Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Vào cái ngày tôi phải ra trước Khoáng đại hội thẩm, đứa con trai lớn của tôi tốt nghiệp lớp chín và lên cấp ba.

Vallie muốn tôi xin nghỉ việc ngày ấy và cùng đến dự lễ mãn khoá với nàng. Tôi bảo nàng là tôi không thể bởi vì tôi phải đi dự cuộc họp đặc biệt về chương trình tái ngũ của Bộ Quốc phòng. Nàng vẫn chưa có manh mối nào về chuyện rắc rối tôi đang gặp phải và tôi cũng không nói vì nàng có giúp gì được đâu, chỉ thêm lo lắng. Nếu mọi việc êm xuôi, nàng sẽ không bao giờ biết chuyện gì. Và đó là điều tôi mong muốn. Tôi thật sự không tin vào việc cần san sẻ những rắc rối với người vợ, khi họ cũng chẳng giúp được gì.

Vallie tự hào về cái ngày con trai mình tốt nghiệp cấp hai. Mấy năm trước đây, chúng tôi nhận ra rằng thằng con mình chưa đọc thông, thế mà vẫn cứ qua được các học kỳ và được lên lớp đều đặn. Vallie đã tức phát điên lên và bắt đầu dạy cho nó đọc và nàng đã làm một việc tốt. Bây giờ thằng bé đạt hạng giỏi trong lớp và tôi rất mừng.

Vì đây là chuyện làm tôi bực tức với hệ thống giáo dục ở New York. Chúng tôi sống ở khu dân cư có thu nhập thấp, những người lao động vất vả và dân da đen. Các trường chẳng cần quan tâm là bọn nhóc có học hành được hay không. Họ chỉ tiếp tục cho chúng lên lớp đều đặn để chóng rảnh nợ, để cho chúng ra khỏi hệ thống của họ mà không gây rắc rối nào, với cố gắng tối thiểu.

Vallie đang nôn nao chờ dọn về nhà mới. Đó là một khu có hệ thống trường học rất tốt, một cộng đồng tương đối thuần nhất ở Long Island, nơi các thầy giáo bảo đảm các học trò của họ đủ chuẩn để thi vào đại học hay cao đẳng. Và dù không nói ra, nàng cảm thấy an tâm là nơi ấy có rất ít người da đen. Các con của nàng sẽ lớn lên, theo nàng nghĩ, trong một môi trường ổn định giống như môi trường nàng đã sống khi còn là cô bé học trò Thiên Chúa giáo. Nàng nghĩ như thế cũng được thôi. Tôi không muốn nói rằng những vấn đề nàng đang cố thoát ra thực sự là những căn bệnh trầm kha trong cơ thể xã hội của chúng ta và rằng chúng tôi không thể thoát khỏi những vấn đề đó nơi những bóng cây và thảm cỏ của Long Island.

Và ngoài ra, tôi còn những lo lắng khác nữa. Có thể tôi sẽ bị đi tù, tuỳ thuộc vào Khoáng đại hội thẩm mà tôi sẽ ra trình diện trong ngày hôm nay. Mọi chuyện còn tuỳ thuộc vào đó. Tôi cảm thấy bần thần khi ra khỏi giường vào sáng hôm ấy. Vallie sắp mang lũ trẻ đến trường và sẽ ở đó dự lễ mãn khoá. Tôi bảo nàng rằng tôi sẽ đi làm hơi muộn, vì thế mấy mẹ con hãy rời nhà trước.

Tôi tự pha cà phê và trong lúc ngồi nhâm nhi ly cà phê sáng, tôi thử hình dung ra tất cả những gì tôi phải làm trước Khoáng đại hội thẩm.

Tôi phải phủ nhận mọi chuyện. Không có cửa nào để họ có thể lần ra dấu vết số tiền hối lộ mà tôi đã lấy, Cully đã quả quyết với tôi về phần đó. Nhưng điều làm tôi lo ngại là phải điền vào một bảng vấn đáp về tài sản.

Một trong các câu hỏi là tôi có sở hữu căn nhà nào không?

Và tôi đã đi trên một đường biên mong manh về vấn đề đó. Sự thật là tôi đã đăng ký mua trả chậm một căn nhà ở Long Island nhưng chưa nộp tiền đủ cho lần đầu nên vẫn chưa được cấp giấy tờ. Thế tôi cứ nói không.

Một trong những câu hỏi tôi có thể chờ đợi Khoáng đại hội thẩm đặt ra là tôi đã đặt tiền cọc để mua một cãn nhà hay chưa. Tôi sẽ trả lời là có. Họ sẽ quay điểm này và tôi phải có cách giải thích cho suông. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra nếu Frank Alcore suy sụp tinh thần và nhận tội và nói với họ về những vụ làm ăn khi chúng tôi còn hợp tác với nhau. Tôi đã quyết định phải chối phăng. Có thể là lời khai của Frank Alcore trái ngược với lời khai của tôi Nhưng anh ta vẫn luôn xử lý các vụ thương lượng của mình, đâu cần ai hậu thuẫn anh ta.

Nhưng giả sử như Frank Alcore sụp đổ tinh thần và ném tôi làm mồi cho Khoáng đại hội thẩm xâu xé? Tôi không nghĩ thế. Cách duy nhất để anh có thể tự cứu có lẽ là đưa ra bằng chứng chống lại người nào đó cao hơn trong dây chuyền hệ thống quân giai. Chẳng hạn như thiếu tá hay đại tá. Nhưng quý vị này chẳng hề dính dáng đến chuyện làm ăn của Frank. Và tôi cảm nhận rằng Frank là một anh chàng có khí tiết và tự trọng nên không thế khiến tôi cũng phải dính chùm chỉ vì anh ta bị vướng. Vả chăng, anh ta sẽ mất rất lớn nếu không trụ vững. Nếu như thú tội, anh ta sẽ mất việc làm trong chính quyền và tiền hưu đồng thời cả quân hàm cấp bậc và tiền hưu bên quân đội. Do đó anh ta bắt buộc chọn con đường cứ trơ tráo chối tới cùng. Bao giờ có chứng cớ hiển nhiên không thể bác bỏ được thì hẵng tính sau. Mà khả năng này khó xảy ra. Nên tôi cứ đặt cơ sở ứng phó của mình trên giả định nền tảng là Frank Alcore sẽ kiên trì bám theo phương pháp "nhất lý, nhì lỳ, tam ì, tứ cố" ít nhất là trong giai đoạn đầu, cho đến khi nào có bằng cớ không thể chối cãi.

Mối lo ngại lớn nhất của tôi là Paul Hemsi. Anh chàng mà tôi đã giúp cho nhiều nhất và bố anh ta đã hứa sẽ tạo cho tôi hạnh phúc trong phần đời còn lại của tôi.

Sau khi lo trót lọt cho Paul, tôi chẳng hề nghe ông Hemsi nhắc lại một lần nào những lời ông đã hứa.

Cả một hộp bít-tất cũng không. Tôi đã mong chờ những điểm cao từ vụ đó ít ra là vài ngàn đô, thế nhưng những hộp quần áo gửi tặng lúc đầu đã là tất cả. Và tôi cũng chẳng thôi thúc hay đòi hỏi gì. Xét cho cùng, mấy hộp quần áo đó cũng đáng giá mấy ngàn đô. Dù chúng không "làm cho tôi hạnh phúc trong suốt phần đời còn lại" nhưng thôi, tôi cũng chẳng hề cay cú là mình bị lỡm.

Nhưng khi FBI bắt đầu điều tra, lại có chuyện loan truyền là Paul Hemsi đã lừa quân đội và đăng ký vào quân dự bị sau khi nhận giấy báo nhập ngũ. Nhưng chuyện này tôi có thể ứng phó và có cách trình bày cho xuôi tai. Không có gì thực sự bất hợp pháp, chỉ là một mánh khóe đánh lạc hướng nho nhỏ, chuyện thường ngày trong công tác hành chánh. Nhưng có lời tiết lộ là Paul Hemsi đã mất tinh thần dưới đòn phép phỏng vấn của FBI và đã khai rằng tôi đã từng nhận hối lộ từ những người bạn của cậu ta.

***

Tôi rời nhà và lái xe qua trường học con tôi. Trường có một sân chơi rộng mênh mông với một sân bóng rổ tráng xi-măng, toàn bộ khu vực được rào chắn bằng lưới sắt cao. Và trong lúc lái xe ngang qua, tôi có thế thấy buổi lễ tốt nghiệp đang diễn ra ngoài trời, nơi sân trường. Tôi đỗ xe lại và đứng gần trường sát vòng rào để mục kích quang cảnh bên trong.

Những cậu bé, cô bé độ tuổi mười lăm, đứng xếp hàng ngay ngắn, tất cả ăn mặc thật tinh tươm để dự lễ, tóc tai chải gọn gàng vén khéo, mặt mày sạch sẽ sáng sủa, đứng chờ với niềm tự hào trẻ thơ bước chuyển qua long trọng đến giai đoạn kế tiếp để hướng đến tuổi trưởng thành Các chỗ ngồi đã được sắp xếp cho cha mẹ. Và một khán dài bằng gỗ lớn dành cho quý vị thân hào nhân sĩ, ông hiệu trưởng của trường, một vị đại diện của quận sở tại Lá quốc kỳ Mỹ bay phất phới trên khán đài. Tôi nghe ông hiệu trưởng nói điều gì đó về việc không đủ thời giờ để trao bằng cấp và giấy khen cho từng người nhưng khi ông xướng tên mỗi lớp, thì yêu cầu tất cả học sinh của lớp đó quay mặt về phía khán đài. Và như thế, tôi đứng quan sát chúng trong mấy phút.

Sau mỗi lần xướng danh, một dãy thiếu niên thiếu nữ bung ra thành vòng cung hướng mặt về phía khán đài để nhận tràng pháo tay khen ngợi từ bố mẹ các cháu. Các bộ mặt đầy tự hào và vui sướng với biết bao dự phóng tương lai. Ngày hôm nay, các cháu là những người hùng. Chúng đã được các bậc chức sắc lên tiếng ngợi khen và giờ đây được bố mẹ tán thưởng. Thế mà không ít trong số chúng vẫn còn chưa đọc thông tiếng mẹ đẻ! Không đứa nào trong bọn chúng đã được chuẩn bị để vào đời hay cho những vấn đề mà chúng gặp phải. Tôi cảm thấy dễ chịu khi không gặp con mình vào thời điểm đó. Tôi quay lại chiếc xe và lái đến New York, đến cuộc đối mặt với Khoáng đại hội thẩm.

Gần đến toà án liên bang, tôi đưa xe vào bãi đậu xe và đi vào các hành lang rộng lớn lát đá hoa cương. Tôi bước vào một thang máy lên phòng Khoáng đại hội thẩm và bước ra khỏi thang máy. Và tôi bị sốc khi thấy các băng ghế đầy những chàng trai đã từng đăng kí vào các đơn vị quân dự bị của chúng tôi. Ít nhất cũng có khoảng cả trăm người. Vài người gật đầu chào tôi, một số bắt tay tôi và chúng tôi nói đùa về chuyện này. Tôi thấy Frank Alcore đứng một mình, gần một trong những cửa sổ lớn.

Tôi bước đến bắt tay anh. Trông anh có vẻ bình thản nhưng nét mặt hơi căng.

- Toàn chuyện nhảm phải không? - Anh nói trong lúc chúng tôi bắt tay.

- Ừ, - tôi nói.

Không có ai mặc đồng phục ngoại trừ Frank. Anh mang tất cả các biểu chương chiến trận lên người, quân hàm trung sĩ nhất và dấu hiệu thâm niên quân vụ. Trông anh đúng vẻ một người lính trận chuyên nghiệp gan dạ và thiện chiến. Tôi biết rằng anh đang đánh cược với ván bài là Khoáng đại hội thẩm sẽ từ chối kết tội một người yêu nước đang được gọi tái ngũ để bảo vệ quê hương. Tôi hy vọng anh đi nước bài đúng.

- Lạy Chúa, - Frank nói. - Chúng mà về đây cả gần hai trăm người từ Fort Lee. Chỉ vì một số những anh chàng thỏ đế này không chạy được thuốc khi bị gọi tái ngũ.

Tôi bị ấn tượng và ngạc nhiên. Hình như chúng tôi chỉ làm một chuyện quá nhỏ nhặt thôi mà. Lấy tí tiền để làm một mánh lới nho nhỏ vô hại. Một việc lợi cho cả đôi bên và chẳng hại cho ai cả. Tất nhiên chúng tôi có phạm luật nhưng không làm gì thực sự xấu xa. Và ở đây, chính quyền đang tiêu phí hàng chục ngàn đô-la cho phiên toà này để đưa chúng tôi vô tù. Hình như chuyện này không công bằng. Chúng tôi có bắn giết ai đâu, đâu có cướp nhà băng, đâu có biển thủ công quỹ hay giả mạo chi phiếu, tàng trữ đồ gian hoặc hiếp dâm hay làm gián điệp cho Liên Xô. Vậy thì có gì om sòm, nhặng xị cả lên? Tôi phá ra cười. Bỗng nhiên, tôi thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên và chẳng hiểu vì sao mình lại vui.

- Cậu cười cái quái gì thế? - Frank nói. - Sắp đến lúc phải lập nghiêm đấy đừng có mà đùa.

Có những người đứng rải rác chung quanh chúng tôi, trong tầm nghe. Tôi nói với Fank, giọng vui vẻ:

- Có quái gì đâu mà chúng ta phải lo lắng? Chúng ta vô tội và chúng ta biết rằng toàn bộ chuyện này đều nhảm. Mặc kệ bọn chúng.

Anh bắt được ý và cười trả lời tôi:

- Ừ mình cũng nghĩ vậy. Cậu có cho rằng những anh chàng này sẽ tự hào khi vào quân đội để phục vụ Tổ quốc hay không. Tôi chẳng hề kêu la quang quác hay than van oai oái, dù tôi trải qua trọn một cuộc chiến ghê hồn.

Rồi chúng tôi nghe tên Frank được gọi ra bởi một viên luật sư, từ phòng Khoáng đại hội thẩm. Lúc Frank đi vào, tôi thấy Paul Hemsi đi ra. Tôi bước đến bên cậu ta và nói:

- Chào Paul, cậu khoẻ chứ? Tôi chìa tay ra và cậu bắt tay tôi.

Dường như cậu tôi không được thoải mái lắm nhưng không tỏ ra mình có lỗi.

- Bố anh thế nào? - tôi hỏi.

- Cụ cũng bình thường, - Paul nói. Rồi một thoáng do dự. - Tôi biết tôi không phải phân trần về lời chứng của mình. Ông biết là tôi không thề làm điều đó. Nhưng bố tôi bảo hãy nói với ông là đừng có lo lắng bất kỳ chuyện gì.

Tôi cảm thấy như cất được một gánh nặng. Cậu ta là mối lo thật sự cho tôi. Nhưng Cully đã nói anh sẽ "cố định hoá" gia đình Hemsi và giờ đây hình như chuyện đó đã được thực hiện. Tôi cần tìm hiểu. Tôi nhìn Paul đi đến dãy cầu thang máy, và rồi một khách hàng khác của tôi, một chàng trai trước đây là một biên đạo sân khấu tập sự mà tôi đã ghi danh đầu quân miễn phí. Cậu ta tiến lại bên tôi. Cậu ta thực lòng quan tâm đến tôi và bảo rằng cậu và bạn bè sẽ làm chứng rằng tôi không hề đòi hỏi hoặc nhận tiền từ họ. Tôi cám ơn và bắt tay cậu ta. Tôi nói đùa vài câu và cười rất nhiều, rất tự nhiên không có vẻ gì đóng kịch. Tôi đang diễn vai một kẻ nhận hối lộ trơn tru khéo léo đang phóng chiếu vẻ ngây thơ vô tội rất đặc trưng kiểu Mỹ của mình. Tôi nhận ra, với đôi chút ngạc nhiên rằng tôi đang "thưởng thức" toàn bộ vụ việc này. Thực tế là tôi đang ra hầu toà với một lô những khách hàng của tôi mà tất cả đều nói rằng toàn bộ vụ việc này quả là nhảm nhí, do một đám dở hơi tạo ra. Tôi còn cảm thấy rằng Frank cũng có thể phá lưới. Rồi tôi thấy Frank đi ra khỏi Khoáng đại hội thẩm và nghe tên mình được gọi. Frank trông hơi ảm đạm nhưng không suy sụp; anh sẽ chiến đấu để thoát ra. Tôi đi qua hai cánh cửa lớn để bước vào phòng Khoáng đại hội thẩm. Lúc bước qua các cánh cửa, tôi đã dập tắt nụ cười khỏi khuôn mặt mình.

Không hề giống như trong các phim. Khoáng đại hội thẩm dường như là một khối người ngồi trong những dãy ghế xếp: Viên chương lý toà án quận đứng sau một bàn giấy, cầm các tờ giấy lên đọc. Tôi được chỉ định ngồi vào một cái ghế đặt trên một cái bục hơi cao để toàn thể hội thẩm có thể nhìn rõ tôi.

Viên chưởng lý viên toà án quận còn trẻ, mặc bộ comple đen rất bảo thủ với mốt sơ mi trắng và càvạt màu xanh da trời thắt rất ngay ngắn.

Ông có đầu tóc đen dài nhưng da mặt tái xanh. Tôi không biết tên ông ta và chẳng bao giờ biết. Giọng ông ta rất bình thản và xa cách trong lúc thẩm vấn tôi. Ông ta chỉ nhằm đưa thông tin vào hồ sơ, không cố gắng gây ấn tượng lên hội thẩm.

Ông ta cũng không hề tiến lại gần tôi khi ông ta đặt câu hỏi, mà đứng ngay tại bàn giấy của mình. Ông ta hỏi lý lịch và nghề nghiệp của tôi.

- Ông Merlyn, - ông ta hỏi, - Ông có bao giờ yêu sách tiền bạc từ một người nào đó, vì bất kỳ lý do nào đó?

- Không, - tôi nói.

Tôi nhìn ngay vào mắt ông ta và các thành viên hội thẩm trong lúc tôi trả lời. Tôi giữ khuôn mặt trang nghiêm, dù vì lý do nào đó tôi lại muốn cười. Tôi vẫn vững tinh thần.

Viên chưởng lý hỏi:

- Anh có từng nhận món tiền nào từ bất kỳ ai để cho người đó được ghi danh vào chương trình quân dự bị sáu tháng?

- Không! - tôi đáp.

- Anh có biết người nào nhận tiền trái pháp luật để có những đối xử ưu đãi theo cách nào đó?

- Không. - Tôi nói và vẫn nhìn ông ta và đám người ngồi một cách rất không thoải mái trong những chiếc ghế xếp nhỏ kia. Phòng này nằm phía trong và tối vì hệ thống chiếu sáng rất kém. Thật sự tôi không thể nhìn rõ mặt họ.

- Anh có biết về bất kỳ thượng cấp nào hay bất kỳ ai khác đã dùng ảnh hưởng đặc biệt để đưa người nào đó vào chương trình sáu tháng, khi tên người đó không nằm trong các danh sách chờ được lưu trữ tại văn phòng anh?

Tôi đã biết ông ta hỏi câu đó. Và tôi đã nghĩ về việc có nên nêu tên vị đại biểu quốc hội đã đến với người thừa kế một sản nghiệp sắt thép hay không và việc này đã khiến cho viên thiếu tá tuân lệnh. Hoặc xì ra chuyện ngài đại tá và một vài sĩ quan trừ bị khác đã đưa con cái của bạn bè họ vào danh sách ngoài tua. Có thể điều đó sẽ làm cho những nhân viên điều tra đâm ra e dè hoặc xoay hướng chú ý về quý vị thượng cấp. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng lý do mà FBI muốn sục sạo chuyện này là nhằm lật tẩy các vị thượng cấp, và nếu điều đó xảy ra, thì cuộc điều tra sẽ được cường hoá hơn lên. Với lại, toàn bộ vụ việc sẽ càng trở nên quan trọng đối với báo chí nếu có vị đại biểu quốc hội dính líu vào. Vì thế tôi quyết định thủ khẩu như bình. Nếu như tôi bị kêu án, luật sư của tôi vẫn có thể sử dụng thông tin đó. Nên bây giờ tôi lắc đầu và nói:

- Không.

Viên chưởng lý sắp xếp lại giấy tờ hồ sơ và nói, mắt không nhìn vào tôi:

- Xong rồi đấy. Anh có thể đi

Tôi ra khỏi ghế, bước xuống bục và rời phòng hội thẩm. Và rồi tôi nhận ra tại sao tôi lại vui vẻ, vững tinh thần gần như sảng khoái đến thế?

Tôi thực sự đã là một pháp sư. Trong bao nhiêu năm đó khi mọi người còn đang thuận buồm xuôi gió, cứ nhét tiền hối lộ vào túi mà chẳng phải lo lắng chút nào, thì tôi đã nhìn vào tương lai và thấy trước được ngày nay.

Tiên liệu được những câu hỏi này, pháp đình này, đám FBI, bóng ma của nhà tù. Và tôi đã tiên liệu những đối sách thích nghi. Tôi đã giấu tiền nơi Cully. Tôi đã nén lòng nhẫn nhịn không tạo ra kẻ thù trong số những người tôi có chuyện làm ăn bất hợp pháp với họ. Tôi chưa hề công khai đòi hỏi một món tiền nào. Và khi có vài khách hàng chơi tình vờ, quăng cho tôi cục lơ Pháp, tôi cũng không bao giờ truy đuổi hay trả thù họ. Ngay cả ông Hemsi sau khi hứa hẹn sẽ làm cho tôi hạnh phúc suốt phần đời còn lại. À, nhưng mà ông ta cũng đã làm cho tôi hạnh phúc bằng cách bảo con ông không làm chứng chống lại tôi. Có lẽ chính điều đó đã xoay chuyển guồng máy theo một hướng khác. Trừ phi tôi biết rõ hơn. Chính Cully đã gỡ tôi ra khỏi lưỡi câu. Nhưng, đồng ý ngay cả nếu như tôi phải cần đến một sự giúp đỡ nào đó tôi vẫn là một pháp sư. Mọi chuyện đã xảy ra đúng như tôi đã biết nó sẽ phải xảy ra như thế. Tôi thực sự tự hào về thằng tôi này? Tôi bất cần. Có lẽ tôi là một tên mánh mung trót lọt nhờ biết vận dụng những biện pháp phòng ngừa thông minh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Khi Cully ra khỏi máy bay, anh kêu một chiếc taxi chở đến một nhà băng danh tiếng ở Manhattan. Anh nhìn đồng hồ. Lúc đó đã quá mười giờ sáng. Gronevelt sẽ gọi, ngay bây giờ, cho vị tổng giám đốc của nhà băng mà Cully sắp trao vali tiền.

Mọi sự diễn ra như kế hoạch. Cully được dẫn vào văn phòng của ông phó tổng, và sau những cánh cửa khép kín, khoá kỹ, anh giao vali tiền cho ông ta.

Ông phó tổng dùng chìa khoá của mình mở vali ra và đếm một triệu đô-la trước mặt Cully. Rồi ông rút ra một biên nhận của ngân hàng, ghi số tiền ký thác và ký tên mình vào đó rồi trao lại cho Cully. Họ bắt tay nhau và Cully rời đi. Ra khỏi ngân hàng một dãy phố, anh lấy một phong bì đã ghi sẵn và đã dán tem ra khỏi túi áo jacket, nhét biên nhận vào đó rồi dán phong bì lại, bỏ vào hộp thư ở góc phố. Anh thắc mắc không hiểu cả chuyện này diễn tiến như thế nào, bằng cách nào ông phó tổng bao che số tiền rút ra và ai sẽ lấy số tiền kia. Một ngày nào đó anh sẽ biết.

Cully và Merlyn gặp nhau tại phòng cây sồi của khách sạn Plaza. Họ chưa nói gì về vấn đề cho đến khi cùng dùng xong bữa trưa và rồi cùng tản bộ nơi Central Park (công viên Trung tâm New York). Merlyn kể cho Cully toàn bộ câu chuyện và Cully gật đầu và đưa ra vài nhận xét đồng cảm. Theo những gì mà anh có thể thu thập thì đây chỉ là một chiến dịch nhỏ của FBI thôi. Ngay cả nếu như Merlyn có bị luận tội, chẳng qua cũng bị án treo là cùng. Không có gì phải quá lo lắng. Trừ chuyện Merlyn là một chàng trai quá thẳng thắn nên sẽ cảm thấy xấu hổ khi mang một bản án trong hồ sơ lý lịch của mình. Đây là điều tệ hại nhất trong những lo lắng của anh ta, Cully nghĩ.

Khi Merlyn nhắc đến Paul Hemsi, cái tên này reo lên như một hồi chuông trong đầu của Cully. Nhưng giờ đây trong lúc cùng tản bộ qua Central Park và Merlyn kể với anh về cuộc gặp gỡ với Hemsi bố nơi trung tâm may mặc thời trang, thì mọi chuyện sáng ra. Một trong những nhà tài phiệt về may mặc thời trang vẫn đến Vegas nghỉ cuối tuần và vào những ngày lễ Giáng Sinh, Năm mới, Charles Hemsi, là một tay đánh bạc lớn lớn và rất mê con đường âm u đưa tới nửa phần thế giới khác biệt.

Ngay cả khi ông ta đến Las Vegas với bà vợ kè bên, Cully vẫn phải thu xếp sao cho Charles thình thoảng vẫn vù được vài quả "tàu nhanh" và kịp chùi sạch mép để lại trình diện với bà trong tư thế rất đàng hoàng, phải phép!

Ngay trên sàn casino với bà Hemsi đang chơi roulette. Cully sẽ kín đáo tuồn cho ông Hemsi chiếc chìa khoá có kèm số phòng và nói khẽ đủ mình ông ta nghe mấy giờ cô gái sẽ có mặt trong phòng.

Charles Hemsi sẽ lang thang ra ngoài đến quán cà phê để thoát ra khỏi con mắt cú vọ của mụ vợ!

Từ quán cà phê, chàng sẽ chuồn vào cái mê lộ chằng chịt với cơ man nào là hành lang khách sạn để đến căn phòng ước hẹn được ghi số trên thẻ chìa khoá. Bên trong là một cô gái lẳng lơ, ướt át, với chất sex tươm ra trên từng mỗi phân vuông cơ thể, đang nằm chờ trong tư thế sẵn sàng. Chàng chỉ việc "vén tay mở khoá động đào, rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai". - Sẽ chỉ mất độ nửa giờ thôi là con tàu tốc hành nuốt hết khoảng đường dài để về đến nhà ga ngất ngư!

Sau bữa tiệc, Charles sẽ chi cho em một con phỉnh trị giá một trăm đô-la, rồi trong trạng thái thư giãn, thơ thời nhẹ nhàng, chàng lại chuồn vào hành lang trải thảm xanh, quay về casino. Chàng sẽ đi qua bàn roulette nhìn ngắm chị vợ đang đánh bạc, nói với chị ta vài lời động viên tinh thần đưa cho chị vài con phỉnh -loại năm, mười hoặc hai mươi đô-la thôi, rồi vui vẻ hoà mình trở lại vào cái đam hổ lốn bát nháo nơi các bàn craps. Một anh chàng vui tính, dễ mến, một tay chơi không tính toán thiệt hơn nên hầu như lúc nào cũng thua. Nhưng lại rất máu mê, không khi nào chịu rời sòng để ăn non khi thắng. Cully đã không nhớ ngay ông ta bởi vì Charles Hemsi đang tìm cách chữa trị căn bệnh của mình.

Hemsi mắc nợ cờ bạc khắp Vegas. Chỉ riêng phòng thủ quỹ của casino ở Xanadu đã giữ các giấy nợ của Charles Hemsi lên tới năm mươi ngàn đô. Một vài casino đã gởi giấy thúc nợ đến ông ta.

Cully báo với Gronevelt:

- Cái anh chàng đánh bạc khù khờ đó hiện đang nợ hơn ba trăm ngàn đô-la khắp thành phố này. Cả năm nay không ai thấy bóng lão ta đâu. Cháu nghĩ chắc lão ta lo làm ăn, kiếm tiền trả nợ cờ bạc để khỏi bị bêu riếu.

- Có thể, Gronevelt nói. - Ông ta có một doanh nghiệp lớn ở New York. Nếu gặp năm làm ăn thịnh vượng, ông ta sẽ quay lại. Ông ta không thể cưỡng lại hai cái thú nhất chơi tiên, nhì giỡn tiền đâu. Mà chỉ ở Vegas người ta mới được hưởng một cách thoải mái, trọn vẹn. Một khi đã bén mùi, không dễ dứt được đâu.

- Và nếu như công việc làm ăn của ông ta lại không xuôi chèo mát mái? - Cully hỏi.

- Thì ông ta sẽ dùng đồng tiền Hiller, - Gronevelt nói. Ông nhận ra vẻ mặt dò xét và ngạc nhiên của Cully.

- Đó là từ của những người ở trung tâm may mặc thời trang gọi. Trong thời kì chiến tranh bọn họ tạo được sản nghiệp từ những cuộc mua bán chợ đen. Khi nguyên liệu được phân bổ theo chỉ tiêu bởi nhà cầm quyền, một số lượng lớn tiền bạc qua lại dưới bàn. Tiền mà họ không phải báo cáo cho Cục Thuế lợi tức. Không thể báo cáo. Họ đều phất lên. Nhưng đó là tiền họ không thể để lộ ra.

"Nếu anh muốn làm giàu ở xứ này, anh phải làm giàu trong bóng tối". Đó là câu Cully luôn nhớ đời.

"Anh phải làm giàu trong bóng tối". Một tín điều của Vegas, và không chỉ của Vegas mà thôi nhưng còn của rất nhiều những doanh nhân đến Vegas. Những ông chủ của các siêu thị, các doanh nghiệp bán hàng lấy tiền mặt, những ông trùm của hãng xưởng xây dựng, các vị chức sắc ám muội của giáo hội, ở mọi phẩm trật, những vị thu tiền từ các hộp "cúng dường". Và những công ty lớn với hàng lô các vị tư vấn pháp lý chuyên tìm những lỗ hổng pháp luật để luồn lách.

Cully nghe Merlyn chỉ bằng nửa lỗ tai. Cũng may là Merlyn không bao giờ nói nhiều. Chuyện đó qua nhanh và trong lúc họ yên lặng tản bộ nơi công viên, Cully bật nút hiển thị mọi thứ lên màn hình tâm trí. Để rà soát lại cho chắc, anh yêu cầu Merlyn mô tả Hemsi bố một lần nữa. Không, không phải Charles. Chắc là một trong các anh em của ông ta, một đối tác trong kinh doanh và theo giọng điệu đó, hẳn là một đối tác ở thế lấn lướt. Charles chưa bao giờ gây ấn tượng nơi Cully như là một nhà điều hành để hết tâm huyết vào công việc. Rà soát lại trong đầu Cully có thể thấy tất cả những bước mà chàng phải lần lượt tiến hành. Một "đường binh" đẹp mà anh tin rằng Gronevelt sẽ tán thành. Anh chỉ còn ba ngày trước khi Merlyn phải xuất hiện trước Khoáng đại hội thẩm, nhưng thế cũng đủ.

Vì vậy giờ đây Cully có thể ung dung tản bộ qua công viên, hàn huyên tâm sự, ôn cố tri tân với Merlyn.

Một lần nữa, họ lại đặt ra cùng câu hỏi cũ về Jordan. Tại sao anh ta lại làm chuyện đó? Tại sao một người vừa mới thắng bốn trăm ngàn đô-la lại tự đập vỡ cái sọ dừa? Cả hai người còn quá trẻ để hình dung cái trống rỗng của thành công, để cảm nhận cái kinh nghiệm hư vô, mặc dầu Merlyn đã từng đọc nhiều về điều đó trong văn chương sách vở. Nhưng Cully chẳng thèm mua chuyện nhảm ấy.

Tội gì đem nhét vào đầu những chuyện không đâu!

Anh biết "Cây bút chì", một cây bút chì toàn bộ, sẽ đem lại hạnh phúc cho anh đến như thế nào. Anh sẽ là một hoàng đế. Những người đàn ông giàu sang quyền thế, những người đàn bà đẹp đến độ "chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thùng" sẽ là khách mời của Cully chủ nhân.

Anh có thể cho họ bay đến cùng trời cuối đất mà họ chẳng tốn đồng nào vì ngân quỹ của khách sạn Xanadu sẽ đài thọ hết. Chỉ bằng sự sử dụng "Cây bút chì" của "bỉ nhân" Cully này đây? "Nô tì" Cully lúc nào cũng sẵn sàng vung "Cây bút chì" vi vút để hân hạnh phục vụ miễn phí quý nam, nữ thượng đế! Anh có thể ban phát những căn phòng với tiện nghi xa xỉ, những món ăn trân kì, những loại mỹ tửu hảo hạng, và các nàng kiều nữ, mỗi lần một em, hoặc hai, ba em cùng lúc để cho bạn được nếm mùi lạc thú "nhất dạ đế vương" và là những em nõn nà, đẹp đến não nùng? Nhưng không hề lạnh lùng, mà nóng hổi, sốt dẻo cắn vào một miếng nghe dòn rụm, ngửi thơm như múi mít! Tất nhiên là, chỉ với một điều kiện nho nhỏ thôi.

Mời ngài hãy mua những con phỉnh có mệnh giá kha khá, một trăm, năm trăm và một ngàn đô. Và mời ngài vào cuộc chơi. Baccarat hay crap hay tài xỉu hay roulette chúng em đều có cả để hầu ngài. Chỉ là một cái giá nho nhỏ để trả. Mà các ngài có thể thắng, biết đâu đấy, nếu các ngài hên. Thế là các ngài được ăn, được lại còn được gói đem về. Một đồng vốn bốn đồng lời. Quá đã? Còn chờ gì mà không chơi!

Còn thí dụ như quý ngài không gặp được vận hên, thì "bỉ nhân" xin có lời mách nước: quý ngài nên đánh bạc một cách thông minh, thì quý ngài sẽ không thua quá nhiều nếu gặp vận xui. Hãy đánh bạc theo đúng định luật xác suất của nhà toán học Pascal. Dứt khoát các bạn sẽ từ thắng đến hoà. Xui lắm cũng chỉ thua chút chút. Cully nghĩ mồt cách hào phóng là anh sẽ dùng "Cây bút chì" cho Merlyn. Merlyn sẽ có được mọi thứ cậu ta muốn bất cứ khi nào cậu ta đến Vegas. Thế mà giờ đây Merlyn bị dính vào một việc bất hợp pháp. Hoặc ít nhất là không ngay thẳng. Song đối với Cully, chuyện đó quá thường, chỉ là một lầm lạc tạm thời. Bất kì ai cũng có lúc lầm lạc ít nhất là một lần trong đời. Và Merlyn biểu lộ sự xấu hổ, ít ra là đối với Cully. Anh ta đã mất đi phần nào sự bình thản trong sáng của tâm hồn, phần nào lòng tự tin. Điều đó làm Cully xúc động. Bởi anh ta chưa bao giờ ngây thơ vô tội và anh ta lại quý trọng sự vô tội nơi người khác. Vì thế khi anh ta và Merlyn nói lời từ biệt, Cully đã ôm Merlyn và nói:

- Cậu đừng lo, mình sẽ thu xếp ổn chuyện đó cho. Thế nhé?

Merlyn cười:

- Tôi có thể làm gì khác hơn được!

- Và khi cậu đến Vegas, mọi chi phí sẽ do Xanadu đài thọ, Cully nói.

- Cậu là khách mời của mình.

- Nhưng tôi không còn chiếc áo jacket Vegas Winner may mắn đó nữa, - Merlyn cười nói.

- Đừng lo, - Cully nói. - Nếu cậu chìm sâu quá, mình sẽ đích thân chia bài để cậu gỡ gạc.

- Như thế là ăn cắp, đâu phải đánh bạc, - Merlyn nói. - Tôi đã bỏ thói ăn cắp từ khi tôi nhận được lệnh gọi ra trình diện Khoáng đại hội thẩm.

- Mình đùa thôi mà, - Cully nói. - Mình sẽ không làm điều đó với Gronevelt. Phải chi cậu là một nhan sắc mỹ miều còn được. Đằng này cậu lại xí trai quá.

Và anh ngạc nhiên thấy Merlyn lại tỏ vẻ nao núng ngần ngại. Và anh có ấn tượng Merlyn là một trong những người vẫn nghĩ là mình xấu xí. Rất nhiều đàn bà cảm thấy điều ấy nhưng đàn ông thì không, Cully nghĩ vậy.

Anh nói lời từ biệt lần cuối bằng cách hỏi Merlyn có cần phần nào đến số tiền gửi ở khách sạn không và Merlyn nói chưa. Thế rồi họ chia tay.

Trở về phòng mình ở khách sạn Plaza, Cully quay một loạt các cuộc gọi đến các casino ở Vegas. Đúng, các số nợ của Charles Hemsi hãy còn chồng chất. Anh gọi cho Gronevelt định trình bày đại cương kế hoạch của mình nhưng rồi anh vội đổi ý. Không ai biết được ở Vegas có bao nhiêu máy ghi âm mà FBI thiết trí trong thành phố.

Thế nên anh chỉ nói vắn tắt cho Gronevelt rằng sẽ lưu lại New York trong vài ngày và yêu cầu cho biết số nợ của những khách hàng trễ hẹn ở New York. Gronevelt nói ngắn gọn:

- Nhớ ăn nói nhỏ nhẹ, lịch sự với họ!

Cully đáp:

- Tất nhiên rồi, bác yên tâm.

Cả hai họ đều hiểu đang nói cho FBI ghi âm. Nhưng Gronevelt đã được báo động trước và sẽ chờ được giải thích, sau này ở Vegas. Lúc đó, Cully sẽ cho ông biết rõ hơn.

***

Ngày hôm sau Cully tiếp Charles Hemsi không ở văn phòng trung tâm may mặc thời trang nhưng ở sân golf Roslyn tại Long Island. Cully thuê một chiếc xe limousine và tới đó sớm. Anh gọi thức uống ở căn tin câu lạc bộ và ngồi chờ.

Phải mất hai giờ trước khi thấy Charles Hemsi thoát ra khỏi các mối liên hệ. Cully đứng lên khỏi ghế và sải bước ra ngoài, nơi Charles đang tán gẫu với các đối tác của mình trước khi vào phòng thay quần áo. Anh thấy Hemsi đưa một số tiền cho một trong các tay chơi, ông ta vừa nói thua độ đánh golf. Đúng là một tay đánh đâu thua đó. Cully làm như tình cờ gặp họ.

- Charles, - anh lên tiếng chào. - Rất vui được gặp lại ông. - Anh chìa tay ra và Hemsi bắt tay anh.

Anh có thể thấy vẻ ngờ ngợ buồn cười trên khuôn mặt của Hemsi. Điều ấy có nghĩa là ông ta có nhận ra Cully nhưng không nhớ gặp ở đâu.

Cully nói:

- Tôi là Cully Gross ở khách sạn Xanadu đây.

Mặt của Hemsi lại biến sắc. Lo sợ trộn lẫn với tức giận rồi nhăn nhó. Cully cười rất duyên dáng và vỗ vào lưng Hemsi, anh nói:

- Chúng tôi nhớ ông lắm. Lâu quá không được gặp lại ông. Ôi trời! Không biết duyên cớ nào tôi tình cờ gặp được ông thế này? Thật là vạn hạnh.

Những tay chơi golf đang dạt vào hội quán câu lạc bộ và Charles bắt đầu đi theo họ. Nhưng Cully gọi với theo sau:

- Charles, hãy cho tôi một phút. Tôi đến đây để giúp ông mà.

Anh làm cho giọng mình đầy vẻ thành thật mà không cầu xin hay nài nỉ. Tuy thế lời anh âm vang mạnh mẽ, đanh thép.

Kẻ kia do dự và anh nhanh chóng đến kế bên:

- Nghe đây nây, Charles. Chuyện này chẳng làm anh tốn một xu nào đâu. Tôi có thể thanh toán mọi cuốn sổ đoạn trường của anh ở Vegas. Và anh không phải trả một xu. Chỉ cần ông anh của ông làm một ân huệ nhỏ.

Khuôn mặt bự, hơi cục mịch của Charles Hemsi tái đi và anh ta lắc đầu:

- Tôi không muốn anh tôi biết về những số nợ đó. Anh ấy sẽ từ tôi mất. Đừng, đừng bao giờ cho anh tôi biết chuyệ n.

Cully nói dịu dàng, với vẻ mặt buồn rười rượi:

- Các casino đã mệt mỏi vì chờ đợi rồi, Charles à. Những tay đòi nợ thuê sắp xuất hiện đấy. Ông biết bọn đó hành động như thế nào rồi. Chúng đổ quân xuống chỗ làm ăn của ông, tạo ra cảnh nhốn nháo, hỗn độn. Chúng kêu gào, la hét để đòi tiền. Khi nào bạn thấy một bầy côn quang mặt mũi hung tợn, người đầy những hình xâm gớm ghiếc đến gào nợ, chắc là cũng hơi căng đấy.

- Chúng không thể làm anh tôi ngán đâu, - Charles Hemsi nói. - Ảnh cứng cựa lắm và ảnh cũng quen biết nhiều.

- Hẳn thế, - Cully nói. - Tôi không có ý cho rằng chúng có thể buộc ông phải trả tiền, nếu ông không muốn. Nhưng anh ông sẽ biết và sẽ dính líu vào và toàn bộ câu chuyện này sẽ càng thêm rối. Thế này, tôi hứa một điều. Hãy nói anh ông gặp tôi và tôi sẽ cho đình chỉ mọi khoản nợ của ông ở Xanadu. Và ông có thể đến đó đánh bài, vui chơi như bình thường. Tôi sẽ vẫn bao ông mọi phí khoản, giống như trước đây. Chỉ có điều ông không được quyền ký sổ nữa, mà phải trả tiền mặt khi mua các con phỉnh đánh bạc. Nếu thắng, ông có thể trả bớt nợ cũ. Một cuộc thương lượng tốt đấy chứ, phải không nào?

Đến dây Cully phác một cử chỉ như thể xin lỗi.

Anh có thể thấy đôi mắt xanh nhạt của Charles lóe lên vẻ hứng thú. Anh chàng cả năm rồi không đến được Vegas. Chắc anh ta phải thèm nhớ những thú vui nơi đó lắm. Cully nhớ lại ở Vegas, Charles chẳng bao giờ yêu cầu được chơi golf miễn phí. Điều này có nghĩa là anh ta chẳng mê chơi golf cho lắm dù khách sạn Xanadu có sân golf rất tuyệt khiến nhiều vị khách thích dành cả buổi sáng ở đó. Tuy nhiên, Charles vẫn còn do dự.

- Dù sao thì anh ông cũng sắp biết thôi, - Cully nói - Biết từ tôi có thể tốt hơn là từ đám đòi nợ thuê. Ông biết tôi mà. Ông biết là tôi sẽ không bao giờ vượt qua lằn mức.

- Điều ơn huệ nhỏ là gì? - Charles hỏi.

- Nhỏ thôi, nhỏ thôi, - Cully nói. - Ông ấy sẽ làm một khi ông ấy nghe lời đề xuất. Tôi hứa với ông như vậy ông ấy sẽ không phiền lòng đâu. Ông ấy sẽ hoan hỉ nhận lời ngay thôi.

Charles cười buồn:

- Anh ấy sẽ chẳng vui gì đâu. Nhưng, hãy vào hội quán câu lạc bộ và chúng ta dùng vài ly và tâm sự lai rai.

Một giờ sau Cully trên đường trở về New York.

Anh đã đứng bên Charles khi Charles gọi điện cho ông anh và sắp xếp cuộc hẹn. Anh đã dụ khị và chơi lỡm Charles Hemsi bằng hàng tá cách khác nhau. Rằng anh sẽ cân bằng mọi sổ nợ ở Vegas, rằng sẽ không có ai làm phiền Charles về vụ tiền bạc nữa. Rằng lần tới nếu Charles đến Vegas, anh ta sẽ được ở căn phòng tiện nghi nhất và được miễn phí mọi thứ. Và còn thêm là, như một phần thưởng, sẽ có một em gái tóc vàng mắt xanh đến từ nước Anh với giọng phát âm thanh tao thuần chất Ăng-lê nhất, dáng cao cao và cặp trường túc bất tri lao, lại thêm cái cấu trúc phong yêu, nhìn vào bảo đảm là thấy đớ cả lưỡi ngay! Báu vật đó sẽ được đặc cách hiến tặng cho chàng Charles suốt đêm để chàng tuỳ nghi phát lạc! Bảo đảm hai người sẽ mê nhau như điếu đổ, sẽ quần thảo nhau tơi bời đến rụng rời, xiểng liểng!

Và thế là họ cùng nhau dàn xếp cho cuộc du hành của Charles vào cuối tháng. Lúc Cully thông qua mọi chuyện với mình, Charles nghĩ rằng mình đang uống mật chứ đâu có ngờ rằng mình đang nuốt viên thuốc đắng tẩm mật đấy thôi.

Cully trở về khách sạn Plaza trước để tắm rửa và thay quần áo. Anh trả lại chiếc limousine. Anh sẽ đi bộ đến trung tâm may mặc thời trang. Trong phòng mình, anh lên bộ comple Sy Devore chiến nhất, áo sơ mi lụa và cà vạt nâu kiểu bảo thủ. Charles đã cho anh xem một bức ảnh của Eli Hemsi khá rõ nét, và anh không muốn tạo ra một ấn tượng xấu ban đầu.

Đi ngang qua trung tâm quần áo, Cully cảm thấy khó chịu với cảnh hổ lốn, bát nháo của phố phường, và những bộ mặt hối hả, khốn khổ vì cuộc tranh sống gay gắt giữa chốn người khôn của khó. Các lề đường đầy nghẹt người khiến bạn như muốn ngộp thở, ngay cả giữa khoảng những không khí mở. Các toà cao ốc như những vết buồn ung thư vươn lên hỏi trời về sự hiện diện lừng lững dường như kiêu ngạo mà xét cho cùng lại quá ư phi lý của mình.

Trong một thoáng, Cully chợt hối tiếc về cảm tình của mình dành cho Merlyn bởi vì anh ghét thành phố này và ghét lây luôn cả những ai đã chọn để sống nơi đó. Sao không đến sống ở Vegas để đánh bài và ăn chơi không đã hơn sao? Ít ra là đánh bài và ăn chơi cũng giúp cho người ta giữ gìn thành phố sạch đẹp hơn nhiều?

Đường vào cao ốc Hemsi có vẻ sạch sẽ ngăn nắp hơn các nơi khác. Tuy nhiên, buồng thang máy hình như phủ một lớp ghét bẩn, bụi bặm. Lạy Chúa, Cully nghĩ một doanh nghiệp lớn vậy sao mà xấu xí, tồi tàn. Nhưng khi ra khỏi buồng thang máy và bước vào từng sáu, anh phải thay đổi ý nghĩ. Cô tiếp tân và cô thư ký thì chưa đạt đến chuẩn của Vegas nhưng dãy văn phòng của Eli Hemsi thì không hề kém cạnh tí nào, còn bản thân Eli Hemsi Cully thấy ngay qua một cái liếc mắt, là một nhân vật không thể xem thường dù xét theo góc cạnh nào.

Eli Hemsi mặc bộ comple lụa sẫm theo thường lệ với một cà vạt xám sáng có kim cài cẩn ngọc trai trên chiếc áo sơ mi trắng tinh. Cái đầu to bự của ông ta nghiêng về trong tư thế chú ý đầy cảnh giác khi nghe Cully nói. Đôi mắt sâu của ông ta lộ vẻ buồn bã. Cu cậu Merlyn lớ ngớ. Cully nghĩ, làm sao đối đầu lại lão già đầy mưu lược này.

Trong khung cảnh kinh doanh bận rộn nơi đây và giữa những áp lực của các tình huống khẩn cấp, Cully phải vận dụng tối đa hoạt tính trí tuệ của mình vào những nước đi tinh giản mà hiệu quả nhất. Tỏ ra duyên dáng, khả ái là chuyện thừa đối với Eli Hemsi.

- Tôi đến đây để giúp cho hai người. - Cully mở lời - Charles, em ông và một người bạn của tôi, Merlyn. Xin hãy tin khi tôi nói với ông rằng đó là mục tiêu duy nhất của tôi. Để tôi có thể giúp họ, xin ông hãy cho một ân huệ nhỏ. Nếu ông nói không, chẳng còn gì hơn để tôi có thể làm và giúp họ. Nhưng ngay cả khi ông nói không, tôi sẽ không làm điều gì để hại ai cả. Trong trường hợp đó thì mọi sự sẽ giữ nguyên trạng mà thôi.

Anh ngừng một lát để cho Eli Hemsi có muốn nói điều gì chăng, nhưng cái đầu bự như đầu Ngưu ma vương kia vẫn như đông đặc lại với sự chú ý đầy cảnh giác. Đôi mắt thường buồn vẫn không hề lóe lên tí nào.

Cully tiếp tục:

- Em trai ông, Charles, nợ khách sạn Xanadu của chúng tôi trên năm mươi ngàn đô. Ông ta còn nợ hai trăm năm mươi nghìn đô-la rải rác ở các khách sạn khác khắp Vegas. Cho phép tôi nói ngay là khách sạn của chúng tôi sẽ không thúc nợ. Bởi đối với chúng tôi, ông ấy là một khách hàng tốt và là một người dễ thương. Các casino khác có thể làm cho sự việc trở thành khó chịu đối với ông ấy, nhưng họ cũng không thể buộc được ông ấy trả tiền nếu như ông sử dụng đến những mối quan hệ nhiều thế lực - mà tôi biết là ông có. Nhưng như vậy ông lại phải mắc nợ những người đó các ân huệ mà xét cho cùng, có thể còn đắt hơn nhiều so với điều tôi yêu cầu ông

Eli Hemsi thở ra rồi hỏi, bằng giọng dịu dàng nhưng vẫn đầy khí lực của ông:

- Em tôi chơi cờ bạc có trình độ không?

- Thực sự là không giỏi lắm đâu. Nhưng chuyện đó cũng chẳng tạo ra sự khác biệt nào. Những người đánh bạc, dù giỏi hay dở, cuối cùng cũng đều thua cả.

Hemsi lại thở dài:

- Trong chuyện làm ăn hắn cũng chẳng hơn gì. Tôi sắp thoát nợ hắn đây. Bằng cách phải đành lòng sa thải em ruột mình. Hắn chẳng được tích sự gì ngoài cái tài gây ra lắm điều rắc rối vì tật mê bài và hám gái. Khi còn trẻ, hắn từng là một tay chào hàng cừ khôi, giỏi nhất trong công ty đấy, nhưng giờ đây hắn thấy mình già và mệt mỏi, không còn hứng thú làm việc mà chỉ hứng thú chơi thôi. Tôi không biết tôi có thể giúp hắn không. Chỉ biết là tôi sẽ không trả nợ cờ bạc cho hắn. Tôi không đánh bạc, không có cái hứng thú đó. Vậy tại sao tôi phải trả tiền cho sở thích của hắn?

- Tôi không yêu cầu ông chuyện đó, - Cully nói.

- Nhưng đây là điều tôi có thể làm. Khách sạn chúng tôi sẽ mua tất cả số nợ của Charles ở các casino kia. Ông ấy sẽ không trả cho họ trừ khi ông ấy đến đánh bạc và thắng ở casino của chúng tôi. Chúng tôi sẽ không chấp nhận tín dụng của ông ấy nữa và tôi bảo đảm sẽ không có casino nào ở Vegas cấp tín dụng cho ông ấy nữa. Ông ấy sẽ không tổn thương nếu ông ấy chỉ chơi bằng tiền mặt. Tôi có thể bảo vệ cho ông ấy bằng cách đó.

Hemsi tiếp tục nhìn Cully đầy chủ ý:

- Thế nhưng ông em quý hoá của tôi sẽ còn cờ bạc dài dài?

- Ông không bao giờ có thể ngăn chặn được, - Cully nói thản nhiên. Trên đời có rất nhiều người giống ông ấy và có rất ít người giống ông. Đời sống thực không còn hào hứng với ông ấy nữa, chẳng còn thiết tha nữa. Chuyện rất thường.

Eli Hemsi gật đầu suy nghĩ rất lung, cân đo đong đếm và xoay tròn chuyện đó trong cái đầu to tướng như củ hủ lô trộn hồ của ông ta.

- Đây là một cuộc thương lượng làm ăn chẳng hề thiệt cho anh chút nào, đúng không? - Ông nói với Cully - Không ai có thể đòi nợ em tôi, chính anh đã nói điều ấy như vậy anh có mất gì đâu. Và rồi ông em khờ khạo cửa tôi lại đến Vegas với vài chục ngàn đô-la trong túi, và hắn lại đánh bạc rồi cúng dường số tiền đó vào két sắt của các anh. Thế là anh vẫn được lợi. Đúng không?

Cully đáp rất từ tốn:

- Sự việc có thể diễn tiến cách khác. Em ông có thể ký thêm nhiều sổ nợ và sẽ mang nợ số tiền còn lớn hơn nhiều nữa. Đủ để cho ai đó nghĩ rằng đáng công để đi đòi và phải cố gắng hơn nữa để đòi cho được. Ai biết được con người ta có thể rồ dại đến mức nào? Hãy tin khi tôi nói với ông rằng em của ông sẽ không thể nào đứng cách xa Las Vegas, bởi ông ta có máu cờ bạc. Một nỗi ám ảnh không rời thu hút cả hồn vía ông ta. Biết bao giờ những con người như ông ta từ khắp nơi trên thế giới - Chứ chẳng phải riêng ở nước Mỹ - đổ xô về kinh đô cờ bạc Las Vegas để sống cho tận cùng cảm giác rồi nổ tung cũng hả dạ! Có những người hàng năm tới đó đến ba, bốn hoặc năm lần. Tôi không biết tại sao, nhưng họ cứ đến. Nó có ý nghĩa nào đó với họ mà ông và tôi không hiểu. Và xin ông nhớ cho rằng, tôi phải mua lại sổ nợ của ông ấy; chuyện đó sẽ hao tốn khá bộn đấy chứ?

Trong khi nói thế, Cully cũng đang tự hỏi làm cách nào anh thuyết phục được Gronevelt chấp thuận đề án đó? Nhưng thôi chuyện đó hãy tính sau. Cứ để hạ hồi phân giải.

- Và cái ân huệ mà anh yêu cầu đó là gì?

Câu hỏi cuối cùng được nêu ra bằng cái giọng dịu dàng thôi, luôn luôn là thế, nhưng cũng đầy khí lực. Đúng là giọng của một vị thánh sống, một giọng nói hình như toát ra vẻ bình thản tâm linh. Cully bị ấn tượng mạnh và lần đầu tiên anh thấy hơi nao núng. Không khéo lại rách việc thì nguy cho bạn mình. Vậy nên, anh phải tập trung hết tinh thần vào cuộc đấu.

- Con ông, Paul, đã đưa ra những lời chứng chống lại người bạn Merlyn của tôi. Ông nhớ Merlyn chứ. Ông đã từng hứa sẽ làm cho cậu ta được hạnh phúc suốt phần đời còn lại.

Và Cully pha chất thép vào giọng nói. Anh hơi bực với quyền lực toả ra từ con người này. Một thứ quyền lực sinh ra từ thành công vĩ đại cuả ông ta với tiền bạc, quá trình vươn lên từ nghèo khó đến lúc nắm trong tay hàng triệu đô-la trong một thế giới đối nghịch, từ những cuộc chiến thắng lợi trong đời ông, trong khi phải cưu mang một người chỉ hoang tàng rồ dại.

Nhưng Eli Hemsi không bị dính vào mồi nhử của lời trách móc hài hước đó. Ông ta không thèm cười. Ông ta vẫn đang lắng nghe.

- Lời chứng của con ông là bằng chứng duy nhất chống lại Merlyn. Tất nhiên tôi hiểu rằng Paul bị hoảng sợ.

Bỗng nhiên trong đôi mắt u tối đang chăm chú nhìn anh đó ánh lên một tia nguy hiểm. Biểu lộ sự giận dữ tại sao kẻ xa lạ này lại biết tên con mình và gọi một cách thân mật vừa hầu như miệt thị như vậy. Cully đáp lại bằng nụ cười ngọt ngào:

- Ông có một cậu con trai thật dễ thương đấy, ông Hemsi à. Ai cũng nghĩ chắc rằng cậu ta bị lừa và bị doạ nạt khi khai báo với FBI. Tôi đã tham khảo ý kiến tư vấn vài luật sư danh tiếng. Họ đều nói cậu ta có thể phải cung trong phòng Khoáng đại hội thẩm, đưa ra lời chứng theo kiểu không thuyết phục lắm đối với hội thẩm mà cũng không dây dưa rắc rối với FBI. Cậu ta có thể rút lại lời chứng trước đây.

Anh nghiên cứu khuôn mặt đối diện mình.

Không thể đọc ra điều gì.

- Giả định rằng con trai ông được miễn tố, - Cully nói. - Cậu ta sẽ không bị truy tố. Tôi cũng hiểu rằng có lẽ ông thu xếp để cậu ta không phải thi hành quân dịch. Cậu ta sẽ thoát ra an toàn một trăm phần trăm. Tôi nghĩ ông đã lo xong mọi chuyện đó! Nhưng nếu như cậu ta làm ơn huệ này, thì tôi hứa với ông cũng không có gì thay đổi.

Bây giờ Eli Hemsi nói với một giọng khác. Một giọng mạnh hơn, không dịu dàng như trước, nhưng vẫn có sức thuyết phục, một người chào hàng đang bán hàng:

- Tôi ước phải chi mình làm được điều ấy! - Ông ta nói. - Anh chàng Merlyn đó dễ thương lắm. Anh ta đã giúp tôi, tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn anh ta.

Cully nhận xét rằng đây là một người sử dụng từ "mãi mãi" khá thường xuyên. Ông ta không dùng những ngôn từ lưng chừng, nửa vời. Mà luôn luôn ở cực cấp.

Ông ta đã hứa với Merlyn sẽ làm cho anh ta hạnh phúc trong suốt phần đời còn lại của anh. Bây giờ ông ta sắp biết ơn mãi mãi. Một kẻ biết khéo léo né tránh những nghĩa vụ của mình, như con chồn lùi. Thêm một lần nữa Cully nổi đoá với cái thằng cha đạo đức giả chó đẻ này. Hắn đã xử sự với anh bạn Merlyn đáng mến của mình như đối xử với một tên vô lại. Anh cay cú lắm và anh rủa thầm trong bụng: Bố sư khỉ cái lão bợm già! Thế nhưng ngoài mặt anh vẫn ra vẻ chăm chú lầng nghe lão ta với một nụ cười cầu tài trông cứ như thật!

- Tôi chẳng có thể làm gì được, - Hemsi nói. - Tôi không thể đẩy con trai tôi vào nguy cơ. Vợ tôi sẽ không bao giờ tha thứ nếu tôi làm chuyện đó. Nó là tất cả đời sống đối với bà ấy. Còn em trai tôi đã là một người trưởng thành từ lâu. Ai có thể giúp cho hắn? Ai có thể dẫn dắt hắn, ai có thể sống thay cho cuộc đời hắn, bây giờ nữa? Nhưng con tôi cần được bảo trọng. Nó là mối ưu tư số một của tôi. Sau đó. xin hãy tin, tôi sẽ làm bất cứ điều gì cho ông Merlyn. Mười năm hai mươi năm, ba mươi năm kể từ nay, tôi sẽ không bao giờ quên anh ta. Như vậy, khi chuyện này qua đi, anh có thể yêu cầu tôi bất kỳ chuyện gì.

Ông Hemsi đứng lên từ bàn giấy của mình và chìa tay ra, cái khung người đường bệ, đầy uy lực của ông nghiêng về phía trước một chút với sự ân cần vồn vã ra vẻ biết ơn.

- Tôi ước chi con trai tôi có được người bạn như anh

Cully cười đáp lại bắt tay ông ta:

- Tôi không biết con trai ông, nhưng em ông là bạn tôi. Anh ấy sắp đến thăm tôi ở Vegas vào cuối tháng này. Ông đừng lo, tôi sẽ chăm sóc kỹ anh ấy cho. Tôi sẽ giữ cho anh ấy không bị rắc rối.

Anh thấy ra tia nhìn cân nhắc trên khuôn mặt của Eli Hemsi. Anh có thể gây sốc cho tia nhìn ấy, bằng cách này hay cách khác để xoay chuyển tình thế, chứ không thể để cho lão ta đẩy mình trôi tuột giữa dòng rồi khoan khoái xoa tay rảnh nợ. Với thằng Cully này thì tìm một giải pháp đâu có đơn giản như là đang giỡn thế được, lão bợm già kia? Đừng vội tự đắc. Này đây, hãy nếm mùi ngón điểm huyệt "Vạn con kiến bò trong tim" của ta nhé.

- Bởi vì ông không thể giúp tôi, - Cully bắt đầu khè, - Nên tôi phải tìm cho Merlyn một luật sư thật tài ba. Giờ đây có lẽ viên chưởng lý toà án quận đã nói với ông rằng Merlyn sẽ nhận tội và sẽ bị án treo. Và mọi việc sẽ bay xa để con ông chẳng những sẽ được miễn tố mà còn sẽ không bao giờ tái ngũ. Điều đó thì có thể. Nhưng Merlyn sẽ không nhận tội. Sẽ có một phiên toà. Con trai ông sẽ phải ra trước một toà án công khai. Sẽ phải xác chứng trước toà và trước các phương tiện truyền thông đại chúng. Sẽ rùm beng lắm đấy. Tôi biết rằng điều đó sẽ chưa làm cho ông thấy ngứa ngáy gì. Nhưng đám báo chí sẽ sục sạo để tìm xem cậu Paul, con một của đại gia Eli Hemsi hiện đang ở đâu và làm gì. Tôi không cần biết ai đã hứa với ông chuyện gì. Nhưng chắc chắn là đến nước đó thì cậu Paul cũng phải thực hiện nghĩa vụ của người thanh niên yêu nước thôi. Báo chí sẽ gây áp lực mạnh. Và rồi, ngoài ra, ông và con ông sẽ có những kẻ thù. Xin phép được lặp lại lời ông, chỉ sửa đổi chút xíu thôi, tôi sẽ làm cho anh bất hạnh suốt cả phần đời còn lại của anh.

Bây giờ khi lời đe doạ đó ném ra công khai, Hemsi ngừa người ra sau ghế và nhìn trừng trừng vào Cully. Anh đã điểm trúng huyệt. Mặt Hemsi, trầm trọng và sắc sảo, trông buồn nhiều hơn là giận. Vì vậy Cully động lòng.

Anh xoa nhẹ để giải huyệt:

- Ông quen biết nhiều. Hãy gọi họ và nghe lời tư vấn của họ. Hãy hỏi về tôi. Nói với họ tôi làm cho ông Gronevelt ở khách sạn Xanadu. Nếu họ đồng ý với ông và gọi báo cho Gronevelt, tôi sẽ không thể làm gì được. Nhưng ông sẽ mắc nợ họ.

Hemsi dựa người vào lưng ghế:

- Anh nói mọi chuyện sẽ êm xuôi nếu con tôi làm theo những gì anh yêu cầu?

- Tôi bảo đảm điều ấy, - Cully nói.

- Con tôi sẽ không phải tái ngũ? - Hemsi hỏi lại.

- Tôi bảo đảm luôn cả điều đó, - Cully nói. Tôi cũng có nhiều bạn bè Washington, như ông. Nhưng bạn bè của tôi có thể làm những điều mà bạn bè ông không làm được, ngay cả nếu chỉ vì họ không thể liên hệ với ông.

Eli Hemsi tiễn Cully ra đến cửa:

- Cảm ơn, - ông ta nói. - Cảm ơn rất nhiều. Tôi còn phải nghĩ kỹ lại mọi điều anh nói. Tôi sẽ liên hệ lại với anh.

Họ lại bắt tay nhau trong lúc ông ta tiễn Cully ra khỏi cửa phòng một quãng nữa.

- Tôi ở khách sạn Plaza, - Cully nói. - Và tôi sẽ rời nơi đó để bay về Vegas vào sáng mai, vậy nếu ông có thể gọi tối nay, tôi sẽ biết ơn ông lắm.

Nhưng chính Charles Hemsi, ông em, gọi cho Cully.

Charles đang say nhưng giọng đầy hân hoan:

- Này Cully, chú mày láu nhưng được việc lắm! Tôi không biết chú nói thế nào nhưng ông anh tôi bảo tôi nói với chú mày rằng mọi chuyện đều OK. Ông ấy nhất trí hoàn toàn với chú đấy.

Cully thở phào khoan khoái. Eli Hemsi đã gọi đi nhiều nơi để kiểm tra về anh. Và Gronevelt hẳn đã hậu thuẫn anh trong màn kịch này. Anh cảm thấy trong lòng mình dâng lên niềm thương và biết ơn chân thành đối với ông bác nuôi. Anh nói với Charles:

- Tuyệt quá. Gặp lại anh ở Vegas vào cuối tháng này nhé! Anh sẽ được vui thú như ước nguyện.

- Tôi sẽ không bỏ lỡ! - Charles Hemsi nói. - Và đừng quên nàng vũ nữ người Anh đó nhé.

- Yên chí! Tôi không quên đâu.

Sau đó anh thay đồ và ra ngoài ăn tối. Trong phòng khách của nhà hàng, anh dùng điện thoại trả tiền ngay để gọi cho Merlyn:

- Mọi chuyện đều OK. Chẳng qua chỉ là hiểu lầm thôi. Cậu cứ yên chí nhớn. Không sao đâu.

Giọng của Merlyn nghe chừng xa vắng, hầu như mơ hồ, không có vẻ biết ơn nồng nhiệt như Cully từng mong muốn:

- Cảm ơn, - Merlyn nói. - Sẽ sớm gặp lại bạn ở Vegas.

Và anh ta gác máy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Cully Gross đã "bạch hoá" mọi chuyện cho tôi, nhưng Frank Alcore tội nghiệp bị truy tố, phải ra toà và thụ án. Một năm tù. Một tuần sau, thiếu tá gọi tôi vào văn phòng ông ta. Ông không có vẻ gì tức giận hay bực bội tôi cả, thực tế, ông ta còn cười vui vẻ nữa.

- Tôi không biết cậu đã xoay xở như thế nào, Merlyn à, - Ông bảo tôi. - Nhưng cậu đã phá lưới. Xin chúc mừng cậu. Tôi chẳng phiền gì cả; toàn bộ vụ này chỉ là một chuyện đùa. Tôi mừng cho cậu được thoát nạn, nhưng tôi đã nhận được lệnh phải xử lý vụ này cho êm và bảo đảm sẽ không có chuyện đó xảy ra nữa. Giờ đây tôi nói với cậu trong tư cách một người bạn. Tôi không gây áp lực Nhưng theo tôi, cậu nên xin từ nhiệm đối với mọi công vụ. Càng sớm càng tốt.

Tôi bị sốc và hơi buồn. Tôi nghĩ, làm ở đây dầu sao tôi cũng có một việc làm và được hưởng tiêu chuẩn nhà ở miễn phí. Nếu nghỉ làm tôi lấy gì thanh toán bao nhiêu khoản sinh hoạt phí và lo tiền học cho các con? Lấy gì nuôi nổi vợ con? Lấy đâu tiền để trả góp cho căn nhà mới ở Long Island mà tôi sẽ dọn tới trong vài tháng nữa?

Tôi cố giữ bộ mặt lạnh của tay chơi xì phé khi tôi nói:

- Khoáng đại hội thẩm đã cho tôi trắng án. Vậy tại sao tôi phải bỏ việc?

Tay thiếu tá chắc là đã đọc được ý nghĩa của tôi. Tôi nhớ lại Jordan và Cully ở Las Vegas đã từng chế nhạo tôi về chuyện bằng cách nào mà bất kì ai cũng nói được tôi nghĩ gì. Bởi vì viên thiếu tá có cái nhìn thương hại khi ông ta nói:

- Tôi nói điều này thực sự là muốn điều tốt cho cậu. Các sĩ quan cao cấp sẽ cho người đến đây dò la. Bọn FBI cũng sẽ còn rình mò. Những anh chàng quân dự bị sẽ còn cố gắng lôi kéo, móc ngoặc với anh. Họ sẽ còn khuấy động lên. Nhưng nếu anh nghỉ việc, mọi chuyện sẽ qua nhanh. Những tay điều tra sẽ nguội dần và bỏ đi vì không còn tiêu điểm nào để nhắm nữa.

Tôi muốn hỏi về tất cả những viên chức dân sự khác đã từng ăn hối lộ thì sao nhưng tay thiếu tá đã đón đầu tôi:

- Tôi biết ít nhất là mười viên chức dân sự khác giống như cậu, những người quản trị hành chánh đơn vị, sắp sửa từ nhiệm. Vài người nữa đã nộp đơn xin nghỉ việc. Tin đi, tôi đứng về phía cậu. Và cậu sẽ không sao đâu. Cậu làm việc này phí thì giờ và tài năng của cậu đi. Lẽ ra ở tuổi này cậu đã làm được điều gì tốt hơn cho bản thân, cho sự nghiệp của đời mình

Tôi gật đầu. Tôi cũng đã nghĩ nhiều về điều đó.

Rằng cho đến nay tôi vẫn chưa làm điều gì đáng kể với cuộc đời mình. Tôi mới có một quyển tiểu thuyết được xuất bản. Mỗi tuần tôi chỉ làm một trăm đô-la từ đồng lương công chức để đem về nhà. Đúng là tôi có kiếm thêm được từ ba đến bốn trăm đô-la hàng tháng nhờ viết bài cộng tác cho các báo, nhưng với cái mỏ vàng phi pháp bị đóng cửa, tôi phải tính nước cờ mới.

- OK, - tôi nói. - Tôi sẽ viết thư thông báo trước hai tuần.

Viên thiếu tá gật đầu và lắc đầu:

- Anh sẽ nhận được khoản trợ cấp thôi việc. Hãy dùng số đó sống tạm và kiếm việc làm mới. Trong khi chờ nghỉ hẳn, hàng tuần hãy đến đây vài lần để giữ cho công việc giấy tờ chạy đều.

Tôi quay về bàn giấy của mình và viết đơn xin nghỉ việc Mọi chuyện cũng không đến nỗi tồi tệ cho lắm. Tôi nhận được bốn trăm đô-la trợ cấp thôi việc. Tôi còn có được chừng một ngàn rưỡi đô-la trong quỹ hưu. Tôi có thể rút hết số đó ra ngay bây giờ nhưng như thế là tôi mất quyền lợi về hưu đúng khi đến tuổi sáu mươi lăm. Nhưng đó là chuyện của hơn ba mươi năm sau. Không chừng đến lúc đó thì tôi đã chết từ lâu. Hơi đâu quá lo xa. Vậy hãy rút số tiền đó ra bỏ vào túi cho chắc ăn. Tổng cộng được hai ngàn đô.

Và rồi tôi còn số tiền ăn hối lộ nhờ Cully cất giấu ở Vegas. Hơn ba mươi ngàn đô-la ở đó. Trong một thoáng, tôi bị cơn kinh hoàng tràn ngập. Giả sử như Cully phản lại tôi và quăng cho tôi cục lơ Pháp (ngoảnh mặt làm ngơ), thì tôi có làm đếch gì được anh ta. Chẳng lẽ lại mượn tay giang hồ xã hội đen. Còn bao nhiêu hậu quả cho bản thân mình và cho gia đình nữa. Vả chăng chúng tôi đã là bạn chí cốt của nhau, anh đã gỡ tôi ra khỏi bao nhiêu chuyện rắc rối. Nhưng tôi không ảo tưởng về Cully. Một tay điếm cờ bạc ở Vegas. Điều gì xảy ra nếu như anh ta nói rằng số tiền đó có về tay anh ta cũng là tương xứng với ân huệ anh đã làm cho tôi? Điều đó, tôi không thể tranh cãi. Bởi thực sự phải thừa nhận rằng, nếu không có anh hết lòng can thiệp, chắc là tôi đã phải ngồi tù và đó sẽ là một tai hoạ ghê gớm cho cả gia đình tôi. Vậy nên, giả dụ như Cully viện ra cái lý đó, chắc là tôi cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt thôi!

Nhưng điều tôi sợ nhất là phải nói cho Vallie tôi đã mất việc. Và phải giải thích cho bố vợ tôi nữa. Ông cụ sẽ cật vấn loanh quanh và rồi đằng nào cũng sẽ biết sự thật. Rõ khổ!

Đêm đó tôi chưa thổ lộ cho Vallie. Ngày hôm sau tôi xin nghỉ phép và đi thăm Eddie Lancer ở toà soạn tạp chí của anh. Tôi nói với anh mọi chuyện và anh ta ngồi đó, gật gù, lắc đầu và cười hề hề. Khi tôi dứt câu chuyện, anh nói, hầu như thấy tôi là một nhân vật quá đỗi dị kỳ:

- Cậu biết đấy, mình vẫn luôn ngạc nhiên từ bản chất. Một nghệ sĩ chính hiệu mà lị! Luôn nhìn đời với đôi mắt rất đỗi trẻ thơ. Nên mình cứ nghĩ cậu là anh chàng thẳng tính nhất trên thế gian này, đứng liền ngay sau ông anh Artie của cậu mà thôi. Ai ngờ, cậu chỉ ngây thơ cụ!

Tôi nói với Eddie Lancer về chuyện ăn hối lộ suýt trở thành tội phạm phải đi tù, lạ thay, lại đã làm cho tôi cảm thấy thoải mái hơn về tâm lý. Rằng trong một cách nào đó, tôi đã rũ bỏ rất nhiều cay đắng từng cảm thấy việc khước từ của công chúng đối với quyển tiểu thuyết của tôi, sự tẻ nhạt thiếu hứng thú trong cuộc sống của tôi, sự thất bại cơ bản của cuộc đời đó và thực sự tôi vẫn luôn bất hạnh như thế nào.

Lancer nhìn vào tôi với nụ cười nhẹ trên khuôn mặt:

- Thế mà tôi vẫn ngỡ rằng cậu là anh chàng ít bị khủng hoảng nhất mà tôi từng gặp đấy chứ, - anh nói. - Cậu có cuộc hôn nhân hạnh phúc, con cái đàng hoàng, cuộc sống bình yên, thu nhập ổn định. Cậu lại đang viết cuốn tiểu thuyết thứ nhì. Cậu còn muốn gì hơn nữa?

- Em cần một chỗ làm. - tôi nói với anh Eddie Lancer nghĩ về điều đó một hồi. Lạ thật, tôi chẳng hề thấy lúng túng khi cầu cứu anh.

- Giữa chúng ta, tôi tiết lộ cho cậu điều này nhé: tôi sẽ rời vị trí này trong vòng sáu tháng nữa, - anh nói. - Họ sẽ điều động một tổng biên tập khác vào chỗ của tôi Tôi sẽ tiến cử người kế nhiệm đó và anh ta sẽ nợ tôi một ân huệ. Tôi sẽ yêu cầu anh ta dành cho cậu đủ "không gian cộng tác" để sống được

- Thế thì tuyệt quá, - tôi nói.

Eddie nói vồn vã:

- Tôi có thể dồn nhiều việc cho cậu cho đến lúc đó. Những chuyện phiêu lưa vài chuyện tình chồng tréo lăng quăng, và những bài điểm sách tôi vẫn thường phụ trách. OK?

- Tốt quá, - tôi nói. - Khí nào anh sẽ hoàn tất quyển sách của anh?

- Trong vài tháng nữa. - Lancer nói. - Còn cậu?

Tôi vẫn ghét câu hỏi ấy. Sự thật là tôi chỉ mới có đề cương của một quyển tiểu thuyết muốn viết về một trường hợp tội phạm nổi tiếng ở Arizona. Nhưng tôi chưa viết được dòng nào. Đã trình đề cương cho nhà xuất bản, nhưng họ không chịu ứng tiền trước. Họ nói rằng đó là loại tiểu thuyết không đem lại tiền bạc bởi vì nói đến việc bắt cóc một đứa trẻ và sau đó nó bị giết. Sẽ không có ai cảm tình với kẻ bắt cóc, nhân vật chính trong quyển Tôi đang nhắm đến một quyển "Tội ác và trừng phạt" mới và điều đó lại làm nhà xuất bản đợi.

- Tôi đang viết quyển đó, - tôi trả lời Lancer. - Con đường phải đi còn dài

Lancer cười đồng cảm:

- Cậu là một nhà văn có tài, - anh nói - Một ngày nào đó cậu sẽ viết được tác phẩm sáng giá. Đừng lo.

Chúng tôi còn nói chuyện một lúc nữa về chuyện viết lách, sách vở. Cả hai chúng tôi nhất trí với nhận định chúng tôi là những tiểu thuyết gia thực sự tài năng hơn phần lớn những cây bút danh tiếng đang làm nên sự nghiệp trên những danh sách best-seller. Khi rời anh, tôi mang tâm trạng tự tin. Tôi vẫn rời Lancer trong tâm trạng đó. Vì một vài lý do, anh là một trong số ít người mà tôi thấy thoải mái khi gần gũi, và bởi vì tôi biết anh ấy tài năng và có con mắt tinh đời, nên ý kiến của anh về tài năng tôi giúp tôi lên tinh thần. Và thế là mọi chuyện đã chuyển qua hướng tốt đẹp.

Bây giờ tôi là một nhà văn toàn thời gian. Tôi sẽ sống một cuộc đời lương thiện, đã thoát vòng lao lý và trong vài tháng nữa, sẽ dời về căn nhà riêng của tôi. Lần đầu tiên trong đời. Có lẽ một chút tội lỗi cũng là một yếu tố vi lượng cần thiết để ta làm người và đồng cảm với con người.

***

Hai tháng sau, tôi cùng bầu đoàn thể tử dời về căn nhà mới ở Long Island. Bọn trẻ đều có phòng ngủ riêng. Chúng tôi có đến ba phòng tắm và một phòng giặt, phơi quần áo. Thật là thoải mái, không còn phải đợi nhau trong các sinh hoạt riêng tư. Tôi được hưởng sự xa xỉ đáng ao ước nhất, đó là sự riêng tư. Cái "sào huyệt" riêng của tôi để ngồi viết, mảnh vườn nhỏ và những hoa cỏ của riêng tôi. Tôi được cách ly với người khác. Thật là tuyệt vời.

Dù nhiều người vẫn coi điều ấy như là chuyện đương nhiên. Quan trọng hơn hết, tôi cảm thấy rằng giờ đây gia đình tôi được an toàn. Chúng tôi đã rời bỏ những người nghèo khó và tuyệt vọng lại đàng sau. Những kẻ đó sẽ chẳng bao giờ bắt kịp; những bi kịch của họ sẽ chẳng tác động gì đến chúng tôi. Con cái của chúng tôi sẽ không phải chịu cảnh mồ côi lạc loài.

Một ngày nọ, ngồi nơi cửa sổ căn nhà ngoại ô của mình, tôi nhận thấy mình thật sự hạnh phúc, có lẽ hạnh phúc hơn bất cứ lúc nào trong đời. Và điều đó làm tôi hơi bực bội! Nếu tôi là một nghệ sĩ bẩm sinh, tại sao tôi lại phởn phơ đến thế với những thú vui quá xoàng, quá là chuyện thường ngày ở huyện như thế! Một cô vợ anh yêu, những đứa con anh thích, và một căn nhà làng nhàng ở ngoại ô. Chỉ thế thôi, mà anh đã vội tỏ ra hài lòng lắm lắm!

Vậy thì con lâu anh mới đạt đến tầm cỡ của Rimbau, của Gauguin hay của Van Gogh. Có lẽ đó là lý do tại sao lâu nay tôi không viết được gì ra hồn. Bởi vì tôi quá hạnh phúc. Và tôi cảm nhận một chút oán hận đối với Vallie. Trời đất! Nàng đã khiến tôi mắc bẫy khi cho tôi quá nhiều hạnh phúc?

Ấy thế nhưng mà điều này cũng chẳng ngăn cản tôi cảm thấy hài lòng. Mọi chuyện đang diễn ra quá tốt. Và niềm vui bạn cảm thấy với con cái là chuyện rất bình thường của nhân tình. Và cũng không tất yếu là mâu thuẫn với tính cách của một nghệ sĩ thiên tài.

Đâu có phải thiên tài thì mọi hành động hay cảm nghĩ phải ngược lại với người bình thường? Tôi vẫn thấy việc chia sẻ một phần đời sống của con trẻ giúp cho cảm tính của mình phong phú hơn. Trẻ con dạy cho ta cách nhìn đời bằng đôi mắt luôn ngạc nhiên. Đó chẳng là một trong những động lực khởi nguồn cảm hứng sáng tạo nơi người nghệ sĩ hay sao?

Và Vallie cũng đôi khi làm tôi ngạc nhiên. Càng ngày càng trở nên ngoan đạo hơn và bảo thủ hơn. Nàng chẳng còn là cô thanh nữ lãng tử ở Greenwich Village thuở nào với mơ ước trở thành một nhà văn. Đã trở thành một người mẹ hiền vợ đảm toàn hảo, một nội tướng lý tưởng cho một nhà văn cần tập trung mọi năng lực tinh thần cho sđng tác.

Tôi quá hạnh phúc với Vallie. Lúc đó tôi không hình dung rằng hạnh phúc tôi đang được hưởng thật sự quý hiếm đến như thế nào trong đời. Nàng chẳng hề nề hà làm mọi công việc mà một người đàn ông thường làm trong nhà và tôi lại không đủ kiên nhẫn để làm. Hiện nay, nhà chúng tôi chỉ cách nhà bố mẹ nàng ba mươi phút lái xe và thường thường vào các buổi chiều tối hay những ngày cuối tuần nàng lái xe đưa bọn trẻ về nhà ngoại chơi mà nàng không hỏi tôi có muốn đi hay không. Nàng biết rằng tôi ghét loại thăm viếng đó, cần dành thời gian để làm việc cho quyển sách hơn.

Nhưng vì lý do nào đó nàng thường gặp ác mộng, có lẽ vì bị ám ảnh bởi những lời dạy trong sách bổn về thiên đàng và địa ngục. Trong đêm, có khi tôi phải đánh thức nàng dậy vì nghe nàng kêu khóc trong lúc vẫn ngủ say. Có đêm nàng sợ hãi khủng khiếp và tôi đã ôm chặt nàng trong vòng tay và hỏi nàng đã nằm mơ thấy gì vậy và nàng thì thầm vào tai tôi: "Đừng bao giờ nói với em rằng em sắp chết". Chuyện đó làm tôi sợ điếng hồn. Tôi có những ảo tưởng về việc nàng đi đến bác sĩ và nhận những tin xấu.

Nhưng sáng hôm sau, khi tôi hỏi nàng về chuyện đó, nàng chẳng nhớ gì cả. Và khi tôi hỏi nàng có cần đi khám bác sĩ không nàng cười tôi. Nàng nói: "Chắc có lẽ tại em nhập tâm những điều trong sách bổn nhiều quá. Em đoán là em lo sợ chuyện bị đày địa ngục".

Trong hai năm tôi viết những bài báo cộng tác với các tạp chí, thấy lũ con mình lớn lên, sống đời sống vợ chồng hạnh phúc đến độ hầu như nhàm chán. Vallie thường đi về thăm bố mẹ nàng nhiều hơn, còn tôi dành hầu hết thời gian trong cái hang động viết lách của tôi, vì thế hai vợ chồng thật sự ít gặp mặt nhau. Mỗi tháng ít ra tôi phải viết ba bài cho các tạp chí, trong khi vẫn miệt mài làm việc cho quyển tiểu thuyết mà tôi vẫn hi vọng sẽ đem lại cho tôi cả tiếng lẫn miếng.

Cuốn tiểu thuyết về bắt cóc và giết người là trò chơi lớn của tôi, các tạp chí là chỗ tôi kiếm miếng bánh mì và tí bơ. Tôi hình dung còn phải lao vào cuộc trường chinh trong ba năm nữa mới kết thúc quyển sách, nhưng cũng không sao. Tôi đọc lại chồng bản thảo càng ngày càng đây lên bất cứ khi nào tôi ở một mình. Và thật là một cảnh tượng đáng yêu biết bao khi nhìn đàn con lớn lên và Vallie hạnh phúc, hài lòng hơn và bớt đi ám ảnh về cái chết. Nhưng không có gì tồn tại mãi mãi. Và sở dĩ không có gì tồn tại mãi bởi vì bạn không muốn nó tồn tại mãi, tôi nghĩ thế. Nếu mọi chuyện đều hoàn hảo, người ta lại đi tìm rắc rối, xáo trộn. Có lẽ đó là sự biến dịch của Đạo lớn vậy, như các hiền nhân phương Đông đã dạy từ xa xưa. Cho nên bậc trí giả thấy được cái Chuyển trong cái Hằng, cái Động trong cái Tịnh, cái Mới trong cái Cũ, cái Chết trong cái Sống và cái Sống trong cái Chết là vậy. Lão Tử dạy "Phải phục chi vị Đạo" có lẽ là muốn nói lên cái ý đó.

Trở lại chuyện của tôi, hàng ngày dành mười giờ yên lành trong căn nhà ngoại ô, hàng ngày dành mười giờ để viết lách, mỗi tháng chỉ xem xinê một lần đọc bất cứ thứ gì thấy được tôi hăm hở chào đón cuộc gọi của Eddie Lancer mời tôi đi dùng buổi tối với anh trong thành phố. Kể từ hai năm qua, đây là lần đầu tiên tôi mới lại nhìn thấy New York ban đêm. Tôi đã đi qua thành phố ban ngày để bàn về các bài viết của tôi với những người biên tập như sau đó tôi luôn luôn giữ đúng nếp sống "cơm nhà bánh vợ" chứ chưa bao giờ thừ "cơm chợ, bánh lầu xanh". Vallie đã trở nên một tay đầu bếp thiện nghệ, và tôi không muốn lỡ cuộc hẹn buổi tối vợ chồng đầm ấm và buổi làm việc ban đêm trong hang động cô tịch của tôi.

Nhưng Eddie Lancer vừa mới quay về từ Hollywood và anh ta hứa với tôi vài câu chuyện hay với vài món ăn ngon. Và như thường lệ, anh hỏi tôi quyển tiểu thuyết đến đâu rồi. Anh luôn đối xử với tôi như thể anh biết tôi sắp là một nhà văn lớn và tôi rất lấy làm khoái chí về điều đó. Đừng cười tớ nhé. Bạn có khoái không khi bạn gặp được kẻ tri âm có "con mắt tinh đời, anh hùng đoán giữa trần ai mới già". Thế thì bạn còn chờ gì nữa mà không "nghe lời vừa ý gật đầu" và hả hê mà "cười rằng tri kỷ trước sau mấy người!" Anh là một trong số ít người mà tôi biết, có lòng tử tế trung thực, tự nhiên, không bị tác động bởi tự lư tự lợi. Và anh có thể rất tếu, vui nhộn theo một cách khiến tôi phải ganh tị. Anh nhắc cho tôi nhớ lại Vallie khi nàng còn viết truyện ở Trường viết văn Greenwich Village. Nàng thể hiện một cái gì đấy trong những truyện nàng viết, đôi khi cả trong đời sống hằng ngày. Ngay cả bây giờ điều ấy cũng thỉnh thoảng lóe lên. Và tôi nói Eddie rằng tôi phải đến các toà soạn tạp chí để bàn về bài vở và sau đó chúng tôi có thể cùng đi ăn tối.

Anh đưa tôi đến một nhà hàng gọi là Pearl mà tôi từng nghe nói đến. Tôi ngớ ngẩn đến độ không biết rằng đó là nhà hàng ăn Trung Hoa nổi tiếng của New York.

Đó là lần đầu tiên tôi ăn món Tàu và khi nói với Eddie điều đó, anh ngạc nhiên quá. Anh vừa giới thiệu cho tôi các món ăn Trung Quốc trong lúc vừa chỉ ra các nhân vật danh tiếng đến đây và còn mở cái bánh quy mỏng, được gấp lại, bên trong có in lời tiên đoán và đọc cho tôi nghe. Anh còn ngăn tôi đừng ăn cái bánh fortune-cookie đó.

- Không không, cậu đừng bao giờ ăn chiếc bánh đó. Chuyện ấy quá là đơn giản. Nếu có điều gì đáng giá mà cậu học được tối nay, là đừng bao giờ ăn cái "bánh quy số mệnh" của cậu trong một nhà hàng Tàu.

Chuyện đó quá bình thường và chỉ là một lời đùa tếu giữa hai người bạn trong cái tâm cảnh tương giao giữa họ với nhau. Nhưng mấy tháng sau, đọc một truyện ngắn của anh đăng trong Esquire anh có sử dụng những tình tiết đời thực. Một truyện ngắn cảm động, đầy chất trào lộng mà anh tự cười mình và đùa giễu tôi. Tôi hiểu anh hơn sau khi đọc truyện đó, hiểu cái nét hóm hỉnh đằm thắm nơi anh đã nguỵ trang cho nỗi cô đơn từ cảm thức xa lạ, cách ly với thế giới và con người chung quanh. Và tôi bắt gặp một lời mách nước cho những gì anh thực sự nghĩ về tôi. Anh vẽ một bức tranh về tôi như là một con người nắm vững cuộc đời mình và biết mình đang đi về đâu Một kiểu hài hước khiến tôi cười muốn vỡ bụng.

Nhưng anh lầm về chuyện bánh quy số mệnh là bài học giá trị duy nhất mà tôi rút ra từ buổi tối hôm đó. Bởi vì sau bữa ăn tối, anh còn rủ rê tôi đi dự một buổi party văn nghệ ở New York, tại đó tôi được hân hạnh tái kiến Osano vĩ đại.

Chúng tôi đang dùng tráng miệng và cà phê. Eddie bảo tôi kêu món chocolate. Anh nói đó là món tráng miệng duy nhất thích hợp với đồ ăn Tàu. Anh bảo:

- Nhớ nhé, đừng bao giờ ăn cái bánh quy số mệnh của cậu và luôn luôn kêu món kem chocolate để tráng miệng.

Rồi với thái độ cởi mở hồn nhiên, anh yêu cầu tôi đi đến party với anh. Tôi hơi thấy miễn cưỡng. Tôi còn phải lái xe mất một tiếng rưỡi để về nhà ở Long Island và muốn về nhà để còn có thể làm việc một, hai giờ trước khi đi ngủ.

- Đi nào, cậu, - Eddie giục tôi. - Đừng có lúc nào cũng làm một ẩn sĩ yêu vợ thái quá đến bị vợ xỏ mũi như thế. Thỉnh thoảng cũng nên đi chơi hoang một đêm, dùng phở thay cơm một bữa chứ. Sẽ có rượu ngon để cho cậu cảm hứng đấu hót với bạn hiền cho thoả sức đàm thiên, thuyết địa, luận nhân, tha hồ ba hoa xích đế đến sùi bọt mép? Và cũng không thiếu một số em rồng lộn cũng mướt mắt dễ coi lắm. Và cậu có thể tạo được những quan hệ sáng giá. Một tay phê bình sách khó lòng đập cậu thẳng tay lắm nếu như anh ta đã quen biết cậu. Và bản thảo của cậu cũng có thể được đọc với tâm hồn rộng mở hơn của nhà xuất bản nếu anh ta đã tìm gặp cậu ở một party và nghĩ rằng cậu cũng dễ thương.

Eddie biết chưa có nhà xuất bản nào chịu ứng trước cho quyển sách mới của tôi. Và anh muốn tạo cơ hội cho tôi. Thế là tôi đi dự party với anh và gặp Osano. Ông này không tỏ vẻ gì nhớ đến cuộc phỏng vấn trước đây và tôi cũng làm ngơ luôn vụ đó. Nhưng một tuần sau, tôi nhận được bức thư của Osano hỏi có muốn đến gặp ông và dùng cơm trưa để bàn về một công việc mà ông muốn đề nghị với tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Tôi nhận công việc mà Osano đề nghị vì nhiều lý do. Công việc này hợp sở thích của tôi và cũng có chút danh giá. Từ khi Osano được bổ nhiệm chức chủ bút của tờ phụ trang văn học có ảnh hưởng nhất nước, mấy năm trước đây ông đã gặp rắc rối với những người cộng tác và tôi sẽ làm trợ lí cho ông. Thu nhập rất khá và công việc sẽ không cản trở chuyện tôi viết tiểu thuyết. Và nhất là tôi vẫn được ở nhà. Tôi đang trở thành một ẩn sĩ giữa chốn thị thành. Tôi hạnh phúc nhưng cuộc sống hơi tẻ nhạt. Tôi khao khát một vài hứng khởi, đôi chút nguy cơ.

Có những hồi tưởng mơ hồ, thoáng qua về cuộc chạy trốn đến Las Vegas thuở nào và việc tôi đã thực sự say mê nỗi cô đơn và tuyệt vọng mà tôi cảm thấy lúc ấy. Chẳng phải là điên rồ hay sao khi hoài niệm nỗi bất hạnh với biết bao thích thú và khinh thường hạnh phúc bạn đang nắm trong tầm tay?

Nhưng nhất là tôi nhận công việc vì chính Osano, hiển nhiên ông đang là nhà văn danh tiếng nhất ở Mỹ.

Được ca tụng do hàng loạt quyển tiểu thuyết thành công, nổi danh vì những vụ rắc rối với pháp luật và thái độ cách mạng đối với xã hội, cũng bị ô danh vì những hành vi tình dục lệch lạc, các phương tiện truyền thông khai thác bêu riếu rùm beng. Ông đã chiến đấu chống lại mọi người và chống lại mọi chuyện. Thế nhưng trong buổi party mà Eddie Lancer đưa tôi đến để gặp ông ta. Osano vẫn thu hút và mê hoặc được mọi người. Những người dự buổi party hôm đó đều là thành phần tiêu biểu của giới văn học và không dễ gì mà mê hoặc họ vì họ rất khó tính và nghĩ mình có quyền khó tính.

Và tôi phải thừa nhận rằng Osano cũng đã mê hoặc cả tôi Trong buổi party hôm đó, ông ta bỗng dây vào một cuộc tranh luận gay gắt với một trong những nhà phê bình văn học ở Mỹ; vị này cũng là một bạn thân và một người hậu thuẫn mạnh mẽ cho các tác phẩm của ông.

Nhà phê bình này dám đưa ra luận chứng rằng các nhà văn phi hư cấu cũng sáng tạo nghệ thuật và có một số nhà phê bình cũng là nghệ sĩ. Osano liền hét lên, át giọng ông ta:

- Anh là đồ, hút máu! - Một tay đong đưa ly rượu, tay kia nắm lại như thể sẵn sàng vưng ra nắm đấm - Anh kiếm ăn từ những nhà văn thật sự và anh bảo rằng anh là nghệ sĩ? Anh đếch biết nghệ thuật là cái gì. Một nghệ sĩ sáng tạo từ chính mình chứ không dựa vào cái gì khác, có hiểu điều đó không, hở anh bạn ưa chơi bậy? Nghệ sĩ giống như con nhện, những sợi tơ nhện được rút ra từ thân hình nó. Và các anh chỉ đi theo và dùng chổi đuổi chúng đi sau khi chúng nhả tơ ra. Các anh chỉ giỏi tài dùng chổi quét các anh là những thằng tồi? Bọn phê bình chỉ là thế?

Người bạn đó sửng sốt bởi vì ông ta vừa mới khen các tác phẩm phi giả tưởng của Osano và cho rằng đó là những tác phẩm nghệ thuật.

Rồi Osano bỏ đi, đến với một nhóm phụ nữ đang chờ để đề cao ông là con sư tử trong giới cầm bút. Trong nhóm có vài người thuộc phong trào nữ quyền và chỉ trong vài phút ông đến với họ là nhóm đó lại trở thành trung tâm của sự chú ý. Một trong các phụ nữ đang giận dữ hét vào mặt ông trong khi ông nghe nàng ta nói với vẻ trịch thượng giễu cợt đôi mắt xanh láo liên ranh mãnh của ông ánh lên như mắt mèo. Rồi ông phải pháo tới tấp.

- Này các bà, các chị, các em phụ nữ? Mấy người muốn được bình đẳng với các bậc tu mi nam tử là chúng ta đây, nhưng mấy người lại chẳng hiểu cái đếch gì về trò chơi quyền lực cả! Con át chủ bài của các em đó là "chim" của các em mà các em không biết giữ kín con bài tẩy, lại đem phô ra, chơi bài lật ngửa với các đối thủ. Hoài của quá đi mất. Các em sao dại thế? Bởi nếu không biết tận dụng lợi thế của con "chim" các em sẽ chẳng còn quyền lực tí nào đâu. Hãy biết rằng mấy cấi thằng đàn ông có thể sống không cần cảm tình nhưng không sống nổi nếu thiếu sex?

Ông vừa nói đến đó cả đám phụ nữ đều nhao nhao lên, phản đối ông ầm ĩ.

Thế nhưng ông trấn áp được ngay với công phu "sư tử hống" của mình:

- Đàn bà các người cứ than phiền về chuyện hôn nhân trong khi lấy chồng và các người thành công trong cuộc mặc cả được món hời nhất đời. Hôn nhân giống như những cổ phiếu mà người ta mua. Có lạm phát và có giảm giá, mệnh giá cứ tiếp tục xuống và xuống đến mức thể thảm đối với đàn ông. Mấy người biết tại sao không? Phụ nữ càng lúc càng kém giá trị đi cùng với năm tháng chất chồng tuổi tác lên họ. Và lúc đó, chúng tôi bị vướng víu bởi họ giống như với một chiếc xe cũ. Cứ đụng vào là trục trặc đủ thứ đến là phát nản. Nhưng vất cả đi lại không đành. Đàn bà lớn tuổi không giống như đàn ông. Mấy người có thể tưởng tượng một chị đàn bà năm mươi tuổi còn đủ khả năng để mồi chài một chàng trai hai mươi tuổi lên giường với mình không? Và rất ít phụ nữ có đủ quyền lực kinh tế để mua sinh lực tuổi trẻ như đàn ông vẫn làm.

Một chị sồn sồn la tớn lên:

- Tôi có một người tình hai mươi tuổi đây nè?

Chị ta trạc tứ tuần nhưng trông hãy còn khá mướt.

Osano cười nhăn nhở với nàng, có vẻ xảo quyệt:

- Xin có lời chúc mừng cô bạn. Nhưng mà, khi cô bạn đến tuổi năm mươi thì chưa biết sự thể sẽ ra sao nhỉ? Với các cô gái trẻ hiện nay sẵn sàng "tình cho không biếu không" mà vẫn xí phần được một cậu tình nhân mới hai mươi tuổi, kể ra cũng cao tay nghề đấy. Nhưng cô nghĩ rằng những chàng tình nhân trẻ say mê cô giống như các thanh nữ say mê đàn ông lớn tuổi à? Quí vị không vận dụng được hình ảnh ông bố Freud để phục vụ cho mục đích của mình như đàn ông chúng tôi vẫn làm. Và tôi phải lập lại rằng một anh đàn ông bằng độ tuổi bốn mươi trông lại càng hấp dẫn hơn cả lúc hai mươi. Ngay cả đến tuổi năm mươi nhiều người đàn ông vẫn còn hấp dẫn chán. Điều đó thuộc về sinh học!

- Chuyện nhảm, - Chị bốn mươi nhưng còn hấp dẫn nói. - Mấy đứa con gái trẻ làm các thằng già các anh mê lú và tin vào những chuyện bịa đặt uỷ mị của chúng. Khi già đi thì mấy người cũng đâu còn hấp dẫn nữa, mà chỉ có nhiều quyền lực hơn thôi - kinh tế hay chính trị. Và mấy người có đủ thứ mọi luật lệ đứng về phía mình. Khi chúng tôi thay đổi luật lệ, chúng tôi sẽ thay đổi mọi thứ.

- Chắc thế rồi, - Osano nói. - Các chị sẽ vận động để thông qua những bộ luật buộc đàn ông phải chịu những cuộc phẫu thuật phải thẩm mỹ để làm cho họ xấu đi khi họ lớn tuổi. Nhân danh cuộc chơi sòng phẳng và quyền bình đẳng. Phải vậy không? Các chị cũng có thể dựa trên cơ sở pháp lý, cho cắt phăng hai quả cà dái dê của chúng tôi đi. Dù như thế nữa, điều ấy cũng chẳng hề thay đổi được sự thật, ở đây và bây giờ.

Ông dừng một lúc và nói:

- Chị có biết câu thơ cực dở này chưa? Của Browing ấy. Em hãy già đi cùng với ta, tuy nhiên điều tốt nhất vẫn là…

Tôi chỉ đi lòng vòng và nghe ngóng. Những gì Osano đang nói đập vào tai tôi như là những điều cực kỳ nhảm nhí. Vì một điều là chúng tôi dị biệt quan điểm về chuyện viết lách. Tôi ghét những cuộc phiếm luận văn chương, mặc dù tôi đọc tất cả các bài phê bình điểm sách và mua tất cả các tạp chí lý luận phê bình văn học.

Vậy thì, làm một nghệ sĩ là cái quái gì đây? Đó không phải là cảm tính. Không phải là trí tuệ. Không phải là nỗi ưu tư trăn trở. Không phải là cơn xuất thần đê mê. Toàn là chuyện nhảm nhí.

Sự thật là bạn giống như một kẻ cố gắng mở trộm tủ sắt để tìm châu báu, cứ mày mò hoài với ổ khoá và lắng nghe tiếng tách của cái lẫy khoá, cái tiếng tách nhiệm màu sau câu thần chú "Vừng ơi, hãy mở ra!" Sau cả vài năm mày mò, cánh cửa có thể mở bung ra và bạn có thể bắt đầu viết. Nhưng khốn nạn thay, rất nhiều khi những gì chứa đựng trong tủ sắt đó lại chẳng mấy giá trị.

Một việc làm vất vả với đớn đau dằn vặt trong cuộc mặc cả kia. Đêm bạn mất ngủ. Ngày bạn lơ ngơ như người ngoài hành tinh. Bạn mất lòng tin con người và thế giới bên ngoài. Bạn trở nên một kẻ nhút nhát, giả ốm để trốn việc trong cuộc sống thường ngày. Bạn lẩn tránh trách nhiệm của đời sống cảm tính, nhưng xét cho cùng, đó là điều duy nhất bạn có thể làm. Và có lẽ đó là lý do tại sao tôi vẫn tự hào về tất cả những thứ tạp nham tôi đã viết cho các tạp chí linh tinh, hay những bài điểm sách. Đó là một tài khéo của tôi, nói của đáng tội, cũng là một cái nghề đấy chứ. Tôi đâu phải là thứ nghệ sĩ nhếch nhác chẳng ra gì.

Osano chẳng bao giờ hiểu điều ấy. Ông vẫn luôn phấn đấu để trở thành một nghệ sĩ và khước từ một vài nghệ thuật khác hay cận nghệ thuật. Cũng như nhiều năm sau đó, ông chẳng bao giờ hiểu được những chuyện của Hollywood; ông không chịu hiểu rằng điện ảnh là một nghệ thuật còn non trẻ nên ta không thể trách những biểu hiện lệch lạch do bệnh ấu trĩ của nó.

Một trong những vị phụ nữ nói:

- Này Osano, ông đã lập được kỷ lục đáng nể trong bộ môn chinh phục phụ nữ. Đâu là bí quyết thành công của ông?

Mọi người cười rộ lên, kể cả Osano. Tôi lại càng ngưỡng mộ ông hơn, một anh chàng từng có đến năm "cựu bà xã" mà vẫn còn cười được, kể cũng lạ!

Osano nói:

- Tôi nói với họ là phải một trăm phần trăm theo cách của tôi và không có phần trăm nào theo cách của họ, trước khi họ dọn về ở với tôi. Họ hiểu vị thế của mình và chấp nhận. Tôi vẫn luôn nói với họ rằng khi nào họ không còn thoả mãn với sự dàn xếp đó thì họ được quyền cút! Không phải lí luận, không giải trình thuyết minh, không thương lượng mặc cả gì sất. Đơn giản là bước! Và cho đến nay tôi vẫn chưa đủ khả năng để hiểu sự thế này là cái sự làm sao? Họ nói vâng khi họ bước vào và rồi họ lại xé rào, phá vỡ luật lệ. Họ ngoan cố muốn kì kèo mười phần trăm theo ý họ. Nhưng đời nào tôi chịu. Quân tử nhất ngôn mà? Và khi không dành được phần nào, họ cảm thấy "quê độ", thế là họ khởi động cuộc chiến gà mái đá gà cồ. Nhưng làm sao đá lại con gà cồ "ác chiến" này!

- Gớm! Một đề xuất hay ho quá nhỉ? - một chị đàn bà khác góp ý. - Thế còn bù lại, họ được hưởng gì nào?

Osano đảo tròn mắt nhìn quanh khắp lượt và với khuôn mặt thẳng băng một cách hoàn hảo, ông long trọng phán:

- Một cú chơi cực đẹp!

Các chị đàn bà bèn nhao nhao cả lên.

Khi tôi quyết định nhận lời làm việc với ông tôi quay lại đọc tất cả những cái ông đã viết. Những tác phẩm đầu tay của ông thuộc hàng số một với những cảnh tượng chính xác, sắc nét như những bức tranh khắc acide. Những quyển tiểu thuyết có kết cấu liền lạc trong nhân vật và cốt chuyện với những ý tưởng phong phú, mới lạ. Những quyển sau của ông thâm trầm hơn, lắng đọng suy tư nhiều hơn, lời văn cũng óng ả, trang trọng hơn, giống như một nhân vật mang nhiều huân, huy chương lấp lánh trên ngực. Nhưng mọi quyển tiểu thuyết của ông đều mời đón những cây bút phê bình nhập cuộc, cho họ nhiều chất liệu để làm việc, để diễn giải, để bàn luận và cả để công kích, Nhưng tôi nghĩ ba quyển sách sau cùng của ông thì hơi tệ. Nhưng các nhà phê bình lại không nghĩ như thế?

Tôi bắt đầu một cuộc đời mới. Hàng ngày tôi lái xe đến New York và làm việc từ 11 giờ sáng đến hết buổi chiều, Các văn phòng của tờ báo rất rộng lớn với nhịp độ làm việc bề bộn, sôi nổi, quay cuồng. Trong lúc làm việc, Osano thực sự tử tế với mọi người đang làm cho ông. Ông vẫn luôn hỏi thăm tôi về quyển tiểu thuyết mà tôi đang viết và tình nguyện đọc nó trước khi in và sẽ cho tôi vài lời khuyên nhưng tôi quá tự hào nên không đưa cho ông xem. Dù ông đã nổi danh như cồn, còn mình chưa có tiếng tăm gì, tôi vẫn nghĩ tôi là một tiểu thuyết gia tài năng hơn.

Sau những buổi chiều dài làm việc về những quyển sách phải giới thiệu và phê bình, Osano sẽ uống Whisky mà ông để sẵn nơi bàn làm việc và thuyết giảng về văn học cho tôi nghe, về cuộc đời của một nhà văn, các nhà xuất bản đàn bà và về bất kỳ cái gì khác chợt hiện ra trong đầu óc ông lúc đó. Ông đang xây dựng quyển tiểu thuyết lớn của mình, tác phẩm mà ông nghĩ sẽ giúp ông đoạt giải Nobel văn chương, từ năm năm qua. Ông đã nhận được số tiền ứng trước rất lớn cho tác phẩm đó và nhà xuất bản đang suốt ruột và giục ông hoài. Osano thực sự bực bội về chuyện đó:

- Cái đồ tồi, - ông nói. - Hắn bảo tôi đọc các tác phẩm cổ điển để tìm cảm hứng. Cái thứ dốt nát đó biết gì mà cũng đòi làm tài khôn lên mặt dạy đời. Anh đã từng bao giờ thử đọc lại các tác phẩm cổ điển chưa? Ôi dào, ba cái anh "phất cờ" già nua như là Hardy, như Tolstoi, như Galsworthy ấy mà. Họ dành cả ba bốn chục trang để mô tả tỉ mỉ một quả đánh rắm. Anh biết tại sao không? Vì họ đã đánh bẫy được dộc giả. Không TV, không radio, không phim ảnh. Không có thú du lịch trừ phi bạn muốn bọng đái của bạn bị nhồi óc ách vì những cú dằn xóc của xe ngựa trên những con đường khúc khủyu gập ghềnh. Ở Anh ngay cả việc lâu lâu buồn tình muốn đi đổi đĩa một bữa cũng khó. Có lẽ vì vậy mà các anh nhà văn Pháp có vẻ quân bình hơn. Ít ra là người Pháp cũng được thoải mái hơn về chuyện đó so với các vị "thẩm du tiên sinh" người Anh dưới thời Victoria. Bây giờ tôi hỏi anh, tại sao một người có sẵn TV và một căn nhà trên bãi biển còn đọc Proust làm chi. Tôi chưa hề đọc Proust, mà đọc cũng không vô, vì thế tôi gật đầu. Nhưng hầu hết đã đọc các tác giả lớn khác và không thể thấy TV hay một căn nhà nơi bãi biển sẽ thế chỗ họ.

Osano nói tiếp:

- Người ta vẫn cho Anna Karenina là một tuyệt tác. Tôi cho là một quyển sách toàn chuyện nhảm. Một anh chàng học thức ở tầng lớp trên chiếu cố đến phụ nữ với thái độ trịch thượng. Anh ta không bao giờ cho bạn thấy thực sự cô gái ấy cảm gì, nghĩ gì. Ông ta chỉ cho chúng ta một biểu nhất lãm quy ước về thời đại và nơi chốn.

Và rồi ông ta làm một lèo ba trăm trang về việc quản lý một trang trại ở Nga như thế nào. Ai cần biết chuyện đó làm quỷ gì? Và cái anh chàng Vronsky với linh hồn khốn khổ của anh ta? Lạy Chúa, tổi không biết ai tệ hơn, người Nga hay người Anh. Mấy anh chàng mắc dịch Dickens và Trollope, đối với họ năm trăm trang sách chi chít chữ vẫn chưa là cái gì. Rảnh lúc nào là họ viết tuôn ra tràng giang đại hải, tưởng chừng không lúc nào dừng. Người Pháp ít ra cũng ngắn gọn hơn. Nhưng còn cái anh chàng Balzac chơi nhiều đẻ lắm kia? Tôi dám cá? Tôi khẳng định? Ngày nay chẳng ai thèm đọc cái lão rườm lời nghe phát mệt ấy nữa đâu.

Ông tu một ngụm Whisky rồi thở ra:

- Không ai trong bọn họ biết sử dụng ngôn từ như thế nào. Không ai, trừ Flaubert nhưng ông ta không phải là thiên tài vĩ đại. Nói thế không có nghĩa là người Mỹ đã khá hơn đâu. Như cái anh chàng Dreiser mắc dịch còn không biết các con chữ có nghĩa gì nữa kìa. Tôi muốn nói thẳng anh chàng ấy dốt. Một anh dân bản địa học hành cà lơ phất phơ, chữ tác đánh chữ tộ, vậy mà cũng đẻ ra những quyển sách tám, chín trăm trang để tra tấn người ta. Ngày nay, không có sách nào của những anh chàng ấm ở này còn có thể được tái bản và nếu còn chường mặt ra, đám phê bình cũng đập cho bỏ mạng. Này cậu, cái đám đó tiêu đời rồi. Không còn sợ cạnh tranh nữa.

Ông dừng lời và thở ra, vẻ mệt mỏi:

- Này Merlyn thân mến, chúng ta là một giòng giống đang tuyệt chủng, những nhà văn chân chính như chúng ta ấy mà. Hãy tìm một nghề nào khác để kiếm ăn đi. Viết kịch bản truyền hình chẳng hạn. Hay viết chuyện phim đi. Cậu làm chuyện đó dễ như bỡn mà.

Rồi mệt lả, ông buông người xuống trên chiếc giường con để nơi văn phòng để đánh một giấc ngủ trưa.

Tôi thử động viên tinh thần ông:

- Đó có thể là một ý tưởng rất hay cho một bài báo của tờ Esquire đấy, - tôi bảo ông. - Lấy ra khoảng năm hoặc sáu tác phẩm cổ điển rồi hành hình chúng. Giống như bài ông viết về tiểu thuyết gia hiện đại.

Osano cười:

- Ôi giời, chuyện tiếu lâm thật. Tôi đùa thôi và chỉ muốn dùng nó cho một vở kịch quyền lực để cho tôi nhiều "nước cốt" hơn và mọi người lại nổi giận. Nhưng vậy mà được việc. Nó làm cho tôi lớn hơn và họ nhỏ đi. Và đó là trò chơi văn chương, chỉ mấy thằng cha khốn khổ kia không biết điều đó. Chúng ngồi trong tháp ngà, thủ dâm đến mệt lả và nghĩ rằng thế là đủ.

- Như vậy thì quả này càng dễ ãn hơn, - tôi nói. - Ngoại trừ chuyện các nhà phê bình hàn lâm kinh viện sẽ nhảy bổ vào ông.

Osano thấy có hứng với gợi ý quá hay của tôi. Ông bật dậy khỏi giường và đi đến bàn giấy:

- Anh ghét tác phẩm cổ điển nào nhất? - ông hỏi tôi.

- Silas Mamer, - tôi đáp. - Họ vẫn còn dạy quyển đó trong nhà trường.

- Của George Elid một kẻ đồng dục nữ, - Osano nói. - Mấy anh thầy giáo thích nàng ta. OK, quyển đó. Tôi ghét nhất là quyển Anna Karenina. Nhưng Tolstoi vẫn khá hơn Eliot. Chẳng còn ai quan tâm đến Eliot nữa, nhưng các ngài giáo sư sẽ xuống đường phản đối rầm trởi khi tôi xô ngã tượng đài Tolstoi.

- Còn Dickens? - tôi hỏi.

- Tất yếu rồi, - Osano nói. - Nhưng không đụng đến David Copperfield. Tôi phải thừa nhận rằng tôi yêu quyển đó. Anh chàng Dickens quả thật là tếu. Tuy nhiên tôi có thể tấn công ông ta về mặt tình dục. Ông ta có vẻ đạo đức giả bộ làm như mình không hề biết ngủ với đàn bà là gì. Và ngoài ra ông ta còn viết khối chuyện nhảm nhí!

Chúng tôi bắt đầu lên danh sách. Chúng tôi cũng dủ "hiền thục đoan trang" để không xúc phạm đến Flaubert và Jane Austen. Nhưng khi tôi nói đến quyển tình sầu của chàng Werther của Geothe, ông vỗ vào lưng tôi và reo lên:

- Một quyển sách kỳ cục nhất từng được viết ra. Từ quyển đó tôi có thể chế biến ra một khúc hamburg Đức.

Cuối cùng chúng tôi có một danh sách:

Silas Mamer

Anna Karenina

Tình sầu của chàng Werhter

Dombeyt là con trai

Nét chữ ô nhục

Lord Jim

Moby Dick

Proust (toàn bộ tác phẩm)

Hardy (bất cứ quyển gì)

- Chúng ta cần một mục nữa cho tròn mười. - Osano nói.

- Shakeaspeare, - tôi gợi ý

Osano lắc đầu:

- Tôi vẫn còn yêu Shakeaspeare. Anh biết chuyện đó hơi hài hước; ông ta viết vì tiền, viết nhanh, ông ta xuất thân từ dòng dõi thấp kém, ít học, thế nhưng không có ai có thể với tới ông ta. Và ông không hề bận tâm những điều mình viết ra có đúng hay không mà chỉ cần viết sao cho hay để tạo được hiệu ứng mỹ cảm, làm cho người đọc, người xem xúc động. Điều đó mới quan trọng và khiến cho ông vĩ đại. Mặc dù tôi vẫn ghét nhân vật Macbeth rởm đời và anh chàng Othello mù quáng vì ghen tuông.

- Ông vẫn còn một mục nữa, - tôi nói.

- Ờ, - Osano nói cười khoan khoái. - Để xem nào. Dostoievsky. Đích thị miếng mồi ngon. Ta đem anh em nhà Karamazov ra hành hình hết. Nên chăng?

- Chúc ông gặp may, - tôi nói.

Osano nói, vẻ trầm tư:

- Nabokov nghĩ rằng ông ấy viết nhảm

- Thế thì tôi cũng chúc cho Nabokov may mắn, - tôi nói.

Thế là chúng tôi bị nghẽn, và Osano quyết định tiến hành "xử bắn" chín người thôi. Vả chăng làm thế sẽ tạo ra sự khác biệt với số mười theo thông lệ, dù tôi vẫn thắc mắc tại sao chúng tôi không thể đạt đến cho tròn số mười.

Tối đó ông viết bài phê bình sát phạt nhằm đốt cháy cả một dãy đền đài lăng miếu kia. Hai tháng sau bài viết được ném ra và nổ tung như một quả bom chứa hàng tấn TNT! Với lời văn ngời ngời tia chớp, vang rền tiếng sấm, ông mổ xẻ không thương tiếc những hà tì khuyết tật của những danh tác cổ điển trên và xuyên qua đó ông hé lộ bằng cách nào mà quyển tiểu thuyết tối ưu vĩ đại mà ông sắp hoàn tất sẽ không phạm vào những vết xe đổ trên và sẽ thay thế cho tất cả, vì nó hoàn hảo hơn tất cả!

Bài viết khởi động nên cả một dây chuyền phẫn nộ như điên. Khắp nước, bao nhiêu bài báo rộ lên, khai hoả tưng bừng nhằm thiêu ra tro cái kẻ mới có chút tài đã vội ngông cuồng lếu láo, đồng thời đập cho tơi bời quyển tiểu thuyết chưa ra đời kia, cho nó dập nát bét từ trong trứng nước!

Trúng kế ta rồi, Osano lặng lẽ xoa tay cười ruồi, gật gù cái đầu, vênh vênh cái mặt, trông thấy ghét!

Đúng là một lão đĩ điếm thúi ngoại hạng, đáng mặt sư phụ của anh chàng Cully điếm cờ bạc nữa. Và tôi ghi vào "bị vong lục" để nhớ sắp xếp cho hai tay quái kiệt này gặp nhau trong một ngày nào đó.

Trong vòng sáu tháng, tôi đã trở thành phụ tá đắc lực nhất của Osano. Tôi yêu công việc mình làm. Tôi đọc sách rất nhiều và cho những ghi chú để Osano đưa cho những cây bút cộng tác viết bài. Các văn phòng của chúng tôi là cả một biển sách, trùng trùng điệp điệp muôn ngàn lớp sóng, sừng sững nguy nga vây bọc như hàng hàng cổ thụ trong rừng, làm tôi nhiều lúc choáng ngợp và thấm thía câu cổ thi Trung Quốc: "Thư sơn hữu lộ hành thiên lý, Học hải vô nhai độc vạn gia".

Tôi rất mê đọc, đặc biệt là tiểu thuyết và tiểu sử. Tôi không hiểu lắm các sách giáo khoa hay triết học hoặc những quyển phê bình khảo luận thông thái; nên Osano đẩy chúng qua cho những phụ tác chuyên môn khác. Ông ta thích đấu với những tay phê bình văn học nặng ký, chọc tức cho họ bốc lên để họ phải luôn luôn nhắc nhở đến tên ông, dù nhắc để chửi, ông cũng chẳng ngán vì ông đang được đông đảo người đọc ái mộ mà. Nhưng luôn nhớ đến giải Nobel, ông vẫn đặc cách trọng thị một số nhà phê bình có uy tín lớn, dành nhiều chỗ cho các bài báo hay những quyển sách của họ. Nhưng có rất ít biệt lệ.

Ông đặc biệt ghét các tiểu thuyết gia Anh và các triết gia Pháp. Và theo thời gian, tôi có thể thấy rằng ông ghét công việc và càng ngày càng tỏ ra tắc trách, làm qua quýt cho xong. Và ông không hề ngần ngại khi lợi dụng địa vị của mình. Các cô giao tế nhân sự của các nhà xuất bản nhanh chóng nhận ra rằng nếu có một quyển sách "nóng" muốn được giới thiệu sớm, họ chỉ mời Osano đi ăn trưa và vuốt ve xưng tụng ông vài câu. Gặp cô nào trẻ và xinh ông ta sẽ ve vãn và làm cho họ hiểu theo một cách dễ thương rằng ông muốn ăn bánh trả báo. Một bài báo giới thiệu ngon lành, xứng đáng. Ông khá thắng thắn khi đề nghị chuyện đó. Một điều vẫn gây sốc cho tôi. Tôi vẫn nghĩ chuyện này chỉ xảy ra trong giới điện ảnh. Ông cũng sử dụng những kỹ thuật mặc cả đối với những cô gái muốn tìm việc cộng tác với tạp chí. Nếu họ hiểu, ông cũng hiểu. Trong thời gian tôi đến, ông có một dãy dài các bạn gái đã tiếp cận được với tờ tạp chí văn học có ảnh hưởng nhất ở Mỹ nhờ vào sức mạnh của sự hào phóng tình dục. Tôi thích nét tương phản của chuyện này với giọng điệu tri thức và luân lý có phần cao đạo của tờ báo.

Tôi thường ở lại trễ với ông ta tại văn phòng vào những đêm đáo hạn (phải duyệt xong hết mọi bài vở trước khi đưa in) và chúng tôi sẽ cùng ra ngoài ăn tối và uống vài ly sau đó ông sẽ đi đánh quả. Ông vẫn luôn muốn kéo tôi theo, nhưng tôi cứ nói với ông rằng tôi thích đồ thiệt hơn là đồ sơn.

- Cậu vẫn chưa ngán khi ăn mãi mỗi cái bánh đa ở nhà? - ông hỏi.

Giống như Cully đã từng hỏi tôi. Tôi không trả lời, làm bộ lờ đi. Đâu phải chuyện của ông. Ông sẽ lắc đầu và nói:

- Cậu là kỳ quan thứ mười trên thế giới đấy. Có vợ cả trăm năm rồi mà vẫn còn thích cô vợ ấy.

Đôi khi tôi nhìn ông có vẻ giận và ông sẽ trích dẫn mấy câu thơ của một anh thi sĩ ấm ớ nào đấy. "Chơi đi kẻo phí hoài - Tuổi xuân không trở lại - Thời gian là bạo chúa - tàn sát chẳng chừa ai". Ông vẫn thích trích dẫn mấy câu thơ vớ vẩn đó thể hiện biện minh cho chuyện chơi bời hoang đàng của mình.

Làm việc tại đó tôi bén mùi với văn chương. Tôi vẫn luôn mơ ước được làm thành viên trong văn giới. Tôi nghĩ về nó như là một nơi không hề có ai mặc cả hay cã cọ về chuyện tiền bạc. Vì đây là những con người sáng tạo ra những nhân vật làm bạn yêu thích trong những quyển sách, người sáng tạo hẳn phải giống những nhân vật đó. Nhưng rồi, tất nhiên tôi cũng nhận ra rằng họ cũng giống như bất cứ người nào khác, chỉ có điều là còn điên rồ ở mức độ nặng hơn! Và tôi phát hiện rằng Osano cũng ghét họ. Ông thuyết lý cho tôi nghe.

- Nhân vật duy nhất đáng kể là tiểu thuyết gia, - Osano nói. - Không giống như mấy anh viết truyện ngắn, viết truyện phim, nhà thơ hay viết kịch bản và cả đám nhà báo văn học nhẹ kí, loàng xoàng. Tất cả mới chỉ là những lớp áo. Mỏng dính. Chưa có tí chút gân cốt trầm trọng nào nơi họ. Bạn phải có đủ gân cốt cường kiện mới xây dựng nổi cơ đồ khi dấn thân vào con đường viết tiểu thuyết.

Ông trầm ngâm suy tưởng về những điều đó rồi viết ra trên giấy. Tôi biết rằng sẽ có một tiểu luận về "gân cốt đường kiện" trong số báo phát hành Chủ nhật tới.

Rồi có những lần khác ông sẽ nguyền rủa chuyện viết lách bết bát trong tạp chí. Số phát hành đang giảm và ông thoái mạ sự tẻ nhạt của nghề phê bình.

- Chắc là, nhung anh chàng này uyên bác, lịch lãm.

Chắc là, họ có những điều thú vị để nói. Nhưng họ không biết nói. Họ không viết nổi một câu cho ra hồn. Họ giống như những đứa cà lăm. Họ bẻ chân anh trong khi anh cố bám từng chữ thoát ra giữa những chiếc răng nghiến chặt trong cơn đau sáng tạo.

Mỗi tuần Osano có một bài tiểu luận của chính ông đăng trên trang thứ nhì của tạp chí. Văn khí của ông rực rỡ, đầy trí luệ sắc sảo nhưng cũng rất thiên kiến cố ý chọc tức để bớt bạn thêm thù. Có tuần ông tung ra bài báo bênh vực tử hình. Ông chỉ ra rằng trong bất kì cuộc trưng cầu dân ý nào thì án tử hình cũng sẽ được đồng tình rộng rãi của công luận. Rằng chỉ có tầng lớp thượng lưu như quý độc giả của bản báo đã vận động để đưa án tử hình đến chỗ khựng lại ở nước Mỹ. Ông cho rằng đây là một âm mưu của giới lãnh đạo cấp cao trong chính quyền.

Ông cho rằng chính sách của nhà nước hiện nay là cho phép những phần tử tội phạm, cùng khổ được quyền ăn cắp, tấn công, trấn lột, hãm hiếp và giết chóc giai cấp trung lưu. Rằng đó là một "đầu ra" mở lối cho các giai cấp thấp kém có chỗ xả bớt nộ khí để họ không trở thành những chiến sĩ cách mạng. Rằng giới lãnh đạo cấp cao đã ước lượng rằng thực hiện đường lối này thì cái giá phải trả sẽ rẻ hơn. Rằng giới thượng lưu sống trong những khu an toàn, gữi con cái đi học trong những trường tư thục được bảo vệ tốt, thuê lực lượng bảo vệ riêng và vì thế được an toàn, không sợ sự trả thù của giai cấp vô sản.

Ông chế giễu những người tự do cấp tiến cho rằng mạng sống con người là thiêng liêng và rồi chính sách của nhà nước xử các công dân tội tử hình sẽ tạo ra một hiệu ứng tàn bạo đối với nhân loại nói chung. Chúng ta chỉ là thú vật. Ông nói, và nên được đối xử không khá hơn là những con voi độc bị hành hình ở Ấn Độ khi chúng giết một mạng người. Thực ra là, ông khẳng định, con voi bị hành hình kia còn có nhiều phẩm giá hơn và sẽ đi vào tầng trời cao hơn là những sát nhân nghiện héroin, được để cho sống trong những nhà tù tiện nghi trong năm hoặc sáu năm trước khi chúng lại được thả ra để giết hại nhiều công dân thuộc lớp trung lưu hơn nữa. Khi bàn đến vấn đề xem án tử hình có phải là biện pháp răn đe ngăn chặn hữu hiệu không, ông chỉ ra rằng người Anh là dân tộc có ý thức tôn trọng pháp luật nhất, thậm chí các viên chức cảnh sát của họ không cần phải mang súng: Và ông gán hiện tượng này đơn thuần là do việc người Anh đã hành hình cả những đứa trẻ mới tám tuổi phạm tội ăn cắp, dù là vật nhỏ nhặt như cái khăn tay, cho đến tận thế kỷ mười chín. Rồi ông lại thừa nhận mặc dầu biện pháp này đã quét sạch tội ác và bảo vệ tài sản, nhưng cuối cùng nó đã biến những kẻ kiên quyết hơn trong tầng lớp lao động thành những con vật chính trị hơn là những tội phạm hình sự và do đó đã mang chủ nghĩa xã hội vào nước Anh.

Một câu trong bài viết của Osano đặc biệt làm độc giả nổi điên: "Chúng tôi không biết án tử hình có phải là biện pháp răn đe hữu hiệu hay không, nhưng chúng tôi biết rằng những kẻ đã bị khử đi thì không còn khả năng giết người nữa. Thế là đạt yêu cầu!".

Ông kết thúc bài tiểu luận bằng cách khen mỉa các nhà cầm quyền Mỹ đã có đủ sức ngây thơ để cấp giấy phép cho các tầng lớp hạ lưu được trấn lột và giết người để họ không trở thành những tay cách mạng về chính trị.

Đó là một bài viết đầy chất báng bổ, ngông ngạo, quá khích, nhưng ông viết hay đến nổi toàn bộ sự việc rất lô-gíc. Hàng trăm thư phản đối bay tới tấp đến toà soạn từ những nhà tư tưởng xã hội danh tiếng nhất trong số độc giả trí thức tiến bộ của chúng tôi. Một bức thư đặc biệt do một tổ chức cấp tiến chủ xướng và được những nhà văn tầm cỡ nhất nước Mỹ ký tên đã được gửi đến nhà xuất bản yêu cầu Osano phải rời khỏi vị trí tổng biên tập của tạp chí. Osano cho đăng bức thư đó trong số tới.

Ông vẫn còn uy danh lừng lẫy nên ai đủ can đảm sa thải ông? Mọi người đang chờ quyển tiểu thuyết "vĩ đại" của ông hoàn tất. Tác phẩm sẽ đem về giải Nobel văn chương của ông, đồng thời cũng làm rạng danh thêm cho nền văn học của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ! Đôi khi tôi đi vào văn phòng ông, ông đang viết trên những tờ giấy màu vàng, sẽ bỏ vào hộc bàn và tôi biết đấy là tác phẩm vĩ đại đang hình thành. Tôi chẳng bao giờ tò mò hỏi ông về quyển sách đó và ông cũng không hề muốn hé lộ tí gì.

Vài tháng sau, ông lại gặp chuyện rắc rối. Ông viết một bài tiểu luận đăng ở trang hai trong đó ông trích dẫn những nghiên cứu chứng tỏ rằng những mẫu rập khuôn có lẽ là đúng. Rằng người Ý là những kẻ tội phạm bẩm sinh, rằng người Do Thái giỏi làm tiền hơn bất kì dân tộc nào khác và họ còn có nhiều tay vĩ cầm tài ba, nhiều sinh viên y khoa xuất sắc hơn các giống dân khác, nhưng đằng khác, tệ hơn bất kỳ dân tộc nào khác, hầu hết họ đều đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão. Rồi ông trích dẫn những nghiên cứu chứng tỏ rằng người Ireland nghiện rượu có lẽ là do sự khiếm khuyết hoá học nào đó chưa xác định được hoặc là do sự kiện họ là những kẻ đồng tính luyến ái bị dồn nén. Và vân vân. Những chuyện đó thực sự đã mang lại những lời la ó, nhưng không hề làm cho Osano chùn bước.

Theo tôi nhận định, ông ta sắp điên mất rồi. Một tuần nọ, ông lấy trang đầu tờ báo để đăng chính bài giới thiệu của ông cho một quyển sách về trực thăng. Con ong điên rồ vẫn vẫn vù vù trong óc ông. Trực thăng sẽ thay thế xe hơi, và khi điều đó xảy ra hàng triệu dặm đường nhựa sẽ được cày xới lên để lấy đất làm trang trại. Trực thăng sẽ giúp các gia đình trở về với cấu trúc hạt nhân của chúng bởi vì lúc đó người ta sẽ dễ dàng đi thăm viếng những bà con, thân nhân ở xa. Ông tin chắc rằng xe hơi sẽ trở nên lỗi thời. Có lẽ do ông ghét xe hơi. Để đi nghỉ cuối tuần ở Hamptons, ông luôn dùng một thủy phi cơ hay trực thăng được thuê riêng. Ông cho rằng chỉ cần một vài cải tiến kỹ thuật nữa là việc lái trực thăng cũng dễ dàng như lái xe hơi.

Tiếp đến, ngay trong tuần đó, một quyển sách khảo luận về Hemingway được xuất bản bởi một trong những học giả được kính trọng nhất ở Mỹ trong lĩnh vực văn học. Vị này có một mạng lưới rộng lớn những thân hữu có uy tín và ông đã bỏ cả mười năm trời vào tác phấm này. Quyển đó được giới thiệu nơi trang đầu của một ấn phẩm, trừ nơi tạp chí của chúng tôi. Osano cho đăng bài giới thiệu ở trang năm và chỉ có ba cột thay vì trọn trang.

Cuối tuần đó, nhà xuất bản mời ông họp mặt và ông mất ba tiếng đồng hồ trong dãy văn phòng lớn trên sân thượng để giải thích hành động của mình. Lúc bước xuống về tới văn phòng mình, ông cười đến tận mang tai và hào hứng nói với tôi;

- Merlyn này, ta sẽ còn đùa dai với đám đó. Nhưng ta nghĩ cậu nên bắt đầu đi tìm việc khác là vừa. Ta chẳng có gì phải hối tiếc. Ta sắp hoàn tất tác phẩm để đời và lúc đó ta sẵn sàng nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo, để thảnh thơi em tá rượu bầu. Chỉ phải lo cho cậu thôi đấy.

Vào thời điểm đó tôi đã làm việc cho ông gần cả năm và tôi không thể hiểu bằng cách nào ông hoàn tất được công việc. Ông nhúng tay vào mọi việc, và hơn nữa, ông còn đi dự mọi cuộc liên hoan, hội hè ở New York. Trong thời gian đó, ông còn kịp "đốn ngủ"(1) một truyện vừa, lấy một trăm ngàn đô-la tiền ứng trước. Ông viết truyện đó trong văn phòng bằng thời gian lẽ ra dành cho công việc của tạp chí và ông mất đến hai tháng để viết truyện đó. Các nhà phê bình nồng nhiệt giới thiệu, nhưng sách không bán được nhiều lắm dù được đề cử giải Sách Quốc gia. Tôi đọc sách đó và thấy lời văn bí hiểm một cách rực rỡ, việc xây dựng nhân vật thật lố lăng, việc sắp xếp tình tiết thật điên rồ. Đối với tôi, đó là một quyển sách chẳng ra làm sao mặc dù có vài ý tưởng rối rắm. Ông có một trí tuệ ưu việt, điều đó thì không phải bàn cãi.

Nhưng với tôi, quyển sách đó là một thất bại hoàn toàn, với tư cách là truyện vừa. Ông không bao giờ hỏi tôi có đọc quyển đó không. Rõ ràng ông không muốn nghe ý kiến của tôi. Tôi đoán có lẽ ông biết rằng nó đầy chuyện nhảm. Bởi vì một hôm ông nói:

- Giờ đây vì đã có dủ tiền, mình có thể yên tâm ngồi viết cho xong quyển sách lớn.

Một lý do khoan miễn ông ta nêu ra để tự bào chữa, tôi nghĩ.

Tôi bắt đầu thích Osano, nhưng tôi vẫn luôn sợ ông. Ông có thể lôi tuột mọi ý nghĩ của tôi ra theo cách mà không người nào khác có thể làm được. Ông gợi cho tôi nói về văn chương, về việc chơi bài và về đàn bà. Và rồi, khi ông đã đo lường được tôi, ông sẽ phanh phui tôi. Khi tôi kể với ông về chuyện Jordan tự sát ở Vegas và mọi chuyện diễn ra sau đó và việc tôi cảm thấy sự kiện đó đã làm thay đổi cuộc đời tôi như thế nào, ông nghĩ về điều đó một thời gian lâu rồi ông cho tôi biết cảm nhận kèm theo một bài thuyết giáo:

- Cậu cứ bám vào câu chuyện đó, luôn quay lại với nó, biết tại sao không? - ông hỏi.

Ông đang đi qua những chồng sách trong văn phòng mình vung vẫy đôi tay:

- Vì cậu biết rằng đó là lãnh vực cậu không bị nguy hiểm. Cậu sẽ không bao giờ tự tử. Sẽ không bao giờ thấy tan vỡ nao núng. Cậu không thể là phụ tá thân cận của tôi nếu như tôi không thích cậu. Và tôi tin cậy cậu hơn bất kì ai khác. Nghe đây, tôi muốn thổ lộ một chút tâm tình. Mới tuần rồi tôi phải thảo lại chúc thư khác vì mụ Wendy chết tiệt đó!

Wendy là người vợ thứ ba của ông và vẫn tiếp tục làm cho ông tức điên người với đòi hỏi quá quắt mặc dầu bà ta đã tái giá ngay sau khi ly dị. Chỉ mới nhắc tên bà mà đôi mắt ông đã long lên giận dữ. Nhưng rồi ông trấn tĩnh lại. Ông cười với tôi, một nụ cười ngọt ngào khiến ông trông giống một đứa trẻ dù giờ đây ông đã quá năm mươi.

- Tôi hi vọng cậu không phiền, - ông nói. - Tôi đã uỷ nhiệm cậu làm người đại diện được uỷ thác điều hành tài sản văn học của tôi.

Tôi sững sờ và vui sướng thế nhưng tôi vẫn thụt lùi, ngần ngại. Tôi không muốn ông tin tưởng đến thế hay thích tôi. Tôi không cảm nhận về ông theo cách đó. Thực tế tôi đã cảm thấy thích được bầu bạn với ông, bị mê hoặc bởi trí tuệ sắc sảo nhạy bén của ông. Và dù cố phủ nhận điều đó, song tôi vẫn bị ấn tượng bởi danh vọng văn học của ông. Tôi nghĩ về ông như một người giàu có tiếng tăm, quyền thế và việc ông phải tin cậy tôi tới mức đó chứng tỏ ông dễ tổn thương đến thế nào và điều đó làm tôi choáng váng. Nó phá vỡ một số ảo tưởng của tôi về ông.

Nhưng lúc đó ông tiếp tục nói về tôi:

- Cậu biết không, bên dưới mọi chuyện cậu vẫn coi thường Jordan mà cậu không dám thú nhận với mình. Tôi đã nghe câu chuyện đó của cậu không biết bao nhiêu lần. Chắc là cậu thích anh ta, ngay cả có lẽ cậu hiểu anh ta. Nhưng cậu không chấp nhận sự kiện là một anh chàng có nhiều điều kiện như vậy lại đi bắn vỡ đầu mình. Bởi vì cậu biết mình đã từng có một cuộc sống tệ hơn anh ta rất nhiều, nhưng cậu sẽ không bao giờ hành động như vậy. Cậu còn cảm thấy hạnh phúc dù sống một cuộc đời làng nhàng. Cậu chưa bao giờ có gì cả, cậu chăm chỉ làm việc, cậu có một cuộc hôn nhân thành công và cậu là một nghệ sĩ đã để nửa cuộc đời trôi qua mà chưa có được thành công thực sự nào. Vậy mà cậu vẫn hạnh phúc một cách cơ bản! Ôi Trời, cậu vẫn còn tiếp tục khoái vợ nhà, trong khi hai anh chị đã bao lâu? - Mười, mười lăm năm rồi. Hoặc cậu là một người vô cảm nhất tôi từng gặp hay là anh chàng nhạy cảm nhất. Một điều tôi biết cậu là một người cứng rắn. Cậu sống trong thế giới riêng của mình, làm đúng điều cậu muốn làm. Cậu kiểm soát đời mình. Cậu không gặp rắc rối, và lỡ khi gặp cũng không hoảng loạn, biết cách đối phó và thoát ra. Tốt, tôi phục cậu. Tôi chưa bao giờ thấy cậu làm hoặc nói điều gì thực sự có ý nghĩa nhưng tôi không nghĩ cậu thực sự bất cần thiên hạ. Cậu điều khiển cuộc đời mình.

Và ông ta chờ tôi phản ứng. Ông vẫn cười cười, đôi mắt xanh lục của ông ta láo liên, thách thức. Tôi biết ông đang vui vì đã phô bày nhưng tôi cũng biết ông có phần cố ý như vậy và tôi thấy bị xúc phạm. Có rất nhiều điều tôi muốn nói! Muốn kể ông nghe một đứa bé mồ côi lớn lên như thế nào. Rằng tôi đã thiếu cái cốt lõi, cái cơ bản của hầu hết mọi kinh nghiệm đời người. Rằng tôi đã không có gia đình, không có quan hệ xã hội, không gì ràng buộc mình với phần còn lại của thế giới. Tôi chỉ có anh Artie là người thân thiết duy nhất trên đời. Khi nghe người ta nói chuyện đời, tôi không thể nắm được thật sự họ muốn nói gì cho đến khi tôi cưới Vallie. Đó là lý do tại sao tôi tình nguyện chiến đấu trong thời kỳ chiến tranh. Tôi hiểu rằng chiến tranh là một kinh nghiệm phổ quát khác và tôi không đứng ngoài. Tôi đã có lý. Chiến tranh đã là gia đình của tôi dầu chuyện đó nghe có vẻ ngô nghê đến cỡ nào. Giờ đây tôi vui sướng vì mình đã không bỏ lỡ cơ hội dấn mình vào chốn can qua. Và điều mà Osano làm lơ hoặc không thiết nói tới vì ông đã giả định rằng tôi biết rồi, đó là làm chủ cuộc đời mình đâu có dễ. Và điều ông không thể biết là đồng tiền của hạnh phúc, đó là một thứ tiền tệ mà tôi không bao giờ hiểu được. Tôi đã trải qua phần lớn cuộc đời trong bất hạnh đơn thuần chỉ là hoàn cảnh khách quan. Tôi đã trở nên tương đối hạnh phúc trở lại cũng bởi hoàn cảnh khách quan. Lấy được Vallie, có con với nàng, có được tài khéo hay nghệ thuật hay kỹ năng sản xuất ra các bài viết giúp tôi kiếm sống được, điều đó làm tôi thấy hạnh phúc. Đây là một thứ hạnh phúc được xây dựng bằng những gì tôi kiếm được dựa trên sự mất mát điêu tàn. Và do đó thật giá trị đối với tôi. Tôi biết mình sống một cuộc đời hữu hạn, một cuộc sống thị dân quá bình dị. Rằng tôi có quá ít bạn bè, thiếu tính xã hội, ít chú tâm tới thành công. Tôi chỉ muốn tạo thành công qua đời sống, hay tôi nghĩ thế?

Và Osano quan sát tôi, vẫn còn mỉm cười:

- Nhưng cậu là một kẻ cứng cựa nhất mà tôi từng gặp. Cậu chẳng bao giờ để ai đến gần. Cậu chẳng để cho ai biết được cậu thực sự nghĩ gì.

Nghe vậy tôi phải phải kháng:

- Nghe này, ông hỏi ý kiến tôi về bất kỳ chuyện gì và tôi đều cho ông biết. Tôi xin nói là quyển sách vừa rồi của ông là thứ nhảm nhí, và ông điều hành tạp chí này giống như một người điên.

Osano cười:

- Tôi không quan tâm mấy chuyện đó. Tôi chưa bao giờ nói cậu không trung thực nhưng bỏ chuyện đó đi. Một ngày nào đó, cậu sẽ biết tôi đang nói về chuyện gì. Nhất là nếu cậu bắt đầu đi săn rồng lộn và chẳng may vớ phải một ả như Wendy!

Thỉnh thoảng Wendy đến các văn phòng của tạp chí. Nàng là một cô tóc nâu với đôi mắt điên dại và một thân hình căng đầy nhựa sex. Nàng rất thông minh và lẽ ra Osano có thể đưa sách cho nàng giới thiệu, phê bình. Nàng là người duy nhất trong số các cựu bà xã của ông không ngán ông và nàng đã làm cho đời ông khốn nạn kể từ khi họ ly dị. Khi ông bê trễ trong việc trả tiền trợ cấp, nàng liền đến toà án để đòi tăng thêm phần tiền đó. Nàng đã chộp một anh văn sĩ mới hai mươi tuổi về ở chung căn hộ với nàng và lo cho chàng ta đủ thứ. Tay này lại nghiện nặng ma tuý và Osano lo lắng chuyện hắn có thể làm hại những đứa con của mình.

Osano kể những câu chuyện về cuộc hôn nhân của hai người mà tôi tưởng như không thể tin nổi, vì bà ta rất ngang ngạnh, bướng bỉnh và còn điên hơn cả ông nữa. Cho nên trong cuộc đối đầu triền miên giữa họ, cuối cùng kẻ thắng là kẻ dám điên hơn!

Đôi khi họ có những cãi cọ nhỏ, bà ta sẽ gọi cảnh sát đến tống cổ ông ra khỏi căn hộ và cảnh sát sẽ đến và sẽ sửng sốt trước tính ngược ngạo phi lý của bà ta. Họ thấy quần áo của Osano bị kéo cắt thành từng mảnh vụn vương vãi khắp sàn nhà. Bà thừa nhận mình làm điều đó, nhưng đâu phải vì thế mà Osano có quyền đánh bà. Điều bà không nói đến đó là bà đã ngồi trên đống quần áo bị cắt vụn ra và thủ dâm với một máy rung.

Và Osano có nhiều chuyện kể về cái máy rung này. Bà đã đến một nhà tâm lý trị liệu bởi vì bà ta không thể đạt đến cực khoái. Sau sáu tháng, bà đã thừa nhận với Osano rằng nhà trị liệu kia đã phết bà ta đều đều, như là một phần của việc trị liệu. Osano không ghen; vào thời điểm đó ông thật sự ghê tởm bà ta.

- Ghê tởm! - ông nói - Không phải ghét. Có sự khác biệt đấy.

Nhưng Osano giận như điên mỗi lần ông cầm biên nhận của nhà trị liệu và ông hét vào mặt bà:

- Tôi phải trả cả trăm đô-la mỗi tuần cho một thằng lưu manh nó chơi vợ tôi và chúng gọi là "y khoa tiên tiến!"

Và ông còn kể chuyện khi bà vợ mở một tiệc cocktail và bà ta điên đến nỗi thôi không đến nhà trị liệu mà mua một máy rung. Mỗi chiều tối, trước bữa ăn tối, bà khoá cửa ở một mình trong phòng ngủ để cách ly với mấy đứa trẻ và thủ dâm với cái máy. Bà ta luôn đạt đến cực khoái. Bà ra quy định nghiêm ngặt là không ai được làm rộn bà trong giờ đó. Cả nhà, kể cả lũ trẻ đều nói đến đó là "giờ hạnh phúc".

Cuối cùng điều làm cho Osano phải rời bỏ bà, theo như ông kể, là khi bà bắt đầu ca cẩm về chuyện Scott Fitzgerald đã ăn cắp những gì tốt đẹp nhất từ bà vợ Zelda của ông ta. Rằng lẽ ra Zelda đã trở nên một tiểu thuyết gia vĩ đại nếu phải chi chồng bà đã không chôm chỉa bao nhiêu tinh hoa của bà, Osano tức quá, nắm lấy đầu tóc của bà vợ và dí mũi bà ta vào quyển The Great Gatsby.

- Hãy đọc cái này đi, đồ cái lũ ngu xuẩn! - ông hét lên. - Chỉ cần đọc độ mươi câu thôi rồi đối chiếu với quyển sách của vợ ông ta. Rồi hãy trở lại nói chuyện với ta!

Bà ta đã chịu khó đọc cả hai quyển và quay lại với Osano và nói với ông ta cùng điều đã nói. Ông đấm vào mặt bà, bầm tím cả hai mắt rồi dứt khoát chia tay.

Vừa mới đây thôi. Wendy lại thắng một keo nữa trong cuộc đấu với Osano một chiến thắng đáng nguyền rủa. Ông biết là bà ta lấy tiền trợ cấp nuôi con để đem cung phụng cho chàng tình nhân trẻ. Nhưng có một ngày con gái ông đã đến xin tiền bố để mua quần áo. Cô giải thích rằng bác sĩ phụ khoa đã khuyên cô đừng mặc quần Jeans nữa vì bị nhiễm trùng âm đ*o và cô hỏi mẹ cho tiền mua sắm quần áo, mẹ cô nói:

- Hỏi bố mày đấy!

Chuyện này xảy ra khi họ ly dị đã năm năm. Để tránh tranh cãi, Osano đưa tiền trợ cấp trực tiếp cho con gái. Wendy không phản đối. Nhưng sau một năm, bà đưa Osano ra toà vì tiền trợ cấp năm qua. Cô con gái làm chứng cho bố. Osano đã tưởng chắc ăn là mình sẽ thắng khi quan toà hiểu rõ mọi tình huống. Nhưng quan toà nghiêm khắc truyền cho ông chẳng những phải trả tiền trực tiếp cho bà mẹ mà còn phải trả gộp luôn tiền trợ cấp cả năm qua. Và thực tế là ông phải trả gấp đôi.

Wendy hồ hởi với chiến thắng đến nỗi sau đó bà ta cố gắng trở nên thân thiện hữu hảo với ông. Ngay trước mặt đám con, ông phũ phàng quét đi mọi biểu hiện tình cảm của bà và lạnh lùng tuyên bố:

- Nhà ngươi là cái âm đ*o tồi tệ nhất mà bản quan nhân đây từng thấy!

Lần sau khi Wendy đến toà soạn tạp chí, ông từ chối không cho bà vào văn phòng của mình và cắt mọi công việc ông đã giao bà. Và điều làm ông ngạc nhiên đó là bà không hiểu tại sao ông ghê tởm bà. Bà bêu riếu ông với bạn bè của bà và rêu rao rằng ông chưa hề một lần thoả mãn bà trên giường, rằng ông không đủ chuẩn để làm cái việc quá dễ đó. Rằng ông là một kẻ đồng tình luyến ái bị ức chế, chỉ thích đám con trai nhỏ. Bà tìm cách ngăn cản ông không được gần con trong mấy tháng hè, nhưng Osano thắng trận đó, rồi ông cho đăng một chuyện ngắn châm biếm sắc bén ma mãnh về bà trong một tạp chí quốc gia.

Có thể trong đời ông không khiển được bà nhưng trong truyện ông vẽ ra một chân dung thật khủng khiếp và vì mọi người trong văn giới ở New York đều biết bà, nên người ta nhận diện được nhân vật trong truyện ngay. Bà ta bị nghiền nhuyễn trong mức độ khả thi cao nhất, và sau đó bà ta tởn, chịu để yên cho Osano. Nhưng bà đã ngấm vào trong ông như một thứ thuốc độc. Ông không thể kềm lòng được khi nghĩ đến bà mà mặt ông không đỏ bầm lên, đôi mắt không long sòng sọc như sắp lên cơn.

Ngày nọ ông bước vào văn phòng và bảo tôi rằng một hãng phim đã mua một trong các tiểu thuyết của ông để dựng thành phim và ông phải đi đến đó để hội thảo về kịch bản phim, với mọi chi phí hãng đó chịu. Ông đồng ý, ông bị bao vây bởi các bà vợ và ghét du lịch một mình và ông cảm thấy mình sắp đi vào miền đất thù địch. Ông muốn có bạn bên mình. Dù sao đó là điều ông nói và vì tôi chưa bao giờ ở California và tôi vẫn được lãnh lương trong khi đi xa, nên đây có vẻ là một cuộc thương lượng tốt. Tôi chưa biết rằng chuyến đi này sẽ còn đem lại cho tôi nhiều thứ hơn là việc tìm một con đường để tạo sự nghiệp.

Chú thích:

(1) Nói lái: đủ ngốn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Tôi ở Vegas. Osano kết thúc các buổi hội thảo về việc chuyển thể điện ảnh cho quyển sách của ông vì thế tôi lấy chuyện bay ngắn đến Los Angeles để bay về nhà với ông, bầu bạn với ông.

Cully muốn tôi mang Osano đến Vegas để được hội kiến với ông. Tôi không thuyết phục được Osano đến Vegas, vì vậy tôi phải đi Los Angeles.

Trong phòng của mình ở khách sạn Beverly Hills, Osano càng tỏ ra bực bội hơn như tôi chưa từng bao giờ thấy ông như vậy. Ông cảm thấy như nền công nghiệp điện ảnh đã đối xử với ông không ra gì. Họ lại không biết rằng ông lừng danh khắp thế giới là kẻ được cưng chiều của các nhà phê bình văn học từ London đến New Dehli, từ Moscow đến Sydney. Ông nổi danh trong ba mươi thứ tiếng kể cả những biến tấu dị biệt của ngôn ngữ Slave. Có điều ông bỏ lơ không nhắc tới đó là mọi cuốn phim được dàn dựng từ việc chuyển thể các tác phẩm của ông lạ lùng thay đều bị lỗ nặng.

Và Osano còn bực bội về những chuyện khác. Tính tự tôn của ông không chịu được việc giám đốc sản xuất phim lại quan trọng hơn nhà văn khi Osano muốn đưa một bạn gái của mình vào một vai nhỏ trong phim. Đề xuất đó không được chấp nhận và điều đó làm ông tức giận, ông lại nổi sùng hơn nữa khi tay quay phim và một diễn viên phụ đưa được bạn gái của họ vào phim.

Thế là một tên quay phim ấm ở và một diễn viên phụ cà là mèng được coi là nặng kí hơn cả Osano vĩ đại to đùng! Tôi chỉ hy vọng chỉ đưa được ông lên máy bay trước khi ông nổi điên và đập nát cả phim trường và phải nằm trong hộp. Và chúng tôi có cả nguyên một ngày và một đêm chờ đợi ở Los Angeles vì sáng hôm sau mới có chuyến bay để làm dịu cơn của ông, tôi mang ông đến tay đại lý bờ Tây của ông một anh chàng có phong cách hippie chơi tennis, có nhiều khách hàng trong giới kinh doanh biểu diễn. Anh ta cũng có vài cô bạn gái trông rất ngon mắt mà tôi từng thấy. Tên anh ta là Doran Rudd.

Doran cũng làm hết sức mình nhưng khi tai hoạ nằm phục thì vô phương cứu vãn.

- Ông cần một đêm đi rong, - Doran nói - Thư giãn một tý, một bữa ăn tối ngon với một cô bạn thật xinh, một viên thuốc ngủ nho nhỏ để đêm nay ông dễ ngủ. Một viên thuốc ngủ biết thổi kèn du dương để dìu ông vào giấc điệp êm đềm.

Doran rất duyên dáng và rất lịch sự với phụ nữ nhưng khi giữa đàn ông với nhau thôi, anh ta lại miệt thị giống cái.

Được thôi nhưng Osano phải diễn một màn nho nhỏ trước khi chấp thuận, chứ xét cho cùng thì một nhà văn nổi danh thế giới một người sắp đoạt giải Nobel văn học đâu có thể để kẻ khác xỏ mũi dễ dàng như một cậu bé mới lớn. Nhưng anh chàng đại lý này trước nay cũng đã từng biết cách điều động những nhân vật tầm cỡ như Osano. Doran Rudd đã từng sắp xếp cuộc chơi cho một vị bộ trưởng ngoại giao, một Tổng thống và một nhà truyền giáo tài ba nhất nước Mỹ người đã từng lôi kéo được hàng triệu tín đồ đến trước Bàn Thiêng song đồng thời cũng là con dề xồm cuồng dâm nhất thế giới, theo lời Doran.

Thật là thích khi nhìn tay đại lý mơn man, vuốt ve "cái tôi" căng phồng xù lông nhím của Osano bởi vì đây không phải theo kiểu tác chiến của Vegas nơi các nữ tiếp viên được gửi đến phòng riêng của bạn như một chiếc bánh pizza. Còn đây là suất ngoại hạng.

- Tôi có một bạn gái rất thông minh từ lâu vẫn ngưỡng mộ ông vô cùng và rất khao khát được hạnh ngộ ông, - Doran nói với Osano. - Cô ấy đã đọc mọi tác phẩm của ông, cô ta nghĩ ông là nhà văn vĩ đại nhất nước Mỹ. Không đùa đâu. Và chẳng phải thuộc loại những em loàng xoàng mơ ước được làm diễn viên điện ảnh, cô ta tốt nghiệp khoa tâm lý học ở đại học California, có quan hệ lớn trong giới điện ảnh để có thể liên hệ xin viết kịch bản phim. Chính là người trong mộng cho ông đấy.

Tất nhiên là anh ta không hề chơi lỡm Osano. Osano biết mình được gán ghép với cái mình thực sự thích nên không thể cưỡng lại việc đặt ra câu hỏi trong lúc Doran nhấc điện thoại lên:

- Này này mọi chuyện nghe có lý đấy, nhưng mà mình có phết nàng được không?

Tay đại lý quay số với một cây bút chì đầu mạ vàng:

- Ông có được cơ may chín mươi phần trăm đấy

Osano nói nhanh:

- Làm thế nào cậu xác định con số đó?

Ông luôn luôn hỏi vậy bất kỳ khi nào có ai đó nêu ra một con số thống kê về ông. Ông ghét môn thống kê xác xuất.

Doran khựng lại anh ta ngưng quay số:

- Tôi đã giới thiệu cô ấy đi ăn tối với năm anh chàng kể từ khi tôi quen cô ấy, bốn trong năm anh chàng đã ghi điểm.

- Vậy là tám mươi phần trăm, - Osano nói.

Doran tiếp tục quay số lại. Khi một giọng nói lên tiếng trả lời, anh ta dựa ngửa ra ghế và nháy mắt với chúng tôi rồi anh ta đi vào cuộc nhảy.

Tôi phục điều đó. Thực sự phục. Anh ta thật thiện nghệ. Giọng anh ta thật ấm, tiếng cười rất vui vẻ tự nhiên.

- Catherine, - anh ta dỗ dành, nựng nịu - Này cưng, nghe đây. Anh đã nói chuyện với tay giám đốc sắp làm cuốn phim cao bồi Viễn Tây với Clint Eastwood. Em có tin được là ông ấy nhớ em từ cuộc phỏng vấn năm rồi? Ông ấy bảo rằng em có giọng hay hơn bất kỳ ai khác, nhưng ông ấy phải đi với một tên tuổi lớn mà sau đó ông ấy hối hận đã phí thời gian. Dù sao, ông muốn gặp em ngày mai vào khoảng mười một giờ sáng hay ba giờ chiều. Anh sẽ gọi em sau để xác định thời điểm chính xác. Nhất trí nhé? Nghe này, anh thực sự có cảm nghĩ tốt về nhân vật này. Anh nghĩ đây là một bước đột phá lớn. Anh nghĩ thời của em đã đến. Không, không đùa đâu?

Anh ta nghe bên kia một hồi:

- Phải, phải, anh nghĩ em tuyệt vời với cái đó. Tuyệt đối kỳ diệu.

Anh ta đảo tròn mắt với chúng tôi một cách khôi hài- điều này khiến tôi không ưa anh ta.

- Ừ, anh sẽ báo bọn chúng đi, và quay về với em. Nghe này, đoán thử xem có ai đang ở trong văn phòng anh giờ này. Không, không phải. Nghe này, đó là một nhà văn tiếng tăm lừng lẫy - Osano - đúng vậy không đùa đâu. Không thật mà. Phải, chính ông ấy đang có mặt nơi đây. Em tin hay không tuỳ ý ông ấy vừa nhắc đến em, không phải bằng tên em - Chúng tôi vừa bàn về điện ảnh mà nói đến cái vai em đã diễn, một vai nhỏ nhưng em diễn rất đạt, rất xuất sắc trong phim City Death. Buồn cười phải không - Đúng, ông ấy hâm mộ em. Phải rồi, anh có nói rằng em thích các tác phẩm của ông. Nghe này, anh chợt có ý nghĩ rất hay. Anh sắp đi ăn tối với ông ấy, ngay tối nay, tại sao em không đến để làm đẹp trong bàn của bọn anh? Tuyệt, anh sẽ cho xe đón em lúc tám giờ. OK, cưng của anh người tình bé bỏng của anh. Anh biết ông ấy sẽ thích em. Ông ấy không muốn gặp bất kỳ tiểu tinh nào. Không thích loại tiểu tinh. Ông ấy cần có người thanh khí để đàm đạo, mà anh vừa nhận thấy rằng hai người, em và ông ấy sinh ra là để cho nhau. Ừ, được rồi, tạm biệt nhé cưng.

Tay đại lý gác máy ngửa ra sau và cười duyên với chúng tôi:

- Nàng thực sự là một cái "ngon không chê được" anh ta khẳng định.

Tôi có thể thấy Osano hơi xỉu bởi toàn bộ cảnh vừa qua. Ông thực sự thích đàn bà và ghét thấy họ bị lỡm. Ông vẫn thường nói, đối với đàn bà, chẳng thà người phụ ta nhưng ta chẳng phụ người. Thực tế là ông từng có lần giải trình cho tôi nghe toàn bộ luyến ái quan của ông, vì sao trong tình yêu làm nạn nhân tốt hơn là làm sát thủ.

- Hãy nhìn tình yêu theo góc độ này, - Osano từng nói. - Khi cậu đang quan hệ yêu đương với một cô nàng, cậu đang thu được phần tốt nhất từ mối quan hệ đó ngay cả khi nàng đang lừa cậu. Cậu là người đang cảm thấy lâng lâng, là người đang vui hưởng từng mỗi phút giây. Nàng là người đang trải qua một thời gian khó chịu. Nàng đang làm cậu đang hưởng thụ. Vậy thì tại sao còn than thở khi cuối cùng nàng vứt bỏ cậu và cậu biết mình đã bị lừa?

Tốt, triết lý cao thượng đó của ông tối hôm ấy được mang ra thử nghiệm. Ông đã đi với nàng và trở về nhà trước nửa đêm, gọi điện thoại rồi đến phòng tôi để uống một ly và kể chuyện gì đã xảy ra với Catherine. Tỷ lệ bách phân để ghi điểm với nàng tối hôm đó đã xuống rất thấp, nàng là một cô tóc nâu nhỏ nhắn, duyên dáng sôi nổi, tỏ lòng ái mộ Osano, nàng yêu ông. Nàng ngưỡng mộ ông. Nàng sung sướng run rẩy khi được hân hạnh cùng với ông đi ăn tối. Doran hiểu được ý đó và lặng lẽ biến sau khi dùng cà phê. Osano và Catherine còn uống với nhau một chai sâm banh trước khi quay về khách sạn để bàn công việc. Chính lúc đó vận may của Osano lại quay vòng 180 độ mặc dầu ông vẫn còn có thể "giải y thoát xác" không hề hấn gì nhưng cái tự ngã cao sừng sững của ông đã bị khều té đánh huỵch một cú đau điếng. Mà cay nhất là bị hạ đo ván bởi một chàng lùn tịt. Thế mới càng đau như hoạn!

Chuyện là thế này. Tên tội đồ gây ra cái sự cố đáng nguyền rủa kia là một trong những diễn viên kỳ dị nhất của Hollwood; tên y là Dickie Sanders, y đã từng thắng một giải Oscar và đã từng thành công qua sáu bộ phim. Điều làm cho hắn trở thành độc đáo là hắn là một chàng lùn. Chuyện ấy không đến nỗi tệ như ta tưởng đâu. Chàng ta chỉ phải tội là quá ngắn thôi. Nhưng mặt khác, chàng ta lại rất đẹp trai - đối với một người lùn. Bạn có thể nói rằng hắn là một chàng James Dean thu nhỏ. Hắn cũng có nụ cười buồn, ngọt ngào giống James Dean mà hắn biết sử dụng với hiệu ứng tàn phá có tính toán, đối với phụ nữ. Họ khó cầm lòng đối với hắn và như Doran nói, bỏ qua một bên mọi chuyện nhảm, thì có cô gái từng trải nào lại có thể cưỡng lại việc lên gường với một chàng lùn đẹp trai. Vì thế Dickie Sanders bước vào nhà hàng không có sự cạnh tranh nào. Hắn ta đi một mình, và hắn dừng lại ở bàn của họ để chào Catherine, hình như họ biết nhau, nàng đã từng đóng chung với hắn một vài phim. Và dù sao, nàng cũng ngưỡng mộ hắn gấp hai lần nàng ngưỡng mộ Osano.

Và Osano bực bội đến nỗi ông để nàng lại với chú lùn và quay về khách sạn một mình.

- Một thành phố chẳng ra gì! - ông nói - Một kẻ như ta lại phải mất mặt trước một thằng lùn chết tiệt.

Đau thật. Danh vọng trùm đời của ông chẳng là cái gì cả sao? Giải Nobel sắp trao cho ông cũng chưa là cái nghĩa địa gì cả. Bao nhiêu giải Pulitzer và giải National Book cũng chỉ treo xó bếp? Ông vẫn xếp hàng thứ nhì sau một chàng diễn viên lùn và ông không chịu nổi chuyện đó! Cuối cùng tôi phải dìu ông về phòng, đưa ông lên gường và an ủi ông:

- Thôi ông ngủ đi. Còn khối em đẹp hơn nàng ta gấp trăm lần vân ái mộ và chờ ông đấy. Quên con nỡm rởm đời ấy đi.

***

Sáng hôm sau, khi Osano và tôi ngồi vào chiếc Boing 747 bay về New York, ông vẫn còn xuống tinh thần. Không chỉ vì ông không công phá được một thành trì bằng đất nện, mà còn vì họ làm hỏng bản chuyển thể điện ảnh từ cuốn sách ông. Ông biết rằng đó là một bản cải biên tồi và ông nhận định đúng. Vì thế ông thực sự mang tâm trạng u uất, bực dọc lúc ngồi trên máy bay và đòi cô tiếp viên cho một ly Scotch ngay trước khi máy bay cất cánh.

Chúng tôi ngồi ngay trên hàng ghế đầu sát buồng lái, và trong hai chỗ ngồi cánh bên kia là một cặp vợ chồng trung niên, rất mảnh mai, rất thanh lịch. Người chồng có cái nhìn cúi xuống, vẻ buồn bã nhưng trên khuôn mặt anh ta trông có vẻ hấp dẫn. Người ta có ấn tượng rằng anh ta đang sống trong một địa ngục riêng nhưng là nơi đáng đời anh ta. Đáng đời, vì cái vẻ ngạo mạn lồ lộ nơi anh ta, vì sự xa hoa nơi trang phục anh ta, vì vẻ ác tâm toát ra từ đôi mắt anh ta. Anh ta đang đau khổ và lạy Chúa, sắp làm cho mọi người chung quanh phải đau khổ theo nếu anh ta nghĩ họ cũng đáng bị như vậy.

Chị vợ trông giống người đàn bà hư hỏng kiểu cổ điển. Rõ ràng chị ta giàu hơn chồng dù có lẽ cả hai đều giàu. Dấu hiệu giàu sang biểu lộ trong cái cách họ lấy đồ ăn thức uống từ cô tiếp viên. Trong cách họ liếc nhìn Osano đang nhấm nháp thử thức uống bất hợp pháp với kỹ thuật của ông ấy. Người phụ nữ có vẻ đẹp táo bạo được duy trì nhở khoa giải phẫu chỉnh hình cao cấp và một làn da được tắm nắng đều đặn hằng ngày nơi các bãi biển miền Nam. Và một cái miệng rộng với đôi môi dày thấm đẫm dục vọng. Dưới chân nàng ta và sát vách buồng lái là một cái lồng bằng dây kẽm, bên trong đó là một con chó xù Pháp có lẽ là con chó lông xù đẹp nhất thế giới. Nó có những sợi lông bạc bóng loáng. xoắn lại thành những vòng nhỏ, cái miệng hồng tươi, một ruy băng hồng thắt lại thành hình cánh cung trên đầu. Nó còn có một cái đuôi đẹp với một cánh cung màu hồng trên đó phe phẩy qua lại. Nó là con chó nhỏ hạnh phúc nhất người ta từng thấy và trông ngoan hiền nhất. Hai con người làm chủ nó tỏ vẻ vui thích vì sở hữu được một báu vật như vậy. Khuôn mặt người đàn ông có phần dịu lại khi anh ta nhm vào con chó xù. Người đàn bà không tỏ vẻ vui thú nhưng lại để lộ niềm tự hào sở hữu, giống kiểu một bà già xấu xí đang chăm chút bảo vệ cho cô con gái xinh đẹp trong trắng của mình mà bà đang sửa soạn để "giới thiệu sản phẩm". Khi người đàn bà đưa bàn tay ra cho con chó liếm, động tác của chị ta giống như giáo hoàng đưa nhẫn cho tín đồ hôn.

Điều kỳ diệu nơi Osano là ông ta không bao giờ bỏ sót cái gì ngay cả khi dường như ông ta đang ngó nhìn về hướng khác. Ông đã chăm chăm nhìn vào ly rượu của mình, thu người ngồi thấp xuống trong ghế. Thế mà giờ dây ông nói với tôi:

- Mình chẳng thà kiếm một cú liếm, mút, bú từ con chó đó hơn là từ con mụ kia.

Tiếng động cơ phải lực làm cho những người ngồi bên kia không thể nào nghe được, nhưng dù sao tôi cũng cảm thấy áy náy. Chị ta nhìn chúng tôi một cách lạnh lùng, trịch thượng, nhưng có lẽ đó là cách chị ta vẫn nhìn người khác.

Rồi tôi lại cảm thấy có tội khi kết án đôi vợ chồng kia. Xét cho cùng, họ cũng là hai con người. Do đâu mà tôi lại đi hạ thấp họ, chỉ thuần bằng suy luận chủ quan?

Vì thế tôi nói với Osano:

- Có thể họ cũng chẳng tệ như chúng ta đã xem mặt mà bắt hình dong vậy đâu.

- Đúng họ là như vậy đấy. - ông khẳng định chắc nịch.

Như thế thật không xứng đáng với ông. Ông có thể mang đầu óc sô-vanh trọng nam khinh nữ phân biệt chủng tộc và đầu óc hẹp hòi nhưng chỉ một chút trên đỉnh đầu thôi. Thực tế điều đó cũng không có ý nghĩa gì mấy. Nên tôi làm ngơ chuyện đó và khi cô tiếp viên xinh xắn đến chỗ chúng tôi mời dùng bữa, tôi kể ông nghe những câu chuyện về Vegas. Ông không thể tin rằng tôi đã từng có lần là một tay cờ bạc máu mê.

Lờ đi đám người ở cạnh bên kia, làm như họ không có mặt, tôi nói với ông:

- Ông có biết những tay chơi cờ bạc gọi tự tử là gì không?

- Không, - Osano đáp.

Tôi mỉm cười:

- Họ gọi đó là con át chủ bài.

Osano lắc đầu.

- Kỳ diệu quá nhỉ? - ông nói vẻ khô khan.

Tôi thấy ông có vẻ hơi khinh thị đối với cái giọng kịch tình cảm rẻ tiền của câu nói, nhưng tôi tiếp tục:

- Đó là điều Cully nói với tôi vào buổi sáng hôm đó khi nghe tin Jordan tự tử. Cully từ trên lầu đi xuống và nói với tôi: "Cậu có biết thằng cha Jerdy chết tiệt làm gì chưa? Hắn rút con át chủ bài từ tay áo hắn ra và ném xuống canh bạc lớn nhất trong đời".

Tôi ngưng lời và nhớ lại sự kiện ấy càng rõ ràng hơn, giờ đây, khi bao năm đã trôi qua. Thật buồn cười tôi không hề nhớ nổi câu đó từ trước nay Cully đã nói tối hôm đó.

- Hắn viết hoa mấy từ đó trong giọng nói của hắn, ông biết không. "Con át chủ bài".

- Tại sao anh nghĩ hắn thực sự làm điều đó? - Osano hỏi, không hào hứng lắm, nhưng ông ta thấy tôi bối rối.

- Ai mà biết được? - tôi nói. - Tôi đã nghĩ rằng mình tinh tế lắm. Tôi đã nghĩ mình hình dung ra điều ấy. Như nắm bắt được ý đồ anh ta nhưng rồi anh ta đánh lạc hướng tôi. Đó là điều làm tôi ray rứt mãi. Anh ta làm tôi hoài nghi vào tính nhân đạo, tính nhân đạo bi đát nơi anh ta. Đừng bao giờ để cho ai làm cho bạn hoài nghi tính nhân đạo nơi bất kỳ người nào.

Osano cười, gật đầu về phía những người ngồi cánh bên kia.

- Giống như họ? - ông hỏi.

Và tôi nhận ra đó là lý do tôi kể cho ông nghe câu chuyện này.

Tôi liếc nhìn cặp vợ chồng nọ:

- OK, - ông nói. - Nhưng đôi khi sự việc lại ngược lại. Nhất là những người giàu. Cậu có biết người giàu làm sao không? Họ nghĩ họ cũng tốt lành như bất kỳ người nào khác chỉ vì họ có khối tiền.

- Họ không tốt à? - Tôi hỏi.

- Không, - Osano nói - Họ giống như bọn gù lưng.

- Thế những người gù lưng thì không thể tốt như người khác hay sao? - Tôi hỏi.

- Không! - Osano đáp - Cũng như những người chột mắt, những kẻ lùn tịt, bọn phê bình và phụ nữ xấu xí và những kẻ nhát gan. Và bọn nhà giàu hãnh tiến.

Ông ta có phần phi lý và phi lôgíc, không phải lúc trí tuệ toả sáng, nhưng đã sao nào, ông ta gặp một phần xui xẻo; đâu phải ai cũng xui như ông ta khi mối tình mới chớm phát lại bị một thằng lùn phá đám. Nên tôi cứ buông cương.

Chúng tôi ăn cho xong bữa. Rồi cùng đến phòng mái vòm của máy bay.

Ông ngồi trong một chiếc ghế lưng dài và đốt một điếu thuốc xì gà Havana. Ông mời tôi một điếu và tôi vui vẻ nhận. Tôi cũng bắt đầu khoái hút xì gà. Phòng bắt đầu đông người, cô tiếp viên trực bận bịu làm thức uống. Khi mang ly ruợu Martini đến cho Osano, cô ngồi vào tay vịn của chiếc ghế ông và ông đặt một bàn tay vào lòng cô để nắm lấy tay cô.

Tôi có thể thấy rằng một trong những điều thú vị khi người ta nổi tiếng cỡ như Osano, là bạn có thể tự nhiên thoải mái với những trò như vậy. Trước nhất do bạn có đủ tự tin thứ nhì là cô gái trẻ thay vì nghĩ bạn là một lão già dịch lại cảm thấy được phỉnh phờ ghê gớm là một nhân vật quan trọng cỡ đó có thể nghĩ rằng nàng hấp dẫn đến thế. Nếu như ông nhà văn lớn Osano thèm được "xoáy ốc vít" nàng, hẳn nhiên nàng phải là một cái gì đặc biệt. Chứ các nàng đâu biết rằng Osano vốn là một dê xồm hăng tiết, sẵn sàng đóng dấu lên bất cứ thứ gì mặc váy! Chuyện này thật ra cũng không đến nỗi tệ lắm, như khi ta mới thoạt nghe mấy từ có phần mang chất cấm kỵ đó, bởi vì có khối thằng cha giống như ông ta còn sẵn sàng "ịn" lên bất cứ thứ gì mặc quần tây hay mặc váy nữa kia.

Cô gái trẻ bị mê hoặc bởi Osano. Thế rồi một nữ hành khách coi cũng được mắt bắt đầu đến với ông, một chị sồn sồn quá niên trạc ngoài tứ tuần với khuôn mặt hứng khởi có hơi khùng điên. Chị ta kể với chúng tôi rằng mình vừa mới bình phục sau ca phẫu thuật tim, nên sáu tháng qua chưa đi quả nào và hiện nay sẵn sàng vào cuộc. Đó là loại chuyện mà phụ nữ thường kể cho Osano nghe. Họ cảm thấy có thể kể cho ông ta biết bất kỳ chuyện gì vì ông ta là nhà văn và do đó sẽ hiểu được mọi uẩn khúc oái ăm của nhân tình thế thái. Và cũng vì ông ta nổi tiếng và điều đó làm cho họ trở nên thú vị đối với ông.

Osano lơ cô tiếp viên quay sang tư vấn cho chị sồn sồn về chuyện nên "đi lại" như thế nào sau một thời gian gián đoạn khá lâu. Ông ta xuống những quân bài một cánh nhẩn nha, lạnh lùng nhằm chọc cho cô tiếp viên trẻ phải tức lộn ruột.

Thế rồi sau một hồi đưa ra những lời tư vấn lăng nhăng với vẻ mặt nghiêm trang trịnh trọng giả vờ, thực chất là để giễu chị hồi xuân dở hơi kia - mà nguyên nhân có lẽ là do "suy dinh dưỡng tính dục", ông đột ngột quay ngoắt đí làm như quên bẵng chị ta, và kêu một ly rượu khác.

Nàng tiếp viên trẻ ghen tức và bực bội chuyện ông đã làm ngơ với em suốt thời gian qua, nên đưa cho ông ly rượu như một người máy rồi lướt đi theo cái cách lạnh lùng sỉ nhục mà người trẻ luôn có thể sử dụng để "chọc quê" mấy anh già ham chơi trống bỏi lại còn bày đặt chàng ràng bắt cá hai tay.

Vào ngay lúc đó, cặp vợ chồng với con chó xù bước lên các bậc cầu thang đưa vào phòng giải khát như thường lệ. Osano dường như không lưu ý tới họ dù họ liếc nhìn ông chứng tỏ họ biết ông là ai. Có lẽ từ TV. Osano đã lên TV hàng trăm lần và luôn luôn làm cho mình trở nên thú vị theo một cách hơi điên dại, khiến giảm đi phần nào giá trị thực của ông ta.

Hai vợ chồng nọ kêu thức uống và thả con chó chạy loanh quanh hít hít ngửi ngửi người này người kia. Bà vợ đeo cặp kính đen. Vì một lý do huyền bí nào đó, tôi linh cảm là một điều xấu, một dấu hiệu đáng ngại. Khi cô tiếp viên mang nước uống tới cho bà, bà ta nói nhỏ với cô gái. Cô tiếp viên nhìn bà có vẻ sửng sốt.

Tôi đoán là vào đúng lúc đó bỗng dưng tôi cảm thấy hơi bối rối và linh cảm chuyện chẳng lành đã khởi động vòng quay tai ương của nó, trong khi đó có lẽ Osano chỉ nghĩ đến việc làm thế nào dụ được cô tiếp viên vào toilet để tốc chiến tốc thắng lúc cùng nàng lơ lửng trên chín từng mây! Thế nhưng nàng lại đến với tôi và nghiêng người thì thầm vào tai tôi. Thế mới chết chứ? Tôi có thể thấy rõ cụ Osano nổi cơn ghen. Ông ta nghĩ cô gái đang hoặc phải lòng tôi hoặc muốn chọc tức ông và đó là cả một sự sỉ nhục cho uy danh của ông hơn bất kỳ điều gì khác ông có thể hiểu rằng mốt cô gái thích một anh chàng trẻ tuổi hơn, đẹp trai hơn nhưng đừng coi thường danh tiếng của ông. Nhưng cô tiếp viên thì thầm vào tai tôi một điều còn kinh khủng hơn nhiều. Cô nói:

- Bà kia muốn tôi nói với ông Osano hãy dập tắt điếu xì gà. Bà ấy bảo rằng khói xì gà làm cho con chó của bà khó chịu!

Trời đất! Con chó đâu được quyền vào trong phòng này để chạy lăng nhăng? Nó phải ở trong lồng của nó chứ. Ai mà chẳng biết điều đó. Cô gái hỏi nhỏ giọng lo lắng:

- Em phải làm gì đây?

Nàng chờ đợi câu trả lời. Tôi nhún vai:

- Bất kỳ điều gì mà nhiệm vụ buộc cô phải làm.

Một câu trả lời gieo mầm tai vạ. Tôi từng biết Osano có thể nổi điên bất cứ lúc nào và đây chính là một tình huống dễ nổ thùng thuốc súng nhưng tôi vẫn luôn tò mò xem con người ta phản ứng ra sao. Có lẽ Osano sẽ cho chiếc máy bay đâm đầu xuống địa ngục trước, rồi ông sẽ dụi tắt điếu thuốc sau?

Tôi đoán cô tiếp viên cũng cảm nhận như thế hoặc có lẽ muốn làm mất mặt Osano bởi vì từ nãy giờ ông không còn để ý tới cô nữa. Hoặc có lẽ cũng còn trẻ con nên làm điều cô nghĩ là lối thoát dễ nhất. Nếu người ta không biết rõ Osano, người ta có thể lầm tưởng là dễ xoay ông ta hơn là lay chuyển ý chí của bà quyền thế kia.

Song tất cả chúng tôi đều đã lầm, một sai lầm quá ư tệ hại. Cô tiếp viên đứng kế bên Osano và nói:

- Thưa ông, xin ông cảm phiền tắt thuốc, bà kia bảo rằng khói thuốc làm con chó của bà khó chịu.

Đôi mắt xanh sửng sốt của Osano trở nên lạnh như băng. Đôi mắt ấy phóng vào cô tiếp viên một cái nhìn trầm trọng, kéo dài.

- Nói ta nghe lại coi! - ông bảo.

Ngay lúc đó tôi sẵn sàng lao ra khỏi máy bay. Tôi thấy cơn cuồng phong bão tố đang hình thành trên khuôn mặt của Osano. Không còn là chuyện đùa nữa rồi. Người đàn bà trừng trừng nhìn Osano với vẻ khinh khỉnh. Bà ta đang khao khát một cuộc tranh cãí, một cuộc bùng nổ thực sự. Người ta có thể thấy bà ta muốn xảy ra chuyện đánh nhau. Cái tâm lý muốn khích cho một nhân vật lừng danh gây ra xì-căng-đan với mình để được nổi tiếng theo ấy mà? Mình không có tài để tạo được danh tiếng thì ăn theo tên tuổi của người khác vậy. Miễn sao cũng được thiên hạ nhắc đến là vui rồi! Còn anh chồng chị ta thì làm bộ liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, chăm chú điều nghiên chân trời vô hạn? Rõ ràng đây là một màn quen thuộc và anh ta hoàn toàn tin rằng chị vợ sẽ làm thế. Hắn ta còn thoáng một nụ cười thoả mãn nữa chứ. Chỉ có con chó xù hiền lành là trông thấy tội nghiệp, nó hơi khọt khẹt vì bị sặc mùi khói thuốc và thiếu không khí để thở. Phòng đầy khói nhưng đâu phải chỉ từ điếu xì gà của Osano. Hầu như mọi người đều hút thuốc và người ta có cảm tưởng là ông bà chủ của con chó muốn bảo tất cả mọi người phải ngưng hút thuốc.

Cô tiếp viên hoảng sợ khi thấy Osano làm mặt ngầu, ú ở không nói nên lời. "Eo ôi! Em hãi quá!" cô gần như tê liệt đi. Nhưng bà lớn kia không hề nao núng chút nào. Người ta có thể thấy rằng bà ta còn thích nhìn ngắm cái vẻ cuồng nộ trên mặt Osano nữa là khác. Người ta cũng có thể thấy rằng trong đời bà ta chưa từng bị đấm cho vỡ mõm văng ra dăm ba cái răng. Chưa bao giờ ý tưởng đó hiện lên trong đầu óc bà. Vì thế bà ta còn nghiêng người về phía Osano để vênh mặt ra, nói với ông. Tôi gần như nhắm mắt lại. Thực tế tôi đã nhắm mắt lại trong một phần tư giây và tôi có thể nghe người đàn bà qua giọng nói chọc tức lạnh lùng, nói với Osano bằng giọng cố tình nhạt nhẽo:

- Điếu xì gà của ông đang làm phiền con chó của tôi, ông vui lòng ngưng hút được không?

Lời lẽ thoạt nghe thì có vẽ nhã nhặn đấy, nhưng giọng nói thì khinh khỉnh, phỉ báng nghe còn dễ ứa gan hơn là bất kỳ những lời thô lỗ nào. Tôi có thể thấy y thị đang chờ đợi lập luận về chuyện con chó đâu được phép vào phòng này, rằng phòng này là chỗ để uống nước, hút thuốc thoải mái.

Hẳn nhiên bà ta hiểu rằng nếu như bà ta nói khói thuốc làm bà thấy khó chịu, Osano có lẽ đã dụi điếu xì gà. Nhưng đàng này bà ta lại muốn Osano phải vất thuốc đi vì chú chó yêu quý của bà! Rõ ràng mụ ta muốn sinh sự? Được mi muốn sinh sự thì ắt là sự sẽ sinh thôi!

Osano lãnh hội được ngay toàn bộ ý nghĩa của thái độ này chỉ trong tích tắc. Ông hiểu ra mọi sự và tôi nghĩ chính điều đó càng làm ông nổi điên. Tôi nhìn thấy một nụ cười thoáng hiện trên mặt ông một nụ cười lẽ ra có thể vô cùng quyến rũ, nhưng khi đi kèm với đôi mắt xanh lục lạnh lùng kia chỉ còn là điên dại mà thôi.

Ông không hét vào mặt thị, ông không đấm vào cái bộ mặt câng câng kia. Ông liếc qua chồng thị một tia nhìn ngụ ý này con hãy mở mắt ra mà xem bố mày sắp làm gì đây này! Anh chồng cười đầy vẻ giả tạo. Anh ta thích chí điều vợ mình dang làm hay cố tình tỏ vẻ như vậy. Rồi với một động thái đầy chú ý, Osano đặt điếu xì gà lên cái khay gắn liền vào chỗ ngồi. Mụ đàn bà nhìn ông với một góc tư con mắt! Rồi Osano đưa cánh tay đưa ra khỏi bàn và người ta có thể thấy người đàn bà nghĩ rằng ông ấy sắp nựng con chó cưng. Tôi thì tôi biết rõ hơn. Bàn tay của Osano hạ thấp xuống trên đầu con chó và tay kia vòng quanh cổ nó.

Chuyện xảy ra tiếp theo quá nhanh để tôi còn kịp ngăn lại. Ông ta vừa nâng con chó lên vừa đứng lên khỏi chỗ ngồi của mình và bóp cổ nó bằng cả hai tay. Con chó vặn vẹo cong người, cái đuôi có thắt ruy-băng hồng quẫy rối rít tuỷệt vọng. Đôi mắt nó bắt đầu lồi ra khỏi đám lông tơ xoắn. Mụ đàn bà thét toang lên bật dậy khỏi chỗ ngồi như được lò xo đẩy bắn vào mông và nhào tới cào vào mặt Osano. Anh chồng vẫn không rời khỏi ghế. Đúng lúc đó máy bay lọt vào một túi không khí loãng, rơi thẳng xuống đột ngột làm tất cả mọi người đều ngã nghiêng.

Riêng, Osano vẫn say máu, tập trung hết sức lực vào việc siết cổ con chó nên để mất thăng bằng và té bổ kềnh ra sàn, song hai tay vẫn bấu chặt vào cổ họng con chó. Nhưng để đứng lên, ông phải buông lỏng con chó ra và chống tay. Mụ đàn bà sủa ra cái gì đó, hình như là bảo giết ông ta đi. Cô tiếp viên la hoảng vì bị sốc. Osano, đứng thẳng người cười duyên khắp lượt chào toàn thể khán giả, rồi hùng dũng tiến lên về phía chị đàn bà vẫn đang còn ngoác mồm ra la lối chửi rủa ông. Có lẽ chị ta nghĩ rằng giờ đây ông thấy xấu hổ với những gì ông vừa mới làm và chị ta sắp được dịp tỏ lượng khoan hồng của một đấng thị mẹt cao cả. Chị ta đâu lường được rằng ông ta đã quyết định bóp cổ chị ta như đã từng bóp cổ con chó của chị ta. Nhưng rồi phúc đáo tâm linh, chị ta chợt nhận ra và liền câm như hến.

Và Osano nói, với vẻ điên dại đã lắng đọng và kết tủa:

- Này cái lỗ kia, giờ đây đến lượt mi.

Và ông lao tới chị ta. Ông ta điên thực rồi. Ông đấm thẳng vào mặt chị ta, dứt khoát, quyết liệt, không hề chùn tay tỏ ra thương hoa tiếc ngọc một chút xíu nào!

Tôi xông ra níu ông lại. Nhưng hai bàn tay ông đã vòng quanh cổ chị ta và chị ta rú lên kinh hoàng. Cả nơi chốn đó biến thành nhà thương điên. Nhưng máy bay chắc là có nhân viên bảo vệ mặc thường phục bởi vì hai anh chàng ở đâu xông tới khoá tay Osano rất thiện nghệ và lột áo khoác của ông ra sau làm thành cái áo trói. Nhưng ông nổi hung lên như con thú hoang dại và ông vùng vẫy lung tung, buộc họ phải quay vòng, chứ đâu dễ đã giữ yên được ông. Mọi người nhìn cảnh ấy, kinh hoàng. Tôi cố gắng nói vuốt ve cho ông bớt giận, nhưng ông chẳng có thể nghe được lời nào nữa. Cơn giận đã làm ông điên lên thật rồi. Ông nôn thốc tháo ra những lời chửi thề tục tằn, hung dữ nhất vào mụ đàn bà yêu quái kia và anh chồng chị ta cũng bị "văng miểng" tùm lum?

Hai tay bảo vệ cố gắng nói ngọt cho ông dịu cơn, gọi tên ông và một anh chàng khoẻ mạnh, đẹp trai hỏi ông là nếu như họ để ông đi về chỗ ngồi ông có chịu không. Osano vẫn la hét, chống cự, không thèm nghe. Thế là anh chàng kia nổi nóng.

Giờ đây Osano đang ở trong trạng thái cuồng nộ không còn kiểm soát được, một phần vì đó là bản tính của ông và một phần bởi vì ông quá nổi tiếng, và ông biết rằng ông sẽ được đặc miễn với mọi đòn trả đũa. Vả chăng cơn giận của ông cũng có lý do chính đáng. Công luận sẽ đứng về phía ông. Giới truyền thông sẽ bảo vệ ông. Trong tình thế đó, khó có ai dám trả thù ông. Anh chàng bảo vệ trẻ trung, khoẻ mạnh kia hiểu điều đó bằng bản nãng, nhưng giờ đây cậu ta thấy bị xúc phạm vì Osano không nể nang chút nào cái sức trẻ hơn hẳn của cậu ta. Thế là cậu ta nổi điên. Cậu ta túm lấy tóc của Osano và giật ngược đầu ông ra sau thật mạnh khiến ông gần trẹo cổ. Rồi cậu ta vòng cánh tay quanh cổ Osano và nói:

- Đồ chó đẻ. Tao bẻ cổ mày báy giờ!

Osano đành lặng như tờ.

Lạy Chúa, sau đó là cả một tình trạng hỗn loạn.

Tay chỉ huy trưởng của chuyến bay muốn buộc Osano vào chiếc áo trói nhưng tôi thuyết phục được ông ta không làm điều đó. Đám bảo vệ an ninh bảo mọi người ra khỏi phòng giải khát, trừ Osano và tôi ngồi lại đó với họ trong suốt phần còn lại của cuộc hành trình. Họ không để cho chúng tôi đi ra ở New York cho đến khi máy bay đã trống trơ không còn hành khách nào, thế nên chúng tôi chẳng bao giờ thấy lại bộ mặt "khả ái" của con mụ quỷ quái kia. Nhưng tia nhìn của mụ ta nói lên khá đủ. Họ đã lau sạch máu khỏi mặt chị ta, nhưng một con mắt của chị ta bị sưng húp, bầm tím, gần như không mở ra được, còn miệng chị ta bị dập cả môi trên lẫn môi dưới. Người chồng ôm con chó cưng, vẫn còn sống đang vẫy đuôi một cách tội nghiệp để cầu xin cảm tình và sự bảo vệ. Sau đó, đến những chuyện rắc rối pháp đình mà các luật sư sẽ lãnh phần lo liệu. Tất nhiên, chuyện này được "lên nhựt trình" một cách rộng khắp: Nhà văn lớn của nước Mỹ và là ứng viên số một cho giải Nobel văn học năm nay đã suýt giết chết một con chó xù bé bỏng tội nghiệp? Ôi con chó đáng thương? Ôi nhà văn đáng thương! Còn thị rồng lộn kia lại là một cổ đông lớn của công ty hàng không nọ (điều này giúp cho ta hiểu tại sao thị dám có thái độ xấc láo với ông nhà văn lớn bởi vì thị có lợi thế sân nhà mà?) Ngoài ra thị ta còn có khoảng bốn, năm triệu đô-la tài sản trong các công ty khác. Có điều thị không thể doạ là sẽ không bao giờ đi lại máy bay của hãng đó. Nhưng thị ắt là rất hài lòng vì giờ đây mình cũng nổi danh không kém ông nhà văn Osano, út ra là trên nước Mỹ.

Còn bản thân Osano cũng rất hể hả. Bởi thật ra cũng chưa có ai làm gì xúc phạm nặng nề đến ông trong khi ông lại được "thư giãn gân cốt" một trận quá đà với mấy cú đấm đích đáng vào ngay cái bản mặt đáng ghét của mụ triệu phú rởm đời kia. Ha ha ha!

Được đấm thẳng tay vào mặt mấy con nữ yêu quái mà không bị cảnh sát còng tay, lại còn được công luận bênh vực nữa chứ! Sướng thiệt! Sướng thiệt? Đúng là một cuộc trao đổi đôi bên cùng có lợi. Còn chuyện bạo hành với thú vật ông chẳng hề hối hận chút nào. Ông cười nói:

- Khi nào ta còn ăn thịt chúng được thì ta còn giết chúng được!

Khi tôi chỉ ra rằng ông chưa từng ăn thịt chó, ông nhún vai và nói:

- Cứ nấu nướng cho ngon lành đi, tôi sẽ dùng tốt chớ có ngại gì.

Có một điều Osano đã quên. Người phụ nữ kia, dầu rởm đời, dở hơi thật đấy nhưng vẫn có nhân tính của nàng. Đồng ý nàng ta điên. Đồng ý nàng ta đáng bị một trận "cái miệng ăn trầu cái đầu bịt khăn đỏ". Rất có thể chuyện đó còn đem lại điều tốt cho nàng ta nữa. Nhưng xét cho kĩ nàng ta không đáng phải bị những chuyện Osano đã làm. Có phần quá đà. Thật ra nàng không thể khước từ bản ngã của mình, tôi nghĩ như vậy. Osano trước kia có lẽ cũng đã thấy được điều đó. Nhưng bây giờ, vì một lý do nào đấy, ông không còn thấy được điều đơn giản đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Con chó xù quý hiếm không chết, vì thế bà nhà giàu cũng không có lý do gì đòi bồi thường. Có vẻ bà ta không phiền lòng lắm về vụ cái mặt sưng vù, hoặc là điều đó không quan trọng lắm đối với bà ta hay đối với người chồng. Rất có thể bà còn khoái chuyện đó là đằng khác.

Bà ta gửi cho Osano một bức thư hữu nghị, để mở cửa cho họ đến với nhau. Osano lầm bầm diều gì đó kiểu giễu cợt rồi ném bức thư vào sọt rác.

- Tại sao ông không thử tán bà ta xem? - Tôi nói. - Không chừng cũng thú vị tình thâm lắm đấy.

- Ôi dào, đã bảo cậu rồi. Tớ không thích gặm cỏ dai sợ e sái cả quai hàm, - Osano nói. - Con mụ ấy còn muốn tôi xài mụ ta như một cái túi đấm.

- Chị ta có thể là một nàng Wendy khác, - tôi nói.

Tôi biết Wendy vẫn luôn có một sức mê hoặc đối với ông mặc dầu họ đã ly dị bao năm nay rồi và mặc dầu bao nỗi khảm kha bất bình mà bà ta đã gây ra cho ông.

- Lạy Chúa, - Osano nói. - Tôi chỉ cần có thế?

Nhưng rồi ông mỉm cười. Ông biết tôi muốn nói gì. Rằng có lẽ việc dùng nắm đấm để dạy cho đàn bà biết phải quấy hình như không làm ông phiền lòng mấy. Thế nhưng ông lại muốn chứng tỏ là tôi đã lầm.

- Wendy là người vợ duy nhất đã khiến tôi phải đánh nàng, - ông nói. - Tất cả những người vợ khác của tôi, họ đeo những người bạn của tôi, họ ăn cắp tiền của tôi họ cấu xé tôi về tiền cấp dưỡng, họ vu khống nói xấu tôi, nhưng tôi không bao giờ đánh họ, không bao giờ ghét họ. Tôi là bạn tốt với tất cả người vợ cũ khác của tôi. Nhưng mụ Wendy chết tiệt đó là thứ của nợ loại đặc biệt? Mỗi mình mụ ta là một phạm trù riêng! Nếu tôi còn ở với con quỷ cái đó, chắc tôi đã giết nó từ lâu.

Nhưng vụ xiết cổ con chó lông xù còn được bàn tán râm ran trong giới văn nghệ ở New York. Osano lo ngại về những cơ may chiếm giải Nobel của mình.

- Đám Bắc Âu đó cưng chó lắm, - ông nói.

Ông bỏ cuộc vận động đề cử mình vào giải Nobel văn học bằng cách viết thư cho tất cả bạn bè và người quen trong văn giới. Ông vẫn tiếp tục in những bài báo và những bài điểm sách về những tác phẩm phê bình quan trọng nhất xuất hiện trong tạp chí. Thêm vào những tiểu luận văn chương mà tôi luôn nghĩ là những nhận định nhảm nhí. Nhiều lần khi vào văn phòng ông, tôi thấy ông đang viết quyển tiểu thuyết vĩ đại của mình, đầy những tranh giấy màu vàng. Tôi biết ông đang viết tác phẩm để dời vì đó là bản thảo duy nhất mà ông viết tay. Còn tất cả những thứ khác ông đều phóng ra từ hai ngón tay gõ trên bàn máy đánh chữ. Ông là người đánh máy nhanh nhất mà tôi từng thấy, chỉ với hai ngón thôi. Ông mổ rào rào, đều đặn như súng liên thanh. Và với kiểu đánh máy liên thanh đó, ông nêu ra định nghĩa về nền tiểu thuyết vĩ đại của Hoa Kỳ phải như thế nào, giải thích tại sao nước Anh không còn cho ra đời những tác phẩm hư cấu lớn được nữa trừ ra ở thể loại gián điệp, hoặc tháo tung ra những tác phẩm của Faulkner, Mailer, Styron, Jones, bất cứ ai có thể cạnh tranh với ông về giải Nobel. Văn phong rực rỡ, ngôn ngữ rất hàm súc khiến ông thuyết phục được người đọc. Bằng cách cho in ra những thứ đó, ông triệt hạ các đối thủ và xây dựng thần đàn cho mình. Nhưng rối là ở chỗ chỉ có hai quyển tiểu thuyết của ông được xuất bản cách đây hai mươi năm là có giá trị văn học đáng kể Còn những tiểu thuyết sau này và những tác phẩm phi hư cấu của ông thì chẳng xuất sắc cho lắm.

Sự thật là hơn mười năm qua, ông đã đánh mất phần lớn sự thành công với số đông độc giả cũng như danh tiếng văn học của mình. Ông đã xuất bản quá nhiều sách loàng xoàng do viết vội vàng cẩu thả, tạo ra quá nhiều kẻ thù với cách quản lý tạp chí theo kiểu bề trên ngông nghênh của mình. Ngay cả khi khen ngợi một vài khuôn mặt văn học hay trí thức có thế lực lớn, ông cũng làm điều đó với sự ngạo mạn và trịch thượng và tìm cách hoà trộn mình vào đó (thí dụ bài báo ông viết về Einstein thì cũng nói về ông gần ngang với phần nói về Einstein).

Ông tạo ra quá nhiều kẻ thù với những lời tuyên bố bốc đồng bất cần đời. Chẳng hạn ông cho rằng sự khác biệt lớn lao giữa văn chương Pháp thế kỷ XIX với văn chương Anh, đó là các nhà văn Pháp được hưởng tình dục ê hề còn các nhà văn Anh bị ức chế bởi đạo lý khắc khổ thời Victoria. Thế là độc giả tạp chí giận sôi lên.

Trên tất cả những chuyện này, hành vi ứng xử của bản thân ông gây tai tiếng rất nhiều. Sự cố trên máy bay đã thành đề tài tán gẫu của mọi người. Trong một lần được thỉnh giảng ở đại học California, ông gặp một cô sinh viên văn khoa mới mười chín tuổi, trông giống như một kẻ đầu têu trong các cuộc hội họp, lễ lạc hay là một tiểu minh tinh màn bạc hơn là một người yêu sách vở.

Thật ra cô là một người mê đọc sách và rất hâm mộ nhà văn lớn Osano. Thế là chàng liền đem nàng về New York sống chung. Mối tình kéo dài được sáu tháng nhưng trong thời gian đó ông đưa nàng đến tất cả các cuộc họp mặt văn học. Osano ở độ tuổi trung tuần năm mươi, tóc tuy chưa bạc nhưng bụng hơi phệ. Khi nhìn họ ở bên nhau, người ta thấy có cái gì đó hơi bất ổn. Nhất là những lúc Osano say xỉn và nàng phải dìu ông về nhà. Ông lại còn uống rượu trong lúc làm việc ở văn phòng. Thêm nữa, ông còn lừa cô bạn gái mười chín tuổi để lăng nhăng với một nữ tiểu thuyết gia bốn mươi tuổi vừa mới in ra một quyển best-seller. Quyển sách không thực sự hay lắm nhưng Osano dành nguyên cả một trang trong tạp chí để viết bài giới thiệu, hân hoan chào đón nàng như một khuôn mặt vĩ đại trong tương lai của nền văn học Hoa Kỳ.

Và ông còn làm một việc mà tôi thực sự ghét. Ông sẵn sàng cho một trích dẫn với bất kỳ người bạn nào yêu cầu. Do vậy, người ta thấy những quyển tiểu thuyết mới xuất bản rất loàng xoàng nhưng nơi các trang đầu ghi một trích dẫn từ Osano đại khái như: "Đây là quyển tiểu thuyết tinh tế nhất về Miền Nam kể từ quyển "Nằm xuống trong bóng bối" của Styron". - Hoặc là "Một quyển sách gây sốc, sẽ làm bạn sững sờ". một lời giới thiệu láu cá ranh mãnh, quỷ quyệt vì ông đang chơi kiểu lấy hai đầu chống lại đoạn giữa, vừa làm ơn cho người bạn, lại vừa kín đáo cảnh báo độc giả chớ đụng vào quyển sách đó làm chi để vừa phí tiền, phí thời gian đọc, lại còn chuốc lấy bực mình. Đúng là một kiểu khen đểu nhưng rất thâm!

Quá dễ để cho tôi thấy là Osano đang bị phân tán bản ngã, theo một cách nào đó. Tôi nghĩ có lẽ ông sắp điên đến nơi. Nhưng tôi không biết từ cái gì mặt ông có vẻ nhuốm bệnh, hơi phì phị ra, đôi mắt xanh lục ánh long lanh thật sự không bình thường. Bước đi của ông hơi lệch, nhiều lúc hơi xiêu xiêu về bên trái. Tôi lo ngại cho ông. Vì dù bất đồng quan điểm với những gì ông viết với việc ông vận động cho giải Nobel quá tốn kém mà hiệu quả lại rất mơ hồ, việc ông gặp phụ nữ nào có chuyện liên hệ với ông mà ông thấy vừa mắt là ông đều muốn "bắt ốc vít" ngay, tôi vẫn mến ông. Ông vẫn thỉnh thoảng hỏi tôi về quyển tiểu thuyết tôi đang thai nghén, khích lệ, cho tôi lời khuyên, mau mắn cho tôi mượn tiền mặc dầu tôi biết ông nợ ngập đầu và ông phải tiêu pha rất lớn để trợ cấp cho năm "cựu phu nhân" cùng với chín đứa con. Tôi phát hãi với tổng lượng tác phẩm ông cho in ra, dù chúng có nhiều khiếm khuyết đi nữa. Ông đều đặn xuất hiện nơi một nguyệt san, có khi hai hoặc ba, hàng năm ông cho ra một quyển loại phi hư cấu về một đề tài mà các nhà xuất bản nghĩ "nóng bỏng". Ông làm tổng biên tập của tạp chí và mỗi tuần viết một tiểu luận khá dài đăng lên báo. Ông còn viết kịch bản điện ảnh. Ông kiếm được những khoản tiền khổng lồ nhưng ông vẫn luôn bị nợ. Tôi biết ông nợ cả một gia tài chứ không ít. Không chỉ từ việc mượn tiền mà còn lấy tiền ứng trước cho những quyển sách tương lai. Tôi nhắc nhở chuyện này rằng ông đang đào một cái hố mà ông không bao giờ thoát ra được, nhưng ông xua ý tưởng đó đi một cách nôn nóng.

- Tôi còn con át chủ bài ở trong lỗ đấy, - ông nói. - Quyển tiểu thuyết lớn của tôi sắp hoàn tất. Có lẽ năm tới lúc đó tôi lại sẽ giàu. Rồi sau đó đến Bắc Âu lãnh giải Nobel với khoảng tiền sơ sơ một triệu dô. Hãy nghĩ tới các em rồng lộn tóc vàng mắt biếc cao lớn, hậu duệ của đám hải tặc Viking, mà chúng ta sẽ phết cho tơi tả.

Ông vẫn luôn gom tôi theo trong cuộc hành trình lãnh giải Nobel.

Những cuộc tranh cãi lớn thường xảy ra giữa chúng tôi là ông hỏi tôi nghĩ gì đối với các tiểu luận của ông về văn chương. Tôi thường làm ông nổi giận với câu nói tôi chỉ là một người kể chuyện.

- Ông là một nghệ sĩ với nguồn cảm hứng thiêng liêng, - tôi bảo ông. - Ông còn là một trí thức, với nguồn năng lượng trí tuệ dồi dào tuôn trào lai láng đủ hàng trăm bài thuyết giảng về văn chương hiện đại. Còn tôi chỉ là một kẻ phá tủ sắt. Tôi áp tai vào thành tủ chờ nghe tiếng lẫy khoá rơi vào chỗ.

- Anh cứ kể hoài câu chuyện phá tủ sắt nhảm nhí của anh, - Osano nói. - Anh chỉ muốn nói lảng thôi. Anh có nhiều ý tưởng. Anh là một nghệ sĩ thật sự, một kẻ có thể kiểm soát mọi sự, những điều anh viết và nói chung cả cuộc đời anh. Anh nghĩ anh có thể phá vỡ mọi cạm bẫy. Anh đang vận trù như thế đấy.

- Ông nghĩ sai về pháp sư rồi, - tôi bảo ông. - Một pháp sư thi thố pháp thuật. Thế thôi.

- Và anh nghĩ thế là đủ? - Osano hỏi. Một nụ cười buồn thoáng trên mặt ông.

- Thế là đủ cho tôi, - tôi đáp.

Osano gật đầu:

- Anh biết chứ, tôi từng là một pháp sư vĩ đại, anh từng đọc tác phẩm đầu tiên của tôi. Thật là ảo diệu, đúng không?

Tôi vui mừng là tôi có thể đồng ý với ông về điểm này. Tôi rất thích quyển đó.

- Tuyệt diệu, tôi nói.

- Nhưng chưa dủ, - Osano nói. - Chưa đủ cho tôi.

Tội cho ông quá, tôi nghĩ. Và hình như ông đọc ra ý nghĩ của tôi.

- Không, không phải theo cách anh nghĩ đâu, ông nói. - Tôi không thể làm lại điều đó bởi vì tôi không muốn làm hoặc có lẽ là tôi không thể làm. Tôi không còn là một pháp sư nữa, sau quyển sách đó. Tôi đã trở thành nhà văn.

Tôi nhún vai, có vẻ không mấy đồng cảm. Osano thấy ra và nói:

- Và kể từ sau đó, cuộc đời tôi bắt đầu khốn nạn, như anh có thể thấy. Tôi ganh tị với anh, với cuộc đời anh. Chuyện gì cũng nằm trong vòng kiểm soát. Anh không nghiện rượu, không nghiện thuốc, lá, không chạy theo đàn bà. Anh chỉ viết lách, thỉnh thoảng đánh bạc chút đỉnh, và giữ đúng vai trò bố tốt, chồng ngoan. Anh là một pháp sư cao thâm đấy, Merlyn à. Anh biết ứng dụng câu "đại trí nhược ngu" của Lão Tử đấy. Để làm một pháp sư an toàn, một cuộc đời an toàn, những quyển sách an toàn, anh làm cho nỗi tuyệt vọng tan biến.

Ông đang bực bội với tôi. Ông nghĩ mình đang đi vào cốt tuỷ ông không biết mình cũng đầy nhảm nhí như bao người khác. Và tôi cũng chẳng phiền gì, điều đó chứng tỏ ma thuật của tôi có tác dụng. Đó là tất cả những gì ông có thể thấy và với tôi, thế càng tốt thôi. Ông nghĩ tôi kiểm soát được đời mình, rằng tôi không đau khổ hoặc không cho phép mình đau khổ, rằng tôi không cảm thấy những cơn đau của nỗi cô đơn đã từng đẩy ông đến với những người đàn bà khác nhau, những cơn say bí tỉ, những lần hút hít cocaine. Ông không nhận ra hai điều. Là ông đang đau khổ bởi vì thực sự sắp điên, chứ không phải đau khổ. Điều nữa là mọi người trên đời này đều đau khổ và cô đơn chứ cứ riêng gì ông. Song mỗi người phải tự rút ra được những gì tinh hoa tốt đẹp nhất từ đau khổ và cô đơn. Đây là triết lý bi tráng, là niềm vuí bi tráng mà ông không tìm thấy. Đáng tiếc cho ông. Kinh Phật đã chẳng dạy "Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn" hay "Bồ đề thị phiền não, phiền não thị bồ đề" đấy sao?

***

Và tôi bỗng dưng gặp rắc rối từ một hướng không ngờ tới. Ngày nọ, ở toà soạn tạp chí tôi nhận cú gọi từ chị Pam, vợ Artie. Chị bảo muốn gặp tôi về một chuyện quan trọng và chị muốn gặp mà không có mặt Artie. Tôi có thể đến ngay được không?

Tôi thực sự phát hoảng. Tận trong sâu xa của tâm hồn mình, tôi vẫn hằng ưu tư về Artie. Anh thực sự mảnh mai và lúc nào trông cũng có vẻ mệt mỏi. Vẻ đẹp trai thon thả của anh có thể là đầu mối của rắc rối. Tôi hoảng quá nên yêu cầu cho tôi biết ngay qua điện thoại nhưng chị không chịu. Chị bảo rằng về cơ thể thì anh ấy chẳng có chuyện gì đâu. Nhưng giữa chị và anh Artie đang có vấn đề riêng và chị cần tôi giúp.

Liền ngay đó, tôi thấy nhẹ nhõm. Rõ ràng là chị có vấn đề chứ không phải Artie. Nhưng dù sao tôi cũng nghỉ làm sớm và lái xe đến Long Island để gặp chị. Artie sống ở vùng Bờ Bắc của Long Island còn tôi sống ở Bờ Nam. Nên thực ra cũng không xa lắm với hành trình về nhà tôi. Tôi có thể nghe chị giãi bày và về nhà kịp bữa tối, chỉ hơi trễ hơn thường lệ một chút.

Nên tôi thấy không cần phải gọi về nhà báo cho Vallie.

***

Tôi vẫn thích đến nhà Artie. Anh có năm đứa con, song chúng đều dễ thương. Chúng thường có nhiều bạn bè đến chơi cùng và Pam không bao giờ tỏ vẻ phiền. Chị luôn có đồ ăn thức uống đầy đủ để cho cả đám bạn của con. Có những đứa đang xem tivi, có những đứa đang nô đùa trên bãi cỏ. Tôi chào bọn trẻ và chúng chào lại tôi.

Pam đưa tôi vào nhà bếp với cái cửa sổ lớn nhìn ra biển. Chị đã pha sẵn càphê và rót ra cho tôi. Chị vẫn cúi đầu lặng thinh hồi lâu rồi bỗng dưng ngước lên nhìn tôi và nói:

- Artie đang có bạn gái.

Mặc dù đã có năm mặt con, Pam trông vẫn còn trẻ với khuôn mặt đẹp, dáng người cao, thanh mảnh và tia nhìn giống như hình tượng Thánh Mẫu. Nàng gốc dân tỉnh lẻ miền Trung Tây. Artie quen nàng thời sinh viên và bố nàng là chủ tịch một ngân hàng nhỏ. Không ai trong ba thế hệ gần đây nhất của gia đình nàng có hơn hai con, nên đối với người thân của nàng thì nàng là một anh hùng tuẫn đạo vì đã năm lần sinh đẻ.

Khi Pam kết tội anh mình như thế, tôi hơi giận. Tôi biết Artie. Biết anh không thể nào lừa dối vợ. Anh không thể đem lại nguy cơ cho cái tổ ấm mà anh chăm chút xây dựng trong bao năm trời và là lẽ sống của đời anh.

Dáng người cao gầy của Pam rũ xuống, những giọt lệ ứa ra trong đôi mắt nàng. Nhưng nàng vẫn đang quan sát nét mặt tôi. Nếu Artie có chuyện gì, thì người duy nhất mà anh muốn bày tỏ là tôi. Và nàng cũng đang hi vọng tôi sẽ để lộ bí mật bởi một vài biểu hiện nào đó trên khuôn mặt mình.

- Điều đó không đúng, - tôi nói. - Artie vẫn luôn có phụ nữ chạy theo và anh ghét điều ấy. Anh là một người đàn ông chân thật, thẳng thắn nhất trên đời này. Chị biết là tôi không phải tìm cách biện hộ hay bao che cho anh ấy đâu. Tôi không kết tội oan nhưng tôi cũng không bao che đâu.

- Tôi biết điều đó, - Pam nói - Nhưng anh ấy về nhà trễ ít nhất là ba lần mỗi tuần. Và đêm rồi anh còn dấu son môi trên áo. Và anh gọi điện thoại sau khi tôi đi ngủ, lúc ấy đã khuya. Phải anh gọi chú không?

- Không, - tôi nói.

Và giờ đây tôi thấy mình ngốc quá. Có thể là đúng vậy chứ, tôi vẫn còn chưa tin, nhưng tôi phải tìm ra.

- Và anh ấy đang tiêu những khoản tiền mà trước đây anh ấy không hề tiêu, - Pam nói. Rồi chị ấy lại bật khóc thành tiếng.

Rối thật.

- Tối nay anh sẽ về nhà ăn tối chứ? - tôi hỏi.

Pam gật đầu. Tôi nhấc điện thoại và gọi cho Vallie, bảo nàng là tôi ăn ở nhà Artie. Thỉnh thoảng tôi vẫn đến nhà Artie ăn tối và anh em hàn huyên, nên Vallie không tỏ ra ngạc nhiên hay hỏi han gì.

Tôi gác máy và nói với Pam:

- Để em xuống nhà ga đón anh ấy. Và làm rõ chuyện này trước khi ăn tối.

Tôi nói giọng giễu giễu:

- Anh tôi vô tội.

- Chắc không? - Chị gượng cười.

Mặc dù mọi bằng chứng, như vết son trên áo chuyện về nhà trễ, chuyện gọi điện thoại đêm khuya, những khoản tiền ngoại lệ, tôi vẫn tin rằng Artie vô tội. Điều tệ hại nhất có thể xảy ra đó là một cô gái nào đó đeo đẳng quá khiến cuối cùng đành cũng yếu lòng đôi chút, có thể lắm.

Tôi vẫn luôn có chút ganh tị với Artie. Sao anh ấy lại hấp dẫn phụ nữ đến thế, theo cái cách tôi chẳng bao giờ có được. Với một chút tự mãn tôi chợt nhận thấy rằng xí trai chưa hẳn đã là điều bất hạnh!

Khi Artie ra khỏi xe lửa, anh không tỏ ra ngạc nhiên lắm khi thấy tôi. Trước đây tôi vẫn thường làm chuyện này, đến thăm anh bất ngờ và dón anh ở nhà ga. Tôi vẫn luôn thấy dễ chịu khi làm điều ấy, và anh vẫn luôn sung sướng khi thấy tôi đứng đón anh. Lần này, nhìn kỹ, tôi nhận thay hôm nay gặp tôi, anh chẳng vui gì mấy.

- Chú làm gì ở đây vậy?

Anh nói, nhưng anh vẫn ôm siết tôi và mỉm cười. Đối với một người đàn ông, thì nụ cười của anh quá ư ngọt ngào. Một nụ cười vẫn rất hồn nhiên trẻ thơ, chưa có vẻ gì đổi thay cùng năm tháng.

- Em đến để xin cho anh khỏi bị đòn đấy, - tôi nói vui - Chị Pam nói đã bắt được quả tang anh phạm tội.

Anh cười:

- Lạy Chúa, lại chuyện nhảm ấy nữa. Tính cả ghen của Pam luôn là đề tài gây cười.

- Đúng mà, - tôi nói. - Nào là đi làm về trễ, gọi điện thoại trong đêm và bây giờ, cuối cùng là, bằng chứng "kinh điển" dấu son trên áo anh.

Tôi cảm thấy vui khi gặp Artie và nói chuyện với anh tôi biết rằng đó là sự nhầm lẫn thôi.

Nhưng thình lình Artie ngồi xuống vào một trong những băng ghế. Mặt anh lộ vẻ mệt mỏi. Tôi đứng bên anh và bắt đầu thấy hơi áy náy.

Artie ngước nhìn tôi. Thấy một tia nhìn thương hại lạ lùng trên mặt anh.

- Đừng lo, - tôi nói. - Em sẽ dàn xếp mọi chuyện.

Anh gượng cười:

- Này pháp sư Merlyn, - anh nói. - Cái mũ ma thuật của pháp sư đâu? Đội mũ phép lên đi. Và ngồi xuống đây!

Anh đốt một điếu thuốc. Tôi lại nghĩ anh hút nhiều quá. Tôi ngồi xuống kế bên anh. Ối đào, tôi nghĩ. Và đầu óc tôi chạy đua tìm giải pháp để gỡ rối mọi chuyện giữa anh và Pam. Một điều tôi biết, tôi không muốn nói dối với chị ấy hay khuyên Artie nói dối với Pam.

- Tôi không lừa dối Pam đâu, - Artie nói. - Và đó là tất cả những gì tôi muốn nói với chú.

Chuyện tôi tin anh không đặt vấn đề.

- Đồng ý, - tôi nói - Nhưng anh phải cho Pam biết chuyện gì đang xảy ra nếu không chị ấy sẽ điên mất. Chị gọi cho em lúc em đang làm việc.

- Nếu nói với Pam, tôi phải nói với chứ? - Artie nói. - Chú không muốn nghe chuyện đó?

- Nói em nghe đi, - tôi nói. - Có gì ghê gớm mà anh phải giữ kín? Anh vẫn luôn nói với em mọi chuyện mà. Có sao đâu?

Artie buông rơi điếu thuốc xuống nền sân ga.

- OK, - anh nói.

Anh đặt bàn tay lên cánh tay tôi và tôi bỗng thấy kinh hoảng. Thuở ấu thơ những lúc chúng tôi cô đơn bên nhau, anh vẫn làm như thế để trấn an tôi.

- Để tôi nói hết, đừng ngắt lời nhé, - anh nói.

- OK, - tôi nói.

Mặt tôi bỗng nóng lên. Tôi không nghĩ ra điều gì sắp đến.

- Trong mấy năm vừa qua, anh đã cố đi tìm mẹ chúng ta, - Artie nói. - Bà là ai, bà đang ở đâu, chúng ta là gì? Một tháng trước đây, tôi đã gặp mẹ.

Tôi đứng lên. Tôi rút cánh tay mình ra khỏi bàn tay anh. Artie cũng đứng lên và cố giữ tôi lại.

- Bà nghiện rượu. Bà đánh son môi. Trông bà khá xinh đẹp. Nhưng bà cô đơn trong đời này. Bà muốn gặp mặt chú, bà nói rằng bà không thể…

Tôi ngắt lời anh:

- Đừng kể với em nữa, - tôi nói. - Đừng bao giờ kể với em nữa. Anh muốn làm gì thì làm, nhưng em sẽ không nhìn mặt bà trừ khi gặp nhau ở hoả ngục!

- Thôi nào, thôi nào, chú làm gì vậy, - Artie nói.

Anh cố để bàn tay lên người tôi, nhưng tôi bước xa ra và tiến về chiếc xe. Artie lẽo đẽo theo sau. Chúng tôi vào trong nhà xe và tôi lái đưa anh về nhà. Vào lúc đó, tôi đã bình tĩnh lại và tôi có thể thấy Artie đang khổ sở vì thế tôi nói với anh:

- Tốt hơn, anh nên kể với Pam.

Artie nói:

- Tôi sẽ nói.

Tôi dừng xe nơi con đường nội viên đưa vào nhà.

- Chú vào ăn tối chứ? - Artie hỏi.

Anh đứng bên cửa xe của tôi và đưa bàn tay vào trong đặt lên tay tôi.

- Đừng, - tôi nói.

Đã sửa bởi Nminhngoc1012 lúc 23.01.2015, 14:31.

Tôi nhìn theo anh lúc anh đang đi vào nhà và kéo mọi đứa nhóc còn chơi trên bãi cỏ vào nhà với anh. Rồi tôi lái xe đi. Tôi lái xe đi chậm rãi và cẩn thận, tôi đã luyện cho mình lúc nào cũng càng cẩn thận hơn trong tình huống mà phần lớn người ta dễ trở nên lộn xộn. Khi về đến nhà tôi có thể nhận thấy, qua bộ mặt của Vallie, rằng nàng đã biết chuyện gì xảy ra. Bọn trẻ đã đi ngủ và nàng để phần bữa tối cho tôi trên bàn ăn nơi bếp. Trong khi tôi ăn, nàng xoa phía sau đầu và cổ tôi khi nàng tạt vào nhà bếp. Nàng ngồi đối diện, uống cà phê, chờ tôi mở đề tài. Rồi nàng chợt nhớ:

- Chị Pam muốn mình gọi cho chị ấy.

Tôi gọi. Pam xin lỗi đã kéo tôi vào chuyện rắc rối không đâu. Tôi bảo chị không sao và hỏi thăm chị đã đỡ chưa khi đã biết sự thật? Pam cười khúc khích và nói:

- Ôi Trời, chị nghĩ phải chi là bạn gái còn dễ xử hơn đấy.

Chị đã vui trở lại. Và bây giờ vai trò của chúng tôi lại đảo lộn. Trước đó, tôi tội nghiệp cho chị. Chị là người đang gặp nguy cơ mất chồng và tôi là người sẽ cứu hộ hoặc cố gắng giúp đỡ chị. Còn giờ đây hình như chị nghĩ vai trò đã đảo ngược và chị lúng túng, không biết nói sao cho phải. Tôi bảo chị đừng bận tâm.

Pam nhảy qua chuyện chị muốn nói tiếp:

- Merlyn chú không thực sự có ý nói rằng chú sẽ không nhìn mặt mẹ mình chứ?

- Artie có tin vậy không, hở chị? - tôi hỏi chị.

- Anh nói anh vẫn biết điều ấy, - Pam nói. - Lẽ ra anh ấy đã không nói với chú cho đến khi nào anh đã làm dịu được chú. Nhưng mà vậy lại làm tôi lo lắng. Anh ấy giận tôi vì đã làm rối lên đấy.

Tôi cười:

- Xem này. Bắt đầu thì giống như một ngày xấu cho chị và bây giờ lại là một ngày xấu cho ảnh. Ảnh là người chịu thiệt.

- Ờ, - Pam nói. - Nghe này, tôi áy náy với chú quá, thật đấy:

- Ồ, chuyện đó chẳng có gì đối với em đâu, tôi nói.

Pam đáp OK, cám ơn rồi gác máy.

Bây giờ Vallie đang đứng đợi tôi. Nàng quan sát tôi đầy chủ ý. Có lẽ nàng đã được Pam và có thể cả Artie nữa, "phụ nhĩ" về việc xử lý tình huống này như thế nào, và nàng đang rất e dè, thận trọng. Nhưng tôi đoán nàng chưa thật sự nắm bắt được vấn đề. Nàng và Pam thật sự là những người đàn bà tốt, nhưng họ không hiểu.

Cha mẹ của cả hai đều đã từng phản đối về chuyện họ kết hôn với những đứa mồ côi không rõ tông hệ. Tôi có thể tưởng tượng nhiều câu chuyện kinh khủng được kể lại về những trường hợp tương tự. Chuyện gì xảy ra nếu như trong tông hệ chúng tôi có một hiện tượng điên loạn hay thoái hoá, suy đồi? Hay có lẫn lộn dòng máu da đen, máu Do Thái, máu Thệ phải, hay là những thứ linh tinh nhảm nhí đó. Thế mà, bây giờ một bằng chứng lại xuất hiện khi không còn cần thiết nữa. Tôi có thể hình dung rằng Pam và Vallie không hạnh phúc lắm về tính lãng mạn của Artie, việc anh đào lên mối quan hệ đã mất với một bà mẹ.

- Anh có muốn bà ta tới đây để thấy mặt mấy đứa cháu không? - Vallie hỏi.

- Không! - tôi nói.

Vallie có vẻ bối rối và hơi kinh hoảng. Tôi có thể thấy nàng đang nghĩ điều gì xảy ra nếu một ngày nào đó các con nàng phủ nhận nàng.

- Bà là mẹ anh, - Vallie nói. - Chắc là bà ta phải có một cuộc đời rất bất hạnh.

- Em có biết trẻ mồ côi nghĩa là gì không? - tôi nói. - Em có đọc trong tự điển chưa? Nó có nghĩa là một đứa bé đã mất cả cha mẹ vì cha mẹ nó đã chết.

- Được rồi, - Vallie nói.

Nàng có vẻ kinh hoảng. Nàng đi nhìn mấy đứa nhỏ rồi vào phòng ngủ. Tôi có thể nghe nàng đi vào phòng tắm và sửa soạn giường. Tôi thức khuya đọc và ghi chú, và khi tôi lên giường nàng đã ngủ say.

***

Vài tháng trôi qua. Ngày nọ Artie gọi tôi cho biết bà mẹ đã biến mất. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở thành phố và cùng đi ăn tối để có thể nói chuyện riêng với nhau.

Artie có vẻ vui. Anh cho biết bà có để lại một bức thư ngắn. Anh nói rằng bà nghiện rượu nặng và lúc nào cũng muốn đến quán bar, gặp gỡ đàn ông. Rằng bà là một gái giang hồ già nhưng anh vẫn mến bà. Anh đã thuyết phục được bà thôi uống rượu, đã mua quần áo mới cho bà, thuê cho bà một căn hộ xinh xắn khá tiện nghi, trợ cấp hàng tháng cho bà. Bà đã kể cho anh nghe mọi nỗi truân chuyên của đời bà. Thực sự không phải là lỗi của bà. Tôi chặn lời anh ở đó. Tôi không muốn nghe về chuyện ấy.

- Anh sẽ đi tìm bà lại nữa không? - Tôi hỏi anh.

Artie cười, nụ cười đẹp mà buồn của anh.

- Không, - anh nói. - Chú biết đó, ngay cả bây giờ, đối với bà, tôi vẫn là một nỗi đau khổ khó chịu. Bà thực sự không thích tôi ở gần. Lần đầu tiên khi tôi tìm thấy, bà đã đóng cái vai tôi muốn bà đóng, tôi nghĩ, từ một mặc cảm phạm tội, rằng có lẽ, bà có thể đền bù cho tôi bằng cách để cho tôi chăm sóc bà. Nhưng thực sự bà không thích điều đó. Tôi muốn bà đến nhà chơi nhưng bà không màng. Thôi thế cũng tốt.

- Pam nghĩ sao về chuyện này? - tôi hỏi.

Artie cười lớn.

- Lạy Chúa, nàng ghen cả với mẹ chồng. Khi tôi bảo nàng mọi chuyện qua rồi, người ta có thể thấy vẻ nhẹ nhõm thoát nợ trên khuôn mặt nàng. Một điều tôi phải nói về chú, đó là chú quá dửng dưng trong chuyện này.

- Bởi vì tôi chẳng muốn bận lòng chi, vô ích, - tôi đáp.

- Ừ, Artie nói buông xuôi. - Tôi biết. Cũng chẳng thành vấn đề. Tôi không nghĩ chú sẽ mến bà.

***

Sáu tháng sau, Artie bị đột biến tim. Cũng nhẹ thôi nhưng anh phải nằm viện hết mấy tuần và nghỉ việc hết cả tháng. Tôi đến bệnh viện hàng ngày để thăm anh.

Không có gì trầm trọng lắm nhưng Pam hoảng hốt, sợ đến cuống cuồng. Khi Artie xuất viện về nhà, chị bắt anh theo chế độ ăn kiêng cữ nghiêm ngặt, vất hết thuốc lá để trong nhà không còn một điếu. Anh đi bộ đều đặn mỗi ngày, ăn uống cẩn thận, không bao giờ đụng đến thuốc lá.

Sáu tháng sau, anh khỏi hẳn ra như chưa từng thấy trong đời.

- Tạ ơn Chúa, anh đã bỏ được thuốc lá, - Pam nói.

- Anh ấy đã từng hút đến ba gói một ngày. Vì thế anh dễ bị truỵ tim đấy.

Tôi gật đầu, nhưng không tin điều đó. Tôi vẫn luôn tin rằng chính hai tháng gần gũi bà mẹ "có vấn đề" nhức nhối như vậy đã dồn nén cơn đau tinh thần của anh đến hậu quả trên.

Và ngay lúc Artie vừa mới bình phục, thì tôi lại gặp rắc rối. Tôi mất việc ở tạp chí Văn học, chẳng phải lỗi tại tôi nhưng chỉ vì Osano bị thôi việc và tôi là phụ tá thân thiết của ông thì tôi cũng phải cùng chung số phận.

Osano đã tạo ra quá nhiều cơn bão tố. Sự ngạo mạn của ông đối với những Hội văn học có thế lực mạnh nhất trong nước, với giới trí thức chính trị, những kẻ cuồng tín về văn hoá, phong trào giải phóng phụ nữ, những kẻ quá khích, những trò tinh nghịch táo bạo của ông về tình dục, chuyện đánh cá thể thao, việc ông sử dụng vị thế của mình để vận động tranh giải Nobel văn học. Thêm vào một cuốn sách ông xuất bản để bênh vực cho loại sách báo khiêu dâm, không phải về giá trị cứu chuộc xã hội của chúng, nhưng như một thú vui chống lại giới thượng lưu ưu tú, nghèo về trí tuệ. Vì tất cả những chuyện đó, các nhà xuất bản muốn sa thải ông, thế nhưng số lượng lưu hành của tạp chí đã tăng gấp đôi kể từ khi ông làm tổng biên tập.

Vào thời đó tôi đang làm ra khá tiền. Tôi viết rất nhiều bài báo để tên Osano. Tôi có thể mô phỏng văn phong ông khá tốt và ông khởi động cho tôi bằng mười lăm phút tuôn trào thao thao về những cảm nghĩ của ông liên quan đến một đề tài nào đó, lúc nào cũng đầy chất điên rồ một cách xuất sắc! Thật dễ dàng cho tôi để viết ra bài báo dựa trên cơ sở mười lăm phút "lên đồng" đó của ông. Sau đó ông đọc qua và "nhuận sắc" bằng vài cú "điểm nhãn" bậc thầy và chúng tôi chia đội tiền nhuận bút. Nhưng một nửa tiền nhuận bút của ông cũng gấp đôi tiền nhuận bút mà tôi nhận được cho một bài viết tương tự. Chuyện đó không làm chúng tôi gặp rắc rối nào.

Chính bà vợ cũ Wendy của ông đã đẩy chúng tôi vào. Nói thế cũng chưa công bình lắm, chính Osano đẩy vào còn Wendy chỉ đưa mũi dao cho ông.

Osano đã bỏ ra bốn tuần ở Hollywood trong lúc tôi điều hành tạp chí cho ông. Ông đang kết thúc cuộc thương lượng về một hợp đồng chuyển thể điện ảnh và trong bốn tuần đó chúng tôi dùng chuyến bay thư để đưa các bài viết đến cho ông duyệt trước khi tôi cho lên khuôn. Khi cuối cùng Osano quay về New York, ông mở một party mời bạn bè để ăn mừng việc ông trở về thắng lợi với một túi bạc kiếm được từ Hollywood.

Buổi party được tổ chức ở căn nhà bằng đá nâu ở vùng East Side hiện do bà vợ cũ sau cùng của ông ở với ba đứa con. Osano đang sống trong một căn hộ nhỏ ở Greenwich Village quá nhỏ để tổ chức party.

Tôi đi dự vì ông nhấn mạnh là tôi phải có mặt. Vallie không theo. Nàng không thích Osano và cũng không thích những hội lễ lạc bên ngoài vòng thân mật gia đình nàng. Qua nhiều năm tháng sống chung, chúng tôi đã đi đến một hiệp ước bất thành văn. Chúng tôi khoan miễn cho nhau đối với những quan hệ xã hội của nhau. Ai lo phần người nấy, không lôi kéo, bắt buộc người kia phải theo mình. Lý do khoan miễn của tôi đó là quá bận công việc với nào là viết tiểu thuyết, nào là điều hành tạp chí, nào là viết bài cộng tác. Lý do khoan miễn cho nàng đó là nàng phải chăm sóc cho lũ nhóc và không thể tin tưởng giao cho những người giữ trẻ thuê. Cả hai chúng tôi hài lòng với thoả ước mặc nhiên đó.

Dẫu sao, buổi party của Osano cũng là một trong những sự kiện lớn của văn giới New York. Những vị chóp bu của tờ tạp chí Điểm sách của tổ hợp báo chí New York Times đến dự, những nhà phê bình và những tiểu thuyết gia mà Osano còn liên hệ hữu hảo. Tôi ngồi trong một góc, nói chuyện với bà vợ cũ gần đây nhất của Osano.

Khi tôi thấy Wendy tiến vào và ngay lập tức tôi nghĩ "Ôi lạy Chúa rắc rối tới nơi rồi", bởi tôi biết bà ta đâu có được mời.

Osano cũng nhận ra bà ta cùng lúc với tôi và bắt đầu tiến về phía nàng với dáng người đi uốn lượn ngoằn ngoèo mà ông mới có trong mấy tháng gần đây. Ông hơi say và tôi hơi e ngại ông có thể mất bình tĩnh và gây ra cảnh lộn xộn hoặc làm chuyện gì điên rồ, vì thế tôi đứng lên và lại gần họ. Tôi đến đúng lúc để nghe Osano chào bà ta.

- Cô muốn cái gì ở đây? - ông gằn giọng hỏi.

Ông có thể làm cho người ta ngán ngại khi ông giận dữ nhưng từ những gì mà ông đã kể với tôi về Wendy, tôi biết bà là người duy nhất thích thú khi chọc được ông nổi điên. Nhưng tôi vẫn còn ngạc nhiên về phản ứng của bà.

Wendy mặc quần jeans, áo thun và một khăn choàng trên đầu khiến cho khuôn mặt mỏng, sậm màu của bà giống dân Bắc Phi. Mái tóc đen của bà thoát ra khỏi chiếc khăn quàng giống như những con rắn nhỏ màu đen.

Bà ta nhìn vào Osano với vẻ bình thản chết người của một người chiến thắng hiểm ác. Và dứt khoát muốn báo thù rửa hận. Bà phóng ra một tia nhìn dài quét suốt lượt khắp phòng như muốn uống vào những gì mà giờ đây bà không còn có thể kêu đòi phần nào nữa, cái thế giới văn học lấp lánh sáng ngời của Osano mà ông ta đã trục xuất nàng ra khỏi từ lâu. Một cái nhìn đắc ý đầy ác ý.

Rồi nàng nói với Osano:

- Tôi có việc quan trọng muốn nói với anh.

Osano hạ ly Scotch xuống. Ông cười nhăn nhở với bà ta:

- Thì nói đi rồi cút.

Wendy nói rất nghiêm trang:

- Tin xấu đấy.

Osano cười rộ lên, thật lòng. Điều đó thực sự làm ông tức cười:

- Cô luôn luôn là tin xấu, - ông nói và lại cười.

Wendy quan sát ông với sự đắc ý thầm lặng:

- Tôi phải nói riêng với anh.

- Ôi dào, nhảm, - Osano nói.

Nhưng ông biết Wendy. Bà ta thích gây cảnh lộn xộn. Vì vậy ông kéo bà ta đến chỗ cầu thang đi lên thư phòng của ông. Về sau này tôi đoán là ông không đưa bà lên một trong các phòng ngủ bởi vì trong thâm tâm ông vẫn sợ ông sẽ tìm cách gạ gẫm để [bad word] bà ta, bà ta vẫn còn cái ma lực đó đối với ông. Và ông biết bà ta sẽ thích thú khi từ chối ông. Nhưng thật sai lầm khi đưa bà ta vào thư phòng. Phòng đó có một cửa sổ thật lớn mà ông thích nhìn ra ngoài trong khi viết văn và nhìn người ta đi lại dưới phố. Tôi vẫn quanh quẩn ở chân cầu thang. Tôi thật sự không hiểu tại sao nhưng tôi linh cảm rằng Osano sắp cần sự giúp đỡ. Vì thế tôi là người trước tiên nghe Wendy hét lên một tiếng kinh hoàng và là người đầu tiên hành động vì tiếng hét đó. Tôi phóng lên các bậc cầu thang và đá bật cánh cửa vào thư phòng.

Đúng lúc đó tôi thấy Osano tiến sát đến bên Wendy. Bà ta vươn hai cánh tay ra, cố giữ cho ông ở khoảng cách đôi bàn tay xương xẩu của bà ta cong lại, các ngón tay rướn dài ra như vuốt mèo để cào cấu vào mặt ông. Bà ta khiếp sợ nhưng bà ta cũng thích được như vậy. Tôi có thể thấy ra điều đó trên nét mặt của mụ nữ quái này. Mặt của Ossano đang chảy máu từ hai đường cào sâu bên má phải. Và trước khi tôi kịp ngăn ông lại, ông đã đấm vào mặt Wendy khiến bà ta lảo đảo rồi lại ngã vào người ông. Trong một động tác cực nhanh, nhanh đến không ngờ, ông tóm gọn lấy bà vợ như thể bà ta là một con búp bê không trọng lượng và ném bà qua cửa sổ bằng sức mạnh ghê hồn. Cửa sổ vỡ toang, kính rơi loảng xoảng và nàng Wendy phù thủy bay vù qua đó rồi rơi đánh huỵch xuống đường phố bên dưới.

Tôi không biết mình đã khiếp vía vì cảnh tượng cái thân thể nhỏ nhắn của Wendy xuyên qua cửa sổ hay bởi khuôn mặt hoàn toàn điên dại của Osano hơn. Tôi chạy ra khỏi phòng và la lớn:

- Gọi gấp xe cứu thương? - Tôi giật lấy một cái áo choàng ai móc ở hành lang và chạy xuống phố.

Wendy nằm trên vỉa hè xi măng giống như một côn trùng với các chi đã bị gãy. Lúc tôi phóng ra khỏi nhà, bà đang gượng chống hai tay hai chân đứng lên nhưng chỉ quỳ gối được thôi. Bà giống như một con nhện đang cố đi nhưng rồi lại ngã xuống.

Tôi quỳ bên cạnh bà và lấy áo khoác choàng quanh bà. Tôi cởi áo jacket của mình ra và gấp lại đặt dưới đầu bà. Bà bị đau, nhưng không thấy máu chảy ra khỏi miệng hay ở hai lỗ tai và không thấy cái màng tử thần trên đôi mắt mà trước đây đã lâu, trong chiến tranh tôi đã nhận ra như một dấu báo nguy hiểm. Mặt bà cuối cùng đã điềm tĩnh lại và tỏ ra ôn hoà. Tôi nắm tay bà, tay bà ấm và bà mở mắt:

- Bà sẽ không sao đâu, tôi nói. - Xe cứu thương đang đến - Bà sẽ không sao đâu.

Bà mở mắt và cười với tôi. Trông bà rất đẹp và lần đầu tiên tôi hiểu tại sao Osano bị mê hoặc bởi bà. Bà hẳn nhiên đang đau đớn lắm nhưng vẫn cười:

- Lần này thì thằng chó đẻ đó chết với tôi, - bà ta nói.

Khi đưa bà ta vào bệnh viện, họ thấy rằng bà ta bị giập một ngón chân và nứt xương bả vai. Bà ta còn đủ ý thức để khai báo chuyện gì đã xảy ra và cảnh sát đã đi tìm Osano và giải ông đi. Tôi gọi điện thoại cho luật sư của Osano. Ông ta bảo tôi cứ "thủ khẩu như bình" theo phương pháp ba không: "không nghe, không thấy không biết", ở mức độ tối đa có thể và sẽ dàn xếp mọi chuyện. Ông ta biết Osano và Wendy lâu rồi và ông hiểu mọi chuyện trước cả tôi nữa. Ông bảo tôi đứng yên tại chỗ cho đến khi ông gọi lại.

Khỏi cần nói là buổi party tự động "tan hàng, cố gắng" sau khi các thám tử thẩm vấn một số người, kể cả tôi. Tôi nói tôi không thấy gì ngoài việc Wendy rơi qua cửa sổ. Không, tôi không thấy Osano ở gần bà ấy, tôi nói với họ. Và họ bỏ lửng ở đó. Bà vợ cũ của Osano đưa cho tôi một ly rượu và ngồi gần tôi trên ghế sofa. Một nụ cười hài hước thoáng trên khuôn mặt bà:

- Tôi vẫn luôn biết rằng chuyện này sẽ xảy ra. - Bà nói.

Gần ba giờ sau, luật sư mới gọi lại tôi. Ông nói ông đã nộp tiền thế chân để cho Osano được tại ngoại nhưng nếu có người ở bên ông vài ngày có lẽ tốt hơn. Osano đến căn hộ làm việc của ông ở Village. Tôi có thể đến đó để bầu bạn với ông và ngăn ông đừng tuyên bố lung tung với báo chí. Tôi trả lời: "Được chứ". Rồi luật sư kể vắn tắt cho tôi nghe. Osano đã khai rằng Wendy đã tấn công ông và ông đã gạt bà ta ra xa, bà ta mất thăng bằng và té ngang qua cứa sổ: Đó là câu chuyện để nói với báo chí.

Luật sư tin chắc rằng ông có thể thuyết phục Wendy thuận theo câu chuyện đó vì quyền lợi của chính bà. Nếu Osano đi tù, bà sẽ mất phần cấp dưỡng cho bà và cho con. Mọi chuyện sẽ lắng dịu, êm xuôi trong vòng dăm ba bữa nữa thôi nếu Osano đừng phát biểu vung vít linh tinh. Trong một vòng giờ nữa, luật sư sẽ đưa Osano về căn hộ của ông ta.

Tôi rời căn nhà đá nâu gọi taxi về Village. Tôi ngồi trước căn hộ đó cho đến khi chiếc xe Limo của luật sư đến nơi. Osano bước ra.

Trông ông hoảng sợ. Đôi mắt ông lồi ra, da trắng bệch. Ông đi qua sát tôi, và tôi đi vào buồng thang máy với ông. Ông lấy chìa khoá từ túi quần ra, nhưng hai tay run rẩy, tôi mở khoá cửa.

Khi chúng tôi vào căn hộ làm việc nhỏ xíu của ông. Osano nằm vật xuống giường. Ông vẫn chưa nói tiếng nào với tôi. Ông nằm đó, mệt mỏi rã rời và quá chán ngán cho cái sự đời! Tôi nhìn quanh căn hộ studio của ông và nghĩ, đây là Osano, một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế giới, lại đang sống trong một cái hang chuột như thế này. Nhưng rồi nhớ ra rằng ít khi ông sống ở nơi này. Ông thường sống nơi các căn nhà của ông ở Hamptons hoặc ở Provincetown. Hoặc là với một trong số những bà goá giàu có mà ông đang "liên doanh" trong một áp phe tình ái độ vài ba tháng.

Tôi ngồi vào một cái ghế bành đầy bụi và đẩy một chồng sách vào góc:

- Tôi nói với bọn cớm là chẳng thấy gì hết.

Osano ngồi lên, bỏ hai bàn tay ra khỏi mặt. Ngạc nhiên thay, tôi thấy một nụ cười toét miệng trên mặt ông.

- Lạy chúa, cậu có khoái nhìn cái cảnh nàng ta cưỡi gió phi thân qua cửa sổ không? Tôi vẫn nói rằng nàng ta là một phủ thủy cao cường mà. Tôi chưa vận hết mười hai thành công lực để ném đâu mà chính nàng ta thi triển khinh công thượng thừa đấy! Vèo! Huỵch! Một cao thủ, nhưng mới chỉ là một cao thủ hạng xoàng!

Tôi trừng mắt nhìn ông:

- Tôi nghĩ ông sắp hoá rồ đến nơi rồi đấy. Ông nên đi khám bác sĩ thì hay hơn.

Giọng tôi lạnh. Tôi không thể quên hình ảnh Wendy nằm trên vỉa hè như một con cua gãy càng.

- Ôi dào, nàng ta rồi sẽ ổn thôi, - Osano nói. - Và cậu không hỏi tại sao. Hay cậu nghĩ rằng tôi ném tất cả các bà vợ cũ qua cửa sổ?

- Đó không phải lý do khoan miễn, - tôi nói.

Osano lại cười nhăn nhở:

- Cậu không biết Wendy đâu. Tôi cá là khi tôi kể với cậu nàng ta đã nói gì với tôi, ắt cậu sẽ đồng ý sẽ cũng hành động như tôi thôi.

- Cá đấy, - tôi nói.

Tôi đi vào phòng tắm, nhúng ướt một cái khăn mặt, vắt cho ráo nước rồi ném cho ông. Ông lau mặt, lau cổ và thở ra khoan khoái khi nước lạnh làm mát làn da.

Osano vẫn ngồi trên giường nhưng chồm người về phía trước:

- Nàng nhắc nhở tôi là hai tháng qua nàng đã viết thư cho tôi để xin tiền cho mấy đứa con. Tất nhiên là tôi không gửi tiền cho nàng vì nàng chỉ đem tiêu riêng cho mình. Rồi nàng nói không muốn làm phiền tôi trong khi tôi đang bận ở Hollywood nhưng vì đứa con trai nhỏ bị viêm màng tuỷ sống, nàng không còn đủ tiền nên phải đưa con vào nhà thương từ thiện của thành phố. Cậu có thể tưởng tượng nàng và hành động như thế nào không? Nàng ta không gọi để báo cho tôi là thằng bé ốm, vì muốn đổ vấy mọi tội lỗi lên đầu tôi.

Tôi biết Osano yêu tất cả con của ông, từ những bà vợ khác nhau, như thế nào. Tôi vẫn ngạc nhiên về điều này. Ông luôn gửi quà sinh nhật cho mọi đứa con và ông vẫn thường sống với chúng trong những tháng hè. Và thỉnh thoảng ông cũng ghé thăm chúng để dẫn chúng đi xem hát, đi ăn hoặc xem đá bóng. Nên giờ đây tôi hơi bỡ ngỡ khi thấy ông không có vẻ gì lo lắng về chuyện thằng bé ốm. Ông hiểu ngay điều tôi đang cảm thấy.

- Thằng bé chỉ bị sốt cao vì nhiễm trùng đường hô hấp. Trong khi cậu rất "ga-lăng" lo cho Wendy, tôi đã gọi điện đến bệnh viện trước khi bọn cớm đến. Họ bảo tôi không có gì phải lo lắng. Tôi gọi đến bác sĩ tư và ông ta đã cho đem thằng bé về một bệnh viện tư. Thế là mọi chuyện cũng ổn thôi.

- Ông có muốn tôi ở gần ông không? - tôi hỏi.

Osano lắc đầu:

- Giờ đây tôi phải đi thăm thằng bé và lo cho mấy đứa kia vì mẹ chúng phải nằm bệnh viện. Nhưng ngày mai mụ ta sẽ xuất viện thôi.

Trước khi rời ông tôi hỏi Osano:

- Khi ném bà ấy qua cửa sổ, ông có nhớ là thực sự cao hơn lề đường có hai tầng?

Ông lại cười với tôi:

- Hẳn rồi. Vả chăng tôi không hề hình dung mụ ta bay xa đến thế. Đúng là con mụ phù thủy.

Ngày hôm sau mọi tờ báo ở New York đều đăng bài tường thuật ngay trang đầu. Osano vẫn còn nổi danh đủ đề thiên hạ làm chuyện đó. Ít ra là Osano đã không đi tù bởi vì Wendy không khiếu kiện nữa. Bà ta nói rằng có lẽ là bà đã vấp chân và ngã qua cửa sổ. Nhưng đó là ngày hôm sau và việc bồi thường đã được dàn xếp. Osano được tạp chí khéo léo khuyên nên thôi việc và tôi cũng xin nghỉ làm cùng với ông. Một cây viết bình luận, cố tỏ ra khôi hài đã dùng lối đại ngôn và ngoa ngôn giả dụ rằng nếu Osano thắng giải Nobel, ông ta sẽ là người đầu tiên trong số các vị được giải Nobel đã quăng vợ qua cửa sổ.

Nhưng bên dưới vẻ khôi hài bông lơn ấy, mọi người hiểu rằng tiểu phẩm hài hước kia sẽ chấm dứt mọi hy vọng của Osano theo hướng đó. Người ta không thể trao một giải thường danh giá khả kính như giải Nobel cho một nhân cách bê bối như Osano. Và Osano càng bôi bác thêm khi chỉ ít lâu sau, ông ta lại viết một bài phúng dụ về mười phương pháp tốt nhất để hạ sát các mụ ác phụ!

Nhưng trước mắt cả hai chúng tôi đều có vấn đề.

Tôi phải kiếm sống bằng các bài viết cộng tác tự do, chứ không còn công việc thường xuyên nữa. Còn Osano cần ẩn cư nơi nào đấy một thời gian tránh bị báo chí săn lùng. Tôi có thể giải quyết vấn đề của Osano. Tôi gọi Cully ở Las Vegas và trình bày những vụ việc vừa xảy ra.

Tôi hỏi Cully xem anh có thể chứa chấp Osano trong khách sạn Xanadu vài tuần không. Tôi biết sẽ không có ai nghĩ đến chuyện lùng kiếm ông ở đó. Và Osano cũng nhất trí.

Ông chưa bao giờ đến Las Vegas.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Osano ẩn thân an toàn ở Vegas xong, tôi phải lo liệu cho vấn đề khác của tôi. Tôi không còn chỗ làm thường xuyên nữa vì vậy phải tìm càng nhiều chỗ cộng tác càng tốt. Tôi viết nhiều bài điểm sách cho tạp chí Times, và tờ New York Times, và tay tổng biên tập mới của tạp chí cũng giao cho tôi một số việc. Nhưng đối với tôi chuyện đó đúng là tra tấn thần kinh. Tôi chẳng bao giờ biết được sẽ có bao nhiêu tiền đến vào tay mình vào một lúc nào đó. Thế là tôi quyết định sẽ chuyên chú để hoàn tất quyển tiểu thuyết của mình và hi vọng rằng nó sẽ đem lại thật nhiều tiền. Trong vòng hai năm sau đó, cuộc sống của tôi rất đơn giản. Tôi để ra từ mười hai đến mười lăm giờ mỗi ngày trong phòng làm việc. Mỗi tuần đưa vợ đi siêu thị một vài lần. Vào những ngày chủ nhật mùa hè, tôi đưa lũ nhóc đến thành phố biển Jones Beach, để Vallie được nghỉ ngơi. Thỉnh thoảng, vào nửa đêm tôi uống vài viên Dexamyls cho tỉnh ngủ để có thể làm việc đến ba bốn giờ sáng.

Trong thời gian đó, thỉnh thoảng tôi gặp Eddie Lancer để cùng đi ăn tối ở New York. Từ lâu Eddie đã trở thành một tác giả kịch bản phim ở Hollywood và rõ ràng là anh không viết tiểu thuyết nữa. Anh thích thú với cuộc sống đó nơi "ra ngõ gặp người đẹp", tiền bạc dễ kiếm, và anh thề sẽ không bao giờ viết tiểu thuyết nữa.

Bốn trong số các kịch bản điện ảnh đã trở thành những cuốn phim ăn khách và anh được người ta đặt hàng rất nhiều, anh ngỏ lời sẽ kiếm cho tôi một việc làm với anh nếu tôi muốn đến đó, nhưng tôi từ chối. Tôi không thích làm việc trong ngành công nghiệp điện ảnh. Dù những chuyện tếu mà Eddie kể cho tôi nghe, điều rõ ràng là làm một nhà văn viết kịch bản phim cũng lắm chuyện cười ra nước mắt. Bạn không còn là một nghệ sĩ nữa. Bạn chỉ thuần tuý phiên dịch những ý tưởng của người khác.

Trong hai năm đó, tôi thường gặp Osano mỗi tháng một lần. Ông ta ở Vegas có một tuần, rồi sau đó biến mất. Cully gọi điện cho tôi than phiền là Osano đã chạy trốn, cuỗm theo cô bồ ruột của anh, một cô gái tên là Charlie Brown. Cully không điên lên vì chuyện đó (anh có khối em ngon xơi dưới trướng). Anh ta chỉ hơi ngạc nhiên cho thói đời đen bạc lại hiện ra nơi một nhà văn lớn mà anh vẫn ngường mộ. Cho hay tài năng, tiếng tăm là một chuyện còn nhân cách lại là một chuyện khác.

Cully cho tôi biết rằng cô gái ấy rất đẹp, đang ăn nên làm ra ở Vegas dưới sự chỉ đạo của anh và đáng hưởng một cuộc sống xa hoa, thế mà cô ta lại bỏ tất cả để đỉ theo một văn sĩ già thấp béo chẳng những mang cái bụng bự vì bia mà còn là một thằng cha điên rồ nhất mà anh từng thấy.

Tôi nói với Cully rằng đây là ân huệ khác mà tôi nợ anh và nếu như tôi bắt gặp cô gái ấy với Osano ở New York, tôi sẽ mua ngay cho cô ta một vé máy bay quay về Vegas liền tuýt suýt.

- Hãy nói với nàng liên hệ ngay với tôi, - Cully nói. - Nói với nàng rằng mình nhớ cô ta, rằng mình yêu cô ta, nói với nàng bất kỳ chuyện gì anh nghĩ ra. Mình chỉ muốn cô ta quay về. Cô ta đáng giá cả một gia tài cho mình ở Vegas này đấy.

- OK. - tôi nói.

Nhưng khi tôi gặp Osano ở New York để cùng đi ăn tối thì ông vẫn "chiều một mình qua phố, cô đơn bóng đổ đường dài", chẳng có vẻ gì giống với một anh chàng đào hoa vừa chiếm được quả tim của một nàng thanh nữ đang xuân hương sắc với những đường nét mê hồn như Cully mô tả.

Khi nghe nói về thành công, danh vọng đến với một người nào đó, ta thấy lắm lúc có vẻ buồn cười. Danh vọng đó như một ánh sao băng vụt hiện ra trên bầu trời, không hiểu đến từ đâu. Nhưng cái mà danh vọng đến với tôi lại rất thuần hậu một cách đáng ngạc nhiên.

Tôi sống đời ẩn sĩ trong hai năm và cuối cùng quyển sách hoàn thành và tôi cho người đầu tư xuất bản và quên nó đi.

Một tháng sau người biên tập gọi tôi đến New York và bảo tôi là họ đã bán quyển tiểu thuyết của tôi cho một nhà xuất bản sách bìa thường với giá hơn nửa triệu đô-la.

Tôi thật sự sửng sốt đến tê liệt phản ứng. Mọi người, từ người biên tập, người đại lý văn học, Osano, Cully, đều đã cảnh báo tôi rằng một quyển sách về chuyện bắt cóc trẻ con trong đó tên bắt cóc lại là nhân vật chính, là người hùng, e khó hấp dẫn công chúng độc giả. Tôi biểu lộ sự ngạc nhiên với người biên tập và anh ta nói:

- Cậu kể một chuyện quá hấp dẫn cho nên tình tiết đó cũng không thành vấn đề.

Đêm ấy khi tôi về nhà kể lại với Vallie những gì đã xảy ra, nàng cũng không hề tỏ ra ngạc nhiên. Nàng chỉ bình thản nói:

- Chúng ta có thể mua một căn nhà lớn hơn. Con cái chúng ta đang lớn lên, chúng cần một phòng rộng rãi hơn.

Và rồi cuộc sống lại đơn giản tiếp tục như trước, ngoài việc là Vallie tìm được căn nhà chỉ cách nhà bố mẹ nàng mười phút chạy xe. Chúng tôi mua và dọn về căn nhà đó.

Vào thời điểm đó, quyển tiểu thuyết của tôi được xuất bản. Nó có mặt trong tất cả các danh sách best-seller trên cả nước. Nó thực sự là quyển sách bán chạy có hạng, nhưng thực sự cũng không thay đổi cuộc sống của tôi mấy.

Khi suy nghĩ về chuyện này, tôi nhận ra rằng lý do là vì tôi có ít bạn bè. Chỉ có Cully, Osano và Eddie Lancer và chỉ bấy nhiêu. Tất nhiên là anh Artie vô cùng tự hào về tôi và muốn tổ chức một party lớn để ăn mừng thành công của tôi cho đến khi tôi bảo rằng anh muốn tổ chức thì tổ chức chứ tôi không dự đâu, anh mới chịu thôi. Điều thực sự làm tôi xúc động là một bài giới thiệu quyển sách do Osano viết xuất hiện trên trang đầu của tờ tạp chí văn học. Ông khen tôi rất "đúng khía" và đồng thời cũng vạch ra những chỗ hà tì đúng y boong. Và cũng theo phong cách thường lệ của ông, ông đánh giá quyển sách có phần hơi quá bởi vì tôi là bạn của ông. Và rồi cũng như thông lệ, ông lại tiếp tục bằng cách nói về mình và quyển tiểu thuyết sắp ra mắt bạn đọc của ông.

Tôi gọi đến căn hộ của ông nhưng không nghe tiếng trả lời Tôi viết cho ông một bức thư ngắn và nhận được thư phúc đáp. Chúng tôi cùng đi ăn tối ở New York. Ông có vẻ hơi thất thần, nhưng lại có một em tóc vàng trẻ đẹp lộng lẫy đi theo. Em này được cái nết tốt là rất kiệm lời nhưng ăn thì bằng cả hai xuất của Osano và tôi cộng lại!

Ông giới thiệu là Charlie Brown và tôi nhận ra nàng chính là bồ ruột của Cully, nhưng tôi sẽ không bao giờ nói lại với nàng những lời nhắn nhủ thắm thiết của Cully. Sao tôi lại phải làm cho Osano đau khổ trong khi quanh Cully thiếu gì em mướt mượt? Thầy Lão đã chẳng dạy: "Đạo trời là lấy chỗ dư bù chỗ thiếu" cơ mà?

Có một sự kiện nho nhỏ mà tôi luôn nhớ. Tôi bảo Vallie đi shopping để nàng tự mua sắm quần áo mới, bất kỳ thứ gì nàng muốn và ngay đó tôi sẽ trông con cho.

Nàng đi cùng với mấy người bạn gái và quay về với đầy các thùng hàng. Nàng mở một gói hàng và khoe với tôi một cái áo mới màu vàng:

- Anh biết không, - nàng nói - Thực sự em đã không thể quyết định rằng mình thích cái áo màu vàng hay áo màu xanh. Rồi em lấy cái áo màu vàng. Em nghĩ em hợp với áo màu vàng hơn, phải không anh?

Tôi cười và nói:

- Cưng à, sao em không nghĩ là em có thể mua cả hai?

Nàng nhìn tôi, hơi sững người một lát, rồi nàng cũng phá ra cười. Và tôi nói:

- Em có thể mua một cái áo vàng, một cái áo xanh, một cái trắng, một cái đỏ, có nhằm nhò gì đâu.

Và cả hai chúng tôi cùng hoà chung tiếng cười, và lần đầu tiên nhận ra rằng chúng tôi đã đi vào một cuộc sống mới. Nhưng về đại thể, tôi thấy thành công cũng không hào hứng hay đem lại nhiều thoả mãn như tôi từng nghĩ hẳn nó phải như thế. Cho nên, như vẫn thường làm, tôi tìm đọc đề tài này và thấy rằng trường hợp của tôi chẳng phải là biệt lệ, rằng trong thực tế, nhiều người đã từng phấn đấu cả đời để đạt đến tột đỉnh của sự nghiệp mà họ theo đuổi, rồi liền ngay sau đó lại mừng thành công bàng cách lao mình ra khoảng không từ một tầng lầu cao chót vót.

Lúc này đang là mùa đông và tôi quyết định đưa cả gia đình đến Puerto Rico để nghỉ dưỡng. Đó là lần đầu tiên trong đời sống vợ chồng, chúng tôi có điều kiện đi chơi xa. Các con của tôi chưa từng được đi dự trại hè.

Chúng tôi có được khoảng thời gian tuyệt diệu để bơi lội, nô đùa với sóng nước và ánh nắng, sự vui thú khi rời bỏ mùa đông lạnh lẽo trong một buổi sáng và ngay trong buổi chiều đó đã tắm mình trong ánh nắng chói chang, hưởng những làn gió biển lồng lộng. Buổi tối Vallie dẫn mấy đứa nhỏ đi chơi, ăn kem, uống nước dừa, xem hát kịch hay xem tivi còn tôi chơi bài ở casino của khách sạn để giải trí. Chúng tôi được hưởng một lạc thú của một cuộc sống thoải mái về tiền bạc và sự hoà hợp gia đình.

Khi tôi quay về nhà, một điều ngạc nhiên còn lớn hơn nữa đang đợi tôi. Một hãng phim, Malomar Films, đã tung ra một trăm ngàn đô-la để mua quyền chuyển thể điện ảnh quyển sách tôi và năm mươi ngàn đô-la nữa, cộng thêm tiền lộ phí để tôi đến Hollywood viết kịch bản phim.

Tôi bàn chuyện đó với Vallie. Thực sự tôi không thích viết kịch bản phim. Tôi bảo nàng tôi sẽ bán tác quyền sách để chuyển thể điện ảnh nhưng từ chối hợp đồng viết kịch bản. Tôi nghĩ nàng sẽ hài lòng, nhưng thay vì thế, nàng lại nói:

- Em nghĩ anh đến Hollywood là tốt đấy. Em nghĩ anh nên đi để gặp gỡ, quen biết nhiều người hơn. Anh biết rằng nhiều lúc em cũng lo ngại là anh đơn độc quá.

- Thế thì cả nhà ta cùng đi, - tôi nói.

- Không, - Vallie đáp. - Em thực sự cảm thấy hạnh phúc ở đây với gia đình, con cái, và chúng ta không thể đổi trường giữa chừng năm học cho các con. Vả lại em cũng không muốn con cái chúng ta lớn lên ở California.

Giống như mọi người khác ở New York, Vallie nhìn California như một tiền đồn nơi miền quan tái của Hiệp chủng quốc, đầy những kẻ nghiện ma tuý, bọn sát nhân và những kẻ truyền giáo cuồng tín sẵn sàng rút súng bắn bỏ những ai mà chúng cho là tà giáo.

- Hợp đồng có thời hạn sáu tháng, - tôi nói - Nhưng anh có thể làm việc một tháng rồi lại về thăm nhà ít ngày và sau đó đi làm lại.

- Thế thì hay quá, - Vallie nói, - Ngoài ra, nói thật với anh, chúng ta có thể nghỉ ngơi đối với nhau đôi chút.

Điều đó làm tôi ngạc nhiên.

- Anh đâu cần nghỉ ngơi với em, - tôi nói.

- Nhưng em cần nghỉ ngơi với anh, - Vallie nói - Một người đàn ông làm việc ở nhà bên cạnh mình, điều đó dễ gây căng thẳng thần kinh lắm. Anh cứ hỏi bất kỳ phụ nữ nào xem. Nó làm đảo lộn thói quen hàng ngày của em trong việc tề gia nội trợ. Trước đây em không thể nói gì bởi vì anh chưa đủ điều kiện về tiền bạc để có một studio ở nơi khác để làm việc nhưng bây giờ thì được rồi, em mong anh sẽ không làm việc ở nhà nữa. Anh có thể thuê một nơi nào đó, buổi sáng đến đó làm việc, đêm anh về nhà. Chắc chắn là anh sẽ làm việc tốt hơn.

Giờ đây tôi cũng không rõ tại sao việc nàng nói như vây lại xúc phạm tôi đến thế. Tôi đã thấy hạnh phúc khi làm việc ở nhà và tôi thực sự tổn thương khi nàng không cảm nhận giống như tôi và nghĩ chính điều này đã thúc đẩy tôi viết kịch bản phim cho quyển tiểu thuyết của mình.

Đó là một phản ứng trẻ con. Nếu nàng không thích tôi ở nhà thì tôi ra đi để xem nàng thấy thế nào. Cho đến thời điểm ấy, tôi vẫn nghĩ rằng Hollywood là nơi đáng để nghiên cứu qua sách vở nhưng tôi vẫn không muốn tham quan thực địa.

Tôi nhận ra rằng một phần lịch sử đời tôi đã sang trang. Trong một bài giới thiệu, Osano đã viết "Mọi tiểu thuyết gia, dù hay dù dở, đều là những anh hùng. Họ chiến đấu đơn độc, phải có niềm tin của những vị thánh tuẫn đạo. Họ thường bị đánh bại hơn là chiến thắng và bị ruồng bỏ không chút xót thương bởi một thế giới bất nhân. Nội lực của họ bị xói mòn (đó là lý do tại sao phần lớn mọi tiểu thuyết đều mang những hà tì khiếm khuyết, dễ thành tiêu điểm cho người ta tán công), bao âu lo từ những chuyện cơm áo đời thường, con đau vợ đẻ, bạn bè phản bội, vợ phụ bạc, tình nhân bỏ rơi tất cả cần được dẹp qua một bên. Họ quên đi những vết thương, tiếp tục chiến đấu, kêu cầu phép lạ cho mình những nguồn năng lượng mới.

Tôi không tán đồng tính chất ca nhạc kịch sướt mướt trong những dòng trên đây của ông nhưng đúng là tôi cảm thấy như thể tôi đang đào ngũ khỏi sự bầu bạn với các vị anh hùng. Tôi cũng chẳng cần quan tâm xem có phải đó chính là tâm thức lãng mạn của nhà văn - kẻ lưu đày, hay không.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Malomar Films, mặc dầu chỉ là một chi nhánh của Moses Wartberg s Tri-Culture Studios nhưng hoạt động trên cơ sở hoàn toàn độc lập, rất sáng tạo, trong lãnh vực riêng của nó. Và do đó Bernard Malomar có toàn quyền hành động đối với bộ phim dự tính từ quyển tiểu thuyết của John Merlyn.

Malomar chỉ muốn làm những phim hay và chuyện đó chẳng bao giờ dễ, nhất là với Wartberg luôn xét nét mỗi động tác của anh. Tuy nhiên Malomar vẫn tôn trọng tài năng quản trị và huy động tài chính của Wartberg. Anh biết rằng những người làm phim như anh không thể tồn tại nếu không nhờ vào điều đó.

Malomar trong dãy văn phòng sang trọng của anh còn phải đối đầu với một nhân vật còn khó chịu hơn nữa là Jack Houlinan.

Jack Houlinan, phó chủ tịch đặc trách giao tế nhân sự diễn vai trò tài năng giao tế nhân sự số một của mình với sự thật chết người. Ông ta yêu cầu bạn làm một điều gì đó có vẻ kỳ quặc và bị từ chối, ông ta thừa nhận, với một nhiệt tình dữ dội, quyền từ chối của bạn. Câu nói ưa thích của ông ta là: "Bất cứ điều gì bạn nói với tôi cũng được cả. Tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ tìm cách thuyết phục bạn làm bất cứ điều gì mà bạn không muốn làm. Tôi chỉ yêu cầu thôi!". Nghe nhẹ nhàng thế nhưng coi chừng miệng ngon như mật, bụng đầy gươm dao đấy. Bạn sẽ phải trả giá thích đáng cho sự từ chối của mình.

Nhưng với các cấp trên chẳng hạn tay phó tổng phụ trách sản xuất, hay với khách hàng của mình, Ugo Kellino, ông ta chân thật hơn, cận nhân tình hơn. Và bây giờ ông ta đang nói chuyện thẳng thắn với Bernard Malomar, người thực sự không có thời giờ cho những chuyện nhảm nhí.

- Chúng ta đang gặp rắc rối, - Houlinan nói. - Tôi nghĩ bộ phim này có thể là quả bom lớn nhất kể từ sau hai quả bom xuống Hiroshima và Nagasaki.

Malomar là Trưởng điều hành Studio trẻ nhất từ sau Wartberg và thích đóng vai một thiên tử khờ khạo. Với vẻ mặt thẳng băng, anh ta nói:

- Tôi không biết cuốn phim đó và tôi nghĩ anh chỉ nói nhảm. Tôi nghĩ anh lo ngại về Kellino. Anh muốn chúng tôi tiêu cả một gia tài chỉ bởi vì cái thằng tồi đó quyết định nắm quyền giám đốc sản xuất phim và anh muốn bảo đảm cho hắn.

Houlinan là đại diện cho giao tế của Ugo Kellino với mức lương trả trước năm mươi ngàn đô-la một năm. Là một diễn viên lớn, Kellino cũng hầu như gàn dở với tính tự tôn, một căn bệnh không phải là bất thường nơi những nam diễn viên loại "top", các đạo diễn và những cô gái tự cho mình là nhà văn viết kịch bản phim. Tính tự tôn là điều thường thấy và có sức tàn phá nhưng không tất yếu là nguy hiểm chết người.

Thực tế là, tính tự tôn làm nhiều người trong bọn họ trở nên thú vị hơn. Điều này đúng với trường hợp của Kellino. Tính năng động của anh trên màn ảnh khiến anh ta được đưa vào danh sách năm mươi nhân vật nổi tiếng nhất thế giới.

Một năm trước đây, Kellino đã nhấn mạnh việc anh ta sẽ tự làm đạo diễn cuốn phim sắp tới của mình. Anh ta là một trong những số ít các ngôi sao điện ảnh có thể yêu cầu điều đó. Kellino sẽ đóng vai chính trong cuốn phim chuyển thể từ quyển tiểu thuyết bán chạy đang được quảng cáo mạnh mẽ của John Merlyn mà Malomar cảm nhận được từ trong căn cơ cốt tuỷ của mình, là sẽ đem lại cho hãng phim cả một gia tài.

Houlinan nói:

- Chúng ta phát động một chiến dịch đặc biệt. Chúng ta phải tiêu rất nhiều tiền. Chúng ta phải bán nó đúng với tầm cỡ của nó.

- Lạy Chúa tôi! - Malomar thốt lên.

Anh vẫn thường lịch sự hơn. Nhưng anh đang phát mệt với Kellino, với Houlinan và phát chẩn với cả phim ảnh. Chuyện này cũng chẳng có ý nghĩ gì.

Đã phát mệt với những người đàn bà đẹp và những người đàn ông hấp dẫn. Anh đã ê ẩm với khí hậu ở California. Để giải trí, anh nghiên cứu Houlinan. Anh vẫn nuôi lòng đố kỵ với anh chàng này và với Kellino.

Anh chàng Houlinan lúc nào cũng ăn vận bảnh bao, lịch sự. Comple lụa, cà vạt lụa, mắt kính gọng vàng. Một khuôn mặt Ireland ngọt ngào, hoà nhã của những người giáo sĩ kiểu ông tiên nhỏ bé vẫn tràn đầy trên màn hình tivi ở California các buổi sáng chủ nhật. Thật khó tin rằng, anh ta lại là một tên chó đẻ với lòng dạ đen tối và vẫn lự hào về điều đó.

Nhiều năm trước đây Kellino và Malomar đã cãi nhau trong một nhà hàng, một cuộc đấu khẩu bình thường thôi nhưng đã trở thành một câu chuyện sỉ nhục, bôi bác trong các trang báo và trong những cuộc tán gẫu. Và anh đã đạo diễn một chiến dịch tuyên truyền biến Kellino thành người anh hùng và biến Houlinan thành kẻ tiểu nhân bần tiện trong vụ đó.

Anh đã tạo ra hình ảnh một quản đốc xưởng phim khúm núm cúi mình trước một Kellino đại minh tinh lừng lẫy! Đồng ý là Houlinan rất có tài dàn dựng những vụ như thế. Nhưng tầm nhìn của anh ta có phần hạn chế.

Và kể từ đó, Malomar đã bắt anh ta phải trả giá.

Trong năm năm qua, không một tháng nào trôi qua mà báo chí lại không đưa ra một câu chuyện về Kellino giúp đỡ ai đó bất hạnh hơn mình. Một cô gái nghèo bị bệnh bạch cầu cần được truyền máu, đặc biệt từ một người hiến máu sống tít ở vùng Siberi xa xôi? Thế là bất kỳ tờ báo nào cũng đưa tin Kellino đã gửi chiếc phải lực riêng của anh ta đến Siberi. Một người da đen bị tù vì tuần hành phản đối? Kellino sẽ nộp tiền cho toà để người ấy được tại ngoại. Khi một cảnh sát người Ý có bảy đứa con bị một thành viên của nhóm Báo đen hạ gục ở khu Harlem, Kellino liền gửi ngay một tấm séc mười ngàn đô-la cho quả phụ của người đó và lập quỹ học bổng cho cả bảy đứa con của anh ta. Khi một thành viên nhóm Báo đen bị kết tội giết một tay cớm, Kellino liền gửi mười ngàn đô-la vào quỹ bào chữa cho hắn ta. Bất cứ khi nào có một cựu ngôi sao điện ảnh ốm đau, báo chí cũng ghi nhận rằng Kellino thanh toán viện phí cho người ấy và dành cho người ấy một vai trong phim sắp tới của anh để giúp người ấy kiếm tiền sống. Một trong những tay cựu ngôi sao ấy có được mười triệu đô-la gửi ngân hàng để dưỡng già và thù ghét nghề nghiệp của mình đã cho nhà báo một cuộc phỏng vấn, phỉ báng sự hào hiệp mang tính phô trương huênh hoang của Kellino thực tế ông ta phỉ nhổ chuyện đó và điều buồn cười là, ngay cả Houlinan, vốn tài ba sắc sảo là thế, mà cũng đành chịu, không thể nào lấy thúng úp voi.

Song Houlinan còn có rất nhiều tài năng tàng ẩn. Anh là một tên ma cô dắt mối với tài đánh hơi rất thính khiến anh ta trở thành tay Tú ông ngoại hạng trong cuộc sống hoang đàng của thế giới điện ảnh Hollywood. Houlinan vẫn thường huênh hoang về kỹ thuật của mình. "Hãy rót vào tai bất cứ nữ diễn viên nào rằng em đóng rất đạt vai của em. Hãy mớm lời mật ngọt đến ba lần chỉ trong một buổi chiều khiến em sướng tê đi và bảo đảm em sẽ tuột quần bạn xuống và ngốn ngấu con gà trống của bạn cho đến lúc nó khờ câm luôn!" Anh ta là hướng đạo tiền tiêu của Kellino, thường thử nghiệm tài năng chăn gối của cô gái trước khi sang tay cho người khác. Em nào ưa dở chứng kiểu "tám nóng mười hai lạnh" cho dầu xét theo những tiêu chuẩn công nghiệp rộng rãi nhất, sẽ dứt khoát bị sàng lọc và không để lọt qua ải.

Houlinan cười cầu tài với Malomar:

- Nghe này, có một em điếm đẹp hết sẩy đến từ nước Bỉ. Tôi còn cấm cung em trong một bungalow của khách sạn Beverly Hill. Ngày mai chúng ta cùng dùng điểm tâm để hội ý nhé?

- Thôi để khi khác, - Malomar nói. Anh đã quá ể oải với đám nữ quái bay khắp thế giới để mong được… Anh đã mệt mỏi với những tấm nhan sắc kiều diễm mà anh vẫn thường chụp hình chung trong các party, ở nhà hàng hay trong các buổi diễn đầu tiên. Anh nổi danh không chỉ như nhà sản xuất tài ba nhất ở Hollywood nhưng còn là nhà sản xuất điện ảnh có nhiều người đẹp vây quanh nhất. Chỉ có mấy người bạn thân thiết mới biết rằng anh thích làm tình với những cô hầu phòng bụ bẫm, tròn trịa, người Mễ hơn.

Khi họ chế giễu anh về sự lầm lạc tình dục đó, Malomar vẫn luôn bảo họ rằng cách thư giãn ưa thích nhất của anh là "phủ" lên một phụ nữ và rằng những người đàn bà đẹp được in trên các tạp chí đó chẳng có gì để phủ lên người cả ngoài xương da và lông lá! Chẳng bù với các em Mễ tròn lẳn, đầy thịt thà nhún nhẩy êm ái cứ như nệm mút và nước non tuôn ra ngập cả kẽ răng như cắn một quả lê hái trong mùa mưa! Không phải tất cả điều này lúc nào cũng đúng, chỉ có điều là Malomar, biết rằng mình rất tốt số đào hoa lại muốn tỏ ra ghê tởm cái số đào hoa ấy! (cái thằng cha "lối" thiệt. Thiên hạ thèm mà không được còn hắn ta lại không thèm? Thật ra, đó là một kiểu làm dáng cấp cùng cực đấy).

Vào thời điểm đó trong cuộc đời mình, Malomar chỉ có tâm nguyện lớn nhất là sản xuất một bộ phim cực hay.

Những giờ phút hạnh phúc nhất của anh là sau bữa tối khi anh đi vào phòng chiếu thử và làm việc cho đến một, hai giờ sáng để "biên tập" một cuốn phim mới.

Lúc Malomar đưa Houlinan ra cửa, cô thư ký của anh thì thầm rằng nhà văn viết quyển tiểu thuyết ba đang đợi với tay đại lý văn học Doran Rudd. Malomar bảo cô đưa họ vào. Anh giới thiệu với Houlinan.

Houlinan làm một phát "đánh giá nhanh" cả hai người. Anh ta bắt mạch được Rudd ngay. Chân thật dễ mến, nói vắn tắt là tay môi giới có nghiệp vụ. Đó là một "típ" người riêng. Tay nhà văn cũng là một "típ" riêng. Một tiểu thuyết gia ngây thơ đến để làm kịch bản điện ảnh từ quyển tiểu thuyết của mình, bị loá mắt bởi Hollywood, mòn gót giày vì đi lại giao dịch với các nhà sản xuất, các giám đốc kỹ thuật và các trưởng studio. Rồi mê đắm một em diễn viên triển vọng và làm hỏng đời mình bằng cách ly dị với người vợ tào khang tấm mẳn đã cùng nhau cay đắng ngọt bùi từ hai mươi năm để lấy một em rồng lộn sẵn sàng bắt ốc vít với mọi anh nào có quyền phân vai, như một động tác hay gợi ý đầu tiên. Và rồi nổi giận vì quyển tiểu thuyết của mình bị cắt xén khi chuyển thể điện ảnh. Anh chàng này rồi cũng không khác. Anh ta trầm lặng và cả thẹn và ăn mặc có phần nhếch nhác, không phải nhếch nhác theo kiểu "thởi trang bụi" với đồ jeans bạc màu te tua nhưng lại đo những nhà may cao cấp nhất đo cắt thật vừa ni tấc mà thực sự nhếch nhác vì không quan tâm mấy đến bề ngoài.

Được rồi hãy đợi đấy, Houlinan này chỉ cần xoay nhẹ mấy vòng tay là nghiền cái anh chàng đang đâm ngang kia thành xúc xích ngay thôi!

Houlinan chào anh nhà văn John Merlyn bằng một tiếng "Hello" rất vồn vã và nói rằng quyển sách của nhà văn là tác phẩm hay nhất anh ta từng đọc trong đời. Thực tế anh ta còn chưa thấy mặt mũi quyển sách ấy ra sao! Rồi anh ta dừng chân nơi cửa lớn, quay một vòng và nói với nhà văn:

- Nghe này, Kellino thích được chụp hình chung với nhà văn chiều nay. Sau đó chúng ta có cuộc hội thảo với Malomar và đó sẽ là một cuộc quảng cáo rất tuyệt cho cuốn phim. Ba giờ được chứ? Anh nên có mặt tại đây nhất trí nhé?

Merlyn đồng ý. Malomar nhăn mặt. Anh biết hiện Kellino không có mặt ở thành phố, đang tắm nắng ở bãi biển Palm Springs và sẽ không về trước sáu giờ. Houlinan sắp cho Merlyn vào xiếc để quay mòng mòng mà chẳng được cái đếch gì, chỉ phí công toi là nhằm dạy cho anh nhà văn lớ ngớ biết được ở cái kinh đô điện ảnh Hollywod này anh muốn qua ải anh phải chịu giả dại, anh muốn qua sông anh phải luỵ đò Vâng, một bài học tuy cay đắng đấy, nhưng không thể không học.

Malomar, Doran Rudd và Merlyn bàn cãi khá dài về việc soạn kịch bản phim. Malomar nhận thấy rằng Merlyn có vẻ biết điều và hợp tác chứ không đến nỗi khó chịu như nhiều nhà văn ngông nghênh khác. Khi họ sắp rời đi, Malomar mới gặp sự ngạc nhiên. Anh bảo với Merlyn rằng anh ta có thể chờ Kellino ở trong thư viện. Merlyn nhìn đồng hồ tay và nói nhẹ nhàng:

- Bây giờ là ba giờ mười lăm phút. Tôi chưa từng đợi ai quá mười phút, ngay cả các con tôi. Rồi anh ta bước ra ngoài.

Malomar cười với tay đại lý:

- Đủng là các tay nhà văn nặng bệnh sĩ.

Doran Rudd nhún vai:

- Cả đến bác sĩ chẩn bệnh anh ta cũng chẳng chịu đợi nữa là. Có lần hai chúng tôi đi khám sức khoẻ và chúng tôi có hẹn lúc mười giờ sáng. Anh cũng biết các phòng khám. Ai mà chẳng phải đợi ít ra năm, mười phút. Thế mà anh ta hỏi gằn cô tiếp tân: "Tôi đúng giờ, tại sao ông bác sĩ lại không đúng giờ?", rồi anh ta bỏ đi.

- Trời đất! - Malomar thốt lên.

Anh ta sắp lên cơn đau ngực. Anh ta đi vào phòng tắm và nuốt một viên angina rồi đi nằm nghỉ trên chiếc giường nhỏ như bác sĩ dặn. Một trong các cô thư ký sẽ kêu anh dậy khi Houlinan và Kellino đến.

***

"Người đàn bà tượng đá" là phim mở đầu của Kellino trong tư cách đạo diễn. Trong tư cách diễn viên thì Kellino luôn xuất sắc, trong tư cách đạo diễn thì anh chưa đủ thẩm quyền, trong tư cách là một triết gia thì anh ta là một kẻ kiêu căng, tự phụ và ti tiện. Điều này không có nghĩa chúng tôi cho rằng "Người đàn bà tượng đá" là một bộ phim tồi. Thật sự đó không phải là một phim rác rưởi, vô giá trị, mà chỉ là một cuốn phim rỗng tuếch.

"Kellino thống trị màn ảnh, chúng tôi vẫn tin tưởng nhân vật do anh diễn, nhưng ở đây nhân vật anh diễn là người đàn ông mà chúng ta không thấy hứng thú để quan tâm. Làm thế nào mà chúng ta lại có thể đủ hứng thú để quan tâm một người đàn ông vất bỏ đời mình vì một con búp bê rỗng đầu như nhân vật nữ Selina Denton chỉ đủ sức khiêu gợi đối với những tên đàn ông dễ dàng thoả mãn với những phụ nữ có vú và mông tròn vo một cách lố lăng theo cái mẫu cứng nhắc đúc khuôn từ trí hoang tưởng có tính sô-vanh đề cao con đực? Còn kiểu diễn xuất của Selina Denton, cái kiểu tương gỗ Da đỏ thường thấy ở nàng ta, khuôn mặt vô vị vặn vẹo nhăn nhó để diễn tả cực điểm khoái lạc, chỉ làm người ta thấy nhàm chán. Khi nào các vị đạo diễn phân vai ở Hollywood thuộc được bài học là khán giả chỉ hứng thú muốn nhìn thấy những người đàn bà thực trên màn hình? Một nữ diễn viên như Billie Stroud với sự hiện diện đầy quyền uy của nàng, với kỹ thuật thông minh và sung mãn nội lực của nàng với sắc đẹp kinh điển của nàng, có thể đã cứu vãn được cho bộ phim, nhưng thực đáng ngạc nhiên là Kellino với cách diễn thông minh và đầy trực cảm sáng tạo của anh lại không nhận ra điều này khi anh phân vai. Có lẽ do tác động của các minh tinh, các giám đốc sản xuất và đồng sản xuất.

"Kịch bản phim do Hascom Watts viết là một những bài tập làm văn đọc trên giấy thì hay nhưng đưa lên phim thì chẳng ra làm sao cả. Chúng ta được chờ đợi cảm nhận một ý nghĩa bi đát đối với một người chẳng có gì bi đát xảy đến với anh ta, một người cuối cùng tự trở lại bởi vì đã thất bại khi trở lại sự nghiệp diễn viên (trong đời ai mà chẳng có lúc thất bại) và bởi vì anh ta bị một người phụ nữ phản bội.

"Còn quan điểm của Kellino muốn cứu vãn thế giới thì trông có vẻ hào hiệp nhưng trong bản chất lại bị nhiễm độc bởi quan niệm phát xít. Một người hùng yêu tự do khi lao vào cuộc đấu tranh lại biến hoá thành một nhà độc tài phát xít, giống như Mussolini. Việc xử lý vấn đề phụ nữ trong phim này cũng sặc mùi phát xít, họ không làm gì khác ngoại trừ dùng thân xác mình đế sai khiến đàn ông. Khi họ tham gia vào các phong trào chính trị, họ được mô tả như là những kẻ phá hoại đối với những người đàn ông đang phấn đấu để cải thiện thế giới. Hollywood không có khả năng đế tin rằng, dầu chỉ trong khoảnh khắc, là có mối quan hệ giữa đàn ông và đàn bà trong đó tình dục không giữ một vai trò nào hay sao? Nó không thể chỉ ra, dù chỉ một lần, rằng đàn bà cũng có những đức tính "thuộc về đàn ông" như niềm tin vào nhân loại và cuộc đấu tranh bi tráng của nhân loại để hướng đến tiến bộ. Họ không có trí tưởng tượng để tiên liệu rằng những người đàn bà có thể, vâng, có thể yêu một cuốn phim mô tả họ như những con người thật sự hơn là những con búp bê phải loạn thường thấy vẫn phá dứt những sợi dây mà đàn ông dùng trói buộc họ.

"Kellino không phải là một đạo diễn tài năng, anh ta không đủ thẩm quyền. Chỉ có vai diễn của chính anh ta đã cứu vãn cho cuốn phim khởi sự sụp đổ toàn diện mà cái kịch bản chẳng ra ngô ra khoai gì kia đã đẩy nó vào. Còn các vai diễn khác phải nói là quá ẹ. George Foules thì lêu khêu như cây tre miễu chừng như gió thối cũng muốn xiêu, Selina Denton thì quá trống rỗng ngay cả cho cái vai trò một phụ nữ với đầu óc rỗng tuếch. Nhưng nói nhiều e rườm lời, điều cốt yếu là cái triết lý phát xít của kịch bản phim, cái quan niệm sô-vanh xiển dương con đực về điều tạo nên một người đàn bà "đáng yêu" đã đẩy toàn bộ dự án thất bại ngay cả trước khi họ khởi động camera để quay những thước phim đầu tiên.

- Đồ cái lỗ đít! - Houlinan thốt lên không phải vì tức giận nhưng với sự tuyệt vọng sững sờ. - Cô ta muốn cái đếch gì từ một cuốn phim cơ chứ? Và quỷ thần thiên dịa ơi, tại sao cô ta cứ mãi lải nhải rằng Billie Stroud là một nàng rồng lộn xinh đẹp? Suốt bốn mươi năm ở trong ngành điện ảnh tôi chưa từng thấy một nữ diễn viên nào xấu hơn. Con nỡm này quả là hết chịu nổi với nó!

Kellino nói vẻ trầm ngâm:

- Tất cả những tay phê bình khác đều theo nàng ta. Chúng ta có thể quên đi bộ phim này.

Malomar nghe cả hai người. Thật là đau đầu. Clara Ford có nói như thế cũng đâu thành vấn đề. Bộ phim có Kellino thủ vai chính nhất định sẽ đem tiền về không lời nhiều thì ít đâu đến nỗi lỗ mà lo? Đó là điều mà anh từng chờ đợi. Và giờ đây anh đã móc từ quyển tiểu thuyết của John Merlyn. Và Clara Ford, dầu thông minh sắc sảo như thế, vẫn không hề biết rằng Kellino có một tay giám đốc hậu thuẫn làm tất cả mọi việc mà không cần ai khen ngợi.

Cây bút phê bình này là kẻ Marlomar đặc biệt căm ghét. Cô nàng nói với giọng điệu uy quyền lắm, viết lách có tay nghề lắm có ảnh hưởng mạnh đấy, thế nhưng cô nàng đếch hiểu gì về chuyện làm phim hết. Cô than phiền về chuyện phân vai. Cô ta há chẳng biết rằng chuyện đó tuỳ thuộc vào sự kiện ai đang ngủ với tay giám đốc phân vai cho những nhân vật phụ? Há cô chẳng biết rằng đây là những đặc quyền được giữ kỹ với lòng đầy ganh tị của nhiều người có quyền lực trong một số hãng phim. Có cả hàng ngàn nàng rồng lộn tranh nhau một vai nhỏ và bạn có thể "phất cờ" một nửa trong số đó mà không phải tốn cho các nàng cái gì sất, chỉ cần thảy cho mỗi em một xấp photocopy kịch bản phim cho các em đọc và hứa nhăng hứa cuội là bạn sẽ có thể gọi em đến diễn thử vào một ngày vô định nào đó, với thời gian và địa điểm cụ thể sẽ cho biết sau. Và tất cả cái lũ giám đốc ham ngủ với gái đó xây dựng hậu cung riêng họ, với quyền lực còn mạnh hơn cả những tay tỉ phú làm ra tiền như nước trên thế giới, chừng nào còn có những người đàn bà đẹp háo danh, sẵn sàng đánh đổi tất cả miễn làm sao cho thiên hạ biết đến mặt mũi, tên tuổi mình. Đúng hay không, xin bạn cứ thành thực khai báo cho chính lòng mình (chứ tôi không dám nghe lén đâu, xin hứa). Ngay cả khi điều đó gây nên quá nhiều phiền toái rồi cũng chẳng đáng công. Điều khiến cho Malomar có chút hả dạ đó là nữ phê bình gia này là người duy nhất đã khiến cho tay cáo già Houlinan vốn nổi tiếng điềm tĩnh xưa nay cũng phải bấn xúc xích cả lên!

Kellino thì nổi sùng về chuyện khác:

- Con nỡm ấy cho rằng cuốn phim của tôi mang tính phát xít là nghĩa lý gì? Cả đời tôi là một kẻ chống phát xít cơ mà.

Malomar nói giọng mệt mỏi:

- Cái con nỡm ấy chỉ chuyên gây rối phá bĩnh để chọc tức người ta thôi. Nàng ta dùng từ phát xít theo kiểu như chúng ta dùng từ cái lỗ đít vậy mà. Chẳng có hàm ý quái gì đâu.

Kellino vẫn giận sôi lên:

- Tôi chẳng thèm quan tâm chuyện người ta nói về việc diễn xuất hay phân vai của tôi. Nhưng đừng ai so sánh tôi với phát xít mà yên được với tôi.

Houlinan đi tới đi lui trong phòng, hầu như bị hút hồn vào hộp xì-gà Monte Cristo của Malomar, rồi chợt sáng ý ra:

- Con yêu quái ấy đang làm hại chúng ta quá, - ông ta nói - Nó vẫn luôn làm hại chúng ta. Và việc anh ngăn cản cô ta xem trước phim cũng không ích gì, Malomar à.

Malomar nhún vai:

- Tôi ngăn cản cô ta chẳng phải nhằm làm chuyện gì cả. Tại tôi bực cô ả thì làm thế thôi.

Houlinan nói:

- Thôi, có nói gì thì cũng đã quá trễ đối với phim này rồi, nhưng chúng ta đối phó với Clara như thế nào cho bộ phim tới?

Malomar nói:

- Anh là đại lý truyền thông cho Kellino, hãy làm điều gì anh muốn. Clara chỉ là một hài nhi so với anh thôi mà.

Anh đang hy vọng kết thúc sớm buổi hội thảo này. Nếu chỉ có Houlinan không thôi thì có thể kết thúc trong vòng hai phút. Nhưng Kellino là một trong những ngôi sao thực sự vĩ đại nên cần phải vuốt ve tự ái anh ta mới được.

Malomar dành phần còn lại trong ngày và cả buổi tối ngồi trong phòng "biên tập" phim. Thú vui lớn nhất của anh. Anh là một trong những tay biên tập phim cừ khôi nhất và anh biết điều đó. Và ngoài ra, anh thích cắt phim để mọi cái đầu của các nàng diễn viên rơi xuống trên sàn. Rất dễ dàng nhận ra họ. Ôi trời, có biết bao nhiêu em rồng lộn khao khát được nhìn thấy hình ảnh mình xuất hiện trên màn bạc dù chỉ trong một giây thôi, nghĩ rằng một giây đó sẽ đưa họ lên con đường giàu sang danh vọng. Rằng sắc đẹp và tài năng của họ sẽ toả sáng như một tia chớp.

Malomar đã phát mệt với những người đàn bà đẹp. Họ gây nhiễu đủ thứ, nhất là nếu như họ lại còn thông minh nữa. Điều này không có nghĩa anh ta không hề bị "dính chấu" khi này hay khi khác. Anh cũng có phần trong những cuộc hôn nhân tai hoạ, ba lần, tất cả đều với các diễn viên. Giờ đây anh ta thơ thới xoa tay chỉ muốn những cuộc tình như cánh chuồn chuồn, khi vui nó đậu khi buồn nó bay. Thế là khoẻ cho cả đôi đàng. Đỡ phải nặng đầu.

- Hãy kêu một cô thư ký vào đây, - Kellino nói.

Malomar bấm chuông trên bàn giấy, và một cô gái xuất hiện ngay nơi cửa. Malomar có đến bốn nữ thư ký: hai cô trực phòng ngoài, hai cô gác phòng trong. Đó là bốn con nhân sư trấn yên lối vào Kim tự tháp.

Bây giờ Kellino đọc bức thư sẽ gửi cho Clara Pord.

Malomar thán phục văn phong anh ta. Và biết rằng anh ta sắp được gì. Anh không hoài công để nói cho Kellino là chẳng có cơ may nào đâu.

Kellino đọc cho cô thư ký ghi:

"Cô Ford yêu quý,

Chỉ vì lòng ngưỡng mộ đối với tác phẩm của cô đã giục giã tôi viết bức thư này và nêu ra một vài lãnh vực mà tôi bất đồng với cô trong bài báo viết về cuốn phim mới đây của tôi. Xin cô đừng nghĩ rằng đây là một lời khiếu nại hay phiền trách gì. Tôi kính trọng tính chính trực của cô và rất nể phục trí thông minh của cô nên không thể nào dám buông lời luống cuống. Tôi chỉ muốn nêu rõ rằng sự thất bại của cuốn phim, nếu thực sự nó là một thất bại hoàn toàn là do sự thiếu kinh nghiệm của tôi trong tư cách đạo diễn chứ tôi vẫn nghĩ rằng kịch bản phim được viết rất hay và những bạn đồng diễn với tôi trong phim đều diễn rất đạt vai của họ nếu có sai sót chẳng qua là do sự đạo diễn còn non yếu của tôi. Đó là tất cả những gì tôi cần phải nói, ngoại trừ điều tôi vẫn là một trong những người hâm mộ cô và có lẽ một ngày nào đó chúng ta có dịp hạnh ngộ, với ly rượu ly trà giúp làm tăng thêm nhã hứng để cùng bàn luận về phim ảnh và nghệ thuật nói chung. Tôi cảm thấy còn rất nhiều điều phải học hỏi trước khi bắt tay vào đạo diễn cho phim sắp tới, sẽ chẳng lâu lắm đâu, xin hứa chắc với cô như thế, và tôi còn tìm học ở ai tốt hơn là cô?

Trân trọng kính chào, Kellino".

- Coi bộ không được đâu, - Malomar nói.

- Có lẽ vậy,. Houlinan phụ hoạ.

- Bạn phải đeo theo tán cho dính cô ta rồi phết cho cô ta sướng đến phọt óc ra, - Malomar nói. - Chứ cô ta cũng đã dạn dày trường đời, khôn thấu trời, đâu dễ xiêu lòng vì những lời lâng bốc lộ liễu của bạn.

Kellino nói không biết thật hay vờ:

- Tôi thực sự ngưỡng mộ cô ta mà. Tôi thực sự muốn học hỏi nơi cô ấy.

- Đừng bận tâm chuyện đó, - Houlinan gần như hét lên. - Hãy gạ để chơi cho được nàng ta đi. Đó là câu trả lời. Hãy phết cho nàng sướng đến phọt óc ra!

Bỗng dưng Malomar thấy cả hai anh chàng này thật hết chịu nổi.

- Thôi đừng có chơi bậy trong phòng làm việc của tôi. Làm ơn ra khỏi đây, để yên cho tôi làm việc.

Họ ra đi. Malomar chẳng buồn đứng lên tiễn họ ra cửa.

Sáng hôm sau, trong dãy văn phòng đặc biệt ở phim trường Tri-Culture, Houlinan làm việc mà ông ta thích làm nhất. Ông ta đã soạn những bài viết cho báo chí, chúng sẽ lạo cho một trong những người khách của ông trông giống như Thượng đế. Ông đã tham khảo hợp đồng của Kellino để chắc chắn là ông có đủ thẩm quyền pháp lý để làm điều ông đang làm và rồi ông viết:

Tri-Culture Studios & MALOMAR FILMS

GIỚI THIỆU

MỘT SẢN PHẨM CỦA MALOMAR-KELLINO

DIỄN VIÊN

UGO KELLINO

FAY MEADOWS

TRONG MỘT PHIM CỦA UGO KELLINO

"JOY-RIDE"

ĐẠO DIỄN BERNARD MALOMAR

Cùng sự góp mặt diễn xuất của… và rồi ông ta ghi ra vài cái tên, rất nhỏ, để chỉ hàng vai phụ. Rồi ông ta ghi: "Các nhà sản xuất Ugo Kellino và Hagan Cord": Rồi: "Sản xuất bởi Malomar và Kellino". Và rồi ông chua thêm, rất nhỏ: "Kịch bản phim của John Merlyn từ tiểu thuyết của John Merlyn". Xong, ông ta dựa ngửa vào lưng ghế ngắm nhìn với vẻ ngưỡng mộ công trình của chính mình!

Ông bấm chuông gọi cô thư ký đem "công trình" đó đi đánh máy rồi yêu cầu cô mang hồ sơ cáo phó của Kellino vào.

Ông thích nhìn tập hồ sơ đó. Một tập hồ sờ dày với những điều khoản chi tiết có hiệu lực thi hành ngay khi Kellino chết. Ông và Kellino đã làm việc suốt một tháng ở Palm Springs để chu toàn kế hoạch.

Không phải vì Kellino trông chờ mình chết, nhưng vì anh ta muốn chắc cú là khi mình chết đi, mọi người đều phải biết anh ta đã là một con người vĩ đại đến cỡ nào! Có một cặp hồ sơ dày chứa tất cả tên tuổi của những ai anh ta biết trong nghành kinh doanh biểu diễn sẽ được gọi đến để định giá di sản của anh khi anh chết. Có một bài hướng dẫn chu đáo về việc tỏ bày lòng tôn kính với người đã khuất trên tivi. Một suất chiếu đặc biệt trong hai tiếng đồng hồ. Tất cả các bạn bè đồng diễn đều được yêu cầu xuất hiện. Có những đoạn phim với Kellino trong những vai diễn hay nhất phải được chiếu trong suất đó. Và cảnh anh nhận hai giải thưởng của Hàn lâm viện điện ảnh Hoa Kỳ cho diễn viên xuất sắc nhất.

Một tiểu phẩm hài trong đó bạn bè đùa giễu anh về ước vọng làm đạo diễn của anh.

Có một danh sách tất cả những người Kellino đã giúp đỡ để cho một vài người trong số họ có thể kể những mẩu giai thoại nhỏ về Kellino đã giải cứu họ từ vực sâu tuyệt vọng như thế nào, với điều kiện họ không bao giờ tiết lộ cho ai hay!

Có một bức thư về các bà vợ cũ sẽ được về tiếp cận di hài của đấng phu quân lừng lẫy của họ để tỏ bày kính lễ và lòng thương tiếc và những bà không được phép về để có cái vinh hạnh đập đầu vào quan tài khóc cho ông chồng quá cố!

Có những kế hoạch riêng cho một bà vợ đặc biệt: cho bà ta lên máy bay ra khỏi xứ sở để dự một cuộc đi săn lớn ở tận châu Phi vào ngày Kellino mất để không một ai trong giới truyền thông có thể tiếp xúc với bà. Có một vị cựu Tổng thống Mỹ đã ghi sẵn trước lời lưu niệm nữa.

Trong tập hồ sơ đó còn lưu cả bản sao bức thư mới gửi cho Clara Ford yêu cầu đóng góp vào cáo phó của Kellino. Nó được viết trên giấy có tiêu đề của tờ Los Angeles Time và được gợi ý bởi Houlinan.

Ông đã có bản sao bức thư trả lời của Clara Ford nhưng ông chưa bao giờ đưa cho Kellino xem. Ông đọc lại: "Kellino là một diễn viên có tài đã đạt được những thành tựu xuất sắc trong điện ảnh và thật đáng tiếc khi anh ấy lại giã từ cuộc đời quá sớm, chưa tận khai cái kho tàng tài năng nơi anh lẽ ra còn cống hiến cho người mộ điệu nhiều tuyệt phẩm hơn nữa

Mỗi lần Houlinan đọc bức thư đó, ông lại phải làm thêm một ly nữa: ông không biết rõ mình ghét ai hơn, Clara Ford hay John Merlyn. Houlinan ghét những tay nhà văn phù phiếm, kiêu căng và Merlyn là một trong số đó. Cái thằng chó đó tưởng nó là ai mà lại không thể chờ để chụp hình chung với Kellino.

Nhưng ít ra ông ta cũng có quyền chỉ định toa tàu cho Merlyn chứ nàng Clara Ford vẫn ở ngoài tầm với của ông ta. Ông ta từng cố làm cho nàng ta bị sa thải bằng cách tổ chức một chiến dịch thư phản đối từ các người hâm mộ, bằng cách dùng áp lực của Tri-Culture Studio nhưng nàng ta quá mạnh, vẫn trụ vững như kiềng ba chân, không hề chao đảo. Ông hy vọng Kellino sẽ may mắn hơn nhưng rồi ông sẽ sớm sáng mắt ra ngay thôi. Kellino đã có cuộc hẹn với nàng. Anh ta đã đưa nàng đi ăn nhà hàng tối hôm trước và quả quyết sẽ gọi cho ông và tường trình mọi việc một cách chi tiết!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Trong mấy tuần lễ đầu tiên ở Hollywood, tôi bắt đầu nghĩ về nó như là Miền đất của loài bọ ngựa.

Một tỉ dụ dí dỏm, ít ra là đối với tôi, dầu là có hơi trịch thượng tí cũng chả sao.

Bọ ngựa là một loài vật mà con cái khoái xơi thịt đồng loại khác phái và động tác tính dục kích thích sự thèm ăn của nàng đến độ vào giây phút cuối khi vừa lên đến tột đỉnh khoái lạc thì chàng cũng vừa kịp thấy cái đầu mình bay vèo vào bụng nàng?

Nhưng trong quá trình tiến hoá kỳ diệu của vạn vật có chàng bọ ngựa tinh khôn đã biết quan sát và đúc kết từ những kinh nghiệm thương đau của các bậc cha chú và quý đàn anh, để nảy sinh ra sáng kiến mang một tí lương thực làm vật cống tiến, bọc trong một cái mạng tiết ra từ chính thân xác chàng ta. Trong khi nữ sát thủ bận rộn lột cái màng đó ra để thưởng thức món hấp dẫn bên trong thì chàng cưỡi lên nàng, giao hoan lia lịa theo nhịp điệu rock-rap khẩn trương, và biến đi trước khi tình huống có nguy cơ trở nên bi thảm!

Một chàng bọ ngựa khác đã hình dung rằng chàng ta chỉ cần tiết ra một cái màng khá dày bọc kín một hòn cuội nhỏ hay bất cứ cái thứ linh tinh gì cũng được. Trong một cuộc tiến hoá "đại nhảy vọt", một chàng bọ ngựa đã thoát xác biến thành một nhà sản xuất điện ảnh của Hollywood. Khi tôi kể chuyện này cho Malomar nghe, anh chàng nhăn mặt nhíu mày nhìn tôi bằng cái liếc đểu rồi cười.

- Được rồi. - anh ta nói - Thế anh có sẵn sàng gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao, đem thân anh hào ném vào âm đ*o hay không?

Phản ứng đầu tiên của tôi là dứt khoát khẳng định: "Không bao giờ!", nhưng rồi tôi kiềm lại được và chỉ nhè nhẹ lắc đầu, xin được miễn bình luận.

Lúc đầu hầu như mọi người tôi gặp đều nghĩ tôi như một kẻ sẵn sàng ngáng chân kẻ khác để thành công. Và khi càng ở lâu tôi càng bị ấn tượng bởi nỗi đam mê của những người dính dáng đến việc làm phim. Họ thực sự mê thích công việc đó. Từ những cô gái phụ việc, các cô thư ký, kế toán, quay phim, chuyên viên kỹ thuật, nam nữ diễn viên, các giám đốc bộ phận và cả các nhà sản xuất. Họ đều nói "bộ phim tôi làm". Họ đều tự coi mình là nghệ sĩ. Tôi để ý thấy là những kẻ duy nhất có liên hệ đến phim ảnh mà không nói theo cách đó, thường là những người viết kịch bản phim. Có lẽ là do ai cũng viết lại kịch bản của họ. Mọi người bỏ vào đấy một tí.

Ngay cả cô đánh máy cũng có thể thay đổi vài dòng hoặc là vợ của một diễn viên sẽ viết lại phần của chồng mình đóng và anh ta đem đến, ngày hôm sau, và nói rằng đó là cách anh ta nghĩ rằng nhân vật đó phải diễn như thế. Tất nhiên việc viết lại đó chỉ nhằm phô trương tài nghệ của anh ta hơn là phục vụ cho ý đồ của bộ phim. Thật là dễ giận đối với nhà văn. Ai ai cũng muốn xía vào công việc của anh ta.

Sự kiện ấy khiến tôi nghĩ rằng làm phim là một hình thức nghệ thuật có tính "tài tử" ở mức độ cao nhất bởi vì những thứ trung gian có tác động quá lớn. Bằng cách sử dụng và điều phối các hình ảnh, trang phục, âm nhạc và một tuyến truyện kể đơn giản, những con người chẳng có tí tài năng nào cũng có thể tạo ra những tác phẩm nghệ thuật. Nhưng có lẽ nói thế là đi quá xa. Song ít ra là họ cũng có thể sản xuất một cái gì đó đủ tốt để họ thấy mình cũng quan trọng, cũng có một giá trị nào đó.

Phim ảnh có thể đem lại cho người ta những khoảng thời gian giải trí đầy hứng thú và khiến người ta xúc động. Nhưng phim ảnh chỉ có tác dụng giáo dục rất hạn chế. Phim ảnh đâu có thể đào sâu vào tâm trí nhân vật như tiểu thuyết. Nó không giáo dục được cho ta như sách vở có thể dạy ta. Nó chỉ có thể giúp bạn cảm nhận chứ không cho bạn hiểu được đời sống. Phim ảnh có tính ma thuật đến độ nó có khả năng đem lại một thứ giá trị nào đó cho hầu như bất cứ cái gì. Đối với nhiều người, phim ảnh gần như là một thứ ma luý, một thứ cocaine nhưng vô hại. Đối với nhiều người khác, nó có thể là một phương thức trị liệu công hiệu. Ai mà chẳng muốn ghi lại cuộc đời đã qua của mình hay những đường nét tương lai như họ muốn chúng là thế, để có thể yêu mình?

Dù sao, điều đó cũng rất gần với cái thế giới điện ảnh như tôi hình dung vào thời ấy. Về sau, chính mình cũng có phần mê thích, tôi đã nghĩ rằng có lẽ đó là một quan điểm quá khắc nghiệt và mang tính thời thượng.

Tôi ngạc nhiên về việc nỗi say mê làm phim tác động đến mọi người mạnh đến thế. Tất cả những người làm việc trong ngành điện ảnh đều dấu tranh để kiểm soát chúng. Từ những giám đốc sản xuất, các minh tinh, những nhà nhiếp ảnh đến chuyên viên studio

Tôi ý thức răng điện ảnh là nghệ thuật có sức sống mạnh nhất của thời đại chúng ta và tôi ganh tị chuyện đó. Trong mọi khuôn viên đại học, các sinh viên, thay vì viết tiểu thuyết, lại đang thực hiện những cuốn phửn của họ. Và bỗng nhiên tôi chợt nghĩ rằng có lẽ việc sủ dụng phim không phải là một nghệ thuật.

Rằng nó là một hình thức trị liệu. Ai cũng muốn kể lại câu chuyện đời mình, những cảm xúc, những ý nghĩ riêng tư của mình. Thế nhưng có bao nhiêu quyển sách đã được in ra vì lí do đó? Song tính ma thuật trong sách, trong tranh hay trong nhạc không mạnh lắm. Điện ảnh liên hợp được mọi ngành nghệ thuật, có sức lôi cuốn không thể cưững lại được. Với kho khí tài hùng hậu đó, không thể làm ra một cuốn phim dở được. Người ta có thể là một con lừa lớn nhất thế giới, tuy thế vẫn làm được một phim hấp dẫn như thường. Cho nên chẳng có gì lạ khi ta thấy ngành làm phim mang lại nhiều tính gia đình trị như vậy. Người ta có thể để một thằng cháu viết kịch bản, biến một cô gái thành ngôi sao, cho đứa con mình làm trưởng studio. Điện ảnh có khả năng nhào nặn bất cứ người nào trở thành một nghệ sĩ. Và điện ảnh còn có khả năng trị liệu, thanh lọc con người khỏi bạo lực.

Có thể một ngày nào đó, một trong những phương cách điều trị hữu hiệu nhất cho người bị rối loạn cảm xúc là đẻ cho họ làm phim kể chuyện đời mình, để ho có thể giải toả những ức chế tâm lý! Ôi trời, hãy nghĩ đến tất cả những kẻ chuyên nghiệp trong ngành phim ảnh đã từng điên hoặc gần như điên. Các nam nữ diễn viên chắc chắn là có thể kiểm tra.

Mà điên có thế là một trong những yếu tố giúp con người ta sáng tạo nghệ thuật? Bởi người điên không nhìn đời theo cách bình thường, khiến cho người ta thấy đời nhạt nhẽo vô vị, mà nhìn theo kiểu người điên - nghĩa là bất thường - và nhờ đó khám phá ra những chiều kích mới lạ, đáng cho ta say mê, thích thú? Vậy thì, có mất gì đâu, nếu ai cũng nhảy vào làm phim? Mọi người đều có thể trở thành một nghệ sĩ ngang xương! Khỏi cần đến tài năng, mà cũng khỏi cần đến quý vị y sĩ tâm thần.

Cứ để cho người ta được xả ga mọi dồn nén, mọi lệch lạc tâm sinh lý vào các cuốn phim tự sản tự tiêu và thế là sau đó người ta sẽ tìm lại được trạng thái tâm lý hài hoà, lành mạnh. Tốt quá đi chứ, đúng không nào?

Tất cả những người đó, đều khó ưa, không bao giờ hiểu rằng bạn phải làm cho mình đáng yêu mới được người ta yêu, tuy vậy mặc dù tính ái ngã, tính trẻ con, tính vị kỷ của họ, bây giờ họ có thể dự phóng hình ảnh nội tại của họ thành một ngoại hình đáng yêu trên màn ảnh. Làm cho họ thành đáng yêu như những chiếc bóng mờ, lung linh, phi thực. Và tất nhiên, bạn có thể nói rằng mọi nghệ sĩ đều làm như thế? Nhưng ít ra họ cũng phải có vài năng khiếu thiên bẩm, vài tài khéo nào đó trong nghệ thuật đem lại hứng thú hay hiểu biết sâu xa hơn.

Nhưng với phim ảnh thì mọi chuyện đều có thể mà không cần tài năng, thiên bẩm gì cả. Người ta có thể thấy một tay nhà giàu làm cuốn phim kể lại câu chuyện đời mình và không cần sự giúp đỡ của một đạo diễn tài ba, nhà văn lớn, ngôi sao tiếng tăm vân vân và vân vân; chỉ cần ma lực của phim ảnh đủ làm cho anh ta trở thành một nhân vật dáng kể. Tương lai xán lạn của phim ảnh cho tất cả những người này, đó là phim ảnh có thể được thực hiện không cần đến tài năng. Điều này không có nghĩa tài năng không giúp cho việc làm phim tốt hơn.

Bởi vì chúng tôi cùng chung vai sát cánh để chuyển thể điện ảnh cuốn tiểu thuyết của tôi, nên Malomar và tôi có rất nhiều thời gian ở bên nhau, nhiều khi đến khuya, trong căn nhà dành cho ông trùm của anh ở phim trường mà tôi thấy rất thiếu tiện nghi.

Quá thừa cho một người, tôi nghĩ. Những căn phòng mênh mông với phần nội thất nặng nề, sân quần vợt, bể bơi và ngôi nhà rời làm phòng chiếu. Một đêm nọ, anh đề nghị chiếu một phim mới và tôi nói với anh rằng tôi chẳng mê phim lắm. Sự thiếu nhiệt tình của tôi làm anh hơi cáu:

- Anh nên biết rằng chúng ta sẽ làm tốt hơn rất nhiều cho kịch bản phim của anh nếu anh không quá khinh thường việc làm phim, - anh ta nói.

Điều đó làm tôi hơi sửng sốt. Vì một là tôi vẫn tự phụ rằng phong cách của tôi rất tốt, đâu thể để lộ một điều như thế. Đàng khác là tôi có niềm tự hào nghề nghiệp trong công trình của tôi thế mà anh ấy lại bảo tôi xem thường. Thêm một điều nữa, tôi đã bắt đầu kính trọng Malomar. Anh là giám đốc sản xuất kiêm đạo diễn và anh có quyền lấn lướt tôi trong khi chúng tôi cùng làm việc với nhau, nhưng anh không hề làm như thế. Và khi anh đưa ra gợi ý để thay đổi một tình tiết hay diễn biến của kịch bản, thường là anh có lý. Còn khi anh sai và tôi có thể dùng lý luận để chứng minh và anh chịu nhường tôi ngay. Nói tóm lại là anh không hề trùng hợp với mọi ý niệm có trước của tôi về Miền đất của loài Bọ ngựa.

Vì thế thay vì xem phim hoặc làm việc về kịch bản phim, tối đó chúng tôi lại tranh luận với nhau.

Tôi nói với anh tôi cảm nhận thế rlào về công nghiệp điện ảnh và những người trong ngành. Tôi càng nói thì Malomar càng bớt giận và cuối cùng anh mỉm cười.

- Cậu nói chuyện giống như một Thị Hến không còn khả năng câu khách được nữa vậy, - Malomar nói. - Điện ảnh là một hình thức nghệ thuật mới, cậu đang lo nghề của cậu trở thành lỗi thời. Cậu ganh tị phải không?

- Điện ảnh không thể so sánh với tiểu thuyết, - tôi nói. Điện ảnh không bao giờ thể hiện được những gì mà các cuốn sách thể hiện.

- Chuyện đó không quan hệ gì, - Malomar nói. - Hiện nay và cả trong tương lai, điện ảnh là cái người ta thích. Còn những câu chuyện của cậu về các nhà làm phim và ngoa dụ con bọ ngựa đều là chuyện cứt bò. Cậu đến đây trong vài tháng và cậu phê phán vung vít mọi người với những phát biểu linh tinh vô tổ chức! Cậu hạ bệ hết, san bằng hết. Nhưng nghề nào cũng thế thôi, họ đều quơ củ cà rốt trên cây gậy. Hẳn rồi, dân làm phim đều tàng tàng, dở hơi, hẳn rồi, họ bịp, hẳn rồi họ dùng tình dục như món hàng trao đổi nhưng rồi sao nào? Điều cậu lờ đi đó là, tất cả bọn họ, nhà sản xuất cũng như người viết bch bản các giám đốc và diễn viên, đều phải trải bao nhiêu kinh nghiệm, đau đớn. Họ học nghề hàng bao năm trời và lao động nặng nhọc hơn bất kỳ người nào khác, theo như tôi biết. Họ thực sự có năng khiếu và thiên bẩm và dù cậu nói gì thì nói, vẫn cần có tài năng và ngay cả thiên tài nữa để làm một bộ phim hay. Những nam nữ diễn viên giống như những bộ binh trên chiến trường. Họ phải chứng tỏ mình là nghệ sĩ thực thụ, họ phải biết nghề của họ. Rồi còn đạo diễn và nhà sản xuất. Đối với đạo diễn, hẳn là tôi khỏi phải nói gì nhiều để bênh vực hay đề cao vai trò của họ. Đó là công việc nặng nhọc nhất trong nghề này, ai cũng thừa nhận. Nhưng nhà sản xuất cũng có chức năng không kém nhọc nhằn. Họ giống như những người thuần hoá sư tử trong sở thú hay trong gánh xiếc. Cậu có biết làm một bộ phim là thế nào không? Trước tiên cậu phải "hôn mười cái mông" của quý vị trong hội đồng quản trị hành chánh của hãng phim để thuyết phục họ chịu mở hầu bao. Rồi cậu phải vừa làm mẹ vừa làm bố cái đám "sao" ưa trở chứng trái nết, hay làm mình làm mẩy, thích giận lẫy vô lối, để lấy sự cưng chiều của cậu làm thước đo giá trị của họ. Cậu phải tạo điều kiện sinh hoạt, làm việc sao cho cả đoàn thấy thoải mái, bằng không họ sẽ cho cậu chết đứ đừ với các trò giả ốm để trốn việc, mè nheo chuyện giờ giấc lao động. Và rồi cậu còn phải ngăn ngừa họ ngáng chân nhau, chơi xỏ nhau trong diễn xuất và cả trong sinh hoạt. À này, tôi không ưa Moses Wartberg, nhưng tôi thừa nhận rằng ông ấy có năng khiếu về tài chánh giúp ích rất nhiều cho việc làm phim. Tôi tôn trọng tài năng đó của ông cũng ngang bằng với việc tôi khinh thường cái "gu" nghệ thuật của ông ấy. Và tôi luôn luôn phải tranh đấu với ông ta, trong tư cách là đạo diễn và nhà sản xuất. Và tôi nghĩ ngay cả anh cũng sẽ thừa nhận rằng có vài bộ phim của tôi xứng đáng được gọi là tác phẩm nghệ thuật.

- Ít ra thì cũng chỉ nhảm nhí có một nửa, - tôi đáp.

Malomar nói:

- Cậu vẫn tiếp tục hạ thấp phẩm giá của những nhà sản xuất. Nhưng mà này, nói cho cậu hay, họ chính là những người lắp ráp hình ảnh để tạo nên bộ phim hoàn chỉnh đấy. Và họ làm điều đó bằng cách tốn cả hai năm trời đi hôn đít hàng trăm em bé khác nhau, các em bé tài chánh, các em bé diễn viên, các em bé giám đốc, các em bé nhà văn. Và các nhà sản xuất còn phải chịu bao điều khổ nhục khác nữa. Có lẽ đó là lý do họ thường có cái "gu" nghệ thuật rất tệ. Tuy vậy phần lớn họ tin vào nghệ thuật hơn là tài năng. Hoặc là trong sự phóng túng của nó. Bạn không bao giờ thấy một nhà sản xuất không xuất hiện ở các lần phát giải của Hàn lâm viện để lãnh Oscar.

- Đó chỉ là tính tự tôn chứ đâu phải niềm tin vào nghệ thuật, - tôi nói.

- Ôi dào, bố sư khỉ cái nghệ thuật [bad word] bậy của cậu, - Malomar nói. - Hẳn rồi, trong hàng trăm phim mới có một phim đáng giá. Thế còn sách thì sao?

- Sách có một chức năng khác, - tôi nói kiểu phòng thủ. - Phim ảnh chỉ có thể phô bày mặt ngoài mà thôi.

Malomar nhún vai:

- Cậu đúng là một cái gai nhọn đâm vào mông thiên hạ.

- Phim ảnh không phải là nghệ thuật. - Tôi nói. - Đó là những trò ma thuật để mê hoặc đám con nít. - Tôi nói mà chỉ tin vào điều mình nói một cách nửa vời thôi.

Malomar thở ra:

- Không chừng cậu nói đúng đấy. Mọi hình thức chẳng qua đều là ma thuật cả, đếch có cái gì là nghệ thuật đâu. Chỉ là một trò bịa đặt giúp người ta quên đi ám ảnh của nỗi chết không rời đấy thôi.

Điều đó không đúng nhưng tôi chẳng buồn phản bác. Tôi biết Malomar gặp rắc rối từ khi anh bị suy tim và tôi không muốn nói rằng đây là cái đã tác động lên anh. Tôi vẫn tin rằng nghệ thuật giúp người ta hiểu nên sống như thế nào.

Vâng, đúng là anh chưa thuyết phục được tôi, nhưng sau đó tôi đã nhìn quanh mình với con mắt ít thành kiến hơn. Nhưng có điều anh đã nói đúng. Tôi ganh tị với điện ảnh. Công việc quá dễ dàng, mà sự đãi ngộ lại quá hậu hĩnh, danh tiếng nhanh chóng lan truyền đến chóng mặt. Tôi ghét ý tưởng quay về ngồi đơn độc trong phòng để viết tiểu thuyết. Bên dưới tất cả sự khinh mạn ngạo nghễ kia là lòng ganh tị trẻ thơ.

Nó là một cái gì mà tôi sẽ không bao giờ có thể thực sự tham dự vào; tôi không có tài năng và tính khí thích hợp. Tôi sẽ vẫn luôn khinh thường nó, trong một cách nào đó, nhưng vì những lý do mang tính thời thượng hơn là vì đạo lý.

Tôi đã đọc tất cả về Hollywood và với Hollywood thật sự tôi muốn chỉ công nghiệp điện ảnh. Tôi đã từng nghe nhiều nhà văn, tiêu biểu là Osano, quay về với Bờ Đông và chửi rủa các phim trường, gọi các nhà sản xuất điện ảnh là những tên bắng nhắng tồi tệ nhất thế giới, những tay trưởng studio là những kẽ thô lỗ, hạ cấp, nói chung giới làm điện ảnh là những người đổi trắng, thay đen, nguỵ tạo ra một thế giới nháo nhào, chẳng còn biết đâu là thực giả. Vâng, họ trở về từ Hollywood như thế nào thì bây giờ tôi lại đi vào chốn đó như thế ấy.

Tôi vẫn tự tin một cách quả quyết là mình đủ khả năng chế ngự nó. Khi Doran đưa tôi đến gặp Malomar lần dầu, tôi điểm huyệt họ trúng phóc.

Houlinan dễ tính. Nhưng Malomar "đa phức" hơn tôi tưởng. Còn Doran là một bức biếm hoạ. Nhưng nói thực là tôi thích Doran và Malomar. Còn Houlinan với tôi thì "nhất kiến khả dội". Cái bản mặt của lão ta đối với tôi sao mà khó ưa. Nên khi lão bảo tôi chờ chụp hình chung với Kellino, hầu như tôi đã sừng sộ bảo lão hãy cút xéo. Tôi ghét phải chờ đợi ai và cũng không hề muốn bắt ai phải chờ đợi mình.

Điều khiến cho Hollywood trở nên mê hoặc đó là tất cả những chủng loại khác nhau của đám bọ ngựa.

Những chàng trai với thẻ phẫu thuật cắt ống dẫn tinh với những thùng đựng phim dưới tay, với các kịch bản và cocaine trong các căn hộ studio của họ, hy vọng làm ra những bộ phim, săn tìm những cô gái trẻ tài năng và những chàng trai để diễn thử vai và làm tình để giải khuây trong khi chờ đợi. Rồi có những nhà sản xuất trung thực với văn phòng trong phim trường và một cô thư ký, thêm một trăm ngàn đô-la trong quỹ phát triển.

Những nhà sản xuất này qua một ngày để phỏng vấn các cô nàng muốn tranh nhau làm diễn viên. Họ nghĩ về công việc này rất nghiêm túc và không hề có ý tưởng rằng đối với nhà sản xuất, việc này chỉ là một cách để giết bớt buổi chiều và nếu gặp may, có em chịu vi vu một phát để giúp họ ngon miệng hơn trong buổi tối. Nếu họ thực sự thấy em nào có triển vọng, họ sẽ đưa em đi ăn trưa nơi nhà hàng ăn của phim trường và giới thiệu em với những nhân vật nặng kí đi ngang qua. Quí vị này thường rất bận rộn, trừ phi cô gái có vẻ thật đặc biệt. Và rồi nàng có thể được đóng thử.

Các cô gái hay các chàng trai hiểu trò chơi, biết rằng nó là một phần của vòng quay cố định, nhưng họ cũng biết rằng người ta có thể gặp may. Thế là họ săn tìm cơ hội với nhà sản xuất, với đạo diễn, với minh tinh, song nếu như họ thực sự biết nghề và có chút đầu óc, họ sẽ không bao giờ đặt hi vọng vào một nhà văn. Giờ đây tôi mới nhận ra Osano đã phải cảm thấy cay đắng như thế nào.

Nhưng một lần nữa, tôi vẫn luôn hiểu rằng đây là một phần của cạm bẫy. Cùng với tiền bạc, những dãy phòng sang trọng, sự phỉnh nịnh tâng bốc, không khí trí tuệ của các cuộc hội thảo phim trường và cảm thức quan trọng khi làm một bộ phim lớn.

Vì thế tôi thực sự chưa bao giờ bị mắc câu. Nếu tôi hơi nổi máu, tôi bay đến Vegas và vui đùa cho "hạ hoả". Cully luôn luôn gửi đến một nàng "câu móc" loại ngon lành đến phòng tôi. Nhưng luôn luôn tôi từ chối. Không phải vì tôi hợm mình, cao đạo gì và dĩ nhiên là tôi cũng bị cám dỗ. Nhưng tôi thích chơi cờ bạc hơn và có mặc cảm tội lỗi với bu nó và mấy đứa nhỏ nếu mình quan hệ linh tinh.

Qua hai tuần lễ ở Hollywood chơi tennis, tôi đi ăn tối ở nhà hàng với Doran và Malomar, đi dự các party. Các buổi party ấy rất hào hứng. Tại một buối, tôi gặp một ngôi sao đã mờ mà xưa kia đó là một ảo tượng để thủ dâm của tôi thuở thiếu niên. Nàng ta giờ đây có lẽ đã vào tuổi năm mươi nhưng trông còn ngon mắt nhờ những cú giải phẫu thẩm mỹ tài ba và những trợ cụ hữu hiệu cho nhan sắc. Nhưng nàng ta hơi đẫy đà với khuôn mặt phì phị vì rượu. Nàng ta đã ngà ngà say và đang gạ gẫm để "phất cờ" với bất kỳ anh chàng hay cô nàng nào tại buổi party nhưng chẳng ai thèm.

Và đây là cô gái mà lúc trước hàng triệu thanh thiếu niên Mỹ si mê thèm muốn (trong đó có cả tác giả, vào những lúc cô đơn tìm vui một mình) Tôi thấy điều này cũng ngồ ngộ, hay hay. Ôi thời gian quả là tên bạo chúa Attila man rợ. Nơi nào vó ngựa nó đi qua, tình yêu (và cả sự thèm muốn) không bao giờ mọc lại.

Các cuộc party đó nói chung là khá vui vẻ và thân mật. Với những khuôn mặt quen biết của các nam nữ diễn viên. Những tay đại lý đầy ắp ve tự tin. Những nhà sản xuất duyên dáng, những đạo diễn quyền uy. Tôi phải nói rằng họ duyên dáng và khả ái hơn tôi nhiều trong các party đó. Và rồi tôi yêu cái khí hậu êm dịu, ấm áp một cách dễ chịu và thoang thoảng hương thơm nơi đây.

Tôi yêu những đường phố và cây cọ toả bóng của Beverly Hills và tôi thích lang thang quanh Westwood với các rạp chiếu phim và những nam nữ sinh viên là những kẻ hâm mộ điện ảnh với những cô gái thực sự là rất xinh. Tôi hiểu ra tại sao hầu hết các tiểu thuyết gia những năm 1930 đều bán tống sách vở đi. Tội gì mà phải mất năm năm cặm cụi miệt mài viết ra cuốn tiểu thuyết chỉ đem lại có hai ngàn đô-la nhuận bút trong khi người ta có thể sống đời thoải mái ở nơi đây và làm ra số tiền đó chỉ trong một tuần?

Ban ngày tôi sẽ làm việc trong văn phòng riêng của tôi, có những cuộc hội ý về kịch bản với Malomar, ăn trưa ở nhà ăn tập thể, tản bộ một lúc và xem chiếu một phim tư liệu.

Bữa ăn trưa ở nhà ăn tập thể thật vui. Bạn gặp được tất cả những người trong phim và dưởng như mọi người đều đã đọc quyển sách của tôi, ít ra là họ nói như vậy. Tôi ngạc nhiên là đám diễn viên, nam cũng như nữ, thực sự là rất ít nói. Họ chịu lắng nghe.

Các nhà sản xuất nói nhiều nhất. Các đạo diễn luôn bận rộn, thường có ba hoặc bốn phụ tá đi kèm. Chỉ có đám chạy hiệu là có vẻ thư thả. Cuộc sống ở đây không tệ nhưng tôi vẫn nhớ New York. Tôi nhớ Vallie và lũ nhóc và tôi nhớ những bữa ăn với Osano. Có nhiều đêm tôi đáp máy bay đi Vegas giải trí đôi chút, ngủ nghỉ rồi sáng sớm hôm sau lại quay về.

Rồi một ngày nọ ở phim trường sau khi tôi đã đi lại giữa New York và Los Angeles mấy lần. Doran mời tôi đến dự party tại căn nhà thuê của anh ở Malibu.

Một party thiện chí nơi đó các nhà phê bình điện ảnh, các nhà văn viết kịch bản phim và những người sản xuất hoà mình với đám nam nữ diễn viên và các đạo diễn. Tôi chẳng có việc gì hay hơn để làm và cũng không thấy thích đi Vegas, thế là tôi đến dự party của Doran và tại đó lần đầu tiên tôi được dịp hạnh ngộ Janelle.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Đó là một trong những cuộc họp mặt thân mật vào ngày chủ nhật tổ chức tại một ngôi nhà ở Malibu có một sân tennis với một hồ bơi lớn, nước nóng bốc hơi. Ngôi nhà chỉ cách ly với đại dương trước mặt bởi một dải cát mỏng. Mọi người đều mặc thường phục.

Tôi để ý thấy phần lớn đàn ông ném chìa khoá xe của họ lên bàn ngay nơi phòng tiếp tân và khi tôi hỏi Eddie Lancer về chuyện đó, anh bảo tôi rằng ở Los Angeles, quần đàn ông được cắt khéo đến độ người ta không thể bỏ cái gì vào trong túi quần được.

Trong lúc qua các căn phòng tôi nghe được những mẩu đối thoại thú vị. Một ả dáng cao, gầy, da sẫm, trông rất hiếu chiến đang ngả ngốn với một nhà sản xuất phim đẹp trai đội một cái mũ kiểu đi thuyền thể thao. Một ả tóc vàng lùn tịt, loắt choắt nhào đến họ và nói với ả kia:

- Này, đừng có mà sờ soạng chồng ta, nếu không ta sẽ tống cho mi một cú đấm vào ngay cái lỗ đấy!

Anh chồng mặt đờ ra, nói lắp bắp:

- Ờ, ờ ờ, được được thôi. Cô ấy cũng khô… ông, không xài nhiều nhiều đâu.

Đi qua một phòng ngủ, tôi thấy một cặp trần truồng như nhộng từ đầu đến chân và nghe một giọng lập nghiêm:

- Thôi, lên đây.

Tôi nghe giọng một anh chàng dường như là giọng của một tiểu thuyết gia ở New York:

- Ồ chuyện làm phim ấy à. Nếu bạn tạo được một danh tiếng là một nha sĩ giỏi, họ sẽ để cho bạn mổ óc đấy.

Tôi nghĩ, lại thêm một anh văn sĩ bất mãn.

Tôi lang thang bên ngoài, khu đậu xe gần Xa lộ Bờ Thái bình dương và thấy Doran với một nhóm bạn đang trầm trồ nhìn ngắm chiếc Stutz Bearcat mà ai đó vừa nói với Doran là nó trị giá đến sáu mươi ngàn đô.

Doran nói:

- Làm sao mà người ta lại có thể để chiếc xe này nằm một chỗ nhỉ? Như thế chẳng khác nào phải đi làm việc ca đêm trong khi mới vừa làm đám cưới với Marilyn Monroe.

Thực ra tôi đến dự party với ý định gặp Clara Ford mà theo nhận định của tôi, là cây bút phê bình điện ảnh trác việt nhất của Mỹ từ trước đến nay. Cô nàng tinh khôn như quỷ sứ, viết ra những câu văn bén như lưỡi dao, đọc sách rất nhiều, xem hầu hết mọi cuốn phim mới và thường nhất trí với tôi đến chín mươi chín trên một trăm bộ phim. Khi nàng khen một phim nào, tôi biết có thể xem phim đó và có thể sẽ thích hoặc chí ít cũng có thể ngồi đến cuối buổi chiếu.

Những bài điểm phim của nàng là đích đến gần nhất mà một nhà phê bình đạt được để hoá thân thành nghệ sĩ, và tôi thích sự kiện là nàng chưa bao giờ yêu sách cái quyền được thừa nhận là người sáng tạo. Nàng hài lòng làm một nhà phê bình.

Ở party, tôi không có nhiều cơ hội để trao đổì ý kiến với nàng nhưng chuyện này cũng không sao. Tôi chỉ muốn xem thực sự nàng là hạng phụ nữ nào. Nàng đến với Kellino và chàng ta giữ cho nàng bận rộn. Và bởi vì đa số người ta bu quanh Kellino, Clara Ford được để ý rất nhiều. Vì thế, tôi ngồi trong một góc và chỉ quan sát.

Clara Ford là một trong những người phụ nữ trông nhỏ nhắn, ngọt ngào, thường bị gán là vô vị thế nhưng khuôn mặt của nàng linh hoạt hẳn lên vì sự sung mãn trí tuệ đến độ trong mắt tôi, nàng vẫn đẹp. Điều khiến nàng hấp dẫn đó là nàng có thể vừa cứng rắn lại đồng thời vừa hồn nhiên, vô tội. Tôi có thể thấy rằng nàng đang vui vẻ ở party. Và nàng biết rằng Kellino đang tính lỡm nàng với cái trò tình ca lãng mạn mà chàng ta diễn có vẻ rất đạt.

Giờ đây Kellino đang tỏ ra rất ư là duyên dáng khả ái với Clara Ford, giống hệt một cảnh mùi mẫn trên màn ảnh xi-nê-ma-xì-cốp! Chàng ta cười má lúm đồng tiền cằm chẻ, trông đĩ trai không chịu được!

Một cái vẻ đĩ trai dễ khiến phụ nữ mê đắm mới chết chứ? Và em Clara, mặc dầu thông minh sắc sảo, nhưng cũng đã bắt đầu lảo đảo, thấy lòng xiêu xiêu hồn nức hương mai

Bỗng dưng một giọng nữ gần tôi cất lên:

- Bạn có nghĩ rằng Kellino sẽ để cho nàng phết anh ta ngay trong cuộc hẹn đầu tiên?

Giọng nói đến từ một cô gái tóc vàng thực sự là rất xinh, một phụ nữ thì đúng hơn vì tôi đoán nàng cũng gần ba mươi. Giống như Clara Ford, chính nét thông minh đã điểm xuyết thêm cho khuôn mặt nàng.

Mặt nàng rất sắc nét với làn da trắng mịn màng, được trang điểm nhẹ và khéo nên trông rất tự nhiên, có vẻ không cần nhiều đến sự trợ lực của các loại mỹ phẩm. Nàng có đôi mắt nâu trông dễ tổn thương, sẵn sàng ánh lên nét vui tươi hồn nhíên như đôi mắt trẻ thơ và cũng dễ dàng nhuốm màu bi kịch như nhân vật Trà Hoa Nữ trong tiểu thuyết của Dumas con. Nếu ai có trách sao nghe có hơi hướm cải lương mùi mẫn, do sự mô tả của một anh chàng si tình thì tôi cũng không phản đối. Có lẽ trong lần đầu gặp nàng, tôi đã không cảm nhận theo cách đó. Điều ấy chỉ đến về sau này.

Còn ngay bây giờ, đôi mắt nâu kia trông có vẻ ranh mãnh. Nàng dường như đang thích thú đứng ra ngoài tâm bão của party. Điều khá bất thường nơi những người đàn bà đẹp, là nàng đang có vẻ hạnh phúc vui sướng của trẻ con khi chúng được để một mình, tuỳ ý muốn làm cái gì chúng thấy hứng thú. Tôi tự giới thiệu và nàng cho tôi biết tên nàng là Janelle Lambert.

Bây giờ tôi nhận ra nàng. Tôi đã từng thấy nàng đóng những vai phụ trong khá nhiều phim và luôn đóng tròn vai diễn. Người ta luôn thích nàng trên màn hình nhưng không ai nghĩ nàng xuất sắc cho lắm. Tôi có thể thấy là nàng ngưỡng mộ Clara Ford và đã hy vọng nhà phê bình điện ảnh đó sẽ nói đôi lời với nàng.

Thế nhưng Clara đã không nói gì nên bây giờ Janelle mới nói xỏ. Ở nơi người đàn bà khác, đó có lẽ là một nhận xét khó ưa nhưng với nàng thì không sao (có lẽ vì tôi thích nàng?).

Nàng biết tôi là ai và nói những điều thông thường về quyển sách mà mọi người vẫn nói. Và tôi vẫn có thái độ lơ đãng thường lệ như thể tôi chỉ nghe những lời khen. Tôi thích cách trang phục của nàng, khiêm tốn, nhưng vẫn có phong cách riêng mà không phải là thứ thời trang quá cao cấp, đắt tiền.

- Mình đến đàng kia đi, - nàng nói.

Tôi nghĩ nàng muốn gặp Kellino, nhưng khi chúng tôi đến đó, tôi thấy nàng cố gợi chuyện với Clara. Nàng nói những lời thông minh dí dỏm, thế nhưng người ta có thể thấy Clara Ford toả ra băng giá bởi vì Janelle quá đẹp, hay là lúc đó tôi nghĩ thế?

Thình lình Janelle quay người và đi xa khỏi nhóm. Tôi bước theo nàng. Nàng vẫn quay lưng về phía tôi nhưng khi tôi bắt kịp nàng ở cửa lớn, tôi thấy nàng đang khóc.

Đôi mắt nàng tuyệt đẹp với từng giọt lệ long lanh, đôi mắt vàng nâu mà về sau tôi khám phá ra rằng nàng mang kính sát tròng và những giọt lệ làm cho đôi mắt trông lớn hơn ra với màu vàng ánh lên và làm nhòe đi đôi chút điểm trang nơi đôi mắt.

- Khi cô khóc, trông cô càng đẹp, - tôi nói.

Tôi đang vô tình lặp lại lời của Kellino trong một vai kép mùi nào đó của anh ta.

- Ồ, anh nói cái đếch gì sặc giọng Kellino vậy, - nàng nói.

Tôi không ưa phụ nữ dùng những từ như "đ." và "cái lỗ l…" hay "đ. mẹ"… Nhưng nàng là người phụ nữ duy nhất tôi từng nghe, đã khiến cho cái từ "đ." có vẻ hóm hỉnh và thân thiện!

Rất có thể là nàng chưa từng thốt ra từ đó cho đến lúc vừa rồi. Có thể vì nàng cười với tôi để cho tôi biết rằng nàng biết là tôi đang bắt chước Kellino. Cái cười của nàng thật hồn nhiên dễ thương, chứ không có vẻ cuốn hút mê hồn.

- Em không biết tại sao mình lại ngốc thế, - nàng nói.

- Nhưng em không bao giờ đi đến các buổi party. Hôm nay em đến chỉ vì em biết cô ta đến đây. Em rất ngưỡng mộ cô ta.

- Cô ấy là một nhà phê bình xuất sắc, - tôi nói.

- Ồ cô ấy tinh tế lắm, - Janelle nói. - Có lần cô ấy viết vài nhận định rất dễ thương về em. Và vì thế em đã nghĩ cô ấy mến em. Thế rồi hôm nay cô ấy lại tỏ thái độ khinh khỉnh đối với em. Chẳng vì lý do gì cả.

- Cô ấy có đầy đủ lý do đấy chứ, - tôi nói. - Trước tiên vì cô đẹp mà cô ấy thì không. Và cô ấy có những kế hoạch mồi chài Kellino tối nay, nên cô ta không muốn anh chàng bị phân tâm vì cô.

- Ngớ ngẩn, - nàng nói. - Em đâu có khoái đám diễn viên.

- Nhưng em lại đẹp, - tôi nói. - Mà em còn ăn nói có duyên nữa. Cô ta ghét em là phải.

Lần đầu tiên nàng nhìn tôi với cái vẻ giống như thực sự hứng thú. Tôi đã đi trước nàng. Tôi thích nàng vì nàng đẹp. Tôi thích vì nàng không bao giờ đi dự các party. Tôi thích vì nàng không đến vì những diễn viên như Kellino, những kẻ rất đẹp trai hấp dẫn, ăn mặc thanh lịch sang trọng. Và vì nàng thông minh.

Cũng bởi nàng có thể khóc vì chuyện một nhà phê bình tỏ vẻ khinh khỉnh với nàng trong một buổi party.

Nếu nàng có trái tim dịu dàng đến thế, có lẽ nàng sẽ không hại tôi. Cuối cùng chính tính dễ tổn thương đó nơi nàng khiến tôi mời nàng đi dùng bữa tối và đi xem phim. Tôi không biết Osano có thể đã nói với tôi điều gì. Rằng một người đàn bà nhạy cảm, dễ tổn thương sẽ giết bạn mọi lúc?

Điều buồn cười là tôi không nhìn nàng ở khía cạnh sex. Mà tôi vẫn rất thích nàng. Dù là nàng đẹp và có nụ cười hạnh phúc tuyệt vời kia, ngay cả với nước mắt còn đọng trên mi, nàng thực sự không phải là một người đàn bà sexy, không phải là mẫu phụ nữ "nhất kiến khả cử". Hay bởi tôi quá thiếu kinh nghiệm để nhận ra, tôi vẫn còn là một chàng ngố chưa thấy hết những tiềm năng vô tận nơi người đàn bà, dù đã có vợ con? Bởi vì về sau, khi Osano gặp nàng, ông ta "phán" ràng ông cảm nhận được dục tính nơi nàng giống như một dây điện trần. Khi tôi nói với Janelle về Osano, nàng bảo rằng điều đó chắc là phải xảy ra với nàng sau khi tôi gặp nàng. Bởi vì trước khi gặp tôi nàng kiêng thịt từ lâu. Khi tôi đùa giễu nàng về chuyện đó và tỏ ra không tin nàng, nàng cười rất tươi và hỏi tôi đã từng nghe về các máy rung hay chưa.

Thật buồn cười là một người phụ nữ nói với bạn rằng nàng thủ dâm với một cái máy rung lại kích thích bạn hướng về nàng. Nhưng câu chuyện này cũng dễ hình dung thôi. Hàm ý câu chuyện là nàng không thích chuyện hỗn giao kiểu bạ đâu táp đấy, lung tung, vô nguyên tắc, không chọn lọc, mặc dầu nàng đẹp và sống trong một môi trường nơi đàn ông chạy đuổi theo đàn bà chẳng khác nào mèo săn chuột, cũng với cùng lý do đó.

Chúng tôi cùng đi ăn, đi chơi với nhau khoảng năm lần trong hai tuần, trước khi cùng hạ cánh xuống bãi đáp êm ái của chiếc giường nệm. Vâng, cuối cùng thì rồi chúng tôi cũng đến điểm hẹn thiên niên kỷ của mọi cuộc tình. Và có lẽ chúng tôi đã có với nhau một khoảng thời gian tốt đẹp hơn trước khi chúng tôi dìu nhau lên dỉnh chất ngất, hơn là khoảng thời gian sau đó.

Tôi đi làm việc ở studio vào ban ngày và thảo luận với Malomar về việc chuyển thể điện ảnh quyển tiểu thuyết bên vài ly rượu rồi quay về phòng mình ở khách sạn Beverly Hills và đọc sách. Thỉnh thoảng tôi đi xem phim. Vào buổi tối, tôi hẹn với Janelle đến gặp rồi nàng kéo tôi đi tham quan các rạp chiếu bóng, sau đó vào một nhà hàng ăn rồi trở về phòng. Chúng tôi sẽ uống với nhau vài ly rượu, chuyện gẫu một hồi, rồi nàng sẽ về nhà nàng vào khoảng một giờ sáng. Chúng tôi còn là bạn bè nhau, chưa là tình nhân.

Nàng nói với tôi tại sao nàng ly dị chồng. Khi mang thai, nàng rất thèm muốn ân ái nhưng anh chồng lại lơ là. Rồi khi đứa con ra đời, nàng rất thích nuôi con. Nàng vui sướng với dòng sữa chảy ra lừ đôi vú để cho con được bú thoả thuê. Nàng muốn chồng thưởng thức dòng sữa thơm ngọt ngào đó, muốn chồng bú vú nàng và cảm nhận dòng sữa tuôn ra. Nàng nghĩ đó sẽ là cảm giác tuyệt với cho cả hai. Nhưng anh chồng quay mặt đi, tỏ vẻ gớm. Và thế là cuộc hôn nhân của họ kết thúc.

- Em chưa hề bảo ai làm điều ấy trước đó, - nàng nói.

- Lạy Chúa, - tôi nói. - Anh ta dại quá.

Một buổi khuya nọ, trong phòng tôi, nàng ngồi sát bên tôi trên chiếc ghế sofa. Chúng tôi ôm ghì nhau hôn như hai đứa trẻ rồi tôi kéo quần chẽn của nàng xuống dưới hai cẳng chân nhưng nàng chùn lại, tỏ vẻ ngần ngại và đứng lên. Vào lúc đó tôi cũng tụt quần ra để sẵn sàng ứng phó với cuộc "tao ngộ chiến" hứa hẹn nhiều phần ác liệt bởi cả hai đối thủ đều đã phải "ăn kiêng" khá lâu nên hẳn là phải háo hức khi "ngã mặn" trở lại. Thế nhưng nàng lại cười và nói nửa như mếu máo:

- Xin lỗi nhưng em chả? Nghĩa là hôm nay em không thể…

Vào lúc đó tôi thích nàng như điên. Và cũng lạ, tôi không hề thấy tổn thương khi nàng từ chối.

- Được thôi, không sao!

Tôi kéo quần lên. Nàng kéo quần chẽn lên và chúng tôi lại ôm hôn nhau trên chiếc ghế sofa. Khi nàng từ biệt, tôi hỏi đêm mai nàng có trở lại với tôi không. Khi nàng trả lời có chứ tôi biết là nàng sẽ lên giường với tôi.

Đêm sau nàng đến. Chúng tôi hôn nhau và ôm chặt nhau. Đêm đầu tiên đó, chúng tôi chưa yêu nhau mà chỉ mới rất thích nhau. Chúng tôi làm tình, quấn quít bên nhau, chuyện phiếm và cảm thấy ấm áp, thư thái. Nàng có làn da mượt mà, trơn bóng mịn màng như xa-tanh và đôi mông tròn lẳn, xinh xắn, không quá săn chắc mà cũng không nhão, rất vừa độ để vuốt ve. Đôi vú nhỏ nhắn của nàng với hai núm đỏ hồng khá lớn cho đôi tay tôi cảm giác thật tuyệt khi mân mê. Trong vòng một giờ, chúng tôi giáp lá cà đến hai lần với tư tưởng tấn công toàn diện và đầu óc hiếu chiến quyết liệt? Có lẽ đều phải nhịn thèm khá lâu.

Sau một giờ lao động vất vả đổ khá nhiều mồ hôi, chúng tôi khát nước và tôi lấy ra một chai sâm-banh đã ngâm đá tự nãy giờ. Chúng tôi cùng ngồi trên giường, nhấm nháp sâm-banh và nhìn nhau cười ngây dại, lòng thấy tràn đầy hạnh phúc. Tôi chưa từng cảm thấy hạnh phúc như thế từ khi tôi là một thằng nhóc ham mê tranh bóng với lũ bạn suốt ngày trong mùa hè.

Có lần tôi đã nói với Janelle rằng tôi yêu nàng và nàng đã bảo tôi đừng nói điều gì giống như thế, rằng nàng biết tôi không thật sự có ý nói vậy. Tôi cũng phân vân chẳng biết mình có thực sự muốn nói thế hay không, nên tôi cũng chiều ý nàng không nói tiếng yêu nữa. Bây giờ tôi không nói anh yêu em với nàng nữa. Nhưng đôi khi trong đêm khi cả hai cùng thức giấc và làm tình với nhau, trong bóng tối, nàng nói rất nghiêm trang: "Em yêu anh".

Ôi Giê-su lạy Chúa tôi? Toàn bộ chuyện này nghe sao mà tình cảm uỷ mị sướt mướt đến là chán phèo! Nó nhảm đến độ khiến cho người ta phải đi tìm mua một thứ kem cạo râu mới hay mua vé chuyến bay đặc biệt. Nhưng nếu chỉ thuần tuý nhảm nhí, tại sao nó lại công hiệu đến thế? Vì sau đó mọi sự đều thay đổi. Ngày trước khi em đến, đời anh sao tẻ nhạt, buồn thiu. Mọi chuyện anh làm sao mà nhàm chán vô vị. Nhưng từ khi tiếng chân em khua rộn ngõ hồn anh, thì lịch sử đời anh đã sang trang để bước vào cảnh giới mới xiết bao diệu kỳ! Ngay cả hành vị tính dục cũng trở nên vô cùng đặc biệt, đầy nên thơ mộng ảo. Đâu chỉ thuần tuý là sự cọ xát giữa hai làn da, hay đơn giản hơn, sự bù đắp cho nhau giữa hai con đực cái.

Mà là sự hợp nhất hai bán thể cô đơn trong tiết điệu giao hoà của trăng sao, vũ trụ. Đúng thế, tôi chưa từng thấy người đàn bà nào khác hiểu theo nghĩa chính xác như một đối thể bất khả ly. Và chỉ cần thấy nàng là đủ cho tôi nổi hứng. Khi nàng gặp tôi nơi phi trường, tôi bấu lấy nàng, đằng sau những chiếc xe nơi bãl đậu để sờ vào ngực vào cọ vào mông vào đùi nàng và hôn nàng tưng bừng đến không biết bao nhiêu lần trước khi chúng tôi lái xe về khách sạn.

Tôi quýnh quíu cả lên, không đợi nổi. Khi nàng vừa cười giễu vừa phản đối, tôi kể nàng nghe chuyện những con gấu Bắc cực. Về chuyện một con gấu đực chỉ có thể đáp lại mùi hương của một con gấu cái đặc biệt nào đó và đôi khi nó phải lang thang qua cả ngàn dặm vuông của tuyết băng vùng cực trước khi có thể phủ được con cái. Đó là lý do tại sao loài gấu Bắc cực lại hiếm như thế. Nàng ngạc nhiên về chuyện đó, rồi nàng hiểu ra là tôi nói đùa và nhéo tôi một cái rõ đau.

Nhưng tôi bảo nàng rằng thực sự đó là hiệu ứng nàng có trên tôi. Rằng đó không phải là tình yêu hay là tại nàng quá xinh đẹp quá khôn ngoan và đủ thứ các cái mà tôi chưa bao giờ mơ tưởng tới nơi một người đàn bà từ khi tôi còn là một đứa bé. Không phải là những chuyện đó. Tôi không dễ đa cảm bi luỵ đến thế. Hoàn toàn đơn thuần là tại nàng có đúng mùi; thân thể nàng toả ra mùi hương hợp với khứu giác của tôi. Thế thôi chứ chẳng có gì để khoe khoang khoác lác.

Điều tuyệt vời là nàng hiểu. Nàng biết là tôi không ma mãnh, láu cá. Mà tôi đang nổi loạn chống lại chuyện mình đầu hàng nàng và đầu hàng một khuôn mẫu sẵn có về tình yêu lãng mạn. Nàng ôm siết tôi và nói: "Được rồi, được rồi" và khi tôi nói "Em đừng tắm nhiều quá nhe", nàng lại siết tôi và nói: "OK".

Bởi vì thực sự đó là điều tôi không hề mong muốn. Tôi có được cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi yêu vợ tôi hơn bất kì ai khác trên đời và vẫn còn thích nàng hơn bất kỳ con cái nào mà tôi từng gặp ngay cả khi tôi đã bắt đầu phản bội nàng. Vì thế giờ đây, lần đầu tiên tôi cảm thấy có tội với cả hai nàng. Và những chuyện tình vẫn luôn làm tôi bực bội.

Vâng, đúng là chúng ta rắc rối hơn bọn gấu Bắc cực, và điểm cốt yếu trong truyện thần tiên của tôi mà không chỉ cho Janelle thấy, đó là con gấu cái không có cùng vấn đề như con gấu đực.

Tất nhiên tôi cũng ra được những chuyện vớ vẩn thông thường mà những ai đang yêu vẫn hay vướng mắc trong tư tưởng. Tôi ấp úng hỏi loanh quanh về nàng. Nàng có hẹn ăn nằm với các nhà sản xuất hay các ngôi sao để được cho vai diễn? Nàng có những tình sử nào khác? Nàng có bạn trai nào khác? Nói cách khác - trắng trợn hơn một chút - nàng có phải là một cửa ải đã từng để lọt cả một sư đoàn địch quân?

Thật là buồn cười, có những điều người ta làm khi rơi vào cái gọi là lẩm cẩm tình yêu sự vụ? Người đàn bà, chẳng bao giờ làm thế với một bạn trai mà nàng ta thích. Trong mối quan hệ đó, bạn luôn tin tưởng phán đoán riêng của bạn, cảm nhận chủ quan của bạn.

Nhưng với đàn bà, người ta luôn nghi ngờ. Quả thật, tình yêu là một cái cổng mà người khôn bước vào sẽ ngu! Người nào phát ngôn câu ấy nghe sao mà chí lý. Hẳn là cụ cũng từng kinh nghiệm xương máu nên mới đúc kết được câu nghe thâm thuý hết ý?

Và nếu như tôi bắt gặp vết nhơ nhuốc thực sự trên người nàng, có lẽ tôi sẽ không si tình nàng. Chút lãng mạn vớ vẩn đó là thế quái gì nhỉ? Bởi thế hiện nay nhiều người đàn bà ghét đàn ông cũng có chi lạ đâu? Lý do khoan miễn duy nhất của tôi là đã bao năm nay tôi sống ẩn dật để viết văn cho nên không sành về đàn bà. Và rồi tôi chẳng hề nghe nói đến một xì-căng-đan nào về nàng. Nàng không đi dự các party. Chẳng tằng tịu lăng nhăng với một chàng diễn viên nào. Chẳng chạy theo các đám đông trong ngành phim ảnh hay đi đến những chốn ăn chơi mọi người thường đến. Không bao giờ xuất hiện trong các mục chuyện đó đây của báo chí. Nói vắn tắt, nàng đúng là cô gái trong mộng của một ẩn sĩ chân chính. Nàng còn thích đọc sách báo nữa. Tôi có thể mong ước gì hơn cơ chứ?

Hỏi loanh quanh một hồi, tôi ngạc nhiên phát hiện ra rằng Doran Rudd đã lớn lên với nàng trong một thị trấn nhỏ ở Tennessee. Anh ta bảo tôi nàng là cô gái thẳng thắn nhất Hollywood, là người đàn bà tốt nhất mà anh từng biết. Chỉ về sau này, do Janelle cho tôi biết, rằng họ đã từng là người tình của nhau, từng sống chung với nhau và chính Doran đã mang nàng đến Hollywood.

Nàng có bản tính tự lập mạnh mẽ. Một lần tôi cố trả tiền đổ xăng khi chúng tôi chạy lòng vòng bằng xe của nàng. Nàng cười và từ chối. Nàng không hề quan tâm chuyện tôi ăn mặc ra sao và nàng thích khi tôi cũng không quan tâm chuyện nàng ăn mặc thế nào. Chúng tôi cùng đi xem xi-nê với quần jeans và áo len và đi ăn ở những hàng quán ven đường. Chúng tôi đủ bản lĩnh để chẳng ngại ngùng khi làm như thế?

Mọi chuyện đều hoàn hảo. Tình dục cũng trở nên tuyệt vời Hồn nhiên và hào hứng như một lứa đôi mới lớn. Có khi chúng tôi dùng nhiều tấm gương để ở nhiều góc khác nhau để nhìn mọi hình ảnh phải chiếu và cười giễu với nhau. Có khi chúng tôi cùng đọc chung các quyển "phòng trung bí thuật" để gợi hứng và học theo sách để thực tập mọi kiểu làm tình ly kì, độc đáo nhất. Và như thế chúng tôi sống hạnh phúc bên nhau kể từ đó trở về sau. Cho đến khi chúng tôi thành kẻ thù của nhau.

Và trong khoảng thời gian hạnh phúc đó, như nàng Schcherazade bước ra từ xứ sở truyền kỳ ngàn lẻ một đêm, nàng tự bạch cho tôi nghe thiên "tang thương ngẫu lục" của đời nàng. Và như thế, tôi đã sống không chỉ hai mà cả ba cuộc đời. Đời sống gia đình tôi ở New York với vợ con, đời sống với Janelle ở Los Angeles và cuộc đời của Janelle trước khi nàng gặp tôi. Tôi sử dụng những chuyến bay 747 như những chiếc thảm ma thuật. Tôi chưa từng bao giờ hạnh phúc đến thế trong đời mình. Làm việc trong ngành điện ảnh cũng giống như góp vốn chung để cá cược hay chơi bài. Cuối cùng tôi đã tìm ra điểm then chốt mà cuộc đời phải là như thế. Và con người tôi chưa bao giờ lại hấp dẫn hơn thời kỳ đó. Vợ tôi hạnh phúc, Janelle hạnh phúc, các con tôi hạnh phúc. Artie không biết chuyện gì đang diễn ra, nhưng một đêm, khi chúng tôi đang dùng bữa tối với nhau, bỗng dưng anh nói:

- Chú có biết đây là lần đầu trong đời tôi không còn lo ngại về chú nữa không?

- Chuyện ấy bắt đầu từ bao giờ?

Tôi nói nghĩ rằng đó là do thành công của tôi với quyển sách và chuyện tôi làm việc trong ngành điện ảnh.

- Ngay bây giờ nè, - Artie nói. - Chính giây phút này đây.

Ngay lập tức tôi có trực cảm phải cảnh giác:

- Chính xác điều ấy nghĩa là gì?

Artie suy nghĩ một lát:

- Chú chưa bao giờ thực sự hạnh phúc! - anh nói. - Chú vẫn luôn là một con người bi quan. Chưa từng có bạn thực sự. Chỉ vùi đầu vào đọc sách và viết sách. Chú không thể chịu được các buổi hội hè, không thích phim ảnh hay âm nhạc kịch nghệ hay cái gì khác. Không thích cả những bữa ăn đại gia đình trong những ngày lễ lạc. Lạy Chúa, hình như chú cũng chưa biết vui hưởng hạnh phúc với con cái đùa giỡn quanh mình.

Tôi bị sốc và chạm tự ái. Không đúng như vậy.

Có lẽ tôi có biểu hiện bề ngoài như thế nhưng thấy vậy mà không phải vậy. Tôi có cảm giác bồn chồn khó chịu trong dạ. Nếu như Artie còn nghĩ về tôi theo cách đó, thì người khác sẽ nghĩ gì? Tôi lại rơi vào cảm thức bị cách ly, đơn độc.

- Không đúng, - tôi nói.

Artie cười với tôi:

- Tất nhiên là không rồi. Anh chỉ muốn nói rằng bây giờ chú bộc bạch chuyện này chuyện kia với người khác nhiều hơn, ngoài tôi ra. Vallie nói dạo này dễ sống với chú hơn rất nhiều.

Tôi lại sửng sốt. Vợ tôi hẳn là đã phàn nàn về tôi trong bao nhiêu năm nay mà tôi chưa hề biết. Nàng không bao giờ lên tiếng phiền trách tôi. Nhưng vào lúc này đây tôi biết chưa từng bao giờ thực sự làm cho nàng hạnh phúc, ngay cả mới trong mấy năm đầu mới lấy nhau.

- Tốt, thế là bây giờ nàng hạnh phúc, - tôi nói.

Và Artie gật đầu. Và tôi nghĩ điều ấy quả là ngớ ngẩn, rằng tôi phải không trung thành với vợ mình mới làm nàng hạnh phúc. Bỗng dưng tôi nhận ra rằng giờ đây tôi yêu Vallie hơn bất kỳ lúc nào từ trước đến nay. Điều ấy khiến tôi bật cười. Có vẻ thuận tiện đấy và như rất đúng bài bản tình nghĩa giáo khoa thư! Vì ngay khi tôi thấy mình lọt vào vị trí cổ điển của người chồng không còn đáng tin tưởng, tự nhiên tôi lại tìm đọc mọi thứ văn chương liên hệ đến chuyện đó.

- Vallie chắc cũng không phiền gì lắm chuyện em đến California phải không? - tôi hỏi.

Artie nhún vai:

- Tôi nghĩ cô ấy thích như vậy. Chú biết, tôi quá quen với tính khí chú từ lâu rồi, chứ đối với người khác chú vẫn là một kẻ dễ khiến người ta bực mình lắm.

Tôi lại hơi sửng sốt nhưng không bao giờ tôi có thể nổi giận với anh mình.

- Tốt thôi, - tôi nói lẫy. - Mai em sẽ rời nơi đây để đi California làm việc trở lại.

Artie mỉm cười. Anh hiểu tôi đang cảm thấy gì:

- Bao lâu chú còn tiếp tục quay về, - anh nói. - Chúng tôi không thể sống thiếu chú.

Anh chưa từng nói điều gì có vẻ tình cảm uỷ mị đến thế, nhưng anh nắm bắt được là cảm thức của tôi bị tổn thương. Anh vẫn cưng chiều tôi.

- Thôi bỏ đi, - tôi nói và cảm thấy hạnh phúc trở lại.

Hầu như thật khó tin rằng chỉ hai mươi bốn giờ sau đó, tôi cách xa anh ba ngàn dặm, một mình với Janelle, trong giường, và nghe chuyện đời nàng.

Một trong những điều đầu tiên nàng kẻ tôi nghe đó là nàng và Doran Rudd là bạn cố tri, cùng lớn lên ở thành phố tỉnh lẻ Johnson City, bang Tennessee miền Nam. Và rằng sau đó họ đã trở nên người tình của nhau và chuyển đến California, nơi nàng trở thành một diễn viên điện ảnh và Doran Rudd thành một đại lý phim.Doran Rudd thành một đại lý phim.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Khi đi đến California với Doran Rudd. Janelle có vấn đề. Đứa con nàng. Mới có ba tuổi, còn quá nhỏ để mang theo khắp đó đây. Nàng để con lại cho người chồng cũ. Ở California, nàng sống với Doran.

Anh ta hứa giúp nàng khởi đầu sự nghiệp điện ảnh và thực ra cũng có tác động trong việc nàng có được vài vai nhỏ hoặc anh ta nghĩ đã làm được như thế. Thực tế là anh ta dàn xếp được những cuộc tiếp xúc và vẻ duyên dáng cùng trí thông minh của Janelle làm nốt mọi việc còn lại. Trong thỡi gian đó nàng còn trung thành với chàng, nhưng chàng thì rõ ràng là sẵn sàng vồ ngay bất cứ em nào trong tầm tay. Có lần chàng ta còn sống sượng bảo nàng lên giường cùng lúc với chàng và một thằng cha khác. Nàng thấy ghê tởm với ý tưởng đó. Không phải vì ý thức đạo đức nhưng bởi vì khi cảm thấy bị một người đàn ông sử dụng như một công cụ thoả mãn tình dục cũng đã là chuyện tồi tệ rồi, huống nữa là khi nghĩ đến cả hai thằng đàn ông cùng lúc thoả thuê hưởng thụ thân xác nàng, quả là điều gớm ghiếc, không thể nào chấp nhận.

Nàng vẫn luôn tin tưởng rằng khí hậu ở California có trách nhiệm với những gì xảy đến cho đời nàng hơn bất kỳ cái gì khác. Con người ở đó thật kỳ quặc, khác thường, nàng hay nói như thế với Merlyn, khi kể chuyện cho chàng nghe. Và bạn có thể thấy rằng nàng vẫn thích người ta cứ kỳ quặc, lập dị như vậy dù họ có đem lại bao nhiêu điều tai hại cho nàng.

Doran đang cố chen chân vào làm một nhà sản xuất phim, thử làm một cú trọn gói. Anh ta đã mua một kịch bản rất hay từ một nhà văn còn vô danh, được cái là anh nhà văn này chấp thuận ăn chia theo tỷ lệ phần trăm từ doanh thu của phim thay vì bán đứt bản quyền, lấy trọn gói tiền mặt từ trước. Doran thuyết phục một cựu đạo diễn từng có thời lừng lẫy chịu đứng ra đạo diễn cho cuốn phim và một nam diễn viên ngôi sao nay đã lu mờ, đóng vai chính.

Tất nhiên là không có phim trường nào muốn đụng đến dự án này. Đó là một trong những thứ trọn gói chỉ hấp dẫn với những kẻ ngây thơ. Doran là một người chào hàng cừ khôi và kẻ giỏi săn tiền. Một ngày nọ anh ta mang về nhà một anh chàng đẹp trai, cao ráo, dáng bảnh bao thanh lịch dầu có vẻ hơi rụt rè, khoảng ba mươi lăm luổi. Nói năng rất nhỏ nhẹ. Không rườm lời, nhảm nhí. Nhưng anh ta chính là một người điều hành của một định chế tài chánh vững mạnh, chuyên tham gia các dự án đầu tư. Tên anh ta là Theodore Lieverman và anh ta si tình Janelle sau khi hân hạnh được ngồi cùng bàn với nàng trong một bữa ăn tối.

Họ ăn tối ở nhà hàng Chasen s. Doran lấy tờ séc lên rồi rời sớm để đến một cuộc hẹn với nhà văn và đạo diễn. Họ đang làm việc về kịch bản. Doran nói, vừa nhăn tít đôi lông mày, tỏ vẻ đang tập trung tư tưởng cao độ. Doran đã cho Janelle những lời hướng dẫn:

- Anh chàng này có thể đầu tư cho chúng ta cả triệu đô-la để làm phim. Hãy tỏ ra khả ái với anh ta. Nhớ rằng em sẽ giữ vai nữ quan trọng thứ nhì đấy.

Đó là ngón nghề của Doran. Anh ta hứa cho nàng vai diễn thứ nhì để tạo cho mình sức mạnh mặc cả.

Nếu Janelle trở nên khó tính, anh ta sẽ nâng số tiền đó lên mức vai nữ số một. Không phải vì chuyện đó có ý nghĩa gì đâu. Anh ta sẽ, nếu cần, nuốt gọn cả hai lời hứa.

Janelle chẳng hề có ý tỏ ra dễ thương theo nghĩa của Doran. Nhưng nàng ngạc nhiên thấy rằng Theodore Lieverman là một anh chàng rất dịu dàng, dễ mến. Anh ta không hề nói những lời đùa chớt nhã về các nàng tiểu minh tinh. Anh ta không có ý tà vạy với nàng. Anh ta thực sự e thẹn - dường như anh ta bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp và trí tuệ của nàng - điều này đem lại cho nàng một chút cảm thức về quyền lực Khi anh ta đưa nàng về lại căn hộ của nàng sau bữa ăn tối, nàng mời anh ta vào để dùng một ly rượu.

Lại một lần nữa anh ta tỏ ra là người thanh lịch đúng mức. Thế nên Janelle mến anh ta. Nàng vẫn luôn quan tâm đến người khác và tìm thấy nơi mọi người đều có nét đáng yêu. Và nàng biết, từ Doran, rằng Ted Lieverman, một ngày nào đó sẽ thừa kế hai mươi triệu đô-la. Điều Doran không nói cho nàng hay đó là Ted đã có vợ và hai con. Nhưng chính miệng anh ta sẽ nói với nàng điều đó. Rất rụt rè, anh ta bộc bạch rằng:

- Chúng tôi đã ly thân. Việc ly dị còn bị đình nghị bởi vì luật sư của nàng đòi số tiền cao quá.

Janelle cười, nụ cười dễ lây của nàng luôn dễ dàng khiến cho đàn ông giải giáp quy hàng, trừ chàng Doran:

- Bao nhiêu mà gọi là nhiều?

Theodore Lievennan nhăn nhó nói:

- Một triệu đô. Cũng được thôi. Nhưng nàng muốn có ngay bằng tiền mặt và các luật sư của tôi thấy rằng chưa phải lúc để thanh toán.

Janelle vừa cười nói;

- Này, anh có đến hai mươi triệu đô-la cơ mà. Thì sao không bỏ ra một triệu để giải quyết dứt điểm, cho khỏi vướng víu?

Lần đầu tiên Lịeverman bỗng sôi nổi hẳn lên:

- Cô không hiểu. Phần lớn người ta cũng không hiểu. Đúng là tôi đáng giá khoảng mười sáu, có thể là mười tám triệu đô, nhưng lượng tiền mặt của tôi không được dồi dào cho lắm. Cô biết là tôi sở hữu những bất động sản những cổ phần chứng khoán và những công ty nhưng người ta phải giữ tiền mặt để tái đầu tư. Vì thế tôi có rất ít vốn lưu động. Tôi ước chi mình có thể tiêu tiền không cần tính toán như Doran. Và cô biết đấy, Los Angeles là nơi giá sinh hoạt đắt khủng khiếp.

Janelle nhận ra nàng đã gặp mẫu người quen thuộc trong văn học - nhà triệu phú keo kiệt. Vì hắn ta chẳng thông minh sắc sảo chẳng hấp dẫn chẳng có từ tính về tình dục, nói vắn tắt là bởi vì hắn chẳng có mồi nhử nào ngoài tính dịu dàng và tiền bạc mà hắn đã chứng tỏ là hắn sẽ không buông ra dễ dàng, nên nàng tìm cách thoát ra khỏi hắn sau ly rượu thứ nhì.

Khi Doran về nhà đêm đó, anh ta nổi giận đùng đùng.

- Cô ngốc quá, đánh mất cái phiếu lương thực của chúng ta rồi đó, - Doran nói với nàng. Lúc đó nàng quyết định rời anh ta.

Ngày hôm sau nàng tìm được một căn hộ ở Hollywoođ gần phim trường Paramount và tự lực kiếm được một vai diễn khá quan trọng trong một cuốn phim.

Vài ngày sau khi xong việc, nhớ con và nhớ quê nhà Tennesse, nàng về thăm trong hai tuần. Và nàng chỉ ở thị xã Johnson City thời gian đó mà thôi.

Nàng tranh đấu để đem con về với mình nhưng không được vì thế đành để con lại cho người chồng cũ. Nàng thấy đau khổ khi xa con, nhưng nhất quyết phải làm ra tiền và tạo được sự nghiệp trước khi xây dựng một mái ấm gia đình.

Khi quay trở lại căn hộ của mình ở Hollywood nàng tìm thấy hai lời nhắn nơi điện thoại. Một từ Doran và một từ Theodore Lieverman.

Nàng gọi cho Doran trước. Anh ta ngạc nhiên chuyện nàng quay về Johnson City nhưng không hỏi một câu nào về những người bạn chung của họ. Như thường lệ, anh ta chỉ chú ý tới những gì quan trọng đối với mình thôi.

- Nghe này, - anh ta nói. - Anh chàng Ted Lieverman đó thực sự mết em rồi đấy. Anh không đùa đâu. Anh ta yêu em như điên, chứ không phải chỉ mê cái mông của em thôi đâu. Nếu em ra các quân bài đúng cách, em có thể kết hôn với hai chục triệu đô-la đấy. Anh ta đã cố liên hệ với em và anh đã cho anh ta số điện thoại của em. Hãy gọi cho anh ta. Em có thể trở thành bà hoàng đấy.

- Anh ta đã có vợ, - Janelle nói.

- Việc ly dị sẽ được toà thông qua vào tháng tới. - Doran nói. - Anh đã kiểm tra rồi. Anh ta là một con người rất thẳng thắn, phân minh. Nếu anh ta được thưởng thức em trên giường, em sẽ nắm được anh ta và hàng chục triệu đô-la của hắn, mãi mãi.

Mọi chuyện này đều xuất phát từ dự tưởng của Doran. Janelle chỉ là một trong các quân bài của anh ta.

- Anh thật tởm, - Janelle nói.

Doran vẫn rất ư duyên dáng:

- Ngoan nào, cưng à. Hẳn là chúng ta phải chia tay nhau rồi đó. Tuy vậy, cưng vẫn là cái mông tuyệt vời nhất mà anh từng sờ đến trong đời. Ngon lành hơn của tất cả các em rồng lộn ở Hollyood đây nhiều! Xa nhau, anh còn phải nhớ em dài dài. Tin đi, anh hiểu tại sao em phải xa anh. Nhưng điều đó đâu có nghĩa chúng ta không là bạn bè nhau. Anh đang cố gắng giúp đỡ, còn em phải lớn mạnh lên. Hãy cho anh chàng đó một cơ hội, anh chỉ yêu cầu em có thế?

- OK, em sẽ gọi anh ta, - Janelle nói.

Nàng chưa hề bận tâm về tiền bạc theo cái nghĩa nàng muốn giàu có. Nhưng giờ đây nghĩ đến những gì liền bạc có thể làm được. Nàng có thể mang đứa con theo sống bên cạnh và có những người phục vụ chăm sóc con trong khi nàng làm việc. Nàng có thể theo học với những người thầy giỏi nhất về kịch nghệ. Nàng hiểu rằng diễn xuất là điều mình yêu thích nhất trong đời.

Tình yêu diễn xuất là điều nàng chưa hề nói với ai, ngay cả với Doran nhưng anh ta cảm nhận được điều ấy. Nàng đã kiếm vô số kịch bản và sách bàn về kịch nghệ và điện ảnh từ thư viện và đọc ngốn ngấu hết. Nàng đăng ký vào một nhóm làm việc kịch nghệ mà ông bầu tự cho mình vẻ quan trọng đến độ nàng thấy hơi buồn cười, nhưng vẫn mê thích. Khi ông ta bảo rằng nàng là một trong những tài năng tự nhiên tuyệt hảo nhất mà ông ta từng thấy, thế là dường như nàng si tình ông ta và sau đó "em theo anh lên giường" là một hệ luận quá tự nhiên và tất yếu.

Không duyên dáng, keo kiệt, nhưng giàu, Theodore Lieverman nắm giữ chiếc chìa khoá vàng để mở được rất nhiều cánh cửa khiến nàng phải gọi anh ta. Và thu xếp gặp anh ta đêm hôm đó để đi ăn tối, Janelle thấy Lieverman dịu dàng, trầm lặng và nhút nhát; nàng chủ động đề xuất sáng kiến. Cuối cùng nàng khiến anh ta mở miệng tự bạch. Những điều nhỏ nhặt lần lần lộ ra. Anh ta có hai cô em sinh đôi nhỏ hơn anh vài tuổi, cả hai cùng chết trong một tai nạn máy bay. Từ thảm kịch đó, anh suy nhược thần kinh. Bây giờ vợ anh lại muốn ly dị đòi một triệu đô-la tiền mặt và chia số cổ phần trong các công ty của anh ta. Dần dần phải chịu đựng một đời sống thiếu thốn tình cảm, dù rất sung túc về kinh tế, anh ta trở nên yếu đuối và dễ tổn thương. Anh ta chỉ còn giỏi làm ra tiền thôi. Anh ta có một kế hoạch tài trợ cho cuốn phim của Doran, rất rõ ràng, đáng tin cậy. Nhưng thời gian cần chín muồi, các nhà đầu tư hiện nay vẫn còn lửng lơ con cá vàng. Anh ta, Lieverman, sẽ ném vào số tiền mặt đầu tiên giống như mồi nước bơm.

Họ cùng đi chơi với nhau gần như hàng đêm trong khoảng hai, ba tuần lễ và anh ta vẫn luôn dịu dàng và e thẹn đến độ cuối cùng chính Janelle lại đâm ra sốt ruột. Anh ta gửi hoa tặng nàng sau mỗi lần hẹn. Tặng nàng cái kẹp tóc đính kim cương ở cửa hàng Tiffany s, một hộp quẹt mạ vàng của Gucci s và một nhẫn hồng ngọc của Roberto s. Và anh ta mê nàng như điếu đổ. Nàng cố dụ chàng lên giường và ngạc nhiên khi thấy chàng tỏ vẻ miễn cưỡng. Nàng chỉ có thể tỏ bày sự sẵn lòng và rồi cuối cùng chàng thỉnh mời nàng đi New York và Puerto Rico với chàng. Chàng có một chuyến đi vì công việc cho công ty của mình. Nàng hiểu rằng, vì một lý do nào đó, chàng không thể làm tình với nàng, lúc đầu, ở Los Angeles. Có lẽ do cảm thức phạm tội. Có những người đàn ông như thế đấy. Họ chỉ có thể phản bội vợ khi đã xa vợ hàng ngàn dặm. Nhất là lần đầu tiên ăn vụng. Để còn đủ thời gian chùi mép cho sạch sẽ. Nàng thấy chuyện này quả cũng ngồ ngộ, hay hay.

Họ dừng ở New York và chàng mang nàng tới các cuộc họp làm ăn của mình. Nàng thấy chàng thương lượng mua bản quyền làm phim đối với một quyển tiểu thuyết mới ra và một kịch bản do một nhà văn danh tiếng viết. Rất chặt chẽ, lín kẽ và nàng thấy đây là điểm mạnh của chàng. Nhưng đêm đó khi cuối cùng, họ lên giường với nhau lần đầu nơi căn phòng ở khách sạn Plaza và nàng biết được một trong những sự thật về Theodore Lieverman.

Anh ta hầu như hoàn toàn bất lực. Lúc đầu nàng tức giận, cảm thấy khiếm khuyết. Nàng làm mọi điều có thể và cuối cùng nàng cũng đưa được chàng về tới bến. Đêm sau khá hơn một tí. Đến Puerto Rico chàng cũng còn khá hơn một tí. Nhưng chàng dễ dàng trở thành người tình rất thiếu thẩm quyền mà nàng từng gặp và do đó chán bỏ mẹ. Nàng vui sướng khi trở về Los Angeles. Khi để nàng xuống ở căn hộ của nàng, chàng yêu cầu nàng kết hôn với mình. Nàng bảo hãy để suy nghĩ đã.

Nàng không có một ý định nào kết hôn với chàng cho đến khi Doran mắng nhiếc nàng:

- Còn suy nghĩ quái gì nữa chứ? Hãy sử dụng cái đầu của cô đi, - anh ta nói. - Hắn đang mê mệt em. Em kết hôn với hắn. Vậy là em dính với hắn, giả sử trong một năm. Sau đó em xin ly dị, trong khi hắn vẫn còn yêu em. Và em ẳm theo ít ra là một triệu đô-la. Với số tiền đó, em tự bỏ vốn ra làm phim. Sự nghiệp của em sẽ có cơ hội tiến triển tốt hơn gấp trăm lần. Ngoài ra, qua hắn em sẽ quen biết với nhiều người giàu sang khác. Những người mà em sẽ thích hợp hơn và có lẽ sẽ yêu. Em có thể thay đổi toàn bộ cuộc đời. Chỉ bị chán trong một năm thôi, ôi dào, đâu đã phải là đau khổ. Anh đâu có đòi hỏi em phải chịu đau khổ đâu.

Doran nghĩ rằng anh ta đang rất khôn ngoan sáng suốt. Rằng anh ta đang thực sự mở mắt cho Janelle thấy những chân lí của cuộc đời mà mọi người đàn bà đều biết hoặc đều được dạy lừ thuở còn nằm nôi.

Nhưng Doran nhận ra rằng Janelle thực sự ghét làm điều gì như thế không phải vì nó phi đạo đức nhưng vì nàng không thể phản bội người khác theo cách đó, theo cách tính toán lạnh lùng nhẫn tâm như vậy. Và cũng vì nàng háo hức sống đến độ nàng không thể chịu đựng phải sống nhàm chán trong một năm. Nhưng như Doran nhanh chóng chỉ ra, rất có thể nàng sẽ vẫn phải sống nhàm chán trong năm đó ngay cả không sống với Theodore. Và rằng rất có thể nàng làm cho Theodore thấy hạnh phúc trong năm đó.

- Em biết mà, Janelle à, - Doran nói. - Có em bên mình trong ngày tệ hại nhất của em cũng vẫn hơn là có người khác bên mình vào ngày tốt nhất của họ.

Đó là một trong rất ít những điều anh ta đã nói mà lại là thành thật, kể từ lần sinh nhật thứ mười hai của anh ta. Dầu rằng chỉ thuần tuý tự tư, tự lợi.

Nhưng chính Theodore khi hành động với tính tấn công bất thường đã làm lệch cán cân. Anh ta mua một căn nhà thật đẹp ở Beverly Hills trị giá đến hai trăm năm chục ngàn đô-la, với hồ bơi, sân tennis, hai người giúp việc. Anh ta biết Janelle thích chơi tennis, nàng đã học đánh tennis ở California, đã có một cuộc tình ngắn với tay huấn luyện viên tennis, một chàng trai tóc vàng thanh mảnh, đẹp trai. Nàng thưởng thức chàng huấn luyện viên cả trên giường lẫn trên sân bóng, và chàng ta đã cải thiện được thành tích của nàng trong cả hai lĩnh vực. Cuối cùng nàng phát mệt với chàng ta bởi vì chàng ta quá ư chưng diện, chăm chút chuyện ăn mặc còn hơn cả đàn bà. Một thằng đàn ông quá ư hình thức chủ nghĩa, rỗng tuếch. Lại nữa, chàng ta quơ quào từ trái sang phải, mồi chài mọi bạn trai cũng như bạn gái của nàng, khiến cho Janelle dầu đầu óc phóng khoáng, cũng thấy chán ngán ba cái trò lăng xăng gạ gẫm của chàng ta.

Nàng chưa từng chơi tennis với Lieverman. Có lần anh ta kể rằng mình đã từng hạ Arthur Ashe lúc còn ở trung học vì thế nàng nghĩ rằng anh ta trên cơ nàng quá xa nên chẳng thiết tha hứng thú gì khi so vợt với một tay mơ như nàng.

Nàng thích ngôi nhà. Đó là một biệt thự sang trọng ở Beverly Hills với nhiều phòng dành cho khách một tầng hầm, một hồ bơi, hồ tắm nước nóng, sân tennis, vườn hoa. Quả là chốn thần tiên cho một cặp uyên ương. Thế nhưng trên giường chàng chỉ còn là một pho tượng bán thân. Bởi phần dưới gần như hết xài nên kể như không có.

Nàng cảm thấy mọi chuyện này hình như có cái gì đó lấp lửng, chưa biết sẽ ngã ngũ ra thế nào. Thế nhưng Theodore Lieverman tạo được nhiều tịn tưởng với nàng, nơi các bạn nàng và cả nơi anh chàng Doran vốn khinh bạc, hoài nghi là thế mà nay cũng lỏ ra rất mực tin tưởng chàng ta, nên nàng nghĩ chắc là do cảm thức phạm tội nơi nàng muốn tìm một con đường thoát đấy thôi.

Thực sự nàng chưa hề nghi ngờ điều gì chàng ta nói. Nhất là không có vấn đề gì về chuyện chàng ta yêu nàng. Chàng đã biểu lộ điều ấy qua mọi phương cách, qua mọi hành vi cử chỉ, tuy rằng điều ấy bị giảm đi ý nghĩa rất nhiều, khi cái "năng cử khí quan" của chàng lại không thể lên tiếng nói, hoặc chỉ phát biểu một cách yếu xìu!

Đêm đó sau khi chơi tennis xong, Theodore bảo nàng nên đem đứa con của nàng từ Tennessee về ngôi nhà này ở chung với nàng. Nàng đã suýt đồng ý, nhưng rồi thấy tình thế cũng chưa ổn định lắm nên còn chần chừ, chưa dứt khoát. Ngày hôm sau khi Theodore đi làm, nàng tiếp nhận một người khách không mời mà đến.

Vị khách ấy chính là bà Theodore Lieverman, từ trước đến nay vẫn là người vợ vô hình. Bà ta người nhỏ nhắn, xinh xắn, nhưng hơi khớp và rõ ràng bị ấn tượng bởi sắc đẹp của Janelle, làm như bà ta không thể tin nổi chồng mình lại thành đạt tới mức đó. Ngay khi bà ta vừa thông báo mình là ai, Janelle cảm thấy thư thái nhẹ nhõm và chào bà Lieverman nồng nhiệt đến nỗi bà ta càng thêm phần bối rối!

Nhưng bà Lieverman cũng làm cho Janelle ngạc nhiên không kém. Bà ta không hề tỏ ra giận dữ tí nào. Điều đầu tiên bà ta thốt ra khiến nàng sững sờ:

- Chồng tôi dễ nổi cáu và rất nhạy cảm. Xin cô đừng nói với anh ấy rằng tôi có đến gặp cô.

- Tất nhiên rồi, - Janelle nói.

Tâm hồn nàng bỗng phấn chấn hẳn lên. Người vợ hẳn là muốn có lại chồng và nàng sẽ trả hắn lại cho bà ta ngay; nàng sẽ ban phúc cho bà ta được vui mừng.

Bà Lieverman nói dè dặt:

- Tôi không biết Ted có được những món tiền lớn như thế này từ nguồn nào. Anh ấy được hưởng mức lương cao. Nhưng anh ấy đâu có khoản tiết kiệm nào đáng kể.

Janelle cười. Nàng đã biết câu trả lời. Nhưng dầu sao nàng vẫn hỏi:

- Thế còn hai mươi triệu đô-la thì sao?

- Ôi lạy Chúa! Ôi lạy Chúa! - bà Lieverman kêu lên. Bà gục đầu vào hai bàn tay và thổn thức.

- Và anh ấy chưa hề hạ Arthur Ashe khi tranh tài môn quần vợt ở trung học phải không? - Janelle nói một cách chắc chắn.

- Ôi Chúa, ôi Chúa! - bà Lieverman rền rĩ.

- Và hai người đâu có ly dị vào tháng tới, - Janelle tiếp.

Bà Lieverman chỉ còn biết than khóc thút thít.

Janelle đi đến quầy rượu và pha hai ly Scotches.

Nàng khiến bà ta uống trong lúc vẫn sụt sịt:

- Bà thấy thế nào? - Janelle hỏi.

Bà Lieverman mở ví ra làm như thể tìm kiếm chiếc khăn tay để lau nước mắt nước mũi. Nhưng không, bà ta lấy ra một bó thư từ và đưa cho Janelle.

Không chỉ thư từ mà còn nhiều biên lai và séc. Janelle nhìn chúng vẻ trầm ngâm. Và nàng thấy ra toàn bộ bức tranh. Ông ta đã viết một tấm séc đề hai mươi lăm ngàn đô-la như là phần tiền ứng trước trả chậm cho căn nhà. Kèm theo đó là bức thư yêu cầu ông ta được phép dọn vào ở. Tờ séc bị trả lại vì không tiền bảo chứng. Hiện nay chủ nhà đang doạ sẽ đưa ông ta vào tù. Những tờ séc mua trả chậm cũng bị trả lại. Bao nhiêu tấm séc thanh toán cho nhiều khoản khác nhau cũng đều bị trả lại.

- Ôi dào, - Janelle thốt lên.

- Anh ấy quá nhạy cảm, - bà Lieverman nói.

- Ông ta bịnh, - Janelle khẳng định.

Bà Lievemlan gật đầu.

Janelle nói, vẻ trầm ngâm:

- Có phải tại hai cô em ông ấy cùng chết trong một tai nạn máy bay?

Bà Lievemlan, cuối cùng, thét lên một tràng chói tai vì tức tối trước sự lếu láo quá mức:

- Anh ấy không hề có em gái nào cả. Cô chưa hiểu ra ư? Anh ấy mắc bệnh nói dối. Anh ấy nói dối đủ thứ chuyện. Anh ấy không có em gái, anh ấy không có tiền bạc, anh ấy đâu có ly dị với tôi, anh ấy đã dùng tiền của công ty để đưa cô đi Puerto Rico và New York và trả các khoản chi phí cho căn nhà này.

- Vậy thì tại sao bà còn muốn ông ta quay về?

Janelle hỏi.

- Bởi vì tôi yêu anh ấy! - bà Lievermall đáp.

Janelle suy nghĩ về điều ấy khoảng hai phút, nghiên cứu về bà Lieverman. Chồng bà ta là một kẻ nói dối, lừa đảo có một cô nhân tình, không cường dương nổi khi cần, và đó chỉ là những gì bà ta biết ông ấy, thêm vào với sự kiện ông ta là một tay chơi tennis loại xoàng. Vậy thì bà Lieverman là cái gì?

Janelle vỗ vai bà ta, đưa cho bà ta một ly rượu khác và nói:

- Bà đợi ở đây năm phút nữa nhé.

Nàng chỉ cần có thế để ném mọi đồ tế nhuyễn của mình vào hai chiếc vali Vuitton mà Theodore đã mua cho nàng. Nàng bước xuống nhà, hai tay xách hai chiếc vali và nói với bà vợ:

- Tôi đi đây. Bà hãy ở lại chờ chồng bà. Nói với anh ta tôi không bao giờ muốn thấy lại cái bản mặt anh ta nữa. Và tôi thật lòng xin lỗi đã vô tình gây ra đau khổ cho bà. Bà nên tin tôi khi tôi bảo bà rằng anh ta đã nói bà bỏ anh ta. Sự thực là như thế đấy.

Bà Lieverman gật đầu một cách thảm hại.

Janelle rời đi trong chiếc Mustang mới màu xanh mà Theodore mua cho nàng. Không nghi ngờ gì nữa, nó sẽ bị lấy lại. Nàng có thể cho người mang trả lại sau. Trong khi đó, nàng không có chỗ để về. Nàng nhớ đến nhà thiết kế trang phục Alice De Santis trước giờ vẫn rất thân thiện hữu hảo với mình và nàng quyết định lái xe đến nhà cô ấy để hỏi ý kiến. Nếu Alice không có nhà, nàng sẽ đến Doran. Nàng biết anh ta sẽ luôn luôn đón nàng vào.

Janelle thích cái cách Merlyn thưởng thức câu chuyện. Anh ta không cười. Cách thưởng thức của anh ta không tỏ ra ma mãnh. Anh ta chỉ mỉm cười, nhắm mắt lim dim để thưởng thức. Và anh ta nói đúng điều nên nói, một cách ngạc nhiên, hầu như thán phục:

- Tội nghiệp Lieverman. Tội nghiệp Lieverman quá! Thế còn em thì sao?

Janelle làm bộ giận, hỏi gằn. Nàng phóng người trần truồng lên tấm thân trần truồng của anh ta và đặt hai bàn tay quanh cổ anh ta. Merlyn mở mắt và cười:

- Kể anh nghe chuyện khác đi.

Thay vì thế, nàng làm tình với chàng. Nàng có chuyện khác để kể, nhưng thấy rằng chàng chưa sẵn sàng để nghe. Chàng cần phải yêu nàng trước đã, như nàng đang yêu chàng. Chưa có thể để cho chàng nghe thêm nhiều chuyện nữa. Nhất là chuyện về nàng Alice.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Giờ đây tôi đã đến điểm mà những người yêu nhau vẫn đi đến. Họ hạnh phúc đến nỗi không thể tin rằng họ xứng đáng với hạnh phúc đó. Và thế là họ bắt đầu nghĩ rằng có lẽ tất cả chỉ là giả tạo. Còn đối với tôi lòng ghen tuông và nghi ngờ ám ảnh tôi cả ở những lúc đạt đến cực khoái khi làm tình. Tôi hay nghi ngờ nàng nói dối tôi. Và giờ đây, chờ đợi nàng sẽ nói dối, tôi bảo nàng:

- Trưa nay trong lúc đùng bữa chung, Doran nói với anh rằng em từng có một bồ nhí mới mười bốn tuổi khi em còn là một người đẹp phương Nam.

Janelle hơi ngước đầu lên và cười thật dịu dàng, quyết rũ khiến tôi quên ngay tôi đã ghét nàng:

- Đúng thế. Chuyện xưa lắm rồi.

Và nàng cúi đầu. Mặt nàng điểm tia nhìn lơ đãng thoát chút tinh nghịch khi nàng nhớ lại chuyện tình đó. Tôi biết nàng vẫn hoài niệm những cuộc tình đã qua với biết bao trìu mến, ngay cả khi chúng kết thúc thật tệ hại. Nàng ngước nhìn lên trở lại.

- Chuyện ấy có làm buồn lòng anh không? - nàng hỏi.

- Không, - tôi nói. Nhưng nàng biết là có.

- Em rất tiếc, - nàng nói. Nhìn tôi một lát, rồi quay đầu đi, dùng cả hai bàn tay vuốt ve lưng tôi - Không có gì xấu xa tội lỗi đâu.

Tôi không nói gì chỉ cố lảng ra xa bởi vì sự tiếp xúc được nhớ lại làm tôi tha thứ cho nàng mọi chuyện.

Lại chờ đợi nàng nói dối, tôi nói:

- Doran bảo anh rằng vì chuyện thằng bé mười bốn tuổi đó mà em phải ra toà với tội danh làm bại hoại tinh thần trẻ vị thành niên.

Với tất cả lòng mình, tôi mong nàng nói dối. Tôi cóc cần nó đúng hay không. Như tôi sẽ không phỉ báng hay trách móc nếu nàng từng là kẻ nghiện rượu hay lừa đảo hay giết người. Tôi muốn yêu nàng, đấy là tất cả.

Nàng đang quan sát tôi với tia nhìn lặng lẽ, chiêm nghiệm như thể nàng cố tìm điều gì đó để làm vui lòng tôi.

- Anh muốn em nói gì nào? - Nàng hỏi nhìn thẳng vào mặt tôi.

- Cho anh biết sự thật, và chỉ sự thật mà thôi, - tôi nói.

- Được vậy đúng là như thế, - nàng nói. - Nhưng em được trắng án. Quan toà bác bỏ vụ kiện.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn:

- Vậy là em không làm chuyện đó.

- Làm cái gì? - nàng hỏi.

- Em biết rồi mà, - tôi nói.

Nàng lại cười chúm chím nhưng điểm chút tự trào phiền muộn:

- Anh muốn nói em có làm tình với cậu bé mười bốn tuổi ấy không chứ gì? Vâng, có đấy.

Nàng chờ tôi bỏ ra khỏi phòng. Tôi vẫn bất động. Khuôn mặt nàng có vẻ giễu cợt rõ nét hơn:

- Cậu ta rất sành so với tuổi, - nàng nói.

Điều đó đánh động tính hiếu kỳ của tôi bởi sự táo bạo của thách thức.

- Thế thì lại khác hẳn rồi, - tôi nói khô khan.

Và nhìn nàng chằm chằm và phá ra cười một cách thích thú. Chúng tôi giận nhau. Janelle giận vì tôi dám phán xét nàng. Tôi sắp bỏ đi thì nàng nói:

- Một câu chuyện hay đấy, anh sẽ thích nó.

Và nàng thấy tôi cắn câu. Tôi vẫn luôn thích nghe kể chuyện gần như ngang với thích làm tình. Nhiều đêm, tôi nghe nàng kể hàng giờ liền, mê mẩn với chuyện đời nàng, và cố đoán những gì nàng lướt qua hay "biên tập" cho phù hợp với đôi tai đàn ông quá mẫn cảm và dễ bị dị ứng của tôi giống như nàng "biên tập" một câu chuyện kinh dị cho vừa "liều lượng" với trẻ thơ.

Tính hau háu thèm nghe chuyện của tôi là nét đặc trưng mà nàng yêu thích nhất trong nhân cách của tôi, có lần nàng đã bảo tôi như vậy. Cả việc tôi từ chối phê phán. Nàng có thể luôn luôn thấy tôi xoay câu chuyện trong đầu để xem tôi sẽ kể lại như thế nào hay sẽ sử dụng nó như thế nào. Và tôi chưa bao giờ thật sự kết tội nàng về bất kỳ điều gì nàng đã làm. Như bây giờ đây nàng biết là tôi không phê phán gì khi nàng tự thú trước bình minh.

***

Sau khi ly dị, Janelle có một người tình, chính là chàng Doran Rudd. Anh ta là người chọn đĩa hát cho đài phát thanh địa phương. Một anh chàng đong dỏng cao, lớn hơn Janelle ít tuổi. Một con người dồi dào năng lực và ý chí, lúc nào cũng duyên dáng và hóm hỉnh và đã giúp cho Janelle công việc phụ trách mục dự báo thời tiết của đài phát thanh. Một công việc dễ chịu và được trả lương khá, so với giá sinh hoạt nơi một thị xã nhỏ như Johnson City.

Doran bị ám ảnh với ý tưởng làm một nhân vật của thành phố. Anh ta có một chiếc Cadillac khổng lồ, mua sắm quần áo ở New York và thề rằng một ngày nào đó mình cũng sẽ trở thành nhân vật quan trọng cấp thành phố lớn, chứ không chỉ nơi tỉnh lẻ lèo tèo. Anh ta say mê và kính sợ những nghệ sĩ thành danh. Anh ta đi xem mọi đoàn hát diễn các vở kịch của Broadway và luôn gửi thư cho một trong các nữ diễn viên, kèm theo là bó hoa, kèm theo là lời mời đi ăn nhà hàng. Anh ta ngạc nhiên thấy rằng chuyện đưa em vào hạ sao quá ư dễ dàng. Dần dà anh ta nhận ra rằng họ cô đơn biết bao. Trên sân khấu họ rực rỡ là thế nhưng khi quay về các phòng khách sạn hạng A4, họ lại không giấu được vẻ thảm não tiều tuỵ. Anh ta vẫn kể cho Janelle nghe các cuộc phiêu lưu đó của mình. Họ là bạn bè nhau hơn là tình nhân.

Một ngày nọ anh ta gặp may. Một đôi song ca gồm ông bố và cậu con đến trình diễn tại phòng hoà nhạc của thị xã. Ông bố là một tay đàn piano nghiệp dư, kiếm sống vững vàng bằng nghề bốc dỡ hàng xe tải ở Nashville cho đến khi ông ta khám phá ra rằng cậu con chín tuổi của mình hát rất hay. Ông bố trước giờ phải lao động nặng nhọc vất vả nên ghét công việc đang làm, thấy nơi cậu con giấc mộng bất khả của ông nay trở thành hiện thực. May ra ông có thể thoát khỏi cái đời sống đổ mồ hôi sôi nước mắt, cực nhọc mà tẻ nhạt kia.

Ông biết rằng thằng con mình có giọng hát tốt, nhưng thực sự tốt đến cỡ nào thì ông không đủ chuyên môn để thẩm định. Ông ta hoàn toàn hài lòng với việc dạy cho thằng bé tất cả những bài thánh ca và kiếm sống thong thả phong lưu nhờ những chuyến du ca.

Một tiểu thiên thần ca hát để vinh danh Chúa bằng giọng Soprano thuần khiết đối với công chúng vùng đó quả là quyến rũ không cưỡng lại được. Ông bố thấy cuộc sống mới của mình quả là hứng thú. Ông ta thích giao du, và đã để mắt tới một cô gái xinh xắn, khoái đi xa khỏi bà vợ nhà đã quá ư xồ xề, hết hấp dẫn từ lâu.

Nhưng bà mẹ cũng mơ đến bao nhiêu những thứ xa hoa mà giọng ca thuần khiết của đứa con trai sẽ đem lại cho bà. Cả hai đều tham lam nhưng không tham lam theo kiểu nhà giàu, như một cách sống, nhưng theo kiểu một người sắp chết đói, chết khát nơi hoang đảo bỗng được giải cứu và cuối cùng có thể thực hiện được mọi ảo tưởng của mình.

Vì thế khi Doran vào hậu trường để khen ngợỉ giọng hát của cậu bé, rồi đưa đề nghị cho cha mẹ cậu, anh ta gặp được những thính giả sẵn lòng nghe. Doran biết giọng cậu bé hay đến mức nào và nhanh chóng nhận ra rằng chỉ mình anh ta biết rõ. Anh cam đoan với họ rằng anh không muốn lấy một tỷ lệ nào cả trong phần thu nhập từ việc hát thánh ca. Anh sẽ làm ông bầu cho cậu bé và chỉ lấy ba mươi phần trăm từ những gì cậu bé kiếm được trên mức hai mươi lăm ngàn đô-la mỗi năm.

Tất nhiên đó là một lời mời chào quá ư hấp dẫn. Nếu họ có thể bỏ túi được hai mươi lăm ngàn đô-la mỗi năm, một con số thu nhập quá mức mơ tường của họ, thì tại sao còn phải thắc mắc nếu như Doran lấy ba mươi phần trăm của số còn lại. Và làm thế nào con họ, Rory, có thể làm ra hơn số đó. Không thể nào có được. Doran cũng bảo đảm với ông Horatio Bascombe và bà Edith Bascombe rằng anh ta sẽ không để họ phải chịu khoản phí tổn nào. Thế là một hợp đồng được thảo ra và ký kết.

Ngay lập tức Doran bắt tay vào hành động, không để phí một khoảng thởi gian nào. Anh mượn tiền để sản xuất một album các bài thánh ca. Album đó liền trở thành một tophit. Ngay trong năm đầu tiên ấy, cậy bé Rory kiếm được trên năm mươi ngàn đô-la. Doran liền dời nhà đến Nashirille và liên hệ với giới âm nhạc. Anh đem theo Janelle và bổ nhiệm nàng làm phụ tá hành chính trong công ty âm nhạc mới thành lập của anh. Năm thứ nhì Rory làm ra hơn một trăm ngàn đô-la, phần lớn nhờ vào đĩa đơn các khúc ballads tôn giáo mà Janelle tìm thấy trong các tập đĩa của Doran mà chính anh ta không nhận ra được giá trị đúng mức của chúng.

Bấy giờ Doran và Janelle lại sống chung với nhau. Nhưng nàng ít thấy mặt anh ta. Hoặc là anh ta đi Hollywood để thương lượng về một cuốn phim hoặc đi New York để ký hợp đồng độc quyền với một trong những công ty thâu băng lớn. Họ đều sẽ thành những triệu phú. Thế rồi, tai hoạ thình lình ập đến. Rory bị cảm lạnh và hình như bị mất giọng. Doran đưa cậu ta đến các bác sĩ chuyên khoa giỏi nhất ở New York. Vị này chữa cho Rory lành hoàn toàn nhưng nói cho Doran hay:

- Chắc anh cũng biết là cậu bé sẽ vỡ giọng khi vào tuổi dậy thì.

Đó là điều Doran chưa từng nghĩ tới. Rory trông lớn con hơn tuổi của cậu nhiều, nhưng vẫn còn hoàn toàn ngây thơ trong trắng, chưa nhiễm bụi đời, cậu được bà mẹ và ông bố che chín kỹ, chưa hề biết đến mùi vị của nữ nhân. Cậu yêu âm nhạc và thực sự là một cầu thủ hoàn hảo. Với lại cậu cũng thường đau ốm vặt cho đến năm mười một tuổi. Doran lo lắng cuống cuồng. Một con người biết vị trí của một mỏ vàng bí mật nhưng lại đặt bản đồ không đúng chỗ.

Anh đã có những kế hoạch làm ra hàng triệu đô-la từ Rory; bây giờ anh thấy mọi thứ sắp trôi xuống sông xuống biển. Hàng triệu đô-la đúng là hàng triệu đô-la sắp biến thành những bong bóng xà bông rực rỡ đủ màu để rồi chỉ trong chớp mắt vỡ tan vào hư không!

Thế rồi Doran lại nảy ra một ý tường độc đáo. Anh đi kiểm tra lại ý tưởng đó về phương diện y học. Sau khi hội đủ mọi dữ liệu cần thiết, anh ta muốn thử nghiệm phương án đó với Janelle. Nàng giẫy nẩy.

- Anh là đồ chó đẻ ghê tởm, - nàng nói, gần muốn khóc.

Doran không hiểu được sự ghê sợ đó của nàng:

- Nghe này, - anh nói. - Bên Giáo hội người ta vẫn làm chuyện đó mà.

- Họ làm điều đó để phụng sự Chúa, - Janelle nói. - Chứ không phải vì một album vàng.

Doran lắc đầu:

- Hãy bám vào điểm chính. Tôi còn phải thuyết phục thằng bé và cả bố mẹ nó nữa. Còn khối việc phải lo đấy.

Janelle cười:

- Anh điên thực rồi đấy. Tôi sẽ không giúp anh đâu và ngay cả nếu tôi chịu, anh cũng sẽ không bao giờ thuyết phục được họ.

Doran cười với nàng:

- Ông bố là chủ chốt. Anh nghĩ em có thể tỏ ra khả ái với ông ta. Hãy làm cho ông ta dịu đi giùm anh.

Janelle quá ghê tởm và tức giận ném cái gạt tàn thuốc bằng thủy tinh vào Doran. Quá bất ngờ anh ta không tránh được và bị cái gạt tàn đánh bốp vào miệng làm gãy một chiếc răng, miệng chảy máu. Nhưng anh ta không giận. Anh chỉ lắc đầu trước tính cương trực của Janelle.

Đáng lẽ Janelle đã bỏ anh ta ngay lúc đó, nhưng nàng lại quá tò mò. Nàng muốn xem Doran thực sự có thể gỡ rối được không.

Trên đại thể, Doran là một người phán đoán tính người khá sâu sắt và đã thực sự sắc sảo trong việc tìm ra cái ngưỡng cửa lòng tham lam. Anh ta biết chiếc chìa khoá nằm trong tay ông Horatio Bascombe. Ông ta có thể khiển được vợ con. Với lại ông bố là kẻ dễ thương tồn nhất trước đời sống. Nếu cậu con không làm ra tiền được nữa thì ông Bascombe chẳng khác nào phải trở vào nhà tu. Chẳng còn được du lịch khắp xứ nữa, chẳng còn nhàn nhã chơi đàn piano, vừa lướt các ngón tay nhẹ nhàng trên phím đàn, vừa liếc mắt đưa tình với các em gái xinh như mộng, thưởng thức những món ăn đường xa xứ lạ, nhấm nháp đủ thứ rượu ngon và xa rời chị vợ đã ngấy đền tận cổ. Ông bố có phần đặt cược lớn nhất. Nếu Rory yêu quý mà mất đi giọng ca thì quả là tai hoạ quá lớn cho ông bố.

Doran làm dịu ông Bascombe với một cô ca sĩ nhỏ bé xinh xắn của một câu lạc bộ Jazz ở Nashville.

Rồi một bữa ăn tối khá sang vào chiều hôm sau. Qua khói thuốc xì-gà Hava-tampa thơm ngát, anh bàn về sự nghiệp tương lai của Rory. Các buổi diễn tấu ở Broadway, một album với những bài ca đặc biệt được viết bởi anh em nhà Dean. Rồi một vai quan trọng trong một phim ca nhạc sẽ tạo cho Rory thành một Judy Garland mới hay một Elvis Presley khác. Tiền sẽ chảy vô như nước, đếm không kịp. Bascombe uống vào những lời ngọt ngào ấy, kêu rừ rừ như một con mèo đang khoái chí tử. Tất nhiên là sẽ như thế? Ta sẽ là triệu phú. Bởi ta đã có công đẻ ra một thần đồng! Hợp lý thôi. Định phận như thế rồi! Nhưng đột ngột, trong lúc lão ta còn đang lim rim, ngất ngưởng, Doran đánh bật dây lò xo.

- Chỉ có điều đáng tiếc là… - Doran nói, làm bộ hơi khựng lại một chút.

- Là cái gì? - Bascombe sốt ruột gắt.

- Các bác sĩ nói rằng em nó sắp vỡ giọng. Nó sắp bước vào tuổi dậy thì.

Bascombe hơi lo lắng:

- Giọng nó sẽ sâu hơn một tí. Có thể sẽ hay hơn.

Doran lắc đầu:

- Chính cái giọng ngọt ngào nhưng trong trẻo và cao vút mới khiến em trở thành một siêu sao. Hẳn là em có thể sẽ ca hay hơn. Nhưng cần đến năm năm để luyện lại giọng và đột phá với một hình ảnh mới. Còn tôi muốn bán em cho mọi người với giọng hát hiện nay của em.

- Nhưng có thể giọng của nó sẽ không thay đổi, - Bascombe nói.

- Vâng, có lẽ sẽ không, - Doran nói và bỏ lửng ở đó.

Hai ngày sau Bascombe đến căn hộ của anh.

Janelle để ông ta vào và mời ông ta ly rượu. Ông ta ngắm nghía nàng hơi kỹ, nhưng nàng lờ đi. Và khi ông ta với Doran bắt đầu nói chuyện, nàng rời bỏ căn phòng.

Đêm đó trong giường, sau khi làm tình, Janelle hỏi Doran:

- Cái kế hoạch nhỏ của anh đến đâu rồi?

Doran cười nhăn nhở. Anh ta biết Janelle khỉnh bỉ những gì mình đang làm, dù nàng vẫn cho anh làm tình với nàng. Giống như Rory, nàng vẫn còn chưa biết mình tuyệt đến mức nào. Doran thích thú vì họ là những người chưa biết hết giá trị thực của bản thân.

- Lão già tham lam đã mắc câu anh rồi, - anh ta nói. - Bây giờ anh chỉ còn phải làm việc với mẹ con nhà ấy nữa thôi.

Doran vẫn thường nghĩ với một chút tự phụ rằng mình là kẻ chào hàng cừ khôi nhất ở Bờ Đông nước Mỹ. Sự thật là anh ta gặp hên thôi. Với ông Bascombe thì chuyện ông ta không thể từ bỏ giấc mộng vàng do phép lạ của giọng ca cậu con đem lại cũng là điều đương nhiên thôi. Nhưng với bà mẹ thì thực sự Doran đã gặp may.

Bà Bascombe vốn xưa kia là một người đẹp tỉnh lẻ miền Nam, thuở mới lớn cũng có dăm ba cuộc tình linh tinh và đã từng nếm vị trái cấm tí tỉnh. Nhưng từ khi gặp chàng Horatio đẹp trai, chơi piano khá hay thì nàng dứt khoát rửa sạch chân, bước vào cuộc đời làm vợ làm mẹ một cách nghiêm chỉnh. Trong khi nhan sắc phai tàn dần theo năm tháng nàng rơi vào ảnh hưởng xấu của tính mê tín dị đoan của người miền Nam. Thấy ông chồng ngày càng trở nên hết đáng yêu bà Bascombe thấy Chúa càng hấp dẫn. Giọng ca của con trai bà là tình yêu của bà dâng lên cho Đấng Tối Cao. Doran tác động lên điểm đó. Anh ta giữ Janelle trong phòng trong khi nói chuyện với bà Bascombe, vì anh ta biết rằng chủ đề bàn tới rất tế nhị dễ khiến cho bà ta xốn xang nếu ở một mình với một người đàn ông.

Doran tỏ ra duyên dáng và kính trọng đối với bà Bascombe. Anh ta chỉ ra rằng trong những năm sắp tđi đây hàng triệu người trên khắp thế giới sẽ nghe con trai bà, Rory ngợi ca vinh danh Chúa Jesus. Con trai bà sẽ là người rao giảng Tin Mừng mạnh mẽ nhất cho đạo Cơ đốc kể từ Luther đến nay. Cậu bé sẽ còn vĩ đại hơn cả Billy Graham, hơn cả Oral Roberts, hai vị thánh sống đối với bà Bascombe. Và con trai bà sẽ được cứu thoát khỏi tội lỗi nghiêm trọng nhất và dễ sa vào nhất trên trái đất này. Rõ ràng đây là ý Chúa.

Janelle quan sát cả hai người. Nàng như bị mê hoặc bởi Dcran. Rằng anh ta có thể làm điều đó mà không tỏ ra xấu xa chỉ thuần tuý vì tiền. Giống như một đứa bé ăn cắp những đồng tiền lẻ để trong quyển sách bỏ túi của mẹ nó mà thôi. Và bà Bascombe, sau một giờ biện hộ sôi nổi của Doran, đã có vẻ xiêu lòng.

Doran ra chiêu tối hậu:

- Bà Bascombe à, tôi biết rằng bà sẽ chấp nhận sự hi sinh này vì Chúa. Vấn đề lớn còn lại là Rory, con bà. Cậu ta là một thiếu niên và bà cũng biết các cậu con trai như thế nào rồi.

Bà Bascombe cười ảm đạm:

- Vâng, - bà nói. - Tôi biết. - Bà phóng một tia nhìn dữ dội về phía Janeue. - Nhưng Rory là đứa con ngoan. Nó sẽ làm theo lời tôi.

Doran thở ra nhẹ nhõm:

- Tôi biết rằng tôi có thể tin cậy nơi bà.

Rồi bà Bascombe nói lạnh lùng:

Tôi làm điều này vì tình yêu Chúa. Nhưng tôi muốn một hợp đồng mới được thảo ra. Tôi muốn mười lăm phần trăm trong số ba mươi phần trăm của anh, trong tư cách người đồng quản lý thằng bé. - Bà ta ngưng một lát. - Và chồng tôi không cần biết điều này.

Doran thở dài:

- Phải chi bà chỉ sống với niềm tin tôn giáo thời xưa ấy thôi. Tôi hy vọng bà có thể dùng nó để khiển được người thân.

Mẹ của Rory thực sự đã khiển được. Không ai biết rằng cách nào. Mọi chuyện được dàn xếp yên.

Tuy nhiên, có một người không thích ý tưởng này và muốn thọc gậy bánh xe, khiến mọi chuyện hỏng bét.

Kẻ phá bĩnh đó là Janelle. Thực tế, nàng thấy kinh sợ và ghê khiếp đến độ nàng không nằm ngủ chung với Doran nữa, và anh ta coi như đã thoát được nàng. Vả chăng Doran còn một vấn đề cuối nữa. Tìm một bác sĩ giải phẫu giỏi có thể cắt đứt hai viên bi của một cậu bế mười bốn tuổi một cách an toàn vì để giữ cái giọng trong trẻo và cao vút của nó. Vì đó chính là ý tưởng. Điều mà các vị Giáo hoàng xưa kia cho là tốt thì Doran cũng cho là tốt. Vậy anh ta đâu có tội gì?

Nhưng Janelle làm mọi chuyện "tầy huầy" ra hết. Cả bọn đang tụ tập trong căn hộ của Doran. Chàng ta đang tìm cách để tháo gỡ bà Bascombe khỏi cái vụ đòi ăn chia mười lăm phần trăm trong phần của chàng, nên không để ý chuyện gì khác. Janelle đứng lên, nắm tay Rory dẫn cậu bé đi vào phòng ngủ.

Bà Bascombe phản đối:

- Cô định làm gì con tôi thế?

Janelle giọng ngọt ngào:

- Chúng tôi sẽ ra ngay thôi mà. Tôi muốn chỉ cho em xem cái này.

Khi vừa lọt vào bên trong phòng ngủ, nàng khoá trái cửa lại. Để khi đã biết mùi đời, có hoạn cũng vô ích. Rồi rất cả quyết nàng kéo Rory đến bên giường, tháo dây thắt lưng của cậu ra, tuột cả quần ngoài lẫn quần lót của cậu, nắm lấy tay cậu đặt vào giữa hai đùi nàng và ghì đầu cậu vào bộ ngực trần của nàng

Trong vòng ba phút, họ bay vút lên tuyệt đỉnh mê ly. Và rồi cậu bé làm cho Janelle ngạc nhiên. Cậu ta kéo quần lên, mở cửa phòng ngủ và lao vụt vào phòng khách. Quả đấm đầu tiên của cậu tống ngay vào mồm Doran và rồi cậu ồ ạt tuôn ra những quả đấm vùn vụt không ngừng như chiếc cối xay gió cho đến khi ông bố níu tay cậu lại.

Janelle cười với tôi:

- Vì chuyện đó, Doran ghét em cả sáu năm về sau. Em đã làm anh ta mất đi hàng triệu đô-la.

Tôi cũng cười:

- Vậy rồi chuyện gì xảy ra ở toà?

Janelle nhún vai.

- Em gặp được ông thẩm phán văn minh. Ông ấy nói chuyện với cậu bé và em trong phòng rồi sau đó hủy vụ án. Ông cảnh cáo bố mẹ Rory và Doran rằng họ có thể bị truy tố về tội xâm hại cơ thể trẻ con và khuyên mọi người nên câm miệng.

Tôi nghĩ về chuyện đó:

- Thế ông ta nói gì với em?

Janelle lại cười.

- Ông ta bảo em rằng giả sử mà ông ta trẻ lại ba mươi tuổi, ông ta sẵn sàng cho đi bất kỳ cái gì, nếu như em là người tình của ông ta.

Tôi thở ra:

- Lạy Chúa, em làm cho chuyện gì cũng có vẻ đúng. Nhưng giờ đây anh muốn em trả lời thành thật câu này. Thề nhé?

- Xin thề, - Janelle đưa bàn tay phải lên, long trọng hứa.

Tôi im lặng một lát, quan sát nàng. Rồi tôi phóng vụt ra:

- Em có cảm nhận lạc thú khi làm tình với thằng nhóc mười bốn tuổi ấy không?

Janelle không hề do dự:

- Trên cả tuyệt vời! - nàng đáp.

- Tốt, - tôi nói.

Tôi nhíu mày tập trung tư tưởng và Janelle lại cười lớn. Nàng thích những thời điểm này nhất khi tôi thực sự quan tâm đến việc hình dung nàng làm gì.

- Xem nào, - tôi nói. - Thằng bé có mái tóc xoắn tự nhiên và thể hình cao lớn: Nước da mịn màng chưa có mụn trứng cá. Lông mi dài và sự trong trắng của cậu bé trong ca đoàn nhà thờ. Tuyệt? - Tôi còn suy nghĩ lan man một hồi nữa.

- Hãy nói sự thật. Em phẫn nộ, nhưng trong thâm tâm em biết đây là lý do khoan miễn cho em để làm tình với một thằng nhóc mới mười bốn tuổi. Em không thể làm điều đó cách khác ngay, dù rằng đó là điều em thực sự muốn làm. Rằng thằng bé, ngay từ đầu, đã làm em thèm nhỏ dãi. Và thế là em có thể làm điều đó bằng cả hai cách. Em cứu thằng bé bằng cách với nó. Tuyệt quá, đúng không nào?

- Không đúng, - Janelle nói, cười ngọt ngào.

Tôi lại thở ra rồi cười lớn:

- Em thật rởm đời.

Nhưng tôi thấy nhột và tôi biết điều đó. Nàng đã thực hiện một hành vi vị tha, nàng đã cứu vãn cái đàn ông tính của một cậu trai. Xét cho cùng, nếu trong lúc làm việc đó, nàng lại được khoái lạc, âu đó cũng là một phần thưởng xứng đáng dành cho người đức hạnh? Mọi người đều phụng sự Đấng Tối Cao theo cách riêng của mình.

Và ôi lạy Chúa? Qua câu chuyện này tôi lại thấy nàng càng đáng yêu hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Malomar đã có một ngày nặng nhọc và một buổi hội thảo đặc biệt với Moses Wartberg và Jeff Wagon. Anh đã đấu tranh với Merlyn và bộ phim của anh. Wartberg và Wagon ghét nó sau khi anh cho họ xem bản thảo đầu tiên. Vẫn là lý lẽ thông thường. Họ muốn biến nó thành thứ phó phẩm, muốn đặt vào đó nhiều hành động hơn, muốn các nhân vật thô ráp hơn.

Malomar quả quyết:

- Đây là một kịch bản tốt. Và xin nhớ rằng mới chỉ là phác thảo đầu tiên.

Wartberg nói:

- Anh không cần phải nói. Chúng tôi biết điều đó. Chúng tôi đánh giá nó trên cơ sở đó.

Malomar lạnh lùng:

- Các anh biết là tôi luôn luôn quan tâm đến ý kiến của các anh và cân nhắc chúng rất cẩn thận. Nhưng mọi điều các anh nói cho đến nay tôi đều thấy là không thích đáng.

Wagon cố xoa dịu, với nụ cười duyên dáng:

- Malomar à, bạn biết là chúng tôi tin tưởng nơi bạn. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã ký với bạn bản hợp đồng gốc. Thế này, bạn có toàn quyền kiểm soát đối với các bộ phim của bạn. Nhưng chúng tôi phải hậu thuẫn cho sự đánh giá của chúng tôi với quảng cáo và công chứng. Bây giờ chúng tôi để anh dự phóng một triệu đô-la trên ngân sách. Theo tôi nghĩ, điều đó cho chúng tôi cái quyền có tiếng nói về hình dáng sau cùng của bộ phim.

Malomar nói:

- Chúng ta đều biết ngân sách đó chưa thấm vào đâu nhưng chúng ta đều chấp nhận nó.

Wartberg nói:

- Anh biết rằng trong mọi hợp đồng của chúng ta, khi chúng ta thông qua ngân sách, anh bắt đầu mất điểm trong làm phim. Anh có muốn nhận lãnh nguy cơ đó?

- Ôi Trời, - Malomar nói. - Tôi không thể tin rằng nếu cuốn phim làm ra nhiều tiền, thì các ông lại sẽ nêu ra điều khoản này.

Wartberg cười nụ cười cá mập:

- Chúng tôi có thể hoặc không thể. Đó là cơ hội anh sẽ có, nếu anh kỳ kèo về kịch bản phim của anh.

Malomar nhún vai:

- Tôi chấp nhận nguy cơ đó, - anh nói. - Và nếu nó là tất cả những gì các anh cần nói, tôi sẽ quay về phòng biên tập phim.

Khi rời Tri-Culture Studios để được đưa về phòng mình, Malomar thấy kiệt sức. Anh nghĩ đến việc về nhà nằm nghỉ ngơi một lát, nhưng còn quá nhiều việc phải làm. Anh muốn phải dành ít nhất năm giờ nữa cho công việc. Anh cảm thấy những cơn đau nhẹ trong lồng ngực bắt đầu tái phát. Mấy thằng con hoang kia sẽ giết mình mất, anh nghĩ. Và rồi bất chợt anh nhận ra rằng từ khi anh bị suy tim, Wartberg và Wagon ít ngại anh hơn, tranh cãi nhiều hơn, quấy rầy anh nhiều hơn về chuyện chi phí sản xuất. Có lẽ bọn họ đang cố giết anh bằng cách đó cũng chưa biết chừng.

Anh thở dài. Toàn những chuyện chẳng ra đâu mà anh phải đương đầu, và cái anh chàng Merlyn khó chịu cứ mở miệng ra là chỉ trích những nhà sản xuất và cả Hollywood, cho rằng không ai trong họ là nghệ sĩ cả.

Và đây này, chính anh đang đánh liều cả mạng sống của mình để cứu vãn quan niệm của Merlyn về điện ảnh. Anh cảm thấy muốn ghé vào rủ Merlyn cùng đi đến đấu trường với Wartberg và Wagon để cho anh chàng văn sĩ ấy lao vào cuộc chiến bảo vệ cho những quan điểm và ý tưởng của anh ta, nhưng anh biết rằng Merlyn sẽ bỏ cuộc và chạy xa khỏi thế giới điện ảnh.

Merlyn không tin tưởng như Malomar tin tưởng. Anh ta không chia sẻ với mình tình yêu điện ảnh và những gì phim ảnh có thể làm. Được thôi cũng chả cần, Malomar nghĩ. Anh sẽ làm phim theo cách của mình, sẽ là phim hay và Merlyn sẽ vui sướng; khi cuốn phim đem lại doanh thu cao, thì phim trường sẽ thấy hạnh phúc, và nếu họ tìm cách cắt đi tỉ lệ ăn chia của anh bởi vì chi phí vượt ngân sách, thì anh sẽ mang công ty sản xuất của mình đi tìm minh chủ mới.

Khi chiếc limousine sắp dừng lại, Malomar cảm thấy phấn chấn như anh vẫn hay cảm thấy. Nỗi phấn chấn hân hoan của một nghệ sĩ tiến đến công trình của mình, biết rằng mình sẽ tạo ra một tác phẩm đẹp. Anh miệt mài lao động với các tay biên tập phim trong gần bảy giờ liền, và khi chiếc limousine đưa anh về đến nhà, lúc đó đã gần nửa đêm. Anh mệt quá nên đi thẳng vào giường. Anh lầu bầu vì cảm thấy kiệt sức. Những cơn đau trong lồng ngực dội lên và truyền ra sau đến lưng, nhưng sau ít phút chúng lại rút đi xa và anh nằm đó, yên lặng, cố dỗ giấc ngủ.

Anh hài lòng. Anh đã hoàn tất một ngày lao động say mê và hiệu quả. Anh đã chiến đấu với bọn cá mập và anh đã biên tập phim theo ý mình.

**

Malomar thích ngồi trong phòng cắt phim với những người biên tập và đạo diễn. Anh thích ngồi trong bóng tối và đưa ra những quyết định về những gì mà các hình ảnh lung linh chập chờn kia nên hoặc không nên thể hiện. Giống như Thượng Đế, anh cho chúng một thư linh hồn nào đó. Anh có thể làm cho các hình ảnh đẹp hơn và nổi bật hơn để diễn tả các nhân vật hay tính cách sắc nét hơn. Thế giới anh tạo ra phải phù hợp với lô-gíc của trực quan và khi anh kết thúc với thế giới đặc thù đó, thường người ta vui sướng vì đã nhìn thấy thế giới đó hiện hữu.

Malomar đã tạo ra hàng trăm thế giới đó. Chúng tồn tại trong óc não anh mãi mãi như vô số thiên hà mà Chúa tạo ra hẳn nhiên tồn tại bất diệt trong trí tuệ vô biên, miên viễn của Người. Và kỳ công của Malomar gây ngạc nhiên cho cả chính anh. Nhưng mọi sự lại khác đi khi anh rời phòng cắt phim chìm trong bóng tối lờ mờ và trở vào lại thế giới do Chúa tạo ra mà anh thấy hoàn toàn vô nghĩa.

Trong mấy năm qua, Malomar đã phải chịu đựng ba cơn đột quỵ tim. Do làm việc quá mức, theo lời bác sĩ nói. Nhưng Malomar vẫn luôn cảm thấy rằng Chúa đã rời bỏ phòng cắt phim. Lẽ ra anh, Malomar, phải là người cuối cùng bị đột quỵ tim mới phải. Bởi nếu anh nằm xuống, ai sẽ trông nom tất cả những thế giới thụ tạo kia? Nên anh lo bảo trọng khá kỹ. Anh ăn uống điều độ, đúng mực. Anh tập thể dục dưỡng sinh. Anh chơi bời vừa phải, không để phí sức. Anh không bao giờ dùng ma tuý. Trông anh vẫn trẻ, đẹp trai, giống một mẫu người hùng trong các phim hành động. Và anh cố gắng xử sự tốt hoặc càng tốt càng hay trong một thế giới mà thượng đế đang nhắm tới. Trong phòng biên tập phim, một nhân vật như Malomar sẽ không bao giờ chết vì một cuộc đột quỵ tim. Tay biên tập sẽ cắt bỏ khung, nhà sản xuất sẽ gọi đến về chuyện viết lại một kịch bản. Anh sẽ chỉ huy các giám đốc kỹ thuật và tất cả các diễn viên vào việc cứu hộ. Một con người như thế không được phép chết:

Nhưng Malomar không thể cắt bỏ các cơn đau ngực. Và thường khi ban đêm, rất khuya, trong căn nhà rộng mênh mông, anh nhai rào rạo những viên thuốc angina. Rồi anh nằm trong giường co rúm người với nỗi sợ. Nhiều đêm tình trạng quá tệ hại, anh gọi bác sĩ riêng của mình. Bác sĩ sẽ tới và ngồi với anh suốt đêm, khám cho anh, trấn an anh, nắm tay anh cho đến khi ánh nắng ban mai ló dạng. Bác sĩ sẽ không bao giờ từ chối anh bởi vì Malomar đã viết một phim truyện về cuộc đời ông. Malomar đã tạo cho ông ta những cơ hội "truy cập" các nàng diễn viên xinh đẹp để ông ta có thể trở thành bác sĩ riêng và đôi khi kiêm người tình của họ. Thuở thanh xuân, khi Malomar còn hăm hở lao vào những cuộc vui suốt sáng trận cười thâu đêm, trước khi anh bị đột quy tim lần đầu, khi căn nhà rộng mênh mông của anh còn đầy những người khách ở chơi qua đêm, gồm các em tiểu minh tinh và các em người mẫu thời trang cao cấp thì vị bác sĩ này từng là người bạn ăn tối chung với anh thường xuyên và họ cùng chọn ra "thực đơn" là những vị nữ lưu nào sẽ phục vụ chăn gối cho hai "quan thầy" tối đó.

Giờ đây, trong đêm khuya, Malomar một mình trên giường ở nhà mình, gọi điện thoại cho bác sĩ.

Bác sĩ tới, khám cho anh và nói chắc rằng các cơn đau sẽ qua. Không có gì nguy hiểm. Rằng anh nên tự buông mình vào giấc ngủ. Bác sĩ mang nước uống đến cho anh uống thuốc trấn thống và thuốc an thần. Dùng ống nghe đo nhịp tim của anh. Vẫn còn nguyên vẹn đây mà; đâu có vỡ ra từng mảnh như Malomar cảm thấy. Và sau vài giờ, khi thấy dễ chịu hơn, Malomar bảo với bác sĩ rằng ông ta có thể ra về. Rồi Malomar rơi vào giấc ngủ.

Anh ngủ mơ. Một giấc mộng sống động. Anh đang ở một sân ga, vây kín người. Anh mua một vé đi tàu hoả. Một người nhỏ con nhưng rắn rỏi đẩy anh qua một bên và anh tránh qua nhường cho người đó mua vé trước. Trong khi anh làm như thế người kia bỗng cao lớn hẳn lên, trở thành một nhân vật chính trong một cuốn phim trước đây, và người đó nói với Malomar "Cho tôi biết tên anh; tôi sẽ làm điều gì đó cho anh". Anh ta mến Malomar. Malomar có thể thấy được điều đó. Cả hai rất tử tế với nhau. Và nhân viên hoả xa đối xử với người kia rất cung kính.

Malomar thức giấc trong bóng tối bao trùm căn phòng ngủ rộng thênh thang của anh. Đôi đồng tử của anh nhíu hẹp lại, và không có ảo tưởng ngoại vi, anh chăm chăm nhìn vào khoảng ánh sáng trắng hình chữ nhật từ cánh cửa phòng tắm để mở. Trong một thoáng, anh nghĩ là những hình ảnh trên màn chiếu chưa chấm dứt, và rồi anh nhận ra rằng đó chỉ là giấc mộng. Ngay lúc đó trái tim anh vỡ ra lìa khỏi thân thể anh và lao đi vun vút đâu mất tiêu. Còn mạch điện của óc não anh rối tung vào nhau, ùn tắc. Anh ngồi dậy, đầm đìa mồ hôi. Trái tim anh lao vào một cuộc xô đẩy ầm ầm, rồi rùng mình giật nảy mạnh lên. Anh ngã ngửa ra sau mắt nhắm lại, một ánh sáng mờ dần đi trên màn hình cuộc đời anh. Âm thanh cuối cùng anh nghe được mường tượng như tiếng cọ rèn rẹt của phim nhựa lên tấm thép. Thế rồi một mình, trong đêm trường, anh lặng lẽ làm cuộc hành trình về cõi u minh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Chính người đại lý của tôi, Doran Rudd, đã gọi cho tôi để báo tin cái chết của Malomar. Anh ta bảo tôi là sắp có một buổi hội thảo lớn về phim ảnh ở Tri-Culture Studios vào ngày tới. Tôi phải bay ngay đến và anh sẽ đón tôi ở phi trường.

Ở phi trường Kennedy, tôi gọi Janelle để cho nàng hay tôi đang đến thành phố này, nhưng chỉ gặp máy trả lời giọng Pháp của nàng, vì thế tôi chỉ để lại lời nhắn tin.

Cái chết của Malomar gây sốc mạnh cho tôi.

Trong những tháng cùng làm việc chung với nhau, càng ngày tôi càng kính trọng anh hơn. Anh không bao giờ nói hay làm điều gì nhảm nhí, và anh có con mắt đại bàng nhìn ra ngay những gì nhảm nhí trong một kịch bản hay một cuốn phim. Anh phụ đạo tôi khi cho tôi xem phim, giải thích tại sao một cảnh nào đó không đạt hoặc là nên nhìn những gì nơi một diễn viên đang thể hiện tài năng dù là trong một vai tầm thường. Chúng tôi hay tranh luận với nhau. Anh bảo tôi rằng tính thời thượng văn chương của tôi có vẻ nặng về phòng thủ quá và rằng tôi chưa nghiên cứu điện ảnh một cách chu đáo đúng mức Anh còn đề nghỉ hướng dẫn tôi làm đạo diễn phim nhưng tôi từ chối. Anh muốn biết tại sao.

- Nghe này, - tôi nói - Chỉ cần có mặt trên đời này thôi, chỉ cần đứng yên và không làm phiền ai, con người cũng đã là một tác nhân tạo ra định mệnh.

Đó là điều tôi ghét về đời sống. Vì một đạo diễn điện ảnh là một tác nhân tạo ra định mệnh tồi tệ nhất trên mặt đất này. Hãy nghĩ đến nam nữ diễn viên mà anh từng làm cho họ cảm thấy bỉ mặt, đau đớn, khi anh từ chối họ. Hãy nhìn đến những người mà anh phải ra lệnh. Lượng tiền anh tiêu ra, những số phận anh nắm trong tay. Còn tôi chỉ viết sách, tôi chẳng bao giờ làm tổn thương ai, tôi chỉ giúp người ta thôi. Độc giả có toàn quyền tự do cầm quyển sách tôi lên đọc hay vất nó đi.

- Cậu nói đúng, - Malomar thừa nhận. - Cậu sẽ không bao giờ làm một đạo diễn. Nhưng mình nghĩ cậu cũng nhảm lắm. Không ai lại thụ động đến thế?

Và tất nhiên là anh có lý. Tôi chỉ muốn kiểm soát một thế giới riêng tư hơn. Dẫu sao tôi vẫn cảm thấy buồn vì cái chết của anh. Tôi có cảm tình với anh dù rằng chúng tôi chưa thực sự hiểu nhau nhiều. Và rồi cũng vì tôi hơi lo lắngvề chuyện gì sẽ xảy ra cho cuốn phim chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi.

Dran Rudd gặp tôi nơi cầu thang máy bay. Anh bảo tôi rằng giờ đây Jeft Wagon sẽ là nhà sản xuất và rằng Tri-Culture đã nuốt gọn Malomar Studios. Anh bảo tôi hãy sẵn sàng chờ đợi những rắc rối. Trên đường về phim trường, anh tóm tắt cho tôi về toàn thể chiến dịch của Tri-Culture. Về Moses Wartberg, về vợ ông ta - Bella, về Jeff Wagon. Để mở đầu anh ta bảo tôi rằng dù họ không phải là phim trường mạnh nhất ở Hollywood, nhưng họ là những kẻ bị thù ghét nhất, thường được gọi là đám Tri-Vulture. Rằng Wartberg là một con cá mập và ba tay phó chủ tịch là những con chó rừng. Tôi bảo anh ta rằng bạn không thể trộn lẫn các biểu tượng như vậy, rằng nếu Wartberg là cá mập, thì những người kia phải là cá hoa tiêu mới hợp chứ. Tôi đang bông đùa lung tung nhưng anh chàng đại lý chẳng thèm để ý. Anh ta chỉ nói:

- Tôi mong anh thắt cà vạt cho có vẻ long trọng một tí.

Tôi nhìn anh ta. Anh ta mặc chiếc áo jacket bằng da đen bóng bên ngoài chiếc áo len cổ rùa. Anh ta nhún vai.

- Moses Wartberg có thể là một Hitler người Do Thái đấy, - Doran nói. - Nhưng ông ta hành động hơi khác một tí. Ông ta có thể gửi tất cả những người Cơ đốc trưởng thành đến phòng hơi ngạt, nhưng sau đó lại lập quỹ học bổng cho con cái họ.

Ngồi ngả ngưởi thoải mái trong chiếc Mercedes 450SL của Doran Rudd, tôi chỉ nghe cuộc tán gẫu cà kê của anh. Anh bảo tôi rằng sắp có một cuộc đấu đá lớn về bộ phim đó. Rằng Jeff Wagon sẽ là nhà sản xuất và Wartberg sẽ có quyền lợi thiết thân trong đó. Họ đã giết chết Malomar bằng sự quấy nhiễu của họ, Doran nói. Tôi ghi lại điều đó như là lối cường điệu điển hình của Hollywood. Nhưng điều cốt yếu từ những gì Doran đang nói với tôi đó là số phận của bộ phim có lẽ sẽ được quyết định trong ngày hôm nay. Vì thế trong quãng đường dài đến phim trưỡng, tôi cố nhớ lại mọi chuyện mà tôi tôi đã biết hoặc nghe nói về Moses Wartberg và Jeff Wagon.

***

Jeff Wagon là một điển hình cho một nhà sản xuất phim loại lồi. Hắn ta xoàng xỉnh từ đầu đến chân. Hắn đã hoạt động trong lãnh vực truyền hình, rồi tìm đường len lỏi vào các phim chính bằng tiến trình mà một vết mực loang trên lấm vải trải bàn với những hiệu ứng thẩm mỹ. Hắn đã làm hơn một trăm phim truyền hình chính và hai mươi phim từ kịch. Mà không có một phim nào thể hiện được chút chi gọi là nét duyên dáng, chất lượng hay nghệ thuật. Các nhà phê bình và các nghệ sĩ ở Hollywood đã nói đùa so sánh Wagon với Selznick, Lubitsch, Thatherg. Họ bảo rằng nhiều phim của hắn ta mang dấu ấn của sinh thực khí bởi vì một nữ diễn viên ma mãnh đã gọi hắn là thằng tồi. Một bộ phim tiêu biểu của Jeff Wagon với sự hiện diện đông đảo của các ngôi sao đã bắt đầu tàn phai vì năm tháng, vì son phấn hoá trang và bao trận khóc cười cho cuộc hí trường điện ảnh mòn mỏi chờ tấm chi phiếu trả thù lao diễn xuất. Những người tài năng biết đó là một bộ phim tầm thường. Nhưng Wagon rất khéo léo biết cách giựt dây mọi người phải quay phim theo cách của hắn ta. Điều kỳ cục là mặc dầu tất cả những cuốn phim do hắn sản xuất đều rất tồi về phương diện nghệ thuật nhưng bao giờ cũng có lời, đơn giản chỉ vì ý tưởng chủ đạo của phim tương thích tốt với hướng khai thác thương mại, đáp ứng đúng thị hiếu của một bộ phận công chúng khán giả khá rộng rãi và bền vững và Jeff Wagon biết tính toán rất chi li và sát sườn về giá thành. Còn Moses Wartberg vẫn luôn nói ràng Jeff Wagon thành công nhờ có những ý tưởng hay. Điều ông ta làm như không biết đó là Wagon đã đánh cắp những ý tưởng đó từ người khác. Hắn ta làm điều này do một phương pháp không thế gọi bằng từ gì khác hơn là dụ khị.

Trong thời thanh xuân, Jeff Wagon đã sống phù hợp với cái hỗn danh của mình bằng cách đốn ngã tất cả các em diễn viên triển vọng nào lò mò bước chân vào lãnh địa của Tri-Culture. Hắn ta tính toán sát sườn lắm và cũng tạo được cái tiếng là sòng phẳng (tất nhiên là chỉ có tính biểu kiến và quảng cáo thôi chứ thực chất thì hắn rất ư là ma bùn!). Nếu cô nào chấp thuận cho hắn "quá cảnh", hắn sẽ thu xếp cho các cô những vai như người rót rượu (bartender) hay tiếp tân trong các phim truyền hình.

Nếu họ đi những nước bài đúng, họ có thể có đủ việc làm quanh năm. Nhưng khi đi vào các phim chính thì chuyện này không thể. Với ngân sách ba triệu đô-la cho mỗi phim, người ta không thể hành động một cách khinh suất kiểu phân phối một vai nào đó cho em nào đó chỉ vì em đã cho anh "bụp" một đôi lần. Thế là lúc đó anh bèn đánh trống lảng, chơi mặt lạnh, kẹt lắm bị em nào níu áo kỹ quá thì hứa lơ mơ, nhưng không bao giờ giao ước dứt khoát. Và dĩ nhiên là, đối với vài em có tài năng thực sự thì anh cũng cố dàn xếp cho em có vai tốt trong các phim chính. Một số ít trở thành "sao" và nhớ ơn anh. Trong vương quốc của loài bọ ngựa, Jeff Wagon là kẻ sống sót cuối cùng.

Nhưng một ngày kia, từ những khu rừng mưa giăng mờ mịt ở phương Bắc, bang Oregon, một nhan sắc khiến người nhìn nín thở, mới vừa mười tám xuân xanh, hiện ra rực rỡ, với mọi "bửu bối" cần thiết cho một cô gái hoang đã thoát xác, đăng quang ngôi "Nữ hoàng Điện ảnh". Một khuôn mặt đẹp trinh nguyên thanh thoát, một thân hình cân đối toàn hảo, một cá tính cương cường có chút kiêu ngạo, và một tài năng thiên phú nữa chứ.

Và nàng cũng hơi có chút máu điên. Nàng đã lớn lên như một người rừng và một thợ săn vùng sơn địa Oregon. Nàng có thể lột da một con nai dễ dàng và sẵn sàng đương đầu với một con gấu xám nâu, không hề sợ hãi, chỉ cần một khẩu súng săn trên tay. Nàng miễn cưỡng để cho Jeff Wagon phết nàng mỗi tháng một lần vì người hướng dẫn đã nhỏ to tâm sự với nàng về khoản cống nạp gần như bắt buộc đó.

Nhưng nàng đến từ miền đất mà con người ai cũng thẳng tính như ruột ngựa, nói một là một, hai là hai, chứ không có "oong, đơ, troa, cách" (một, hai, ba, bốn - tiếng Pháp ngọng) gì hết và nàng chờ đợi Jeff Wagon giữ lời, sẽ giao vai diễn cho nàng. Khi chuyện này không xảy ra, nàng cũng chẳng có một lời phiền trách chi cho mất lòng, chỉ lẳng lặng lên giường với Jeff Wagon, lận theo trong người con dao lột da nai và đúng vào lúc chàng lâng lâng đờ đẫn, nàng thích mũi dao vào ngay "túi gấm" lấy ra một trong hai hòn bi mềm của chàng.

Chuyện này sau đó cũng không có gì ầm ĩ. Vì một là nàng chỉ lấy đi một hòn mà lại là hòn lép, trong khi hòn còn lại mới là chủ lực, nên chẳng ảnh hưởng gì lắm. Độc thủ đại hiệp còn làm khiếp vía quần hùng thì chàng độc hoàn đại "dương" vẫn còn đủ sức tung hoành trên đấu trường nệm mút với các nữ đấu thủ. Thế nên Jeff Wagon chẳng những không đi kiện, mà còn muốn giấu nhẹm đi, chứ để lộ tùm lum ra, thiên hạ đàm tiếu lại e xấu thiếp hổ chàng, nào có hay ho gì!

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Thiên hạ có lắm kẻ tò mò tọc mạch lại ưa ngôi lê đôi mách nên câu chuyện đó chẳng khác nào bộ lông gà thả bay trong gió từ trên chiếc tháp chuông cao. Song dù sao, chuyện cũng lỡ rồi, Jeff Wagon đành bấm bụng dàn xếp cho êm. Cô gái được trả về nguyên quán với khoản tiền bồi thường đủ mua một căn lều gỗ và một khẩu súng săn mới. Và anh chàng dê xồm đã học được một bài học thấm thía. Anh chàng bỏ chuyện dụ dỗ hứa nhăng hứa cuội với các em diễn viên triển vọng mà xoay ra dụ khị các anh nhà văn để moi các ý tưởng hay ho của họ. Làm chuyện này vừa có lợi hơn lại vừa ít nguy hiểm hơn. Các anh nhà văn thường ngốc nghếch hơn và cũng nhát gan hơn em "người rừng" kia nhiều! Còn chuyện xơi các em? Dễ ợt! Hãy chọn giải pháp ăn bánh trả tiền vừa đơn giản, vừa an toàn, lại khỏi nặng đầu. Dĩ nhiên trả cũng có nhiều cách trả. Có cách mua bán sòng phẳng, mà cũng thiếu gì cách tế nhị hơn, nhưng chung quy cũng vô đó. Vấn đề là xử sao cho đẹp để ai khỏi buồn ai. Kẻ nào biết điệu đàng thì lo gì thiếu sân chơi!

Và thế là anh ta đi dụ khị các nhà văn bằng cách mời họ những bữa ăn sang trọng và đu đưa những công việc ra trước mắt để nhử họ. Chẳng hạn, cải biên một kịch bản chuyển thể điện ảnh một quyển tiểu thuyết. Trong khi đó, anh ta để cho họ nói ra những ý tưởng của họ về những quyển tiểu thuyết hay những kịch bản tương lai. Lạ gì tính hiếu thắng của mấy anh nhà văn, nhà thơ. Cứ có người chịu nghe văn, nghe thơ của mình, thỉnh thoảng đệm vào vài câu khen, thế là các anh sướng tít, sướng tê đít có thêm hơi men trợ hứng nữa thì còn chờ gì mà không hân hoan làm con tằm rút ruột nhả tơ dâng đời! Thế là chàng Wagon nhà ta chỉ việc "thuổng" những ý tưởng đó của họ, giữ lại những diễn tiến cốt truyện, những tình tiết chính và ý tưởng chủ đạo còn biến tấu nhân danh, địa danh, thêm thắt hoa lá cành để nguỵ trang. Rồi hắn ta thích thú chơi lỡm họ, chẳng cho họ được cái đếch gì.

Về các nhà văn vẫn thường tự phụ mình là kẻ sáng tạo, đầu óc mình có hàng tỷ ý tưởng, nên chuyện một thằng phất phơ nào đấy có ăn cắp của mình một hai ý tưởng cũng chẳng đáng gì để mà kiện cáo. Mà có kiện tụng lằng nhằng thì cũng chẳng đến đâu vì khẩu thuyết vô bằng, lấy gì làm chứng? Không giống như các cái thị hến kia, khi cho anh xơi một miếng bánh bèo, là chờ anh sẽ với hái vầng trăng đem về tặng em làm sính lễ.

Chính các tay đại lý văn học đã cản trở Jeff Wagon và cấm các nhà văn- khách hàng của họ đi ăn uống với các tay chuyên bỏ con săn sắt bắt con cá rô kia. Nhưng còn vô khối những tay nhà văn trẻ đổ xô đến Hollywood từ khắp mọi miền đất nước. Những anh tay mơ này chưa có đại lý văn học đi kèm. Anh nào cũng mong đặt chân vào cánh cửa sẽ làm cho họ giàu có và nổi tiếng. Và Jeff Wagon có tài năng đặc biệt là khơi dậy được hi vọng đó của họ nhắm vào hắn ta, ngay cả khi lão đóng sầm cửa.

Có lần khi đến Vegas, tôi bảo Cully rằng anh ta và lão Wagon trấn lột các nạn nhân của họ theo cùng một cách. Nhưng Cully không đồng ý với nhận xét đó.

- Nghe này, - Cully nói. - Tôi và Vegas chăm bẩm vào túi tiền của người ta; đúng thế. Nhưng Hollywood rút tim óc các anh. Anh ta không biết rằng Tri-Culture Studios vừa mới mua lại một trong những casino lớn nhất ở Vegas.

Moses Wartberg lại là một chuyện khác. Trong lần mới viếng Hollywood, tôi đã được đưa đến Tri-Culture Studios để tỏ bày kính lễ với ông chủ lớn.

Hội kiến Moses Wartberg vừa được một phút, tôi đủ nhận ra ngay ông ta là ai. Nơi lão ta có tia nhìn cá mập mà tôi từng thấy nơi những nhà quân sự cao cấp những chủ casino, những phụ nữ rất đẹp, rất giàu và những đầu lĩnh thượng đỉnh của mafia. Đó là thứ thép lạnh của quyền lực một thứ hàn băng khí công chạy xuyên suốt qua máu và não sự thiếu vắng đến hoang vu lê buốt của một chút từ tâm trong khắp cả mọi tế bào của cơ thể.

Những con người toàn tâm ý dâng mình cho sự say mê quyền lực tối thượng. Quyền lực đã thủ đắc và thực thi qua một khoảng thời gian dài. Và với Moses Wartberg, nó đã thấm nhập đến từng phân vuông máu thịt.

Đêm đó, khi tôi bảo Janelle rằng tôi đã đến Tri-Culture Studios và đã gặp Wartberg, nàng nói có vẻ bình thường:

- Ông già Moses phúc hậu đó à. Em biết ông ta!

Nàng ném cho tôi một tia nhìn thách thức, và thế là tôi mắc mồi.

- Được rồi, - tôi nói. - Kể anh nghe em biết gì về ông ấy.

Janelle đi ra khỏi giường để diễn vai cho sống động.

- Em đã đến thành phố này gần hai năm và chưa tìm được trú sở ổn định. Thế rồi em được mời dự một party có mặt những nhân vật lớn và dĩ nhiên là em đến để tạo quan hệ. Có chừng một tá cô gái như em. Tất cả đều đẹp và lượn vòng với hi vọng một nhà sản xuất đầy thế lực nào đó sẽ để ý đến tài sắc của chúng em. Và em gặp may. Moses Wartberg đi đến chỗ em. Ông ta trông khả ái. Em không biết sao người ta có thể nói những điều ghê gớm như thế về ông. Em nhớ vợ ông ta đi đến khoảng một phút và cố kéo ông đi xa, nhưng ông ta không hề để ý đến bà. Ông ta vẫn tiếp tục nói chuyện với em và gần cuối buổì tối đó Moses Wartberg mời em đến nhà ông dùng bữa vào tối hôm sau. Buổi sáng đó em gọi cho các bạn gái, khoe với họ chuyện đó. Họ chúc mừng em và bảo rằng em sẽ phải làm tình với ông ta và em nói tất nhiên em sẽ không, ít ra là trong lần hẹn đầu tiên và cũng vì nghĩ rằng ông ta sẽ kính trọng em hơn nếu em biết "treo giá ngọc" một tí.

- Một kỹ thuật hay đấy, - tôi nói.

- Em biết. - nàng nói. - Cách đó có hiệu quả với anh và em cảm thấy như vậy. Em chưa bao giờ lên giường với một người đàn ông nào, trừ phi em thực sự thích người ấy. Em không lên giường với một người đàn ông chỉ vì muốn người ấy làm điều gì đó cho mình. Em nói với các bạn gái của mình như vậy và họ bảo em điên. Họ nói rằng nếu như Moses Wartberg thực sự thích em thì em sẽ tiến bước trên con đường trở thành minh tinh.

Trong mấy phút, nàng diễn một vở kịch câm duyên dáng về một nàng đức hạnh trá nguỵ tự biện hộ cho sự thành tâm phạm tội của mình.

- Và rồi chuyện gì xảy ra? - tôi tò mò hỏi.

Janelle đứng dáng kiêu hãnh, đôi tay chống vào hai bên hông nghiêng đầu đầy kịch tính:

- Vào lúc năm giờ chiều hôm đó em đã tạo ra một quyết định hệ trọng nhất trong đời mình. Quyết định sẽ ngủ với một người đàn ông mình chưa từng biết trước đó, chỉ vì cần tiến thân. Em đã nghĩ mình quả là dũng cảm và lòng em tràn ngập hoan hỉ vì cuối cùng em đã có một quyết định mà một người đàn ông có lẽ đã làm như thế?

Nàng bước ra khỏi vai diễn một lát.

- Chẳng phải đàn ông vẫn làm như thế à? - Nàng nói ngọt ngào. - Nếu cần cho công việc trót lọt, họ sẵn sàng cho đi mọi thứ, kể cả phẩm giá của họ. Đấy chẳng phải là triết lý kinh doanh của họ hay sao?

Tôi nói:

- Anh đoán là thế!

Nàng nói với tôi:

- Thế anh không phải làm điều đó à?

Tôi nói:

- Không.

- Anh chưa bao giờ làm điều gì giống như thế để cho sách của anh được in hoặc để cho tay đại lý hoặc một nhà phê bình đối với anh tốt hơn?

- Không

- Anh đánh giá tốt về mình, đúng không? - Janelle nói. - Trước đây em cũng từng dan díu với nhiều tay đàn ông đã có vợ, và có một điều em nhận thấy đó là tất cả họ đều muốn đội cái mũ cao bồi màu trắng, rộng vành

- Điều ấy nghĩa là gì?

- Họ muốn tỏ ra công bình đối với vợ và bạn gái. Đó là một ấn tượng họ muốn tạo ra để người ta không thể trách họ về bất kì chuyện gì, và anh cũng làm như thế?

Tôi nghĩ về điều đó trong một phút. Tôi có thể thấy ra nàng muốn nói gì.

- OK. Rồi sao?

- Rồi sao ư? - Janelle hỏi gằn lại. - Anh nói với em rằng anh yêu em, nhưng anh vẫn quay về với vợ anh. Không một người đàn ông đã có vợ nào được quyền nói với người đàn bà khác rằng anh ta yêu nàng trừ phi anh ta muốn bỏ vợ theo nàng.

- Đó là chuyện lãng mạn cuối mùa, quá ư cổ lỗ sĩ và lạc hậu đến gần hai, ba thế kỷ rồi! - Tôi nói đùa để đối phó theo kiểu né tránh vấn đề.

Nàng nổi giận:

- Nếu em đến nhà anh và nói với vợ anh là anh yêu em, liệu anh có phủ nhận em không?

Tôi bật cười. Cười thật lòng (chứ không phải cười ruồi) Tôi ép bàn tay phải lên ngực trái mình (để che lấp trái tim đen) và bảo:

- Liệu em có thể lặp lại cho "qua" đây nghe điều ấy chăng?

Nàng lặp lại:

- Liệu anh có phủ nhận em không?

Và tôi làm mặt tính phô ma ngâm đá (cứng hơn bơ nhiều):

- Với tất cả tim ta!

Nàng nhìn tôi một lát. Nàng "định" nổi giận nhưng rồi nàng lại phá ra cười:

- Em nhường anh một bước đấy, nhưng em sẽ không nhường bước nữa đâu nhé!

Và tôi hiểu nàng đang nói gì.

- Được lắm, - tôi nói. - Vậy rồi điều gì xảy ra với Wartberg?

Nàng nói:

- Em tắm rửa cẩn thận, xức dầu thơm, diện quần áo thật đẹp rồi tự dâng mình lên đàn hiến tế. Người ta để em vào nhà gặp Moses Wartberg. Ông ta hỏi về nghề nglùệp của em. Rồi ông nói:

- Có bữa ăn tối đang đợi ở phòng ngủ trên kia. Cô vui lòng lên đó chứ?

- Vâng ạ, - em đáp.

Ông ta dìu em lên các bậc cầu thang, một cầu thang đẹp giống như cảnh trong phim, và mở cửa phòng ngủ, ông ta đóng cánh cửa lại khi em bước vào, từ bên ngoài và thế là em lọt vào trong phòng ngủ với một cái bàn nhỏ, trên đó đặt một đĩa bánh snacks.

Nàng lại diễn một tư thế khác của cô gái trẻ ngây thơ, ngơ ngác.

- Thế Moses ở đâu? - tôi hỏi.

Ông ta ở ngoài. Trên lối đi hành lang.

- Ông ta để em ăn một mình? - tôi nói.

- Không, - Janelle trả lời. - Có bà Bella Wartberg với bộ đồ ngủ mỏng manh đang chờ em.

Tôi kêu lên:

- Ô, lạy Chúa.

Janelle bước vào một màn khác.

- Em không biết rằng mình sắp phải làm tình với một người đàn bà. Em đã mất tám giờ để quyết định ngủ với một người đàn ông và bây gìờ em thấy rằng mình phải ngủ với một người đàn bà. Em không sẵn sàng cho chuyện đó.

Tôi nói tôi cũng không sẵn sàng cho chuyện đó Nàng nói:

- Em thực sự không biết phải làm gì. Em ngồi xuống và bà Wartberg đẩy đôi vú bà ra khỏi áo ngủ và nói "Cưng có thích chúng không?, và em đáp "Chúng rất xinh".

Thế rồi Janelle nhìn vào mắt tôi và ngước đầu lên, và tôi nói:

- Ờ, rồi cái gì xảy ra? Bà ta nói gì sau khi em bảo đôi vú bà rất xinh?

Janelle làm cho đôi mắt nàng trông có vẻ mở rộng hơn sửng sốt:

- Bella Wartberg bảo em, thế cưng có thích bú vú chị không nào?

Và rồi Janelle đổ ập xuống giường với tôi. Nàng nói:

- Em chạy ra khỏi phòng, chạy xuống cầu thang, vụt ra khỏi nhà và em phải mất hai năm sau để kiếm được việc làm khác.

- Một thành phố khắc nghiệt thật, - tôi nói.

- Ồ cũng không ghê gớm lắm đâu. Chỉ là vấn đề giữ thần kinh của ta cho vững vàng. - Janelle nói, nhìn vào mắt tôi, vẻ thách thức

Tôi cười với nàng:

- Đúng vậy, - tôi nói - Có gì khác biệt đâu nào?

***

Trong lúc chiếc Mercedes lướt qua các xa lộ cao cấp, tôi cố nghe Doran nói:

- Lão Moses là tay nguy hiểm đấy, - Doran nói, - Hãy coi chừng lão.

Tôi cũng nghĩ về Moses như vậy. Moses Wartberg là một trong những người có thế lực nhất ở Hollywood.

Phim trường Tri-Culture của lão ta vững mạnh nhất về mặt tài chánh nhưng toàn làm ra những phim tồi.

Moses Wartberg đã tạo ra một máy làm tiền trong lãnh vực đòi hỏi nỗ lực sáng tạo không ngừng. Mà lão ta thì có đem nghiền đến bảy ngày cũng đếch ra một tí ti nào chất sáng tạo. Phải công nhận rằng về chuyện làm ra tiền, quả là lão ta có tài năng độc đáo.

Wartberg là một người mập mạp nhưng ăn mặc khá thuộm luộm, nhếch nhác. Lão ít nói, không bao giờ biểu lộ cảm xúc. Lão lừa các nhà sản xuất, diễn viên ngôi sao, nhà văn, đạo diễn về tỷ lệ phần trăm trong các bộ phim thành công về tài chánh. Không bao giờ lão tỏ ra biết ơn một đạo diễn tài ba, diễn viên xuất sắc hay kịch bản hấp dẫn. Biết bao nhiêu lần lão đã phải trả nhiều tiền cho những thứ chẳng ra gì? Vậy thì tại sao lão phải trả cho ai đó đúng giá công sức hay tác phẩm của họ nếu như lão có thể trả ít hơn?

Wartberg nói về phim ảnh giống như các ông tướng nói về chuyện tiến hành một cuộc chiến. Lão ta nói những câu đại khái như: "Người ta không thể làm món om-mơ-lét mà lại không đập vỡ trứng", hay là: "Khi tôi nghe tiếng yêu, tôi liền nghĩ phải rút ví tiền ra".

Lão có thái độ khinh bạc đối với phẩm giá con người và tỏ ra vênh váo tự đắc khi bị lên án là không có chút ý thức nào về phẩm hạnh đoan trang. Lão không có tham vọng được biết đến như là một con người "nhứt ngôn ký xuất tứ mã nan truy" mà trái lại lão vẫn nghĩ rằng "quân tử nhứt ngôn là quân tử dại, mà quân tử nói đi nói lại mới là quân tử khôn!". Lão chỉ tin vào những hợp đồng đâu đó rõ ràng, có công chứng hẳn hoi, chứ đếch tin vào những cái bắt tay.

Chuyện này thì lão hoàn toàn có lý: thiên hạ bắt tay nhau cười nói trước mặt nhưng đâm sau lưng nhau mấy hồi! Cho nên lão "thủ kỹ đường binh" là phải. Lão chưa bao giờ quá tự hào khi lừa đảo một cộng sự về một ý tưởng, một kịch bản, một tỷ lệ phần trăm đúng mức trong lợi nhuận từ một cuốn phim. Khi bị trách móc, thường là bởi một nghệ sĩ quá kích động (các nhà sản xuất thì biết ngậm bồ hòn làm ngọt hơn), Wartberg sẽ trả lời, rất đơn giản, "Tôi là một người làm phim", có lẽ giống như giọng nhà thơ Baudelaire trả lời mọi công kích của những nhà phê bình mình: "Tôi là một nhà thơ".

Lão sử dụng các luật sư như một tên côn đồ sử dụng súng; sử dụng tình cảm như một gái điếm bán dâm. Lão sử dụng những tác phẩm hay như người Hy Lạp dùng con ngựa thành Tơ-roa. Lão hỗ trợ những quỹ phúc lợi giúp các diễn viên đã nghỉ hưu, những người đói khát ở Somali, những người tị nạn ở Palestine. Thế nhưng lòng bác ái với những con người cụ thể lại không hợp "gu" của lão.

Tri-Culture Studios từ trước đã thua lỗ nặng cho đến lúc Wartberg nhận trách nhiệm. Lão ta lập tức đưa nó vào sự tính toán chặt chẽ với cơ sở từ đường đáy. Những cuộc thương lượng của lão rất là khắc nghiệt. Lão không bao giờ phiêu lưu với những ý tưởng sáng tạo cho đến khi chúng đã được chứng minh sẽ đem lại hiệu quả. Và con át chủ bài là dùng những ngân sách nhỏ.

Khi những phim trường khác đang lao đao sau khi làm những bộ phim với kinh phí hàng chục triệu đô-la cho mỗi phim, thì Tri-Culture vẫn kiên quyết không bao giờ làm phim nào tốn quá ba triệu đô. Một nhà sản xuất làm ra một phim vừa vặn với ngân sách hay dưới ngân sách là một anh hùng trong mắt Moses Wartberg. Nhưng nếu chi phí cho cuốn phim vượt quá ngân sách, thì ngay dù nó có đem lời cho phim trường cả vài chục triệu đô. Wartberg cũng nại ra điều khoản phạt đền trong hợp đồng sản xuất và tước đoạt tỷ lệ phần trăm lợi nhuận của nhà sản xuất. Hẳn là sẽ có chuyện kiện cáo đấy, ai lại chịu bị xử ức như vậy? Nhưng phim trường của lão ta luôn có sẵn hai mươi luật sư được trả lương, ngồi chầu chực quanh đó, chờ dịp để khua môi múa mỏ khoe tài biện thuyết trước toà. Thế là một cuộc điều đình thường được dàn xếp mà lão vẫn ở thế thượng phong. Nhất là nếu như nhà sản xuất, diễn viên hoặc nhà văn còn muốn làm phim khác với Tri-Culture.

***

Điều duy nhất mà mọi người nhát trí đó là Wartberg là một thiên tài về tổ chức. Lão ta có ba phó tổng, mỗi người đặc trách những lãnh địa riêng biệt và cạnh tranh với nhau để dành đặc ân của lão nhắm cái ngày mà một người trong bọn họ sẽ kế thừa ngôi báu. Cả ba đều có nhà cửa lộng lẫy nguy nga, những khoản bổng lộc hậu hĩ và toàn quyền trong lãnh vực riêng của họ, chỉ lệ thuộc vào quyền phủ quyết của Wartberg. Cả ba đều lo đi săn tìm những tài năng, những kịch bản hay với giá rẻ, nghĩ ra những dự án mới mẻ độc đáo. Luôn luôn biết rằng họ phải khống chế ngân sách ở mức thấp các tài năng dễ sai khiến và phát kiến bất kỳ tia sáng độc đáo nào trước khi mang chúng đến dãy văn phòng của Wartberg, trên tầng sân thượng của building phim trường.

Còn về chuyện tình dục thì lão không bị tai tiếng gì. Lão không hề lăng nhăng hay quấy nhiễu tình dục các em ngôi sao triển vọng. Không hề gây sức ép đối với đạo diễn hay nhà sản xuất để dành vai cho một đào cưng nào của lão. Một phần chuyện này là do bản chất khổ hạnh, và cả do khả năng sinh lý yếu kém của lão. Phần khác là do ý thức của lão ta về nhân phẩm. Nhưng lý do chính là lão đã có cuộc hôn nhân hạnh phúc trong ba mươi năm với người yêu thời niên thiếu.

Họ đã gặp nhau ở trường trung học Bronx kết hôn với nhau từ thuở thanh niên và từ đó luôn sống bên nhau.

Bella Wartberg lúc đầu là một người vợ hiền mẹ đảm rất tòng phục chồng. Nhưng theo dòng đời, quyền lực chảy từ nguồn này sang nguồn khác mà không ai biết tại sao. Khi Moses trở thành ông chủ lớn của Tri-Culture Studios hình như Bella Wartberg được cây gậy thần kỳ chạm vào và biến đổi từ một cô gái Do Thái xinh xắn, ngoan hiền thành một mệnh phụ thời thượng, linh hoạt đầy năng lực và rất tự tin là mình đẹp và hấp dân. Và thế là nàng rất sẵn lòng đón nhận khi một chàng diễn viên trẻ làm bộ si tình nàng.

Nàng đáp trả lại tình chàng một cách chân thành, sôi nổi. Nàng đến căn hộ nhếch nhác, bê bối của chàng ở Santa Monica và lần đầu tiên trong đời nàng, được "phết" một trận cẩn thận, đến nơi đến chốn! Chàng diễn viên trẻ rất khoẻ mạnh, say mê nghiệp điện ảnh và toàn tâm toàn ý tự đồng hoá với vai trò đến độ hầu như chàng ngỡ rằng mình yêu nàng thực. Chàng mua tặng nàng một vòng đeo tay thật đẹp từ cửa hàng Gucci s mà nàng sẽ nâng niu trân trọng suốt phần đời còn lại như là chứng tích cho mối tình đam mê đầu tiên của nàng. Và do đó, khi chàng yêu cầu nàng giúp đỡ để được nhận một vai trong một phim chính của Tri-Culture, chàng hoàn toàn sửng sốt khi nàng bảo không bao giờ xen vào việc làm ăn của chồng. Họ cãi nhau đầy cay đắng và chàng diễn viên biến khỏi đời nàng. Nàng nhớ chàng, nhớ căn hộ tồi tàn của chàng, những đĩa nhạc rock của chàng. Nhưng nàng là một cô gái có đầu óc. Không thể phạm cùng sai lầm như thế nữa. Nàng sẽ chọn lựa người tình thận trọng hơn.

Trong những năm tiếp theo nàng trở nên một chuyên gia thương thuyết với các diễn viên, khá tinh tường để phân biệt người tài năng với kẻ bất tài. Và nàng giúp cho những ai có tài phát huy được sự nghiệp của họ. Nàng không bao giờ phạm sai lầm là đặt vấn đề thẳng với chồng. Thay vì thế, nàng đến với một trong ba ông phó tổng. Nàng sẽ ca ngợi nhiệt liệt tài năng của một diễn viên mà nàng đã xem trong một nhóm kịch nhỏ diễn các vở của Ibsen và nhấn mạnh rằng bản thân nàng không biết gì nhiều về diễn viên đó nhưng chắc rằng anh ta sẽ là một tài sản cho phim trường. Tay phó tổng sẽ ghi tên và anh chàng diễn viên sẽ có một vai nhỏ. Chẳng bao lâu sau lời đồn lan truyền là Bella Wartberg chuyên môn ngủ bậy với bất kẻ ai, bất cứ nơi đâu, khiến bất cứ khi nào nàng ghé lại một trong các văn phòng của các ông phó tổng, các vị này đều phải cho thư ký hiện diện để khỏi mang tiếng.

Ba vị phó tổng cạnh tranh nhau để nắm quyền lực tối thượng đều nghĩ phải tìm cách thích nghi với phu nhân Wartberg. Jeff Wagon trở nên cánh hẩu với Bella và còn giới thiệu nàng cho một vài chàng trẻ đặc biệt ngon lành. Có khi nàng lảng vảng nơi các shops đắt tiền của Rodeo dành cho các bà, hoặc dùng những bữa trưa kéo dài với các nàng tiểu minh tinh xinh đẹp nơi các nhà hàng sang trọng, và nàng mang cặp kính râm khổng lồ kiểu đàn ông.

Vì mối quan hệ thân thiết với Bella, Jeff Wagon là kẻ được ưu đãi để kế vị Moses Wartberg khi lão này hưu. Nhưng có một cái bẫy. Moses Wartberg sẽ làm gì khi biết vợ lão, Bella là nữ hoàng Messalina dâm loạn của Beverly Hills? Thiên hạ kháo nhau xầm xì báo chí châm chích lộ liễu chẳng lẽ lão Wartberg lại không biết?

Như thường lệ, lão thâm hiểm này lại làm mọi người ngạc nhiên. Bằng cách tuyệt đối không làm gì cả. Lão chỉ kín đáo phục hận - mà cũng hiếm khi - tên gian phu, chứ không bao giờ trả thù con dâm phụ.

Lần đầu tiên lão ra đòn thù là khi một ngôi sao nhạc trẻ rock-and-roll bô bô về cuộc chinh phục của hắn, gọi Bella Wartberg là một cái lỗ cuồng dâm.

Tay này khi phát biểu như vậy lại thành thật nghĩ rằng đó là một lời khen đúng mức! Thế nhưng đối với Moses Wartberg thì đó lại là một lời khen thiếu tế nhị! Thằng oắt tì, mày đã chơi hoa tàn lại còn đem bẻ cành bán rao hở? Hẵng đợi đấy? Ta sẽ cho mày một trận bẽ mặt để mày bớt đi cái ngạo kia của tuổi trẻ!

Ngôi sao nhạc rock-and-roll này, với một đĩa đơn, đã làm ra tiền gấp mười lần so với thù lao khi diễn một vai trong phim. Thế nhưng chàng ta vẫn bị truyền nhiễm bởi giấc mộng Mỹ: người ta thoả mãn tính luyến ngã khi thấy mình xuất hiện trên phim.

Trong đêm chiếu thử, chàng ta đã tập trung cả đoàn tuỳ tùng gồm các nghệ sĩ thân hữu và các bạn gái và đưa tất cả đến phòng chiếu phim riêng của Wartberg, chật ních những ngôi sao hàng đầu của phim trưởng Tri-Culture. Đây là một trong những party lớn trong năm.

Ngôi sao nhạc rock ngồi và ngồi và ngồi.

Chàng ta chờ và chờ và chờ. Phim vẫn được chiếu tới, tới. Thế nhưng trên màn hình, nào đâu thấy khuôn mặt chàng xuất hiện cho thiên hạ chiêm ngưỡng. Vì đoạn phim nào có chàng đều đã được cắt, vất trên sàn phòng biên tập! Chàng thẹn và tức đến hoá đá, ngã lăn ra bất tỉnh và được các bạn bè khênh ra xe đưa về nhà. Moses Wartberg đã ăn mừng sự biến đổi của lão ta từ một nhà sản xuất thành công của phim trưỡng bằng một cú ngoạn mục. Qua bao năm trong nghề; lão đã nhận thấy rằng các nhà tài phiệt điện ảnh thường tức giận với việc mọi chú tâm của công chúng đều đổ dồn cho các diễn viên, các nhà văn, các nhà sản xuất trong những cuộc phát giải của Hàn lâm viện Điện ảnh. Họ nổi sùng vì chỉ những nhân viên của họ nhận tất cả vinh quang từ những cuốn phim do họ tạo ra. Chính Moses Wartberg, từ mấy năm trước, là người khởi xướng ý tưởng về một giải Irving Thalberg trao cùng lúc với giải của Hàn lâm viện Điện ảnh. Giải này sẽ được trao cho nhà sản xuất đạt chất lượng cao ốn định qua nhiều năm. Trong thực tế, nhiều nhà sản xuất mà phim của họ chưa bao giờ được giải của Hàn lâm viện nhưng họ lại rất có ảnh hưởng trong công nghiệp điện ảnh, cũng được chia phần danh giá khi thắng giải Thalberg. Thế nhưng vẫn còn những ông chủ hãng phim và những ngôi sao làm ra tiền thực sự nhưng tác phẩm của họ lại không bao giờ xuất sắc.

Thế là Wartberg lại đề xướng thêm giải thưởng Nhân đạo cho nhân vật nào trong ngành công nghiệp điện ảnh thể hiện những lý tưởng cao cả, cống hiến đời mình cho sự cải thiện ngành nghề và cho nhân loại. Cuối cùng, hai năm trước đây, Moses Wartberg đã được trao giải này và nhận giải trên truyền hình trước sự theo dõi của hơn một trăm triệu khán giả Mỹ đầy lòng ngưỡng mộ. Giải thưởng này đã trở thành một vật sở hữu đáng giá nhất của Moses Wartberg dầu không thiếu lời mỉa mai biếm nhẽ của người trong ngành cũng như bên ngoài.

Chính Wartberg đã triển khai kỹ thuật chất lên một ngôi sao đang nổi gánh nặng mua sắm trả chậm: nhà cửa, xe cộ sang trọng, vật dụng đắt tiền để bắt buộc người đó phải chịu diễn trong những phim không có giá trị nghệ thuật tư tưởng gì nhưng lại hái ra tiền. Chính Wartberg đã tạo được những mối quan hệ thân thiết với giới quyền lực ở Washington. Các vị chính khách khoái được du hí với các em xì-tác-lét xinh thật là xinh, bằng những quỹ mật, những cuộc nghỉ ngơi thư giãn đắt tiền, từ quỹ của phim trường trên khắp thế giới. Lão là kẻ biết cách sử dụng các luật sư để vo tròn bóp méo pháp luật theo ý mình, để ăn cắp và lừa đảo mà vẫn chui lọt qua những lỗ hổng của pháp luật, trơn như con chạch. Doran vẫn phê phán Moses nặng nề như thế, nhưng tôi thì thấy lão ta cũng giống như hầu hết mọi doanh gia, phải tuân theo quy luật "vi nhân bất phú, vi phú bất nhân" thế thôi. Thương nhân đa trá, âu cũng là cái lẽ tự nhiên, bình thường vậy. Ngoài tính sắc sảo quỷ quyệt của lão mối quan hệ với giới quyền lực ở Washington là tài sản quan trọng nhất mà Tri-Culture Studios sở hữu được. Các kẻ thù của lão loan truyền nhiều chuyện xì-căng-đan về lão, phần lớn là bịa vì thực ra lão sống khá khổ hạnh. Họ tung ra tin đồn là lão ta vẫn bí mật bay qua Paris hàng tháng để hú hí với các em choai choai còn vị thành niên. Họ còn độc miệng loan truyền lão ta là kẻ mắc bệnh ưa dòm qua lỗ khoá mà lại là lỗ khoá buồng ngủ của chính vợ mình khi y thị hú hí với tình nhân. Toàn những chuyện hết nói nổi.

Về trí thông minh và sức mạnh nhân cách của lão, không còn gì phải nghi ngờ. Không giống như các nhà tài phiệt điện ảnh khác, lão ta lại lẫn tránh ánh sáng quảng cáo; ngoại lệ duy nhất là việc lão vận động để được giải thưởng Nhân đạo.

***

Doran lái xe đưa tôi vào Tri-Culture Studios. Khi đến toà nhà chính, chúng tôi đã đưa thẻ chứng minh cho một nhân viên an ninh kiểm tra, sau đó anh ta gọi điện thoại để biết chắc rằng chúng tôi đã được hẹn. Một cô thư ký bước xuống và dẫn chúng tôi vào thang máy để lên tầng trên cùng. Sang trọng nhưng giống như có ma, làm người ta hơi khớp.

Dù vậy, tôi phải công nhận mình bị ấn tượng bởi vẻ bặt thiệp của Jeff Wagon. Tôi biết lão ta đạo đức giả, dối trá nhưng điều đó dường như cũng tự nhiên thôi. Chúng tôi ngồi xuống trước bàn giấy của lão ta và Wagon bảo cô thư ký ngưng mọi cuộc gọi. Làm như lão tôn trọng chúng tôi lắm lắm. Nhưng rõ ràng lão đã không cho mật mã để thực sự ngưng mọi cuộc gọi bởi vì trong lúc bàn việc với chúng tôi, lão cũng nhận đến ba cuộc gọi.

Chúng tôi còn phải chờ Wartberg nửa tiếng trước khi cuộc thảo luận bắt đầu. Jeff Wagon kể vải chuyện tiếu lâm, cả câu chuyện nàng sơn nữ xứ Oregon đã thiến dế lão ta như thế nào.

- Phải chi cô ta làm tốt hơn, - Wagon nói, - Cô ta đã tiết kiệm cho tôi nhiều tiền bạc và tránh được bao điều rắc rối trong những năm vừa qua.

Điện thoại của Wagon lại reo lên, và ông ta dẫn Doran và tôi đến một phòng hội thảo sang trọng có thể dùng làm phòng chiếu phim.

Tại bàn hội thảo có Ugo Kellino, Houlinan và Moses Wartberg đang tán gẫu với nhau. Phía xa là một anh chàng trung niên nhưng đầu tóc bạc trắng mờ ảo. Wagon giới thiệu anh ta là đạo diễn mới của cuốn phim. Tên anh ta là Simon Bellfort, một cái tên nghe quen quen. Hai mươi năm trước anh ta đã làm một cuốn phim chiến tranh rất hay. Ngay sau đó anh ta đã ký một hợp đồng dài hạn với Tri-Culture và trở thành con át chủ bài làm ra tiền cho Jeff Wagon.

Anh chàng trẻ đi với anh ta được giới thiệu là Frank Richetti, có khuôn mặt sắc sảo, ranh mãnh, ăn mặc kiểu hippie California với chiếc áo Combo Polo, ra dáng một chàng Don Juan tân thời chuyên đi dụ dỗ gái tơ. Đây là tay phụ tá sản xuất của Bellfort.

Moses Wartberg không để phí thời gian. Giọng trầm trọng uy quyền, ông ta đi thẳng vào vấn đề:

- Tôi không hài lòng với kịch bản do Malomar để lại. Cách tiếp cận đó sai lầm. Đó không phải là phim của Tri-Culture. Malomar là một thiên tài, chỉ anh ấy mới có thể đạo diễn phim theo kịch bản đó. Chúng ta không có ai ngang tầm cỡ anh la.

Frank Richetti xen vào giọng ngọt ngào, duyên dáng:

- Thưa ông Wartberg, tôi nghĩ rằng tại đây ông cũng có vài đạo diễn tài ba đấy chứ. - Chàng ta cười và nhìn Simon Bellfort đầy tình tứ.

Wartberg nhìn chàng ta thật lạnh. Thế là anh chàng co vòi ngay. Còn Bellfort hơi đỏ mặt nhìn lảng chỗ khác.

- Chúng ta phải đổ nhiều tiền cho phim này, - Wartberg tiếp tục. - Phải bảo đảm việc đầu tư đó. Chúng ta không muốn bọn phê bình nhảy chồm chồm lên chúng ta cho rằng chúng ta làm hỏng tác phẩm của Malomar. Chúng ta muốn dùng danh tiếng của anh ấy cho cuốn phim này. Houlinan sẽ phát một thông cáo báo chí với chữ ký của tất cả chúng ta ở đây xác nhận rằng cuốn phim sẽ được làm theo ý đồ của Malomar. Đó sẽ là một cuốn phim của Malomar dù không có Malomar, một cống phẩm cuối cùng cho sự vĩ đại của anh ấy và là một đóng góp sau cùng của anh cho nền điện ảnh Hoa Kỳ.

Wartberg dừng lời khi Houlinan phân phát các bản sao tờ thông cáo báo chí cho mọi người. Trên giấy đẹp có tiêu đề và logo của Tri-Culture Studios, in hai màu đỏ và đen.

Kellino nói kiểu thân mật, tự nhiên:

- Này Moses, tôi nghĩ ông nên nêu rõ rằng Merlyn và Simon sẽ cùng làm việc với tôi về kịch bản mới.

- OK, điều đó đã được nêu ra, - Wartberg nói.

- Và Ugo này, cho phép tôi nhắc nhở anh rằng anh không được xen vào việc sản xuất hay đạo diễn. Đó là một phần trong hợp đồng của chúng ta.

- Chắc chắn thế rồi, - Kellino nói.

Jeff Wagon mỉm cười và dựa ngửa vào lưng ghế:

- Thông cáo báo chí là vị thế chính thức của chúng ta. - lão nói - Nhưng Merlyn này, tôi phải nói với anh rằng Malomar đã rất sai lầm khi viết kịch bản này. Thật kinh khủng. Chúng ta phải viết lại tôi có vài ý tưởng. Có rất nhiều việc phải làm. Ngay bây giờ chúng ta phải phủ đầy các phương tiện truyền thông về Malomar. Anh thấy ổn không, Jack? - ông hỏi Houlinan. Và Houlinan gật đầu.

Kellino nói với tôi, rất thành thật:

- Tôi hy vọng bạn sẽ làm việc với tôi về phim này để làm cho nó trở thành một tuyệt phẩm như Malomar từng mong muốn.

- Không, - tôi nói. - Tôi không thể làm điều đó. Tôi đã cùng làm việc với Malomar về kịch bản, tôi nghĩ kịch bản đó hoàn hảo. Vì thế tôi không chấp thuận bất kỳ sự sửa đổi nào hay viết lại. Tôi sẽ không ký bất kì thông cáo báo chí nào về vụ đó.

Houlinan từ tốn chen vào:

- Chúng tôi đều biết anh cảm thấy như thế nào. Anh đã rất gần gũi với Malomar trong phim này. Tôi tán thành những gì anh vừa nói, nghĩ rằng thật kỳ diệu và hiếm hoi khi thấy sự trung thành như thế ở Hollywood, nhưng hãy nhớ rằng, anh cũng có tỷ lệ ăn chia trong phim. Quyền lợi của anh gắn liền với việc cuốn phim thành công. Nếu anh không phải là người bạn của phim, nếu anh là kẻ thù của phim, thì anh đang lấy tiền ra khỏi túi anh đấy.

Tôi thật sự bật cười khi nghe anh ta nói "Tôi là người bạn của phim mà". Đó là lý do tại sao tôi không muốn viết lại kịch bản. Mấy người mới chính là kẻ thù của phim này.

Kellino nói đột ngột, cộc lốc:

- Mẹ, bọn mình cần đếch gì hắn. Để hắn đi đi.

Lần đầu tiên, tôi nhìn chằm chằm vào Kellino, và tôi nhớ sự mô tả của Osano về nhân vật này. Như thường lệ. Kellino ăn mặc rất đẹp, bộ comple cắt rất vừa khéo, áo sơ-mi hàng cao cấp nhất, giày nâu bóng. Trông anh ta thật bảnh bao và tôi nhớ Osano đã dùng nhóm từ "anh nhà quê hãnh tiến" để chỉ Kellino và tôi thấy quả thật rất hợp với anh ta.

Wartberg nói với Wagon:

- Hãy dàn xếp vụ này, - Và ông ta rời phòng.

Ông ta không thể phải chịu bực mình đi tranh cãi với một anh nhà văn ấm ở, dở hơi. Ông ta đến dự buổi họp chỉ vì lịch sự với Kellino mà thôi.

Wagon nói từ tốn:

- Merlyn có vai trò quan trọng trong dự án này, Ugo à. Tôi chắc rằng khi anh ấy nghĩ kỹ lại, anh ấy sẽ gặp chúng ta. Doran này, tại sao chúng ta không ngồi lại với nhau vài ngày nữa?

- Tất nhiên rồi! - Doran nói. - Tôi sẽ gọi cho ông.

Chúng tôi đứng lên để rời đi. Tôi trao bản copy thông cáo báo chí cho Kellino.

- Có gì dính ở giày anh kìa, - tôi nói. - Hãy lấy cái này để chùi đi!

Khi chúng tôi rời Tri-Culture Studios, Doran bảo tôi đừng lo ngại gì. Anh nói rằng anh có thể dàn xếp ổn thoả mọi chuyện trong vòng một tuần, rằng Wartberg và Wagon không thể để cho tôi trở thành kẻ thù của bộ phim. Họ sẽ tìm cách thoả hiệp. Và tôi cũng đừng quên tỷ lệ ăn chia của tôi.

Tôi nói với anh ta rằng tôi đếch cần và tôi bảo anh ta lái nhanh hơn lên. Tôi biết rằng Janelle sẽ chờ tôi ở khách sạn và dường như điều tôi mong muốn nhất trên đời hiện nay là gặp lại nàng. Để sà vào người nàng và hôn nàng và nằm bên nàng, nghe nàng kể chuyện.

Tôi thấy vui vì có được lý do để ở lại Los Angeles với nàng trong cả tuần. Thực sự tôi chẳng tha thiết lắm với việc làm phim. Với Malomar chết đi, tôi biết rằng cuốn phim sẽ chỉ là một thứ phó phẩm khác của Tri-Culture mà thôi.

***

Khi Doran bỏ tôi xuống ở khách sạn Beverly Hills. anh ta đặt bàn tay lên cánh tay tôi và nói:

- Chờ một tí. Tôi có chuyện này muốn nói với anh.

- Được thôi, - tôi hơi sốt ruột nói.

Doran nói:

- Tôi đã tính nói chuyện này cho anh biết từ lâu rồi, nhưng tôi cảm thấy có lẽ không phải là việc của mình.

- Ôi Trời! - tôi nói - Anh sắp nói chuyện quái gì vậy? Tôi đang vội lắm đây.

Doran cười buồn:

- Vâng, tôi biết. Janelle đang chờ anh đúng không? Tôi muốn nói với anh về nàng ta đấy.

- Này, - tôi nói với Doran, - Tôi biết tất cả về nàng và tôi chẳng cần quan tâm nàng làm gì, nàng như thế nào. Chuyện ấy đối với tôi chẳng có gì khác biệt.

Doran ngưng một lát:

- Anh có biết nàng Alice mà Janelle từng sống chung?

- Có, - tôi nói. - Một cô gái dịu dàng.

- Một cô nàng đồng dục nữ đấy. - Doran nói.

- Ờ, rồi sao? - tôi hỏi.

- Janelle cũng thế. - Doran nói.

- Nghĩa là đồng dục nữ?

- Lưỡng giới thì đúng hơn. Nàng ta thích cả đàn ông lẫn đàn bà.

Tôi nghĩ về chuyện ấy một lát, rồi mỉm cười và nói:

- Nhân vô thập toàn mà.

Và tôi ra khỏi xe, đi lên phòng tôi, nơi Janelle đang đợi và chúng tôi làm tình với nhau trước khi dẫn nhau đi ăn. Nhưng lần này tôi không yêu cầu nàng kể chuyện nào. Tôi cũng không nêu ra điều Doran vừa nói. Chẳng cần thiết, tôi đã mường tượng điều ấy từ lâu và đã làm hoà với nó. Thế cũng tốt hơn là nàng ngủ với những thằng đàn ông khác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Qua nhiều năm, Cully Cross đã làm công việc của mình một cách xuất sắc và cuối cùng dành được phần thưởng xứng đáng. Anh thực sự trở thành Xanadu Số hai, tiền bạc lúc nào cũng đầy túi, được trao toàn quyền với một "cây bút chì vàng". Anh có thể bao mọi thứ không chỉ phòng ở, đồ ăn thức uống, mà còn vé máy bay đi khắp mọi nơi trên thế giới, những cô gái gọi đắt tiền nhất, và cả quyền xoá sổ nợ cho khách. Anh còn có thể phát không những con phỉnh để đánh bài cho những tay chơi hàng đầu là khách hàng quen của Xanadu.

Trong những năm đó, Gronevelt đối xử với anh có phần như một người cha hơn là như ông chủ. Tình hữu nghị giữa hai người ngày càng thắm thiết. Họ đã kề vai sát cánh chiến đấu chống lại hàng trăm mưu đồ gian lận, làm nản lòng bọn thù trong giặc ngoài toan tính cướp giật tiền bạc của khách sạn Xanadu.

Dù bọn cờ gian bạc lận có trăm mưu ngàn kế nhưng cuối cùng chúng đều bị Cully và Gronevelt hợp lực đánh bại.

Trong những năm đó, Cully đã giành được sự nể nang của Gronevelt vì sự nhạy bén của anh trong việc thu hút khách hàng mới cho khách sạn. Anh đã tổ chức một cuộc tranh tài cờ thỏ cáo toàn thế giới, ngay tại khách sạn Xanadu. Anh đã giữ chân được một khách hàng đánh bạc hàng triệu đô-la mỗi năm bằng cách tặng ông ta một chiếc Rolls-Royce vào mỗi kỳ lễ Giáng Sinh. Nhưng cú bậc thầy của Cully được thi thố với Charles Hemsi, Gronevelt còn thích thú khoe khoang sự khôn ngoan sắc sảo của kẻ mình bảo trợ nhiều năm sau vụ đó.

Gronevelt đã do dự về chuyện Cully mua lại tất cả các sổ nợ của Hemsi ở Vegas với giá mười cent cho mỗi đô-la. Nhưng ông ta đã giao đầu mình cho Cully. Và chắc chắn là Hemsi đến Vegas ít nhất sáu lần mỗi năm và luôn luôn ở Xanadu. Trong một lần ông ta chơi ở bàn crap và thắng lớn, được bảy chục ngàn đô. Ông ta dùng tiền đó để trả một phần số nợ và thế là Xanadu đã thanh toán hết được các chủ nợ kia. Nhưng lúc đó Cully mới trổ ngón tuyệt kỹ của mình.

Trong một lần đến chơi, Charles Hemsi tiết lộ rằng con trai ông ta sắp cưới một cô gái ở Israel. Cully rất vui mừng cho ông bạn và nói rằng khách sạn Xanadu sẵn sàng lo việc đưa đón cả đoàn bà con bạn bè đi dự đám cưới. Cully bảo với Hemsi rằng chiếc máy bay phải lực của Xanadu (một ý tưởng khác của Cully là mua chiếc máy bay này để tóm bắt những cơ hội làm ăn từ những cuộc tiệc tùng, du hí), sẽ chở toàn bộ thân bằng quyến thuộc đi dự đám cưới ở Israel và thanh toán tiền khách sạn ở đó cho họ. Xanadu cũng sẽ thanh toán chi phí tiệc cưới, ban nhạc mọi khoản. Chỉ với một điều kiện duy nhất. Bởi vì các khách mời dự đám cưới ở rải rác khắp nước Mỹ, yêu cầu tất cả tập trung đổ lên máy bay ở Las Vegas. Và họ đều được ăn ở miễn phí ở Xanadu trong lúc chờ tập hợp đủ để bay đi Israel.

Cully tính toán khách sạn sẽ tiêu tốn hết khoản hai trăm ngàn đô-la. Anh thuyết phục Gronevelt rằng sẽ lấy lại được cả vốn lẫn lãi, và nếu không, ít nhất họ có bố con Charlie Hemsi là khách chơi trọn đời.

Nhưng kết quả chứng tỏ đây là một cú tuyệt chiêu. Trên một trăm khách mời đi đám cưới đã đến Vegas và trước khi họ ra đi để dự tiệc cưới ở Irael, họ để lại gần một triệu đô-la trong phòng thủ quỹ của Xanadu.

Nhưng hôm nay Cully dự định trình bày với Gronevelt một kế hoạch làm ra tiền độc đáo hơn, một kế hoạch sẽ khiến Gronevelt và các đối tác của ông phải đưa anh lên làm tổng quản lý của khách sạn Xanadu, vị thế chính thức công khai có quyền lực nhát sau Gronevelt. Anh đang chờ Fummiro. Trong hai lần đến chơi gần đây nhất, Fummiro đã chồng lên số nợ khá cao; anh ta đang gặp trở ngại trong thanh toán.

Cully biết lý do và đã tìm ra giải pháp. Nhưng anh biết phải để cho Fummiro đưa ra sáng kiến trước, bởi Cully biết anh ta sẽ ngượng nếu như chính Cully chủ động gợi ý giải pháp. Nàng Daisy đã dạy cho anh điều đó - về tính tế nhị nhạy cảm của người Nhật.

Fummiro cuối cùng cũng đến Vegas, chơi piano buổi sáng và điểm tâm bằng bằng món cháo quốc hồn quốc tuý của Nhật bản. Anh ta không máu lắm chuyện đàn bà. Anh ta chỉ chăm vào chuyện cờ bạc, và trong ba ngày thua nhẵn số tiền mặt mang theo và ký thêm ba trăm ngàn đô-la vào sổ nợ. Trước khi ra đi, anh ta mời Cully đến phòng mình. Fummiro rất lịch sự và hơi có phần bối rối.

Anh ta không muốn mất thể diện, sợ rằng Cully sẽ nghĩ rằng anh ta không muốn trả số nợ cở bạc, nhưng rất thận trọng anh giải thích với Cully rằng mặc dù anh ta có đầy tiền ở Tokyo và một triệu đô-la đối với anh ta chỉ là chuyện nhỏ, nhưng vấn đề là làm sao lấy tiền mặt ra khỏi nước Nhật, và đổi đồng yên Nhật thành đô-la Mỹ.

- Như vậy, ông Gross à, nếu ông có thể đến Nhật, tôi sẽ trả nợ cho ông ở đó bằng đồng yên Nhật, và rồi tôi chắc rằng ông có thể tìm cách nào đó để chuyển tiền về Mỹ.

Cully muốn bảo đảm với Fummiro về sự tin tưởng hoàn toàn của Khách sạn đối với ông ta.

- Ông Fummiro à, - anh nói. - thực sự không có gì phải vội, uy tín của ông đối với chúng tôi là hoàn toàn bảo đảm. Số tiền một triệu đô-la đó chúng tôi có thể chờ cho đến lần tới khi ông lại đến Vegas. Thực sự không có vấn đề gì đáng kể. Chúng tôi luôn luôn vui thích khi có ông đến chơi. Xin ông đừng ưu tư gì. Hãy để tôi được phục vụ ông và ngay bây giờ đây nếu ông thích gì hãy cho tôi biết và tôi sẽ thu xếp. Thật là vinh hạnh khi ông nợ chúng tôi số tiền này.

Khuôn mặt đẹp trai của Fummiro thơ thới ra hẳn.

Ông ta đang thương lượng không phải với một tên Mỹ man rợ, mà là với một con người rất ư lịch sự của xứ sở Huê Kỳ văn minh, hầu như cũng lịch sự chẳng kém gì người Nhật. Ông ta nói:

- Này ông Gross, sao ông không đến thăm chúng tôi? Chúng ta sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời ở Nhật. Tôi sẽ đưa bạn đến một kỹ viện Geisha, bạn sẽ thưởng thức những món trân kì thượng hảo hạng, những loại danh tửu cực ngon và những mỹ nữ xinh như mộng với nghệ thuật chiều đàn ông không chê vào đâu được. Bạn sẽ là khách mời đặc biệt của tôi và tôi được dịp đáp lễ bạn về lòng hiếu khách mà bạn từng bao lần ân cần thể hiện với tôi và tôi có thể hoàn lại cho bạn một triệu đô-la của khách sạn.

Cully biết rằng chính quyền Nhật đã ra một đạo luật rất khắt khe về việc đưa đồng yên Nhật ra khỏi nước một cách bất hợp pháp. Fummiro đang đề nghị một hành vi phạm pháp. Anh vẫn chờ đợi và chỉ gật đầu luôn nhớ là phải mỉm cười liên tục.

Fummiro nói tiếp:

- Tôi muốn làm điều gì đó cho bạn. Tôi hoàn toàn tin cậy bạn, và đó là lý do duy nhất khiến tôi nói điều này với bạn. Chính quyền chúng tôi rất chặt chẽ trong việc xuất khẩu đồng Yên. Tôi muốn lấy tiền của chính tôi ra khỏi nước. Bây giờ khi đem về một triệu đô-la cho Xanadu, nếu như bạn có thể đem thêm một triệu đô-la ra cho tôi và ký thác ở phòng thủ quỹ của khách sạn, bạn sẽ nhận được năm chục ngàn đô-la.

Cully cảm thấy sự thoả mãn ngọt ngào của việc khéo tính toán đâu vào đấy. Anh nói thành thật:

- Ông Fummiro à, tôi sẽ làm điều đó vì tình bạn với ông. Nhưng tất nhiên là tôi phải trình với ông Gronevelt trước đã.

- Tất nhiên rồi, - Fummiro nói. - Tôi cũng sẽ trình bày sự việc với ông ấy.

Liền sau đó Cully gọi đến dãy phòng của Gronevelt và được người trực tổng đài riêng của ông cho hay là Gronevelt đang bận và không tiếp cuộc gọi nào trong chiều hôm đó. Anh để lại lời nhắn là có chuyện khẩn. Anh chờ trong văn phòng của mình, ba giờ sau chuông điện thoại reo, và chính Gronevelt bảo anh đến phòng ông.

Gronevelt đã thay đổi rất nhiều trong mấy năm gần đây. Màu hồng hào trên làn da của ông đã rút đi, chỉ để lại một màu trắng nhợt nhạt. Khuôn mặt choắt lại giống mặt một con điều hâu gầy. Ông bỗng già sọm đi trông thấy và Cully biết rằng ông ta hiếm khi gọi cô gái nào đến để tiêu sầu giải muộn vào buổi chiều. Dường như ông càng ngày càng đắm mình vào sách vở và để phần lớn việc điều hành khách sạn cho Cully.

Nhưng mỗi buổi tối ông vẫn còn làm một tua thanh tra tầng casino với đôi mắt điều hâu của mình và phóng ra cái uy lực điện từ khiến các tay chủ sòng cũng như toàn thể đám nhân viên phục vụ phải kiêng dè.

Gronevelt đã lên bộ để bước xuống tầng casino. Ông mang theo bộ kiểm soát để khi cần điều khiển cho dưỡng khí vào các phòng casino. Nhưng bây giờ hãy còn sớm. Ông sẽ nhấn nút vào thời điểm nào đó vào những giờ đầu buổi sáng khi các tay chơi đang mệt mỏi và nghĩ đến việc đi ngủ. Lúc đó ông sẽ tiếp sinh lực khiến họ linh hoạt lại, như những con rối trong tay ông, để họ lại lao vào sát phạt tiếp. Chỉ năm vừa rồi, ông mới cho bộ kiểm soát dưỡng khí để trực tiếp nơi dãy phòng ông.

Gronevelt ra lệnh mang bữa ăn tối đến dãy phòng ông. Cully đang căng thẳng, tại sao Gronevelt bắt anh chờ đến ba tiếng? Phải chăng Fummiro đã nói với ông ta trước? Và anh biết ngay rằng đó là điều đã xảy ra. Anh thấy oán hận; hai người họ quá mạnh, anh chưa đạt đến tầm cỡ của họ vì thế họ đã tham khảo ý kiến nhau mà không cần có mặt anh.

Cully nói ngọt ngào:

- Cháu đoán là Fummiro đã nói với bác về ý tưởng của ông ta. Cháu bảo với ông ấy là cháu cần trình với bác trước đã.

Gronevelt cười với anh:

- Này Cully, con ta, giỏi quá. Tốt lắm. Chính ta cũng không thể làm hay hơn. Con để tên Nhật ấy đến con. Ta ngại con sẽ sốt ruột với đống sổ nợ trong phòng thủ quỹ.

- Chính cô bạn gái Daisy đã làm cho con trở thành người Nhật rồi, - Cully nói.

Gornevelt hơi nhíu mày:

- Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản, đàn bà nguy hiểm lắm con à. Những kẻ như con và ta không thể cho đàn bà đến gần. Như thế ta mới giữ được nội lực của chúng ta. Đàn bà có thể làm cho người ta chết vì những chuyện lãng nhách. Thế nên người xưa mới đúc kết kinh nghiệm anh hùng nan quá mỹ nhân quan. Dù sao đàn ông nhiều từ ái và đáng tin cậy hơn. - Ông thở dài, - Nói thế thôi chứ ta cũng không phải lo lắm cho con trong lãnh vực đó. Con biết rải những Con ong mật điệu nghệ lắm.

Ông lại thở ra, nhè nhẹ lắc đầu rồi quay lại với công việc.

- Điều rắc rối duy nhất trong chuyện này là chúng ta khó tìm được phương cách an toàn để đưa tiền khỏi Nhật. Chúng ta có cả một gia tài trong sổ nợ ở đây nhưng ta chẳng coi nó có ý nghĩa gì. Chúng ta có cả một lô vấn đề phải xem xét. Thứ nhất, nếu như nhà cầm quyền Nhật tóm được con phải nằm nhà đá đến mấy năm bên đó. Thứ nhì, một khi nắm tiền rồi, con sẽ là mục tiêu cho bọn cướp. Đám tội phạm Nhật có bọn tình báo rất tốt. Chúng biết ngay khi nào con có tiền. Thứ ba, số tiền yên có giá trị ngang hai triệu đô-la Mỹ sẽ phải đựng trong một vali rất to. Ở Nhật, họ rọi X-quang qua hành lý. Làm thế nào ta đổi chúng ra đô-la Mỹ một khi đã đem được chúng ra? Làm thế nào anh đến Mỹ và rồi dù ta nghĩ có thể đảm bảo với anh là điều đó không thể xảy ra, đối phó thế nào với bọn cướp ở đây? Những người ở khách sạn này sẽ biết ta gửi anh đến đó để lấy tiền. Ta có những đối tác nhưng không thể bảo đảm sự kín miệng của tất cả bọn họ. Và cũng có thể hoàn toàn do ngẫu nhiên, anh làm mất số tiền đó. Nghe này, Cully, đây là vị thế mà anh sẽ rơi vào. Nếu anh làm mất tiền, ta sẽ luôn luôn nghi ngờ anh có tội, trừ khi anh bị giết.

Cully nói:

- Con đã nghĩ đến tất cả những điều đó. Con đã kiểm tra kỹ và thấy rằng chúng ta có ít nhất là một đến hai triệu đô-la trong sổ nợ với những tay chơi người Nhật khác. Như vậy con sẽ mang ra khỏi Nhật số tiền yên trị giá bốn triệu đô.

Gronevelt cười:

- Chỉ trong một chuyến đi thì quả là một ván bài lớn kinh khủng. Mà lại rất ít cơ may thắng cuộc

Cully nói:

- Thì có thể là một chuyến, là hai chuyến, là ba chuyến. Trước tiên con phải tìm hiểu xem làm thế nào để thực hiện cho trót lọt.

Gronevelt nói:

- Đường nào thì con cũng phải hứng chịu mọi nguy cơ. Theo như ta thấy, con chẳng được lợi gì từ vụ này. Nếu thắng con cũng chẳng được gì. Nếu bại, con mất tất cả. Nếu xông vào vị thế đó, con đã phí hoài bao nhiêu năm ta đã dạy bảo. Vậy thì tại sao con muốn làm điều này? Được lợi gì đâu?

Cully nói:

- Nào thử xem con sẽ làm chuyện này tự lực mình, không ai giúp đỡ. Con sẽ chịu mọi lời phỉ báng nếu làm hỏng việc. Nhưng nếu mang về bốn triệu đô-la an toàn, con có quyền hy vọng được bổ nhiệm làm tổng quản lý của khách sạn này. Bác biết rằng con là tâm phúc của bác. Con sẽ không bao giờ phản lại bác.

Gronevelt thở ra:

- Đó là một vụ cá cược quá ghê gớm. Ta không đành lòng thấy con phải hứng chịu nhiều nguy cơ đến vậy!

- Vậy là nhất trí? - Cully hỏi.

Anh cố giữ sự vui mừng thoát ra khỏi giọng nói. Anh không muốn Gronevelt biết anh nôn nóng muốn làm vụ này đến thế nào.

- Ừ,. Gronevelt nói. - Nhưng chỉ lấy hai triệu của Fummiro thôi, đừng để ý đến số tiền những người khác nợ chúng ta. Nếu có gì trục trặc, chúng ta chỉ mất hai triệu thôi

Cully cuời nhập vào cuộc chơi:

- Chúng ta chỉ mất một triệu đô, còn triệu kia là của Fummiro. Bác nhớ chứ?

Groneve nói, hoàn toàn nghiêm túc:

- Tất cả đều là của chúng ta. Một khi số tiền đó nằm trong phòng thủ quỹ của chúng ta, Fummiro sẽ chơi đến khi thua hết thôi. Đó là sức mạnh của cuộc kinh doanh này.

***

Sáng hôm sau, Cully đưa Fumưnro đến phi trường bằng chiếc Rolls-Royce của Gronevelt. Anh có một món quà đắt giá cho Fummiro, một chuỗi đồng tiền vàng đúc từ thời phục hưng của Ý. Fummiro rất vui sướng nhưng Cully cảm nhận được một chút thẹn thùng dưới vẻ hân hoan bộc lộ của anh ta.

Cuối cùng Fummiro nói:

- Khi nào bạn đến Nhật?

- Khoảng chừng giữa hai tuần cho đến một tháng kể từ hôm nay, - Cully nói. - Ngay cả ông Gronevelt cũng sẽ không biết chính xác ngày nào. Anh biết tại sao rồi?

Fummiro gật đầu:

- Vâng, bạn phải rất cẩn trọng mới được. Tôi sẽ để sẵn tiền cho bạn.

Khi Cully quay về khách sạn, anh gọi đến Merlyn ở New York.

- Ê này Merlyn, cậu nghĩ sao về một chuyến du hành cùng với tớ đến Nhật Bản, với mọi chi phí có người bao hết, và bao nhiêu em Geisha vây quanh, chiều các anh từ A tới Z?

Có một khoảng lặng dài bên kia đầu dây và rồi anh nghe giọng Merlyn nói:

- Chắc chắn rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Một chuyến đi Nhật vào thời điểm này quả là một ý tưởng làm tôi thấy hứng thú. Dầu sao thì vào tuần sau, tôi cũng phải đi Los Angeles để làm việc về cuốn phim, như vậy tôi cũng đi một phần đường rồi. Và tôi cũng chiến đấu kịch liệt với Janelle đến độ tôi muốn nghỉ xả hơi một thời gian với nàng. Tôi biết rằng nàng sẽ coi việc tôi đi Nhật như một cách xúc phạm nàng và điều đó làm tôi hài lòng.

Vallie hỏi tôi sẽ lưu trú ở Nhật trong bao lâu và tôi bảo độ một tuần. Vẫn như trước giờ, nàng chẳng bận lâm mấy đến chuyện tôi đi hay ở. Thực tế là nàng cảm thấy nhẹ nhõm thư thái hơn khi tôi đi khỏi nhà. Nàng để nhiều thì giờ viếng thăm ông bà via và anh chị em, và đem theo các con về ngoại.

Khi tôi ra khỏi máy bay ở Las Vegas. Cully đón tôi với chiếc Rolls-Royce, ngay trên bãi đáp để tôi không phải đi bộ qua trạm đến. Điều ấy làm rung lên những hồi chuông báo động trong đầu tôi.

Một thởi gian lâu trước đây, Cully đã giải thích cho tôi lại sao thỉnh thoảng anh đón khách ngay trên bãi đáp. Anh làm điều đó để tránh sự giám sát bằng camera của FBI đối với mọi hành khách đến. Tại nơi mà mọi hành lang đồng quy về phòng đợi trung tâm của trạm đến, có một chiếc đồng hồ khổng lồ. Đằng sau chiếc đồng hồ đó, trong một cái hộp được thiết kế đặc biệt, là những camera ghi hình những đám đông các tay chơi hăm hở đổ về Las Vegas từ mọi nơi trên thế giới. Tối đến, đội trực của FBI sẽ quay lại bộ phim và kiểm tra đối chiếu các danh sách truy nã của họ. Những tay cướp nhà băng trót lọt, những viên chức biển thủ công quỹ rồi trốn đì, những "nghệ sĩ" làm bạc giả, những tên bắt cóc thành công và những tên tống tiền đều ngạc nhiên sửng sốt khi chúng bị tóm trước khi có cơ hội ném những đồng tiền phi nghĩa kia vào cuộc đỏ đen và những trò chơi sa đoạ khác.

Khi tôi hỏi Cully làm thế nào anh biết chuyện này, anh bảo tôi rằng tay trưởng ban an ninh hiện nay ở khách sạn của anh nguyên là một nhân viên cao cấp của FBI. Đơn giản là thế?

Bây giờ tôi để ý thấy rằng Cully tự lái chiếc Rolls-Royce. Không có tài xế. Anh lái chiếc xe vòng quanh trạm đến, hướng về khu hành lý, và chúng tôi ngồi trong xe lúc chờ hàng lý của tôi xuống cầu trượt. Trong lúc chờ đợi. Cully tóm tắt tình hình cho tôi nghe.

Trước tiên anh cảnh báo tôi đừng nói với Gronevell rằng chúng tôi sắp đi Nhật vào sáng hôm sau. Cứ làm bộ như tôi đến để vui chơi, đánh bài một hai hôm. Rồi anh cho tôi biết về sứ mạng của chúng tôi, về số hai triệu đô-la quy ra tiền yên mà anh sẽ phải bí mật đem ra khỏi Nhật và những bất trắc đi kèm với vụ đó. Anh nói rất thành thật:

- Xem này, mình không nghĩ là có gì nguy hiểm, nhưng có thể cậu không cảm nhận giống như mình. Do đó nếu cậu không muốn đi, mình hoàn toàn thông cảm.

Anh biết rằng tôi không có cửa nào từ chối. Tôi mang ơn nặng của anh; thực tế là tôi chịu ơn anh đến hai lần. Một là anh đã cứu tôi khỏi tù. Lần kia là đã trao lại chơ tôi số tiền ba mươi ngàn đô-la cất giấu khi mọi chuyện rắc rối đã qua đi. Anh đã trả lại cho tôi trọn số ba mươi ngàn đô-la bằng tiền mặt và tôi đã gửi số tiền đó vào trương mục tiết kiệm ở Vegas. Câu chuyện để bao che là tôi đã được bạc số tiền đó; Cully và người của anh đã được chuẩn bị để hậu thuẫn cho mọi chuyện đó. Nhưng chúng tôi đã lo quá xa vì chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra. Toàn bộ vụ bê bối ở Quân dự bị năm nào đã chìm xuồng trong quên lãng từ lâu.

- Tôi vẫn mong được Nhật du một chuyến. Không phiền gì khi làm vệ sĩ cho anh đâu, tôi có cần mang súng không?

Cully phát hoảng:

- Bộ cậu muốn bọn mình bị giết hay sao?

- Ngộ như có kẻ muốn cướp đoạt số tiền ấy cứ để họ lấy.

- Sự bảo vệ tốt nhất cho chúng ta là giữ bí mật tuyệt đối và di động cực nhanh. Tôi đã điều nghiên kỹ rồi.

- Vậy thì tại sao anh còn cần tôi?

Tôi hỏi tò mò và cũng hơi mệt mỏi, nên chỉ hỏi vậy thôi chứ chuyện này cũng chẳng có ý nghĩa gì mấy.

Cully thở ra:

- Hành trình đến Nhật Bản thật là diệu vợi. Mình cần có người bầu bạn. Chúng ta có thể đánh bài, tán gẫu với nhau trên máy bay và khi đến Tokyo cùng đi du hí, bù khú với nhau. Vả chăng cái tướng to lớn dềnh dàng của cậu cũng làm cho những tên cướp giật cò con ngán ngại phần nào?

- OK! - tôi nói, dù tư tưởng chưa thông cho lắm.

***

Đêm đó chúng tôi ăn tối với Gronevelt. Trông ông không được khoẻ lắm, nhưng ông vui vẻ kể chuyện về những ngày khởi nghiệp ở Vegas. Bằng cách nào ông tạo nên cơ đồ, tránh né được thuế, trước khi chính quyền liên bang gửi cả một đội quân gián điệp và kế toán đến Nevada.

- Người ta phải biết làm giàu trong bóng tối, - Gronevelt nói.

Ý tưởng đó như con ong ở trong mũ ông ta, đập cánh vù vù mãi chẳng khác nào ám ảnh về giảí Nobel văn học đối với Osano. Mọi người trong xứ này, nếu muốn làm giàu, đều phải làm giàu trong bóng tối. Từ những cửa hàng con con, những doanh nghiệp nhỏ cho đến các công ty lớn, tất cả đều phải tạo ra một cánh đồng bóng tối pháp lý.

- Nhưng không có nơi nào lại đầy cơ hội như ở Vegas. - Gronevelt bóc một điếu xì-gà Havana và nói với vẻ thoả mãn. - Đó là điều khiến cho Vegas rất mạnh. Ở đây người ta có thể làm giàu trong bóng tối dễ dàng hơn là bất kỳ nơi nào khác. Đó là thế mạnh của cái kinh thành giữa sa mạc này.

Cully nói:

- Merlyn chỉ ở lại đây đêm nay. Con nghĩ là sáng mai mình sẽ đi Los Angeles với cậu ta để mua ít đồ cổ. Và con có gặp một vài người ở Hollywood về chuyện nợ nần của họ với mình.

Gronevelt rít một hơi dài từ điếu Havana:

- Ý tưởng hay đấy, - ông nói - Ta đang hết quà tặng rồi. - Ông cười. - Con có biết từ đâu ta nảy ra ý tưởng tặng quà không? Từ một quyển sách xuất bản năm 1870 về cờ bạc. Giáo dục đúng là điều diệu kỳ.

Ông thở ra và đứng lên, một dấu hiệu để chúng tôi từ biệt. Ông bắt tay tôi rồi lịch sự đưa chúng tôi tới cửa dãy phòng ông. Khi chúng tôi bước ra khỏi cửa, Gronevelt nghiêm trang nói với Cully:

- Chúc thượng lộ bình an.

Bên ngoài, trên thảm cỏ xanh giả của sân thượng tôi đứng với Cully trong ánh trăng sa mạc. Chúng tôi có thể thấy dãy phố Thoát y vũ với vô vàn ánh đèn xanh đỏ, những dãy núi đen xẫm, bao quanh sa mạc ở xa xa.

- Ông ấy biết bọn ta sắp đi? - tôi nói với Cully.

- Nếu ông ấy biết thì ông ấy cứ việc biết! - Cully nói. - Hãy gặp mình để dùng điểm tâm vào lúc tám giờ sáng. Chúng ta phải khởi hành sớm.

Sáng hôm sau, chúng tôi bay từ Las Vegas đến San Francisco. Cully mang theo một chiếc vali khổng lồ bằng da nâu, các góc được bọc bằng đồng thau với các nẹp bằng đồng vàng khung lại với nhau. Ổ khoá trông rất nặng nề, chắc chắn. Trông hơi cồng kềnh nhưng vững chãi vô cùng.

- Và dễ dàng để theo dấu khi nhận hành lý. Một món đồ cổ mình sưu tập được ở Las Vegas đấy, - Cully nói đầy tự hào.

Chúng tôi tót lên chiếc Japan Airlines 747 đúng mười lăm phút trước khi máy bay cất cánh. Cully đã tính toán thời gian rất sát. Trên chuyến bay dài, hai chúng tôi chơi bài gin với nhau để giải trí và khi hạ cánh xuống Tokyo, tôi thắng anh sáu ngàn đô. Nhưng Cully không tỏ vẻ gì bận tâm; anh chỉ vỗ vào lưng tôi và nói:

- Tở sẽ lột lại cậu sạch sẽ trên chuyến về.

Chúng tôi kêu xe taxi từ phi trường về khách sạn ở Tokyo. Tôi nôn nao được nhìn thấy tận mắt lần đầu tiên cái thành phố hoang đường của miền Viễn Đông này. Thế nhưng nó giống một New York nhưng tồi tàn hơn và nhiều bụi khói hơn. Dường như nó cũng nhỏ hơn về tầm cỡ con người thì lùn hơn, các toà nhà đơn điệu hơn, đường chân trời là một sự thu nhỏ của đường chân trời quen thuộc và đường bệ của New York. Khi vào trung tâm thành phố, tôi thấy hầu như mọi người mang mặt nạ màu trắng, khiến họ trông có vẻ bí hiểm đáng ngại. Cully bảo tôi rằng người Nhật ở các khu trung tâm thành phố mang những mặt nạ đó để tự bảo vệ chống lại sự tổn thương phổi do không khí bị ô nhiễm nặng.

Chúng tôi chạy qua những toà nhà và cửa hàng hình như làm bằng gỗ, như thể chúng được dựng lên làm cảnh để quay phim. Xen kẽ với chúng là những toà nhà chọc trời hiện đại và những cao ốc văn phòng.

Các đường phố đầy người mà phần lớn trang phục theo Tây phương, một số khác chủ yếu là phụ nữ, mặc kiểu kimono. Một bức tranh cắt dán nhiều phong cách lai tạp.

Khách sạn càng làm chúng tôi thất vọng. Tân thời, theo kiểu Mỹ. Đại sảnh trải thảm màu chocolate với những chiếc ghế bành da, màu đen. Những người Nhật lùn, trong các bộ comple doanh nhân màu đen kiểu Mỹ ngồi trên các ghế đó, tay nắm chặt vali. Trông không khác mấy cảnh khách sạn Hilton ở New York.

- Đông phương là đây ư? - tôi hỏi Cully.

Cully lắc đầu một cách sốt ruột:

- Chúng ta đang cần một đêm cho ngon giấc đã. Ngày mai mình đi lo công việc và tối mai mình sẽ chỉ cho cậu Tokyo thật sự được tạo nên bởi những gì và cậu tha hồ vui thích. Đừng lo.

Chúng tôi lấy một phòng lớn hai giường. Chúng tôi mở vali ra và nhận thấy rằng Cully có rất ít hành trang trong lòng quái vật khổng lồ của anh ta. Cả hai chúng tôi đều mệt mỏi do chuyến bay dài, và mặc dầu mới sáu giờ chiều ở Tokyo, chúng tôi cũng lên giường ngủ.

Sáng hôm sau Cully đánh thức tôi dậy. Bình minh vừa ló dạng bên ngoài cửa sổ.

Anh gọi mang bữa điểm tâm vào phòng. Tưởng gì lại trứng với thịt muối, vài bánh nướng xốp, cà phê và nước cam vắt. Có khác gì ở New York hay Vegas.

Khi uống càphê tôi hỏi anh:

- Chương trình thế nào?

- Một ngày đẹp trời để dạo phố, - Cully nói. - Chúng ta tản bộ ngắm cảnh và mình sẽ cho cậu biết.

Tôi hiểu rằng anh không muốn nói trong phòng. Anh sợ có thể bị nghe trộm.

Chúng tôi rời khách sạn.

Còn sáng tinh mơ, mặt trời mới vừa lên. Chúng tôi quẹo qua một đường phố nhỏ và bỗng dưng tôi lọt vào Phương Đông. Những căn nhà nhỏ, thấp lè tè và những đống rác khổng lồ cao ngất ngưởng làm thành một bức tường.

Đường phố còn thưa người. Bỗng đâu hai người mặc quần soóc bằng kaki, áo sơ-mi kaki, mặt nạ trắng trùm kín mặt, bất chợt xuất hiện trước chúng tôi. Tôi giật mình lùi một bước thủ thế và Cully bật cười khi hai người kia quẹo sang đường khác.

- Lạy chúa, - Tôi nói - Mấy cái mặt nạ đó coi đáng ngại quá.

- Rồi cậu sẽ quen thôi, - Cully nói - Bây giờ, nghe kỹ đây. Tôi muốn cậu biết rõ mọi chuyện sắp xảy ra, để cậu đừng phạm sai lầm nào.

Trong lúc tản bộ dọc theo bức tường rác, Cully giải thích cho tôi rằng anh sắp đem số tiền yên trị giá hai triệu đô-la ra khỏi Nhật và rằng chính quyền nước này có những đạo luật rất khắt khe về việc xuất khẩu tiền tệ quốc gia.

- Nếu bị phát hiện, mình sẽ phải vào tù, - Cully nói. - Trừ phi Fummiro có thể hối lộ được để dàn xếp cho êm.

- Thế còn tôi? - Tôi hỏi - Nếu anh bị bắt, tôi lại không bị bắt sao?

- Cậu là một nhà văn tiếng tăm, - Cully nói - Người Nhật rất kính trọng văn hoá. Do đó, cậu sẽ chỉ bị trục xuất thôi. Vấn đề là cậu biết kín miệng.

- Vậy tôi chỉ có một cuộc dạo chơi nhẹ nhàng nơi đây, - tôi nói.

Tôi biết Cully chỉ nói trở thế thôi và tôi muốn anh biết rằng tôi biết điều đó.

Rồi một chuyện khác nảy ra trong đầu óc tôi:

- Làm cách nào chúng ta lọt qua hải quan ở Mỹ, - tôi hỏi - Không có chuyện đó, - Cully nói - Chúng ta mang đến Hongkong và đổi tiền ở đó - Đây là một cảng tự do. Những người duy nhất phải qua hải quan ở đó là những ai du hành bằng passport của Hongkong

- Lạy Chúa, - Tôi kêu lên. - Bây giờ anh nói với tôi chúng ta đi Hongkong. Rồi sau đó chúng ta đi đâu? Qua Tây Tạng huyền bí chắc?

- Hãy nghiêm túc, - Cully nói - Đừng phát hoảng. Một năm trước đây mình đã làm chuyện này, với một số tiền nhỏ, để thử nghiệm. Và đã êm xuôi trót lọt.

- Tìm cho tôi khẩu súng, - tôi nói - Tôi có một vợ ba con, anh nhớ cho điềủ ấy. Ít ra cũng cho tôi có cơ hội chiến đấu.

Nhưng tôi cười. Cully đã thật sự trói tôi rồi. Nhưng Cully không biết tôi đang đùa:

- Cậu không thể mang súng theo được, - anh nói - Mọi tuyến hàng không của Nhật đều thực hiện kiểm tra an ninh điện tử hành khách và hành lý. Và phần lớn đều rọi X-quang trên các hành lý. - Anh ngừng một lát rồi nói - Hãng hàng không duy nhất không rọi X-quang để kiểm tra hành lý là hãng Cathay.

- Vậy nếu có chuyện gì xảy ra cho mình, cậu biết phải làm gì.

- Tôi chỉ có thể mường tượng tình huống một mình ở Hongkong với hai triệu đô, - tôi nói. - Tôi thà nhận một triệu lưỡi búa vào cổ còn hơn.

- Đừng lo, - Cully nói dịu dàng - Chẳng có gì xảy ra đâu. Chúng ta có sách lược cả rồi.

Tôi cười nhưng vẫn hơi lo:

- Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra thì tôi phải làm gì ở Hongkong?

Cully nói:

- Hãy đến ngân hàng Futaba và xin gặp phó chủ tịch. Ông ta sẽ nhận số tiền và đổi sang đô-la Hongkong. Ông ta sẽ cho cậu một biên nhận và có lẽ sẽ tính chi phí mất hai mươi ngàn đô. Rồi ông ta sẽ đổi đô-la Hongkong sang đô-la Mỹ và tính chi phí mất năm mươi ngàn đô. Số đô-la Mỹ sẽ được gởi sang Thuỵ sĩ và cậu lãnh được một biên nhận khác. Một tuần sau đó khách sạn Xanadu sẽ nhận một hối phiếu từ Thuỵ Sĩ trị giá hai triệu đô-la trừ đi số chi phí cho ngân hàng ở Hongkong. Cậu thấy chuyện quá ư đơn giản không?

Tôi nghĩ về chuyện này trong lúc chúng tôi quay về khách sạn. Cuối cùng tôi trở lại câu hỏi cơ bản:

- Vậy tại sao anh cần tôi theo làm gì?

- Đừng hỏi tôi thêm câu nào nữa, và hãy làm những gì tôi dặn cậu, Cully nói - Cậu nợ mình một ân huệ, đúng không?

- Đúng. - tôi đáp. Và tôi không hỏi thêm câu nào nữa.

Khi chúng tôi về lại khách sạn, Cully làm vài cuộc gọi nói bằng tiếng Nhật, rồi bảo tôi anh sắp phải ra ngoài.

- Nhưng cũng có thể trễ hơn một chút. Hãy ở lại phòng này đợi mình. Nếu tối nay mình không quay về, sáng mai cậu vù ngay lên chuyến bay về Mỹ. Nghe rõ chứ?

- Rõ, - tôi đáp.

Trong phòng ngủ, tôi cố đọc sách để giết thời giờ và rồi nghe tiếng ồn ở phòng khách, tôi đến đó để ngồi đọc. Tôi gọi đem bữa trưa vào phòng và sau khi ăn xong, tôi gọi điện thoại về Mỹ. Chỉ trong mấy phút, đường dây được nối. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Tôi đã nghĩ phải mất cỡ nửa tiếng.

Vallie bắt máy lên ngay và giọng nàng vui khi nghe tôi gọi.

- Đông phương huyền bí ra sao? - Anh đang vui chứ? Anh đã đến kỹ viện Geisha chưa?

- Chưa, - tôi nói - Cho đến bây giờ anh mới thấy được đống rác ban sáng ở Tokyo. Từ lúc đó đến giờ anh phải đợi Cully. Anh ấy đi lo công việc. Anh đã thắng anh ấy sáu ngàn đô-la khi ngồi trên máy bay đánh bài với nhau.

- Tốt, - Vallie nói - Vậy anh nhớ mua cho em và mấy đứa nhỏ vài bộ Kimono nhé. À, nhân tiện, hôm qua có người gọi anh từ Vegas bảo là bạn anh. Ông ấy nói chờ gặp anh ở đó. Em bảo là anh ở Tokyo.

Tim tôi ngừng lại một lát. Rồi tôi nói, cố lấy giọng bình thường:

- Ông ấy có cho biết tên không?

- Không, - Vallie nói - Đừng quên quà cho em và các con nhé.

- Anh không quên đâu.

Suốt buổi chiều đó tôi lo lắng. Tôi gọi hãng máy bay, dành một ghế trở về Mỹ vào sáng mai. Bỗng dưng tôi không chắc rằng Cully sẽ trở về. Tôi kiểm tra phòng ngủ của anh. Chiếc vali to đùng không có ở đó.

Bóng đêm đã bắt đầu buông xuống khi Cully bước vào dãy phòng. Anh xoa tay, phấn khởi và rạng rỡ.

- Mọi chuyện đều ổn cả, - anh nói - Không có gì phải lo. Tối nay chúng ta vui chơi và ngày mai chúng ta thu xếp hành trang. Ngày mốt chúng ta đến Hongkong.

- Tôi gọi vợ tôi, chúng tôi nói chuyện rất vui. Vợ tôi bảo có người gọi từ Vegas, hỏi tôi đang ở đâu Nàng bảo ở Tokyo.

Chuyện đó làm anh lạnh mình. Anh suy nghĩ rồi nhún vai.

- Có vẻ giống như Gronevelt, - Cully nói. - Để rà lại linh cảm của ông ấy là đúng. Ông là người duy nhất có số phôn của cậu.

- Cậu có tin tưởng Gronevelt trong một vụ như thế này không? - Tôi hỏi Cully. Và ngay lập tức tôi biết rằng mình đã vượt qua lằn mức.

- Cậu muốn ám chỉ cái gì vậy? - Cully hỏi, hơi gay gắt. - Từ bao năm trời nay, ông ấy đối với tôi chẳng khác nào một người cha. Ông đã tạo ra con người tôi hiện nay. Tất nhiên là tôi tin cậy ông hơn tất cả mọi người khác, kể cả cậu.

- Được rồi, - tôi nói. - Vậy tại sao anh không cho ông ấy biết chuyện chúng ta đi? Tại sao anh lại nói trở với ông, bịa ra chuyện đi mua đồ cổ ở Los Angeles?

- Bởi vì đó là cách ông dạy tôi khi hành sự, - Cully nói. - Đừng bao giờ nói với ai về bất kỳ chuyện gì mà người đó không cần phải biết. Ông sẽ tự hào về tôi vì chuyện đó, dù rằng ông cũng phát hiện ra. Tôi làm như thế là đúng bài bản đấy. - Rồi anh dịu đi, vẻ thoải mái. - Này lên bộ đẹp nhất vào đi. Tối nay cho cậu biết mùi lạc thú nhất dạ đế vương theo kiểu Đông phương, cho cậu cả đời còn xuýt xoa mỗi lần nhớ đến nhé.

Vì một lý do nào đó mà lời anh nói khiến tôi nhớ lại lời của Eli Hemsi.

Giống như những ai đã từng xem các bộ phim về Đông phương tôi cũng từng phóng tưởng về đêm nơi kỹ viện Geisha: những cô nàng tài sắc tận tuỵ hiến mình cho lạc thú của bạn. Khi Cully bảo tôi rằng chúng tôi sắp được các nàng Geisha chiều chuộng hết ý tôi mong đợi sẽ được dẫn đến một trong những căn nhà trang trí vui mắt mà tôi từng thấy qua phim ảnh. Vì thế tôi hơi ngạc nhiên khi chiếc xe dừng lại trước một nhà hàng nhỏ trên một đường phố chính ở Tokyo. Trông cũng giống bất kỳ khu phố Tàu nào ở vùng hạ Manhattan. Nhưng một viên quản lý dẫn chúng tôi đi qua nhà hàng đông đúc đến một cánh cửa đưa vào một phòng ăn riêng.

Căn phòng được trang hoàng theo kiểu Nhật. Những lồng đèn đủ màu sắc được treo từ trên trần; một bàn tiệc dài chỉ kê cao hơn sàn nhà khoảng một bộ, được trang trí với bát đĩa màu sắc thanh nhã, những cốc uống rượu nhỏ nhắn, những đũa ngà. Có mặt bốn người đàn ông Nhật Bản, tất cả đều mặc kimono. Một người trong số họ là ông Fummiro. Ông ta và Cully bắt tay nhau, mấy người kia cúi đầu nghiêng mình cung kính thi lễ. Cully giới thiệu tôi với mọi người. Tôi từng thấy Fummiro đánh bạc ở Vegas nhưng chưa từng hội kiến ông ta.

Bảy nàng geisha tiến vào phòng với những bước chạy lúp xúp. Họ mặc rất đẹp với những bộ kimono kim tuyến thêu hoa lá nhiều màu rực rỡ. Mặt họ đang trang điểm kỹ với một lớp phấn trắng dày. Họ ngồi trên những chiếc ghế quanh bàn liệc mỗi cô phục vu cho một vị khách.

Theo sự hướng dẫn của Cully tôi ngồi một trong những chiếc gối để quanh bàn tiệc. Những người phục vụ mang vào các đĩa lớn cá và rau thơm. Mỗi nàng geisha hầu việc ăn uống cho người khách của mình.

Nàng geisha của tôi ngồi thật sát vào người tôi, tựa thân hình vào người tôi, với một nụ cười duyên dáng và cử chỉ vồn vã khẩn thiết, mời tôi ăn uống.

Nàng liên tục rót đầy cốc cho tôi với rượu sakê. Rượu thật tuyệt nhưng món cá sống không hợp khẩu vị tôi mấy, cho đến khi họ mang vào món thịt bò lúc lắc Kobe chấm với một thứ nước sốt rất ngon.

Sau bữa ăn, các cô gái lần lượt biểu diễn các trò vui tiêu khiển cho khách. Một cô chơi loại nhạc cụ giống như sáo. Cô khác ngâm thơ. Mọi người vỗ tay, còn tôi tơ lơ mơ chẳng hiểu gì nên "vô tri bất mộ", chẳng biết hay ở cái chỗ nào để mà khen? Vả chăng lúc này tôi cũng đã uống tới bến nên lại càng khó có khả năng thưởng thức những gì quá thâm thuý cao xa. Họ còn bày ra nhiều trò vui khác nhưng tôi đã gục xuống đống gối và nàng geisha của tôi đong đưa đầu tôi trong lòng nàng, lau mặt cho tôi bằng khăn nóng ướp hương thơm.

Điều tiếp theo tôi còn nhớ là tôi ở trong xe với Cully. Chúng tôi chạy qua những đường phố tối tăm và rồi xe dửng trước một căn nhà ở ngoại ô. Cully chỉ dẫn chạy qua cổng và cửa nhà mở ra như do ma thuật.

Và rồi tôi thấy chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà Đông phương thật sự. Căn phòng trống trơn trừ mấy chiếc nệm để ngủ. Tường thật ra chỉ là những cánh cửa trượt bằng ván mỏng.

Tôi nằm xuống trên một tấm nệm. Tôi chỉ muốn ngủ. Cully quỳ xuống bên tôi.

- Chúng ta qua đêm ở đây, - anh thì thầm. - Sáng mai, mình sẽ đánh thức cậu. Cứ ở đây, ngủ đi. Sẽ có người lo cho cậu.

Phía sau anh, tôi mơ hồ thấy khuôn mặt tươi cười của Fummiro. Tôi nghe giọng Fummiro nói:

- Bạn anh cần có bầu bạn.

Tôi lại buông người xuống nệm. Tôi đã quá say! Say không còn biết chi đời. Mặc kệ đất trời nghiêng ngả. Tôi quẹo đầu và ngủ.

Tôi không biết tôi đã ngủ bao lâu. Tôi được đánh thức bởi tiếng kéo cánh cửa trượt, rất khẽ khàng.

Trong ánh sáng lờ mờ của những chiếc đèn lồng tôi thấy hai cô gái Nhật mặc kimono màu xanh dương và vàng đi qua bức tường vừa được mở ra. Họ mang một thùng gỗ sơn màu đỏ đựng đầy nước nóng. Họ cởi hết quần áo tôi ra và tắm rửa cho tôi từ đầu đến chân, dùng các đầu ngón tay cào nhẹ lên khắp người tôi xoa bóp từng cơ bắp. Trong khi họ đang làm như vậy, cái "năng cử khí quan" của tôi bật dậy như lò xo bung ra, khiến hai cô ả khúc khích cười và một cô lấy tay tát yêu thằng bé "Hư thế. Không được hỗn. Đợi lát nữa sẽ có người cho bé bú sữa nhé!" Sau đó họ lấy khăn lau khô người tôi. Rồi họ mang cái thùng gỗ đựng nước đi và biến. Tôi cảm thấy thư thái hẳn ra, hơi tỉnh người lại.

Thế rồi cánh cửa trượt lại mở ra. Lần này chỉ có một cô gái - một cô mới, và chỉ vừa nhìn thấy cô, tôi đoán được ngay chức năng của cô.

Cô mặc một chiếc Kimono xanh mỏng, bóng mượt nửa che nửa khoe một thân hình thật hấp dẫn.

Mặt cô thật đẹp và nổi bật với cách trang điểm khá đậm. Mái tóc đen mượt óng ả của cô được búi cao lên đầu và cài lại bằng một chiếc trâm bằng bảo thạch.

Nàng đến bên tôi và trước khi nàng quỳ xuống, tôi kịp nhìn thấy đôi bàn chân trần của nàng, nhỏ nhắn và xinh xắn. Các móng chân được sơn màu đỏ sậm. Ánh đèn lồng hình như lung linh mờ ảo hơn, và bỗng nhiên xiêm áo biến đâu rồi, nàng phô diễn cả tấm thân kiều diễm, long lanh một màu trắng tinh tuyền như sữa đông tuyết đọng, đôi vú nhỏ nhưng đầy đặn, nhô thẳng ra phía trước, đôi núm vú hồng nhuận sáng tươi như được thoa son. Nàng nghiêng người xuống bên tôi, vươn tay lên rút chiếc trâm cài ra khỏi mớ tóc và lắc đầu. Những dòng tóc đen dài đổ xuống bất tuyệt trên người tôi, che phủ cả bán thân trên và mơn man làn da tôi, và nàng bắt đầu hôn và liếm khắp người tôi đầu nàng lắc nhẹ, mái tóc đen mượt và dày của nàng quét nhẹ trên hai đùi tôi. Tôi nằm ngửa cứng người. Miệng môi nàng ấm áp, lưỡi nàng hơi ráp. Khi tôi cố động đậy một chút nàng ấn tôi xuống, để nằm yên. Khi nàng kết thúc, nàng nằm xuống bên tôi và để đầu tôi gác lên ngực nàng. Vào một lúc nào đó trong đêm tôi thức giấc và làm tình với nàng. Nàng lấy hai cẳng chân nàng kẹp cứng hai cẳng chân của tôi và siết chặt quyết liệt như một cuộc giáp chiến giữa hai sinh thực khí của chúng tôi. Một cuộc giao cấu cuồng bạo, dữ dội và khi cả hai cùng đạt đến tột đỉnh khoái lạc nàng để thoát ra mấy tiếng kêu nhỏ và chúng tôi rơi ra khỏi nệm. Rồi chúng tôi nằm ngủ trong vòng tay nhau.

Bức tường mở ra lại đánh thức tôi dậy. Căn phòng tràn ngập ánh sáng sớm mai. Cô gái đã ra đi. Nhưng qua bức tường mở, nơi phòng kế bên, tôi thấy Cully đang ngồi trên chiếc vali khổng lồ. Mặc dầu anh ở cách khá xa, tôi vẫn có thể thấy anh đang mỉm cười.

- Này Merlyn ơi, dậy đi thôi, - Anh nói - Sáng nay chúng ta bay qua Hongkong.

Chiếc vali nặng đến độ Cully không vác nổi và chính tôi phải mang nó ra xe. Không có tài xế, đích thân Cully lái. Khi chúng tôi đến phi trường, anh bỏ chiếc xe lại bên ngoài trạm đến. Tôi mang chiếc vali vào trong, Cully đi trước dẹp đường và dẫn tôi đến bàn kiểm tra hành lý. Tôi vẫn còn chuếnh choáng vì dư vị rượu sakê và hai đầu gối còn hơi run run lảo đảo vì hai cuộc xuất kích ào ạt tối qua, và chiếc vali to đùng với những cái nẹp bằng đồng thỉnh thoảng đập vào xương ống quyển tôi đau điếng. Ở bàn kiểm tra, cuốn hoá đơn được đặt lên vé của tôi. Tôi nghĩ là cũng chẳng có gì khác biệt, vì thế tôi không nói gì khi Cully tỏ vẻ chẳng để ý chi điều ấy.

Chúng tôi đi qua cổng vào bãi phi đạo để đến máy bay. Nhưng chúng tôi chưa lên vội. Cully còn đợi cho đến khi chiếc xe tải nhỏ chở hành lý đến gần máy bay. Chúng tôi có thể thấy chiếc vali to tướng nẹp đồng thau của chúng tôi để ở trên cùng. Chúng tôi trông chừng cho đến khi người bốc xếp đưa chiếc vali đó vào bụng máy bay. Rồi chúng tôi lên tàu.

Từ Tokyo đến Hongkong phải mất hơn bốn giờ bay. Cully có vẻ nôn nao bối rối và tôi thắng anh thêm bốn ngàn đô-la nữa khi hai đứa chơi bài gin. Trong lúc đánh bài, tôi hỏi anh vài câu.

- Anh đã bảo tôi ngày mai bọn mình mới đi cơ mà, - tôi nói.

- Vâng, tôi đã nghĩ như thế, - Cully nói - Nhưng Fummiro đã gom sẵn tiền sớm hơn tôi dự kiến.

Tôi biết anh nói xạo.

- Tôi thích bữa tiệc với các nàng geisha đó, - tôi nói.

Cully cười nhăn nhở. Anh ta làm bộ nghiên cứu các quân bài, nhưng tôi biết đầu óc anh đang ở đâu đâu.

- Đám geisha đó trông như những xác ướp Ai cập, chán bỏ mẹ. Tôi thích các nàng rồng lộn ở Vegas hơn.

- Thế à? Tôi nghĩ bữa tiệc cũng vui đấy chứ. Nhưng tôi phải công nhận rằng món khoản đãi sau đó ngon hơn nhiều.

Cully quên mất những nước bài của anh.

- Món nào?

Tôi nói với anh về các cô gái xuất hiện trong đêm nơi phòng tôi. Cully cười toét miệng:

- Sáng kiến của Fummiro đấy! Cậu hên lắm. Trong khi đó mình phải chạy lo công việc suốt đêm. - Anh ngừng một lát. - Vậy là cuối cùng cậu cũng ngã. Tôi dám cá rằng đây là lần đầu cậu phản bội ngôi sao của cậu ở Los Angeles.

- Vâng, Nhưng rồi sao nào. Cái gì xảy ra cách ta hơn ba ngàn dặm thì không đáng kể.

Khi chúng tôi đáp xuống Hongkong, Cully nói:

- Cậu đến khu hành lý chờ lấy vali. Tôi bám theo máy bay cho đến khi họ lấy hết hành lý trong khoang bụng máy bay ra. Sau đó tôi theo dõi chiếc xe tải hành lý.

Làm như vậy để yên chí không có tên trộm nào ra lấy được.

Tôi đi nhanh qua trạm đến, hướng về chỗ trả hành lý. Trạm đến đông người, nhưng các khuôn mặt đều khác ở Nhật dù phần lớn vẫn là dân châu Á.

Băng chuyển hành lí bắt đầu quay và tôi nhìn chằm chặp vào cái vali nẹp đồng thau của chúng tôi trôi xuống cầu trượt. Sau mười phút, tôi thắc mắc tại sao Cully chưa xuất hiện. Tôi liếc nhìn chung quanh, thầm cảm ơn la không có ai mang mặt nạ; ba cái thứ quỷ đó đã làm tôi ơn ớn. Nhưng tôi không thấy ai có vẻ đáng gờm hay nguy hiểm.

Rồi chiếc vali đồng thau nhảy ra khỏi máng trượt. Tôi chộp lấy nó khi nó chạy ngang qua. Vẫn còn nặng như thường. Tôi kiểm tra để biết chắc nó không bị nạy ra hay cắt rạch nó để moi ruột. Khi làm như vậy, tôi nhận thấy một mảnh giấy bìa cứng hình vuông để ghi lên, gắn vào lay cầm. Nó mang cái tên huyền thoại - John Merlyn, - Và dưới cái tên đó là địa chỉ nhà tôi và số hộ chiếu của tôi. Cuối cùng tôi hiểu ra tại sao Cully thỉnh mời tôi đi Nhật du hí với anh. Nếu chẳng may có kẻ nào phải vào tù, kẻ ấy sẽ không ai khác hơn là thằng tôi ngốc này!

Tôi ngồi trên chiếc vali và khoảng ba phút sau Cully xuất hiện. Anh rạng ro hân hoan khi thấy tôi.

- Tuyệt. - anh nói, - Tôi kêu taxi rồi. Chúng ta đi đến nhà băng đi.

Và lần này anh nhấc chiếc, lên và mang nó ra khỏi trạm đến không có gì khó khăn.

Chiếc taxi chạy len lỏi giữa các phố nhỏ đông người. Tôi không nói gì. Tôi đã nợ Cully một ân huệ lớn và bây giờ tôi đã san bằng tỷ số. Tôi cảm thấy tổn thương vì anh đã lỡm tôi và phơi tôi ra trước mối nguy cơ lớn như vậy, nhưng Gronevelt có lẽ sẽ tự hào về anh. Và cũng từ truyền thống đó, tôi quyết định không nói với Cully những gì tôi biết. Hẳn anh cũng đã dự kiến rằng tôi sẽ phát hiện ra. Chắc là anh cũng đã có sẵn một câu chuyện để biện minh.

Taxi dừng lại trước một cao ốc cũ kỹ trên một con phố chính. Cửa sổ có dòng chữ mạ vàng đề "Ngân hàng quốc tế Futaba". Ở hai bên cửa sổ có hai nhân viên đồng phục với tiểu liên trên tay.

- Căng thật, cái thành phố Hongkong này, - Cully nói, vừa gật đầu chào hai nhân viên bảo vệ.

Anh tự tay mang chiếc vali vào nhà băng.

Bên trong, Cully đi xuôi theo hành lang và gõ vào một cánh cửa, rồi chúng tôi đi vào. Một người lai Âu Á nhỏ thó với hai hàng ria con kiến cười rất tươi khi gặp mặt Cully và vồn vã bắt tay. Cully giới thiệu tôi và ông ta với nhau, nhưng cái tên của ông ta là một kết hợp lạ lùng giữa các âm nên tôi không nhận ra được. Rồi người Âu Á dẫn chúng tôi đến một phòng rộng mênh mông với một bàn hội nghị dài. Cully ném chiếc vali lên bàn và mở khoá. Tôi phải thừa nhận rằng việc mục kích cảnh đó thật ấn tượng. Chiếc vali được nhét đầy tiền Nhật mới cứng, in bằng mực đen trên giấy xanh-xám.

Tay Âu-Á nhấc điện thoại và xổ ra một tràng lệnh bằng tiếng Quảng Đông. Vài phút sau căn phòng lố nhố các thư ký ngân hàng. Khoảng mười lăm người, tất cả đều đồng phục comple den bóng, bu quanh chiếc vali tiền. Phải mất hơn ba tiếng để cả bọn đếm và cộng tiền và kiểm lại. Rồi tay Âu-Á dẫn chúng tôi trở lại căn phòng ông ta, ghi một số chứng từ, rồi ký tên đóng dấu và đưa cho Cully. Cully nhìn lướt qua các chứng từ rồi bỏ chúng vào túi. Tổng kết các chứng từ là một tờ biên nhận nhỏ.

Cuối cùng chúng tôi đứng nơi đường phố ngập ánh nắng chiều bên ngoài ngân hàng. Cully phấn khởi tột độ:

- Phi vụ đã hoàn tất, - anh reo lên. - Giờ đây chúng ta có quyền thơ thới hân hoan trở về nhà

Tôi lắc đầu:

- Làm sao anh lại chấp nhận một nguy cơ đến như vậy? - tôi hỏi - Đó là một cách điên rồ để xử lý một số tiền như vậy.

Cully cười với tôi:

- Chứ cậu nghĩ chuyện điều hành một casino ở Vegas là một loại hình kinh doanh nào? Đều may rủi cả thôi! Mình làm một công việc đầy tính chất hên xui may rủi. Và trong chuyện này mình thường có một tỷ lệ may mắn nhiều hơn.

Khi chúng tôi ngồi vào trong taxi, Cully bảo tài xế đưa chúng tôi đến phi trường.

- Lạy chúa, - tôi nói - Chúng ta bay qua nửa vòng trái đất, vậy mà iôi không được cả một bữa ăn Tàu ở Hongkong sao?

- Đừng ép vận may của chúng ta quá, - Cully nói - Có thể một kẻ nào đấy nghĩ bậy rằng chúng ta còn mang tiền trong người. Hãy vù ngay về pháo đài của chúng ta là an toàn nhất. Lúc đó chúng ta đếch còn phải sợ mặt nào và an tâm tận hưởng thành quả của chiến thắng, tha hồ ca vang khúc khải hoàn?

Trên chuyến bay dài quay về Mỹ, Cully lại may mắn thắng bảy ngàn trong số mười ngàn đô-la anh nợ tôi. Có lẽ anh sẽ gỡ lại hết nếu tôi không bỏ cuộc.

- Nào, hãy cho mình cơ hội để gỡ hoà chứ. Chơi đẹp đi!, - anh nói.

Tôi nhìn thẳng vào mắt anh.

- Không, - tôi nói - Tôi muốn khôn hơn anh, ít ra là một lần, trong cuộc hành trình này.

Câu đó làm anh hơi dội và anh để tôi ngủ yên trong phần còn lại của hành trình hồi quy về Los Angeles. Tôi còn nấn ná bầu bạn với anh trong khi anh chờ chuyến bay đi Vegas. Trong khi tôi ngủ, anh đã suy nghĩ về những chuyện vừa qua và llẳn là anh đã hình dung chuyện tôi thấy cái biển tên trên vali.

- Nghe này, - anh nói, - Cậu phải tin mình mới được. Nếu vạn nhất cậu gặp rắc rối trong chuyến đi này, thì mình với Gronevelt và Fummiro sẽ chạy cho cậu ra. Nhưng mình vẫn đánh giá cao những gì cậu đã làm cho mình. Mình đã không thể làm cuộc hành trình này nếu không có cậu, thần kinh mình đã không đủ độ thép để làm.

Tôi cười:

- Anh còn nợ tôi ba ngàn đô-la tiền cờ bạc đấy, - tôi nói. - Hãy đưa số đó vào phòng thủ quỹ của Xanadu và tôi sẽ dùng nó để chơi baccarat.

- Được thôi. - Cully nói. - Nghe này. Có phải cách duy nhất để cậu lừa dối các em và cảm thấy an toàn, là khi cách xa họ ba ngàn dặm? Thế giới không đủ rộng lớn để lừa dối thêm hai lần đâu!

Chúng tôi cùng cười và bắt tay nhau trước khi anh bước lên máy bay. Anh vẫn là bạn thân của tôi, Chàng Cully láu cá. Tôi biết rõ chân tướng của anh và tôi chấp nhận tình bạn của anh. Làm sao tôi lại nổi giận khi anh trung thực với nhân cách của mình?

Tôi đi qua trạm đến ở Los Angeles của Westem Airlines và ghé vào trạm điện thoại. Tôi phải gọi cho Janelle và nói với nàng tôi đang ở thành phố này. Tôi tự hỏi tôi có nên cho nàng hay tôi đã đi Nhật hay không, nhưng rồi tôi quyết định là không. Tôi sẽ hành động theo truyền thống Gronevelt. Và rồi tôi nhớ đến chuyện khác. Tôi chẳng có món quà Đông phương nào cho Vallie và các con mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Theo một cách nào đó, thì cũng thú vị khi ta đang say mê một người nào đó mà người ấy lại chẳng còn mê ta nữa. Người ta trở nên mù và điếc. Hoặc chấp nhận như thế. Gần một năm trước đây, tôi nghe từng lời thì thầm hầu như không nghe ra được của Janelle mặc dầu tôi từng nhận được rất nhiều lời cảnh cáo hay mách nước.

Trên một trong những cuộc hành trình quay lại Los Angeles, máy bay của tôi đến sớm nửa giờ so với lịch bay. Janelle vẫn thường đến đón tôi, nhưng hôm ấy nàng không có mặt tại đó và tôi đi ra trạm đến và chờ bên ngoài. Tôi mong gặp nàng muốn chết, nhưng nàng rõ râng là chẳng nôn nóng gặp tôi đến thế. Trong khi tôi suy nghĩ điều này: nàng ngước đầu lên nhìn tôi và khuôn mặt nàng trở nên rạng rỡ và rồi nàng ôm hôn tôi nồng nàn và tôi quên ngay những suy nghĩ linh tinh về nàng.

Trong cuộc viếng thăm này, nàng đang diễn tập nhiều ngày một vở kịch sắp khai trương trong vài tuần nữa. Vì tôi đang làm việc ở phim trường nên điều này cũng thuận lợi. Chúng tôi gặp nhau buổi tối. Nàng sẽ gọi cho tôi biết lúc nào nàng sẽ tập dượt xong. Khi tôi hỏi nàng số điện thoại để tôi có thể gọi nàng nàng bảo nơi rạp hát không có điện thoại.

Thế rồi một buổi chiều, khi cuộc diễn tập kết thúc muộn hơn, tôi đến hí viện để đón nàng. Lúc chúng tôi sắp rời đi, một cô gái bước ra từ văn phòng nơi hậu trường và nói với nàng:

- Janelle này. Ông Evarts gọi chị, - Và dẫn dường đến máy điện thoại.

Khi Janelle ra khỏi văn phòng, mặt nàng hồng hào, đỏ bừng lên vì vui sướng, nhưng lúc đó nàng nhìn tôi và nói:

- Đó là lần đầu ông ta gọi. Em cũng không biết là họ có thể liên lạc điện thoại với em ở hí viện này.

Tôi nghe được tiếng "tích" của lá bài thứ nhì đang được kéo ra. Tôi vẫn còn thấy nhiều lạc thú khi còn ở bên nàng, với thân hình nàng, hay chỉ cần nhìn thấy mặt nàng. Tôi vẫn còn yêu nét biểu cảm ánh lên trong đôi mắt hay hiện ra nơi khóe miệng nàng. Quả thật, tôi vẫn còn quá đỗi trẻ thơ. Chẳng thành vấn đề chuyện tôi biết rằng nàng dang lừa dối tôi.

Vâng, chẳng thành vấn đề, chẳng thành vấn đề đâu. Tôi đau khổ, chắc thế rồi, nhưng đó vẫn là một cuộc mặc cả tốt. Tuy thế cùng với thởi gian, tôi càng thấy ít vui sướng với nàng còn nàng thì lại làm cho tôi đau khổ nhiều hơn.

Tôi chắc rằng nàng và Alice là người tình của nhau. Có một tuần, khi Alice đi khỏi thành phố làm phim tôi đến căn hộ của Janelle và Alice ngủ qua đêm. Alice gọi điện thoại đường dài để tán gẫu với nàng. Janelle đáp lại cộc lốc hầu như bực tức.

Nửa giờ sau, chuông điện thoại lại reo. Janelle trờ người tới, nắm ống nghe nhấc ra khỏi máy và ném xuống giường.

Một trong những điều tôi thích nơi nàng đó là nàng ghét bị làm cụt hứng giữa chừng cuộc mây mưa. Nhiều khi nơi khách sạn, nàng không để tôi trả lời điện thoại và ngay cả trả lời tiếng gõ cửa, nếu một người hầu phòng mang đồ ăn thức uống đến khi chúng tôi trên đường đến giường.

Một tuần sau, vào buổi sáng chủ nhật, nơi khách sạn của mình, tôi gọi cho Janelle. Tôi biết nàng thưởng ngủ dậy trễ vì vậy tôi không gọi trước mười một giờ sáng. Tôi gặp tín hiệu máy bận, tôi chờ nửa giờ sau gọi lại. Vẫn tín hiệu máy bận. Rồi trong vòng một tiếng, cứ mỗi mười phút tôi lại gọi và lại tiếp tục nhận được tín hiệu máy bận và bất chợt tôi loé lên ý nghĩ rằng Janelle và Alice đang nằm bên nhau trên giường, và máy bị gác. Cuối cùng khi tôi bắt được liên lạc, thì chính Alice trả lời điện thoại, giọng nàng dịu dàng và thoả mãn.

Tôi chắc chắn là hai nàng yêu nhau.

Ngày khác khi chúng tôi đang trù tính một chuyến đi đến Santa Barbara, nàng nhận được cuộc gọi đến văn phòng nhà sản xuất gấp để đọc phần thoại vai diễn. Nàng nói sẽ chỉ mất khoảng nữa giờ, vì thế tôi cùng đến studio với nàng. Nhà sản xuất là một bạn cũ của nàng và khi anh ta đi vào văn phòng, anh ta biểu lộ một cử chỉ âu yếm dịu dàng, anh ta cào nhẹ các ngón tay khắp mặt nàng và nàng cười với anh ta. Tôi đọc ngay ra ý nghĩ của cử chỉ. Đó là sự dịu dàng của cựu tình nhân, nay là một bạn thân.

Khi chúng tôi trên đường đến Santa Barbara, tôi hỏi Janelle nàng đã từng lên giữơng với nhà sản xuất ấy bao giờ chưa. Nàng quay sang và đáp gọn lỏn, tỉnh queo "Có". Thế là tôi tắt đài.

Một tối nọ, chúng tôi có hẹn cùng đi ăn tối và tôi đến căn hộ của nàng. Nàng đang lên bộ. Alice ra mở cửa cho tôi. Tôi vẫn mến Alice và cũng ngộ là tôi không phiền gì chuyện nàng là người tình của Janelle. Tôi vẫn còn chưa thật sự chắc lắm. Alice vẫn luôn hôn tôi lên môi. Một nụ hôn rất ngọt ngào; nàng luôn tỏ ra thích sự bầu bạn của tôi. Chúng tôi thuận thảo với nhau. Nhưng người ta có thể cảm nhận sự thiếu nữ tính của nàng. Nàng rất mỏng mặc áo sơ mi chật làm lộ ra rõ là nàng có cặp ngực rất đầy - điều hơi đáng ngạc nhiên, nhưng nàng rất có tác phong kinh doanh. Nàng mời tôi một ly rượu và đặt một đĩa hát của Edith Piaf (1) và chúng tôi chờ cho đến khi Janelle ra khỏi phòng tắm.

Janelle hôn tôi và nói:

- Merlyn, xin lỗi, em đã cố gọi cho anh ở khách sạn. Em phải diễn tập tối nay. Đạo diễn sắp đến và đón em đi.

Tôi sững người. Lại một lần nữa tôi nghe liếng "tích" của lá bài thứ hai. Nàng đang mỉm cười rất tươi với tôi nhưng có một thoáng run giật nơi miệng nàng, khiến tôi nghĩ nàng đang nói dối. Nàng vận hết nhãn lực để dò xét nét mặt tôi. Nàng muốn tôi tin nàng và nàng thấy rằng tôi đếch tin. Nàng nói:

- Anh ấy sắp đến đây đón em. Em sẽ cố cho xong việc vào lúc mười một giờ.

- Được thôi, - tôi nói.

Qua vai nàng tôi có thấy Alice nhìn xuống, không quan sát chúng tôi, cố ý chứng tỏ nàng không nghe chúng tôi đang nói gì. Thế là tôi phải chờ đợi, và sau đó tay đạo diễn tới.

Anh ta còn trẻ nhưng đầu đã hói nhiều, rất có tác phong doanh nghiệp và hiệu năng. Anh ta không đủ thì giờ để làm một ly. Anh nói với Janelle, một cách nhẫn nại:

- Chúng tôi đang diễn tập ở chỗ tôi. Tôi muốn em hoàn hảo cho cuộc tổng diễn tập tối mai. Evarts và tôi thay đổi vài dòng và vài chi tiết.

Anh ta quay qua tôi:

- Tôi xin lỗi làm hỏng buổi tối của anh, nhưng công việc biểu diễn là thế. - Anh ta nhại theo khuôn mẫu.

Anh ta có vẻ là một chàng trai dễ thương. Tôi cười, lạnh với anh ta và Janelle:

- Không sao, - tôi nói - Bao lâu tuỳ quý vị.

Nghe vậy Janelle hơi hoảng. Nàng nói với tay đạo diễn:

- Anh có nghĩ là khoảng mười giờ chúng ta xong được không?

Và tay đạo diễn nói:

- Nếu chúng la làm việc thật cật lực thì… cũng có thể.

Janelle nói với tôi:

- Tại sao anh không đợi ở đây với Alice và em sẽ trở về khoảng sau mười giờ và lúc đó chúng ta vẫn còn có thể đi ăn tối? Nhất trí thế nhé?

Tôi đáp:

- Nhất trí.

Thế là tôi chờ với Alice sau khi họ rời đi và chúng tôi nói chuyện với nhau. Nàng nói là nàng đã trang trí lại căn hộ và nàng nắm tay tôi dẫn đi xem các phòng. Căn hộ thực là xinh xắn, ngăn nắp, sạch sẽ.

- Trông dễ thương ghê, - tôi nói - Không thể tưởng tượng được là Janelle làm mọi chuyện này.

Alice cười:

- Không, - nàng nói. - Em là nội tướng mà.

Rồi nàng dẫn tôi qua ba phòng ngủ. Một phòng rõ ràng là dành cho em bé.

- Phòng đó để cho con trai của Janelle khi cháu đến ở với bọn em.

Rồi nàng dẫn tôi đến phòng ngủ chính có một cái giường rộng thênh thang nhưng đầy chất nữ tính với những con búp bê để khắp nơi, những chiếc gối lớn trên ghế Sofa và một tivi ở trên giường.

Tôi hỏi:

- Phòng ngủ này của ai?

Alice đáp:

- Của em

Chúng tôi đến phòng ngủ thứ ba, hoàn toàn là một cảnh hỗn độn. Rõ ràng nó đã dùng như một nhà kho nhỏ của căn hộ. Mọi thứ đầu thừa đuôi thẹo, mọi thứ lổn ngổn tạp nham được vất lăn lóc khắp phòng. Một chiếc giưởng nhỏ với tấm chăn bông nằm bơ vơ lạc lõng như đã từ lâu lắm thiếu hơi ấm của thân người.

- Và phòng ngủ của ai đây? - Tôi hỏi giọng chế giễu.

- Của Janelle, - Alice nói, buông lay tôi ra và quay đầu sang hướng khác.

Tôi biết nàng đang nói dối và biết rằng nàng và Janelle ngủ chung giường. Chúng tôi trở lại phòng khách và chờ.

Lúc mười giờ rưỡi đêm, chuông điện thoại reo. Janelle gọi:

- Ôi, lạy chúa! - nàng nói. Giọng nàng đầy kịch tính như thể nàng đang phải đương đầu với một nỗi bất hạnh định mệnh. - Bọn em chưa xong được. Không biết, một giờ nữa có xong được chưa. Anh muốn đợi không?

Tôi cười:

- Được rồi. Anh sẽ đợi!

- Em sẽ gọi anh lại. Ngay khi nào em biết bọn em sắp xong. Đồng ý chưa?

- Đồng ý, - tôi đáp.

Tôi chờ với Alice cho đến mười hai giờ khuya. Nàng muốn làm cái gì đó cho tôi ăn, nhưng tôi không thấy đói (Tại "quê độ" với nàng Janelle quá, nên hết thấy đói luôn?) vào lúc này tôi đang "thưởng thức tự thân" và thấy quá thật trên đời này không có anh chàng ngố nào trông buồn cười hơn là anh chàng mặt sắt cũng ngây vì tình mà lại bị nàng đá giò lái dồn vào thế quê một cục?

Đúng nửa đêm chuông điện thoại lại reo và tôi biết nàng sẽ nói gì và đúng y chang nàng nói điều tôi nghĩ (khiến tôi phải nức nớ khen tay thầy bói sáng là thằng tôi này quá).

- Bọn em vẫn chưa xong, anh à. Chưa biết đến giờ nào mới xong được đây?

Bố sư khỉ đồ nỡm! Tôi rủa thầm. Thế nhưng tôi vẫn rất vui vẻ khả ái với nàng. Tôi biết rằng nàng sẽ quá mệt mỏi. Rằng tôi sẽ không gặp nàng tối đó và tôi sẽ gọi nàng ngày hôm sau, từ nhà tôi.

- Ồ cưng, cưng hiền lành, dễ thương của em. Em thực lấy làm tiếc. Đừng buồn nghen cưng. Chiều mai nhớ gọi cho em nghe?

Tôi chúc Alice ngủ ngon và khi tiễn tôi ra cửa, nàng hôn tôi một nụ hôn em gái và nói:

- Anh sẽ gọi cho Janelle ngày mai phải không?

Tôi nói:

- Chắc rồi. Anh sẽ gọi cho nàng từ nhà

Sáng hôm sau tôi bắt chuyến máy bay sớm đi New York, và ở trạm đến của phi trường Kennedy, tôi gọi điện thoại cho Janelle. Nàng tỏ ra rất vui sướng khi nghe tôi:

- Em cứ sợ anh sẽ không thèm gọi cho em nữa đấy.

Tôi nói:

- Anh đã hứa là anh sẽ gọi mà.

Nàng bảo:

- Bọn em làm việc đến ba giờ sáng nay còn cuộc tổng diễn tập với trang phục sân khấu thì chín giờ tối nay mới bắt đầu. Em sẽ ghé lại chỗ khách sạn vài giờ với anh nếu anh muốn gặp em

Tôi nói:

- Tất nhiên là anh muốn gặp em rồi. Nhưng anh đang ở New York. Anh đã nói với em là anh sẽ gọi cho em từ nhà mà.

Một khoảng lặng dài bên kia đầu dây.

- Em hiểu, - nàng nói.

- Tốt, - tôi nói. - Anh sẽ gọi cho em khi anh đến Los Angeles lại. OK?

Lại một khoảng lặng khác trên điện thoại, rồi nàng nói:

- Nghe này. Anh đã từng rất tốt với em, tốt không thể tưởng. Nhưng em không thể để anh xúc phạm em nhiều hơn nữa!

"Cạch", ống nghe được dằn mạnh xuống máy, dứt khoát.

Thế nhưng trong cuộc du hành sau đó của tôi đến California, chúng tôi lại làm hoà với nhau và xoá bài chơi lại. Nàng muốn hoàn toàn thành thực với tôi; sẽ không còn những ngộ nhận lẫn nhau nữa. Nàng thề rằng tối hôm đó nàng không hề lên giường với Evarts hay với tay đạo diễn. Rằng nàng vẫn hoàn toàn thành thực với tôi. Rằng nàng không bao giờ nói dối nữa. Và để chứng minh điều đó, nàng kể tôi nghe về mối quan hệ giữa Alice với nàng. Một câu chuyện khá lý thú nhưng chẳng chứng minh điều gì, nhất là đối với tôi. Dù sao, biết được sự thật chắc chắn là điều hay.

Chú thích:

(1) Nữ ca sĩ nổi tiếng của Pháp (1915-1963) với những bài ca một thời được khắp cả thế giới ưa chuộng như La Vie en Rose, hymme à L Amour (theo Peitit Larousse Illustre)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Janelle sống với Alice de Santis hai tháng trước khi nàng nhận thấy rằng Alice si mê mình. Sở dĩ phải mất thời gian lâu như thế vì ban ngày cả hai làm việc vất vả Janelle phải thường xuyên đáp lại các cuộc phỏng vấn do người đại lý của nàng thu xếp, còn Alice phải làm việc nhiều giờ với tư cách người thiết kế trang phục cho một phim kinh phí lớn.

Họ có những phòng ngủ riêng. Nhưng đến khuya, Alice thường đi vào phòng Janelle và ngồi trên giường nàng để tán gẫu. Alice hay sửa soạn thức gì để ăn uống và một ly chocolate sữa nóng cho mỗi người để giúp họ dễ ngủ. Họ thường bàn về công việc. Janelle kể về những kiểu tán tỉnh tế nhị hay những trò gạ gẫm thô bỉ nhắm đến nàng trong ngày hôm đó, để cả hai khúc khích cười với nhau. Alice không bao giỡ chỉ ra rằng Janelle khuyến khích những màn ve vãn đó với vẻ dáng "người đẹp phương nam" của nàng.

Alice là một phụ nữ dong dỏng cao, trông có vẻ thẳng băng, có tác phong công nghiệp và cứng rắn đối với thế giới bên ngoài. Nhưng nàng rất dịu dàng mềm mỏng với Janelle. Còn Janelle ngưỡng mộ Alice vì trí thông minh tính hiệu quả đầy thẩm quyền của nàng trong lĩnh vực thiết kế thời trang.

Alice vừa xong công việc với bộ phim cũng là lúc Richard, con của Janelle đến để sống một phần kỳ nghỉ hè với mẹ. Thông thường khi con đến sống chung, Janelle dành trọn thời gian để dẫn con đi tham quan Los Angeles, xem hát kịch, đến công viên giải trí Disneyland, tắm biển. Nàng luôn vui thích với cuộc viếng thăm của con và luôn luôn cảm thấy hạnh phúc trong tháng hè. Nhưng có một mùa hè số mệnh xui khiến làm sao, nàng đang đảm nhận một vai nhỏ trong bộ truyền hình nhiều tập sẽ khiến nàng phải bận bịu phần lớn thởi gian nhưng cũng giúp cho nàng sống đủ cả năm. Nàng bắt đầu viết một bức thư dài cho người chồng cũ để giải thích tại sao Richard không thể sống với nàng trong mùa hè năm ấy, và rồi nàng gục đầu xuống bàn khóc nức nở. Nàng thấy dường như đang thật sự bỏ rơi con mình.

Lúc đó Alice cứu nàng. Cô ta bảo Janelle cứ để Richard đến. Alice sẽ dẫn cậu bé đi chơi. Nàng sẽ dẫn bé đến xem mẹ đóng phim và mang cậu bé đi trước khi đạo diễn bực bội. Alice sẽ chăm sóc cho bé suốt ban ngày. Đến đêm, Janelle sẽ bầu bạn với con. Janelle cảm thấy tràn ngập lòng biết ơn đối với Alice.

Khi Richard đến nghỉ hè một tháng với mẹ, cả ba đã có khoảng thời gian tuyệt vời bên nhau. Sau giờ làm việc, Janelle về nhà và Alice sẽ lo cho Richard tinh tươm để đi dạo phố ban đêm. Cả ba sẽ đi coi phim, sau đó đi ăn khuya. Cuộc sống thật thoải mái, dễ dàng và có thể nói là còn hạnh phúc hơn khi nàng sống với chồng rất nhiều. Alice không bao giờ cãi vã hay phiền trách gì nàng.

Richard không bao giờ hờn dỗi, mặt sưng mày xỉa hoặc ngang bướng. Cậu bé sống trong bầu khí có lẽ là giấc mơ của bao trẻ thơ với hai bà mẹ cùng nâng niu chiều chuộng cậu. Cậu yêu California biết bao.

Khi đến ngày cậu phải về lại với bố, Alice và Janelle cùng đưa cậu đến chuyến bay nửa đêm và rồi cuối cùng còn lại có hai người như trước, Janelle và Alice nắm lấy tay nhau cùng thở ra nhẹ nhõm của một cặp vợ chồng khi người khách ra đi. Janelle cảm thấy xúc động mạnh mẽ đến độ nàng ôm chặt Alice và định hôn lên má nàng. Alice xoay mặt nhận nụ hôn lên cái miệng mềm mại với đôi môi mỏng, hồng tươi của mình. Trong một thoáng, nàng ghì miệng Janelle trên miệng nàng.

Trở về căn hộ chung, họ cùng uống cacao như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Rồi mỗi người về phòng ngủ riêng của mình, Nhưng Janelle trằn trọc không ngủ được. Nàng đến gõ cửa phòng ngủ của Alice và bước vào phòng. Nàng ngạc nhiên thấy Alice trần truồng nằm trên giường và nhìn Janelle với một nụ cười lấp lửng hàm ý mơ hồ.

Nhìn đôi vú căng tròn của Alice, Janelle bỗng cảm thấy sự thôi thúc nhục dục cuộn lên và mặt nàng đỏ bừng. Bị lôi cuốn bởi một người đàn bà khác là điều chưa từng xảy ra với nàng. Nhất là sau vụ bà Wartberg. Vì vậy khi Alice chui vào dưới tấm chăn, Janelle lại ngồi bình thường bên mép giường và họ nói về khoảng thời gian vui vẻ khi họ còn có Richard sống chung. Bỗng dưng Alice tuôn trào nước mắt.

Janelle vuốt mái tóc đen của nàng và ân cần hỏi:

- Alice, bồ làm sao vậy?

Thế là vào lúc đó cả hai biết rằng họ đang diễn một màn kịch sẽ cho phép họ làm điều cả hai cùng muốn làm.

Alice nói trong thổn thức:

- Mình không có ai để yêu. Cũng chẳng có ai yêu mình.

Có một lúc ở một góc nào đó trong tâm hồn Janelle, nàng vẫn giữ một khoảng cách mang tính hài hước. Đây là một màn mà nàng thường diễn với các chàng tình nhân. Nhưng lòng biết ơn nồng nhiệt Alice trong tháng vừa qua, cái khoảnh khắc thèm muốn vừa được "đánh lửa" lên bởi đôi bầu vú căng đầy chứa nhiều hứa hẹn hơn là những tương thương của tính hài hước. Và chính nàng cũng muốn tạo ra những cảnh thấm đẫm kịch tính. Nàng kéo tấm chăn ra khỏi người Alice và sờ vào đôi vú nàng la và kì diệu thay, thấy đôi núm vú săn lại và nhô thẳng lên. Rồi nàng cúi đầu xuống phủ mái tóc vàng lên ngực Alice

Và thế là khởi đầu cho Janelle cuộc đối tác tình dục thoả mãn nhất mà nàng từng trải nghiệm cho đến lúc đó. Không phải nàng si tình, không đâu. Chỉ Alice si tình nàng. Đó là một phần lý do khiến cho cuộc đối tác thoả mãn nàng đến thế. Và cũng vì rất đơn giản là nàng thích bú mút một bộ ngực căng đầy, đó là một khám phá mới mẻ và hào hứng. Nàng hoàn toàn cảm thấy thoải mái với Alice, vừa trở thành một lãnh chúa quyền uy đối với nàng ta. Điều này thật tuyệt. Nàng không phải diễn vai "Người đẹp phương nam" như thường lệ.

Một phần của cảm giác hưng phấn trong mối quan hệ đối với Janelle là nàng có thể diễn vai "bóng tùng quân" che chở cho "thân cát đằng" của Alice. Không chỉ về chuyện tình dục mà trong sinh hoạt hằng ngày, kể cả từng chi tiết nhỏ nhặt đời thường. Thực tế là nàng trở thành kẻ lười biếng trong khi Alice luôn săm soi để tỏ ra hấp dẫn với Janelle. Janelle thích làm những trò "bốc hốt" dâm đãng của con đực, như chộp vào đũng quần hay bóp ngực Alice khi nàng ta đi ngang. Nàng thích thú nhập vai đàn ông. Nhiều lúc làm như nàng cưỡng dâm Alice. Những lúc đó nàng cảm thấy khoái lạc mang dâm tính mạnh mẽ hơn những lần giao hoan với đàn ông. Thêm nữa là, dù cả hai vẫn còn những cuộc hẹn hò với đàn ông - không thể tránh được trong nghề nghiệp của họ nơi những nghĩa vụ và công việc đan xen với nhau, nhưng chỉ có Janelle còn thích thú khi ngủ đêm với đàn ông. Chỉ Janelle thỉnh thoảng đi ngủ nơi khác. Để sáng hôm sau về nhà thấy mặt Alice sưng sỉa lên vì ghen tức mà không dám hạch sách hay quát tháo tiếng nào. Thực tế là nàng ta trông thảm não đến độ Janelle phát hoảng và từng xem xét đến việc dời đi ở chỗ khác. Để khi nàng ta có về muộn, Janelle cũng không hề phải lo ngại Alice nghĩ nàng đã ôm ấp anh chàng nào. Nàng bất cần. Trong ý nghĩ của Janelle chuyện này chẳng có liên quan gì đến chuyện kia.

Nhưng dần dà, có một điều được hiểu ngầm rằng Janelle là một tác nhân tự do. Rằng nàng được toàn quyền làm những gì nàng thích. Rằng nàng không phải chịu trách nhiệm về những kẻ si mê mình. Một phần bởi vì nàng quá đẹp khiến nên khó tránh được sự chú ý và những cuộc gọi từ những người nàng có liên hệ với: diễn viên, trợ lý đạo diễn, nhà đại lý, nhà sản xuất đạo diễn, vv

Nhưng dần dần qua một năm hai nàng chung sống, Janelle mất dần hứng thú trong chuyện làm tình với đàn ông vì nàng thấy không thoả mãn. Không phải vì phương diện thể xác mà vì phương diện quyền lực đã khác đi. Nàng có thể cảm nhận hay tưởng tượng rằng mình cảm nhận và nghĩ rằng đàn ông có cái gì đó trên nàng sau khi họ đã một đôi lần dìu được nàng lên giường. Họ trở nên quá đỗi tự tin, lộ vẻ tự mãn, chờ đợi quan tâm đúng mức, sự quan tâm mà nàng không hề sẵn sàng để ban phát. Và cũng vì nàng tìm thấy nơi Alice một cái gì đó không hề thấy nơi bất kỳ người đàn ông nào? Một sự tin cậy tuyệt đối. Nàng thực sự hạnh phúc với Alice; cô ta chăm chút vun vén cho nàng được sung sướng bằng mụi cách.

Một ngày nọ Alice nói:

- Janelle này, có thể để Richard sống chung với chúng ta thường xuyên được mà.

- Ôi lạy Chúa, mình mong được như thế biết bao, - Janelle nói - Nhưng mình đâu có thời giờ để chăm sóc cho nó.

- Được mà, - Alice nói - Xem nào, chúng ta hiếm khi làm việc cùng lúc. Mà con còn đến trường nữa. Nếu cần có thể thuê một chị giúp việc. Mình nghĩ bồ sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu có Richard bên cạnh.

Janelle bị cám dỗ. Nàng nhận ra rằng cái tiểu gia đình của họ sẽ bền vững hơn nếu có thêm Richard.

Nàng đang có việc làm đủ để sống nuôi con thong thả. Họ có khả năng thuê một căn hộ lớn hơn và thực sự có trụ sở ổn định hơn.

- Được rồi, - nàng nói - Mình sẽ viết cho Richard, xem ý cháu thế nào.

Nhưng rồi nàng không bao giờ làm điều đó. Nàng biết rằng người chồng cũ sẽ không chịu giao con hẳn cho nàng đâu. Và cũng vì nàng không muốn Alice trở nên quá quan trọng đối với cuộc đời nàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Khi tôi biết chắc rằng Janelle là người tình dục lưỡng tính, rằng Alice cũng là người yêu của nàng, tôi thấy nhẹ nhõm. Có sao đâu nào! Hai người đàn bà làm tình với nhau cũng giống như hai người đàn bà ngồi khâu vá thêu thùa bên nhau vậy thôi. Tôi nói điều đó với Janelle để chọc giận nàng chơi. Vả chăng cách thu xếp của nàng giúp cho tôi luôn có một lối thoát. Đó là khoản tiền thế chân nàng đóng cho tôi để tôi được "tại ngoại hầu tra" đối với toà án lương tâm và tình cảm. Tôi ở trong tư thế của một anh chàng tình nhân của người đàn bà có chồng mà người chồng lại rất hiểu biết, độ lượng và lại là đàn bà - một phối hợp kỳ thú.

Nhưng không có gì đơn giản. Dần dà tôi nhận ra rằng Janelle yêu Alice ít nhất cũng bằng yêu tôi. Điều tệ hơn nữa là tôi phải thực lòng nhìn nhận rằng Alice yêu Janelle hơn tôi, theo nghĩa ít vị kỷ hơn mà lại ít tác hại đối với Janelle hơn. Vì sau thời gian này, tôi biết rằng tôi không làm cho Janelle thoải mái lắm về phương diện cảm xúc. Chẳng sao cả, nếu đó là một cái bẫy vô vọng. Không có một chàng trai nào có thể giải quyết các vấn đề của nàng. Và tôi chờ đợi nàng chấp nhận một vị thế phục tùng trong cuộc đời tôi.

Xét cho cùng, tôi còn có vợ con và sự nghiệp "trước thư lập ngôn" của tôi nữa kia mà. Thế nhưng tôi vẫn chờ mong nàng đặt tôi vào vị trí số một?

Cái gì mà chẳng phải là một cuộc mặc cả ở một mức độ nào đó. Và tôi được lợi thế trong cuộc mặc cả này hơn nàng. Đơn giản là thế?

Và đây là một món hoạnh tài, một thứ của trời cho - Có một cô bạn gái thuộc loài "lưỡng tính". Có lần Janelle ốm phải nằm viện để mổ một nang buồng trứng. Tôi vẫn đến thăm nàng hàng đêm độ một giờ. Nhưng chính Alice ở với nàng suốt ngày và chăm sóc mọi thứ cho nàng. Quả thật là tiện biết bao. Khi tôi đến, Alice thường rời phòng một lát để cho Janelle và tôi một mình với nhau. Có lẽ Alice biết rằng Janelle muốn tôi vuốt ve khi nói chuyện với Janelle. Không phải là chuyện tình dục nhưng điều đó uỷ lạo nàng.

Lạy Chúa, tình dục là nguồn an ủi và đem lại thoải mái, giống như việc tắm nước nóng, một bữa ăn ngon, hay ly rượu hảo hạng. Và phải chi người ta có thể đến với tình dục theo cách đó, không cần tình yêu và những điều rắc rối khác. Nếu như không có Alice, tôi đã phải làm bao nhiêu chuyện lỉnh kỉnh mà nàng đang làm cho Janelle. Như thế cũng phiền thật. Cho nên có Alice làm người yêu đồng giới tính của Janelle là điều tiện lợi cho tôi rất nhiều. Nên tôi chẳng những không ghen tị gì với Alice mà còn rất mến nàng. Tôi là người rất bận bịu. Hơn nữa tôi còn có gia đình, vợ con. Ngày hôm sau tôi phải quay về New York. Tôi đã lén đem vào một chai sâm banh để uống mừng đêm cuối cùng bên nhau trước khi tạm chia tay.

Alice mở chai sâm banh một cách thành thạo và rót ra ba ly; chúng tôi cùng uống.

Janelle mặc một chiếc áo ngủ có điềm xếp nếp rất xinh và như thường lệ, trông nàng có vẻ mang nhiều chất bi kịch khi nằm trên giường bệnh. Hơi xanh xao nhợt nhạt - một hình ảnh khác của nàng Camille Trà Hoa Nữ - ngoại trừ điều nàng thật sự có thể hình rất tuyệt và còn đầy sinh lực. Đôi mắt nàng đang nhảy múa với lạc thú trong lúc nàng nhấp ly sâm banh. Nàng đã bẫy vào trong căn phòng này hai người nàng yêu thích nhất. Nàng vươn tay ra nắm lấy bàn lay tôi trong lúc Alice ngồi đó và ngắm nhìn.

Từ khi biết về họ, tôi rất ý tứ, không bao giờ hành động như một người tình của Janelle trước mặt Alice. Và Alice không bao giờ để lộ ra quan hệ tình dục của nàng với Janelle. Nhìn họ, người ta cứ tưởng họ là hai chị em hay hai nữ đồng chí. Họ đối xử với nhau rất bình thường, không có gì khác lạ. Quan hệ đặc biệt của họ chỉ được biểu thị bởi Janelle; đôi khi nàng "khiển" Alice chạy lăng xăng giống như một chàng độc đoán.

Bây giờ Alice lùi chiếc ghế của nàng tựa vào bức tường xa khỏi giường của Janelle, xa hai chúng tôi. Như thể nàng ban cho chúng tôi tình trạng chính thức của đôi tình nhân. Vì lý do nào đó, cử chỉ này của nàng tác động lên tôi một cách thống thiết; bởi yêu người độ lượng nên ta phải cố nén nỗi đau vò xé của ghen tuông thường tình.

Tôi đoán tôi ganh tị với cả hai. Họ thật thoải mái với nhau đến độ họ có thể dung nạp được tôi trong tư thế ưu đãi của một tình nhân chính thức. Janelle dùng mấy ngón tay của nàng nghịch bàn tay tôi. Và bây giờ đây tôi nhận ra đó không phải là sự đồi bại ở nơi nàng nhưng là một ước muốn chân thành làm cho tôi hạnh phúc, thế nên tôi mỉm cười với nàng. Trong giờ sắp tới đây chính tôi sẽ uống cạn chai sâm-banh và tôi sẽ rời nơi đây, cất chuyến bay đi New York, sẽ chỉ còn hai nàng với nhau và Janelle sẽ bù cho Alice. Và Alice biết điều đó. Cũng như nàng biết rằng Janelle phải dành khoảnh khắc này cho tôi. Tôi kháng cự lại sự thôi thúc rút tay mình ra khỏi tay nàng. Như thế là thiếu độ lượng, và huyền thoại về giống đực thượng đẳng vẫn cho rằng về cơ bản, đàn ông luôn độ lượng hơn đàn bà. Nhưng tôi biết rằng lòng độ lượng của tôi bị cưỏng chế, tôi không thể không rời xa trong lúc này.

Cuối cùng tôi cũng hôn từ biệt Janelle. Tôi hứa sẽ gọi cho nàng vào hôm sau. Chúng tôi ôm siết lấy nhau trong lúc Alice kín đáo rời phòng. Nhưng nàng vẫn đứng đợi tôi bên ngoài và đi cùng tôi ra xe. Nàng hôn nhẹ lên môi tôi.

- Đừng lo. - nàng nói - Em sẽ ở suốt đêm với Janelle.

Tôi không ngạc nhiên vì Janelle đã bảo tôi rằng sau khi nàng mổ, Alice đã ngồi cả đêm cuộn mình trong ghế bành ở phòng nàng.

Tôi chỉ nói:

- Hãy bảo trọng. Cám ơn!

Rồi tôi ngồi vào xe và lái lên phi trường.

Trời còn tối trước lúc máy bay khởi động chuyến phi hành về Phương đông. Tôi không bao giờ ngủ được trên máy bay.

Và như thế tôi có thể nghĩ về Alice và Janelle đang thoải mái với nhau tại phòng bệnh viện và tôi vui vì Janelle không cô độc. Tôi cũng vui vì sắp được dùng bữa điểm tâm với gia đình trong buổi bình minh sắp tới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Một trong những điều tôi không thừa nhận với Janelle đó là sự ghen tuông của tôi không chỉ có tính lãng mạn mà còn mang tính thực dụng. Tôi đã tìm kiếm chất văn học trong các tiểu thuyết lãng mạn, nhưng chẳng có trong quyển tiểu thuyết nào có thể tìm thấy sự thú nhận thành thật (và có phần hơi trắng trợn), là một trong những lý do mà người đàn ông có vợ muốn cô nhân tình của mình đừng quan hệ linh tinh, đó là anh ta sợ chẳng may vớ phải phần thưởng khuyến mãi, khi tham gia tour du lịch lên đỉnh Vu Sơn, là những thứ bệnh nói ra sợ chị em gớm! Tệ hại nhất là khi mang món quà đó về tặng lại cho vợ nhà thì tai hoạ không biết đến đâu mà lường cho hết được!

Tôi đoán một trong những lý do mà điều này không thể được thú nhận, ít ra là đối với cô nhân tình, đó là anh đàn ông có vợ thường nói dối và bảo rằng đã từ lâu anh ta không ngủ chung với vợ nhà. Vì anh ta đã quen nói đối với vợ, và vì nếu như anh ta thật sự đã lây nhiễm cho nàng, nếu như có chút lòng nhân đạo anh ta phải cho cả hai biết (mà điều này thì, eo ôi, bố bảo cũng chả dám). Nào ai có khảo mà mình lại xưng. Tội đếch gì. Có khảo cũng còn chối phăng tuốt nữa là! Ấy, cái mầm tai vạ và tội nghiệt chính là ở chỗ đấy.

Vì thế một đêm kia tôi nói với Janelle về chuyện ấy và nàng nhìn tôi chăm bẳm và nói:

- Thế ngộ như anh vớ phải của nợ ấy từ bà vợ "trung trinh tiết liệt" của anh rồi bán cái qua tôi thì sao? Hoặc là anh không nghĩ rằng chuyện đó là khả thi?

Chúng tôi đang chơi trò thường lệ của chúng tôi; đánh nhau mà không thật sự đánh nhau chỉ là một cuộc đua tài dí dỏm trong đó trộn lẫn tính hài hước với sự thật nghiêm túc và ngay cả một chúl ác tâm miễn là không tàn bạo.

- Hẳn là có thể chứ, - tôi đáp. - Nhưng cơ hội khó hơn. Vợ anh là một phụ nữ Công giáo khá ngoan đạo Nàng đức hạnh lắm. - Tôi đưa bàn tay lên để chặn ngang lời phản đối của Janelle. - Với lại nàng vừa già hơn vừa không đẹp bằng em nên ít có cơ hội hơn.

Janelle dịu cơn một chút. Bất kỳ lời ca tụng nào đối với nhan sắc của nàng cũng làm nàng mát dạ.

Rồi tôi nói, cười nhăn nhở một tí:

- Nhưng em có lý. Nếu vợ anh đổ bệnh cho anh rồi anh lại đổ bệnh cho em, anh sẽ không cảm thấy có tội gì. Chuyện ấy thì cũng phải đạo thôi. Đó lẽ là công bằng của trời đất, bởi vì em và anh là những tội phạm hình sự, chiếu theo luật Hôn nhân và Gia đình?

Janelle không thể nào còn nhịn được nữa! Nàng lồng lộn, rít lên:

- Tôi không thể nào tin anh lại có thể vô sỉ đến thế và nói những điều tởm đến như vậy. Tuyệt đối không thể nào tin. Tôi có thể là một tội phạm, nhưng anh là đồ hèn nhát?

Đến đó, tôi quay mặt qua chỗ khác ôm bụng cố nín cười và...

Màn từ từ hạ

***

Một đêm khác, vào lúc hai ba giờ sáng, như thường lệ chúng tôi không ngủ được nữa vì quá bị kích thích sau những cuộc ái ân mấy lần và uống hết một chai vang và nàng cứ nằn nì mãi, cuối cùng tôi kể nàng nghe về quãng đời thơ ấu của tôi nơi cô nhi. Lúc còn bé, tôi dùng sách như một thứ ma thuật.

Trong phòng ngủ, đêm khuya, trong đơn độc tôi có thể thả hồn phiêu du và thoát ly khỏi thế giới vô vị thường ngày bằng cách đọc sách và rồi lấy chất liệu từ đó dệt lên những mộng cảnh phóng tưởng riêng mình. Những cuốn sách tôi yêu thích nhất vào thời tôi mười, mười một, mười hai tuổi là những truyện truyền kỳ thơ mộng về hiệp sĩ Roland, về đại đế Charlemagne, những truyện miền Viễn Tây Hoa Kỳ nhưng tôi đặc biệt say mê truyền thuyết về vua Arthur và các hiệp sĩ bàn tròn, nhất là hai tráng sĩ hào hùng Lancelot và Galahad. Nhưng trên hết, tôi yêu nhân vật Merlyn bởi vì từng nghĩ mình giống như ông ta.

Và rồi tôi sẽ ngẫu tác ra những phóng khúc của mình với anh Artie thành vua Arthur, mà điều đó cũng có lý vì anh Artie của tôi cũng đầy đủ đức tính cao quý và công chính như vua Arthur, trung thực và vị nghĩa, từ ái khoan dung mà tôi không có được. Khi còn là đứa bé, tôi đã tự nghĩ là mình thông minh lanh lợi, có tầm nhìn xa và quả quyết rằng tôi sẽ điều khiển cuộc đời mình bằng pháp thuật. Và thế là đâm ra mê vị pháp sư Merlyn của vua Arthur con người lừng sống xuyên suốt quá khứ, nhìn thấy trước tương lai, kẻ toàn tri và bất tử.

Chính vào lúc đó tôi triển khai trò tiểu xảo đưa mình từ hiện tại vào tương lai. Tôi vận dụng tiểu xảo đó suốt đời. Khi còn bé, nơi cô nhi viện, tôi biến mình thành một chàng thanh niên với những bạn bè thư hương thông thái. Tôi có thể làm cho mình sống trong một căn hộ sang trọng và trên chiếc ghế sofa của căn hộ đó, tôi làm tình với một phụ nữ rất đẹp, rất cuồng nhiệt đam mê.

Trong thời gian tham chiến, vào những lúc phải làm nhiệm vụ tuần tiễu hay trực gác buồn tẻ, tôi sẽ dự phóng mình vào tương lai khi được nghỉ phép ở Paris, ăn uống ngon lành thoả thuê, sau đó quần thảo tơi bời với các nàng kiều nữ giang hồ bằng đủ ba mươi sáu kiểu!

Dưới ánh đèn được che phủ, tôi có thể biến đi nhờ ma thuật và thấy mình nghỉ ngơi trong rừng, bên bờ con suối nhỏ nên thơ, đọc quyển sách mình say mê.

Chuyện đó được việc, thực sự làm được việc. Tôi biến đi như có phép mầu. Và tôi sẽ nhớ lại, về sau này, khi tôi đang thật sự làm những điều kỳ diệu ấy tôi nhớ lại những thời gian khủng khiếp đó và dường như đã thoát khỏi chúng dường như chẳng bao giờ đau khổ. Dường như chúng chỉ là những cơn mộng mà thôi.

Tôi nhớ lại tôi bị sốc và ngạc nhiên vô cùng khi Merlyn tâu với vua Arthur hãy tiếp tục trị vì mà không có sự phò tá của ông, bởi vì Merlyn sẽ bị cầm tù trong một hang động bởi một nữ pháp sư trẻ mà ông ta đã truyền trao mọi bí thuật. Giống như vua Arthur, tôi hỏi tại sao.

Tại sao Merlyn lại truyền thụ mọi pháp thuật cho một thiếu nữ đơn giản chỉ để ông ta trở thành tù nhân của nàng mà tại sao ông ta lại hoan hỉ đi vào giấc ngủ ngàn năm trong một hang động, trong khi biết rằng đấng minh quân của mình sẽ chịu một kết cuộc bi thảm? Tôi không thể hiểu điều đó. Tuy thế, lúc tôi lớn lên, tôi cảm thấy rằng chính mình cũng có thể hành động như thế. "Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ - Anh hùng nan dữ mệnh tranh hoành"(1)

Tôi đã học được điều ấy và biết rằng mọi bậc tuyệt thế anh hùng điều có một nhược điểm chết người - một gót chân Asin riêng của họ - Và tôi cũng không là ngoại lệ.

Tôi đã đọc rất nhiều dị bản về truyền thuyết vua Arthur, và trong một bản tôi đã thấy một bức tranh minh hoạ chân dung Merlyn như một người có hàm râu dài và xám, đội một cái mũ hình nón, lấp lánh các ngôi sao và dấu hiệu hoàng đạo. Trong giờ học thủ công, tôi đã làm một cái nón như thế rồi đội lên đầu dạo khắp sân trường. Tôi thích cái mũ đó. Cho đến một ngày có một đứa nào đã lấy cắp mất cái mũ đó và tôi không bao giờ thấy lại và không bao giờ làm lại cái khác. Tôi đã dùng cái nón đó để nhã ra những câu phù chú quanh mình, về người anh hùng mà tôi sẽ trở thành; về những cuộc phiêu lưu tôi sẽ trải qua, những kỳ công tôi sẽ hoàn thành và hạnh phúc mà tôi tìm thấy. Nhưng cái mũ ấy không thật sự cần thiết. Dù thế nào thì những phóng tưởng hoang đường cũng tự dệt thành bao mộng cảnh đan xen với cuộc sống vô vị thường ngày của tôi nơi cô nhi viện đó, khiến tôi dẫu ở đó mà tâm hồn lại để tận đâu đâu. Tôi thực sự là Merlyn khi mới là đứa trẻ lên mười. Tôi là một pháp sư và từ đó không một cái gì có thể làm hại tôi.

Janelle nhìn tôi cười nhẹ:

- Anh thực sự nghĩ mình là Merlyn à? - nàng hỏi.

- Đôi khi có thế đấy. - tôi đáp.

Nàng lại cười và không nói gì. Chúng tôi uống một chút rượu và rồi bỗng nhiên nàng bảo:

- Anh biết đấy, đôi khi em cũng hơi lập dị và thật lòng em sợ mình cư xử như thế với anh. Nhưng làm chuyện lập dị đôi khi cũng vui. Giả sử như hãy để em trói anh lại và rồi em làm tình với anh mà anh chẳng thể phản ứng gì được. Một trò ngộ đấy.

Tôi ngạc nhiên bởi vì trước đây chúng tôi đã từng thử làm trò lập dị và chẳng thấy gì thú vị. Tôi biết một điều; tôi không muốn để ai trói mình. Vì thế tôi bảo nàng:

- Được rồi, thử chơi thì thử. Nhưng để anh trói em, chứ em không trói anh nhe.

- Như thế là không công bằng. Không fair-play! - nàng phản đối.

- Anh bất cần. Không ai được trói anh cả. Làm sao anh biết được là khi đã trói anh rồi em sẽ không đốt diêm quẹt dưới chân anh hay không đâm một mũi kim vào mắt anh? Sau đó hẳn là em sẽ hối hận, nhưng sự hối hận muộn màng đó cũng không giúp anh khỏi chịu tật nguyền?

- Không đâu, anh ngốc. Sẽ chỉ là một kiểu trói tượng trưng thôi. Em sẽ giữ lấy một cái khăn quàng và trói anh lỏng thôi. Anh có thể vùng ra bất cứ khi nào. Giống như một sợi chỉ thôi mà. Anh là nhà văn, anh phải hiểu "tượng trưng" nghĩa là gì chứ.

- Không, - tôi nói.

Nàng dựa ngửa trên giường, cười thật lạnh với tôi:

- Thế mà anh nghĩ mình là Merlyn à? Anh nghĩ em sẽ thông cảm với anh lúc anh khốn khổ trong cô nhi viện, và tự tưởng tượng mình là Merlyn. Anh là tên chó đẻ tồi tệ nhất mà em từng gặp và em sẽ chứng minh cho anh thấy điều đó. Anh chưa từng để cho người đàn bà nào nhốt anh vào trong hang động hay trói một cái khăn quàng quanh tay anh. Anh đâu phải là pháp sư Merlyn.

Tôi thật sự không tiên liệu điều đó xảy ra, nhưng đã có câu trả lời cho nàng, câu trả lời mà tôi không thể nói ra. Rằng một nữ pháp sư không cao tay ấn bằng nhưng đã đến trước nàng. Tôi đã có vợ, chẳng phải thế à?

***

Ngày hôm sau tôi có cuộc họp với Doran và anh ta bảo tôi rằng những cuộc thương lượng về kịch bản mới sắp diễn ra. Đạo diễn mới, Simon Bellfurt, đang tranh đấu đòi tỉ lệ cao hơn. Doran ướm thử:

- Anh có sẵn lòng xem xét việc nhượng bộ vài điểm của anh cho anh ta?

- Tôi chẳng thiết làm việc về bộ phim đó nữa, - tôi bảo Doran. - Thằng Simon đó là đồ chúa ngục, còn thằng Richetti, cánh hẩu của nó, lại là thứ trộm cắp bẩm sinh. Kellino ít ra cũng là một diễn viên lớn để người ta có thể bỏ qua những chuyện nhảm của anh ta. Và cái thằng tồi Wagon đó lại là thứ cặn bã tổng hợp của cả đám cộng lại, thôi thôi cho tôi xin kiếu!

Doran vẫn ngọt ngào:

- Tỷ lệ ăn chia của cậu trong cuốn phim tuỳ thuộc vào việc cậu tham gia chuyển thể kịch bản. Điều đó được ghi rõ ràng trong hợp đồng. Nếu cậu phó mặc cho bọn đó tiến hành công việc không có cậu bọn họ sẽ làm thế nào cho cậu mất phần bản quyền chuyển thể kịch bản. Lúc đó nếu cậu có đưa ra Hội Nhà văn để trọng tài xét xử thì rắc rối chán. Phim trường sẽ đề nghị tỷ lệ chia phần và cậu phải trầy vi tróc vẩy cũng chưa chắc đã dành được phần thoả đáng cho mình.

- Cứ để bọn chúng thử xem, - tôi nói. - Bọn chúng không thể thay đổi nhiều lắm đâu.

Doran nói giọng dỗ dành:

- Tôi có ý này. Eddie Lancer là hảo bằng hữu của cậu. Tôi sẽ yêu cầu có anh ấy đảm nhiệm công việc với cậu về kịch bản. Anh ấy là một con người hiểu biết và anh ấy có thể can thiệp cho cậu chống lại tất cả các tay kia. OK? Hãy tin cậy nơi mình chuyện này đi.

- OK, - tôi đáp. Tôi đã phát chán với toàn bộ vụ này.

Trước khi rời đi Doran nói:

- Sao cậu nổi sùng đám đó đến thế?

- Bởi vì chẳng có mặt nào tỏ ra một chút tiếc thương Malomar, - tôi nói. - Chúng hí hửng vì anh ấy chết.

Thực ra cũng không hẳn như vậy. Tôi ghét bọn họ vì đã bố láo muốn "dạy bảo" tôi phải viết như thể nào.

Tôi quay về New York đúng lúc để xem lễ phát giải của Hàn lâm viện Điện ảnh trình chiếu trên tivi.

Vallie và tôi vẫn xem chúng hàng năm. Riêng năm nay tôi càng chăm chú xem hơn bởi vì Janelle có một phim ngắn độ nửa giờ mà nàng cộng tác với các bạn để sản xuất và được đề cử.

Vợ tôi mang ra cà phê và bánh ngọt và chúng tôi ngồi bệt xuống sàn để xem tivi. Nàng cười với tôi và nói:

- Mình có nghĩ một ngày nào đó mình cũng lên bục nhận một giải Oscar?

- Không, tôi nói. - Phim của anh sẽ tệ lắm.

Như thường lệ, trong các cuộc trình chiếu lễ phát giải Oscar, những phần phụ luôn đi trước mở đường, và phim của Janelle thắng giải phim ngắn hay nhất và mặt nàng hiện ra trên màn hình, hồng tươi, ửng đỏ vì hạnh phúc. Nàng khá biết điều để phát biểu ngắn gọn mà vẫn đủ ý mà lại duyên dáng, đáng yêu nữa. Nàng chỉ nói:

- Tôi muốn cảm ơn những người phụ nữ đã cùng tôi làm nên cuốn phim này, đặt biệt là Alice de Santis.

Câu phát biểu đó của nàng khiến tôi nhớ lại cái ngày mà tôi biết rằng Alice yêu Janelle hơn là tôi đã từng yêu nàng.

Janelle đã thuê một căn nhà nhỏ nơi bãi biển Malibu trong một tháng và vào những ngày nghỉ cuối tuần, tôi sẽ rời khách sạn và sống những ngày thứ bảy và chủ nhật với nàng tại căn nhà đó. Tối thứ sáu, chúng tôi tản bộ dọc theo bãi biển, rồi chúng tôi ngồi dưới vòm cửa nhỏ xíu, dưới ánh trăng ở Malibu và ngắm những con chim bé xíu mà Janelle bảo tôi đó là loài chim cát. Chúng nhảy lên khỏi mép nước mỗi khi sóng tràn lên.

Chúng tôi làm tình nơi phòng ngủ nhìn ra Thái Bình Dương. Ngày hôm sau, thứ bảy, khi chúng tôi đang ăn trưa sớm, Alice đến nhà. Nàng đùng bữa cùng với chúng tôi và sau đó nàng rút ra khỏi ví một mảnh phim nhỏ xíu hình chữ nhật và đưa cho Janelle. Mảnh phim chỉ rộng được một inch, dài độ hai inches.

Janelle hỏi:

- Cái gì đây?

- Phần nêu tên đạo diễn trên phim, - Alice nói - Mình cắt nó ra.

- Tại sao bồ làm như thế, - Janelle hỏi.

- Vì mình nghĩ nó sẽ làm bạn hài lòng, - Alice đáp.

Tôi quan sát hai nàng. Tôi đã xem cuốn phim. Đó là một tiểu phẩm dễ thương. Janelle và Alice đã làm phim đó với ba người đàn bà khác như một dự án toàn phụ nữ. Janelle được nêu tên là ngôi sao chính Alice được nêu tên là đạo diễn còn mấy người kia cũng được nêu tên tương thích với công việc họ làm cho phim.

- Chúng ta cần đề tên đạo diễn. Chúng ta không thể ra mắt một bộ phim mà không có tên đạo diễn, - Janelle nói.

Để chọc rối lên chơi, tôi đế vào:

- Anh nghĩ là chính Alice đạo diễn bộ phim này đấy!

Janelle nhìn tôi giận dữ:

- Cô ta phụ trách việc đạo diễn. Nhưng chính em đã đưa ra những gợi ý về việc đạo diễn và em thấy mình phải được nêu tên trong khoảng đó.

- Lạy Chúa, - tôi nói. - Em là diễn viên chính của phim. Alice phải được nêu tên cho phần việc của cô ấy chứ?

- Tất nhiên là thế, - Janelle vùng vằng nói. - Em đã nói với cô ấy như vậy rồi. Em đâu có bảo cô ta cắt phần đề tên cô trong âm bản. Cô ấy tự ý làm thế đấy chứ.

Tôi quay sang Alice và nói:

- Em thực sự cảm nhận chuyện này như thế nào?

Alice có vẻ rất điềm tĩnh:

- Janelle đã làm rất nhiều trong phần đạo diễn nàng nói. - Và thực sự em không quan tâm cho lắm đến việc được nêu tên hay không. Cứ để Janelle đứng tên phần đó. Em chẳng thiết gì đâu.

Tôi có thể thấy rằng Janelle đang giận sôi lên.

Nàng bực tức vì bị đẩy vào vị trí chông chênh khó chịu như vậy, nhưng tôi trực cảm rằng nàng sẽ không cho Alice hoàn toàn đứng tên một mình phần đạo diễn phim đâu.

- Anh, đồ chết tiệt, - Janelle rủa tôi. - Đừng có nhìn tôi như thế chứ. Chính tôi huy động tiền để làm bộ phim này, tôi quy tụ mọi người lại và tất cả chúng tôi đều góp ý vào việc viết kịch bản. Không có tôi, làm gì có phim này.

- Được rồi, - tôi nói. - Vậy thì em đứng tên nhà sản xuất. Tại sao việc đứng tên đạo diễn lại quan trọng đến thế?

Lúc đó Alice đứng lên:

- Chúng em sắp đưa phim này đi dự tranh giải Academy và giải Filmex, và đối với những phim như thế này, người ta thấy điều duy nhất quan trọng là vai trò đạo diễn. Đạo diễn được hưởng vinh quang nhiều nhất từ bộ phim. Em nghĩ là Janelle có lý.

Nàng quay sang Janelle:

- Thế bồ để tên đạo diễn như thế nào?

Janelle nói:

- Cả hai chúng ta được để tên, và tên bồ để trước. Đồng ý chứ?

Alice đáp:

- Nhất trí thôi. Bất cứ điều gì bồ muốn.

Sau khi dùng bữa trưa với chúng tôi, Alice nói nàng phải đi dù Janelle nài nỉ nàng ở lại. Tôi nhìn họ hôn nhau từ biệt rồi tôi đưa Alice ra xe.

Trước khi nàng đi, tôi hỏi nàng:

- Em thực sự không quan tâm sao.

Khuôn mặt nàng hoàn toàn điềm tĩnh, đẹp với nét trong sáng, nàng nói:

- Vâng. em thực sự không quan tâm đâu. Janelle bị kích động quá mức sau buổí trình chiếu đầu tiên khi mọi người đến chúc mừng, khen ngợi em. Nàng vẫn thế và làm cho nàng vui lòng còn quan trọng với em hơn mọi chuyện khác. Anh hiểu điều đó chứ, phải không?

Tôi cười và hôn vào má nàng để từ biệt:

- Không, anh không hiểu nổi những chuyện rắc rối đó đâu.

Tôi quay vào nhà và Janelle đã biến đâu mất tăm. Tôi đoán có lẽ nàng đi xuống bãi biển và nàng không muốn tôi bên nàng và đúng thế, một giờ sau tôi nhận ra dáng nàng từ mép nước đi ngược lên bãi cát để về nhà. Rồi nàng đi thẳng vào phòng ngủ và khi tôi gặp nàng ở đó, tôi thấy nàng nằm trên giường, đắp chăn lên người và nàng đang khóc.

Tôi ngồi xuống giường, bên nàng, và không nói gì. Nàng đưa tay ra nắm lấy bàn tay tôi. Nàng vẫn khóc.

- Anh nghĩ em tồi tệ quá phải không? - nàng nói.

- Không, - tôi đáp.

- Và anh nghĩ Alice rất cao thượng, đúng không?

- Anh mến cô ấy, - tôi đáp.

Tôi biết mình phải thật cẩn thận. Nàng đang sợ rằng tôi sẽ nghĩ Alice là một người tốt hơn nàng.

- Em có bảo cô ấy cắt bỏ âm bản phần đó không?

- Không. Nàng tự ý làm điều ấy, đâu có hỏi em.

- Được rồi, - tôi nói. - Vậy em hãy chấp nhận chuyện như thế là như thế và đừng băn khoăn về chuyện ai xử sự tốt hơn. Nàng muốn làm điều ấy vì em. Thì em hãy cứ nhận lãnh. Em biết mình muốn điều ấy mà.

Nghe đến đó nàng lại bắt đầu khóc. Thực tế là nàng đang bị cuồng loạn vì quá kích động, vì thế tôi làm xúp cho nàng và bảo nàng uống mấy viên Valiums; thế là nàng ngủ từ chiều hôm đó đến sáng chủ nhật.

Chiều thứ bảy đó tôi đọc sách, rồi ngồi ngắm bãi biển một mình.

Cuối cùng Janelle thức giấc. Lúc đó khoảng mười giờ sáng, một ngày đẹp ở Malibu. Tôi biết ngay là nàng không thấy thoải mái với tôi, rằng nàng không muốn tôi ở gần suốt phần còn lại của ngày hôm đó. Rằng nàng muốn gọi Alice và có Alice bầu bạn suốt ngày. Vì thế tôi bảo với nàng là tôi có nhận được cuộc gọi và phải đến phim trường và không thể ở nhà với nàng. Nàng làm bộ phản đối nhưng tôi có thể thấy ánh tươi vui trong đôi mắt. Nàng muốn gọi Alice và chứng tỏ tình cảm với cô ta.

Janelle đưa tôi ra xe. Nàng thật đẹp trong chiếc nón rộng vành che nắng, với bộ đồ jeans được đo cắt thật khéo vừa ôm khít người. Nàng cũng có phần hơi thời thượng và nàng tự hào về cái phổ hệ danh gia vọng tộc miền Nam của mình.

Nàng hôn từ biệt tôi, mặt hồng thắm rực rỡ. Nàng không hề rầu rĩ một chút nào chuyện tôi đi. Tôi biết rằng nàng và Alice sẽ có một ngày hạnh phúc bên nhau còn tôi sẽ có một ngày khốn khổ nơi thành phố này. Nhưng rồi tôi nghĩ, đã sao nào? Alice xứng đáng được hưởng hạnh phúc đó, còn tôi thì không, đúng thế. Janelle từng có lần bảo rằng nàng là một giải pháp thực tiễn cho nhu cầu cảm xúc của tôi nhưng tôi không phải là giải pháp thực tiễn cho nhu cầu của nàng.

Màn hình tivi tiếp tục nháy sáng. Có một bài ai điếu đặt biệt để tưởng niệm Malomar. Vallie hỏi điều gì đó mơ hồ về anh ta và tôi trả lời vâng. Kết thúc buổi xem lễ trao giải, nàng hỏi tôi.

- Anh có biết người nào trong số đó không?

- Vài người, - tôi đáp.

- Những ai? - Vallie cật vấn tôi.

Tôi kể ra Eddie Lancer, người thắng giải Oscar về kịch bản điện ảnh, nhưng tôi không nêu tên Janelle.

Trong một thoáng, tôi thắc mắc không biết Vallie có giăng bẫy cho tôi để xem tôi sẽ nêu tên Janelle hay không và rồi tôi nói rằng tôi biết cô gái tóc vàng được giải phim ngắn ở đầu chương trình.

Vallie nhìn tôi rồi quay đi.

Chú thích

(1) Xưa nay những kẻ anh hùng phải rơi lệ ít nhiều, bởi anh hùng cũng không thể tranh với số mệnh
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom