Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Ngục Thánh

Quyển 4 - Chương 6: Gió nổi


Cấu tạo bộ não chia thành năm thùy lớn, mỗi phần một chức năng riêng, trong đó thùy chẩm xử lý thị giác. Nói cách khác, thùy chẩm “vẽ” màu sắc và hình dáng thế giới cho con người.Ví dụ như một bên màu đỏ, một bên màu xanh, kết hợp cả hai thì được màu vàng; mặt trời mặt trăng hình tròn, cỏ cây thú vật muôn hình dạng, nước vô định hình… Thùy chẩm bị hỏng, con người chìm vào tăm tối. “Ông già” đã dạy Hỏa Nghi những điều cơ bản đó từ lúc gã còn bé xíu.

“Trong trường hợp hy hữu, nếu thùy chẩm thay đổi, cách chúng ta nhìn nhận thế giới có khả năng thay đổi. Lý thuyết là thế. Nhưng có lẽ hàng nghìn năm nữa, thế giới trong mắt con người vẫn như cũ.” – Hỏa Nghi nhớ lời cha mình. Khi ấy Hỏa Viên còn nhiều sức sống, hai má đầy đặn và chưa rụng tóc. Hỏa Viên không thể ngờ cái tương lai hàng nghìn năm đó sẽ rút ngắn xuống mức không tưởng, mà lại do chính tay ông ta tác động. Giờ đây, chứng kiến cô gái ảo ảnh Ly Ly cùng thế giới do Jeh-7400 tạo nên, Hỏa Nghi hiểu rằng ước mơ của cha mình đã thành hiện thực. 

Ngoài Hỏa Nghi, chỉ có mười sáu thành viên hội đồng chủ quản nhìn thấy Ly Ly. Cô ta là hệ thống trí tuệ nhân tạo quản lý Jeh-7400, thông qua con chip được thể hiện bằng hình ảnh một tiểu thư quý tộc với giọng nói êm dịu dễ nghe. Hỏa Viên chủ trì dự án cấy chip nên ông ta quyết định hình dáng Ly Ly, cũng là chi tiết khiến Hỏa Nghi lấn cấn. Gã có thể hiểu Ly Ly mang giới tính nữ vì chẳng ai muốn nghe một tên đực rựa thủ thỉ rù rì bên tai. Nhưng gã không hiểu tại sao “ông già” để cô ta có gu ăn mặc cổ lỗ sĩ cùng đám dây nhợ tòa ròa sau lưng như xúc tu bạch tuộc. Sau rốt gã thừa nhận mình chẳng hiểu gì về cha đẻ. 

“Hình ảnh của tôi, giọng nói của tôi, tất cả đều tồn tại trong tâm trí ngài và những người cấy chip, thưa trưởng tộc.” – Cô gái Ly Ly mở lời – “Con chip có mã hiệu STH-01, do cha ngài, Hỏa Viên chế tạo vào ngày…”

-Được rồi, được rồi, cái đó tôi biết! – Hỏa Nghi giơ tay – Giờ tôi cần truy cập dữ liệu đề án phát triển Thần Sấm, cô giúp tôi chứ? 

Ly Ly đáp lời:

“Yêu cầu hợp lệ. Nhưng ngài thiếu kỹ năng sử dụng cơ sở dữ liệu. Đề án phát triển Thần Sấm thuộc Cấp 5, cách sử dụng khác so với dữ liệu Cấp 4 trở xuống. Ngài cần các kỹ năng cơ bản đến nâng cao. Tôi sẽ giúp ngài. Trước hết tôi cần một chương trình mẫu…” – Cô ta quay sang hai thành viên hội đồng – “…tôi có thể mở một chương trình Cấp 5 nào, thưa các ngài?”

Cô gái ảo khoát tay, một loạt tập tin hiện ra giữa không trung tựa những thẻ bài, tất cả đều là tài liệu Cấp 5 của chi Hình. Hỏa Nghi liếc mắt nhìn thật nhanh nhưng chẳng hiểu gì vì chúng được mã hóa, và tất nhiên chẳng cái nào ghi dòng chữ “Đề Án Ngục Thánh”. Hai người Hình Lao, Hình Giám bàn bạc ít phút rồi lựa chọn một tập tin làm mẫu. Ly Ly cúi đầu cảm ơn họ rồi nói với Hỏa Nghi:

“Xin theo tôi, thưa ngài trưởng tộc. Tôi sẽ hướng dẫn ngài cách sử dụng cơ sở dữ liệu Cấp 5. Hãy lên sân thượng, tôi chờ ngài ở đó.”

Ly Ly tan biến, để lại vài vệt sáng màu xanh trắng. Hỏa Nghi liền rời phòng và lên sân thượng tòa nhà. Ly Ly đã ở đó từ trước. Cô ta có thể xuất hiện ở bất cứ đâu hoặc bất cứ thời điểm nào trong Đảo Sắt Thép, bởi lẽ mọi máy tính ở đây đều sử dụng Jeh-7400. Trong thế giới Jeh-7400, cô ta là toàn năng, toàn tri và toàn hiện. 

-Cô bớt biến đi biến lại được không? – Hỏa Nghi nói – Tôi không thể nhanh như cô được! Hãy đi lại như con người bình thường!

Ly Ly gật đầu:

“Yêu cầu hợp lệ. Từ nay, khi làm việc bên cạnh ngài, tôi sẽ hành xử như một con người.”

Hỏa Nghi thở phù, không chắc cô ta hiểu ý nghĩa từ “con người”. Tuy mang hình dáng lẫn cử chỉ như người thật nhưng Ly Ly bị hạn chế trong giao tiếp, đơn giản là vì cô ta không có bộ não con người. Não cô ta là hệ thống máy tập hợp những chương trình thuật toán, ở đó câu hỏi là bài toán và cô ta cần tìm cách giải tối ưu nhất. Hỏa Nghi không thể trông đợi Ly Ly phô bày chút nữ tính dù hình thể cô nàng vô cùng lý tưởng. Riêng điểm này, gã tin con thú dữ lùn tịt Tiểu Hồ còn quyến rũ hơn.

Đứng từ sân thượng, Hỏa Nghi có thể trông ra khắp khu phức hợp, toàn bộ Đảo Sắt Thép cùng mặt biển xa xa đang hừng đỏ ánh hoàng hôn. Nhờ Jeh-7400, hàng loạt bảng thông tin xuất hiện cho gã biết đằng kia là tòa nhà trung tâm, phía nọ là tổ hợp sản xuất. Từng con người trên những con đường len qua khu phức hợp hay trong tòa nhà là từng ấy chữ số bé li ti làm gã nhức mắt. Ly Ly thấy thế liền nói:

“Ngài đang để tầm nhìn của mình ở mức chi tiết tối đa. Hãy giảm xuống tối thiểu. Đôi tay ngài chính là bảng điều khiển, xin hãy làm theo tôi…”

Cô gái ảo vừa nói vừa làm động tác minh họa. Hỏa Nghi dần nắm bắt cách sử dụng cơ sở dữ liệu. Hai mươi tám đốt ngón tay là hai mươi tám lệnh cơ bản nhất như tắt/mở nguồn, hiển thị thông tin chi tiết, mở hệ thống dò tìm, kết nối máy tính… đại khái như chức năng của một máy chiếu ba chiều thông dụng. Thao tác cũng đơn giản: chỉ cần lấy đầu ngón cái chạm vào các khớp rồi tập trung suy nghĩ, trường hợp nếu lệnh nằm trên khớp ngón cái thì dùng tay bên kia chạm vào. Hỏa Nghi thấy kiểu bấm đốt ngón tay này rất giống đám pháp sư hạng bét hành nghề bói toán hoặc chiêm tinh. 

Nhưng hai mươi tám lệnh chỉ là bước khởi đầu. Ly Ly nói rằng nếu kết hợp chúng sẽ cho ra những kết quả mới, hay còn gọi là chuỗi lệnh. Ví dụ như “mở hệ thống dò tìm” cộng với “kết nối máy tính” sẽ cho ra lệnh “dò tìm chuyên sâu” vốn không thuộc các lệnh cơ bản. Khi đó người sử dụng cần chạm các khớp ngón tay với nhau, bộ não phải tăng cường hoạt động để chuyển hóa hai dòng suy nghĩ cùng lúc. Và không chỉ hai, người ta có thể kết hợp ba hoặc thậm chí năm lệnh. Nhưng hơn một trăm năm kể từ ngày Jeh-7400 hình thành, không một tộc trưởng hay thành viên hội đồng nào dám vỗ ngực khoe mình có thể điều khiển nó dễ như mở lòng bàn tay. Hài hước thay, Jeh-7400 nằm trong chính đôi tay của họ. 

Việc kết hợp lệnh yêu cầu đôi tay phải thay đổi nhiều tư thế. Hỏa Nghi tự hỏi nếu chắp hai lòng bàn tay với nhau tức là kết hợp cả hai mươi tám lệnh thì cái gì sẽ ra đời? Gã bật cười bởi lẽ chuyện đó bất khả thi. Sau khi thuộc hết những điều căn bản, gã hỏi Ly Ly:

-Kết hợp các lệnh để tạo chuỗi lệnh mới… cái này là ma trận phải không?

“Đúng vậy, thưa ngài.” – Ly Ly gật đầu – “Mỗi lệnh là một ma trận. Tùy theo từng đề án, mỗi ma trận khi kết hợp lại mang chức năng khác nhau. Tôi sẽ minh họa cho ngài thấy.” 

Ly Ly mở dữ liệu, chọn lấy tập tin mà hai thành viên chi Hình đã cho phép truy cập. Cô ta chạm tay vào tập tin, nó mờ đi rồi tan biến như sương buổi sớm. Hỏa Nghi liền bấm đốt thứ ba ngón nhẫn, lệnh truy cập dữ liệu. Cảnh vật trước mắt gã bất thình lình thay đổi. Hàng chục tòa nhà cao tầng, hệ thống cầu không trung, bãi đỗ phi thuyền, xưởng công nghiệp, khu nghiên cứu, chung cư, tháp giải trí và những cây xanh đồng loạt xuất hiện bên các công trình cũ. Ngay tại chỗ Hỏa Nghi đang đứng, một tòa nhà mới sẽ chồng lên sân thượng này. Chúng được thiết kế hợp lý, không gây ảnh hưởng tới cảnh quan cũ, thậm chí làm Đảo Sắt Thép tươi mới hơn. Chúng đều là ảo ảnh nhưng là những ảo ảnh được tạo nên với tỉ lệ thật. Phải có hàng trăm máy chiếu mới tạo nên khung cảnh này nhưng trong Jeh-7400, Hỏa Nghi chẳng cần máy chiếu. Hình ảnh dữ liệu chuyển tới con chip, con chip kích thích thùy chẩm, sau đấy tạo nên khung cảnh qua thị giác của gã. 

Ly Ly tiếp tục giới thiệu:

“Đây là dự án nâng cấp Đảo Sắt Thép của chi Hình. Dữ liệu Cấp 5, vì có nhiều hạng mục quan trọng như xưởng chế tạo hoặc khu nghiên cứu đặc biệt. Dữ liệu Cấp 5 thường không sử dụng lệnh cơ bản mà dùng lệnh nâng cao nhiều hơn. Hãy làm theo tôi, thưa ngài.”

Theo chỉ dẫn của cô gái ảo, Hỏa Nghi bắt đầu thao tác, các ngón tay liên tục đan xen nhau như đang chơi một cuộn dây vô hình. Bằng một chuỗi gồm ba lệnh, Hỏa Nghi có thể xem chi tiết chức năng, nhiệm vụ, kết cấu, vật liệu xây dựng, thời gian xây, số lượng nhân công, thời gian dự kiến hoàn thành của từng công trình. Hỏa Nghi thao tác chuỗi ba lệnh mới, mỗi công trình lại nổi lên bảng thông tin cho biết nhà thầu, bên cung ứng, công ty lắp đặt hoặc khâu vận chuyển. Ly Ly hướng dẫn gã thực hiện thêm chuỗi bốn lệnh, các bảng dự toán thu chi lập tức xuất hiện. Nhưng ấn tượng nhất là khi gã thực hiện chuỗi năm lệnh, toàn bộ công trình được sơn phết màu, tàu điện ro ro chạy trên đường ray, hàng trăm con người đi dưới những tán lá xanh mướt – cả thế giới ảo đang hoạt động. Hỏa Nghi chẳng tìm được bất cứ điểm phi tự nhiên nào. Nếu không nhờ những ký hiệu đặc trưng của Jeh-7400, gã đã nghĩ thế giới đó là thật. 

-Giờ họ có thể dựng ảo ảnh sống động vậy sao? – Hỏa Nghi nhăn trán – Tại sao nhỉ? Tôi từng xem máy móc thiết kế đời mới nhất, chúng chỉ mô phỏng phần nào hiện thực chứ không phải tất cả. Sự chuyển động của nước, những tán cây rung rinh trong gió, ánh mắt con người, mái tóc… không thuật toán nào có thể mô phỏng chúng hoàn hảo. Đây là thế nào?

“Thắc mắc hợp lệ, tôi xin trả lời. Vì đây là sự thật, thưa ngài.” – Ly Ly trả lời – “Không phải con người, mà chính Jeh-7400 tạo nên khung cảnh dựa trên các tư liệu của thế giới thực. Bằng thuật toán ma trận, nó sẽ tìm những chi tiết thực trùng khớp nhất rồi đắp lên khung cảnh ảo.” 

Hỏa Nghi chỉ hiểu sơ qua vì đây không phải lĩnh vực chuyên môn của gã. Nhưng qua lời Ly Ly, gã phát hiện một điểm kỳ lạ:

-Cô vừa gọi cơ sở dữ liệu là “nó”, phải không Ly Ly? Tại sao là “nó”? Cô là hiện thân của Jeh-7400, là chủ thể, là bộ não chứa đựng tất cả thông tin về nó. Tại sao cô lại đề cập “nó”?

Ly Ly cúi đầu:

“Thắc mắc hợp lệ, tôi xin trả lời. Tôi là hiện thân nhưng không đại diện cho tất cả mọi thứ của Jeh-7400. Tôi là chủ thể nhưng không phải đấng sáng tạo Jeh-7400. Tôi là bộ não điều khiển Jeh-7400 nhưng không thể nắm bắt hết những thông tin phát sinh. Như đã giới thiệu với ngài, tôi là Ly Ly, là một người quản lý, một người giúp việc và là một nhạc công.”

-Ra vậy… – Hỏa Nghi gật gù – Thế cô có biết thứ nào là Đề Án Ngục Thánh không? 

“Câu hỏi không hợp lệ, tôi xin phép từ chối trả lời.” – Ly Ly lắc đầu. 

Hỏa Nghi chép miệng cười thầm. Gã định thử vận may bằng cách dàn trận lời lẽ ngôn từ nhưng trí tuệ nhân tạo không dễ bị lừa phỉnh như con người. 

Quay lại vấn đề chính, Hỏa Nghi dần hiểu và nắm bắt tầng năm cơ sở dữ liệu. Mọi thông tin ở tầng này chỉ hiển thị với người đã cấy chip. Muốn xem từng chi tiết, người sử dụng phải nắm rõ từng chuỗi lệnh do chủ đề án thiết lập. Ví dụ là chi Hình thiết lập chuỗi lệnh dự án nâng cấp Đảo Sắt Thép, tương tự như thế với Đề Án Thần Sấm của chi Thâu. Dĩ nhiên chuỗi lệnh trong mỗi đề án khác nhau, không cái nào giống cái nào. Nói cách khác, Hỏa Nghi cần người chi Thâu giúp đỡ hoặc cung cấp chỉ dẫn. 

Mọi chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng cái khó giờ mới lòi ra. Phiên họp hội đồng lần trước, Hỏa Nghi thẳng thừng gạt phắt đề nghị của Hỏa Thâu Đầu. Nay tới lượt mình phải đi cầu cạnh, gã lâm cảnh há miệng mắc quai. Luật ghi rõ các chi tộc phải thực hiện nghĩa vụ giúp đỡ trưởng tộc, nhưng với kiểu chây ì rồi tự mình đẻ ra luật của lão già mũi khoằm, Hỏa Nghi chỉ tổ thiệt. Từ nay tới phiên điều trần còn rất ít thời gian. Hỏa Nghi liền hỏi cô gái ảo:

-Cô cung cấp chuỗi lệnh Đề Án Thần Sấm cho tôi được chứ?

“Yêu cầu không hợp lệ, thưa ngài.” – Ly Ly đáp – “Tôi chỉ có quyền cho ngài tiếp cận dữ liệu. Tôi không có quyền cung cấp chuỗi lệnh nếu không được sự đồng ý từ chi Thâu.”

-Đây là yêu cầu của chi Thâu hay người tạo ra cô lập trình như thế? 

“Thắc mắc hợp lệ. Người tạo ra tôi đã lập trình như vậy để ngăn chặn trưởng tộc lạm quyền. Ông ấy muốn các chi tộc phải đoàn kết và hợp tác nhiều hơn thay vì tập trung quá nhiều quyền lực vào một người.”

Hỏa Nghi thở phì phì, môi rung bần bật phun nước bọt phèo phèo. Trông gã mặt nặng mày nhẹ, Ly Ly cất lời:

“Ngài có vẻ không hài lòng? Liệu tôi có thể giúp ngài?”

Cô gái ảo chắp tay sau lưng, đầu nghiêng nghiêng, ánh mắt long lanh vẻ quan tâm. Không chỉ là cái máy trả lời câu hỏi, Ly Ly có thể nắm bắt cảm xúc người đối diện để đưa ra câu hỏi thích hợp. Thậm chí Hỏa Nghi thấy rõ bờ môi cô ta hơi cong lên một chút, đầy tò mò mà cũng đầy trong sáng tựa một thiếu nữ sắp cập tuổi trưởng thành. Gã phải thừa nhận chương trình biểu cảm của Ly Ly quá tốt. Nếu được, gã muốn biết rõ từng chương trình và từng thuật toán tạo nên cô gái ảo này. 

Nhưng suy cho cùng, Ly Ly vẫn chỉ là tập hợp gồm hàng trăm thuật toán. Hỏa Nghi nhếch mép cười mỉa đoạn trả lời rằng gã có thể tự lo. Ly Ly cúi đầu:

“Từ giờ tôi là người phục vụ cho riêng ngài, nếu cần, hãy gọi tôi, bất cứ lúc nào. Ngoài ra nếu muốn thư giãn, ngài có thể yêu cầu tôi chơi nhạc. Đây là đặc quyền của trưởng tộc. Ngài còn thắc mắc gì không? Vậy tôi xin phép cáo lui, Vạn Thế phù hộ ngài.”

Như giao hẹn trước, Ly Ly rời sân thượng, bước xuống cầu thang rồi biến mất theo kiểu con người. Hỏa Nghi cũng chẳng nấn ná lâu với Jeh-7400. Cô gái ảo vừa khuất mắt, gã liền tắt ngay chương trình. Không còn bảng thông tin, mấy thông số nhấp nháy hay những tòa nhà cao tầng lợp bóng hàng cây xanh, Đảo Sắt Thép xù xì kim khí quen thuộc trở lại mắt Hỏa Nghi. Gã hơi choáng, cảm giác nhũn não như miếng bơ đun nóng trên chảo, thầm nghĩ bà cô Khởi Hoa có lý khi hạn chế vào tầng năm cơ sở dữ liệu. Gã đắp tay lên mặt, day day mấy hồi lau rửa những cặn rỉ ảo ảnh dính trên khóe mắt sau trở lại phòng phẫu thuật. 

Hai thành viên chi Hình vẫn chờ đợi Hỏa Nghi. Trước họ hỏi gã về cơ sở dữ liệu, sau bàn chuyện thương lượng với chi Thâu – những kẻ nắm giữ Đề Án Thần Sấm. Chẳng vòng vo nhiều, hai thành viên đều khuyên gã nên nhường nhịn ông già cao tuổi nhất hội đồng. Hình Lao và Hình Giám quản lý nội bộ dòng họ nên biết vô khối chuyện hay chuyện dở, hiểu rõ chân tơ kẽ tóc từng thành viên hội đồng. Họ khẳng định Thâu Đầu sẽ chơi bài cùn đúng như viễn cảnh mà Hỏa Nghi lo sợ. 

-Ta quen biết Thâu Đầu từ hồi còn trẻ. Ông ta sẽ không nhượng bộ cậu nếu không đạt được mục đích. – Hình Lao nói với Hỏa Nghi, mắt lim dim – Khi rộng rãi, Thâu Đầu sẽ rất rộng rãi, chẳng tiếc ai cái gì. Nhưng khi nhỏ mọn, ông ta sẵn sàng làm mọi người căm ghét mình. 

-Hai người bọn ta đứng ngoài cuộc chiến, cậu Hỏa Nghi. – Hình Giám tiếp lời – Cậu hay Hỏa Chính ngồi vào ghế trưởng tộc thì chúng ta vẫn yên vị. Vấn đề là các người đang làm ảnh hưởng dòng họ, vì thế chúng ta cần can thiệp. Dẹp bỏ hiềm khích cá nhân, dành nó cho dịp khác chứ không phải những ngày này. 

Hai thành viên tỏ rõ thái độ dứt khoát, Hỏa Nghi chỉ biết tự trách mình không nghe lời anh trai sớm hơn. Gã có thể tưởng tượng bộ mặt nhàu nhĩ của lão Thâu Đầu đắc thắng thế nào khi thấy đứa cháu khúm núm lạy lục xin xỏ. Trong một nỗ lực cứu vớt thể diện, Hỏa Nghi cương còng:

-Chú và bác quản lý việc nội bộ. Nếu ông già Thâu Đầu làm khó, hai người phải lên tiếng giúp cháu mới phải chứ?!

Hình Giám lắc đầu:

-Hỏa Thâu Đầu là người cuối cùng của thế hệ cũ, tất cả thành viên phải nể ông ta. Cậu cũng thế, nên thế và phải thế! Ta nói rồi đấy, chúng ta đứng ngoài cuộc chiến. Nể cha cậu, chúng ta mới bỏ phiếu “đồng ý”. Và cũng vì nể cha cậu, ta nhắc nhở thêm một lần cuối: nếu còn hành động trẻ con, chúng ta sẽ cân nhắc việc chọn phe. Hiểu chứ?

-Lợi ích lừa phỉnh gã trai, thái độ che mắt ông già. Ta nói thế, chắc cậu hiểu?! – Ông già Hình Lao tiếp lời – Lo chuyện Thâu Đầu cho xong đi. Nếu làm tốt, chúng ta… sẽ cân nhắc việc chọn phe. 

Hai thành viên chi Hình không hẹn mà cùng cười. Hỏa Nghi tặc lưỡi chửi thầm các bố già khôn lõ đít không chừa tí khôn nào cho con cháu. Vâng vâng dạ dạ chán, gã ra về, vừa đi vừa gọi điện đặt hàng vài hộp bánh quy ở tiệm Con Cáo Nhỏ, sau lại vắt kiệt não cho rỉ ra mấy lời có cánh để quạt mát mông ông già Thâu Đầu. Nhưng sự bất mãn vẫn âm ỉ trong lồng ngực Hỏa Nghi, gã cảm giác đang đối đầu với cả thế giới. Dù nhiều lần bị Thanh Nhi chỉ trích là thằng trẻ con nóng máu nhưng gã đâu vẫn hoàn đấy. 

Về nhà, Hỏa Nghi thay quần áo là lượt để tham dự một chương trình truyền hình. Công đoạn đánh bóng tên tuổi đang phát huy hiệu quả, gã không thể bỏ dở. Đương chải chuốt mái tóc rối bù, gã chợt thấy anh trai mình đặt lên bàn một bản danh sách. Hỏa Dương đã chọn ra những người có năng lực nhất vào ban cố vấn, có già có trẻ, có trong có ngoài dòng họ. Nhưng Hỏa Nghi không thể tưởng tượng người cố vấn cuối cùng lại là ông chú mặt nhọn. Chưa đợi gã phàn nàn, Hỏa Dương giải thích:

-Nếu chú mày nghe lời anh ở phiên bỏ phiếu, anh đã chẳng đưa Hỏa Chính vào. Giờ chú phải thương lượng với lão Thâu Đầu nên cái này sẽ là món quà tốt. – Y chìa ra bản danh sách. 

Hỏa Nghi nhìn mảnh giấy. Cái tên “Hỏa Chính” nắn nót, tròn vành vạnh không có dấu hiệu tẩy xóa, tựa thể Hỏa Dương viết nó mà chẳng cần cân nhắc quá nhiều. Gã lại nhướn mắt nhìn anh trai:

-Anh dự tính vụ này từ trước hả?

Hỏa Dương xắn tay áo, lôi ra xoong chảo chuẩn bị bữa tối. Y ngó đồng hồ đeo tay, căn giờ sao cho Hỏa Nghi thu hình xong rồi về nhà cũng là lúc bữa tối nóng sốt sẵn sàng:

-Tính chú mày thích phá phách mọi thứ, vì vậy anh luôn phải có phương án hai. Hồi nhỏ, chú luôn phá đồ chơi của anh, vì thế anh luôn mua hai bộ, phòng khi chú đập cái này thì còn cái kia xài.

Hỏa Nghi cười sằng sặc, hoàn toàn không có cảm giác hối lỗi. Anh trai nhắc chuyện cũ, những ký ức bập bõm được thể lấp đầy đôi mắt gã. Phòng khách nơi gã đang ngồi trước đây chưa có cái bàn này, chiếc ghế này hay mặt sàn lạnh toát này… Gã vẫn nhớ căn phòng được trải thảm để những bước chạy của hai đứa trẻ nhà Hỏa Viên không làm ồn, khắp mặt thảm la liệt những mảnh đồ chơi. Hồi đó, ở chỗ Hỏa Dương đang đứng bây giờ là một người khác với mái tóc ngắn màu bạch kim, thường rầy la khản cổ thằng bé Hỏa Nghi ra ăn tối. Đã có lúc căn nhà đầy tiếng ồn ào. 

-Chỉ là đồ chơi thôi mà! – Hỏa Nghi cười – Giờ anh tính toán với tôi cả chuyện đấy à? Lâu quá rồi! Chục năm chứ ít gì?!

-Và chú mày chưa hề xin lỗi, dù chỉ một lần. – Hỏa Dương cầm dao sắc thái miếng thịt, mặt lạnh tanh – Anh chưa bao giờ có một mô hình hoàn chỉnh để bày tủ kính, người máy thì mất đầu, phi thuyền thì mất cánh, lâu đài không có cửa… Chú mày phá hoại, làm mất đồ chơi của anh nhưng không bao giờ tìm lại, dù chỉ một lần. 

-Này, này! – Hỏa Nghi nhíu mày ngạc nhiên – Đừng nặng lời với tôi chứ?!

-Từ câu chuyện đồ chơi đó mà chú mày thành ra như bây giờ. – Hỏa Dương nói tiếp – Không lời xin lỗi, không biết nhường nhịn, bởi vậy mà giờ chú phá hỏng mọi thứ rồi tốn công sửa chữa nó. Nhưng có một điều: chú chưa bao giờ tìm lại đồ chơi cho anh, chú không biết sửa chữa. Thế nên bây giờ chú sửa chữa một cách khổ sở, bởi vì chú chưa từng sửa chữa một cách tử tế. 

Hỏa Nghi hơi nóng mặt nhưng đành nhịn. Gã nghe ông anh càm ràm thành quen, vả lại gã sai lè lè, bị mắng dăm ba câu cũng đáng. Cơ mà bài thuyết giảng của Hỏa Dương chưa bao giờ ngắn, cũng chưa bao giờ dễ nghe. Nó luôn dẫn người nghe tới một viễn cảnh đáng lo ngại:

-Chú làm Thâu Đầu mất mặt ở hội đồng, lão già sẽ trả đũa bằng cách kéo dài thời gian hoặc cản trở chú lấy thông tin. Thời gian đến phiên điều trần đã ngắn, nay càng ngắn. Nên chú liệu mà ăn nói với lão già.

-Như ý anh, được chưa? – Hỏa Nghi giơ tay – Tôi sai rồi, tôi biết lỗi. Sẽ như ý anh!

-Và đừng tỏ thái độ chống đối kiểu đó. – Hỏa Dương lừ mắt, tay dao thái miếng thịt mạnh hơn – Thâu Đầu hay Hỏa Chính không phải là anh, những lão già sẽ không bỏ qua cho chú giống như anh. Học cách sửa chữa đi, em trai. Chú trưởng thành rồi, sao còn để anh dạy những thứ đó?

Chợt một tiếng “xoảng” cắt ngang lời Hỏa Dương. Y quay ra thì thấy mặt sàn đã đầy những mảnh vỡ thủy tinh, tan tành tới độ chẳng mảnh vụn nào cho biết nguyên thể của chúng từng là chiếc cốc uống rượu. Cần một lực ném rất mạnh từ bàn tay giận dữ bị điều khiển bởi cái đầu tràn máu nóng. Hỏa Dương thấy bộ tóc của đứa em trai vừa chải chuốt lại xổ ra như có bếp lò dưới chân tóc. Ở ngoài kia, em trai y là kẻ khôn ngoan, tự phụ và không lộ ra bất cứ điểm yếu nào. Nhưng trong căn nhà này, nó trở lại là một thằng bé luôn cáu giận và thích đập phá đồ chơi của anh trai.

-Biết sao không? Bởi vì mẹ dạy anh rằng phải biết nhường nhịn đứa em và chăm sóc nó! Vì mẹ dạy dỗ khi anh biết nhận thức! – Hỏa Nghi nghiến răng rào rạo, mặt mũi trợn trạo – Còn tôi thì sao? Tôi chỉ được gặp mẹ trong năm mới và lễ quốc khánh chết tiệt! Khi tôi biết nhớ biết quên thì mẹ đã bỏ nhà đi rồi! Bà không có ở đây để nói với tôi rằng không được hỗn láo với anh mình, không dạy tôi rằng gia đình phải ăn cùng nhau vào ngày lễ quốc khánh! Anh chưa bao giờ dạy tôi những điều đó! Khi tôi trở thành đứa du thủ du thực ngoài kia, anh cũng mặc kệ! Khi tôi phải chứng kiến ông già lên cơn say, anh cũng mặc kệ! Giờ tôi thành người thừa kế, anh mới bắt đầu dạy dỗ! Anh bỏ mặc tôi! Câm mồm đi, anh trai! Anh không phải mẹ, anh không có quyền dạy dỗ tôi!

Căn phòng ầm ĩ như có dông tố tràn qua rồi im bặt. Ba tháng anh em Hỏa Nghi sống chung một nhà là ba tháng đầy tiếng cãi vã. Cũng ba tháng ấy, mọi cuộc cãi cọ đều kết thúc cùng một kiểu. Hỏa Nghi giơ hai tay tỏ ý hối lỗi đoạn bỏ đi, tay gãi tóc sồn sột. Hỏa Dương đứng nguyên một chỗ, gương mặt lạnh lẽo không biểu cảm. Sẽ không có bữa tối nào, Hỏa Nghi chắc chắn không về và lại ngủ gục trên bàn rượu nào đó ở quận Mắt Trắng. Tính em trai ra sao, Hỏa Dương biết rõ. Y suy nghĩ chốc lát rồi tiếp tục công việc bếp núc. Tiếng thái dao vang đều đều giữa căn nhà rộng lớn, tiện nghi, hiện đại nhưng thiếu hơi người. Những mảnh thủy tinh vẫn tóe tung trên mặt sàn phòng khách, phản chiếu không gian lặng thinh và lạnh toát.

Chuông điện thoại reo, viên thư ký thông báo Hỏa Chính muốn gặp. Giữa lúc anh em nhà Hỏa Viên cãi nhau, ông chú xuất hiện khéo đến lạ. Hỏa Dương đồng ý mà chẳng thèm dọn dẹp mớ tanh bành trên sàn. Ngay sau đấy ông chú quý hóa đẩy cửa bước vào, cái cằm nhọn đung đưa: 

-Ngày lành, cháu trai! Đang làm bữa tối sao? Ồ… cái gì đây? Anh em lại cãi nhau à? 

Hỏa Dương không trả lời. Lão mặt nhọn cúi đầu ngó nghiêng, mũi giày lật lật những mảnh vỡ, tủm tỉm cười như một học giả vừa bới ra điều thú vị trong bãi rác. Lão ngồi xuống ghế, nhận tách trà thiết mộc từ Hỏa Dương và cất lời:

-Thời điểm khó khăn, ta hiểu. Đây là điều ta lo sợ. Hỏa Nghi quá nóng nảy. Ở hội đồng thằng bé chín chắn bao nhiêu, về nhà lại nông cạn bấy nhiêu. Giống hệt anh trai ta. Ông nội các cháu đã phiền não về anh ấy rất nhiều.

Đáp lại người chú, Hỏa Dương lặng lẽ làm bếp. Tay dao của y vẫn ổn định, từng lát thịt thái ra đều tăm tắp như máy cắt. Ông chú mặt nhọn hớp ngụm trà, chậm rãi nói:

-Chú bảo rồi, chú không ghét mày, chú cũng không ghét Hỏa Nghi. Mày nên biết hội đồng sinh chuyện như bây giờ là vì Hỏa Viên. Anh trai ta đã phá hỏng mọi thứ. Chú không đơm đặt, mày đã nghe rất nhiều chuyện về cha mày, chắc cũng biết phần nào. Sự thực tệ hơn thế, Dương à! 

Tiếng thái dao ngừng lại. Hỏa Dương đang đưa ra lời cảnh báo. Nhưng Hỏa Chính chẳng lấy đó làm phiền. Lão mặt nhọn cười cười hớp ngụm trà, lại tiếp tục:

-Cơ mà chuyện ngày xưa, chú không nhắc thêm nữa. Nhưng cháu trai à, cháu biết tại sao em mình không chịu nghe lời, dù cho cháu đã hết lòng giúp đỡ nó? Tình thương anh em không đủ đâu, Dương à! Chú biết lắm chứ! Chú từng khuyên can Hỏa Viên rất nhiều, nghĩ rằng ông ấy sẽ lắng nghe vì tình máu mủ. Nhưng rốt cục chẳng có gì cả. Chú ngộ ra rằng ở Đảo Sắt Thép này chỉ có sắt, chẳng có giọt máu nào hết. 

Những phút im lặng chậm rãi trôi đi. Lát sau tiếng thái dao đều đều trở lại, Hỏa Chính khẽ cười:

-Nếu muốn trở thành người cố vấn giỏi, cháu cần có sức mạnh tương đương. Hỏa Nghi đã cấy chip, giờ có thể sử dụng Jeh-7400 toàn diện. Cháu cũng phải hiểu Jeh-7400 mới mong đứa em nghe lời mình. Chú nói thế vì lợi ích dòng họ. Phiên điều trần sắp đến rồi, không có thời gian tranh cãi nữa. Chú có thể ngỏ lời với hội đồng cho phép cháu cấy chip. Chuyện này đã có tiền lệ rồi, không phải lo. 

Thêm một lần nữa, tiếng thái dao biến mất. Hỏa Chính không quay lại xem thái độ người cháu thế nào, chỉ lặng lẽ chờ đợi. Lát sau lão thấy Hỏa Dương ngồi trên ghế đối diện, mặt lạnh ngắt nhưng đôi mắt đầy ánh lửa – thứ lửa thường cháy xòe lên khi nhận được ngọn gió thổi vào. Hỏa Dương nói:

-Nói tôi nghe, điều kiện của chú là gì?

Hỏa Chính mỉm cười nhìn đứa cháu. Gió đã nổi, lửa đã lên và lão chẳng ngại ngần tiếp thêm gió:

-Thẳng thắn lắm! Chú bắt đầu thích mày hơn rồi, cháu trai…
 
Quyển 4 - Chương 7: Bắt cá


Tuyết tháng 3 trắng xóa Phi Thiên thành, tưởng chừng những ngày ấm áp chẳng bao giờ đến và một mùa đông trường kỳ sẽ bao phủ đất nước. Chuyện thật như đùa đó đã xảy ra cách đây năm thế kỷ khi triều đại Thần Đế sụp đổ, kéo Phi Thiên quốc vào cuộc nội chiến. 

Nhưng một sớm nọ, người ta chợt thấy sông Vành Đai Xanh tan băng, tẽ nứt ra từng tảng từng cục lập lờ trôi theo dòng biển. Trên cao mây đen tan rã, mặt trời sáng tỏa đánh thức hai quận thành phố, gột tẩy bóng dáng mệt mỏi của những tòa tháp đang phủ lên hệ thống đường ray nơi các tàu điện đang ngược xuôi. Thời tiết dễ chịu hơn, lũ hải âu liền tụ tập quanh tòa thánh đường bỏ hoang quen thuộc ở phía đông quận Mắt Trắng. Như vì quá lâu chưa gặp mặt, chúng í ới nhau suốt, náo động một góc thành phố cả buổi sáng. Mùa đông đã buông tha Phi Thiên thành. 

Tháng 3 qua, tháng 4 tới, cái ấm áp tràn thủ đô. Nhưng nắng dường như gay gắt hơn còn lũ hải âu ồn ào hơn thường lệ. 

Và không chỉ ánh nắng và bọn hải âu, gió cũng bất thường hơn mọi năm. Thứ đó ghé qua quảng trường thành phố, cuộn quốc kỳ Phi Thiên như miếng bánh kếp rồi phất mạnh rũ tuyết trắng. Nó lần xuống, phủi sạch tuyết lẫn bụi bẩn trên hai tấm bia mộ khổng lồ mà khắc sâu vào hàng tên tử sĩ. Cảm thấy chưa đủ thu hút con người, thứ vô hình lội vào sông Vành Đai Xanh khuấy lên vô số đợt sóng ngầm làm băng trôi dập dềnh – trừ ngày bão thì sông Vành Đai Xanh không bao giờ nổi sóng. Rốt cục nó cũng thành công khi lôi kéo được những kẻ có ánh mắt đa sự, khiến họ nhận ra năm nay lắm sự kiện kỳ lạ. 

Nhưng mấy loại thiên tượng chỉ dành cho người già, dân nghệ thuật hoặc kẻ đa cảm đa sự. Chúng hụt hơi thấy rõ so với truyền thông. Một ngày trước, nhà đài đã dự báo tình hình thời tiết nên gió tháng 4 thổi mạnh mà người ta không quá ngạc nhiên. Và nếu gió khơi gợi một cách tinh tế thì truyền thông huỵch toẹt tất cả. Núp dưới những chương trình truyền hình, phỏng vấn, tạp chí, báo chí… con quái vật luôn tìm được bữa ăn nóng sốt, hồi đầu năm là chuyện bầu cử, còn tháng 4 là phiên điều trần của họ Hỏa trước quốc hội. Mọi tiêu điểm lập tức dồn vào ông trưởng tộc trẻ tuổi họ Hỏa mới nhậm chức cách đây chưa lâu. Hỏa Nghi cười mếu. Cả Phi Thiên quốc đang nhìn gã, thiện chí thì ít mà ác ý thì nhiều. 

Cấy chip được hai ngày, Hỏa Nghi lóc cóc đến nhà Thâu Đầu, tay xách nách mang vài hộp bánh quy thượng hạng. Gã trước xin lỗi về thái độ ở hội đồng, sau đồng ý cho Hỏa Chính tham gia phiên điều trần. Câu từ nhượng bộ, thái độ nhún nhường, Hỏa Nghi đã làm hết sức có thể nhưng không mong đợi kết quả khả quan. 

-Được thôi! – Ông già Thâu Đầu gật gù – Mày đã có lời, ta cũng không làm khó. Ta sẽ cho mày quyền truy cập tối đa và cử người giúp đỡ. Tất cả đều là chuyên gia nên mày không cần lo lắng. 

Hỏa Nghi ngạc nhiên, không dè mọi sự dễ dàng như thế. Uổng công gã soạn một bài diễn văn có cánh phẩy mát mông ông già. Thâu Đầu mở lòng bàn tay khởi động Jeh-7400. Ông già mập ù, ngón tay ú u thịt nên ánh sáng từ bộ vi mạch chỉ le lói như những ngọn đèn yếu điện. Ly Ly xuất hiện, Thâu Đầu yêu cầu cô gái ảo mở khóa đề án phát triển Thần Sấm, thao tác nhiều chuỗi lệnh dỡ bỏ các mật khẩu nhỏ. Đề án sở dĩ lắm mật khẩu vì Thần Sấm là tài sản quốc gia, mọi thứ của nó phải được bảo đảm tối mật từ vũ khí đến từng con ốc đinh vít. Ông già mũi khoằm vừa làm vừa nói:

-Rất nhiều thông số kỹ thuật, ta sẽ sao chép cho mày. Ở quốc hội, Phái Miền Đông chắc chắn sẽ truy vấn tại sao sử dụng Thần Sấm khi chưa thông qua lần kiểm tra cuối cùng. Bọn cặn bã đó rất thích diễn trò! Mày cần hiểu thông số kỹ thuật để trả lời. Về điều khoản luật sử dụng, hãy hỏi Hỏa Dương. Chúng ta cũng cần các bên hỗ trợ, Hỏa Chính đang gặp đại diện bốn đảng. Trong trường hợp bất khả kháng, chúng ta cần công chúa Lục Châu ra mặt; mày từng làm hộ vệ thánh sứ, hãy gặp công chúa…

Trong phút chốc, Hỏa Nghi không nhận ra ông già mũi khoằm thích gây sự. Có lẽ sức nóng của phiên điều trần khiến Thâu Đầu không còn thời gian chơi trò bè phái. Gã dợm hỏi:

-Thưa ông, hoàng đế đã ký văn bản sử dụng Thần Sấm. Nếu cần, chúng ta nên nhờ ngài ấy…

Thâu Đầu giơ tay ngăn Hỏa Nghi nói thêm. Gã thừa biết mọi chuyện nhưng cố tình giả ngu. Vài phút trôi đi, ông già chuyển quyền kiểm soát dữ liệu cho Hỏa Nghi rồi bắt đầu nói, giọng thì thào, trái hẳn vẻ khinh khỉnh thường thấy:

-Nghe đây, những gì ta sắp nói với mày là tuyệt mật. Cấm để lộ cho ai biết, kể cả Hỏa Dương. Ngài Đệ Thập không còn ở đây nữa, “hoàng đế” bây giờ chỉ là thế thân. Hoàng đế thực sự đang ở Thánh Vực. Ông ấy là Quỷ Vương. 

Thông tin nhiều hơn dự kiến, Hỏa Nghi tiếp tục bài giả ngu, hết thảng thốt lại trố mắt như không tin. Thâu Đầu rõ ràng không biết chân tướng sự việc, nhưng đồng thời cũng nắm được vài thứ mà Hỏa Nghi chưa hay. Hiện giờ hoàng đế rất yếu, không thể đi lại, thần trí hầu như đã bị Quỷ Vương xâm chiếm. Khoảng hai tuần nữa, Đệ Thập sẽ bước vào lễ thanh tẩy, Hội Đồng Pháp Quan sẽ tạm thời điều khiển đất nước cho tới lúc bầu ra vị tân vương. Cũng qua lời ông già mũi khoằm, Hỏa Nghi mới biết hoàng đế đã thỏa thuận với các pháp quan đổi lấy việc sử dụng Thần Sấm trước thời hạn[1]. 

-Hôm đó, sau khi biết Quỷ Vương trở lại, Đệ Thập triệu tập tất cả pháp quan bàn chuyện dùng Thần Sấm. – Thâu Đầu nói – Đổi lại, ông ấy hứa về hưu sớm vào năm 7521. Mày biết đấy, người họ Bạch Dương thọ lâu, một hoàng đế trị vì cả thế kỷ nhưng các pháp quan giỏi lắm được chục năm. Mỗi lần bầu cử, các pháp quan đều gây rối và tạo ảnh hưởng với chính phủ. Vậy nên Đệ Thập về hưu sớm là một món hời. 

Nghe thế, Hỏa Nghi chợt nhớ di chúc của Tây Minh mà trong đó đại thánh sứ như lường trước số phận của hoàng đế. Tây Minh biết, không cớ gì hoàng đế không biết. Gã hỏi tiếp:

-Vậy ngay từ lúc ấy, hoàng đế biết mình chính là Quỷ Vương?

-Ta không rõ. Khi đó Đệ Thập còn khỏe mạnh, chẳng cớ gì mà ông ấy nghĩ mình sắp chết. – Thâu Đầu trả lời – Nhưng nói tóm lại, chúng ta không thể trông chờ hoàng đế ở phiên điều trần mà phải tự thân vận động. 

Hỏa Nghi gật gật, trong lòng có lời giải đáp riêng. Gã đoán Lục Thiên biết thỏa thuận, nhân đó mà đẩy nhanh hoàng đế tới cái chết. Bằng cách nào đấy, Đệ Thập biết chuyện song chấp nhận số phận vì tình cảm cha con hoặc vì một lý do bất khả kháng. Những người nắm rõ chân tướng sự việc chỉ có đại thánh sứ Tây Minh và Trần Độ. Nhưng sự thật cặn kẽ thế nào thì Hỏa Nghi có lẽ chẳng bao giờ biết.

Chuyển giao dữ liệu hoàn tất, ông già mũi khoằm bảo Hỏa Nghi ngồi xuống nói chuyện. Ông ta rót trà, bóc hộp bánh rồi mời đứa cháu trai, không ân cần nhưng đủ lịch sự. Hỏa Nghi vừa ngạc nhiên vừa tiếc cái công soạn thảo bài diễn văn bợ mông ông già. Trong tâm thế thận trọng đề phòng, gã hớp trà cắn bánh thỏ thẻ như nàng tiểu thư rồi căng tai lắng nghe. Thâu Đầu phết mứt dâu đẫm miếng bánh quy, bỏ tọt miệng nhai sồn sột:

-…úng…a… ưa… iểu… – Ông già ngừng lại hớp ngụm trà – Được rồi, chúng ta chưa hiểu nhau nhiều, mà thời gian rất ít, vậy nên ta sẽ nói ngắn gọn. Thứ nhất, hoàng đế sắp băng hà, các pháp quan đang giành giật quyền kiểm soát quốc hội; họ Hỏa phải lao vào cuộc chiến. Thứ hai, từ chuyện trên, ta cực lực phản đối mày làm trưởng tộc vì mày quá ít kinh nghiệm, trong khi Hỏa Chính làm tốt hơn. Thứ ba, dù kết quả phiên điều trần tốt đến đâu và mày làm ô nhục hay rạng danh dòng họ cỡ nào, ta vẫn sẽ phản đối mày làm trưởng tộc đến cùng. Phải có mâu thuẫn, phải có chướng ngại, mày mới trưởng thành. Đừng quên khẩu hiệu “Lửa sinh tất cả” của dòng họ. Khi mày chiến thắng cả ta và Hỏa Chính, mày sẽ đường hoàng ngồi ghế trưởng tộc, ta chẳng còn gì lo lắng nữa. Ta nói từ nãy đến giờ, mày hiểu không?

Hỏa Nghi gật gật. Thâu Đầu uống hết tách trà lại rót tách khác, cái mũi khoằm to bự nhăn lại vì hơi nóng bốc lên:

-Có một việc ta muốn nhờ mày. Chuyện riêng giữa hai chúng ta. Đợi chút…

Ông già thao tác vài chuỗi lệnh trên cơ sở dữ liệu. Hỏa Nghi khởi động Jeh-7400 và nhận được tập tin mới, mở ra thì thấy toàn tài liệu về một khu chế tạo hóa chất tại phía đông Phi Thiên quốc. Thông tin Cấp 3, bất cứ ai cũng có thể truy cập bằng máy tính thay vì sử dụng Jeh-7400 vừa hại não vừa nhức mắt. Nhưng Hỏa Nghi chưa kịp thắc mắc, Thâu Đầu đã tiếp lời, giọng trầm trầm, chẳng giống ông già thét ra lửa ở hội đồng chủ quản:

-Bốn ngày nữa, một nhóm thực tập sinh sẽ đến nhà máy. Mày qua đó một buổi rồi nói chuyện với đám này. Giới thiệu dòng họ chúng ta, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ… nói chung là thế!

-Thật sao? – Hỏa Nghi kêu lên – Cháu còn một dự án với cái phi thuyền to đùng! Giờ ông bảo cháu làm hướng dẫn viên du lịch là sao? Bộ khu xưởng không có hướng dẫn viên hay sao?

Ông già mũi khoằm quắm mắt, Hỏa Nghi câm bặt rồi ngả lưng như sợ một tràng quát tháo tung tóe nước bọt sắp phun vô mặt. Nhưng không có tiếng quát tháo nào, Thâu Đầu chỉ lặng lẽ thao tác chuyển dữ liệu cho Hỏa Nghi. Danh sách thực tập sinh lần lượt xuất hiện trước mắt gã trưởng tộc, tất cả đều xuất thân từ các học viện danh tiếng với điểm tốt nghiệp cao chót vót. Hỏa Nghi hơi cay mũi. Bản thân gã còn nợ môn ở học viện cơ khí, điểm số thường lẹt đẹt vì luôn vào phòng thi với bộ dạng khắm mùi rượu – một quá khứ đáng quên. Trong lúc đó, Thâu Đầu chỉ vào một nữ thực tập sinh có mái tóc màu hạt dẻ:

-Hãy để ý con bé này, chiếu cố nó một chút. Tạo ấn tượng với nó, nếu được thì tiến xa hơn. Mấy chuyện kiểu này mày thạo quá rồi, không cần ta chỉ bảo.

Hỏa Nghi mắt chữ O mồm chữ A nhìn ông già rồi ngó bảng thông tin cá nhân của cô gái tóc hạt dẻ. Cô ta tên Tô Mỹ, hai mươi ba tuổi, học viên chuyên ngành chế hóa ứng dụng, tốt nghiệp loại xuất sắc, khuôn mặt hồng tươi tắn cùng đôi mắt xanh lơ lanh lợi như bầu trời mùa hạ. Một cô gái đủ sức đốn hạ mọi gã trai trẻ tuổi, nhưng Hỏa Nghi không thấy có điểm nào để đốn hạ cây đại thụ Thâu Đầu. Gã nhờ tìm kiếm sâu hơn trong Jeh-7400, được một lúc thì hệ thống phản hồi bằng một tập tin Cấp 3. Vẫn là thông tin cá nhân của cô gái nhưng danh xưng đầy đủ là Chân Tâm Tô Mỹ. Hỏa Nghi lầm bầm chữ “Chân Tâm”, cảm giác đã nghe ở đâu đấy. Nghĩ chán chê, gã bất giác ngờ ngợ:

-Chân Tâm, có phải…

-Là dòng họ Chân Tâm. – Thâu Đầu nói – Một trong các dòng họ lớn gây dựng Phi Thiên quốc cùng Bạch Dương Đệ Nhất, địa vị ngang họ Hỏa chúng ta và cũng có pháp quan trong hội đồng. Giờ họ sống ở Đồi Cánh Cung, trụ sở cũ của họ Chiến. Đứa nhỏ Tô Mỹ này là con gái ông trưởng tộc họ đó. 

Nhắc tới khu đồi phía nam thành phố, tâm trí Hỏa Nghi lạo xạo như đang bước trên cát. Nhân lúc gã còn mơ mơ hồ hồ, ông già Thâu Đầu tiếp tục bằng giọng nhẹ nhàng khuyên nhủ:

-Kết hôn luôn có một giá trị nhất định, đặc biệt là quan hệ giữa các dòng họ. Họ Hỏa chúng ta sống sót qua thời nội chiến, tìm được vị hoàng đế đích thực không nhờ tâm lý chơi xổ số, mà nhờ những chiến lược đúng đắn. Hôn nhân cũng là chiến lược. Thực tình ta không thích ép mày, thời đại mới rồi, chỉ có thằng ngu hoặc bất tài mới lao đầu vào hôn nhân sớm. Nhưng cuộc chiến giữa các pháp quan đã bắt đầu, họ Hỏa cần thêm chỗ dựa. Ta không cần mày phải kết hôn với Tô Mỹ ngay bây giờ, nhưng “một mối quan hệ tình cảm cao hơn tình bạn” cũng tốt, sau đấy vài năm, mày có thể từ từ tiến tới. Hiểu chưa, cháu trai?

Nghe lời ông già, Hỏa Nghi sực tỉnh. Gã nhe răng cười:

-Ông biết câu trả lời của cháu rồi đấy! Hế hế, không bao giờ có chuyện đấy. Cháu có bạn gái rồi. Mà tại sao ông lại mai mối cho cháu? Cái này… không đúng. Chẳng phải ông phản đối cháu hay sao? 

-Ta nhờ mày vì bất đắc dĩ. – Thâu Đầu tựa lưng ghế, cái bụng bự do nghiện món bành quy chấm mứt dâu phình lên – Nhà Hỏa Chính được hai đứa, đứa lớn con gái, đứa bé con trai chưa nổi tám tuổi, kết hôn nỗi gì? Nhưng thực ra Hỏa Chính chưa đủ điều kiện cấu thành một cuộc hôn nhân hoàn hảo. Mày là đứa thích hợp nhất! Ta bàn chuyện đại cục đấy, cháu trai, không bè phái nào ở đây! 

Hỏa Nghi nhún vai:

-Cháu xin lỗi ông, chân thành và đầy kính trọng. Cháu có thể nhượng bộ mọi thứ, riêng hôn nhân thì không! Phiên điều trần sắp đến, cháu không dư thời gian cho mấy chuyện kiểu này.

Nói dứt câu, Hỏa Nghi lại ngả lưng chuẩn bị đón nhận tràng phun nước bọt. Nhưng gã quá lo xa. Quả thực hôm nay Thâu Đầu vì thể diện dòng họ mà bớt tranh cãi gây gổ. Thấy cháu trai phản đối quyết liệt, ông già lắc đầu, cái mũi khoằm mỏ két đung đưa:

-Mày đang là trưởng tộc lãnh đạo dòng họ. Năm chi tộc và hàng ngàn gia đình đang dựa vào mày, cháu trai. Này, nói thật nhé, ở cái vị trí này này… tình yêu là cái gạt tàn còn đàn bà là điếu thuốc, hút hết một điếu rồi hút sang điếu khác, gạt tàn đầy thì hất sọt rác. Hiểu chứ? Chỗ đàn ông với nhau nên ta nói thẳng, có gì ngứa tai thì bỏ qua. Nhưng trọng trách trưởng tộc họ Hỏa là vậy. Phiên điều trần sắp tới, giả sử kết quả không tốt, mày nghĩ nên dựa vào ai? Tông Tủy chăng? Đừng quên hắn là chính trị gia, lời chính trị gia thối hơn chợ rác! Nghĩ xem ai sẽ giúp khi mày rơi xuống vực thẳm? Ta nghĩ cho mày đấy, cháu trai! Suy nghĩ và trưởng thành lên! 

-Vậy sau vụ này, quan hệ giữa ông và cháu sẽ tốt hơn chứ? 

-Không. – Ông già nghiêng nghiêng đầu – Mày làm tốt, tao trả công. Không ai nợ nhau hết.

Như muốn kết thúc trò chuyện, Hỏa Thâu Đầu phẩy phẩy tay, tay kia ôm hộp bánh quy tựa của báu. Hỏa Nghi thực chẳng biết lão mũi khoằm đang giúp mình hay khuấy mọi thứ thành nồi lẩu thập cẩm. Gã nghiêng về phương án hai nhiều hơn. Chẳng có lý gì Thâu Đầu chịu giúp gã. Nếu thực lòng giúp đỡ, lão già đã chẳng đề cập hôn nhân giữa lúc đứa cháu trai bỏng cong đít vì phiên điều trần. Bước ra khỏi nhà Thâu Đầu, Hỏa Nghi vừa đi vừa gãi mông xành xạch rồi trù tính mấy lời với cô nàng Tô Mỹ. 



Hai ngày kế tiếp, Hỏa Nghi hầu như không ngủ. Bốn mươi tám tiếng, gã sống trong bầu khí quyển nhờ nhờ sắc xanh khói thuốc lẫn mùi trà thiết mộc. Đề án Thần Sấm đồ sộ hơn bất cứ quyển sách nào gã từng đọc và phức tạp hơn mọi cuốn sách chuyên ngành, chưa kể vô số điều luật rối rắm áp dụng lên phi thuyền. Nếu không nhờ đám chuyên viên chi Thâu chỉ dẫn, Hỏa Nghi đã chết ngộp trong số má thông tin. Cũng giống gã, đám chuyên viên được cấy chip nhưng sở hữu tính năng rất hạn chế. Phải có Hỏa Nghi hay một thành viên hội đồng chủ quản cho phép, họ mới được quyền tiếp cận dữ liệu Cấp 5, mọi hoạt động truy cập bị theo dõi chặt chẽ. 

Ngày thứ ba, Hỏa Nghi sang Quân Doanh Bờ Tây khảo sát Thần Sấm. Nhiều dữ liệu không hiển thị trong hệ thống mà được cất giấu tại chính phi thuyền, phải đến tận nơi rồi sử dụng Jeh-7400 quét qua mới thấy. Gặp lại con quái vật sắt thép dưới khu hầm quân doanh, Hỏa Nghi lẫn lộn giữa những ký ức săn tìm Quỷ Vương và mớ thông tin hiển thị qua Jeh-7400. Toàn bộ dữ liệu kế toán nằm ở phòng điều hành phi thuyền nơi nhóm công chúa thường xuyên họp bàn. Tại căn phòng nơi Hỏa Nghi lần đầu gặp tên tóc đỏ, vốn là nhà kho, hóa ra lại lưu trữ thông tin nhà thầu cung cấp nhiên liệu. Hay trong phòng sinh hoạt chung dành cho nhân viên phi thuyền, gã tìm thấy danh sách công ty cung cấp khí tài quân sự. Lần mò khắp phi thuyền, Hỏa Nghi vỡ lẽ nó y hệt trò tìm kiếm kho báu cho trẻ con. Nhưng ở trò chơi phiên bản người lớn này, mỗi lần tìm thấy thông tin mới là gã thêm méo mặt. Thông tin quá nhiều còn não Hỏa Nghi quá tải. 

Việc chồng việc, Hỏa Nghi chẳng lúc nào yên thân. Trở về từ quân doanh, gã họp với ban cố vấn gồm chín người. Nhờ bàn tay Hỏa Dương sắp xếp, ban cố vấn đa phần trẻ tuổi, xuất thân từ năm chi tộc, nhiều kinh nghiệm và có tư tưởng trung lập. Nó đáp ứng mọi tiêu chí khiến kẻ khó tính nhất cũng không thể bắt bẻ, quan trọng hơn là không để lão mặt nhọn Hỏa Chính tung hoành. Hỏa Nghi bắt gặp vài gương mặt quen thuộc như anh chàng mắt thâm Tạc Kim. Không đương dưng anh ta xuất hiện ở đây. Anh ta được đưa vào ban cố vấn nhằm ve vuốt gia đình ông già Tạc Thạch, đồng thời khoét sâu mâu thuẫn trong vây cánh Hỏa Chính. 

Nhưng kẻ đáng nhẽ phải bực bội lại điềm nhiên như không. Suốt cuộc thảo luận, Hỏa Chính chẳng hề tỏ thái độ bất mãn. Cuối buổi, lão mặt nhọn gặp riêng Hỏa Nghi cùng lời lẽ thân thiện chân tình:

-Chú biết mày đã cấy chip, một mình thì vất vả với Jeh lắm! Chú đã kiến nghị lên hội đồng cho phép Hỏa Dương cấy chip. Họ đồng ý rồi. Từ giờ anh em chúng bay giúp đỡ nhau tốt hơn nhé! 

Hỏa Nghi đần mặt nhìn ông chú vui vẻ ra về. Gã tức tốc hỏi anh trai cho ra nhẽ và nhận được câu trả lời:

-Phải, là anh nhờ Hỏa Chính nói giúp. Anh sẽ hỗ trợ chú mày được nhiều hơn…

-Vậy anh trả cái gì cho thằng cha mặt nhọn? Anh “bán” cái gì rồi? – Hỏa Nghi cắt ngang – Tại sao anh không bàn bạc trước với tôi? 

-Chuyện rất gấp, anh phải quyết định ngay. Anh biết giới hạn ở đâu, em trai. – Hỏa Dương đáp – Cũng giống lần chú mày gặp mặt ông bộ trưởng Tông Tủy. 

Hỏa Nghi nghiến chặt hàm ngăn mấy câu chửi thề đang đập răng cửa đòi chui ra, cái dự định kể về cô nàng Tô Mỹ tiêu tùng ngay lập tức. Gã muốn chia sẻ với anh trai như cặp anh em chuẩn bị bày trò làm cha mẹ chúng nó phát khùng. Nhưng khéo làm sao, hay làm sao, chuẩn làm sao mà Hỏa Chính chen giữa anh em gã vừa kịp. Dù biết ông chú bày trò nhưng Hỏa Nghi không thể làm gì hơn. Có Vạn Thế mới biết anh trai gã đổi cái gì cho Hỏa Chính để có quyền cấy chip. Gã bỏ về phòng ngủ cùng hàng tá lời chửi rủa đầy cuống họng. 

Ba ngày đâm sấp dập ngửa với đề án Thần Sấm, gã trưởng tộc họ Hỏa thức dậy lúc tinh mơ ngày thứ tư, lóc cóc ra trạm bắt chuyến tàu điện về Tối Ưu thành thuộc phía đông Phi Thiên quốc. Khu xưởng chế tạo hóa chất nằm ở đây và gã sắp làm bảo mẫu dẫn lũ trẻ to xác tham quan nhà máy. Chưa kịp tiêu hóa hết chiếc phi thuyền to vật vã, gã phải tọng vào đầu thông tin khu xưởng, đề phòng đứa thực tập sinh nào đấy ngứa mồm hỏi vặn vẹo còn biết cách trả lời. Hỏa Nghi chẳng buồn nhìn cô tiểu thư dòng họ Chân Tâm một lần. Hơn lúc nào hết, gã cần bàn tay người chị xoa đầu, chiều chuộng và vỗ về. 

Nhưng suốt chuyến tàu, gã không gọi điện cho Thanh Nhi. Gã giận cô gái như đứa em dỗi người chị. 

Vài tiếng sau, Hỏa Nghi đặt chân đến Tối Ưu thành và được nhân viên khu xưởng đưa về bằng phi thuyền. Từ trên cao, gã trông thấy khu xưởng hóa chất chiếm trọn một thung lũng gồm những giàn lọc như bình pha chế rượu nằm san sát nhau, các giàn ống xả khói trắng đã qua xử lý chất thải, hệ thống đường ống dẫn khí, dãy điều chế, vân vân. Tất cả được bao phủ bởi lớp màu cam đậm lẫn trắng, nom như miếng bánh táo kém phẩm chất chỗ nướng quá lửa chỗ chưa chín hẳn. Nhưng Hỏa Nghi tin rằng nó vẫn ngon miệng hơn so với miếng bánh cháy đen Đảo Sắt Thép. 

Từ bãi đáp, Hỏa Nghi theo chân người dẫn đường tới chỗ thực tập sinh. Vừa thấy gã, đám thực tập sinh bỗng chốc nháo nhào, trầm trồ, xì xào… đủ thứ âm thanh dồn vào gã trưởng tộc trẻ tuổi. Hỏa Nghi nhỏng mắt tìm cô tiểu thư Tô Mỹ và thấy cô nàng săm soi mình như đang tìm tạp chất trong dung dịch sau điều chế. So với ảnh cá nhân, cô nàng gầy hơn, mái tóc hạt dẻ buộc cao ngay ngắn thay vì xõa dài, trẻ trung năng động vô cùng. Nhìn nàng, Hỏa Nghi… không thích. Gã ăn mặn quen, không nuốt nổi mấy thứ tươi mớn thiếu gia vị. 

-Nơi các bạn đang đứng là Trung Tâm Hóa Chất Miền Đông … – Hỏa Nghi lên tiếng – …các bạn đều là ứng viên xuất sắc, bởi vậy tôi cần có mặt tại đây để trân trọng tài năng của từng người. Chào mừng đến với họ Hỏa!

Một tràng vỗ tay vang lên nhiệt liệt, cô gái Tô Mỹ chỉ khẽ đập tay lấy lệ như phẩy ruồi. Sau đấy Hỏa Nghi dẫn bọn họ tham quan khu xưởng, không quên quảng cáo dòng họ tốt đẹp chỗ nọ sáng láng chỗ kia. Thi thoảng gã bị quấy nhiễu bởi câu hỏi chuyên môn, mấy loại thắc mắc giời ơi đất hỡi như chuyện trai gái, thậm chí cả việc nợ môn. Thằng cha nào đấy ở học viện cơ khí đã xì đểu Hỏa Nghi. Nhưng bằng bộ não thông minh cùng bản mặt dày bẩm sinh, gã trả lời mọi câu hỏi và không để bất cứ ai hạ thấp mình. Gã liếc Tô Mỹ, nhận ra cô gái vẫn chưa thôi dò xét mình. 

Tham quan một vòng, đám thực tập sinh giải tán, từng người trở về những bộ phận khác nhau trong xưởng. Một cách vô tình có chủ đích, chỉ còn một mình Tô Mỹ ở lại với gã trưởng tộc trẻ tuổi. Hỏa Nghi dồn cái thở dài ngao ngán qua lỗ mũi rồi dẫn cô nàng sang bộ phận điều chế. Hai người im lặng gần nửa chặng đường gồm những cầu thang kim loại, cầu nối các phân khu và tiếng máy móc kêu xình xịch. Mãi sau Hỏa Nghi mới mở lời:

-Xin lỗi cô, tôi không quen bắt chuyện người lạ. Nếu được, liệu trưa nay cô có rảnh…

-Tôi biết anh và anh cũng biết tôi là ai. Chúng ta gặp nhau vì người lớn bảo vậy. – Tô Mỹ cắt lời – Dì tôi đã nói về cuộc chiến giữa pháp quan, về chuyện kết hôn và cả anh nữa. Tôi không quan tâm anh nghĩ sao nhưng cá nhân tôi không thích. Chúng ta thẳng thắn như vậy được chứ?

Thấy cô nàng thẳng tưng ruột ngựa, Hỏa Nghi thở phào. Gã cười khanh khách: 

-Ồ, hay đấy! Vậy từ giờ cô tự lo nhé, tôi còn rất nhiều việc. Thời giờ vàng bạc mà! Chào nhé!

Nói rồi gã dúi tập hồ sơ vào tay cô gái đoạn quay mông đi thẳng, lòng nhẹ nhõm như vừa thoát được cục nợ. Nhưng chưa được mươi bước, gã phải dừng chân vì Tô Mỹ nhào lên chặn đường. Cô gái nhíu mày:

-Là trưởng tộc họ Hỏa, anh làm vậy coi được à? Ít nhất cũng nên bàn chuyện nghiêm túc hay công việc chứ? Chúng ta đang phục vụ dòng họ, đúng không? 

-Tôi không có hứng thú. Theo tôi biết, cô là học viên xuất sắc ngành điều chế, từng đoạt giải thưởng cuộc thi âm nhạc, một tiểu thư ngoan ngoãn và… hết rồi! – Hỏa Nghi cười nhe nhởn – Chúng ta nói chuyện gì đây, cô gái có trái tim chân thật? 

Tô Mỹ há hốc miệng, gương mặt bỗng nhợt đi như bông hướng dương bị tạt xô nước lạnh. Nhưng nàng nhanh chóng lấy bình tĩnh, khuôn miệng nở nụ cười tươi tắn:

-Ra vậy! Tôi đã nghĩ trưởng tộc họ Hỏa chín chắn trưởng thành, nhưng có lẽ tôi quá tin chương trình truyền hình. Thế không phiền anh nữa, tạm biệt.

Cô gái cúi đầu chào Hỏa Nghi đoạn rời đi. Hỏa Nghi nhún vai không quan tâm. Nhưng trong một thoáng, đôi mắt gã bỗng dán chặt vào khu vực dưới thắt lưng của nàng tiểu thư. Dù đã chọn chiếc váy tối màu nhưng Tô Mỹ không thể che giấu thứ đường cong đủ làm bẻ cong không gian lẫn đôi mắt Hỏa Nghi. “Hoàn hảo! Đồ thị hàm bậc ba nghiệm kép hoàn hảo!” – Hỏa Nghi lẩm bẩm. Ngay cả Thanh Nhi cũng không đạt mức hoàn hảo như thế. Nghĩ ngợi một chút, gã để bản năng dẫn lối đưa chân vọt lên cạnh nàng tiểu thư, miệng cười nói giả lả:

-Xin lỗi cô, tôi sai rồi. Tôi rất dở giao tiếp, mong cô thông cảm. Mà chắc cô biết họ Hỏa sắp ra điều trần trước quốc hội, độ này tôi bận quá nên hay cáu bẳn. Cô bỏ qua cho tôi chứ?

Tô Mỹ nhìn gã hồi lâu, sau rốt nàng nở nụ cười:

-Vậy được, mong ngài trưởng tộc giúp đỡ nhiều hơn.

Hỏa Nghi cười toe rồi vui vẻ dẫn nàng đến khu điều chế, chốc chốc lại vặn vẹo cơ thể nhằm có cớ ngoái đầu ngó xuống vòng ba của Tô Mỹ. Đương đi, cô gái chợt nói: 

-Có thật anh đã đến đất thánh Hỗn Nguyên? Tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành? Tôi chỉ tò mò thôi!

-Hình như mọi người nghĩ tôi xạo sự trên truyền hình, phỏng? – Hỏa Nghi nhún vai – Đó là những việc rất bình thường, ai cũng có thể làm!

-Nhưng ở độ tuổi của anh thì rất hiếm. – Tô Mỹ nói – Rất ít người trẻ đạt được vinh quang như anh. Xin thú nhận, tôi rất ghen tị với anh. Tôi ước nếu mình là đàn ông thì sẽ được như anh, thậm chí tốt hơn thế.

Hỏa Nghi phì cười, chẳng dè nàng tiểu thư dễ đoán như vậy. Nhắc lại chiến tranh, gã ngừng cười rồi im hẳn. Cũng giống ông bạn tóc đỏ, gã đã nhận lấy những tổn thương không thể chữa lành. Gã lắc đầu: 

-Chẳng có vinh quang nào trong chiến tranh. Đám nhà đài xây dựng chiến tranh theo ý họ. Họ dùng vô số lời lẽ đau thương hoa mỹ để tô vẽ hình tượng, lấy nước mắt người khác và làm ra vẻ cảm thông với nạn nhân chiến tranh. Kinh nghiệm cho tôi biết bọn nhà đài là lũ kền kền, thực chất chẳng hơn gì lính đánh thuê. 

-Anh có vẻ hiểu biết nhiều? – Tô Mỹ nhỏ giọng.

-Đi ăn trưa với tôi, cô sẽ thấy tôi hiểu biết thế nào. – Hỏa Nghi nháy mắt. 

Nàng tiểu thư gật gù nửa tin nửa không. Trong im lặng và dò xét lẫn nhau, hai người tiếp tục qua nhà máy tái chế phụ phẩm. Tiếp đà câu chuyện, Hỏa Nghi giới thiệu nhà máy là nơi tiếp nhận sản phẩm phụ hoặc chất phụ thải từ quy trình sản xuất chính rồi tái chế tạo ra sản phẩm mới. Gã thừa biết Tô Mỹ rõ rành rành mấy thứ này nhưng vẫn nói luôn mồm, bản thân nàng tiểu thư cũng không phản đối. Bởi vì ngoài sắt thép hóa chất, họ chẳng có gì để trò chuyện. 

Màn thao thao bất tuyệt của Hỏa Nghi chỉ kết thúc khi người quản lý thông báo nhà máy đang bảo trì. Hỏa Nghi thấy lạ, gã nắm rõ lịch trình hoạt động cả khu xưởng và hôm nay không phải ngày bảo trì. Nhưng quả thực nhà máy vắng tanh, chỉ có đám công nhân đang sửa chữa máy móc là bận rộn. Người quản lý nói, Hỏa Nghi mới biết khoảng năm năm gần đây nhà máy thường xuyên bảo trì, mỗi lần khoảng hai ba ngày. Tuy nhiên, do có cơ sở tái chế khác nên việc bảo trì ở đây không ảnh hưởng đến khu xưởng. 

-Máy móc cũ hay sao mà sửa chữa nhiều thế? – Hỏa Nghi hỏi – Cần thì các anh gửi kiến nghị mua đồ mới, sao không làm? 

-Máy móc vẫn tốt, thưa ngài. – Người quản lý trả lời – Nhưng ban lãnh đạo muốn nhà máy luôn ở trạng thái tốt nhất nên tăng thời gian bảo trì. Nhưng thế cũng không vấn đề gì. 

Hỏa Nghi nhíu mày. Mấy thông tin kể trên chẳng hề có trong dữ liệu. Nàng tiểu thư tủm tỉm cười:

-Vậy là ngài trưởng tộc không phải cái gì cũng biết.

Nói rồi Tô Mỹ đủng đỉnh bước tiếp mặc gã trưởng tộc đần thối tại chỗ. Nhưng Hỏa Nghi không lấy đó làm bẽ mặt. Gã nhận ra có điểm kỳ lạ, bèn hỏi người quản lý:

-Cá nhân anh nghĩ việc bảo trì thế nào?

-Chi phí tăng cao, cũng không quá cần thiết. Nhưng trong ngành hóa chất, cẩn thận và tốn tiền chẳng bao giờ thừa, thưa ngài. 

Hỏa Nghi gật đầu nhưng trong lòng không thỏa mãn với cách giải thích của tay quản lý. Gã cứ lẩn mẩn suy nghĩ đến tận giờ ăn trưa, ngồi cùng Tô Mỹ mà mắt mũi ở đâu đâu. Cuối buổi, gã tìm người quản lý xin lịch bảo dưỡng rồi quay lại thủ đô. Ngồi trên tàu điện, gã sực nhớ chưa xin số nàng tiểu thư họ Chân Tâm, chỉ biết tặc lưỡi tiếc ngắn tiếc dài vòng ba hoàn hảo của cô tiểu thư.

Nỗi tiếc nuối chẳng tồn tại lâu trong đầu Hỏa Nghi. Về đến nhà, gã vào phòng làm việc rồi lôi ra tập phong bì do đại thánh sứ Tây Minh để lại. Hai phần ba di chúc đã hoàn thành. Thư tay chuyển đến ông bộ trưởng Tông Tủy, toàn bộ sách vở do đại thánh sứ sưu tầm vừa tới đây hôm qua, chỉ riêng tập sổ kế toán là Hỏa Nghi chưa động vào. Bấy giờ gã mới nhận ra sổ kế toán thuộc về nhà máy tái chế phụ phẩm, trông rất khác lạ vì chẳng có con dấu xác nhận nào từ ban quản lý. Sau một hồi so sánh lịch bảo trì với sổ kế toán, Hỏa Nghi lầm bầm một mình:

-Ngày bảo trì mà vẫn có số liệu xuất hàng? Ngài đang tìm gì thế, đại thánh sứ? 

Hỏa Nghi bóp trán nghĩ ngợi. Gã muốn bàn chuyện với anh trai nhưng không thể. Gã muốn Thanh Nhi nhưng cô gái vẫn chưa về. Đặc biệt là Thanh Nhi khiến gã lấn cấn không yên. Nhưng Hỏa Nghi tặc lưỡi mặc chuyện đến đâu thì đến. Nhờ Jeh-7400, gã tìm được số điện thoại của Tô Mỹ rồi bắt đầu những sự rắc rối bằng một lời chào đon đả:

-Tiểu thư Tô Mỹ? Chà, được gặp lại cô thật tuyệt. Thật đấy! Cô làm tôi rất ấn tượng. Cô nghĩ sao nếu tôi mời cô ăn tối? Cứ cho đấy là một lời hẹn hò đi! Hề hề!

[1]: ở Quyển 1, Đệ Thập đã thỏa thuận với các pháp quan để đổi lấy việc sử dụng Thần Sấm trước thời hạn.
 
Quyển 4 - Chương 8: Nhà vệ sinh


-Nói thật đi, anh hẹn hò bao nhiêu cô rồi? Đừng tưởng tôi không biết anh là loại người nào. Nếu không phải dì tôi khuyên nhủ… ợ… tôi đã chẳng nói chuyện với anh ở khu xưởng, cũng chẳng thèm tới quán rượu này. Anh nghe tôi nói không, Hỏa Nghi? 

Nàng tiểu thư Tô Mỹ cầm cốc rượu chỉ chỉ mặt Hỏa Nghi, bờ má ửng hồng gác lên mu bàn tay trắng trẻo. Hỏa Nghi nhìn thẳng cô gái và từ tốn đáp lại:

-Không hề. Thật đấy! Tôi thừa nhận mình từng chẳng ra gì. Đúng là tôi đi chơi quen biết nhiều cô gái nhưng chưa hẹn hò với ai. Các cô gái dĩ nhiên yêu quý tôi rồi! Con trai trưởng tộc họ Hỏa, thừa kế dòng họ, sinh ra từ nơi không cần quan tâm giá trị đồng tiền, cô gái nào làm ngơ tôi chứ? Họ tự động vồ lấy nên tôi khỏi cần hẹn hò. Nhưng cô khác họ, Tô Mỹ. Cô xinh đẹp, thông minh, tài năng; cô không cần dựa dẫm bọn đàn ông vì cô hơn hẳn lũ đó. Do vậy… tôi rất vui khi cô chấp nhận lời mời. Cô là người đầu tiên. Thật đấy!

Huyên thuyên cả phút nhưng Hỏa Nghi không chớp mắt lần nào. Nàng tiểu thư nhìn gã rồi lườm nguýt, rồi lẳng lặng uống rượu, rồi ngoảnh ra trông khoảng không bên ngoài cửa sổ. Bản năng mách bảo Hỏa Nghi: cá cắn câu. Nàng tiểu thư đang có tâm tình còn Hỏa Nghi tự chửi mình khốn nạn. Gã hẹn hò Thanh Nhi cũng ở quán rượu nhưng cách đây hai tòa tháp. Còn từ chỗ này bước thêm vài trăm mét là nơi gã thề thốt với cô hầu bàn, may sao cô gái đã nghỉ việc. Từng khoảnh đất trong quận Mắt Trắng đều có dấu răng “lần đầu tiên” của Hỏa Nghi, chưa tính quận Trăng Khuyết. Nhưng gã dám thề mình làm thế vì bất đắc dĩ. 

Đại thánh sứ Tây Minh không thể hiện toàn bộ ý nguyện trong bản di chúc. Dường như ông đặt mọi nghi vấn vào quyển sổ kế toán và nhờ Hỏa Nghi giải đáp. Nhưng bản thân kẻ thừa kế cũng đặt ra vô số thắc mắc. Tại sao Tây Minh sở hữu cuốn sổ? Trong thời điểm viết di chúc, ông đang bận rộn với cuộc chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, tại sao còn quan tâm một công ty hóa chất hay chỉ vô tình nhận được cuốn sổ? Nếu thực sự là Tây Minh quan tâm thì nhà máy đang che giấu cái gì? Hàng chục câu hỏi lẩn mẩn trong đầu Hỏa Nghi. Gã đã gọi công chúa và Tiểu Hồ nhưng cả hai chẳng biết chuyện dù rất gần gũi đại thánh sứ.

Hỏa Nghi không đủ sức giải quyết mọi chuyện cùng lúc. Phiên điều trần đang gõ cửa, gã không dư thời gian điều tra. Và gã đồng thời nhận ra mình cô độc tới mức nào. Xung quanh gã giờ không còn ai đáng tin kể cả người anh; gã không chấp nhận anh trai qua lại với Hỏa Chính dù chỉ là một cái bắt tay. Bởi thế gã mới nhờ người xa lạ như Tô Mỹ. Nhờ vả phụ nữ khó khăn, nhất là mấy cô nàng học rộng hiểu nhiều lại có lòng tự tôn cao, thành thử Hỏa Nghi phải tốn công mời mọc hẹn hò. Bài vỡ lòng ràng buộc phụ nữ bằng tình cảm luôn tốt hơn tiền bạc, gã thuộc từng chữ. 

-Thế cụ thể là anh muốn tôi làm gì ở nhà máy đó? – Cô tiểu thư ngoảnh sang Hỏa Nghi sau một hồi nhìn trời ngó mây – Tôi chỉ là thực tập sinh, người ta bảo gì làm đấy, sao giúp anh được? 

-Cô không chỉ là thực tập sinh, cô là người giỏi nhất trong đám thực tập. – Hỏa Nghi nói khẽ – Khu hóa chất sẽ đánh giá cao tài năng của cô. Tôi cần cô theo dõi hoạt động bảo trì và xuất nhập của cái xưởng đó. Nếu cần, hãy viết một báo cáo nhỏ hàng ngày, cứ coi như đây là bí mật giữa hai chúng ta.

-Vậy đổi lại, tôi được gì? 

-Thì… tôi sẽ chiếu cố cô nhiều hơn. – Hỏa Nghi giả lả – Chúng ta sẽ cùng ăn tối, uống rượu và hẹn hò.

Nàng tiểu thư khinh khỉnh:

-Anh nghĩ tôi cần anh?

-Nhưng tôi cần tiểu thư, vì… vì… công việc. Họ Hỏa và họ Chân Tâm đang trong cuộc chiến, phải không? Kết đồng minh bao giờ cũng tốt hơn làm kẻ thù.

Hỏa Nghi cố tình ngập ngừng nhằm diễn vai một gã trai không biết lựa lời, rồi lại ngượng ngùng ngó xuống cốc rượu vì lời nói dối tệ hại. Nàng tiểu thư nhìn ngó dò xét như cố tìm một dấu hiệu xạo sự kết tủa trên gương mặt Hỏa Nghi. Đắn đo hồi lâu, nàng đứng dậy thanh toán rồi cùng gã đi dạo trên những cây cầu vắt ngang không trung. Sánh bước cùng Hỏa Nghi qua vài nhịp cầu, Tô Mỹ chợt cất lời:

-Thực sự tôi có xem truyền hình, Hỏa Nghi. Anh làm được nhiều điều mà những gã đàn ông khác chẳng bao giờ làm được. Phải can đảm lắm mới dám đứng trong chiến tranh. Tôi ngưỡng mộ anh. Nhưng ngưỡng mộ và tình cảm là hai chuyện khác nhau. Tôi là người rõ ràng. Dì tôi kể khá nhiều về anh, nhìn chung… không tốt. Nếu không phải cuộc chiến giữa các pháp quan, dì đã không bảo tôi gặp gỡ anh. “Dì thực lòng không muốn con gần gũi tên đểu cáng đó!”. Dì nói với tôi vậy đấy!

Hỏa Nghi nuốt khan, thầm nghĩ bà dì của Tô Mỹ nhìn người… chuẩn xác. Nàng tiểu thư tiếp tục:

-Nhưng nếu anh muốn một mối quan hệ nghiêm túc, tôi cũng sẽ nghiêm túc. Tôi không ngại thử thách và anh là một thử thách như thế. Anh nghĩ sao? Dì miễn cưỡng đẩy tôi đi, nhưng tôi muốn bước bằng trái tim mình. Tôi sẽ bỏ qua những gì anh từng làm, anh cũng không cần quan tâm trước đây tôi ra sao. Chúng ta bắt đầu một quan hệ mới, nghiêm túc và thẳng thắn. Anh nghĩ thế nào? 

Khuôn miệng đánh son của Tô Mỹ phả mùi cồn nhưng lời lẽ không nồng hơi say xỉn. Nàng hoàn toàn tỉnh táo. Ngực Hỏa Nghi đập thùm thụp như đánh trống. Gã còn đó Thanh Nhi và biết rõ phụ nữ Xích Quỷ kinh khủng thế nào khi nổi cơn tam bành. Nhưng nếu tiếp tục làm người đứng đắn, gã e rằng sẽ chẳng bao giờ biết được bí mật trong sổ kế toán. Nghĩ tới nghĩ lui, Hỏa Nghi tự nhủ “Chị ơi em xin lỗi!” rồi nhắm mắt làm bừa:

-Sẽ như ý cô, tiểu thư. Nếu cô… chấp nhận tôi. Cô biết đấy, tôi không phải người đàng hoàng lắm…

Hỏa Nghi chưa kịp đặt dấu chấm câu, nàng tiểu thư đã ôm vai gã rồi kiễng chân hôn để lại vết son đỏ đậm trên má. Nàng ôm đủ lâu để Hỏa Nghi kịp lùa tay vào mái tóc màu hạt dẻ và buông ra ngay khi gã bắt đầu cảm nhận từng sợi tơ tóc ngấm vào da thịt. Vẫn gương mặt đỏ hồng, Tô Mỹ đấm vai gã trai:

-Vậy từ giờ, chúng ta bắt đầu hẹn hò. Nhiệm vụ đầu tiên của anh: đưa tôi ra trạm tàu điện. Và đừng làm tôi giận, nhớ đấy! Nếu làm tôi giận, tôi sẽ moi ruột anh ra, nhớ chưa?

Nàng tiểu thư cười tươi, đôi mắt xanh lơ tỏa nắng. Hỏa Nghi nuốt khan tập hai. Gã chưa biết lần hẹn hò sắp tới ra sao nhưng đã tính bài chuồn trong tương lai. Đợi khi bí mật ở nhà máy hóa chất sáng tỏ, gã sẽ đóng vai một kẻ tệ bạc vô trách nhiệm. Trước là không trả lời điện thoại, sau tỏ vẻ lười biếng, kế đến viện cớ thời gian eo hẹp rồi luôn mồm kêu mệt mỏi, vân vân… Mỗi lần “sút” một cô gái là gã lại lôi vở kịch này ra xài. Phiền nỗi Tô Mỹ không phải cô gái bình thường, gã phải diễn xuất hay lựa chọn bối cảnh thận trọng hơn. Suốt quãng đường đưa Tô Mỹ ra tàu điện, Hỏa Nghi chỉ nghĩ việc “sút” nàng tiểu thư thế nào cho hợp tình hợp lý. 

Oái oăm thay, Vạn Thế luôn để mắt tới những gã lăng nhăng. Tới trạm dừng, nàng tiểu thư lại quay ra hôn Hỏa Nghi lần nữa, chẳng bận tâm môi nhạt màu son. Hỏa Nghi ngay đơ như khúc gỗ. Tô Mỹ gõ gõ ngón trỏ lên môi gã:

-Tôi hứa giúp anh chuyện nhà máy. Trước mặt dì, tôi sẽ nói tốt cho anh. Tôi cũng giữ bí mật hẹn hò, tôi biết anh bận rộn nên mấy chuyện thế này nên ở ngoài lề thì hơn. Nếu cần giúp đỡ, hãy gọi tôi, đừng ngại. Vì chúng ta bắt đầu hẹn hò, đúng không?

Nói rồi nàng dúi một mảnh giấy vào ngực Hỏa Nghi rồi nhanh chân bước lên tàu điện, không quên gửi lại gã trai một nụ cười tình tứ. Mảnh giấy ghi số điện thoại khác của Tô Mỹ, bí mật hơn, riêng tư hơn và có thể trao đổi mấy tin nhắn bậy bạ mà các cặp đôi vẫn làm. Hỏa Nghi bỗng chốc hối hận vì tham gia truyền hình quá nhiều; cô tiểu thư thích thú gã vì hiệu ứng truyền hình, không phải tình cảm thực sự. Chặng đường đến ngày chia tay của gã với Tô Mỹ càng thêm gian nan trắc trở. “Không được để chị biết! Chị biết là chết!” – Hỏa Nghi vừa lẩm bẩm vừa chùi vệt son dính má.

Nỗi lấn cấn tiểu thư Tô Mỹ theo Hỏa Nghi về nhà, nó chỉ biến mất khi gã ngửi thấy mùi đun nấu từ căn bếp. Anh trai luôn chu đáo với gã bất kể anh em cãi nhau to mức nào. Nhưng điều đó chưa đủ khôi phục niềm tin sứt mẻ của Hỏa Nghi dù gã biết ơn rất nhiều. Quẳng giày vào một góc, gã cất lời cụt ngủn:

-Tôi ăn rồi. Mệt quá, ngủ đây!

-Có món súp cậu thích, nhưng ăn rồi thì thôi vậy, tôi ăn một mình. 

Nghe tiếng trả lời, gã quay ngoắt lại và nhận ra Thanh Nhi đứng bếp. Gần bốn tháng xa Hỏa Nghi, cô gái thay đổi nhiều: mái tóc đen không còn ngắn mà dài trễ lưng, vóc dáng xem chừng xọp hẳn xuống, làn da trắng mà cô thường lấy làm tự hào giờ sạm đen ít nhiều. Xưởng rèn của họ Hỏa vốn không dành cho nữ giới, đặc biệt là cơ sở ở Đả Thải thành. Nhưng Hỏa Nghi không quan tâm, chỉ biết chị đã về. Chẳng nói chẳng rằng, gã bước tới ôm chầm, bế bổng người chị rồi hôn tới tấp như thể tận thế đang gõ cửa nhà. Bị cưỡng ép, Thanh Nhi rú lên:

-Bỏ tôi xuống… đồ điên! Làm gì thế?! Bỏ tôi xuống!

Bản năng xâm chiếm mọi ngóc ngách cơ thể Hỏa Nghi, Thanh Nhi kêu cứ kêu còn gã làm cứ làm. Hai người vần nhau ở gian bếp, đánh đổ nồi súp đương sôi sùng sục. Hỏa Nghi mặc kệ. Gã khoác Thanh Nhi lên vai như vác đồ, sau nhanh chân bước vào phòng ngủ hành sự. Có tiếng chửi bới, có lời dỗ dành, chửi bới tiếp, được một lúc rồi im bặt. Sau đấy những tiếng thở gấp lớn dần rồi lấp đầy phòng ngủ, lấp đầy trái tim của gã trai chịu đựng bốn tháng cô đơn. Như đứa trẻ lên cơn hờn dỗi, gã vày vò tới nỗi Thanh Nhi chảy nước mắt, khắp người lằn đỏ dấu tay. Cảm thấy có lỗi, gã chuyển qua âu yếm mơn trớn Thanh Nhi tựa nâng niu một thanh kiếm mới ra lò. Sau rốt gã rúc vào lòng Thanh Nhi và để người chị vỗ về, thân thể run rẩy từng chặp mỗi khi được xoa đầu hay vuốt trán. Nhìn Hỏa Nghi mới đây là con thú dữ, giờ lại như đứa trẻ, Thanh Nhi bật cười:

-Nhớ chị thế sao, em trai? Nhớ chị hả? 

Hỏa Nghi không trả lời, chỉ dụi đầu sâu hơn vào ngực người chị. Một thoáng trôi đi, gã siết chặt lưng Thanh Nhi, cổ họng nấc cục. Cô gái chải mái tóc xù của Hỏa Nghi bằng ngón tay đoạn hôn lên đỉnh đầu gã. Luật xưng hô “chị em” này hoàn toàn do Hỏa Nghi bày ra chứ không phải Thanh Nhi lên mặt tuổi tác. Ban đầu nó khá kỳ cục nhưng dần trở thành bí mật nho nhỏ giữa hai người. Có bận Thanh Nhi xưng hô ra sao nếu cưới thật, nhưng Hỏa Nghi chỉ nghe và để đấy chứ chưa bao giờ nghĩ giải pháp. 

-Sao chị về? – Hỏa Nghi ngẩng đầu – Không phải xưởng rèn bận hết tháng 5 à? 

Thanh Nhi ôm bộ mặt đỏ gắt của gã trai, đáp lời:

-Vì chị có cậu em trai không chịu được một mình. Cậu em đó nhắn tin gọi điện suốt ngày, nên chị đành làm việc quá sức rồi xin nghỉ phép sớm. Vì đứa em, chị nấu món súp mà cậu ta thích. Nhưng cậu ta hất đổ nồi súp, không thèm lau dọn, thậm chí lột hết quần áo của người chị. Sao đây, Hỏa Nghi? Em đối xử với chị kiểu này à? 

Hai người lặng thinh rồi cùng cười phá. Họ quấn lấy nhau bằng bộ dạng trần truồng, ngôn ngữ trần trụi và khao khát trần tục. Ở đây, Hỏa Nghi được quyền làm nũng kiểu trẻ con mà không xấu hổ, được thấy người chị quyến rũ chiều chuộng đứa em thay vì một bà chị nghiêm khắc ít cười ngoài kia. Ở miền ảo cảnh mà Hỏa Nghi đang xây dựng trong trí óc, gã luôn dành chỗ riêng tư mà đẹp đẽ nhất cho mình và Thanh Nhi. 

Nhìn ngắm người chị chán, đứa trẻ Hỏa Nghi lại biến thành con thú giở nanh vuốt lần mò khu nội đô mềm mọng mỡ rồi thò xuống cái bến bờ săn chắc. Cô gái thở mạnh, thanh quản chốc chốc đùn lên âm thanh hỗn hợp giữa đau đớn lẫn khoái cảm. Gã trai được thể càng làm tợn, Thanh Nhi bĩu môi:

-Ngôi sao truyền hình mới nổi đây à? Chị có xem mấy chương trình đó, trông bảnh tỏn đấy, em trai. Vậy đã có cô gái nào muốn cướp em khỏi tay chị chưa? 

Cơn đê mê của Hỏa Nghi bỗng ào ạt rút đi và để lại bãi cát hiện thực ngổn ngang những mảnh sắc. Gã thấy xa xa là quan hệ giữa hai dòng họ lớn sứt mẻ, ngay sau gót thì lù lù nàng tiểu thư Tô Mỹ, còn cách đó mươi bước, viễn cảnh gã bị Thanh Nhi và Tô Mỹ xé xác cứ nhá sáng từng hồi như đang phát lời cảnh cáo. Toàn mảnh sắc dễ cứa đứt chân người, Hỏa Nghi ớn rởn tóc gáy. Nhìn gã ngây ngây ngơ ngơ, Thanh Nhi nheo mắt nghi ngờ:

-Sao thế? Vậy là có cô nàng đó thật hả? 

Cô gái vừa nói vừa cấu véo Hỏa Nghi. Gã trai cười khành khạch mà bụng lo sốt vó. Giờ đây thủ đô trong mắt gã chỉ rộng bằng một tòa nhà, mọi lối ngả ngã rẽ đều có nguy cơ đưa Thanh Nhi đến chỗ tiểu thư Tô Mỹ. Chiếc điện thoại bỗng trở thành quả bom nổ chậm, chỉ cần gã sơ sẩy một chút là có án mạng. Hỏa Nghi bắt cá hai tay nhiều lần nhưng chưa gặp nhiều nguy hiểm như lần này. Vừa nghĩ chiến lược sống sót, gã vừa huyên thuyên:

-Làm gì có! Em chẳng dư thời gian để thở nữa. Tuần sau là phiên điều trần, em đọc mãi vẫn chưa xong dự án Thần Sấm. Rồi nhiều chuyện linh tinh khác nữa. Lão già Hỏa Chính không để em yên, đám hội đồng ngày nào cũng săm soi, ông anh thì… thôi, đừng nhắc ông anh quý hóa nữa! Rồi con nhỏ Tiểu Hồ đang ở vùng chiến sự, ngày nào em cũng phải gọi điện kiểm tra cô ta. Còn Vô Phong…

Hỏa Nghi đem toàn bộ khổ sở ra giãi bày nhằm đánh lạc hướng Thanh Nhi nhưng thực sự cũng muốn tâm tình nhẹ bớt. Bởi lẽ ngoài người chị, gã chẳng có ai để tâm sự. Thấy gã vò đầu bứt tai, Thanh Nhi liền ôm lấy âu yếm một hồi đoạn hỏi:

-Vô Phong thì sao? Em chưa tìm thấy cậu ta à?

-Không có dấu hiệu nào hết. – Hỏa Nghi thở dài – Mà giờ bắt liên lạc với cậu ta cũng nguy hiểm. Đang giai đoạn nhạy cảm, chỉ cần em hở ra mình có quan hệ với tóc đỏ là chập điện! Cả công chúa cũng vậy, cô ấy không còn lựa chọn.

Thanh Nhi gật đầu hiểu cho nỗi khó của gã trai. Cô tựa cằm lên vai Hỏa Nghi, giọng nhỏ nhẹ:

-Nhưng cậu ta là bạn em, đúng không? Một người bạn đúng nghĩa nhất từ trước đến giờ. Em cần biết tình trạng cậu ta thế nào mới yên tâm làm việc, phải chứ? 

Lời cảm thông không giải quyết được vấn đề nhưng làm Hỏa Nghi nhẹ nhõm hẳn. Gã không nói chuyện này với anh trai vì biết rõ chỉ nhận được sự phản đối kịch liệt. Anh trai gã quá lý trí. Bởi thế gã thường xuyên tâm sự với chị. Chị lý tính, biết rõ em trai cần điều gì và lấn cấn cái gì. 

-Em muốn tìm Vô Phong nhưng chưa có người tin cậy để giao việc. Ông anh không tham gia vụ này đâu, chắc chắn! – Hỏa Nghi nói – Em định tìm một người trong ban cố vấn, nhưng em chưa hiểu họ, họ cũng chưa hiểu em. Có lẽ nên đợi thêm một thời gian nữa…

-Vậy để chị giúp. – Thanh Nhi nói – Việc ở xưởng rèn xong rồi, chị nghỉ từ giờ đến tháng 8. Chị sẽ tới phương bắc một chuyến. 

Hỏa Nghi giãy nảy:

-Không được! Phương bắc rất nguy hiểm, cả lục địa đang đánh nhau ì xèo. Em không để chị đi được!

-Nhưng em trai đang gặp khó khăn, chị phải giúp. – Thanh Nhi cười – Đừng tưởng chị theo em về đây để hưởng chữ “họ Hỏa” nhé! Khi em ở Tuyệt Tưởng Thành, chị đã làm việc cật lực và xây dựng nhiều mối quan hệ. Chị có kha khá bạn bè ở phương bắc. Đợi xong phiên điều trần, chị sẽ tìm kiếm Vô Phong. Đừng lo, chị không trẻ con giống em đâu, cậu bé à!

Đôi mắt cô gái phủ đầy kiên định, là thứ ánh mắt mà Hỏa Nghi si mê ngay từ ngày đầu gặp gỡ. Gã biết chẳng gì có thể lay chuyển người chị nữa. Sự yêu thương của cô gái làm Hỏa Nghi cảm kích bao nhiêu mà cũng dấy lên lo lắng trong gã bấy nhiêu. Suốt buổi tình tứ, gã lo ngay ngáy nàng tiểu thư Tô Mỹ lên cơn say gọi điện thoại lảm nhảm. Nhưng Vạn Thế tạm thời buông tha gã lăng nhăng họ Hỏa, ít nhất là đêm nay. Đêm ấy Hỏa Nghi ngủ gục an lành trên ngực người chị, đầu óc mơ về thành phố tưởng tượng đang xây dựng dở dang. Nơi hạnh phúc ấy chưa hoàn thành, nhưng gã chắc chắn sẽ dành chốn riêng tư mà đẹp đẽ nhất cho mình và Thanh Nhi. Một thế giới chỉ có em trai cùng người chị. Gã chắc chắn như thế. 



Thế giới thực luôn khắc nghiệt. Nó chẳng ngại ngần rọi nắng thẳng mặt Hỏa Nghi vào sáng hôm sau, đập vỡ giấc mộng đẹp rồi lôi gã đến bàn làm việc chất đống giấy tờ. Mắt nhắm mắt mở chưa xong, gã suýt lên cơn đau tim vì Tô Mỹ nhắn tin. Nàng tiểu thư thông báo rằng vừa đến xưởng hóa chất và bắt đầu ngày làm việc đầu tiên. Nàng muốn Hỏa Nghi biết, đồng thời muốn gã hồi đáp. Tuy là tiểu thư của dòng họ đầy quyền lực nhưng tâm tình Tô Mỹ cũng giống bao cô gái ngoài kia: thích quan tâm và thích được người khác quan tâm. Hỏa Nghi vội vã trả lời tin nhắn, giấu giấu đút đút thì thà thì thụt. Cuộc sống bắt cá hai tay chưa bao giờ dễ thở.

Trách nhiệm ngày càng lớn, vị trí của Hỏa Nghi tự nhiên cũng cao thêm. Hội đồng chủ quản thống nhất rằng Hỏa Nghi không thể một thân một mình xuất hiện ở nơi công cộng, gã cần một vệ sĩ chuyên nghiệp hoặc chí ít là ai đó đủ sức ngăn mấy cô nàng hâm mộ khỏi lao vào xâu xé. Hỏa Dương đã chuẩn bị chuyện này từ sớm. 

Sáng hôm đó, tay vệ sĩ đến trình diện trong bộ dạng không thể nghiêm túc hơn với y phục sáng bóng phẳng phiu, mái tóc lưa thưa được tỉa tót chải chuốt cứng đơ, trông như mảng tóc giả gán vào da đầu bằng keo dính. Chúng hoàn toàn lạc điệu với vị chủ nhân có gương mặt bành bạnh, cổ ngắn, râu cằm đeo đầy khoen vòng cùng những ngón tay xăm đầy ký tự. Hỏa Nghi đoán thằng cha râu ria xăm trổ này đã năm chục tuổi, nào ngờ nhìn sơ yếu lý lịch mới thấy hắn ta chưa tới bốn mươi. Hồ sơ cho biết tay vệ sĩ tên Tru Đồ, người Phi Thiên quốc, làm kiếm sĩ gần hai mươi năm, nhiều kinh nghiệm bảo vệ yếu nhân và từng phục vụ họ Hỏa. 

Thông tin không viết suông. Tru Đồ tỏ rõ là kẻ am hiểu dòng họ. Bắt tay chào hỏi Hỏa Nghi xong xuôi, hắn bắt đầu công việc bằng một thời gian biểu. Nó ghi rõ Hỏa Nghi đi đâu, gặp gỡ ai, công việc thế nào và nhiệm vụ của Tru Đồ là đảm bảo lịch trình an toàn tuyệt đối: 

-Tối nay cậu có chương trình truyền hình. Cậu luôn đi tàu điện, phải không? Phải thay đổi, không được lặp lại quá nhiều. Ngày kia cậu đến khu xưởng hóa chất miền đông, rồi đến tối cậu quay lại thủ đô dùng bữa với ông bộ trưởng Tông Tủy. Chuyến đi xa, tôi sẽ dùng thêm người, phi thuyền và thiết bị phòng trường hợp khẩn cấp. Đầu tuần sau, cậu tham dự phiên điều trần, tôi sẽ bố trí nơi ở bí mật gần tòa quốc hội, cử người bảo vệ suốt hai mươi tư giờ để đảm bảo cậu không trễ giờ, tiện thể tránh đám báo chí. Nếu cần bổ sung tài liệu giấy tờ, tôi sẽ lo. Từ giờ tới lúc đó nếu phát sinh vấn đề ngoài ý muốn, tôi sẽ thông báo ngay lập tức. Giờ chắc cậu chuẩn bị đến Quân Doanh Bờ Tây? Vậy đi thôi, tôi đã chuẩn bị đầy đủ.

Màn dạo đầu của tay vệ sĩ làm Hỏa Nghi xây xẩm mặt mày. Đó chưa phải là tất cả. Trong mắt Tru Đồ, mọi nguy hiểm luôn trực chờ ngoài kia và chỉ đợi dịp là vồ lấy ăn tươi nuốt sống Hỏa Nghi. Tay vệ sĩ đem tới một mớ đồ công nghệ như máy liên lạc khẩn cấp, thiết bị định vị, máy chiếu ba chiều nhỏ xíu lắp đồng hồ đeo tay; rồi kế đến là vật dụng sinh tồn như thuốc cầm máu gắn cổ áo, băng cứu thương cá nhân gắn dưới đế giày hay viên nén dinh dưỡng. Giả sử xảy ra tận thế, mớ đồ kể trên giúp Hỏa Nghi dư sức giãy đành đạch thêm dăm bữa nửa tháng. Thấy Tru Đồ định khoác thêm áo chống đạn cho mình, gã tá hỏa xin thôi. 

Kể từ đấy, Hỏa Nghi bất đắc dĩ có thêm người đồng hành. Trừ lúc đi vệ sinh, còn đâu Tru Đồ theo sát gã như hình với bóng. Mọi bí mật bỗng chốc bị chia sẻ, sự riêng tư trở thành đồ xa xỉ, Hỏa Nghi khó chịu khôn tả. Có lúc gã tin rằng tay vệ sĩ là tai mắt giám sát của ông anh quý hóa. Như nắm rõ tâm lý của kẻ lần đầu dính vụ “vệ sĩ”, Tru Đồ hành xử rất ý tứ. Ở khu xưởng hóa chất, hễ thấy Hỏa Nghi sánh bước cùng tiểu thư Tô Mỹ, tay vệ sĩ lại lảng chỗ khác. Hắn biết quan hệ giữa hai người song không bao giờ đề cập. Nói những điều cần nói, thông báo việc quan trọng hoặc trò chuyện chút ít khi lái phi thuyền – Tru Đồ làm đúng phận sự và chỉ trong phận sự đó. Qua vài ngày đầu bực bội, Hỏa Nghi dần quen mặt gã râu ria xăm trổ. Tru Đồ tinh tế hơn vẻ ngoài lệch lạc của mình. 

Dường như tay vệ sĩ là vị cứu tinh cho Hỏa Nghi. Có Tru Đồ sắp xếp địa điểm và cảnh giới bên ngoài, gã có thể thoải mái gặp nàng tiểu thư mà không sợ Thanh Nhi bắt gặp. Trong mọi chuyên mục bắt cá hai tay, gã lăng nhăng luôn cần một kẻ thông đồng, Tru Đồ chính là mảnh ghép hoàn hảo nhất. Hỏa Nghi thiết nghĩ thằng cha này nên mở dịch vụ bảo kê cho những kẻ lăng nhăng hoặc quý ông thích tòm tem. Nhờ tay vệ sĩ, Hỏa Nghi yên tâm dốc toàn bộ năng khiếu diễn xuất vào buổi hẹn hò với Tô Mỹ. 

Đúng ngày nguyện tức là trước phiên điều trần hai ngày, Hỏa Nghi hẹn Tô Mỹ ăn tối. Như gã dự liệu, nàng tiểu thư nhờ tài năng mà nhanh chóng chiếm được cảm tình của ban quản lý khu xưởng. Họ để nàng tiếp cận sâu hơn và có quyền quan sát hoạt động khu xưởng nhiều hơn. Tô Mỹ nói:

-Nhà máy tái chế trông bình thường nhưng không hẳn vậy. Việc bảo trì diễn ra khá dày đặc, bất hợp lý. Đành rằng bảo dưỡng rất quan trọng nhưng nó không đúng quy trình vận hành. Những hôm bảo trì, tôi định vào xưởng nhưng người ta ngăn lại, nói rằng chỉ người có thẩm quyền mới được vào. Trong khi ở những nơi khác, tôi có thể thoải mái quan sát việc sửa chữa bảo dưỡng.

-Vậy mỗi lần như thế, nhà máy có xuất hàng không? – Hỏa Nghi nheo mắt.

-Có, họ vẫn xuất hàng. – Tô Mỹ trả lời – Phần lớn là nguyên liệu mới xử lý qua một nửa quy trình, khá thô. Tôi cảm giác trong lúc bảo dưỡng, nhà máy vẫn hoạt động. 

Hỏa Nghi gãi chiếc cằm lún phún râu. Gã biết việc tái chế hóa chất phức tạp hơn so với sản xuất, phải trải qua đầy đủ quy trình mới được phép xuất hàng bán. Nếu không đúng quy trình, sản phẩm dễ trở thành đồ nguy hiểm, nhẹ thì cháy nổ, nặng thì ảnh hưởng môi trường, chưa kể những loại hóa chất lẫn phép thuật mang sức công phá lớn. Nghĩ tới đó, Hỏa Nghi bỗng hiểu ra vấn đề. Gã hỏi dồn:

-Cô biết họ bán chúng đi đâu không? 

-Không, tôi không biết. – Tô Mỹ lắc đầu – Nó cũng không thuộc phạm vi mà tôi được phép tìm hiểu. 

-Vậy cô biết mấy hợp chất thô đó không? Cô phân tích được chứ?

Tô Mỹ cắn môi, hàm răng trắng nhỏ xinh hơi nghiến bờ môi son đỏ:

-Khó lắm! Tất cả đã qua xử lý, phải thí nghiệm mới biết chúng gồm những chất gì. Tôi là thực tập sinh, không thể tiếp cận mấy thứ đó. Nhưng để xem, nếu có cơ hội… tôi sẽ thử… có thể được. Nhưng tôi cần suy nghĩ…

Chưa đợi nàng tiểu thư nói hết, Hỏa Nghi đã rướn người hôn má cô gái. Tô Mỹ ngỡ ngàng vì không quen bày tỏ tình cảm ở chốn đông người. Nàng dáo dác nhìn quanh, đôi mắt trợn lên nhìn gã trai mà hai má hây hây hồng. Hỏa Nghi nhe răng cười:

-Cảm ơn cô! Cảm ơn cô rất nhiều! Tôi sẽ lấy một ít hóa chất và nhờ cô phân tích. Tôi sẽ trả ơn cô xứng đáng! Mọi việc ở khu xưởng nhờ cô cả! Xin lỗi, tôi… đi vệ sinh một chút!

Nói rồi gã chạy biến vào nhà vệ sinh, bỏ lại Tô Mỹ ngơ ngác nhìn theo. Nàng tiểu thư ngẩn người một lúc rồi ôm mặt cười khùng khục. Có Vạn Thế mới biết Tô Mỹ đang nghĩ gì, chỉ thấy nàng xoắn lọn tóc hạt dẻ, đôi mắt mơ màng ở khung cảnh sông Vành Đai Xanh bên ngoài cửa sổ.

Trong phòng vệ sinh, Hỏa Nghi vừa xả nỗi buồn vừa ngẫm nghĩ chuyện vừa rồi. Hẳn rằng có người trong ban quản lý nhà máy đang buôn bán trái phép những lô hàng hóa chất. Sự vụ phải nghiêm trọng tới mức nào đấy mới khiến đại thánh sứ Tây Minh dày công tìm hiểu. Xâu chuỗi các sự kiện, gã đoán rằng lô hàng có thể được đưa tới chợ đen, phân phối cho các công ty đánh thuê hoặc bọn pháp sư thích điều chế những vũ khí điên khùng. Trường hợp xấu nhất là chúng liên quan đến chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Mới nghĩ tới đây mà Hỏa Nghi thót bụng, cơn xả lũ ngắc ngứ giữa chừng. 

Đương giải quyết vấn đề thoát nước, Hỏa Nghi chợt nghe phòng vệ sinh bên cạnh có tiếng đập tay “bình bình”. Hỏa Nghi cười:

-Hết giấy hả? Bên tôi vẫn còn nè!

-Ồ, cảm ơn! – Người nọ trả lời với chất giọng mai mái – Nhưng bên này vẫn còn giấy. Ha! Tôi chỉ muốn nói chuyện với cậu thôi, Hỏa Nghi. Anh bạn vệ sĩ của cậu gắt quá, nên chúng ta đành nói chuyện ở nhà vệ sinh vậy. Nhân tiện… cô gái đi cùng cậu trông được đấy!

Hỏa Nghi thót bụng lần nữa, lần này đập thủy điện tịt hẳn. Gã ngoảnh sang bức tường trắng láng trơn đoạn hỏi:

-Ai đấy?

-Một người bạn của tóc đỏ. – Kẻ nọ đáp – Chắc cậu cũng biết tôi. Vì tôi từng đến đất Lạc Việt, tham gia chiến tranh Đầu Sói tại sa mạc Hồi Đằng. Nhân tiện, tôi cũng tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, chỉ là ở đó chúng ta không gặp nhau. Tôi vừa trở về từ Băng Hóa quốc, tìm cậu khó quá! 

Hỏa Nghi ngờ ngợ một lúc rồi thốt lên:

-Mai Hoa? Phải Mai Hoa không? Anh bạn biết về tóc đỏ? Hắn sao rồi?

Đáp lại gã chỉ có tiếng xả bồn cầu òng ọc. Hỏa Nghi sốt ruột đập tường:

-Này, nghe tôi hỏi không thế, anh bạn? Tóc đỏ sao rồi? 

-Nói sao nhỉ? Chà! – Mai Hoa thở dài – Về cơ bản thì anh bạn tóc đỏ của chúng ta đã chết.
 
Quyển 4 - Chương 9: Thịt tế thần


Mặt Hỏa Nghi cứng đờ rồi chảy thượt với đủ mọi sắc thái tựa bức tượng sáp bị hun nóng. Gã chống đầu gối, thở phù phù giữ tinh thần không vọt khỏi họng đoạn lặp lại:

-Anh nói gì nhỉ, Mai Hoa? Anh nói tóc đỏ đã chết? Là gã tóc đỏ nhăn nhở mà chúng ta đều biết? Hay là gã tóc đỏ nào đó mà chỉ anh biết mà tôi không biết? 

-Là gã tóc đỏ chúng ta đều biết, là Vô Phong. – Mai Hoa trả lời – Có điều anh chàng tóc đỏ của tôi không hay nhăn nhở như anh bạn tóc đỏ của cậu. Trước mặt tôi, cậu ta như bé trai mới lớn vậy, hi hi!

Không thể đứng mãi trong nhà vệ sinh mà trò chuyện, Hỏa Nghi nhào ra trong vồn vã. Trái ngược gã, Mai Hoa bước tới bồn rửa tay, sì soạp xà phòng chán chê rồi chải chuốt đầu tóc, đủng đỉnh như không. Từ lần gặp gỡ ở đất Lạc Việt tới nay đã hơn một năm, Hỏa Nghi thấy Mai Hoa ít thay đổi. Vẫn dáng người mảnh dẻ cùng cặp kính cú vọ trứ danh, vẫn chất giọng oanh vàng mai mái với mặt mũi trắng trẻo như con gái, chỉ duy mái tóc dài đã cắt ngắn. Hỏa Nghi chống tay nhìn tên cú vọ, chẳng nói chẳng rằng nhưng ánh mắt nóng vội thấy rõ. Không để gã chờ lâu, Mai Hoa tiếp tục:

-Hiện giờ tôi đã mất dấu Vô Phong. Cuối tháng 3, nghe nói cậu ta gặp một nhóm sát thủ từ lục địa Đông Thổ. Kết quả ra sao thì tôi không rõ. Nhưng giả dụ Vô Phong sống sót, cậu ta cũng không thể sống sót quá ba tháng. Đầu cậu ta bị treo giải trong giới sát thủ và săn tiền thưởng. Giá cao đấy!

Nói rồi tên cú vọ bật máy chiếu ba chiều đeo tay, giữa không trung xuất hiện ảnh chân dung Vô Phong cùng giải thưởng bốn mươi(40) thùng kim cương. Hỏa Nghi choáng váng vì mức giá quá cao, ngang ngửa vài thành viên trong Thập Kiếm. Nhưng mọi sự đều có nguyên cớ, Mai Hoa giải thích:

-Nhiều bên treo giải và nhiều tổ chức tham gia nên giá bị độn lên. Tôi không nắm được tất cả nhưng khá chắc chắn vài kẻ treo giải. Nguồn tin mật, độ tin cậy lớn. Đáng lẽ tôi bán tin này cho cậu với giá hời, nhưng vì anh bạn tóc đỏ đáng yêu, tôi sẽ cho không. 

Hỏa Nghi nhướn mắt nghi ngờ:

-Anh bạn… làm ăn với sát thủ?

-Tôi là kẻ mua bán tin nên làm việc với mọi loại người, kể cả bọn sát thủ. Cậu muốn sống theo thành kiến hay muốn nghe tin tức?!

-Ừm, thực tình… – Hỏa Nghi nhún vai – …tôi là thằng thiếu đạo đức.

Mai Hoa cười rộ đoạn bảo Hỏa Nghi tìm nơi khác nói chuyện vì phòng vệ sinh đông người qua lại. Họ vòng cửa sau rồi ra ngoài ban công. Hỏa Nghi giục giã tên cú vọ khẩn trương. Mai Hoa cũng không dông dài thêm mà vào thẳng vấn đề, vừa nói vừa xoay đầu nhìn quanh như con cú cảnh giác nguy hiểm:

-Nguồn tin nói có hai bên treo thưởng đầu Vô Phong. Thứ nhất là Phi Thiên quốc, cái này chắc cậu rõ rồi. Phi Thiên không thể vươn tới mọi ngóc ngách ở Băng Thổ, đó không phải sân nhà của họ. Thứ hai là một dòng họ bên Diệp quốc, họ rất có thế lực, cũng ngang ngửa họ Hỏa của cậu. Tôi không có nhiều thông tin về dòng họ này, người Diệp quốc nói chung kín tiếng. 

Tên cú vọ bật máy chiếu, giữa không trung xuất hiện vài hình ảnh cùng thông tin đính kèm. Hỏa Nghi nheo mắt đọc, nhận ra nó viết về một dòng họ tại Diệp quốc tên Ẩn Lý, biểu tượng gia huy là trăng lưỡi liềm xanh ẩn sau mây trắng. Tại Diệp quốc, các dòng họ lớn được hoàng đế ban chữ “Thị”. Nên dòng họ Ẩn Lý có tên đầy đủ là Ẩn Lý Thị. Họ sở hữu bề dày lịch sử đáng nể, khai sinh từ những năm đầu thời đại phi cơ giới, từng kiểm soát một vùng đất Đông Thổ rộng lớn và xưng bá chủ. Thời đại đổi thay, Ẩn Lý Thị chung tay xây dựng Diệp quốc rồi lui về những chốn hẻo lánh, ít can thiệp chính trường. Nhưng suốt tám trăm năm kỷ nguyên hiện đại, vị thế của họ chưa một lần suy suyển. 

-Dòng họ này sản sinh những cô gái gọi là “vũ nữ thần linh”. – Mai Hoa diễn giải – Các vũ nữ chuyên nhảy múa trong điện thờ để làm an lòng các đấng tối cao theo tín ngưỡng của người Diệp quốc.

-Đại khái như múa thoát y hả? – Hỏa Nghi gãi cằm.

-Không phải, nhưng so sánh hay đấy! – Tên cú vọ nháy mắt – Nói chung Ẩn Lý Thị rất được kính trọng ở Diệp quốc, thậm chí được tôn thờ. Dòng họ rất kín đáo, ít điều tiếng. Nhưng đầu năm nay họ vừa tổ chức tang lễ. Vấn đề là không có thông cáo hay buổi lễ chính thức nào từ Ẩn Lý Thị, chỉ thấy thành viên dòng họ mặc áo đen để tang. Nó vừa khớp thời điểm Vô Phong bị treo thưởng. Có lẽ nào…

Mai Hoa bỏ lừng câu nói. Hỏa Nghi kêu lên:

-Vậy thế quái nào tóc đỏ sinh sự với đám này? Hắn ta… – Hỏa Nghi hạ giọng vì nói hơi to – Hay hắn ta gây chuyện khi chạy trốn? Không thể, quá vô lý! Hay từ năm trước? Không thể! Hắn chưa đến Diệp quốc bao giờ!

Mai Hoa nâng gọng kính, cười tươi:

-Cậu chắc tóc đỏ tốt đẹp chứ? Cậu đã hỏi hắn ta làm gì trước khi trở thành hộ vệ thánh sứ chưa? Ai cũng có quá khứ, đúng không?

Nghe thế, Hỏa Nghi chột dạ. Gã biết ông bạn tóc đỏ xuất thân trộm cắp nhưng mù tịt về tên hung thần tóc đỏ của đội Thổ Thành tiền nhiệm. Khi ấy Vô Phong làm chó săn giết người cho Phi Thiên quốc, hoàn toàn dư khả năng gây thù chuốc oán với bất cứ ai, thậm chí dòng họ lớn như Ẩn Lý Thị. 

-Vậy ông bạn tới đây chỉ để thông báo hay còn gì khác nữa? – Hỏa Nghi hỏi – Và làm sao tôi tin ông bạn đây?

-Vì cậu chẳng còn ai đáng tin nữa, hi hi! – Mai Hoa cười – Hiện nay chỉ còn tôi đủ khả năng cung cấp thông tin về anh bạn tóc đỏ cho cậu. Đấy là trường hợp tóc đỏ còn sống, tôi chưa khẳng định nhé, đừng quá trông chờ! Nhưng xin nói thẳng là tôi cần cậu giúp đỡ. 

-Giúp đỡ thế nào?

Mai Hoa chìa bao thuốc. Hỏa Nghi vơ đại một điếu, châm lửa hút phèo phèo những làn khói sốt ruột. Tay cú vọ trả lời:

-Tôi cần cậu thể hiện tốt ở phiên điều trần. Hãy chứng tỏ mình là thủ lĩnh xứng đáng của họ Hỏa. Đừng ngạc nhiên vậy! Có lý do cả. Hãy cứ biết rằng phải thắng phiên điều trần, cậu mới đủ khả năng hỗ trợ Vô Phong. Cậu thắng, tôi sẽ tự động liên lạc. Cậu thua thì coi như đây là lần gặp gỡ cuối cùng. Nói chuyện lâu quá rồi! Đừng để nàng tiểu thư của mình chờ đợi!

Tay cú vọ hất hàm nhằm tới tiểu thư Tô Mỹ ngồi bên trong. Nàng đang ngó tới ngó lui, bàn tay chực chờ bấm điện thoại. Hỏa Nghi chẳng lấy đó làm phiền và kể cả tiểu thư dỗi thì gã cũng mặc, lúc này không gì quan trọng hơn tin tức của người bạn. Nhưng gã vừa quay lại thì chẳng thấy Mai Hoa, cứ như thể tên cú vọ vừa bốc hơi. Hỏa Nghi gãi đầu, mái tóc tiêu tốn cả đống sáp dưỡng mượt sắp sửa rối bù. Gã không chắc có thể giữ kín chuyện này bao lâu với công chúa và Tiểu Hồ. 



Rầy rà ra rả trên truyền hình báo chí cả tháng, rốt cục cũng tới phiên điều trần của họ Hỏa. Ngày 19 tháng 4, từ tinh mơ, cánh truyền thông đã tập trung trước cổng quốc hội ở quận Trăng Khuyết, phóng viên đông nghịt từ trong lẫn ngoài nước. Nẻo đường chính dẫn đến tòa quốc hội chật kín đoàn người biểu tình; bằng hàng trăm máy chiếu đeo tay, họ tạo ra vô số biểu ngữ lơ lửng giữa không trung, hầu hết là chỉ trích phỉ báng họ Hỏa. Đâu đấy có cả phim hoạt họa diễn tả cảnh Hỏa Nghi bị nhét tiền đầy mồm, tay ký thỏa thuận sử dụng Thần Sấm dù bản thân gã trưởng tộc trẻ tuổi chẳng hề liên đới. 

Bên quốc hội đông bao nhiêu, phía Đảo Sắt Thép đông bấy nhiêu. Không thể vào trong, đám phóng viên liên tục quấy rầy bảo vệ hoặc phục sẵn ở trạm tàu điện. Họ mang tới nhiều máy quay tự hành và để chúng bay là là trước cổng bán đảo, lâu nhâu như bầy ruồi mong bậu được hình ảnh của ông trưởng tộc trẻ tuổi. Những du khách được thể chứng kiến đời sống chính trị ầm ĩ của Phi Thiên quốc, ai nấy đã chuẩn bị sẵn những chuyện kể khôi hài khi quay về nước. “Phi Thiên quốc ấy à? Đẹp đấy, nhưng dân ở đây như bị tăng động!” – Họ sẽ kể như thế. 

Nhưng nhân vật chính trong ngày 19 tháng 4 không ở Đảo Sắt Thép cũng chưa đặt chân tới quốc hội. Lúc này gã đang uần oài ngáy pho pho trong chăn đệm. Sau một ngày tranh cãi họp hành, Hỏa Nghi bước vào giấc ngủ với mong ước ngày mai sẽ xảy ra thiên tai địch họa để khi tỉnh giấc, gã có thể ngoác mồm cười hô hố khi chứng kiến thủ đô hoặc cả thế giới tan hoang bình địa. Nhưng thế lực tối cao không đáp ứng nguyện vọng của gã, ngược lại còn gửi đến một ông anh trai khó tính. Đồng hồ điểm bảy rưỡi sáng, ông anh gọi Hỏa Nghi bằng hai cái tát đau điếng:

-Dậy! Nhanh lên! Không có thì giờ đâu!

Ăn tát rát mặt, Hỏa Nghi uể oải dậy, lổm bổm dăm câu chửi thề rồi nhìn căn phòng kín bưng không có cửa sổ. Nơi này là tầng hầm nhà khách chính phủ, cách tòa quốc hội một con phố. Họ Hỏa xây dựng nhà khách và tay vệ sĩ Tru Đồ tận dụng triệt để đặc quyền của dòng họ. Tầng hầm an toàn, đầy đủ chẳng thiếu thứ gì. Tại phòng ngủ của Hỏa Nghi, chỉ một cái vỗ tay là cả căn phòng biến thành thế giới ảo ảnh hoặc khung cảnh ngoài trời; đồ ăn thức uống ngập răng, phục vụ tận họng. Tiện nghi là thế nhưng Hỏa Nghi chưa vừa lòng vì thiếu hơi người chị. Hỏa Dương cấm gã lằng nhằng chuyện trai gái trước ngày điều trần. 

Chuẩn bị xong xuôi, Hỏa Nghi theo chân Tru Đồ, tiếp sau là Hỏa Dương cùng một toán bốn năm vệ sĩ. Họ rời khỏi tầng hầm, theo cầu thang lên sảnh chính tòa nhà và gặp ban cố vấn đang chờ sẵn. Đội ngũ cố vấn ai nấy tay xách nách mang hồ sơ giấy tờ, trừ Hỏa Chính. Lão mặt nhọn không thích sự bận rộn làm hỏng phong thái kịch nghệ của mình. Tuy ngứa mắt nhưng Hỏa Nghi vẫn thăm hỏi ông chú đàng hoàng, ngược lại Hỏa Chính cũng chào trả đứa cháu. Hoặc đoàn kết hoặc chết hết, người họ Hỏa đã sớm thống nhất quan điểm. 

Tru Đồ dẫn cả đám đi cửa bên phải, men theo một lối kín đáo rời khuôn viên nhà khách chính phủ. Đoàn họ Hỏa nhanh chóng băng qua con phố lát đá đỏ ngăn cách nhà khách chính phủ với quốc hội, cảnh binh đã dựng rào chắn ở hai đầu phố ngăn đoàn biểu tình. Đứng từ chỗ này, Hỏa Nghi có thể thấy tòa kiến trúc cao hơn mọi vật thể khác trong bán kính một cây số. Nó khoác một màu trắng ngà, gồm hai cổng lớn phía nam – bắc, có ba đỉnh tháp mái vòm cắm quốc kỳ Phi Thiên, bốn mặt đầy những cửa sổ hình chữ nhật phân bổ khắp năm tầng, bao quanh bởi sáu trảng cỏ và tọa lạc tại giao điểm của bảy trục đường lớn. Hỏa Nghi bất giác nhận ra mình chưa từng bước vào tòa quốc hội. 

Đoàn người họ Hỏa nhanh chóng di chuyển. Xa xa, vài người phát hiện ra Hỏa Nghi liền hô hoán, phóng viên đổ tới chụp ảnh nhưng chỉ chộp được bóng lưng đoàn người biến mất sau cánh cửa đồng đóng kín. Chưa bao giờ Hỏa Nghi sợ ra đường như thế, cảm giác chỉ cần lăng quăng lỡ trớn là bị đám đông bâu lại xé xác. 

-Họ sao vậy? Chỉ là điều trần thôi mà?! – Hỏa Nghi gãi mông xành xạch rồi dụi mắt – Sao phải biểu tình hò hét dữ thế?

Hỏa Chính lập tức thể hiện sự thông tuệ:

-Người biểu tình do Phái Miền Đông kích động. Đám cánh tả đó luôn coi họ Hỏa là thủ phạm gây ô nhiễm rồi thì lạm dụng quyền lực, bởi họ không moi được đồng nào của chúng ta. Các dòng họ lớn cũng nhân thể mượn gió bẻ măng vì cơ hội hạ bệ nhau không nhiều, hễ có thì tận dụng triệt để. Tập đoàn, công ty… tất cả đều góp phần. Kẻ thù đông đấy, cháu trai.

-Chúng ta còn đồng minh chứ? – Hỏa Nghi hỏi. 

-Tất nhiên là có. Nhưng họ Hỏa còn đồng minh hay không thì tùy thuộc cháu. – Hỏa Chính hơi nhún vai – Hôm nay chúng ta gặp ủy ban kiểm tra và kết thúc mọi chuyện cùng ban kiểm tra, đừng để họ chuyển hồ sơ sang tòa án. Mà cháu bị sao thế? Mắt mũi bình thường chứ?

Hỏa Nghi dụi mắt làm mắt phải hơi tấy đỏ. Gã đáp:

-Chỉ hơi mệt thôi, thưa chú. Hoàng đế đến chứ? Ông ấy sẽ giúp chúng ta? 

-Đừng quá trông đợi hoàng đế, nhưng cũng đừng mất hy vọng. – Hỏa Chính lắc đầu cười mỉm – Nếu cần, ông ấy sẽ giúp. 

Nghe thế, Hỏa Nghi đoán lão mặt nhọn cũng biết chuyện Đệ Thập sắp chết. Gã chỉ giả ngu để thăm dò ông chú. Ngày càng nhiều người biết bí mật này và chẳng lý do gì mà công chúa Lục Châu không biết. Hôm nay công chúa cũng đến phiên điều trần theo lời thỉnh cầu của Hỏa Nghi. 

Đoàn người họ Hỏa tiến sâu vào tòa quốc hội. Cả nhóm trên dưới hai chục người song hầu như lọt thỏm giữa không gian rộng lớn của tòa kiến trúc tạo dựng từ những cột trụ khảm bạc, cầu thang nạm vàng, tường trắng tinh khôi và mặt sàn bóng loáng như phủ một lớp băng mỏng. Họ băng qua vài sảnh lớn đặt các bức tượng cẩm thạch nguyên khối, hầu hết tượng tạc danh nhân người Phi Thiên, số khác là thần linh như Nữ Thần Tiên Tri hoặc nhân vật truyền thuyết. Tại một khu sảnh, Hỏa Nghi thấy đám công nhân đang xây một bệ mới để đặt tượng đại thánh sứ Tây Minh. Họa tiết đôi cánh xuất hiện khắp nơi: từ chạm khắc quanh cửa ra vào, rủ cùng nền cờ trắng treo trên mỗi cột trụ hoặc đơn giản là mấy đồ trang trí. Lần đầu vào đây, Hỏa Nghi liên tục nhìn ngang ngó dọc, trong thoáng chốc tưởng mình đang đi du lịch thay vì dự phiên điều trần. 

Nối những khu sảnh vào hệ thống văn phòng là các hành lang dài, rộng, hai bên tường đặt tranh chân dung những thành viên quốc hội có cống hiến lớn. Tuy đang khẩn trương nhưng Hỏa Nghi vẫn kịp ngắm liếc. Mọi bức chân dung đều vẽ tay, cổ điển, cầu kỳ, chăm chút từng nét như sự hân thưởng lẫn trân trọng tuyệt đối – làm chính trị gia ở Phi Thiên quốc chỉ mong một lần như thế. Hỏa Nghi nhác thấy dăm mười thành viên họ Hỏa cũng ghi dấu tại nơi này. 

Hết đường hành lang rồi khu văn phòng, đoàn người họ Hỏa dừng chân trước cánh cửa lớn láng trơn màu nâu đỏ, trước có tấm biển đề chữ Đại Sảnh. Suốt năm thế kỷ, mọi quyết sách lớn nhỏ từ an sinh xã hội đến chiến tranh của Phi Thiên quốc đều nằm trong căn phòng đó. Hỏa Nghi đã thấy căn phòng qua truyền hình và tranh ảnh, giờ giáp mặt nó, gã bỗng bồn chồn chẳng yên. Nhưng gã cũng chẳng dại tìm khí thở bên ngoài cửa sổ để nghe hàng trăm người biểu tình tổng sỉ vả mình. Chờ đợi, chờ đợi, ngoáy mũi, chờ đợi, gãi mông, chờ đợi, dụi mắt, gãi mông tiếp… cơ thể Hỏa Nghi không chịu ở yên. Gã bèn quay sang thì thầm với anh trai:

-Mẹ biết vụ này không? 

-Có, mẹ gọi điện hỏi thăm cậu. – Hỏa Dương trả lời – Mẹ nhắc cậu không được uống rượu. 

Hỏa Nghi mím môi cười, gật gù vẻ hài lòng, lại hỏi tiếp:

-Ông già thế nào? Vẫn bẹp dí à?

-Tiến triển tốt hơn. Đến giờ rồi, vào thôi!

Hỏa Dương hất hàm về phía Đại Sảnh. Cánh cửa nâu đỏ bật mở phả ra một làn hơi lạnh. Trước mắt đoàn người họ Hỏa, Đại Sảnh hiện lên với những dãy bàn ghế xếp thứ tự từ cao xuống thấp, trải khắp chiều dài căn phòng và chừa nhiều lối đi trải thảm đỏ. Vì rất rộng nên căn phòng có chín cửa ra vào, bọn Hỏa Nghi vừa đi qua cửa chính. Đại Sảnh không có đèn hay đúng hơn là không cần đèn, bởi tấm trần của nó được dát một đôi cánh pha lê khổng lồ ẩn chứa phép thuật. Bốn tháng một lần nạp năng lượng phép thuật, đôi cánh pha lê tự phát sáng suốt ngày đêm. Nó là sản phẩm từ hàng trăm năm trước, thuở triều đại Thần Đế bắt đầu suy tàn với những ông hoàng thích tiêu phá tiền của. Chiếc ngai vàng thủy tinh của họ Bạch Dương chính là dựa theo ý tưởng đôi cánh pha lê tại Đại Sảnh này. 

Theo lối đi trải thảm đỏ, đoàn họ Hỏa đến trung tâm căn phòng. Ở đây đặt một bục đá nhỏ dành cho người phát biểu hoặc kẻ bị chất vấn, tùy hoàn cảnh. Trên cái bục, một vài người đạt tột đỉnh vinh quang mà cũng ở cái bục đó, hàng trăm kẻ phải rũ bỏ vũ đài chính trị. Hỏa Nghi chợt hiểu tại sao ngài Đệ Thập già nhanh, bởi vì bản thân gã lúc này đang ướt đầm đìa lưng áo. Đoàn người họ Hỏa yên vị ở hai dãy bàn cạnh bục đá. Hồ sơ mở loạt soạt, giấy tờ đua nhau gửi đến trước mặt Hỏa Nghi. Họ Hỏa có hai mươi phút chuẩn bị. 

Trong hai mươi phút đó, từng tốp người thay phiên nhau tiến vào Đại Sảnh. Họ bao gồm lãnh đạo bốn đảng phái lớn nhất, các pháp chính – thành viên Pháp Chính Viện mà địa vị chỉ kém pháp quan của Hội Đồng Pháp Quan, rồi đại diện quân đội, công tố viên, ban hội đồng tòa án tối cao. Hỏa Nghi ngoảnh lại tìm kiếm người quen, ngay lập tức bắt gặp ông thuyền trưởng Nhất Long với bộ râu bàn chải trứ danh. Hồi ở Thần Sấm, gã thường nịnh nọt biếu xén ông thuyền trưởng vài chai bia để xin mở rộng không gian chế vũ khí. Nay mấy chai bia đã phát huy tác dụng. 

Hỏa Nghi cũng thở phào khi thấy công chúa Lục Châu. Nhận ra Hỏa Nghi đang tìm mình, công chúa giơ tay chào trả. Trông công chúa xọm đi cùng đôi mắt thâm quầng ngấn đỏ, Hỏa Nghi đoan chắc nàng đã biết sự thật về hoàng đế. Nhưng Lục Châu mới biết một nửa sự thật. Nửa sự thật còn lại đang bước tới ngồi cạnh nàng, vỗ về bằng những lời thầm thì an ủi của người anh trai. Lục Thiên cũng tới. Vị hoàng tử giơ tay với Hỏa Nghi, miệng nói khẩu hình:

“Chào cậu!”

Gã trưởng tộc họ Hỏa cười tươi, cũng đáp lại bằng nói khẩu hình:

“Chào ngài…”

Sau đấy gã quay mặt đi để Lục Thiên không thấy “Thằng chó đẻ!” trên môi mình. Hỏa Nghi tiếp tục nhìn quanh rồi phát hiện quốc hội vắng vẻ hơn nhiều. Mọi khi căn phòng đầy ắp chứa cả trăm người, nay nhõn ra chưa nổi bốn chục. Báo chí bị cấm vào Đại Sảnh vì buổi điều trần liên quan tới vũ khí chiến lược, Phi Thiên cần bảo mật thông tin tối đa. Một số người như Tru Đồ phải ra ngoài ngay khi hoàn tất nhiệm vụ dẫn đường. Hội Đồng Pháp Quan vắng mặt – họ vẫn luôn như thế hàng trăm năm nay nhằm giữ gìn thân phận, nhưng Hỏa Nghi đoán họ đang theo dõi phiên điều trần bằng những máy quay bí mật gắn trong Đại Sảnh.

Những người xuất hiện cuối cùng là mười tám thành viên ủy ban kiểm tra. Họ ngồi trên dãy bàn đối diện bục đá, không quá cao như quan tòa nhưng không quá thấp kiểu đồng cấp. Chủ tọa phiên điều trần là một phụ nữ đứng tuổi, tóc ngắn làm xoăn, môi son đỏ lì, sống mũi cao hơi gãy, đôi mắt hằn dấu tuổi trung niên hay nhăn nhó, gò má cao lợt lạt trên gương mặt khăn khăn khó khó của một bà cô đang giai đoạn tiền mãn kinh. Theo tấm bảng nhỏ đặt ở phía trước, người phụ nữ tên Manh Kỳ. Còn theo tài liệu trên tay Hỏa Nghi thì bà ta đứng đầu cơ quan giám sát chính phủ, chỉ cần một chữ ký hợp lệ là có thể thọc cái mũi gãy của mình vào bất cứ đâu. Bà ta không thuộc đảng phái nào, được ca ngợi là người phụ nữ quyền lực nhất và công tâm nhất quốc hội. 

Thấy mọi thứ đã ổn định, bà chủ tọa Manh Kỳ ra hiệu bắt đầu. Chín cửa ra vào Đại Sảnh đóng lại dộng lên một âm nặng mà vang. Manh Kỳ cất lời, ánh mắt nhăn nhó thi thoảng nhìn tập hồ sơ bên dưới đôi tay xếp bằng:

-Cảm ơn các vị đã có mặt. Hôm nay ngày 19 tháng 4, tôi có mặt ở đây để điều hành phiên điều trần. Nội dung là giải trình việc sử dụng phi thuyền Thần Sấm trước thời hạn, bên giải trình là Hỏa Nghi – trưởng tộc họ Hỏa. Trước khi bắt đầu, tôi xin nhắc lại: mọi thông tin diễn ra trong căn phòng phải ở lại căn phòng này, chỉ có ủy ban kiểm tra mới được quyền công khai tin tức. Ai còn thắc mắc, xin phát biểu. Không có?! Ông Hỏa Nghi, ông đã sẵn sàng? Tốt, vậy chúng ta bắt đầu. Xin phép hỏi ông Hỏa Nghi, có phải họ Hỏa đã cho phép hoàng đế sử dụng phi thuyền Thần Sấm trước thời hạn? 

Hỏa Nghi vạy vọ bàn tay rồi trả lời:

-Đúng vậy. Thần Sấm còn một đợt kiểm tra cuối cùng vào năm 7517, nhưng chúng tôi đã cho phép hoàng đế sử dụng sớm hơn một năm. 

-Người ký văn bản là Hỏa Viên, cha của ông? Bản thân ông khi đó biết chuyện chứ? 

-Đúng vậy, cha tôi ký văn bản. Bản thân tôi cũng biết.

Kỳ thực Hỏa Nghi không hề lưu tâm vấn đề này. Nhưng là một người lãnh đạo, một kẻ dẫn dắt, gã không có quyền lùi bước hay thoái thác. Manh Kỳ tiếp tục:

-Ông có thể giải thích tại sao không? Chúng tôi không hỏi lý do chính trị hay nguyên nhân “nhạy cảm”, chúng sẽ được dành cho phiên điều trần với ngài hoàng đế. Hiện giờ chúng tôi cần họ Hỏa giải thích về mặt kỹ thuật. Thông thường, mọi vũ khí hạng nặng phải vượt qua tất cả bài kiểm tra, vận hành thử nghiệm rồi kiểm tra lần cuối mới đưa vào hoạt động. Theo như tôi biết, Thần Sấm còn chưa chạy thử nghiệm, tại sao các ông đã sử dụng nó? 

Hỏa Nghi nhếch mép. Chiêu bài đem công chúa làm khiên đỡ đòn của gã hoàn toàn phá sản. Nhưng gã không rối, chỉ đáp, miệng bắn nhanh như máy:

-Cái bà nói ở đây là chạy thử nghiệm thực địa, nhưng trên thực tế là Thần Sấm đã chạy thử nghiệm trên chương trình mô phỏng. Chương trình mô phỏng của họ Hỏa có độ chính xác gần tuyệt đối, tiết kiệm chi phí thử nghiệm thực địa và được áp dụng rộng rãi. Tại Quân Doanh Bờ Tây, chúng tôi đã giả định đặt Thần Sấm vào những điều kiện khắc nghiệt nhất như bị tấn công, bị thiên tai hoặc rơi vào tình huống mất lái. Ba lần như thế, Thần Sấm đều vượt qua. Biên bản chạy thử nghiệm mô phỏng, bà có thể xem tại đây.

Nói rồi gã mở máy tính chuyển dữ liệu cho Manh Kỳ. Bà chủ tọa hỏi:

-Vậy ý ông muốn nói Thần Sấm không cần thử nghiệm thực địa và kiểm tra lần cuối?

-Về thử nghiệm thực địa thì đúng là vậy. Chương trình mô phỏng đặt Thần Sấm vào nhiều tình huống không tưởng thậm chí không có thật như xảy ra thảm họa phép thuật toàn thế giới hoặc hứng chịu thiên tai liên tiếp. Nói đúng hơn, nếu muốn tiết kiệm chi phí, chúng tôi đã đem Thần Sấm ra thực địa, bởi chương trình mô phòng dành cho nó tốn kém gấp nhiều lần! Chúng tôi làm vậy để giữ bí mật cho Thần Sấm. Còn về đợt kiểm tra cuối, nếu bà không muốn nghe lời giải thích có dính dáng chính trị thì tôi cũng không biết nói thế nào. Bởi lẽ tình huống rất khẩn cấp, hoàng đế cần họ Hỏa giúp đỡ. Lý do này chính đáng, hợp lý và vì lợi ích cho toàn bộ Phi Thiên quốc. Bản hiến pháp của Phi Thiên chúng ta cũng nói rõ về trường hợp này, tôi không muốn nhắc lại. 

Manh Kỳ nhướn mắt săm soi tập tin mà Hỏa Nghi vừa gửi. Bà chủ tọa ngừng lời, một thành viên ủy ban lên tiếng:

-Ghi chép cho biết Thần Sấm tiêu tốn năng lượng nhiều hơn dự định và vẫn trong quá trình cải thiện. Trung bình một tháng, nó tiêu tốn bảy cục quang tố, quá nhiều. Ông giải thích thế nào khi đem một sản phẩm tiêu tốn ngân sách như thế trước thời hạn?

Vẫn phong cách bắn súng máy, Hỏa Nghi trả lời:

-Đó là mức tiêu tốn dự kiến trong điều kiện hoạt động một trăm phần trăm công suất. Quả thực chúng tôi đang cải thiện mức tiêu tốn nhiên liệu. Nhưng xét tình huống hoạt động, mà cụ thể ở đây là nhiệm vụ bảo vệ và di chuyển, chúng tôi xác định mức độ tiêu tốn thấp hơn. Chúng tôi cũng đánh giá rằng không thể phát sinh tình huống phi thuyền vận hành toàn bộ công suất, trừ phi bước vào chiến tranh tổng lực. Thực tế là suốt thời gian làm việc, Thần Sấm chỉ hoạt động ở mức tối thiểu, mỗi tháng tiêu tốn bốn cục quang tố, chúng tôi có bản ghi chép từ phi hành đoàn. 

Nói tới đâu, Hỏa Nghi chuyển dữ liệu tới đó. Một thành viên khác chất vấn:

-Vấn đề là Thần Sấm chưa thử nghiệm sức chiến đấu. Tôi dám chắc không gian Quân Doanh Bờ Tây không đủ chỗ…

-Đúng là chúng tôi chưa thử nghiệm vũ khí nhưng đã kiểm tra hệ thống phòng thủ. – Hỏa Nghi cướp lời – Thực tế mà nói, Thần Sấm là pháo đài phòng thủ không trung, là trạm chuyển tiếp cho các hạm đội. Nó mang tính chất phòng thủ chiến lược nhiều hơn là tấn công. Và hệ thống phòng thủ của nó mới là vũ khí tấn công mạnh nhất. Chúng bao gồm lá chắn phép thuật, lá chắn điện từ, các hạm đội nhỏ bảo vệ, hệ thống liên lạc, hệ thống duy trì phòng trường hợp khẩn cấp… chúng tôi đã thử nghiệm tất cả. Độ ổn định là tuyệt đối!

-Nhưng thực tế là chi phí bảo dưỡng vượt ngưỡng cho phép. – Một người khác nói – Chúng tôi tính rằng Thần Sấm đã tiêu tốn hơn hai triệu thay vì một triệu thùng vàng như dự kiến. Gần như gấp đôi, ông giải thích thế nào? 

-Điều này nằm ngoài dự tính của chúng tôi và cả Phi Thiên quốc. – Hỏa Nghi đáp – Thần Sấm có một lớp áo đặc biệt giúp nó vô hình trên không trung và không phát sóng điện từ. Vấn đề là ở các nước sở tại nơi Thần Sấm đặt chân đến, họ bất ngờ yêu cầu Thần Sấm vô hình toàn thời gian mặc dù phi hành đoàn đã ở nơi kín đáo nhất. Mặc dù không tiêu tốn quang tố nhưng lớp áo vô hình này hao tổn nguyên liệu. Xin các ngài xem sơ đồ này để hiểu tại sao lớp áo hao tổn chi phí như thế… 

Hỏa Nghi mở sơ đồ ảnh ảo, phân tích cấu tạo từng lớp áo tàng hình của Thần Sấm. Thông số kỹ thuật đầy rẫy, độ phức tạp có thừa nhưng Hỏa Nghi vẫn thao thao bất tuyệt khiến đám mù công nghệ vừa há hốc mồm vừa ong cả đầu. Thành viên ban cố vấn chẳng làm gì nhiều ngoài việc giúp gã chuyển đổi hình ảnh. Đa số nghĩ Hỏa Nghi thông minh nhớ nhanh, riêng Hỏa Chính thì không. Lão mặt nhọn tin rằng đứa cháu đã dùng thủ thuật gì đấy. Lão không phủ nhận Hỏa Nghi thông minh vượt trội, nhưng ngốn hàng tấn thông tin trong ba tuần thực quá sức tưởng tượng. Chưa kể những câu hỏi từ ủy ban mang tính chất kỹ thuật rất nặng, người trực tiếp chỉ đạo xây dựng Thần Sấm chưa chắc trả lời nổi. 

Và rồi lão chợt để ý Hỏa Nghi thi thoảng dụi mắt, bàn tay chắp sau lưng chốc chốc vặn vẹo. Hỏa Chính vỡ lẽ ra đứa cháu trai gian lận. Không tự dưng Hỏa Nghi vặn vẹo tay, bởi lẽ gã đang thực hiện các câu lệnh trong Jeh-7400. Cũng không tự dưng gã dụi mắt suốt vì trước lúc tới đây, gã đeo một lớp màng sinh học giúp che đi những đường vân sáng xuất hiện ở tròng mắt khi dùng cơ sở dữ liệu. Hỏa Chính tin rằng trong căn phòng còn một “người” nữa nhưng chỉ Hỏa Nghi trông thấy là Ly Ly – chủ thể chương trình Jeh-7400. Nhờ trí tuệ nhân tạo xử lý thông số kỹ thuật, Hỏa Nghi dư sức tìm được luận điểm để đối đáp ủy ban kiểm tra. “Khá lắm! Tao chịu mày rồi, cháu trai!” – Hỏa Chính cúi mặt cười khen thằng lỏi con láu cá. 

Phiên điều trần kéo dài suốt ba tiếng. Nhờ trò gian lận, Hỏa Nghi áp đảo toàn bộ ủy ban dù họ mang đến nhiều chuyên gia tầm cỡ. Phiền nỗi con người không thể thắng nổi trí tuệ nhân tạo Ly Ly; trong thế giới số liệu, cô ta là đấng toàn năng. Còn trong lĩnh vực bới lông tìm vết cộng thêm gân cổ lý luận, Hỏa Nghi là chúa trùm. Cuối cùng bà chủ tọa Manh Kỳ kết thúc phiên điều trần trong im lặng. Phải đợi phiên điều trần với hoàng đế kết thúc, ủy ban mới đưa ra phán quyết cụ thể. Nhưng lợi thế rõ ràng đã chuyển về họ Hỏa. Thất vọng hơn cả là đại diện Phái Miền Đông, họ tốn công tổ chức biểu tình mà chẳng được gì. 

Rời Đại Sảnh với thắng lợi, đoàn người họ Hỏa đường hoàng bước ra cửa chính quốc hội. Đám phóng viên được thể vây kín, chĩa ra những máy thu thanh đeo tay. Hàng trăm câu hỏi, Hỏa Nghi lựa ra vài câu đoạn trả lời bằng bộ mặt tự đắc. Gã kỳ thực muốn bắc cái ghế cao thật cao, tay vác loa cười hô hố vào mặt đám đông đang biểu tình. Giữa lúc ấy, vài người xô đẩy khiến một phóng viên ngã dúi vào Hỏa Nghi. Tay vệ sĩ Tru Đồ lập tức nhào ra lôi cổ tay này trở dậy, mặt mũi sừng sộ:

-Làm gì đấy hả? Hả?

Anh chàng phóng viên giơ tay với thần sắc hoảng hốt, sau đó lùi vào đám đông. Hỏa Nghi thấy lạ, hốt nhiên nhận ra áo khoác của mình hơi cộm. Gã kiễng chân nhìn đám đông song chẳng thấy anh chàng phóng viên nọ đâu nữa. Mất hơn năm phút thoát khỏi đám đông trước cửa quốc hội, Hỏa Nghi tìm chỗ vắng và phát hiện túi áo có mảnh giấy ghi dòng chữ:

Tầng lửng, nhà khách chính phủ



Đọc xong dòng chữ, Hỏa Nghi vo viên mảnh giấy đút túi áo. Thay vì cùng mọi người về Đảo Sắt Thép, gã đến nhà khách chính phủ cùng Tru Đồ. Nếu gã không nhầm, Mai Hoa đã phát tín hiệu. Chưa hết vui vẻ vì kết quả phiên điều trần, Hỏa Nghi bỗng chốc chuyển sang lo lắng hồi hộp. 

Quay lại khuôn viên nhà khách, Hỏa Nghi nhận ra vài chiếc phi thuyền lạ lùng ở bãi đáp. Nhìn kiểu dáng to bè đặc trưng của phi thuyền phương bắc, gã đoán chúng đến từ Băng Hóa quốc. Điều này khá lạ lùng bởi Phi Thiên và Băng Hóa đang có mâu thuẫn tại mỏ quang tố Tuyệt Tưởng Thành. Bước vào nhà khách, gã thấy một đám nhân viên công vụ cùng vệ sĩ người Băng Hóa, kẻ nào kẻ nấy cao to như người khổng lồ, mặt mũi tẻ ngắt tựa thể vừa bước ra từ kho đông lạnh. Hỏa Nghi định bước lên tầng lửng thì một người Băng Hóa chặn đường:

-Xin hỏi, anh có hẹn với đại thống lĩnh? 

Hỏa Nghi ngớ mặt không biết đại thống lĩnh nào. Gã trả lời:

-Tôi là Hỏa Nghi, trưởng tộc họ Hỏa. Tôi có hẹn…

-Ồ, là ngài trưởng tộc. Vậy xin mời!

Người nọ cúi lưng lui bước. Hỏa Nghi chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra nhưng vẫn tiếp tục bước lên tầng lửng. Tại đó có một người đàn ông trung tuổi đang đi tới đi lui để chiêm ngưỡng các bức tranh treo trường. Ông ta sở hữu mái tóc dài xoăn sóng màu hổ phách, bộ quân phục đen ôm sát thân thể đầy phong độ, bộ ngực rắn chắc và đẹp đẽ như bức tượng đẽo từ băng tuyết. Thấy Hỏa Nghi, ông ta bước tới cùng gương mặt cương nghị nhưng đôi mắt màu lam đậm ánh lên sự thân thiện. Hỏa Nghi chẳng rõ vị đại thống lĩnh này tài năng ra sao nhưng dám khẳng định vô số người phụ nữ đã vì ông ta mà say như điếu đổ. Ngay cả gã cũng khó nén nổi ngưỡng mộ.

-Chào cậu Hỏa Nghi. – Người đàn ông chìa tay – Tôi đang chờ cậu. Một người tên Mai Hoa đã hẹn tôi ở đây. Xin tự giới thiệu, tôi tên là Xuy Hạ Khai Y, trưởng tộc họ Xuy Hạ, đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa quốc. 

-Vậy ngài tới đây… – Hỏa Nghi ngờ ngợ. 

-Phải, vì một người tóc đỏ. – Vị đại thống lĩnh tiếp lời – Tin vui cho cậu: người tóc đỏ mà cậu tìm còn sống, hắn đang trong tay chúng tôi. Tin xấu là: Băng Hóa quốc và cá nhân tôi muốn giết gã này. Nhưng Mai Hoa nói gã tóc đỏ là bạn của cậu và cậu có thể thương lượng. Chúng ta bắt đầu chứ? 

Hỏa Nghi méo mặt. Gã thực tình không biết Vô Phong đã gây nên họa gì. Hết Phi Thiên quốc, Ẩn Lý Thị từ Diệp quốc rồi đến Băng Hóa quốc đều muốn luộc tên tóc đỏ đem tế thần. “Ông giết tôi đi, tóc đỏ ạ!” – Hỏa Nghi tự nhủ.
 
Quyển 4 - Chương 10: Bạn mới – Bạn cũ


Vì quá quan tâm tin tức của Vô Phong, Hỏa Nghi quên mình đang nói chuyện với ai. Biết rằng ông bạn vẫn còn thở dù chưa biết thở kiểu gì, gã tạm thời bình tâm và có dịp đánh giá vị khách phương bắc. 

Từ ngày làm trưởng tộc, Hỏa Nghi phải quan tâm chính trường nhiều hơn cả Phi Thiên quốc lẫn thế giới bên ngoài. Trong mớ thông tin khổng lồ, lịch sử Băng Hóa quốc găm vào đầu gã nhiều ấn tượng hơn cả, nhất là câu chuyện về Biệt Liên Đại Đế và những dòng họ phục vụ ông ta như họ Xuy Hạ. Dòng họ này nhiều đời làm đại thống lĩnh Băng Hóa, trung thành tuyệt đối với huyết thống của đại đế, là đoạn xương sống chống đỡ phương bắc. Họ còn tồn tại ngày nào thì Băng Hóa còn trụ vững ngày ấy. Nhìn ông đại thống lĩnh, Hỏa Nghi nghĩ Băng Hóa quốc sụp đổ chỉ là chuyện… cổ tích. 

Hỏa Nghi cũng biết người đàn ông đối diện mình nổi tiếng cỡ nào. Ông ta có biệt danh “Ưng Tuyết”, rất nổi tiếng vì đánh tay đôi với Bất Vọng ba lần. Không ai rõ kết quả thực sự, chỉ biết Khai Y thuộc số hiếm hoi sống sót dưới lưỡi kiếm của Bất Vọng. Nó trở thành huyền thoại trong giới chiến binh, đặc biệt là phương bắc nơi tôn sùng truyền thống đấu tay đôi. Nhiều người đánh giá Xuy Hạ Khai Y ngang hàng, thậm chí mạnh hơn cả Bảy Người Mạnh Nhất. Điều thú vị là Khai Y từng theo học Tây Minh, theo chân đại thánh sứ làm mấy việc “rỗi hơi” như giúp đỡ tộc người thiểu số, hỗ trợ các tiểu quốc giành độc lập, chống khủng bố. Những năm tháng rực rỡ nhất của Tây Minh có dấu ấn của Khai Y. 

Bao quanh vị đại thống lĩnh Băng Hóa này lẫn lộn chuyện thật lẫn hư cấu, mà kể ra thì đủ đóng thành tuyển tập sách ăn khách. Dù rất thích nhưng Hỏa Nghi không có thời giờ hồi tưởng mấy vụ đó. Gã tươi cười nhỏ nhẻ: 

-Rất hân hạnh được gặp ngài. Nhưng ngài bàn thương lượng nhanh quá! Tôi… dễ đau tim! Hay chúng ta ra ngoài nói chuyện? 

Khai Y gật đầu, sau dạo quanh khuôn viên nhà khách với gã trẻ tuổi. Qua vài mẩu đối thoại, Hỏa Nghi được biết ông ta đang bận rộn giải quyết tranh chấp quang tố với Phi Thiên quốc tại Tuyệt Tưởng Thành. Mâu thuẫn ngày càng lớn và Khai Y tới đây để làm xẹp nó xuống, dĩ nhiên là theo chiều hướng có lợi cho nước mình. Trước Hỏa Nghi, ông đại thống lĩnh công khai ý đồ đó bằng giọng nói thân thiện nhưng rắn chắc, cử chỉ hòa nhã mà dứt khoát. Dứt khoát tuyệt đối, và không một lần mỉm cười. Gã trẻ tuổi dợm nghĩ bên ngoại giao Phi Thiên sắp được phen vã mặt thớt với Khai Y. 

Mào đầu đã đủ, chuyện chính lên sàn. Vẫn giọng nói thân thiện, Khai Y kể rằng vào một ngày tháng 3, Vô Phong xuất hiện và chủ động tìm gặp ông ta:

-Tên tóc đỏ sẽ tiết lộ một thứ mà ta quan tâm, đổi lại ta cần trả lời một điều mà hắn muốn biết. – Khai Y nói – Hai bên trao đổi công bằng, chúng ta xong việc, đường ai nấy đi. 

-Hai người trao đổi chuyện gì? – Hỏa Nghi hỏi. 

-Chuyện riêng tư. – Khai Y đáp – Nếu có cơ hội gặp lại tên tóc đỏ, cậu sẽ biết.

-Xin phép hỏi thêm một câu, thưa ngài?! Vô Phong không thể tự tiện gặp một đại thống lĩnh như ngài, và ngài chắc chắn không dư thời gian tiếp chuyện hắn. Phải có ai đấy làm trung gian. Tôi có thể hỏi người đó không? Là Mai Hoa?

Khai Y khoanh tay suy nghĩ, dáng bộ thu lại tựa ngọn núi tuyết sừng sững. Trên đỉnh núi tuyết cao vọi đó có những gì, Hỏa Nghi chẳng thể biết. Trầm ngâm ít lâu, ông đại thống lĩnh đáp:

-Không phải Mai Hoa, đó là một cô gái, tên Mi Kha. 

-Có phải lính đánh thuê Mi Kha, đội trưởng Đội 11 của Bán Dạ Giáo Đoàn? – Hỏa Nghi nheo mắt – Tôi biết cô ta, chúng tôi từng chung chiến tuyến tại Tuyệt Tưởng Thành. 

Ông đại thống lĩnh gật đầu:

-Ra là quen từ trước. Thôi được, vì cậu từng phục vụ thầy Tây Minh và chuyện này không quá quan trọng, ta sẽ cho cậu biết vài thứ. Ta chịu tiếp chuyện tên tóc đỏ vì Mi Kha có quan hệ với dòng họ chúng ta. Cô gái đó là tiểu thư họ Cát Giá, từng là dòng họ lớn ở Băng Hóa quốc. Họ Xuy Hạ và họ Cát Giá chịu ân huệ lẫn nhau. Mi Kha từng làm hộ vệ thánh sứ cho cháu trai ta, giúp đỡ họ Xuy Hạ khá nhiều việc. Vì Mi Kha, ta mới chịu tiếp Vô Phong. 

Hỏa Nghi ngạc nhiên. Gã chỉ biết cô nàng Mi Kha có đôi mắt gợi tình, bộ ngực quyến rũ cùng bờ mông gợi cảm chứ chưa nghe tiểu thư tiểu thiếc nào. Trong suy nghĩ đen tối nhất, gã muốn một lần úp mặt vào ngực cô ả. Lắc lắc đầu cho bay hết tàn dư mông ngực, gã đoán rằng sau khi thoát khỏi tay Thổ Hành, Vô Phong đã trốn tới Băng Thổ và tìm Mi Kha xin giúp đỡ. Hoặc có thể Mi Kha dẫn tên tóc đỏ chạy trốn từ trước. Hỏa Nghi không chắc chắn, nhưng quan trọng là đã xác định rõ ông bạn tóc đỏ đang ở chỗ nào trên bề mặt thế giới. 

-Vậy sau lần gặp gỡ, Vô Phong đi đâu? – Hỏa Nghi hỏi tiếp – Tại sao cậu ta ở trong tay ngài? Và tại sao ngài muốn giết Vô Phong? 

Ông đại thống lĩnh im lặng. Hai người đến khu vực hút thuốc, Khai Y chìa một điếu, Hỏa Nghi nhận lấy. Trong màu khói xanh, Khai Y trả lời câu hỏi vừa nãy:

-Lần đầu gặp Vô Phong, ta có cảm giác về hắn. Một cảm giác mơ hồ. Có lẽ là do mái tóc đỏ. Không ai có màu tóc như thế kể cả dân phương bắc. Nó quá đặc biệt, quá ấn tượng và khiến mọi mái tóc đỏ trên đời trở thành kệch cỡm. Nhưng đó không phải lần đầu ta biết về tóc đỏ.

Khai Y ngừng nói. Gương mặt ông ta từ đầu tới giờ vẫn cương nghị nhưng ánh mắt chẳng còn thân thiện. Hỏa Nghi nhíu mày:

-Nói thế… ngài từng gặp Vô Phong rồi?

Ông đại thống lĩnh hít một hơi căng ngực, thủng thẳng trả lời:

-Ta không chắc nhưng có cảm giác như vậy. Chuyện xảy ra cách đây tám năm, năm 7510, một thời gian nhiều biến động. Khi đó cha ta đang làm đại thống lĩnh, ông bị ám sát hụt bởi một gã tóc đỏ. Ta không có mặt ở hiện trường, chỉ nghe nhân chứng kể lại tên sát thủ có mái tóc đỏ và có bí kỹ điều khiển gió. Rất ít kiếm sĩ sử dụng bí kỹ này. Sau lần gặp Vô Phong, ta điều tra thân thế của hắn đồng thời tìm tài liệu cũ và thấy nhiều điểm tương đồng. Vì vậy ta cử người bám sát Vô Phong. Cậu còn trẻ nên chưa biết, chứ Phi Thiên quốc nợ nần dòng họ chúng ta nhiều đấy, cậu Hỏa Nghi. 

Nhìn ông đại thống lĩnh, Hỏa Nghi phát sốt rét, bèn lảng chuyện:

-Tôi không biết nhiều lắm về quá khứ của Vô Phong. Ngài hiểu đấy, người trẻ chúng tôi thích riêng tư nhiều hơn. Quay lại vấn đề, ngài vẫn chưa trả lời hết câu hỏi của tôi…

-Phải, quay lại vấn đề chính. – Khai Y tiếp lời, đôi mắt lam đậm trở lại vẻ thân thiện dù gương mặt không nở nụ cười – Người của ta báo rằng Vô Phong cùng Mi Kha hết tiến vào vùng chiến sự lại tới sáu nước Miền Đông Băng Thổ, chỗ đó rất rắc rối, chắc cậu hiểu. Rồi hắn bị vây đánh bởi những sát thủ của Đông Thổ, vốn nổi tiếng kín đáo và bám mục tiêu đến chết. Hắn sống sót nhưng thoi thóp, Mi Kha đưa hắn lẩn trốn. Vùng chiến sự nguy hiểm, không còn cách nào khác, Mi Kha phải viện tới họ Xuy Hạ. Vậy nên giờ Vô Phong nằm trong tay ta. 

Cuộc trò chuyện gián đoạn vì Khai Y có điện thoại. Ông đại thống lĩnh làm bạn với chiếc điện thoại vài phút rồi quay trở lại:

-Ta sắp phải đi, nhưng vẫn có thời gian cho cậu. Tiếp tục nhé! Ta muốn giết Vô Phong không phải vì tư thù cá nhân, ta chưa dám chắc chính hắn ám sát cha ta dù có rất nhiều bằng chứng. Vấn đề là hắn đã cắt đứt một thứ mà người Băng Hóa chờ đợi mòn mỏi hàng chục năm: hy vọng. Cậu hiểu từ đó không, Hỏa Nghi? Rất nhiều người trong đó có ta trông đợi niềm “hy vọng”, nhưng anh bạn tóc đỏ của cậu đã hủy diệt nó.

-Thực sự tôi không hiểu ngài đang nói gì. – Hỏa Nghi giơ tay – Ý ngài là Vô Phong động chạm lợi ích của Băng Hóa? Nó lớn tới mức nào? Liệu chúng tôi có thể đền bù?

Khai Y nhướn mắt nhìn xuống gã trẻ tuổi:

-Cậu đền bù “hy vọng” kiểu gì đây? Đền bù thế nào khi nó là niềm hy vọng duy nhất cho Băng Hóa? 

Hỏa Nghi cao lêu nghêu, chỉ thua ông đại thống lĩnh vài phân nhưng cảm giác như bị núi đè. May thay gã được khoản nhanh trí, bèn nhanh nhảu đáp:

-Tôi nghĩ là đền bù được. Nếu không, ngài đã chẳng chịu gặp tôi. Ban nãy ngài nói “thương lượng”, tôi không nghe nhầm chứ? Phải, là thương lượng! 

Lần đầu tiên trong cuộc đối thoại, cơ mặt ông đại thống lĩnh thay đổi và Hỏa Nghi thở phào khi đấy là một nụ cười. Ông ta dập điếu thuốc trên thùng cát, đôi mắt lam đậm hấp háy những tia thích thú:

-Đúng, thời đại mới đang đến. Giờ chúng ta đối thoại nhiều hơn là dùng nắm đấm. Với đối thoại, chúng ta cụ thể hóa mọi thứ kể cả “hy vọng”. Được thôi, chúng ta bàn về thương lượng. Vô Phong đã cắt đứt niềm hy vọng của Băng Hóa quốc, tội lỗi quá lớn, theo luật phương bắc thì hắn phải chết. Nhưng may cho hắn, tội lỗi này vẫn nằm trong bí mật và sẽ phải rất, rất lâu nữa, toàn thể Băng Hóa quốc mới biết. Cá nhân ta thấy nó có thể trao đổi. Vậy cậu muốn trao đổi không, Hỏa Nghi? Bằng mọi giá để cứu bạn mình? 

Nếu là Hỏa Nghi của hai năm trước, gã sẽ gật đầu cái rụp. Còn giờ, sau khi thấm đòn kha khá với hội đồng chủ quản dòng họ, lại thân quen ông bộ trưởng ngoại giao Tông Tủy, gã dần bắt kịp trò chơi ngôn ngữ trong giới chính khách. Hỏa Nghi rào đón:

-Bằng mọi giá, thưa ngài. Nhưng miễn sao nó chỉ liên quan tới cá nhân tôi chứ không phải họ Hỏa. Và xin khẳng định với ngài: tôi là người yêu nước. 

-Khôn lanh đấy! – Khai Y cười tập hai – Nhưng rất tiếc, ta phải nói là sẽ đụng chạm vài lợi ích của họ Hỏa lẫn Phi Thiên. Cái thứ “hy vọng” mà chúng ta đã mất cần khoản đền bù tương xứng.

-Liệu tôi có quyền được biết? 

-Không, đây là bí mật quốc gia của Băng Hóa. Nếu thầy Tây Minh còn sống và có lời, ta sẽ kể cho cậu mà không do dự. Đáng tiếc, thầy đã qua đời. Chẳng có cây cầu nào kết nối ta với cậu. Nhưng ta đảm bảo với cậu rằng khoản đền bù này hợp lý và cậu vẫn là người yêu nước. 

Hỏa Nghi gãi cằm ngẫm ngợi. Gã tính toán mọi khả năng mà đối phương đưa ra đồng thời cân nhắc câu trả lời. Có vài chuyện trong tầm tay gã, vài chuyện vượt quá khả năng, lại có chuyện dư sức giải quyết nhưng phải bí mật tuyệt đối. Rốt cục gã lên tiếng:

-Vậy điều kiện của ngài là gì?

-Sáu nước tại Miền Đông Băng Thổ. – Khai Y trả lời – Như cậu biết, Liên Minh Phương Bắc đang rạn nứt, sáu nước này vẫn chưa quyết định sẽ rời khỏi liên minh hay không[1]. Băng Hóa chúng ta cần họ ở lại nhưng nhiều tổ chức không muốn thế, trong đó có Phi Thiên quốc. Hiện giờ Phi Thiên đang luồn lách và xây dựng cơ sở tại sáu nước này, khiến họ rời xa phương bắc. Ta muốn cậu can thiệp, nói cách khác, hãy giảm bớt sự hiện diện của Phi Thiên tại đó. Nếu cậu làm được, ta tạm thời không tính sổ Vô Phong. 

-Tạm thời? – Hỏa Nghi lặp lại – Ngài nói “tạm thời” là thế nào? 

-Tức là ta sẽ tạm tha cho hắn với tư cách đại thống lĩnh. Còn tính theo phương diện cá nhân, ta không bỏ qua và có thể khi rời bỏ vị trí đại thống lĩnh, ta sẽ tìm hắn tính nợ. 

Hỏa Nghi kêu lên, điếu thuốc suýt rơi khỏi miệng:

-Như thế không công bằng, thưa ngài!

Vị đại thống lĩnh lắc đầu như không cho đối phương lựa chọn khác:

-Rất công bằng, cậu trai trẻ. Thiệt hại quá lớn trong khi khoản đền bù chỉ ở mức trung bình, cậu và Vô Phong quá hời. Một phần nữa vì cậu theo thầy Tây Minh, tính ra chúng ta chung một người thầy nên ta đã nể nang rất nhiều. Yêu cầu đền bù hợp lý vì Phi Thiên vốn chẳng có nghĩa lý gì tại Miền Đông Băng Thổ. Nơi đó là “nhà” của phương bắc chúng ta chứ không phải đất của phương tây các cậu. 

-Tôi không chắc đó là “nhà” của Băng Hóa các ngài. – Hỏa Nghi đáp – Đó là đất của sáu quốc gia độc lập và tự chủ. Như ngài thấy đấy, vài nước ở Băng Thổ cũng thuộc liên minh Khối Ngũ Giác. Khái niệm lãnh thổ thay đổi nhiều lắm rồi, thưa ngài. 

Khai Y cười lớn, hai vai rung rung như quả núi tuyết xói lở:

-Mạnh dạn đấy, cậu trai trẻ! Nhưng giao kèo là thế, theo hay không tùy cậu, còn ta vẫn có cách khác để xử lý Miền Đông Băng Thổ. 

-Làm sao tôi biết được ngài giữ lời? 

-Trên danh dự của ta và họ Xuy Hạ. – Khai Y chậm rãi đáp, từng chữ như búa tạ đóng cọc – Ta không phải đám ngoại giao dễ tráo trở lật lọng mà là dân nhà binh. “Người Băng Hóa không bao giờ tốt”, các người hay bảo chúng ta như thế. Nhưng chính các người cũng nói “Người Băng Hóa luôn giữ lời”. 

Hỏa Nghi cúi đầu nghĩ ngợi, chốc chốc ngó quanh để đảm bảo không ai nghe thấy gã trò chuyện với ông đại thống lĩnh. Thâm tâm gã muốn giúp Vô Phong nhưng khó khăn cứ lần lượt xuất hiện và ngậu nhặng lẫn nhau. Khai Y tiếp lời:

-Cứ suy nghĩ thấu đáo rồi trả lời, nhưng đừng quá lâu. Giờ ta phải gặp đoàn ngoại giao Phi Thiên, hai ngày nữa sẽ rời khỏi đây, e rằng chúng ta không thể gặp nhau nữa. Nếu chấp thuận giao kèo, hãy gửi thông báo cho đại sứ quán Băng Hóa, họ sẽ hướng dẫn cậu. Và đừng nghĩ giải pháp khác hay cửa sau như Phi Thiên quốc thường làm. Cái dở của người phương tây các cậu là thích đùa giỡn cái lạnh phương bắc.

Dứt lời, Khai Y rẽ bước, lặng lẽ nhưng vững chãi tựa quả núi đang di chuyển. Nhìn tấm lưng rộng trong quân phục đen của ông ta, Hỏa Nghi nín thở. Được một quãng, ông đại thống lĩnh chợt quay lại:

-Trưa mai, Băng Hóa chúng ta tổ chức tiệc ở đại sứ quán và mời vài vị khách. Ta sẽ rất vui nếu cậu tham dự. Ta nói rằng thầy Tây Minh đã mất nên không có cây cầu kết nối ta với cậu. Nhưng nếu chúng ta đặt nền móng đầu tiên cho cây cầu đó thì sao?

Lời mời bất ngờ, Hỏa Nghi nhất thời ngạc nhiên. Nhưng Khai Y cũng chẳng cần gã trả lời, ông ta cúi đầu lịch thiệp thay lời mời cùng lời chào, sau đấy rời đi. Đợi bóng lưng ông đại thống lĩnh khuất hẳn, Hỏa Nghi mới thở hắt ra một hơi nhẹ nhõm. Gã chợt hiểu tại sao thần đồng có nhiều loại song chẳng cái nào mang tên “thần đồng chính trị”. Trong thế giới này, lũ trẻ con trở lại hình dáng thấp bé, dễ tổn thương và dễ bị hù dọa. 

Ăn tiệc à? – Hỏa Nghi tự nhủ. Tiệc tùng với đám chính trị gia chán hơn cả vào thánh đường nghe thuyết giảng. Nhưng ông đại thống lĩnh đích thân mời, gã từ chối có phải phép? Nếu tới, ngộ nhỡ ai đấy bắt gặp gã thân mật với Khai Y thì phải giải thích thế nào? Nghĩ tới nghĩ lui, gã định bụng bỏ quách kể cả Vô Phong. Tình bạn nói miệng nghe sướng tai, mà lúc gặp chuyện mới biết trăm đường khai khắm. Lúc này, Hỏa Nghi thực lòng muốn xách cổ ông bạn và đấm đá nhiệt tình. Có Vạn Thế mới biết gã tóc đỏ đã gây tai họa gì. 



Dù vậy, hôm sau Hỏa Nghi vẫn đến dự tiệc ở đại sứ quán Băng Hóa. Không cần vài ngày, gã đồng ý thỏa thuận với Khai Y ngay tại bữa tiệc dù đang vướng bận trăm thứ bà giằn từ công việc đến gái gẩm. Nhưng đó không phải quyết định cẩu thả. Hỏa Nghi đã dành cả đêm nghiên cứu Miền Đông Băng Thổ cùng khả năng can thiệp của họ Hỏa, thấy rằng đủ sức làm được dù khá mạo hiểm. Gã giữ kín chuyện, không bàn với ai kể cả Thanh Nhi. 

-Vậy cậu đã lựa chọn. Ta cứ nghĩ cậu sẽ đề nghị nọ kia, nhưng có lẽ ta lầm. – Khai Y vừa nói vừa rót rượu cho Hỏa Nghi – Từ giờ cậu là bạn của phương bắc, để tôn trọng, ta sẽ gọi cậu là “Múy”. Cậu hiểu từ đó? Tốt! Tôi hứa anh bạn tóc đỏ sẽ an toàn cho đến khi Múy thực hiện giao kèo. Nhưng ta nhắc lại: đừng quá lâu! 

-Ngài tha thứ vĩnh viễn cho cậu ta chứ? – Hỏa Nghi ghé miệng thì thào.

-Thỏa thuận không có chuyện này, ta nói trước rồi, Múy phải hiểu. – Khai Y nghiêm nghị – Tha thứ vĩnh viễn hay không là chuyện riêng giữa ta và tên tóc đỏ. Nhưng biết đâu trong một khoảnh khắc nào đấy, ta đổi ý thì sao? Chẳng ai nói trước được điều gì. Nhưng chớ để mấy chuyện không vui làm phiền chúng ta. Ugata ne’ls Tashaya! Nữ Thần luôn ở bên mọi người! Uống nào, anh bạn trẻ!

Ông đại thống lĩnh đưa cốc rượu cháy lửa xanh cho Hỏa Nghi. Nó là rượu “sói xanh” rất nổi tiếng của phương bắc và không dành cho kẻ yếu thần kinh. Nhìn cốc rượu hực lửa, Hỏa Nghi lạnh gáy nhưng sau rốt cũng nhắm mắt nhắm mũi nốc ực. Khai Y cười khề khà, bá vai bá cổ Hỏa Nghi rồi vỗ lưng gã thùm thụp. Người phương bắc khi nhận nhau là bằng hữu thường hành xử tự nhiên, nhưng Hỏa Nghi chẳng thoải mái chút nào. Giao kèo với người bạn mới quả thực rất khó nhằn. 

Chiều cùng ngày, Hỏa Nghi triệu tập ban cố vấn bàn về tình hình Miền Đông Băng Thổ. Dù cổ họng đang ám mùi rượu nhưng gã không muốn chậm trễ giây phút nào. Phi Thiên quốc đang đẩy mạnh đầu tư vùng này với hy vọng li gián sáu nước ở đây với Liên Minh Phương Bắc. Họ Hỏa đánh giá điều tra hàng tháng rồi gửi báo cáo, ban nội các dựa vào đấy mà thêm thắt hoặc thay đổi chiến lược. Như thường lệ, họ Hỏa cung cấp phần lớn thiết bị vật tư. Hỏa Nghi nói:

-Theo báo cáo tài chính, tôi thấy chúng ta đang đổ tiền vô ích vào đây, hơn một năm rồi nhưng chẳng có kết quả. Sáu nước miền đông chẳng mặn mà lắm với Phi Thiên, họ kiểm soát rất chặt đường vận tải, chúng ta chỉ đưa được hàng hóa thông dụng, còn vũ khí và vật tư kỹ thuật hầu như chết cứng ngoài biển. Còn nữa, việc chính phủ dùng cơ sở của chúng ta làm trạm tình báo cũng gây nhiều rắc rối. Tháng trước, tất cả cơ sở bị điều tra và giám sát nghiêm ngặt, rất khó khăn để điệp viên lưu trú. Thẳng thắn mà nói, trạm tình báo khá vô dụng. Cứ đà này, thiết lập một công ty đàng hoàng còn khó chứ đừng mong động vào mỏ quang tố của bọn họ. Tôi nghĩ…

Gã chưa dứt câu thì Hỏa Chính xen ngang. Hỏa Nghi cảm giác ông chú vừa nhảy vào mồm mình và ngồi chễm chệ trong đó:

-Đây không phải đầu tư kinh tế mà tính chuyện thiệt hơn. Chúng ta làm vì lợi ích quốc gia. Vả lại đầu tư kiểu này cần thời gian, không thể đòi hỏi lợi ích ngay lập tức hoặc nhìn mấy con số lỗ lãi mà cho rằng kém hiệu quả. Chúng ta đang móc ngoặc với các tổ chức tại sáu nước miền đông, đường vận tải sẽ thông sớm, cơ sở sẽ được bao bọc tốt hơn. Cháu cần học hỏi thêm, cháu trai à! 

-Không còn thời gian học hỏi nữa vì Băng Hóa đang tới, thưa chú. – Hỏa Nghi đáp trả – Họ liên tục triển khai quân hòng can thiệp quân sự ở vùng này bất cứ lúc nào. Họ đi lại trên đất ấy hàng thế kỷ, trong khi chúng ta mới chân ướt chân ráo. Tới lúc đám ấy đập nhau chí chết, ta cứu người mình thế nào? Chú nói rằng đang móc ngoặc với mấy tổ chức? Tôi từng chiến đấu ở Tuyệt Tưởng thành nên tiếp xúc người phương bắc kha khá, thưa chú, họ không ưa chúng ta đâu! Và họ có thể trở mặt bất cứ lúc nào. Rất nhiều lần người Phi Thiên bỏ mạng vì những tình huống tương tự, chúng ta không thể lặp lại. 

-Vậy cháu có giải pháp? – Hỏa Chính cười mỉm mỉa mai.

-Tạm ngừng phát triển cơ sở mới, củng cố cơ sở cũ. Chúng ta không cần cả miền đông chống Băng Hóa, chỉ cần một nước là đủ, giống như chúng ta từng làm thời xưa. Hãy chuyển hướng đầu tư cho các đồng minh truyền thống của chúng ta ở Băng Thổ, hoặc cung cấp cho Lực Lượng Mù Thủy. Bọn họ quen biết và từng làm ăn với chúng ta, dễ quản lý hơn. Cứ để Miền Đông Băng Thổ cho đám hám của tranh nhau, dây vào đó chỉ tổ thiệt!

Giao kèo là một cuộc chơi ngôn ngữ. Hỏa Nghi đồng ý giảm bớt sự hiện diện của Phi Thiên tại phía đông lục địa Băng Thổ, gã không hề nói sẽ ngừng cung cấp tài chính cho những đối thủ truyền kiếp của Băng Hóa. Gã vẫn thực hiện đúng thỏa thuận với Khai Y, vả lại nó là giải pháp duy nhất. Hỏa Chính phản bác:

-Chuyện này không thể được. Chúng ta đã thỏa thuận với chính phủ. 

-Có thể được. – Hỏa Nghi đáp – Chúng ta lên phương án đầu tư, không phải chính phủ. 

Hỏa Chính lừ mắt nhìn đứa cháu, Hỏa Nghi hếch cằm nhìn lại không chút tôn trọng. Hôm qua hai chú cháu bắt tay vì phiên điều trần, hôm nay lập tức trở mặt đấm nhau ngay lập tức. Cuộc chiến nội tộc họ Hỏa mới bắt đầu. Toàn bộ ban cố vấn lặng thinh, không ai dám lên tiếng can ngăn hai chú cháu nhưng đa phần họ mừng ra mặt. Dăm ngày trước Hỏa Nghi còn khom dom khúm núm trước ông chú, nay đốp chát không cần kiêng nể. Ban cố vấn nhiều người trẻ, cố nhiên không thích ông già Hỏa Chính lấn lướt chuyên quyền. Thấy mình thân cô thế cô, Hỏa Chính trả lời ráo hoảnh:

-Ta sẽ đưa vấn đề lên hội đồng chủ quản. 

-Tùy chú thôi, tôi cũng muốn các trưởng lão biết chuyện. – Hỏa Nghi tự tin đáp. 

Ban cố vấn lại được phen ngạc nhiên nữa. Hội đồng chủ quản luôn là nơi mà Hỏa Nghi sợ nhất, nhưng giờ gã chẳng quan tâm mấy. Gã thừa biết gió đang đổi chiều có lợi cho mình. Điều duy nhất làm gã phiền lòng là người anh. Suốt buổi, Hỏa Dương chỉ im lặng, không đồng tình cũng chẳng phản đối em trai. Chẳng ai biết Hỏa Dương suy tính chuyện gì. 

Kết quả khả quan từ phiên điều trần đem lại lợi thế cho Hỏa Nghi. Sáng hôm sau, gã đến Vĩ Tiên thành dự cuộc họp nội bộ chi Khởi và được các trưởng lão ủng hộ nhiệt tình. Họ không khẳng định chống lưng cho Hỏa Nghi nhưng bảo đảm một trưởng tộc phải có mọi quyền hạn như trong luật định. Hỏa Nghi chỉ cần vậy là đủ. Lão mặt nhọn từ nay phải nhìn mặt bà cô Khởi Hoa trước khi giở trò làm vương làm tướng ở hội đồng chủ quản. 

Trở lại Đảo Sắt Thép, Hỏa Nghi tìm ông chú trẻ Biệt Pháo. Sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng kẻ khôn ngoan nhất chi Biệt dồn toàn bộ vốn liếng vào Hỏa Nghi. Thông tin, tiền bạc, nhân lực, lời khuyên, lá phiếu… Hỏa Nghi thiếu cái gì, chi Biệt cung cấp cái đó. Biệt Pháo cười:

-Ta đánh giá thấp cậu, Hỏa Nghi. Ta nợ cậu lời xin lỗi. Chi Khởi tuy nhỏ nhưng sẽ hỗ trợ cậu hết mình. Mong ngài để ý chi Biệt chúng tôi nhiều hơn, thưa ngài trưởng tộc. 

Hai người uống rượu mừng quan hệ mới rồi nhanh chóng bàn việc bên tách trà thiết mộc. Quanh quéo nhiều chuyện, cuối cùng Hỏa Nghi bàn hai vấn đề chính. Thứ nhất, gã nhờ Biệt Pháo thuê vài vệ sĩ hộ tống Thanh Nhi đến phương bắc. Dù không muốn nhưng gã cần xác nhận tên tóc đỏ còn sống, chẳng ai đảm nhận nhiệm vụ này tốt hơn Thanh Nhi. Dĩ nhiên gã che đậy bằng vỏ bọc công tác ngoại giao. Biệt Pháo đồng ý cùng một câu hỏi:

-Hình như vệ sĩ mới của cậu do Hỏa Dương tìm? Sao không nhờ anh trai? 

-Hỏa Dương nói chất lượng vệ sĩ gần đây không tốt nên chưa tìm được, mà cháu lại cần ngay nên mới qua hỏi chú.

Hỏa Nghi nhún vai xạo sự, kỳ thực gã không bàn một lời nào với anh trai. Nghe xong, Biệt Pháo đồng ý giúp đỡ. Hỏa Nghi nhanh chóng chuyển sang vấn đề thứ hai là xưởng tái chế hóa chất ở Tối Ưu thành nơi tiểu thư Tô Mỹ đang thực tập. Nghe gã kể việc bảo trì lẫn xuất hàng tại khu xưởng có dấu hiệu bất thường, Biệt Pháo nhíu mày:

-Bảo trì toàn bộ nhưng vẫn xuất hàng thì khá lạ. Mà thành phẩm mới qua một nửa quy trình không dùng được việc gì, cùng lắm chỉ đem bán cho “cá dọn bể”. 

-“Cá dọn bể” là cái gì? – Hỏa Nghi hỏi. 

-Những người thu mua hóa chất kém chất lượng hoặc sản phẩm tái chế. Đám này ít nhiều dây mơ rễ má với chợ đen, họ có thể điều chế chất nguy hiểm hoặc bán lại cho tổ chức khác, gây khá nhiều rắc rối. 

-Chính phủ không quản lý à?

-Có nhưng ít gắt gao. Vì không có đám “dọn bể”, các nhà máy sẽ đau đầu với hàng tồn kho. Chi phí cho hàng tồn kho lớn lắm! Cậu muốn điều tra khu xưởng đó? Tốt thôi, ta sẽ giúp. 

Hỏa Nghi gật đầu cảm tạ ông chú trẻ. Gã có lý do để đào bới khu xưởng. Một là di nguyện do Tây Minh để lại, hai là trong lúc tìm hiểu khu xưởng, gã phát hiện ông chú Hỏa Chính sở hữu cổ phần tại khu hóa chất và là thành viên quản trị. Chẳng loại sai phạm nào qua nổi mắt Hỏa Chính, mà một sai phạm ở xưởng tái chế kéo dài năm năm liền chỉ chứng tỏ rằng Hỏa Chính đang làm ngơ hoặc đang nhúng tay vào vụ gì đó. Hỏa Nghi quyết tìm bằng được.

Biệt Pháo không nói suông. Nửa tuần sau, ông chú trẻ gặp Hỏa Nghi cùng một xấp hồ sơ dày. Nhờ các mối quan hệ tại nhà máy, ông ta lấy một ít hóa chất từ xưởng tái chế - Hỏa Nghi dành món này cho tiểu thư Tô Mỹ. Ông ta cũng khám phá ra rằng số hàng kém phẩm chất được bán cho một đám “dọn bể” tại Đả Thải thành. Đám này gom hàng về điều chế hoặc phân tách rồi bán tiếp cho bên thứ ba, quy trình lặp đi lặp lại như thế năm năm liền. 

-Khá nhiều bên thứ ba mua hàng của đám “dọn bể” này. Nhà máy, xưởng rèn, băng đảng, xã hội đen… đủ cả! – Biệt Pháo nói, tay đẩy hồ sơ – Đáng chú ý là một công ty ở Xích Quỷ quốc, mua hàng khá nhiều. Nhưng vào năm 7516, công ty phá sản, việc làm ăn cũng đổ bể theo. Ta cử người tìm hiểu, chỉ nghe tin là ông chủ công ty đó vào tù. 

-Vào tù sao? Lý do gì vậy? – Hỏa Nghi bật cười hỏi bâng quơ.

-Vì chiến tranh băng đảng. Ông chủ đó thực là trùm xã hội đen. Cách đây hai năm, ông ta làm loạn cả đặc khu Cửu Long. Xích Quỷ phải huy động quân đội mới dẹp được vụ đó. 

Nghe thế, Hỏa Nghi ngờ ngợ. Tới lúc nhận hồ sơ từ Biệt Pháo, gã mắt chữ A mồm chữ O khi thấy kẻ trong ảnh không ai khác là lão già Năm mắt lươn – ông trùm một thời khuynh đảo Cửu Long. Vì nghe gã xúi bẩy, Năm mắt lươn gây chiến với Đông Hoàng và chuốc thảm bại. Hỏa Nghi đoán trong cơn chửi rủa của lão mắt lươn, tên gã xếp vị trí thứ hai sau Đông Hoàng. 

-Cậu cần ta điều tra người này chứ? Có thể ông ta sẽ biết điều gì đó. – Biệt Pháo hỏi – Ta sẽ bố trí người.

-Không cần đâu! – Hỏa Nghi cười ha hả, ngón tay gõ bàn theo một giai điệu ầm ĩ – Tôi sẽ tới Xích Quỷ quốc. Lâu lâu gặp lại bạn cũ cũng vui lắm! He he he!

[1]: trong Quyển 3, sáu nước Miền Đông Băng Thổ chưa quyết định sẽ ở lại Liên Minh Phương Bắc hay tách ra độc lập 
 
Quyển 4 - Chương 11: Đồi Cánh Cung


Với những người giúp việc nhà Hỏa Viên, phòng ngủ của Hỏa Nghi luôn là nỗi ám ảnh. Mỗi sáng họ phải dọn dẹp mớ sách vở bừa bộn trên giường, lon bia uống dở lăn lóc mặt sàn, đồ ăn thừa bốc mùi, quần áo tùm lum mỗi nơi mỗi thứ. Giả dụ một tuần không ai ngó ngàng, căn phòng sẽ biến thành chợ rác thứ thiệt. Não của Hỏa Nghi không hề có khái niệm dọn dẹp phòng cá nhân.

Song cũng tại căn phòng đó có một tủ kính âm tường, luôn luôn sạch sẽ cáu cạnh, bày những chiến lợi phẩm mà Hỏa Nghi thu nhặt. Có ba tiêu bản vũ khí do gã làm ra, vài mẩu đất đá ở đất Thiên Phạn đựng trong lọ hút chân không, dăm món đồ cổ thửa từ Tuyệt Tưởng Thành, bộ kiếm Hoa Sa Tấu lẫn Tam Khúc Tấu còn mới nguyên, vỏ đạn từ cuộc chiến Vinh Môn quốc… Đủ món tạp phí lù. Nhưng trang trọng hơn cả là chiếc điếu cày được chính tay ông già Lộc Tục làm và tặng. Hỏa Nghi đặt nó ở ngăn cao nhất. Trước hôm khởi hành, gã lại lôi nó ra lau chùi ngắm nghía dù không dám hút. Nghĩ quanh quéo thế nào, Hỏa Nghi đóng gói chiếc điếu cày cùng hành lý rồi lên đường. 

Gần một ngày mài mông trên phi thuyền, Hỏa Nghi tới Cửu Long lúc hai giờ sáng. Theo lịch trình mà Biệt Pháo sắp xếp, gã sẽ gặp Năm mắt lươn ở nhà tù rồi nghỉ ngơi một tiếng trước khi bay chuyến khứ hồi. Trên đường đi, Hỏa Nghi tranh thủ liếc mắt ngắm nhìn khu đỏ đen nổi tiếng. Gã nhận ra tòa tháp sòng bạc cao ngất của Đông Hoàng rực rỡ hơn trước, các khu vực xung quanh sáng đèn suốt ngày đêm như thể không thiết ánh sáng mặt trời, mặt trăng và những ngôi sao nữa. Ảnh chiếu thi nhau nhuộm xanh đỏ tím vàng không gian. Quảng cáo từ bài bạc ăn chơi tới nghỉ dưỡng du lịch. Xa xa, chung cư khổng lồ Quận 4 đã thay đổi ít nhiều, biển hiệu nhấp nháy dần thay thế dây phơi quần áo, nhiều hành lang vốn đầy dấu tích băng đảng nay được trang hoàng sặc sỡ; tòa kiến trúc trông như tập hợp những khối hộp đa sắc vuông vức xếp chồng lên nhau, nom vui mắt và sáng sủa hơn hẳn. Tất cả đều thuộc về Đông Hoàng. Loại bỏ được kẻ thù lớn nhất là Năm mắt lươn, Đông Hoàng làm vua đặc khu. Hỏa Nghi sẽ không lạ nếu chốc nữa Năm mắt lươn ôm ấp mình bằng lời chào nồng ấm: “Thằng chó chết!”. 

Thêm mười lăm phút bay phi thuyền, Hỏa Nghi đến nhà tù rồi theo quản giáo sang phòng gặp phạm nhân. Đang giờ ngủ, nhà tù tối om, chỉ còn leo lét vài mảng màu lân tinh vàng vọt bám trần nhà. Tay quản giáo tuổi trung niên, mặt phì phị nọng mỡ cằm, hai má rỗ lỗ chỗ như rổ nhặt rau. Y nói:

-Cậu có hai mươi phút. 

-Ông du di thêm được chứ? 

Tay quản giáo gắt gỏng:

-Tối đa thêm năm phút! Quy định…

Y nói chưa hết, Hỏa Nghi đưa gã lon nước cặp díp thêm tờ tiền bao quanh lon. Ngay lập tức tay quản giáo thu cái lon vào túi áo, nhanh gọn tựa thể có phép thuật. Y nhướn mày:

-Thêm năm phút nữa. 

-Tôi tưởng chừng đó là thêm mười lăm phút? 

-Năm phút là năm phút. – Tay quản giáo nói – Đây là đất Xích Quỷ, không phải Phi Thiên, cậu Hỏa Nghi. Hãy biết điều! 

Nói rồi y mở cửa cho Hỏa Nghi rồi bảo gã chờ đợi. Buồn chán không có gì làm, Hỏa Nghi mở máy nghe nhạc, cái đầu gật gù hòa nhịp với âm thanh ầm ĩ. Và khi giai điệu lên cao trào thì Năm mắt lươn xuất hiện. Vẫn cặp mắt ti hí nhìn đời bằng một nửa của một nửa con mắt nhưng ông chủ Năm nay gầy gò, hai má hóp bõm, tóc bạc phếch phác, trái hẳn vẻ khệnh khạng như hai năm trước. Dĩ nhiên cũng chẳng còn “ông chủ” nào. Nhà tù Xích Quỷ đã nghiền nát thể xác, tên tuổi, tiền tài lẫn địa vị của ông ta. Dù vậy Hỏa Nghi vẫn tươi cười:

-Anh Năm, lâu lắm mới gặp…

Năm mắt lươn không đáp, chỉ mím môi lẩm bẩm mấy lời qua kẽ răng mà Hỏa Nghi đoán là “Thằng chó chết!”. Hỏa Nghi cười xòa đoạn lôi ra từ túi xách nào rượu nào đồ ăn, thuốc lá cùng một ít trò chơi giải trí mà phạm nhân được phép sở hữu. Năm mắt lươn hất hàm:

-Ý gì đây? 

-Quà gặp mặt thôi! Mời ngồi! – Hỏa Nghi đáp – Đã lâu chưa gặp, dạo này Anh Năm vẫn tốt chứ? 

Năm mắt lươn lườm lườm bằng hai cái khe ti hí. Lão dộng mông xuống ghế, tự rót rượu tự ăn và không đợi đối phương mời mọc. Anh Năm bệ vệ ngày nào giờ ăn ngấu nghiến, uống chèm chẹp, rít thuốc tụt phổi làm tàn rơi đầy áo. Hai năm khó thay đổi con người, nhưng hai tháng ngục tù lại quá đủ. 

Hỏa Nghi biết được ít chuyện tại Cửu Long. Hai năm qua quả thực khó khăn với Năm mắt lươn. Sau khi vào tù, ông ta bị cô lập nên không thể tự tay điều khiển băng đảng, vây cánh dần rơi rụng hoặc tự giải tán. Mọi tài sản hay lãnh địa của ông ta bị thu hồi, hoặc chuyển cho chính phủ hoặc qua tay Đông Hoàng. Hiện chỉ còn một cô con gái thăm nom Năm mắt lươn, ngoài ra chẳng có ai, kể cả những bà vợ xinh đẹp hay đám đàn em trung thành. Năm mắt lươn không tệ bạc nhưng thế giới băng đảng vốn chẳng biết ơn. Những thứ từng thuộc về Năm mắt lươn hầu hết đội nón ra đi chưa kể án tù ba mươi năm. Nói cách khác, sự nghiệp đao búa của Anh Năm đã hoàn toàn kết thúc. 

Ăn uống rượu thuốc thỏa thèm, Năm mắt lươn cất lời mát mẻ: 

-Vậy cậu chủ Hỏa Nghi tìm người thất thế như ta làm gì? Ta vô giá trị rồi, nên mọi điều kiện cậu sắp đưa ra đều vô giá trị nốt! Ta ghét Đông Hoàng nhưng ta ghét cậu hơn thế. Cậu chẳng moi được gì từ ta đâu, thằng ranh mũi lõ!

Hỏa Nghi bật cười: 

-Ông đang trút giận lên đầu tôi thôi, Anh Năm. Hãy nhớ lại thỏa thuận ngày đó trên bàn cược “thuyền chìm thuyền nổi”, tôi không lấy tiền của ông, đổi lại ông phải giúp đỡ tôi. Trao đổi sòng phẳng, không ai nợ ai. Việc ông tiện thể đánh Đông Hoàng không có trong thỏa thuận. Sao giờ ông đổ lỗi cho tôi?

Anh Năm vỗ rầm mặt bàn chồm đến như con sói già chực tung cú đớp cuối cùng. Tay quản giáo tóm vai lão dộng xuống rồi quật dùi cui vào lưng. Lão mắt lươn đau rúm người, dạ dày chực ọe tất cả những gì vừa ăn uống song chẳng dám hó hé một câu. Trong khoảnh khắc, lão đã quên vị trí của mình trong nhà giam và tay quản giáo vừa nhắc nhở “nhẹ nhàng”. Ôm lưng một hồi, Năm mắt lươn nhìn Hỏa Nghi cười hềnh hệch:

-Phải, thỏa thuận không có chuyện đó, nhưng cái cách mày kích động thì lại rất muốn tao gây chiến. Vạn Thế chứng giám, lúc đó tao thật ngu ngốc, nghĩ mày là đứa nít ranh thích chơi nổi, một thằng rèn kiếm có tí kỹ năng mà quên mất chữ “Hỏa”. Nếu biết mày là người thừa kế họ Hỏa, tao đã cẩn thận hơn. Hà… hà… hà… Nhưng mày đừng hòng moi thêm cái gì nữa! Tao đoán mày tới vì việc quan trọng, cho nên… tao sẽ câm họng đến cuối đời. Cảm ơn mày vì đã thăm nom, và cút đi, cút cho khuất mắt tao. Cút về cái lỗ nơi mày sinh ra! Đừng bao giờ quay lại! 

Cái sự cùn của lão già làm Hỏa Nghi ngao ngán. Người Xích Quỷ chẳng bao giờ học được “việc nào ra việc nấy”. Nhưng gã cũng chẳng tay không bắt giặc mà ghé qua nhà tù. Đợi Năm mắt lươn tạm nguôi, Hỏa Nghi xếp bằng hai tay đoạn rướn người thì thầm:

-Nếu ông cứ nghĩ vậy, tôi chẳng biết biện minh thế nào. Tôi không thừa nhận đã dùng lời lẽ kích động, tự ông suy diễn đó thôi! Nhưng tôi thừa nhận đã che giấu nhiều thứ và ít thành thật với nhau. Giờ chúng ta đã hiểu nhau kha khá, vậy nên tôi đề nghị một quan hệ mới, nó phải… giàu lòng nhân ái, nó… đầy tính nghệ thuật, nó… phải sinh lợi ích. Ông thấy sao?

-Mày lảm nhảm gì thế, thằng ranh? – Năm mắt lươn cười phá, hai khe ti hí hơi mở lớn – Thôi được, tóm lại là mày muốn một thỏa thuận mới? Ờ, được thôi, vậy mày biết một câu nói của người Xích Quỷ không? Căng tai mà nghe này: bố không thích! Hiểu chứ? Bố đây không thích! Được chưa? Chúng ta xong chuyện, nhé?!

Hỏa Nghi nhếch mép, tay gãi mông xành xạch. Gã ngó đồng hồ, thấy còn chán vạn thời gian liền cười cợt:

-Lần đầu tiên tôi nghe. Mà hay đấy! Tôi thích, hê hê! Nhưng người Phi Thiên có câu nói hơi dài dòng một chút: bóp chặt tương lai trong nghiệt ngã, thời đại mới sẽ dùng tàn bạo đáp trả. Anh Năm à, ông buông thả đời mình nhưng đừng bỏ rơi con gái. Cô bé vừa thông minh vừa tốt bụng, biết cha mình vào tù nhưng vẫn thăm nom đầy đủ. Ông sẽ chết trong tù, nhưng ông muốn thấy mặt con gái trước lúc nằm hòm, phải chứ?

Nói rồi gã mở máy chiếu cá nhân. Luồng sáng xanh xuất hiện cùng hình ảnh một cô gái nhỏ nhắn đang làm việc trong một tiệm ăn ở Thiên Kỷ thành, cách đây cả ngàn cây số. Sau vụ Năm mắt lươn vào tù, cô gái phải chuyển đến thủ đô sinh sống để tránh dòm ngó. Mỗi tháng, cô ta đi tàu điện về đặc khu thăm cha đẻ một lần. Cuộc sống của cô ta thế nào, Hỏa Nghi đều biết. Những hình ảnh hiện tại truyền trực tiếp từ tay vệ sĩ Tru Đồ - hắn không theo Hỏa Nghi mà đến Thiên Kỷ thành tìm con gái của Anh Năm. Thấy vậy, Năm mắt lươn giật thót, vừa định chồm đến thì bị tên quản giáo thúc một dùi đau điếng vào sườn. Hỏa Nghi tặc lưỡi:

-Tôi biết ông đã lo đủ tiền cho con gái được học tiếp và sống thoải mái. Tôi biết vài gã vẫn trung thành với ông, những kẻ hiếm hoi trong thế giới băng đảng toàn thằng to mồm là chủ yếu. Tôi cũng biết ông cấm bọn họ qua thăm mình vì không muốn con gái liên lụy với cảnh binh hoặc bọn Đông Hoàng. Ông yêu thương cô bé nhất trong số những đứa con, bởi cô bé thực sự không cần tiền. Rất năng động! Rất có năng lực! 

Kìm nén cơn đau, Năm mắt lươn dồn hơi sức thều thào:

-Tao thề, mày mà động vào con bé… 

-…thì ông sẽ giết tôi chứ gì. Được rồi, được rồi! – Hỏa Nghi giơ tay – Tôi chỉ muốn nói với ông rằng tôi biết con gái ông ở đâu, làm gì, sức khỏe thế nào. Tôi quan tâm ông mà?! Ơ kìa, chúng ta đang nói về quan hệ mới đấy! Nếu ông chịu giúp, tôi đảm bảo con gái ông sẽ đến Phi Thiên quốc, hoàn toàn xa rời thế giới băng đảng ở đây. 

-Nếu tao không giúp?

-Nếu ông không giúp, tôi… sẽ chẳng làm gì cô bé. Tôi hứa đấy! Hê hê!

Trong thoáng chốc, mớ hỗn hợp dâm tà độc địa chảy ra như thác đổ từ đôi mắt Hỏa Nghi. Gã mất cả tiếng hóa trang thành quý ông nhưng chỉ cần nửa giây để bộc lộ bản tính đểu cáng, tính ra cũng là một loại năng khiếu. Nhìn gã, Năm mắt lươn đứng ngồi không yên, mà hễ đứng lên là hứng mưa dùi cui. Đôi tay lão hết vằn vò rồi bóp nát những khối không khí vô hình, cặp mắt ti hí mở to như cân nhắc lợi hại. Cuối cùng Năm mắt lươn tặc lưỡi:

-Được thôi, cậu Hỏa Nghi. Nếu cậu có lời tử tế, ta cũng đáp lại tử tế. Những gì ta vừa nói, hãy bỏ qua. Cậu muốn gì? 

Gã trẻ tuổi thở phào. Ít nhất là Năm mắt lươn chưa cùn tới độ đùa giỡn với con gái mình. Không muốn lãng phí thêm giây phút nào, Hỏa Nghi bắt đầu câu chuyện từ xưởng tái chế, đám “cá dọn bể” và những lô hàng hóa chất kém phẩm chất. Gã nói liền một mạch không nghỉ. Nghe tới công ty của mình, Năm mắt lươn nhướn mắt đoạn nói:

-Ta sẽ kể, nhưng cậu có thể làm gì cho con gái ta? Ta cần sự bảo đảm.

-Nơi con gái ông theo học có thành viên họ Hỏa. – Hỏa Nghi đáp – Tôi có thể nhờ người đó lưu tâm cô bé hơn. Và nếu thông tin đáng giá, cô bé sẽ được nhận giấy mời thực tập. Hàng vạn học viên trên thế giới này đánh nhau vì một giấy mời thực tập họ Hỏa, chắc ông biết? Nhưng tôi nói trước, thông tin phải đáng giá!

Năm mắt lươn uốn lưỡi vòm họng, mắt đảo trái phải, sau rốt mở lời:

-Công ty đó cung cấp nguyên liệu chế tạo dược phẩm. Ta có quan hệ với quan chức trong chính phủ nên được mối làm ăn này, tuy nhiên không thể nêu tên họ ở đây… – Lão lé mắt ám chỉ tên quản giáo đứng phía sau – Nhưng thực tế là ngành dược Xích Quỷ không dùng nguyên liệu nội địa mà chủ yếu nhập từ bên ngoài, chính xác hơn là con buôn, không phải sản xuất. Vì thế bên cung cấp như ta chẳng lời lãi mấy, cùng lắm chỉ đủ “tiền trà nước” thôi! 

-Vậy thực chất các ông làm cái gì? 

Lão mắt lươn chép miệng như ngán ngại tay quản giáo, ậm ừ chán mới trả lời:

-Điều chế cấm dược và chất kích thích. Món này lãi hơn nhiều! Các lô hàng từ bọn cá dọn bể bên Phi Thiên hơi mắc nhưng đáp ứng đủ yêu cầu, theo như bọn hóa chất nói là “không quá mặn cũng không quá nhạt”. Chúng là nguyên liệu hoàn hảo để chế tạo cấm dược. Tất nhiên là bán cho bọn dân chơi thích phê pha ngáo ngẫn cả ngày! Nhưng như thế cũng chưa lãi bằng bán cho chiến binh. Thuốc tăng cường cơ bắp, giảm đau, chống mất ngủ, kích thích phản xạ, dung dịch hồi phục… tất tần tật! Khốn nỗi bọn chiến binh không bao giờ thỏa mãn, họ đòi sản phẩm tác dụng nhanh hơn và hiệu quả hơn. Thành ra… chuyện là vậy đấy! 

Năm mắt lươn nhún vai thay cho hàng tá lời muốn nói. Hỏa Nghi không lạ vì đã nghe và chứng kiến nhiều vụ tự hủy hoại do lạm dụng chất kích thích. Gã hỏi tiếp:

-Còn gì nữa không? Gặp khó khăn gì không? Bán liên tục chứ? 

-Rắc rối chứ, sao không? – Năm mắt lươn cười – Rất phiền hà, thị trường lớn nhưng cạnh tranh cao, tiền cắt phế cho quan chức nặng, đủ thứ! Nhưng được cái lãi lớn. Chúng ta gom đủ hàng mới bắt đầu làm, cứ hai tháng một lần. Ngon nhất là lúc thi tuyển hộ vệ thánh sứ! Đơn hàng nhiều, thậm chí xuất khẩu cho bọn bán lẻ. 

-Cả thi tuyển hộ vệ thánh sứ? – Hỏa Nghi ngạc nhiên.

-Phải. – Năm mắt lươn cười hềnh hệch – Có vài chất cấm cấu thành từ phép thuật, phát hiện rất khó. Tất nhiên giá cũng rất đắt! Nhưng ta không bán trực tiếp mà qua bên thứ ba như công ty phân phối, quân đánh thuê hoặc băng đảng, sau đấy bọn này mới chuyển cho đại lý bán lẻ. Cậu thắc mắc tại sao ta không tự bán chứ gì? Bởi thị trưởng quá béo bở, ta giành hết thì ăn bùn sớm, nên phải xé lẻ từng khâu cho người khác. Đông Hoàng cũng từng mua hàng của ta.

-Chắc ông biết những lô hàng mua từ Phi Thiên đều xuất phát ở khu điều chế hóa chất phía đông? Ông từng gặp ai ở đó chưa? Một người chào hàng chẳng hạn?

-Không, ta chỉ làm việc với cá dọn bể. – Năm mắt lươn nhún vai.

Hỏa Nghi thở dài. Câu chuyện vừa đâm vào ngõ cụt. Trước lúc vào tù, Năm mắt lươn thiêu hủy toàn bộ hồ sơ công ty hóa chất nên chẳng còn hóa đơn mua hàng từ Phi Thiên, càng không có bằng chứng cho thấy sự can thiệp của ban lãnh đạo khu hóa chất. Nếu điều tra, trách nhiệm sẽ dồn hết vào đám cá dọn bể. Gã ngó đồng hồ, nhận ra còn năm phút, vội hỏi tiếp:

-Ông biết đám cá dọn bể chứ? Liên lạc với họ thế nào? 

Năm mắt lươn nheo mắt:

-Vậy là họ Hỏa cũng không biết chính xác kẻ cấp hàng? Hay đây! Thỏa thuận một chút, ta muốn nâng giá! Hãy nhận con gái ta làm việc thay vì giấy mời thực tập. Ta không cần thẻ công dân, con bé giỏi giang, tự nó sẽ giành được.

-Còn tùy xem thông tin chính xác cỡ nào. – Hỏa Nghi khoanh tay – Tôi không làm phước, tôi cần thông tin, Anh Năm à!

Lão già bĩu môi nhìn gã trẻ tuổi, hai khe ti hí săm soi. Lần khần ít phút, lão trả lời, tay gắp đồ ăn nhồm nhoàm:

-Chúng ở Đả Thải thành. Tìm một thằng tên Bồ Nông, rất kín tiếng, ít người biết. Thằng này cung cấp nguyên liệu cho cả nửa trên thị trường lục địa Hoa Thổ. Ta gặp Bồ Nông một lần duy nhất, ngày ký hợp đồng. Thằng này máu chó, đôi khi rất chó chết, nên nói chuyện với nó cần kiên nhẫn. 

Hỏa Nghi gật gù, dán chặt từng mảnh thông tin lên vỏ não. Gã ăn uống vài miếng lấy lệ rồi hỏi:

-Giờ ông vào tù, thị trường bỏ ngỏ, liệu Đông Hoàng…

-Tất nhiên là lão đầu sẹo đó nhảy vào rồi! – Năm mắt lươn cười – Lợi nhuận khủng khiếp mà! Chắc giờ này lão làm ăn với thằng Bồ Nông. Hà… hà… Được tướng lĩnh Xích Quỷ bảo kê nên Đông Hoàng sẽ phát triển thị trường lớn hơn cả ta. Nhưng một ngày nào đấy lão sẽ ăn bùn thôi. Lợi nhuận cao, rủi ro lớn, muôn đời là thế. Quan chức chính phủ là một lũ lợn, càng được nhồi ăn, chúng càng khoái và càng đòi hỏi nhiều. Cứ nửa năm một, tiền cắt phế sẽ ngày càng tăng; Đông Hoàng không thiếu tiền nhưng không thể chịu đựng sự đòi hỏi vô lý. Lúc đấy thì đánh nhau thôi! Tình thân mến thân gì cũng đánh tất! 

Gã trẻ tuổi bật cười:

-Chắc ông cũng chịu cảnh tương tự? 

-Phải. Rất nhiều lần! – Năm mắt lươn đáp – Không phải ta thiếu tiền mà vì ta ghét thái độ của bọn chính phủ. Quan trọng là thái độ, cậu hiểu chứ?

Hỏa Nghi nhún vai cười:

-Một chút thôi, tôi không phải người phương đông. Câu hỏi cuối cùng, ông biết những ai làm ăn với Bồ Nông? Một cái tên cụ thể nào đó?

-Ta không biết. – Năm mắt lươn lắc đầu, tàn thuốc rơi đầy quần – Bồ Nông kín tiếng, nó không nói chuyện người khác cho ta nghe và cũng không nói chuyện của ta cho người khác nghe.

Hỏa Nghi nhíu mày:

-Vậy còn ai sản xuất cấm dược như ông? Họ đông chứ?

Năm mắt lươn phủi quần, tàn thuốc rơi lả tả. Lão lắc đầu tiếp:

-Thực tế là không nhiều. Thị trường cấm dược rộng thì rất rộng mà bé cũng rất bé. Vô số đại lý bán lẻ nhưng thuộc quản lý của vài băng đảng, vài băng đảng lại lấy hàng từ những thằng đầu nậu lớn nhất. Đông Thổ này hơi hỗn loạn, ví dụ vùng nam lục địa này do ta đầu nậu, giờ là Đông Hoàng. Trong khi mạn đông bắc do bọn Trường Thành của Bắc Thần quốc cung cấp, mạn tây bắc lại là lũ khác. Các lục địa còn lại trật tự hơn. Phương bắc do Lực Lượng Mù Thủy quản lý, phương tây là Chợ Rác Uất Hận Thành. Phương nam thì ta không biết vì không có ích lợi nào ở đó, chỉ nghe nơi đấy hoạt động tinh vi hơn nhiều. 

Tiếng dùi cui gõ song sắt cắt ngang cuộc đối thoại. Tay quản giáo thông báo sắp hết thời gian thăm nom. Hỏa Nghi giơ tay xin ít phút bù giờ đoạn lôi ra chiếc điếu cày cùng một dúm thuốc màu nâu. Năm mắt lươn hỏi:

-Cái gì thế? Sao ta chưa thấy bao giờ? 

-Tổ tiên các ông, người Lạc Việt từng hút cái này. – Hỏa Nghi nháy mắt vẻ đắc thắng – Giữ lấy làm quà, coi như tôi tặng ông. Ba mươi năm tù dài đấy, ông cần một thứ làm bạn. Hê hê! Đừng giận dữ, tôi không mỉa mai ông. Tôi biết một người sẵn sàng trả mọi giá để đem cái điếu này về trưng bày bảo tàng, ông ta tên Nguyễn Lữ, đại thánh sứ nước ông. Hãy liên hệ với ổng. Nói năng khéo với Nguyễn Lữ, biết đâu ông được đặc xá? Nếu chuyện ấy xảy ra thật, hãy trả ơn tôi đàng hoàng. Vậy nhé, tạm biệt bố già!

Hỏa Nghi rời đi để lại Năm mắt lươn ngơ ngác với chiếc điếu cày. Lòng hận thù của Anh Năm dành cho Đông Hoàng vẫn đương nóng rãy, Hỏa Nghi muốn tận dụng trước khi nó nguội lạnh. Có điều chiếc điếu chỉ là tiêu bản mà gã đặt hàng cấp tốc ở một tiệm đồ gỗ Xích Quỷ, còn đồ thật đã trở về Phi Thiên và yên vị trong tủ trưng bày. Gã cần Năm mắt lươn nhưng ông ta chưa đáng giá đến độ phải đánh đổi chiến lợi phẩm. 



Quay lại Phi Thiên, Hỏa Nghi lập tức điều tra tung tích Bồ Nông. Báo cáo cho hay con chim bói cá này ít ở một chỗ cố định mà thường xuyên di chuyển, nay đây mai đó. Hệ thống dữ liệu quốc gia không lưu lại bất kỳ thông tin nào của hắn. Bồ Nông làm việc tùy hứng, ít theo khuôn phép, thành thử rất khó xác định đặc điểm nhận dạng hoặc tính cách cá nhân. Thì giờ ít ỏi, Hỏa Nghi giao công việc cho Biệt Pháo. Gã còn cả đống chuyện đau đầu khác cần giải quyết. 

Vài ngày sau, Thanh Nhi bí mật khởi hành tới phương bắc cùng vài vệ sĩ. Hôm tiễn cô gái, thay vì động viên dặn dò, cái mặt Hỏa Nghi chảy thượt như bánh quy ngâm nước trông khó coi vô cùng. Biết tính gã, Thanh Nhi chỉ cười: 

-Cậu nhũng nhiễu tôi tận bao giờ đây, Hỏa Nghi? Đàn ông lên chứ! Muốn cưới tôi thì phải đàn ông lên, cậu không thể đóng vai em trai mãi được! Này, phụ nữ không thích làm chị mãi đâu, hiểu chứ? Được rồi, chị sẽ về sớm! Đừng khóc đấy! Chị sẽ về sớm!

Nói rồi ôm đầu Hỏa Nghi. Gã trai dụi mặt vào ngực Thanh Nhi, hai tay siết chặt lưng cô gái. Có một chuyện mà gã chưa kể với Thanh Nhi là hồi bé, gã từng khóc ngon lành vì một người chị. 

Nhưng anh trai gã không thích một cô gái xa lạ đi lại tự do trong nhà. Ngay từ ngày đầu, Hỏa Dương đã có thành kiến với Thanh Nhi dù không biểu hiện ngoài mặt. Cô gái vừa rời khỏi nhà, Hỏa Dương lại lên lớp đứa em:

-Chú chơi bời với con nhỏ đó thế nào anh không quản, nhưng cưới xin thì phải xem xét. Đừng quên cô ta theo chú về đây vì cái danh người thừa kế họ Hỏa. Đàn bà Xích Quỷ giỏi lật lọng, tham lam vô cùng tận, họ yêu những vị thần chứ không yêu con người. Nghĩ kĩ đi!

Hỏa Dương càm ràm không phải lần đầu. Hỏa Nghi nghe riết thành quen, chẳng buồn nhếch mép tranh cãi. Gần đây quan hệ giữa gã và Hỏa Dương diễn biến xấu. Ai lo việc người ấy, gặp nhau chỉ bàn công việc, chẳng người nào dành chút từ ngữ cho chuyện ngoài lề hoặc tán gẫu. Khoảng cách giữa hai anh em đang nứt thành cái khe rộng toang hoác, Hỏa Nghi không muốn nó trở thành vực thẳm. Nhưng cứ nghĩ chuyện Hỏa Dương thỏa thuận với ông chú ruột, gã lại tức điên. Gã cũng có thành kiến của riêng mình. 

Thanh Nhi vừa đi thì Tô Mỹ lên tiếng. Một tối nọ, Tô Mỹ gọi điện tới đúng lúc Hỏa Nghi đang say giấc nồng. Buồn bực vì người chị, Hỏa Nghi to tiếng quát nạt cô tiểu thư phiền phức. Nhưng tâm tưởng gã nghĩ thế chứ còn khuya mới dám. Đáp lại tiểu thư, Hỏa Nghi khoác ngay vẻ sốt sắng, một vâng hai dạ ba cười xuề xòa. Chưa kể gã đang nhờ vả Tô Mỹ nên không thể cáu gắt. 

-Anh đang ngủ sao? Ồ, hai giờ sáng! Tôi quên mất thời gian! – Tô Mỹ nói – Xin lỗi vì làm phiền, nhưng tôi vừa có kết quả hóa nghiệm nên phải thông báo cho anh ngay. Tính tôi thế, anh thông cảm. Những hợp chất mà anh gửi cho tôi có lẫn thành phần quang tố. Đại khái sau khi điều chế rồi tái chế, thành phần quang tố có xu hướng liên kết thành dạng lỏng…

-Dễ hiểu, thưa cô. – Hỏa Nghi cười mếu – Tôi không phải người giỏi hóa học lắm…

-À, tôi hiểu! – Tô Mỹ cười tươi – Đại khái là trong các thùng hóa chất chưa đủ quy trình đó có lẫn dung dịch quang tố lỏng. Thứ này hầu như không thể làm gì khác ngoài điều chế thuốc kích thích hoặc cấm dược. Theo hiểu biết của tôi là thế. 

Hỏa Nghi gật gù. Kết quả hóa nghiệm trùng khớp với lời khai của Năm mắt lươn, càng khẳng định rằng ai đấy trong ban lãnh đạo nhà máy dung túng xưởng tái chế, bán hàng cho bọn cá dọn bể rồi thu lợi nhuận bất chính. Bằng trực giác không nhuốm chút tình cảm hay ham muốn trả đũa, Hỏa Nghi ngờ vực ông chú ruột đang nhúng tay vào vụ xưởng tái chế. Nhưng trước khi khẳng định, gã cần thêm nhiều bằng chứng xác thực. Gã không muốn lặp lại sai lầm cảm xúc như hồi tìm kẻ chủ mưu đầu độc hoàng đế Đệ Thập.

-Kết quả là vậy, tôi đã nói phần quan trọng nhất. Nhưng còn nhiều cái khác nữa, mà giờ nói thì lâu lắm! Mai anh không bận gì chứ? Hay qua nhà tôi một lúc? – Tô Mỹ thỏ thẻ – Tôi sẽ gửi kết quả đầy đủ! 

Hỏa Nghi chột dạ. Gã không ngại đối diện cha mẹ nàng tiểu thư hay động vào mấy tình huống khó xử. Chỉ là họ Chân Tâm đang ngự trị trên Đồi Cánh Cung. Hầu hết ký ức tuổi thơ Hỏa Nghi nằm lại trên cung đồi ấy. 

Dù vậy Hỏa Nghi vẫn đồng ý trong sự bồn chồn khó tả. Cái bồn chồn bứt rứt theo gã vào giấc ngủ, thành ra không yên giấc. Trong thành phố tưởng tượng của gã, những phần cơ bản đã xong, nơi chốn đẹp đẽ cho gã và Thanh Nhi vừa hoàn thiện, nhưng còn đó Đồi Cánh Cung khiến gã phân vân. 

Hỏa Nghi yêu Thanh Nhi, nhưng gã chưa bao giờ kể cho cô gái nghe về Đồi Cánh Cung. 

Trưa hôm sau, Hỏa Nghi cùng tay vệ sĩ Tru Đồ lên tàu đến phía nam thủ đô. Vùng nam Phi Thiên thành sôi động hơn những nơi khác vì tập trung nhiều cảng hàng không, những chiếc tàu thủy kiểu cổ chở khách du lịch rẽ sóng vào sông Vành Đai Xanh, dân bản địa lẫn khách tứ xứ chen chân nhau trên khắp các con đường. Ở đây, nhà trong quận Mắt Trắng thấp hơn, cửa tiệm hàng quán lấn ra những vỉa hè lát đá cam đỏ và ồn ã tiếng hỏi giá hay mặc cả kiểu xưa cũ. Bên kia sông, quận Trăng Khuyết không còn hoàn hảo mà đầy đường nét nứt vỡ, bất đối xứng và cũ kĩ của những pháo đài cổ xưa. Người lớn thấy vùng nam thủ đô xô bồ nhưng trong mắt bọn trẻ, nó là cả thế giới màu sắc. 

Đa số trẻ con Phi Thiên thành biết vùng nam thủ đô từ sớm. Hỏa Nghi thì khác. Trước lúc chín tuổi, thằng bé con Hỏa Nghi chỉ biết Đảo Sắt Thép không bóng cây xanh, hoàng cung rộng lớn, các viện bảo tàng cổ kính với vô số căn hầm bí mật. Ở Đảo Sắt Thép, nó ăn toàn những món do đầu bếp thượng hạng chế biến mà không biết vị ngọt của cái kẹo mút rẻ tiền. Một ngày kia, người cha – khi ấy tóc còn đen nhánh, dáng đi đứng còn nhanh, mạnh – quyết định cho thằng bé sống xa nhà. Người cha bận việc còn anh trai mài mặt thi cử, thằng bé Hỏa Nghi bơ vơ. Nó cần người chăm sóc. 

“Ngày mai, Hỏa Dương sẽ đưa mày tới Đồi Cánh Cung. Ta đã nhờ một người bạn chăm sóc. Đấy là họ Chiến, không phải họ Hỏa chúng ta nên liệu mà cư xử. Đừng gườm gườm cái mặt như thế! Chín tuổi rồi, không ít ỏi đâu! Đàn ông lên!”



Những lời của người cha năm nào, Hỏa Nghi nhớ như in. Hôm sau, thằng bé theo anh trai lên tàu đến Đồi Cánh Cung, đó cũng là lần đầu tiên Hỏa Nghi chứng kiến vùng nam thủ đô. Cảnh tượng hồi đó giống hệt bây giờ, chỉ khác là Tru Đồ đang ở chỗ Hỏa Dương từng ngồi và Hỏa Nghi đã cao hơn mấy lần

Tàu cập bến quận Mắt Trắng, Hỏa Nghi rảo chân qua nhiều cung phố nhỏ hẹp. Quay lại chốn cũ sau hơn mười năm, gã thấy phố sá thay đổi ít nhiều, chỗ quen chỗ lạ sát sạt nhau, bước chân thành thử theo cảm tính là nhiều. Chỉ có mùi biển mằn mặn là không thay đổi. Hồi chín tuổi, thằng bé Hỏa Nghi ghét mùi này và gọi nó là “mùi nhà vệ sinh”. Khôi hài thay, Hỏa Nghi bây giờ lại ghét sự sạch sẽ lẫn cái mùi trong lành không bụi bẩn của Đảo Sắt Thép. 

Dựa theo mùi gió lẫn trí nhớ bập bõm, cuối cùng gã và Tru Đồ cũng đến khu Đồi Cánh Cung. Nó là một dải đồi vắt hình cánh cung ở phía đông nam quận Mắt Trắng, được bao bọc bởi một khu rừng. Khu rừng chỉ trồng một giống cây gọi là Cây Bão có thân thẳng đuột, tán lá dập dờn màu cam lẫn xanh dương và sắc mảnh tựa lưỡi kiếm. Cây Bão chỉ mọc ở miền biển viễn tây lục địa, cũng là nơi họ Chiến khởi nguồn. Ngày định cư ở thủ đô, họ gieo hạt giống cây này, qua năm thế kỷ thì chúng trở thành khu rừng gọi là Rừng Bão Tố. 

Men theo những con đường dốc lát gạch hoa văn, bọn Hỏa Nghi gặp vài trạm canh gác. Trước mỗi trạm đều treo lá cờ tam giác in hình chiếc hòm vàng – gia huy của họ Chân Tâm. Nhưng hơn mười năm trước, chúng là những lá cờ chữ nhật in hình Cây Bão – biểu tượng của họ Chiến. Lần đầu thấy khu rừng cùng gia huy họ Chiến, thằng bé Hỏa Nghi chín tuổi hơi sợ sệt. Nó không thích khu rừng sắc nhọn này cùng quần thể lâu đài phía xa gồm những tòa nhà nhiều cửa sổ, mái chóp nhọn hoắt cùng mấy tháp chuông im lìm. Mùi rừng, mùi biển lẫn mùi cổ kính của nơi này làm thằng bé sợ. Nhưng tại cánh cổng sắt dẫn vào khuôn viên họ Chiến, chào đón đứa nhỏ lại là những nụ cười. Khi ấy, thằng bé co rúm trước một người đàn ông mặc quân phục, mắt trái lóe ánh sáng đỏ như có bóng đèn trong con ngươi. Ông ta cười:

“Chào cháu, Hỏa Nghi. Ta là bạn của cha cháu, từ giờ cháu sẽ là thành viên trong nhà chúng ta. Họ Chiến luôn mở rộng cửa đón tiếp cháu. Muốn đi thăm một vòng không? Chiến Ca, đưa cậu nhỏ này đi chơi nào!”



Thằng bé Hỏa Nghi sợ sệt không dám bước, cứ nắm chặt tay anh trai. Bỗng trước mắt nó xuất hiện một cô bé với đôi mắt xanh dương, tóc đen dài cột ruy băng trắng. Cô bé cao hơn Hỏa Nghi một cái đầu, đôi môi đỏ mọng như trái dâu chín cười tươi:

“Chào nhóc, chị là Chiến Ca. Đi với chị, đừng sợ!”



-Anh đến rồi! Tôi chờ mãi, bộ anh không đúng giờ được hay sao?

Tiếng nói làm Hỏa Nghi giật mình. Quá khứ tan biến, thực tại thế chỗ. Vẫn cánh cổng sắt, vẫn những tòa kiến trúc năm nào nhưng người đứng ở cửa bây giờ là tiểu thư Tô Mỹ. Cô gái làm bộ trách cứ Hỏa Nghi rồi dẫn gã và tay vệ sĩ đi băng qua khuôn viên, vòng qua một đài phun nước rồi tiến vào cửa chính lâu đài. Từng mét đất ở đây đều có ký ức của Hỏa Nghi, gã dằn lòng, cố điều hướng suy nghĩ vào công việc để khỏi nhớ đến chúng. 

Thay vì dẫn Hỏa Nghi tới phòng khách, nàng tiểu thư đưa gã lên phòng riêng. Hỏa Nghi nhột nhột ngứa ngứa vì thấy sự việc tiến triển hơi nhanh, chưa kể gã không mang bao cao su. Từ ngày dính vào Thanh Nhi, gã hết gái gú nên trong người không sẵn món này. Gã yêu Thanh Nhi nhưng không chắc có thể chịu đựng bao lâu nếu nàng tiểu thư giở trò khiêu khích. 

Bọn thích làm bậy thì hay nghĩ bậy. Sự thật là Tô Mỹ gọi gã vào phòng riêng để đưa kết quả hóa nghiệm và trò chuyện. Tòa lâu đài có nhiều hành lang trưng bày tranh, những phòng trà trông ra biển hay khoảnh vườn rào rào tiếng nước chảy từ các đài phun – rất thích hợp cho đôi nam nữ dạo bộ hoặc thủ thỉ tâm tình. Nhưng Tô Mỹ không thích những cái nhìn tò mò của đám giúp việc lẫn người đồng tộc, nàng muốn riêng tư. Hỏa Nghi cười nham nhở, gãi đầu gãi tai:

-Vậy mà tôi cứ tưởng… Hề hề hề!

Tô Mỹ nhíu mày:

-Tưởng cái gì? À… vậy ra anh nghĩ tôi là người như thế hả? Nếu thế… cũng đúng đấy!

Nói rồi nàng tiểu thư bước tới dồn Hỏa Nghi vào góc phòng. Gã trai hơi hoảng, tay lập cập đánh rơi kết quả hóa nghiệm. Gã cao hơn nên ngửi thấy mùi oải hương từ mái tóc màu hạt dẻ, gương mặt hồng cùng đôi mắt xanh lơ của Tô Mỹ. Đôi mắt gã trượt xuống thấp hơn, thấy cái khe thấp thoáng giữa ngực áo và phần vòng ba căng nhựa sống. “Úp mặt vào đấy thì sao nhỉ?” – Ham muốn bậy bạ nổi lên làm Hỏa Nghi vã mồ hôi hột. Tô Mỹ cười:

-Sao thế? Dì tôi nói anh lăng nhăng lang chạ, cơ mà hình như không đúng lắm! Giờ anh như cậu bé mới lớn ấy!

Hỏa Nghi nuốt nước bọt, thở phì phò. Chợt trông thấy vật cứu tinh, gã vội reo lên:

-Kia là gia đình cô hả?

Tô Mỹ ngoảnh lại nhìn bức ảnh chụp gia đình bốn người treo trên tường. Nàng gật đầu, giọng nói tươi vui hơi chùng xuống:

-À, phải… Ảnh chụp lâu rồi, khoảng tám năm trước.

Có cớ thoát khỏi cảnh khó xử, Hỏa Nghi tót đến săm soi bức ảnh. Nhận ra Tô Mỹ cách đây tám năm bầu bĩnh tròn trịa hơn, gã lấy đó để trêu chọc cô tiểu thư. Bên cạnh Tô Mỹ tám tuổi là một cô gái trưởng thành, cũng đôi mắt xanh lơ cùng mái tóc hạt dẻ đặc trưng, khá giống Tô Mỹ hiện tại. Có khác chăng là người con gái này hiền lành hơn, đôi mắt không mang cái tươi tắn mùa hạ như Tô Mỹ mà man mác sự tĩnh lặng mùa thu. Hỏa Nghi hỏi:

-Chị gái cô?

-Ừ, chị tôi, tên Tô Mãn. – Cô tiểu thư đáp – Nhưng chị mất lâu rồi. Một vụ tai nạn.

-Ồ, tôi xin lỗi!

-Không sao. Chỉ là sau khi chị mất, tôi gặp kha khá vấn đề, vài năm gần đây mới bình tĩnh hơn. Tôi còn vài bức ảnh nữa, anh xem không? 

Hỏa Nghi gật đầu. Tô Mỹ đang cần người chia sẻ nên gã không từ chối. Nàng tiểu thư bật máy chiếu mở ra hàng trăm bức ảnh. Có ảnh chụp Tô Mỹ lúc bé xíu, lúc nằm gọn trong tay người chị Tô Mãn, khi thì dự tiệc sinh nhật hoặc vui chơi bên bạn học, đôi khi lẫn lộn với ảnh của người khác. Bộ ảnh nói chung chỉ phù hợp cho những khoảnh khắc riêng tư hoặc chia sẻ giữa hai người. Mỗi lần thấy ảnh người chị, cả tâm trí lẫn lời nói của Tô Mỹ lại miên man:

-Họ Chân Tâm chúng tôi quản lý ngân hàng, kho tàng và cất trữ báu vật. Chúng tôi giữ nhiều báu vật của Phi Thiên, của các dòng họ trong đó có họ Hỏa. Nhưng chị tôi không theo nghề nghiệp gia đình. Chị chọn ngành nghiên cứu nghệ thuật. Gia đình phản đối dữ lắm nhưng chị không nghe. Mẹ và dì hay bảo tôi chẳng giống chị điểm gì, trừ tính cứng đầu.

Hỏa Nghi gật gù, bàn tay lướt qua các bức ảnh. Tô Mỹ không xinh đẹp xuất sắc nhưng đầy đủ khí chất của một tiểu thư quyền quý, ai nhìn vào không yêu thích thì cũng ngưỡng mộ. Hỏa Nghi lướt mãi, lướt mãi, bất thình lình ngừng lại trước một bức ảnh. Ảnh chụp Tô Mãn đang ôm tay một gã trai, Tô Mãn tươi cười còn gã trai lầm lầm lì lì, đầu nghiêng nghiêng không rõ mặt. Hỏa Nghi mở to mắt:

-Đây… là bạn trai của chị cô à?

-Tôi không rõ lắm, chắc vậy. – Tô Mỹ đáp – Chị ít khi kể về bạn trai lắm! Mà cái này hơi lạ… tôi chưa thấy bao giờ…

Tô Mỹ nheo mắt săm soi bức ảnh còn Hỏa Nghi đánh trống ngực liên hồi. Gã sẽ chẳng bao giờ nhận ra gã trai trong ảnh nếu chưa từng xem ảnh chụp đội Thổ Hành tiền nhiệm. Cái mặt lầm lì, đôi mắt hoang dại cùng mái tóc đỏ kia chỉ có thể là Vô Phong chứ không ai khác. “Cậu là thứ quái quỷ gì thế, ông bạn?” – Hỏa Nghi than thở. 
 
Quyển 4 - Chương 12: Còn sống


Hỏa Nghi dụi mắt hai, ba lần, đôi lúc tự bẻ méo tâm thức của mình nhưng sự thật vẫn trờ trờ ra đó. Gã lì lợm trong ảnh là Vô Phong, không phải ai khác. Cô tiểu thư quá cố Tô Mãn đang ôm cánh tay Vô Phong, không phải ai khác. Không phải người bạn tóc đỏ gã biết mà là con chó săn tóc đỏ của Thổ Hành. Như nghi ngờ sự thật, Hỏa Nghi nhỏng cổ khom lưng nhìn cho rõ. Tô Mỹ ngạc nhiên:

-Anh quen người trong ảnh à?

Hỏa Nghi ngớ người quên tiểu thư Tô Mỹ ngồi cạnh. Nhanh như chớp, gã rời sự chú ý sang cô tiểu thư, hết nhìn nàng lại nhìn người chị Tô Mãn trong ảnh:

-Ngoài mái tóc, trông cô hơi khác chị. 

-Nhiều người cũng bảo thế! – Tô Mỹ cười – “Chị em khác nhau, nhà thêm đau thêm tai họa”, người Phi Thiên chúng ta nói thế. Nhưng chị thương tôi. Hồi nhỏ, bị cha mẹ mắng, tôi toàn tìm chị. Rồi quấn quá, tới lúc chị chuyển ra ngoài, tôi khóc mấy ngày trời. 

Hỏa Nghi gật gù, hiểu được phần nào tâm tư nàng tiểu thư vì bản thân cũng từng có một người chị như thế. Gã ậm ừ:

-Cô ấy chuyển ra để học ngành nghệ thuật, phải không? Rồi bắt đầu có bạn trai, yêu đương đủ thứ! Hê hê! Trông gã này hoang dã nhỉ… – Gã chỉ tay vào tấm ảnh – …chị cô đã nói cho cô nghe về bạn trai chưa?

Nàng tiểu thư cúi người nhìn bức ảnh cho rõ, vô tình giúp Hỏa Nghi hiểu rõ vài chuyện. Gã chắc chắn rằng Tô Mãn luôn giữ kín chuyện tình cảm với gia đình kể cả với đứa em mà cô ta yêu thương. Nghĩ ngợi một lúc, Hỏa Nghi thầm tạ ơn Vạn Thế ban cho Vô Phong cái tính thích phiêu lưu nay đây mai đó. Giả dụ tên tóc đỏ nghe lời Tiểu Hồ bước chân vào giới quý tộc, xin tài trợ, chườn mặt lên truyền hình phỏng vấn thì Tô Mỹ đã ngờ ngợ kẻ trong ảnh. Tên tóc đỏ cố chấp làm thầy giáo trợ giảng đâm lại hay, vừa bảo vệ mình vừa giúp Hỏa Nghi tránh một vụ tra khảo. Nghe đàn bà chỉ xuống hố! – Hỏa Nghi tặc lưỡi.

Ngắm bức ảnh mãi, Tô Mỹ lắc đầu chịu thua vì chẳng quen biết gã tóc đỏ. Cô gái thở dài:

-Chị tôi chưa bao giờ kể. Tôi gần gũi chị nhưng luôn cảm thấy khoảng cách. Anh hiểu chứ? Một khoảng cách đủ để tôi hiểu rằng giữa chị em vẫn có sự riêng tư nhất định và cả hai cần tôn trọng nó. Tôi nghĩ chị ấy có lý do để giấu mọi người. Anh biết đấy, chuyện nam nữ ở dòng họ lớn chưa bao giờ dễ dàng…

Hỏa Nghi tặc lưỡi nhún vai vẻ thông cảm, sau tiếp tục lướt các bức ảnh nhưng không tìm thấy tấm nào chụp Vô Phong nữa. Nghĩ ngợi một chút, gã vờ hỏi:

-Tiểu thư như Tô Mãn sống xa gia đình, chắc phải có vệ sĩ đi kèm. Bộ cha mẹ cô không biết Tô Mãn hẹn hò sao?

-Tôi không chắc. – Tô Mỹ lắc đầu – Trước lúc đi, chị ấy nói không cần vệ sĩ còn cha mẹ tôi phản đối. Họ to tiếng, cũng là lần cãi nhau duy nhất. Rồi từ đấy tôi chẳng thấy chuyện gì bất thường. Hoặc có thể cha mẹ và chị không muốn tôi biết họ đang bất hòa. Nhưng cha mẹ tôi lo lắng cũng đúng, vì chị đi học xa quá.

-Ở đâu vậy? – Hỏa Nghi nhíu mày. 

-Cội thành, thành phố cổ, khởi nguồn của Phi Thiên quốc. Chắc anh biết nó?! Phải rồi, tận phía tây bắc lãnh thổ, xa xôi lắm! Các trường nghệ thuật của Phi Thiên đều tập trung ở đấy.

Hỏa Nghi gật gù, ngoài mặt cười cười nghe đâu biết đấy còn trong lòng đoán già đoán non. Gã tin rằng cha mẹ Tô Mỹ nắm rõ con mình hẹn hò với ai. Chân Tâm là dòng họ lớn và có vị trí pháp quan, dĩ nhiên không thể để tiểu thư Tô Mãn hẹn hò với con chó săn Thổ Hành. Vậy bức ảnh từ đâu ra? Có thật họ hẹn hò hay là bạn? Nếu là bạn thì tại sao quen nhau? Hỏa Nghi bóp trán suy nghĩ, càng nghĩ càng thêm nể ông bạn tóc đỏ đi tới đâu lưu lại dấu răng tới đó. 

Cả tá câu hỏi thôi thúc Hỏa Nghi truy vấn Tô Mỹ. Nhưng thấy nét mặt tiểu thư rầu rầu, gã đành kìm lại cơn tò mò. Nỗi tiếc nuối người chị đang ứ đọng trên mi mắt Tô Mỹ dù chuyện mất mát xảy ra đã lâu. Hỏa Nghi hỏi thêm khéo chừng căn phòng sẽ biến thành nhà nguyện đầy tiếng than khóc và cầu xin Vạn Thế. Gã lảng vấn đề khác, chuyện trò thêm ít lâu trước khi dùng bữa cùng gia đình Tô Mỹ. Đang giai đoạn kết thân tìm liên minh, ăn uống cũng là phần quan trọng. 

Bữa ăn diễn ra vui vẻ. Cha mẹ nàng tiểu thư trò chuyện với Hỏa Nghi khá nhiều. Thay vì bới móc đời tư của gã, họ hỏi những chuyện dễ khiến thằng đàn ông nổi máu phét lác như công việc hay sự nghiệp. Hai người chăm chú nghe gã trả lời song ít bày tỏ thái độ, chỉ thi thoảng mỉm cười hoặc bàn luận nếu cần thiết. Họ thông minh, đầy hiểu biết, vui tính và niềm nở nhưng vẫn giữ những phép lịch sự nghiêm ngặt; họ là những quý tộc điển hình của thế hệ cũ còn sót lại trong thời đại mới. Đối diện họ, Hỏa Nghi không gặp nhiều khó khăn, có chăng là hơi ớn Tô Khanh – cha đẻ Tô Mỹ. Đó là một người đàn ông tầm thước, gọn gàng và sở hữu bộ ria mảnh dài tỉa tót theo lối cổ điển. Ông ta thường nhìn Hỏa Nghi theo kiểu đọc bảng cân đối kế toán, rất đồng điệu với một ông chủ ngân hàng và một người cha bảo vệ con gái. Gã không ngạc nhiên. Giả như có con gái, gã cũng làm vậy. 

Vấn đề thực sự nằm ở bà dì. Trong lời kể của Tô Mỹ luôn xuất hiện một bà dì cảnh báo nàng coi chừng bọn đàn ông lăng nhăng, nay Hỏa Nghi được diện kiến tận mắt. Bà ta ngồi cạnh mẹ Tô Mỹ, ăn thì ít mà săm soi gã trai họ Hỏa thì nhiều. Hỏa Nghi nói cái gì hoặc ăn món gì, bà ta để ý từng li từng tí bằng cặp mắt với tròng trắng chiếm ba phần tư, đôi lưỡng quyền nhô cao như đá chắn sóng. Không có gia đình Tô Mỹ ở đây, hẳn bà ta đã nhào qua bàn ăn rồi táp Hỏa Nghi bằng những câu hỏi sấn sổ. Vì bà dì, không khí bàn ăn đôi lúc căng thẳng. Đợi lúc bà ta lấy thức ăn, bà Tô Khanh – mẹ Tô Mỹ mới cúi người cùng nụ cười gượng:

-Xin lỗi cậu, Hỏa Nghi. Em gái tôi hay thế với người lạ, mong cậu đừng để bụng. 

-Vậy bà ấy là… – Hỏa Nghi hỏi. 

-Đoan Hạnh, em gái tôi. Trước đây cô ấy lấy tên theo chồng là Tô Hầu. Nhưng sau khi chồng mất, cô ấy trở về tên cũ. – Bà Tô Khanh trả lời – Tô Hầu là em ruột ông nhà tôi. 

-Ồ, xin lỗi vì đã tò mò, tôi thực sự không biết. – Hỏa Nghi nói.

Người phụ nữ lắc đầu cười tỏ ý không phiền. Phía đầu bàn ăn, ông chủ gia đình Tô Khanh lên tiếng:

-Bình thường thôi, cậu Hỏa Nghi. “Chết” là mặt tất yếu, Tử Thần phải làm việc đó để giúp Vạn Thế duy trì trật tự thế giới. Cây mẹ đã sắp đặt những dòng chảy từ quá khứ đến hiện tại và cái chết là một phần trong dòng chảy đó. Đau đớn, không dễ gì vượt qua… nhưng “chết” làm con người chúng ta nhận ra mình chỉ là sinh vật nhỏ bé dưới tay thánh thần. Con quạ không thể vươn tới mặt trời. Cậu nghe chuyện ấy chưa?

Hỏa Nghi gật gù. Gã có nghe nhưng quên gần hết vì sắt thép – rượu bia – mông ngực đã chiếm hết não bộ, không dư chỗ cho giáo điều. Ông Tô Khanh liền chuyển chủ đề, phần vì thấy nét mặt con gái sa sầm khi nghe cái chết, phần vì bà dì khó tính đã quay lại bàn ăn: 

-Cảm ơn cậu vì đã chiếu cố cho con gái ta ở nhà máy hóa chất. Tô Mỹ có năng lực nhưng đôi khi khá hậu đậu, mà khu hóa chất không chấp nhận những sai lầm. Ta đã lo lắng nhiều. Thật may là cậu giúp đỡ con bé. Ban đầu, ta phản đối Tô Mỹ theo ngành này vì muốn con bé kế nghiệp gia đình. Như cậu biết, gia đình ta là chi trưởng họ Chân Tâm, cũng như gia đình cậu là chi trưởng họ Hỏa. Nhưng thế giới thay đổi quá nhanh còn ta lại không theo kịp. Ngân hàng đã mở rộng đầu tư, những kho tàng không chỉ cất trữ vàng bạc hay những báu vật cụ thể. Và ta nhận ra là bằng nhiều cách, Tô Mỹ có thể sống như mong muốn trong khi truyền thống gia đình vẫn được tiếp nối. Chúng ta không nặng nề chuyện nam nữ như những dòng họ khác. Tuy nhiên sự thay đổi cần nền tảng, vậy nên ta có một lời đề nghị: cậu có thể giúp đỡ Tô Mỹ nhiều hơn nữa với tư cách trưởng tộc họ Hỏa? Nếu được, ta sẽ rất vui và luôn đón tiếp cậu như một thành viên gia đình. 

“Món chính” đã dọn nhưng Hỏa Nghi chưa vội. Như một kẻ sành ăn hết hít hà lại ngắm nghía rồi mới dùng bữa, gã cũng suy nghĩ kĩ càng trước khi trả lời. Gã thoáng chốc nhớ lại mấy cuộc trò chuyện cùng Tông Tủy. “Cẩn thận với mỗi đề nghị. Các quý tộc Phi Thiên rất thích vòng vèo và chơi trò con chữ, đặc biệt là những dòng họ cổ xưa và lâu đời!” – Lời dặn dò của ông bộ trưởng vẫn nguyên giá trị. Hỏa Nghi đáp lời:

-Tất nhiên là tôi chiếu cố tiểu thư vì cô ấy tài năng, thưa ngài. Chúng ta vốn thích người được việc, nhất là khi cô ấy đang làm việc tại xưởng hóa chất của họ Hỏa. Nhưng trên tư cách trưởng tộc thì tôi phải xem xét. Nếu tiểu thư chứng tỏ được mình, ban quản lý xưởng hóa chất sẽ để mắt thôi. Họ Hỏa luôn đánh giá mọi người theo năng lực, tôi đảm bảo với ngài. 

Người phục mang thêm thức ăn. Ông Tô Khanh nhổm dậy, tự tay lựa món rồi rót rượu cho Hỏa Nghi:

-Nếu vậy thì tốt, cảm ơn cậu! Ta tin tưởng Tô Mỹ, con bé có năng lực, họ Hỏa sẽ không phải thất vọng. Hy vọng con bé có thể làm cầu nối giữa hai dòng họ. Chắc cậu biết hai dòng họ đã hợp tác từ lâu và luôn hỗ trợ nhau khi cần thiết. Ta muốn nâng cao quan hệ đó, cậu thấy sao?

Hỏa Nghi gật gù. Tô Khanh không nói lịch sự mà đấy là sự thật. Các dự án phát triển công nghệ mới của họ Hỏa tiêu tốn rất nhiều tiền, ngân sách của dòng họ không phải lúc nào cũng dư dả trong khi ngân sách chính phủ lại khắt khe. Với những trường hợp như vậy, họ Chân Tâm luôn là cứu cánh hiệu quả. Tiền bạc, nhà đầu tư hay các đầu mối cung cấp luôn là thế mạnh của họ Chân Tâm. 

-Phi Thiên quốc thống nhất nhờ bảy dòng họ lớn. – Tô Khanh tiếp lời, tay lắc nhẹ ly rượu vang – Họ Hỏa với công nghệ kỹ thuật; họ Chân Tâm với ngân hàng và kho tàng; họ Đồng Ấn với những tay chính trị giỏi; họ Binh Thủy với lãnh thổ dồi dào khoáng sản phía đông nam; họ Cao Đáo với những thương gia giàu có; họ Luật với những nhân vật thông tuệ sở hữu những kiến thức cổ xưa. Còn họ Chiến… cậu biết đấy. Bảy giờ chỉ còn sáu. Trong số đó, họ Hỏa và họ Chân Tâm ít can dự tranh chấp, chúng ta luôn tin tưởng hòa bình đem tới ổn định. Nhưng mọi thứ đang thay đổi, quan điểm cũ có nhiều hạn chế. 

-Ý ngài muốn thay đổi quan điểm? – Hỏa Nghi hỏi. 

-Nếu phải thế thì nên thế. – Tô Khanh trả lời – Nhưng ta vẫn thích truyền thống hơn, có điều phương thức cần thay đổi. Rượu vang cũng thế, chúng ta vẫn giữ được hương vị truyền thống bằng công nghệ hiện đại, phải chứ?

Suốt mười đời hoàng đế Phi Thiên, họ Hỏa lẫn họ Chân Tâm chọn cách đứng ngoài tranh chấp nội bộ. Cả hai đều có vị thế riêng mà những dòng họ khác không thể xâm phạm. Nhưng chuyện nay khác xưa. Đệ Thập sắp chết mà hai đứa con của ông chưa ổn định, các pháp quan nghiễm nhiên sở hữu nhiều quyền lực hơn cả. Không người kiềm chế nên bọn họ được dịp tung hoành, kéo theo các dòng họ bộc lộ nhiều thủ đoạn hơn. Trong sáu dòng họ, họ Hỏa và họ Chân Tâm được coi là “hiền lành” nhất. Vậy nên để tránh nghiêng ngả giữa cuộc đấu đá, Tô Khanh chọn cách liên minh sớm. Hỏa Nghi hiểu rất rõ. 

Với dòng họ lớn, những bản hợp đồng tiền bạc nhẹ tênh so với một sợi chỉ ràng buộc tình cảm. Nhận con nuôi, nhận cha đỡ đầu, cùng làm lễ rửa tội, cùng ăn tiệc Ngày Nguyện tại thánh đường, cao hơn cả là hôn nhân… rất nhiều cách để gắn bó hai dòng họ. Chẳng khó để nhận ra ông Tô Khanh đang nhắm tới một tiệc cưới đàng hoàng cho con gái, trang trọng đến độ lũ báo chí phải chầu hẫu trước Đảo Sắt Thép hoặc Đồi Cánh Cung cả năm trời. Nhưng Hỏa Nghi không kham nổi sợi chỉ se duyên này. Gã thấy nó giống khăn thắt cổ hơn. Đồng ý đã dở, từ chối càng dở, Hỏa Nghi mỗi lúc thêm khó thở. Nghĩ mãi, gã cất lời:

-Ngài đánh giá tình hình hiện nay thế nào? Tôi còn trẻ, chưa có hiểu biết về những dòng họ khác. Những thông tin tôi nhận được chỉ mang tính chất kỹ thuật, không phản ánh tất cả. Ngài nhiều kinh nghiệm hơn, xin phép ngài chỉ bảo. 

Được nịnh khéo, ông Tô Khanh nhấp rượu và giấu cái nhướn mày đắc ý sau vành ly thủy tinh. Rồi ông ta trả lời:

-Cuộc chiến giữa các pháp quan đã bắt đầu nhưng sáu dòng họ chưa có động thái. Họ đang dè chừng. Bài học họ Chiến hơn mười năm trước vẫn còn đó. Chỉ một quyết định sai lầm, họ Chiến tự bước vào diệt vong. Đệ Thập không phải ông già dễ bắt nạt như họ nghĩ. Lúc ấy vì cục diện căng thẳng với Lưu Vân quốc, Đệ Thập đã ngừng điều tra những dòng họ khác. Cậu hiểu đấy, đảo chính không thể dựa vào một tổ chức riêng biệt.

-Sau chiến tranh biên giới với Lưu Vân, hoàng đế còn điều tra nữa không? – Hỏa Nghi hỏi.

-Việc điều tra bị đình chỉ do tình huống cấp bách. Hiến pháp ghi rõ hoàng đế có quyền làm vậy. – Tô Khanh trả lời – Nhưng hiến pháp cũng ghi hoàng đế có quyền đề xuất tái điều tra, nếu đủ bằng chứng, bên công tố sẽ làm việc trước khi chuyển hồ sơ lên tòa án tối cao. 

Hỏa Nghi vuốt cái cằm lún phún râu:

-Nói thế, Đệ Thập Nhất có thể tái khởi động vụ điều tra. Và…

Ông Tô Khanh trỏ ngón vào Hỏa Nghi tỏ ý khen ngợi gã hiểu vấn đề nhanh chóng. Cả sáu dòng họ đang ở thế bí, vừa không thể khiến người ta ngờ vực mà cũng chẳng thể đứng yên trước vị tân vương – nhất là những dòng họ dính líu vào vụ đảo chính của họ Chiến. Công tác điều tra mới bị đình chỉ chứ chưa đóng sổ và không gì đảm bảo rằng Đệ Thập Nhất sẽ để yên. Bất cứ bên nào bày tỏ động thái sẽ lôi kéo các dòng họ còn lại vào cuộc tranh chấp. 

-Hồ sơ điều tra nằm trong tay một ủy ban hỗn hợp giữa quốc hội và viện công tố, không ai có thể tiếp cận nó kể cả pháp quan. – Tô Khanh tiếp lời – Nên nhiều khả năng các dòng họ sẽ đi trước một bước để tự bảo vệ mình. Ngộ nhỡ viễn cảnh tái điều tra xảy ra, họ có cớ để biện hộ hoặc gây sức ép. Hoàng tử và công chúa quá trẻ, họ chưa đủ quyền lực để hành xử như Đệ Thập. 

Hỏa Nghi nghiêng nghiêng đầu:

-Tôi chưa thấy những dòng họ khác có biểu hiện bất thường. Ngài thì sao? Cũng không?! Nếu vậy, tôi nghĩ chúng ta nên chờ đợi thêm một thời gian nữa. Hãy để những ai có tật giật mình hành động trước, sau đấy hẵng tới phiên chúng ta lên tiếng. Đằng nào họ Hỏa và họ Chân Tâm cũng là những người “hiền lành”, chúng ta nên duy trì truyền thống, thưa ngài. 

-Tình hình lúc thế này lúc thế kia. Cơ hội ngày hôm nay khó quay lại vào ngày mai. Thời buổi của những kẻ nhanh chân mà, cậu Hỏa Nghi!

-Nếu vẫn chung quan điểm, chúng ta luôn luôn có cơ hội, thưa ngài. – Hỏa Nghi đáp – Đang thời điểm nhạy cảm, tôi vẫn chưa rõ ai thực sự là bạn. Ngài hiểu đấy… 

Nói rồi gã nhún vai thay cho những từ ngữ đang ngập ngừng. Tô Khanh nhìn bà vợ một lúc đoạn gật gù, sau nở nụ cười mời gã ly rượu. Bữa ăn tiếp tục. Kể từ đấy, ông Tô Khanh không đề cập chuyện liên minh hay dòng họ nữa dù ngoài mặt vẫn hết sức vui vẻ. Có thể Hỏa Nghi vừa bỏ lỡ cơ hội liên minh duy nhất nhưng gã không phiền lòng. Nguyên nội bộ họ Hỏa đã làm gã mướt mồ hôi, không còn sức gánh thêm chuyện phức tạp bên ngoài. Nếu bất đắc dĩ, gã phải hỏi ý kiến ông già Thâu Đầu trước. Hỏa Nghi thừa nhận lão già mũi khoằm đó nhiều kinh nghiệm hơn với mấy vụ kiểu này. 

Bữa ăn kết thúc, ông bà Tô Khanh mời Hỏa Nghi dùng trà rồi rời đi một cách ý tứ, để gã tự nhiên với con gái họ. Chỉ duy bà dì khó tính vẫn ở lại cùng đôi mắt chằm chằm vào gã trai họ Hỏa. Mấy lần Tô Mỹ ho hắng nhắc khéo nhưng bà dì vẫn kiên cường bám trụ ghế ngồi. Thấy tình cảnh khó xử, Hỏa Nghi xin phép ra về. Nếu đây là chủ ý của ông Tô Khanh thì kết quả cuộc gặp đã rõ, gã không muốn nấn ná thêm. 

Nhưng Hỏa Nghi chẳng dè bà dì theo mình ra tận cửa khuôn viên lâu đài. Suốt quãng đường ấy, gã và nàng tiểu thư chẳng trò chuyện được gì ngoài mấy lời hỏi đáp gượng gạo. Thậm chí bà dì cũng chẳng cho hai người cơ hội nói lời trêu đùa trước lúc tạm biệt. Nàng tiểu thư đi rồi, bà dì vẫn án ngữ trước cánh cổng sắt như muốn gã trai khuất mắt càng nhanh càng tốt. Hỏa Nghi khẽ thở dài ngao ngán đoạn cúi đầu xin phép ra về. Giữa lúc này, bà dì chợt nói:

-Ta biết cậu không vui, nhưng Tô Mỹ là cháu ruột, ta cần bảo vệ nó. Ta không phải người giỏi giang hay có quyền lực, ta bảo vệ con bé theo cách một bà góa, một bà nội trợ có thể làm. Mong cậu hiểu. 

Bà dì Đoan Hạnh nói chuyện nhẹ nhàng chậm rãi như chị mình, nhưng lời lẽ không ăn nhập ánh nhìn lạnh lẽo, thành thử như tồn tại khoảng cách. Như rời rạc. Như có nỗi trống trải của người đàn bà góa chồng nhiều năm. Hỏa Nghi nhận ra giọng điệu này từ mẹ. Mỗi lần gặp mẹ, gã để ý bà thường buột miệng ca cẩm cái sự ở một mình, giọng điệu trơ trơ mà đáy mắt vô cảm như đang trách cứ ai đó khiến bà như vậy. Cảm thông cho bà dì, Hỏa Nghi nhã nhặn:

-Tôi hiểu, thưa bà. 

-Vì tuổi trẻ ngỗ nghịch, báng bổ nên Vạn Thế trừng phạt ta. Ta không có con, bởi thế ta yêu thương Tô Mỹ như con đẻ. Khi vị pháp quan đến và nói chuyện tác hợp Tô Mỹ với cậu, ta phản đối cật lực. Ta không muốn lịch sử lặp lại. Nhưng vì anh rể đã có lời nên ta chấp nhận cho cậu bước vào đây. Hiện giờ ta thấy cậu… khá hiểu biết… ít nhất là không giống những gì được nghe. Hy vọng cậu sống đúng như vậy chứ không phải tỏ ra như vậy. 

Hỏa Nghi gật đầu. Như phát hiện điều lạ, gã nhíu mày:

-Xin lỗi, bà vừa nói “lịch sử lặp lại”? Ý bà là tiểu thư đã từng có bạn trai?

Bà Đoan Hạnh ngẩn người như phát hiện mình vừa phạm sai lầm sơ đẳng. Chút bối rối thoáng qua, bà ta nói:

-Không, Tô Mỹ chưa hề có bạn trai. Tôi nói nhầm. Mời cậu về…

-Có phải là Tô Mãn không? – Hỏa Nghi dồn hết can đảm và liều lĩnh – Chuyện gì đã xảy ra với Tô Mãn?

Gương mặt người phụ nữ đanh lại, dáng điệu bỗng chốc nghiêm nghị như cái cây khô quắt khẳng khiu chia chỉa những cành nhọn. Rồi bà Đoan Hạnh cất lời với hàm răng sít vào nhau:

-Cậu đã biết chuyện. Con bé Tô Mỹ thật là… Nếu cậu đã biết… phải, là Tô Mãn, con bé đáng thương. Nếu không kết thân cùng lũ du thủ du thực, Tô Mãn đã chẳng kết thúc cuộc đời như thế. Con bé có năng khiếu thiên bẩm, một họa sĩ tài năng. Nếu còn sống, hẳn Tô Mãn đã trở thành người nổi tiếng như cậu. 

-Cô ấy gặp tai nạn?

-Tai nạn? Phải, tòa án phán quyết là “tai nạn”, nhưng với ta đó là sát nhân. Thôi… muộn rồi, cậu ra về cẩn thận!

Dứt lời, Đoan Hạnh đưa tay mời Hỏa Nghi ra về. Nhìn thái độ bà dì, Hỏa Nghi đoán nàng tiểu thư sắp phải nghe một trận giáo huấn ra trò. Gã cúi đầu lui bước, bóng dáng khuất dần trên những khúc đường bao quanh Đồi Cánh Cung. Gió biển xáo xào Rừng Bão Tố gieo vào đầu Hỏa Nghi vô số ngờ vực. Gã có dự cảm chẳng lành về chuyện Tô Mãn. 



Nội một tuần lễ, Hỏa Nghi gặp hàng tá chuyện mới cộng thêm công việc cũ ùn ùn kéo về, dẫu mọc ba đầu sáu tay cũng không quản xuể. Sau cùng gã phải thừa nhận mình cần thêm trợ thủ, một hoặc hai người đủ tin cậy để giao những công việc thích hợp. Gã có anh trai cùng ông chú Biệt Pháo giúp rập song chừng ấy là chưa đủ. 

Câu chuyện Tô Mãn làm Hỏa Nghi đau đầu. Lý trí bảo gã để quá khứ ngủ yên cùng những bí mật nhưng cơn tò mò khuyên ngược lại. Mảnh ghép quá khứ của Vô Phong không nhiều. Chúng tản mác ở đâu đó trên thế giới này và mỗi lần xuất hiện đều khiến Hỏa Nghi rờn rợn, cảm giác một nỗi sợ mơ hồ như lạc lối trong một màn sương dày đặc. Gần ba năm làm bạn với tên tóc đỏ cũng là quãng thời gian màn sương đó luẩn quẩn tâm trí Hỏa Nghi. Chưa tìm thấy câu trả lời, gã khó chịu khôn tả. 

Trở về từ Đồi Cánh Cung, Hỏa Nghi khẩn trương rà soát ban cố vấn rồi chọn người thích hợp. Sáng hôm sau, phòng làm việc của gã đón tiếp một cô gái đến từ chi Hình, tên Hình Ý. Cô nàng hơi thấp so với tuổi hai mươi lăm, bao nhiêu nét trẻ trung tươi tắn bị hầm nhừ trong mái tóc vấn cao cùng cặp kính dày cộp, chưa kể gương mặt lúc nào cũng căng thẳng như sắp ra trận. Ngoại trừ mấy điểm trên, cô nàng quản lý nhân sự giỏi, khả năng phân phối công việc thuộc loại số dzách và quan trọng là không ủng hộ lão mặt nhọn Hỏa Chính. Hỏa Nghi cần người như vậy. Gã nói với cô gái, tay đẩy tập hồ sơ giấy tờ:

-Công việc này hơi khác một chút nhưng vẫn phù hợp với chuyên môn của cô, tôi đảm bảo. Tôi cần cô tới Cội thành, điều tra một người tên là Tô Mãn, học viên ngành nghệ thuật. Tôi cần mọi thứ… cô hiểu chứ? Mọi thứ về Tô Mãn. Tôi đã chuẩn bị người, danh sách đây, nếu cần thay đổi hoặc bổ sung, hãy báo lại với tôi. Nửa tháng nữa, tôi cần hồ sơ đầy đủ. Bí mật nho nhỏ giữa chúng ta, được chứ? Đừng để ai chen vào. 

-Việc này cần thiết không, thưa ngài? – Cô gái hỏi, cơ mặt căng cứng vì nghiêm túc, ngón tay lật lật những trang giấy – Hình như đây là thành viên họ Chân Tâm? Điều tra một người như thế liệu có ổn? 

Hỏa Nghi rướn người, hai tay chắp trước ngực như đang tâm sự chuyện quan trọng:

-Hôm qua, họ Chân Tâm mời tôi ăn trưa và có gợi ý hợp tác. Cô biết đấy, không phải hợp tác bình thường, mà “sâu” và “rộng”. Tôi cần biết nhiều hơn về họ. Chuyện ảnh hưởng đến tương lai dòng họ, vậy nên mong cô giúp đỡ. 

Cô nàng nhìn giấy tờ hồi lâu, sau cúi đầu xin phép đi làm việc, gương mặt vẫn căng như dây đàn. Hỏa Nghi nghe chuyện ngoài lề rằng Hình Ý giỏi giang nhưng vướng phải thái độ tiêu cực, chuyên môn lại khác truyền thống dòng họ nên các trưởng lão không đề bạt. Chừng ấy là đủ để Hỏa Nghi sử dụng cô ta. Quan điểm trung lập và tư tưởng bất mãn với đám già cả sẽ khiến Hình Ý giữ mồm giữ miệng. 

Việc kế tiếp là Hỏa Nghi cần biết ông bạn tóc đỏ đã gây tội trạng thế nào với Ẩn Lý Thị tại Diệp quốc, để tới nỗi dòng họ này quyết làm gỏi kỳ được. Gã không nhờ vả Tiểu Hồ dù cô nàng đang ở rất gần Diệp quốc. Tính cách thú dữ ra sao, gã hiểu rõ. Quàng thêm cho cô nàng vụ Ẩn Lý Thị mà nhỡ đâu lòi ra Vô Phong đang sống dở chết dở, Tiểu Hồ dễ nổi khùng, việc trước không xong rồi việc sau cũng hỏng. Nhưng xung quanh Hỏa Nghi không còn ai được việc, mà những kẻ được việc lại không theo phe gã. Nghĩ tới nghĩ lui, cực chẳng đã gã phải cầu viện anh trai. Trưa cùng ngày, gã gọi Hỏa Dương giao việc:

-Đông Thổ xung đột, Diệp quốc nhờ Phi Thiên giúp đỡ, họ Hỏa đang chuyển giao hậu cần. Tôi cần anh quản lý chỗ này. Tất nhiên không chỉ vậy, tôi muốn anh điều tra Ẩn Lý Thị. Hồ sơ về dòng họ, tôi sẽ gửi sau. Tôi cần biết họ đang làm gì và tại sao lại phát tang, nếu được, hãy điều tra người chết là ai.

Hỏa Dương nhíu mày:

-Tại sao là họ? 

-Chúng ta biết hầu hết về dòng họ bên Diệp quốc, trừ Ẩn Lý Thị. Tôi nghe nói gần đây họ đang rục rịch làm gì đó với chợ đen. Tôi… không thích đám chợ đen, tôi cần bằng chứng để đảm bảo Ẩn Lý Thị là những người đáng tin tưởng. 

Nghe cái gọi là “không thích chợ đen”, Hỏa Dương cau mặt nhìn em trai song chỉ nhận được cái nhìn lạnh ngắt. Y không chắc Hỏa Nghi làm vậy vì danh tiếng dòng họ hay mục đích nào khác. Nhưng yêu cầu hợp lý, Hỏa Dương đành chấp thuận. 

Thấy mọi sự tạm ổn, Hỏa Nghi tập trung giải quyết phiên điều trần. Gã còn một phen chườn mặt tại quốc hội và sẽ chẳng dễ dàng khi người tham dự đông hơn, báo chí được phép ra vào sau vài ngày làm loạn dư luận đòi quyền tự do thông tin. Gã chưa thắng và còn đầy nguy cơ ngã sấp mặt trước cửa tòa quốc hội. Cật lực hay chết nhục – Hỏa Nghi lẩm bẩm khẩu hiệu rồi ở lì phòng làm việc suốt nhiều ngày liền. Một buổi sáng cuối tháng 4, giữa lúc ngập ngụa với giấy tờ chồng đống, gã nhận được điện thoại từ Thanh Nhi. Trong làn sáng ba chiều màu xanh dương, cô gái mặc áo khoác dày sụ, mũ trùm ôm kín đầu chỉ hở mỗi khuôn mặt tái xanh vì lạnh. Hỏa Nghi vồn vã:

-Bà chị! Khỏe chứ? Khai Y đón tiếp thế nào? Ông ta làm khó chị không?

“Không, ông ta rất tử tế. Không có gì phàn nàn cả.” – Thanh Nhi đáp. 

-Thế Vô Phong đâu?

Thanh Nhi khẽ đáp:

“Chị nghĩ cậu nên xem cái này…”

Thanh Nhi xoay hướng máy quay, Hỏa Nghi nhận ra cô gái đang ở bệnh viện. Trông màu trắng tinh tươm cùng những ô cửa kính sạch sẽ không cáu bẩn, lồng ngực Hỏa Nghi đập thình thịch. Sự sạch sẽ của bệnh viện làm gã bất an. Và khi máy quay hướng đến thứ cần đến, gã bóp trán lắc đầu:

-Chỗ đó có lành được không vậy, ông bạn? Chỗ kia… chỗ kia nữa… chúng “mọc” lại được không? Ôi Vạn Thế ơi, cậu làm cái quái quỷ gì thế?

Sau gần ba tháng biệt tích, Vô Phong xuất hiện nhưng không phải theo cách Hỏa Nghi mong muốn. Tên tóc đỏ bị ép chặt trên giường bệnh thẳng đứng, giữa ngực thủng một lỗ toác hoác bằng nắm đấm, trái tim chỉ còn một nửa đập phập phồng. Tay trái của hắn đứt lìa, phần đứt đang nằm trong hộp đá chờ cấy ghép. Máy đo nhịp tim vang đứt quãng. Vô Phong vẫn sống. Nhưng dẫu Vạn Thế đánh chết, Hỏa Nghi cũng không dám thông báo tin vui sống sót này cho công chúa hay Tiểu Hồ. “Ngậm miệng, tốt nhất là ngậm miệng!” – Gã tự nhủ.
 
Quyển 4 - Chương 13: Cho điều đúng đắn


Thời tiết Băng Thổ nói chung chia thành ba mùa: mùa xuân, mùa ẩm và mùa khô. Liệt Giả thấy quá nhiêu khê. Với anh, xứ băng giá này chỉ có một màu ảm đạm lạnh ngắt. Liệt Giả khá phiến diện. Anh chưa từng thấy những khoảnh rừng lá kim xanh mướt ở Băng Hóa quốc, ngọn thác lớn xắt ánh bình minh làm hai ở Thung Lũng Tuyết Tan hay con sông chở những khối băng trắng xanh chảy quanh Đô Thạch thành. Chưa kể anh đặt chân tới phương bắc chưa lâu. “Phiến diện dẫn tới thành kiến, mà thành kiến luôn xa sự thật hơn ngu ngốc” – Thầy Tây Minh hễ có dịp lại lên lớp anh như thế. 

Nhưng nếu thấy tình cảnh của anh lúc này, thầy Tây Minh buộc phải thông cảm phần nào. Liệt Giả đang cuốc bộ trong vùng đầm lầy phía tây Băng Thổ, hai chân bì bõm lội bùn, ủng ùng ục những lớp sình, đôi lúc vô tình bươi lên xác động vật thối rữa. Đã sáu tiếng liên tục như thế. Liệt Giả cảm giác mớ bùn sình đã tràn qua giày chống thấm, ngọ ngoạy giữa các kẽ ngón chân, lầy lầy nhơm nhớp. Nửa thân dưới tệ là vậy, nửa thân trên cũng chẳng khác hơn. Đang mùa ẩm nên tuyết không đặc hẳn mà sũng nước, vừa lạnh vừa ướt, giống món đá bào mà mọi đứa trẻ con thích mê mệt. Nhưng thứ “đá bào” đang ụp xuống đầu đây, Liệt Giả mê không nổi. Chúng đọng khắp quần áo, ngấm ẩm xuống da thịt mà mỗi lần gió tràn qua lại cào cái rét buốt óc. Liệt Giả rùng mình nhớ lại chuyến đi Mù Thủy tháng trước, dưới những cơn mưa bất tận, lần đó anh như bức tượng đất sét chảy nhão. Người chết cũng ngán xứ Băng Thổ! – Liệt Giả ngán ngẩm. 

Ngay lúc này, nếu được hỏi có yêu thứ gì từ Băng Thổ không, Liệt Giả chẳng do dự mà trả lời: “Gà đùi heo!”. Thứ đó đang theo chân anh với đống hàng hóa chất đầy hai bên cánh, đôi chân to lớn bọc sừng miệt mài ủi lớp đất nhão tiến bước. Nó là dã yến – loài quái vật vốn quá quen thuộc với dân bản địa. Còn trong mắt Liệt Giả, nó chẳng khác con gà được gắn thêm hai khúc giò lợn to tổ bố. Những lúc đường bằng phẳng ít bùn hơn, Liệt Giả có thể trèo lên lưng con quái vật tạm nghỉ mệt. Dã yến khỏe, đèo thêm hai người như anh chẳng thành vấn đề, chỉ cần được hối lộ vài quả lê mọng nước là xong. Quan trọng hơn, nó chịu nghe anh càm ràm mấy chuyện vớ vẩn của loài người. Có thể trong mắt con dã yến, anh chỉ là một loài hai chân xì xồ mấy âm thanh phức tạp, chẳng giống tiếng “grù… grù…” đơn giản mà nó giao tiếp với đồng loại. Đơn giản là nó không quan tâm. Nhưng với Liệt Giả, vậy là đủ. 

Người và thú vẫn lầm lũi. Con đường phía trước ngày càng lầy lội, ngay cả dã yến cũng di chuyển khó khăn. Liệt Giả kéo dây cương giúp con quái vật tránh một hố bùn, vừa đi vừa thở:

-Mấy giờ rồi? Sao tối thế nhỉ? Mới năm giờ chiều? – Liệt Giả trố mắt nhìn đồng hồ đeo tay – “Mèo Hen” đâu nhỉ? Sao hắn chưa tới? Hay gặp chuyện rồi? 

Người ngừng bước, con dã yến dừng theo và thở phà phà khói lạnh qua lỗ mũi. Ngẫm ngợi ít phút, Liệt Giả tiếp tục hành trình, tay vỗ vỗ cái cổ xù lông của con thú:

-Mày gặp “Mèo Hen” rồi nhỉ, đùi heo? Hôm ở doanh trại, hắn là thằng thư sinh chết trôi đó… Mèo Hen đấy! Cậu ta sẽ ổn thôi. Đang trong vùng an toàn, quân đội Băng Hóa không có ở đây. Mà kể cả có, Mèo Hen sẽ thoát được. Hắn làm thế nhiều rồi. Hắn sẽ đúng hẹn thôi! Này anh bạn, nghe tao nói một chút đi chứ?! Không có tao thì mày đã vào nồi của bọn phiến quân, hiểu chửa? Tỏ lòng biết ơn coi!

Con quái vật rúc mấy tiếng rục rùi xua một lũ ruồi nhặng đậu bên tai. Dường như nó chẳng quan tâm kẻ dắt cương nói gì. Nhưng Liệt Giả cũng không lấy thế làm phiền. Im im ít phút, anh lại mở lời như thể con dã yến là bạn tâm giao của mình:

-Mày nghĩ tao cùng mấy ông bạn được về nhà không? Tao thì không. Tao cảm giác cuộc chiến tài nguyên này sẽ kéo dài vô tận. Nếu may mắn sống sót, tao sẽ kết hôn với một cô gái, có một cậu con trai, thằng nhóc sẽ trở thành chiến binh hoặc nối nghiệp thánh sứ như cha nó, và nó sẽ quay lại chiến trường này. Sẽ là một vòng tuần hoàn? Tao không thích thế. Mày không biết đâu, đùi heo; ba năm trước, tao và hai anh bạn bước vào cuộc chiến; bọn tao hứa với nhau rằng sẽ về nhà trong sáu tháng, sau đấy cả ba sẽ kết hôn cùng ngày. Chuyện vui, phải không? Nhưng hết Thượng Cổ, Đông Thổ, Kim Ngân và giờ là Băng Thổ. Ba năm rồi, đùi heo ạ! Chẳng ông vua nào chịu nhả những mỏ quang tố hết. Mấy ngày nay tao đã nghĩ vài thứ… hình như chẳng có cái gì chuyển động thẳng, tất cả đều chuyển động lệch. Cả tao, Mèo Hen, Tàu Hỏa, và mày nữa, đùi heo, tất cả đều chuyển động lệch. Bởi thứ lệch này mà Phi Thiên đánh nhau với Băng Hóa, còn tao lẫn mày chết dí ở đây.

Con dã yến trượt chân, Liệt Giả theo phản xạ đỡ lấy. Con quái vật nặng hơn ba tạ cộng thêm hàng hóa dồn xuống làm anh lún sâu vào bùn, hai tay run bần bật. Liệt Giả gắng gượng đẩy lên từng chút một. Sau rốt con dã yến đã lấy lại thăng bằng, nó cúi đầu giúp Liệt Giả có điểm tựa để thoát khỏi mớ bùn. Người và thú giúp nhau từng chút rồi tiếp tục chuyến đi. Liệt Giả thở dài:

-Nhưng cứ phàn nàn thì bao giờ mới hết chuyện? Những kẻ phàn nàn nhiều nhất thường làm ít nhất và làm không ra gì. Một đoàn người tị nạn cần chúng ta giúp đỡ. Phải khẩn trương trước khi Lực Lượng Mù Thủy tìm thấy họ…

Đương thao thao độc thoại, Liệt Giả bỗng im bặt. Ít nhiều sức lực đã bỏ rơi anh nhưng cái nhạy bén thì chưa. Anh nghe được tiếng đất bùn khẽ bì bẹp dưới những bước chân thận trọng và lẹ làng. Phải là một kẻ kinh nghiệm mới làm được như vậy trong vùng đất lầy lội hôi hám này. Nhưng không may cho kẻ đó khi Liệt Giả đang ở đây. Thánh sứ vốn nhạy cảm hơn người thường, Liệt Giả lại càng trội hơn. Anh vội lùa tay vào cái túi treo bên hông con dã yến, lôi ra pháp trượng cùng một khẩu súng. Liệt Giả có lý do để chiến đấu trong bộ dạng tức cười như thế. Ba năm chiến tranh dạy anh rằng những lúc cần kíp, một viên đạn có giá trị hơn cả tấn phép thuật. Thấy Liệt Giả tỏ vẻ nghiêm trọng, con dã yến bèn thu mình nấp sau anh như một phản xạ tự nhiên. 

Cả vùng đầm lầy im ắng, âm thanh lạ mỗi lúc tiến gần đến Liệt Giả. Anh dang rộng tay, pháp trượng xập xòe lửa điện sẵn sàng quyết chiến. Chờ mãi, chờ mãi, rồi Liệt Giả thở phào khi thấy một người mặc áo lính Phi Thiên quốc thò mặt ra từ thân cây. Trông bộ dạng nghiêm trọng quá thể của anh, gã lính nọ nhe răng cười tinh quái. Liệt Giả vỗ vỗ cái cổ xù lông của con dã yến:

-Đừng sợ, là bạn chúng ta. Mèo Hen đấy! Con mèo chết trôi đấy! Chào hỏi cậu ta đi chứ, đùi heo?

Như thường lệ, con quái vật không quan tâm lời Liệt Giả, nó chỉ cần biết nguy hiểm đã qua và thôi xù lông cánh. Trong lúc ấy, Liệt Giả bá vai bá cổ anh chàng nọ như thể lâu ngày không gặp. Họ hỏi han nhau vài câu rồi tiếp tục lên đường. Không có “xe” thồ hàng như Liệt Giả, gã Mèo Hen phải tự mình khuân vác nào ba lô nào túi, vũ khí cá nhân, túi y tế, dụng cụ – từng cân từng khối chất chồng dồn xuống thân hình mảnh khảnh thư sinh của anh ta. Nhưng gã Mèo Hen vẫn bước những bước lẹ làng mà chỉ những loài vật thính tai hoặc thánh sứ nghe thấy. Anh ta băng băng đường bùn bãi lầy, thi thoảng quay lại tếu táo với Liệt Giả. 

Có thêm người đồng hành, Liệt Giả nhẹ nhõm hơn. Không đương dưng anh kể lể chuyện giời ơi đất hỡi với “đùi heo” dù con quái vật chẳng hiểu. Bởi anh luôn cần một ai đó để đối thoại hoặc lắng nghe mình. Thứ khao khát đó luôn hiển hiện trên gương mặt Liệt Giả, anh cũng không giấu giếm nó nên đôi lúc làm phiền nhiều người. Anh biết có vài lời xì xào về mình. “Gã kỳ quặc”, “tên nhà quê”, “anh chàng ngốc”… anh biết họ gọi mình như thế. 

-Chuyện với Dạ Bích thế nào, tóc đỏ? – Gã Mèo Hen lên tiếng – Hai người đến đâu rồi?

Bị hỏi đột ngột và hỏi khó, Liệt Giả gãi đầu:

-Khó nhằn lắm! Chắc cậu không tin nổi đâu… con nhỏ đó là con nuôi của thầy Tây Minh. Đừng trố mắt thế, thật đấy! Dính phải “con thầy” rồi, ông bạn ạ!

-Thật á? Ôi Vạn Thế! – Mèo Hen ôm bụng cười ngặt nghẽo – Nhưng cô ta được đấy chứ?! Triển khai thôi, tóc đỏ. Con thầy gì chứ? Triển khai thôi, trước khi thầy Tây Minh ngăn cản!

Liệt Giả cười theo. Trong số những người quen biết, chỉ mình Mèo Hen chủ động bắt chuyện và sẵn sàng tào lao hươu vượn với anh cả ngày. Hoặc giả như anh muốn nói, Mèo Hen sẽ nghe anh thao thao bất tuyệt. Ngay cả mẹ – như Liệt Giả vẫn nhớ và yêu thương – cũng không chịu được khi anh hỏi quá nhiều. Anh quá hiếu kỳ còn mẹ thì quá bận rộn. Sau ngày mẹ mất, anh chẳng còn ai để hỏi hay trò chuyện. Cái khao khát “được nói và được lắng nghe” bị bọc lại, gói ghém cùng mớ hành lý ít ỏi theo chân anh qua nhiều nơi, nhiều vùng đất, cuối cùng là Phi Thiên quốc. Nó chỉ được mở ra cho tới ngày anh gặp Mèo Hen tại trường thiếu sinh quân. Ở một nghĩa nào đó, Mèo Hen là phiên bản cao cấp so với con “đùi heo”, không chỉ chịu nghe Liệt Giả nói mà còn đối đáp, bày trò trêu chọc anh nếu cần. 

Hoặc theo một nghĩa dễ hiểu hơn, anh gọi đó là “bạn”. 

Trời tối nhanh, đường đi bớt trơn trượt, sình lầy ít hơn nhưng cây cối ngày càng um tùm. Liệt Giả và Mèo Hen thôi nói chuyện, tập trung tìm lối đi. Hai người rẽ vào nhiều lối mòn ẩm ướt ngoằn ngoèo giữa rừng cây lá kim và tiếng kêu của bọn thú ăn đêm. Họ tách nhóm, người đi trước dẫn đường kẻ đi sau bọc hậu, cảnh giác cao độ. Ba năm chiến đấu chung, họ không cần nhiều ám hiệu hay tín hiệu để thiết lập đội hình. Mọi thứ đều là bản năng. Trong thời đại Chiến Tranh Tài Nguyên này, chiến binh không cần luyện tập bởi cái chết tìm đến họ mỗi ngày. 

Đi thêm một quãng chừng tám trăm mét, hai người dừng chân trước những ánh sáng phía sau rừng. Không giống cái ổn định của đèn điện, những mảng sáng nhập nhoạng như ánh lửa. Họ tiến đến quan sát và nhận ra đó là một đoàn tị nạn khoảng năm chục người, nam nữ già trẻ đủ cả. Họ chỉ kịp nhóm lửa sưởi ấm, còn đâu nằm vạ vật khắp con đường bùn đất, hành lý vương vãi lấm lem tựa thể vừa bị cướp bóc. Trước lúc đến đây, Liệt Giả được báo rằng đoàn tị nạn đến từ chiến trường phía bắc cách đây bốn chục cây số, họ đã chạy trốn suốt ngày đêm. Anh cùng Mèo Hen được cử đi thám thính, hỗ trợ nhu yếu phẩm và dẫn đoàn tị nạn tới vùng an toàn. 

Thấy tình hình bình thường, bọn Liệt Giả lộ diện. Vì kiệt sức, đám nạn dân chẳng thèm truy vấn những kẻ lạ mặt. Họ vội vã nhận thuốc men, quần áo, đồ vệ sinh cá nhân rồi ngấu nghiến những miếng lương khô cứng ngắc xạm xầy. Đoàn tị nạn đông, Liệt Giả hay Mèo Hen không thể mang những khẩu phần chế biến nóng sốt. Hai người phải dành chỗ cho dụng cụ y tế và quan trọng nhất là máy lọc nước. Vùng đầm lầy nhiều nước bao nhiêu, nước sạch khan hiếm bấy nhiêu và chỉ có thể lọc từ tuyết. Trong chiến tranh, khát kinh khủng hơn đói. Cũng bởi khát, nhiều người không thể kìm lòng trước những vũng nước dọc đường, để giờ bụng trương phình hoặc nôn mửa vô tội vạ. Anh chàng trước mắt Liệt Giả là thế. Gã quằn quại ôm bụng, dạ dày phính căng, mặt tím tái không còn hột máu, hỏi mới biết đã nhét vào bụng đầy tuyết lẫn nước tù đọng cạnh vũng lầy. Liệt Giả đeo găng tay y tế đoạn cho anh chàng nọ uống thuốc:

-Hơi khó một tí nhưng sẽ qua thôi. Cố gắng nôn… thở đều…

Gã nọ ôm bụng cố nôn mà không nổi. Liệt Giả đành thò tay móc học anh ta, được một lúc thì hàng đống thứ lổn nhổn cùng dịch dạ dày túa ra như suối. Liệt Giả thấy trong mớ đó còn ngọ ngoạy thứ gì như giun đỉa. Anh bụm miệng, quay đi chửi thề một tiếng rồi giúp người nọ nôn tiếp, bụng xẹp xuống mới ngừng. Xong việc, Liệt Giả lại giúp người khác với tình trạng tương tự. Phía bên kia, người đồng hành Mèo Hen đang bận rộn phẫu thuật cho người bị trúng đạn. Hai người cứ miệt mài như thế cho tới đêm muộn. 

Khi tất cả ổn định, Mèo Hen tạm nghỉ, còn Liệt Giả tiếp tục công việc của thánh sứ: cầu nguyện và ban phước. Vừa thấy đôi cánh trắng bạc xuất hiện sau lưng Liệt Giả, các nạn dân tự động vây quanh anh, tựa thể họ coi anh là cứu tinh, là đấng cứu thế. Khi cầu nguyện, người Phi Thiên và phương tây nói chung đặt tay trong lòng, miệng lầm rầm những điều răn. Ở đây khác hơn. Dù mệt lả đói khát nhưng đám người Băng Thổ đặt tay lên tim một cách mạnh mẽ, Liệt Giả cầu nguyện tới đâu, họ đọc theo đầy thành khẩn tới đó. Liệt Giả chỉ biết người Băng Thổ qua binh lính, đội đánh thuê hay những cuộc chiến sinh tử với họ. Anh ghét họ mà cũng tôn trọng họ. Nhưng tại nơi này, anh chỉ thấy những ông già, thanh niên, phụ nữ và bọn trẻ. Họ cũng là con người chẳng khác anh, chẳng khác Mèo Hen, chẳng khác thầy Tây Minh hay người Phi Thiên quốc. 

Lúc bình thường, con người định dạng bằng danh xưng, địa vị, thành tích, nghề nghiệp, quốc gia, tôn giáo… Nhưng trong chiến tranh, mọi thứ bị bóc hết, con người chỉ còn da, thịt, xương và máu. Trần trụi tới khốc liệt. 

Cầu nguyện kết thúc, Liệt Giả qua chỗ Mèo Hen và con “đùi heo”. Anh có hai tiếng nghỉ ngơi trước khi dẫn đoàn tị nạn đến nơi an toàn. Những lúc thế này, anh thường không ngủ mà trò chuyện miễn sao còn người nghe. Bởi vậy nên chẳng mấy ai hợp tác lâu dài với Liệt Giả. Một năm nay, anh hoạt động đơn độc mà không có hộ vệ. Đôi khi anh sa thải hộ vệ vì người dùng kính ngữ với anh quá nhiều, người thì thờ ơ, số khác miễn cưỡng trả lời. Anh chỉ cần ai đấy chịu lắng nghe, chỉ như vậy. Mèo Hen là một trong hai người như thế. 

Lúc này, gã lính Mèo Hen đang nấu lương khô trong cái can nhỏ. Anh ta bỏ vào vài viên kẹo mềm lẫn cứng, dùng dao găm cắt vài món cây cỏ làm gia vị rồi quậy đều cũng bằng con dao đó. Được dăm phút, gã lính mang ra một hỗn hợp đặc sệt cam đỏ tím vàng và mấy màu nữa mà Liệt Giả nhìn không ra. Vừa nâng cái can, Mèo Hen vừa giới thiệu như một nhà ẩm thực giới thiệu món ngon: 

-Mấy thằng trong đội của tôi gọi món này là “cứt bảy màu”. Mà đúng là nó giống… thôi, anh bạn, vì tấm lòng người bạn mà ăn đi!

Liệt Giả buột miệng chửi thề, cười khùng khục rồi nhận lấy. Thứ hỗn hợp thổ tả chắp vá đầy màu hóa ra ngon hơn anh tưởng. Giữa cơn mệt lả này, nó như một món ăn cao cấp nhất do đầu bếp thượng hạng nhất chế biến trong nhà hàng sang trọng nhất. Liệt Giả ăn vội, loáng cái hết sạch. Anh nhờ Mèo Hen làm thêm cho mình và cho bọn trẻ trong đoàn tị nạn. Mèo Hen bày thêm hộp, lon hay bất cứ thứ gì có thể đựng trên đống lửa. Gã lính vừa nấu vừa cười:

-Cậu vẫn tốt với người ta như thế, nhỉ? Ban nãy họ… – Mèo Hen chỉ con dao về đám tị nạn – …gọi cậu là “Uyjiluk Sukka”. Muốn hiểu không? Là “thằng con hoang chó đẻ”. Nhưng thấy cậu là thánh sứ, họ thay đổi thái độ ngay. Hay đấy chứ?

-Con người cả thôi! – Liệt Giả lắc đầu đoạn dựa lưng vào con “đùi heo” đang say ngủ – Dù gì chúng ta cũng là khách không mời. 

-Phải, thực tế chúng ta nên xéo khỏi đây càng nhanh càng tốt. – Mèo Hen đáp, tay nguậy mấy cái lon bằng dao găm – Chúng ta chống khủng bố nhưng cũng tiện tay chiếm mỏ quang tố mà đáng lẽ phải thuộc về người Băng Hóa. Hà! Thánh sứ như cậu còn được coi trọng, còn lính lác chúng tôi bị dân Băng Thổ chửi bới suốt. Nhưng chúng tôi đâu còn cách nào? Hà! Cuộc đời người lính chỉ là con dao găm, tóc đỏ à!

Mấy chiếc hộp và can sôi sùng sục. Liệt Giả bắc chúng lên tuyết cho nguội bớt, sau đem cho lũ trẻ và người già của đoàn tị nạn. Anh trở lại chỗ ngồi bên con “đùi heo” đoạn tiếp lời:

-Vì thánh sứ có giá. Ý tôi là bán được giá. Chắc cậu biết nếu phe nào tóm được một thánh sứ sẽ yêu cầu tiền chuộc, phe kia tất nhiên phải trả. Mất thánh sứ là mất toi hàng đống của nả lẫn chi phí đào tạo, chẳng nước nào muốn thế. Nhớ đầu tôi đáng giá bao nhiêu không? Bốn thùng kim cương! Thế nên những thánh sứ như tôi được ưu tiên bắt sống chứ không nên giết. Tôi không hơn cậu tí nào đâu, con mèo chết trôi, chỉ là món hàng giá trị hơn thôi. 

Mèo Hen cười:

-Cũng đúng. Nhưng nhìn khía cạnh khác, đổi chác kiểu đó chẳng phải nhân đạo hay sao?

-Cái gì nhân đạo? – Liệt Giả nhíu mày.

-Tất cả đều cần cầu nguyện, được ban phước lành. Binh lính, dân chúng, thậm chí bọn phiến quân. Con người cần giới hạn để biết đâu là thú, đâu là người. Thánh sứ làm những việc đó và chỉ thánh sứ mới biết làm. Gửi trả thánh sứ để xoa dịu chiến tranh, cái đó không nhân đạo thì cái gì mới nhân đạo?

Liệt Giả ngẩn người, tưởng chừng có khe nứt ánh sáng trong bộ óc bùng nhùng mỏi mệt của mình. Nghĩ hồi lâu, anh bật cười và thầm khen Vạn Thế khéo nặn một ông bạn hợp cạ với mình. Anh chuyển chủ đề:

-Bất Vọng thế nào? Cái tàu hỏa ấy sao rồi?

-Không tốt. – Mèo Hen đáp – Đội Kiếm Sắt mắc kẹt, bị đánh tứ phía. Họ cần viện binh nhưng Phi Thiên đang thiếu nhân lực. Cậu thấy đấy, chỉ tôi với cậu mà phải bảo vệ cả chục người. Nghe đâu Đội Kiếm Sắt mâu thuẫn nội bộ, tay thủ lĩnh đòi giữ cứ điểm còn Bất Vọng muốn rút. Cậu biết ông bạn của chúng ta rồi, hắn nể ai bao giờ? Lệnh cấp trên mà hắn bật tanh tách như tôm, đại thống lĩnh đang họp mà hắn dám chen ngang góp ý. Ờ thì sếp của hắn toàn thằng ngu, nhưng làm thế hơi quá. 

-Hồi học trường thiếu sinh quân, hắn dám chửi hiệu trưởng kia mà! – Liệt Giả cười khùng khục – Được rồi, đưa đoàn tị nạn tới nơi, chúng ta sẽ tới đó giúp hắn. Nhưng phải có lệnh điều động. Ở tiền tuyến này chỉ có mình tôi là thánh sứ, hy vọng ban quân sự sẽ lắng nghe. 

Mèo Hen bẻ bó cây khô, ném từng cọng nhỏ vào đống lửa đương tí tách:

-Đừng cố quá. Quyền quyết định vẫn thuộc về các thống lĩnh. Họ không đồng ý, cậu không được đi. 

Liệt Giả lắc đầu:

-Tôi sẽ thuyết phục họ. Tôi đã không thể cứu nhiều người. Thánh sứ phải cứu người chứ không chỉ ban phước hay lẩm bẩm cầu nguyện. Kể cả một con bò cũng có thể ban phước hay cầu nguyện nếu nó biết nói. Chúng ta không thể về nhà sớm, nhưng chúng ta phải về nhà nguyên vẹn. Cả ba chúng ta, đặc biệt là Bất Vọng. Hắn còn Cách Lan, đúng không? Hắn còn lễ cưới. 

Nghe đến đó, Mèo Hen nửa cười nửa thở dài. Anh chàng gọt vỏ mớ quả dại, ném cho Liệt Giả một ít rồi nhai nhồm nhoàm:

-Hồi trước, tôi bảo Bất Vọng cưới thì hắn cứ nhùng nhằng. Thằng nhát cáy ấy! Thời chiến tranh này ai cũng cưới sớm, chẳng hiểu hắn đợi cái gì nữa? Phụ nữ không chờ được đâu. Chiến tranh kéo dài chục năm, bộ hắn muốn Cách Lan chờ mình chục năm nữa chắc?! Nhớ lần trước Cách Lan tới thăm không? Tôi bảo Bất Vọng “thả” thoải mái cho con nhỏ sưng bụng, hoặc làm một giấy đăng ký kết hôn, cưới sau.

-Hắn làm theo chứ? – Liệt Giả hỏi. 

-Hắn không đăng ký. Tối đó hắn mượn tôi hộp bao cao su. Bốn cái dùng hết cả bốn.

Liệt Giả cười nắc nẻ, Mèo Hen gục đầu cười theo. Ngọn lửa từ chỗ họ như ấm áp hơn, ánh sáng lan rộng xua bớt cái tăm tối lạnh lẽo ngự trị vùng đầm lầy. 

Đang trò chuyện, Liệt Giả chợt dựng dậy vì những âm thanh ầm ào phía xa. Có rất nhiều tiếng bước chân gấp gáp đang hướng về nơi này. Nghĩ là bọn phiến quân, anh cùng Mèo Hen lập chốt chặn trên con đường lội bùn. Tuy không cảm nhận tốt bằng anh nhưng Mèo Hen đã cài cắm nhiều cạm bẫy. Họ đã chiến đấu thế này rất nhiều lần. 

Nhưng bọn Liệt Giả nhận ra chẳng có phiến quân nào. Trước mắt họ là dân chúng chạy nạn, đông đúc cả trăm người. Hai người lục soát đoàn tị nạn có lẫn phiến quân hay không, sau gom lại một chỗ, hỏi ra mới biết họ đến từ chiến trường cách đây một trăm cây số. Họ đã chạy cả tuần, ai nấy đói lả hoặc khát cháy cổ, số khác ói mửa bệnh tật do mất vệ sinh. Bọn Liệt Giả không được thông báo trước về đoàn người này. Cả hai kiểm kê đồ đạc quân trang, thấy thuốc men có thể giật gấu vá vai song lại không đủ lương thực – những thứ có thể ăn đã hết nhẵn. Mèo Hen gọi điện xin giúp đỡ nhưng bị từ chối, quân doanh cách đây quá xa và cũng không có phi thuyền viện trợ. Gã lính vo vê nắm tuyết, nghĩ ngợi thế nào liền quay ra con “đùi heo” phía xa. Liệt Giả nhăn trán:

-Cậu định làm gì? Không phải thế chứ?! 

-Họ kiệt sức cả rồi. – Mèo Hen nghiêng đầu sang đoàn tị nạn – Có ăn mới chạy được tiếp, hoặc không phải bỏ lại. Giờ này vào rừng săn cũng mất hàng tiếng, chúng ta không còn nhiều thời gian. 

Liệt Giả thở phù phù:

-Vậy thì vào rừng! Tìm quanh đây, có thể chúng ta sẽ tóm được thứ gì đó!

-Cậu thừa biết bọn thú không tới gần chỗ đông người thế này. Phải đi hàng cây số mới gặp.

Liệt Giả không nghe. Mèo Hen tặc lưỡi cùng anh vào rừng. Hai người không thể đi xa vì sợ phiến quân ập tới. Đúng như Mèo Hen dự báo, chẳng con thú rừng nào lảng vảng quanh đây, chúng đã rúc sâu trong những xó xỉnh của bóng tối. Liệt Giả bất giác nhớ lại ngày cứu con “đùi heo” khỏi tay bọn phiến quân. Lần đầu tiên trông thấy con quái vật, anh cười sặc sụa, chẳng nghĩ nó sẽ theo mình rong ruổi lục địa suốt ba tháng. Tại Băng Thổ, không phải Mèo Hen hay Bất Vọng, mà con quái vật tức cười ấy đồng hành với anh lâu nhất. Mọi lời nói, ca cẩm, phàn nàn, tâm sự hay chửi thề của anh, nó đều nghe cả. 

Lần tìm mãi, hai người không lần ra nổi một miếng thịt biết chuyển động nào. Chợt thấy một bóng đen nhô cao, Liệt Giả vội nhào đến nhưng thất vọng khi thấy đó chỉ một tượng đá. Tượng phủ đầy rêu xanh lẫn dây leo cuốn chặt, tạc hình một người phụ nữ mặt mày hung tợn, tay cầm dao găm. Liệt Giả soi đèn, nheo mắt nhìn:

-Thứ gì đây?

-Tôi từng thấy nó một lần. – Mèo Hen đáp – Trước khi ánh sáng Vạn Thế và Nữ Thần Tiên Tri tới đây, dân bản địa đã thờ phụng những vị tà thần của riêng họ. Tượng đó là thần Nê Mê, nữ thần báo thù. Xứ Băng Thổ đi lên bằng máu và kết thúc những nợ nần bằng máu. Bởi thế họ thờ nữ thần báo thù. 

Liệt Giả đăm đăm ngó bức tượng. Anh trông về đoàn tị nạn, lại nhìn con “đùi heo”, bất giác tư lự:

-Cậu nghĩ sao về những kẻ giết bạn bè mình? Những ông hoàng bà chúa cổ xưa thường giết bạn của họ, liệu họ được về Tụ Hồn Hải? Hay vĩnh viễn không siêu thoát và làm hồn ma ở thế giới này? Liệu nữ thần báo thù bỏ qua cho họ không?

-Tôi không chắc. – Mèo Hen đáp – Tôi không tin các tà thần cổ xưa và cũng không hẳn tin vào Nữ Thần Tiên Tri hay cây mẹ. Nhưng tôi tin con người không có nhiều lựa chọn. 

Liệt Giả lừng khừng không biết tính sao. Anh chàng Mèo Hen nói:

-Nếu cậu thấy bất tiện thì tôi sẽ làm. 

-Không, để tôi. – Liệt Giả đáp.

Nói rồi anh mượn Mèo Hen dao găm, sau chậm chạp bước khỏi rừng. Không gian leo lét ánh lửa lẫn tiếng người than khóc. Đau khổ và sầu muộn đang tập trung ở đây. Là thánh sứ, anh phải có trách nhiệm như những lời dạy bảo từ Vạn Thế. “Làm điều đúng đắn” – kẻ tốt, người xấu đều biết nói thế và kể cả con bò cũng biết nói nếu hiểu ngôn ngữ loài người. Nhưng thánh sứ khác tất cả ở chỗ nói được làm được. Suy cho cùng, “đùi heo” cũng chỉ là một con thú. Thú không đồng đẳng với loài người.

Nhưng điều đó không có nghĩa rằng “bạn” đều là con người. 

Liệt Giả không tin những vị tà thần ngoại đạo, vì chẳng thứ thần linh nào vượt qua Vạn Thế. Nhưng anh tin sự báo thù sẽ đến bằng cách này hay cách khác.

Nhiều năm sau, khi trở về từ chiến tranh, anh nhận ra một phần của mình đã chết trong rừng đầm lầy Băng Thổ. 

*

* *

Sự báo thù đã kết thúc hay chưa? Nếu nó đã đến, liệu nó còn quay lại? – Liệt Giả tự hỏi. Dãy kệ ký ức trong đầu gã vẫn ngổn ngang, những mảnh giấy vương vãi. Gã bắt gặp đâu đó hình ảnh con “đùi heo” lắc lư theo mình trên những cung đường Băng Thổ. 

Nhưng Liệt Giả chẳng còn thời gian thu dọn ký ức. Ngay trước mặt gã là cây mẹ Vạn Thế, là đỉnh cao ngự trị toàn thế giới. Dưới chân gã, các thánh sứ lẫn đại thánh sứ nằm la liệt, người bị giết, người bị bẻ cánh, người bị thiêu cháy trong ngọn lửa đen Oán Hồn Dạ Hỏa. Con đường gã đi y hệt cái cách mà người Băng Thổ giành quyền sống và tự do sau hàng thế kỷ làm nô lệ. Liệt Giả nhìn quanh. Gã không biết thánh sứ nào, họ toàn người trẻ. Nhưng gã biết vài đại thánh sứ, họ từng học chung, từng chiến đấu, từng cứu gã cũng như gã cứu họ. Những người bạn. Sẽ có vô số lời giải thích, sỉ vả hoặc phân tích tại sao gã làm như thế. Nhưng Liệt Giả biết rằng mọi sự đã bắt đầu từ cái đêm ở rừng đầm lầy Băng Thổ.

-Chỉ mỗi chúng ta thôi, tóc đỏ.

Tiếng nói vọng tới như một bàn tay kéo vai Liệt Giả. Gã ngoảnh lại và thấy người bạn năm nào. Vẫn chiếc áo khoác quân phục Tiểu Đoàn Kiếm Sắt, vẫn điếu thuốc phì phèo cháy dở trên môi mà thường gọi là “tàu hỏa”. Liệt Giả nhớ rằng sau cái đêm vượt rừng cùng đoàn tị nạn, gã cùng Mèo Hen thẳng tiến đến chiến trường cứu Bất Vọng. Họ chiến đấu cực khổ, cuối cùng ngồi cạnh nhau, chậm rãi uống bia rồi ngủ lúc nào không hay. Mọi thứ luôn kết thúc có hậu như thế. Nhưng đấy là chuyện ngày xưa. 

Liệt Giả nhìn quanh. Ngoài xác người lẫn xác phi thuyền, không gian hoàn toàn vắng lặng. Nơi này chỉ còn gã và Bất Vọng. Gã cười:

-Phải, chỉ chúng ta thôi, tàu hỏa. 

-Chỉ còn tôi và cậu. – Bất Vọng nói – Nực cười làm sao! Tôi chỉ còn cậu, cậu chỉ còn tôi. Biết gì không, tóc đỏ? Ít phút nữa, hoặc cậu hoặc tôi phải nằm lại đây. Người chết không có bạn, người sống không còn bạn. Chúng ta mất hết bạn bè rồi. 

Liệt Giả ngẩn người. Gã ngẫm nghĩ đoạn cúi đầu:

-Sau vụ này, chúng ta có thể uống bia không? 

Bất Vọng nhổ điếu thuốc đoạn rút kiếm. Kiếm dài vừa phải, lưỡi dày, trên mặt lưỡi có vài khe nhỏ rít tiếng gió mảnh, cán kiếm có thòi ra một đoạn dài như phanh tay. Liệt Giả biết rõ nó. Thanh kiếm được gọi “Côn Xe” rèn từ ống bô xả khói phi thuyền, mà mỗi lần vặn cán là một lần thanh kiếm gầm lên tiếng nổ máy đinh tai. Đám chiến binh phương bắc một thời sợ chết khiếp tiếng “xế nổ” này. Còn gã đã chiến đấu cùng Côn Xe cũng như chủ nhân của thanh kiếm hàng năm trời. Gã từng sử dụng nó, biết rõ mọi thứ về nó. Nhưng gã cũng biết Liệt Giả hiểu rõ mọi thứ về mình. 

-Có, chúng ta sẽ uống. – Bất Vọng trả lời – Chắc chắn như vậy. Chúng ta sẽ uống, sẽ nói về con mèo chết trôi. 

Khói mù đất thánh thổi tung mái tóc đỏ. Liệt Giả khịt mũi, dụi mắt rồi đáp bằng nụ cười:

-Cảm ơn cậu. Tôi thực sự cảm ơn!

Dứt lời, gã vận sức tung cánh đen lao vào người bạn. Trong một thoáng, gã cảm giác mọi thứ đang quay về cái đêm hơn ba mươi năm trước tại khu rừng đầm lầy Băng Thổ. Ngày ấy, gã từ biệt một người bạn để làm điều đúng đắn. Hôm nay, gã lặp lại câu chuyện ấy cũng vì một điều đúng đắn. 

Liệt Giả nhận ra “đùi heo” vẫn chưa nguôi giận. Con dã yến năm nào đã nhờ nữ thần báo thù ghé thăm gã một lần nữa – một lần cuối cùng.
 
Quyển 5 - Chương 1: Màu hạt dẻ


“Dậy, dậy đi, Phong! Dậy đi, anh định ngủ đến bao giờ nữa?”



Tiếng gọi làm Vô Phong lờ mờ tỉnh giấc. Hắn nghe đó là một giọng nữ, thanh và cao, lại hơi lảnh lót, tưởng chừng phát ra từ một cổ họng ưa nói ưa cười. Nhưng chừng ấy chưa đủ lôi Vô Phong dậy. Bên dưới trải nệm êm trên đầu lót gối mềm, thân thể hắn quá nặng nề, lại díp mắt ngủ tiếp. Đương mơ màng, hắn nghe tiếng gọi lớn hơn kèm theo cái lắc vai, níu áo hoặc thì thầm bên tai. Hắn cảm giác một cơ thể khác áp lên mình với bầu ngực tròn trịa, vòng hông nhỏ nhắn lẫn mùi thơm dầu gội. Giọng nói lại vang lên:

“Dậy thôi, quá giờ rồi, Phong! Anh không nhớ sao? Anh hứa sẽ đưa em đi thăm doanh trại!”



Bấy giờ Vô Phong ngẩng đầu. Hắn không muốn thế mà cơ thể tự hành động như vậy. Hắn biết tình trạng này vì đã gặp tình huống tương tự, nhưng không thể làm gì khác ngoài việc để mọi thứ tự diễn biến theo ý nó. Trước mắt hắn lúc này là một cô gái tóc màu hạt dẻ, đôi mắt xanh lơ như nền trời mùa hạ. Bộ não bảo rằng hắn biết cô gái dù chưa từng gặp, thậm chí không dấy lên chút ngạc nhiên hay thắc mắc danh tính. Cô gái tiếp tục lay hắn dậy bằng những ngón tay lem màu:

“Dậy thôi, Phong. Anh hứa mà không giữ lời là em giận đấy!”



Nghe thế, Vô Phong uể oải trở mình rồi bước tới bên cửa sổ, hứng lấy ánh sáng và không khí từ quang cảnh bên ngoài. Hắn không rõ đang sáng hay chiều, cũng không biết những tòa nhà hình vòng cung nằm bên bờ sông và dưới tán cây xanh đằng xa thuộc thành phố nào. Cảm giác của Vô Phong bây giờ chỉ gồm ba thứ: thư thái – thoải mái – tận hưởng. Không thứ gánh nặng hoặc lo nghĩ nào quẩn chân hắn, tựa thể một con người đang bình thản chứng kiến đồng hồ nhảy từng giây và kéo dài niềm vui sống. Bản thân Vô Phong chẳng hề thắc mắc thứ cảm xúc kỳ quặc ấy. Có thể mọi khi nó vốn kỳ quặc nhưng giờ thì không. 

Vài hình ảnh chập chờn xuất hiện như sóng nhiễu, Vô Phong thấy mình như đang xuyên qua không – thời gian. Hắn thấy mình nắm tay cô gái tóc hạt dẻ bước trên những con phố nhỏ, ghé tiệm kem và quà vặt ven đường, tản bộ trong công viên lớp bóng râm và lỗ rỗ nắng xuyên tán lá. Đây hẳn là một cuộc hẹn hò. Vô Phong không thấy chộn rộn hay hồi hộp lắm, tựa thể đã hẹn hò thế này nhiều lần. Thỉnh thoảng cô gái tóc hạt dẻ quay lại cười với hắn rồi nói những chủ đề lạ lẫm:

“Nhìn đằng kia kìa, Phong! Phải, bức điêu khắc khổng lồ đó. Nó là biểu tượng của thành phố này, nhưng không phải do người Phi Thiên làm mà là một người Lưu Vân quốc. Nửa thế kỷ trước, người Lưu Vân tặng nó như món quà hòa giải giữa hai nước. Nó được cắt từ một quả núi nguyên khối, không phải lắp ghép. Anh thấy không? Nó đẹp quá chừng!”



Những hình ảnh chập chờn lại xuất hiện. Lần này Vô Phong thấy mình đang đẩy cô gái tóc hạt dẻ vào một thùng hàng. Thùng hơi bé, cô gái phải co quắp chân tay mới lọt nổi. Vô Phong lắc đầu đoạn cất lời – tự miệng hắn cử động: 

“Hay là thôi? Doanh trại chẳng có gì hay cả, sao em cứ muốn vào đó?”



“Tại sao phải thôi chứ?” – Cô gái tóc hạt dẻ cãi lại – “Anh đã đến trường của em, giờ em tới doanh trại của anh. Chúng ta qua lại công bằng. Giờ anh nuốt lời hả? Anh không thấy mình quá đáng à? Anh làm vậy mà cũng được ư? Nếu anh cảm thấy làm như vậy mà vui thì cứ làm đi, em sẽ không buồn đâu, em sẽ không trách cứ gì cả, rồi một ngày nào đấy anh sẽ thấy hối hận và day dứt…”

Vô Phong thừ mặt còn cô gái cười thích chí. Sau rốt hắn đành ấn cô gái xuống đáy thùng, trút lên mớ xốp chống ẩm và kiểm tra lỗ thông hơi bên dưới mở hay chưa. Hắn đẩy cái thùng vào khoang phi thuyền và xếp chung nó với những chiếc thùng bình thường khác. Xong xuôi đâu đấy, Vô Phong lái phi thuyền bay vào màn chiều tà đang phủ trùm thành phố. Hắn liếc thấy vài ngọn núi, cánh rừng trải dọc hướng tây bắc, những chiếc phi thuyền ngược xuôi, vài trạm kiểm soát không lưu. Hắn biết mình đang hướng tới đâu.

Sau chừng nửa tiếng, Vô Phong hạ thấp phi thuyền. Qua lớp cửa kính, hắn trông thấy một thành phố chia nửa bởi con sông chảy từ biển. Phi Thiên thành! – Hắn tự nhủ. Phi thuyền bay thêm một quãng theo hướng tây, hắn bắt gặp một doanh trại nằm trên khu đất bằng duy nhất của dãy núi bao quanh thủ đô. Hắn biết nó được gọi là Quân Doanh Bờ Tây. Không do dự hay chần chừ, Vô Phong lái phi thuyền xuống bãi đáp làm thủ tục kiểm tra. Mọi thứ êm xuôi, hắn chất hàng lên xe kéo, chạy lên phía bắc doanh trại rồi tiến vào một tòa nhà lớn với vẻ ngoài cũ kĩ mốc meo, cánh cửa bên ngoài han gỉ đặt tấm biển xiêu vẹo đề chữ Đội Hậu Cần 201. Hắn tiến vào tòa nhà, dỡ hàng, đẩy chiếc thùng “đặc biệt” ra một chỗ đoạn mở nắp. Chưa đợi Vô Phong lên tiếng, cô gái trồi lên làm tràn xốp ra ngoài, chạy quanh tòa nhà với vẻ háo hức của đứa trẻ con lần đầu thấy công viên giải trí đầy trò chơi, mái tóc hạt dẻ còn lấm tấm vụn xốp. Cô nàng cười với Vô Phong:

“Vậy ra đây là Đội Hậu Cần 201. Bọn anh chung quân doanh với Tiểu Đoàn Kiếm Sắt hả? Này anh lính hậu cần, anh biết mình may mắn thế nào không? Rất nhiều gã đến với em huênh hoang rằng họ sắp được tuyển vào Kiếm Sắt, nhưng họ đâu biết rằng em hiểu Tiểu Đoàn Kiếm Sắt nhiều hơn họ tưởng! Anh hãy tự thấy mình may mắn đi, tóc đỏ!”



Cô gái cười tươi, hết chạy quanh lại ngắm nghía tòa nhà. Nàng đòi Vô Phong dẫn đi xem nhiều hơn, tên tóc đỏ ưng thuận. Đến một cửa phòng đề chữ Thổ Hành, cô gái đòi xem bằng được dù Vô Phong không thích. Trong khoảnh khắc ấy, tên tóc đỏ cảm nhận rõ cái yếu lòng và nhượng bộ trước đôi mắt xanh lơ của cô gái. “Chỉ đáp ứng đòi hỏi của phụ nữ với hai điều kiện: trong tầm với và không quá đáng” – não hắn suy nghĩ như thế. Thấy hai điều kiện đầy đủ, Vô Phong tặc lưỡi mở cửa cho cô gái. 

“Sao phòng chẳng có gì cả? Những bức tường này là sao…” – Cô gái nói – “…này tóc đỏ, em nghĩ anh đang giấu giếm em cái gì đó. Đừng nghĩ em không hiểu biết quân đội. Dường như đây không giống đội hậu cần lắm, đúng không? Nhưng nếu anh không muốn nói, hãy để lúc khác. Em nghĩ nên trang trí một chút, mấy bức tường này như tường phòng vệ ấy! Em sẽ làm nó đẹp hơn một chút…” 

Rồi cô gái lôi ra những hộp màu, bút vẽ và bắt đầu thể hiện tài năng của mình trên một mảng tường còn trống. Trắng, đỏ, xanh, vàng, rồi trắng pha đỏ, xanh pha vàng… từng lớp màu trải ra, cuốn lại trong những hình thù mang trường phái nghệ thuật gì đấy mà Vô Phong chẳng hiểu. Nhưng tên tóc đỏ lặng thinh xem cô gái vẽ, chứng kiến bức họa hình thành giữa hàng sa hình khắc thô thiển lẫn câu chửi bới tục tằn. Vô Phong nhận ra những cảm xúc yên bình thay phiên tràn tới vỗ về mình, tựa thể đang nằm dài trên bãi biển đầy nắng gió. Thời gian trôi đi, Vô Phong ngồi xuống, trong lòng dấy lên ham muốn chiếm hữu ích kỷ. Hắn biết mình cần cô gái. 

*

* *

-Dậy thôi, tóc đỏ. Sắp đến rồi!

Vô Phong lờ mờ mở mắt. Kéo hắn khỏi giấc ngủ là một giọng nói êm ái ngọt ngào nhưng nguy hiểm kiểu mật ngọt chết ruồi, kèm theo một cái đá chân cảnh báo rằng nếu không dậy nhanh, cú đá tiếp theo sẽ mạnh gấp đôi gấp ba. Ngáp dài một tiếng, tên tóc đỏ nhổm người trở dậy. Chăn ấm nệm êm, không gian trong lành bình lặng, thành phố cổ kính với những tác phẩm nghệ thuật cỡ lớn, cô gái tóc hạt dẻ với đôi mắt xanh lơ – tất cả đã biến mất hoặc vốn chỉ tồn tại dưới dạng giấc mơ. Hiện thực chào đón Vô Phong bằng ánh đèn điện, cái lạnh thộc hốc mũi và âm thanh lướt gió ù ù của tàu điện. Nó cũng mời thêm vài vị khách như bóng tối và tuyết lạnh ghé thăm Vô Phong, nhưng vì cửa sổ tàu điện, chúng chỉ biết đứng ngoài gào thét. Vốn dĩ phương bắc trong bóng tối không rõ ràng. 

Thứ rõ ràng duy nhất của phương bắc là Mi Kha. Cô nàng ngồi đối diện Vô Phong, đôi mắt chong chong vào màn đêm, tay phải khư khư chiếc hộp kim loại ngũ giác. Chốc chốc, Mi Kha rờ tay dọc chiếc hộp như kiểm tra xem nó còn an toàn hay không. Giả sử đặt một bé gái tóc vàng ôm con búp bê ngồi cạnh cô ta, Vô Phong thấy cả hai là bản sao của nhau. Hắn cất lời:

-Chúng ta đang ở đâu?

-Biên Ngoại thành, thành phố cực bắc của Thâm Hàn quốc, cũng là nhà của dòng họ Cát Giá chúng tôi. – Mi Kha trả lời. 

Kể từ đó, cô ả im lặng, đôi chân thi thoảng cựa quậy như muốn mau mau chóng chóng về nhà. Vô Phong biết loại cảm giác này nhưng không hiểu lắm. Hắn không có nhà và cũng chẳng coi nơi nào là nhà. Thấy lạc lõng, hắn trốn vào suy tư riêng và nghĩ về giấc mơ ban nãy. Thay vì vật vã với hàng đống câu hỏi không lời giải đáp như mọi khi, hắn cố gắng nhớ lại gương mặt cũng như giọng nói của cô gái tóc màu hạt dẻ. Hắn biết chắc những hình ảnh kỳ lạ tuy trong mơ nhưng không phải huyễn hoặc. Ngày đầu tiên bước vào phòng truyền thống của Thổ Hành, hắn đã thấy một bức vẽ tuyệt đẹp ngự trên bức tường nham nhở hình vẽ và câu chửi bậy tục tĩu[1]. Nhiều khả năng chúng thuộc một phần ký ức cũ may mắn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Thiết Thù 117. Và cảm xúc cũng là thật. Hắn mến thương cô gái đó. 

“Dối trá rồi. Tóc đỏ. Mày lại dối trá rồi!” – Thâm tâm hắn tự nhủ. Vô Phong nhớ rõ từng câu thoại của cô gái tóc hạt dẻ. Kẻ khờ khạo nhất cũng biết chúng phát ra từ miệng một cô gái yêu đời, yêu nghệ thuật và yêu một gã đàn ông. Chính hắn. Là hắn. Vô Phong thấy nó rất kỳ cục. Trước giờ hắn dành trái tim cho công chúa, mà cũng từ trái tim, một phần khác đang nảy nở không thể kiểm soát mang tên “Tiểu Hồ”. Tóm lại có hai cô gái đang choán hết trái tim hắn, không dư chỗ cho cô gái tóc hạt dẻ. Hắn chắc chắn thế. 

Nhưng “Vô Phong quá khứ” như thế nào, hắn không dám khẳng định. 

Con tàu hơi rung lắc. Đường ray dẫn lên vùng cực bắc thường gặp gió tuyết lớn, tàu điện dễ xóc nảy. Thân thể Vô Phong rung theo, vô tình động chạm những vết thương chưa khỏi hẳn. Cơn đau nhức nhá lên như điện giật, móc gáy tên tóc đỏ và lôi xềnh xệch sang ký ức ở Phi Thiên thành một cách không thương tiếc. Thổ Hành săn đuổi, Lục Thiên trở mặt, giao kèo với lão pháp quan Trần Độ… hắn chẳng muốn tiêu tốn nơ-ron thần kinh nào cho mớ bòng bong đó mà lo cho Liệt Trúc hơn cả. Ngày chia tay, Liệt Trúc tỏ ra cứng rắn nhưng Vô Phong thấy rõ hàng tá cảm xúc tiêu cực trong đôi mắt con bé. Hắn chỉ hy vọng nó vẫn đi học và nghe lời người lớn.

Nỗi lo bám riết tên tóc đỏ đến lúc tàu cập bến. Thâm Hàn quốc xa xôi, Biên Ngoại thành lại càng hẻo lánh nên chẳng mấy ai ghé qua. Toa tàu chỉ còn Vô Phong, Mi Kha cùng dăm người nữa, và cũng từng ấy người bước xuống để lại những ghế ngồi trống không. Cái lạnh xốc người Vô Phong làm hắn hắt xì tối mặt tối mũi trước khi nhận ra đang đứng trên một sân ga heo hút. Mi Kha ngửa mặt hít một hơi dài:

-Về nhà rồi!

Cô ả thở ra khoan khái. Vô Phong ngoái đầu nhìn quanh. Cách hắn ba mét là tấm biển sắt đề dòng chữ “Biên Ngoại thành đón chào quý khách”, phiền nỗi biển gỉ nhoèn sơn loèn lở, mắt đang ngái ngủ dễ nhầm ra “Biên Ngoại thành đấm hàm quý khách”. Sau tấm biển chào mừng, vài tấm áp phích cùng biển hiệu bay phất phơ, quảng cáo kiểu cũ rích cho các thương hiệu từ đời tám hoánh. Chúng cũng lâu đời như lối kiến trúc xây nên nhà ga này với những lối đi mái vòm ố màu, cột trụ vuông vức sắc cạnh, những băng ghế chờ trờn xước không có tựa lưng – Vô Phong đoán người ta nằm ngủ chờ tàu đến chứ không ngồi. Nơi đây như bị bỏ quên. Nhưng theo chân Mi Kha ra cửa ga, Vô Phong không thấy rác rưởi hay sự bẩn thỉu nào. Nhà ga chưa bị bỏ quên, nó giống một bà già hom hem nhưng khó tính và sạch sẽ. 

Ngoài ga, trời tối om, tuyết rơi nhiều. Con đường dẫn vào trung tâm thành phố hiện lên dưới những khoảnh sáng vàng cam được nhả ra từ những cột điện trải dọc theo nó. Từ đây, Vô Phong không nhận rõ hình dạng Biên Ngoại thành, chỉ thấy vài thứ ánh đèn nhấp nháy trên ngọn tháp truyền hình, những trạm không lưu lơ lửng hay vài chiếc phi thuyền trực đêm của cảnh binh – những thứ biểu tượng mà bất cứ thành phố nào cũng có. Tên tóc đỏ ngó nghiêng tìm phương tiện di chuyển nhưng ngoài ga trống không, không người, không phi thuyền, không xe cơ giới. Ngay cả cửa hàng tiện lợi gần đấy cũng đóng cửa. Vô Phong gãi đầu:

-Cuốc bộ à?

-Không, có người đón chúng ta. À… kia rồi!

Mi Kha hất hàm về cuối con đường lợp ánh đèn vàng cam. Vô Phong nhìn theo, bất giác nhận ra một thứ gì đó ở cuối đường đang chậm chạp tiến về hướng này. Nó hơi ồn ào, có tiếng bình bịch giẫm chân lẫn tiếng thở phì phò lỗ mũi. Sau rốt, thứ nọ xuất hiện với bộ dạng một chiếc xe đánh ngựa cổ xưa nhưng thay vì ngựa, nó được kéo bởi hai con quái vật lông xù đầu chim, chân to bọc sừng xù xì mà dân xứ này gọi là “dã yến”. Trên cổ hai con dã yến lủng liểng tấm vải màu huyết, chính giữa vải in một biểu tượng màu vàng gồm chín thanh kiếm chạm mũi nhau. Trên cánh cửa thân xe ngựa cũng khắc biểu tượng tương tự và được mạ vàng. Nó là gia huy của họ Cát Giá. 

Người đánh xe là một ông già đậm người, đầu hói, tóc từ chẩm đầu vòng ra thái dương rồi nối một đường liền mạch với râu quai nón, ria mép chia chỉa tựa lá cọ. Ông ta ghìm cương bọn dã yến, xuống xe rồi cúi đầu trước Mi Kha, xưng hô với cô ả bằng kính ngữ mà Vô Phong nghe loáng thoáng đâu đây có chữ “tiểu thư”. Dứt lời, người đàn ông xách đồ giùm Mi Kha và cả tên tóc đỏ. Cô nàng nói:

-Ông ấy là quản gia, thày dạy đánh kiếm cho anh em tôi. Cứ gọi ông là Quản Gia. 

-Tên Quản Gia hay chỉ là quản gia? – Vô Phong nhíu mày.

-Cả hai. Vốn dĩ ông ấy không có tên. – Mi Kha đáp – Ông nội tôi đưa ông về từ trại mồ côi và huấn luyện thành chiến binh cho dòng họ. Ông ấy nhiều tên, nhưng tôi quen gọi là Quản Gia. 

-Dòng họ của cô lớn lắm hả?!

Mi Kha cúi đầu nhếch mép đồng tình nhưng vẻ mặt không mấy tự hào. Bằng một thái độ sỗ sàng, cô ả đẩy Vô Phong lên xe rồi thu mình trong im lặng, đôi mắt xám trông về thành phố qua ô cửa sổ bầu dục. Vô Phong thấy khó hiểu, càng không biết cô nàng tìm gì giữa màn đêm đặc tuyết. Nhưng tên tóc đỏ không căn vặn bởi đầu óc hắn cũng rối bời chẳng kém. Phía ngoài, sau khi sắp xếp xong hành lý, ông Quản Gia trở về ghế đánh xe. Tiếng vung roi vút lên, hai con dã yến thở phì phì rồi lầm lũi cất bước. 

Dưới những cột đèn vàng, Vô Phong tiến vào Biên Ngoại thành trong hỗn hợp giữa tiếng roi quất, tiếng bánh xe gỗ kêu lọc cọc hay tiếng thở của lũ dã yến. Chậm chạp, chậm chạp. Vô Phong hơi sốt ruột nhưng không hé môi phàn nàn. Quý tộc Băng Thổ xưa nay khoái nhiêu khê rườm rà – hắn tôn trọng sở thích của họ. Vả lại những âm thành ồn ào hóa lại hay giữa một thành phố im lìm dưới mưa tuyết, không bóng người và có chút gì đấy rệu rã. Vô Phong chẳng tìm được điểm mới mẻ nào về Biên Ngoại thành ngoài những khu dân cư nhà mái thấp, khu mua sắm không ánh đèn, các công trình xây dựng dở dang, những bãi đất bỏ hoang ngập tuyết trắng. Điểm duy nhất là ai đó hoặc bàn tay nào đó vẫn giữ thành phố quang đãng và ít dơ dáy nhất có thể. Cũng giống nhà ga tàu điện, cái hơi hướm “bà già sạch sẽ” xuất hiện khắp ngóc ngách Biên Ngoại thành. 

-Thành phố thuộc về họ Cát Giá chúng tôi. – Mi Kha đột nhiên cất lời – Ông tổ họ Cát Giá nằm trong số mười lăm người đầu tiên đi theo Biệt Liên Đại Đế. Để trả ơn, Đại Đế ban cho họ Cát Giá mảnh đất này. Thời phi cơ giới, lãnh thổ Băng Hóa lớn gấp đôi bây giờ, Biên Ngoại thành thuộc một phần của đế chế. Sau này họ Biệt Liên suy tàn, kỷ nguyên hiện đại tới, nhiều tiểu quốc tách khỏi đế chế hoặc thành vùng tự trị. Thâm Hàn quốc là một kiểu như vậy; tiểu quốc này không có hoàng đế, chỉ có hội đồng chính phủ, độc lập trên danh nghĩa nhưng vẫn phụ thuộc Băng Hóa. 

-Nói trắng ra, cô là người Băng Hóa? – Vô Phong hỏi.

-Phải. – Mi Kha gật đầu – Tôi chiến đấu cho Băng Hóa, đổi lại họ sẽ cung cấp tài chính vật tư hoặc các nhà tài trợ. Thành phố không thể tự gọi nhà tài trợ, anh biết đấy, mà phải thông qua Băng Hóa quốc. Vì vậy họ Cát Giá phải tận tâm phục vụ. Đây là cách Băng Hóa ràng buộc chúng tôi. 

Vô Phong chống cằm ngó ra cửa sổ:

-Vậy mọi chuyện không tốt? 

-Tốt hơn trước, ít nhất là hơn mười năm trước. – Mi Kha trả lời – Khi tôi trở thành chiến binh, dòng họ tạm qua giai đoạn khó khăn, thành phố được cải thiện hơn. Những thứ anh đang thấy là thành quả của tôi. Còn mười năm trước? Quá nửa là lều bạt và bãi chăn nuôi gia súc. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. 

Tên tóc đỏ gật gù. Hắn theo Mi Kha về đây vì hai mục đích. Thứ nhất là hắn chẳng còn nơi nào để trốn và chẳng còn ai đáng tin tưởng. Thứ hai là theo lời lão già Trần Độ, Mi Kha sẽ cho hắn lời giải đáp về Đề Án Mắt Trắng – thứ căn nguyên gây nên hỗn loạn. Nói cách khác, nhờ nó mà Vô Phong sống dậy từ cõi chết để ngậm đủ thứ rắc rối từ cõi sống. 

-Vậy là dòng họ Cát Giá đã thử nghiệm Đề Án Mắt Trắng? Tại sao phải mạo hiểm như thế? 

Chiếc xe ngựa vòng theo một đường xuyến, Mi Kha ngả nghiêng như đang trôi theo dòng quá khứ. Đôi lúc Vô Phong tưởng cô ả sẽ im lặng mãi. Cuối cùng, Mi Kha cất lời:

-Họ Cát Giá giỏi chiến đấu, thậm chí giỏi nhất trong số mười lăm dòng họ dựng nên Băng Hóa. Chúng tôi có hai người từng đứng trong hàng ngũ Bảy Người Mạnh Nhất. Nói cho dễ hiểu, địa vị của chúng tôi giống họ Chiến bên Phi Thiên quốc. Để tăng mối liên kết, họ Cát Giá thường kết hôn với người họ Biệt Liên, đổi lại chúng tôi hưởng nhiều đặc quyền hơn và đỡ đau đầu với mấy thứ như đếm tiền. Chúng tôi đánh kiếm giỏi nhưng đếm tiền không giỏi – chúng tôi đã từng như thế và không chịu thay đổi. Họ Cát Giá ỷ lại vào truyền thống kết hôn với hoàng gia cho đến gần một thế kỷ trước…

Mi Kha ngừng nói đoạn lục hộc rượu ướp đá dưới ghế ngồi. Cô nàng mời Vô Phong. Tên tóc đỏ gật đầu. Hai người cùng uống rồi tiếp tục:

-Gần một thế kỷ trước, các tướng lĩnh Băng Hóa đảo chính. – Mi Kha nói – Họ tàn sát hoàng gia. Mười bảy thành viên hoàng gia, trong đó có ba phụ nữ họ Cát Giá, bị lôi ra đại sảnh hoàng cung. Họ bị trói và bị bắn sau gáy. Dòng máu hoàng đế tuyệt diệt. Họ Cát Giá chúng tôi cùng nhiều dòng họ khác lật đổ chính phủ độc tài, đám tướng lĩnh chạy về phương nam lập ra Lực Lượng Mù Thủy. Có ba người bị giết, họ Cát Giá thề sẽ báo thù. Bất cứ nơi nào có Lực Lượng Mù Thủy, họ Cát Giá xông pha trước tiên. Mệnh lệnh báo thù cứ thế truyền đời… 

Mi Kha ngừng nói đoạn trông ra cửa sổ. Cô ả chỉ ra một con đường lớn phía bên phải:

-Thấy nó không? Cứ đi trục đường này, sau đấy vượt qua một vùng biển, anh sẽ tới đất Thiên Phạn, đất của người Đà Ma – những kẻ ngoại đạo. Người ta nói trong thời kỳ chiến tranh tôn giáo, người Đà Ma đã điên cuồng chiến đấu, tới mức máu che mờ mắt lẫn tâm trí họ. Và khi tỉnh giấc khỏi cơn điên, họ nhận ra mình chẳng còn một gã đàn ông nào. Có lẽ vì ở gần họ nên chúng tôi nhiễm cái máu điên ấy. Chúng tôi săn lùng Lực Lượng Mù Thủy, tàn sát chúng, nhưng chúng cũng trả đũa mạnh không kém. Lực Lượng Mù Thủy đông hàng vạn, chúng tôi có hạn. Cho tới một ngày nọ, họ Cát Giá nhận ra đã tiêu tốn quá nhiều tài sản vào vũ khí, lính đánh thuê, tin tình báo… Nợ nần chồng chất, trong khi những người ưu tú nhất chết gần hết, chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ con. Như đã nói, chúng tôi giỏi đánh kiếm, không giỏi đếm tiền. 

Những gì diễn ra sau đó, Mi Kha không nói thêm nhưng tên tóc đỏ đoán được. Vì những khoản nợ và không còn thành viên ưu tú vực dậy, dòng họ xuống dốc. Hậu quả là lều bạt và bãi chăn nuôi gia súc một thời tràn ngập Biên Ngoại thành. Mi Kha lắng cốc rượu, tiếp lời:

-Hơn ba mươi năm trước, thế giới nổ ra Chiến Tranh Tài Nguyên. Những cuộc chiến trải dài khắp các mỏ khoảng sản quang tố. Thời đại mà hiệp ước bị xé nhanh như chảo chớp, Đại Hội Đồng vô dụng trong hòa giải và những kẻ khát máu được tôn vinh. Phi Thiên quốc thắng trận vì giành được nhiều lợi ích nhất. Họ thua ở Băng Thổ nhưng giành được nhiều mỏ quang tố, lôi kéo được nhiều quốc gia chống lại Băng Hóa. Chưa nước nào làm được như thế và bỡn cợt Băng Hóa như thế. Liên Minh Phương Bắc ngày nay tan rã một phần vì cuộc chiến tài nguyên năm xưa. Thời đó, Phi Thiên quốc đạt đỉnh điểm sức mạnh quân sự nhờ Bất Vọng, Liệt Giả và một kẻ nhiều danh xưng gọi là Mãnh Hổ. Báo cáo cho thấy họ mạnh không tưởng, đặc biệt là Liệt Giả. Báo cáo nói ông ta “như một cỗ máy chạy năng lượng quang tố, không bao giờ cạn sức, không bao giờ hết ý chí”. Vì chuyện này, Băng Hóa khởi động chương trình tối ưu hóa cá nhân. Thay vì vũ khí hủy diệt, chương trình nghiên cứu, đào tạo những chiến binh có khả năng thay đổi cục diện cuộc chiến. Từ đó nảy sinh một dự án thí nghiệm trên cơ thể người gọi là “Đề Án Mắt Trắng”. 

Vô Phong định uống tiếp thì nhận ra rượu khá nặng, uống nữa khéo xỉn quay đơ. Hắn nói:

-Vậy là để vực dậy, dòng họ Cát Giá các cô chấp nhận cuộc thí nghiệm? 

-Phải. – Mi Kha xác nhận – Mắt Trắng là một trong những vũ khí cổ xưa, từng tồn tại trong thời phi cơ giới. Băng Hóa hy vọng với ma thuật bùa chú và công nghệ, một người sống sẽ sở hữu đôi mắt của người chết. Thí nghiệm đủ mọi cách nhưng không cách nào thành công. Người tình nguyện tham gia bị thương tật, thậm chí tử vong. Tất cả vẫn vô vọng cho tới khi mẹ tôi tham gia chương trình. Bà chấp nhận thí nghiệm khi đang mang thai, 

Tên tóc đỏ bất giác nhìn cái hộp kim loại trong lòng Mi Kha, tóc gáy dựng ngược. Hắn thẽ thọt:

-Vậy… thí nghiệm thành công? Đứa trẻ đó ra đời với Mắt Trắng? Là anh trai cô, Quỷ Nhãn?

-Hàn Hà. – Mi Kha sửa – Tên thật của anh ấy là Cát Giá Hàn Hà. Phải, anh ra đời với đôi mắt người chết. Vì anh, nhiều bà mẹ khác trong dòng họ cũng thí nghiệm. Kết quả đều thành công. Một thế hệ chiến binh trẻ ra đời, hùng mạnh ngay từ lúc sơ sinh. Họ Cát Giá được tài trợ, Biên Ngoại thành khá hơn. Chúng tôi đã nghĩ dòng họ sắp tái khởi. Nhưng lên năm tuổi, cơ thể anh tôi bắt đầu phát sinh triệu chứng hoại tử. Để đổi lấy Mắt Trắng, cơ thể phải chấp nhận rằng đến lúc nào đó, họ sẽ trở thành người chết thực sự. Ban đầu chúng tôi giấu, nhưng Băng Hóa nhanh chóng biết được và đình chỉ dự án. Nguồn tài trợ bị cắt, những bà mẹ sinh ra lũ trẻ mà biết chắc rằng một ngày nào đó, đứa trẻ sẽ trở thành một thứ quái vật với da thịt chảy rữa bốc mùi hôi thối. Giờ đây có hàng chục đứa trẻ như thế trong họ Cát Giá. Chúng đang chết dần, những bà mẹ sinh ra chúng chết mòn vì ảnh hưởng bùa chú. Tất cả nguyền rủa gia đình tôi, gia đình tôi nguyền rủa anh trai.

Vô Phong thở phù. Nghĩ thế nào, hắn lại nốc thêm rượu. Đợi thứ chất lỏng cay khé tràn qua, hắn hỏi tiếp:

-Vậy chuyện tiếp theo đó?

-Chúng tôi có máu điên giống người Đà Ma. – Mi Kha nhếch mép – Gia đình tôi không chấp nhận kết quả đó. Một năm trước khi dự án đóng sổ, mẹ tôi thí nghiệm lần nữa. Thay đổi bùa chú, thay đổi công nghệ. Kết quả là tôi ra đời nhưng không có Mắt Trắng. Dự án bị hủy hoàn toàn. Nhưng đó mới chỉ là phần đầu. Khi lớn lên, tôi cảm giác một thứ sức mạnh cũng lớn lên theo và tới năm bảy tuổi, mắt tôi chuyển thành Mắt Trắng. Tôi có thể điều khiển nó tùy ý, sức mạnh vượt trội hơn cả anh trai, quan trọng là không hoại tử. Tôi là sản phẩm hoàn hảo nhất. Nhưng đáng tiếc là dự án đã đóng sổ, sự thành công là vô nghĩa. Thời đại chiến tranh qua đi, chúng tôi vô giá trị với Băng Hóa. May mắn cho chúng tôi, họ Xuy Hạ tại thủ đô vẫn là đồng minh đáng tin cậy. Anh trai đưa tôi đến thủ đô và xin giúp đỡ, họ Xuy Hạ đồng ý. Từ đó, tôi kéo được nhiều tài trợ dòng họ và thành phố. 

-Hình như cô trả lương cho công nhân vệ sinh nhiều lắm, phỏng? – Vô Phong nhướn mày.

Mi Kha bật cười. Cô nàng ngửa cổ tu ực hết cốc rượu:

-Nhưng sự thật là họ Cát Giá đang chết. Nếu không khẩn trương, tôi sẽ là thành viên cuối cùng. Bởi lẽ đó, tôi thỏa thuận với Trần Độ để đổi lấy cái này. – Cô ả gõ gõ chiếc hộp – Vật chủ đầu tiên sẽ mang nhiều thông tin nhất. Nhưng chừng đó chưa đủ, tôi cần các pháp sư giỏi bùa chú, những giáo sư giỏi công nghệ sinh học. 

Nghe lời cô ả, Vô Phong cảm giác chuyện chẳng lành. Lụi hụi với túi xách một lúc, Mi Kha đem ra một tập giấy cùng bút:

-Tôi cần anh giúp đỡ. Hoặc nói cách khác, tôi thuê anh, trả lương đàng hoàng. Đọc cho kỹ rồi ký. 

-Tôi được quyền từ chối không? – Vô Phong nhướn mày.

-Không. – Mi Kha khẳng định – Thứ nhất, anh bị truy nã và nương nhờ tôi. Thứ hai, anh đến để tìm tài liệu về thứ tối mật nhất trong họ Cát Giá. Thế nên anh phải có gì đấy trao đổi. Lòng tốt cũng có giá mà! 

Cô nàng nở nụ cười mật ngọt. Vô Phong biết ả không đùa. Nếu phải chặt tay hắn điểm chỉ lên tờ hợp đồng, Mi Kha sẽ làm ngay mà không do dự. Hết đường chạy, tên tóc đỏ đành phải ký. Mi Kha gật gù:

-Cảm ơn. Nói trước là vụ này không dễ xơi. Nhiều khả năng chúng ta phải tìm người ở vùng chiến sự. Vẫn như lần trước: không bảo hiểm, có tiền đền bù tùy tâm. Nhưng trước khi vào vụ đó, anh cần ghé qua dinh thự họ Cát Giá trước. Anh có năm ngày để thu thập hoặc ghi chép tài liệu, muốn ghi chép gì tùy anh, chỉ cảm phiền đừng bán thông tin. Tôi tin anh biết giữ bí mật nhưng cứ nhắc nhở trước. 

Mi Kha cười cợt nửa đùa nửa thật. Vô Phong lắc đầu chịu thua cô nàng đoạn trông ra ngoài cửa sổ. Nhờ ánh đèn đường vàng vọt, hắn bắt gặp một thánh đường nhỏ xây dựng theo kiểu phương bắc. Điều kỳ quặc là thánh đường thờ Vạn Thế, nhưng ngay ở cổng đặt một bức tượng nữ thần cầm dao găm, mặt mày hung ác dữ tợn. Vô Phong nhớ rằng trong tôn giáo Vạn Thế không tôn sùng bà nữ thần nào xấu xí như vậy. Hắn hất hàm:

-Tượng gì kia? Sao nó lại ở đó? 

-Tượng thần Nê Mê, nữ thần báo thù, vị thần đầu tiên của lục địa Băng Thổ. – Mi Kha trả lời – Trước khi Nữ Thần Tiên Tri cùng Vạn Thế xuất hiện, nữ thần báo thù đã ngự trị ở đây hàng thế kỷ. Giờ không mấy ai thờ Nê Mê nữa, trừ một số nơi xa xôi như thành phố này.

-Liệu cô có định báo thù Lực Lượng Mù Thủy không? Giống như tổ tiên họ Cát Giá đã làm?

Mi Kha nhún vai: 

-Tôi không chắc. Chuyện quá lâu rồi. Nhưng tôi sẽ tính sổ kẻ giết anh trai mình. Chừng nào còn con người, nữ thần báo thù còn tồn tại. Bà ấy chẳng đi đâu cả, tóc đỏ, bà ấy luôn ở bên chúng ta và thì thầm rằng nợ máu phải trả bằng máu. 

Chiếc xe ngựa vẫn chậm rãi băng qua thành phố. Tòa thánh đường cùng vị nữ thần báo thù khuất dần sau bóng tối. Tên tóc đỏ cúi đầu ngẫm nghĩ, thâm tâm chợt nhớ cô gái tóc hạt dẻ. Hắn không biết cô gái là ai và đang ở đâu. Chút lợn cợn khiến hắn cầu mong rằng những quá khứ cứ ngủ yên ở nơi chúng đang say giấc. 

Hoặc nhỡ chúng tỉnh dậy và tìm mình, Vô Phong chỉ mong chúng không đến cùng nữ thần báo thù.

[1]: xem lại chi tiết này ở Quyển 1 Chương 5
 
Quyển 5 - Chương 2: Chuyện phương bắc


Sau nửa tiếng lầm lũi, hai con dã yến kéo xe ngừng bước, xù lông rãy cổ rũ tuyết phành phạch như thông báo rằng chúng đã đến nơi. Vô Phong thò cổ ra ngoài, nhận ra xe đang dừng tại ngã ba. Án ngữ ở nơi không cho trục đường này trở thành ngã tư là khu biệt thự được bao bọc trong hàng rào màu xanh lá. Hàng rào trông bóng bẩy như mới sơn lại, cứ mươi mét lại treo một tấm biển gia huy họ Cát Giá và trải dài suốt một con phố. Mi Kha nghiêng đầu nói:

-Chắc ông Quản Gia đã chuẩn bị tiệc mừng tôi về. Hy vọng có món ngỗng quay. Quay kiểu phương bắc, nhồi con ngỗng nhỏ vào bụng con ngỗng to, nhồi thêm rau củ với nước sốt cay hoa hồi. Lâu rồi tôi chưa ăn món đó, cũng chẳng chỗ nào làm đúng khẩu vị của mình.

-Cô xa nhà bao lâu thế? – Vô Phong hỏi.

Cô ả xòe ngón trỏ và ngón giữa:

-Hai năm. Làm mọi thứ vì bộ mặt dòng họ và thành phố. Tôi không chỉ có con em họ Cát Giá. Nhiều gia đình ở đây đã thề trung thành với chúng tôi, có gia đình thề tận bốn, năm đời. Nếu muốn, tôi có thể tập hợp lực lượng riêng cỡ một tiểu đoàn. Bởi vậy, tôi không thể để gia đình họ sống trong một thành phố tồi tàn rách nát. Ít nhất là nó không còn mùi gia súc và bọn đàn ông bốc mùi rượu lê la ngoài phố nữa. 

Vô Phong gật gù:

-Vực dậy cả thành phố… Cô tài năng đấy chứ? Tôi tưởng cô chỉ biết đánh thuê?

-Nhiều thứ mà tôi không biết, ví dụ như tính thuế. Thứ khó hiểu nhất trên đời là thuế. – Mi Kha nhếch mép cười – Nhưng tôi biết chắc rằng mọi thứ sẽ đơn giản hơn nếu ta có những người thông minh, được việc và không tham nhũng. 

Phía ngoài, cửa khuôn viên từ từ tách ra cho xe ngựa tiến vào khu biệt thự. Hai con dã yến men theo một lối đi thẳng tắp giữa hai khoảnh vườn có xích đu sắt và nhiều cột đèn cao thấp khác nhau. Bóng chụp đèn hình kim cương tỏa ánh sáng nhiều màu soi rọi khoảnh vườn được cắt tỉa cẩn thận, trảng hoa được chăm bẵm, những ngọn lá rụng quanh gốc cây tần bì vừa đủ đẹp chứ không lộm cộm và bẩn thỉu. Trong làn sáng nhiều màu rũ xuống tựa bức màn, vài ảo ảnh kỳ lạ nổi lên: thăng vân tàu, bọn quái vật không trung như vân cước hay thiên tặc, vài con quái vật không trung mà Vô Phong chưa thấy bao giờ, hoặc đơn giản là Vạn Thế cùng thánh sứ. Thay vì đúng hình dạng thật, mấy ảo ảnh đó đã “cải biên” ít nhiều cho hợp mắt trẻ con. Rất đẹp, rất cổ tích. Mi Kha giải thích rằng chúng là “đèn cực quang”, làm bởi những thợ thủy tinh biết phép thuật: 

-Biết cách thổi thủy tinh truyền thống chứ? Phải, một cái ống dài như vầy… – Mi Kha mô tả – …người thợ sẽ thổi thêm bụi phép thuật. Bóng đèn khi gặp ánh sáng sẽ đổi màu giống cực quang, đồng thời tạo ra ảo ảnh. Trẻ con thích lắm! Nhưng giờ không mấy ai làm đèn cực quang nữa, nghề ấy sắp biến mất rồi.

Cả khu biệt thự đều có loại đèn này. Những ngày họ Cát Giá còn hùng mạnh, đèn bật sáng suốt ngày đêm, khuôn viên bừng sáng những dải cực quang tuyệt đẹp như lôi cả bầu trời phương bắc về một khoảnh đất nhỏ. Đã có thời nơi đây hàng tháng mở tiệc đón tiếp ông hoàng cùng hoàng gia quyền lực nhất lục địa, những dòng họ lâu đời và chính khách nổi tiếng. Người ta kể rằng trẻ con Biên Ngoại thành thường tụ tập bên ngoài hàng rào xanh lá, trông vào khu biệt thự với ánh mắt khao khát lẫn ghen tị với lũ trẻ dòng họ. 

Nhưng đấy là chuyện quá khứ. Bản thân Mi Kha chỉ nghe kể chứ chưa một lần thấy dải cực quang. Cô ả sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Cát Giá sa sút, nhiều gia đình bỏ khu biệt thự vì không chịu nổi chi phí, tài sản dòng họ bị bán tống bán tháo. Những ngọn đèn vẫn đẹp, nhưng còn đó các vết cặn ố dù ai đó đã cố tẩy rửa. Chúng sạch sẽ tinh tươm song cũ kĩ, chừng như vừa thoát khỏi trạng thái trầm trệ cách đây chưa lâu, và cũng chỉ nơi đây có ánh sáng rực rỡ. Quá nửa khu biệt thự vẫn chìm trong bóng tối và chờ người tới ở. 

Cỗ xe ngựa dừng chân trước tòa biệt thự phía cuối con đường. Tại đó, nam nữ phục vụ đã sắp sẵn hai hàng, chờ Mi Kha xuống xe là cúi đầu đồng thanh hô “Mừng tiểu thư đã về!”. Cô nàng chào trả rồi dẫn Vô Phong vào biệt thự, để đám phục vụ và ông Quản Gia sắp xếp hành lý. Bước qua cánh cửa gỗ màu cánh gián khảm bạc, hai người tiến đến phòng khách có mái trần cao và rộng, bốn bức tường xung quanh gắn giá nến mạ vàng. Cách Vô Phong mươi bước chân là một hốc lò sưởi ôm trong mình những khúc củi cháy tí tách, lửa thơm mùi gỗ sồi cùng muội than ám tảng trên lớp gạch đỏ. Nhờ nó, căn phòng ấm áp và dễ dàng xốc Vô Phong tỉnh ngủ sau hành trình giá rét. 

Trong lúc chờ Mi Kha thay y phục, tên tóc đỏ rảo chân tham quan tầng một tòa biệt thự. Nơi đây gồm có phòng trà, phòng đọc sách, phòng tranh, phòng trưng bày đồ truyền thống, phòng họp và mấy căn phòng nữa như là phòng khách phụ. Đồ đạc cũ, báu vật cổ xưa, tranh vẽ, tặng phẩm hoàng gia… những thứ quý giá nhất vẫn ở lại tòa biệt thự, không hẩm hiu như nhiều món đồ đội nón ra đi để trả nợ. Nhưng hiện thời Vô Phong không có hứng thú với lịch sử hay nghệ thuật. Hắn đang tìm nhà ăn. Từ lúc rời Phi Thiên quốc, hắn chưa có một bữa ăn tử tế, hàm răng ngày nào cũng trệu trạo thực phẩm đóng hộp. 

Đương lần mò, Vô Phong giật thót khi ông Quản Gia đột ngột xuất hiện. Chưa đợi tên tóc đỏ mấp máy môi, ông Quản Gia mở lời, hai tay đeo găng chìa ra với khay đựng bánh quy nấm cùng một ly sữa nóng:

-Tôi đang tìm Múy, hóa ra Múy ở đây. Xin mời! Tiểu thư của chúng tôi đang bận, một lát nữa mới xuống, xin Múy cứ tự nhiên như ở nhà. 

Vô Phong bốc bánh ăn vội. Hắn cần lèn chút dinh dưỡng cho dạ dày rỗng tuếch, đồng thời nén mớ ruột gan đang chực vọt khỏi cổ. Giống cô chủ tiểu thư, ông Quản Gia cũng có phong thái thoắt ẩn thoắt hiện thích hù người. Sẵn bộ ria mép chia chỉa dữ tợn, ông ta chỉ cần trợn mắt một chặp là đủ dọa chết người yếu tim. Tên tóc đỏ thở phù:

-Đừng gọi tôi là Múy, tôi không phải quý tộc. Ồ?! – Vô Phong ngạc nhiên khi cắn miếng bánh, cảm giác vị ngọt ngậy lẫn ngăm ngăm đắng – Cái gì ngon vậy?

Ông Quản Gia trả lời:

-Là súc-cù-là, một thứ được chế biến từ giống cây cổ gọi là “ca cao”. Không nhiều nơi trồng được giống cây này. Đại bộ phận đất đai ở thế giới Tâm Mộng không phù hợp cho cây ca cao. Vậy nên hạt ca cao và súc-cù-là rất mắc. Nhưng đất Biên Ngoại thành chúng tôi trồng được nên rất sẵn. 

Được miếng bánh súc-cù-là ngon tuyệt cùng sữa nóng xoa bóp, cái bụng lạnh đói của Vô Phong tạm nguôi. Hắn rảo qua phòng tranh chờ đợi Mi Kha, tiện thể tìm lại một dòng họ Cát Giá huy hoàng qua tranh ảnh. Kia là tranh vẽ ông tổ họ Cát Giá, kế bên là ông tổ đứng trong hàng ngũ mười lăm người đầu tiên đi theo Biệt Liên Đại Đế. Xa xa là bức phù điêu mô tả họ Cát Giá xung trận trên lưng ngựa, dã yến hoặc tàn ảnh, mang theo cờ gia huy thêu chín thanh kiếm bay rợp trời. Trang trọng hơn cả là bức họa hoàng hậu Băng Hóa quốc, cũng là thành viên dòng họ đầu tiên kết hôn với hoàng đế Băng Hóa. Theo lời ông Quản Gia, bức họa từng bị bán và Mi Kha phải tiêu tốn hàng trăm thùng vàng để chuộc lại.

Vô Phong để ý ảnh hơn tranh. Lần mò giữa hàng sa tấm ảnh đóng khung thủy tinh treo trên tường, kệ và tủ gỗ, rốt cục hắn cũng mò thấy ảnh gia đình Mi Kha. Dễ nhận ra cha mẹ cô ả đều là quý tộc từ trong trứng nước; bức hình chụp lúc dòng họ Cát Giá suy sụp nhưng đôi mắt hai người vẫn ngời ngời kiêu hãnh, tự tôn, không bao giờ chịu ngang hàng với người có địa vị thấp kém hơn. Bàn tay họ đều ôm lấy hoặc âu yếm đôi vai cô bé Mi Kha năm tuổi, trong khi hoàn toàn bỏ quên cậu con trai đứng kế bên. Trông như một đứa trẻ xa lạ đứng cạnh gia đình ba người, dùng kéo cắt ra thì được vừa vặn hai tấm ảnh. “Quỷ Nhãn!” – Vô Phong nhìn đứa bé trai và nghĩ thầm. Quỷ Nhãn dạo ấy đang độ thiếu niên, mặt búng sữa, rất có dáng một cậu ấm thông minh ngoan ngoãn nếu không sở hữu đôi mắt người chết và ăn mặc kín mít để che dấu vết hoại tử. Vẫn là Mắt Trắng, nhưng đứa trẻ Quỷ Nhãn không làm tên tóc đỏ sợ hãi. Hắn thông cảm nhiều hơn. 

Đó là bức ảnh duy nhất về Quỷ Nhãn, không có cái thứ hai. Gã cũng mất hút trong bức ảnh chụp toàn thể dòng họ. Còn lại chỉ toàn em gái của gã. Mi Kha bảy tuổi chơi ngoài vườn. Mi Kha chín tuổi bắt đầu học kiếm. Mi Kha mười hai tuổi biết đánh kiếm thông thạo. Mi Kha mười lăm tuổi gia nhập lực lượng đánh thuê. Mi Kha hai mươi mốt tuổi làm hộ vệ thánh sứ. Mi Kha và Mi Kha. Nếu thực sự có chủ đích đẩy Quỷ Nhãn vào lãng quên và tôn đứa em gái làm tượng đài hy vọng cho dòng họ, cha mẹ gã đã thành công. Mấy lần tên tóc đỏ định hỏi ông quản gia về Quỷ Nhãn nhưng thôi. Hắn nghĩ im lặng là tốt hơn cả. 

-Anh đang ở đây hả? – Tiếng Mi Kha cắt ngang tâm trí Vô Phong – Ăn thôi, tôi đói rồi!

Tên tóc đỏ ngoảnh lại, mắt mũi lập tức nghệt ra những chữ O chữ A. Mi Kha đã trở lại thân phận tiểu thư. Cô ta đang khoác lên mình chiếc váy màu huyết dụ thêu những họa tiết lẫn đường diềm vàng, rất giống màu sắc đặc trưng của gia huy dòng họ. Mái tóc vàng thắt bím mọi khi giờ xõa dài phủ kín lưng, nữ tính hơn, điệu đà hơn và rũ sạch mọi tàn dư thân phận đội trưởng đánh thuê Đội 11. Giả sử Vô Phong nói rằng chính cô nàng nữ tính này từng đấm mình hộc máu mồm, chắc chắn không ai tin. 

Mi Kha không đi một mình mà còn dắt theo hai đứa trẻ ước chừng tám tuổi, một trai một gái. Tim Vô Phong khẽ đập thình thịch khi thấy chúng sở hữu Mắt Trắng. Cô ả ngoảnh xuống bọn nhỏ:

-Con của chú tôi. Chú và cô qua đời lâu rồi nên bọn nhỏ ở đây. Át Sa, An Lí, chào khách đi!

Đứa con trai An Lí và đứa con gái Át Sa cúi đầu, miệng bập bẹ lời chào. Tên tóc đỏ mỉm cười vẫy tay với tụi nhỏ. Hắn nhận ra Mắt Trắng của chúng chưa thành thục nên khó làm người đối diện sợ hãi. Vả chăng chúng chỉ là trẻ con. Tên tóc đỏ ghé tai hỏi nhỏ Mi Kha:

-Lũ trẻ đi học chứ? 

-Không, học riêng tại nhà. – Mi Kha trả lời – Ông Quản Gia dạy cả hai. Trẻ con họ Cát Giá học đánh kiếm sớm nên trường lớp bất tiện lắm. Hai đứa ở đây vui nhỉ, đúng không? 

Nói rồi cô ả cúi người thơm má bọn trẻ. An Lí cười tươi. Át Sa lại trầm hơn, chừng như nhận ra sự thiếu thốn trong căn biệt thự đầy đủ người phục vụ, đèn cực quang hay thú vui chơi. Tên tóc đỏ đoán chẳng bao lâu nữa con bé sẽ hiểu. Nhưng Mi Kha phải nói vậy để an lòng bọn trẻ. 

Lát sau, bốn người theo ông Quản Gia đến phòng ăn ở rìa phải biệt thự. Ở đấy tiệc đã dọn sẵn trên chiếc bàn dài. Mùi thơm thức ăn, tiếng chén đĩa lanh canh cùng những người phục vụ nhanh nhẹn báo hiệu một bữa ăn ngon lành. Nhưng bữa ăn ngon lành nhiều nguy cơ thành dở tệ khi một giọng nói già nua vang lên the thé:

-Mi Kha đâu? Công chúa của ta đâu? Tại sao mấy người không gọi ta dậy chứ? Phục vụ kiểu gì vậy? Thật đáng hổ thẹn! 

Người chưa đến, giọng đã đến trước. Đứng từ đây, Vô Phong nghe rõ một bà già đang cằn nhằn người giúp việc, chốc chốc phàn nàn ông Quản Gia, và sẽ không lạ nếu bà ta ê a than vãn suốt bữa ăn chỉ vì mấy điều nhỏ nhặt. Rồi người phụ nữ ấy xuất hiện với chiếc xe lăn, tóc vàng xơ xác chẻ ngọn, hốc mắt trũng sâu đầy dấu vết mất ngủ, môi mỏng thâm đen – ăn rơ hoàn hảo với cái miệng ưa nhiếc móc than phiền. Giả sử không ghé qua phòng tranh, Vô Phong đã chẳng tin bà ta là mẹ đẻ Mi Kha. Những dấu vết về một người phụ nữ trung niên sắc đẹp, uy quyền và kiêu hãnh đã mờ nhạt trên người đàn bà già quắt này. Trông thấy Mi Kha, bà ta gạt tay ông Quản Gia, tự mình lăn xe đến một cách khổ sở:

-Mi Kha! Mi Kha! Công chúa của mẹ! Lại đây con gái! Ôi, con gái ta! Hai năm qua, tại sao con chỉ gửi thư và gọi điện, mà không thăm ta một lần? Lại đây con gái, lại đây, để ta ôm con một chút! 

Mi Kha cười gượng đoạn bước tới để mẹ mình bớt khổ sở với cái xe. Người đàn bà già quắt ôm chầm cô ả rồi nức nở từng hồi. Bà ta khó tính, khó gần, dễ làm người khác khó chịu nhưng cái sự mong chờ con gái là thực lòng. 

Cái “một chút” của hai mẹ con Mi Kha kéo dài năm phút rồi mười phút, lê thê lê thê mãi. Phải đợi ông Quản Gia nhắc nhở, bà già mới chịu buông con gái để bắt đầu bữa ăn. Hai nữ phục vụ bế bà ta lên chiếc ghế đầu bàn dành cho chủ nhà. Mi Kha cùng bọn trẻ ngồi một bên, riêng Vô Phong trơ trọi một bên. Tiệc nhỏ song thịnh soạn gồm những khay bánh mì, cháo yến mạch, súp bắp cải thịt, súp lạnh ăn với sữa chua, xa lát trộn củ dền, mỡ lợn muối, thịt xiên nướng và những thức ăn lạ lẫm mà Vô Phong không biết gọi tên. Có cả món ngỗng quay kiểu phương bắc mà Mi Kha ưa thích đặt chính giữa bàn, mùi thơm cay cay ngào ngạt bốc lên từ lớp da giòn cánh gián. Tất cả ăn chung với rượu mật ong, một ly cũng đủ khiến người ngủ tít mít tới sáng bảnh. Tên tóc đỏ muốn ăn ngay nhưng e ngại bà chủ nhà, nhất là khi bà ta đang săm soi hắn bằng thái độ ít thân thiện. Phải đợi Mi Kha giới thiệu, bà già mới nở nụ cười hiếu khách:

-Ra là bạn của Mi Kha? Tôi có thể gọi cậu là… Phong? Tôi lấy theo tên chồng, cậu cứ gọi là “bà Tháp Tước”. Mời cậu! Mời cậu dùng! Xin cứ tự nhiên như ở nhà! À, xin lỗi cậu, tôi vui quá nên quên phép tắc. Nào mọi người, chúng ta phải cầu nguyện nữ thần Tashaya tối cao chứ! 

Đương háo hức, Vô Phong phải bỏ dao nĩa rồi đần mặt cầu nguyện theo. Phía bên kia, Mi Kha tủm tỉm cười chế nhạo hắn. Dưới ánh nến, bà Tháp Tước cầu nguyện bằng giọng khàn the thé. Tuy không hiểu “Tashaya” là gì nhưng qua lời bà Tháp Tước, tên tóc đỏ đoán nó là phương ngữ chỉ Nữ Thần Tiên Tri. Thủ tục xong xuôi đâu đấy, bữa tiệc mới chính thức bắt đầu. Vô Phong cắm cúi khỏa lấp dạ dày. Bên kia bàn, Mi Kha phải giữ hình tượng tiểu thư quý tộc ăn uống từ tốn nhỏ nhẹ, khác xa một cô nàng đánh thuê thích hút thuốc và tu rượu cả chai như Vô Phong từng biết. Miệng cô ả không chỉ có thức ăn, mà phải dành hơi trả lời người mẹ đang phấn khích tột độ vì con gái trở về. Lần này đến lượt tên tóc đỏ nhăn răng giễu cợt cô ả. 

Sau khi thồn một mớ bánh mì, ngỗng quay, thịt xiên và rượu mật ong vào bụng, Vô Phong tạm lưng lửng. Bấy giờ hắn mới nhận ra bà Tháp Tước đang thao thao bất tuyệt với Mi Kha cùng bọn trẻ An Lí, Át Sa. Thi thoảng bà quay sang nhìn lén, hy vọng thu hút sự chú ý của vị khách tóc đỏ. Bà kiêm cả vai một bà chủ khó tính xét nét và một ông chủ luôn tự hào về gia đình mình. Thấy Vô Phong đang nghe ngóng, bà Tháp Tước cao giọng:

-Họ Cát Giá luôn khiến Băng Hóa tự hào, cậu Phong à! Luôn tự hào! Thời phi cơ giới hay kỷ nguyên hiện đại, chúng tôi đều ở vị trí tiên phong nhằm đảm bảo Băng Hóa chiến thắng trong kiêu hãnh và thua trận trong danh dự. Đàn ông dòng họ này luôn dũng cảm nhất phương bắc! Cậu vào phòng truyền thống chưa? Chúng tôi có nhiều huân chương danh giá hơn cả họ Xuy Hạ. Điều này không thể chối cãi. Mười lăm dòng họ dựng nên Băng Hóa quốc, chúng tôi cống hiến nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất. Từng viên gạch, mái nhà và kể cả những ngọn tháp pháo bảo vệ thủ đô Băng Hóa đều do chúng tôi góp sức. Điều này không thể phủ nhận. Tuyệt đối không thể phủ nhận, cậu Phong à! Rượu, rượu đâu? – Bà già quay sang những người giúp việc – Tôi đã nói là không được để ly rượu của khách cạn thế kia! Đây có phải họ Cát Giá không vậy? Ôi Tashaya, Tashaya, ai đó nhúc nhích đi chứ? Có ai không? Làm ơn!

Một người phục vụ vội bước tới rót rượu cho Vô Phong. Tên tóc đỏ ái ngại nhưng người nọ, đám giúp việc, ông Quản Gia, Mi Kha và hai đứa trẻ đều không biểu lộ cảm xúc, chừng như đã quá quen. Bà Tháp Tước mời khách rồi tiếp tục:

-Thật đáng hổ thẹn! Mong cậu thông cảm. Thuở trước, chúng tôi không bao giờ tắc trách như vậy. Những người phục vụ luôn chuyên nghiệp, cẩn trọng và chu đáo. Hồi ấy, mọi thứ chưa xô bồ như bây giờ, cậu Phong à! Phải có tài năng nhất định mới được bước chân qua cánh cổng khảm bạc của nhà này. Tại sao ư? Vì hoàng gia và khách quý thường xuyên ghé qua đây, họ Cát Giá không thể để các vị khách phàn nàn. Còn tại sao chúng tôi có nhiều khách ư? Vì các hoàng đế biết ơn họ Cát Giá, và bởi chúng tôi có những hoàng hậu tuyệt vời. Cậu ghé phòng tranh chưa? Sáu tiểu thư họ Cát Giá đã kết hôn với dòng máu Biệt Liên vĩ đại, cho ra đời những hoàng đế vĩ đại…

Bài ca tôn vinh họ Cát Giá của bà già cứ thế tuôn chảy. Rượu tới đâu, lời tới đó và không có dấu hiệu ngừng, tự hào xen lẫn hằn học như khe suối chảy qua những gờ đá nhọn hoắt. Để chủ nhà nói mãi, Vô Phong thấy ngại. Nhấp ngụm rượu, hắn cất lời:

-Vậy ông nhà đâu, thưa bà? 

-Con bé chưa kể với cậu sao? Mi Kha?! – Bà già quay sang con gái, mái tóc vàng xơ rối phất phơ – Ôi, Mi Kha, tại sao con chưa kể? Ông nhà tôi mất rồi, cậu Phong ạ! Khi con gái tôi mười tuổi, ông ấy ra chiến trường đối đầu với Lực Lượng Mù Thủy. Lũ cặn bã ấy! Lũ giết người ấy! Lũ không có danh dự ấy! Chiến trường khó khăn, bọn Mù Thủy luôn dùng chiến thuật du kích khốn nạn và nhục nhã, nhưng ông nhà tôi không bao giờ lùi bước. Chiến tranh là sợ hãi, phải không? Nếu cậu nói không sợ tức là cậu chưa bao giờ biết nó. Nhưng trách nhiệm dòng họ luôn thôi thúc ông nhà tôi, khiến ông ấy vượt qua cả sợ hãi. Không như đám tướng lĩnh nhát chết tuyến sau, ông ấy dũng cảm chiến đấu tuyến đầu, ngã xuống trong danh dự và kiêu hãnh như bao thế hệ họ Cát Giá. Tôi không thể phàn bất cứ điều gì về chồng mình, cậu Phong à! Tận tâm, chung thủy, trách nhiệm, ông ấy là thế. Chỉ tiếc rằng sau khi chồng tôi mất, mọi thứ ở đây đều đi xuống.

Đương ăn, Mi Kha chen ngang:

-Chúng ta đi xuống từ lâu rồi, mẹ à! Năm mươi năm nay, chúng ta đâu có lên lần nào? 

Bà Tháp Tước nhíu mày cao giọng:

-Nào, con gái, đừng tự hạ thấp chúng ta vậy chứ! Con gái tôi luôn thế đấy, cậu Phong à! – Bà già lại quay sang tên tóc đỏ – Tôi phải thú nhận rằng sau khi ông nhà mất, chúng tôi đi xuống và chẳng còn người ưu tú. Những kẻ hèn nhát quay lưng với truyền thống dòng họ, chúng bỏ đi và mặc chúng tôi điêu tàn với khu biệt thự này. Chỉ còn số ít trung thành nhưng cũng chẳng có tài năng. Các đồng minh cũ ngoảnh mặt làm ngơ. Tuy nhiên mọi chuyện đổi khác khi Mi Kha mười bảy tuổi. Con bé tự mình gặp họ Xuy Hạ, làm chiến binh rồi hộ vệ thánh sứ. Nhờ nó, dòng họ Cát Giá và cả thành phố này sống dậy!

-Con không tự mình gặp họ Xuy Hạ, là anh trai dẫn con đến. – Mi Kha chen ngang tập hai – Và anh ấy đã duy trì cái nhà và thành phố này cho tới lúc mọi người xua đuổi anh đi. 

Bà Tháp Tước đấm bàn, sự giận dữ không biểu hiện qua cánh tay khẳng khiu yếu ớt chẳng làm rung nổi cái ly kế bên mà hằn trên khuôn mặt già nhăn rúm ró. Thấy vậy, Mi Kha đẩy hai đứa trẻ về phòng. Bà Tháp Tước yêu quý cưng chiều con gái nhưng chủ đề “anh trai” có thể khiến bà đổi ngoắt một trăm tám mươi độ. Bà ta rít lên với Mi Kha:

-Con đã kể với khách rồi sao, Mi Kha? Tại sao con lại kể? Thằng đó là nỗi hổ thẹn của nhà này. Nó không mang họ Cát Giá! Nó là con của quỷ dữ và ác thần ngoại đạo chuyên gieo rắc tai họa! Nó chẳng mang được cái gì có giá trị cho dòng họ và Biên Ngoại thành. Rồi một ngày kia, nó bỏ đi vô trách nhiệm như một con chuột chui lủi chốn xó xỉnh. Ôi Tashaya, ôi Mi Kha, đừng nhắc thằng đó nữa! Ta chết ngay bây giờ đấy, con hiểu không? 

Mi Kha bảo tất cả người giúp việc ra ngoài, dặn dò ông Quản Gia điều gì đó rồi quay lại với bà mẹ:

-Anh ấy thiếu may mắn. Cả người ngoài lẫn người nội tộc, không ai chấp nhận Mắt Trắng. Nhưng có anh ấy, họ Cát Giá vẫn trụ vững trên đất này và thành phố vẫn thuộc về chúng ta, thay vì bị đem ra phát mại tài sản. Lực Lượng Mù Thủy từng mò tới đây khi chúng ta yếu nhất; nếu không có anh trai, cả nhà này, cả mẹ và con gái mẹ chẳng còn. Vì lần đó mà cả thành phố này thề trung thành với họ Cát Giá, sẵn sàng chờ đợi họ Cát Giá tái khởi. Mẹ biết vì sao anh ra đi không? Vì anh không thể chịu được chỉ trích, trong khi mẹ chẳng bảo vệ con trai mình. Đàn ông lúc chết luôn gọi “mẹ”, vậy lúc anh cần nhất, mẹ ở đâu? Nếu không phải anh dẫn đến thủ đô, có lẽ con chẳng bao giờ gặp được họ Xuy Hạ. Và thật vui làm sao, họ Cát Giá mất luôn kiếm sĩ giỏi nhất. Từ lâu lắm rồi, họ Cát Giá chẳng còn ai biết sử dụng chín thanh kiếm cùng lúc ngoài anh trai. 

Bà Tháp Tước tức tối, phùng mang trợn má phun ra những lời cay nghiệt cho đứa con trai và quên khuấy rằng nhà đang có khách. Mái tóc vốn xơ xác nay xù lên như thể bộ não giận dữ đang tỏa ra những luồng điện xập xòe. Đứng giữa màn đấu khẩu, Vô Phong lặng lẽ thu gọn sự hiện diện của mình và tiếp tục ăn. Đồ ăn còn nhiều, hắn chẳng muốn bỏ phí. 

Giữa lúc hai mẹ con cãi cọ, ông Quản Gia mang chiếc hộp kim loại tới. Vừa nhìn cái hộp, Vô Phong chột dạ. Phía đầu bàn, bà Tháp Tước vẫn giữ nguyên thành kiến với con trai:

-Đừng nói về thằng đó nữa, con gái! Chúng ta chấm dứt ở đây! – Bà già giơ tay – Hãy để nó mục rữa ở chốn xó xỉnh nào đấy trên Tâm Mộng, để mùi hôi thối của nó không tràn về đây và làm ô uế căn nhà xinh đẹp này. Con gái, công chúa của ta, hãy bớt bận tâm mấy chuyện nhỏ nhặt và tập trung việc chính. Con sắp lấy lại những vinh quang vốn thuộc về chúng ta, chỉ con mới làm được, không phải ai khác!

Mi Kha nhận cái hộp từ ông Quản Gia rồi đặt lên bàn. Đang nốc đầy miệng món ngỗng quay, Vô Phong ú ớ cầu xin cô ả đừng làm hắn nôn tại trận. Nhưng Mi Kha không nghe hoặc không quan tâm, đôi mắt xám chăm chăm vào bà mẹ:

-Mẹ nói đúng, anh trai đã mục rữa. Anh ấy một mình chiến đấu ở nơi nguy hiểm nhất thế giới và thất bại. Anh chưa bao giờ có bạn, luôn một mình làm tất cả. Anh trai hy sinh cho nhà này và thành phố này, còn anh ấy chẳng có gì hết. 

Dứt lời, cô ả ấn nút trên đỉnh hộp. Từng mảng kim loại trên khối trụ ngũ giác tách nhau ra như hoa xòe cánh, để lộ phần lõi thủy tinh đựng phoóc-môn. Giữa khối chất lỏng màu vàng lơ xanh là một đầu người, chiếm vừa khít lõi thủy tinh[1]. Vô Phong không nôn ọe, hắn đã chứng kiến nhiều điều kinh khủng hơn trong chiến tranh. Có điều chẳng khía cạnh chiến tranh nào khiến hắn sợ hãi bằng cái đầu này. Dù đối diện thêm trăm lần nữa, hắn vẫn sợ như ngày đầu tiên. Cái đầu Quỷ Nhãn ở đó, lửng lơ giữa phoóc-môn, mắt trái mở trừng trừng còn mắt phải bị móc mất. Hắn đoán Trần Độ chỉ trả cho Mi Kha một nửa món hàng, nửa kia giữ lại để nghiên cứu Mắt Trắng.

Trong khi đó, bà Tháp Tước run rẩy, miệng lắp bắp không thành lời. Bà nhìn cái đầu lở loét, hai má trơ trơ xương trắng và không còn mũi miệng. Nửa mặt Quỷ Nhãn bị kéo xuống, để lộ cái miệng rộng hoác không còn lưỡi[2]. Đó thực sự là tử thi, là quái vật, không phải con người. Nhưng bằng một sợi tơ vô hình nào đấy, bà Tháp Tước vẫn biết rõ đó là đứa con trai mà bà luôn từ mặt và không thừa nhận. Cái đầu trừng trừng nhìn mọi thứ xung quanh bằng Mắt Trắng nhưng bà già không sợ hãi. Ít phút trôi đi, bà Tháp Tước im lặng nhìn cái đầu. Rồi bà ta đột nhiên há miệng cười đắc thắng, tay đấm bàn thùm thụp tới độ chén đĩa xung quanh rung bần bật, chừng như có cơn phấn khích tột độ giúp bà tự dưng khỏe khoắn lạ thường:

-Nó chết rồi sao? Thằng khốn đáng nguyền rủa đó đã chết! Này con gái, biết gì không? Từ giờ con thực sự là chủ gia đình. Con sẽ gánh vác dòng họ mà chẳng phải lo thằng khốn này về đây đòi quyền thừa kế nữa. Nó nên chết. Nó phải chết. Nó phải làm thế từ lâu rồi mới phải! Nó chết rồi, con gái à! Ôi, nó chết rồi. Ôi, con trai tôi… nó chết rồi… con trai tôi… ôi, Tashaya, con trai tôi chết mất rồi…

Tiếng cười đang giòn giã bỗng chốc méo mó dần và chuyển thành nức nở lúc nào không hay. Dưới ánh nến leo lét như những năm tháng đen tối nhất của họ Cát Giá, bà Tháp Tước ôm mặt khóc tu tu. Thân hình bà già vốn gầy gò nay xọp lại trên chiếc xe lăn như một hình nhân giấy bị vò nhàu nát. Lúc này chẳng thứ tự hào hay vinh quang nào có thể xen giữa bà và thủ cấp của con trai. Vô Phong đành bỏ dở bữa ăn và rời đi trước khi căn phòng đầy tiếng khóc than. 

Đêm ấy, người ta nghe bà Tháp Tước khóc hờ suốt đêm cho người con mà bà ruồng bỏ. 

Người phục vụ sắp xếp cho Vô Phong một căn phòng tại tầng hai biệt thự. Phòng cách âm nhưng Vô Phong cảm giác vẫn nghe được tiếng khóc đâu đây. Có thể cửa không kín, có thể hắn tự tưởng tượng song nỗi đau thực sự đang âm ỉ khắp các thớ gạch, cửa sổ và cầu thang biệt thự. Nghĩ ngợi một chút, hắn lần mò túi quần đoạn rút ra một phong thư. Bà Thát Hãn tại Hoàng Hôn Cảng đã nhờ hắn chuyển thư này nếu gặp được Thát Khan[3]. Từ đó đến nay, hắn luôn giữ nó bên mình để chờ ngày gửi lại bà Thát Hãn. Nhưng nghĩ tới bà Tháp Tước ban nãy, hắn lại ngần ngại. Hắn thực sự không muốn đóng vai người mang tai họa cho bà Thát Hãn.

Đương vân vê bức thư, Vô Phong chợt nghe tiếng gõ cửa. Là Mi Kha. Cô ả bước vào với thái độ gượng gạo khó xử. Tên tóc đỏ đáp lại bằng nụ cười thông cảm. Mi Kha nói:

-Hy vọng anh thích chỗ này. Ở hành lang bên trái có phòng làm việc cũ của tôi, anh có thể dùng nó. Ngày mai, ông Quản Gia sẽ chuyển cho anh các tài liệu cần thiết. Nếu muốn mua gì, hãy nhắn ông ấy. Đừng tự mình đi lại trong thành phố, nếu cần, hãy hỏi bảo tôi trước.

Vô Phong cúi đầu cảm ơn. Mi Kha im lặng. Hai người giữ cho mình những tâm sự riêng. Ngoài trời, mưa tuyết tháng hai rợp bóng đêm. Tên tóc đỏ chợt nhớ cái ngày Quỷ Nhãn chết, cả Hồi Đằng Cô Mộ cũng biến thành tuyết như thế. Hắn hỏi Mi Kha:

-Cô vẫn yêu thương mẹ mình, phải chứ? 

-Phải. – Mi Kha đáp – Ở đây chẳng ai yêu thích bà ấy. Bà hay cằn nhằn, độc địa như một mụ phù thủy già làm bọn trẻ con phương bắc phát khiếp. Nhưng tôi biết trong sâu thẳm, bà ấy vẫn là mẹ, là con người, không phải quái vật. 

Tên tóc đỏ gật gù, sau tiếp lời:

-Năm ngày nữa, chúng ta rời khỏi đây? Vậy cô không phiền nếu tôi muốn ghé qua Hoàng Hôn Cảng? Tôi cần đưa cái này cho bà Thát Hãn. 

Nhìn bức thư trên tay hắn, Mi Kha nhíu mày:

-Gia đình họ Thát có con trai Thát Khan? Sao không để chuyện đó chìm vào dĩ vãng? Anh muốn làm người đem tai họa cho gia đình họ sao?

Vô Phong lắc đầu:

-Vì mẹ của Thát Khan không phải quái vật. 

Mi Kha toan nói điều gì song lại thôi. Cô nàng nhìn Vô Phong một chút rồi bảo hắn nghỉ sớm, sau lặng lẽ rời phòng. Trong bóng tối, Vô Phong lại cảm giác được tiếng khóc hờ đứt quãng đang ngấm đẫm tòa biệt thự. Có thể bà Tháp Tước đang khóc, có thể Vô Phong tưởng tượng ra với tâm thế của kẻ góp phần vào cái chết của con trai bà. Nhưng cảm xúc của hắn là thật. Hắn dợm nghĩ ở Hoàng Hôn Cảng, bà Thát Hãn cũng đang ngồi trong tòa biệt thự sang trọng giàu có để chờ đợi con trai trở về. Xứ phương bắc luôn đầy những chuyện thường tình mà đau khổ như thế.

[1]: cấu tạo chiếc hộp từng được nhắc ở Quyển 3 Chương 47

[2]: bộ mặt thật của Quỷ Nhãn từng xuất hiện Quyển 3 Chương 44

[3]: bà Thát Hãn từng gửi thư cho Vô Phong, xem lại Quyển 3 Chương 86

Chữ “Tashaya” từng xuất hiện trong phần ngoại truyện, phần “Trà Kép”. 
 
Quyển 5 - Chương 3: Ảo giác


Sau một tối ních đầy bụng thức ăn, Vô Phong lăn ra ngủ như chết khỏi cần biết trời đất trăng sao, ngay cả ác mộng cũng không thể len vào quấy quả. Sáng hôm sau, điện thoại đổ chuông báo thức năm lần bảy lượt mới bậy được mí mắt của hắn. Nhưng chăn êm nệm ấm luôn là kẻ thù của thời gian, nhất là ở xứ Biên Ngoại thành lạnh lẽo. Được chúng ôm ấp vỗ về, Vô Phong mấy lần quờ tay định đập tan điện thoại. Lăn lê bò toài chán, tên tóc đỏ trở dậy, cổ họng chốc chốc ợ lên vị chua lè. Cảm thấy bê trễ biếng nhác đã đủ, hắn khoác áo rời phòng. 

Trên đường xuống tầng một tòa nhà, Vô Phong liếc ra những ô cửa sổ bên cạnh cầu thang. Bên ngoài mưa tuyết lất phất, trời sậm sụi mây xám không một ánh nắng. Dưới khuôn viên, đám người giúp việc đang xúc tuyết để những trảng hoa không bị vùi lấp, số khác thì lau dọn các biệt thự bỏ trống. Ngoài cổng, xe ngựa chốc chốc tới lui mang theo củi, thực phẩm, gia vị, rượu… tất cả đủ dùng trong nửa tháng hoặc cả tháng, tùy thuộc vào thời tiết hay tình trạng nguồn cung. Một ngày của họ Cát Giá trong tháng 2 thường là vậy.

Biên Ngoại thành ít công trình cao tầng nên đứng từ đây, Vô Phong có thể trông ra một phần thành phố. Phía xa, tiệm hàng quán xá mở cửa trong bình lặng, không nhạc nhẽo quảng cáo ầm ĩ giống những nơi mà hắn từng đi qua. Phố sá chỉ có tuyết, vỉa hè im lìm và những hàng cây bạch dương khẽ đung đưa; người qua lại ít, họ đi một mình hoặc dắt theo dã yến. Ngoài gió từ vùng cực bắc thi thoảng tràn xuống cất lên mấy tiếng hú, cả thành phố vận động trong yên ắng và chậm rãi tựa tảng băng trôi. Nó là chốn nghỉ chân lý tưởng, là bàn tay vỗ về kẻ từng sống một cuộc đời nhiều xáo động hay kẻ đang mải miết chạy trốn như Vô Phong. 

Dưới chân cầu thang, ông Quản Gia đứng sẵn như thể đã đợi tên tóc đỏ khá lâu. Ông thông báo rằng Mi Kha không có nhà, cô ả ra ngoài từ sớm rồi dặn ông tiếp đãi Vô Phong chu đáo. Hắn có thể ăn ngủ và gọi phục vụ bất kỳ giờ nào. Sau đấy ông Quản Gia dẫn hắn tới nhà ăn, mang lên bánh mì, mứt cam, súp hành và một tách súc-cù-là nóng màu nâu óng. Mọi người đã dùng bữa từ lâu, chỉ Vô Phong là chưa. Phòng ăn đã trở lại vẻ tươm tất, không còn cái thê lương khóc thương con trai của bà Tháp Tước. Nhấp ngụm súc-cù-là nóng thơm phức, Vô Phong tỉnh người, trong phút chốc có cảm giác mình là ông chủ biệt thự hưởng đời sống an nhàn sung túc.

-Mọi tài liệu mà Múy yêu cầu, tôi đã đặt trong phòng làm việc. – Ông Quản Gia nói – Múy có thể đi lại tự do trong khuôn viên, nhưng nếu cần thiết phải ra ngoài, xin hãy báo một tiếng, đích thân tôi sẽ dẫn đường cho Múy. 

Đương mơ mộng, Vô Phong rơi tọt xuống đất, nhận ra mình chung quy là tội phạm. Ngay lúc này, hắn có cảm giác tai mắt của Phi Thiên quốc hiện diện khắp nơi, thậm chí hòa tan vào không khí rồi sục sạo khắp ngõ ngách thế giới. Khoảnh khắc tận hưởng đồ ăn thức uống này chỉ là một khoảng lặng trong cuộc đời trốn nã của hắn. Còn phải chạy đến bao giờ? – Hắn tự hỏi. Hai năm, mười năm, cả đời? – Các viễn cảnh u ám làm Vô Phong ngán ngẩm, hắn cần tìm cái gì đó xốc lại tinh thần. Hắn buột miệng hỏi ông Quản Gia:

-Hôm qua, tôi nghe Mi Kha kể về anh trai và lần Lực Lượng Mù Thủy tấn công thành phố. Chuyện đó cụ thể thế nào? 

Ông Quản Gia trả lời ngay không chút do dự:

-Hồi đó ngài Tháp Tước đã mất, họ Cát Giá đi xuống trầm trọng. Dòng họ hết tiền, cả khu biệt thự chỉ còn mình tôi làm phục vụ. Các chiến binh bỏ đi vì không có lương, hệ thống phòng thủ không người quản lý, đạn dược vũ khí ngày càng hao gỉ. Ba năm sau ngày ngài Tháp Tước mất, vào một đêm đông, bọn Mù Thủy tấn công Biên Ngoại thành để trả thù. Trong một tháng, chúng khủng bố tàn sát người dân, cưỡng hiếp đàn bà con gái, thiêu cháy quá nửa thành phố. Quân đội Thâm Hàn quốc bị cầm chân bên ngoài và không thể vào nội đô. Băng Hóa quốc bỏ rơi chúng tôi, họ thấy không cần thiết phải cứu một dòng họ đã suy tàn. Rồi bọn Mù Thủy ập tới, những chiến binh họ Cát Giá ngã xuống, ai cũng nghĩ chúng tôi hoặc phải tha hương hoặc phải diệt vong. Đúng lúc đó cậu chủ Hàn Hà đứng lên, cầm kiếm ra ngoài chiến đấu… 

Ông Quản Gia ho khan, không giống bị lạnh, mà như đang phấn khích vì được kể một câu chuyện vốn bị chôn chặt quá lâu. Đằng hắng mấy tiếng, ông tiếp tục:

-…cậu chủ mới mười sáu tuổi, đánh kiếm giỏi nhưng chưa từng thực chiến. Cậu ra lệnh tôi ở lại bảo vệ bà chủ và tiểu thư, tự mình chiến đấu. Những gì tôi sắp nói sau đây đều được nghe người ta kể lại, không phải bản thân tôi chứng kiến. Người ta bảo ngay trận đấu đầu tiên, cậu chủ bị thương nhưng vẫn đánh tới khi đối thủ ngã gục. Cậu tiếp tục chiến đấu, hết kẻ này đến kẻ khác, đánh khắp các tòa nhà, khu phố, nghỉ mệt uống nước lấy hơi lại đánh tiếp. Từng người, từng người đàn ông trong thành phố đứng dậy đi theo cậu bé mười sáu tuổi đó. Chục người, trăm người rồi hàng nghìn người… không đợi quân đội, họ mặt đối mặt bọn Mù Thủy, chiến đấu, trả lại tất cả những gì chúng gây ra. Người ta bảo bọn Mù Thủy sợ hãi trước cậu chủ, giẫm đạp lên nhau chạy ra biển rồi chết cóng, xác nổi lềnh lềnh hôi thối cả tháng trời. Sau cuộc chiến, cậu chủ nằm viện, thương tích chằng chịt, còn hết thảy dân chúng thành phố thề trung thành với họ Cát Giá. Trong năm tháng tối tăm nhất, cậu chủ giúp chúng tôi tìm lại mọi vinh quang kiêu hãnh, ngay cả ngài Tháp Tước khi còn sống cũng không làm được như vậy. 

Giả như một người khác nghe chuyện, họ sẽ cười thầm và nghĩ ông Quản Gia đang phóng đại hóa theo kiểu cách thường thấy ở người già. Nhưng Vô Phong tin không sót một chữ, thậm chí nghĩ rằng người ta đã nói giảm nói tránh ít nhiều về Quỷ Nhãn. Hắn trầm ngâm:

-Ông nghĩ gì về Quỷ… ý tôi là Hàn Hà? Nếu biết kẻ giết Hàn Hà, ông sẽ làm gì?

-Tôi sợ cậu chủ, nhưng là vì đôi mắt người chết, không phải nhân cách của cậu. – Ông Quản Gia đáp – Cậu luôn một mình, không nhờ ai giúp đỡ, không bao giờ tâm sự nửa lời. Tôi nghĩ cậu ra đi không phải vì bị ghét bỏ, mà bởi cậu tin rằng tiểu thư Mi Kha sẽ gánh vác được dòng họ. Thưa Múy, tôi luôn thờ phụng Nữ Thần Tiên Tri, luôn thực hiện những điều răn. Nhưng tôi cũng là người phương bắc, nữ thần báo thù Nê Mê luôn chảy trong huyết quản của tôi. Nợ tiền có thể bỏ qua nhưng nợ máu phải trả, đây là phương bắc, thưa Múy. 

Trước đôi mắt nghiêm cẩn mà sắc bén của ông Quản Gia, tên tóc đỏ tự trách mình đi quá đà. Hắn liền đổi chủ đề:

-Ông còn đánh kiếm được không? Mỗi ngày tôi cần tập luyện, có người đánh cặp càng tốt!

-Rất sẵn lòng và bất cứ lúc nào, thưa Múy. – Ông Quản Gia gật đầu. 

Bữa sáng khá nhiều nhưng Vô Phong nốc hết để khỏi phải ló mặt xuống phòng ăn vào ban trưa. Công việc sắp tới toàn chữ nghĩa giấy tờ, một chút xao nhãng cũng làm hắn tốn thời giờ quý báu, nhất là cái xao nhãng nổi lên từ dạ dày. Hắn cần no bụng, tập trung và yên tĩnh. 

Tại phòng làm việc cũ của Mi Kha, giấy tờ được đặt ngay ngắn trên bàn và chia làm ba chồng, mỗi chồng cao trên dưới nửa mét. Hết thảy chúng có màu cũ kĩ, giấy rách mép lề quăn queo. Ấy là chưa kể những thẻ dữ liệu xếp ngay ngắn trong khay chờ được cắm vào máy chiếu. Mới liếc qua, Vô Phong đã nản, lòng mong lắm mình có một phần mười trí tuệ của Hỏa Nghi. Lần nào gặp sách vở chữ nghĩa, hắn cũng nhớ thương ông bạn da diết. Tần ngần một lúc, hắn bước vào bàn rồi vớ lấy tập hồ sơ gần nhất cùng lớp bìa da đã nổ phân nửa. Hắn lật lớp bìa, mùi mốc lẫn mùi bụi ram mũi xộc lên như một lời chào hỏi thiếu thân thiện. Phía dưới bụi mốc là những dòng thế này:

Đề Án Mắt Trắng (tuyệt mật)

Định dạng: Bản Sao (Số 1)

Chỉ lưu hành nội bộ

Nghiêm cấm di chuyển tài liệu khỏi Hầm Bom khi chưa được cho phép. Mọi hành vi sao chép, di chuyển, nghiên cứu, buôn bán tài liệu đều được tính là tội phản quốc

Mới đọc trang đầu, Vô Phong đã cần tra cứu. Hắn mở máy chiếu, gõ bàn phím ảo nhập chữ “Hầm Bom” vào ô tìm kiếm. Hàng loạt thông tin xuất hiện nhưng chỉ một kết quả hữu ích. Theo nguồn này, Hầm Bom là hệ thống boong-ke dành cho hoàng gia trong trường hợp khẩn cấp đặt tại phía nam Băng Hóa quốc. Sau này boong-ke không phù hợp, chính phủ chuyển đổi nó thành nơi lưu trữ tài liệu mật. Không có nhiều hình ảnh về Hầm Bom, cùng lắm chỉ có dăm ba bức ảnh chụp những cánh cửa kim loại im lìm nằm sâu dưới lòng đất, đóng chặt trước mọi ánh nhìn. Vô Phong không hiểu tại sao hay bằng cách nào mà họ Cát Giá rút được tài liệu từ một nơi như vậy. 

Nhìn lại bàn làm việc đầy ú ụ, Vô Phong quyết định xử lý đống giấy tờ trước, các thẻ dữ liệu có thể sao lưu và xem xét sau. Hắn tiếp tục đọc tập hồ sơ ban nãy, tay lật từng trang giấy mềm nhũn ố vàng. Nhiều điều hắn đã biết như nguyên nhân dẫn đến đề án, chương trình tối ưu hóa cá nhân nhằm tạo ra các chiến binh siêu việt. Nhưng có một số thứ mà hắn nghe lần đầu, chẳng hạn thế này:

“Mắt Trắng thuộc năm loại vũ khí cổ xưa bao gồm: Cánh Tay Quan Tòa, Chén Bất Tử, Cân Đảo Mệnh, Quả Lắc Đen và Mắt Trắng. Năm vũ khí này không thuộc về loài người, không rõ ai sáng tạo, có sức mạnh vượt xa tầm hiểu biết của con người, vào thời phi cơ giới có khả năng thay đổi cục diện cuộc chiến hoặc chính trị. Theo nhiều tài liệu đáng tin cậy cùng những nguồn tin xác thực, Chén Bất Tử và Quả Lắc Đen bị phá hủy vào thời đại phi cơ giới (khoảng năm 6000). Cánh Tay Quan Tòa biến mất vào năm 6497, sau khi Bát Đại Hộ Vệ dùng nó chống lại Quỷ Vương. Cân Đảo Mệnh vĩnh viễn nằm sâu trong phòng bí mật của Thánh Vực, không bao giờ xuất hiện lại. Bốn thứ kể trên không thể chế tạo, ngoại trừ Mắt Trắng…”



Những dòng tiếp theo mô tả cấu tạo, đặc điểm cũng như sức mạnh của Mắt Trắng. Tuy đã nếm trải đầy đủ từ Quỷ Nhãn nhưng nhờ chúng, tên tóc đỏ có dịp nghiên cứu kĩ hơn đồng thời giải đáp vô số thắc mắc mà lúc trước hắn chưa hiểu. Theo mục đích ban đầu, Đề Án muốn tạo ra một lực lượng đa nhiệm từ chiến đấu, hậu cần, trinh thám tới đột nhập ám sát. Chúng bớt tốn kém hơn, bí mật hơn so với vũ khí hủy diệt diện rộng. Nhưng bởi triệu chứng hoại tử trên cơ thể vật chủ Quỷ Nhãn, đề án bị tạm dừng, tái khởi động khi bà Tháp Tước quyết định thí nghiệm lần nữa rồi đóng sổ hoàn toàn. Theo các nhà khoa học chủ trì, Đề Án Mắt Trắng không có bất cứ cơ may nào như họ đã viết:

“…kết quả nghiên cứu quá phụ thuộc tính may rủi. Không thể chắc chắn các thai nhi mang theo Mắt Trắng hay không. Cũng không có câu trả lời mang tính dẫn chứng – lập luận – có hệ thống logic, để giải thích trường hợp hoại tử. Trong vấn đề này, không thể tìm một cầu nối thích hợp giữa khoa học và phép thuật. Chúng ta buộc phải chấp nhận rằng những cá thể ưu việt như Liệt Giả của Phi Thiên quốc là một phép màu của Vạn Thế, hay sâu xa hơn là do bàn tay Đấng Sáng Tạo. Đề án này chưa đủ sức chạm tới thánh thần…” 



Kết thúc mục giới thiệu, hồ sơ đi vào phần đánh giá tổng quát cuộc thí nghiệm. Nó bắt đầu từ năm 7489, giữa lúc Liệt Giả của Phi Thiên quốc nổi lên như chiến binh mạnh mẽ nhất. Đề án cần thế hệ chiến binh mới sở hữu thứ gì đấy giống Liệt Giả. Một mục tiêu mơ hồ nhưng bị ép buộc phải có vì tình trạng chiến tranh. Họ Cát Giá tự nguyện tham gia đề án bất chấp mọi rủi ro. Vô Phong tin rằng đây mới là nguyên nhân khiến dòng họ đi xuống chứ không phải chiến tranh hay Lực Lượng Mù Thủy. Cứ mười ca thí nghiệm thì phân nửa thất bại, số còn lại què quặt do hậu quả bùa phép hoặc chất độc hóa học. Họ Cát Giá mất một lượng lớn trẻ sơ sinh lẫn người kế cận. Sự xuống cấp là điều hiển nhiên. 

Điều đáng nói là sau khi đề án đóng sổ hoàn toàn, một số gia đình họ Cát Giá tự thí nghiệm con em mình mặc cho máy móc thiếu thốn. Họ quá nóng lòng đòi lại vinh quang bất chấp chính phủ can ngăn. Quan hệ giữa Cát Giá và Băng Hóa quốc vì vậy mà tồi tệ. Nó lý giải tại sao vào ngày Lực Lượng Mù Thủy tấn công Biên Ngoại thành, Băng Hóa quốc hoàn toàn bỏ mặc họ Cát Giá. Trong những cuộc thí nghiệm tự phát kể trên, đa phần thất bại thê thảm, chỉ một số rất ít thành công như anh em An Lí – Át Sa nhưng cũng mắc chứng hoại tử. Tên cả hai đứa trẻ đều có trong hồ sơ. 

Lật đi lật lại phần tổng quát, Vô Phong chẳng thấy dòng nào đề cập Mi Kha. Có lẽ người soạn tài liệu không biết cô ả là mẫu vật thành công nhất, hoặc có thể đây chỉ là phần mở đầu nên chưa đến. Tên tóc đỏ tiếp tục đọc, ghi chép vào máy chiếu cá nhân, đọc, ghi chép, tra cứu tham khảo thông tin… Buổi sáng lạnh lẽo cứ thế trôi qua. Hắn không quan tâm màn nắng ban trưa sà xuống cửa sổ, rọi những tơ bụi vẩn vơ báo hiệu một tiết trời chiều ấm áp sắp đến. Kể cả trời chiều đẹp thật, hắn cũng không có thời gian ngắm nghía. 

Mãi khi không gian xâm xẩm tối cần ánh điện, Vô Phong mới nhận ra mình đã mài quần trên ghế gần bảy tiếng đồng hồ. Nhận thức thời gian trở lại, lũ phiền toái mang tên “ê mông”, “mỏi mắt”, “nặng đầu” rồi “đói” thi nhau hò hét kêu gọi Vô Phong bỏ cuộc. Hắn bỏ cuộc thật. Hồ sơ hội tụ kiến thức y học và công thức sinh học, diễn giải bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu nhất mà loài người từng phát minh. Kinh khủng hơn cả là khái niệm bùa phép với hàng tấn hình vẽ, hàng tấn chú ngữ cổ xưa mà hễ đọc lên là trẹo ngoéo hai hàm răng. Để hiểu sơ mớ bùng nhùng trên, tên tóc đỏ cần phụ tá đắc lực cỡ Hỏa Nghi hoặc Tiểu Hồ. Nói trắng ra, hắn cần cả hai người họ. Nhưng với tất cả kiến thức cao siêu này, Vô Phong gói gọn chúng bằng từ “thất bại”. Cho tới trước thời Mi Kha, mọi bùa phép cùng khoa học đều không thể khống chế xác suất xuất hiện Mắt Trắng ở thai nhi, càng không thể giải thích cũng như ngăn chặn sự hoại tử. 

Tuy nhiên Vô Phong đã ghi chép những phần quan trọng nhất (hoặc hắn nghĩ là quan trọng nhất). Giấy tờ vẫn ngồn ngộn. Còn đó hai phần ba chặng đường chờ hắn đi nốt. Tên tóc đỏ vặn vẹo cơ hông rồi bước xuống tầng một biệt thự. Hắn cần ăn rồi dạo bộ cho khuây khỏa. 

Nhưng Mi Kha vẫn chưa về, dường như là quá bận rộn với hội đồng thành phố. Và bởi cô ả vắng mặt nên chẳng ai kìm hãm được bà Tháp Tước. Mới cách phòng ăn chục bước chân mà Vô Phong đã nghe thấy tiếng bà già ca cẩm. Thi thoảng bà sụt sùi khóc thương rồi che giấu vụng về bằng cách gào lên hỏi tại sao công chúa cục cưng của bà chưa về. Ngán ngẩm, Vô Phong quay gót. Hốt nhiên phía sau hắn vang lên tiếng chạy bình bịch như muốn trốn khỏi bà Tháp Tước càng nhanh càng tốt. Hắn ngoảnh lại, nhận ra đấy là hai anh em An Lí – Át Sa. Thấy tên tóc đỏ, chúng vội rảo chân cúi đầu chào lễ phép rồi hùng hục chạy tiếp. Vô Phong liền gọi:

-Này, hai đứa! Gượm nào, ta nhờ chút!

Lũ trẻ dừng chân, sắc mặt hớt hải như sợ bà Tháp Tước sẽ tới đây bắt chúng quay lại bàn ăn bất cứ lúc nào. Vô Phong nhe răng cười:

-Ta không bảo hai đứa trở vào kia… – Hắn hất đầu về phía phòng ăn – …ta chỉ muốn hỏi ở đây có phòng luyện tập không? Phòng tập kiếm ấy? Nếu có thì dẫn ta đi nhé!

Bọn nhóc nhìn nhau, trao đổi bằng ánh mắt, thì thào mấy câu rồi gật đầu ưng thuận. Theo chân hai đứa, Vô Phong ra ngoài tòa nhà bằng cửa sau. Lúc này trời nhá nhem tối, các cột đèn cực quang đang thắp sáng khu biệt thự bằng những dải màu cổ tích đầy mê hoặc của nó. Nhưng chỉ một phần nhỏ khuôn viên được hưởng thụ ánh sáng. Phần còn lại – nơi hai đứa trẻ dẫn Vô Phong băng qua – thì chìm trong bóng tối, tuyết rơi lẫn ánh đèn vàng lờ lợt từ những căn biệt thự không người ở. Mặt tiền cổ tích nên thơ, mặt sau nhà mồ lạnh lẽo hoang vu bất ngờ – nếu từ trên cao trông xuống khuôn viên, Vô Phong có thể mô tả như vậy. 

Hai đứa trẻ đưa Vô Phong đến tòa nhà cách đấy mười mét. Căn nhà vuông vức sắc cạnh với phần mái lợp gạch đỏ, cửa sắt đóng kín, không có bất cứ lỗ khóa hay bảng điện tử nhập mật mã nào. Giữa cánh cửa chỉ có một hõm khoét sâu vừa đủ cho một bàn tay. Thằng bé An Lí đặt tay vào hõm đoạn lầm rầm chú ngữ, cánh cửa chợt rùng mình tách đôi. Bấy giờ Vô Phong mới hiểu cửa đóng mở bằng phép thuật chứ không theo lối thông thường.

Khi cánh cửa mở ra, bên trong tòa nhà tự động bừng sáng. Mọi thứ được soi tỏ nhờ đèn cực quang cùng bụi lân tinh bám mái nhà. Hàng chục cột xà ngang sắp xếp theo trật tự nhất định tạo thành khung chống đỡ phần mái, và cũng từ khung này rủ xuống các lá cờ gia huy họ Cát Giá. Đông đảo hơn cả là kiếm. Kiếm đủ mọi hình dáng có mặt khắp nơi: treo ngay ngắn trên tường, xếp so le từng cặp ở giá đỡ, nằm im lìm thẳng thớm trên dãy bàn gỗ, số khác bọc hộp kính, một số lơ lửng trong máy tạo chân không để không bị thời gian tàn phá. Vô Phong tin chắc họ Cát Giá bán tháo mọi thứ lấy tiền trả nợ nhưng không bao giờ bán kiếm, dù trong đây có rất nhiều thanh kiếm đủ làm bọn chợ đen rỏ dãi thèm thuồng. 

Vô Phong cảm ơn bọn trẻ đoạn bước lên sàn. Hắn vươn vai mấy động tác dãn cơ rồi rút ra Bộc Phá. Thanh kiếm vẫn theo hắn từ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành đến giờ. Nhưng mới vung vẩy vài đường, hắn cảm giác tinh thần nặng trịch tựa thể có áp lực vô hình đè xuống. Vô Phong không bất ngờ vì sau chiến tranh, hắn hầu như chỉ ngủ và bỏ bễ luyện tập. Hắn cần thời gian để lấy lại cảm giác chiến đấu. 

Đương tập dợt, hắn nhận ra hai đứa nhỏ đang dán mắt theo dõi mình. Tên tóc đỏ hất hàm:

-Mấy nhóc đánh kiếm bao giờ chưa? Thử không?

Át Sa rúm người còn An Lí dạn dĩ hơn. Thằng nhỏ bước lên cầm thử Bộc Phá. Đôi chân nó di chuyển theo những bước cố định và rất bài bản, chứng tỏ đã tập luyện lâu ngày. Nhưng bởi cấu tạo Bộc Phá khác biệt nên đôi tay An Lí khá lóng ngóng, chẳng biết nên điều khiển thanh kiếm sao cho hiệu quả. Vô Phong cười:

-Không sử dụng nó bằng lối thông thường đâu, nhóc! Phải dùng nhiều mới quen tay. Hay thử kiếm thường? Chúng ta cùng luyện tập! Nói xem, nhóc, họ Cát Giá tập kiếm thế nào? 

Thằng nhóc An Lí liền chạy tới các giá đỡ, rút ra loại kiếm gỗ mà nó tập luyện hàng ngày. Nó đưa Vô Phong một thanh rồi chụm gót chân thủ thế, tay trái chắp sau lưng, tay phải giương thẳng kiếm, ngực hơi ưỡn. Bằng cái giọng non nớt, thằng nhóc giảng giải:

-Kiếm sĩ họ Cát Giá phải hội tụ đủ bảy nguyên tắc: thể lực, trí lực, kỹ thuật, tốc độ, chiến thuật, chiến lược và tinh thần. Kỹ thuật quan trọng hơn cả. Kiếm luôn tra vỏ, không được để trần. Khi di chuyển thì mang kiếm sau lưng hoặc trên vai, khi chiến đấu thì phải để kiếm cạnh hông: không được làm ngược lại. Đánh kiếm nên đánh một tay, hạn chế dùng hai tay: tránh thương tích. Đánh kiếm nên né tránh, hạn chế đỡ đòn: tránh sơ hở. Nếu đỡ đòn thì nên gạt, hạn chế chống đỡ trực tiếp: tránh mài mòn lưỡi kiếm. Đánh kiếm nên đâm, hạn chế chém: tránh tiêu hao thể lực. Đánh kiếm luôn nhìn thẳng, tuyệt đối không quay lưng: tránh để đối thủ chớp thời cơ. Đánh kiếm ra đòn nhanh, thu đòn phải nhanh hơn: tránh trường hợp đối thủ tấn công bất ngờ. Đánh kiếm thì rà bước chân, hạn chế chạy: tuyệt đối không nhảy. Đánh tay đôi thì sải bước ngắn, đánh hỗn chiến thì sải bước dài, đánh trận lớn thì chạy. Đánh kiếm thì dùng trang phục gọn nhẹ, không lòa xòa, giày bám chắc và ma sát tốt. Tập kiếm ở nơi rộng, có xà ngang đỡ mái, các xà ngang sẽ dồn ép tinh thần và giúp kiếm sĩ kiểm soát chính mình.

Thằng nhỏ dứt lời, Vô Phong liền ngẩng đầu nhìn lên. Bấy giờ hắn mới hiểu thứ áp lực vô hình nọ bắt nguồn từ các xà ngang. Chúng không phải đồ phép thuật, chỉ là một hình thái kiến trúc nhưng họ Cát Giá biết tận dụng nó vào luyện tập. Tên tóc đỏ gật gù khen hay đoạn cười:

-Tốt đấy, nhóc! Thử tấn công xem nào! Lại đây!

Được khuyến khích, An Lí bắt đầu di chuyển. Nó thực hiện đòn đánh y chang lời dạy bảo của dòng họ. Rất bài bản, rất sách vở. Nhưng đó không phải thứ sách vở mang tính máy móc. Trong thoáng chốc, Vô Phong nhận ra đâu đó những cú đâm chuẩn xác, những cú sải bước nhanh như điện xẹt cộng thêm sức dồn ép kinh khủng từ đôi mắt người chết. “Quỷ Nhãn!” – Hắn nghĩ thầm, mồ hôi rịn trán. Nếu không phải Vô Phong thực chiến lâu, hắn đã bị thằng nhóc An Lí đánh trúng chân, hông và bụng nhiều lần. Kinh nghiệm của họ Cát Giá rút ra trong thực chiến và qua hàng trăm thế hệ cống hiến ngoài chiến trường, do vậy mới sản sinh một Quỷ Nhãn khiến cả sa mạc Hồi Đằng khiếp hãi. 

Dù vậy, An Lí vẫn chỉ là trẻ con. Bằng chút tiểu xảo, Vô Phong tóm được tay thằng bé rồi hẩy vai, hất nó ngã văng khỏi sàn tập. Chiến trường đầy rẫy tiểu xảo còn An Lí chưa bao giờ va chạm. Tên tóc đỏ bật cười, bèn chạy lại đỡ thằng nhóc dậy:

-Có sao không? He he, ta lỡ tay, nhóc đừng giận…

Có lẽ vì nóng máu nên An Lí bộc phát sức mạnh Mắt Trắng, thái dương của nó nổi gân xanh, đôi mắt lòng đen tròng trắng công kích thẳng vào trí não Vô Phong. Tên tóc đỏ choáng váng, cảnh vật xung quanh lập tức thay đổi. Hắn đang đứng trong một tòa nhà bốc cháy, sàn gỗ bong lở vì lửa thiêu, mái gỗ thủng toác để lộ trời đêm đặc tuyết. Ngôi nhà này, bầu trời này, tất cả đều mang dáng dấp phương bắc. Tại nơi mà thằng nhóc An Lí đang nằm sóng xoài lại là một đứa trẻ khác với quần áo bê bết bụi bẩn, nó lê lết giữa mặt sàn đỏ lửa, vừa lết vừa xua tay:

“Xin đừng… tôi không biết… cha tôi chỉ là người đánh xe, không phải nhà khoa học gì cả! Xin đừng… xin ông… tôi không biết…”

Một mũi kiếm đâm tới cắt lời thằng bé, sau đó là một tiếng thét thảm khốc vang khắp ngôi nhà cháy đỏ. Vô Phong bừng tỉnh, toàn thân bủn rủn. Hắn vẫn đang ở phòng tập kiếm nhưng khoảnh khắc vừa nãy kéo dài tựa hàng thế kỷ. Thấy hắn không ổn, thằng nhóc An Lí tỏ ra hối lỗi:

-Xin lỗi Múy, cháu chưa biết điều khiển sức mạnh. Múy ổn chứ?

Vô Phong gật gật tỏ vẻ bình thường nhưng vùng dậy chạy ra ngoài. Hắn để ý con bé Át Sa nhìn theo với một thái độ kỳ lạ như thể nó đã chứng kiến những điều mà hắn vừa trải qua. Bước qua cánh cửa sắt, hắn để tuyết lẫn gió xoa dịu đầu óc. Khổ nỗi càng lạnh bao nhiêu, hắn càng nhớ căn nhà cháy rực bấy nhiêu, nhớ luôn cả khuôn mặt sợ hãi của đứa trẻ. Trong hồ sơ Đề Án Mắt Trắng, con mắt người chết có thể khiến người đối diện gặp ảo giác. Nhưng tên tóc đỏ không nghĩ đó là ảo giác, dường như một phần ký ức nào đấy lại thoát ra. Hắn sợ rằng nó cùng những thứ giống nó đang lẩn quất trên lục địa Băng Thổ. Nếu có thể kéo lùi thời gian, Vô Phong muốn quay lại thời điểm mà Mi Kha đề nghị hắn tham gia truy tìm các nhà khoa học thực hiện Đề Án Mắt Trắng. Hắn muốn thương lượng một lần nữa. 

Khi bất lực trước thời gian, hắn nhận ra mình đang chạy trốn khỏi Phi Thiên quốc, những ký ức mập mờ và cả nữ thần báo thù. Người Băng Thổ không sai: nữ thần báo thù chưa bao giờ biến mất. 
 
Quyển 5 - Chương 4: Số 4


Ba ngày kế tiếp của Vô Phong tuần tự theo một lịch trình cố định: ngủ dậy, ăn uống, làm việc nghiên cứu đến chiều muộn, tập kiếm, ăn tối một mình, tiếp tục đọc tài liệu rồi ngủ lúc một giờ sáng. Suốt ba ngày đó hắn không gặp Mi Kha, hoặc chỉ bắt kịp cái bóng của cô nàng rời khu biệt thự khi trời còn mờ tối. Trong mấy buổi tập kiếm, hắn nghe ông Quản Gia kể rằng cô nàng đang bận rộn với hội đồng thành phố, chính phủ và Băng Hóa quốc, đôi khi là dân chúng. Lục địa đang hỗn loạn, cô ả phải củng cố Biên Ngoại thành phòng ngọn lửa chiến tranh ập tới. “Nơi này xa xôi nhưng không lạc hậu. Chúng tôi biết Liên Minh Phương Bắc đang tan rã, nhiều người dân lo lắng. Cô chủ cần trấn an họ.” – Ông Quản Gia nói với tên tóc đỏ. 

Tập tài liệu Đề Án Mắt Trắng còn rất nhiều thông tin nhưng hầu hết toàn kiến thức chuyên môn, não Vô Phong không khai thác được nhiều. Dù vậy hắn vẫn nắm bắt được những phần quan trọng nhất như “sản phẩm” Quỷ Nhãn, bước cải tiến làm tăng tỉ lệ xuất hiện Mắt Trắng trên thai nhi, những dấu hiệu hoại tử đầu tiên trên người Quỷ Nhãn, vân vân. Trên hết, đề án không đơn thuần là chế tạo vũ khí sinh học. Có một đoạn viết thế này:

“…thời Năm Đế Chế Cổ Đại và thời phi cơ giới, con người luôn ám ảnh trước những sức mạnh thần thánh và vũ khí tối thượng. Họ thêu dệt chúng thành truyền thuyết, huyền thoại, hay là gây chiến tranh để sở hữu chúng. Năm vũ khí tối thượng từng chi phối thế giới suốt thời phi cơ giới. Nhưng sau tất cả, con người mới là tác nhân chính. Nhờ bàn tay con người, năm vũ khí tối thượng mới phát huy năng lực và cũng bởi bàn tay con người, chúng đã bị phá hủy hoặc biến mất. Dưới sự trừng phạt của Vạn Thế, con người vẫn tồn tại. Đó là may mắn, định mệnh, hay chính con người mới là vũ khí tối thượng? Phải chăng chúng ta chưa khai thác hết sức mạnh của chính mình?…”



Vô Phong đoán người Băng Hóa có tham vọng đưa con người tiến lên tầm cao mới, họ tin Mắt Trắng chính là chìa khóa. Xét khía cạnh nào đấy, người Băng Hóa đã đúng. Mi Kha chính là tầm cao mà đề án luôn hướng tới. Đáng tiếc rằng họ phủ nhận mọi thứ từng dày công gây dựng, mọi cái chết của sản phụ và thai nhi phục vụ đề án trở thành đồ bỏ.

Vài ngày chúi mũi đọc viết, tên tóc đỏ chỉ tìm được vài thứ như thế. Công việc lặng lẽ cộng thêm cuộc sống bình bình tà tà của Biên Ngoại thành làm Vô Phong hơi chán, hắn thành thử háo hức tập kiếm hơn, đặc biệt là tập cùng ông Quản Gia. Thay vì giữ rịt như đầu bếp giấu công thức nấu ăn, ông Quản Gia chia sẻ mọi phương pháp tập kiếm của dòng họ cho Vô Phong. Mỗi bước đấu kiếm, mỗi bước di chuyển, hắn lại nghe được ít nhiều điều mới lạ. 

-Họ Cát Giá chúng tôi luôn mạnh khi đánh tay đôi, nhất là với cách thủ thế truyền thống này! – Ông Quản Gia vừa nói vừa lùi người về phía sau, riêng tay phải cầm kiếm gỗ hướng về phía trước – Giảm tối đa thương tích, tập trung toàn lực ở một điểm, và quan trọng là…

Nói chưa hết, ông ta bất thình lình đâm kiếm nhanh như chớp. Phản xạ tự nhiên kéo Vô Phong lui bước, ngã loạng choạng. Hắn chồm dậy tìm cách phản công nhưng phải ngừng lại trước mũi kiếm đung đưa của ông Quản Gia. Hễ hắn tiến một bước, mũi kiếm lại tiến một bước sẵn sàng cú đâm chí mạng. Khung cảnh chiến đấu với Quỷ Nhãn được tái hiện phần nào; nhớ lại lúc đó, Vô Phong hầu như chỉ biết chạy và chạy. Ông Quản Gia giải thích:

-Tư thế này cho phép tận dụng tối đa sải tay, sức rướn và ít tiêu hao thể lực. Muốn phá nó thì phải đoán đối phương khi nào tấn công rồi tiến lên ra đòn quyết định. Tóm lại là phải mạo hiểm. Nó rất hữu dụng khi đánh tay đôi, quần chiến nhưng không hợp với chiến trường lớn; cũng vô dụng trước giáo, thương hoặc các đối thủ dùng khiên. Nhưng đây là thời hiện đại, giáo thương hay khiên không còn nữa nên nó rất hiệu quả, hy vọng sẽ giúp Múy phần nào. 

Vô Phong nhớ ngày ở sa mạc phải liều mạng mới làm Quỷ Nhãn bị thương. Hồi tưởng ít phút, hắn vung kiếm tập tiếp. Kiếm gỗ va nhau vang chan chát, dội khắp bốn bức tường, vọng lên những xà ngang đỡ mái. Được một lúc, hắn cất lời:

-Tôi nghe nói họ Cát Giá không sử dụng bí kỹ? Tại sao vậy? 

-Chúng tôi có sử dụng bí kỹ. Là thứ này… – Ông Quản Gia vận nội lực tạo tấm khiên màu trắng bạc trong lòng bàn tay – …dùng để chắn bom đạn. Nhưng chỉ loại bí kỹ này thôi, thưa Múy. Chúng tôi không học cũng không sáng tạo bí kỹ. Tại sao ư? Bởi vì bí kỹ làm người ta thiếu trân trọng thanh kiếm. Tôi không nói tất cả nhưng rất nhiều kẻ như thế. Chỉ cần học bí kỹ, đặt thợ rèn làm một thanh kiếm hoặc thanh đao phù hợp bí kỹ, kẻ đó lập tức trở thành chiến binh. Bây giờ, người ta so đo bí kỹ và những cơ chế máy móc kỹ thuật trong thanh kiếm thay vì một trận đấu kiếm đích thực. Nó… thiếu tôn nghiêm, thiếu phẩm giá. 

-Chỉ là vậy? – Vô Phong ngạc nhiên – Nhưng bí kỹ giúp các ông mạnh hơn, đúng chứ? 

Ông Quản Gia bật cười, bộ ria lá cọ rung rinh:

-“Mọi trận đấu kiếm đều kết thúc bằng kiếm”, ông tổ họ Cát Giá đã nói như vậy, thưa Múy. Lưỡi kiếm quyết định tất cả. Chỉ một cú đâm trúng đích hay một cú xỉa bất ngờ, tất cả sẽ kết thúc. Vì quá lạm dụng bí kỹ mà thiếu bài tập cơ bản, thiếu kỹ thuật nên đám chiến binh thời nay dễ mệt mỏi, dễ xao động khi trận đấu hoặc cuộc chiến kéo dài. Nội lực sinh từ đại não, càng sử dụng bí kỹ thì não càng mệt, cơ thể rệu rã theo, chắc Múy không lạ?! Họ Cát Giá khác. Chúng tôi chịu đựng lâu hơn, bền bỉ hơn và nhanh hơn. Thí dụ thế này!

Nói hết câu, ông Quản Gia hốt nhiên vươn người đâm kiếm gỗ. Vô Phong giật thót nhảy lùi nhưng vẫn bị trúng đòn đau điếng bên mạn sườn. Hắn cảm giác thanh kiếm vừa dài thêm một quãng, nhưng nhìn lại mới phát hiện ông Quản Gia nắm chuôi kiếm bằng ngón trỏ và ngón giữa. Cần rèn luyện nhiều, chiến đấu nhiều mới cầm được chắc chắn và đâm mạnh như thế - ông Quản Gia không hề khoác lác. 

Và rồi ông Quản Gia kéo Vô Phong dậy, chỉ hắn cách chống đỡ bí kỹ, những đối thủ là pháp sư, những kẻ tấn công từ xa. Chẳng giấu giếm, chẳng giữ kẽ, cứ như tên tóc đỏ là người thừa kế dòng họ. Chỉ ít ngày ngắn ngủi, Vô Phong đã nắm bắt kha khá kỹ thuật đánh kiếm từ cơ bản đến nâng cao của họ Cát Giá. Lúc cao hứng, hắn cảm tưởng mình sắp trở thành một Quỷ Nhãn phiên bản hai. Cái sự nhiệt tình từ ông quản gia làm hắn nghi ngờ. Tâm lý kẻ trốn nã vốn chẳng nghĩ tốt về ai bao giờ. Một buổi nọ, Vô Phong hỏi ông ta: 

-Ông dạy tôi những bí mật của họ Cát Giá, không sợ bà Tháp Tước giận à? 

-Miễn sao đừng ai nói với bà ấy. – Ông Quản Gia đáp – Phòng tập kiếm này khi xưa ồn ã, có cả thành viên dòng họ lẫn người ngoài muốn học tập kiếm thuật Cát Giá. Giờ khung cảnh huy hoàng đó chẳng còn nữa; các kiếm sĩ theo những trường phái tân thời, họ Cát Giá thì không chịu mở cửa. Rốt cục chúng tôi chịu thiệt. Tôi không muốn những di sản của dòng họ trở thành ký ức. Không riêng Múy, bất cứ vị khách nào tới đây có hứng thú với kiếm thuật cổ xưa, tôi sẽ chỉ dẫn tận tình. 

Vô Phong gật đầu, trong lòng kính nể ông già có bộ ria lỉa chỉa. Ông ta hẳn đã biết hắn từng là địch thủ đồng thời góp phần vào cái chết của Quỷ Nhãn. Được ông ta phục vụ ăn ở, tên tóc đỏ đã cảm thấy may lắm chứ không mong đợi gì hơn. Hắn nghe người ta đồn đại nhiều điều về phương bắc nhưng rốt cục lại chẳng hiểu phương bắc chút nào. Vô Phong bật cười: 

-Vậy hôm chia tay, tôi có thể mời thầy uống bia? Người Phi Thiên thích bia hơn. Ở đây có bia chứ?

-Rất sẵn lòng và vinh dự cho tôi, thưa Múy. – Ông Quản Gia cúi đầu.

Biết lịch của Vô Phong, lũ trẻ An Lí – Át Sa cứ chiều tối lại nhong nhóng xuống phòng tập kiếm thay vì ngồi chung bàn ăn với bà phù thủy Tháp Tước. Chúng thích vị khách lạ. Bọn nhỏ thường ngồi ngoài chăm chú xem Vô Phong tập với ông Quản Gia. Đợi hai người tập xong, thằng nhóc An Lí trèo lên sàn đòi tên tóc đỏ dạy tiểu xảo, những kỹ thuật hiện đại trong bộ kiếm thuật Thiết vốn không thuộc truyền thống dòng họ. Vô Phong chiều đứa nhỏ rồi chỉ dẫn mấy chiêu trò hữu dụng (dĩ nhiên là phải đợi ông Quản Gia đi khuất). Tập với trẻ con thì thư giãn là chủ yếu, Vô Phong nhân thể tán dóc linh tinh để giải khuây. Hắn kể chuyện của mình, đổi lại lũ trẻ xì ra mấy chuyện vui vui trong dinh thự họ Cát Giá. Có khi chuyện phiếm vô tình lái sang mấy chủ đề nghiêm túc hơn. Bằng cái giọng non choẹt, “ông cụ non” An Lí quả quyết: 

-Cháu sẽ trở thành chiến binh phục vụ dòng họ dù chị Mi Kha không muốn. Chị ấy nói cháu nên làm cái gì đấy khác nhưng cháu không nghĩ vậy. Họ Cát Giá chẳng còn mấy người và chị Mi Kha đang đơn độc. Bác Tháp Tước nói nhiều năm nay chẳng còn ai gánh trách nhiệm xử lý Lực Lượng Mù Thủy nữa; bác ấy nói một ngày nào đó bọn chúng sẽ quay lại đây báo thù. Cháu phải nhanh chóng thành thục kiếm thuật, bảo vệ thành phố và ra mặt trận! Vạn Thế đã định sẵn số phận của cháu là như vậy.

Thằng nhóc vung vẩy kiếm như đang chứng minh quyết tâm của mình. Trông ông nhõi con hầm hầm mặt tỏ ra người lớn, Vô Phong phì cười:

-Chiến trường không vui đâu nhóc. Chẳng có gì vui ngoài đó hết! Thế còn bé, lớn lên bé định làm gì? – Hắn quay sang hất hàm với Át Sa ngồi bên ngoài – Nói thử xem, đừng im lặng vậy chứ! 

Bị hỏi bất ngờ, Át Sa rúm người như trái bóng bay xẹp. Mấy ngày ở phòng tập, nó không hé môi nửa lời. Vì ít tuổi nên Át Sa chưa được đụng vào kiếm. Con bé dường như cũng không quan tâm đến kiếm. Nó thích nhìn mọi người luyện tập chuyện trò hơn, tựa thể thu hết hình ảnh âm thanh vào tâm trí và sẽ nhâm nhi thưởng thức chúng khi đi ngủ hoặc lúc ở một mình. Lần đầu tiếp xúc, Vô Phong đoán con bé cùng dạng kiểu Liệt Trúc, hắn hỏi cốt chỉ để tỏ ra thân thiện chứ không đợi nó trả lời. 

-Cháu muốn đi xa… – Át Sa bất ngờ lên tiếng, giọng hơi gắt lên như sợ Vô Phong không nghe thấy, rồi lại bối rối vì nhận ra mình vừa cư xử thiếu lễ độ – …cháu muốn đi quanh thành phố, đi xa hơn, ra biển…

Tên tóc đỏ ngạc nhiên vì con bé chịu nói, sau bật cười:

-Đại khái là đi xa chứ gì? Thế giới có hai đại dương, chín biển lớn, bé muốn đi đâu? Ta không biết biển, cũng ít khi đi tàu thủy. Nhưng ta biết một chút về thăng vân tàu, bầu trời và quái vật không trung, muốn nghe chứ?

Át Sa ngơ ngác nhìn tên tóc đỏ đang nhăn nhở. Giả sử không sở hữu Mắt Trắng, con bé cũng dễ thương như bao đứa trẻ khác. Rồi trong một nỗ lực thoát khỏi tấm lưới vô hình đang trùm kín thân thể, con bé chống tay vươn người đoạn hỏi:

-Trên bầu trời… có gì…?

Vô Phong cười toe toét rồi bắt đầu kể. Những vùng trời, những chiếc thăng vân tàu quái dị, những hạm đội nổi tiếng, những con quái vật ngỡ chỉ tồn tại trong tưởng tượng, cả Cội Gió huyền thoại… mọi thứ được học từ Đạn Đạo, hắn đều kể cho Át Sa, vừa nói vừa minh họa bằng mấy trò khuỳnh chân khuỳnh tay tức cười. Đứa bé gái há hốc mồm lắng nghe, sau tới lượt ông cụ non An Lí nhỏng cổ tròn mắt trước thế giới mà tên tóc đỏ mang tới. Bấy giờ Vô Phong nhận ra cả hai đứa chưa bao giờ bước qua hàng rào bao quanh khu biệt thự. Ở đây chúng có tất cả và cũng nơi đây chúng thiếu tất cả. Chúng tồn tại dưới dạng công cụ chứ chưa bao giờ sống như con người. Giống Liệt Trúc, giống chính Vô Phong. 

Tập kiếm với bọn trẻ, Vô Phong bất đắc dĩ phải kiêm thêm kể chuyện nên chẳng rèn luyện được mấy. Không gì làm người ta khó xử bằng đôi mắt háo hức của trẻ con, kể cả đó là Mắt Trắng. Nhưng hắn không phiền. Bởi cái sự phiền phức con trẻ làm hắn tạm quên cuộc sống chạy trốn và ít mộng mị hơn khi đêm tối ập đến. Kẻ trốn nã luôn khó ngủ. 

Tới ngày thứ năm tức ngày cuối cùng ở khu biệt thự, không còn ai tập với Vô Phong. Ông Quản Gia, hai đứa trẻ con, người giúp việc – tất cả đều bận rộn, chỉ còn lại tên tóc đỏ cùng căn phòng mênh mông mùi kim loại. Trên những xà ngang im lìm, lo âu phiền não sà xuống, vỗ cánh phành phạch gieo những lo lắng vào đầu hắn như rắc muối tiêu. Khi lo lắng quá nhiều, bộ não chẳng bao giờ sắp xếp sự việc theo thứ tự, tất cả trào ra từ dây thần kinh và ùn ùn xô tới một cách vô tổ chức. Chúng gào lên với Vô Phong rằng hắn từ rày vĩnh viễn không thể quay lại Phi Thiên thành. Hắn sợ điều đó. Lố bịch làm sao khi hai năm trước đây, hắn còn dõng dạc tuyên bố với Thày Dạy Học rằng sẽ biến khỏi thành phố càng nhanh càng tốt. Nhưng quả thực hắn đang sợ.

Nghĩ quẩn nghĩ quanh càng thêm nặng óc, Vô Phong tập luyện, cố trút phiền muộn lên những cọc bện thừng hoặc hình nhân gỗ. Các vết chém kiếm ban đầu nông nhoèn lệch lạc, dần dà sâu hơn, lẹm hơn như có thù hằn. Bàn tay Vô Phong đỏ ửng tưởng chừng sắp bóp nát cán thanh Bộc Phá. Tức giận và căm thù xâm chiếm hắn, đối tượng bị nhắm đến không ai khác ngoài hoàng tử Lục Thiên. Nếu được trả giá, hắn sẵn sàng trả để đấm vỡ mặt thằng con hoang đó, bất chấp việc y là anh trai công chúa Lục Châu. Tức giận nhiều, sức lực mau giảm. Chưa được nửa tiếng, Vô Phong mệt nhoài. Cọc gỗ bện thừng lẫn hình nhân gỗ gãy đổ la liệt xung quanh hắn. Tên tóc đỏ chống gối thở dốc rồi rảo bộ quanh phòng cho thư giãn cơ bắp. Hắn ngắm nghía các thanh kiếm, tự hỏi liệu chúng có chủ nhân, đang nằm đây nghỉ hưu hay chưa một lần ra chiến trận. 

Đương nghĩ ngợi vẩn vơ, hắn chợt dừng chân khi phát hiện một thanh trường kiếm dựng ở góc tường. Vô Phong len qua những bàn gỗ, lôi nó ra khỏi rừng kiếm rồi mang lên sàn tập. Hắn vẫn nhớ rõ thanh Số 4 mà Quỷ Nhãn thường dùng: dài quá khổ, lưỡi hơi cong và không bị võng xuống dù rất dài, bề mặt lưỡi loang lổ nhiều vết trắng xóa. Thanh kiếm mà hắn đang cầm đây là một bản sao của Số 4. Thử vung vẩy vài đường, Vô Phong nhận ra nó tuy không nặng nhưng cản gió vì chiều dài ngoại cỡ, mỗi động tác thi triển đều vướng víu và lâu hơn kiếm thường rất nhiều. Vậy mà trong tay Quỷ Nhãn, nó nhanh lẹ hung hiểm như rắn độc. Càng nghĩ, Vô Phong càng tin mình được cây mẹ chiếu cố khi đối đầu Quỷ Nhãn.

-Lâu rồi mới thấy nó! Anh tìm được hả?

Tiếng nói vọng tới làm Vô Phong ngoảnh về phía cửa. Là Mi Kha. Cô ả dường như vừa trở về, áo khoác lẫn đôi bốt còn lấm tuyết. Nàng ta bước lên sàn, cầm lấy thanh kiếm đánh vài đường. Trái ngược tên tóc đỏ, Mi Kha sử dụng Số 4 rất thuần thục, hoàn toàn không có động tác dư thừa. Cô ả nói:

-Chỉ duy họ Cát Giá biết sử dụng thanh kiếm này. Tổ tiên tôi đặt cho nó nhiều cái tên như “Tiên Phong” hoặc “Đội Trưởng”. Nó được rèn bằng thép đặc biệt chỉ có ở phương bắc; khi rèn, thay vì làm nguội trong nước, người ta làm nguội bằng tuyết ướt, nên mặt kiếm mới nhiều vết loang lổ. Rèn kiểu này, kiếm vẫn dài mà không bị võng song vẫn có tính đàn hồi. Người cầm kiếm sẽ xông lên công phá đội hình địch mở đường cho đoàn quân phía sau. Nhưng đấy là thời phi cơ giới, sang kỷ nguyên hiện đại thì nó bị lãng quên. Anh tôi dùng nó vì bất đắc dĩ. Hồi anh còn nhỏ, cha mẹ tôi vì ghét bỏ nên thường đuổi anh ra ngoài vườn. Anh phải tự kiếm chỗ ngủ, tự giặt quần áo. Cây tần bì cao, anh không trèo được, nên phải dùng thanh kiếm này để phơi quần áo. 

-Thật hả? – Vô Phong nhíu mày – Có thật hả? 

-Thật chứ! – Mi Kha phì cười đoạn nâng thanh kiếm ngang mặt – Anh tôi thường gọi nó là Sào Phơi, sau đấy là Số 4 trong bộ chín thanh kiếm Thương Binh của mình. Trong thời hiện đại của họ Cát Giá, chỉ mình anh biết sử dụng nó. Tôi cũng không dùng được, múa may thì tàm tạm. Nó còn có tên khác là “Cô Độc Kiếm”. Nó rất dài nên tầm hoạt động cũng rất lớn, gây tổn thương cho bất cứ ai đứng gần. Bởi thế ai cầm nó đều phải xác định chiến đấu một mình, chết một mình, không có đồng đội, không người cứu giúp…

Mi Kha đăm đăm nhìn thanh kiếm như đang hồi tưởng về anh trai. Vô Phong im lặng, hắn không thích làm kẻ bất lịch sự chen ngang bằng mấy câu hỏi dù rất muốn biết thêm về Quỷ Nhãn. Được ít phút, Mi Kha trả kiếm, đưa khăn lau mồ hôi cho hắn rồi nói:

-Chiều mai, anh sẽ ra bến tàu đi Băng Hóa quốc. Tôi phải ở lại, còn nhiều việc quá, mấy ngày nữa mới xong. Nhưng tôi đã sắp xếp người đi cùng anh. Đợi công việc ở Biên Ngoại thành xong xuôi, tôi sẽ bắt kịp anh ngay.

-Tại sao là Băng Hóa quốc? – Vô Phong hỏi. 

-Anh sẽ gặp một nhân vật có tiếng trong giới học giả Băng Hóa, tên là Đa Vu Lạt. Ông ấy luôn giúp đỡ họ Cát Giá nếu có thể, bản thân tôi cũng chịu ơn ông ấy nhiều lần. Ông ấy đã hứa sẽ tìm cho tôi những nhà khoa học từng tham gia thí nghiệm Mắt Trắng. Và biết đâu đấy, anh có thể tìm được thông tin gì về Đề Án Ngục Thánh từ ông ta thì sao? Thú vị chứ?!

Vô Phong cười trừ. Hắn dò hỏi:

-Cô nghe được tin gì từ Phi Thiên quốc không? Mấy ngày nay tôi không xem tin tức. 

-Nhớ nhung cô công chúa sao? – Mi Kha nhếch mép – Giờ cô ta xuất hiện khắp mặt báo rồi. Nào là “ứng cử viên hoàng đế”, nào là “người thừa kế trẻ tuổi”, đủ mỹ từ! Nhưng cô ta sẽ lại làm thánh sứ thôi, tin tôi đi. Người như cô ta không thể làm hoàng đế, vả lại cô ta đâu phải là đối thủ của anh trai mình? Nhắc mới nhớ, Phi Thiên quốc vận động bầu cử sớm vậy, xem chừng ông già Đệ Thập không ổn. Biết đâu đấy, ngày mai ông ta lăn đùng sùi bọt mép, nhỉ? Mà thôi, anh đang trốn nã, sao phải lo lắng cho người khác? Hãy tận hưởng những gì đang có, tóc đỏ à!

-Cô nghĩ tôi tận hưởng được cái gì? – Vô Phong thở phì.

-Khu biệt thự ấm áp, đồ ăn cũng rất ngon, đúng không? Và nếu anh muốn, chúng ta có thể “làm”. Ngay ở đây thì sao? Chỗ này hơi lạnh nhưng tôi không ngại. Làm cho xong chuyện dang dở ở Đồng Gió đi, đồ vô trách nhiệm!

Mi Kha cười cợt đoạn cởi cúc áo khoác, cởi cả áo lụa bên trong, viền áo lụa tẽ ra vẽ một đường trắng hồng từ cổ xuống tận rốn tạo hình chữ “V”. Không phải Mi Kha lính đánh thuê mà là tiểu thư Mi Kha danh giá, nữ tính, tóc vàng dài xòe rộng hai vai, thoang thoảng mùi dầu thơm và phải đứng gần mới ngửi thấy. Mi Kha dĩ nhiên cố tình đứng rất gần tên tóc đỏ, chóp mũi của họ gần như chạm nhau. Vô Phong cố gắng không ngó xuống cái chữ “V” nguy hiểm nọ, tâm trí lầm bầm nào công chúa nào Tiểu Hồ. Như biết hắn nghĩ gì, Mi Kha cười ranh ma. Cô ả bất ngờ túm tay tên tóc đỏ đem thọc vào áo mình. Vô Phong rởn tóc gáy, bàn tay cảm nhận được cái nóng lạnh lẫn lộn nhảy múa trên da thịt, cái ram ráp ở lưng sườn như vết sẹo, cái thơm nồng bốc lên như miếng phó-mát nóng chảy. Con chuột Vô Phong đã ngoạm ít nhiều lớp vỏ phó-mát này ở Đồng Gió, chỉ chút nữa là động tới phần lõi ngon lành nhất. 

Nhưng sau rốt Vô Phong cúp đuôi bỏ đi. Hắn cảm giác không hay ho gì khi làm con chuột liếm láp cục phó-mát đang bày ra trước mặt. Thấy hắn dứt khoát, Mi Kha lắc đầu cười. Cô nàng chạy theo, vừa cài cúc áo vừa nói:

-Anh khờ quá! Cứ cho tôi là loại dâm đãng, nếu muốn, nhưng thực ra anh chẳng biết tí gì về phương bắc. Đàn bà xứ này không lằng nhằng ỏng eo như lũ con gái phương tây đâu, tóc đỏ. Ở đây chỉ có mùa đông bất diệt, còn máu sẽ đổ và con người sẽ quay ra trở giáo vào mặt nhau bất cứ lúc nào, nên hãy yêu thương nhau khi có thể dù chỉ một ngày hay một đêm. Đáng tiếc, anh không sống ở đây, anh không phải người phương bắc. Anh sẽ chẳng bao giờ hiểu.

Tên tóc đỏ không hiểu những lời của Mi Kha trừ câu cuối cùng. Trong lúc hắn còn mặt ngơ mày ngác, Mi Kha tiếp lời:

-Ngủ một giấc. Đừng nghĩ nhiều. Đêm tối thường thay đổi suy nghĩ của con người. Nhưng nếu nghĩ về tôi thì được, hiểu chứ, tóc đỏ? Ngủ ngon!

Cô ả cười khúc khích đoạn rời khỏi phòng tập, để lại Vô Phong với thanh Số 4. Nhìn thanh kiếm, tên tóc đỏ ngờ rằng Vạn Thế đã liên kết mình với Mi Kha từ ngày hắn đặt chân tới sa mạc Hồi Đằng. Rủi thay, sự liên kết đó bắt đầu bằng cái chết của Quỷ Nhãn. Nếu một ngày kia, quan hệ giữa hắn và cô ả kết thúc theo cái cách mà Vạn Thế sắp đặt cho cả hai, có thể hắn sẽ hối tiếc ít nhiều. Tên tóc đỏ nâng thanh kiếm, tự nói một mình:

-Số 4… Bốn là tư, tư giống “tử”, trùng hợp quá ha!

Hình dáng của thanh Số 4, có thể xem lại ở Quyển 3 Chương 30
 
Quyển 5 - Chương 5: Lò Heo Quay


Vô Phong rời khu biệt thự vào chiều hôm sau, ngày 25 tháng 2. Hắn ra đi lặng lẽ như nguyện vọng, thay vì được bà Tháp Tước cùng đám người phục vụ tiễn rước đúng theo lề thói quý tộc Băng Thổ. Cái tâm thế trốn nã làm hắn nghi kỵ mọi mọi âm thanh ồn ào và sự náo nhiệt. Chiều hôm đó chỉ có anh em An Lí – Át Sa đến từ biệt tên tóc đỏ, mặt mũi chúng lồ lộ những vẻ nài nỉ mong hắn nán lại thêm ít bữa. Hai đứa chưa đành lòng quay lại cuộc sống đầy tiếng phàn nàn ca cẩm từ bà Tháp Tước. Nhưng Vô Phong phải đi. 

Át Sa – đứa ít nói nhất trong hai anh em lại mang nhiều quà nhất cho tên tóc đỏ. Nào hộp bánh kẹo nào búp bê vải, tay con bé khệ nệ đủ những thứ là thứ, thân hình bé nhỏ lọt thỏm giữa mớ quà chia tay. Vô Phong chẳng nỡ từ chối dù biết vác hết đống này thì lỉnh kỉnh vướng víu. Duy có con búp bê vải làm hắn tần ngần. Nó to hơn lòng bàn tay một chút, trông giống con thỏ với hai tai dài ngoẵng, đường khâu xiên xẹo vì làm vội và bàn tay trẻ con chưa thành thục. Át Sa nói rằng con thỏ vải này là bùa hộ mệnh. Vô Phong phì cười, đoạn cúi người cho nó xem dây chuyền bạc và dây buộc tóc:

-Biết gì không bé? Mấy thứ này toàn là bùa hộ mệnh đấy! Người ta nói mang quá nhiều bùa hộ mệnh thì sẽ chẳng có vị thần nào hộ mệnh hết! Bé muốn ta xui xẻo hả?

-Cháu không có ý đó! Cháu không dùng phép thuật nào hết! – Con bé Át Sa cự nự – Thực ra cháu chỉ sử dụng một ít phép cầu may làm từ rễ cây đinh hương, lá cây chi trâm, một ít lá thường xanh… cháu không làm gì cả… cháu chỉ muốn Tashaya ở bên Múy…

-Được rồi, được rồi, ta đùa thôi! Ta nhận, được chưa? – Vô Phong ngăn con bé lại trước khi nó tuôn ra một tràng lê thê thảo mộc thực vật – Cảm ơn bé. Ta không hứa gặp lại đâu! Nhưng nếu có thể, chúng ta sẽ tái ngộ trên thăng vân tàu. Chào nhé!

Đôi mắt con bé long lanh hẳn lên như thể cái ngày tái ngộ chẳng còn xa. Vô Phong vẫy tay từ biệt rồi lên xe ngựa. Ông Quản Gia đưa hắn đi. Những cung đường nhỏ với nhà mái thấp liền kề nhau, các dãy cột đèn và vệ đường phủ tuyết neo bóng người đưa chiếc xe ngựa ra bến tàu. Tên tóc đỏ ngoái lại, tuy vẫn thấy khu biệt thự cổ kính treo gia huy họ Cát Giá song chẳng thấy An Lí – Át Sa. Hắn cũng không thể tưởng tượng ra chúng đang nghĩ gì, làm gì, biểu cảm ra sao – giống cái cách hắn có thể mường tượng về Liệt Trúc. Bọn trẻ quá lùn so với những tòa nhà thấp mái của thành phố hoặc chưa đủ cao để chạm đến sự ấn tượng của Vô Phong. Thời gian lưu lại quá ngắn, hắn vẫn không rõ tính cách lũ trẻ. Trông những hộp quà cùng con thỏ vải, Vô Phong hơi tiếc, ước gì có thể ở lại với hai đứa trẻ lâu hơn. Nhưng thời gian luôn cau có với kẻ trốn nã. 

Ông Quản Gia đánh xe tới bến tàu, xách hành lý của Vô Phong xuống sân ga, cẩn thận gửi lời từ biệt và không quên hẹn ngày tái ngộ. Đáp lại, Vô Phong mua hai chai bia từ quầy tạp hóa gần đó, nhân tiện cảm ơn ông ta vì tập kiếm cùng mình. Hai người cùng uống trong lúc đợi tàu đến. Được một lúc, ông Quản Gia cất lời:

-Tôi đã thử dùng thanh Bộc Phá của Múy. Một thanh kiếm kỳ lạ và độc đáo. Có điều thành phần cấu tạo kiếm quá đặc biệt, tôi không thể nhận ra cách rèn hay các hợp chất bên trong. Ngộ nhỡ kiếm hỏng, e rằng chỉ có thợ rèn người Tuyệt Tưởng Thành mới biết cách sửa chữa. Nhưng tôi nghe nói hầu hết thợ rèn Tuyệt Tưởng Thành đã trở về dân tộc của họ để xây dựng lại đất nước, chẳng còn mấy ai trên phương bắc nữa. Vậy nên tôi nghĩ Múy nên sử dụng vũ khí rẻ hơn, dễ thay thế, dễ sửa chữa. Khi tới Băng Hóa thành, hãy tới tiệm rèn này, địa chỉ đây… – Ông Quản Gia rút mảnh giấy ghi chép sột soạt rồi đưa cho tên tóc đỏ – …cứ nói là quản gia họ Cát Giá giới thiệu, cửa hàng sẽ đón tiếp Múy. Tôi sẽ gọi điện thông báo trước. Cửa hàng nổi tiếng, làm việc nhanh gọn, rất đảm bảo, Múy có thể yên tâm. 

Vô Phong ngớ người sau gật đầu lia lịa cảm ơn. Hắn chẳng nhận ra chuyện này quan trọng thế nào nếu ông Quản Gia không nhắc nhở. Quý tộc Băng Thổ tiếp đãi khách trọng thị và tử tế hơn hắn mong đợi. 

Hai người đương trò chuyện thì chuông reo báo tàu cao tốc cập bến. Tên tóc đỏ tạm biệt ông Quản Gia lần cuối rồi tiếp nối dòng người ít ỏi rời khỏi Biên Ngoại thành. Theo lời Mi Kha, người trợ giúp Vô Phong đang ở trên chuyến tàu. Nhưng nhìn quanh quất mấy hồi, tên tóc đỏ chỉ thấy dân buôn tay xách nách mang hàng hóa, vài người như dân tộc thiểu số khoác trên mình trang phục lằng nhằng dây nhợ lẫn đai da, số khác đơn giản là đi ngang qua và không có ý định ghé thăm hay nhìn ngó thành phố hẻo lánh này. Chẳng ai hiện ra vẻ sắp đồng hành cùng tên tóc đỏ. Hắn tiến đến chỗ ngồi. Không có người nào chờ Vô Phong ở đấy ngoài hàng ghế bọc da cũ kỹ, miếng tựa đầu sờn rách xổ mút vàng lẫn bọn rận. Hắn bèn gọi điện cho Mi Kha nhưng máy báo bận liên tục. Tàu chuyển bánh mà người cần gặp chẳng thấy đâu, Vô Phong yên vị ở chỗ của mình trước khi thiếp đi. Xứ tuyết làm người ta dễ chợp mắt. 

Khốn nỗi giấc ngủ của Vô Phong ít khi an lành. Mấy lần hắn giật mình tỉnh dậy là từng ấy lần thò tay túi áo sẵn sàng rút kiếm. Có lúc hắn thấy hình ảnh ngôi nhà cháy cùng đứa trẻ lăn lê dưới đất, có lúc trong vô thức lại nhận thức rằng mình đang trốn nã và bị truy đuổi. Chúng lộn xộn, đứt quãng, chắp vá nhau một cách kỳ cục. Ba tiếng trôi qua, chúng quấy quả rồi để lại cho hắn một bộ mặt rệu rạc nửa thức nửa ngủ. Cùng lúc này, tàu dừng lại ở trạm trung chuyển mà Vô Phong biết chắc đó không phải là Băng Hóa thành. Từ miền cực bắc xuống thủ đô Băng Hóa lâu hơn thế. Hành khách người xuống người lên, Vô Phong lấy chân lèn chặt túi hành lý, bàn tay buông hờ cạnh vạt áo nơi thập thò cán kiếm Bộc Phá. Đợi tất cả ổn định, hắn mới thôi xù lông cảnh giác. Tàu rời trạm, tiếng di chuyển êm êm và gió tuyết vỗ cửa kính lại ru hắn vào cơn gà gật. 

-À, đây rồi! 

Vô Phong chợt nghe giọng nói nhằm vào mình đồng thời cảm thấy cái dộng người khoan khoái ở ghế ngồi kế bên. Lúc này, ngay cạnh hắn là một cô gái ăn vận thời trang, kính hồng lấp lánh bự chảng trễ sống mũi, môi hồng óng ánh. Tổng thể cô nàng vừa sành điệu vừa nhức mắt, tương phản vô cùng với tất cả hành khách trên tàu. Thấy Vô Phong ngơ ngác nhìn mình, cô nàng cởi kính thốt lên:

-Ôi Vạn Thế ơi, anh không nhận ra tôi sao? Tôi nè! Là tôi nè!

Tên tóc đỏ căng mắt nhìn tới độ lồi con ngươi mới nhận ra đó là Si Giáng. Thấy thế, cô nàng ôm chầm Vô Phong lắc lư một hồi. Hai tháng sau chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, cô nàng cao hơn một chút và bỏ không ít tiền thưởng đánh thuê vào quần áo mỹ phẩm – Vô Phong đoán vậy. Si Giáng chưa đủ mười tám tuổi, kỳ thực chẳng lớn hơn Liệt Trúc bao nhiêu, cố nhiên thích tiêu pha ăn diện hơn cả. 

-Xin lỗi, đáng lẽ tôi phải đón anh nhưng ngủ quên mất! Hì hì, bỏ qua nhé! – Si Giáng cười – Tôi sẽ theo anh từ đầu đến cuối, làm việc toàn thời gian luôn! Có thể chúng ta có thêm người giúp đỡ, tùy xem họ rảnh rang lúc nào. Toàn người quen thôi, đừng sợ! Vậy nha, tôi ngủ một chút! 

Vô Phong chưa kịp hỏi han thì cô gái đã lim dim ngủ. Nàng ta duỗi chân, đầu khi ngoẹo trái, lúc ngoẹo phải tựa vai tên tóc đỏ. Trừ vụ váy áo mỹ phẩm, Si Giáng vẫn vô lo vô nghĩ như trước, hoàn toàn tréo ngoe so với nghề lính đánh thuê. Mà cũng bởi thế, Si Giáng là người đáng tin nhất trong giới đâm thuê chém mướn. Ở một khía cạnh khác, Vô Phong tin tưởng cô nàng hơn cả Mi Kha.

Quãng thời gian tiếp theo, Vô Phong chẳng nhớ gì nhiều ngoài gió tuyết cùng vài trạm trung chuyển. Đôi lúc hắn ngủ khá sâu và hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Vài giấc mơ thi thoảng ghé thăm hắn nhưng may thay không có ác mộng. Ngay cả ác mộng cũng không thể lay chuyển một bộ não căng thẳng suốt thời gian dài. Mãi tới khi Si Giáng lay vai chán chê, hắn mới tỉnh giấc, nhận ra tàu điện vừa tiến vào địa phận thủ đô Băng Hóa. Sáu tiếng đã trôi qua. Nơi cần đến đang ở trước mặt tên tóc đỏ. 

Thêm mười lăm phút nữa, tàu cập bến ở ngoại ô Băng Hóa thành. Tên tóc đỏ cùng Si Giáng theo dòng người bước xuống sân ga lát gạch đen tuyền, bóng nhưng không trơn, phản chiếu ánh đèn vàng trắng từ các chùm đèn pha lê lớn treo trên nóc nhà ga, hoặc những bóng đèn chạm trổ hình hoa chim chóc xung quanh cột trụ chống đỡ nhiều lối đi mái vòm. Nơi đây phần nào tương tự nhà ga ở Biên Ngoại thành song cổ kính, đẹp đẽ gấp nhiều lần. Thủ đô thị thành thì dĩ nhiên phải khác vùng biên ngoại hay các trạm trung chuyển. Hiện là bốn giờ sáng nhưng nhà ga khá đông hành khách, người tới nhiều hơn đi, chủ yếu là công dân các quốc gia lân cận. Vì lo ngại chiến tranh, một bộ phận dân chúng Băng Thổ chọn giải pháp lánh nạn tại trái tim lục địa. 

Vô Phong không nghĩ bộ dạng của Si Giáng thích hợp cho mấy công tác bí mật. Nhiều cái nhìn thiếu đứng đắn ở sân ga bắt đầu chú mục vào cô nàng. Nhưng chưa đợi Vô Phong lên tiếng, cô nàng đã lôi hắn vào nhà vệ sinh nữ, trút bỏ mớ quần áo bắt mắt rồi khoác lên mình trang phục tối màu. Cô ả cũng chuẩn bị sẵn một bình xịt nhuộm tóc cho Vô Phong để che giấu mái tóc đỏ quá nổi bật. Vô Phong soi gương, thấy mái tóc đỏ giờ chuyển màu đen sì. Xong xuôi đâu đấy, họ trở ra cửa làm thủ tục nhập cảnh. 

Đang giai đoạn bất ổn, Băng Hóa quốc kiểm soát an ninh rất chặt. Cảnh binh cùng chó nghiệp vụ tuần tra khắp nẻo, mật vụ hòa lẫn dòng người, máy quay giám sát cài cắm từ hành lang tới cầu thang. Ở khu nhập cảnh, từng hàng người nối đuôi nhau kéo dài gần nửa cây số, ai nấy đều mệt mỏi vì thủ tục nhiêu khê hơn trước gấp bội. Thay vì gia nhập dòng người đang tăng xông máu não, bọn Vô Phong đến cửa nhập cảnh rồi chìa giấy thông hành do Mi Kha cung cấp. Quý tộc Băng Thổ hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi, giấy thông hành chỉ là chuyện vặt vãnh. Chưa đầy một phút, bọn Vô Phong được phép qua cửa. Hai người nhanh chóng chuyển lên tàu điện vào nội đô thành phố. 

Trời tối mịt, thủ đô Băng Hóa ẩn thân dưới mưa tuyết và chẳng lộ ra bất cứ phần thân thể nào của mình, trừ những ngọn tháp pháo nghìn tuổi bao bọc thành phố. Các tháp pháo chẳng thay đổi so với một năm trước khi Vô Phong lần đầu tới đây. Chúng vẫn sừng sững, khổng lồ và chĩa nòng về bầu trời xa xăm dù Vô Phong chẳng biết chúng còn hoạt động hay tậm tịt như ông già bảy mươi tuổi. “Chắc cố lắm cũng bắn được!” – Vô Phong nghĩ đoạn phì cười. 

Bọn Vô Phong vào nội đô lúc năm giờ sáng. Hai người tạm chia tay; Si Giáng kiếm chỗ nghỉ chân, Vô Phong tìm xưởng rèn. Họ còn nửa ngày trước khi gặp vị học giả Đa Vu Lạt. Dưới mưa tuyết, bóng đêm, ánh đèn rực rỡ nhảy múa khắp trung tâm Băng Hóa thành, những cái bóng đổ dài xiêu xiêu của các tòa kiến trúc hiện đại hình lục giác và cung điện chóp nhọn cổ xưa, Vô Phong lần mò xưởng rèn theo địa chỉ trên tờ giấy. Khác Phi Thiên thành, Băng Hóa thành không có bảng điện tử chỉ dẫn giao thông công cộng, mọi con đường đều nằm ở mồm. Phiền nỗi dân Băng Hóa vốn chẳng mấy thân thiện, giờ này chỉ có ma cô và đám say rượu quên đường về nhà. Nhưng Vô Phong không có nhiều lựa chọn. Dù gì hắn cũng là tội phạm, “cao cấp” hơn bọn ma cô nhiều. 

Hỏi han mấy hồi, sau rốt Vô Phong đã thấy xưởng rèn. Nó nằm ở trục đường chuyên buôn bán vũ khí cách quảng trường hai trăm mét về phía đông nam, không quá xa trạm tàu điện. Căn xưởng gồm hai tòa nhà xây cạnh nhau, tòa cao hơn lợp mái đỏ gắn ống khói, tòa thấp hơn có chái nhà màu rêu cùng một chiếc phong vũ biểu kiểu cổ hình chim ưng xoay qua xoay lại. Nó cũ kĩ và lọt thỏm so với con đường hiện đại, gợi cho Vô Phong ký ức về quán lão Lập ở Phi Thiên thành. Hắn bấm chuông hai lượt rồi chờ đợi. Lát sau hắn nghe tiếng giẫm chân bình bịch, tiếng lằn nhằn ca cẩm rồi tiếng lách cách rờ rẫm chùm chìa khóa. Cửa mở, tấm biển hiệu cạnh đó đương tắt ngóm bỗng rực sáng dòng chữ “Chào mừng quý khách!”, kế đến là một cái đầu hói thò ra cùng giọng nói lè nhè:

-Sao thần Nê Mê không xiên chết mày đi, thằng ranh? Bộ không nhìn đồng hồ à? Năm giờ sáng! Mày không biết phố này chín giờ mới làm việc à?! Hay muốn tao xiên chết mày luôn, thằng ranh?!

Mấy lời càm ràm cay độc kết thúc cũng là lúc chủ nhân của chúng lộ diện. Trước mặt Vô Phong là một lão đầu hói, dáng người lùn lùn mập mạp, hai tay trần cơ bắp nhờn mồ hôi dù trời rét căm căm, bụng to hằn một đường cong chắc khối trên áo may ô. Nom ông ta từa tựa một tảng đá nhỏ. Vô Phong nhe răng cười đoạn chìa mảnh giấy có chữ viết tay của ông Quản Gia. Lão hói mập đọc mảnh giấy đoạn tặc lưỡi, tiếp tục giọng lè nhè:

-Ồ, vậy là người quen của con bé Mi Kha. Hôm qua lão Quản Gia có gọi điện, vậy là… chú mày hả? Được rồi, vào đây! Chào mừng đến với tiệm Lò Heo Quay, cứ gọi ta là Chú Bự. 

Theo chân lão hói, Vô Phong tiến sâu vào cửa tiệm. Bên trong xộc lên một mùi hỗn hợp giữa than cháy, thức ăn nấu khét và rượu. Vỏ chai rượu lăn lóc khắp nơi từ mặt bàn, bên bễ lò cháy dở tới sàn gỗ. Không khó để giải thích chất giọng đặc trưng cùng bộ mặt cau có khi bị đánh thức lúc năm giờ sáng của Chú Bự. Tuy vậy, lão hói sắp xếp kiếm rất ngăn nắp, từng sản phẩm được đánh số thứ tự cẩn thận, trái hẳn thói rượu chè bừa bãi. Nhưng điều làm Vô Phong chú ý hơn cả là bức ảnh treo sau quầy tiếp tân. Ảnh đó chụp Chú Bự cùng gia đình Mi Kha, khi đó Quỷ Nhãn đã trưởng thành, đôi mắt người chết của gã vì thế đáng sợ hơn. Không nén nổi tò mò, Vô Phong hỏi:

-Ông biết họ Cát Giá? 

-Ờ! Ta là đồng đội với ông già Tháp Tước. – Lão hói đáp lời – Sau khi Tháp Tước mất, ta giải ngũ rồi làm lính đánh thuê, thi thoảng ghé qua giúp đỡ họ Cát Giá, cuối cùng nghỉ hưu với nghề thợ rèn. Chính ta giới thiệu Mi Kha gia nhập quân đánh thuê. Con bé có năng lực hơn vô số thằng đàn ông, nghề đó hợp với nó! Rượu chứ? 

Chú Bự chìa chai rượu trắng. Gã trai trẻ lắc đầu. Lão hói cười khẩy đoạn ngửa chai tu tùng tục. Vô Phong đoán thói quen tu rượu cả chai của Mi Kha cũng từ lão bợm hói này mà ra. Nốc mấy ngụm “giải khát” xong, Chú Bự đặt lên bàn nào giấy nào bút, cân tiểu ly, cân bàn, thước may, phấn, kéo cắt, búa, đục, dao… linh tinh tạp phí lù các thứ các thứ, thành thử Vô Phong không rõ lão ta là thợ rèn, thợ may hay gã chặt thịt lợn. Sắp xếp từng thứ vào vị trí, Chú Bự bảo hắn bước lên cân rồi ghi chép, lấy thước may đo người hắn như may đo áo, lại ghi chép soàn soạt. Lão hói vừa làm vừa hỏi, giọng điệu cụt giật:

-Chú mày là người Phi Thiên? Dùng kiếm thuật gì? Truyền thống hay hiện đại? Thích dùng kiếm kiểu nào? Thích phụ kiện hay không? Trả lời nhanh lên! Sao câm như hến thế?

-Tôi dùng kiếm thuật “Thiết”! – Vô Phong nói vội – Nhưng cũng biết một vài thứ truyền thống, tôi từng tập kiếm thuật của Tuyệt Tưởng Thành và họ Cát Giá, chưa thành thục hẳn. Tôi cần một thứ chắc tay như thanh Bộc Phá, có thêm phụ kiện càng tốt. Nhưng tại sao ông phải tính cân nặng và đo đạc thế này? 

Lão hói chuyển qua đo hông cho gã trai trẻ, nói:

-Đây là kiểu rèn phương bắc. Nếu rèn kiểu Tuyệt Tưởng Thành, mọi thứ đều tập trung vào kiếm, bởi vậy họ cho ra đời một trăm thanh Hoa Sa Tấu mạnh mẽ như nhau. Còn rèn kiểu truyền thống phương bắc, chúng ta quan tâm con người nhiều hơn. Chiều cao, cân nặng, sải tay, độ dài chân, sức bật… những dữ liệu đó sẽ quyết định cấu tạo thanh kiếm để phù hợp chủ nhân của chúng. Phức tạp hơn nhưng hiệu quả hơn, dĩ nhiên chỉ áp dụng cho ai chịu trả giá cao, ít nhất phải từ một trăm thùng vàng đổ lên. Đời ta chỉ rèn miễn phí cho hai đứa con của ông bạn Tháp Tước. 

Vô Phong ngạc nhiên:

-Ông rèn bộ kiếm Thương Binh cho Quỷ… à nhầm, Hàn Hà?

Chú Bự cười ha hả, tay vỗ vỗ cái bụng vẻ đắc thắng:

-Và cả bộ kiếm Bệnh Binh cho Mi Kha. Ồ, vậy chú mày cũng biết Thương Binh? Chúng là những thanh kiếm tốt nhất mà ta từng làm, một thời gieo rắc kinh hoàng khắp miền bắc Băng Thổ. Đáng tiếc, Hàn Hà đã mất, chẳng ai kế thừa bộ kiếm của thằng bé. Nhưng có thể Mi Kha sẽ nối tiếp truyền thống chín kiếm thay anh mình. Nhìn thấy gia huy họ Cát Giá chứ? Kiếm sĩ họ Cát Giá đỉnh cao là kẻ biết dùng thuần thục chín thanh kiếm. Chế tạo kiếm như thế mới thú vị! Ta không rèn mấy thanh kiếm phổ thông lại miễn phí thế này đâu, nên chú mày biết ơn ta đi là vừa.

-Thế thì tôi phải cảm ơn họ Cát Giá chứ? – Vô Phong tếu mồm. 

Chú Bự ngước mắt nhìn hắn vẻ bực bội, sau cười khẩy như tìm được điều thú vị. Được mười phút, lão hoàn tất số liệu rồi nghiên cứu thanh Bộc Phá. Vừa nhìn thấy nó, Chú Bự lập tức hỏi han người chế tạo kiếm, giọng điệu không giấu nổi sự hằn học lẫn trầm trồ thán phục. Sau rốt lão đưa Vô Phong một tờ hợp đồng:

-Dịch vụ sửa chữa lưu động. Cần dùng thì ký tên vào! Ta có nhân viên sửa chữa khắp lục địa. Nếu chú mày hỏng kiếm, chỉ việc gọi một cú điện thoại, bọn này sẽ tới. Cái này thì phải tính phí, nguy hiểm mà! Hơi đắt nhưng hữu ích. Sao? Ký không? Nhanh lên nào! 

Vô Phong liếc qua hợp đồng rồi đặt bút ký, trả xấp tiền mặt trị giá bảy mươi thùng vàng, lại trả thêm mười thùng vàng nữa làm tiền bo. Có tiền tươi, Chú Bự cười khề khà đoạn đẩy cho Vô Phong một chén rượu cùng đồ nhắm:

-Ta ghét bọn phương tây, đặc biệt là Phi Thiên quốc, nhưng ta thích tính chịu chi của người Phi Thiên. Chẳng giống xứ này, rặt một lũ ị ra cứt sắt móc ra cứt tơ! Vì tiền bo, ta sẽ nói chuyện với chú mày một chút. Đang làm việc cho Mi Kha, đúng không? Vậy chú mày đã biết gì về giới đánh thuê chưa? 

-Không nhiều. Tôi từng làm việc cho Bán Dạ Giáo Đoàn, ngoài ra chẳng biết gì hơn. 

Chú Bự gật gù sau giảng giải, nói tới đâu lại lấy ly rượu đặt ra bàn như một dụng cụ minh họa trực quan:

-Như tên gọi, giới đánh thuê tập hợp những kẻ bán sức mạnh kiếm tiền. Ý nghĩa cơ bản là thế, nhưng bản thân nó phức tạp hơn và không có ranh giới nhất định. Nhưng theo kinh nghiệm của dân lão luyện, nó chia thành ba mảng: lũ “công nhân” tức bọn đánh thuê chân chính, bọn “điếm thối” tức lũ mua bán chuyển giao tin tức và vật tư, cuối cùng là bọn “móc cống” tức lũ sát thủ ăn tiền trên đầu người hoặc cướp hợp đồng của người khác. Tất cả tập đoàn đánh thuê đều thuộc tư nhân, trên thế giới có khoảng hai mươi công ty như vậy, mạnh hơn cả là các “giáo đoàn”. Gọi là “giáo đoàn” vì tiền thân các tổ chức đánh thuê trong thời phi cơ giới là thánh đường, nơi tụ họp tôn giáo. Mọi giáo đoàn thời hiện đại có nguồn gốc từ Hắc Vân Giáo Đoàn, tổ chức đánh thuê lớn nhất thời phi cơ giới. Ba đại diện mạnh nhất bây giờ là Bán Dạ Giáo Đoàn, Siêu Sinh Giáo Đoàn và Tam Lâu Giáo Đoàn. Về cơ bản, các giáo đoàn là “công nhân”. 

Lão hói đẩy ba ly rượu về phía Vô Phong tượng trưng cho ba giáo đoàn, xong lấy hai ly khác kéo về phía mình:

-Trong nghề đánh thuê, quan trọng nhất là thông tin và thiết bị vật tư, bởi vậy sinh ra lũ “điếm thối” chuyên lo mấy vụ này. Thứ nhất là Mũi Tên Vèo Vèo, chuyên nghề vận chuyển; bọn này có nguồn gốc từ giáo đoàn, rất gần gũi Bán Dạ Giáo Đoàn. Thứ hai là Tổ Chim, chuyên nghề điều phối tin tức, giám sát, theo dõi, tình báo, nằm vùng, làm trung gian thỏa thuận; chúng là cầu nối giữa giới đánh thuê và người đặt hàng. Hai đám này chuyên nghiệp nhất, giá cả cũng chát nhất! Giờ tới bọn “móc cống”, lũ này tồn tại trong cả giáo đoàn lẫn bọn trung gian. – Lão hói chỉ vào hai đám ly – Chúng sẵn sàng cắt đầu người, miễn có tiền hoặc bán đứng đồng đội. Chúng là bất cứ ai, núp bóng dưới bất cứ danh nghĩa nào và là bọn bẩn thỉu nhất. Lính đánh thuê bán mạng vì tiền nhưng không có nghĩa được hành xử như lũ côn đồ mất dạy. Cái gì cũng phải có luật! Nên hiểu tại sao người ta ghét bọn sát thủ chứ? 

Vô Phong gật đầu. Chú Bự đặt một ly ra chỗ riêng, cách xa cả lão lẫn Vô Phong:

-Nhưng cũng có bọn sát thủ chuyên nghiệp chỉ giết người. Điểm đặc biệt là chúng hành động vì mục tiêu chính trị, không phải tiền. Chúng cao cấp hơn bọn “móc cống”, dân trong nghề gọi là đám “bốc mả”. Vì nhiều lý do, bên Đông Thổ không có công ty đánh thuê, thay vào đó họ lập các nhóm sát thủ nhằm tiêu diệt đối thủ chính trị. Các vụ đánh thuê bên Đông Thổ rất đặc thù, không theo lối thông thường. Bọn “bốc mả” giữ toàn bộ phương đông, chúng ít khi can thiệp xa hơn và cũng ít người can thiệp trên đất của chúng. 

-Vậy tình hình bây giờ thế nào? – Vô Phong hỏi – Ý tôi là tình hình Băng Thổ?!

Lão hói ngửa cổ tu rượu, bọt khí trong nổ lóp bóp ở cổ chai:

-Hỏi trúng đấy! Giờ lục địa khá loạn, các giáo đoàn đánh thuê đang giành nhau từng miếng một. Đã có vụ Tam Lâu và Siêu Sinh cử lực lượng xử nhau giữa chiến trường. Các giáo đoàn va chạm nhau là bình thường, tai nạn không ai mong muốn, nhưng công khai đối đầu như thế thì chưa có tiền lệ. Ngay nội bộ một giáo đoàn, việc nhóm này giẫm chân nhóm kia ngày càng nhiều. Mọi thứ đang loạn xì ngầu! Thế nên hãy chuẩn bị tinh thần, thằng ranh. Chẳng còn “công nhân” hay “điếm thối” như trước, tất cả đều thành chó đói và chúng sẵn sàng chuyển nghề “móc cống” nếu cần. Lời khuyên cho chú mày đây: nếu không phải việc quan trọng thì đừng đụng vào lũ chó đói, chúng cắn đấy!

Dứt lời, Chú Bự đưa biên lai và bảo Vô Phong lấy hàng sau một ngày. Vô Phong cần gấp trong ngày nên bảo lão làm nhanh hơn, đồng thời đưa thêm năm thùng vàng tiền bo. Lão hói cười hỉ hả:

-Thằng này khá! Vậy ta sẽ khuyến mãi thêm tin tức. Mấy ngày nay, bọn đánh thuê kháo nhau có lũ “bốc mả” từ Đông Thổ sang. Nghe nói chúng phục vụ dòng họ Ẩn Lý Thị, một dòng họ lâu đời bên Diệp quốc. Chúng không can thiệp chiến trường hay chen ngang ai, chỉ đi từ vùng này đến vùng khác như đang tìm cái gì đó. Nếu lỡ chạm mặt chúng, hãy tránh xa ra! Lời khuyên chân thành đấy!

-Bọn sát thủ từ Đông Thổ à? – Vô Phong nhíu mày – Sao ông ngại chúng thế? 

Lão hói vạch áo may ô, chỉ vào vết sẹo lõm hoắm giữa bụng:

-Ta từng đánh nhau với bọn “bốc mả”, hậu quả đây! Khi đó bộ ruột của ta xổ ra ngoài, phải hứng trong mũ và chạy về bệnh viện cách đấy hai mươi cây số. Thật may là Nữ Thần Tiên Tri còn thương ta và cho ta xưởng rèn để sống nốt phần đời còn lại. Đừng đùa với bọn Đông Thổ. Chúng là lũ “bốc mả” chuyên nghiệp nhất! 

Nghe lão hói mô tả, Vô Phong lén nuốt nước bọt. Hắn uống hết ly rượu rồi từ biệt ông ta. Vừa bước đến thềm cửa, Chú Bự liền gọi hắn:

-Còn một lời khuyên cuối cùng: đừng tin đứa đánh thuê nào. Ở giới này, bọn đánh thuê không thờ cây mẹ hay Nữ Thần Tiên Tri, chúng thờ tiền. Tin vào mình, đừng tin bất cứ ai kể cả Mi Kha. Hiểu chứ? 

Vô Phong hơi khựng lại, tâm trí chợt nghĩ tới Si Giáng, tựa thể bản năng tự vệ đang mách bảo điều gì đó. Ngẫm nghĩ hồi lâu, hắn rời tiệm Lò Heo Quay đoạn bước vào bóng tối Băng Hóa thành. Đã năm giờ nhưng trời chưa sáng. Vả lại ở xứ tuyết, người ta ít khi nhìn thấy mặt trời. Ai đó nghi ngờ rằng trong những năm tháng này sẽ chẳng còn mặt trời trên lục địa Băng Thổ nữa.

Vô Phong đến Băng Hóa thành một năm trước, năm 7517, chi tiết xem lại Quyển 3 Chương 68
 
Quyển 5 - Chương 6: Cùng đường


Trong từ điển hành động của Vô Phong không tồn tại hai chữ “khiêu vũ”. Hắn chẳng hiểu tại sao xã hội loài người cần khiêu vũ. Lịch sử Tâm Mộng đi lên từ máu và sắt thép, vậy mà con người lại phát minh ra thứ hoạt động nắm tay nhau rồi nhún nhảy theo những âm thanh réo rắt. Kỳ quặc thay, giữa lúc nhảy múa họ cười đùa vô tư đến lạ, trái hẳn cảnh gào thét rồi vung kiếm vào mặt nhau trên chiến trường. 

Những ý niệm đầu tiên về thế giới của Vô Phong bắt đầu từ miền biên ngoại của Phi Thiên quốc. Nơi ấy có dãy núi cao ngất lởm chởm như lưng cá sấu chắn một vòng từ đông bắc sang tây bắc, bên dưới là các khu rừng đá đầy thạch trụ chăng kín dây leo và cao như cổ thụ, xa xa hướng tây nam có nhiều vùng đất hoang nhiễm độc phép thuật còn sót lại từ thời phi cơ giới. Xen giữa xứ hiểm trở này có một con sông vô danh, chảy từ hướng đông nam Phi Thiên quốc lên tây bắc, sang lãnh thổ của nước láng giềng Lưu Vân quốc. Người ta nói vì vùng đất này mà hai quốc gia mãi mãi khác nhau, luôn luôn bất tương đồng. Nơi ấy luôn xảy ra hàng trăm cuộc chiến giữa hai nước, khủng khiếp nhất là trên con sông vô danh mà sau này được biết với cái tên “Trận Sông Đỏ”. Vô Phong đã nhìn thấy con sông đó, thấy nước réo ngày đêm không yên nghỉ và vô số linh hồn gào thét lẫn trong bọt sóng. Họ không về Tụ Hồn Hải mà ở lại đây, trở thành tấm gương phản chiếu thế giới này. Tên tóc đỏ cũng chắc rằng những linh hồn đó chẳng biết khiêu vũ. 

“Tại sao phải khiêu vũ à? Vì nó cần thiết lắm! Sao anh hỏi kỳ cục vậy?”



Giọng nói trong trẻo cất lên trám vào cái nỗi khó hiểu của tên tóc đỏ. Hắn ngẩng đầu, thấy người vừa nói là cô gái tóc màu hạt dẻ. Nàng lại đến với gương mặt tươi cười cùng đôi mắt xanh lơ mùa hạ. Êm đềm và bình yên. Nàng đến như một lẽ tự nhiên và Vô Phong thấy vui vì nàng ở bên cạnh mình. Thậm chí hắn không thắc mắc tại sao mình có mặt ở đây. 

“Cái gì mà nâng cao tâm hồn, nâng cao cảm quan nghệ thuật như em từng nói?” – Vô Phong thở dài – “Nhưng nó không đúng với tôi. Tôi chưa bao giờ hiểu tranh hay tượng điêu khắc của em. Em nói rằng một ngày nào đấy tôi sẽ nhìn thấy những gam màu của thế giới mà trước đây chưa từng biết. Nhưng không đâu. Tôi chỉ thấy màu đỏ. Trong mắt tôi, tất cả màu sắc đứng yên tại chỗ, chỉ riêng màu đỏ chuyển động. Chỉ nó rực rỡ hơn cả! Có lẽ… khiêu vũ chẳng tác dụng với tôi.”

Cô gái tóc hạt dẻ vén mớ tóc đỏ phủ trán Vô Phong:

“Biết sao không? Vì anh để tóc dài quá!” – Cô gái cười khanh khách – “Cắt tóc bớt đi, anh mới nhìn mọi thứ rõ ràng hơn!”

Vô Phong bật cười. Cô gái đung đưa người trong ngẫm ngợi, đôi mắt xanh lơ ngước lên tìm những suy tưởng giữa các bức họa bao phủ trần nhà. Ở nơi cô và Vô Phong trò chuyện, tác phẩm nghệ thuật nối tiếp nhau dựng nên sàn, cột trụ, mái đỡ, cầu thang; chúng bao quanh hai người, rót xuống những hình khối lập thể lạ mắt lẫn gam màu sặc sỡ. Im lặng mãi, im lặng mãi, cô gái tóc hạt dẻ chợt cất lời:

“Đôi khi chẳng cần phức tạp đâu, Phong à. Anh biết khiêu vũ ở Tâm Mộng sinh ra thế nào không? Ban đầu họ nhảy quanh đống lửa nhằm xua đuổi thú hoang, rồi chống chọi mùa đông giá rét, hoặc cảm thấy mình ồn ào giữa bóng tối vây quanh. Bởi vì họ sợ, Phong à. Cái nỗi sợ mơ hồ khi lần đầu nhận thức thế giới, nhận ra vũ trụ xung quanh quá rộng lớn trong khi họ chỉ có một mình. Nhờ khiêu vũ, người ta nắm tay nhau và bớt sợ hãi. Cuộc sống này, bất kể người giàu có hay nghèo khổ đều có nỗi sợ hãi riêng. Em nghĩ rằng người ta tìm đến khiêu vũ hay các môn nghệ thuật vì không muốn lọt thỏm trong sợ hãi của thời gian. Suy cho cùng, thời gian chỉ là nơi con người sinh tồn, tưởng tượng mới là nơi họ sống…” 



“Lại trích dẫn cuốn sách nào thế?” – Vô Phong nhíu mày.

Cô gái tóc hạt dẻ cười:

“Em tự nghĩ ra đấy! Nhưng chẳng phải lúc khiêu vũ, mọi người ai cũng vui vẻ, ai cũng cười hay sao?”



“Cũng đúng, nhưng mà…”



“Đừng phức tạp hóa, Phong à, chỉ cần thế thôi!” – Cô gái cười tươi đoạn nắm tay tên tóc đỏ – “Anh không cần trách mình bị sợ hãi chi phối. Nỗi sợ chẳng bao giờ biến mất, nó luôn xuất hiện. Niềm vui cũng chẳng bao giờ hết, chỉ là chúng ta phải tự đi tìm. Cuối tháng này, học viện tổ chức dạ hội, anh nhớ đến đấy!”

Vô Phong lắc đầu nhưng cô gái níu tay hắn nài nỉ mãi. Sau cùng hắn chịu thua và đồng ý tham gia dạ hội. Nó không có nghĩa rằng Vô Phong thích khiêu vũ hay buổi dạ hội mà ngược lại. Nhưng vì cô gái, hắn đồng ý. Nếu điều khiến hắn khó chịu có thể làm nàng vui vẻ, hắn sẽ làm. Một quyết định nặng cảm tính. Hắn biết cảm giác này. Khi còn ở trong quan tài thủy tinh, hắn đã nghe ông già Hỏa Phu kể về nó – một thứ khó giải thích nhất thế giới nhưng luôn hiện hữu.

Mớ hỗn độn gồm khối ảnh lập thể lẫn màu sắc bỗng chốc biến đổi. Chúng trộn lẫn nhau dựng nên một khung cảnh mới đầy tiếng người cười nói, những mảng sáng chập chờn nồng mùi nến, đó đây mùi nước hoa xức hơi quá đà, âm nhạc chốc chốc cất lên như nhắc khéo người ta chớ quên rằng đang có dạ hội. Tất cả tụ họp trong một đại sảnh kiểu xưa cũ với hai dãy cửa sổ phản chiếu trung tâm sảnh, nơi nhạc công và các đôi nam nữ trẻ tuổi đang dốc lòng ca ngợi vị thần nhảy múa. Nơi này không có đồng hồ hay bất cứ dụng cụ ước lượng thời gian nào. Vô Phong đứng ngoài, tuyệt nhiên không định tham gia cuộc vui dù bản thân hắn đang vận một bộ dạ quang phục. Hắn nhìn tất cả bằng ánh mắt dò xét, đôi chân càng lúc càng rời xa trung tâm sảnh. Bỗng từ đám đông, cô gái tóc hạt dẻ chuồi ra nắm tay hắn:

“Đừng đi, Phong! Ở lại đây, anh hứa với em rồi! Chúng ta cùng khiêu vũ! Ra đây nào! Anh hứa rồi, giờ muốn chạy sao? Ôi, Phong… anh làm thế mà cũng làm được ư? Anh làm thế mà cũng hít thở được à? Anh thất hứa mà trái tim anh vẫn tuần hoàn được à? Nếu anh cảm thấy làm như vậy mà vui thì cứ làm đi, em sẽ không buồn đâu, em sẽ không trách cứ gì cả, rồi một ngày nào đấy…”



Vô Phong chắp tay chịu thua đoạn bước vào trung tâm sảnh. Tại đó, dưới ánh nến vàng kim, cô gái tóc hạt dẻ hiện lên trong bộ váy kẻ ca rô đen đỏ, áo chẽn hở bụng, hông đeo những chiếc mặt nạ tô vẽ đủ sắc thái biểu cảm. Nàng nắm tay Vô Phong kéo sang một bên, tay kia tự do, vắt chéo hai chân rồi nói:

“Không phải điệu nhảy đối xứng ở lễ hành hương đâu! Biết gì không, Phong? Nó là điệu sa ngã thần của Sa Thần quốc, di sản từ thời Năm Đế Chế Cổ Đại. Người ta kể rằng có một vị nữ thần rơi xuống thế giới với đôi cánh tơi tả và thân thể cháy sém, không ai biết vị nữ thần đến từ đâu, chỉ biết kể từ đó, vị nữ thần truyền thụ giáo điều Vạn Thế cho con người. Trong Ngày Nguyện, khi tất cả con người hướng về Vạn Thế thì vị nữ thần ấy dang đôi cánh nhảy theo những vũ điệu chưa ai thấy bao giờ. Người ta bảo rằng bà ấy nhảy múa mong Vạn Thế xót thương và cho phép quay lại đất thánh, nhưng ước nguyện không bao giờ thành hiện thực. Vị nữ thần đó là thánh sứ đầu tiên của thế giới, các thánh sứ sau này chỉ là con người, không phải thần. Điệu múa được truyền lại, gọi là “sa ngã thần”. Giờ không còn mấy người biết về nó nữa…”



“Tại sao em kể mấy thứ này?” – Vô Phong hỏi.

“Vì ngay cả thần linh cũng có nỗi sợ hãi, huống chi con người?! Nếu sợ hãi đến, cứ để nó đến, Phong à, giữ chúng trong lòng rồi về đây, chúng ta cùng khiêu vũ và chôn vùi chúng dưới bước nhảy, được chứ?”



Nói rồi cô gái kiễng chân hôn má Vô Phong. Trên mũi chân kiễng đó, nàng bắt đầu xoay vòng, chiếc váy ca rô đen đỏ xòe rộng tựa hoa nở, bàn tay thoăn thoắt thay đổi mặt nạ diễn tả biểu cảm của vị nữ thần vô danh năm xưa mong quay lại đất thánh. Thời gian lẫn khung cảnh tòa sảnh xoắn đặc rồi chìm dưới điệu nhảy sa ngã thần, chỉ chừa lại một khoảng không bất tận cho cô gái tóc hạt dẻ trình diễn. Cách nàng vài bước chân, Vô Phong chôn chân ngơ ngẩn ngắm nhìn. Điệu múa uyển chuyển thanh thoát nhưng âm thầm gợn từng đợt thủy triều vô hình, rồi từ khoảng không bất tận chúng bất thình lình xô ào ạt, cuốn phăng những sợ hãi bên trong tên tóc đỏ. Như có lực đẩy từ phía sau, gã trai tiến đến trong hồi hộp lẫn e dè song cũng đầy quả quyết. Bởi kia là cái cọc, cái neo, cái phao giúp hắn đứng vững khi sợ hãi trào ra khỏi cơ thể tựa thác lũ và một biển cảm xúc mới lạ đồng thời ập đến. Miệng hắn vô thức cất lời:

“Tôi cần em, Tô Mãn…”



*

* *

Vô Phong mở mắt. Như mọi lần, giấc mơ luôn kết thúc ở đoạn lưng chừng, để lại nhiều câu hỏi và tất nhiên chẳng kèm lời giải đáp. Hắn không thể đòi hỏi gì hơn. Ít nhất là giấc mơ để hắn an bình tỉnh ngủ chứ không nã những phát súng ác mộng vào đầu. Vô Phong uể oải bóp trán như cố cào ra mảnh vụn rơi rớt từ cơn mộng mị. Hắn đã gọi tên cô gái tóc hạt dẻ, dường như thế, nhưng lại không thể nhớ chính xác. Tô Ma, Tô Mỹ, Tô Mạn, Tô Đán… hắn lẩm nhẩm suốt mà chẳng cái tên nào gợi lên ấn tượng. Hắn cũng cảm giác nghe cái tên ở đâu đó song không thể xác định là trong mơ hay ngoài đời thực. Hai năm qua xảy ra quá nhiều chuyện, tâm trí hắn thường xuyên trục trặc. 

Vô Phong vừa thức giấc trong một khách sạn nhỏ cách không xa con đường buôn bán vũ khí. Trở về từ tiệm rèn Lò Heo Quay, hắn lăn ra ngủ, bỏ hết cả bữa sáng bữa trưa. Hiện là năm giờ chiều. Hắn không thấy Si Giáng nhưng biết cô ả đang trong phòng tắm nhờ tiếng nước chảy lẫn mùi dầu tắm nức mũi, có cả tiếng hát ngâm nga. Cái giống thiếu nữ luôn thích tắm thích hát. Nhân lúc cô nàng mải làm đẹp, Vô Phong tranh thủ tập luyện. Nửa ngày đi tàu rồi nửa ngày ngủ li bì, một chút vận động cộng thêm dinh dưỡng bỏ bụng là cần thiết cho hắn. Vô Phong bật máy chiếu rồi bắt đầu các bài chống đẩy, gập bụng, dãn cơ. Lúc này, giữa làn sáng xanh máy chiếu, một nữ phát thanh viên người Băng Hóa đang phỏng vấn khách mời:

“Là người hoạt động lâu năm ở Băng Thổ cả trong chiến đấu và chính trị, ngài nhận định tình hình hiện nay thế nào, thưa ngài Tòa Mỗ? Liệu có giải pháp nào để hàn gắn rạn nứt trong Liên Minh Phương Bắc?”

“Cô hỏi đúng người đấy, cô gái!” – Vị khách mời nở nụ cười, giọng kẻ cả – “Thực tình là mấy tháng nay, tôi phát ngấy khi phải nghe mấy tay chính trị gia phương tây, đám thiếu hiểu biết phương nam và đặc biệt, tôi xin nhấn mạnh, đặc biệt là lũ trí thức nửa mùa phương bắc chúng ta. Đám trí thức nửa mùa ấy luôn phóng đại những mâu thuẫn, ca ngợi cái mà họ gọi là quyền tự do hay quyền tự quyết, ủng hộ sự độc lập của tiểu quốc hoặc bộ tộc thiểu số. Họ luôn nói Băng Hóa kiểm soát ngôn luận, thao túng Băng Thổ, chiếm hữu mỏ quang tố bất hợp pháp, làm tha hóa, tham nhũng hóa các hoàng gia và chính phủ. Đủ mọi thứ! Họ xuyên tạc, gán mọi tội trạng cho Băng Hóa quốc, nhưng họ không bao giờ nhìn cách Phi Thiên quốc đối xử với đồng minh, cách Bắc Thần quốc bành trướng ở phương đông. Một lời cho dân chúng lục địa: đừng tin lũ trí thức nửa mùa!”

Bằng cái giọng kẻ cả khinh khi, vị khách mời Tòa Mỗ đay nghiến đám người mà ông ta ghét cay ghét đắng. Ổng nói hăng nói mạnh, thành ra chọc vào tai khán thính giả như Vô Phong. Ngay cả nữ biên tập viên cũng nhận ra Tòa Mỗ đang quá đà, bèn sửa lại:

“Vâng thưa ông, nhưng chúng ta đang bàn về giải pháp. Đang có những cuộc chiến và mọi người muốn biết có thể đàm phán không? Liệu Liên Minh còn vững vàng? Việc khai thác mỏ quang tố ở Tuyệt Tưởng Thành có giúp phương bắc giải quyết các vấn đề hiện tại?”

“Tôi đang nói giải pháp, thưa cô.” – Tòa Mỗ quả quyết – “Hoàng đế và chính phủ Băng Hóa đang làm tốt. Một liên minh bao giờ cũng tồn tại mâu thuẫn, huống hồ Liên Minh Phương Bắc tồn tại cả trăm năm? Nhưng nó sẽ vượt qua khó khăn thách thức và sẽ lại đứng vững. Việc khai thác quang tố rất tốt, đó là phần thưởng xứng đáng cho Băng Hóa khi là nước đầu tiên trợ giúp Tuyệt Tưởng Thành; nó hợp pháp, đúng đắn chứ không phải mưu đồ chính trị như một số kẻ rêu rao. Tôi cho rằng chính bọn trí thức nửa mùa mới là vấn đề. Họ phóng đại mọi mâu thuẫn, kích động thù hằn chia rẽ, mà chuyện ở Hắc Thủy quốc là tiêu biểu. Bọn vô ơn đó đã quên rằng nhờ Biệt Liên Đại Đế, cả lục địa này mới có ngày hôm nay; họ cũng quên luôn máu người Băng Hóa đổ xuống bao nhiêu lần để chống lại phiến quân, khủng bố hay lũ xâm lược phương tây. Kẻ vô ơn không có quyền nói chuyện chính trị! Tôi cho rằng Băng Hóa nên kiểm soát ngôn luận, răn đe bất cứ tay xảo ngôn nào có ý định chống phá chính phủ. Và tôi khuyên người dân chớ nghe mấy lời xúi giục kích động từ lũ trí thức nửa mùa đó! Phương bắc cần chiến binh, không phải một lũ ngồi nhà nói mồm chỉ tay năm ngón…”

Màn phỏng vấn nóng lên dưới sự thao thao bất tuyệt của vị khách mời. Dưới sàn nhà, Vô Phong cũng đang nóng người, mồ hôi túa khắp lưng. Đương tập luyện, hắn chợt thấy Si Giáng bước ra, cả người quấn độc chiếc khăn nồng hơi ẩm lẫn mùi sữa tắm. Cô nàng nhìn lên máy chiếu ba chiều, mặt mũi nhăn nhúm như ngửi phải mùi thối đoạn hỏi Vô Phong:

-Anh hâm mộ lão già đó à? 

Thấy cô nàng chỉ tay vào vị khách mời, Vô Phong lắc đầu:

-Không, tôi chỉ nghe tin tức. Mà ông ta là ai thế? 

-Anh không biết sao? – Si Giáng ngạc nhiên – Lão già là Tòa Mỗ, thành viên Thập Kiếm, người Băng Hóa quốc. Ở đây, chúng tôi gọi lão là “kiếm sĩ giải trí”. Vì chương trình truyền hình nào, sự kiện nào lão cũng tham gia và tỏ ra mình quan trọng. Tòa Mỗ là kẻ thân chính phủ, sẵn sàng thóa mạ bất cứ người nào phản đối chính phủ. Một con chó săn của nhà nước Băng Hóa. 

-Cô ghét ông ta?

-Căm thù thì đúng hơn! – Si Giáng nói – Cha mẹ tôi thuộc tộc người thiểu số sống ở miền tây bắc Băng Hóa. Chỗ chúng tôi có một mỏ quang tố, Tòa Mỗ dẫn quân đội tới, dùng vũ lực đàn áp và ép chúng tôi sống tha hương. Giờ dân tộc tôi chẳng còn mấy người nữa. Giờ nhìn kẻ ăn cướp đó giễu qua giễu lại trên truyền hình, tôi phát buồn nôn!

Vô Phong gật gù rồi im lặng. Hắn không sống ở đây cũng chẳng phải dân phương bắc nên khó bình luận. Nhưng trong những ngày chạy trốn, hắn đã thấy một Băng Thổ hỗn loạn và đầy rẫy chiến tranh, trái ngược hoàn toàn sự ổn định mà Tòa Mỗ vẽ ra trên truyền hình. Vả lại sẵn tâm thế bị phản bội, hắn thực sự đồng cảm với Si Giáng. 

Bầu trời bên ngoài dần sậm xịt, gió tuyết và bóng tối rục rịch quay lại Băng Hóa thành. Vô Phong cần kiếm cái gì đó lấp dạ dày trước khi tìm gặp vị học giả Đa Vu Lạt, nhưng Si Giáng gạt đi:

-Anh quên đây là Băng Thổ lục địa à? Chúng ta là khách, ông học giả đó phải đãi, tội gì chứ?

Cô ả nở nụ cười ranh mãnh. Vô Phong gật đầu đồng ý. Về điểm này, cả hai nhất trí với nhau rằng được tiếp đãi hoặc ăn chực bao giờ cũng ngon hơn. Mà ở xứ Băng Thổ, những đồ ăn ngon nhất lại nằm trong dinh thự quý tộc chứ không phải nhà hàng. 

Sáu giờ tối, hai người rời khách sạn, sau đấy đến phía nam thành phố bằng tàu điện. Sau mười phút, họ xuống tàu, tiếp tục đi bộ và dừng chân trước một đại lộ trải dài hơn ba cây số. Bên phải đại lộ có con sông chảy từ hướng tây nam trở lên, chưa tới mùa xuân nên mặt sông còn nhiều băng trôi, tuyết phủ trắng hai bờ kè đổ nghiêng. Song song với con sông, một đoạn tường thành cao hơn hai mét chạy dọc theo đại lộ được phủ lớp sơn đỏ cùng những lỗ châu mai hình chữ thập viền vàng. Bên trong tường thành, hàng chục tòa tháp chóp nhọn san sát nhau và khoác trên mình những màu đỏ cam, đỏ nâu, da cam, vàng đậm hoặc vàng trắng. Lớn nhất trong số ấy là một ngọn tháp đồng hồ sơn màu vàng kim, nếu gặp thời tiết đẹp, đứng từ cao điểm ngoài rìa thành phố vẫn có thể nhìn rõ mặt đồng hồ. Còn cao nhất là tháp chuông thánh đường màu đỏ ối, trên nóc tạc tượng Nữ Thần Tiên Tri tỏa ánh hào quang bằng phép thuật; với dân chúng Băng Hóa thành, ngọn tháp chuông là mặt trăng thứ tư vào ban đêm và là mặt trời thứ hai vào ban ngày. Dưới các ngọn tháp, những tòa điện chia nhau từng khoảnh riêng rẽ, hắt xuống đại lộ ánh đèn pha lê vàng đậm qua dãy cửa sổ lợp kính mạ bạc. Cả khu kiến trúc rực rỡ sắc màu, đối lập hoàn toàn màu trắng lạnh toát dưới sông. Đứng trên đại lộ, Vô Phong cảm giác mình đang ở giữa hai khối băng và lửa khổng lồ. 

-Bên này là Sông Mùa Đông, còn kia là Điện Mùa Hè. – Si Giáng giới thiệu – Tôi chưa vào Điện Mùa Hè bao giờ, nghe nói đẹp lắm! Có nên bảo ông học giả dẫn chúng ta tham quan một chuyến không nhỉ? 

Đôi mắt cô gái trẻ lấp lánh mơ mộng. Vô Phong thấy vụ này hơi quá nên không đồng tình. Điện Mùa Hè trước đây thuộc quyền sở hữu hoàng gia, sau này được hoàng đế Băng Hóa hiến tặng cho chính phủ. Vị học giả mà Vô Phong cần gặp đang ở đâu đó trong những tòa kiến trúc tráng lệ kia. Ông ta – theo lời Mi Kha – là người rất có tiếng tăm và quen biết rộng. Không dễ bắt thân hoặc kết giao với một người như thế ở thủ đô Băng Hóa. 

Bọn Vô Phong chờ khoảng mươi mười phút thì tháp chuông ngân vang. Đứng từ đây, Vô Phong có thể thấy nhiều bóng người đang rời khỏi Điện Mùa Hè. Lát sau, nhiều chiếc xe ngựa kéo bằng dã yến xuất hiện và lăn bánh trên đại lộ. Trên mỗi xe đều có gia huy lẫn cờ hiệu riêng. Thời gian đổi thay nhưng cái lề thói rườm rà phô trương của quý tộc Băng Thổ chẳng bao giờ thay đổi. Đương mải ngắm nghía, Vô Phong chợt thấy một chiếc xe ngựa hướng tới mình, trên cổ dã yến đeo tấm vải xanh biếc in gia huy hình kính viễn vọng. Thấy hắn cùng Si Giáng, người đánh xe hỏi “Họ Cát Giá phải không?”. Đoán là mật khẩu, Vô Phong trả lời “Phải!”. Người đánh xe gật đầu đoạn mở cửa cho họ. 

Bước lên xe, bọn Vô Phong nhận ra có một người đàn ông đã chờ sẵn. Ông ta trung tuổi, béo tốt, hai má phinh phính hồng hào, áo khoác dày sụ không thể che đi cái bụng nần nẫn những mỡ những thịt. Đợi bọn Vô Phong yên vị, ông ta chìa tay, miệng cười tươi:

-Chào, xin chào! Hai người là bạn của Mi Kha? Hân hạnh, hân hạnh! Xin tự giới thiệu, tôi là Đa Vu Lạt, trưởng ban Nghiên Cứu Vấn Đề Đặc Biệt của chính phủ. Hai người cứ gọi tôi là Đa Lạt, tôi không phiền đâu! Hai người ăn tối chưa? Chưa hả? Vậy xin mời về nhà tôi, giờ này vợ tôi đang làm bữa tối! Cô ấy nấu ăn tuyệt lắm! Xin lỗi, gần đây nhiều chuyện quá, mọi thứ rối tung hết cả, ngày nào cũng phải tối mịt mới xong việc!

Dứt lời, vị học giả lôi đồ uống dưới ghế ngồi cho hai người. Vô Phong không ngần ngại lấy một cốc súc-cù-là nóng rồi hớp mấy ngụm cho ấm người. Hắn lên tiếng:

-Xin lỗi, tôi hơi tò mò, nhưng cụ thể là ngài làm việc gì? 

-Như tên gọi thôi! – Vị học giả cười – Tôi nghiên cứu những vấn đề đặc biệt từ ngoại giao, kinh tế, quan hệ xã hội, chính trị… vấn đề đặc biệt ở đâu, tôi ở đó. Thế giới Tâm Mộng tồn tại lắm điều kỳ lạ, bởi vậy nhiều thứ không thể xử lý theo cách thông thường, tôi và ủy ban giải quyết mấy chuyện như thế. Hơi phức tạp, nhưng cứ về nhà tôi, chúng ta bàn bạc rồi cậu sẽ hiểu. 

Vô Phong biết ý và không hỏi thêm. Cô nàng Si Giáng tò mò moi móc mấy vấn đề riêng tư nhưng Đa Lạt tươi cười trả lời hết. Ông ta không hề khó chịu chỏng lỏn như mấy gã béo điển hình trong những câu chuyện mà người đời thường kể. Qua lời vị học giả, Vô Phong được biết ông ta xuất thân từ dòng họ Đa Vu, một dòng họ quý tộc nhỏ ít tiếng tăm đi lên từ nghề buôn. Thuở xưa, họ Đa Vu được họ Cát Giá bảo trợ, hai bên trao đổi nhiều nên có quan hệ tốt. Khi họ Cát Giá đi xuống, Đa Lạt cùng cha mình vẫn giúp đỡ gia đình Mi Kha khi cần thiết. Từ đấy, Mi Kha chịu ơn họ Đa Vu. 

Đi hết đại lộ, chiếc xe ngựa ngoặt trái rẽ vào một con đường nhỏ hơn nằm ngay cạnh cung điện. Đường này không có cửa hiệu hay bất cứ công trình hiện đại nào, chỉ có dãy cột đèn tỏa ánh sáng bàng bạc chạy dọc vỉa hè. Phía sau mỗi cột đèn và chếch về bên phải là cổng sắt dẫn vào khuôn viên biệt thự. Cứ đi khoảng năm biệt thự lại có một con phố nhỏ dẫn vào sâu hơn, tất cả được thắp sáng nhờ cột đèn bạc. Theo lời Đa Lạt, khu này bao gồm bảy chục khoảnh đất chia cho hai trăm năm mươi sáu(256) gia đình quý tộc. Tùy xuất thân, gia cảnh hoặc tiềm lực tài chính mà các biệt thự to nhỏ khác nhau. Lớn nhất là dinh thự của họ Xuy Hạ nằm phía cuối đường. Trên giấy tờ hành chính, nơi đây gọi là Quận Số 2, nhưng hầu hết dân chúng thủ đô và người Băng Hóa gọi bằng cái tên “Quận Bạc”. 

Thêm ít phút di chuyển, chiếc xe ngựa dừng lại trước một biệt thự nhỏ, vừa hợp tầm vóc dòng họ Đa Vu vừa hợp tính cách vị chủ nhân thích ở bên gia đình sau một ngày làm việc. Đa Lạt bước xuống xe, thân hình quá khổ lặc lè những bước hứng khởi, ông ta không ngừng thao thao bất tuyệt về những món ăn do vợ mình chế biến. Nhìn vị học giả, Vô Phong đoán bà vợ ông ta cũng to béo tương đương; hai người họ mà sánh bước thì chẳng khác đôi gấu nâu núng nính, ngộ nghĩnh và hạnh phúc. 

-Hai người là khách, hãy ăn uống và nghỉ ngơi bất cứ lúc nào. – Đa Lạt nói – Vợ tôi sẽ… à, cô ấy kia rồi!

Ông học giả reo lên, bọn Vô Phong nhìn theo và bỗng chốc ngỡ ngàng. Trên bậc cửa, một người phụ nữ đang chờ sẵn Đa Lạt. Vài nếp nhăn chân mắt, vài đường gân xanh ở mu bàn tay, vài tơ tóc rối vì bận bịu việc nhà – hết thảy dấu hiệu trung tuổi đều xuất hiện ở người đàn bà này, nhưng chừng đó chẳng thể che đi sắc đẹp mà bà ta sở hữu: đầy đặn, nảy nở, xinh đẹp như nữ thần cùng một đôi mắt biết chiều chuộng. Người phụ nữ hoàn hảo trong mơ của đàn ông trông thế nào, bà vợ Đa Lạt y như vậy. Ngó sang Si Giáng, Vô Phong thấy cô nàng bất giác sờ nắn thân thể mình như đang tự ti trong vô thức. Hắn dám cá Hỏa Nghi mà ở đây, gã sẽ vứt hết lòng tự trọng mà vùi mặt vào bờ mông người phụ nữ kia tới độ tắc thở. Nhưng điểm đặc biệt nhất là mái tóc vàng mềm mại, từng sợi nhỏ xíu mảnh dẻ tựa tơ tằm. Liệt kê tất cả những cô gái quen biết hoặc từng bắt gặp, Vô Phong chẳng moi ra ai có mái tóc vàng đẹp nhường ấy. 

Trong lúc bọn Vô Phong ngẩn ngơ, bà vợ Đa Lạt vui cười ôm chầm người chồng, cử chỉ ân cần từ cái vuốt tóc tới phủi tuyết trên vai. Sau đó bà ta tiến đến bắt tay Vô Phong và Si Giáng:

-Xin chào mọi người! Thật hân hạnh quá! Vậy cả hai đều là bạn của Mi Kha? Thế thì hai người có thể gọi tôi là “bà Đa Lạt”, nhưng nếu không quen thì có thể gọi thẳng tên thật. Tên tôi là Na Li Nã. Bữa tối đã sẵn sàng, xin mời, xin mời! 

Theo chân vợ chồng vị học giả, bọn Vô Phong tiến vào phòng khách tòa biệt thự. Tại đó, họ nhận ra mình không phải là khách mời duy nhất. Một người khác cũng đang chờ Đa Lạt trở về. Anh ta trẻ tuổi, áo khoác xanh đen, tóc bóng mượt hất ngược, ánh mắt chăm chú theo dõi tin tức trên máy chiếu ba chiều. Nhận ra vị học giả trở về, người thanh niên nọ mừng rỡ ôm lấy ông ta rồi hỏi han thịnh tình. Đa Lạt cười nói một lúc đoạn quay ra giới thiệu người thanh niên cho bọn Vô Phong:

-Đây là Giả Chung, một người bạn phương xa. Lâu lắm cậu ấy mới ghé qua đây, mọi người cùng dùng bữa nhé?!

Trông gã thanh niên, Vô Phong có cảm giác kỳ quặc. Ngược lại, anh chàng tóc bóng mượt cũng nhíu mày nhìn Vô Phong, ánh mắt đầy tia nghi hoặc. Vài giây qua đi, Giả Chung chợt lên tiếng:

-Dân Tầng 9 lắm tiền nhiều của, ho ra bạc khạc ra tiền, chẳng cần ăn trộm ăn cướp[1]. 

Vô Phong đờ mặt. Đã từ lâu lắm hắn mới nghe lại mật khẩu qua cửa dưới Tầng 9 Chợ Rác. Cái vẻ ngạc nhiên của Vô Phong xác nhận rằng cả hắn lẫn Giả Chung đều biết về một thứ. Thấy thế, Đa Lạt bèn kéo bà vợ cùng Si Giáng tới phòng ăn và để mặc hai gã đàn ông. Giả Chung nhìn ngó một hồi, sau mỉm cười:

-Không ngờ là gặp cậu ở đây, Vô Phong. Nhuộm tóc rồi hả? Trốn khéo đấy! Chính phủ Phi Thiên đang lùng cậu dữ lắm. Không cần cảnh giác vậy, tôi không muốn đánh nhau, nhất là nhà của ông Đa Lạt. Đúng là tôi đang tìm cậu nhưng chỉ để nói chuyện. Hãy dành vài phút, được chứ? Đừng để ông Đa Lạt chờ đợi. Ông ấy sẽ không ăn nếu chúng ta chưa vào. 

Nghe anh ta nói xong, Vô Phong mới thở phào, tay phải buông cán kiếm giấu trong túi áo. Cả hai ngồi vào bàn tiếp khách. Đợi người phục vụ mang trà xong xuôi, Giả Chung tiếp tục:

-Nếu cậu chưa biết thì xin tự giới thiệu, tôi là Giả Chung, thư ký của thiên tử Uất Hận Thành. Tôi tìm cậu để nói về ba việc. Thứ nhất…

-Thư ký à? Anh đến từ khu Hạ Tầng? – Vô Phong ngắt lời – Tôi là dân Thượng Tầng nên chẳng biết gì dưới đó cả! Chợ Rác vẫn thế chứ? Thày Dạy Học còn ở đó không? 

Giả Chung bật cười. Anh ta nhấp ngụm trà thiết mộc rồi nở nụ cười:

-Hiếm người thoát khỏi Chợ Rác hỏi về nó, anh bạn kỳ lạ đấy! Phải, tôi đến từ Hạ Tầng. Về chuyện Thày Dạy Học, tôi không nghe tin gì về ông ấy nữa. Có vẻ ông ấy đã bỏ đi. Chợ Rác vẫn thế, trừ một thay đổi nhỏ: quốc hội Phi Thiên đang bàn xem có nên công nhận Chợ Rác là một quận hay không? Nếu vụ này được thông qua, Chợ Rác sẽ có một ghế ở hội đồng dân biểu. Nhờ ơn Vạn Thế, bọn người mặt đất cuối cùng cũng phải nhìn ngó dân chui hầm chúng ta. Nhưng thôi, hãy để niềm vui ấy vào bữa ăn, tôi và anh sẽ nâng ly chúc mừng sau. 

-Ông Đa Lạt biết con người thật của anh chứ? – Vô Phong nhíu mày.

-Ông ấy biết tất cả. – Giả Chung đáp lời – Anh, tôi, cô nàng tóc hồng kia… ông ấy biết hết nhưng tôn trọng quyền cá nhân mỗi người. Thấy cách ông ấy để chúng ta một mình không? Ở Băng Hóa này, ông ấy là người điều phối. Mọi chuyện trên trời dưới biển, Đa Lạt đều nắm rõ. Còn căn nhà này là nơi ký kết nhiều thứ quan trọng nhất, cả thế giới ánh sáng lẫn thế giới ngầm đều tới đây. Tất cả đều tôn trọng Đa Lạt, cho nên chỗ này không đánh nhau được. Sơ sơ là thế. Vậy chúng ta vào việc chính được chưa?

Vô Phong nhún vai tỏ ý sẵn sàng. Giả Chung liền lôi ra một quyển sổ đặt trên bàn, tấm bìa da đề dòng chữ in chìm “Thập Kiếm”. Giả Chung mở cuốn sổ, tay lật những trang giấy ố vàng chỗ rách chỗ cháy, miệng hỏi:

-Việc thứ nhất, tôi đến hỏi cậu về chuyện Thập Kiếm. Hội đồng Chợ Rác đã chọn ra ba ứng cử viên gồm cậu, Chiến Tử và Quạ Đen. Chắc cậu đã nghe mấy lời đồn cách thức gia nhập cũng như quyền lợi khi tham gia Thập Kiếm, hoặc tham khảo mạng máy tính? Chúng đều đúng cả đấy! Vậy nên tôi không nhắc lại nữa. Cậu muốn gia nhập Thập Kiếm không? Xét về mặt kỹ thuật, Chiến Tử xứng đáng hơn. Nhưng ý hội đồng muốn cậu gia nhập hơn, bởi lẽ cơ cấu Thập Kiếm đang mất cân bằng, quá nhiều người ngoan đạo mà quá ít kẻ ngổ ngáo[2]. 

Chưa cần suy nghĩ nửa giây, Vô Phong lắc đầu:

-Không, tôi từ chối. 

-Thật chứ? – Giả Chung nhăn trán, cái mũi thẳng tắp chĩa về phía trước như mũi giáo – Đừng bỏ lỡ cơ hội chứ? Cậu đang bị truy nã, nếu có danh vị Thập Kiếm, cậu sẽ có tiền, được bảo trợ tốt hơn, nhiều mối quan hệ hơn. Cậu định làm kẻ lang thang suốt đời sao?

-Không! – Vô Phong lắc đầu dứt khoát – Tôi không thích vụ đó, cũng không thích tranh đua. Tôi có việc riêng. 

Giả Chung tặc lưỡi, ngón trỏ gãi gãi mớ tóc mượt như không tin nổi chuyện vừa xảy ra. Nhưng sau rốt gã hí hoáy viết lách và đưa cho Vô Phong ký xác nhận. Xong xuôi đâu đấy, gã cất quyển sổ đoạn chuyển vấn đề:

-Việc tiếp theo, tôi cần cậu trả lời thành thực. Chuyện này nghiêm trọng hơn vụ truy nã của Phi Thiên quốc rất nhiều. Tôi biết cậu có nhiều bí mật, nhưng nếu cậu không thành thực thì tôi không thể giải quyết được gì cả. Vào ngày 21 tháng 4 năm ngoái, tức năm 7517, có phải cậu đến Khẩu Lỗ thành tìm một người phụ nữ tên là Túc Hương? 

Vô Phong nhíu mày. Không mấy người biết chuyện hắn điều tra Thát Khan và Mục Á, nên việc Giả Chung nắm rõ vụ này khiến hắn nghi ngại. Mặc gã thanh niên tóc mượt cố gắng thuyết phục mấy hồi, Vô Phong cũng ngậm chặt răng không kể chi tiết. Chỉ duy một chuyện hắn chịu mở mồm là cái chết của Túc Hương – Mục Á:

-Đáng lẽ chúng tôi có thể gặp cô ấy và nói chuyện đàng hoàng. Nhưng tôi không hề biết thân phận thật của cổ. Cổ phẫu thuật thẩm mĩ mà! Đó là một tai nạn, chúng tôi không kiểm soát được. Đạn lạc từ bọn Mù Thủy đã giết chết cô ấy. Nhưng cái gì tệ vậy?

Nghe xong, Giả Chung lắc đầu ngán ngẩm:

-Tệ vô cùng, anh bạn! Nghe đây, bọn “bốc mả” từ Đông Thổ đã sang, chúng thề đem đầu cậu báo thù cho Mục Á. Và nếu vụ này lộ ra, ngày mai cả đất nước Băng Hóa lẫn lục địa Băng Thổ sẽ băm cậu ra trăm mảnh. Cậu không biết mình đã đụng phải cái gì đâu! Tôi sợ rằng suốt phần đời còn lại, cậu phải chạy trốn và đề phòng người ta cắt cổ. Cậu hết đường sống rồi, tóc đỏ!

[1]: câu mật khẩu ở Tầng 9 Chợ Rác, xem lại Quyển 3 Chương 58

[2]: tình trạng của Thập Kiếm, xem lại Quyển 4, Sắt và Máu – Chương 1
 
Quyển 5 - Chương 7: Thư từ người chết


Giống nhiều người, Vô Phong ghét toán. Trớ trêu thay, từ ngày rời Chợ Rác, hắn bắt gặp vô số phương trình rối rắm mà việc trước mắt là ví dụ. Mục Á chết và lũ “bốc mả” tìm hắn đòi mạng – Mục Á chết và lục địa Băng Thổ muốn đem hắn làm món thịt băm cho bữa tối – Mục Á chết và hắn không còn chỗ dung thân. Hẳn phải sao quả tạ rơi xuống đầu! – Vô Phong viện cớ tâm linh để biện minh cho sự dốt toán. May thay, gã thư ký Giả Chung không đến đây với một bài toán chưa có lời giải và cũng chẳng dư thời gian đánh đố Vô Phong. Bằng cái giọng đủ nghe cho hai người, tay thư ký vào đề:

-Khoảng một tuần trước, Chợ Rác đón tiếp những vị khách đặc biệt. Bọn họ ăn mặc sang trọng, nói năng lịch sự chứ không một câu chửi bậy hai câu chửi thề như dân chui hầm chúng ta, và họ đến từ phương đông. Họ là quý tộc. Như thường lệ, tôi là người tiếp khách. Họ tự giới thiệu mình là thành viên Ẩn Lý Thị - một dòng họ lâu đời từng làm bá chủ phương đông và dựng nên Diệp quốc. À, dĩ nhiên họ không phô trương như thế, chỉ là tôi mày mò tìm hiểu thêm! Quay lại vấn đề, họ đang truy tìm một người với lý do kẻ này đã giết hại một người trong gia đình họ. Nhưng kẻ đó lẩn trốn mà không để lại dấu vết, họ tìm không ra. Họ cũng ít quyền lực tại Phi Thiên thành nên khó thu thập tin tức. Bởi nhiều lẽ như vậy, họ đề nghị Chợ Rác hợp tác. 

-Họ đang tìm tôi? – Vô Phong hỏi – Họ nghĩ tôi làm Mục Á chết? Mục Á là người của Ẩn Lý Thị? 

Giả Chung gật đầu xác nhận. Y đẩy ly trà cho Vô Phong, tự mình lấy một ly rồi tiếp lời:

-Tệ hại ở chỗ Mục Á không phải người thường. Cô ta mang dòng máu “vũ nữ thần linh”. Cậu hiểu từ đó chứ? Không hiểu?! Vậy tôi xin phép dông dài một chút. Trước khi Vạn Thế và Nữ Thần Tiên Tri xuất hiện, người Diệp quốc đã thờ phụng những vị thần vốn chẳng dễ thương cũng chẳng yêu chuộng con người. Bởi vậy, họ viện tới các vũ nữ chuyên dùng điệu nhảy làm mê hoặc, khiến thần linh mãi mãi say ngủ. Vũ nữ thần linh ra đời từ đấy. Dòng họ Ẩn Lý Thị chuyên sản sinh vũ nữ thần linh, họ làm “công tác” này hàng thế kỷ rồi. Dân chúng Diệp quốc kính trọng, thậm chí tôn thờ Ẩn Lý Thị vì theo tín ngưỡng của họ, nhờ vũ nữ thần linh mà Diệp quốc vĩnh viễn yên bình. Nghe hơi kỳ cục, nhưng tôn giáo mà! Theo phả hệ mà người Ẩn Lý Thị cho tôi xem, Mục Á hay tên đầy đủ là Mục Ngỗ Á, là con gái của Ẩn Lý Đằng Xuân Tử - một vũ nữ thần linh rất nổi tiếng trong thế kỷ trước. Tuy sống tách biệt khỏi dòng họ nhưng Mục Á vẫn có danh phận; nếu trở về, cô ta sẽ được phục hồi địa vị ngay lập tức. Nói cách khác, Mục Á là vũ nữ thần linh chính thức của Ẩn Lý Thị nói riêng và của Diệp quốc nói chung. 

Vô Phong nhăn mặt vò đầu lục lại chuyện cũ. Nhớ lúc sử dụng Bột Khoan Não với Mục Á, hắn chẳng thấy bất cứ hình ảnh nào cho thấy cô gái xuất thân từ gia đình cao quý. Hắn vẫn nhớ như in cái nhìn khinh bỉ mà ông quản gia họ Thát nhìn Mục Á. Một cái nhìn đơn giản, dễ hiểu và chỉ hàm súc một từ duy nhất: Sukka; cái nhìn đó không hề khai quật bất cứ lớp trầm tích nào ẩn sâu dưới con người cô gái. Có lẽ Mục Á đã chôn chặt quá khứ tới độ Bột Khoan Não tìm không ra, hoặc đơn giản là Ẩn Lý Thị nhận nhầm người. Hắn nói:

-Chắc chắn cô ta là người dòng họ Ẩn Lý Thị chứ? Tôi biết cô ta từng làm gái điếm ở Hoàng Hôn Cảng. Tại sao một tiểu thư như Mục Á phải làm gái điếm? Liệu có lầm lẫn không?

-Người Ẩn Lý Thị không giấu chuyện Mục Á làm gái điếm. Họ rất thành thật. – Giả Chung đáp – Tôi đã hỏi tại sao nhưng họ từ chối trả lời. Tôi cũng hỏi tại sao họ không đón Mục Á về, họ tiếp tục từ chối trả lời. Gia đình nào cũng lắm chuyện riêng tư, anh bạn, chúng ta phải chấp nhận việc đó. Nhưng Mục Á đúng là thành viên Ẩn Lý Thị. Năm ngoái, bọn họ đã tới Khẩu Lỗ thành để giám định thi thể Mục Á, kết quả giám định tế bào trùng khớp. Đầu năm nay, họ tổ chức lễ tang không chính thức rồi thề tìm ra thủ phạm giết hại Mục Á. Giới đánh thuê đồn rằng một lũ “bốc mả” vừa sang Băng Thổ. Chúng là người của Ẩn Lý Thị, chúng đang tìm cậu. 

Vô Phong thẫn thờ không thốt nên lời. Ngay lúc này, hắn cảm giác đang đeo một cái gông nặng trịch chẹn thanh quản, đóng kịn mồ hôi làm da cổ ngứa ngáy mẩn đỏ. Ngẩn ngơ ngơ ngẩn một lúc, hắn mới bình tĩnh trở lại:

-Vậy còn lục địa Băng Thổ, tại sao xứ này luộc tôi chỉ vì Mục Á? 

-Vấn đề chính là đây. – Giả Chung gõ gõ ngón tay lên mặt bàn – Ban đầu tôi từ chối vì Chợ Rác không giải quyết chuyện cá nhân hoặc gia đình. Nhưng Ẩn Lý Thị nói chuyện Mục Á không đơn thuần là báo thù gia đình, nó liên quan tới cả Băng Thổ và nếu dàn xếp được mâu thuẫn này, Chợ Rác sẽ thu được vô số lợi ích. Dĩ nhiên họ cũng muốn chúng tôi tham gia truy bắt cậu. Chợ Rác tránh can thiệp gia đình người khác nhưng không từ chối lợi ích, Vô Phong à…

Tay thư ký nhấp ngụm trà. Y mời Vô Phong nhưng Vô Phong chẳng có tâm trạng, ly trà trước mặt nguội dần. Ủ ấm được cổ họng khan khô vì lạnh, tay thư ký tiếp lời:

-…theo phả hệ mà tôi vừa nói ban nãy, mẹ Mục Á kết hôn với một người đàn ông phương bắc tên Mục Du Cổ. Dù không có bất cứ bằng chứng nào, nhưng Ẩn Lý Thị khẳng định Mục Du Cổ là hậu duệ của Biệt Liên Đại Đế. Chắc cậu biết hơn nửa thế kỷ trước, Lực Lượng Mù Thủy đã thảm sát toàn bộ dòng họ Biệt Liên. Giờ tự dưng xuất hiện một nhân vật là hậu duệ dòng họ xấu số ấy, nghe khôi hài nhỉ? Nhưng nếu là sự thật thì sao? Vậy có nghĩa là Mục Á mang dòng máu trực hệ hoàng gia, đồng thời là nữ hoàng thất lạc của Băng Hóa quốc. Di cốt Đại Đế còn đó, chứng thực quan hệ giữa ngài và Mục Á chỉ là chuyện sớm muộn. 

-Thế nên dân phương bắc săn lùng tôi vì làm tổn thương nữ hoàng của họ? – Vô Phong ôm gáy thở dài. 

-Phải. Dân xứ này đang bất mãn với Băng Hóa quốc nhưng không đồng nghĩa rằng họ đã quên ngài Đại Đế. Họ tôn sùng ngài như thánh thần. – Giả Chung nhún vai.

-Vậy Chợ Rác được lợi lộc gì? 

Gã thư ký gõ ngón tay đều đều như tạo nhịp điệu cho câu trả lời:

-Lợi ích thế nào thì tôi không thể tiết lộ, nhưng Chợ Rác sẽ làm trung gian hòa giải giữa Băng Hóa và Ẩn Lý Thị. Di hài Mục Á là vấn đề. Nếu thật sự mang dòng máu ngài Đại Đế, cô ấy sẽ được chuyển về phương bắc. Phía Ẩn Lý Thị cũng muốn giữ Mục Á vì cô ấy thừa kế danh hiệu vũ nữ thần linh. Chuyện này phức tạp nhưng chẳng đến nỗi vô phương giải quyết, chẳng qua Ẩn Lý Thị muốn chúng tôi hợp tác để tóm cậu càng nhanh càng tốt. Họ đang nóng lòng báo thù. 

-Tại sao anh nói với tôi tất cả mọi chuyện? – Vô Phong nhíu mày.

Gã thư ký khoanh tay thở dài:

-Vì tôi không thể dàn xếp nếu không tường tận vấn đề. Mọi người nói chuyện bàn bạc thương lượng vẫn hay hơn là đấm vào mặt nhau, nhỉ? – Y mỉm cười – Nếu cậu dám khẳng định mình vô tội và chuyện xảy ra với Mục Á là tai nạn, tôi có thể sắp xếp. Vả lại chuyện giữa chúng ta chưa kết thúc. Tôi đã hỏi cậu chuyện thứ nhất về Thập Kiếm, chuyện thứ hai về Mục Á và giờ là chuyện thứ ba…

Giả Chung vừa nói vừa lôi ra một chiếc cặp da đựng hàng chục phong bì màu vàng nâu dán nhãn đánh số. Y lật từng mảnh nhãn, ngón tay vân vê thoăn thoắt như một nhân viên thu ngân thạo đếm tiền. Tìm thấy vật cần tìm, y khẽ tặc lưỡi hoan hỉ rồi đưa cho Vô Phong. Tâm trạng đương rối bời, Vô Phong chẳng buồn hỏi ai gửi hay tại sao gửi, bàn tay vô thức tự động xé phong bì. Bỏ lớp giấy ngoài, hắn nhận ra bên trong có hai phong thư đề dòng chữ “Gửi Vô Phong” rất lớn và tròn trịa, có lẽ người gửi không muốn xảy ra bất kỳ nhầm lẫn nào. Từng bức thư đều được đánh số thứ tự, Vô Phong mở bức đầu tiên. Nội dung thư như sau:

“Gửi Vô Phong 

Khi cậu đọc được thư này nghĩa là cậu trở thành tội phạm còn Lục Thiên đã đạt được mục đích. Ta biết Lục Thiên toan tính điều gì song thời gian không còn nhiều, ta không thể ngăn cản y. Nhưng nếu nhận được thư, có nghĩa rằng cậu vẫn nằm ngoài nanh vuốt của Phi Thiên quốc. Đáng mừng thay!

Vì bức thư này giả định trường hợp cậu vẫn tự do, nên ta xin phép tiếp tục biên thư theo chiều hướng lạc quan như thế. Hẳn cậu vẫn nhớ sự vụ tại Khẩu Lỗ thành hồi đầu năm nay, cũng vì chuyện đó mà Tiểu Hồ gặp nguy hiểm tại Thiên Kỷ thành. Ta không trách cậu, Tiểu Hồ có lựa chọn cho riêng mình, con bé không phải đứa trẻ. Mà ta lo lắng cho cậu hơn, bởi lẽ cô gái Túc Hương mà cậu nhắm tới không đơn giản. Những người bạn ở Đông Thổ nói với ta rằng dòng họ Ẩn Lý Thị đã đến Khẩu Lỗ thành và khám nghiệm di thể Túc Hương; họ nói rằng Túc Hương dường như là thành viên dòng họ, đồng thời mang dòng máu vũ nữ thần linh. Ta biết Ẩn Lý Thị do có may mắn được họ mời qua thăm thú nhiều lần. Dựa trên hiểu biết ít ỏi của mình, ta dè dặt nhận định Túc Hương có thân phận thật là Mục Ngỗ Á, tiểu thư dòng họ Ẩn Lý Thị. Nếu thật sự chính là Mục Ngỗ Á, chuyện còn phức tạp hơn nữa, bởi cô gái này mang cả dòng máu hoàng gia Băng Hóa quốc. 

Sẽ mất rất nhiều thời gian để giải thích tại sao ta biết chuyện này. Vì nó tổng hợp vô số câu chuyện quá khứ, sự ngẫu nhiên cuộc đời lẫn bàn tay định mệnh. Ngay cả ta cũng không chắc chắn. Nhưng nếu mọi nhận định đều chính xác thì cậu đã gặp rắc rối. Thật sự rắc rối! Có lẽ ngay giờ này cậu đã cảm thấy nó rắc rối thế nào, hoặc nếu nó chưa xảy đến thì cậu sẽ biết, sớm thôi. 

Thế nên ta đã chuẩn bị bức thư thứ hai. Đừng mở nó ra mà hãy mang đến cho Xuy Hạ Khai Y, đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa quốc. Ta biết việc này rất khó, nhưng nếu cậu vẫn muốn sống, muốn chứng kiến thế giới thay đổi thì bằng mọi cách phải gặp được người này. Gặp Khai Y, cứ nói rằng thư do ta gửi, Khai Y chắc chắn sẽ nhận. Hy vọng hắn không tiếp tục làm ta thất vọng như lần ta nhọc công tới đây và xin Băng Hóa trợ giúp ở đất Thiên Phạn[1]. Mong rằng hắn vẫn là một gã nóng tính nhưng tốt bụng. 

Một lời khuyên cuối cùng. Có lẽ cậu đã nghe mấy lời này nhưng ta sẽ nhắc lại. Đừng cảnh giác như con sói, đừng ngô nghê như chó nhà, hãy cư xử như con mèo: luôn thân thiện nhưng sẵn sàng giơ vuốt cào cấu rồi chạy thật nhanh[2].

Hãy sống, tóc đỏ, hãy sống. Đừng bao giờ nghĩ về cái chết, hãy sống. Nhiều điều và nhiều người mong cậu tiếp tục sống. 

Ta dừng bút ở đây. Chiến tranh đã đến Tuyệt Tưởng Thành, không còn nhiều thời gian nữa. Khi cậu đọc những dòng này, có lẽ ta đã không còn. 

Ngày 25 tháng 5 năm 7517

Tây Minh

Tái bút: ta quên mất, tuổi già thật lẩm cẩm! Mật khẩu là ngày sinh của con cáo nhỏ. Trong tài khoản có một ít tiền và bản thân ta chẳng phải người giàu, nhưng hy vọng giúp cậu bớt khó khăn. 

Tái bút 2: trong tài khoản đó có một lệnh gửi đã khởi động sẵn. Cậu chỉ việc chấp thuận, lệnh gửi sẽ hoàn thành. Nhớ là ấn nút chấp thuận, đừng để sai sót.

Tái bút 3: hãy truy cập tài khoản đó ngay khi có thể.”



Đọc tận dòng cuối cùng, Vô Phong vẫn không tin người biên thư là ngài đại thánh sứ. Hắn đem vẻ mặt ngơ ngác hỏi Giả Chung, tay thư ký nhún vai gật đầu xác nhận cái sự như đùa này là thật. Khoảng tháng năm 5 năm ngoái – Giả Chung kể chuyện trong cái gõ nhịp ngón tay đều đều – ngài đại thánh sứ tìm y, trao hai bức thư rồi dặn dò phải đưa tận tay Vô Phong. Riêng chuyện này, Tây Minh không tin tưởng bất cứ phương tiện chính thống nào. 

-Những việc cần làm, tôi đã làm xong. Ăn thôi, đừng để ông Đa Lạt chờ lâu! – Giả Chung vỗ tay – Hãy để công việc sau bữa tối. Dù gì cậu đang ở trong nhà của “người điều phối”, ở đây cậu được an toàn tuyệt đối. Và nếu khúc mắc, hãy hỏi Đa Lạt, đừng quên ông ta là người điều phối. Tạm thời tôi sẽ kéo dài thời gian với Ẩn Lý Thị, nhưng cậu phải khẩn trương lên. 

-Anh giúp tôi? – Vô Phong nhíu mày.

Giả Chung hớp nốt ly trà, đóng khóa cặp da trước khi rời khỏi ghế cùng nụ cười mỉm. Y luôn mỉm cười với mọi người, mọi hoàn cảnh:

-Dù gì chúng ta cũng đến từ một nơi. Tôi thà chọn người Chợ Rác còn hơn lũ người đi trên mặt đất. 

Nói xong, gã đưa tay về hành lang tỏ ý lịch sự mời Vô Phong đi trước. Vô Phong bước tới phòng ăn, vừa đi vừa lục lọi đáy phong bì và tìm được một thẻ ngân hàng. Hồi chiến tranh, ngài đại thánh sứ luôn quan tâm đồng thời cho Vô Phong nhiều lời khuyên hữu ích. Hắn biết ơn điều đó. Giờ được ngài đại thánh sứ tiếp tục hỗ trợ, hắn không biết cảm tạ thế nào. Người chết vốn chẳng quan tâm ân huệ. 



Tâm trạng bất ổn làm Vô Phong kém nhiệt tình. Tuy chưa tới nỗi vác bộ mặt đám ma lên bàn ăn nhà Đa Lạt nhưng hắn đã mất thú vui ăn uống – cái thú duy nhất và thực tế nhất trong thời gian trốn nã. Ở chiều ngược lại, cô nàng Si Giáng vô tư chè chén no say rồi lăn kềnh trên ghế bành cạnh lò sưởi, miệng pho pho thở phả hơi rượu. Cái giống thiếu nữ yêu đời chả thiết ngày mai ngày kia thế nào, miễn sao hôm nay ăn ngon ngủ kỹ là đủ. Tay thư ký Giả Chung thì biến mất ngay sau bữa tối, y còn nhiều công chuyện ở xứ tuyết. Y cũng không quên từ biệt Vô Phong kèm theo lời tái ngộ: “Có thể khi cậu quay lại Phi Thiên thành, Chợ Rác đã trở thành một quận đàng hoàng to đẹp!” – Giả Chung cười mỉm, nửa đùa nửa thật. 

Đêm hôm đó, Vô Phong làm việc cùng Đa Lạt, trước hết là tìm lại danh sách những nhà khoa học từng phục vụ Đề Án Mắt Trắng. Đa phần họ vẫn ở lại Băng Thổ, chỉ một số ít ra nước ngoài hoặc chết vì bệnh tật. Điều phiền phức là họ sống rải rác khắp lục địa, rất nhiều người thuộc vùng chiến sự hoặc bất ổn an ninh. Vô Phong dù muốn hay không cũng phải dấn thân vào chốn nguy hiểm. Ông học giả nói:

-Khi đề án kết thúc, các nhà khoa học trở về với sự giám sát chặt chẽ. Băng Hóa muốn họ tiếp tục cống hiến mà cũng không muốn họ lộ bí mật. Nhưng giờ Băng Hóa gặp khó khăn, chính phủ phải cắt giảm và điều chuyển nhân lực. Hệ thống giám sát không còn, cậu có thể rảnh tay tìm họ. 

-Băng Hóa từ bỏ dễ dàng vậy sao? – Vô Phong hỏi.

-Mắt Trắng không nằm trong diện ưu tiên nữa. – Ông học giả đáp – Chính phủ Băng Hóa đánh giá Mắt Trắng không hiệu quả và cũng chẳng dễ chế tạo, hệ thống giám sát thì ngày càng phiền phức. Vậy nên họ từ bỏ. 

Theo bản danh sách, Vô Phong cần tìm ba mươi người ở tám quốc gia. Chi phí, thẻ thông quan, những đầu mối thông tin… tất cả đều được Đa Lạt liệt kê và cung cấp. Đôi lần Vô Phong cảm tưởng ông học giả này là một con buôn biết mọi mánh khóe giấy tờ, không giống lắm một nhân viên chính phủ mẫn cán ngày đi làm tối về ăn đồ vợ nấu, cũng chẳng ăn nhập gì với ngoại hình tròn vo cù lần của ông ta. Nhưng Băng Thổ vốn lắm sự tréo ngoe, Vô Phong không tò mò, chỉ im lặng lắng nghe ông học giả phân phó chỉ dẫn. 

Lo việc của Mi Kha xong xuôi, Vô Phong hỏi ông học giả chuyện của mình. Nghe lời gã thư ký Giả Chung, hắn kể rành rọt vụ truy tìm Mục Á, thậm chí không giấu giếm cả chi tiết Đề Án Ngục Thánh. Hắn nghĩ rằng đút giấu không được ích gì mà chỉ tổ tự làm khó mình, chưa kể Đa Lạt nhiều khả năng đã biết rõ hắn thực sự là ai. Nghe hết đầu đuôi ngọn ngành, ông học giả sa sầm hẳn, bộ mặt béo tròn méo mó khó coi như chiếc bánh táo nham nhở vì nướng quá lửa. Ông ta im lặng lâu đến độ Vô Phong cảm giác sự việc đã không thể cứu vãn. 

-Chuyện rất tệ, rất tệ đấy, cậu Vô Phong. – Rốt cục Đa Lạt cũng lên tiếng – Chỉ một số rất ít người trên thế giới này biết rõ thân phận Mục Á trong đó có tôi, một kẻ may mắn biết được bí mật lịch sử. Để bảo đảm an toàn cho Mục Á, chúng tôi buộc phải theo dõi cô ấy từ xa, lắng nghe những tin tức mơ hồ thay vì truy tìm hoặc đón cô ấy về Băng Hóa. Chúng tôi đang đợi thời điểm thích hợp, nhưng có lẽ thời điểm ấy không bao giờ tới. 

Đa Lạt lắc đầu, ánh mắt hụt hẫng tựa thể vừa chứng kiến một thảm cảnh trong bất lực. Thái độ này, tình cảm này cho thấy ông ta hết sức tôn kính Biệt Liên Đại Đế. Ở ghế bên cạnh, Vô Phong im thin thít chẳng dám hó hé câu nào. Không nhiều điều để nói vào thời khắc im lặng ấy ngoài mưa tuyết lặng lẽ ngoài cửa sổ, tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ đêm như hồi cáo chung của dòng máu hoàng gia vĩ đại nhất phương bắc. 

-Nhưng vì Mi Kha tin tưởng cậu nên tôi sẽ tin cậu nói thật. – Đa Lạt tiếp tục – Tất cả đều là tai nạn, cậu không có tội; nếu quy tội thì cậu cũng không cần trả bằng máu mà trả bằng một hình thức nào đấy vinh dự hơn, cao quý hơn và mang tính hàn gắn. Sao? Cậu mang thư thuyết phục đại thống lĩnh Khai Y? Ai viết? Đại thánh sứ Tây Minh?! Tốt, tốt, tôi quen biết đại thống lĩnh, ông ta sẽ đón tiếp! Chúng ta phải đi ngay! 

Ông học giả hối hả làm Vô Phong khẩn trương theo. Trong màn đêm lạnh lẽo, hai người đánh xe ngựa đi về phía cuối trục đường chính Quận Bạc nơi họ Xuy Hạ ngự trị. Trên đường đi, ông học giả kể sơ qua đại thống lĩnh Khai Y cùng dòng họ Xuy Hạ. Đang tâm trạng lo lắng nên Vô Phong nghe câu được câu chăng, chỉ biết Khai Y là trụ cột chính trị lẫn quân sự ở nước này, uy tín chẳng kém hoàng đế. Được ông ta giúp đỡ, cửa sống cho Vô Phong sẽ thoáng hơn một chút. Cơ mà đấy là trường hợp Khai Y chịu giúp và “vẫn còn là một gã nóng tính nhưng tốt bụng” như lời của ngài đại thánh sứ.

Mười phút sau, chiếc xe ngựa đã tới cuối trục đường chính Quận Bạc. Là dòng họ lớn nhất đất nước, khu biệt thự của họ Xuy Hạ cũng to lớn tương đương. Đang nửa đêm nhưng toàn khu biệt thự vẫn sáng đèn, từng tòa nhà hiện lên trong dáng dấp cổ xưa pha hiện đại, mái chóp nhọn phảng phất lối kiến trúc của Điện Mùa Hè. Các tòa nhà nằm xen kẽ giữa các trảng cỏ hoặc đồi nhỏ, có cả bãi đáp phi thuyền và một tòa thánh đường cho người trong họ đến cầu nguyện. Lớn nhất trong số ấy là tòa dinh thự cao sáu bảy tầng, có mái vòm và tường răng cưa nom như pháo đài, trên nóc phấp phới lá cờ màu trắng vẽ hình mặt trời vàng lặn sau đỉnh núi – biểu tượng gia huy họ Xuy Hạ. So với khu biệt thự họ Cát Giá, nơi đây bề thế đẹp đẽ gấp nhiều lần. 

Sau khi trình diện giấy tờ, lính canh cổng dẫn đường cho xe ngựa tới tòa dinh thự chính. Đón tiếp ông học giả và Vô Phong là người quản gia già, gương mặt không còn nhiều huyết sắc của sự sống mà bợt đi, lớp da nhăn nhúm kéo co lại khiến đôi mắt to lồ lộ giống mắt cá. Vô Phong để ý bàn tay ông quản gia làm bằng máy móc cơ sinh học, có lẽ bàn tay thật đã ra đi vì một vụ tai nạn. Cái ngày mà ông ta rời bỏ vị trí quản gia để nằm viện dưỡng lão chẳng còn mấy xa xôi. Dù vậy, người quản gia vẫn thể hiện sự nhanh nhẹn và minh mẫn qua lời chào hỏi Đa Lạt, giọng khàn khứ khó nghe:

-Ngài học giả! Đã lâu mới thấy ngài đến, chúng tôi rất vui mừng! Tôi có thể giúp gì? Còn cậu thanh niên tóc đỏ này là ai?

Cái nhìn săm soi của ông quản gia làm Vô Phong giật mình, bấy giờ hắn mới nhận ra thuốc nhuộm đã hết tác dụng. Đa Lạt đỡ lời:

-Một người bạn phương xa. Ông biết đấy, tôi có nhiều bạn mà! Đại thống lĩnh có nhà chứ? Nếu vậy, phiền ông đánh thức ngài ấy. Chúng tôi có chuyện gấp, rất gấp!

-Đại thống lĩnh mới trở về từ mặt trận, ngài cần nghỉ ngơi. Người không ngủ nhiều ngày không thể giải quyết chuyện gấp gáp. Một giấc ngủ sẽ làm đại thống lĩnh tỉnh táo hơn, giải quyết nhanh hơn. Nếu không phiền, tôi sắp xếp cho ngài và cậu tóc đỏ đây một chỗ ngủ…

Ông quản gia rất kiên quyết trong việc bảo vệ sức khỏe của đại thống lĩnh. Đa Lạt lại không muốn nói thẳng chuyện hệ trọng, cứ dền dứ bằng những ngôn từ ẩn dụ. Ngó hai ông già chơi chữ riết, Vô Phong bèn chen ngang đoạn xổ toạc móng heo:

-Hãy nói với ông đại thống lĩnh rằng tôi biết chuyện của Mục Á.

Đương tranh luận với Đa Lạt, ông quản gia ngạc nhiên vô cùng, cặp mắt cá mở lớn khiến đồng tử trơ trọi giữa lòng trắng. Bần thần một lúc, ông ta để lại hai người ở phòng khách rồi chạy đi, bóng dáng khuất dạng trong hành lang mờ đèn. Nhìn dáng điệu hớt hải cộng thêm thái độ kỳ cục của ông quản gia, Vô Phong đoán ông ta cũng biết về Mục Á. Ông học giả lắc đầu ngao ngán:

-Tôi không muốn nhiều người biết chuyện. Cậu nôn nóng quá, anh bạn!

-Đằng nào cũng vậy, tôi không dư thời gian. – Vô Phong lắc đầu – Mà họ Xuy Hạ có quan hệ với Biệt Liên Đại Đế không?

-Rất gần gũi! – Đa Lạt trả lời – Ông tổ Xuy Hạ và ngài Đại Đế rất thân thiện. Hai nhà làm thông gia và trao đổi rất nhiều thứ với nhau. Người ta đồn rằng họ Xuy Hạ đang giữ gia phả họ Biệt Liên, tôi không dám chắc điều đó, đại thống lĩnh cũng chưa bao giờ kể. Về phần đại thống lĩnh, ông ấy là con cháu họ hàng xa của Đại Đế…

Cuộc đối thoại chấm dứt giữa chừng vì ông quản gia quay lại báo rằng đại thống lĩnh muốn gặp. Theo chân người quản gia, bọn Vô Phong băng qua nhiều căn phòng rộng mênh mang, sau đấy lại bước trên từng đoạn cầu thang đủ cho cả chục người cùng sánh bước. Từng lớp lang nội thất của dinh tự, từng khoảnh khắc lịch sử họ Xuy Hạ trên ảnh hoặc tranh vẽ khổ lớn hiện lên dưới ánh đèn vàng nhạt. Trên đường đi thỉnh thoảng xuất hiện vài món đồ quý giá đặt trên kệ gỗ, hầu hết là quà tặng hoặc báu vật mang giá trị lịch sử. Vô Phong thoáng thấy vài món đồ xuất xứ từ Phi Thiên quốc nhưng không kịp xem chi tiết. Hắn không có nhiều thời gian. 

Ông quản gia dẫn hai người vào phòng làm việc trên tầng ba, tại đó có một người đàn ông trung tuổi đang đợi sẵn cùng trà, sữa nóng lẫn đồ ăn nhẹ. Vô Phong từng thấy ông ta xuất hiện trong những bản tin truyền hình quan trọng nhất, nhất là khi tình hình phương bắc căng thẳng. Mái tóc xoăn sóng màu hổ phách, đôi mắt màu lam đậm – ông ta là đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa: Xuy Hạ Khai Y. Vừa thấy tên tóc đỏ và vị học giả, Khai Y đứng dậy, thân thể cao lớn cùng bộ quân phục đen choán một khoảng không gian như quả núi mọc lên giữa bóng đêm. Ông ta tay bắt mặt mừng Đa Lạt, giọng sang sảng:

-Đa Lạt, lâu lắm mới gặp cậu! Khỏe chứ, anh bạn tròn vo? Lại đây, để tôi ôm cậu một cái! Na Li Nã sao rồi, cô ấy vẫn khỏe chứ?

Ông đại thống lĩnh ôm chặt Đa Lạt, cười nói hỏi chuyện vui vẻ. Nhưng ông ta không làm vậy với Vô Phong cũng chẳng bắt tay hắn. Thay vào đó ông ta đi tới tủ rượu sau bàn làm việc, lôi ra một chai “sói xanh” – thứ rượu ngâm thảo dược và bốc cháy ngọn lửa xanh khi rời khỏi miệng chai. Khai Y rót hai ly, đưa cho Vô Phong một ly rồi cất lời:

-Nghe nói cậu biết chuyện Mục Á? Cậu đã gặp cô ấy?! Thật tốt! Tôi sẽ lắng nghe, xin yên tâm, tôi sẽ lắng nghe không sót một từ. Nhưng trước khi bắt đầu, cho phép tôi kể một câu chuyện, cậu phiền không? 

Bằng trực giác, Vô Phong nhận ra đôi mắt lam đậm của ông đại thống lĩnh đang thay đổi. Nó không còn thân thiện như khi gặp Đa Lạt mà chuyển sang nghi ngờ, thậm chí rãy lên vài tia lửa dữ dội. Biết chuyện không lành nhưng Vô Phong vẫn đáp:

-Ngài cứ tự nhiên!

Ông đại thống lĩnh gật đầu. Một tay cầm ly rượu cháy rực lửa xanh, Khai Y đi quanh phòng, đôi mắt lam đậm nhìn trần nhà hồi tưởng chuyện cũ:

-Cách đây khá lâu khi cha tôi còn làm đại thống lĩnh, ông bị ám sát hụt. Ngay ở chính dinh thự này! Từ mặt trận trở về, tôi nghe mẹ mình kể lại rằng kẻ ám sát có mái tóc đỏ. Hắn máu lạnh, tàn nhẫn, không cảm xúc. Không có bất cứ cảm xúc nào trên đôi mắt hay gương mặt kẻ đó! Hắn… giống một cái máy cắt chuyên cắt cổ gà vịt, hay máy đập búa chuyên đập nát sọ con bò trước khi đem chúng vào lò mổ. Ngày đó, nhiều người trong dinh thự bị hắn giết, từ những người giúp việc vô tội, những người đàn bà không có khả năng tự vệ cho tới những vệ sĩ giỏi nhất. Tòa dinh thự dính đầy vết đạn, vết chém, vết cháy do nội lực thiêu đốt, một tháng sau mới phục hồi nguyên vẹn. Cha tôi thoát vụ ám sát, tất cả đều nhờ bác quản gia. Nhưng đổi lại, bác ấy mất toàn bộ cánh tay, mọi người đều thấy đó! Nhiều năm sau, cha tôi qua đời vì vết thương tái phát. Điểm đặc biệt ở chỗ là con quái vật tóc đỏ nọ biết dùng Phong kỹ, y hệt tôi!

Vô Phong thừ người, cổ họng khô roong như có mặt trời nằm giữa thanh quản. Khai Y tiếp tục:

-Sau này, tôi điều tra và phát hiện gã sát thủ tóc đỏ thuộc biên chế Thổ Hành, đội đặc nhiệm nổi tiếng của Phi Thiên quốc. Tôi đã cố tìm nhưng chưa bao giờ bắt được gã. Nhà Xuy Hạ có nhiều nợ với Thổ Hành. Em trai tôi, đứa em mà tôi yêu quý cũng ra đi vì Thổ Hành. Ngày đưa tang, người ta phải dùng chỉ khâu nối từng bộ phận khuôn mặt của em trai tôi. Nó không chết bình thường, nó bị giết hại theo cách dã man nhất. Vậy… xin phép hỏi cậu… cậu tên gì? Vô Phong? Vậy, Vô Phong, nói tôi nghe, cậu biết Phong kỹ hay không? Cậu có đến từ Thổ Hành không? Tôi cần một lời xác nhận!

Vị học giả Đa Lạt quay sang nhìn tên tóc đỏ. Ông ta hơi cười vì nghĩ rằng Khai Y đang đùa cợt. Nhưng ông ta chỉ biết Vô Phong là tội phạm truy nã chứ không hề biết những chuyện sâu hơn thế. Mi Kha không kể tất cả cho Đa Lạt. Phía bên kia, đáp lại ông đại thống lĩnh, Vô Phong nén một hơi can đảm rồi trả lời:

-Tôi biết Phong kỹ. Tôi cũng là cựu thành viên Thổ Hành, thưa ngài. Nhưng chuyện mà ngài kể, tôi không hề biết. Nói đúng hơn, tôi không nhớ một chút gì! 

Bấy giờ khuôn mặt ông học giả dài thượt tựa thể hàm dưới đã long khỏi hàm trên. Ở góc phòng, vị quản gia già cỗi nắm chặt bàn tay máy, tiếng động cơ rít lên từng hồi đe dọa. Khai Y nhếch mép:

-Vậy thì chúng ta có nhiều chuyện để nói đấy, tóc đỏ. Mời cậu!

Ông đại thống lĩnh ngửa cổ nốc trọn ly rượu. Nhìn ngọn lửa xanh bập bùng quanh miệng ly, Vô Phong chợt nghe vô số tiếng kêu cứu lẫn khóc than vọng đến. Những bóng ma trong dinh thự như đã tìm thấy thủ phạm năm xưa. “Nếu phải thế thì cứ như thế! Đến cả đây!” – Vô Phong nghĩ thầm rồi uống cạn ly, nốc hết rượu, nốc hết lửa, nốc cả những bóng ma đang gào thét đòi mạng mình. 

[1]: Tây Minh từng phàn nàn việc này ở Quyển 1 Chương 26

[2]: Tây Minh từng gửi thư cho Vô Phong, Quyển 3 Chương 81
 
Quyển 5 - Chương 8: Đàm phán


Ngay lúc này, Vô Phong cần viết di chúc. Nội dung chẳng có gì nhiều ngoài để lại tiền cho Liệt Trúc, trao trả những vật hộ mệnh cho công chúa và Tiểu Hồ, gửi gắm Hỏa Nghi tiếp tục điều tra bí mật Ngục Thánh. Nếu Chợ Rác được công nhận là một quận, hắn cần ủy thác Hỏa Nghi làm giấy tờ chủ sở hữu căn hộ rồi chuyển quyền thừa kế cho Liệt Trúc[1]. Nếu người Tuyệt Tưởng Thành công khai cảm ơn Vô Phong sau chiến tranh, hắn muốn Tiểu Hồ nhận phần thưởng hoặc tham dự lễ vinh danh. Nếu công chúa làm hoàng đế, hắn cần Hỏa Nghi thay mặt mình gửi lời chúc mừng. Kể thì dài mà viết ra chỉ nhõn dăm ba dòng, không đáng mấy thời gian. Xin chút ân huệ này trước khi chết, Vô Phong nghĩ ông đại thống lĩnh sẽ chẳng hẹp hòi. 

-Nhưng suy cho cùng, Thổ Hành chỉ là công cụ chiến tranh. – Ông đại thống lĩnh cất lời sau những giây phút săm soi Vô Phong bằng ánh mắt viên đạn – Những năm tháng đó, các nước đều cử đặc nhiệm hoặc thuê sát thủ tiêu diệt nhân vật cao cấp của nhau. Xung đột khắp nơi và người ta luôn nói về một cuộc đại chiến mới sau Chiến Tranh Tài Nguyên. Cha, em trai ta, thậm chí chính ta trở thành nạn nhân. Chẳng ai mong muốn cả! Và nếu ai cũng tính chuyện báo thù thì chẳng bao giờ có cái gọi là đàm phán. Cậu tóc đỏ… ta gọi cậu như thế được chứ? Mời ngồi, chúng ta nói chuyện. Hãy tự nhiên như ở nhà.

Đang tưởng chết lại thấy đường sống nhưng Vô Phong chẳng khá hơn. Hắn ngồi xuống ghế mà không dám đụng bất cứ ly trà tách sữa nào dù được mời. Có ông quản gia hầm hầm như lò áp suất ở góc phòng, tên tóc đỏ cảm giác căn phòng thiếu khí thở. Trông vậy, Khai Y liền bảo quản gia để ba người có không gian riêng tư. Đợi ông già khuất hẳn, Vô Phong mới tạm nhẹ nhõm. Khai Y tiếp lời:

-Cậu nói mình biết Mục Á? Cô ấy thế nào? Bây giờ đang ở đâu? Hãy kể từ từ và chậm rãi, ta muốn nghe rõ ràng từng chi tiết một. Nếu câu chuyện phải kéo dài tới sáng thì cứ để nó như vậy, ta có thể chờ. 

Ông đại thống lĩnh từ tốn nhưng đôi mắt chú mục tên tóc đỏ, không còn quan tâm điều gì khác xung quanh mình. Trong phút chốc, Vô Phong lại thấy cửa tử xuất hiện và hé ra khe chết chóc đen ngòm. Hắn muốn thò mặt sau bức thư của đại thánh sứ rồi mới nói chuyện, ngộ nhỡ Khai Y nổi khùng thì dùng bức thư làm khiên che chắn. Nhưng cảnh tượng khôi hài đó chỉ tồn tại trong tưởng tượng của hắn. Mục Á, những sự vụ ở Hoàng Hôn Cảng, những tình tiết mà hắn điều tra được, cuộc đụng độ tại Khẩu Lỗ thành – hắn đều khai báo. Có khác chăng là Vô Phong biến mình từ chủ thể câu chuyện trở thành người ngoài cuộc: hắn kể mình điều tra theo chỉ đạo từ chính phủ Phi Thiên quốc. Một lời nói dối nguy hiểm nhưng Vô Phong không phiền. Ngược lại hắn rất vui lòng nếu lời nói dối đó làm Phi Thiên quốc khốn đốn. 

Cố nhiên Khai Y chẳng thích thú câu chuyện. Vốn mong đợi đoạn kết có hậu, ông ta không chấp nhận cái cách Mục Á ngã xuống. Có lẽ vì coi Mục Á là nhân vật chính nên Khai Y tin rằng nàng miễn nhiễm với nguy hiểm. Nhưng giữa mưa bom bão đạn ở Khẩu Lỗ thành ngày đó, bất cứ ai cũng có thể nhận vai diễn phụ. Ông đại thống lĩnh hỏi, vẻ mặt thẫn thờ:

-Cô ấy còn nói điều gì không? Có gửi gắm chuyện gì không?

-Mục Á luôn yêu thương chồng mình. – Vô Phong trả lời – Cô ấy để tôi nhìn thấy tâm sự riêng tư nhất, cô ấy luôn vì người chồng của mình. 

Khai Y cười gượng – cái nét ít thấy ở người đàn ông trưởng thành mà hay xuất hiện ở gã trai trẻ bị từ chối tình cảm. Nó ít nhiều tố cáo ông đại thống lĩnh từng một thời si mê người đẹp. Người phương bắc mặt lạnh nhưng không giấu giếm cảm xúc. Chuyện không mới. Điều mà tên tóc đỏ quan tâm là Khai Y sẽ xử sự thế nào, bởi lẽ hắn không thấy đôi mắt ông ta không có sự “tha thứ”. Nó đang nhăn lại, hai đầu mày xô da đẩy thịt làm gồ lên một đường bóng nhẫy trên đỉnh sống mũi, con ngươi màu lam đậm long lên tựa xoáy nước biển. Đại thánh sứ Tây Minh đã đúng một nửa về con người Khai Y. Trực giác nhắc Vô Phong nên đưa ngay bức thư hoặc không bao giờ. 

Với hy vọng cái nửa “tốt bụng” của Khai Y xuất hiện, tên tóc đỏ đặt bức thư lên mặt bàn và đẩy nó về phía trước. “Tôi muốn thương lượng!” – Thông điệp của hắn rất rõ ràng. Vẫn đôi mắt đe dọa, ông đại thống lĩnh mở thư đọc một chặp. Những giây phút đó, Vô Phong nín thở, thành thử tuyến mồ hôi làm thay việc của mũi, lưng áo ướt đầm đìa giữa trời đông. Trò cân não còn tiếp tục sau khi Khai Y đọc xong thư. Ông đại thống lĩnh hoàn toàn im lặng, đặt mọi toan tính cho số phận Vô Phong vào ly rượu “sói xanh”. Ông ta thấy gì trong ngọn lửa đó? – Vô Phong tự hỏi bằng trí tưởng tượng của kẻ chênh vênh giữa lằn ranh sống chết. Kẻ sắp chết hay nghĩ nhiều và hoang tưởng. 

Khai Y uống rượu không ngừng. Dù mời mọc Vô Phong nhưng ông ta tay nâng tay rót từ đầu chí cuối, chai rượu “sói xanh” thoáng chốc vơi quá nửa. Sau rốt, Khai Y chấm dứt sự phân vân trong lòng, kết thúc cả nỗi thấp thỏm của Vô Phong:

-Cậu nên biết ơn đại thánh sứ Tây Minh. Thầy đối xử công bằng với bất cứ ai, thế nên không phải ai cũng được thầy quan tâm đặc biệt thế này…

Nói rồi ông đại thống lĩnh chìa bức thư cho Vô Phong đọc. Nhờ vậy, tên tóc đỏ mới biết Khai Y từng làm hộ vệ cho đại thánh sứ. Thư viết rằng đại thánh sứ đã đoán ra số phận Mục Á, đồng thời nhờ vả Khai Y bảo toàn mạng sống cho tên tóc đỏ. Nội dung chỉ vậy, không hơn. Nhưng có thể khiến người đàn ông quyền lực bậc nhất Băng Hóa nghe lời mình, uy tín của Tây Minh đắt xắt ra vàng ra kim cương. Vô Phong thở phào dẫu cái sự an toàn chỉ kéo dài trong một năm, một tháng hoặc thậm chí chốc lát dăm ngày. 

-Đáng lý ta phải công khai vụ này trước toàn thể hoàng gia và quốc hội Băng Hóa, sau đó hoàng đế lẫn quốc hội mới tính xử lý cậu thế nào. – Khai Y tiếp tục – Nhưng đây là trường hợp đặc biệt, ta sẽ tạm cho qua. Hãy nhớ: tạm thời bỏ qua! Người phương bắc không quên nợ. 

-Tại sao ngài phải giữ kín chuyện? – Vô Phong thắc mắc.

-Hơn nửa thế kỷ trước, Lực Lượng Mù Thủy thảm sát họ Biệt Liên nhờ lũ phản bội và chỉ điểm trong chính phủ. – Khai Y trả lời – Sau khi đuổi bọn Mù Thủy ra khỏi đất nước, chúng ta lập ủy ban điều tra tất cả dòng họ lẫn chính khách. Từ đó tới nay, Băng Hóa đã tử hình hoặc bắt giam hơn một trăm người. Tới giờ ủy ban vẫn tiếp tục công việc, mọi chứng cứ dù nhỏ nhất đều được lưu trữ, mọi kẻ liên đới dù sống hay chết đều bị trừng phạt. Nhưng hết điều tra rồi giám sát, chúng ta không bao giờ thống kê được còn bao nhiêu kẻ phản bội đang sống giữa đất nước mình. Những kẻ phản bội vẫn đang nhóng mắt tìm kiếm họ Biệt Liên; chúng và bọn Mù Thủy biết rằng dòng máu Đại Đế vẫn sót lại sau vụ thảm sát. …

Ông đại thống lĩnh dốc nốt những giọt rượu cuối cùng trước khi khui chai mới. Lần này ông ta không mời tên tóc đỏ nữa mà tiếp tục câu chuyện:

-…dân xứ này có câu “Dòng máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình”. Rất nhiều người tin vào điều đó, và cũng bởi thế, nhiều kẻ sẵn sàng triệt hạ họ Biệt Liên bằng mọi giá. Nếu biết Mục Á – dòng máu cuối cùng của Đại Đế qua đời, dân chúng lục địa nghĩ gì? Nhất là trong hoàn cảnh bây giờ? Không đơn giản là công bố rồi tổ chức tang lễ, cậu tóc đỏ ạ! 

Ở ghế đối diện tên tóc đỏ, Đa Lạt cựa quậy sau một hồi im lặng. Có lẽ vị học giả đã bình tâm sau những bất ngờ mắc toi mắc dịch mà tên tóc đỏ mang lại. Ông ta mở lời với Khai Y:

-Dù gì chuyện cũng đã xảy ra, thưa ngài. Tất cả là tai nạn. Người chứng kiến có Mi Kha và một người Thanh Thủy, nếu cần, chúng ta có thể hỏi người Thanh Thủy, người tộc này không biết nói dối. Cậu Vô Phong cần chuộc lỗi, nhưng hãy để cậu ta làm một nhiệm vụ cao cả cho Băng Hóa và hợp với danh dự. 

Khai Y gật gù nhưng chưa vội quyết định. Vô Phong đoán ông ta sẽ không đưa ra một đề nghị sách vở như Đa Lạt gợi ý. Đương dưng có con thiêu thân đến bán mạng, Khai Y tất không bỏ qua dễ dàng. Là đại thống lĩnh, là chính khách, ông ta phải dồn tên tóc đỏ vào chỗ bất lợi nhất nhằm đem lại nhiều lợi ích nhất cho Băng Hóa. Chính trị là vậy. Như đọc được dự định trong đầu Khai Y, Đa Lạt tiếp lời:

-Cho tới ngày công bố sự thật, chúng ta cần Vô Phong sống. Có cậu ta đối chất, chúng ta mới có thêm bằng chứng khẳng định thân thế Mục Á. Ngài biết đấy, để chứng minh dòng máu Biệt Liên đã đứt đoạn không chỉ giám định tế bào là xong. Rất, rất nhiều thứ phiền phức…

Rồi Đa Lạt liệt kê các thủ tục hoàng gia, ông đại thống lĩnh vừa nghe vừa ngẩn mặt như khối băng nứt. Cái sự nhiêu khê làm ông ta phải tính toán lại lần nữa. Lúc ấy, Vô Phong chợt hiểu vai trò của ông học giả. Trong những việc thế này, Đa Lạt nắm giữ quy tắc và hướng dẫn đôi bên có thể hay không thể dùng điều khoản nào, đồng thời cảnh báo hậu họa nếu trái luật. Ông ta không phán xét như quan tòa nhưng luôn nhắc nhở sự phán xét, nhờ vậy ông ta vừa giúp Vô Phong vừa không đi ngược lại lợi ích tổ quốc. “Người điều phối” làm việc như vậy. 

Khi chai rượu “sói xanh” vơi hết một phần ba, Khai Y cũng nghĩ xong điều kiện thương lượng. Ông ta bước đến bàn làm việc, bật máy chiếu ba chiều đoạn ngoảnh sang Vô Phong:

-Đa Lạt nói đúng, cậu cần chuộc lỗi với sự cao quý lẫn danh dự, mặc dù nó chẳng thích hợp lắm với cậu. Có vẻ cậu đang chạy trốn Phi Thiên quốc, đúng không? – Ông ta lật mở rộng màn hình ba chiều với cái mặt Vô Phong chình ình trong lệnh truy nã – Sẽ hơi khó khăn, nhưng ta có thể làm giấy tờ thông hành và nếu cậu biết cách giấu mình, việc đi lại trên Băng Thổ cũng không khó lắm. 

Tên tóc đỏ ngạc nhiên:

-Đi lại trên Băng Thổ, ngài muốn tôi làm gì? 

-Để tìm một thứ. – Khai Y nói – Nếu làm được, ta sẽ bỏ qua tội lỗi của cậu, và ta cũng đảm bảo rằng chính phủ hay hoàng gia Băng Hóa không xét xử cậu. Thậm chí, nếu may mắn, cậu sẽ được hoàng gia Băng Hóa ghi ơn. Ta cần cậu tìm một thứ mà nhiều năm qua, không một gã săn tiền thưởng hay tay săn lùng kỳ cựu nào làm được. Để làm việc, cậu cần vài người cũng như mua sắm dụng cụ cần thiết. Địa điểm nằm ở đây…

Ông đại thống lĩnh mở một màn hình ba chiều mới. Lúc này, ngay trước mặt Vô Phong, một bản đồ địa lý hiện ra lửng lơ giữa không trung. Bản đồ mô tả một vùng đất rộng lớn nằm ở tây bắc Băng Thổ và cách xa thành thị, gọi là Vương Quốc Cũ. Nhìn những thông tin liên quan, Vô Phong nhận ra khu vực này gần như bỏ hoang, chỉ có vài bộ tộc thiểu số sinh sống rải rác. Điều kỳ lạ là không quốc gia nào tuyên bố chủ quyền tại khu vực này. Ông đại thống lĩnh giải thích:

-Vương Quốc Cũ từng là một đế chế thời phi cơ giới. Nó được lập nên bởi những người trốn chạy từ phương tây tức lục địa Hoa Thổ. Họ tới đây, tạo nên thể chế mới và hình thành quốc gia đầu tiên tại Băng Thổ vốn chỉ toàn những bộ tộc hay thành trì nhỏ lẻ. Họ cũng mang theo cả chế độ nô lệ, để sau này chúng ta có Biệt Liên Đại Đế. Trong tâm thức phương bắc, khu vực này khởi nguồn cho tất cả song cũng mang lại đau đớn cho tất cả, nó thiêng liêng nhưng cũng đầy nguyền rủa. Thế nên không quốc gia nào chiếm hữu Vương Quốc Cũ, kể cả Băng Hóa. 

Vô Phong nheo mắt nhìn bản đồ, trông mấy khu vực heo hút không bóng người mà ngán. Một số hình ảnh bên cạnh bản đồ cho thấy Vương Quốc Cũ chỉ toàn phế tích, rất ít hoặc hầu như không có đường bộ, họa may sót lại những đường mòn xây dựng thuở xa xưa. Ở nơi này, sóng điện thoại cũng chập chờn còn mạng máy tính ba chiều thì tịt ngóm. Vô Phong thở phù, thầm nghĩ đặt chân tới đây chưa tìm được gì đã thành món cá phi lê ngâm đá. Ông đại thống lĩnh tiếp lời:

-Như cậu vừa nghe, cần rất nhiều thủ tục nhiêu khê mới chứng minh được Mục Á mang dòng máu hoàng gia. Bởi thế nhiều năm qua, ta cử người đến Vương Quốc Cũ tìm tro cốt của bà nội Mục Á. Bà ấy tên là Biệt Liên Đa Xuyến, người được tin là sống sót sau vụ thảm sát hơn nửa thế kỷ trước. Đa Xuyến sinh ra Mục Du Cổ, cha đẻ Mục Á. Khi còn sống tại Vương Quốc Cũ, Mục Du Cổ đã hỏa thiêu mẹ mình, sau đó đem giấu tro cốt. Đến bây giờ ta vẫn không biết tro cốt ở đâu.

-Có khi nào ông ta rải sông không? – Vô Phong hỏi – Nếu thế thì sao tìm được? 

Vị học giả Đa Lạt lên tiếng:

-Chúng tôi không có tục lệ rải tro xuống sông. Trong văn hóa phương bắc, nguyên tố “thủy” chỉ là phụ, thậm chí mang điềm xấu. Nhưng kể cả Mục Du Cổ rải xuống sông, tro cốt vẫn tự động thu về một chỗ mà không bị dòng chảy cuốn đi, thậm chí phát sáng rực rỡ. Đó là điểm đặc biệt của họ Biệt Liên. 

-Chúng ta đã dò tìm nhiều con sông nhưng chẳng thấy gì cả. – Ông đại thống lĩnh lắc đầu – Không có di cốt của Biệt Liên Đa Xuyến, thân thế Mục Á vẫn bị bỏ ngỏ. Cậu nghĩ sao, tóc đỏ? Cậu đồng ý chứ? Hy vọng cậu rủ lòng thương cho người đã khuất, nhất là một phụ nữ. 

Khai Y hạ giọng từ đe dọa sang cầu khẩn. Thâm tâm Vô Phong bị đánh động phần nào. Sau ngày Mục Á chết, hắn tự nhắc nhở mình sẽ giúp nàng lấy lại danh dự nếu có cơ hội[2]. Giờ cơ hội tới, hắn nghĩ bản thân phải có trách nhiệm dù biết nhiệm vụ ở Vương Quốc Cũ lắm rủi ro. Tên tóc đỏ tính toán một hồi, sau nói:

-Tôi cần thời gian, tôi đang vướng công việc với Mi Kha. Sau khi xong chuyện, tôi sẽ làm việc mà ngài giao. Ngoài ra, tôi cần mình được an toàn. Tôi nghe nói bọn “bốc mả” từ Ẩn Lý Thị đã sang Băng Thổ, chúng tìm tôi báo thù. Như ông Đa Lạt nói, ngài cần tôi còn sống cho tới lúc công bố chuyện Mục Á, vậy nên tôi cần sự đảm bảo. Ngài không phiền chứ?

Ông đại thống lĩnh ngẫm nghĩ, uống thêm ngụm rượu đoạn gật gù:

-Được thôi, ta sẽ đảm bảo cho cậu. Về vấn đề Ẩn Lý Thị, ta sẽ cử người sang Diệp quốc. Nhưng còn việc tìm di cốt, cậu phải khẩn trương. Ta không quan tâm cậu với Mi Kha có chuyện gì, ta cần cậu ưu tiên việc tìm di cốt trước. Không phải ta làm khó cậu hay Mi Kha; ta yêu quý Mi Kha, cô bé rất được việc. Nhưng bên Ẩn Lý Thị không chờ đợi; họ chưa làm đám tang chính thức, nghĩa là xác Mục Á vẫn được bảo quản trước khi đem chôn. Nếu Băng Hóa không đàm phán nhanh, chúng ta rất khó đem lại Mục Á trở lại phương bắc. 

-Tôi không thể làm hai việc cùng lúc! – Vô Phong kêu lên – Tôi đã ký hợp đồng với Mi Kha rồi!

-Như đã nói, đó là chuyện của cậu với Mi Kha, ta không quan tâm. – Khai Y kiên quyết – Bị lũ “bốc mả” và người phương bắc săn đuổi suốt đời hay sống thoải mái? Tùy cậu chọn thôi, tóc đỏ. Tin ta đi, trước lúc chết, chẳng ai muốn sống trong lo sợ đâu.

Mặc tên tóc đỏ phân bua, Khai Y vẫn không thay đổi ý định. Ông ta cũng gạt đi lời khuyên của Đa Lạt cho rằng làm vậy chỉ khiến Vô Phong gặp rắc rối. Lúc này, ông đại thống lĩnh như quả núi băng không gì lay chuyển nổi. Cuộc thương lượng kết thúc, Vô Phong thất vọng ra về. Đành rằng sau mỗi cuộc thương lượng là mỗi bên đều thất vọng một ít, nhưng Vô Phong thấy mình thiệt quá nhiều. Mấy lời an ủi từ Đa Lạt chẳng làm hắn khá hơn. Đã ba giờ sáng song Vô Phong không ngủ, hắn cần gọi điện cho Mi Kha.

Trong một ngày xui xẻo, những sự xui xẻo, xui thay, cứ thay nhau xuất hiện liên tục. Cô nàng Mi Kha xinh đẹp dễ chiều bỗng trở thành bà già khó ở. Vô Phong gọi điện xin thương lượng lại, cô ả giãy đành đạch nhất quyết không nghe. “Hợp đồng đã ký, bàn lại là thế nào? Bộ anh giỡn mặt tôi? Không thể ngừng được! Bọn trẻ họ Cát Giá đang chết dần, không có các nhà khoa học, tôi không thể làm gì cả! Đừng đùa với tôi, tóc đỏ! TÔI GIẾT ANH ĐẤY!” – Cô nàng gằn giọng kèm theo cái dập máy chát chúa, Vô Phong như muốn điếc lỗ nhĩ. Si Giáng vỗ vai hắn thông cảm:

-Anh không phải người đầu tiên. Ngày trước, khi tôi và bà chị Si Thăng muốn phá hợp đồng, bà già Mi Kha đến tận nơi rồi túm tóc hai đứa tôi đánh một trận. Không trốn được bả đâu! 

Vô Phong cười không được mếu không xong, đành tùy gió chiều nào thì ngả chiều ấy. Chỉ nội một ngày, hắn bỗng ghét người Băng Hóa thêm một ít. “Người Băng Hóa không bao giờ tốt!” – Hắn vẫn nhớ như in lời của đại thánh sứ Tây Minh.

Sáng hôm sau, nhân viên họ Xuy Hạ mang giấy tờ thông hành, thẻ căn cước, tiền mặt cộng thêm tài liệu hướng dẫn cho Vô Phong. Chúng bao gồm những nơi cần đến, một số người cần gặp, các thiết bị vật tư cần vận chuyển. Cả nùi công việc ập xuống, tên tóc đỏ tính ra chẳng lãi được gì ngoài tiền. Hắn so sánh hai nhiệm vụ, tìm các địa điểm trùng khớp, sau đó vạch ra một lộ trình nhằm đảm bảo rằng từ nay tới tháng 3, hắn vừa tìm đám khoa học gia cho Mi Kha, vừa tuyển mộ thành viên đến Vương Quốc Cũ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, hắn nhận ra họa may một ngày có bảy mươi hai tiếng mới giải quyết nổi. 

-Nhờ “gã” xem! – Si Giáng gợi ý cho tên tóc đỏ – Tìm kiếm, thu thập, nghe ngóng chim lợn, chẳng phải “gã” giỏi nhất hay sao? Trong giới đánh thuê, tôi thấy “gã” là tên “điếm thối” giỏi nhất!

Vô Phong gục đầu. Sau chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, hắn không hy vọng gặp kẻ nọ thêm lần nào nữa. Nhưng hiểm họa thổi lửa bén mông, hắn cực chẳng đã phải nhấc máy gọi. Sau ba tiếng tút dài, một giọng nhừa nhựa đáp trả tên tóc đỏ:

-Vô Phong? Lâu quá rồi mới thấy cậu gọi, tôi vui biết chừng nào! Phải, là tôi, Mai Hoa. Ồ, lại làm ăn hả? Vậy chúng ta cùng bàn bạc nhé! Do cậu là người quen nên tôi lấy giá rẻ thôi! Hi hi!



Một ngày tháng 3…

Đã ba tuần kể từ ngày Vô Phong rời Băng Hóa thành. Mặc dù tên tóc đỏ giữ liên lạc đều đặn bốn ngày một lần, thông báo địa điểm đàng hoàng nhưng Đa Lạt không thể xác định rõ hắn ở chỗ nào. Ông học giả vẽ đường di chuyển của Vô Phong trên bản đồ, nhận ra tên này nhiều khả năng tiến vào khu vực sáu nước đông bắc. Khoảng ba, bốn nhà khoa học phục vụ Đề Án Mắt Trắng sống tại sáu nước; vài nhân vật cần thiết cho chuyến đi tới Vương Quốc Cũ cũng loanh quanh ở đó. Điều đáng nói là khu vực này hiện đầy rẫy xung đột nhỏ lẻ, từng khoảnh đất đều có lính đánh thuê và phiến quân địa phương. Đa Lạt sợ rằng tên tóc đỏ kết thúc nhiệm vụ của Mi Kha với sức khỏe tàn tạ, mà sức khỏe tàn tạ thì không thể đến Vương Quốc Cũ. 

Trên chuyến bay tới Diệp quốc, Đa Lạt lặng lẽ trầm mình vào máy chiếu ba chiều, lúc xem bản đồ Băng Thổ khi đảo qua tin tức thời sự. Hơn một năm gần đây, tin tức Băng Thổ chẳng bao giờ vui, nếu không phải các nước ly khai Liên Minh thì đụng độ, biểu tình hoặc bạo loạn. Và nếu người ta biết giọt máu cuối cùng của Biệt Liên Đại Đế qua đời, Liên Minh Phương Bắc tất sụp đổ. Những tiểu quốc đòi độc lập, đám phiến quân phản đối Băng Hóa, Lực Lượng Mù Thủy ngày đêm chống đối – tất cả đều chờ đợi thời khắc đó. Vài ngày trước, Đa Lạt kể chuyện cho vợ. Ông chẳng bao giờ quên vợ mình khóc như mưa như gió thế nào:

“Mục Á chết? Anh có nhầm không, chàng béo? Ôi, Mục Á chết rồi sao? Tại sao con thiên nga ấy lại chết? Con thiên nga ấy phải vỗ cánh, anh hiểu chứ, nó phải vỗ cánh cho người ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp. Giam cầm hay bắt giữ con thiên nga ấy đều là tội ác! Ôi, Mục Á chết rồi”

Đa Lạt phải che miệng bà vợ để đám người phục vụ không nghe thấy. Ông biết vợ mình từng thân thiết và thuộc số rất ít người gần gũi với Mục Á, tình cảm cố nhiên sâu sắc. Nhưng vài ngày kế tiếp, căn nhà vốn đầy ắp tiếng cười nói của ông bỗng trầm hẳn, thiếu mỗi tiếng khóc là thành nhà có tang. Vợ mình đã thế, người khác thì sao? – Ông tự hỏi. 

Đa Lạt không phải người Băng Hóa chính gốc, một nửa dòng máu trong ông thuộc về miền đông nam lục địa, cái xứ sở mà người ta thường cười cợt rằng “có lũ đàn ông yếu đuối như đàn bà”. Quả vậy, nơi đấy yên bình hơn phần lớn lục địa, vài đất nước tham gia Khối Ngũ Giác thay vì khối liên minh truyền thống. Ở khía cạnh nào đó, ông ủng hộ các tiểu quốc giành độc lập và không phụ thuộc Băng Hóa; tất nhiên là ông không dám công khai bày tỏ quan điểm. Nhưng sâu thẳm trong tim mình, Đa Lạt biết mình vẫn trông về Băng Hóa, vẫn nghe ngóng lời đồn thổi xung quanh Biệt Liên Đại Đế cùng dòng máu của ngài. Giờ dòng máu Đại Đế đứt đoạn, ông học giả cảm giác một thời kỳ loạn lạc bất ổn vô tận sắp xảy đến. Bằng lý trí, ông biết viễn cảnh ấy vừa hoang đường vừa thiếu chứng cứ, nhưng trái tim phương bắc của ông bảo điều ngược lại. Giống như ai đấy từng nói “Rốt cục thì chúng ta quyết định bằng tình cảm chứ không phải đầu óc”.

Chiếc phi thuyền chở Đa Lạt tiến vào địa phận Diệp quốc. Ba mươi phút sau, nó đáp xuống một phi trường nằm trên sườn núi. Đương tháng 3, thời tiết Diệp quốc chưa sang xuân, mùa đông hẵng còn hiện diện trên đỉnh núi, khu rừng dưới chân núi hay các dải đồi bao quanh. Tất cả đều khoác một màu trắng lặng lẽ thay vì dữ dội khắc nghiệt như Băng Thổ. Nhiều năm trước, lần đầu tiên Đa Lạt công tác ở Diệp quốc và nhận ra mùa đông xứ này thích hợp với mình hơn. Thành ra hễ nghỉ phép là ông đưa gia đình sang đây du lịch tĩnh dưỡng. 

Nhưng Đa Lạt ngờ rằng phải rất lâu nữa, ông mới được nghỉ phép. Và nếu – chỉ là nếu – viễn cảnh Băng Thổ sụp đổ xảy ra, nghỉ phép chỉ còn là danh từ cũ kĩ. 

Từ phi thuyền, Đa Lạt xuống nhà chờ phi trường. Giữa dòng người làm thủ tục hải quan, ông chợt thấy ở phía xa có hai người đàn ông giơ cao biểu ngữ ghi tên mình. Đa Lạt bước khỏi hàng chờ rồi theo chân hai người đó rời phi trường. Hai người nói rằng đã làm thủ tục hộ Đa Lạt từ trước. Vị học giả thấy bọn họ cũng giống bao người Diệp quốc, ăn vận như nhân viên công vụ, chẳng nổi bật điểm nào. Mãi tới khi bước lên phi thuyền của họ, Đa Lạt mới nhận ra biểu tượng gia huy trên ghế ngồi. Khác xứ phương bắc thích phô trương, người Diệp quốc kín đáo hơn nhiều. Gia huy hình trăng lưỡi liềm xanh ẩn sau mây trắng – biểu tượng dòng họ Ẩn Lý Thị. Ngày đầu tiên đến Diệp quốc cũng là lần đầu tiên ông gặp gia huy này, từ ấy tới giờ đã khoảng mười năm. 

Một trong hai người vừa nãy tiếp Đa Lạt trong khoang ngồi. Phi thuyền cất cánh, cửa sổ khoang ngồi đóng kín như muốn che chắn những cặp mắt vô hình bên ngoài. Đèn bật, một chiếc bàn nhỏ từ sàn khoang nổi lên với trà nóng, đồ ăn nhẹ làm ấm lòng người vừa kết thúc hành trình dài. Đa Lạt nhác thấy món bánh ngọt mà mười năm trước từng được nếm thử tại dinh thự Ẩn Lý Thị, ông yêu thích tới nỗi xin vài hộp về làm quà. Người Diệp quốc vẫn tinh tế và hiện đại như vậy. 

-Mừng ngài học giả Đa Lạt hạ cố ghé thăm! Toàn thể dòng họ Ẩn Lý rất vui mừng và lấy làm vinh hạnh! – Người Ẩn Lý Thị cúi thấp đầu, đó là một người trẻ tuổi – Mời ngài dùng!

Anh chàng nọ đưa tay mời. Đa Lạt bốc vài cái bánh rồi nói:

-Cậu biết tôi đến vì việc gì chứ? Biết hả? Vậy… cô ấy thế nào? 

-Chúng tôi đang bảo quản di hài tiểu thư. – Anh chàng nọ tiếp tục cúi đầu – Chúng tôi sử dụng những phép thuật tốt nhất, di hài tiểu thư sắp trở lại dáng vẻ như lúc còn sống. Khi nào Ẩn Lý Thị báo thù xong xuôi, chúng tôi mới chôn cất tiểu thư.

Đa Lạt gật gù vẻ đồng tình nhưng thâm tâm lợn cợn. Ông và đại thống lĩnh Khai Y vẫn chưa thông báo rằng họ đã gặp Vô Phong. Người Diệp quốc nhiều đức tính, hiếm tật xấu, khốn thay một tật xấu cố hữu của họ lại là “báo thù”. Họ cố chấp việc đó hơn cả người phương bắc dù chẳng tôn thờ nữ thần Nê Mê. Chuyện tên tóc đỏ lộ ra, mọi đàm phán giữa Băng Hóa và Ẩn Lý Thị tất đổ sông đổ bể. 

Phi thuyền đưa Đa Lạt về dinh thự Ẩn Lý Thị. Cửa sổ khoang ngồi đóng suốt nên vị học giả không có dịp ngắm thành phố. Nhưng ông có thể hình dung nó qua ký ức. Thành phố tên Câu Nguyệt thành, nằm ở phía tây Diệp quốc và dựa lưng vùng núi non trùng điệp ngăn cách Diệp quốc với các nước láng giềng. Một thành phố yên bình, đẹp đẽ, trầm lặng với những con đường nhỏ quanh co, những ngôi nhà thấp mái ẩn sau các sân vườn trồng hoa trà. Hoa trà ở đây đủ loại, rực rỡ cả góc trời mỗi khi hoàng hôn xuống, nhất là buổi chiều hè. Mục Á sống nửa quãng đời ở Câu Nguyệt thành trước khi lưu lạc sang phương bắc. 

Dinh thự Ẩn Lý Thị không quá cách biệt với khu dân cư. Nó nằm ở phía tây thành phố và ẩn mình dưới cánh rừng quanh chân núi. Phi thuyền chở Đa Lạt hạ xuống bãi đáp của dòng họ, sau đấy người Ẩn Lý Thị dẫn ông học giả đến nhà khách dinh thự. Bước qua nhiều lối mòn rợp bóng cây và cây cầu vắt qua dòng suối tự nhiên, Đa Lạt thấy cảnh vật nơi này chẳng đổi khác sau mười năm. Vẫn những ngôi nhà gỗ nằm ngụ trên từng khoảnh đất, nối với nhau bằng các hành lang lợp mái xám có lan can, cách một quãng lại treo đèn lồng vẽ gia huy dòng họ. Mỗi ngôi nhà đều có vườn trồng hoa trà lẫn hoa trạch kết. Ngày hè, hoa trạch kết nở rộ, nhuộm sắc vàng lẫn trắng khắp dinh thự. Nhưng giờ chưa phải mùa, hoa trạch kết chưa nở, chỉ có những đóa sơn trà trắng mà thôi. 

Đa Lạt được đưa tới nhà khách, người dẫn đường bảo ông chờ ít phút vì gia chủ đang bận việc quan trọng. Truyền thống Diệp quốc bỏ giày dép ngoài hiên nhà, Đa Lạt tuân theo thủ tục ấy. Người Ẩn Lý Thị mang trà bánh giúp ông đỡ buồn chán khi phải đợi lâu. Nhưng vị học giả nhận ra mình không phải người duy nhất. Cách Đa Lạt dăm bước chân, một cô gái tóc vàng đang nằm dài trên bàn, cốc trà trong tay đã nguội ngắt còn đĩa bánh trước mặt hết nhẵn. Người giúp việc tới mang thêm trà bánh, cô gái hỏi bao giờ mới được gặp gia chủ thì nhận được cái lắc đầu. Thất vọng, cô nàng tiếp tục gục mặt xuống bàn. Nghe qua, Đa Lạt đoán cô gái đến từ Phi Thiên quốc, mặc dù vóc dáng cô ta hơi nhỏ nhắn so với phụ nữ Phi Thiên. 

Thấy vị học giả nhìn mình, cô gái mỉm cười chào trả đoạn ngồi thẳng dậy thay vì nằm bò ra bàn. Đa Lạt cười:

-Thi thoảng phải chờ như vậy, Ẩn Lý Thị mà!

Cô gái gật đầu lia lịa như vừa tìm thấy người đồng cảm. Đa Lạt nhíu mày nhìn lần nữa, cảm giác đã gặp cô gái tóc vàng ở đâu đó. Cô gái nhích gần đến vị học giả, nói:

-Tôi mới đến Ẩn Lý Thị lần đầu. Ngài là khách quen hả? 

-Không, tôi mới đến lần hai. – Đa Lạt thật thà đáp – Công việc thôi! Nhưng người phương đông luôn tiếp đãi khách như người nhà, phải chứ?

Cô gái tóc vàng giơ ngón cái đồng ý với ông học giả, vừa khen người Diệp quốc đãi khách hậu. Nàng ta hỏi:

-Ngài có gấp không? 

-Ý cô là sao? – Đa Lạt ngạc nhiên – Phải, tôi đang rất vội. Nhưng tại sao cô hỏi vậy?

Cô nàng tóc vàng co chân ôm gối thở dài:

-Tôi muốn khóc quá! Lần nào tới đây cũng phải chờ đợi, mà công việc có đợi tôi đâu? Ẩn Lý Thị làm người ta bực mình quá! Ngài đến từ phương bắc, nhỉ? Vậy ngài có thể nhường tôi không? Tôi biết ngài đến từ phương xa, đường dài mệt mỏi, nhưng tôi cũng chờ lâu quá rồi, chờ thêm nữa chắc tôi chảy thành sáp dẻo mất! Nhường tôi nhé, xin ngài giúp đỡ! Tôi hứa sẽ đền bù cho ngài một hộp bánh ngon thật là ngon, hứa đấy!

Cô nàng liến thoắng tới tấp làm Đa Lạt luống cuống. Từ ngày kết hôn, ông chẳng mấy khi tiếp xúc những cô gái trẻ, họ hiện đại quá mức còn ông lại thích kiểu cổ điển. Điện thoại rung bần bật trong túi áo, ông lật đật rút nó ra mà chẳng xem ai đang gọi, chỉ kịp trả lời:

-Đây… đây là Đa Lạt, xin hỏi ai…

“Ông ở đâu thế?! Tôi cần giúp đỡ! Chúng tôi bị kẹt! Bọn phiến quân đang ở đây!”

Tiếng hét từ điện thoại vang ra làm Đa Lạt lẫn cô gái tóc vàng giật mình. Ông học giả vội vã rời phòng khách rồi nói:

-Tóc đỏ? Cậu đang ở đâu thế? 

“Vùng sáu nước đông bắc!” – Vô Phong trả lời, giọng nói bị tiếng súng tiếng bom át đi – “Bọn đánh thuê với phiến quân đang đánh nhau! Chúng tôi bị kẹt ở giữa!”

-Tôi không ở Băng Hóa. Giờ tôi đang ở Diệp quốc! – Đa Lạt trả lời – Nhưng tôi sẽ gửi tin nhắn cho đại thống lĩnh Khai Y, ông ấy sẽ giúp cậu. 

“Nhanh lên, ông già! Tôi không muốn bị thui chín đâu!” – Vô Phong gào lên.

Đa Lạt gác điện thoại rồi thở dài. Ông bấm máy gọi đại thống lĩnh, nhưng vừa quay ra thì thấy cô gái tóc vàng đã lù lù sau lưng mình từ lúc nào. Vị học giả nhăn trán:

-Cô… cô làm gì thế?

-Ngài nói chuyện với ai vậy, tôi nghe giọng quen lắm! – Cô gái tóc vàng nói – Tôi có thể hỏi người đấy là ai không?

Ông học giả nhăn trán, bị một cô gái lạ truy hỏi khiến ông khó chịu. Đa Lạt bèn nghiêm giọng:

-Xin lỗi nhưng đây là việc riêng, mong cô hiểu! 

Cô gái tóc vàng xụ mặt vẻ không hài lòng. Nhưng sau rốt cô ta cũng chấp nhận rằng mình đang làm phiền người khác. Nở nụ cười thân thiện, cô gái chìa tay:

-Xin lỗi vì quấy rầy ngài, có lẽ tôi hơi nhạy cảm. Mong ngài bỏ qua. Tôi là Tiểu Hồ, đến từ Phi Thiên quốc. 

Đa Lạt bắt tay cô gái, lòng ngờ ngợ. Ông lục lọi hàng trăm hàng nghìn sự kiện, cuối cùng mới nhớ cái tên Tiểu Hồ từng xuất hiện ở Kỳ Thi Tổng Lãnh. Trong các hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu – mà bây giờ là Phó Tổng Lãnh, Tiểu Hồ và Vô Phong từng làm việc chung. “Chả trách cô ta nhạy cảm thế!” – Đa Lạt hú hồn. Cho tới lúc đem được di thể Mục Á về phương bắc, ông sẽ không để lộ tung tích Vô Phong cho bất cứ ai.

[1]: Vô Phong từng có một căn hộ tại Chợ Rác, xem lại Quyển 3 Chương 58

[2]: xem lại Quyển 3 Chương 99, 100
 
Quyển 5 - Chương 9: Sứ giả của các vị thần


Nếu được quay lại cuộc sống bình thường, Vô Phong sẽ không ngần ngại điền vào phần kỹ năng trong hồ sơ xin việc: “có thể sống sót giữa hai làn đạn”. Quận 4 Cửu Long, sa mạc Hồi Đằng, Khẩu Lỗ thành rồi miền đông bắc Băng Thổ – cái đận kẹt giữa lũ điên choảng nhau bước sang lần thứ tư. Nó chưa chịu buông tha tên tóc đỏ. 

Bên trong một ngôi nhà thuộc vùng biên Bạch Tu quốc, miền đông bắc Băng Thổ…

Vô Phong ghé đầu gần khe cửa sổ, nắng tàn kẻ đường thẳng lờ nhờ trên bộ mặt ám khói. Qua cái khe, hắn trông thấy thành phố đầu mối giao thương giữa Bình Di quốc và Bạch Tu quốc. Một nơi sầm uất gồm những bến tàu điện ngầm, cảng thuyền cạn tấp nập; những con phố rộn rịp bước chân lũ dã yến với hàng hóa chất đầy lưng; những quán rượu huyên náo với dân buôn, người tộc thiểu số, dân bản địa, người phương đông phương tây tụ họp, kháo nhau đủ mọi chuyện phiếm. Cảnh tượng từng là như thế. Giờ chúng vẫn vậy, chỉ khác là không bóng người và bị đè bẹp dưới bàn chân của sự im lặng. Một số nơi đã vỡ vụn hoặc sứt sở vì đạn pháo. Thành phố đang có chiến tranh.

Ba ngày trước, phiến quân từ Bình Di quốc tràn vào cướp phá, quân chính phủ Bạch Tu cùng lực lượng đánh thuê lập tức đáp trả. Chiến trường lan khắp phố sá, dân chúng vội vã di tản. Chỉ người cứng đầu không chịu bỏ nhà cửa, đám hôi của hay kẻ xui xẻo mới ở lại. Vô Phong thuộc nhóm xui xẻo. Nơi hắn ẩn náu nằm giữa vùng giao tranh, có thể dính đạn pháo bất cứ lúc nào. Cách đây một con đường, dăm ba ngôi nhà há mồm nhìn trời bằng tầng mái thủng toác nóc, gạch bị lột lộ ra dầm sắt cốt thép, tựa thể vừa trở ra từ một trận tra tấn tàn bạo. Vô Phong nghĩ chỗ này chẳng bao lâu nữa cũng há mồm nhìn trời. Xui xẻo thường đi thành chương, đóng thành quyển.

Tên tóc đỏ không dám thập thò bên cửa sổ lâu hơn vì sợ lính bắn tỉa. Hắn trở vào trong, dựa vào thính giác lẫn trực giác để cảnh giới. Lát sau, hắn sang phòng kế bên gọi Si Giáng thay phiên mình. Cô gái uể oải đứng dậy, vừa đi vừa tu bình trà thiết mộc đắng ngoét. Vô Phong ngồi dựa tường, hai mắt dằm dặm như có kim chích trong hốc nhãn cầu, cơ bắp vừa dão duột vừa ngứa ngáy. Lúc này chẳng liều thuốc nào công hiệu bằng một giấc ngủ. Nhưng Vô Phong không thể ngủ, hắn còn phải trông chừng “những người khác”.

“Những người khác” ở đây là bốn ông già. Họ tụ tập với nhau ở góc, người thức kẻ ngủ, ngủ thì co quắp, thức thì lo âu. Ai nấy đều sợ hãi một cách vô thức hoặc có ý thức. Hầu hết họ dành cuộc đời cho thế giới tưởng tượng của phóng thí nghiệm, công thức, số má chữ nghĩa nên không thể chịu nổi chiến tranh – bộ mặt tàn khốc nhất của thực tại. Giữa tâm chiến sự, họ dễ tổn thương, chẳng khác một đám trẻ con dễ tổn thương cần được quan tâm săn sóc. 

-Ông ổn chứ? Ông Đốc Lãm? – Vô Phong nhổm dậy khi thấy một người ho sù sụ mãi không dứt – Thuốc của ông đây! Đợi một chút… nằm yên, cố gắng thở đều. Thuốc còn nhiều, đừng lo! 

Vô Phong đưa bi đông nước cho ông già Đốc Lãm. Uống xong, người nọ đỡ hơn, tiếng ho bớt nặng. Nhiều năm tiếp xúc quang tố dạng thô khiến ông ta bị nhiễm độc phép thuật, cơ quan hô hấp tổn thương nặng, phải dùng thuốc tới ngày xuống mồ. Vô Phong kiểm tra, nhận ra thuốc còn nửa vỉ và qua ngày mai là hết nhẵn. Sang ngày kia ông già cầm chắc cái chết, tên tóc đỏ chỉ trấn an ông ta để tình hình bớt căng thẳng. Ở đây vốn đã quá nhiều căng thẳng. 

Hai ngày trước, tên tóc đỏ gọi điện xin Đa Lạt giúp đỡ và nhận được câu trả lời chắc như đinh đóng cột “Cứ yên tâm! Mọi người sẽ an toàn!”. Nhưng cái an toàn chắc nịch ấy nghe chừng vẫn ở tít Băng Hóa và chưa đóng thùng chuyển lên phi thuyền. Từ ngày Liên Minh rạn nứt, Băng Hóa xử lý mọi chuyện chậm chạp hơn nhiều, sức ảnh hưởng của họ lên toàn lục địa đang yếu đi. 

Chiều tàn, tối đến, Vô Phong gà gật nửa thức nửa ngủ. Bộ não mỏi mệt của hắn chỉ gồng lên khi bộ đàm bên tai lạo xạo giọng nói nhừa nhựa: “Tôi đang vào!”. Mai Hoa xuất hiện sau ít phút. Gã đi thám thính cả chiều và mót được một ít đồ ăn nước uống, nhưng thứ quan trọng nhất là thuốc cho Đốc Lãm lại không có. Thuốc này hiếm, Mai Hoa lục tung cả thành phố mà không tìm nổi một viên. Để tránh to chuyện, Vô Phong kéo gã cú vọ ra một chỗ:

-Ngày kia không có thuốc, ông già tắt thở. – Hắn nói – Anh có thể liên hệ bọn Mũi Tên Vèo Vèo chứ? Bảo chúng chuyển đồ tới đây, đắt bao nhiêu cũng được. Cả Mi Kha lẫn đại thống lĩnh đều cần Đốc Lãm. Ông ta làm sao, cả lũ ăn cám!

-Nếu mà dễ thế thì tôi làm lâu rồi! – Mai Hoa lắc đầu – Mũi Tên Vèo Vèo có chế độ khác với vùng chiến sự. Họ phải thu đủ đơn đặt hàng rồi mới chuyển cả thể. Cậu đặt một khoang thuốc nặng cỡ nửa tấn, may ra họ mới chịu lê mông. Nhưng kể cả vậy, tôi cũng không nghĩ họ sẽ chuyển hàng tới chỗ chúng ta…

Gã cú vọ mở bản đồ ba chiều hiện toàn cảnh thành phố. Mai Hoa chỉ vào khu vực tây nam – nơi giao tranh ác liệt nhất giữa chính phủ và phiến quân, cũng là nơi bọn Vô Phong đang ẩn náu:

-…ở đây hiện chẳng có luật lệ nào, đánh nhau tùm lum! Không giới tuyến ngừng bắn, không có đường chuyển hàng tiếp tế nhân đạo, không có đường cung cấp nhu yếu phẩm. Hỗn loạn y hệt hồi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Chẳng thằng điên nào bán mạng vì mấy vỉ thuốc đâu, anh bạn. 

-Hết cách à? – Vô Phong gãi đầu.

-Có, nhưng khó. – Mai Hoa đáp – Phải qua chỗ chính phủ đóng quân rồi nhờ họ chuyển hàng. Vấn đề là quân chính phủ đang dựng hàng rào kẽm gai, bất cứ ai bên ngoài hàng rào đều là kẻ địch. Tôi có quan hệ ở Bạch Tu nhưng vô dụng. Bạch Tu quốc đang xù lông, họ đang chửi rủa cả phiến quân lẫn Bình Di quốc. Nói lý với đám đầu nóng là dại, phải đợi đầu chúng nguội bớt, mà đợi nguội xong…

Gã cú vọ nhún vai thay lời muốn nói. Tên tóc đỏ nhăn mặt thầm kêu khổ. Như hắn dự liệu, xui xẻo luôn nối đuôi nhau mà tới. Nhưng giờ không phải lúc để Vô Phong than khổ kêu sở, hắn cần tìm ra cách.

Ba tuần trước, Vô Phong khởi hành từ Băng Hóa quốc đi tìm các nhà khoa học từng phục vụ Đề Án Mắt Trắng. Một hành trình dài dằng dặc bắt đầu từ các nước tây nam lục địa, vòng xuống phía nam rồi hướng lên tây bắc, tiến đến vùng giáp ranh với lục địa Đông Thổ, cuối cùng trở lại Sáu Nước Đông Bắc này. Danh sách gồm ba mươi hai người, hắn chỉ tìm được hai mươi mốt, bảy người đã chết vì bệnh tật hoặc mất tích, bốn người ở đây là cuối cùng. Làm việc với đám này không dễ; sau nhiều năm bị Băng Hóa quốc kìm kẹp, họ cố nhiên thèm khát tự do và không thích một gã từ đâu mò đến bắt mình làm nọ kia. Vô Phong phải dùng mọi thủ đoạn để “đóng gói” đám cứng đầu này lên chuyến tàu đến Biên Ngoại thành – thủ phủ của họ Cát Giá, kể cả biện pháp mạnh như chích điện. Hắn không dư thời gian cũng không nhiều lựa chọn. 

Suốt ba tuần ấy, Vô Phong lo ngay ngáy về bọn “bốc mả” từ Đông Thổ. Không ai biết chúng đi đâu hay làm gì, cũng không một động thái nào cho thấy chúng từng tồn tại. Người khác nghĩ đó là chuyện phiếm đánh thuê, cứ dăm bữa nửa tháng lại có, còn với Vô Phong – mục tiêu của lũ “bốc mả” – thì chẳng dễ chịu chút nào. Hắn cảm giác những cái mũi chó săn hít hà bới móc từng khoảnh đất Băng Thổ đang hướng về mình. Trong thời gian này, hắn có xu hướng phân biệt chủng tộc khi lảng tránh người Đông Thổ hoặc bất cứ ai có đặc điểm “Đông Thổ”. Nếu bất đắc dĩ tiếp xúc, hắn sẽ cẩn thận săm soi họ.

“Đừng tỏ ra tiêu cực vậy, anh chỉ làm mọi thứ rối hơn thôi!” – Có lần Si Giáng khuyên nhủ – “Cứ đợi tin tức ông Đa Lạt, biết đâu ông ấy thuyết phục được Ẩn Lý Thị? Ông ấy là người điều phối mà, đúng không? Ổng đã giải quyết bao nhiêu vụ phức tạp rồi, chuyện cỏn con này đáng gì?” 

Si Giáng có lý lẽ nhưng bởi không ở vị trí như Vô Phong nên cô ả vô tư. Kẻ ngoài cuộc bao giờ cũng sáng suốt. Dọc đường hóng chuyện dân buôn và lính đánh thuê, hắn nghe lỏm được vô số chuyện báo thù của dân Đông Thổ, đặc biệt là người Diệp quốc. Càng nghe, hắn càng ít trông đợi vào ông học giả. 

Mặt trời lặn hẳn, bóng tối dày đặc hơn, gió tuyết cào những móng tay lạnh lên thành phố vùng biên kêu rin rít. Vô Phong nhìn màn đêm qua khe cửa, trong đầu tính toán những giải pháp. Hắn mở bản đồ, dự tính tiếp cận khu vực quân chính phủ. Nếu hắn đi ngay đêm nay và may mắn được giúp đỡ, thuốc mới đến kịp ngày. 

Đương mải tính, tên tóc đỏ bỗng thấy một nhà khoa học bước tới xin điếu thuốc. Đáp lại, Vô Phong đưa bao thuốc cùng bật lửa cho ông già trong khi vẫn cắm mặt vào bản đồ. Hắn đang tránh giao tiếp bằng mắt với người nọ. Mỗi cái nhìn của ông ta tựa mảnh dao lam cắt da thịt, vết không rộng nhưng sâu và ủng tràn máu. Thực tình ông già chẳng có ác ý mà ngược lại, luôn thân thiện và tươi cười. Chính vì những biểu cảm đó của ông già mà Vô Phong mới khó xử. Những kẻ gây tội luôn nhạy cảm với lòng tốt. 

Ông già khoa học gia nhìn bản đồ, nghĩ ngợi đôi chút đoạn cất lời:

-Tôi biết cậu hết thuốc cho Đốc Lãm, nhưng đừng cố quá. Tôi biết một số chuyện ngoài kia. Quân chính phủ đang coi mọi người ngoài giới tuyến là kẻ địch, giờ cậu vào đó chỉ làm bia tập bắn thôi. Trừ phi cậu mang cho họ một cục quang tố. 

Vô Phong gật gù tỏ ý đã nghe. Ông già tiếp tục:

-Đừng dằn vặt nhiều, anh bạn. Người phương bắc chúng tôi coi cuộc sống là bữa nhậu và mỗi ngày là một ly rượu, cứ uống mãi uống mãi, anh sẽ quên bữa nhậu bắt đầu từ lúc nào, cũng chẳng nhớ những ly rượu trước ra sao.

-Ông thật sự tha thứ cho tôi? – Vô Phong chợt hỏi. 

-Đúng, tôi đã làm vậy và tin rằng làm vậy là đúng. Vấn đề ở cậu, không phải tôi. Cậu nghĩ sao? 

Vô Phong không trả lời. Trong đám khoa học gia mà hắn từng gặp, người này đặc biệt hơn cả. Ông ta tên Ngột Đài, người Bạch Tu quốc. Ngày tên tóc đỏ gõ cửa nhà, Ngột Đài tiếp đón hắn đàng hoàng thay vì chửi bới xua đuổi như mấy nhà khoa học khác. Cách đây một tuần, bên bàn trà, Vô Phong được nghe những chuyện chưa bao giờ biết nhưng lại do chính tay mình gây nên…

*

* *

Tôi biết cậu vì chúng ta từng gặp nhau, mặc dù… trông cậu hơi khác. Quả thực là bây giờ, cậu khác nhiều! Không giống hồi đó khi cậu xuất hiện ở ngưỡng cửa, tôi đã biết rằng cậu mang theo chết chóc lẫn đau khổ. Và cả tóc đỏ nữa! Cậu nhuộm tóc phải không? 

Khi ấy tôi không sống ở Bạch Tu quốc. Vì không muốn bị Băng Hóa giám sát, tôi sang Cận Hải quốc thuộc tây nam lục địa, nước này thuộc Khối Ngũ Giác và luôn dè chừng Băng Hóa. Tôi từ bỏ nghiên cứu khoa học, chuyển nghề đánh xe dã yến. Tôi từng nghĩ mình sẽ không bao giờ làm cái nghề thấp kém như vậy, nhưng hóa ra nó hợp với tôi và cho tôi nhiều thứ hơn là khi làm khoa học. Thậm chí khi chuyển nghề, tôi có thêm một đứa con trai – điều mà tôi luôn mong mỏi nhưng không thể có khi làm khoa học. Tôi, vợ, con trai và con gái lớn sống hạnh phúc trong một trang trại nhỏ. Chúng tôi không có nhiều và cũng có rất nhiều.

Một ngày tháng cuối năm 7505, chính xác là ngày 7 tháng 12 năm đó, cậu gõ cửa nhà tôi. Tại sao tôi nhớ? Vì tôi không thể quên ngày đó. Thậm chí tôi nhớ chính xác cậu đến lúc mười giờ tối, bởi đúng lúc đó đồng hồ trong phòng khách rung chuông. Hôm ấy rất lạnh, mưa buốt, còn cậu đến với bộ dạng ướt đẫm, áo quần rách nát. Cậu nói mình cần giúp đỡ.

Trong khoảnh khắc đó, tôi đã muốn từ chối. Mái tóc đỏ cùng ánh mắt của cậu khiến tôi dự cảm không lành, dù rằng khuôn mặt cậu mỏi mệt như vừa chạy trốn. Nhưng tôi không tin tưởng trực giác của mình, bởi từ khi sinh ra, trực giác luôn khiến tôi mắc sai lầm. Chẳng ai muốn sai mãi, đúng không? Và liệu ai muốn ngoảnh mặt trước lời cầu xin khẩn khoản? Vậy là tôi mời cậu vào nhà với sự hiếu khách. Tôi mang cho cậu quần áo mới, rồi dọn bánh mì, sữa nóng, mứt cam và một ít bơ. Cậu ăn ngon miệng, nói rằng mình là dân Hoa Thổ bị lừa sang đây làm nô lệ tình dục đồng tính. Tôi tin lời cậu vì chuyện này không hiếm ở Băng Thổ. Lúc đó cậu trẻ hơn, thân thể gầy gò, dễ bị bọn đồng tính để mắt. 

Ăn xong, cậu xin ngủ nhờ một đêm. Tôi từ chối. Cậu tiếp tục cầu xin, nói rằng sẵn sàng ngủ dưới sàn bếp hoặc ở cạnh cửa ra vào, miễn là không phải ra ngoài. Rốt cục tôi đồng ý. Tôi không phải người quý tộc sẵn sàng đáp ứng mọi đòi hỏi của khách, tôi chỉ muốn làm điều đúng đắn. Ngày đó, tôi cũng giống cậu bây giờ khi mỗi ngày phải sống trong dằn vặt nghĩ ngợi. Đề Án Mắt Trắng làm tôi mất ngủ thường xuyên. Nếu Nữ Thần Tiên Tri và Vạn Thế cần tôi chuộc lỗi, tôi sẽ làm mà không thắc mắc. Và để chuộc tội, tôi đồng ý cho cậu ngủ nhờ. 

Quả là cậu chỉ ngủ nhờ hay cậu cố tỏ ra như thế. Hôm sau, chúng tôi xuống nhà và thấy cậu đang chuẩn bị bữa sáng. Cậu nói rằng muốn cảm ơn. Tuy rằng bữa sáng của người Phi Thiên không hợp dân phương bắc nhưng gia đình tôi rất cảm kích. Sau bữa ăn, cậu nói sẽ làm vài việc ngắn hạn để kiếm tiền về Hoa Thổ, trong thời gian đó cậu xin tá túc ở nhà kho cũ của tôi, bên cạnh chuồng dã yến. Gia đình tôi không giàu có cũng không sở hữu món đồ giá trị nào; ngay cả căn nhà cũng tầm thường tới mức chẳng khiến lũ du thủ du thực nổi máu tham lam. Nếu có gì khiến lũ côn đồ để ý thì là đứa con gái lớn của tôi, nhưng vì tôi đã tin cậu bị lừa sang đây làm nô lệ tình dục nên tôi loại bỏ khả năng đó. Và đúng là cậu không hề có ý đồ với con gái tôi. 

Hơn nửa tháng kế tiếp, cậu làm thuê từ sáng đến chiều và chỉ về nhà khi chúng tôi đã xong bữa tối. Nhiều lần chúng tôi mời ăn cùng, cậu từ chối, rồi miễn cưỡng đồng ý và rất khách sáo trên bàn ăn. Lúc đó, cậu tỏ ra là một người tự trọng, lấy làm tủi hổ khi nhận lòng tốt từ người khác. Chúng tôi không thể thuyết phục nổi cậu ngủ ở phòng khách thay vì nhà kho. Lúc rảnh hay Ngày Nguyện, cậu giúp tôi sửa bánh xe, chăn nuôi dã yến hoặc giúp vợ tôi nấu ăn. Các con tôi quý cậu, nói rằng chúng muốn một anh trai như thế. Đôi lúc, tôi thật sự mong cậu ở lại đây lâu hơn nữa. Hoặc giả sử nếu quay lại Hoa Thổ, tôi mong cậu tới đây thường xuyên và làm khách, gia đình tôi luôn chào đón cậu.

Đã có lúc chúng tôi nghĩ cậu là một thành viên trong gia đình. Ở thị trấn hẻo lánh, con người luôn nghĩ mọi chuyện đơn giản và tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp.

Một ngày cuối tháng, cậu từ biệt chúng tôi và trở lại Hoa Thổ. Tôi đánh xe đưa cậu ra ga, sau đó đi đường khác để tới thị trấn kế bên mua hàng năm mới. Tôi từng kể với cậu là thị trấn kế bên lớn hơn, chợ cũng rộng hơn, nên tôi sẽ dành khoảng một ngày mua sắm rồi mới đánh xe về nhà. Vùng hẻo lánh chẳng nhiều chuyện kể, thành ra con người dễ nói mấy chủ đề nhạt nhẽo như chợ búa làm vườn. Năm đó hàng hóa khan hiếm hơn, ít thứ để lựa chọn nên tôi không ngủ lại mà đánh xe về nhà ngay buổi tối…

Tôi trở lại thị trấn lúc ba giờ sáng. Tại đó tôi là người duy nhất đang thức, cũng là người duy nhất trông thấy quầng sáng bập bùng ở hướng nam – hướng nhà tôi. Tôi vội thúc dã yến chạy về phía đó. Và tôi phát hiện nhà mình đang cháy. Căn nhà gỗ sạm màu cũ kĩ giờ đây đỏ rực, từng thớ gỗ lằn lên vô số rãnh nóng rãy. Dù mới ở cửa trang trại nhưng tôi có thể cảm nhận hơi nóng hầm hập. Nó không chỉ mang hơi nóng của lửa, mà có cả hơi nóng của tiếng gào thét, của sự tàn nhẫn. Giống lò mổ. Có thể gọi như thế. Nó giống lò mổ. 

Hoảng hốt, bấn loạn, tôi chạy đến, nhận ra giữa phòng khách nơi gia đình sẽ tập trung ăn món ngỗng quay mừng năm mới, cậu đứng ở đó. Là anh chàng có mái tóc đỏ xin ngủ nhờ cách đây nửa tháng. Là cậu, nhưng khác hẳn. Không sợ sệt, không khách sáo, không đáng thương, không còn dáng vẻ tiều tụy khiến người khác động lòng trắc ẩn. Cậu đứng đó, tay cầm kiếm như đồ tể, còn con trai tôi bò dưới mặt đất. Nó bò bằng tứ chi trên mặt sàn nóng đỏ, hai chân đẫm máu, có lẽ đã bị chém vào xương. Nó nhìn cậu, thốt lên mấy câu thế này, mà đến giờ vẫn ám ảnh tôi:

“Xin đừng… tôi không biết… cha tôi chỉ là người đánh xe, không phải nhà khoa học gì cả! Xin đừng… xin ông… tôi không biết…”

Con trai tôi mới tám tuổi. Trẻ con thích sống vì có quá nhiều điều đang đợi chúng. Đáp lại con tôi, cậu đâm kiếm thẳng vào trái tim nó, nơi mà thằng bé đã từng gọi cậu là “anh” và muốn cậu sống cùng gia đình. Nó không phải nạn nhân duy nhất. Sau này tôi được biết vợ mình chết trên tầng hai, bà ấy đã vật lộn với cậu để con gái tôi chạy thoát. Trong hoảng loạn, đứa con gái khốn khổ của tôi nghĩ rằng có thể trốn dưới tầng hầm. Nhưng cậu ở đây nửa tháng, biết rõ từng ngóc ngách ngôi nhà nên con bé không hề có cơ hội. Người ta tìm thấy nó cạnh thùng sơn cùng nhát đâm giữa ổ bụng. 

Khi đó, tôi không thể làm gì khác ngoài quỳ trên đất và nhìn mọi thứ cháy rụi. Thế giới Tâm Mộng là thế giới chiến binh, nơi kẻ có sức mạnh được quyền lên tiếng, được viết những câu chuyện đầy say mê, còn người như chúng tôi chỉ biết viết nên những thứ nhàm chán và chẳng ai quan tâm. Cậu thấy tôi, có lẽ hơi ngạc nhiên vì tôi về sớm hơn dự định. Giả sử về muộn hơn, hẳn tôi đã nghĩ đám du thủ du thực gây nên bi kịch này. Cậu bước ra cùng một chiếc cặp da, bên trong đựng đầy giấy tờ sót lại từ Đề Án Mắt Trắng. Cậu tiếp cận tôi và gia đình tôi vì những mảnh giấy, khai thác thông tin để tìm thời cơ xuống tay. Nếu kế hoạch thành công, cậu sẽ quay trở lại, đóng vai người thân thiết giúp đỡ tôi, rồi tiếp tục khai thác tôi để tìm những nhà khoa học khác. 

Tôi quỳ ở đó, sẵn sàng đón nhận cái chết, bởi tôi biết mình không thể phản kháng. Ở thời khắc đó, cậu nhìn tôi bằng bộ mặt vô hồn, không tỏ ra bất cứ biểu hiện nào là chúng ta từng quen biết nhau. Giống một đồ tể, hoặc giống máy giết gia súc trong lò mổ. Nhưng thay vì giết tôi, cậu chỉ lững thững bước qua với chiếc cặp da. Cậu không quan tâm ngôi nhà cháy hay những người cậu giết, cũng chẳng gửi một lời chế nhạo mỉa mai hay đóng vai kẻ thừa lệnh bất đắc dĩ. Cậu không nhìn tôi. Cậu hành xử với tư cách của đấng toàn năng có quyền định đoạt số phận mọi sinh vật sống. Cậu bỏ đi, để lại tôi với trang trại cháy đỏ. 

Và quả thực cậu là đấng toàn năng. Ở đồn cảnh binh, tôi chẳng khai điều gì về cậu. Thậm chí người ta nghĩ tôi là tên giết người man rợ đang tâm hạ sát gia đình mình. Cậu không giết tôi nhưng đã giết phần quan trọng nhất của con người: cái phần khao khát sống. Phải chăng đó là chủ đích của cậu? Rồi một lúc nào đấy cậu quay trở lại, đóng vai người cứu rỗi tôi? À, có lẽ tôi đang lảm nhảm. Dù sao cậu cũng chẳng nhớ gì…

Sau ngày đó, tôi lang thang, đi hết nước này tới nước khác, cuối cùng định cư tại Bạch Tu quốc. Gặp lại vài người bạn cũ, tôi được biết rằng Đề Án Mắt Trắng được tạo ra nhằm xây dựng một chiến binh giống Liệt Giả. Và tôi cũng nghe phong thanh rằng Phi Thiên quốc đã làm được điều đó. Cái dở của đề án khoa học là chia thành nhiều mô-đun nhỏ, tôi biết rất nhiều mà cũng không biết rất nhiều. Nếu biết mục đích đề án, ngày đó tôi đã không cho cậu vào cửa, nhưng ai biết đấy, có thể cậu sẽ giết tôi và gia đình tôi ngay hôm ấy thì sao? 

Những năm tháng đó, tôi khốn khổ vì vẫn muốn sống, sống vì nỗi sợ sệt bóng tối sẽ nuốt chửng thân thể và không thấy ánh sáng mặt trời, không cảm nhận được gió lạnh phương bắc. Bạch Tu quốc không phải nơi dễ sống, nơi đây đầy tệ nạn, con người ít thân thiện, vậy nên tôi dành nhiều thời gian ở thánh đường, suy nghĩ những chuyện đã xảy ra. Năm đầu tiên, tôi dành toàn bộ thời gian để căm thù cậu. Nhưng sang năm thứ hai, năm thứ ba rồi năm kế tiếp, tôi chợt hiểu đó là cái giá phải trả khi tham gia Đề Án Mắt Trắng. Nữ Thần Tiên Tri rất công bằng còn thần báo thù Nê Mê không quên nợ. Cậu là vị sứ giả mà hai vị nữ thần gửi đến, bắt tôi phải chứng kiến cảnh gia đình mình tàn lụi trong lửa. Sau nhiều năm, tôi chấp nhận rằng mình phải trả nợ, còn trả đến bao giờ thì tôi không rõ…

Về phần cậu, vì coi cậu là sứ giả của các vị thần nên tôi không nghĩ cách trả thù nữa. Kẻ yếu đuối như tôi không thể thờ phụng thần Nê Mê mãi. Theo nghĩa nào đó, tôi tha thứ cho cậu. Nhưng liệu đó có phải sự tha thứ thật tâm? Hay tôi cố tỏ ra cao thượng như người ta vẫn nói “tha thứ là sự trả thù đau đớn nhất”? Tôi không chắc. Tuy nhiên nếu ngày mai, cậu giết tôi vì một lý nào đấy thì tôi cũng chấp nhận. Nữ Thần Tiên Tri yêu cầu tôi trả nợ, tôi sẽ trả đủ cho người, và tôi cũng tha thứ cho cậu…

Lúc này, cậu là một sứ giả của các vị thần, hay cậu chỉ là con người? Tóc đỏ? Nếu là con người thì tôi tin rằng, ai trong chúng ta cũng phải trả nợ. Oái oăm là các khoản nợ thường ập đến lúc chúng ta say.

Nhưng có thể, chỉ là có thể, các vị thần quên tính nợ với chúng ta, hoặc cố tình quên để chúng ta bắt đầu một lần nữa… 

*

* *

Sau cuộc nói chuyện, Vô Phong đâm sợ việc gõ cửa nhà người khác. Tội ác quá khứ đang ở đâu đấy ngoài kia và chờ hắn tới nhận nợ. Trong danh sách các nhà khoa học phục vụ Đề Án Mắt Trắng, hắn mang nợ với một mình Ngột Đài. Nhưng hắn không dám nghĩ con số đó là bao nhiêu với Đề Án Ngục Thánh. 

Ngột Đài gửi trả bao thuốc rồi quay về phòng. Bấy giờ Vô Phong mới dám nhìn ông già, nhưng chỉ thấy dáng điệu khắc khổ đằng sau mà không biết bộ mặt tiều tụy đằng trước. Hình dáng con người nói lên số phận, mà góp phần tạo hình dáng cho Ngột Đài có bàn tay tên tóc đỏ. Không phải sự giúp đỡ hay lòng tốt, hắn cắt gọt ông ta bằng kiếm và sự lừa dối. 

Nửa đêm, Vô Phong định mạo hiểm tới khu vực quân chính phủ thì bên Khai Y gọi điện, báo rằng họ đã cử hai phi thuyền vận tải đến cùng thuốc men. Nhưng quân đội Bạch Tu không cho phi thuyền đáp xuống lãnh thổ của mình, mà yêu cầu dời ra ngoài thành phố. Từ đây ra bãi đáp đầy rẫy phiến quân, mỗi bước chân đều nằm trong tầm súng bắn. Vô Phong và Mai Hoa bắt điện đàm với thống lĩnh quân đội Bạch Tu, thương lượng cả buổi nhưng bất thành. Suốt cuộc thương lượng, ông thống lĩnh Bạch Tu quốc cười giòn như vừa được xỉa một đòn đau vào nách Băng Hóa quốc. 

Hết cách, nhóm Vô Phong phải di chuyển ra ngoài thành phố. Bảy người họ khởi hành lúc hai giờ sáng, men theo những dãy phố đổ nát không bóng người mà đi, đường vòng vèo xa gấp rưỡi. Phiến quân ở ngay bên kia con phố và chỉ cách họ một dãy nhà, đám đốt lửa nã súng chỉ thiên ăn mừng chiến thắng, đám tranh thủ khua khoắng của nả, ước chừng hàng trăm người. Bị phát hiện lúc này, bọn Vô Phong chỉ còn đường chết. 

Sau hai tiếng, cả nhóm tiếp cận bãi đáp. Nhưng trong một ngày mà xui xẻo áp đảo may mắn, họ chạm trán một đội phiến quân đi tuần. Hai bên đấu súng dữ dội, Vô Phong lấy thân mình che chở đám khoa học gia, dẫn họ băng qua khu đất trống trải tới chỗ phi thuyền. Đạn bắn rát, tấm khiên nội lực trên tay Vô Phong run bần bật như chính tâm trạng của hắn. Trong hợp đồng với Mi Kha, nếu để một nhà khoa học chết, hắn sẽ bị trừ tiền. Nhưng giờ hắn không phải sứ giả của vị thần nào và cũng không phải lính đánh thuê, hắn chỉ là con người đang trả nốt món nợ. 

Nghe tiếng đấu súng, phiến quân kéo đến ngày càng đông. Phi thuyền không chịu được đạn bắn nên phải cất cánh rồi thả thang dây. Đợi tất cả mọi người lên phi thuyền, Vô Phong mới chịu đi. Hắn bám thang dây cố gắng trèo lên giữa làn đạn lập lòe. Bất thình lình từ mặt đất, một quả tên lửa vọt đến bay sát sạt phi thuyền, phi công đánh tay lái theo phản xạ khiến phi thuyền nghiêng hẳn sang một bên. Ngột Đài gần cửa nhất, ông già không kịp phản ứng liền rớt ra ngoài. Vô Phong vội đưa tay tóm lấy ông già, sức nặng đè xuống làm thang dây run lẩy bẩy, kêu kẽo kẹt. Vô Phong hét:

-Cố lên, ông già! 

Ngột Đài nhìn khoảng không bên dưới, mặt cắt không hột máu. Ông ta thở gấp:

-Hình như nó tới rồi…

Ông già chưa nói hết, một tràng đạn ào qua xuyên thủng người. Ông ta gục xuống. Mới phút trước, Vô Phong còn cảm giác đang xách một tảng đá, giờ lại thấy như đang nắm một khối thạch cao nhẹ bẫng và nát vụn. Có lẽ Nữ Thần Tiên Tri vừa bắt Ngột Đài tất toán khoản nợ. Vô Phong nhìn xác chết hồi lâu đoạn buông tay. Ngột Đài rơi vào bóng tối đen kịt đầy gió lẫn tuyết. Giờ đây ông ta có thể trở về Tụ Hồn Hải với linh hồn sạch sẽ, không chút gánh nặng, mọi thù oán với tên tóc đỏ đều chấm dứt.

Hai chiếc phi thuyền rời khỏi vùng đất ám khói bom đạn. Si Giáng lôi Vô Phong lên rồi hỏi:

-Chúng ta đi đâu nữa? 

-Gửi họ về Biên Ngoại thành, trừ Đốc Lãm. Ông ấy sẽ đi cùng chúng ta đến Vương Quốc Cũ. – Vô Phong trả lời.

Ngột Đài đã tự do trong thế giới tâm linh. Còn ở thế giới hiện thực, thần Nê Mê chưa xong việc với tên tóc đỏ. Con dao găm trong tay vị nữ thần báo thù không bỏ quên bất cứ kẻ gây nợ nào. 
 
Quyển 5 - Chương 10: Trời lạnh, chuyện phiếm và lẩu


Đa Lạt thích Diệp quốc nhưng không ưa nổi cách làm việc ở xứ sở này. Ông nhận ra người Diệp quốc tỏ ra hiếu khách, thân thiện, nhanh nhẹn, phục vụ chu đáo để che đi tác phong lề mề cứng nhắc. Ở dinh thự Ẩn Lý Thị, đón tiếp Đa Lạt lúc nào cũng là và phải là trưởng tộc. Không một nhóm người hay cá nhân nào khác đại diện dòng họ bàn chuyện với Đa Lạt – ông trưởng tộc nói đó là việc của một mình ông ta. Ở Diệp quốc, địa vị và tuổi tác cao bao nhiêu, lời nói có trọng lượng bấy nhiêu. 

Non một tuần ở Diệp quốc, Đa Lạt trở thành người quen trong nhà khách dinh thự Ẩn Lý Thị. Ông học giả có mặt lúc chín giờ sáng, vạ vật bên bàn trà gần ba tiếng thì trưởng tộc mới xuất hiện. Mà giờ ấy lại đúng bữa trưa, thành ra hai người trò chuyện trên bàn ăn. Người Diệp quốc có thói quen bàn công việc qua tiệc tùng, Đa Lạt ngờ rằng ông trưởng tộc Ẩn Lý Thị cố tình làm vậy. Đồ ăn ngon cộng thêm rượu say dễ làm người ta cởi mở, dễ trải lòng và dễ chấp nhận giao kèo. Đa Lạt không lạ thủ thuật này của dân phương đông. 

Nhưng biết là một chuyện còn đối phó ra sao là chuyện khác. Bàn ăn thịnh soạn và cái tận tình của Ẩn Lý Thị khiến Đa Lạt khó xử. Ví dụ như lần gặp gỡ đầu tiên, Đa Lạt bức xúc đặt vấn đề: 

-Như ngài biết, mười năm trước, tôi đến đây nhằm thiết lập quan hệ giữa đại thống lĩnh Khai Y và Ẩn Lý Thị. – Đa Lạt nói với trưởng tộc Ẩn Lý Thị – Xét mặt di truyền, gia đình đại thống lĩnh Khai Y là những người cuối cùng trên thế giới này chung huyết thống với Mục Du Cổ - cha đẻ Mục Á. Như vậy, có thể nói đại thống lĩnh Khai Y là thông gia của Ẩn Lý Thị. Dù xa cách, nhưng ông ấy và tôi luôn làm tròn nghĩa vụ thông gia. Mỗi năm, chúng tôi gửi thư cho Ẩn Lý Thị ba lần, điện đàm bốn lần, không quên gửi quà sinh nhật ngài và phu nhân. Chúng tôi làm tất cả những gì mà người phương bắc có thể làm nhằm biểu thị tình hữu hảo. Nhưng chúng tôi không nhận được đối đãi tương xứng. Các ngài biết Mục Á qua đời nhưng không hề thông báo cho chúng tôi! Tôi cần một lời giải thích!

Đa Lạt hiếm khi lớn giọng và bản thân ông cũng ghét to tiếng. Hiềm nỗi trò chơi thương lượng luôn cần một chút áp lực, chứ không sẽ biến thành giao lưu chuyện phiếm. Ông học giả biết mình được phép giận dữ vì đó là quyền lợi chính đáng. Đáp lại, vị trưởng tộc Ẩn Lý Thị luôn miệng nói “Xin hãy bình tĩnh, thưa ngài!” rồi mời mọc ông học giả thưởng thức bữa tiệc. Vị trưởng tộc già hơn Đa Lạt ba chục tuổi, tóc trắng ngà, cử chỉ ân cần thân thiện tới nỗi người đối diện không nỡ từ chối, giọng nói êm ru biết cách dẫn dắt câu chuyện rời xa mục đích ban đầu. Đợi khi Đa Lạt ngấm men rượu lẫn hương vị thức ăn, ông ta mới trả lời:

-Ẩn Lý Thị có cái khó riêng, tôi xin phép giải thích, mong ngài chịu lắng nghe. Như ngài biết, Mục Á không dễ gần cũng không dễ thấu hiểu. Việc sở hữu cả hai dòng máu cổ xưa khiến con bé rất mạnh mẽ và có chính kiến riêng. Khi con rể tôi (Mục Du Cổ) mất, Mục Á đang tuổi mới lớn; ở nước tôi, con gái mười bảy tuổi chưa tính là trưởng thành. Con bé suy sụp, cho rằng mình là nguyên nhân gây tội lỗi và quyết định bỏ đi. Vợ tôi, người gần gũi nó nhất cũng không thể ngăn cản. Ẩn Lý Thị đã cử người ngầm bảo bảo vệ nhưng Mục Á biết, con bé giận dữ và yêu cầu chúng tôi ngừng can thiệp cuộc sống riêng tư của nó. Chúng tôi đành chấp nhận. Cuối cùng chỉ còn vợ tôi liên lạc với Mục Á khi con bé làm việc tại Đông Môn Cao Lầu. Chuyện dài dòng… mười năm trước tôi đã kể với ngài, xin phép không nhắc lại.

-Vâng, tôi nhớ chuyện đó. – Đa Lạt nói.

-Kể từ ngày cưới Thát Khan, thư từ giữa con bé và vợ tôi ít dần. – Ông trưởng tộc tiếp tục – Mục Á giải thích rằng nó đang giúp đỡ chồng mình, công việc bộn bề nên ít thời gian biên thư. Chúng tôi thấy mừng vì con bé thể hiện những phẩm chất mà một phụ nữ Diệp quốc cần có. Nhưng chúng tôi không hề biết Mục Á dính vào rắc rối, bởi lẽ con bé không kể mình sống ở đâu, chỉ nói là “một nơi an toàn”. Chúng tôi luôn tin tưởng Mục Á vì con bé chưa từng giấu giếm điều gì, kể cả việc làm gái điếm ở Đông Môn Cao Lầu. Ba năm trước, Mục Á ngừng thư từ. Chúng tôi lo lắng và lần theo địa chỉ thư điện thử, chỉ biết con bé từng sống ở Khẩu Lỗ thành, ngoài ra không tìm được điều gì hơn.

Đa Lạt nhướn mày như không tin nổi:

-Các ngài biết Mục Á sống ở Khẩu Lỗ thành. Vậy mà khi chúng tôi hỏi tin tức cô ấy, các ngài khăng khăng rằng mình không biết!

Thay vì giận dữ trong tư thế của người bị lừa gạt, Đa Lạt nói bằng cái giọng thảng thốt như thể vừa khám phá ra điều kỳ lạ. Hơi rượu làm ông kém hăng hái hơn lúc đầu, thức ăn lấp dạ dày ông và không còn chỗ chứa nộ khí. Vị trưởng tộc trả lời:

-Vì chúng tôi cảm thấy xấu hổ trước đại thống lĩnh Khai Y. Chúng tôi gần gũi Mục Á nhất mà không biết con bé làm gì hay ở đâu, nói cách khác, chúng tôi quá mềm yếu khi bỏ mặc và để Mục Á tự vật lộn ngoài kia. Thời gian đó, chắc ngài biết Liên Minh Phương Bắc đang gặp vấn đề nội bộ còn ngài Khai Y phải giải quyết hàng nghìn công việc. Bởi vì là thông gia, Ẩn Lý Thị cần nghĩ cho ngài Khai Y. Thế nên chúng tôi quyết định tự giải quyết, tránh gây phiền phức cho đại thống lĩnh nói riêng và Băng Hóa quốc nói chung. 

Ông học giả người Băng Hóa lắc đầu:

-Nếu ngài lấy lý do “xấu hổ” để giải thích, tôi vui lòng chấp nhận. Nhưng ngài không thể lấy lý do đó biện minh cho việc Ẩn Lý Thị che giấu Mục Á qua đời hoặc mang cô ấy về Diệp quốc. Chúng ta sống trong thế giới phụ hệ, thưa ngài. Con cái sinh ra mang họ cha, bản thân Mục Á cũng được ngài Mục Du Cổ nuôi dưỡng bằng những chuẩn mực phương bắc. Bởi lẽ đó, cô ấy là người phương bắc và thuộc về phương bắc. Chúng tôi có quyền đem Mục Á về lăng mộ của dòng họ Biệt Liên Đại Đế. 

-Quả thật chúng ta sống trong thế giới phụ hệ, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta được phép phủ quyết mẫu hệ, thưa ngài. Ngài là học giả, chắc ngài hiểu điều đó hơn tôi. – Vị trưởng tộc từ tốn đáp – Phương bắc các ngài tôn sùng Vạn Thế, vậy các ngài gọi Vạn Thế là “cây mẹ” hay “cây cha”? Và chúng ta có Nữ Thần Tiên Tri, không đơn giản là “Thần Tiên Tri”. Và chúng tôi không nghĩ Ẩn Lý Thị hèn kém tới mức không tìm được cho Mục Á một nơi an nghỉ xứng đáng. Khi còn bé, con gái Đằng Xuân Tử của tôi đã dạy Mục Á mọi tinh túy và lễ nghĩa từ nghề vũ nữ thần linh. Hơn nữa, Mục Á dành hầu hết tuổi thơ ở Diệp quốc. Bởi vậy, cháu gái tôi là người Diệp quốc. Chúng tôi có đầy đủ quyền chôn cất cháu gái mình. 

Sau rốt hai người tranh luận xem bên nào được phép giữ di hài Mục Á. Ông trưởng tộc muốn chôn cất Mục Á tại Diệp quốc, nói rằng quốc gia này cần một vũ nữ thần linh mang dòng máu trực hệ. Tiếp đến, ông ta viện dẫn rằng những bất ổn gần đây với Bắc Thần quốc là minh chứng cho thấy các thực thể bóng tối đang trỗi dậy, đẩy Diệp quốc bên bờ vực hỗn loạn. Dĩ nhiên Đa Lạt chẳng chịu thua. Đáp lại, ông học giả lôi ra hàng trăm lý do tâm linh tương tự để mang di hài Mục Á về phương bắc. Nhưng thay vì diễn tả lời nói bằng thái độ cứng rắn như băng đá, ông lại nhũn nhặn như khối băng chảy nước. Rượu lẫn thức ăn ngon làm Đa Lạt phần nào đồng điệu với ông trưởng tộc Ẩn Lý Thị. Mà mâu thuẫn giữa hai con người hòa nhã thì chẳng dẫn tới đâu. 

Bàn luận trong tiệc rượu mãi mà chẳng có kết quả, Đa Lạt bắt đầu ngán. Ngày 7 tháng 3, ông học giả thôi ghé thăm dinh thự Ẩn Lý Thị. Ông nhận ra mình đang rơi vào ma trận của rượu mạnh, đồ ăn ngon, bánh ngọt và nước trà thơm phức. Cứ tiếp tục qua đó, ông sẽ gật đầu cái rụp với người Diệp quốc chưa biết chừng. Đa Lạt cần một liều thuốc xốc lại cơn nhũn nhẽo trong đầu óc. Liều thuốc mang tên “Xuy Hạ Khai Y”. 

Sáng sớm hôm đó, Đa Lạt gọi điện về Băng Hóa quốc. Trong phòng ngủ khách sạn, máy chiếu ba chiều dội ánh sáng xanh và hiện lên hình ảnh ông đại thống lĩnh Băng Hóa:

“Đa Lạt hả? Khỏe chứ, anh bạn tròn vo? Sao? Người Diệp quốc thế nào, họ chịu trao trả Mục Á không?”

Đa Lạt nửa đùa nửa thật:

-Tôi khỏe, thưa ngài. Khỏe quá mức bình thường! Nhân tiện thông báo với ngài là tôi lên ba cân rưỡi! Chắc là người Diệp quốc muốn vỗ béo tôi thành con heo nái để họ bảo sao nghe vậy…

Rồi ông học giả kể lại sự vụ tại dinh thự Ẩn Lý Thị. Nghe xong, Khai Y hỏi:

“Thế Vô Phong thì sao? Cậu có lộ ra chúng ta đã gặp hắn không?”

-Tôi uống nhiều nhưng vẫn đủ tỉnh táo, thưa ngài. Nếu lộ ra chúng ta gặp tóc đỏ, mọi thứ sẽ nát bét như món khoai tây nghiền trộn thịt băm. – Đa Lạt nhún vai.

“Vậy bên Ẩn Lý Thị thế nào? Họ định tha Vô Phong không?” – Khai Y tiếp tục.

Đa Lạt lắc đầu, hai má phúng phính lắc lư:

-Tôi không thể đào bới quá nhiều chuyện đó. Ngài biết đấy, nếu hỏi quá nhiều, bên Ẩn Lý Thị sẽ nghi ngờ. Đại khái họ nói rằng nếu không thể trả thù, Ẩn Lý Thị sẽ mất danh dự. Ông trưởng tộc bên đó thuyết giáo tôi một bài dài về phẩm hạnh và danh dự kiểu Diệp quốc lẫn phương đông của họ - mà tôi nghi rằng ông ta dông dài như thế nhằm làm tôi quên chuyện mang Mục Á về phương bắc. Nói tóm lại, họ không bỏ qua cho Vô Phong. 

“Đám người phương đông luôn kỳ quái như thế!” – Ông đại thống lĩnh Khai Y bật cười – “Họ thường vẽ ra những thứ huyền hoặc to lớn để bù lấp thể chất yếu đuối của mình. Họ thích nói về rượu, thích tán tụng rượu nhưng kỳ thực một gã đàn ông phương đông uống rượu thua cả phụ nữ phương bắc. Họ thích bàn chuyện chiến đấu, lòng quả cảm nhưng không bao giờ chịu nổi một đấm của chúng ta. Họ thích bàn chuyện âm mưu nhưng chỉ giỏi với chính bọn họ, còn hễ gặp người khác chủng tộc thì họ lại hiền lành như trẻ nít. Chưa bao giờ tôi hết bất ngờ với họ!”

Khai Y cười sảng khoái, hai vai rung liên hồi. Cười xong, ông ta ngẫm nghĩ ít lâu rồi tiếp tục:

“Nói cho cùng, cả chúng ta và Ẩn Lý Thị đều có quyền sở hữu Mục Á. Chuyện này giống như là bên nào nhanh tay hơn, bên đó sẽ có cô ấy. Chúng ta chậm chân hơn, ông bạn. Dù vậy, chúng ta vẫn còn lợi thế. Theo phong tục phương bắc, trong những trường hợp bi kịch kiểu gia đình Thát Khan, vợ chồng thường được chôn chung mộ hoặc chôn cạnh nhau. Tôi nghe nói phụ nữ phương đông theo chồng, đã làm đám cưới tức là thuộc về gia đình chồng. Ẩn Lý Thị là dòng họ cổ xưa, hẳn sẽ tôn trọng truyền thống. Nếu ta thuyết phục được gia đình họ Thát, họ sẽ mang Mục Á về phương bắc.”

-Đến giờ họ vẫn chưa hiểu con trai mình kết hôn với ai. – Đa Lạt khoanh tay thở dài – Sẽ mất kha khá thời gian để thuyết phục gia đình họ Thát, thưa ngài. Nhưng như thế cũng chưa đủ. Tôi không dám chắc Ẩn Lý Thị sẽ lắng nghe họ Thát. Sau khi nói chuyện với ông trưởng tộc Ẩn Lý Thị, tôi nhận định rằng cả chúng ta và bọn họ muốn sở hữu Mục Á vì lý do tâm linh, mà như vậy thì không thể giải quyết theo cách thông thường. Ngay cả Chợ Rác Uất Hận Thành cũng không có quyền hạn trong chuyện này. 

“Có hướng khả thi không?” – Khai Y hỏi.

Đa Lạt tặc lưỡi, đầu nghiêng bên nọ nghiêng bên kia như con lật đật, hai hàm răng cọ nhau ngăn lời nói thoát khỏi miệng. Sau rốt ông trả lời:

-Có thì có, chỉ e rằng… khó! Trên thế giới này có năm người đủ tư cách đứng ra hòa giải giữa chúng ta và Ẩn Lý Thị. Bất kỳ người nào cũng được. Họ đại diện cho sự cân bằng, am hiểu lý lẽ, thông tuệ những kiến thức cổ xưa. Để họ làm quan tòa hòa giải là hợp lý nhất!

Khai Y nhướn mắt nhíu mày:

“Ý anh bạn là Ngũ Pháp Sư? Nhưng họ biến mất hơn nửa thế kỷ rồi, những gì chúng ta biết về họ là cả năm người đó đã trở thành ông bà già, và không ai trong số đó nắm giữ nguyên tố Thổ. Chỉ vậy thôi, không hơn! Ngay cả tình báo của chúng ta cũng chẳng biết họ đang ở đâu. Bỏ đi, đừng phí thời gian, anh bạn! Hãy làm theo cách của tôi: đưa họ Thát tới Diệp quốc nói chuyện phải trái với Ẩn Lý Thị. Tôi cho cậu một tháng giải quyết, nếu cách đó cũng không xong, tôi sẽ tính biện pháp khác. Vậy nhé, mong Vạn Thế che chở cậu, tạm biệt!”

Khai Y dập máy, không để ông học giả có cơ hội đặt câu hỏi hay phàn nàn. Một tháng là một tháng, Đa Lạt chỉ có ngần ấy thời gian để xử lý mớ lẩu ngâm rau hẹ ở Diệp quốc. Ông bắt đầu suy nghĩ về cái gọi là “biện pháp khác” của Khai Y. Nhiều năm làm bạn, ông biết tính Khai Y, biết rõ người đàn ông có mái tóc màu hổ phách đó sẵn sàng làm tất cả vì lợi ích Băng Hóa, kể cả phải biến mình thành kẻ tráo trở. Đa Lạt tin rằng nếu sự vụ ở đây diễn biến xấu, Khai Y sẽ phá luật mà đem gã tóc đỏ Vô Phong làm quà trao đổi với Ẩn Lý Thị. Người bạn của Đa Lạt quá quyền lực và quá mạnh mẽ, luật lệ vô tác dụng với ông ta. 

Ngay sau cuộc nói chuyện, Đa Lạt gửi một bức thư xin gặp mặt tới gia đình họ Thát, còn bản thân ông tới thư viện thành phố. Ông cần tìm một thành viên Ngũ Pháp Sư vốn có quốc tịch Diệp quốc, mà nếu còn sống thì giờ đã hơn chín mươi tuổi. Đó là một người phụ nữ, tên là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, thường được gọi là Thôn Cơ. 

Hơn nửa thế kỷ trước, trong lúc thế giới Tâm Mộng đầy rẫy bất ổn, các thành viên Ngũ Pháp Sư không hẹn mà lần lượt biến mất. Chẳng ai biết họ đi đâu, làm gì, còn sống hay đã chết. Những đại thánh sứ thông tuệ tin rằng Ngũ Pháp Sư đã lui vào bóng tối và chiến đấu với nhau ở một thế giới riêng biệt. Các nhà chính trị nói họ không còn gây ảnh hưởng lên thế giới như trong quá khứ, nên tự động rút lui. Dư luận thì tự truyền bá tai nhau trăm ngàn thuyết âm mưu lẫn chuyện giật gân, không biết đằng nào mà lần. Nhiều năm qua, người ta hết truy tìm rồi đồn đoán về Ngũ Pháp Sư nhưng chẳng có kết quả. Đa Lạt biết mình lao đầu vào chuyện vô ích nhưng vẫn làm. Ông không muốn Khai Y phá luật. Sự phá hoại luật lệ luôn gây ra những tiền lệ xấu không thể tưởng tượng.

Chuyện cũ thường nằm trong sách vở cũ và không nơi nào nhiều sách vở cũ bằng thư viện. Đa Lạt biết điều đó. Sau ít phút đi tàu điện, ông học giả đến thư viện thành phố. Câu Nguyệt thành nhỏ bé nên kiến trúc đa số vừa phải, ít bề thế. Thư viện mà ông học giả đặt chân tới cũng vậy. Nó có sân vườn, hồ nhỏ, ba dãy nhà thấp mái trải dài liên kết nhau và một nhà hai tầng – trông giống tư gia hơn là công trình công cộng. Sách vở nơi đây không đáng nói vì nặng tính cục bộ địa phương, nhưng lại đặc biệt nhiều tạp chí cũ. Nó cũng sở hữu hệ thống máy tính liên kết với thư viện quốc gia, Đa Lạt có thể tìm đọc những quyển sách giá trị mà không cần lặn lội tới thủ đô Diệp quốc. Chốn này yên tĩnh ít người qua lại, là địa điểm lý tưởng cho một con mọt chữ nghĩa như Đa Lạt. 

Nhưng thư viện không lý tưởng. Thứ nhất là ghế ngồi hơi nhỏ mà Đa Lạt vốn chẳng mấy nhẹ nhàng. Đôi lúc ông phải ngó xuống nhằm chắc chắn rằng bốn chân ghế chưa cong vênh. Thứ hai là bà chủ thư viện đã cao tuổi, ưa cằn nhằn và mang những bệnh tật phiền hà nhất của người già: thính giác nghễnh ngãng, đục thủy tinh thể, đau khớp gối… đủ thứ mầm họa có thể tiễn bà ta về Tụ Hồn Hải bằng một cú trượt chân. Thế nên mang tiếng khách nhưng Đa Lạt phải tự mình kiếm tài liệu, tự phục vụ trà bánh – dù sao ông cũng không muốn làm nhân chứng của một vụ tai nạn chết người. Thế giới Tâm Mộng đã quá nhiều người chết. 

Nhưng thứ phiền phức nhất xuất hiện lúc ba giờ chiều. Khi đang nghiền ngẫm nghiên cứu, ông học giả chợt thấy một lọn tóc vàng chen vào tầm mắt. Ông ngước lên rồi lại quay đi, thần tình tái mét như vừa gặp ma. Con ma tóc vàng lại chạy sang bên kia, cố tình quấy phá Đa Lạt:

-Chào ngài học giả, tôi là Tiểu Hồ đến từ Phi Thiên quốc. Chúng ta đã gặp nhau rất nhiều lần tại dinh thự Ẩn Lý Thị. Xin đừng lảng tránh tôi như vậy, thưa ngài! Chúng ta biết nhau mà!

Biết rằng không thể lẩn tránh mãi, Đa Lạt đành gấp sách rồi mặt đối mặt Tiểu Hồ:

-Tất nhiên tôi biết. Thậm chí tôi biết cô nhiều hơn những gì cô tự giới thiệu. Nhưng có một điều tôi không biết: hình như… cô hơi bất lịch sự? Cô không thấy tôi đang làm việc sao? Chúng ta đâu có đến đây nghỉ dưỡng? 

-Tôi lại thấy ngài đang nghỉ dưỡng đấy chứ?! – Tiểu Hồ cười tươi – Hôm nào ngài cũng ăn tiệc với ông trưởng tộc Ẩn Lý Thị hết! Đâu giống làm việc? Tôi biết mà! Hình như tiệc ngon lắm, cái ghế của ngài lắc lư thế kia cơ mà!

Đa Lạt tưởng thật vội ngó xuống. Người béo thường sợ mang tiếng “làm gãy ghế”. Thấy chiếc ghế nhỏ vững vàng, ông học giả nhìn lên thì thấy Tiểu Hồ bụm miệng cười khùng khục. Đa Lạt ôm mặt, tự vấn lương tâm có phải vì trễ nải cầu nguyện cây mẹ nên dính vào ngôi sao quả tạ tóc vàng này. 

Không riêng ông học giả người Băng Hóa, Tiểu Hồ cũng thường xuyên ghé qua dinh thự Ẩn Lý Thị, hai người họ dần nhẵn mặt nhau ở phòng khách. Cô nàng tóc vàng luôn chủ động bắt chuyện trước, luôn tỏ ra phát ốm vì buồn chán và chờ đợi. Đáp lại Tiểu Hồ, Đa Lạt khoác lên mình cái áo đứng đắn của người đàn ông đã hết hứng thú với gái trẻ. Ông luôn cảnh giác Tiểu Hồ, đề phòng mọi ngôn từ mà cô nàng giăng ra. Gây nên cơ sự này đều do gã tóc đỏ Vô Phong to mồm. Thâm tâm ông học giả ngả mũ kính phục Vô Phong, bởi lẽ cái biệt tài sinh sự gây rắc rối của hắn đã vượt khoảng cách địa lý, vượt cả không gian lẫn thời gian. 

-Tôi thú nhận rằng khi xem truyền hình Kỳ Thi Tổng Lãnh, tôi luôn ngóng đợi cô và công chúa Lục Châu thi đấu. – Đa Lạt nhún vai phân bua, ngón tay vẽ những đường vô hình vô nghĩa trên bìa sách – Nếu muốn, cô có thể đến nhà tôi tại Băng Hóa thành, tôi và gia đình sẽ lấy làm hãnh diện. Nhưng tôi còn rất nhiều việc, không dư thời gian. Còn nếu cô muốn nhờ vả chuyện gì thì tôi rất lấy làm tiếc. Tôi không có nhiều mối quan hệ lắm và cũng không phải người giỏi quan hệ. Mong cô hiểu!

Tiểu Hồ gật đầu, miệng cười tươi hai chữ “Ừ hứ!”. Trông vậy, Đa Lạt biết màn kịch đơn điệu của mình đã thất bại, nó cần nhiều thứ hơn nữa mới hòng lừa phỉnh được cô nàng. Nhưng quyền trả lời thuộc về Đa Lạt và nếu ông tiếp tục im lặng, Tiểu Hồ cứ việc ôm khư khư mối nghi ngờ không lời giải đáp. Ông học giả chẳng thiệt thòi đường nào, còn Tiểu Hồ ngày càng khó chịu như ăn phải bát súp cá lổn nhổn xương. 

Không thể nạy răng ông học giả người Băng Hóa, Tiểu Hồ đi vòng quanh, nghến cổ ngó nghiêng mớ tài liệu trên bàn. Cô nàng nhìn bìa sách, đọc những mảnh tờ báo cắt rời sau đấy chăm chú vào từng hàng chữ xanh lè dấu nhớ. Đa Lạt mặc kệ cô nàng săm soi, cứ ung dung thưởng thức trà thiết mộc. Trong mắt ông, đám chiến binh không đủ khả năng suy luận kiến thức sách vở hay học thuật chuyên ngành. Đánh đấm và đầu óc là hai phạm trù khác biệt! – Đa Lạt cười mỉm đoạn ghé môi nhấp ngụm trà.

-Ngài đang tìm Ngũ Pháp Sư, phải không? – Tiểu Hồ bỗng cất lời.

Đa Lạt ho sặc, suýt nữa phun phì nước trà. Những tài liệu mà ông đang đọc vốn không theo chủ đề nhất định mà tản mác mỗi thứ một ít, người ngoài nhìn vào dễ lầm tưởng ông nghiên cứu lịch sử tôn giáo. Ông thường lấy đó làm niềm tự hào nho nhỏ. Giờ niềm tự hào nho nhỏ bể nát như miếng bánh quy bẻ vụn, Đa Lạt bầm mặt nhìn cô gái tóc vàng. Tiểu Hồ cười khanh khách:

-Ngài đang nghiên cứu sự ảnh hưởng của Ngũ Hành lên thế giới phương đông, những tôn giáo cổ xưa dựa theo Ngũ Hành, sự chuyển mình và hòa nhập của chúng vào tôn giáo Vạn Thế. Người ta thường viện dẫn nhiều lý do khoa học, chính trị, tôn giáo mà quên đi một nhóm là Ngũ Pháp Sư. Họ là cầu nối liên kết các nguồn ý thức, tư tưởng tôn giáo rồi hòa hợp tất cả với Vạn Thế, tạo nên kỷ nguyên hiện đại cho thế giới Tâm Mộng. 

-Họ chỉ là huyền thoại. – Đa Lạt chống chế – Chẳng ai rõ họ làm gì, tất cả chỉ là đồn thổi. Tại sao tôi phải tìm một chuyện khó tin như thế? 

-Tôi không biết tại sao ngài tìm Ngũ Pháp Sư, nhưng tôi biết ngài đang tìm họ. Bởi vì tôi từng xem các công trình nghiên cứu của ngài. Ngài rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu, đặc biệt là chuyên ngành tôn giáo, cha nuôi từng giới thiệu cho tôi vài tác phẩm do ngài viết. Người như ngài phải đến thành phố này tìm sách sao? Tôi nghĩ ngài đang lần theo một thành viên trong Ngũ Pháp Sư có quốc tịch Diệp quốc, tên là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ. 

Đa Lạt gãi đầu, thâm tâm chẳng dè quả tạ tóc vàng ghê gớm nhường ấy. Ông nhún vai: 

-Cứ cho là vậy đi. Thế cô muốn thảo luận điều gì nào, cô gái?

Tiểu Hồ lắc đầu, đôi mắt ngúng nguẩy những tia nhìn ranh mãnh:

-Không, tôi không đủ kiến thức để thảo luận với ngài. Nhưng tôi có thể tìm một thành viên Ngũ Pháp Sư cho ngài, chỉ một người thôi! Đổi lại, ngài phải trả lời tôi vài câu hỏi. Vài câu hỏi đổi lấy một Ngũ Pháp Sư, ngài quá hời, đúng không? 

Tới giờ phút này, Đa Lạt khẳng định rằng Tiểu Hồ đã biết ông ta làm việc với Vô Phong. Ông cũng đoán cô nàng sẽ dùng “vài câu hỏi” nhằm truy vấn tận chân tơ kẽ tóc. Đến lúc đó, cái nồi lẩu ngâm rau hẹ do Vô Phong khởi xướng sẽ được thêm nào phô mai, nào sữa, nào bánh kem, nào thịt bò, nào thịt gà, nào cá… đủ thứ tạp phí lù và nó sẽ giống bãi nôn tởm lợm nhất vừa khạc ra từ mồm của một gã say xỉn. Đa Lạt nhổm dậy, gương mặt đanh lại:

-Đừng đùa với tôi! – Ông thì thào – Chẳng ai tìm được Ngũ Pháp Sư hết! Không tổ chức hay đất nước nào quản lý được họ. Họ chỉ xuất hiện khi chính họ muốn. Đừng làm tôi như đứa trẻ nít, cô gái! Cô không biết mình đang nói gì đâu!

-Ồ, vậy là ngài tìm Ngũ Pháp Sư thật! – Tiểu Hồ nháy mắt – Thế giới vẫn đầy chuyện lạ mà! Nhưng tôi đảm bảo rằng sẽ tìm được thành viên Ngũ Pháp Sư cho ngài. Chỉ cần ngài hứa…

Như không thể chịu đựng hơn nữa, ông học giả đập bàn. Dưới hai bàn tay to bè núc thịt, chiếc bàn nhỏ rung bần bật như sắp gãy đôi:

-ĐỪNG NGHĨ TÔI LÀ TRẺ NÍT! Tôi cảnh cáo cô! Cô chẳng biết gì hết! Đây không phải là giao kèo có thể trao đổi. Cô đang mơ về một giấc mơ hão huyền, cô bé. Về nhà đi, về Phi Thiên quốc của cô, ở đây không có chuyện gì cho cô nữa!

Tiểu Hồ ngạc nhiên trước phản ứng thái quá của ông học giả. Như không muốn mọi chuyện thêm tồi tệ, cô nàng giơ hai tay cùng nụ cười hòa hoãn:

-Xin lỗi vì làm phiền ngài. Nhưng tôi sẽ không đi đâu cả, vì tôi cũng có việc quan trọng ở thành phố này. Có lẽ khi bình tĩnh hơn, ngài sẽ suy nghĩ lại. Muốn gặp tôi, ngài chỉ cần tới dinh thự Ẩn Lý Thị hoặc qua thư viện này. Vậy… xin ngài cứ tự nhiên!

Dứt lời, cô nàng xoay gót đi thẳng, không ngoái lại dù chỉ một lần. Đa Lạt chẳng còn tâm trạng đọc sách. Ông gom sách vở tài liệu, đăng ký với bà chủ quản thư viện rồi đem chúng về khách sạn. Trước những mớ bòng bong liên tiếp giáng xuống, Đa Lạt cảm giác mình bẹp dí như chiếc bánh bột, dư sức trải rộng và căng ra trên bốn góc giường khách sạn. Cứ tình trạng này, ông đồ rằng sự việc vẫn rối bét và cái ngày Khai Y phá luật chẳng còn xa. 

Đa Lạt chẳng hề biết hôm đó Tiểu Hồ ở lại thư viện đến tối muộn. Mãi tới khi bà chủ quản thông báo đóng cửa, cô nàng mới chịu ra về. Đợi bà chủ quản đóng hết cửa nẻo thư viện, Tiểu Hồ bèn lững thững theo chân bà già như hình với bóng. Hai người một trước một sau như hai kẻ xa lạ kéo nhau qua những con phố neo người của Câu Nguyệt thành. Được một lúc, bà già ngoảnh lại, miệng móm quạu cọ:

-Theo gì theo hoài… bộ mi không biết ngượng hả? 

-Cháu chưa nghe hết chuyện, bà ơi! – Tiểu Hồ ngúng nguẩy – Hãy nói xem bà gặp cha nuôi cháu như thế nào, còn chuyện Ngũ Pháp Sư nữa, cháu chưa nghe hết!

Bà chủ quản thở phì phì đoạn ngước nhìn bầu trời tuyết. Ngẫm nghĩ một lúc, bà già nói, mặt nhăn nhó:

-Chắc giờ này nhà ta đang làm lẩu. Mi muốn ăn không? 

Tiểu Hồ mừng rỡ, bèn phăm phăm chạy tới nắm tay bà già, vừa đi vừa kể những câu chuyện về đại thánh sứ Tây Minh. Trời lạnh, chuyện phiếm và lẩu luôn đi kèm với nhau, luôn khiến người ta hào hứng. 
 
Quyển 5 - Chương 11: Mpa-7221908


Vương Quốc Cũ án ngữ tại phía tây lục địa Băng Thổ, bên trái và phía trên giáp Biển Vực Tối – một trong Chín Biển Lớn, bên phải được bao bọc trong những dãy núi ngắt quãng cùng vô số đầm lầy. Muốn vào Vương Quốc Cũ bằng đường bộ thì phải theo các lối mòn từ phía nam đổ lên, sau đấy cần băng qua vài trảng rừng mới đến nơi. Mà rừng ở đây chẳng thích tiếp đón con người. 

Chuyện kể rằng trước khi tạo dựng vương quốc, những người tha hương đã gieo xuống từng khoảnh rừng dưới chân núi, cạnh bờ sông hay bên rìa thung lũng hạt giống từ phương tây. Sau đó họ lập Vương Quốc Thịnh Vượng, xây nên thị trấn, thành trì, lâu đài, mang vó ngựa chinh phục khắp Băng Thổ. Ở những cánh rừng, giống loài thực vật phương tây âm thầm sinh sôi. Rồi Biệt Liên Đại Đế nổi dậy, thành quách lâu đài bị lửa chiến tranh thiêu cháy, mọi vinh quang huy hoàng bị giẫm đạp dưới sự giận dữ của nô lệ. Vương Quốc Thịnh Vượng bị lãng quên trong cái tên “Vương Quốc Cũ”. 

Rừng vẫn ở đấy, cây cối phương tây lớn lên chen chúc dưới những cổ thụ phương bắc. Nghìn năm trôi qua, các cánh rừng nơi đây trở nên um tùm rậm rạp tựa mái tóc xơ rạc của mụ phù thủy già – người đàn bà đáng sợ nhất với trẻ con phương bắc, đồng thời trở nên độc địa như chính bà ta. Trừ phi bất đắc dĩ, chẳng ai muốn lại gần chúng.

Còn Vô Phong đã chui váy mụ phù thủy già đó suốt nửa tháng. Cái váy hôi rình mùi xác động vật chết lẫn lá mùn, che kín mặt trời bằng thớ vải dày cui đan bằng những tán cây tầng tầng lớp lớp. Bóng tối lẫn mùi dơ thối làm tên tóc đỏ cảm giác mình đần đụn ít nhiều. Nhưng chừng nào chưa xong việc, hắn không thể rời đi. 

Lúc này, Vô Phong đang băng qua khúc suối cạn trong một cánh rừng thuộc Vương Quốc Cũ. Theo chân hắn có sáu người, ai nấy gùi trên lưng cơ man những ba lô cùng thiết bị điện tử, gương mặt họ phờ phạc vì ăn ngủ với rừng già nửa tháng như tên tóc đỏ. Cả đám cặm cụi đi, không một lời trò chuyện cũng chẳng gọi tên nhau. Lúc nghỉ ngơi, họ mới âm thầm bàn bạc trao đổi như sợ quấy quả thứ gì đấy đang say giấc. Rừng Vương Quốc Cũ lắm nhiêu khê nhiều luật lệ, không in thành văn bản mà sử dụng xác chết những kẻ mạo hiểm xấu số làm giáo cụ trực quan. Bất cứ ai cũng có thể trở thành công cụ minh họa mới cho chúng. 

Giáo sư Đốc Lãm bước sát gót Vô Phong. Khác mọi người, Đốc Lãm chẳng mang vác gì ngoài một chiếc la bàn nhỏ trong tay. Vị giáo sư không đủ khỏe để khoác hành lý, ngay cả việc đặt chân tới Vương Quốc Cũ vốn đã quá sức với một người mắc bệnh phổi mãn tính. Đoàn người đi nhanh hay chậm, tiếp tục hành trình hoặc hạ trại nghỉ ngơi đều do Đốc Lãm quyết định. Vừa vượt qua khúc suối cạn, ông giáo sư gọi Vô Phong: 

-Anh bạn… chúng ta cần khảo sát chỗ này… – Ông già chống gối thở dốc rồi chỉ vào khúc suối cạn – …mấy chỗ như vậy thường có manh mối…

Tên tóc đỏ không chắc ông giáo sư kiểm tra thật hay kiếm cớ lười nhác. Nguyên sáng hôm nay, Đốc Lãm đòi dừng chân bốn lần, khảo sát trắc địa thì ít mà ngồi không thì nhiều. Nhưng cuối cùng Vô Phong vẫn đồng ý. Nửa tháng mài mặt trong rừng sâu, ngay cả hắn cũng bắt đầu chán nản chứ chưa đợi một ông già trên bảy mươi tuổi mắc bệnh hô hấp. 

Cả đoàn ngừng di chuyển. Đốc Lãm bảo rằng việc kiểm tra sẽ lâu hơn thường lệ nên họ hạ trại bên khúc suối cạn. Tên tóc đỏ cùng Si Giáng dựng lều bạt rồi đào hố nhóm lửa. Trong lúc ấy, bốn người còn lại trong đoàn lắp đặt thiết bị giúp Đốc Lãm khảo sát dòng suối cạn. Họ đều là đàn ông, mỗi cá nhân sở hữu chuyên môn riêng từ sinh hóa, hóa học, nghiên cứu địa chất tới thăm dò địa hình. Đích thân đại thống lĩnh Khai Y chỉ mặt điểm tên bốn người này tham gia chuyến đi đến Vương Quốc Cũ. Khác đám khoa học gia Đề Án Mắt Trắng, tên tóc đỏ chẳng cần đổ mồ hôi thuyết phục bọn họ. Tất cả những gì hắn làm là trưng ra một cọc tiền dày cộp và nói với họ “Đại thống lĩnh Xuy Hạ Khai Y gửi lời mời!”. Chẳng cần suy nghĩ hay kì kèo thêm vài đồng bạc, bốn người đồng ý ngay lập tức. Làm nghề đánh thuê, họ yêu tiền và hiểu rõ là không nên từ chối ông đại thống lĩnh Băng Hóa quốc. 

Đang 11 giờ rưỡi sáng, Vô Phong quyết định làm bữa trưa. Hắn và Si Giáng lôi ra một mớ xúc xích, gạo, nấm, dầu, thịt nguội cùng ít rau củ. Chừng này đủ chế biến một nồi cơm chiên nóng sốt và ngon miệng, tuy tốn công nhưng cần thiết. Bởi lẽ thức ăn đóng gói không thể duy trì thể lực cho cuộc hành xác trong rừng già Vương Quốc Cũ. 

-Bao giờ mới xong đây, tóc đỏ? Bao giờ chúng ta mới tìm thấy di cốt của Biệt Liên Đa Xuyến? – Si Giáng vừa thái mớ hành tây vừa phụng phịu – Tôi thèm tắm lắm rồi! Không phải mấy dung dịch vệ sinh đâu nhé! Tắm kia! Trong một cái bồn đàng hoàng, sữa tắm dầu thơm đầy đủ! 

-Dễ thôi! – Vô Phong gật gù đoạn hất hàm về khúc suối cạn – Tôi sẽ đào một cái hố ở đó. Cô chỉ việc nhảy xuống và đợi tôi đun nước ấm. Dầu gội sữa tắm? Không phải chúng được chiết xuất từ thảo mộc thiên nhiên à? Vậy đợi tôi đào rễ cây gom ít lá nhé! Quanh đây đâu thiếu?!

-Anh cho tôi tắm hay hầm nhừ tôi đấy? – Si Giáng nhíu mày – Im đi, đồ điên!

Tên tóc đỏ bật cười rồi tiếp tục nấu ăn. Hắn trút mớ hành tây lẫn rau củ thái nhỏ vào cái nồi đầy xúc xích thịt nguội đã rán vàng ươm lẫn gạo sống. Hắn đổ nước ngập lưng nồi, đem bắc lên kiềng trên hố lửa rồi nói:

-Cô có thể lựa chọn ngay từ đầu, phải không? Cô chỉ ký hợp đồng với Mi Kha chứ đâu cần tham gia với tôi? Mi Kha trả cô đâu ít, giờ này cô có thể đi du lịch hay vui chơi đâu đó mà! 

Si Giáng nháy mắt:

-Nhưng anh trả tôi không tệ. Vậy nên tôi nhịn tắm cả năm cũng được, miễn sao có tiền! Làm xong vụ này, tôi nghỉ đến năm sau, trừ phi bà già Mi Kha gọi. 

-Tôi nhớ là cô kiếm được nhiều đấy chứ? Tại sao không rút khỏi nghề này và tìm công việc mới? Vì Mi Kha sao? – Vô Phong hỏi. 

-Không, bà già Mi Kha không cấm. Chỉ là tôi thích thế! – Si Giáng đáp – Tôi chỉ là chiến binh cỡ trung bình, không giỏi bằng anh hay người khác. Tôi cũng không có khả năng đặc biệt nào. À, tất nhiên là tôi giỏi ngủ với đàn ông, chừng đó chỉ đủ xin việc ở nhà thổ nhưng chưa đủ để làm Hạ Nga Chi. Trong khi tôi cần tiền, thật nhiều tiền! Mà theo bà già Mi Kha thì kiếm ăn được, nên tôi bám giới đánh thuê mà sống thôi!

Cô nàng chống cằm nhìn nồi cơm sôi sùng sục. Vô Phong mở nồi khuấy đều, bỏ thêm các loại gia vị và nấm, tiếp lời:

-Cứ thế này mãi sao? Cô định đánh thuê tới già chắc? 

-Chắc gì tôi sẽ sống tới lúc đó? – Si Giáng nháy mắt – Vậy nên cứ kiếm tiền thôi! Càng nhiều càng tốt! 

-Giờ cô coi tiền là quan trọng nhất? 

-Ai cũng cần mục tiêu sống mà! – Si Giáng trả lời.

Tên tóc đỏ gật gù kiểu “biết vậy” song không nói thêm nữa. Giờ hắn chỉ chờ nồi cơm chín và đợi ông giáo sư có kết quả tốt. Mỗi lính đánh thuê đều có mục đích sống riêng, cũng là tôn chỉ giúp họ tồn tại. Với Si Giáng, đó là tiền.

Lát sau, cả đám tụ tập quanh hố lửa để ăn trưa. Họ không có nhiều điều để nói, trừ việc giáo sư Đốc Lãm khẳng định nhiều manh mối khả quan đã xuất hiện. Ông ta quả quyết với Vô Phong:

-Di cốt của họ Biệt Liên rất đặc biệt! Khi bị hỏa thiêu, tro xương sẽ vón thành cục lớn cỡ này! – Ông ta khum khum lòng bàn tay mô tả – Chúng dễ bị nhầm lẫn với thạch anh nhưng chỉ có một hình thù duy nhất. Chúng có sức mạnh phép thuật lớn, ước chừng bằng mười thùng quang tố. Nếu chôn xuống đất, di cốt có thể gây xáo trộn một vùng đất lớn. Thứ nhất là thay đổi kiến tạo địa chất, thứ hai là bẻ cong các mạch ngầm, vân vân và vân vân! Nhiều năm trước, tôi nhận ra có vài quy luật trong cấu tạo địa chất Vương Quốc Cũ, nếu sắp xếp chúng thành biểu đồ sẽ tìm được manh mối. Đáng tiếc, hồi đó đoàn khảo sát gặp vài rắc rối nên tôi không thể tiếp tục nữa. Nhưng bây giờ, mọi thứ tiến triển rất tốt!

Nghe ông già diễn giải, Vô Phong gật đầu bừa chứ thực lòng cóc hiểu con khỉ khô gì. “Ngôn ngữ vũ trụ à?” – Hắn tự nhủ. Vả lại suốt nửa tháng nay, cái lạc quan của ông giáo sư đã lặp lại trên dưới hai chục lần, tên tóc đỏ nghe thành nhờn màng nhĩ. Nhưng nực cười ở chỗ hắn nhận ra ông giáo sư chính là kẻ lạc quan nhất chốn rừng già. 

Nửa tháng trước, Vô Phong trở lại tư dinh họ Cát Giá cùng đám khoa học gia. Vốn dĩ có hai mươi lăm nhà khoa học, vì cái chết của Ngột Đài nên chỉ còn hai mươi tư. Chỉ một người nhưng Mi Kha khoằm mặt tức tối. Khi biết Đốc Lãm phải xong việc ở Vương Quốc Cũ mới được quay về, cô ả thực sự nổi điên. Và chẳng ngạc nhiên khi Mi Kha đem vô số lời lẽ khó nghe lẫn chửi thề tống vào tên tóc đỏ. Đáp lại, Vô Phong nhếch mép cười đểu: “Đừng to tiếng với tôi. To tiếng với ông đại thống lĩnh của cô ấy! Nếu cô thuyết phục được ổng thì cứ việc!”. Cuối cùng Mi Kha phải nhân nhượng, cô ta không thể đối đầu đại thống lĩnh Khai Y. 

Bị trao qua đổi lại như món hàng nhưng Đốc Lãm chẳng phàn nàn một câu. Trong số các nhà khoa học, ông ta cứng đầu nhất, Vô Phong phải đe dọa mấy lượt. Từ Biên Ngoại thành sang Vương Quốc Cũ, ông giáo sư luôn mải mê nghiên cứu, hiếm khi ngơi nghỉ trừ lúc ngủ, tưởng chừng đang gặp cảm hứng lớn. Nếu không phải tiếp xúc dân khoa học nhiều, Vô Phong đã lấy làm lạ trước sự quay ngoắt thái độ của ông ta. Vài cơn gió nhẹ, dăm lời nói, thậm chí con côn trùng giãy chết cũng khiến họ đổi tính nết. Bất quá thay đổi có lợi nên Vô Phong chẳng phiền. 

Ăn xong bữa, mỗi người tự tìm chỗ ngả lưng lấy sức cho chuyến đi chiều. Vô Phong tranh thủ kiểm tra bản đồ, vạch tuyến đường đã đi, ghi chú vài chi tiết rồi gác tay lên trán cố chợp mắt. Rừng rậm che mặt trời nên chỉ toàn bóng tối tù mù, khái niệm ngày đêm không tồn tại, đi lại ở nơi đây dễ buồn ngủ. Oái oăm thay, những lúc thế này lại chẳng dễ say giấc. Mùi lá mùn, hơi tuyết lạnh, tiếng thú hoang kêu rúc rích chuyền cành trên cao cứ lờn vờn ngũ quan, tên tóc đỏ lăn bên nọ lăn bên kia mà hai mắt vẫn trơ trơ suốt. Ngủ được giữa chốn âm u này là cả một kỳ công. 

Sau rốt Vô Phong chịu thua khu rừng và trở dậy trong cáu bẳn. Từ ngày bước vào Vương Quốc Cũ, hắn mất ngủ thường xuyên, mí mắt luôn cụp sụp như đeo chì. Hắn lôi vũ khí ra lau chùi, để tay chân táy máy cho bớt nỗi bực bội. Không gian tối tăm lẫn lộn tiếng thú hoang kêu rinh rích, lửa cháy phập phùng và âm thanh mài kiếm trơ lạnh. 

Vô Phong không cô đơn trong chuyện mất ngủ. Hắn đương mài kiếm thì một người bước đến xin điếu thuốc. Tên tóc đỏ không hà tiện, liền đưa luôn cả bao. Kẻ nọ cảm ơn rồi tựa lưng vào gốc cây gần đó, say sưa tận hưởng khói thuốc và chăm chú nhìn Vô Phong mài kiếm. Gã này vừa cao to vừa đậm người, toàn thân bè bè chiều ngang như thể có thứ gì đấy độn thêm dưới da thịt, lúc ngồi nom chẳng khác súc gỗ mới chặt ra từ cổ thụ. Bộ dạng kỳ quặc đó cũng giống con người gã: một cựu binh, một tay lính đánh thuê, một nhà nghiên cứu địa chất, một gã giết mổ gia cầm và một thầy giáo tiểu học. Cũng giống Đốc Lãm, gã bự con này thuộc bốn người mà đại thống lĩnh Khai Y chỉ định công việc. Tên gã là Mông Đồng, nhưng thường gọi bằng biệt danh “Mông Nhão”. 

Tận hưởng đủ khói thuốc, gã Mông Nhão chú mục Vô Phong nhiều hơn, đôi mắt phản chiếu ánh lửa xập xòe từ viên đá mài trong tay tên tóc đỏ. Gã không ngừng săm soi thanh kiếm màu xám thẳng thớm không có đốc kiếm, đầu lưỡi hơi to bè, sống lưỡi có răng cưa và khoen móc. Hai mắt gã sáng lên, tựa đứa trẻ vừa nhìn thấy đồ chơi mới hay một cô gái phát hiện ra một bộ đầm hợp mốt trưng bày trong cửa tiệm. Gã chìa tay:

-Tôi xem thử, được không? 

Vô Phong đưa kiếm cho gã. Mông Nhão nâng kiếm như nâng trứng, búng khẽ ngón tay thử độ vang, cầm nắm bằng nhiều tư thế và không ngại lấy bàn tay thử độ sắc của kiếm. Thậm chí gã còn dùng kính lúp soi từng chi tiết, nom như một thợ kim hoàn kiểm tra sản phẩm. Nhìn biểu tượng đầu heo khắc chìm ở chuôi kiếm, gã cất lời:

-Tiệm rèn nào cũng khắc biểu tượng nhiều ý nghĩa hoặc thật đẹp, chỉ riêng Lò Heo Quay ở Băng Hóa thành khắc hình khó coi này. Ít người biết Lò Heo Quay, mà biết rồi thì đều khao khát sở hữu một thanh kiếm do chính tay ông chủ tiệm làm ra. Nhưng ông chủ tiệm là một lão già khó tính, chỉ làm theo cảm hứng và làm theo ý thích. Nói xem, anh bạn, cậu thuyết phục lão già đó kiểu gì thế? 

-Quen biết bình thường thôi. – Vô Phong đáp. 

Tên tóc đỏ không thích nhiều lời, Mông Nhão cũng không căn vặn. Gã bự con trả lại thanh kiếm nhưng giữ bao thuốc, đoạn tiếp lời:

-Cậu nghe tin đồn về một đám “bốc mả” từ Đông Thổ lặn lội sang đây chưa? Sáng nay, vài người bạn cũ nhắn tin với tôi là chúng đang mở tài khoản. 

Nghe thế, Vô Phong giật thót song vẫn giữ bộ mặt bình thản. Hắn ngước mắt:

-Tôi có nghe. Nhưng “mở tài khoản” là gì? 

-Tức là bọn giết người đó công khai truy lùng đối tượng. – Mông Nhão giải thích – Chúng mở một tài khoản chuyển tiền và thông báo đến tất cả lính đánh thuê hoặc lũ “móc cống” khác. Ai cung cấp thông tin, chúng sẽ trả tiền tạm ứng rồi tất toán sau khi xong việc. Mở tài khoản cũng đồng nghĩa tự xưng danh tính, tự để lại dấu vết, chấp nhận rủi ro là có thể bị xử bất cứ lúc nào – người ta ghét lũ “bốc mả” gấp mấy lần bọn “móc cống”. 

Vô Phong vừa lắng nghe vừa quấy cốc súc-cù-là nóng, hớp một ngụm rồi đưa Mông Nhão. Hắn nói ráo hoảnh, mặt tỉnh bơ:

-Thế lũ Đông Thổ ấy tìm ai vậy? 

-Một gã tóc đỏ. – Mông Nhão trả lời – Lời đồn có vẻ đúng. Trước khi chúng mở tài khoản, người ta đã đồn đại chúng đang tìm một gã tóc đỏ. Nhưng phương bắc này thì thiếu gì người như vậy? Cứ lên vùng viễn bắc, không thiếu! Hay chúng muốn tìm Liệt Giả? Thế thì điên quá!

Gã to con tếu táo, Vô Phong cười phụ họa. Tên tóc đỏ tự tin cười vì mái tóc của hắn hiện giờ có… màu đen sì, và dăm ngày nữa thuốc nhuộm hẵng phai. Tin tức từ Mông Nhão vừa hay vừa dở. Hay vì mọi cách thức ẩn nấp của Vô Phong vẫn hiệu quả và lũ “bốc mả” chưa đánh hơi được chút gì, mà cũng dở vì đám săn người đang mất kiên nhẫn như bầy sói nhịn đói đã lâu. Nghĩ tới đó, Vô Phong rùng mình. 

Hai tiếng sau, đoàn người khởi hành. Từ mạn nam Vương Quốc Cũ, họ men theo khúc suối cạn ngược lên hướng tây bắc, tiếp tục công cuộc cuốc bộ rừng già. Vẫn không gian tối hù lẫn tiếng chim thú rả rích hoang dại, nhưng cả đám hăng hái hơn hẳn hồi sáng. Vì theo bản đồ, đường tây bắc sẽ đưa họ ra khỏi rừng rậm và tiến vào khu vực đồng bằng. Đốc Lãm chưa tìm thấy di cốt, nhưng giúp mọi người nhìn thấy ánh mặt trời sau nửa tháng chui váy mụ già rừng rậm được tính là một nỗ lực xuất thần. 

Bảy người mải miết băng rừng, bốt da và gậy chống lấm lem tuyết ướt mùn bẩn. Đường đi dễ dàng hơn, giống cây cối tán thấp phương tây ít dần và cũng bớt độc địa như đám họ hàng của chúng trong nơi sâu thẳm. Trên cao, cổ thụ phương bắc kết những tấm lưới thủng lỗ rỗ song không thể ngăn hết nắng chiều tà rọi xuống các lối mòn ngập tuyết. Không gian quang đãng gấp nhiều lần. Vô Phong mở máy chiếu đeo tay, thấy đoàn của mình đang ở bìa rừng, đi bộ thêm nửa cây số sẽ đến vùng đồng bằng. Cuối cùng họ cũng thoát khỏi rừng già.

Đương vui mừng, Vô Phong chợt nghe vài tiếng bước chân từ xa dội lại. Dựa vào âm thanh đều đều không gấp, hắn đoán rằng đó là một nhóm khoảng năm người. Ít giây sau, đám người xuất hiện với bộ dạng lôi thôi lếch thếch, kẻ nào kẻ nấy hôi rình do lâu ngày chưa tắm, lưng đeo ba lô đầy ụ rủng roẻng tiếng kim loại va nhau. Họ cũng là những kẻ mạo hiểm trên Vương Quốc Cũ, chỉ khác bọn Vô Phong trở ra còn họ đi vào rừng rậm. Vừa thấy bọn Vô Phong, họ liền chìa ra vài món đồ bạc xỉn màu:

-Mua không? Mua không? Năm thùng vàng thôi? Không? Bốn nhé?! Không mua à? Chán thế! Có thuốc lá không, cho bọn này mua vài bao? Trao đổi hàng nhé? Chỉ tiền mặt à? Được thôi!

Đám nọ xì xụp bán bán mua mua với đoàn Vô Phong. Một gã gãi cằm nhìn Si Giáng rồi bảo cô nàng ra đằng kia vui vẻ. Si Giáng hét giá hai mươi đồng vàng, gã liền giơ tay xin thôi đoạn buông lời chửi tục. Mua bán xong, đường ai nấy đi, không lời hỏi han cũng không lời chúc phúc. Như rừng già hay Vương Quốc Cũ, những kẻ mạo hiểm chốn này cũng có luật riêng. Trông bộ dạng những kẻ ồn ào nọ, Vô Phong đoán họ là đám “cạy nắp” tức dân đục khoét hầm mộ đào kho báu. Người ta kể rằng thời Vương Quốc Thịnh Vượng, người chết được chôn cùng vàng bạc đá quý, đặc biệt là hầm mộ vua chúa quý tộc. Trên mảnh đất đầy nguyền rủa này, người ta dễ gặp bọn “cạy nắp” hơn cả dân bản địa. 

Nhiều năm lang thang, Vô Phong nhận ra những chốn khắc nghiệt tuy hiếm người nhưng lại thừa bọn thổ tả. Vương Quốc Cũ không hoàn toàn hoang vu như những hình ảnh vệ tinh và lời đồn đại tô vẽ, nó sở hữu cái nhộn nhịp của riêng mình. 

Cánh rừng nằm trên nền đất cao, ngăn cách vùng đồng bằng bên dưới nhờ một dải đồi nhỏ. Bọn Vô Phong bước qua một cầu thang đá cổ xưa dẫn xuống đồi, bậc nào cũng mòn vẹt hoặc nứt vỡ. Từ đây, họ dễ dàng trông thấy một khu trại nhỏ nằm giữa vùng đồng bằng tuyết rộng mênh mông. Trại quây trong hàng rào gỗ dựng tạm bợ, gồm hai túp lều lớn và mười lều nhỏ, nằm bên cạnh trại chăn thả gia súc. Khắp Vương Quốc Cũ có khoảng năm, sáu trại kiểu này và đều thuộc về các tộc người thiểu số. Họ lập trại để đám mạo hiểm có chỗ đi chỗ về, tiện thể sắm sửa lương thực quần áo và tất nhiên, họ không phục vụ miễn phí. 

Chủ trại là một ông già người bản địa, tóc tai râu ria xù xịt quanh cổ như lông bò rừng, già khoắm và rất ghét mặc cả tiền nong. “Một người hai thùng vàng rưỡi, ở một tuần khuyến mãi một bình sữa dê, ở một tháng khuyến mãi một con dê. Đồng ý thì trả tiền” – Lão già làu bàu. Vô Phong rút ra một chai rượu làm quà, lão già sáng rực mắt hấp háy như đèn pha, bèn khuyến mãi hẳn hai bình sữa dê ngay hôm đầu tiên. Ông ta còn ưu đãi cho bọn Vô Phong ở trong một túp lều cách xa khu chăn thả gia súc. Dân phương bắc thân thiện hiếu khách chẳng kém dân xứ nào, chỉ khác ở chỗ họ cần thêm chất lỏng lên men.

Đêm ở Vương Quốc Cũ chẳng có nhiều việc để làm. Ngoài trời bây giờ tối thui, mò đường đi trong khu trại dưới ánh đèn dầu tù mù còn khó, phóng mắt ra xa hơn thì không thể. Sau bữa tối, cả đám người lăn ra ngủ, chỉ còn Vô Phong bàn việc cùng giáo sư Đốc Lãm. Vị giáo sư nói rằng nếu vận dụng những công thức tính toán địa chất hợp lý, chừng ba tháng nữa sẽ tìm thấy di cốt. Nghe ông ta giảng giải, Vô Phong ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, chỉ biết ba tháng quá lâu. Hắn ngẫm nghĩ một lúc rồi đề nghị:

-Ông có nghĩ Mục Du Cổ sẽ chôn di cốt mẹ mình ở một nơi đặc biệt không? Chúng ta đã gặp dân bản xứ nơi mẹ con Mục Du Cổ sinh sống, họ nói rằng ông ấy khi còn bé rất thông minh, hiểu biết hơn cả người già cả. Vậy thì ông ấy đã hưởng sự giáo dục từ bà mẹ. Có thể Mục Du Cổ đã tìm thấy một địa điểm hợp lý hoặc có ý nghĩa để chôn cất mẹ mình. 

-Tôi hiểu ý của cậu, nhưng chúng tôi không giống người phương đông, họ chôn cất vì mong người chết phù hộ cho mình. – Đốc Lãm nói – Người phương bắc không giống thế.

Vô Phong nhún vai:

-Nhưng ít nhất cũng phải có ý nghĩa! Tôi là thằng chém mướn nhưng cũng biết một ít về dân học thức. Họ không hành động ngẫu nhiên mà thường tuân theo quy luật nhất định, những quy luật đó lấy cảm hứng từ chuyện xưa hoặc tác phẩm nghệ thuật. Chôn cất người thân là việc trọng đại, họ sẽ không làm qua loa đại khái. Tôi không tin Mục Du Cổ chọn một gốc cây vớ vẩn hay một khoảnh đất linh tinh để chôn di cốt mẹ mình. 

Thái độ quả quyết của hắn làm ông giáo sư suy nghĩ. Họ tranh luận ít lâu, sau đấy bàn bạc theo chiều hướng mà Vô Phong vạch ra. Từng cột mốc lịch sử, chuyện kể và lời đồn về xứ khỉ ho cò gáy Vương Quốc Cũ được đem ra mổ xẻ. Nhưng sự hào hứng chẳng kéo dài lâu. Chuyến hành trình vượt rừng đã vắt kiệt họ như vắt cuộn vải ướt kiệt nước. Không ai bảo ai, mỗi người tự động trở về túi ngủ rồi say giấc nồng. 

Nhưng Vô Phong chẳng yên giấc lâu. Hắn thấy một bóng đen ngọ ngoạy bên cạnh rồi chui vào túi ngủ cùng mình. Không gian tối hù, nhưng dựa theo mùi thuốc nhuộm tóc và điệu cười của cái bóng nọ, hắn biết đó là Si Giáng. Cô nàng ranh ma ép chặt mình với Vô Phong, miệng cười khoái trá khi thấy gã đàn ông tỏ ra không thoải mái. Vô Phong tặc lưỡi:

-Lại nữa?! Cô không cho tôi ngủ à? 

-Đời thì ngắn, sao phải ngủ nhiều? – Si Giáng cười – Này, làm với tôi không? Trời lạnh thế này là nhất đấy!

Vô Phong thở phì phì. Đây không phải lần đầu cô ả gợi ý kiểu đó. Từ Băng Hóa thành, vùng đông bắc Băng Thổ rồi qua Vương Quốc Cũ, hễ có cơ hội là Si Giáng mời mọc chuyện thể xác. Cô ả không hành nghề mà muốn thế, chỉ cần Vô Phong hối lộ đồ ăn ngon là xong. Khốn thay Vô Phong không muốn và Si Giáng chưa trưởng thành. Nàng ta mới mười bảy tuổi. Có cái gì đó hoang dại ẩn sâu trong thể xác phụ nữ phương bắc mà Vô Phong không hiểu nổi. Hắn nghĩ Mi Kha là trường hợp đặc biệt nhưng Si Giáng cũng chẳng khác. Họ giống loài thú hoang bản năng, không hề quan tâm cảm xúc của người khác. 

Si Giáng bật máy chiếu đeo tay của Vô Phong. Nó hiện lên bản đồ nhỏ, tọa độ cùng thời gian. Cô nàng nheo mắt đọc rồi nói:

-Mười giờ rồi hả? Hai tiếng nữa là tôi đủ mười tám tuổi, không còn trẻ con nữa, nên muốn tận hưởng hương vị thiếu nữ thì nhanh lên! Lúc Si Thăng còn sống, anh biết bọn đàn ông phải trả bao nhiêu để ngủ với chị em tôi không? Một trăm tám mươi thùng vàng trong nửa tiếng! Anh hời lắm đấy!

-Tại sao phải như vậy? – Vô Phong hỏi – Chúng ta đâu có gì với nhau? 

Si Giáng đáp lời:

-Trước lúc đi, bà già Mi Kha bảo tôi rằng nếu anh cần hơi đàn bà, tôi sẽ đáp ứng. Cũng là công việc cả, bà già Mi Kha sẽ trả cho tôi. Nhưng biết nói sao nhỉ? Hồi ở Tuyệt Tưởng Thành, anh ra dáng đấy chứ? Tôi thích người như vậy, mà thế giới này không nhiều người giống anh. Tin tôi đi, ít lắm! Mà cái xứ này ngoài tuyết ra còn gì nữa? Tôi không thấy gì thú vị ngoài tuyết cả. Thời tiết mới kỳ cục làm sao! Ban ngày quá ngắn, ban đêm thì quá dài; mà lại có mùa chẳng có tí bóng đêm nào cho người ta chợp mắt. Con người thì thay đổi nhanh quá! Mới lúc trước họ còn cười nói, mà chỉ dăm phút sau là trở mặt ngay. Có lẽ phương bắc lạnh lẽo quá nên con người bị điên! Vậy lúc còn tử tế với nhau thì tại sao không làm tình chứ? Lúc đó, chúng ta dễ nói lời yêu nhau, dù chỉ là buột miệng, nhưng như thế cũng đủ rồi! Sao hả, Vô Phong? Anh nghĩ sao? 

Cô nàng thò tay ngọ ngoạy đủ trò phía dưới. Vô Phong liền quay lưng và chẳng đoái hoài cô ả nữa. Si Giáng vỗ đầu hắn, hậm hực:

-Chán ngắt hà! Đàn ông gì mà ngu thế!

Rồi cô ả rời túi ngủ, bỏ ra ngoài lều. Vô Phong thây kệ. Nếu hắn là Hỏa Nghi, chuyện đã dễ dàng hơn nhiều. Nhưng hắn không phải Hỏa Nghi. Thế giới sinh ra hàng tỉ con người cùng hàng tỉ tính cách khác nhau. Hắn có lựa chọn riêng. Chưa kể hắn đang buồn ngủ díp mắt, dẫu thế giới Tâm Mộng sụp đổ thì hắn phải ngủ trước, tính sau. 

Trong lúc ấy, Si Giáng đi thẳng tới căn lều lớn nhất trại, miệng lẩm nhẩm một dãy số. Tại đó, cô ta nhờ chủ trại mở trạm phát sóng bằng một bộ phát sóng có tín hiệu phập phù. Cỗ máy bám bụi han gỉ, tuổi đời ước chừng lâu hơn cả Si Giáng. Vương Quốc Cũ hoang vu nên không có hệ thống trung chuyển thông tin, những bộ phát sóng cũ mèm đây là phương tiện duy nhất giúp người ta liên hệ với thế giới bên ngoài. Si Giáng mở máy chiếu ba chiều, sau đó gửi một bức thư điện tử, nội dung như sau:

“Gửi tài khoản MPA-7221908. Tọa độ: 29B – 109,8” 



Bộ phát sóng phát mấy tiếng tịch tè như lên cơn hen rồi nhấp nháy vài đèn sáng báo hiệu đang chuyển tin. Đang thời đại công nghệ tên lửa, mấy thứ cổ lỗ sĩ kiểu này dễ làm người ta phát điên. Nhưng Si Giáng chẳng còn cách nào khác ngoài việc chờ đợi. Khi cô ả gần ngủ gục, cái máy mới thông báo thư đã được gửi. Si Giáng tắt máy ra ngoài, vừa hay lại gặp Mông Nhão. Gã to con mỉm cười:

-Không ngủ được sao? 

-Khó ngủ! – Cô nàng đáp. 

-Ra ngoài kia làm một tí không? – Mông Nhão nháy mắt.

-Bảy mươi thùng vàng, không mặc cả. – Si Giáng trả lời.

Mông Nhão lắc đầu cười chịu thua. Đợi cô ả đi rồi, gã mua lão chủ trại một cốc sữa dê, vài điếu thuốc, sau đấy lại nhờ lão ta khởi động máy phát sóng. Gã cũng mở máy chiếu cá nhân và gửi một bức thư điện tử có nội dung thế này:

“Gửi tài khoản MPA-7221908. Tóc đỏ đang ở Vương Quốc Cũ”



Đợi máy phát chuyển xong, Mông Nhão hút nốt điếu thuốc rồi ra về. Thời giờ qua nhanh, thoáng chốc đã nửa đêm, ông chủ trại định thu dọn đóng cửa lều thì lại một người bước vào. Đó là giáo sư Đốc Lãm và hệt như hai người trước, ông ta xin mở máy phát sóng. Dù được hối lộ chai rượu nhưng lão chủ trại không khỏi bực mình:

-Ngày quái quỷ gì vậy? Sao các người thi nhau đến thế? Chỉ một lần nữa thôi đấy! – Lão già gắt gỏng. 

Ông giáo sư cười gượng vì lỡ quấy quả người khác. Đốc Lãm không giỏi lắm trong việc che giấu. Ông ta vừa gửi thư điện tử vừa liếc ngang ngó dọc như sợ ai đấy bắt gặp mình làm điều khuất tất. Thư không dài, nhõn ra được vài chữ nhưng bàn tay ông ta run lập cập, mãi mới xong:

“Gửi tài khoản MPA-7221908. Hàng đang ở Vương Quốc Cũ”



Gửi được thư, vị giáo sư quên cả cảm ơn đoạn vội vã rời lều. Lão chủ trại chẳng hiểu đám người ngoài kia nghĩ gì, kẻ nào kẻ nấy đều hành xử kỳ cục. Nhưng Vương Quốc Cũ là thế, nó đầy rẫy bí mật còn con người thậm thụt với vô vàn điều gian trá. Nhưng điều đó chẳng làm lão chủ trại quan tâm. Lão tu nốt chai rượu ngon, sau đóng cửa lều đi ngủ. Kể từ lúc ấy không còn ai làm phiền lão nữa.



Khi Vương Quốc Cũ chuẩn bị sang ngày mới thì cách đấy vài nghìn cây số, Phi Thiên thành mới đón hoàng hôn ngày cũ. 

Mùa đông đã qua, nắng ấm đã lên, Phi Thiên thành đang nóng dần trước phiên điều trần của họ Hỏa. Không lâu nữa, vào ngày 19 tháng 4, Hỏa Nghi – vị trưởng tộc họ Hỏa mới toanh sẽ đối chất với ủy ban kiểm tra. Ai cũng mong đợi sự kiện này. 

Nhưng phòng Bạch Quang thì khác. Chẳng đợi sự kiện hay dịp đặc biệt, nó lúc nào cũng hầm hập hơi nóng. Một biến cố chính trị, một tin tức kinh tế hay đơn giản là cái nhìn chẳng mấy thân thiện giữa các pháp quan cũng đủ làm củi đun cho căn phòng. Trước đây người hứng chịu sức nóng từ cái lò này là Bạch Dương Đệ Thập, còn giờ là Trần Độ. Có lúc, Trần Độ nghĩ rằng mình sẽ bị nướng chín ở đây, mà nướng toàn ra xương xẩu, thịt teo quắt chẳng bõ dính răng. 

-Có thông tin tình báo từ các giáo đoàn đánh thuê… – Một pháp quan nói – …một đám sát thủ từ Đông Thổ vừa mở tài khoản ở lục địa Băng Thổ, số hiệu MPA-7221908. Nguồn tin báo rằng chúng đang truy lùng một người tóc đỏ, và người này đang ở Vương Quốc Cũ. Là gã con hoang Vô Phong, không phải ai khác. 

-Chúng ta để Vô Phong tự do quá lâu rồi. Nếu hắn lọt vào tay người Băng Hóa, không biết chuyện gì sẽ xảy ra. – Một vị pháp quan nói – Nhưng tại sao bọn sát thủ Đông Thổ lại tìm hắn? 

-Hắn từng giết một vài chính khách bên Đông Thổ, mấy tay này đe dọa Phi Thiên chúng ta. – Một người khác lên tiếng – Nhưng có vẻ không hợp lý cho lắm, vì hắn xử lý mấy vụ đó rất sạch sẽ. Bọn sát thủ này là lũ “bốc mả” của Ẩn Lý Thị bên Diệp quốc, chúng ta không hề và không bao giờ gây thù hằn với Ẩn Lý Thị. 

-Chuyện đó bàn sau! Chúng ta biết tin có nghĩa là người Băng Hóa cũng biết tin. – Một pháp quan lắc đầu – Phải hành động khẩn trương! Tôi yêu cầu ngài thủ lĩnh dùng biện pháp mạnh. Hãy gọi “hắn” ra, chỉ có hắn mới xử lý được tên tóc đỏ! 

Tám pháp quan không hẹn mà gặp, đều nhất trí quan điểm đánh nhanh tiêu diệt gọn thằng con hoang tóc đỏ. Bị tám cặp mắt săm soi, Trần Độ hơi nhột. Tuy không ngồi trên Ngai Thép –chiếc ghế chỉ dành cho hoàng đế – nhưng Trần Độ cảm nhận rõ chiếc ghế thép kinh khủng cỡ nào, mà Đệ Thập đã ngồi trên đó ngót mấy mươi năm. Dù vậy, lão vẫn nở nụ cười lạnh nhạt rồi bấm điện thoại:

-Hắc Hùng hả? Phải, là tôi. Cho tôi liên lạc với Thú. 
 
Quyển 5 - Chương 12: Màu tối


Hiện đang là tháng 4 ở Diệp Quốc. Đa Lạt đã ở đây thêm ba tuần. Ba tuần đó, ông di chuyển khắp Diệp quốc, lên thủ đô nước này rồi gặp gỡ nhiều bạn bè, người quen, được giới thiệu qua nhiều nơi. Nhưng công việc chẳng hề tiến triển. Không cá nhân hay tổ chức nào biết Lập Hoa Thôn Cơ – thành viên Ngũ Pháp Sư – đang ở đâu, và dĩ nhiên họ cũng không tìm được bất cứ thành viên Ngũ Pháp Sư nào khác. Họ chỉ tồn tại trong lời đồn, vài tập hồ sơ, vài câu chuyện kể; mà những thứ cần thiết nhất để tìm một người như thẻ căn cước, nhóm máu, nhân thân, địa chỉ nhà ở, số điện thoại, hòm thư điện tử đều không có. Thất vọng, ông học giả quay về xuất phát điểm là Câu Nguyệt thành. 

Ngay lúc này, Đa Lạt cảm thấy rối. 

Nhờ vả một thành viên Ngũ Pháp Sư đứng ra giải quyết bất đồng giữa Băng Hóa quốc và Ẩn Lý Thị là ý tưởng hay, nếu không muốn nói là giải pháp tuyệt vời nhất. Nhưng nó cũng viển vông và phi thực tế nhất. Tốn thời gian theo đuổi một thứ như vậy, ông học giả tự trách mình ngốc nghếch. Thời hạn một tháng mà đại thống lĩnh Khai Y đặt ra sắp hết, còn ông học giả vẫn chôn chân tại chỗ. 

Trong mắt nhiều người, nhất là những ai nằm ngoài giới chiến binh, thì đám Bảy Người Mạnh Nhất hay Thập Kiếm chỉ là một lũ cô hồn của thế giới ngầm. Nhưng Ngũ Pháp Sư thuộc phạm trù khác. Họ được tôn trọng hơn các đại thánh sứ, được toàn thể người Tâm Mộng thừa nhận, không bị chi phối, không bị ai hoặc quốc gia nào quản lý. Là những người đại diện năm nguyên tố hình thành thế giới, Ngũ Pháp Sư luôn đối xử công bằng. Có một thời gian dài, họ là quan tòa giải quyết các tranh chấp lớn nhỏ. 

Nhưng đó là chuyện cũ, cũ đến mức đóng bụi thành tảng dày cui và có thể bay phất phơ trước gió. Ngũ Pháp Sư đã biến mất. Dường như vì quá chán nản nên năm vị quan tòa bỏ đi, mặc cho con người Tâm Mộng tự giải quyết với nhau. Và quả thực từ khi họ biến mất, thế giới hết ngập lún trong vũng sình Chiến Tranh Tài Nguyên lại bì bõm với mớ bòng bong chạy đua vũ trang. Trong một may mắn với xác suất xuất hiện một trên hàng triệu, Đa Lạt sẽ gặp thành viên Ngũ Pháp Sư, nhưng ông không chắc có thể thuyết phục họ. Kinh nghiệm cho ông học giả biết rằng rất khó để lay chuyển những người đã buông bỏ. 

Đa Lạt còn hơn hai tuần để trả lời đại thống lĩnh Khai Y. Hoặc ông trả lời, hoặc Vô Phong sẽ trở thành vật tế thần. 

Khốn nỗi hai tuần cuối cùng của Đa Lạt cũng chẳng yên bởi ông bị một cái đuôi lẵng nhẵng bám riết: Tiểu Hồ. Cô nàng kỳ quặc đó theo chân Đa Lạt từ thư viện, dinh thự Ẩn Lý Thị tới quảng trường thành phố. Tuy không kè kè như hình với bóng song Tiểu Hồ luôn để ông học giả nhận ra mình. Cô nàng cố tình khiêu khích. Có lúc Đa Lạt tức điên, dọa rằng sẽ kiện tụng rồi nhờ Băng Hóa quốc can thiệp nhưng cô ta chẳng thèm sợ, thậm chí nhe nhởn hơn trước. 

Tới khi không chịu nổi nữa, một ngày nọ, ông học giả hẹn gặp Tiểu Hồ ở một tiệm trà trong thành phố. Không chào hỏi, không mời mọc, ông học giả nói chuyện thẳng thắn:

-Cô đang can thiệp quyền riêng tư cá nhân, cô gái. Cô cũng xâm phạm công việc của Băng Hóa quốc. Bởi vì cô là con nuôi đại thánh sứ Tây Minh, nên tôi trân trọng thông báo đây là lời cảnh cáo cuối cùng. Nếu xảy ra việc tương tự, tôi sẽ nhờ Băng Hóa can thiệp. 

Đa Lạt không hù suông. Giọng ông đã trầm xuống, lời lẽ rành mạch như khẳng định mình sẽ làm thật. Phía bên kia làn khói nước trà, Tiểu Hồ im lặng ít phút, cô nàng biết sự chịu đựng của Đa Lạt đã chạm ngưỡng. Nhưng thay vì xin lỗi chân thành, Tiểu Hồ cười:

-Tôi đến với lời đề nghị nhưng ngài học giả không cho tôi nói cũng không chịu nghe. Nếu hôm nay là lần cuối cùng ngài cảnh cáo tôi, vậy tôi cũng muốn trình bày đề nghị của mình, chấp nhận hay không tùy ngài quyết định. Nhé? Đồng ý nhé?

Đa Lạt không rõ cái “đồng ý” của cô nàng là đồng ý cái gì. Ông học giả suy nghĩ thận trọng, sau trả lời:

-Thử nói xem, tôi sẽ xem xét. 

-Cảm ơn! – Tiểu Hồ cúi đầu – Thế này, tôi biết ngài đang tìm kiếm thành viên Ngũ Pháp Sư, cụ thể là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, người nắm giữ nguyên tố “Mộc”. Ngài không cần phản đối vì tôi biết rõ những nơi ngài đến, những tài liệu ngài xem, những đầu mối mà ngài lần tìm. Tất cả đều dẫn tới nữ pháp sư Thôn Cơ. Tôi có thể…

-Khoan đã! – Đa Lạt giơ tay – Cô theo tôi suốt mấy tuần đấy à? 

Tiểu Hồ nhún vai:

-Không, thưa ngài, vì tôi cũng bận việc riêng. Chỉ là ở Diệp quốc này, tôi có bạn bè và nguồn thông tin tốt. 

Đa Lạt cứng mặt như bị dội gáo nước lạnh. Tiểu Hồ uống trà rồi quay đi chỗ khác, tránh những tia nhìn hình viên đạn từ ông học giả. Hai người im lặng khá lâu. Thấy tình hình đã dịu hơn một chút, Tiểu Hồ tiếp lời:

-Tôi sẽ giúp ngài tìm nữ pháp sư Thôn Cơ. Đổi lại, tôi muốn biết chuyện giữa ngài và Vô Phong. Ngài cũng không cần phủ nhận vì hôm đó, hôm mà chúng ta lần đầu gặp nhau, tôi đã biết ai gọi cho ngài. Tôi làm việc với Vô Phong đã lâu nên biết tính anh ấy, kể cả thói quen hét vào bộ đàm khi gặp nguy hiểm. Tôi, ngài, chúng ta trao đổi và cùng giúp đỡ nhau. Có vấn đề gì không? 

-Nhiều thập kỷ qua, hàng chục quốc gia rồi hàng nghìn người tìm kiếm Ngũ Pháp Sư nhưng không có kết quả… – Đa Lạt cười nhạt – …cứ cho rằng cô nhiều bạn bè và nhiều nguồn thông tin, vậy nó tốt hơn hệ thống tình báo quốc gia không? Cô lấy gì đảm bảo bà Thôn Cơ còn sống? Tôi biết một chút về Thôn Cơ. Trước khi trở thành người nắm giữ nguyên tố “Mộc”, bà ấy là một pháp sư tập sự và là một người – bình – thường. Không phải dòng dõi danh giá, càng không thừa hưởng đặc tính trẻ lâu hay sống thọ. Giờ đây, nếu còn sống, bà ấy đã gần một trăm tuổi. Và nếu sống, liệu bà ấy còn minh mẫn để nghe người khác nói? 

-Tôi có thể tìm Thôn Cơ cho ngài. – Tiểu Hồ quả quyết – Giờ đây tôi không mang theo bất kỳ bằng chứng hay vật làm tin nào, vì cơ bản là… không có. Nhưng tôi chắc chắn ngài sẽ gặp bà ấy. 

Đa Lạt cười nhạt. Ông học giả nhấp ngụm trà, cài lại cúc áo khoác trước lúc rời đi:

-Nhiều người từng nói với tôi như thế, cô gái. Nhiều người từng nói thế với tôi. Sau nhiều năm làm nghề điều phối, tôi nhận ra rằng thứ bảo hiểm nói miệng kiểu đó chẳng dẫn tới đâu cả. Trên thế giới này chỉ duy nhất đại thánh sứ Tây Minh có thể dùng lời nói để bảo đảm. Tiếc thay, Tây Minh đã mất, còn cô chỉ là con nuôi đại thánh sứ chứ không phải ngài ấy. Đừng bám theo tôi nữa, cô gái, đây là lời cảnh cáo cuối cùng. Tạm biệt!

Mặc cho Tiểu Hồ nài nỉ, ông học giả quyết không mềm lòng. Ông muốn giúp tên tóc đỏ Vô Phong nhưng đây là chuyện hoàn toàn khác. Bởi lẽ Đa Lạt là người Băng Hóa quốc và không thể đem bí mật quốc gia làm hợp đồng đổi chác. Tiểu Hồ không biết và cũng không hiểu chuyện này. Ông không trách cô gái tóc vàng. Cô ta đã quen cuộc sống lẫn cách hành xử ở giới chiến binh, nghĩ rằng mọi thứ có thể giải quyết thông qua thương lượng. Nhưng ở nơi “cao tầng” như đại thống lĩnh Khai Y hay Ẩn Lý Thị, thương lượng chỉ là một phần vấn đề, còn hàng trăm vấn đề khác mà Tiểu Hồ chẳng bao giờ hiểu. Đa Lạt thở dài. Các cô gái trẻ thường tự tin thái quá vào bản thân họ. 

Dăm ngày sau, ông học giả nhận ra Tiểu Hồ đã thôi bám đuôi mình. Thỉnh thoảng hai người gặp nhau ở dinh thự Ẩn Lý Thị, gửi lời chào hỏi rồi đường ai nấy đi. Không còn bị quấy rối, Đa Lạt thoải mái hơn hẳn như thể vừa chọc vỡ một bọc mủ đã sưng phồng lâu ngày trên đầu ngón chân. 

Ông học giả vẫn tiếp tục công cuộc truy tìm Ngũ Pháp Sư. Cho tới sáng ngày 30 tháng 4, Đa Lạt bất ngờ nhận được cuộc gọi từ đại thống lĩnh. Còn hơn một tuần mới đến thời hạn chót, ông học giả không hiểu tại sao Khai Y liên lạc lúc này. Linh tính mách bảo ông rằng đây sẽ là một cuộc trò chuyện khó chịu. 

“Anh bạn tròn vo đấy hả? Khỏe chứ?! Tôi đây. Cậu đàm phán với Ẩn Lý Thị thế nào? Vẫn chưa tiến triển gì à? Cũng phải thôi, họ không đời nào buông tha Mục Á. Nhưng cậu cũng không cần phải đàm phán với Ẩn Lý Thị nữa. Gã tóc đỏ Vô Phong bị lộ rồi, bọn “bốc mả” của Ẩn Lý Thị đang trên đường tiến về Vương Quốc Cũ. Có kẻ nào đấy đã chỉ điểm, hoặc chính gã tóc đỏ ngu ngốc vô tình để lại dấu vết…” 

Đa Lạt điếng người, sau đáp:

-Thật sao? Vậy ngài hãy ngăn chặn đám “bốc mả” đó! Tôi sẽ đàm phán với Ẩn Lý Thị. 

“Vô ích thôi!” – Khai Y trả lời – “Nhiều ngày trước, chúng mở tài khoản ngân hàng thu thập mọi nguồn tin, đến sáng nay thì đóng tài khoản. Chỉ có một câu trả lời là chúng đã tìm ra mục tiêu. Bọn “bốc mả” làm việc kín kẽ, không dễ tìm ra chúng. Vả lại nếu can thiệp thì chẳng khác nào tát vào mặt Ẩn Lý Thị. Chúng ta mất mười năm xây dựng quan hệ với họ, không thể để mười năm đó thành công cốc.”

-Nhưng ngài cũng không thể bỏ mặc anh bạn tóc đỏ! – Đa Lạt nhắc nhở – Ngài đã hứa sẽ bảo vệ cậu ta, ngài hứa bằng danh dự và dưới sự chứng kiến của tôi[1]. Tôi là người điều phối, tôi cần các bên tôn trọng hợp đồng!

Ông đại thống lĩnh cười:

“Dĩ nhiên rồi, anh bạn tròn vo! Dĩ nhiên tôi bảo vệ tóc đỏ nhưng cũng không thể ngăn cản Ẩn Lý Thị. Họ báo thù vì lý do chính đáng. Cứ để họ đến, tôi sẽ có biện pháp xử lý. Cậu hết việc rồi, nghỉ ngơi và du lịch đi! Diệp quốc đẹp lắm! Tôi đã sắp xếp cho cậu nghỉ ba tháng. Cứ thoải mái nhé! Tạm biệt!”

Khai Y dập máy, không để ông học giả nói thêm lời nào. Đa Lạt hiểu rằng mình vừa bị đẩy ra rìa. Khai Y đã bắt đầu cuộc chơi riêng và không muốn ông học giả gây cản trở. Là bọn “bốc mả” thu thập được thông tin? Là Vô Phong bị bán đứng? Hay chính Khai Y bán đứng tên tóc đỏ? – Đa Lạt nhăn trán với những khả năng. Nhưng đoán già đoán non chẳng ích gì, vai trò của Đa Lạt đã hết. Ông hiểu con người Khai Y; đó là một tập hợp phức tạp gồm nhiều mảng màu trắng đen trộn lẫn nhau, tùy từng lúc mà màu trắng hoặc màu đen chiếm thế chủ đạo. Ông học giả sẽ chẳng dại gì đụng vào mấy mảng màu đen đó. Dù gì ông cũng là người Băng Hóa, một gã tóc đỏ không thể so sánh với quốc gia. 

Nhưng kể từ lúc ấy, tâm trí Đa Lạt dần lợn cợn, giống một khối băng đang nằm trên đống lửa cháy âm ỉ. Nghề nghiệp ảnh hưởng nhân cách, Đa Lạt cũng không ngoại lệ. Bản năng nghề nghiệp nhắc nhở ông rằng Khai Y đang vi phạm hợp đồng. Nó khiến ông khó chịu. Đa Lạt càng khó chịu hơn khi bị sợi dây “trách nhiệm quốc gia” cuốn chân. Lòng trung thành với Băng Hóa quốc không cho phép ông trung thực với nghề nghiệp. 

Chiều cùng ngày, ông học giả thơ thẩn dạo chơi thành phố. Ông không rõ mình đi đâu hay nhắm đến nơi nào. Đi mãi rồi quanh quéo thế nào, cái sự bối rối chỉ lối cho ông đến một khách sạn. Tại đây ông gõ cửa một căn phòng, chờ đợi với tâm trạng lẫn lộn nửa muốn đi về nửa muốn ở lại. Được ít phút, cửa phòng mở cùng gương mặt Tiểu Hồ. Cô gái tóc vàng ngơ ngác:

-Ngài học giả?! Sao ngài biết tôi ở đây?

Đa Lạt chưa trả lời vì tâm trí còn lừng khừng chưa quyết. Cuối cùng, ông mở lời:

-Tôi cũng có những người bạn và nguồn tin tốt, thưa quý cô. 

Bị châm chọc, Tiểu Hồ nhoẻn miệng cười. Hai người đối diện nhau trong im lặng, người này đợi người kia mở lời. Ai mở lời trước, người đó nằm chiếu dưới. Sau rốt Đa Lạt chấp nhận làm kẻ thua cuộc:

-Hãy tìm pháp sư Thôn Cơ, nếu cô tìm được, tôi sẽ xem xét đề nghị…

-Không cần đâu! – Tiểu Hồ lắc đầu – Tôi đã tìm thấy bà ấy rồi. 

Đa Lạt mở lớn mắt. Người Phi Thiên là một giống dân kỳ lạ. Họ không dũng cảm bằng người phương bắc, không sâu sắc như người phương đông và chẳng cao quý giống người phương nam. Nhưng họ luôn gây bất ngờ. 

Từ khách sạn, Đa Lạt theo chân cô gái trẻ tới một thị trấn ở ngoại ô Câu Nguyệt thành. Nơi ấy có những ngôi nhà nhỏ nằm trong tường rào đá xám nâu, những con phố thanh bình khuất bóng dưới tán cây chìa ra từ các khu vườn tư nằm kế bên. Và mấy con mèo. Lũ mèo ở đây dạo chơi tự do, hoặc ườn mình ngủ trên bờ rào và chẳng quan tâm con người. Ông học giả ngạc nhiên vì Thôn Cơ chẳng ở đâu xa xôi, hóa ra lại ngay trước mắt. 

Hai người dừng chân trước một ngôi nhà nằm tại lưng chừng thị trấn. Đón tiếp họ là một cô gái nhỏ nhắn, trẻ tuổi, đầy sức sống nhưng vẫn giữ những truyền thống của phụ nữ Diệp quốc ở trang phục và lối cư xử nền nã. Cô gái dẫn Đa Lạt và Tiểu Hồ vào căn bếp. Ông học giả được phen ngã ngửa khi gặp lại bà chủ quản thư viện thành phố. Là bà già khó tính, ưa phàn nàn, mắt mờ, chân chậm đó. Là bà ta chứ không phải ai khác. Bà già chẳng lấy làm vui vẻ, bởi dường như vụ khách khứa đã cắt ngang thú vui ôm ấp xoa bụng lũ mèo của bà. Như hiểu chuyện, Đa Lạt cúi đầu vồn vã:

-Rất hân hạnh được gặp mặt, thưa bà. Tôi là Đa Vu Lạt, học giả đến từ Băng Hóa quốc. Bà là Thôn Cơ, thành viên Ngũ Pháp Sư?

Ông học giả chìa tay nhưng bà già không bắt lấy. Có vẻ bả không thích chuyến thăm viếng đường đột này của Đa Lạt. Như nhận ra thái độ bất lịch sự ấy, cô gái trẻ người Diệp quốc liền ghé tai nhắc nhở bà ta, mời Đa Lạt ngồi sang phòng khách rồi mang lên trà bánh. Trông cách đối xử ân cần mà cô gái dành cho bà chủ quản thư viện, Đa Lạt đoán hai người có quan hệ ruột thịt. Ông có nghe pháp sư Thôn Cơ từng kết hôn, nên cô gái trẻ đây dường như là cháu gái. 

-Ta nghe con bé này nói chuyện mấy ngày trước rồi. – Bà già chỉ vào Tiểu Hồ đang tủm tỉm cười – Ta không thích cái tên “Thôn Cơ”, đừng nhắc lại lần nào nữa. Nào, nói xem, anh học giả, anh muốn gì ở Ngũ Pháp Sư?

Ngay giờ phút này, Đa Lạt không chắc bà già có phải Thôn Cơ hay không. Thậm chí ông vẫn có chút nghi ngờ Tiểu Hồ lừa dối mình. Nhưng trên hết, ông muốn hợp đồng được tôn trọng và ngăn Khai Y giở trò đổi chác, dẫu biết mình đang dấn sâu vào nguy hiểm. Trước bà chủ quản thư viện, Đa Lạt kể mọi sự về Mục Á, Băng Hóa quốc lẫn Ẩn Lý Thị. Nghe xong, bà già làu bàu:

-Vậy tóm lại, anh muốn phân xử tranh chấp? Anh muốn đưa di hài Mục Á về Băng Hóa quốc? 

-Thưa, đúng là như vậy! – Đa Lạt cúi đầu – Ngoài ra, tôi muốn Ẩn Lý Thị dừng việc báo thù. Cái chết của Mục Á là tai nạn. Việc báo thù sẽ chẳng dẫn đến đâu cả. Mong bà giúp tôi khuyên giải Ẩn Lý Thị. 

Bà già trầm tư. Có lúc Đa Lạt cảm giác mình sắp bị đuổi ra khỏi cửa và trở về trong thất vọng tràn trề. Rồi bà chủ quản thư viện cất lời:

-Chuyện phức tạp nhưng nên làm. Ta không ưa Băng Hóa. Các người là một lũ máu lạnh, man rợ và gian trá. Nhưng việc này… có vẻ các người đúng! 

-Vậy bà sẽ giúp? Bà là Thôn Cơ của Ngũ Pháp Sư? – Đa Lạt cả mừng. 

-Không, ta không thích cái tên “Thôn Cơ”, đó là tên của mẹ ta! Cái tên đó chỉ đem lại phiền phức! – Bà già gắt gỏng – Ta không can dự gì cả! Anh hãy làm việc với bà ấy, đừng phiền ta nữa!

Dứt lời, bà già rời ghế, lệnh khệnh quay lại gian bếp và chơi với lũ mèo. Đa Lạt thực tình không hiểu mình bị đuổi hay được chấp thuận yêu cầu. Giữa lúc ấy, cô cháu gái của bà chủ quản thư viện ngồi đối diện với ông học giả đoạn cất lời:

-Xin lỗi ông, con gái tôi tính khí không tốt. Nó vẫn thường như thế lúc nhỏ, giờ gánh nặng tuổi già khiến nó thường xuyên khó chịu. Là lỗi của tôi. 

-Cái gì? Sao cô lại gọi bà ấy là “con gái”? – Đa Lạt đứng hẳn dậy, giọng thảng thốt – Không lẽ cô là…?

Cô gái trẻ cúi đầu cười:

-Không dễ gì chứng kiến con gái già cỗi bệnh tật, còn bản thân mình vẫn nhởn nhơ trước thời gian lẫn Tử Thần. Con gái là sợi dây cuối cùng liên kết tôi với thế giới này. Nó có thể là bà già cay nghiệt nhưng vẫn còn trái tim nhân hậu, còn tôi giữ được dung mạo trẻ tuổi nhưng bên trong đã thối rữa. Ông thật may mắn, ông tới đúng lúc con gái tôi đang sống nốt những năm tháng cuối cùng và tôi cũng sắp sửa biến mất hoàn toàn khỏi cõi đời. Hãy nói đi, ông học giả, trước khi tôi đổi ý. 

Đa Lạt há hốc miệng. Tuy không tham lam cuộc sống nhưng ông cảm ơn Vạn Thế đã cho mình sống đúng thời gian này để chứng kiến những chuyện lạ. Từ ngày đại thánh sứ Tây Minh qua đời, thế giới Tâm Mộng chẳng còn nhiều mảng màu đẹp đẽ.



Cùng lúc ấy, cách hàng ngàn cây số về hướng tây bắc, Vô Phong đang cặm cụi đào bới tàn tích Vương Quốc Cũ. Xung quanh hắn, từng phần kết cấu của một cung điện cổ xưa lộ ra dưới ánh đèn pin nhập nhoạng cùng nhiều thỏi sáng lân tinh. Hết thảy đều nứt vỡ và dính đầy tuyết, họa may có mái trần lộ ra vài dáng hình thuở xưa. Thay vì tác phẩm hội họa hoặc các đường nét hoa văn thường thấy, người xưa trang trí mái trần bằng nhiều vòng tròn lẫn ký tự lớn. Những ký tự dài, nhỏ và thanh mảnh, tựa thể được phết phẩy từ ngòi bút lông chim. Vương Quốc Cũ từng thờ phụng rất nhiều vị thần, bao nhiêu ký tự là bấy nhiêu bậc thần thánh. Nhưng thần nào thì chẳng ai biết, kể cả những học giả uyên bác nhất cũng khó trả lời. Người Vương Quốc Cũ không biểu thị thần thánh của mình bằng ngẫu tượng hay hình ảnh cụ thể. 

Hơn một tuần trước, bọn Vô Phong khởi hành từ trại chăn nuôi gia súc. Dựa theo công thức tính toán của giáo sư Đốc Lãm, họ ngược lên phía bắc, đi một đường thẳng tuốt qua vùng đồng bằng tuyết. Sau ba ngày, họ đặt chân đến vùng Tàn Tích Lớn – một tổ hợp thành trì cổ án ngữ toàn bộ phía bắc miền đất hoang vu. Vương Quốc Thịnh Vượng khi xưa khởi phát từ chốn này, các triều đại cũng thay nhau đóng đô tại đây cho tới ngày sụp đổ. Hai phần ba Tàn Tích Lớn chìm dưới tuyết hoặc hồ băng, phần còn lại nổi lên với dáng vẻ xiêu vẹo đổ gãy. Nhóm Vô Phong hiện đang tìm kiếm ở khu vực nổi. Dù đã thâm nhập nhiều phòng ốc, công trình nhưng họ vẫn chưa tìm thấy di cốt Biệt Liên Đa Xuyến.

Mỗi người trong đám Vô Phong chia nhau một khu vực, hì hụi cào tuyết bằng xẻng và cuốc đa dụng. Họ làm cẩn thận, tránh lưỡi xẻng mũi cuốc va chạm di cốt nhưng cũng khẩn trương, tránh rề rà. Bên cạnh tên tóc đỏ, ông giáo sư Đốc Lãm thao thao bất tuyệt:

-Tất cả đều dẫn về đây, anh bạn ạ! Tôi đã làm nốt những phép tính còn dang dở từ nhiều năm trước. Chúng đều chỉ ra Tàn Tích Lớn là nơi xuất hiện các dấu hiệu biến đổi địa chất đầu tiên, từ đấy lan ra toàn bộ Vương Quốc Cũ. Máy móc ghi lại rằng sự thay đổi này vẫn đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ! Điều này rất bất thường, anh bạn ạ! Vương Quốc Cũ được bao bọc trong băng giá và mùa đông vĩnh cửu, nó chẳng hề thay đổi sau hàng ngàn năm và nếu có, cũng sẽ diễn ra sau hàng ngàn năm nữa. Lý thuyết khoa học là thế! Nhưng lạ thay, hơn năm mươi năm trước, Tàn Tích Lớn thay đổi! Phải có một tác động lớn lắm, anh bạn ạ, tác động rất lớn mới gây ra sự thay đổi!

Vô Phong có một ông bạn lắm mồm thích khoe khoang kiến thức, nên gặp Đốc Lãm thì chẳng lấy làm khó chịu. Nghe mãi, hắn bèn hỏi:

-Thay đổi thế nào? 

-Trước đây, nước ngập hai phần ba Tàn Tích Lớn, nhưng bây giờ chỉ ngập một nửa. Các dòng sông băng hoặc suối trước đây vốn chiếm phần lớn diện tích Vương Quốc Cũ, nay hạ thấp mực nước, một số nơi cạn khô như con suối mà chúng ta từng bắt gặp trong rừng[2]. Vì lẽ đó, các loài động vật thay vì sống thoải mái trong rừng thì phải ra vùng đồng bằng nhiều hơn để tìm nguồn nước, kéo theo bọn thú ăn thịt. Cậu thấy đấy, gần đây người ta đi lại trong rừng Vương Quốc Cũ thoải mái hơn. Còn trước kia? Vào là chết! Vả lại, chắc cậu biết văn hóa phương bắc coi nguyên tố “Thủy” thường mang lại điềm xấu[3]. Người ta vẫn nói vô số hồn ma Vương Quốc Cũ vẫn lẩn quất dưới sông, suối. Nay nước rút, chẳng phải đám ma mãnh hết chỗ quậy phá à? 

Vô Phong gật gù. Tính toán của ông giáo sư trùng hợp với dự đoán của hắn rằng Mục Du Cổ đã chôn mẹ mình tại nơi có ý nghĩa. Tàn Tích Lớn từng là chốn huy hoàng nhất thời cổ xưa, cố nhiên rất thích hợp. Nhưng tìm một bộ di cốt bé nhỏ tại nơi rộng lớn này không phải chuyện dễ. 

Sau nhiều tiếng đào bới, cả nhóm nghỉ ngơi ăn trưa. Giữa bữa ăn, ba người nữa xuất hiện và nhập hội với bọn họ. Hai trong số ấy là thành viên đánh thuê Đội 11 gồm Lạn Bà và Vong Liêm[4]. Trở về từ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, hai gã đánh thuê chẳng thay đổi nhiều. Lạn Bà vẫn vóc dáng gầy đét lọt thỏm trong quần áo rộng thùng thình, Vong Liêm vẫn cái đầu trọc không cọng tóc cùng cặp mắt to thô lố. Người còn lại không ai khác ngoài con cú vọ bốn mắt Mai Hoa. 

Khác nhóm Vô Phong, ba người nhóm Mai Hoa làm nhiệm vụ thám thính, thăm dò và cảnh giới. Tàn Tích Lớn nhiều năm nay khá “nhộn nhịp”, bắt gặp một đoàn nghiên cứu khoa học, nghiên cứu khảo cổ hoặc dân “cạy nắp” không phải chuyện lạ. Đám “cạy nắp” liều lĩnh, dễ tấn công người khác hòng cướp cổ vật. Bọn Mai Hoa đề phòng những kẻ như thế. 

-Quanh đây có hai nhóm khảo cổ, họ mang theo vệ sĩ và vũ khí, nhưng không nguy hiểm. – Mai Hoa nói với Vô Phong – Dù vậy, tôi vẫn sẽ cảnh giác. Hi hi! Sao mà tin người dễ dàng được chứ? Đùa thôi! Tìm gì thì tìm, nhanh lên!

Cái cách Mai Hoa thúc giục làm tên tóc đỏ nghi ngờ. Gã bốn mắt xưa nay chậm rãi, khai thác thông tin hoặc làm việc tỉ mẩn từng chút một. Nhưng lần này, trong lời nói của gã hàm chứa sự khẩn trương nhất định. Vô Phong đoán rằng gã cú vọ đã ngửi được điều gì đó, bất quá hắn không truy vấn. Nếu Mai Hoa không giải thích thì hẳn rằng gã không muốn giải thích ở chỗ đông người. 

Sau bữa trưa, cả nhóm lăn ra ngủ trước khi bắt đầu cuộc đào bới ban chiều. Mai Hoa mò ra chỗ Vô Phong xin lửa hút thuốc. Gã cú vọ vừa phì phèo khói vừa nói, giọng thì thào:

-Cậu đã nghe chuyện lũ “bốc mả” từ Đông Thổ mở tài khoản nhỉ? Phải, chúng đang săn lùng cậu. Biết gì chưa? Chúng đóng tài khoản rồi. 

-Chúng tìm được tôi rồi à? – Vô Phong nhíu mày. 

-Không chắc. Không ai biết chuyện gì xảy ra cả! – Mai Hoa lắc đầu – Nhiều khả năng chúng bị giết hơn. Dân phương bắc vốn chẳng ưa lũ “bốc mả”, nay chúng mở tài khoản công khai, họ sẽ tìm cách tiêu diệt chúng. Nhưng còn một khả năng, phải, nếu chúng tìm được mục tiêu, chúng sẽ đóng tài khoản. Vậy nên tôi mới giục cậu. 

Vô Phong gật gù, ngoài mặt không cảm xúc, thâm tâm có một tí gợn song không nhiều. Nghe riết về lũ sát thủ, hắn đâm chán và muốn đụng độ chúng thật nhanh để giải quyết mọi mâu thuẫn. Nếu Vô Phong chết thì đấy là cái nợ mà thần Nê Mê bắt hắn phải trả; nếu không, tức là nữ thần báo thù cho tên tóc đỏ sống tiếp để trả những khoản nợ khác. 

-Nếu lũ “bốc mả” tìm ra cậu, tức là ai đấy trong chúng ta là nội gián. Cậu có thể che tóc đỏ… – Gã cú vọ nhướn mắt nhìn mái tóc nhuộm đen của Vô Phong – …nhưng không thể giấu khuôn mặt, trừ phi phẫu thuật thẩm mỹ. Cậu nổi tiếng từ vụ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, ông giáo sư Đốc Lãm hay mấy gã lạ mặt kia sẽ sớm biết cậu là ai, hoặc có khi họ biết rồi cũng nên. Hồi chiến tranh, nếu cậu cứ hoàn thành nhiệm vụ đánh thuê và không giúp đỡ đám dân Tuyệt Tưởng nhiều, rắc rối đã không nhiều như bây giờ.

-Ý ông bạn là không nên giúp đỡ người khác? – Vô Phong hỏi.

-Ai biết đấy?! Con người thời nay lạ lắm, họ không thích chịu ơn và căm ghét những kẻ mang ơn. Ai nấy đều ghét nợ và đều thích quỵt nợ. – Mai Hoa cười – Cậu giúp nhiều, cho vay nhiều, rồi cậu sẽ thành con nợ lớn nhất thôi. 

Hai gã đương nói chuyện, chợt một giọng thất thanh vang lên:

-Có ai không? Xin giúp chúng tôi!

Vô Phong rọi đèn pin về hướng phát ra âm thanh, phát hiện ra một người đàn ông đứng tuổi. Nhìn dáng điệu hớt hải lẫn khuôn mặt vã mồ hôi của ông ta, Vô Phong đoán người này đã vượt một quãng đường tối thui, dài dằng dặc và đầy chướng ngại trong Tàn Tích Lớn. Hắn lên tiếng:

-Chuyện gì thế? Tôi giúp gì được cho ông?

-Tôi thuộc đoàn khảo cổ! – Người đàn ông vội vã trả lời – Người của tôi bị kẹt dưới hố nước! Chúng tôi không thể kéo anh ấy lên! Xin hãy giúp đỡ!

Mai Hoa xác nhận người đó đúng là thành viên nhóm khảo cổ mà gã đã gặp hồi sáng. Nghe vậy, tên tóc đỏ liền khoác vài vật dụng cần thiết rồi bước theo người đàn ông nọ. Gã cú vọ nhăn trán:

-Cậu lại tiếp tục mang nợ vào người đấy à? 

-Ai biết đấy?! – Tên tóc đỏ nhún vai – Nhưng yên tâm đi, tôi trốn nợ giỏi, trả nợ còn giỏi hơn! He he!



Trong lúc Vô Phong giúp nhóm người khảo cổ thì xa tít về phía nam, tại khu trại gia súc mà hắn từng nghỉ chân, lão chủ trại đang đón tiếp những vị khách lạ. Đám này gồm bốn người, hai nam hai nữ, gương mặt họ đặc rặt những đặc trưng của người phương đông như cái mũi nhỏ, tròng mắt nâu vàng hay mái tóc đen. Họ không thuê phòng, không mua lương khô cũng chẳng mua đồ đạc thiết yếu. Họ cần thông tin.

-Ông nhìn thấy gã này chưa? – Một người trong số đó chìa bức ảnh lên bàn cùng một cọc tiền bó tròn – Hắn đã đi đâu? 

Lão chủ trại nhìn bức ảnh, nhận ra ngay vị khách hồi tuần trước. Lão nhìn bó tiền, cười nhạt:

-Chuyện ai nấy lo, ta không quan tâm. 

Gã đàn ông Đông Thổ nhíu mày, sau đặt thêm bốn cọc tiền nữa. Lão chủ trại lắc đầu. Gã đàn ông Đông Thổ quắc mắt:

-Tham quá không tốt đâu, ông già. 

Lão già luồn tay xuống, sẵn sàng bóp cò khẩu súng gắn dưới gầm bàn và vẫn nở nụ cười nhạt thếch:

-Ở đây thì đừng bố láo, con trai! Đây là Vương Quốc Cũ, không phải vùng đất xanh mơn mởn bên phương đông của chúng bay đâu! Bọn phương đông chúng bay hay rêu rao “nhập gia tùy tục”, giờ cố tình không hiểu, phỏng? 

Đám người Đông Thổ nhìn nhau. Họ châu đầu bàn bạc, sau đấy đặt lên bàn một bình rượu. Trông thấy rượu, ông chủ trại sáng rực mắt, hít hửi một hồi rồi làu bàu:

-Chúng nó đi lên phía bắc! Chắc thế! Xong chưa? Xong rồi thì biến đi! 

Nghe vậy, bốn người Đông Thổ khởi hành ngay lập tức. Lão chủ trại vơ bình rượu lẫn đống tiền đầy ụ. Vương Quốc Cũ chẳng bao giờ sáng sủa, chỉ có những mảng màu tối của mùa đông vĩnh cửu. Người sống ở đây lâu, rốt cục cũng hòa vào miền đất hoang vu. Lão chủ trại chẳng thoát khỏi quy luật đó, chỉ còn biết lấy rượu hòa loãng thứ màu sắc tăm tối vốn đã xâm thực linh hồn mình.

[1]: xem lại Quyển 4 – Dao găm: Chương 8
[2]: xem lại Quyển 4 – Dao găm: Chương 11
[3]: xem lại Quyển 4 – Dao găm: Chương 8
[4]: hai thành viên Đội 11, xem lại Quyển 3 – Chương 78 
Ngẫu tượng: một danh từ cổ, hàm nghĩa rất rộng, có thể hiểu là sự sùng bái một cá thể, một vật gì đó, một hiện tượng gì đó, một thứ gì đó hay một biểu tượng siêu hình 
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom