng bừng! Qua các liên hệ trong giới điện ảnh, anh làm quen với "nàng ngây thơ". Nàng có tên là Linda Parsons. Anh bay đến Los Angeles, mời nàng đi ăn trưa và trình bày với nàng về mối đam mê của Fummiro đối với nàng và sô diễn của nàng. Nàng bị cuốn hút bởi các câu chuyện của Cully về việc đánh bạc của Fummiro. Về chuyện ông ta vào Xanadu với mấy vali đựng tiền mặt lên cả hàng triệu đô-la mà có khi ông ta có thể thua nhẵn chỉ trong ba ngày chơi baccarat. Cully có thể thấy vẻ tham lam rất trẻ con, hồn nhiên, trong đôi mắt nàng. Nàng bảo Cully rằng lần tới nếu Fummiro đến Vegas, nàng cũng sẽ đến đó để hội ngộ con người lạ lùng đó.

Một tháng sau, Fummiro và Niigeta đi vào khách sạn Xanadu để lưu trú lại bốn ngày. Cully nói ngay cho Fummiro về chuyện Linda Parsons muốn gặp ông. Đôi mắt Fummiro sáng lên. Mặc dầu đã quá bốn mươi, ông ta có vẻ đẹp trai rất trẻ trung tưởng như một chàng trai chưa tới ba mươi mà niềm vui càng làm tăng thêm vẻ duyên dáng. Ông ta yêu cầu Cully cho gọi người đẹp ngay và nàng hứa sẽ đến vào chiều mai. Fummiro hứng chí đến nỗi tối hôm đó anh ta đánh bạc như một người điên và thua hơn ba trăm ngàn đô.

Sáng hôm sau, Fummiro đi cắt may một bộ comple màu xanh nước biển mà ông ta nghĩ rằng đó là đỉnh cao trong phong cách thời trang của Mỹ, và Cully đã thu xếp với các chuyên viên của nhà thời trang Sy Devore lo do cắt và may cho ông ta trong ngày đó. Cully đã cho một Trưởng ban tiếp tân đi theo Fummiro để chắc ăn là mọi chuyện diễn ra suôn sẻ.

Nhưng Linda Parsons bắt được chuyến bay sớm và đến Vegas trước giữa trưa. Cully đến phi trường đón nàng và đưa về khách sạn. Nàng muốn tắm rửa sạch sẽ mát mẻ trước khi gặp Fummiro, vì vậy Cully đưa nàng vào phòng của Niigeta để tắm rửa vì anh ta cứ nghĩ rằng Niigeta đã đi theo sếp của anh ta. Chuyện này sau đó được chứng minh là một sai lầm suýt trở thành tai hoạ.

Để nàng lại trong phòng, Cully đi về văn phòng của anh và cố gắng định vị Fummiro, nhưng ông ta đã tới cửa hàng may và chắc là đã tạt vào một trong các casino đầy rẫy trên đường phố đó, để đánh bạc. Không lần được dấu vết của ông ta. Sau khoảng một giờ, anh nhận được cú gọi từ phòng của Fummiro. Người gọi là Linda Parsons. Giọng nàng hơi bối rối.

- Anh đến ngay được không? - nàng hỏi.

- Em đang có vấn đề ngôn ngữ với bạn anh.

Cully không chờ để hỏi câu nào. Fummiro nói tiếng Anh rất khá mà. Thế thì hẳn phải có lý do khiến ông ta giả bộ như vậy. Có lẽ ông ta thất vọng với cô gái. Cully đã nhận ra rằng "nàng ngây thơ" trong người thật, có nhiều dấu hiệu từng trải hơn là những hình ảnh được bấm máy với nhiều dụng công và kỹ xảo trên các sô tivi. Hoặc có thể Linda đã nói hay làm điều gì gây xúc phạm đến tính thụ cảm tinh tế phương Đông của ông ta.

Nhưng người mở cửa phòng cho Cully vào không phải là Fummiro mà là Niigeta! Và Niigeta đang làm dáng với vẻ tự hào hơi quá lố. Rồi Cully thấy Linda Parsons bước ra khỏi buồng tắm trong chiếc Kimono Nhật thêu đầy những con rồng vàng.

- Lạy Chúa tôi! - Cully nói.

Linda cười có vẻ mệt mỏi:

- Anh đã lỡm em rồi, - nàng nói. - Anh ta đâu có rụt rè, cả thẹn mà cũng chẳng đẹp trai như anh đã đánh bóng. Anh ta còn không hiểu được tiếng Anh nữa kìa. Nhưng thôi, em hy vọng ít ra anh ta cũng giàu.

Niigeta vẫn còn đang tươi cười và hài lòng, anh ta còn cúi người về phía Linda trong lúc nghe nàng nói. Rõ ràng anh ta chẳng hiểu nàng đang nói cái gì.

- Thế em có với hắn chưa? - Cully hỏi gần như tuyệt vọng.

Linda làm mặt xấu:

- Hắn cứ rượt em chạy vòng vòng quanh phòng. Em đã nghĩ ít ra hai đứa cũng có được buổi chiều lãng mạn bên nhau với hương hoa ngào ngạt và âm nhạc du dương trước khỉ lên giường bày cuộc mây mưa. Thế nhưng hắn "máu lắm" cứ đòi "ăn" ngay tức thì, làm như hắn đã lên tới óc, nếu không kịp xả thì hoá rồ đến nơi. Em không làm sao đẩy hắn ra được. Thế nên em nghĩ thôi thì cứ thông qua những kiểu cách màu mè và giảm bớt những thủ tục rườm rà để đi thẳng vào chủ đề cho chóng được việc. Anh biết quá mà; em cũng đã đánh dư trăm trận chứ có phải hồng lâu còn khoá then sương đâu mà phải e ấp. Vậy thì, dê Mỹ hay dê Nhật, dê non hay dê cụ, em cũng chơi luôn!

Cully lắc đầu và nói:

- Em phất cờ hơi sớm, nhầm người mất rồi.

Linda nhìn anh một lúc, như vừa bị sốc pha lẫn kinh hoảng. Rồi nàng phá ra cười. Một tràng cười hồn nhiên, trung thực, rất đặc trưng của nàng. Nàng buông người vào chiếc ghế sofa và cười ngặt nghẽo, cặp đùi trắng hồng của nàng lồ lộ mượt mà và vạt áo kimono bung ra. Trong khoảng khắc ấy Cully như bị hớp hồn. Nhưng rồi chàng ta lắc đầu. Chuyện này hệ trọng, chẳng phải đùa. Anh nhấc điện thoại lên và gặp Daisy tại căn hộ của nàng. Daisy nhanh nhẩu nói ngay:

- Hết xúp rồi.

Cully bảo nàng thôi đừng có đùa nữa và hãy đến khách sạn ngay, vì có chuyện rất quan trọng, nàng hãy nhanh nhanh lên. Rồi anh gọi cho Gronevelt và giải thích tình hình. Ông ta bảo ông sẽ xuống ngay. Trong khi đó, Cully cầu nguyện mong sao Fummiro đừng vội xuất hiện sớm.

Mười lăm phút sau, Gronevelt và Daisy đến phòng đó cùng họ. Linda đã làm cho Cully và Niigeta và chính nàng, mỗi người một ly thức uống từ quầy bar riêng trong phòng. Mặt nàng vẫn còn thoáng nụ cười. Gronevelt vẫn tỏ ra khả ái với nàng:

- Tôi rất tiếc đã để xảy ra chuyện này, - ông nói. - Nhưng hãy kiên nhẫn tí thôi. Chúng ta sẽ gỡ rối mọi chuyện được mà!

Rồi ông quay sang Daisy:

- Cô hãy giải thích chính xác cho ông Niigeta biết chuyện gì đã xảy ra. Rằng ông ấy đã vơ nhầm phải người phụ nữ lẽ ra dành cho ông Fummiro. Rằng cô ấy cứ ngỡ ông ta là Fummiro say mê cô. Hãy giải thích là ông Fummiro say mê cô này và đã đi cắt may một bộ comple mới để gặp mặt nàng.

Niigeta chăm chú nghe với một nụ cười toét miệng tự nãy giờ. Nhưng giờ đây, có nét cảnh giác trong đôi mắt anh ta. Anh ta hỏi Daisy một câu, bằng tiếng Nhật và Cully nhận ra tiếng xì nhẹ trong câu nói của anh ta.

Daisy bắt đầu nói nhanh với anh ta, bằng tiếng Nhật. Cô vẫn mỉm cười trong khi nói, nhưng nụ cười của Niigeta cứ tắt dần trong lúc những lời của cô tuôn ra, và khi Daisy dứt lời. anh ta ngã lăn ra sàn, bất tỉnh.

Daisy nhanh trí ứng phó. Cô lấy một chai Whisky đổ vào họng Niigeta mấy ngụm, rồi giúp vực anh ta dậy, dìu anh ta đến ghế sofa. Linda nhìn anh ta tỏ vẻ thương hại.

Niigeta vặn đôi nắm tay và bộc bạch tâm tình với Daisy.

Gronevelt hỏi anh ta nói gì? Daisy nhún vai:

- Ông ấy bảo thế là chấm dứt sự nghiệp của ông ta rồi. Ông ấy nói rằng ông Fummiro sẽ loại ông ta ra khỏi công ty. Rằng ông ta đã làm cho ông Fummiro mất thể diện quá nhiều.

Gronevelt gật đầu:

- Bảo ông ta chỉ việc câm miệng thôi. Nói với ông ta tôi sắp cho người đưa ông ta vào bệnh viện ngay, bởi vì ông ta ốm, rồi sau đó ông ấy sẽ bay về Los Angeles chữa bệnh. Chúng ta sẽ "sáng tác" một câu chuyện để kể cho ông Fummiro. Bảo với ông ta đừng hé môi để lộ một lời nào và chúng ta sẽ bảo đảm rằng ông Fummiro sẽ không bao giờ đánh hơi được chuyện gì xảy ra đâu.

Daisy thông dịch và Niigeta gật đầu. Nụ cười lịch sự trở lại trên môi ông ta nhưng là cười như mếu!

Gronevelt quay sang Cully:

- Anh và cô Parsons đợi ông Fummiro ở đây nhé. Cứ ứng xử tự nhiên như chẳng có gì xảy ra. Tôi sẽ lo phần Niigeta. Chúng ta không thể để hắn ta ở đây; gặp mặt chủ, hắn sẽ lại bất tỉnh nhân sự mất. Tôi sẽ cho người lo mọi thủ tục đưa hắn đi.

Và mọi việc sau đó diễn ra xuôi chèo mát mái. Khi Fummiro trở về, một giờ sau. Ông ta gặp Linda Parsons, đã thay quần áo tươm tất và trang điểm hoàn chỉnh, đang ngồi đợi ông ta, với Cully. Ngay tức thì Fummiro bị mê hoặc và Linda thấy cảm mến ngay vẻ đẹp trai khả ái của ông ta một cách hồn nhiên vô tội nhất, như một "nàng ngây thơ" của màn ảnh truyền hình phương Tây có thể ngây thơ!

- Em hy vọng là anh không phiền lòng nhưng em đã lấy phòng của bạn anh để em có thể ở sát bên anh.

Như thế chúng ta có thể dành nhiều thời gian cho nhau hơn.

Fummiro lãnh hội ngay được ẩn ý. Nàng không phải loại đàn bà phóng đãng, dễ dàng nhào ngay vào vòng tay chàng: Nghĩa là với nàng trước tiên phải yêu nhau, còn chuyện ấy để sau! Chàng gật đầu với một nụ cười cởi mở, rồi nói:

- Tất nhiên, tất nhiên rồi.

Cully thở phào nhẹ nhõm. Linda đã ra những nước bài rất trúng cách. Anh chào tạm biệt họ và chùng chình bước chân một lát nơi hành lang. Chỉ sau vài phút anh nghe tiếng piano của Fummiro vẳng lên thánh thót rồi Linda cất giọng hát theo.

Trong ba ngày tiếp theo, Fummiro và Linda đã dệt nên một chuyện tình cổ điển, hầu như hoàn hảo về phương diện kỉ hà, theo phong cách Las Vegas. Hai người si mê nhau và dành từng giây phút cho nhau. Trong giường, nơi các bàn đánh bài, đi mua sắm ở các cửa hàng của các khách sạn. Linda thích dùng món cháo Nhật Bản để điểm tâm và thích nghe Fummiro chơi đàn. Fummiro thích vẻ mặt hồn nhiên thanh tân với mái tóc vàng của Linda, cặp đùi trắng như sữa và khá đầy đặn của nàng, đôi chân dài và bộ ngực đầy đặn, mềm mại của nàng. Nhưng trên hết, chàng yêu nét hài hước ý nhị, nét vui tươi nhí nhảnh nơi nàng. Chàng thổ lộ với Cully rằng Linda có thể làm một nàng geisha tuyệt vời. Daisy bảo với Cully rằng đó là lời khen tặng cao nhất đối với người phụ nữ mà một người như Fummiro có thể thốt ra. Fummiro cũng cho rằng Linda đem lại vận may khi anh ta đánh bạc. Hết thời hạn lưu trú, anh ta chỉ tốn có hai trăm ngàn đô-la trong số một triệu đô-la anh đem theo và ký gởi ở phòng thủ quỹ. Và hai trăm ngàn đó là kể cả tiền mua chiếc áo khoác lông chồn, một chiếc nhẫn kim cương, một con ngựa palomino và chiếc xe Mercedes để tặng cho cô em gái ngây thơ Linda Parsons. Anh ta đã ra đi khỏi chốn ăn chơi xa xỉ này với giá hời. Không có Linda có lẽ anh ta đã để lại ít nhất nửa triệu đô-la hay có khi nguyên cả triệu đô-la ở các bàn baccarat.

Lúc đầu Cully đã nghĩ về Linda như một cô gái gọi cao cấp. Nhưng sau khi Fummiro rời Vegas, anh đã đi dùng bữa tối với nàng, trước khi nàng lên chuyến bay đêm về lại Los Angeles. Nàng thực sự mê Fummiro:

- Quả thật là một anh chàng dễ thương! - nàng nói. - Em thích món cháo điểm tâm kiểu Nhật Bản đó và ngón đàn piano của anh ấy. Về chuyện làm tình chàng cũng hết sẩy. Không có gì ngạc nhiên là phụ nữ Nhật tận tuỵ thủy chung với chồng.

Cully cười:

- Anh không nghĩ là chàng ta lại đối xử với vợ nhà như với em đâu.

Linda thở la:

- Vâng, thì em biết. Tuy thế, vẫn thật tuyệt. Anh biết không, anh ấy chụp hàng trăm "pô" hình của em. Có lẽ anh nghĩ em phải phát mệt vì chuyện ấy, nhưng thật sự em thích anh ta làm chuyện đó. Em cũng chụp hình của anh ấy. Anh ta đẹp trai ghê.

- Và còn rất giàu nữa chứ, - Cully nói.

Linda nhún vai:

- Em đã từng sống với những chàng giàu có. Và em cũng làm ra khá bộn tiền. Nhưng anh ấy có nét giống trẻ thơ Tuy nhiên, em không thích cách anh ấy chơi cờ bạc. Lạy Chúa! Em có thể sống được cả mười năm bằng số tiền anh ấy thua chỉ trong một ngày.

Cully nghĩ, thế à? Và ngay lập tức vạch ra kế hoạch để Fummiro và Linda đưng bao giờ tái ngộ. Nhưng anh vẫn nói với một nụ cười bối rối:

- Ờ anh cũng không thích thấy anh ấy thua nặng như thế. Có thể làm cho anh ta hết hứng thú đánh bạc.

Linda cười với anh:

- Chắc vậy, em cá với anh như thế đấy. - Cô nói. - Nhưng cho em cám ơn về tất cả mọi chuyện. Em thực sự vừa trải qua một trong những khoảng thời gian đẹp nhất trong đời. Có lẽ em sẽ còn gặp lại anh.

Anh biết cô muốn ám chỉ điều gì nhưng lờ đi, chỉ nói giọng lửng lơ:

- Bất cứ lúc nào em muốn đến Vegas hãy gọi anh. Mọi thứ nơi đây đều sẵn sàng dành cho em, trừ những con phỉnh thôi.

Linda nói hơi trầm ngâm:

- Anh có nghĩ là Fummiro sẽ gọi em khi anh ấy đến đây lần tới? Em cũng từng nói em sẽ bay qua Nhật trong kỳ nghỉ của em khi bọn em quay xong phim này, và anh ấy nói sẽ rất vui mừng, khi nào em đến thì cho anh ấy biết. Nhưng em thấy hình như không mặn mà lắm.

Cully lắc đầu:

- Đàn ông Nhật không thích loại đàn bà quá chủ động hiếu chiến. Họ còn nặng đầu óc phong kiến, đi sau thời đại cả ngàn năm. Đặc biệt là những kẻ giàu sang danh vọng như Fummiro. Tốt nhất là em nên để thân mình ra sau và chơi trò làm mặt lạnh.

Nàng thở ra:

- Em cũng đoán là nên như thế!

Anh đưa nàng đến phi trường và hôn lên má nàng trước khi nàng bước lên máy bay.

- Anh sẽ gọi cho em khi nào Fummiro quay lại, - anh nói.

Khi quay lại khách sạn Xanadu, anh đi lên phòng khách của Gronevelt và nói vẻ bối rối:

- Hình như quá tốt với một tay chơi cờ bạc không hẳn đã là hay.

Gronevelt nói:

- Đừng vội thất vọng. Chúng tôi chưa muốn lấy cả triệu đô-la của anh ta sớm thế. Nhưng cháu nói đúng đấy. Nàng diễn viên đó không phải là người phụ nữ thích hợp để đi cặp với một tay chơi cờ bạc. Một là nàng ta chưa đủ độ tham lam. Hai là, nàng ta quá thẳng ruột ngựa. Và tệ hơn cả, nàng ta lại thông minh.

- Sao bác biết được? - Cully hỏi.

Gronevelt cười:

- Mà ta nói đúng không?

- Chắc quá rồi, - Cully nói. - Cháu sẽ tách rời Fummiro khỏi cô ả ấm ớ, nửa vời đó, khi ông ta trở lại nơi đây

- Anh không phải nhọc công đâu, Gronevelt nói. - Một con người như anh ta có thừa bản lĩnh. Anh ta không cần những gì cô ấy có thể cho anh ta. Không cần quá một lần. Một lần thì vui. Một lần là đã đủ. Nhưng nhiều lần quá hoá nhàm. Ta đoán anh ta đã muốn ba chấm sang hàng với nàng Linda rồi. Chứ nếu như anh ta còn thòm thèm, anh ta đã lưu tình hậu hĩ hơn nhiều khi tạm biệt nàng.

Cully hơi sửng sốt:

- Một chiếc Mercedes mới, một áo choàng lông chồn và một nhẫn kim cương. Vậy mà côn chưa gọi là lưu hậu tình cho nàng sao?

- Đếch phải, - Gronevelt đáp gọn.

Và ông ta đã có lý.

Lần sau đó, Fummiro đến Vegas, ông ta chẳng hề một lời nào nhắc đến Linda Parsons. Và lần đó, ông ta thua nhẵn một triệu đô-la tiền mặt gửi ở phòng thủ quỹ casino.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Máy bay lướt vào ánh sáng ban mai và cô tiếp viên đi một vòng mời khách dùng cà phê và điểm tâm. Cully vẫn giữ chiếc vali bên mình trong khi ăn uống và khi dùng xong bữa điểm tâm, anh thấy những toà tháp bằng thép và kính của New York hiện lên ở chân trời. Việc mục kích quang cảnh ấy luôn gây cho anh cảm giác sợ hãi.

Giống như ở Vegas sa mạc trải dài xa tít tắp, còn ở đây hàng dặm thép và pha lê đâm rễ và mọc lên san sát lên trời tưởng chừng không biên giới, tạo cho anh một cảm giác rợn ngợp trước cảnh bao la, kỳ vĩ.

Máy bay sà thấp xuống và chậm rãi, duyên dáng nghiêng mình về phía trái, lúc lượn vòng thanh phố rồi hạ thấp xuống một tầng nữa, từ tầng trời trắng toát xuống tầng xanh lơ, rồi vào vùng không khí sáng ngời ánh nắng và các phi đạo màu xám bên dưới. Các bánh lăn chạm xuống phi đạo với một cú bật nẩy đủ mạnh để đánh thức những hành khách nào còn ngủ.

Cully thấy tỉnh táo và khoẻ khoắn. Anh chỉ thấy nôn nao muốn gặp Merlyn, ý nghĩ về cuộc hội ngộ sắp tới làm anh thấy vui. Anh bạn cũ Merlyn dễ thương, con người trực tính độc đáo, người duy nhất trên đời mà anh tin cậy.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom