Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Ngục Thánh

Quyển 3 - Chương 136: Bùa ngải


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

[Diendantruyen.Com] Ngục Thánh


Ngược dòng thời gian về những ngày cuối tháng 9 năm 7517… 

Chiến trường Tuyệt Tưởng Thành tại thời điểm này chuyển biến mạnh mẽ: Ngọn Xám sụp đổ, vua Đấu Nhân bị ám sát. Ngự lâm quân gom lại thi thể đám sát thủ để điều tra. Nhờ giải phẫu, đám sát thủ được xác định là công dân Tuyệt Tưởng Thành và theo đại thánh sứ Tây Minh phỏng đoán, não họ bị điều khiển bởi “bùa ngải” – thứ ma thuật tàn ác nhất của người Xích Quỷ. Ngoài ra trong đầu gã sát thủ giả dạng Tiếu còn có con nhện sắt vốn là sản phẩm của họ Hỏa(*). Hỏa Nghi không bao giờ hở ra con nhện sắt, chỉ hứa giúp người Tuyệt Tưởng tìm hiểu ma thuật “bùa ngải”. Gã nhờ cậy Thanh Nhi. Cuối tháng 9, Thanh Nhi lên đường về Xích Quỷ, tuy không am hiểu phép thuật nhưng cô gái biết cần gặp ai để hỏi. Đi cùng cô là thánh sứ Mộng Dụ - học trò của Tây Minh(**). 

Ngày 31, Thanh Nhi trở lại tòa chung cư khổng lồ Quận 4 tìm người bạn cũ Thương Ngọc(***). Hơn một năm sau cuộc chiến băng đảng, Thương Ngọc thôi làm ở sòng bạc và tìm công việc mới an toàn hơn, mái tóc cũng không còn sặc sỡ con công như trước. Gặp lại nhau, hai cô gái vui mừng kể lể đủ chuyện trời biển tứ phương. Phụ nữ Xích Quỷ xưa nay tám chuyện quên ăn quên ngủ. Phải lúc Mộng Dụ khẽ ho hắng, Thanh Nhi mới sực nhớ công việc. Cô đặt lên bàn đoạn dây leo dính đầy máu lẫn dịch não được ép chặt giữa hai miếng nhựa dẻo trong suốt. Ba người tự nhiên lợm họng. Trong sự tập trung cao độ trộn thêm ghê tởm, Thương Ngọc xem xét mẫu vật:

-Bùa Ngải, ma thuật hệ Mộc niệm. Chắc cô em hay nghe chuyện pháp sư hệ Mộc niệm sử dụng cây ngải thu thập linh hồn người chết, sau ếm bùa kẻ khác khiến họ mắc bệnh tật hoặc phát điên. Không phải vậy đâu! – Thương Ngọc lắc đầu – Hồi thực tập thánh sứ, tôi đã nghe các thầy kể về nó(****). Truyền thuyết nói thời cổ đại Xích Quỷ tức thời tổ tiên Lạc Việt còn thống trị, có một pháp sư tên gọi Xương Cuồng hay thu thập thực vật và phát hiện một loại dây leo tên gọi “Nại Mãi”, nói theo tiếng Lạc Việt cổ, sau này vì hiểu lầm phương ngữ nên đọc chệch ra là “ngải”. Râu ria truyền thuyết là vậy, đừng tin hẳn! Nhưng chính xác thì dây leo Nại Mãi là thành phần chính trong ma thuật Bùa Ngải. Như tên gọi, Bùa Ngải nhằm chỉ hai phần: “Bùa” và “Ngải”. 

Thương Ngọc đẩy mẫu vật trở lại bàn, lồng ngực phập phồng như vừa nín thở quá lâu. Thanh Nhi hỏi:

-Vậy thực hiện ma thuật thế nào? 

-Theo hình thức đơn giản nhất: đầu độc. – Thương Ngọc trả lời – Mầm cây Nại Mãi không bị phân hủy bởi dịch dạ dày. Trong môi trường cơ thể, chúng ký sinh, phát triển sau đó tìm đường tới bộ não vật chủ và tác động hệ thần kinh. Thường là triệu chứng mệt mỏi đau đầu, dễ bị nhầm lẫn thành bệnh lý thông thường. Nhưng với điều kiện mầm cây phải được ếm phép. Tôi không biết “Bùa” thực sự là cái gì hay như thế nào vì ngay cả các thầy tôi cũng không biết, nhưng đại khái là yểm bùa phép lên mầm Nại Mãi. Sau đấy đầu độc rồi thao túng hoặc giết chết đối tượng một cách từ từ và đau đớn. 

Thanh Nhi nhíu mày:

-Loại ma thuật này còn tồn tại không?

Thương Ngọc chìa tay xin điếu thuốc, Thanh Nhi đưa cô nàng cả bao. Rít một hơi dài, Thương Ngọc ngả lưng trên ghế đoạn trả lời:

-Chịu! Các thầy nói loại ma thuật này quá tàn ác, chưa kể cách yểm bùa rất khó, đòi hỏi trình độ sử dụng hóa nghiệm rất cao. Mà dây leo Nại Mãi hiếm hoi vô cùng, rất khó tìm và khó phân biệt. Khi tổ tiên chúng ta (Lạc Việt) biến mất mãi mãi sau Rừng Quỷ, ma thuật Bùa Ngải cũng biến mất. Những thứ “bùa ngải” mà cô nghe người ta đồn đại ngoài kia không phải ma thuật thực sự. Tôi không chắc cái thứ này là Nại Mãi thật hay giả… nhưng nếu chúng là thật thì đâu đó ngoài kia có kẻ biết sử dụng Bùa Ngải. Cơ mà cô định hỏi kẻ đó là ai thì xin lỗi, tôi thua!

Thông tin kể trên cho thấy những phỏng đoán của đại thánh sứ Tây Minh đều chính xác. Nhưng điều Thanh Nhi cần là một cái tên hay một kẻ nào đó cung cấp mầm cây. Nhìn cô gái đau đầu suy nghĩ, Thương Ngọc bèn nói:

-Tôi nghĩ là có người biết đấy. Chẳng phải trước đây lão từng là thành viên Thập Kiếm sao? Lão hiểu biết dữ lắm! Chỉ sợ cô không thích lão thôi…

Nói rồi cô ả chỉ ngón trỏ lên trần nhà. Nhưng Thanh Nhi hiểu cái chỉ tay đó không nhắm đến cái trần nhà mà là tầng trên cùng tòa chung cư. Và cái “không thích” chỉ là nói giảm nói tránh. Với Thanh Nhi, nó là thứ thù hận đời này qua đời khác đúng tinh thần Xích Quỷ. Nghĩ đến đó, cô gái chực bỏ về. Nhưng nghĩ cho Hỏa Nghi khổ sở ngoài mặt trận, Thanh Nhi đành cắn răng tiếp tục công việc. Từ biệt bạn cũ, cô gái lên tầng sáu mươi mốt – tầng cao nhất chung cư để tìm lão già Tùng Bách. 

Nhưng mới đi dăm bước, Thanh Nhi sực nhớ tầng cao nhất không phải chốn bình thường, chỉ duy Tùng Bách biết đường lên. Thanh Nhi liền quay lại khu chợ lớn dưới tầng trệt chờ đợi vì Tùng Bách thường xuyên đáo qua đây tìm nguyên liệu giá rẻ làm đồ chơi bán rong, quan trọng hơn là rèn kiếm. Hôm đó rồi nhiều ngày kế tiếp, Tùng Bách không hề xuất hiện tựa thể đã bốc hơi. Mộng Dụ sốt ruột nhưng Thanh Nhi quyết tâm ở lại với niềm tin rằng lão già chắc chắn xuất hiện. 

Gần nửa tháng mắc màn phục sẵn, hai cô gái cuối cùng cũng bắt gặp Tùng Bách đương lang thang giữa chợ mua hàng. Nếu không phải Mộng Dụ dùng vũ lực tóm lại, lão đã cao chạy xa bay. Một năm đã qua nhưng lão già chưa thôi ghét bỏ, thậm chí còn căm thù Thanh Nhi hơn trước. Cô gái nhờ vả, lão chửi bới luôn mồm và tỏ rõ thái độ bất hợp tác. Nhưng lúc Thanh Nhi chìa xấp giấy bạc trị giá năm mươi thùng vàng, lão già sáng rực mắt. Như bao con dân xứ này, Tùng Bách ham mê trò đỏ đen dù nghèo rớt. Vì thua tiền bài bạc, lão chẳng bao giờ tìm được sống ở nơi tử tế hơn thay cho căn chòi xập xệ bốc mùi hôi thối ở tầng sáu mươi mốt. Ngã giá kì kèo bớt một thêm hai, sau rốt Tùng Bách cũng chịu giúp đỡ bọn Thanh Nhi. 

-Hừm, hừm, đừng nghĩ sang bên Phi Thiên rồi mang được mấy đồng bạc về đây mà vênh váo nhé, con ranh! – Lão già lườm lườm Thanh Nhi nhưng đếm tiền đút túi thun thút – Được rồi, hồi còn thành viên Thập Kiếm, ta tiếp xúc nhiều tay máu mặt lắm! Họ nói chính phủ Xích Quỷ đã nghiên cứu những loại ma thuật cổ xưa, Bùa Ngải là một trong số đó.

-Nói vậy là chính phủ Xích Quỷ giữ hạt mầm?

Tùng Bách tay đếm tiền, mắt dán chặt những tờ giấy bạc, đầu lắc lắc:

-Ta không biết, nhưng nghe nói dự án đó bị hủy từ đời tám hoánh nào! Mà mầy định gõ cửa hỏi chính phủ chắc? Đừng có khùng chớ!

-Tôi không hỏi chính phủ, nhưng tôi cần biết ai có khả năng cung cấp hạt mầm Nại Mãi. Nó không phải thứ trao đổi buôn bán thông thường, đúng không? 

-À tất nhiên! Nhưng muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học! Mà chỗ cần hỏi không ở đây! – Tùng Bách cười khanh khách – Lên thủ đô Thiên Kỷ, ở đấy có tụ điểm buôn lậu háng ma thuật trái phép, dân tình gọi nó nhiều kiểu như “chợ gầm cầu” hoặc “chợ trời”. Bọn chiến binh Xích Quỷ hay tụ tập về đó, có khi biết nhiều chuyện!

Thanh Nhi tiếp tục chìa thêm năm mươi thùng vàng, giọng khẩn khoản:

-Chúng ta cùng đi thủ đô, dẫn bọn tôi đến Chợ Trời. Đây là tiền đặt cọc, xong việc tôi trả tiếp!

Lão già lắc đầu nguầy nguậy nhưng mắt dán chặt xấp tiền. Con bạc khát nước vốn không cưỡng nổi mùi giấy bạc, vả lại Thanh Nhi là người duy nhất ở xứ này chịu đem tiền nhờ vả lão. Ngúng nguẩy chán, cuối cùng Tùng Bách cũng chịu lên tàu đến Thiên Kỷ thành cùng hai cô gái.

Tàu cập bến thủ đô sau một ngày rồi cả nhóm theo chân Tùng Bách thâm nhập Chợ Trời. Chợ tọa lạc dưới những gầm cầu cao tốc phía bắc thành phố, mang tiếng “trái phép” nhưng hàng hóa được bày bán công khai. Theo lời Tùng Bách, nơi này sở dĩ tồn tại vì được quan chức chính phủ bảo trợ. Nó vốn là chỗ xả hàng thải hoặc đồ phế liệu từ nhà máy quân sự nhưng rồi đám quan chức hám lợi cắt xén tiền dự án, bớt lại vật tư để mang ra Chợ Trời bán giá cao gấp năm gấp sáu. Nếu may mắn, người ta thậm chí có thể mua mảnh quang tố chất lượng thấp. Ở khía cạnh nào đó, Chợ Trời là thiên đường cho rửa tiền và trục lợi cá nhân. 

Năm tháng cờ bạc rượu chè làm Tùng Bách xuống cấp, chẳng còn đâu tư thế của kẻ từng đứng trong Thập Kiếm. Nhưng lão còn nguyên cái mồm con buôn dẻo quẹo. Lân la chợ cả ngày cộng thêm chút may mắn, lão khai thác vài thông tin hữu ích. Các con buôn kỳ cựu nhất chợ chẳng rõ dây leo Nại Mãi là thứ gì nhưng họ biết một tên đầu nậu tên Bì Mỏ Nhôm chuyên móc ngoặc với quan chức tham nhũng, bởi vậy thường sở hữu hàng ma thuật dạng hiếm. Nhưng vài tháng nay Bì Mỏ Nhôm không xuất hiện và chẳng ai rõ gã đi đâu. Nhóm ba người buộc phải đợi tên đầu nậu quay lại.

Trong khoảng thời gian chờ đợi, Thanh Nhi đi tìm những người am hiểu mầm cây Nại Mãi. May mắn cho cô gái, đầu óc đặc nghẹt đỏ đen lẫn bia rượu của Tùng Bách vẫn hiện lên dăm ba nhân vật. Hơn một tuần sau đó, họ lần theo những cái tên mà lão già nhớ được. Kết quả chẳng mấy khả quan vì người đã mất do bệnh tật, người chuyển chỗ ở, kẻ đi công tác cả năm chưa thấy về, chưa kể vài nhân vật ở tầm với quá cao mà họ không thể gặp. Giả như địa vị Tùng Bách còn như trước, mọi chuyện đã đơn giản hơn nhiều. Thanh Nhi liền cầu cứu Hỏa Nghi. Hai ngày sau, cô nhận cuộc hẹn ở một quán ăn thuộc trung tâm thủ đô. Lúc đến nơi, cô ngạc nhiên quá đỗi vì người tiếp chuyện mình là Nguyễn Lữ - đại thánh sứ cao cấp của Xích Quỷ(*****). Thấy vẻ mặt Thanh Nhi, vị đại thánh sứ ra dấu im lặng rồi nói:

-Cô là Thanh Nhi? Được, ngồi đi. Đây là chuyện tối mật nhưng vì đại thánh sứ Tây Minh nhờ vả nên tôi sẽ giúp. Ông ấy cũng nói sơ qua tình hình rồi, cô không cần giải thích thêm. Đưa tôi xem thứ đó!

Thanh Nhi nhìn quanh đoạn đẩy mẫu vật về phía trước, Nguyễn Lữ kiểm tra một hồi sau cất lời giải thích. Giọng ông đại thánh sứ rền rĩ như kim loại cọ xát, nhưng ở phường buôn bán đầy rẫy âm thanh hỗn tạp, nó bỗng thành vo ve tựa ruồi bay:

-Dây leo Nại Mãi thật. Hàng thật giá thật! Thế này, các bậc tổ tiên chúng ta không truyền lại phép Bùa Ngải vì nó quá tàn ác và vô nhân tính. Nhưng hơn hai mươi năm trước, cuộc chiến xung đột tài nguyên nổ ra giữa các đế quốc, mặc dù trung lập song vì nằm sát nách Bắc Thần quốc nên chúng ta phải chuẩn bị tư thế chiến tranh. Thời đó nước nào cũng chạy đua vũ trang, Xích Quỷ không ngoại lệ. Chắc cô biết Xích Quỷ chúng ta không mạnh về mảng thánh sứ(*1), thế nên chính phủ tập trung nghiên cứu phép thuật, trong đó có Bùa Ngải. Việc xác định chữ “Ngải” không phải cây ngải mà là dây leo Nại Mãi đã là bước tiến lớn. Nhưng chính phủ không thể tạo nổi “Bùa” dù đã mời các pháp sư giỏi nhất. Tổ tiên giấu kín công thức hóa nghiệm, vì thế cách tạo Bùa vẫn là bí mật. Tiêu tốn quá nhiều tiền, dự án Bùa Ngải hủy bỏ, các mầm cây trở thành hàng bỏ xó và đám tham nhũng tuồn chúng ra Chợ Trời. 

-Tôi nghe nói người phương tây ở Hoa Thổ hay Băng Thổ cũng có ma thuật thao túng hoặc điều khiển kẻ khác, vậy tại sao phải là Bùa Ngải?

-Vì nó là sự kết hợp phức tạp giữa “thao túng hành động”, “tẩy não trong thời gian ngắn” và “thực thi mệnh lệnh tức thì”. Ma thuật phương tây thường gây biểu hiện lên đối tượng, pháp sư cao tay có thể nhận ra ngay. Nhưng Bùa Ngải khác, ngoại trừ lúc mầm cây phát triển thì nó không gây biểu hiện và nằm yên trong não đối tượng. Chỉ khi kẻ giữ Bùa thi triển phép thuật, phần Ngải mới hoạt động, đối tượng lập tức thay đổi nhân cách lẫn hành động. Vậy nên người Tuyệt Tưởng Thành không thể phát giác đám sát thủ. Một vũ khí ám sát hoàn hảo, hoàn toàn không để lại dấu vết. 

-Ông nói từ xưa đến giờ Xích Quỷ vẫn không chế tạo nổi “Bùa”. Vậy thế này…

Nguyễn Lữ cắn răng ngẫm nghĩ, gương mặt tỏ rõ lo lắng. Nồi lẩu giữa hai người sôi sùng sục nhưng chẳng ai buồn động đũa. Được một lúc, ông đại thánh sứ nói:

-Vấn đề lớn, nếu không giải quyết, Xích Quỷ tất dính vào rắc rối. Hãy làm theo kế hoạch của cô, tôi hứa sẽ giúp hết sức. 

Dứt lời, ông đại thánh sứ trả tiền bữa ăn rồi rời đi, nồi lẩu vẫn còn nguyên. Thanh Nhi cảm giác mình sắp ở lại nơi này một thời gian dài. 

Linh cảm của cô gái không sai. Hết tháng 10 rồi sang nửa đầu tháng 11, chiến sự tại Tuyệt Tưởng Thành ngày càng ác liệt mà Thanh Nhi vẫn giậm chân tại chỗ. Một ngày nọ, đám chỉ điểm bất ngờ gọi tới báo Bì Mỏ Nhôm đang có mặt tại thủ đô. Bọn Thanh Nhi lập tức lên đường gặp tay đầu nậu. Gã này đen cháy, mặt sạm khói bụi như thể vừa trải qua hành trình khắc nghiệt. Thanh Nhi đề nghị nói chuyện riêng, gã tươi cười đồng ý. Thanh Nhi hỏi về những mầm cây, gã từ chối vì không thể tiết lộ thông tin khách hàng. Thanh Nhi ngã giá, gã nhún vai:

-Đây không phải chuyện tiền nong, cô em Cửu Long à! Phức tạp lắm nhé! Chợ Trời không phải chỗ chơi, nó động chạm nhiều thành phần mà thân anh đây nhỏ nhoi, lỡ mồm lỡ miệng chút là đi đời liền!

Thanh Nhi tăng giá gấp bốn gấp năm, trả bằng hiện vật đàng hoàng nhưng gã đầu nậu vẫn không đổi ý. Cô gái bèn nhờ Nguyễn Lữ giúp đỡ. Qua tìm hiểu, ông đại thánh sứ phát hiện Bì Mỏ Nhôm từng dính án truy nã tại lục địa Băng Thổ. Dân thế giới ngầm vào tù ra tội là chuyện thường, nhưng vì án truy nã đó mà Bì Mỏ Nhôm không thể làm ăn ở phương bắc mà nơi ấy là chốn thiên đường của hàng lậu hàng cấm. Sau nhiều ngày làm việc, Nguyễn Lữ ra điều kiện xóa án cho Bì Mỏ Nhôm, đổi lại gã phải khai tên người mua lẫn kẻ cung cấp hạt mầm. Thanh Nhi chuyển lời đề nghị, tay đầu nậu cười nhe răng:

-Cô em trông thế mà biết chơi đấy nhỉ?! Được rồi, anh sẽ kể. Hồi năm ngoái (7516), khoảng tháng 8, một gã đến Chợ Trời gặp anh và hỏi mầm dây leo Nại Mãi. Ban đầu anh chẳng biết nó là cái khỉ gì, nghĩ thằng đó bị điên. Cơ mà hỏi mấy pháp sư lão luyện mới biết thằng đó điên thật! Nó đòi hàng quá khó, bới cả đất nước này cũng không có, họa vào Rừng Quỷ thì may ra! Thằng điên nào dám mò vào đấy?! Nhưng tìm không ra, nó lại chửi mình kém tắm thì nhục! Vậy là anh đây chạy đôn chạy đáo, nửa tháng trời cũng mò được! Biết hỏi ai không? Tay to chính phủ đấy nhé! – Bì Mỏ Nhôm nháy mắt vẻ hãnh diện – Họ nói mầm dây leo nọ chính là Bùa Ngải, anh đây té ngửa! Chính phủ nghiên cứu nó nhưng thất bại, sau đấy đống hạt mầm bị bán ra chợ đen và thất lạc gần hết. May mắn là vẫn còn một ít ở Thiên Kỷ thành!

-“Thằng đó” mà anh nói là ai? – Thanh Nhi hỏi – Kẻ mua hàng ấy?

-Không rõ. Nó bịt mặt, chuyện thường mà! Mua bán ở Chợ Trời là vậy đấy! Nhưng muốn gặp người cung cấp hàng chứ?

Nhờ tay đầu nậu dẫn đường, bọn Thanh Nhi đến một khu tập thể dân cư tại nội đô. Nhà ở đây nằm san sát, trên nóc um tùm đủ loại thực vật bởi người Xích Quỷ rất khoái trồng cây cối ngay trong nhà mình. Căn nhà mà bọn Thanh Nhi tìm tới chẳng khác gì so với xung quanh, chủ hộ là một ông già lù khù và gương mặt ngạc nhiên thấy rõ khi một đám hỗn tạp nam nữ gõ cửa đòi gặp. Phải đợi Bì Mỏ Nhôm nói dăm lời, ông ta mới miễn cưỡng mời họ vào. Trò chuyện một hồi, ông già giới thiệu mình tên Thâm Thụ, từng là giáo sư ngành sinh hóa nhưng đã nghỉ hưu. Thâm Thụ nói:

-Tôi từng làm ở Viện Nghiên Cứu Sinh Hóa. Hai mươi năm trước, chính phủ giao đề tài cho viện, nhóm nghiên cứu gồm khoa học gia và các pháp sư có nghề. Chúng tôi tìm được Ngải nhưng không sao chế nổi Bùa. Thử nghiệm lâu mà không có kết quả, đề án bị hủy bỏ. Chính phủ yêu cầu tiêu hủy nhưng mấy thằng bụng phệ bảo tôi bán. Ờ thì lúc đó tôi tham nên làm theo, nhưng tiền vào túi bọn bụng phệ nào còn tôi chẳng được đồng cắc nào! Đã thế, lũ khách hàng đem hạt mầm về không trồng được thì quay lại đòi tiền. Không trả được, tôi lãnh đòn đủ, nằm viện mấy tháng liền! Điều trị xong, tôi mới biết mình bị thôi viện. Thất nghiệp, tôi đành bán mấy thứ thực vật phép thuật, sống tạm bợ vậy!

Ông ta vừa nói vừa chỉ lên trần nhà. Mộng Dụ im lặng từ đầu tới giờ chợt lên tiếng:

-Chính phủ không kiểm tra chỗ này à? Phải có cơ quan quản lý thực vật phép thuật chứ? 

Trừ cô nàng thánh sứ, bốn người Xích Quỷ chẳng hẹn mà cùng cười rộ. Thâm Thụ giải thích:

-Quản lý quái gì xứ này! Bọn kiểm tra toàn một lũ ngu không biết cây nào dùng cho y học hay cây nào dùng cho phép thuật, cứ nộp tiền phí cho chúng là xong hết! Chúng nó kiểm tra dây leo Nại Mãi, tôi bảo là cây làm thuốc, chúng nó ừ cái rụp rồi đòi tiền trà nước! Vậy đấy! 

Nói rồi Thâm Thụ dẫn cả đám lên nóc coi hạt mầm Nại Mãi. Trong cơ thể, loài dây leo này có thể dài tận năm sáu mét nhưng ở môi trường ngoài, nó chỉ mọc một nhúm bé xíu bằng lòng bàn tay, màu xanh dờn như bao loại cây khác trừ việc thân dây leo nổi nhiều ngạnh mềm. Quy trình nuôi Nại Mãi rất phức tạp và lắm công chăm sóc, Thâm Thụ mất gần hết số hạt giống mới được một chậu con con. Tùng Bách dợm hỏi cách trồng nhưng Thâm Thụ từ chối, quyết giữ rịt bí quyết. 

-Vậy kẻ mua là ai? – Thanh Nhi hỏi.

-Tôi không rõ. Thằng đó bịt kín mặt trong khăn quàng và mũ trùm, chợ đen mà, chẳng ai muốn lộ danh tính. Tôi cũng không muốn biết, trông hắn có vẻ nguy hiểm. Nhưng nghe giọng, tôi đoán hắn khoảng trên dưới ba chục tuổi!

-Chẳng phải các ông không bao giờ tạo được Bùa, vậy gã còn mua làm gì? 

Thâm Thụ lắc đầu rồi đưa mọi người về phòng khách, sau đấy thẽ thọt kể lể:

-Đúng là chúng tôi không thể làm được Bùa, nhưng theo lý thuyết có một cách khác. Hồi làm nghiên cứu, trong nhóm chúng tôi có một người tên Vân Tụy. Tay này suy nghĩ khác người. Gã nói tế bào Nại Mãi có phản ứng với tín hiệu sóng não, nếu có một cỗ máy truyền tải hoặc mã hóa những tín hiệu đó lên tế bào dây leo, chúng sẽ thay thế hòa toàn quy trình hóa nghiệm. Nói cách khác, Bùa Ngải vẫn phát huy tác dụng mà không cần Bùa. Nhưng làm gì có cỗ máy nào như vậy? Vả lại tính tình Vân Tụy gàn dở, hay mếch lòng mọi người nên đề xuất của gã bị bác bỏ. Tôi có nói chuyện này, thằng bịt mặt chỉ ừ hữ rồi vẫn mua. Mười năm một lần, cây Nại Mãi cho ra bốn mươi chín hạt mầm hoàn chỉnh, hắn đặt mua tất cả luôn!

-Lấy ngay tại chỗ? – Thanh Nhi hỏi.

-Không! Hạt mầm Nại Mãi không lấy ngay tại chỗ được! – Ông già Thâm Thụ nhún vai – Tách hạt mầm cần nhiều thao tác, sơ ý một chút là vỡ liền! Sau đấy phải ngâm hạt vào dung dịch cho cứng lại. Tách và ngâm tổng cộng bốn mươi chín ngày. Thằng bịt mặt không chờ được, nói bận công chuyện. Hắn đặt cọc và hẹn tôi phải gửi ngay khi xong việc. Sang tháng 9, tôi chuyển chỗ hạt mầm qua đường bưu phẩm rồi nhận tiền qua tài khoản của anh Bì đây, từ đấy hai bên không liên lạc gì nữa. 

-Số tài khoản là gì? Tôi cần biết! – Thanh Nhi quay sang Bì Mỏ Nhôm.

Tay đầu nậu cung cấp số tài khoản giao dịch cho cô gái. Thanh Nhi lập tức chuyển thông tin cho Nguyễn Lữ, vài ngày sau thì có kết quả. Người lập tài khoản là một gã Phi Thiên quốc hiện sống ở Cửu Long. Hành trình của Thanh Nhi quay lại điểm xuất phát. Trước ngày đi, cô định tìm người tên Vân Tụy nhưng đành bỏ dở khi hay tin vị giáo sư đã chết cách đây hai năm. 

Quay lại đặc khu, Thanh Nhi cùng Mộng Dụ tìm tới địa chỉ của kẻ lập tài khoản. Người này tên Mô Trật, một chuyên viên khảo sát thị trường làm việc cho Phi Thiên quốc. Gã ba mươi hai tuổi, vừa đúng phỏng đoán của ông già Thâm Thụ. Nhưng khi đến nơi, bọn Thanh Nhi chẳng thấy ai dù đồ đạc cá nhân còn nguyên. Người chủ cho thuê nói với bọn Thanh Nhi rằng từ tháng 9 năm ngoái(7516), Mô Trật biến mất và chưa thanh toán tiền phòng. Phía đại thánh sứ Nguyễn Lữ cũng báo rằng cùng thời điểm đó, Mô Trật mua vé hai chiều bay về Phi Thiên nhưng sau đấy không quay lại Xích Quỷ. Đoán tay này đã gặp chuyện chẳng lành, Thanh Nhi liền tìm hiểu Mô Trật thông qua những vật dụng trong căn hộ. Việc tìm kiếm vừa khó khăn vừa mất thời gian, thành thử cô gái ở lại Cửu Long đến hết năm. 



Hiện tại…

Thanh Nhi đặt tập giấy lên mặt bàn, trên đó là ảnh chân dùng cùng thông tin cá nhân của Mô Trật. Hỏa Nghi lật vài trang xem xét, mắt dán chặt vào hồ sơ nghề nghiệp: 

-Chuyên viên thuộc tập đoàn giải trí Cao Khánh à? Vậy hóa ra gã này làm việc cho tay bụng phệ Cao Khánh? 

-Phải. – Thanh Nhi gật đầu – Gã đến Cửu Long hồi đầu năm 7516 thăm dò thị trường vì Cao Khánh muốn thâm nhập vào Đông Thổ(*2). Gã hay ton hót nịnh bợ Cao Khánh nên được chọn làm trưởng dự án nghiên cứu. Giờ thì dự án được triển khai nhưng người khác đã thay thế Mô Trật. Chẳng ai biết gã đi đâu nữa. Cậu nghĩ sao, Hỏa Nghi? Tại sao gã cần hạt mầm Nại Mãi?

Hỏa Nghi chống cằm suy nghĩ đoạn nói:

-Thằng ton hót nịnh bợ là thằng hay bị sai vặt và thích bị sai vặt để có thêm cơ hội nịnh bợ ton hót. Không phải Mô Trật cần mà có thể là… Cao Khánh. Lão mập Cao Khánh xưa nay khoái chơi đồ cổ phép thuật, ai cũng biết. Nhưng cái thứ Bùa Ngải lại là vấn đề khác… nếu thế…

Nghĩ tới đó, Hỏa Nghi chợt ngồi thẳng lưng. Gã nhận ra sau cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành, kẻ được lợi lộc nhiều nhất không ai khác là Phi Thiên khi vừa có tiếng giúp đỡ, vừa hưởng thêm mấy mỏ quang tố lại nắm trong tay công nghệ Lõi Cộng Hưởng Cực Điểm. Gã rướn người hôn má Thanh Nhi kêu “Choét!” một tiếng rồi chạy đi gọi điện thoại. Bên kia đầu dây, giọng Vô Phong ngái ngủ vang lên:

-Gì thế… ông bạn…?

-Cậu chắc là đám Thổ Hành tham gia chiến tranh vì muốn giúp người Tuyệt Tưởng không? Họ đến Tuyệt Tưởng Thành từ sau vụ ở Bãi Lầy Chết để tìm bọn sát thủ trà trộn vào thành phố? Tôi không tin vậy đâu, anh bạn. Tôi không nghĩ lão già Trần Độ khôn ngoan đến mức đó. Lão khôn ngoan, nhưng là theo kiểu khác…

(*) xem lại Q3 Chương 119, đoạn cuối

(**) Mộng Dụ là hậu bối của Lục Châu, từng là đối thủ của Lục Châu ở kỳ thi Tổng lãnh, xem lại Q3 Chương 70

(***) Thương Ngọc, bạn cũ của Thanh Nhi, xem lại Q2 Chương 24

(****) Thương Ngọc là cựu thánh sứ, xem lại Q2 Chương 24

(*****) Nguyễn Lữ, người dẫn nhóm công chúa đến gặp tộc Lạc Việt, xem lại Q2 Chương 46, 47, 48

(*1) nghề nghiệp thánh sứ không được coi trọng ở Xích Quỷ, xem lại Q2 Chương 24 và 46

(*2) Cao Khánh có ý định thâm nhập thị trường Đông Thổ, Trần Độ đã đề cập chuyện này trong vụ trao đổi với Đông Hoàng, xem lại Q3 Chương 7
 
Quyển 3 - Chương 137: Tình thân


Cuộc truy lùng ma thuật Bùa Ngải kết thúc tại đặc khu Cửu Long, căn phòng không người ở của Mô Trật là manh mối cuối cùng mà Thanh Nhi tìm được. Hỏa Nghi thâm nhập hệ thống máy tính quốc gia, kiểm tra mọi dấu vết liên quan đến Mô Trật nhưng vô ích. Tên chuyên viên hoàn toàn bốc hơi sau chuyến bay hồi hương, không liên lạc người thân, không tụ họp bạn bè, không về nhà thậm chí không thèm la cà quán xá. Thẻ căn cước hay thẻ ngân hàng của y chẳng xuất hiện trên bất cứ hóa đơn nào. Lục lọi dữ liệu từ sở cảnh binh thủ đô, Hỏa Nghi phát hiện gia đình Mô Trật đã thông báo chuyện y mất tích hồi đầu năm ngoái (7517), cảnh binh thụ lý nhưng chưa giải quyết xong. 

Hỏa Nghi thức trắng đêm tìm hiểu thân thế Mô Trật qua những dữ liệu mà cảnh binh thu thập. Hai ngày tiếp theo, gã cùng Thanh Nhi tự thân điều tra và thu được nhiều thông tin đáng kể. Trái ngược sự biến mất lặng lẽ, Mô Trật có đời sống riêng tư khá ồn ào. Y khoái khoe khoang vật chất, thích phóng đại bản thân khi có dịp chụp ảnh cùng nhân vật nổi tiếng. Điều đáng nói là y hoàn toàn không có liên hệ với “phép thuật” dù rằng rất thích tán dóc về thế giới chiến binh hay Kỳ Thi Tổng Lãnh (thậm chí y khoác lác đã bắt tay công chúa Lục Châu) - ở thế giới này có hàng vạn người như Mô Trật. Một chi tiết mà Thanh Nhi phải đính chính là tuy thường xuyên nịnh bợ Cao Khánh nhưng quan hệ giữa Mô Trật và ông chủ tập đoàn chỉ dừng ở mức cấp trên cấp dưới, không hơn. Việc y làm trưởng dự án nghiên cứu thị trường Xích Quỷ do ban quản lý tập đoàn quyết định, không phải cá nhân Cao Khánh. Nhiều nguồn tin cho hay hồi còn ở Phi Thiên, Mô Trật chưa từng dùng bữa với Cao Khánh với tư cách cá nhân, thậm chí chưa từng được nhờ vả công chuyện. 

-Chiếu theo những gì chúng ta có… – Thanh Nhi đặt tập giấy lên bàn – …rõ ràng Mô Trật không phải chân sai vặt của lão mập Cao Khánh. Vậy lão mập sẽ cử một tên chẳng biết gì về phép thuật tới Thiên Kỷ thành hỏi mua hạt mầm Nại Mãi? Tôi thấy chuyện này sao sao đó, Hỏa Nghi à… 

Hỏa Nghi lật từng trang giấy đoạn giảng giải:

-Mô Trật có mặt tại Thiên Kỷ thành vào tháng 8 năm 7516 trong một chuyến công tác, vừa vặn để tới Chợ Trời hỏi mua hạt mầm. Nửa tháng sau, Bì Mỏ Nhôm tìm được mối rồi dẫn gã gặp ông già Thâm Thụ. Nhưng vì thời gian công tác có hạn nên gã không thể chờ mà trả tiền đặt cọc. Sang tháng 9, đám Bì Mỏ Nhôm gửi hàng, Mô Trật trả tiền. Người ký nhận bưu phẩm là Mô Trật, hóa đơn chứng từ đủ cả. Còn tại sao Cao Khánh nhờ y làm á? Dễ thôi, vì y thích ton hót, thích được sai vặt để có cơ hội nịnh bợ. Mô Trật không biết phép thuật nhưng không có nghĩa thiếu hiểu biết chợ đen. Đừng quên y là trưởng dự án nghiên cứu, y có nghề, quan trọng là y mồm mép. Em không nghĩ mấy thứ Chợ Trời có thể làm khó Mô Trật đâu, bà chị à!

Thanh Nhi gật gù đoạn nhìn tập giấy:

-Tháng 8 năm 7516… hồi đó cậu cùng nhóm công chúa đến đất Lạc Việt, nhỉ? 

-Phải, suýt chết với con chim to tổ bố! – Hỏa Nghi cười.

-Vậy cậu định nói gì với người Tuyệt Tưởng? – Thanh Nhi hỏi.

Hỏa Nghi chép miệng bối rối. Gã tin vào lập luận của mình nhưng phơi bày chúng cho người Tuyệt Tưởng lại là chuyện khác. Khó xử, gã liền hẹn gặp Vô Phong.

Chiều cùng ngày, Hỏa Nghi gặp tên tóc đỏ trên cầu sông Vành Đai Xanh. Gã kể lại chuyến hồi hương của Thanh Nhi, những thông tin ma thuật Bùa Ngải và tên chuyên viên Mô Trật. Tên tóc đỏ nghe xong thì gãi đầu:

-Vậy cậu tin Mô Trật không tự dưng mất tích? 

-Phải, chẳng thể có chuyện tên đó tự dưng trượt chân ngã xuống sông Vành Đai Xanh hay đi lạc vào chợ rác rồi chết mất xác trong đó. – Hỏa Nghi nói – Nhớ thằng cha Ngụy Mã chứ(*)? Kết cục của Mô Trật y hệt! 

-Ý cậu là tên chuyên viên bốc hơi vì… Cao Khánh? 

Hỏa Nghi gật gật. Gã chạy ra máy bán hàng tự động mua hai lon bia về rồi nói:

-Cảnh binh điều tra nơi ở của Mô Trật rồi, cả bên Phi Thiên lẫn Cửu Long. Y chẳng có cái quái gì gọi là quan hệ bí mật, thế nên loại bỏ khả năng y quen biết thằng vũ công Tiếu nhé! Người duy nhất có thể sai bảo Mô Trật là Cao Khánh. Được ông chủ nhờ vả, thằng ton hót đó chẳng mừng quá?! Nhưng Cao Khánh chỉ là kẻ ra lệnh còn người thực sự cần Bùa Ngải là Trần Độ. Đừng quên quan hệ giữa hai người này! Nhìn lại xem, Phi Thiên quốc giờ có thêm đồng minh, quang tố, công nghệ Lõi Cộng Hưởng Cực Điểm, được tiếng giúp đỡ Tuyệt Tưởng Thành lại có nơi để “xả” đám người chợ rác đang làm đau đầu dư luận lẫn chính phủ. Tuyệt Tưởng Thành thua để Phi Thiên hưởng lợi quá nhiều! Ngẫu nhiên chăng? Tôi không tin đâu! Đừng quên hai mươi năm trước, Phi Thiên quốc giành nhiều ưu thế nhất từ cuộc chiến tranh giành tài nguyên. 

Tên tóc đỏ chống cằm nhìn về hoàng cung phía bắc, suy nghĩ hồi lâu đoạn thận trọng cất lời:

-Nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán thôi, phải không? Tôi tin cậu suy luận đúng, nhưng chúng ta không thể nói với người Tuyệt Tưởng như vậy. Hai nước vừa thiết lập quan hệ, thông tin kiểu này chỉ tổ gây rắc rối. Người Tuyệt Tưởng sẽ nghi ngờ công chúa, nghi ngờ chúng ta, nghi ngờ cả ngài đại thánh sứ. Nó không tốt.

Hỏa Nghi nhíu mày:

-Đội Thổ Hành đến dải đất chết cùng người Tuyệt Tưởng. Cậu nghĩ họ bảo vệ hay đang tìm cơ hội xử lý nhà vua? 

-Tôi không nghĩ thế. – Tên tóc đỏ lắc đầu – Dải đất chết đồng không mông quạnh, đội Thổ Hành ám sát nhà vua thì khác nào tự tố cáo Phi Thiên nhổ toẹt vào bản hiệp ước? Vả lại bên cạnh Đấu Thánh có đội Sóc Bay, không ai đụng tới nhà vua được, tôi đảm bảo. 

Nghe lời ông bạn, Hỏa Nghi tạm gác vấn đề. Gã dự định viết thư hồi đáp Tuyệt Tưởng Thành rằng việc điều tra dừng lại ở Thiên Kỷ thành, tạm thời chưa có manh mối mới. Nhưng vài chi tiết khiến gã lấn cấn chẳng yên, đành phải nói ra cho bớt lợn cợn:

-Đám sát thủ hạ sát vua Đấu Nhân tổng cộng ba mươi bảy(37) người, tất cả đã chết và đều có dây leo Nại Mãi trong não, kể cả cái gã giả dạng Tiếu. Thâm Thụ bán bốn mươi chín(49) hạt mầm, Mô Trật đều mua cả. Vậy thì mười hai(12) hạt mầm còn lại đi đâu? Có khả năng Tiếu còn đám tay chân trong dòng người tị nạn? Và bây giờ là lúc hắn ra đòn quyết định với người Tuyệt Tưởng? 

Lập luận của Hỏa Nghi không sai, tên tóc đỏ thêm phen đau đầu. Phiền nỗi càng đào xới vấn đề, sự phức tạp càng lộ rõ. Cuối cùng hai người quyết định rằng trong thư trả lời Tuyệt Tưởng Thành, họ sẽ viết chuyện Bùa Ngải chưa có thông tin mới, nhưng Vô Phong sẽ ghi chú nhắc nhở Đấu Thánh kiểm tra nội bộ. Thống nhất vấn đề xong xuôi, Vô Phong hỏi tiếp:

-Vậy còn con nhện sắt? Cậu tính nói gì với họ?

-Trước mắt cứ tạm thời giả ngu. – Hỏa Nghi nói, miệng rít hơi thuốc dài – Lộ ra nó là sản phẩm họ Hỏa, cả Phi Thiên, Tuyệt Tưởng Thành lẫn dòng họ sẽ bâu vào ăn thịt tôi! 

-Nhưng tại sao Tiếu phải sử dụng con nhện sắt? Chẳng phải hắn đã có Bùa Ngải?

Hỏa Nghi đáp lời:

-Thanh Nhi nói Bùa Ngải thao túng thể xác và tâm trí đối tượng ở mức độ tinh vi, nhưng phép thuật hay bí kỹ lại là chuyện khác, Bùa Ngải không thể biến một người bình thường trở thành chiến binh. Nhưng con nhện sắt có thể. Ngày đầu phát hiện Thiết Thù 117, còn nhớ tôi đã nói gì với cậu không? Thời nội chiến Phi Thiên quốc, Bạch Dương đệ nhất từng sử dụng thứ này để tạo ra đội quân mạnh mẽ, nhờ thế mà giành nhiều chiến thắng(**). Con nhện trong đầu gã sát thủ là hàng cải tiến, có vẻ họ Hỏa đã dính vào vụ này. Tôi đang nghi ngờ một người… nhiều khả năng chính thằng cha này cung cấp con nhện sắt… Còn nhớ Hỏa Chính không?

Tên tóc đỏ không lạ. Hắn từng gặp cái tên đó trên tập bìa bản danh sách đề án, trong giấc mơ về Hỏa Phu(***) và trong lời kể của Hỏa Nghi:

-Người giám sát Đề Án Ngục Thánh? Em trai cùng cha khác mẹ với cha cậu – Hỏa Viên?

-Là lão. – Hỏa Nghi gật đầu – Giả sử Trần Độ đạo diễn toàn bộ chuyện này, lão sẽ tìm Hỏa Chính. Ông già tôi nằm liệt giường, cả dòng họ đang rơi vào chuyện tranh chấp chiếc ghế thủ lĩnh(****). Hỏa Chính cần sự hậu thuẫn, vậy nên lão bắt tay Trần Độ. Kịch bản nghe hợp lý chứ? 

-Thế cậu tính sao? – Vô Phong hỏi.

-Tự tôi sẽ điều tra họ Hỏa. Cậu cứ nghỉ ngơi, tạm thời đừng dính vào chuyện gì. Mà cậu đang ở nhà Tiểu Hồ phải không? Con nhỏ thú dữ mấy hôm nay thế nào? – Hỏa Nghi chuyển chủ đề.

Vô Phong thở dài ngao ngán. Hắn ngửa cổ tu bia:

-Khóc suốt! Cũng phải thôi, đại thánh sứ là người thân duy nhất của Tiểu Hồ… Còn công chúa nữa, tôi vẫn chưa đi thăm cô ấy. 

-Lựa chọn dứt khoát đi, ông bạn! – Hỏa Nghi nói – Tôi biết cậu là thằng ngố, nhưng phụ nữ không nghĩ vậy đâu! Đầu óc họ là một chuỗi phản ứng dây chuyền biểu hiện dưới dạng đồ thị hình Sin. Cậu cứ dây dưa mãi, họ nghĩ cậu bắt cá hai tay đấy!

Tên tóc đỏ phì cười vì lời tếu táo của Hỏa Nghi. Nhưng đằng sau chuyện hài hước là hàng đống trách nhiệm mà hắn phải gánh vác. Khoảng trống mà đại thánh sứ Tây Minh để lại quá lớn, tên tóc đỏ sợ không kham nổi.



Sau cuộc gặp trên cầu, Vô Phong đến hoàng cung tìm công chúa. Không như Tiểu Hồ giam mình trong phòng, công chúa phải đôn đáo khắp nơi vì chuyện Thánh Vực lẫn bầu cử. Tên tóc đỏ chờ thêm hai tiếng mới gặp được nàng. Dăm phút đầu cuộc nói chuyện, ngữ điệu Lục Châu vẫn bình ổn như thể nàng đã quen với nỗi đau, biết tiết chế cảm xúc và đang trên đà trở thành chính khách chuyên nghiệp. Nhưng có thể vì câu chuyện lún sâu hơn về đại thánh sứ Tây Minh rồi chiến tranh mới kết thúc chưa lâu, có thể vì không gian khổng lồ mà quạnh quẽ của hoàng cung, hoặc cũng có thể vì Vô Phong mà giọng công chúa nặng dần. Nàng vẫn nói vẫn cười mà nước mắt đẫm má, hai tay run lẩy bẩy như đứa trẻ lạc cha mẹ giữa công viên. Vô Phong bèn kéo nàng vào lòng rồi ôm chặt, công chúa vỡ òa trong vòng tay hắn, vừa khóc vừa thốt ra từng lời ngắt quãng cùng vô số từ ngữ chuệch choạc chẳng ai hiểu. Kể từ đó họ chẳng nói gì nhiều ngoài tiếng khóc, tiếng vỗ về an ủi cùng cái siết tay của Lục Châu trên cổ áo Vô Phong. Công chúa muốn hắn ở lại. 

Không biết qua bao nhiêu thời gian, tên tóc đỏ chợt nhận ra Lục Thiên vừa đến. Thấy em gái mình tay ôm tay ấp Vô Phong, gã thống lĩnh vội lảng đi coi như không thấy gì. Vô Phong bèn gỡ tay công chúa để nàng có thời gian bên anh trai còn mình đứng ngoài chờ đợi. Được nửa tiếng, gã thống lĩnh trở ra rồi kéo Vô Phong đi nơi khác. Lát sau hai bước trên đoạn hành lang trông ra quận Trăng Khuyết, vừa đi vừa bàn công chuyện.

-Tôi không phản đối Lục Châu yêu ai, cậu có thể gặp con bé bất cứ lúc nào nhưng lần sau hãy cẩn thận. – Lục Thiên nói – Lục Châu đang ở giai đoạn nhạy cảm, vài hình ảnh ngoài luồng có thể gây ảnh hưởng xấu cho con bé. Nói gì thì nói, tôi vẫn là anh trai, vẫn phải chăm lo cho Lục Châu. 

-Ngài và công chúa sẽ đối đầu nhau sao? – Vô Phong hỏi.

-Phải vậy thôi! – Lục Thiên nhún vai – “Cạnh tranh” là bản sắc của họ Bạch Dương. Cuối năm nay chúng tôi bước vào vận động tranh cử, đầu năm sau bỏ phiếu. Thời gian để chúng tôi làm anh trai em gái không còn nhiều. Rồi xem, cậu sẽ thấy chúng tôi tranh cãi nhau ở khắp mọi nơi!

Tay Thống Lĩnh cười. Tên tóc đỏ gật gù nhưng chợt thấy có điều bất ổn:

-Sao bầu cử sớm vậy? Ngài Đệ Thập còn tại vị kia mà? 

Lục Thiên nghiêng đầu nhún vai nhưng không trả lời, vẻ mặt khó coi. Bất quá y không có vẻ gì là hớ hênh mà dường như cố tình nói thế để gợi vấn đề cho tên tóc đỏ. Vô Phong lờ mờ đánh hơi được chuyện khuất tất. Nhưng hắn chưa kịp thắc mắc thì tay Thống Lĩnh đổi chủ đề:

-Cậu muốn gặp tôi? Có chuyện gì vậy?

Tạm gác mối nghi ngờ, Vô Phong bèn kể lại những thông tin mà Hỏa Nghi cung cấp. Nghe xong, tay Thống Lĩnh lắc đầu:

-Nghi ngờ thủ lĩnh pháp quan không phải chuyện đùa. Các cậu nghĩ chính ông ta tiếp tay cho Liệt Giả trong cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành? Ai cũng thành kiến với Trần Độ, tôi biết, nhưng kết tội ông ta mà không bằng chứng là rất nguy hiểm! 

-Nhưng không phải không có khả năng! – Vô Phong nói – Hiện chúng tôi không biết Mô Trật sống chết thế nào hay mười hai(12) hạt mầm Nại Mãi đi đâu. Không tìm hiểu sớm, tôi sợ thời gian tới xảy ra chuyện. Nếu Trần Độ đạo diễn tất cả thì ai biết ông ta còn toan tính những gì? Người Tuyệt Tưởng vẫn ghi nợ chuyện đức vua Đấu Nhân, một ngày nào đấy họ sẽ lật lại chuyện cũ. Tới lúc đó, Phi Thiên trả lời thế nào? 

Lục Thiên khoanh tay ngẫm nghĩ. Y hạ giọng:

-Ý cậu là chúng ta phải điều tra đến cùng, sau đó cung cấp toàn bộ thông tin cho Tuyệt Tưởng Thành để chứng tỏ mình là đồng minh đáng tin cậy? Không đâu, nó chỉ làm quan hệ giữa hai nước sụp đổ ngay tức khắc! Mà giả dụ Trần Độ làm vậy thật, nó chỉ chứng tỏ ông ta là chính khách đại tài giúp Phi Thiên ngày càng hùng mạnh. 

-Nhưng ít nhất nó cũng giúp ngài hoặc công chúa hiểu rõ con người Trần Độ. Chẳng phải việc đầu tiên mà một vị hoàng đế Phi Thiên cần làm là khống chế Hội Đồng Pháp Quan? Ngài hoặc công chúa sẽ khống chế họ thế nào khi chẳng hiểu chút gì về họ? 

Tay Thống Lĩnh nhướn mày đoạn quay sang tên tóc đỏ, sau bật cười:

-Cậu thay đổi nhiều quá, Vô Phong à! Tôi không nhận ra đấy!

Tên tóc đỏ nhún vai cười trừ. Vừa lúc đó một nữ nhân viên chính phủ đi ngang qua, đưa Lục Thiên tờ giấy mỏng trông như công văn. Lướt qua mảnh giấy, tay Thống Lĩnh bất ngờ chuyển cho tên tóc đỏ. Vô Phong khá ngạc nhiên song cũng nhận. Hắn phát hiện đây không phải công văn mà là đơn xin nghỉ việc của người đầu bếp chuyên phục vụ các bữa ăn nhẹ, ăn vặt hoặc pha trà cho Đệ Thập. Hắn biết truyền thống này của Phi Thiên quốc, ấy là khi một hoàng đế thoái vị hoặc qua đời, các bếp trưởng sẽ nghỉ hưu và không bao giờ quay lại hoàng cung. Tên tóc đỏ gãi tóc:

-Người này… ông ta đã làm ba mươi năm…

-Phải, cha tôi chỉ uống trà thiết mộc do chính tay ông ấy pha, uống lâu thành ghiền nặng. Hồi đầu năm, bác sĩ khuyên cha tôi ngừng uống nhưng chỉ được ba tháng. Sang tháng 4, ông lại uống tiếp(*****)! Gia đình chúng tôi khá thân thiết với ông ấy.

-Vậy thì không có lý do gì để đuổi việc một người như vậy. Tự thân ông đầu bếp xin nghỉ nghĩa là…

Lục Thiên gật gù đoạn xua tay ý muốn Vô Phong đừng nói thêm điều gì. Y chống tay lên bệ lan can, ánh mắt trông về những nóc thánh đường:

-Thời gian tới, Lục Châu rất cô đơn. Tôi mong cậu hết sức giúp đỡ con bé, hãy làm chỗ dựa vững chắc cho nó. 

Bấy giờ Vô Phong mới hiểu tại sao đại thánh sứ nhắn nhủ mình phải chăm sóc công chúa(*1). Nghĩ lại khoảng thời gian lăn lộn sa mạc Hồi Đằng, hắn bất giác thấy vô nghĩa. Nghĩ tương lai sắp tới của Lục Châu, hắn khó tưởng tượng cô gái sẽ thế nào khi đối mặt sự thật. Lục Thiên tiếp lời: 

-Cậu nói đúng, chúng ta cần biết rõ chân tướng sự việc Bùa Ngải. Cảm ơn đã nhắc nhở! Tôi sẽ cử người điều tra. Nhưng sang tháng 2, tôi phải rời vị trí Thống Lĩnh. Từ giờ tới lúc đó còn nửa tháng, thời gian không nhiều. Có thông tin mới, tôi sẽ báo ngay!

Tay Thống Lĩnh vỗ vai tên tóc đỏ rồi rời đi. Vô Phong bần thần tại chỗ cả tiếng đồng hồ mà không nhận ra sắp nửa đêm. Hắn cứ ngỡ mọi chuyện an lành sau khi chiến tranh kết thúc mà không hề biết nó là sự khởi đầu hoàn toàn mới. Khoảng trống mà đại thánh sứ Tây Minh bỏ lại không lớn. Nó khổng lồ. 



Trở về sau cuộc gặp Vô Phong, Hỏa Nghi lập tức truy xét hệ thống máy tính họ Hỏa. Gã cùng Thanh Nhi làm việc suốt đêm hòng tìm manh mối bởi lẽ chỉ riêng họ Hỏa nắm giữ công nghệ Thiết Thù. Ngoài dòng họ và chính phủ Phi Thiên, không một tổ chức thứ ba nào biết sự tồn tại của nó. Mặt khác, họ Hỏa lưu trữ mọi hoạt động nghiên cứu sản xuất vào cơ sở dữ liệu, Hỏa Nghi hy vọng sẽ tìm thấy dự án cải tiến nhện sắt Thiết Thù trong này. 

Nhưng cơ sở dữ liệu không phải chỗ ra vào dễ dàng. Nó như tòa nhà cao tầng bao gồm sáu cấp truy cập, mà bằng thân phận lẫn địa vị hiện tại thì Hỏa Nghi chỉ có quyền truy cập cấp hai. Gã cần quyền hạn lớn hơn. Bấy giờ gã mới hối tiếc rằng trước đây không nịnh bợ thổi mông mấy lão già chức sắc của dòng họ. Nhưng Hỏa Nghi vẫn còn đó người anh trai Hỏa Dương luôn chăm chỉ tái thiết đống quan hệ tạp phí lù vốn bị gã bỏ bễ từ lâu. Gã tìm Hỏa Dương, trình bày sự vụ tại Tuyệt Tưởng Thành sau đề nghị anh trai giúp đỡ. Hỏa Dương nhướn mắt nhìn gã:

-Anh không nghĩ đây là lúc thích hợp. Chú đòi hỏi quá cao mà sức anh kham không nổi. Quyền truy cập cấp sáu? Chú đùa anh chắc? – Hỏa Dương vỗ đầu em trai – Đó đều là những dự án tối mật, chỉ ban lãnh đạo dòng họ mới biết! Đừng quên ông già đang liệt giường, dòng họ đang chia bè phái tranh chấp ghế thủ lĩnh. Chú mà gây chuyện, chẳng ai đỡ nổi chú cả!

-Thế thì giảm xuống vậy! – Hỏa Nghi cười – Quyền truy cập cấp năm, thế nào? Anh giúp tôi được chứ?

-Đừng đùa! – Hỏa Dương gắt – Chú là người thừa kế, thời gian này không thể dính vào chuyện nguy hiểm! 

-Nếu anh còn coi thằng em này là người thừa kế thì nên giúp tôi mới đúng chứ?! – Hỏa Nghi nhún vai – Tôi không thể ngồi vào ghế thủ lĩnh mà chẳng biết ai bạn ai thù hay thằng chết tiệt nào chơi khăm dưới mũi mình. Người Tuyệt Tưởng ghi nợ vụ vua Đấu Nhân, ngày nào đấy họ sẽ lần tới đây, lúc ấy anh muốn tôi cà lăm lắp bắp “Ồ, tôi không biết! Tôi chẳng biết con nhện sắt là thứ bỏ mẹ gì!”, phỏng? 

Hỏa Nghi vẫn tếu táo nhưng ánh mắt không hề đùa giỡn. Biết tính em trai ương ngạnh, Hỏa Dương đành làm theo ý gã. Sáng sớm hôm sau, hai anh em gặp mặt vài vị trưởng lão thuộc ban lãnh đạo để thương lượng. Đó là những giây phút dài nhất cuộc đời Hỏa Nghi khi phải diễn bản mặt ngoan ngoãn kính trên nhường dưới, một câu “Dạ, con nghe các chú các bác!”, hai câu “Dạ, các bác các chú dạy bảo đúng!”. Buổi thương lượng kéo dài nguyên sáng, nhiều lúc tưởng chừng bế tắc. Nhưng vì đám trưởng lão này vốn thân thiết với gia đình Hỏa Nghi, phần vì Hỏa Dương vẫn duy trì quan hệ nên cuối cùng Hỏa Nghi được quyền truy cập cấp bốn dưới sự giám sát chặt chẽ. Kết quả thấp hơn mong đợi, Hỏa Nghi tiu nghỉu như mèo bị cắt tai.

Có chìa khóa, Hỏa Nghi thâm nhập tầng bốn cơ sở dữ liệu. Gã không hy vọng nhiều vì Thiết Thù là sản phẩm tối mật, ít nhất phải nằm trong hệ thống cấp năm trở lên. Nhưng mới gõ vài từ khóa, gã lập tức phát hiện dự án cải tạo Thiết Thù cách đây vài năm. Mọi chi tiết được ghi chép rõ ràng, Hỏa Nghi nghiền ngẫm kỹ càng. Gã nhận ra dự án này nhằm phục vụ điều trị thương binh mất khả năng vận động hoặc tổn thương thần kinh. Dự án đang áp dụng tại Quân Doanh Bờ Tây, cuối năm sẽ công bố kết quả và công khai trước bộ quốc phòng Phi Thiên. Bởi lẽ ấy, con nhện sắt không còn là dạng thông tin cấp sáu mà chuyển về cấp bốn.

Số lượng Thiết Thù cải tiến khá hạn chế, mỗi sản phẩm đều đánh mã số. Hỏa Nghi liền đến trụ sở dự án tại phía đông Đảo Sắt Thép để tìm danh sách xuất nhập kho sản phẩm. Có danh sách, gã sẽ biết con nhện sắt nào rời khỏi Đảo Sắt Thép hay ai lấy nó ra. Nói chuyện với ban dự án một hồi, người quản lý đưa tập danh sách cho Hỏa Nghi. Nhưng gã chưa kịp mở thì một bàn tay gân guốc tóm lấy ngăn lại. Hỏa Nghi ngẩng đầu đoạn nhếch mép:

-Ồ, ông chú Hỏa Chính thân mến! Chú đến đây lúc nào thế?

Trước mặt Hỏa Nghi là một người đàn ông cao lớn, tóc đen chải chuốt bóng nhẫy, gương mặt trung niên ngà ngà đỏ, bộ ria tỉa tót thẳng thớm bao bọc hình vuông quanh chiếc cằm tam giác nhọn hoắt. Ông ta nhìn Hỏa Nghi bằng ánh mắt sắc mảnh như lưỡi dao mổ:

-Từ hồi về đến giờ, cháu chưa đi thăm ta lần nào phải không, cháu trai yêu quý? Chúng ta là ruột thịt máu mủ, phải đối xử tử tế với nhau chứ?

Gã trẻ lôi tập danh sách lại nhưng kẻ già giữ chặt nhất quyết không nhả. Hỏa Nghi chợt nhớ thời thơ bé, hồi mà gã luôn bị Hỏa Chính mắng chiếc thậm chí tát thẳng mặt giữa chốn đông người. Từ ấy đến bây giờ Hỏa Nghi vẫn chưa có cơ hội trả thù. Nghĩ tới đó, gã chợt cười gằn.

(*) Ngụy Mã, xem lại Q3 Chương 99
(**) xem lại Q1 Chương 22
(***) giấc mơ chập chờn về Hỏa Phu của Vô Phong, xem lại Q3 Chương 82
(****) Hỏa Viên đang nằm liệt giường vì cơn tai biến, xem lại Q3 Chương 58
(*****) xem lại Q3 Chương 101
(*1) lời đại thánh sứ nhắn nhủ Vô Phong, xem lại Q3 Chương 106
 
Quyển 3 - Chương 138: Đầu độc


Tận sâu thâm tâm, Hỏa Nghi dành hẳn một chốn vô cùng đẹp đẽ trang trọng cho người chú ruột. Mười mấy năm qua, gã chăm chỉ lau dọn phủi bụi nơi đó kỹ càng, thiếu mỗi khoản đặt bàn thờ thắp nhang cúng bái như dân Xích Quỷ. Hỏa Nghi muốn nơi này luôn sạch sẽ bóng lộn để một ngày kia, tự tay gã tưới tắm nó bằng mấy thùng nước cống lẫn chất thải, sau đấy cười hô hố khoái trá nhìn người chú gào thét hoảng loạn giữa mớ hôi rình bẩn tưởi. Gã luôn sẵn sàng cho ngày hạnh phúc đó, khổ nỗi đợi vêu hàm chục năm mà nó chưa xuất hiện. Giờ thời cơ tới, Hỏa Nghi giằng tập danh sách như con thú giằng mồi sau chuỗi ngày đói khát. Gã cười:

-Ở đây không có việc của chú đâu, chú Hỏa Chính à!

Hỏa Chính nhìn đứa cháu trai, khe mắt hẹp lại thành rãnh trong khi bàn tay gân guốc vẫn giữ chặt tập danh sách. Lão nghiêm nghị:

-Dự án cấp bốn, không phải dạng tuyệt mật nhưng chỉ lưu hành nội bộ quốc phòng và Hội Đồng Pháp Quan. Hỏa Dương muốn coi thì ta còn xem xét vì nó đang tạm giữ việc điều hành. Nhưng còn cháu? Ta không nghĩ vậy! Phấn đấu một vị trí tốt, cống hiến thật nhiều rồi cháu sẽ được xem mấy thứ này. Đừng nhìn ta như thế, cháu trai. Ta không áp đặt mà đây là quy tắc dòng họ. 

-Tôi được các trưởng lão cho phép. – Hỏa Nghi thản nhiên – Chú thắc mắc gì thì đi mà hỏi họ!

Đôi mắt Hỏa Chính lóe tia khinh miệt, chiếc cằm nhọn hoắt khẽ hếch:

-Ồ, trưởng lão cho phép? Ta biết mấy vị trưởng lão đó là ai đấy, cháu trai. Bọn họ già, lú lẫn, hay quên, nhớ người nọ xọ người kia, thậm chí quên luôn bữa sáng của mình gồm những món gì. Do đám người đó, họ Hỏa giờ chỉ biết ngồi rỗi nhấm nháp thành quả mà chẳng chịu đổi mới. Biết tại sao không? Vì họ ảnh hưởng từ cha cháu, một người thiếu chí tiến thủ, khi khó khăn ập đến thì chẳng biết làm gì ngoài họp hành hỏi ý kiến người khác và… rượu. Cháu biết chuyện này mà, cháu trai! 

Hỏa Nghi nghiến răng cố dằn sự ham muốn đấm vỡ mặt lão già. Nhưng gã không biết kìm nén được bao lâu khi Hỏa Chính liên tục ném những tia nhìn mỉa mai. Lão không cười nhưng đôi mắt hẹp đầy miệt thị lẫn khiêu khích. Giữa lúc căng thẳng, anh trai Hỏa Nghi bỗng xuất hiện phía cửa. Hỏa Chính lừ mắt:

-Hôm nay con cái Hỏa Viên thích tụ tập về đây nhỉ? Có chuyện gì sao, cháu trai Hỏa Dương? Cháu muốn xem mấy thứ này? Được thôi, nhưng trước hết phải hỏi ý kiến ta! Còn Hỏa Nghi ấy à? Không đâu, thằng nhóc không được phép!

-Hỏa Nghi được phép! – Hỏa Dương nhếch mép – Trưởng lão muốn nói chuyện với chú. 

Nói rồi y chìa điện thoại. Hỏa Chính nhướn mắt nửa đe dọa nửa nghi ngờ nhưng Hỏa Dương vẫn tươi cười. Lão đành nghe điện nhưng vẫn giữ chặt tập danh sách. Hỏa Chính yêu cầu rút lại quyền hạn của Hỏa Nghi và đề nghị trừng phạt gã. Nhưng có vẻ mọi chuyện không theo ý Hỏa Chính. Hai bên tiếp tục tranh cãi cho tới khi người ở đầu dây bên kia hét lên giận dữ, lớn đến mức anh em Hỏa Nghi lẫn đám nhân viên phòng thí nghiệm đều nghe thấy:

“Mày chẳng là cái quái gì đâu, thằng mặt nhọn Hỏa Chính! Tao là chú của mày đấy, chớ lớn lối ở đây! Đừng nghĩ có người chống lưng là thích làm gì cũng được! Biến khỏi chỗ đấy, để yên cho Hỏa Nghi làm việc!” 



Tiếng cúp máy vang lên. Hỏa Chính quay lại nhìn đứa cháu trai đang nhe răng giễu cượt đầy xấc láo. Trong một thoáng, đôi mắt lão lóe lên vô số dự định ác ý nhằm vào Hỏa Nghi nhưng rồi chùng xuống. Lão buông tay, Hỏa Nghi có tập danh sách. Hỏa Chính rảo quanh đoạn đặt lên cổ cháu trai bằng cái giọng thanh mảnh như ánh mắt của mình:

-Cha mẹ li dị nên cháu chẳng được giáo dục tốt lắm thì phải, cháu trai? Gia Áo đúng là không biết dạy dỗ con trai mình. À quên, tại vì cô ta li dị mà(*)! Vậy để ta nói vài điều nhé.! Nhớ châm ngôn dòng họ không? “Lửa sinh tất cả, lửa thiêu tất cả”. Đừng để mình bị thiêu trong lửa, Hỏa Nghi, vì… nó khó chịu lắm đấy! 

Sau lời đe dọa, Hỏa Chính bỏ đi, không quên ném ánh mắt thánh thức cho anh em Hỏa Nghi chừng như tập danh sách chỉ là trò trẻ con với lão. Nén hàng đống lời chửi bới cùng nguyền rủa vào bụng, Hỏa Nghi về nhà với bản danh sách. Sự xuất hiện bất thường của người chú khiến gã tin rằng tập danh sách có vấn đề. 

Và quả thực nó có vấn đề. Dự án cải tiến Thiết Thù cho ra hai mươi(20) con nhện sắt, đưa mười chín(19) sản phẩm về Quân Doanh Bờ Tây tiến hành thí nghiệm. Trong quá trình thí nghiệm, một con nhện sắt đã hỏng nên giờ chỉ còn mười tám(18) sản phẩm hoạt động. Nhưng Hỏa Nghi lưu tâm chuyện ấy, điều quan trọng là một con Thiết Thù ở lại trước khi đưa tới Quân Doanh Bờ Tây, tình trạng của nó được chép là “chuyển sang dự án khác” song không rõ dự án nào hay ai chuyển. Thấy lạ, anh em Hỏa Nghi cất công đi hỏi vị trưởng lão vừa cứu nguy giùm hai người. Ông ta đáp, oang oang bực bội: 

-Ta không biết dự án nào! Hỏa Chính điều hành vài chương trình bí mật, ngay cả bọn ta cũng không thể can dự. Mấy năm nay thằng mặt nhọn tự tung tự tác vậy rồi, chẳng coi cha chú ra thể thống gì nữa! Đặc biệt từ hồi cha hai đứa bay ốm đau liệt giường, Hỏa Chính càng làm già! Hỏa Chính cần con nhện sắt, bọn ta hỏi việc gì, thằng đó không chịu nói và bao biện đấy là công chuyện chính phủ. Cuối cùng ông chủ quản hội đồng dòng họ ra mặt bao che Hỏa Chính, bọn ta không làm gì được, đành để nó mang con nhện đi! 

-Bác biết dự án đó chứ? – Hỏa Nghi hỏi.

-Ta không biết, nhưng chắc chắn nó thuộc tầng thông tin cấp sáu. Mày không thể vào đó được, cháu trai. Bọn ta không đủ thầm quyền. 

Hỏa Nghi thở dài. Gã hỏi: 

-Bác thấy ông ta (Hỏa Chính) thường qua lại với ai? 

Vị trưởng lão đáp lời:

-Dĩ nhiên là Hỏa Thâu Đầu, chủ quản hội đồng dòng họ đồng thời là pháp quan chính phủ, Hỏa Viên và Hỏa Chính gọi lão là bác ruột. Tính lão thích nghe nịnh bợ, thằng mặt nhọn thì suốt ngày ngon ngọt còn cha hai đứa bay im thin thít! Kết quả thế nào, bọn bay thấy đấy! Được Hỏa Thâu Đầu bao che, thằng mặt nhọn hống hách lắm! Nhưng không chỉ vậy đâu, dạo này Hỏa Chính còn qua lại với Trần Độ.

-Lâu chưa ạ? – Hỏa Nghi hỏi dồn.

-Chắc được một năm rồi! Ngân sách hỗ trợ hàng năm mà Phi Thiên dành cho họ Hỏa có dấu tay Trần Độ. Ông ta nắm rõ toàn bộ đề án, công trình hay dự thảo. Bọn ta không thể gây gổ với Trần Độ được, hai đứa bay hiểu đấy!

Trong tiếng thở dài chán ngán, vị trưởng lão chấm dứt cuộc nói chuyện. Cuộc điều tra kết thúc, Hỏa Nghi không thể biết con nhện sắt nọ đi đâu về đâu. Nhưng dựa theo thông tin sẵn có, gã đoan chắc Hỏa Chính đã chuyển giao nó cho Trần Độ. Theo nhiều phương thức liên lạc nào đấy cùng sự thỏa thuận đôi bên, Trần Độ đưa con nhện cho Tiếu, gián tiếp can thiệp cục diện Tuyệt Tưởng Thành. Gã tin tưởng lập luận của mình.

Nhưng tâm trí Hỏa Nghi không bao giờ nằm yên một chỗ. Trần Độ can thiệp nhằm cố hiến cho Phi Thiên quốc hay tư lợi cá nhân? – Hỏa Nghi tự hỏi nhưng không thể tự trả lời. 

Sau chuyến điều tra bất thành, thay vì nghỉ ngơi ngủ ngáy đã đời, Hỏa Nghi tiếp tục chìm đắm vào suy nghĩ. Hết anh trai rồi Thanh Nhi khuyên nhủ nhưng gã không thôi tự làm khó mình bằng vô số câu hỏi. Như hệ thống máy tính đang sắp xếp dữ liệu, bộ não Hỏa Nghi kê khai toàn bộ chi tiết chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành từ những buổi họp nội các, những thông tin hắn nghe kể từ đại thánh sứ Tây Minh, tình hình thế giới trước đây, cùng thời điểm và cho đến hiện tại. Gã viết tất cả ra giấy rồi sắp xếp thành sơ đồ, liên kết chúng đến mấu chốt cuối cùng: Phi Thiên quốc. Không phải Tuyệt Tưởng Thành hay Liệt Giả mà chính Phi Thiên thừa hưởng kết quả cuộc chiến nhiều nhất. Hỏa Nghi cảm giác có gì thiêu thiếu. Một ngày nọ, đương đau đầu nhìn sơ đồ, Hỏa Nghi chợt thấy truyền hình Phi Thiên đưa tin:

“…về phần Bạch Dương Đệ Thập, phát ngôn viên chính phủ thông báo sức khỏe hoàng đế đã ổn định nhưng cần hai ca tiểu phẫu nữa để bình phục hoàn toàn. Hoàng đế vẫn điều hành công việc bình thường và sẽ có bài phát biểu vào ngày quốc khánh như thông lệ…”



Nghe vậy, Hỏa Nghi mới nhớ nửa tháng nay hoàng đế không xuất hiện trên truyền hình. Gã chỉ biết Đệ Thập trông hom hem già yếu chứ chưa nghe ông cần phẫu thuật bao giờ. Ngẫm nghĩ một lúc, gã viết dòng chữ “Đệ Thập sức khỏe kém” lên một mảnh giấy rồi dán lên sơ đồ. 

Tháng 1 trôi về những ngày cuối, Phi Thiên quốc dần trở lại nhịp sống thường nhật, dư âm tân niên kết thúc nhanh hơn mọi năm vì bóng đen tang lễ của đại thánh sứ Tây Minh. Hỏa Nghi tranh thủ đi thăm công chúa, Tiểu Hồ cùng vài người khác tiện thể thu thập thêm tin tức song chẳng gợi mở được điều gì đáng giá. Chán nản, gã tính chuyện đi chơi với Thanh Nhi cho khuây khỏa vì đợt nghỉ phép chưa kết thúc. Nhưng đúng ngày 31, Vô Phong chợt gọi đến báo có việc gấp. Hỏa Nghi tức tốc đi ngay, chẳng kịp nhắn Thanh Nhi hủy chuyến đi chơi.

Đến điểm hẹn, tên tóc đỏ đưa Hỏa Nghi một chiếc thẻ dữ liệu, bên trong gồm nhiều đoạn ghi hình từ hệ thống máy quay tại cảng phi trường thủ đô tới vài con phố hay những đoạn cầu vắt ngang không trung quận Mắt Trắng. Điểm đặc biệt là trong mỗi khung hình đều xuất hiện một gã thanh niên ăn vận bóng bẩy, tay xách cặp da, không ai khác ngoài Mô Trật. Hỏa Nghi hỏi Vô Phong lấy mấy thứ này từ đâu, tên tóc đỏ trả lời: 

-Hồi năm kia (7516), tôi làm đại diện cho quỹ hỗ trợ cựu binh của ông cố vấn Xung Am. Biết ông ta chứ? Biết hả? Tốt! Khi đó tôi dự tiệc của ổng nên quen biết mấy nhân vật, một người làm bên an ninh cảng hàng không, một người nữa ở cục giao thông(**). Tôi bảo là có việc quan trọng cần giúp đỡ, họ đồng ý liền!

Vô Phong từng nhận hai trong bốn huân chương cao quý nhất Phi Thiên quốc(***). Nhất là sau cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành, hắn dần dà có tiếng ở giới chiến binh và được nhiều quý tộc Phi Thiên để mắt. Tên tóc đỏ có thể nhờ vả, Hỏa Nghi không lạ. Gã ngạc nhiên ở chỗ Vô Phong tận dụng danh tiếng quá tốt – điều mà trước đây tên tóc đỏ chẳng bao giờ làm. Hỏa Nghi cười khanh khách:

-Tốt đấy, anh bạn! Tốt đấy!

-Lục Thiên gợi ý tôi thử tìm mấy nguồn thông tin mới. Tôi cũng nghĩ cần động chân động tay thay vì dựa dẫm cậu mãi. Hi vọng kết quả tốt! – Vô Phong nhún vai. 

Kết quả vượt ngoài mong đợi. Nhờ những đoạn ghi hình, bọn Vô Phong người phát hiện Mô Trật đáp xuống thủ đô vào tối ngày 6 tháng 10. Một đoạn ghi hình cho thấy y rẽ vào cung đường hướng về tòa cao ốc nơi đặt trụ sở tập đoàn Cao Khánh. Dấu hiệu chưa thực sự rõ ràng nhưng Hỏa Nghi tin chắc Mô Trật tìm gặp Cao Khách. Nhưng còn một chi tiết đáng lưu ý khác: trước khi đến tập đoàn, Mô Trật rẽ sang một nhà hàng như để khỏa lấp dạ dày sau chuyến bay dài. Vô Phong nhíu mày:

-Tại sao sở cảnh binh không tìm mấy thứ này? Họ dư khả năng mà?!

-Cậu nghĩ Trần Độ và tiền của Cao Khánh không đủ sức bịt miệng họ? 

Nói rồi hai người khởi hành đến nhà hàng nọ. Đó là một nơi rất nổi tiếng tại thủ đô mà nếu phải diễn tả, Vô Phong sẽ đem cái tiệm bé xíu của lão Lập ra so sánh, tiệm lão Lập chìm nghỉm ngần nào thì nhà hàng này nổi ngần nấy. Vô số thực khách nổi tiếng từng ghé thăm, thậm chí cả gia đình hoàng đế. Bức ảnh lớn chụp ba cha con Đệ Thập cùng ông chủ nhà hàng treo chình ình ngay cửa, ai ra vào đều thấy. Bản tính Mô Trật ưa phô trương lại khoái bắt quàng người có danh vọng nên việc y thường qua đây âu cũng bình thường. 

Vô Phong và Hỏa Nghi chưa từng đặt chân tới nhà hàng lần nào nhưng ông chủ nhận ra họ. Bọn Vô Phong nhờ vả, ông chủ đồng ý và xin chụp ảnh chung. Điều kiện quá dễ, bọn Vô Phong đồng ý ngay, đổi lại là đoạn ghi hình của nhà hàng vào ngày 6 tháng 10 năm 7516. Tối đó Mô Trật dùng bữa sau chuyến bay, đầu không ngừng nghiêng ngó xem có người nổi tiếng nào đến hay không. Lát sau, y tráng miệng tại quầy rượu. Được ít phút, một vị khách hói đầu đến ngồi kế bên Mô Trật rồi gọi ly rượu. Hai người lạ mặt không hề quen biết nhau. Thêm dăm phút trôi qua, vị khách ngoảnh sang nói gì đó, Mô Trật hí hoáy lục túi áo rồi đưa ông ta một vật như bật lửa. Trong khói thuốc, họ rù rì với nhau dăm ba câu, vị khách hói đầu chợt nhận tin nhắn điện thoại rồi ra về. Mô Trật ngay sau đấy cũng rời đi. 

Đoạn ghi hình chỉ có vậy, Hỏa Nghi nhiều lần soi cận cảnh nhưng không thể nhìn rõ món đồ trong tay Mô Trật vì hướng máy quay không chiếu thẳng vào khu vực đó. Trông gương mặt vị khách lạ, Vô Phong ngờ ngợ: 

-Hình như tôi đã gặp ông ta… trên một tờ công văn… Phải rồi, hôm trước Lục Thiên có đưa tôi đơn xin nghỉ việc của đầu bếp phục vụ hoàng đế, ảnh lý lịch cá nhân khá giống người này! 

Để xác nhận, Vô Phong gửi ảnh chụp cho Lục Thiên. Tay thống lĩnh báo rằng người đó chính là đầu bếp vừa xin nghỉ việc, hiện đã rời thủ đô. Lục Thiên cũng cung cấp vài thông tin cơ bản về người đầu bếp. Trên đường trở về, Hỏa Nghi vừa đọc xấp hồ sơ vừa nói:

-Quý Mẫn, năm mươi bảy tuổi, đầu bếp chuyên món ngọt, từng đoạt giải cao nhất cuộc thi món ngọt, phục vụ Đệ Thập ba mươi năm. Công việc ổn. Gia đình ổn. Không tiền án tiền sự. Trông đợi gì từ ông già này đây?

-Hoàng đế nghiện trà thiết mộc của ổng. – Vô Phong nói – Ghiền đến mức chỉ bỏ được ba tháng rồi uống lại. 

Hỏa Nghi cười khùng khục nhưng đi mươi bước chợt khựng lại. Gã nhíu mày:

-Cậu bảo gì? Hoàng đế chỉ bỏ được ba tháng? Ba tháng nào? 

-Ba tháng đầu năm trước… – Tên tóc đỏ đáp – …đến tháng 4, ông ấy uống lại. Chính Lục Thiên bảo thế mà! 

Hỏa Nghi lẩm nhẩm một hồi. Mô Trật về thủ đô vào tháng 10, từ đấy đến cuối năm kia(7516) là ba tháng. Đệ Thập nghỉ trà thiết mộc nhưng sang tháng 4 thì uống lại, từ đó tới cuối năm ngoái(7517) là chín tháng. Tổng cộng hai khoảng thời gian kể trên là mười hai tháng, cũng vừa vặn sang năm mới thì Đệ Thập mắc bệnh. Hỏa Nghi liền căn vặn Vô Phong biết tình trạng hoàng đế hay không, tên tóc đỏ ậm ờ mãi mới chịu tiết lộ Đệ Thập chính là Quỷ Vương chứ không phải con chim Ác Lạc Điểu. Tên tóc đỏ đoán rằng hoàng đế hiện đang ở Thánh Vực chuẩn bị lễ thanh tẩy. Hỏa Nghi tức tốc nhắn tin cho Thanh Nhi. Trông gã đi tới đi lui, Vô Phong hỏi chuyện gì, gã đáp liến thoắng:

-Còn nhớ mười hai(12) hạt mầm Nại Mãi chứ? Tôi nghĩ lại rồi, Tiếu không thể dùng nó để hạ sát Đấu Thánh! Nó không hợp lý! Tiếu đang bắt tay với Liệt Giả, phải không? Cả hai vẫn theo chiến lược của Liệt Giả. Ông ta đã chiếm được Tuyệt Tưởng Thành, mục đích chiến lược thành công, Đấu Thánh không còn là mục tiêu nữa! Nếu muốn, Liệt Giả đã giết Đấu Thánh từ lâu, tại sao còn chịu thỏa thuận để đổi lấy vũ khí(****)? Đừng tính trận chiến cuối cùng, Đấu Thánh chiến đấu vì danh dự còn Liệt Giả chiều theo nguyện vọng của hắn, không phải mục đích quân sự!

Hỏa Nghi dứt lời đúng lúc điện thoại réo vang nhận tin nhắn từ Thanh Nhi. Gã đọc một hồi đoạn thì thào:

-Như tôi dự kiến! Thanh Nhi hỏi ông già Thâm Thụ rồi! Ông già bảo hạt mầm Nại Mãi có thể giã nhỏ, hòa chung chất lỏng để đầu độc. Nhưng vì giã nhỏ nên công hiệu thấp nên cần thời gian đầu độc lâu dài, ma thuật trong hạt mầm mới ngấm vào cơ thể. Còn một chuyện hay ho nữa đây… thằng cha mua hạt mầm từ Thâm Thụ cũng hỏi câu y hệt! Đâu tự dưng Mô Trật và ông già Quý Mẫn xuất hiện cùng một chỗ? Ngẫu nhiên hả? Tôi không tin!



Có thông tin mới, bọn Vô Phong hỏi Lục Thiên và được tin ông đầu bếp Quý Mẫn hiện ở Đả Thải thành. Họ lập tức bắt chuyến tàu về thành phố miền tây đồng thời xin tay thống lĩnh trợ giúp. Xui cho hai người, Lục Thiên đã nộp đơn từ chức theo luật định, gã sẽ rời quân doanh sau nửa đêm, thời gian tại nhiệm còn vỏn vẹn năm tiếng. Ngồi trên tàu cao tốc, bọn Vô Phong nóng ruột khôn tả. Tên tóc đỏ nghi hoặc:

-Cậu chắc hoàng đế bị đầu độc không? Vậy ngôi mộ trên đỉnh Hoành Sơn tính sao? Ngôi mộ đó gắn liền sinh mạng với hoàng đế, ông già Lộc Tục xác nhận khí đen ở đó chính là hắc khí Quỷ Vương (*****)! 

-Tôi chưa biết! Tôi chưa dám chắc! Nhưng chúng ta phải tìm ông đầu bếp! – Hỏa Nghi lắc đầu.

-Làm cách nào mà đầu độc một người và biến họ thành Quỷ Vương chứ?

Hỏa Nghi bóp trán suy nghĩ. Gã mở cuốn sổ tay ghi chép mọi điều về hạt mầm Nại Mãi đoạn suy đoán: 

-Vẫn nhớ giáo sư Vân Tụy chứ? Ông ta từng tham gia đề án Bùa Ngải của Xích Quỷ. Ông ta nói tế bào Nại Mãi phản ứng với tín hiệu sóng não, mà chúng ta đều biết tín hiệu sóng não chính là “mộng lưu” – thứ cấu thành bí kỹ hoặc phép thuật. Nếu có cỗ máy chuyển hóa được mộng lưu, Bùa Ngải vẫn phát huy phép thuật mà không cần “Bùa”. Có một cỗ máy như thế, cậu lạ gì nó?

-Máy phát nội lực?! – Vô Phong mắt tròn mắt dẹt.

-Ờ, là máy phát nội lực! – Hỏa Nghi gật đầu – Và cậu nghĩ ai cần nó ngoài Trần Độ? Tìm ông đầu bếp, chúng ta sẽ rõ ngọn ngành! 

Tàu cao tốc dừng ở thủ phủ tái chế, bọn Vô Phong xuống tàu rồi khẩn trương vào thành phố. Vượt qua nhiều con phố vắng lặng cùng những ngõ ngách xen giữa các tòa nhà tái chế lắm hình thù, họ leo lên một tòa chung cư. Địa chỉ rõ ràng, hai người dễ dàng tìm thấy nơi ở của Quý Mẫn. Nhưng gõ cửa một hồi mà chẳng thấy ai ra mở hoặc lên tiếng hồi đáp, tên tóc đỏ bèn rút kiếm vận nội lực đánh tung cửa. Trước mắt bọn Vô Phong là một căn hộ nhỏ không bóng người. Đồ đạc tung tóe và chăn gối giường đệm nhăn nhúm cho thấy người chủ gói ghém hành lý rời đi trong vội vã. Vô Phong sờ tấm đệm, cảm giác còn ấm nguyên. Hắn nhào ra cửa, bỗng phát hiện một người đàn ông trung tuổi lễ mễ xách va li hối hả chạy trên phố. Vô Phong hét lớn:

-QUÝ MẪN!

Người đàn ông giật mình quay lại với ánh mắt thảng thốt sau lại sợ hãi bỏ chạy. Vô Phong liền bảo Hỏa Nghi gọi tổ hỗ trợ của Lục Thiên còn mình nhảy xuống từ tầng sáu. Hắn tiếp đất bằng Phong kỹ đoạn tức tốc bám theo đối tượng. Chạy hết con phố, hắn thấy bóng dáng Quý Mẫn leo lên xe khách cơ giới(*1). Tên tóc đỏ đuổi không kịp, liền đọc biển số xe cho Hỏa Nghi và tổ hỗ trợ. Lát sau hắn cũng bắt một chiếc xe cơ giới khác đuổi theo Quý Mẫn. 

Theo chỉ dẫn của Hỏa Nghi, xe chạy về trung tâm Đả Thải thành. Vô Phong nhào xuống, nhận ra nơi này là chốn tụ tập của dân băng đảng thủ phủ tái chế. Len qua đám đông đầy lũ người xăm trổ đeo trang sức kim loại rồi bỏ sau lưng tiếng chửi bới lẫn đe dọa, tên tóc đỏ xồng xộc vào con phố nhỏ giữa những quán rượu, nhà thổ, gara tụ tập bọn đua xe và xưởng rèn. Giữa tiếng rèn đinh tai lẫn tiếng nhạc xập xình nhức óc, hắn phát hiện cái đầu hói của Quý Mẫn. Tên tóc đỏ lao theo, nói gấp:

-Thấy Quý Mẫn rồi! Ông ta cách tôi hai trăm mét! Tóm ông ta lại!

-Chúng tôi nghe rồi! – Tổ hỗ trợ đáp – Chúng tôi đang tiếp cận đối tượng!

Đằng xa, hai thành viên tổ hỗ trợ nhanh chóng xáp tới. Nhận thấy nguy hiểm, Quý Mẫn hoảng hốt rẽ sang con hẻm gần đó kéo theo hai người nọ. Vô Phong vội vã đuổi theo. Hắn hốt nhiên nghe tiếng đánh đấm loạn xạ cùng tiếng người gào thét. Lúc tới nơi, hắn trông thấy hai thành viên tổ hỗ trợ nằm xụi lơ cạnh thùng rác. Kẻ hạ gục họ có thân hình cao lêu nghêu, tay chân lều khều như vượn, bộ mặt nhăn nhúm giẻ nhàu đeo kính râm. Vô Phong không bao giờ quên con quái vật này, hắn mở lớn mắt:

-Thú?!

-Ô hô hô! Chúng ta lại gặp nhau! Chào tóc đỏ! 

Con quái vật cười nhe bộ răng nhọn hoắt bịt sắt. Gã vươn tay định tóm ông già Quý Mẫn đang chết khiếp ở góc hẻm nhưng Vô Phong vung kiếm ngăn cản. Thú mở móng vuốt rồi bật hai lưỡi đao bên cẳng tay đỡ đòn. Hai bên đánh nhau kịch liệt, Quý Mẫn được dịp thoát thân. Thú liền đẩy Vô Phong ra, leo lên nóc nhà rồi truy đuổi ông đầu bếp bằng tứ chi tựa thú dữ săn mồi. Vô Phong hét vào bộ đàm:

-Đuổi theo ông già, Hỏa Nghi! Thú đến rồi! Đừng để ông già lọt vào tay Thú!

Vô Phong rời hẻm. Thấy Quý Mẫn chạy vào một quán rượu, hắn hộc tốc lao theo. Nhưng hắn bỗng thấy con quái vật Thú từ nóc nhà kế bên lao xuống như đạn đại bác tông vỡ cửa kính. Liền sau đó là tiếng đổ vỡ loảng xoảng, tiếng súng liên tiếp vang lên, tiếng đèn nổ lụp bụp rồi người hò hét chạy tán loạn khỏi quán rượu. Vô Phong nhào vào trong. Dưới bóng đèn nhập nhoạng, hắn nhận ra ông đầu bếp Quý Mẫn thoi thóp giữa vũng máu, dạ dày thủng lỗ chỗ vết đạn. Ở phía xa, Thú nhe răng cười hơn hớn đoạn mất hút giữa đêm tối. Vô Phong cúi người xem xét trong khi bộ đàm bên tai vang giọng Hỏa Nghi:

-Sao rồi, tóc đỏ? Ông già đó đâu rồi!

Tên tóc đỏ cầm máu giúp ông đầu bếp, hai tay thoáng chốc sẫm quánh sắc đỏ. Nhưng chừng ấy chẳng đủ giúp Quý Mẫn. Ông già lên cơn co giật đoạn lịm dần. Vô Phong tức điên người, ước rằng có thứ phép thuật mang Tàn Thi đến đây ngay tức khắc. Tên tóc đỏ lắc đầu thở hồng hộc:

-Không kịp… ông ấy chết rồi…

(*) mẹ Hỏa Nghi, tên Gia Áo, người gốc Vinh Môn, đã ly dị, xem lại Q3 Chương 63
(**) Vô Phong được mời làm người đại diện của quỹ từ thiện Xung Am chuyên giúp đỡ cựu chiến binh, tập trung rất nhiều doanh nhân và chính khách nổi tiếng, xem lại Q3 Chương 57
(***) Vô Phong được tặng thưởng Huân Chương Cánh Trắng và Huân Chương Cánh Bạc, xem lại Q3 Chương 54
(****) xem lại Q3 Chương 132
(*****) mộ phần của Bạch Dương Đệ Thập, xem lại Q2 Chwong 60
(*1) Đả Thải thành xây dựng kiểu đô thị cũ, ngoài phi thuyền vẫn còn nhiều xe cơ giới mặt đất, xem lại Q3 Chương 59
 
Quyển 3 - Chương 139: Anh trai


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

[Diendantruyen.Com] Ngục Thánh


Vì cuộc truy đuổi mà bọn Vô Phong gặp rắc rối với cảnh binh Đả Thải thành, song nhờ Lục Thiên can thiệp nên hai người nhanh chóng được thả, hiện trường án mạng lẫn thi thể Quý Mẫn được dọn dẹp ngay sau đó. Thủ phủ tái chế lắm băng đảng nhiều tệ nạn, một ngày xảy ra dăm vụ ẩu đả đấu súng nên chuyện chết chóc mang tính chất gia vị làm mặn cuộc sống hơn là một nỗi sợ, cái chết của Quý Mẫn sẽ tạm thời yên ắng. Nhưng Hỏa Nghi đoán nó chỉ yên ắng cho tới trước lúc đám báo chí đánh hơi ra người chết từng làm đầu bếp phục vụ hoàng đế. 

Trở lại thủ đô lúc hai giờ sáng, bọn Vô Phong giải khuây ở quán rượu quận Mắt Trắng. Họ nói về chuyện ở Đả Thải thành, hết chửi rủa Thú lại than ngắn tiếc dài tại sao không tìm ông đầu bếp sớm hơn. Trên hết, họ nhận ra mối hiểm họa sau tất cả những chuyện này: Trần Độ đã dùng Bùa Ngải đầu độc và biến hoàng đế thành Quỷ Vương; cũng chính lão tiếp tay cho Tiếu, gián tiếp thay đổi cục diện chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Hỏa Nghi bật máy chiếu cá nhân đoạn mở tập dữ liệu thu được từ chuyến đi của Tiểu Hồ đến Thiên Kỷ thành, gã nói:

-Lưu Thắng, trợ lý giáo Vân Tụy, đã cho Tiểu Hồ xem thí nghiệm. Nó chứng minh con người có thể truyền tải mộng lưu, cụ thể hóa hoặc biến đổi suy nghĩ nhằm tác động ngoại vật(*). Nếu dùng máy phát nội lực, việc này đơn giản hơn nhiều. Trần Độ biết đề án, biết máy phát nội lực, biết những bí mật bên trong nó, đừng quên chính lão hậu thuẫn Hỏa Chính. Thế nên lão biết cách đưa sức mạnh Quỷ Vương vào hạt mầm Nại Mãi, nhiều khả năng là vậy! 

Vô Phong gãi đầu, nghĩ một hồi rồi nói:

-Nhưng còn ngôi mộ của hoàng đế trên đỉnh Hoành Sơn? Chính ông Lộc Tục xác nhận khí đen trong mộ là hắc khí Quỷ Vương, cả công chúa nữa. Nếu không chúng ta lặn lội đến Kim Ngân bắt Ác Lạc Điểu làm gì? 

Hỏa Nghi khoanh tay, vẻ mặt khó coi. Gã biết công chúa Lục Châu quyết tâm bắt Ác Lạc Điểu vì nàng không – bao – giờ tin cha mình là Quỷ Vương, nhưng hắc khí Quỷ Vương tồn tại trong ngôi mộ là thật, gã không thể phủ nhận. Hỏa Nghi chép miệng:

-Họ đã sai về con chim to tổ bố thì có thể họ cũng sai luôn về ngôi mộ. Ai biết đấy? 

Tên tóc đỏ lắc đầu:

-Vậy lão pháp quan là Quỷ Vương hay ai khác? Lão làm thế vì muốn điều khiển đất nước này chăng? 

-Tôi không rõ nhưng trước hết ta cần cảnh báo Lục Thiên, ổng nên biết vụ này, công chúa thì từ từ… 

Vô Phong thở dài, hắn sợ phải chứng kiến gương mặt công chúa khi nàng nhận ra sự thật. Hai người tiếp tục nói chuyện nhưng chẳng tìm được thông tin nào hữu ích. Sau rốt Hỏa Nghi thừa nhận cuộc truy tìm Bùa Ngải đã chấm dứt dù nó vừa gợi mở nhiều tình tiết mới bởi lẽ họ không có chìa khóa hay phương tiện để đi tiếp. Bằng chứng quá ít ỏi, nhân chứng cuối cùng là Quý Mãn đã chết, họ không thể vạch mặt Trần Độ. 



Ngày đầu tiên tháng 2, truyền thông đưa tin Lục Thiên rời Quân Doanh Bờ Tây và chấm dứt mọi công tác quân sự. Y không còn là thống lĩnh. Trách nhiệm mới, thân phận mới, Lục Thiên thay đổi. Trút bỏ áo giáp, y khoác lên người trang phục hoàng gia, lưu lại chút hào hoa thời trai trẻ trên mái tóc kiểu cách, hiện diện cái chững chạc đàn ông tuổi ba mươi mốt ở bộ râu quai nón tỉa tót tô phủ khuôn cằm vuông vắn. Trông bộ dạng mới của y, Vô Phong cảm giác lạ lẫm. Hắn vẫn quen một Lục Thiên tóc đuôi ngựa đóng giáp trụ đầy mình hơn. 

Nhưng bỏ qua vẻ ngoài, đó vẫn là Lục Thiên mà tên tóc đỏ quen biết. Y cẩn thận lắng nghe từng lời của Vô Phong về Bùa Ngải, ông đầu bếp Quý Mẫn hay tay chuyên viên Mô Trật. Y không giấu nổi nỗi thất thần khi nghe tin hoàng đế bị đầu độc nhưng ngay lập tức ngăn cảm xúc lấn át lý trí – về điểm này, y làm tốt và tự nhiên hơn em gái gấp nhiều lần. Nghe xong, y bình tĩnh đáp:

-Tôi không thể quy tội Trần Độ. Cậu biết đấy, không đủ bằng chứng. Vả lại chúng ta chưa giải thích được tại sao mộ cha tôi có hắc khí Quỷ Vương. 

-Hôm đó anh phát hiện ngôi mộ trước tiên, đúng không? 

Lục Thiên gật gù:

-Phải, lúc tôi và Hắc Hùng đến nơi thì Huyết Thiên Thiết Giáp tỉnh giấc, vị thần đó đánh bay mọi thứ(**). Tôi bị văng đi và phát hiện ngôi mộ. Rồi thì Lục Châu và ông Lộc Tục kiểm tra, mọi chuyện sau đó thế nào, cậu biết đấy! Tôi sẽ cử người đến Xích Quỷ xác nhận lại, nhưng đừng mong đợi điều gì. Cho dù có bằng chứng thuyết phục, tôi cũng không thể loại bỏ Trần Độ. Tôi hay Lục Châu, dù ai lên ngôi cũng cần ông ta khống chế Hội Đồng Pháp Quan. 

-Liệu ổn không, thưa ngài? Có ổn khi dựa dẫm kẻ đã đầu độc Đệ Thập? 

Lục Thiên cúi đầu, thần sắc bình ổn nhưng ánh mắt bối rối vô cùng. Y chậm rãi nói:

-Quỷ Vương ngấm vào cha tôi rất sâu, hầu như không còn cơ hội. Nhưng tôi sẽ gửi điện báo tới Thánh Vực, hy vọng tâm trí ông còn minh mẫn. Biết đâu ông thoát lễ thanh tẩy? Nhưng nếu xảy ra trường hợp xấu nhất, hy vọng cậu sẽ giúp Lục Châu như cái cách cậu từng bảo vệ con bé. Tôi có thể tự đối phó Trần Độ nhưng Lục Châu khác. Bảo vệ Lục Châu từ nay tới ngày bầu cử và nếu con bé lên ngôi, hãy tiếp tục ở bên con bé, cậu làm được chứ? 

Nói rồi Lục Thiên vỗ vai khích lệ tên tóc đỏ. Giả dụ chuyện này xảy ra cách đây hai năm, Vô Phong tất sướng rơn hoặc nhảy cẫng sung sướng. Nhưng giờ hắn chỉ gật đầu mà lòng nảy sinh lắm thắc mắc, lo lắng nhiều hơn vui mừng. Hắn dè dặt nói sau ít phút lừng khừng: 

-Tại sao ngài tin tưởng tôi? Có thể tôi từng bảo vệ công chúa, nhưng ngài biết rõ tôi là cái gì. Bản thân tôi chẳng biết mình ở quá khứ ra sao. Tôi là sát thủ của Thổ Hành, dĩ nhiên đã làm không ít chuyện tồi tệ! Tại sao ngài còn trao sinh mạng công chúa cho tôi?

Lục Thiên nhướn mày ngạc nhiên trước sự cẩn trọng vốn không phải là bản tính của tên tóc đỏ. Y trả lời:

-Đâu tự dưng tôi mạo hiểm tìm những hồ sơ liên quan tới Đề Án Ngục Thánh và đưa cậu vào Thổ Hành? Bởi chúng ta từng nói chuyện, từng uống rượu chung, mặc dù không phải bạn bè nhưng tôi biết có thể tin tưởng cậu. 

-Thế hả? – Vô Phong cười – Vậy lúc đó tôi ra sao? Dễ thương hơn bây giờ không?

Lục Thiên lắc đầu đoạn tiếp lời:

-Gần nửa tháng nữa tôi có bài phát biểu quan trọng ở trụ sở đảng Nghiệp Đoàn Miền Bắc bên quận Trăng Khuyết. Cậu tới dự nhé? Rồi chúng ta nói chuyện tiếp! Mà khoan, hôm đó là lễ khai giảng mùa xuân, cậu phải đưa Liệt Trúc đến trường, đúng không? 

-Tôi sẽ dự lễ phát biểu. – Vô Phong gật đầu đồng ý – Tôi sẽ mang cả Liệt Trúc theo. 

Lục Thiên nhún vai:

-Đưa cả Liệt Trúc tới? Ai chà… e rằng người ta không cho trẻ con vào, nhưng không sao. Cứ đưa con bé tới! Cứ đưa con bé tới…

Dường như vì bài phát biểu quá quan trọng cộng thêm tâm trạng rối bời sau thông tin hoàng đế bị đầu độc nên giọng điệu Lục Thiên thiếu tự nhiên. Thậm chí y quên rằng lễ phát biểu đón tiếp mọi công dân Phi Thiên bất kể già trẻ nam nữ. Biết y gặp khó, Vô Phong bèn từ biệt, bản thân hắn cũng cần cân nhắc nhiều vấn đề.

Thực tế thì Vô Phong đang ngồi rỗi nằm không, công chúa hiện chỉ cần một hộ vệ Chiến Tử nên hắn thất nghiệp. Nhưng hắn còn đó cả đống cơ hội. Trường sĩ quan vẫn mở rộng cửa chào đón tên tóc đỏ quay lại công việc trợ giảng, hắn có thể chuyên tâm làm đại diện quỹ từ thiện Xung Am, thậm chí trở về đội Thổ Hành nếu muốn. Nhưng trải qua một năm đầy biến động, Vô Phong rũ ra như mất sức. Mỗi đêm, hắn chẳng thể nằm yên vì ký ức chiến tranh quấy phá giấc ngủ, thứ nhân cách đỏ rực nhớp máu luôn chực thoát ra ngoài. Hắn cần nơi giải tỏa, cần chốn khuây khoả. Những ngày ấy hắn lại trông về bầu trời Kim Ngân xa xôi nơi hạm đội thăng vân tàu căng buồm rong ruổi. Nhưng còn đó hàng tá trách nhiệm ở Phi Thiên thành, hắn đành tạm gác nỗi nhung nhớ không trung.

Đầu tháng 2, Mi Kha chuyển tiền công đánh thuê cho Vô Phong tổng cộng một nghìn thùng vàng(1000), chưa kể khoản thưởng thêm hai trăm thùng vàng(200) do chính cô ả bỏ ra. “Tiền của tôi, tiêu thế nào kệ tôi, anh cấm được à?” – Mi Kha chớt nhả với tên tóc đỏ như thế. Ngày kế tiếp, người Tuyệt Tưởng chuyển khoản số tiền gấp hai mươi lần chỗ kể trên để trả ơn tên tóc đỏ. “Tên cậu sẽ có trong lịch sử Tuyệt Tưởng Thành, mười năm sau, khi tới đây, cậu sẽ được nghe Trường Khúc về thủ lĩnh tóc đỏ!” – Đấu Thánh nói với hắn như vậy. Qua hai ngày, Vô Phong chính thức thành kẻ giàu có, dư sức lấy danh hiệu quý tộc. Nhưng bản tính hắn không quen đống của nả ập xuống đầu. Hắn cắt nửa số tiền làm tài khoản tiết kiệm cho Liệt Trúc, dành một phần tặng anh chàng tài xế Triết Xa và ông già Đạp Lỗ, một phần thì nhờ Mi Kha gửi cho bác sĩ Liêu Hóa(Chu Thịnh) cùng giáo sư Y Man. Nhìn số tài khoản vơi bớt, hắn cũng nhẹ đầu hơn. Giấc mơ ăn ngon mặc đẹp chơi bời thỏa thích thuở xưa bay biến khỏi đầu hắn tự lúc nào, chẳng lưu lại dấu vết dù chỉ một chút. 

Vô Phong từ chối làm người giàu nhưng không thể ngăn tên tuổi mình ngày một lớn. Người ta dần khám phá chính hắn đóng góp cho cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành nhiều hơn cả công chúa Lục Châu và chỉ thua mỗi đại thánh sứ Tây Minh. Hết quân đội gửi thư mời làm việc rồi đám doanh nhân quý tộc gọi tiệc tùng, Vô Phong chối không xuể. Hắn chọn cách ẩn nấp trong tiệm bánh “Con cáo nhỏ” của Tiểu Hồ và làm việc như một nhân viên chạy bàn. Tiểu Hồ không vui, nàng vẫn muốn Vô Phong trở thành nhân vật tầm cỡ - điều mà hắn dư sức làm ở thời điểm này. 

-Anh tính phá hoại việc kinh doanh của tôi à? – Tiểu Hồ cằn nhằn với tên tóc đỏ – Biết anh ở đây, người ta xới tung chỗ này mất!

Nhắc về Tiểu Hồ, cô gái đã phần nào hồi phục sau mất mát nhưng di chứng vẫn hiện diện trên đôi mắt mỏi mệt cùng ở lốt sẹo đạn bắn ở bắp đùi. Tên tóc đỏ giúp Tiểu Hồ thay băng vết thương đoạn nói:

-Tôi không ưa mấy bữa tiệc. Ờ thì đồ ăn ngon đấy! Nhưng mấy người dự tiệc khoái kể chuyện chém giết bắn nhau, họ làm như vung kiếm chặt đôi người khác là chuyện thú vị lắm! Nếu tôi kể trận tử thủ quận Tây Chinh Kiếm, họ sẽ tung hô tôi như người hùng rồi tô vẽ mấy tình tiết phi lý dị hợm. Cái mùi chiến trường… cô đã ở đó, cô biết mà, đúng không? Mà chân cẳng cô đang như vầy nên tôi sẽ giúp việc. 

Tiểu Hồ gật đầu thông cảm cho hắn. Nàng tiếp lời:

-Anh nên tạm nghỉ mấy chuyện điều tra, chờ thêm thời gian nữa hẵng tính. Tôi sợ đám Cao Khánh gây chuyện với anh. Hồi tham dự Kỳ Thi Tổng Lãnh, tôi đã nghe Cao Khánh với “ông chủ” của gã kiếm cớ xử lý anh rồi(***)! Hãy cẩn thận!

-“Ông chủ”? Trần Độ hả?

-Còn ai khác ngoài lão? – Tiểu Hồ nhún vai.

-Thế thì tôi cắm trại ở tiệm bánh lâu đấy! – Vô Phong nhe răng cười – Cô trả lương tôi chứ? Bao ăn bao ở luôn nhé?! 

Cô gái khẽ lườm đoạn vỗ đầu Vô Phong. Nàng độ này yếu sức vì thương tích nhưng “đánh” Vô Phong thì luôn dư sức. 

Cuộc sống ẩn thân của Vô Phong vẫn bình thường cho đến một ngày trung tuần tháng 2, Mi Kha bất ngờ xuất hiện ở tiệm bánh. Cô ả nhanh chóng phát hiện tên tóc đỏ đang lúi húi dọn dẹp bàn ăn rồi gọi hắn. Rõ ràng Mi Kha không tới đây vì “bánh”. Cuộc tái ngộ khá vui vẻ nếu không tính màn lườm nguýt nhau ác liệt giữa Mi Kha và Tiểu Hồ. Ả phương bắc nhếch mép nhìn xuống trong khi cô gái Phi Thiên ngước lên cùng nụ cười thách thức. Tên tóc đỏ vội kéo Mi Kha ra chỗ khác trước khi sấm chớp núi lửa nổ đùng đùng. Cô ả cười:

-Tôi có việc ở đây, tiện thể ghé thăm anh. Hình như cô ta thành kiến với tôi? – Mi Kha ngoái đầu về tiệm bánh ám chỉ Tiểu Hồ – Sao? Anh trở thành đồ sở hữu của con nhỏ đó rồi à? 

-Bạn bè thôi, tôi sống nhờ chỗ này một thời gian. – Vô Phong nhún vai trả lời – Cô đến Phi Thiên thành làm gì? Tìm kiếm thành viên? Có phi vụ mới à? 

Mi Kha lắc đầu:

-Không, tôi chưa muốn quay lại công việc, một năm ở Tuyệt Tưởng Thành đủ mệt rồi! Tôi có hẹn, công việc riêng tư. 

-Tôi được quyền biết không? 

Cô ả ngước mắt ngẫm ngợi rồi trả lời hắn bằng một câu hỏi chẳng hề liên quan:

-Anh biết thủ lĩnh pháp quan Trần Độ chứ? Quan hệ giữa anh và ông già đó là thế nào? 

-Chẳng quan hệ gì cả, mà nếu có cũng không hay ho. – Vô Phong đáp – Nhưng tại sao cô hỏi vậy? 

Mi Kha phì phèo điếu thuốc đoạn nói:

-Nghe nói Trần Độ là bạn đại thánh sứ Tây Minh? Nhưng tôi thấy ông ta khác ngài đại thánh sứ. Một lão già nguy hiểm. Hy vọng anh chưa làm lão ngứa mắt. Tôi không biết lão đang tính làm cái gì nhưng thời gian tới, anh nên cẩn thận thì hơn. 

Tên tóc đỏ nheo mắt không hiểu. Hắn chẳng hiểu Mi Kha lấy thông tin từ đâu hay tại sao cô ả quan tâm Trần Độ. Vô Phong chưa kịp hỏi, cô ả đã hôn lên má hắn rồi bỏ đi nhanh như lúc mới xuất hiện. Lần đầu tiên kể từ lúc về Phi Thiên thành, hắn cảm giác hoang mang. Sau đấy vì lời cảnh báo từ Mi Kha mà hắn dợm tính chuyện tạm lánh một thời gian. Nhưng khi tham khảo ý kiến Hỏa Nghi, hắn quyết định ở lại. Không còn ngài đại thánh sứ che chở, mọi nơi trên thế giới này đều nguy hiểm và Trần Độ thừa sức vươn tay đến bất cứ đâu để xử lý hắn. Ít nhất là tại thủ đô, hắn có Lục Thiên nâng đỡ nên lão pháp quan khó lòng gây hấn. Vả lại còn đó nhiều người thân, nhiều trách nhiệm, Vô Phong không thể rũ bỏ.



Ngày 15 tháng 2, Phi Thiên quốc bước vào lễ khai giảng mùa xuân, Vô Phong đưa Liệt Trúc tới trường. Hai năm trôi qua, Liệt Trúc đã hết rụt rè e sợ, hết luôn cái hớn hở trẻ con khi có anh trai hay ngài đại thánh sứ đi cùng. Con bé cũng không còn nắm tay Vô Phong tìm kiếm sự che chở như trước. Tuổi mười bốn của Liệt Trúc lớn nhanh như thổi, vẻ ngoài bắt đầu có xu hướng hoa hòe hoa sói - tên tóc đỏ hơi hối tiếc khi để con bé sống cùng Tiểu Hồ. Trên tàu điện, Liệt Trúc im lặng và tìm sự riêng tư trong tai nghe nhạc. Vô Phong lo lắng, không hiểu con bé đang đơn thuần chuyển đổi tính cách hay gặp vấn đề tâm lý. 

Ngày khai giảng ở Phi Thiên quốc, đám con trẻ không học ngay mà tham gia sự kiện thể thao hoặc lễ hội phép thuật. Những dịp thế này giúp lũ trẻ quyết định tương lai sau tốt nghiệp, hoặc theo nghề chiến binh hoặc tiếp tục học văn hóa. Liệt Trúc không vội tham gia mấy hoạt động đó mà dẫn anh trai tham quan, kể chuyện học hành lẫn bạn bè ở trường – điều mà chẳng đứa nhóc tuổi nổi loạn nào chịu mở lời hay đề cập. Con bé ít cười nhưng vẫn dành cái nhoẻn miệng tươi tắn nhất cho Vô Phong. Nỗi lo của tên tóc đỏ phần nào dịu bớt. Vô Phong hiểu rằng Liệt Trúc đang lớn, đang ngấp nghé “thiếu nữ” và hắn không thể đối xử kiểu nâng niu con trẻ như cũ. 

Đương đi, Liệt Trúc bỗng cất lời:

-Cha đẻ em, ông Liệt Giả đó, có phải chính ông ta hại thầy Tây Minh? 

Cô bé hỏi đường đột, Vô Phong lúng túng:

-Hả? Không… không phải thế! Anh không chắc chắn, nhưng có lẽ kẻ hại thầy Tây Minh là Hệ Tôn, một trong Bảy Người Mạnh Nhất.

-Nhưng cha đẻ em gián tiếp làm thầy (Tây Minh) chết, đúng không? Chính ông ta phát động chiến tranh. Ông ta cùng đám người phương nam gây tội ác ở Tuyệt Tưởng Thành.

Vô Phong lắc đầu:

-Liệt Trúc à, chuyện phức tạp lắm, không như em nghĩ đâu! Chiến tranh là thế, nhiều chiến binh Tuyệt Tưởng Thành rất giỏi nhưng họ vẫn hy sinh, vẫn ngã xuống. Bom đạn không chừa ai cả. Đừng căm ghét hay thù hận cha đẻ mình, Liệt Trúc à!

Cô bé ngừng bước rồi im lặng, Vô Phong cảm giác ái ngại. Đến giờ Liệt Trúc chỉ biết mình khác biệt chứ chưa nhận thức được bản thân đặc biệt đến mức nào. Thậm chí đại thánh sứ Tây Minh vẫn giấu nhẹm chuyện mẹ đẻ cô bé. Bần thần hồi lâu, Liệt Trúc lắc đầu:

-Tại sao cha đẻ em phải gây chiến? Ông ta bất mãn điều gì? Tại sao người vĩ đại như thầy không thể cảm hóa ông ta? Em không hiểu?! Có thật em là con ông ta không? Con của kẻ khủng bố giết người không ghê tay ấy?

Giọng Liệt Trúc yếu dần. Cô bé cứng cỏi nhưng chưa đủ mạnh mẽ để ngăn đôi vai khỏi run lên từng chặp. Vô Phong giang tay, Liệt Trúc chẳng ngần ngại ôm lấy và trốn nấp trong lòng anh trai. Tên tóc đỏ thở dài trước những viễn cảnh chẳng mấy hay ho. Rủi thay, hắn phải gánh vác tất cả.

Không muốn Liệt Trúc buồn, Vô Phong dẫn cô bé đến gian hàng phép thuật – thứ mà Liệt Trúc yêu thích nhất. Nhà trường đã thuê vài pháp sư giúp khuấy động lễ hội. Lũ học sinh đang bị thu hút bởi một cặp pháp sư nhún nhảy trong bộ quần áo sặc sỡ lắm màu cùng chiếc nón rộng vành. Hai người này một béo một gầy, kẻ béo cao lớn, kẻ gầy thấp bé. Họ đối nghịch nhau một cách hài hước, vừa biểu diễn phép pháo hoa Hỏa niệm vừa diễn trò hài hước, đám học sinh cứ hò reo không ngớt. Đứng ngoài trông vào, tên tóc đỏ chợt nhớ đội Thổ Hành có bộ đôi Đổng Thạch – Yêu Miên chuyên làm nhiệm vụ dẫn đường hoặc do thám(****). Hắn vẫn nhớ hai người họ tương phản nhau mọi thứ từ hình thể lẫn tính cách, cãi nhau suốt ngày thay vì tung hứng như anh em Lôi Quân – Lôi Vũ. Thứ duy nhất gắn kết họ là công việc cùng phần thưởng tự do và hễ làm việc chung, họ ăn ý hợp cạ lạ lùng. 

Tiếng vỗ tay rần rần vang lên cắt ngang tâm trí Vô Phong. Hai pháp sư vừa kết thúc màn trình diễn. Tên tóc đỏ vỗ tay phụ họa, thâm tâm không hiểu tại sao giờ này lại nghĩ đến Thổ Hành. Phía trên khán đài, anh chàng pháp sư thấp bé lên tiếng, giọng nhí nhảnh lảnh lót:

-Chúng tôi còn mang tới nhiều món đồ phép thuật, mấy quý cô quý cậu chọn mua thoải mái! Xin các phụ huynh yên tâm, hàng an toàn và được kiểm định! Nhanh lên nào các bạn trẻ! Nhanh lên!

Tay pháp sư béo mở cánh cửa bên khán đài, đám học sinh lũ lượt kéo vào, trong số ấy có Liệt Trúc. Chẳng đứa trẻ nào muốn bỏ lỡ dịp này. Ngay lúc ấy, Vô Phong cảm giác chộn rộn không yên. Hắn vội chạy tới nắm tay Liệt Trúc, cô bé ngạc nhiên:

-Anh?! Sao vậy? Có chuyện gì à?

Tên tóc đỏ định ngăn Liệt Trúc bước vào gian hàng nhưng cũng không muốn phá hỏng ngày khai giảng của em gái. Hắn ngỏ ý muốn đi cùng, Liệt Trúc gật đầu đồng ý. Suốt buổi, ánh mắt Vô Phong hết nhìn tây ngó đông lại quay trông chừng Liệt Trúc. Tuy không phát hiện chuyện bất thường nhưng hắn cảm giác có cặp mắt theo dõi mình, máu trong người lục bục như phản ứng tự vệ. Vô Phong ngoảnh sang cặp pháp sư béo gầy nhưng hai tên này bận bán hàng, hầu như chẳng có vẻ đe dọa như hắn tưởng tượng. 

Đang ngó nghiêng, hắn bỗng nghe tiếng điện thoại rung bần bật trong túi quần. Vô Phong ngạc nhiên khi số gọi đến lạ hoắc và chẳng hề có trong danh bạ. Vừa mở máy, hắn nghe một giọng nói gấp gáp:

-Tóc đỏ?! Lục Thiên đây! Nghe này, chuyện khẩn cấp, tôi phải gọi số khác để tránh bị lộ. Tôi không nhắc lại lần hai. Hội Đồng Pháp Quan đã cử Thổ Hành tới trường học của Liệt Trúc. Rời khỏi đó ngay. Nhắc lại, rời khỏi đó, ngay lập tức! Người của tôi sẽ đón cậu! 

Lục Thiên cúp máy. Vô Phong cố giữ bình tĩnh đoạn dẫn Liệt Trúc rời gian hàng. Ngay lúc đó, hắn phát hiện hai tên pháp sư nọ biến mất. Mỗi bước đi, hắn lại nhận ra vài bóng người đáng ngờ theo sau. Trong một khoảnh khắc, hắn bắt gặp ánh mắt lạnh lẽo chết chóc của gã lao công phục vụ trường. Dù kẻ đó đội mũ sùm sụp nhưng Vô Phong đoan chắc gã là Độc Trùng. Hai năm trôi qua kể từ lần gặp gỡ đầu tiên nhưng đôi mắt của tay đội phó khiến Vô Phong không thể quên, không thể nhầm lẫn(*****). Hắn cảm giác con gấu đen trũi Hắc Hùng đang ở đâu đó quanh đây. Cả đội Thổ Hành đang có mặt tại ngôi trường. 

Dọc đường, tên tóc đỏ vận chút Phong kỹ làm xáo xào mấy tấm biểu ngữ lẫn pháo hoa giấy rồi kéo Liệt Trúc chạy nhanh hơn. Họ lên chiếc phi thuyền đợi sẵn ngoài cổng trường rồi thấy bọn Thổ Hành hơn chục người ngẩng đầu dõi theo, giữa đám đó là bộ đôi Đổng Thạch – Yêu Miên trong trang phục sặc sỡ. Tên tóc đỏ dự cảm không sai. Nhưng chuyện chưa kết thúc vì Thổ Hành tản ra chừng như muốn truy đuổi tới cùng. Vô Phong liền nhắn tin cho Hỏa Nghi thông báo tình hình. Nếu phải chết, hắn muốn mình lên trang nhất báo Phi Thiên thành và đảm bảo đó là cái chết ồn ào nhất. Nếu phải chết, hắn sẽ lôi Trần Độ đi cùng.



Hai mươi phút trước… 



Cùng thời điểm Vô Phong dẫn Liệt Trúc tham quan gian hàng phép thuật thì tại Đảo Sắt Thép, Hỏa Nghi một mình đến khu tiêu hủy. Gã bước nhanh gần như chạy, ngực thở phập phồng tưởng chừng sắp đứt hơi. Nhưng kể cả đứt khí quản hay gãy chân thật thì Hỏa Nghi cũng lết xác tới khu tiêu hủy bằng mọi giá. Gã cần xác nhận Trần Độ là loại người nào. 

Như tên gọi, khu tiêu hủy là nơi xử lý sản phẩm lỗi, hàng phế thải, thanh lọc các nguyên liệu ô nhiễm, vân vân. Nó nằm sâu dưới lòng đất, tránh xa khu dân sinh của dòng họ. Thuở nhỏ Hỏa Nghi từng đến đây một lần và nhận ra Đảo Sắt Thép dễ thương hơn nó gấp trăm lần. Trong chiếc thang máy chật hẹp bí khí thở, Hỏa Nghi xuống lòng đất rồi rảo chân trên đoạn đường phủ kín thép. Trên trần, dưới đất, tường phải, tường trái – bốn bề dày đặc thép vù vù tiếng quạt thông gió cùng ánh sáng xanh lè thiếu thân thiện. Hỏa Nghi không nhìn chúng dù chỉ một lần. Qua vài đoạn cầu thang hẹp, trưng giấy phép quyền truy cập thông tin cấp bốn trước đám bảo vệ, gã tiến vào phòng phân tách. Phân tích mức độ hỏng hóc, tháo gỡ sản phẩm, bỏ phần vô giá trị và tái chế là nhiệm vụ của căn phòng này. Gã tìm người trưởng bộ phận, sau hỏi:

-Tôi cần xem phần lõi con nhện sắt mã hiệu IS-015 thuộc dự án cải tiến Thiết Thù. Nó bị hỏng trong quá trình thí nghiệm ở Quân Doanh Bờ Tây. Báo cáo ghi rằng con nhện hư hại phần chuyển phát thông tin tức là mấy cái chân dài loằng ngoằng kinh tởm đó, nhưng phần lõi tức bộ vi mạch vẫn hoạt động tốt. Nó, bộ vi mạch đâu? 

Tay trưởng bộ phận phân tách ho khan mấy tiếng nhưng không nói nổi câu nào, chừng như đang tìm lý do giải thích thỏa đáng. Đó cũng là lúc Hỏa Nghi hiểu Trần Độ là loại người nào.

*

* *

Vài ngày trước, Hỏa Nghi tìm trò bài bạc “Thuyền chìm thuyền nổi” giải trí đoạn rủ Thanh Nhi chơi cùng. Gã thua cả hai lượt đầu tiên. Nghĩ cô gái may mắn và tự tin vào thành tích thắng Năm mắt lươn ở Cửu Long, Hỏa Nghi đòi chơi tiếp ván thứ ba nhưng thua vẫn hoàn thua(*1). Thanh Nhi nói:

-Cậu thua vì để cảm xúc chen lấn quá nhiều, giống Năm mắt lươn ngày trước. Nhớ hồi đó chứ? Có thể cậu hơn ông ta kỹ thuật chơi, nhưng cảm xúc là yếu tố chủ chốt. Cậu đẩy tính kiêu ngạo, háo thắng lẫn sự khinh thường của ông ta lên cao, cuối cùng lội ngược dòng. Cậu tính toán hay sắp xếp giỏi nhưng lại để cảm xúc chen lấn quá nhiều. Nghỉ ngơi đi, nhóc à! Đừng tự ép mình!

Nói rồi Thanh Nhi xoa đầu trêu chọc gã. Hỏa Nghi không giận mà chú tâm suy xét. Gã nhận ra vụ Bùa Ngải khiến mình mệt mỏi mấy ngày nay. Đành rằng việc không thể đưa ông chú Hỏa Chính hay Trần Độ ra làm bia tập bắn khiến gã phiền lòng, nhưng nguyên nhân sâu xa là những lợn cợn xung quanh câu chuyện Bùa Ngải. Gã cảm giác mọi thứ không tự nhiên. 

Nghĩ ngợi hồi lâu, gã nhổm dậy như thể tâm trí đầy mây mù có tia sét xẹt qua. Thanh Nhi nói đúng, gã để cảm xúc xâm lấn quá nhiều khi chơi “thuyền chìm thuyền nổi”. Vụ điều tra Bùa Ngải cũng tương tự. Vì thành kiến có sẵn cộng thêm tiếng xấu của Trần Độ, gã quy kết lão pháp quan đạo diễn tất cả. Gã để cảm xúc xâm lấn quá mức. 

Mấy ngày tiếp theo, Hỏa Nghi xem xét từng tình tiết trong khi thâm tâm cố gắng nhìn nhận Trần Độ theo hướng khách quan nhất. Đầu tiên, gã lật lại quan hệ Mô Trật– Cao Khánh, một thứ quan hệ cấp trên – cấp dưới thuần túy. Mô Trật không phải chân sai vặt của Cao Khánh, cũng không biết gì về phép thuật, vậy nên việc y đến Thiên Kỷ thành hỏi Bùa Ngải thực sự có vấn đề. Thanh Nhi từng thắc mắc nhưng gã lấp liếm bằng cách giải thích kiểu tâm lý, mà kỳ thực là muốn hướng mũi công kích vào Trần Độ. 

Bỏ hết cảm xúc, Hỏa Nghi phát hiện vài điểm bất cập. Thứ nhất, việc buôn bán Bùa Ngải rất nguy hiểm, Mô Trật đáng lý nên tự tay nhận hàng ngay tại Thiên Kỷ thành thay vì dùng dịch vụ chuyển phát. Thứ hai, thời gian đó y làm trưởng dự án nghiên cứu nên có thể tự mình ở lại, đợi đủ bốn mươi chín ngày để lấy hàng. Thứ ba, Mô Trật phải biết tất cả những điều trên và hiểu rằng sử dụng dịch vụ chuyển phát là quá ngu ngốc. Hỏa Nghi dợm nghĩ Mô Trật chỉ là kẻ nhận hàng, còn người mua là kẻ khác – một người bận bịu đến mức không thể chờ nổi bốn mươi chín ngày, hoặc không thể ở lại lâu hơn và bất đắc dĩ phải mượn tay Mô Trật làm trạm chuyển tiếp. Ngay cả Tiếu cũng không bận việc như vậy. 

Chuyện ông đầu bếp Quý Mẫn càng lắm khúc mắc. Tuy thân thiết gia đình hoàng đế nhưng ông ta không thể biết Đệ Thập đến Thánh Vực chuẩn bị lễ thanh tẩy. Ai đấy đã thông báo cho ông ta rời đi. Mặc khác, quê nhà Quý Mẫn ở Vĩ Tiên thành chứ không phải Đả Thải thành. Ông ta trước nay chưa từng dính chuyện bài bạc hay băng đảng nên không thể ghé qua Đả Thải thành với lý do “du lịch” hay “đi chơi”, mà từ thủ đô về Vĩ Tiên thành chẳng mất bao nhiêu thời gian. Lịch trình hồi hương của ông đầu bếp rất dị thường. Một điểm khác: Quý Mẫn rời đi đúng lúc bọn Vô Phong tới như thể có ai đó đã thông báo cho ông ta. Tại hiện trường án mạng, Quý Mẫn chết vì đạn bắn còn Thú là kẻ cuối cùng rời đi. Nhưng nghe Vô Phong kể chuyện, Hỏa Nghi chợt nhận ra đó không phải phong cách giết người của Thú. Con quái vật ấy trước nay luôn dùng tay không bẻ xương róc thịt người. Từ sa mạc Hồi Đằng, Đại Lộ Đỏ, vùng Mù Thủy đến phong cách chiến đấu, gã chưa bao giờ xài hàng nóng. 

Hỏa Nghi trở lại nhà hàng nơi Quý Mẫn gặp gỡ Mô Trật. Gã hỏi rất kỹ song nhân viên phục vụ ngày đó kể lại bọn họ chỉ đơn thuần trao nhau bật lửa hút thuốc. Gã quành về Đả Thải thành tìm căn hộ nơi Quý Mẫn ở, phát hiện vào ngày xảy ra án mạng có một cuộc gọi đến cho ông đầu bếp ngay trước khi bọn Vô Phong tới. Ai đấy biết bọn Vô Phong đang truy tìm Quý Mẫn. 

Và rồi Hỏa Nghi nhớ ra cuộc truy tìm ông đầu bếp bắt nguồn từ việc Vô Phong nhờ vả mấy nhân vật máu mặt tại thủ đô. Gã tin Vô Phong thay đổi nhưng không thể nhạy bén nhanh đến thế. Gã chợt nhớ Lục Thiên mới là người gợi ý cho tên tóc đỏ. Gã bỗng nhớ lần tới đỉnh Hoành Sơn không chỉ có nhóm công chúa. Những ngày tháng 8 đó, Lục Thiên cũng có mặt tại Xích Quỷ, cụ thể là Thiên Kỷ thành. Và cũng chính anh ta phát hiện ngôi mộ Bạch Dương Đệ Thập chứa hắc khí. Khi đó anh ta vừa lên chức thống lĩnh Quân Doanh Bờ Tây, công việc nhiều nên không thể ở lại Thiên Kỷ thành quá lâu.

Hỏa Nghi lắc đầu nguầy nguậy cho rằng mình khùng. Nhưng suy nghĩ không bao giờ dừng lại. Gã nhớ lại ngày đầu tiên Vô Phong rớt xuống chiếc xe tải chạy về Quân Doanh Bờ Tây, chính Lục Thiên phát hiện tên tóc đỏ và nhét vào đó tập hồ sơ giả. Chính Lục Thiên đưa tên tóc đỏ vào Thổ Hành. Lục Thiên nắm tất cả lịch trình của tên tóc đỏ, từ ngày hắn làm hộ vệ thánh sứ đến chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Bởi lẽ Vô Phong tin tưởng anh ta nhất.

Nếu đưa Lục Thiên vào mọi chi tiết, bức tranh sẽ trở nên hoàn chỉnh đồng thời giải đáp mọi lấn cấn trong Hỏa Nghi. Nó thỏa mãn và hợp lý đến đáng sợ.

Hỏa Nghi lắc đầu tập hai, tự nhạo báng mình tưởng tượng quá xa. Nhưng còn một chi tiết cuối cùng: con nhện sắt. Hỏa Nghi xem lại bản danh sách sản phẩm Thiết Thù. Vì quá căm ghét người chú mà gã bỏ qua con Thiết Thù hỏng hóc ở Quân Doanh Bờ Tây. Dù không muốn nhưng gã buộc phải lê mông đến khu tiêu hủy. Gã cần xác nhận Trần Độ liên quan hay không.

Gã cần biết Lục Thiên đã làm gì với con nhện sắt. Bởi lẽ khi ấy anh ta là thống lĩnh Quân Doanh Bờ Tây, anh ta biết con nhện.

*

* *

Tay trưởng bộ phận phân tách đổ mồ hôi hột trước cái nhìn soi mói của Hỏa Nghi. Người này lắp bắp:

-Có một vài lỗi, thưa cậu Hỏa Nghi. Thực tình là…

Hỏa Nghi lắc đầu xua tay:

-Vi mạch! Tôi cần bộ vi mạch! Đem thứ của nợ đó ra đây! Tôi cần kiểm tra!

Gã to tiếng đến mức tất cả nhân viên phòng đều quay ra nhìn, tay trưởng bộ phận run như cầy sấy. Giữa khung cảnh căng thẳng, Hỏa Nghi bỗng thấy anh trai mình xuất hiện ở cửa ra vào. Đám nhân viên rời đi, để lại hai anh em với căn phòng im phăng phắc. Ban đầu Hỏa Nghi hơi lạ song nhanh chóng nhớ rằng anh mình đang tạm giữ việc điều hành dòng họ, bao gồm cả khu tiêu hủy. Gã ôm mặt như không muốn tin sự thật, sau nói:

-Đưa tôi bộ vi mạch, ông anh. Tôi muốn xem xét!

Hỏa Dương nghiêng đầu nhún vai:

-Khỏi cần đâu, vì bộ vi mạch đó là giả. Nó ở đó chỉ để tạm che mắt cho cái thật, người khác có thể bị lừa chứ không thể qua mắt chú. Anh chưa kịp mua chuộc đám làm dự án cải tiến Thiết Thù thì chú tìm ra nhanh quá, anh trở tay không kịp. 

Hỏa Nghi gằn giọng:

-Ông già Hỏa Chính tự nhiên xuất hiện ở phòng thí nghiệm ngăn cản tôi. Là anh… chính anh ngầm báo cho lão? Anh làm thế để tôi dồn hết sự chú ý vào lão mà quên đi con nhện sắt ở Quân Doanh Bờ Tây, phải không? 

Hỏa Dương cười nhạt. Bấy giờ Hỏa Nghi mới để ý anh trai mình sở hữu ánh mắt sắc lẹm như dao mổ chẳng kém ông chú Hỏa Chính. Hỏa Nghi nổi điên đoạn chạy tới xách cổ anh trai rồi gầm gừ:

-Mẹ kiếp! Anh bắt tay Lục Thiên? Tất cả là thế nào? 

Hỏa Dương không đáp, chỉ giữ nụ cười nhạt. Hỏa Nghi điên tiết đấm lệch mặt y. Hỏa Dương ngã sóng xoài trên đất, y phục bóng bẩy lấm bẩn, mái tóc ngay ngắn xổ bung. Nhưng y chẳng phản kháng, chỉ cười:

-Chuyện đã thế này thì anh cũng chẳng cần giấu chú thêm nữa. Thời đại mới đến từ lâu rồi, Hỏa Nghi à! Nó đến từ lúc Lục Thiên mang hạt mầm Nại Mãi về đây và đầu độc hoàng đế. Phải, chính hắn mới là Quỷ Vương. 

Hỏa Nghi ngây như phỗng, chôn chân đứng như trời trồng. Hỏa Dương đứng dậy phủi bụi đoạn cười:

-Nếu chú hỏi tại sao thì anh sẽ trả lời rằng vì anh và Lục Thiên đều là “anh trai”. Anh trai thì phải bảo vệ em mình.

(*) xem lại Q3 Chương 96
(**) xem lại đoạn cuối Q2 Chương 60
(***) xem lại đoạn cuối Q3 Chương 70
(****) bộ đôi Đổng Thạch – Yêu Miên từng được đề cập trong đoạn cuối Q3 Chương 52
(*****) xem lại Q1 Chương 5
(*1) trò “thuyền chìm thuyền nổi”, xem lại Q2 Chương 17, 18
 
Quyển 3 - Chương 140: Nhà đầu tư


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

[Diendantruyen.Com] Ngục Thánh


Hỏa Nghi trước nay chưa từng phàn nàn anh trai ngoài chuyện lắm lời và làm luật sư, mà đằng nào thì cả thế giới cũng chửi luật sư và những thằng lắm lời. Nhưng gã không hề biết một người anh trai bắt tay với Lục Thiên rồi cung cấp con nhện sắt cho cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành. Hỏa Nghi lắc đầu:

-Chuyện là thế nào? Nói với tôi, anh trai?! Nói với tôi anh đang đùa xem? Anh thích trêu tôi lắm đúng không, như ngày bé ấy? 

Hỏa Dương bật cười đoạn đẩy chiếc ghế về phía trước ý bảo em trai ngồi. Hỏa Nghi vẫn đứng vì chẳng có tâm trạng nào để ngồi, đôi chân gã cứng như đá mà nửa người trên run lên. Hỏa Dương bật cười, chỉnh sửa ngay ngắn mái tóc đoạn cất lời:

-Hãy bắt đầu câu chuyện từ con nhện sắt. Hồi năm ngoái, khoảng tháng 6 tức là trước giai đoạn chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, Lục Thiên gặp anh và hỏi về con nhện sắt. Hắn hỏi rằng con nhện có thể mô phỏng sự biến đổi cơ thể hay nôm na là “bắt chước” được không? Chú biết đấy, con nhện được cải tiến nhằm phục vụ thương binh mất khả năng vận động. Con nhện như một ổ cứng thu thập tín hiệu sóng não, qua đó truyền đạt dữ liệu vào bộ não đám thương binh rồi giúp hệ thống thần kinh của họ liên lạc với cơ thể dưới hình thức bị động; khi sự truyền đạt bị động diễn ra đủ lâu, hệ thống thần kinh sẽ đáp ứng được những bài tập phản xạ có điều kiện. Nghe rắc rối nhưng chú thông minh hơn anh, chú hiểu mà, phải chứ?

Hỏa Nghi im lặng. Hỏa Dương tiếp tục:

-Anh trả lời dự án mới ở giai đoạn thử nghiệm, đám thương binh được cấy Thiết Thù chẳng khác nào con rối nhưng Lục Thiên nói chỉ cần như thế. Hắn không cần cứu chữa thương binh. Hắn cần một cỗ máy biết nghe lời. Anh hỏi han rất nhiều, cuối cùng hắn mới nói kế hoạch của mình. Chuyện sau đó, chú đoán được chứ?

-Lục Thiên cố tình làm hỏng con nhện, sản phẩm được chuyển về khu tiêu hủy nhưng anh đánh tráo. Cuối cùng con nhện được chuyển tới Tuyệt Tưởng Thành khiến vua Đấu Nhân phải chết.

Hỏa Dương gật gù: 

-Phải. Lục Thiên đề nghị quá gấp nên anh không thể mua chuộc đám làm dự án cải tiến. Vậy nên anh đành đánh tráo trước rồi thương lượng với đám dự án sau. Công việc sắp xong, kế hoạch sắp hoàn hảo, anh sắp thuyết phục được thằng cha trưởng dự án nhưng chú nhanh chân hơn. Khì! 

Tay luật sư bật cười còn Hỏa Nghi nghiến răng, tay nắm chặt:

-Tại sao anh làm vậy? Người Tuyệt Tưởng đâu có thù với anh? Hay anh đòi chia chác phần quang tố? 

-Anh thích người Tuyệt Tưởng, thật đấy! – Hỏa Dương nhếch mép – Anh chẳng thù ghét cũng chẳng cần quang tố. Nhưng như đã nói, anh làm tất cả để bảo vệ chú. Anh trai phải bảo vệ em mình.

-Vứt cái câu nhảm nhí đó vào sọt rác đi! Anh giết tôi thì có! – Hỏa Nghi gầm lên – Anh bảo vệ tôi? Bảo vệ cái gì?

Hỏa Dương mỉm cười. Y lật vài tập giấy gần đó, nhìn bâng quơ rồi trả lời:

-Chú từ từ, để anh kể tiếp! Ban đầu anh từ chối, nhưng Lục Thiên nói hai bên giúp nhau sẽ có lợi. Anh hỏi tại sao, hắn trả lời chuyện hạt mầm Nại Mãi cùng quá trình đầu độc Đệ Thập. Hồi tháng 8 năm 7516, hắn đến Thiên Kỷ thành giúp đỡ nhóm công chúa nhưng tiện đường hỏi mua Bùa Ngải. Hạt mầm không thể hái tùy tiện, chú biết đấy, mà Lục Thiên rất ít thời giờ rảnh vì chức vụ thống lĩnh Quân Doanh Bờ Tây. Vậy là gã chuyên viên Mô Trật trở thành tay vận chuyển bất đắc dĩ. Dĩ nhiên, Mô Trật cũng trở thành con thí mạng bất đắc dĩ. Có hạt mầm, Lục Thiên lợi dụng ông đầu bếp Quý Mẫn đầu độc hoàng đế. Hoàng đế thích nhất trà thiết mộc do Quý Mẫn pha, vì vậy ông ấy ngấm dần hắc khí Quỷ Vương. Hoàng đế không tránh khỏi cái chết, hắc khí xâm nhập quá sâu và ngay cả đại thánh sứ Tây Minh cũng bó tay. 

Đôi mắt Hỏa Nghi cau lại lộ rõ ghê sợ. Hỏa Dương nói:

-Việc Mô Trật gặp gỡ Quý Mẫn ở nhà hàng là sự sắp xếp. Lục Thiên hẹn ông đầu bếp đến đúng giờ mà Mô Trật bước vào, đặt chỗ ngồi ngay cạnh Mô Trật, thậm chí bí mật đánh cắp chiếc bật lửa của Quý Mẫn từ lúc nào. Chú mới hút thuốc phải không? Chắc cũng biết thói quen xin lửa hả? Khì! Điếu thuốc kết nối người ta dữ lắm đấy! Chiếc máy quay đó không vô tình ở vị trí ấy đâu! Nó được sắp xếp để tạo ra góc quay mờ khiến chú lầm tưởng Mô Trật trao đổi hạt mầm cho ông đầu bếp. Lục Thiên sắp xếp tất cả, nó không phải ngẫu nhiên.

Hỏa Dương chìa bao thuốc. Hỏa Nghi lắc đầu cùng ánh mắt ghê tởm. Tay luật sư tiếp tục:

-Vậy ông đầu bếp? Khì! Lục Thiên coi ông ta như bề trên và ông ta tự hào đến mù quáng. Bệnh chung của mấy ông già: sĩ diện. Riêng bệnh sĩ của Quý Mẫn đã hết thuốc chữa. Lục Thiên dối trá rằng hạt mầm Nại Mãi là thuốc bổ cho Đệ Thập nhưng tạm thời chưa nói vì muốn cha mình bất ngờ. Lời nói dối hạng bét phải không? Nhưng khi đủ niềm tin, cái thứ hạng bét ấy thành chân lý trong đầu Quý Mẫn. Ông đầu bếp răm rắp làm theo, tự hào góp phần làm gia đình hoàng đế đầm ấm, để một ngày kia khi nhậu nhẹt cùng đám bạn bè già đầu thì được dịp khoác lác. Có lúc Quý Mẫn lo sợ về hạt mầm nhưng Lục Thiên thuyết phục… hay đúng hơn là tiếp tục bơm liều thuốc sĩ diện cho Quý Mẫn. Ông đầu bếp tiếp tục tin rằng mình đang giúp đỡ hoàng đế. Đầu năm nay, Lục Thiên báo hoàng đế sắp mất. Quý Mẫn khóc rống lên, ông ta rất kính trọng Đệ Thập, hẳn rồi! Ông ta muốn gặp hoàng đế lần cuối, Lục Thiên đáp ứng rồi hẹn ông ta ở Đả Thải thành sau đó đến Thánh Vực. Trong đau thương, bệnh sĩ diện và tin tưởng vị hoàng tử tuyệt đối, ông ta đến Đả Thải thành chờ đợi vinh dự được Lục Thiên đưa tới Thánh Vực. Chuyện xảy ra sau đó, chắc cậu đoán được nhỉ? 

Hỏa Nghi gằn giọng:

-Lục Thiên gọi điện cảnh báo nguy hiểm, ông đầu bếp ngỡ tưởng bọn tôi tìm ổng thanh toán nên chạy trốn. Lợi dụng lúc hỗn loạn, người của Lục Thiên bắn chết ông ấy. Đúng không? 

Hỏa Dương gật gật, cười:

-Phải. Ông đầu bếp tuân theo chỉ thị từ Lục Thiên như cái máy. Nếu là người khác, ông ta đã chẳng nghe lời như thế, chỉ Lục Thiên làm được điều đó. 

Bằng địa vị, tình thân lẫn phong thái khiến kẻ đối diện luôn tin tưởng, Lục Thiên thao túng ông đầu bếp trọn vẹn. Nhưng ông ta không phải người duy nhất. Bọn Vô Phong cũng là nạn nhân trong vòng kiểm soát của Lục Thiên. Bằng việc trưng ra những hồ sơ liên quan tới Đề Án Ngục Thánh hay thành thực thừa nhận chính mình giúp tên tóc đỏ vào Thổ Hành, anh ta khiến bọn Vô Phong tin tưởng dù không tới mức mù quáng như ông đầu bếp. Hỏa Nghi hỏi:

-Quý Mẫn được sắp xếp chết ở Đả Thải thành để tránh xa gia đình và không có người đối chứng, ngụy tạo nó như một vụ ẩu đả xả súng, phải không? Vậy còn Mô Trật, chỉ cần giết quách là xong, tại sao Lục Thiên dày công sắp xếp phiền phức thế? 

Tay luật sư hất hàm:

-Là để nhẳm vào chú đấy, em trai! Từ ngày chú kết thân với tên tóc đỏ Vô Phong, Lục Thiên đã nhắm vào chú. Hắn đọc hồ sơ tuyển hộ vệ thánh sứ của chú, biết rằng chú giỏi tính toán sắp xếp. Hắn biến sở trường của chú thành vũ khí chống lại chính chú, nhưng để làm được thì hắn cần động cơ thúc đẩy. Đề Án Ngục Thánh chính là động cơ, bằng cách trưng ra những bằng chứng chống lại Trần Độ rồi thông qua tên tóc đỏ, đầu óc chú dần hình thành mối ác cảm với thủ lĩnh pháp quan. Hắn muốn hình thành tư tưởng Trần Độ là kẻ thù đầu độc hoàng đế, là kẻ xấu luôn muốn hãm hại anh em hắn trong đầu chú lẫn Vô Phong. Hắn đã làm được, suýt nữa kế hoạch của hắn hoàn hảo!

Hỏa Nghi chống đầu gối, miệng thở phù phù, thâm tâm vừa nhục vừa tức như đứa trẻ con bị lỡm. Anh trai gã tiếp lời:

-Chú hỏi anh tại sao bắt tay với Lục Thiên? Vì anh là anh trai, anh phải bảo vệ thằng em cứng đầu như chú. Biết vì sao không? Đệ Thập sắp chết, Phi Thiên sắp bước vào bầu cử mà mỗi lần như thế, nội bộ Hội Đồng Pháp Quan lại chia phe phái, cuộc đấu đá lớn nhất sẽ xảy ra ở họ Hỏa. Chú thừa kế ghế thủ lĩnh, nhưng còn đó Hỏa Chính cùng nhiều kẻ khác nhăm nhe cái ghế. Tưởng rằng cái đầu thông minh của chú và thằng anh này là chống được tất cả?! Không đâu Hỏa Nghi, chúng ta yếu đuối. Từ ngày ông già (Hỏa Viên) liệt giường thì chúng ta là những thằng trẻ con yếu đuối, chỉ cần bọn Hỏa Chính hay Hỏa Thâu Đầu bóp một cái là chúng ta thoi thóp. Ông già nhu nhược thật đấy nhưng nhờ ổng, anh và chú mới sống đến ngày hôm nay. Giờ ông già nằm giường, hai ta hết chỗ dựa. Chúng ta cần lá chắn, cần sự đảm bảo mới cho đến ngày lớn mạnh. Lục Thiên chính là mỏ neo giúp chúng ta không bị trôi, giờ thì hiểu chưa?

-Anh tin hắn? Tin một kẻ giết cha mình? – Hỏa Nghi gầm gừ. 

Hỏa Dương nhún vai cười:

-Chúng ta cần Lục Thiên nhưng hắn cũng cần chúng ta. Trần Độ đang hậu thuẫn Hỏa Chính qua đó thao túng dòng họ, ngay cả Hỏa Thâu Đầu cũng hùa vào. Anh em Lục Thiên không thể lên ngôi mà chẳng gây tí ảnh hưởng nào với dòng họ này, vậy nên Lục Thiên cần đến chú – người thừa kế ghế thủ lĩnh. Mặc dù chẳng bằng vây cánh lão Hỏa Chính nhưng chú là con trưởng, có sự thừa nhận chính thống, có đặc quyền riêng; vậy nên đám bậu sậu trong họ sẽ tự động theo chú, không ít thì nhiều. Chú nên biết ơn mẹ đã sinh ra mình, vì nếu không phải con Hỏa Viên thì Lục Thiên đã xử lý chú từ lâu rồi. 

Hỏa Nghi nghiến răng kèn kẹt, thâm tâm chẳng thấy may mắn mà chỉ thêm nhục lẫn tức giận:

-Tại sao Lục Thiên đầu độc hoàng đế? Hắn bảo vệ công chúa bằng cách khốn nạn đó? 

-Chuyện chính trị, có lẽ… mà thôi, chú thông minh, chú hiểu hơn cả anh mà! – Hỏa Dương cười – Nhưng quả thật Lục Thiên đang bảo vệ em gái mình. Công chúa đã gặp vấn đề từ lúc truy tìm Quỷ Vương. Đó là nhiệm vụ quá nguy hiểm, công chúa có thể chết bất cứ lúc nào. Bọn Đại Hội Đồng, các nước đối địch cùng vài pháp quan muốn nhân cơ hội loại trừ công chúa. Cả kẻ ác lẫn người tốt đều muốn công chúa chết, vậy nên Lục Thiên phải bảo vệ em gái mình. Nghĩ kỹ đi, Hỏa Nghi. Chú thông minh, chú sẽ hiểu. 

-Câm mồm đi, thằng khốn! – Hỏa Nghi gầm lên – Anh với Lục Thiên là thằng khốn nạn! 

Tên luật sư dang rộng tay:

-Vậy thì thực hiện công lý nào, em trai! Nhân chứng, vật chứng… mọi thứ đủ cả, chú có thể đem chúng cho các trưởng lão. Vụ việc sẽ ra quốc hội, Lục Thiên có thể không sao, nhưng anh chắc chắn lãnh án tử hình hoặc may lắm là tù chung thân. Chú dám làm không, em trai?

Hỏa Nghi xồng xộc chạy tới xách cổ người anh trai đang nhếch mép cười. Gã muốn đấm chết Hỏa Dương. Nhưng ở thời khắc mà lý trí mạnh hơn cảm xúc, Hỏa Nghi nhận ra nếu mất anh trai, gã chẳng còn gì ngoài một gia đình tan nát cùng tương lai bất định. Dư khả năng lật ngược tình hình mà không thể làm, Hỏa Nghi chưa bao giờ bất lực như thế. Ngoài việc liên tục chửi “Mẹ kiếp!” vào mặt Hỏa Dương, gã chẳng thể làm gì khác. Hỏa Nghi trợn mắt:

-Vậy Bùa Ngải? Muốn đầu độc bằng hạt mầm Nại Mãi thì phải biết cách chế Bùa! Lục Thiên tạo ra nó kiểu gì?

-Anh không biết, có thể anh bạn tóc đỏ của chú biết đấy! Khì! Nhưng chú phải nhanh lên, có lẽ Lục Thiên bắt đầu xử lý Vô Phong rồi. 

Hỏa Nghi gầm lớn đoạn đấm anh trai thêm lần nữa. Gã vội vã rời khu tiêu hủy đoạn rút điện thoại gọi Vô Phong, đúng lúc đó tên tóc đỏ gọi tới. Hỏa Nghi mở máy, vồn vã hỏi:

-Tóc đỏ?! Cậu đang ở đâu thế?

“Tôi đi cùng người của Lục Thiên…” – Vô Phong trả lời – “…đám pháp quan cử Thổ Hành tới trường Liệt Trúc. Tôi không biết họ định làm gì…”

Chưa đợi ông bạn nói hết, Hỏa Nghi vội vã cúp máy rồi chuyển sang nhắn tin. Ngoài việc đó thì gã không thể giúp Vô Phong, mọi chuyện từ giờ phụ thuộc xem Vạn Thế còn yêu thương tên tóc đỏ hay không. 



Vô Phong hơi lạ vì Hỏa Nghi vô duyên vô cớ dập máy. Trong khi đó phi thuyền chở hắn và Liệt Trúc hướng về phía nam quận Trăng Khuyết, nơi đặt trụ sở Nghiệp Đoàn Miền Bắc. Đương khó hiểu vì thái độ của ông bạn, tên tóc đỏ bỗng thấy màn hình điện thoại sáng đèn tin nhắn. Nhưng Vô Phong nhận ra không chỉ mình hắn mà đám người Lục Thiên cũng để ý chiếc điện thoại như chờ đợi điều gì đấy, vẻ mặt họ bình ổn mà ánh nhìn đầy mưu tính. Tên tóc đỏ bất giác khó chịu, máu sôi lục bục hệt như lúc ở trường Liệt Trúc. Hắn nghĩ bản thân mắc chứng dư âm chiến tranh quá nhiều. Nhưng tới lúc đọc tin nhắn, hắn hiểu rằng bản năng tự vệ ấy không lầm lẫn. Hỏa Nghi đã viết thế này:

“Đừng tin Lục Thiên. Hắn là Quỷ Vương. Hắn đầu độc hoàng đế. Hắn đạo diễn tất cả. Hắn muốn giết cậu. Chạy đi!”

Tên tóc đỏ cứng đờ mặt. Dăm ba phút kế tiếp là khoảng thời gian dài nhất cuộc đời Vô Phong. Tâm tư hắn xáo xào vì mọi chân lý lẫn suy nghĩ bị đảo lộn. Một thoáng rối trí, hắn nghĩ Hỏa Nghi đùa cợt. Nhưng tình cảnh nguy hiểm thôi thúc hắn phải động não. Tên tóc đỏ liền quay sang đám người Lục Thiên:

-Cho chúng tôi xuống! Dinh thự của ông Xung Am rất gần đây, tôi sẽ được an toàn!

-Không đâu, Vô Phong. – Viên phi công đáp lời – Chẳng còn nơi nào an toàn nữa! Cậu cần tránh xa đội Thổ Hành và Trần Độ!

Vô Phong nhíu mày, hắn có một bằng chứng để tin Hỏa Nghi. Trông đám người ngồi cùng khoang lộ rõ vẻ căng thẳng, hắn có một lý do để nghi ngờ Lục Thiên. Hắn âm thầm tìm cách thoát khỏi cảnh này. Năm phút sau, phi thuyền tiếp tục bay và không dừng lại dù trụ sở Nghiệp Đoàn Miền Bắc ở ngay phía dưới. Vô Phong đề nghị được gặp Lục Thiên nhưng đám người lắc đầu từ chối. Phi thuyền tiếp tục đi xa hơn còn tên tóc đỏ đã có lựa chọn. Phi thuyền vượt sông Vành Đai Xanh rồi bay sang quận Mắt Trắng. Tên tóc đỏ chép miệng:

-Vậy mấy người hết lòng phụng sự hoàng đế tương lai Lục Thiên hả? 

Hai gã ngồi cùng khoang quay sang Vô Phong còn tên tóc đỏ khẽ kéo tay em gái. Dù chẳng hiểu chuyện nhưng cô bé Liệt Trúc nép sau lưng anh mình như phản xạ tự nhiên. Vài giây im lặng kéo căng không gian cơ hồ dùng tay trần quơ quào cũng cảm nhận được. Giữa khoảnh khắc ấy, Vô Phong đột nhiên lao tới vung dao găm đâm xuyên cổ một gã trước khi tên này kịp phản ứng. Kẻ còn lại rút súng bóp cò, hai tiếng nổ dội vang cùng tiếng thét hãi hùng của Liệt Trúc. Tên tóc đỏ bổ đến đâm túi bụi gã này rồi nhào lên khoang lái vật lộn tay phi công. Phi thuyền chao đảo, Liệt Trúc lăn qua lăn lại cùng hai xác chết, cô bé không ngừng kêu gào vì sợ. Con tàu lao xuống một tòa cao ốc rồi trượt lê cả đoạn dài cắt ngang sảnh. Chuông báo cháy kêu rền rĩ, người người chạy tán loạn. 

Phi thuyền lật bụng nằm chình ình giữa tòa nhà, ống xả vỡ chảy nhiên liệu bốc mùi nồng nặc. Người có mặt ở đương trường bỗng thấy cánh cửa phi thuyền vỡ bung tựa thể lựu đạn nổ rồi một gã đàn ông từ bên trong chồm ra cùng một cô bé, cả hai đều sở hữu mái tóc đỏ rực. Vài người nhận ra tên tóc đỏ chính là Vô Phong, nhân vật mà truyền thông liên tục đưa tin mấy tuần nay. Vô Phong bị thương, be sườn thủng vết đạn bốc khói. Hắn cảnh giác nhìn đám đông, lo sợ rằng tay chân Lục Thiên hoặc Thổ Hành đang lẩn quất quanh đây. Như con nhím xù lông, hắn bắt đầu nghi ngờ tất cả. Trong nỗi hoang mang, hắn nắm tay Liệt Trúc chạy đi, tay lăm lăm thanh Bộc Phá sẵn sàng hạ gục bất cứ ai đụng đến em gái mình. Hắn rời tòa nhà này, băng qua những cây cầu vắt ngang không trung rồi xông vào tòa nhà khác mà chẳng biết đích đến, máu bên sườn chảy đẫm áo. Hắn nhác thấy vài màn hình lớn phía xa đang công chiếu buổi họp đảng Nghiệp Đoàn Miền Bắc còn Lục Thiên sắp sửa phát biểu. Vẫn là Lục Thiên mà Vô Phong quen biết, vẫn phong thái đàng hoàng chững chạc gây niềm tin cho người đối diện. Tên tóc đỏ càng thêm hoang mang, dợm nghĩ mình đã sai lầm nóng vội. 

Anh em tóc đỏ xông vào tòa tháp giải trí gần đó. Vô Phong hung hãn như con thú, kiếm trên tay rung bần bật chực giết người nên bảo vệ không dám ngăn cản mà chỉ nhấn chuông báo động. Du khách tham quan vội vã rời đi còn Vô Phong tiếp tục chạy. Được ít phút, đôi chân khẩn trương của tên tóc đỏ đột ngột dừng lại bởi hai cái bóng một cao to một thấp lùn chắn đường. Vô Phong không nghĩ mình tiếp tục tái ngộ những người từng gọi là “đồng đội” theo cách này, lần ở Mù Thủy đã quá đủ. Hắn lắc đầu:

-Đổng Thạch? Yêu Miên? Chúng ta gặp nhau rồi uống bia, vậy không được hay sao mà phải đánh nhau?

Bọn Đổng Thạch – Yêu Miên bước ra từ bóng tối. Họ mặc thường phục để tránh lộ thân phận. Hai người nhìn nhau chừng như cũng khó xử, Yêu Miên nói:

-Mọi người đều quý cậu, nhưng lệnh từ hội đồng bảo chúng tôi giết cậu. Mấy lão già đó luôn chơi khó Thổ Hành! Đầu hàng đi, Vô Phong, đừng đánh nhau vô ích! Chúng tôi sẽ mang cậu trở về, biết đâu có thể thương lượng? 

Tên tóc đỏ lắc đầu, tay nắm chặt kiếm:

-Vậy thì khổ cho mấy người rồi, tôi không làm vậy được. Nhưng tôi hỏi một câu được không? Mấy người theo ai? Lục Thiên hay Trần Độ?

Biết không thể thuyết phục Vô Phong, bọn Đổng Thạch rút kiếm. Yêu Miên đáp lời:

-Bọn tôi theo đội trưởng. Đội trưởng lựa chọn Lục Thiên, vị hoàng đế tương lai.

Tuy đã dự trù câu trả lời nhưng khi tận tai lắng nghe, Vô Phong không kiềm nổi tức giận. Chẳng hẹn mà gặp, hai bên ập vào nhau đánh túi bụi. Bị trúng đạn, tên tóc đỏ yếu thế trước gã Đổng Thạch to con cùng thanh đao nặng nề. Yêu Miên chớp thời cơ vươn tay đến Liệt Trúc. Bản năng bảo vệ em gái trong tên tóc đỏ trỗi dậy như con thú tỉnh giấc. Không màng thương thế, hắn vùng người vung kiếm chém xả, mũi Bộc Phá xẻ tung mạng sườn Yêu Miên. Trong khi đó, màn hình lớn đang chiếu cảnh Lục Thiên đọc diễn văn:

“…được thành viên Nghiệp Đoàn Miền Bắc ủng hộ, tôi rất vinh hạnh. Nhưng tôi tin mọi người đến đây đều vì Phi Thiên quốc. Chúng ta không nói chuyện ai trở thành Bạch Dương Đệ Thập Nhất mà bàn về tương lai đất nước. Đừng nhầm lẫn ý tôi, Bạch Dương Đệ Thập vẫn khỏe mạnh và sẽ tiếp tục trị vì Phi Thiên. Ý tôi ở đây là thời đại “hậu Đệ Thập”, tôi tin rằng nó sẽ thời đại của hợp tác và tin cậy lẫn nhau, không chỉ giữa người với người, giữa các nước đồng minh mà còn giữa những bên từng là cựu thù. Cá nhân tôi cho rằng thế giới này hỗn loạn vì niềm tin, mà thống nhất cũng vì niềm tin…”



Cùng lúc, Vô Phong bế Liệt Trúc đâm vỡ cửa kính lao xuống đoạn cầu bên cạnh tòa nhà. Kính vỡ rào rào, tên tóc đỏ tiếp đất bằng Phong kỹ rồi dắt cô bé chạy ào ào. Chạy một quãng, tên tóc đỏ lại dừng chân trước Độc Trùng đứng bên kia đầu cầu. Tay đội phó không dồn ép cũng không tấn công mà đứng đó như chờ đợi Vô Phong đổi ý. Nhưng tên tóc đỏ chẳng còn lựa chọn. Vô Phong cất bước, Độc Trùng tiến lên. Họ giáp mặt nhau cùng lưỡi kiếm xé gió ngân tiếng kim loại rung màng nhĩ. Màn hình lớn vẫn tiếp tục công chiếu bài phát biểu của Lục Thiên:

“…chắc hẳn quý vị từng nghe câu chuyện con quạ vỗ cánh bay đến mặt trời. Con quạ bay xa hơn cả đại bàng lẫn chim ưng song cuối cùng vẫn chết. Chúng ta dùng câu chuyện này để nói rằng con người luôn nhỏ bé trước thánh thần. Khi còn nhỏ, tôi luôn nghĩ con quạ chẳng thể vươn đến mặt trời kỳ vĩ. Nhưng bước vào tuổi trưởng thành, cá nhân tôi phân tích câu chuyện theo chiều hướng khác. Tại sao con quạ vẫn bay dù biết mình sẽ chết? Tại sao có những người tiếp tục truy tìm điều kỳ vĩ dù biết chuyện đó bất khả? Bởi vì con quạ hay những người ấy có niềm tin. Niềm tin là xương sống xây dựng quốc gia…”



Kịch chiến tiếp diễn, Độc Trùng rướn người đâm kiếm, mũi kiếm khoan sâu vai Vô Phong. Bấy giờ tên tóc đỏ mới biết gã đội phó đánh kiếm mạnh cỡ nào, so với Quỷ Nhãn thì ít nhất cũng một chín một mười. Hết lựa chọn, hắn đành để tế bào Ngục Thánh điều khiển cơ thể. Vô Phong gầm lớn rồi gạt kiếm đạp bay gã đội phó đoạn xốc Liệt Trúc lên vai nhảy khỏi lan can. Hai anh em rơi trên một tiệm ăn khinh khí cầu(*) sau lăn xuống đoạn cầu bên dưới. Một tay dắt Liệt Trúc, một tay nắm chặt Bộc Phá, tên tóc đỏ phăm phăm chạy còn thành viên Thổ Hành xuất hiện mỗi lúc một đông. Vô Phong biết mấy người này và họ cũng biết hắn. Tất cả từng nhậu nhẹt mừng ngày Vô Phong gia nhập trung đội, từng vò đầu tên tóc đỏ mừng hắn có phần thưởng “tự do”(**). Tất cả từng là đồng đội. Nhưng giờ tất cả đều giao chiến với Vô Phong ở nhịp cầu không trung rồi lùng bắt hắn trên hành lang cao ốc. Kiếm vung súng nổ, máu nóng đã đổ. Máu Vô Phong, máu đám truy đuổi, máu của Thổ Hành thay nhau rơi rớt dưới ánh mặt trời rực rỡ thời đại mới và trong bài diễn văn của Lục Thiên: 

“…nhưng niềm tin cần dựa trên chuẩn mực, tôn trọng đạo đức và trên hết là sự chân thành. Xin được nói thật là tôi và các chính khách Nghiệp Đoàn còn bất đồng nhiều vấn đề, nhưng chúng tôi có điểm chung là đề cao sự chân thành. Khi cởi mở, chúng ta có thể nói những điều hài lòng hoặc chưa hài lòng. Khi cởi mở, người dân có thể hiểu sự khó khăn cho chính phủ, ngược lại chính phủ cũng biết nguyện vọng hoặc mong muốn của người dân. Có chân thành mới có tranh luận, từ đấy mới phát triển. Đáng tiếc, Phi Thiên quốc chúng ta bị cuốn vào kỷ nguyên của ích kỷ lẫn định kiến. Vì thiếu chân thành mà đau thương xảy ra ở Tuyệt Tưởng Thành, vì thiếu chân thành mà chúng ta mất đại thánh sứ Tây Minh. Bởi thiếu chân thành mà chính phủ chưa một lần công khai tên tuổi thành viên Hội Đồng Pháp Quan, vô tình phủ làn sương mờ lên nền chính trị này. Trên tất cả, thế giới đang bị đe dọa, chúng ta cần sự chân thành hơn bao giờ hết. Đừng để cảnh tha hương biệt xứ của người Tuyệt Tưởng tái diễn, đừng lặp lại bi kịch Tây Minh. Đừng thiếu chân thành mà bị ánh sáng thời đại mới thiêu rụi…”



Tế bào Ngục Thánh hoạt động hết công suất cũng không kịp sửa chữa vết thương trên người tên tóc đỏ. Liệt Trúc khóc mếu máo từ bao giờ nhưng Vô Phong chẳng còn cách nào ngoài dẫn cô bé chạy tiếp, bàn tay hắn quánh máu nhuộm đỏ tay Liệt Trúc. Hắn cần tìm nơi an toàn trước khi Liệt Trúc không kiềm chế nổi cảm xúc mà giải phóng sóng xung kích. Nhưng hắn chẳng rõ chuyện này bao giờ mới kết thúc vì cách đây dăm bước chân, Hắc Hùng đã chờ sẵn. Giống đội phó, tay đội trưởng cũng chờ đợi câu trả lời của Vô Phong nhưng tên tóc đỏ lắc đầu. Hắc Hùng không gặng hỏi cũng chẳng níu giữ, chỉ lừng lững bước tới cùng thanh kiếm. Vô Phong chợt nhớ hai năm trước, hắn từng cúi đầu trước đội trưởng vì được làm hộ vệ cho công chúa(***). Hai người vung kiếm ập vào nhau, tiếng kim loại vang chan chát trong tiếng Lục Thiên đọc diễn văn: 

“…bởi sự chân thành, chúng ta tin tưởng nhau, kết nối nhau. Chúng ta, ngay cả những con người xa lạ nhất cũng kết nối nhau theo cách nào đó. Khi chân thành cởi mở, chúng ta có đủ niềm tin để bay như con quạ bay tới mặt trời. Chúng ta cần bay để phá vỡ giới hạn bản thân, để bỏ qua sự hài lòng thực tại mà lo lắng cho tương lai. Phi Thiên quốc không hoàn hảo, chúng ta ỷ vào vị thế của mình nhưng lại thiếu trách nhiệm lúc cần thiết. Đại thánh sứ Tây Minh đã cố nói điều ấy nhưng không thể. Tôi không muốn sự hy sinh của đại thánh sứ chỉ là câu chuyện một thoáng một chốc hay để đám báo chí rẻ tiền suốt ngày moi móc. Chúng ta cần thay đổi, Phi Thiên cần thay đổi…”



Tên tóc đỏ lãnh trọn cú đấm từ Hắc Hùng, người lê mặt sàn. Nhưng hắn không dây dưa thêm mà ôm Liệt Trúc lao vỡ cửa kính, đáp xuống cây cầu bên dưới đoạn chạy tiếp. Thổ Hành cấp tốc truy đuổi, tên tóc đỏ lẩn vào đám đông rồi xộc vào tòa nhà đối diện. Nhưng hy vọng của hắn tắt ngấm khi Thú xuất hiện. Con quái vật chạy bốn chân nhào đến. Tất cả những gì Vô Phong cảm nhận được là cú đấm búa tạ từ Thú, một cú đâm kim tiêm đau điếng ở cổ, tiếng gào thét của Liệt Trúc, tiếng người huyên náo giữa làn khói mịt mờ và bài diễn văn của Lục Thiên kết thúc cùng tiếng vỗ tay dội vang không ngớt:

“…và tôi sẽ tiếp tục bước theo con đường mà ngài đại thánh sứ chỉ dẫn, kể cả khi không trở thành Bạch Dương Đệ Thập Nhất. Con đường khó khăn, nhưng tôi sẽ không lùi bước như con quạ luôn hướng đôi cánh về mặt trời. Xin cảm ơn!”





Bóng tối trải dài, Vô Phong cảm giác như lềnh bềnh giữa biển. Hắn biết người ta đang đưa mình đi đâu đó song chẳng rõ đấy là nơi nào. Hắn dợm nghĩ phòng mổ ở khu thí nghiệm. Chợt nghĩ về Liệt Trúc, tâm trí hắn trỗi dậy, thân thể vùng vẫy. Hắn nhận ra không gian quanh mình là một thánh đường đổ nát, dưới sàn lăn lốc vỏ bia cũ kỹ ám bụi mọc rêu, phía cửa sổ vọt qua vọt lại cánh chim hải âu. Hắn biết chốn này, nó là tòa thánh đường bỏ hoang bị đồn ma ám, người Phi Thiên không ai dám ghé chân vào dù chỉ nửa bước. Hắn cùng công chúa Lục Châu từng hẹn hò ở đây(****).

Chưa kịp xác định tình thế, Vô Phong bỗng giật thót bởi cái mặt gớm ghiếc quái đản cười nhe nhởn của Thú cách đây vài bước chân. Tên tóc đỏ vội vã trở lui đoạn nhìn quanh quất tìm Liệt Trúc. Hắn nhận ra cô bé nằm cạnh mình như ngủ say, ngoại trừ áo quần lấm lem dính máu thì hoàn toàn ổn định. Vô Phong gồng sức đứng lên mà không nổi, toàn thân rệu rã như cỗ máy hết nhiên liệu. Đang mải vật lộn, hắn chợt nghe một giọng già nua:

-Đừng cố sức, Thú đã tiêm Bột Khoan Não liều nhẹ, cậu sẽ như thế đến sáng mai. 

Vô Phong biết giọng người này. Phóng mắt sang trái, hắn phát hiện Trần Độ. Lão pháp quan bước đến, thân thể gày đét kêu lộc cộc. Tên tóc đỏ nghiến răng thủ thế, lão già hất hàm:

-Ngoan ngoãn ngồi đó và bớt thù địch giùm ta. Thời gian không còn nhiều, ta sẽ nói thật ngắn gọn. Giữ kín chuyện và đừng kể… ồ, cậu sẽ kể, chắc chắn rồi! Nhưng hãy để dịp khác vì sau cuộc nói chuyện này, cậu phải rời Phi Thiên thành. 

Biết lão già không có ác ý, bấy giờ Vô Phong mới ngừng nín thở. Hắn hớp hơi, giọng đứt quãng:

-Lục Thiên… anh ta… phải chăng anh ta đầu độc hoàng đế?

Trần Độ chắp tay sau lưng đoạn gật gù xác nhận. Vô Phong chưa kịp hỏi tiếp “tại sao” thì lão già cất lời:

-Trước tiên phải làm rõ vấn đề Cao Khánh. Cậu và Hỏa Nghi đều nghĩ thằng mập đó phục vụ ta? Không, quan hệ làm ăn thì có nhưng phục vụ thì không. Kẻ mà thằng mập luôn xưng “ông chủ” là Lục Thiên. Việc thằng mập lẽo đẽo theo ta phát sinh từ một thỏa thuận. Thỏa thuận đó bắt đầu vào ngày cuối tháng 3 năm 7516, khi cậu rơi xuống xe tải về Quân Doanh Bờ Tây. Cậu nghĩ mình có thể gia nhập Thổ Hành với bài kiểm tra thể lực hạng bét (*****)? 

Tên tóc đỏ ngẫm nghĩ hồi lâu đoạn nói:

-Lục Thiên từng nói anh ta thỏa thuận với ông nhằm đổi lấy việc tôi gia nhập Thổ Hành, chính là chuyện này(*1)?

-Phải. – Trần Độ trả lời – Ta thuyết phục hoàng đế lẫn Hội Đồng Pháp Quan giữ cậu thay vì giết bỏ, đổi lại ta có thể sử dụng nguồn tài chính dồi dào của Cao Khánh. Trao đổi có hời, ta chấp nhận. 

-Tại sao anh ta đưa tôi vào? 

Trần Độ cười:

-Đó là một khoản đầu tư. Cậu từng là hộ vệ ngầm cho công chúa Lục Châu, biết chưa? Biết rồi hả? Tốt! Lục Thiên là anh trai, anh trai phải bảo vệ em mình. Hắn luôn nghĩ cho em gái. Hắn biết cậu sẽ bảo vệ công chúa như một phản xạ tự nhiên. Đâu tự dưng cậu phát sinh mối liên hệ với công chúa nhanh như thế? Đâu tự dưng cậu sẵn sàng liều mạng vì công chúa tại đất Thiên Phạn? Đừng quên con nhện Thiết Thù 117, nó được lập trình khá nhiều thứ đấy!

-Nói vậy… người cấy con nhện vào đầu tôi là Lục Thiên?

-Ta không biết nhưng Lục Thiên nắm rõ tâm lý cậu. – Trần Độ lắc đầu – Ngày công chúa lên đường tìm Quỷ Vương cũng là lúc Lục Thiên tìm cách bảo vệ em gái. Cao Khánh không tự dưng xuất hiện ở khu giải trí cùng chiếc đĩa vàng, Lục Thiên bảo thằng mập đó tới đúng chỗ mà cậu đang luẩn quẩn. Hắn biết bản tính ưa mạo hiểm cũng như thói quen móc túi của cậu. 

Vô Phong lắc đầu:

-Nhưng chẳng phải công chúa có người bảo vệ? Sao nhất thiết phải là tôi?

-Vì cậu bảo vệ bằng tấm lòng của kẻ si mê công chúa và tất nhiên, cũng nhờ con nhện sắt Thiết Thù 117. Nhiệm vụ truy tìm Quỷ Vương thực chất là cái bẫy hại công chúa. Cậu nghĩ mấy cuộc truy tìm tại sao khó khăn vậy? Vì an ninh quốc gia? Vì các nước thù hằn nhau? Không đâu, thực tế là có những bàn tay can thiệp nhắm vào Lục Châu. Nếu cô ta chết, Lục Thiên nghiễm nhiên thừa kế ngai vàng, vừa tốt cho mà cũng vừa hại cho Phi Thiên. Tốt cho người thích việc đăng quang đơn giản, không bầu cử cầu kỳ, như ta chẳng hạn! Mà cũng xấu cho kẻ muốn thao túng vị tân vương. Cậu nên biết suốt cuộc hành trình tìm Quỷ Vương, rất nhiều thế lực luôn tìm cách hạ sát công chúa, trong đó có… ta. Khà! Ta thừa nhận mình đã điều Thú đến Kim Ngân rồi cố tình bỏ rơi công chúa tại Bãi Lầy Chết, nhưng một lần nữa cậu lại cứu Lục Châu. Lục Thiên đầu tư có lãi lớn!

-Vậy tại sao bây giờ anh ta muốn giết tôi? Tôi hết giá trị?

Trần Độ lắc đầu:

-Không đâu, cậu bé! Khà! Đâu tự dưng Lục Thiên bày trò với ông đầu bếp Quý Mẫn hay gã Mô Trật? Vì hắn muốn cậu và Hỏa Nghi tin rằng ta là kẻ thù giết hoàng đế. Hắn cần Hỏa Nghi nhằm gây ảnh hưởng ở họ Hỏa, hắn cần cậu như cánh tay đắc lực cho thời đại mới. Lục Thiên nghĩ cho cậu thật đấy, ta không giỡn! Hắn luôn muốn cậu trở thành nhân vật thế lực. Nhưng mọi chuyện đổ bể khi Mi Kha trở lại Phi Thiên thành vào ngày trung tuần tháng 2…

Dứt lời, lão già đưa cho Vô Phong một tập giấy. Sau ít phút do dự, tên tóc đỏ nhận lấy. Vô Phong nhanh chóng nhận ra nó là bản báo cáo về chính hắn từ chứng mơ ngủ hay gặp ác mộng, ký ức lẫn lộn, những cơn đau đầu bất chợt, khả năng chiến đấu, cách thức suy nghĩ hoặc phân tích vấn đề. Mọi hoạt động của hắn từ Minh Tu thành đến Tuyệt Tưởng Thành đều được ghi chép cẩn thận. Suốt quãng thời gian đó, người ở bên hắn nhiều nhất là Mi Kha chứ không phải ai khác. Trần Độ tiếp lời:

-Hồi tháng 11 năm kia, Mi Kha xuất hiện tại dạ tiệc rồi gặp gỡ cậu, nhớ chứ? Thực tế là trước đó cô ta tìm công chúa Lục Châu hỏi về cậu(*2). Tại sao hỏi thì… cậu sẽ biết thôi. Bỏ qua vấn đề này nhé?! Khi đó Lục Thiên liên hệ và nhờ cô ta bám sát cậu. Lục Thiên cần đánh giá xem tâm trí cậu ổn định hay không. Nhưng những báo cáo cho thấy cậu không ổn định thần kinh, nhiều nguy cơ dẫn đến chứng tâm thần phân liệt. Cái này chắc cậu cũng cảm nhận được(*3)? Vì sợ cậu gây nguy hiểm cho Lục Châu, Lục Thiên bí mật gửi bản báo cáo thông qua một pháp quan, vậy là lệnh khử cậu được giao cho Thổ Hành. Lục Thiên nhận ra khoản đầu tư quá mạo hiểm mà nếu xảy ra rủi ro, hắn không gánh nổi. Vậy hắn làm gì? Thoái vốn thôi!

Vô Phong vò đầu, chẳng biết nên khóc hay cười. Im lặng hồi lâu, hắn hỏi:

-Vậy ra không phải ông mà Lục Thiên đưa hạt mầm Nại Mãi đến Tuyệt Tưởng Thành? 

-Phải. – Lão pháp quan gật đầu – Ta biết Lục Thiên mang hạt mầm Nại Mãi đến cuộc chiến. Bởi vậy ta ngụy tạo cái chết cho sáu thành viên Thổ Hành để họ xâm nhập Tuyệt Tưởng Thành tìm hạt mầm Nại Mãi. Nhưng ta thất bại, không những ta chẳng tìm được bọn sát thủ mà còn để Lục Thiên đầu độc cha mình. 

-Tại sao Lục Thiên đầu độc cha mình? 

Lão pháp quan thở dài đoạn chìa bao thuốc. Vô Phong liền rút một điếu, lão già đánh lửa hộ hắn. Giữa khói thuốc xanh cuộn quánh, Trần Độ nói:

-Có lẽ nó bắt nguồn từ họ Bạch Dương. Chắc cậu biết người họ Bạch Dương sở hữu tuổi thọ lớn? Phải, tám mươi năm nữa, ta và cậu chết rục xương nhưng công chúa Lục Châu vẫn đẹp như tuổi đôi mươi. Nhưng tuổi thọ lớn chính là vấn đề. Khi lên ngôi, các hoàng đế thường mang theo một chính sách nhất quán nhằm đổi lấy sự ủng hộ từ các đảng phái và pháp quan. Cái dở của nền chính trị Phi Thiên là chính sách đó rất ít khi xoay trục đặc biệt là đối ngoại, mà tuổi thọ hoàng đế Bạch Dương lại quá cao. Họ không già thể chất nhưng già tâm hồn như người thường, bởi sống lâu nên họ cũng bảo thủ gấp nhiều lần người thường. Điều quan trọng hơn là nếu thay đổi chính sách, họ sẽ mất sự ủng hộ từ pháp quan, mất những dòng họ ủng hộ mình từ khi tranh cử. Bạch Dương Đệ Thập đã duy trì chính sách cũ quá lâu…

Khói thuốc dày, Trần Độ ho sù sụ. Lão bảo Thú đưa mình trà thiết mộc đoạn tiếp lời:

-Sau cuộc chiến tranh giành tài nguyên, Đệ Thập vẫn duy trì chính sách mang nặng tính chiến tranh. Ông ấy không để ngỏ bất cứ khả năng làm hòa nào với láng giềng Lưu Vân quốc. Phi thuyền Thần Sấm là đỉnh cao chính sách đó. Nó ngoài việc bảo vệ công chúa Lục Châu còn mang tính phô trương quân sự. Thực tế là sau sự xuất hiện của Thần Sấm, các đồng minh thân thiết chúng ta hơn, nhiều nước trung lập ngỏ ý sát nhập Khối Ngũ Giác hơn mà Tuyệt Tưởng Thành là ví dụ. Sức ảnh hưởng của chiếc Thần Sấm là thật. Nhưng ở cực đối lập, chiếc phi thuyền khiến ba liên minh còn lại lo sợ, vô tình đẩy thế giới vào cuộc đua vũ trang. Nói cách khác, chính Đệ Thập góp phần thúc đẩy chủ nghĩa bạo lực trên Tâm Mộng. Thế giới hỗn loạn như bây giờ có phần của Phi Thiên quốc nói chung và Đệ Thập nói riêng. Đệ Thập đã duy trì chính sách này hơn bốn mươi năm, Lục Thiên không muốn kéo dài hơn nữa.

-Và anh ta dùng cách khốn nạn là đầu độc cha mình? – Vô Phong gầm gừ – Ông biết mà không ngăn cản?

Trần Độ lắc đầu:

-Hoàng đế biết con trai đầu độc mình khá sớm, khoảng tháng 3 năm ngoái. Không gì qua được mắt Đệ Thập, ông ấy biết rõ cả chuyện ta ngụy tạo cái chết cho sáu người Thổ Hành. Ta định xử lý Lục Thiên nhưng hoàng đế ngăn cản. Đệ Thập tự lựa chọn cái chết, vậy nên ông ấy tiếp tục uống trà thiết mộc vào tháng 4. 

-Ông đùa tôi? – Vô Phong mở lớn mắt. 

-Một phần vì hắc khí Quỷ Vương ngấm sâu, Đệ Thập sẽ chết dù sớm hay muộn. Hoàng đế gọi Lục Thiên tới, hỏi hắn về chính sách thời đại mới nếu hắn lên ngôi. Nghe xong, hoàng đế chọn cách chết nhanh hơn để mở đường cho Lục Thiên, bởi lẽ Đệ Thập tự nhận thức mình quá lỗi thời. Phiền rằng Đệ Thập không thể thay đổi, ông ấy sống quá lâu trong thời đại cũ. Ông ấy muốn thời đại cũ của mình được trọn vẹn. Nhưng cốt lõi là chính những hạt mầm Nại Mãi làm thay đổi cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành, mở ra thời đại mới khiến Đệ Thập trở nên lỗi thời. Lục Thiên ép hoàng đế vào tình cảnh đó. 

-Đệ Thập không còn lựa chọn? 

-Thực ra là vẫn còn lựa chọn. – Trần Độ lắc đầu – Hoàng đế dư sức xử lý Lục Thiên và để Lục Châu lên ngôi, việc này mất nhiều thời gian hơn song rất khả thi. Nhưng cậu nên biết cha mẹ luôn yêu thương con mình. Yêu thương vô điều kiện, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ, Đệ Thập là dạng như vậy. Suy cho cùng ông ấy vẫn là người cha. 

Vô Phong cau mày:

-Lục Thiên chế tạo Bùa kiểu gì? Anh ta dùng máy phát nội lực, đúng không? 

-Phải. – Trần Độ gật đầu – Còn tại sao hắn biết à? Lục Thiên có nói rằng ở quá khứ, cậu và hắn từng quan hệ trò chuyện với nhau không? Cậu biết không ít, thế nên Lục Thiên cũng biết chẳng ít. Các người trao đổi với nhau nhiều đấy!

-Lục Thiên hưởng lợi gì từ cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành? Chẳng phải anh ta muốn chính sách hữu nghị và hòa bình hơn Đệ Thập hay sao?

-Đó là một bước đi chiến lược. Dù Lục Thiên hay Lục Châu lên ngôi thì trở ngại lớn nhất vẫn là Hội Đồng Pháp Quan. Nhìn lại đống đổ nát Tuyệt Tưởng Thành giờ có những ai? Băng Hóa quốc, Bắc Thần quốc, các nước muốn dây máu ăn phần, lũ khủng bố trộm cướp, vân vân. Phi Thiên quốc đang đầy rẫy kẻ thù mà chính Lục Thiên tạo ra kẻ thù cho Phi Thiên quốc. Khi có chung kẻ thù đụng chạm lợi ích, Hội Đồng Pháp Quan tự dưng phải cân nhắc mà bắt tay nhau thay vì đấu đá, vị tân vương do vậy dễ điều khiển họ hơn. 

Tên tóc đỏ thở phù. Hắn buộc phải thừa nhận việc chính trị quá phức tạp và không muốn nghe thêm. Hắn ngẩng đầu:

-Vậy nhiều năm trước, khoảng năm 7511, cuộc xung đột giữa Lưu Vân và Phi Thiên là thế nào? Đề Án Ngục Thánh thực chất là cái gì? Những bản thể Ngục Thánh đang ở đâu? Chiếc đĩa vàng là thế nào? Còn tôi nữa, tôi đã sống ra sao? Hãy trả lời tôi!

Chuông điện thoại réo vang, Trần Độ lục túi mở tin nhắn đoạn ngó đồng hồ. Lão già lắc đầu:

-Không còn nhiều thời gian, Lục Thiên sẽ sớm tìm đến đây. Ta không dư thời gian trả lời, cũng không có nghĩa vụ trả lời cậu. Nhưng có một việc quan trọng cần làm ngay bây giờ: cậu phải rời khỏi đây. Phi Thiên thành không an toàn nữa. Có người sẽ giúp cậu, cô ta đang ở đây… à, kia rồi!

Trần Độ nghiêng đầu, tên tóc đỏ nhìn theo hướng ấy và nhận ra Mi Kha. Cô ả phương bắc khẽ giơ tay chào, Vô Phong không đáp lại mà dè chừng quan sát. Trần Độ nói:

-Giờ Mi Kha làm việc cho ta. Một việc cuối cùng: cậu để Liệt Trúc ở lại đây hay mang con bé theo mình? Nếu để lại đây, ta sẽ bảo hộ con bé như Tây Minh từng làm, nó vẫn được đi học và có cơ hội trở thành thánh sứ. Nếu mang con bé theo, cậu sẽ bảo vệ nó trong cuộc sống lang bạt đầy nguy hiểm. Lựa chọn đi, tóc đỏ. 

-Tại sao tôi phải tin ông? – Vô Phong ngước mắt – Sau tất cả những chuyện này, tại sao tôi phải tin?

Trần Độ ngồi xổm đoạn thở khói vào mặt Vô Phong:

-Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cậu không thể sống mà nói “trên đời chẳng ai đáng tin”. Phải là kẻ ngu xuẩn lắm mới nói được câu đó. Nhưng chọn cẩn thận, nếu chọn sai thì cũng là sự ngu xuẩn không kém. Khà! 

Lão già bật cười, bộ đầu lâu lắm xương ít thịt kêu lách cách. Vô Phong nhìn em gái. Giữa thời khắc này, hắn thực sự không thể chọn lựa. 

(*) ở quận Mắt Trắng có những tiệm ăn khinh khí cầu di động, Vô Phong và Lục Châu từng ghé vào mấy tiệm như vậy, xem lại Q3 Chương 57

(**) xem lại Q1 Chương 7, Q1 Chương 20

(***) xem lại Q1 Chương 20

(****) tòa thánh đường bỏ hoang phía đông quận Mắt Trắng, công chúa và Vô Phong từng hẹn hò ở chỗ này, xem lại Q3 Chương 61 và Q3 Chương 66

(*****) xem lại Q1 Chương 6

(*1) xem lại Q2 Chương 43

(*2) xem lại Q3 Chương 53, Mi Kha tìm công chúa Lục Châu

(*3) xem lại Q3 Chương 104
 
Quyển 3 - Chương 141: Cho gió nhuộm đỏ


Từ Đảo Sắt Thép, Hỏa Nghi vội vã lên tàu điện sang hoàng cung. Gã cần gặp công chúa. Trên chuyến tàu, Hỏa Nghi suy nghĩ về lời anh trai và dần hiểu tại sao Lục Thiên đầu độc hoàng đế. Gã thừa thông minh để hiểu nhưng thiếu tàn nhẫn để chấp nhận hành động đó. Nhiều năm qua gã luôn tôn trọng Lục Thiên song chỉ cần dăm phút ở khu tiêu hủy, hình ảnh vị hoàng tử trong mắt gã xuống cấp thảm hại. Bất quá Hỏa Nghi nhận ra nếu mang cảm xúc nhất thời nói chuyện với công chúa, mọi chuyện sẽ đổ bể thay vì tốt đẹp hơn. Gã không muốn tố cáo anh trai mà cũng chẳng thể bô bô rằng “Lục Thiên đầu độc hoàng đế”. Suy nghĩ rồi cân nhắc nặng nhẹ, gã quyết định cứu Vô Phong trước. Gã hy vọng tên tóc đỏ đủ sức cầm cự đội Thổ Hành. Gã mong mình tới kịp lúc.

Tàu điện cập bến, Hỏa Nghi vội vã chạy vào hoàng cung. Những ngày này Lục Châu bận bịu, nàng hầu như tắt máy điện thoại và chỉ liên lạc qua người đại diện. Hỏa Nghi sợ nàng đã rời thủ đô. May mắn thay, nhân viên chính phủ thông báo công chúa đang ở đây nên Hỏa Nghi nhẹ nhõm đôi chút. Gã rảo chân, mồ hôi ròng ròng thái dương vì chạy đua với thời gian. Nhưng khi đến nơi, Hỏa Nghi nhận ra công chúa đang tiếp chuyện một chuyên viên cố vấn, thần thái công chúa đầy nghi hoặc như vừa trải qua cơn chấn động tâm lý. Tay nàng cầm một tập giấy dày cộp, trên đó có ảnh lý lịch cá nhân của Vô Phong. Trong lúc Hỏa Nghi ngờ ngợ thì viên cố vấn nói với công chúa:

-Mấy tòa soạn vừa nhận được tin này, tôi e rằng họ sẽ đăng báo ngay sáng mai, cô cần xử lý ngay. Đang vận động tranh cử, cô phải gạt bỏ mọi thông tin bất lợi! Liên Hiệp Bờ Tây vốn không ưa họ Bạch Dương, họ khắt khe với cô, họ sẽ không thích tin tức kiểu này…

Thấy Hỏa Nghi, người cố vấn hạ giọng đoạn rời khỏi phòng. Công chúa bối rối rối đưa gã tập giấy. Đọc một hồi, Hỏa Nghi nhận ra đây là hồ sơ chứng nhận Vô Phong tốt nghiệp sĩ quan – thứ đã giúp tên tóc đỏ gia nhập Thổ Hành. Chỉ khác rằng mọi thông tin trong đó bị gạch dấu chi chít với đầy ghi chú như “sai sự thật”, “không hề tồn tại” hoặc “hoàn toàn không có học viên nào tên là Vô Phong”. Nói cách khác, thứ này tố cáo Vô Phong đã gian trá thành tích nhằm gia nhập đội hộ vệ của công chúa. Kẻ làm hồ sơ là Lục Thiên và kẻ tuồn ra cũng chính là y. Hỏa Nghi đã chậm chân. Nén cơn chửi rủa vào bụng, Hỏa Nghi nói: 

-Công chúa à, nghe tôi giải thích… chuyện không phải vậy đâu. Nó rất phức tạp!

Rõ ràng chuyện phức tạp và Lục Châu cũng phức tạp chẳng kém. Nàng lắc đầu, giọng run run:

-Cậu nói vậy tức là cậu biết Phong lừa dối? Tại sao cậu không nói sớm? Tại sao mọi người biết hết mà tôi chẳng biết gì là thế nào? 

-Tôi nói rồi, công chúa, chuyện rất phức tạp, nói ngày một ngày hai không thể giải quyết vấn đề. – Hỏa Nghi giơ tay – Nhưng trước hết cô phải bình tĩnh, cô phải cứu tóc đỏ! Cậu ta đang gặp nguy hiểm! Đội Thổ Hành đang săn đuổi Vô Phong! Cô phải làm gì đó! 

Lục Châu thở dốc, rối trí như con bướm giãy giụa trong lưới nhện. Nhưng tình cảnh nguy hiểm của Vô Phong bắt nàng phải hành động. Công chúa gọi Chiến Tử đi điều tra rồi quay lại Hỏa Nghi:

-Rốt cục chuyện này là sao? Cố vấn nói với tôi Phong không phải lính mà là dân móc túi chợ rác, Phong hoàn toàn không có gia đình, có thật vậy không? Tại sao mọi người không nói cho tôi biết? Tại sao Phong giấu tôi? Tôi hỏi rất nhiều nhưng Phong không bao giờ nói, tại sao vậy? Có phải vì danh vọng hay địa vị? Nếu thế thì chỉ cần nói với tôi một tiếng, tại sao Phong làm thế…

-Vì hắn không thể nói! – Hỏa Nghi ngắt lời công chúa – Tóc đỏ không thể nói! Nếu là con của một ông bố quý tộc hay một chiến binh nổi tiếng, hắn đã kể cho cô từ lâu rồi! Bây giờ cô chuyển sang nghi ngờ hắn? 

Công chúa bần thần bèn xua tay tỏ ý mình không có suy nghĩ đấy. Biết nàng vì quá tin tưởng Vô Phong mà bị sốc, Hỏa Nghi khuyên nhủ:

-Công chúa, tôi biết cô khó xử nhưng từ giờ trở đi, cô phải tin tưởng tóc đỏ. Được chứ? Hắn nghĩ cho cô! Hắn luôn nghĩ về tương lai của cô, bởi thế hắn mới không nói chuyện của mình. Nó quá nguy hiểm!

Lục Châu lắc đầu:

-Nguy hiểm? Tại sao? Kể cho tôi nghe, Hỏa Nghi! Tôi muốn nghe tất cả! Cậu biết chuyện, phải không?

Công chúa hỏi dồn dập, Hỏa Nghi toan nói tất cả từ Đề Án Ngục Thánh đến chuyện Lục Thiên đầu độc hoàng đế. Nhưng gã chợt nhận ra đôi mắt công chúa lẫn lộn cảm xúc và chẳng ánh lên tia lý trí nào. Hỏa Nghi đã lãnh đòn cảm xúc quá đủ, gã không muốn thêm một người nữa giống mình hay Vô Phong. Gã sợ công chúa suy sụp mà kỳ bầu cử sắp tới, giả như Vô Phong có mặt ở đây thì tên tóc đỏ cũng tìm mọi cách ngăn gã nói – Hỏa Nghi tin chắc như vậy. Suy nghĩ ít phút, gã thở dài:

-Xin lỗi công chúa, bây giờ chưa phải lúc. Tôi sẽ kể cho cô, chắc chắn vậy, nhưng bây giờ chưa phải lúc. Chỉ mong cô luôn tin tóc đỏ. Tôi biết rất khó khăn nhưng dù thế nào chăng nữa, mong cô luôn tin hắn. 

Lục Châu ôm mặt, bờ vai co rúm giữa hoàng cung lặng ngắt. Giữa lúc đó tiếng điện thoại réo vang, viên cố vấn báo công chúa rằng thành viên Liên Hiệp Bờ Tây xin gặp mặt. Nàng từ biệt Hỏa Nghi trong cái nhìn lảng tráng mà chan chứa mơ hồ. Hỏa Nghi cảm giác nàng đang khóc nhưng ngoài việc hy vọng công chúa mạnh mẽ hơn, gã chẳng thể làm gì khác. 

Tối hôm đó, Hỏa Nghi nghe Chiến Tử báo lại tên tóc đỏ đã rời thủ đô còn Liệt Trúc trở về với gương mặt lạnh tanh, quần áo dính đầy mảnh thủy tinh, đất cát lẫn máu tươi. Mọi người hỏi Vô Phong đi đâu nhưng con bé im lặng, một mực không chịu trả lời. Hỏa Nghi hiểu rằng ông bạn tóc đỏ đã có lựa chọn riêng. 

Tối cùng ngày, truyền thông Phi Thiên đưa tin công chúa Lục Châu hủy bỏ giao ước hộ vệ thánh sứ với Vô Phong vì phát hiện những sai phạm trong lý lịch của tên tóc đỏ. Công chúa hành động trước khi đám báo chí kịp bêu riếu nàng. Hết đối tượng moi móc, cánh báo chí quay sang tấn công tên tóc đỏ, dùng ngôn từ lời lẽ bóc tách toàn bộ ánh hào quang của hắn. Không còn người trẻ nhất được tặng thưởng hai huân chương, không còn người hùng chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, Vô Phong bỗng chốc trở thành kẻ lừa đảo hạng nhất. Sáng hôm sau, dân chúng thủ đô được dịp bàn tán rôm rả còn những nhân vật nổi tiếng như Xung Am, đám doanh nhân hay học viện sĩ quan thay nhau tuyên bố không liên quan đến tên tóc đỏ. Kỳ bầu cử sắp tới, Lục Châu chẳng thể chọn khác hoặc nàng sẽ thế chỗ Vô Phong và thảm hại gấp nhiều lần. Dù đau đớn nhưng Hỏa Nghi phải thừa nhận công chúa quyết định đúng. 

Công chúa đã tìm hướng đi, bản thân Hỏa Nghi cũng tự thân vận động. Một ngày nọ, Hỏa Dương thông báo có cuộc họp dòng họ và Hỏa Nghi cần tham dự, gã gật đầu chấp thuận. Hỏa Dương ngạc nhiên vì em trai thay đổi nhanh hơn y tưởng:

-Vậy là cậu chấp nhận thời đại mới rồi à, em trai?

Hỏa Nghi không đáp mà chỉ lẳng lặng thay đồ, chỉnh sửa đầu tóc. Gã trút bỏ bộ dạng lôi thôi rồi khoác lên mình tác phong đứng đắn. Hỏa Dương tiếp lời:

-Từ giờ mọi chuyện khác nhiều đấy, em trai. Cậu không thể là hộ vệ thánh sứ Hỏa Nghi hay bạn tốt của Vô Phong nữa, cậu cần làm nhiều việc tốt, việc quan trọng, việc ruồi bu và thậm chí là chuyện chẳng hay ho nếu cần thiết. Nhưng cái “chẳng hay ho” xem chừng nhiều lắm, em trai! Xung quanh chúng ta giờ đầy rẫy kẻ thù. Rồi cậu sẽ phải tự tay xử lý những người cậu từng gọi là cô dì chú bác, chẳng có tình thân nào ở đây cả!

-Tôi không làm việc chẳng hay ho đâu… – Hỏa Nghi đáp đoạn quay sang anh trai – …bởi tôi đã có thằng khốn nạn như anh làm mấy chuyện đó. 

Nói rồi gã nhe răng cười đểu. Hỏa Dương nhìn em trai bằng đôi mắt sắc lẻm nhưng rồi nhếch mép cười, cúi đầu như kẻ thân cận sẵn sàng làm mọi thứ vì thủ lĩnh dòng họ. Hỏa Nghi gật gù, gã cần anh trai cho tới ngày leo lên vị trí cao nhất và chỉ vị trí đó mới cho gã cơ hội giúp ông bạn tóc đỏ. Gã muốn Vô Phong được khôi phục danh dự và đàng hoàng trở về thủ đô. Chỉnh sửa quần áo thêm lần cuối, Hỏa Nghi cùng anh trai đến cuộc họp. Đám trẻ nhà Hỏa Viên đã sẵn sàng cho cuộc chiến mà người cha nhu nhược của chúng trốn tránh suốt thời gian dài. 



Với Lục Châu, những ngày trung tuần tháng 2 năm 7518 quả thực khó khăn. Giấy tờ, họp hành, thảo luận, gặp mặt, nở những nụ cười mà thực tâm không mong muốn… tất cả vây quanh Lục Châu, không cho nàng thời gian thở. Có những lúc công chúa quên bẵng chuyện Vô Phong, tưởng chừng việc đó chỉ là chút gợn sóng trong quãng đời đầy biến động của nàng. Tâm trí công chúa tràn ngập vấn đề bầu cử, lá phiếu, đảng phái… chẳng chừa một khe hở cho Vô Phong chen chân vô. 

Nhưng khi bóng tối buông xuống và một mình giữa hoàng cung khổng lồ, Lục Châu cô độc hơn bao giờ hết. Anh trai đã trở thành đối thủ chính trị nên không thể gặp nàng hoặc ngược lại, ngài Đệ Thập mãi chưa thấy về, trái tim công chúa bắt đầu chộn rộn hình ảnh Vô Phong. Bên chiếc cửa sổ hướng ra quận Mắt Trắng, Lục Châu nghĩ về khoảng thời gian hẹn hò với tên tóc đỏ hồi cuối năm kia hay đầu năm ngoái, cử chỉ lúng túng như gà mắc tóc của hắn khiến nàng mỉm cười. Nghĩ lại chuyến đi nguy hiểm ở Hồi Đằng, nàng bỗng nhớ thói ngủ hỗn hào của Vô Phong hoặc cuộc hành trình vô định qua Bãi Lầy Chết. Nhớ mái tóc đỏ, công chúa cười bao nhiều mà ầng ậng nước mắt bấy nhiêu. Nàng bắt đầu lo cho Vô Phong giống hồi năm ngoái, lúc mà hắn quyết định rời thủ đô. Lo lắng chán, Lục Châu lại an tâm phần nào vì chiếc dây chuyền bạc – vật nàng trân trọng nhất – vẫn ở trên cổ tên tóc đỏ(*). Nàng chống cằm trông bầu trời đêm đen đặc, hồi tưởng quãng thời gian sống cùng Vô Phong trên thăng vân tàu, hầu như chẳng để tâm tin tức đang phát trên máy chiếu ba chiều:

“…việc chợ rác đòi quyền tự quyết đang gây ra tranh cãi. Cơ quan lập pháp cho rằng cư dân chợ rác không có thẻ căn cước và chưa bao giờ thực hiện nghĩa vụ công dân nên không có quyền tự quyết. Nhưng giới nghiên cứu chính trị đang đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy chợ rác từng can thiệp cũng như đóng góp rất nhiều cho Phi Thiên quốc. Khá đông thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt từng xuất thân từ chợ rác, họ thậm chí xuất hiện ở họ Hỏa…



…sẽ mất thêm nhiều tháng họp bàn, nhưng người ta đã nghĩ một cuộc bỏ phiếu xem chợ rác có thể tự quyết hay không. Trở lại thông tin nóng nhất mấy ngày nay, hiện chưa rõ Vô Phong – người từng nhận hai huân chương cao quý, nhân vật chủ chốt trong cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành – đang ở đâu, chúng tôi đã liên hệ…”



Bản tin thời sự đứt quãng vì Lục Châu vừa ném cục chặn giấy nặng nề đập móp máy chiếu. Cỗ máy chỏng chơ trên đất, ống kính chớp tắt ảnh lý lịch cá nhân của tên tóc đỏ. Công chúa biết Vô Phong nói dối mình nhưng nàng không tin bất cứ luận điệu nào mà truyền thông đang gán cho hắn như dối trá, lợi dụng chức vụ cướp công người khác, xây dựng quyền lực hay gián điệp nước ngoài. Công chúa ở bên Vô Phong đủ lâu để biết hắn là con người thế nào, nàng chiến đấu cạnh hắn đủ nhiều để nhận ra phẩm chất của tên tóc đỏ.

Lục Châu chợt hiểu những khoảng đủ lâu hay quãng đủ nhiều nọ khiến nàng nhớ Vô Phong cồn cào ruột gan. Tên tóc đỏ vẫn luôn xuất hiện đúng thời khắc nàng cần hắn nhất. Nghĩ đoạn Lục Châu ngoảnh về phía cửa điện mong chờ được thấy bóng tóc đỏ phất phơ. Nhưng hồi đáp nàng chỉ có ánh đèn chùm rực rỡ cùng cung điện tráng lệ. Thất vọng, cô gái quay ra cửa sổ để không ai thấy đôi mắt đỏ hoe của mình ngoại trừ Vạn Thế và bầu trời đêm lạnh lẽo. 

Đơn độc giữa thế giới rộng lớn, công chúa cần ai đó nói chuyện. Phiền nỗi Chiến Tử đang bận rộn điều tra theo lệnh nàng, Hỏa Nghi ngập lụt việc dòng họ, Kh’srak không phải dạng người để tâm sự, Bất Vọng càng không, chỉ còn mỗi Tiểu Hồ. Nhưng công chúa vừa muốn gặp vừa không muốn gặp Tiểu Hồ, tâm trạng nàng bối rối khó xử. Từ ngày Vô Phong ra đi, quá nhiều thứ thay đổi theo cách chẳng ai mong muốn. 

Đương rối trí, Lục Châu chợt thấy nhân viên phục vụ gửi mình một bức thư viết tay đề tên người gửi là “Con cáo nhỏ”. Công chúa hơi mỉm cười nhưng tần ngần không muốn đọc. Đấu tranh một hồi, Lục Châu quyết định mở phong thư. Thư được bảo vệ bằng bùa ếm và chỉ mình nàng có thể đọc. Lục Châu vận phép thuật lên đầu ngón tay, từng dòng chữ tròn trịa lần lượt xuất hiện:

“Khi công chúa đọc thư này thì em đang tới Diệp quốc. Công chúa ổn chứ? Việc bầu cử thế nào? Đám Liên Hiệp Bờ Tây có gây khó dễ gì không? Xin lỗi vì gây khó dễ cho công chúa, tại em nóng giận quá. Từ lúc Vô Phong đi, mọi thứ rối tung cả lên, em chẳng biết làm gì nữa. Công chúa bỏ qua cho em được chứ?…”



Lục Châu thở phào nhẹ nhõm. Rốt cục trong muôn vàn thay đổi, quan hệ giữa nàng và Tiểu Hồ vẫn chẳng đổi thay dù có lúc nó tồi tệ tới mức tưởng chừng không sửa chữa nổi…

*

* *

Hai ngày sau khi truyền thông phơi bày sự thật về Vô Phong, Lục Châu bắt gặp Tiểu Hồ xộc vào hoàng cung với bước chân chẳng nể nang ngự lâm, Chiến Tử hay bất cứ ai cản đường. Lục Châu không cản mà để cô gái gặp riêng mình. Không lời chào hỏi hay cái ôm thân tình thường lệ, Tiểu Hồ nói:

-Tại sao vậy, công chúa? Tại sao chị hủy giao ước hộ vệ thánh sứ? Chị tin lời bọn truyền thông hay sao? Tin rằng Phong là người như bọn họ nói? 

-Ta làm điều cần phải làm, hãy hiểu cho ta. – Lục Châu trả lời – Thông tin bất lợi, báo chí sẽ công kích nếu ta cố tình che giấu. Đang giai đoạn vận động tranh cử, ta không còn cách nào… 

Tiểu Hồ nghiến răng, đôi mắt rực lửa:

-Chức vị hộ vệ thánh sứ là thứ duy nhất giúp Phong thoát khỏi mớ rắc rối này, chị làm thế khác nào giết anh ấy? Giờ Phong không thể quay về Phi Thiên nữa, anh ấy đã trở thành tội phạm! Tất cả là nhờ chị đấy, công chúa!

Mệt mỏi vì công việc, không được lời thăm hỏi lại bị oán tránh khiến Lục Châu nóng đầu. Nàng cất lời, ngữ khí bớt phần thân thiện quá nửa:

-Em và Hỏa Nghi biết chuyện của Phong, lẽ ra ta có thể giúp nếu hai người chịu nói sớm. Hỏa Nghi đã đành nhưng đến em cũng giữ bí mật với ta. Chuyện gì thế, “con cáo nhỏ”? Em sợ ta thân thiết với Phong sao? Em muốn giữ cái bí mật đó cho riêng mình để em là người duy nhất có thể chia sẻ và cảm thông với Phong? Em ích kỷ đấy, em gái à! Em nói chúng ta sẽ chơi đẹp nhưng ta chẳng thấy cách em làm đồng điệu với lời em nói đâu(**)!

Tiểu Hồ rít qua kẽ răng:

-Chị chẳng hiểu, công chúa! Chị chẳng biết gì hết! Chị tưởng Phong cứ nói tất tần tật là mọi chuyện êm đẹp và “sau đó, tất cả mọi người sống trong bình yên hạnh phúc đến cuối đời” chắc? Không, chị chẳng biết gì cả! 

-Vậy em biết cái gì, Tiểu Hồ? – Công chúa tức giận – Ta khó khăn lắm mới giành được chút ủng hộ từ Liên Hiệp Bờ Tây, giờ dính vào chuyện này, họ nghĩ ta thế nào? Ta thích Phong, thích nhiều hơn thế, nhiều hơn cả em tưởng tượng! Nhưng bầu cử không phải chuyện chơi, em hiểu chứ? 

Tiểu Hồ bước tới rồi gầm lên, mặt kề sát mặt Lục Châu:

-BẦU CỬ! BẦU CỬ! Lúc nào cũng bầu cử! Lá phiếu và đảng phái quan trọng hơn cả Phong cơ à? Công chúa biến thành người khôn ngoan từ bao giờ thế? Công chúa muốn ngồi lên chiếc ngai thủy tinh vậy sao(***)?Chính công chúa mới là người không đồng điệu!

-Vậy thì sao? Em muốn chứng tỏ cái gì? – Lục Châu nổi đóa đoạn đẩy vai Tiểu Hồ – Chỉ mình em biết quan tâm Phong thôi à? Được thôi, chiến đấu ngay tại đây! Em muốn thử xem ta quan tâm Phong thế nào không? ĐÁNH KHÔNG, Tiểu Hồ?

Trong khoảnh khắc ấy, Tiểu Hồ bóp chặt tay chừng như sắp tung đòn Hỏa niệm, cơn giận dữ đang nuốt chửng nàng. Nhưng chút lý trí cuối cùng cộng thêm cái lạnh mùa đông vương trong xuân tháng 2 dội xuống ngọn lửa trong lòng Tiểu Hồ. Cô gái lắc đầu chán ngán đoạn bỏ đi, miệng lẩm bẩm chửi bới điều gì đấy. Một mình giữa cung điện, Lục Châu nổi xung rồi ném chiếc chặn giấy vỡ cửa kính cho thỏa cơn giận dữ. Nhưng kính vỡ tan hoang mà nàng chẳng khá hơn chút nào. 

*

* *

Rốt cục những con chữ làm hòa của Tiểu Hồ tốt gấp nhiều lần chiếc chặn giấy, tâm trạng Lục Châu bắt đầu khá hơn. Liếc xuống dưới, nàng tiếp tục đọc thư:

“Em đã gặp Bất Vọng, ông ấy đồng ý chuyển về gần nhà em để tiện chăm nom Liệt Trúc. Mộng Dụ sẽ ở cùng con bé vài tháng trước khi em quay về. Hỏa Nghi cũng hứa thăm con bé khi rảnh. Liệt Trúc sẽ an toàn, đừng lo lắng. Con bé cũng cứng rắn lắm, nhưng nếu được, chị hãy hỏi thăm con bé một câu. Nó cô đơn lắm! 

Em đang tới thư viện quốc gia Diệp quốc để gửi thêm tài liệu cho công chúa. Trước khi mất, cha chúng ta nói rằng ở Diệp quốc có vài tài liệu liên quan đến cổng không gian. Chắc cha cũng nói điều này với chị rồi, Liệt Giả đang âm mưu chuyện gì đấy ở Tuyệt Tưởng Thành. Nhưng thư viện quốc gia có nhiều tài liệu mật, em cần công chúa giúp. Em cũng cần thêm một đồng minh ở đây, công chúa nhờ Thôn Tàng được không? 

Xin lỗi vì không thể ở bên công chúa lúc này. Nhưng chúng ta đều phải cố gắng thôi. Cha nói đúng, chiến tranh kết thúc không có nghĩa là hòa bình, nó mở ra cuộc chiến khác. Cố lên công chúa, bước lên ngai vàng và trở thành Bạch Dương Đệ Thập Nhất! 

Vả lại chúng ta cần cố gắng để đón Phong trở về. Tóc đỏ phải trở về đàng hoàng và được khôi phục danh dự. Phải chứ? 

Yêu công chúa nhiều!

Tái bút: đốt thư ngay sau khi đọc. Đừng để ai biết. Giữ kênh liên lạc này.

Tái bút 2: yêu công chúa lần nữa. Hi hi!”

Lục Châu thở dài, tâm trạng bớt gánh lo. Dù chưa tỏ tưởng vấn đề nhưng nàng biết tất cả đang cố gắng vì ngày trở về của Vô Phong. Nàng có phần trong đó. Nàng muốn thấy những ngọn gió nhuộm đỏ thổi qua Phi Thiên thành lần nữa và ngôi vị hoàng đế là cách duy nhất. 

Nghĩ một hồi, Lục Châu nhặt chiếc chặn giấy rồi bước vào phòng làm việc ngồn ngộn sách vở. Đại thánh sứ Tây Minh đã để lại tất cả tài liệu mà ông tìm được từ thư viện quốc gia Xích Quỷ đến thư viện Tuyệt Tưởng Thành. Công chúa ngồi xuống nghiên cứu dù chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhưng vì ngày gió Phi Thiên thành nhuộm đỏ lần nữa, nàng bỏ qua mệt mỏi lẫn mơ hồ. Đêm ấy, nàng dần hiểu cái gọi là “cổng không gian”.



Cách đó hàng ngàn cây số, trên chiếc tàu cao tốc vắng bóng hành khách, Vô Phong tỉnh giấc. Trần Độ thành thật nhiều thứ nhưng không phải tất cả. Liều thuốc Bột Khoan Não không hề “nhẹ” như lão pháp quan quảng cáo, vì nó mà tên tóc đỏ mơ mơ tỉnh tỉnh cả tuần. Hắn chỉ nhớ Mi Kha đưa mình đến Băng Thổ, hết đi rồi dừng chân vài bận. Lục địa nội chiến, Liên Minh Phương Bắc lục đục, việc đi lại qua các cửa khẩu vì thế rất khó khăn, phải nhờ quan hệ của Mi Kha mới êm xuôi. Vỗ đầu vài cái, tên tóc đỏ ngó ra cửa sổ đầy tuyết rồi hỏi cô ả Mi Kha ngồi kế bên:

-Đây là đâu? Mà cô biết đường không vậy? 

-Thâm Hàn quốc, chúng ta đang đi về cực bắc, nơi đấy khá xa, rất gần với đất Thiên Phạn. 

Vô Phong gật gù. Hắn để ý tay Mi Kha khư khư chiếc hộp ngũ giác màu đen mà cô ta lấy từ Trần Độ. Từ hồi rời Phi Thiên quốc, cô ả không bao giờ rời xa chiếc hộp quá nửa bước. 

*

* *

Ngược dòng thời gian về ngày 15 tháng 2, tại thánh đường bỏ hoang, Vô Phong quyết định để em gái ở lại Phi Thiên thành. Hắn biết Tiểu Hồ sẽ làm tất cả vì con bé, hắn cũng không thể để em gái dính vào cuộc đời lang bạt nguy hiểm của mình. Hắn gọi Liệt Trúc trở dậy, thuyết phục dỗ dành rồi dặn dò cô bé những điều cần thiết. Như hiểu tình cảnh hiện tại, Liệt Trúc không níu kéo anh trai dù đôi mắt ướt đẫm. Vô Phong ôm cô bé lần cuối. 

Trước lúc khởi hành, lão pháp quan đưa tên tóc đỏ một cái túi đựng đầy tiền rồi nói:

-Toàn bộ tài khoản của cậu đều ở đây, ta đã rút hết. Hơi tốn nước bọt với thằng cha chủ ngân hàng, cậu nên cảm ơn ta một tiếng. Đừng phung phí, cậu sẽ cần tới nó. 

-Ông định đưa tôi đi đâu? Không phải chỗ cắt xẻ nào chứ?

Lão pháp quan cười:

-Cậu luôn thắc mắc cuộc chiến năm năm trước, cái ngày mà toàn đội Thổ Hành tiền nhiệm tử trận, phải không? Đề Án Ngục Thánh rồi chiếc đĩa vàng? Và quan trọng nhất, cậu đã sống thế nào? Ta sẽ cho cậu một gợi ý. Trong cuộc chiến tranh giành tài nguyên hai mươi năm trước, Phi Thiên quốc đạt đỉnh điểm sức mạnh quân sự. Vì lẽ đó, Băng Hóa quốc đã phát triển một đề án nhằm chống lại Phi Thiên, được gọi là “Đề Án Mắt Trắng”(****). Nó là khởi nguồn mọi câu chuyện. 

-Vậy tôi nên bắt đầu từ đâu? – Vô Phong hỏi.

Trần Độ cười khanh khách đoạn ngoảnh sang Mi Kha:

-Cô gái này sẽ cho cậu câu trả lời.

Sau đấy tên tóc đỏ từ biệt Liệt Trúc rồi theo Mi Kha rời thủ đô. Hắn để ý trước lúc đi, cô ả nhận một chiếc hộp trụ kim loại với đáy ngũ giác(*****). Hắn luôn nghĩ đó là tiền công thỏa thuận giữa lão pháp quan và cô ả. 

*

* *

-Tại sao hồi năm kia, cô đến dạ tiệc tìm tôi? – Vô Phong hỏi. 

Mi Kha bật cười. Cô ả bất ngờ vận lực. Một cảm giác ghê rợn ụp xuống Vô Phong khiến hắn không thở nổi. Hai năm đã trôi qua nhưng hắn nhớ rõ thứ áp lực khủng khiếp này. Nó không đến từ thế giới vật chất bình thường, nó đến từ xứ sở người chết. Và khi Mi Kha quay sang với đôi mắt lòng đen tròng trắng, tên tóc đỏ thoáng nhận ra bóng dáng con sói Quỷ Nhãn. Bị đè nén bởi nỗi sợ, tên tóc đỏ cứng người, tay chân run lẩy bẩy. Giả như Mi Kha giết hắn ngay tại đây, hắn cũng không thể kêu lên dù chỉ một tiếng. 

Nhưng rồi cô ả tóc vàng ngừng vận lực, đồng tử chuyển về màu xám bình thường. Nhìn gã tóc đỏ tái mét mặt mày, Mi Kha cười đoạn đưa tay bẹo má hắn:

-Vì khi đó tôi nghĩ anh là kẻ giết anh trai tôi. Tôi không có ý định báo thù mà chỉ muốn hỏi anh mang cái đầu anh trai tôi đi đâu. Nhưng té ra anh không phải kẻ đó. Từ hồi ở Minh Tu thành, tôi đã biết anh không phải người cắt đầu anh trai mình.

Vô Phong lắp bắp:

-Vậy ra… Quỷ Nhãn là anh cô? Nhưng mất đầu là sao?

-Ở cuộc chiến Hồi Đằng mà anh tham gia, một kẻ khác đã cắt đầu anh trai tôi và bán cho Trần Độ. Tôi chẳng biết chuyện cho đến khi lão pháp quan tìm gặp. Lão đề nghị tôi đưa anh rời Phi Thiên quốc và tiếp cận Đề Án Mắt Trắng. Tôi có thể giúp chuyện đầu tiên nhưng việc thứ hai hoàn toàn khác, tôi từ chối. Nhưng Trần Độ thuyết phục tôi bằng cái này… – Cô ả vỗ vỗ chiếc hộp ngũ giác – …vậy là tôi đồng ý. 

Tên tóc đỏ lợm họng khi nghĩ đến vật trong hộp. Hắn tiếp lời:

-Tại sao cô cần nó đến thế?

-Để cứu dòng họ. – Mi Kha trả lời – Chúng tôi đang chết dần chết mòn vì Đề Án Mắt Trắng. Rồi anh sẽ biết, tóc đỏ à, rồi anh sẽ biết… Thế giới đang thay đổi và anh sẽ chứng kiến chúng. Sớm thôi! 

Cô ả lắc đầu không muốn nói thêm. Vô Phong trông ra ngoài cửa sổ. Tuyết trắng xóa, đêm đen đặc, không gian mịt mù như chính con đường của hắn. Tên tóc đỏ đang bước vào cuộc chiến mới nhưng chẳng biết điều gì đang chờ đợi mình phía trước. 

Nhưng ít nhất là ngay cả nơi khắc nghiệt này, gió vẫn thổi mạnh.

(*) chiếc dây bạc của Lục Châu vẫn ở trên cổ Vô Phong, xem lại Q3 Chương 111

(**) xem lại Q3 Chương 70

(***) chiếc ngai thủy tinh dành cho hoàng đế Phi Thiên ở tòa điện chính, xem lại Q1 Chương 3

(****) theo lời bác sĩ Liêu Hóa (Chu Thịnh), cuộc chạy đua vũ khí sinh hóa bắt nguồn từ Đề Án Mắt Trắng của Băng Hóa quốc, xem lại Q3 Chương 103

(*****) chiếc hộp đựng đầu Quỷ Nhãn, xem lại Q3 Chương 48
 
Quyển 3 - Chương 142: Dưới bóng mặt trăng


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

[Diendantruyen.Com] Ngục Thánh


Đầu năm 7518, sau nhiều trì hoãn, liên quân Đại Hội Đồng tiến về Tuyệt Tưởng Thành. Họ đẩy lui Chó Hoang và chiếm nửa mặt trận vùng mỏ phía bắc. Nhưng hai tháng kế tiếp, liên quân không tiến thêm được bước nào vì quân phương nam kháng cự mạnh chưa kể những tranh cãi nội bộ vì chia chác mỏ quang tố. Sau rốt chỉ có người Phi Thiên hối thúc tấn công vì thánh giới Họa Đồ vẫn cắm trên đỉnh tường thành. Họ muốn tang lễ của Tây Minh trọn vẹn. Người Phi Thiên cử tình báo xâm nhập tòa thành đổ nát truy tìm thi thể đại thánh sứ. Họ nghĩ cuộc đời ông kết thúc như những người từng chết dưới lưỡi kiếm Hệ Tôn: bị chặt đầu, treo xác trên tường thành và mục rữa trong gió sa mạc. 

Nhưng với quân đoàn phương nam, nhất là những kẻ sống sót sau trận đánh cuối cùng, chúng biết rằng chẳng có màn chặt đầu treo xác nào dù Hệ Tôn rất muốn làm vậy. Con quỷ khát máu bị Liệt Giả đã đấm tung mặt trước khi kịp nâng cao thành tích, chết giấc nửa ngày mới tỉnh. Sau đấy Liệt Giả đem chôn ngài đại thánh sứ dưới chân rẻo Mạn Đà cùng tấm bia mộ đục đẽo cẩn thận. Gã cắm thánh giới Họa Đồ lên tường thành rồi dùng phép thuật gia cố. Cây thương bạc sẽ ở đấy tới chừng nào mà bức tường còn chống chọi được thời gian. Những di sản của đại thánh sứ bỗng chốc biến thành khu vực cấm, bọn phương nam tuyệt chẳng dám bén mảng nửa bước kể cả những kẻ mạnh nhất. Không ai muốn đón nhận cơn thịnh nộ từ Liệt Giả. 

Một đêm tháng 2, Liệt Giả viếng mộ đại thánh sứ, theo sau gã là Hiệp Dung. Gã đem trà thiết mộc cùng thuốc lá đặt trước mộ – những món đại thánh sứ thích nhất. Liệt Giả ngắm nhìn ngôi mộ, tóc đỏ phất phơ giữa ngọn gió sa mạc khô cằn. Không còn mưa bạc, không còn hoa Tuyệt Tưởng, không còn bước chạy của cậu bé luôn tin vào những chuyện kể người hùng, thế giới Tâm Mộng đang chuyển mình. Gã tóc đỏ chợt hỏi:

-Có tin gì mới không? 

Hiệp Dung đáp lời:

-Bọn Chó Hoang đang đòi ngài phá rẻo Mạn Đà, chúng nó muốn khai thác quang tố.

-Bảo chúng nó dải núi bị ếm ma thuật nguyền rủa, ta không phá được. Hoặc nếu thích, chúng nó có thể mang pháo ra bắn nhưng đừng hòng lấy được quang tố dù chỉ một thỏi. 

Hiệp Dung mỉm cười đoạn tiếp tục:

-Bên Phi Thiên quốc, hai đứa con hoàng đế đang vận động tranh cử, chuyện này hơi lạ. Có khi nào Đệ Thập xuống mồ sớm chăng? Trông ông ta có vẻ già yếu nhanh hơn các đời hoàng đế trước. 

-Nhưng là hoàng đế nguy hiểm nhất họ Bạch Dương. – Gã tóc đỏ nói – Đừng tin Đệ Thập cho tới khi mọi việc ngã ngũ. 

Tên Đầu Sói gật đầu rồi tiếp tục:

-Chợ rác đang xem xét vị trí cho Thập Kiếm, có mấy ứng cử viên tiềm năng như Quạ Đen và Chiến Tử. Quạ Đen khỏi nói, Chiến Tử tự tay giết một phần ba Đầu Sói và mười mấy Sói Chúa của chúng ta – hắn giết toàn lũ sừng sỏ nhất. Nhưng chợ rác cũng đang tính chuyện đưa Vô Phong vào, họ nói Vô Phong đang là kẻ nhanh nhất thế giới vì không ai chạm nổi kỷ lục mười ba mét một giây (13m/s) của hắn. Anh chàng tóc đỏ hay ho đấy chứ? Nhưng tôi nghe nói hắn vừa rời Phi Thiên quốc, hình như do chuyện gian lận hồ sơ lý lịch?

-Phải, cậu ta gặp rắc rối. – Liệt Giả nói – Nhưng đó là số phận của cậu ta, không thể tránh được. 

-Vậy ông tính sao với Liệt Trúc? – Hiệp Dung hỏi – Để con bé ở đấy liệu có ổn? 

Gã tóc đỏ ngửa cổ nốc ngụm bia, ánh mắt vẫn không rời chiếc bia mộ:

-Liệt Trúc tạm thời vẫn an toàn. Bất Vọng đang bảo vệ con bé, Phi Thiên quốc họa có điên mới đụng vào Bất Vọng. Nhưng khi thời điểm đó xảy ra, ta sẽ mang con bé đi. 

Hiệp Dung chép miệng:

-Vậy chúng ta bắt đầu ngay tối nay? Liệu gấp quá không? Mất cơn bão điện từ, chúng ta sẽ đối mặt hàng tấn bom đạn của liên quân, sợ không chịu nổi quá nửa năm. Tôi nghĩ chúng ta nên đợi Ngài Quý Tộc mang hàng viện trợ đến.

Gã tóc đỏ lắc đầu:

-Thế giới đang đảo chiều. Thánh Vực phân hóa, đám thánh sứ trẻ sẽ liên minh với nhau và tự hành động thay vì xin phép mấy lão già. Lục Châu của Khối Ngũ Giác cùng Vi Hàn của Trục Chữ Thập đều có quan điểm tiến bộ thay vì thù hằn như đời trước, nếu họ bắt tay nhau, chúng ta sẽ gặp rắc rối. 

-Tất cả vẫn thuộc chiến lược “phương trình nhiều ẩn” của ngài chứ? 

Liệt Giả gật đầu xác nhận. Gã châm một điếu thuốc rồi đặt nó trên mộ đại thánh sứ, định rời đi thì Hiệp Dung hỏi:

-Cuối cùng thì ngài vẫn kính trọng Tây Minh. Nhưng vì sao ngài đi ngược mong muốn của ông ấy? 

Liệt Giả bỏ đi, Hiệp Dung cười nhạt rồi bước theo gã. Hai người quay lại trung tâm thành phố và tiến về Ngọn Xám. Tại cửa tòa tháp, đám bậu sậu phương nam tập trung đầy đủ từ ba kẻ mạnh nhất, người Tân Đảng hay lũ sói miền nam. Hệ Tôn đã sở hữu bộ dạng mới: tay trái bị cụt của gã được thay thế bằng một cánh tay cơ sinh học đầy kim loại lẫn dây diện chằng chịt. Nhưng có thể vì chưa quen với cỗ máy hoặc có thể vì ăn đòn quá đau mà gã nhìn chằm chằm Liệt Giả, ánh mắt căm hờn như đứa trẻ giận cha mình. Tất cả đều trông chờ gã tóc đỏ. Liệt Giả bước vào tòa tháp đoạn quay sang hỏi Hiệp Dung:

-Lực Lượng Mù Thủy chuyển hàng chưa? 

-Đã tới, thưa ngài. Ở đằng kia, mọi người đợi ngài ra lệnh! Tôi sẽ đưa “ông ta” lên đỉnh tháp ngay!

Nhìn theo hướng chỉ tay, Liệt Giả thấy bọn lâu la di chuyển những cỗ quan tài thủy tinh trên xe đẩy. Gã cuốc bộ cầu thang trong âm thanh ù ù phát ra từ cột năng lượng lam bạc chạy xuyên suốt Ngọn Xám. Ít phút sau, gã đến căn phòng tại đỉnh tháp. Căn phòng vốn đổ vỡ nay được khôi phục phần nào tựa thể miếng vá đắp chiếc áo rách. Trên miệng chiếc hố khổng lồ phát năng lượng, quân phương nam lắp đặt nhiều máy móc lẫn bảng điều khiển. Liệt Giả ngoái đầu nhìn quanh, chợt thấy một người phụ nữ gần đấy thì hất hàm: 

-Cô sẵn sàng chưa, Tịnh Hoạt? 

Người phụ nữ chậm rãi bước. Dưới ánh sáng của cột năng lượng, mái tóc trắng xóa cùng thân thể gắn đầy kim loại của cô ta xuất hiện. Phát đạn bắn tỉa không thể giết Tịnh Hoạt, cô ta vẫn sống sót cùng vết sẹo lớn ở ngực. Liệt Giả gật đầu rồi chờ đợi. Ít phút sau, Hiệp Dung mang người tới, đó là một ông già tóc bạc lốm đốm, gương mặt hằn sâu dấu vết phẫu thuật thẩm mỹ khiến tuổi già của ông ta méo mó thiếu tự nhiên. Liệt Giả bảo tên Đầu Sói lui ra ngoài đoạn hỏi ông già:

-Bắt đầu chứ, Hỏa Phu?

Ông già Hỏa Phu im lặng, thân thể run rẩy dù đêm tháng 2 sa mạc chẳng hề buốt giá. Hỏa Phu lắc đầu:

-Cậu nghĩ kỹ chưa, Liệt Giả? Ta chỉ muốn nghiên cứu khoa học, không phải thế này…

-Nhưng chính ông cũng chưa từng thấy cổng không gian, phải chứ? – Liệt Giả nhún vai – Đám khoa học các ông không phải thiên thần cũng chẳng phải ác quỷ, mà là những kẻ mở lối cho cả ác quỷ lẫn thiên thần bước vào thế giới này. Uống chút gì chứ?

Liệt Giả chìa chai bia. Biết không thể từ chối, Hỏa Phu nhận lấy, uống một ngụm lên tinh thần rồi bắt đầu thao tác bảng điều khiển. Cùng lúc, Tịnh Hoạt bước xuống hố năng lượng và lẩm nhẩm niệm phép thuật, những cuộn dây nhỏ xíu từ mặt đất trồi lên đâm vào cơ thể cô ta. Dưới sự điều khiển của Tịnh Hoạt, cột năng lượng lam bạc yếu dần, cơn bão điện từ theo đó cũng biến mất. Ngọn Xám đóng lại như bông hoa khép cánh. Lần đầu tiên sau nửa năm, người ta mới thấy ánh trăng phủ lên mảnh đất sa mạc.

Ở đỉnh Ngọn Xám, Hỏa Phu thao tác bảng điều khiển, đám phương nam lần lượt đẩy những quan tài thủy tinh vào vị trí tại đáy tháp. Mươi mười phút sau, Ngọn Xám lại khai mở lần nữa và bắn lên trời dòng năng lượng lam bạc. Tại đương trường, hàng vạn Chó Hoang lẫn liên quân ngửa cổ nhìn bầu trời. Họ nhận ra ngọn năng lượng như mũi dao nhọn xẻ khoét không gian, không khí quanh nơi ấy xoắn tụ rồi đột ngột vỡ bung tỏa ra một vòng tròn viền tím với đường kính bằng nửa tòa thành. Giữa vòng tròn tím ngắt, người ta chẳng thấy gì ngoài một màu đen thui, đen hơn cả bóng đêm tối tăm nhất thế giới Tâm Mộng. 

Đó chưa phải tất cả, người ta bỗng thấy khối màu đen giữa vòng tròn nổi lên mấy dải màu cam tựa thể tinh vân, liền sau đó một lớp màng màu trắng sụp xuống rồi mở, mở rồi sụp, cứ thế vài lần như cái chớp mắt của loài bò sát. Bất thình lình một tiếng rống từ vòng tròn dội xuống làm rung chuyển Tuyệt Tưởng Thành. Những bức tường vững chắc đầy phép thuật bảo vệ bỗng chốc rung lắc bần bật như cây non trước bão tố, hết thảy con người từ quân phương nam tới Chó Hoang run lên khiếp đảm. Họ chưa từng chứng kiến thứ nào kinh khủng như thế, ngay cả đám quái vật không trung hung hãn nhất cũng không có tiếng rống như vậy. Toàn thể Kim Ngân ngoái đầu về trung tâm lục địa, ngay cả người ở Đại Lộ Đỏ cũng nghe được thanh âm hãi hùng đó.

Khoảnh khắc chỉ diễn ra vài phút. Vòng tròn tím ngắt thu nhỏ, khối đen sì nổi những dải màu cam nọ biến mất như chưa từng tồn tại. Người ta chợt hiểu màn đêm Kim Ngân hóa ra vẫn đẹp đẽ chán so với nó và ánh trăng nhợt nhạt kia ấm ấp khó tả. Tại đỉnh tháp, Tịnh Hoạt nằm vật bên miệng hố năng lượng, mặt cắt chẳng còn hột máu. Hỏa Phu nuốt nước bọt mấy lần mới nói được:

-Cái gì vậy… Liệt Giả? Đó là cái gì? 

Trong khi cả thế giới kinh hãi, Liệt Giả vẫn điềm nhiên như không. Gã tu một hơi cạn sạch chai bia, sau đáp:

-Cổng không gian chưa đủ rộng, phải mở nó lớn hơn nữa. Cái ông cần là một chiếc đĩa vàng. Cứ làm việc đi, Hỏa Phu, tôi sẽ mang chiếc đĩa về cho ông. 

Hỏa Phu sợ hãi chống tay lên bàn điều khiển. Ông già lắc đầu đoạn ngước nhìn mặt trăng nhợt nhạt trên bầu trời, hy vọng chút ánh sáng le lói giải tỏa nỗi sợ đang gào thét trong lòng. Thâm tâm Hỏa Phu bắt đầu hối tiếc.

Ngày 24 tháng 2 năm 7518, thế giới Tâm Mộng bước vào thời đại mới bằng tiếng rống khủng khiếp từ Tuyệt Tưởng Thành. Gió vẫn thổi nhưng không còn mát lành như trước. Trăng vẫn còn đó nhưng chẳng đẹp như trước.



Hết quyển 3
 
Quyển 3 - Chương 143: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà trắng


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Cảnh báo: nội dung 17+, các bạn nhỏ tuổi trước khi đọc nên cân nhắc 
[Diendantruyen.Com] Ngục Thánh


Ly Đốc – người ta vẫn gọi tôi như thế. Ờ, người đang trò chuyện với mấy người tên là Ly Đốc hay chính tôi đây. Nếu các người có thắc mắc thì “Ly Đốc” phiên âm từ chữ “Uyjiluk”, trong phương ngữ Băng Thổ nghĩa là “con hoang”. Như đã nói, người ta gọi tôi vậy, chứ chẳng bà mẹ nào đặt cái tên khó nghe đó cho con mình. Tôi dám khẳng định luôn! Bởi tôi sống cùng mấy thằng bạn có mẹ làm gái điếm, đứa nào cũng sở hữu cái tên đẹp đẽ hơn nhiều so với quá trình chúng nó được hình thành, nếu các người hiểu ý tôi, khì khì! Tôi cũng giống chúng nó, sinh ra từ nhà thổ và chẳng biết mặt ông bố. Nhưng khác ở chỗ mẹ bán tôi cho lão quản đốc phu thuyền ngay lúc sinh ra tôi mà chưa kịp đặt tên, thế nên lão quản đốc lấy ngay chữ Ly Đốc mà gọi. Người dưng máu lạnh, tôi chẳng mong lão nghĩ ra thứ gì tốt đẹp hơn. Bởi cái tên Ly Đốc, tôi có xu hướng dễ bực mình với thế giới xung quanh. Lúc vui không sao, mà hễ buồn bực là tôi nổi khùng phá hoại mọi thứ. Giải thích dài dòng vậy để các người biết tôi không giấu giếm điều gì về bản thân, kể cả câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây cũng thế.

Nhưng hẳn mấy người vẫn còn thắc mắc về từ “phu thuyền” thì cho phép tôi dài dòng thêm chút nữa. Thuyền ở đây là “thuyền cạn”, những con tàu đóng bằng gỗ khép kín, không boong, chạy hoàn toàn bằng sức gió dùng để vượt Đồng Gió – mảnh đất nối liền hai lục địa Băng Thổ và Đông Thổ. Tôi nghe lão quản đốc kể thuyền cạn là phương tiện bay đầu tiên ở thế giới Tâm Mộng, giúp con người hai lục địa biết về nhau thay vì lầm tưởng Đồng Gió là chốn hoang mạc vô tận suốt thời gian dài. Đám bốc dỡ hàng hóa hoặc phục vụ thuyền cạn gọi là phu thuyền. Giờ tàu siêu tốc hay phi thuyền đầy rẫy nhưng chẳng phải ai cũng đủ sức chi trả phí vận chuyển, mà người ta cũng không thể nhồi nhét lũ gia súc hôi rình hay hàng buôn lậu lên mấy thứ đó. Thành thử thuyền cạn vẫn phổ biến, đám phu bởi vậy còn đất sống, dĩ nhiên không nhiều như xưa. Hai nơi sử dụng thuyền cạn nhiều nhất là Hoàng Hôn Cảng ở Băng Thổ - nơi tôi đang sống, kế đến là Khẩu Lỗ thành phía bên kia Đồng Gió.

Đi thuyền cạn tốn sức, cả khách lẫn phu thuyền chủ yếu là đàn ông, đàn bà con gái hiếm vô cùng. Mà nếu có thì tôi dám chắc ả ta không phải đàn bà! Hoàng Hôn Cảng tập hợp hàng nghìn gã đàn ông thở phì phò sau cuộc hành trình dài hay mệt mỏi vì xa nhà, nhà thổ mọc lên như lẽ tất yếu. Ngay lão quản đốc biết tuốt của tôi cũng chẳng biết gái điếm xuất hiện ở đây từ bao giờ. Theo hệ quả, tôi, đám trẻ giống tôi, đám lớn tuổi hơn tôi chung đội phu cùng bao thế hệ con hoang khác đã trở thành một phần lịch sử thành phố. Hầu hết các bà mẹ gái điếm đều gửi hoặc bán đám con bất đắc dĩ này vào đội phu thuyền, cách duy nhất nhưng cũng tốt nhất. Quản đốc khoái phu trẻ con vì chúng đa năng, ngoài bốc dỡ còn chịu làm mấy việc mà đám người lớn ngại làm như nấu ăn, lau sàn, dọn dẹp mấy thuyền cạn vương vãi phân gia súc, quan trọng hơn cả là tiền công rẻ mạt. Tôi mới mười sáu tuổi nhưng tuổi đã làm phu mười năm, vài đứa khác còn lâu hơn song chẳng đứa nào đòi hỏi chuyện tăng lương. À… thực ra là có đứa lên tiếng với lão quản đốc rồi, nhưng răng của nó bể nhanh hơn lời nó nói, thế nên bọn tôi chẳng dám hó hé thêm lần nào nữa. Gọi lão quản đốc là cha, gọi mấy đứa lớn lên cùng mình là anh em, cuộc đời con hoang lẫn phu thuyền của tôi là vậy.

Nhưng làm phu thuyền không đến nỗi nhàm chán. Tin tôi đi, nhiều thú vui lắm, miễn sao các vị đủ sức khỏe! Tôi có cái thú làm việc cật lực, bốc dỡ lau dọn cả ngày cho đến khi mệt nhoài, thường là tầm chiều muộn. Khi đó tôi sẽ leo lên tường thành, ngửa cổ trông từng chiếc thuyền cạn trượt trên đường ray không tà vẹt cao ba trăm mét và đổ nghiêng góc sáu mươi độ, sau đấy bay ra Đồng Gió giữa màu hoàng hôn cam đỏ. Hôm nào hứng chí, tôi cố sức leo lên đỉnh đường ray, chứng kiến cảnh thuyền cạn khởi hành ở một góc độ hoành tráng gấp nhiều lần. May mắn nhất là một lần được lên thuyền ra Đồng Gió, dù rằng chỉ nửa đường là tôi phải đổi ca quay về, tôi chưa từng đặt chân đến Khẩu Lỗ thành. Nhiều năm như thế, không chán sao? – Nếu các người hỏi. À, nhìn hàng chục năm nên lắm lúc hơi chán nhưng hiện tại tôi vẫn yêu thích nó. Còn chuyện sau này? Đấy là chuyện sau này!

Mà đó chẳng phải thú vui duy nhất. Tôi làm việc ở cửa khẩu đông thành phố, ai từng du lịch hay ghé qua đây đều biết quận đông Hoàng Hôn Cảng có cái gì. Phải, hộp đêm và nhà thổ. Nhưng đừng nghĩ cái mà các vị sắp sửa nghĩ, khì! Chẳng thằng phu thuyền mười sáu tuổi nào có tiền vào đấy trừ phi ăn cướp, mà nếu có cũng bị đá ngay vì nơi ấy chỉ tiếp người đủ mười tám tuổi. Ăn diện hay khai gian tuổi cỡ nào cũng chẳng ăn thua vì dấu vết nghề phu thuyền hằn rất rõ trên bàn tay trong khi lũ canh cửa nhà thổ có cặp mắt chó sói. Thú vui mà tôi nói ở đây là đứng ở tầng cao khu chứa hàng, tốt nhất là tầng hai hoặc ba rồi phóng mắt xuống con phố cách đấy chừng năm mươi mét. Con phố rất đặc biệt vì hàng giờ hàng phút đều có gái điếm đi qua. Hồi bắt đầu có nhận thức đầy đủ, thằng nhỏ trong quần tôi đã cương cứng khi nhìn xuống con phố đó, mà tôi không chắc lắm giữa cương cứng và nhận thức đầy đủ thì cái nào xuất hiện trước. Tôi cũng thừa nhận mình lưu giữ hình ảnh những cô gái trong đầu, đợi khi riêng tư thì rút “kiếm” – cái cách mà bọn đàn ông Băng Thổ diễn tả một cách hoành tráng thay cho danh từ ít hoành tráng hơn: dương v*t – và thủ dâm. Chuyện càng thêm hay ho khi một thằng trong đội phu mõi được cái máy ảnh ở đâu đấy, sự thể về sau hẳn ai cũng biết. Dưới lớp đệm giường ọp ẹp của tôi có hẳn một xấp ảnh được trả giá hai thùng vàng, vài cái trong số chúng đã nhàu nát ít nhiều. Thật khó cho một thằng con trai đang tuổi lớn. Khì!

Khổ nỗi thủ dâm hàng ngày mà chẳng có hơi đàn bà thực sự khiến tôi chán chường. Hồi đầu còn thú vị, sau nản, cảm giác giống thằng bệnh hoạn tự biết mình bệnh hoạn vì không có khả năng hiện thực hóa sự bệnh hoạn đó. Nhưng nói vậy chứ tôi vẫn cắn răng bỏ thêm hai đồng vàng để nhập khẩu thêm tư liệu từ thằng chụp ảnh. Lý trí tuổi này non nớt bao nhiêu thì bản năng mạnh mẽ bấy nhiêu. Bọn choai choai luôn đầu hàng trước bộ ngực lẫn cặp giò đầy đặn, tôi cũng không ngoại lệ. Tôi dần cảm thông cho đám nghiện ngập, đầu óc tôi chẳng khác mấy bọn họ. Cuộc sống cứ như vậy mãi tới ngày tôi gặp chị…

Tôi bắt gặp chị trong một ngày như bao ngày, lúc ấy tôi đang cùng đám bạn chỉ trỏ xuống con phố quen thuộc và mồm miệng không ngớt bình phẩm tục tĩu. Chị đi cùng một cô gái điếm khác nhưng chẳng hề giống cô ta. Đám bạn của tôi để ý cô gái điếm kia vì bộ ngực phây phây cùng cặp mông mây mẩy của cổ, chỉ mình tôi để ý chị. Chị mặc chiếc váy không quá ngắn cũng chẳng quá dài, đôi bốt đen ôm chân cùng áo khoác cao cổ giữ ấm. Gái điếm phố này luôn cố ý hở hang chỗ nào đấy bất kể trời ấm hay rét cắt da, còn chị như cô gái bình thường đang tản bộ, chẳng hề quan tâm có ai ngó mình hay không. Đặc biệt nhất là mái tóc đen của chị. Tóc dài, ngọn tóc xoăn gợn sóng chảy xõa bên vai như che giấu điều gì đó mà nếu được, tôi sẽ hộc tốc chạy đến rồi bất chấp tất cả để hất nó lên. Khoảnh khắc ngắn ngủi, chị mất hút ở đoạn giao lộ, bỏ sau lưng đôi mắt ngờ nghệch và cái miệng há ra ngây ngốc của tôi.

Tối hôm đó tôi về phòng, lấy xấp ảnh đoạn rút “kiếm” như thói quen thường lệ. Giữa lúc ấy, hình ảnh chị hiện lên khiến tôi bần thần. Trong vô thức, tôi cất xấp ảnh đi, “kiếm” cũng xìu từ bao giờ. Có cái gì đó ngăn tôi làm vậy.

Thế giới này thật lắm điều kỳ lạ.

Té ra đấy không phải lần duy nhất tôi gặp chị. Chừng vài ngày sau, một vị quý tộc cùng đám kiếm sĩ hộ vệ đến cảng thuyền cạn, nghe đâu là đón bạn hàng quan trọng. Họ dừng chân ở khu chờ đặc biệt, chỉ số ít người qua lại trong đó có tôi đang chuyển hàng. Giữa đoàn người, tôi bắt gặp chị đứng bên vị quý tộc nọ, tay tôi luýnh quýnh suýt đánh rơi thùng hàng. Chị đẹp quá! – Tôi chỉ biết thốt lên như vậy, lần đầu tiên tôi hiểu chữ “đẹp” là thế nào. Trên đôi guốc cao lẫn bộ váy đen thêu sợi kim cương, chị như vươn khỏi mặt đất và tách biệt hẳn với đám đàn ông. Giống lần trước, chị vẫn để tóc xõa. Nó chẳng hề rối rắm mà khiến chị càng thêm lộng lẫy, càng khiến tôi khao khát lật mái tóc ấy. Ông quý tộc lùn không ngừng ngước nhìn chị, đám kiếm sĩ đứng sau chồn chân vì mãi chẳng thấy chị ngoảnh lại cho họ thấy mặt, lũ phu thuyền may mắn như tôi được bước vào đây thì không thể chú tâm công việc vì mải ngắm chị. Giữa hàng chục cặp mắt ấy, chị chỉ nhìn về Đồng Gió như vị nữ hoàng đứng trên tất cả trông về điều xa xăm, còn lũ đàn ông lâu nhâu phía dưới chẳng bao giờ hiểu nổi điều xa xăm đó.

Một thoáng trôi qua, chị ngoảnh đầu nhìn quanh như chán vì đợi lâu. Các người, để tôi kể rõ chi tiết này. Nó quan trọng lắm nên tôi phải miêu tả rõ! Nghe này, chị ngoảnh đầu sang và nhìn tôi. Thực sự là thế! Chị nhìn tôi đứng trên tầng lửng phòng chờ. Lần đầu tiên tôi thấy rõ dung diện lẫn đôi mắt sắc của chị. Đôi mắt ấy tựa thể chiếc lá liễu mà bén như mũi kiếm phủ lấy tôi. Tôi cứng người, năm ngón chân khum lại, bấu mạnh ngăn cơ thể sụm xuống. Rồi chị mỉm cười với tôi, không phải điệu nhếch mép khinh khi, chẳng giống cái cười khẩy miệt thị, chỉ là cười. Chị cười vừa trìu mến vừa trêu chọc, khuôn môi son màu đỏ phớt kiểu muốn nói “Nhóc phu thuyền nhìn chị dữ vậy?!”. Bị đôi mắt sắc lẫn nụ cười đó áp đảo, tôi bối rối chùn chân. Dùng từ “bối rối” để tả một thằng nhóc Băng Thổ lớn xác như tôi thực bất đồng điệu, nhưng quả thực tôi rất bối rối, thậm chí ngượng ngùng.

Vị khách đến, đoàn người rời đi cùng ông ta, đôi mắt chị tiếp tục lướt qua tôi lần nữa. Đợi lúc họ hoàn toàn biến mất sau cánh cửa nhà chờ, tôi mới nhận thức chân mình hóa đá còn thùng hàng rớt khỏi tay từ lúc nào. Đêm đó về phòng, tôi chỉ mơ tưởng về chị, hoàn toàn quên khuấy chuyện thủ dâm. Tôi không nghĩ thằng nhóc mười sáu tuổi lúc nào cũng hừng hực khao khát làm tình lại quên dễ dàng chuyện thủ dâm như thế.

Thế giới thật lắm điều kỳ lạ.

Tôi từng nguyền rủa Vạn Thế cho mình thân phận con hoang, nhưng chính tôi cũng tạ ơn cây mẹ vì ban cho may mắn. Đợt tháng 6, hàng hóa phong phú, cảng thuyền lắm việc, lão quản đốc bảo tôi tăng ca lúc ba giờ sáng. Bốc hàng, lau dọn, chuyển hàng… làm việc tầm ấy đã mệt lại buồn ngủ, ban đầu tôi rất ghét. Nhưng vào một ngày đáng ghét như thế, tôi bắt gặp chị bước ra từ khu chợ cảng, trên tay là một bó hoa. Tôi không biết hoa gì vì lũ đàn ông Băng Thổ ngu nhất chuyện định dạng thực vật, chỉ biết hoa nhiều tầng cánh màu hồng phớt, đẹp đẽ vô khuyết như chính chị vậy. Tôi không biết chị vừa ngủ dậy hay đi làm về song chị vẫn đẹp tựa thể có quy luật mặc định rằng hễ xuất hiện giữa cõi đời này, chị luôn đẹp. Tôi vô thức theo chị, đến khi chị dừng chân bên máy bán nước tự động, tôi ngừng bước rồi ngơ ngẩn ngắm nghía. Phát hiện sự có mặt của tôi lẫn vẻ ngô nghê mà tôi mang trên mặt, chị nghiêng đầu cười:

-Ồ, nhóc phu thuyền! Chúng ta lại gặp nhau!

Chị nhớ tôi! Chị nhớ thằng ôn con phu thuyền giống bao thằng ôn con phu thuyền khác vốn chẳng bao giờ lọt vào mắt ai. Trí óc ngập tràn vui sướng lại nảy lật bật những cục hồi hộp, tôi gần như á khẩu, hầu như chẳng thể kiểm soát cái lưỡi hay những ngôn từ sắp thốt ra. Nhưng thật may, trước khi tôi kịp phun lời ngu si nào đấy thì chị nói:

-Nhóc làm giờ này à? Không mệt sao?!

Tôi gật gật đầu rồi cười cười một cách đần độn. Chị cười mỉm đoạn chỉ vào cốc trà thiết mộc trên tay mình, ý hỏi tôi muốn uống hay không. Tôi lắc đầu. Chị hớp ngụm trà, khuôn miệng nhỏ thở làn khói lạnh, thi thoảng cười như biết tôi đang ngây dại ngắm nghía chị. Lần đầu tiên tôi được nhìn chị kĩ càng như thế. Tôi nhận ra chị sở hữu vóc dáng cao gầy, sống mũi cao lẫn đôi mắt to của phụ nữ Băng Thổ - điều mà các cô gái Đông Thổ khao khát điên cuồng, gương mặt chị nhỏ nhắn thanh tú như phụ nữ Đông Thổ - điều mà các cô gái Băng Thổ luôn thèm muốn. Chị là con lai như mảnh đất Đồng Gió giao giữa hai lục địa. Bần thần mãi, mãi, mãi, mãi, tôi mới líu ríu mở mồm:

-Chị mua hoa?

-Ừ! – Chị cười.

-Hoa gì thế?

-Hoa trà. – Chị trả lời.

-Sao lại mua lúc này? Mà mua hoa lúc nào chẳng được?

Chị lắc đầu:

-Hoàng Hôn Cảng ít đất trồng, hoa trà hiếm, may ra ở vườn nhà đám quý tộc thì có. Hoa nhập ở tây bắc lục địa về đây, mua sớm được rẻ hơn. Nhóc biết đám lái buôn người Xa Vịnh quốc chứ? Khó mặc cả với họ lắm, chỉ còn cách này thôi!

Tôi gật gật. Nhìn bó hoa rồi nhìn chị, tôi càng thêm ngượng ngùng, người ngợm thu lu co rúm. Các người hẳn sẽ phì cười nếu chứng kiến bộ dạng tôi lúc ấy, cứ tưởng tượng một con gấu to uỵch cuộn tròn vào bụng nó trông thế nào thì tôi y hệt vậy. Chị lại hỏi tôi uống hay không, lần này tôi đồng ý. Chị mua cho tôi cốc trà rồi cười:

-Lần sau gặp nhé!

Chị bước đi, mái tóc đen gợn sóng khẽ rung nơi bờ vai nhưng vẫn không chịu hất lên để tôi trông thấy điều ẩn giấu bên dưới. Chẳng để tâm trà nóng bỏng tay, tôi cứ nhìn theo không biết chán. Một thoáng giật mình, tôi cất bước gọi với:

-Khoan… chị tên gì?

Bấy giờ chị dừng chân, đầu hơi ngoảnh lại:

-Mục Á.

Kể từ đó, tôi đem cái tên “Mục Á” lên giường ngủ thay vì dán mắt vào ảnh gái điếm. Nhưng tôi không mường tượng chị để thủ dâm. Chưa một lần. Chưa bao giờ. Tôi đặt cái tên “Mục Á” ở nơi đẹp đẽ nhất, trang trọng nhất mà một thằng ôn mười sáu tuổi có thể nghĩ ra. Đêm ấy tôi không ngủ nổi vì trà thiết mộc, vì chị, vì cái tên chị, vì cái đẹp của chị, vì “Mục Á”. Thế giới thật lắm điều kỳ lạ.

Cũng kể từ đó, tôi yêu thích công việc ba giờ sáng. Tôi làm cật lực, hăng say lẫn hồi hộp mong chị quay lại. Và đúng là chị quay lại thật. Tháng 6 năm ấy hoa trà về nhiều, chị tới thường xuyên, tôi có dịp trò chuyện cùng chị nhiều hơn, lúc nói chuyện xã giao, lúc vài câu vô thưởng vô phạt nào đấy về đám con buôn gian manh người Xa Vịnh quốc. Khi đã quen hơn, tôi hỏi chị làm ở đâu. Chị không giấu giếm:

-Đông Môn Cao Lầu, nhóc biết chứ? Ừ, chị làm gái ở đó.

Tôi không lạ. Đông Môn Cao Lầu nổi tiếng nhất Hoàng Hôn Cảng vì tập trung những gái làng chơi đẹp nhất. Vấn đề là chị nói tự nhiên như thể công việc hành chính. Tôi đồ rằng trong hàng ngũ mười cô đẹp nhất Đông Môn Cao Lầu, chị xếp thứ nhất và bỏ rất, rất, rất, rất xa người đứng thứ hai. Rồi chị hỏi tên tôi. Vì chị thực lòng nên tôi cũng trả lời thành thực. Nghe tên “Ly Đốc” của tôi, chị nhíu mày:

-Ly Đốc? Uyjiluk? Chẳng bà mẹ nào đặt tên con mình như thế… là quản đốc đặt cho, đúng không?

-Ừ… – Tôi gật gật – Em bị mẹ bán, lão quản đốc kể thế.

-Ồ?! Xin lỗi nhóc! – Chị ngạc nhiên.

Mắt chị hơi mở lớn, chị thực sự ngạc nhiên trước việc tôi cho là bình thường. Tôi căm ghét thế giới nhưng không cần chị an ủi. Đàn ông Băng Thổ không cần ai cảm thông. Nhưng chị không nói, chỉ cười đoạn nghiêng đầu về phía máy bán hàng tự động:

-Bia không?

Tôi gật đầu ngay. Tôi ngắc ngứ một cốc trà thiết mộc cả buổi chứ bia thì dăm mười chai không vấn đề, bọn phu thuyền vốn nốc đồ cồn từ bé. Tôi tu một hơi dài đoạn thở phà hơi khói giữa trời rét căm căm. Chị uống trà, nhìn tôi bằng cái nhìn dành cho gã đàn ông trưởng thành. Bỗng thấy tôi mím môi, làm bộ mặt ra vẻ căng thẳng học đòi người lớn, chị phì cười. Chị giấu nụ cười sau cổ tay, sau lòng bàn tay ửng hồng vì lạnh, sau những ngón tay thanh dài đầy đặn, sau vài tơ tóc rối khẽ rung lên vì gió từ ngoài Đồng Gió ập vào. Tôi lại si đần thêm lần nữa như nhà thám hiểm vừa khám phá ra kỳ quan mới. Chị nói với tôi:

-Lần sau gặp nhé!

Phải, lần sau. Tôi tự nhủ, hy vọng sẽ khám phá thêm điều gì khác về chị, hy vọng lúc nào đấy chị sẽ vén mái tóc đen lên để tôi được thấy điều tuyệt vời bên dưới. Những tháng gặp gỡ chị, tôi hầu như chẳng thèm để ý con phố gái điếm hay những xấp ảnh. Có đợt thằng chụp rao bán ảnh gái khỏa thân, lũ bạn giành giật nhau mua còn tôi hoàn toàn bàng quan. Bởi lẽ hình ảnh chị lấp đầy tâm trí tôi mất rồi.

Nhưng bẵng đi nửa tháng, một tháng rồi ba tháng, chị chẳng quay lại khu cảng dù đang mùa hoa trà. Tôi chờ mãi, cố trông về cửa chính khu cảng nhưng chẳng gặp chị. Thậm chí tôi chạy đi hỏi đám con buôn Xa Vịnh quốc nhưng họ không biết (mà có biết họ cũng không trả lời miễn phí, đám Xa Vịnh luôn bẩn tính!). Ngay cả con phố quen thuộc cũng không còn bóng chị nữa. Tôi đâm lo lắng, không biết chị đi đâu hay sức khỏe thế nào. Thi thoảng tôi ra chỗ máy bán hàng tự động, dằn lòng dốc túi tiền ít ỏi mua cốc trà thiết mộc mà chị thường uống. Tôi có kể về chị cho một đứa bạn thân làm cùng đội phu, thằng này cũng con hoang, lớn lên cùng tôi từ tấm bé. Nó nói:

-Gái điếm thôi mà?! Mày nghĩ gì thế? Thôi nào bạn tôi, chỉ là gái điếm thôi! Gom tiền từ bây giờ đi, khi nào đủ thì đi quậy! Hê hê!

Phải, chỉ là gái điếm thôi mà! – Tôi tự nhủ. Những tháng thiếu vắng chị, tôi trở lại cuộc sống trước kia: làm việc từ sáng đến tối, lúc rảnh rang thì tìm chốn riêng tư giải quyết nỗi bức xúc của thằng ôn hừng hực tuổi lớn. Nhưng thề trước Vạn Thế, trong mọi khoảnh khắc rùng mình năm giây hay kể cả trước đấy, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chị. Chị ở trong căn phòng đẹp nhất ở tim tôi, hễ tôi nổi cơn ham muốn thủ dâm thì căn phòng lập tức đóng sập lại. Nó chỉ hé mở khi tôi lang thang quanh cảng lúc ba giờ sáng và mở toang lúc chiều muộn, khi tôi trèo lên tường thành ngắm thuyền cạn trượt xuống Đồng Gió. Giữa giá rét bạt ngàn phương bắc, tôi mới được phép bước vào căn phòng ấy để ngắm nghía, nâng niu hình ảnh của chị.

Thế giới lắm điều kỳ quặc.

Dạo nọ, lão quản đốc nhận chở thực phẩm đến bữa tiệc cho một nhà quý tộc. Quý tộc Băng Thổ đãi khách hậu, họ không quan tâm thực phẩm thừa mứa ê hề cỡ nào, miễn sao hoành tráng. Nhờ lần đó, tôi được tận mắt thấy những lâu đài chóp nhọn, những cánh cửa sắt trang trí hoa văn, những bờ rào tỉa tót đều tăm tắp, những khu vườn trồng vô vàn thực vật lạ mắt lẫn bọn quái vật không trung vốn chỉ nghe đồn như vân cước hay thiên tặc. Lần đầu tiên tôi trông thấy đám quý tộc ăn vận sang trọng, các cô tiểu thư xúng xính váy đầm cùng mái tóc vấn cao. Đương mải chuyển hàng, tôi chợt ngây người. Bởi lẽ đôi mắt tôi trông thấy chị. Chị ở giữa bữa tiệc, khoác bộ váy đỏ thêu họa tiết màu hoàng kim, đôi mắt sắc kẻ mi cong vút cùng đôi môi thắm đỏ, chỉ duy mái tóc đen vẫn xõa dài. Tôi nhận ra trong bán kính mười mét từ chỗ chị đứng, đám đàn ông lẫn đàn bà đổ dồn ánh mắt về phía chị. Và cái bán kính đó càng lúc càng rộng, tới độ nhiều người lầm tưởng bữa tiệc tổ chức dành cho chị. Nhìn cách chị cười nói với người đối diện, cách chị giữ ly rượu vang bằng ngón nhẫn và ngón giữa, tôi bỗng thương hại cho đám quý cô học đòi làm thượng lưu hay kể cả những tiểu thư thừa hưởng dòng giống thượng lưu. Dường như chị chẳng cần học ai, cứ kiêu sa lộng lẫy tự nhiên như thể Vạn Thế đã ban cho chị đặc ân đó. Đến nỗi tôi có thể dùng tay trần bới lên vô số ghen tị trong ánh mắt của những cô tiểu thư đài các đang nhìn chị.

Một thoáng qua đi, chị nhìn quanh và chợt trông thấy tôi. Chị ngạc nhiên, sau đi tới với những bước chân thanh thoát trên đôi guốc cao. Chị nghiêng đầu cười như lần đầu gặp gỡ:

-Nhóc phu thuyền cũng đến đây sao? Lâu quá không gặp, khỏe không?

Tôi bàng hoàng. Vẫn là chị Mục Á tôi quen biết, nhưng sao chị khác quá! Chị như bà hoàng đứng từ đỉnh cao trông xuống dù tôi cao bằng chị. Chợt thấy người ta chú mục về chỗ này, tôi vội chào trả rồi bỏ đi trong sự ngỡ ngàng của chị. Tôi kiếm chỗ nấp, thấy chị vẫn chờ đợi, tôi bèn trốn kĩ hơn. Đợi khi chị đi khỏi, tôi mới quay lại công việc.

Đêm đó về phòng, tôi chợt hiểu chị thuộc về nơi nào đấy xa xôi diệu vợi hơn cả Đồng Gió. Tôi, dù cách này hay cách khác, dù cố gắng thế nào chăng nữa, dù đàn ông cỡ nào đi nữa cũng chẳng đến được mảnh đất đó. Tôi từng có mộng tưởng về chị, nhưng sau lần gặp gỡ này, tôi chợt nhận ra mộng tưởng chỉ là ảo tưởng. Chị ghé chân khu cảng mua hoa như ánh trăng bàng bạc tìm chốn vắng lặng nghỉ chân, để vài con thú hoang như tôi ra chơi đùa mà không hề biết rằng phía sau ánh trăng ấy là vầng mặt trời rực rỡ khắp thế gian và khiến vạn vật phải phủ phục. Không bao giờ, không cách nào, không một phương thức nào, không một phép thuật thần kỳ nào để tôi có được chị. Tôi buồn. Nỗi buồn xa xôi chẳng thể khỏa lấp.

Nhưng thay vì nảy sinh bực tức, nỗi buồn lại khiến tôi cầu Vạn Thế ban điều tốt đẹp cho chị và chúng nhất – định – phải – là những điều tốt đẹp nhất. Quả thực tôi cầu mong chị phải sánh vai bên người đàn ông tuyệt vời nào đấy, không phải quý tộc cũng chiến binh hạng nhất, hoặc chí ít là thánh sứ tên tuổi. Cuộc đời chị từ giờ đến lúc biến mất khỏi thế giới phải ngập tràn hạnh phúc. Nếu có thể làm điều gì đó cho chị hạnh phúc, tôi sẽ làm. Lần đầu tiên tôi ước ao như thế. Lạ quá! Sao lạ quá! – Tôi tự nhủ. Tôi luôn chửi thầm lão quản đốc cùng mẹ lão mỗi khi lão đánh tôi, tôi cũng thừa nhận mình luôn bắt nạt đứa đàn em ít hơn năm tuổi, có lúc nguyền rủa vô cớ một đứa trẻ đi ngang qua đường chỉ vì nó mặc quần áo đẹp, trêu chửi gã vô gia cư què chân và lấy việc gã bò lết vỉa hè làm thú trêu chọc. Vì là con hoang nên tôi căm thù cả thế giới. Tôi là thằng khốn, một kẻ xấu, một đứa mất dạy.

Vậy mà tôi đang làm gì? Tin được không? Tôi cầu cho chị hạnh phúc! Tại sao chị không cho tôi dấy lên bất cứ ý nghĩ xấu xa nào? Nghĩ vậy tôi liền vọc tay vào quần, thủ dâm rồi tưởng tượng chị là con điếm đang quẫy đảo trên người mình, vừa kêu rên vừa thở ra mấy câu tục tĩu mà bất cứ thằng đàn ông nào cũng muốn nghe. “Mạnh mẽ lên nào Ly Đốc, nhóc thích chị Mục Á, đúng không? Mạnh nữa lên nào!” – Tôi tưởng tượng vậy hòng làm ô uế hình ảnh chị. Nhưng mọi việc chẳng theo ý tôi muốn. Càng tưởng tượng, tôi càng thấy có lỗi với chị, tới khi không chịu được thì bật dậy rồi vùi mặt trong lòng bàn tay. Tôi không thể làm vậy với chị. Có gán bao nhiêu ngôn từ “con điếm”, “nhà thổ” hay “Sukka” cho chị, chị vẫn không hề bị dây bẩn. Nhưng nỗi buồn còn nguyên đó, tôi không thể gạt nó ra khỏi đầu.

Tôi giữ nỗi buồn ấy cho đến một tuần sau, tôi bắt gặp chị quay lại khu cảng mua hoa. Tôi tránh đi chỗ khác và âm thầm theo dõi. Chị ra chỗ máy bán hàng tự động mua cốc trà, thỉnh thoảng nhìn quanh quất. Chị tìm tôi chăng? Không! – Tôi tự nhủ. Đời nào chị để ý thằng nhãi con phu thuyền như tôi? Chẳng qua chị nhìn theo thói quen. Lúc đó thâm tâm tôi nảy ra vô số ý nghĩ bồng bột. Tôi muốn thấy chị đau đớn, muốn thấy đôi mắt sắc lá liễu của chị phải rỏ lệ, muốn thấy hình ảnh chị hoen ố để tôi thoát khỏi nỗi khổ sở này – nỗi khổ mà ta không thể nghĩ xấu xa về người khác dù chỉ một chút. Nó quá phi thực!

Chị đứng đó nửa tiếng rồi rời khu cảng, tôi liền bám theo. Tới con hẻmthiếu ánh đèn, nhận ra nơi này ít người qua lại, tôi nắm chặt tay. Tôi biết mình khỏe hơn chị, biết rõ những góc khuất đằng kia sẽ ngăn cản âm thanh thoát ra ngoài, thậm chí nếu tôi bóp cổ đủ lực thì chị muốn rên cũng khó. Ở khoảnh khắc đó, tôi muốn cưỡng hiếp chị, muốn bôi bẩn chị để thế giới này đúng nghĩa là cái thế giới mà tôi luôn căm thù, để tôi luôn xấu xa và không thể trở thành người tốt. Có vẻ chị không hề biết có người theo đuôi, tôi dợm chân chuẩn bị kế hoạch dơ bẩn. Nhưng càng gần bao nhiêu, tôi càng thấy rõ mái tóc đen hờ hững bên vai chị bấy nhiêu, ngửi được cả mùi dầu thơm từ mái tóc. Tôi chợt nhớ mình đã luôn muốn vén mái tóc ấy lên như thế nào. Đồng thời tôi nhận ra mình sẽ bị Vạn Thế trừng phạt thảm khốc nếu dám động vào chị.

-Ai đấy?

Như nhận ra người theo đuôi, chị quay lại. Đúng khoảnh khắc đó tôi nhào đến giật phăng chiếc túi xách trên tay chị rồi chạy một mạch. Tôi nghe bó hoa rơi trên đất, nghe được đôi chân chị đuổi theo nhưng chẳng có tiếng la hét nào. Tôi hộc tốc chạy khỏi hẻm vắng, vòng qua khu phố kế bên rồi theo dõi sự tình từ một chỗ kín đáo. Tôi thấy chị lao ra ngoài, đôi mắt sắc nhìn quanh quất. Chửi bới đi! La hét đi! – Tôi tự nhủ. Gái điếm coi tiền như mạng, bị cướp chắc chắn chửi mà đã chửi thì ngoa ngoắt. Tôi muốn trông thấy chị giống con người, giống cái dạng thực thể mà tôi luôn thấy hằng ngày và luôn căm ghét. Nhưng tôi chờ mãi mà chị chẳng phản ứng, chỉ lẳng lặng quay lại khu hẻm nhặt bó hoa ra về. Đêm đó rồi cả ngày hôm sau chẳng có cảnh binh nào lai vãng khám xét, dường như chị không báo mất cắp. Tôi đem chiến lợi phẩm về phòng mà buồn rười rượi, buồn hơn cả lúc tôi hiểu sự thật rằng mình chẳng cách nào sở hữu chị. Mà liệu chị nhận ra tôi? Hôm nay tôi mặc bộ quần áo khác, hẻm tối hù, chắc chị nhìn không ra. Vả lại chị quanh năm gặp gỡ hàng trăm con người, sao nhận ra được? – Tôi lắc đầu cười.

Để xua tan nỗi buồn, tôi lục túi xách của chị, bới ra son phấn, ít tiền lẻ, vài tờ hóa đơn và một chiếc đồng hồ đeo tay nạm ngọc trắng gân đỏ. Tôi không rõ ngọc gì cũng chưa từng thấy thứ ngọc nào lấp lánh ánh gân đỏ màu máu như thế, chỉ đoán nó rất mắc. Hẳn giờ này chị nước mắt ngắn dài vì mất chiếc đồng hồ quý giá. Tôi từng khao khát đôi mắt lá liễu của chị rơi lệ nhưng vừa mường tượng cảnh đó, phổi tôi thắt lại như có ngụm nước đá chảy tộc xuống cuống họng. Nhưng vì nỗi quyết tâm làm kẻ xấu, tôi đem bán chiếc đồng hồ ở quận tây thành phố. Tôi vẫn nhớ rõ gương mặt gã chủ tiệm đồ cũ há hốc mồm nhìn chiếc đồng hồ như thế nào, tưởng chừng nhét cả con bò vào vẫn lọt. Gã trả tôi sáu mươi thùng vàng, tôi không chịu mà đòi cao hơn, cuối cùng ngã giá một trăm thùng vàng. Một trăm thùng vàng! Tôi chưa từng thấy xấp giấy bạc nào nhiều như vậy!

Chắc mấy người cũng đoán được chuyện tiếp theo. Tôi cắt tóc, sắm bộ quần áo thật bảnh, lò dò tới quận đông rồi dúi tiền cho đám bảo kê để chúng khỏi quan tâm tôi đủ tuổi hay không. Lần đầu tiên tôi biết những loại rượu mạnh đến mức đủ sức đánh gục thằng đàn ông Băng Thổ mạnh mẽ nhất, những mùi hương đàn ông và đàn bà quấn lấy nhau, những làn khói đặc quánh đầy chất ma dược khiến người ta mất nhận thức về thời gian. Và gái điếm. Trước mặt một cô gái điếm nọ, tôi huyên thuyên đủ thứ, bốc phét những điều hay ho thuộc về tôi mà thực sự là chúng thuộc về người khác. Tôi thấy lạ. Tôi có thể buông lời tán tỉnh không biết sượng mồm với đám gái điếm, mà sao trước mặt chị, tôi như con thú hoang khúm núm sợ sệt trước ánh trăng lộng lẫy? Nghĩ ngợi ít lâu, tôi phẩy tay. Tôi không quan tâm chị nữa, chỉ biết là tôi sắp lên giường với một cô gái. Trông cô bốc lửa hơn chị nhiều!

Sau cơn quay cuồng, tôi lên giường với cô gái nọ. Rốt cục tôi cũng được thấy, được sờ, được vày vò, được nuốt vào miệng bộ ngực đàn bà mà tôi luôn thèm thuồng mỗi khi thủ dâm. Nhưng giữa lúc đó, tiếng đạp cửa vang lên, kế đến là tiếng ả điếm hú hét. Ai đấy hay cái gì đấy đập mạnh vào đầu tôi khiến tôi ngã lăn ra đất. Tôi vùng dậy cố gắng chống trả. Tôi đánh nhau được, xưa nay chưa từng cam chịu, cũng gọi là thằng đầu bò đầu bướu trong đội phu. Nhưng rượu lẫn ma dược làm tôi mềm nhũn dưới trận đòn như mưa trút. Tôi thấy lũ người đánh mình gồm năm sáu gã, trông có vẻ giống kiếm sĩ, phía sau chúng là một tay trẻ măng. Tôi nhận ra gã trẻ măng là quý tộc dựa vào bộ y phục sang trọng và cách bọn kiếm sĩ gọi gã là “Múy” – phiên âm chữ Muj phương ngữ Băng Thổ dùng để chỉ người có địa vị cao. Gã Múy đó cúi xuống đoạn chìa ra chiếc đồng hồ nạm ngọc trắng gân đỏ, chính là chiếc tôi đã bán. Tôi giật mình. Gã Múy gằn giọng:

-Mày biết cái gì đây không? Đồng hồ khảm quang tố! Mày biết quang tố là hàng cấm không? Mày biết phải thân quen quan chức chính phủ cỡ nào mới có nó không? Mày biết lọc được đoạn bụi quang tố rồi nén chúng thành hạt như vậy tốn công thế nào không?

Gã vừa nói vừa chỉ chỉ vào chiếc đồng hồ. Khi tôi nhận thức được rằng bán cả gia tài cũng đừng hòng mua nó thì trận đòn tiếp tục giáng xuống. Tôi bắt đầu sợ chết. Tôi biết mình sẽ bị đánh chết và sẽ chẳng ai quan tâm tôi chết vì tôi là con hoang. Ngay khi nỗi sợ lên tới đỉnh điểm, tôi bỗng thấy tiếng chị đâu đây:

-Thôi đừng đánh nữa, thế là đủ rồi!

Tiếng chị vừa dứt, cơn mưa đòn lên tôi cũng dứt. Bằng cặp mắt đầy máu sưng húp, tôi thấy chị đứng cạnh gã Múy nọ và thì thầm chuyện gì đấy với gã. Chị nói tới đâu, mặt gã dãn ra đến đấy. Sau rốt nhờ chị mà tôi được tha. Tôi thấy chị nhìn cơ thể trần như nhộng của tôi, gương mặt chẳng chút biểu cảm như vị nữ hoàng trông xuống kẻ phạm nhân vừa chấp hành xong hình phạt. Đám người bỏ đi, chị cũng bước theo và không nhìn tôi thêm lần nào nữa.

Bằng chút sức lực ít ỏi, tôi lết khỏi quận đông rồi vạ vật trên con hẻm cho người vô gia cư – cái nơi mà tôi vẫn thường ghé qua để trêu chửi gã vô gia cư què chân. Tôi nghĩ về chị. Hẳn chị đã báo cho người tình quý tộc, tay đó nổi điên rồi lùng sục khắp thành phố, cuối cùng tìm ra tôi. Tôi giận chị. Nhưng tôi nhận ra mình xứng đáng bị như vậy. Tôi định cưỡng hiếp và bóp cổ chị, tôi định giày vò chị chỉ vì không tìm nổi lý do để ghét chị, để gán điều xấu xa nào cho chị. Tôi xứng đáng bị như thế, Vạn Thế luôn công bằng. Nghĩ tới đó, tôi mỉm cười. Đến giờ phút này tôi vẫn không thể ghét nổi chị mà thực lòng mong chị hạnh phúc, vậy nên tôi vui sướng khi mình trở thành tạo vật đáng tởm trong mắt chị, trở thành thứ mà chị căm ghét. Bởi lẽ ấy chị sẽ không gặp tôi, sẽ không để tôi nhen nhóm bất cứ ý định thoát khỏi cái vỏ “thằng mất dạy”. Và tôi có lý do để tiếp tục căm thù thế giới này như tôi đã từng.

Nhưng khi gặp Na Li Nã, tôi biết mọi chuyện không phải thế. Na Li Nã – cô gái điếm có bộ ngực phây phây mông mây mẩy thường đi chung với chị mà tôi vừa kể ở trên – bắt gặp tôi trên phố. Cổ lôi tôi ra chỗ vắng rồi chửi xối xả. Cổ nói gã Múy nọ là con của một trong những nhà tài phiệt thế lực nhất thành phố và cả đất nước này, gần xêm xêm với họ Thát nổi tiếng. Gã không tiếc quà tặng chị kể cả chiếc đồng hồ nạm quang tố. Na Li Nã kể chị biết tôi chôm chỉa ở con hẻm vắng đó nhưng không báo cảnh binh vì sợ tôi gặp rắc rối. Gã Múy căn vặn hỏi chiếc đồng hồ, chị đáp ráo hoảnh rằng vì bất cẩn mà đánh mất. Gã Múy nổi khùng nhưng không dám đụng vào chị nên cho người lùng sục khắp Hoàng Hôn Cảng và tóm được tôi. Nghe xong chuyện, tôi bỗng thấy tội lỗi. Gã Múy nọ chắc chắn không phải loại người dễ kiên nhẫn, giả sử không tìm được chiếc đồng hồ, gã sẽ làm gì chị? Tôi không dám tưởng tượng. Đêm hôm ấy tôi không ngủ được vì khóc. Tôi đẩy chị vào rắc rối thậm chí nguy hiểm. Tôi không muốn thế. Cũng đêm đó, tôi nhận ra làm kẻ xấu tồi tệ đến mức nào.

Thế giới này thật kỳ lạ…

Dăm hôm sau, tôi kết thúc công việc lúc ba giờ sáng thì bắt gặp chị bước ra từ khu chợ cảng, trên tay là bó hoa trà trắng. Hoa đẹp đẽ thanh khiết như chị vậy. Tôi thấy chị, chị cũng thấy tôi. Tôi cúi đầu toan chạy thì chị gọi:

-Hèn vậy sao, nhóc?

Tôi dừng chân, máu nóng sôi não. Tôi không hèn, đàn ông Băng Thổ không biết chữ “hèn”! Tôi liền quay lại, chậm chạp bước đến sẵn sàng nghe chị chửi bới. Chị có quyền làm vậy, chị được quyền làm vậy và Vạn Thế cho phép chị làm vậy. Nhưng rồi chị vén mái tóc xù xịt của tôi, rờ nhẹ những vết sưng bằng ngón cái và ngón nhẫn. Tôi thấy rõ bàn tay chị thuôn dài đẹp đẽ tựa hồ đôi cánh thiên nga trắng muốt. Tôi thoáng rùng mình, sợ rằng mồ hôi đương nhễ nhại khắp trán mình sẽ làm vấy bẩn đôi cánh ấy. Nhưng chị không để tâm, chỉ cười:

-Bia không?

Tôi gật đầu. Chị mua bia cho tôi, lần này thay vì trà, chị uống bia cùng tôi. Cũng như bao lần, chị im lặng và để tôi ngắm chị, hoàn toàn không đề cập sự vụ đáng xấu hổ mấy ngày trước. Nhưng tôi không thể im lặng mãi. Tôi cảm thấy mình sẽ vô cùng hèn hạ nếu không lên tiếng xin lỗi. Thu hết can đảm, tôi mở lời:

-Chị Mục Á…

Tôi chưa nói xong, chị đã cướp lời:

-Ở đây có chỗ nào hay ho không? Ý chị là nhóc thích ngồi ở đâu nhất?

Tôi bối rối, sau thành thực đáp rằng mình thích ngồi trên đỉnh đường ray thuyền cạn nhất. Chị bảo tôi đưa mình đến đó, tôi ngập ngừng từ chối nhưng tim phổi mềm nhũn khi nghe chị nài nỉ. Tôi bỗng hiểu tại sao gã Múy nọ chịu nghe lời chị như thế. Tôi dẫn chị ra khu tường thành rồi đưa lên đỉnh đường ray bằng thang máy. Tôi lại hỏi chị lần nữa, giọng hơi run:

-Người yêu của chị, anh ta còn giận không?

-Người yêu? – Chị phì cười – Thằng cha đó? Không, làm ăn thôi, nhóc à! Moi được đồng nào của gã thì moi, chẳng yêu đương gì cả!

-Sao vậy? Anh ta là quý tộc giàu có mà? – Tôi ngạc nhiên.

Thang máy mở cửa, chị vừa đi vừa lắc đầu:

-Nổi khùng vì chiếc đồng hồ rồi đem người đánh một đứa trẻ con, yêu loại người như vậy được không? Mà hắn có cái đồng hồ ấy nhờ cha hắn, không phải hắn. Thà làm mẹ hắn còn hơn là làm vợ. Chị không ngu đâu nhóc!

Nghe chị nói thế, lòng tôi bỗng chộn rộn. Vui nữa!

Đỉnh đường ray là nơi lạnh nhất khu cảng, gió buốt tạt lộng óc, ngay cả kỹ sư bảo dưỡng đường ray còn ngán. Nhưng chẳng hiểu sao đêm ấy gió lặng, thi thoảng mới rãy lên vài đợt, bầu trời quang đãng mở ra cả vũ trụ đầy sao cùng ba mặt trăng xoay quanh thế giới Tâm Mộng. Tôi dám khẳng định rằng vì chị xuất hiện ở đây nên Vạn Thế làm thời tiết bớt khắc nghiệt. Chị vươn vai hít hơi lạnh căng lồng ngực đoạn ngồi xuống ngắm nhìn Đồng Gió phía xa. Tôi nhớ cái ngày chị nhìn về Đồng Gió như vị nữ hoàng trông về điều xa xăm, giờ vẫn vậy. Chị bảo tôi ngồi cùng, tôi nghe theo và cùng chị trông về Đồng Gió. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy miền đất hoang mạc đơn điệu ấy đẹp xa xôi, đẹp diệu vợi như thế.

-Nhóc sống khó khăn hả? – Chị bỗng cất lời – Phu thuyền mà, khó hơn cả đám Sukka bọn chị nữa! Nhưng đừng trộm cắp, nhóc không phải loại người đó.

Tôi hơi run rẩy. Tôi muốn kể cho chị nghe lý do tôi hành động như thế. Nhưng nghĩ lại, nó thật khùng điên, tôi sợ chị sẽ đánh giá mình là kẻ điên khùng. Tôi muốn thú tội rằng có lúc tôi cố dùng hình ảnh chị nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý, nhưng tôi không có gan nói. Đấu tranh tâm tư liên tục, lưng tôi chảy đẫm mồ hôi dù trời lạnh ngắt. Thấy vậy, chị vén tóc qua một bên và chống má nhìn tôi trìu mến:

-Nhóc muốn nói gì nào?

Tôi nhớ khoảnh khắc ấy. Tôi nhớ rõ khoảnh khắc ấy, suốt đời không quên! Bởi dưới ánh trăng bạc, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi được thấy nửa sau cổ của chị - cái điều huyền bí nằm dưới mái tóc đen mà tôi vẫn luôn thắc mắc. Nó hơi gồ lên đốt xương sống, thẳng và hơi dài. Chữ “hơi dài” nghĩa là nằm trên trung bình một chút. Chỉ một chút để tôi biết chị có cổ hơi dài chứ không lấn sang khái niệm “dài”. Nó đẹp đẽ, đẹp qua cả ngưỡng thuần khiết, hơn cả bó hoa trà trắng nằm trong lòng chị. Dưới ánh trăng bạc, tôi nhận ra chị như thiên nga. Đàn ông Băng Thổ tàn nhẫn máu lạnh nhưng phải tan chảy trước thiên nga. Đàn ông Băng Thổ chưa bao giờ giết thiên nga. Tôi cũng vậy. Ngay khoảnh khắc đó, tôi bưng mặt khóc. Tạ ơn Vạn Thế! Tôi thầm cảm ơn cây mẹ khéo sắp đặt, khiến con quỷ bên trong tôi chưa vọt ra vào cái ngày theo chị vào con hẻm vắng. Và tôi tạ ơn cây mẹ cho tôi được chứng kiến điều mà bao thằng đàn ông Hoàng Hôn Cảng khao khát mỗi khi ngắm chị. Tôi khóc rưng rức còn chị cười lớn:

-Này sao thế? Đừng như vậy chứ! Này nhóc, đàn ông Băng Thổ không khóc vì phụ nữ đâu! Đàn ông Băng Thổ khóc ngoài chiến trường, hiểu chứ hả? Khó coi quá!

Tôi gật gật, mũi sụt sịt. Chị liền đưa khăn giấy và tiếp tục ngắm Đồng Gió. Được một lúc, chị hỏi:

-Nhóc định làm phu thuyền tới bao giờ? Có dự tính tương lai chưa?

Trong cơn kìm nén khóc lóc và ra dáng đàn ông, tôi nói nghẹn:

-Em… em định làm phu thuyền chuyên nghiệp. Em muốn đi qua Đồng Gió. Em muốn thấy bên kia Đồng Gió.

-Nghe như phiêu lưu ấy nhỉ? – Chị cười.

Tôi gật đầu xác nhận nỗi ham thích nực cười đó. Tôi không thích công việc phu thuyền lắm, nhưng nó là cơ hội duy nhất cho tôi tận hưởng cảm giác phiêu lưu. Tôi chưa từng kể niềm ham mê ấy cho ai, chị là người đầu tiên. Nghe thế, chị ngửa cổ nhìn bầu trời, cả vũ trụ đầy sao lẫn ba mặt trăng thu vào đôi mắt sắc của chị:

-Nhóc đã nghe “Đạo Chích Không Trung” chưa? Họ bắt quái vật, đám quý tộc thành phố này mua quái vật từ bọn họ. Đạo Chích không đi thuyền cạn, họ bay trên thăng vân tàu, rong ruổi suốt cuộc đời giữa không trung, đến những miền đất mà không người Tâm Mộng nào có thể đặt chân tới. Chị nghe họ bay qua cả Lằn Ranh Đỏ ở lục địa Kim Ngân, săn bắt vô số loài quái vật trong truyền thuyết. Nhưng nguy hiểm lắm, nhóc chịu được không?

-Có thực sao? – Tôi mở lớn mắt – Có cái gọi là “Đạo Chích Không Trung” sao?

-Ừ. – Chị gật đầu cười – Vì cha chị từng là Đạo Chích Không Trung.

-Vậy ông ấy ở đâu? Em theo ông ấy được không?

Chị lắc đầu, đôi mắt thoáng tia buồn. Chị không kể mà giữ điều đau buồn cho riêng mình. Tôi phần nào đoán được số phận người cha của chị. Giá như tôi có thể chia sẻ cùng chị. Nhưng tôi không dám nói ra, bèn chuyển chủ đề:

-Nhưng tại sao chị nói về Đạo Chích Không Trung? Em theo nghề đó được sao?

-Nhóc đàn ông mà! – Chị gật đầu – Đã phiêu lưu thì phải ra dáng phiêu lưu chứ? Đồng Gió bé lắm, sao rộng lớn bằng bầu trời trên kia? Đàn ông Băng Thổ đâu ngại nguy hiểm, đúng không?

-Em chỉ là thằng mất dạy, em không phải đàn ông… – Tôi lắc đầu.
 
Quyển 3 - Chương 144: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà My


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Cảnh báo: 19+, các bạn nhỏ tuổi và các bạn nữ trước khi xem nên thực sự cân nhắc 
[Diendantruyen.Com] Ngục Thánh


“Nghề gái điếm bạc bẽo, làm gái Băng Thổ bạc hơn vôi” – người ta hay nói vậy, đặc biệt là các bà mẹ, họ không muốn con gái mình lao vào cái nghề có “truyền thống” cả trăm năm ở lục địa Băng Thổ này. Tôi thì tin trăm năm còn ít, dễ cả ngàn năm không chừng! Này, đừng nghĩ tôi làm điếm mà không biết mấy chuyện lịch sử nhe mấy người! Với tư cách cựu nghiên cứu sinh chuyên ngành văn hóa và từng phục vụ thánh sứ, tôi có thể khẳng định lịch sử Băng Thổ gắn liền với đĩ điếm. Mà không riêng tôi, ngay những giáo sư hay nhà nghiên cứu có tiếng cũng thừa nhận điều đó trong những bộ sử liệu đáng tin cậy – phòng trường hợp mấy người nói “không nghe điếm kể chuyện”. Chẳng đâu xa, Biệt Liên Đại Đế - vị hoàng đế vĩ đại nhất lục địa thời phi cơ giới, cha đẻ Băng Hóa quốc hùng mạnh vốn xuất thân con hoang, kết quả của cuộc tình chóng vánh giữa một nhà quý tộc và gái làng chơi. Nhiều trận chiến đẫm máu trên xứ sở này cũng vì gái điếm mà ra, dù người ta cố che đậy bằng lý do khác như mâu thuẫn chính trị hay tranh giành lãnh địa. Lúc nói chuyện với Mục Á, tôi hay đùa rằng cái xứ Đại Bàng Phương Bắc này – biệt danh rất kêu của Băng Thổ – vốn chui từ háng đàn bà mà ra. Mục Á không đáp, chỉ cười.

Nhân tiện, để tôi nói mấy người nghe: chẳng nơi nào trên xứ Tâm Mộng coi trọng địa vị như Băng Thổ, nơi mà luật pháp kỷ nguyên hiện đại lẫn lộn với định kiến xã hội thời phi cơ giới. Ở xứ này, địa vị là tất cả. Có thân phận quý tộc nghĩa là được tôn trọng, được gọi là “Múy”, được tham dự những buổi tiệc tùng thừa mứa, được đeo những gia huy đúc bằng vàng trên cổ áo và được quyền ịn mông lên mặt luật pháp (nếu mông đủ to! Hi hi!). Khi có quá nhiều đặc ân, như câu ngạn ngữ “sướng quá hóa rồ”, đám quý tộc nảy nòi thói trăng hoa và dần dà thành bản sắc. Những gã đàn ông thượng lưu kể cả đã lập gia đình rất thích giao du với đám gái điếm tận cùng xã hội. Tôi đã phì cười khi biết vài gia tộc xứ Hoàng Hôn Cảng này thù hằn nhau chỉ vì ông tổ của họ tranh giành một cô gái điếm. Hài hước nhưng chuyện thật đấy, mấy người cứ đến đây thì biết!

Dù gì cũng là kỷ nguyên hiện đại, chuyện quý tộc đánh nhau vì gái đã thành dĩ vãng. Nhưng việc họ ganh đua chơi xấu nhau vì gái điếm là có thật, họ thích thế cho cuộc sống thêm gia vị như rắc hạt tiêu lên miếng trứng ốp la. Đó là khởi điểm cho những mơ mộng kiểu đàn bà. Nếu anh chàng nào muốn cưa gái Băng Thổ thì nghe kỹ lời tôi: đám con gái xứ này mơ mộng lắm! Vạn Thế khá công bằng khi ban cho đàn bà Băng Thổ vóc dáng cao, đôi mắt to mơ màng lẫn mái tóc vàng óng mượt, bù lại bơm vào đầu họ sự ngây thơ quá độ hay còn gọi là ngu ngốc. Vạn Thế luôn công bằng! Từ tấm bé, các cô luôn mơ tưởng thành công chúa sánh vai bên chàng quý tộc điển trai, thích lãng mạn hóa mấy vụ đấm đá của lũ nhõi đít nhoi nhoi. Nói vậy là mấy anh khỏi cần tôi diễn giải tiếp ha! Nhưng cẩn thận! Vạn Thế luôn công bằng, có loại cừu ngây thơ thì tức là có loài sói cái, những con sói ranh mãnh ác nghiệt hơn cả sói đực và sẽ ngấu nghiến các anh như quái vật tàn ảnh nuốt mồi. Chỉ có một điểm chung duy nhất giữa bọn cừu và lũ sói cái: thèm muốn tiền bạc địa vị.

Bởi cái bánh “đoạn kết cổ tích có hậu” được chia đều cho cả sói lẫn cừu nên đàn bà Băng Thổ dễ vướng nghề đĩ điếm. Dẫu biết bánh có hạn, ăn hết miếng này thì chẳng có miếng khác, kích cỡ mỗi miếng to nhỏ khác nhau nhưng không vì thế mà người ta dừng lại. “Này, Na Li Nã…” – Mẹ căn dặn tôi khi tôi đang tuổi dậy thì – “…đừng nghĩ về quý tộc, chẳng tốt đẹp gì đâu! Rồi con sẽ sa chân như đi lạc giữa rừng tuyết!”. Tôi nhớ lời mẹ, tự sắm vai một cô gái khôn ngoan và trở thành nghiên cứu sinh. Nhưng rồi nhiều biến cố lẫn nông nổi dài đến mấy trang giấy mà giờ tôi ngồi ở Đông Môn Cao Lầu này, dĩ nhiên là làm gái. Muốn “tâm sự” với tôi chứ? Bây giờ các người chỉ có khả năng gặp tôi thôi, còn Mục Á? Không được đâu, hi hi, cổ kín lịch rồi! Muốn gặp tôi thì ra gặp thằng cha bố mì dưỡn dẹo ở sảnh chính Đông Môn Cao Lầu, gã sẽ chỉ dẫn, luật ở đây là vậy, thông cảm nhe! À, chưa nói với mấy người, tôi tên là Na Li Nã.

Nói về Đông Môn Cao Lầu, nơi này khác hộp đêm bình thường. Tôi không rõ nó xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết đã tồn tại hơn nửa thế kỷ. Hồi mới vào, tôi nghe gã bố mì kể người lập ra Cao Lầu muốn gái điếm kiêm nhiều vai trò thay vì mỗi việc nằm ngửa cho bọn đàn ông cưỡi. Chúng tôi cần xuất hiện ở những bữa tiệc, theo chân khách hàng đón tiếp nhân vật quan trọng, làm đồ mặc cả không chính thức cho những bản hợp đồng, đôi khi sắm vai tình nhân của khách hàng. Nói chung, sắc đẹp là màu nước đặc biệt và quý tộc trả tiền để chúng tôi tô điểm bức tranh thượng lưu của họ. Nhưng đôi lúc công việc chỉ đơn giản là dùng chung bữa và lắng nghe khách hàng tâm sự, cùng đi dạo hoặc xem nhạc kịch cùng họ. Đàn ông tàn nhẫn sắt đá nhưng không phải ai cũng chịu được sự cô đơn. Đây là cơ hội tốt nhất để kiếm một chàng quý tộc bảnh bao, hoặc tệ lắm là một ông già ngoài sáu mươi tuổi nhưng giàu có. Những gái điếm kiểu này được gọi là Hạ Nga Chi, phiên âm từ chữ “Hattabi” trong ngôn ngữ Băng Thổ là “họa mi cầu vồng” – một loại chim hót hay, lông vũ lấp lánh bảy màu tuyệt đẹp, chỉ có thể tìm thấy ở lục địa Thượng Cổ và được giới quý tộc Băng Thổ ưa chuộng vô cùng.

Nhưng chỉ số ít gái điếm được vậy. Sắc đẹp bẩm sinh, cử chỉ duyên dáng, may mắn… cần vô khối thứ mới trở thành Hạ Nga Chi. Tôi thuộc số hiếm hoi này bởi Vạn Thế ban cho tôi cặp mông tròn vạnh cùng bộ ngực hồng hào mà bọn đàn ông trông thấy chỉ muốn vùi mặt vào đến độ tắc thở. Hi hi! Trong mười cô gái kiếm nhiều tiền nhất cho Cao Lầu, tôi đứng đầu bảng. Hi hi! Nhưng không tính Mục Á nhé! Cô ta ngoại hạng rồi! Cổ mới là báu vật thực sự của Đông Môn Cao Lầu. Nghĩ tới đó, tôi ngoảnh sang Mục Á rồi gợi chuyện bằng giọng nguýt dài:

-Hôm trước thằng cha quý tộc bên Đông Thổ tặng quà cho cô hả? Dây chuyền đính kim cương? Tốt ghê! Trông hắn đẹp trai đấy! Chẳng ai như cô cả, toàn cặp đám chịu chơi chịu chi, trẻ nữa! Trông tôi này, đang phải làm “tay vịn” cho ông già sáu chục!

Mục Á cười, điệu cười bàng quan nhưng không vô tư lự, trước giờ vẫn vậy:

-Thì tôi vẫn chỉ là con điếm, khác gì chị?

Tôi khẽ thở dài rồi gật đầu đồng ý với cô. Phải, Hạ Nga Chi hay “Hattabi” chỉ là cách gọi chứ bản chất Sukka chẳng hề thay đổi. Phía sau mỗi bữa tiệc hoành tráng, mỗi bữa ăn sang trọng, mỗi buổi đi dạo tâm tình, mỗi thương vụ làm ăn, tôi lại lên giường với khách hàng (hoặc đôi khi không phải giường mà là ghế, tràng kỷ, bên cửa sổ hay bất cứ nơi nào mà lũ đàn ông nghĩ ra). Nghĩ lại mấy chuyện đó, tôi chẳng phiền lòng chút nào. Thật đấy! Chẳng chút buồn bực gì hết vì nó đơn thuần là công việc, không phải mấy thứ đau khổ mà mấy người thường nghe từ miệng gái điếm đâu! Hi hi! Tôi chỉ thấy buồn cười hơn vì gã đàn ông nào cũng ngu ngốc bất kể quý tộc hay kẻ tầm thường. Cá nhân tôi cho rằng đầu óc họ vẫn mắc kẹt ở thời đại nguyên thủy, hầu như không tiến hóa chút nào! Tôi coi thường họ, thật đấy! Làm gái điếm là vậy, có thể bị bất cứ ai khinh thường, nhưng cũng có thể khinh thường bất cứ ai, nhất bọn đàn ông. Người đàn ông duy nhất trên đời mà tôi kính trọng là cha mình. Ông chưa bao giờ khiến mẹ con tôi buồn, chỉ một lần duy nhất là quân đội Hoàng Hôn quốc đưa giấy báo tử của ông về nhà. Ông mất trong cuộc chiến tranh tài nguyên.

Quay lại vấn đề! Chuyện tức cười đầu tiên là rất nhiều gã đàn ông tin rằng nghề gái điếm dành cho bọn đàn bà khát tình, nhất mấy thằng nhõi mới lún phún râu trên lẫn “râu dưới”. Lũ ranh đang tuổi ăn tuổi lớn này nghĩ bọn tôi thuộc những cá thể giống cái thèm thuồng tình dục và thủ dâm mọi lúc mọi nơi như chúng. Tôi không phủ nhận mình từng thủ dâm khi bắt đầu tuổi dậy thì và mất trinh với bạn trai năm mười bảy tuổi (gái Băng Thổ mất trinh sớm, như tôi là còn muộn!). Nhưng điều đó không có nghĩa tôi chọn nghề gái điếm vì cần hơi đàn ông như thức ăn nước uống. Hồi chưa trở thành Hạ Nga Chi, tôi phải tiếp một thằng nhãi mười sáu tuổi học đòi làm người lớn. Giả như thằng bé ngượng ngùng hồi hộp, thần tình lo lắng lẫn phấn khích do sắp được ngửi hơi đàn bà, tôi sẽ chẳng ngần ngại ấp mặt nó vào ngực mình và đóng vai người chị nuông chiều đứa em hư đốn. Tôi thích những cậu trai nhỏ tuổi dễ thương. Nhưng chẳng hiểu thằng cu con học đâu cái thói chễm chệ trên giường kiểu ông hoàng quyền lực, sau đó huýt sáo vẫy vẫy ngón tay gọi tôi lại phục vụ nó như gọi chó đến giờ ăn. Trông mặt thằng lỏi non choẹt, tôi phì cười. “Này nhóc, chị còn chưa cởi áo mà sao đã dựng cột thế kia?” – Tôi nhìn vào đũng quần ngồng lên như kim tự tháp của nó – “Lần đầu hả? Lần đầu thì không nổi một phút đâu cưng! Biết dùng bao cao su chưa vậy? À, đi tắm đi, nhóc bốc mùi quá đấy!”. Như bị nói trúng tim đen, thằng nhóc cứng đờ mặt rồi chạy khỏi phòng trong dáng dấp một bại tướng thua trận nhục nhã. Sau vụ đó, gã bố mì tát tôi tím mặt vì làm khách bỏ về. Ôi Vạn Thế ơi, nghĩ lại chuyện ấy tôi vẫn không nhịn nổi cười.

Rồi thì chuyện tức cười khác – mà gọi “bực mình” thì đúng hơn – là bọn đàn ông nghĩ đàn bà có sẵn bản năng lưỡng tính. Vô số gã đến đây yêu cầu chúng tôi diễn trò quằn quại cùng một cô gái khác, còn họ ngồi ngoài ngắm nghía và thủ dâm. Đợt đó tôi mới vào nghề rồi bị ép làm trò đó với một người đàn chị. Vừa đưa miệng lại gần cửa mình của chị, tôi rú lên đoạn chạy ra ngoài bụm miệng ngăn cơn nôn mửa. Không phải chị hôi hám, chị rất sạch sẽ, nhưng chuyện quan hệ đồng giới làm tôi phát ói. Đàn bà con gái chúng tôi khoái ôm ấp nhau, thi thoảng bóp ngực nhau trêu đùa, đôi lúc bàn chuyện làm tình bậy bạ không có nghĩa rằng chúng tôi dễ dàng chấp nhận tình dục đồng giới. Đấy chỉ là đặc điểm giới - thứ mà người ta gọi là “nữ tính”, tương tự đám đàn ông thể hiện chất nam tính qua đánh lộn, địa vị xã hội và khả năng chinh phục đàn bà. Trở lại chuyện chính, người đàn chị chạy theo xoa đầu tôi an ủi “Rồi sẽ qua thôi, em gái! Rồi sẽ qua thôi!”. Vì tiền, vì sợ gã bố mì bạt tai, tôi nghe theo chị, dần dà quen việc đó rồi dẫn dắt lứa đàn em. Tôi vẫn nhớ như in một đứa đàn em khóc ngay tại trận khi vừa ngậm bầu ngực của tôi. Khổ thân con bé, nó mới mười sáu tuổi! Sau nhiều năm chung đụng thể xác với hầu hết gái điếm ở Đông Môn Cao Lầu, tôi vẫn kinh tởm chuyện tình dục đồng giới, chỉ khác rằng tôi chấp nhận nó như một phần công việc và giả vờ say mê nhằm chiều lòng khách hàng. Tôi dợm nghĩ ở một thế giới khác nơi nữ quyền trên hết còn đám đàn ông làm nghề trai bao, một phụ nữ có thể yêu cầu hai gã trai bao quằn quại so “kiếm” nhau, cảnh tượng sẽ thế nào nhỉ? Ê, mấy anh đừng ói chứ! Hi hi!

Và điều hài hước nhất là sau mỗi lần hành sự, đám đàn ông lại phủ phục trên bụng tôi rồi ngước bộ mặt lấm tấm mồ hôi, thở hồng hộc “Này Na Li Nã, em… có sướng không?” hoặc “Na Li Nã, em thấy “kiếm” của tôi… to không?”. Ôi Vạn Thế ơi, mỗi lần nhắc chuyện này tôi lại cười rũ rượi. Kích cỡ, muôn thuở là kích cỡ, nỗi ám ảnh cùng cực của cánh đàn ông. Họ sợ bọn gái điếm chúng tôi bàn tán anh chàng này “kiếm” to thằng cha kia “kiếm” nhỏ, sợ gái điếm nhìn mình bằng ánh mắt khinh miệt vì mới vào chiến trường đã tử thương, sợ mình kém cỏi hơn thằng bạn – đứa mà hôm trước vừa khoe khoang rằng có thể làm cái giường kêu cọt kẹt liên tục trong một tiếng đồng hồ, sợ mình kém bản lĩnh đàn ông. Nghe nè, cá nhân tôi, gái điếm ở Cao Lầu và tất cả những gái điếm tôi biết đều không quan tâm to nhỏ. Tất nhiên nhỏ quá cũng là vấn đề vì tạng người Băng Thổ vốn cao lớn sẵn, đàn bà cao trung bình trên một mét bảy (1m7), chưa kể tôi cao một mét tám (1m8). Làm nghề gì cũng cần cảm hứng, phải không? Nhưng cái cách bọn đàn ông quan trọng hóa kích cỡ khiến tôi phát mệt. Vì chuyện nhỏ to to nhỏ, họ hùng hục đẩy hông như ngựa giống đang kỳ động đực hòng lấp liếm rằng “kiếm” của mình chỉ cỡ trung bình. Trung bình thì sao? Nghĩ đàn bà chúng tôi chê cười sao? Yên tâm đi, chúng tôi không bình phẩm chuyện đó như cái cách bọn đàn ông bàn tán công khai cặp mông của một cô ả vừa đi ngang qua như các người đâu! Tất cả là sản phẩm của những câu chuyện hài hước tục tĩu mà bọn đàn ông phịa ra để bôi xấu phụ nữ. Nhưng tôi biết dạng đàn bà nào quan trọng chuyện kích cỡ đấy! Để tôi chỉ nhé: là những mệnh phụ phu nhân quý tộc rỗi việc, những bà cô năm mươi tuổi góa chồng thừa hưởng đống của nả giàu có, những bà mẹ kế nhận ra đứa con riêng của chồng ngon lành đẹp trai gấp tỉ lần ông bố nó. Hỡi các anh có “kiếm” to, nếu các anh muốn chứng tỏ chất đàn ông kiểu đó thì đến Hoàng Hôn Cảng này tìm mấy bà cô nọ. Hi hi!

Sơ sơ mấy chuyện vậy thôi chứ thực ra còn dài lắm! Nói chung trước khi trở thành Hạ Nga Chi, tôi tiếp xúc hầu hết khách hàng lẫn những trò phòng the quái đản trừ bạo dâm. Nhắc lại, trừ bạo dâm! Tôi không bao giờ dính dáng vụ đó, kể cả Đông Môn Cao Lầu cũng không khuyến khích gái điếm tham gia. Mấy người nghĩ rằng nó đơn giản là kích thích cảm giác mạnh hay chút thú vị khác lạ? Các người sẽ thay đổi suy nghĩ nếu gặp lũ quý tộc miền tây bắc lục địa Băng Thổ - một nơi xa xôi lạnh lẽo đến mức linh hồn con người hóa đá, vô cảm, dễ chấp nhận thú tiêu khiển bạo lực. Cao Lầu thi thoảng tiếp vài đám khách kiểu này và không thể từ chối mãi, mỗi lần như thế, gã bố mì buộc phải lựa vài cái tên, còn tôi trốn thu lu một góc cầu nguyện Vạn Thế hoặc ôm một cô gái khác như bầy gia súc biết mình sắp vào lò mổ. Tôi chưa bao giờ bị chọn, tạ ơn Vạn Thế! Cứ nghĩ lại chuyện ấy, sống lưng tôi lại rùng lên tựa thể tấm bạt hứng gió táp.

Nỗi sợ chỉ chấm dứt khi tôi trở thành Hạ Nga Chi. Một Hattabi, một họa mi cầu vồng nghĩa là không thể xâm phạm, luật lệ giới làng chơi từ xưa đã vậy. Tôi trở thành của báu ở Đông Môn Cao Lầu, được quyền khước từ khách hàng nếu kẻ đó làm tôi không ưa, được nhận thêm tiền hoa hồng, được giữ quà từ khách hàng nếu họ tặng. Nhưng hay ho nhất của việc này là được cấp miễn phí đồ trang điểm lẫn quần áo trị giá hàng trăm thùng vàng. Bọn đàn em luôn ghen tị với hộp trang điểm của tôi với miếng thoa phấn làm từ vật liệu cảm ứng có thể tự động chỉnh tông màu nền, những chiếc bút kẻ giúp lông mày hơi óng ánh khi ánh trăng rọi vào, những thỏi son nhỏ xíu có phép thuật giúp đôi môi thấm màu son chỉ sau một lần chấm môi thay vì tô quẹt cả tiếng đồng hồ, những cây cọ mềm mại phủ tinh chất che kín dấu tàn nhang hay lỗ chân lông lớn trên da, những hộp thoa kem chứa thảo dược ma thuật giúp bờ vai tròn trịa hơn, vân vân, nhiều quá tôi không kể hết! Và khi ngó tủ quần áo của tôi, lũ đàn em rú lên vì trong ấy cơ man váy áo đủ chất liệu, vô vàn màu sắc và vô số kiểu dáng, có cả những chiếc váy độc đáo mà Cao Lầu đặt may để tôi là một, là riêng, là duy nhất, không nhầm lẫn với bất cứ cô gái nào khác. Vì hộp trang điểm đắt tiền, vì tủ quần áo, vì muốn chứng kiến lũ đàn bà khác tức lồi mắt với mình mà gái điếm giành giật vị trí Hạ Nga Chi bằng mọi giá.

Đôi lúc tôi nghĩ cứ làm Hạ Nga Chi mãi thì hay biết mấy! Tôi thích cảm giác mấy thằng cha quý tộc lấy lòng hoặc tranh giành mình bằng quà cáp, thích hộp trang điểm và tủ quần áo nở càng to càng tốt dù có những thứ tôi chẳng bao giờ dùng. Cánh đàn ông luôn thắc mắc tại sao chúng tôi thích chất đầy những thứ thừa thãi. Bởi vì họ không phải nữ giới. Họ không thể hiểu sự khác biệt trước và sau trang điểm; nó là sự vui thích khi biết mình có thể đẹp như ai và đẹp hơn bất cứ ai, cảm nhận từng mảnh da thịt thay đổi khi khoác lên mình diện mạo mới. Đám đàn ông cũng không bao giờ hiểu mỗi lần thử bộ cánh là mỗi lần cơ thể được mơn trớn bởi cái mềm từ lụa, cái vuốt ve từ lanh, cái ràm rạm ram ráp từ vải thô, cái lạnh mát sa mạc từ vải ngân tằm bện từ tóc phụ nữ Vinh Môn quốc. Từng sợi vải như thấm đẫm da thịt khiến tôi cảm giác mình ở khoảnh khắc đó như nàng công chúa, thân thể được đắm chìm trong những sắc màu cổ tích mà mẹ vẫn thủ thỉ kể cho tôi nghe hồi bé, mái tóc được bồng bềnh giữa chốn thời không cách xa thực tại. Nói cho dễ hiểu thì đấy là cách phụ nữ chúng tôi nâng niu chiều chuộng bản thân, tự tôn trọng mình như một báu vật ở vương quốc mà chỉ riêng chúng tôi biết. Chợt nhớ thời còn làm nghiên cứu sinh, tôi luôn khao khát trở thành trợ lý hội đồng thánh sứ Hoàng Hôn quốc, mơ mộng một ngày kia được tới và chiêm ngưỡng Thánh Vực huyền thoại. Nghĩ lại chuyện đó, tôi buồn cười, thấy lố bịch nữa! Tủ quần áo lộng lẫy, hộp trang điểm và kiếm tấm chồng quý tộc giàu có mới là chuyện thực tế, thực tế thì luôn đi vào lòng người, thế nên tôi chẳng ngại ngùng nếu ai đấy biết mình làm gái. Không tự hào mà cũng không xấu hổ, đại khái vậy!

Nhưng mọi chuyện đổi khác kể từ khi Mục Á xuất hiện. Phải, là cô gái đang mải mê chăm sóc bình hoa trà my trên bàn. Hoa màu hồng phớt, nở nhiều tầng cánh hơn những loại trà khác, đẹp đẽ hút trọn hồn người như chính Mục Á vậy.

Song có một điều mà người ta ít biết: trước khi nở, hoa trà chẳng mấy nổi bật.

Bốn năm về trước, khi tôi đã là Hạ Nga Chi, Đông Môn Cao Lầu tuyển chọn lứa gái mới. Tuyển chọn đàng hoàng gắt gao như thi tuyển thánh sứ, không phải cứ hoàn cảnh khó khăn hay bán thân kiếm tiền là các cô gái được nhận. Các cô gái xếp thành hàng tại sảnh Cao Lầu chừa lối đi, còn bọn gái cũ như tôi ở trên tầng lửng trông xuống. Trong bộ váy lẫn giày cao gót cùng màu hồng, gã bố mì rảo đôi chân đầy lông qua các cô gái, lúc ngắm họ, lúc phát mạnh tay vào mông hay bóp ngực họ, thi thoảng liếm vành tai họ. Lắm cô rú lên phát khiếp, tôi bật cười vì ngày xưa mình cũng y như vậy. Tôi nhìn họ một lượt, cuối cùng dừng ở cô gái mang dòng máu lai giữa Băng Thổ và Đông Thổ, sau này chính là Mục Á. Khi ấy cô không rạng rỡ như đóa trà my bung nở mà buồn bã, gương mặt có mây xám che khuất, thần tình ủ dột tựa ngày đông lạnh lẽo nhất xứ Băng Thổ. “Chuyện đau thương gái điếm kinh điển! Nhưng không mới, nhàm rồi!” – Tôi nghĩ bụng. Cao Lầu không nhận chuyện tình cảm sướt mướt, chỉ lấy người có khả năng đẻ ra tiền, chả thế mà cô nào dự tuyển cũng tươi tắn đẹp đẽ. Gã bố mì ngó Mục Á một chút rồi bỏ đi ngay, môi cong lên, đầu lắc lắc kiểu chê hàng kém chất lượng. Bọn gái cũ cũng chẳng ai chú ý cô, trừ tôi. Tới khi tôi phát chán định nhìn chỗ khác, Mục Á bỗng ngẩng đầu và tôi phát hiện cặp mắt lá liễu sắc bén lẫn mái tóc đen xõa vai của cô. Ở khoảnh khắc ấy, tôi biết cô đến đây không phải để làm gái điếm tầm thường, cô phải là Hạ Nga Chi - Hattabi hạng nhất và khiến mọi gã quý tộc chạy theo mình. Cuối buổi tuyển chọn, gã bố mì lựa được hai chục cô, số khác bị loại trong đó có Mục Á. Tôi gọi gã bố mì:

-Này bà chị! Cô em này được lắm nè! – Tôi chỉ vào Mục Á – Thử xem!

-Nào, nào, Na Li Nã, nào, lộn xộn nào! Đây không phải chuyên môn của cưng nhé! Của chị nhe cưng! Của chị! – Gã bố mì chỏng lỏn – Chị quyết định, không phải cưng!

-Thôi nào bà chị! – Tôi đốp chát vì nhớ vụ gã tát mình – Bà chị nhìn người ta đâu kĩ?! Nhìn lại coi!

Gã bố mì mím môi mà không làm gì được vì tôi là Hạ Nga Chi, tiếng nói của tôi có trọng lượng. Gã đanh đá quay ngoắt đi rồi xem xét Mục Á. Bấy giờ tôi mới thấy gã nhíu mày khi phát hiện đôi mắt Mục Á, gã hỏi cô vài điều, rờ nhẹ bàn tay sơn móng đỏ chót lên má, lên môi cô. Bất chợt gã nhỏng đầu một cách kỳ cục, sau đấy ton ton vòng ra phía sau khẽ vén tóc Mục Á, đôi mắt mở lớn kinh ngạc rồi rưng rưng như sắp khóc. Tôi chưa từng thấy gã như vậy bao giờ và không hiểu gã thấy cái gì, chỉ biết sau lần đấy Mục Á được nhận.

Gái điếm thời gian đầu dễ gặp khủng hoảng. Họ sớm nhận ra con đường trở thành Hạ Nga Chi khó hơn cả tìm đường tới Thánh Vực, ngay cả việc thích ứng công việc hàng ngày tại Cao Lầu cũng quá khó khăn. Người bỏ cuộc, người cam chịu thành con cừu bảo sao nghe vậy, người biến thành con sói cái sẵn sàng cắn chết cừu lẫn con sói khác. Mục Á cũng không ngoại lệ. Cô chưa từng làm khách bỏ về hay khiến gã bố mì điên lên cho vài cái bợp tai, nhưng đôi lúc tôi bắt gặp cô trong nhà vệ sinh, mắt nhèm nhem phấn vì khóc; nghe nói gã khách hàng thích chửi bới xúc phạm bạn tình khi quan hệ, gã gọi mẹ cô là “con điếm mẹ đẻ con điếm con”. Nghề nghiệp cạnh tranh, gái chốn này mong nhau bán sới còn chưa hết chứ chẳng đợi hỏi thăm, nhưng trông cô vậy tôi thấy thương. Tôi hỏi thăm nhưng cô nín ngay, cúi đầu chào đàn chị rồi mỉm cười như không có chuyện gì xảy ra. Cô cứng rắn hơn đám cùng lứa.

Rồi Mục Á cũng quen việc, đám quý tộc tìm đến cô mỗi lúc một nhiều, cả Cao Lầu phong thanh cô có khả năng làm Hạ Nga Chi. Ở đây, gái điếm phải phấn đấu ít nhất sáu năm, mới một năm như cô là chuyện không tưởng. Vì lời đồn ấy, đám gái điếm ghen tị cô, các Hạ Nga Chi ngứa mắt với cô. Cô bị cô lập và bắt nạt. Đủ những trò nhảm nhí tủn mủn kiểu đàn bà nhắm vào cô như đập nát hộp trang điểm, cắt váy, hất xô nước lúc cô đi vệ sinh, nhổ bọt vào đồ ăn trưa, phao tin mẹ Mục Á sinh cô ra trong hộp đêm, dạy cô làm điếm sau đấy cả hai mẹ con phục vụ chung một khách… Hàng trăm kiểu xúc phạm thể chất lẫn tinh thần Mục Á, tôi không nhớ xuể. Mỗi lần như thế, cô chỉ giữ gương mặt lạnh tanh cùng ánh mắt bàng quan, tôi không rõ cô thực sự chẳng để tâm hay giả bộ. Nhưng lần nặng nề nhất với Mục Á là khi không thể đuổi cô ra khỏi Cao Lầu, bọn gái điếm theo lệnh một Hạ Nga Chi đánh cô trong nhà vệ sinh. Nếu lần ấy tôi không can thiệp, gương mặt Mục Á đã dính những vết sẹo không thể xóa mờ. Tôi tìm thấy cô bên cạnh bồn cầu – bọn gái điếm vừa nhấn mặt cô vào đó, đôi môi bết máu, tóc bị cắt vương vãi khắp nơi. Tôi đưa cô về phòng mình, thay quần áo rồi tắm cho cô. Ban đầu Mục Á từ chối nhưng tôi nạt:

-Đừng bướng! Vào đây!

Nói rồi tôi kéo cô vào bồn, lấy bông xà phòng lau những lốt bầm do mũi giày cao gót đạp vào người. Chút tò mò nổi lên, tôi vén tóc Mục Á và tận mắt thấy nửa sau cổ của cô. Thiên nga! – Tôi bần thần thảng thốt. Cây mẹ tạo ra con người nhưng hẳn phải tốn trăm công ngàn sức mới đục đẽo ra cái cổ Mục Á; nó như cắt ra từ lớp băng vĩnh cửu mãi miền cực bắc thế giới, được Vạn Thế đo đạc cẩn thận rồi đẽo gọt tỉ mẩn mỗi năm một đoạn bào, mỗi năm một vết chạm, mỗi năm một đường mài, cứ thế hàng vạn năm mới thành hình. Đoạn cổ hơi dài, hơi gồ lên đốt xương sống, thuần khiết đẹp đẽ tựa cổ thiên nga, thừa tí da hay thiếu tí thịt cũng làm hỏng vẻ đẹp của nó như thỏi quang tố bị vỡ một chút cũng mất tác dụng phép thuật. Tôi chợt hiểu tại sao gã bố mì phát khóc khi bắt gặp thứ tạo vật này, bởi gã biết tất cả lũ quý tộc Hoàng Hôn Cảng hay đúng hơn là mọi gã đàn ông trên thế giới sẽ phải chạy theo hít hà nó. Không kiềm chế nổi, tôi ôm cô rồi hôn lên cổ cô, tự hào rằng hàng triệu gã đàn ông ngoài kia không bao giờ được hưởng thụ như tôi. Không phải tôi sinh cảm giác đồng tính, đấy chỉ là cách tôi thể hiện sự ngưỡng mộ. Một người đàn bà yêu thích ngưỡng mộ vẻ đẹp của người đàn bà khác, chuyện hiếm.

Đêm ấy tôi ngủ cùng Mục Á, cô nằm quay lưng về phía tôi. Cô nói ngại và muốn về nhưng tôi không cho. Được một lúc, tôi chợt nhận ra bụng cô phập phồng, vai hơi run cùng tiếng thở sụt sùi. Tôi cũng phát hiện cổ Mục Á nổi lên vài vệt sáng màu vàng cam, có thể nhìn được trong bóng tối. Tôi không biết nó là gì, dù sao Tâm Mộng cũng lắm chuyện kỳ lạ như bài hát “Thế Giới Này Thật Lạ” của người Vinh Môn quốc. Tôi chỉ hiểu Mục Á đang khóc. Tôi xoa đầu cô vỗ về:

-Cố lên, cô chắc chắn sẽ làm Hạ Nga Chi, lúc ấy trả thù sau!

Mục Á không đáp, chỉ cười tỏ ý đang lắng nghe. Cô không chửi rủa kẻ hành hạ mình, chỉ khư khư ôm nỗi buồn làm của riêng (tôi thì khác, tôi từng bị đánh và tính sổ bằng cách đổ keo dính vào tai chúng nó, có đứa điếc hẳn). Tôi định hỏi chuyện gia đình cô trước kia cho khuây khỏa nhưng lại sợ, sợ rằng mấy lời đồn là thật và vấy bẩn con người đẹp đẹp đẽ của cô. Nhìn mấy lốt bầm ở vai ở lưng, lốt cào xé ở bàn tay ở má cô, tôi nghiến răng giận dữ. Người Băng Thổ không đối xử thiên nga như thế! Tôi bèn ôm Mục Á thật chặt. Tôi thương cô quá! Sáng hôm sau, tôi cho cô dùng đồ trang điểm cá nhân, tiện thể cho cô mấy bộ váy áo. Từ ấy tôi làm bạn với Mục Á, còn cô gọi tôi là “chị”. Định nghĩa “bạn” giữa các gái điếm là không gây sự, không can thiệp chuyện của nhau, hãn hữu lắm mới có chuyện cho không, còn vay mượn là phải trả. Đàn bà chẳng cho không ai cái gì. Tất nhiên quan hệ giữa tôi và Mục Á ở mức thân thiết hơn nhưng quy tắc cơ bản vẫn vậy.

Bẵng đi nửa năm, Mục Á trở thành Hạ Nga Chi đúng như tôi dự đoán. Chẳng thủ đoạn nào ngăn cản nổi con thiên nga tung cánh giữa bầu trời. Khắp Cao Lầu sửng sốt còn tôi thấy bình thường, thậm chí nghĩ như thế còn quá muộn, đáng lý cô nên làm Hạ Nga Chi ngay từ lúc bước vào đây. Ngày gã bố mì thông báo Mục Á được phép ở phòng riêng hay hưởng đặc quyền Hạ Nga Chi, cô chỉ cười chừng như không quan tâm mấy. Chỉ khi gặp tôi, cô mới hào hứng hơn một chút, tiện thể tặng tôi mấy bộ váy hạng sang. Cô không quên trả nợ dù tôi chẳng nghĩ đến. Tôi liền ôm cô thơm má mấy cái như người chị mừng cho em gái. Tôi yêu cô quá!

Nhưng cũng kể từ đó, mọi chuyện giữa tôi và Mục Á thay đổi. Không phải cô mà là tôi. Tôi nói nên tính sổ với lũ gái điếm ngày trước, giờ cô là Hạ Nga Chi, cô có quyền. Nhưng đáp lời tôi, Mục Á chỉ lắc đầu. Là cô không để ý? Do cô quá hiền lành? Cô rộng lượng chăng? Hay cô đợi cơ hội trả thù kín kẽ hơn? Mặc tôi lấn cấn rồi khuyên nhủ, Mục Á vẫn không đổi ý. Tốt thôi! – Tôi nhún vai, thâm tâm nghĩ một ngày nào đó Mục Á sẽ tính sổ kẻ thù cũ. Cô từng kể mình sống ở Diệp quốc suốt thời thơ ấu, người Đông Thổ tàn bạo kiểu khác, không trực diện như người Băng Thổ chúng tôi.

Ba tháng sau, Mục Á thăng tiến nhanh chưa từng có. Cô dần trở thành Hạ Nga Chi kiếm nhiều tiền nhất cho Cao Lầu, vượt cả tôi vốn ở vị trí dẫn đầu. Tôi vui vì đã xem cô như em gái ruột, hoàn toàn không chút ghen tị nào, thề có Vạn Thế! Tôi bảo cô nên tính chuyện kiếm tấm chồng và rời khỏi nơi này. Đám quý tộc Băng Thổ buồn cười ở chỗ coi khinh gái điếm nhưng rất thích lăng nhăng với họ, biến họ thành nhân tình hoặc vợ bé, thậm chí phu nhân chính thức. Chuyện này không hiếm. Tôi tin Mục Á dư sức làm vậy, cô đẹp đẽ và sở hữu khí chất hơn cả đám tiểu thư quý tộc. Bằng trực giác phụ nữ, tôi cảm nhận Mục Á mang dòng máu cao quý nào đấy dù cô chưa bao giờ kể. Nhưng thay vì nghe tôi, hồi đó cô chỉ lắc đầu:

-Tôi không nghĩ vậy. Nhà danh giá nào chịu chứa chấp một đứa Sukka làm con dâu?

-Nhưng cô là Hạ Nga Chi, là Hattabi, hiểu không cô bé? – Tôi nói.

-Nhưng bản chất vẫn là điếm mà thôi! – Cô mỉm cười – Mà họa mi cầu vồng thì sao? Người ta vẫn giết thịt họa mi làm món ăn như thường mà! Mấy gã đàn ông không chạy theo tôi, họ chạy theo giấc mơ của mình. Họ mơ sở hữu thứ không ai có, tới khi thỏa mãn, họ sẽ tìm giấc mơ mới.

-Cô sợ bị vứt bỏ?

-Có ai kể câu chuyện phía sau những cái kết có hậu? – Mục Á cười – Đàn ông chỉ sống chết vì những giấc mơ mà họ không bao giờ đạt được. Hạ Nga Chi, đàn bà hay bản thân tôi nằm ngoài những thứ “không bao giờ đạt được” của họ.

Khi ấy tôi không hiểu lời Mục Á. Tôi cũng không chắc đấy là kinh nghiệm của cô hay học từ ai. Tôi hỏi:

-Chẳng lẽ cô không muốn tìm người chồng quý tộc? Này em gái, cô trở thành Hạ Nga Chi để làm gì chứ?

-Đầu tư, kiếm tiền! – Mục Á cười – Tại sao phải trở thành họa mi hót cho một kẻ nghe mà chắc gì kẻ đó biết cảm thụ? Sao không cất cánh ra ngoài kia để cả thế giới lắng nghe mình?

-Vậy chứ cô định dùng tiền đầu tư cái gì?

Mục Á chống cằm, ngón tay thanh dài đầy đặn vân vê cánh hoa trà my trên bàn:

-Bán hoa.

-Hả? “Bán hoa”? – Tôi hỏi lại.

-Không phải “bán hoa” đó! – Cô phì cười đoạn chỉ vào bình hoa trà my – Là bán hoa này này! Mở cửa hàng hoa không dễ, tôi cần nhiều tiền.

Vậy đó, báu vật của Đông Môn Cao Lầu suy nghĩ thế đó! Tôi cười, nghĩ Mục Á đang diễn bài đạo đức giả. Gái điếm nào cũng nói mình không quan tâm vật chất, nhưng thực tế thì bất đồng điệu. Tôi nghĩ cô đã trưởng thành và giữ kín những tính toán trong lòng kể cả với tôi – người thân quen cô nhất ở Cao Lầu. Vậy cũng tốt! Một Hạ Nga Chi phải biết giành giật hạnh phúc, nơi đây không có chỗ cho nhún nhường. Tôi bớt lo cho cô.

Nhưng sự thật khác xa tôi nghĩ. Mục Á nói thật và… làm thật. Cô không gắn bó với bất cứ quý tộc nào, cùng lắm là say sưa những cuộc vui và hoan lạc trên giường. Chỉ quan hệ tình dục, không yêu thương. Mỗi lần Mục Á từ chối, càng nhiều quý tộc ở Hoàng Hôn Cảng tìm đến cô hơn, cả đám quý tộc từ thành phố lân cận cũng tìm đến. Làm giá tốt! – Tôi thầm khen cô, nhưng lời ngợi khen đầy hằn học. Từ lúc Mục Á dẫn đầu Cao Lầu, vây quanh cô toàn là những quý tộc trẻ trung đầy tiềm năng còn tôi phải tiếp đám già khú, người trẻ nhất lại là một gã béo. Vạn Thế ơi, tôi ghét những gã béo! Gã chỉ là quý tộc nhỏ, nếu chẳng vì có quan hệ đặc biệt với ông chủ Cao Lầu thì tôi chẳng bận tiếp gã. Dạo đó gã hay bám riết mời tôi ăn tối, lẵng nhẵng phát ghét! Vì gã, tôi càng thêm hằn học với Mục Á. Do cô thay đổi? Hay do chính tôi sinh tâm lý đàn bà? Tôi không biết.

Rồi khoảng cách giữa tôi và Mục Á ngày càng xa. Có thể do cả hai đều bận, nhưng phần nhiều là tôi tránh mặt cô. Mục Á không đạo đức giả, không nói xạo cũng không làm giá. Một năm trôi qua, cô thực sự chẳng để tâm chuyện kiếm tấm chồng quý tộc hay trả thù đám người đánh mình. Thứ duy nhất khiến cô bận bịu là hoa trà. Tôi biết cô luôn thức dậy lúc ba giờ sáng để mua hoa ở cảng thuyền cạn. Cô thực sự muốn làm bà chủ cửa hàng hoa. Tại sao vậy? Tại sao cô khác tôi, khác những Hạ Nga Chi, khác đám gái điếm đến vậy? Tôi nhận ra ngay từ ngày đầu tiên tôi đã chẳng hiểu Mục Á. Cô như con thiên nga ở chốn mây trời lỡ sa chân chốn sình lầy, bất đắc dĩ làm bạn với đám sinh vật ngày đêm bới bùn kiếm ăn như tôi, nhưng một ngày kia con thiên nga sẽ quay lại bầu trời cùng đôi cánh đẹp đẽ nhất. Nghĩ đến đó, tôi cảm giác chuỗi ngày phấn đấu làm Hạ Nga Chi của mình hoàn toàn vô nghĩa. Tại sao Mục Á không chịu giành giật hạnh phúc như tôi? Tại sao cô không suy nghĩ như một người đàn bà? Tại sao cô là thiên nga mà không phải con người? – Tôi uất ức.
 
Quyển 3 - Chương 145: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà Kép (1)


Chào các vị - những người sắp nghe tôi kể chuyện. Liệu các vị có phiền nếu tôi vừa kể vừa uống rượu? Tôi không phải gã bợm cũng không uống rượu theo thói quen, chỉ là giữa lúc năm giờ chiều ở xứ Hoàng Hôn Cảng này mà không có rượu thì đáng tiếc quá! Khi thuyền cạn chưa ra đời và Đồng Gió còn được coi là biên giới cuối cùng của lục địa, những nhà thám hiểm phát hiện nơi này đẹp kỳ lạ mỗi khi mặt trời lặn. “Dưới ánh chiều đỏ, ngả thùng rượu to, nâng ly rượu nhỏ, uống cùng Đồng Gió, đường đi chẳng khó, đường đời chẳng lo…” - những lời ca của các nhà thám hiểm xa xưa vẫn lưu truyền khắp xứ Băng Thổ. Vậy mạn phép mời các vị dùng “sói xanh” – một thứ rượu sánh ngâm thảo dược và sẽ cháy lửa xanh khi rót ra ly, rất thích hợp cho thời tiết lạnh giá. Rượu nặng, mình tôi không thể uống hết nhưng khi ông bạn tôi đến thì nó sẽ hết nhanh thôi. Phải, tôi đang chờ gã. Mà uống nào các vị, uống cho cuộc nói chuyện này! Tôi tên Khai Y, tên đầy đủ là Xuy Hạ Khai Y.

Xin tự giới thiệu một chút. Tôi là con cả dòng họ Xuy Hạ, ông tổ họ Xuy Hạ từng chiến đấu bên Biệt Liên Đại Đế và góp phần xây dựng Băng Hóa quốc. Nói cho dễ hiểu, địa vị họ Hỏa bên Phi Thiên quốc thế nào thì họ Xuy Hạ bên Băng Hóa y như vậy. Tuy ghét danh xưng quý tộc nhưng tôi biết ơn việc sinh ra trong gia đình này, bởi tôi có thời gian học kiếm thuật với những người thầy nổi tiếng, được cơ hội đi đây đó và gặp gỡ những con người vĩ đại. Nói về con người vĩ đại, tôi không thích Phi Thiên vì họ khiến cha tôi bị thương trong cuộc chiến tranh tài nguyên, nhưng khi biết mình được nhận làm hộ vệ cho đại thánh sứ Tây Minh – một người Phi Thiên chính gốc – tôi nhảy cẫng lên như đứa trẻ dù lúc ấy đã hai mươi lăm tuổi (25). Mặc cha mẹ lẫn dòng họ phản đối, tôi từ bỏ giấy báo trúng tuyển quân ngự lâm hoàng gia rồi theo chân ngài đại thánh sứ. Tuổi trẻ tôi nhiều sai lầm nhưng đó lại là quyết định đúng đắn nhất. Thầy Tây Minh vĩ đại, tôi không hối hận khi được thầy chỉ bảo. À, ông bạn mà tôi đang chờ đây cũng là hộ vệ của thầy. 

Làm hộ vệ thánh sứ tuy cao quý nhưng vất vả, nhất là hộ vệ cho một đại thánh sứ lang bạt khắp thế giới như thầy Tây Minh. Hẳn các vị sẽ thắc mắc tại sao tôi còn thì giờ ngồi ở quán rượu này – một tòa nhà cao với những mái hiên chìa ra đậm chất phương đông kết hợp cách bài trí kiểu phương tây cùng đám khách nốc rượu như nước lã sặc mùi Băng Thổ – với nhiều ô cửa sổ trông ra cửa đông Hoàng Hôn Cảng? Và nếu nhìn thấy chiếc vòng bạc nạm băng không tan chảy trên tay tôi – dấu hiệu cho biết đây là người đã đính hôn theo truyền thống Băng Thổ – các vị sẽ hỏi tại sao tôi không ở bên vị hôn thê của mình mà chạy tới xứ này, nhâm nhi rượu “sói xanh”, điềm nhiên ngắm nghía thuyền cạn trượt xuống đường ray lao vào Đồng Gió dưới ánh hoàng hôn rực rỡ sắc đỏ cam? Nếu các vị nghĩ từ “chạy”… à… các vị đang nghĩ gì thì nó đúng như thế đấy! Phải, tôi đang chạy trốn. Chà, biết nói gì đây? Thôi, uống đã! Tôi sẽ kể, các vị đừng vội, chỉ là rượu sẽ khiến tôi kể mạch lạc hơn. Mà khoan, có tiếng cười nói ồn ào phía cửa, để xem… À, bạn tôi đã tới! Phải, cái gã tóc vàng mặc áo khoác da đội mũ rộng vành đang cười cười nói nói với mấy cô gái, thi thoảng quay sang tay bắt mặt mừng mấy khách quen của quán rượu. Là gã, bạn tôi. 

Trong lúc chờ đợi ông bạn tôi kết thúc chuyện tán tỉnh, tôi sẽ kể một chút về cậu ta. Yên tâm đi các vị, từ đó đến chỗ tôi ngồi chưa đầy mười mét nhưng dám cá là nửa tiếng nữa gã mới lết tới nơi. Nói về ông bạn này, chúng tôi quen biết nhau hơn mười năm, từ hồi cả hai học chung trường thiếu sinh quân Băng Hóa. Gã đến từ Thượng Cổ xa xôi theo diện học bổng tài năng. Giữa trường thiếu sinh quân đầy rẫy con nhà quý tộc, riêng gã là con nhà bình dân. Vì một lý do ngớ ngẩn là tranh hẹn hò với một tiểu thư học cùng trường, tôi và gã đánh lộn mấy bữa, cuối cùng thành quen biết (Còn nàng tiểu thư cặp kè anh chàng khác! Hai chúng tôi đều là kẻ thất bại, cũng là một lý do kết thân hay ho đấy chứ?). Từ trường thiếu sinh quân lên trường sĩ quan, chúng tôi cùng lao vào quậy phá tới nhậu nhẹt thâu đêm, thân thiết nhau lúc nào chẳng hay. Những ngày tháng tuyệt vời! Về chuyện điểm số, tôi luôn đứng đầu trường sĩ quan. Anh bạn tôi thì khác, gã chưa bao giờ để ý thứ hạng mà chỉ quan tâm các cô gái. Thành tựu lớn nhất đời gã là bị hàng chục gia đình lẫn dòng họ quý tộc ở Băng Thổ cấm cửa – họ tin rằng chính gã làm hư hỏng các tiểu thư của họ. Ha ha! Tin tôi đi, gã sát gái bẩm sinh!

Sau lễ tốt nghiệp, chúng tôi chia tay, tôi làm kiếm sĩ lang thang còn cậu ta theo tiếng gọi tự do đến Kim Ngân làm Đạo Chích Không Trung. Mỗi người đều đạt thành tựu riêng và đến vài năm sau, cả hai có dịp tái ngộ khi cùng làm hộ vệ cho thầy Tây Minh, từ đó tới giờ đã bốn năm. Bốn năm đầy chuyện đáng nhớ, đầy hào hứng và vô số rắc rối do ông bạn tôi gây ra. À! Cậu ta đây rồi, vậy mà tôi cứ nghĩ gã không thoát khỏi mấy cô gái. Anh bạn tôi dùng lắm danh xưng cốt để tán gái mà đỡ gây hậu họa, thầy Tây Minh gọi hắn một kiểu, còn tôi gọi hắn bằng biệt danh từ hồi còn học chung trường thiếu sinh quân:

-Cậu muộn giờ, Đại Bác à! Một tiếng lận!

Anh bạn tôi cười ha hả. Gã ngồi phịch xuống ghế, cởi chiếc mũ rộng vành vương tuyết lộ ra khuôn mặt vuông vức, tóc vàng dài buộc túm, râu quai nón lún phún cùng đôi mắt xanh đã làm hư hỏng vô số tiểu thư quý tộc. Gã lục lọi túi áo da, lôi ra cơ man những dao, lược và kẹo cao su. Lẫn trong mớ tạp phí lù là một bi đông nhỏ phảng phất mùi rượu, tôi ngửa mặt than:

-Không phải chứ, Vạn Thế ơi? Không phải chứ, ôi Vạn Thế! Cậu làm tôi suýt chết ở lễ đính hôn chưa đủ hay sao mà còn mang thứ này đến? 

-Chỉ một chút thôi mà! – Đại Bác nhe răng tơn tớn – Chẳng phải cậu đang buồn à? Buồn thì phải vui tới bến! Đừng nhìn tôi thế, rượu này lấy dưới Bãi Lầy Chết ở sa mạc Hồi Đằng, không phải muốn là có đâu!

Gã thì thào như thể không muốn ai nghe cái kho báu rượu dưới Bãi Lầy Chết. Tôi thở phì:

-Cậu chuốc say tôi, chút nữa là lễ đính hôn hỏng bét. Cậu cũng chẳng tham dự buổi lễ! Bạn bè kiểu gì đây, Đại Bác? 

-Tại tôi bị vướng vào những tơ tình đường đời, trái tim tôi xao xuyến trước một cô gái nhỏ nhắn ngây thơ! – Đại Bác ưỡn ngực khoa chân múa tay như thi sĩ đang sáng tác – Nhưng tại sao tôi phải dự? Cậu đâu thích lễ đính hôn đó? Vì là bạn thân nên tôi mới không dự buổi lễ mà cậu ghét cay ghét đắng! Thành thật nào Khai Y, cậu không thích vị hôn thê của mình, phải chứ? 

Tôi thở dài, muốn nói nhưng lại thấy gượng gạo, cuối cùng lấy rượu thay câu trả lời. Chúng tôi cụng ly rượu bốc lửa xanh. Đại Bác nốc một hơi hết sạch rồi tiếp tục:

-Hôn thê của cậu đâu tệ? Cô tiểu thư đó ngon lành đấy chứ? Con nhà danh giá, học thức tốt, không phải loại gà gô, ngoan ngoãn nữa! Mong chờ điều gì đây, ông bạn? Muốn cô ta bốc lửa chắc?! Hê hê! Tôi ngắm rồi, mông cổ cũng đẹp lắm! 

Gã nháy mắt tặc lưỡi kêu “chách!” một cái, bàn tay vòng một đường diễn tả độ cong. Tôi ném nắp chai rượu vào Đại Bác còn gã cười hô hố. Chúng tôi cụng ly, rượu nặng sóng sánh lửa xanh còn lòng tôi như tàu tròng trành giữa biển. Như Đại Bác nói, các vị nghe cả rồi đấy, tôi không hề yêu hôn thê của mình. Chúng tôi có hẹn hò như bao cặp đôi khác, cũng xem nhạc kịch như cái mốt thượng lưu, cũng ra mắt hai nhà như một phần nghi lễ. Vị hôn thê của tôi chẳng có gì đáng phàn nàn. Nàng đẹp, vóc người dong dỏng, ánh mắt hiền hậu, trí tuệ lẫn học thức đều cao; nàng cảm thông cuộc sống phiêu lưu đầy hiểm nguy của tôi và đã sẵn sàng cho cảnh giường đơn gối chiếc. Nhưng tôi không hề yêu nàng. Nhấp nốt chén rượu, tôi thở khà:

-Cứ ở vị trí của tôi xem, Đại Bác, rồi cậu không cười nổi đâu. Cậu từng nói yêu đương là một chuỗi phản ứng cảm xúc ngoằn ngoèo, phải không? Nhưng tôi không hề có chuỗi ngoằn ngoèo đó! Thề Vạn Thế chứng giám, tôi chẳng có cảm xúc với cô ấy! Ông bạn, tưởng tượng một ngày kia cha anh gọi riêng ra một chỗ rồi sắp xếp cuộc đời anh: “Này Khai Y, anh đến tuổi kết hôn rồi. Anh phải đảm bảo rằng dòng họ Xuy Hạ danh giá này có người thừa kế, hoặc cậu công tử nhỏ hoặc cô tiểu thư bé bỏng. Ta đã chọn cho anh một tiểu thư, cô bé rất được, địa vị bên họ tuy thấp hơn chúng ta nhưng cũng nổi tiếng ở miền nam Băng Hóa, lại có họ hàng xa với hoàng đế. Lễ cưới hoàn toàn khả thi! Cái gì? Tự anh muốn tìm? Không đâu con trai, ta không tin anh sẽ mang về đây một đứa con gái tử tế! Nhìn anh xem, anh chẳng còn nói năng lễ phép như quý tộc nữa, bao năm theo đuôi ông Tây Minh đã khiến anh thiếu chừng mực lễ độ! Làm sao ta tin anh có thể ra mắt một quý cô danh giá? Đừng quên hoàng đế cũng dự tiệc cưới, hoàng đế là bác ruột anh đấy, hiểu không?! Chúng ta mà mất mặt, hoàng đế cũng mất mặt theo! Hiểu chưa con trai? Đi đi, gặp cô tiểu thư đó, rồi anh sẽ thích ngay thôi…”

Tôi giả giọng cha mình, diễn tả luôn thói quen nắm chặt tay thành cú đấm của ông mỗi khi nhấn mạnh vấn đề. Đại Bác ôm bụng cười sằng sặc, chốc chốc lại hỏi “Ông già nhà cậu làm vậy thật á?” rồi gục mặt xuống cười trận nữa, tay vỗ mặt bàn bồm bộp. Hẳn các vị đã hình dung mọi chuyện. Phải, dù phản kháng và viện đủ lý do, tôi vẫn không thể tránh lễ đính hôn, kết quả là chiếc vòng bạc nạm băng này. Cười đã đời xong, Đại Bác nháy mắt trêu chọc:

-Vậy là cậu chạy trốn? Ồ, xem kìa, bạn tôi đây, một ứng cử viên Thập Kiếm, một người dám đánh tay đôi với thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt và vẫn sống sót dưới lưỡi kiếm của ông ta, giờ đang chạy trốn vị hôn thê của mình! Hê hê!

-Tôi không muốn hôn thê của tôi phải khổ. Tôi không yêu cô ấy, sẽ ra sao nếu chúng tôi ở chung một nhà? Chỉ làm đủ nghĩa vụ cho ra một đứa con, còn tôi phát điên lên và đi tìm gái điếm? Những thứ tình cảm sắp đặt giống như lớp phấn đẹp đẽ che bộ mặt rỗ vậy, anh bạn, chúng đầy mùi thơm nhưng phát tởm nếu nhìn gần! Tôi không muốn thế! 

Đại Bác cười đoạn nhấp ngụm rượu. Một cô gái trẻ đẹp mặc váy ngắn đi ngang qua, gã liền cúi đầu dòm dòm nhưng vẫn trò chuyện với tôi:

-Không như cậu nghĩ đâu, anh bạn. Tình yêu… đôi khi là một hệ thống đường cong… đáng yêu… tuyệt đẹp… ẩn dưới những lớp trầm tích lộ thiên… dùng tay trần cũng có thể bới lên được. – Lần này gã nghiêng hẳn người xuống gầm bàn để coi cho rõ – Mà thôi, ý cậu muốn hủy bỏ hôn lễ? 

Tôi gật đầu dứt khoát. Trái ngược lễ cưới hoành tráng linh đình thừa mứa, người Băng Thổ làm lễ đính hôn kín đáo chỉ gồm thành viên hai gia đình, đây là một phần tập tục lâu đời. Tôi có thể hủy hôn dù rằng đây không phải chuyện hay ho, cha chắc chắn sẽ hét vào mặt tôi cùng nắm đấm quen thuộc còn mẹ sẽ khóc nhiều ngày vì tôi làm tổn hại thanh danh họ Xuy Hạ. Hậu quả rất rõ ràng nhưng tôi không hối hận. Thà như vậy còn hơn là tôi mệt mỏi vì người vợ không mong muốn, vị hôn thê đau khổ vì người chồng chẳng yêu mình. Đại Bác hỉ hả:

-Vẫn còn thời gian để suy nghĩ đấy, anh bạn! Nhưng thôi, đã đến đây thì phải quậy hết mình! – Gã gõ gõ chiếc bi đông rượu nguy hiểm, lễ đính hôn của tôi suýt thành trò cười vì nó – Yên tâm, thầy Tây Minh đang cho chúng ta nghỉ phép mà! 

Tôi bật cười. Ông bạn tóc vàng đầy rắc rối này luôn khiến người ta vui vẻ. Tôi chuyển chủ đề:

-Vậy cậu sẽ kế thừa Đại Lộ Đỏ? Ha, tin được không? Gã tóc vàng luôn ăn nợ căng tin trường sĩ quan giờ sắp ngồi trên núi tiền!

-Ông chủ Đại Lộ yếu lắm rồi, cùng lắm được ba năm nữa. Ổng nói lắm quá, tôi đành phải nhận. May cho ổng, các cô gái ở Đại Lộ Đỏ cũng được! – Đại Bác nhún vai.

Tôi cười lớn đoạn tiếp lời:

-Uống xong, chúng ta về Đô Thạch thành ngắm sông băng nhé?

-Không, không, không được! – Đại Bác lắc đầu nguầy nguậy – Ông thống lĩnh quân doanh thành phố đó đang săn tôi vì làm con gái ổng dạt nhà nửa tháng!

-Hả? – Tôi phì cười – Thế về Đỉnh Lịch thành ngắm núi tuyết? 

-Không! Càng không! – Đại Bác nhỏ giọng – Ông trùm sòng bạc ở đó săn tôi! Tôi ngủ với con gái ông ta, thề có Vạn Thế, nếu biết cổ có người cha như vậy tôi đã từ chối dù cổ có cặp mông miễn chê! Và đừng tính chuyện về Bỉ Tấn thành ngắm rừng tuyết, tất cả gia đình quý tộc ở đó săn tôi. Cũng đừng về Thung Lũng Tuyết Tan ngắm bình minh luôn thể!

Tôi ngạc nhiên tới độ sặc rượu, ngọn lửa xanh xém nữa cháy quanh mép:

-Thung Lũng Tuyết Tan làm gì có quý tộc? Chỉ là ngôi làng nhỏ thôi mà… ôi Vạn Thế ơi… 

Đại Bác nốc rượu, cười hỉ hả:

-Tôi từng nghĩ gái miền viễn bắc Băng Thổ rặt một lũ khỉ đột nhưng không phải vậy. Họ cao lớn nhưng đáng yêu, nhiệt tình nữa! Thế là tôi theo tiếng gọi hoang dại thôi! Giờ thì cả cái làng đó săn tôi. Thôi nào, đừng phụng phịu vậy chứ! Muốn vui thì cậu không thể tỏ ra là một quý tộc lịch lãm. Đạp hết ga đi, ông bạn! Uống, nhậu và gái mới làm cậu thảnh thơi được! Tại sao phải đi xa? Chúng ta đang ở Hoàng Hôn Cảng mà? Tin tôi đi, gái ở đây hết sảy, Đại Lộ Đỏ chỉ đáng xách dép!

-Hay về Đổ Phố thành ở Băng Hóa? Ở đấy nhiều cảnh đẹp, cũng có mấy cô gái hợp ý cậu. – Tôi khẩn khoản lần cuối.

Đại Bác trề môi:

-Cũng không được nốt! Dòng họ Ngạn Nga ở đấy vẫn lùng tôi. Tôi lỡ tán tỉnh một bà má của họ. Bà cô trên tuổi “băm” rồi nhưng tuyệt lắm! Tôi thích ngực bả! Hê hê, lũ gái trẻ phải chạy theo bả dài dài!

Tôi lắc đầu: 

-Là bạn thân, tôi khuyên cậu nên thay đổi cách sống.

-À tất nhiên! – Đại Bác cười – Tôi sẽ thay đổi, cơ mà là thay đổi… quan điểm của cậu, hế hế!

Nghe đến đó, như nhớ ra chuyện gì, tôi vội xua tay:

-Khoan, khoan! Mẹ tôi có năm người em, cậu út cưới một người bên họ Ngạn Nga cách đây ba năm, tôi từng dự lễ cưới đó! Là người phụ nữ có mái tóc bạch kim? Thằng khốn Đại Bác! Thằng ngựa giống! – Tôi nhào đến bóp cổ gã tóc vàng – Đó là bà mợ tôi!

Đại Bác lè lưỡi, cố giải thích rằng đó là tai nạn tình cảm hi hữu. Ông bạn tôi là thế. Tôi không chắc còn bao nhiêu nơi trên thế giới này chịu chứa chấp gã. Nếu chẳng phải bạn thân, tôi đã bóp cổ gã chết thật.

Vì không còn lựa chọn, tôi đành nghe theo ông bạn. Chúng tôi gọi thêm rượu, đổ ly “sói xanh” vào bia rồi đổ thêm thứ rượu nguy hiểm từ Bãi Lầy Chết và tạo ra một thứ chất lỏng bốc lửa trắng gần giống màu lửa Nguyên Thủy Diệm của thầy Tây Minh. Bọn tôi quậy tưng bừng, biến nơi đó thành phiên bản của những quán rượu thời xưa cũ khi người ta dễ dàng nâng ly vì những chuyện khỉ gió đâu đâu từ kẻ xa lạ, còn dễ dàng bá vai nhau hát những bài ca nhậu nhẹt quen thuộc, thiếu mỗi đánh lộn là đủ vị. Cuộc vui tàn lúc nửa đêm, Đại Bác đề nghị đến Đông Môn Cao Lầu – hộp đêm nổi tiếng nhất Hoàng Hôn Cảng. Dù không thích vui vẻ với gái điếm nhưng tôi cũng đồng ý. Có thể các vị không tin, nhưng suốt cuộc đời mình tôi chưa hề dính vào gái điếm. Đùa bỡn cợt nhả với họ thì được nhưng lên giường thì không, tôi có nguyên tắc riêng. Trước lúc đi, tôi cẩn thận cất chiếc vòng bạc nạm băng, tôi không muốn người khác biết mình vừa đính ước. 

Đại Bác không giỡn, Đông Môn Cao Lầu quả đúng là hộp đêm nổi tiếng. Trong ánh đèn nhập nhoạng màu sắc, tôi phát hiện nhiều vị quý tộc mà tôi từng gặp mặt hoặc nói chuyện qua. Nếu bảo họ tới vui chơi quên đời thì không đúng vì Hoàng Hôn Cảng lắm chỗ náo nhiệt hơn lại cho sử dụng ma dược thoải mái chứ ít hạn chế như Đông Môn Cao Lầu. Chỉ có một câu trả lời chân thật và đúng đắn nhất: gái điếm. Các cô gái ở đây xuất thân từ nhiều quốc gia, mang nhiều vẻ đẹp đặc trưng bản địa hoặc trộn lẫn dòng máu. Nếu không vì chữ “gái điếm”, tôi đã chẳng ngần ngại tán tỉnh họ. Nói tới đây chắc các vị nghĩ tôi cũng coi trọng thứ bậc xã hội giống cha mình? Không, như đã nói, tôi có nguyên tắc riêng.

Suốt cuộc vui, tôi chỉ trò chuyện vui vẻ chứ không ôm ấp hôn hít, miệng thở đầy lời tán phét tục tĩu với đám gái điếm như ông bạn Đại Bác. Vài cô gái ôm cánh tay tôi, hy vọng tôi có thể chọn một trong các cô hoặc chọn tất cả cho đêm vui vẻ. Xin phép kiêu ngạo một chút, tôi biết mình có sức hút với phái nữ. Vì sở hữu mái tóc xoăn sóng màu hổ phách mà tôi từng gặp rắc rối với một nàng công chúa trong dịp phiêu lưu ở Thượng Cổ. Vị hôn thê cũng luôn tìm cách ôm tôi để tận hưởng bộ ngực cứng rắn do được luyện tập hàng ngày. Còn giờ đây, các cô gái điếm đang tìm cách thu hút sự chút ý từ đôi mắt màu lam đậm mà tôi thừa hưởng từ bà ngoại vốn xuất thân từ miền biển Hoa Thổ. Nhưng tôi cố gắng tránh gần gũi họ. Thấy tôi kém nhiệt tình, Đại Bác lắc đầu cười cợt:

-Sao vậy? Không làm cậu vui nổi à? Nhưng tôi chưa hết bài đâu! Đợi chút!

Nói rồi gã gọi điện bảo Cao Lầu gửi bốn Hạ Nga Chi đến. Tuy đã nghe nhiều về Hạ Nga Chi – Hattabi nhưng đó là lần đầu tiên tôi có dịp tiếp xúc. Họ khác hoàn toàn gái điếm thông thường. Tất cả đều đẹp như tiểu thư con nhà danh giá, lại toát ra nét quyến rũ mà tiểu thư con danh giá không bao giờ có. Họ uống rượu tốt, biết chiều ý khách hàng, song cũng biết từ chối để những gã đàn ông nổi lòng tham chiếm đoạt dù rằng sự từ chối hầu hết là giả tạo. Bất quá giữa cuộc vui còn ai quan tâm thực hư thật giả? Chữ “gái điếm” vẫn đủ sức kềm hãm con thú bản năng trong tôi, nhưng có vẻ nó đang căng thẳng quá cỡ. Cứ nhìn cô gái tên Na Li Nã, các vị sẽ hiểu cảm giác của tôi lúc này. Đại Bác khoanh tay nhìn tôi:

-Cảnh vẻ quá đấy ông bạn! Tôi không biết cậu “khảnh” vậy đâu! Các Hạ Nga Chi ở đây đẹp nhất Hoàng Hôn Cảng rồi, muốn gì nữa? 

Tôi chưa kịp lên tiếng thì Na Li Nã lên tiếng:

-Còn một người nữa, cô ấy đang bận bên ngoài. Nhưng nếu chịu khó chờ, các anh sẽ gặp được. Cổ mới là người đẹp nhất Đông Môn Cao Lầu! 

Đại Bác gãi gãi cằm vẻ nghi hoặc, rõ ràng gã chẳng biết chuyện này dù ghé qua đây chẳng ít. Tôi ngoài mặt bàng quan nhưng cũng muốn gặp cô gái đó, không đương dưng một người đẹp đầy khí chất kiêu ngạo như Na Li Nã nói vậy. Phụ nữ đẹp ít khi khen ngợi nhau trừ phi có mục đích. Bọn tôi nhìn quanh, thấy ba Hạ Nga Chi còn lại không phản đối Na Li Nã dẫu đôi mắt họ loáng thoáng tia ghen tức. “Nói thật!” – Chúng tôi tự nhủ. Đại Bác liền gọi gã bố mì, nằng nặc xin xỏ rồi đồng ý trả thêm tiền để gặp người mà Na Li Nã nói tới. Tôi không hề biết thói háu gái của ông bạn ngày ấy đã thay đổi cuộc đời mình vĩnh viễn.

Tôi cùng Đại Bác nhậu nhẹt hát hò giết thời gian. Bốn giờ sáng, khi cả hai sắp xỉn toàn phần và nhất trí với nhau rằng việc Đại Bác tán tỉnh bà mợ tôi là vô cùng khốn nạn thì nhân vật được chờ đợi xuất hiện. Tôi đã mong màn xuất hiện ấn tượng nào đấy tựa thể ánh bình minh xua tan căn phòng đầy mùi rượu lẫn khói thuốc này, hoặc là Đại Bác tặc lưỡi tanh tách rồi rút lược chải tóc (gã luôn làm vậy khi phát hiện gái đẹp). Nhưng tất cả dự đoán đều trật lất. Khi cô gái Hạ Nga Chi đó bước vào phòng, tôi cảm giác không khí trầm xuống như khu rừng vừa đón nhận ánh trăng đêm. Giả sử đang độ tuổi máu nóng, có lẽ bọn tôi sẽ ước ao nàng mặc bộ đồ hiện đại hoặc gợi cảm bốc lửa hơn thay vì chiếc váy đen kín đáo chỉ hở vai trần. Nhưng thật may là chúng tôi đã đủ lớn, trải qua đủ điều để nhận ra nàng Hạ Nga Chi ấy ẩn chứa bí mật không thể cưỡng lại. Một cách tự nhiên, nàng ngồi đối diện bọn tôi, đôi môi phớt hồng mở lời:

-Tôi là Mục Á, hân hạnh được phục vụ! – Nàng hơi cúi, mái tóc xõa trượt trên vai – Hy vọng hai người thấy thoải mái! 

Dứt lời, nàng tự lấy một ly rượu mời bọn tôi. Dù đang say ngất ngư nhưng tôi và Đại Bác vẫn trợn mắt nốc tiếp rồi trò chuyện với Mục Á, dần dà quên luôn những cô gái khác. Giọng nàng trầm, có hơi ấm mùa xuân bên kia Đồng Gió song cũng có làn lạnh giá quen thuộc của phương bắc – “chúng ta có thể cởi mở nhưng hãy giữ khoảng cách” – ý tứ giọng nàng là vậy. Nàng biết nhiều ngôn từ trang trọng hoặc dùng những kính ngữ mà chỉ giới quý tộc hiểu với nhau, nhưng lại không e ấp ngây thơ kiểu tiểu thư khuê các mà đám Hạ Nga Chi thường giả dạng. Nàng chống cằm nghe Đại Bác bốc phét, bàn tay hơi ve vuốt cổ mình rồi lại chống gò má, thi thoảng gật gù tán thưởng câu chuyện thú vị của gã. Đại Bác được thể nổ tưng bừng, ông bạn của tôi nổi tiếng sát gái và luôn nắm thế chủ động giờ bị cuốn theo nàng. Chuyện lạ! – Tôi nghĩ. 

Về phần mình, tôi không nói nhưng lắng nghe, ghi nhớ mọi hành động lẫn nét mặt Mục Á. Nàng biết nhưng không ngượng, chỉ mỉm cười ý rằng “Tôi biết anh ngắm tôi, chàng trai mắt màu lam đậm!”. Bỗng một thoáng, nàng hơi liếc sang tôi với cái chống tay gò má đầy thanh nhã mà đôi mắt như trêu chọc “Bạn anh đang quậy kìa, anh định im lặng mãi sao?”. Cảm giác ngượng ngùng khi bắt gặp ánh mắt của phụ nữ đẹp bất thình lình trỗi dậy, tôi không thể ngờ thứ tâm lý trẻ con đó vẫn tồn tại trong người mình. Tôi bèn uống rượu rồi cố tình quay đi vờ như không để ý nhưng tâm trí lại đan chằng giăng xéo những thắc mắc. Nàng từng là tiểu thư chăng? Nàng học những kính ngữ đậm chất quý tộc từ ai? Phải chăng nàng vào đây vì gia đình sa cơ lỡ vận? Hay bởi Đông Môn Cao Lầu đào tạo Hạ Nga Chi quá xuất sắc? Không, sự đào tạo chỉ đem đến những cái máy, còn khí chất mới làm nên con người, vậy nàng thực sự là ai? Tôi không thể ngừng đặt câu hỏi. 

Bọn tôi mải mê với Mục Á đến tận sáu giờ sáng, vỏ chai bia lẫn rượu lăn lóc khắp mặt bàn, các Hạ Nga Chi cũng đều về hết. Và nếu Mục Á không nhắc thì có lẽ chúng tôi sẵn sàng ngồi tới trưa. Đại Bác nhanh nhảu hỏi Mục Á muốn “tâm sự” hay không, nàng nhìn gã, suy nghĩ một chút rồi gật đầu kèm theo giá tiền. Tiền gặp mặt là một chuyện còn tiền để thân mật cùng nàng là chuyện khác. Đại Bác ưng ngay sau bá vai nàng rời khỏi phòng, không quên ngoảnh lại nháy mắt đắc thắng với tôi. Bấy giờ tôi mới thôi lấn cấn. Dù kiêu kỳ hay đẹp đẽ nhưng nàng vẫn là Hạ Nga Chi, là gái điếm. Tôi bật cười rồi ngửa cổ uống nốt ly rượu “sói xanh”. Đông Môn Cao Lầu không tệ nhưng vậy là đủ, tôi nên quay lại thú vui uống rượu ngắm cảnh. Khổ nỗi uống một mình kém vui, tôi phải chờ ông bạn xong vụ tâm sự với Mục Á. 

Tôi quay về khách sạn ngủ một giấc, lòng đinh ninh đến tối Đại Bác mới về, đoán rằng gã sẽ mang theo cả Mục Á. Phái nữ chết mê chết mệt bộ cằm phún râu quai nón, đôi mắt xanh lẫn cái miệng dẻo quẹo kẹo cao su của gã. Nhưng chưa ngủ được bao lâu thì tôi bị lôi dậy. Đại Bác vừa về trong khi ngoài trời mới chớm nắng ban trưa, gã cũng chẳng mang theo Mục Á. Tôi chưa kịp hỏi cơ sự thì Đại Bác tụt quần phô trương hạ bộ của gã trước mặt tôi. Tôi hốt hoảng quay đi, gào lên:

-Vạn Thế ơi? Cậu khùng à? Đừng nói là cậu tìm kiếm cảm giác mới lạ nhé?! Nếu vậy thì cút, cút ngay! Tôi sẽ giết cậu đấy!

-Ông bạn, chuyện này rất quan trọng! Cậu phải nhận xét giúp tôi – Đại Bác nghiêm giọng – Cậu nhìn xem, tôi có thực sự là “Đại Bác” không?

-Rồi, rồi, rồi! – Tôi giả bộ liếc qua – Cậu đổi tên thành “Tên Lửa Xuyên Lục Địa” được rồi! Thế làm sao nào? Cô Hạ Nga Chi đó chê cậu chắc?!

Đại Bác ủ rũ gật đầu. Tôi mở to mắt, quên luôn cả chuyện gã vẫn đang ở trạng thái tơ hơ với thiên nhiên. Vạn Thế ơi, gã vừa lắc đầu! Gã bị gái từ chối! Người duy nhất từ chối Đại Bác là nàng tiểu thư trường thiếu sinh quân mà tôi kể ở trên, từ đó đến giờ đã hơn mười năm. Tôi sốc thật sự! 

-Thế cô ta lên giường với cậu chứ? Không phát điên lên vì kỹ năng của cậu à? – Tôi hỏi gã.

Đại Bác vò đầu bất lực:

-Cổ khen tôi làm tình giỏi. Cổ khen tôi kể chuyện hay. Cổ nói những câu chuyện Đạo Chích của tôi rất thú vị. Nhưng chỉ thế thôi! Tôi muốn hẹn hò, cổ từ chối. Cổ bảo không hứng thú. Tôi sai ở đâu, ông bạn? Tôi rất nhẹ nhàng mà! Tôi thừa nhận mình hơi khốn nạn nhưng tôi đối xử với cô ấy rất tình cảm! Là tôi sai ở đâu nhỉ?

Tôi lắc đầu không hiểu. Đại Bác liền đi đi lại lại ngẫm nghĩ như triết gia truy cầu ý tưởng mới. Trong tôi lẫn lộn cảm xúc, vừa tiếc vừa buồn cười, lại có hơi đắc thắng vì lâu lắm mới thấy bộ mặt chịu thua cuộc của Đại Bác. Tôi cũng ghê tởm vì gã vẫn trần trụi diễu quanh phòng. Vạn Thế ơi, ông bạn mặc quần giùm tôi!

Hai hôm sau, Đại Bác tiếp tục đổ tiền gặp Mục Á nhưng kết quả chẳng khá hơn. Thậm chí sang ngày thứ ba, nàng Hạ Nga Chi ấy từ chối lên giường cùng gã. Hôm đó tôi được chứng kiến một Đại Bác thua cuộc toàn diện. Gã rủ tôi uống rượu, nốc hết hàng chục chai bia, vài chai “sói xanh” lẫn bi đông rượu từ Bãi Lầy Chết. Gã nói việc đặt chân tới Cội Gió chỉ là muỗi, mời Mục Á đi chơi mới khó nhất đời. Gã nói hoa Tuyệt Tưởng có thể nở nhưng làm Mục Á xiêu lòng thì không bao giờ. Gã triết lý than thở bao nhiêu, tôi buồn cười bấy nhiêu. Giữa lúc vui tôi buột miệng:

-Nếu cậu tán cổ không xong thì để tôi nhé?

Đại Bác nhíu mày, bèn hỏi lại:

-Thật sao? Một người chưa bao giờ dính vào gái điếm như cậu? Nghĩ kỹ chưa? Rồi hả? Vậy thì cá cược thôi! Một chầu bao hết quán này nhé?

Tôi đồng ý. Ở khoảnh khắc đó, tôi chỉ muốn kiểm tra khả năng tán tỉnh của mình. Tôi nghĩ Mục Á làm giá. Nàng là Hạ Nga Chi, nàng biết cách đẩy giá trị của mình. Sau bữa rượu, tôi đến Đông Môn Cao Lầu tìm nàng. Gã bố mì thỏ thẻ rằng nàng đã kín lịch, không có thời gian tiếp đón. Tôi đồng ý trả gấp năm chỉ để gặp nàng vài tiếng, gã bố mì gật đầu ưng ngay. 

Tôi chờ đến bốn giờ sáng thì Mục Á xuất hiện. Gã bố mì không giỡn, nàng thực sự kín lịch. Dường như nàng đã uống khá nhiều, sau đấy phải móc họng rồi uống thuốc giã rượu để dự hết tiệc này đến tiệc kia; lớp trang điểm phép thuật có thể giấu gương mặt mệt mỏi song chẳng cách nào che đi những tia máu đỏ vằn khắp mắt. Nàng mỉm cười chào tôi nhưng nét cười gượng gạo thiếu tự nhiên so với buổi đầu gặp mặt. Có lẽ Mục Á không mấy vui vẻ khi tôi xen vào giờ nghỉ ngơi hiếm hoi của nàng. Mục Á nhìn quanh đoạn hỏi Đại Bác, tôi nói gã bận việc. Nàng che miệng cười, lảng chuyện khác:

-Vậy chỉ còn mỗi anh? Ưm… mấy hôm rồi anh im lặng quá, giờ chỉ còn hai chúng ta, anh sẽ nói chứ? Hình như anh là quý tộc, vậy phải gọi là “Múy” nhỉ? Nhưng tôi không thích gọi như thế, cứ xưng hô bình thường, liệu có được? Được sao? Cảm ơn anh! Vậy thì nói chuyện! Anh cũng có nhiều điều muốn kể, đúng không?

Nàng nhận xét khá đúng về tôi. Tôi dễ dàng trò chuyện với bất cứ ai nhưng với điều kiện chỉ tôi và một người, tôi không hứng thú với đám đông kể cả khi tôi quen biết họ. Tôi gật gù:

-Tất nhiên! Nhưng tại Đại Bác chiếm hết sân khấu đấy chứ, đâu phải do tôi? Ha! Vậy tôi có thể ôm em không, Mục Á? 

-Được, hợp đồng cho phép. – Mục Á gật đầu – Nhưng muốn hôn thì tôi cho phép anh mới được làm. Còn thân mật hơn nữa thì anh phải trả tiền, mà cũng phải phụ thuộc xem tôi có hứng với anh hay không. Đây là luật! Tôi là Hạ Nga Chi mà! – Mục Á trả lời.

Tôi gật đầu hiểu ý rồi ngả người trên ghế sô-pha, dang tay ý bảo Mục Á nằm trên người mình. Nàng nhíu mày, tôi cười: 

-Vẫn trong hợp đồng nhỉ? Tôi làm đúng, phải chứ? 

Mục Á nhìn tôi một lúc, khóe miệng hơi nhếch lên vẻ kiêu kỳ. Tôi đã nghĩ nàng từ chối. Nhưng rồi nàng sà vào vòng tay tôi, áp đầu lên phần lồng ngực mà nhiều cô gái luôn tìm cách động chạm. Như nhận ra điều đó, nàng hơi đưa tay lên ve vuốt phần xương ức cứng rắn dưới lớp áo mỏng rồi khẽ dụi đầu vui thích tựa con mèo tìm thấy chỗ sưởi nắng. Tôi bỗng nhớ nàng công chúa Thượng Cổ năm nào, khi đó cô cũng hành xử giống Mục Á, thậm chí đấm liên hồi như đổ lỗi rằng vì bộ ngực đó mà trái tim cô rộn ràng. Mục Á ngước mắt hỏi:

-Vậy anh định kể chuyện gì nào? Đại Bác nói anh là ứng cử viên Thập Kiếm, là con trai dòng họ Xuy Hạ nổi tiếng nhất Băng Hóa, là cháu ruột hoàng đế. Không lẽ anh không có điều gì để kể?

-Tôi sẽ kể, nhưng tại sao chúng ta không ngủ nhỉ? Ngủ ấy! Ngủ để khi sáng mai tỉnh dậy, ta sẽ tỉnh táo hơn! Em mệt vì tiếp khách, tôi mệt vì đợi em, sao chúng ta không ngủ cùng nhau?

Mục Á ngạc nhiên, nàng toan nói điều gì đấy nhưng tôi chặn lại bằng cách ôm đầu nàng, vỗ về ve vuốt mái tóc đen xõa dài và bảo “Ngủ đi!”. Nàng bật cười như biết rõ tôi đang diễn trò tán tỉnh hạng bét song cũng nghe lời. Thi thoảng nàng ngẩng đầu săm soi tìm kiếm ý định đáng ngờ nào đấy trong mắt tôi. Tôi cười, nàng cũng cười, kiểu cả hai đều biết một mẩu chuyện hài hước. Ít phút trôi đi, Mục Á hơi cựa mình rồi rúc đầu vào cổ tôi, bàn tay co lên cảm nhận sự vững chãi ở ngực, ở bắp tay, ở chỏm vai hay bả vai tôi. Nàng giống cô công chúa Thượng Cổ, những cô gái tôi từng yêu, giống cả vị hôn thê tôi đã đính ước. Tôi thường chinh phục các cô gái bằng cách này và nó luôn hiệu quả. Nghĩ đến ngày Đại Bác trả nợ cá cược, tôi không nén nổi nụ cười đắc ý. Nhưng khi Mục Á đã thiếp đi cùng hơi thở nhè nhẹ, tôi có dịp nhìn ngắm nàng kĩ hơn, những thắc mắc lại được dịp nổi lên. Nàng thực sự là ai? – Tôi tự hỏi.

Khi tôi tỉnh dậy, Mục Á đã rời đi từ bao giờ. Nàng để lại một mảnh giấy ghi chữ “Cảm ơn” trên mặt bàn lăn lóc vỏ rượu bia. Tôi nghĩ mình đã đi đúng hướng. Khi quay về khách sạn, ông bạn Đại Bác lập tức dò hỏi tôi “làm ăn” thế nào. Trước mặt gã, tôi khẳng định mình tán tỉnh Mục Á vì cá cược nhưng không hề nói những cảm xúc khi ôm nàng ngủ. Lời nói của đàn ông luôn vậy: bao giờ cũng thừa một nửa khoác lác hoặc thiếu một nửa sự thật. 

Tối cùng ngày, tôi tiếp tục quay lại Cao Lầu, trả hàng trăm thùng vàng để đợi Mục Á trở về sau ngày dài bận rộn. Lịch làm việc của Mục Á quá dày đặc, tôi không thể chen chân vào đâu ngoài khoảng thời gian oái ăm bốn - năm giờ sáng. Tôi vốn không tiêu tiền cho chuyện đâu đâu nhưng riêng việc này thì được, thậm chí chờ đợi vài tiếng cũng không sao. Dù gì tôi cũng là quý tộc, quý tộc thì dễ xúc động trước những cảm xúc nhất thời mang tính nghệ thuật như nhiều tác phẩm văn chương hay nhạc kịch thường nói tới. Tôi nghĩ cảm xúc mà mình dành cho Mục Á cũng vậy: nhất thời, đắm say tựa ngọn lửa bùng lên, có chút lãng mạn, có chút phiêu lưu. Tôi tự cười khi nghĩ cảnh Đại Bác đóng vai phản diện tranh giành Mục Á còn tôi chiến đấu với gã giành giật nàng. Câu chuyện tình cảm hay ho đấy chứ? Dù gì Đại Bác cũng thừa tố chất vào vai phản diện, gã tằng tịu với bà mợ tôi kia mà! Ha ha!

Bốn giờ sáng, Mục Á trở về trong bộ dạng y như hôm trước, thậm chí không nặn được một nụ cười mào đầu câu chuyện. Nàng cố gắng lắm mới nhếch mép nổi. Lần này tôi không nói nhiều nữa mà ôm Mục Á lên ghế sô-pha và để nàng nghỉ ngơi trên khuôn ngực mình. Mục Á nheo mắt:

-Thật sao chàng trai? Anh bỏ năm trăm thùng vàng để làm gối ngủ cho tôi à? 

-Được chứ sao không? – Tôi cười lớn – Đằng nào tôi đang nghỉ phép dài hạn, mỗi tối tôi sẽ làm gối cho em ngủ, nhé?

Mục Á dụi mặt vào ngực tôi cười khùng khục. Nàng khẽ búng chóp mũi tôi rồi thiếp đi. Hơi thở của nàng phảng phất mùi rượu, hai má đỏ bừng vì lạnh lẫn mệt mỏi. Tôi cẩn thận xoa đầu Mục Á, đủ để mái tóc gợn hương thơm dầu gội mà không làm nàng thức giấc. Điều kỳ lạ là trong tôi không dấy lên loại cảm giác chiếm đoạt mà người ta luôn ẩn đi đằng sau những chuyện tình lãng mạn chóng vánh; thứ khao khát chiếm đoạt thô thiển thường được che đậy dưới nhiều cái tên như “thề hẹn”, “lời hứa” hoặc nhiều kiểu lãng mạn hóa khác mà người trẻ tuổi luôn yêu thích. Tôi từng ngộ nhận lòng ham muốn chiếm đoạt là tình yêu chân chính, để khi thỏa mãn rồi lại quay lưng vô trách nhiệm; nàng công chúa Thượng Cổ là ví dụ, thật may nàng vẫn chịu làm bạn với tôi dù đáng ra nàng nên tát tôi hàng trăm cái. Nhưng ở bên Mục Á, mọi ý nghĩ của tôi chỉ có sự trân trọng. Gương mặt này, dáng vẻ này, mái tóc này phải thuộc về nơi tương xứng với nó, đừng chỉ thuộc về vị trí Hạ Nga Chi. – Tôi nghĩ.

Liên tiếp mấy ngày sau, tôi tiếp tục làm gối cho Mục Á ngủ. Có hôm nàng về muộn, có hôm sớm hơn. Mới non một tuần lễ nhưng tôi đã đốt gần ba nghìn thùng vàng chỉ để ôm và ngắm nghía nàng trong lòng. Đắt! Rất đắt! – Tôi tự nhủ, lòng biết ơn những năm tháng cật lực chiến đấu và được sở hữu một ít tài sản gia đình. Mục Á thích cơ thể tôi, nhưng tại sao tôi cũng có cảm xúc ngược lại? Là tôi tán tỉnh nàng hay nàng quyến rũ tôi? Tôi quên khuấy luôn cá cược với Đại Bác và cứ nửa đêm lại tới Cao Lầu như thói quen. Một ngày nọ, tôi chờ tới năm giờ sáng mà Mục Á vẫn chưa quay về. Tôi hơi buồn, nàng chưa về, đôi lúc lại nghĩ nàng đã quên tôi. Rượu lẫn mệt mỏi lôi tôi vào giấc ngủ lúc nào chẳng hay. Trước khi bóng tối ập xuống, tôi chất vấn mình tại sao phải quan tâm một cô gái điếm? 

Vài tiếng sau, tôi chợt tỉnh giấc vì cảm giác lồng ngực bị vật nặng đè xuống. Tôi nhổm đầu, phát hiện Mục Á đang ngủ ngon lành trên người mình. Nàng đã về từ bao giờ. Vài cơn gió mát phấn chấn tràn tới, cuốn sạch phiền muộn trong tôi mà những đợt triều bia rượu đêm qua không giải quyết nổi. Có thể nàng đến theo thói quen hoặc vì ràng buộc tiền bạc, hoặc do nhận ra tôi là gã đốt tiền ngờ nghệch, ha! Nhưng tôi không quan tâm lắm, chỉ biết mình cảm thấy dễ chịu khi ở bên Mục Á. Nghĩ nàng ngủ say, tôi siết tay ôm Mục Á chặt hơn rồi hôn lên má nàng thật lâu. Nhưng tôi bỗng chột dạ khi thấy Mục Á tỉnh giấc, nàng nhíu mày cùng đôi mắt mơ màng. Nàng biết tôi vừa lợi dụng hôn hít, làm thế là phạm luật với Hạ Nga Chi. Tán tỉnh rồi ngủ với nhiều cô gái song đó là lần đầu tiên tôi sợ bị giận. Mà có vẻ tôi lo lắng thái quá vì Mục Á chỉ cười rồi gục đầu ngủ tiếp. Phù! – Tôi thở phào nhẹ nhõm, bàn tay tiếp tục vuốt ve tóc nàng. Hốt nhiên Mục Á ngẩng đầu, hỏi tôi bằng sắc mặt ngái ngủ:

-Muốn “làm” không? Khỏi cần gặp gã bố mì, tôi cho phép. 

Tôi gật đầu, Mục Á mỉm cười. Lát sau nàng dẫn tôi về phòng riêng. Căn phòng cơ man những áo váy sặc sỡ diêm dúa mà tủ quần áo không chứa nổi, quà tặng từ đám quý tộc chất đống cao như núi, ít nhiều số ấy đã bám bụi còn nàng chẳng có thời gian để xem bên trong là thứ gì. Nhưng tôi nhận ra nàng vẫn dành một khoảng không gian rộng rãi cho một chiếc bàn nhỏ, trên đặt chiếc bình sứ cắm những bông hoa lớn. Hoa nở to, tầng cánh dày đặc, dáng chung là một lớp cánh phía trên và một lớp cánh xòe lớn bên dưới. Hoa đủ màu từ hồng, hồng nhạt, đỏ hay đỏ thẫm… Hoa đẹp song như bao gã đàn ông Băng Thổ, tôi mù tịt về thực vật. Tôi bèn hỏi Mục Á, nàng đáp:

-Hoa trà kép. Nó to hơn hoa trà thường, cánh dày, nhiều lúc phải tỉa bớt, tốn công chăm sóc nhất trong các loại trà. Ở Băng Thổ ít đất tốt trồng trà kép, ở Đông Thổ trồng dễ hơn. Nhưng trà kép bên Băng Thổ đẹp hơn, giá đắt hơn, một năm chỉ có hai mùa bán loại trà này ở Hoàng Hôn Cảng. 

Tôi ngạc nhiên vì hoa không có mùi, lại ngạc nhiên hơn về Mục Á. Nàng hoàn toàn nghiêm túc khi nói về hoa, không chút bỡn cợt. Thực sự thì nàng là ai? – Tôi tự hỏi.

Sau khi vục mặt vào nước lạnh để mồm miệng bớt hơi rượu, tôi cuốn lấy Mục Á. Nàng chống tay, hơi ngả người về phía sau để tôi cởi dần áo khoác lẫn váy áo của nàng. Dưới màn đêm hơi cợn màu bình minh lẫn tuyết trắng phương bắc, từng phần cơ thể Mục Á hiện lên trước mắt tôi từ vóc dáng cao gầy, chỏm vai tròn trịa, bầu ngực hồng hơi ưỡn, vùng bụng nhỏ nhắn hơi lộ dẻ sườn lẫn phần chóp xương chậu, bắp đùi hơi se da vì lạnh cho tới vùng sâu kín nhất. Chúng đẹp đẽ, thanh thiết và trong ngần như mặt trăng tháng 6 ở lục địa Băng Thổ; còn tôi, căn phòng này, mưa tuyết ngoài kia hay cả thế giới Tâm Mộng chỉ là mặt hồ phản chiếu bóng hình vành vạnh vô khuyết đó. Một chút bồi hồi, một chút háo hức, tôi ôm Mục Á và bắt đầu làm tình. Tôi không để nàng chiều chuộng mình như gái điếm vẫn làm mà chủ động trước Tôi không lẻo mép như Đại Bác nhưng chưa bao giờ thua gã khoản kỹ năng; những cô gái trước đây đều muốn lên giường với tôi lần hai, lần ba hoặc nhiều lần nữa. Tôi nhẹ nhàng từ tốn, hy vọng sẽ làm Mục Á thỏa mãn như bọn họ, đấy là bản năng con người dù nó hơi dung tục. Bất quá suốt cuộc yêu, tôi cảm giác có gì đấy không ổn khi đối xử với nàng như thế. Mãi khi lật người Mục Á lại, nhìn đoạn hõm sâu chạy dọc sống lưng nàng, tôi bất giác vén mái tóc đen và trông thấy nửa sau cổ của nàng. Thiên nga! – Tôi giật mình, “kiếm” bỗng dưng xìu xuống. Tôi thở dốc, bàn tay che mặt như quá xấu hổ vì những gì đã làm. Ngỡ tôi gặp vấn đề, Mục Á hơi hoảng:

-Sao vậy? Anh ổn chứ?

Tôi gật gật tỏ ý mình ổn, chỉ là thâm tâm bị sốc. Xuất thân gia đình quý tộc, tôi được dạy rằng không được giết thiên nga, dạy cả lý do tại sao phải làm vậy. Mục Á là thiên nga còn tôi đang cố gắng chiếm đoạt nàng bằng ham muốn của loài thú săn mồi. Tôi ôm mặt kể lại chuyện Đại Bác rồi vụ cá cược giữa chúng tôi, tôi ngượng ngùng khôn tả còn Mục Á cười ngất. Bần thần hồi lâu, tôi dợm hỏi:

-Mục Á, tôi có thể yêu em không? Hãy cho tôi thêm một cơ hội!

Mục Á lại cười lần nữa như thể tôi là gã ngốc. Rồi nàng sà đến luồn tay vào mái tóc hổ phách của tôi đoạn thì thầm những lời quyến rũ. Tôi trả lời nàng bằng cảm xúc chân thành, bằng cảm giác “mong muốn được yêu” mà tôi đã đánh mất sau lần chia tay cô bạn gái đầu đời. Chúng tôi cùng lên đỉnh, cùng nắm chặt mái tóc nhau vào lúc bình minh ngày mới ló rạng những tia nắng xuống cánh hoa trà kép. Sau cơn thở dốc, Mục Á nhổm dậy định đi tắm nhưng tôi lôi nàng trở vào lòng, nàng nhíu mày:

-Người tôi đang bẩn lắm, đợi tắm xong đã…

-Không, không phải việc đó! – Tôi nói, cánh tay siết chặt hơn – Từ giờ tôi hẹn hò với em được không? Hẹn hò, không phải ở đây, không phải vụ cá cược. Tôi muốn hẹn hò với em! Cho tôi một cơ hội, được không? 

Mục Á nhíu mày rồi nhìn đông ngó tây với nụ cười mỉm, cuối cùng gật đầu đồng ý. Tôi vui sướng hôn em rồi ôm em thật chặt, để cảm nhận em nhỏ bé thế nào trong cánh tay tôi, để hứa với mình phải có nghĩa vụ làm em hạnh phúc. Giữa khoảnh khắc đó, tôi nhận ra đoạn cổ đẹp đẽ như thiên nga của em nổi lên những dấu ấn màu vàng cam kỳ lạ. Chúng giống ký hiệu hay loại cổ ngữ nào đó. Tôi bèn hỏi:

-Những dấu ấn trên cổ em là sao? Nó là phép thuật?

Mục Á lắc đầu ý rằng đấy là chuyện riêng tư. Bấy giờ tôi mới nhận ra dù có được thân xác hay hẹn hò với Mục Á thì vẫn còn đó một chặng đường dài đằng đẵng để bước vào tâm hồn em. Tôi vén tóc Mục Á rồi hôn lên đoạn cổ, những dấu ấn màu vàng cam hơi sáng lên một chút, chừng như chúng biến đổi theo cảm xúc của em. Tôi buột miệng:

-Em đẹp như hoa vậy!

-Hoa gì? – Mục Á hỏi lại. 

Tôi nhất thời á khẩu, bỗng thấy bình hoa trà kép đọng nước dưới ánh mặt trời thì trả lời:

-Hoa trà.

Mục Á mỉm cười rồi rúc mặt sau bắp tay của tôi. Em hơi ngượng. Có vẻ như tôi đoán trúng, ha ha!

Kể từ hôm ấy chúng tôi hẹn hò. Khi tôi tay trong tay trình diện với Mục Á, ông bạn tóc vàng ngạc nhiên đến rớt hàm. Gã nhìn vào đũng quần mình rồi ngửa mặt lên trời than vãn với Vạn Thế. Nhưng thay vì bắt gã thực hiện lời hứa cá cược thì tôi bao cả quán rượu. Có Mục Á bên cạnh, tôi chẳng nghĩ chuyện gì khác, quên bẵng luôn cả vị hôn thê đang chờ mình ở Băng Hóa thành. Những câu chuyện lãng mạn ở Băng Thổ hay bắt đầu như thế…

(Còn tiếp)
 
Quyển 3 - Chương 146: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà Kép (1)


Tôi vốn dự định kỳ nghỉ phép của mình sẽ diễn ra như bao năm vẫn vậy: dạo qua nhiều thành phố trên lục địa Băng Thổ, ngắm cảnh và uống rượu cùng Đại Bác, thi thoảng chạy bán sống bán chết vì ông bạn gây tai họa với các cô gái. Nhưng kỳ nghỉ phép năm nay giới hạn ở Hoàng Hôn Cảng bởi ở đây có Mục Á. Tôi đang hẹn hò với em. A, chào các vị, tôi lại kể chuyện cho các vị đây! Tôi là Khai Y, Xuy Hạ Khai Y.

Hơn mười năm kể từ lần yêu đương đầu tiên, tôi mới lại có cảm giác hạnh phúc xen lẫn hồi hộp khi dắt tay Mục Á, thi thoảng tự huyễn mình là gã đực rựa ghê gớm nhất thế giới và có thể làm mọi thứ vì yêu. Nếu các vị hỏi Đại Bác, gã sẽ kể chi tiết vụ nửa đêm tôi leo cây mò vào phòng bạn gái bất chấp gia đình nàng ngăn cấm, nắm chặt tay nàng thề thốt những lời chắc như băng vĩnh cửu, sau đấy cha nàng vung kiếm đuổi chí chết vì tưởng tôi là quân ăn cướp. Yên tâm, Đại Bác sẽ kể luôn cả việc tôi nhảy xuống bị rào sắt kéo toạc quần nhưng vẫn hông hống mồm “Tôi yêu em!” với bạn gái, trong khi cha nàng khua khoắng kiếm chửi rủa “Thằng mất dạy!”. Ha ha! Tôi yêu cô bạn gái đầu đời thế đấy! Bây giờ với Mục Á, tôi cũng có những cảm xúc tương tự thậm chí mãnh liệt hơn. Điểm khác biệt duy nhất là chúng bó chặt trong tâm tưởng thay vì thể hiện tay chân như thời hăng máu. Sức mạnh của tuổi tác là vậy. 

Nhưng hạnh phúc với em bao nhiêu, tôi cũng bực bội bấy nhiêu. Là thật đấy các vị! Nếu các vị - những gã đàn ông – có thể hẹn hò với Mục Á, các vị sẽ hiểu cảm giác của tôi. 

Trong số những thử thách có thể đánh quỵ đàn ông thì chiến tranh đứng đầu bảng, kế đến là hẹn hò với Hạ Nga Chi. Cứ tưởng tượng cô gái mà các anh yêu phải dự tiệc suốt ngày, tay ôm tay ấp với bọn đàn ông khác, thậm chí là ông già đáng tuổi bố mình, các vị chịu được không? Hạ Nga Chi có quyền từ chối lên giường nhưng lý thuyết khác xa thực tế, họ không thể từ chối mãi. Xứ Băng Thổ hoang dã, chuyện yêu đương giường chiếu không phải vấn đề lớn nhưng cũng chẳng mấy gã đàn ông chịu được chuyện kể trên. “Rộng lượng”, “tha thứ”, “độ lượng” hay mấy loại từ ngữ rất kêu rất cao thượng nào đấy chỉ có giới hạn, chẳng thể nào khỏa lấp tính ích kỷ của đàn ông. Mục Á là bạn gái tôi, nhưng Đại Bác cũng có thể ngủ với em nếu dám chi một núi tiền cho Cao Lầu (gã đủ khả năng vì là Đạo Chích Không Trung nổi tiếng). Tất nhiên Đại Bác không làm vậy, gã chưa ngựa giống tới mức đó. Các vị, những anh chàng máu nóng, những quý ông kiêu hãnh, liệu các vị có chịu được? 

Được một tuần hẹn hò với Mục Á, tôi gặp ông chủ Đông Môn Cao Lầu và đề nghị chuộc em, số tiền chuộc khổng lồ nhưng tôi dư sức lo liệu. Vấn đề ở chỗ Cao Lầu không nhả Mục Á. Em là Hạ Nga Chi đứng đầu thành phố, một tháng có thể kiếm gấp rưỡi hoặc gấp đôi số tiền chuộc cộng thêm vô số lợi tức khác, chẳng ông chủ nào muốn em ra đi. Dù biết danh tính của tôi nhưng ông chủ Đông Môn Cao Lầu vẫn lắc đầu từ chối:

-Tôi hiểu Múy không vui, nhưng đây là luật, mong Múy không vi phạm. Tôi biết quan hệ giữa hai người. Tôi sẽ tạo điều kiện cho Mục Á, nhưng tôi không thể đảm bảo cô ấy không cần lên giường với ai. Đây là ngành công nghiệp, chúng tôi sống nhờ chuyện giường chiếu, vả lại Mục Á chưa hết hạn hợp đồng với chúng tôi, mong Múy hiểu.

Thế đó! Tôi phải chờ ít nhất hai năm. Dù Mục Á hứa sẽ từ chối hết mức có thể nhưng hai năm quá dài, quá thử thách với một gã đàn ông. Chẳng biết từ bao giờ mà trong tôi hình thành tính ích kỷ; mỗi lần đi chơi cùng Mục Á, tôi ôm ấp em cứ như thể ngày mai sẽ là tận thế để rồi cuối buổi lại nắm tay em thật chặt, dùng dằng mãi không buông. Một tối nọ, khi cùng Mục Á dạo quanh khu chợ trời dưới hàng cây lá kim, tôi liên tục ngó đồng hồ dù còn lâu nữa em mới phải về Cao Lầu, thấp thỏm như đứa trẻ con sợ hết giờ đi chơi. Thấy vậy, Mục Á phì cười:

-Đừng vậy chứ, anh là quý tộc đấy! Phải ra dáng quý tộc chứ? Mà mấy hôm trước anh gặp ông chủ Cao Lầu? Sao ngốc vậy?

-Ngốc? – Tôi ngạc nhiên – Tôi yêu em mà, Mục Á?! Sao tôi chịu được cảnh em đi uống rượu tối ngày với người khác?

Mục Á cười mỉm, bàn tay thanh tú vuốt tóc:

-Nhưng anh có chắc em yêu anh nhiều bằng anh yêu em không? Hai bên không tương đương thì sẽ chẳng đi đến đâu cả. Chúng ta đâu biết nhiều về nhau, phải chứ?

Tôi hơi chột dạ. Mục Á nói đúng, tôi quen em qua những lần gặp gỡ chóng vánh lúc chạng vạng sáng, giữa không gian đầy mùi rượu bia thuốc lá và một cuộc làm tình, hoàn toàn chưa có nổi dăm câu trò chuyện tử tế. Thực tình tôi không muốn dẫm vết xe đổ như đã từng với nàng công chúa Thượng Cổ hay bao cô gái trước đây. Tôi hỏi:

-Tại sao em yêu tôi, Mục Á?

Mục Á mua que kem đôi từ người bán rong. Em bẻ nửa đưa cho tôi, sau trả lời:

-Vì con người anh…

Tôi cười tươi đoạn ăn kem, Mục Á tiếp lời:

-…là con cả dòng họ Xuy Hạ, cháu ruột hoàng đế Băng Hóa, thuộc hàng quý tộc đẳng cấp cao nhất, phụ nữ ai chẳng thích anh? Có ngu mới từ chối!

Cục kem đang trôi xuống cổ họng tôi bỗng dưng lạnh toát. Nhiều cô gái từng đến với tôi vì những lý do kể trên và cũng bởi điều đó mà tôi chia tay họ. Em đang thật lòng hay đùa cợt? Lẽ nào em cũng giống họ? – Tôi phân vân rồi suy tính nghiêm túc hơn chuyện tình cảm với Mục Á. Tôi nhìn Mục Á, em quay đi nhìn trời ngắm mây, đôi mắt sắc của em thi thoảng liếc sang cùng nụ cười tinh quái. Em thực khó hiểu. 

Nhưng quả thật Mục Á là người con gái kỳ lạ nhất tôi từng gặp. Thời gian đầu hẹn hò, các cặp đôi luôn kiếm chỗ riêng tư để tận hưởng cảm giác ngắm nghía nhau, sau đấy thủ thỉ mấy câu nói lãng mạn mà họ tự nghĩ ra hoặc cóp nhặt từ ai đó, cuốn sách nào đó hoặc câu chuyện nào đó (rồi tự nhận là của mình! Ha ha!). Nhưng Mục Á khác, em rủ tôi đi dạo, đi chợ trời, đi lang thang bên rìa những cánh rừng phía nam Hoàng Hôn Cảng, đi dọc bờ sông chạy ngoằn ngoèo qua thành phố, đi tản bộ qua những cung đường vòng quanh sườn núi phía tây và nằm dưới bóng các tòa lâu đài vốn thuộc về gia đình quý tộc. Em biến buổi hẹn hò thành chuyến vận động thân thể, đôi lúc em nghỉ vì quá mỏi chân, sau lại đứng dậy cất bước. Tôi dám chắc em biết rõ mọi ngả lối ở Hoàng Hôn Cảng và từng đi thế này khá nhiều. Nhưng mỗi lần như vậy, tôi luôn thấy gương mặt em rạng rỡ đẹp hơn cả khi trang điểm. Tôi thắc mắc, em trả lời:

-Đường cũ nhưng người không cũ, mà người cũ thì chuyện không cũ, mà nếu chuyện cũ thì thời gian không cũ. Luôn có thứ gì đấy vừa sinh ra, luôn có điều nào đấy vừa đặt chân tới thế giới này. Chẳng bao giờ nhàm chán, chỉ là bản thân anh thấy chán hay không thôi.

Tôi ngạc nhiên. Không phải vì yêu Mục Á mà tôi tâng bốc nhưng thực tình chẳng mấy cô gái suy nghĩ như em, ngay chính tôi cũng hiếm khi nhìn nhận cuộc sống như vậy. Nếu ai có thể cảm nhận rõ lời em thì đó là Đạo Chích Không Trung, những người lấy việc lang bạt tứ xứ làm mục đích sống. Tôi đoán Mục Á không thể làm Đạo Chích mà có lẽ em ảnh hưởng từ ai đó. Thấy tôi nhìn ngó, em bật cười bảo rằng ngày nào cũng ngồi một chỗ rượu bia nên ù người, đi lại cho đỡ oải. Tôi gãi đầu: 

-Vậy ngồi một chỗ ngắm cảnh thì sao? Tôi muốn ngắm Đồng Gió!

Mục Á đồng ý. Chúng tôi thuê xe kéo lên đỉnh dãy núi vòng cung phía tây, ngồi dưới rừng cây lá kim chìa ra những cành mảnh khảnh tắm tuyết và ngắm Đồng Gió. Tôi thường ngắm cảnh một mình hoặc cùng ông bạn Đại Bác, sau đó tận hưởng rượu mạnh. Nhưng lần này khác, rượu được thay bằng trà thiết mộc – Mục Á muốn tránh rượu được lúc nào hay lúc ấy. Ngày đó tôi phát hiện uống trà ngắm cảnh có cái thú riêng, không say sưa bồng bềnh như rượu mà ấm nóng, sau một hồi ập ào vị đắng cuống họng rồi lại chót lên vị ngọt đầu lưỡi, giống những cuộc hành trình mà tôi đã trải qua cùng thầy Tây Minh (tôi chợt nhớ thầy cũng rất thích trà thiết mộc). Nhấp xong ngụm trà, tôi lặng lẽ nhìn Đồng Gió quất từng đợt roi gió đẫm tuyết vào đám thuyền cạn mà không biết chán. Nó giống những ghi chép mà các nhà thám hiểm từng mô tả qua những trang sách. Đẹp! – Tôi tự nhủ. 

Bàn chuyện ngắm cảnh, các cô gái luôn coi đây là điểm chán nhất của tôi, họ nghĩ tôi coi trọng khung cảnh vô hồn hơn một thực thể sống động như họ. Nhưng Mục Á không giống vậy. Em giấu gương mặt sau vòng tay ôm chặt đầu gối, ánh mắt lang thang giữa Đồng Gió, đường lông mày mảnh mai thi thoảng nhướn lên vì thấy những trận lốc tuyết bất thình lình xuất hiện. Lốc tan, em lại hướng tầm nhìn về đám thuyền cạn rồi nhỏng cổ trông bóng chúng khuất lấp sau màn gió đặc tuyết, chừng như đã gửi gắm tâm sự lên những chiếc thuyền và nhờ chúng chở sang bờ bên kia Đồng Gió. Em thực sự hòa mình với mảnh đất hoang mạc rít gào phía xa, thành thử tôi không muốn tự tiện ôm em. Làm vậy quá bất nhã với người ngắm cảnh! Tôi chìa tay hỏi Mục Á trước, chờ em đồng ý mới kéo vào lòng. Tôi hỏi:

-Em sinh ra ở Đông Thổ nhỉ? Nước nào vậy?

-Diệp quốc. – Mục Á trả lời – Được mười bảy tuổi thì em chuyển tới đây.

-Hồi ấy vui lắm, đúng không?

Em gật đầu. Nhưng khi tôi hỏi quãng thời gian đó, em cười song im lặng. Gió nhẩn nha trên rừng lá kim, em ngước lên ngắm ngọn lá rỏ tuyết rồi ngâm nga theo giai điệu nào đấy. Tôi cảm nhận rõ tiếng rung ở thanh quản Mục Á, tiếng lấy hơi mà không lộ tạp âm thở, đó là dấu hiệu của người biết hát và tập hát từ rất lâu. Nghĩ em yêu ca hát, tôi bèn rủ xem nhạc kịch nhưng em từ chối mà không nói lý do. Tôi không gặng hỏi và vuốt tóc em vỗ về. Có lẽ phải mất thêm một thời gian để em trải bày lòng mình. Cơ mà tôi đợi được. 

Chuyện dạo chơi kể trên không phải điểm kỳ quặc duy nhất của Mục Á. Nhiều lần tôi rủ Mục Á tới nhà hàng sang trọng hay dự tiệc quý tộc nhưng em luôn từ chối. Tôi hiểu cho Mục Á bởi cuộc sống của em luôn xoay quanh thức ăn thượng hạng và rượu mạnh khé cổ, nhiều đến nỗi em thừa nhận mình hay gặp vấn đề với vị giác. Em thích những món quà vặt rẻ tiền ở chợ trời như xiên thịt nướng, xâu bánh ngọt, đôi khi chỉ là kem que (em luôn mua kem đôi và bẻ cho tôi một nửa) rồi lang thang cả buổi ở khu chợ. Mục Á nói quà vặt ở đây làm em nhớ tới những mùa lễ hội Diệp quốc. Em kể rằng khi đêm xuống, người ta thả hàng trăm con hạc giấy có phép thuật xuống đường phố Diệp quốc, chúng bay trên những ngôi nhà truyền thống thấp mái với đôi cánh lấp lánh giấy vàng, còn mọi người trẩy hội trên những cung đường nhỏ đầy tiếng nói tiếng cười. Ký ức đó đã ở bên kia Đồng Gió nhưng chúng vẫn sống động trong từng lời nói hay từng cái khoát tay mô tả của Mục Á. Em nhớ nhà và hẳn tuổi thơ em phải hạnh phúc lắm nên mới nhớ đến vậy. Tôi bỗng tò mò về gia đình em song cũng như lúc trước, em im lặng khi tôi đặt câu hỏi. Không sao! – Tôi tự nhủ. Tôi yêu em, tôi đợi được. 

Hẹn hò với Mục Á là vậy đó các vị! Nửa tháng bên em, tôi dần quen các ngả lối ở Hoàng Hôn Cảng hay hàng quán chợ trời. Cuộc hẹn hò lặp đi lặp lại một phương thức nhưng luôn có những cung đường mới hay gương mặt mới, những câu chuyện lạ lẫm mà tôi cứ ngỡ cuộc đời phiêu lưu của mình đã trải qua hết. Chúng êm đềm như tính cách phụ nữ Diệp quốc mà tôi thường nghe kể rồi đọng lại thành kỷ niệm trong tâm trí tôi lúc nào chẳng hay. Thành thử đến khi hết hạn nghỉ phép, tôi lấn bấn mãi mà không dám nói lời chia tay Mục Á. Nghĩ cảnh ba tháng tới không có em, tôi bứt rứt khó tả. Mục Á thì khác, em lắc đầu:

-Ba tháng đủ quên chuyện yêu đương. Chắc gì sau ba tháng em còn nhớ anh?

Mặt tôi ngơ ngác như vừa bị hất cả xô nước đá giữa trời lạnh căm căm. Mục Á cười rung vai, hai má ửng đỏ. Em chợt bóp mũi tôi:

-Nhưng em sẽ cố gắng. Yêu cũng cần cố gắng, đúng không? Yên tâm đi chàng trai, anh là quý tộc giàu có, sao em bỏ qua món hời này được chứ?

Mặt tôi ngơ ngác tập hai. Mục Á cười lớn rồi hôn tôi thay lời chia tay. Tôi không chắc em đùa hay thật nhưng những lời em nói khiến tôi phải suy nghĩ nghiêm túc chuyện tình cảm. Gái điếm Băng Thổ mà nhất là các Hạ Nga Chi xưa nay luôn thích cặp kè quý tộc, họ dùng mọi thủ thuật chiêu trò nhằm đạt được mục tiêu đó. Lẽ nào Mục Á khác họ? Hay tất cả những gì em thể hiện chỉ cốt che mắt tôi? Không tự dưng mà Mục Á trở thành Hạ Nga Chi nổi tiếng nhất Hoàng Hôn Cảng, tất cả đều có lý do. Suốt quãng đường về Băng Hóa thành, tâm trí tôi cứ lẩn mẩn những suy tư khó trôi, Đại Bác thấy vậy thì hỏi:

-Sao hả ông bạn? Hẹn hò với nàng Hạ Nga Chi thế nào? Lủng túi chưa?

Nghe thế, tôi chợt nhận ra ngoài khoản phí phải trả cho Đông Môn Cao Lầu để sở hữu Mục Á trong vài tiếng đồng hồ thì tôi chưa hề mất một đồng nào. Nhiều lần dạo chơi ở chợ trời, toàn là Mục Á trả tiền chứ không phải tôi trong khi em có thể vòi vĩnh đòi chiều chuộng. Tôi bật cười. Thực tình tôi không thể định nghĩa con người Mục Á. 

Trở lại Băng Hóa thành, tôi gặp gia đình lẫn vị hôn thê. Tôi nói dối mình đến phía đông Băng Thổ làm vài việc giúp thầy Tây Minh. Không ai nghi ngờ tôi. Vị hôn thê ôm tôi, thủ thỉ những lời động viên rồi nói nàng muốn đi chơi. Nàng thật hiền hậu nhưng khổ cho nàng, tôi không có chút tình cảm nào. Mấy ngày đó, tôi định nói tất cả cho vị hôn thê nhưng không đủ can đảm. Tôi chưa từng sợ bất cứ địch thủ nào kể cả thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt nhưng ở chuyện này, tôi đích thực là kẻ hèn nhát. 

Ba tháng kế tiếp, tôi theo chân thầy Tây Minh đến những vùng đất xa lạ, gặp những con người lạ lẫm và chiến đấu cho những giá trị xưa cũ. Ba tháng đó, hễ rảnh rỗi tôi lại tự vấn tình cảm mà mình dành cho Mục Á thay vì lăng nhăng bù khú với Đại Bác. Ba tháng đó, thay vì chỉ ghi nhật ký hành trình, tôi vẽ chân dung Mục Á, vẽ những dấu ấn bí hiểm sau đoạn cổ của em, vẽ cả đôi mắt sắc sảo của em; để rồi ngắm lại các bức tranh, tôi thầm cảm ơn hồi trẻ đã học hội họa tử tế. Nhưng ba tháng đó, vẽ vời không giúp tôi vơi nỗi nhớ Mục Á. Như hiểu những tâm sự đó, Đại Bác bớt rủ tôi tham gia mấy vụ gái gú. Nhận ra sự xao nhãng của tôi, thầy Tây Minh có bận phải nhắc nhở. Tôi xin lỗi thầy và cố gắng nhiều hơn trước, phần vì muốn cống hiến, nhưng phần khác là muốn xong chuyện sớm để gặp lại Mục Á. Tôi nhớ em. 

Công việc kéo dài hơn dự kiến, sau bốn tháng tôi mới được nghỉ phép. Thay vì về nhà, tôi lập tức đến Hoàng Hôn Cảng và phăm phăm chạy tới Đông Môn Cao Lầu. Gã bố mì Cao Lầu nói Mục Á rất bận, hiện không thể gặp. Tôi thất vọng tràn trề nhưng vẫn để lại lời nhắn hẹn gặp ở địa điểm quen thuộc trên dãy núi phía tây. Những cung đường vẫn trắng xóa hai bên lề, những tán lá kim vẫn lùa xùa rặng tán xanh ngắt giữa mưa tuyết, tất cả vẫn vậy, chỉ là không có Mục Á. Tôi chờ đợi trong khi tuyết rơi mỗi lúc thêm dày còn bình trà thiết mộc đã lạnh ngắt. Giữa trưa, hai giờ chiều rồi sáu giờ tối, lúc tôi phải nghỉ dưới gốc cây vì mệt và cái mũi bắt đầu sụt sịt vì lạnh thì Mục Á xuất hiện. Em mím miệng ngăn tiếng thở dốc thoát khỏi đôi môi phớt đỏ, chừng như cố giấu chuyện mình vừa chạy tới đây, nhưng em chẳng thể che lấp những dấu giày lún tuyết phía sau mình. Nhìn em xem! Vẫn đẹp, vẫn như đóa hoa trà kép rực rỡ nao lòng người. Người cũ, nơi cũ nhưng khoảnh khắc mới, cảm xúc mới. Em nhíu mày kiêu kỳ:

-Em không đến thì anh cứ chờ mãi à? Sao ngốc thế?! À thì tất nhiên em sẽ đến, làm sao mà bỏ một chàng quý tộc đẹp trai giàu có được nhỉ? Đây là cơ hội để đổi đời… này, làm gì thế, Khai Y?! Bỏ em xuống!

Lần đầu tiên sau bốn tháng được nghe giọng Mục Á, tôi không kiềm chế nổi mình mà ôm em rồi nhấc bổng lên cho thỏa nỗi nhớ, cho vơi nỗi uất ức khi nghĩ cảnh em ở trong vòng tay gã đàn ông khác. Vậy nên Mục Á nói thế nào tôi cũng không bỏ em xuống. Em cười khúc khích đoạn ôm lấy đầu tôi rồi hôn đôi môi đỏ xuống mái tóc màu hổ phách. Đêm ấy chúng tôi chỉ ôm nhau, kể lại tất cả mọi chuyện xảy ra bốn tháng vừa rồi. Tôi nghẹn họng khi Mục Á thú nhận em phải lên giường với hai vị khách quan trọng dù đã từ chối đủ đường. Em hỏi tôi giận hay không, tôi trả lời có và nếu là gã Khai Y hăng máu thuở trước, hẳn tôi đã xách kiếm nói chuyện phải quấy với hai kẻ nọ. Em vuốt tóc tôi đoạn hỏi:

-Thế thì yêu một Hạ Nga Chi làm chi, chàng kiếm sĩ? Gái điếm có bao giờ nói thật? Mà nói thật thì ai tin, ai nghe? Nhỡ đâu em ngủ với mười gã thì sao? Nhỡ đâu em muốn ngủ với họ thì thế nào?

-Tôi tin em! – Tôi ôm chặt Mục Á – Tôi sẽ chuộc em khỏi Cao Lầu!

-Vậy sao biết em yêu anh vì tiền bạc và địa vị mà vẫn ngốc vậy? – Mục Á nhếch môi – Anh tin mọi lời em nói là thật, phải không?

Tôi ngẩn mặt còn Mục Á cười lớn. Em vuốt ve cằm tôi, xoắn vài sợi tóc hổ phách rồi rúc mặt vào cổ tôi mà ngủ. Ở bên em, tôi luôn có cảm giác lạ lẫm khó hiểu. Nhưng đó là lý do tôi quay lại Hoàng Hôn Cảng. Tôi muốn biết rõ hơn về em, bước vào trái tim chứ không phải thỏa mãn cảm giác chiếm đoạt. Bốn tháng cho tôi câu trả lời rõ ràng: tôi yêu em, thành thực và nghiêm túc, không phải thứ tình yêu sét đánh nổ đùng đoàng mấy tiếng sấm lãng mạn, hoàn toàn không phải!

Sáng hôm sau, chúng tôi quay lại dãy núi tuyết ngắm Đồng Gió. Tôi và Mục Á đều chung quan điểm rằng cảnh tượng nơi ấy luôn thú vị. Ôm em trong lòng, tôi kể trước đây từng có hai miền cực là Cội Nam và Cội Bắc, chúng phân phối các đợt gió mùa tạo nên thời tiết trên thế giới Tâm Mộng. Sau đợt trừng phạt của Vạn Thế, Cội Bắc bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn lại di sản Đồng Gió nối liền hai lục địa; riêng Cội Nam vẫn tồn tại và được người đời sau gọi là Cội Gió. Nghe xong, Mục Á hỏi:

-Em nghe ở Cội Gió, gió thổi năm này qua năm khác. Anh đến đó bao giờ chưa? 

Tôi bật cười. Hầu hết các cô gái không thích Cội Gió vì nó không phải chủ đề thú vị cho các cặp tình nhân. Tôi dợm hỏi vài cô nhưng tất cả họ đều lảng đi hoặc nghe cho biết. Những bãi biển rộm nắng, những thành phố nhộn nhịp chân người hoặc khu giải trí rộn ràng màu sắc – họ thích mấy nơi như vậy hơn là chốn hoang sơ đầy rẫy bí mật. Tôi đáp lời Mục Á:

-Tôi từng theo Đại Bác tới đó. Em hiểu “dòng hải lưu” chứ? Ừ, nơi ấy cũng giống biển vậy, chỉ khác là “đối lưu”. Người ta cần phán đoán các dòng đối lưu để thăng vân tàu không gặp những trận gió bất chợt hay bão lớn. Có nhiều vùng trời rất đặc biệt, rất đẹp nhưng cũng nguy hiểm lắm! Nó gần giống ở Kim Ngân…

-Có phải như Cao Nguyên Bạc ở Sa Thần quốc, Biển Thủy Tinh ở Xa Thùy quốc, Thảo Nguyên Sét ở Tinh Tú quốc?

Tôi ngạc nhiên. Phải là Đạo Chích hay làm việc nhiều với đám này mới hiểu những địa danh kể trên, ngay cả giới chiến binh cũng chẳng thạo huống hồ một cô gái. Có lẽ Mục Á gặp gỡ nhiều loại đàn ông nên em biết nhiều, hoặc có thể Đại Bác kể cho em, nhưng ghi nhớ những chuyện ấy với đầu óc phụ nữ thì em là người đầu tiên. Tôi hào hứng:

-Phải, phải, đúng vậy! Nhưng ở Cội Gió còn khắc nghiệt hơn thế! Rất nhiều địa danh chưa được đặt tên, chưa được khám phá mà chỉ có thể đứng từ bên ngoài trông vào. Nhưng bầu trời ở đó… em biết không… chúng đẹp lắm, đẹp như em vậy! Người ta bảo nơi ấy từng là lục địa rộng lớn thời Năm Đế Chế Cổ Đại, nhưng sau sự trừng phạt của Vạn Thế, tất cả chỉ còn là tàn tích.

-Ở Đồng Gió thi thoảng có khoảng lặng… – Mục Á nói – …nhưng gió ở nơi ấy thì không bao giờ kết thúc, đúng không?

-Phải, và những giấc mơ ở Cội Gió cũng không bao giờ kết thúc. – Tôi trả lời. 

Mục Á gỡ tay tôi rồi quay lại nói:

-Em muốn thấy Cội Gió một lần, anh đưa em đi được chứ?

Đó không phải giọng vòi vĩnh hay quan tâm hời hợt nhằm thỏa mãn cái tôi đàn ông, nhiều cô gái cũng từng hỏi câu tương tự nhưng tôi luôn từ chối. Bởi lẽ tôi biết các cô chỉ tỏ ra quan tâm cái mà tôi quan tâm chứ kỳ thực chẳng quan tâm chút nào. Nhưng Mục Á hoàn toàn khác. Đôi mắt em, giọng em, cả dáng ngồi chống tay cùng cẳng chân xòe trên tuyết đầy nữ tính lẫn cái rướn lưng trông đợi – tất cả đều toát ra nỗi háo hức giống thiếu nữ đang mong mỏi chuyến đi xa nhà đầu tiên, mà cũng nghiêm túc vô cùng! Tôi biết em mới hai mươi hai tuổi (22), rất trẻ, nhưng tôi đã quen một Mục Á trưởng thành với đôi mắt sắc sảo thấu triệt tâm can người đối diện. Còn một Mục Á với những dư ảnh thời mộng mơ thế này, tôi mới thấy lần đầu. 

-Đi thăng vân tàu không đơn giản đâu, Mục Á! – Tôi ôn tồn giải thích – Cả hạm đội thăng vân tàu toàn đực thôi, chẳng có ai là nữ cả hết! Mà đi lại cũng vất vả, nguy hiểm nữa! Tôi sợ em không chịu được! Rồi thì bọn quái vật không trung, chưa kể miền nam Kim Ngân nữa…

Tôi kể vô số rủi ro trên bầu trời, Mục Á gật đầu thận trọng nhưng cuối cùng vẫn nài nỉ tôi cho em một cơ hội. Tôi nhũn người khi nghe Mục Á nài nỉ nhưng em hoàn toàn nghiêm túc. Đắn đo hồi lâu, tôi đồng ý và hẹn dịp cuối năm, Mục Á bèn nhoài người hôn tôi cảm ơn. Thành thực mà nói, tôi tin em sẽ thay đổi ý định ngay khi bước chân lên thăng vân tàu bởi chỗ đó vốn không dành cho nữ giới. Ha ha! Dù vậy, biểu cảm háo hức đến miền đất xa xôi của em khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa lạ lẫm. Em chưa bao giờ làm tôi hết bất ngờ. 

Ngắm cảnh xong, chúng tôi lang thang chợ trời thành phố. Vẫn những hàng quán quen thuộc, vẫn là Mục Á mua chiếc kem đôi và bẻ nửa cho tôi. Một buổi nọ, khi đã có thể nắm tay Mục Á bất cứ lúc nào, tôi hỏi:

-Mẹ em là người Diệp quốc, đúng không? Chắc bà cũng đẹp lắm nhỉ?

Mục Á cười. Em chun mũi thì thào “Đẹp hơn nhiều!”, sau dung dăng tay tôi như quả lắc đồng hồ tua ngược thời gian về quá khứ. Như đã suy nghĩ kĩ càng, em bắt đầu kể về mẹ mình bằng giọng nói nhỏ nhẹ. Mẹ Mục Á xuất thân là vũ nữ thần linh, chuyên phục vụ các buổi lễ tại điện thờ. Tôi biết người Diệp quốc thờ Vạn Thế, Nữ Thần Tiên Tri, Bát Đại Hộ Vệ hay các vị thần của họ trong những ngôi đền mang đậm tín ngưỡng tâm linh song không hiểu khái niệm “vũ nữ thần linh”. Mục Á giải thích:

-Truyền thuyết kể Diệp quốc hình thành từ ánh sáng Vạn Thế và bóng tối thời cổ đại, có những bóng tối mà ngay Vạn Thế cũng không thể lấn át. Vũ nữ thần linh dùng tiếng hát hoặc điệu nhảy khiến những thực thể bóng tối luôn say ngủ và không bao giờ thức giấc…

Mục Á nói trong hàng vạn cô gái, chỉ một số rất ít được chọn làm vũ nữ thần linh nên mẹ em có địa vị đặc biệt. Em kể say sưa về mẹ mình, từ chuyện bà hát ngợi ca ánh trăng vằng vặc trong buổi tế lễ có hoàng gia tham dự, trình diễn điệu múa trước hàng trăm con người, những ngày tháng dắt em đi học cho tới thói quen chăm sóc hoa của bà. Chính bà chỉ cho em những điệu múa thần linh và dạy em hát. Nhưng khi kể ngày bà mất, giọng Mục Á đột ngột chùng xuống như dây đàn đang ngân vang thì đứt, mãi lúc sau mới tiếp tục câu chuyện. Một vụ tai nạn, một năm hoa trà kém sắc, mẹ Mục Á ra đi. Em ngửa mặt lên bầu trời lất phất tuyết:

-Hôm đó mẹ nói bận nên bảo em tự về nhà, em không chịu mà cứ đòi mẹ đón, mẹ cười rồi đồng ý. Mẹ ít khi từ chối em lắm! Rồi chỉ vì vội vàng, mẹ không để ý giàn giáo ở công trình xây dựng đổ xuống… Chỉ vì cái thói vòi vĩnh của em mà mẹ chết, những đứa trẻ con luôn đáng ghét, phải không? 

-Này, đừng nghĩ vậy chứ! Đó chỉ là tai nạn thôi! – Tôi vội ôm vai em – Em không được nghĩ như thế!

Mục Á cười xòa rồi xua tay bảo tôi quên chuyện đó. Có lẽ nhiều năm qua Mục Á luôn nghĩ chính em khiến mẹ chết. Tiếng cười hiện tại của em chỉ để lảng tránh vấn đề. Em vẫn cho rằng mình là nguồn cơn tội lỗi. Tôi từng chứng kiến loại mặc cảm tâm lý này của cha khi ông trở về từ cuộc chiến tranh tài nguyên, nó dễ dàng giết một người đàn ông khỏe mạnh qua rượu bia và rất khó biến mất. Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao Mục Á biết hát nhưng không bao giờ đi xem nhạc kịch cũng như không muốn tìm hiểu nghệ thuật, bởi chúng đã chết sau sự ra đi của người mẹ. 

Lo rằng thứ mặc cảm nọ mọc rễ đâm chồi trong đầu Mục Á, tôi không dám hỏi thêm về cha em, sợ lại nghe thêm câu chuyện đau buồn nào đó. Tôi liền kéo Mục Á đến khu bán hoa để em đắm mình giữa lối đi đằm màu thắm sắc ở gian hàng hoa trà, để em dành trọn tâm trí cho những đóa trà đỏ, trà hồng hay trà trắng. Tiếc rằng mùa này không có trà kép, tôi đành tặng em một bó hoa trà my – món quà đầu tiên sau quãng thời gian hẹn hò. So với đống trang sức hay vật phẩm ma thuật mà tôi từng tặng cho những người tình cũ, bó hoa chẳng đáng mấy. Nhưng chỉ tốn vài đồng mà được thấy Mục Á mỉm cười, được thấy em liếc xéo mình rồi giấu gương mặt ngượng ngùng sau lớp giấy bọc hoa thì tôi là thằng khốn may mắn nhất thế giới! Đừng nói tôi vì yêu mà lãng mạn hóa mọi thứ về Mục Á, các vị phải biết… à mà thôi, tại sao tôi phải kể cho các vị? Tôi sẽ giữ dáng vẻ đẹp đẽ ấy của em cho riêng mình như cái cách người Tuyệt Tưởng Thành không bao giờ chia sẻ tài nguyên quang tố của họ. Ha ha!

Bốn tháng không có hơi phụ nữ, bốn tháng không gặp Mục Á, tôi trút nỗi bí bách lẫn nhớ nhung em vào cuộc yêu. Tôi nhận ra mỗi lần lên đỉnh, Mục Á lại hơi khóc, đôi mắt lá liễu đỏ hoe ngấn nước, khác hẳn lần đầu tiên của chúng tôi. Tôi hơi sợ vì tưởng làm em đau đớn, nhưng rồi Mục Á cười và ôm đầu tôi thủ thỉ rằng em hạnh phúc, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Sau khoảnh khắc mặn nồng, chúng tôi cuốn lấy nhau rồi nói mấy chuyện vô thưởng vô phạt mà chỉ ai đang yêu đương mới thấy hay ho. Có một hôm tôi hỏi về bạn trai cũ của em, Mục Á đáp rằng không có và nói tôi là người đầu tiên. Tôi chọc má em:

-Hô? Thế hóa ra bọn đàn ông Diệp quốc mù cả lũ và lú toàn phần à? 

Em liếc xéo, búng mũi tôi, nghĩ ngợi một chút rồi kể:

-Cũng không phải yêu đương gì, chỉ là một cậu bạn học cùng lớp, hồi ấy em mới mười bốn tuổi (14). Một chàng trai tốt bụng. Bọn em thường về chung đường, đi học cùng nhau, đi chơi lễ hội với nhau. Rồi cậu ấy chuyển đi nơi khác và hứa sẽ quay lại, em đã chờ nhưng cậu ấy không về, rồi thì em chuyển tới đây…

Em kể lại những kỷ niệm đẹp cùng cậu bạn học, chúng trong sáng thơ mộng đến nỗi tôi nổi cơn ghen với anh chàng đó. Tôi hỏi lý do chuyển đi và tại sao em gia nhập cuộc sống mặt thoa da phấn nhưng Mục Á đưa ngón tay che miệng. Em sẽ nói nhưng là vào một dịp khác. Tôi gật đầu, tôi đợi được. Rồi vì ghen tị anh bạn trai cũ người Diệp quốc của Mục Á, tôi đề nghị đưa em đi chơi xa. Mục Á nói muốn đến Biển Băng Vụn, tôi gãi cằm:

-Nơi đó ở miền viễn bắc Băng Hóa, rất gần lãnh thổ tộc người Đà Ma. Chỗ ấy hẻo lánh cũng không có cảnh đẹp, hay thử sang Thung Lũng Tuyết Tan, bên ấy đẹp hơn? Sao? Em vẫn muốn đến Biển Băng Vụn? Ừ thì được thôi, nhưng mà… em đến đó rồi sao? 

-Chưa, em chỉ nghe kể từ cha. – Mục Á nói.

Đó là lần đầu tiên tôi nghe Mục Á kể về cha. Những ngày hẹn hò, em vẫn kể về mẹ và vũ điệu thần linh, những mảnh ký ức tươi đẹp thời ở Diệp quốc, cả cậu bạn học tốt bụng mà mỗi lần nhắc đến là tôi lại thấy ghen tị, mấy chuyện vặt vãnh linh tinh dễ bực mình ở Cao Lầu, nhưng chủ đề “người cha” như một cấm địa. Hẹn hò nhiều nên tôi hiểu tính cách Mục Á, em chỉ nói khi muốn chứ không ảnh hưởng bởi bất cứ tác động ngoại cảnh hay lời năn nỉ ỉ ôi nào. Tôi hi vọng chuyến đi tới sẽ gợi mở điều gì đó về cha Mục Á.

Cuối tháng, chúng tôi lên phi thuyền tới vùng viễn bắc Băng Hóa. Nơi này không có đường sắt nên chúng tôi tiếp tục di chuyển bằng xe kéo tàn ảnh. Suốt quãng đường phủ tuyết, đôi mắt Mục Á chỉ trông về phương bắc xa xôi, bàn tay em trong lòng tôi chốc chốc run lên, các ngón tay thanh tú xăn văn lẫn nhau, vò vắn những niềm bối rối lẫn phấn khích. Tuy không đi nhiều bằng Đại Bác nhưng tôi nắm rõ Băng Thổ và những mảnh đất ở lục địa. Biển Băng Vụn thuộc Chín Biển Lớn trên thế giới, gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ là nơi sinh sống của các tộc người thiểu số phương bắc, đi hết biển này sẽ đến lãnh thổ người Đà Ma. Như tên gọi, mặt biển đầy rẫy băng vụn sắc lẻm có thể cắt nát vỏ tàu thép. Người ta nói trong chiến tranh thời phi cơ giới, kẻ chết chìm dưới biển nhiều vô số kể, linh hồn của họ vì oán hận nơi này mà hòa vào băng giá thay vì về Tụ Hồn Hải để siêu thoát. Đường ra đảo khó khăn cộng thêm những lời đồn đại ác ý về bộ tộc Đà Ma, miền viễn bắc xa xôi hẻo lánh thành thử vẫn hút hẻo xa xăm. Mãi hơn hai mươi năm trước khi chính phủ Băng Hóa xây dựng những giàn điều phối hải lưu, việc đi lại mới dễ dàng hơn. Nhưng ngoài chuyện đó thì Biển Băng Vụn chẳng sở hữu bất cứ khung cảnh ấn tượng nào. Chẳng lẽ Mục Á tìm thấy chất liệu đẹp đẽ mà kẻ phiêu du bao năm như tôi không nhận thấy? 

Mục Á luôn khiến người khác ngạc nhiên, hẳn rồi. Nhưng khi em nói muốn đến mấy giàn điều phối hải lưu, tôi cười phì. “Sắt thép thôi mà, Mục Á? Nó không đẹp như hoa trà đâu!” – Tôi nói. Nhưng Mục Á nài nỉ tôi dẫn đi tham quan và dĩ nhiên, em nài nỉ rất nghiêm túc. Nhờ quen biết với ông thị trưởng miền viễn bắc, tôi được một hướng dẫn viên đưa ra biển. Có thể các vị hơi lạ nhưng giàn điều phối hải lưu khá phổ biến tại Băng Thổ. Biển ở lục địa này dữ dội hệt như lịch sử của nó, băng trôi dạt khắp nơi dễ gây nguy hiểm cho tàu bè, bởi vậy mới sinh ra giàn điều phối “nắn” các dòng hải lưu khiến băng trôi quy củ hơn. Nhưng để áp chế mấy vùng biển hung hăng như sói hoang, những giàn điều phối cũng xù xì góc cạnh chẳng kém. Tại sao Mục Á muốn ngắm chúng? – Tôi tự hỏi.

Sau ít phút đi tàu, chúng tôi đến giàn điều phối trung tâm. Chưa đợi tôi hay hướng dẫn viên chỉ đường, Mục Á đã leo lên những bậc thang sắt dẫn vào giàn. Em nhìn quanh, mái đầu xoay qua xoay lại như đứa trẻ lần đầu chứng kiến cảnh tượng thú vị. Mà nào thú vị gì ở mấy giàn sắt đóng bụi, mấy bậc thang dội thanh âm đanh lạnh mỗi khi bước lên hay khối tua-bin khổng lồ xuyên dọc giàn đâm sâu xuống lòng biển? Thật khó tưởng tượng người yêu hoa như Mục Á lại cười rạng rỡ ở chốn nhếch mép không nổi này. Em tiếp tục trèo lên đỉnh giàn qua cầu thang xoắn ốc, bước chân dội âm sắc nhanh nhẹn hào hứng. Tôi thấy Mục Á sải chân bước dưới làn tuyết giá, tay dang rộng và hít trọn từng cơn gió buốt. Đó là dáng điệu trở về nhà. Không thể lầm lẫn. Đó là dáng điệu về nhà. Tôi tin vậy. 

Suy nghĩ đó của tôi càng được củng cố khi Mục Á chống tay lên lan can, phóng tầm nhìn về những chiếc thuyền đang hướng về hòn đảo lờ mờ sau lớp sương dày, rồi em nhắm mắt để trí tưởng tượng vượt biển rồi chạm tới lãnh thổ người Đà Ma. Tôi nhìn cảnh rồi lại nhìn em, cảm giác vừa thú vị vừa khó hiểu. Giữa dòng gió lạnh, em nói:

-Cha em từng kể về các bộ tộc thiểu số… – Mục Á chỉ về hòn đảo đằng xa – …họ không tin tưởng Vạn Thế mà ngả về đức tin của tộc người Đà Ma nhiều hơn, họ thờ thần hủy diệt Thiên Phạn. Nhưng ngoài điều đó thì họ cũng bình thường như bao người khác. Họ cũng có nhiều hủ tục nhưng không phải loại người man rợ, chỉ là người ta sợ họ như sợ bộ tộc Đà Ma. Cha em bảo những đứa trẻ ở đó chưa bao giờ biết đất liền, ông muốn làm điều gì đó cho họ. Ông gửi bản đề nghị xây dựng giàn điều phối hải lưu nhưng không được chấp thuận. Ông kiến nghị rất nhiều lần, mãi khi đến tai hoàng đế Băng Hóa, người ta mới triển khai kế hoạch. Ông đã thiết kế và làm nên hệ thống này…

Em khoát tay mô tả như muốn ôm trọn Biển Băng Vụn còn tôi lặng người. Từ lâu tôi đã đoán biết cha em là người Băng Hóa nhưng không thể nghĩ ra chuyện này. Người hướng dẫn viên đưa chúng tôi vào phòng điều khiển giàn trung tâm, căn phòng đầy máy móc nhưng người ta vẫn dành một chỗ gọn gàng cho bức ảnh chụp những kỹ sư đầu tiên của công trình. Mục Á đưa tay chạm mặt kính như muốn ôm lấy người đàn ông trạc tuổi ba mươi mặc áo bảo hộ đứng giữa ảnh, hàng ria tỉa tót theo phong cách quý tộc cũ cùng đôi mắt biết cười. Tôi ghé tai em hỏi nhỏ:

-Cha em phải không…? 

Mục Á gật đầu. Hướng dẫn viên cho biết ông ta tên Mục Du Cổ, một quý tộc tự thân người Băng Hóa và là kỹ sư trưởng thiết kế giàn điều phối. Quý tộc tự thân nhằm chỉ những con người trở thành quý tộc nhờ tài năng của mình, không dựa vào gia sản hay danh tiếng đời trước, nó đặc biệt có ý nghĩa ở chốn coi trọng huyết thống như Băng Thổ. Kỹ sư thiết kế giàn điều phối hải lưu không phải người thường, phải vô cùng thông minh và tài năng mới chế tạo được tua-bin phù hợp, chưa kể sắp xếp sơ đồ hệ thống giàn sao cho dòng hải lưu chảy theo ý muốn. Mục Du Cổ là người đàn ông tuyệt vời, nên cũng dễ hiểu tại sao Mục Á vui thú với Biển Băng Vụn, bởi lẽ ở đây em được tự hào về cha mình. Nhưng có lẽ niềm tự hào sẽ lớn hơn khi Mục Á biết nhờ hệ thống giàn điều phối này, miền viễn bắc cuối cùng cũng chịu mở lòng với đất liền, chấm dứt hàng ngàn năm tách biệt. Cha em làm được nhiều điều hơn thế. Nhắc cha Mục Á, tôi bỗng nhớ về cha mình. Ông luôn nói về huân chương, chiến tranh, các kiếm sĩ ông từng dạy dỗ hay địch thủ ông đã đụng độ, nhiều tới mức tôi phát ngán. Bởi vì ông mong một ngày nào đó tôi được chiêm nghiệm những di sản hay dấu ấn của ông, để tôi tự hào mình đã có một người cha như thế. Không nhiêu khê tình cảm như các bà mẹ, người cha chỉ cần vậy. 

Tôi hỏi thêm về cha Mục Á nhưng em im lặng đoạn quay sang:

-Em sẽ kể, nhưng anh cũng phải kể chuyện của mình. Còn nhớ không? Anh hứa sẽ kể cho em nhiều điều cơ mà từ ngày hẹn hò đến giờ toàn em kể thôi à! Phải có qua có lại chứ, Khai Y?!

Tôi gãi đầu gãi tai. Mục Á tiếp lời:

-Anh nghỉ phép nhưng chưa về nhà lần nào, đúng không? Có thật vì yêu em mà anh quên về nhà hay đang né tránh cái gì? 

Tôi chột dạ rồi nhìn Mục Á, em hơi nhếch môi như biết điều bí mật. Chắc các vị đang nghe đây đều rõ cả rồi, phải, tôi đã đính ước. Mặc dù chuyện đính ước ở xứ này không quan trọng và có thể bị hủy bất cứ lúc nào – bởi vậy người Băng Thổ luôn tổ chức nó lặng lẽ – nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn đang mắc nợ với một cô gái khác. Đây không phải mấy chuyện yêu đương mà nói muốn bỏ là bỏ. Lẽ nào Mục Á đã biết? Tại sao? Bằng cách nào? Hay do ông bạn Đại Bác ton hót với em? – Tôi tự hỏi.

Tôi giữ bộ mặt suy tư suốt quãng đường về Hoàng Hôn Cảng dù Mục Á luôn nắm tay tôi thật chặt. Trước nay tôi luôn giữ cảm xúc trước các cô gái nhưng riêng Mục Á thì không. Bởi yêu nên tôi thấy tội lỗi khi lừa dối em, cũng bởi yêu em nên tôi sợ viễn cảnh viếng thăm nhà lần tới, khi mà tôi thưa chuyện với cha mẹ rằng muốn hủy hôn. Thực tình tôi quyết định chuyện này ngay từ lúc đến Hoàng Hôn Cảng, sự xuất hiện của Mục Á chỉ đẩy nhanh quá trình ấy mà thôi. Tôi không thể làm đau khổ vị hôn thê lâu hơn nữa. Nàng cần ở bên một vị quý tộc có sự nghiệp ổn định chứ không phải gã kiếm sĩ lang thang như tôi, quan trọng hơn là người đó yêu nàng. Nhiều người theo đuổi nàng, đa phần họ tốt hơn tôi, tài năng và thực tế hơn gã kiếm sĩ chiến đấu cho những điều mộng tưởng như tôi. Ở bên tôi, nàng chỉ đau khổ.

Đêm trên tàu cao tốc, tôi toan nói mọi điều với Mục Á nhưng em đặt ngón tay lên miệng tôi, bảo “Để lúc khác nói!”. Dăm ngày sau, chúng tôi vẫn hẹn hò bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Rồi kỳ nghỉ phép sắp hết, tôi phải về thăm nhà trước khi quay lại với thầy Tây Minh. Giống lần đầu tiên, tôi khổ sở bao nhiêu thì Mục Á tươi tắn bấy nhiêu:

-Lại chia tay nhỉ? Đừng làm mặt bí xị vậy chứ? – Em vuốt tóc tôi – Đừng trông đợi chuyện tình yêu, Khai Y. Bốn, năm tháng rồi chúng ta sẽ quên nhau thôi!

-Tôi chắc chắn vẫn nhớ em. – Tôi đáp – Thế còn em?

-Hi vọng không quên. – Mục Á nhún vai – Anh là món hời mà, sao em bỏ qua được chứ? Đừng quên em là Hạ Nga Chi. Họa mi biết chỗ đẹp mà đậu, biết chỗ nắng mà hót. 

Tôi ngắn mặt còn Mục Á cười ngất. Đây là lần thứ hai tôi ăn xô nước đá chia tay, mà ở xứ Hoàng Hôn Cảng lạnh ngắt này thì càng thấm. Trước lúc đi, tôi tặng em một ít bột lửa ma thuật và hướng dẫn cách sử dụng, coi như làm quà. Mục Á không đáp, chỉ hôn má tôi thay lời tạm biệt. 

Trở về nhà, tôi thưa chuyện riêng với cha và đem hết can đảm xin cha hủy hôn lễ. Khỏi cần nói chắc các vị cũng biết người đàn ông có thói quen vò tay thành nắm đấm để nhấn mạnh câu chữ đó đã giận dữ thế nào. Cũng như các vị quý tộc cũ, cha tôi rất quan trọng thể diện, việc hủy hôn chẳng khác nào bảo ông khoác y phục sang trọng rồi chạy ra đường xin bố thí. Tồi tệ hơn, lúc nghe tôi kể mình đang yêu một Hạ Nga Chi, cha ngồi phịch xuống ghế, bàn tay già nua bóp trán vẻ chán ngán đứa con thấy rõ. Tôi dợm lời:

-Chẳng phải mẹ hai của con đã từng như vậy? Chúng ta vẫn sống bình thường đấy thôi? Con và cậu em Khai Nhạn đâu có vấn đề?

-Thời ta khác! Thời anh khác! – Cha tôi gắt, mặt mũi đỏ bừng – Anh nghĩ bao nhiêu Hạ Nga Chi giống mẹ hai của anh? Và bao nhiêu đứa con của Hạ Nga Chi tốt tính như đứa em Khai Nhạn của anh? Anh biết bao nhiêu gia đình quý tộc đổ sụp như tuyết lở chỉ vì gái điếm? Cha anh chỉ là thằng khốn may mắn thôi, con trai! – Cha nói, tay vò thành nắm đấm.

Không khí trở nên căng thẳng, tôi đành từ biệt cha rồi lên đường, không quên chào mẹ, mẹ hai và cậu em Khai Nhạn. Nếu các vị chưa biết thì cha tôi có hai vợ. Mẹ hai tốt tính, tôi quý mẹ, quý cả cậu em Khai Nhạn – thằng bé thân thiết với tôi chỉ thua mỗi Đại Bác. Nhiều thập kỷ trước, quý tộc xứ Băng Thổ này vẫn phổ biến chuyện vợ cả vợ lẽ, cha tôi cũng không ngoại lệ. Nhà có hai người vợ thì luôn nảy sinh vấn đề, mẹ tôi và mẹ hai chưa bao giờ to tiếng với nhau nhưng cũng hiếm dịp trò chuyện thân tình, giữa họ luôn có bức tường vô hình. Bởi lẽ ấy mà trước khi gặp Mục Á, tôi luôn tránh ngủ với gái điếm.

Chuyến đi mới gian khổ gấp nhiều lần. Tôi theo thầy Tây Minh đến miền tây bắc Băng Thổ, chiến đấu cho một bộ tộc thiểu số muốn giành quyền tự trị. Lần đầu tiên tôi và Đại Bác gặp những nhân vật trong Thập Kiếm, những gã đội trưởng máu lạnh từ các giáo đoàn đánh thuê, cả kẻ thù tóc đỏ khủng khiếp khiến thầy Tây Minh e ngại. Ba tháng, bốn tháng rồi nửa năm, tôi không nhớ bao nhiêu trận chiến đã trải qua. Nhưng tôi nhớ Mục Á. Gái điếm Đông Môn Cao Lầu không được dùng điện thoại riêng nên tôi không cách nào liên lạc với em. Tôi dồn hết nỗi lòng vào cuốn nhật ký hành trình, mỗi trang giấy đều có tranh chân dung em, không ít thì nhiều. Nửa năm dài đằng đẵng nhưng đủ lâu để tôi biết tình cảm của mình không phải thứ hời hợt, không phải thứ lãng mạn dễ dàng bùng lên mà cũng dễ tàn lụi.

Cuộc hành trình kết thúc, bộ tộc giành được lợi thế và đủ sức lo việc kế tiếp, nếu không tính vụ rắc rối vì Đại Bác ngủ với con gái ông tộc trưởng thì đó là chuyến đi hoàn hảo. Tôi trở lại nhà trước khi đến Hoàng Hôn Cảng, cha nói chuyện riêng với tôi:

-Nếu anh yêu cô Hạ Nga Chi đó thì tùy, ta không ép. Ta có thể sắp xếp cho cô gái ấy một nơi ở và một danh tính mới. Anh cưới xong, đợi thư thư một thời gian thì đón cô ta về làm vợ hai. Chuyện này bây giờ không hay ho lắm nhưng nếu sự đã rồi thì cũng không vấn đề. Mà anh là con dòng họ Xuy Hạ nên người ta cũng dễ du di, may cho anh đây là Băng Thổ đấy! Nhưng sau này phát sinh vấn đề thì đừng tìm ta xin giải quyết hộ! Mà anh tưởng quản lý sai lầm dễ lắm hay sao? Anh cứ nghĩ trẻ khỏe là có thể sống chung với sai lầm à? Cha anh là thằng khốn khi lấy hai vợ, nhưng may mắn! Anh là thằng khốn, nhưng có may mắn bằng ta không?

-Cha hiểu lầm ý con rồi! – Tôi xua tay – Con không muốn thế. Con chỉ yêu một người thôi. Là nàng Hạ Nga Chi đó. Và nếu cô ấy đồng ý lời cầu hôn, con chỉ lấy cô ấy. Con lấy người con yêu, không phải hôn nhân sắp đặt.

-Cái gì? – Cha tôi đứng phắt dậy – Gái điếm? Làm con dâu chính thức họ Xuy Hạ? Anh điên rồi! 

Chuyện sau đó chỉ toàn là cãi nhau. Sự thực là các dòng họ lớn có thể nhận gái điếm làm vợ lẽ nhưng chưa bao giờ chấp nhận họ như con dâu chính thức. Thể diện, chung quy vẫn là thể diện. Tôi phát chán chuyện lễ nghi quý tộc, bèn rời đi và cùng Đại Bác đến Hoàng Hôn Cảng. Chúng tôi đến Đông Môn Cao Lầu. Gã bố mì của Cao Lầu nói Mục Á đang bận, hiện chưa thể tiếp tôi. “Tiếp”? – Tôi là bạn trai em, đâu phải khách hàng? Nhưng vì luật lệ Cao Lầu nên tôi không phản đối, chỉ nhờ gã bố mì báo Mục Á rằng tôi đã về và chờ em ở địa điểm quen thuộc. 

Những cung đường trắng, những lâu đài hay khoảnh rừng lá kim – khung cảnh dải núi phía tây vẫn không thay đổi. Tôi chờ ở đó quá chiều rồi đêm muộn nhưng Mục Á không tới. Nếu chẳng phải cơ thể đang run rẩy vì sắp cảm lạnh thì tôi đã không về khách sạn. Hôm sau, hôm sau nữa, rồi cái ngày phía sau của hôm sau nữa, tôi vẫn đến, vẫn chờ Mục Á nhưng em chẳng tới. Thứ cảm giác chờ đợi mà không được đáp lại thực khó chịu hơn hết thảy. Điều kỳ lạ là tôi không nghĩ xấu về Mục Á hay nghĩ em đến với tôi vì địa vị, chỉ nghĩ rằng thời gian chưa đủ lâu và tôi đối xử chưa đủ tốt để em nhớ đến mình. Bầu trời quá nhiều điều thú vị và ít thứ dưới mặt đất có thể khiến con thiên nga sà xuống. Nỗi nhớ em lớn dần, cào xé tim phổi, chuồi lên cổ họng tôi. Đến ngày thứ năm thì bàn tay của nó đã lan đến mắt tôi, đến nỗi tôi không để ý có bước chân người chạy tới. Tôi ngẩng lên và thấy Mục Á. Giống lần tái ngộ trước, em mím miệng ngăn tiếng thở dốc, bàn tay thanh tú cố chỉnh trang lại mái tóc rối vì chạy dưới tuyết. Nửa năm, em cao thêm một chút, bọng mắt nhiều phiền muộn hơn, kém sắc hơn vì không trang điểm, nhưng chừng ấy chẳng làm tôi bận tâm. Bởi nỗi nhớ Mục Á suốt nửa năm của tôi cuối cùng cũng được giải tỏa. Tôi lập tức trấn áp sự yếu đuối của mình bằng nụ cười:

-Ha! Mục Á! Em đây rồi! 

Tôi cười thật tươi dù mắt vẫn cay cay. Nhưng tôi cũng thấy đôi mắt Mục Á nhòa đi như đong đầy sáu tháng chờ đợi. Em nói gấp:

-Đại Bác mà không nói thì em không biết anh vẫn chờ! Em nghe gã bố mì nhắn rồi nhưng em không tới, em muốn thôi chuyện này. Mấy ngày em không đến mà anh không hiểu à Khai Y? Sao anh không nghĩ được cái gì lãng mạn mà luôn bày trò ngốc nghếch thế này? Có biết em ngủ với bao nhiêu gã rồi không? Có biết…

Mục Á chưa nói hết, tôi bèn ôm lấy em cho thỏa nỗi nhớ. Rồi thì Mục Á bật khóc. Em khóc rấm rứt, vừa có tiếng nghẹn vừa có tiếng cười, ngực áo tôi ướt đầm gần nửa. Mục Á vẫn ôm ấp những nỗi buồn cho riêng mình mà chẳng tâm sự cùng ai. Em hay cười hơn người thường nhưng cũng khóc lâu hơn người thường. Chúng tôi ôm nhau như thể mặc cho hàng thế kỷ trôi qua. Dưới tán cây lá kim, tôi ôm Mục Á vào lòng và kể cho em từ vụ đính ước tới việc tôi đề nghị cha hủy hôn. Mục Á thực chất đã biết tôi đính hôn từ lâu, tôi hỏi tại sao thì em đáp:

-Lúc đi chơi anh hay sờ túi áo khoác, thế nên đợi lúc anh ngủ thì em lục túi áo và thấy chiếc vòng nạm băng. Vậy thôi! 

Tôi vỗ trán “À!” lên một tiếng, đoạn hỏi:

-Biết rồi mà em vẫn còn yêu tôi?

-Đàn bà phải chiến đấu cho hạnh phúc của mình, không ai đem phần đến cho không. – Em đáp.

-Vậy tại sao bây giờ em mới đến? Tại sao em muốn buông bỏ?

-Anh yêu ai đến mức muốn rời bỏ người ấy vì sợ làm họ bất hạnh chưa? – Mục Á liếc xéo.

Tôi cười:

-Vậy là em phải lòng tôi? Ha ha, tôi có sức hút đấy chứ!

Mục Á ngúng nguẩy:

-Đừng quên em là Hạ Nga Chi! Họa mi biết chỗ đẹp mà đậu. Cô gái nào dám bỏ món hời như anh chứ? Quý tộc, huyết thống hoàng gia, địa vị bậc nhất, ai từ chối nổi?

Tôi đần mặt còn Mục Á cười ngất vì làm mặt tôi đần. Em vẫn luôn làm người khác khó hiểu như vậy. Thực sự thì em là ai?

Vài ngày sau, tôi đưa Mục Á đến vùng trời Cội Gió như đã hứa. Tôi dám hứa với em bởi tôi biết Đại Bác có thể giúp, gã thuộc số ít người trên thế giới biết đường bay. Chúng tôi tới Thượng Cổ bằng phi thuyền sau đấy khởi hành trên thăng vân tàu. Tôi vẫn nhớ lần đầu bước lên thăng vân tàu, Mục Á hơi run chân lẫn dè dặt như đứa trẻ phát hiện thế giới lạ, bởi trên ấy chỉ toàn những gã đàn ông bặm trợn luôn miệng chửi thề, còn Đại Bác hú hét tổ chức mừng người phụ nữ đầu tiên lên tàu của gã. Chuyến đi khá vất vả cho Mục Á, em chưa quen cảnh tàu chao đảo vì gió hay những miền đất khắc nghiệt của Kim Ngân. Nhưng khi đã bắt nhịp cùng thế giới không trung, em bắt đầu ra lan can trông dòng người tị nạn về Đại Lộ Đỏ, trầm trồ trước tòa tháp Ngọn Xám của Tuyệt Tưởng Thành vĩ đại, giúp đám nhà bếp làm những thứ đúng nghĩa thức ăn (ơn Vạn Thế cho em lên tàu, tôi tởn vô số lần vì tài nghệ nấu nướng của đám Đạo Chích!). Vào đêm gió lặng, đám thuyền viên, Đại Bác và tôi được chứng kiến những vũ điệu thần linh của Diệp quốc, những bài hát của xứ Đông Thổ huyền bí ma mị. Tuy không hiểu hết những lời ca nhưng tôi biết giữa bầu trời rực rỡ tinh vân và trăng sao này, Mục Á là ngôi sao sáng nhất. Tất cả đám đàn ông bặm trợn ở đây đều yêu quý em, coi em là báu vật tuyệt vời hơn cả những chiến lợi phẩm từ không trung. Đây chính là vương quốc của Mục Á, là nơi con thiên nga tung cánh để cả thế giới biết nó đẹp chừng nào. 

Lúc chỉ còn màn đêm vũ trụ và hai chúng tôi, Mục Á ôm tôi rồi kể về người cha. Ngoài Biển Băng Vụn, cha em còn làm giàn điều phối ở nhiều nơi xa xôi khác trên Băng Thổ, dùng tiền giúp đỡ nhiều người trước khi bán tất cả gia sản để theo nghiệp Đạo Chích Không Trung. Ông muốn tự do vĩnh viễn. Nhưng một lần ghé qua Đông Thổ, chút tình cờ số phận khiến ông say mê người vũ nữ thần linh Diệp quốc, kết quả của cuộc tình là Mục Á. Gia đình nhỏ bé nhưng hạnh phúc nhất mà tôi từng biết. Mẹ Mục Á mất, em tiếp tục lớn lên với người cha luôn yêu thương con gái, kể cho em nghe chuyện không trung, về vùng đất Băng Thổ lạnh lẽo xa xăm, về Cội Gió nơi gió không bao giờ ngừng thổi, cả cách sống của ông nữa. Cuộc đời cha Mục Á chưa bao giờ thôi giúp đỡ người khác và sống vì người khác. 

-Cha nhớ nghề Đạo Chích… – Mục Á nói – …cha bảo còn rất nhiều loài sinh vật không trung chưa được biết đến, thế giới Tâm Mộng sẽ tuyệt vời hơn nếu người ta biết chúng. Cha nhớ nó như nhớ mẹ vậy! Lớn hơn chút nữa, em nói mình sẽ sống với ông bà ngoại và cha có thể quay lại nghề Đạo Chích, cha không đồng ý nhưng em nài nỉ cha đi. Nếu ở lại với ký ức của mẹ, ông sẽ mục rữa vì đau buồn. Một ngày ông trở về, em nói muốn thấy Cội Gió, ông đồng ý và hứa sẽ khám phá nơi ấy rồi đưa em đến. Nhưng cha không trở về nữa, các Đạo Chích nói ông chết vì cứu thăng vân tàu trong cơn bão. Anh để ý không? Mỗi khi em cầu xin ai điều gì đó, tất cả đều gặp bất hạnh. 

-Này này, Mục Á! – Tôi xốc vai em – Đừng nghĩ như thế! Chỉ là tai nạn thôi!

Mục Á lắc đầu:

-Em rời Diệp quốc, sang Hoàng Hôn Cảng ở nhờ một người bạn của cha. Bác coi em như con đẻ. Bác hỏi có thể giúp đỡ điều gì, em nói muốn mở cửa hàng hoa, bác đồng ý và hứa giúp chuyện tiền bạc. Bác giúp em mọi thứ, nhưng khi em mở được cửa hàng thì bác mắc bệnh và ra đi. Anh bảo tai nạn? Không, có lẽ đây là số phận, em giống như một mầm bệnh gieo rắc bất hạnh khắp nơi. Vậy nên em đóng cửa hàng và đến Đông Môn Cao Lầu.

-Không phải kiếm tiền trả nợ? – Tôi ngạc nhiên – Em tự vào Cao Lầu?

-Ừ, tự em muốn thế. – Mục Á gật đầu – Làm gái điếm tức là nhạo báng những đạo đức, bất cứ ai có thể khinh bỉ mình nhưng chính mình cũng khinh bỉ bất cứ ai. Một khi không còn nằm trong phạm trù đạo đức ấy, ta sẽ mất liên kết với thế giới. Em tin rằng một khi nhơ nhớp đủ lâu, thân thể này sẽ không còn thuộc về thế giới thực, em có thể an tâm chết lặng lẽ và không làm ai bất hạnh nữa. 

Tôi không biết nên giải thích với Mục Á thế nào. Cha tôi đã có thời gian mặc cảm tội lỗi như vậy, không ai có thể khuyên nhủ ông cho đến khi tự ông đứng dậy. Tôi nói:

-Nhưng hình như em không làm được như thế, nhỉ? Nếu em đã chủ tâm như thế thì em đừng nên quan tâm thằng nhóc Ly Đốc hay bỏ mặc Na Li Nã, trả thù tất cả những người từng đánh em ở Cao Lầu. Nhưng em đâu làm? 

Mục Á không đáp, đôi môi hơi cười, bàn tay bối rối vuốt tóc. Bởi lẽ khí chất cao quý của người mẹ và tâm hồn của người cha đã ăn sâu con người em. Em là thiên nga lỡ sa bùn sình nhưng cái ngày em cất cánh giữa bầu trời sẽ đến. Tôi tin như vậy. Tôi ôm Mục Á:

-Nếu em muốn rời xa thế giới, em đã không yêu tôi, phải chứ? 

-Tự phụ thế? – Mục Á bĩu môi – Em nói rồi, anh là món hời, bỏ đi thì phí phạm lắm!

-Ồ, vậy sao? – Tôi chớt nhả – Vậy sáu tháng vừa rồi, em không nhớ tôi chút nào à?

-Quên sao được? Ai quên món hời chứ? 

Tôi gục đầu xuống vai em cười khùng khục. Mục Á thúc sườn tôi rồi ngửa mặt nhìn bầu trời rẽ ngang dải tinh vân xanh lá cùng dòng ngân hà màu trắng xen màu thanh thiên. Em ôm chặt tay tôi rồi cất giọng hát trong vắt như đáy hồ băng, ca những âm sắc nao lòng từ mảnh đất Đông Thổ hòa cùng gió Kim Ngân lồng lộng trên những lá buồm phồng căng của thăng vân tàu. Tôi biết ơn Vạn Thế, cây mẹ đã dành cho tôi thế giới này và cả cô gái đẹp nhất mà Người từng tạo ra. 

Người đi có biết đường dài?

Mưa sa bão táp, hoa cài nhạt phai

Người đi có nhớ đến ai

Lệ rơi mưa tuyết, sương mai thẫn thờ

Người đi, lòng người xác xơ

Có chăng hay biết người xơ xác lòng…?

Sáng sớm ngày kế tiếp, chúng tôi tiếp cận Cội Gió. Dù đã theo Đại Bác đến đây một lần nhưng tôi không khỏi bồi hồi. Trước mắt tôi là từng mảng tường thành cổ đại trôi lơ lửng, con sông bụi đá vắt ngang bầu trời, từng đàn vân cước sải cánh lướt ngang trên đầu chúng tôi trước khi nghỉ chân trên mấy hòn đảo đá phủ rêu xanh thấp thoáng giữa mây. Và gió. Gió nơi này vĩnh viễn không nghỉ, chúng thậm chí xoáy thành lốc rồi bốc lên những cột nước cao hàng trăm mét từ đại dương mênh mông. Người ta nói các cột nước như vậy tồn tại hàng tháng, hàng năm, thậm chí hàng chục năm. Trông Mục Á lặng thinh ngắm nơi mà cha em từng đặt chân tới, tôi ôm vai em đoạn thì thầm:

-Người ta mới khám phá một phần Cội Gió, ngay cả Đại Bác cũng chưa thể đi xa hơn. Đây là thế giới của đàn ông, của trái tim dũng cảm. 

Nói rồi tôi nhảy lên thành boong tàu rồi chìa tay trước mặt em:

-Chuyện này hơi nguy hiểm nhưng em muốn bay với tôi không, Mục Á?

-Bay được sao? – Mục Á mở lớn mắt.

-Phải, chỉ những kiếm sĩ biết điều khiển gió mới làm được. Cả thế giới chỉ có vài người sở hữu năng lực như thế, trong đó có tôi. Đi cùng tôi không, Mục Á? 

Mục Á cả sợ, đôi chân hơi lùi bước. Rõ ràng nó vượt quá sức chịu đựng với một cô gái, ngay cả gã Đại Bác cũng khuyên tôi nên dừng trò điên khùng này. Nhưng một thoáng qua đi, Mục Á dợm chân, nắm tay tôi và bước lên thành tàu. Tôi buộc chặt em với mình bằng dây đai an toàn, cười:

-Thiên nga thì phải bay, không phải đi trên mặt đất. Tôi sẽ giúp em. 

Mục Á bật cười, em ôm lấy tôi và đặt tất cả niềm tin vào đó. Tôi ôm em nhảy khỏi boong tàu, lao xuống không trung từ độ cao hàng trăm mét. Gió lạnh buốt thét gào bên tai chực cuốn phăng tất cả nhưng là người điều khiển gió, tôi có thể nắm bắt từng luồng cơn hiền hòa nhất giữa biển gió cuồng loạn. Chúng tôi xuôi theo những đợt gió đủ mạnh để đưa bay qua đỉnh những cột nước xoáy và trôi theo khoảng trời mênh mông trên đại dương bất tận. Chúng tôi thực sự đang bay. Trước mắt tôi, Mục Á vừa sợ vừa cười, mái tóc xổ tung dưới ánh bình minh như vị nữ thần mở lòng cho tôi bước vào thế giới của em. Tôi hôn em thật lâu, em cuốn lấy như hòa làm một với thân thể tôi. Chúng tôi không nhớ đã bay qua bao nhiêu cột nước, bao nhiêu mảng bụi phép thuật hay đàn quái vật vân cước. Đến khi gió nhẹ nhàng đưa chúng tôi chìm xuống đại dương, chúng tôi vẫn ôm chặt nhau giữa những di tích cổ đại mập mờ trong lòng nước sâu thẳm. Hôm ấy gió thổi mãi, thổi mãi, không bao giờ nghỉ cũng như giấc mơ chẳng bao giờ kết thúc. Vẫn còn vô số lợn cợn khi nghĩ chuyện đối mặt gia đình nhưng tôi thây kệ. Tôi đã có quyết định cho riêng mình. 

(Còn tiếp)
 
Quyển 3 - Chương 147: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà Kép (1)


Những năm 7501 – 7502 là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời tôi xét về khía cạnh tình cảm. Mối tình với Mục Á như sự tổng hợp của tất cả những gì đẹp đẽ mà người ta vẫn luôn trông đợi ở yêu đương: nồng nhiệt sến sẩm tuổi trẻ - chín chắn nghiêm túc tuổi trưởng thành và sự trông đợi cái kết hạnh phúc từ cả hai phía. Những ngày ở bên Mục Á cũng là lúc tôi bắt đầu tính chuyện hôn nhân một cách kĩ lưỡng, thấu đáo, thậm chí âu lo. Không dễ để một gái điếm trở thành con dâu nhà quý tộc, nhất là họ Xuy Hạ. Tôi đã dự trù cảnh mình bị đuổi khỏi nhà, bị tước hết danh hiệu quý tộc và bị thu hồi toàn bộ tài sản – cha tôi sẵn sàng làm vậy vì thể diện. Bấy giờ tôi mới biết cưới một người con gái khó đến mức nào. À, chào các vị, lại là tôi, Khai Y đây!

Những ngày tháng ở Cội Gió, tôi chìm đắm hạnh phúc cùng Mục Á. Chúng tôi tán dóc những điều thuộc về tôi, những điều thuộc về em, cả những điều chẳng thuộc về ai. Em biết mọi thứ về tôi, từ chuyện tôi là cậu nhóc yếu ớt hay bị bạn bè bắt nạt tới ngày lột xác thành ứng cử viên Thập Kiếm, từ việc tôi trở nên kiêu căng tự phụ đến lúc quỳ gối dưới lưỡi kiếm của thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt; mấy rắc rối gia đình dòng họ, cả các cô gái lẫn mối tình chóng vánh – Mục Á biết hết. Em cũng kể cho tôi nghe quãng thời gian thơ ấu của mình bên Diệp quốc, thứ tình cảm trong sáng mà em dành cho cậu bạn học, những chuyến về thăm đằng ngoại – Mục Á luôn nhớ ngôi nhà cổ kính nơi mẹ em sinh ra, lớn lên và học tập những lề lối truyền thống của người Diệp quốc, sau này em cũng tiếp bước mẹ nhưng chưa trọn vẹn. Mục Á vẫn gửi thư đều đặn cho ông bà ngoại nhưng không dám gặp vì mặc cảm. Em kể cho tôi mọi thứ. Chúng tôi chưa chắc hiểu hết nhưng biết tất cả về nhau, một điểm xuất phát đẹp trước đoạn kết viên mãn. 

Thật ra còn đó hai điều khiến tôi thắc mắc. Mục Á thường tránh đề cập đằng nội hay quê hương người cha, thứ nữa là những dấu ấn màu vàng cam thi thoảng xuất hiện sau cổ em. Khi tôi hỏi, Mục Á lắc đầu vẻ khó nói. “Chờ em thời gian nữa, được không?” – Em bảo. Tôi yêu em, tôi đợi được. 

Một hôm trên boong thăng vân tàu ngắm cảnh hoàng hôn ở Cội Gió, tôi dợm hỏi chuyện hôn nhân, Mục Á khuyên tôi nghĩ kĩ. Em hiểu suy nghĩ của quý tộc Băng Thổ, hiểu cả chuyện thể diện danh dự trong giới quý tộc. Thậm chí em lường trước việc tôi bị đuổi khỏi dòng họ. Mục Á cười:

-Nhưng có đuổi thật thì cha cũng gọi anh về thôi. Anh là con cả đồng thời là con chính thức, cha anh đâu thể chọn cậu em Khai Nhạn làm người thừa kế? Suy cho cùng, cậu ấy vẫn là Uyjiluk – con hoang. Không ai chọn con hoang thừa kế dòng họ. 

-Nếu cha đuổi thật thì sao? – Tôi nhún vai – Tôi nói với em chưa nhỉ? Cha tôi là một trong các đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa, ông chẳng nhân nhượng ai bao giờ! 

-Vậy thì phải xem xét khoản đầu tư này rồi… – Mục Á chống cằm ra vẻ ngẫm nghĩ – …anh sẽ làm hộ vệ thánh sứ, ngày này qua tháng khác chiến đấu cho những lý tưởng. Vậy em ở lại, một mình sống qua ngày chắc?

Tôi phì cười nhưng lòng hơi chùng xuống vì có vẻ Mục Á rất coi trọng địa vị. Tôi hơi buồn:

-Xem chừng cưới em khó nhỉ?

Mục Á liếc sang tôi cười tinh quái rồi nhìn bầu trời:

-Cô gái nào chẳng muốn làm thiên nga? Và cô gái nào muốn người mình yêu lang thang ngoài kia với người phụ nữ khác? Anh đi xa hàng tháng trời, chỉ sợ anh thiếu thốn rồi ngủ với người khác. Anh đẹp trai mà, Khai Y, nguy hiểm ở chỗ anh tự ý thức được điều đó! Rồi em bực bội, anh cũng bực bội, chúng ta cãi nhau, anh sẽ nói em từng làm gái điếm…

Những diễn giải của Mục Á làm tôi cười ầm ĩ. Hóa ra em không ngại tôi mất địa vị mà sợ hãi những nỗi sợ kiểu phụ nữ. Nghiệp kiếm sĩ lang thang dễ có con rơi con vãi, Mục Á lo lắng âu cũng bình thường. Tôi nhún vai:

-Vậy sao em không cấm tôi làm kiếm sĩ lang thang hay hộ vệ thánh sứ? Nếu không theo nghiệp chiến binh, tôi có thể làm nghề khác. Khai Y của em vừa đẹp trai còn vừa đa tài nữa kia! 

Tôi nháy mắt còn Mục Á nguýt dài. Suy tư một hồi, em chống cằm trông hoàng hôn váng đỏ:

-Ai cản nổi giấc mơ của đàn ông? 

Đôi mắt Mục Á mơ màng chuyện cũ, chắc em đang nhớ về cha. Tôi nghiêng đầu nghĩ ngợi:

-Đại Bác nói hắn muốn cặp kè tất cả gái đẹp trên thế giới Tâm Mộng, cái đó có tính là mơ không? 

-Đấy là ngựa giống! – Mục Á thúc sườn tôi – Ai muốn hẹn hò với người như vậy chứ? 

-Thế mà bao nhiêu cô gái vẫn hẹn hò với hắn đấy thôi?

Mục Á lắc đầu lẩm bẩm “Đám ngu ngốc!” rồi đấm ngực tôi vài cái như muốn nhắc nhở tôi chớ nhiễm thói lăng nhăng từ ông bạn. Mắt em long lanh những tia trông đợi mà nắm đấm bồn chồn nhiều lo lắng – em đấm mà tôi đau chút nào đâu?! Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao mẹ mình hiếm khi tiếp xúc mẹ hai. Hẳn bà đã trông đợi mối tình đẹp đẽ ở cha như Mục Á đang mong chờ tôi lúc này, hẳn bà từng mong ông khác biệt đám quý tộc lằng nhằng chuyện trai gái, nhưng vì một phút lầm lỡ của cha, mẹ trở thành một nhành dây leo thường xuân: ít chịu tươi tắn dưới ánh mặt trời mà dễ ủ dột mỗi đợt mưa ngâu. Dù bà yêu quý cậu em Khai Nhạn và chấp nhận cuộc sống tay ba khó xử, nhưng vết thương bị phản bội vẫn còn đó, lằn sẹo, rỉ máu và không bao giờ được chữa lành dù cha tôi kiên trì bù đắp. Tôi thương mẹ song nhiều lúc mệt mỏi vì bà, mệt mỏi vì những cô gái hay người phụ nữ giống bà. Như quy trình luyện thủy tinh, họ trộn mọi cảm xúc lẫn thể xác vào một cái hũ rồi để ngọn lửa tình yêu nung chảy, tôi luyện, chỉnh nắn thành một khối trong suốt mà chỉ một cái lỡ tay của đàn ông, họ sẽ vỡ. Mẹ tôi cũng vậy, chưa vụn nát nhưng rạn nứt. Cơ mà biết làm sao được? Vạn Thế tạo ra phụ nữ như vậy, chẳng thể đổi khác.

-Tôi luôn ngưỡng mộ Biệt Liên Đại Đế, ông ấy yêu cô bạn thân từ nhỏ… – Tôi mở lời – …lớn lên rồi cưới nàng làm vợ, chưa một lần nghĩ về cô gái khác dù đã là “Đại Đế”. Em biết không, người nơi khác hay kể cả dân xứ tuyết chỉ coi đó là truyền thuyết, một cách tự huyễn để che đi thói lăng nhăng của đàn ông Băng Thổ. Nhưng tôi biết đó là sự thật, bởi tôi nghĩ ngài Đại Đế cũng giống tôi bây giờ: đủ thời gian để hiểu yêu đương thật sự là gì, cái gì còn tồn tại sau khi tình yêu không còn hoặc chấp nhận những khó khăn sẽ xảy ra. Tôi không hứa trước đâu, Mục Á. Tôi đã hứa nhiều lần và thất hứa nhiều lần, nên lần này tôi không hứa. Tôi chỉ nói “cố gắng” thôi! Tôi sẽ cố gắng yêu Mục Á như cách cha em yêu mẹ em vậy, được chứ?

Trong thoáng vô thức, tôi định nắm chặt tay như cha thường làm. Tính cách di truyền, dù sao tôi cũng là con trai ông. Nhưng tôi không muốn giống cha, tôi nén lại tay mình. Tôi có kể cho Mục Á về cha lẫn điệu bộ đặc trưng của ông. Tôi sợ em thấy hình dáng ông trong con người mình. Mục Á biết điều ấy, em cười rồi nắm tay tôi như muốn nói rằng em cũng sẽ “cố gắng” dù không hứa trước điều gì. Cả tôi lẫn em đều hiểu chữ “hứa” nguy hiểm đến mức nào. Thay vào đó, chúng tôi “cố gắng”. Tôi gãi đầu:

-Có lẽ cha sẽ đuổi tôi ra khỏi nhà, tước sạch mọi danh hiệu lẫn tài sản. Tôi phải bắt đầu lại cuộc đời. Tiền không khó kiếm, nhưng để trở thành một quý tộc tự thân thì mất thời gian đấy! Giá như tôi thông minh bằng cha em thì mọi chuyện dễ hơn. Cha em trở thành quý tộc năm ba mươi tuổi, đúng không? Chắc em phải đợi… hai mươi năm nữa mới được gọi là “bà Khai Y”. Mà nếu mãi mãi không thể trở thành “bà Khai Y” thì em tính sao? 

-Tất nhiên em sẽ bỏ anh… – Mục Á đáp – …đấy là lúc em vào quan tài với bộ mặt già nua xấu xí còn anh đứng kế bên khóc lóc. Yên tâm đi chàng kiếm sĩ, em sẽ chết trước anh. 

Tôi nhăn trán vì Mục Á nói gở còn em cười khanh khách, vai rung lên như chim họa mi vỗ cánh cất tiếng hót. Phía xa, mặt trời chìm dần rồi tự hòa tan chính nó vào không gian, nhuộm sắc hoàng hôn đỏ đậm vào những tầng mây, những tòa cổ thành lửng lơ, những con sông cát lững lờ cùng những giấc mơ không bao giờ kết thúc. Chúng tôi ngồi đó nhìn mặt trời lặn ở chốn tận cùng thế giới, tay trong tay, tóc lẫn tóc, cùng nhau chìm đắm dưới đáy biển gió rồi để sắc chiều tàn xóa nhòa ngăn cách thể xác. Gió lộng nhưng tôi nghe được tiếng thở nhè nhẹ của Mục Á còn em cũng nghe thấy giọng hát nhuốm mùi rượu của tôi long phong bên tai mình. Mục Á phì cười vì giọng tôi khàn khàn lệch pha – dù gì tôi cũng chưa bao giờ tự tin vào khả năng ca hát – nhưng em vẫn lắng nghe. Đợi tôi kết thúc bài ca, em hôn lên má tôi rồi thầm thì:

-“Bà Khai Y” đâu có đáng gì? Nếu ước thì phải ước là “Mục Á của người đàn ông vĩ đại”, vậy mới đáng! Anh tài năng, anh sẽ làm được nhiều điều lớn lao như cha em, thậm chí hơn vậy. 

Tôi nhíu mày:

-Chắc ngoài em chỉ có mỗi nàng công chúa Thượng Cổ nói thế. Mấy cô gái khác toàn bảo tôi toàn lo chuyện bao đồng thiệt thân.

Mục Á cười lớn như thể tôi vừa kể mẩu chuyện hài hước. Em nhíu mày:

-Thế tại sao mấy cô gái đó yêu anh? 

-Vì tôi đẹp trai phong độ! – Tôi dang tay đoạn nháy mắt với Mục Á – Bộ em không thấy à?

Mục Á đấm tôi mấy cái, lườm một trận rồi nhếch miệng:

-Thế thì bọn họ là đám ngu ngốc nhất đời! Bộ họ không hiểu rằng làm hộ vệ cho ngài đại thánh sứ Tây Minh có ý nghĩa thế nào?! Chắc họ cũng chẳng hiểu người ra sao mới được đại thánh sứ lựa chọn. Nhưng vì họ ngu ngốc nên em mới sở hữu anh. Em may mắn đấy chứ? Hì! Rồi mọi cô gái Băng Hóa chỉ biết nhìn em và ghen tức suốt ngày thôi!

-Tôi muốn phục vụ thầy Tây Minh tới khi thầy già yếu hoặc muốn nghỉ… – Tôi chống cằm nhìn Mục Á – …tôi sẽ xa nhà nhiều tháng, thậm chí cả năm. Kết hôn với tôi là vậy, liệu em có chịu được?

Mục Á nghiêng đầu ngẫm nghĩ, mái tóc trượt bên vai. Rồi em quay lại, chui vào lòng tôi thủ thỉ: 

-Vậy em sẽ làm bà chủ cửa hàng hoa. Em sẽ đặt bình hoa trà đối diện cửa ra vào, để khi trở về anh sẽ thấy nó, còn em nói “Mừng anh về nhà!” theo truyền thống của người Diệp quốc. Chịu chứ? 

Tôi gật đầu cười đoạn ôm hôn Mục Á. Em ngắm nhìn, thi thoảng rờ tay lên mấy vết sẹo mờ ở cổ tôi. Từng đấy sẹo là từng ấy lẫn lộn giữa niềm vui vì làm được điều có ý nghĩa, hối hận vì không thể giúp ai đó hoặc hoài nghi về điều mình đã làm – thứ khổ tâm kiểu đàn ông mà chẳng mấy gã đàn ông dám nói ra. Nhưng dưới ngón tay của Mục Á, chúng bớt nhức nhối. Nó không giống như khi tôi trò chuyện với Đại Bác, gã là chiếc thăng vân tàu giúp tôi tiếp tục hành trình và trút bỏ phiền muộn; còn Mục Á giống căn nhà nhỏ để tôi lui về, tựa lưng, nghỉ ngơi sau chuyến đi khắc nghiệt. Gió cần mây để nghỉ chân, kẻ tự do nhất cũng cần nhà để quay về. Chiều tàn đêm buông, tôi kể cho em về những câu chuyện xung quanh mấy vết sẹo. Nhiều nỗi niềm sâu kín, tôi cũng đem ra trải bày trước Mục Á. 

Đại Bác nhờ Mục Á chuẩn bị bữa tối, em đồng ý rồi hẹn tôi lúc đêm khuya. Sau bữa ăn rồi vô số điệu múa với bài ca mà Mục Á dành tặng đám Đạo Chích, tôi lại kể cho em nghe câu chuyện dang dở. Em hứng thú với tôi, buồn cùng tôi, lắm bận tranh cãi kiểu hài hước để khiến tôi vui vẻ. Tôi nhận ra mình là thứ sinh thể đầy mạnh mẽ thừa can đảm nhưng chẳng có nổi một chút dịu dàng hay mềm mại để xoa dịu nỗi đau cho chính mình. Ơn Vạn Thế, người đem đến cho tôi Mục Á. Em khác tôi, khác thể chất, khác tâm lý, khác cả suy nghĩ nhưng ở bên nhau, chúng tôi đồng điệu như thế giới vốn thành hình từ những mảnh ghép bất đồng điệu. Chúng tôi trò chuyện cười đùa không biết chán và chỉ chịu ngừng khi cơn buồn ngủ ríu mắt đánh gục cả hai. Tôi tựa lưng lên thành tàu rồi ôm Mục Á ngủ tới sáng. Chuyện này kỳ thực không hay ho đâu, các vị, bởi cánh tay tôi tê rần còn lưng thì đau nhức suốt ngày hôm sau. Mà thôi, vì tình yêu nên tôi cứ coi đó là chuyện lãng mạn vậy, ha ha!

Chuyến vui chơi không thể kéo dài mãi, tôi đưa Mục Á trở về như hạn định. Bằng nhiều nỗ lực, tôi cũng thuyết phục được ông chủ Đông Môn Cao Lầu cho phép Mục Á dùng điện thoại riêng. Trên chuyến tàu rời Hoàng Hôn Cảng, tôi nhận cuộc gọi từ em, nghe được cả giọng vui thích của em. Tôi bật cười, trò chuyện với em thêm ít lâu rồi chìm vào giấc ngủ. Mục Á không còn ngại ngùng hay trốn tránh như trước, em cố gắng vì tôi cũng như tôi cố gắng vì em. Chúng tôi cố gắng để thuộc về nhau.

Quay lại Băng Hóa thành, tôi thưa chuyện với cha mẹ về việc hủy hôn. Tôi cũng kể chuyện Mục Á và dự định giới thiệu em với gia đình. Cha phản đối cật lực, tất nhiên. Còn mẹ hành xử hệt như tôi lường trước: bà bưng mặt khóc, mắng tôi là thằng trẻ con nông nổi làm xấu mặt dòng họ, thề rằng sẽ tự tử nếu tôi dám hủy vụ đính ước. Nhiều ngày kế tiếp, mẹ liên tục gọi tôi nói chuyện riêng, hết khuyên răn mắng mỏ lại khóc lóc. Tôi thừa biết bà chẳng bao giờ tự tử nhưng cách bà phản đối làm tôi phát mệt. Cha mẹ quan trọng thể diện bao nhiêu, tôi chán ghét nó bấy nhiêu, chán luôn cả địa vị quý tộc. Chán chường, tôi tìm mẹ hai, hi vọng tìm được sự ủng hộ nhỏ nhoi từ người lớn tuổi. Phiền thay, ngay cả mẹ hai cũng dè dặt:

-Cha mẹ con nói đúng đấy, Khai Y. Con sẽ thừa kế dòng họ, sẽ là nhân vật quan trọng của Băng Hóa quốc. Con hiểu đám quý tộc Băng Thổ hơn ai hết! Nếu con cưới gái điếm làm vợ chính thức, họ sẽ moi móc đời tư của con quanh năm suốt tháng, nói xấu con ở bàn ăn, cười cợt sau lưng con mỗi dịp tiệc tùng. Nhưng nếu quá yêu, con có thể lấy cô Hạ Nga Chi đó làm vợ hai, vậy tốt hơn. 

Người duy nhất trong gia đình ủng hộ tôi là cậu em cùng cha khác mẹ Khai Nhạn. Cậu nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng đã lập gia đình và có một đứa con trai. Có lẽ do tuổi tác sàn sàn nhau lại cưới người vợ thuộc tầng lớp bình dân nên Khai Nhạn thông cảm cho tôi. Một tối nọ, cậu rủ tôi uống rượu cho vơi buồn bực. Nghe tôi tâm sự, Khai Nhạn chép miệng:

-Cha mẹ giận anh cũng đúng thôi. Anh là người thừa kế họ Xuy Hạ, cưới một cô gái điếm sẽ rất rách việc. Nhưng anh có chắc chắn mình nghiêm túc?

Tôi nốc cạn ly rượu rồi mở lời:

-Đôi khi ấy cô ấy hơi xấu tính, nhất là khi anh đụng vào hoa trà. Cô ấy không thích khói thuốc vờn quanh hoa hay đụng chạm nó mạnh bạo. Đôi khi cô ấy im lặng quá lâu, sòng phẳng quá mức cần thiết. Tin được không Khai Nhạn, trừ việc đi chơi xa và trả tiền cho Đông Môn Cao Lầu, anh chưa mất đồng nào cho Mục Á cả! Nhiều lúc anh khó chịu lắm, đàn ông mà! Nhưng bởi vậy nên cô ấy là con người. Anh yêu một cô gái chứ không phải si mê một hình tượng. Khi đi xa, anh nhớ Mục Á, cả tính xấu của cổ nữa. Anh ngán chuyện yêu đương tận cổ rồi, anh cần người chia sẻ. Mục Á là người đó, chỉ một mình Mục Á! Điều này… chú đã lập gia đình, chú hiểu lời anh nói, đúng không?

Cậu em tôi rướn lưng tò mò:

-Mục Á chấp nhận cho anh lang thang khắp thế giới và nhiều tháng chẳng về nhà? Phụ nữ không chịu được lâu đâu! Họ dễ tủi thân lắm, vợ em đó! – Khai Nhạn tặc lưỡi.

-Mục Á nói sẽ cố gắng. – Tôi đáp – Với lại cổ quen rồi, cha cổ là Đạo Chích Không Trung mà! 

Khai Nhạn gật gù đoạn vỗ vai tôi:

-Thế thì anh phải cưới cô ấy thôi, không là uổng!

Tôi cười vang, cạn ly rượu đầy với Khai Nhạn rồi tiếp lời:

-Nếu anh bị đuổi khỏi nhà, chú sẽ thừa kế dòng họ. Dẹp mấy thứ danh dự khỉ gió đi! Giờ chú là thủ lĩnh nhóm viễn chinh quân đội Băng Hóa, chú còn tiến xa. Chú giống cha hơn anh. Chú kỷ luật, biết suy nghĩ, để chú làm người thừa kế họ Xuy Hạ là tốt nhất! 

Cậu em tôi cười sặc sụa, nhăn nhó mặt vì rượu chạy ngược lên mũi, ho mấy chặp sau lắc đầu:

-Đây không phải chuyện cổ tích đâu, anh trai. Nhiều chuyện cổ tích đã xảy ra nhưng không phải giữa chúng ta, không phải ở họ Xuy Hạ. Em chỉ là quân nhân còn anh mới là người đàn ông vĩ đại. Sau nhiều nỗ lực, em thừa nhận anh giỏi hơn em, anh sẽ làm nên nhiều điều lớn lao. Không phải em, không phải mấy tay họ hàng bất tài nhưng thích khoác lác, chỉ anh mới gánh vác được dòng họ lẫn Băng Hóa quốc. Số phận của anh là như thế. 

-Dẹp mấy chuyện số phận giùm! – Tôi thở phì phì – Đàn ông Băng Thổ tự quyết định cuộc đời mình, chú quên rồi sao?

-Nhưng đàn ông Băng Thổ không chối bỏ trách nhiệm. – Khai Nhạn nhún vai – Anh là người trách nhiệm, anh không bao giờ chạy trốn, bởi vậy em mới gọi anh là “anh”. Anh tưởng Mục Á giỡn à? Cô ấy nói đúng đó! Anh sẽ trở thành người đàn ông vĩ đại!

Tôi cười khùng khục và thôi tranh cãi với Khai Nhạn, bản thân tôi ghét chuyện mê tín hay dự đoán tương lai. Điều đáng vui là Khai Nhạn ủng hộ tôi. Dẫu chẳng ai đến thì chắc chắn sẽ có hai vị khách tham dự hôn lễ giữa tôi với Mục Á, một là Đại Bác, người kia là Khai Nhạn. Cậu em trai chưa bao giờ làm tôi thất vọng. Tôi yêu quý cậu như em ruột mình. 

Gia đình giữ kín chuyện tôi muốn hủy hôn, nhưng bằng cách nào đó mà nó đến tai vị hôn thê nhanh hơn gió thổi, có lẽ mẹ tôi nói cho nàng biết. Tôi đã từng kể cho mọi người về vị hôn thê, nhỉ? Nàng có vóc người dong dỏng, đôi mắt hiền hậu, trí tuệ khỏi bàn. Nhưng tôi chưa kể nàng cũng rất kiêu hãnh, nàng tin rằng chỉ mình nàng xứng đáng với tôi, thế nên tin tức hủy hôn chẳng khác cơn mưa đá dội xuống lâu đài kiêu hãnh đó. Vị hôn thê yêu cầu tôi giải trình đàng hoàng. Hết cách, tôi buộc phải gặp nàng vào một buổi tối tháng 3. Hôm đó nàng chẳng bàn chuyện đi xem nhạc kịch như thường lệ, mà chất vấn tôi bằng cái mím môi im lặng cùng đôi mắt ít chớp như cửa sổ mở toang vào một ngày không gió. Không muốn nỗi khó chịu phình to hơn, tôi bắt đầu kể mọi thứ, thú nhận mình không hề có tình cảm với nàng và tôi bị ép dự lễ đính hôn. Điều duy nhất khiến tôi bớt tội lỗi là từ ngày hẹn hò tới giờ, tôi chưa ngủ với nàng một lần nào. 

-Xin lỗi em, Xa Hạn Lý, thành thực xin lỗi em! – Tôi cúi đầu trước vị hôn thê – Đáng lẽ tôi nên nói sớm hơn chứ không nên để em khó xử thế này. Mong em hiểu cho tôi!

Tôi cúi đầu lần nữa, thâm tâm chờ đợi vị hôn thê buông lời mỉa mai mắng chửi. Nhưng nàng suy nghĩ một chút sau cười tươi, tôi quên nàng là tiểu thư danh giá chứ không phải những cô gái dễ nổi cơn tam bành vì ghen:

-Quý tộc Băng Thổ nào cũng vậy, em hiểu! Em thừa nhận các Hạ Nga Chi quyến rũ và đẹp, họ biết chiều đàn ông hơn em. Nhưng chàng sẽ quên họ thôi, hôn nhân và gia đình không có chỗ cho gái điếm. Mấy cô Hạ Nga Chi yêu chàng vì tiền bạc, địa vị và… chàng đẹp trai mà, cô gái nào chẳng si mê chàng? – Hạn Lý che miệng cười – Nhưng đàn ông muốn phụ nữ yêu con người mình chứ không phải tiền bạc địa vị thậm chí cả chuyện đẹp mã hình thể, em nói đúng chứ? Thử cởi bỏ hết thân phận, liệu cô Hạ Nga Chi đó còn yêu chàng? Nhưng em thì có đấy Khai Y, em sẽ yêu, giúp chàng mọi điều nếu có thể. Em không phải bình hoa di động như cô Hạ Nga Chi đó! Em…

-Em hiểu nhầm rồi. – Tôi giơ tay ngắt lời vị hôn thê – Tôi thực sự yêu cô gái ấy, là yêu, là gắn bó, là chấp nhận những mặt trái của yêu đương lẫn hôn nhân. Xin lỗi Hạn Lý, trái tim và linh hồn tôi thuộc về cô ấy mất rồi. Em được nhiều người theo đuổi, họ tốt hơn tôi nhiều. Yêu người yêu em, đừng yêu người em yêu, Hạn Lý à!

Bấy giờ vị hôn thê của tôi nổi đóa. Gọi “nổi đóa” chứ thực ra nàng chỉ túm chiếc khăn trải bàn để đôi tay không hất đổ tách trà kế bên, giọng nàng vẫn nhỏ song ngữ điệu run rẩy ấm ức:

-Vậy là sao? Chẳng lẽ em không bằng một gái điếm? Cô ta… đẹp hơn? Chà… cứ cho là vậy đi, nhưng liệu cô ta tốt hơn em? Em không tin đâu, Hạ Nga Chi chỉ là những con kền kền khoác áo họa mi, không hơn không kém. Còn người tốt hơn chàng? Vạn Thế ơi… một đám quý tộc ngoài kia tối ngày rượu chè, bỏ bê gia đình, vui vẻ với gái điếm, chẳng biết cái gì là phẩm giá hay danh dự, ai tốt hơn chàng đây, Khai Y? Chàng bỏ em cho đám người đó? Chàng tàn ác quá, Khai Y à! Rất tàn ác… Vậy cô Hạ Nga Chi đó… tên Mục Á, phải không? Em sẽ gặp cô ta! Em cần gặp cô ta! Em không tin mình thua kém một gái điếm!

Tôi cố chia tay trong êm đẹp nhưng Hạn Lý từ chối, đòi gặp tận mặt Mục Á mới tính tiếp. Vị hôn thê của tôi rất kiêu hãnh, nàng đã quyết thì chẳng ai cản nổi. Nàng không hỏi Mục Á sống ở đâu hay gặp bằng cách nào, mà nếu nàng hỏi thì tôi cũng từ chối trả lời. Bất quá sự quyết tâm của nàng khiến tôi vừa lo âu vừa khó xử. Tin tôi đi các vị, phụ nữ có thể thống trị cả thế giới khi họ quyết tâm. Ơn Vạn Thế, cây mẹ dùng gia vị “xao nhãng” nhiều hơn khi tạo ra họ. 

Sau cuộc chia tay bất thành, gia đình tôi thông báo hoãn lễ thành hôn vô thời hạn. Gia đình Hạn Lý dĩ nhiên không vui vẻ, nghe đâu có lời qua tiếng lại hôm hai nhà gặp mặt. Hạn Lý vẫn là hôn thê của tôi trên danh nghĩa nhưng thực tế là chúng tôi đã cắt quan hệ. Chuyện dài lê thê cũng chẳng vui vẻ, nghĩ lại chỉ mệt mỏi, tôi xin phép được bỏ qua!

Tôi trở lại công việc hộ vệ thánh sứ sau đó vài hôm. Chuyến đi lần này ít nguy hiểm, tôi đủ rảnh để nướng thời gian vào điện thoại cho Mục Á và chỉ ngừng khi điện thoại hết pin hoặc tới giờ Mục Á làm việc. Thay vì nói mấy câu sến rện hồi mới yêu thì tôi hỏi thăm em, khuyên em tránh xa mấy việc bốc đồng như một mình xông vào căn phòng có ba thằng bệnh hoạn để cứu Na Li Nã. Em cười, hứa sẽ cân nhắc kĩ càng hơn đồng thời nhờ tôi điều tra một anh chàng nghiên cứu sinh người Băng Hóa si mê Na Li Nã, em muốn hai người họ thành đôi. Tôi ái ngại cho Mục Á. Dù biết em chịu ảnh hưởng từ người cha nhưng điều đó khiến tôi lo lắng. Tôi khuyên em nên ích kỷ một chút và bớt nghĩ cho người khác. Mục Á ừ hữ một hồi sau trêu chọc tôi:

“Thì em cũng giống chàng kiếm sĩ hay lo chuyện bao đồng nào đấy thôi! Người ấy tệ đến mức lo giúp đỡ người khác mà bỏ mặc bạn gái mình hàng tháng trời. Đã thế khi quay về, anh ta còn ghen tuông cằn nhằn đủ điều nữa chứ!” 

Tôi cười xòa: 

-Lỗi của tôi. Nghe này, công việc ở đây xong sớm, tôi sắp về rồi. Tháng tới có tiệc ở Băng Hóa quốc, nhiều gia đình quý tộc sẽ tham dự, em đi cùng tôi chứ? 

Đằng thẳng là việc hẹn hò với Mục Á vẫn thuộc hợp đồng giữa tôi với Đông Môn Cao Lầu, thế nên tôi có thể yêu cầu em dự tiệc bất cứ lúc nào. Nhưng em trong mắt tôi chẳng còn là Hạ Nga Chi, tôi mời em trong tư cách bạn gái, muốn giới thiệu em trước gia đình bất chấp cha mẹ phản đối hay người ngoài đàm tiếu. Mục Á hỏi:

“Được thôi, em sẽ đi. Nhưng có ổn cho anh không? Anh bảo nhiều dòng họ lớn rồi cả hoàng gia cũng dự tiệc, người ta sẽ sớm biết em là Hạ Nga Chi. Cha mẹ anh cũng đến, phải không? Nghĩ kĩ chưa, Khai Y? Em quen rồi, chẳng ngại người ta chỉ trỏ chửi thầm đâu, nhưng còn cha mẹ anh… họ xấu hổ đấy!”

-Đúng là rắc rối thật… – Tôi thở dài – Nhưng tôi không muốn che giấu mãi. Dù bị gia đình đuổi khỏi nhà, tôi cũng phải cho họ biết cô gái tôi yêu là người thế nào. Tôi muốn có trách nhiệm với em, tôi không muốn em nghĩ tôi là thằng cha chơi bời đem một cô gái điếm làm trò đùa. 

Mục Á cười khúc khích, em ngậm những ngôn từ trong vòm miệng thành tiếng ậm ừ hay hơi thở nhè nhẹ. Được một lát, em chuyển sang chủ đề không liên quan – cũng là chủ đề mà tôi sợ nhất:

“Vị hôn thê của anh… tên là Xa Hạn Lý, nhỉ? Cô hôn thê đó yêu anh lắm, đúng không?”

-Sao em hỏi thế? – Tôi ngạc nhiên – Chúng ta bỏ qua được không? Ờ… ờ thì… cũng có… cô ấy nói vậy, tôi cũng chỉ biết vậy thôi chứ không rõ cô ấy nghĩ thế nào… Nhưng sao em hỏi thế?

“Xác nhận ấy mà!” – Mục Á cười – “Cổ không yêu anh mới lạ!” 

Ý tứ em dò hỏi hay kiểm tra điều gì, tôi thực không rõ. Nhưng một Mục Á khiến người khác khó hiểu mới là nàng Mục Á mà tôi yêu.

Cuộc hành trình kết thúc, tôi quay lại Hoàng Hôn Cảng gặp Mục Á. Chúng tôi hẹn hò mấy bữa rồi chuẩn bị chuyến đi tới Băng Hóa quốc. Trước ngày khởi hành, em nhờ tôi chọn váy dạ tiệc. Dù trải qua nhiều lần song tôi vẫn thích thú chuyện này vì đây là dịp các cô gái thể hiện nhiều chất nữ tính nhất. Mục Á không ngoại lệ. Em chọn bộ váy truyền thống của người Diệp quốc với áo khoác màu trắng sữa thêuhọa tiết đỏ tươi, hai vạt áo dài may đường diềm đỏ đậm vắt chéo nhau và được bó trong đai lưng lớn có dải tua rua bên hông phải, để lộ khoảng cổ cùng chiếc yếm đỏ tía bao lấy khuôn ngực, cổ tay dài bằng lụa đỏ hồng xếp ba lớp cầu kỳ. Tôi khá vất vả mới thắt xong từng sợi dây đỏ cam cố định ống tay áo rộng lẫn đai lưng – chúng quá nhỏ so với bàn tay to bè của tôi, và mất thêm mười phút nữa để gắn hết những khuy gỗ trang trí lên chiếc váy đỏ rực. Nhưng thành quả cho sự kiên nhẫn luôn đáng giá. Nhìn em hoàn chỉnh với bộ váy, tôi bất giác đưa tay che nụ cười, che tiếng thở mạnh bối rối, che cả tá ngôn từ ngốc ngếch đang gào thét đòi chui ra khỏi miệng. Trước giờ Mục Á chưa từng mặc bộ váy này, tôi dám chắc điều đó, cứ nhìn em thì biết! Em cười chúm chím, hai má sum sim những ngượng ngùng màu hồng khi thấy tôi ngẩn ngơ ngắm nghía. Chính tay bà ngoại Mục Á may bộ váy, bởi thế em cất giữ nó như vật báu. Tôi gật gù tán thưởng bà ngoại, nhờ bà mà tôi được thấy em đẹp thế này.

Phụ nữ Diệp quốc khi mặc váy truyền thống đều buộc tóc nhưng Mục Á vẫn để tóc xõa. Tôi biết em không tự ý thức được phần cổ đẹp vô khuyết của mình. Vì có một lần tôi đề cập thứ báu vật đó, em ngạc nhiên “Ồ?! Vậy à? Em thấy bình thường thôi mà?! Anh có sở thích kỳ dị nhỉ?” rồi sờ lần cổ tôi tìm điểm khác biệt. Tôi hỏi:

-Em không muốn người lạ phát hiện những dấu ấn, phải không? 

-Ừ, Na Li Nã với anh biết là đủ rồi. – Mục Á đáp.

-Những thằng cha từng ngủ với em thì sao? Chẳng lẽ họ không thấy?

Mục Á chép miệng rồi miễn cưỡng giải thích, em thực sự ghét đề cập chuyện này:

-Đại khái… chúng chỉ xuất hiện khi em có cảm xúc thực sự. Mấy thằng cha khách hàng thì không bao giờ, làm ăn thôi! 

-Bây giờ em kể cho tôi về chúng được chưa? – Tôi tò mò.

Mục Á lắc đầu cười đoạn ôm lấy tôi:

-Cố đợi, Khai Y. Em sẽ kể, anh cố đợi. 

Tôi xoa đầu Mục Á rồi hôn lên trán em. Chờ đợi là một phần trong tình yêu với Mục Á, tôi đợi thành quen. Tôi đợi được. 

Sớm hôm sau, chúng tôi lên tàu đến Băng Hóa thành, tầm trưa chiều thì tới nơi. Tôi đưa em dạo quanh thành phố, dĩ nhiên không thể không ghé qua quảng trường nơi đặt tượng Biệt Liên Đại Đế. Rồi chuyện gì tới cũng phải tới, trong hồi hộp lẫn lo âu, tôi dắt tay Mục Á về nhà và giới thiệu em với gia đình. Rất dễ nhận ra những nét cau có gượng gạo trong cách hành xử lịch sự của cha mẹ tôi, cha chẳng buồn nhìn Mục Á khi bắt tay em mà hướng đôi mắt tóe lửa về phía tôi. Ơn Vạn Thế, ông là quý tộc biết kiềm chế, bằng không mặt tôi đã lằn mấy cái tát. Không khí chỉ bớt căng thẳng khi mẹ hai cùng vợ chồng Khai Nhạn tỏ ra chào đón Mục Á. Đáp lại tất cả, cô gái của tôi cúi thấp lưng, đôi bàn tay ấp lên ngực đoạn nói rành rọt “Semiya ne’ls Tashaya” nghĩa là “Nữ Thần luôn ở bên gia đình”. Vấn đề ở chỗ hầu hết người Băng Thổ không biết phương ngữ gốc của Nữ Thần Tiên Tri là “Tashaya”, chỉ giới quý tộc đẳng cấp cao mới hiểu. Họ dùng nó nhằm bày tỏ sự kính trọng với gia chủ, ngay cả vị hôn thê Hạn Lý cũng không chào như thế hồi mới gặp gia đình tôi. Nó cũng liên quan tới ý niệm tôn giáo cổ xưa của người Băng Thổ khi đặt Nữ Thần Tiên Tri cao hơn cây mẹ Vạn Thế. Hết thảy mọi người đều ngạc nhiên, cha chợt quay sang tôi, cười nhạt:

-Anh chuẩn bị tốt đấy!

Nói rồi ông quắc mắt nhìn, ý rằng tôi dạy Mục Á mấy từ ngữ nọ trước lúc đến đây nhằm gây ấn tượng tốt. Nhưng cha quên tôi là gã kiếm sĩ lang thang chán ghét mấy phép tắc quý tộc, thậm chí chẳng gọi cha mẹ là “phụ thân, mẫu thân” chứ chưa đợi lời chào trang trọng kia. Mẹ nhận ra điều đó sớm hơn cha, phụ nữ vốn tinh tế. Bà nhìn Mục Á một chút đoạn ngỏ lời mời ăn tối, em đồng ý. Đi bên em, tôi ghé đầu hỏi nhỏ:

-Thật tình, tôi chẳng bao giờ đọc nổi chữ “ne’ls”! Em còn giấu tôi những gì nữa, Mục Á?

-Thì anh cũng giấu em nhiều thứ mà! – Mục Á liếc xéo – Đây đâu phải “nhà”, cung điện thì có! 

Bữa tối vui vẻ hơn tôi nghĩ. Ban đầu nó hơi chán, không ai đề cập thân phận Hạ Nga Chi của Mục Á nhưng cũng không ai bắt chuyện em. Sự im lặng dẻo đặc chỉ tan chảy khi cậu em Khai Nhạn hỏi Mục Á về Diệp quốc. Em bắt đầu kể về những mùa trăng đêm hè, những ngôi đền tâm linh huyền bí, về hoàng gia Diệp quốc luôn thu mình trước thế giới bên ngoài và khái niệm vũ nữ thần linh vốn xa lạ trong mắt người Băng Thổ. Mọi người dần cuốn theo em kể cả cha tôi dù ông luôn giữ thái độ ngờ vực. Mãi khi biết cha Mục Á là một quý tộc tự thân, gương mặt ông mới dãn ra đôi chút. Ông lắng nghe Mục Á thành tâm hơn, thần tình ngạc nhiên trước những kính ngữ đậm chất Băng Thổ mà Mục Á sử dụng. Căn phòng vốn chỉ phập phù hơi nóng đồ ăn giờ có thêm hơi ấm gia đình. 

Cuối bữa, mẹ tôi và vợ chồng Khai Nhạn trò chuyện với Mục Á. Riêng mẹ hai gọi tôi nói chuyện riêng:

-Con trai Khai Y, con chắc cô gái đó là Hạ Nga Chi không?

-Dạ đúng, cô ấy là Hạ Nga Chi. Vậy… mẹ thấy không ổn à? 

Mẹ hai gật đầu xác nhận. Nhưng tôi chưa kịp thất vọng thì mẹ tiếp lời:

-Ta biết Đông Môn Cao Lầu, nó nổi tiếng từ khi ta còn trẻ. Nơi đó đào tạo những Hạ Nga Chi xuất sắc nhất Băng Thổ, nhưng nó không dạy bất cứ cô gái nào về những từ ngữ cổ xưa, đơn giản là không cần thiết vì chẳng còn nhiều quý tộc sử dụng chúng nữa. “Karuyime Kanidamanda”, Mục Á đã nói như vậy với mẹ con, một từ quá dài dòng và con cũng không hiểu, phải chứ? Bởi vì nó chỉ nằm trong bộ sách nghi lễ giao tiếp còn con không hề đọc mấy thứ đó. Thật may, cha con đã cho ta xem một lần và ta hiểu nó nghĩa là “lệnh bà” nhưng trang trọng hơn rất nhiều, gần như là nghi thức hoàng gia. Đông Môn Cao Lầu không có thứ ấy đâu, hoặc là họ tiến xa đến mức đào tạo một công chúa thay vì Hạ Nga Chi. Ta biết Mục Á không “diễn”, ta từng là Hạ Nga Chi mà! Con chưa bao giờ hỏi cha Mục Á đến từ đâu à?

Tôi ngẩn người nhớ lại vẻ ngạc nhiên của cha khi nghe Mục Á trò chuyện, hình như ông đã nhận ra điều gì đó. Có vẻ Mục Á còn giấu tôi nhiều điều trong khi tôi cứ nghĩ mình đã hiểu rõ em.

Dăm ngày sau, tôi dẫn Mục Á đến tòa điện ở trung tâm thành phố dự tiệc, nơi chuyên dành cho hoàng đế Băng Hóa tiếp đón ngoại giao và chỉ chào mừng các quý tộc đẳng cấp cao nhất. Hoàng đế tổ chức cuộc họp mặt hàng năm nhằm duy trì quan hệ hữu hảo giữa các dòng họ theo nhiều hình thức, tiệc này là một kiểu như thế. Ước chừng phải mười năm rồi tôi mới quay lại đây. Tiệc thừa mứa, đầy rẫy con người xàm xí nhảm nhí, trong khi nhậu nhẹt cùng Đại Bác hay ra ngoài tán gái thú vị hơn nhiều, xưa vẫn thế mà giờ vẫn vậy. Nếu không vì Mục Á, tôi đã chẳng tới. Ơn Vạn Thế vì người mang em đến chốn khỉ gió này! Giữa một rừng người đàn ông mặc dạ quang phục(*) lẫn phụ nữ mặc đầm lấp lánh màu sắc, Mục Á khoác chiếc váy truyền thống của người Diệp quốc. Em như mặt trời phương đông lộ ánh bình minh trên đất tuyết xứ bắc, không chói chang mà dịu dàng trầm ấm còn cợn hơi lạnh màn đêm, cả tòa đại điện rực rỡ bỗng chùng xuống dưới sự xuất hiện của Mục Á, tựa thể mặt trời đang lặn còn trăng đang lên. Không dễ để khác biệt và trở thành tâm điểm chú ý, nhưng Mục Á sinh ra cho chuyện này. Nếu không phải tôi kè kè ở bên, lũ đàn ông đã vây quanh Mục Á như ruồi bâu mật.

Khi chẳng thể lâu nhâu quanh em, đám người bắt đầu bàn tán. Vài gã nhận ra em là Hạ Nga Chi nổi tiếng ở Hoàng Hôn Cảng, vậy là đám phụ nữ làm nốt phần còn lại: truyền bá thông tin càng nhanh càng tốt. Rủ rỉ rù rì tai nhau, cười khúc khích, liếc ánh mắt khinh miệt đến đối tượng rồi cười phá lên, để kẻ bị đàm tiếu chẳng nghe thấy nhưng biết rõ tại sao mình bị đàm tiếu – kiểu cách nói xấu nhau ở xứ Băng Thổ chẳng hề đổi khác qua hàng ngàn năm. Nhiều cuộc đấu đá sứt đầu mẻ trán cũng vì chuyện rù rì rủ rỉ này mà ra. “Hô, con cả nhà Xuy Hạ yêu một gái điếm!”, “Hắn muốn kết hôn với gái điếm sao? Mất trí rồi!”, “Khai Y vốn mất trí mà! Hắn đang làm hộ vệ cho người Phi Thiên quốc đấy!” – Tôi đọc được hàng tá suy nghĩ như thế. Tôi nắm tay Mục Á vì sợ em tổn thương, nhưng em cười tỏ ý mình ổn đoạn bảo tôi nên lo cho cha mẹ. Ngó lên tầng lửng, tôi thấy cha mẹ mình đang tiếp chuyện hàng tá quý tộc, nụ cười của họ méo xẹo khi bị hỏi móc máy chuyện hôn nhân. Chuyện còn tồi tệ hơn khi Hạn Lý xuất hiện. Tôi thấy nàng phía sau cột tòa điện, đôi mắt đựng cả rổ dao găm nhắm vào Mục Á. Tôi tạm xa Mục Á ít phút để giải quyết vấn đề với vị hôn thê. Chưa đợi tôi phân bua hết, Hạn Lý ngẩng đầu nói không chớp mắt:

-Em không làm chàng xấu mặt đâu, Khai Y. Em không ra đó vào hùa với đám người ngu dốt đang nói xấu chàng. Nhưng chắc chắn sau buổi tiệc, em sẽ gặp Mục Á. 

Tôi vò tóc, thâm tâm rối bời. Tôi yêu nhiều người nhưng chưa từng bắt cá hai tay. Đại Bác thì có, gã là chuyên gia, gã biết cách xử lý. Giá mà thằng ngựa giống ở đây! – Tôi chửi thề. 

Theo thông lệ, tôi trình diện trước hoàng đế đồng thời là bác ruột đằng ngoại. Bằng cách nào đó, tin đồn người yêu tôi là gái điếm đã đến tai hoàng đế. Ngài ôm tôi thật chặt đoạn hỏi “Có thật không, cháu trai ta? Chuyện đó…”. Tôi đáp lại bằng cách gật đầu xác nhận. Hoàng đế ái ngại cho tôi nhưng vẫn hôn tay Mục Á một cách nhiệt tình và thực tâm. Trong một động thái không thể ngờ tới, ngài đột nhiên mời em khiêu vũ. Mục Á ngạc nhiên, tôi cũng thế. Nhưng cái nháy mắt của hoàng đế giúp tôi hiểu ngài muốn gỡ bí hộ mình. Tôi thì thầm động viên Mục Á rồi đẩy lưng em. Vậy là giữa sảnh tiệc, người đàn ông quyền lực nhất lục địa tuyết khiêu vũ với một cô gái điếm khiến đám đông ngỡ ngàng. Tôi thích khung cảnh đó, Mục Á thật đẹp còn cái nơi đầy mùi xúc xiểm này bị đè bẹp dưới chân em.

Tiếng vỗ tay vang lên khi màn khiêu vũ kết thúc. Tôi thấy Mục Á thỉnh cầu hoàng đế điều gì đó, em hơi bạo gan, hẳn em chưa biết ngài không phải người dễ gần hoặc dễ chấp thuận thỉnh cầu. Nhưng rồi hoàng đế hướng lên tiếng với bốn phía tòa điện: 

-Thành thật mà nói, mấy buổi tiệc thế này nên thay đổi. Buổi họp mặt hàng năm mãi một màu thế này, ta thấy mình hơi lạc hậu! – Ngài nhún vai, vài tiếng cười lẫn tiếng vỗ tay lác đác phụ họa – Nhưng may mắn là Vạn Thế đem đến cho chúng ta một món quà từ bên kia Đồng Gió. Hãy thưởng thức nhé, các vị!

Nói rồi ngài rời đi để lại Mục Á một mình giữa đương trường. Tôi nghĩ sự việc đang quá đà. Mục Á luôn là tâm điểm và em quen việc đó, tôi biết, nhưng tôi dám khẳng định số lượng Hạ Nga Chi dự tiệc hoàng gia thế này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nó rất khác buổi tiệc thông thường nơi mà người ta dễ dàng trò chuyện, dễ phát ngôn bậy bạ, dễ cảm thông cho nhau hơn. Tôi định bước ra thì hoàng đế ngăn lại:

-Ta đã hỏi, cô gái ấy muốn thế. Cháu nên tôn trọng câu trả lời của phụ nữ.

-Nhưng việc này không thích hợp, thưa ngài! – Tôi bối rối.

Hoàng đế cười:

-Tất nhiên là không thích hợp vì cô gái ấy muốn thể hiện tình yêu với cháu. Nhưng ta cho phép. Cái chỗ mua bán đổi chác chính trị này cần chút lãng mạn. – Hoàng đế nhìn quanh – Mục Á nói cháu là người đàn ông dũng cảm nên muốn đáp lại. Cháu nên vui, thời đại bây giờ toàn những cô gái kiêu kỳ thích dựa dẫm và ra vẻ đáng yêu, Mục Á là của hiếm. 

Lúc này dàn nhạc đã ngừng chơi, đám người cũng bớt xôn xao mà trông về giữa sảnh. Tại đó, Mục Á đã cởi giày và chuẩn bị điệu múa trên đôi chân trần. Em chào một lượt đoạn quay lại phía tôi, đôi tay đương e ấp chợt vươn đến tựa thể vừa lấy một vật vô hình nào đó trong lồng ngực làm quà tặng tôi. Tôi ngộ ra em dành màn biểu diễn cho mình, bằng tất cả dũng khí của một cô gái điếm trước hàng trăm con người đang chực chờ buông lời thóa mạ. Lẽ ra em không cần làm thế, với tôi em là công chúa, là nữ hoàng, là nữ thần. Nhưng tôi biết ơn em. Sau đó em dang tay, cổ áo lụa đỏ phất lên như thiên nga tung cánh bắt đầu điệu ca vũ, chiếc váy đỏ rực xòe rộng lách cách tiếng khuy gỗ va nhau, còn giọng hát trong vắt như hồ băng của em vang khắp đại điện.

“Đông mớm tàn, tuyết dợm tan, cười thế gian tan tan hợp hợp

Tháng một người về chân tuyết rợp, nụ kết đơm, hoa nở chớm

Cỏ thơm nắng, đất tan băng, hội hoa đăng hằng sa đèn lồng

Tháng hai gót hài bước bên sông, hoa trổ bông, phấn má hồng

Ngàn đồng xanh, bút họa tranh, xuân thì thầm mành treo chuông gió

Tháng ba giấy hồng tô môi đỏ, hoa cài giỏ, lửa ấm lò

Đêm ngõ nhỏ, sao mờ tỏ, thẩn thơ gió rong chơi phố vắng

Tháng tư người hái sơn trà trắng, hoa treo lẵng, đêm hé trăng

Núi im ắng, mây chẳng rằng, sông lẳng lặng nước chảy hoa trôi

Tháng năm lược vương tơ tóc rối, chim sánh đôi, lộc đâm chồi

Tìm lối xưa, dưới ánh lửa, liệu còn nhớ đêm mưa hẹn ước?

Tháng sáu níu tay người bên đường, lòng bận vướng, mắt lệ sương

Năm bốn mùa hoa rơi hết tàn lại úa, đời ngàn kiếp hoa trôi nước chảy ngàn sông

Hỏi người lữ khách, người có đợi em không?

Qua ngàn kiếp, ngàn lời nói, ngàn nẻo lối tới ngày thế giới trống rỗng

Hỏi người lữ khách, người còn chờ em không...”

Điệu ca vũ còn dài và đủ mười hai tháng trong năm nhưng tôi không thể nhớ hết, bởi lúc ấy tôi đã hoàn toàn đắm chìm vào thế giới của Mục Á, dẫu em còn hát hay không cũng chẳng quan trọng. Mãi khi em ngừng nhảy, quỳ gối trên nền tòa điện và nhìn tôi bằng nụ cười rạng rỡ, tôi mới bừng tỉnh rồi vỗ tay trong vô thức. Kế sau tôi là hoàng đế, ngài vừa lắc đầu vừa vỗ tay như thể tìm thấy những rung động mà ngỡ tưởng chúng đã biến mất trong cuộc đời sắt đá của mình. Rồi cả tòa đại điện hò reo tán thưởng; đám quý tộc Băng Thổ thích nói xấu ưa thủ đoạn, nhưng ít nhất là họ cũng biết rung động trước cái đẹp. Kể từ ấy chẳng còn lời châm chọc nào trong bữa tiệc nhằm vào Mục Á hay gia đình tôi. Người Băng Thổ rốt cục vẫn là người Băng Thổ, họ không bôi nhọ thiên nga. Nắm tay em, tôi cảm nhận rõ làn da nóng ran lẫn sự hồi hộp còn run lên trên từng khớp ngón. Tôi hôn tay Mục Á thay lời cảm ơn còn em cười thật tươi, ánh mắt rạng rỡ với bộ váy trắng đỏ. Em đẹp quá!

Điều duy nhất làm tôi lấn cấn là Hạn Lý. Tôi sợ nàng gây chuyện khó xử nên định đưa Mục Á về sớm. Nhưng vài mối quan hệ thân thích hoàng gia khiến tôi phải tiếp chuyện, tới lúc ngoảnh lại thì chỉ kịp nhận ra bóng em đang theo Hạn Lý lên tầng trên tòa điện. Mục Á vẫn nghĩ cho người khác, em không muốn tôi dính vào mấy vụ tranh cãi đàn bà. Tôi vội vã đuổi theo, tới khi gặp hai người họ ở ban công thì nép mình sau cửa theo dõi. Đó là một khung cảnh lạ kỳ. Hai người phụ nữ đối mặt nhau, Mục Á kiên nhẫn chờ đợi song Hạn Lý im lặng. Bàn tay vị hôn thê run lẩy bẩy dù trời không quá lạnh, dường như nàng đang kìm nén cơn giận. Tôi đâm lo sợ nàng hành động thiếu suy nghĩ. Bỗng Mục Á lên tiếng:

-Tiểu thư muốn gặp tôi, nhưng cô chưa nói tên mình. Tôi chẳng quen ai ở Băng Hóa thành ngoài Khai Y. Vậy ra… tiểu thư là Hạn Lý, hôn thê của anh ấy?

Hạn Lý gật đầu mà không nhìn thẳng mắt Mục Á. Nàng đang né tránh dù nàng cao hơn Mục Á nửa cái đầu và xuất thân danh giá gấp vạn lần. Nhưng giờ nàng co rúm trong vòng tay thủ trước ngực như con chim nhỏ đang đối mặt nữ thần. Nàng thổn thức:

-Cô làm thế được sao, Mục Á? Cô cướp chồng người khác…

-Khoan, hãy nói cho rõ. – Mục Á giơ tay – Khai Y chưa phải là “chồng” tiểu thư. Tại Băng Thổ, “đính ước” khác “hôn lễ”, hôn lễ thì linh đình hoành tráng còn đính ước lại âm thầm lặng lẽ. Nếu tiểu thư không nói, sẽ không ai biết Khai Y từng đính ước với cô. 

-Vậy cô không xấu hổ khi làm người thứ ba chen giữa chúng tôi? – Hạn Lý nói gấp – Cô rõ ràng hơn hẳn đám Sukka và Hattabi thông thường. Xin lỗi vì mấy từ đó, tôi không cố ý khinh miệt! Tại sao cô còn làm vậy? 

Mục Á lắc đầu:

-Tôi không muốn chen vào cuộc sống bất cứ ai, nhưng tôi không thể làm ngơ trước người đàn ông dũng cảm yêu mình. Người ta chiều chuộng tôi, quà cáp cho tôi nhưng không ai nhớ tôi sau một tháng chia tay. Cuộc sống Hạ Nga Chi là vậy đấy! Khai Y khác, anh ấy nhớ tôi sau hàng tháng trời! Ngày đầu tiên gặp lại, Khai Y hỏi tôi sống thế nào chứ không phải đòi tôi lên giường phục vụ như một gái điếm. Khai Y đem tôi về đây và chấp nhận bị đuổi khỏi nhà. Người yêu tôi như vậy, sao tôi phụ người ta được? 

-Cô không thể làm vợ Khai Y. Cô có thể giúp gì cho chàng? – Hạn Lý tức tối. 

-Tôi không chắc, nhưng tôi sẽ cố gắng, bắt đầu từ đêm hôm nay. – Mục Á đáp – Tôi đã tặng quà cho Khai Y bằng tất cả tấm lòng mình, nó chẳng đáng so với những gì Khai Y phải chịu đựng khi yêu tôi. Vậy còn tiểu thư? Tiểu thư có quà cho anh ấy không? Tiểu thư ở đâu khi người ta bôi nhọ anh ấy?

Hạn Lý nhất thời á khẩu. Nàng không nói được, cổ họng như bị đá chèn ngang đến nghẹt thở. Vị hôn thê bật khóc, nàng nấc liên hồi:

-Tại sao… cô cướp Khai Y… cô cướp chàng… đồ Sukka, tôi mới là người xứng đáng… cô không thể nhường tôi sao?

Tôi thở dài, rốt cục Hạn Lý cũng không thể giữ khuôn phép và sự bình tĩnh mà một tiểu thư danh giá cần có. Tâm hồn nàng nứt vỡ, từng mảnh đang rơi lả tả xuống ban công đẫm ánh trăng. Lỗi do tôi. Đáp lại vị hôn thê, Mục Á cúi đầu:

-Xin lỗi tiểu thư, tôi không thể. Nếu còn yêu Khai Y, tiểu thư hãy chiến đấu để giành giật anh ấy. Đàn ông thống trị mọi thứ trên thế giới này bởi họ chiến đấu và dùng máu để đánh đổi, chỉ còn sót mỗi tình yêu, phụ nữ không chiến đấu giành giật nó, định để đàn ông làm nốt hay sao? 

Vị hôn thê của tôi ôm mặt khóc lớn. Tội cho nàng. Nàng rời khỏi ban công, nước mắt nhiều đến nỗi không để ý rằng tôi ở ngay gần đó. Tôi gãi tóc bối rối, cảm giác như mình là thằng khốn nạn nhất thế giới. Bữa tiệc hôm ấy đáng lý hoàn hảo rốt cục lại kém vui một chút.

Nhờ buổi tiệc mà gia đình tôi bớt định kiến với Mục Á. “Bớt” chứ không phải “hết”, con đường để chúng tôi kết hôn còn đầy rẫy chướng ngại như đường rừng, mà một khi ra khỏi đó thì cả tôi lẫn em đều rớm máu thương tích. Cha vẫn khuyên tôi chọn giải pháp cưới cả Hạn Lý lẫn Mục Á, ông coi trọng danh dự hơn hết thảy. Nhưng việc cha trò chuyện riêng với Mục Á và tự tay mời em dùng trà đã là một bước tiến lớn. Em khá hòa hợp với mọi người, cháu tôi – con trai Khai Nhạn thích em hơn là người bác nó. Ha ha! 

Nhưng việc kết hôn của tôi dần lắng xuống khi tin tức về miền nam Băng Thổ ngày một nóng lên. Cuộc chiến tranh tài nguyên đã kết thúc gần sáu năm nhưng tàn dư của nó vẫn âm ỉ khắp nơi. Các nước âm thầm chạy đua vũ trang, tổ chức khủng bố Xích Tuyết, quân phiến loạn cứ thế mọc lên như nấm sau mưa. Vấn đề với Băng Hóa quốc là Lực Lượng Mù Thủy – một tổ chức phiến quân với thành tích chống đối Băng Hóa lâu đời. Vậy là bữa ăn của gia đình trở thành phòng họp chiến tranh giữa cha tôi và Khai Nhạn, lắm lúc mẹ phải gạt đi trước khi hai người biến bàn ăn thành địa đồ quân sự. Sau đấy vài ngày, khi tôi chuẩn bị đưa Mục Á về Hoàng Hôn Cảng thì nhận tin Khai Nhạn lên đường tới vùng Tam Thủy Khu – bản doanh của Lực Lượng Mù Thủy. Những lúc thế này, tôi cảm giác mình như một kẻ thừa thãi trong gia đình khi chẳng thể giúp cậu em hay cha. Khai Nhạn vỗ lưng tôi:

-Chuộc Mục Á đi, anh trai, chuộc cô ấy khỏi Cao Lầu. Em đi chuyến này một năm, em muốn khi về là thấy anh đã cưới Mục Á. Hứa đi, anh trai, anh và Mục Á phải làm cha mẹ đỡ đầu cho con em!

Dĩ nhiên tôi không thể từ chối. Tôi ôm Khai Nhạn đoạn cầu chúc lời tốt đẹp nhất cho cậu em. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi lo lắng hơi thừa vì Khai Nhạn thực sự tài năng. Nếu chẳng phải gắn đời mình cho quân ngũ, cậu đã tiến xa hơn tôi chẳng biết chừng. 

Dù vậy, nỗi lo lắng vẫn lợn cợn tâm trí tôi. Suốt mấy tháng theo chân thầy Tây Minh, ngoài gọi điện hỏi thăm Mục Á, tôi dành nhiều thời gian quan tâm tình hình chiến sự miền nam lục địa Băng Thổ. Ngay cả Mục Á cũng nhận ra nỗi thấp thỏm mà tôi dành cho Khai Nhạn. Em không giận tôi vì bớt thời gian trò chuyện hơn, thay vào đó em động viên rồi khuyên tôi nên về nhà trong kỳ nghỉ phép tới:

“Đừng đi chơi đâu cả, anh nên về nhà. Mẹ anh và cả mẹ hai, họ cần anh.”

Đó cũng là điều tôi nghĩ tới. Sau cuộc hành trình, tôi trở lại Hoàng Hôn Cảng đón Mục Á. Từ giờ tới lúc em hết hạn hợp đồng còn đúng ba tháng, tôi đề nghị ông chủ Cao Lầu giải phóng Mục Á sớm và chịu nộp phạt. Cuộc thương thảo bế tắc, ông chủ Cao Lầu muốn tận dụng Mục Á đến ngày cuối cùng. Nhưng so với quá trình chúng tôi yêu nhau, ba tháng chỉ như cái chớp mắt. Đêm trước ngày về Băng Hóa thành, tôi cùng em bàn chuyện lễ cưới, cả việc làm cha mẹ đỡ đầu cho con trai Khai Nhạn. Mục Á thích thằng bé vì nó hiếu động lại hay cười. Đương trêu đùa nhau, tôi chợt nhận được điện thoại của mẹ. Có hai điều kỳ lạ: mẹ không bao giờ gọi điện cho tôi vì bà hoài cổ chuyện viết thư hơn, thứ nữa là bà đang nói với tôi bằng giọng nức nở. 

“Về đi con… có giấy báo tử… người ta đang đưa em con về…”

Tôi bàng hoàng, điều tồi tệ nhất trên thế giới này đã xảy ra. Ngay giờ phút đó, tôi chợt nhớ ngày đầu tiên gặp Khai Nhạn mà không biết thằng bé này từ đâu chui ra và thắc mắc tại sao tôi phải gọi nó là “em”. Những trận cãi vã giữa chúng tôi hồi nhỏ, vụ ẩu đả giữa tôi và lũ trẻ bắt nạt thằng bé, khoảnh khắc Khai Nhạn đón chào con mình ra đời còn tôi đặt tên cho đứa nhỏ. Từng ấy ký ức đánh quỵ cả đôi chân chân lẫn niềm kiêu hãnh của tôi. Đêm ấy, tôi cùng Mục Á vội vã trở về Băng Hóa thành. 

Chúng tôi đến thành phố lúc ba giờ sáng cũng đúng lúc di hài Khai Nhạn được đưa về. Quan tài phủ quốc kỳ Băng Hóa màu đỏ với tấm khiên vẽ huy hiệu đại bàng. Qua lớp kính trên quan tài, tôi biết bên nhà xác phải cố lắm mới khâu được khuôn mặt Khai Nhạn. Người ta nói đội viễn chinh của Khai Nhạn gặp phục kích, kẻ thù không phải Lực Lượng Mù Thủy mà là một toán biệt kích khoảng hai mươi người, khẩu âm hỗn tạp và kẻ cầm đầu được gọi là “Mãnh Hổ”. Nhưng tôi không quan tâm lắm, chiến tranh là vậy. Vấn đề là ai sẽ lo cho mẹ hai? Và ai lo cho mẹ con Khai Nhạn? Tôi gặp gia đình, tất cả đều khóc và mẹ hai gần như ngất, chỉ trừ con trai Khai Nhạn. Tôi liền bế nó lên vỗ về:

-Khóc đi, Khai Giã. Khóc cho cha con, khóc cho người đàn ông dũng cảm. Có bác ở đây rồi, đừng sợ, khóc đi con!

Tôi vừa dứt lời, Khai Giã bấu lưng tôi khóc lớn. Đó là lần cuối cùng tôi thấy Khai Giã biết khóc trước khi nó lớn lên và trở thành kẻ lì lợm tàn nhẫn. Trong nỗi đau đớn, tôi nhìn về Mục Á. Em đứng ở một góc xa và không muốn chen vào chuyện gia đình tôi. Tôi dự cảm chuyện đám cưới sẽ không thể diễn ra theo ý mình, chí ít là trong năm nay.

------

(*) dạ quang phục là đồ dự tiệc của đàn ông thế giới Tâm Mộng, nvc Vô Phong từng mặc bộ này dự tiệc trong mạch truyện chính

(Còn tiếp)
 
Quyển 3 - Chương 148: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà Kép (1)


Lễ tang của quý tộc Băng Thổ là chỗ người ta đánh giá cái được mất do người chết mang lại, nước mắt chỉ rơi nơi huyệt mộ, còn cách đó dăm bước chân là tiếng thì thầm bàn tán đổi chác. Ông bà nội tôi, bạn của cha tôi, người chú trong họ, vị hoàng thân… tất cả đều ra đi trong khung cảnh như thế. Nó là một trong nhiều lý do làm tôi chán nản thân phận quý tộc. À, chào các vị, chúng ta lại cùng ngồi với nhau, tôi là Khai Y. Xin lỗi, tôi cần chút rượu, mong các vị thông cảm. Thật khó để nhớ về Khai Nhạn mà không có rượu, vả lại tôi cũng cần rượu cho câu chuyện sắp kể dưới đây. 

Hôm tang lễ Khai Nhạn, mặt trời ló đầu qua mây hé tia ấm áp còn tuyết mơn man lạnh – quá đẹp cho một cuộc hẹn hò nhưng quá nhẫn tâm cho một cái chết. Giữa làn khói nồng gắt mùi thảo dược bốc ra từ chiếc lư hương đeo dây xích trên tay vị thánh sứ và lời cầu nguyện của ông ta, quan tài Khai Nhạn dần hạ huyệt mang theo trảng nắng vàng vọt ban trưa, bụi tuyết lơ thơ lẫn tiếng nức nở từ mẹ hai. Lần đầu tiên tôi thấy mẹ mình gần mẹ hai đến vậy. Hai người đàn bà luôn né tránh nhau suốt ba mươi năm giờ cùng khóc, cùng chung nỗi đau mất con. Tôi vẫn nhớ mẹ mình luôn vuốt tóc và hôn lên trán Khai Nhạn mỗi khi cậu về nhà, ở mặt nào đó mẹ yêu thương cậu hơn đứa con đẻ ngỗ ngược như tôi. Ngày ấy, vợ Khai Nhạn khóc ngất mấy lần còn con trai cậu vô cảm trong vòng tay tôi, thằng bé Khai Giã đang cứng rắn quá mức. Tôi dự cảm nếu không ở bên Khai Giã thường xuyên, đứa nhỏ sẽ trở thành khối băng vĩnh cửu, mãi mãi không thể tan dưới ánh mặt trời.

Người tham dự hôm ấy khá đông, một phần vì bạn bè lẫn đồng đội Khai Nhạn, phần khác là những con người muốn thấy viễn cảnh sau đám tang. Gia đình tôi thuộc chi trưởng họ Xuy Hạ, một lúc nào đấy tôi hoặc Khai Nhạn sẽ nắm quyền lãnh đạo dòng họ, dù mang thân phận con hoang song Khai Nhạn vẫn đầy đủ quyền thừa kế. Nhưng hiện người ta có thể chắc chắn rằng tôi sẽ tiếp quản cái ghế trưởng tộc trong tương lai gần. Quan tài yên vị, dòng người nối chân nhau bước quanh huyệt rồi thay phiên ném những cành Khúc Hối – một loại hoa nở ba bông trên một cành, mỗi bông hai tầng cánh màu huyết dụ – lên quan tài. Hoa lấp tuyết lấp nắng, lấp tấm kính che đi gương mặt Khai Nhạn như máu đổ, như đàn ông Băng Thổ chết nơi sa trường. Xong nghĩa vụ bày tỏ thương tiếc, đám người bắt đầu xì xầm về tôi. Cha tôi thường đảm nhận vai chính mỗi dịp tang gia nhưng hôm nay ông vắng mặt, chiến trường đang cần ông nên tôi bất đắc dĩ thế chỗ. Từng cá nhân rồi từng nhóm bắt đầu tiến về phía tôi, chìa tay cùng một nụ cười nhẹ “Thiếu gia Khai Y, tôi là…”. Họ, quý tộc, thương gia giàu có, tướng lĩnh quân đội, tiểu thư quyền quý… tất cả đều muốn tôi nhớ mình. Khung cảnh tang gia quen thuộc tái diễn, tôi phát điên và muốn đấm vỡ mặt từng kẻ bất kể đàn ông hay đàn bà. Điều duy nhất ngăn tôi làm vậy là Mục Á, em đứng phía xa, nép mình dưới tán cây bạch dương cùng ánh mắt luôn trông chừng tôi. Em sợ tôi phá hỏng tang lễ. 

Rốt cục ngày đó chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau lễ tang, gia đình tôi cùng về ăn tối. Nhưng sắp xếp hậu sự chu toàn cho Khai Nhạn chưa phải đã yên, một căn nhà với những người đàn bà buồn khổ mới là vấn đề. Bữa tối đầy lời than tiếng khóc, tôi nuốt không trôi. Những lời an ủi chỉ như liều thuốc giảm đau hiệu nghiệm trong ít phút để đánh lừa bộ não mà cơn đau vẫn ở nguyên đó. Tôi bắt đầu trách cứ ngôi nhà nơi mình sinh ra và lớn lên. Giá như nó bé như bao căn nhà truyền thống của người Băng Hóa với lò sưởi, bàn gỗ cho gia đình quây quần và những tấm thảm ấm áp lót sàn gỗ, hẳn không khí gia đình đã bớt tang tóc. Đằng này nó bề thế như một cung điện, nỗi buồn thảm được thể xô vào những cửa phòng mạ đồng, lan trên cầu thang khảm ngọc rồi tràn xuống phòng khách nguy nga cổ vật. Nó lênh láng khắp tòa biệt thự, bì bõm trên mặt sàn, ủng ùng ục dưới chân các cột trụ chống trần. Bất chấp tôi động viên khuyên nhủ, vợ Khai Nhạn không thôi thương nhớ người chồng và bỏ bữa suốt ngày hôm sau. Khai Giã chẳng nghe lời tôi nữa, rồi mẹ tôi, mẹ hai, họ không buồn trò chuyện dù tôi cố gợi. Rốt cục sự giàu sang chỉ cứu được khốn khổ thể xác chứ không cứu được khốn khổ tinh thần.

Mọi sự cứ vậy bốn ngày liền chưa kể mấy bận thành viên họ hàng qua hỏi thăm, người thực lòng, kẻ dò xét. Tôi phát chán ngôi nhà mà không thể bỏ đi. Nếu cha ở đây, cha sẽ làm gì? Ngày ông nội tôi bị ám sát, cha làm thế nào để giữ yên gia đình? Ngoài kia tôi là chiến binh tài năng, ở đây tôi chỉ là thằng nhóc Khai Y lóng ngóng việc nhà. Nếu không nhờ người quản gia sắp xếp công việc, tôi đã gục xuống từ lâu. Mệt mỏi lẫn chán chường, tôi tìm đến rượu và khói thuốc. Mục Á thì không muốn tôi trượt dài trong những chất kích thích. Em ôm vai tôi khuyên nhủ:

-Nhà chỉ còn đàn bà trẻ con, anh phải cứng rắn lên, Khai Y. Mẹ anh, mẹ hai, vợ con Khai Nhạn đang dựa vào anh đấy!

-Biết sao đây? – Tôi bóp trán – Mẹ hai khóc suốt, vợ Khai Nhạn nữa. Hình như Khai Giã ghét tôi rồi, thằng bé nghĩ tôi không có mặt đúng lúc để cứu cha nó. Tôi bất lực quá! Em bảo tôi phải làm gì đây, Mục Á?

Mục Á cười: 

-Khai Giã không ghét anh, không ai ghét anh cả. Đừng tự trách mình. Vấn đề là anh không chỉ sống với nỗi đau của mình, anh phải học cách sống với đau đớn của người khác. Chúng sẽ vĩnh viễn ở cùng ngôi nhà này, anh không thể làm khác. 

-Vĩnh viễn? Vậy phải làm sao? An ủi họ? An ủi làm gì khi nỗi đau là vĩnh viễn?

-Nhưng anh vẫn phải làm, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác cho tới hết đời. Anh cần làm quen với nó. 

Tôi ôm đầu còn Mục Á ôm lấy tôi vỗ về. Được một lát, em nhỏ giọng:

-Hai tháng nữa em mới phải về Cao Lầu, còn nhiều thời gian, em sẽ giúp anh. Cơ mà đừng uống rượu, được chứ?

Tôi gật gật rồi ôm Mục Á ngủ trên sô-pha dù không chắc em sẽ giúp thế nào. Nhưng tôi thừa nhận Mục Á hiểu nỗi đau hơn mình vì em đã sống với nó quá lâu, gần như là quen thuộc. 

Hôm sau tôi nhận ra Mục Á không ở bên mình. Em dậy từ sớm và xin phép mẹ tôi chuẩn bị bữa sáng. Dưới bàn tay Mục Á, bữa sáng hôm đó lạ mắt và đầy màu sắc thay vì những món ăn đơn điệu từ nền ẩm thực nghèo nàn của Băng Thổ. Khí hậu Diệp quốc ôn hòa nên người xứ ấy dùng nhiều gia vị, thức ăn vì thế đậm đà hơn trong khi người Băng Thổ quen ăn nhạt. Nhưng ở chừng mực nào đó, nó làm cổ họng của người đau buồn đương lạt lẽo khô khốc bỗng chốc có sinh khí. Mọi người hỏi chuyện Mục Á, em cười tươi, trả lời thành thực rồi gợi ý những người đàn bà trong gia đình cùng chuẩn bị bữa trưa. Mọi người nghe theo em. Sau chuỗi ngày im lìm như bãi nghĩa trang, ngôi nhà xuất hiện tiếng nói dưới khu bếp, nỗi đau mất mát nhường chỗ cho đồ ăn cùng mấy chuyện phiếm kiểu phụ nữ, nỗi buồn khổ ảm đạm tạm rút khỏi mẹ hai lẫn vợ Khai Nhạn. Tôi bớt bận tâm về hai người. 

Nhưng vẫn còn đó Khai Giã. Thằng bé ngày càng ương bướng. Nó liên tục bỏ bữa, cả ngày tha thẩn với đám chim chóc chó mèo ở khu vườn sau nhà. Mọi người hết nói nổi Khai Giã, mẹ nó quát tháo thì may ra. Chẳng ai muốn nặng lời với đứa nhỏ mất cha nhưng cũng chẳng ai tìm được cách dỗ dành. Biết tôi phiền lòng với Khai Giã, Mục Á bèn nhận trông nom nó. Không nhắc nhở cũng không khuyên nhủ, Mục Á làm bạn cùng thằng bé, hết đắp người tuyết lại trốn trong chiếc lều mà thằng bé gọi là “căn cứ”. Dĩ nhiên Khai Giã không thích, thậm chí to tiếng nhưng Mục Á chỉ cười và kiên nhẫn chờ đứa nhỏ chấp nhận mình là một “phần tử” trong trò chơi phiêu lưu quanh khu vườn. Rốt cục Khai Giã phải chịu, nó thà ở đây với người xa lạ còn hơn trở vào nhà. Thay vì nhọc công lôi kéo Khai Giã vào bữa như mẹ nó thường làm, Mục Á mang đồ ăn tới rồi cùng thằng nhỏ ăn trong cái lều “căn cứ” nọ, cười đùa đủ thứ chuyện linh tinh kiểu trẻ con. Tôi nể Mục Á, nếu là tôi thì chắc không chịu nổi quá hai ngày.

Độ non một tuần, tôi ngạc nhiên khi thấy Mục Á dắt thằng bé dạo phố, bằng một cách thần kỳ nào đó mà đứa nhỏ chịu để em bồng bế. Có vẻ Khai Giã quấn em. Sau đấy không lâu, Khai Giã cũng chịu vào nhà và xin lỗi mọi người. Nó vẫn không cười nhưng ít nhất đã biết nghe lời. Tôi hỏi chuyện Mục Á, em thở dài:

-Ngôi nhà đầy kỷ vật của Khai Nhạn, mọi người đều nói về cậu ấy trong nước mắt, anh nghĩ thằng bé chịu nổi không? Ngoài kia khác… – Em ngoảnh đầu về khu vườn phía sau nhà – …ở đấy toàn trò chơi vui vẻ, nó không vào nhà cũng phải. 

-Em hiểu trẻ con nhỉ? – Tôi nói.

-Vì em cũng từng như thế sau đợt mẹ mất. – Mục Á thở dài – Em thường loanh quanh con sông gần nhà vì mẹ hay đi qua đấy. Cha dỗ dành nhiều lắm em mới chịu thôi. 

Tôi mỉm cười. Nỗi đau sẽ lưu trú nơi đây vĩnh viễn nhưng chúng tôi bắt đầu chấp nhận nó như một thành viên gia đình. Tôi ôm lấy Mục Á thay lời cảm ơn. Em vuốt tóc vỗ về tôi “Được rồi Khai Y, khách đang tới kìa. Đừng để họ chờ.”. Có Mục Á ở đây, căn nhà lạnh lẽo này dần chấp nhận một cuộc sống không có Khai Nhạn. 

Tạm yên chuyện gia đình, tâm trí tôi có chỗ trống để lo đám họ hàng phiền phức. Nhiều năm lưu lạc nên tôi chẳng rõ ai chú ai bác ai cô ai dì, ấy thực là cái tội cho đám họ hàng chì chiết. Chì chiết chán, họ ưỡn ngực cao giọng khuyên tôi phải gia nhập quân đội để rửa hận cho em trai như người họ Xuy Hạ đích thực. Nực cười ở chỗ mấy lời lẽ thống thiết đó lại tuôn ra từ miệng những kẻ thường coi khinh Khai Nhạn – mẹ tôi kể rằng họ luôn thì thầm gọi cậu là “con hoang”. Chẳng có thứ báo thù nào trong chiến tranh, họ chỉ muốn ngôi nhà này nhận thêm một chiếc quan tài nữa. Dù vậy tôi không muốn sinh sự lúc tang gia. 

Nhưng có mấy thứ trên đời luôn quá đà: một là xe mất phanh, hai là những buổi nhậu nhẹt và ba là lời lẽ của đám họ hàng. Bao nhiêu người đến, bấy nhiêu người thọc mạch chuyện tôi yêu một Hạ Nga Chi, thậm chí họ không thèm gọi chữ “Hạ Nga Chi” hay “Hattabi”. “Yêu gái điếm thật sao, Khai Y? Cha con giống nhau vậy?” – Họ nói thế cùng cái vênh vênh cong cong khinh thường nơi khóe miệng. Cũng chừng ấy lần tôi kết thúc cuộc gặp theo cùng một lối:

-Vấn đề Khai Nhạn, quân đội sẽ lo, chiến trường không phải chỗ báo thù. Còn sống thế nào thì tự chúng tôi sắp xếp, không mượn mấy người quan tâm. Nếu đã hết chuyện thì xin mời về! 

Đám họ hàng phát điên trước cái cách tôi tống tiễn họ, cãi vã nảy sinh, mỗi ngày dăm ba vụ lùm xùm. Đỉnh điểm là một tối nọ, tôi đấm lệch hàm người anh họ khi gã lẩm bẩm “Cha con giống nhau, đều lấy điếm làm vợ!”. Xui cho người anh họ là giọng gã hơi to, tôi nghe được hết. Đáng lẽ gã đã bệt xê lết trong bệnh viện nếu Mục Á không ngăn tôi lại. Dù không rõ ràng nhưng Mục Á cũng phong phanh hiểu tại sao tôi làm thế. Tôi liền trấn an Mục Á, khẳng định sẽ cưới và yêu em đến hết đời. Em cười thật tươi, nhưng đâu đó trong ánh mắt em có tia lo nghĩ. 

Tang lễ Khai Nhạn được ba tuần thì cha tôi trở về. Ông tới nghĩa trang cùng bó hoa, cung cách giống chuyến viếng thăm của người xa lạ hơn một ông bố tiếc thương cho đứa con xấu số. Gương mặt sắt đá, ánh mắt cứng rắn, cha tôi là thế. Ngày ông nội mất, cha cũng như vậy, không chút đổi khác. Bởi cha quá tôn thờ tính cách mạnh mẽ kiểu Băng Thổ nên mọi sự xung quanh ông bị bê tông hóa từ đám vệ sĩ đến vật vô tri vô giác. Ví như khi ông ở nhà thì cả tòa biệt thự sẽ biến thành lô cốt, nên tôi lắm lúc khó chịu với ông. Lần này cũng vậy. Không thèm hỏi han chuyện gia đình và mặc định rằng tôi đã lo liệu ổn thỏa, cha gọi tôi ra một chỗ nói chuyện. Ông vẫn thế, vẫn lời lẽ chắc nịch cùng cái nắm đấm nhấn mạnh câu chữ, nhìn chẳng khác vị đại thống lĩnh đang ra quyết sách quân sự:

-Ta quyết định rồi, Khai Y. Anh phải cưới tiểu thư Xa Hạn Lý, Hạn Lý sẽ là con dâu chính thức họ Xuy Hạ. Nhưng ta không phản đối nếu anh mang Mục Á về đây làm vợ hai. Đó là một vinh dự… à không, đó là chuyện vui! Ta đảm bảo nhà này đối xử với Mục Á như con ruột và anh sẽ chẳng bao giờ phiền lòng chuyện bên trọng bên khinh. Ta thề trên danh dự, con trai à!

Cha khiến tôi khó hiểu. Cha có hàm ý gì trong từ “vinh dự”? Tại sao ông nói đối xử với Mục Á như con đẻ mà em không thể làm con dâu chính thức? Cha luôn rõ ràng song đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy lời của ông mập mờ bất nhất. Tuy vậy tôi không thắc mắc, chỉ đáp:

-Lần trước con nói rõ rồi. Con chỉ yêu một người, lấy một người và sống chung với người đó đến hết đời. Chuyện giữa con và tiểu thư Hạn Lý đã hết, không còn gì cả. 

-Không được, anh phải nghe ta! – Cha cao giọng rồi chống tay xuống bàn – Anh thừa kế họ Xuy Hạ và sẽ là nhân vật lớn ở đất nước này, anh không thể đi khắp nơi với một người vợ có quá khứ là Hạ Nga Chi. Ta đâu ép buộc anh bỏ Mục Á? Ta nói rồi, ta chấp nhận cô gái đó, chỉ là Mục Á không thích hợp cho vị trí con dâu chính thức. Bớt cứng đầu đi con trai, anh không thể khư khư mãi một niềm tin được! Ta đang lo cho tương lai của anh!

-Con không cần tương lai đó. – Tôi giơ tay – Số phận của con không phải gia nhập quân đội hay làm nhân vật lớn gì gì đấy! Con thuộc về thế giới ngoài kia, chiến đấu cho ngài đại thánh sứ Tây Minh. Cha nghe thằng anh họ bị con đấm chưa? Đó! Mấy chuyện dòng họ gia tộc con không thạo! Cha tìm người khác đi!

Cha nghe xong liền nổi cơn tam bành, tôi không quá bất ngờ. Nhưng cứ trông ông tóc tai dựng ngược, răng nghiền kèn kẹt, bàn tay gân guốc bóp vụn chai rượu vang, hẳn rằng tâm trí cha tôi đã sôi sủi và chẳng còn vệt cặn kiên nhẫn nào kết tủa ở vỏ não.

-Đồ ngu! Anh là thằng ngu! – Cha tôi to tiếng – Biết ai giết em trai anh không? Là người Phi Thiên quốc! Bọn Sukka đó! Chúng đem đám chó săn Thổ Hành hỗ trợ bọn Mù Thủy để lục địa này luôn bất ổn. Chúng luôn thọc ngoáy chuyện người khác rồi rao giảng bài ca hòa bình nhân nghĩa. Người Phi Thiên là thế! Chúng giết Khai Nhạn! Chúng giết em trai anh! Chúng giết con trai ta! Anh muốn phục vụ kẻ thù hay sao? 

Nhìn mắt cha long sòng sọc mà đỏ ngầu, tôi mới thấy nỗi đau của người đàn ông bị kẹt giữa công việc và đám tang con mình. Trái tim ông chưa hóa đá như vẻ bề ngoài. Ông căm thù người Phi Thiên, tôi thông cảm cho ông. Nhưng chừng ấy không thể khiến tôi ghét bỏ thầy Tây Minh vì nó quá cảm tính. Hôm ấy chúng tôi cãi nhau to, tưởng chừng có bão tố làm ngả nghiêng những cột chống trần. 

Mấy ngày sau, thầy Tây Minh cùng Đại Bác qua thăm viếng (vì quá nể tôi nên Đại Bác mới đến, gã có thù với hầu hết gia đình quý tộc ở Băng Hóa thành). Tuy vẫn giữ cung cách lịch sự song cha tôi kém nhiệt thành với thầy Tây Minh, khác một trời một vực so với lần đầu gặp gỡ. Dù tôi không diễn giải quá nhiều vì sợ thầy khó nghĩ, nhưng thầy chỉ nhìn qua đã biết sự tình. Ngày ấy tóc thầy còn lâm râm đen chứ chưa trắng toát, râu chưa dài tới ngực, dáng điệu vẫn phong độ và chưa mắc bệnh tuổi già, chỉ duy giọng nói hóm hỉnh chẳng bao giờ thay đổi ở bất cứ thời gian hay không gian nào: 

-Nghỉ việc hộ vệ thánh sứ đi, Khai Y. Đang thời điểm nhạy cảm, cứ thế này thì không tốt cho anh. Ta không muốn mang tiếng làm “hư hỏng” người thừa kế họ Xuy Hạ. Anh và Đại Bác làm hư hỏng các cô gái, ta thì làm hư hỏng các anh. Chúng ta là bộ ba tuyệt vời nhỉ?

Tuy đang buồn chuyện Khai Nhạn nhưng nghe vậy thì tôi phì cười, thầy Tây Minh luôn biết cách động viên người khác. Đáp lại, tôi viện đủ lý do nhằm giữ lấy công việc hộ vệ thánh sứ. Thầy không để ý lắm mà hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ rồi trông xuống khu vườn sau nhà, ở đấy thằng bé Khai Giã đang chơi trò đắp người tuyết với Mục Á. Nhìn một hồi, thầy cắt ngang lời tôi:

-Ta có nghe Đại Bác kể chuyện của anh. Làm hộ vệ cho ta, anh sẽ đỡ vướng bận trách nhiệm gia đình và thoải mái cưới cô Hạ Nga Chi đó, đúng không? 

Nói rồi thầy hướng về phía Mục Á. Tôi cười trừ. Thầy nói không sai. Tuy không phải chính yếu nhưng “cưới Mục Á” là một lý do quan trọng để tôi tiếp tục công việc hộ vệ. Lát sau Mục Á mang trà vào phòng; vừa nhận ra thầy, em cả mừng đoạn cúi thấp người bày tỏ lòng ngưỡng mộ lẫn kính trọng. Thầy cũng đáp lễ bằng cách hôn tay Mục Á như đối xử với một tiểu thư quyền quý. Hai người trò chuyện ít lâu, thầy Tây Minh chợt hỏi:

-Tôi có hơi tò mò về xuất thân của cha cô. Khai Y kể với tôi cha cô từng là quý tộc tự thân trước khi chuyển sang nghề Đạo Chích Không Trung, vậy ông ấy là người Băng Hóa hay đến từ đâu? Thứ lỗi về sự đường đột này, chỉ là tôi lo lắng cho học trò. Khai Y với tôi như con đẻ vậy, thằng nhóc hay làm người khác phiền lòng lắm! 

Mục Á cúi đầu cười song im lặng. Em luôn tránh đề cập thân thế cha mình với bất cứ ai kể cả tôi, dường như là muốn đem nó vùi sâu vĩnh viễn dưới dòng chảy thời gian. Nhưng có vẻ vì quá ngưỡng mộ thầy Tây Minh mà em phá lệ:

-Thưa ngài, cha tôi thực ra không phải người Băng Hóa chính gốc mà là dân nhập tịch. Ông đến từ một vùng hẻo lánh ở miền tây bắc lục địa. Cha kể nơi ấy toàn núi tuyết, những ngọn núi… chúng không hẳn là núi mà giống những phế tích. Người ở đấy thường sống trong những hang núi, đôi khi tụ tập dưới những phế tích… Xin lỗi đại thánh sứ, cha không kể rõ ràng nên tôi cũng không rõ lắm.

-Đó là “Vương Quốc Cũ”… – Thầy Tây Minh gãi cằm, chòm râu rung rung theo ngón tay – Nơi ấy từng là một đất nước cổ thời phi cơ giới, sau này bị chiến tranh hủy diệt. Các nhà thám hiểm hoặc dân khảo cổ thường đến đó nghiên cứu. Nhưng khí hậu khắc nghiệt nên ít người sống ở Vương Quốc Cũ, chỉ có vài bộ tộc nhỏ. Cha của quý cô thú vị đấy!

Mục Á mỉm cười, trông không có vẻ gì là muốn nghe tiếp về mảnh đất Vương Quốc Cũ. Thầy Tây Minh cũng không căn vặn thêm. Họ trò chuyện vui vẻ rồi kết thúc bằng việc chụp hình lưu niệm. Từ hồi quen tôi, Mục Á luôn hỏi về thầy và giờ em được toại nguyện. Sau cuộc gặp, thầy Tây Minh chẳng đả động chuyện Mục Á cũng không đưa ra lời khuyên nào cho tôi. Thầy im lặng. Giảng giải mấy triết lý huyền bí sâu xa khó hiểu rồi liên hệ cuộc sống thực – thầy luôn như thế mỗi khi dạy dỗ hoặc giúp tôi gỡ rối. Nhưng biểu hiện lúc này của thầy làm tôi khó hiểu.

Về nhà ít hôm, cha trở lại chiến tuyến và phó mặc toàn bộ việc nhà cho tôi. Họ hàng khách khứa nườm nượp ra vào tòa biệt thự, tôi hầu như chẳng có thời gian ngơi nghỉ. Họ tiếc thương Khai Nhạn thì ít mà tra tấn tôi thì nhiều, hỏi han đủ thứ chiến tranh chính trị, nhỏ to chuyện hôn nhân, thậm chí nhờ cậy việc quan trọng dù tôi chẳng có mối quan hệ quyền lực nào tại Băng Hóa thành. Qua vài ngày tôi chợt hiểu vấn đề. Không tự dưng cha rời đi dù vẫn còn ngày nghỉ phép, ông ngầm ý rằng chính tôi sẽ thừa kế họ Xuy Hạ mà thái độ của các vị khách là minh chứng. Cha đang ép tôi vào khuôn khổ bằng cách quàng lên cổ tôi trách nhiệm gia đình. Nhưng mọi nỗ lực của ông đều vô ích, tôi sẽ đưa Mục Á quay lại Hoàng Hôn Cảng và tiếp tục làm hộ vệ thánh sứ. Gia đình phiền lòng về tôi, ngay cả Mục Á cũng không đồng tình: 

-Em thấy không ổn, Khai Y à… – Mục Á thỏ thẻ – Khai Nhạn mất rồi, cha anh ngoài mặt trận, giờ anh đi nốt thì lấy ai quán xuyến gia đình? Ngôi nhà cần người đàn ông, anh đi như vậy…

-Đã có người quản gia. – Tôi ngắt lời Mục Á – Toàn là bác ấy sắp xếp mọi việc, tôi chỉ làm theo mà thôi! Bác phục vụ ba đời họ Xuy Hạ rồi, coi như là người thân trong gia đình vậy. Đừng lo, Mục Á, đâu sẽ vào đó. Đợi chuyện buồn qua đi, tôi sẽ cưới em. Khai Nhạn từng nhờ chúng ta phải làm cha mẹ đỡ đầu cho Khai Giã, tôi phải giữ lời với cậu ấy. Tôi cũng phải giữ lời với em nữa.

Mục Á toan nói song ngừng lại. Em cười hiền rồi dịu dàng vuốt tóc tôi tỏ ý hoàn toàn tin tưởng, nhưng ánh mắt em lại hơi lệch nhịp với những cử chỉ đó. Lo âu, suy nghĩ, tính toán… nhiều thứ cứ tràn ra từ đôi mắt của Mục Á. Chúng bao lấy em, xô đẩy quần áo lẫn thân thể em thành những hình hài bồn chồn ở ngón tay xăn văn nhau hay đôi chân nhấp nhôm thấp thỏm. Chợt nhớ Mục Á hay quy kết chính mình là nguyên nhân rắc rối, tôi vội lảng chủ đề khác nhằm ngăn suy nghĩ đó sinh sôi trong đầu em.

Những ngày tháng yên bình trôi qua, sự hiện diện của Mục Á khiến gia đình tôi vơi bớt nỗi tiếc thương Khai Nhạn. Thằng bé Khai Giã thì quấn chân Mục Á cả ngày, thậm chí nó còn giành giật em khỏi tay tôi và coi đấy như thú vui. Vài lần tôi thoáng thấy Khai Giã nhếch mép cười. Thằng lỏi láu cá! Ha ha! Nhưng tôi không giận đứa nhỏ, nó cần được bù đắp sau nỗi đau mất cha. Vả lại thời gian của Mục Á không còn nhiều, em sắp phải về Cao Lầu như thỏa thuận hợp đồng. Mấy ngày đó, tôi cũng nói rõ ý định tương lai với gia đình. Dĩ nhiên chẳng ai đồng tình nhưng tôi thây kệ. Phiền nỗi tôi không hề biết đó là khởi nguồn cho cơn bão sắp ập xuống ngôi nhà. 

Mà cơn bão nọ chẳng phải thứ nào khác ngoài cha tôi. Dù luôn ủng hộ tôi hết mực nhưng người quản gia không thể làm ngơ, bác gọi điện cho cha để thông báo tình hình. Nhanh hơn cả tố lốc, cha tức tốc quay về nhà chỉ sau nửa ngày. Ông vẫn mặc quân phục, chẳng mang theo bất cứ hành trang nào ngoài những lời chửi mắng thậm tệ dành cho tôi. Tòa biệt thự rung chuyển vì tiếng quát tháo. Tuy đã cố nhún nhường nhưng khốn thay, tôi thừa hưởng nhiều đặc tính từ cha mà thứ tệ nhất là “mất bình tĩnh”. Và chẳng gì tệ bằng việc người cha sỉ nhục quan điểm sống lẫn ước mơ của đứa con trai. Hai cha con tôi to tiếng rồi cãi nhau ầm ĩ, tiếp đến đồ vật xung quanh đổ vỡ loảng xoảng tựa thể có giông bão quét qua. Những người phụ nữ, người quản gia rồi đám vệ sĩ cố gắng can ngăn nhưng chẳng ai có thể chen giữa chúng tôi, càng không thể ngăn cú đấm của cha. Cha đấm tôi. Đấm thật. Cú đấm nặng nề, đau đớn và không chút do dự như dành cho kẻ thù, tuyệt không phải dạy dỗ đứa con trai. Tôi bắn vào góc tường, sách vở trên giá đổ ập xuống người, đầu óc lơ mơ nghe thấy tiếng hét của mẹ và Mục Á. Mắt tôi lem nhem máu, khung cảnh trở nên nhập nhòe, chỉ thấy cha đang vùng vẫy giữa những cánh tay của đám vệ sĩ lẫn bác quản gia. Cha chỉ mặt tôi, không ngừng rủa xả:

-Mày là thằng ngu, Khai Y! Tao muốn tốt cho mày nhưng mày chẳng hiểu gì hết! Tại sao mày luôn cãi lời người cha này? Em mày bị người Phi Thiên giết, giờ mày muốn phục vụ kẻ thù? Thằng ngu!

-Vì tôi không giống cha! Ông già chết tiệt! – Tôi nổi khùng – Cha chỉ quan tâm thể diện thôi! Cha cố tình đưa Khai Nhạn vào đội viễn chinh để tỏ ra không thiên vị người nhà, để tỏ ra công tâm chính trực! Biết gì không, cha yêu quý? Cha dùng mọi người như miếng đánh phấn, như chiếc son môi, như gương trang điểm, như bút chì tô vẽ lông mày, như hộp kem dưỡng da để trang điểm mặt mình cho bóng bẩy hào nhoáng. Cha như mụ đàn bà ngày ngày chỉ quan tâm mình trong mắt người khác có đẹp hay không. Ông già chết tiệt!

Cha điên tiết, mắt mũi trợn ngược như thú dữ lồng lộn phá cũi, người quản gia lẫn đám vệ sĩ cố lắm mới ghì được ông xuống. Ông vùng vằng bước vào phòng làm việc, lát sau trở ra cùng mảnh giấy có đóng dấu triện gia huy họ Xuy Hạ bằng sáp nến. Cha vứt nó trước mặt tôi, rít lên:

-Ký vào, nhanh lên! Ký vào, mày sẽ được tự do như mày muốn! Nhưng cả đời này mày đừng hòng bước về nhà! Ký nhanh, ký nhanh, mày sẽ không mang họ Xuy Hạ nữa! Ký rồi cút khỏi đây!

Chẳng cần đọc tôi cũng biết nó là giấy từ mặt. Kết cục xấu nhất đã xảy ra, tôi sẽ mất tất cả tài sản liên quan đến gia đình lẫn danh hiệu quý tộc. Nhưng chỉ bọn công tử bột mới sợ hãi chuyện đó, tôi khác họ. Đọc mảnh giấy xong, tôi liền đặt bút ký roẹt bất chấp mọi người can ngăn. Chữ ký rõ ràng thẳng tắp cắt ngọt quan hệ giữa cha con. Ngay hôm ấy tôi thu dọn đồ đạc rồi đưa Mục Á về Hoàng Hôn Cảng. Một ngày rối bời lộn xộn, cả gia đình tôi lẫn ngôi nhà tưởng chửng đổ sụp. Tòa biệt thự, tiếng mẹ gào thét với cha, người quản gia hối hả chạy theo tôi khuyên can, những cung đường rủ tán bạch dương trĩu tuyết, ga tàu điện vắng người, đôi mắt lo lắng của Mục Á, tường thành cổ cùng những ngọn tháp pháo khổng lồ bao quanh Băng Hóa thành… mọi thứ ào ào trôi qua mắt tôi như cơn lũ trong khi máu vẫn chảy lèm nhèm nửa mặt. Ở khoảnh khắc ấy, tôi hoàn toàn không hối tiếc. 

Nực cười ở chỗ sự hối tiếc chẳng bao giờ quan tâm kẻ nóng giận. Chỉ khi người ấy bình tĩnh thì sự hối tiếc mới đến hỏi thăm, nó gõ cửa rồi tự động bước vào mà chẳng quan tâm chủ nhà đồng ý hay không. Nếu được, có lẽ tôi đã không ký vào tờ giấy nhàu nhĩ đầy những con chữ nguệch ngoạc nọ. Mẹ và mẹ hai hẳn lại khóc hết nước mắt như hồi làm tang Khai Nhạn, cả thằng nhóc Khai Giã… Có lẽ thằng bé vẫn không hiểu tại sao ông nội lại đấm bác nó giữa phòng khách. Nhưng cứ nghĩ đến căn nhà rộng khủng khiếp cùng đám khách khứa cười nói như cái máy, tôi không thể chịu nổi. Từng cung bậc cảm xúc trải dưới chân tôi mà mỗi lần bước là mỗi lần thêm chông chênh, chỉ chực rơi xuống vực thẳm đầy mùi rượu bia. Có lẽ tôi đã rơi thật nếu Mục Á không ở bên. Cả ngày hôm ấy em chăm sóc tôi, băng bó vết thương hoặc ngăn tôi tìm đến quán rượu. Em không nói nhiều cũng không bảo tôi nên quay lại Băng Hóa thành nhưng đôi mắt rơm rớm suốt, đôi lần khóc thành tiếng. 

Cơ mà sự đã rồi thì chẳng thể thay đổi, tôi cần cuộc sống mới. Giấy từ mặt chỉ tước đi danh hiệu quý tộc chứ không làm mất những mối quan hệ hay số dư tài khoản của tôi. Tôi không có đám bạn bè quyền lực như cha, nhưng tôi có những người sẵn sàng giúp đỡ mình lúc khó khăn và không đòi hỏi kiểu bánh ít cho đi bánh quy cho lại. Sau dăm cuộc gọi nhờ người quen, tôi tìm được một căn hộ ở Hoàng Hôn Cảng. Nó thậm chí chẳng bằng một nửa phòng ngủ ở tòa biệt thự nhưng tôi thích sự nhỏ nhắn này. Bớt chút thời gian dọn dẹp, căn hộ hiện lên với vẻ ấm cúng mà tôi hằng khao khát. Ở căn nhà nhỏ, niềm vui luôn lớn hơn và nỗi buồn sẽ thu bé lại. Mục Á cũng tới giúp tôi khi xong việc ở Cao Lầu. Em tự tay trang trí căn hộ bằng những gam màu mà em thích và dĩ nhiên không thể thiếu hoa trà. Đang mùa trà kép, căn hộ lúc nào cũng tràn đầy sắc rực rỡ, niềm vui dần quay trở lại trái tim tôi. Một tối nọ, tôi ôm Mục Á, ngắm hoa trà kép nở sắc đỏ rực giữa mưa tuyết trắng bên ngoài cửa kính. Hợp đồng của Mục Á chỉ còn tính từng ngày, tôi bắt đầu nghĩ về tương lai:

-Vậy là em không thể làm “bà Khai Y” rồi, Mục Á. Em phải chờ tôi trở thành quý tộc tự thân thôi. Mười năm, thậm chí hai mươi năm, lâu đấy!

Mục Á lặng lẽ trông chốn xa xăm vô định giữa màn đêm thành phố. Được một lát thì em ôm lấy tay tôi, từng ngón tay bấu chặt như muốn tôi, thời gian, không gian hay cả khung cảnh này dừng lại. Rồi Mục Á quay vào lòng tôi khóc rấm rứt, tôi ngạc nhiên:

-Sao vậy? Em sao thế?

-Không, chỉ là vui quá thôi! – Em cười, giọng nghèn nghẹn – Chúng ta kết hôn rồi sống ở đây nhỉ? 

-Ừ! – Tôi bật cười đoạn vuốt tóc Mục Á – Tôi sẽ đến gặp ông chủ Cao Lầu và chuộc em. Từ giờ em cứ sống ở đây…

-Để sau khi anh trở về, được không? Anh trở lại làm việc, giờ lo cả chuyện của em thì cập rập lắm! – Mục Á chen ngang – Đợi anh về, lúc ấy thừa thời gian, chúng ta sắp xếp chu đáo hơn. Nhìn xem, căn hộ còn thiếu nhiều thứ lắm, mình em ở đây không lo hết được. Với cả… chuộc xong rồi, em phải chờ mấy tháng nữa mới đến lễ cưới sao? Khó chịu lắm!

-Tôi biết ghen đấy, Mục Á! – Tôi nhíu mày – Tôi muốn đưa em ra khỏi Cao Lầu càng nhanh càng tốt. Em cứ làm Hạ Nga Chi mãi, tôi đau lắm! 

Mục Á cười rũ, dụi đầu vào ngực tôi rồi nài nỉ dời ngày chuộc em khỏi Cao Lầu. Nghe em nói, tôi mới thấy lắm chuyện bất cập. Hiện giờ Mục Á là người của Đông Môn Cao Lầu, không ai ở Hoàng Hôn Cảng được phép chạm vào em. Nhưng khi rời khỏi đó, tin tức một Hạ Nga Chi được giải phóng sẽ lan truyền khắp nơi và Mục Á dễ gặp nguy hiểm với lũ đàn ông háo sắc. Khéo thay Vạn Thế sắp đặt, nơi an toàn nhất là nhà tôi thì tôi chẳng thể về. Tôi định đưa Mục Á quay lại quê hương Diệp quốc nhưng em từ chối, nói rằng lúc này chưa thích hợp. Hết cách, tôi đành nghe theo Mục Á. Dù sao tôi cũng đã quen việc chờ đợi. Nghĩ ngợi vẩn vơ một lúc, tôi nói:

-Tôi để ý thành phố này có một nhà hát nhạc kịch. Em không thích mấy thứ nghệ thuật, đúng không? Nhưng thử một lần xem sao? Có một vở tên là “Trà Hoa Nữ” dựa theo câu chuyện cổ xưa, tôi nghĩ em sẽ thích.

-“Trà Hoa Nữ”… nó kể cái gì vậy? – Mục Á hỏi.

-Giống chuyện của chúng ta. – Tôi nháy mắt – Em sẽ biết thôi! 

Em đồng ý, hẹn khi tôi trở về sẽ cùng xem. Mấy ngày kế tiếp, Mục Á đòi tôi ở lại căn hộ thay vì đi chơi, chừng như muốn tận hưởng sớm cuộc sống gia đình. Một đám cưới, vài vật dụng linh tinh và thêm một đứa trẻ con, nơi này sẽ trở thành “nhà” thực sự. Trước hôm tôi đi, em có tặng tôi một đóa trà kép màu đỏ rực. Tôi liền ép khô cánh hoa và đặt nó ở ngăn bìa cuốn nhật ký hành trình làm vật trang trí. 

Nửa tháng sau, tôi theo chân thầy Tây Minh đến vùng đất hoang vu phía tây lục địa Hoa Thổ để giúp một tiểu quốc tái thiết sau thời kỳ chiến tranh tài nguyên. Như thường lệ, mỗi khi rảnh rỗi là tôi gọi điện cho Mục Á. Nhưng đợt này, cuộc trò chuyện giữa chúng tôi cùng lắm chỉ được năm, sáu phút, không hơn. Mục Á nói đang là cuối năm 7502, Hoàng Hôn Cảng nhiều khách gấp đôi bình thường nên em không thể trò chuyện lâu. Thực tình tôi khá khó chịu nhưng vì hạnh phúc tương lai nên tạm cho qua. Đại Bác có hỏi chuyện tôi chuộc Mục Á hay chưa, tôi trả lời thành thực. Nghe xong, gã gãi gãi chiếc cằm lún phún râu:

-Kỳ quặc nhỉ?! Sắp được ra khỏi Cao Lầu mà cô ấy không muốn? Cổ đâu phải trẻ lên ba không biết tự lo cho mình, sao phải sợ mấy thằng háo sắc? Cậu làm như cả thế giới này suy đồi lắm không bằng! Mà nếu cậu sợ thì đưa cổ về Diệp quốc. Sao? Không được á? Thế mấy ông bạn đàng hoàng của chúng ta đâu? Cậu có thể gửi Mục Á ở chỗ bọn họ, họ nợ cậu kia mà?! Thế còn tôi thì cậu để đâu? Ồ, cậu sợ “thằng ngựa giống” này đánh chén bạn gái mình à? Cậu làm tôi tổn thương đấy, hi hi hi! Được rồi, đừng làm bộ mặt đó, tôi đùa thôi! Nhưng có chắc Mục Á muốn cưới không vậy? 

Có chắc Mục Á muốn cưới hay không? – Tôi lặp lại. Tuy Đại Bác không có ý xấu nhưng gã vô tình làm tôi băn khoăn. Nghĩ lại mấy cuộc gọi điện chóng vánh gần đây rồi cả thái độ khó hiểu của Mục Á khi ở căn hộ, tôi bỗng bứt rứt khôn tả. Suốt đợt đó tôi chỉ mong ngóng công việc kết thúc nhanh để mau chóng trở về. Sự nôn nóng ấy không qua được mắt thầy Tây Minh, nhưng thầy không dạy dỗ hay quở trách tôi điều gì. Cùng thời gian, mẹ gọi điện cho tôi đôi lần và có hỏi thăm Mục Á, không quên khuyên tôi trở về. Bà nói sau đợt đuổi tôi ra khỏi nhà, cha suy sụp tới nỗi bên quân đội phải ép ông nghỉ dưỡng nửa tháng. Cả ngày ông chỉ quanh quẩn với rượu, mọi việc giao hết cho người quản gia. Dù chạnh lòng nhưng bởi cái tôi quá lớn, tôi từ chối về nhà để xin cha tha thứ.

Bốn tháng làm việc kết thúc, tôi vội vã trở lại Hoàng Hôn Cảng. Đang dịp lễ hội, cả thành phố hầu như không ngủ, đêm nào cũng rực rỡ ánh đèn lẫn người qua lại. Trước lúc về căn hộ, tôi ghé qua khu chợ trời mua hoa trà làm quà cho Mục Á. Tôi không gọi điện báo trước vì muốn làm em bất ngờ. Tiền chuộc Mục Á, nơi tổ chức lễ cưới, những đồ đạc còn thiếu cho căn hộ – mọi thứ cho cuộc sống mới, tôi đều chuẩn bị đầy đủ. 

Khốn thay, mọi chuyện không như tôi nghĩ. Vạn Thế vẫn thích trêu ngươi con người như vậy.

Khi nói về dự định tương lai, Mục Á luôn đề cập căn nhà sáng sủa với những bình hoa trà, em muốn tự tay chăm sóc và tô điểm chúng. Nhưng khung cảnh đang ập tới mắt tôi hoàn toàn trái ngược. Bước vào căn hộ, tôi ngửi thấy mùi ẩm thấp lẫn bụi bặm như thể lâu lắm không ai ghé thăm. Bụi khắp nơi, cuộn thành mảng trên sàn nhà hoặc đóng tầng đóng tảng ở góc phòng lẫn đồ đạc. Tấm rèm che cửa sổ vốn trắng tinh đã ngả màu nhờ nhợ, gian bếp sạch sẽ cáu cạnh cách đây mấy tháng giờ đầy mạng nhện lẫn phân chuột phân gián. Quan trọng hơn: ở đây không có hoa trà hay bất cứ sự hiện diện nào của Mục Á. Thất vọng lẫn bực bội nhảy chồm vào tâm trí rồi quậy phá lung tung viễn cảnh tươi đẹp mà tôi luôn mường tượng từ khi về đây tới lúc bước vào căn hộ. Cảm giác có chuyện không ổn, tôi liền gọi điện cho Mục Á. Hai cuộc gọi bất thành, tôi vừa lo lắng vừa tức giận. Mãi cuộc gọi thứ ba và nghe được giọng Mục Á, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Đầu dây bên kia đầy tiếng nhạc chát chúa của hộp đêm, tôi lớn giọng mấy lần, em mới nghe rõ. Tôi hẹn gặp ở nơi cũ.

Giống mấy lần trước, tôi phải chờ cả tiếng đồng hồ thì Mục Á xuất hiện. Nhưng khác ở chỗ em không còn chạy hay biểu hiện bất cứ dáng điệu gấp gáp nào như là muốn gặp tôi. Em vẫn đẹp, vẫn ngây ngất lòng người nhưng ánh mắt đã thay đổi. Từ ngày yêu tôi, mắt Mục Á luôn tràn đầy tia ấm áp và hiền dịu như vị nữ thần mang mặt trời đến thế giới này. Nhưng ngay lúc này, đang nhìn tôi là một đôi mắt sắc bén thấu triệt tâm can kẻ đối diện, hệt như lần đầu tôi gặp gỡ em ở Cao Lầu. Dù vậy tôi vẫn ôm Mục Á, em đáp lại bằng nụ cười lấy lệ:

-Anh đã về…

-Phải, tôi về rồi! Em nhớ tôi chứ?! – Tôi nói.

Mục Á ậm ừ, thái độ lạnh nhạt, có thể em giận vì tôi đi quá lâu. Tôi gãi đầu cười:

-Mà mấy tháng rồi em bận nên không ghé qua nhà hay sao? Tôi vừa ghé qua, nó bẩn quá! Được rồi, dù gì tôi cũng về, chúng ta cùng dọn dẹp nó nhé?

-Không. – Mục Á nói – Em không ghé qua không phải vì bận. Đơn giản là em chẳng muốn đến đó. 

-Hả? – Tôi nhăn trán – Tại sao? Vì nó quá nhỏ? Nếu em không thích thì tôi có thể mua một căn hộ khác lớn hơn…

-Không phải nhỏ hay lớn, anh không hiểu sao, Khai Y? – Mục Á cắt ngang lời tôi – Em không còn cảm tình với nó nữa. Em không muốn sống ở đó. 

Gió tuyết cắt ngang tôi và Mục Á. Một thứ vô hình gì đấy giữa chúng tôi vừa bị cắt đứt. Tôi không phải kẻ ngu ngốc mà không hiểu lời em. Định thần ít phút, tôi mở lời:

-Em nói thế tức là… chia tay? Sao vậy, Mục Á? Tôi đủ tiền chuộc em khỏi Cao Lầu, ngay hôm nay, ngay lập tức! Chuyện gì thế? Tại sao em thay đổi? Có phải cha tôi đã nói gì với em không?

Mục Á vuốt tóc, ánh nhìn lạnh băng, giọng nói lạnh lẽo:

-Không, gia đình anh không liên quan, chỉ là em thôi. Nhớ lời em không, Khai Y? Hạ Nga Chi là họa mi, họa mi biết chỗ đẹp mà đậu, biết chỗ nắng mà hót. Em không thể cưới một chàng kiếm sĩ bình thường, không có bất cứ địa vị hay quyền lực nào cả. Anh đã là người mà em mong muốn, nhưng anh tự tay đánh mất nó. Anh không còn là quý tộc nữa, thế nên…

Em nhún vai thay lời muốn nói. Cổ họng tôi nghẹn đầy tức giận, phải thở bớt mới đỡ nóng:

-Em vẫn còn lo chuyện quý tộc sao? Tôi nói rồi, chỉ cần thời gian, tôi sẽ trở thành quý tộc. Chỉ cần hai bàn tay này, tôi có thể làm mọi thứ!

-Vậy suốt thời gian đó, ai sẽ chăm sóc hai bàn tay của em? – Mục Á giơ tay – Ở Băng Thổ này, quý tộc tự thân không nhiều đâu, và không phải cứ dùng sức mạnh là đạt danh hiệu quý tộc. Em sẽ phải làm đủ thứ việc, cô đơn một mình, làm lụng một mình, cực khổ một mình. Này Khai Y, đôi tay của phụ nữ đẹp sinh ra không phải để làm những chuyện như vậy. Có một điều em đã nói dối anh: em vào Cao Lầu chẳng phải vì tổn thương tinh thần, chỉ là nếu trở thành Hạ Nga Chi, em khỏi đầu tắt mặt tối như những người phụ nữ làm việc ngoài chợ trời. Anh có thể đợi ngày mình trở thành quý tộc, em thì không. 

Tôi nổi điên, răng nghiến kèn kẹt, bàn tay thu chặt thành nắm đấm:

-Em đang nói gì thế? Chẳng lẽ mọi thứ giữa chúng ta kết thúc chỉ vì một chữ “quý tộc” à?

-Và còn một việc nữa… – Mục Á cười – Thực ra em không thể trở lại Diệp quốc, ông bà ngoại biết chuyện em làm Hạ Nga Chi ở đây. Đó là việc không thể chấp nhận, họ không thể dung nạp một đứa cháu hèn hạ như vậy vào nhà. Em từng là tiểu thư ở bên Diệp quốc, nhưng giờ không còn nữa. Bởi vậy nếu kết hôn với một quý tộc, em sẽ có được địa vị như trước. 

Tôi vung cú đấm vào gốc cây phía sau Mục Á, cây rung bần bật, tán lá lẫn tuyết rơi lả tả như mưa rào. Tôi gầm lên:

-ĐỪNG CÓ ĐÙA! 

-Em nói rồi, Khai Y, đừng trông đợi vào tình yêu. Mỗi lần chia tay, em đều nói rằng em sẽ không quên anh bởi anh có tiền bạc và địa vị, nhớ không? Đó là những lời thật nhất, đáng tiếc anh lại không tin.

-Vậy còn những gì em làm cho gia đình tôi? 

-Không khó để nhớ những kính ngữ đậm chất quý tộc, chỉ là mua đúng sách và bỏ thời gian nghiên cứu. Giờ người ta bán mọi thứ, quang tố còn bán được, huống hồ một quyển sách? – Mục Á cười – Em có trí nhớ tốt! Vả lại tốn công giúp đỡ gia đình anh cũng là cách lấy lòng mọi người. Đáng tiếc… đầu tư thất bại rồi!

Cơn giận dữ trong tôi lên đến đỉnh điểm nhưng rồi chuyển thành nỗi tuyệt vọng. Nực cười cho cuộc đời tôi luôn trốn chạy chữ “quý tộc”, giận dữ vì nó, đau khổ vì nó, và giờ đây gục ngã trước cánh cổng hạnh phúc cũng vì nó. Tôi buông tứ chi, tay thõng xuống, chân lún sâu trong tuyết. Mục Á thở dài:

-Xin lỗi Khai Y. Anh hấp dẫn, đẹp trai, nhưng chừng đó là chưa đủ với Hạ Nga Chi. Em cần nhiều hơn thế. Cứ quay lại Đông Môn Cao Lầu nếu anh đủ tiền và đủ thời gian, em sẽ trò chuyện với anh. Nhưng từ giờ tới cuối năm sau, e rằng khó đấy, em bận lắm, với cả em đang nhắm đối tượng khác. Vậy… tạm biệt nhé?!

Nói rồi Mục Á bỏ đi và không quay lại nhìn tôi một lần. Tôi bần thần đứng đó hàng tiếng đồng hồ, mãi xẩm tối mới về. Đêm đó, tôi gọi điện cho Mục Á mong tìm được cơ hội níu kéo nhưng em đã đổi số, hoặc là em đã bỏ chiếc điện thoại. 

Một ngày đầu đông năm 7502, tôi và Mục Á chia tay.

Thực tình chia tay không phải thứ gì đó quá khủng khiếp, chỉ là cảm giác hẫng hụt như buộc phải từ bỏ một thói quen thường nhật nào đấy. Thay vì dùng rượu vang trước bữa ăn thì ta không được uống nữa vì lý do sức khỏe, đại khái vậy. Có chút khó chịu, có chút thèm muốn nhưng không quá nuối tiếc. Sau cuộc chia tay, tôi đến những thành phố khác, làm những thứ mà tôi đã bỏ bẵng từ lúc yêu Mục Á như uống rượu ngắm cảnh. Tôi ở Thung Lũng Tuyết Tan hẳn một tuần để trông chờ cảnh mặt trời mọc mỗi sáng. Lâu rồi mới thấy bình minh đẹp đến vậy!

Ngày qua ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ cho bản thân. Tôi chẳng còn là quý tộc, cũng không phải nhân vật nào đấy nổi tiếng, chỉ là một chiến binh bình thường không hơn không kém. Thập Kiếm đã không chọn tôi làm thành viên mới. Tôi gọi vài người bạn tới trò chuyện giải khuây nhưng tất cả đều lịch sự từ chối. Tôi bật cười, đám người đó đã biết tôi mất quyền thừa kế. Nhớ thuở trước họ liên tục mời tôi dự tiệc, lấy làm hãnh diện nếu tôi đồng ý. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Cứ đà này, tôi sẽ lóp ngóp dưới đáy thế giới chứ chưa đợi phấn đấu làm quý tộc, và còn đó thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt – bức tường không thể nào vượt qua. Tôi chọn bãi đất tuyết ven rừng gần Thung Lũng Tuyết Tan làm chốn luyện tập. 

Một tháng qua đi, khu đất nơi tôi luyện tập gần như tan nát, không còn một cây lá kim hay tảng đá nào còn nguyên lành. Những con quái vật tàn ảnh nổi tiếng hung dữ cũng dần lánh xa khu vực này. Tàn ảnh thông minh, chúng biết sẽ gặp nguy hiểm nếu lảng vảng gần tầm mắt của tôi. Chúng biết một con quái vật mới mang tên Khai Y vừa đặt chân xuống đây. Từ bao giờ? Là từ bao giờ tôi trở thành quái vật? Tôi chợt nhận ra tất cả những hành động hay suy nghĩ của mình đều có dấu ấn “Mục Á”. Nỗi đau này không mạnh mẽ như thanh kiếm hay viên đạn xuyên lủng ngực, nó là chất độc ngấm dần xương thịt. Qua thời gian, nó lan khắp phủ tạng sau đấy tha hóa tâm trí, bấy giờ cơn đau mới phát tác toàn cơ thể. Tôi đã gọi điện về nhà và tra hỏi ngọn ngành, chẳng có tác động nào từ gia đình tôi mà Mục Á tự động chia tay. Em coi trọng địa vị hơn hết thảy. Em “đá” tôi chỉ vì nếu không có địa vị quý tộc, bàn tay thanh tú đầy đặn của em sẽ nổi vết chai sần vì lao động. Ồ, tôi quên mất, em là vũ nữ thần linh, em cần ở nơi đầy ánh đèn cho cả thế giới chiêm ngưỡng hâm mộ. Em làm đẹp để vừa lòng hàng ngàn kẻ xa lạ nhưng không chịu xấu xí cho một người yêu em. 

Sự thật phũ phàng là tôi chưa bao giờ hiểu Mục Á. Sự thật đau đớn là tôi vẫn yêu em. Không phải thứ tình yêu điên dại tuổi trẻ. Không phải thứ tình yêu chiếm đoạt bản năng giống đực. Nó là câu chuyện của một gã đàn ông đặt hết niềm tin lẫn tuổi trẻ vào đó, sống vì nó, chiến đấu vì nó nhưng bị phản bội phút cuối cùng. 

Có ba loại người ngây thơ nhất thế giới: trẻ lên ba, thiếu nữ mười lăm tuổi và gã đàn ông đang yêu. 

Nhưng cũng có ba loại người dễ bị phản bội nhất trên thế giới: những tên bạo chúa, những ông chủ tồi và những gã trai đang yêu. 

Tôi nhìn xuống bàn tay mình – thứ mà tôi luôn tự hào. Nó đã chiến đấu hàng trăm lần, giúp đỡ hàng nghìn người, để lại dấu ấn khắp thế giới Tâm Mộng. Nhưng tuyết đang phủ kín nó bằng màu trắng tinh, thứ màu trống trơn của sự khởi đầu lẫn vô định của sự kết thúc. Tôi, gã đàn ông gần ba mươi tuổi mất tất cả, không biết bắt đầu từ đâu, vô phương hướng. Không có cầu thang để tôi bước lên tương lai càng chẳng có những thềm bậc cho tôi trở lại quá khứ. Như một hệ quả, tôi trượt chân xuống vùng biển sầu khổ và tìm đến rượu bia. 

Khốn khổ thay, rượu bia là thứ chất lỏng dễ hòa tan. Ở vùng biển sầu khổ mênh mông không bến bờ, chúng mất dạng giữa đợt thủy triều buồn bã ngày đêm xô vào thành vách trái tim, hoặc chìm nghỉm dưới cơn sóng giận dữ. Bóng tối cùng cơn say thúc giục tôi rời khỏi Thung Lũng Tuyết Tan. Tôi quay về Hoàng Hôn Cảng, ngày ngày đáo qua đáo lại những nơi quen thuộc như đường mòn dãy núi tuyết phía tây, khu chợ trời hay đường bờ sông lát đá cắt ngang thành phố. Đi nhiều bao nhiêu, tôi căm ghét Mục Á bấy nhiêu. Em đẹp đẽ hơn người, khí chất hơn người song tâm hồn cũng tủn mủn như bao cô gái hám vật chất địa vị. Ai có lỗi? Trách Mục Á trở mặt giả dối hay trách tôi ngây thơ quá đỗi? Tôi không biết. Chẳng tìm được câu trả lời, từng đợt sóng giận dữ chồm lên chồm xuống tâm trí tôi. 

Kỳ lạ thay, lẫn lộn giữa làn sóng căm giận, tôi nhận ra vô vàn bọt nước sôi sủi mang hình bóng Mục Á. Chúng tồn tại trong chớp mắt rồi vỡ vụn, lát sau lại tập hợp và lại tan biến, cứ thế diễn ra hàng ngàn lần tạo thành vòng lặp siết thắt tâm trí tôi. Suốt quãng đường vòng quanh Hoàng Hôn Cảng, tôi đã mong em xuất hiện đâu đó trên phố hoặc sau hàng cây lá kim rủ tuyết. Tôi lờ mờ hiểu nguyên cớ song ngay lập tức phủ nhận. Tại vùng biển sầu khổ nơi mà thời gian không tồn tại, tôi lao ra ngoài khơi vật lộn những cơn sóng từ lúc chớm bình minh cho tới khi hoàng hôn che mặt sau bóng tối, từ mùa đông cắt giá da thịt tới hồi mặt trời đốt trụi xương tủy. Tôi tiều tụy, sức lực cạn sạch nhưng làn sóng giận dữ vẫn không buông tha. Tôi ngửa mặt hét lớn trước khi bị chúng nhấn chìm. Dưới đáy biển đen thẳm, tôi bỏ cuộc và chịu thừa nhận thế giới đau buồn này hình thành bởi nỗi nhớ Mục Á. Tôi nhớ em. Tôi cần em. Chỉ em mới cứu được tôi.

Đắm chìm tâm trí quá lâu, tôi bỗng giật mình khi khung cảnh xung quanh là quán rượu. Tôi không hiểu tại sao mình đến đây hay đến bằng cách nào. Đang hoàng hôn, mặt trời phả ánh đỏ quầng khắp thành phố như mời gọi tôi uống rượu để tán thưởng nó. Tôi đồng ý với mặt trời. Nhưng tôi quên rằng mặt trời hoàng hôn là bạn chí cốt của màn đêm, nó dẫn dụ tôi vào vô số ly rượu mạnh, đợi tôi gục thì để bóng tối xử lý. Trong bóng tối, mọi thứ trước mắt tôi đều lơ mơ không rõ ràng. Hình như tôi va phải ai đấy khi bước ra khỏi quán rượu, có đánh lộn, có tiếng đổ vỡ lẫn tiếng người can ngăn, có cánh tay ông chủ quán lôi tôi trở ra trước khi tôi đấm chết người. Dù gì tôi cũng không quan tâm lắm, bởi điều rõ ràng mà tôi nhìn thấy chỉ có Mục Á. Phó thác cho giận dữ dẫn đường, mặc cho nỗi nhớ nhung quặn lòng chỉ lối, tôi vô thức quay lại Đông Môn Cao Lầu. Tôi yêu cầu được gặp Mục Á nhưng gã bố mì từ chối:

-Không được, xin Múy đến hôm khác, Mục Á đã kín lịch rồi. Nhưng mong Múy thông cảm, Mục Á có nhắn với tôi rằng nếu Múy tìm đến, cô ấy sẽ không tiếp. Hạ Nga Chi có quyền từ chối, mong Múy hiểu cho.

-Gọi Mục Á ra đây, tôi không nhắc lại lần nữa đâu. – Tôi gầm gừ.

Trông bộ dạng nồng nặc mùi rượu của tôi, gã bố mì nhe răng cười. Gã đặt bàn tay gân guốc lên vai tôi rồi bóp chặt:

-Múy biết chuyện gì xảy ra nếu động vào Hạ Nga Chi đấy. Bất kể Múy là ai…

Giọng nói gã bố mì đứt quãng vì tôi đã quật gã xuống sàn. Giữa tiếng hét của gái điếm Cao Lầu và tiếng bước chân rầm rập của đám bảo vệ, tôi gọi tên Mục Á. Tôi vừa gọi tên em vừa trút cơn giận dữ xuống những kẻ cản đường. Buồn cười, bọn thú hoang ở khu rừng Thung Lũng Tuyết Tan thông minh hơn con người, chúng biết hậu quả khi lảng vảng trước mặt tôi còn con người thì không. Trong chốc lát, cả tòa sảnh thành bãi chiến trường, hàng chục gã bảo vệ đổ gục dưới chân tôi, khách khứa bỏ chạy tán loạn còn tôi gào lớn:

-Mục Á! Ra đây, tôi cần nói chuyện! Em đang ở đâu? MỤC Á? MỤC Á!

Người đến đông hơn, có cả chiến binh kiếm sĩ và kiếm thuật sư. Giới kinh doanh nhan sắc có thể thuê bất cứ ai kể cả sát thủ, vậy nên họ không sợ bất kỳ loại khách hàng nào. Nhưng họ không biết có một loại khách hàng tên là Xuy Hạ Khai Y. Tôi liều lĩnh đâm đầu vào bọn họ, hết đánh người lại gọi tên Mục Á. Có chai thủy tinh đập vào đầu tôi, máu chảy ròng ròng khắp mặt nhưng tôi không quan tâm. Tôi cần Mục Á. Có súng bắn điện khiến tôi đổ gục rồi tiếp đến là cơn mưa giẫm đạp nhưng tôi càng thêm điên rồ. Tôi muốn có Mục Á ở kế bên. Bằng tay trần, bằng nắm đấm, tôi đánh gục mọi thứ cản đường mình và bước lên tầng hai Cao Lầu tìm đến phòng riêng của Mục Á. Nhưng cơ thể tôi không thể chịu quá nhiều súng bắn điện, nó dần tê cứng rồi đổ gục trước khi hứng chịu hàng trăm cú đấm. Tôi cảm nhận rõ tiếng nứt gãy xương sườn hay cơn khó thở lồng ngực. Nhưng tổn thương cơ thể chẳng còn nghĩa lý khi thế giới bên trong tôi đã thối nát. Mắt tôi mờ dần, bóng tối đưa tôi đến đây và giờ nó đánh chén, nhấm nháp tôi từng chút một.

Kể từ lần đó, tôi hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Đôi lần tôi nghe được tiếng người nhưng không rõ là ai. Mọi thứ mơ hồ và dài đằng đẵng như cả thế kỷ. Tôi chán sống, chán cả thế giới thực tại. Nhưng một ngày kia có làn hơi ấm áp tràn đến vực tôi dậy, dù không biết nó từ đâu đến nhưng tôi cảm thấy mình cần sống tiếp. Tôi cất bước, mò mẫm trong bóng tối và tìm về ánh sáng. Khi ánh sáng mờ dần, tôi nhận ra mình đang nằm trên giường với chăn gối màu trắng, xung quanh là những bức tường sạch sẽ đến gai người của bệnh viện. Bằng nỗ lực thể xác, tôi ngó quanh tìm hơi ấm đã cứu vớt mình. Nhưng câu trả lời mà Vạn Thế dành cho tôi lại không như tôi mong đợi. Thứ ấm áp đó đến từ một cô gái có vóc dáng dong dỏng cùng đôi mắt hiền hậu. Nàng là Xa Hạn Lý, không phải Mục Á. Thấy tôi mở mắt, nàng mỉm cười, đôi mắt rưng rưng:

-Anh tỉnh rồi… Khai Y… anh đã tỉnh…

Nàng vuốt ve gương mặt băng bó của tôi. Tôi đảo mắt nhìn sang, Đại Bác và thầy Tây Minh cũng có mặt. Thấy tôi tỉnh giấc, Đại Bác thở phào:

-Cuối cùng cậu cũng tỉnh! Cứ tưởng chết rồi chứ?!

Qua lời Đại Bác, tôi cũng nhận thức được những gì mình đã làm tại Đông Môn Cao Lầu. Tôi gây sự ở đó trong tình trạng say khướt, đánh gục hơn bảy mươi bảo vệ, hai mươi kiếm sĩ và kiếm thuật sư. Quá nửa sảnh Cao Lầu nát bét dưới tay tôi, và nếu không phải cha tôi dàn xếp với ông chủ Cao Lầu, mặt tôi đã chình ình khắp báo chí Hoàng Hôn Cảng. Bản thân tôi cũng chẳng vui vẻ gì khi gãy dăm ba xương sườn và vỡ đầu gối chân trái, chưa tính hàng chục mũi khâu ở đầu hay ngực. Chỉ cha tôi tường tận mọi chuyện, mẹ tôi hay mẹ hai đều chẳng hay biết gì. Tôi định hỏi Mục Á có đến hay không nhưng Hạn Lý ở đây, tôi không tiện hỏi. Nhưng tôi cũng dần quên chuyện đó. Nếu còn yêu tôi, Mục Á sẽ tới bất kể thời khắc nào. Ngay lúc này, tôi nhận thức được chuyện giữa chúng tôi hoàn toàn kết thúc. 

Ai cũng phải từ bỏ một thứ gì đó trong đời. Ai cũng vậy. 

Độ non nửa tháng, tôi được xuất viện. Vì không thể về nhà trong bộ dạng thế này, tôi đành quá giang qua nhà Xa Hạn Lý. Nàng muốn tự tay chăm sóc tôi. Tôi rất bối rối khi gặp lại cha mẹ nàng, chuyện hủy hôn còn đấy mà người già thì nhớ dai. Nhưng gia đình Hạn Lý đón tiếp tôi tử tế như đón khách quý, tuyệt không đả động việc tôi mất quyền thừa kế. Mỗi ngày, Hạn Lý đều giúp tôi vận động hồi sức. Tôi tự hỏi tại sao Hạn Lý làm vậy sau tất cả những gì tôi đối xử với nàng, trong khi nàng có thể cười cợt và mỉa mai tôi như bao kẻ khác? 

Tôi chợt nhận ra thế giới này không chỉ có Mục Á khó hiểu. Dường như tất cả phụ nữ đều như thế. 

Ba tháng sau tôi tháo băng nẹp, đôi chân bắt đầu đi lại bình thường dù phải chống nạng. Trong tay Hạn Lý, tôi dạo phố và ngửi hơi lạnh quen thuộc của xứ Băng Thổ. Xứ sở này đầy hơi nóng của máu nhưng cũng nhiều hơi ấm lòng người. Tôi bắt đầu để ý Hạn Lý nhiều hơn. Nàng cũng thích hoa nhưng không phải hoa trà, nàng thích hoa dương xỉ. Lúc bình thường, nàng điềm tĩnh chín chắn nhưng khi bối rối hay nổi giận thì đó là câu chuyện hoàn toàn khác. Nàng đáng yêu theo cách của mình. Nhưng quan trọng hơn cả là chính Hạn Lý đưa tôi ra khỏi bóng tối, không phải ai khác. Một ngày cuối tháng 12 năm 7502, tôi hỏi nàng:

-Sắp lễ năm mới, tôi phải về nhà, em đi cùng tôi chứ?

Hạn Lý đồng ý, nàng cười thật tươi. Tôi cùng nàng về nhà vào tháng 1 năm 7503. Cuộc gặp giữa tôi và mẹ khá khó khăn, bà khóc hết nước mắt sau lại chất vấn những dấu vết khâu mổ trên người tôi, cả chuyện chân cẳng tập tễnh. Gia đình Khai Nhạn cũng mừng tôi trở lại, Khai Giã cũng vậy. Thằng nhóc lớn hơn trước, bộ mặt chai lì hầu như không cười nhưng ánh mắt vẫn còn cảm xúc. Nó hỏi tôi:

-Cô Mục Á đâu? Cô ấy không về cùng bác sao? 

Tôi mỉm cười đoạn xoa đầu đứa nhỏ. Khi đó tôi không trả lời Khai Giã, có nhiều chuyện mà trẻ con không bao giờ hiểu dù giải thích thế nào chăng nữa.

Song khó chịu hơn cả là đối diện với cha. Mới gần một năm mà ông già đi trông thấy. Chiến tranh chưa kết thúc, ông phải ra mặt trận thường xuyên chưa kể lo đống phiền phức dòng tộc. Sau ngày cha từ mặt tôi, cả họ Xuy Hạ liên tục gây áp lực đòi cha chọn người thừa kế quyền lãnh đạo nhưng ông luôn từ chối. Vì sự ích kỷ của tôi, cha trở nên xơ xác như cây tùng bị gió quật, thân cây vẫn vững vàng song lá đã trụi hết. Nửa ngày im lặng, cuối cùng cha đưa tôi ly rượu vang rồi cất lời:

-Anh nói đúng, Khai Y, chiến trường chẳng có chỗ cho báo thù. Ta muốn anh thừa kế dòng họ để tiếp bước nghiệp quân đội, ta đã muốn anh báo thù cho Khai Nhạn. Nhưng cái vòng luẩn quẩn thù hận luôn khiến người Băng Thổ mù quáng. Lịch sử Băng Thổ chưa bao giờ hết đẫm máu là vì thế… Cứ làm điều anh muốn, Khai Y. Phục vụ đại thánh sứ Tây Minh cũng là cách hay, đừng để người ta nhìn xứ Băng Thổ là đám dã man. Khi nào gặp lại Tây Minh, cho ta gửi lời xin lỗi.

Tôi cúi đầu xin lỗi cha vì những rắc rối mà mình gây nên. Để dọn dẹp đống hổ lốn ở Đông Môn Cao Lầu, cha phải chi hàng núi tiền, nhờ vả các mối quan hệ mới sắp xếp ổn thỏa. Nhưng cha chỉ mệt mỏi xua tay tỏ ý không bận tâm. Cha dễ giận dữ nhưng cũng dễ tha thứ. Lát sau ông nói rằng sẽ trao lại quyền thừa kế cho tôi và coi như mảnh giấy từ mặt chưa từng tồn tại nhưng tôi lắc đầu:

-Giấy đóng dấu triện rồi, giờ cha xóa đi, người trong họ sẽ bàn tán. Con sẽ tìm đường khác. Thời gian còn nhiều, đợi ngày con chứng tỏ được năng lực bản thân, cha quyết định lại cũng chưa muộn. 

Cha đồng ý, ông nâng ly rượu chúc tôi may mắn. Sau nhiều sóng gió, sự yên bình đã quay lại tòa biệt thự và gia đình tôi vui vẻ đón năm mới. Cùng thời gian, sợi dây tình cảm xuất hiện kết nối tôi với Hạn Lý. Không ép buộc hay miễn cưỡng, nó xuất hiện như một điều hiển nhiên. Dù rằng hình bóng hoa trà thỉnh thoảng lẩn vẩn tâm trí tôi, dù rằng mọi người trong gia đình vẫn nhớ về một nàng Hạ Nga Chi tóc đen đầy bí ẩn nhưng cuộc sống này vẫn cứ tiếp diễn, ta phải học cách quên người mà ta từng dành trọn yêu thương hay ấn tượng. Trên đời có thể tồn tại một thứ gọi là “vĩnh cửu”, nhưng chắc chắn rằng trong sự vĩnh cửu ấy không có tình yêu. 

Cuối tháng 1, tôi tạm biệt Hạn Lý rồi theo chân thầy Tây Minh làm nhiệm vụ. Theo thói quen, tôi viết nhật ký hành trình đều đặn một tháng hai lần. Vừa mở sổ, trái tim tôi khựng lại khi mỗi trang giấy đều có tranh vẽ Mục Á chưa kể cánh hoa trà ép khô ở ngăn bìa. Tôi đã yêu Mục Á như thế nhưng đáng tiếc em không hiểu cho tôi. Nỗi đau phản bội còn nguyên trong khi trái tim đã có người khác, tôi định bỏ cuốn sổ song không nỡ. Không đơn thuần là nhật ký, nó còn chứa nhiều thông tin hữu ích về vùng đất đã đi qua, đối thủ mà tôi từng đụng độ hay những tổ chức bí mật. Thành thử mỗi tối, tôi cặm cụi chép thông tin sang cuốn sổ mới, còn số phận cuốn sổ cũ thế nào thì đợi khi xong việc mới quyết định. Nếu tôi giận dữ, nó sẽ bị đốt. Còn nếu tôi bình tâm hơn, nó sẽ vĩnh viễn chôn mình đâu đó giữa thế giới rộng lớn này. Nhưng thẳm sâu cùng tận trái tim, tôi muốn giữ nó bên mình cho đến ngày xuống mồ. 

Đôi khi ta giữ lại niềm đau bởi nó là hiện thân của những cảm xúc đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất cuộc đời. 

Có dạo thầy Tây Minh hỏi mượn cuốn sổ cũ để tìm tư liệu. Tôi hơi ngại khi thầy nhìn mấy bức vẽ, chốc chốc lại bật cười như giễu cợt quá khứ ngốc nghếch của tôi. Nhưng gương mặt thầy bỗng đanh lại khi lật trang giữa sổ nhật ký, ánh mắt dán chặt lên hình vẽ gồm các dấu ấn mang biểu tượng vòng cung lẫn dấu chấm. Thứ này luôn xuất hiện sau cổ Mục Á mỗi khi em có cảm xúc, em từng hứa sẽ kể cho tôi nguồn gốc của nó nhưng lời hứa không bao giờ thành hiện thực. Thầy Tây Minh hỏi tại sao tôi biết hình vẽ dấu ấn, tôi liền trả lời thành thực. Nghe xong, thầy thừ người ra đoạn lẩm bẩm:

-Thảo nào khi gặp cô gái đó, ta có cảm giác lạ lạ… cách đây hơn nửa thế kỷ, hồi còn là thánh sứ tập sự, ta từng gặp một phụ nữ như vậy… 

Nhớ lại ngày gặp Mục Á, thầy có nhiều biểu hiện khác hẳn tính cách thường ngày, tôi bèn hỏi:

-Thầy nói gì thế? Em không hiểu, thầy nói rõ ràng hơn được không?

Thầy Tây Minh ngó hình vẽ sau đăm đăm nhìn tôi bằng ánh mắt phân vân. Ban đầu thầy định thôi nhưng tôi gặng hỏi, thầy đành trả lời:

-Nó là “dấu ấn nô lệ”. – Thầy chỉ lên hình vẽ – Chắc anh biết lịch sử Băng Thổ hình thành từ đâu chứ?

-Em có nghe cha kể chuyện. – Tôi đáp – Cha nói rằng chế độ nô lệ rất thịnh hành ở Băng Thổ thời phi cơ giới. Sau một thời gian, các nô lệ đứng lên phản kháng và giành quyền tự chủ, cuối cùng hình thành Băng Thổ như ngày nay. Nhưng “dấu ấn nô lệ” là cái gì? 

-Một phép thuật xác định đẳng cấp xã hội. – Thầy Tây Minh nói – Nó gắn chặt lên đời cha mẹ, đứa con đẻ ra cũng mang theo dấu ấn này. Hầu hết dòng họ gây dựng Băng Hóa đều xuất thân từ nô lệ, họ Xuy Hạ của anh cũng vậy. Khi giành được Băng Hóa, các dòng họ tìm cách xóa bỏ “dấu ấn nô lệ”, sau nhiều thế hệ, họ đã thành công. Chỉ duy nhất một người không bao giờ xóa bỏ nó, ông ta nói rằng không được quên nguồn gốc của mình. Đó là người nô lệ nổi tiếng nhất đồng thời là nhân vật mà người Băng Hóa các anh tôn sùng nhất: Biệt Liên Đại Đế. 

Tôi há hốc mồm vì không biết thầy Tây Minh lấy thông tin đó từ đâu ra. Nhấp ngụm trà, thầy tiếp tục:

-Chắc anh biết dòng họ Biệt Liên cai trị Băng Hóa suốt thời phi cơ giới và thoái vị khi bắt đầu kỷ nguyên hiện đại? Phải, họ chọn cách rút khỏi dòng chảy lịch sử. Nhưng địa vị họ Biệt Liên vẫn đặc biệt tôn quý, bởi có câu châm ngôn cổ xưa rằng “dòng máu Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình”. Hẳn anh đã từng nghe? Vậy chắc anh cũng biết tại sao họ Biệt Liên biến mất chứ? 

Tôi gật đầu. Lịch sử Băng Thổ nói chung và Băng Hóa nói riêng bi thảm hơn bất cứ đâu trên thế giới bởi hận thù chém giết, dòng họ Biệt Liên nằm trong số đó. Hơn nửa thế kỷ trước, các tướng lĩnh quân đội Băng Hóa đảo chính, họ bắt đầu chế độ độc tài bằng việc thảm sát dòng họ Biệt Liên. Tới nay người ta vẫn truyền miệng câu chuyện mười bảy thành viên họ Biệt Liên bị đám tướng lĩnh lôi ra đại sảnh hoàng cung, đủ già trẻ lớn bé nam nữ. Mười bảy sinh mạng bị trói chặt tay, quỳ thành hàng ngang, từng người từng người một đổ gục bởi phát bắn sau gáy. Họ Biệt Liên tuyệt diệt, máu nhuộm đỏ sảnh, Băng Hóa rơi vào thời kỳ đen tối nhất kỷ nguyên hiện đại. Mãi tới ngày cố hoàng đế – người mà tôi gọi là cụ ngoại – giành thắng lợi cuộc nội chiến, hòa bình mới lập lại. Nhưng kể từ thời khắc họ Biệt Liên rời khỏi thế giới, Băng Thổ hiếm dịp yên bình. Sau nội chiến Băng Hóa, đám tướng lĩnh nọ bỏ trốn về phía nam lục địa và lập ra Lực Lượng Mù Thủy chống đối Băng Hóa tận bây giờ. Khu nam lục địa chưa bao giờ ngớt tiếng súng.

-Trong vụ thảm sát đó chỉ có một người phụ nữ mang thai chạy thoát, tên là Biệt Liên Đa Xuyến. Bà ấy gặp thầy ta, nhờ thầy lưu giữ thông tin về dòng họ Biệt Liên trước khi bỏ trốn. – Thầy Tây Minh kể tiếp – Bà ấy nói không cần danh phận hay tiền bạc, chỉ cần con trai bà được sống. Ở thời điểm đó, chính trường Băng Hóa rất phức tạp, người phụ nữ họ Biệt Liên chỉ tin tưởng mỗi thầy ta. Nhưng giữa hoàn cảnh nguy hiểm, khí chất dòng họ đế vương trên người Biệt Liên Đa Xuyến vẫn không suy giảm. Nó giống hệt Mục Á…

-Nói thế… nói thế tức là…

-Người phụ nữ họ Biệt Liên chẳng nói đi đâu dù thầy của ta cố hỏi. Nhưng giờ mọi chuyện rất rõ ràng. Ta nghĩ bà ấy tới Vương Quốc Cũ, thay đổi tên họ, che giấu thân phận, sinh ra một cậu con trai tên là Mục Du Cổ. Chuyện tới đây thì cậu biết rồi. Phải, Mục Á là người cuối cùng mang dòng máu đại đế Băng Hóa quốc.

Tôi hơi khó thở. Sau cuộc nói chuyện, tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ nổi. Tôi cá thầy Tây Minh lẫn lộn trí nhớ chuyện nọ xọ chuyện kia, dù gì thầy cũng nhiều tuổi nên dễ kể chuyện hoang đường. Vả lại tính thầy hơi tếu, đôi lúc thích trêu chọc người khác cho vui chưa biết chừng.

Nhưng nỗi tò mò thôi thúc tôi khám phá sự thật. Vừa vào đợt nghỉ phép, tôi tức tốc đến Vương Quốc Cũ. Tôi gặp vài người già cả và hỏi họ về Mục Du Cổ, họ cho biết ông ta sinh ra rồi lớn lên ở đây tới khi mẹ mất, bà mẹ tên là Mục Ngỗ Phiến. Mục Du Cổ đặt theo họ mẹ vì không có cha. Bằng cái giọng khò khè khó nghe, một bà già cao tuổi kể với tôi rằng Mục Ngỗ Phiến đến từ nơi xa xôi, luôn che đậy dung nhan bằng muội than lẫn tuyết trắng nhưng một khi lớp bẩn thỉu biến mất, bà lộ ra vẻ đẹp khác thường mà không phụ nữ nào tại xứ sở này có được. Người đàn bà ấy sống lặng lẽ, khép kín tâm tư nhưng luôn giúp đỡ mọi người nếu cần. Mục Du Cổ thừa hưởng đức tính của bà, đường tới Vương Quốc Cũ dễ dàng hơn là nhờ bàn tay ông ta. 

Nhiều năm trôi qua, cư dân vùng hẻo hút này vẫn chẳng biết mẹ con Mục Du Cổ là ai. Vài câu chuyện kể trên không thể thuyết phục tôi rằng họ mang dòng máu Biệt Liên Đại Đế. Nhưng đám người già cho hay tôi không phải người đầu tiên hỏi về Mục Du Cổ; cách đây hơn một năm, vài người đến đây cũng hỏi điều tương tự, trên cổ áo đeo huy hiệu mặt trời mọc sau núi. Tôi biết rõ biểu tượng này bởi nó chính là gia huy dòng họ Xuy Hạ. Cũng hơn một năm trước, cha tôi có vài biểu hiện khác lạ khi nói về Mục Á, hồi đó ông hứa yêu thương em như con đẻ nhưng không thể cho em làm con dâu chính thức. Không thể có chuyện cả cha tôi lẫn thầy Tây Minh ngẫu nhiên hành xử như vậy. Tôi lập tức quay về Băng Hóa thành cùng hàng tá thắc mắc. Nhiều khả năng cha sẽ im lặng nếu tôi hỏi, nhưng tôi biết một người thông hiểu mọi chuyện trong nhà và quan trọng hơn là không bao giờ từ chối tôi. 

-Bác quản gia, bác biết chuyện Mục Á, đúng không? Rốt cục nó là thế nào?

Câu hỏi đường đột của tôi khiến người quản gia khó xử. Bác từ chối trả lời. Nhưng khi tôi nói về chuyến hành trình tới Vương Quốc Cũ, cả câu chuyện hoang đường mà thầy Tây Minh kể, người quản gia mới thở hắt một hơi nặng nề. Bác kể ngay lần đầu tiên gặp gỡ, cha tôi cảm giác Mục Á có điều bất thường. Ông tin rằng cách nói năng đầy kính ngữ cổ xưa của em không phải luyện tập, càng không phải do học mót sách vở mà di truyền qua huyết thống. Sau khi cử người tới Vương Quốc Cũ điều tra cộng thêm những tài liệu riêng trong thư viện họ Xuy Hạ, ông xác định Mục Á chính là hậu duệ của ngài Đại Đế. Thuở xa xưa, ông tổ Xuy Hạ gần gũi ngài đại đế, hai bên trao đổi qua lại nên mọi thông tin đều xác thực. Để tăng phần chắc chắn, tôi yêu cầu người quản gia mở thư viện và tìm cuốn phả hệ họ Biệt Liên – nó là tài liệu cấm. Cuốn phả hệ cho biết trước vụ thảm sát kinh hoàng, họ Biệt Liên tổng cộng mười tám người cả thảy. Và theo tài liệu lịch sử chính thống, người duy nhất không có mặt trong vụ thảm sát là một phụ nữ tên Biệt Liên Đa Xuyến thuộc dòng máu trực hệ. Số phận Đa Xuyến đến giờ vẫn là bí ẩn, có tài liệu nói bà chết trong vụ đảo chính, lại có tài liệu khẳng định bà đã trốn thoát. 

-Nhiều dòng họ góp phần vào vụ thảm sát như hỗ trợ tiền bạc cho đám đảo chính, chỉ điểm, cung cấp thông tin. – Người quản gia nói – Nhưng vì thiếu bằng chứng, cố hoàng đế hay cụ cố ngoại của cậu không thể xử lý họ. Cha cậu tin rằng đám người đó còn dây mơ rễ má với Lực Lượng Mù Thủy. Thế nên nếu cưới cậu, Mục Á sẽ bị điều tra. Cậu đâu lạ thói tọc mạch của quý tộc Băng Thổ? Nếu biết sự thật, Mục Á và cả cậu sẽ gặp nguy hiểm, cả nhà này trở thành mục tiêu cho Lực Lượng Mù Thủy. Vậy nên cha cậu sẽ “yêu thương Mục Á như con đẻ” mà không thể cho cô ấy làm con dâu chính thức là vì vậy. 

Tôi bần thần không nói được câu nào, bàn tay vô thức lật cuốn phả hệ. Trang kế tiếp có hình vẽ “dấu ấn nô lệ” của họ Biệt Liên, đồng thời chỉ rõ đặc điểm loại dấu ấn này. Nó chính là thứ xuất hiện trên cổ Mục Á, không sai một li một tấc. Người quản gia tiếp lời:

-Ngày cậu bỏ nhà đi, cha cậu đã bí mật gặp Mục Á rồi hỏi sự tình. Cô ấy biết rõ thân phận của mình, bởi lẽ cha cô ấy dạy mọi thứ từ việc dùng kính ngữ, cách nói chuyện của người Băng Thổ đến cả dòng máu đế vương. Nhưng cha cô ấy cũng dặn rằng không bao giờ được về Băng Hóa, ở đây quá nguy hiểm. Nói tới đây, chắc cậu hiểu tại sao Mục Á dám liều mạng về Băng Hóa thành rồi trình diễn trước mặt hàng trăm quý tộc chứ?

Tôi vô thức nhìn hình vẽ cây phả hệ họ Biệt Liên, khung cảnh trước mắt mấy lần nhòe đi như sóng nhiễu. Tôi hỏi tiếp:

-Vậy chắc cha cháu cũng biết Mục Á từng sống ở Diệp quốc?

-Phải, cha cậu đã tới Diệp quốc và gặp ông bà ngoại Mục Á. Họ là quý tộc thượng đẳng bên Diệp quốc, họ còn sống, họ biết rõ Mục Á làm Hạ Nga Chi ở Hoàng Hôn Cảng. Họ nói sau cái chết của cha mẹ, Mục Á không còn phương hướng. Cô ấy nghĩ mình bị nguyền rủa nên từ bỏ danh phận tiểu thư, lang thang khắp nơi sau đấy tự vào Đông Môn Cao Lầu để cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Nhiều lần họ cố gắng khuyên nhủ nhưng Mục Á từ chối trở về. Danh phận bên Diệp quốc có tính truyền thừa giống chúng ta nên theo danh nghĩa, Mục Á vẫn là tiểu thư ở Diệp quốc.

-Nếu cô ấy trình diện trước hoàng đế Băng Hóa và công khai danh tính thật, vậy thì… – Tôi nói bâng quơ.

Người quản gia gật đầu:

-Máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình. Xét theo luật lệ nguyên gốc, Mục Á phải ở vị trí xứng đáng nhất. Họ Biệt Liên từng có nữ hoàng, vậy nên…

Tôi bật cười. Im lặng hồi lâu, tôi hỏi người quản gia:

-Vậy Mục Á từ bỏ vì…

-Vì cậu quá cứng rắn. – Người quản gia trả lời – Mục Á biết cậu không bao giờ lấy hai người làm vợ. Cô ấy không muốn cậu rời bỏ họ Xuy Hạ, cũng không muốn cả nhà này trở thành mục tiêu của Lực Lượng Mù Thủy. Trên hết Mục Á sợ cậu gặp nguy hiểm, Mục Á sợ điều đó hơn hết thảy. Cha cậu nói với tôi rằng Mục Á nghĩ cho cậu nhiều hơn bất ai, bất cứ thứ gì…

Tôi chợt nhớ buổi đêm ở Hoàng Hôn Cảng, Mục Á ôm tay tôi chặt đến mức như sắp cào xé da thịt mình. Hẳn rằng ngày ấy em khó khăn lắm mới chọn cách cứu vãn tương lai của tôi thay vì thu vén hạnh phúc cho riêng mình. Như cha em, như người bà nội, như ngài đại đế Biệt Liên chiến đấu cho cả lục địa, em luôn nghĩ cho người khác. Mãi mãi là vậy. 

Nếu trên đời tồn tại một thứ là “vĩnh cửu” thì tình yêu không nằm trong số đó, nhưng sự hy sinh và đau đớn thì có. Chúng vẫn tồn tại kể cả khi thế giới này sụp đổ, cả khi thời gian không tồn tại.

Vài ngày sau tôi cùng Hạn Lý đi xem nhạc kịch, hôm đó nhà hát công chiếu vở diễn “Trà Hoa Nữ”. Có một phân cảnh tôi nhớ nhất là nhân vật nữ chính tặng đóa trà kép cho người yêu, ngụ ý mãi mãi trân trọng tình cảm của chàng trai. Tôi chợt nhớ mình cũng có một đóa trà kép trong cuốn nhật ký hành trình. Nhớ lại đêm quậy phá ở Hoàng Hôn Cảng, tôi nhận ra vài điều bất ổn. Sau buổi chiếu, tôi hỏi Hạn Lý:

-Khi đó em không hề biết tôi đang ở Hoàng Hôn Cảng, đúng không? Đừng sợ, Hạn Lý, tôi chỉ muốn biết thôi. Là ai gọi em tới? Trả lời trung thực nhé!

Biết không thể giấu tôi mãi, Hạn Lý buộc phải kể. Dù biết rõ câu trả lời nhưng trái tim tôi vẫn đau nhói…

*

* *

Hạn Lý kể rằng ngày tôi quậy phá Đông Môn Cao Lầu, Mục Á không hề tiếp khách mà thu mình trong phòng riêng. Mục Á tránh gặp vì muốn tôi quên hẳn em, coi em như một gái điếm cơ hội chỉ biết tiền bạc. Nhưng em không thể ngồi yên mãi khi tôi bị đánh, nếu không phải em can ngăn sớm, tôi đã chết ở Cao Lầu. Em đưa tôi đến bệnh viện, gọi điện cho cha tôi thông báo tình hình rồi gọi cả ông bạn Đại Bác. Ba ngày đầu tiên, em không về làm việc mà chăm sóc cho tôi bất chấp ông chủ Cao Lầu đe dọa. Sang ngày thứ tư, em nhờ cha tôi gọi cho Hạn Lý. Cuộc gặp giữa những đàn bà tình địch luôn căng thẳng, Hạn Lý và Mục Á cũng vậy:

-Tại sao cô gọi tôi? – Hạn Lý hỏi.

-Vì tôi thỉnh cầu tiểu thư chăm sóc anh ấy. – Mục Á trả lời đoạn cúi người.

Tại thời điểm đó, Hạn Lý vẫn giận tôi vì chuyện hủy hôn. Nàng xẵng giọng:

-Tại sao tôi làm phải vậy? Tại sao tôi phải nghe lời cô?

-Vì tiểu thư vẫn yêu Khai Y, nếu không tiểu thư đã chẳng đến đây. – Mục Á nói – Tôi không thể đồng hành với Khai Y nữa, tôi không xứng với Khai Y, chỉ có tiểu thư thích hợp nhất. Từ nay về sau mong tiểu thư chăm sóc anh ấy. Nếu còn yêu Khai Y, tiểu thư hãy chiến đấu cho tình yêu đó. Tiểu thư còn nhớ lời tôi không? Đàn ông đã thống trị thế giới bằng máu của họ, chỉ còn sót mỗi tình yêu, chúng ta phải chiến đấu giành giật nó, đừng để họ làm nốt. 

-Tôi có nghe chuyện giữa cô và Khai Y. Chẳng phải cô bỏ Khai Y vì anh ấy mất quyền thừa kế? – Hạn Lý nói – Vậy thế này là sao? 

Mục Á cười tươi:

-Chỉ kẻ ngu ngốc mới nghĩ chuyện thừa kế ảnh hưởng đến Khai Y. Anh ấy sẽ là người đàn ông vĩ đại, sẽ làm được nhiều điều lớn lao mà chẳng cần gia sản hay danh phận quý tộc. Nhưng Khai Y không thể vĩ đại nếu tôi còn ở bên anh ấy, tôi chỉ là gánh nặng làm con chim ưng mỏi cánh. Tiểu thư khác, tiểu thư có thể làm con chim ưng đó bay xa hơn thế. 

Hạn Lý nhìn em hồi lâu rồi hỏi:

-Biết như vậy mà cô vẫn buông bỏ Khai Y?

Hạn Lý nói rằng nàng không thể quên những gì diễn ra sau đó. Trước mắt nàng, Mục Á ôm chặt khuôn mặt mà chẳng thể nào ngăn được dòng nước mắt chảy qua kẽ ngón tay như thác tuôn qua vách đá, chảy mờ gò má đỏ hồng giữa ngày đầu đông như sông dâng nước tràn bờ. Rồi Mục Á tự đấm ngực liên hồi, giọng lạc đi:

-Đau lắm, nhưng phải thế thôi… tôi đau lắm… nhưng đành phải thế…

*

* * 

Nghe xong chuyện, tôi không hỏi thêm nữa mà đưa Hạn Lý về nhà. Trên đường về, tôi nắm chặt tay nàng rồi lảng chuyện khác. Tôi không muốn nàng thấy những mảnh nứt vỡ đầy yếu đuối trong tâm hồn mình. Ít ngày sau, tôi nói với nàng mình cần đến Hoàng Hôn Cảng. Trông vẻ mặt Hạn Lý hiện nét sợ sệt, tôi bèn ôm lấy nàng rồi hôn lên trán như một cách trấn an. Tôi hứa sẽ về sớm. Sau nhiều đấu tranh nội tâm, Hạn Lý đồng ý để tôi đi.

Tôi trở lại Hoàng Hôn Cảng vào tháng 6. Đang đợt hè, nắng ấm, tuyết chậm rãi phủ không gian gợi chuyện cũ. Như một thói quen cố hữu, tôi dạo bước trên những cung đường quen thuộc. Có chút buồn, có nhung nhớ nhưng không còn giận dữ hay đau đớn như cách đây một năm. Bằng cách nào đó mà thế giới mục ruỗng bên trong tôi đã lành lặn, một tay Mục Á gây dựng thế giới đó và cũng một tay em chữa lành cho nó. Nhưng tôi tự hỏi ai sẽ cứu giúp thế giới bên trong em? 

Tôi không đến Cao Lầu mà quan sát khu chợ trời, trực giác mách bảo tôi Mục Á sẽ xuất hiện. Tôi đoán không lầm. Dăm ngày sau, tôi nhận ra mái tóc đen xõa dài của em lang thang quanh cửa hàng hoa, dĩ nhiên là hoa trà. Em vẫn đẹp, vẫn vóc dáng cao gầy cùng đôi mắt sắc tỏa ánh trăng đêm, nhưng ánh mắt em buồn bã ưu tư khiến những đóa trà gần đấy vì vậy mà hon héo. Bỗng Mục Á quay lại và giật thót khi nhận ra tôi đứng sau lưng em từ lúc nào. Em hoảng hốt:

-Khai Y… sao anh ở đây?

-Tôi đến lâu rồi. Em đi cùng tôi nhé?! 

Tôi ngoảnh đầu về hướng tây. Mục Á trả lời bằng đôi mắt lạnh lẽo, hệt như ngày em nói chia tay:

-Không, em đang bận. Em nói rồi, Khai Y, em bận lắm!

-Em biết không tự dưng tôi đến đây. – Tôi nói – Đi với tôi, có lẽ đây là lần cuối đấy.

Dứt lời, tôi cất bước. Mục Á nghĩ ngợi đôi chút rồi bước theo, ánh mắt băng giá dần tan chảy. Chúng tôi rời khu chợ trời rồi lang thang quanh bờ sông. Suốt quãng đường đó, chúng tôi hoàn toàn im lặng như hai người xa lạ vô tình bước chung một lối. Mãi khi bước lên dãy núi tuyết phía tây, tôi mới mở lời. Tôi kể cho em mọi điều mình nghe từ thầy Tây Minh, người quản gia và Hạn Lý. Mục Á không xác nhận bất cứ câu hỏi nào của tôi mà mải miết che đậy những sầu khổ trong lòng. Nhưng cố gắng bao nhiêu, em vụng về bấy nhiêu. Em cố gắng cười lạnh nhạt nhưng bàn tay bóp chặt lẫn nhau, em cố nói lời xa cách mà hàm răng cắn môi đau đớn, em cố tỏ ra đã quên tôi mà cánh mũi phập phồng hơi thở thổn thức. Tôi cười sự vụng về của Mục Á, mà cũng đau xót cho em. 

-Tôi sẽ cưới Hạn Lý. – Tôi nói với Mục Á – Cô ấy chịu đựng nhiều vì tôi. Tôi yêu cô ấy. 

-Tốt cho anh thôi. – Mục Á trả lời – Chúc hai người hạnh phúc.

-Thế còn em? – Tôi hỏi – Em tính sau này thế nào? 

Bàn tay Mục Á bóp chặt nhau đến đỏ lựng, em toan trả lời mà không nổi. Giữa tuyết ươm mùi hoàng hôn ấm áp tháng 6, Mục Á rúm người lại, trông nhỏ bé vô cùng. Thế giới đầy hạnh phúc mà chỉ mình em lạnh buốt. Tôi hỏi:

-Ở bên tôi, em hạnh phúc không? 

Mục Á ngoảnh mặt không đáp. Tôi rờ mái tóc Mục Á, em vội vàng lùi bước, mặt mũi đỏ lựng:

-Bỏ ra, Khai Y. Anh có người khác rồi, đừng lại đây! Em hét lên đấy!

Bất chấp những lời phản đối hay đe dọa, tôi vẫn tiến tới, dồn Mục Á vào gốc cây rồi ôm lấy em. Em đấm rồi tát tôi mấy lần, nhưng bàn tay em yếu dần, cho tới khi nó luồn qua mái tóc màu hổ phách và run rẩy từng cơn nức nở. Mục Á hết khóc lại cười, bàn tay thanh tú rờ những ngón đầy đặn quanh gương mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ mạch xung động của trái tim Mục Á đập liên hồi trên đầu ngón tay, ngửi được hơi thở khao khát tìm kiếm hạnh phúc tuôn ra từ khuôn miệng tô son đỏ, thấy cả thế giới đầy mảnh chắp vá trong lòng em. Nhưng bằng nỗ lực tột cùng, em gỡ tay tôi rồi khoác lên mình tấm áo xa cách. Lúc này tôi biết mình không thể đụng chạm em nữa, tôi nói:

-Em nên về Băng Hóa thành. Máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn yên bình. Em không thể ở bên ngoài làm Hạ Nga Chi mãi được.

-Họ Biệt Liên không còn liên quan đến lịch sử nữa. – Mục Á trả lời – Cha em nói vai trò của họ Biệt Liên đã chấm dứt. Cha anh cũng đề nghị như thế nhưng em đã từ chối. Sau này đừng tìm em nữa, hứa nhé?! Nếu còn tình cảm cho em, nếu còn nghĩ cho em, anh phải hứa!

Tôi nhận ra tình yêu mà Mục Á dành cho tôi lớn đến mức em dám đối xử tàn nhẫn với bản thân. Tôi nhắm mắt gật đầu, em cười tươi. Thở dài một chặp, tôi hỏi:

-Tôi mãi mãi không thể gặp em hay sao? 

-Người Đông Thổ tin rằng thế giới này chỉ là một trong nhiều thế giới, kiếp sống này chỉ là một trong nhiều kiếp sống khác nhau.

-Vậy…

-Hẹn anh ngày khác, thế giới khác, thời gian khác. – Mục Á mỉm cười – Cảm ơn anh, cảm ơn rất nhiều. Bay thật xa nhé, Khai Y!

Dứt lời, Mục Á cúi thấp lưng rồi từ biệt tôi. Tôi vẫn nhớ ngày đó em không quay đầu nhìn lại nhưng bóng dáng liêu xiêu như sắp ngã xuống tuyết. Dù vậy tôi không níu kéo hay gọi tên Mục Á. Em đối xử với tôi bằng thứ tình yêu lớn lao nhất mà người phụ nữ có thể làm, tôi không thể phụ công sức của em. 

Có những thứ yêu thương lớn đến mức không thể nói thành lời.

Nửa năm sau, tôi kết hôn với Hạn Lý. Chúng tôi có hai nhóc tỳ, một trai một gái, cô con gái hiền hậu giống Hạn Lý còn ông con trai bướng bỉnh y hệt tôi. Tôi tiếp tục công việc hộ vệ thánh sứ cho tới ngày thầy Tây Minh nghỉ hưu, một tiểu quốc ở Thượng Cổ phong tôi làm quốc vụ khanh danh dự vì giúp họ giải quyết nội chiến. Hai đứa con tôi đòi đến đó vì ở đấy người ta có dựng tượng tôi bên cạnh thầy Tây Minh, cơ mà tôi không thích lắm vì bức tượng hào nhoáng quá thể và phi thực. Gã nào đó đã gắn lên bức tượng một đôi cánh to phự như cánh đại bàng, mà thực tế đó là chiếc diều bay tôi mượn từ Đại Bác lúc làm nhiệm vụ. Kể từ đó người ta hay gọi tôi là “Ưng Tuyết Khai Y”. Về phần Đại Bác, gã tiếp quản Đại Lộ Đỏ, tật xấu hám gái vẫn vậy, chỉ duy một chuyện khác biệt là gã gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất. Cơ mà Đại Bác có vẻ không quan tâm lắm. Suốt năm tháng ấy, tôi vẫn mang theo cuốn nhật ký hành trình đựng cánh hoa trà kép ép khô dù nó chẳng còn chỗ mà viết. 

Tôi gia nhập quân đội Băng Hóa và trở thành thủ lĩnh quân viễn chinh, giống vị trí mà Khai Nhạn từng đảm nhiệm. Đôi lúc Hạn Lý giận tôi vì xa nhà quá nhiều, cũng có đợt chúng tôi cãi nhau vì mấy chuyện bất hòa không đáng có. Nhưng sau rốt tôi làm lành với nàng, dù sao nàng cũng thiệt thòi hơn tôi. Dăm năm sau, cha tôi bị thương trong một vụ ám sát hụt, các vệ sĩ kể rằng tên sát thủ nọ có mái tóc màu đỏ và biết dùng bí kỹ điều khiển gió giống hệt tôi. Nói về bí kỹ điều khiển gió, tôi lại nhớ thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt. Khi ấy ông ta là kẻ mạnh nhất thế giới, tôi tái ngộ ông ta ở Băng Thổ, đánh một trận từ nửa đêm đến tảng sáng. Tôi thừa nhận mình vẫn yếu hơn nhưng không đến mức thua thiệt giống thuở trước. Cuối cuộc chiến, người đó mời tôi điếu thuốc và bia chai. Một người thú vị. Vì trận chiến này, chợ rác Uất Hận Thành gửi thư đề nghị tôi gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất nhưng noi theo thầy Tây Minh, tôi từ chối. Thi thoảng mọi người lại nhắc về Khai Nhạn, nỗi đau vẫn còn đó nhưng không ai khóc. Độ ấy nhiều chuyện, tôi hầu như quên bẵng hoa trà. 

Tôi bước lên vị trí đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa, đồng thời tiếp quản dòng họ Xuy Hạ thay cha. Ông đã già, cũng chẳng còn ham thích chính trị hay quân sự. Tôi dần quen việc cười nói như cái máy để thỏa lòng đám họ hàng phiền phức hay lừa phỉnh đám chính trị gia. Thằng nhóc Khai Giã bé cỏn con ngày nào giờ cao ngang tôi, lúc nào nó cũng mang bộ mặt lạnh giá. Không lạ khi Khai Giã trở thành thánh sứ mạnh nhất Băng Hóa bởi nó tàn nhẫn hơn bất cứ ai. Đôi lúc Khai Giã hỏi tôi về Mục Á nhưng tôi không trả lời. Mục Á là sợi dây duy nhất liên kết tôi và Khai Giã. Năm tháng đó, tôi bắt đầu hoài niệm chuyện cũ. Tôi tự hỏi Mục Á đã đi đâu hay làm gì? Tôi cử người hỏi Đông Môn Cao Lầu, tin báo rằng em rời khỏi đấy từ năm 7506, không rõ đi đâu. Tôi muốn tìm em nhưng vì lời hứa năm xưa, tôi đành dằn lòng mình. 

Nhưng thế giới Tâm Mộng chưa bao giờ hết tàn nhẫn. Liên minh tại lục địa Băng Thổ tan rã, các hiệp ước trở thành giấy vụn, vị thế Băng Hóa bị lung lay hơn bao giờ hết. Vị hoàng đế Băng Hóa mới không được thông tuệ như người bác ruột của tôi, ông ta phát ngôn đao to búa lớn nhưng chẳng làm được bao nhiêu. Khai Giã ngày càng khó kiểm soát, nó phá hỏng nỗ lực hàn gắn liên minh của tôi, tự mình bước lên ngôi vị Tổng Lãnh Thánh Sứ. Chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành diễn ra và tôi bàng hoàng khi biết thầy Tây Minh đã ra đi. Nhưng tôi chỉ kịp gửi hoa qua Đại Bác, chuyện nội bộ Băng Hóa quốc làm tôi không thể dự tang thầy. Cùng năm đó, cha tôi mất vì bệnh lẫn thương tật từ vụ ám sát. Trước lúc nhắm mắt, cha bảo tôi phải tìm “Mục Á”. Vốn không tin vào số phận nhưng ở tình thế rối ren hiện tại, tôi bắt đầu tin vào điều huyền bí. 

Năm 7518, mười lăm năm sau ngày chia tay Mục Á, tôi vẫn nhớ về em. Tôi đoán em vẫn đẹp, vẫn kiêu sa mê hồn người. Lúc rảnh rỗi, tôi thường trông về phía đông nơi Đồng Gió thét gào, lẩm nhẩm lại lời bài hát mà Mục Á từng ca vũ tại dạ tiệc. Nhưng nỗi nhớ em không làm tôi buông xuôi, ngược lại càng khiến tôi thêm gắn bó người vợ và gia đình mình. Bởi lẽ cuộc sống hiện tại của tôi đều do Mục Á sắp đặt.

Có những tình yêu lớn lao đến độ ta trân trọng thay vì mong muốn chiếm đoạt nó.

Một ngày đầu năm 7518, người quản gia bước vào phòng tôi. Tuy già nhưng bác vẫn quán xuyến mọi công việc gia đình. Bác nói có một người tóc đỏ xin gặp tôi, cậu ta biết về Mục Á. Tôi nhớ ngày dạ tiệc, Mục Á mặc chiếc váy đỏ. Ngày chia tay, em tặng tôi một đóa trà kép đỏ. Còn giờ đây, em xuất hiện qua một người có mái tóc đỏ. Dường như số phận đang xoay những vòng lặp kỳ lạ của riêng nó. Tôi mở cuốn nhật ký hành trình năm nào và ngắm nghía bông trà kép khô ở trang bìa. Mười lăm năm, nó vẫn tươi tắn tuyệt đẹp. Rượu còn nhiều, tôi còn muốn kể cho các vị nhiều lắm! Ha ha! Nhưng xin lỗi các vị, tôi phải gặp anh chàng nọ. Để khách chờ lâu là không tốt.
 
Quyển 3 - Chương 149: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Sơn trà


-Tháng 7 rồi, bên Diệp quốc đang hội hoa sơn trà nhỉ? Cô có định về Diệp quốc chơi mấy bữa không? Hôm trước tôi thấy cô cặp kè một khách hàng người Đông Thổ, thử gợi ý hắn xem?! Trông thằng chả mê cô lắm, rỉ tai nịnh nọt là hắn nghe ngay ấy mà! Cô vẫn hay kể cho tôi hội hoa bên ấy… này, nghe tôi nói không thế, Mục Á? 

Tiếng gọi lẫn cái lay vai của Na Li Nã làm Mục Á sực tỉnh. Chậm chạp từng chút một, Mục Á lôi mình rời khỏi mặt bàn, tóc đen trượt xõa trên cái cổ đương âm ử tiếng mỏi mệt. Trông cô uể oải. Rồi cũng từ cái uể oải, cô lại chậm chạp ngả xuống bàn, áp má lên đôi tay xếp bằng, thả ánh mắt chạy nhảy trên bình hoa trà hoặc để các ngón tay đùa nghịch ngụp lặn trong suối tóc vàng óng của Na Li Nã. Nhưng tâm tư cô thì không thoải mái như vậy. Nó đang dạo qua những cung đường Diệp quốc, rẽ xuống nơi mà những tán cây sơn trà rợp màu đỏ, trắng hoặc vàng vươn ra từ sau hai dãy tường đá chạy dọc theo con dốc thoải. Những thiếu nữ người Diệp quốc tung tẩy chơi hội trên con dốc ấy, nài nỉ xin chủ nhà ít hoa đem về trước buổi trà chiều. Cùng là rong chơi nhưng không thoải mái, bởi ở đó Mục Á nhận ra vài người bạn cũ, vài góc phố quen thuộc, mấy người chủ nhà khó tính hay cậu bạn học năm nào. Và cả bước chân của mẹ. “Tháng 7 à? Ừ, đang mùa hoa sơn trà, chắc giờ này mở hội rồi. Người ta treo đèn lồng bên sông chưa? Trẻ con vẫn gấp hạc giấy chứ?” – Mục Á tự hỏi, ngón tay vô thức hết xoắn xít lại tẽ đôi như đang dựng lên khung cảnh Diệp quốc trên tóc Na Li Nã. Cô nhớ nhà.

Khách hàng chiều Mục Á, nghe cô ngọt nhạt mấy câu thì sang Diệp quốc chơi cả tháng cũng được. Nhưng so với nỗi nhớ nhà trong tiếng pháo hoa mừng năm mới, ký ức hội hoa sơn trà hẵng còn nhỏ nhoi lắm. Cô thấy chẳng đáng phải làm tình làm tội người ta. Vả chăng có nhớ nhiều hơn nữa thì Mục Á vẫn vậy, bởi cái nhìn mà cô dành cho thế giới đã thay đổi. Không còn là cửa sổ đón nắng đón gió, đôi mắt cô giờ phẳng lặng và rộng miên man, tựa mặt hồ phản chiếu hoa trà, những xoăn sóng óng ả của tóc Na Li Nã hay nỗi niềm xa quê hương cách xứ sở - nó in bóng mọi thứ nhưng lại không thấy đáy. Từng ảnh chiếu thân thuộc luôn đem lại cảm xúc cho Mục Á nhưng thay vì biểu lộ như xưa, cô để chúng chìm xuống rồi nằm yên dưới lòng hồ lãnh đạm. Cô ngoảnh sang hoa trà như muốn hỏi nó từ bao giờ mình trở nên thế này? 

Hoa không biết trả lời Mục Á nhưng nó biết biểu lộ. Hoa trà kép cánh đỏ trĩu bông, giống thứ hoa mà cô tặng “người đó”. Đã hơn một năm sau ngày cô chia tay. Một năm… một năm… Mục Á cảm giác quãng thời gian ấy cứ mơ mơ hồ hồ. Hình như Đông Môn Cao Lầu xây dựng thêm cơ sở, hình như họ tuyển thêm lứa gái mới, hình như có khách hàng phàn nàn thái độ làm việc của cô, hình như cô bị ông chủ Cao Lầu quở trách… Nhiều cái “hình như” quá, Mục Á chẳng biết chuyện nào ra chuyện nào. Sau ngày chia tay, mọi thứ xung quanh cô đều nhòe đi, các tông màu rực rỡ thành ra mờ nhạt. Tâm trí cô tựa thể khối cao su bị kéo giãn thành sợi dài đằng đẵng, mảnh dính nhưng không đứt; nó võng xuống vì trĩu nặng những hình ảnh về chàng trai có mái tóc màu hổ phách cùng đôi mắt lam đậm. Nghĩ lại chuyện cũ, cô hối tiếc. Phụ nữ cứng cỏi nhưng hay hối tiếc, cô cũng vậy.

-Mấy con nhỏ đánh cô ngày trước, nhớ không? Chúng nó nghỉ hết rồi, đứa cuối cùng vừa biến khỏi đây hồi sáng. – Na Li Nã nói – Các Hạ Nga Chi sắp thanh lý hợp đồng. Họ quá tuổi, hết xinh đẹp, khách hàng hết hứng. Bố mì bảo họ xuống phục vụ khách thường, họ không chịu, vậy là ra đi thôi. Làm Hạ Nga Chi được chiều, được tặng quà, được ăn uống đẫy tễ, được du lịch, dự tiệc… sướng quen, không chịu được khố mà! Ủa, cô không để ý à? Giờ đám Hạ Nga Chi cũ chỉ còn tôi, cô và hai đứa nữa thôi!

Mục Á nhướn mày ngạc nhiên. Cô loáng thoáng nghe nhiều Hạ Nga Chi nghỉ làm nhưng không quan tâm, mãi khi Na Li Nã nói, cô mới sực tỉnh như vừa ngoi lên từ lòng hồ lãnh đạm. Tuổi đời Hạ Nga Chi ngắn, kéo dài cùng lắm bảy, tám năm và cũng chẳng mấy ai trụ được qua tuổi ba mươi tư. Một thoáng vô thức, Mục Á ngoảnh về chiếc gương đặt ở góc phòng. Cô nhận ra ảnh phản chiếu trong gương vẫn trẻ, vẫn đẹp nhưng các vết hằn thời gian đã xuất hiện đâu đó ở bọng mắt, đuôi mắt hay những tia máu mệt mỏi vằn quanh đồng tử. “Xấu đi rồi!” – Cô tự nhủ. Phụ nữ luôn cảm nhận được dòng chảy thời gian trên thể xác mình, không như đám đàn ông mê mải ước mơ quên ngày tháng.

Nhưng thể xác chỉ là phần nhỏ, Mục Á cảm giác cái gì đấy đang thay đổi. Ngoài Na Li Nã, cô chẳng thân thiết bất cứ ai tại Cao Lầu, mọi cuộc trò chuyện chỉ thoáng qua, mọi nụ cười chỉ lấy lệ, mọi câu chào hỏi chỉ cho phải phép lịch sự. Cô chẳng rộng lượng tới mức chào hỏi cả những kẻ từng đánh mình, chỉ là gạt bọn họ đến phần rìa của vòng tròn “tồn tại”. Trong vòng tròn đó, Mục Á đứng ở trung tâm, còn những gương mặt mà cô quen biết thì sắp xếp xung quanh, xa gần thế nào tùy theo mức độ cô yêu ghét họ. Nhưng họ đang biến mất, vòng tròn dần thu hẹp. Cô nhận ra ngay cả những kẻ gây nỗi đau cho mình cũng có giá trị riêng. 

-Chắc cô còn làm Hạ Nga Chi lâu nữa. Tôi thì chịu! – Na Li Nã cười – Tôi cùng lắm chỉ thêm được một năm. Hai mươi tám tuổi rồi, già rồi, béo rồi! Dạo này khách toàn chê thôi!

Nói rồi cô nàng vén áo cho Mục Á trông thấy bụng mình. Mục Á sờ nắn cái bụng, ừ thì hơi ngấn mỡ nhưng còn lâu mới đến ngưỡng béo. Vả lại cái eo mà Na Li Nã tự cho là “béo” lại là ước mơ của Mục Á. Nhớ ngày trước, người đó thường nói anh thích Mục Á béo hơn một chút, cô cố ăn mãi mà không phính nổi cái ngấn mỡ này. Cô phì cười:

-Biết lấy cớ nhỉ?! Bà chị muốn ra khỏi Cao Lầu lắm rồi, đúng không? Người yêu chị, anh chàng béo đó chuẩn bị đủ tiền chưa? 

“Chưa, nhưng sắp!” – Na Li Nã nói khẽ nhưng miệng cười tươi, hai má lúm đỏ hây hây. Mục Á biết cô ả tóc vàng vừa kiêu kỳ vừa kiêu ngạo, lắm lúc coi đàn ông như rơm rác, vậy mà lại hạnh phúc khi nói về một người đàn ông, hẳn cổ phải yêu anh ta lắm lắm. Mục Á chợt nhớ trong vòng tròn tồn tại của mình từng xuất hiện người gần tương tự thế, hồi còn ở Diệp quốc. Đó là một cô bạn học đỏng đảnh điệu đà, tính tình tiểu thư hơn cả tiểu thư đích thực như Mục Á. Cô luôn nói về mấy bộ váy áo đắt tiền, món ăn sang trọng và mơ về những anh chàng bảnh bao trong mộng thiếu nữ. Nhưng sau một lần theo chân Mục Á đi chơi hội hoa sơn trà, cô nàng kiêu kỳ đâm mê quà vặt, cái không khí đường phố chật ních người, mê luôn cả anh chàng chạy bàn quán ăn. Ngày rời Diệp quốc, Mục Á nhớ cô bạn nắm tay cậu chàng nọ tiễn mình đi, trông thật hạnh phúc. Cô tự hỏi giờ này liệu họ còn bên nhau? Liệu họ còn ghé thăm con phố nhỏ đông người trẩy hội? Có thể có mà cũng có thể không, thời gian lâu quá, chẳng ai biết trước điều gì. Cô chỉ nhớ trước lúc chia tay, người bạn ấy ôm cô thật chặt:

“Về sớm nhé Mục Á, khi nào cậu về, mình sẽ đãi cậu một bữa!”

Thời gian qua mau, lời từ biệt hay người bạn năm nào không còn trong vòng tròn tồn tại của Mục Á, tất cả đều trở thành quá khứ. Mục Á không nghĩ sẽ quay về Diệp quốc, cuộc đời cô đã gắn chặt ở Đông Môn Cao Lầu. Nhưng ngay cả Cao Lầu cũng thay đổi. Người cô ghét, kẻ cô yêu, cả người bạn thân nhất đang rời khỏi vòng tròn tồn tại của cô. Một thoáng qua đi, cô lùa tay vào mái tóc Na Li Nã và cố làm nó rối tung lên như một cách làm phiền, cũng như Na Li Nã hay làm phiền cô bằng cách ôm ấp hôn hít. Rồi hai người trêu chọc cười đùa nhau. Nó làm Mục Á nhớ lại người bạn thân thuở nào, cũng cười đùa như thế, cũng hay trêu chọc như thế. Cô buột miệng:

-Chị phải đãi tôi một bữa đấy. Đừng quên nhờ tôi mà chị mới kiếm được chàng béo đó! 

-Một bữa thôi à? – Na Li Nã cười khanh khách – Từ giờ, mỗi tuần tôi sẽ đãi cô một lần. Quà vặt chợ trời, chịu không?

Mục Á gật đầu cười. Cô muốn ở bên Na Li Nã lâu hơn để dụi mặt thỏa thích vào mái tóc vàng óng ả của người bạn, thích làm phiền nhiều hơn. Nhưng gã bố mì bảo cô tiếp khách, một người theo đuổi Mục Á từ năm ngoái. Cô không thích vị khách này và luôn từ chối gặp gỡ bất kể anh ta cố gắng cỡ nào chăng nữa. Nhưng gã bố mì nói anh ta đã yêu cầu rất nhiều lần, Cao Lầu không thể từ chối mãi, hoặc là cô sẽ nghe ông chủ xạc một trận. Mục Á toan phản bác thì Na Li Nã cất lời:

-Trông anh ta thua xa chàng kiếm sĩ nhỉ? Cơ mà thử gặp xem, biết đâu cô sẽ thích. Chẳng phải cô từng nói với tôi như thế sao? Thử xem nào!

Mục Á thở dài, ngẫm nghĩ một lúc rồi nghe theo. Cô vì bạn nhiều hơn là vì sợ ông chủ Cao Lầu. Về phòng chờ đợi ít phút, rốt cục cô cũng thấy vị khách nọ. Anh ta nhỏ thó, tóc vàng rơm, kính cận trễ sống mũi, khác xa một trời một vực người mà cô từng yêu thương. Nhìn ngắm cô một lúc, anh chàng bẽn lẽn chìa tay:

-Tôi là Thát Khan, học viên trường Tinh Thấu Tổ! Em là Mục Á? Chào em!



Cuộc gặp với vị khách Thát Khan chẳng hay ho nhưng cũng không đến mức chán chường. Mục Á chỉ thấy lạ. Chưa vị khách nào nhìn cô như thế kể cả “người đó”. Cô biết trước khi nảy sinh tình yêu, “người đó” tìm đến cô vì muốn thể hiện bản tính đàn ông. Nhưng Thát Khan thật lạ, không hề giống bất cứ vị khách nào, không hề giống người cô từng yêu thương. 

“Hoa không mùi nên chẳng phải hoa.” – Cô đã nói thế.

“Không, chỉ cần đẹp là đã thành hoa rồi!” – Và Thát Khan trả lời như vậy.

Lúc đó Mục Á thật sự bối rối. Nhưng nghĩ lại, cô bật cười vì mình ngốc nghếch, vì anh chàng Thát Khan ngây ngô. Lần mò trong đám khách hàng thì chẳng tìm được ai giống Thát Khan, cơ mà bên ngoài thì có. 

Một ngày nọ, Mục Á đến cảng thuyền cạn lúc ba giờ sáng. Đã lâu cô chưa tới đây. Khu chợ cảng vẫn vậy, vẫn những nét quen thuộc như đám lái buôn kẹt sỉ người Xa Vịnh, từng bó hoa trà dờn sương sớm lẫn nước tưới nằm ngay ngắn trên sạp, tiếng cọt kẹt gỗ của thuyền cạn cập bến hoặc thả mình vào Đồng Gió. Nhưng với Mục Á, chợ cảng sẽ trống hoác nếu vắng bóng Ly Đốc. Vừa thấy cô, thằng nhóc mừng rỡ chạy đến thăm hỏi. Mục Á nhận ra Ly Đốc chẳng còn mấy dáng dấp trẻ con. Nó đã cao hơn cô, dần vạm vỡ như bao người đàn ông Băng Thổ khác. Nhưng ánh mắt mà cu cậu dành cho Mục Á chẳng hề thay đổi: đong đầy, trong veo, như hồ nước trông thấy đáy mà vẫn phản chiếu ánh nắng, như biểu cảm ngây ngốc nhất mà một gã đàn ông thể hiện trước cái đẹp. Như ngày đầu tiên hai người chạm mặt nhau. Như cái nhìn mà Thát Khan hướng về cô.

-Em sắp rời khỏi đây. – Ly Đốc hào hứng – Có một đội Đạo Chích Không Trung người Băng Thổ, họ nói sẽ đón em ngay khi quay lại Hoàng Hôn Cảng. Có thể nửa năm, có thể một năm nữa họ mới đến… nhưng chắc chắn là em sẽ đi.

-Vậy là sói con sắp rời hang rồi ha? – Cô cười – Nghe chừng nhóc tìm hiểu mọi thứ rồi nhỉ?

-Có chứ! – Ly Đốc gật gật như thể sắp bổ củi bằng cái trán dô của mình – Dạo này em hay dạo qua mấy nhà quý tộc, ghi chép mấy con quái vật của họ. Em biết vân cước, người Băng Thổ chúng ta gọi là “ngựa trời”, chúng chạy được trên mây…

Nghe thằng nhóc thao thao bất tuyệt về bầu trời hay đám quái vật ở lục địa Kim Ngân xa xôi, Mục Á vừa cười vừa vui. Nó đang viết nốt câu chuyện dang dở mà cô đã bỏ lại ở Diệp quốc. Một câu chuyện mà cô tự khởi xướng nhưng chẳng bao giờ thấy đoạn kết. 

Hồi ấy Mục Á đã để tang mẹ ba năm. Mỗi chiều muộn, cô lại lang thang trên con dốc thoải rợp tán hoa trà. Thuở trước cô luôn tránh nơi này vì nó gợi quá nhiều ký ức về mẹ. Qua lại đây nhiều, Mục Á biết tất cả những cây trà cùng chủ nhân của chúng, còn cư dân con dốc thường bắt gặp một cô bé kiễng chân qua tường đá và say sưa ngắm hoa không biết chán. Rồi họ dần quen cô bé, thi thoảng cho cô ít hoa làm quà. Mục Á yêu con dốc lẫn con người ở đó, chỉ trừ căn nhà cuối phố. Nhà ấy có một thằng bé luôn khó chịu với Mục Á, nó nghĩ cô ngụy tạo vẻ dễ thương để vơ vét hết hoa trà nơi đây. “Đồ yêu tinh!” – Nó cứ gào lên nếu thấy cô. Mục Á tức lắm, bèn gọi thằng nhóc là “đồ quỷ con”. Vậy là ngoài ngắm hoa, cô lại mất ít thời gian để nhỏng cổ qua tường đá để cãi nhau với thằng bé. Ngày nào cũng chí chóe một trận mới thôi. Rồi thay vì đứng ở hiên nhà cãi nhau với cô, đứa nhỏ bước ra xa hơn, bắt đầu từ bậc thềm, khu vườn, cuối cùng là ngay sát tường đá. Tiếng cãi nhau thưa dần, thằng nhỏ bắt đầu nói về hoa, về vô số điều mà Mục Á chẳng hề biết. Đứa nhỏ tự mãn lắm, nó giành chiến thắng sau chuỗi ngày ê mặt vì bị cô trêu chọc chuyện chiều cao. Từ ấy, vòng tròn tồn tại của Mục Á có thêm người. 

Nhưng một ngày kia cô không thấy đứa nhỏ nữa, nghe đâu nhà nó có tang. Tang gia xứ này lặng lẽ, nước mắt im lìm đọng dưới cằm, kín đáo rơi, con người cũng dần lạnh lẽo thu mình. Trò chuyện không đầu không cuối, cãi nhau là nhiều, rồi một trong hai người hậm hực bỏ về – giữa cô và “quỷ con” chỉ có vậy. Nhưng dăm bữa nửa tháng vắng bóng thằng bé, con dốc thoải trong mắt Mục Á như bức tranh ngấm nước, màu sắc bị loang ra, lõng bõng loảng lòe sao sao. Nhiều năm sau và tận bây giờ, cô vẫn không quên thứ màu nhợt nhạt dưới ánh chiều tà đó. Cô đồ rằng khi Ly Đốc rời đi, khu cảng này cũng khoác lên một tông màu tương tự. 

-Liệu chúng ta có thể gặp nhau lần nữa không? – Ly Đốc gãi đầu – Tin em đi, lúc ấy em sẽ là Đạo Chích giỏi nhất!

Nhìn cậu nhóc, Mục Á bật cười. Dáng vẻ trông đợi lẫn ánh mắt Ly Đốc gợi nhớ chuyện cũ năm nào ở Diệp quốc. Vẫn con dốc thoải rợp tán hoa trà, một ngày nọ Mục Á chợt nhận ra “quỷ con”. Hai tháng không gặp, nom thằng bé rũ xuống như nhành cây con sống sót sau trận bão. Mục Á không gọi mà kiễng chân qua bờ tường, đứa nhóc trông thấy nhưng im lặng trở vào nhà. Mục Á không giận cũng không bỏ cuộc. Mỗi chiều cô đều vòng qua căn nhà cuối dốc, gọi thằng bé bằng sự im lặng lẫn cái nhìn trông chờ. Con trai thì nhanh cứng rắn, thằng bé xích về phía Mục Á theo lối cũ: từ hiên nhà, sân vườn, cuối cùng là bờ tường đá. Đứa nhóc đã cười trở lại nhưng không tranh cãi hay lớn giọng gọi “đồ yêu tinh” nữa, nó bắt đầu gọi Mục Á là “chị”. Con dốc thoải hoa trà mang sắc thái khác, tựa những mảng màu vốn bị loang ra trên bức tranh cũ nay cô đặc lại, tạo nên bức vẽ mới. Không sôi nổi như trước mà đằm hơn, thắm hơn, nhiều vệt đậm tâm tư nhưng vẫn trong trẻo những chuyện trẻ con giữa hè tháng 7. 

Nhưng bức tranh mới chừng như không chịu nổi cái nắng gắt tháng 7. “Quỷ con” bảo rằng sắp theo gia đình chuyển đi nơi khác. Cũng giống Ly Đốc bấy giờ, đứa nhỏ huyên thuyên đủ thứ và háo hức chứng kiến thế giới mới. Mục Á chẳng biết nên buồn hay vui. Ở khía cạnh nào đấy, cô muốn thằng nhỏ ở lại và cùng nhau vẽ bức tranh trên con dốc này. Nhưng thời gian hay trái tim khát khao khám phá của đứa con trai chẳng chờ đợi cô. Một chiều kia, thằng nhóc gặp Mục Á nhưng thay vì trò chuyện bên bờ tường, nó liền nhảy qua thứ ngăn cách ấy – lần đầu tiên thằng nhóc làm vậy, và cũng lần đầu tiên nó tặng cô hoa sơn trà. Cô có mọi bông hoa trên con dốc thoải trừ hoa nhà “quỷ con”. Cô vẫn nhớ dáng điệu xấu hổ cùng giọng nói ngượng ngùng của thằng bé:

“Mai đi rồi, cho em ôm chị một lần, được không?”

Khi đó Mục Á thấy thật kỳ cục. “Đợi khi nào nhóc quay về đây, chị sẽ cho ôm!” – Cô từ chối khéo. Khi đó cô chưa đủ lớn để hiểu “quỷ con” nhìn mình như người chị ruột, cũng không thể hiểu người Diệp quốc bày tỏ cảm xúc khó khăn thế nào. Nhưng có vẻ “quỷ con” tin lời cô, nó từ biệt, không quên hẹn ngày về mà chẳng hề biết sau đấy ít lâu, cha Mục Á mất còn cô bắt đầu chuyến tha hương vô định. Liệu thằng bé có quay lại? Liệu nó còn nhớ hay đã quên? – Mục Á tự hỏi. Nếu có thể quay ngược thời gian, cô sẽ ôm “quỷ con” thật chặt và không quên gửi lời chúc phúc. Nhưng dang dở vẫn mãi là dang dở. Nghĩ tới đó, một lực đẩy đưa Mục Á trở về thực tại. Cô nghiêng đầu nhìn Ly Đốc:

-Nhóc muốn ôm chị không? 

Ly Đốc nghe rõ, bởi nghe rõ nên nó không hỏi lại, gương mặt hết kinh ngạc lại bần thần. Mục Á tiếp lời:

-Có thể ngay ngày mai, các Đạo Chích sẽ đến đưa nhóc đi. Có thể hôm nay sẽ lần cuối chúng ta gặp nhau. Nên chị tạm biệt trước. Đã hú thì hú cho lớn nhé, sói con!

Nghe vậy, Ly Đốc gật đầu rồi ôm lấy cô. Cô cảm nhận được cánh tay rắn, mùi mồ hôi vương trên cổ cậu nhóc và cả tình cảm từ một người em trai. Cảm giác hẫng hụt dang dở năm xưa vơi bớt, vòng tròn tồn tại của Mục Á có thêm một người. 

Đáp lại, Ly Đốc cũng chúc cô hạnh phúc. Thằng nhóc bảo cô phải kiếm được một anh chàng thánh sứ, một vị quý tộc giàu có hay một kiếm sĩ lừng lẫy danh tiếng. Các cậu trai luôn ngây thơ như vậy. Nhưng nghĩ lại, lời chúc phúc đó không thừa bởi Mục Á chẳng tìm đâu ra viễn cảnh tươi đẹp ở vị khách hàng Thát Khan. Tuy thuộc dòng dõi họ Thát nổi tiếng nhưng chẳng ai biết anh ta. Dăm lần trò chuyện, tự Thát Khan kể rằng không hề quan tâm chuyện kinh doanh của gia đình, bởi thế cha ghét anh và không muốn mọi người biết về anh. Anh ta nói mình đang nghiên cứu khoa học, theo đuổi mớ lý thuyết gì gì đó mà cô không thể hiểu. Một con mọt sách đúng nghĩa. Kinh nghiệm Hạ Nga Chi cho cô biết Thát Khan là kẻ ngây thơ mà nhà họ Thát lại có hai đứa con trai, quyền thừa kế sẽ chẳng bao giờ thuộc về anh ta. Vả lại gia đình họ Thát coi trọng thể diện như sinh mạng, nên chuyện cô rớ được mũi chân lên bậc thềm nhà đó đích thực là cổ tích.

Tệ hơn nữa là khi quay lại học viện, Thát Khan liên tục tấn công cô bằng thư tình. Anh ta đắm chìm sách vở quá lâu nên tỏ tình sách vở nốt, nghĩ rằng có thể làm xiêu lòng cô bằng chữ nghĩa sến sẩm. Mà ngay cả thư tình cũng không ra hồn. Chúng đầy vết tẩy xóa, toàn mấy thứ nghiên cứu đâu đâu như muốn gây ấn tượng với Mục Á. Cô nhận ra anh ta thích số “7” và thích nói về nó. Chưa bao giờ Mục Á đọc trọn một bức thư. Cô luôn vò nhàu chúng rồi giấu vào ngăn kéo như sợ ai tìm được; Na Li Nã mà thấy chắc cười cả ngày. Mục Á không quan trọng địa vị gia sản, cũng không bận tâm chuyện Thát Khan nhỏ thó, gương mặt chẳng lấy gì đẹp đẽ hay ít hơn cô hai tuổi. Nhưng cô không thể gắn bó cùng một anh chàng ngây thơ. Đàn bà thiên sinh dại khờ, theo chân một gã khờ dại chẳng khác nào gánh thêm nợ đời. Nhưng xung quanh Mục Á giờ toàn kẻ ham muốn chiếm đoạt dục tình, chẳng ai yêu cô như “người đó”. Bản thân Mục Á đã chán trò đưa đẩy, thành thử cô đành bám Thát Khan như bến đỗ tạm thời. 

Những phiền lòng về Thát Khan quấn chân cô suốt tháng 7, lấn qua những ký ức hội hoa sơn trà, lẽo đẽo theo cô sang cả mùa đông. Mỗi bận như thế, cô tìm sự yên thân ở khu bán hoa chợ trời. Hồi mới đặt chân đến Hoàng Hôn Cảng, cô thường xuyên lui tới đây và dự định mở cửa hàng. Một góc nhỏ, một sạp gỗ bày biện hoa trà đủ màu, một dàn treo những chậu trổ hoa sơn trà nhỏ nhắn, một chỗ ngồi ngắm thế giới nổi trôi giữa dòng chảy thời gian, thế là đủ. Cô đã ao ước vậy. Dự định bất thành, Mục Á vẫn ghé thăm khu chợ cho khỏi quên giấc mơ nhỏ bé năm nào. Cô nhớ mặt từng người bán hàng, biết tính họ, biết ai đến ai đi, biết nơi đâu mua rẻ nhất, biết chỗ nào mua hoa đẹp nhất. Nhưng sau một năm, khu chợ thay đổi ít nhiều so với trí nhớ của Mục Á. Người ta đã dựng cổng chào lớn thật lớn trước cổng chợ, rồi từ đâu chuồi ra vô số biển hiệu rực rỡ mà trước đây cô không hề thấy, nhiều cửa tiệm đẹp đẽ bóng bẩy mọc lên lấn át những gian sạp lụp xụp. Choáng ngợp trước những thay đổi, Mục Á dáo dác tìm cửa hàng mà cô hay ghé thăm. Cửa hàng đó dựng bằng vải bạt rách, nóc thủng lỗ rỗ lọt cả tuyết; bà chủ người Xa Vịnh quốc già khoặm, khó tính, hay càu nhàu, thi thoảng nạt Mục Á vì cô mặc cả từng đồng. Nhưng bà già bán toàn hoa đẹp, có cả giống sơn trà đẹp hơn cả sơn trà bên Diệp quốc. Mục Á lần tìm khắp chợ, tưởng chừng cửa hàng đã dẹp thì bỗng vang lên tiếng gọi sền sệt phương ngữ miền tây bắc Băng Thổ:

-Đi đâu thế, con nhỏ cao kều?! Bộ “mầy” không thấy “tau” à? Lâu không thấy mầy ra đây, tưởng đi đâu chứ? 

Nghe tiếng, Mục Á ngoảnh lại và thấy người cần tìm. Dáng người lùn tịt đắp cả tấn quần áo sặc sỡ lòng thòng dây nhợ, tay cầm tẩu thuốc nghi ngút khói, bộ nhá rụng gần hết răng – bà chủ hàng vẫn vậy. Thấy Mục Á nhăn mặt vì khói thuốc, bà già vội dập đi, hàm móm nguýt dài:

-Đây, đây, khó tính quá! Tau chịu mầy rồi! Này, có hoa trà mới đấy, tau vừa lấy về tuần trước, có mùi nữa, thơm lắm! Thử không? 

Nhiếc móc câu trước rồi đon đả câu sau là bản sắc của bà già, Mục Á chẳng lạ. Cô chỉ háo hức với giống hoa mới. Hoa trà xưa nay đẹp nhưng không mùi, giờ có thêm hương thơm hẳn sẽ tuyệt vời hơn. Người trồng phải tốn nhiều công sức mới nhân được giống này. Từng bó hoa bọc trong lớp giấy trắng được đưa ra, nằm gọn trong tay Mục Á, thoảng lên thứ hương thơm trong lành, tinh sạch và thuần khiết. Cô lập tức yêu ngay loài hoa mới. Nó giống một nàng tiểu thư được chăm bẵm, nuôi nấng cầu kỳ từ tấm bé, để khi lớn lên trở thành tạo vật được tất cả yêu quý. Nhưng vừa chớm nghĩ điều đó, Mục Á đột nhiên cảm thấy xa cách. Cô nhận ra mình chỉ hợp với những đóa trà không mùi mọc lên hoang dại. Thứ hoa này… cô yêu nó nhưng không có cảm giác thân quen. Cô trả bó hoa về chỗ cũ rồi hẹn mua dịp khác. Bà chủ già làu nhàu, tay khua khua tẩu thuốc:

-Vẫn thích hoa cũ hơn à? Ây dà… con bé cao kều này! Tau tưởng trẻ thì phải thích cái gì mới mới chứ? Sao lại cổ hủ như đám già thế?

Hoa mới được giá mà Mục Á không mua, bà chủ nguýt dài phật ý, chẳng thèm giấu giếm. Lát sau bà lại mang những bó hoa đẹp nhất cho Mục Á, giảng giải hoa kiểu này đẹp, hoa kiểu kia xấu. Mục Á sống cùng hoa trà từ bé, tường tận nó hơn cả lòng bàn tay nhưng bà già chẳng coi chuyện ấy vào đâu. “Còn bé lắm, con bé cao kều, mầy chẳng hiểu gì đâu!” – Bà già hay lên lớp Mục Á như thế, gần giống bà ngoại cô. Hồi cha trở lại làm Đạo Chích Không Trung, cô đến sống cùng ông bà ngoại. Bà ngoại nghiêm khắc, chẳng chiều Mục Á như mẹ. Bà hay mắng cô vì tội nghịch ngợm chẳng ra dáng tiểu thư quý tộc, đôi khi bắt cô quỳ gối hàng giờ do làm hỏng cái này đổ cái kia. Thuở ấy Mục Á hậu đậu thành tật, bình trà lọ hoa trong nhà vỡ suốt, lắm bận chẳng còn thứ gì để đựng bó hoa bà mới mua. Cô quỳ gối nghe bà nhiếc móc thường xuyên. Dạo ấy bà cất hết đồ dễ vỡ vì sợ cô phá nốt bình trà mà hoàng đế Diệp quốc tặng ông ngoại. “Mục Ngỗ Ngược” – bà hay gọi cô thế thay vì Mục Ngỗ Á. Hồi đó cô hay ghét bà ngoại. Người già lằn nhằn nhiều, trẻ con dễ khó chịu. Bà chủ hàng hoa bây giờ cũng vậy, toàn nhắc đi nhắc lại những thứ Mục Á đã biết:

-Cắm thế này này! Đừng để chúng ríu lại, giống sơn trà này dễ rụng hoa lắm, cẩn thận vào! Làm theo tau nè!

Nói rồi bà già mạnh bạo nắm tay Mục Á, điều khiển ngón tay cô chăm chút từng cành hoa, chẳng thèm để tâm cô khó chịu hay không. Người Xa Vịnh vẫn hoang dã bản năng như thế. Cô thực tình không thích lắm, bất quá lớp da nhăn nheo của bà chủ hàng nhắc cô về bà ngoại. Ngày cô còn ở Diệp quốc cũng là lúc bàn tay bà ngoại bắt đầu già cỗi. Cô nhớ rõ bàn tay ấy có bao nhiêu chấm đồi mồi bởi cô ngủ cùng bà, đợi bà ngủ thì cô nằm đếm như thú vui. Và bởi bà thường nắm tay Mục Á dạy cách cắm hoa, cô không để ý hoa mà ngắm nghía tay bà nhiều hơn. Khi ấy giọng bà ngoại cũng dịu dàng như mẹ:

“Học cắm hoa, con sẽ cẩn thận hơn. Bà chẳng còn cái bình nào nữa đâu, Mục Ngỗ Ngược, nhà này bị con phá chanh bành rồi!”

Cô bé Mục Á nhe răng cười khì khì, bà ngoại cười theo. Thành thử nỗi ghét bà của cô tồn tại giỏi lắm được nửa ngày, ào cái đến lại ào cái đi ngay. Mỗi sáng bà phải thấy cô trước tiên, mỗi chiều dạy cô nhiều điều, mỗi tối giúp cô chải tóc trong khi cô có thể tự làm. Mà mãi sau này Mục Á mới hiểu bà làm thế cho vơi nỗi buồn mất con gái. Bà ngoại nhớ mẹ Mục Á hơn cả cô, chỉ là người già biểu hiện khác con trẻ. Nhớ chuyện quá khứ, Mục Á bỗng để tâm bà chủ hàng hoa hiện tại. Bà già ở khu chợ quanh năm suốt tháng, chưa từng đóng cửa hàng dù chỉ một ngày. Mục Á hỏi:

-Bà không về thăm Xa Vịnh quốc sao? Con không thấy bà nghỉ bán bao giờ?!

Bà già nghe vậy thì nhăn nhó, bộ hàm móm rít phì phì khó chịu. Mục Á lảng đi coi như mình lỡ mồm. Bà chủ hàng gõ gõ cái tẩu, nhồi dúm thuốc mới, hút một chặp rồi đột nhiên nói:

-Còn ai mà về? Nhà tau được bốn mống đàn ông thì chết cả bốn, ba thằng con trai tau đẻ ra và cha chúng nó. Chết lâu rồi, hồi chiến tranh tài nguyên. Bọn đàn ông luôn giành hết phần ngu mà! Giờ tau về đấy chơi với ai? Với ma chắc?

Dứt lời, bà già cười hề hề, cười nhiều tới độ ho sặc sụa khói. Mục Á im lặng. Bà chủ hàng tiếp lời:

-Thực ra tau cũng muốn về. Nhưng đến tuổi tiền thuốc nhiều hơn tiền ăn rồi mầy ạ, lết ra ga tàu cũng bở hơi tai, tới được Xa Vịnh quốc thì tau cũng tắt thở luôn! 

Mục Á mỉm cười. Bà già ho sặc chặp nữa đoạn bảo cô tự chọn hoa. Sắp tới giờ uống thuốc, bà cần ăn lót dạ. Lát sau cô nghe thấy tiếng nồi súp sôi sủi quẩn quanh tai như tiếng gọi của bà ngoại năm nào. Cuối buổi trà chiều, bà ngoại luôn gọi Mục Á ra hiên nhà, ôm cô vào lòng rồi cùng ăn món bánh dẻo truyền thống của người Diệp quốc. Cô thích như thế, bà kể mẹ cô hồi bé cũng thích vậy. Chẳng hiểu tại sao. Có thể vì món bánh ngon, có thể vì khung cảnh chiều tà Diệp quốc thường ruộm vàng chân trời lẫn những pháo đài khổng lồ kết bằng mây trắng. Trẻ con chỉ cần thế là vui. Hay vì một lý do nào mà cô bé nhỏ tuổi Mục Á hồi ấy chưa thể hiểu. Cô bé hỏi:

“Con thích ngồi đây lắm. Nhưng tại sao vậy, bà ơi?”

“Vì chẳng ai thích ăn một mình đâu, con à!” – Bà trả lời. 

Trời chiều Diệp quốc của quá khứ lộng gió thổi Mục Á về thực tại. Cô rảo quanh sạp lẫn giàn treo, song lựa mãi chẳng chọn được bó hoa ưng ý. Tâm trí cô không dành cho những sắc màu rực rỡ mà hướng ra phía cửa, bà chủ già đang ngồi đó, co ro ăn, co ro ánh mắt trong trời đông, co ro lật từng tấm rèm tuyết tìm về khoảnh trời tây bắc. Bà chủ già nói đúng, Mục Á chẳng hiểu hoa trà nhiều như cô tưởng. Cô bèn gọi:

-Bà nấu ngon vậy? Cho con ăn với!

Bà chủ già nhìn cô như nhìn sinh vật lạ rồi cắm cúi ăn tiếp, coi như không nghe thấy. Mục Á gọi lần nữa, bà già ngần ngừ một lúc thì lọm khọm đứng dậy, lọm khọm vào bếp, sau lọm khọm bê ra bát súp cho cô. Súp loảng tòe, vị hơi nhạt nhẽo nhưng cô vẫn ăn. Cô thích hơi nóng của nó, thích cái ấm áp “hai người”. Một cách vô thức, bà già ngoảnh vào trong thay vì trông ra trời tuyết, ngó nghiêng khắp cửa hàng, săm soi từng thứ cốt che đậy ánh mắt tò mò đang dồn về Mục Á. Bị cô bắt gặp, bà già nhấm nhẳn:

-Tau tính tiền đấy, không miễn phí đâu, con bé cao kều!

-Ừ thì trả, có sao đâu? – Mục Á cười. 

“Ừ thì trả, có sao đâu!” – Bà già nhại lời cô và ăn tiếp, vừa ăn vừa lườm. Rồi bà hỏi cô mấy thứ linh tinh hay mấy chuyện phù phiếm vặt vãnh kiểu phụ nữ. Gian hàng nhỏ trong đông tuyết có thêm tiếng xì xụp cười nói. Mục Á cảm nhận vòng tròn tồn tại của mình có thêm một người nữa. Đang ăn, bà già nguýt dài:

-Mầy mua bó nào để tau còn bọc lại? Mà vẫn không chịu mua hoa mới à? Con bé này… mầy toàn mua rẻ của tau, mua đắt một lần không được chắc? Đổi mới đi, cứ khư khư mấy thứ cũ làm gì? Sống mãi trong quá khứ không tốt đâu, con gái! Mua hoa mới, nhé? Tau giảm giá! 

Rốt cục thì Mục Á đem về bó sơn trà thoảng hương thơm để chiều ý bà già. Ban đầu cô không thích nhưng ngắm mãi thành quen, dần chấp nhận thứ hoa trà có mùi hương. Cô nghĩ giá mọi thứ đều đơn giản vậy thì hay biết mấy. Mua bán, trả tiền, thi thoảng đổi sang cái mới cho cuộc sống thêm sắc màu, khỏi lăn tăn nghĩ ngợi. Cô thử mường tượng Thát Khan giống một thứ hoa lạ lẫm, chưa từng thấy bao giờ và khiến người ta e dè, nhưng nếu tiếp xúc đủ lâu, ta có thể chấp nhận nó như một phần thế giới, một phần đời mình. Có lẽ nào chăng? Mục Á đã nghĩ vậy khi đọc mấy bức thư từ Thát Khan. Trong một lần viết thư trả lời, cô đồng ý làm bạn gái anh. 

Mục Á chợt nhận ra từ ngày Thát Khan xuất hiện, cô đã lấy lại cảm giác thời gian dù hơi bất đắc dĩ. 

Tháng 12, Thát Khan nghỉ đông. Anh ta rủ Mục Á đi chơi nhưng không tự quyết, nghĩa là Mục Á muốn đi đâu thì anh ta theo đó. Một con mọt sách ngày ngày trườn mình quanh chữ nghĩa gặm nhấm giấy bút, cố nhiên chẳng biết chỗ ăn chỗ chơi. Chẳng hiểu sao anh ta mò được tới Đông Môn Cao Lầu? Mục Á thở dài. Cô rủ đi nhà hàng sang trọng, đồ ăn giá trên trời, anh ta cũng ừ. Dăm hôm sau cô đòi đi chơi chợ trời, tản bộ vô thưởng vô phạt, anh ta cũng gật. Cô bảo mình cần yên tĩnh lúc tản bộ, anh ta cũng đồng ý nốt, cả buổi không thốt nổi câu nào. Sao ngốc quá hả Vạn Thế ơi? Chỉ như thế mà đòi Hạ Nga Chi xiêu lòng thì sinh ra Hạ Nga Chi làm gì? – Mục Á ngửa mặt than khổ. Lúc cô cần Thát Khan ra dáng đàn ông nhất thì anh chàng đần thối, bảo sao nghe vậy. May cho Thát Khan là gặp cô, chứ gặp Na Li Nã hay mấy ả kiêu kỳ khác, anh chàng không muối mặt cũng cạn sạch túi. Tính đi tính lại, cô quyết định dứt điểm với Thát Khan. 

Cơ mà cuối tháng 12 không phải dịp tốt để nói chia tay. Mấy lời phũ phàng trong năm mới, đợt lễ hội hay ngày trọng đại luôn có sức công phá mãnh liệt, thành trì còn sập huống hồ trái tim con người. Mà nhất là đám đàn ông. Mục Á chưa quên vụ “người đó” phá nát nửa Cao Lầu nên rút kinh nghiệm. Cô chỉ biết Thát Khan là chàng khờ chứ chưa rõ anh ta có máu điên hay không, ngộ nhỡ đụng trúng gã khùng núp vẻ trí thức thì mệt. Thành thử cô vẫn cùng Thát Khan xem pháo hoa năm mới, dạo quanh chợ trời ken đặc chân người lẫn ánh đèn nhiều màu sắc, ăn mấy món quà vặt, tán gẫu dăm câu cho xong chuyện. Đi bên Thát Khan nhưng cô chẳng để ý anh ta mà nhớ “người đó” nhiều hơn. Ngày nào cũng thế, Mục Á đâm chán, nhếch môi cười với Thát Khan cũng là cả nỗ lực tột bậc. 

Nhưng thế giới lắm điều kỳ lạ. Vào lúc cô chán nhất, nản nhất, thậm chí sắp buột miệng buông lời băng giá thì Thát Khan lên tiếng:

-Tôi cứ nghĩ em sẽ đi xem nhạc kịch, nhưng hình như em không thích, nhỉ? Chuyện gì đấy không vui, phải chứ? 

Mục Á ngạc nhiên đoạn quay sang anh chàng. Bắt gặp ánh mắt dò xét của cô, Thát Khan gãi đầu cười gượng:

-À… chắc Mục Á không biết nhưng tôi thấy em cách đây lâu rồi, ở bữa tiệc hoàng cung Băng Hóa quốc. Cha tôi được hoàng đế Băng Hóa mời, tôi cũng đi theo. Em nhảy đẹp lắm! 

Thát Khan kể rằng ngày đó vì quá ấn tượng trước dáng vẻ của Mục Á nên tra hỏi thông tin của cô bằng được. Tìm được rồi, anh chàng bắt đầu theo đuổi Mục Á trong im lặng, thậm chí không từ bỏ hy vọng cả khi cô gần như chắc chắn thuộc về người khác. Mục Á nín cười, hóa ra Thát Khan liên tục đòi gặp cô từ năm ngoái đến giờ là có lý do. Dường như mọi sự ngốc nghếch khờ dại trên thế giới đều tập trung về anh chàng. Nhưng chẳng hiểu sao nỗi chán chường trong Mục Á tạm vơi. Dù gì anh ta cũng khá tinh mắt khi biết cô ghét xem nhạc kịch. Trông lù đù thế mà ghê gớm nhỉ?! – Cô nghĩ thầm.

-Biết tôi làm gái mà vẫn xán vào? Hay anh muốn đùa giỡn tôi? – Mục Á liếc xéo – Cẩn thận nhé, Hạ Nga Chi đùa bỡn người khác thì được chứ không có chuyện ngược lại. Anh biết luật giới này rồi đấy! Ngay cả họ Thát cũng không ngoại lệ.

Thát Khan lắc đầu:

-Tôi không có ý đó. Tôi yêu em thật đấy!

Mục Á bụm miệng không dám cười to. Chưa vị khách nào hay kể cả “người đó” buột miệng nói lời yêu cô nhanh như vậy. Chàng khờ chẳng hề biết một khi bày tỏ thái độ quá sớm, anh ta sẽ ở cửa dưới và bị Hạ Nga Chi quay như chong chóng trước khi đón nhận sự thật cay đắng. Mục Á hỏi:

-Kể cả khi tôi là Sukka? 

Thát Khan hít một hơi sâu. Anh ngửa mặt, cặp kính cận phản quang ánh đèn, vóc dáng nhỏ thó bỗng chốc cao hơn Mục Á, cao hơn mọi con người trên phố sá và rướn đến tận những chấm sao xa xăm trên vòm trời đêm:

-Cũng chỉ là một cái tên, một định nghĩa, một quy chuẩn do thế giới Tâm Mộng sắp đặt. – Anh trầm ngâm – Thánh sứ phụ thuộc những kim loại gọi là “quang tố”, nhờ quang tố, họ đúc nên những đôi cánh đẹp đẽ, những thánh giới đầy sức mạnh. Nhưng quang tố có gân đỏ bởi nó ngấm máu người. Người ta hay nói mỏ quang tố độc vì trong mỏ có nhiều phản ứng phép thuật, người khai thác dễ mất mạng. Nhưng tôi nghĩ đó là vì thế giới này bắt họ phải chết, bắt họ phải hiến dâng sinh mạng để quang tố thành hình. Vậy xét ra thánh sứ chẳng đẹp đẽ gì, đúng không? Kiếm sĩ, pháp sư, những chiến binh hùng mạnh, họ nổi tiếng, họ có danh vị nhưng là đứng trên xác người. Vậy xét ra họ cũng chẳng đẹp đẽ, chưa kể tay họ đầy tội ác. Thế giới Tâm Mộng đẹp đẽ, nhưng còn đó lịch sử đẫm máu thời phi cơ giới, thế giới này xét mặt nào đó chẳng đẹp. Vậy so ra tất cả, chữ “Sukka” của em chẳng đáng gì, bởi sâu trong em là cái đẹp. Vì cái đẹp ấy nên tôi say mê. 

Mục Á dừng bước như để tiêu hóa hết lời Thát Khan, cảm giác có thứ vướng vướng ở cổ không nuốt được. Dù vậy Mục Á chưa đến nỗi bị ngợp, cô nhíu mày:

-Trong mắt anh, mọi thứ đều xấu? 

-Tôi thích truy tìm cội nguồn vấn đề. – Thát Khan gãi đầu cười – Nhưng không phải cội nguồn, mà con đường tìm tới cội nguồn mới có ý nghĩa. Bởi vậy tôi vẫn say mê chuyện kiếm sĩ, chuyện về những con người đưa lục địa này thoát khỏi kiếp nô lệ. Thế giới Tâm Mộng vẫn đẹp, bởi vậy tôi mới say mê Mục Á. Tôi muốn cảm nhận thế giới của em, nhưng có vẻ em phức tạp quá, tôi chưa phân tích được. 

Tới đây thì Mục Á không thể hiểu Thát Khan nói gì. Cô không chắc anh chàng thật sự thông minh hay điên khùng, hay đứng ở ranh giới chơi vơi giữa hai khái niệm. Nó gợi cô nhớ về một người… Không phải chứ? – Cô thảng thốt trong lòng và cố quên đi ý nghĩ điên khùng nọ. Thát Khan chìa tay tỏ ý muốn dắt cô đi, cô lắc đầu từ chối, anh chàng cười xòa chẳng nài thêm. Sau rốt anh ta vẫn là chàng khờ. 

Nhưng đêm ấy Mục Á trằn trọc không ngủ nổi. Quả thực Thát Khan gợi cô nhớ về một người. Có chút giống. Có chút tương đồng. Nhưng chắc chỉ là trùng hợp như muôn vàn trùng hợp giữa thế giới này. 

Dù vậy cô chẳng bận tâm Thát Khan quá lâu. Hết đợt nghỉ lễ, Thát Khan trở lại học viện và tiếp tục tra tấn cô bằng thư tình. Vẫn vò nhàu, vẫn giấu vào chỗ kín đáo nhưng Mục Á đọc thư kĩ càng hơn, tránh việc nhỡ anh ta hỏi mà cô ù ù cạc cạc không biết gì. Một Hạ Nga Chi phải có tác phong chuyên nghiệp. Anh chàng mọt sách khoe mình đang tham gia một dự án cùng vị giáo sư danh tiếng của học viện. Đủ thứ ngôn ngữ trên trời dưới biển, chẳng chữ nào ở mặt đất để Mục Á hiểu, mà trong đó lại nhồi nhét hàng đống câu từ lãng mạn quá thể, cô thậm chí phải ôm mặt vì ngượng thay cho anh chàng. Thư tháng 2 sến rện, thư tháng 3 khó hiểu, thư tháng 4 rặt đống ký tự số má thách thức trí khôn loài người. Đủ rồi! Thế là đủ rồi! – Mục Á giơ tay đầu hàng. Gần đây cô có một khách hàng người Hoa Thổ, anh ta trẻ tuổi, giàu có mà cũng nhiều thành ý. Người này tất nhiên còn lâu mới sánh bằng con chim ưng tuyết họ Xuy Hạ nhưng tốt hơn chàng khờ Thát Khan gấp vạn. Tha hương chìm nổi bấy lâu, Mục Á đã mệt, cô cần chốn nghỉ ngơi. Mà Thát Khan lại chẳng cho cô cảm giác an toàn. 

Cô đem chuyện kể cho Na Li Nã. Cô giấu thư của Thát Khan nhưng hình dạng chúng thế nào hay nội dung ra sao, cô kể tuốt tuột. Đêm chợ trời, Na Li Nã đãi cô như đã hứa, còn cô vừa ăn vừa bày tỏ nỗi bức xúc. Cô ả tóc vàng nhướn mắt ranh mãnh:

-Hình như cô nói về anh ta hơi nhiều, hi hi! Được rồi, tóm lại là cô muốn chấm dứt chứ gì? Nhưng thử cho anh ta thêm cơ hội cuối cùng xem? Anh ta rủ cô đến học viện chơi hả? Thì cứ đi, coi như lần cuối vậy!

Mục Á chép miệng thở dài, nội tâm đấu tranh dữ dội. Cuối cùng lý trí của cô chịu thua, mà thua cái phần “nể bạn” chứ không phải thua trái tim. Trái tim cô chẳng có chút nào dành cho Thát Khan. Tháng 5 năm 7505, Mục Á tới học viện thăm chàng khờ. 

Nơi Thát Khan theo học là học viện Tinh Thấu Tổ nằm tại Bình Di quốc, một ngôi trường nhà giàu nổi tiếng ở Băng Thổ. Mục Á đã chán càng thêm nản bởi ngôi trường đầy rẫy những anh chàng quý tộc đẹp trai, phong độ và quan trọng là không ai khờ dại. Đến đây, cô phát hiện Thát Khan chẳng có mấy bạn, trái hẳn cái tuổi bù khú trác táng mà đáng lẽ bất cứ gã đàn ông nào cũng phải có. Ở trường nhà giàu, việc này càng quan trọng bởi những mối quan hệ hiện tại sẽ ảnh hưởng rất nhiều trong tương lai. Nhớ lại “người đó” có thể đưa cô đi bất cứ nơi đâu, biến mọi giấc mơ thiếu nữ thành sự thật là bởi anh có bạn, rất nhiều bạn. Còn Thát Khan? Cô nhận ra mọi người dành cho anh chàng rất nhiều cái nhìn: nghi ngờ, khinh thường hoặc giễu cợt; mà cũng lẫn đâu đó là khâm phục, ngưỡng mộ và coi trọng. Cô xác định Thát Khan quá phức tạp, không phải người nên gắn bó lâu dài. 

Chiều cùng ngày, Thát Khan rủ cô đến căng tin trường, nghe đâu bàn việc với gia sư. Thát Khan nói mình không thỏa mãn với kiến thức ở trường, anh học từ người gia sư nhiều hơn. Mục Á không quan tâm lắm, cô chỉ chăm chú đám học viên đẹp trai. Suốt buổi Thát Khan gợi ý chuyện trò tựa thể thế giới trong mắt anh chỉ có Mục Á nhưng cô bàng quan. Đằng nào mấy hôm nữa cô sẽ nói lời chia tay, vậy nên anh ta làm gì lúc này chẳng quan trọng. Đương nghĩ ngợi vẩn vơ, Mục Á chợt thấy người gia sư xuất hiện. Ông ta dường như đã phẫu thuật thẩm mỹ, bộ mặt hằn đầy nét phi tự nhiên, nhất là nụ cười. Thát Khan đứng dậy bắt tay người gia sư, giới thiệu hai bên rồi vào việc. Anh liến thoắng:

-Chuyện hôm trước, tôi đã thử, thầy xem thế nào? Hệ thống vòng lặp không ổn. Vòng 4, Vòng 8, Vòng 10 không xuất hiện. Còn “117” nữa, thầy chắc nó có thật không? 

Vừa nói Thát Khan vừa lôi ra giấy bút sách vở. Câu chuyện của anh ta đầy rẫy số 7, những thứ gì đó về tiến hóa, về tế bào bảy mạch, chưa kể làm người nghe phát bực vì phát hiện thế giới có quá nhiều điều mà họ chưa hiểu. Nhưng đó chưa phải tất cả. Trước mắt Thát Khan chỉ còn nghiên cứu, công thức số má lẫn ước mơ xa xôi mà anh theo đuổi. Trong cái nhìn ấy không hề có Mục Á. Một chút cũng không. Cô chợt hiểu mình bị gạt ra rìa kể từ lúc người gia sư xuất hiện. Mà ngay cả ông gia sư cũng thi thoảng ngẩng đầu nhìn cô, nhưng Thát Khan thì không, tuyệt đối không. Cảm giác ấm ức chợt dấy lên trong Mục Á, cô gõ gõ ngón tay hòng thu hút Thát Khan nhưng anh chàng chẳng bận tâm. Lúc đó Mục Á buộc phải thừa nhận anh rất giống một người. Giống đến khó tin. 

Cuối buổi, ông gia sư tạm biệt hai người còn Thát Khan vẫn ở lại nghiền ngẫm giấy tờ. Mục Á đồ rằng anh chàng đã quên mất cô. Anh dán mắt vào sách vở tới chập tối và cả lúc đứng dậy ra về. Nhưng anh một tay cầm sách, tay kia lại nắm lấy Mục Á dắt đi. Cô há hốc miệng, cảm giác mình như vật trang trí trên bước đường của anh. Thát Khan không về nghỉ ngơi mà đến phòng thí nghiệm học viện. Anh mở cửa khu thí nghiệm, mở ra trước mắt Mục Á một thế giới lạ lùng đầy máy móc kỳ lạ. Thát Khan gãi đầu:

-Tôi cần làm việc bây giờ. Xin lỗi, không đưa Mục Á đi chơi được. Để ngày mai nhé? Đây là dự án của trường, tôi từng nói với em rồi, nhớ không? 

Là dự án mà anh nói trong thư. Mục Á hỏi:

-Anh nghiên cứu gì thế? 

-Cải thiện bộ phận cơ sinh học. – Anh trả lời – Chắc em biết bây giờ người ta thường dùng bộ phận cơ sinh học thay thế phần cơ thể bị hỏng. Nhưng phương pháp này chưa áp dụng rộng rãi vì chi phí đắt, thứ nữa là phản ứng xung khắc giữa cơ thể và bộ phận cơ sinh học, nhất là nội tạng. Tỉ lệ nảy sinh phản ứng xung khắc cao, nhiều rủi ro. Nếu dự án này thành công, chúng ta không phải lo nữa!

Mục Á im lặng. Không phải cô không hiểu điều anh nói. Vấn đề là anh quá giống một người, giống đến nỗi cô chỉ biết im lặng để áp chế từng cơn chộn rộn nơi lồng ngực. Cô kiếm một chỗ ngồi trong khu thí nghiệm, đủ xa cho đỡ vướng tay chân Thát Khan mà cũng đủ gần để thấy rõ anh làm việc. Ở ngoài anh lù đù ít nói, mà đã nói thì toàn lời khó hiểu. Anh chẳng biết nhiều chỗ vui chơi và luôn khiến người khác mỏi mệt vì mình. Anh thật bình thường, thậm chí gần chạm tới ngưỡng “tầm thường”. Nhưng ở đây anh hoàn toàn khác. Máy móc, ống nghiệm, các mẫu vật phẩm, hàng đống công thức chi chít khắp bảng kính – tất cả đều nằm yên hoặc vận hành theo ý muốn của anh, cả khu thí nghiệm bừng lên những làn sóng sinh mệnh, tựa thể Thát Khan là đấng sáng tạo của thế giới này. Mục Á chẳng hiểu Thát Khan nghiên cứu tới đâu, cơ mà nhìn anh phấn khởi viết lách ghi chép, cô đoán anh đã gần tới đích. Mục Á vui cho anh, cũng giận anh mải làm mà quên mất cô đang thui thủi một góc. Cảm giác lạ kỳ này từng theo Mục Á rất lâu, gần như là một phần cuộc đời rồi đột nhiên biến mất, nhanh tới mức cô cảm giác nó chưa từng tồn tại. Chính xác là từ lúc cha mất, nó cũng biến mất theo. Giờ gặp lại, cô phải lục lọi ký ức để xác nhận nó là thật hay chỉ như cảm xúc nhất thời…

Hồi đó mẹ còn sống và Mục Á còn bé lũn cũn. Cô bé thích theo mẹ hơn theo cha. Trẻ con đứa nào cũng thế nhưng Mục Á khác hơn. Bởi trong mắt cô bé Mục Á, cha chán ngắt hà! Cô thường tót vào phòng làm việc của cha, khoe mấy bông sơn trà mà người lớn cho cô khi đi chơi hội, làm đủ thứ để ông chú ý mình, nhưng cha chỉ cười rồi xua cô đi. “Chơi với mẹ nhé con, cha bận lắm!” – Cha nói thế cả trăm lần, cô bé phát chán. Ngày nào đi ngang qua phòng cha, Mục Á cũng thấy ông đắm chìm với bản vẽ hay mô hình thiết kế. Dăm tháng sau, cha dẫn cô đi xem những mô hình đó nhưng to gấp hàng nghìn lần. Nhiều người cảm ơn cha vì mấy “mô hình” khổng lồ nọ, Mục Á thì không. Cô bé đâm ghét những mô hình vô trí vô giác, cho rằng vì chúng mà cha không chơi với cô. Tới lúc không chịu nổi, cô hét lên “Cha yêu mấy cái đó hơn yêu con chứ gì?!”, cha ngẩn mặt ngỡ ngàng, còn mẹ cười rũ rồi ôm cô bé Mục Á đang khóc ngắn khóc dài. Thuở ấy cô hay hờn, hay dỗi cha.

Rồi mẹ mất, Mục Á lớn lên trên nỗi đau. Cô dần hiểu công việc của cha. Vẫn những bước chân khẽ khàng qua phòng cha như hồi bé nhưng thay vì nghịch ngợm, cô mang cho ông đồ ăn hoặc trà thiết mộc. Mục Á cũng dần hiểu lý do nhiều người trong thành phố hay cư dân trên con dốc thoải yêu quý mình, bởi vì họ ít nhiều chịu ơn từ mấy thứ “mô hình” mà cha cô xây dựng nên. Dạo đó cô hay thu mình một góc rồi lặng lẽ ngắm cha làm việc. Ở ngoài, cha dễ tính và chiều Mục Á, đôi lúc hơi nhạt nhẽo. Nhưng trong căn phòng này thì ông miệt mài, nghiêm khắc, cẩn thận từng chi tiết. Dưới bàn tay ông, mỗi thứ đều có hơi thở hoặc linh hồn, tưởng như chỉ thêm chút phép thuật là chúng sống động như thật. Cô nhìn ông chẳng biết chán sau ngủ gục trên sàn lúc nào chẳng hay. Ngày đó cô yêu quý cha, mà cũng thi thoảng giận ông vì hễ làm việc là cha quên mọi thứ trên đời kể cả con gái mình. 

-Đây rồi, có thế chứ!

Tiếng cười nói hồ hởi cắt ngang tâm trí Mục Á. Hình như cô vừa ngủ một giấc lâu. Cô tỉnh dậy, bốn giờ sáng, khung cảnh trước mắt không phải căn phòng nhỏ của cha mà là khu thí nghiệm học viện. Giữa đống máy móc ống nghiệm cùng dãy bảng kính kín đặc chữ, Thát Khan nhảy cẫng, tay đấm vào không trung như đứa trẻ giành chiến thắng trong một trò chơi. Đề án chia nhiều phần nhưng anh không chỉ hoàn thành phần được giao, anh đã hoàn thành tất cả. Anh tận hưởng niềm vui một mình. Mục Á nhớ cha cô cũng giống Thát Khan ở chuyện “một mình”, mỗi lần xong việc là ngả dài lưng trên ghế, mỉm cười ưng ý rồi tự thưởng bằng tách trà hay đồ ăn. Đơn giản, thuần khiết, nhưng cũng vô tâm lắm. Đôi lúc Mục Á giận cha vì ông hiếm khi chia sẻ thành quả công việc cho cô nghe. Những người theo đuổi giấc mơ dường như giống nhau, họ không tự nhận thức được bản thân đang vô tâm với người khác. 

Nhưng nỗi giận cha luôn qua mau bởi hễ tỉnh dậy, cô đều thấy mình ngay ngắn trong chăn, nệm và gối. Lần nào cũng thế. Cha quan tâm Mục Á lúc cô ngủ say hoặc lúc cô không nhìn thấy. Thát Khan cũng vậy, anh đã đắp chăn ấm cho cô từ lúc nào. Nhìn Thát Khan sung sướng như đứa trẻ, cô mỉm cười. Cô định hỏi thăm nhưng nghĩ chuyện cũ lại thôi. Người như cha cô hay Thát Khan tận hưởng hạnh phúc ở khía cạnh mà người thường không hiểu, song chỉ cần thấy họ vui vẻ, cô sẽ vui theo, thế là được. Bởi vì thế giới này vốn bồi đắp bằng những nghịch lý khiến người ta không hiểu nhau, nhưng ẩn bên dưới là vô số mạch ngầm chung cảm xúc.

Thát Khan hơi khác. Anh không giống cha Mục Á mà chạy tới chỗ cô, khoe rằng mình đã tìm được giải pháp đồng hóa bộ phận cơ sinh học với cơ thể người, rằng phát hiện này sẽ cứu giúp hàng nghìn con người. Anh nói mấy thứ đâu đâu, số má lẫn lý thuyết ong cả đầu, nhưng cô chỉ cười. Cô vén mái tóc xù xịt của anh và chúc mừng anh thành công. Lát sau vị giáo sư chủ nhiệm tới khu thí nghiệm. Ông ta ngáp dài, mắt nhắm mắt mở đọc báo cáo của Thát Khan, thái độ ngờ vực như không tin anh làm ra nó, mặt nhăn nhúm chỉ chực quát nạt anh vì gọi ông dậy đúng giờ oái oăm. Mà bản báo cáo không làm vị giáo sư thích thú bằng Mục Á, ổng ngẩng đầu nhìn cô suốt. Bàn luận chán chê, ông giáo sư yêu cầu Thát Khan viết lại báo cáo, không được bỏ sót thứ gì và nộp trước cuối tuần. Đợi ông ta đi khỏi, Mục Á hỏi:

-Anh không thể tự công bố kết quả hay sao mà phải nộp báo cáo cho ông ta? 

-Quy trình là thế, vả lại học viên không thể tự công bố kết quả. Tôi cũng dựa trên tài liệu từ người khác, không phải mình tôi làm ra. – Thát Khan cười – Giáo sư có uy tín, ông ấy sẽ giới thiệu kết quả rộng rãi hơn. Mà sao em hỏi thế?

Năm tháng làm Hạ Nga Chi khiến Mục Á bén nhạy với đàn ông, tuy mới gặp nhưng cô lờ mờ cảm giác màn sương vô hình bao quanh vị giáo sư kia. Phiền nỗi cô không biết giải thích thế nào cho Thát Khan hiểu. Nhưng có lẽ cô lo lắng thái quá, nhất là khi cô bắt đầu quan tâm một người. Không muốn anh kém vui, cô nói:

-Chỉ là tôi không hiểu thôi, đừng bận tâm. Chúc mừng anh nhé!

Thát Khan cười tươi. Dăm hôm sau, cô chủ động nắm tay Thát Khan đi chơi rồi nắm tay anh quay lại Hoàng Hôn Cảng. Không chiếu lệ. Không qua loa xong chuyện. Hoàn toàn thật lòng. Anh từng nói muốn cảm nhận thế giới của cô, cô cười cợt nghĩ anh mọt sách. Nhưng nếu năm xưa không ngồi lì bên cha để ngắm ông làm việc, cô đã nghĩ ông nhạt nhẽo – chán phèo – vô tâm. Cô nhấp nhận việc Thát Khan chẳng biết chỗ ăn chỗ chơi như một nét đáng yêu. Bởi vì anh không thể để tâm thứ lặt vặt, anh có thế giới của riêng mình và sẽ làm được nhiều điều với nó. Có thể anh không mang đôi cánh bay cao như con chim ưng tuyết họ Xuy Hạ, nhưng anh sở hữu đôi cánh vượt khỏi bầu trời hay mọi giới hạn. Dù sao anh cũng là người trên mây mà! – Mục Á bật cười. 

Mà kẻ bay cao như thế thường cô đơn. Thát Khan không cô độc bởi trên tầng mây, anh có gió, có nắng, có vòm trời trong xanh làm bạn. Nhưng anh cô đơn vì chẳng ai đủ sức bay cùng anh. Mục Á suy nghĩ chuyện đó mấy ngày, cảm xúc lấn bấn không rõ ràng. Na Li Nã nói đúng, cô nói, phàn nàn, nghĩ ngợi về anh quá nhiều. Ngẫm lại, chuyện giữa cô và anh bắt đầu từ hoa trà. Cô nằm dài ra bàn, đôi mắt nhóng lên cánh hoa sơn trà đỏ mới mua hồi sáng. Hoa mới, còn ướt sương lẫn nước tưới. Gần một năm đã qua, hội hoa sơn trà bên Diệp quốc sắp bắt đầu. 

“Chỉ cần đẹp là đã thành hoa rồi!”

Mục Á lẩm bẩm, ngón tay bấu nhẹ cánh hoa như muốn đổ lỗi tại nó mà cô thành ra thế này. Hoa rủ sương như kêu đau, nó đang phản đối cô. Cơ mà hoa chẳng biết nói, Mục Á bảo sao thì chuyện là vậy.

Nhưng cô chắc chắn một điều là vòng tròn tồn tại của mình có thêm người, mà lại ở rất gần cô.



Ly Đốc sắp đi. 

Hai ngày trước Na Li Nã báo thế. Mục Á đã nghe, đã chuẩn bị mua một thứ thật đẹp, thật ý nghĩa tặng thằng nhóc. Nhưng gặp rồi trao tận tay? Sau đấy lại hứa hẹn về một tương lai thơ mộng dễ làm mờ mắt những cậu trai? Ly Đốc đã cứng rắn nhưng cái đa cảm tuổi thiếu niên vẫn rơi rớt đâu đó trong tâm hồn. Nếu Mục Á giở giọng nài nỉ, thằng bé chắc chắn ở lại. Cô không muốn mình thành chướng ngại ngăn con sói nhỏ rời hang. Nhưng thăm thẳm thâm tâm Mục Á, cô không muốn nó ra đi như “quỷ con” năm nào. Đàn bà thì hay níu kéo, cô không ngoại lệ. 

Rốt cục cô làm theo lý trí. Hôm thằng nhóc đi, cô để lại một đóa sơn trà cùng ly trà thiết mộc trên máy bán nước tự động, sau đấy theo dõi Ly Đốc từ chỗ kín đáo. Nhận được bông hoa, thằng nhóc thật vui và dứt khoát cất bước, không một lần ngoảnh đầu. Đứng từ cảng nhìn chiếc thăng vân tàu mất hút trong đêm, Mục Á vui cho Ly Đốc mà buồn cho mình. Vòng tròn tồn tại của cô mất một người. Từ đó cô chẳng đến khu chợ cảng thuyền nữa. Trong mắt cô, bức tranh nơi ấy đã phai màu.

Hơn một tháng sau, tới lượt Na Li Nã rời thành phố. 

Mục Á không nhìn nhầm người, anh chàng béo mà cô chọn thực lòng yêu Na Li Nã. Chỉ trong thời gian ngắn, cả anh ta và Na Li Nã kiếm đủ tiền chuộc. Hai người đã định sẵn hôn lễ, chuẩn bị cả trang phục đám cưới. Gia đình chàng béo dĩ nhiên phản đối, nhưng họ yêu thương con trai mình hơn thể diện hay danh dự. Vả lại họ chỉ là quý tộc nhỏ, ít bị soi mói nên dư sức khoác cho con dâu một danh phận tử tế. Mục Á muốn dự đám cưới, muốn thấy bạn mình khoác diện bộ váy xòe nhiều tầng cùng những chiếc trâm cài vàng óng, hẳn lúc ấy Na Li Nã sẽ như công chúa trong truyện cổ tích. Nhưng cô không thể đi dù người bạn cố sức nài nỉ. Hạ Nga Chi sau khi rút lui sẽ không liên lạc với nhau để quên quá khứ, cô không thể làm thánh đường nơi tổ chức hôn lễ của Na Li Nã bị vấy bẩn. Cô có nguyên tắc riêng. 

Ngày tiễn Na Li Nã ra ga tàu, cô đi cùng Thát Khan. Như hiểu tâm tư Mục Á, Thát Khan để cô thoải mái chuyện trò với bạn. Cô ả tóc vàng vẫn liên tục phàn nàn chuyện béo gầy, Mục Á không phản đối nữa mà gật gù “Ừ, béo thật!” để chiều lòng bạn. Khổ rằng Na Li Nã lại coi là thật, sau lại vẽ kế hoạch giảm cân. Cô nàng sợ anh chồng tương lai không yêu mình nữa vì chuyện béo gầy. Người bạn mà Mục Á biết đang thay đổi, không còn giống Hạ Nga Chi mà có dáng dấp một bà vợ hay cằn nhằn và dễ tủi thân. Nhưng cô tin đấy chỉ là mấy vết gợn trong cuộc đời hạnh phúc của Na Li Nã. Cô bất giác muốn người bạn ở đây thêm một ngày, một tuần, thậm chí một tháng. Đàn bà vẫn là đàn bà, vẫn muốn níu kéo. Vòng tròn tồn tại sắp mất thêm một người, đôi mắt Mục Á bỗng dợn vị mặn đắng.

Nhưng rốt cục Na Li Nã khóc trước. Nhà ga thông báo chuyến tàu đi Băng Hóa quốc đã cập bến, Na Li Nã bất chợt ôm chầm lấy cô, giọng nghẹn ngào:

-Chúng ta chia tay thật sao, em gái? Từ nay về sau chúng ta không gặp lại nhau nữa? Đừng nói vậy chứ?! Hay tôi không đi nữa?! Chúng ta cứ ở đây, sống với nhau, liệu được không?

Nghe thế, Mục Á muốn khóc. Cô không phải sắt đá nhưng cô giỏi che giấu cảm xúc. Cô chưa từng giả dối trước bạn mình, đây là lần đầu tiên và cũng là cuối cùng:

-Được rồi, đi đi! – Mục Á cười đoạn vuốt tóc Na Li Nã – Khi nào ổn định thì gửi địa chỉ cho tôi. Tôi không chắc có thể thăm chị hay không, nhưng thư từ thì được. Nhé?

Na Li Nã muốn ở lại thật, nghe cô dỗ dành mãi mới đi. Nhìn tàu siêu tốc đưa bạn mình đến nơi chân trời hút tuyết, Mục Á thở hắt một hơi nhẹ nhõm vì người bạn tìm được hạnh phúc, mà cũng nặng nề vì nỗi cô đơn đang trùm bờ vai. Hai tay cô lại xăn văn nhau, vò vắn hàng tá tâm sự. Bất chợt cô nhận ra Thát Khan chìa tay về phía mình, anh nói:

-Tôi đưa em về nhé?

Cô muốn tâm sự nhiều điều, khổ nỗi Thát Khan hơi gà tồ, dễ anh mặt ngơ mày ngác trước mấy vấn đề phụ nữ. Nhưng nắm tay thì được. Cô theo anh đi về trong trời tháng 6 rợp tuyết. Đáng lẽ giờ này phải có nắng, nhưng tháng 6 năm đó kỳ lạ, chẳng có mấy hơi ấm, trừ hơi ấm từ tay Thát Khan. 

Cảng thuyền cạn nhạt nhẽo. Đông Môn Cao Lầu toàn người mới, Mục Á không quen lứa gái trẻ hơn mình. Thát Khan không phải lúc nào cũng ở bên, anh còn công việc. Mục Á chẳng biết đi đâu. Chợt nhớ đang mùa hoa sơn trà, cô bèn ra khu chợ trời tìm bà già người Xa Vịnh quốc. Chợ thay đổi nhiều, cửa hàng của bà đã lùi ra tận rìa và chẳng còn đông khách dù bà vẫn bán những loại hoa đẹp nhất. Giờ người ta thích bài trí đẹp, bề ngoài đẹp thay vì thực sự quan tâm hoa. Bà già yếu nhiều, ít nạt nộ Mục Á như trước mà ngồi một chỗ để cô tự chọn hoa. Dù vậy cái tính hoang dã người Xa Vịnh lẫn câu cửa miệng “con bé cao kều” còn nguyên, Mục Á thấy vui. Cô không mua hoa mà kể mấy thứ tâm sự vụn vặt kiểu đàn bà mà cánh đàn ông hễ nghe là phát ngán. Có thể bà già sẽ cười hoặc phẩy tay không quan tâm, trước nay bà vẫn hậm hực chuyện cô mặc cả từng đồng. Nhưng lần này khác, bà già nghe xong thì chép miệng:

-Chán nhỉ? Vậy là mầy còn một mình thôi à? Thôi thỉnh thoảng ra đây chơi với tau cho đỡ buồn! Ăn cùng tau không, con bé cao kều? Lấy hộ tau, mệt quá, không đi được…

Mục Á lấy bát súp hộ bà già. Súp nhạt, loãng loàng loàng như ngày đầu tiên nhưng cô vẫn ăn vì nó ngon theo kiểu riêng. Bà già ăn ít thở nhiều, được một lúc thì nói:

-Mầy còn muốn mở cửa hàng hoa không? Vẫn hả? Được rồi… lại đây, cái này bí mật… Ở dãy núi phía tây, tau có trồng một cây sơn trà, chỗ này… chỗ này… nhớ chưa? Tau trồng nó hơn mười năm rồi! Tau thề trước Vạn Thế và Nữ Thần Tiên Tri, nó là đẹp nhất! Tới đó mà lấy hạt giống, tau cho phép. 

Nhìn bàn tay run run của bà già chỉ nơi trồng thứ cây báu vật, Mục Á phì cười. Chỉ là hoa sơn trà, sao phải giấu rịt như giấu vàng? Nhưng người già vốn hay quan trọng hóa vấn đề, cô thông cảm cho bà. Mục Á nháy mắt:

-Thi thoảng bà cũng tốt đấy chứ? Con tưởng bà chỉ biết quát tháo?!

-Tau tốt lắm chứ bộ! Khục! – Bà già ho sù sụ – Bộ mầy nghĩ tao là con quỷ cái ăn thịt người chắc?

-Đùa thôi mà! – Mục Á cười rũ – Con yêu bà lắm!

Bà già rướn lưng:

-Hả? Mầy nói gì cơ? 

-Con bảo “con yêu bà”! – Mục Á nói to. 

Bà chủ hàng lắc đầu như không đánh giá cao trò đùa của Mục Á. Cô thì không quan tâm lắm. Cô thực sự thích bà dù giữa hai người từng xảy ra lắm phiền toái, cơ mà con người vốn gắn kết nhau lâu hơn vì những bực bội. 

Rửa xong bát lại thấy trời quá khuya, Mục Á định dọn hàng giúp bà già. Cửa hàng giờ nhỏ xíu, giàn hoa hay chậu cây chẳng nhiều, mình cô làm được. Mục Á hỏi:

-Để mấy cái này ở đâu, bà ơi? Bà?! Bà ơi?

Giọng Mục Á nhỏ dần khi nhận ra bà già bất động trên ghế, thân thể ngả hẳn sang phải và đã ngã xuống nếu không có lều bạt đỡ lấy. Tay bà buông thõng, từng chùm dây nhợ xuôi theo như mất hết sinh mệnh, bộ quần áo sặc sỡ nhiều lớp trên người bỗng chốc phai màu. Mục Á vội vã gọi ban quản lý chợ trời, họ có bác sĩ. Nhưng rồi vị bác sĩ lắc đầu như thể cái hạn định kết thúc cuộc đời bà chủ hàng phải là hôm nay, không thể dời sang ngày khác. Mục Á chợt nhớ bà ngoại ở Diệp quốc. Một tháng nữa, bà ngoại sẽ gửi thư như vẫn làm bao năm nay nhưng cô bồn chồn khó tả. Bà ngoại đã già lắm, liệu rằng có khoảnh khắc nào đấy mà thần chết bất chợt ghé thăm bà như đã làm với bà chủ người Xa Vịnh này? Rồi Mục Á chợt nhớ ngày đầu tiên tới đây, cô làm bà chủ hàng phát cáu vì mặc cả từng đồng một, nghĩ lại thấy buồn cười. Từng ấy thứ ập ùa cùng lúc, Mục Á chịu không nổi, cô ôm lấy người phụ nữ xa lạ rồi khóc từng tiếng:

-Bà… bà ơi…

Giờ đây vòng tròn tồn tại của cô chẳng còn ai. Người ta làm quen nhau, thấu hiểu nhau thì lâu mà sao rời đi lại nhanh quá. Mọi người yêu quý cô, thế giới yêu quý cô, hoa trà yêu quý cô, chỉ duy nhất thời gian là tàn nhẫn. Như quá ghen tỵ với Mục Á, nó phải hung ác, làm cô đau đớn mới hả dạ. Cảm giác không tồn tại dần xâm chiếm Mục Á. Nhiều năm trước, vì thứ cảm giác này mà cô bước vào Đông Môn Cao Lầu. Nếu để nó xâm thực tâm trí mình lần nữa, Mục Á không hiểu mình sẽ bước đi đâu. 

Nhưng vòng tròn đó chưa biến mất, bởi cô còn Thát Khan. Chàng khờ đó…

Chẳng còn người trò chuyện ở Cao Lầu, Mục Á xem truyền hình nhiều hơn. Một ngày giữa tháng 7, trên chiếc máy chiếu ba chiều, phát thanh viên thông báo một giáo sư ở học viện Tinh Thấu Tổ đã phát hiện cách phẫu thuật đồng hóa giúp bộ phận cơ sinh học hòa hợp cơ thể con người, nâng cao hy vọng sống cho vô số bệnh nhân lẫn người khuyết tật. Một phát minh vĩ đại làm thay đổi y học. Mục Á nhận ra ngay bởi lẽ Thát Khan vừa hoàn thành đề án đó cách đây hai tháng. Nhưng chỉ có giáo sư cùng mấy cộng sự cười nhe răng lên truyền hình, trong khi Thát Khan thì ở nơi nảo nơi nao. Mục Á dự cảm chuyện không lành.

Chuyện không lành thật. Gặp Thát Khan, Mục Á dần hiểu ngọn ngành. Mọi thành quả của Thát Khan bị vị giáo sư – người anh gọi là thầy – cướp trắng. Ông ta thậm chí gạt Thát Khan khỏi danh sách nghiên cứu, thông đồng cùng các cộng sự nhằm phủ nhận anh. Thát Khan cũng không có bằng chứng để kiện cáo. Vị giáo sư nói cần bản gốc lẫn bản sao báo cáo, anh nộp hết do quá tin tưởng người thầy. Anh kể chuyện mà đôi mắt ầng ậng nước, trông đến tội. Kể cả người ngây thơ cũng biết đau khi bị kẻ khác nẫng mất thành quả lẫn công sức. Mục Á tự hỏi quãng đời tiếp theo của anh sẽ thế nào nếu cứ tiếp tục khờ khạo như thế? Anh bay quá cao, nhìn quá xa mà không để ý giòi bọ bên dưới hay lũ chim ghen tức chỉ chực lôi anh xuống. Có nên tiếp tục? – Mục Á đắn đo. 

Người ta sắp tiến hành phẫu thuật ở một bệnh viện nổi tiếng, tay giáo sư cùng đám cộng sự sẽ đến, giới khoa học cũng tham dự. Thát Khan rủ Mục Á đi cùng. Nghĩ rằng anh muốn lấy lại công bằng nên cô đồng ý. Ít nhất anh cũng ra dáng một người đàn ông Băng Thổ, vả lại cô không thể để anh cô đơn. Nhưng khi tới bệnh viện, Thát Khan chẳng đi tìm vị giáo sư nọ nói chuyện phải trái mà lặng lẽ ngắm nhìn những bệnh nhân hồi sinh trong hình hài mới, cơ thể mới. Một thoáng qua đi, nét buồn bã mấy ngày trước trên mặt anh biến mất, thay vào đó là sự hạnh phúc. Anh nói với Mục Á:

-Tại tôi khờ quá nên đưa mọi thứ cho ông giáo sư. Giờ kiện cáo cũng chẳng đi tới đâu, quan trọng là nhờ phương pháp mới, tôi đã giúp được nhiều người. Vả lại nó cũng hữu ích trong dự án mà tôi làm với thầy gia sư, dự án đó mới là mục đích lớn nhất đời tôi. Đây chỉ là thử nghiệm thôi. 

Dù đã hiểu Thát Khan lẫn niềm hạnh phúc kỳ lạ của anh nhưng Mục Á vẫn đắn đo. Cô đang nhớ lời cha khi xưa. Có thể là ngẫu nhiên nhưng rủi sao, mọi cảnh báo từ cha đang trở thành hiện thực. 

Đương nghĩ, cô bỗng gặp vị giáo sư đáng kính đi tới. Thấy Mục Á, ông ta nháy mắt rủ cô nói chuyện riêng. Cô đồng ý. Tới căng tin bệnh viện, vị giáo sư mời cô tách trà đoạn bắt đầu đối thoại. Ông ta không hề giấu giếm mình hớt tay trên Thát Khan, cũng không ngần ngại đề nghị cô rời xa anh để bước vào vòng tay ổng: một người có địa vị, quen biết rộng, giàu có và khôn ngoan gấp trăm lần gã Thát Khan ngu ngốc. Vị giáo sư cười tự tin:

-Nào, Mục Á, em thông minh, đúng không? Phụ nữ thông minh chọn người theo lý trí, không phải trái tim. Thát Khan chỉ làm ra phương pháp phẫu thuật, còn tôi mới là người phổ biến nó, kiếm được tiền từ nó. Người làm được tiền mới là nhà sáng chế, chính là tôi đây, không phải thằng ngốc kia. Em hiểu chứ? 

Mục Á gật đầu đồng tình với vị giáo sư, lòng nhớ chuyện cũ. Thuở ấy cha đã quay lại làm Đạo Chích Không Trung, ba tháng về nhà một lần, Mục Á cũng đã lớn. Mỗi dịp cha về, cô lại quấn cha như hình với bóng, hỏi ông đủ thứ chuyện về bầu trời vĩ đại ở cực nam thế giới. Thấy Mục Á hiểu chuyện hơn, cha tâm sự với cô ít nhiều, nói về dòng máu Biệt Liên Đại Đế đang chảy trong người cô. Một lần nọ, cha nói:

“Này Mục Á, nếu yêu một người nào đó thì đừng yêu kẻ theo đuổi giấc mơ, như cha chẳng hạn. Đừng yêu gã nào đấy giống cha. Hiểu chứ?”

“Tại sao thế? Con gái yêu người đàn ông giống cha mình nhất, không phải thế sao?”

“Không đâu!” – Cha cô cười – “Những kẻ theo đuổi giấc mơ có hai dạng. Một là kẻ khờ khạo đến tàn nhẫn, hai là kẻ tàn nhẫn đến mức người xung quanh trở thành đám khờ khạo cho hắn bông đùa. Gắn cuộc đời mình cho hai loại người đó, con khóc nhiều hơn cười, đau đớn nhiều hơn hạnh phúc. Vì cưới cha mà mẹ con khổ. Nghe lời cha, được chứ?”

Mục Á nghĩ cha lo xa quá đáng, nhưng cô đánh giá quá thấp dòng máu Biệt Liên trong huyết quản của cha. Người họ Biệt Liên có nhiều thứ hơn người. Có lẽ cha đã nhìn được phần nào tương lai của cô. Tương lai mà ông trông thấy ngày đó chính là thời điểm hiện tại. Mục Á thừa nhận cha và vị giáo sư đang ngồi đây nói đúng, Thát Khan đích thực là kẻ khờ khạo đến tàn nhẫn. Anh ta làm đau người khác, làm đau chính mình. Đắn đo hồi lâu, Mục Á mỉm cười:

-Ngài giáo sư giỏi thật đấy, vậy chúng ta hẹn hò nhé?!

Dứt lời, cô vén tóc chìa bờ má về phía trước. Vị giáo sư đáng kính nhìn ngang ngó dọc đoạn rướn đến chực hôn, nhưng thứ ông ta nhận được không phải lớp má mịn hồng mà là nước trà nóng rãy. Mục Á chưa hề uống một ngụm trà nào là để chờ cơ hội hất nó vào mặt ông ta. Vị giáo sư nhảy như con choi choi, kêu gào:

-Con điếm! Mày làm gì thế?! Tao giết mày bây giờ!

-Thế là nhẹ nhàng lắm rồi, ông giáo sư trộm cắp à! – Mục Á chống cằm cười khanh khách – Nếu Thát Khan không chịu bỏ qua thì cái mà ông nhận được còn khó chịu hơn nhiều. Tạm biệt nhé, đồ ăn cắp!

Mục Á vui vẻ ra về, bỏ lại ông giáo sư luôn miệng chửi bới vì bộ cánh đỏm dáng đi tong. Vụ lùm xùm đó khiến Thát Khan gặp rắc rối ít nhiều nhưng ông giáo sư cũng không làm to chuyện. Ông ta khôn ngoan, kẻ khôn ngoan luôn biết điểm dừng, một bộ quần áo là cái giá quá rẻ. Trên đường về, Thát Khan tỏ ra ái ngại:

-Em không cần phải vậy đâu, Mục Á. Làm thế không ổn chút nào…

-Được rồi, em hứa là chỉ lần này thôi. – Mục Á cười – Lần sau sẽ không có nước trà đâu, mà là một con dao cắm thẳng bụng, đâm trực diện, cắm thật sâu. Và chính tay em sẽ làm việc đó. Đàn bà Diệp quốc giỏi nhiều thứ, kể cả chuyện báo thù. 

Thát Khan há hốc mồm kinh sợ, chừng như tin mọi lời của Mục Á là thật. Cô phì cười. Nói đến thế mà vẫn cứ khờ là sao? Cô rướn người hôn má Thát Khan. Anh chàng ngẩn ngơ như bị búa đập trúng đầu. Cô thủ thỉ hẹn hai ngày nữa tại phòng mình ở Cao Lầu, nói rằng có món quà dành cho anh. Thát Khan gãi đầu ngơ ngáo tiếp. Cô cười phì tập hai. Ngố vẫn cứ mãi là ngố.

Mục Á đã có lựa chọn cho riêng mình. Cô không nghe lời cha. Nếu được, cô muốn xin lỗi ông thật nhiều. Cô luôn lý trí, nhưng riêng lần này, cô nghe theo trái tim mình. Cô cần Thát Khan chấp nhận mình. 

Ta cần người khác chấp nhận ta tồn tại để chính ta nhận thức được bản thân mình đang tồn tại. 

Hai ngày sau, khi bầu trời thành phố ngả màu hoàng hôn, Mục Á tự mình trang điểm. Cô phải làm từ sớm vì váy áo của người Diệp quốc cầu kỳ, nhiều chi tiết rắc rối. Giá như Na Li Nã còn ở đây thì tốt. Rồi cô đánh mắt đậm hơn, dùng nhiều phấn hơn, tô môi đỏ hơn – trước nay chỉ có “người đó” chứng kiến Mục Á trong dáng vẻ này. Nhưng kể cả “người đó” cũng không thể ngờ hôm nay, cô vấn cao tóc bằng trâm cài và kẹp. Cô muốn Thát Khan nhìn thấy nửa sau cổ của mình, muốn anh thấy mình mặc bộ váy áo người Diệp quốc cùng mái tóc vấn cao. Cô dành điều đó cho riêng anh. Khi đã xong xuôi, cô lặng lẽ ngồi trong phòng rồi chờ đợi, cảm nhận vòng tròn tồn tại đang thu hẹp. Có lúc cô sợ anh không đến. Và nếu anh không đến, cô cũng chẳng còn tha thiết tồn tại nữa.

“Ngày trước mẹ biết cha là người như vậy không?” – Cô bé Mục Á mười lăm tuổi hỏi cha.

“Ờ thì có! Mẹ con nhìn nhanh lắm. Cha nghĩ cái gì, tính cái gì, mẹ con nhìn ra hết. Thành ra bài tán tỉnh nào của cha cũng thất bại.” – Cha cô cười.

“Thế tại sao mẹ vẫn cưới cha?”

“Chịu thôi! Cha hỏi mà mẹ con không nói. Mẹ con bảo yêu rồi thì biết sao được?”

Nhưng Thát Khan không lỗi hẹn. Anh tới đúng giờ. Vừa thấy Mục Á, anh ngây người, thân thể cứng đơ còn hai chân sắp lún xuống sàn. Trước mắt anh là một Mục Á khác lạ: váy đỏ, môi son đỏ, tóc vấn cao. Ngày thấy cô ở tòa điện Băng Hóa, anh chỉ say mê rồi truy tìm phần cội nguồn của Mục Á. Nhưng giờ khác, anh hoàn toàn lung lạc trước một thứ mà người Đông Thổ vừa sân si vừa kinh sợ gọi là “nữ sắc”. Anh lắc đầu không thôi, bàn tay hết che miệng lại dụi mắt như chàng thi sĩ đang vô vọng tìm kiếm ngôn từ để diễn tả cái đẹp. Chẳng ai thấy điều anh thấy, chẳng ai biết điều anh biết, cũng chẳng ai hiểu cảm xúc lúc này của anh. Mục Á cười tươi:

-Anh đã bao giờ tính chuyện hôn lễ chưa, chàng mọt sách? 

Thát Khan gãi đầu. Sắc đẹp của người con gái này làm anh không thở nổi, mãi mới cất lời:

-Tôi cũng muốn vậy. Nhưng mà tôi sợ em không đồng ý. Tôi định hỏi vài lần, nhưng nghĩ nó kỳ cục nên thôi…

Mục Á ôm bụng cười. Thát Khan càng thêm ngượng ngùng. Nhưng rồi cô dang rộng tay như mở cả tấm lòng mình về phía anh chàng đeo kính cận. Không còn người đàn ông nào khác, không còn “người đó”, không còn bất cứ ai hay loại suy nghĩ nào xen ngang cuộc đời Mục Á nữa. Tay áo dài lất phất màu đỏ, cổ áo riềm đỏ hơi mở, đôi môi đỏ vẽ đường cong chúm chím. Trông cô tựa thể đóa hoa trà đang đúng thời khắc đẹp nhất vòng đời, nở rộ, thắm màu và thuần khiết:

-Vậy… mừng anh về nhà!

Thát Khan vô thức bước vào vòng tay Mục Á. Thời gian một lần nữa bị Mục Á bỡn cợt. Nó bị ném ra khỏi phòng, gào thét đập cửa cỡ nào cũng không thể chen vào giữa cô và Thát Khan. Cô nhớ hôm ấy mình khóc hai lần, mỗi lần đều để lại vết cào trên lưng Thát Khan. Anh dần yêu thích nửa sau cổ của cô và hỏi mấy ký tự phát sáng kỳ lạ. Cô kể tất cả, không giấu giếm hay hẹn ngày khác. Tuy hơi nghi ngờ độ xác thực do mắc bệnh nghề nghiệp nhưng anh tin lời cô. Một phút cao hứng, anh gọi Mục Á là “công chúa”. Cô cười mỉm. Ngày xưa cha mẹ cũng thường gọi cô là “công chúa”, cô đã nghĩ họ gọi thế cho vui. 

Nếu được nói điều gì đó với mẹ, cô sẽ kể cho mẹ về Thát Khan. Mẹ chắc chắn sẽ cười thật to khi biết chàng khờ đó giống hệt người mà mẹ yêu thương. 

Thế giới luôn xoay vần theo những chiều kỳ lạ. 

Cuối tháng 7, cô rủ Thát Khan đến dãy núi phía tây xem hoa sơn trà. Cô không thể xem hội hoa sơn trà bên Diệp quốc nhưng cô có lễ hội cho riêng mình. Vả lại thư từ bà ngoại cũng kể về hội hoa, cô phần nào bớt nhớ quê hương. Bà ngoại vẫn khỏe, cô thở phào nhẹ nhõm và tự hứa nhất định phải quay lại Diệp quốc một lần. Nhưng ở Hoàng Hôn Cảng, cô có một người bà đặc biệt mà hễ rảnh rỗi, cô lại ra mộ viếng thăm. 

Từ ngày giao trọn trái tim cho Thát Khan, cô trải qua nhiều chuyện, cả vui lẫn không vui. Gia đình họ Thát không ưa cô, dĩ nhiên. Mẹ Thát Khan cho rằng con trai bà phải cưới một tiểu thư danh gia vọng tộc chứ không phải một đứa Sukka như cô. Thát Khan đã tính chuyện sang bên kia Đồng Gió, anh nói Hoàng Hôn Cảng không phải nơi thích hợp để nghiên cứu. Cô tin Thát Khan vì anh nói được làm được. Cô vẫn là Hạ Nga Chi nhưng được ông chủ Cao Lầu xét diện đặc biệt, nghĩa là chỉ làm hợp đồng bình thường, không cần làm mấy vụ cần tình dục đổi chác. Ông chủ làm vậy để trả ơn Mục Á, mà người đàn ông máu lạnh ấy vốn không thích chuyện ơn nghĩa. “Sớm hạnh phúc nhé, Mục Ngỗ Á!” – Ông chủ dặn cô. 

Cô dành hầu hết thời gian rảnh bên Thát Khan. Phiền một điều là từ ngày quen anh, cô phải chuyển sang đi giày đế bệt. Vạn Thế sinh anh nhỏ thó, cô đi giày cao gót thì cao hơn anh nửa cái đầu. Hẳn là nửa cái đầu! Thành thử cô đành cất mớ giày dành cho dịp khác. Và sau nhiều gợi ý, cô rốt cục cũng đi xem nhạc kịch cùng Thát Khan, vở Trà Hoa Nữ. Cô yêu thích vở nhạc kịch đó. 

Trên đường lên núi, Thát Khan hỏi cô:

-Tôi tưởng đất Hoàng Hôn Cảng không trồng được hoa trà? 

-Em cũng không hiểu tại sao bà ấy trồng được?! – Mục Á đáp – Nhưng cứ thử đến xem!

Hai người đến dãy núi phía tây vào một chiều cuối tháng 7. Theo chỉ dẫn để lại, họ vòng ra phía sau dãy núi, nơi ít người qua lại nhất. Rồi hai người cũng tìm thấy thứ mà họ cho rằng không tồn tại. Giữa khoảnh đất trống trong rừng lá kim, một cây sơn trà vươn lên trong màn tuyết trắng. Nó không thách thức thời tiết như các cây xứ bắc mà hòa vào khung cảnh xung quanh. Như yêu cây sơn trà, tuyết cũng không nỡ phủ kín nó mà lắc rắc như bụi bay lên tán lá e ấp màu xanh mướt cùng những bông sơn trà màu đỏ son. Nhìn cây sơn trà, Mục Á cảm thán không thôi, lòng chợt hiểu tại sao bà già người Xa Vịnh giấu nó như giấu vàng. Thát Khan bước quanh, ngắm nhìn những bông hoa rơi rớt bên gốc cây đoạn hỏi:

-Sao không có cánh hoa nào rơi nhỉ? Tôi chỉ thấy rụng bông thôi?!

Mục Á cười mỉm. Thay vì khen cây đẹp, anh toàn hỏi mấy thứ dễ đánh tụt cảm xúc người khác. Nhưng đó mới là Thát Khan mà cô yêu. 

-Sơn trà rụng cả bông, không rụng từng cánh. – Mục Á trả lời – Bởi vì hoa sơn trà sống trọn một đời, chết trọn một kiếp, cả đời chỉ yêu một người duy nhất. 

Thát Khan gãi đầu gật gù, chừng như hiểu ý cô. Anh thông tuệ hàng trăm quyển sách, hàng ngàn lý thuyết nhưng mấy chuyện kiểu này lại hơi chậm tiêu. Mục Á kéo anh ngồi cạnh mình, ngắm cảnh hoàng hôn đang phủ bóng cây sơn trà rồi hỏi nhỏ:

-Hôm nào tới nhà hát nữa, được không? Em muốn xem lại vở nhạc kịch đó!

-Được thôi, em thích à? – Thát Khan ngạc nhiên. 

Mục Á trả lời:

-Em thích bài hát của nó. Em sẽ hát bài ấy cho anh nghe, rồi khi chúng ta kỷ niệm mười năm ngày cưới, hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm… em vẫn sẽ hát bài ấy. 

Thát Khan gật đầu tán thưởng. Đôi lúc Mục Á không thích tính giữ kẽ của anh. Cô đã trao cho Thát Khan mọi thứ mà anh vẫn khách sáo tôn trọng cô quá mức. Nghĩ lại, Mục Á hơi hối hận vì kể quá sớm về thân phận thật của mình cho anh. Cô liền kéo tay Thát Khan, hỏi:

-Này, sao anh cứ im lặng mãi thế? Anh muốn em làm gì nào? Mấy việc nghiên cứu thì em chịu rồi, còn những chuyện khác thì sao? Em có thể làm bất cứ cái gì!

-Bất cứ cái gì? – Thát Khan hỏi. 

-Miễn là trong khả năng! – Cô đế thêm.

Anh chàng ngẫm ngợi, đôi mắt đăm đăm cây sơn trà rồi lại ngoảnh sang cô, chừng như suy nghĩ lung lắm. Mục Á không giục mà kiên nhẫn đợi chờ. Anh trước nay cô đơn, tự làm một mình, ít nhờ vả hay yêu cầu giúp đỡ. Phải là việc cực kỳ hệ trọng, anh mới thỉnh cầu người khác. Cô không chắc giúp được Thát Khan bao nhiêu, nhưng vì đã trao cho anh mọi thứ nên cô sẽ làm hết sức. Sau nhiều đắn đo, anh mở miệng, giọng thẽ thọt, còn cô hồi hộp lắng nghe:

-Lần sau… lúc ngủ với nhau… em đi giày cao gót được không? 

Nói rồi anh ôm mặt như thể vừa phát ngôn cái gì hết sức bệnh hoạn. Mục Á ngẩn mặt. Anh nói bé nhưng cô nghe rõ ràng, không cần thiết hỏi lại, mà có hỏi thì chắc chắn anh không dám nói. Mục Á cười rũ rượi. Cô cười anh vì mong ước nhỏ nhoi quá đỗi, cô cười mình vì nghĩ anh yêu cầu chuyện lớn lao. Chỉ là giày cao gót thôi mà? Cô cười chặp nữa đoạn chui vào lòng Thát Khan. Ừ thì giày cao gót, cứ coi nó là chuyện lớn lao đầu tiền giữa cô và anh vậy. 

Tháng 7 bên Diệp quốc có hội hoa sơn trà. Tháng 7 ở Hoàng Hôn Cảng có lễ hoa sơn trà của riêng Mục Á. Vòng tròn tồn tại của cô chẳng còn ai, chỉ còn mỗi Thát Khan. Cô muốn gặp lại những người xưa cũ nhưng nếu bây giờ, hiện tại hay kể cả sau này vẫn chỉ có Thát Khan, cô vẫn chẳng buồn. Vậy là đủ rồi. Cô bắt đầu ca bài hát từ vở nhạc kịch, cô dành nó cho Thát Khan, riêng anh, mình anh. Không phải bất cứ ai khác.

Vì hoa sơn trà rụng cả bông, không rụng từng cánh. Vì sơn trà sống trọn một đời, chết trọn một kiếp và chỉ yêu duy nhất một người. 

"Này chàng trai, người phương bắc, tóc lấm tuyết, mắt buốt giá, áo sờn trắng, chân giẫm băng

Có buồn không? Vì một mình, vì mỏi mệt, vì đơn côi, không mối tình?

Trời xa xăm, gió căm căm, mây vạn dặm, anh có thấy trà hoa trắng?

Sói hú đông, băng phủ đồng, tuyết mênh mông, anh có thấy trà hoa hồng?

Quạ khóc hờn, sớm mù sương, đường xám tro, anh có thấy trà hoa đỏ?

Không mối tình, chỉ đơn côi, ôm mỏi mệt, khóc một mình… 

…anh có cần Trà Hoa Nữ?

Như nắng sớm, như hoa nở, mơ mộng trong cõi mộng, em đến trong mộng mơ, trán dựa trán, vai tựa vai, lưng kề lưng và ta sẽ hát…

Mừng anh về nhà! Mừng người phương xa!

Về nhà nhỏ, em dang tay, đôi tay nhỏ, em dâng hoa trà đỏ

Về phòng trống, em ôm anh, phủi tuyết băng, tặng anh hoa trà trắng

Về giường đơn, em hôn anh, xua đêm đông, và chúng ta cùng cắm hoa trà hồng

Mừng anh về nhà! Mừng người lữ khách!

Biệt ly khúc hát ly biệt

Biệt âu sầu, biệt tương tư

Bởi em là Trà Hoa Nữ…

Mừng anh về nhà!"

*****************

Hết.
 
Quyển 4 - Chương 1: Quyển 4: Bài ca cánh đen - Quạ không ngoảnh mặt


“Ung thư hả? Bị lâu chưa?”. “Được nửa năm, lại tốn tiền thuốc rồi!” – những mẩu đối thoại này có thể gặp bất cứ đâu trên thế giới Tâm Mộng: trong nhà hàng, bữa tối, buổi hẹn hò, gặp mặt gia đình, lễ hội, chương trình truyền hình… Chẳng mấy ai biết thứ bệnh tật ấy từng gieo rắc nỗi khiếp đảm như thế nào. Ung thư trở thành lọ gia vị để thảy vào cuộc đối thoại nhàm chán hoặc khi không còn gì để nói. Đám tác giả bất tài thường xuyên dùng nó làm tình tiết gây cười cho vở hài kịch nhảm nhí nhất. Thảy vô tội vạ, tới nỗi dân tình bắt đầu dị ứng và gọi những kẻ trò chuyện nhạt nhẽo là “ung thư”. Nền y học Tâm Mộng giờ nghiên cứu những biến chứng vì lạm dụng nội lực, những thương tật vì tai nạn phép thuật, cách kéo dài tuổi thọ, nâng cao thể chất con người nhằm tạo ra siêu nhân, nghiên cứu cuộc sống sau cái chết, vân vân và những chuyện mây mây. Còn ung thư cùng đám bệnh nan y của thời đại cũ chỉ như chứng đau ruột thừa, viêm gan hoặc cảm cúm xoàng. 

Liệt Giả biết một người chết vì ung thư, đó là ông già họ Lập ở quận Mắt Trắng làm chủ một tiệm ăn mà thi thoảng anh ghé qua. Anh vẫn nhớ như in cái ngày ổng hét toáng lên khi nhìn hóa đơn thuốc, gọi bác sĩ là “một lũ cướp” và quyết tâm tránh xa bệnh viện. Nghe đâu hôm lìa đời, gương mặt ổng mãn nguyện đến lạ. Liệt Giả thường kể chuyện này cho hai gã bạn thân. “Thề có Vạn Thế, ông già đó chết thanh thản lắm!” – Anh quả quyết.

Nhưng khi người già đến phòng khám, nền y học Tâm Mộng nhận ra nó chẳng thể giải quyết dứt điểm chứng mất ngủ. Thứ bệnh tật cổ lỗ sĩ ấy vẫn bám riết thế giới này. Hồi làm việc tại thánh đường, Liệt Giả thường tiếp xúc các cựu binh. Họ không than vãn với anh về thương tật, thất nghiệp hay bị vợ con ruồng bỏ. Họ nói về chứng mất ngủ. Họ cần ngủ. Thuở đó, anh chàng thánh sứ Liệt Giả hai mươi tuổi chẳng biết nói gì hơn ngoài động viên, làm lễ ban phước cho đám cựu binh và không quên dặn họ gặp bác sĩ. Vạn Thế chưa chắc chữa lành bệnh tật nhưng bác sĩ có thể. Anh không muốn họ chết đẹp như ông già Lập. 

Năm tháng Chiến Tranh Tài Nguyên ập đến, Liệt Giả mất ngủ nhiều hơn. Anh chưa già nhưng đã là cựu binh. Anh dần đồng cảm với đám cựu binh năm xưa. Những lúc trằn trọc, anh không thể ngừng suy nghĩ. Nghĩ ngày đã qua, nghĩ tháng đã mất, nghĩ năm chẳng còn, người thân, kẻ thù… vô số khung cảnh xuất hiện nối tiếp nhau khiến anh không yên. Và mất ngủ. Liệt Giả có lý do để trằn trọc. Anh không giống hai gã bạn thân của mình vốn chỉ biết mệnh lệnh, nghĩa vụ hay trung thành tuyệt đối với Phi Thiên quốc. Anh thuộc về Vạn Thế, giáo điều và lý tưởng. Anh lờ mờ cảm giác có sai lầm nào đấy trong Chiến Tranh Tài Nguyên, dù chính anh vừa nhận Huân Chương Cánh Đỏ từ chính phủ, dù người ta nói anh đã kết thúc cuộc chiến. Giả dụ có con, anh không chắc sẽ khoe với đứa nhỏ rằng cha nó vĩ đại ra sao như bao ông bố khác vẫn làm.

Liệt Giả cần một thánh sứ làm yên lòng mình, giống các cựu binh đã tìm đến anh. Anh tìm thầy Tây Minh.

Độ ấy thầy Tây Minh ra vào bệnh viện suốt, hỏi mới biết thầy cũng mất ngủ. Liệt Giả lấy làm lạ. Thầy chẳng can dự cuộc chiến, bao năm nay chỉ dạy học hay trông nom Tháp Thánh Sứ. Anh kể chuyện của mình rồi đáo qua vấn đề mất ngủ nhằm tìm chút đồng cảm. Thầy nghe xong thì gật gù:

-Một phần của anh đã chết ngoài chiến trường, những phần còn lại bị dư âm chiến tranh quấy rầy và thêm vài phần nữa sẽ chết đi. Anh cũng thế, ta cũng vậy. Anh bị ám ảnh vì Chiến Tranh Tài Nguyên, còn ta chưa bao giờ quên Thời Đại Thủy Triều. Ta lớn lên cùng nó, sống với nó, chiến đấu chống lại nó. Ta cứ ngỡ đã chiến thắng Thời Đại Thủy Triều nhưng rốt cục nó chẳng đi đâu hết. Nó ở bên trong, làm nên lớp da thịt già cỗi này, làm nên cái gọi là “đại thánh sứ Tây Minh” này. Nó là ta, ta là nó. Thời Đại Thủy Triều hỗn loạn, ta cũng không thể yên bình. Cứ thế, cứ thế, chẳng bao giờ kết thúc. Rồi mất ngủ thôi! 

Thế hệ trẻ như Liệt Giả chỉ biết Thời Đại Thủy Triều qua sách vở, tư liệu. Đó là kỷ nguyên mà các đế quốc thành lập liên minh nhằm tranh giành quyền lực trên khắp thế giới, kể cả đất thánh. Nó khởi nguồn từ thời Bạch Dương Đệ Lục, kéo dài suốt hai thế kỷ và kết thúc bằng một hòa ước cách đây gần ba mươi năm. Chiến Tranh Tài Nguyên chỉ như quả tép pháo so với kho thuốc nổ Thời Đại Thủy Triều khổng lồ. Liệt Giả vẫn nghe rằng kỷ nguyên ấy có hàng vạn chiến binh tranh đấu, vô số chuyện kể những kiếm sĩ dũng cảm hay pháp sư đầy quyền năng, những thánh sứ gần ngang hàng thánh thần, những cuộc thách đấu huyền thoại ở phương bắc, Trận Sông Đỏ vĩ đại ở phía tây thế giới. Hàng lớp thế hệ chiến binh nối tiếp nhau sinh ra, nối tiếp nhau tàn lụi như sóng biển, nên gọi là Thời Đại Thủy Triều. 

-Uống thuốc cũng không ngủ được sao, thưa thầy? – Liệt Giả hỏi.

-Ngủ được. Mấy thứ hóa chất này làm ức chế thần kinh rồi cứ thế ngủ thôi, một mạch đến sáng hôm sau. – Tây Minh giơ túi thuốc – Nhưng anh sẽ ngủ mà không mơ, không mộng đẹp cũng chẳng ác mộng, não bộ hoàn toàn ở trong thế giới không màu sắc, không mùi vị, không hình dáng, không âm thanh, không rung động. Đó gọi là “hư vô” và chỉ cái chết toàn diện mới ở trong hư vô. Ngủ… nó phải đến một cách tự nhiên, tức là bộ não chìm vào bóng đêm nhưng vẫn còn sợi tơ mỏng manh liên kết với thế giới thực. Sợi tơ ấy làm ta mơ mộng, đem lại điềm báo, khơi gợi buồn đau, làm ta tự nhận thức mình là một phần nào đấy hoặc chẳng là gì của thế giới này. Thuốc làm chúng ta chết, không phải ngủ. Chúng ta cần ngủ chứ không phải chết. 

Liệt Giả chống cằm suy nghĩ như vừa phát hiện điều mới mẻ. Anh hỏi tiếp:

-Thầy có bao giờ lo rằng thế hệ sau hiểu sai về mình? Về Thời Đại Thủy Triều? 

-Anh biết gì về Thời Đại Thủy Triều? – Tây Minh hỏi lại.

-Em chịu! – Liệt Giả gãi đầu gãi tai, cười – Em chỉ biết thầy nổi tiếng nhất thời đó. Thầy có thần hộ mệnh Cổ Nhi, thầy nắm giữ ngọn lửa phán quyết. Thầy thúc đẩy các liên minh đặt bút ký bản hòa ước. Chẳng thánh sứ hay chiến binh nào vĩ đại như thầy cả.

Tây Minh lúc lắc đầu chẳng rõ ý tứ. Liệt Giả đã quen điệu bộ không khẳng định cũng chẳng phủ định của thầy. Dạo trước anh thường gọi đấy là tính ba phải, rồi cũng nhờ nó mà thầy cứu anh khỏi vô số rắc rối. Thầy ngẫm nghĩ hồi lâu đoạn nói:

-Có, ta cũng từng lo lắng như anh. Sợ thanh danh bị ô uế, sợ đất nước mất mặt, sợ làm gia đình thất vọng. Từ ngày lên chức đại thánh sứ, ta luôn phấn đấu để vượt lên những nỗi sợ. Ta muốn lịch sử ghi danh mình, để trở thành niềm tự hào cho gia đình, để có chút gì đấy mà lên mặt trước lũ học trò ngổ ngáo như anh. Nhưng sau đấy thì sao? Thế giới Tâm Mộng vẫn thế, các liên minh vẫn xung đột, các đế quốc liên tục áp đặt thống trị lên những bộ tộc thiểu số. Gia đình khó chịu với ta và nói ta lo chuyện bao đồng; nếu ai đó hỏi, họ sẽ tránh nhắc tên ta. Nhiều người nghĩ ta được Vạn Thế gửi đến để trừng phạt kẻ ác, nhưng nào phải vậy? Ta chưa bao giờ ngủ mơ thấy Vạn Thế hay được Nữ Thần Tiên Tri báo mộng. Mơ trúng xổ số thì có! Khì! Buồn đau, phản bội, những gã kiếm sĩ bán mạng cho ác quỷ hòng đặt chân vào Thập Kiếm, lũ Bảy Người Mạnh Nhất chỉ chực kiếm lợi, đám Ngũ Pháp Sư vô tâm trước cảnh thế giới hoang tàn… Thời Đại Thủy Triều là thế. Nhưng không thế hệ tương lai nào biết về Thời Đại Thủy Triều hay rút ra bài học từ nó, như anh là ví dụ. Ba mươi năm sau hòa ước, thế giới vẫn bất đồng, cuối cùng là Chiến Tranh Tài Nguyên. Vậy anh nghĩ ta còn quan tâm mấy thứ danh tiếng tào lao nữa không? 

Nếu không bước vào rồi trở ra từ chiến tranh thì Liệt Giả cũng gán chữ “gàn dở” cho thầy Tây Minh giống gia đình thầy. Ngày anh nhận huân chương, người ta tán tụng anh kết thúc Chiến Tranh Tài Nguyên. Ban đầu anh tự hào lắm, tâm tình lâng lâng bồng bềnh như có quả bóng bay vô hình trong lồng ngực. Nhưng khi quả bóng xì hơi, anh chẳng hiểu mình đã kết thúc điều gì hay mang lại hạnh phúc cho ai, kể cả chính anh. 

-Hai mươi năm tới, chẳng ai hiểu Chiến Tranh Tài Nguyên nữa đâu, tóc đỏ. – Tây Minh tiếp lời – Chúng sẽ nằm trong sách vở, tư liệu, mấy chuyện hù dọa trẻ con, mấy chuyện phiếm làm lũ choai choai máu nóng trở thành chiến binh. Chúng không đến với con cái anh hay thế hệ tương lai, chúng ở lại với anh và chỉ mình anh. Giống như Thời Đại Thủy Triều ở lại với ta. Thời gian khắc nghiệt lắm! Rồi thế giới sẽ biến anh thành người hùng hoặc một tên đao phủ máu lạnh; anh sẽ trở thành công cụ cho một gã muốn ứng cử ghế đại biểu quốc hội, một tay thợ rèn khoác lác, hoặc đơn giản là làm gương mặt đại diện cho đợt tuyển thánh sứ sắp tới. Xem thử không?

Nói rồi Tây Minh rút ra một tập tờ rơi đưa cho người học trò. Trông mặt mình chình ình cùng dòng chữ quảng cáo rất kêu, Liệt Giả ôm bụng cười lớn, có nằm mơ anh cũng chẳng tưởng tượng nổi chuyện này. Cười một chặp, anh bất giác nhớ mẹ. Hồi còn rong ruổi trên những dải núi hẻo lánh ở xứ Thượng Cổ, mẹ thường dặn anh tránh xa nơi đông đúc hay chốn thành thị. Giờ biết đứa con chườn mặt khắp ngóc ngách Phi Thiên thành, bà sẽ im lặng rồi không thèm nhìn mặt anh cả tháng. Kiểu tức giận đó của bà, anh không quên được.

-Thầy có bao giờ chán ghét gia đình hay người xung quanh? – Liệt Giả lên tiếng – Em biết chuyện gia đình thầy. Liệu có bao giờ thầy cảm thấy bất công và muốn quay lưng, rồi… thầy biết đấy… oán trách, thù ghét cả thế giới?

Tây Minh nhướn mắt, bờ trán hằn sâu những rãnh suy tư. Và như nhiều lần khác, người thầy trả lời bằng một câu hỏi:

-Sau này, khi có con, anh muốn kể cho đứa bé biết chuyện gì xảy ra ở Chiến Tranh Tài Nguyên? Những câu chuyện thực sự, không phải mấy thứ xúc động mà người ta hay kể. “Sự thật” kia! Và liệu anh muốn đứa trẻ cảm nhận thời đại đó như mình?

-Không, chắc chắn không, thưa thầy. 

-Vậy đấy! – Tây Minh lúc lắc đầu – Chúng ta chiến đấu để thế hệ tương lai không sống cùng bóng ma quá khứ, để họ không biết những “sự thật” mà chúng ta từng trải qua. Nếu họ thờ ơ thì đó là phần thưởng tốt nhất từ cuộc chiến, ta trân trọng điều đó, anh cũng nên thế. 

Liệt Giả nhíu mày:

-Phải hành động cao thượng sao, thưa thầy? Một thánh sứ cần phải như vậy?

-Không, không cao thượng đâu, chẳng cao thượng tí nào cả! Khì! – Tây Minh cười – Chỉ tự bảo vệ mình thôi. Nếu biết quá nhiều sự thật, người ta sẽ nghĩ khác. Anh hiểu mà…

Liệt Giả im lặng đoạn ngẩng đầu nhìn bầu trời. Nền trời xanh nhạt, mây lợp rợp nắng, đẹp đẽ và an lành. Hồi bé, mẹ thường bảo anh làm vậy mỗi khi mệt mỏi hay buồn phiền. Rồi khi làm việc ở thánh đường, anh cũng khuyên bọn trẻ hệt như mẹ. Nhưng bầu trời chỉ vỗ về người đồng điệu cùng nó, anh thì không. Sau cuộc chiến, thâm tâm anh đã rơi xuống những vực sâu mà ánh sáng chẳng thể rọi đến. Rối trí, Liệt Giả lại nhớ mẹ. 

Dạo này anh chưa gặp mẹ, lần gần đây nhất đã nửa năm. 

Mà gặp mẹ không dễ. Mẹ sẽ tìm anh, hoàn toàn không có chuyện ngược lại. Bà luôn đến mà không báo trước. Thường là lúc anh ngủ say, hay vô tình gặp một vị khách từ miền nam Thượng Cổ xa xôi với chất giọng đặc sệt âm mũi, hoặc nghe thấy tiếng rít của con quạ nào đấy mò đến bãi rác thủ đô kiếm ăn. Mẹ chỉ tới thăm Liệt Giả trong những khoảnh khắc như vậy, đột ngột nhưng nhẹ nhàng. Giữa cơn mộng mị, anh luôn thấy bà xuất hiện trong áo chùng màu cam sậm giống thứ màu phủ lên các triền núi hoang vu phía nam Thượng Cổ, vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt bầu bĩnh với hai gò má hay hồng lên vì lạnh, đôi mắt đen thẫm có dải mục quang tựa vệt sao băng vút ngang trời đêm. Liệt Giả chẳng giống bà điểm nào trừ mái tóc đỏ rực. Mẹ bảo anh giống cha nhiều hơn. Giữa dòng ký ức, anh nhớ mẹ chẳng mấy khi bồng bế hay âu yếm mình như bao bà mẹ khác. Bà đã quá bận bịu với cỗ máy dò tìm kim loại, ngã giá với đám thu mua phế liệu hoặc xua đuổi lũ quạ nhăm nhe cướp đồ ăn của anh – quạ ở xứ nam háu ăn, dữ dằn, lì hơn đá tảng, chúng sẽ tấn công trẻ con nếu không có người lớn bên cạnh. 

Phải đợi lúc đêm xuống, bên đống lửa liêu xiêu, Liệt Giả mới cảm nhận được đôi tay của mẹ. Tay mẹ nứt nẻ, nhiều rãnh lõm sâu tưởng như bị roi gió quất vào quanh năm suốt tháng. Trước khi ngủ, bà luôn ôm vai Liệt Giả, cầu nguyện Vạn Thế và dặn dò anh:

“Đừng ngoảnh mặt với thế giới, Liệt Giả. Nếu một ngày nào đấy có người cầu xin con giúp đỡ, hãy giúp đỡ họ. Và nếu những người khốn khổ chẳng mở miệng cầu xin, hãy giúp họ bằng cả sức lực. Đừng như đại bàng bay cao mà chẳng quan tâm chuyện dưới đất. Đừng như chim ưng lấy giết chóc làm niềm kiêu hãnh. Sống như quạ.”

“Tại sao phải thế hả mẹ?” 

Liệt Giả từng thắc mắc nhưng mẹ chỉ cười, bảo rằng anh còn quá bé. Trẻ con không hiểu chuyện người lớn. Giờ anh mới nhận ra lời của mẹ trĩu mỏi như thầy Tây Minh. Có gánh nặng gì đấy ở lại, giày vò mẹ nhưng bà không muốn anh biết.

Rời miền đất hoang vu của ký ức, Liệt Giả quay về đại lộ lát đá dọc quận Trăng Khuyết của hiện thực. Anh trầm ngâm:

-Thế giới này thật lạ, phải không thầy? Chẳng có thứ gì chuyển động theo một đường thẳng, chúng luôn lệch hướng, phá khỏi khuôn khổ rồi va chạm nhau. Giống hai gã đàn ông lỡ đụng nhau, sau đấy là đấm bốc! Em từng tham quan viện nghiên cứu sinh học, xem những tế bào dưới kính hiển vi. Các tế bào luôn chuyển động, luôn va chạm không ngừng nghỉ. Liệu đây có phải số phận mà Vạn Thế ban cho loài người? Và phải chăng Vạn Thế làm vậy vì ý muốn từ Đấng Sáng Tạo? Phải chăng con người không thể đi vào một đường thẳng? Phải chăng mọi thứ sẽ luôn luôn chuyển động lệch? Chúng ta… chúng ta… nói cùng một ngôn ngữ, cùng phụng sự một đấng tối cao, sử dụng chung một đồng tiền. Thế giới này là đỉnh cao trong giấc mơ loài người; con người Năm Đế Chế Cổ Đại vẫn luôn mơ như thế và chúng ta chính là giấc mơ của họ. Nhưng tại sao hết Thời Đại Thủy Triều lại tới Chiến Tranh Tài Nguyên? 

-Các thánh thần không phức tạp, chúng ta mới phức tạp. – Tây Minh nhún vai.

Liệt Giả bật cười. Anh lại ngẩng đầu ngắm nhìn khoảng không. Trời xanh không thể rọi tới Liệt Giả nhưng anh có thể bay lên để chạm vào nó. Ánh mắt anh trèo thang gió và lội bước trong những sảnh mây. Rồi anh mở lời, chẳng rõ là nói với thầy Tây Minh hay nói cho chính mình:

-Em sẽ rút khỏi Kỳ Thi Tổng Lãnh, mong thầy không giận. Sau đấy em sẽ đến vùng chiến sự ở phương bắc Băng Thổ, miền viễn tây của Hoa Thổ. Bất cứ đâu. Em muốn giúp những tộc người thiểu số giành quyền tự trị, cứu giúp các tiểu quốc kẹt giữa chiến tranh đế quốc, hoặc đơn giản là giúp một gia đình đoàn tụ. Không danh tiếng, không tiền bạc, không đợi trả ơn, không chính trị, không có cái gọi là “đất nước”. Vì con người, chỉ vì con người thôi. Giống những thánh sứ trong chuyện kể cho con trẻ: vô tư, luôn xuất hiện trong đôi cánh và chiến đấu hết sức mình. 

Tây Minh nhíu mày:

-Chiến đấu cho người không quen biết? Sống cuộc đời vô quốc gia, vô chính phủ? Anh là đại thánh sứ, không phải đứa trẻ sống trong thế giới cổ tích, đừng nói ngớ ngẩn vậy. Ai chấp nhận một kẻ như thế? Anh sẽ trở thành kẻ thù của tất cả. Thế giới sẽ xua đuổi anh như đuổi quạ.

Gió biển lùa quận Trăng Khuyết, lùa đại lộ lát đá dọc theo hàng cây dẻ ngựa, lùa tung mái tóc đỏ. Loáng thoáng đâu đây tiếng kêu ken két, tiếng gõ mỏ bới rác. Quạ. Liệt Giả căm thù lũ lông đen này. Tuổi thơ anh nấp sau lưng mẹ vì quạ rồi phải tự đứng dậy chống lại chúng. Ngày chôn mẹ xuống đất Thượng Cổ vĩnh hằng, quạ đến hàng đàn. Chúng bay trên sườn núi, trên nhành cây chết, trên tấm bia mộ không tên dựng vội, cánh vần vũ tô đen khoảnh trời. Chúng không quấy phá anh như mọi khi mà kêu rít điếc tai, tưởng chừng đang nhạo báng đứa trẻ mồ côi. Đứa bé Liệt Giả nghiến răng. Đau khổ. Cô đơn. Giận dữ. Đầy tủi nhục. Thằng bé rời lục địa và thề không bao giờ quay lại.

Nếu tham dự kỳ thi Tổng Lãnh, anh sẽ là đại bàng bay trên Thánh Vực. Chẳng gì vĩ đại hơn. 

Nếu tiếp tục phục vụ đất nước, anh sẽ là chim ưng dẫn dắt hàng trăm thánh sứ cùng hàng ngàn chiến binh. Chẳng gì kiêu hãnh bằng.

Nhưng một khi đặt chân vào con đường của mình, anh sẽ trở thành quạ. Lang thang, nhặt nhạnh, bị xua đuổi, khoác lên mình bộ cánh đen đúa xác xơ, chẳng thuộc về bóng tối cũng như ánh sáng. Kiếp quạ là thế. Anh sẽ trở thành thứ mà mình từng ghét cay ghét đắng, sẽ trở thành quá khứ mà mình từng chối bỏ.

Ngày dựng mộ cho mẹ, anh một mình đối mặt thế giới, chỉ mỗi lũ quạ thăm viếng anh. Chỉ mỗi chúng chứng kiến anh buồn khổ. Ngày mẹ ra đi, mắt Liệt Giả lèm nhèm gió bụi, anh thấy lũ quạ cười mình. Giờ nghĩ lại, anh nhớ rằng chúng chỉ kêu. Quạ không biết nói tiếng người. Có thật chúng nhạo báng anh hay vì lý do nào khác? 

-Quạ vẫn ở đó mà thầy! Chúng chẳng đi đâu cả. – Liệt Giả cười – Nếu đó là cái giá của một thánh sứ thực thụ, em sẽ trả đầy đủ. 

-Vì cái gì? – Tây Minh hỏi.

-Một thế giới hoàn hảo. – Anh trả lời – Em vẫn luôn nghĩ về nó. Đó là lý do em trở thành thánh sứ. Liệu đấy chính là số phận của thánh sứ? Làm thánh sứ phải chăng chính là làm quạ, thưa thầy?

Tây Minh nhăn trán. Nghĩ ngợi một lát rồi thầy đưa anh vỉ thuốc chống mất ngủ:

-Anh mệt mỏi quá rồi, con trai. Nghỉ vài tuần đi, ta cho phép. Về nhà nghỉ ngơi, tập trung chuẩn bị lễ cưới. Đừng nói anh quên nhé?! Này tóc đỏ, lễ cưới cho con gái ta mà không ra gì thì cứ liệu đấy!

Liệt Giả thừ người. May đo lễ phục, mua đồ đạc mới, đặt tiệc, phát thiệp mời… trăm thứ cần sắm sửa mà anh chưa làm xong cái nào. Anh tạm biệt người thầy rồi cuống cuồng chạy về quận Mắt Trắng. Có người đang đợi anh làm chồng, có sinh linh chưa chào đời đang đợi anh làm cha. Đại lộ hút gió, anh chẳng nghe thấy tiếng ken két lì lợm nữa. Dường như con quạ đã rời đi hoặc anh tưởng tượng ra nó. 

Vài tuần sau, một ngày giữa tháng 7, Liệt Giả bước vào thánh đường cùng người anh yêu thương. Thánh đường đơm hoa đỏ kết hoa trắng, người cười người nói rộn ràng, nắng hè tô sáng hình Vạn Thế tạc chìm ở mặt sàn sảnh chính. Tại những hàng ghế trong sảnh, Liệt Giả bắt gặp khách phương xa, đồng nghiệp, đàn em thánh sứ, các đại thánh sứ đáng kính, vài người từng là thù địch còn giờ là bạn, tất nhiên không thể thiếu hai gã bạn thân. Phu nhân của hoàng đế Bạch Dương Đệ Thập cũng dự lễ, Liệt Giả nhớ khi ấy bà đang mang thai đứa con thứ hai. Anh quỳ trước tượng Nữ Thần Tiên Tri, nắm tay vị hôn thê để lắng nghe lời ban phước từ người chứng giám. Giá mẹ ở đây! – Liệt Giả nghĩ. Giá mẹ ở đây. Hẳn bà sẽ chảy nước mắt khi thấy cô dâu của anh thật đẹp trong váy cưới màu bạc, mái tóc vàng kim phủ nửa lưng như tấm rèm dệt bằng tơ, giống hệt những nàng công chúa mà bà vẫn kể cho anh nghe. 

-Dưới sự chứng kiến của Vạn Thế, ta tuyên bố Liệt Giả và Dạ Bích từ nay là vợ chồng. – Người chứng giám nói, tay gấp lại cuốn sách giáo điều – Hai người sẽ sống chung một mái nhà, chung niềm hạnh phúc lẫn đau khổ. Liệt Giả, anh có thể…

Người chứng giám chưa kịp nói “hôn cô dâu” thì Liệt Giả đã ôm chầm Dạ Bích, bế bổng nàng rồi hôn nồng nhiệt. Anh đã chờ quá lâu cho thời khắc này. Tiếng vỗ tay, tiếng huýt sáo, tiếng chúc mừng vang khắp thánh đường. Khung cảnh hạnh phúc và đủ đầy, trái hẳn ngày Liệt Giả cô đơn bên bia mộ dựng vội. 

Hôm ấy quạ không ghé thăm anh. 

Bảy tháng sau, Liệt Giả hớt hải chạy tới bệnh viện. Anh đi vội, không kịp thay thường phục mà vẫn khoác áo chùng thánh sứ. Qua mỗi đoạn đường, tâm trí anh lại xoay mòng mòng như con vụ. Lúc thì tự hào, lúc thì hồi hộp, khi lại ước rằng lễ cưới chưa từng xảy ra. Anh chưa chuẩn bị tinh thần làm cha. Tuổi thơ lang thang rồi Chiến Tranh Tài Nguyên, anh chỉ thấy vô vàn sợi chỉ đứt đoạn, những câu chuyện chỉ có phần mở đầu và những cuốn sách không có bìa sau. Một sinh linh mới sắp chào đời – làm sao chuyện như thế có thể tồn tại? 

Tới khi ẵm đứa trẻ đỏ hỏn trong tay, Liệt Giả mới thôi suy nghĩ. Là con gái. Đứa bé khóc ré từng chặp, đầu nhỏ xíu lơ thơ vài sợi tóc đỏ, bàn tay tí hon quơ quào chực bắt lấy những rung động của thế giới. Các bác sĩ nói vai phải của con bé có vết bớt đỏ, giống hệt vết bớt của anh. Ngắm nhìn con gái, tâm tình anh yên tĩnh như mặt hồ. Anh xem phim, thấy các ông bố hết vui mừng lại khóc vì được làm cha. Nhưng bản thân anh cảm nhận khác. Nó chẳng khác một sự kiện quan trọng hơn ngày thường một tí, na ná như lễ quốc khánh hoặc ngày anh nhận huân chương. Quả thực anh không xúc động nhiều. Chiến Tranh Tài Nguyên đã khoét trái tim anh quá sâu. Nhưng không muốn vợ buồn, anh nâng niu đứa con rồi cười:

-Liệt Trúc. Từ nay tên con là Liệt Trúc.

Ngày ấy quạ không ghé thăm anh.

Làm cha quá đỗi lạ lẫm với Liệt Giả. Anh không mất ngủ vì ác mộng nữa mà vì Liệt Trúc. Con bé ít khi yên giấc, thành thử anh và Dạ Bích cũng mất ngủ thường xuyên. Anh phải chăm lo đứa nhỏ từ bữa ăn đến thay tã. Anh không sợ chiến trường bao nhiêu thì ngán khoản thay tã bấy nhiêu. Liệt Trúc dường như chậm lớn, đã tám tháng mà con bé chưa biết bò, anh đâm lo. Mỗi ngày anh bò quanh Liệt Trúc và hy vọng đứa bé bắt chước theo. Hiềm nỗi con bé dường như không thích anh lắm, nó chưa cười với anh bao giờ. Anh, ngược lại, ngày càng yêu thương Liệt Trúc. Thời gian qua đi, anh dần hiểu niềm vui làm cha. 

Rồi Liệt Trúc cũng biết bò, cái miệng nhỏ bắt đầu gọi “mẹ”, thanh âm tròn trịa rõ ràng. Nhưng vì lý do nào đấy nó chưa gọi “cha”. Con bé vẫn không cười với anh. Hễ anh bế Liệt Trúc, nó chỉ nằm yên một lúc rồi quấy khóc đòi mẹ. Đã lâu lắm anh mới biết cảm giác mong mỏi. Giống ngày thơ bé anh mong mẹ quay về với món đồ chơi phế liệu nào đấy, giống khi thấp thỏm chờ điểm thi tuyển thánh sứ, giống lúc sốt ruột chờ Dạ Bích hồi đáp lời rủ rê hẹn hò. Anh chờ Liệt Trúc gọi mình là cha.

Tháng 12, tuyết phủ trắng Phi Thiên thành. Cứ độ này là Liệt Giả thích nằm lười bên lò sưởi, tiện thì ngủ luôn. Vì lò sưởi mà anh từ chối ở trong những căn hộ hiện đại rộng rãi tiện nghi khác. Mỗi lần nhìn đống củi tí tách cháy sảy lên những hạt vàng nóng rực, Liệt Giả lại nhớ mẹ. Anh chưa quên cái ngày ngồi bên đống lửa chờ mẹ về, ngủ quên rồi thức giấc; trời sáng bảnh nhưng mẹ chưa về. Ngày đó bà mãi mãi không về. Từ ấy anh cười nhiều, vận động nhiều, bù khú bia rượu nhiều, thích nằm bên lò sưởi để cơ thể luôn nóng và tưởng tượng mình không biết lạnh. Nhưng thực lòng, anh đã quên sự ấm áp của thế giới. 

Trong ảo cảnh quá khứ, Liệt Giả bỗng thấy nhột nhột ở thực tại. Liệt Trúc đang bò gần anh, giơ bàn tay nhỏ xíu chạm tay anh, miệng bập bẹ “cha”. Nhưng con bé chưa đủ lớn, lưỡi chưa thể đẩy lên vòm họng nên cứ ngọng líu ngọng lô thành “ba, ba”. Nó không cười nhưng chăm chú nhìn anh, đôi mắt xanh tròn xoe rực rỡ ánh lửa, cũng giống đôi mắt xanh của anh. Liệt Giả bỗng nghẹn mũi. Với anh, nơi ấm áp nhất thế giới là xứ sở khô cằn Thượng Cổ, là đống lửa nhỏ cháy lom dom giữa màn đêm khổng lồ, là khi anh đùa nghịch bên mẹ. Thế giới đã cướp nơi đó khỏi tay anh, vĩnh viễn không trả lại. Nhưng cũng thế giới này tặng anh một chốn ấm áp mới. Mọi sự luôn lạ lùng như thế. Liệt Giả bật cười, nước mắt bất giác chảy dài xuống cằm. Anh bế Liệt Trúc rồi thủ thỉ:

-Lại đây với cha! Này Liệt Trúc, nghe cha nói không? Đừng ngoảnh mặt với thế giới. Đừng như đại bàng bay cao. Đừng như chim ưng kiêu hãnh. Sống như quạ. 

Đứa bé nhoẻn miệng cười, bàn tay nhỏ sờ khuôn mặt người cha. Liệt Giả cười lớn. Lang thang suốt cuộc đời, nay anh đã có nhà để về. 

Hôm ấy quạ không ghé thăm Liệt Giả.

*

* *

Bao năm rồi? 

Đã bao nhiêu năm rồi? – Liệt Giả tự hỏi. 

Liệt Giả không nhớ mình bao nhiêu tuổi. Quá khứ trong đầu gã như dãy kệ sách đổ ngổn ngang, trang giấy xổ vương vãi, gã tiện tay nhặt được mảnh nào thì xem, không rõ chúng thuộc về thời gian nào, cũng không buồn xếp lại. Gã hiếm khi ghé thăm nơi này. Nhưng bằng cách nào đấy, ký ức đang tuôn chảy vào hiện thực của gã, những ký ức đẹp nhất. 

Hiện thực thì khác. Trên cao, các phi thuyền hết đổ nhào lại nã đạn vào nhau, tiếng nổ điếc tai lộng óc tưởng chừng sắp thiêu cháy bầu trời đất thánh Hỗn Nguyên. Các tòa thành khổng lồ vốn lơ lửng giữa không trung nay bị dồn ép thành con đường đá lởm chởm, gai góc trải dài tới cây mẹ Vạn Thế, không phải cây cầu đá đưa chân thánh sứ như thường lệ. Liệt Giả nằm sấp mặt giữa con đường ấy, tóc đỏ phất phơ giữa mùi lửa cháy, mùi sắt thép, mùi máu từ những tử thi nằm la liệt xung quanh gã. Thế giới trong ký ức so với thực tại chẳng hề thay đổi. Vạn vật vẫn chuyển động lệch hướng, không tuân theo một đường thẳng. Chúng luôn va chạm nhau. 

Đằng xa, những bóng người xuất hiện, dàn ra tứ phía rồi bao vây Liệt Giả. Dù tổn thất thế nào chăng nữa, họ vẫn sẽ liều mạng để ngăn gã chạm vào cây mẹ. Liệt Giả nhổm đầu nhìn quanh. Gã chỉ có một mình. Tình cảnh thật khác lễ cưới năm nào, mà thật giống ngày cô đơn bên bia mộ năm nao. Lửa cháy đốt máu, mùi nồng xông óc, Liệt Giả chợt nhớ mẹ. Lửa cháy cuộn gió, mùi tro ám mặt, gã chợt nhớ Liệt Trúc. Chẳng còn nơi ấm áp nào trên thế giới Tâm Mộng dành cho Liệt Giả nữa. Trong khoảnh khắc, gã mệt rũ, đầu gục xuống, khóe mi chảy thứ gì đấy ươn ướt – không trong vắt như nước mắt mà đặc đỏ như máu. 

Trong bài ca hỗn loạn của thế giới, Liệt Giả bỗng nghe tiếng kêu ken két. Gã nghĩ mình đang tưởng tượng. Ngay trẻ con cũng biết đất thánh không hề có quạ. Nhưng tiếng ken két vẫn vang khắp màng nhĩ Liệt Giả. Gã quệt đôi mắt kèm nhèm đoạn ngẩng lên tìm ngọn nguồn âm thanh. Và rồi gã trông thấy một bóng đen đang sải cánh giữa ánh mặt trời gay gắt. Quạ. Là quạ. Nhưng dường như chỉ mỗi gã thấy nó. Có hàng ngàn cặp mắt ở Đất Thánh song chỉ mình Liệt Giả thấy con quạ.

Hôm nay quạ ghé thăm gã. 

Liệt Giả bật cười, ho sặc vì máu nghẹn cổ, lại cười tiếp. Gã đấm ngực liên hồi để từng thớ thịt cảm nhận rõ cơn đau. Đứng dậy. Gã tự nhủ. Đứng dậy. Gã lê thân, tay chân run rẩy. Đứng dậy. Gã bò bằng miệng, bằng mặt, bằng cả tứ chi rồi nhổm lưng. Đứng lên. 

Đứng thẳng lên! 

Liệt Giả cất bước, nhanh dần, nhanh dần rồi chạy tới Vạn Thế. Đám người siết vòng vây. Gã tóc đỏ gầm lớn, lưng trần rớm máu mọc đôi cánh đen tỏa hơi nóng hừng hực rung chuyển mặt đất. Ký ức trộn lẫn hiện tại, trong giây phút chiến trường, gã lại nhớ về mẹ.

“Tại sao phải như thế hả mẹ? Tại sao phải sống như quạ?”

“Vì quạ vẫn luôn ở đó. Dẫu bị xua đuổi thế nào thì quạ vẫn không bỏ rơi thế giới này”. 
 
Quyển 4 - Chương 2: Nhà


Khoảng đầu tháng 3, gió phương bắc dịu hẳn, Phi Thiên thành hửng ấm. Nắng leo qua mây, sà xuống sông Vành Đai Xanh đã tan băng rồi trèo lên các khóm hoa Bạch Tuyết đang nở rộ tô trắng hai bên bờ. Cũng tháng 3, cả thủ đô lao vào công việc như con gấu làm nóng mình sau giấc ngủ đông dài, nhất là đám kinh doanh dịch vụ. Chưa tới lễ quốc khánh nhưng biển hiệu khuyến mãi, giảm giá, tặng quà đua nhau nhoài ra, chen lấn trên những hành lang tháp giải trí – ẩm thực ở quận Mắt Trắng. Trừ khu dân cư, cả quận trong tháng hoàn toàn không ngủ. Bên quận Trăng Khuyết, các tụ điểm tham quan dần đông người và thu hút dân nghệ sĩ đường phố, kéo theo dăm ba lễ hội nhỏ bên đại lộ. 

Tháng 3 ở Phi Thiên thành luôn dang tay ôm ấp những kẻ không thích ở nhà như Hỏa Nghi. Dịp này, gã thường say xỉn ở quán rượu hoặc ngủ gục bên máy chơi điện tử. Luôn luôn thế. 

Cơ mà đấy là Phi Thiên thành của năm trước, năm trước nữa, năm trước nữa nữa… Còn giờ – năm 7518 kỷ Vạn Thế thứ ba – cả thủ đô vẫn chìm trong mùa đông. Tháng 3 nhưng nắng ở đẩu ở đâu, sông Vành Đai Xanh chưa tan băng, cả thành phố như cục mỡ khổng lồ lều nhều đang chảy rệu. Các tháp giải trí vẫn sáng đèn nhưng kém vui, bên quận Trăng Khuyết chẳng có mấy tiếng nhạc tiếng hát. Hỏa Nghi từng thấy một thủ đô buồn thảm hồi năm 7511 sau cuộc chiến tranh biên giới, tới độ một thằng trẻ ranh Hỏa Nghi mười sáu tuổi chơi bời quậy phá cũng cảm nhận được. Thành phố lúc này so với hồi ấy chẳng khác gì. Cùng là thứ không khí cục mỡ đó… cứ lầy nhầy, lều bều, ảm đạm. Hỏa Nghi thấy vậy. 

Gọi là “thấy” vì có thể quan sát bằng mắt thường, không phải cảm giác. Hỏa Nghi đáo qua hai quận và thấy đâu đâu cũng treo cờ rủ. Thánh đường, trường học, khu giải trí, khu dân cư… người ta vẫn tiếc thương Tây Minh dù tang lễ ngài đại thánh sứ đã cử hành được hai tháng. Thủ đô không phải ngoại lệ, cờ rủ ở khắp nơi trên đất nước, Phi Thiên quốc như con đại bàng rũ cánh sau chuyến bay bão tố. Con đại bàng sẽ lại kiêu hãnh, chắc chắn vậy, nhưng sau bao lâu thì chẳng ai biết. Hỏa Nghi càng không biết.

Du lịch sụt giảm, kinh doanh ẩm thực thua lỗ, dịch vụ tiêu điều… đủ thứ khủng hoảng mà báo chí truyền hình ra rả hai tháng nay khiến Hỏa Nghi ù đầu. Mà quả thực thủ đô lặng lẽ hơn nhiều, chủ yếu do vắng khách du lịch Băng Thổ. Họ chẳng còn tâm trí chơi bời khi cả lục địa đương cận kề hố sâu nội chiến. Họp mặt các nước, hội nghị liên minh, hội nghị đa chiều, kéo nhau lên tận Đại Hội Đồng mà tình hình Băng Thổ rối rắm bét nhè hơn canh hẹ. Cái thuyết Liên Minh Phương Bắc tan rã đã cũ rích, lúc này dư luận kháo nhau ngày Băng Hóa quốc sụp đổ. Chẳng mấy ai tin rằng Băng Hóa có thể khai thác lợi ích từ Tuyệt Tưởng Thành xa xôi, mà ngược lại càng tổn hao chi phí vô ích. “Người Băng Hóa không bao giờ tốt, họ sẽ quay sang giết nhau thôi!” – giới thạo tin bình luận. Hỏa Nghi cực lực phản đối luận điệu này. Bởi nếu chuyện xảy ra thật thì chẳng cô gái Băng Hóa nào đến đây, và chẳng còn bờ mông gợi cảm nào thỏa mãn con mắt Hỏa Nghi. Gã coi vòng ba của phụ nữ Băng Hóa như một kỳ quan thế giới. 

Giữa mớ mỡ màng ảm đạm bao phủ thành phố, Liệt Giả như lớp váng dầu cháy xèo xèo khắp phương tiện thông tin. Báo cũ được đào lên, vài thước phim tuyệt mật bỗng xuất hiện trên truyền hình, sau đấy lớp già bắt đầu kể chuyện. Rồi lớp trẻ biết rằng kẻ cầm đầu lũ chó dại miền nam Kim Ngân từng là đại thánh sứ, được tặng thưởng Huân Chương Cánh Đỏ và là chiến binh mạnh nhất Phi Thiên quốc. 

Trách nhiệm thuộc về ai? – Dư luận chất vấn chính phủ. 

Liệt Giả mạnh hơn Bảy Người Mạnh Nhất hay chỉ là tán phét? – Đám chiến binh thắc mắc. 

Liệt Giả có bạn bè không? – Kẻ hiếu kỳ đặt câu hỏi. 

Vợ con Liệt Giả còn sống hay đã chết, nếu còn sống thì cô ta đâu? Đứa trẻ đâu? – Dân săn tin kháo nhau. 

Đám đông, báo chí lẫn dư luận loạn cào cào với những câu hỏi.

Thầy đỡ đầu chết, cha đẻ hiện diện trên sóng truyền hình, nên người đau khổ nhất không ai khác ngoài Liệt Trúc. Con bé phải dùng tên giả để đi học và đăng ký thẻ căn cước. Mấy lần qua chơi, Hỏa Nghi thấy Liệt Trúc y hệt đám mây đen. Con bé vùi mình trong nhạc nhẽo, tai nghe úp kín đầu như muốn biệt lập, ai gọi thì đáp cụt lủn, còn đâu toàn im lặng. Nếu bị hỏi han quá nhiều, nó sẽ khó chịu ra mặt rồi bỏ về phòng. Hỏa Nghi không trách cứ, đang tuổi dở hơi dở hồn mà chịu đựng được như con bé là giỏi lắm. Cực chẳng đã, gã đành khuyên Tiểu Hồ tạm dừng công việc để quay về thăm nom Liệt Trúc. 

Sự tình phức tạp là vậy. Hơn lúc nào hết, dân chúng cần tiếng nói mạnh mẽ từ hoàng đế. Người Phi Thiên đã quen việc đứng trên đỉnh thế giới nên một chút thất thế cũng khiến họ phát rồ. Nhưng ba tháng trôi qua, hoàng đế chỉ phát biểu qua những đoạn băng thu sẵn. Người ta cần ngài xuất hiện công khai, ngài đáp lại bằng một thứ danh – động – tính từ gây nhiều hoang mang hơn trấn an: “Sớm nhất có thể”. 

Và nếu người ta biết vị hoàng đế trên mấy đoạn băng chỉ là thế thân, cả đất nước sẽ rung chuyển. Hỏa Nghi thuộc số ít người tỏ tường chân tướng sự việc. Nhưng gã sẽ chẳng dại mồm bô bô kể lể cho ai khác. Giờ chưa phải lúc. Chuyện can hệ nhiều người, gã cần một kế hoạch kĩ càng, tỉ mỉ. 

Nhưng đấy là khi gã quyết xong vấn đề của mình. Mà “vấn đề” được nói ở đây lại đang nát bét. Vừa nghĩ tới nó, Hỏa Nghi lắc đầu ngán ngẩm đoạn châm lửa đốt thuốc. Từ sau chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, gã hút thuốc quen mồm, quanh đầu thường lởn vởn khói xanh như nhà máy công nghiệp. 

Tháng 3 mọi năm, Hỏa Nghi luôn say khướt hoặc ngủ lang chạ. Còn tháng 3 năm nay, năm sau, năm sau nữa hoặc năm sau nữa nữa… thì đừng hòng. Sớm muộn gã cũng phải vác mặt về “nhà”, gặp gỡ những con người mà trước nay gã luôn ngó lơ hoặc lẩn tránh. Nếu không vì ông bạn tóc đỏ và vì ông anh lắm mồm tối ngày rao giảng bài ca trách nhiệm, Hỏa Nghi đã bỏ quách. Gần hai mươi năm chạy trốn “nhà” của gã nay thành công cốc. 

Thực tế là “nhà” sắp nuốt chửng Hỏa Nghi bằng cái mồm sặc mùi kim khí. Nuốt thật, ăn thật, nhai thật. Không có ẩn dụ hay ý tứ sâu xa nào ở đây. Nếu vẫn sống thờ ơ như trước, Hỏa Nghi sẽ bị tiêu hóa và trở thành bãi chất thải bốc mùi. Vậy nên gã phải đứng lên cho chính mình. Khái niệm này hơi mới mẻ với Hỏa Nghi. Như tự thừa nhận, trước giờ gã chỉ tận tâm cống hiến cho ba thứ: rèn kiếm, những bà chị lớn tuổi và mông (phụ nữ). Gã chưa từng phấn đấu điều gì cho bản thân, giống thằng công tử bột sinh ra trong nhung lụa rồi đạp thang vàng leo bậc bạc mà lớn lên, khỏi cần quan tâm nghĩ ngợi điều chi. Nhưng nay thằng công tử bột phải suy xét bạc vàng nhung lụa từ đâu ra. Và nó, thằng công tử bột nọ, hay chính Hỏa Nghi, bắt đầu nghi ngờ sự tồn tại của mình. 

Dù vậy, Hỏa Nghi sẽ trốn nhà chừng nào bị ép phải về. Trong từ điển nói lẫn viết của gã ít khi nào đề cập chữ “nhà”. 

Một tối tháng 3, Hỏa Nghi lang thang khắp quận Mắt Trắng. Đang là sáu giờ, đôi chân gã nhẩn nha tản bộ mà đôi mắt tham lam ngốn ngấu khung cảnh xung quanh. Những tiệm bánh ngọt thơm phức, những khu giải trí lắc lư tiếng nhạc sau cánh cửa đóng kín, dòng khách bộ hành tham quan, một đám thiếu nữ tóc nhiều màu chuẩn bị tiệc tùng, mông các thiếu nữ; khu vườn nhân tạo lơ lửng giữa trời, vài bà mẹ đang mải chăm lo bọn trẻ, mông bà mẹ trẻ đẹp; mấy quán rượu đông khách, vài cô đào ăn vận sang trọng trong váy dài, mông các cô lấp ló dưới váy; dăm ba cặp tình nhân lang thang trên cầu nối các tòa tháp, mông của cô gái ngây thơ trong sáng mới biết yêu… Vô số hình ảnh âm thanh lẫn mùi vị, Hỏa Nghi tọng hết vào đầu. Đi lâu lâu, gã dừng chân mua đồ ăn vặt hoặc tựa lưng bên cửa kính nhìn trời ngó mây. Cùng lúc đó gã sắp xếp, tái hiện cảnh tượng quận Mắt Trắng trong tâm tưởng. Chưa kịp hoàn thành quận Mắt Trắng tưởng tượng, gã lại tính sang quận Trăng Khuyết thu thập thêm vật liệu xây dựng, làm vội vàng như bị ai thúc ép. Cái đầu gã giờ như công trường, máy xúc cần cẩu chở vật liệu hoạt động hết công suất, còn chính gã là quản đốc gào thét quát tháo mấy tên công nhân lười biếng. Giả như ai đấy biết chuyện đang xảy ra trong đầu Hỏa Nghi, hẳn sẽ nghĩ gã điên nặng. 

Đương hăm hở thi công, tay quản đốc Hỏa Nghi chợt nghe tiếng điện thoại. Bằng một cách thô bạo, từ chốn tưởng tượng gã bị lôi ra thực tại và thấy túi áo mình rung bần bật. Nhìn tên người gọi, gã xị mặt rồi chực cúp máy. Nhưng biết né tránh vô ích, Hỏa Nghi đành trả lời:

-Gì vậy, ông anh? Tôi nói là tôi đi chơi riêng… Sao? Cái gì mà họp mặt gia đình? Ai gia đình với mấy lão già ấy? Mọi năm thiếu mặt tôi, mấy lão vẫn ăn uống bù khú như thường, sao đâu? Cái gì? Quan trọng á? Thôi mà ông anh, nói đỡ tôi một hai câu không được à? Anh chạm mặt mấy lão suốt, biết ăn biết nói, tôi thì nói cái gì? Thằng em này ngu si lắm, chẳng biết gì cả, thôi thì… Này… này! Ông anh?!

Đáp lại Hỏa Nghi chỉ có tiếng tút dài của điện thoại. “Thằng bóng lộn!” – Gã tức mình chửi đổng anh trai. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, tiếng tút dài như tối hậu thư yêu cầu Hỏa Nghi tham dự buổi họp mặt. Ngán ngẩm, gã công tử bột bắt chuyến xe điện về nhà. Gã đang về nhà. Gã phải về nhà. 

Đời người hạnh phúc khi về nhà, kể cả người Băng Thổ có máu phiêu lưu nhất thế giới. Hỏa Nghi thì khác, gã sung sướng khi xa nhà. Hỏa Nghi luôn mong chờ khoảnh khắc chứng kiến nhà cháy rụi, còn mình đứng chống nạnh và ngoác mồm cười thật to trước ngọn lửa. Đó sẽ là ngày tuyệt vời nhất! – Gã mơ màng.

Trên đường ray đệm từ trường, tàu điện lướt qua sông Vành Đai Xanh, tiến vào quận Trăng Khuyết, vun vút dưới những tòa nhà mái vòm rộng lớn hay khuôn viên bảo tàng mờ mờ trong ánh vàng đèn rọi. Thêm mười phút nữa, tàu dừng ở vùng rìa quận. Cửa mở, đa số hành khách lục tục bước xuống, chỉ Hỏa Nghi và số ít người khác không rời chỗ ngồi. Cùng lúc, tiếng nữ phát thanh viên được lập trình sẵn vang khắp tàu:

“Tiếp đến là khu tự quản Đảo Sắt Thép của họ Hỏa, chỉ mở cửa tham quan vào thứ tư, thứ bảy và ngày nguyện. Mong quý khách tuân thủ lịch tham quan. Xin cảm ơn!”



Từ hồi bé tí Hỏa Nghi đã biết nữ phát thanh viên này. Giọng cô ta sau nhiều năm vẫn y nguyên: thanh âm từ cổ họng nhỏ nhắn, trầm ấm dịu tai, không nhuốm màu thời gian hay vấy bụi tuổi tác. Có dạo Hỏa Nghi muốn tìm cô gái để làm quen, cho tới lúc ngã ngửa khi biết đây là chương trình trí tuệ nhân tạo. Một cô gái ảo có giọng nói ngọt ngào, sản phẩm của nhóm nghiên cứu người Đông Thổ - những con người không thể tìm được chỗ đứng ở quê hương. 

Giống hoàng cung, Đảo Sắt Thép cũng chào đón khách du lịch đến thăm thú, nhưng Hỏa Nghi khẳng định chẳng có con khỉ khô nào là lòng hiếu khách hay giới thiệu bản sắc dòng tộc. Họ Hỏa không bao giờ làm từ thiện. Họ Hỏa luôn trưng ra điều kiện làm việc tối ưu hoặc công nghệ tân tiến nhất để nhắm tới những nhà khoa học trong vai khách du lịch, khiến họ so sánh rồi chê trách đất nước mình. Tâm trí người làm khoa học nghiên cứu đều có một con yêu tinh mang tên “bất mãn”, còn Đảo Sắt Thép biến con yêu tinh thành quỷ dữ. Họ Hỏa khai thác chất xám như thế; những con người tinh hoa tới đây, đổi tên cải họ, sống trong guồng máy sắt thép và gọi đó là “nhà”. 

Con tàu lác đác hành khách tiếp tục hành trình, bỏ lại sau lưng ánh sáng đô thị rồi lao vào màn đêm lấm tuyết hướng tây bắc. Được ít phút, Hỏa Nghi bắt đầu trông thấy bóng dáng xù xì của vùng bán đảo đằng xa – một tập hợp gồm nhà hộp, công xưởng vuông vức và nhiều ngọn tháp nhọn như chông. Vùng bán đảo giống khối hình học hoàn hảo đến gai mắt, như thực thể được tạo nên từ những công thức toán học chi li chuẩn mực. Không ngòi bút văn chương nào có thể ẩn dụ nó trong hình tượng đa nghĩa, cũng không tâm hồn nghệ thuật nào đủ sức phóng tác nó dưới vần thơ tiếng hát. Kẻ yêu nhất chẳng thể gọi nó bằng cái tên trìu mến, kẻ ghét nhất như Hỏa Nghi cũng khó mà gán cho nó bằng một biệt danh lố bịch. Nó là Đảo Sắt Thép, vẫn luôn trơ lì góc cạnh như vậy kể từ thời Bạch Dương Đệ Nhất. 

“Hiện đã tới khu tự quản Đảo Sắt Thép. Xin nhắc lại, khu tự quản chỉ mở cửa tham quan vào thứ tư, thứ bảy và ngày nguyện. Nếu không có phận sự tại khu tự quản, mong quý khách ở yên trên tàu. Xin cảm ơn!”



Giọng nữ phát thanh lại vang lên, những hành khách ít ỏi trên tàu liền nhoài về cửa sổ tranh thủ chụp hình vùng bán đảo. Hỏa Nghi uể oải nhúc nhích cơ thể, mười phút nữa là họp mặt gia đình, từ đây tới đó vẫn kịp giờ nhưng gã chẳng muốn xuống tàu chút nào. Đời người phấn đấu đủ mọi cách để vào họ Hỏa còn gã chỉ mong thoát ra, cứ như là nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh? – Hỏa Nghi ngẫm nghĩ. Đảo vệ sinh, vệ sinh sắt thép, đảo toa lét, đảo bốc mùi… gã vừa đi vừa lẩm nhẩm, cố chọn một từ thích hợp dành cho nhà mình. Gã suy nghĩ rất nghiêm túc về chuyện này. 



Lịch sử ghi nhận hồi triều đại Thần Đế còn trị vì Phi Thiên quốc, họ Hỏa đã xây dựng thế lực và có ảnh hưởng ít nhiều tới đất nước. Nội chiến nổ ra, triều đại Thần Đế sụp đổ, họ Hỏa liên minh và dốc sức đầu tư tiền bạc cho ông tổ họ Bạch Dương. Kết quả ra sao ai nấy đều rõ, họ Hỏa trở thành tay chơi xổ số vĩ đại nhất. Để tỏ lòng trung thành với triều đại mới, dòng họ chuyển về thủ đô và sống dưới sự bảo trợ của hoàng đế. Đổi lại, dòng họ hưởng đặc quyền tự quản vùng bán đảo tây bắc, đặt tên là Đảo Sắt Thép. Năm trăm năm đã qua, đặc quyền ấy vẫn vững vàng như chính Đảo Sắt Thép. 

Nhưng ít ai biết trước khi về thủ đô, họ Hỏa từng đặt cơ sở tại Bờ Tây đất nước – cái nôi khai sinh đảng Liên Hiệp Bờ Tây, Đả Thải thành, những chiến binh khét tiếng gan lì máu lạnh và rác thải. Hỏa Nghi từng nghe người ta kháo nhau rằng ông tổ dòng họ làm nghề thu mua phế liệu, hay nói đơn giản là buôn đồng nát. Không chứng cứ lịch sử hay tài liệu nào xác nhận chuyện này; các bô lão trong họ cũng tránh đề cập, nhỡ ai hỏi thì từ chối trả lời hoặc lờ tịt đi. Trường hợp bị truy vấn quá kĩ, các bô lão sẽ trả lời như cái máy: 

“Đừng tin lời đồn bậy bạ, bậc tổ phụ chúng tôi là nhà buôn, nhà khoa học, nhà cách mạng. Bằng chứng? Điều ấy quá rõ ràng và không thể tranh cãi, không cần bằng chứng nào hết!”. 

Những người đứng đầu dòng họ phủ nhận mọi quan hệ với Bờ Tây. Hỏa Nghi nghĩ cánh già phản ứng thái quá. Giả dụ ông tổ từng buôn bán đồng nát thật, Hỏa Nghi sẽ vô cùng tự hào bởi gã là thằng đồng nát chính hiệu. Nếu không nhặt nhạnh đồ phế liệu, gã chẳng bao giờ chế tạo được những thanh kiếm tốt. Nhưng bắt tay vào công việc, Hỏa Nghi mới hiểu mọi phát ngôn cần có sự tính toán, giống những công thức khuôn mẫu tạo nên Đảo Sắt Thép. Bằng cách phủ nhận mọi dính líu với Bờ Tây, dòng họ luôn biểu thị lòng trung thành tuyệt đối với hoàng gia. Bài học họ Chiến nhiều năm trước, họ Hỏa tiếp thu nhanh hơn bất cứ ai. 

Nhắc chuyện cũ, Hỏa Nghi chợt nhớ vùng đồi ở ngoại ô phía đông nam thành phố gọi là Đồi Cánh Cung, nơi từng mang lịch sử huy hoàng của họ Chiến. Ngày bé gã thường trốn học, bắt chuyến tàu điện đến Đồi Cánh Cung để gặp một người chị. Gã thích gặp chị hơn tụ tập chơi bời. Ở đấy gã có một lời hứa trẻ con. 

Gió rét điếng người nhắc Hỏa Nghi rằng gã đang tới cuộc họp gia đình. Chiếc xe điện chở gã chạy theo đại lộ chính cắt dọc bán đảo, vòng sang những cung đường vắng ngắt rồi dừng lại trước tòa nhà trung tâm. Hỏa Nghi xuống xe rồi bước vào tòa nhà. So với bên ngoài, chốn này đông đúc hơn với những toán vệ sĩ canh gác và nhân viên. Có tiếng trò chuyện, có tiếng cười nho nhỏ, có bọt bong bóng nổ lóp bóp trong bình nước lọc, có nhịp điệu hối hả trong bước chân vội vã chuyển tài liệu. Một bản hòa âm không tồi song chẳng thể làm nóng khối kiến trúc đồ sộ đang bao bọc nó với khu sảnh mênh mông hình quạt, mái trần cao vợi gắn đầy máy quay lẫn khe chớp thông gió, các hành lang dài rộng treo vô số bản sao giải thưởng cùng những con người hoạt động như cái máy. Thứ duy nhất khiến không gian ấm áp hơn là vòng ba của mấy cô nàng tiếp tân xinh đẹp. Hỏa Nghi lén dòm dòm mấy cổ, tay gãi gãi cằm, mắt mơ màng tưởng tượng. “Đồ thị pa-ra-bôn hàm bậc ba nghiệm kép, học toán là đây chứ đâu!” – Gã ngẫm ngợi. 

Bị mấy đường pa-ra-bôn sống động ở sảnh níu chân, Hỏa Nghĩ mãi mới lên thang máy. Thang chạy rù rù rồi mở cửa, dẫn gã vào hành lang tầng ba tòa nhà. Ở lưng chừng đoạn hành lang có người đang đi tới đi lui, đôi giày bóng lộn rảo bước sốt ruột. Vừa thấy Hỏa Nghi, người đó đanh mặt. Hỏa Nghi cười giả lả: 

-Xin lỗi nhé, tôi lo cho ông anh quá mà! Ông anh từng nói gia đình ăn cùng nhau, mỗi người đều có phần, đúng không? Trông nè, tôi quý ông anh lắm nên đứng xếp hàng cả tiếng đồng hồ đấy!

Nói đoạn gã giơ túi bánh ngọt mua từ tiệm Con cáo nhỏ, nhưng chừng ấy chẳng làm anh trai gã – Hỏa Dương – vui hơn chút nào. Hỏa Dương kéo tay áo là lượt không nếp nhăn rồi gõ gõ ngón trỏ lên mặt đồng hồ đeo tay, giọng lạnh ngắt:

-Tám giờ có mặt, nhìn xem mấy giờ rồi? Muộn bốn mươi hai phút, là thế nào vậy? 

-Xếp hàng mà! Họp mặt gia đình hoặc con khỉ khô gì đó mặc kệ, ông anh phải được ưu tiên trước, phải không nào?

Hỏa Nghi nhơn nhơn, nhưng vừa thấy anh trai quắc mắt thì cụp xuống như chó cụp tai. Gã dúi vội túi bánh vào tay Hỏa Dương rồi tới căn phòng phía cuối hành lang, nơi có cánh cửa cao ngất màu đen xám cùng tay đấm cửa nạm vàng. Trăm năm lịch sử họ Hỏa nằm trong đó, gọi là Lò Than – một cái tên tức cười. Đáng lẽ Hỏa Nghi phải đến đây từ sáu năm trước cho ra dáng người thừa kế. Nhưng Hỏa Nghi mười tám tuổi bướng bỉnh ngỗ ngược nên thay vì dự họp, cứ ngày này là gã say xỉn hoặc chơi bời thâu đêm trong sáu năm kế tiếp. Giờ gã có cảm giác bỡ ngỡ như ngày đầu đi học, vừa run vừa sợ. Cơ mà trước khi yên thân sáu tấm thì gã phải trông mặt mũi Lò Than một lần. Nghĩ xong xuôi, gã đẩy cửa bước vào.

Lần đầu thấy Lò Than, Hỏa Nghi cảm giác mình sống lộn thế kỷ. Nhờ ánh sáng từ những đài lửa sực mùi dầu, căn phòng hiện diện trong mùi xưa cũ của đồ đạc ngót ngét trăm năm tuổi, di ảnh những vị trưởng tộc từ thời xa xưa, trên hết là lá cờ thêu gia huy họ Hỏa đặt ở bức tường đối diện cửa ra vào. Cờ vốn màu trắng nhưng ố vàng, hình thêu ngọn lửa màu cam đã bung chỉ, ngay cả khẩu hiệu “Lửa sinh tất cả, lửa thiêu tất cả” cũng chữ được chữ mất. Trông nó chẳng khác nùi giẻ ám dầu mỡ. Nhưng Hỏa Nghi biết không đương dưng mà tấm vải vẫn yên vị sau hàng trăm năm, không bị thay thế hay giặt giũ. Nếu một ngày bị trục xuất khỏi dòng họ, Hỏa Nghi sẽ trộm cái nùi giẻ đó đầu tiên. 

Chính giữa Lò Than có bàn gỗ dài, mười bảy ghế tựa lưng thẳng đuột xếp xung quanh, tất cả đều kín chỗ trừ chiếc ghế chủ tọa ở đầu bàn. Mười sáu người đang ngồi bao gồm trưởng lão, đại diện chi thứ và các bậc chức sắc. Họ là hội đồng chủ quản điều hành dòng họ. Hỏa Nghi chỉ nhận ra vài gương mặt thân quen như ông già Hỏa Thâu Đầu – trưởng lão kiêm pháp quan ở Hội Đồng Pháp Quan, kế đến là ông chú mặt nhọn Hỏa Chính. Rồi ông giám đốc tài chính mà Hỏa Nghi không biết tên, nắm trong tay ngân sách của cả dòng họ, mặt lúc nào cũng khăn khăn khó khó như đã táo bón cả tháng, Hỏa Nghi gọi là “lão táo bón”. Rồi một ông chú mặt trẻ măng chuyên làm công tác đối nội đối ngoại, áo quần tóc tai là lượt chẳng kém Hỏa Dương, mấy dạo ghé qua nhà suốt mà Hỏa Nghi cũng không rõ tên. Ngoài ra gã không biết bất cứ đại diện chi thứ nào vì đa phần họ sống ở thành phố khác, một năm về Đảo Sắt Thép dăm ba lần, mà người ở gần thì gã chẳng quan tâm. 

Căn phòng khá nóng vì các đài lửa nồng mùi dầu, phần vì không khí căng thẳng trên bàn họp, trông như vừa xảy ra một vụ cãi vã. Và khi Hỏa Nghi xuất hiện, gã lập tức trở thành cái thùng rác để trút bực dọc. Trông mấy cặp mắt hết lườm lườm lại dò xét, Hỏa Nghi rịn mồ hôi gáy. Nóng như cái lò! – Gã lẩm bẩm. 

-Ồ, “ông” trưởng tộc về rồi kìa! – Hỏa Chính chỉ về phía cửa – Ông trưởng tộc đi chơi vui vẻ chứ? Chúng tôi đợi ông mãi! Mọi người vỗ tay chào đón ông trưởng tộc nào!

Hỏa Chính vỗ tay ầm ĩ trong khi tất cả im lặng. Nếu ở bên ngoài thì Hỏa Nghi đốp chát thằng cha mặt nhọn ngay, không chút kiêng nể. Nhưng trong lò lửa này, gã cảm giác xương thịt da tóc mình chảy rữa như khối sắt bị nung chín. Ở đây gã nhỏ bé. 

Bỏ qua lời mỉa mai của người chú, Hỏa Nghi lặng lẽ ngồi vào ghế chủ tọa. Phía trái, ông già Hỏa Thâu Đầu ngáp dài tỏ rõ thái độ thờ ơ trước ông trưởng tộc trẻ tuổi. Sau nhiều năm, lão già trong mắt Hỏa Nghi chẳng hề thay đổi: vẫn phong thái kẻ cả ta đây biết tuốt, vẫn cái mũi khoằm bự chảng như mỏ con két gắn vào bộ mặt nhăn nhúm, vẫn cái miệng hễ mở ra là tuôn lời khinh khỉnh. Hiện thời Hỏa Thâu Đầu có vai vế lớn nhất, có tiếng nói lớn nhất chỉ sau trưởng tộc, bởi những người già hơn và quan trọng hơn lão đều đã nằm hòm. Giờ cha của anh em Hỏa Nghi nằm liệt giường, lão già được thể lớn giọng cứ như mình là chủ tọa, không thèm liếc Hỏa Nghi:

-Họp mặt gia đình thì nói chuyện vui thôi, không cần cãi cọ làm gì. Ăn uống chứ nhỉ? Đói rồi! – Giọng lão già lè nhè – Này, có chuyện gì mới không, thằng cu? Chuyển chủ đề xem nào! 

“Thằng cu” là ông chú trẻ măng mà Hỏa Nghi không biết tên. Hỏa Nghi ngả lưng hỏi anh trai ngồi phía sau, mới biết người đó tên Hỏa Biệt Pháo. Cái tên hơi tức cười vì Hỏa Biệt Pháo tự đặt lấy, ông ta vốn là người ngoại tộc. Bị hỏi, ông chú trẻ Biệt Pháo liếc nhìn Hỏa Nghi chừng như khó xử song cũng cất lời:

-Tin tức đáng chú ý, thưa bác. Hai tiếng trước, Chợ Rác vừa công bố thành viên mới của Thập Kiếm. Là Chiến Tử. Cháu nghe đâu Chợ Rác muốn chọn Quạ Đen vì được việc hơn, nhưng thành tích của Chiến Tử lớn quá, không bỏ qua được. Hồi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, một mình cậu ta hạ gục nhiều Đầu Sói lẫn Sói Chúa, thực lực rất mạnh. 

-Bọn chợ đen phản ứng thế nào? – Hỏa Thâu Đầu hỏi.

-Không tốt lắm. Nếu cộng thêm Chiến Tử, Thập Kiếm giờ có đến bốn kiếm sĩ và kiếm thuật sư chính danh. Cả bốn người này bị hạn chế hành động do liên quan nhiều đến chính phủ sở tại, không tự do như sáu người kia vốn ngoài vòng pháp luật. Có lẽ từ giờ dân chợ đen sẽ bớt tìm Thập Kiếm, nhưng các chính phủ thì chưa chắc. Băng Thổ, biên giới Diệp quốc và Bắc Thần quốc đang khá loạn, có lẽ các nước sẽ nhờ đến đám này. 

Hai người trao đổi qua lại, Hỏa Nghi hiểu câu được câu chăng. Gã ước rằng mình đã tìm hiểu kĩ hơn trước khi bước vào phòng. Hỏa Chính lên tiếng:

-Hình như còn một người nữa từng được đề cử, sao Chợ Rác không chọn? Thằng đó tên gì nhỉ… tóc đỏ… 

Lão mặt nhọn gãi gãi đầu ra vẻ không nhớ. Biệt Pháo tiếp lời:

-Là Vô Phong, thưa anh. – Ông chú trẻ trả lời Hỏa Chính – Tên này cũng khá, được người Tuyệt Tưởng Thành gọi “thủ lĩnh” không phải chuyện chơi. Hiện giờ hắn bị truy nã, quá tốt cho vị trí Thập Kiếm. Nhưng không hiểu sao Chợ Rác không chọn hắn. Chắc họ nghĩ hắn không bằng Chiến Tử, hoặc hắn trốn kĩ quá, tìm không ra!

Chỉ chờ có vậy, Hỏa Chính liền quay sang Hỏa Nghi:

-Chợ Rác không chọn là may đấy! Này cháu trai, giờ người ta biết thằng tóc đỏ từng vào nhà chúng ta rồi đấy! Cháu nghĩ sao mà để thằng ăn cắp đó đặt chân vào Đảo Sắt Thép vậy? Nghe nói cháu thân thiết với hắn lắm hả? 

Bấy giờ Hỏa Thâu Đầu mới ngoảnh lại nhìn Hỏa Nghi, những người khác cũng chú mục theo lão già mũi khoằm. Hỏa Nghi không biết nói gì hơn trong hoàn cảnh này. Gã nghe được tiếng lửa phất phơ như lụa trước gió, ngửi được cả mùi cũ kĩ từ lá cờ gia huy. Vừa may lúc đó, người phục vụ nói bữa tiệc đã sẵn sàng. Tiếng dao nĩa lanh canh lẫn mùi thức ăn cắt ngang những cái nhìn đang chĩa vào Hỏa Nghi. Gã thực sự biết ơn đám phục vụ.

Nến thắp vàng trên bàn, rượu chát đỏ rót ra, bữa ăn của đại gia đình họ Hỏa bắt đầu với món sườn cừu nướng. Hỏa Nghi định xắt miếng thịt thì Hỏa Chính tiếp lời:

-Cha cháu phàn nàn về cháu nhiều lắm đấy, Hỏa Nghi. Từ bé cháu chẳng chịu học hành mà đánh bạn với lũ du thủ du thực. Được công chúa Lục Châu chọn làm hộ vệ thì lại bắt thân với một tên tội phạm. Ta biết cháu không được giáo dục tốt, cháu trai. Cha cháu thì suốt ngày lướt khướt, cả họ ai cũng biết…

Hỏa Nghi mím môi, tay dao tay nĩa dựng đứng như vũ khí. Cả bàn ngừng lại quan sát sự tình, Hỏa Thâu Đầu thì chẳng can ngăn, cứ cắm cúi ăn uống như chờ kịch hay. Thấy thế, một vị trưởng lão đầu trọc to tiếng nạt nộ:

-Câm mồm và ăn cho xong đi, thằng mặt nhọn Hỏa Chính! 

-Tôi sai câu nào, thưa chú?! – Hỏa Chính nhún vai, điềm nhiên ăn uống – Cha nó từ hồi làm trưởng tộc chẳng làm chuyện gì nên hồn, suốt ngày chỉ đâm đầu vào rượu. Anh ta uống đến mụ mị đầu óc, hành xử như một tên đần độn, văn bản nào cũng ký, thỏa thuận nào cũng gật đầu. Đến nỗi chính phủ coi thường và nghĩ chúng ta là công nhân của họ. Cha nó thế, mẹ nó cũng chẳng hơn gì. Cô ta chưa bao giờ dạy con mình tử tế. Mà đám đàn bà Vinh Môn quốc chỉ giỏi mấy chuyện bao đồng xã hội, chẳng bao giờ quan tâm gia đình…

Hỏa Nghi tức điên, hai tay dộng mạnh mặt bàn làm đĩa sườn cừu nảy lên. Hỏa Dương ngay lập tức nhổm dậy, túm cổ áo em trai ấn xuống. Hỏa Nghi vùng vằng, hầu như chẳng còn quan tâm rằng mình đang ở giữa cuộc họp gia đình. Hỏa Dương vội vàng lôi gã ra ngoài. 

Trên hành lang, Hỏa Nghi chống gối thở hồng hộc như vừa bị ai bóp cổ, mặt mũi đỏ gay đỏ gắt. Đợi gã bình tâm, Hỏa Dương hất hàm:

-Đừng phá hỏng mọi thứ khi nó còn chưa bắt đầu, em trai. Cậu mà đụng một cọng lông của Hỏa Chính, cả nhà chúng ta chuyển khẩu về Chợ Rác. Hiểu chứ? 

Hỏa Nghi lừ mắt nhìn người anh:

-Vậy khi mọi thứ xong hết, tôi được phép đấm vỡ mặt thằng già đó chứ?

-Làm trưởng tộc không phải để đấm vỡ mặt ai, em trai. – Hỏa Dương đáp lời – Hãy bỏ thái độ phổi bò và nhớ một điều, Hỏa Chính không phải “thằng già”, là “chú”. Hãy học cách ăn nói lễ độ.

Hỏa Nghi nhướn mắt trề môi:

-Đừng dạy khôn tôi, ông anh! Anh chỉ là thằng khốn nạn bắt tay với một thằng điên giết cha đẻ. Anh chẳng có tư cách dạy dỗ ai hết! 

Hỏa Dương gật gù:

-Nếu chúng ta thắng, chú chửi anh thoải mái. Còn bây giờ nhìn xem, chú chẳng là cái đinh gì cả…

Nói chưa hết câu, y vung tay tát bốp vào mặt em trai. Cái tát nổ đom đóm làm Hỏa Nghi choáng váng, chân loạng choạng suýt ngã. Gã cảm giác răng hàm trái tứa ra cái gì đấy, đẩy lưỡi vào thì thấy mằn mặn. Hỏa Nghi nổi xung chực trả đũa nhưng hơi nóng từ Lò Than phả ra qua khe cửa buộc gã phải dằn lòng. Anh trai nói đúng, ở đây gã chẳng bằng cái đinh gỉ. 

-Ổn chưa? Ổn rồi thì vào ăn tiếp… – Hỏa Dương vuốt nếp tay áo cho phẳng – …và đừng làm chuyện ngu ngốc. 

Thêm một lần nữa, Hỏa Nghi bước vào căn phòng nồng mùi dầu cháy. Gã trở lại chỗ ngồi rồi tiếp tục bữa ăn. Hỏa Nghi xắt dao cắt thịt cừu và nhận ra nhà bếp làm chưa kĩ, miếng thịt chưa chín tới mà hơi sống, thớ thịt tươm vài giọt máu. Vừa lúc ấy, lão mặt nhọn Hỏa Chính cất lời:

-Ban nãy cháu định làm gì vậy? Này cháu trai, cha mẹ không dạy cháu rằng phải tôn trọng người lớn tuổi à?

Người phục vụ thấy đĩa sườn của Hỏa Nghi chưa chín thì vội xin lỗi, bảo rằng sẽ phục vụ món khác. Nhưng Hỏa Nghi từ chối. Trong đầu gã, những công trình tưởng tượng vẫn tiếp tục thành hình; đây là quận Trăng Khuyết, kia là quận Mắt Trắng, xa xa hơn là Chợ Rác Uất Hận Thành. Còn rất lâu nữa nó mới hoàn thành, nhưng Hỏa Nghi chắc chắn rằng ở vùng tây bắc thành phố tưởng tượng này sẽ không có “nhà”. Gã bật cười đoạn ăn nhồm miếng sườn chưa chín và uống ực ly rượu vang đỏ. Sau đấy gã cười, khóe miệng nhễu giọt máu cừu, máu rượu lẫn máu chảy chân răng vì cái tát từ Hỏa Dương:

-Dạ, là cháu sai. Xin lỗi chú! Cháu sẽ tự kiểm điểm mình. Kìa, mọi người ăn đi chứ! Hôm nay chúng ta họp mặt gia đình mà, vui lên nào!
 
Quyển 4 - Chương 2-2: Quà từ người chết


Cuộc họp gia đình kết thúc trong tiếng cười giòn của Hỏa Chính. Bước ra từ Lò Than, lão mặt nhọn đi cùng một đám mười người, bàn bạc hăng say như thể chính tay lão quyết định vận mạng họ Hỏa. Từ giờ phút đó, Hỏa Chính tỏ rõ thái độ chống đối “ông” trưởng tộc trẻ tuổi. Tranh chấp trong họ không phải chuyện hiếm nhưng công khai như Hỏa Chính thì chưa từng có tiền lệ. Cơ mà với bộ sậu toàn nhân vật quan trọng cùng ông già Hỏa Thâu Đầu chống lưng, Hỏa Chính chẳng sợ ai thậm chí được thể vênh váo mạnh. Phía bên kia, không còn cách nào khác, Hỏa Nghi phải lôi kéo phần còn lại của hội đồng chủ quản. Lý thuyết là thế. 

Nhưng các thành viên còn lại – những tia hy vọng duy nhất của Hỏa Nghi đều lẳng lặng ra về, họa may ông chú Hỏa Biệt Pháo chào trả anh em gã cho phải phép lịch sự. Họ không thể phục vụ một ông trưởng tộc lẫn lộn tên tuổi mình. Suốt cuộc họp, Hỏa Nghi không phát biểu nổi một câu nên hồn vì bận hỏi người này tên gì, người kia xưng hô ra sao. Gã nhớ vanh vách Thiên kiếm tịch, số đo vòng mông gái đẹp nhưng ở phòng họp lại như mắc Hội Chứng Mù Mặt Người. Thêm nữa là trước, giữa rồi sau buổi họp, quá khứ bất hảo của gã cứ tồng tộc tuôn ra từ miệng ông chú. Thành thử không người thông minh nào muốn một thằng ranh ngáo ngẫn như Hỏa Nghi lãnh đạo dòng họ, mà ở hội đồng chủ quản thì chưa ai ngu bao giờ. Khởi đầu tệ hại, Hỏa Nghi hoàn toàn đơn độc. 

-Tôi có anh là được rồi! – Hỏa Nghi cười toe toét đoạn vỗ vai anh trai – Đâu cần mấy người già vướng chân vướng tay? 

Hỏa Dương gạt tay gã, giọng nói bình bình mà ánh mắt sắc như dao mổ:

-Giả sử anh là thành viên hội đồng, em trai à, giả sử như vậy kia! Biết không, em trai yêu quý, hồi năm ngoái anh gặp từng trưởng lão kể cả Hỏa Thâu Đầu, năn nỉ gãy lưỡi để được làm thư ký cho chú mày. Giờ sao? Anh mày khom lưng quỳ gối mà không được gì à? 

Hỏa Nghi ngoảnh đi chỗ khác, không dám nhìn thẳng mặt người anh. Hỏa Dương thở dài:

-Nửa tháng nữa hội đồng họp tiếp, từ giờ tới lúc đó liệu mà sửa đổi. Chú là trưởng tộc, tự biết phải làm gì. 

-Vậy chứ ông anh làm gì mà không giúp tôi? 

-Dọn đống phế thải của chú mày. – Hỏa Dương vuốt phẳng tay áo – Phải giành bằng được những thành viên hội đồng còn lại. Họ đang phân vân, phân vân ngày nào, họ dễ ngả sang Hỏa Chính ngày đó. Anh sẽ gặp riêng họ nói chuyện xem sao. Không còn thời gian nghỉ đâu, em trai. Không còn thời gian nữa. 

Nói rồi y khẩn trương làm việc dù trời đã tối mịt, để lại em trai một mình giữa Lò Than nồng mùi dầu. Hỏa Nghi chán nản về nhà đoạn gọi điện cho Thanh Nhi, gã cần lắm một bàn tay xoa đầu vỗ về mình. Nhưng cô gái không ở đây cũng không rảnh chăm lo gã. Một ngày thất bại của Hỏa Nghi càng thêm bi đát, chẳng có tí điểm sáng nào.

Sớm hôm sau, thay vì trương nứt trong chăn nệm, Hỏa Nghi mò đến thư viện ở phía trong cùng bán đảo. Họ Hỏa tuy số hóa hầu hết tài liệu nhưng không phải tất cả, có những thứ tối mật không nên nằm trong máy tính. Vả chăng nếu thư viện ít người vào ra, nó sẽ sớm thành nhà mồ, vừa xấu mặt dòng họ vừa tốn tiền, các bô lão không thích vậy. Vậy là giữa Đảo Sắt Thép hiện đại tận răng, thư viện vẫn có đất sống.

Mà dường Vạn Thế cố tình chừa lại thư viện cho Hỏa Nghi. Nó là nơi duy nhất trên bán đảo mà gã chịu khó ghé thăm. Ở đấy có nhiều kệ sách lửng lơ trong không trung do dùng vật liệu từ tính, những ảnh chiếu lập thể nhân vật lịch sử dạo chơi khắp cầu thang trông sống động như thật, vài tác phẩm nghệ thuật quý hiếm xuất hiện đâu đấy bên khung cửa sổ, mấy phòng đọc riêng tư trông ra trời biển bên ngoài. Chính giữa sảnh thư viện đặt một quả địa cầu lớn làm bằng đá nằm lõm xuống sàn, tạc hình thế giới Tâm Mộng, liên tục xoay tròn theo đúng chu kỳ ngày đêm. Tuy đã trưởng thành nhưng Hỏa Nghi vẫn khoái quả địa cầu như hồi bé loắt choắt. Gã thực lòng yêu thích nơi này theo kiểu trẻ con. Và cũng giống trẻ con, gã không để ai biết niềm thích thú đó. 

Nhờ thứ cảm tình sâu xa nọ, Hỏa Nghi mới chịu khó nghiên cứu gia phả dòng họ. Bộ gia phả chẳng tối mật gì cho cam, chỉ là dày và dài đến nỗi không ai muốn nghía. Mà có đọc, Hỏa Nghi mới biết nó dây dưa dầu nhớt thế nào. Đảo Sắt Thép chỉ là một trong số muôn vàn bộ mặt của họ Hỏa. 

Họ Hỏa có một chi trưởng cùng năm chi thứ. Các chi thứ phân biệt bằng tên đệm gồm: Thâu, Khởi, Tạc, Hình và Biệt. Trong số này, chi “Thâu” lớn nhất mà đại diện là ông già Hỏa Thâu Đầu, họ sống cùng chi trưởng tại Đảo Sắt Thép. Ba chi “Khởi”, “Tạc” và “Hình” sống ở ba thành phố khác nhau, mỗi chi sở hữu trụ sở riêng. Riêng chi “Biệt” tập hợp những người thay đổi danh tính gia nhập dòng họ, không có trụ sở riêng mà phân bố theo yêu cầu công việc; ông chú trẻ Hỏa Biệt Pháo mà Hỏa Nghi từng thấy ở cuộc họp gia đình là ví dụ. 

Chi trưởng không mang tên đệm mà chỉ có họ, giống anh em Hỏa Nghi hoặc Hỏa Chính. Tuy nhiên chi trưởng sở hữu danh hiệu được ban tặng từ hoàng đế Đệ Nhất, gọi là “Viêm Nhật”. Tên đầy đủ của Hỏa Nghi trong giấy khai sinh cùng thẻ căn cước là “Viêm Nhật Hỏa Nghi”. Cha và anh trai gã cũng tương tự, ông chú mặt nhọn của gã cũng thế. Bình thường không ai gọi danh hiệu nhưng nó sẽ được xướng lên vào dịp lễ quan trọng, đồng thời mang lại kha khá đặc quyền cho người sở hữu. Lúc còn choai choai, Hỏa Nghi tận dụng danh hiệu triệt để từ nợ tiền rượu, ăn chơi đến tán gái. Giờ gã chỉ xài nó khi muốn chôm quyển sách quý hiếm nào đấy từ thư viện. 

Cái ghế thủ lĩnh họ Hỏa mang tính truyền tự, mặc định thuộc về chi trưởng. Con cháu người thừa kế tiếp tục sở hữu danh hiệu Viêm Nhật, ở đây là Hỏa Nghi và con cháu gã. Những người như Hỏa Dương hay Hỏa Chính không có quyền thừa kế; sau khi họ chết, danh hiệu mất theo và con cháu họ không được hưởng đặc quyền. Vấn đề này ban đầu chẳng nhiêu khê vậy. Nhưng vài thế kỷ trước, thời Bạch Dương Đệ Ngũ, dòng họ rối loạn vì đám chi trưởng tranh nhau ghế thủ lĩnh; nhà nhiều con vốn không vui, đằng này tận bảy người con trai. Sau rốt hội đồng chủ quản phải thảo ra luật thừa kế danh hiệu rồi duy trì tới bây giờ.

Đọc cuốn gia phả, Hỏa Nghi để ý chi trưởng luôn có con trai thừa kế suốt năm thế kỷ. Ghế thủ lĩnh lúc đổi qua người anh hoặc người em song chung quy vẫn thuộc về chi trưởng, chính xác tựa công thức toán học. Nhờ cuốn gia phả, Hỏa Nghi nhận ra ghế nhựa, ghế gỗ, ghế bọc da, sa-lông, tràng kỷ, ghế đá công viên, ghế xích đu hoặc như cái ghế xoay mà gã đang ngồi… ông tộc trưởng đặt mông xuống đâu thì đấy là ghế thủ lĩnh họ Hỏa. Bản thân cái ghế rất trừu tượng và chẳng có tí sức mạnh thần thánh nào. 

-Sách theo yêu cầu, thưa ngài!

Nhân viên thư viện mang chồng sách lớn bé mẹ con cho Hỏa Nghi. Chúng tập hợp lịch sử, đặc điểm, ngành nghề chuyên biệt cùng thành tựu của mỗi chi thứ. Ngoài việc làm đẹp mặt bô lão, loại sách này cống hiến trọn đời trong góc thư viện và lẩn tránh đôi mắt con người. Bìa vẫn cứng, giấy mới nguyên, chưa một ai đụng đến. Nếu không vì công việc cháy đít, Hỏa Nghi cũng không đụng đến. 

Vừa đọc sách vừa tra cứu dữ liệu máy tính, Hỏa Nghi dần định hình cục diện dòng họ trong quá khứ lẫn hiện tại. Chi “Thâu” sở dĩ hùng mạnh vì bao thầu nhiều hợp đồng quốc phòng với chính phủ, gần đây nhất là con quái vật Thần Sấm. Hai chi “Tạc” và “Hình” chuyên phát triển lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học thực nghiệm, sản xuất công nghiệp, hệ thống hạ tầng, hệ thống dữ liệu, công nghệ mới. Ba chi tộc này đóng góp rất nhiều tài sản cho dòng họ, cái cằm của lão già Thâu Đầu bởi thế luôn chếch lên góc sáu mươi độ so với mặt phẳng. 

Khác ba chi kể trên, chi “Khởi” khá tách biệt. Thay vì nghiên cứu sản xuất, họ làm công tác giáo dục, cung cấp nhân lực chất lượng cao cho Đảo Sắt Thép, chính phủ và công ty tư nhân. Hoặc đơn giản là gia đình nào muốn tương lai tốt đẹp hơn cho con cái, họ sẽ gửi đứa trẻ vào tay chi Khởi. Vì không can dự nhiều chuyện tiền bạc hay chính trị, người ta gọi họ là “dân làm vườn”. Nhớ lại cuộc họp hội đồng, Hỏa Nghi thấy đại diện bên đó ít phát biểu, cũng không tỏ ý ủng hộ Hỏa Nghi hay ông chú gã. Gã cảm giác chi Khởi không quan trọng ai làm trưởng tộc, chừng nào ngân sách dành cho họ vẫn yên ổn. 

Trẻ nhất trong các chi tộc là chi “Biệt”, mới thành lập hơn một thế kỷ theo chiến lược thu hút chất xám. Chi “Biệt” đảm trách nhiều công việc, từ ngành nghiên cứu truyền thống tới những thứ mà đa số bộ não thiên tài của bốn chi tộc kia không hiểu như ngoại giao, quan hệ công chúng hoặc chạy bàn giấy. Mặc dù đóng góp đáng kể cho dòng họ nhưng vị thế chi Biệt không thực sự rõ ràng. Đọc tài liệu cũ, Hỏa Nghi nhận ra chi tộc này hiếm khi phản đối quyết sách của hội đồng chủ quản. Họ giống cây cầu kết nối các chi tộc, làm trung gian giữa dòng họ với chính phủ hơn là tự mình quyết định cái gì đó. 

Chuyện họ tộc dông dài là thế. Nhưng tóm gọn lại, các chi tộc là cái ghế năm chân cung cấp sức mạnh cho tộc trưởng họ Hỏa. Khốn khổ cho ông tộc trưởng Hỏa Nghi, ba chân ghế đã gãy mà toàn các chân to bự. Khi gã còn mải bia rượu gái gú, ông chú gã đã chăm chỉ thăm nom bợ đỡ Hỏa Thâu Đầu cùng ba chi tộc lắm tiền nhiều của nhất. Do vậy Hỏa Nghi chỉ còn cách đặt niềm tin vào chi Khởi và Biệt. Lựa chọn tồi nhưng gã hết quyền lựa chọn. 

Đọc kha khá sách vở, Hỏa Nghi về nhà ăn trưa. Gã tuân thủ giờ giấc như vậy non tháng nay, đều như chanh vắt. Anh trai yêu cầu như vậy và gã không muốn nghe càm ràm. Cứ tầm giờ này, Hỏa Dương lại xắn tay áo đeo tạp dề, tay đảo chảo tay chao dầu, mặt lạnh ngắt như vị quan tòa đang phán tội mớ thực phẩm. Hỏa Nghi thì chầu hẫu ở bàn ăn như ông chồng đợi bà vợ bếp núc xong, cảm giác vừa khôi hài vừa mỉa mai ở ngôi nhà chỉ có hai thằng đàn ông. Mãi chưa được ăn, Hỏa Nghi cất lời:

-Đám hội đồng thế nào, ông anh? Những người không ủng hộ Hỏa Chính ấy?

Hỏa Dương gõ chiếc xẻng dính vụn thịt, tra thêm ít rượu trắng vào nước sốt trong chảo đoạn lắc đầu:

-Không tốt. Anh vừa gặp ông giám đốc tài chính. Nếu chú mày chưa biết tên thì ông ấy là Hỏa Hình Thạc, chúng ta phải gọi bằng “bác”. 

-Thằng cha mặt táo bón hả? – Hỏa Nghi xen ngang – Lão thuộc chi Hình, giờ cả đám đó đội mông Hỏa Chính lên đầu, anh gặp làm gì?

Hỏa Dương vừa quậy nước sốt nghi ngút khói vừa đáp:

-Hình Thạc từng học chung với cha, quan hệ không tồi. Ông ấy từng ủng hộ cha khá nhiều. Ông ta rất khác biệt, không bị cuốn vào tranh chấp cá nhân, tư lợi hay bị ai điều khiển. Bởi vậy ông ta mới trở thành giám đốc tài chính. Chú mày là trưởng tộc, có quyền lập dự án nhưng nếu Hình Thạc lắc đầu, dự án đừng hòng có tiền. Hỏa Chính ghê gớm cỡ nào, gặp ông ta cũng phải cúi đầu. 

-Thế… ông ta nói gì về tôi?

Hỏa Dương trút nước sốt ra hai đĩa, đặt lên miếng trứng rán mỏng rồi đem ra bàn ăn cùng món bánh bột mì. Sẵn tiện y bật nắp hai chai bia, sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy mới trả lời:

-Nguyên văn là “Thằng ranh con ngu dốt”. Ông ta nói vậy đấy! Hình Thạc không ủng hộ Hỏa Chính nhưng ghét chú mày hơn thế. Ông ta ghét từ sáu năm trước khi chú mày từ chối dự họp hội đồng. Ông ta ghét chú mày vì đem đống biên bản nợ tiền nguyên liệu rèn kiếm. Trên hết, ông ta không thích chú mày đứng vị trí chỉ đạo vì quá thiếu kinh nghiệm. 

Hỏa Nghi tròn mắt vẻ kích động, không phải vì lời chê bai từ ông giám đốc tài chính mà vì thức ăn. Mấy ngày ăn đồ nhà, gã đi hết từ ngạc nhiên này tới lạ lẫm khác. Vài lần gã muốn hỏi anh trai tại sao không làm nghề đầu bếp mà cố sống cố chết học ngành luật. Tất nhiên Hỏa Dương là luật sư giỏi, rất giỏi. “Nhưng sẽ ra sao nếu thằng chả làm bếp?” – Hỏa Nghi tự hỏi. Bánh bột mì ăn kèm nước sốt thịt thêm trứng rán, một bữa trưa có thể gặp ở bất cứ gia đình Phi Thiên nào, mà Hỏa Nghi thấy ngon miệng đến lạ. Gã ngửi được mùi hành tây xắt nhỏ, mùi hạnh nhân nghiền tan, mùi bơ đun chảy, mùi rau thơm thái vụn, mùi của người dồn hết tâm sức vào món ăn. Có một người như thế. Hỏa Nghi biết rõ. Người đó từng đứng bếp, khản cổ gọi Hỏa Nghi ra bàn ăn còn gã cứ hồn nhiên hí hoáy với máy móc. Có một người như vậy. Gã biết rất rõ. 

-Này, nghe anh nói không đấy?

Hỏa Nghi giật mình. Anh trai gọi gã. Thức ăn ngon hoặc cái gì đấy sâu kín hơn thế vừa làm gã mất nhận thức. Hỏa Nghi nhắm mắt nuốt một họng đầy bánh, nước sốt lẫn trứng, nhồm nhoàm:

-Được rồi, vậy là ông mặt táo bón không ưa tôi. Hết nhờ cậy ổng nữa hả? 

Trái ngược em trai, Hỏa Dương ăn uống chậm rãi. Y thưởng thức những món ăn bình thường như đang tận hưởng cao lương mỹ vị. Thỏa mãn được phần nào, y mới từ tốn trò chuyện: 

-Từ giờ hãy thường xuyên ghé thăm Hình Thạc, bất kể ông ta ngả theo Hỏa Chính hay không. Không chỉ riêng Hình Thạc mà cả những thành viên hội đồng khác, chú cũng phải săn đón. Họ đang có định kiến không tốt về chú. Ngày xưa chú ra sao thì tự biết. Anh không nhắc lại, đàn ông không lèm bèm. Nhưng chú phải sửa chữa ngay từ bây giờ. Ngay cả ba chi Thâu, Tạc và Hình, chú cũng cần ghé qua, không trò chuyện thì hỏi thăm sức khỏe. Bọn họ tuy ghét nhưng sẽ không từ chối mời ông trưởng tộc vào phòng khách. Hỏa Chính sở hữu mọi thứ trừ cái “chính danh”, mà chú thì lại có. Xét cho cùng, đây là tranh chấp gia đình chứ không phải đối đầu chính trị. Chẳng ai muốn chuyện nhà mình thành trò cười cho người ngoài, đặc biệt là ở Phi Thiên quốc. Ngoài họ Hỏa còn nhiều dòng họ lâu đời khác, vậy nên thể diện quan trọng gấp ngàn lần tiền bạc. Hôm nay các chi tộc ủng hộ Hỏa Chính, nhưng ngày mai họ sẽ ủng hộ chú nếu cần thiết. Hiểu chứ?

-Vậy mấu chốt là “thể diện”? Hỏa Chính không thể cứ phỉ báng tôi rồi ngồi lên ghế trưởng tộc, mà lão đang chờ tôi hành động ngu ngốc, từ đó mới sinh cái cớ thay thế trưởng tộc? Ngược lại, tôi cần tận dụng tối đa tính chính danh của mình để lôi kéo thành viên hội đồng và các chi tộc? 

Hỏa Dương chĩa mũi dao vào em trai như muốn nói “Là vậy đấy!”. Y cắt miếng bánh lớn đặt vào đĩa cho Hỏa Nghi, tự lấy cho mình phần nhỏ hơn:

-Anh chưa gặp đại diện chi Khởi và Biệt, phần đấy dành cho chú. Sắp xếp công việc rồi đến Vĩ Tiên thành trong hôm nay, chi Khởi sống ở đó. Tính theo phả hệ, họ rất gần gũi với chi trưởng chúng ta. Họ lâu đời hơn mọi chi tộc khác, là thầy giáo của tất cả mọi người. Chắc chú mày vẫn nhớ cha học ở trường đào tạo của chi Khởi?! Rất nhiều người ở đấy biết gia đình ta, họ sẽ chịu nghe chú mày nói. Vấn đề là chú thuyết phục được họ hay không. 

-Tại sao họ chưa ủng hộ Hỏa Chính? – Hỏa Nghi nhăn trán – Lão mặt nhọn đâu ngu tới mức phớt lờ họ, đúng không? Vậy chỉ có một cách giải thích: lão thất bại ở chi Khởi. Phải chứ? 

-Chưa thắng, không phải thất bại. – Hỏa Dương lắc đầu – Anh có nguồn tin bên chi Khởi. Ông chú của chúng ta đã nhiều lần tới đó để tìm sự ủng hộ nhưng các trưởng lão đều từ chối. Hỏa Chính không chịu thua, giờ ông ta đang gặp từng trưởng lão một. Chú phải xen vào càng nhanh càng tốt, không được để Hỏa Chính có thêm lợi thế. Làm việc phải làm từ gốc, chi Khởi là gốc, chú muốn sống thì phải dựa vào họ. Chi Biệt thì để sau hẵng tính. 

Ngụm bia trôi xuống họng làm Hỏa Nghi “ợ” một tiếng rõ to. Gã đốt thuốc, ngẫm nghĩ hồi lâu đoạn nói:

-Liệu có nhất thiết phải thăm chi Khởi trước? Họ không vì lợi nhuận tiền bạc như đám Thâu, Tạc, Hình. Họ hướng đến mục đích sâu xa là ổn định nội bộ và thể diện. Tất nhiên, cũng trừu tượng hơn! Mà thứ trừu tượng thì không cụ thể, “ổn định” hay “thể diện” cũng vậy. Có thể một ngày nào kia họ quyết định quay lưng với tôi và ủng hộ Hỏa Chính, bằng cách đó sẽ chấm dứt tranh chấp, và thế là ổn định, cũng giữ được thể diện. Nó là học thuyết tương đối. Tôi cần một thứ khác, một thứ nhiều tham vọng hơn và thèm khát những lợi ích cụ thể. 

-Chi Biệt? – Hỏa Dương đương ăn bỗng ngẩng đầu – Tại sao? Anh không nói chúng ta bỏ qua họ, nhưng tại sao gặp họ trước chi Khởi? 

Hỏa Dương tựa tay lên thành ghế, nhăn răng cười:

-Công ty nào chịu tuyển một thằng nhân viên nói năng kiểu “tìm kiếm môi trường chuyên nghiệp”, hay là “phát triển năng lực bản thân”, hay “đóng góp những điều lớn lao cho thế giới”? Hay công ty chỉ tuyển những tên nói rằng “tôi cần mức lương năm mươi thùng vàng một tháng” hoặc “tôi cần thêm trợ cấp do di chuyển vất vả”?! Ước mơ lý tưởng chỉ rặt bố láo, tiền bạc quần áo mới là thực! Chuyện ở đây cũng vậy thôi, ông anh. Đã hơn một thế kỷ mà chi Biệt không có trụ sở riêng, quyền lợi hạn chế. Tôi đã xem biên bản họp hội đồng chủ quản, mười năm nay, năm nào họ cũng gửi đơn xin thành lập trụ sở riêng, hoặc gia tăng vai trò quyết sách. Nhưng hội đồng không xem xét hoặc giải quyết rất chậm. Vậy đó, chúng ta là công ty, còn chi Biệt là anh nhân viên trẻ tài năng đang khao khát thể hiện mình, không mơ hồ mà rất thực tế.

-Chuyện chi Biệt vốn nhạy cảm, chú biết mà. Người trẻ chúng ta coi họ cùng một nhà nhưng các trưởng lão không nghĩ vậy. – Hỏa Dương nhướn mày – Việc này khá nguy hiểm. Mà chú mày lấy đâu tự tin họ sẽ ủng hộ mình? Đừng quên cái ghế trưởng tộc đang lửng lơ, Hỏa Chính có thể ngồi lên bất cứ lúc nào, còn chú chẳng có tí thực quyền.

-Cũng giống bầu cử thôi, cử tri bầu cho người hứa hẹn quyền lợi cho họ dù người đó chưa trở thành hoàng đế. Các ông nghị chẳng phải hứa suốt đó sao? Chúng ta đang ở giai đoạn hứa hẹn mà!

Hỏa Dương nhìn em trai, suy nghĩ một lúc lại tiếp lời:

-Chú nghĩ được thì Hỏa Chính cũng nghĩ được. Anh ít nguồn tin bên chi Biệt, không rõ Hỏa Chính đã tới hay chưa. Tại sao chú nghĩ mình còn cơ hội? Nếu chú nói chi Biệt thực tế, họ sẽ theo thực tế là chọn Hỏa Chính chứ không phải chú. 

-Tôi tin là lão mặt nhọn chưa gặp chi Biệt. Hôm qua, chẳng người nào bên đó đi cùng lão. Với cả tính lão khinh người thế nào, anh còn lạ sao? Bảo thằng cha đó chịu nhún nhường đám khác dòng máu như chi Biệt? Cho tôi xin! Nhưng biết đâu Hỏa Chính thay đổi suy nghĩ?! Tôi phải nhanh chân hơn lão. 

Vẫn gương mặt lạnh tanh không cảm xúc, Hỏa Dương thận trọng suy nghĩ, bàn tay vân vê dao nĩa. Y kết thúc bữa ăn trong im lặng và tự mình rửa chén đĩa. Lát sau, y gọi điện thoại sắp xếp cho Hỏa Nghi gặp người bên chi Biệt.



Ở Đảo Sắt Thép, những dinh thự đẹp nhất đều dành cho trưởng lão hoặc các bậc chức sắc dòng họ. Nên lúc nghe chuyện Hỏa Biệt Pháo sống trong một căn phòng nhỏ ở tòa nhà điều hành, Hỏa Nghi cười toe toét, cứ ngỡ ông anh nghiêm túc biết đùa cợt. Phải đợi khi ông chú Biệt Pháo dẫn đi, gã mới tin đó là thật. Qua những hành lang đầy bước chân người hối hả làm việc, Hỏa Nghi không tưởng tượng được cảnh vừa mở mắt ra là mớ tin nhắn công việc đập vô mặt, chưa kể điện thoại lúc nào cũng chực réo lên cắt phựt giấc ngủ. Vậy mà Biệt Pháo đã sống như thế hơn hai mươi năm. 

“Nhà” của Biệt Pháo nằm ngay cạnh phòng theo dõi an ninh, nơi đây yên tĩnh hơn phần nào. Bên trong nhà không nhiều đồ đạc nhưng ngay ngắn ngăn ngắp, mọi thứ ở đúng nơi phải ở và làm đúng phận sự của chúng. Một căn hộ kiểu mẫu. Hỏa Nghi tìm đỏ mắt cũng không ra chi tiết bình thường nào như rác vụn hay sách vở lộn xộn, cứ như vừa bước vào một bối cảnh phim quảng cáo. Hỏa Nghi biết ông anh mình cũng ngăn nắp chỉn chu nhưng còn khuya mới đạt trình độ mẫu mực vô thực này, đây là đẳng cấp khác. 

Trong lúc Hỏa Nghi chưa thôi ngạc nhiên, Biệt Pháo sửa soạn chén đĩa bên máy pha trà. Ông chú trẻ làm việc nhanh nhẹn gọn gàng, ngay cả lời nói cũng đề cập trọng tâm, không lôi thôi rườm rà:

-Hỏa Dương đã gọi điện cho ta. Tình hình hiện giờ đúng là phức tạp, nhưng đừng quá lo lắng, họ Hỏa đời nào cũng có tranh cãi rồi tất cả lại đâu vào đấy. Thực tình chuyện giữa cậu và Hỏa Chính là vấn đề nội bộ chi trưởng, ta không nên can thiệp. Nhưng nếu cậu cần giúp việc chính đáng, ta sẽ cố hết sức. 

Trà chưa uống, chuyện chưa bàn nhưng Biệt Pháo đã rào trước đây chỉ là thảo luận cá nhân, không liên quan tới chi Biệt hay tranh giành ghế trưởng tộc. Hỏa Nghi quay mặt giấu cái nhếch mép. Ông ta dường như không thực sự nể mặt anh trai gã. Cuộc đàm phán bắt đầu theo cách khó hơn gã tưởng tượng.

Biệt Pháo đặt tách trà thiết mộc trước mặt Hỏa Nghi, chỉnh chiếc tách cho thật cân đối rồi mới yên vị. Trên ghế đối diện, Hỏa Nghi có dịp chiêm ngưỡng kĩ lưỡng dung mạo của ông chú trẻ. Biệt Pháo đã hơn bốn mươi nhưng mặt láng trơn không nếp nhăn cũng không cọng ria, cái cằm thuôn dài rất ăn rơ với mái tóc rẽ ngôi mềm mại. Ông ta hơi thấp nhưng hình thể cân đối, khác hẳn những thành viên hội đồng thường mắc triệu chứng bụng phệ, ngược dòng quy luật tuổi bốn mươi bụng bia. 

Tuy không phải trưởng lão hay người đại diện song Biệt Pháo vẫn có ảnh hưởng tới chi tộc. Năng động, mới mẻ, nhiệt tình, khéo léo, khôn ngoan… khá nhiều mỹ từ mà mọi người dành cho ông ta. Thuở nhỏ, Hỏa Nghi đã gặp ông chú trẻ này dăm lần và được cho vài món đồ chơi be bé. Vì có ít nhiều cảm tình với Biệt Pháo, thành thử gã xưng hô cũng khác:

-Đúng là cháu đang gặp khó, thưa chú. Không riêng chú, cháu cần cả chi Biệt giúp đỡ. Cháu cần chú, không phải để làm trung gian hòa giải. Chẳng còn hòa giải nào giữa cháu và Hỏa Chính nữa. Đây là cuộc chiến. Mong chú ủng hộ cháu.

Biệt Pháo bật cười, không rõ vì lý do gì. Ông ta mời Hỏa Nghi dùng trà rồi tự thưởng thức. Hai người im lặng khoảng một phút rồi Biệt Pháo kéo ghế lại gần, lưng hơi rướn về phía trước như đang trò chuyện thân tình:

-Thế này nhé, Hỏa Nghi. Cậu thông minh nên sẽ hiểu lời ta. Chắc cậu biết tại sao chi Biệt bao nhiêu năm nay vẫn không thể thành lập trụ sở riêng? Vì trong mắt bốn chi còn lại, chúng ta là người ngoài, không cùng dòng máu. Bốn chi tộc nhân nhượng lắm mới để ta và một vị trưởng lão có chân trong hội đồng chủ quản, cho có tính dân chủ mà! Nhưng chúng ta có mặt để quan sát chứ không phải đi ngược lại ý kiến của hội đồng. Cậu chưa hiểu tình cảnh trong một quyết sách có hai phiếu phản đối và hai phiếu đồng thuận, còn chúng ta đứng ở giữa. Lúc như thế, nhiều lời đe dọa giải tán chi Biệt cứ thế ập tới. Chà! Nhưng chi Biệt vẫn tồn tại là nhờ những người khôn ngoan đi trước, cá nhân ta không thể phá hoại công sức của họ. Chúng ta nhỏ bé lắm, Hỏa Nghi. Toàn thể chi tộc tính cả cả trẻ con đang đi học ngót ngét hai trăm người, chưa nổi năm mươi gia đình(50). Còn các chi tộc khác? Chi Khởi có một trăm năm mươi gia đình(150), chi Tạc hơn hai trăm(200), chi Thâu gần ba trăm(300). Chưa kể đa phần chúng ta là dân nhập cư, bản thân ta đến từ tận cùng miền nam Hoa Thổ. Chúng ta chưa đủ mạnh. Chà! Phải cần thêm nửa thế kỷ nữa chúng ta mới lớn mạnh, nhưng cho tới lúc đó, ta không chắc chi Biệt đã có trụ sở riêng. Chúng ta phải chờ đợi, mà giờ không phải thời điểm thích hợp để chơi xổ số. Nói thế chắc cậu đã hiểu? 

Hỏa Nghi vuốt cái cằm lún phún râu. Gã nốc hết tách trà sau đáp:

-Cháu không nghĩ Hỏa Chính sẽ để chi Biệt lớn mạnh thêm. Tính cách ông ta thế nào, chú biết rõ nhất. Cháu từng nghe kể về Hỏa Chính, lão có niềm tin sâu sắc vào dòng máu thuần chủng và luôn phản đối người ngoài gia nhập dòng họ. Nhân tiện, để cháu đoán nhé? Hỏa Chính chưa tới đây, phải không? 

Biệt Pháo nhún vai cười, thái độ không rõ ràng. Hỏa Nghi tiếp lời:

-Nếu để Hỏa Chính ngồi lên ghế trưởng tộc, lão sẽ siết chặt luật gia nhập dòng họ đồng thời tăng cường quản lý chi Biệt. Cháu xem biên bản họp hội đồng, thấy lần nào lão cũng đề xuất ý kiến này. Chi Biệt đang cần cháu, cũng như cháu cần chi Biệt. 

-Đừng tự tin thế, cháu trai! – Biệt Pháo nhún vai – Nếu chúng ta ngả theo Hỏa Chính để đổi lấy một thỏa thuận thì sao? 

Hỏa Nghi cười khanh khách:

-Thì mặt trời mọc đằng tây! Hỏa Chính luôn đề cao dòng máu thuần chủng, nếu bắt tay với chi Biệt, chẳng hóa ông ta tự tát vào mặt mình? Chuyện này trẻ con cũng biết, chú thử cháu đấy à?

-Vậy nếu ủng hộ cậu, có chắc chi Biệt được thành lập trụ sở riêng? Cậu có uy tín để thuyết phục hội đồng chủ quản không? Cậu có uy tín để thuyết phục hàng trăm gia đình trong dòng họ? Quan trọng hơn, cậu lấy uy tín từ đâu? Còn nữa, tranh chấp gì cũng cần tiền. Cậu có tiền chưa? Ai tài trợ? Nguồn nào?

Chỉ đợi có thế, Hỏa Nghi liền cúi đầu:

-Cháu không biết những việc đó. Cháu cần một người giỏi và có kinh nghiệm, mong chú chiếu cố. 

Biệt Pháo chép miệng. Ông ta rót trà rồi suy nghĩ hồi lâu. Hỏa Nghi cũng không giục giã, chỉ im lặng để diễn tròn vai một kẻ đang cần sự giúp đỡ. Sau ít phút, ông chú trẻ lên tiếng:

-Hiện giờ ta chưa thể trả lời cậu, Hỏa Nghi. Việc quá lớn, ta và các trưởng lão cần bàn bạc. Nhưng ta không nghĩ bàn bạc sẽ khả quan nếu cậu vẫn đứng yên như bây giờ. Cậu cần thay đổi, cháu trai. Cậu đến đây tìm sự giúp đỡ nên ta sẽ cho cậu vài lời khuyên. Đã bao giờ cậu tự hỏi tại sao Hỏa Chính thu hút được ba chi tộc lớn nhất dòng họ chưa?

“Chắc chắn không phải tiền!” – Hỏa Nghi nghĩ ngợi. Gã nhăn trán nhíu mày:

-Vì lão ta là một học giả? Một sử gia? Thôi nào chú, lão nói những điều mà mọi người đều biết! Lão nói điều mà chính phủ muốn! Cả đời lão chẳng phát hiện được gì ngoài cóp nhặt tài liệu từ người khác!

-Nhưng ông ta vẫn là học giả uy tín, phải không? Ở bên ngoài, Hỏa Chính được vị nể, đó là thực tế. Ông ta diễn thuyết, được phỏng vấn trên truyền hình, đứng giảng bài ở những học viện danh tiếng nhất. Nhờ vậy mà ông ta gây dựng được uy tín trong dòng họ. Cậu là thợ rèn kiếm, cậu có thành tựu nhưng ai biết những thành tựu đó? Cậu cần một người đủ khả năng đẩy mình lên, một ai đấy sở hữu những mối quan hệ rộng rãi. 

Vừa nghe, Hỏa Nghi đã hiểu ngay vấn đề, thậm chí biết cả người có thể giúp mình. Không ai khác ngoài Lục Thiên. Nhưng dẫu thế nào, Hỏa Nghi cũng không bao giờ làm ăn với vị hoàng tử, một mình anh trai gã đã quá đủ. Gã định mở miệng nhờ Biệt Pháo song ông ta đã nói trước:

-Hy vọng lời khuyên của ta giúp ích cho cậu. Mong cậu trả lời sớm. Thời gian gấp gáp đấy, Hỏa Nghi, đừng trễ. Ta có thể chờ nhưng cả chi Biệt không chờ cậu đâu.

Ý tứ của Biệt Pháo rất rõ ràng: Hỏa Nghi phải tự thân vận động để chứng tỏ mình có năng lực. Nếu gã thất bại, mọi nỗ chiến lược của anh em bấy lâu nay đều đổ xuống cống. 

Hỏa Nghi đứng dậy ra về, Biệt Pháo theo chân tiễn gã. Hai người vừa đi vừa bàn chuyện ngoài lề, cười nói khá vui vẻ. Khi ra cửa, Biệt Pháo chợt hỏi:

-Cha cậu khỏe chứ? Bệnh tình thế nào, khá hơn không?

Tâm trí Hỏa Nghi khựng lại. Gã chuẩn bị mọi thứ cho buổi đàm phán, trừ câu hỏi này. Từ một người lịch sự nói năng lưu loát, gã bỗng chốc bối rối khó tả. Hỏa Nghi cười trừ đáp cụt lủn “Dạ, vẫn vậy! Thôi, cháu chào chú!” rồi lên xe điện về nhà. 

Một năm nay, gia đình Hỏa Nghi chỉ còn hai người đàn ông. Hỏa Viên – cha của anh em gã vẫn nằm viện và sống bằng máy móc. 

Vừa về nhà, Hỏa Nghi bảo đám thư ký mang toàn bộ giấy tờ lẫn thư từ mà cha gã để lại, hy vọng có thể lần ra những mối quan hệ hữu ích. Nhưng ở thời đại mà điện thoại lẫn máy chiếu ba chiều quá phổ biến, thư từ thành ra vô dụng. Hỏa Nghi không có quyền truy cập tài khoản thư điện tử của cha mình, nó thuộc hệ thống dữ liệu tuyệt mật mà nếu bẻ khóa, gã sẽ bị đá khỏi ghế trưởng tộc ngay lập tức. Gã cũng không nhờ vả anh trai. Hỏa Dương thông minh, cố nhiên sẽ bắt tay với Lục Thiên thêm lần nữa. Gã không muốn vậy. 

Hỏa Nghi làm việc đến tối mịt. Anh trai bận việc không về, gã khỏi nấu nướng cũng khỏi phiền người giúp việc dọn bữa. Với gã, vài chai bia cộng thêm dăm gói đồ ăn vặt là xong bữa tối. No bụng, Hỏa Nghi đổ kềnh trên sa-lông phòng khách, tay vắt trán nghĩ chuyện hồi chiều. Gã cần một động cơ tên lửa gắn vào mông mới mong bắt kịp Hỏa Chính. Kẻ bán thứ động cơ đó phải là người lắm tiền, có máu mặt trên chính trường hoặc giới kinh doanh, có lợi ích ở họ Hỏa và có máu mạo hiểm. Nhưng tìm đâu ra người như thế?

Nghĩ nát óc không ra, cái tâm thế chán nản lại thủ thỉ vào tai Hỏa Nghi rằng nên dựa dẫm vào kẻ mà gã căm ghét nhất lúc này: Lục Thiên. Có nên chăng? Có nên bắt tay với kẻ nguy hiểm đó? – Gã tính toán. 

Trong lúc Hỏa Nghi cân nhắc nặng nhẹ, chiếc máy chiếu ba chiều phát bản tin thời sự. Truyền hình đang chiếu bức ảnh công chúa Lục Châu bắt tay một người đàn ông đứng tuổi, kèm theo đó là giọng phát thanh viên:

“Diễn biến mới nhất trong quá trình vận động tranh cử. Bộ trưởng ngoại giao Tông Tủy vừa thông báo sẽ ủng hộ công chúa Lục Châu tranh cử. Một động thái rất bất ngờ, khi mà quá nửa đảng Nghiệp Đoàn Miền Bắc đã ủng hộ hoàng tử Lục Thiên. Các nhà quan sát chính trị hết sức ngạc nhiên trước việc này. Chúng ta đều biết Tông Tủy hiện là bộ trưởng ngoại giao, thành viên Pháp Chính Viện và đảng viên kỳ cựu của đảng Nghiệp Đoàn Miền Bắc…”



Nhìn công chúa trên truyền hình, Hỏa Nghi để ý nàng hốc hác nhiều do thiếu ngủ, mất sức và có thể là khóc. Gã nghe phong phanh từ Tiểu Hồ là công chúa đang cử người tìm tên tóc đỏ khắp nơi. Giống gã, Lục Châu đang gồng mình cho một trận chiến không cân sức. Gã biết không nên phiền nàng lúc này song chẳng còn cách nào khác. Công chúa có nguồn lực, nàng có thể giúp Hỏa Nghi. Vả lại sớm hay muộn, Lục Châu sẽ hướng tới Đảo Sắt Thép để tìm sự hậu thuẫn. Nghĩ tới đó, gã quyết định gọi điện hẹn gặp công chúa. 

Hỏa Nghi vừa nhấc máy thì thư ký báo rằng có một luật sư muốn gặp riêng. Gã ngớ người, tự nhận xét mình mấy tháng qua rất đàng hoàng, không nợ tiền rượu cũng không lang chạ gây hậu quả với cô gái nào. Nếu tính chuyện ngắm mông là hành vi xâm hại tình dục, gã thấy hơi quá đáng. Nhưng rồi Hỏa Nghi cũng đồng ý và đón tiếp vị khách.

Thay vì mang trát hầu tòa hay đơn kiện cáo như Hỏa Nghi lo lắng, ông luật sư đặt một tập phong bì trước mặt gã:

-Tôi đế để thực hiện di chúc. Đây là phần của cậu…

Hỏa Nghi giật thót, nhổm dậy: 

-Khoan? Ông nói gì? Di chúc? Ông già tôi làm sao? 

-Ông già? Ý là cha cậu? Không! Tôi không quen hay làm việc với cha cậu. Ồ, xin lỗi, tôi cứ tưởng cậu đã biết! Tôi đến để thực hiện di chúc của đại thánh sứ Tây Minh. Trong di chúc, ngài đại thánh sứ yêu cầu tôi gửi cái này cho cậu. – Ông luật sư gõ tay lên tập phong bì – Mời cậu ký xác nhận vào đây!

Hỏa Nghi ký giấy mà không khỏi cảm giác kỳ cục. Gã mở phong bì, lôi ra một tập sổ sách cùng một phong thư. Tập sổ sách là bảng kế toán thu chi của một công ty hóa chất phía đông Phi Thiên quốc. Phong thư thì được niêm kín, bọc trong mảnh giấy ghi chữ “Gửi Hỏa Nghi” to tướng, chừng như đại thánh sứ muốn gã phải đọc cái này trước. Mảnh giấy viết:

“Gửi Hỏa Nghi
Nếu cậu đang đọc thư nghĩa là Vô Phong đã trở thành tội phạm hoặc ngồi tù, và Lục Thiên đã đạt được mục đích. Ta không hy vọng lá thư này sẽ đến tay cậu. Nhưng nếu cậu cầm thư trên tay, tức là số phận phải vậy. 
Trong trường hợp này, ta thỉnh cầu cậu chăm sóc Tiểu Hồ. Con bé rất mạnh mẽ nhưng đấy chính là vấn đề. Có lẽ giờ này con bé đang ở Diệp quốc. Đất nước đó bình yên, an toàn nhưng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ. Xứ sở phương đông luôn dữ dằn với người phương tây chúng ta. Ta sợ Tiểu Hồ gặp nguy hiểm. Ta biết cậu sắp đối phó những vấn đề nội bộ họ Hỏa, mà có lẽ khi ta viết thư này thì cậu đã phải lo công việc rồi. Nhưng nếu được, mong cậu giúp đỡ Tiểu Hồ chu đáo. Về phần Lục Châu, ta không lo lắng nhiều, con bé cứng rắn hơn vẻ ngoài. Nhưng nếu Lục Châu cần giúp đỡ, mong cậu không từ chối. Về phần Liệt Trúc, một lần nữa, chân thành và đầy cảm kích, ta hy vọng cậu sắp xếp thời gian ghé thăm đứa trẻ. Liệt Trúc đáng thương. 
Ta thực lòng không muốn đòi hỏi cậu nhiều như thế nếu Vô Phong chưa xảy ra chuyện. Mong cậu thông cảm. Bù lại, ta cũng có quà cho cậu. Đừng mở phong thư mà đem tới chỗ Tông Tủy, bộ trưởng ngoại giao. Ông ấy là bạn thân với gia đình ta, ông ấy sẽ nâng đỡ cậu. Nếu hình thức cuộc chiến ở họ Hỏa vẫn như mọi khi, thì cách thức truyền thống lạc hậu này có thể giúp cậu phần nào. Về sổ kế toán, nó rất phức tạp, một bức thư không thể nói hết. Nhưng cậu thông minh, cậu sẽ hiểu. Đừng làm mất sổ kế toán.

Ngày 30 tháng 5 năm 7517
Tây Minh

Tái bút: cậu chưa trả sách cho ta.
Tái bút 1: ta thật hồ đồ, nếu thư này được gửi nghĩa là ta đã chết. Nên mọi quyển sách mà ta có sẽ được chuyển giao cho cậu. Có thể cậu sẽ tìm thấy ít tiền lẻ trong đó.
Tái bút 2: đừng làm mất sổ kế toán.”

Phần ngày tháng cho biết Tây Minh viết thư này vào năm ngoái, khi đã nghỉ hưu và chuẩn bị tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Thời gian đó đại thánh sứ làm nhiều việc, nhưng Hỏa Nghi chưa từng nghĩ đại thánh sứ quan tâm mình. Đang chết đuối bỗng vỡ được cọc, gã cười toe toét. Bây giờ, nếu được, gã chỉ muốn ôm hôn thắm thiết bộ xương khô của đại thánh sứ thay lời cảm ơn. Tông Tủy? Bộ trưởng ngoại giao? Gã sẽ gặp ông già đó. 
 
Quyển 4 - Chương 3: Jeh-7400


Họ Hỏa không phải chỗ cho mấy ông già nhậu nhẹt cà kê thi nhau ca ngợi tổ tiên. Nó là một tập đoàn khổng lồ gồm nhiều công ty lớn nhỏ hoạt động từ công nghiệp quốc phòng tới giáo dục, chưa kể hệ thống chi nhánh. Trung bình mỗi ngày, Đảo Sắt Thép tiếp nhận hàng ngàn dự án và ra hàng trăm quyết định. Việc nhiều vô kể, nhất là với ông trưởng tộc Hỏa Nghi. Những ngày tháng 3 rét mướt, gã hầu như làm bạn với máy tính cùng bốn bức tường phòng làm việc. Gã cần Thanh Nhi hơn bao giờ hết. Khốn thay, cô gái bận việc chưa về. 

Thực tế là mỗi chi tộc quản lý các công ty của riêng mình, trưởng tộc chỉ phê duyệt những dự án thực sự lớn. Hỏa Nghi cũng không rảnh hơi tỏ vẻ siêng năng, nhưng gã cần hiểu cách thức hoạt động của mỗi chi tộc. Nếu phát hiện hoặc nghi ngờ điều bất thường, gã có quyền yêu cầu đại diện chi tộc tới để giải trình. Hỏa Nghi đã luôn chờ cơ hội này để sỉ vả các bậc cha chú. Ba ngày sau cuộc họp hội đồng chủ quản, gã gọi Hỏa Thâu Đầu đến. Trong danh sách sỉ vả của gã, lão già mũi khoằm xếp đầu bảng. 

-Vậy mày mời ta trà nước nãy giờ là vì cơ sở dữ liệu? – Hỏa Thâu Đầu hơi cúi xuống, mắt gườm gườm, cái mũi khoằm to bự che quá nửa khuôn miệng – Mày dự tính gì thế, cháu trai? Mày muốn gì ở nó?

-Cháu nghĩ đây là việc cần thiết, thưa ông. – Hỏa Nghi cười thân thiện – Cháu không thể điều hành công việc nếu không biết các dự án quan trọng, mà đa phần chúng thuộc dữ liệu cấp bốn trở lên. Mong ông giúp đỡ! Cháu cần quyền truy cập Jeh-7400.

Nói rồi gã đẩy đĩa bánh quy chấm mứt cam – món mà Hỏa Thâu Đầu nghiện nặng – về phía trước, trông ân cần như người cháu thăm ông. Chẳng có sỉ vả nào ở đây, Hỏa Nghi dành chúng cho dịp khác, giờ gã cần ra dáng một người cháu biết điều để vuốt ve các ông già khó tính. Gã cần chạm tay vào cơ sở dữ liệu. 

Cơ sở dữ liệu hay còn được gọi là Jeh-7400 dựa theo tên đề án phát triển. Năm 7400, họ Hỏa xây dựng một kho thông tin tập hợp hồ sơ cá nhân, công ty tập đoàn, các dự án kinh doanh, những vấn đề tuyệt mật, vân vân. Cơ sở dữ liệu tự quản lý chính nó bằng hệ thống trí tuệ nhân tạo, con người chỉ có vai trò giám sát và sửa chữa. Tất tần tật mọi thứ của họ Hỏa nằm trong Jeh-7400 trừ những thứ chưa được số hóa hoặc không ai muốn số hóa như bộ gia phả. Nhờ nó mà Hỏa Nghi phát hiện dự án cải tạo Thiết Thù, đồng thời khám phá ra anh trai mình bắt tay với hoàng tử Lục Thiên. 

Theo luật, tộc trưởng có quyền biết tất cả về cơ sở dữ liệu. Đây là một trong những thứ “chính danh” mà Hỏa Nghi sở hữu, cũng là thứ mà ông chú ruột gã đang thèm khát. Nắm được Jeh-7400 là nắm lấy xương sống họ Hỏa, biết được kha khá bí mật của Phi Thiên quốc. Nhưng bản thân luật lệ không rõ ràng, nhất là trong tình cảnh Hỏa Nghi ngồi chẳng vững trên cái ghế trưởng tộc chân gãy chân lành. 

-Không được, ta không thể để mày vào “Gie” được! Mày thiếu kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm để nắm bắt “Gie”!

Người già nói năng khó nghe, đụng từ khó càng trọ trẹ. Khổ nỗi lớp già họ Hỏa không chịu thua bọn trẻ ở bất cứ lĩnh vực nào. Thay vì đọc “Jeh” với âm gió thoát qua kẽ răng, ông già Hỏa Thâu Đầu cứ “Gie, gie” suốt làm Hỏa Nghi bấm bụng cười. Ho khan vài tiếng, gã nói:

-Cháu làm mọi việc vì lợi ích dòng họ, thưa ông. Việc hoàng đế sử dụng Thần Sấm trước thời hạn đã đến tai quốc hội, họ đang yêu cầu giải trình và giữa tháng sau, chúng ta phải có câu trả lời thích hợp[1]. Bằng không cả dòng họ sẽ gặp rắc rối với tòa án tối cao. Chắc ông biết bọn công tố viên ở đất nước này thích lấy lòng dân chúng cỡ nào, mà gặp con cá lớn như vậy thì dễ lên cơn rồ lắm!

-Ta có thể bảo Hỏa Chính đi thay…

Thâu Đầu chưa nói hết, Hỏa Nghi đã cười nhe răng. Cả thế giới đều biết họ Hỏa vừa thay trưởng tộc, bảo Hỏa Chính đi chả khác nào tự bôi gio trát trấu vào mặt trước quốc hội. Nhìn ông già mũi khoằm hằm hằm mặt như con két sắp gào tướng lên, Hỏa Nghi liền đấu dịu, mồm nói tay đẩy đĩa bánh quy chấm mứt cam:

-Cháu biết chuyện tòa án, thưa ông. Quốc hội đang chĩa mũi dùi vào chúng ta và cháu phải hứng chịu chỉ trích. Nếu không biết gì về dự án, cháu sẽ khiến dòng họ trở thành trò cười. 

Ông già mũi khoằm nhai bánh quy sồn sột. Lão muốn lên giọng khinh thường đứa cháu trai như thường lệ nhưng có hai thứ ngăn lại. Một là bánh quy ngon, tất cả đều làm bằng tay, không phải thứ tẹp nhẹp vớ vẩn mua ngoài tiệm – thằng cháu hiểu ý lão. Hai là Hỏa Nghi nói đúng và sự tình thậm chí phức tạp hơn thế. Suy tính một lúc, Thâu Đầu chỉ vào đứa cháu bằng hai ngón tay kẹp bánh quy:

-Mày tưởng cứ hiểu biết công nghệ, bấm máy tính nhoay nhoáy là biết về “Gie” sao? Không đâu cháu trai! Trong “Gie” có vô số bí mật như thỏa thuận giữa chúng ta và chính phủ. Bí mật không phải kho báu, nó là cái bẫy thử thách con người. Cháu trai, mày chưa học cách tiếp nhận bí mật, gìn giữ nó và ngậm miệng trước những kẻ tò mò. Mày nên biết các bí mật vỡ lở đa phần vì con người, không phải do máy móc. Và mày biết không, khi nằm trên giường gái điếm, thằng đàn ông “phóng” rất nhiều thứ trong đó có cả bí mật. Thẳng thắn nhé, ta không tin mày, cháu trai!

Hỏa Nghi gật gù:

-Cháu từng vào cơ sở dữ liệu, thưa ông, tầng bốn, dự án cải tạo Thiết Thù[2]. Cháu biết nó phức tạp và rộng lớn. Đúng như ông nói, hiểu biết máy tính không phải tất cả. Cơ sở dữ liệu phức tạp hơn thế.

Hỏa Thâu Đầu bĩu môi nhún vai như thể thằng cháu vừa hiểu được thế nào là tôn ti trật tự. Nhưng lão mới nghĩ đứa cháu đã chịu im mồm thì Hỏa Nghi tiếp tục lải nhải:

-Nhưng chẳng còn thời gian nữa, thưa ông. Chúng ta phải trình diện vào tháng tư và cháu sẽ đứng ra đối chất với chính phủ. Ngộ nhỡ cháu lỡ mồm lỡ miệng thì… ông biết đấy…

Hỏa Nghi bỏ lửng câu nói rồi tự lấy một miếng bánh quy nhai rôm rốp, mặc ông già mũi khoằm gườm gườm mình. Gã cố tình diễn vai một đứa cháu ngổ ngáo, quậy phá và có thể làm xấu mặt dòng họ ngay tại quốc hội. Hay ho ở chỗ từ giờ đến tháng 4 còn quá ít thời gian, hội đồng chủ quản không thể thay thế hay chỉ định tộc trưởng mới. Ông già Thâu Đầu buộc phải lựa chọn giữa lợi ích vây cánh và thể diện họ Hỏa.

Nhưng Hỏa Nghi tinh quái đến đâu cũng không thể tính được sự cùn của các ông già. Hỏa Thâu Đầu gạt đĩa bánh quy sang một bên, cái mũi khoằm chúc về phía trước che chắn cái miệng thở lời đe dọa:

-Mày ép ta sao, cháu trai? Đừng hòng! Lần họp hội đồng kế tiếp, ta sẽ yêu cầu bỏ phiếu, mọi người sẽ quyết định mày được quyền truy cập “Gie” hay không.

-Thưa ông, làm vậy là trái luật! – Hỏa Nghi nhăn trán – Cháu phản đối! Rõ ràng điều luật nói…

-Mày đừng nói chuyện luật lệ, ta còn đẻ ra luật nữa kia! – Lão mũi khoằm gạt phắt đi – Mọi thứ có thể thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh. Nếu tự tin vào khả năng của mình thì mày không sợ bỏ phiếu. Đúng không? Hà hà hà!

Cái vẻ “đứa cháu ngoan ngoãn” sắp bị ngấu nghiến trong từng cơ mặt nhăn nhó của Hỏa Nghi. Giữa Đảo Sắt Thép hiện đại văn minh, đám bô lão vẫn ịn mông lên luật lệ một cách hoang dại thú tính. Nhưng cuối cùng Hỏa Nghi đành diễn nốt cảnh đứa cháu tiễn người ông đáng kính ra về, không quên gửi hộp bánh quy làm quà. Cái công gã chạy tới chạy lui nhờ vả Tiểu Hồ làm bánh chỉ đạt một nửa mục đích, phần còn lại tùy thuộc may rủi. Trước cuộc thương lượng, Hỏa Dương đã cảnh báo gã chớ đụng vào Jeh-7400 nếu không muốn mất tất cả. 



Đã giữa tháng 3 nhưng thời tiết rét mướt vẫn bám chặt Phi Thiên thành. Ba mươi năm cuộc đời, Hỏa Dương chưa từng thấy mùa đông nào dai dẳng như thế. Khung cửa sổ duy nhất trong phòng làm việc bám đầy tuyết, ướt nhẹp, thành ra cái thú ngắm cảnh của y bớt thú vị. Y chẳng còn thấy Vành Đai Xanh, quảng trường rộng lớn ở bên kia sông hay Đảo Sắt Thép mờ mờ xa xa phía tây bắc. Những khung cảnh quen thuộc đó giờ chìm khuất giữa những cơn gió trắng đang táp qua quận Mắt Trắng, ngay cả tòa tháp gần nhất cũng mờ mờ như bị tẩy xóa. Tất cả đều mù mịt.

Trông màn trời mịt mùng, Hỏa Dương lại nghĩ về em trai mình. Tương lai thằng nhóc chẳng khác mấy so với khung cảnh bên ngoài. Mớ lộn xộn mà Hỏa Nghi vừa gây ra đang đạp đổ mọi công sức của y. Cũng giống hồi bé, mỗi lần y lắp ghép mô hình đồ chơi thì thằng em từ đâu xuất hiện rồi phá tanh bành. Xưa đã thế, nay vẫn vậy.

Cơ sở dữ liệu hay Jeh-7400 bao trùm khắp họ Hỏa. Mọi thành viên dòng họ làm việc với nó hàng ngày hàng giờ. Bằng vài thao thác đơn giản, hệ thống sẽ cung cấp mọi thứ cần thiết cho công việc như thông tin cá nhân, văn bản, tài liệu. Ngay chính Hỏa Dương cũng xuất hiện trong cơ sở dữ liệu. Chỉ cần gõ từ khóa chữ “Hỏa Dương”, người ta sẽ biết y ba mươi tuổi, độc thân, hành nghề luật sư và có công ty riêng tại quận Mắt Trắng, là con vị trưởng tộc tiền nhiệm Hỏa Viên, có một người em trai tên Hỏa Nghi, cha mẹ đã ly dị. Nếu đủ quyền hạn, kẻ tìm kiếm sẽ biết Hỏa Dương từng bị bắt giam năm hai mươi tuổi vì tội gây rối trật tự công cộng. Đời thằng đàn ông say xỉn đôi ba lần, Hỏa Dương không ngoại lệ. Trên Jeh-7400, chẳng mấy người giấu giếm được bí mật.

Nhưng đấy chỉ là bề nổi. Jeh-7400 là tảng băng chìm có sáu tầng và chỉ hai tầng nổi trên mặt nước. Bắt đầu ở tầng thứ ba, thông tin chỉ mở khi được cho phép, mọi truy cập đều bị giám sát. Hỏa Dương không rõ mặt mũi tầng bốn, người cha cũng chưa bao giờ kể cho y, mà chỉ biết những tầng chìm lưu trữ toàn bộ dự án tối mật từ xưa đến nay. Rất ít người nhìn thấy tầng bốn cơ sở dữ liệu, và Hỏa Dương khẳng định số người trông thấy tầng năm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Y thậm chí không chắc hoàng đế Phi Thiên quốc nằm trong tập hợp hiếm hoi đó. 

Jeh-7400 là cái đích cuối cùng của tộc trưởng họ Hỏa nhưng không phải mục tiêu ngắn hạn. Cơ sở dữ liệu là một vương quốc khổng lồ với nhiều lãnh địa, trưởng tộc là vua, mỗi chi tộc chiếm cứ một vùng đất như lãnh chúa. Ông vua quản lý, hiểu biết vương quốc ra sao thì tùy thuộc mối quan hệ với lãnh chúa. Khi vương quốc chưa ổn định, ông vua cần giành sự ủng hộ từ các lãnh chúa hơn là áp chế họ. Hỏa Dương đã cố gắng duy trì chiến lược này. Y luôn giải thích cho em trai rằng khi nào cái ghế trưởng tộc phải ổn định hẵng tính đến Jeh-7400. 

Nhưng Hỏa Nghi, hoặc quá nóng vội, hoặc tự cho mình đủ lông đủ cánh và khỏi cần nghe lời anh trai. Như ông vua con phát điên vì chẳng ai tôn trọng mình, thằng bé đòi hỏi quyền cai trị quá sớm, mà lại đòi ngay con quỷ già Hỏa Thâu Đầu đang ngoác miệng cá sấu. Đương sở hữu quyền lợi rõ ràng, Hỏa Nghi tự đẩy mình vào cuộc bỏ phiếu cầm chắc phần thua. Thua một lần này, Hỏa Nghi sẽ thua mãi về sau. Hỏa Dương đã giải thích đến khô cổ, khổ nỗi em trai không nghe lời y. 

Cũng giống thuở xưa, Hỏa Nghi luôn phá tanh bành những món đồ chơi của anh trai nó. 

Có tiếng gõ cửa, Hỏa Dương tạm rời mắt khỏi cửa sổ. Một nữ thư ký mang tài liệu cho y. Nhận tập hồ sơ, y chợt thấy cô thư ký thoáng mỉm cười, ánh mắt trông đợi một lời hẹn hò. Y biết nhưng làm thinh, chỉ cặm cụi đọc đọc viết viết. Cô thư ký ngồi đối diện y, đôi môi son đỏ cất giọng ngọt ngào như chính sắc đẹp của mình:

-Dương à, dạo này anh lạnh nhạt quá! 

-Chúng ta có nồng ấm à? – Hỏa Dương ngẩng đầu.

Cô thư ký cười ngất đoạn nắm lấy tay Hỏa Dương. Chẳng riêng nàng, nhiều cô gái trong công ty luật, cả những người phụ nữ tới đây làm thủ tục ly dị đều thích nắm mu bàn tay đầy đặn nổi vài đường gân xanh đó. Nhưng chỉ số ít người chịu được ánh mắt sắc như dao mổ của Hỏa Dương, nàng thư ký đây là ví dụ:

-Chúng ta có. Nhiều lần chứ không phải một. – Cô gái tươi cười – Muộn rồi, về thôi, anh muốn đi đâu không? Hay chúng ta đi ăn rồi xem hòa nhạc? Sau đấy anh có thể ngủ ở nhà tôi. Tôi chưa từ chối anh điều gì cả. Nếu anh thích thì có thể vui vẻ ngay ở văn phòng này, giống hồi chúng ta mới hẹn hò. Mọi người về hết rồi!

Cô nàng nháy mắt rồi rướn ngực, lưỡi nhỏ đẩy khỏi miệng, vẻ ngoài thanh lịch bỗng gợn những sóng ngầm gợi tình. Vẫn ánh mắt sắc, Hỏa Dương đáp lời:

-Cảm ơn nhưng tôi không rảnh.

Không thể lay chuyển Hỏa Dương, nàng thư ký thu lại sự quyến rũ rồi lặng lẽ ngắm nhìn y. Tính cách y trước giờ vẫn vậy, cô không chạnh lòng. Trong số những mục tiêu mà một phụ nữ thành đạt hướng tới, cô chỉ còn thiếu người đàn ông đang ngồi trước mặt. Hoặc là Hỏa Dương hoặc không gã nào khác - cô luôn tự nhủ như thế kể từ ngày bước vào công ty, dù rằng hiểu biết của cô về y chẳng hơn người khác là mấy. Hỏa Dương chưa bao giờ kể. Chẳng không gian lãng mạn hay sang trọng nào có thể khiến y trải lòng. Ngay cả lúc làm tình với cô, y cũng không hở ra bất cứ điều gì về gia đình hay bản thân mình. 

-Tôi không hiểu lắm, Dương à. – Nàng thư ký nghiêng đầu – Tại sao anh rời bỏ họ Hỏa? Anh có thể ở trong Đảo Sắt Thép, người ta sẽ tự tìm đến. Ai chẳng muốn làm việc ở đấy? Tại sao anh phải tới đây rồi chịu tiền thuê văn phòng đắt đỏ? 

Hỏa Dương ngừng viết lách, liếc mắt sang ô cửa sổ bám tuyết đoạn trả lời:

-Khi ở bên ngoài, tôi có thể nhìn Đảo Sắt Thép rõ ràng hơn, hiểu nó kĩ càng hơn. 

-Để giúp em trai mình, phải chứ? Nghe nói em trai anh trở thành trưởng tộc họ Hỏa nhưng không được thuận lợi lắm. Anh đang cố vấn cho cậu ta? Tôi chưa biết mặt cậu ấy, cho tôi xem được không? 

-Chuyện riêng tư, mong cô hiểu. – Hỏa Dương lạnh nhạt. 

Nàng thư ký nhún vai tiếc nuối đoạn bật máy chiếu ba chiều để coi truyền hình. Giới luật sư cần nắm tin tức hàng ngày như một thủ tục. Đương giai đoạn vận động tranh cử, hầu hết chương trình giờ này đều nói về hai đứa con của Bạch Dương Đệ Thập, những chính khách liên quan hoặc tranh cãi đảng phái… Hơn một năm nữa mới bầu cử chính thức nhưng dư luận đã nóng như rang, trái hẳn khung cảnh ảm đạm bao trùm thủ đô. Tìm được chủ đề bắt chuyện, cô thư ký ngoảnh sang Hỏa Dương:

-Ngài Đệ Thập nghỉ hưu sớm quá nhỉ? Anh nhớ hồi đầu năm không, trông ông ấy hơi già, không giống các hoàng đế trước. Đệ Thập mới bảy mươi sáu tuổi chứ mấy? Hay ông ấy mắc bệnh? Vô lý, người họ Bạch Dương sao có thể nhiễm bệnh tật thông thường như chúng ta?

Vẫn bộ mặt lạnh tanh, Hỏa Dương trả lời đều đều không cảm xúc:

-Đệ Tam mất vì trụy tim, Đệ Thất qua đời vì nhồi máu não. Bệnh tật rất bình thường. Không gì không thể xảy ra. Dù sao chính phủ cũng đã công bố tranh cử, chúng ta chỉ việc theo dõi thôi. 

Giữa những luồng sáng xanh của máy chiếu, một chương trình phỏng vấn đang hướng máy quay đến vị khách mời là một người đàn ông cao lớn, vai ngang thẳng tắp, dáng dấp bệ vệ. Ông ta là bộ trưởng ngoại giao Tông Tủy. Mấy hôm nay ông bộ trưởng bị báo chí nhà đài săn đón rất nhiều. Ai cũng muốn biết lý do ông ủng hộ công chúa Lục Châu, trái ngược hẳn những dự đoán trước đó. Thành thử một chương trình phỏng vấn mang tính cá nhân nhưng người dẫn vẫn lái sang chủ đề chính trị:

“Có lẽ đây không phải lúc thích hợp, nhưng tôi rất muốn hỏi ngài về chuyện chính trường. Ngài biết đấy… công chúa Lục Châu…”



“À, chuyện đó!” – Tông Tủy bật cười – “Bây giờ tôi chưa thể nói gì nhiều. Đang giai đoạn quan trọng, tôi không thể gây ra tranh cãi và khiến công chúa gặp áp lực. Công chúa còn trẻ, cô biết đấy. Nhưng công chúa có nhiều phẩm chất hiếm thấy, mà tôi tin sẽ đem lại nguồn nội lực mới cho Phi Thiên quốc…” 

Nàng thư ký mải nhìn bộ cánh của nữ phát thanh viên, còn Hỏa Dương chăm chú vào ông bộ trưởng. Y vốn đặt cược vào Lục Thiên vì nghĩ đó là đòn bẩy tốt cho Hỏa Nghi. Bản thân vị hoàng tử cũng cần Hỏa Nghi để giành sự hậu thuẫn từ họ Hỏa. Y đã tin Lục Thiên chắc thắng. Nhưng với động thái không thể lường trước của Tông Tủy, công chúa bỗng dưng lớn mạnh thêm một chút, cuộc bầu cử trở nên khó đoán. Hết tin xấu này đến tin xấu khác ập tới, Hỏa Dương che miệng nén cái thở dài. Y bất giác muốn cô thư ký ngồi lên đùi mình, lùa bàn tay và mơn trớn cái thứ bên dưới phéc-mơ-tuya quần. Y cần thư giãn. 

Chương trình phỏng vấn vẫn tiếp tục, người dẫn nói:

“Thú thực, cá nhân tôi khá bất ngờ, thưa bộ trưởng. Việc ngài ủng hộ công chúa không giống lắm với phong cách thận trọng của ngài…”



“Đôi khi người cố chấp cũng thay đổi quan điểm.” – Tông Tủy mỉm cười – “Trước khi gặp Lục Châu, tôi đã tiếp xúc với một anh bạn trẻ thú vị. Cậu ta làm được nhiều điều mà ngay cả hoàng tử hay công chúa cũng phải ghen tị. Tại sao không mời cậu ấy lên đây nhỉ? Ban nãy sau cánh gà, tôi đọc danh sách khách mời chương trình và thấy tên anh bạn trẻ này. Chuyện người trẻ người già, hãy để các nhân vật chính cùng trò chuyện tranh luận, phải chứ?” 

“Nếu ngài đã nói thế, vậy xin giới thiệu khách mời thứ hai trong chương trình. Quý khán giả không biết mặt người này, nhưng chắc chắn đã nghe tên. Cậu ấy là thợ rèn kiếm, hộ vệ thánh sứ của Phó Tổng Lãnh Lục Châu và hiện là trưởng tộc họ Hỏa. Hỏa Nghi!”

Hỏa Dương nhăn trán nheo mắt. Y thậm chí chẳng có thời gian xác định mình nghe nhầm hay không, bởi máy quay đã chiếu đến Hỏa Nghi bước ra cùng tiếng vỗ tay rần rần. Không còn quần lửng hay áo phông đầy hình thù kinh dị, Hỏa Nghi hôm nay ăn vận y phục đen bóng bẩy, tóc xù chải mượt, trông đàng hoàng tử tế như ai. Nàng thư ký ngả người nháy mắt:

-Vậy ra đây là em trai anh? Hai người khác nhau quá nhỉ! Nhưng cậu ta dễ thương đấy chứ?

Nhìn thằng em cười nói và bắt tay với ông bộ trưởng, Hỏa Dương bỗng hiểu vấn đề. Y quên rằng Hỏa Nghi chưa từng thân thiết với mình. Đã có lúc thằng bé lẽo đẽo theo chân y, nhưng rồi khi ngày ấy đến, nó bỗng thay đổi và ngày càng rời xa anh trai. 

Y nhận ra mình chẳng hiểu đứa em. Như hai người xa lạ.



Một tuần trước…



Nhận đồ thừa kế từ đại thánh sứ, Hỏa Nghi mừng như bắt được vàng, lập tức chuyển bức thư đến văn phòng ngoại giao. Chưa đầy nửa ngày sau, đích thân ông bộ trưởng gọi điện mời gã tới tư gia ở quận Trăng Khuyết. Đó là vinh dự mà nếu được cụ thể hóa bằng hiện vật, Hỏa Nghi nguyện đánh bóng lau chùi nó mỗi ngày và trưng ra ở phòng khách. Trong giới chính trị, Tông Tủy rất nổi tiếng cả trong nước lẫn quốc tế. Người đàn ông cao lớn bệ vệ đó luôn khiến dư luận phấn khích, còn đám quý tộc sẵn sàng chi hàng trăm thùng vàng để có cơ hội ăn tối cùng ông ta. 

Kết quả lớn hơn Hỏa Nghi mong đợi. Tông Tủy đồng ý giúp đỡ gã cả về tài chính lẫn ngoại giao. Người ngoài không can thiệp chuyện nội bộ họ Hỏa nhưng Tông Tủy là trường hợp khác. Ông ta đóng góp cổ phần cho các công ty của chi Tạc, tính ra là một cổ đông lớn. Mẹ ông ta vốn xuất thân từ chi này nên giữa Tông Tủy và họ Hỏa vẫn có quan hệ gia đình. Việc giúp đỡ hoàn toàn hợp lệ, bọn Thâu Đầu – Hỏa Chính cùng lắm chỉ bóng gió xỏ xiên chứ không thể phản đối. 

-Ta chịu ơn Tây Minh rất nhiều. – Tông Tủy nói – Ông ấy luôn giúp đỡ ta mà không đòi hỏi trả ơn, nếu có chỉ là vài tách trà thiết mộc. Năm ngoái, Tây Minh nhờ ta vận động hành lang can thiệp Tuyệt Tưởng Thành, nhưng rốt cục chẳng đâu vào đâu. Chuyện xảy ra với ông ấy là thảm họa.

Hỏa Nghi uống trà, để ý khẩu vị của Tông Tủy y hệt ngài đại thánh sứ: trà đắng nghét, đặc và sốc óc. Ông bộ trưởng tiếp lời:

-Thư của Tây Minh đã nói rõ về cậu nên không cần giới thiệu. Những thành tựu, những việc cậu làm ở chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, đủ cả. Ta cũng không cần xác nhận từ phía Tuyệt Tưởng Thành. Ta tin tưởng Tây Minh, ông ấy hay đùa nhưng tuyệt đối trung thực. Bàn chuyện chính nhé. Với thành tích của cậu… chúng chưa thể so sánh với Hỏa Chính, giờ cậu muốn lôi kéo những chi tộc khác ủng hộ mình là không thể.

-“Chưa thể”? Ý ngài là tôi có thể?

Tông Tủy ngửa lòng bàn tay, hai ngón trỏ nâng lên hạ xuống như đang điều chỉnh một cái cân tiểu ly vô hình:

-Đại khái vậy. Cậu chưa nhận được sự hân thưởng tương xứng. Tuyệt Tưởng Thành đang bận rộn tái thiết, họ chưa có thời gian vinh danh cậu đàng hoàng. Chính phủ Phi Thiên thì muốn lờ vụ này đi để tránh dư luận công kích, đừng quên Tây Minh đã hối thúc thế nào và họ trả lời ông ấy ra sao. Vậy đó, mọi công sức của cậu chìm nghỉm ở tận cùng thế giới. 

Mấy lời nhận xét giúp Hỏa Nghi thông suốt ít nhiều. Ông bộ trưởng tiếp tục:

-Cậu cần một bệ phóng, thành tích của cậu cần được biết tới rộng rãi. Biết chương trình Bên Lề Chính Trường, phát lúc bảy giờ tối hàng ngày không? Nó mang tính cá nhân, khá giải trí! Phải, cậu sẽ lên truyền hình.

-Đám Hỏa Chính sẽ gọi tôi là “thằng hề giải trí” mất! – Hỏa Nghi gãi đầu. 

-Nhưng đám đông thích coi mấy thứ như vậy. – Tông Tủy nghiêng nghiêng đầu – Chính trị hay truyền hình nhiều khi đơn giản lắm, chỉ cần chiều theo tình cảm và thị hiếu của đám đông, cậu lập tức được ca ngợi. Vậy nên ngài Đệ Thập bị chỉ trích nhiều. 

Hỏa Nghi đồng ý làm theo ông bộ trưởng. Nếu chẳng phải đại thánh sứ viết thư bảo đảm, gã đã không gật đầu nhanh như thế. Uống hết tách trà, Tông Tủy ngả người trên ghế, tay chắp lên bụng: 

-Ta có nhiều mối quan hệ ở truyền hình, cậu sẽ nổi tiếng sớm thôi, con trai. Nhưng chừng ấy chưa đủ đâu. Hãy tự nâng cao giá trị của mình. Tháng tư tới đây, họ Hỏa sẽ phải ra điều trần trước quốc hội về phi thuyền Thần Sấm. Đây là cơ hội của cậu để chứng tỏ mình. 

-Vậy thì tôi phải hiểu về đề án phát triển Thần Sấm. Nếu như thế…

Nói chưa dứt câu, Hỏa Nghi chợt ngừng lại đoạn ngẩng đầu nhìn ông bộ trưởng. Ông ta cười mỉm như đọc thấu tâm tư Hỏa Nghi, nghĩ cái mà gã cũng đang nghĩ: cơ sở dữ liệu Jeh-7400. Kiểm soát được thứ này, Hỏa Nghi mới có cơ may tiếp cận đề án phát triển phi thuyền Thần Sấm. 

Oái oăm ở chỗ Jeh-7400 là cái bẫy. Tuy có nồng độ khùng khá cao trong máu song Hỏa Nghi chưa bao giờ tính đến việc này. Tình thế không cho phép gã. Ông anh trai luôn nhắc nhở rằng chỉ đụng vào cơ sở dữ liệu khi thời cơ chín muồi, chín trĩu cành, có thể bóc vỏ và ăn được. Lời khuyên của ông bộ trưởng như xúi trẻ con ăn cứt gà hơn là vẽ đường cho hươu chạy. Hỏa Nghi không nén nổi thắc mắc:

-Ngài biết về Jeh? Tại sao lại lúc này? 

Vẫn dáng ngồi bệ vệ mà điềm đạm, Tông Tủy đáp:

-Thứ nhất, cậu phải giải trình với quốc hội. Nơi đó là lò mổ và nếu không chuẩn bị chu đáo, cậu sẽ bị giết thịt như một con gà. Thứ hai, sớm hay muộn, anh em Lục Thiên sẽ đến họ Hỏa để tìm hậu thuẫn; cả hai cần một nhân vật có tầm ảnh hưởng, có tiếng nói, có khả năng kêu gọi dòng họ. Như cậu hiện tại thì… Cậu hiểu đấy! Ta biết công chúa rất ưu ái cậu, nhưng đừng quên cô ấy giờ là chính khách và ứng cử viên ngai vàng. Con đường tới ngai vàng không có nhân nhượng. Đừng trở nên đáng thương, hãy tự biến mình thành một thứ đáng để người khác tranh giành. 

-Tôi cần suy nghĩ thêm, thưa ngài…

-Cậu hết thời gian rồi. Đừng ỷ mình thông minh, đề án phát triển Thần Sấm phức tạp hơn cậu tưởng đấy! Vì nó, quốc hội đã cãi nhau ba năm ròng, tốn hai năm thỏa thuận, lại tốn thêm hai năm nữa mới bắt tay thực hiện. Ta nói rồi, quốc hội là lò mổ, cậu không muốn đứng ở đấy đâu! 

Hỏa Nghi chống cằm cân nhắc nặng nhẹ. Nhưng chưa kịp nhen nhóm ý định nào thì Tông Tủy đế thêm:

-Đúng là khá mạo hiểm khi bàn về Jeh nhưng thời gian không chờ đợi ai cả. Tây Minh nói cậu là kẻ ưa mạo hiểm, có chút quái dị. Những tính cách ấy đâu rồi, con trai? Những tính cách khiến cậu trở thành cố vấn cho Tuyệt Tưởng Thành đâu rồi?

Hỏa Nghi nhìn tách trà thiết mộc sánh đặc đắng ngắt. Mấy tháng nay, gã cảm giác đang quay lại thuở thơ bé khi còn là thằng cu con lẽo đẽo thích theo chân anh trai. Nhưng những ký ức không trọn vẹn. Thằng cu con Hỏa Nghi quá nhỏ để nhắc nhở gã Hỏa Nghi trưởng thành rằng nó dựa dẫm anh trai thế nào. Mãi gần đây gã và anh trai mới nói chuyện với nhau, nhưng vẫn có khoảng cách như hai người xa lạ. 

Gã chợt nhận ra mình chẳng hiểu Hỏa Dương, và gã cũng nhận ra mình chẳng quan tâm anh trai nghĩ gì. Đắn đo hồi lâu, Hỏa Nghi bắt tay ông bộ trưởng, tươi cười:

-Cảm ơn, tôi sẽ làm như ngài chỉ bảo. Rất mong ngài giúp đỡ!

*

* *

Truyền thông Phi Thiên quốc luôn biết cách làm người ta ôm ấp máy chiếu ba chiều như gà ấp trứng. Mỗi ngày nó cung cấp tin tức mới lạ, không bao giờ lặp lại. Bằng hệ thống làm việc khắc nghiệt và đói khát kiểu quái vật, nó luôn tìm được chủ đề sốt dẻo. Tháng 3, giữa lúc dư luận bắt đầu nhàm chán vì cuộc bầu cử lẫn thời tiết dở dở ương ương, đám truyền thông vớ được cục vàng từ trên trời rơi xuống: Hỏa Nghi. Tộc trưởng họ Hỏa công khai xuất hiện sau hàng thế kỷ im hơi lặng tiếng, vàng hay quang tố cũng không thể mua sự kiện trăm năm có một này. 

Ngoài giải quyết công việc dòng họ, Hỏa Nghi có thêm công việc mới ở nhà đài. Mỗi tối, gã lại ăn vận bóng bẩy để tham gia chương trình truyền hình. Nhờ ông bộ trưởng ngoại giao, gã được sắp xếp vào những chuyên mục ăn khách nhưng không quá lố lăng. Gã xuất hiện bốn trong mười chương trình có tỉ suất theo dõi cao nhất. Giờ đây, giới thợ rèn Phi Thiên coi gã như một tài năng khi đóng góp ba thanh kiếm cho Thiên kiếm tịch; một bộ kiếm thuộc về Tiểu Hồ - cô gái hộ vệ được săn đón nhiều nhất sau Kỳ Thi Tổng Lãnh, một thanh đao thuộc về Chiến Tử - nhân vật mới của Thập Kiếm. Riêng thanh kiếm cuối cùng thì úp úp mở mở nhằm làm đám đông hiếu kỳ, để rồi họ đồn đoán rằng nó đang nằm trong tay kẻ đào tẩu Vô Phong. Tin đồn chẳng làm Hỏa Nghi mất mặt, ngược lại, dưới bàn tay ma thuật của giới truyền thông, nó trở thành hào quang tăng thêm sức hút cho gã.

Nhưng nếu chỉ chăm chăm chuyện rèn kiếm, Hỏa Nghi sẽ chẳng khác đám hề mua vui giải trí. Trong một chuyên mục chính luận, người dẫn “vô tình” hỏi chuyện ở Tuyệt Tưởng Thành, còn Hỏa Nghi chỉ việc kể lại việc đã trải qua. Bấy giờ người ta mới vỡ lẽ thằng nhãi con mới nổi này từng hỗ trợ hai đời vua Tuyệt Tưởng Thành, đã tham vấn hay chứng kiến những trận chiến khốc liệt nhất. Nên thay vì coi Hỏa Nghi là ngôi sao truyền hình, người ta bắt đầu nhìn nhận gã như tài năng thực sự, một tài sản của Phi Thiên quốc. Hơn một tuần sau, gần nửa Phi Thiên quốc biết Hỏa Nghi là ai, thành công nằm ngoài mong đợi. 

Hiệu ứng truyền hình mạnh đến nỗi ngay cả Đảo Sắt Thép cũng không thể kháng cự. Đám trẻ họ Hỏa bỗng chốc đổ xô tìm hiểu ông tộc trưởng trẻ tuổi. Giống đám cây con sống quá lâu dưới những bóng cổ thụ, họ bàn tán rôm rả về Hỏa Nghi, một số tôn gã thành thần tượng vì dám vượt ra những khuôn khổ của dòng tộc. Cơn gió mới mạnh đến mức các trưởng lão cũng cảm nhận rõ ràng. Đám già thì nhìn nhận vấn đề kiểu khác, họ không quan tâm thành tựu của Hỏa Nghi mà trông vào người đàn ông quyền lực đang chống lưng cho gã. Khỏi cần mô tả bộ mặt của Hỏa Thâu Đầu và Hỏa Chính méo mó ra sao.

Mọi chuyện cứ thế cho tới ngày hội đồng chủ quản họp tại Lò Than. Không còn những đám tụm năm tụm ba quanh Hỏa Chính, các thành viên giờ đi từng nhóm nhỏ rù rì bàn chuyện bỏ phiếu. Không ai nghĩ Hỏa Nghi đòi quyền truy cập Jeh-7400, cũng chẳng ai ngờ thằng oắt con đó quan hệ thân thiết với ông bộ trưởng ngoại giao. Tình hình xoay chuyển bất ngờ, cuộc bỏ phiếu cầm chắc phần thua cho Hỏa Nghi bỗng khó đoán hơn bao giờ hết. 

Hội đồng chủ quản xáo xào còn nhân vật chính bình chân như vại. Ngày bỏ phiếu, Hỏa Nghi đến trễ hơn một chút, tháp tùng gã vẫn là Hỏa Dương. Hai anh em nhưng người đi trước, kẻ bước sau như hai kẻ xa lạ chung lối. Khi Hỏa Nghi đặt tay lên nắm cửa Lò Than, Hỏa Dương chợt nói:

-Anh biết chú đã gặp ông bộ trưởng Tông Tủy. Được ông ấy giúp đỡ, anh rất mừng. Nhưng đáng lẽ chú nên bàn trước với anh một tiếng. 

-Chuyện gấp quá, tôi không kịp nói! – Hỏa Nghi tặc lưỡi.

-Không kịp hay không muốn nói? – Hỏa Dương hỏi – Hơn một tuần nay, truyền hình tâng bốc chú ra sao, anh cũng chỉ biết thế, không hơn người ngoài là bao. Một cuộc điện thoại dăm mười phút tốn thời gian vậy à?

Hỏa Nghi ngoảnh lại xẵng giọng:

-Nếu tôi nói, liệu anh có để tôi thương lượng Jeh với Hỏa Thâu Đầu không? Hay anh phản đối? Tôi tin anh sẽ phản đối. Anh cẩn thận từng li từng tí, tôi rất biết ơn. Nhưng chúng ta không còn thời gian để cẩn thận nữa, anh hiểu không? 

Hỏa Dương lặng thinh. Một khoảng im ắng khó chịu chen giữa hai anh em. Biết mình lỡ lời, Hỏa Nghi xua tay hòa hoãn. Quá nhiều việc khiến Hỏa Nghi mất bình tĩnh, gã gãi sồn sột bộ tóc rối bù:

-Từ bao giờ chúng ta như thế này, anh trai? Từ bao giờ vậy? Có phải từ lúc mẹ bỏ chúng ta không? Chúng ta khốn khổ ở đây, còn mẹ đang làm gì chứ?

Hỏa Dương không đáp. Y đẩy cửa cho em trai theo cái cách một trợ lý mẫn cán giúp việc ông chủ, không giống người anh đang dẫn bước đứa em. Cái ngày anh em ấy đã ở chốn nào xa lắm. Ở đây chỉ có công việc còn anh em Hỏa Dương là những kẻ xa lạ.

[1]: trong Quyển 1, Đệ Thập đã thỏa thuân với Hội Đồng Pháp Quan để sử dụng Thần Sấm trước thời hạn mà không thông qua quốc hội

[2]: dự án cải tạo Thiết Thù được nhắc tới ở Chương 135, Quyển 3
 
Quyển 4 - Chương 4: Biểu quyết


Luật lệ họ Hỏa ghi rõ: “Trưởng tộc có quyền quản lý toàn bộ sáu tầng Jeh-7400, quyền này mang tính thừa kế. Trong trường hợp khẩn cấp, các chi tộc phải cung cấp mật khẩu, thông tin và cố vấn cho tộc trưởng từng hạng mục dữ liệu". Luật gồm hai vế. Vế thứ nhất vốn không rõ ràng nên hao mòn theo thời gian, mỗi đời tộc trưởng quản lý theo nhiều cách khác nhau. Nhưng vế thứ hai khẳng định rõ quyền hạn tuyệt đối của vị trưởng tộc, không thừa không thiếu một chữ. Hỏa Nghi có đầy đủ quyền như công dân đủ tuổi bỏ phiếu, chẳng chi tộc hay cá nhân nào có thể bắt bẻ vặn vẹo.

Nhưng một ngày giữa tháng 3, Thâu Đầu làm nên sự kiện lịch sử đáng ghi vào lịch sử dòng họ. Vin cớ luật lệ cũ kĩ, lão yêu cầu bỏ phiếu biểu quyết Hỏa Nghi được phép truy cập Jeh-7400 hay không. Mang tiếng dân chủ song cuộc bàn bạc ở hội đồng chủ quản diễn ra một chiều. Thâu Đầu tận dụng triệt để chiêu bài đức cao vọng trọng để lấn lướt thành viên. Ai đồng ý thì không bàn; ai phản đối thì lão đem tuổi tác ra dọa nạt, thành thử người phản đối cũng ngừng tranh cãi vì sợ mang tiếng con cháu bố láo; số khác im lặng xem lão quay phim đạo diễn. Bản thân Hỏa Nghi đã đồng ý nên chỉ trong nửa tiếng, hội đồng chủ quản thông qua đề xuất của Thâu Đầu. 

Chuyện gì đến cũng phải đến, ba ngày trước lễ quốc khánh, hội đồng chủ quản tiến hành bỏ phiếu. Hỏa Chính mở đầu phiên họp bằng giọng điệu giảng bài bác học, cái cằm nhọn hoắt đung đưa như vị diễn giả truyền cảm hứng:

-Hôm nay, ngày 24 tháng 3, hội đồng họp phiên thứ hai năm 7518. Chúng ta có mặt ở đây để bỏ phiếu xác định quyền hạn của trưởng tộc Hỏa Nghi. Mọi người đều biết Hỏa Nghi còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, vậy nên cuộc bỏ phiếu này sẽ xác định tộc trưởng xứng đáng với quyền quản lý cơ sở dữ liệu Jeh-7400 hay không. Xin nhắc lại, việc này rất quan trọng và ảnh hưởng đến toàn thể họ Hỏa. Hội đồng thiếu một thành viên là Hỏa Tạc Thạch, con trai ông ấy là Hỏa Tạc Kim có mặt ở đây để đảm bảo mọi ý định, suy nghĩ và quyền lợi của Tạc Thạch được thực hiện. Giờ chúng ta bắt đầu bỏ phiếu, trước tiên…

Một thành viên giơ tay đòi phát biểu. Đó là vị trưởng lão có bộ râu chổi xể dài tới ngực, rậm rạp như rừng nguyên sinh, trái hẳn cái đầu trọc lốc như sàn bê tông và dĩ nhiên chẳng thứ lông tóc nào có thể phát triển trên bề mặt bê tông. Ông ta là thành viên hội đồng duy nhất công khai ủng hộ Hỏa Nghi. Hồi đầu năm, chính nhờ ông ta mà Hỏa Nghi mới có cơ hội tiếp cận đề án cải tạo Thiết Thù trong cơ sở dữ liệu[1]. Thấy vị trưởng lão râu chổi xể, Hỏa Chính nhún vai một cách kịch nghệ:

-Vâng, chú Thâu Đại muốn nói? Chú có thể phát biểu sau, bây giờ chúng ta cần bỏ phiếu…

Chưa đợi Hỏa Chính nói hết, Thâu Đại đã đập bàn đứng dậy, giọng sang sảng:

-Chuyện gì với CÁI hội đồng này vậy? Luật lệ tổ tiên đặt ra từ xưa đến nay vẫn hoạt động tốt, chưa bao giờ khúc mắc, kể cả đời Hỏa Viên. Tại sao đến lượt Hỏa Nghi lại xảy ra chuyện? Cháu trai của chúng ta không phải đứa trẻ con, thằng bé hai mươi tư tuổi rồi! Xin lỗi khi dùng từ “thằng bé”, cậu ta là ĐÀN ÔNG và hiểu rõ đúng sai. Hỏa Nghi đã làm cố vấn cho hai đời vua Tuyệt Tưởng Thành, chứng kiến đủ câu chuyện xảy ra ở đó. Cậu ta biết phải làm gì trước tình hình khó khăn sắp tới. Phiên điều trần không phải chuyện đùa. Quốc hội sẽ nhìn chúng ta thế nào nếu đưa tới một vị trưởng tộc không biết gì về đề án Thần Sấm? Nghĩ đi, mấy thằng ranh bọn bay, nghĩ đi! Nghĩ xem tại sao chúng bay lại đồng ý tổ chức bỏ phiếu? 

Nhiều thành viên hội đồng cúi đầu hoặc lảng đi, né tránh cái trừng mắt từ Thâu Đại. Vị trưởng lão như cái máy hút bụi sẵn sàng tống khứ bất kỳ ai ra khỏi phòng họp. Nhưng Hỏa Chính chẳng nao núng, chỉ cười:

-Kìa chú, toàn anh em con cháu trong nhà, có gì từ từ nói. Hôm trước hội đồng đã biểu quyết thông qua bỏ phiếu, cả chú cũng chấp nhận kết quả. Giờ chú phản đối sao được? 

-Đấy là trước khi ta và hội đồng biết rõ về Hỏa Nghi! – Ông già chổi xể đốp chát – Mày cùng Thâu Đầu bỉ bôi rằng Hỏa Nghi nào ít kinh nghiệm quản lý, nào thiếu kiến thức, nào không làm nên trò trống gì! Giờ thì sao? 

Lại một cái nhún vai đầy kịch nghệ, Hỏa Chính đáp lời:

-Mang họ Hỏa thì phải làm rạng danh dòng họ, một hai thành công chỉ là chuyện thường. Chưa kể những việc Hỏa Nghi làm đều phục vụ Tuyệt Tưởng Thành lẫn lợi ích của họ, lợi ích nào cho Phi Thiên hay họ Hỏa? Mà mấy chuyện đó từ bọn giải trí nhà đài ra, ai lạ gì bọn mạt hạng lắm chiêu trò ấy? Thông tin chưa kiểm chứng rõ ràng, vậy mà chú đã chắc như đinh đóng cột rằng “ông” tộc trưởng đây khiến dòng họ nở mày nở mặt?! 

-Ồ, xem ai nói kìa, cái thằng “sử gia truyền hình” bảo nhà đài mạt hạng cơ đấy! – Ông già chổi xể gật gù – Đừng làm người khác cười chứ, thằng mặt nhọn. Nói thẳng nhé, Hỏa Nghi không được truy cập Jeh-7400 thì cũng không tới lần mày. Quyền lợi trưởng tộc thuộc về Hỏa Viên và con cháu Hỏa Viên, không phải đứa con thứ như mày!

Bị mắng nhiếc xơi xơi nhưng Hỏa Chính chỉ tặc lưỡi nhún vai vẻ khó xử. Ông già Thâu Đầu thấy thế liền đứng dậy, cái mũi khoằm con két phì phò như đầu máy hơi nước:

-Chú quá đáng rồi đấy, Thâu Đại! Đừng làm xấu mặt chi tộc ta nữa! 

-Là tôi hay anh làm xấu mặt chi tộc? – Ông chổi xể trợn mắt – Anh thường xuyên làm khó Hỏa Viên, gây rối loạn chi trưởng. Ở đây ai cũng biết! Giờ Hỏa Nghi mới nhậm chức, anh thân cha chú đã không giúp còn cố tình cản trở thằng bé. Tôi nghĩ anh chắc chẳng cần quan tâm thể diện họ Hỏa nữa rồi. Tôi tưởng anh làm pháp quan sẽ sáng suốt hơn, dè đâu vẫn là ông anh Thâu Đầu lóc chóc ngày xưa. Vì anh nông cạn mà cả dòng họ vướng vào phiên điều trần! 

-Láo! Mày láo! Thằng này bố láo! – Thâu Đầu đập bàn thùm thụp – Tao là anh họ mày đấy! Tao không phải bạn bè để mày nói như thế!...

Rồi hai ông già phùng mang trợn mắt cãi nhau ủm tỏi, đám con cháu vội vã can ngăn khuyên nhủ trước khi họ lao vào cào cấu nhau như mấy con mèo. Họp hành kiểu dòng họ là vậy, Hỏa Nghi đã thấy nhiều. Nhưng gã không quan tâm hai vị trưởng lão đáng kính đang phun nước bọt mà chú mục vào Tạc Kim, con trai Tạc Thạch. Đấy là một anh chàng trẻ tuổi, mắt hơi thâm quầng vì đeo kính nhiều lẫn thiếu ngủ. Nhân lúc hội đồng đang loạn ngậu, gã mở máy chiếu cá nhân và tìm tên Tạc Kim trong cơ sở dữ liệu. Kết quả cho biết cậu trai trẻ này ít hơn gã một tuổi, đang làm việc ở Đảo Sắt Thép, bộ phận phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Còn theo thông tin vỉa hè từ Hỏa Dương, anh chàng Tạc Kim thường xuyên vắng nhà vì trục trặc với gia đình. Hỏa Nghi gãi cằm:

-Thằng này hục hặc ông già nó hả?

-Gần như vậy. – Hỏa Dương thì thầm – Nhưng không quá tồi tệ, chỉ là khác biệt quan điểm. Đơn giản là do khoảng cách thế hệ, chú hiểu đấy. 

Hỏa Nghi không ngừng săm soi Tạc Kim. Cả bàn họp cãi nhau ỏm tỏi nhưng anh chàng vẫn im lặng, gương mặt mệt mỏi như miễn cưỡng tham gia vụ này. Ông già Tạc Thạch vốn theo phe Hỏa Chính nhưng lại vắng mặt đúng ngày quan trọng nhất. Trong buổi họp cũ, Hỏa Nghi nhớ ông ta chưa từng công kích mình lần nào, các phát biểu chỉ tập trung vào chuyên môn công việc. Nghĩ ngợi một lúc, gã bật cười vì nhận ra nhà Tạc Thạch chẳng có cái nào gọi là khác biệt quan điểm. “Cha con giống nhau y sì đúc!” – Gã tự nhủ.

Sau những tranh cãi gay gắt, hội đồng tạm nghỉ để các trưởng lão hội ý. Nhiều người ra ngoài cho đỡ bí hoặc tìm đồ uống, trời lạnh nhưng Lò Than không phải chỗ thích hợp để sưởi ấm. Nhác thấy Tạc Kim rời phòng họp, Hỏa Nghi lấy cớ vệ sinh rồi bám theo anh ta. Qua hết dãy hành lang bên trái Lò Than, anh chàng nọ dừng chân bên máy bán đồ uống tự động, lấy một cốc trà thiết mộc ngút khói rồi trông ra cửa sổ tìm chút khí thở. Hỏa Nghi cũng lấy một cốc trà đoạn cất lời như vô tình gặp mặt:

-Ồ, cậu Tạc Kim, phải không nhỉ? 

Anh chàng nọ hơi giật mình, quay ra thì thấy Hỏa Nghi cười toe toét. Tạc Kim cúi đầu:

-Ngài trưởng tộc! Xin lỗi, tôi…

-Không sao, ngoài này cứ thoải mái! – Hỏa Nghi vỗ vai anh chàng – Bác nhà cậu thế nào rồi? Tin tức đột ngột quá, tôi không biết. Đợi họp xong, cậu cho phép tôi thăm bác nhà chứ?

Tạc Kim gật đầu, cần cổ gập lại thiếu tự nhiên. Hỏa Nghi dò hỏi vấn đề công việc, anh chàng trả lời ngắn gọn đủ ý như đang thi vấn đáp chứ không phải trò chuyện. Tuy tuổi tác sàn sàn nhưng hai người chưa gặp nhau lần nào, lại đang thời điểm nhạy cảm nên thái độ của Tạc Kim hơi sượng như trái táo chưa chín. Dù vậy anh ta luôn gọi Hỏa Nghi bằng “ngài trưởng tộc”, hai câu thưa nửa câu dạ, không một từ xuề xòa. Phiếm đàm chán, Hỏa Nghi đổi chủ đề:

-Cậu đang phát triển phần ứng dụng trí tuệ nhân tạo, nhỉ? Hồi ở Tuyệt Tưởng Thành, tôi từng nhìn thấy máy do thám của vua Tuyệt Tưởng Thành, cậu biết nó thế nào không? – Gã cúi đầu, giọng nhỏ to như muốn chỉ mình Tạc Kim nghe thấy – Chúng là những con bọ nghe lén, tự hoạt động bằng chương trình trí tuệ nhân tạo. Không phải trí tuệ nhân tạo bình thường mà cao cấp hơn thế, nó mô phỏng hành vi của côn trùng. 

-Cái gì? Sao có thể? – Tạc Kim ngạc nhiên, đôi mắt thâm quầng bỗng mở lớn – Chưa nước nào phát triển được trí tuệ nhân tạo đầy đủ, đừng nói mô phỏng động vật! Đây là côn trùng! Sao có thể chứ? Xin lỗi ngài, nhưng tôi thấy… vô lý! Tuyệt Tưởng Thành bế quan tỏa cảng bao nhiêu năm, tại sao trình độ khoa học của họ hơn chúng ta được?

Hỏa Nghi lắc đầu cười toe:

-Nó có thật, anh bạn. Nếu không nhờ nó, vua Tuyệt Tưởng Thành đã không thể điều hành cuộc chiến. Nó là tài sản vô giá của họ, còn hơn cả Lõi Cộng Hưởng Cực Điểm! Tôi đã chứng kiến cỗ máy móc tinh vi đó. Tôi cũng từng như cậu: khinh thường người Kim Ngân, nghĩ họ là đám vô học trộm cắp. Nhưng thực tế khác nhiều lắm! Họ có trí tuệ hơn họ Hỏa. Hơi sốc nhưng là sự thật. 

Nói rồi Hỏa Nghi hớp ngụm trà đoạn nhìn ra cửa sổ, ánh mắt ưu tư không chớp. Gã đang diễn. Lời của gã đúng cũng có mà xạo cũng có. Bọ nghe lén có thật song gã chưa bao giờ trông thấy tận mắt, chỉ nghe kể từ ông bạn tóc đỏ. Nhưng nếu xạo mà làm đối phương hào hứng thì gã sẵn sàng xạo từ giờ đến sáng mai. Anh chàng Tạc Kim chỉnh cặp kính nhìn gã chằm chằm vẻ không tin, sau đấy hơi chùng xuống như chấp nhận thực tế. Im lặng giây lát, anh ta hỏi:

-Tôi có thể gọi ngài là “anh”, nếu không phiền? Cảm ơn. Có thật anh tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành? Tôi ít xem truyền hình, cũng không thích mấy chương trình truyền hình, chỉ nghe nói vậy.

-Có, tôi đã ở đấy. – Hỏa Nghi gật đầu quả quyết – Tôi thấy tất cả, trừ trận chiến cuối cùng. 

Tạc Kim nâng cặp kính như muốn nhìn rõ Hỏa Nghi:

-Tuyệt Tưởng Thành xa xôi, chuyện cũng không liên quan đến Phi Thiên quốc, vậy tại sao anh tham gia cuộc chiến? 

“Là hộ vệ của công chúa Lục Châu, tôi cần làm điều đúng đắn. Khi làm việc với công chúa, tôi học hỏi nhiều điều…” – Hỏa Nghi từng nói mấy câu xúc động đậy như thế trên truyền hình. Nhưng trước người đồng tộc, gã trả lời thành thực:

-Tôi không thích tham gia. Ai thích chiến tranh? Nhưng công chúa đi thì tôi cũng phải theo cô ấy dù công chúa không hề ép buộc. Công việc là thế, nhiều thứ trái khoáy nhưng chúng ta phải hoàn thành bằng bất cứ giá nào, phải chứ? Nếu ai cũng vì hạnh phúc riêng thì đâu còn thứ gọi là “trách nhiệm” nữa? 

Anh chàng mắt thâm hơi gật đầu. Suy nghĩ một lúc lâu, anh ta mới tiếp lời:

-Tôi nghe nói Tuyệt Tưởng Thành đánh đổi nhiều thứ để gia nhập liên minh chúng ta. Anh đã ở đó, anh biết chuyện gì xảy ra không?

Hỏa Nghi toan nói “Có!” nhằm phô trương sự hiểu biết cũng như tầm quan trọng của mình. Gã thuộc số ít những người nắm rõ bản thỏa thuận giữa hai nước. Nhưng ngay lúc mở miệng, sự nhạy cảm thiên tính kìm gã lại. Dù không dám khẳng định nhưng gã lờ mờ hiểu tại sao ông già Tạc Thạch lăn ra ốm đúng ngày quan trọng này. Nghĩ ngợi chút đỉnh, Hỏa Nghi đáp:

-Chuyện hệ trọng, tôi không thể nói. Tôi đã hứa giữ bí mật với nhà vua Tuyệt Tưởng Thành. Cậu thông cảm!

Anh chàng mắt thâm ngẩn người rồi xin lỗi. Sau đấy anh ta cùng Hỏa Nghi trở về phòng họp và im lặng suốt quãng đường về. Hỏa Nghi cũng không gợi chuyện, gã đã làm xong những gì cần làm.

Nỗ lực của trưởng lão Thâu Đại chỉ kéo dài thời gian. Các vị trưởng lão cãi cọ lên xuống, rốt cục vẫn y phương án cũ là bỏ phiếu. Mười sáu thành viên tương ứng mười sáu phiếu, Hỏa Nghi muốn thắng phải có số ủng hộ quá bán, cân bằng hoặc ít hơn nửa là thua. Vốn dĩ theo luật, hội đồng sẽ họp lại nếu số phiếu cân bằng, nhưng từ nay đến phiên điều trần còn quá ít thời gian, hội đồng không thể đào xới mãi một vấn đề trong khi có cả núi việc cần giải quyết. 

Không chỉ vậy, ông già Thâu Đầu lại đề nghị bỏ phiếu công khai. Các thành viên sẽ biểu quyết tại chỗ, đơn giản là giơ tay nói “Có” hoặc “Không”. Phe cánh Hỏa Chính – Thâu Đầu gửi thông điệp tới tất cả thành viên rằng ai nấy phải bày tỏ quan điểm rõ ràng, không có chuyện ẩn danh đâm thọt. Vài người như Biệt Pháo lên tiếng phàn nàn nhưng Hỏa Thâu Đầu lại giở bài tuổi tác dọa nạt họ rồi tự cho mình cái quyền đẻ ra luật. Và lão đẻ thật. Biệt Pháo hay những người phản đối đành phải tham gia biểu quyết công khai. 

Đợi tất cả tập họp đông đủ, Hỏa Dương bước ra cùng sổ ghi chép, giọng khàn khàn: 

-Tôi, Hỏa Dương, thư ký cuộc họp sẽ ghi lại kết quả. Quy chế đã đầy đủ, nếu ai thắc mắc thì xin đặt câu hỏi ngay bây giờ! 

Toàn bộ phòng họp im phăng phắc, thanh âm tí tách rãy dầu trên đài lửa bao quanh bốn bức tường bỗng chốc ồn ào khôn tả. Mười sáu thành viên mỗi người một vẻ, người mong sự việc mau chóng kết thúc, kẻ ước vụ này chưa từng xảy ra. Hỏa Dương tiếp lời:

-Không có? Vậy xin phép bắt đầu. Hôm nay, ngày 24 tháng 3, theo đề nghị của trưởng lão Hỏa Thâu Đầu, hội đồng chủ quản họ Hỏa bỏ phiếu biểu quyết tư cách truy cập cơ sở dữ liệu Jeh-7400 của trưởng tộc Hỏa Nghi. Xin hãy giơ tay và nói rõ ràng. Đầu tiên, trưởng lão Hỏa Thâu Đầu…

Chưa đợi Hỏa Dương nói hết, ông già mũi khoằm lớn tiếng, tay giơ cao:

-Phản đối!

-Một phản đối! – Hỏa Dương lặp lại – Mời chú Hỏa Chính…

Cũng giống Thâu Đầu, lão mặt nhọn không cần nửa giây suy nghĩ, nói ngay:

-Phản đối! 

-Hai phản đối! – Hỏa Dương lặp lại – Mời trưởng lão Hỏa Hình Quyền…

Ông già Hình Quyền gõ ngón tay lên bàn, hết nhìn Hỏa Nghi lại nhìn sang ông chú ruột của gã. Ông ta trước nay ủng hộ Hỏa Chính song biểu hiện bây giờ có phần nghiêng ngả. Hỏa Nghi lén nuốt nước bọt trông chờ ông già. Nửa phút sau, Hình Quyền giơ tay:

-Phản đối!

-Ba phản đối! – Hỏa Dương nói – Tiếp tục, mời trưởng lão Hỏa Tạc Sơn…

Ông già Tạc Sơn không nghĩ ngợi quá nhiều dù cho ánh mắt dành cho Hỏa Nghi đã bớt khinh thị như mấy ngày trước. Chữ “Phản đối!” từ miệng ông ta rõ ràng và tròn vành vạnh. Hỏa Dương hỏi, tiếng “Phản đối” vang lên liên tiếp giữa phòng họp nóng hừng hực. Hỏa Nghi chảy mồ hôi ướt lưng áo, toàn thân bừng bừng như có bễ lò phả sau gáy. Đã có năm người phản đối gã, hầu hết là thành viên chi Thâu và Tạc. Tới lượt người thứ sáu, Hỏa Nghi chán hẳn vì đó là ông giám đốc tài chính Hỏa Hình Thạc. Cứ nhìn đôi mắt săm soi như máy đếm tiền của ông ta, gã không bói nổi một tia hy vọng. 

-Ngài giám đốc? – Hỏa Dương hỏi – Xin đưa ra quyết định!

Đương ngẫm ngợi, Hình Thạc đột ngột trả lời như cái tủ lạnh vừa mở ngăn đá:

-Đồng ý!

Ông ta vừa nói xong, Hỏa Nghi muốn rụng tim. Không riêng gã mà rất nhiều người bất ngờ, họ vốn nghĩ ông giám đốc không thể chứa chấp nổi một thằng ranh con ngồi ghế trưởng tộc, chưa nói đến truy cập Jeh-7400. Thâu Đầu hất hàm:

-Sao vậy, chú Thạc? Chú làm vậy mà coi được sao? Chú phó mặc tương lai dòng họ cho trò xổ số à?

-Hỏa Nghi là trưởng tộc, trưởng tộc thì phải có đầy đủ quyền. – Hình Thạc nói, ánh mắt lạnh như nước đá – Hỏa Nghi là đàn ông trưởng thành, không phải đứa trẻ con. Đang bỏ phiếu, anh ngồi xuống và nói ít thôi!

Ông già mũi khoằm phùng mang trợn má song không hó hé thêm câu nào trước cái tủ lạnh Hình Thạc. Sau ông giám đốc tài chính là đến trưởng lão Thâu Đại. Ông chổi xể đồng ý ngay lập tức. Tình hình bắt đầu khởi sắc với Hỏa Nghi. Lượt biểu quyết chuyển qua một người tên Hỏa Khởi Hoa, một người phụ nữ trung tuổi có mái tóc ngắn xoăn sóng cùng cặp kính gọng vàng thanh nhã, cử chỉ nền nã đồng điệu với y phục màu trắng tinh sạch. Bà ta đại diện chi Khởi, đồng thời là phụ nữ duy nhất trong hội đồng. Hỏa Nghi không biết nhiều về người này, chỉ thấy bà ta không quan tâm lắm mấy vụ tranh cãi, hệt như biệt danh “dân làm vườn” mà người ta gọi chi Khởi. 

-Đồng ý! – Hỏa Khởi Hoa trả lời, giọng trầm ấm dễ nghe – Luật lệ tổ tiên định ra thế nào thì không nên thay đổi. 

-Ba đồng ý! – Hỏa Dương nói – Tiếp tục, mời giám đốc điều hành Hỏa Tạc Thủy…

Niềm vui từ bà cô Khởi Hoa mới nhen nhóm, Hỏa Nghi bị hất ngay gáo nước lạnh “Phản đối!” vào mặt. Đã có sáu phiếu phản đối và chỉ cần hai phiếu nữa là đến giới hạn cân bằng. Hiện giờ hội đồng còn bảy người gồm hai nhân vật chi Khởi, hai người chi Hình, hai người chi Biệt trong đấy có Biệt Pháo, cuối cùng là anh chàng trẻ tuổi Tạc Kim. Hỏa Nghi dồn hết tâm tư vào Biệt Pháo. Như giao hẹn, gã đã tìm được người chống lưng, giờ là lúc Biệt Pháo cùng chi tộc đưa ra câu trả lời. 

-Phiếu trắng. – Biệt Pháo nói – Vẫn hợp lệ, đúng không? Tôi bỏ phiếu trắng.

Nối rồi ông ta quay sang Hỏa Nghi với cái nhìn tiếc nuối. Vị trưởng lão đại diện chi Biệt cũng bỏ phiếu trắng theo Biệt Pháo. Hỏa Nghi tức xì khói đầu vì lòng chắc mẩm giành được hai phiếu chi Biệt. Nhưng gã chợt nhớ buổi gặp mặt giữa mình và Biệt Pháo có vài hứa hẹn nhưng không cái nào gọi là “giao kèo”. Gã không thể đòi hỏi chi Biệt ủng hộ mình ngay lập tức. Cuộc bỏ phiếu là cái bẫy, Biệt Pháo không thể mạo hiểm. Hỏa Nghi phải thừa nhận ông ta hành động đúng. 

Nhưng cái đúng đắn của sự thật luôn làm người ta khó chịu. Những kết quả khả quan sau đó chẳng làm Hỏa Nghi phấn chấn. Chi Khởi khá đoàn kết, hai người đều ủng hộ lập trường gìn giữ quy tắc dòng họ giống bà cô Hỏa Khởi Hoa. Hỏa Nghi có thêm hai phiếu. Tới lượt hai thành viên cuối cùng của chi Hình, bọn họ thì thầm nhỏ to với nhau cả phút như muốn chơi trò cân não với toàn bộ hội đồng. Sau rốt, cả hai giơ tay:

-Đồng ý!

-Bảy phiếu đồng ý! – Hỏa Dương lặp lại.

Hỏa Chính lắc đầu nhìn hai người họ vẻ không hài lòng. Nhưng lão mặt nhọn chẳng vội vàng vì người cuối cùng bỏ phiếu là Tạc Kim, con trai trưởng lão Tạc Thạch. Ông già Tạc Thạch luôn theo sát Hỏa Chính từ ngày đầu tiên, ông ta không tin Hỏa Nghi đủ khả năng điều hành dòng họ. Thêm một phản đối, tổng số phiếu sẽ ở thế cân bằng và Hỏa Nghi phải nhận phần thua. 

Cả hội đồng đổ dồn về Tạc Kim. Hỏa Dương đã nhắc nhở hai lần nhưng anh ta ngần ngừ chưa quyết định. Sức ép từ hội đồng trộn lẫn hơi nóng phòng họp khiến anh chàng trẻ tuổi lúng túng. Hỏa Chính điềm nhiên còn Hỏa Nghi đứng ngồi không yên. Nhiều người sốt ruột bàn tán; cũng giống Hỏa Chính, họ vốn tin rằng Tạc Kim đến đây bỏ phiếu hộ ông bố chứ không phải tự quyết theo ý mình. Hỏa Dương vãn hồi trật tự:

-Xin mọi người bình tĩnh! Tạc Kim cần suy nghĩ!

Lời vãn hồi vô tác dụng, tiếng xì xầm ngày càng lớn, với Tạc Kim thì chẳng khác tiếng trống nện thuỳnh thuỵch vào lồng ngực. Chẳng ai biết Tạc Kim nghĩ gì, chỉ thấy anh ta hết trông phe cánh Hỏa Chính lại ngó sang Hỏa Nghi. Giữa lúc hội đồng chuẩn bị tranh cãi, anh chàng trẻ tuổi đột nhiên giơ tay, vội vã thế nào làm lệch cả cặp kính cận:

-Phiếu trắng!

Toàn thể hội đồng ngỡ ngàng, ngay cả chiếc tủ lạnh Hình Thạc cũng không giấu được ngạc nhiên. Tình cảnh của Hỏa Chính và Hỏa Nghi lập tức thay đổi, người thở phào dộng mông xuống ghế, kẻ đang ung dung bỗng đứng phắt dậy. Nhưng trước khi Hỏa Chính hay lão già Thâu Đầu kịp mở miệng, Hỏa Dương đã chẹn họng trước:

-Cậu chắc chứ, cậu Tạc Kim? Cậu chắc đây là ý định của trưởng lão Tạc Thạch không? Xin nhắc lại, cậu chỉ đại diện cha mình chứ không quyết định chuyện trong hội đồng. 

-Tôi đã gọi điện hỏi ý kiến ông cụ. – Tạc Kim nói, giọng hơi gấp gáp.

Hỏa Nghi biết rõ chẳng có cuộc điện thoại nào vì ban nãy gã ở cạnh Tạc Kim suốt. Nhưng gã làm lơ. Hỏa Dương tiếp tục:

-Nếu vậy, xin hãy nhắc lại câu trả lời!

-Phiếu trắng! Tôi thề trên danh dự họ Hỏa! – Tạc Kim dõng dạc trả lời.

-Vậy kết quả là bảy đồng ý, sáu phản đối và ba phiếu trắng. Thể theo quy chế, tôi tuyên bố Hỏa Nghi có quyền truy cập và quản lý Jeh-7400. Mọi chi tộc hay thành viên phải tuân thủ điều luật về cơ sở dữ liệu. Bỏ phiếu kết thúc!

Không tiếng vỗ tay hay chúc mừng nào vang lên, cũng không lời phản đối hoặc thóa mạ nào tuôn ra từ bọn Hỏa Chính. Kẻ thắng người thua tự biết phần của mình. Mọi việc tự động sắp vào hàng lối mà không cần ai xếp đặt. Hỏa Nghi sẽ tiếp cận đề án Thần Sấm cho phiên điều trần vào tháng 4. Từ giờ đến lúc đó, cái ghế trưởng tộc của gã vững vàng như bàn thạch. Chẳng loại thiên tai địch họa hoặc bàn tay thần thánh nào có thể đạp gã ra khỏi cái ghế. 

Trong một nỗ lực vớt vát, ông già Thâu Đầu đứng dậy đề nghị Hỏa Nghi chọn người phụ tá tham gia phiên điều trần. Tất nhiên ông ta đề cử Hỏa Chính. Ngồi phía sau quan sát, Hỏa Dương thấy đề nghị này chấp nhận được. Y không tin nó sẽ hàn gắn những lục đục trong chi trưởng hay dập tắt tham vọng của Hỏa Chính, nhưng một động thái xoa dịu là cần thiết trong thời điểm căng thẳng này. Nó giúp Hỏa Nghi có thêm thời gian. 

Phiền rằng ý tưởng của Hỏa Dương không kịp chuyển thành lời. Em trai y nở nụ cười của kẻ thắng cuộc với Thâu Đầu:

-Cháu thấy chú Hỏa Chính không thích hợp. Chú ấy là học giả, sử gia chứ đâu có chuyên môn công nghệ vũ khí? Cháu sẽ tìm người phù hợp hơn. Nếu cần, cháu sẽ hỏi lại sau. Còn chuyện gì nữa không? Nếu không thì nghỉ thôi, mọi người mệt cả rồi.

Hỏa Nghi kiềm chế lắm mới không buông lời mỉa mai giễu cợt, dù vậy đôi mắt vẫn nhấp nháy vẻ đắc thắng. Ông già mũi khoằm nghiến rằng kèn kẹt, cơ mặt nhàu nhúm, lớp da sần sùi chực long khỏi xương sọ. Nhưng cuối cùng Thâu Đầu bỏ về không kèn không trống. Hỏa Chính theo sau ông già, đôi mắt sắc lẻm chém những vệt sâu hoắm vào Hỏa Nghi như vừa cắt đứt những tình nghĩa cuối cùng. Hai nhân vật quan trọng ra về, hội đồng nhanh chóng giải tán. 

Hỏa Nghi hẹn thăm nhà anh chàng Tạc Kim, nhưng trước đó gã cùng ông anh qua chào hỏi trưởng lão Thâu Đại. Nhờ ông ta kéo dài thời gian, gã mới có vài phút ngắn ngủi gặp gỡ Tạc Kim. Và câu chuyện cũng không xảy ra ngẫu nhiên. Trước cuộc bỏ phiếu, nhờ anh trai, Hỏa Nghi biết tin Tạc Thạch cử con trai dự họp vì bất ngờ mắc cảm cúm. Gã phỏng đoán Tạc Thạch muốn dò xét thái độ của toàn thể hội đồng. Mặc dù ủng hộ Hỏa Chính nhưng ông ta không muốn trở thành kẻ hùa theo Thâu Đầu phá luật tổ tiên. Ngộ nhỡ sau này Hỏa Chính lụn bại, ông ta còn có đường rút. Xét mặt kia vấn đề, Tạc Thạch cũng không thể vỗ mặt bọn Hỏa Chính – Thâu Đầu, nếu bỏ phiếu “Đồng ý” thì mang tiếng sống hai mặt, không có lợi. Vậy nên một phiếu trắng là vẹn đôi đường. 

Trước đấy Hỏa Nghi không lý giải nổi tại sao ông ta để con mình quyết định chuyện quan trọng như thế. Phải đợi cuộc họp kết thúc, gã mới hiểu Tạc Kim làm bia đỡ đạn cho ông bố. Sau đợt này, nếu bọn Hỏa Chính lời ra tiếng vào thì Tạc Thạch còn đủ lý do biện hộ. Có Vạn Thế mới biết Tạc Kim tự nguyện hay bị ông già ép buộc. Nhưng Hỏa Nghi không lấn cấn nhiều. Thắng là thắng và trước mắt gã cần tập trung cho phiên điều trần. 

Từ biệt vị trưởng lão râu chổi xể, anh em Hỏa Nghi rời tòa nhà trung tâm. Trên đường đi, Hỏa Nghi lên tiếng:

-Cảm ơn ông anh mồi tin tức. Tôi nợ anh một chai rượu.

-Đừng mừng vội. Suy nghĩ lại đi, em trai. – Hỏa Dương nói – Hỏa Chính không có chuyên môn nhưng ông ta có thể tham dự phiên điều trần. Giờ là lúc điều đình, không phải gây chiến. Chúng ta chưa thắng ai đâu! Mọi chuyện mới bắt đầu thôi!

-Không là không! – Hỏa Nghi khẳng định – Anh bị sao thế, anh trai? Thằng khốn mặt nhọn chửi ông già “lướt khướt đần độn”, chửi mẹ chúng ta “không biết dạy con”. Lão dồn chúng ta vào chân tường. Ở hội đồng, lão chỉ chực ăn thịt tôi, anh thấy không? Ngồi cùng lão? Ngồi cái con khỉ nhé!

-Giờ này chú còn so đo hơn thua kiểu trẻ con? – Hỏa Dương lừ mắt – Đây không phải chuyện gia đình nữa. Đây là cuộc chơi thỏa hiệp. Thỏa hiệp kém, chúng ta thua, hiểu chưa?

-Ồ, vậy hôm trước thằng nào nói với tôi đây là chuyện nội bộ gia đình chứ không phải trò chơi chính trị? Anh đổi giọng nhanh thế, anh trai?

Hỏa Dương dừng bước, ánh mắt dao mổ tỉa gọt hình ảnh em trai. Hỏa Nghi đang kích động hơn bao giờ hết. Y thừa nhận nó thông minh nhưng quá liều lĩnh và háo thắng. Những bữa ăn gia đình chẳng khiến anh em gần gũi hơn, trái lại càng chỉ ra những điểm quá khác biệt giữa hai người. 

-Xin lỗi, tôi quá lời! – Hỏa Nghi xua tay – Tôi sẽ xem xét sau. Anh nói đúng, anh trai. Nơi đây không phải gia đình. Chúng ta chưa hề có gia đình. Chúng ta không gia đình. 

Nói rồi gã lên xe điện đi thăm ông già Tạc Thạch. Trông bóng dáng đứa em khuất dần, Hỏa Dương thở phù, mái tóc gọn gàng xổ tung vài sợi. Nếu thằng em còn ở đây thêm chút nữa, Hỏa Dương sợ đầu mình nổ tung. Y buông lỏng người để gió lạnh tháng 3 xua bớt bực bội. 

Đương cố thoát khỏi vũng lầy nghĩ ngợi, Hỏa Dương chợt nghe tiếng gõ giầy từ đằng sau vọng lại, chậm rãi mà đều đặn như gõ nhịp bản nhạc. Tiếng chân đầy kiểu cách ấy của Hỏa Chính, y nghe riết thành quen. Dưới bầu trời đen ầng ậng tuyết, ông chú ruột đến bên cạnh y, vừa nói vừa cười, cằm nhọn đung đưa:

-Quản lý một thằng bất trị xem chừng… khó! Thấy nó giống Hỏa Viên không, cháu trai? Kiêu ngạo, bẩn tính, thích lên giọng dạy dỗ và xem thường tất cả mọi người. Anh trai ta là thế! Thuốc không?

Ông chú ruột chìa bao thuốc, Hỏa Dương từ chối. Ông chú lại tiếp lời:

-Thứ luật lệ khỉ gió biến chúng ta thành thừa thãi. Chú đây không khác mày đâu, Dương à. Chỉ vì Hỏa Viên làm nghiên cứu khoa học mà anh ta được cái ghế trưởng tộc. Những kẻ say mê khoa học tuyệt vời đấy, nhưng nhìn xem, hết Hỏa Viên rồi Hỏa Nghi, giống nhau không? 

Hỏa Dương ngắt lời, giọng buốt lạnh như tuyết đang rỏ xuống thềm tòa nhà trung tâm:

-Chú nói xong chưa? Xong rồi thì tôi về đây!

-Còn nhiều lắm, nhưng mày không thích thì thôi vậy! – Hỏa Chính cười mỉm – Nhưng nói thật, chú chẳng ghét mày đâu, chú thương mày. Chú biết mày đã sống thế nào với Hỏa Viên. Nghĩ đi, cháu trai, mày có tài năng, tại sao phải khom lưng phục vụ thằng em mất dạy? Nghĩ đi! 

Nói rồi lão mặt nhọn thong dong bước lên xe điện về nhà, bỏ lại đứa cháu giữa mưa tuyết. Hỏa Dương càng thêm đau đầu, mưa tuyết lạnh lẽo không thể dập tắt cơn bực bội trong lòng y. Nghĩ tới đó, y bèn gọi điện hẹn cô thư ký ăn tối sau đó mây mưa ở nhà của cổ. Y cần giải tỏa.

[1]: người gọi điện cho Hỏa Chính, xem lại Quyển 3 Chương 136
 
Quyển 4 - Chương 5: Ly Ly


Tháng 3 rốt cục không tệ như Hỏa Nghi tưởng. Nhờ chiến thắng bỏ phiếu, vài thành viên hội đồng quay ra ủng hộ gã như Hỏa Khởi Hoa – người đại diện chi Khởi. Vì nhiều lý do mà bà cô này không thực sự ưa gã, nhưng bà ta cũng không thể làm ngơ mãi trước cảnh bọn Hỏa Chính tự tung tự tác ở hội đồng chủ quản. Xuất thân từ nơi mang tiếng coi trọng luật lệ lễ nghi, Khởi Hoa phải có động thái tương xứng với khẩu hiệu của chi tộc. Ngay sáng hôm sau cuộc bỏ phiếu, bà ta hẹn gặp Hỏa Nghi. 

-Thành thật xin lỗi cháu. Đáng lẽ ta và mọi người phải phủ quyết chuyện bỏ phiếu, nhưng chuyện rất phức tạp, cháu hiểu đấy. – Khởi Hoa mở lời – Từ giờ, nếu cần gì, ta có thể giúp cháu. 

So với ngày đầu, Khởi Hoa đã thay đổi thái độ rất nhiều. Nhưng Hỏa Nghi không thể nói người đàn bà này gió chiều nào che chiều ấy; lần trước nếu không phải bà ta bỏ phiếu thuận, Hỏa Nghi đã chẳng có thêm hai phiếu nữa từ chi Khởi. Vả lại cũng giống Biệt Pháo, bà ta cần làm điều có lợi nhất cho chi tộc. Hỏa Nghi nhanh chóng chấp nhận thỉnh ý từ Khởi Hoa rồi bàn việc chính. Sau nhiều cung đường và khúc cua lát bằng ngôn từ, hai người rốt cục cũng đến câu hỏi chính: liệu chi Khởi chịu chống lưng Hỏa Nghi hay không? 

-Cá nhân ta ủng hộ cháu, nhưng chi tộc là chuyện khác. – Khởi Hoa nói, tay nâng gọng kính vàng – Thực lòng nhé, Hỏa Nghi. Việc cháu chiến thắng ở cuộc bỏ phiếu vừa ý nghĩa mà cũng không mang ý nghĩa gì. Những người như ta cần cháu thắng để cảnh cáo Hỏa Chính. Và cháu cần thắng để chứng tỏ điều luật do tổ tiên viết ra vẫn được tôn trọng. Nhưng chiến thắng ở một thứ mà đáng ra thuộc về mình, nó… không ý nghĩa lắm! Cháu hiểu ý ta chứ? Nếu cháu thực sự thắng Hỏa Chính, cuộc bỏ phiếu đã chẳng diễn ra. 

-Vậy cháu cần thể hiện nhiều hơn? – Hỏa Nghi hỏi.

Khởi Hoa gật đầu:

-Phải, trước mắt là phiên điều trần. Hãy xử lý nó thật tốt, sau là tất cả những công việc thường ngày lẫn phát sinh. Đây là cuộc chiến dài hơi, có thể một hai năm hoặc tới khi nào Hỏa Chính từ bỏ ý định chiếm ghế trưởng tộc. Cháu không thể đòi một chi tộc gồm hàng trăm gia đình ủng hộ mình ngay lập tức. Chi Khởi chúng ta từ lâu đã tránh xa những chuyện như thế, nên muốn các trưởng lão ngồi xuống bàn bạc, e là khó. Nhưng chín ngày nữa chi Khởi họp nội bộ, cháu có thể tham dự, nếu không phiền? 

Có người mở đường, Hỏa Nghi mừng húm. Dù vậy gã vẫn từ tốn:

-Cháu sẽ sắp xếp.

-Và nhớ mang theo “quà”, đừng đi tay không. 

Bà cô nháy mắt, Hỏa Nghi gật đầu cười. Tác phong ý tứ nhưng đầy thẳng thắn của người phụ nữ làm gã thích thú. Bấy giờ gã mới để ý bà cô khá trẻ, tuy đuôi mắt đã xuất hiện dấu chân chim nhưng nét đẹp thời tuổi trẻ vẫn chưa rời bỏ khuôn mặt trái xoan, cái răng khểnh rất duyên hay bàn tay trắng trẻo nhỏ nhắn. Nghĩ tới đó, gã thấy mình hơi quá đà. Dù gì cũng là người cùng họ…

-Bây giờ cháu nên tập trung vào phiên điều trần. Ta đoán dự án Thần Sấm nằm trong tầng năm cơ sở dữ liệu, cấp độ tuyệt mật. Cháu đã “cấy ghép” chưa? 

Hỏa Nghi nhăn trán nghĩ rằng bà cô lộn chủ đề. Gã quay sang ông anh Hỏa Dương tìm gợi ý nhưng chỉ nhận được cái nhún vai khó hiểu. Khởi Hoa ngạc nhiên:

-Con của trưởng tộc mà cả hai đứa không biết cái này sao? Ồ, vậy ra Hỏa Viên giữ bí mật với cả con mình. Cũng đúng thôi. Nó khá nguy hiểm và phức tạp. Được rồi, nhìn thẳng vào mắt ta…

Dứt lời, bà cô cởi kính đoạn rướn người về phía trước. Hỏa Nghi thấy hơi kỳ quặc song cũng làm theo. Gã bỗng nhận ra đồng tử của Khởi Hoa xuất hiện vài vệt sáng xanh lam, vài thông số bé li ti cùng những đồ họa ảo ảnh. Hỏa Nghi dụi mắt vài lần để chắc chắn không nhìn lầm. Quả thực đồng tử của Khởi Hoa giống màn hình máy chiếu ba chiều thu nhỏ. Hỏa Nghi chợt hiểu tại sao lại có “cấy ghép” ở đây. Gã lầm bầm, hàm dưới chực rớt khỏi hàm trên:

-Nghe nói chúng ta từng nghiên cứu việc điều khiển máy móc bằng ý nghĩ. Vậy đây là thành quả? Cấy một con chip vào não? 

Khởi Hoa gật đầu xác nhận, đeo kính rồi nói:

-Mười mấy năm trước, khoảng năm 7505, học viện Tinh Thấu Tổ ở lục địa Băng Thổ công bố phương pháp phẫu thuật đồng hóa, giúp cơ thể người hòa hợp với bộ phận cơ sinh học. Nghe nói người phát triển phương pháp này là một cậu học viên chứ không phải đám nghiên cứu. Một câu chuyện nặng tính âm mưu. Nhưng đấy là việc của người phương bắc. Cha cháu đã phát triển phương pháp này lên mức cao hơn, cho phép bộ não điều khiển hoàn toàn bộ phận cơ sinh học đồng thời liên kết nó với máy tính. Sau đấy hội đồng quyết định dùng cách cấy chip để kiểm soát Jeh-7400. 

Bà cô vòng tay sau gáy chỉ dấu phẫu thuật. Thành viên hội đồng đi đâu, thông tin theo đó. Ngộ nhỡ ai đấy bị bắt thì hệ thống tự động ngắt kết nối, không loại phép thuật hay hình thức tra tấn nào có thể khai thác cơ sở dữ liệu. Nhờ thế mà bí mật của họ Hỏa được bảo vệ tuyệt đối. 

-Con chip hoạt động thế nào? – Hỏa Nghi hỏi.

-Hơi khó mô tả, nó như một màn hình ảo tồn tại ngay trước mắt vậy. – Khởi Hoa đáp – Khá tiện lợi nhưng cũng rắc rối, đôi lúc khó chịu, ta chỉ khởi động con chip khi truy cập tầng năm dữ liệu. 

-Có phản ứng phụ không?

-Không ảnh hưởng thể chất nhưng tinh thần thì có thể lắm! – Khởi Hoa thì thầm – Người ngoài hay bảo họ Hỏa chúng ta “khác người” là có lý do cả đấy!

Bà cô nháy mắt. Hỏa Nghi trợn mắt, đầu rụt xuống cổ còn mông lún vào ghế. Bà cô Khởi Hoa phì cười: 

-Ta đùa thôi! Cấy ghép sớm đi. Không còn nhiều thời gian nữa. – Khởi Hoa nói – Dù không tham gia nhưng ta biết đề án Thần Sấm rất rộng, cháu cần nghiên cứu nó kĩ càng. Quốc hội không bỏ qua dễ dàng đâu. Nếu khó khăn, hãy hỏi ta, đừng ngại!

Chuyện đến hồi kết, Khởi Hoa bắt tay tạm biệt Hỏa Nghi. Khi cả hai người đứng dậy, Hỏa Nghi phát hiện vóc dáng trẻ trung của bà cô mà bộ y phục kín đáo không sao che giấu nổi. Theo bản năng, gã ngó xuống nơi đường pa-ra-bôn xướng họa cùng chiếc váy thanh lịch, để rồi bất ngờ vì sức sống căng tràn của nó. Gã không nén nổi mà ghé đầu nhỏ to:

-Cháu xin lỗi nhưng cô bao nhiêu tuổi vậy?

-Ta ba mươi bảy tuổi rồi. Nhưng tại sao hỏi thế?

-À… cháu muốn biết thêm vài thứ. – Hỏa Nghi cười cười nói nói – Cô biết đấy, nếu cháu quan tâm hội đồng hơn thì mọi chuyện đã không rắc rối thế này. Cháu cần sửa chữa từ bây giờ.

-Ra dáng đấy chứ! – Khởi Hoa gật gù – Thôi, làm việc tốt nhé. Hẹn gặp cháu ở chi Khởi. 

Bà cô mỉm cười thân thiện đoạn rời phòng. Đứng phía sau, Hỏa Nghi cứ nhóng mắt trông theo vùng đất màu mỡ trên cơ thể của người phụ nữ ba mươi bảy tuổi. Thật là ba mươi bảy sao? – Gã hồ nghi rồi tự hỏi tại sao không nhận ra vụ này sớm hơn dù thường xuyên giáp mặt bà cô ở Lò Than. Trong cương vị trưởng tộc, gã thiết nghĩ phải nâng cấp căn phòng cổ lỗ sĩ đó ngay lập tức, trước nhất là mấy đài lửa hăng hắc mùi dầu vừa tối như hũ nút vừa ô nhiễm môi trường. Một vị trưởng tộc sáng suốt cần ánh sáng đầy đủ để thấy những điều cần thấy! – Gã khẳng định, khóe miệng hơi nhếch thở đầy mùi dâm tiện. Bất thình lình một cái vả sau gáy làm Hỏa Nghi điếng người, ngoảnh lại thì thấy ông anh quạu mắt:

-Bà ấy đáng tuổi “cô” đấy! Nghĩ linh tinh ít thôi!

Hỏa Dương nói như thể biết rõ cái gì đang diễn ra trong đầu em trai. Hỏa Nghi xoa đầu tặc lưỡi:

-Đừng làm quá vậy chứ, ông anh! Ai chẳng biết năm chi tộc cùng mang họ Hỏa chứ đâu còn chung huyết thống. Năm đời là hết liên quan, đằng này chúng ta sống riêng rẽ mười mấy đời…

Giọng Hỏa Nghi nhỏ dần vì thấy đôi mắt của ông anh long sòng sọc, răng nghiến trèo trẹo tưởng chừng sắp ăn thịt gã đến nơi. Hỏa Nghi co giò chuồn thẳng mà trong bụng chửi thầm anh trai cổ hủ. Nhưng nghĩ lại, gã thấy mình hơi quá đáng, có lẽ bởi lâu ngày thiếu hơi Thanh Nhi. Cô gái vẫn chưa về. Gã không trách Thanh Nhi, chỉ trách Vạn Thế ban cho mình khẩu vị mặn hơn đa số người. 



Những ngày ảm đạm tháng 3 bao trùm thủ đô, ai nấy đều nghĩ lễ quốc khánh năm nay sẽ chìm nghỉm dưới mưa tuyết rét mướt. Khắp Phi Thiên quốc, hoa tiếc thương cho đại thánh sứ Tây Minh vẫn trải ngập bậc thềm các thánh đường. Ở mỗi lục địa, các quốc gia tự động co cụm và kiểm soát chặt chẽ hoạt động xuất nhập cảnh. Chẳng ai nghĩ có nơi nào đó trên thế giới sẽ náo nhiệt trong hoàn cảnh này, thời khắc này.

Nhưng con người thường đánh giá thấp tính lạc quan ham vui của họ. Đúng ngày quốc khánh, mặt trời bỗng vùng dậy, gạt những tầng mây đen và rọi ánh nắng xuống quảng trường thủ đô, nơi quân đội duyệt binh dưới mưa tuyết lây phây. Người dự lễ vẫn đông hàng ngàn, binh lính vẫn hùng hậu, Tiểu Đoàn Kiếm Sắt vẫn mạnh mẽ, trên hết phải kể đến Thần Sấm lần đầu xuất hiện. Bằng cái bóng khổng lồ, cỗ phi thuyền nuốt quá nửa quảng trường và dội sự choáng ngợp không thốt nên lời xuống những người chiêm ngưỡng. Nó như phần bù đắp cho sự ra đi của Tây Minh, đồng thời là câu trả lời cho bất cứ ai nghĩ rằng Phi Thiên quốc đang mềm yếu. 

Hàng tấn sắt thép hoàn thành nhiệm vụ phô diễn sức mạnh đế quốc, tất cả chỉ còn đợi người đàn ông quan trọng nhất trong quảng trường. Trên khán đài, hoàng đế Đệ Thập chuyển lời đến dân chúng cùng toàn thế giới bằng chất giọng khỏe khoắn đầy nội lực, hùng hồn hơn cả lúc ngài lên ngôi bốn thập kỷ trước. Dần dà người ta quên luôn chuyện ngài kém sắc ốm o thế nào hồi đầu năm.

“…Phi Thiên quốc luôn hợp tác hữu nghị và chia sẻ lợi ích với bất cứ ai có thiện chí. Thời đại mới đang đến, chúng ta luôn mở cửa đối thoại trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Nhưng nó không có nghĩa là Phi Thiên nhượng bộ. Không cá nhân, thế lực hay tổ chức nào được phép lợi dụng điều trên để làm tổn hại lợi ích của Phi Thiên quốc. Và tôi thề trước lá cờ cánh đỏ rằng nếu có kẻ lợi dụng, kẻ đó sẽ phải trả giá…”



Hình ảnh hoàng đế hiện diện trên khắp các phương tiện truyền hình. Dù đang làm việc nhưng Hỏa Nghi cũng ngước đầu lắng nghe. Tìm hoài không ra điểm bất thường nào trong những lời lẽ cứng rắn hay ngôn từ sắt đá của bài phát biểu, gã thầm khen người đóng thế hoàn hảo. Giả như Đệ Thập đang xem truyền hình, chắc ngài cũng gật gù hài lòng. Hỏa Nghi biết hoàng đế thật đang ở Thánh Vực chờ lễ thanh tẩy, hoặc có thể ngài đã ra đi từ lâu. Gã nheo mắt nhìn công chúa Lục Châu ngồi phía sau hoàng đế, tự hỏi nàng đã biết số phận cha mình hay chưa. Bất quá trông công chúa nghiêm nghị vô cảm, gã chẳng thể đoán ra điều gì. Họa may nhìn thấy mái đầu đỏ quen thuộc, công chúa mới vỡ òa cảm xúc như con đập vỡ đê. 

Nhắc tóc đỏ, Hỏa Nghi lại thở dài. Ba tháng qua, gã rất chăm đọc báo vì kinh nghiệm cho thấy Vô Phong đặt chân đến đâu là chỗ đấy bét nhè như vụ Mù Thủy hoặc Khẩu Lỗ thành. Nhưng rốt cục chẳng có dấu hiệu nào, ngay cả Chợ Rác cũng không lần ra tên tóc đỏ. Giả dụ Vô Phong gặp kết cục xấu nhất, gã không biết ăn nói ra sao với công chúa, Liệt Trúc, đặc biệt là Tiểu Hồ. “Đại thánh sứ ơi là đại thánh sứ, ngài chơi khó tôi quá!” – Gã than thở. 

Về phần Tiểu Hồ, cô gái vừa quay lại Diệp quốc. Hỏa Nghi đã cung cấp nhiều phương tiện cho nàng bao gồm cả lối thoát khẩn cấp. Lục địa Đông Thổ đang căng như dây đàn, chẳng ai biết Diệp quốc lẫn Bắc Thần quốc hành xử kiểu gì nếu nổ ra chiến tranh trong khi Tiểu Hồ hoạt động gần vùng nguy hiểm. Nhưng cô gái không quá bận tâm. Trước lúc đi, nàng luôn miệng nhắc nhở Hỏa Nghi hễ có thông tin của Vô Phong thì phải báo ngay với mình. Hỏa Nghi gật bừa cho yên chuyện. Kỳ thực nếu tìm được tên tóc đỏ, còn khướt gã mới gọi. Đàn bà chúa làm hỏng việc, gã không điên. 

“Hoàng đế” kết thúc bài phát biểu, dân chúng nô nức vui chơi lễ hội. Nhìn những tốp người nhảy múa quanh nhạc công chơi kèn túi, Hỏa Nghi tặc lưỡi tiếc nuối. Công việc đang nhề nhãi, gã chẳng cách nào thoát khỏi chiếc bàn ùn ứ sổ sách giấy tờ. Quyết định thu chi, quyết định bổ nhiệm, giấy mời họp, đơn đề nghị… ti tỉ thứ cần gã ký duyệt. Thi thoảng gã gục đầu xuống bàn dộng trán mấy lần cho tỉnh táo, chốc lại gọi người giúp việc mang trà mang thuốc. Ngó chiếc gạt tàn đầy ự đầu lọc, Hỏa Nghi nghĩ tới cha – người mà gã luôn gọi là “ông già”. Ít khi nào gã thấy ngón tay của ông không kẹp điếu thuốc. 

Căn phòng nơi Hỏa Nghi làm việc đã phục vụ cha gã hai mươi năm có lẻ. Tài sản của Hỏa Viên xuất hiện ở mọi ngóc ngách từ huy chương, giải thưởng, ảnh kỷ yếu, ảnh chụp chân dung, sách vở, bản thảo viết tháu đến những chai rượu uống dở. Nghía qua căn phòng, người ta dễ cảm tưởng rằng Hỏa Viên không vứt bỏ bất cứ thứ gì trong cuộc đời mình. Hỏa Nghi dám chắc “ông già” vẫn nốc rượu tì tì trước hôm liệt giường. Đồ đạc lắm, bất tiện nhiều nhưng Hỏa Nghi chưa bảo người dọn dẹp. Đợi ông già tỉnh dậy, gã sẽ trả lại căn phòng nguyên si không thiếu một món cho ổng. 

Tiếng gõ cửa làm Hỏa Nghi ngẩng đầu. Một người thư ký bước vào, tay cầm phong thư có dấu niêm phong hình bông hoa mười cánh: 

-Thưa ngài, thư quan trọng. 

Trông mặt ngoài phong bì đề người gửi là Đức vua Tuyệt Tưởng Thành – Hoang Vệ Đấu Thánh, Hỏa Nghi chột dạ mà cũng chẳng lấy làm lạ. Gã biết người Tuyệt Tưởng đang mất kiên nhẫn. 

Như Hỏa Nghi dự đoán, nội dung thư tuy đề cập khá nhiều chuyện người Tuyệt Tưởng xây dựng vùng đất mới, nhưng chốt hạ vẫn là cái chết của vua Đấu Nhân. Hồi chiến tranh, người Tuyệt Tưởng từng nhờ gã điều tra và sẽ không dừng lại chừng nào chưa biết danh tính thủ phạm ám sát nhà vua[1]. Vài tháng trước, họ gọi Hỏa Nghi hai lần, cả hai lần gã đều trả lời nước đôi hòa hoãn. Giờ đích thân nhà vua Đấu Thánh biên thư, gã không thể tiếp tục chơi bài dùng dằng. Sự tình phức tạp, gã liền gọi anh trai quay về Đảo Sắt Thép. Nửa tiếng sau Hỏa Dương có mặt. 

-Giờ tôi mà hở ra họ Hỏa làm con nhện sắt Thiết Thù, khéo người Tuyệt Tưởng lật tung cả bán đảo này mất! – Hỏa Nghi đưa bức thư cho anh trai – Chúng ta phải trả lời họ tử tế. Hay tôi đem ông anh tế thần nhỉ? 

Hỏa Dương ngước mắt nhìn đứa em trai đang nhếch mép nửa đùa nửa thật. Hỏa Nghi tiếp lời:

-Thành thật với tôi nhé. Anh đã gặp Tiếu bao giờ chưa? Biết mặt thằng đó không? 

-Không. – Hỏa Dương trả lời dứt khoát – Anh chỉ làm việc với Lục Thiên. 

Hỏa Nghi gật gù:

-Sắp xếp lại sự việc nhé! Hơi dài dòng một chút. Đầu tiên, Quân Doanh Bờ Tây đặt hàng dự án cải tạo Thiết Thù. Trong quá trình thử nghiệm có một con nhện sắt bị hỏng, mã số IS-015. Thay vì đưa nó đi tiêu hủy, anh đã lấy bộ vi mạch thật đưa cho Lục Thiên và đánh tráo bằng bộ vi mạch giả, đúng không? 

-Đúng. Và lúc anh sắp mua chuộc được ban dự án thì chú mày xuất hiện. – Hỏa Dương đế thêm.

-Anh còn liên lạc với họ không? 

-Vẫn thường xuyên. Anh chơi thân với tay trưởng ban dự án. 

Hỏa Nghi ngẫm nghĩ một hồi, sau nói:

-Tôi sợ người Tuyệt Tưởng đoán ra nguồn gốc con nhện sắt và sẽ cử gián điệp nằm vùng. Họ vẫn giữ vật chứng, bộ vi mạch con nhện đang ở trong tay họ[2]. Hãy khoanh vùng ban dự án, tăng cường giám sát, đừng để họ tiếp xúc với người lạ. Bảo bên nhân sự kiểm tra kĩ hồ sơ xin việc, tăng cường hệ thống bảo vệ cơ sở dữ liệu. Nếu cần, tôi sẽ nâng mức tuyệt mật của dự án cải tạo Thiết Thù từ cấp bốn lên cấp năm. Chúng ta đang cung cấp vật tư tái thiết cho Tuyệt Tưởng Thành, đúng không? Hãy cử người đáng tin cậy đến đó nghe ngóng tình hình, một ai đó giỏi chuyên môn nhưng cũng giỏi ngoại giao, cỡ một phần mười ông già Tông Tủy là được! Dự án còn bí mật, ông anh còn an toàn. 

Hỏa Dương cẩn thận ghi chép, tay bút tay giấy loạt soạt. Gã hỏi:

-Vậy chú trả lời người Tuyệt Tưởng thế nào?

-Đưa cho họ tất cả thông tin về hạt mầm Nại Mãi, cung cấp luôn địa chỉ nguồn hàng. Nếu cất công điều tra, người Tuyệt Tưởng sẽ thất vọng sớm thôi vì người mua hạt mầm đã xanh mả rồi[3]! Tôi nghe nói chợ đen cũng bán vài thứ tương tự thế nhưng không tinh xảo bằng con nhện sắt của chúng ta. Nhờ anh mua mớ đồng nát đó về đây, tôi sẽ gửi chúng cho Tuyệt Tưởng Thành. Trước mắt không được để họ biết về con nhện sắt.

-Sớm muộn họ cũng biết. – Hỏa Dương nói – Các nước đã hoạt động tình báo hàng thế kỷ nay, đâu đấy sẽ có tài liệu về Thiết Thù. Lúc ấy Tuyệt Tưởng Thành đòi hợp tác điều tra, chú tính sao? 

-Nước đến chân rồi nhảy cũng chưa muộn, miễn không chết đuối là xong. – Hỏa Nghi thở phù. 

Hỏa Dương lắc đầu:

-Mình chú không thể kham tất cả, anh cũng vậy. Chú cần một ban cố vấn và điều hành công việc, anh sẽ gửi danh sách để chú tham khảo. 

Hỏa Nghi gật đầu đồng ý. Đúng là gã đang cần người giải quyết giùm mớ giấy tờ kinh hoàng trên mặt bàn. Trò chuyện kết thúc, Hỏa Dương lẳng lặng rời phòng, không lời chào cũng chẳng hỏi thăm. Hỏa Nghi nhíu mày:

-Không được một câu cảm ơn à? Tôi vừa giúp anh đấy!

-Nghĩa vụ của chú là bảo vệ dòng họ và gia đình. Thắc mắc gì sao? – Hỏa Dương nhún vai.

Nhìn ông anh mặt trơ lì vô cảm, Hỏa Nghi chán không buồn nói thêm. Gã quay lại làm việc, miệng lẩm bẩm rủa ông anh bị sét đánh thánh đâm. Đột nhiên Hỏa Dương đặt trước mặt gã một chiếc bánh bọc kín giấy. Trưa nay nhiều việc, Hỏa Dương không về nhà nên đã chuẩn bị đồ ăn cho ông em nổi tiếng nấu thịt gà thành món có vị cá. Rồi vẫn bộ mặt lạnh lẽo lì lợm, Hỏa Dương rời khỏi phòng. Sẵn đói, Hỏa Nghi bóc bánh ăn ngay, ăn tới đâu cái bụng đầy bồ chửi rủa dịu đến đó. Lễ quốc khánh của gã chưa đến nỗi nguội lạnh. 

Tầm chiều, Hỏa Nghi đến khu phức hợp phía đông để cấy chip. Hầu hết phòng thí nghiệm, nghiên cứu và sản xuất tập trung tại đây, kéo theo một lượng lớn người ăn ngủ cùng công việc. Đặc trưng ở nơi này là những tòa kiến trúc xếp chồng chéo lên nhau nhằm tiết kiệm không gian. Cứ hai tòa nhà đỡ một nhà, rồi lại hai tòa phía trên đỡ lấy một tòa trên cao nữa, tiếp tục như thế khoảng bảy tám lần tạo thành một tổng thể khổng lồ cao ngất. Chúng có vẻ ngoài lộn xộn kỳ cục như trẻ con chơi xếp hình, song là niềm khao khát của vô số con người làm khoa học trên Tâm Mộng. Nơi này sở hữu những thứ xứng tầm với giấc mơ con trẻ, thậm chí vượt xa hơn thế. 

Hỏa Nghi bước vào tòa nhà nghiên cứu y học và theo chân một người máy. Cỗ máy bay lơ lửng nhờ vật liệu từ tính, có đầu có thân, trên đầu gắn bộ thu phát tín hiệu hình tam giác trông như cặp tai thú. Người ta gọi chúng là “Chồn Bay”. Đám Chồn Bay tự hoạt động bằng trí tuệ nhân tạo và tuần hành khắp nơi trong tòa nhà. Chỉ cần nhập tên nơi cần đến, chúng sẽ vẽ bản đồ hướng dẫn hoặc trực tiếp chỉ đường nếu được yêu cầu. Ai đó còn thiết kế giọng nữ nhí nhảnh dễ thương cho lũ chồn, nghe khá vui tai. Chúng làm Hỏa Nghi nhớ tới giọng nữ truyền cảm trên tàu điện dẫn về Đảo Sắt Thép, biết đâu lại chung bố đẻ với đám chồn máy.

Đến phòng phẫu thuật, Hỏa Nghi gặp hai thành viên hội đồng. Một người già đầu hói râu quai nón tên Hình Lao, người kia trung tuổi với mái tóc quăn tên Hình Giám. Bọn họ chịu trách nhiệm quản lý và giám sát hoạt động khu phức hợp phía đông. Tại phiên bỏ phiếu, hai người này đã chơi trò cân não với cả hội đồng trước khi ủng hộ Hỏa Nghi. Giờ họ có mặt ở đây để giám sát phẫu thuật. Ông già Hình Lao nói, giọng khò khè:

-Chào mừng cậu trưởng tộc, chúng ta sẽ vào việc ngay. Thời gian phẫu thuật ước chừng nửa tiếng, nghỉ ngơi một tiếng, sau đấy cậu có thể khởi động con chip và đi lại bình thường. Hãy xem con chip.

Ông già dứt lời, Hình Giám đứng kế bên đặt lên bàn một chiếc cặp đen thui. Trong cặp đựng máy móc, vài bộ vi mạch tinh xảo và một con chip cơ sinh học nhỏ xíu đặt chính giữa. Con chip hình kim cương có màu xanh trắng, mỗi mặt đều chạm khắc ký tự, nom như viên đá quý. Hình Giám giải thích:

-Con chip được cấy vào thùy chẩm của não. Cậu biết đấy, thùy chẩm là nơi điều khiển thị giác, giúp con người nhìn nhận thế giới thông qua hình ảnh và màu sắc. Cấy xong chip, cậu sẽ hiểu tại sao. 

-Con chip giúp chúng ta điều khiển hệ thống máy tính bằng ý nghĩ? – Hỏa Nghi hỏi. 

Hình Giám gật đầu:

-Đúng. Nhưng vấn đề là con người rất khó kiểm soát suy nghĩ. Vận tốc suy nghĩ nhanh gấp nhiều lần vận tốc ánh sáng. Bởi vậy cháu cần những thứ này… – Ông ta chỉ vào đống vi mạch – …chúng là chốt khóa ngăn chặn những ý nghĩ lộn xộn, đồng thời tích hợp vài câu lệnh đơn giản. 

Cả thảy vi mạch có hai mươi tám chiếc được cấy vào tất cả khớp ngón tay. Bằng vài thao tác đơn giản kết hợp ý nghĩ là có thể sử dụng gần một nửa chức năng cơ sở dữ liệu. Hỏa Nghi dợm nghĩ các chức năng cao cấp cần nhiều thao tác hơn, phức tạp hơn, dễ chừng mang hơi hướm thể dục nhịp điệu. 

Đội ngũ bác sĩ y tá bước vào phòng, hai thành viên hội đồng ra ngoài rồi giám sát qua cửa kính. Hỏa Nghi nằm chờ đợi trên bàn phẫu thuật, mắt chong chong nhìn chiếc đèn sáu bóng đang rọi thẳng mặt. Đầu óc gã ong ong giữa công việc, phiên điều trần tháng 4, bức thư từ Tuyệt Tưởng Thành và bảo vệ anh trai. Nhưng khi ngấm thuốc mê, gã lại nghĩ đến Thanh Nhi, nhớ gia đình tụ họp vào ngày quốc khánh và một người chị mà gã thường quấy quả lúc bé. Thời gian chầm chậm trôi theo tiếng máy móc, tiếng bác sĩ trao đổi, tiếng lanh canh dụng cụ mổ. Hỏa Nghi chìm trong mộng mị, không biết người ta cấy con chip vào đầu lúc nào. 

Một tiếng sau, Hỏa Nghi tỉnh dậy. Lúc này phòng phẫu thuật chỉ còn gã với hai thành viên hội đồng. Rờ vào vết mổ, Hỏa Nghi cảm giác nó hơi gồ lên cùng vết chỉ khâu. Gã ngó xuống rồi nhận ra toàn bộ khớp ngón tay rực sáng những đường viền màu xanh trắng. Theo lời Hình Giám, con chip lẫn vi mạch đang đồng bộ với cơ thể, quá trình này diễn ra khoảng năm phút hoặc lâu hơn. Ngoài cái đầu nặng trịch và bàn tay hơi ngứa ngáy, gã không thấy cơ thể phát sinh dấu hiệu bất thường. 

Sau năm phút, ánh sáng trên bàn tay Hỏa Nghi dịu dần rồi tắt hẳn. Hình Lao bảo gã xoay vài vòng, giơ chân trái nâng chân phải, vặn vẹo thân người để kiểm tra. Ông già đầu hói gật gù:

-Ổn rồi, không có phản ứng phụ. Giờ chúng ta khởi động hệ thống. Dùng tay phải, lấy ngón cái bấm vào đốt đầu tiên của ngón giữa, tập trung mường tượng sự “khởi động”.

-Cháu không hiểu lắm, khởi động… cái gì? – Hỏa Nghi nheo mắt.

-Hãy tưởng tượng vài hình ảnh trực quan như phi thuyền cất cánh, đồng hồ đếm ngược, tiếng súng báo hiệu cuộc thi… Mọi thứ! – Hình Giám cất lời – Miễn nó liên quan tới “khởi động” là được.

Hỏa Nghi làm theo bọn họ, mắt lim dim, lòng chắc mẩm mình bây giờ không khác gì thằng hề. Hốt nhiên một tiếng “Tinh!” vang lên, nghe như một chiếc nĩa kim loại vừa gõ vào ly rượu. Chưa tìm được ngọn nguồn phát ra âm thanh, gã lại thấy khung cảnh thay đổi. Trước mắt Hỏa Nghi, hai thành viên hội đồng mang trên mình những bảng thông tin ảo ảnh cho biết tên tuổi, cân nặng, nhóm máu, chức vụ cùng gia quyến. Gã nhỏng mắt ra ngoài phòng phẫu thuật, thấy bất cứ ai cũng “đeo” mấy bảng thông tin như vậy. Kể cả căn phòng nơi gã đang ngồi cũng hiển thị thông tin, nó là Phòng Phẫu Thuật Cao Cấp, thuộc tòa nhà Trung Tâm Nghiên Cứu Y Khoa. Mọi con người, mọi vật thể vô tri vô giác trong mắt Hỏa Nghi bỗng chốc bị bóc trần cả quá khứ lẫn nguồn gốc. Không ai, không thứ gì có thể giấu giếm bí mật với gã.

“Truy cập hợp lệ. Viêm Nhật Hỏa Nghi, trưởng tộc họ Hỏa. Chào anh!”

Một giọng nữ vang lên làm Hỏa Nghi giật thót. Gã suýt té ngửa khi phát hiện một cô gái đã ngồi kế bên mình từ lúc nào. Cô ta trẻ trung, dáng dấp mảnh mai, tóc vàng đặc trưng như nhiều cô gái Phi Thiên quốc. Điều đáng nói là gu thời trang của cô ta hơi cổ lỗ: váy trắng nhiều đường diềm, đai lưng bạc thắt eo, bàn tay đeo găng ren, trông diêm dúa quá thể đáng, tựa thể bước ra từ thế kỷ trước. Kỳ quặc hơn nữa là phần lưng của cô gái gắn đầy dây điện cùng ống dẫn năng lượng. Nhưng trông bộ váy áo lạc quẻ thời đại và bộ dạng có phần ghê răng, Hỏa Nghi chợt hiểu cô ta cũng là một ảnh ảo. Gã mạnh dạn chạm tay lên người cô gái. Chẳng có da thịt hay quần áo, bàn tay gã chỉ tóm được hư không. Ngoài Hỏa Nghi, hai thành viên hội đồng cũng nhìn thấy cô gái. Ông già Hình Lao gật đầu:

-Đã lâu không gặp. Chào cô, Ly Ly. 

Cô gái ảo ảnh tên Ly Ly mỉm cười đáp lễ, bộ dạng tự nhiên vô cùng, hoàn toàn không có biểu hiện phân biệt giữa người thường hay người máy. Cô ta quay sang Hỏa Nghi, giọng trầm thấp và đầy những câu ngắt quãng:

“Tên tôi là Ly Ly. Tôi được tạo ra vào năm 7400. Tôi là quản lý cơ sở dữ liệu, người giúp việc và nhạc công. Chào mừng ngài trưởng tộc đến thế giới Jeh-7400”.

[1]: xem lại Quyển 3 Chương 119

[2]: xem lại Quyển 3 Chương 119

[3]: xem lại Quyển 3 Chương 136
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom