Cập nhật mới

Dịch Ngục Thánh

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 13: Ngày trả nợ


Bên trong Tàn Tích Lớn có nhiều cái bẫy tự nhiên ẩn dưới lớp tuyết hoặc bề mặt kiến trúc mỏng, gọi là “hố nước”. Ai lỡ sa chân vào sẽ bị nước xoáy mạnh lôi tuột đi. Nước rút, tuyết sụt đổ ập lên người gặp nạn khiến họ không thể cựa quậy và cũng không ai có thể kéo họ ra. Nước từ mạch ngầm tiếp tục tràn đến, xoáy thêm nhiều lần trước khi nhấn chìm nạn nhân xuống những dòng chảy bên dưới vùng tàn tích. Giới khoa học nói cấu tạo địa hình ở đây đặc biệt nên sinh ra hố nước xoáy. Đám “cạy nắp” lại tin rằng hàng vạn người chết của Vương Quốc Cũ lẩn quất trong nước hòng kéo người sống nhập bọn. 

Nhưng dù là hiện tượng vật lý hay ma mãnh thì người lọt hố nước thường khó sống sót. Như anh chàng mà Vô Phong đang cứu giúp là ví dụ. Quá nửa thân thể gã này ngập lút trong tuyết, mặt mũi cứng đờ vì lạnh, sức lực hầu như cạn kiệt. Anh ta là một nghiên cứu sinh người Hoa Thổ và đi theo đoàn khảo cổ tới Vương Quốc Cũ để viết tài liệu thực địa. Nhiệt tình, hăng hái nhưng ít kinh nghiệm, anh chàng không để ý những dấu hiệu biến đổi trên mặt tuyết và tự sa chân vào hố nước. Đám khảo cổ hợp lực cứu anh ta còn ông trưởng đoàn chạy đi tìm người hỗ trợ, may mắn sao gặp được bọn Vô Phong. Tên tóc đỏ, Mai Hoa cùng gã cốt đột Mông Nhão liền tới chỗ người gặp nạn. 

Ở Tàn Tích Lớn, giúp đỡ người khác đồng nghĩa với trả phí chứ chẳng ai phí sức không công. Vô Phong cũng vậy. Hắn muốn nhân dịp này làm thân với đám khảo cổ, tiện thể tra hỏi thông tin vùng Tàn Tích Lớn. Bởi lẽ trong nhóm của hắn không có người nào hiểu biết ngành khảo cổ, cả đám vốn không nghĩ cuộc hành trình dẫn đi xa đến thế. 

Nhưng sự thể khó nhằn hơn Vô Phong tưởng. Lúc này, hắn và hai người nữa hò nhau kéo gã nghiên cứu sinh mà không nổi. Tuyết lèn quá chặt, cánh tay nạn nhân căng ra như sợi dây thừng bị kéo hai đầu. Anh chàng nghiên cứu sinh giàn giụa nước mắt, thở không ra hơi:

-Xin đừng kéo nữa… hãy để tôi lại… đau quá…

Nghe vậy, bọn Vô Phong buộc phải tạm dừng. Họ sợ chưa cứu được mà nạn nhân đã gãy xương. Có người đề xuất đào tuyết nhưng bất khả thi, bởi vì không ai biết vị trí các mạch nước ngầm, nhỡ sơ sảy đụng vào sẽ làm tuyết lở và khiến nước chảy mạnh hơn. Gã Mông Nhão khuyên sử dụng dây kéo hoặc dây móc cố định vào anh chàng nọ, chờ nước rút tuyết sụt thêm lượt nữa thì kéo lên; phiền nỗi hố nước xoáy rất mạnh, áp lực dư sức vặn gãy xương người, nguy hiểm vô cùng. Mọi người bàn bạc tranh cãi hồi lâu, sau rốt ông trưởng đoàn khảo cổ lắc đầu:

-Đành vậy, không còn cách nào cả. Chúng tôi không thể để cậu ấy chết. Nếu cậu ấy còn sống, các anh muốn bao nhiêu, tôi sẽ trả!

Đám Vô Phong nhìn nhau rồi làm theo lời ông trưởng đoàn khảo cổ. Họ cho gã nghiên cứu sinh uống thuốc giữ thân nhiệt, đeo đai bảo hộ quanh người anh ta, luồn nhiều dây kéo vào những khoen mấu trên đai rồi cố định chúng vào các điểm vững chắc. Ít phút sau, sáu chiếc dây kéo dãn căng trên mặt tuyết và chụm đầu vào tâm điểm là anh chàng nghiên cứu sinh. Nom anh ta như con nhện bậu ở chính giữa lưới tơ của mình, chỉ khác chăng là con nhện này vừa run cầm cập vừa sắp chết đuối. Sáu dây kéo đều có khả năng đàn hồi tốt, chúng sẽ giảm bớt áp lực lên nạn nhân. Mông Nhão am hiểu nhất thứ dụng cụ này; sắp đặt xong xuôi, gã chỉ đạo mọi người:

-Hai người giữ một dây! Khi nào nước xoáy thì nới tay, không quá lỏng nhưng không quá chặt! Hiểu chưa? Tôi nhắc lại, không quá lỏng nhưng cũng không quá chặt, chỉ cần giữ anh ta không bị ngộp nước!

Rồi bọn Vô Phong cùng nhóm khảo cổ, tổng cộng mười bốn người chia nhau giữ dây kéo. Vô Phong chung dây với một cô gái thuộc đoàn khảo cổ. Hết thảy im lặng chờ đợi hố nước xoáy đợt kế tiếp, những đoạn dây trong tay căng cứng và rung lắc như chính tâm trí họ. Một chút sơ sảy sẽ đẩy anh chàng nghiên cứu sinh, thậm chí vài người khác xuống hố nước chết chóc. Lúc này chỉ còn tiếng tuyết rơi lích tích từ mái trần cổ xưa lẫn tiếng thở khàn khứ của cổ họng anh chàng nghiên cứu sinh. Đám người cứu giúp vẫn im lặng. Họ chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi. 

Hai mươi phút trôi đi, thân nhiệt anh chàng nghiên cứu sinh giảm dần, mi mắt đọng tuyết, môi tím bầm thở đầy khói. Bọn Vô Phong kẻ thì cựa quậy sốt ruột, người thì gục đầu buồn ngủ. Cái lạnh khiến tất cả bải hoải. Giữa lúc đó, vài thanh âm trầm bên dưới lòng tuyết vọng lên. Ông trưởng đoàn khảo cổ hét:

-Dậy! Dậy mau! Hố nước đấy!

Cả đám chưa hết giật mình vì tiếng hét, thanh âm trầm đục nọ đã nổ bùng như quả bom nổ giữa lòng biển. Xung quanh anh chàng nghiên cứu sinh, tuyết sụt rào rào trong bán kính hai mét lộ ra một khối nước xoáy ùng ục lôi tuột anh ta. Mười bốn người lập tức bị kéo theo, mặt tuyết dưới chân họ đang trốc lở thành nền dốc. Cô gái phía trước Vô Phong lao đi như xe mất phanh, chút nữa đâm đầu xuống hố nước nếu không được tên tóc đỏ nhanh tay túm cổ áo. Đám cứu hộ vất vả lo cứu nhau còn nạn nhân bên hố nước đã chìm nghỉm, dây kéo xoắn lại như thể bị cuốn vào một trục xoay vô hình. Gã Mông Nhão gào lớn:

-Kéo nhanh lên! Ngay bây giờ!

Mọi người ổn định vị trí rồi cùng nhau kéo. Sức nước khủng khiếp hơn Vô Phong tưởng. Nó ngốn ngấu nạn nhân bằng cái hàm răng đầy bọt trắng ởn sôi sùng sục. Dây kéo căng dãn hết mức, mỏng dẹt và cứng như dây thép nghiến vào tay hắn. Mặc dù đã đeo găng chuyên dụng nhưng Vô Phong cảm nhận rõ bàn tay mình đang tấy đỏ, nóng rát rạt. Dưới hố, gã nghiên cứu sinh chỉ còn hiện diện bằng một bàn tay chấp chới trên dòng nước dữ. Bọn Vô Phong không bỏ cuộc, họ nằm ngửa trên tuyết, vừa đạp tuyết trườn lên vừa hò nhau kéo dây. 

Sau nhiều nỗ lực của đám cứu hộ, gã nghiên cứu sinh trồi lên. Anh ta hớp hơi thở dốc, ho sù sụ rồi nôn ọe một đống nước, tóc tai ướt nhẹp. Chậm hơn một chút nữa, buồng phổi gã này đã úng ngập. Nhưng hố nước xoáy mạnh hơn như thể không muốn con mồi vuột khỏi mõm. Sức nước dìm xuống, dây kéo lôi lên, gã nghiên cứu sinh kẹt ở giữa, đai bảo hộ thít chặt vào người tưởng sắp bóp nát tim phổi. Gã cốt đột Mông Nhão nói liên hồi:

-Thả lỏng ra! Đừng kéo nữa! Thả lỏng ra! Không để cậu ta chìm xuống là được! Cố gắng đợi nước rút!

Mọi người làm theo gã cốt đột, cố gắng duy trì trạng thái hiện tại thay vì đua sức bền với hố nước. Đợi khi nào nạn nhân chìm nghỉm, họ mới hò nhau kéo lên để anh ta có khí thở. Đám người đánh vật với thiên nhiên suốt năm phút đồng hồ, cảm giác như năm thế kỷ. Nhưng hố nước chưa chịu ngưng mà các đinh chốt giữ dây kéo lung lay tận gốc, xem chừng chẳng thể giữ lâu hơn. Rồi chuyện gì đến cũng phải đến: đinh chốt đầu tiên bật gốc, sức nặng dồn lên tay những người giữ dây kéo. Đinh thứ hai, đinh thứ ba, đinh thứ tư… từng chiếc từng chiếc bung khỏi vị trí, sáu chiếc dây kéo trở thành gánh nặng lôi bọn Vô Phong xuống. Nền tuyết dưới chân họ sắp trở thành cái phễu nuốt chửng tất cả mọi người. Vô Phong hét:

-Thả dây mau! Thả ra mau! Ai không giữ được thì thả ra!

Trước cái hố sùng sục tiếng nước réo, nhiều người lần lượt buông dây. Sau cùng chỉ còn Vô Phong, Mông Nhão cùng hai người đoàn khảo cổ giữ vững vị trí. Gã bốn mắt Mai Hoa mạo hiểm lại gần miệng hố để quan sát tình hình. Gã nhận ra nước đang rút nhưng sức xoáy gia tăng gấp bội, còn anh chàng nghiên cứu sinh như con côn trùng sắp bị phanh thây. Gã nói:

-Sắp được rồi! Cố gắng thêm chút nữa… 

Cái “chút nữa” của Mai Hoa bị cắt ngang bởi hai âm thanh đanh sắc. Hai chiếc đinh tán giữ dây kéo vừa bật tung. Sức nặng của nạn nhân, sức nước xoáy cộng thêm nền tuyết dốc đẩy đám Vô Phong xuống sâu hơn. Đám Mông Nhão đành buông tay vì chịu không nổi. Chỉ còn lại Vô Phong và cô gái đoàn khảo cổ, họ nghiến răng nghiến lợi giằng co miếng mồi trong miệng con quái vật nước. Phía sau họ, đoàn người lại kéo dây trợ lực, gồng hết sức mà chiến đấu. Cả một vùng trong Tàn Tích Lớn ầm ầm tiếng nước chảy.

Cuối cùng, hố nước cũng chịu nhả gã nghiên cứu sinh. Nhưng nó chưa chịu thua con người. Nó rời đi và gây dư chấn vào lòng tuyết vốn đã bị đào xới bởi mạch nước ngầm. Tuyết xung quanh miệng hố lại sụt thêm lần nữa rồi lở rào rào như thác đổ. Nhiều người bị phân tâm, nửa muốn chạy lên nửa muốn ở lại cứu nạn nhân. Ngay cả gã Mông Nhão cũng muốn buông xuôi. Giữa tình cảnh ấy, tên tóc đỏ gầm lên:

-MẤY NGƯỜI Ở NGUYÊN ĐÓ! 

Mặt mày Vô Phong rúm ró như con ác quỷ tóc đỏ đương sôi máu. Mọi người cả sợ, bèn trở lại công việc hợp lực cứu nạn nhân. Họ vội vã kéo dây trong khi mặt tuyết đang run rẩy từng đợt. Vừa thấy chỏm đầu gã nghiên cứu sinh, tên tóc đỏ vội vàng nhào tới kéo anh ta trở lên. Trong khoảnh khắc, hắn ngó xuống miệng hố và trông thấy hàng chục cánh tay người mờ ảo dưới những bọt nước sôi sủi. Hắn không chắc đó là hồn ma Vương Quốc Cũ hay nhìn gà hóa cuốc. 

Nhưng không còn nhiều thời gian để Vô Phong đoán già đoán non nữa. Hắn vác chàng nghiên cứu sinh lên vai rồi cùng mọi người tháo chạy trước khi mặt tuyết sập thành một lòng chảo sâu và rộng với đường kính khoảng sáu mét. Họ vừa thoát khỏi bàn tay Tử Thần trong gang tấc. Ai nấy thở phào khi nhận ra mình còn sống, tất cả đổ vật ra tuyết mà thở, mà vùi mặt xuống tuyết, mà chắp tay tạ ơn Vạn Thế. 

Một ngày ở Tàn Tích Lớn kết thúc như thế.



Tối cùng ngày, nhóm Vô Phong nhập hội với đoàn khảo cổ. Họ quây quanh đống lửa, chia sẻ cho nhau đồ hộp, thức ăn vặt, nước uống. Giữa nơi hoang vu đầy rẫy những truyền thuyết ghê rợn về Vương Quốc Cũ, họ trò chuyện, trao đổi vài thông tin hữu ích hoặc đơn giản là kể chuyện phiếm. Đâu đấy còn vọng tiếng cười đùa. Con người là vậy. Chỉ cần hơi lửa nóng, đồ ăn, vài câu chuyện phiếm và tiếng cười thì họ chẳng còn quan tâm ngoại cảnh, dẫu là hơi nóng khủng khiếp của sa mạc Hồi Đằng hay bóng tối khổng lồ rùng rợn của Vương Quốc Cũ. Thế giới rộng lớn, nhưng duy nhất loài người cảm nhận được sự rộng lớn đó và cũng duy nhất loài người có thể quên nó mà tồn tại. 

-“Thế giới rộng lớn nhưng chỉ con người mới biết điều ấy”. Chà, cậu nghe thế bao giờ chưa, chàng trai? – Ông trưởng đoàn khảo cổ cười khề khà với Vô Phong – Cậu đã đi đủ xa để biết mình nhỏ bé thế nào giữa Tâm Mộng chưa? Tôi thì rồi. Cứ hai năm một lần, tôi lại đến Vương Quốc Cũ và lần nào cũng khám phá ra điều mới lạ. Từ lúc bốn mươi tuổi tôi đã đến nơi này, tới giờ là gần ba mươi năm rồi. Tôi là nhà khảo cổ người Giáp Tây quốc. À, cậu không biết đất nước này? Cũng phải thôi, đất nước chúng tôi ở phía nam lục địa Băng Thổ, ít tham gia chiến tranh. Chúng tôi cũng không thuộc Liên Minh Phương Bắc, mà là thành viên Khối Ngũ Giác. Tên tôi? Cậu có thể gọi tôi là Pháp Lãi.

Ông chuyên gia khảo cổ bắt tay Vô Phong, sau cùng hắn uống vài chén rượu làm ấm người. Giống các khoa học gia hay những con người dành trọn tâm huyết cho nghiên cứu, Pháp Lãi kể rất nhiều về Vương Quốc Cũ. Cả cuộc đời ông ta dành cho miền đất hoang vu này với phiến đá cổ, kiến trúc xa xưa hay dòng sông băng chảy qua các cánh rừng. Gia đình, người thân, thời tuổi trẻ… hầu như không xuất hiện trong câu chuyện của Pháp Lãi, nếu có thì cũng liên quan đến Vương Quốc Cũ. Người khác dĩ nhiên chẳng rảnh hơi nghe Pháp Lãi kể lể, nhưng Vô Phong thì khác. Tên tóc đỏ chẳng biết cái gì là “đo đạc chấn động”, “tính tuổi vùng đất dựa vào kết cấu trầm tích”, nhưng hắn chịu nghe người khác. Từ trước tới giờ hắn vẫn thích nghe mọi người kể chuyện. 

Qua nhiều vòng vèo quanh co của ngôn từ lời lẽ, câu chuyện giữa hai người trở lại chuyện hố nước ban chiều. Pháp Lãi muốn trả ơn bằng tiền bạc lẫn cổ vật. Tuy mang ít tiền mặt nhưng ông ta lại sở hữu không ít cổ vật, mỗi thứ trị giá hàng chục, thậm chí hàng trăm thùng vàng. Nhưng tên tóc đỏ chẳng tham tiền. Thứ mà hắn cần là một tấm bản đồ hoặc sơ đồ chỉ dẫn đường đi lối lại trong khu vực tàn tích. Vô Phong vừa đưa ra đề nghị này, Pháp Lãi lập tức rúm người trong nghi ngờ. Với dân khảo cổ, tấm bản đồ quan trọng hơn mọi di vật hay kho báu. Nó cũng là vật bị giành giật nhiều nhất ở Vương Quốc Cũ. 

-Tôi không nghi ngờ cậu. Nếu là bọn “cạy nắp” hay kẻ cơ hội, cậu đã không giúp chúng tôi, càng không mạo hiểm để cứu anh bạn trẻ này. – Pháp Lãi hất hàm về phía gã nghiên cứu sinh đang mê man trong túi ngủ – Nhưng những người khác trong nhóm của cậu thì sao? Có vẻ cậu và bọn họ hợp tác ngắn hạn? Tôi sợ bọn họ sẽ lợi dụng bản đồ để trục lợi. Cậu biết tại sao hố nước xuất hiện ở đây không? Không phải hồn ma đâu, mà vì bọn “cạy nắp” đào quá sâu và vơ vét quá nhiều, làm gãy hỏng kết cấu kiến trúc và các tầng tuyết. Tôi yêu Vương Quốc Cũ, anh bạn, dù nó xấu xí và ghê gớm như bà vợ khó tính thích quát tháo ưa cằn nhằn. Tôi không muốn thấy Tàn Tích Lớn sụp đổ. 

Vì lý do trên, nên Pháp Lãi viết nhiều sách về Vương Quốc Cũ nhưng không công bố bất cứ chi tiết nào về bản đồ. Biết ông chuyên gia có lý lẽ của riêng mình, Vô Phong không phản đối mà ôn tồn:

-Tôi hiểu. Tôi có thể đảm bảo với ông rằng chỉ mình tôi và Đốc Lãm biết chi tiết bản đồ. Chúng tôi đang đi tìm thứ khác, không phải kho báu hay cổ vật…

Bằng cái giọng từ tốn, Vô Phong cố gắng thuyết phục ông chuyên gia. Đắn đo so đếm một hồi, Pháp Lãi đồng ý. Dưới ánh lửa chập chờn, hai người họ châu đầu xem tấm bản đồ do chính Pháp Lãi vẽ nên – thành quả sau ba mươi năm lăn lộn chốn khỉ ho cò gáy đầy mùi nguyền rủa này. Bản đồ cho thấy Tàn Tích Lớn lắm nhiều điều lạ lùng hơn người ta nghĩ. Chẳng hạn tòa sảnh cung điện nằm dưới đáy tàn tích, quanh năm chìm dưới nước và chỉ xuất hiện một lần vào mùa thu. Hay như hệ thống đường sá cổ xưa vẫn còn nguyên vẹn tại phía đông. Còn tận cùng phía bắc tàn tích là một con đập nằm trên vách núi. Pháp Lãi hào hứng kể:

-Thuở đó, người phương bắc chưa biết xây đập nước. Chính người phương tây đã dựng nên con đập đầu tiên ở Băng Thổ. Họ dẫn nước về kinh đô, từ đấy xây lên Vương Quốc Thịnh Vượng. Khi con đập hỏng, nước tràn xuống, kinh đô bị nhấn chìm và trở thành Tàn Tích Lớn…

Cuộc nói chuyện cứ thế kéo dài đến nửa đêm. Mọi người lần lượt ngả lưng và để tiếng lửa tí tách ru mình vào giấc ngủ. Chỉ còn Vô Phong thức. Hắn đọc tấm bản đồ, mong chờ trực giác chỉ ra một điểm nào đấy đang cất giữ di cốt Biệt Liên Đa Xuyến. Theo ông chuyên gia khảo cổ, tòa sảnh cung điện là nơi quan trọng nhất khu tàn tích đồng thời nhiều ý nghĩa nhất, hẳn là nơi thích hợp để Mục Du Cổ chôn cất mẹ mình. Nơi đó cũng được tự nhiên bảo vệ và rất khó xâm phạm. Chỉ phiền rằng “thủy” không phải nguyên tố tốt đẹp trong tâm thức người phương bắc. Nhưng tên tóc đỏ không thể tìm ra câu trả lời hợp lý hơn. 

Nương nhờ trực giác không xong, Vô Phong bèn cầu viện người quen. Hắn soạn một bức thư điện tử gửi Đa Lạt, hy vọng ông học giả cung cấp thông tin giá trị về Mục Du Cổ. Vì không có sóng nên hắn phải sử dụng chiếc máy phát cổ lỗ sĩ mua từ trại gia súc. Gửi một thư điện tử mà chiếc máy kêu rè rè như lên cơn viêm phế quản, Vô Phong chờ đợi phát bực. Trong lúc ấy, gã nghiên cứu sinh đằng góc chợt cựa quậy sau nửa ngày bất tỉnh. Anh ta ngó quanh quất bằng gương mặt tái xanh cùng đôi mắt vàng ệch đoạn cất lời, vừa nói vừa sù sụ:

-Tôi… khục… tôi đang ở đâu…?

-Anh bạn được cứu. – Vô Phong đáp – Đây là mặt đất, không phải Tụ Hồn Hải. Anh bạn vẫn sống. Đừng cử động, anh bạn đã gãy xương vài chỗ, mấy chỗ khác cũng nứt nhiều đấy! Đừng làm mấy ông bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình thêm đau đầu. Nhé?!

Gã nghiên cứu sinh ho thêm chặp nữa. Không mất quá nhiều thời gian để anh ta hình dung sự việc ở hố nước, dù suốt thời gian đó tâm trí anh chàng đã ủng sùng sũng. Tay nghiên cứu sinh cất lời:

-Cảm ơn anh…

-Cảm ơn ông ta ấy! – Vô Phong ngoảnh về ông chuyên gia khảo cổ – Chính ông ta gọi bọn tôi đến và không bỏ cậu lại. Bọn này chỉ làm công ăn lương thôi! 

Gã nghiên cứu sinh hơi gật đầu. Thân xác ê ẩm khiến anh ta khó cử động thoải mái:

-Nhưng dù sao, các anh đã cứu tôi. Tôi nhớ… chính anh đã kéo tôi ra khỏi hố nước… Cảm ơn. Tên tôi là Nhung Khuyển, nghiên cứu sinh người Lưu Vân quốc. Tôi có thể làm gì cho anh? 

-Không cần. – Vô Phong lắc đầu – Ông giáo sư đã trả công cho tôi. Sáng mai, người ta sẽ đưa anh bạn về thành phố điều trị. Anh bạn hết việc ở đây rồi. Cũng đừng hỏi tên tôi. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần trong đời và đây là chuyện bất đắc dĩ. Tôi là lính đánh thuê, hiểu chứ? 

Dường như chẳng dè thái độ nhát gừng của Vô Phong, anh chàng nghiên cứu sinh im thít. Anh ta dường như suy nghĩ điều gì đó nhưng rồi lại chìm vào giấc ngủ. Giữa xứ hoang vu băng giá, người ta không từ chối một giấc ngủ ngon lành trong hơi lửa ấm và quên đi mọi chuyện đã xảy ra. Xứ lạnh lẽo chỉ cần mùa đông đã quá đủ, không cần thêm mấy món nợ giữa người với người. Vô Phong không ngại giúp đỡ nhưng đã chán việc người khác mang nợ mình. 



Nhung Khuyển là một gã bướng bỉnh. Anh ta trẻ tuổi, nhiệt tình và liều lĩnh. Thay vì nghe lời mọi người quay lại thành phố, anh ta đòi ở lại để giúp mọi người và nhóm Vô Phong. “Tôi không thể đi lại nhưng tôi còn đầu óc. Tôi có kiến thức phân tích địa chất, tôi vẫn hữu dụng!” – Anh ta kiên quyết. Tên tóc đỏ nghe nói người Lưu Vân xưa nay gan lì nhưng tới mức phi lý như thế thì mới chứng kiến lần đầu. Giữa thế giới đầy nốt giáng của những người ghét gia ơn và ưa quỵt nợ, Nhung Khuyển như một nốt thăng lạc điệu. Nhưng Vô Phong không cảm kích mà trái lại cầu mong gã què quặt này không gây vướng víu thêm lần nữa. Hắn không thể diễn trò cứu người khác ngay trước mũi Tử Thần mãi. 

Ba ngày kế tiếp, bọn Vô Phong vừa thăm dò địa chất vừa tham khảo bản đồ Tàn Tích Lớn. Họ làm việc ban ngày rồi quay lại điểm cắm trại lúc trời tối. Do phạm vi hoạt động tương tự nhau nên nhóm Vô Phong sát nhập với đoàn khảo cổ. Suốt thời gian đó, Vô Phong không để tâm gã Nhung Khuyển dù anh chàng rất mong muốn giúp đỡ. 

Sang ngày thứ tư, bọn Vô Phong dự định đi sâu hơn xuống vùng tàn tích, điểm đến là tòa sảnh cung điện – một nơi ngập nước quanh năm trừ mùa thu. Mà bây giờ lại không phải là mùa thu ở Băng Thổ. Nhưng theo lời Pháp Lãi, đôi lúc nước sẽ rút. Phiền rằng ngay cả ông chuyên gia cũng không rõ nước rút khi nào và kéo dài trong bao lâu. Tên tóc đỏ không thể mạo hiểm đưa cả đoàn vào một nơi có xác suất sống sót thấp hơn tỉ lệ một gã đàn ông ghét nhìn ngực phụ nữ. Mấy ngày đó, Đa Lạt vẫn chưa gửi thư. 

Ngày thứ năm, bọn Vô Phong gặp vấn đề lương thực. Họ không thể lưu lại khu tàn tích lâu hơn và phải tính số thức ăn để quay về trại gia súc. Hoặc đi xuống tòa sảnh ngập nước hoặc trở lại điểm xuất phát – Vô Phong suy tính. Sau rốt hắn đành làm cái việc đặng chẳng đừng là mang tài liệu hỏi ý kiến Nhung Khuyển. Gã nghiên cứu sinh cả mừng. Đọc số liệu thống kê và lẩm nhẩm tính toán một lúc, Nhung Khuyển nói:

-Tôi không nghĩ các anh nên xuống tòa sảnh. Nếu định tìm cổ vật thì nơi đó rất tuyệt! Nhưng nếu là tìm một thứ làm thay đổi địa chất thì không. Mọi người tin là tòa sảnh ư? Tôi không nghĩ thế! Tôi dám chắc nơi đó không phải nguồn gốc của sự thay đổi. Các dữ liệu cho thấy địa chất Tàn Tích Lớn thay đổi chủ yếu do mực nước, mà nguồn nước đổ vào đây xuất phát từ hệ thống đập trên vách núi. 

Rồi anh chàng diễn giải bằng một mớ công thức đủ đè chết người. Lóp ngóp bò ra từ đống số má khoa học, tên tóc đỏ tóm gọn rằng đập nước là nơi đáng để đào xới. Nhưng hắn chưa đủ bằng chứng để tin Nhung Khuyển, một anh chàng nghiên cứu sinh chẳng có mấy tên tuổi so với giáo sư Đốc Lãm hay những người đầy kinh nghiệm khác. 

Chiều cùng ngày, Vô Phong nhận được thư từ Đa Lạt. Ông học giả người Băng Hóa viết:

“Chào tóc đỏ. Tôi đã lục lại thông tin về Mục Du Cổ và tìm được vài thứ. Khi còn trẻ, ông ấy là kỹ sư xây dựng ở miền viễn bắc Băng Hóa. Ông ấy đã dựng nên giàn điều phối hải lưu ở Biển Băng Vụn – một trong Chín Biển Lớn của thế giới. Khi tới sinh sống tại Câu Nguyệt Thành ở Diệp quốc, Mục Du Cổ cũng xây một đập thủy điện và nhiều công trình khác ở đây. Đó là tất cả những gì tôi biết…”



Vô Phong ngẫm nghĩ. Con đập trên vách núi tạo ra Vương Quốc Thịnh Vương và cũng chính nó đặt dấu chấm hết cho vương quốc cổ xưa này. Hơn nửa thế kỷ trước, Vương Quốc Cũ đầy bóng tối dần tái sinh, các cánh rừng bớt nguy hiểm, đất đai khô ráo hơn và những ma thuật nguyền rủa dần biến mất. Tất cả đều do mực nước hạ thấp. Không khó để thấy Mục Du Cổ làm những thứ liên quan đến nước và thay đổi dòng chảy của nó. Những nơi ông ta đi qua, mọi thứ đều tốt lên trông thấy: ở Biển Băng Vụn, dân thiểu số qua lại đất liền nhiều hơn; còn ở Câu Nguyệt Thành, cư dân thành phố giải quyết được vấn đề điện và nước sinh hoạt. Như tìm được câu trả lời, tên tóc đỏ quyết định tiến lên vùng bắc Tàn Tích Lớn. 

Sáng hôm sau, bọn Vô Phong cùng ông chuyên gia khảo cổ khởi hành tới con đập. Người xưa đã xây dựng nhiều đường mòn, thang đá dẫn lên vách núi; tất cả còn nguyên vẹn nên đoàn người không gặp nhiều khó khăn. Hai giờ chiều, họ đã tiếp cận khu vực. Trước mắt Vô Phong lúc này là một khúc sông nông choẹt, nước chỉ ngập ngang đầu gối. Phía xa, tít về cuối dòng sông là bức tường thành đá lớn hình vòng cung, có các cột trụ phân chia thành năm cửa xả. Mỗi mặt cửa đều có ký tự cổ của văn hóa Vương Quốc Thịnh Vượng. Thuở trước, chỗ bọn Vô Phong đang đứng là đáy sông và nước ngập quá nửa tường thành. Còn bây giờ cả vùng đất là đất tuyết, rừng lá kim và đoạn sông cạn dòng. 

-Ngày trước, tôi chưa từng tới đây bao giờ! Nhưng hình như… đúng là chỗ này rồi! – Đốc Lãm nhìn vào chiếc máy đo đạc – Hãy khẩn trương lên, trước khi trời tối!

Cả đám bắt đầu làm việc. Họ kiểm tra kĩ từng mảnh đất, từng đoạn sông hay bất cứ khoảnh rừng nào mang dấu hiệu bất thường. Ai cũng hăng hái nhiệt tình, bởi lẽ họ không muốn tốn thêm thời gian với Vương Quốc Cũ. Cái viễn cảnh về trại gia súc, sau đó quay lại đây khiến họ phát sợ. 

Năm giờ chiều, khi mặt trời khuất hẳn sau rặng núi phía bắc, một người trong bọn đã tìm thấy một ngôi mộ gần bìa rừng và nằm cạnh bờ sông. Nó nằm ở góc khuất, phía sau những bụi cây thạch nam nở hoa tím um tùm. Chính tại đây, máy đo đạc bắt tín hiệu mạnh mẽ nhất. Đám Vô Phong liền tiến hành đào bới. Sau bốn mươi chín xẻng xúc đất, họ đã chạm tới một cái hòm nhỏ vuông vắn to bằng hai lòng bàn tay. Hòm không có khóa mà buộc chặt bằng bảy chiếc dây thừng. Thấy cái hòm, trừ Vô Phong và Mai Hoa, cả đám người phương bắc vội dạt ra, gương mặt vừa sợ hãi vừa kính ngưỡng trước vật sắp xuất hiện. Gã cú vọ thúc vai tên tóc đỏ:

-Họ són ra quần rồi! Vậy cậu mở đi. 

Vô Phong thở phù. Hắn cắt dây đoạn mở hòm. Đám người phương bắc bèn xúm vào. Trước mắt họ là một khối vật tựa thạch anh óng ánh sắc tím đỏ. Nắng đã tàn, bóng tối đã buông nhưng khối vật vẫn sáng lên như thể được ánh mặt trời chiếu rọi. Không cần kiểm nghiệm hay kiểm tra, ai nấy đều biết đó là di cốt Biệt Liên Đa Xuyến. Sau nửa thế kỷ, những mảnh xương vụn của bà đã kết thành khối vật này, nhờ nó mà toàn bộ Vương Quốc Cũ thay đổi. Tên tóc đỏ tự hỏi bằng cách nào, như thế nào hay động cơ nào đã thúc đẩy Mục Du Cổ một mình đi qua mảnh đất đầy nguy hiểm rồi đặt di cốt mẹ mình ở đây. Đó có lẽ sẽ là câu chuyện bí ẩn mà không ai biết và cũng chẳng bao giờ được kể. 

Nhiệm vụ hoàn thành, cả đám thở phào nhẹ nhõm. Họ hạ trại nghỉ chân, sớm mai sẽ khởi hành rời Tàn Tích Lớn. Vô Phong không chắc điểm đến kế tiếp sau vụ này. Hắn định quay lại dinh thự họ Cát Giá, nhưng với tình cảnh cô nàng Mi Kha mặt nặng mày nhẹ, hắn không chắc mình sẽ ở đó lâu hơn nửa ngày. Dù vậy, chuyện ngày mai thì để mai tính, trước hết hắn cần một giấc ngủ. 

Nhưng Vô Phong ngủ không yên giấc.

Tối hôm đó, ông giáo sư Đốc Lãm gọi tên tóc đỏ trở dậy. Thay vì trò chuyện tại chỗ, ông ta gọi hắn đến bìa rừng cách xa chỗ hạ trại khoảng ba mươi mét. Cảm giác chuyện lạ, Vô Phong mang theo vũ khí lẫn hộp đựng di cốt. Tại bìa rừng, ông giáo sư mở lời:

-Tôi cần di cốt Biệt Liên Đa Xuyến. Chúng ta có thể thương lượng không? 

-Ông đang nói gì thế? – Vô Phong nhíu mày – Ông cần nó vào việc gì? 

Vị giáo sư thở hắt một hơi dài. Dáng vẻ một vị giáo sư cù lần biến mất, thay vào đó là một người đàn ông đứng thẳng lưng sau chuỗi ngày dài mệt mỏi. Ông ta nói:

-Tôi chịu đựng Băng Hóa quốc đủ rồi, Phong ạ. Đất nước thổ tả đó coi chúng tôi như công cụ, dùng khi cần và vứt khi hết giá trị. Băng Hóa tận dụng chúng tôi vào Đề Án Mắt Trắng, sau đấy bỏ tôi vào thùng rác. Họ cầm tù tôi như giam giữ một con chó để nó không chạy ra ngoài cắn sủa lung tung. Tôi, các nhà khoa học Đề Án Mắt Trắng, tất cả đều như vậy. Những khoa học gia trước hay sau chúng tôi cũng đều như vậy. Giờ Băng Hóa phải trả giá, Liên Minh Phương Bắc sụp đổ và họ vĩnh viễn không thể thống trị lục địa này thêm nữa. 

-Vậy ông muốn di cốt họ Biệt Liên? – Vô Phong vòng tay trỏ vào chiếc hộp đeo sau lưng.

Ông giáo sư gật đầu:

-Phải. Tôi sẽ mang nó đi, giấu ở một nơi thật xa, nằm ngoài tầm tay người Băng Hóa. Không còn di cốt, không còn mảnh vụn nào của họ Biệt Liên, Băng Hóa sẽ sụp đổ. Gã thống lĩnh Khai Y chỉ có một phần tư dòng máu Biệt Liên, gã không phải dòng máu thuần chủng. Gã sẽ chẳng thể làm gì cho Băng Hóa. Đưa di cốt cho tôi, chúng ta sẽ cùng có lợi. Tôi đã liên hệ với một nhóm người, họ cũng cần di cốt Biệt Liên Đa Xuyến. 

-Ông liên hệ với ai cơ? – Vô Phong chau mày. 

Ông giáo sư chưa kịp trả lời, vài bóng người từ phía sau ông ta đột ngột xuất hiện. Họ vận quần áo đen tuyền và che kín mặt bằng những chiếc mặt nạ trắng sơn xanh sơn đỏ. Vô Phong từng thấy vài kẻ như vậy. Hồi ở sa mạc Hồi Đằng, hắn từng chung đội với thánh sứ Thôn Tàng, các hộ vệ của cô ta trông y hệt những kẻ mới xuất hiện đây[1]. Một kẻ đeo mặt nạ cất lời:

-Chào Vô Phong. Chúng tôi là người của Ẩn Lý Thị. Hôm nay chúng tôi đến để giải quyết nợ nần giữa cậu và tiểu thư Mục Á. 

Ông giáo sư Đốc Lãm trố mắt, vẻ như không hề biết mục đích thật sự của những con người này. Vô Phong lắc đầu ngao ngán:

-Tổ sư ông già! Bắt tôi trả nợ ngay hôm nay sao? Ông chơi được lắm!

[1]: xem lại Quyển 3 Chương 28

Các thông tin về công trình của Mục Du Cổ, có thể đọc lại ở Ngục Thánh Ngoại Truyện: Chuyện của hoa
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 14: Nói chuyện


Sau nhiều trì hoãn, cuối cùng Ẩn Lý Thị cũng đồng ý ngồi vào bàn thương lượng với ông học giả Đa Lạt. Lập Hoa Ngân Thôn Cơ – thành viên Ngũ Pháp Sư – sẽ giám sát cuộc thương lượng. Lúc này là bốn giờ sáng ngày 6 tháng 4 ở Câu Nguyệt thành, ông học giả cùng nữ pháp sư đang trên đường tới dinh thự họ Ẩn Lý. 

Khi phát hiện thân phận thực sự của pháp sư Thôn Cơ, Đa Lạt đã gọi điện đề nghị họ Ẩn Lý nói chuyện phải trái. Ông dàn xếp vụ này mà không hỏi ý kiến đại thống lĩnh Khai Y. Đáp lại ông học giả, Ẩn Lý Thị im lặng. “Hãy để chúng tôi suy nghĩ!” – Trưởng họ Ẩn Lý trả lời như thế. Đa Lạt tin rằng bọn họ muốn kéo dài thời gian. Trước một Ngũ Pháp Sư mà nhất là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ – một người Diệp quốc, họ chẳng thể từ chối gặp mặt nhưng cũng không muốn đám sát thủ ra về tay trắng. Mấy ngày đó, ông học giả hết lo lắng cho Vô Phong rồi lại thở phào lúc nhận được thư của hắn. Tên tóc đỏ còn sống, Ẩn Lý Thị vẫn chưa đạt được mục đích và Khai Y chưa vi phạm hợp đồng. 

Như không thể trì hoãn lâu hơn, chiều ngày 5 tháng 4, họ Ẩn Lý gọi điện mời vị nữ pháp sư cùng Đa Lạt tới dinh thự. Riêng Tiểu Hồ tạm lánh, cô nàng không muốn Ẩn Lý Thị coi mình như kẻ hai mặt đâm bị thóc chọc bị gạo. 

*

* *

Tìm ra pháp sư Thôn Cơ, ông học giả cung cấp thông tin của tên tóc đỏ cho Tiểu Hồ như đã thỏa thuận. Dĩ nhiên Đa Lạt giới hạn những gì có thể nói và cái gì không thể nói. Ông vừa giữ trọn lời hứa vừa không phản bội quốc gia. May mắn là Tiểu Hồ tuy ranh mãnh nhưng hiểu luật chơi, không đòi hỏi ông nêu rõ Vô Phong đang làm gì hay ở chỗ nào. Đa Lạt hỏi:

-Vậy cô tính sao? Tìm cậu ta chăng? Vô Phong đang ở miền tây bắc lục địa Băng Thổ, tôi chỉ có thể nói như vậy thôi. Vả lại tôi khuyên cô đừng tìm kiếm. Như tôi vừa nói, Vô Phong đã thỏa thuận với đại thống lĩnh Khai Y, cô không thể can thiệp. Đại thống lĩnh không dễ tính như tôi. Chà, cô biết đấy, ông ta là một người Băng Hóa điển hình nhất! 

Tiểu Hồ im lặng rất lâu – cái sự im lặng đáng lẽ không nên có ở một cô ả hoạt bát khôn lanh, cơ mà rất hợp với một cô gái đang yêu. Ông học giả cảm nhận rõ điều đó. Cuối cùng, Tiểu Hồ nói:

-Cảm ơn ngài cảnh báo. Tôi không định tìm Vô Phong. Còn quá nhiều việc quan trọng ở Diệp quốc, tôi chưa thể dứt khỏi nơi đây. Nhưng hãy giữ liên lạc, cập nhật liên tục tình hình của Vô Phong cho tôi. Nếu mọi việc xấu đi, tôi sẽ thay đổi kế hoạch. Mong ngài giúp đỡ. 

-Việc quan trọng cỡ nào? – Đa Lạt dò xét.

Cô gái lắc đầu cười. Đa Lạt gật gù hiểu ý. Giữa thời buổi đầy biến động này, ai nấy đều giữ cho mình những bí mật. 

*

* *

Khi cách dinh thự họ Ẩn Lý khoảng ba trăm mét, Đa Lạt cùng pháp sư Thôn Cơ rẽ sang một con phố nhỏ. Tại lưng chừng phố có ba người gồm hai nam và một nữ đang chờ đợi. Họ mang dáng dấp cao lớn nhưng điệu bộ lúng túng với mảnh đất mà họ đặt chân lên, lại trầm trệ như đương trải qua những cảm xúc biến động, đặc biệt là người phụ nữ. Từ ngoài nhìn vào, ngay kẻ hiểu biết nhất cũng không tin ba người đó là thành viên họ Thát, vì nom họ quá trái ngược với một gia đình nổi tiếng và đầy quyền lực ở Hoàng Hôn Cảng. Nhưng sự thật là gia đình họ Thát đã tới Câu Nguyệt thành. 

Nhác thấy Đa Lạt, ba người họ Thát vội tiến đến tựa thể vừa tìm được chỗ bấu víu trên mảnh đất xa lạ. Ông học giả bắt tay từng người:

-Ông Thát Hãn, rất vui được gặp ông! Bà Thát Hãn, hân hạnh được gặp bà! Cậu Thát Nguyên, chào cậu! Mọi người đông đủ cả rồi, xin hãy theo tôi. 

Đa Lạt dẫn mọi người quay lại trục đường cũ hướng về dinh thự Ẩn Lý Thị. Ông vừa đi vừa giới thiệu đôi bên, vị nữ pháp sư cúi đầu chào họ Thát, còn gia đình họ Thát á khẩu khi biết cô gái trẻ ăn vận trang phục truyền thống Diệp quốc kia là một trong Ngũ Pháp Sư. Đa Lạt quay sang ông bà họ Thát Hãn:

-Rất xin lỗi về chuyện cậu Thát Khan. Đáng lẽ chúng tôi nên liên hệ gia đình ông bà từ mười năm trước. Chúng tôi đã không làm vậy. Đại thống lĩnh Khai Y rất tiếc, ngài ấy hứa sẽ gặp mặt các vị ngay khi có thể. Nhưng trước mắt, mong ông bà giúp đỡ Băng Hóa quốc và danh dự của phương bắc. Tôi đảm bảo rằng Băng Hóa sẽ đền đáp đầy đủ. 

Nghe vậy, ông Thát Hãn ưỡn cao ngực lấy làm vinh dự, cái đầu hói bóng hơn một chút và bộ râu quai nón màu hung cũng nở to hơn một chút. Bà Thát Hãn lặng lẽ hơn, chỉ cúi đầu tỏ ý đã nghe. Người phụ nữ chưa nguôi nỗi đau mất con. 

Tháng trước, Đa Lạt gửi thư đề nghị gia đình họ Thát giúp đỡ. Trong thư, ông kể rõ mọi chuyện trừ việc Thát Khan đã chết. Đa Lạt tính dành việc khó nói ấy sau cùng nhưng Vô Phong đã làm thay ông. Trở về từ miền đông bắc Băng Thổ, tên tóc đỏ ghé qua Hoàng Hôn Cảng và gửi lời chia buồn tới ông bà Thát Hãn. Sự thể ra sao, Đa Lạt không rõ, chỉ biết Vô Phong viết thư kể rằng đó là một cuộc đối thoại khó khăn và đầy tiếng khóc, tiếng cãi nhau chì chiết lẫn tiếng đập phá đồ đạc. Nhưng sau tất cả, gia đình họ Thát vẫn đến Diệp quốc. Không nỗi đau nào có thể ngăn cản lòng kiêu hãnh của họ. 

Hết trục đường chính, nhà cửa dân cư thưa thớt dần, cánh cổng dinh thự Ẩn Lý Thị hiện ra dưới cánh rừng bao chân núi phía tây thành phố. Khi đám người Đa Lạt đến nơi, cổng tự mở cho họ vào. Bên trong dinh thự, thành viên họ Ẩn Lý xếp thành hai hàng, trên tay mỗi người cầm một chiếc đèn lồng soi đường. Đám Đa Lạt đi tới đâu, họ cúi rạp người tới đó. Đa Lạt biết rõ thứ vinh dự này dành cho pháp sư Thôn Cơ chứ không phải đám người phương bắc như ông. 

Tại phòng khách, ông trưởng tộc Ẩn Lý cùng bà vợ đang chờ sẵn. Đa Lạt mới gặp vợ ông trưởng tộc một lần. Đó là một người phụ nữ cổ điển, nền nã và là con thác trút mọi vẻ đẹp của phụ nữ Diệp quốc xuống cái hồ Mục Á. Bà ta cùng chồng tay bắt mặt mừng Thôn Cơ, thái độ kính ngưỡng vô cùng. Trông cảnh hai ông bà già khom lưng cúi đầu trước cô gái trẻ tuổi, ai nấy sinh cảm giác kỳ cục. Vị nữ pháp sư cất lời chào trả vợ chồng trưởng họ Ẩn Lý:

-Ông bà Ẩn Lý Điền Chức, hai người vẫn khỏe! Chúng ta gặp nhau bao giờ nhỉ? Có lẽ là khi hai người còn bé xíu và ông bà của hai người còn sống. Thứ lỗi vì suốt thời gian qua tôi không ghé thăm Ẩn Lý Thị, nhưng quả thực tôi không muốn làm phiền các vị. Thời gian tới? Có thể trong lúc tản bộ, tôi sẽ ghé thăm hai người và uống trà chăng? Nhưng thôi, xin dành việc ấy lúc khác, giờ chúng ta cần bàn chuyện quan trọng hơn.

Ông bà Ẩn Lý Điền Chức nghe theo nữ pháp sư. Ít phút sau, người Băng Hóa và Ẩn Lý Thị ngồi vào bàn thương lượng còn pháp sư Thôn Cơ làm quan tòa phân xử. Bấy giờ Đa Lạt mới nhận ra bên kia bàn đàm phán xuất hiện một nhân vật không thuộc họ Ẩn Lý. Ông ta luống tuổi, tóc bạc quá nửa, gương mặt hòa ái rất thích hợp cho việc diễn thuyết trước đám đông để truyền cảm hứng hoặc làm từ thiện. Đa Lạt chưa gặp người này nhưng biết rõ người đàn ông đó là Đổng Ngư – ông trùm sòng bạc Khẩu Lỗ thành, nhân tình một thời của Mục Á. Giống gia đình họ Thát, Đổng Ngư bệ vệ ở ngoài bao nhiêu, mà đứng giữa dòng tộc cổ xưa và Ngũ Pháp Sư trong đây thì nhỏ bé khúm núm bấy nhiêu. Đa Lạt đoán họ Ẩn Lý mời người này đến nhằm hợp thức hóa hành động trả thù. 

Sau màn chào hỏi lấy lệ, mọi người vào việc. Mỗi bên đóng góp một ít vào câu chuyện Mục Á. Hơn ba mươi năm từ lúc cô gái ra đời tới khi bỏ mạng ở Khẩu Lỗ thành chỉ kéo dài trong mười phút. Riêng phần trọng yếu nhất là những ngày tháng Mục Á – Thát Khan làm vợ chồng thì chỉ một người biết. Kẻ ấy đang ở Vương Quốc Cũ, cũng là tâm điểm của cuộc thương lượng. Đa Lạt muốn hắn sống còn Ẩn Lý Thị kiên quyết nói “không”:

-Vô Phong đã đe dọa cháu gái chúng tôi, thậm chí bắt cóc[1]. – Ông Điền Chức nói – Chính hắn gây náo loạn sòng bạc và đẩy cháu gái tôi vào cái chết. Nếu hắn nói chuyện đàng hoàng tử tế thì đã không như vậy. Xét trên luật pháp, hắn có tội nhưng vẫn nhởn nhơ. Vậy thì chúng tôi phải trừng phạt hắn, đó là công bằng. 

-Nếu xét luật pháp, Ẩn Lý Thị không có quyền và không tòa án nào trao quyền xử tử người khác cho các vị. – Đa Lạt nhún vai – Chúng tôi đã điều tra dữ liệu từ sở cảnh binh Khẩu Lỗ thành, các nhân chứng và máy quay cho thấy chính Lực Lượng Mù Thủy gây hỗn loạn, bản thân Vô Phong cũng không can dự cái chết của Mục Á. Giữa chiến trường đầy đạn lạc, đó là chuyện không may. 

Hai bên không ai chịu ai, quay sang nhờ pháp sư Thôn Cơ phân xử. Nhưng vị quan tòa bối rối, tuổi đời cả trăm năm không giúp bà giải quyết sự vụ nhanh hơn chút nào. Còn nếu dùng luật pháp thông thường thì bà đã chẳng có mặt ở đây. Chưa tìm được lời giải, Thôn Cơ chuyển sang vấn đề chôn cất di hài Mục Á. Sự tình tiếp tục bế tắc. Mặc cho Thôn Cơ nói rằng lý lẽ thuộc về người phương bắc nhưng Ẩn Lý Thị không nhún nhường dù chỉ là một chút. 

-Họ Thát không có quyền gì ở đây. – Bà Điền Chức lên tiếng, giọng thanh mảnh như sợi chỉ – Họ đuổi cháu gái chúng tôi ra khỏi nhà họ, con bé thậm chí không có nổi một lễ thành hôn tử tế! Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra ở Hoàng Hôn Cảng, nhưng tôi dám chắc họ Thát đã miệt thị con bé. 

-Nghe nói bà vẫn gửi thư với Mục Á kể từ khi cô ấy rời khỏi Hoàng Hôn Cảng? Thư có đề cập chuyện họ Thát miệt thị cô ấy không?

-Không có, nhưng tôi dám khẳng định là có. – Bà Điền Chức trả lời.

-Vậy thì bà không thể khẳng định. – Đa Lạt lắc đầu – Nếu nói nguyên do, chúng ta phải bắt đầu từ tiểu thư Mục Á. Vì cô ấy giữ kín thân phận nên họ Thát không thể đón tiếp chu đáo. Hơn nữa Mục Á rất đặc biệt, rất phức tạp nên việc họ Thát không hiểu cô ấy là đương nhiên. Về phần họ Ẩn Lý, quý bà Điền Chức biết cháu gái mình kết hôn với Thát Khan nhưng không hề gặp mặt, cũng không gửi thư liên hệ với họ Thát. Bà không thể đòi hỏi những con người “không biết” phải hành xử như người “đã biết”. Về phần Băng Hóa, chúng tôi không thể liên lạc với họ Thát và nói rõ mọi chuyện, bởi lẽ ở thời điểm đó chúng tôi thiếu bằng chứng xác thực. 

Người họ Ẩn Lý xua tay lắc đầu. Pháp sư Thôn Cơ nhìn đôi bên, đôi tay chắp trên đùi thi thoảng động đậy và vẽ những đường ngẫm nghĩ vô hình bằng hai ngón cái. Được một lát, nữ pháp sư quay sang người Ẩn Lý Thị:

-Hãy quay lại chuyện đầu tiên. Tôi cần biết tình trạng Vô Phong hiện nay ra sao. Đám hộ giả của các vị tới đâu rồi? 

Khác cái tên “bốc mả” mà người phương bắc gọi, người Diệp quốc gọi những tay sát thủ phục vụ dòng họ là “hộ giả”. Ông bà Điền Chức nhìn nhau mà ngần ngừ không đáp. Đa Lạt tiếp lời:

-Xin các vị nể tình. Vô Phong đang làm việc cho Băng Hóa quốc. Chỉ cần cậu ta hoàn thành nhiệm vụ, thân phận Mục Á sẽ được chứng minh đầy đủ. Sẽ không còn tranh cãi hay nghi ngờ nào về quá khứ của cô ấy. Tôi đã tốn nhiều công sức mới thuyết phục được họ Thát tới đây, bởi vì họ không tin Mục Á là con cháu Biệt Liên Đại Đế. Họ có quyền nghi ngờ vì dòng máu ấy đã lâu không xuất hiện. Không chỉ họ Thát mà toàn thể Băng Thổ sẽ nghi ngờ khi cái ngày công khai danh tính cô ấy đến. Xin các vị cân nhắc!

Ông bà Điền Chức lại nhìn nhau thêm lần nữa. Sau rốt ông trưởng họ Ẩn Lý đáp:

-Thực tình, đội hộ giả đã tìm thấy Vô Phong. Họ đang trên đường tới chỗ hắn ta. 

-Cái gì? Vô Phong bị phát hiện rồi? – Đa Lạt hoảng hốt – Các vị cử bao nhiêu hộ giả đi vậy? 

-Bốn người đi tiền tuyến, tám người ứng trực. – Ông Điền Chức nói – Tổng cộng mười hai hộ giả, những người tốt nhất, hầu hết là cựu binh. 

Đa Lạt nghệt mặt. Ông đang hình dung khung cảnh mười hai tay đồ tể sắp làm thịt một con gà, trong khi chỉ cần một người là quá đủ. 



Diệp quốc và Vương Quốc Cũ cách nhau khoảng mười hai tiếng. Cùng ngày 6 tháng 4, người Băng Hóa thương lượng với họ Ẩn Lý lúc bốn giờ sáng thì Vương Quốc Cũ bước vào chiều tàn. Cuộc thương lượng kéo dài mà chưa ngã ngũ, còn Vô Phong đã chạm mặt lũ “bốc mả” từ Ẩn Lý Thị. 

Ngay lúc này, bên bìa rừng lá kim xào xạc gió, Vô Phong đối diện bốn kẻ khoác áo choàng đen đeo mặt nạ. Trời tối hù nhưng Vô Phong vẫn kịp nhận ra những chiếc mặt nạ được tô vẽ, điêu khắc hình đầu thú gồm: chuột, ngựa, thỏ, gà. Sau lời cảnh báo dành cho Vô Phong, đám “bốc mả” rút vũ khí, chừng như không muốn phí thời giờ. Dù biết tốn nước bọt vô ích nhưng Vô Phong vẫn cố vớt vát:

-Không còn cách giải quyết nào à? – Hắn nói – Tôi nghe Đa Lạt đang ở chỗ Ẩn Lý Thị mấy người. Đợi ông ta xong việc rồi tính sau, được chứ?

-Không. Mọi thứ kết thúc rồi. – Người đeo mặt nạ đầu ngựa cất lời với giọng đàn ông – Phương đông nói “nợ máu trả máu”. Phương bắc nói “người phương bắc không quên nợ”. Anh bạn, cậu phải chết để trả nợ cho tiểu thư Mục Á.

Dứt lời, gã đầu ngựa thòi vũ khí qua lớp áo choàng. Thanh kim loại cong vồng trên tay gã cho thấy nó là thanh kiếm Khuyết Nguyệt nổi tiếng. Vô Phong vừa thủ thế vừa lùi bước, cố bao quát cả bốn kẻ áo đen đang lừ lừ tiến tới. Đám người này kỷ luật, trật tự, không hề nóng vội. Trực giác bảo Vô Phong rằng bọn họ không phải dân đâm thuê chém mướn thông thường. Nhắm một mình đánh không nổi, Vô Phong gọi bộ đàm:

-Mai Hoa? Mai Hoa?! Giúp tôi…

Hắn chưa nói xong, gã đầu ngựa nhào tới như điện xẹt, tay vung thanh kiếm cong nhằm cổ Vô Phong chém đến. Vô Phong lùi bước đoạn rút súng bắn lia lịa. Gã đầu ngựa lăn người trên tuyết tránh đạn rồi biến mất vào màn đêm. Tên tóc đỏ liền chuyển nòng súng bắn ba kẻ còn lại. Chúng lập tức tản ra, thoắt ẩn thoắt hiện giữa bóng tối. Đạn nổ cả tràng nhưng chỉ găm vào hư không hoặc thân cây. Khác chiến binh phương tây tạo khiên nội lực chắn đạn, đám phương đông lại thích lẩn lút né tránh trong môi trường chiến đấu. Giữa làn đạn lạc, ông giáo sư Đốc Lãm ôm đầu nấp sau đá tảng, gào lớn:

-Dừng lại! Tôi tưởng các người chỉ muốn di cốt, sao lại đánh nhau chứ? Dừng lại đi!

Vô Phong không để tâm ông giáo sư khốn khổ nữa mà quay đầu chạy về nơi hạ trại. Bất thình lình từ bóng đêm, hàng loạt phi dao vun vút bay ra đâm sượt tóc rồi cắt lẹm ống quần Vô Phong. Phi dao nhỏ, sơn đen, khó nhìn và khó chống đỡ, nguy hiểm chẳng kém súng đạn. Vô Phong vừa chạy vừa bắn ngược về phía sau, hy vọng làm chậm lũ “bốc mả”. Loạt đạn xoáy toạc bóng tối nhưng chỉ găm trúng tuyết, bìa rừng, nhành cây hoặc đá tảng. Đám “bốc mả” tiếp tục đáp trả bằng phi dao. Dao nào dao nấy đuổi Vô Phong bén gót, cắm ngập tuyết và rỉ chất độc sôi xèo xèo. Vô Phong vội ẩn mình sau một tảng đá, gào vào bộ đàm:

-Mai Hoa?! Thằng cú vọ ẻo lả này?! Đâu rồi! Giúp tôi, tôi gặp phục kích!

Bên kia bộ đàm, Mai Hoa nói ngắt quãng:

“Chúng tôi cũng bị tấn công… chờ một chút…”

Nghe vậy, bấy giờ Vô Phong mới nhận ra nơi hạ trại đương rền vang súng nổ lẫn tiếng la hét. Bọn “bốc mả” không chỉ có bốn người. Chúng đông hơn thế. Ẩn Lý Thị đã hạ quyết tâm tiêu diệt hắn. Biết không thể trốn chạy món nợ máu, Vô Phong rút kiếm. Nhưng không phải Bộc Phá như thường lệ mà là món vũ khí đặt hàng từ Lò Heo Quay: một thanh kiếm màu xám thẳng đuột không có đốc, gốc cán gắn khoen, đầu lưỡi to bè, sống lưỡi chẻ răng cưa. Nó ngắn hơn Bộc Phá, thích hợp cầm một tay. Vô Phong chưa dùng nó lần nào nhưng không hy vọng đây là lần cuối. Hắn đặt tên thanh kiếm là “Pháo Tép”. 

Thanh kiếm còn thiếu một phụ kiện nhưng Vô Phong chẳng biết cất nó chỗ nào. Chưa kịp nhớ ra, hắn đã nghe tiếng gió rít vồ xuống đỉnh đầu. Hắn nhào sang đoạn lăn người theo bản năng. Gã đầu ngựa vừa chém hụt, mũi Khuyết Nguyệt sục sâu mặt tuyết. Vô Phong chưa kịp định thần thì kẻ đeo mặt nạ đầu chuột xuất hiện; kẻ này chạy nhanh như tên bắn, hai tay là hai thanh Khuyết Nguyệt và nối với nhau bằng dây xích. Mũi Khuyết Nguyệt từ trên vụt xuống, Vô Phong vung kiếm từ dưới đánh lên, hai lưỡi kim loại va nhau “xoảng” một tiếng chát chúa. Tên đầu chuột bị đẩy ngược. Dường như Vô Phong chiếm ưu thế. 

Nhưng gã đầu chuột lập tức quay lại, đôi tay lanh lẹ luồn dây xích quanh cánh tay của Vô Phong. Tên tóc đỏ đánh kiếm phạt ngang, gã hụp đầu rồi luồn lách dây xích qua người đối thủ. Chỉ trong nháy mắt, dây xích bẻ ngoặt hai tay Vô Phong về phía sau đồng thời siết chặt cổ hắn. Chưa kịp phản ứng, Vô Phong bỗng cảm giác một luồng điện giật tung người, cơ bắp co quắp liên hồi. Giữa cơn đau đớn, hắn đoán rằng đôi Khuyết Nguyệt kia gắn bộ phát điện. Tên đầu chuột hét lớn: 

-Tôi bắt được hắn rồi!

Nghe chất giọng lanh lảnh, Vô Phong đoán rằng đó là nữ. Đằng xa, tên đầu ngựa cùng hai gã mặt nạ gà và thỏ nhất tề xông tới, định cùng nhau đặt dấu chấm hết cho tên tóc đỏ. Bị luồng điện khống chế, Vô Phong chẳng thể làm gì. Hắn méo mồm rặn từng chữ:

-Vô…Phong… là… đồ… cà… tẩm…

Ngay lúc bọn áo đen tiếp cận Vô Phong, dây buộc tóc sau đầu hắn bùng phát ngọn lửa. Lửa bốc cao hóa thành con báo giương vuốt tát bay hai gã đầu gà và đầu thỏ, gã đầu ngựa may mắn tránh kịp. Con báo ngoảnh lại ngoạm chặt ả đầu thỏ rồi quăng quật trên nền tuyết trước khi ném ả vào tảng đá. Lửa bám dính ba kẻ này, thiêu đốt y phục, liếm cái lưỡi nóng rãy vào da thịt họ. Ba người áo đen kêu gào mấy tiếng đoạn lăn lộn trên tuyết dập lửa. Bản thân Vô Phong cũng bị ảnh hưởng, tóc hắn cháy mất một mảng, thuốc nhuộm đen bốc hơi hết và trả lại màu đỏ tự nhiên cùng mùi khét lẹt. Món quà hộ mệnh từ Tiểu Hồ gay gắt cáu bẳn y hệt cô nàng. 

Nhưng hắn không còn thời gian ngắm nghía bộ tóc xơ xác. Phía bên kia, gã đầu ngựa chẳng quan tâm đồng đội sống chết. Gã lăm lăm Khuyết Nguyệt, ánh mắt đăm đăm vào tên tóc đỏ. Vô Phong không trốn chạy mà chờ đợi, một tay cầm súng, một tay nắm chắc Pháo Tép. Mới nhìn qua, hắn đã biết tay “bốc mả” đeo mặt nạ đầu ngựa kia là kiếm sĩ thượng đẳng và sở hữu kỹ thuật dùng kiếm hơn hẳn mình. Tên tóc đỏ không thể tốn sức quá nhiều vào Bộc Phá cùng đòn Tử Thiết, bởi hắn không biết còn bao nhiêu tên sát thủ nữa chưa xuất hiện. Hắn sử dụng kỹ thuật “súng và kiếm” của đội vệ quân Tuyệt Tưởng Thành, hy vọng sẽ bù lại kỹ thuật đánh kiếm. Trở về từ chiến tranh, Vô Phong đã học được ít nhiều kinh nghiệm thực chiến.

Trời về đêm, gió thổi mạnh xào tuyết xáo bụi khắp miền đất cổ xưa. Dưới bức màn trắng đất tuyết, hai gã đàn ông mặt đối mặt. Họ nhìn nhau, người này cố gắng đoán kẻ kia sẽ làm gì kế tiếp. Bất chợt cả hai cùng chạy song song, Vô Phong bắn súng, gã đầu ngựa phi dao. Đầu đạn xoáy vạt áo, mũi dao lao sướt tóc đỏ. Cả hai bổ nhào nấp sau tảng đá, kẻ thò đầu xả súng, kẻ rình nấp phóng những mũi dao sắc bén. Vô Phong niệm chú ngữ, con báo lửa ban nãy huỳnh huỵch chạy sau đấy lao đầu vào vị trí của gã đầu ngựa. Lửa thiêu khối đá hun chảy tuyết lạnh, dậy lên tiếng nổ vang trời. Thanh âm điếc tai như cú đấm húc vào bìa rừng khiến thú vật kêu thét hoặc chạy tán loạn. Vô Phong lao ra ngoài, vừa tiến đến vừa bóp cò súng nhằm vào đống lửa, vỏ đạn rời khe lẫy rơi lả tả trên tuyết. 

Hốt nhiên từ đám lửa, phi dao bay ra tới tấp. Vô Phong tránh không kịp và bị một mũi dao sắc lạnh găm trúng sườn. Chất độc quanh lưỡi dao lan nhanh làm cơ bắp hắn chùng xuống như bánh xe thiết giáp đứt xích. Tên tóc đỏ đổ gục. Trong đám lửa hừng hực đang tiêu biến, hắn thấy gã đầu ngựa tự che phủ mình bằng áo choàng đẫm tuyết. Gã này sử dụng một bí kỹ nào đó khiến thân thể ướt sũng, che chở phần nào sức nóng từ ngọn lửa. Nhưng bản thân gã cũng trúng đạn, phần bụng chảy máu ướt đẫm. Hai bên trả vay nhau đủ cả vốn lẫn lãi. 

Vô Phong cắn răng rút dao, cảm giác như vừa lôi đoạn ruột già rời ổ dạ dày. Hắn dốc thuốc vào vết thương ngăn độc tố lan rộng, sau băng bó kín bụng. Phía bên kia, gã đầu ngựa cũng tự sơ cứu bằng thuốc giảm đau lẫn gạc y tế. Cả hai lảo đảo đứng dậy, bước đi và đối diện nhau giữa một đống vỏ đạn lẫn phi dao. Gã “bốc mả” bỏ mặt nạ, lộ ra một gương mặt sạm lấm tấm mồ hôi, gò má góc cạnh đầy cương nghị cùng mái tóc đen ướt sũng. Dường như gã đã bước qua thời trẻ hiếu thắng từ lâu, có thể đã lập gia đình, cũng có thể đã có con. Vô Phong đoán vậy. Mỗi người trên thế giới đều có hạnh phúc của riêng họ, và mỗi con người cùng hạnh phúc riêng tư lại gặp nhau dưới sự chứng kiến của Tử Thần.

-Cậu là Vô Phong hả? – Gã “bốc mả” cất lời.

-Phải, là tôi. – Tên tóc đỏ đáp. 

-Tôi là Ẩn Lý Bát Thủ Đằng, người Diệp quốc, cựu quân nhân, cựu thủ lĩnh đặc nhiệm, hiện là thành viên Thập Kiếm. Tôi là đội trưởng đội hộ giả Ẩn Lý Thị. – Gã “bốc mả” tiếp lời – Có thuốc lá không? Tôi xin một điếu?! 

Vô Phong nhíu mày ngạc nhiên, cảm giác lạ lẫm. Nhưng Vương Quốc Cũ vốn đầy rẫy chuyện kỳ quặc. Vẫn cặp mắt đề phòng, tên tóc đỏ lục túi quần đoạn ném bao thuốc lá về phía kẻ địch. Thủ Đằng chộp lấy đoạn mượn lửa cháy sau lưng châm thuốc. Gã rít một hơi dài:

-Tại sao cậu giết tiểu thư Mục Á? 

-Tôi không giết cô ấy. Đó là một tai nạn. – Vô Phong lắc đầu.

Gã nọ gật gù, sau quẳng điếu thuốc đang hút dở cho tên tóc đỏ. Vô Phong vừa hút vừa dè chừng gã “bốc mả”. Thủ Đằng hỏi:

-Nghe nói cậu đã tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Cậu có nhận ra điều gì từ chiến tranh không?

Tên tóc đỏ ngẫm nghĩ. Khói thuốc gợi hắn nhớ lại tất cả những cái chết và nỗi đau trên mảnh đất cổ xưa nơi tận cùng thế giới. Vô Phong trả lời:

-Mọi người nói chuyện với nhau ít quá. 

-Phải, cậu nói đúng. – Thủ Đằng nâng kiếm – Con người chúng ta nói chuyện với nhau ít quá!

Không hẹn mà gặp, cả hai đâm bổ vào nhau trong mưa tuyết ở miền đất Băng Giá. Hai thanh kiếm cắt lẹm những làn khói thuốc cháy dang dở. Nếu không phải ở đây mà là một quán rượu, một chốn nghỉ chân, có lẽ họ đã hút thuốc nhiều hơn, nói chuyện với nhau nhiều hơn thay vì giải quyết vấn đề bằng súng và kiếm. 

Con người chưa bao giờ khẩn cầu được ban thêm thời gian để nói chuyện với nhau.

[1]: xem lại Quyển 3 Chương 94
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 15: Người như thú


Hiện tại Ngục Thánh sắp mở bán áo in logo truyện và đang nhận sự đóng góp ý kiến từ các độc giả. Mọi người có thể tìm hiểu và bày tỏ ý kiến để sản phẩm hoàn thiện hơn thông qua fanpage dưới đây:

https://www.facebook.com/ngucthanhgetbacker

Ngoài ra trên fb cũng đã mở group để các độc giả thảo luận, góp ý cho tác phẩm cũng như góp ý cho đợt in áo sắp tới, thay vì topic phản hồi ở tangthuvien. Các bạn có thể xem chi tiết trong bài stick ở fanpage. Rất mong đợi sự hỗ trợ từ các độc giả. Xin cảm ơn!

***

Qua nhiều năm vắng lặng, khu biệt thự họ Cát Giá bỗng đầy nhóc người. Vừa đặt chân tới đây, đám khoa học gia mang theo những cỗ máy chạy ro ro, giấy tờ chất đống cùng những chủ đề không bao giờ ngớt tiếng bàn luận. Họ làm việc mọi lúc mọi nơi, trao đổi với nhau bất cứ khi nào có thể, làm nóng sực các phòng ốc lạnh lẽo. 

Vài ngày sau, tớt lượt trẻ con họ Cát Giá tụ tập về khu biệt thự. Chúng chỉ ngồi im trong phòng thí nghiệm, còn sểnh ra là nô đùa chạy huỳnh huỵch trên hành lang. Cũng mấy ngày đó, bà quý tộc Tháp Tước khó ở. Mặc bệnh xương khớp vặn vẹo sống lưng, mỗi ngày bà già đẩy xe lăn đi khắp nơi, gào khản cổ nổ hầu với đám người lạ và bọn trẻ. Nói theo bà, không gian truyền thống của dòng họ đang bị xâm hại. 

Họ Cát Giá đang đứng trước cánh cửa hồi sinh nên chẳng ai quan tâm bà Tháp Tước. “Mặc bả đi! Hoặc mấy người đưa bà ấy đi đâu giùm tôi. Du lịch, nghỉ dưỡng, trại dưỡng lão… ba tháng hay nửa năm đều được!” – Mi Kha nói với đám phục vụ. Cô ả đã quá mệt khi cải tạo biệt thự, mua sắm thiết bị, trả lương cho khoa học gia… chẳng dư thời gian trông nom bà mẹ già khó tính. Lúc bận rộn khó khăn, các bà mẹ hữu dụng thì ít mà phiền hà thì nhiều. 

Nhưng Mi Kha mấy ngày này cũng khó tính chẳng kém. Cô ả như một “bà Tháp Tước” phiên bản trẻ đẹp dễ quạu, dễ cằn nhằn. Hễ cô nàng xuất hiện thì lũ trẻ con hè nhau đi trốn, người phục vụ cúi đầu không dám nhìn còn đám khoa học gia cắm mặt vào máy móc ống nghiệm. Mọi người đều ngán ngại cô nàng. Thời gian này, chẳng có thứ gì làm Mi Kha vừa ý. Cái nhìn của cô ả đã trở nên méo mó xẹo xọ, hay nói đúng hơn là Vô Phong bẻ cong nó. 

Vừa nghĩ tới tên tóc đỏ, Mi Kha muốn nổi khùng. Được cung cấp chỗ ăn ở, được che giấu danh tính, được tiếp cận những tài liệu cần thiết, được phục vụ tận răng – Mi Kha đã làm tất cả cho Vô Phong. Nhưng thay vì tận lực đền đáp, tên tóc đỏ lại đi cửa sau với đại thống lĩnh Khai Y. Trong nhiều ngóc ngách thâm tâm, cảm giác “bị lừa dối” đang nhỏng cổ, dẩu mỏ gào rõ to với cô ả rằng nên trừng phạt Vô Phong. Nhẹ thì đấm, nặng thì trói chặt hắn vào ghế rồi đặt một cái ống nhỏ rỏ nước xuống đầu suốt hai mươi tư tiếng. Hay giết hắn? – Con sói trong thâm tâm nói với Mi Kha. Nó đang tách ra, trở thành một thực thể mà chỉ cô ả trông thấy. Nó áp vặn vẹo tấm thân lõa lồ, mơn trớn Mi Kha hệt lúc cô ả ve vãn Vô Phong. Sau đấy khối thực thể thì thầm bên tai cô ả: “Hay là giết hắn nhỉ?”. Mi Kha dợm nghĩ. Giết hắn chăng? – Cô nàng phân vân. 

Bất quá đó chỉ là viễn cảnh mờ mịt phủ đầy những gió bão bực tức, mà gió bão sớm muộn cũng tan. Mi Kha quá bận rộn công việc, tính kế trừng phạt tên tóc đỏ chỉ tổ đày ải tâm trí. Vả lại cô nàng cũng chẳng biết Vô Phong chính xác đang ở đâu dù đã bí mật cài tay trong. Từ đó tới nay là hơn nửa tháng nhưng kẻ tay trong nọ chẳng hề thông báo một tin tức nào. Cô ả thấy lạ vì hiệu suất làm việc của người đó vốn tốt hơn thế. 

Ngày 2 tháng 4, lúc Mi Kha đương cuộn tròn trong ấm áp thì người phục vụ liên tục gõ cửa. Cô ả gầm gừ cáu bẳn. Ngay cả người dễ tính cũng không thể bình tĩnh khi bị đánh thức lúc ba giờ sáng. Lăn lộn nhai gối cắn đệm một hồi, cô ả tung chăn trở dậy đoạn mở cửa phòng. Cô gái phục vụ há hốc miệng trước bộ dạng không mảnh vải che thân của Mi Kha:

-Tiểu thư?! Sao lại… xin cô mặc áo! À vâng, có một người gọi điện muốn gặp tiểu thư, nói rằng việc rất quan trọng. Ngài Quản Gia bảo tôi gọi tiểu thư ngay! 

Mi Kha ngạc nhiên, đôi môi mọng hơi dẩu mỏ. Ông Quản Gia biết tính cô nàng, cố nhiên sẽ không quấy quả chỉ vì mấy vấn đề nhỏ hoặc vấn đề hơi hơi to. Nghĩ đoạn Mi Kha cất bước nhưng bị nữ phục vụ đẩy lưng về phòng vì cô ả vẫn trần như nhộng. Nhiều ngày bận rộn, những chuyện vặt vãnh như mặc quần áo sớm đã bốc hơi khỏi đầu nàng ta.

Tại phòng làm việc, ông Quản Gia bật sẵn máy chiếu ba chiều. Mi Kha – lúc này đã khoác váy ngủ lên người – bước tới, nhận ra giữa luồng sáng xanh từ máy chiếu có một người đang sốt ruột chờ đợi mình. Rất nhanh chóng, Mi Kha nhận ra người cũ nhưng không quen này. Chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành mới kết thúc nhưng người ta sẽ còn nhớ nó rất lâu. Mi Kha cười:

-Ồ… là cô… Tiểu Hồ, cô gái ngực nhỏ! Hi hi! Sao cô biết số điện thoại của tôi? 

Tiểu Hồ lừ mắt, hai con ngươi chòng chọc vào Mi Kha, rõ ràng chẳng ưa cái cách bị châm chọc. Cô gái trả lời:

“Tôi có nguồn tin riêng. Mà ngực nhỏ thì có vấn đề gì không? Nên nhớ những nữ chiến binh nổi tiếng đều có bộ ngực vừa hoặc nhỏ. Nghiên cứu thực chiến chứng minh rằng ngực to bao nhiêu thì vô dụng bấy nhiêu!” 

Ông Quản Gia lập tức nạt nộ Tiểu Hồ, yêu cầu cô gái cẩn trọng lời nói. Mi Kha thì ngó xuống bờ ngực lấp ló trong vạt áo ngủ của mình, sau nhướn mắt vẻ nghĩ xem cái “nghiên cứu thực chiến” kia từ đâu ra. Ngẫm ngợi một lúc, cô ả đột ngột chuyển chủ đề:

-Được rồi, cô gọi cho tôi có việc gì? Mà bây giờ là ba giờ sáng, cô đợi tôi ngủ dậy không được hay sao? Phải biết lịch sự chứ, cô gái?!

“Vậy hả? Bên Diệp quốc bây giờ là tám giờ sáng, nắng đẹp, chim hót và không khí rất trong lành!” – Tiểu Hồ đáp tỉnh queo – “Chào hỏi vậy đủ rồi, tôi không muốn tốn thêm thời gian. Phong đang ở đâu? Cô không cần phủ nhận vì tôi đã gặp học giả Đa Lạt, ngài ấy kể cho tôi mọi chuyện. Cô là người cuối cùng mà Phong gặp mặt. Cô biết anh ấy đang ở đâu chứ?” 

Những sự kiện mới làm Mi Kha ngạc nhiên. Nhưng thay vì gặng hỏi những sự tình phức tạp giữa Tiểu Hồ và ông học giả, Mi Kha trả lời ráo hoảnh:

-Cô là hộ vệ của công chúa Lục Châu, cô làm việc cho chính phủ Phi Thiên, tại sao tôi phải trả lời nhỉ? Và cô lấy bằng chứng nào kết tội tôi đã bao che anh bạn tóc đỏ? Từ hồi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, chúng tôi chưa hề gặp gỡ dù tôi rất muốn hẹn hò với anh chàng ấy. Cẩn thận, cô gái đáng yêu, tôi có quyền kiện cô đấy!

“Tôi không làm việc cho chính phủ Phi Thiên, hiện giờ cũng không phải hộ vệ thánh sứ. Tôi tự do.” – Tiểu Hồ khẳng định – “Tôi nghe nói Ẩn Lý Thị đang truy lùng Phong. Tôi cần biết tình hình của Phong ngay bây giờ.” 

Nghe vậy, tâm trí Mi Kha như sợi dây thép căng ngang bất chợt rung rinh. Nhưng trước khi những xao động ấy lan ra gương mặt, cô ả liền đấm đá chúng túi bụi rồi bỏ tọt vào căn phòng nào đấy của đầu óc. Vẫn thái độ bàng quan vô cảm, Mi Kha vớ lấy chai rượu gần đó tu một chặp, nói: 

-Lời nói không đảm bảo cô tự do hay làm việc cho người khác. Thế giới thay đổi rồi, cô bé đáng yêu. Ngày ở Tuyệt Tưởng Thành, chắc cô đã thấy các liên minh và quốc gia trở mặt với nhau thế nào; những hiệp ước hay hứa hẹn đều trở thành lời bỡn cợt. Tôi nghe nói cô là con nuôi đại thánh sứ Tây Minh? Nếu ngài đại thánh sứ còn sống, có thể tôi sẽ tin tưởng, nhưng đáng tiếc cô chỉ là con nuôi ngài ấy. Nhắc lại một lần nữa: sau chiến tranh, tôi không gặp Vô Phong, cũng không biết anh ta ở đâu. Đó là chuyện của cô bé và người Phi Thiên. 

Nghe vậy, Tiểu Hồ chau mày nhăn trán, nét giận dữ hiển hiện rõ ràng trên gò má đỏ ửng. Sẽ không lạ nếu cô gái hét vào màn hình rồi gầm lên những lời lẽ khó nghe. Cô nàng Tiểu Hồ mà Mi Kha biết là vậy. Nhưng trái với dự đoạn, Tiểu Hồ chỉ trả lời:

“Ra vậy… cô vẫn nghi ngờ tôi. Có lẽ cô làm lính đánh thuê quá lâu để tin tưởng một cách bình thường. Nhưng tôi tin rằng chúng ta sẽ gặp nhau sớm, có thể là… vài tiếng nữa. Cô sẽ gọi tôi sớm thôi và đừng cảm thấy xấu hổ bởi việc đó, vì tôi cũng cần cô để tìm Phong.”

-Sao cô chắc chắn như thế? – Mi Kha nhíu mày.

“Ẩn Lý Thị đang tìm Phong để trả thù. Năm ngoái, Phong đã tìm gặp một người phụ nữ tên Mục Á nhưng chẳng may Mục Á chết. Cô tham gia vụ đó, tôi biết chắc chắn[1]. Tôi không chắc họ Cát Giá sẽ bị liên đới mức độ nào, nhưng nếu Phong gặp mệnh hệ gì, tôi không chắc họ Cát Giá sẽ yên bình. Tôi chờ điện thoại. Tạm biệt!”

Màn hình xanh lá tắt phụt để lại khoảng không im lặng cho Mi Kha. Cô ả cúi đầu suy nghĩ, hàm răng trắng cắn móng tay đỏ, hy vọng nhớ được chuyện cũ. May thay, giữa những tập hồ sơ ký ức năm 7517 vốn bị choán hết bởi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, Mi Kha vẫn tìm thấy một đống giấy tờ tập hợp dưới khung bìa mang tên “Mục Á”; chúng vẫn vẹn nguyên, chưa ố vàng và chưa cũ nát. Cân nhắc ngẫm ngợi hồi lâu, Mi Kha huy động tất cả người giúp việc điều tra để kiểm chứng lời Tiểu Hồ. 

Sau nửa ngày, họ Cát Giá chẳng tìm được thông tin nào. Họ không biết Mục Á đến từ đâu hay xuất thân ra sao. Tuy vậy họ vẫn tìm ra hai việc quan trọng. Thứ nhất là Mục Á từng có quan hệ vượt mức thông thường với Xuy Hạ Khai Y – đại thống lĩnh Băng Hóa quốc, thứ hai là có một nhóm “bốc mả” từ Đông Thổ đang truy lùng Vô Phong – ông chủ xưởng rèn Lò Heo Quay đã xác nhận thông tin này, không ai hiểu giới đánh thuê bằng ông ta. Chừng ấy đủ làm Mi Kha lo lắng. Cô nàng biết và hiểu rõ Ẩn Lý Thị có thể làm gì. Nếu so với Ẩn Lý Thị, họ Cát Giá hiện giờ chỉ như một thị tộc chăn nuôi gia súc ở miền quê hẻo lánh. Kế hoạch phục hưng dòng họ mới bắt đầu, Mi Kha không muốn nó đổ bể vì những tai vạ không đâu. Chiều cùng ngày, Mi Kha liên lạc lại với Tiểu Hồ bất chấp mình đang lép vế trước một con bé ngực nhỏ: 

-Cô bé đáng yêu, là tôi đây. Nói sao nhỉ?! Có vẻ cô đã cung cấp cho tôi vài thông tin có giá trị. Hi hi! Được rồi, cô muốn tôi làm gì nào? Nhưng trước hết, hãy cho tôi biết Mục Á là ai và cô đã nghe ngóng được những gì?

“Tìm anh ấy! Ý tôi là Phong! – Tiểu Hồ đáp ngay, hầu như quên bẵng mình đang chiếm thượng phong trước một cô nàng ngực to – Về Mục Á, người phụ nữ đó không phải là gái điếm như cô nghĩ, và cũng vượt xa sự tưởng tượng của tôi…”

Tiểu Hồ thuật lại điều được nghe từ ông học giả Đa Lạt. Chẳng mấy chốc, khuôn miệng Mi Kha dần hé thành cái khe nhỏ xinh mà chốc chốc vọng ra những tiếng thở của kinh ngạc hoặc những câu chửi thề đã chuyển hóa thành âm gió. Có nằm mơ, cô ả cũng không nghĩ sự việc đi quá xa như vậy. 

-Vậy cô có thể cho tôi biết Phong đang ở đâu không? – Tiểu Hồ hỏi.

-Thực tình mà nói, cô bé đáng yêu à, tôi cũng không biết. – Mi Kha khoanh tay đáp lời – Thế này nhé, trước lúc anh ta lên đường, tôi đã nhờ Si Giáng thông báo xem anh ta đi đâu hay làm gì. Con bé (Si Giáng) nói rằng Vô Phong đang tới Vương Quốc Cũ, chỉ vậy thôi, còn tại sao anh ta tới đó thì con bé không biết[2]. Nửa tháng nay, Si Giáng không hề nhắn tin, thế nên tôi không biết anh bạn tóc đỏ đang ở chỗ nào ở Vương Quốc Cũ. 

Tiểu Hồ nhăn trán, ngón tay vô thức gãi bờ má đỏ ửng:

“Vương Quốc Cũ? Phong làm gì ở đấy? Nơi đó chỉ toàn chết chóc và đầy rẫy lời nguyền rủa của những bóng ma thời xưa cũ. Nhưng thôi, hãy để việc đó sau, quan trọng là cứu Phong trước!”

-Nếu quan tâm tóc đỏ như vậy, sao cô không tự mình đi cứu anh ta? – Mi Kha tru môi giễu cợt.

“Bởi vì tôi không thể rời khỏi Diệp quốc! Tình huống bất khả kháng, thưa quý cô!” – Tiểu Hồ xẵng giọng – “Tôi thỉnh cầu cô vì tôi không thể tự mình cứu Phong. Nhưng tôi cũng khuyên cô làm việc khẩn trương và nghiêm túc, bởi nếu Phong gặp chuyện xấu thì sẽ chẳng ai đối chứng việc làm của cô ở Khẩu Lỗ thành. Ý cô thế nào đây?”

Rốt cục màn thương lượng cũng đến và Mi Kha đang chờ đợi nó. Lời đe dọa của Tiểu Hồ không làm cô ả sợ hãi nhưng bản chất câu chuyện lúc này hoàn toàn khác. Hoặc đồng ý, hoặc từ chối để rồi công sức phục vụ dòng họ nhiều năm bị cuốn trôi như một đống bụi bị phủi bay sau cái quét chổi; Mi Kha không thích hệ quả thứ hai. Cuộc họp ở dinh thự Ẩn Lý Thị sắp bắt đầu, chẳng còn nhiều thời gian cho cô nàng thể hiện kỹ năng kì kèo mặc cả. Sau một hồi cắn móng tay suy nghĩ, Mi Kha ngước lên màn hình máy chiếu:

-Vậy đổi lại, cô hãy giúp họ Cát Giá. Chúng ta cần nhau, đúng không, cô bé đáng yêu? Hi hi! Tôi giúp cô tìm anh bạn tóc đỏ, cô giúp họ Cát Giá tránh rắc rối. Thỏa thuận chứ?

“Được thôi!” – Tiểu Hồ gật đầu – “Năm ngoái, trong vụ náo loạn ở Khẩu Lỗ thành, Kh’srak đi cùng cô và Phong, nhớ anh chàng người Thanh Thủy đó chứ? Anh ta sẽ đối chứng cho cô, người Thanh Thủy không biết dối trá và lời nói của họ được tôn trọng. Nhưng Phong vẫn là bùa hộ mệnh của cô; chừng nào Phong còn an toàn, cô và họ Cát Giá vẫn an lành. Hy vọng cô làm việc tốt, tạm biệt!”

Màn hình máy chiếu tắt phụt, cuộc thương lượng kết thúc chóng vánh như cái cách nó bắt đầu. Mi Kha về phòng chuẩn bị hành trang nhưng chính cô nàng không chắc mình đang nhắm đến nơi nào. Con người ở Vương Quốc Cũ nhỏ bé chẳng khác loài sâu kiến, tìm đâu ra giữa chốn hoang vu bất tận ấy? – Mi Kha đau đầu. Trong một thoáng, cô nàng lục lại đầu óc, tìm lại những xao động khi Tiểu Hồ nhắc về tình cảnh của Vô Phong. “Tóc đỏ… anh là đồ tai họa…” – Cô ả lẩm bẩm.

Chiều cùng ngày, Mi Kha lặng lẽ rời khu biệt thự. Nhưng con bé Át Sa đã chờ sẵn cô nàng ở cổng. Mắt Trắng của Át Sa không chỉ trông thấy linh hồn hay thực thể siêu nhiên, nó giúp con bé nắm bắt sự thay đổi hoặc những điều sâu kín bên trong con người. Ở khu biệt thự, không việc gì có thể qua mắt Át Sa. Dù vậy, con bé ra đây chỉ nhằm đưa bùa hộ mệnh cho Mi Kha – một con búp bê vải do nó tự khâu vá. Át Sa vẫn luôn làm vậy với người thân hoặc những ai mà nó dành tình cảm đặc biệt. Như nhớ ra chuyện gì, Mi Kha hỏi:

-Hồi gã tóc đỏ đến đây, có phải em đã tặng anh ta một con búp bê?

Con bé gật đầu xác nhận[3]. Mi Kha xoa đầu nó cảm ơn rồi tức tốc lên đường, cảm giác rằng con đường tới chỗ Vô Phong đã rút ngắn hơn một nửa. 



Từ lúc Mi Kha rời khu biệt thự đến nay đã bốn ngày. Suốt bốn ngày đó, chẳng ai, loài thú rừng hay những nhành cây ngọn lá nào trông thấy bóng dáng Mi Kha, tưởng chừng Vương Quốc Cũ đã nuốt chửng cô nàng bằng bộ hàm gió tuyết của nó. Người họ Cát Giá xưa nay gan lì máu lạnh, sống sót qua hàng trăm cuộc chiến tranh nhưng Vương Quốc Cũ đã chôn sống hàng nghìn kẻ như thế. Mi Kha cũng không ngoại lệ.

Giả như Mi Kha còn thở, cô nàng vẫn không thể đến kịp con đập cổ xưa ở vùng cực bắc. Lúc này ở bờ sông cạn phía sau đập, trận chiến giữa Vô Phong và Ẩn Lý Bát Thủ Đằng đang tới hồi khốc liệt. 

Dưới gầm trời lộng gió tuyết mờ mờ bóng trăng lẫn ánh sáng nhập nhoạng từ ngọn lửa hộ mệnh còn sót lại, hai gã đàn ông bổ vào nhau bằng kiếm, phi dao, súng đạn, nắm đấm và ánh mắt rực lửa. Nếu có một đường ranh giới phân định xem ai đang chiếm lợi thế thì chưa kẻ nào bước qua lằn ranh đó. Gã “bốc mả” người Diệp quốc tấn công mãnh liệt, tên tóc đỏ Vô Phong điên cuồng chống trả. Thanh Khuyết Nguyệt vung tới những đường mỏng mảnh nhưng bén ngọt, cắt tuyết, cắt gió, cắt cả bóng đêm bằng ánh kim loại trắng bạc. Thanh Pháo Tép phản đòn bằng những cú bổ rắn chắc như muốn chặt đôi cả Vương Quốc Cũ. Hai khối kim loại mài ngạnh sắc lẫn nhau rền tia lửa. 

Cảm thấy mình đang đuối sức, Vô Phong bèn thoái lui, vừa chạy giật lùi vừa giương súng bắn; gã “bốc mả” đuổi theo, vừa hụp đầu né đạn vừa vung tay phóng dao. Đạn xoay gió, dao phay tuyết, tới khi người hết đạn và kẻ hết dao mới chịu dừng. Thân thể Vô Phong bị lẹm nhiều nhát cứa, không sâu nhưng đủ rách da thịt và nhiễm độc máu. Trong khi ấy Thủ Đằng hầu như chẳng hề hấn trước làn đạn. Bấy giờ Vô Phong mới tin những chuyện kể về đám sát thủ Đông Thổ. 

Vô Phong thở dốc, cảm giác cơ bắp khô khốc tựa thể máu đang bốc hơi. Thuốc sơ cứu chỉ làm chậm chứ không thể ngăn chặn hoàn toàn chất độc. Hắn không biết đây là độc gì và cũng không có thời gian để nghĩ. Trước mắt hắn là một kiếm sĩ thượng đẳng, một thành viên Thập Kiếm. Đâu đó giữa bóng tối, ba tên “bốc mả” khác đương bất tỉnh vì bùa hộ mệnh, chẳng ai biết chúng sẽ tỉnh dậy lúc nào và Vô Phong không thể một đánh bốn. Gã Thủ Đằng rất tinh quái khi kéo trận chiến ra xa, tránh để súng đạn phi dao ảnh hưởng tới đồng đội. Cùng lúc ấy, bọn Mai Hoa đang vất vả chống đỡ lũ “bốc mả” khác, không rảnh tay cứu Vô Phong. Nòng súng trong tay hắn sắp bốc cháy vì bắn quá nhiều. 

Một phút! – Vô Phong thầm nghĩ đoạn lẩm nhẩm bấm giờ. Hắn có một phút để súng nguội bớt, sau đó dứt điểm gã Thủ Đằng thật nhanh. Hắn tự biết không bằng tay “bốc mả” về kỹ thuật đánh kiếm nhưng tự tin mình thừa kinh nghiệm thực chiến. 

Nghĩ rồi Vô Phong bước vòng quanh giữ khoảng cách. Gã “bốc mả” vung kiếm tấn công, hắn lùi bước né tránh thay vì đỡ đòn trực tiếp. Hễ địch thủ tiến lên, hắn lại giương kiếm nửa muốn đâm nửa thủ thế. Có lúc hắn đâm vờ, lúc thì đâm thật khiến Thủ Đằng phải tìm cách khác tấn công. Bởi cấu tạo đặc biệt nên Khuyết Nguyệt chỉ có thể chém, trong khi Pháo Tép có thể vừa chém vừa đâm. Vô Phong đang tận dụng mọi lợi thế mà mình đang có. Những ngày luyện tập ở dinh thự họ Cát Giá đã giúp hắn nhìn nhận cuộc chiến rõ ràng hơn và thông suốt hơn. 

Nửa phút trôi qua, hai bên không tiến được chút nào. Một thoáng suy luận, Thủ Đằng bỗng hiểu ra vấn đề khi phát hiện Vô Phong ngừng bắn súng. Gã liền đổ người tấn công, toàn thân rẽ gió tuyết, tay vung Khuyết Nguyệt chém tạt. Nhưng tên tóc đỏ chỉ chờ có thế. Hắn cúi đầu, đôi tay nắm chắc Pháo Tép đánh cú phạt ngang vào vị trí mà hắn dám chắc đó là sườn địch thủ. Một lực phản chấn từ mũi Pháo Tép ngay lập tức dội đến cánh tay tên tóc đỏ. Hắn đã đánh trúng mục tiêu. Vô Phong không mừng vội mà lăn người về phía trước, vừa kịp lúc thanh Khuyết Nguyệt giáng xuống và găm sâu nền tuyết. Hắn biết rõ những kiếm sĩ thượng đẳng như Thủ Đằng có thể phản kích ngay tại thời điểm họ dính đòn. Trong chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, những kẻ như Thủ Đằng đầy rẫy. 

Vô Phong ngoảnh lại, nhận ra Thủ Đằng bị thương nặng, mảng sườn trái bị xẻ tung những vải áo lẫn da thịt. Pháo Tép đích xác là sản phẩm chặt bò mổ lợn mang thương hiệu Lò Heo Quay. Một phút đã hết, nòng súng đã nguội, tên tóc đỏ tra băng đạn mới và nhằm thẳng đầu Thủ Đằng. Từ đây tới đó khoảng mười lăm mét, Vô Phong không thể bắn trượt. 

Nhưng có điều ở chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, tên tóc đỏ chưa từng gặp kẻ địch giống Thủ Đằng.

Ngay lúc Vô Phong bóp cò, mặt tuyết dưới chân hắn bỗng lún sụt. Chẳng mấy chốc, tuyết ngốn toàn bộ đôi chân của Vô Phong. Chúng dường như bị tan chảy, cảm tưởng rằng sâu trong lòng đất có mồi lửa nào đó đang âm ỉ cháy. Vô Phong chợt nhớ lại khoảnh khắc Thủ Đằng chống đỡ ngọn lửa hộ mệnh của hắn với thân thể ướt sũng. Tại sao tuyết tan chảy ở xứ lạnh giá vĩnh cửu này? Tại sao nước xuất hiện ở nơi mà chỉ cần hắt xì là nước mũi đóng thành băng? – Vô Phong tự hỏi. Hắn nghĩ không ra. Nhưng hắn biết kẻ địch đã sắp đặt cái bẫy này. Thủ Đằng biết hắn từng trải, nhiều kinh nghiệm từ chiến tranh; gã “bốc mả” đó dồn ép, tự tạo sơ hở để dồn hắn vào hố tuyết. 

Và sự việc đúng như Vô Phong nghĩ. Gã “bốc mả” chẳng màng thương thế, hai tay nắm chắc Khuyết Nguyệt, ánh mắt kiên định tưởng chừng đã nuốt sạch nỗi đau đớn. Thủ Đằng chạy tới, tên tóc đỏ liền giương súng bắn. Như biết trước đường đạn, gã “bốc mả” xoay người, tay vung Khuyết Nguyệt xẻ một đường ngọt gió. Giữa lúc đó, Vô Phong cảm giác khó hiểu vì khoảng cách còn quá xa để mũi Khuyết Nguyệt găm vỡ sọ của hắn. Nhưng chỉ một tích tắc sau, hắn chợt thấy không gian phía trước Thủ Đằng phát nổ. Nó nổ bốn lần, mỗi lần phụt hơi lửa cùng âm thanh chát chúa. Đến lần thứ năm, khối không gian đó tràn qua Vô Phong, xới tung cả đất tuyết lẫn tên tóc đỏ. Vô Phong không nhớ gì ngoài một khối lửa bao trùm mình cùng tiếng nổ lộng óc. Màng nhĩ của hắn như bị xé tung. 

Vạn Thế không ưu ái tên tóc đỏ bất cứ điểm nào ngoài việc ban cho hắn một cơ thể biết chịu đau, đồng thời tặng hắn một bộ thần kinh luôn tỉnh táo để cảm nhận sự đau đớn. Sau vụ nổ, hai tai Vô Phong ù ù như có tổ ong bít màng nhĩ song ý thức vẫn còn nguyên. Thân thể hắn bị bỏng, một phần mặt bên trái bị sức nóng lột róc để lộ lớp da đỏ hỏn, đau chẳng kém so với lần bị Hiệp Dung đốt mù mắt. 

Nực cười thay, chính những thương tích đau tới cạo xương đó lại giúp Vô Phong hiểu vấn đề. Hắn tin chắc gã Thủ Đằng sở hữu bí kỹ ngoại thể có khả năng thay đổi nhiệt độ môi trường, gần giống Băng kỹ của Chiến Tử nhưng thay vì hóa lạnh đóng băng, Thủ Đằng lại gia tăng nhiệt lượng và đốt nóng không khí, được gọi là Nhiệt kỹ. Vô Phong từng đọc tài liệu về nó. Nhờ bí kỹ này, Thủ Đằng có thể phủ tuyết lên người rồi làm chúng tan chảy để chống lại sức nóng từ ngọn lửa hộ mệnh, hoặc tạo ra hố tuyết bẫy tên tóc đỏ. Về những cú nổ, Vô Phong đoán rằng thanh Khuyết Nguyệt kia nạp khí hidro và có cơ chế xả khí. Khi thoát ra ngoài, hidro gặp dưỡng khí đúng tỉ lệ 2:1 cộng thêm Nhiệt kỹ gia tăng sức nóng, phản ứng nổ liên hoàn sẽ xảy ra và cú nổ sau mạnh hơn cú nổ trước. 

Tên tóc đỏ chưa hết choáng váng thì Thủ Đằng chuẩn bị tấn công đợt kế tiếp. Cái sườn bể nát chảy ộc máu làm gã chậm lại, ý thức một đằng mà cơ thể một nẻo. Đòn đánh của Vô Phong đã nhồi thêm nội lực kiếm chiêu Suy Thiết, một vết thương nhỏ mà lan nhanh như bệnh dịch. Nhưng chỉ mất vài giây băng bó, Thủ Đằng lại cắn răng bước về phía tên tóc đỏ. Ban đầu là đi bộ, rồi nhanh dần thành sải bước, cuối cùng là đổ người chạy cùng thanh Khuyết Nguyệt nép sát sườn sẵn sàng cú chặt đầu đoạt mạng. Gã là hiện thân của ý chí người phương đông, là hiện thân của đám “bốc mả” khiến giới chiến binh kinh sợ. 

Nếu là một ngày khác, gã có thể làm bạn với Vô Phong. Nhưng ngày hôm nay, gã phải giết tên tóc đỏ. Ở phương đông, nếu chủ gặp nạn, hộ giả phải dốc toàn mạng báo thù. Đó là chân lý, là lẽ sống ở Đông Thổ.

Màn đêm bị xẻ ngang bởi bóng áo đen Thủ Đằng, bước chạy của gã phăm phăm như lướt trên tuyết. Dù đang đau đớn cùng cực nhưng Vô Phong vẫn đủ tỉnh táo, liền giương súng bắn. Lần này gã “bốc mả” không còn đủ nhanh nhạy để tránh né, bèn mở lá chắn nội lực chống đỡ. Đạn bay tứ tán, khi trượt khi đập trúng khiên rồi văng ra cùng cái đuôi bốc khói. Thủ Đằng vận lực vung kiếm, thanh Khuyết Nguyệt rít tiếng xả khí hidro, không gian bị đốt nóng bởi Nhiệt kỹ lập tức nổ đùng. Bốn tiếng nổ thay phiên nhau cày tung mặt đất như cái miệng thú dữ sắp ngoạm chặt Vô Phong. Bằng hết sức bình sinh, tên tóc đỏ nhảy sang đúng lúc cú nổ thứ năm tràn qua. Tuyết rơi như mưa, không gian xáo động, lũ thú rừng đằng xa được phen kêu la quàng quạc. 

Ra đòn hụt nhưng gã “bốc mả” không hề giảm tốc, trái lại càng nhanh hơn. Giống Vô Phong, gã phải dứt điểm trận đấu thật nhanh trước khi chết vì mất máu. Gã vụt đến, tay vung kiếm vút ngang như ánh trăng khuyết cắt ngang qua xứ tuyết. Tên tóc đỏ thêm một lần nữa dồn toàn lực cúi người né tránh rồi lăn lông lốc về phía trước. Gã “bốc mả” lỡ đà, đôi chân trượt dài. Mỗi kẻ tự vẽ cho mình một đường máu rỏ kéo lê trên mặt tuyết. Rồi họ trở dậy, bước vòng quanh với mũi kiếm chĩa về địch thủ; mỗi bước chân là mỗi lần máu rơi vẽ nên hai đường vòng cung đỏ, tựa thể như hai phần của một vòng tròn sắt máu mà bên trong nó, những kẻ chiến đấu chỉ có thể thoát ra bằng sự liều mạng hoặc lòng dũng cảm. 

Vô Phong chợt nhớ trận chiến năm xưa với Quỷ Nhãn ở Hồi Đằng Cô Mộ. Ngày ấy Quỷ Nhãn hỏi một câu mà hắn vẫn nhớ, giờ hắn hỏi lại Thủ Đằng:

-Cho lần cuối?

Gã “bốc mả” im lặng và không chút cảm xúc. Những sát thủ Diệp quốc che giấu dung diện, từng cơ thịt lẫn biểu cảm của họ theo thời gian bị đồng hóa cùng lớp mặt nạ trơ bóng. Rồi khi cởi bỏ mặt nạ, họ phô bày cái nhìn lạnh lẽo với cả thế giới tựa thể các hình nhân chứa đựng xương thịt con người. Đó là số phận của một hộ giả. Nhưng đôi mắt Thủ Đằng có lẽ chưa gieo mình vào thế giới mà sự vô cảm và mất nhân tính ngự trị, nó vẫn lấp lóe ánh lửa, vẫn xao động vì những điều kỳ lạ tồn tại trên thế giới. Thủ Đằng cúi người, nép thanh Khuyết Nguyệt sau lưng đoạn trả lời:

-Cho lần cuối. 

Vô Phong gật gù. Mắt trái của hắn rớm máu và hầu như chẳng thể nhìn, nửa mặt trái bỏng rát đau thấu tận xương. Tầm nhìn kém cộng thêm thương tích nặng khiến hắn yếu thế. Nhưng lần cuối hoặc không bao giờ! – Hắn tự nhủ, sau hạ thấp Pháo Tép ngang hông, đôi chân dồn đầy nội lực Ám Thiết. Hoặc hắn sống sót rời khỏi đây, hoặc phải bỏ xác nơi đây và gia nhập quân đoàn hồn ma của Vương Quốc Cũ. 

Những tàn tích cuối cùng của ngọn lửa hộ mệnh cháy dở trên tuyết tắt phụt, bỏ lại không gian cho ánh trăng mờ. Gió tạt qua hai người, rít một tiếng xé tai như còi báo hiệu. Vô Phong và Thủ Đằng đổ thân lao tới, kiếm vung lên như cùng nhau tấu nốt một khúc nhạc đóng góp vào bản hòa tấu chết chóc ở Vương Quốc Cũ. Vương Quốc Thịnh Vượng xây trên xác nô lệ và sụp đổ bằng vô số trận chiến đẫm máu, để rồi những thế hệ sau tiếp tục dùng máu nhuộm đỏ Vương Quốc Cũ màu trắng. Năm xưa, Mục Du Cổ đặt di cốt mẹ mình trên con đập phương bắc với hy vọng thay đổi vùng đất này. Nó đã thay đổi tính chất địa lý, nhưng chẳng biết bao giờ mới rũ bỏ bài ca nguyền rủa đã đeo bám suốt hàng nghìn năm. 

Hàng nghìn năm ấy, người trên Vương Quốc Cũ sống như thú. 

Trong khi cuộc chiến giữa Vô Phong và Thủ Đằng tới hồi kết thúc thì đâu đấy giữa vùng đất hoang tàn, một tiếng điện đàm vang lên: 

“Thú? Thú?! Nghe thấy chứ? Mệnh lệnh đây: lũ sát thủ Đông Thổ đến rồi, cậu được tự do hành động. Làm bất cứ thứ gì cậu muốn, miễn sao giết được tóc đỏ. Nhanh lên!”

Cuộc điện đàm kết thúc. Một khuôn miệng thâm sì nở nụ cười, nhe ra hàm răng nhọn bịt sắt. Con thú đã tỉnh giấc. Nó bắt đầu đi săn.

[1]: Tiểu Hồ biết Mi Kha cùng tóc đỏ tới Khẩu Lỗ thành, xem lại Quyển 3 Chương 92

[2]: Si Giáng không hề biết Vô Phong gặp đại thống lĩnh Khai Y, xem lại Quyển 4 Dao Găm: Chương 8

[3]: Át Sa từng tặng Vô Phong con thỏ bằng vải, xem lại Quyển 4 Dao Găm: Chương 5
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 16: Quỷ hiện hình


Một âm thanh vang lên như cắt đôi bóng tối Vương Quốc Cũ. Thanh âm trơ lạnh, báo hiệu hai thanh kim loại va chạm nhau nhưng cũng vang vọng những tiếng rền rĩ mệt mỏi. Kiếm đã mẻ, người đã mệt, máu đã chảy nhiều. Cuộc chiến sắp kết thúc. 

Ngay lúc này, Vô Phong mặt đối mặt Thủ Đằng, ánh mắt họ vật lộn nhau trên giao điểm nơi mà hai lưỡi kiếm xẻ nghiến những tia lửa. Đó là một cuộc đấu sức thuần túy. Không ai buông tay vì sợ mất thế phòng thủ, cũng chẳng kẻ nào di chuyển vì sợ mất trụ thăng bằng. Cả hai đều không thoái lui để mở cuộc tấn công mới; chất độc, vết thương lẫn gió tuyết đã rút cạn sức lực và mài mòn sự nhanh nhạy của họ. Mỗi người đều biết phải đánh đổi thứ gì đó để chiến thắng. 

Trong một khoảnh khắc, tên tóc đỏ và gã “bốc mả” cùng buông một tay kiếm. Người giương súng, kẻ đâm dao. Đạn nổ ba lần khoan thủng bụng Thủ Đằng nhưng lưỡi dao cũng cắm ngập sườn Vô Phong. Như nước sóng dữ, cơn đau dội ngược lên óc sau lại ụp xuống chực đánh sụm cơ thể hai người. Họ vẫn đứng vững. 

Gã “bốc mả” chưa hết phi dao như Vô Phong lầm tưởng, mà vẫn giữ một chiếc cuối cùng cho thời khắc này. Đáng sợ hơn cả là gã đâm dao sâu hơn, mạnh hơn, hoàn toàn không để tâm ba lỗ đạn bốc khói ở bụng mình. Cái sự xả thân báo thù của gã đã vượt qua giới hạn. Không còn lựa chọn, Vô Phong bỏ khẩu súng đã hết đạn đoạn tóm chặt tay Thủ Đằng, ngăn gã ngọ ngoạy lưỡi dao cắt nội tạng. Máu nóng chảy rần rật trên lưỡi dao lạnh, tràn qua lỗ thủng như muốn lôi tuột linh hồn Vô Phong ra ngoài. Tên tóc đỏ cắn răng, môi lợi bật máu lẫn dãi dớt, cổ họng phả những hơi tanh lòm vì máu từ bụng đang tràn lên. Toàn bộ nơ-ron thần kinh trong đầu hắn đã dồn về vết thương, chỉ còn một số ít đang nghĩ cách thoát khỏi tình cảnh này – tiếc thay lại không phải là những nơ-ron ưu tú nhất. 

“Đội trưởng… xin lỗi vì không liên lạc, chúng tôi mất sóng… chúng tôi tìm thấy một nhóm người ở Tàn Tích Lớn. Gã tóc đỏ không ở đây… nhưng bọn họ nói có biết tên này… chúng tôi cần làm gì? Chúng tôi xử lý thế nào với mấy người này?” 



Bộ đàm trên vai Thủ Đằng lạo xạo giọng nói. Tuy chẳng còn hơi sức nhưng Vô Phong vẫn kịp nghe mấy lời đó. Đám “bốc mả” không chỉ có tám người mà đông hơn thế. Có lẽ từ mấy ngày trước, chúng đã chia nhóm và tỏa đi khắp ngóc ngách Vương Quốc Cũ để tìm tên tóc đỏ. Đáp lại đồng đội, gã Thủ Đằng trả lời, giọng bình thản như không:

-Để yên cho họ, họ không phải mục tiêu. Mọi người lên khu đập nước cũ. Tên tóc đỏ ở đây. Tôi sẽ giữ chân hắn. Nhanh lên!

Thủ Đằng vừa trả lời vừa nghiến dao mạnh hơn. Dao xiên sâu lớp thịt sắp sửa cắt phổi của Vô Phong. Tên tóc đỏ thở hồng hộc, cảm giác không thể ngăn gã “bốc mả” lâu hơn nữa. Bàn tay hắn đã rịn đầy mồ hôi và mỗi lúc thêm trơn trượt, còn chân trụ đang yếu dần. Cùng lúc ấy Thủ Đằng vận lực, thanh Khuyết Nguyệt trong tay gã bật mở những khe nhỏ nằm dọc mặt lưỡi kiếm, tỏa ra những làn khí không mùi nhưng xao động không khí. “Hidro!” – Vô Phong giật mình. Hắn đang ở chính giữa vòng cong vồng của lưỡi Khuyết Nguyệt, ăn trọn đòn bí kỹ không nứt sọ cũng thủng tai. Nhưng tên tóc đỏ chẳng thể làm gì khác. 

Nhiệt kỹ đốt không khí, hơi nóng bốc lên nhưng không vụ nổ nào xảy ra ngoài mấy tiếng “xì xì” tựa pháo xẹp. Thủ Đằng không đủ sức vận bí kỹ. Được vận may mỉm cười, Vô Phong bèn chớp thời cơ nghiến kiếm xuống thật mạnh. Thanh Pháo Tép vừa chắc vừa dày áp đảo thanh Khuyết Nguyệt mỏng mảnh. Đáp trả tên tóc đỏ, Thủ Đằng cựa tay lắc phi dao, lưỡi kim loại ngọ ngoạy cọ xương róc thịt. Vô Phong đau tới dại mặt nhưng vẫn dồn vào thanh Pháo Tép, tuyệt không chia nhỏ phần sức lực nào để cản lưỡi dao dưới mạng sườn. Chẳng mấy chốc, lưỡi Pháo Tép đã tiến sát gò má của gã “bốc mả”. Ngay lúc này, tên tóc đỏ có thể lật ngang lưỡi kiếm rồi chặt vào mặt đối thủ. Nhưng kiếm đã mòn mẻ, độ bén chẳng còn, cùng lắm chỉ làm trầy da chảy máu. Thủ Đằng biết rõ chuyện này, gã nói:

-Nợ máu trả máu! Không ai thoát khỏi tay nữ thần báo thù Nê Mê! Trả nợ thôi, tóc đỏ! 

Tên tóc đỏ nhe hàm răng đẫm máu, cười:

-Tử Thần và tôi vừa ký hợp đồng mới rồi, ông bạn. Nợ mới, ngày trả nợ mới, và không phải hôm nay!

Vô Phong cười tự tin tựa thể cái hợp đồng kia có thật. Thủ Đằng thấy lạ vì gã đang chiếm lợi thế và chỉ gã mới có quyền cười. Nhưng gã chợt để ý chuôi kiếm của đối thủ thồi ra một đoạn dài, nom như đoạn pít-tông đang bơm thứ gì đó. Ngay lập tức, gã cảm nhận được không khí bị hút vào lưỡi kiếm đen kia. Gã biết kết quả sắp xảy ra đồng thời hiểu rằng né tránh là vô ích. Thời gian, sức lực, tình thế… tất cả đều chống lại Thủ Đằng. Tên tóc đỏ nghiến răng:

-Tạm biệt và không gặp lại. Tôi ghét bọn Đông Thổ các người!

Dứt lời, hắn vận lực, phần pít-tông đóng sập về vị trí cũ, toàn bộ khối khí nén lại bên trong Pháo Tép thoát qua những lỗ nhỏ li ti trên mặt lưỡi kiếm rồi nổ đùng một tiếng đinh tai. Không gian xoắn lại thoi vào nửa người Thủ Đằng. Gã “bốc mả” văng đi cả mét, lăn mấy vòng trên tuyết rồi bất động tựa con rối mỏng manh vừa hứng chịu một cú phang búa tạ. Cấu tạo Pháo Tép cho phép nén khí, sau đấy nhờ lực đẩy pít-tông tạo chênh lệch áp suất đột ngột làm giải phóng hơi nén cùng áp lực mạnh như lựu đạn nổ. Thủ Đằng dính trọn đòn ấy, khéo chừng đã tan nát mặt mũi. Nhưng trời tối thui, Vô Phong không nhìn thấy gì và cũng chẳng hơi đâu xem đối thủ chết hay chưa. Hắn chỉ biết mình đã thắng. 

Tên tóc đỏ vốc một nắm tuyết lau bớt máu dính mặt lẫn mồ hôi kèm nhèm mắt. Sau ít giây, ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu hắn là chạy trốn. Đồng đội của Thủ Đằng còn đó, ngọn lửa hộ mệnh chưa thể giết chúng. Bằng chút sức tàn, tên tóc đỏ vùng dậy chạy, được dăm bước thì ngã. Hắn bò lê, nhổm dậy chạy tiếp, chưa nổi mươi bước lại ngã. Chất độc từ phi dao đang ngấm vào cơ bắp khiến Vô Phong khó kiểm soát cơ thể. Xương cơ mỗi lúc một rệu rã và càng thêm đau đớn. 

Nhưng đau đớn chưa làm Vô Phong mất cảnh giác. Hắn nghe đâu đấy tiếng tuyết lạo xạo lẫn hơi thở đậm sát khí. Bằng bản năng, hắn quay người vung kiếm. Mũi kiếm xẻ chéo một chiếc mặt nạ trắng hình con thỏ. Một tên “bốc mả” đã tỉnh dậy và đang làm nốt phần việc mà Thủ Đằng còn dang dở. Gã đầu thỏ đánh tới, tên tóc đỏ phản đòn nhưng thanh Pháo Tép nhanh chóng bị khóa chặt bởi dây xích. Bị dây xích bẻ vặn tay, Vô Phong đau đớn buông kiếm. Hắn không kịp chống lại một đòn lên gối, một cú thúc chỏ giữa mặt và một cú đạp giữa ngực, toàn thân bật ngửa máu ộc đằng miệng như ca nước đổ. 

Kẻ địch lao tới bổ kiếm, Vô Phong chỉ kịp rút dao găm chống đỡ. Lưỡi dao ngắn không bì được lưỡi kiếm, chẳng mấy chốc bị áp đảo. Mũi nhọn cong vồng của Khuyết Nguyệt cắm ngập bả vai trái tên tóc đỏ. Vô Phong nén đau đoạn áp sát rồi tóm chặt nách áo của kẻ địch. Khoảng cách quá gần cộng thêm tay áo bị khống chế khiến gã đầu thỏ không thể tấn công bằng thanh kiếm còn lại. Tên tóc đỏ chẳng biết có thể kéo dài tình thế này bao lâu, hắn cần người khác giúp đỡ. 

Hai bên gầm ghè kèn cựa nhau cho tới khi gã đầu thỏ vận lực. Vô Phong bất giác cảm thấy một luồng điện từ thanh Khuyết Nguyệt sục vào vết thương rồi lan ra, công phá khắp ngóc ngách cơ thể lẫn não bộ. Có thể thanh Khuyết Nguyệt gắn bộ phát điện, hoặc có thể gã đầu thỏ sở hữu bí kỹ phát xung điện – Vô Phong biết bí kỹ đó. Nhưng là gì cũng không quan trọng bởi hắn sắp chết. Luồng điện đang đánh gục từng khối cơ bắp của hắn, toàn thân lên cơn co giật. Ý chí hay sức chịu đựng vô nghĩa trong tình huống này. Vô Phong khuỵu chân, hai tay buông thõng. Sau nhiều chịu đựng, cuối cùng hắn cũng quỳ gối trước Tử Thần.

Thời cơ đến, gã đầu thỏ vung Khuyết Nguyệt, nhưng mới kịp lấy đà thì bất thình lình một lưỡi kiếm trồi lên từ ngực gã. Một cú đâm từ đằng sau, nhanh, mạnh, lạnh lùng và dứt khoát. Khoảnh khắc đó, gã “bốc mả” biết chẳng thể làm gì khác, máu nhễu từ mặt nạ nhỏ tong tong xuống tuyết. Nhưng thay vì giãy giụa hoặc ngoảnh lại tìm thủ phạm, gã đầu thỏ tiến lên. Kiếm rút hết khỏi lồng ngực cũng là lúc gã tắt thở, cánh tay vô thức vung Khuyết Nguyệt bổ vào Vô Phong đang co quắp vì điện giật. Mũi kiếm cắm phập xuống văng tung tóe những… tuyết. Nó chệch đi, thiếu chút gang tấc nữa là bửa mặt tên tóc đỏ một rãnh sâu hoắm. 

Bị xác chết gã “bốc mả” đè sấp lên người, Vô Phong không sao cựa quậy được. Nhưng rồi một ai đấy đẩy cái xác qua bên cạnh, lôi hắn trở dậy đoạn vỗ vai:

-Tóc đỏ? Tóc đỏ! Anh sao rồi? Nhanh lên, chúng ta rời khỏi đây!

Vô Phong mắt nhắm mắt mở nhìn không rõ, chỉ biết đấy là giọng nói của Si Giáng. Cô nàng tới vừa kịp lúc. Si Giáng thu lại thanh Pháo Tép đoạn khẩn trương tra thuốc, băng bó các vết thương hở cho tên tóc đỏ. Nhìn tên bốc mả bất động giữa nền tuyết, Vô Phong gắng gượng vươn tay lật mặt nạt của gã. Bóng tối đen kịt nhưng khoảng cách đủ gần để hắn nhìn thấy đó là một cô gái trẻ, gương mặt thanh tú nhưng đôi mắt trợn trừng rỉ máu. Hắn quay đi rồi cất lời:

-Là cô…? Si Giáng! Mọi người đâu…?

-Họ đang kẹt! – Si Giáng đáp vội – Bọn “bốc mả” mạnh lắm! Chúng ta đi trước, mấy người kia theo sau! Mai Hoa đã đặt hàng phi thuyền khẩn cấp, nó sắp tới rồi! Mà ông giáo sư Đốc Lãm đâu? 

-Quên ông già đó đi! Ổng bán đứng chúng ta! – Vô Phong lắc đầu phẩy tay – Ông ta nghĩ có thể bán di cốt họ Biệt Liên cho lũ “bốc mả”. Mà bên kia có ai bị thương không? 

Si Giáng khoác vai hắn đứng lên, trả lời:

-Một người chết rồi! Hắn thấp người, có sẹo ngang mặt… tôi không nhớ lắm tên hắn! 

Tên tóc đỏ thở phù. Kẻ thấp người có sẹo ngang mặt nọ là Đặc Trì, một trong bốn gã đánh thuê kỳ cựu và được Khai Y chỉ định. Gã này kín đáo, kinh nghiệm nhiều, thực lực ngang bằng các đội trưởng lính đánh thuê. Cái tin gã bị giết làm Vô Phong bồn chồn, vì xem chừng lũ “bốc mả” bên kia còn mạnh hơn mấy kẻ ở đây. Nghĩ tới đó, hắn nhanh chân bước dù cặp giò đang tê liệt vì chất độc lẫn xung điện. Sống! Phải sống đã! – Hắn tự nhủ. 

Hai người dìu nhau đi chưa được bao xa, bọn “bốc mả” lại đuổi tới, lần này là hai gã đeo mặt nạ đầu chuột và gà. Si Giáng đẩy tên tóc đỏ đi tiếp rồi một mình chặn hậu. Cô nàng nhỏ bé trong bóng đêm và lọt thỏm giữa sát khí từ đám “bốc mả”, sớm muộn sẽ bị nuốt chửng. Nhưng Vô Phong không định giúp đỡ mà hộc tốc bước tiếp, hắn lo thân mình chưa xong, ở lại chỉ gây thêm phiền toái. 

Đương chạy, tên tóc đỏ bỗng thấy một bóng đen lù lù tiến đến. “Tổ sư Vạn Thế!” là câu đầu tiên thốt ra khỏi miệng hắn. Nhưng bàn tay của nữ thần Nê Mê vẫn chưa chạm tới hắn. Sau vài phút định thần, Vô Phong nhận ra cái bóng đậm người cao to kia là Mông Nhão. Gã này xách ba lô, bên hông treo một đầu người đeo mặt nạ vẽ hình đầu chó. Gã vừa chặt thủ cấp của một tên “bốc mả” làm chiến lợi phẩm. Mông Nhão ngạc nhiên:

-Ồ, anh bạn?! Cậu vẫn sống sao? Không tệ chút nào đâu! Của cậu đây, đồ đạc vẫn ở trong đó! – Gã ném chiếc ba lô về phía Vô Phong – Rất xin lỗi vì lôi cậu vào chuyện này, nhưng làm ăn mà!

Nói rồi gã hướng mắt xuống cái đầu đang nhảy nhễu máu bên hông. Vô Phong lợm giọng, hỏi:

-Làm ăn…? Làm ăn cái gì? Ý anh bạn là sao? 

Mông Nhão rút kiếm tiến về bọn “bốc mả” đang bao vây Si Giáng, vừa đi vừa trả lời:

-Tôi biết tóc cậu màu đỏ, Vô Phong à! – Gã cười – Tôi biết bọn “bốc mả” đang săn lùng cậu. Mà đầu bọn chúng rất được giá, thế nên…

Gió tuyết át lời nói của Mông Nhão. Gã tiến đến, một mình chiến đấu với đám sát thủ và không giấu giếm ý định sưu tập thêm hai chiếc đầu nữa. Vô Phong phần nào hiểu rằng Mông Nhão đã lợi dụng mình để nhử bọn “bốc mả” tới. Ở điểm nào đó, Mông Nhão là kẻ sống bằng cách chặt đầu người khác – một dân “móc cống” đích thực. Nhưng là ai chỉ điểm cho bọn sát thủ đến đây? – Hắn tự hỏi. 

Được giải vây, Si Giáng rời cuộc chiến và tiếp tục đưa Vô Phong tháo chạy. Sau ít phút vật lộn với mệt mỏi lẫn thương tích, cuối cùng họ cũng tới chân con đập cũ. Đêm đen đặc nhưng họ vẫn có thể cảm nhận hình hài sừng sững của con đập cổ xưa qua tiếng gió hút trên lan can hay trên đoạn tường thành ở đỉnh đập. 

Họ chờ đợi một lúc thì có hai người nhập bọn là gã đầu trọc Vong Liêm cùng ông chuyên gia khảo cổ Pháp Lãi. Qua lại Vương Quốc Cũ nhiều năm, ông chuyên gia đã chứng kiến nhiều vụ đánh lộn giữa dân trộm hòm cạy nắp, nhưng chém giết tới cỡ này thì quá sức tưởng tượng. Nhìn vết thương phủ người Vô Phong, ông ta á khẩu, lời muốn ra mà ngắc ngứ đâu đó giữa hai hàm răng đương va nhau lập cập vì sợ. Chẳng riêng Pháp Lãi, mọi người đều im lặng và chờ đợi phi thuyền. 

Sau ba phút – mà mọi người cảm giác như ba năm – chiếc phi thuyền cũng xuất hiện. Nó từ chân núi bay lên, vòng qua con đập, chiếu đèn pha soi rọi mặt đất rồi hạ cánh đón bốn người. Không có trở ngại cũng không có gã “bốc mả” nào xuất hiện để ngăn cản bọn họ, so với lần bọn Vô Phong đào thoát khỏi miền biên giới Bạch Tu quốc thì khác nhau một trời một vực. Dường như Mông Nhão và bọn Mai Hoa đang làm tốt nhiệm vụ chặn hậu. Chiếc phi thuyền nhanh chóng rời đi và lẩn vào bóng đêm đặc gió tuyết. Từ ô cửa sổ, Vô Phong chỉ kịp trông thấy vài đám lửa xập xòe ở hai bờ con sông cạn. Cuộc chiến với đám “bốc mả” phương đông chưa kết thúc nhưng với Vô Phong là dấu chấm hết. Hắn cần nghỉ ngơi. 

Vong Liêm bực bội. Trước nay gã phụ trách phương tiện di chuyển cho đội nên rất ngứa mắt với cánh tài xế hoặc phi công trễ giờ. Bệnh nghề nghiệp ngấm máu quá sâu khiến gã cất lời, giọng rè rè:

-Muộn mười lăm phút! Hôm ký hợp đồng, mấy người các anh nói sẽ đến sau năm phút, thế là thế nào? 

Nghe thế, gã phi công chính buột miệng chửi thề và bày tỏ mong muốn đập chết Vong Liêm cùng bà mẹ của gã ngay tức khắc. Tay phụ lái ngoảnh lại, xẵng giọng:

-Vì Mai Hoa nói rằng có người cần giúp đỡ ở Tàn Tích Lớn, và thằng bốn mắt đó sẽ không trả tiền bọn này nếu không đến Tàn Tích Lớn. Vậy là bọn này phải vòng về đó, lội qua một đống xác chết bầy nhầy để lôi thằng què kia lên phi thuyền, vì vậy mới trễ giờ. Như vậy đã đủ giải thích chưa, thưa ngài – đầu – trọc – lắm – mồm – nên – câm – họng – ngay – lập – tức?

Bấy giờ Vô Phong cùng cả bọn mới nhận ra anh chàng nghiên cứu sinh Nhung Khuyển đang co ro ở góc phi thuyền. Giống ông chuyên gia khảo cổ, thần hồn anh chàng đã chu du đâu đó bên ngoài thể xác. Mặt mũi, quần áo, tóc tai… mọi thứ trên người anh ta đều vấy máu, chừng như vừa bước ra từ lò giết mổ động vật. Tên tóc đỏ hỏi gã nghiên cứu sinh:

-Này! Này anh bạn! Ổn chứ?! Chuyện gì đã xảy ra? 

-Bọn đeo mặt nạ! – Nhung Khuyển rùng mình đáp – Chúng hỏi bọn tôi về người tóc đỏ… chúng tôi nói không biết… rồi bọn chúng tấn công, chém giết khắp nơi… các kiếm sĩ bảo vệ chúng tôi không thể làm gì… bọn mặt nạ quá mạnh… chúng giết tất cả rồi…

Nỗi sợ hãi len lỏi tận cuống họng khiến Nhung Khuyển bật khóc. Anh ta thậm chí không nhận ra “người tóc đỏ” mà lũ mặt nạ truy tìm đang lù lù ngay trước mặt. Đoàn nghiên cứu khảo cổ đầy đủ nam nữ, đa phần là nghiên cứu sinh hoặc sinh viên, họ không thể có một cơ hội sống sót trước những sát thủ chuyên nghiệp đến từ phương đông. Mới dăm hôm trước họ còn vui vẻ với đoàn Vô Phong dưới những khối kiến trúc cổ xưa, nay đã gia nhập đoàn quân người chết của Vương Quốc Cũ. Nghĩ cảnh bọn họ bị thảm sát, ai nấy rùng mình. 

-Được rồi, bình tĩnh, đừng khóc nữa. – Vô Phong hắng giọng – Vậy bọn mặt nạ đâu? Chúng không đuổi theo anh bạn à?

Nhung Khuyển ho sù sụ, gắng lắm mới có thể nói tiếp:

-Tôi không biết… tôi lết qua góc khuất và trốn được… chúng không đuổi theo tôi… 

Tên tóc đỏ im lặng. Hắn săm soi anh chàng nghiên cứu sinh bằng ánh mắt viên đạn, hoàn toàn không có sự cảm thông. Vô Phong chợt nhận ra chiếc phi thuyền này là nơi cuối cùng mà người ta trông thấy hắn còn tồn tại. Nếu phi thuyền biến mất, Vô Phong cũng hoàn toàn bốc hơi khỏi thế giới Tâm Mộng. Công chúa, Tiểu Hồ, Hỏa Nghi… sẽ không một ai tìm thấy thi thể của hắn, hoặc lần mò ra hắn đang ở đâu trong trường hợp may mắn sống sót. Tên tóc đỏ thở phù:

-Ban nãy tao đánh nhau với Thủ Đằng, thủ lĩnh bọn “bốc mả”; hắn nói đoàn nghiên cứu khảo cổ không phải mục tiêu. Lũ sát thủ phương đông không chém giết như thế, chúng chuyên nghiệp và thực thi mệnh lệnh theo thủ lĩnh. 

Anh chàng Nhung Khuyển đang sướt mướt bỗng im bặt, đôi mắt rơm rớm ngoảnh sang Vô Phong. Tên tóc đỏ tiếp lời:

-Đám “bốc mả” ở Tàn Tích Lớn bị giết sạch rồi, do mày làm, đúng không? – Hắn hất hàm về phía Nhung Khuyển – Rồi mày giết tất cả thành viên đoàn khảo cổ để không một ai biết thằng tóc đỏ nào đấy đang lăng xăng ở xứ này, phải chứ? Như mọi lần, Phi Thiên quốc nhờ con chó săn như mày để khỏi bẩn tay. Cái điệu bộ khóc lóc run rẩy của mày… nó giống hệt lúc ở sa mạc Hồi Đằng. Giờ tao mới để ý là mày cao đấy! Hơn hai mét là ít! Sao tao không nhận ra mày ngay từ đầu nhỉ? Là mày đúng không, Thú? Hiện hình đi chứ?! Chúng ta chưa từng nói chuyện tử tế với nhau bao giờ, nhỉ?

Gã nghiên cứu sinh trố mắt nhìn Vô Phong như chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra. Bất thình lình anh ta bật cười, hai khóe miệng vẽ một đường cong méo mó tựa thể lớp da làm bằng cao su. Mọi người chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì Vô Phong bật người lao tới, đâm thanh Pháo Tép thẳng ngực anh chàng nghiên cứu sinh, mạnh tới nỗi làm phi thuyền tròng trành. Nhưng Nhung Khuyển chẳng hề đau đớn, thân thể gã run lên, từng khớp chỏm vai và lưng lòi ra những thanh kim loại, da thịt dần biến đổi. Đống kim loại lòi ra hết, gã hiện nguyên hình là một con quái vật cao hai mét, chân tay lồng khồng như vượn. Giữa bóng tối nhập nhoạng ánh đèn mờ, gã ngẩng đầu nhìn Vô Phong bằng bộ mặt sứt sẹo đeo kính râm cùng mái tóc nhờn nhẫy mồ hôi tanh lòm:

-Chào bé Vô Phong! – Gã cười, nhe ra hàm răng bịt sắt – Lâu không gặp, nhớ tao không? Á há há há há!

Dứt lời, gã tung cú đấm giữa mặt Vô Phong khiến hắn bay vào góc phi thuyền. Nhận ra kẻ thù giết chị mình, Si Giáng tức tốc lao vào quyết ăn thua đủ nhưng cũng bị Thú gạt bay. Vong Liêm rút súng nhưng chưa kịp bắn thì Thú nhào đến cắn cổ gã, súng nổ văng đạn lung tung găm trúng đầu phi công chính. Phi thuyền đổ nghiêng, phi công phụ nhào đến giữ tay lái nhưng nó rung lắc quá mạnh. Còi báo khẩn cấp vang khắp buồng lái lẫn khoang chứa hàng nhưng không một ai kịp nhảy ra hoặc bung dù khẩn cấp. Khung cảnh cuối cùng mà Vô Phong nhìn thấy là một cú va chạm mạnh khủng khiếp hòa vào tiếng cười sằng sặc của Thú.



Cách đó vài chục cây số, Mi Kha đang lầm lũi bước đi trong những cánh rừng tối tăm của Vương Quốc Cũ. Ở đây đầy rẫy loài săn đêm nhưng không con vật nào dám bén mảng gần cô nàng. Thú vật nhạy cảm gấp nhiều lần con người, bản năng bảo chúng phải tránh xa kẻ mang Đôi Mắt Người Chết. 

Lúc này Mi Kha không nhìn thế giới bằng cặp mắt thông thường mà dò đường bằng Mắt Trắng. Trong cái nhìn của cô nàng, thế giới hiện lên bằng hai màu cơ bản: màu đen bóng tối và màu trắng của những sinh thể. Lẩn quất đâu đây là những linh hồn màu xám đục không thuộc về thế giới vật chất hữu hình cũng chẳng nằm trong thế giới tâm linh vô hình, chúng vặn vẹo, thi thoảng gào thét một cách giận dữ nhưng vô thanh và đầy bất lực trước sinh thể sống. Mặt đất dưới chân Mi Kha vằn vện nhiều mạch ngầm màu tím dẫn về những nguồn sâu thẳm, sâu đến mức Mi Kha cũng không muốn biết dưới đó có cái gì hay thứ gì đang tồn tại. 

Loài người muốn biết thế giới Tâm Mộng càng nhiều càng tốt, riêng Mi Kha chỉ muốn biết ít chừng nào hay chừng ấy. Mắt Trắng có thể dọa nạt nhiều thứ nhưng bản thân người sở hữu nó cũng sợ nhiều điều mà người thường không hiểu. 

Đương đi, Mi Kha chợt ngoảnh đầu về hướng đông bắc. Nhờ Mắt Trắng, cô nàng phát hiện ra một khối xao động từ hướng đó lan về đây. Thế giới là một tổ hợp liên kết nhau, bất cứ sự thay đổi nào cũng gây nên xáo trộn. Mắt Trắng cho phép Mi Kha thấy được những xáo trộn nhỏ nhất. Cô ả thấy vài đốm sinh mệnh màu trắng túm tụm nhau, một số đang mất đi trong khi một số vẫn thoi thóp. Giữa đám ấy có một sợi tơ đỏ nhá lên yếu ớt, chập chờn chớp tắt như đang hấp hối. Mi Kha tức tốc chạy đi, bóng dáng phăm phăm trên tuyết dù đang khoác ba lô nặng hơn năm chục cân. Cô nàng hy vọng mình không tới trễ. 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 17: Ngày phán xét


Vô Phong tỉnh giấc và chuẩn bị tinh thần chiến đấu gần như ngay lập tức. Những cảnh tượng cuối cùng mà hắn nhìn thấy là phi thuyền lao xuống một cánh rừng Vương Quốc Cũ, nó đâm sầm vào những ngọn cây lá kim, văng bên nọ đập bên kia. Người, ghế, thùng hàng, dù cứu hộ, động cơ… mọi thứ lộn tùng phèo như nồi súp bị quăng quật trên sàn bếp. Tất cả kết thúc bằng cú tiếp đất kinh hoàng lẫn ánh sáng nhá lên như lửa cháy, rồi đôi mắt Vô Phong bị nhấn chìm vào đêm tối. Hắn biết mình đã bất tỉnh ít lâu. 

Nhưng cảnh tượng mở ra trước mắt Vô Phong lại hoàn toàn khác. Không phải tuyết, không có xác chết, cũng chẳng có phi thuyền cháy hay bóng tối đen đặc nào. 

Lúc này, tên tóc đỏ đang dạo bộ trên một con đường với nhiều tòa nhà hình vòng cung màu trắng ngà. Chúng nằm bên bờ sông chảy dọc thành phố, bao các khúc lượn và trông xuống mặt nước bằng dãy cửa sổ lớn lợp kính nhiều màu. Trời quang, sông dềnh nắng hắt lên cửa sổ từng đụn băng tuyết còn sót lại sau đêm lạnh giá. Nắng ấm hanh khô len lỏi khắp nơi tựa sự hân thưởng cho thành phố đã chịu đựng mùa đông buốt ẩm kéo dài. Con người nhào ra phố rong chơi, ăn uống, mua sắm, kể lể vô khối chuyện buồn chán trong những ngày nằm nhà tránh rét. Máy chiếu ba chiều, điện thoại… đủ thứ phương tiện liên lạc hiện đại nhưng cư dân thành phố này vẫn muốn chia sẻ với nhau như thế. 

Thong dong giữa dòng người, tên tóc đỏ vô tình lắng nghe nhiều câu chuyện không đầu không cuối. Hắn hiểu nhiều điều mà cũng có điều chẳng biết. Nhưng dù hiểu dù không thì hắn vẫn cảm giác thế giới rộng hơn một ít, lớn hơn một ít. Khi nương nhờ bản thân trong những chuyện kể, hắn mường tượng mình đang dạo qua nhiều thế giới, nhiều khung cảnh và được “sống”. 

Dạo bộ một quãng, tên tóc đỏ dừng chân ở băng ghế công cộng dưới một cây phong trụi lá rồi ườn mình tận hưởng nắng ấm thanh bình. Phóng mắt qua tán cây trọc, hắn nhìn ngắm từng bức hình họa trên các ô cửa sổ lợp kính nhiều màu rồi chăm chú từng đường nét diễn tả Vạn Thế, Nữ Thần Tiên Tri, Bát Đại Hộ Vệ, những vị vua của triều đại Thần Đế từng cai trị Phi Thiên, những vị thần đã lùi vào dĩ vãng hay truyền thuyết cổ xưa ít người biết đến. Hắn biết rõ thành phố này. “Cội thành” – mọi người gọi thành phố này như thế – một nơi đầy tác phẩm nghệ thuật, di tích quá khứ phản chiếu Tâm Mộng. Ở đây, hắn tự do ngắm nhìn thế giới mà không bị thế giới phán xét. Ở đây hắn được sống. Hắn yêu Cội thành. 

“Đang nhìn gì vậy, Phong? À, các bức họa hình? Đó là phong cách nghệ thuật triều đại Thần Đế, gọi là “họa kính”. Người thời ấy không thể hiện tranh vẽ lên giấy mà vẽ trên kính. Họ trưng bày họa kính ở nơi công cộng cho mọi người bình phẩm và phơi ra trước cát bụi thời gian. Nếu các vị thần động lòng, họa kính sẽ trường tồn, còn không nó sẽ nhạt màu và xấu xí, cuối cùng bị gỡ bỏ. Thời đó, họa sĩ giỏi nhất không phải người vẽ đẹp nhất, mà là người sở hữu họa kính lâu bền nhất. Họ quan niệm nghệ thuật khác chúng ta bây giờ…”



Lời thuyết giảng cứ thế rót vào tai Vô Phong bất chấp hắn nghe hay không. Nó được cất lên bằng giọng nữ thanh, cao, hơi lảnh lót, chừng như xuất phát từ một cổ họng ưa cười. Nhưng tên tóc đỏ chẳng lấy làm phiền phức. Hắn biết chủ nhân của giọng nói ấy, biết rằng người đó sẽ vặn vẹo mình bằng những lời nhõng nhẽo khó trả lời.

“Sao vậy, Phong? Anh nghĩ gì thế? Chắc chắn là anh đang nghĩ. Hãy nói cho em nghe! Không nói? Anh làm vậy mà cũng thấy được ư? Thì anh cứ làm đi, em sẽ không buồn đâu, rồi một ngày nào đấy anh sẽ thấy hối hận và day dứt! Anh cảm thấy làm vậy mà vẫn hít thở không khí được à? Anh cảm thấy làm vậy mà tim phổi vẫn tuần hoàn máu được à?”



Đồng hành với mấy lời kể trên là mái tóc màu hạt dẻ cùng đôi mắt xanh lơ đầy sức sống. Vô Phong giơ tay đầu hàng đoạn mỉm cười. Hắn đã quen hình ảnh này như quen thuộc đường đi lối lại trong thành phố. Và hắn cũng yêu mái tóc hạt dẻ lẫn đôi mắt xanh lơ như yêu Cội thành. 

“Tôi đang nghĩ về thứ em nói… họa kính… phải, là thứ đó. Tôi nghĩ mình giống họa kính. Tôi không biết diễn đạt như em, nhưng tôi cảm giác mình giống thứ đó. Chính bản thân tôi phản chiếu những gì tôi đã, đang và sẽ làm, giống các họa kính. Em biết đấy, tôi là lính Thổ Hành. Vạn Thế sẽ phán xét tôi như phán xét các họa kính. Tôi được sống thanh thản hay phải đền tội đều do cây mẹ quyết định. Một lúc nào đấy, Vạn Thế sẽ định đoạt số mệnh cho tôi.”



Vô Phong không lảm nhảm. Hắn biết mình nói gì, thậm chí hình dung được viễn cảnh đương chờ sẵn ở tương lai. Trong tương lai đó, hắn một mình lê bước giữa bóng tối, cuối cùng gục xuống, chịu đày đọa hàng thiên niên kỷ trước khi bị màu đen nuốt chửng. Vốn dĩ hắn không suy nghĩ nhiều như thế bởi hắn chỉ “tồn tại”, nhưng kể từ lúc gặp cô gái tóc hạt dẻ, hắn biết “sống” đồng thời biết cả “chết”. Hắn nhận ra chỉ có sống thực sự mới biết đến cái chết thực sự. 

“Liệu rằng Vạn Thế phán xét chúng ta như đã làm điều tương tự với Năm Đế Chế Cổ Đại? Em không tin đâu! Đó chỉ là giáo điều mà Thánh Vực dạy chúng ta, chẳng có một bằng chứng rõ ràng nào hết! Phán xét ư? Cái chết không phải là phán xét, nó là món quà mà Tử Thần gửi tặng con người để họ biết cách sống. Tử Thần không phán xét ai, Vạn Thế càng không. Chúng ta phán xét lẫn nhau và tự phán xét chính mình mà thôi, vậy nên họ mới lập ra tòa án thay vì dẫn nhau tới và chờ đợi thánh thần lên tiếng. Cứ sống thôi, Phong à, kệ quách mọi thứ! Sống tới khi nào Tử Thần gõ cửa, ta sẽ vùng vẫy chống lại ông ta, hoặc mời Tử Thần trò chuyện lần cuối trước khi theo ông ta tới Tụ Hồn Hải. Anh đáng được sống mà?! Tại sao anh không nghĩ mọi chuyện đơn giản hơn nhỉ?”



Mái tóc màu hạt dẻ đung đưa trước mắt Vô Phong, vài sợi tóc khẽ rây lên với gió rồi đùa cợt nắng ấm. Cô gái nói đúng. Ở đây chẳng có ai phán xét hắn. Ở đây và ở bên cô gái tóc màu hạt dẻ, hắn được sống đàng hoàng. 

Hôm ấy nắng đẹp như sự hân thưởng từ Vạn Thế ban cho Vô Phong.

*

* *

Tên tóc đỏ mở mắt, đầu ong ong. Mùi lửa cháy, mùi điện bốc khét lẹt, gió tuyết lạnh toát cùng những cơn đau thể xác đang tấn công ngũ quan của Vô Phong. Không còn nắng ấm thanh bình hay những tòa nhà lắp họa kính, đây là thực tại khắc nghiệt ở Vương Quốc Cũ.

Lúc này, Vô Phong bị kẹt dưới một đống thiết bị máy móc nặng như cối câm, chúng bị long khỏi trần phi thuyền sau vụ va chạm. Vừa mệt vừa đau nhưng hắn cố lèn người, hất đổ đống máy móc bằng bả vai và lưng. Mỗi lần gồng sức, hắn cảm thấy nội tạng sắp phọt qua vết đâm bên sườn phải, chảy túa lua thành một đống sệt bết đặc dính. Kiên trì mãi, rốt cục tên tóc đỏ cũng thoát ra. Hắn nằm vật trên mặt sàn ngổn ngang rồi thở hồng hộc, hầu như phó mặc số phận cho may rủi. Nếu Thú xuất hiện, sinh vật săn đêm đi ngang qua hoặc phi thuyền chập điện phát nổ thì hắn cũng chẳng thể làm gì. Sức người đã đến giới hạn. 

Nhưng chẳng có gì xảy ra ngoài gió tuyết gào thét trên ngọn rừng. Vô Phong nhổm dậy nhìn quanh. Khung cảnh tù mù dưới ánh đèn đỏ tù mù, mọi thứ đều bất động. Cách Vô Phong dăm bước, ông chuyên gia khảo cổ Pháp Lãi nằm ngửa trên ghế, hai mắt nhắm nghiền như say ngủ. Tên tóc đỏ lê thân tới chỗ Pháp Lãi đoạn cất lời:

-Ông già? Ông già! Nghe tôi nói gì không?!

Pháp Lãi không đáp. Vô Phong cũng ngừng gọi khi nhận ra nửa sau đầu của ông chuyên gia chảy ròng ròng máu, chừng như bị va đập rất mạnh khi phi thuyền cắm mặt tiếp đất. Vô Phong không thể làm gì hơn với thương tích kiểu này. Hắn mò lên khoang lái chính, tiếp tục phát hiện hai phi công đều đã chết. Tay lái chính bị đạn bắn, gã lái phụ bị một nhành cây lớn đâm thủng ngực. Tại đây, Vô Phong là sinh mạng duy nhất còn tồn tại. 

Tên tóc đỏ rời phi thuyền. Gió lạnh buốt thấu tim phổi làm hắn ho sù sụ. Qua tán rừng rậm rạp, hắn trông thấy một bầu trời quang đãng cùng hai mặt trăng đang rọi qua lớp mây mỏng. Nhưng chừng ấy ánh sáng chỉ làm nổi lên những gờ gợn sần sùi trên cổ thụ tán lá thấp chen chúc hay những cung đường mập mờ đầy nguy hiểm dưới tán cây lá kim, chứ chẳng thể soi rọi bóng tối chốn rừng sâu. Từ bóng tối đen thẳm đó đương vọng ra vô số âm thanh đáng ngờ làm Vô Phong rét gáy. Rừng Vương Quốc Cũ không có loài tàn ảnh giống miền cực bắc song lại có lũ “rúc nhủi” – một loại quái vật lông trắng gần giống mèo với thân dài, tứ chi mảnh khảnh nhưng cực khỏe, sở hữu hàm răng thu ngắn kéo dài tùy ý, móng vuốt sắc bén, có thể ẩn mình hàng giờ chờ chực con mồi. Chúng đi thành nhóm và sẽ tấn công ngay khi có cơ hội. Bởi vậy người thám hiểm Vương Quốc Cũ luôn đi thành nhóm đông, ít nhất phải từ bảy người trở lên. 

Nghĩ đến lũ quái vật, Vô Phong bỗng nghe bóng tối vọng lên vài tiếng hú, có thể là thú săn đêm bình thường mà cũng có thể là bọn rúc nhủi. Nhưng dù là thứ gì thì hắn phải khẩn trương rời khỏi đây. Vô Phong kiểm tra hộp đựng sau lưng, thấy di cốt vẫn yên vị trong lớp mút nhung, không chút tổn hại hay suy chuyển. Hắn mở ba lô tìm đồ thiết yếu. Bên trong có quần áo, đèn pin, súng ngắn, lựu đạn, băng đạn, đá mài kiếm, dụng cụ điện tử, đồ sơ cứu, vài món quà tặng bánh kẹo cùng con thỏ vải từ đứa bé Át Sa họ Cát Giá… nhưng tất cả đều không phải thứ mà hắn cần. Có lúc, hắn nghĩ rằng đã làm mất nó. 

Lần tay qua đống tạp phí lù, Vô Phong tạm thở phào khi mò được một chiếc bật lửa. Hồi rời Phi Thiên thành đến vùng Mù Thủy, hắn được Tiểu Hồ tặng thứ này nhưng chưa từng sử dụng[1]. Hắn vận nội lực bật lửa để chắc chắn nó vẫn hoạt động tốt, sau gắn nó vào cái khoen ở gốc cán thanh kiếm Pháo Tép. Hắn lôi ra quần áo rồi cắt chúng thành nhiều mảnh nhét túi quần, giữ một mảnh buộc kín đầu nhằm che đi màu tóc đỏ nổi bật giữa đêm trăng nhập nhoạng. Xong xuôi đâu đấy, hắn vội vã chạy vào bóng tối, không quên kích hoạt thiết bị khẩn cấp đeo ở vai. Nhờ thiết bị này, đại thống lĩnh Khai Y sẽ biết hắn gặp nguy hiểm và cử người giúp đỡ. Hắn hy vọng người Băng Hóa tỏ lòng tốt dù rằng “Người Băng Hóa không bao giờ tốt”. 

-Si Giáng… cô nghe thấy tôi nói không? Si Giáng?! – Vô Phong gọi vào bộ đàm – Vong Liêm? Vong Liêm đầu trọc?! Hai người nghe tôi nói không? Mấy người đang ở đâu? 

Đáp lại tên tóc đỏ là tiếng rè rè vô nghĩa. Vô Phong tự nhủ bọn họ đã chết. Tại chốn hoang vu thăm thẳm này chỉ còn hắn và Thú truy đuổi nhau. Bị văng khỏi phi thuyền với tốc độ cao, người thường như Si Giáng hay Vong Liêm chắc chắn tan xác, nhưng Thú thì không vì gã không phải người. Con quái vật sẽ tỉnh dậy và săn lùng mục tiêu tới lúc hoàn thành nhiệm vụ. 

Vô Phong biết điều đó. 

Theo ánh đèn pin cùng la bàn chỉ dẫn, Vô Phong chạy về hướng nam. Được một quãng, hắn mở bản đồ xác định lại vị trí của mình, vạch ra con đường ngắn nhất để thoát khỏi khu rừng và chạy ra vùng đồng bằng. Chỉ cần tới được đồng bằng, phi thuyền tiếp viện của Khai Y sẽ đón hắn. Di cốt Biệt Liên Đa Xuyến đang nằm trong tay hắn, Khai Y không thể trở mặt.

Vô Phong leo qua một đám rễ cây bùi nhùi, vung Pháo Tép chặt bớt cây khô lá mục giăng lối chắn đường. Phía sau Vô Phong, bóng đêm vẫn thở phà phà những âm trầm đục như bốc ra từ một dạ dày khổng lồ. Hai mặt trăng lúc tỏ lúc mờ vì mây che khuất, hoặc vì tán rừng chỗ thưa chỗ dày, đẽo khảm những mảng sáng nhợt nhạt trên cổ thụ, cây khô, trên những bức tượng dính tuyết hay những khối kiến trúc đổ nát sót lại của Vương Quốc Thịnh Vượng. Tên tóc đỏ nhảy qua, leo trèo hoặc vung kiếm chặt phăng mọi thứ cản đường. Hắn đang chạy trốn bóng tối, bọn ăn đêm và Thú. 

Thú đang đến. Hắn biết điều đó. 

Phạt ngang một đống bùi nhùi cành lá khô, Vô Phong hoảng hồn khi thấy một bức tượng người không đầu án ngữ trước mặt. Nhưng chừng ấy chỉ dọa rồ chứ không thể đánh gục hắn. Hắn phải chạy, bởi lẽ nỗi sợ thực sự không ở phía trước mà nằm phía sau. Bóng tối lại phả làn hơi mới vào lưng tên tóc đỏ. Hắn nghe trong làn hơi ấy có tiếng gió hú, thú vật tru, lá khô lạo xạo, răng nghiến trèo trẹo, hơi thở sặc mùi đói khát. Là thật hay tưởng tượng, Vô Phong không chắc. Là bọn ăn đêm, lũ rúc nhủi… hay Thú? – Hắn chẳng rõ. 

Có thứ gì đấy tựa những móng tay dài ngoẵng cào lưng Vô Phong. Hắn giật thót đoạn lăn người theo phản xạ, tay rọi đèn pin về đằng sau. Luồng sáng soi ngang dọc, luồn qua tán cây len vào cội rễ sục sạo bóng tối. 

Không có gì cả.

Không có ai.

Không có Thú. 

Vô Phong thở hồng hộc, quên luôn các vết thương trên thân thể. Có lẽ thứ vừa cào lưng Vô Phong chỉ là ngọn gió hoặc lá khô, hắn vì quá căng thẳng mà phản ứng thái quá. Tên tóc đỏ định thần rồi co giò chạy tiếp. Vết thương bên sườn đang rỉ máu nhưng hắn không được nghỉ. Hắn không thể nghỉ. 

Đường đi mỗi lúc khó khăn hơn. Nhiều lối bị cây tán thấp che kín, cành lớn cành nhỏ chen chúc đặc kín, thanh Pháo Tép không sao chém nổi. Vô Phong phải tìm ngả khác, vừa chạy vừa nhìn la bàn để không mất phương hướng. Sương mù bắt đầu xuất hiện. Thứ sương mù băng ở Vương Quốc Cũ vừa dày vừa lạnh, quánh dẻo tựa lớp kẹo đường mỏng bám dính thân thể, khó chịu vô cùng. Giữa lớp sương mù ngưng tụ nhiều tinh thể băng lơ lửng, hễ chạm vào Vô Phong là tan vỡ hoặc rơi lộp độp xuống đất. Vô Phong không thích điều này, hắn đang ồn ào quá mức. Ở rừng sâu, chỉ bản thân khu rừng mới được quyền to tiếng, những thứ khác thì không. 

-Hi hi hi…

Vô Phong giật thót, lập tức lẩn ra phía sau gốc cây lá kim, tay trái soi đèn, tay phải nắm chắc kiếm. Đèn rọi bóng tối soi sương mù, hắt luồng sáng lên tán lá um tùm trên cao, dội xuống từng lùm cây xào xạc lá lẫn tuyết. Không có gì. Vẫn không có gì! – Vô Phong tự nhủ. Nhưng hắn cảm giác tiếng cười nào đấy vừa cất lên cùng gió rít. Thú hay cười như thế: điệu cười kệch cỡm, giễu nhại như trêu chọc mà man rợ tựa đồ tể. Từ ngày gặp Thú ở Hồi Đằng, tên tóc đỏ không thể quên thứ âm thanh đó. 

Nhưng bóng tối vẫn im lìm. Dường như tên tóc đỏ bị căng thẳng nên thính giác nhãn quan nhạy cảm quá mức, nghe tiếng gió ra tiếng cười, thấy lá rơi mà tưởng kẻ địch. Dù vậy, Vô Phong không lơi là cảnh giác. Hắn lùi bước, tay rọi đèn phía trước phía sau rồi chạy tiếp. Hắn phải chạy thật nhanh.

Thú đang tới. 

Dưới ánh trăng, bóng dáng Vô Phong luồn lách lùm cây bụi rậm, nhảy phốc qua đá tảng, chốc chốc chạy vòng quanh những khối kiến trúc cổ xưa đổ nát. Hắn nhận ra cây tán thấp đang ít dần, lùm bụi cũng thưa bớt – những dấu hiệu cho thấy vùng đồng bằng đã rất gần, cách đây khoảng nửa tiếng đi bộ. Nhưng đường tới đó không dễ dàng. Trong gió tuyết táp mặt, Vô Phong nghe thấy vài âm sắc mỏng mảnh như tiếng rít vọng ra từ kẽ răng. Hắn biết đó là “Kẽ Nứt” – những khe vực nhỏ nằm rải rác giữa các cánh rừng Vương Quốc Cũ. 

Tên tóc đỏ dừng chân, mở ba lô lấy kính nhìn đêm, đôi chân dò bước thận trọng. Vội vàng lúc này chỉ mở đường tới Tụ Hồn Hải nhanh hơn. Bởi lẽ Kẽ Nứt có bề rộng chỉ to hơn khúc suối nhưng sâu vô tận, bờ vực đổ dốc được tuyết che kín mà nếu chẳng may dẫm vào sẽ trượt chân, không sao dừng được. Chúng đã ở đây trước khi Vương Quốc Thịnh Vượng thành lập, trước cả khi người phương bắc hình thành bộ tộc. Người ta đồn thổi dưới đáy Kẽ Nứt có một vương quốc khác, một thế giới khác. Nhưng Vô Phong không còn hơi đâu tò mò. Hắn cần sống. 

-Hi hi hi…

Vô Phong lập tức quay lại. Hắn không giật mình. Hắn đã chuẩn bị cho tình huống này. Bóng tối vẫn im lìm. Tên tóc đỏ liền nhào qua, nấp mình sau một gốc cây lá kim rồi thủ thanh Pháo Tép ngang ngực. Giờ này, hắn dám khẳng định thứ âm thanh nọ là điệu cười kệch cỡm ưa giễu nhại đồng thời là tiếng cười đồ tể từng giết hàng trăm người ở sa mạc Hồi Đằng. 

Thú đang ở đây.

Chắc chắn Thú đang ở đây. 

Con quái vật đang ở đây. 

Có tiếng bước chân. Có tiếng nghiến răng. Có tiếng va đập vào những tinh thể băng trong sương mù. Có sự tăng tốc hối hả nhịp thở. “Đến rồi! Đến rồi!” – Vô Phong thở gấp, mắt liếc sang trái. Ở phía đó, một bóng đen vụt tới mang theo móng vuốt lẫn răng nanh thở hơi tanh lòm. Hắn ngả người vung kiếm theo bản năng. Thanh Pháo Tép quật trúng cái bóng, tiếng rên ư ử phát ra ngay tức khắc. Cái bóng ngã xuống, trượt dài trên tuyết. Nhưng chưa hết. Một cái bóng khác hùng hục chạy đến, cũng răng nanh, cũng móng vuốt. Không còn đà vung kiếm, Vô Phong liền nhảy sang, vừa kịp thoát một cú táp mạnh bạo. Hắn lăn lông lốc đoạn rọi đèn pin về hướng những cái bóng.

Không phải Thú, mà là rúc nhủi. Lũ săn đêm đã tới. Một con bị thương với vệt máu kéo lê trên tuyết, con còn lại nhe răng với Vô Phong, bốn chiếc năng thụt ra co vào như lời dọa dẫm. Con thú không sợ ánh đèn pin, càng không sợ thanh Pháo Tép của tên tóc đỏ bởi nó còn đồng bọn. Chỉ vài giây sau, đàn rúc nhủi gồm sáu con lộ diện từ sau những gốc cây. Chúng bao vây Vô Phong, cặp mắt màu xanh tím ma quái định vị sẵn mục tiêu cắn xé. Tên tóc đỏ rọi đèn pin, chúng nheo mắt gào ầm ĩ đoạn chậm rãi tiến đến. Lũ thú không sợ ánh sáng. 

-Thế cơ đấy! – Vô Phong gằn giọng – Vậy thế này thì sao?

Tên tóc đỏ vận lực. Chiếc bật lửa gắn ở móc khoen Pháo Tép bùng cháy tạo ngọn lửa bao trùm Pháo Tép, biến thanh kiếm thành ngọn đuốc nóng bỏng. Nhờ Phong kỹ, tên tóc đỏ có thể khuếch đại ngọn lửa và chừng nào hắn còn nội lực, chiếc bật lửa còn cháy. Vừa thấy hơi lửa, lũ rúc nhủi rú lên từng tràng. Chúng không sợ ánh sáng hiện đại mà khiếp hãi ánh sáng nguyên thủy. Vô Phong vung vẩy kiếm, hơi nóng hực tràn ra thiêu đốt tinh thể băng lơ lửng, hất vào mặt lũ rúc nhủi. Chúng gào rú, cắn táp nhặng xị nhưng không con nào dám thử sức với ngọn lửa. Sau rốt cả đàn quái vật hò nhau rút lui, bỏ mặc con bị thương ở lại. Chúng đủ thông minh để đánh giá con mồi. Vô Phong thở phào.

Đương trấn tĩnh, Vô Phong chợt nghe tiếng chạy đằng sau lưng. Chạy nhanh. Rất nhanh! – Hắn tự nhủ đoạn quay lại vung kiếm. Ánh lửa chớp nhoáng cho hắn thấy một con quái vật mảnh khảnh với tứ chi dài ngoẵng. Nhưng đó không phải rúc nhủi bởi lẽ không con rúc nhủi nào có mái tóc nhờn nhẫy, đeo kính râm và một cái miệng biết cười. Ở khoảnh khắc đó, con quái vật đã cười. 

Con quái vật cúi người né kiếm, tay phải vươn đến, năm đầu ngón bật ra vuốt kim loại cắm vào bụng Vô Phong rồi nhấc bổng cả tên tóc đỏ lên không trung. Con quái vật chạy rầm rập, lấy thân thể Vô Phong húc vào thân cây đến “bình” một tiếng, bộ vuốt cắm vào sâu hơn, chừng như sắp chạm tới ổ ruột. Tên tóc đỏ đau thấu xương, hắn thở:

-Thú… là mày… là mày…

-Chào bé Vô Phong dễ thương! Tao đến rồi đây! – Thú cười hềnh hệch, hàm răng bịt sắt nhe nhởn – Bé hư quá, đi chơi không về! Tới giờ về nhà rồi!

Gã bóp mạnh, bộ vuốt chực đâm sâu hơn và lôi hết ổ ruột của Vô Phong ra ngoài. Tên tóc đỏ vội túm tay Thú, đau tới nỗi không thể hô mật khẩu triệu hồi thần hộ mệnh, gương mặt đỏ lựng gần bằng màu tóc. “Vô Phong là đồ cà tẩm!” – Chỉ mấy chữ nhưng hắn không nói nổi. Con quái vật ghé sát mặt gần tên tóc đỏ, cười khà khà:

-Nào, nào, bé cưng! Ngoan! Ngoan nào! Ui Vạn Thế ơi, bé ngoan phải nghe lời người lớn! Hi hi hi! – Thú thọc tay mạnh hơn, năm đầu vuốt lủng sâu da thịt chảy ròng máu – Ngoài này lạnh lắm, bé cưng không nên chạy lung tung, bé cưng theo ta về nhà thôi! Ôi chu choa, đừng chống cự nữa, phải nghe lời người lớn chứ?! 

Vô Phong nghiến răng, thanh quản bị đau đớn bóp nghẹt, không nói nổi một chữ rõ ràng. Hắn đang cận kề cái chết. Cùng lúc đó, đôi mắt hắn tràn ngập màu đỏ. Không phải máu, mà là sắc đỏ quỷ quái luôn ám ảnh hắn trong giấc ngủ hay những thời khắc nguy hiểm nhất. Ở thẳm sâu thâm tâm, nó đang thuyết phục hắn rằng hãy để nó chữa trị vết thương và điều khiển thân thể. “Giải thoát cho tao, rồi chúng ta sẽ trở thành một!” – Sắc đỏ quỷ quái liên tục kêu gào. Giờ phút đó, Vô Phong đã buông xuôi. 

Cuộc giằng co tới hồi ngã ngũ, Vô Phong không thể chịu đựng lâu hơn. Bỗng từ sương mù, một bóng đen khác bất thình lình xuất hiện. Vào đúng tầm, bóng đen nọ vung lên thanh kiếm màu xám bạc nhằm thẳng đầu Thú. Con quái vật kính râm phản đòn, cẳng tay trái bật ra lưỡi đao xỉn chống đỡ. Tiếng va chạm vang dội khắp khoảnh rừng, những tinh thể băng lơ lửng giữa sương mù rung bần bật. Thanh kiếm xám bạc rung bần bật, ngân âm sắc chói lói chọc thẳng vào màng nhĩ của Thú, xoắn nghẹt từng dây thần kinh não. Thứ bí kỹ khuếch đại âm thanh của Si Giáng mạnh mẽ gấp nhiều lần vẻ ngoài nhỏ nhắn của cô nàng. Con quái vật choáng váng, thân thể trong phút chốc bủn rủn mềm nhũn. Chẳng bỏ lỡ thời cơ, Vô Phong liền đấm vào mặt Thú rồi đạp gã ra, bàn tay móng vuốt rời ổ bụng mang theo vài miếng da thịt lẫn máu văng tung tóe. Tên tóc đỏ tạm thời được cứu.

Vô Phong đổ gục. Hắn lồm cồm bò dậy, rút những mảnh vải trong túi quần bịt miệng vết thương, lại quấn chúng thành nhiều vòng siết chặt cơ bụng. Máu chảy nhiều, chừng như dạ dày đã tổn thương song chưa quá nguy hiểm. Hắn học cách tự sơ cứu này từ người Tuyệt Tưởng Thành, nó không thực sự tốt nhưng sẽ giúp hắn cầm cự phần nào. Đợi thần tình trấn tĩnh, hắn ngẩng mặt lên và nhận ra cái bóng vừa cứu mình là Si Giáng. Cô gái chưa chết. Không giống một cô gái vô tư vui vẻ, đôi mắt Si Giáng bây giờ chỉ còn giận dữ. Cô ả đánh hăng, liên tục chém xả mấy nhát trên người Thú. Dường như nữ thần Nê Mê đã bảo hộ Si Giáng trước cái chết và dẫn cô gái đến tận đây để báo thù. 

Phiền nỗi báo thù với Thú là câu chuyện khác. Bị chém lốc da thịt nhưng con quái vật không chùn bước mà cười ầm ĩ. Sau ít phút khổ sở chịu đòn, gã dùng bộ đao ở cẳng tay lẫn móng vuốt phản đòn Si Giáng tới tấp. Cô gái dần lọt thỏm trước con quái vật cao hơn hai mét. Một chút bất cẩn, Si Giáng trượt chân ngã ngửa. Thú liền bổ tới, hai lưỡi đao cắm xuống một góc vuông cuồng bạo. Si Giáng chỉ kịp giương ngang kiếm đỡ đòn. Thanh kiếm xám bạc xẻ sâu vào tay Thú nhưng con quái vật không ngừng, lại còn khoái trá hơn. Gã nhìn Si Giáng qua cặp kính râm, chặc chặc lưỡi như dỗ dành trẻ con:

-Nào, bé cưng ngoan nào! Không được cãi lời người lớn! Ồ, sao gương mặt bé quen thế? Tao đã gặp ở đâu rồi nhỉ? Sao tao không nhớ nhỉ? Á há há!

Thú nhe răng cười, bộ hàm bọc sắt nhểu dãi. Si Giáng gào lên vì kinh tởm và vì mũi đao đang xuyên qua da thịt của cô nàng. Thấy vậy, Vô Phong lấy hơi tàn rút súng đoạn bóp cò, súng nổ liên hồi, những tia đạn vàng găm ngập thân thể Thú. Con quái vật khựng lại đôi chút vì chấn động. Ngay lúc ấy, Si Giáng vận lực, thanh kiếm xám bạc chia đôi: một nửa vẫn cắm ngập tay Thú, nửa kia tách rời cùng những sợi dây kim loại mỏng mảnh. Cô nàng lách người thoát ra, lanh lẹ điều khiển bó dây kim loại trói người Thú rồi vòng lên siết chặt cổ con quái vật. Bó dây kim loại nghiến sâu da thịt, Thú gầm lên, cổ họng sùi bọt. Si Giáng đạp một chân lên lưng gã làm điểm tựa rồi kéo dây mạnh hơn. Cô nàng thở hồng hộc:

-Chết đi… thằng khốn… mày phải chết…

Vô Phong biết rõ vũ khí của Si Giáng. Nó vốn là hai thanh kiếm, gọi là “Vĩ” và “Cầm”. Sau ngày Si Thăng chết, cả hai nhập thành một. Thanh kiếm Vĩ Cầm có thể tách đôi và siết cổ đối thủ bằng dây kim loại tổng hợp; giả sử Si Thăng còn sống và phối hợp với Si Giáng, Thú đã đứt đầu từ lâu. Thần Nê Mê đang phù hộ cho Si Giáng. 

Nhưng thần Nê Mê tính nợ giữa người với người, không tính nợ với quái vật.

Bị chém, bị bắn, bị đâm, bị trói chặt nhưng Thú không cạn sức. Con quái vật gồng lưng đẩy ngược chân Si Giáng, sau đó chạy giật lùi đẩy cả hai vào gốc cây, tán lá rung dữ dội rũ tuyết. Cả tấm lưng bị va đập, Si Giáng choáng váng và vô thức buông dây kim loại. Được giải thoát, con quái vật gầm lên vui sướng rồi quay lại bóp cổ cô gái nhấc bổng lên. Si Giáng nghẹt thở, chỉ kịp quay ra nhìn Vô Phong, môi mấp máy:

-Chạy… chạy đi…

Thú cười hỉ hả. Con quái vật vung đao đâm lủng ngực cô gái, máu túa dòng chảy đẫm tuyết. Si Giáng thở hấp hối, bàn tay cố gắng cào cấu gương mặt Thú trong bất lực. Gã quái vật kính râm cười, sau rút đao, ném cô gái đi như quăng đồ vật đã hết giá trị. Gã khạc nhổ đống máu:

-Chà, chà! Thật mệt à nha! Giờ thì tao với mày tiếp tục nói chuyện nhé, Phong? Ủa, Phong…? Ủa? Ủa??? Mày đâu rồi? Ủa? Mày đâu rồi, Phong? Mày trốn đâu rồi? Sao lại trốn thế? Tao chưa nói chuyện xong với mày mà?

Trước mặt Thú, tên tóc đỏ đã biến mất. Con quái vật kính râm mò tới chỗ Vô Phong vừa nằm, quệt dấu máu vào lưỡi rồi nhai nuốt, hít hửi. Gã cười:

-Ồ không, mày không đi đâu. Mày đang ở đây, mày đang chơi trốn tìm với tao, đúng không? Tao biết mà! Cục cưng Vô Phong bé bỏng của tao không bỏ rơi tao! Chúng mình chơi trốn tìm, nha? Tao đi tìm mày, nha? Ôi chu choa, bé cưng Vô Phong muốn chơi kìa! 

Con quái vật khom người hít hửi, bò trên đất bằng cả tay lẫn chân như con chó săn mồi. Cách đấy chục mét, Vô Phong ẩn mình giữa lùm cây và nín thở quan sát Thú. Hắn không còn khả năng chiến đấu, chất độc đã lan khắp cơ thể, thương thế vượt quá sức chịu đựng. Hắn chỉ còn cách trốn, nhưng trốn tới bao giờ và tới khi nào trước con quỷ đeo kính râm kia thì hắn không biết. Lúc này, con quỷ đó hết trườn mình trên tuyết lại dò dẫm các gốc cây, vừa săn lùng con mồi vừa ngêu ngao:

-Bé Vô Phong ơiiiiiiiii! Bé Vô Phong ààààààà! Có nghe thấy tao nói gì không? Ra đây chơi nào! Bé Vô Phong ààààà! Ôi chu choa, ra đây nào, rồi chúng ta cùng chơi! Hi hi hi!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 18: Cổ tích


Chẳng ai trong đội Thổ Hành biết rõ Thú bằng Hắc Hùng, nhưng nó cũng chỉ giới hạn ở “biết” chứ không phải “hiểu”. 

Khi còn loanh quanh thế giới trên phi thuyền Thần Sấm, sau mỗi buổi luyện tập là tên tóc đỏ đổ vật ra sàn, vừa thở dốc vừa nghe Hắc Hùng tán chuyện. Chuyện phiếm lăng nhăng, hắn nghe câu được câu chăng và nhiều lúc bỏ ngoài tai. Nhưng có một hôm tên tóc đỏ chưa mệt đến mức ù đặc hai lỗ nhĩ, còn gã đội trưởng Thổ Hành ngứa mồm thế nào lại nói về Thú. Lúc ấy, Hắc Hùng rất nghiêm túc. Suốt cuộc nói chuyện, Vô Phong chẳng thấy gã cười. Đó không phải là đội trưởng Thổ Hành thích khoe hàm răng trắng bóng mà Vô Phong biết. 

“Thú… hừm… tôi không biết nhiều về nó. Phải, cậu không nghe nhầm đâu. Là “nó”, không phải “hắn”, vì Thú là “thú”. Tuy ở cùng đội nhưng nó hiếm khi chịu sự quản lý của tôi, cũng ít hoạt động cùng thành viên khác. Không ai muốn gần Thú và nó cũng không muốn gần ai. Nhưng vậy cũng tốt, Thú hiệu quả hơn khi hoạt động độc lập. Trong đội, nó chỉ nghe lời tôi, đơn giản là tôi từng tiễn nó vào bệnh viện. À, lần đấy tôi cũng vào bệnh viện. Ngoài ra nó cũng nghe lời các pháp quan kiểu chó vẫy đuôi chủ. Nhưng các pháp quan già yếu tay chân khòng khèo, còn Thú là con chó dữ. Người già đừng nên dắt chó, cậu hiểu chứ? 

Thú đến từ đâu? Tôi không rõ. Ai rảnh hơi hỏi con chó đến từ đâu hoặc sinh ra từ cái ổ nào? Tôi chỉ biết rằng Thú là thành viên Thổ Hành đầu tiên. Hội Đồng Pháp Quan chỉ định tôi làm đội trưởng và tuyển lựa thành viên nhưng khi tôi đến, Thú đã ở đấy từ trước. Đám pháp quan đùn việc dắt chó cho tôi, họ là một lũ khôn lỏi. Thú bao nhiêu tuổi ư? Tôi không chắc. Nó từng nói mình chỉ mười tuổi, khi lại nói đã hơn trăm tuổi. Nhưng có một sự thật là nó biết rất nhiều. Tôi từng dạy cậu những quy luật của “trò chơi đi săn”, vậy cậu nghĩ tôi có giáo trình? Không, tôi học điều đó từ Thú. 

Đừng để con quái vật ấy đánh lừa, tóc đỏ. Nó sẽ làm vài hành động ngu xuẩn, thốt ra vài câu đần độn, cười hi hi ha ha như không thể kiểm soát hành vi. Nó làm như thế để người ta xao nhãng vẻ ngoài của nó là một con quái vật cao hơn hai mét, khắp cơ thể chứa đầy vũ khí và sở hữu mọi giác quan nhạy bén hơn con người. Nó không mang bất cứ đặc điểm nào của loài người. Nó là con quái vật từ trong ra ngoài, từ linh hồn đến da thịt, chỉ trừ bộ óc. Trừ bộ óc! Nó là tập hợp giữa bản năng thú vật, vũ khí giết chóc và được quản lý bằng bộ não con người. Cậu không thể đe dọa, không thể uy hiếp, không thể bẻ gãy tinh thần của Thú. Tại sao ư? Vì quái vật không sợ người, chỉ có chúng ta sợ nó. 

Nếu một ngày phải đối đầu Thú, hãy chạy trốn, hoặc nếu phải chiến đấu thì hãy dốc mọi thứ mà cậu đang có. Mọi thứ! Như thể ngày mai chẳng bao giờ đến! Đâm chém nhiều, bắn hết cả băng đạn chẳng có nghĩa lý với Thú; mà phải bẻ gãy từng khúc xương, chặt đứt từng phần thân thể của nó, sau đó châm lửa đốt tới khi không còn mảnh vụn. Trong lúc đốt, đừng lại gần vì rất có thể con quái vật sẽ nhào ra bóp cổ cậu. Nhưng như thế chưa phải là chấm hết, bởi lẽ con quái vật đó sẽ ám ảnh cậu nhiều năm liền từ giấc ngủ, bữa ăn, thậm chí đi vệ sinh, và chúng sẽ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình – nếu cậu có ý định lập gia đình. 

Thực ra, dù muốn dù không thì Thú cũng giết cậu, nó sẽ giết được một cái gì đó của cậu. Khi đối đầu nó, cậu sẽ mất niềm tin vào loài người, sẽ phải thắc mắc tại sao Vạn Thế để một giống loài như nó tồn tại và phải chăng cây mẹ gửi nó đến Tâm Mộng để trừng phạt con người?

Vậy nên hãy cầu nguyện từ bây giờ, tóc đỏ, rằng Thú sẽ không mò tới cậu. Cứ để con quái vật sống trong lời kể. Đừng thì thầm, đừng hát, đừng gọi tên nó, đừng làm sống dậy những cổ tích. Cổ tích đẹp với trẻ con nhưng là cơn ác mộng với người lớn. Cậu biết nguồn gốc cổ tích chứ? Chúng bắt nguồn từ ác mộng và được vẽ ra bởi những kẻ điên. Khi đủ điên, cậu sẽ viết ra cổ tích.” 

Hồi đó, Vô Phong chỉ nghe cho vui, nhưng chuyện phiếm ngày nào nay đã thành sự thật. 

Lúc này, hắn nằm trong thế giới cổ tích chuyên hù dọa trẻ con: rừng tuyết, bóng tối, sương mù ken đặc quánh dính, ánh trăng lạt lòa như sữa loãng pha nước, từng đợt gió lạnh chặt phạt không gian. Và một con ngoáo ộp. Ở đây, hắn là đứa trẻ không chịu lên giường ngủ, ham thích rong chơi và lỡ sa vào tầm tay của con ngoáo ộp. Quái vật đang săn lùng đứa trẻ tóc đỏ.

-Mày đâu rồi, Phong? Mày đang ở đâu nhỉ? Tại sao mày không ra đây chơi với tao? Ngoan nào, bé tóc đỏ yêu quý, bé ham chơi quá rồi, giờ bé phải về nhà thôi! Ôi chu choa, mày đang ở đâu? Bé Vô Phong ơiiiiii! Bé Vô Phong àààààà! Ra đây nàoooooo! Hi hi hi!

Tiếng cười của con quái vật vọng khắp cánh rừng nhưng Vô Phong chẳng thấy nó. Sương mù giăng kín không gian, giấu giếm những âm thanh ma quỷ đang cào mặt tuyết, lẩn quất dưới gốc cây hoặc xào xạc trên tán lá. Tai mắt bị bưng bít nhưng Vô Phong không nhọc công tìm kiếm Thú. Hắn biết rõ Thú sẽ không xuất hiện trừ phi con quái vật muốn thế. “Trò chơi đi săn” đã bắt đầu. Nhưng trái với lần ở Mù Thủy, bây giờ Vô Phong là thỏ, là con mồi. Còn Thú là sói, là thợ săn.

Gió ào ạt, rừng lá kim nghiêng mình. Từ các nhành cây, tuyết rỏ xuống lẫn vào sương mù như đường quậy sữa, thi thoảng làm rớt tinh thể băng rơi lụp bụp. Gió chốc chốc luồn lách, thổi bụi tuyết qua những trảng sáng ánh trăng rồi mất hút vào bóng tối. Càng về đêm, hai mặt trăng càng sáng tới nỗi gần như hòa lẫn màu tuyết. Ở phương bắc, trăng luôn rực rỡ hơn cả và không nơi nào trên thế giới sánh bằng. Nhưng khác mặt trời, ánh trăng chỉ đứng im ở nơi nó ngự trị rồi tự vun vén cái lộng lẫy cho bản thân, tuyệt không bố thí cho khung cảnh xung quanh, ích kỷ vô cùng. Cả khoảnh rừng lẫn lộn giữa màu trăng sáng, màu sương mù mịt cùng màu bóng tối đen kịt. 

Đâu đấy trong những mảng màu, Thú lẩn quất còn Vô Phong ẩn nấp. Đứng từ ngoài nhìn vào, dẫu cặp mắt tinh tường nhất cũng không thể tìm ra bọn họ. Thợ săn và con mồi giấu mình rất kĩ, cả hai đều thuộc nằm lòng mọi quy tắc của “trò chơi đi săn”. Tuyết đã vùi dấu máu, gió đã xua hơi tanh lẫn mùi mồ hôi, tiếng rít ù tai từ các Kẽ Nứt vọng lên giấu giếm hơi thở. Kẻ đi săn và kẻ bị săn không dùng ngũ quan bình thường để tìm nhau mà kiên nhẫn đợi chờ, dựa vào trực giác để cảm nhận đối thủ. 

Cả hai đang rình mò nhau trong một trận chiến im lặng. 

Ngay lúc này, chỉ Vạn Thế mới biết Vô Phong đang vùi mình cạnh một gốc cổ thụ lá kim. Hắn nằm sâu xuống lòng tuyết, để phần bề mặt che lấp thân thể rồi đùn lên thành một đụn nhỏ, một nửa khuất lấp trong bóng tối còn nửa kia chuồi ra khoảnh trăng sáng. Mái tóc được buộc chặt, mắt đeo kính nhìn đêm, súng và kiếm sẵn sàng bật dậy bất cứ lúc nào – Vô Phong đã chuẩn bị mọi thứ.

Nhưng thời gian không ủng hộ Vô Phong. Thuốc đang hết tác dụng, chất độc ngấm dần phủ tạng tên tóc đỏ. Chất độc tựa bó dây thừng từng giây từng phút cuốn vào, co kéo từng đoạn xương chực mở phanh lồng ngực. Chết rục như con cá đông lạnh hoặc lao ra sống mái một lần – Vô Phong có hai lựa chọn. 

-Bé Vô Phong ơiiiiii? Bé Vô Phong ààààà? Bé đang ở đâu đấyyyyy? Ra đây chơi nàoooo!

Con quái vật ngêu ngao hát. Vô Phong không nghe, gió đã làm nhiễu âm thanh nên dùng thính giác xác định vị trí là vô ích. Cơn đau lồng ngực phát tác ngoạm chặt chín phần não bộ, chỉ chừa cho Vô Phong một phần đầy rẫy sợ hãi lẫn thương tổn – quá ít để nhờ cậy trực giác. Giờ hắn chỉ tin tưởng kính nhìn đêm, máy móc công nghệ không biết nói dối. 

-Bé ơi bé à, bé à bé ơi, mau ra đây chơiiiiiiiii! Cục cưng Vô Phong đâu rồi? Tóc đỏ đâu rồi? Sao tao không thấy mày nhỉ? Sao tao không ngửi thấy mày? Ôi chu choa, kỳ vậy ta? Mày định chơi trốn tìm với tao đến bao giờ?

Giọng nói bất thình lình cất lên. Đương thở phù phù vì đau vì lạnh, Vô Phong bỗng câm bặt như bị cắt lưỡi. Giọng nói to, rõ, ngay cả gió cũng không thể lấn át. 

Thú đang ở gần đây. 

Tệ hại hơn, con quái vật thở phà phà ngay sau lưng hắn. Không cần ngoảnh lại, Vô Phong cũng biết Thú đang trườn bò bằng tứ chi, sục mũi xuống tuyết hít hửi, bộ răng bịt sắt thi thoảng cạp cạp bâng quơ nếm vị không khí. Chưa đầy mười bước chân nữa, Thú sẽ đến chỗ hắn. 

-Hình như tao biết mày ở đâu, tóc đỏ! Tao sắp tìm ra rồi! – Con quái vật hỉ hả – Đừng chạy nhé! Tao đến liền nàyyyy! 

Tiếng sục tuyết chậm rãi tiến đến. Vô Phong định nhổm dậy chiến đấu nhưng bất khả. Chất độc phát tác mạnh bó chặt thân thể tên tóc đỏ. Dưới lớp tuyết, hắn nín thở cầu mong Vạn Thế thương xót. Đối mặt cái chết mà không thể phản kháng, không thể kêu la, hắn chưa bao giờ sợ Tử Thần như lúc này. Hắn thà tan xác pháo ở chiến trường Tuyệt Tưởng Thành còn hơn chết rục ở xó xỉnh thế giới và bị một con quái vật gặm nhấm đánh chén. 

Con người không sợ chết, mà là sợ cái chết không theo ý mình. 

Một trận gió tràn qua tạt bụi tuyết. Vô Phong nghe thấy bước di chuyển của Thú chậm dần, sau dừng hẳn. Có lẽ con quái vật đang phân vân. Gió đã thổi bay mùi và làm cái mũi thính nhạy của nó mất phương hướng. Thú dậm chân bình bịch, ngoạc mồm gào liên hồi:

-Bé ơi bé à, mau ra đây chơi nàoooo! Cục cưng Vô Phong bé bỏng đâu?! Tao đến rồi nàyyyy! Ra đây chơi nào!

“Trò chơi đi săn” tối kị ồn ào nhưng Thú thuộc đẳng cấp khác. Con quái vật sử dụng ồn ào như một vũ khí tra tấn tinh thần khiến con mồi có động thái chống trả. Ngay lúc con mồi – vì quá sợ hãi – rời vị trí ẩn nấp cũng là lúc Thú mang cái chết ập đến. Thú có thể cảm nhận sự tồn tại của Vô Phong song không biết vị trí chính xác, gã đang ép buộc tên tóc đỏ lộ diện. Nếu không phải vì cơn đau, Vô Phong đã tự cuốn mình vào trò chơi của con quái vật.

Chờ mãi không thấy động tĩnh, Thú thay đổi kế hoạch. Thay vì ồn ào, con quái vật lặng lẽ di chuyển với những bước chân câm lặng, giống hệt con mèo. Dù ở rất gần nhưng Vô Phong không thể nghe hay cảm nhận bất cứ âm thanh nào. Mãi tới khi một cái bóng lừ lừ lọt vào tầm mắt, hắn mới biết Thú ở sát sạt mình, chỉ cách nhau tầm hai mét. Hai mét! – Vô Phong nín thở. Trong kính nhìn đêm, Thú hiện lên với thân hình đen sì không rõ mặt mũi, chỉ thấy chiếc kính râm phản chiếu mặt trăng như hai con ngươi tròn vo rực sáng. Con quái vật ngó quanh ngó quất, bất thình lình ngoạc mồm hát rõ to, ca từ méo mó tuôn qua hàm răng bịt sắt nhểu dãi:

Bé ơi bé à, bé à bé ơi

Đêm đã khuya rồi, mau ra đây chơiiiiiii…

Đừng làm con ngoan, đừng biết nghe lời

Mau rời chăn êm, mau rời nệm gối

Trốn nhà mau thôi, khám phá điều mớiiiiiiii!

Đi nào, đi nào, rồi bé sẽ thấy:

Có bà tiên tốt, mắt đỏ tai dơi

Có ông thần đẹp, lợi rụng răng rơi

Có chú quỷ nhỏ, lưỡi dài miệng hôi

Có nàng thiếu nữ, da lở xương rời

Ôi chu choa, ôi chù chòa! Oa oa oa! Bé đừng khóc mà! Hà hà hà!

Bé à bé ơi, bé ơi bé à

Chớ lưu luyến mẹ, đừng nhớ bóng chaaaaa…

Rừng già cưa gỗ, xương khô kéo xà

Sao mờ trộn vữa, trăng lạnh dựng nóc

Cùng ở lại nhé?! Hai ta xây nhààààà!

Ở đây, ở đây, rồi bé sẽ thấy:

Ta đốt lửa trại, cùng bày tiệc nhaaaaaa?!

Món quay vừa chín, chén đĩa dọn ra

Tay thui, chân nướng, kia món súp óc

Thịt tươi kết lá, máu đỏ đơm hoa

Tinh tinh! Tinh tinh! Tinh tinh! Giờ ăn đến rồi, ôi chu choa, ăn nào cả nhà! Oa oa oa! Bé đừng khóc mààààà!

Chớ lưu luyến mẹ, đừng nhớ bóng chaaaa!

Họ ở trên đĩa, trông thật đẹp ha? 

Bé về làm chi? Ở đây vui màààààààà!

Con quỷ hát ông ổng, bóng dáng đen kịt dần biến mất vào lớp sương dày. Đợi nó khuất hẳn, Vô Phong mới dám thở nhẹ. Hắn nhận ra toàn thân đang run lên, thiếu chút nữa vãi ra quần. Hắn thực sự sợ hãi. Đáng lẽ trước đây hắn nên làm theo lời Hắc Hùng: trở thành con chiên ngoan đạo của Vạn Thế rồi cầu nguyện ngày này đừng đến. Nhưng nó đã đến, đã ở đây và chờ đợi thời khắc phán xét. 

Lồng ngực co thắt dữ dội, Vô Phong không kìm nổi, miệng túa máu lẫn dãi dớt. Không phải tưởng tượng mà hắn cảm nhận rõ một lỗ thủng đang xuất hiện ở ngực mình, cơn đau lúc nhúc bên trong như có đàn dòi bọ ăn sống quả tim. Tên tóc đỏ chẳng mảy may nghi ngờ nếu vài phút nữa lồng ngực của mình thủng toang hoác rồi quả tim rớt xuống cùng phèo phổi lòng thòng. Hắn cũng chẳng còn sức để chạy thoát ra vùng đồng bằng, mà kể cả chạy được thì Thú cũng bắt kịp. 

Vô Phong vẫn còn một sự trợ giúp. Nó đang gào thét đòi giúp đỡ nhưng hắn bỏ qua. Hắn là người, không phải Thú, không phải quái vật.

Giữa lúc con quái vật vẫn hát ông ổng vọng khắp cánh rừng, Vô Phong bỗng chú ý những khoảng sáng ánh trăng. Tại đó, ánh trăng bạc chói mắt như được rọi từ đèn cao áp cỡ lớn. Nó hòa lẫn màu tuyết, làm cây cối bụi cỏ hiện lên mờ mờ tựa những nét phác thảo bằng bút chì. Nghĩ ngợi một lúc, tên tóc đỏ tháo dây buộc tóc đoạn lẩm nhẩm:

“Vô Phong là đồ cà tẩm!”



Chiếc dây buộc tóc bùng lửa. Ngọn lửa vàng cam cuộn hình con báo rồi chồm lên cây cao, thiêu đốt hàng chục hàng trăm nhành cây lá kim. Giọng hát loa rè kệch cỡm của Thú liền câm bặt như tay ca sĩ lần đầu bước lên sân khấu bị khán giả la ó. Trong chốc lát, khoảnh rừng bị hun đốt, cháy rụi từng mảng lớn nhỏ. Lửa chỉ tồn tại vài phút rồi tắt ngấm trước gió táp xứ tuyết, nhưng cũng đủ khoét sâu tán rừng cho ánh trăng tràn xuống. Mặt đất tối tăm bên dưới xuất hiện thêm nhiều khoảng sáng mới xen kẽ bóng tối. 

Nhân lúc ấy, Vô Phong vùng dậy chạy sang vùng sáng. Bằng vẻ mặt thản nhiên như không, hắn bỗng dang tay cười cợt:

-Mày muốn gặp tao vậy sao, Thú? Chúng ta chưa bao giờ nói chuyện tử tế với nhau, nhỉ? Vậy ra đây xem nào? 

Thú không trả lời. Vô Phong tiếp tục:

-Ra đây coi, Thú! Nói chuyện tử tế một lần xem! Mày muốn gặp tao cơ mà?! Sao giờ im mồm thế?! Ồ, mày sợ sao? Mày bắt nạt được những kẻ yếu hơn, nhưng tại sao mày sợ tao vậy? 

Không gian rợp gió lẫn lửa tàn, hoàn toàn không có câu trả lời cho Vô Phong. Nhưng tên tóc đỏ thừa biết kẻ địch đang chuẩn bị. Thú dễ dàng xác định Vô Phong ngay từ lúc hắn cất lời – con quái vật sở hữu thính giác tốt gấp nhiều lần người thường; chỉ là Thú đang tự hỏi tại sao tên tóc đỏ tự làm lộ vị trí và phán đoán xem có cạm bẫy hay không. Tên tóc đỏ lại cao giọng: 

-Sao nào, thằng ngợm? Mày chỉ biết hù dọa thôi à? – Vô Phong gằn giọng nén cơn đau – Ồ, tao biết, mày chỉ là thằng ngợm bò dưới chân mấy lão pháp quan. Mày làm ghế ngồi cho lão già Trần Độ lâu chưa? 

Gió cợn rợn tiếng lá xào xạc, tiếng lửa lom dom cháy dở, Kẽ Nứt vọng lên tiếng ù ù. Tên tóc đỏ không nghe thấy trong gió có bước chân di chuyển hay hàm răng nhai nuốt gầm gừ. Nhưng hắn biết Thú đang tới. Đó là quy tắc tối quan trọng trong “trò chơi đi săn”: hai bên đều cảm nhận được sự tồn tại của nhau. 

Vô Phong khom lưng cúi người trên tuyết ghìm cơn đau, đồng thời sẵn sàng phản đòn dù không biết Thú sẽ tấn công từ hướng nào. Hắn thở:

-Mày chỉ biết dọa người khác thôi, Thú à! Mày tấn công người khác khi họ không thể phản kháng. Hay là chúng ta thương lượng? Mày để tao đi, đợi tao khỏe, chúng ta đánh nhau tiếp nhé?! 

Gió cuốn vù vù át mọi tạp âm, bụi tuyết tựa sóng cuốn tràn qua che mờ dấu chân lấp đi dấu máu, bóng dáng tên tóc đỏ thoáng chốc biến mất. Trang phục trắng trên người hắn đã đồng điệu với ánh trăng lẫn tuyết. Nếu Thú vô hình trong bóng tối thì Vô Phong ẩn dạng dưới ánh trăng. Đây là cuộc chiến lẩn lút giữa trắng và đen, giữa người và quái vật, tất cả sẽ kết thúc chỉ sau một hoặc hai lần chạm mặt.

Đột nhiên từ sương mù, một bóng đen xồ ra cùng bàn tay móng vuốt. Thú đã tới nhưng chỉ tóm được tuyết lẫn tinh thể băng. Gã bị phơi bày dưới ánh trăng, từng mảng cơ thể đen đúa bị bóc tách thành các múi nhỏ ám máu tởm lợm. Thú cúi xuống hít hửi, hy vọng lần được mùi Vô Phong còn sót lại. Gã sục mũi vào tuyết như con chó săn tìm mồi, nhưng chẳng tìm thấy gì ngoài một chùm lựu đạn đã kích hoạt giờ nổ. Con quái vật nhe răng cười:

-Ồ… đau đấy!

Lựu đạn thay phiên nhau cày xới đất và Thú. Con quái vật văng ra, thân thể nồng mùi khói găm đầy mảnh lựu đạn, một phần mặt bị thổi bay lòi cả xương. Nhưng xương Thú gắn đầy kim loại lẫn vi mạch, nom như một cỗ máy đắp da người. Thú đã kịp quăng chuỗi lựu đạn ra xa trước khi chúng băm nát thân thể gã – Vô Phong chọn sai thời điểm nổ. 

Chưa hết choáng vì vụ nổ, Thú lại trông thấy một con báo lửa chạy tới. Nó vồ vập, cào xé gã bằng bộ vuốt bỏng rãy. Không thể đánh một thứ vô định hình, Thú bỏ chạy. Gã trèo lên cây, chuyền thân từ cây nọ sang cây kia nhằm thoát con báo lửa song vẫn chú mục xuống dưới để tìm Vô Phong. Bản năng săn mồi bảo gã rằng tên tóc đỏ sẽ chiến đấu tới cùng thay vì bỏ trốn. Không gian quánh mùi khói đốt nhưng Thú vẫn ngửi thấy hơi thở chết dần chết mòn mà con mồi đang phát ra. Gã biết Vô Phong không thể chạy. 

Con báo lửa hộ mệnh dần biến mất, để lại vô số vệt cháy sém khắp thân cây hoặc mặt tuyết. Từ tán cây trên cao, Thú nương nhờ bóng tối rồi quan sát mặt đất. Gã nhìn vài khe Kẽ Nứt thổi gió u u, những gốc cây và các đụn tuyết. Thằng tóc đỏ đang loanh quanh ở đây! – Gã khẳng định. Trực giác, thính giác, khứu giác, nhãn quan… hết thảy đều đồng tình với Thú. Vẫn là quy tắc căn bản nhất “trò chơi đi săn”: thợ săn và con mồi cảm nhận được nhau.

Thú đảo mắt. Gã tập trung các gốc cây nhiều hơn vì con mồi thường chọn một điểm tựa khi ẩn nấp thay vì phơi mình giữa địa hình trống trải. Vả lại Vô Phong từng là lính, từng tham gia chiến tranh. Một tên lính dày dạn kinh nghiệm luôn tìm đến những điểm tựa như vậy. Thú biết tất cả, bởi gã là thợ săn. 

Con quái vật ngó nghiêng hồi lâu, hốt nhiên dừng lại ở một đụn tuyết thuộc khoảnh sáng ánh trăng. Cái đụn nằm giữa đá tảng và gốc cây, gần một Kẽ Nứt. Nó giống như bao đụn tuyết khác nhưng bên cạnh còn sót lại một dấu giày mờ. Thú tiếp tục quan sát, nhận ra bề mặt phía trước đụn tuyết phẳng lì hơi thái quá – dấu hiệu cho thấy một bàn tay đã cố gắng dọn dẹp hiện trường. Gã tin chắc dưới lớp tuyết phẳng lì đó là một thanh kiếm, còn ẩn trong cái đụn tuyết bình thường kia là con mồi.

Nghĩ tới đó, Thú lặng lẽ chuyền cành. Cái đụn tuyết vừa cẩn thận vừa sơ hở đó là tác phẩm của con người. Nó được vun đắp bằng bàn tay nhiều kinh nghiệm nhưng không thể tính toán tất cả. Đầy hoàn mỹ mà cũng đầy mâu thuẫn, đầy thông minh mà cũng ngu ngốc vô cùng, loài người trong mắt Thú là như vậy. Từ bóng tối, gã nhảy bổ xuống vùng ánh sáng như tên bắn cùng điệu cười sằng sặc:

-Bé cưng ơi! Ta đến nèèèèèè!

Con quái vật vung bộ vuốt đâm sục nền tuyết, giáng toàn bộ trọng lượng lẫn tốc độ vào cú đánh. Mặt đất nổ đùng, tuyết văng tung tóe. Bật lên trước mắt gã là thanh Pháo Tép màu đen xám. Nhưng chỉ có kiếm, không có người. Vô Phong không ở đây. 

Khoảnh khắc đó, Thú nhận ra mình sai lầm. 

Và cũng khoảnh khắc đó, Vô Phong từ đụn tuyết cách đấy năm bước chân trồi dậy, lấy hết sức bình sinh nhằm tới Thú cùng thanh Bộc Phá. Thú biết con mồi nghĩ gì còn Vô Phong biết thợ săn nghĩ gì. Đó là quy tắc khác trong “trò chơi đi săn”: thợ săn và con mồi có thể đổi chỗ bất cứ lúc nào. 

Nhưng rồi Vô Phong khuỵu chân, mũi kiếm chệch hướng. Chất độc đã tàn phá chút tỉnh táo cuối cùng trong đầu hắn. Thú kịp lách mình né tránh trước khi Bộc Phá nhồi đầy dung dịch nổ cày tung mặt đất. Vô Phong gục người, hai tay không thể cử động vì dư chấn vụ nổ, ngực áo đẫm máu tươi. Thú bật cười:

-Mày thắng, tóc đỏ. Lâu rồi tao không đi săn nên ngu ngốc rồi! Mày thắng, tao ghi nhận! Nhưng mà, cục cưng tóc đỏ àààà, tới giờ cục cưng theo ta về nhà rồiiiiii! Hi hi hi!

Tên tóc đỏ lảo đảo đứng dậy, tâm trí hoàn toàn phó mặc cho tế bào Ngục Thánh điều khiển. Nhưng trước khi hắn kịp làm gì, Thú đã vung đao. Máu đỏ tuôn rơi, cánh tay trái văng lên không trung như cành cây bị chặt đứt. Nó rớt bịch xuống, cũng là lúc Vô Phong đổ gục. Cổ họng hắn đã đông cứng, không một tiếng thét cũng chẳng một tiếng kêu la. 

Giờ chết đã điểm.

Vô Phong ôm cánh tay bị đứt bò lết trên tuyết, miệng sủi bọt trắng. Ngày lúc này, hắn cần lắm một phép màu cổ tích. Nhưng chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành dạy hắn rằng chẳng có cổ tích nào tồn tại. Thú nhẩn nha bước theo, đâm thẳng một đao xuống bắp chân tên tóc đỏ. Đao đâm xương xuyên thịt cắm ngập tuyết, Vô Phong không thể lết thêm. Con quái vật giật chiếc ba lô trên lưng Vô Phong rồi vật ngửa hắn ra. Chiếc ba lô văng tung tóe đạn dược, quần áo, con búp bê vải từ Át Sa và cả hộp đựng di cốt Biệt Liên Đa Xuyến. Mảnh di cốt lăn lóc trên tuyết ám máu Vô Phong. Nhưng Thú chẳng quan tâm. Con quái vật cười nhe bộ răng bịt sắt:

-Tao không thích giết mày! Tao quý lắm, cục cưng tóc đỏ à, lắm lắm lắm ý! Nhưng Hội Đồng Pháp Quan bảo tao giết mày, vậy thì làm sao đây? Ôi chu choa, khó nghĩ làm sao, đau đớn làm sao! Nhưng tao có một cách! Hãy để tao ăn mày, và mày có thể tồn tại vĩnh viễn trong thân thể này! – Gã vỗ vỗ bụng – Tao ăn mày rồi, chúng ta có thể cùng nhau làm điều mình muốn! Chúng ta không cô đơn nữa! 

-Mày… mày ăn… bao nhiêu rồi? – Vô Phong gặng hỏi.

-Mày là đứa thứ một trăm mười bảy(117)! Hi hi hi! – Thú cười – Thôi, tao đói lắm rồi! Tao ăn nha!

Không lời tiễn biệt, Thú vung đao. Đao lạnh sắc nhễu đầy máu sắp làm thịt Vô Phong. Tên tóc đỏ chịu thua, ngay cả tế bào Ngục Thánh cũng không thể giúp hắn. Cửa chết khai mở, hắn bắt đầu hối hận. Chỉ cần nghe lời Ngục Thánh, để mất nhân tính một chút, có lẽ hắn đã sống lâu hơn. 

Lưỡi đao lạnh chặt xuống như xé tan không gian. Nhưng bất thình lình một luồng sáng tím đỏ bùng lên đẩy ngược con quái vật. Thú loạng choạng suýt ngã. Gã thò cổ nhỏng như kền kền dõi xem chuyện gì vừa xảy ra. Giờ đây, phía trước Vô Phong là một ảo ảnh màu tím đỏ tuôn ra từ di cốt Biệt Liên Đa Xuyến. Ảo ảnh đó mang hình dáng một phụ nữ tóc đen dài, dáng cao gầy mặc váy truyền thống của người Diệp quốc, xinh đẹp tựa nữ thần giáng thế. Nhưng với Thú, vẻ đẹp loài người không có nghĩa lý. Gã cười hỉ hả:

-Thấy rồi… thấy rồi nha! 

Nói rồi gã lao tới vung đao. Cô gái ảo ảnh giương tay ngăn chặn, một tấm khiên tím đỏ xuất hiện đánh bật Thú. Con quái vật văng xa hơn trước. Thú điên cuồng lao vào mà không sao phá nổi tấm khiên. Vô Phong nheo mắt nhìn cảnh tượng kỳ lạ rồi ngắm cô gái ảo ảnh, thốt lên:

-Mục Á? Sao lại là cô…? Sao lại là cô… Mục Á…?

Nghe thấy Vô Phong, ảo ảnh nọ quay lại cùng nụ cười. Đó là tất cả những gì Vô Phong nhìn thấy trước lúc ngất đi. Mục Á, bằng cách nào đó đã trở về từ cõi chết để cứu hắn. 

Phía bên kia, Thú đã mất kiên nhẫn. Con quái vật gồng mình sẵn sàng đợt tấn công kế tiếp. Nó sẽ đánh cho tới khi đoạt lại con mồi. Nó đang đói. Nhưng cơn đói chưa làm Thú mất lý trí. Con quái vật cảm nhận được một thứ gì khác đang tiến đến. Một thứ gì đó kinh khủng và đầy áp lực. Gã ngoảnh lại, nhận ra một cô gái tóc vàng xuất hiện từ sau gốc cây. Thú nhe răng cười:

-Mày là ai nhỉ? Ồ, mày muốn trở thành đứa một trăm mười tám(118) sau cục cưng tóc đỏ sao? Ôi chu choa, đêm nay nhiều món ghê! Này cục cưng tóc vàng, cưng tên gì?

Cô gái nọ cởi áo khoác, bỏ ba lô, lôi ra một thanh kim loại hình trụ chữ nhật rồi đáp cụt lủn:

-Mi Kha. 

Dứt lời, Mi Kha vận lực, đôi mắt xám bỗng chuyển thành lòng đen tròng trắng, cùng với nó là nỗi sợ khủng khiếp từ thế giới người chết. Thú bỗng chốc cứng người, đôi chân vô thức lùi bước. Quái vật tàn bạo hơn con người nhưng lại biết sợ hơn con người. Gã lắc lắc đầu:

-Cái này… không vui à nha…

Mi Kha lướt người tấn công, thân thể nhòa vào gió tuyết. Thanh kim loại trong tay cô ả tách đôi để lộ ra một lưỡi kiếm thẳng và mỏng. Hai mảnh kim loại chập nhau làm cán, lưỡi kiếm bật lên làm mũi, cơ chế y hệt dao bướm. Mi Kha dậm bước chân cuối cùng, tay vươn đến đâm kiếm thẳng vào một gã Thú đã bất động vì sợ hãi. Kiếm như mũi khoan xoay thủng ngực, xoáy tung những khớp xương gắn kim loại, thục sâu quả tim đương đập thình thịch. Lực đâm mạnh tới nỗi đẩy văng Thú đi một đoạn dài kéo lết nền tuyết. Mi Kha lầm lũi bước tới. Con quái vật ngẩng đầu thở dốc:

-Không vui rồi… không vui rồi… từ từ đã… ôi chu choa… xin đừng mà…

Thú trăn trối chưa hết, Mi Kha đâm thêm một kiếm thủng cổ gã. Con quái vật thở bục máu, lưỡi lè ra đầy dãi nhớt. Cô nàng tóc vàng rút kiếm đoạn đạp Thú. Con quái vật lăn xuống một Kẽ Nứt, thân thể va đập vách đá côm cốp rồi bị đáy vực đen ngòm nuốt chửng. 

“Trò chơi đi săn” kết thúc. 

Mi Kha trở lại chỗ Vô Phong, nhận ra cô gái ảo ảnh vẫn ở đó. Nhờ Mắt Trắng, không quá khó để cô nàng đoán ra đấy là Mục Ngỗ Á. Hồi tới Khẩu Lỗ thành, Mi Kha từng nhìn thấy hình dáng sinh mệnh bên trong Mục Á, nó tương đồng với ảo ảnh này. Bất quá thứ ảo ảnh không toàn vẹn, dường như chỉ là một phần ý thức còn sót lại tại thế giới thực. Mi Kha đoán rằng khi Vô Phong tìm hiểu ký ức của Mục Á, một phần suy nghĩ từ Mục Á cũng thâm nhập rồi trú ngụ ở tiềm thức tên tóc đỏ. Căn cứ theo lý thuyết “mộng lưu” mà Thát Khan xây dựng rằng ý nghĩ tư duy là một dạng vật chất, thì việc Mục Á ký thác ý thức của mình vào tên tóc đỏ không phải chuyện lạ. 

Nhưng Mục Á cố ý hay vô tình? – Mi Kha không biết. Và tại sao cô ta bảo vệ Vô Phong? – Mi Kha không thể giải thích. Là cổ tích hay sự ngẫu nhiên? – Mi Kha lắc đầu chịu thua. Thế giới Tâm Mộng vốn đầy rẫy bí mật mà chẳng có câu trả lời. 

Ảo ảnh Mục Á nhìn Mi Kha, hơi cúi đầu rồi biến mất vào di cốt. Sẽ mất một thời gian nữa, Mi Kha mới hiểu chính xác tại sao Mục Á có thể xuất hiện nhờ di cốt họ Biệt Liên. Nhưng giờ đó không phải chuyện mà cô nàng quan tâm. Mi Kha cởi áo Vô Phong, phát hiện một lỗ thủng toác hoác trên ngực tên tóc đỏ cùng trái tim bị ăn mòn chảy rữa. Hắn cũng không còn mạch đập, toàn thân bất động. “Đừng có chết chứ, tóc đỏ?!” – Mi Kha tự nhủ. 

Không gian vang động tiếng chó sủa cùng ánh đèn pin. Đội cứu hộ Băng Hóa quốc đã đến. Họ nhanh chóng sơ cứu cho Vô Phong rồi đặt gã lên cáng. Mi Kha thu dọn mớ đồ đạc vung vãi trên tuyết, chợt nhận ra con búp bê vải. Tên tóc đỏ không bao giờ biết con búp bê đó chứa một sợi tóc của mình. Khi hắn ở dinh thự họ Cát Giá, con bé Át Sa đã lấy tóc hắn để làm bùa hộ mệnh. Nhờ vậy, con búp bê vải trở nên đặc biệt trong thế giới Mắt Trắng vốn chỉ tồn tại một số ít màu sắc, và chỉ riêng nó mang sắc đỏ. Cũng nhờ con búp bê mà Mi Kha tìm thấy Vô Phong giữa Vương Quốc Cũ rộng lớn.

Đội cứu hộ mang Vô Phong ra khỏi rừng cùng hộp di cốt. Nhưng tên tóc đỏ không phải người duy nhất nằm trên cáng. Người thứ hai là Si Giáng – Mi Kha tìm thấy cô gái trên đường đi. Thú đã đâm thủng ngực Si Giáng mà chẳng thể ngờ trái tim cô gái có dị tật bẩm sinh là nằm lệnh hẳn về bên phải. Cô gái chảy nhiều máu nhưng không nguy kịch. Có vẻ nữ thần báo thù Nê Mê vẫn phù hộ cho Si Giáng. 

Lát sau, phi thuyền cứu hộ rời Vương Quốc Cũ. Gió tuyết vẫn mịt mùng như chính tương lai của mảnh đất này. Mi Kha hết nhìn Si Giáng lại ngó sang Vô Phong. Bên cạnh tên tóc đỏ, máy đo nhịp tim đứt quãng, mãi hồi lâu mới vang một tiếng “tít” khô khốc. Gương mặt Mi Kha vẫn lạnh tanh nhưng bàn tay cô nàng bất giác vần vò mái tóc đỏ. Trông gương mặt Vô Phong chìm vào máy thở, Mi Kha nghĩ thầm:

“Đừng có chết! Chúng ta chưa xong nợ với nhau đâu!”

“Trò chơi đi săn” từng xuất hiện Quyển 3, Chương 77
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 19: Dọn dẹp vệ sinh


Sáu tiếng, năm mươi phút và Đa Lạt đang chờ đợi kim giây nhích lên số bốn mươi. “Sáu, năm, bốn” – ông học giả mong chờ một dãy số liền mạch như thế; nó không có ý nghĩa hay gợi nhớ sự kiện đặc biệt nào, chỉ đơn giản là thú vui cá nhân. Thói quen này xuất hiện từ ngày Đa Lạt chập chững vào nghề điều phối thương lượng. Với Đa Lạt, những con số khô khốc có cái hay riêng: tuân theo công thức, lớn nhỏ rõ ràng, tuần tự, chính xác, không phàn nàn về vai trò của mình. Chúng tao nhã duyên dáng hơn hẳn loài người vốn ưa tranh cãi đòi quyền lợi. 

Sáu tiếng, năm mươi phút, bốn mươi mốt giây. Dãy số đẹp không còn. Đa Lạt thở dài. Khoảnh khắc đẹp chỉ tồn tại một giây, mà mớ bòng bong ở dinh thự Ẩn Lý Thị đã kéo dài hơn sáu tiếng đồng hồ. 

Băng Hóa quốc nằm cách Diệp quốc một hoang mạc Đồng Gió cộng thêm một Bắc Thần quốc. Dù thuộc hai liên minh đối nghịch nhưng hai quốc gia hiếm khi đối đầu trực tiếp, họ cũng chẳng nói nhiều về nhau. Cùng là xứ tuyết nhưng người Băng Hóa thích quây quanh bàn rượu, còn người Diệp quốc thu mình trong góc nhỏ với ấm trà nóng. Trên bàn đàm phán, Đa Lạt ở con đường bên này, vợ chồng Ẩn Lý Điền Chức mãi tít ngả đường xa xăm bên kia; hai bên chẳng tìm được lối rẽ chung. Giống hệt thứ lịch sử nhạt nhẽo giữa hai quốc gia mà thậm chí nước lã vẫn đậm đà hơn. 

Dù vậy, giữa cuộc thương lượng bế tắc nứt ra một kẽ sáng le lói là Ẩn Lý Thị tạm hủy cuộc báo thù. Vì quá thương tiếc cháu gái, ông bà Điền Chức đã bỏ sót hai chi tiết và chỉ khi nghe pháp sư Thôn Cơ cắt nghĩa, họ mới vỡ lẽ. Thứ nhất: họ cần Vô Phong sống nếu muốn nghe lời trăn trối từ cháu gái. Điều thứ hai: nhiều bằng chứng về thân phận của Mục Á đang nằm trong tay tên tóc đỏ. Danh hiệu “vũ nữ thần linh” thuộc về Ẩn Lý Thị, nhưng nó phải được thông qua bởi một hội đồng thẩm định gồm hoàng gia và đại diện các dòng họ lâu đời ở Diệp quốc. Ông bà Điền Chức không thể khơi khơi khắc dòng chữ “vũ nữ thần linh” lên bia mộ cháu gái – mọi thứ đều có luật. 

“Hai người tuy già nhưng chưa đủ già với luật lệ Diệp quốc…” – Pháp sư Thôn Cơ nói với vợ chồng Điền Chức – “…Đừng quên Mục Á từng làm gái điếm, như vậy quá thừa để hội đồng hủy bỏ tư cách kế thừa danh hiệu của cô bé. Không phải mọi vũ nữ thần linh đều xuất thân cao quý trong sạch, song rất hiếm. Liệu Mục Á nằm trong số hiếm đó? Liệu hai người đủ sức chống lại hội đồng thẩm định? Tất nhiên hai người có thể phản kháng hội đồng và khắc danh hiệu lên bia mộ cô bé, nhưng các dòng họ khác sẽ nghĩ thế nào? Hai người có thể chịu đựng điều tiếng hay dị nghị? Hỡi ôi Vạn Thế, tôi không phải kẻ lắm điều, mà bởi xứ sở này lắm điều hơn cả mụ đàn bà ưa cằn nhằn nhất! Hai người đã hiểu hay vẫn muốn tiếp tục báo thù?” 

Ít nhất là có tiến bộ! – Đa Lạt tự động viên. Nhưng ông không dám chắc lệnh hủy nhiệm vụ đã đến tai đội hộ giả dòng họ Ẩn Lý. Vương Quốc Cũ xa xôi cách trở, sóng điện thoại kém, e chừng mệnh lệnh chưa đến nơi thì tên tóc đỏ đã cứng xác dưới tuyết. Mới hưởng chút lạc quan, ông học giả lại nhận cục bất an to đùng. 

Một thứ bất an to tướng khác là gia đình họ Thát, sự xuất hiện của họ chỉ khiến Đa Lạt thêm lạc lõng. Bên kia bàn đàm phán, vợ chồng Điền Chức có gã doanh nhân Đổng Ngư mau mồm mau miệng biết nhiều thứ về Mục Á, và gã chỉ là tình nhân. Trong khi gia đình họ Thát – những người đằng nhà chồng của Mục Á – lại im như hến và để Đa Lạt chống đỡ mọi thứ, bởi lẽ vốn liếng từ ngữ mà họ dành cho cô con dâu vốn chỉ loanh quanh “con điếm” hoặc “Sukka”. Không khó để pháp sư Thôn Cơ nhận ra mối quan hệ tồn tại mà không tồn tại giữa Mục Á và họ Thát. Con đường đưa di hài Mục Á về phương bắc lại càng xa hơn, hệt khoảng cách từ Diệp quốc đến Băng Hóa. 

Cốc trà trong tay ông học giả đã nguội mà chưa vơi nổi một giọt. Ông không uống vì suy nghĩ đã lấp đầy dạ dày và đang ợ lên thực quản. Vừa lúc đó, người Ẩn Lý Thị thông báo cuộc đàm phán sắp tiếp tục. Đa Lạt uể oải gật đầu đoạn ngó đồng hồ. Ở Diệp quốc đang là trưa ngày 6 tháng 4, nhưng ở Vương Quốc Cũ đã đêm tối và chỉ vài tiếng nữa là kết thúc hạn định mà đại thống lĩnh Khai Y đặt ra từ ngày 7 tháng trước[1]. Tuy còn rất ít thời gian nhưng Đa Lạt bỏ ngay ý nghĩ xin thỏa thuận lại. Bởi ông không nghi ngờ gì Khai Y sẽ rộng lượng đồng ý làm thỏa thuận mới cùng vô số điều kiện kèm theo. Ấy là bản sắc người Băng Hóa. “Người Băng Hóa không bao giờ tốt!” – Ông tự nhủ.

Các bên trở lại bàn đàm phán. Ông học giả thôi ngó đồng hồ. Ông không muốn người Ẩn Lý Thị phát hiện mình bị áp lực thời gian đè nặng. Phía bên kia, hai vợ chồng Điền Chức vẫn bình thản như đã chuẩn bị cho một cuộc thương lượng dài hơi mà người chiến thắng cuối cùng là họ. Đa Lạt dự cảm mình sẽ mắc kẹt ở chốn này tận đêm khuya rồi bất lực nhìn Khai Y lật lọng thỏa thuận với gã tóc đỏ. Nghĩ tới đó, nỗi xấu hổ nghề nghiệp bên trong Đa Lạt tăng dần đều. 

Những ngả đường xa xăm chẳng bao giờ chạm mặt nhau, nhưng người ta có thể đào một lối rẽ hoặc xây một cây cầu gắn kết chúng. Vấn đề là người ta muốn làm hay không. Mà ở cuộc thương lượng này, chẳng ai chịu đứng ra. Như đã quá chán nản trước đám người thiếu thiện chí, pháp sư Thôn Cơ lên tiếng:

-Các vị giải lao đủ rồi chứ? Rất tốt, tôi cũng giải lao đủ rồi và tôi đã có suy nghĩ riêng. Chúng ta không thể tranh cãi như thế này, khi mà các vị luôn cho rằng Mục Á phải thuộc về bên này hay bên kia. Các vị nghĩ đúng, nhưng các vị chưa bao giờ hỏi ý kiến gia đình Mục Á. Tôi không nói ông bà Điền Chức, các vị đã từng là gia đình của Mục Á. “Đã từng” thôi! Xin hiểu cho! Gia đình của cô bé bây giờ là họ Thát, họ là người cuối cùng có liên hệ với Mục Á. 

Hết thảy mọi người ngạc nhiên rồi hướng cái nhìn chằm chằm vào nữ pháp sư, nhất là vợ chồng Điền Chức. Nhưng họ không cắt ngang, chỉ lặng im đợi vị quan tòa nhấp ngụm trà nóng. Thôn Cơ xuýt xoa một hồi, tiếp lời:

-Mục Á đã cưới Thát Khan, cô bé là người nhà họ Thát. Đàn bà Đông Thổ lấy chồng tức là thành người nhà chồng và không còn liên hệ với gia đình cũ. Tất nhiên chúng ta không thể sống mãi cùng mớ cũ kĩ như rêu mọc vách nhà đó, nhưng với các dòng tộc ở Diệp quốc, truyền thống là tất cả và các dòng tộc phải tôn trọng dù ít dù nhiều. Xin lỗi ông bà Điền Chức nhưng tôi phải nói rằng họ Ẩn Lý tạm thời không thể lưu giữ di hài Mục Á. Nếu hai người vẫn coi trọng tôi, xin hãy hiểu cho! 

Vợ chồng Điền Chức nhìn nhau song chẳng nói câu gì, sau rốt cùng cúi đầu trước nữ pháp sư. Thôn Cơ liền quay sang Đa Lạt:

-Mục Á có liên hệ với Băng Hóa quốc, là hậu duệ trực hệ của Biệt Liên Đại Đế; bởi vậy Băng Hóa có quyền giữ di hài cô bé. Nhưng đến giờ vẫn chưa có bất cứ bằng chứng nào ngoài gia phả và lời đồn đại về Biệt Liên Đa Xuyến – người duy nhất sống sót sau vụ thảm sát cách đây hơn bảy mươi năm. Các ngài cũng không thể chứng minh bà ấy là mẹ đẻ Mục Du Cổ, cha ruột Mục Á. Các ngài cũng không hề có tin tức về Mục Du Cổ vì anh ta đã chết ở Cội Gió. Cho tới khi chứng minh được quan hệ huyết thống giữa Mục Á với họ Biệt Liên, Băng Hóa quốc cũng không được phép giữ di hài Mục Á. Ta cần bằng chứng, và ta tin rằng hoàng gia Băng Hóa cũng cần bằng chứng để xác nhận vị nữ hoàng của họ. Ông bằng lòng chứ?

Hàm răng Đa Lạt mở ra như vừa có vật gì chẹn vào. Ông học giả muốn nói. Nhưng thương lượng là thế, kết quả cuối cùng luôn khiến mỗi bên kém hài lòng một chút. Vả lại ông cần một kết quả để thông báo với Khai Y. Không mất nhiều thời giờ, Đa Lạt gật đầu đồng ý. Vị nữ pháp sư bỏ qua gã doanh nhân Đổng Ngư rồi chuyển sang gia đình họ Thát:

-Từ đầu đến giờ, các vị không hề nói, không phản đối, không đồng tình. Nhưng tôi không coi đó là sự bàng quan, mà tôi nghĩ các vị khó xử. Thật khó chấp nhận rằng con trai mình đã mất, rằng người con dâu là hậu duệ Biệt Liên Đại Đế, rằng các vị là thông gia với dòng họ cổ xưa nhất Diệp Quốc. Cũng giống lúc tôi nhìn đứa con của mình già đi, bệnh tật, không thể tự đi vệ sinh, không biết nấu ăn, luôn đánh đổ mọi thứ trong nhà bếp; nó chẳng biết làm gì ngoài chơi với lũ mèo. Nhưng thế giới Tâm Mộng luôn đối xử với con người chúng ta như vậy, các vị sẽ hiểu. Giờ đây, các vị mới là người quyết định số phận di hài Mục Á. Chúng ta không thể để cô bé trong phòng lạnh, giữ sắc đẹp trường tồn bằng phép thuật lẫn hóa chất. Người Băng Hóa khác người Diệp quốc, chúng ta khác nhau, nhưng tôi tin chúng ta đều không bất kính với người chết. 

Trước vị pháp sư nhỏ bé, ông Thát Hãn bệ vệ bỗng rúm ró như cục giấy vò. Người đàn ông giàu có, uy quyền nhất Hoàng Hôn Cảng bỗng quay sang vợ và con trai tựa thể tìm kiếm lời khuyên. Rồi ông ta vuốt ngực áo như dằn xuống sự bỡ ngỡ, sau trả lời rành rọt:

-Thưa bà, là chúng tôi?! Việc này thật kỳ lạ, nhưng nếu phải vậy thì chúng tôi đồng ý. Nhưng chúng tôi có thể giúp gì cho Mục Á? Giúp thế nào?

-Không phải giúp mà là “quyết định”. Cũng không phải “Mục Á”, vì cô bé là con dâu của các vị, là thành viên gia đình họ Thát. Cô bé là con gái của ông bà. – Nữ pháp sư nhẹ giọng – Là cha mẹ, ông bà phải quyết định sẽ chôn cất con cái mình ở đâu. 

Gia đình họ Thát nhìn nhau ần hai. Dường như họ bối rối chưa biết xử lý thế nào trước một khái niệm mới. Pháp sư Thôn Cơ tiếp lời:

-Họ Thát có hai lựa chọn. Thứ nhất: nếu thực sự coi Mục Á là con dâu, ông bà hãy đưa di hài cô bé về Hoàng Hôn Cảng, cử hành lễ tang trọng thể và thông báo rộng rãi. Người Diệp quốc chúng tôi coi trọng tính chính danh. Lựa chọn thứ hai: nếu cảm thấy cuộc hôn nhân miễn cưỡng và rằng thân phận của Mục Á làm tổn hại họ Thát, ông bà có thể gửi trả di hài cô bé về Ẩn Lý Thị; những chuyện sau này của cô bé, Ẩn Lý Thị sẽ toàn quyền quyết định, không phiền tới họ Thát nữa. Trước khi vấn đề huyết thống tỏ tường, Mục Á vẫn mang danh gái điếm hoặc “Sukka” như người phương bắc gọi. Việc xác định danh phận cho Mục Á có thể mất nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, liệu họ Thát có thể chờ đợi ngần ấy thời gian? Liệu họ Thát có thể chịu đựng tai tiếng? Xin tùy ông bà quyết định. 

Người Băng Hóa lẫn Diệp quốc cố nhiên không thích ý tưởng này. Đa Lạt lên tiếng trước tiên:

-Chôn cất Mục Á ở Hoàng Hôn Cảng? Vậy khi xác định danh phận Mục Á, chúng tôi phải làm sao? 

-Hãy hỏi họ Thát. Di hài Mục Á đến Băng Hóa hay ở lại sẽ do họ Thát quyết định, các ông phải tôn trọng ý nguyện của gia đình cô bé. – Thôn Cơ đáp – Vả lại Hoàng Hôn Cảng thuộc phương bắc, vốn dĩ chẳng khác biệt so với Băng Hóa. 

Nữ pháp sư dứt lời, bà Điền Chức liền nói:

-Chúng tôi coi trọng truyền thống, thưa pháp sư. Chỉ là tôi nghi ngờ quyền hạn của họ Thát. Dù không mắt thấy tai nghe nhưng tôi biết cháu gái mình bị họ Thát xua đuổi. Họ từ chối để con bé bước lên thềm nhà mình, từ chối đối xử với Mục Á như một vị khách. Tại sao chúng tôi phải phó mặc số phận cháu gái mình cho những người như thế? 

Thôn Cơ chắp tay trên đùi, đôi môi khẽ mím lại vì khó xử. Ngay cả Đa Lạt cũng không thể phản bác trước sự thật rành rành. Cả căn phòng đương im lặng, bà Thát Hãn – vốn im lặng suốt buổi – chợt lên tiếng:

-Chúng tôi đã chấp nhận cô gái đó. Không… không… ý tôi là Mục Á! Gia đình tôi đã chấp nhận Mục Á là con dâu. Năm ngoái, Vô Phong đi tìm con trai tôi và tôi đã nhờ cậu ta gửi một bức thư, trong trường hợp cậu ta tìm thấy Thát Khan. Trong thư, chúng tôi khuyên thằng bé quay về cùng Mục Á. Hơn mười năm qua… gia đình tôi không gặp mặt Thát Khan, chúng tôi nhớ thằng bé. Chúng tôi chấp nhận rằng Thát Khan có chính kiến riêng và tự nó định đoạt cuộc đời mình. Vô Phong đã gặp lại gia đình tôi, cậu ta nói Thát Khan không chọn lầm người. 

Nói rồi bà Thát Hãn trao thư. Vị nữ pháp sư nhận lấy, đọc một hồi. Được ít phút, nữ pháp sư ngẩng đầu:

-Vô Phong nhận thư này? Cậu ta biết chuyện gia đình bà không? Ý tôi là cậu ta đã biết họ Thát chấp nhận Mục Á? 

-Cậu ta biết một chút, nhưng không phải tất cả. – Bà Thát Hãn trả lời – Sự việc tế nhị, tôi không thể giãi bày trước người ngoài…

Đương chăm chú nghe, bà Ẩn Lý Điền Chức chợt xen vào:

-Bà vẫn nói với anh chàng Vô Phong đó rằng Mục Á là “Sukka”, như ngôn ngữ mà người phương bắc gọi? 

Bà Thát Hãn nhất thời á khẩu, cuộc thương lượng trở nên căng thẳng vì hai người phụ nữ. Pháp sư Thôn Cơ nhìn đôi bên, nhìn bức thư, nhìn một nơi xa xăm nằm ngoài căn phòng. Như đã quyết định, vị nữ pháp sư đứng dậy nói:

-Hãy đợi khi có tin tức của Vô Phong. Anh chàng tóc đỏ là nhân chứng duy nhất, là người gỡ rối tất cả nút thắt. Anh ta phải sống. Không có Vô Phong, chúng ta thiếu đi phần lớn câu chuyện và tất cả sẽ ra về trong bực bội. Hãy cầu Vạn Thế rằng Vương Quốc Cũ hay đội hộ giả Ẩn Lý Thị chưa nuốt chửng anh ta. Nhưng việc cần làm thì phải làm trước tiên. Xin hãy quyết định, thưa ông bà Thát Hãn. Tất cả chúng tôi đợi các vị!

Thời khắc quan trọng nhất đã đến, cả căn phòng nín thở. Đa Lạt có nghe về họ Thát ở Hoàng Hôn Cảng. Họ trọng danh dự lẫn sĩ diện hơn bất cứ ai, hơn mọi dòng tộc ở phương bắc. Giờ mang tiếng có con dâu hành nghề gái điếm thực là nỗi sỉ nhục với họ. Ngay lúc này, Đa Lạt cầu cho thứ sĩ diện ấy bị đánh đập bầm dập bởi lòng yêu thương con cái của ông bà Thát Hãn.

Dân phương bắc không phải quái vật, họ vẫn là con người. 



Khi cuộc thương lượng ở Diệp quốc đến hồi kết và các bên liên quan bắt tay nhau tạm thời làm hòa, thì tại vùng tây bắc Băng Thổ, một chiếc phi thuyền cứu hộ hạ dần độ cao. Nó đáp xuống một quân doanh cách Vương Quốc Cũ khoảng ba trăm cây số về hướng nam. Lúc này là mười giờ đêm ngày 6 tháng 4. Từ phi thuyền, hai chiếc giường cứu thương lướt ra khỏi khoang chứa. Chúng bay lơ lửng, mang theo Vô Phong và Si Giáng. Cả hai người phải nhờ máy hỗ trợ thở, khắp thân thể gắn dây truyền dịch duy trì sự sống. Theo sau họ là binh lính cùng Mi Kha. 

Đoàn người khẩn trương tiến vào quân doanh rồi dừng lại trước phòng cấp cứu. Phần còn lại thuộc về y bác sĩ. Qua ô cửa kính, Mi Kha trông thấy tên tóc đỏ bị lột trần, ngực thủng một lỗ toác hoác to bằng nắm đấm, cánh tay trái đứt lìa và phần còn lại của nó đang nằm trong hộp đá. Ở phòng bên cạnh, bác sĩ lẫn y tá đang chuẩn bị máy kích tim để cứu một Si Giáng đã ngừng thở. Máu đỏ thoáng chốc chảy tong tong quanh bàn mổ, chấm những chấm sậm màu lên căn phòng trắng tinh. Mi Kha lặng lẽ theo dõi từng cuộc phẫu thuật, ánh mắt chăm chăm vào những mũi dao lưỡi kéo đang thọc sâu vào hai cơ thể bất động. Người bình thường có thể sợ nhưng Mi Kha nhìn mấy thứ này đã thành quen. Tuổi thơ lẫn công việc hiện tại của cô ả luôn gắn liền với hai gam màu trắng – đỏ. Một màu sạch sẽ đến tức mắt, còn màu kia đậm đặc dính nhớp. 

Đồng hồ chậm chạp nhích từng giây, nhưng hễ con người nhãng đi là nó phi nhanh như ngựa chạy. Mi Kha đứng mãi, đứng mãi, tới lúc ngó xuống thì thấy ngày mới đã bắt đầu được mười phút. Vừa lúc ấy cửa phòng cấp cứu Si Giáng bật mở, đám y bác sĩ trở ra cùng tin tức tốt lành. Si Giáng vừa thoát khỏi tay Tử Thần, có điều vài phần cơ thể sẽ được thay thế bằng bộ phận cơ sinh học.

Nhưng bên Vô Phong lại khác. Căn phòng đó vẫn im lìm với cánh cửa đóng chặt, y bác sĩ hối hả dao kéo, những bàn tay đeo găng y tế nhuộm đầy máu, dụng cụ phẫu thuật chất đống và loang đỏ trong khay nước. Gương mặt đám bác sĩ ý tá bối rối thấy rõ, bởi họ chẳng tìm được loại máu phù hợp với Vô Phong, cũng như phải cứu chữa một quả tim đã chảy rữa quá nửa. Trông bọn họ, Mi Kha bất giác âu lo. Cô ả không muốn tên tóc đỏ chết sớm như thế.

-Hắn sẽ ổn thôi. Chúng ta đều muốn hắn sống, cô bé, vì hắn phải sống để trả nợ. 

Mi Kha ngoảnh lại tìm người vừa mở lời. Nhận ra đó là đại thống lĩnh Khai Y, cô nàng liền cúi đầu chào trả. Vị đại thống lĩnh tươi cười, ôm lấy cô ả một cách thân tình đoạn tiếp lời bằng giọng trầm ấm:

-Ta có lời cảm ơn cô, Mi Kha, dù rằng ta không hề yêu cầu và đáng lẽ cô không nên xuất hiện ở Vương Quốc Cũ. Nhưng vì những gì cô đã làm hay đang làm cho Băng Hóa, ta sẽ coi như cô là vị cứu tinh thay vì một kẻ nhiều chuyện. Thực sự là cô đã giúp ta. 

-Vô Phong nợ tôi tiền và ông giáo sư Đốc Lãm, thưa ngài. – Mi Kha trả lời – Tôi chỉ đòi hỏi quyền lợi chính đáng. 

-Ta hiểu. Nhưng có lẽ cô nên quên ông giáo sư Đốc Lãm là vừa. – Khai Y nói.

Vị đại thống lĩnh mang theo một mớ tin tức chẳng hề vui vẻ. Đội cứu hộ Băng Hóa không tìm thấy giáo sư Đốc Lãm, ông ta đã mất tích. Bốn tay lính đánh thuê đi theo đoàn chết gần hết, chỉ còn gã Mông Nhão sống sót. Đáng tiếc nhất là đoàn khảo cổ vô tình bị cuốn vào cuộc chiến; ông trưởng đoàn Pháp Lãi chết vì tai nạn phi thuyền, những thành viên còn lại bị giết ở Tàn Tích Lớn – chẳng ai biết người nào hay cái gì đã sát hại bọn họ. Điều duy nhất an ủi Mi Kha là hai thành viên Lạn Bà và Vong Liêm vẫn sống. Đội cứu hộ tìm thấy Vong Liêm trong rừng, gã này gãy hai chân và được Vạn Thế phù hộ mới không lọt vào mũi của bọn quái vật rúc nhủi. 

Đương nói chuyện, điện thoại trong túi áo của đại thống lĩnh réo vang. Nhìn số gọi tới, Khai Y ngẫm nghĩ một chút rồi bắt máy trả lời. Ông ta nói chuyện tự nhiên và chẳng hề quan tâm Mi Kha đang đứng kế bên: 

-Đa Lạt? Anh bạn tròn vo đấy à? Ồ, cậu có tin tốt? – Khai Y nói – Hừm… hừm… ồ… ra vậy?! Ồ, ra vậy! Hừm… vậy ư? Chẳng phải ta nói rằng cậu nên nghỉ dưỡng thay vì quan tâm chuyện ở đó? Nhưng được thôi, nếu Ẩn Lý Thị nói vậy thì đó quả là tin tốt. Giao kèo? Chà, cậu vẫn nhớ giao kèo giữa chúng ta ư? Ha ha, được thôi, như ý cậu, ta sẽ để yên cho gã tóc đỏ. Vậy nhé, nghỉ ngơi đi, anh bạn! 

Đại thống lĩnh tắt máy sau quay sang Mi Kha. Không giấu giếm, không chơi chữ hoặc quanh co ngôn từ, Khai Y kể cho cô ả nghe bí mật về hậu duệ Biệt Liên Đại Đế, mục đích chuyến đi tới Vương Quốc Cũ và những thỏa thuận với tên tóc đỏ. Hai người nom như cha con đang tâm tình. Người cha tin tưởng cô con gái; hay nói đúng hơn là người cha biết rằng cô con gái sẽ giữ mồm giữ miệng. Bởi lẽ vị đại thống lĩnh biết Mi Kha đang dự tính chuyện gì ở quê nhà Biên Ngoại thành nhưng ông ta làm ngơ, đổi lại Mi Kha phải giữ kín chuyện ở Vương Quốc Cũ. Họ tự ngầm thỏa thuận trong trò chơi trao đổi. 

-Hơi phức tạp một chút! – Khai Y nhún vai vẻ bất đắc dĩ – Xin lỗi vì chuyện giáo sư Đốc Lãm cũng như không giải thích rõ ràng từ đầu, nhưng ta có cái khó, mong cô hiểu. Được rồi, cô nên nghỉ ngơi, mọi chuyện để ta lo.

Vị đại thống lĩnh vỗ vai Mi Kha thay lời cảm ơn, đồng thời muốn nói rằng cô ả đã hết nghĩa vụ ở nơi này. Nhưng Mi Kha không phải con cừu dễ bảo. Thay vì ra đi im lặng, cô nàng ở lại cùng nỗi thắc mắc:

-Trước khi vào Vương Quốc Cũ, tôi đã ghé qua trại gia súc, nơi nghỉ chân dành cho người thám hiểm Vương Quốc Cũ. Ông chủ trại là một kẻ khó chịu, bẩn tính, thiếu hợp tác. Bởi vậy, tôi phải dùng Mắt Trắng nhằm làm ông ta thân thiện hơn. Ông ta nói rằng vào đêm mà đoàn Vô Phong nghỉ chân, có ba người đã sử dụng cái máy phát sóng cũ mèm ở đó để gửi tin nhắn. Theo ông ta mô tả, ba người đó là Si Giáng, giáo sư Đốc Lãm và tay đánh thuê Mông Đồng. Kiểm tra cái máy, tôi phát hiện họ đều gửi tin đến tài khoản MPA-7221908, đó là tài khoản của đám “bốc mả”.

-Có chuyện như thế sao? – Khai Y ngạc nhiên. 

Mi Kha gật đầu xác nhận rồi tiếp lời:

-Đám “bốc mả” hiểu rằng sẽ gặp vô số rắc rối khi công khai tài khoản. Nhưng vì tình thế cấp bách, bọn họ phải làm vậy. Để giảm thiểu rắc rối, họ chỉ công khai tài khoản đến những nhân vật cấp cao nhất của giới đánh thuê hoặc tình báo. Dân đánh thuê đồn thổi truyền tai nhau suốt nhưng thực sự chẳng mấy ai trông thấy mặt mũi tài khoản của đám “bốc mả”. Mông Đồng đã rời khỏi giới đánh thuê từ lâu nên không biết, giáo sư Đốc Lãm càng không thể biết. 

-Vậy còn Si Giáng? Ý cô là… Si Giáng thông báo? – Khai Y hỏi. 

-Không, vì con bé làm việc cho tôi, thưa ngài. – Mi Kha đáp – Cũng giống ngài, tôi cần Vô Phong sống để trả nợ, vậy nên tôi muốn Si Giáng thông báo lịch trình của gã tóc đỏ ngay khi có thể. Con bé đã làm vậy nhưng sai địa chỉ. Hẳn là Si Giáng không hề biết mình gửi tọa độ cho lũ “bốc mả”. Nếu người chị Si Thăng còn sống, con bé Si Giáng sẽ không bao giờ phạm sai lầm như vậy. 

Ông đại thống lĩnh chau mày:

-Sai lầm kiểu nào mà nhắn tin cho lũ “bốc mả”? Ai đã cho cô ta số tài khoản? 

Nói nhiều buồn mồm, Mi Kha rút điếu thuốc. Cô ả rít hơi dài, miệng phả khói thuốc như bễ lò hừng hực đang thổi lửa đúc khuôn những thanh kiếm sắc lạnh:

-Si Giáng quá trẻ cho nghề đánh thuê, nó chưa tới sinh nhật mười tám tuổi. Từ ngày mất người chị, con bé ngơ ngẩn ít nhiều, tiêu tiền vô tội vạ vào quần áo mỹ phẩm đắt tiền, thậm chí đánh bạc. Nó tiêu sạch số tiền kiếm được từ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, ôm khoản nợ rất lớn khoảng hơn một nghìn thùng vàng. Biết chuyện, tôi tạo điều kiện cho nó làm việc với Vô Phong. Con bé bỏ công sức, tôi trả tiền, sòng phẳng! Nhưng tôi phát hiện khoảng vài ngày sau khi cập bến Vương Quốc Cũ, tài khoản của Si Giáng đã nhận đủ tiền trả nợ trong khi tôi chưa thanh toán. Ai đấy đã trả nợ giùm con bé. 

-Vậy con nhỏ đó nhận tiền từ lũ “bốc mả”, làm lộ vị trí của Vô Phong? – Khai Y hỏi. 

-Ngay cả tôi còn không rõ số tài khoản lũ “bốc mả” thì Si Giáng không thể biết. – Mi Kha lắc đầu – Con bé đó chưa ngốc nghếch tới độ ấy, nhưng lại bị lừa phỉnh bởi một cái mồm dẻo quẹo. Cái mồm dẻo quẹo ấy hiểu rõ tôi đang nhờ Si Giáng bám theo tên tóc đỏ, và cũng nắm được tình hình con bé đang nợ đầm đìa. Có lẽ… cái mồm dẻo quẹo đó tự nhận rằng gã đang làm việc với tôi, và dối trá với Si Giáng rằng tôi đang dùng tài khoản MPA-7221908. 

Khai Y nhíu mày:

-Si Giáng không nghi ngờ gì? 

Mi Kha trả lời:

-Chắc vậy, bởi lẽ con bé bị thuyết phục đúng thời điểm đặt chân tới Vương Quốc Cũ. Nơi đó không có sóng điện thoại, không sóng mạng, tất cả đều phụ thuộc máy phát sóng cổ lỗ sĩ ở những trạm nghỉ chân. Hãy quay lại vấn đề. Khi đoàn Vô Phong đặt chân tới Vương Quốc Cũ, cũng là lúc bọn “bốc mả” công khai tài khoản, vậy làm thế nào mà Si Giáng, giáo sư Đốc Lãm và Mông Đồng biết chuyện trong khi không hề có phương tiện tiếp cận tin tức? Vì họ được cung cấp thông tin từ kẻ biết chuyện. Trong lúc đoàn Vô Phong tiến vào Vương Quốc Cũ, ba người khác là Vong Liêm, Lạn Bà và Mai Hoa ở bên ngoài lo hậu cần. Tôi biết Vong Liêm và Lạn Bà, họ đều có tài năng nhưng chỉ là lính đánh thuê bình thường, họ cũng không biết ăn nói lắm, chửi bới thì có thể. 

Khai Y gật gù:

-Vậy cái mồm dẻo quẹo đó là Mai Hoa.

-Tôi đoán vậy. – Mi Kha đáp – Dường như gã đã thuyết phục giáo sư Đốc Lãm, một người bất mãn với Băng Hóa quốc, rằng có người cần di cốt họ Biệt Liên. Ông giáo sư khốn khổ đó đã tin tưởng hoàn toàn. Và gã biết Mông Đồng là một tên đánh thuê giải nghệ đang túng thiếu, cái nghề giáo viên tiểu học không đủ bù đắp thói đỏ đen cờ bạc của Mông Đồng. Tên đó đã lợi dụng Vô Phong làm mồi nhử để dẫn dụ bọn “bốc mả”, gã biết bán đầu lũ “bốc mả” sẽ được nhiều tiền hơn, nhiều danh tiếng hơn. Cả ba người đều dùng chung một máy phát sóng, cùng một số tài khoản, bởi lẽ ấy lũ “bốc mả” mò đến. 

Thông tin nhiều nhưng ông đại thống lĩnh không biến sắc mặt, chỉ hỏi:

-Vậy cô tính sao với Mai Hoa? 

-Tôi biết làm gì đây? – Mi Kha cười – Nói sao nhỉ? Mai Hoa không tự dưng làm thế, nhất là khi Vô Phong có thỏa thuận với ngài. Gã không thể đối đầu Băng Hóa quốc nếu không có lợi ích. Nhưng tôi nghĩ một chuyện đơn giản hơn thế: gã làm vậy bởi vì chính ngài cho gã lợi ích, ngài mở đường để gã làm vậy. Nói cách khác, ngài mượn tay Mai Hoa đưa bọn “bốc mả” đến Vương Quốc Cũ. 

Sự im lặng nở phồng giữa Mi Kha và Khai Y. Trong một thoáng, Mi Kha hơi hối hận vì xổ toẹt với ông đại thống lĩnh. Cô ả không chắc mình tưởng tượng hay là Khai Y đột nhiên cao lớn, thân hình vạm vỡ trong bộ quân phục đen choán hết ánh sáng xung quanh. Rồi Khai Y bỗng cười ha hả:

-Cô nói gì thế, cô bé? Ta không hiểu?!

Mi Kha phân vân. Nếu nói tiếp, họ Cát Giá của cô ả có nguy cơ bị bóp nát. Nhưng nếu không nói, cô nàng tức muốn phát điên. Mi Kha ghét nhất bị người khác lỡm mặt hoặc thông đồng sau lưng mình. Như đã nghĩ kĩ, cô ả tiếp tục:

-Tôi chỉ phỏng đoán thôi, thưa ngài. Vô Phong sống hay chết đều có lợi cho ngài. Nếu hắn bị đám “bốc mả” giết, ngài có thể lấy đó mà thương lượng với Ẩn Lý Thị về di hài Mục Á. Ngài đâu tự nhiên có mặt tại quân doanh này? Tôi đoán ngài đã triển khai lực lượng bao vây Vương Quốc Cũ để ngăn lũ “bốc mả” trở ra. Nếu Vô Phong còn sống, ngài sẽ đem hắn làm vật trao đổi cho Ẩn Lý Thị, hoặc trao đổi vì mục đích lớn hơn. Kể cả không thể trao đổi, ngài sẽ giữ Vô Phong làm vật thí nghiệm, vì ngài biết hắn là Ngục Thánh – một vũ khí sinh học có giá trị. Ngay từ đầu, tên tóc đỏ đã ký vào một thỏa thuận không lối thoát. Giao kèo giữa ngài với ông Đa Lạt chỉ là thứ vớ vẩn, vì ngay từ đầu ngài đã trù tính lật lọng. Ngài thuê Mai Hoa vì không muốn nhúng tay trực tiếp. Tôi nói phải chứ? 

Nụ cười trên môi đại thống lĩnh nhạt dần, thay vào đó là một đường kẻ thẳng băng và lạnh lẽo. Chợt có tiếng bước chân cồm cộp vọng tới cắt ngang giữa hai người. Kẻ mới đến là Mai Hoa, gã vừa trở về từ Vương Quốc Cũ, trên tay xách theo một cái túi nặng trịch. Thấy bọn Mi Kha, gã cười giả lả định quay gót thì ông đại thống lĩnh gọi:

-Không cần đâu, anh bạn. Cô gái thông minh đây biết cả rồi. 

Nghe thế, con cú vọ bốn mắt cười tợn. Gã bước tới rồi đặt túi xuống đoạn mở khóa. Trong túi là một lô lốc thủ cấp của đám “bốc mả”, lẫn trong số ấy có đầu của Mông Đồng và ông giáo sư Đốc Lãm. Gã đánh thuê hám tiền lẫn ông giáo sư phản quốc đã hết giá trị. Phi Thiên dùng Thú xử lý cả đoàn khảo cổ vô tội nhằm bịt đầu mối, còn Khai Y dùng Mai Hoa dọn dẹp mọi thứ liên quan để phủi sạch trách nhiệm cho Băng Hóa. Đây là cuộc chơi dành cho những nhân viên vệ sinh. Mai Hoa liếc vào phòng Si Giáng, cười:

-Còn thiếu một cái đầu nữa thì phải? 

Mi Kha lừ mắt. Nếu không phải nể đại thống lĩnh, cô ả đã đè con cú vọ kia xuống đất và đấm vỡ bản mặt nhâng nháo của gã. Khai Y cất lời:

-Nếu đã biết thì cô định làm gì nữa, Mi Kha? Cô muốn cứu tên tóc đỏ hay định cản trở tôi? 

Ngay lúc đó, Mi Kha cảm thấy mình vô dụng. Rốt cục thẳng thắn toạc móng heo chỉ làm cô nàng sướng miệng chứ không thể giúp tên tóc đỏ. Thậm chí Mi Kha không chắc mình có thể yên phận rời khỏi quân doanh, bởi trước mắt cô ả là đại thống lĩnh Khai Y – một kẻ không biết đùa. 



Bên ngoài quân doanh, một chiếc phi thuyền khác vừa hạ cánh xuống bãi đáp. Từ phi thuyền có hai người trở ra và thẳng tiến đến cửa quân doanh. Người đi đầu là một phụ nữ trung tuổi với mái tóc bạch kim cùng gương mặt nghiêm nghị như một khối băng nhũ tua tủa gai. Nhận thẻ cá nhân từ bà ta, đám lính gác cổng ngạc nhiên:

-Là bà tổng giám sát? Chào bà! – Đám lính liền nghiêm mình chào kiểu nhà binh – Nhưng thưa bà, đại thống lĩnh đã có lệnh không ai được vào trong!

-Ta có việc quan trọng. – Bà tổng giám sát trả lời – Mệnh lệnh từ đại thống lĩnh áp dụng với tất cả mọi người, trừ tổng giám sát như ta. Vậy các anh để ta vào hay đứng ngoài cửa đây? 

Đám lính gác đành nhường đường cho người phụ nữ, họ sợ đại thống lĩnh Khai Y nhưng còn sợ người phụ nữ này hơn thế. Theo sau bà tổng giám sát là một người đàn ông khoác áo da, đầu đội mũ rộng vành dính đầy tuyết. Người này chào đám lính, chân tung tẩy như vừa tìm thấy một nơi thú vị. Đợi cánh cổng sau lưng đóng lại, gã đàn ông cười:

-Đừng như vậy chứ! Em cứ như thế thì bao giờ mới kiếm được chồng đây? Bộ em định như vậy tới già sao? Người ta không thích những cô gái giận dữ nữa là một bà già giận dữ. Em là bà già giận dữ đấy!

-Vậy thì TẠI AI? – Bà tổng giám sát nổi quạu – Ai bỏ chạy khi tôi muốn cưới? 

Gã đàn ông vội ôm vai bà tổng giám sát, cười cười nói nói:

-Được rồi, tại tôi, được chưa? Là tại gã Đại Bác tồi tệ này bỏ rơi em! Đừng giận! Nhanh lên nào, tôi muốn gặp lại ông bạn Khai Y quá! Sao vậy? Em còn giận ư? Để xem có căn phòng trống nào không? Hay chúng ta vui vẻ một tí rồi gặp Khai Y sau? 

Gã vừa nói vừa tiện tay bóp mông bà tổng giám sát. Người phụ nữ nổi cáu, đấm vai gã liên hồi. Gã đàn ông cười ngất. Khác đại thống lĩnh Khai Y, gã rất thích đùa.

[1]: xem lại Quyển 3 – Dao Găm, Chương 10. Khi đó là ngày 7 tháng 3. 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 20: Xứ thổ tả


Từ bé, Mi Kha tự biết mình đặc biệt, là tặng phẩm mà Vạn Thế gửi đến thế giới Tâm Mộng để mọi cá thể sống biết thế nào là “sợ”. Mọi thứ đều khiếp hãi trước Mắt Trắng của cô nàng. Nhưng Khai Y không nằm trong số đó – Mi Kha dám khẳng định như thế dù chưa từng thử sức với ông ta. Và chính cô ả mới là người phải sợ. Băng Hóa quốc dọa người bằng lịch sử đẫm máu, mùa đông tàn nhẫn và đại thống lĩnh Khai Y. 

-Hãy suy nghĩ, cô bé… – Khai Y nói, tay chắp sau hông như đang chọn lựa những kế hoạch mà ông ta sắp sẵn từ trước – …Biên Ngoại thành đang tái thiết, họ Cát Giá đang phục hưng, hàng gạch chưa khô vữa và đừng để nó ướt nước mưa. 

Mi Kha hơi dẩu mỏ, môi buộc túm lại những từ ngữ thiếu suy nghĩ. Ngày đầu đến dinh thự họ Xuy Hạ, Mi Kha tám tuổi rúm ró nấp sau lưng anh trai khi thấy ông đại thống lĩnh. Bây giờ, Mi Kha của gần hai mươi năm sau một mình đối diện ông ta, không sợ hãi, không rúm ró nhưng vẫn còn nguyên cảm giác về một người đàn ông như quả núi băng, sắt đá và cao vời vợi không thấy đỉnh. Tâm trí cô ả tập trung vào Khai Y đến nỗi không để ý điện thoại rung liên hồi trong túi quần. Đại thống lĩnh hất hàm, cười:

-Cô có điện thoại. 

Mi Kha rút điện thoại nhưng không rời mắt khỏi ông đại thống lĩnh. Ở đầu máy bên kia vang lên một giọng điệu sốt ruột:

“Chào, Tiểu Hồ đây! Cô đang ở đâu? Đã tìm thấy Phong chưa?” 

Bấy giờ Mi Kha mới liếc mắt sang màn hình điện thoại. Mười cuộc gọi nhỡ từ lúc cô ả còn ở Vương Quốc Cũ. Những rắc rối đang bắt đầu ập đến. Nếu từ chối Tiểu Hồ, cô nàng cùng họ Cát Giá sẽ trở thành mục tiêu kế tiếp của Ẩn Lý Thị; suy cho cùng, Mục Á chết do một phần lỗi từ Mi Kha. Nhưng nếu từ chối Khai Y, công sức gây dựng dòng tộc của cô ả bỗng thành xương cho chó gặm. Tiến thoái lưỡng nan, Mi Kha chỉ biết trách Vạn Thế khéo sắp đặt cho cô nàng dính vào ngôi sao quả tạ tóc đỏ. 

Sau một hồi cân nhắc nặng nhẹ, Mi Kha trả lời điện thoại:

-Chưa. Vương Quốc Cũ quá rộng lớn, tôi không thể đi hết mọi chỗ. Tôi không biết tóc đỏ đang ở đâu. Như mò kim đáy bể vậy!

Đầu dây bên kia không có phản hồi. Mi Kha nghe tiếng ồn ào vọng lại, phỏng chừng Tiểu Hồ đang ở đâu đó trên những con phố tấp nập của Diệp quốc. Âm thanh huyên náo bao nhiêu, Tiểu Hồ im lặng bấy nhiêu. Phụ nữ im lặng khi họ đặt nghi vấn. Không để nghi vấn biến thành nghi ngờ, Mi Kha tiếp lời:

-Tôi trở về trạm lấy thêm thực phẩm, nghỉ ngơi một chút rồi sẽ quay lại Vương Quốc Cũ. Nếu có tin tức, tôi sẽ thông báo cho cô. 

“Cảm ơn. Hy vọng cô giữ đúng lời hứa.” – Tiểu Hồ đáp.

Rồi cúp máy. Cuộc đối thoại kết thúc một cách cụt ngủn. Chừng đó đủ cho Mi Kha biết rằng mớ rắc rối mang tên “Tiểu Hồ” sắp bám vấy mình dài dài. Nhưng trên đời hiếm có sợi dây nào đủ vững chắc để người ta hết đu bên nọ rồi đu bên kia mãi, mà nếu có, sẽ có lúc họ phải chọn lựa trước khi dây đứt. Mi Kha đã có quyết định, và dĩ nhiên là ông đại thống lĩnh rất hài lòng:

-Cảm ơn cô bé! Không uổng công ta luôn tin tưởng cô và họ Cát Giá. Nếu rảnh rỗi, hãy đến thủ đô rồi ghé qua dinh thự họ Xuy Hạ, chúng ta luôn mở cửa chào đón cô. Mẹ của ta hay hỏi cô lắm! Đừng lo lắng về Si Giáng, ta đảm bảo sẽ chăm sóc con bé chu đáo. Và cả phần thưởng nữa. Si Giáng đã cứu gã tóc đỏ, phải chứ? 

Mi Kha im lặng. Đã rất lâu kể từ hồi gặp chị em Si Thăng – Si Giáng, cô nàng mới để tâm một kẻ xa lạ. Ở xứ sở coi trọng huyết thống dòng tộc hơn tất cả, nỗi niềm đó như món xa xỉ phẩm. Nó đến từ một đêm ở Đồng Gió, chỉ có vậy và chỉ như vậy. Người phương bắc phóng đãng, tranh thủ làm tình bởi họ tranh thủ yêu thương trước ngày trở giáo vào mặt nhau. Yêu thương chỉ một hồi còn phản bội là vĩnh viễn – tên tóc đỏ không hiểu điều đó. 

Phe đã chọn, phận sự đã hết, Mi Kha chẳng thể làm gì hơn. Cô nàng cúi đầu đoạn rời đi. Nhưng được mươi bước, cô ả quay lại, cặp mắt xám xoáy vào Mai Hoa:

-Mấy ngày nay, tôi mới biết rằng anh từng phục vụ đội tra khảo ở Đại Hội Đồng, sau chuyển sang làm việc cho Phi Thiên quốc. Anh từng dẫn người Phi Thiên tới sa mạc Hồi Đằng, phải chứ? 

-Phải, không sai. – Mai Hoa cười mỉm – Đó là một chuyến đi dài và thú vị!

Mi Kha gật gù như vừa xác nhận điều gì đó. Cô ả chỉ tay lên ngực, đáp lời:

-Chúng ta còn gặp nhau, chắc chắn thế! Sói chưa chết đâu, nó sẽ quay lại tìm anh. Còn một điều nữa… – Mi Kha hơi ngoảnh sang ông đại thống lĩnh rồi lại nhìn gã cú vọ – …leo núi thì lâu mà rơi xuống thì nhanh đấy! 

Cô ả ném cho Mai Hoa nụ cười đểu rồi bỏ đi. Vẫn nụ cười thường trực trên môi, gã cú vọ cúi đầu cho tới khi bóng dáng Mi Kha khuất hẳn sau cửa khu cấp cứu. Gã lau chiếc kính cận vấy máu, khóa chiếc túi đựng đầy đầu người để mùi tanh khỏi xộc lên và chen ngang cuộc nói chuyện với đại thống lĩnh Khai Y. Công việc chưa kết thúc, gã còn nhiều thứ phải làm, phải bàn bạc thêm. 

Cách đây hai tháng, hồi Vô Phong còn vật lộn ở sáu nước miền đông bắc lục địa, Mai Hoa nhận được cuộc gọi từ đại thống lĩnh Khai Y. Ông ta muốn sử dụng chính tên tóc đỏ để trao đổi với Ẩn Lý Thị. Đổi lại, Mai Hoa cần dẫn dụ đám “bốc mả” đến và giấu nhẹm sự can thiệp của ông đại thống lĩnh. Ba người Si Giáng, ông giáo sư Đốc Lãm cùng tay đánh thuê Mông Đồng bị gã biến thành ba con tốt thí. Hai trong số ấy đã về Tụ Hồn Hải, chỉ còn Si Giáng may mắn ở lại thế giới người sống. 

Nhưng sự tình bây giờ khác trước. Vô Phong không còn là món hàng trao đổi. Cuộc thương lượng giữa Đa Lạt và Ẩn Lý Thị đã thống nhất rằng tên tóc đỏ là nhân chứng duy nhất xác nhận thân phận cho Mục Á. Hắn cần được bảo vệ. Hết dày công sắp đặt kế hoạch rồi tiêu tốn cả mạng người, cuối cùng không thu được lợi ích, ông đại thống lĩnh cố nhiên khó chịu. 

-Ẩn Lý Thị ngừng báo thù, nhà họ Thát mang di hài Mục Á về Hoàng Hôn Cảng. – Khai Y cất lời – Ẩn Lý Thị cần gã tóc đỏ đối chất. Giờ ta mà đưa Vô Phong ra, coi như lỗ nặng. 

-Ngài tính làm gì với hắn? – Mai Hoa hỏi. 

-Chưa biết, nhưng chắc chắn hắn không thể ra khỏi Băng Hóa. Hãy coi như hắn đã chết ở Vương Quốc Cũ. – Khai Y trả lời – Dù sao chúng ta đã có di cốt Biệt Liên Đa Xuyến, chừng ấy là đủ chứng minh huyết thống hoàng gia cho Mục Á. 

Gã cú vọ nhìn vào phòng cấp cứu nơi Vô Phong đang nằm giữa vòng vây của dụng cụ phẫu thuật. Mọi quốc gia đều thèm muốn vũ khí mang thương hiệu Phi Thiên quốc, nhất là vũ khí sống như tên tóc đỏ. Là tướng lĩnh, là chính khách, Khai Y phải làm điều tốt nhất cho đất nước mình. 

Cửa khu cấp cứu tách đôi, Mai Hoa liền ngoảnh ra phía ấy. Gã thấy những người bước vào không phải y bác sĩ mà là một nam một nữ. Người nam khoác áo da đội mũ rộng vành, còn người nữ tóc bạch kim mặc quân phục đen của Băng Hóa quốc. Gã phỏng đoán hai người đều là khách không mời, bởi lẽ gương mặt ông đại thống lĩnh chẳng có sự chuẩn bị nào trước sự xuất hiện của họ. Mai Hoa lẳng lặng xách túi bước ra phía sau, để lại không gian cho Khai Y và hai vị khách lạ. Ông đại thống lĩnh ngạc nhiên:

-Tổng giám sát? Cô làm gì ở đây? Còn… Đạn Đạo? Sao cậu cũng tới? Chuyện này là thế nào? – Khai Y ngạc nhiên. 

“Tổng giám sát quân đội Băng Hóa là nữ à?” – Mai Hoa nghĩ thầm, ngạc nhiên chẳng kém. Trước nay gã luôn tưởng rằng vị tổng giám sát đó hẳn đã già cỗi, vai vế lớn hơn cả đại thống lĩnh Khai Y. Nhưng người phụ nữ kia nom mới trạc tuổi bốn mươi, trẻ trung, quý phái, chẳng có vẻ gì là lệu khệu sắp xuống lỗ. 

Khác nhiều quốc gia, Băng Hóa quốc có vị trí đặc biệt là “tổng giám sát”. Chức vị này quản lý tướng lĩnh, đảm bảo quân đội thực thi đúng nhiệm vụ. Năm xưa, vụ thảm sát họ Biệt Liên xảy ra vì các tướng lĩnh sở hữu quá nhiều quyền lực. Bởi vậy chức vị tổng giám sát ra đời và được trao vào tay một người trưởng thành từ khối dân sự, không phải người nhà binh như đại thống lĩnh Khai Y. Mai Hoa liếc mắt, thấy bảng tên trước ngực của người phụ nữ đề “Thác Đáo Lao Trâm”, thuộc dòng họ Thác Đáo vốn nhiều ảnh hưởng và nổi tiếng chẳng kém họ Xuy Hạ. 

-Tôi nghe tin ngài đang làm nhiều việc thiếu minh bạch. Mạn phép cho tôi hỏi: gã tóc đỏ kia là tội phạm bị truy nã? – Lao Trâm chỉ vào phòng cấp cứu – Tại sao một tên tội phạm lại có mặt trong quân doanh Băng Hóa chúng ta? Tôi yêu cầu một lời giải thích. 

-Và nguồn tin của cô là…?

Đại thống lĩnh đáp lời, đôi mắt hướng về Đạn Đạo. Gã tóc vàng Đạn Đạo cười tươi, tay phải giơ lên xác nhận đồng thời gửi lời chào cho người bạn cũ. Nữ tổng giám sát đến đây vì Đạn Đạo, còn Đạn Đạo đến đây vì tên tóc đỏ. Nhưng Vô Phong không hề nhờ vả gã, mà kể cả chuyện đó xảy ra, Đạn Đạo cũng sẽ suy nghĩ chán chê hoặc đưa ra cả tá điều kiện. Thế giới đã quá nhiều người hùng, gã không muốn chen chân thử vai đó. 

Nhưng Đạn Đạo không thể chối từ lời khẩn cầu từ người thầy. 

*

* *

Đầu tháng 3, trước ngày rời Băng Hóa thành, Vô Phong đến ngân hàng mở tài khoản mà đại thánh sứ Tây Minh để lại. Hành trình dài lắm chi phí phát sinh, hắn cần một lượng tiền mặt dự phòng. Khi rút tiền, hắn nhận ra tài khoản này có một lệnh gửi từ ngày 25 tháng 5 năm 7517. Nghĩ ngợi một lúc, Vô Phong bèn mở bức thư mà đại thánh sứ viết cho mình, thấy hai dòng cuối cùng viết thế này[1]:

“…

Ngày 25 tháng 5 năm 7517

Tây Minh

...

Tái bút 2: trong tài khoản đó có một lệnh gửi đã khởi động sẵn. Cậu chỉ việc chấp thuận, lệnh gửi sẽ hoàn thành. Nhớ là ấn nút chấp thuận, đừng để sai sót.

Tái bút 3: hãy truy cập tài khoản đó ngay khi có thể.”

Ngày viết thư và ngày đặt lệnh gửi trùng nhau. Theo nghĩa nào đó, đại thánh sứ muốn Vô Phong hoàn thành nốt việc dang dở. Lệnh gửi ghi tài khoản nhận nhưng không đề tên chủ tài khoản, cũng chẳng có thông tin chi tiết về món hàng gửi. Nhưng Vô Phong không nghĩ điều đó đáng bận tâm. Hắn tin tưởng đại thánh sứ Tây Minh như mọi người trên thế giới đã luôn tin vào ngài. Tên tóc đỏ ấn nút chấp thuận, sau đó mang tiền rời khỏi Băng Hóa thành. 

Vô Phong sẽ chẳng bao giờ biết lệnh gửi đó chuyển thẳng về tài khoản của Đạn Đạo. Món hàng gửi bao gồm nguyên liệu phép thuật, cổ vật quý giá, mảnh xương hoặc móng vuốt quái vật không trung mà Tây Minh thu thập được trong suốt quãng đời phiêu lưu. Tận mắt chứng kiến đống vật báu, Đạn Đạo hét ầm lên sung sướng như vừa chiến thắng trò chơi tìm kho báu. Có những thứ mà gã nằn nì năn nỉ đại thánh sứ cả chục năm không được, có thứ tưởng đã biến mất khỏi thế gian, nay đều xuất hiện. Trong sung sướng, Đạn Đạo tính nghỉ hưu non rồi chết già với rượu, gái và mớ báu vật vô giá. 

Lục kiện hàng, Đạn Đạo mò được một bức thư. Người thầy quá cố viết thư thỉnh cầu giúp đỡ. Đạn Đạo lên đường đi ngay. Cho dù đại thánh sứ chỉ gửi thư mà không gửi quà, gã vẫn đi. Đạn Đạo giúp cả thế giới với điều kiện thế giới phải trả giá tương đương, nhưng gã luôn có thời gian cho người thầy. 

*

* *

Trong những năm tháng theo chân đại thánh sứ, Khai Y gặp vô số rắc rối, đa phần vì thói hám gái của ông bạn đồng hành Đạn Đạo. Ba thầy trò có thể đối mặt lũ khủng bố đông cỡ trung đội, nhưng phải lếch thếch chạy khi bị một gia đình đuổi đánh vì Đạn Đạo tòm tem con gái của họ. Thời học trường sĩ quan Băng Hóa, Đạn Đạo nổi tiếng chim chuột và làm hư hỏng hầu hết tiểu thư trong thành phố, tới nỗi đám quý tộc đến tận viện nội trú chửi rủa và Khai Y phải muối mặt hứng đòn. Ông đại thống lĩnh không bao giờ quên tấn hài kịch Đạn Đạo bị bắt quả tang, nhảy rào rách quần rồi tồng ngồng chạy khắp phố. Thời trai trẻ giữa họ lắm chuyện hài hước, tới giờ đã hơn hai mươi năm. 

Nói vụ nhảy rào rách quần, Đạn Đạo khi đó nông nổi động chạm vào cô tiểu thư Lao Trâm, họ Thác Đáo. Sau hai mươi năm, cô tiểu thư ngày nào bước lên vị trí tổng giám sát. Mọi tướng lĩnh hay binh lính đều nể sợ người đàn bà này, ngay cả Khai Y cũng ngán ngại ít nhiều bởi Lao Trâm đại diện cho hoàng đế Băng Hóa. Mà quan hệ giữa Khai Y và hoàng đế tại nhiệm chẳng mấy tốt đẹp, ông đại thống lĩnh không muốn tốn thời gian giải trình. Trong sự căm ghét vốn không có khái niệm giải trình.

-Nhiều chuyện chưa thể giải thích ngay, nhưng tôi đang vì lợi ích của chúng ta. – Khai Y cất lời – Gã tóc đỏ kia sẽ có ích cho Băng Hóa. 

-Ích lợi chỉ một thoáng, còn rắc rối thì cả nùi nếu người Phi Thiên biết chuyện, thưa ngài. – Bà tổng giám sát trả lời – Chúng ta đang tranh chấp với Phi Thiên nhiều mặt, không thể vướng thêm rắc rối ngoại giao. Phi Thiên sẽ đòi dẫn độ tội phạm, ngài biết điều đó.

Ông đại thống lĩnh tặc lưỡi:

-Tôi sẽ giải thích trực tiếp với hoàng đế…

-Tôi đã hỏi hoàng đế. – Lao Trâm nói ngay – Ngài ấy chỉ thị tống khứ tên tội phạm càng sớm càng tốt, trước khi người Phi Thiên rêu rao khắp phương tiện truyền thông. Người Phi Thiên tuy đối đầu nhưng cũng giúp chúng ta. Hồi năm ngoái, họ cử Thổ Hành tới và giải quyết kha khá phiến quân lẫn khủng bố[2]. Họ đang tiếp tục làm việc đó. Vì một tên tội phạm mà mất sự trợ giúp, thực không đáng.

Ông đại thống lĩnh cười khẩy:

-Giúp? Hay vì họ muốn ngăn Nhất Thống Cục lẫn Trục Chữ Thập nhảy vào? Hay vì họ đang dòm ngó sáu nước miền đông lục địa? Chẳng có sự giúp đỡ miễn phí nào đâu, cô gái! 

-Bởi vì chúng ta thiếu nhân lực, thưa ngài! – Lao Trâm không chút nao núng trước ông đại thống lĩnh – Hệ thống quân viễn chinh của chúng ta đã dàn trải khắp lục địa, giờ nó mỏng manh như miếng bột mì kéo dài, càng dài càng dễ đứt. Trong khi phiến quân khủng bố quá nhiều! Bởi vậy chúng ta cần Thổ Hành của Phi Thiên quốc. Như ngài nói: không có sự giúp đỡ nào miễn phí, vì vậy đừng khiến người Phi Thiên tăng phí!

Khai Y không nói thêm cũng chẳng buồn thanh minh thanh nga, môi mấp máy hai chữ “Đàn bà!”. Trong vài khía cạnh, ông là người phân biệt giới tính và không tin tưởng phụ nữ. Phụ nữ càng thông minh bao nhiêu, ông càng ít tin tưởng bấy nhiêu. Với Khai Y, sự thông minh của phụ nữ tỉ lệ thuận với độ khùng. 

-Đêm nay, tôi sẽ quay về Băng Hóa giải trình trực tiếp với hoàng đế. – Khai Y nói với bà tổng giám sát – Nếu không phiền, cô có thể cho tôi trò chuyện với bạn cũ? 

Lao Trâm gật đầu đoạn rời đi. Gã tóc vàng Đạn Đạo nhìn theo, không quên nháy mắt tình tứ với nữ tổng giám sát. Con cú vọ Mai Hoa cũng lẩn đi ngay, không nán lại dù chỉ nửa giây. 

Hành lang khu cấp cứu chỉ còn hai người bạn cũ. Họ cùng trông vào nơi Vô Phong đương vật lộn sống chết, tự nhìn bóng hình của nhau phản chiếu qua cửa kính thay vì đối diện thẳng mặt. Đạn Đạo lục túi áo, lôi ra một bình rượu rồi ngửa đầu tu một chặp, sau chuyển qua bên cạnh. Khai Y nhận lấy, tu một hơi ừng ực, thở khà một tiếng khoan khoái:

-Ngon đấy! Rượu ngày xưa hả? Tôi tưởng không còn nữa?!

-Phải, rượu cũ, công thức cũ, người chủ cũ. – Đạn Đạo cười – Chỉ còn ba chai như thế trên thế giới này, và ba chai đó đều là của tôi. Hề hề!

Ông đại thống lĩnh bật cười, nói:

-Cậu thuyết phục Lao Trâm kiểu gì vậy? Đừng nói là trò cũ nhé? 

-Đáng tiếc, vẫn là trò cũ thôi! Hê hê! – Đạn Đạo nhún vai – Tôi hẹn gặp cô ấy, nói chuyện, giải thích và nghe cô ấy chửi rủa. Tôi xin lỗi cô ấy. Rồi chúng tôi làm những thứ mà hơn hai mươi năm trước chưa có dịp thử nghiệm. Giờ tôi mới biết cô ấy thích không gian phòng làm việc. Phụ nữ thông minh thường khùng mà! 

Đang uống rượu, Khai Y ho sặc vì cười. Chừng ấy là quá đủ để giảm bớt căng thẳng cho một cuộc đối thoại khó khăn. Ông đại thống lĩnh nói:

-Tại sao cậu tới? Tại sao cậu biết chuyện ở đây? Cậu không bao giờ quan tâm mấy chuyện thế này. Để tôi đoán nhé: là thầy phải không?!

-Phải, là thầy. – Đạn Đạo gật đầu – Thầy sợ thằng nhóc tóc đỏ gặp chuyện không hay nên nhờ tôi giúp đỡ. Dù sao tôi cũng thích thằng nhóc đó! Nó mà chết là uổng lắm! Hê hê!

Gã tóc vàng cười tươi, còn nụ cười trên mặt Khai Y tắt ngấm:

-Thầy không tin tưởng tôi? Thầy nghĩ tôi sẽ hại gã tóc đỏ? 

Đạn Đạo ngần ngừ, vặn vẹo cơ thể một hồi như tìm lời lẽ thích hợp, sau thở phù:

-Có lẽ là thế. Thầy không nói rõ ràng. Thầy viết “vẫn tin tưởng Khai Y, nhưng ngộ nhỡ có vấn đề xảy ra thì chưa biết”. Nguyên văn thư của thầy là vậy. 

-Mọi thứ sau chữ “nhưng” đều là khẳng định. – Khai Y lắc đầu.

-Và thầy đoán đúng. – Đạn Đạo cười – Quả thực cậu có ý không tốt với thằng nhóc tóc đỏ. Cậu tính toán nhiều quá, Khai Y. Từ ngày làm đại thống lĩnh, cậu tính toán quá nhiều! Cậu trở thành tỷ phú bận rộn rồi, bạn tôi. 

Khai Y nhếch mép:

-Vì tôi không phải gã tỷ phú thời gian như cậu. Câu chuyện của tôi không có gái, rượu, đánh lộn, làm tình hay con rơi con vãi. Mỗi quốc gia đứng lên vì những người đàn ông như tôi và mỗi quốc gia sụp đổ vì những gã trai như cậu. 

-Vậy người đàn ông đó không cần ai lắng nghe mình tâm sự? 

Ông đại thống lĩnh mở miệng toan nói, rồi bất chợt lặng im. Đạn Đạo lấy lại bình rượu, lắc lắc đầu:

-Đáng tiếc, chỉ có gã trai chưa lớn chịu lắng nghe người đàn ông vì chẳng thằng đàn ông nào chịu nghe nhau đâu, bạn tôi à! Suy nghĩ kĩ, Khai Y. Khi cậu đứng quá cao, cậu sẽ chẳng thấy gì bên dưới ngoài mây mù. 

Gã tóc vàng giơ tay chào rồi lững thững rời khu cấp cứu. Hành lang chỉ còn một mình Khai Y. Ông đại thống lĩnh cao lớn, sắt đá, vượt lên trên tất cả nhưng trơ trọi. Ở đây không có người đàn ông nào lắng nghe Khai Y. 

Lát sau, gã cú vọ Mai Hoa trở vào. Nhưng gã không nghe ông đại thống lĩnh tâm sự mà mang tới câu hỏi:

-Giờ ông tính sao, ngài đại thống lĩnh? Thả Vô Phong hay thế nào?

Khai Y tặc lưỡi. Đạo Đạo không lầm, trên đời chẳng có thằng đàn ông nào chịu nghe thằng đàn ông khác tâm sự, vì tất cả đều mải miết trên bước đường của mình. Ông đại thống lĩnh nói:

-Còn tùy. Nhưng trước đó ta hắn muốn trả nợ. Anh bạn biết ai trả giá cho tên tóc đỏ này? 

-Có ba người. Họ sẵn sàng trả giá cao, thưa ngài. Hi hi! – Mai Hoa cười – Trước tiên là một người ở Phi Thiên quốc, ngày 19 tháng 4 này, kẻ đó sẽ ra điều trần trước quốc hội Phi Thiên. Gặp hắn, ngài sẽ có giá hời.



Ít người biết rằng ở tận cùng những Kẽ Nứt đều có sông ngầm. Chúng chảy theo những khúc quanh co, hòa lẫn nhau tạo thành nhiều lối chằng chịt ẩn dưới Vương Quốc Cũ. Một số đổ về hướng đông, số khác lại chảy xuôi về phương nam, vượt khỏi Vương Quốc Cũ và trào ra những dòng sông lộ thiên hoặc đổ vào những ngọn thác. 

Dưới bầu trời tuyết, một chiếc phi thuyền nhỏ rọi đèn lùng sục khắp sông thác phía nam. Nó đã loanh quanh như thế khoảng hai tiếng đồng hồ. Cho tới khi phát hiện một cục đen thùi lùi bên bờ sông băng, chiếc phi thuyền hạ cánh để một người bên trong bước xuống. Người đó mặc áo chùng, vai đeo quyển sách nặng trĩu, bước đi cứng nhắc thiếu tự nhiên, từng khớp xương lạo rạo bài ca tuổi già. Người đó tiến đến, nặn mấy cục tuyết to bằng nắm tay rồi ném vào cục đen bất động, vừa ném vừa gọi:

-Dậy! Thú! Dậy mau! Thú! Thú! Không ngủ nữa!

Bị ném tuyết, khối đen thui bất ngờ trở dậy, tay vung vẩy hai ngọn đao cắt tuyết. Nó gầm lớn, gương mặt hoang dại chỉ chực cắn xé thứ gì đó. Người mặc áo chùng liền quẳng ra một cái túi hở miệng. Túi rớt bịch xuống tuyết, vài bộ phận cơ thể người lông lốc lăn ra, khối đen thui nọ liền sà tới nhai nuốt ngấu nghiến. Người mặc áo chùng cất lời:

-Vô Phong vẫn sống chứ? Này, Thú?! Nghe ta hỏi không? Tóc đỏ vẫn sống chứ?

Con quái vật nửa gật nửa lắc, nó đang bận ăn. Người ta vẫn nói đừng đụng vào chó khi nó đang ăn. Người mặc áo chùng chỉ dựa theo thói quen của nó mà đoán rằng số phận Vô Phong không rõ ràng. Những số phận đặt chân tới phương bắc đều mịt mù như chính mảnh đất này. 

Tiếng động từ rừng cây vang tới làm người mặc áo chùng ngoảnh lại. Đó là một âm thanh có chủ ý. Trông thấy một kẻ đeo mặt nạ trắng, áo liền quần kẻ ca rô nhức mắt đang tiến về phía mình, người mặc áo chùng cất lời:

-Tiếu hả? Đến sớm nhỉ? 

-Tôi ở đây lâu rồi, hề! – Tiếu cười, giọng nhừa nhựa không giống nam cũng chẳng giống nữ – Ngài pháp quan Trần Độ khỏe chứ? Ngài nên mặc áo ấm, trời lạnh không thương người già đâu! Hề!

Trần Độ không để ý mấy lời mỉa mia, chỉ đáp:

-Hiện chưa biết gã tóc đỏ thế nào. Thú đang ăn, khi nào nó tỉnh táo, ta mới có thể hỏi rõ ràng. Có thể Vô Phong còn sống, cũng có thể đã chết. Ta không chắc.

Tiếu vỗ tay, đôi chân rà trên tuyết như sắp bắt đầu một điệu nhảy:

-Vậy thì hắn sẽ sống. Trừ phi tôi thấy đầu của hắn, còn không, hắn sẽ sống! Vô Phong không thể chết được! Hề! Cảm ơn ngài pháp quan đã nương tay. Tôi biết ơn ngài! Biết ơn lắm! Tôi sẽ nợ ngài sau! Hề!

Kiểu cách của tên vũ công làm Trần Độ khó chịu. Lão pháp quan nói:

-Dù sao ta cũng cần Vô Phong sống. Nhưng ngươi cần gì ở tên tóc đỏ? Tại sao ngươi cũng muốn hắn sống.

-Vì sao á? Vì – hắn – phải – trả – nợ! – Tiếu đánh vần từng chữ – Ngài biết đấy, kinh tế sẽ bất ổn nếu nhiều nợ xấu. Phải có ai đấy trả nợ chứ?! 

Tên vũ công cười khanh khách. Lão pháp quan tiếp lời:

-Giờ ngươi tính làm gì?

Tiếu vươn vai, đáp:

-Về phương đông. Có nhiều thứ đang ngáng đường và tôi cần phải giải quyết. Hẹn gặp lại, ngài pháp quan yêu quý. Cho tôi gửi chào anh bạn kia nhé! – Tiếu chỉ vào Thú – Bảo hắn rằng tôi chúc hắn ngon miệng!

Tên vũ công nhảy chân sáo vào rừng lá kim, dáng hình điệu đà mất hút giữa đêm tối. Trần Độ nhìn theo, cặp mắt trũng sâu hơi nhăn lại. Lão ghét những kẻ che giấu mặt thật. Lão cũng ghét mùa đông, giá rét vốn không thương người già. Và lão càng ghét nuôi chó. Nhưng phương bắc lại có tất cả những thứ mà người ta căm ghét. Cái xứ thổ tả! – Lão già bực mình chửi thầm.

[1]: bức thư của đại thánh sứ gửi Vô Phong, xem lại Quyển 3: Dao Găm – Chương 7

[2]: xem lại Quyển 3 Chương 56, ở đó các pháp quan và Đệ Thập đã thống nhất là giúp Liên Minh Phương Bắc và Băng Hóa quốc
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 5 - Chương 21: Yêu


Phương đông luôn khó hiểu. 

Sách vở mô tả phương đông chẳng thiếu, Liệt Giả đọc nhiều, thậm chí nhẵn mặt vài quyển. Anh có thể gọi tên những vị tà thần từng ngự trị xứ sở này, những vương quốc cổ không còn chút bụi di sản, những vị anh hùng vốn xa lạ với người phương tây, những cuộc chiến đẫm máu ngang Trận Sông Đỏ ở Hoa Thổ. Chúng làm anh tự hào, thậm chí có quyền lên mặt trước bọn thánh sứ thực tập ngày ngày đau khổ vì bài tập luận văn, mà đại thánh sứ Tây Minh luôn giao cho chúng nhiều bài tập. Dù rằng anh mới đặt chân tới Đông Thổ dăm ba lần.

Mèo Hen thì khác. Gã không đánh giá cao mấy loại kiến thức đó. 

Ba tháng trước, Mèo Hen tới mặt trận phương đông. Trước giờ lên phi thuyền, gã gặp Liệt Giả, cười nói huyên thuyên đủ thứ chuyện. Liệt Giả nghe hay không, gã vẫn nói. Mèo Hen coi anh như vật cầu may. 

“Cậu biết quy trình làm giấy chứ?” – Mèo Hen nháy mắt – “Xẻ gỗ, lột vỏ, nghiền nhỏ, ngâm với nước rồi quậy lên thành hỗn hợp nhão nhoét. Rồi từ thứ nhão nhoét bốc mùi thối hơn phân đó, chúng ta có giấy trắng sạch sẽ, đẹp đẽ, thơm phức. Vậy cậu biết sách được viết thế nào không?” 

“Tập hợp tư liệu, nghiên cứu, lựa chọn ngôn từ, sắp xếp đoạn văn, rồi viết.” – Liệt Giả trả lời. 

“Vậy đấy!” – Mèo Hen nhún vai – “Trước khi viết, những ngôn từ được lựa chọn cẩn thận, bỏ vào cái nồi chứa đầy sự thật rồi quậy lên, thối um! Từ cái nồi thối hết phần phân này, ta có những văn bản ngọt ngào say đắm. Hà!” 

Liệt Giả cười:

“Ít ra sách vở cũng giúp chúng ta hiểu biết phần nào đó.”

“Phần nào đó chứ không phải tất cả, mà cái “tất cả” lại là phương đông.” – Mèo Hen tiếp lời – “Tôi đã tới Đông Thổ mười lần. Mỗi lần ra về, tôi cảm giác mình thật thông thái, thật hiểu biết. Nhưng mỗi lần trở lại, tôi nhận ra mình chỉ là thằng ngu bước vào nhà người khác. Người phương đông khác chúng ta, bạn tôi. Họ thân thiện nhưng không hợp tác, dễ mến nhưng khó gần, thông thái nhưng trẻ con, cởi mở những thứ chẳng đáng và giấu rịt những thứ cần nói. Họ yêu con trai và điên cuồng vì con trai, trong lĩnh vực này, một vị vua phương tây phải xách giày chạy theo một gia đình nông dân phương đông. Họ thích an phận, bình lặng nhưng khát máu; tựa con quái vật say giấc dưới tán rừng xinh đẹp đầy nắng. Lòng báo thù của họ không tính từ đầu xuống đất, mà tính từ đầu lên trời. Sách vở ư? Thơm tho đấy, nhưng thử nhúng tất cả vào nước xem, chúng sẽ…”

“Nhão nhoét và mềm oặt như phân vậy!” – Liệt Giả nói tiếp – “Nhưng ít nhất là không thối.”

Mèo Hen cười phì phì:

“Dù sao thì sách vở rất tốt ở chiến trường phương đông. Hãy mang theo vài quyển. Rồi cậu sẽ biết ơn chúng khi hết giấy vệ sinh. Hà!”

Gã lính cười nham nhở. Đôi lúc, Liệt Giả tin rằng cây mẹ đã trao nhầm linh hồn của một tên láu cá chớt nhả vào thân xác Mèo Hen có vẻ ngoài thư sinh dễ mến. 

Nhưng Liệt Giả không để tâm lời cảnh báo từ người bạn. Chiến trường ở đâu cũng giống nhau, từ Thượng Cổ thơ mộng đến Băng Hóa khắc nghiệt. Trong guồng quay chiến tranh, máu thịt loài người đều chung một dạng. Giống như thịt bò, thịt gà, thịt lợn, thịt cừu, thịt cá… chúng khác nhau, nhưng đều xuất ra một loại thành phẩm sau khi bỏ vào máy xay. Liệt Giả không tin máu thịt của người phương đông khác biệt. Anh nghĩ Mèo Hen nói quá. Từ ngày làm đội trưởng Thổ Hành, gã thư sinh dễ mến đó thích bi hài hóa mọi vấn đề. Hoặc nếu là cố tình dọa dẫm Liệt Giả thì Mèo Hen chỉ phí công. 

Năm năm đi chiến trường, Liệt Giả không chắc còn điều gì có thể làm anh sợ hãi. Anh vô cảm. Sự vô cảm bất đồng điệu với chức nghiệp thánh sứ – một sứ giả mang niềm an ủi cho loài người. Nhưng quả thực anh vô cảm. Những lời cầu nguyện trở thành bài học thuộc lòng, lễ ban phước trở thành thủ tục và giáo điều được nhắc đi nhắc lại như một đoạn quảng cáo sản phẩm tiêu dùng. Liệt Giả dợm nghĩ Thánh Vực là một công ty, bản thân anh là nhân viên lao ra ngoài chiến trường, chào bán các mặt hàng “hy vọng” và “an ủi”. Sự thật là sau mỗi cuộc chiến tranh, người ta lại đến giáo đường nhiều hơn, tham gia thi tuyển thánh sứ nhiều hơn, tất cả đều nhờ những nhân viên tài năng như Liệt Giả.

Ở thời đại này, chiến trường là thị trường. 

Ba tháng sau, Liệt Giả đến phương đông, đặt chân lên Xích Quỷ quốc. Chiến Tranh Tài Nguyên chưa kết thúc. Anh cũng không biết bao giờ chiến tranh kết thúc. Người ta đồn đại về một hiệp ước chừng như sẽ được ký kết ở đâu đó tại lục địa Thượng Cổ. Một bản hiệp ước đầy những thỏa thuận, không có bên chiến thắng đích thực cũng chẳng có phe chiến bại rõ ràng. Vài người thông thái tin rằng Phi Thiên quốc đã thắng. 

Liệt Giả chẳng tin lời đồn. Chiến thắng có thể đã xuất hiện ở đâu đấy nhưng không phải ở nơi anh đang đóng quân. Nơi này từng có nhiều ngôi nhà gỗ trên từng bậc đồi, chiều chiều ngả bóng bên đường mòn. Những cái bóng xiêu xiêu, cà rỡn với bóng tán rừng trong niềm hạnh phúc nhỏ nhắn của khói củi, mùi thức ăn đun nấu lẫn tiếng trẻ con cười đùa. Liệt Giả từng tới đây, rảo chân trên đường mòn bao quanh quả đồi, bước vào từng ngôi nhà và thậm chí nếm thử đồ ăn. Thức ăn xứ bản địa vừa mặn vừa cay lại nặng mùi, Liệt Giả phải ăn với một bộ mặt gượng cười như bị táo bón. Và lần đó anh bị táo bón thật. Nhưng sự bất tiện khôi hài ấy chân thật. Người bản địa đối tốt với Liệt Giả bằng chính con người họ, không ngại phô bày những điều có thể khiến anh khó chịu. Người phương đông là vậy.

Nhưng đấy là vài năm trước. Quả đồi bây giờ trọc thốc lốc, không cỏ cây, không chim chóc. Mọi thứ bị thổi bay sau vô số trận oanh tạc. Những đường mòn vụn vỡ vì bom đạn. Hàng ngàn hàng vạn đá sỏi lổn nhổn, mềm oặt, cháy sém như món thịt băm quá lửa cháy khét dưới đáy nồi. Khi mưa xuống, nồi thịt băm khổng lồ đó chảy nhão và bốc mùi như một bãi phân khổng lồ. Liệt Giả đang ở đó, ngay trên bãi phân của phương đông. Đơn vị của anh được lệnh giữ chặt cứ điểm này bằng mọi giá. “Có huân chương không? Khi trở về Phi Thiên, chính phủ có trao huân chương cho chúng ta vì kiên trì ôm đống cứt này không?” – Vài gã lính tếu táo với Liệt Giả. Anh không đáp, chỉ cười.

Hai tháng kế tiếp như màn tra tấn. Từ quả đồi thịt băm hoặc “quả đồi cứt” mà đám lính hay gọi, giàn pháo điện từ được triển khai và ngày đêm nã xuống khu rừng phía đông. Rừng cháy xơ xác ngùn ngụt khói đen che mặt trời. Kẻ thù không phản ứng; Xích Quỷ là một nước nghèo, thiếu thốn đủ thứ song chưa tới mức bị đồng minh bỏ rơi. Có điều động thái của họ khiến người Phi Thiên khó hiểu. Đôi lúc Liệt Giả nghĩ khu rừng chẳng hề có người, hoặc nếu có thì đã nằm sâu dưới ba tấc đất. 

Hai tháng ấy, trời mưa tầm tã. Những cơn mưa xứ nhiệt đới mang theo cả tá ruồi muỗi lẫn bệnh tật. Mưa một tí lại nắng. Cả ngày nắng chang chang, tối mưa gió đùng đùng. Hơi đất hơi bùn bốc lên làm thể xác ngứa ngáy khó chịu khôn tả, da dẻ sưng rộp lên vì dị ứng. Rồi những cái chết xuất hiện dù thuốc men thừa mứa. Tất cả chỉ vì thiếu giấy vệ sinh; chúng hết nhanh hơn cả đạn dược hay thực phẩm. Hết giấy vệ sinh, mọi quyển sách bị lôi ra. Giáo điều Vạn Thế, tài liệu chiến tranh, lịch sử phương đông… từng trang sách bị xé dần để nhét dưới mông. Họa may giấy tờ công văn sống sót trong cuộc thảm sát giấy vệ sinh đó. Liệt Giả nhận ra Mèo Hen đùa cợt một cách chân thật, thật từng chút một. May thay, anh mang theo khá nhiều sách. 

Hai tháng đó, mọi thứ diễn ra một cách tẻ nhạt trong tiếng ồn ào của đạn pháo. Trời quang đãng hơn vì khu rừng phía đông chẳng còn gì để bốc cháy. Mỗi tối, Liệt Giả lại ngồi bên máy chiếu cá nhân đợi thư. Vì đợi thư, anh mới bám trụ mặt trận và tiếp tục dấn thân vào cuộc chiến. Sự kiên nhẫn của Liệt Giả đến giới hạn và anh bắt đầu chán ngấy chiến trường. 

Hai tháng ấy không có thư.

Tháng thứ ba trên quả đồi thịt băm, người Phi Thiên mệt mỏi. Trong khi đó, người Xích Quỷ bắt đầu phản công. Chẳng dùng pháo kích hay không lực, họ đánh bằng người. Biển người. 

Tháng thứ ba, các đại đội Xích Quỷ tiến đánh quả đồi. Không xe thiết giáp, không pháo yểm trợ, không phi thuyền cường kích, người Xích Quỷ chỉ có kiếm, súng, lựu đạn, bất cứ vũ khí tự chế nào và chính họ. Chính bản thân họ. Máu thịt của họ. Người Phi Thiên ban đầu cười nhạo vì họ có pháo điện từ. Và quả thực kẻ thù không chịu nổi. Bốn đại đội, hơn ba trăm người Xích Quỷ nằm lại ở bìa rừng vốn đã tan xác. Xác người chồng xác rừng. 

Nhưng rồi người Xích Quỷ vẫn đánh, các đại đội vẫn tụ tập về đây, hôm sau đông hơn hôm trước. Và dường như họ biết cách tránh đạn, ít thương vong hơn, tiếp cận quân doanh Phi Thiên quốc gần hơn. Mỗi ngày một gần. Họ không nghỉ, đánh từ sáng sớm đến đêm khuya, hết lớp này tới lớp khác. Dù vậy toàn đơn vị Phi Thiên chưa chết một ai, chỉ có xác chết chất đầy trước mắt họ. Liệt Giả không tham chiến. Anh chỉ xuất hiện khi trận pháo kích kết thúc, mang theo bộ áo trắng thánh sứ cầu nguyện cho những người lính Xích Quỷ. Rất khó để tìm ra người sống giữa biển xác chết. Nhưng người sống lại chẳng cần Liệt Giả dẫn đường tới cái chết. Họ trả lời anh bằng giọng trọ trẹ:

“Cút về phương tây đi, thằng mắt xanh mũi lõ! Tao không cần Tụ Hồn Hải, tao sẽ ở đây, trở thành oan hồn và bóp cổ mày! Đây là đất Xích Quỷ, không phải đất của chúng mày!”

Liệt Giả không thể thốt ra lời cầu siêu nào cho tới khi người lính đó chết hẳn. Người phương đông không cần cầu siêu. Họ sẵn sàng làm ma để báo thù. 

Người Phi Thiên bắt đầu sợ. Pháo điện từ không chịu nổi, các thanh ray phát điện chập mạch, lõi nam châm nóng bỏng rát. Tử thi chồng chất và đầy mầm bệnh dịch nhưng không ai dám ra dọn dẹp, trong khi máy xúc không thể lên đỉnh đồi. Ngày đó chưa có những cỗ máy vượt địa hình như hai thập niên sau đó.

Một ngày nọ, người Xích Quỷ ngừng tấn công. Cứ như vậy khoảng một tuần. Nhiều ngày mất ngủ, toàn đơn vị Phi Thiên rã ra như cục đường ngâm nước. Họ không còn nhạy bén. Rồi một buổi sáng, người ta phát hiện lính gác bị giết, họ bị cắt cổ bởi một tên chơi dao có nghề. Đơn vị ra lệnh canh gác nhiều hơn, đi tuần dày đặc hơn. Nhưng kể từ hôm ấy, đêm nào cũng có người bị cắt cổ. Người Phi Thiên lại chẳng thể ngon giấc. 

Tồi tệ hơn, cơn ác mộng biển người lại tiếp diễn. Lần này, những trận đấu kiếm đấu súng đã lan vào doanh trại, ngay cả Liệt Giả cũng phải chiến đấu. Ban ngày đánh nhau, ban đêm nơm nớp vì sợ bị giết, toàn đơn vị suy sụp. Nhiều cuộc truy lùng diễn ra nhưng chẳng ai tìm ra bóng ma cắt cổ đó. Bấy giờ, người Phi Thiên mới biết dân Xích Quỷ quốc vẫn thờ phụng những vị tà thần của họ, trong ấy có vị thần thích ăn thanh quản của người sống. 

-Nếu là tà thuật thì các ông không thể làm gì, tôi sẽ xử lý vụ này. – Liệt Giả nói với vị thống lĩnh chỉ huy – Nhưng tôi nghĩ là con người chứ chẳng phải tà thuật. Có lẽ các vị thần từng tham gia chiến tranh, nhưng họ bị con người giết cả rồi.

Đêm hôm ấy, Liệt Giả không ngủ. Anh sắp xếp bùa chú khắp nơi và cả máy dò tầm nhiệt. Và như anh dự đoán, chẳng tà thuật hay vị thần nào tham gia chiến tranh, ở đây chỉ có con người. Nửa đêm, người Phi Thiên phát hiện gã sát thủ nhỏ thó lẻn vào doanh trại cùng lưỡi dao sắc nhọn. Nực cười thay, con dao đó chẳng to hơn dao gọt hoa quả là mấy. Chẳng ai biết gã mò vào doanh trại bằng cách nào. 

Liệt Giả xuất hiện trước khi tên sát thủ kịp giết người. Binh lính cùng chó săn tràn tới, bủa vây như giăng lưới nhưng tên sát thủ vẫn lọt qua mắt lưới nhỏ nhất. Liệt Giả chạy bộ đuổi theo, từ đỉnh đồi qua biển xác chết ngập các đường mòn. Dù chưa được công nhận nhưng anh đã đẳng cấp đại thánh sứ và có thể bay, nhưng ở chiến trường, anh dễ trở thành mục tiêu của lũ bắn tỉa và pháo phòng không. 

Liệt Giả truy đuổi theo kẻ thù đến tận khu rừng trọc lá. Vừa lúc ấy trời đổ mưa, khu rừng trở nên nhão nhoẹt, sùi bùn và sình trương xác chết. Mưa dữ dội nhưng không thể rửa trôi mùi hôi thối bốc lên. Xác chết quá nhiều, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con, cứ như thể toàn bộ người Xích Quỷ đều ở đây. Họ nhìn Liệt Giả bằng đôi mắt người chết, trống rỗng nhưng đầy hận thù. Liệt Giả bất giác sợ hãi. Đã lâu lắm anh mới có cảm giác này. 

Từ bóng đêm, một thứ mảnh dẻ vun vút lao đi. Nó xé gió, xé nước mưa, xé toác da thịt Liệt Giả. May thay, nó chưa găm vào xương mà cắm chặt vào khúc cây sau lưng anh. Đó là một mũi tên được mài giũa cẩn thận như thể sinh ra chỉ có một mục đích là găm vào thân thể đám “mắt xanh mũi lõ” phương tây. Không còn cách nào khác, Liệt Giả rút thánh giới. Một thanh trường kiếm dáng cổ điển, đốc kiếm có những bánh răng ăn khớp nhau và liên tục xoay đều, chúng sẽ xoay tới chừng nào Liệt Giả còn cầm kiếm. Anh gọi thánh giới của mình là Thu Lôi. 

-Đừng vào đây! – Liệt Giả gọi bộ đàm – Tôi sẽ tìm hắn, không ai được vào! 

Đó là một trận chiến trên mảnh đất bầy nhầy nhão nhoẹt như hố phân khổng lồ, hai con người trườn qua biển tử thi và lần tìm nhau dưới cơn mưa tầm tã. Ở nơi cây mẹ bỏ quên ấy, những mũi tên và đạn súng ngắn găm chi chít trên thân cây lẫn xác chết. Bốn tiếng đồng hồ là bốn tiếng mà Liệt Giả sống trong nỗi lo bị tên cắm lủng đầu, bốn tiếng lần mò giữa bãi lầy đầy nội tạng lẫn phân người. Anh chưa từng trải qua trận chiến nào tồi tệ hơn thế. Có lúc anh muốn chết. 

Cuộc chiến đi tới hồi kết bằng một tiếng nổ. Thánh giới Thu Lôi tích tụ năng lượng, bùng ra một khối cầu lửa lẫn lôi điện thổi tung mảng rừng. Liệt Giả đi về hướng đó và tìm thấy tên sát thủ. Vừa thấy kẻ nọ, Liệt Giả chợt nhớ về ngôi nhà nhỏ đầy tiếng trẻ con và đồ ăn cay mặn. Anh vô thức lên tiếng:

-Là ông? 

Gã sát thủ chẳng phải tà thần, chẳng phải chiến binh, cũng không phải cựu binh. Người đàn ông đó từng sống trên quả đồi xanh mướt nay tan tác thành đồi thịt băm, cả đời cúi gằm mặt xuống thửa ruộng để cày cấy, có mười đứa con, chuyên nấu món ăn cay mặn. Người đàn ông đó từng mời Liệt Giả uống rượu và ngủ cùng giường với ông ta. Thuở ấy ông ta còn trung niên, giờ đã thành ông già bạc trắng râu tóc. Liệt Giả bật cười. Cười vì gặp người quen, cười vì kẻ thù chỉ là một nông dân, mà cuộc chiến gian khổ nhất đời anh cũng vì ông nông dân này. 

Như nhận ra Liệt Giả, người đàn ông cũng cười thay vì phỉ nhổ vào mặt anh như bao người Xích Quỷ khác:

-Ồ, cậu thánh sứ tóc đỏ…?

-Ai dạy ông bắn cung? – Liệt Giả hỏi – Bắn tên trong mưa và đêm tối, thời nay chẳng còn ai làm được như thế. Là ai dạy ông?

Người đàn ông thều thào với bộ mặt cháy sém quá nửa:

-Tự học… tự ta học lấy. Người Phi Thiên các anh phá quả đồi… vợ con ta không còn nữa… những đứa trẻ. Ta quá tuổi, không thể tham gia quân đội. Vậy nên ta tình nguyện chiến đấu. Không có vũ khí… ta tự làm… tự học lấy. 

-Vợ con ông chết cả? – Liệt Giả nhíu mày.

-Chỉ còn một đứa con trai. – Người đàn ông đáp. 

Mưa rơi tầm tã, Liệt Giả im lặng một hồi. Anh từng chơi với bọn trẻ. Rồi anh cất lời:

-Ông báo thù bằng cách cắt cổ đồng đội của tôi? Họ vừa mới đến trận địa. Họ không biết chuyện gì đã xảy ra. 

Người đàn ông cười, ho bục máu. Ông ta đang hấp hối. Liệt Giả niệm chú ngữ, sau lưng tỏa đôi cánh trắng rực rỡ giữa đêm mưa. Anh lầm rầm lời cầu nguyện:

-Cầu xin Vạn Thế toàn năng, cầu xin Nữ Thần Tiên Tri chứng giám, cầu xin đấng…

-Cậu nghĩ ta báo thù? – Người đàn ông cắt ngang lời Liệt Giả – Không… không phải vậy… Đồng đội của cậu, những người bị ta cắt cổ, họ không thể làm vợ con ta sống lại. Dù rằng… ta thừa nhận là… vợ con ám ảnh ta trong giấc ngủ, nhưng không phải báo thù.

Liệt Giả nhăn trán:

-Vậy thì vì cái gì? Vì quốc gia? Hay như đám người các ông nói chúng tôi là bọn ác quỷ mắt xanh mũi lõ xâm lược mảnh đất này? Đây là Chiến Tranh Tài Nguyên, đất Xích Quỷ các ông có mỏ quang tố nào khiến chúng tôi thèm muốn? Các ông gán mọi tội lỗi mà chúng tôi chưa từng làm!

Người đàn ông lắc đầu:

-Không, chỉ vì con trai ta ghét các cậu. Vậy thôi… Nó ghét người Phi Thiên, bởi vậy ta cũng ghét người Phi Thiên… Nó muốn người Phi Thiên chết, ta sẽ chiến đấu cho nó. Chừng ấy là đủ. Còn trách nhiệm quốc gia? Xâm lược? Mấy thứ đó lớn lao quá, ta không hiểu…

-Người đàn ông làm theo trái tim mình chứ không phải nghe lời ai khác. 

-Cậu yêu bao giờ chưa? – Người đàn ông hỏi – Yêu thương đủ nhiều để cậu tiếp tục chiến đấu ở cái hố phân bốc mùi này? Yêu thương đủ nhiều để cậu tiếp tục lăn lộn nơi đây và chờ ngày trở về? 

Liệt Giả á khẩu. Anh là thánh sứ, anh yêu thương con người bất kể đồng đội hay kẻ thù. Ngay cả gã sát thủ đang chìm sâu dưới bùn lầy này – kẻ đã cắt cổ hơn chục mạng lính Phi Thiên, anh cũng yêu thương. Đó là trách nhiệm của Liệt Giả. Nhưng anh không chắc có ai yêu thương và đợi mình trở về. Mẹ đã ở lại chốn Thượng Cổ vĩnh hằng, thầy Tây Minh chưa phải là “cha” và thầy cũng chưa coi anh là “con”. Năm năm trước, ngày đi chiến trường, anh muốn về nhà. Năm năm sau, anh chẳng thiết tha về nữa bởi chiến trường là nhà anh, là nơi anh trưởng thành. Lớn lên ở đâu thì chết ở đấy. 

Người đàn ông già kéo cổ áo để lộ một chiếc dây chuyền gỗ khắc hình kỳ quái. Người phương đông vẫn thường gọi thứ này là bùa cầu may. Ông ta thều thào:

-Khi chiến tranh kết thúc… gửi cho con trai tôi… có địa chỉ… túi áo…

Rồi ông già chết. Liệt Giả lần túi áo ông ta, móc ra một xấp thư. Thư nào cũng nguệch ngoạc những lời lẽ của một đứa trẻ khoảng năm, sáu tuổi, hỏi rằng cha của nó ăn uống đầy đủ hay không, rằng cha của nó đã giết bao nhiêu kẻ địch, rằng nó được dạy phải căm thù bọn mắt xanh mũi lõ Phi Thiên quốc. Nước mưa làm nhòa chữ viết, sấm chớp lúc nhá lúc không, Liệt Giả đọc câu được câu chăng. Anh nhận ra lâu lắm rồi mình không có thư.

Chiếc máy chiếu cá nhân trong túi Liệt Giả rung nhẹ. Anh nghĩ cấp trên gửi công văn nhưng không phải. Mà là thư. Liệt Giả có thư. Dưới cơn mưa tầm tã, luồng sáng xanh máy chiếu rọi lên những dòng chữ nhỏ:

“Gửi Liệt Giả,

Xin lỗi vì biên thư muộn. Tôi muốn lắm, nhưng ở đây lắm việc quá, thời gian rảnh hiếm lắm. Chiến trường mà! Tôi vừa trở về từ trạm xá. Người bị thương nhiều lắm!

Bên đó thế nào? Tôi nghe nhiều người đi chiến trường Xích Quỷ bảo nơi ấy khổ sở khắc nghiệt gấp trăm lần bình thường, có người giải ngũ vì phát điên. Tôi thấy lo. Anh vẫn ổn chứ, tóc đỏ? Vết thương cũ sao rồi? Tôi đoán nó đã lành hẳn, nhưng không phải vì thế mà anh tự cho mình cái quyền liều lĩnh. Không ai bắt thánh sứ phải trở thành anh hùng, tóc đỏ, và thánh sứ không phải anh hùng. Đây là năm 7490, kỷ Vạn Thế thứ ba, không phải thời xa xưa khi mà các thánh sứ phải làm mọi việc từ dọn chuồng trại, khám bệnh, đỡ đẻ cho tới làm anh hùng. Tin tôi đi, tóc đỏ, mọi người trong đơn vị của anh cũng mong anh như thế. 

Đừng làm tôi lo lắng, tóc đỏ. Chúng ta có giao kèo đấy nhé! 

Tôi đang ở miền trung Thượng Cổ. Đơn vị của tôi đóng quân ở một thành phố bỏ hoang, nơi này đã như vậy khoảng nửa năm rồi. Không còn ai ở đây nữa, dân chúng bỏ chạy hết. Cũng đúng thôi, làm sao mà họ có thể ở lại khi nhà cửa bị phá hết và vườn tược cháy rụi? Tôi chẳng muốn mô tả đâu, tóc đỏ à, cảnh đổ nát nơi nào cũng giống nhau thôi, mà anh chứng kiến còn nhiều hơn tôi.

Nhưng liệu anh có đồng ý với tôi rằng chốn đổ nát cũng có cái đẹp của riêng nó? Tôi không có ý tôn vinh sự hủy diệt đâu, tóc đỏ. Những mái nhà thủng nóc, những con đường bị lật tung bê tông lẫn nhựa… chúng chẳng có gì hay ho. Nhưng khi ngày ngày phải chứng kiến cái chết và bệnh tật trong lán cứu thương, đọc lời xá tội cho người hấp hối, băng qua trận pháo kích từ kẻ thù, tôi bỗng yêu sự đổ nát. Bởi vì chúng im lặng. Chúng lặng lẽ đổ bóng dưới ánh chiều tà đỏ như món trứng lòng đào, không la hét, không kêu ca, gợi cho chúng ta nhớ về những ngày tháng vui vẻ, rằng thành phố nơi quê nhà vẫn bình yên, rằng cha nuôi vẫn mạnh khỏe. Khung cảnh ấy chỉ tồn tại trong nửa tiếng thôi, tóc đỏ. Nửa tiếng bình yên nhất trong một ngày, không phải lúc ngủ. Bởi vì khi ngủ, tôi gặp ác mộng nhiều hơn. 

Tháng 11 rồi, liệu chúng ta có thể về Phi Thiên quốc trước lễ năm mới không? Tôi nhớ Phi Thiên thành quá. 

Ngày 7 tháng 11 năm 7490

Dạ Bích

Cho tôi gửi lời hỏi thăm ống khói và con mèo chết trôi. Tôi nhớ họ.

Lần trước, anh nói sẽ làm hộ vệ cho tôi. Một thánh sứ làm hộ vệ cho thánh sứ khác, tôi nghe kỳ cục sao đó?! Nhưng nếu được thì tôi không từ chối đâu.

Tôi nhớ anh nữa, nhớ rất nhiều.”

Thư vỏn vẹn vài chữ nhưng Liệt Giả đọc đi đọc lại. Anh ngồi bên cái xác của người đàn ông, ngắm nghía mãi không thôi. Anh cười rồi khóc. Anh khóc gục đầu, đôi cánh thánh sứ rủ bóng trên vũng bùn của phương đông. Anh chưa nói lời cầu nguyện cứu rỗi kẻ thù, nhưng kẻ thù đã gửi lời cứu rỗi anh.

Rốt cục anh cũng có nhà để về.

Một năm sau, Chiến Tranh Tài Nguyên chấm dứt.

*

* *

Mặc dù những ngăn kệ ký ức đã đổ nát nhưng Liệt Giả vẫn nhớ như in câu chuyện hơn hai mươi năm trước ở quả đồi thịt băm xứ Xích Quỷ. Gã không biết tại sao nó lại xuất hiện trong tâm trí mình, ngay lúc này, khi mà gã đang hướng đến Vạn Thế. Chỉ vài bước chân nữa, gã sẽ chạm vào cây mẹ.

Hoặc bởi vì chắn giữa gã và Vạn Thế là một thánh sứ. Người đàn ông đó quỳ trên đất, áo choàng trắng ướt đẫm màu đỏ, khắp thân thể cháy sém vì Oán Hồn Dạ Hỏa. Anh ta còn trẻ, còn đầy khao khát giống như Liệt Giả hơn hai mươi năm trước. Liệt Giả thở phì:

-Tránh ra. 

Vị thánh sứ đó lắc đầu, anh ta gắng gượng cất lời dù linh hồn đang bị Oán Hồn Dạ Hỏa tàn phá:

-Chúng ta từng gặp nhau, ngài vẫn nhớ chứ? 

Nói rồi người ấy kéo cổ áo, một chiếc dây chuyền gỗ rớt xuống. Nhìn nó, Liệt Giả im lặng hồi lâu, sau bật cười như gặp chuyện thú vị. Gã hất hàm:

-Cậu kết hôn chưa?

-Đã, thưa ngài. – Vị thánh sứ trả lời – Tôi có một đứa con trai.

-Cậu yêu thằng bé chứ?

-Nhiều hơn những gì tôi có, thưa ngài. – Vị thánh sứ trả lời – Nhiều tới mức để tôi tiếp tục chiến đấu. Nhiều tới mức để tôi trở về. Tôi không chiến đấu cho Vạn Thế hay giáo điều; mấy thứ đó xa vời quá, tôi không hiểu.

-Tốt – Liệt Giả cười.

Gã tóc đỏ bước tới, trên tay xuất hiện thánh giới Thu Lôi. Gã đâm một đường nhanh gọn vào ngực vị thánh sứ đó, nhìn thẳng vào đôi mắt đang trợn trừng của anh ta. Rồi gã bước qua cái xác, đặt một tay lên rễ cây Vạn Thế, đôi cánh thánh sứ rủ bóng dưới bầu trời đất thánh đầy lửa và bom đạn. 

Liệt Giả sắp về nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 1: Lửa - Mạng nhện


Lúc một mình, tâm trí Tiểu Hồ không ở yên. Nó thường du hành tới những viễn cảnh hoặc ảo cảnh tô dệt bằng nhiều âm thanh, nhiều hình ảnh con người. Và nàng sẽ ở trong đó chừng nào thực tại còn chưa vỗ vai. Cô gái tự nhận mình không mơ mộng, vì thế giới nọ chỉ tái hiện lại những gì nàng từng chứng kiến, từng trải qua, có chăng thêm thắt chút tình tiết phi thực – quá nghèo nàn so với cái gọi là “mơ mộng”. 

Vả lại chẳng có sự mơ mộng nào khi Tiểu Hồ nhớ về cô nhi viện. Tâm trí là thứ khó kiểm soát, nàng không thể ngăn cản nó. 

Kỳ thực Tiểu Hồ chẳng ghét cô nhi viện, nó không đáng sợ như mọi người lầm tưởng. Tất nhiên khó mà nói rằng tất cả bà mẹ nuôi đều nhân hậu tốt tính, hay tất cả lũ trẻ đều vô tư hồn nhiên. Nó khắc nghiệt hơn thế, nhưng nếu biết cách thì vẫn sống khỏe re. Cho tới ngày đại thánh sứ Tây Minh xuất hiện rồi đón đi, Tiểu Hồ ít gặp chuyện buồn ở cô nhi viện. Nếu tính vụ bị đám con trai lớn hơn bắt nạt giành đồ chơi cũng gọi là buồn, nhưng Tiểu Hồ đã trả đũa bằng nhiều cách như dội nước cống xuống đầu chúng nó, hoặc xịt mù tạt vào lỗ mũi của từng thằng lúc bọn này ngủ say, kể ra lại quá vui. Và ở đấy có món bánh ngọt ngon tuyệt, là cảm hứng để sau này Tiểu Hồ mở tiệm Con Cáo Nhỏ. Cô nhi viện không vui song cũng không quá tệ. 

Nhưng có một thứ của cô nhi viện khiến Tiểu Hồ sợ hãi. Tới nỗi nhiều năm sau khi đã sở hữu cho mình một căn hộ tiện nghi, một cửa hàng khang trang, một công việc nhiều người mong ước, một vị thế đáng nể, nàng vẫn run rẩy nhớ lại. 

Cô nhi viện có một hành lang dài, rộng, hai bên là những căn phòng đánh số chẵn lẻ đối diện nhau. Mỗi sớm, bọn trẻ con tập trung tại đó để điểm danh trước bữa sáng, rồi đêm xuống, chúng lại sắp hàng điểm danh lần cuối trước lúc đi ngủ. Hành lang ấy tập trung mọi bước chân của lũ trẻ, chứng kiến đủ trò đùa nghịch, là sàn đấu mà lũ đầu bò đầu bướu hẹn nhau giải quyết mâu thuẫn, là nơi mà các bà mẹ nuôi hò hét quát mắng những đứa nghịch ngợm, và là nơi cấm túc. Phá hoại, nghịch ngợm, bỏ bữa, vẽ bậy, chây lười... mọi tội lỗi đều quy thành cấm túc, đứa bị phạt sẽ không được ngủ và ở ngoài hành lang suốt đêm. 

Bọn trẻ con hãi cấm túc, Tiểu Hồ cũng vậy. Đoạn hành lang như thể được sinh ra cho hình phạt đó. Nó chắc chắn không có ma – Tiểu Hồ dám khẳng định như thế vì đã bị cấm túc vài lần, cũng không có con quỷ lưỡi dài nào như lũ trẻ dọa dẫm nhau. Vẫn nó và vẫn là nó: một hành lang gồm những căn phòng đánh số chẵn lẻ. Nhưng dưới màn đêm lợt lạt ánh đèn trần, nó hiện lên trong dáng vẻ kỳ lạ. Cánh cửa hình chữ nhật, gạch lát nền hình vuông, hai bức tường chạy dọc hành lang thẳng tưng như được kéo căng – tất cả chúng hợp lực với nhau, khoét không gian thành đường hầm hun hút sắc cạnh. Nó bẻ ánh sáng đèn trần, bẻ cả mắt người vào một khuôn khổ chẳng thể phá vỡ.

Lần đầu bị cấm túc, Tiểu Hồ thức suốt đêm. Hành lang vọng tiếng thạch sùng tặc lưỡi, tiếng chuột chạy lục cục lẫn những bước chân mơ hồ vào tai cô bé năm tuổi sợ ma. Khi đã quen, giấc ngủ cũng chẳng đến với Tiểu Hồ dễ dàng hơn khi mặt sàn lạnh ngắt thổi những cơn run rẩy vào bàn chân và sống lưng. Hoặc giả như quá mệt mỏi mà thiếp đi, cô bé Tiểu Hồ mơ thấy mình nhẹ bẫng rồi bay lên như có cánh gắn dưới gót chân; nhưng nếu muốn vươn tận trời cao, cô bé phải vượt qua mái trần hành lang đầy mạng nhện. Mạng nhện mỏng manh nhưng chăng kín góc, trải khắp, nom như keo đặc phủ kín những mảng trần tróc sơn. Chúng ở đấy từ ngày Tiểu Hồ bước vào cô nhi viện, mỗi tháng đều có người quét dọn, nhưng chẳng hiểu sao qua mỗi năm càng dày thêm. Cô bé Tiểu Hồ nhận ra mình không thể vượt qua lớp mạng nhện, mà mãi mãi chỉ có thể bay trong đoạn hành lang sắc cạnh đó. 

Thực tình không phải mạng nhện ngăn Tiểu Hồ. Chẳng thứ cạm bẫy mành lưới nào có thể ngăn giấc mơ con trẻ. Vấn đề là những con nhện. Tiểu Hồ không sợ nhện mà sợ cái cách chúng sinh ra.

Có lần cấm túc, Tiểu Hồ trông thấy một con nhện cái bò xuống chỗ mình. Cô bé biết là nhện cái bởi nó bò ì ạch, bụng mang theo một túi trứng màu trắng đục, từng cái chân khó nhọc nhấc bước trên mặt tường. Cô bé không hiểu tại sao nó bò xuống đây. Luýnh quýnh thế nào, con nhện trượt chân rớt xuống góc tường, túi trứng bật khỏi bụng. Con nhện cái lủi ngay vào bóng tối như vừa thoát khỏi cục nợ. Túi trứng vỡ bung, hàng trăm con nhện bé xíu bò lổm ngổm trên sàn tỏa ra khắp nơi. Chúng chạy trốn ánh sáng, lao vào bóng tối và bắt đầu vòng đời giăng tơ kết mạng. Chúng không cần mẹ hệt như mẹ cũng không cần chúng. Chúng đến thế giới Tâm Mộng này như một lẽ dĩ ngẫu, tự mình lớn lên, không cần đặt câu hỏi. Cô bé Tiểu Hồ không hiểu tại sao lũ nhện có thể sống như thế. 

Từ ngày đó, Tiểu Hồ cảm giác mình như đám nhện con, không bao giờ thoát khỏi ngóc ngách đoạn hành lang. Những giấc mơ bắt đầu hạ thấp rồi đồng điệu ít nhiều với thực tại. Giấc mơ nghèo nàn. Đại thánh sứ Tây Minh đưa Tiểu Hồ rời cô nhi viện nhưng nàng không thể quên đoạn hành lang cấm túc hay lũ nhện. Và những giấc mơ vẫn hết sức nghèo nàn. 

Trong tâm thức Tiểu Hồ chợt vang tiếng chuông. Không phải ảo thanh ảo ảnh mà là tiếng chuông nhà. “Bốn giờ chiều!” – Nàng ngó đồng hồ, chắc mẩm Liệt Trúc đi học về, bèn chạy ra mở cửa. Trước mặt nàng, con bé Liệt Trúc hiện lên trong mái tóc đỏ dài thõng, tai nghe nhạc trùm đầu, ba lô trễ nải bên tay và lệt xệt dưới đất. Con bé không nhìn Tiểu Hồ, chỉ lầm lì bước qua, miệng hơi mấp máy:

-Em chào chị.

Tiểu Hồ nhìn con bé, trông thấy áo quần xộc xệch rồi thêm ba lô bị rách, đoán chừng Liệt Trúc lại gây chuyện ở trường. Gần đây thư nhắc nhở từ giáo viên gửi về nhà đều đều, Tiểu Hồ đọc riết thành quen. Từ lúc đại thánh sứ Tây Minh mất, Liệt Trúc đâm khó bảo. Con bé dễ nổi nóng và lạc lõng với cuộc sống học đường. Vả lại Liệt Trúc đã mười bốn tuổi – bắt đầu giai đoạn dở hơi nhất của một đứa con gái. Tiểu Hồ biết mình không nên nói con bé và dẫu nói cũng chẳng ích gì. 

-Đói không? – Tiểu Hồ hỏi.

Liệt Trúc gật đầu. Tiểu Hồ làm món trứng chưng kem rồi đưa cho con bé. Liệt Trúc lặng lẽ ăn, không nói không rằng. Máy sưởi bật cả ngày nhưng không khí căn nhà chẳng khác ngoài trời: lạnh lẽo và đầy tuyết. Đã tháng 3 nhưng tuyết vẫn đóng tảng ngoài bệ cửa sổ và phủ khắp Phi Thiên thành. Mùa đông đang kéo dài một cách bất thường theo lý thuyết khoa học, nhưng lại hợp rơ tâm trạng của người Phi Thiên quốc. Họ vừa mất đại thánh sứ Tây Minh. Còn Tiểu Hồ và Liệt Trúc mất người thầy, người cha. Có lẽ không phải gió phương bắc mà chính người Phi Thiên tạo ra mùa đông này. 

Đáng lẽ Tiểu Hồ đang ở Diệp quốc, công việc bên ấy nhề nhãi và chưa có chút tiến triển nào. Nhưng Liệt Trúc khiến nàng bất an, cộng thêm cuộc gọi từ Hỏa Nghi làm nàng phải quay về đây. 

“Cậu đang ở đâu thế, thú dữ? Diệp quốc? Công việc gì? Bí mật? Được rồi, bí mật gì thì cũng tạm gác lại, quay về đây và chăm nom Liệt Trúc giùm tôi. Cậu không thể vứt con bé cho người khác. Đừng quên con bé là con của ai. Giờ cha nó là tội phạm số một, cậu nghĩ Hội Đồng Pháp Quan hay đám khác sẽ để con bé yên ổn? Thầy Tây Minh mất rồi, liệu bọn họ còn giữ lời không? Và đừng quên tóc đỏ không ở đây nữa, hắn sẽ không xuất hiện như vị cứu tinh mà giúp Liệt Trúc đâu! Cứ quay về Phi Thiên thành, tôi sẽ giúp cậu!”



Trở lại Phi Thiên thành, Tiểu Hồ tránh xa truyền hình báo chí càng nhiều càng tốt, nhất là khi Liệt Trúc ở bên cạnh. Hai tháng qua, đám truyền thông vẫn ngày ngày rỉa xác đại thánh sứ và bậu đầy quanh gã trùm khủng bố. Tiểu Hồ khó chịu một còn con bé bực bội gấp trăm. Tàu điện, đại lộ, quảng trường, bảo tàng... hễ nơi nào có người thì nơi ấy có lời bàn tán về chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, người chết, đại thánh sứ Tây Minh, Liệt Giả. Chúng lan tới cả trường học, luồn lách vào những màn đấu láo của lũ trẻ vốn mơ mộng thành chiến binh. Thế nên Tiểu Hồ không khó hiểu khi Liệt Trúc lấy tai nghe nhạc và chọn sự lầm lì để đối mặt thế giới. 

-Em nhớ đại thánh sứ thích nhất món gì không? – Tiểu Hồ chợt hỏi. 

Liệt Trúc ngừng ăn đoạn tháo tai nghe nhạc. Nó ngẫm nghĩ một lúc, sau đáp lời:

-Thầy không thích món ăn nhất định. Nhưng thầy thích thuốc lá và trà thiết mộc.

-Ừ. – Tiểu Hồ cười – Cha ăn nhiều món, không chê món nào, có thể ăn những món cay thối ruột của người phương đông. Cha không có sự tinh tế về đồ ăn. Chị mất nửa ngày làm bánh, đủ thứ công phu cầu kỳ, vậy mà cha ăn xong chỉ khen “cũng được”. Em hiểu từ “cũng được” đánh gục người ta thế nào không? Nó hạ thấp mọi công sức, sự cố gắng hay giá trị mà một người nào đó cố tạo ra. Cha không có ác ý, nhưng tính cha là vậy. Có lẽ mọi vị giác của ông ấy đều dành cho thuốc và trà thiết mộc. Cha biết loại thuốc ngon nhất, loại thuốc phải thưởng thức bằng một cái điếu dài, hay thuốc nào phải cuốn trong lá thảo mộc tương ứng. Và cha sẽ nói về trà thiết mộc cả ngày. Người ta nói cha kiệm lời. Không đâu! Cha có hẳn trăm bài diễn thuyết về trà thiết mộc, nếu người ta chịu ngồi yên và lắng nghe, nhưng đa phần mọi người đều bỏ đi trước khi cha kịp nói hết. 

Liệt Trúc không cười nhưng gật đầu. Nó ở bên Tây Minh đủ lâu để biết những sở thích và thói quen khác người của ông. Trong lúc đó, Tiểu Hồ lục lọi ba lô của con bé:

-Nhưng cha không khuyến khích người khác giống mình, đặc biệt là người thân. Rõ ràng cha không bảo em “hút thuốc có lợi cho sức khỏe”, hay chị nhầm? – Tiểu Hồ móc ra vài bao thuốc từ ba lô – Em không thể ra tiệm mua thứ này, đứa nào ở trường cho hả? Hay bọn du đãng? 

Liệt Trúc im lặng, bộ mặt lầm lì sau mái tóc đỏ, đôi mắt màu xanh lá bới móc cái đĩa trứng chưng kem trống không. Sẽ là hợp lý nếu con bé gào lên về chuyện tài sản cá nhân bị xâm phạm, đám trẻ tuổi này không thích ai đụng vào đồ của chúng. Nhưng Liệt Trúc hoàn toàn thờ ơ – một dấu hiệu nguy hiểm. Nó như con sói nhỏ đang mất niềm vui khám phá thế giới và trở thành con sói trưởng thành, man rợ và chết chóc. Tiểu Hồ gạt mớ bao thuốc lá vào thùng rác, tiếp lời:

-Em còn muốn làm thánh sứ không? Em từng nói muốn trở thành thánh sứ giỏi. Em còn ước mơ ấy không? 

-Em không biết. – Rốt cục Liệt Trúc cũng cất lời. 

-Trước đây em khẳng định chắc chắn sẽ theo nghiệp thánh sứ. Vậy mà giờ nói “không biết” là sao? 

-Em không biết nữa. – Liệt Trúc lắc đầu – Làm thánh sứ là được Vạn Thế che chở và ban phước cho mọi người. Nhưng cây mẹ không che chở thầy Tây Minh, cũng không che chở anh Phong. Nếu cây mẹ không che chở thầy và anh tức là cũng không che chở em hay người khác. Tại sao em phải đặt niềm tin vào một thứ như thế?! 

Tiểu Hồ thở dài:

-Nhưng thánh sứ có sức mạnh, phải chứ? Vạn Thế ban cho em sức mạnh và em sẽ dùng nó che chở mọi người, cứu giúp hoặc ban phước cho họ. Dĩ nhiên, một thánh sứ giỏi nhất cũng không thể chống chọi chiến tranh. Chị đã ở giữa cuộc chiến, nó khủng khiếp hơn mọi cơn ác mộng. Chúng ta phải tự hào thay vì đau buồn mãi! Phải tự hào chúng ta có một người cha tuyệt vời! Vả lại nếu muốn giúp anh trai, em phải có sức mạnh, đúng không? 

Nghe tới “anh trai”, Liệt Trúc nhổm người. Tiểu Hồ đã gãi đúng chỗ ngứa của con bé. Rõ ràng con bé chưa quên sự vụ hồi lễ khai giảng. Hơn bao giờ hết, con bé muốn trở thành một thứ gì đó mạnh mẽ, một vị thần, một đấng quyền năng và xách cổ tra hỏi những kẻ đã truy sát anh trai mình. Thấy vậy, Tiểu Hồ tiếp lời ngay:

-Nếu vẫn muốn làm thánh sứ, em phải ngừng hút thuốc. Hút quá sớm, phổi của em sẽ yếu, dễ hụt hơi và không đủ thể lực. Cứ tiếp tục thế này, em sẽ trượt kỳ thi tuyển. Này bé... – Tiểu Hồ cúi người đoạn nắm lấy tay Liệt Trúc –...nếu em không cố gắng, cha ở thế giới bên kia sẽ thất vọng và Phong sẽ chẳng thể về bên chúng ta. Em hiểu chứ? 

Liệt Trúc chẳng còn bé bỏng mà tin vào thế giới bên kia, nhưng đủ lớn để hiểu Vô Phong đang chui nhủi ở đâu đó trên thế giới. Anh trai nó sẽ chẳng về trong mùa hè này, lễ năm mới năm sau, năm sau nữa, năm kia, thậm chí nhiều năm liền. Con bé không chấp nhận viễn cảnh đó. 

-Đọc thử xem! – Tiểu Hồ dúi vào tay con bé vài quyển sách thực hành phép thuật – Mỗi tối đọc một ít, đừng thực hành lung tung nếu không muốn bị bỏng. Cũng đừng đem nó đến trường... Ôi, đáng ra chị không nên nói! Thôi được rồi, chị biết là em sẽ mang nó đến trường, nhưng đừng cho đứa nào thấy. Nhỡ bị giáo viên bắt gặp thì đừng khai người cho mượn, nhé? Và không hút thuốc, không sinh sự hay đánh nhau, hoặc là em sẽ không có sách đọc tiếp! Thỏa thuận?

Tiểu Hồ giơ ngón út, con bé tóc đỏ ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ sau ngoắc lấy ngón tay của cô nàng. Liệt Trúc đã mong muốn tiếp xúc phép thuật từ sớm, vì nghe đại thánh sứ nên miễn cưỡng đi học văn hóa. Giờ cuộc sống trường học tù túng, phép thuật là thứ cứu cánh duy nhất của con bé. Tiểu Hồ chẳng tìm được cách nào khả dĩ hơn. Ở tuổi Liệt Trúc, nàng cũng bướng bỉnh ngang ngạnh y hệt và chỉ làm điều mình thích, đại thánh sứ khuyên răn không nổi. 

Nhận được sách, Liệt Trúc lật vài trang, lẩm nhẩm đọc vài dòng. Lần đầu tiên Tiểu Hồ thấy đứa nhỏ chịu chú mục vào chữ nghĩa lâu hơn năm phút, trong lòng an tâm hơn. Được một lúc, con bé tóc đỏ chợt ngẩng đầu:

-Có bao giờ chị nghĩ cây mẹ Vạn Thế... là một con nhện không? Vạn Thế sinh ra chúng ta, sinh ra mọi thứ. Nhưng cây mẹ bỏ mặc những đứa con của mình, để chúng tự sống, tự lớn, tự chết. Em biết một chút về nhện, môn sinh học có dạy. Chúng không hề tồn tại tình mẫu tử, không có tình thân. Phải chăng giữa Vạn Thế và chúng ta là quan hệ loài nhện? Em ghét nhện. Em ghét cách lũ nhện con chui ra từ trứng, bò lổm ngổm. Em ghét chúng giăng tơ! Cây mẹ luôn bỏ rơi chúng ta, để thầy phải chết, để anh Phong phải rời khỏi đây, để xảy ra chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành. Cây mẹ là con nhện, đúng không chị? 

Ký ức về lũ nhện cùng đoạn hành lang cấm túc bỗng hiện về trước mắt Tiểu Hồ. Những con nhện ngày đó thế nào? Lớn lên, tiếp tục chăng tơ, đẻ lũ nhện con mới? Hay xui xẻo gặp bọn thạch sùng đói ăn? – Thi thoảng nàng tự hỏi chuyện cũ. Nếu đúng như Liệt Trúc nói rằng cây mẹ là một con nhện, vậy nàng và Liệt Trúc là đám nhện con vô tình lạc vào một chỗ, hờn dỗi rồi trách móc người mẹ bỏ rơi chúng. Còn thế giới Tâm Mộng ngoài kia chẳng khác nào một mạng nhện khổng lồ được dệt nên từ bộ rễ Vạn Thế. 

Giống như Liệt Trúc, Tiểu Hồ ghét nhện, không phải vì hình dáng mà bởi tập tính vô cảm máu lạnh của chúng. Đời này qua đời khác, lũ nhện sinh sôi từ sự bỏ rơi. Chúng bỏ rơi lẫn nhau, tự mình mà sống. Ngày đại thánh sứ Tây Minh xuất hiện, nàng nở nụ cười thật tươi khi được rời xa cô nhi viện, nơi mà bọn trẻ chẳng biết mình là ai, bò lổm ngổm giữa thế giới mà sống tiếp.

-Nhà đông con thì ít công bằng, huống hồ Vạn Thế có hàng tỷ đứa con? – Tiểu Hồ nhún vai – Nhưng chúng ta có liên hệ, sống cùng nhau, quan tâm lẫn nhau. Chúng ta không phải nhện. 

-Chị chỉ ở đây vài ngày rồi lại đi? – Liệt Trúc hỏi. 

-Công việc mà, mong bé hiểu cho chị. – Tiểu Hồ cười gượng – Cha giao việc rất quan trọng, chị không thể bê trễ. 

Liệt Trúc không đáp, chỉ lặng lẽ kéo ba lô lệt xệt vào phòng ngủ. Tiểu Hồ nhìn theo, lòng bối rối. Nàng biết rõ con bé sẽ hỏi như thế song lại không biết cách trấn an nó. Ngay lúc này, nàng cần sự thông tuệ xen lẫn khiếu hài hước của cha nuôi để vỗ về Liệt Trúc. Phiền thay, đại thánh sứ đã mất và nàng phải lãnh việc trông trẻ. 

Kỳ thực Liệt Trúc chẳng gặp mối đe dọa nào từ Hội Đồng Pháp Quan hay những người biết về sự tồn tại của con bé. Theo Tiểu Hồ đề nghị, Bất Vọng đã dọn về căn hộ kế bên để tiện trông nom. Liệt Trúc cũng chưa bao giờ ở nhà một mình, luôn có Mộng Dụ – học trò ruột của đại thánh sứ – ghé qua chăm sóc rồi nấu ăn cho con bé. Hỏa Nghi cũng thi thoảng ghé thăm[1]. Họa may thế giới này sụp đổ mới khiến con bé tóc đỏ gặp nguy hiểm. Nhưng Mộng Dụ hay Hỏa Nghi không phải người thân, Bất Vọng lại không thể sống chung nhà với một con bé mười bốn tuổi. Hơn bao giờ hết, Liệt Trúc đang cô đơn trong một căn nhà an toàn, tự giăng lưới bằng những tâm trạng buồn rầu và tự mắc kẹt trong cái lưới đó. Đứa nhỏ sắp trở thành một con nhện đúng nghĩa. Tiểu Hồ không muốn thế.

Đợi con bé tóc đỏ đóng cửa phòng, Tiểu Hồ rút ra một bức thư. Thư gửi từ tháng 2, vì nó mà Tiểu Hồ phải lặn lội sang Diệp quốc, cũng vì nó mà nàng thấy có lỗi với Liệt Trúc. Thư viết:

“Gửi con gái,

Khi con đọc thư này tức là ta đã không còn trên cõi đời. Xin lỗi con gái. Điều hối tiếc duy nhất là ta không khen ngợi con nhiều hơn, nhất là những món bánh mà con làm. Quả thực ta là một lão già kém tinh tế. Nếu được, mỗi năm, hễ đến ngày ta mất, con hãy làm một món bánh gì đó tưởng niệm ông già này. Ta không phải người phương đông cũng không theo quan niệm sống chết của họ, nhưng biết đâu đấy trong những dòng chảy từ Vạn Thế, linh hồn ta có thể cảm nhận thế giới thực? Phương đông hay phương tây cũng vậy cả. 

Nhưng hãy để món bánh sau, còn nhiều việc quan trọng hơn. Ta cần con giúp, con gái. Nó rất nguy hiểm nhưng ta không thể giao việc này cho ai khác ngoài con.

Vài tháng trước, anh chàng Vô Phong đã nhờ con đến thư viện Xích Quỷ quốc. Chuyến đi nguy hiểm của con và anh bạn Vô Phong vô tình mở ra nhiều thứ hơn ta tưởng. Con còn nhớ đã nhờ ta vào kho hạn chế của thư viện quốc gia Xích Quỷ? Và ta đã gửi cho con một bản in truyện huyền sử do người Xích Quỷ ghi lại[2]. Có một câu chuyện mà chúng ta hứng thú nhất, là chuyện anh chàng Từ Thức bước vào thế giới khác. Chuyện “Từ Thức gặp tiên”. Con còn nhớ? Ta chắc chắn con nhớ. 

Vậy để ta kể lại một chút. Trần Độ đã cung cấp bản in truyện huyền sử này cho ta. Trần Độ đánh dấu ghi chú rất nhiều ở câu chuyện “Từ Thức gặp tiên”, và nhờ ta giải thích[3]. Ban đầu ta không hiểu lắm câu chuyện này, nhưng dựa vào những gì đang xảy ra, ta đoán rằng Liệt Giả đang tìm cổng không gian – một thứ ngỡ chỉ tồn tại trong tưởng tượng. Nhưng thứ tưởng tượng ấy có thật, có lẽ nó nằm ở Ngọn Xám, ta đoán thế. Ta tin rằng dù phải tổn thất bao nhiêu sinh mạng và dù phải trả giá thế nào, Liệt Giả cũng sẽ chiến thắng cuộc chiến để có cổng không gian. Ta biết hắn sẽ thắng. Bởi vì ta đã chứng kiến hắn chiến đấu. Trong thời đại Chiến Tranh Tài Nguyên đầy đau khổ, hắn là kẻ tài năng nhất, cũng là kẻ sống sót sau cùng. 

Ta không biết Liệt Giả mở cổng không gian nhằm mục đích gì, nhưng rõ ràng nó không hề tốt đẹp. Có nhiều điều bên ngoài thế giới thực. Những vị thần, những thực thể bóng tối, những thế giới kỳ quặc... vô vàn thứ mà ta không biết. Nhiều khả năng hắn đang nhắm tới đất thánh, như nhiều năm trước hắn đã làm. Đáng tiếc, chẳng còn nhiều vị thánh sứ hay pháp sư hiểu biết về cổng không gian. Ta tin rằng ở Phi Thiên quốc không có ai như thế. 

Có lẽ con phải đi xa hơn, về phương đông, nơi mà nhiều điều huyền bí còn tồn tại. Thứ nhất là hãy đến các thư viện, danh sách nằm trong bản phụ lục đính kèm. Thứ hai là tìm một người phụ nữ, một thành viên thuộc Ngũ Pháp Sư, tên bà là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, nữ pháp sư vĩ đại nhất Diệp quốc. Khi gặp, hãy đưa bức thư đính kèm (đừng mở ra) cho bà Thôn Cơ, bà ấy sẽ giúp con. Bà ấy mang nợ ta. Con sẽ cần bà Thôn Cơ, rất cần, và con sẽ vui mừng vì có một đồng minh mạnh mẽ như thế.

Tuy nhiên không dễ tìm Thôn Cơ. Người đời đồn đại đúng, các Ngũ Pháp Sư đã rời bỏ thế giới này. Thậm chí họ chẳng tranh đấu với nhau trong thế giới của riêng họ nữa. Vì vậy con cần một người dẫn đường. Người này chắc chắn tìm được Thôn Cơ. Nhưng hãy đề phòng vì người đó tính khí thất thường. Người già hay cáu gắt, con hiểu mà. Ta đã gửi một bức thư, nếu cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành diễn biến xấu, tự ông ta sẽ đến tìm con. Cũng giống Thôn Cơ, người đó nợ ta nhiều thứ. Ta từng kể rất nhiều chiến tích thời trai trẻ của mình, nhưng con chẳng nghe mấy, nhỉ? Thử nhớ xem, con gái!

Ở đây ta có một chiếc dây chuyền, hãy coi nó như là kỷ vật cuối cùng từ người cha này. Hai phần ba tài sản của ta thuộc về con, số còn lại thuộc về Liệt Trúc. Nếu bà vợ ưa cằn nhằn và đám con cái của ta tìm đến con thì không cần lo, ta đã làm thủ tục thừa kế. 

Đừng để ngọn lửa bên trong mình cháy quá mạnh, Tiểu Hồ. Con nhớ châm ngôn của họ Hỏa không? Họ chẳng phải pháp sư nhưng rất thực tế. Lửa sinh tất cả, lửa thiêu tất cả. Đừng quên. 

Ta yêu thương con như yêu thương Dạ Bích và Lục Châu. 

Ngày 30 tháng 5 năm 7517

Tây Minh

Tái bút: Liệt Trúc thích ăn trứng

Tái bút 1: Liệt Trúc thích nhất món trứng chưng kem

Tái bút 2: đừng để Liệt Trúc ăn trứng quá nhiều”

Tiểu Hồ đọc lại bức thư đoạn sờ lần quanh cổ, kéo ra một chiếc dây chuyền mảnh dẻ khắc mặt con cáo. Nàng gìn giữ và quan tâm đến nó. Có chiếc dây chuyền ở bên, nàng cảm thấy bớt lạc lõng. Cuộc đời nàng dành phần lớn thời gian bên đại thánh sứ. Giờ Tây Minh không còn, nàng cũng như Liệt Trúc, như con nhện con tự mắc kẹt với cái lưới do chính mình dệt nên. 

Nửa tháng trước, Tiểu Hồ tới lục địa Đông Thổ rồi lần mò hầu hết các thư viện mà đại thánh sứ yêu cầu. Tài liệu đã đọc, ghi chú đã viết nhưng nàng vẫn không tìm được điều gì mới mẻ hơn về cổng không gian. Trên hết, nàng chưa tìm thấy nữ pháp sư Thôn Cơ. Phương đông rộng lớn còn Tiểu Hồ không thể rảo chân cả lục địa để tìm kiếm một người. Đáng buồn hơn, người dẫn đường mà Tây Minh nhắc vẫn chưa xuất hiện, dường như người đó đã quên mất hoặc chẳng quan tâm lời thỉnh cầu của đại thánh sứ. May mắn thường trễ hẹn còn xui xẻo thì luôn đúng giờ! – Tiểu Hồ nghĩ thầm.

Đương bận suy tính, Tiểu Hồ nghe chuông cửa vang liên hồi và ầm ĩ. Bực mình vì kẻ bấm chuông bất lịch sự, cô nàng hầm hầm mặt bước ra định bụng quát tháo xối xả. Chắc lại thằng cha say rượu nào đây! – Tiểu Hồ nghĩ bụng. Nhưng trái với suy nghĩ, trước mắt nàng là một người đội mũ trùm, tóc bạc thồi ra từ cái mũ rơi rớt những vỏ cây mùn đất, áo khoác ngoài bốc mùi hôi như lâu ngày chưa giặt. Người nọ ngẩng đầu nhìn Tiểu Hồ, lộ ra một gương mặt già cỗi như mảnh đất đã trải qua hàng thiên niên kỷ mưa bão. Ông già làu bàu, giọng khàn khứ: 

-Sao mà khó tìm thế?! Vậy... nhóc con là Tiểu Hồ, con gái của thằng nhóc Tây Minh hả? Ủa, ta nhớ thằng nhóc Tây Minh đâu có con gái? 

-Là con nuôi. – Tiểu Hồ đáp – Nhưng ông là ai? 

Ông già tự tiện bước vào mà chẳng đợi Tiểu Hồ cho phép, vừa đi vừa rờ bàn tay gầy đét lên bức tường hành lang. Bàn tay ông ta cáu bẩn, bức tường cũng đen nhẻm đi theo. Tiểu Hồ rủn người khi nhận ra một con nhện vằn vện đen đỏ đang bò quanh bàn tay đó. Ông già lạ mặt tiếp lời:

-Ta? Ta... không... nhớ. Lâu quá rồi. Nhưng nhóc con có thể gọi ta là Cụ Cố Tổ.

[1]: xem lại bức thư của Tiểu Hồ, Quyển 3 Chương 142

[2]: xem lại Quyển 3 Chương 94

[3]: xem lại Quyển 3 Chương 83
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 2: Lửa - Cụ Cố Tổ


Khi còn ở cô nhi viện, Tiểu Hồ đã nghe về Bảy Người Mạnh Nhất. Cô bé nhớ rõ về họ như nhớ về đoạn hành lang cấm túc với những con nhện. 

Cô nhi viện không quá thiếu thốn. Nó vẫn có sân chơi cho lũ trẻ chạy nhảy, có máy chiếu ba chiều phát truyền hình trước giờ đi ngủ, thi thoảng tổ chức dã ngoại. Nhưng chúng không cuốn hút cô bé Tiểu Hồ sáu tuổi. Mỗi sáng, cô bé dậy thật sớm để nhận việc quét dọn nhà ăn cô nhi viện. Năng nổ không phải lý do và cũng chẳng phải Tiểu Hồ muốn ghi điểm với các mẹ nuôi, cô bé mong chờ người giao sữa. 

Giống Tiểu Hồ, người giao sữa với chiếc phi thuyền vận tải cũ kĩ loang lổ nước sơn tới đây mỗi sáng, đẩy xe thùng mang những chai thủy tinh đựng sữa nóng vào nhà ăn. Một người đàn ông trung tuổi. Nhưng ông ta không đội mũ trắng, mặc áo trắng hay đeo chiếc tạp dề bốc mùi ngòn ngọt vương lại từ nồi quấy sữa. Người đàn ông đó to lớn, da ngăm, ánh mắt bặm trợn, râu lờm xờm bọc bộ hàm máy móc thường rít tiếng nhai nghiến rôm rốp, cánh tay xăm hình thanh kiếm với ba lá cờ phủ quanh. Không bà mẹ nuôi hay đứa trẻ nào dám lại gần ông ta. Giao hàng xong, người giao sữa đi ngay. Nhưng thỉnh thoảng ông ta ở lại, mua một phần ăn sáng rồi thu lu dáng vẻ to lớn của mình ở một góc như con gấu thưởng thức mật ong. 

Khác mọi người, Tiểu Hồ tò mò nhiều hơn là sợ. Cô bé thường lân la gần người giao sữa, cốt nhìn cho rõ dấu xăm trên tay ông ta. Ánh mắt con trẻ thì ngây thơ lộ liễu. Một ngày nọ, người đàn ông ngẩng đầu nói với cô bé, giọng rè rè thiếu tự nhiên:

“Dấu hiệu của Tiểu Đoàn Kiếm Sắt. Chỉ người của Tiểu Đoàn mới có dấu này. Ta từng ở đó, giờ nghỉ rồi. Bé con hết thắc mắc rồi chứ?”

Tiểu Hồ hơi sợ. Cô bé nghe bọn trẻ kháo nhau rằng người giao sữa chỉ ăn sắt vụn, đinh vít, vậy nên bộ hàm máy móc thường rít những tiếng ghê rợn. Nhưng Tiểu Hồ chỉ thấy một đĩa bánh bột mì, khoai tây nghiền, ít hành tây và trà thiết mộc. Không đinh vít, không sắt vụn. Người giao sữa gõ gõ vào bộ hàm:

“Lựu đạn nổ, cái hàm của ta đi tong. Bé con không thể nhai, nói hoặc uống nếu thiếu nửa hàm dưới. Ta giải ngũ, nhận một mớ tiền trợ cấp cùng cái hàm máy này. Nó cũ rồi nhưng ta chưa có tiền thay.”

Cô bé Tiểu Hồ bớt sợ hơn. Đó là những câu thoại khởi đầu cho một mối quan hệ kéo dài hai năm sau đó. Họ – một lớn tuổi, một nhóc tì – chỉ gặp nhau vào sáng sớm, có lúc chạm mặt lưới qua, có khi trò chuyện nếu người giao sữa ở lại ăn sáng. Tiểu Hồ thích người đàn ông đó. Ông ta luôn mang đến nhiều câu chuyện kỳ vĩ lớn lao vượt xa khỏi bốn bức tường cô nhi viện, tới nỗi đoạn hành lang cấm túc cùng tơ nhện cũng không thể ngăn lại. Mới sáu tuổi nhưng Tiểu Hồ đã biết Tiểu Đoàn Kiếm Sắt, những cuộc chiến triền miên giữa Phi Thiên và Lưu Vân, những truyền thuyết ly kỳ trong giới chiến binh. Và Bảy Người Mạnh Nhất. 

“Bảy Người Mạnh Nhất là những cá nhân mạnh nhất thế giới...” – Người giao sữa nói – “...sức mạnh, tiền bạc, quan hệ, họ đều mạnh nhất. Thậm chí nhiều người sở hữu quân đội riêng, ngang một tiểu quốc. Cũng có người chẳng nắm thứ gì trong tay, chỉ một mình, nhưng chẳng ai dám gây sự. Họ là những cá thể mạnh tuyệt đối. Nếu đại thánh sứ Tây Minh ở trong Bảy Người Mạnh Nhất thì ngài là một nhân vật như thế. Nhưng đáng tiếc là ngài luôn từ chối gia nhập.”

“Vậy ai là người như thế?” – Cô bé Tiểu Hồ hỏi.

“Cụ Cố Tổ, người giữ ghế số một trong Bảy Người Mạnh Nhất.” – Người giao sữa trả lời – “Khi còn bé, ta đã nghe về Cụ Cố Tổ. Khi gia nhập Tiểu Đoàn, ta lại nghe về Cụ Cố Tổ. Nhiều năm chiến đấu rồi nghỉ hưu, ta còn nghe về Cụ Cố Tổ. Ông ta đã và đang ở vị trí số một. Ta chết đi, bé con lớn lên nhưng ông ta sẽ ở đó. Biết đâu đấy, một ngày bé con lớn hẳn, thế giới vẫn gọi tên Cụ Cố Tổ.”

Hai năm sau, Tiểu Hồ rời cô nhi viện rồi chẳng bao giờ gặp lại người giao sữa. Dù vậy, những câu chuyện chiến binh hay Cụ Cố Tổ ở lại với cô bé. Mười mấy năm trôi qua, Tiểu Hồ đã trưởng thành, thời thế cũng thay đổi. Ghế số một trong Bảy Người Mạnh Nhất có chủ mới, kẻ phản bội khét tiếng Phương Tưởng đã chết, đại thánh sứ Tây Minh nằm lại đất Tuyệt Tưởng Thành. Người giao sữa dự đoán sai trật ít nhiều, đằng nào ông ta cũng không phải nhà tiên tri. Nhưng đúng là Cụ Cố Tổ còn tồn tại, vững chắc, cao ngất và không thể xô đổ. 

Giờ đây, thành trì không thể xô đổ đó đang ngồi trước mặt Tiểu Hồ, tự tiện pha trà thiết mộc, bốc bánh kẹo nhai nhồm nhoàm mà chẳng đợi cô gái mời mọc. Người già thường bất lịch sự, “Cụ Cố Tổ” bất lịch sự gấp mười. Chẳng giấy tờ hay nhân chứng nào xác nhận ông già rách rưới hôi hám kia là kẻ mạnh thứ hai thế giới, nhưng Tiểu Hồ có thể cảm nhận. Mười đầu ngón tay nàng hơi run, mười đầu ngón chân lạnh toát, sống lưng căng ra co giật từng hồi – chúng đang sợ và chúng không nói dối Tiểu Hồ. 

- Ngài là... Cụ Cố Tổ? – Tiểu Hồ lên tiếng, thay đổi giọng điệu xưng hô – Ngài tới đây có việc gì? 

Cụ Cố Tổ nuốt miếng bánh, nốc ngụm trà, súc miệng sòng sọc rồi trợn mắt nuốt ực (Tiểu Hồ đã sợ ông ta nhổ toẹt xuống sàn nhà). Ông ta già, rất già. Bộ mặt ổng dài thuỗn kéo lớp da nhăn nheo chảy xệ hai bên má, vành mắt lẫn gò má chi chít dấu đồi mồi, tóc bạc trắng không chừa một sợi đen. Cụ Cố Tổ chép miệng chép lưỡi tèm tẹp:

- Vì thằng nhóc Tây Minh ngỏ lời xin giúp đỡ. Chẹp chẹp! Tây Minh giúp ta nhiều lần, chả nhẽ ta bậc cha chú mà không giúp nó chút đỉnh?! Vả lại quà của Tây Minh bao giờ cũng làm người ta phải nhe răng cười. Chẹp chẹp! Thằng nhóc đó khá lắm, biết ý người già! – Cụ Cố Tổ vỗ đùi phanh phách – Vậy nói xem, nhóc con Tiểu Hồ, mày muốn nhờ ta việc gì? 

Tiểu Hồ ngẩn ngơ:

- Đại thánh sứ chưa nói với ngài sao? 

- Không. Tây Minh không nói nhưng ta không quan tâm. Ta thích quà cáp trước, công việc sau. Nói trước, có ba lĩnh vực mà ta bó tay: cải tử hoàn sinh, quay ngược thời gian và chiếm lấy trái tim đàn bà. Nào nói xem, nhóc con Tiểu Hồ, mày muốn ta làm gì? 

Tiểu Hồ buột miệng hỏi:

- Ba lĩnh vực... nói thế, ngài có thể khiến người ta bất tử? 

Cụ Cố Tổ nhíu mày, rướn cổ nhìn chòng chọc cô gái bằng đôi mắt mờ mịt, đồng tử của đôi mắt đó gần như hòa lẫn vào lòng trắng, chẳng khác bệnh đục thủy tinh thể. Tiểu Hồ ớn rởn sống lưng, cảm giác mình vừa thốt ra điều gì ngu ngốc. 

- Bất tử à? – Cụ Cố Tổ nhếch mép – Được, nhưng phải trả giá tương đương. Ta rất vui vì những món quà của Tây Minh, nhưng như thế chưa đủ. Nếu muốn bất tử, nhóc con phải trả thêm, trả rất nhiều! Chẹp chẹp! Vậy mày muốn bất tử phỏng? 

Tiểu Hồ thở phào, bèn xua tay:

- Cháu không có ý đấy. Cháu chỉ hỏi thôi, mong ngài bỏ qua! Chuyện là vậy: cháu muốn tìm một người trong Ngũ Pháp Sư, tên Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, nhưng không biết bà ấy đang ở đâu. Gần một thế kỷ qua, chẳng ai tìm được các thành viên Ngũ Pháp Sư. Người ta nói họ đã biến mất khỏi cõi đời. Nhưng cha nuôi nói họ vẫn sống và bảo rằng ngài có thể dẫn cháu đi gặp họ. 

Đương mải tống tộng bánh kẹo vào mồm, Cụ Cố Tổ ngừng nhai, vụn bánh rớt khỏi bộ hàm đang tách đôi. Ông già vội rót cốc trà mới, nốc cạn một hơi làm trôi cơn ngắc ngứ đóng quạnh ở cổ. Sau đấy ông ta thể hiện một loạt ngôn ngữ thân thể, hết bẻ khớp tay nắn khớp gối lại vặn vẹo lưng, tưởng chừng có một cuộc tranh đấu nội tâm dữ dội trong người. Tiểu Hồ đã sẵn sàng lao tới tóm chặt tay ông già rồi ăn vạ, vì nàng thấy ổng nhiều lần nhón mũi chân định đánh bài chuồn. Nhưng rốt cục Cụ Cố Tổ ở lại, lầm bầm lẩm bẩm:

- Nếu thằng ranh Tây Minh còn sống, ta sẽ vặt trụi tóc trên đầu nó... thằng ranh con... chẹp chẹp, hừm hừm... Được rồi, ta sẽ giúp nhóc con. – Ông ta ngẩng đầu nhìn Tiểu Hồ – Việc này khó song không phải hết cách, chỉ là phải di chuyển nhiều. Mang theo nhiều tiền, nhóc con. Nếu phát sinh chi phí, mày phải tự mua lấy, ta không bỏ tiền đâu nhé! 

Tiểu Hồ lần ví, kiểm tra thẻ ngân hàng, lẩm nhẩm ước lượng tài khoản còn bao nhiêu tiền. Trông mấy chiếc thẻ trong suốt to bằng lòng bàn tay, Cụ Cố Tổ giật lấy, săm soi chúng bằng đôi mắt mờ đục. Ông ta hỏi:

- Ta tưởng tiền trông khác chứ? Sao lại kỳ quặc vậy? Có phép thuật à? Tiền sẽ chảy ra từ đây à? 

Cô gái phì cười, nhận ra Cụ Cố Tổ hoàn toàn mù tịt công nghệ kỹ thuật. Mất nửa tiếng để Tiểu Hồ giải thích thẻ ngân hàng là cái gì hay hoạt động thế nào. Như bao người già, Cụ Cố Tổ rất khó khăn để hiểu tại sao có một cái máy nôn khạc ra tiền bạc. Tiểu Hồ đoán ông già này dành quá nhiều thời gian ở nơi rừng rú hoang dã, khi quay lại đô thị văn minh thì bị choáng ngợp, không theo kịp những thứ máy móc tân tiến. Bản thân Cụ Cố Tổ cũng thừa nhận chuyện đó. “Ta ghét thành phố! Ta thích rừng, núi, sông, suối, thú hoang... những tạo vật tự nhiên do Vạn Thế nặn thành hình. Muốn hỏi tại sao ta đến được Phi Thiên thành? Vì ta có bọn giúp việc. Chẹp chẹp!” – Ông già chép miệng. 

Ở chiều ngược lại, đôi mắt Tiểu Hồ đã bị nhà cao tầng và ánh sáng văn minh che khuất, không thể chạm tới chốn hoang sơ đầy chuyện kỳ bí. Người ta nói pháp sư hay kiếm thuật sư ngày nay kế thừa những phép thuật đầu tiên vốn sinh ra từ rừng sâu. Là một kẻ kế thừa xuất sắc nhưng Tiểu Hồ mới khám phá ở bìa rừng thế giới phép thuật chứ chưa một lần đi sâu hơn, sâu hơn nữa, nơi mà ánh sáng mặt trời không bao giờ chạm tới. Trước giờ nàng nhìn thấy nơi đó thông qua các cuốn sách cổ, nhưng sách là cái lò đun nấu ngôn từ mà mọi hương vị nguyên thủy bị ngòi bút nêm nếm gia vị. Vì quen thưởng thức món ngon nên Tiểu Hồ khó nuốt nổi những món chưa qua chế biến của ông đầu bếp Cụ Cố Tổ:

- Mày nghĩ Ngũ Pháp Sư bảo vệ thế giới hả? Không, chẳng bảo vệ cái gì sất! Nó cơ bản chỉ là niềm tin thôi, nhóc con. Những câu chuyện thời kỳ đầu rất đơn giản. Thế giới Tâm Mộng cấu thành từ năm nguyên tố Ngũ Hành, tương ứng có năm dòng pháp sư cơ bản. Những ông già họp nhau lại, bảo rằng chọn ra năm người đại diện năm nguyên tố, cho chúng nó đánh nhau chí chết để coi Kim, Thủy, Mộc, Hỏa hay Thổ mạnh nhất. Chẹp chẹp! Rồi đám pháp sư lại bình chọn năm người làm vật tế thần. Ồ, đừng nhìn ta vậy, nhóc con, ta không nói nhầm đâu! Làm vật tế thần đấy! Móc từng quả tim to ngần này này, moi bộ ruột thế này này! Hà hà! Ta đùa thôi. Nhưng đúng là có thời gian họ bị giết để tế thần, và đó là lần đầu tiên họ khám phá ra máu có liên kết mạnh với phép thuật. Qua thời gian, nhiều chửi bới lộn tùng phèo, đám pháp sư quyết định chọn Ngũ Pháp Sư để trấn giữ Ngũ Hành, văn minh hơn, tổ chức hơn, lại có tiếng bảo vệ cân bằng cho thế giới. Cứ thế, cứ thế, và Ngũ Pháp Sư trở thành những người bảo vệ thế giới Tâm Mộng! Hay chưa? Hay mà! Chẹp chẹp!

Kết chuyện, Cụ Cố Tổ vỗ đùi cười khanh khách. Tiểu Hồ không tin nhưng cũng không dám phản đối. Nàng đành tiêu hóa hết mớ khó nuốt ấy đoạn lảng chuyện khác: 

- Vậy ngài biết nguyên do Ngũ Pháp Sư rời bỏ thế giới không? 

Vẫn thái độ tự nhiên hơn ruồi nhặng, Cụ Cố Tổ lục tủ lạnh moi ra mấy cái bánh Tiểu Hồ vốn làm cho Liệt Trúc. Ông già ăn một chặp, tíu tít khen ngon rồi tiếp tục câu chuyện: 

- Dĩ nhiên ta biết! Chẹp chẹp! Bánh ngon thật, mày làm hả, nhóc con? Còn không? – Ông già chép miệng – À, quay lại chuyện cũ. Nguyên do hả? Có lẽ bắt nguồn từ vụ thảm sát dòng họ Biệt Liên. Nhưng hãy nói chuyện xa hơn, từ hồi đầu kỷ Vạn Thế thứ ba, Ngũ Pháp Sư có sức ảnh hưởng chính trị lớn. Là những người bảo vệ Ngũ Hành, trách nhiệm của họ là duy trì trật tự thế giới và giữ nó ở khuôn khổ. Đừng nhầm lẫn nhé! Tâm Mộng vẫn thế thôi! Vẫn là chiến tranh, máu chảy và sắt thép. Ngũ Pháp Sư không ngăn chặn chúng mà giữ chúng trong khuôn khổ. Cơ mà mọi chuyện ngày càng tuột khỏi tay họ. Trận Sông Đỏ giữa Phi Thiên và Lưu Vân là ví dụ, chẳng nước nào lắng nghe Ngũ Pháp Sư. Rồi Thời Đại Thủy Triều tới, bọn trai trẻ chết như rạ. Tất cả chỉ cầu mong vinh quang, chiến thắng, danh dự; chẳng ai quan tâm sự cân bằng Ngũ Hành hay Ngũ Pháp Sư nữa. Cuối cùng là vụ thảm sát họ Biệt Liên, dòng họ cổ xưa hiếm hoi còn sót lại trên thế giới. Ngũ Pháp Sư đã làm tất cả nhưng bất lực. Hà! Năm đứa trẻ đó không chịu nổi, lần lượt bỏ đi và để lại huyền thoại cho lũ nhóc chúng bay ngậu xị! Nhiều tuổi bao nhiêu tự ái bấy nhiêu mà!

Tiểu Hồ im lặng lắng nghe. Đại thánh sứ Tây Minh biết Ngũ Pháp Sư nhưng chưa bao giờ kể cho nàng nghe những chuyện như thế, hoặc ông không muốn kể, hoặc ông không biết nhiều bằng Cụ Cố Tổ. 

- Từ lâu, ta nhận ra làm Ngũ Pháp Sư chán òm! – Cụ Cố Tổ bỗng rướn người, săm soi Tiểu Hồ bằng đôi mắt mờ đục – Làm Bảy Người Mạnh Nhất vui hơn! Ngũ Pháp Sư phải dạy dỗ bảo ban một đám ngu đần, còn Bảy Người Mạnh Nhất có thể gõ đầu mọi thằng ngu đần. Và tự do. Ta đi tới mọi nơi ta muốn, không cần lo nghĩ về loài người ngoài kia. Dẫu bọn chúng chết hết thì ta vẫn tồn tại. Ta tồn tại để thấy các vị thần, các thực thể tồn tại trước khi ánh sáng Vạn Thế xuất hiện. Sao, vui chứ hả? 

- Ngài từng làm Ngũ Pháp Sư? – Tiểu Hồ há hốc miệng. 

- Một thời gian. Chẹp chẹp! – Cụ Cố Tổ trề môi chép miệng – Ngày nào cũng tiếp đón vô số kẻ tham vọng, lúc nào cũng đưa ra lời khuyên nhưng không ai thèm nghe. Rồi một ngày con chim mỏ vàng đưa thư từ Uất Hận Thành xuất hiện cùng lời đề nghị gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất[1]. Ta đồng ý. Quyết định đúng đắn nhất cuộc đời! 

Tiểu Hồ chợt nhớ lại cuộc trò chuyện với người giao sữa năm nào. Cô gái hỏi khẽ:

- Ngài... ngài bao nhiêu tuổi rồi? Cháu từng gặp Ba Thủ Lĩnh, họ rất nhiều tuổi. Họ sống lâu tới mức không thể nhớ rõ ràng chuyện quá khứ. Vậy ngài bao nhiêu tuổi? 

Cụ Cố Tổ không đáp, chỉ cười hềnh hệch, nhe bộ răng nâu xỉn lởm chởm cái sứt cái lành. Ăn uống chán chê, ông già moi ra tẩu thuốc dài ngoẵng, búng tay “tách” một cái, miệng tẩu đỏ lửa đốt lá thuốc đã được nhồi sẵn. Ông ta hút phì phèo, chẳng mấy chốc tạo đám mây màu xanh sậm lơ lửng dưới trần nhà. Tiểu Hồ ho sặc nhưng không dám ý kiến vì đây là kẻ mạnh thứ hai thế giới, chứ là người khác thì cô nàng đốp chát ngay. 

Cụ Cố Tổ bỏ câu hỏi của Tiểu Hồ vào quên lãng rồi chuyển vấn đề: 

- Không dễ để tìm Ngũ Pháp Sư, đặc biệt là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ. Khi còn bé tí, Thôn Cơ đã bộc lộ thiên phú về pháp trận. Chỉ bằng bùa phép, Thôn Cơ có thể che giấu một quả núi hoặc khống chế một đội quân. Con nhãi đó đại diện cho “Mộc” trong Ngũ Pháp Sư. Con nhỏ đáng ghét! Bảo ta đi tìm nó ư? Này nhóc con Tiểu Hồ, ta yêu cầu mày trả thêm! Thế nào? 

Cô gái cứng họng không biết trả lời ra sao. Cụ Cố Tổ cười khanh khách, nửa đùa nửa thật. Đột nhiên ông ta ngửa cổ thổi phù khiến làn khói xanh sậm trên đầu thay đổi hình dáng. Khói vơi bớt, phần còn lại hiện thành bản đồ thế giới Tâm Mộng. Chưa hết ngạc nhiên, Tiểu Hồ thấy Cụ Cố Tổ đặt lên bàn một bộ bài kỳ lạ ước chừng hơn một trăm lá. Nó cũ nát, xơ xác, rách bươm hệt như vị chủ nhân. Ông già nói:

- Chính xác là một trăm linh tám (108) lá bài. Cầm bài, nhóc con. Nghĩ về con nhãi Thôn Cơ, xáo chín lần cho ta. 

Tiểu Hồ làm theo ông già, vừa xáo bài vừa phỏng đoán đây là phép bói toán. Nàng từng gặp nhiều thầy bói hoặc pháp sư có khả năng coi bói, họ cũng dùng bài nhưng chưa ai sử dụng quá một trăm lá. Xáo xong, Tiểu Hồ gửi trả. Cụ Cố Tổ ngửa bài. Lá bài không có số cũng chẳng có hình vẽ thường thấy, chỉ toàn nét gạch ngang xiên hoặc ngoằn ngoèo kỳ quặc. Tiểu Hồ chưa từng chứng kiến loại bài nào dị thường như thế. 

Và cách xem bài của Cụ Cố Tổ cũng kỳ quặc chẳng kém. Ông già bốc từng bộ chín lá, trong khi hầu hết thuật coi bói chỉ bốc một, hai hoặc cùng lắm là năm lá. Cụ Cố Tổ xếp bốn bộ ở trong, tám bộ ở ngoài, vừa bốc vừa lẩm nhẩm mấy câu chữ khó hiểu, chốc chốc lại ngẩng đầu nhìn đám khói hình bản đồ Tâm Mộng. Nghĩ ngợi hồi lâu, ông già đập bàn, một trăm linh tám lá bài bay lên, vọt qua đám khói, lơ lửng xếp thành đồ hình gồm nhiều đường thẳng lẫn xiên chéo. Tiểu Hồ nhìn mãi và ngớ người ra khi phát hiện nó là bản đồ các vì sao. Cụ Cố Tổ nhìn qua ngó lại, sau rốt chỉ vào một điểm ở lục địa Đông Thổ: 

- Ta không thể dò vị trí chính xác của Thôn Cơ. Ta nói rồi, con nhãi đó rất giỏi che giấu, họa may Nữ Thần Tiên Tri mới biết nó ở đâu! Nhưng hãy bắt đầu từ đây... – Ông già ngoáy đám khói bằng ngón tay gầy đét –...nơi cô ta nhậm chức Ngũ Pháp Sư, đền thờ Mộc Thần, ngôi đền nguyên thủy, không phải những đền thờ nghi ngút khói hương mà lũ con người chúng bay thờ cúng. Có lẽ cái đền bỏ hoang rồi. Chuyến đi dài đấy, nhóc con, chuẩn bị cho tốt. Nếu muốn tìm thì mày phải đi ngay, các dấu hiệu không tồn tại lâu đâu!

Tiểu Hồ cắn răng suy nghĩ. Nàng mới về, chăm lo Liệt Trúc chưa được bao lâu, nay lại đi tiếp, e chừng con bé sẽ hờn trách. Trẻ con chẳng rộng lượng như người lớn. Nhưng công việc đột xuất, nàng không thể chần chừ thêm. 

Ông già thu bài. Phép thuật tiêu tan, đám khói bản đồ Tâm Mộng biến mất. Nhưng ông già chưa thôi cái thói coi nhà người khác như nhà mình. Ông ta tiếp tục lục lọi tủ lạnh, coi đó như phần thưởng trả công coi bói. Cái tủ lạnh cơ man bánh trái kẹo ngọt, quả thực là kho báu với ông ta. Nhìn quanh ngó quẩn mà chẳng tìm được túi xách hay đồ đựng, Cụ Cố Tổ vén vạt áo dài, thảy tất cả kẹo bánh nhỏ to vào đó. Tiểu Hồ tức lắm mà không thể làm gì. Lão già mạnh hơn Tiểu Hồ, đồng thời là kẻ duy nhất có thể giúp đỡ cô gái. 

Cụ Cố Tổ đương tí tởn thì Liệt Trúc từ phòng riêng đi ra. Một già khú đế chạm mặt một nhóc tì. Không khó để Liệt Trúc nhận ra ông già lạ mặt kia đang tự tiện xâm nhập tủ lạnh. Cũng không khó để con bé nhìn thấy trong vạt áo của lão già có món bánh trứng mà nó yêu thích. Đứa nhóc tì lườm nguýt:

- Ông là ai? Tại sao vào đây? Tại sao lấy đồ ăn của tôi? Trả ngay!

Con bé nói thật làm thật. Nó sấn sổ bước đến giật phăng món bánh trứng. Lão già nổi quạu:

- A, láo quá! Con ranh láo quá! Mày dám cướp của ta à? Ồ... tóc đỏ, mắt xanh lục... ta từng thấy một người như vậy. Mặc dù không giống nhau lắm nhưng ánh mắt đó không thể lẫn được. Để xem nào!

Cụ Cố Tổ trút mớ bánh kẹo xuống đất, tuy thích đồ ăn nhưng Liệt Trúc làm ông ta hứng thú hơn. Ông già rờ ngón tay khô đét lên mặt con bé tóc đỏ. Liệt Trúc gạt phắt ra, không ngần ngại tỏ thái độ rằng sẽ úp bánh trứng vào mặt ông ta nếu còn bị sờ soạng. Cụ Cố Tổ cười khanh khách, hàm răng nâu xỉn lập cập đánh vào nhau vẻ phấn khích:

- Không sai, giống nhau như đúc! Vậy ra mày là con đẻ của Liệt Giả. Đôi mắt mày không phải của loài người, mà của loài sói. Đôi mắt không có yên ổn, chỉ toàn tranh đấu, đau khổ, dằn vặt, mất mát... Mày sẽ không bao giờ trở thành thánh sứ mà tối tăm hơn nhiều. Phép thuật nguyên thủy phù hợp với mày, nhóc con Liệt Trúc, những phép thuật cổ xưa nhất và tàn ác nhất khi loài người vẫn còn mông muội. Sói phải sống như sói, sói không sống như người. Ta có cả đống phép thuật như thế, theo ta không, nhóc con? Đằng nào ta cũng cần thêm một đứa giúp việc. 

Đôi mắt mờ đục của ông già xoáy vào Liệt Trúc. Con bé cứng đờ người. Con sói non tóc đỏ mới đây hung dữ giờ chạy vội, nấp sau Tiểu Hồ như cún con. Nhưng Cụ Cố Tổ không dừng lại, ông ta bước tới, tỏ rõ ý đồ muốn mang Liệt Trúc đi như cái cách ông ta thản nhiên bước vào nhà, thản nhiên vơ vét đồ ăn. Tiểu Hồ bèn rút kiếm. Trông mũi kiếm nhọn hoắt chĩa thẳng mặt, lão già không đếm xỉa mà chỉ chăm chăm vào Liệt Trúc. 

Giữa lúc đó, cửa căn hộ bật mở, kế đến là tiếng bước chân chậm rãi. Một người khác xuất hiện ở cửa ra vào, miệng cắn điếu thuốc hút dở, tay xách nách mang bia lẫn rượu. Vừa thấy người nọ, Tiểu Hồ thở phào nhẹ nhõm. Cụ Cố Tổ nghiến răng trèo trẹo:

- Mày... Bất Vọng... thẳng lỏi con!

- Chào bố già! – Bất Vọng hơi cúi đầu – Bố già qua chơi mà không bảo tôi một tiếng? Tôi có mang rượu cho bố già, uống chứ? 

Cụ Cố Tổ thở phì phì, hai bàn tay nắm chặt kêu rôm rốp. Ông già ngoảnh sang Tiểu Hồ: 

- Tạm lùi giờ khởi hành nhé, nhóc con Tiểu Hồ. Đợi ta đánh chết thằng lỏi con kia, ta với mày sẽ đến đền thờ Mộc Thần. Cái gì? Thôn Cơ? Kệ mẹ con nhãi Thôn Cơ! Kệ mẹ mấy thứ bói toán! Ta phải đập thằng trời đánh thánh đâm này trước!

[1]: con chim mỏ vàng từng xuất hiện ở Quyển 3 Chương 83
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 3: Vùng mỏ


Đã lâu lắm Tiểu Hồ mới hưởng thụ cảm giác quây quần gia đình. Chỉ cần đồ ăn, nụ cười và chuyện kể – với nàng, như thế là gia đình. Hồi ở cô nhi viện, Tiểu Hồ thích nhất giờ ăn vì nàng có thể len vào giữa những đứa trẻ khác, cười đùa đấu láo với chúng. Hơi ấm từ đám đồng lứa làm nàng bớt lạnh, bớt cô đơn, bớt nghĩ về hành lang cấm túc cùng bọn nhện, bớt khao khát thứ tình cảm mà cô nhi viện không bao giờ sở hữu. Khi đó nàng có anh chị em, có người thân. Bởi vậy định nghĩa “gia đình” của Tiểu Hồ đơn giản, không phức tạp như mọi người. 

Nhưng thứ không khí gia đình này hết sức kỳ quặc. Nó là tổ hợp bốn người: một cô gái mất cha nuôi, một đứa trẻ không thừa nhận ông bố tội phạm, một gã trung niên nghiện thuốc và một lão già khú đế xỉn rượu thích lè nhè. Bốn con người xa lạ, không thân thích, liên kết nhau bằng những sợi dây lỏng lẻo. Họ tập trung ở căn hộ của Tiểu Hồ, ăn uống rồi kể chuyện phiếm. Mười phần câu chuyện, gã nghiện thuốc đóng góp ba, còn lại bảy phần là lão già tự biên tự diễn. Cô gái cùng đứa trẻ im lặng, bất đắc dĩ làm thính giả. Nhưng Tiểu Hồ tự nhủ như vậy cũng tốt. Nó tốt hơn một năm hết chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành rồi đám tang đại thánh sứ Tây Minh. Một năm đó, căn hộ của nàng yên ắng như ngôi nhà nhỏ cô đơn trên ngọn đồi xanh. 

Rốt cục Cụ Cố Tổ thích ăn uống hơn đánh lộn, chẳng phải giữ ý lịch sự mà vì rượu. Lão già thừa nhận nơi rừng rú hoang sơ không thể chưng cất rượu ngon bằng thế giới văn minh hiện đại, nên được thể uống tới số. Bốn chai đã hết, khắp người xộc mùi cồn nhưng Cụ Cố Tổ vẫn thòm thèm khui chai thứ năm. Lão già vỗ vai Bất Vọng, khề khà:

- Bao lâu nhỉ? Hồi chúng ta đụng độ là năm bao nhiêu? Thông cảm, thằng lỏi con, ta không còn nhiều cảm nhận về thời gian nữa, chẹp chẹp! – Cụ Cố Tổ chép miệng – Thời gian với ta chỉ còn là khí thở, chui qua đường mũi, chui xuống dạ dày, đánh rắm một cái là hết! Bao nhiêu nhỉ? Bảy năm? Tám năm? Hay chín năm? Nhưng không thể nào mười năm được! Ôi thời gian, ta chịu thua! Nhưng chỉ nhớ lúc đó mày vẫn là thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt, chúng ta gặp nhau ở dòng sông nơi diễn ra Trận Sông Đỏ. Lý do ư? Phi Thiên các người rải bom trúng vào nơi ta thường lui tới, làm mấy đứa giúp việc toi hết! Đó là lần đầu tiên sau nhiều năm, ta rời khỏi rừng và xử lý bất cứ tên lính Phi Thiên mà ta bắt gặp. Cuối cùng ta gặp mày, chính ở nơi Trận Sông Đỏ từng diễn ra. Thằng lỏi, mày là thằng hèn đánh ông già! Mày đánh người cao tuổi! Nhìn này! Răng lợi của ta như thế này là do mày! DO MÀY!

Ông già nhe bộ răng nham nhở cái vỡ cái lành. Bấy giờ Tiểu Hồ và Liệt Trúc mới biết bộ nhá của ông già xấu xí bởi lực tác động bên ngoài. Bất Vọng không đáp mà giấu nụ cười sau ly rượu. Cụ Cố Tổ lẩm bẩm chửi gã lại quay sang Tiểu Hồ và Liệt Trúc:

- Sau lần đó, thằng lỏi con này bước lên vị trí số một. – Lão chỉ vào Bất Vọng – Ta cứ nghĩ nắm bắt Ngũ Hành là tóm chặt cả thế giới, mọi sinh vật đều nằm trong tay mình và bé bằng con sâu cái kiến, bóp là chết! Nhưng gặp Bất Vọng, ta nhận ra chẳng thứ gì trên đời bắt nổi gió, nó tồn tại mà cũng không tồn tại. Ta không thể chiến đấu với một thứ như thế. Ta vui vẻ trao lại vị trí số một. Ngồi đó quá lâu, ta cũng chán. Nhưng mấy đứa nhóc biết gì không? Hôm nhận ghế số một, thằng lỏi không có quà cho ta. Không có quà! Và cũng không chào hỏi kính trọng luôn! Chẹp chẹp! Mày làm ta xấu hổ, thằng lỏi con... ực! – Lão già lại quay sang Bất Vọng – Hôm đấy Phương Tưởng, Con Sâu Ngủ và Lão Quý Tộc đều có mặt, thế mà mày không cho ta chút thể diện nào trước ba thằng nhãi con ấy. Chúng nó cười vào mặt ta!

Cụ Cố Tổ uống tới đâu nấc cụt tới đó, lời phàn nàn chữ được chữ mất như hàm răng của lão. Tiểu Hồ đoán rằng vì lý do nhỏ nhặt ấy mà ông già sống chết đòi đánh lộn. Bất Vọng phì cười:

- Thật vậy? Ai dám cười lão già bẩn tính thù dai như ông? 

Cụ Cố Tổ nổi cơn sừng sộ nhưng bụng dưới biểu tình đòi xả lũ đập thủy điện. Người già thận yếu, ông ta cũng chẳng ngoại lệ, tay ôm bụng chân khom khom mà đi. Lão già rời phòng ăn đi sang phải. Bất Vọng gọi to:

- Nhà vệ sinh ở bên trái!

- Biết rồi, khổ lắm!

Ông già lầu bầu, lật đật vòng sang trái, rồi tiếng nước chảy xè xè từ nhà vệ sinh vọng ra. Cụ Cố Tổ không đóng cửa. Âm thanh rót xuống bàn ăn, tong tỏng tong tỏng như thể đường ống nước trên trần thủng toác, bọn Tiểu Hồ và Liệt Trúc hết ăn nổi. Điểm tích cực duy nhất là cơn phẫn nộ của Cụ Cố Tổ theo nước trôi tuột theo bồn cầu. Trông hai cô gái nhăn nhó, Bất Vọng cười khùng khục đoạn lớn giọng: 

- Tuyệt Tưởng Thành sụp đổ là vì ông, bố già. Hôm bỏ phiếu, Hệ Tôn, Con Sâu Ngủ và Thằng Phì Lủ đồng ý chiến tranh; tôi và Đạn Đạo phản đối. Tất cả đều chờ đợi ông. Tôi đã nghĩ ông tôn trọng truyền thống lịch sử. Nhưng rốt cục ông bỏ phiếu trắng. Vì phiếu trắng của ông mà Lão Quý Tộc té nước theo mưa và nhảy vào phe chủ chiến. 

Vẫn tình trạng mở đập tháo nước, Cụ Cố Tổ oang oang đáp lời từ nhà vệ sinh: 

- Truyền thống lịch sử? Chẹp chẹp! Mày thử sống lâu như ta xem, thằng lỏi con, sống lâu như ta rồi mày sẽ biết cái gì là buồn chán. Khi đứng ở đỉnh cao thế giới và vượt ra khỏi khuôn khổ của loài người, mày sẽ cần một thứ gì đấy thú vị, một động lực để mày tiếp tục tồn tại. Ơn trời! Thế giới Tâm Mộng đủ lớn để ta khám phá thêm một thời gian dài nữa. Nhưng ai đi mãi được? Có lúc phải nghỉ chứ! Chẹp chẹp! Lúc nghỉ, mày cũng cần một thứ gì đó để tạm khuây khỏa. Vậy nên ta bỏ phiếu trắng. Sao nào? Phiếu trắng đâu có nghĩa ta đồng ý chiến tranh? Đừng lên mặt với ta, thằng lỏi con Bất Vọng! Ta từng gặp tổ tiên họ Hoang Vệ khi thằng nhóc Hoang Vệ Đấu Nhân còn chưa phải là con t*ng trùng nhé! Mày, tất cả lũ chúng bay đừng lên mặt với ta cái gì truyền thống, cái gì lịch sử! Ta còn đẻ ra mấy thứ truyền thống với lịch sử kia!

- Nhớ rửa tay, bố già! – Bất Vọng nhắc nhở.

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! – Lão già làu nhàu. 

Lại một tràng nước chảy rồ rồ dội đến. Có tiếng súc miệng ọc ọc, có tiếng chép miệng tem tép rồi hong tay vù vù. Dường như Cụ Cố Tổ thích máy hong khô tay, cứ đứng suốt, máy kêu rò rò làm mọi người phát mệt. Lão già trở ra, mồm lè nhè đầy hơi rượu: 

- Nhưng đó không hẳn là lý do chính. Tổ tiên họ Hoang Vệ hào phóng, đặc biệt rất kính – trọng – người – già! – Cụ Cố Tổ gằn từng chữ rồi găm chúng vào Bất Vọng – Vậy mày biết tại sao ta bỏ phiếu trắng và bỏ mặc Tuyệt Tưởng Thành không, Bất Vọng? Vì chẳng cái gì tồn tại mãi kể cả sự bất tử. Tuyệt Tưởng Thành đã tồn tại quá lâu. Ta đi khắp phía đông, lên miền bắc, thăm thú phương tây rồi du ngoạn phía nam. Ta đã thấy nhiều đế quốc, nhiều đất nước. Chẳng thứ nào trường tồn bằng Tuyệt Tưởng Thành, nó thịnh vượng và bền vững một cách đáng ngạc nhiên, thậm chí vô lý! Nhưng Liệt Giả đã xuất hiện, gã là sứ giả từ bầu trời. Trời cử gã đến để kết thúc Tuyệt Tưởng Thành. Ta cóc sợ đứa nào trong Bảy Người Mạnh Nhất, kể cả mày, Bất Vọng! Ta cũng cóc sợ thằng ranh con Liệt Giả! Nhưng ta sợ trời. Trời lớn hơn tất cả! Ta chẳng thể cản Liệt Giả vì gã muốn tiêu diệt Tuyệt Tưởng Thành, vì trời yêu cầu gã tiêu diệt Tuyệt Tưởng Thành. Tại sao ta phải ngăn cản Liệt Giả khi trời đã sắp đặt mọi sự?! Ta bỏ phiếu trắng là tình nghĩa với đám người Hoang Vệ lắm! Đòi hỏi gì nữa?

Bất Vọng xoay xoay chén rượu bằng ngón cái và ngón giữa, nghĩ ngợi một lúc, lắc đầu cười: 

- Chẳng có trời cũng chẳng có Vạn Thế, bố già. Chỉ có chúng ta, vì chúng ta và do chúng ta. Chỉ có bàn tay con người thôi. 

Lão già cười vang, chép miệng chèm chẹp rồi vỗ vai Bất Vọng:

- Vì mày sống chưa đủ lâu, lỏi con! Chẹp chẹp chẹp! Đúng là chẳng có Vạn Thế, nhưng có trời thật đấy! Một ngày kia Vạn Thế sẽ đổ, có thể lúc ấy ta chẳng còn sống mà chứng kiến cảnh tượng ngoạn mục đó, chỉ chắc chắn nó sẽ đổ. Cái vòng sắt kiên cố mà Vạn Thế tạo ra cho thế giới này đang nứt vỡ, từng chút một, từng chút một. Khi cái vòng vỡ hẳn, tới lượt Vạn Thế sụp đổ. Nhưng trời thì không đâu, Bất Vọng! Rồi mày sẽ thấy! Nếu mày sống đủ lâu, mày sẽ thấy! Rượu... rượu đâu? Sao ly của ta không có rượu? Hai con nhãi không rót rượu cho người già à? Hỏng! Hỏng hết! Đáng lẽ chúng bay phải ăn dưới bếp và không được ngồi chung bàn với đàn ông. Mà thôi, khỏi cần rót, đưa chai rượu đây!

Nhận chai rượu từ tay Tiểu Hồ, lão già ngửa cổ tu ừng ực. Bọn Tiểu Hồ và Liệt Trúc lè lưỡi vì rượu nặng, uống một ngụm là khé cổ. Tu xong, Cụ Cố Tổ thở khà khoan khoái, giữ cái chai như ôm vật báu, nhất quyết không rót cho Bất Vọng. Lão lý luận rằng Bất Vọng mang tới đây mời nghĩa là chai rượu thuộc về lão, cho người khác uống hay không là quyền của lão. Cực chẳng đã, Bất Vọng đành khui bia. Cụ Cố Tổ hỉ hả, hai mắt nhắm tịt say sưa mơ màng, mồm miệng tem tép không ngừng: 

- Đáng lẽ ta phải đánh mày một trận cho chừa cái thói vô lễ với người già, nhưng có chai rượu, ta tạm tha. Chẹp chẹp! Dù sao con người cũng thú vị. Khi xưa ta với mày đánh nhau chí chết, giờ lại ngồi cùng bàn. Chỉ con người mới vậy, lũ thú hoang không như thế. Ta chẳng ưa con người. Chúng xây nên những thành phố đầy sắt thép, những tòa tháp cao ngất như muốn chọc thủng bầu trời, bao bọc thế giới Tâm Mộng bằng chiến tranh và kim loại. Ta không thích những gì loài người tạo ra, mà ta thích chúng, chính bản thân chúng. Sau nhiều năm, cuối cùng ta vẫn thích làm người hơn là một thứ sinh thể nằm ngoài quy luật. Chẹp chẹp! Ực... gần đây ta gieo quẻ bói... xem chừng thế giới sắp xảy ra chuyện, chuyện trọng đại, ta muốn coi con người chúng bay vật lộn thế nào... giải trí ra trò... hà hà... ực!

Sau tiếng nấc, Cụ Cố Tổ gục mặt xuống bàn, chai rượu trong tay đổ nghiêng tưới sàn nhà thành một bãi nồng nặc. Lão già đã xỉn ngoắc cần câu, dẫu trời sập cũng không tỉnh. Tiểu Hồ thở phào. Thứ không khí gia đình quái dị này cuối cùng cũng kết thúc một cách yên bình, không nôn ọe, không đánh lộn. Bất Vọng vác lão già đặt lên ghế sô-pha. Cụ Cố Tổ cựa mình, hai tay khư khư chai rượu làm gối ôm. Với Cụ Cố Tổ, mọi nơi đều là nhà và ông ta có thể ngả ngốn mọi lúc. Thậm chí ông già chẳng quan tâm rằng Bất Vọng có thể tiễn ông ta về Tụ Hồn Hải bất cứ lúc nào. Thù hằn giữa Cụ Cố Tổ và Bất Vọng là thật, rượu bia chỉ có thể giải quyết trong chốc lát chứ không phải cả đời. Nhưng ông già chẳng quan tâm. Có lẽ ông ta thật sự là kẻ bẩn tính thù dai nhưng ít nhất không phải là lúc ngủ. 

- Lão già nói dối dở tệ. – Bất Vọng nói với Tiểu Hồ – Lão sống quá lâu nên thể diện hay danh dự đã thành vô nghĩa. Lão đòi đánh ta vì chuyện khác. 

- Những người giúp việc của ông ta? Có phải vì chuyện ấy? – Tiểu Hồ hỏi. 

Bất Vọng gật đầu. Gã nhìn ông già ngủ say như chết trên sô-pha, ngửa cổ nốc một hơi hết cốc rượu rồi tiếp lời: 

- Cẩn thận với lão già, Tiểu Hồ. Ta không biết cô dự tính cái gì với Cụ Cố Tổ nhưng lão ta là kẻ nguy hiểm. Lão không tàn ác nhưng thất thường, dễ vui, dễ giận. Đám già luôn khó tính! Không ai trong Bảy Người Mạnh Nhất dám gây sự với lão. Kể cả Liệt Giả cũng ngán lão. Ngày trước ở Tuyệt Tưởng Thành, nếu lão cùng phe, có thể chúng ta đã thắng; còn nếu lão đầu quân cho Liệt Giả, chúng ta sẽ bại trận nhanh gấp đôi. Ngoài đại thánh sứ Tây Minh, lão chẳng nể nang bất cứ ai. 

- Cảm ơn ngài, tôi sẽ lưu ý. – Tiểu Hồ cúi đầu. 

- Giờ thì lo Liệt Trúc giùm ta. – Bất Vọng rút điếu thuốc châm lửa – Ta sẽ trông nom con bé, nhưng ta rất dở khoản an ủi. Tin ta đi, Tiểu Hồ, nếu để ta an ủi, con bé sẽ căm thù ta lẫn cô cả đời. 

Cô gái cười gượng. Nàng phải đi dù về nhà chưa được bao lâu. Chắc chắn Liệt Trúc sẽ giận và bằng cách nào đó, con bé lại hút thuốc hoặc gây rối ở trường học. Không tự dưng Liệt Trúc nán lại bàn ăn suốt buổi dù không biết uống rượu và cũng chẳng ưa Cụ Cố Tổ. Giống nàng, con bé căm thù lũ nhện. 

...

Sau ba ngày bay phi thuyền, Tiểu Hồ cùng Cụ Cố Tổ đặt chân tới thủ đô Bắc Thần quốc. Nhưng hai người không nán lại lâu. Họ ăn bữa trưa, nghỉ hai tiếng rồi mua vé tàu đi Tây Vực Châu – vùng mỏ khoáng sản ở phía tây Bắc Thần. Theo lời Cụ Cố Tổ, đền thờ Mộc Thần nguyên thủy nằm tại đây. 

Nhắc vùng mỏ, Tiểu Hồ lại nhớ giáo sư Thẩm Tháo và quãng thời gian làm việc chung ở thư viện thủ đô Thiên Kỷ thành thuộc Xích Quỷ quốc[1]. Lúc nghỉ ngơi, ông giáo sư quá cố thường kể cho Tiểu Hồ nghe về cuộc sống nơi khai thác khoáng sản. Nó ồn ào, tiếng máy móc kim khí rền vang suốt ngày, khói bụi ô nhiễm là là bay trên mặt đất cằn cỗi hằn đầy dấu bánh xe cơ giới. Những nhà máy tụ tập thành đàn, ngày này qua ngày khác nhai nuốt nghiến nát đá sỏi chắt lọc kim loại quý, đôi khi tìm thấy cả quang tố. Cả một vùng đất rộng lớn không cây cỏ, không thú hoang, không cả cánh chim bay buổi sớm. Chỉ có người sống cùng kim loại. Người Bắc Thần phải đặt nhà máy lọc không khí, làm sở thú để vùng mỏ bớt ngộp và con người bớt ngột ngạt. 

“Nhưng cũng chẳng được tích sự gì!” – Lời của Thẩm Tháo vang lên trong tâm trí Tiểu Hồ – “Nghĩ mà xem, cô gái, liệu cô chấp nhận một nơi không có màu xanh cây cỏ, rồi tiếng thú vật bị giam hãm trong lồng? Thế mà tôi đã sống ở đó cả thập niên! Dần dà tôi quên luôn màu xanh, quên cả hình dạng của cây cối. Tin tôi đi, cô gái, nếu tới đó, cô sẽ quay về ngay thôi!”

Bởi vậy, chuyện đền thờ Mộc Thần nguyên thủy nằm tại Tây Vực Châu làm Tiểu Hồ bán tín bán nghi. Nàng biết rõ các đền thờ Mộc Thần nổi tiếng, thậm chí ghé qua không ít. Nguyên tố Mộc đại diện sự sinh sôi, hình thái tượng trưng tiêu biểu nhất là cây cỏ. Điều dễ nhận thấy là cỏ cây xung quanh nơi đền thờ Mộc Thần ngự trị đều mơn mởn tươi tốt. Đền càng thiêng, cây cối càng um tùm. Tiểu Hồ vẫn nghe người Đông Thổ thường xuyên đến đền thờ Mộc Thần cầu khẩn sinh con đẻ cái thuận lợi. Nếu nghe rằng có một đền thờ Mộc Thần nguyên thủy ở Tây Vực Châu, hẳn rằng tất thảy người phương đông sẽ cười ầm ĩ và cho đấy là chuyện ngu ngốc. 

Nhưng Tiểu Hồ đang dấn thân theo sự ngu ngốc đó. Còn người tiêm nhiễm nó vào đầu nàng đang chắp tay trên bụng ngáy pho pho, giữa hai tay là bình rượu gỗ. Trên chuyến tàu đi Tây Vực Châu, ai nấy đều căng thẳng trước vùng đất ô nhiễm, chỉ duy Cụ Cố Tổ thư thái thoải mái. Người uống rượu không lo nghĩ nhiều. 

Cụ Cố Tổ có niềm đam mê đặc biệt với rượu. Hôm rời Phi Thiên thành, ông ta ghé qua quận Mắt Trắng, đặt chân vào tiệm rượu đắt nhất, tiêu hết gần một vạn thùng vàng để cắp nách hai chai rượu thượng hạng nhất. Cụ Cố Tổ tuy bề ngoài rừng rú nhưng tiền nhiều như lá rừng. Đám thượng lưu quý tộc Phi Thiên thành được dịp chau mày lác mắt. Kể từ đó lão già làm bạn với rượu, lúc nhớ lúc quên luôn sự tồn tại của Tiểu Hồ. Cơ mà chuyện hóa lại hay. Trước chuyến đi, Tiểu Hồ lo sốt vó vì sợ Cụ Cố Tổ gây sự ở chốn công cộng xô bồ, chưa kể lão già có niềm căm thù sâu sắc với kim loại. Phi thuyền, tàu điện, cảng hàng không, nhà ga... đâu đâu cũng đầy rẫy sắt thép làm ông già khó chịu. Nhưng nhờ rượu, Cụ Cố Tổ dễ tính và dễ hòa đồng với xã hội bằng cách ngủ khò khò. Lần đầu tiên Tiểu Hồ chứng kiến tác dụng to lớn của rượu. 

Con tàu xuôi về hướng tây, ngày càng rời xa đô thành và ánh sáng nhân tạo. Nó tiến vào váng trời chiều đỏ nhạt đầy hơi sương lạnh buốt của một mùa đông kỳ quặc đã phủ khắp miền bắc thế giới Tâm Mộng và kéo dài tận tháng 3. Tiểu Hồ từng đến Bắc Thần quốc dăm lần. Lần nào nàng cũng phấn khích trước núi non ở xứ sở Bắc Thần. Chúng to lớn, hùng vĩ nhưng không sắc cạnh gai góc như núi ở lục địa Băng Thổ mà tròn trịa, đa sắc với màu đất nâu, màu lá xanh, màu mùn xám lẫn màu sông bạc. Những ngọn núi Bắc Thần như đám rùa say ngủ, thi thoảng thức giấc rùng mình rũ lá khi đông tới rồi lại tiếp tục giấc nồng. Thậm chí đám rùa có thể bay. Tiểu Hồ từng nghe nhiều quả núi Bắc Thần có thể bay, tới mùa xuân là rời khỏi mặt đất, di chuyển trong phạm vi nhất định và quay lại vị trí cũ vào mùa hè. Người ta nói nhiều phép thuật cổ xưa nhất sinh ra từ Bắc Thần, chúng ngấm vào rừng, sông, đất và làm vạn vật thay đổi. 

Giờ sương dày hà hơi lên cửa kính tàu điện, nuốt khung cảnh, nuốt cả ánh trời chiều vào cái bụng mờ lạnh đục ngầu của nó. Mọi thứ trong mắt Tiểu Hồ loang ra, loảng lòe như bức tranh sơn dầu ngâm nước, dù nàng biết chân trời đằng tây có dãy núi án ngữ hay một quả núi đang tà tà bay về hướng tây nam. Tranh không đẹp, người không ngắm. Tiểu Hồ cũng không dư tâm trạng ngắm cảnh. Hai tháng nay nàng cảm giác mình bị chia thách thành nhiều mảnh, phần này ở Đông Thổ xa xôi với công việc, phần kia ở Phi Thiên thành với đủ mối bận tâm về Liệt Trúc. Ấy là chưa kể những mảnh mà Tiểu Hồ giấu cho riêng mình. Chúng hoặc sót lại từ đám tang ngài đại thánh sứ, hoặc nảy nở lớn dần khi công chúa Lục Châu bước vào giai đoạn tranh cử. Thực tâm nàng không muốn công chúa trở thành Bạch Dương Đệ Thập Nhất. Bởi lẽ chẳng ai ngước nhìn lên đỉnh cao mãi, một ngày nào đấy họ sẽ mỏi mệt và xa cách. 

Bên ngoài, lá cuộn lên đường xoắn ốc va vào cửa kính. Tiểu Hồ nhìn chiếc lá, như sực nhớ điều gì, vội lần tìm những mảnh đa hình bên trong mình. Cuối cùng nàng tìm thấy một mảnh ánh sắc đỏ. Chính xác là nàng đang tìm nó. Phong đang ở đâu? – Cô gái thắc mắc, sau lại thở dài. 

Nàng đã hỏi Hỏa Nghi, hỏi nhiều thứ, không quên dọa nạt nhằm ép gã phải nói. Lạ thay, gã Hỏa Nghi ngày ngày sợ nàng như sợ cọp bỗng dưng câm như hến, không rỉ ra một câu nào. Thậm chí gã quát nạt nàng như mắng trẻ con. “Bớt hỏi đi, Tiểu Hồ, tôi nhiều việc lắm! Tóc đỏ bị truy nã rồi! Hắn là tội phạm, tôi không thể giúp hắn!” – Hỏa Nghi khẳng định chắc nịch. Giống công chúa, gã phủ nhận mọi quan hệ với Vô Phong. Ở một chừng mực, Tiểu Hồ thực sự ghét công chúa và Hỏa Nghi vì địa vị của họ. Nàng hiểu họ nhưng không đồng nghĩa nàng có thể cảm thông. 

Đêm xuống, sương lạnh mờ mịt cùng bóng đêm che khuất cảnh vật. Cả con tàu im lặng, chỉ còn Tiểu Hồ thao thức. Nàng vẫn chưa thôi nhớ màu đỏ. Nàng cố gạt tâm sự qua một bên, dồn tâm trí vào nghiên cứu sách vở. Phiền thay, nàng không sở hữu sự tập trung đến độ quên hết tất cả như công chúa Lục Châu. Đống chữ nghĩa dù sống động tới đâu cũng không thể giúp nàng bớt cô đơn. Và kỳ lạ thay, chúng cũng màu đen và lổm ngổm giống bầy nhện. Cuối cùng Tiểu Hồ nhận ra chẳng cách nào hữu hiệu bằng ngủ. Trong thực tại, nàng cô đơn. Trong giấc ngủ, nàng được gặp nhiều người kể cả tên tóc đỏ. Cô gái say giấc nồng lúc nào chẳng hay. 

- Dậy! Dậy mau, nhãi con! Đến nơi rồi!

Cái vỗ vai đau điếng làm Tiểu Hồ giật mình. Nàng cứ ngỡ mình vừa thiếp đi, nhưng khi mở mắt thì trời đã sáng bảnh. Loa phóng thanh đang thông báo tàu sắp cập bến Tây Vực Châu, hành khách lục tục thu dọn hành lý. Người tới đây đa số là công nhân, họ quay lại vùng mỏ sau kỳ nghỉ lễ năm mới. Tại Bắc Thần nói riêng và Đông Thổ nói chung, người ta ăn lễ năm mới khá lâu, không nhanh chóng nóng vội như dân chúng phương tây. Suốt kỳ nghỉ lễ, Tây Vực Châu vắng bóng người như vùng đất ma. 

Còn bây giờ, vùng đất ma đang chào đón những đứa con xác sống chỉ biết cắm mặt làm việc trở về. Vừa đặt chân xuống tàu, Tiểu Hồ bị ngộp. Bao quanh nàng là một nhà ga khổng lồ, thực sự khổng lồ. Nó có ba mươi đường ray, hơn sáu chục sân ga, tàu điện qua lại tới lui không ngừng nghỉ, vô số bảng điện tử chỉ dẫn hoặc thông báo. Và sắt thép. Sắt thép dựng nên nhà chờ, hàng ghế ngồi, thang máy lên xuống, nhà ăn. Sắt thép dựng nên mọi thứ trong nhà ga. Sắt thép ngồn ngộn. Lần đầu tiên Tiểu Hồ biết sợ kim loại là khi đặt chân lên Đảo Sắt Thép của họ Hỏa, nay cảm giác ấy lại xuất hiện ở nhà ga này. 

Trên sân ga, hàng vạn con người mặc đồng phục xanh trắng lầm lũi bước, hiếm hoi lắm mới thấy người mặc y phục khác lạ. Họ không chào hỏi nhau nhiều lắm, cũng ít tiếng cười. Tất cả là công nhân vùng mỏ. Họ không nghỉ ngơi mà tập trung điểm danh tại nhà máy, tới chiều làm việc ngay. Hàng vạn con người bước đi dưới mái vòm nhà ga to lớn khỏa lấp toàn bộ tầm mắt, bụi lân tinh ở mái liên tục đổi màu tạo thành nhiều hình ảnh. Khi thì tranh cổ động, khi lại quảng cáo tương lai xán lạn của vùng mỏ với khu giải trí, thành phố hiện đại được bao bọc bằng hồ nước lẫn cây xanh nhân tạo. Được một lúc, bụi lân tinh đổi thành một lá cờ màu cam có hình nữ thần thân rắn vẽ cách điệu. Nó là quốc kỳ Bắc Thần quốc. Quốc kỳ xuất hiện, loa phóng thanh vang điệu nhạc khỏe khoắn cùng lời lẽ trầm hùng: 

“Lao động là vinh quang! Lao động cho Bắc Thần quốc vĩ đại! Lao động cho dòng giống Dệt Thiên vĩ đại!” 

Trái ngược tiếng nhạc, công nhân vùng mỏ chỉ cặm cụi đi. Dường như họ đã mất hứng trước màn cổ động diễn đi diễn lại qua nhiều năm. Cụ Cố Tổ đi cạnh Tiểu Hồ, bật cười: 

- Tin được không? Cội nguồn phương đông, nơi sản sinh những phép thuật đầu tiên lại thế này. Dòng giống Dệt Thiên một thời tin vào cân bằng tự nhiên và quy luật sống, nay lại là kẻ phá hoại cân bằng nhiều nhất! 

- Dệt Thiên là ai? Có phải là vị thần nguyên thủy của người Bắc Thần? – Tiểu Hồ hỏi. 

Cụ Cố Tổ ngửa mặt nhìn vào nữ thần rắn trên quốc kỳ Bắc Thần: 

- Là bà ta, Dệt Thiên, vị tà thần đầu tiên của người Bắc Thần. Bắc Thần quốc tới nay vẫn thờ phụng các tà thần và là nước thờ phụng nhiều vị tà thần nhất, chỉ sau Diệp quốc. Người Bắc Thần tin rằng bà ta là thủy tổ của họ. 

Hai người băng qua sân ga và chờ đợi ở sảnh nhập cảnh. Họ chưa thể vào ngay do thiếu giấy thông hành. Tây Vực Châu là vùng kinh tế lớn, Bắc Thần cai quản khu vực này khá chặt, quân đội và cảnh binh thường xuyên túc trực kiểm tra. Tiểu Hồ không có nhiều trợ giúp ở Bắc Thần nên phải dựa vào Cụ Cố Tổ. Trước ngày khởi hành, lão già gửi thư yêu cầu đám giúp việc sắp xếp giấy thông hành (ổng nhất quyết không xài điện thoại vì không thích, thực chất là mù tịt công nghệ, không biết sử dụng). Nhưng chờ mãi nửa tiếng rồi một tiếng, đám giúp việc của Cụ Cố Tổ vẫn mất tăm mất hút. Ông già sốt ruột nổi quạu:

- Hỏng! Hỏng hết! Nuôi một lũ phí cơm! Bọn ranh con ăn hại!

- Cháu nghĩ chúng ta nên chờ thêm... – Tiểu Hồ dợm nói. 

- Chờ lâu cứt trâu hóa bùn! – Cụ Cố Tổ bực dọc – Con nhãi đứng yên! Ta đi kiếm giấy thông hành!

Lão già đùng đùng bỏ đi, bên nách vẫn cắp bình rượu. Tiểu Hồ chẳng rõ ông ta đi đâu hay định làm gì. Một lát sau, Cụ Cố Tổ quay lại cùng bình rượu vơi bớt ít nhiều. Bộ mặt ông già lúc này hầm hầm lửa giận, có lẽ vì số rượu đổ vào không đúng địa chỉ. Tiểu Hồ hỏi khẽ:

- Ngài vừa làm gì vậy? 

- Kiếm giấy thông hành chứ sao nữa! Một tí cồn, tí phản ứng hóa học, thêm tí phép thuật. – Cụ Cố Tổ gắt gỏng đoạn bấm đốt ngón tay – Để xem nào! Ba, hai, một...

Một tiếng “BÙM!” cắt ngang lời ông già. Phía xa, khu vệ sinh của nhà ga nổ tan tác. Những mảnh vỡ sứ, bồn rửa, bồn cầu và phân bay vèo vèo lên không trung. Còi báo động rền vang. Mùi thối um xộc khắp nhà ga, các công nhân hoảng sợ chạy nhốn nháo. Đám quân đội lẫn cảnh binh vội vã ngăn cản dòng người. Họ chưa kịp ổn định tình hình thì khu vệ sinh thứ hai phát nổ. Vẫn như trước, hàng đống thứ gạch, kim loại lẫn phân thối đua nhau bay xa bay cao. Cụ Cố Tổ điềm nhiên bước qua cửa kiểm soát mà không ai để ý. Tiểu Hồ vội vã chạy theo, hết hốt hoảng lại hoảng hốt:

- Vạn Thế ơi, ngài vừa làm gì thế?! 

Cụ Cố Tổ chẳng thèm quan tâm. Mọi sự chú ý của lão dồn vào bình rượu. Lão vừa bước vừa nghiến răng trèo trẹo, bộ hàm nham nhở cái sứt cái lành rít lên: 

- Rượu của ta... bọn ranh con ăn hại... ta sẽ cắt lưỡi từng đứa! 

[1]: Thẩm Tháo là người Tây Vực Châu, xem lại Quyển 3 Chương 80. Thẩm Tháo từng làm việc với Tiểu Hồ, xem lại Quyển 3 Chương 94. 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 4: Di vật


Khi còn bé, Tiểu Hồ là con thú dữ khạc lửa đúng nghĩa. Nghịch ngợm, ương bướng, khó bảo... mọi đặc điểm của một đứa trẻ tai quái nhất đều tập trung ở Tiểu Hồ. Chẳng ai chịu được cô bé, trừ đại thánh sứ. Nhưng có lúc ngài đại thánh sứ mất kiên nhẫn, quát mắng cô bé một chặp vì phát hiện tờ công văn gửi hoàng đế bị cắt xén làm phi thuyền giấy. Tiểu Hồ vẫn nhớ. Giờ đây nàng rất muốn hỏi phải chăng vì chuyện năm xưa mà đại thánh sứ gửi nàng quả bom Cụ Cố Tổ. Bom đích thực, có thể nổ bất cứ lúc nào. 

Hai ngày sau rắc rối ở nhà ga, Tiểu Hồ cùng Cụ Cố Tổ thuê xe địa hình ngược lên phía bắc Tây Vực Châu, một chặng đường dài đi qua nhiều trạm kiểm soát quân sự. Ba ngày đó Tiểu Hồ sống trong lo sợ. Người Bắc Thần ghét kẻ lạ làm loạn nhà họ, huống hồ bị đánh sập hai nhà vệ sinh và văng vãi vô số thứ bốc mùi. Tiểu Hồ mường tượng cảnh nàng cùng Cụ Cố Tổ trưng mặt lên sóng truyền hình Bắc Thần, bên dưới có hàng chữ chạy qua chạy lại “Những nghi phạm khủng bố cầu tiêu nhà ga”. Tới lúc đó, nàng chỉ còn nước độn thổ, không dám quay về Phi Thiên gặp mọi người. 

Nhưng hai ngày hoàn toàn yên bình. Chuyến hành trình của Tiểu Hồ chưa bao giờ dễ dàng hơn thế, xúng xính thêm ít váy áo là thành chuyến du lịch. Không giấy thông hành cũng chẳng người bảo hộ nhưng bọn Tiểu Hồ cứ điềm nhiên qua cửa kiểm soát quân sự. Trước tổ hợp đầy nghi ngờ gồm một cô gái ngoại quốc tây phương và một ông già rách rưới nồng mùi rượu, binh lính Bắc Thần làm ngơ, kiểm tra qua loa rồi đẩy họ đi thật nhanh như tống tà. Nó thực sự khó tin trong bối cảnh Bắc Thần đang có xung đột biên giới với Diệp quốc. Tiểu Hồ đoán nguyên nhân nằm ở Cụ Cố Tổ, ông già có nhiều điều lý thú hơn vẻ bề ngoài của mình. 

Nhưng cô gái không thể hỏi vì Cụ Cố Tổ say xỉn suốt. Suốt cuộc hành trình, cụ cố sinh hoạt bằng rượu. Đại để là sáng dậy súc miệng một lượt, ngủ; gần trưa tỉnh giấc, lè nhè gắt gỏng mấy đứa giúp việc, dặm miệng năm ngụm rượu nhỏ, ngủ tiếp; tối đến tỉnh giấc lần hai, hỏi Tiểu Hồ dăm ba câu rồi tọng họng ba ngụm rượu to, sau đấy ngủ tít mít sang ngày kế tiếp. Tiểu Hồ mua đồ ăn từ trước nhưng cụ cố chẳng đụng một miếng mà nốc cồn thay nước uống lẫn thực phẩm. Lần đầu tiên nàng thấy một người uống rượu nhiều như thế. Cụ Cố Tổ giải thích rằng ông ta không thích xe địa hình, bị bao bọc trong một mớ kim loại làm ông ta phát ngốt, vì vậy ông ta cần ngủ để quên nỗi phiền toái này. Mà thuốc ngủ dễ nhất là rượu. 

Tới ngày thứ ba, cụ cố vẫn rượu đều, không ăn không uống nước. Nhưng rượu ngon đã vơi, ông già liền bảo Tiểu Hồ tạt vào một thị trấn để kiếm rượu rẻ tiền (không quên làu bàu nguyền rủa đám giúp việc), cũng vừa hay chiếc xe địa hình sắp cạn điện. Tiểu Hồ đánh lái. Chiếc xe đang băng băng trên vùng bình nguyên khô cằn một màu xám liền rẽ phải, tiến vào một con đường nằm giữa hai ngọn núi đá bị bào mòn bởi máy xúc máy khoan, thi thoảng xóc nảy vì sỏi đá rơi vãi trên đường. Vài xe cơ giới chở vật liệu đi ngược chiều tạt bụi lên cửa kính, Tiểu Hồ bật máy thổi cho dễ nhìn. Nàng cất lời: 

- Cháu không hiểu?! Tại sao chúng ta không đi thẳng một mạch tới ngôi đền? Đền thờ ở cuối khe nứt?! Chúng ta đi một ngày là đến, tại sao phải vòng vèo qua các thị trấn trong hai ngày?

Hai ngày qua, mỗi khi vào thị trấn, Tiểu Hồ ăn ngủ trên xe còn Cụ Cố Tổ đi đâu không rõ. Nhanh thì sáu tiếng, lâu hơn thì nửa ngày, cụ cố trở về và nói “Xong rồi!”, hai người tiếp tục chuyến hành trình. Vài lần Tiểu Hồ thắc mắc nhưng ông già không đáp, chỉ nhe bộ răng sứt sở cười cợt như đang trêu đùa trẻ con. 

- Thánh sứ hành hương tới Vạn Thế thì pháp sư cũng hành hương tới năm ngôi đền nguyên thủy. – Cụ Cố Tổ cuộn mình trong áo, đáp lời – Ban đầu ai cũng có thể viếng thăm, nhưng tới đầu kỷ Vạn Thế thứ ba, đám cao niên cây đa cây đề thiết lập nhiều cấm chế xung quanh năm ngôi đền nguyên thủy, những pháp sư hay kiếm thuật sư tầm thường không thể tới nữa. Dần dà hành hương trở thành đặc quyền của Ngũ Pháp Sư. Nhưng giờ Ngũ Pháp Sư đã từ bỏ thế giới, năm ngồi đền đó cũng thành nhà mồ. Ta nghĩ mày nên mua thêm củi đốt, nhãi con, đền thờ lạnh lắm đấy! Hờ hờ hờ!

Ông già cười nửa đùa nửa thật. Tiểu Hồ đăm chiêu, sau hỏi tiếp: 

- Cháu chưa nghe Ngũ Pháp Sư hành hương bao giờ. Sách chỉ nói họ ngự trị ở nơi gần gũi với thánh thần, nhìn thấy nhiều điều chỉ kém Vạn Thế. Mà nếu có cuộc hành hương, tại sao không ai nói cũng không ai viết? Tại sao các Ngũ Pháp Sư không kể lại cho người đời sau biết? 

- Đã gọi là đặc quyền thì ai muốn chia sẻ nào, nhóc con? Chẹp chẹp! – Cụ Cố Tổ vỗ đùi cười khanh khách, tép lưỡi chem chép – Nhưng không phải không có ai muốn viết, có người muốn khoe thành tích chứ! Cơ mà những gã thông thái nhất nhận ra con người không thể sống với quá nhiều niềm tin mà các vị tà thần lại nhiều như lá mít. Đã từng có tranh chấp giữa thánh sứ và pháp sư, thậm chí chiến tranh, những cuộc chiến mà nhóc con không bao giờ tìm thấy trong sách vở. Cuối cùng hai bên đình chiến, họp bàn, nghiên cứu, thống nhất rằng thế giới không thể thiếu Vạn Thế mà cũng không thể rời bỏ Ngũ Hành. Pháp sư và kiếm thuật sư tiếp tục tồn tại, lớn lên bằng truyền thuyết huyền thoại. Đám thánh sứ dựa trên nhiều tài liệu hơn, được kiểm chứng rõ ràng hơn mặc dù lắm điều do bọn viết lách rặn ra. Vậy nên pháp sư không sở hữu hội đồng cho riêng mình, cũng không có ai quản lý ngoài Ngũ Pháp Sư. Đó là cuộc chơi được thỏa thuận từ trước, nhãi con! Hờ hờ hờ! Nhưng đám Thánh Vực chơi giỏi hơn, còn Ngũ Pháp Sư ngày càng lép vế. Chẹp chẹp! Ta phải thừa nhận bọn Thánh Vực láu cá hơn nhiều...

Cụ Cố Tổ nhún vai thay cho mấy lời kế tiếp. Tiểu Hồ muốn hỏi thêm nhưng những mảng ánh sáng nhiều màu ập tới, kéo ánh nhìn của nàng ra khỏi ông già. Xe vừa vào thị trấn. Dựa theo tấm biển treo trên cổng ra vào, nơi này gọi là Cổ Lâu Trấn. 

Tên gọi Tây Vực Châu vốn dựa theo một khe nứt lớn dài hơn năm mươi cây số, rộng khoảng bốn trăm mét. Người Bắc Thần khai thác khoáng sản trên khe nứt và lập ra nhiều nhà máy công xưởng. Rồi nhân công quá đông, người ta phải xây dựng các thị trấn bao quanh nhà máy. Tùy theo sự hảo tâm của ông chủ nhà máy mà mỗi thị trấn giàu nghèo, tiện nghi, xấu đẹp khác nhau. Người ta từng thảo kế hoạch xây dựng một thành phố quy mô cho Tây Vực Châu nhưng vì không có cây xanh, thiếu nguồn nước ngọt nên kế hoạch vẫn nằm trên giấy non nửa thế kỷ. Vả lại không ai muốn định cư ở nơi ô nhiễm. Tại các thị trấn, không phải thực phẩm nước ngọt mà xưởng lọc khí mới là thứ quan trọng nhất. “Quang tố có thể bỏ đi nhưng không bao giờ bỏ xưởng lọc khí!” – Cư dân nơi đây thường nói vậy. 

Hai ngày trước, những thị trấn mà Tiểu Hồ ghé qua y hệt ổ chuột, chỉ hơn Chợ Rác hoặc các thị trấn sa mạc Hồi Đằng chút ít. Nhưng thị trấn mà nàng ghé vào hoàn toàn khác. Nói một cách thậm xưng, nó là phiên bản nhỏ của quận Mắt Trắng Phi Thiên thành. Vài tòa tháp cao tầng, nhiều tháp nhỏ hơn nằm kế bên, tiệm ăn, khu giải trí vui chơi, những biển hiệu cùng vô số hình ảnh quảng cáo lập thể xuất hiện trên đường phố... thị trấn này có đủ cả. Tiểu Hồ đoan chắc nếu vào sâu hơn sẽ thấy ổ sòng bạc lẫn gái điếm. Chẳng thành phố nào trên thế giới Tâm Mộng thiếu hai thứ đó. Nhưng nàng không có hứng tìm hiểu và cũng không thuê phòng nghỉ. Sạc điện xe, mua nhu yếu phẩm, đợi ông già Cụ Cố Tổ trở về cùng mấy chai rượu cắp nách, Tiểu Hồ sẽ đi ngay. Các dấu hiệu về Thôn Cơ đang nhạt dần theo thời gian, nàng cần phải nhanh chân trước khi chúng biến mất hẳn. 

Tiểu Hồ thả cụ cố vào một tiệm rượu, lái thêm một đoạn nữa rồi dừng xe trước trạm sạc điện tại rìa thị trấn. Cô gái bước xuống và không quên đeo mặt nạ dưỡng khí. Ở Tây Vực Châu, nó là vật dụng bất ly thân và quan trọng hơn cả tiền bạc. Xưởng lọc bơm khí sạch vào bên trong công trình, giải quyết phần nào ô nhiễm cho các thị trấn chứ không thể thay đổi toàn bộ vùng mỏ. Ngay tại Cổ Lâu Trấn – khu vực sạch sẽ đẹp đẽ nhất Tây Vực Châu – bằng mắt thường, Tiểu Hồ dễ dàng nhận thấy làn sương mờ đục nhuốm khói bụi như cái lồng bàn úp xuống thị trấn. Ánh sáng gặp lồng sương bị tản mác, mặt trời bị dàn mỏng tựa mảnh trăng mờ dù đang là giữa trưa. “Mười hai giờ mười phút.” – Tiểu Hồ nhìn đồng hồ đeo tay, đoán rằng Cụ Cố Tổ sẽ quay lại tầm chiều muộn. 

Một tiếng “Phì!” lớn rít lên từ xưởng lọc khí. Tiểu Hồ nghến đầu qua trụ sạc điện trông về khu xưởng. Nó có vẻ ngoài nom giống cây đàn đại dương cầm với giàn ống đồng thoát hơi đặt ở thánh đường, hễ bấm phím, ống đồng sẽ vang lên những âm du dương ngân khắp đại sảnh. Xưởng lọc cũng sở hữu nhạc điệu riêng. Bộ phím đàn của nó là các ống hút đầu loe cao ngất thò mồm lên không trung nuốt không khí, bộ dây thanh và hộp cộng hưởng là những nhà máy nằm san sát nhau ngày đêm gạn lọc bụi bẩn, giàn ống đồng là hệ thống cửa xả trực tiếp đưa khí sạch vào Cổ Lâu Trấn hoặc theo đường ống ngầm cung cấp đến công trình quan trọng. Với cư dân thị trấn, được nghe xưởng lọc khí rền rĩ mỗi ngày là hạnh phúc.

Đám con buôn thức thời nhận ra khí sạch là mặt hàng được giá. Xưởng lọc chỉ cấp khí cho công trình lớn hoặc người quyền lực, dân chúng muốn dùng phải mua. Thành thử ở Tây Vực Châu, khí sạch là mặt hàng thiết yếu. Người ta mua từng bình khí về nhà hoặc làm hợp đồng cung cấp cả năm. Cũng có khi khí sạch được bơm vào chai nhỏ bán lẻ, như gã đang chào hàng sản phẩm cho Tiểu Hồ là ví dụ. Gã này nói tía lia, giọng nói qua bộ lọc của mặt nạ nheo nhéo:

- Em không phải dân Tây Vực “Chau”? Tôi biết mà! Mái tóc vàng rồi cái mũi cao nhỏ nhắn của em hoàn toàn khác phụ nữ xứ này. Và em đang có chuyến đi dài ngày? Biết lái xe địa hình sao? Ấn tượng đấy! Nhưng tôi cá rằng em chưa biết nhiều về đường đi lối lại. Thị trấn kế tiếp cách đây khoảng ba mươi cây số, đường xa, không khí tệ hại nữa! Lúc ấy em sẽ biết ơn tôi vì những món quà mát lạnh trong lành! – Gã ngoe nguẩy vài chai khí sơn màu xanh đỏ tím vàng bắt mắt – Ba thùng vàng một chai, nhưng vì em là phái yếu nên tôi giảm giá, chỉ còn hai thùng! Quá rẻ, quá ưu đãi! Mua nhé?

Tiểu Hồ nhìn gã chào hàng một lượt. Nàng là người ngoại quốc nhưng gã nọ cũng chẳng bản địa bao nhiêu. Kẻ này cao lớn hơn hẳn đại đa số người nơi đây, da trắng tựa thể có tuyết dưới lớp mô bì, hai gò má đầy tàn nhang cùng mái tóc màu vàng úa. Trừ bộ đồng phục công nhân màu xanh trắng trên người và mặt nạ dưỡng khí, gã chẳng có điểm nào tương tự dân xứ Bắc Thần quốc, mà có lẽ xuất thân từ lục địa Băng Thổ. Tiểu Hồ lắc đầu cười: 

- Tôi mua bình dự phòng từ xưởng lọc rồi, người ta bán bốn thùng vàng một bình lớn, dùng nửa tuần. Và đừng quảng cáo mấy cái chai của anh đặc biệt hơn bình lọc từ xưởng. Đúng là tôi không biết Tây Vực Châu nhưng tôi biết mua hàng, anh chàng phương bắc. 

Bị bóc mẽ, gã nọ chưng hửng:

- Sao em biết tôi là người phương bắc? 

- Anh gọi Tây Vực Châu là Tây Vực “Chau”. – Tiểu Hồ trả lời – Nhiều vùng ở Băng Thổ nói như thế. 

Gã nọ bật cười đoạn tháo mặt nạ, lộ ra bộ hàm bạnh cùng râu quai nón màu vàng úa. Gã nhìn Tiểu Hồ bằng đôi mắt màu xanh lục, cái nhìn sâu nhưng trong veo khiến người đối diện cảm giác thấy đáy con ngươi và có thể chạm tay xuống đó. Trong mắt cô gái, tên này hơi xấu trai vì bộ hàm hơi to chưa kể tàn nhang lốm đốm khắp mặt, nhưng đôi mắt của gã khiến nàng quên đi chuyện xấu đẹp. Có điều gì đấy rất thu hút ở gã phương bắc này mà Tiểu Hồ chưa thể giải thích. Đương phân vân, nàng chợt thấy gã xắn tay áo, nghiêng người tựa vào xe địa hình, vừa phô trương cơ bắp vạm vỡ vừa buông lời trêu chọc: 

- Em rất tinh tế! Tôi thích sự tinh tế của em, cả bộ quần áo em đang mặc nữa. Tôi biết vài tiệm rượu nhỏ trong thị trấn, chúng ta làm vài ly rồi trò chuyện. Tôi mời. Em thấy sao? Tôi có nỗi niềm của riêng mình. Trước khi tới đây, tôi đã làm Đạo Chích Không Trung. Em đã nghe quái vật không trung bao giờ chưa? Đã nghe Cội Gió chưa? 

Ngay từ lúc gã này mở miệng, Tiểu Hồ đã biết tỏng những câu kế tiếp. Đợi gã kết thúc lời tán tỉnh, nàng ôm bụng phì cười rồi phẩy phẩy tay: 

- Đây không có nhu cầu. Biến, biến gấp giùm tôi!

Sạc điện báo đầy, Tiểu Hồ lên xe đi thẳng bỏ lại gã phương bắc đứng ngẩn tò te. Qua gương chiếu hậu, cô gái nhìn thấy gã nọ xọm xuống, cơ bắp vừa mới căng phồng hoành tránh nay xì hơi, dúm dó lại. Tiểu Hồ bật cười. Giả như tên đó cứ thể hiện đúng bản chất, biết đâu nàng sẽ uống với gã chút đỉnh trong lúc chờ đợi Cụ Cố Tổ. Bấy giờ, Tiểu Hồ chợt hiểu thứ cảm giác kỳ quặc ban nãy là bởi nàng đang nhớ người khác và gã phương bắc vô tình tái hiện vài hình ảnh của người đó. 

Ba tháng đã qua, Vô Phong vẫn bặt vô âm tín. 

Tiểu Hồ quay lại quán rượu nơi Cụ Cố Tổ sà xuống. Nàng đỗ xe, ngả lưng trên ghế và cố dằn mình vào giấc ngủ. Nhưng liệu pháp ngủ chưa bao giờ hiệu quả khi não bộ Tiểu Hồ vẫn ở trạng thái chờ mong tên tóc đỏ. Nàng ghét thứ tâm trạng này vì nó luôn xuất hiện sai thời điểm. Oái oăm là càng ghét bao nhiêu thì Tiểu Hồ càng sa đà bấy nhiêu, y như cái cách nàng làm quen với Vô Phong. Cô gái khó ngủ.

Thâm tâm Tiểu Hồ không thích hoàn cảnh thực tại khi phải ở một mình dưới ánh đèn quảng cáo vô cảm của Cổ Lâu Trấn, lọt thỏm giữa những công nhân nhà máy vừa tan ca và rảo đôi chân mệt nhọc vô hồn trên đoạn đường rơi vãi sỏi đá lẫn rác thải, chìm sâu dưới bản hòa tấu chán ngắt vô thanh điệu từ xưởng lọc khí mà chốc chốc “Phì!” một tiếng giật nảy mình. Bằng cách khó hiểu nào đó, ký ức về đoạn hành lang cấm túc cùng lũ nhện manh nha xuất hiện trong đầu Tiểu Hồ. Cô gái nhăn mặt cựa mình, hai bàn tay ôm thu lu đầu gối. Nàng trốn tránh bọn chúng. Nàng tìm về quãng thời gian ở đất thánh Hỗn Nguyên, Vinh Môn quốc, lễ hành hương Sơ Khởi thành hoặc mảnh đất Lạc Việt. Đó mới là thực tại mà Tiểu Hồ tìm kiếm bởi lẽ chúng đầy màu sắc, giàu âm điệu và tràn ngập sự sống. Loài người ở thế giới tưởng tượng ấy thực sự sống, không phải thực tại nơi đây, nơi mà con người dễ dàng thỏa thuận với khói bụi và tồn tại cùng sắt thép công xưởng. 

Ba tháng đã qua, Tiểu Hồ vẫn ngóng chờ tên tóc đỏ. 

Trằn trọc mãi, cô gái dựng dậy mở máy chiếu cá nhân, bàn tay đặt hờ lên bàn phím ảo. Sau một hồi nghĩ ngợi, nàng bắt đầu gõ thư cho Vô Phong. Nàng từng gửi mười bức thư, cả mười lần đều không có hồi đáp. Dễ hiểu là Vô Phong đang chạy trốn và hắn không ngu tới mức đăng nhập vào hòm thư cá nhân. Đâu biết chừng Vô Phong đã thay đổi danh tính, sử dụng một loạt tài khoản mới, nhưng Tiểu Hồ chẳng biết cách nào khác để liên lạc với hắn. Nàng nghĩ sự việc theo hướng lạc quan hơn: một ngày kia Vô Phong trở về, mở lại hòm thư cũ và sẽ thấy hàng trăm bức thư mà nàng từng gửi hắn. Một sự lạc quan tếu mà ngay cả Tiểu Hồ cũng buồn cười. Cơ mà nàng thích gán cái lạc quan vào nỗi nhớ, biến chúng thành nỗi nhớ hài hước thay vì nhớ nhung u sầu. Nàng ghét chuyện buồn, ghét cả chuyện buồn sến rện. 

Tiếng đập cửa xe dội đến. Thực tại đang gõ búa vào gáy Tiểu Hồ. Nàng chau mày ngước lên, nhận ra Cụ Cố Tổ vừa về, bên nách cắp chai rượu chưa bóc tem. Cô gái mở cửa xe nhưng ông già không bước vào mà nói: 

- Ra ngoài đi, nhãi con, ta nhờ vài việc. Mày vẫn luôn hỏi về chuyện hành hương của Ngũ Pháp Sư, đúng không? Giờ là lúc phổ cập kiến thức đấy! Nhanh nào! À, nhớ theo mang theo thẻ... thẻ khạc ra tiền ấy! À, thẻ ngân hàng! Nhớ mang đấy!

Cô gái khóa xe rồi lật đật trở dậy theo gót Cụ Cố Tổ. Họ vòng ra sau quán rượu, rảo bước trên con phố nằm giữa tấm lưng của hai dãy nhà chạy song song nhau. Phố vắng, chỉ có mấy gã say xỉn đang giải quyết nỗi buồn lên bờ tường hoặc nôn ọe xuống nền đất, không gian vù vù tiếng quạt thông gió. Tiểu Hồ mở lời: 

- Vậy rốt cục hành hương của Ngũ Pháp Sư là gì? Mấy ngày trước, ngài ghé qua các thị trấn có phải để hành hương? Nhưng sao cháu thấy cứ thế nào...? Đáng lẽ hành hương phải là...

Mớ thùng rác phía trước Tiểu Hồ bất thình lình động đậy, cô gái hoảng hồn khi thấy một cái bóng từ đó mò ra. Không phải ma, mà người, một gã say xỉn. Nàng lại thấy Cụ Cố Tổ đứng kế bên đang ôm ngực thở gấp. Dường như ông già cũng giật mình, người già vốn không khỏe tim. Cụ cố nổi quạu liền co chân một đạp đưa gã nọ về vị trí cũ, sau đấy trả lời trong tiếng thùng rác đổ vỡ loảng xoảng: 

- Gọi hành hương cho lễ nghi quy củ chứ thực ra nó giống chơi trốn tìm. Đại khái thế này, đám pháp sư thời xưa để lại những di vật liên quan tới năm đền thờ nguyên thủy. Mỗi đền thờ có những di vật khác nhau, số lượng cũng khác nhau. Đền Thủy Thần có một di vật, đền Hỏa Thần có hai di vật, đền Mộc Thần có ba, đền Kim Thần có bốn, cuối cùng là Thổ Thần có năm. Mấy ngày qua, ta đến các thị trấn tìm lại những di vật của đền Mộc Thần, không có chúng thì không thể mở cửa đền. 

- Ba di vật của đền Mộc Thần gồm những gì? 

- Một cây tùng xanh tươi, một bức họa bốn mùa và một bức phù điêu mô tả sự tàn lụi của thế giới Tâm Mộng. – Ông già trả lời – Tìm mấy thứ đó phát mệt! Chẳng có ngụ ngôn hay ẩn ý gì đâu, nhóc con, lời thế nào thì nguyên văn như vậy. Phải tìm đủ ba thứ đó.

Tiểu Hồ ngẩn mặt và cảm giác có gì đấy sai sai. Rõ ràng ba thứ kể trên hoàn toàn lạc quẻ với vùng đất Tây Vực Châu, và nếu quả thực phải cần chúng để mở cửa đền Mộc Thần thì nàng cần thuê thêm một xe tải chuyên chở. Như biết nàng nghĩ gì, Cụ Cố Tổ chép miệng: 

- Thời kỳ đầu là thế, giờ thì chúng xuất hiện trong hình dáng khác. Đám pháp sư đã đặt lời nguyền khiến các di vật trường tồn cùng Tâm Mộng cho đến tận thế. Bằng cách này hay cách khác, chúng vẫn tồn tại, chỉ là hình dáng khác đi tùy theo dòng chảy của thời gian và lịch sử. Trước khi một Ngũ Pháp Sư nghỉ hưu, kẻ đó sẽ quẳng tất cả di vật về tự nhiên, người kế nhiệm phải tìm ra chúng. Nếu người kế nhiệm để kẻ khác tìm thấy trước, quyền thừa kế sẽ mất và vị trí Ngũ Pháp Sư có chủ mới. Chẹp chẹp! Ngày xưa, cái vụ tìm di vật vui phải biết! Thằng pháp sư nào cũng chơi trò săn kho báu! Nhưng mấy trăm năm gần đây thì chán lắm rồi, nhạt thếch!

- Tại sao họ không đặt di vật cho dễ tìm mà quẳng chúng đi như vậy? – Tiểu Hồ thắc mắc. 

- Nếu làm vậy thì đó không phải là Ngũ Hành. Sinh ra từ Ngũ Hành thì phải trả về Ngũ Hành. Đó là quy luật. Là trời! – Cụ Cố Tổ nhấn mạnh – Không ai có thể chống lại trời. 

Con phố nhỏ hẹp nhưng dài ngoẵng, bọn Tiểu Hồ đi mãi vẫn chưa hết. Họ gặp nhiều thứ hơn ngoài đám say xỉn như người vô gia cư, những người tàn tật chờ nhà bếp phát thức ăn thừa hay mấy gã con buôn không muốn bàn chuyện làm ăn nơi đông người. Tiểu Hồ hỏi tiếp:

- Vậy ngài tìm được những gì? 

Cụ Cố Tổ móc ra hai món đồ. Dẫu nằm mơ Tiểu Hồ cũng không tin chúng là di vật linh thiêng của đền thờ Mộc Thần. Đồ thứ nhất là một tẩu thuốc gỗ, nom qua chẳng có gì đặc biệt ngoài việc đầu ngậm mòn vẹt sắp gãy. Món thứ là cái bô đi vệ sinh bằng gỗ dành cho trẻ con. Cụ Cố Tổ giới thiệu: 

- “Cây tùng xanh tươi” năm nào giờ thành tẩu thuốc của một thằng nhãi con sáu mươi tuổi. Ta hỏi mua cái tẩu rất tử tế nhưng thằng nhãi không chịu, vậy là ta đành lấy tẩu khỏi cái miệng đã hoạt động hơn sáu mươi năm theo cách thô bạo. Hình như còn dính dấu máu ở đây... để ta... – Lão già chùi cái tẩu thật lực vào quần – Còn cái bô, nguyên bản là “bức họa bốn mùa”. Ta phải rình mò một ngôi nhà, đợi thằng nhóc nhà ấy đi vệ sinh xong thì cướp cái bô. Dù sao cũng không nên bạo lực với trẻ con, làm gì cũng phải đàng hoàng, nhỉ? Đừng sợ, ta rửa cái bô rồi, không có mùi đâu!

Ông già phe phẩy cái bô trước mặt Tiểu Hồ. Cô gái quay đi cố ngăn một tràng nôn ọe xổ ra từ ruột. 

Đi hết con phố, bọn Tiểu Hồ rẽ vào một đường lớn đông đúc người. Cổ Lâu Trấn hiện đại giàu có nhất, cố nhiên cũng náo nhiệt nhất Tây Vực Châu. Ở đây, màu áo xanh trắng công nhân hoàn toàn biến mất, thay vào đó là những y phục loang lổ màu sắc. Màu tóc, màu áo, màu mắt, màu những chiếc mặt nạ dưỡng khí... đủ mọi màu khác nhau và không lặp lại, như thể ai đó đã hất hàng ngàn thùng sơn xuống chốn này. Tiểu Hồ ngỡ ngàng, cảm giác như bước vào khu giải trí lớn nhất quận Mắt Trắng Phi Thiên thành chứ không phải là một thị trấn của Tây Vực Châu. 

Cụ Cố Tổ dẫn Tiểu Hồ vượt qua đám đông rồi tiến vào tòa tháp cao nhất thị trấn. Hai phần ba tòa tháp có lối kiến trúc hiện đại với sắt thép và cửa kính, một phần ba nằm trên cùng được thiết kế theo kiến trúc cổ kiểu Bắc Thần quốc với mái ngói đổ dốc, thân mái hơi võng, phần góc cong chìa ra bốn hướng và có trụ đỡ bên dưới. Nóc tòa tháp chính là ba mái ngói xếp chồng lên nhau. Tiểu Hồ từng thấy loại kiến trúc đặc trưng này của Bắc Thần quốc vài lần. 

Đến sảnh tòa tháp, Tiểu Hồ mới hiểu lý do tại sao Cụ Cố Tổ cần nàng. Muốn dùng thang máy lên tháp, người dùng phải có thẻ, thẻ do nhân viên tại sảnh cung cấp. Cụ cố không hiểu quy cách lấy thẻ nên đành lặn lội về chỗ cũ gọi Tiểu Hồ. Cô nàng ém miệng không dám cười to ông già mù tịt công nghệ. 

Mười lăm phút sau, Tiểu Hồ cùng Cụ Cố Tổ lên đỉnh tháp cùng những chiếc thẻ ngu ngốc – cụ cố gọi chúng như thế. Tiểu Hồ bật nút trên thẻ, một ảnh ba chiều hiện lên cấu trúc tòa tháp cùng những chỉ dẫn. Cô gái nheo mắt đọc rồi nói:

- Tầng trên cùng là biệt thự của Tinh Ngôn Gia... ông chủ xưởng lọc khí, người Bắc Thần quốc. Tại sao ngài cần gặp ông ấy? Mà cháu nghe nói người này nắm nhiều quyền lực nhất Cổ Lâu Trấn và cả Tây Vực Châu, liệu ông ấy chịu gặp chúng ta?

- Hy vọng thằng nhãi này có tủ lạnh. – Cụ Cố Tổ ngoáy tai – Chẹp chẹp! Ta đói rồi!

Tiểu Hồ không hiểu ý ông già. Vừa lúc ấy, thang máy mở cửa. Trước mặt họ là một sảnh lớn dựng nhiều cột trụ đỏ dát vàng, bốn bức tường xung quanh tạc những bức tranh lớn nhỏ bằng ngọc, giá trị không đong đếm nổi. Tiểu Hồ ngơ ngẩn ngắm nhìn mớ vàng ngọc, thâm tâm dấy lên chút tham lam dù nàng vốn không phải người tham lam. Trong lúc đó cụ cố phăm phăm bước trên con đường lát gỗ nằm xuyên qua các cột trụ đỏ, cuối cùng dừng chân trước một cánh cửa vàng chạm trổ tinh xảo. Ông già đập cửa liên hồi, mãi khi có tiếng khóa mở lách cách mới chịu ngừng. Một gã hộ pháp thò nửa người ra, hấm hàm hỏi: 

- Ông tìm gì? 

- Đây là nhà thằng nhãi Tinh Ngôn Gia? – Cụ cố hỏi. 

Gã hộ pháp nhíu mày trước câu hỏi bất lịch sự, nhưng chưa kịp trả lời thì Cụ Cố Tổ đã đẩy gã qua một bên rồi tự tiện bước vào. Tiểu Hồ chẳng biết làm sao đành theo chân ông già. Vừa qua cửa, nàng có chút đứng tim khi thấy một phòng khách với nội thất sang trọng bàn vàng ghế bạc, bậc thềm đá quý, ly tách bằng ngọc cùng hai chục tay vệ sĩ đứng rải rác. Giữa phòng khách, vị chủ nhân nơi giàu có này đang thưởng trà. Người đó cao dỏng, hơi hói, tóc đen dài buông vai phủ kín lưng. Có lẽ thú vui thưởng trà của ông ta bị gián đoạn, bởi bát trà gỗ trong tay mới kề bên miệng và còn nghi ngút khói. Không đợi vị chủ nhân lên tiếng, Cụ Cố Tổ đặt mông ngồi phịch xuống ghế, hỏi: 

- Mày là thằng nhãi Tinh Ngôn Gia? 

Trước một lão già rách rưới có giọng điệu xấc láo, đám vệ sĩ trong phòng liền xúm đến nhưng người đàn ông tóc dài xua tay bảo họ lui. Ông ta trả lời: 

- Phải, tôi là Tinh Ngôn Gia, ông có thể gọi tôi là Tinh Gia. Nhưng dùng từ “thằng nhãi” nghe chừng có vẻ không thích hợp, dù quả thực là tôi ít tuổi hơn ông. Tuổi đời, không phải tuổi nhân cách. Vậy ông đây cần...

- Ta muốn mượn một thứ của mày, hơi khó một chút, nhưng việc rất gấp. Ta hứa sẽ trả ngay sau khi xong việc, không sứt mẻ dù chỉ một chút. 

Tinh Gia bật cười đoạn chỉ tay vào chiếc bát gỗ uống trà: 

- Là vật này? Xin lỗi, nó là bảo vật gia truyền, tôi có thể cho ngài dùng thử nhưng không thể mang đi. Ngài không phải người đầu tiên hỏi về nó, nhiều người thậm chí trả bằng quang tố, nhưng tôi vẫn từ chối bán. Chiếc bát có tuổi đời một ngàn năm, là bảo vật... 

- Ai hỏi cái bát rếch xúc cơm nguội của mày? Ta còn đẻ ra cái bát ấy nữa kia! – Cụ Cố Tổ nổi quạu – Thứ ta cần là mấy cái bài vị trên bàn thờ nhà mày kia! Nói chung là bao nhiêu bài vị thì đưa tất cả ra đây! Ta cần mượn vài ngày!

Ông chủ Tinh Gia đờ mặt như vừa bị thoi một đấm vào mũi. Đám vệ sĩ lập tức quây tròn bọn Tiểu Hồ. Cô gái há hốc mồm, không phải vì đám vệ sĩ mà vì di vật thứ ba của đền thờ Mộc Thần. Nàng vỗ vai cụ cố thì thầm vài câu. Ông già nghe xong bỗng gắt lên: 

- Nhầm thế nào được?! Nhầm cái con khỉ! Là mấy cái bài vị trên bàn thờ đó! Là “bức phù điêu” đó! Bốc mấy cái đó xuống đây, con nhãi, khẩn trương lên! 

Tiểu Hồ nửa cười nửa mếu, không tin sẽ có ngày mình lật tung bàn thờ tổ tiên của một gia đình người Đông Thổ. Nàng thầm than phải chăng vì chuyện cắt máy bay giấy năm xưa mà đại thánh sứ Tây Minh dồn nàng vào cảnh khốn khổ này?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 5: Chìa khóa


Tiểu Hồ chẳng xa lạ lục địa Đông Thổ. Con người lẫn tập quán xứ ấy trong mắt nàng tuy khác biệt song quen thuộc. Cuộc sống luyện tập và nghiên cứu sách vở cùng giúp cô gái hiểu rõ xứ sở phương đông. Người Đông Thổ không ăn bánh bột mì mà ăn cơm, con cái sống với cha mẹ tới già, con trai được ưa chuộng hơn con gái, lợi ích gia đình đứng trên tất cả, danh dự quan trọng hơn tính mạng, kẻ hậu sinh thừa kế mọi thứ từ người đi trước kể cả nợ máu – Tiểu Hồ biết những điều căn bản đó từ sớm. Nàng chăm chỉ không phải vì ham học hỏi, cô bé Tiểu Hồ mười tuổi cũng ham chơi như bao đứa trẻ khác. Sự chăm chỉ đó bắt nguồn từ một lời cảnh báo. 

“Khi con được mời tới nhà của một người Đông Thổ, đừng lại gần khu thờ cúng nếu chưa biết rõ quy tắc...” – Đại thánh sứ Tây Minh nói với cô bé Tiểu Hồ mười tuổi – “...cha mẹ, người thân, tổ tiên của họ ở đó. Con không thấy họ nhưng người Đông Thổ thấy họ. Với người Đông Thổ, một căn nhà bắt buộc phải có bàn thờ. Đừng làm đổ vỡ hay xúc phạm bàn thờ. Một ông nông dân người Đông Thổ sẽ giết con nếu dám làm bàn thờ nhà ổng suy suyển. Mọi cuộc chiến hay báo thù ở Đông Thổ đều vì bàn thờ. Hiểu chứ Tiểu Hồ?”

Khi đó đại thánh sứ không cười mỉm cũng chẳng lúc lắc đầu kiểu “sao cũng được”. Ông dạy Tiểu Hồ lễ nghi cúng bái của người Đông Thổ, dạy cẩn thận, tưởng chừng không muốn cô bé phạm vào sai lầm nào đấy mà ông từng mắc phải. Tiểu Hồ đoán thế. Nàng cũng chưa bao giờ hỏi, chỉ phỏng đoán. Nỗi kính sợ tập tục thờ cúng của người Đông Thổ từ đó lớn dần trong cô bé rồi ngang bằng, thậm chí lớn hơn niềm kính ngưỡng Vạn Thế. 

Bây giờ, cô gái Tiểu Hồ trưởng thành đang đứng giữa nhà của một người Đông Thổ và sắp lật tung bàn thờ nhà đó. Lật tung bàn thờ! Lật cả bàn thờ! – Tiểu Hồ lẩm bẩm trong nước mắt chảy ngược. Nàng nửa cười nửa mếu với vị gia chủ: 

- Xin lỗi ông Tinh Ngôn Gia nhưng thực sự là chúng tôi rất vội! Tôi rất muốn giải thích cho ông nhưng thời gian không còn nhiều, chúng tôi phải đi ngay! Ôi... tôi thành thực xin lỗi... thề có Vạn Thế, tôi sẽ gửi quà hậu tạ ông. 

Cô gái nói rồi chắp tay nhằm biểu thị thành ý. Phần vị gia chủ, ông ta vẫn chưa hết bàng hoàng, chiếc bát gỗ trị giá cả thùng quang tố trong tay run rẩy muốn rớt. Một gã vệ sĩ liền đỡ lấy cái bát sau dìu Tinh Ngôn Gia ngồi xuống ghế. Trong lúc đấy bọn vệ sĩ khép chặt vòng vây quanh Cụ Cố Tổ và Tiểu Hồ, gã nào gã nấy bặm trợn chực đập nhừ xương hai người. Nhìn đám này một lượt, Tiểu Hồ chắc mẩm vài gã là kiếm sĩ thượng đẳng hoặc lính đánh thuê, nàng muốn ra khỏi đây cũng phải trầy da chảy máu. 

Cụ Cố Tổ lại chẳng bận tâm dù đang lọt thỏm giữa bọn hộ pháp cao to hơn nửa thân người. Ông già cúi lưng, nhìn vị gia chủ qua háng của một gã vệ sĩ:

- Sao? Cho mượn không đây? Này thằng nhóc, mày nên ra ngoài chạy bộ vận động thân thể chứ không phải ngồi đây uống trà. Hãy trả lại màu xanh cho vùng đất này thay vì dựng lên sắt thép. Tổ tiên người Bắc Thần chúng bay không giống như vậy, họ tôn trọng tự nhiên và biết sợ trời. Nhưng chúng bay không như thế. Chúng bay đem máy xúc máy ủi tới Tây Vực Châu, đốn hạ bằng hết rừng rậm núi xanh. Chúng bay đốn hết cây để đẻ ra cái gọi là xưởng lọc khí! Trời ơi, có lũ nào ngu như chúng bay không hở trời?

Trông bộ mặt lão già cười khề khà dưới háng tay vệ sĩ, Tinh Ngôn Gia tức lồi mắt, sự kiên nhẫn xì hơi qua hai lỗ mũi phập phồng. Ông chủ xưởng lọc khí nghiến răng, đầu hói chảy nhẫy mồ hôi, phong thái của một vị doanh nhân điềm đạm thích thưởng trà bốc hơi sạch sẽ: 

- Ta đón tiếp ông rất tử tế dù ông luôn nhục mạ ta là “thằng nhóc”. Ông đụng tới bàn thờ nhà ta? Này lão già, nhìn ông cũng giống người Đông Thổ, là dân nước nào? Diệp quốc? Khuyên quốc? Bắc Thần quốc? Liên Vận quốc? Ồ, hay ta nhầm? Phải chăng lão đến từ chỗ rác rưởi ổ chuột nào đấy không có ánh sáng văn minh? Vậy thì nghe đây lão già, ông có thể sỉ nhục ta nhưng đừng đem bàn thờ nhà ta làm trò đùa! Ta sẽ gửi ông vào nhà đá ở Tây Vực Châu cho tới khi người ta mở phiên tòa xét xử ông tội lăng mạ người khác. Còn khi nào mở phiên tòa ấy à? Là khi Tây Vực Châu mọc lên một cánh rừng, đúng theo sở nguyện của ông! Các anh! – Ông ta quay sang bọn vệ sĩ – Đưa hai vị khách khó ưa này cho sở cảnh binh... à không, như vậy dễ dãi quá! Hãy mang chúng ra ngoài thị trấn, để buồng phổi của chúng ngập trong khói bụi Tây Vực Châu và chúng sẽ hiểu cuộc sống chẳng có gì quan trọng ngoài hít thở không khí trong lành. 

Nghĩ ra kế hoạch hành hạ người khác, Tinh Ngôn Gia vươn vai khoan khoái, trở lại phong cách doanh nhân điềm đạm thích uống trà. Bọn vệ sĩ tụm lại túm cổ hai vị khách không mời. Tiểu Hồ rút kiếm đe dọa. Đám vệ sĩ liền chĩa vũ khí về phía nàng lẫn Cụ Cố Tổ, nòng súng mũi kiếm dựng lên tua tủa. Cụ Cố Tổ tặc lưỡi: 

- Ta hỏi tử tế mà mày thích động chân tay? Thế thì ráng chịu nhé!

Lão già búng tay kêu “Chách!” một tiếng. Gần như ngay tức thì bọn vệ sĩ bủn rủn tay chân rồi sụm xuống như những cục giấy vệ sinh nhũn nước, mặt mũi xanh ngắt không còn hột máu. Cả Tiểu Hồ lẫn vị gia chủ đều ngạc nhiên trước cảnh tượng kỳ quặc đó. Cụ cố nhảy lên, đạp trên lưng bọn vệ sĩ đoạn tiến đến trước Tinh Ngôn Gia, miệng cười nói, tay chỉ trỏ: 

- Nhện bỏ bùa là một lũ quái vật, chẳng loài động vật nào trên đời tởm lợm hơn chúng. Trong rừng, ta trò chuyện với mọi muông thú trừ thứ súc sinh này... 

Trông ngón tay khẳng khiu que củi của ông già, vị gia chủ liếc mắt, hoảng hồn khi phát hiện một con nhện to bằng lòng bàn tay đang bò trên vai mình. Khắp người con nhện vằn vện màu xanh đỏ tím vàng sặc sỡ, tám cái chân cứng như chân loài giáp xác chọc vào da thịt làm Tinh Ngôn Gia đau đớn. Bấy giờ Tiểu Hồ nhìn xuống, phát hiện nhện bỏ bùa đang bò quanh cổ bọn vệ sĩ. Không ai biết Cụ Cố Tổ đã thả bầy nhện ra từ lúc nào hay điều khiển chúng ra sao. Trông lũ chân khớp lổm ngổm, Tiểu Hồ nổi da gà, ký ức về lũ nhện cùng hành lang cấm túc bất giác hiện lên trước mắt. Nàng sợ nhện.

- Mày biết nhện bỏ bùa sinh sản kiểu gì không, thằng nhãi? – Cụ cố nhìn Tinh Ngôn Gia, cười khề khà – Chúng sẽ tìm một con thú to lớn hơn mình gấp chục lần, bơm chất độc và khiến con thú chết rục. Sau đó, hờ hờ hờ, con nhện chui vào bên trong, hút hết mớ nội tạng xương tủy đã tan chảy vì chất độc rồi đẻ trứng. Hiểu chứ? Nó vừa ăn vừa chăng tơ vừa đẻ! Sau đấy lũ nhện con chui ra, ăn cái xác của mẹ chúng, ăn thịt vật chủ rồi ăn thịt lẫn nhau, cho tới khi chỉ còn một con duy nhất! Con nhện đó là con to lớn nhất và độc nhất. Ở đây có đủ “căn hộ” cho bọn nhện sinh sống đấy, mày muốn làm tổ cho chúng không? 

Ông già nhe nhởn bộ răng cái sứt cái lành, con nhện bỏ bùa ngoác mồm chìa hai chiếc nanh đối xứng nhau như đầu kìm. Trước hai bộ nhá đầy đe dọa, Tinh Ngôn Gia sợ chết khiếp. Ông chủ xưởng lọc khí run bần bật đoạn chỉ về bức tường nạm ngọc phía trái. Trong biệt thự, bức tường đó sáng nhất và được chạm trổ công phu nhất: ngọc tạc hình Vạn Thế cùng Nữ Thần Tiên Tri, vàng điêu khắc hình Bát Đại Hộ Vệ, bạc trang trí khung cảnh hoa lá cành. Cụ cố lôi xềnh xệch vị gia chủ đáng thương đến bức tường. Vẫn bị con nhện bám bờ vai, Tinh Ngôn Gia lập cập đứng dậy, đặt tay vào giữa khối ngọc Vạn Thế. Máy quét vân tay nhá sáng rồi bức tường ngọc tách đôi, mở ra một điện thờ im lìm trong ánh đèn đỏ mờ. Ông già hẩy Tinh Ngôn Gia qua một bên đoạn ngoái đầu gọi Tiểu Hồ: 

- Thôi để ta xem cái bàn thờ, con nhãi mày lên đây cũng chẳng được việc gì sất! Này, mày lục tủ lạnh xem có gì ăn không? Nhanh nào con nhãi, chúng ta không nhiều thời gian đâu!

Bàn thờ của người Đông Thổ thường chiếm một góc nhỏ, lấy thẻ hương nghi ngút làm trang nghiêm, lấy trang nghiêm làm không khí ấm cúng. Nhưng kẻ giàu như Tinh Ngôn Gia thì xây hẳn điện thờ cầu kỳ nhằm chứng tỏ sự giàu sang đồng thời bày tỏ niềm thành kính tâm linh. Liếc qua khu điện, Tiểu Hồ thấy ba bàn thờ xếp theo thứ tự bậc thang. Hai bàn đầu tiên đặt bài vị tổ tiên của Tinh Ngôn Gia, bàn thứ ba xếp tượng Bát Đại Hộ Vệ cùng những vị tà thần truyền thống của người Bắc Thần như nữ thần mình rắn Dệt Thiên. Bàn cuối cùng cao nhất dựng tượng Nữ Thần Tiên Tri với tạo hình kín đáo và đậm tính thẩm mỹ phương đông, khác xa vị Nữ Thần mà Tiểu Hồ từng gặp ở đất thánh. Mỗi bàn thờ đều có bát hương cháy nghi ngút. Thẻ hương to nhỏ đủ loại từ hương thẻ nhỏ, hương vòng xoắn ốc, hương cây to như cây sào, hương chùm treo lơ lửng... tỏa mùi nồng xực khắp không gian. Nhìn điện thờ tỏa ánh đỏ mờ mờ, Tiểu Hồ cảm giác ớn lạnh, trong lòng không muốn dây dưa chỗ đó dù chỉ một chút. 

Nhưng Cụ Cố Tổ đụng chạm không chỉ một chút. Nói đúng hơn là ông già đang nhảy lên bàn thờ, chân phải đá bát hương chân trái đạp bình hoa, chai rượu quý rồi lọ hương trầm từ bàn thờ thay nhau rơi rớt vỡ toang hoàng. Ông già lùn mà bàn thờ lại cao nên leo trèo cho tiện. Cụ cố nheo mắt đọc, rờ tay sờ lần từng bài vị, thấy không hợp ý thì quẳng ra sau lưng như vứt đồ cũ. Từng tấm bài vị đâm chúc đầu va đập lổng cổng mặt sàn. Ông chủ Tinh Ngôn Gia đáng thương bắt đầu khóc lóc, nước mắt tèm lem khi ông bà cha mẹ của mình đang xụi lơ thành những đống chỏng chơ trên sàn. Cụ Cố Tổ cắp nách vài chiếc bài vị, lại mò lên bàn thờ thứ hai và tiếp tục công cuộc phá hoại. Lão già gắt gỏng:

- Khóc lóc cái con khỉ! Chỉ mấy miếng gỗ thôi mà mày khóc nỗi gì? Tổ tiên mày không ở đây đâu, ranh con! Chẹp chẹp chẹp! Chẹp chẹp chẹp! Nín đi nào, thằng ranh! Ta thừa nhận có trường hợp linh hồn vất vưởng ở Tâm Mộng, nhưng ở đây thì không. Chắc chắn không! Tổ tiên nhà mày đã thuộc về những dòng chảy bất tận bao quanh thế giới, thuộc về Ngũ Hành, thuộc về trời. Chẳng có thứ nào phù hộ cho mày, cũng chẳng có thứ người chết nào phù hộ người sống như mày và lũ Đông Thổ chúng bay nghĩ đâu. Ồ, có trường hợp đó, đích thực là có thứ phép thuật cầu hên, đích thực là có loại ma thuật lấy người chết làm vật tế may mắn. Nhưng mày có biết hậu quả của nó không? À quên, ta hỏi thừa vì mày biết thế đếch nào được! Hờ hờ! Vì mày cùng lắm chỉ sống tới một trăm tuổi là đứt, trong khi ta sống đủ lâu để thấy tất cả. Vậy nên... Mày làm cái gì mà lâu thế, con nhãi tóc vàng?! Ta đói rồi!

Nghe tiếng ông già quàng quạc, Tiểu Hồ giật mình vội vã điều tra cái tủ lạnh. Trong lúc đó Cụ Cố Tổ lục lọi bàn thờ thứ hai. Vài món đồ gỗ may mắn được ông già cắp nách, còn những vật xấu số bị ông già sút bay rồi tề tựu với nhau dưới mặt sàn. Giá cắm nến bằng vàng, bình sứ đựng nước thơm, tranh vẽ nạm kim loại quý, tượng ngọc bảy sắc... những thứ trị giá cả trăm thùng vàng giờ tan nát thành một mớ lổn nhổn như bãi rác dưới chân bàn thờ. Cụ cố quay sang Tinh Ngôn Gia, tiếp lời: 

- Chúng ta vừa nói gì ấy nhỉ? À... nhớ rồi! Vậy nên hãy để người chết yên nghỉ. Mày chẳng thể đòi hỏi bất cứ điều gì từ người chết và nếu có, mày sẽ phải trả giá. Hờ hờ hờ! Trời chẳng cho không cái gì đâu, trời cho nhưng sẽ đòi lại, đòi sạch sẽ! Nhưng bọn Bắc Thần quốc chúng bay bao đời nay vẫn vậy, chẳng bao giờ tử tế với người sống mà chỉ tử tế với người chết. Tin ta đi, thằng nhãi, khi gặp người chết thực sự thì mày sẽ hết cười nổi. Mày biết tại sao người phương đông làm bàn thờ bằng gỗ không? Trong buổi bình minh của phép thuật, người ta sớm nhận ra có thể gửi gắm linh hồn thông qua nguyên tố “Mộc”, đồng thời là phương tiện để những linh hồn gửi lời nhắn nhủ tới người sống. Rồi đám pháp sư bắt đầu dùng “Mộc” để giam giữ linh hồn và không cho người chết yên nghỉ. Giờ đây, con người chúng bay vẫn tiếp tục thừa kế thứ di sản dã man đó thông qua bàn thờ. Hờ hờ hờ! Mày không bao giờ biết lũ pháp sư nguyên thủy mọi rợ thế nào đâu! Ê con nhãi tóc vàng, có đồ ăn chưa thế? Lâu quá! Ta đói!

Tiểu Hồ vâng dạ rối rít, hai tay khệ nệ bưng ra nào đồ ăn nào bia rượu. Vừa thấy chai rượu sóng sánh ánh vàng, Cụ Cố Tổ chép miệng tèm tẹp rồi nhảy phốc xuống, chọn phòng khách ngổn ngang bọn vệ sĩ làm nơi chè chén. Cụ cố lật lưng một gã làm đệm kê mông, lật bụng một gã làm bàn để đồ ăn. Tiểu Hồ thấy chuyện này bình thường. So với việc lật tung bàn thờ thì nó quá đỗi bình thường! – Nàng lẩm bẩm đoạn trông về khu điện thờ ngổn ngang tan vỡ. Nơi linh thiêng trang nghiêm nhất ngôi nhà giờ đã biến thành bãi rác không hơn không kém. Nàng lại trông về vị gia chủ nhưng không dám dừng lại lâu hơn ở ánh mắt viên đạn của ông ta. Lời cảnh báo năm nào của cha nuôi như bóng ma hiện về, gõ ngón trỏ lên chỏm vai của Tiểu Hồ và thì thầm vào tai nàng những điều khủng khiếp. 

Cô gái lo lắng bao nhiêu thì Cụ Cố Tổ vô tư bấy nhiêu, hết ăn lại uống, thi thoảng ợ hơi rõ to. Được lưng lửng bụng, ông già quẳng ra một lô một lốc những bài vị, tượng, chuông gió... tất cả đều làm bằng gỗ. Cụ cố nói: 

- Bức phù điêu thú vị hơn ta tưởng. Những mảnh vụn của nó đã phân tán, lưu lạc khắp nơi chứ không tụ về một nơi cố định. Ai đấy đã cố tình làm vậy để ngăn chúng ta tiến vào đền thờ Mộc Thần. 

- Ai đủ quyền năng như vậy, thưa ngài? – Tiểu Hồ hỏi.

Ông già ngửa cổ tu chai rượu rồi quệt mép:

- Ba món di vật dẫn tới đền thờ Mộc Thần luôn biến đổi, lúc thành cái nọ lúc thành cái kia, nhưng không bao giờ phân tán kiểu đó. Còn nhớ năng lượng căn bản của Mộc là gì không, con nhãi? Là “sinh sôi”. Mộc đại diện cho sinh sôi chứ không phải phân tán. Bằng nhiều cách, những di vật của đền thờ Mộc Thần sẽ tụ họp với nhau. Nhưng phân tán kiểu này... có thể Lập Hoa Ngân Thôn Cơ đã can thiệp vào lời nguyền. Con bé đó đủ giỏi để can thiệp lời nguyền. 

- Tại sao bà ấy làm vậy? Phải chăng bà ấy không muốn người khác tìm thấy đền thờ Mộc Thần? Bà ấy muốn kết thúc thời đại Ngũ Pháp Sư?

Cụ Cố Tổ phun phì rượu, cười ha hả một chặp. Ông già vỗ đùi đen đét: 

- Con nhãi tóc vàng thông minh nhưng... thánh thiện quá! Há há! Ôi, cười chảy nước mắt! Ta không cao thượng như mày đâu, con nhãi, ta chỉ nghĩ đơn giản là Thôn Cơ đang che giấu cái gì đó ở đền thờ. Hờ hờ! Nhưng Thôn Cơ chưa đủ cao tay, lời nguyền còn đó, di vật cuối cùng tuy không tập trung vào một vật nhưng tụ tập cùng một chỗ, ngay chính tại cái điện thờ như gánh xiếc kia. – Ông già quay sang khu điện tan hoang chanh bành rồi lại ngoảnh về Tinh Ngôn Gia – Ít nhất là thằng nhãi con này tiêu tiền đúng chỗ. 

Tiểu Hồ làm lơ coi như chẳng thấy vị gia chủ đang bò mọp dưới sàn nhà và nước mắt ngắn dài. Cô gái hỏi: 

- Ba di vật đã đủ, vậy chúng ta làm gì tiếp, thưa ngài? 

Cụ Cố Tổ gật gù đoạn lững thững bước quanh biệt thự, ngó nghiêng tìm thứ đun nấu. Khốn nỗi Tinh Ngôn Gia có đầu bếp riêng, mọi việc nấu nướng dồn xuống tầng dưới tòa tháp nên hoàn toàn không có mấy thứ nồi niêu xoong chảo. Tức mình, cụ cố lục ngăn kệ ở góc nhà rồi lễ mễ lôi ra nào vạc ngọc nào bình vàng. Cụ cố búng tay, vài ngọn lửa xanh tím nóng hừng hực xuất hiện giữa sàn. Tiếp đó những món đồ quý giá đắt đỏ lần lượt theo tay ông già lên bếp, hoặc đựng nước sôi sùng sục hoặc rang khô thảo mộc. Đợi vạc nước sôi, cụ cố thảy tất cả mớ đồ gỗ vào nồi cùng vài nắm bột kỳ lạ như người đầu bếp đang chuẩn bị món súp ngon tuyệt. Từng thứ nổi lềnh phềnh, sủi bọt sùng sục bốc lên mùi hôi gỗ nồng nặc khắp tòa biệt thự. Tiểu Hồ để ý mấy ngọn lửa tự cháy mà không cần vật dẫn, chúng cũng tự cố định một chỗ rồi tự động gia giảm nhiệt lượng. Nàng chưa thấy pháp sư hay thánh sứ nào có khả năng để ngọn lửa tự sinh tồn như thế, kể cả đại thánh sứ Tây Minh. 

Một tiếng trôi đi, bằng cách thần kỳ nào đó vượt qua những kiến thức hóa học của Tiểu Hồ, đống gỗ bị đun chảy thành dung dịch sền sệt. Mùi gỗ thối um xóc óc, cô gái phải bụm miệng bịt mũi. Cũng thứ mùi kinh khủng đó nhưng ông chủ Tinh Ngôn Gia lại trắng bệch mặt mũi. Chứng kiến các bậc tổ tiên qua bao năm thờ phụng bị nấu thành món bầy nhầy, ông ta bắt đầu có biểu hiện chấn động tâm lý, hết lảm nhảm cầu nguyện lại vò đầu bứt tai. Lúc này Cụ Cố Tổ trở lại điện thờ lấy một cây ba-toong nạm khảm kim cương, Tinh Ngôn Gia hét lên:

- Xin rủ lòng thương xót! Đó là chiếc ba-toong của ông nội tôi! Đích thân hoàng đế Bắc Thần quốc tặng ông ấy!

Cụ cố nhíu mày nhìn chiếc ba-toong rồi đặt nó về chỗ cũ, sau tiếp tục vác ra một cây gậy gỗ nom rất đỗi bình thường. Vị gia chủ lại hét lên: 

- Xin rủ lòng thương! Đó là vật gia bảo của dòng gia tộc Tinh Ngôn chúng tôi! Nó...

- Gia bảo cái con khỉ! – Cụ cố nổi điên – Cái này không được, cái kia không được! Ta chỉ cần thứ để ngoáy cái vạc thôi! Tự trách bản thân mày ấy, thằng nhãi! Nhà cửa gì mà không có nổi căn bếp nấu nướng? Nhà mồ à?! 

Rồi ông già quẳng bảo vật truyền đời của gia tộc Tinh Ngôn vào xó, vớ lấy cây ba-toong vừa nãy làm đồ khuấy vạc. Cụ cố khuấy liên tục nửa tiếng đồng hồ, bộ mặt già móm chảy nhẫy mồ hôi. Đó là lần đầu tiên Tiểu Hồ thấy ông già nghiêm túc. Cụ cố vừa khuấy vừa lầm rầm chú ngữ, thứ dung dịch cô đặc dần loãng, mủn gỗ lắng dần xuống đáy. Cái vạc thi thoảng sủi bắn những giọt nước màu xanh ngắt, mùi hôi thối ban đầu cũng dần vơi bớt. Khuấy một lúc, cụ cố tiện tay dốc chiếc bình vàng rang thảo mộc vào vạc. Tiểu Hồ lên tiếng cho không khí đỡ tẻ nhạt: 

- Ngài từng nắm vị trí nào trong Ngũ Pháp Sư?

- Gần như tất cả. – Cụ cố trả lời, tay vẫn miệt mài khuấy vạc – Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, ta đều ngồi vào các vị trí đó. Ban đầu ta nắm vị trí Mộc, con bé Lập Hoa Ngân Thôn Cơ thực chất là hậu bối của ta. Ở thời của ta, đám Ngũ Pháp Sư lười chảy thây! Bọn họ mang rượu tới, nhờ ta kiêm nhiệm vị trí một thời gian để họ đi du lịch! Đám của nợ đó! Chúng đi du lịch! 

- Nhưng ngài nhận rượu, đúng không? Ngài luôn nhận quà trước khi hỏi lý do người ta tặng quà. – Tiểu Hồ cười. 

Cụ Cố Tổ im bặt đoạn lườm lườm nhìn cô gái. Tiểu Hồ tiếp tục:

- Vậy còn Thổ? Ngài chưa ngồi vào đó? 

- Chưa từng. – Cụ cố lắc đầu – Vị trí “Thổ” đã khuyết từ lâu lắm, có lẽ khoảng hơn năm trăm năm trước. Trong năm nguyên tố, Thổ là vô cùng, một đời người không thể nắm bắt hết. Vị trí Ngũ Pháp Sư cho nguyên tố đó cũng khó nhất. Ta chẳng thấy ai xứng đáng ngồi vào đó. Nghe nói ở Tuyệt Tưởng Thành có một con bé tên Tịnh Sa Hoạt Thổ là ứng cử viên nhưng vô ích thôi! Bởi vì... À, được rồi đây!

Lúc này cái vạc ngọc cháy khét, ngọn lửa xanh tím phủ lên nó một màu đen đúa. Dung dịch trong vạc loãng như nước bốc làn hơi xanh lá. Cụ cố ngoáy vạc, thảy lên một miếng gỗ màu nâu cánh gián. Tiểu Hồ bốc nó ra, nhận thấy mảnh gỗ có phần cạnh nham nhở, một mặt phẳng lì, mặt kia chạm khắc nhiều hình họa kỳ lạ. Cụ cố nói: 

- Nó là một phần từ bức phù điêu khắc họa ngày thế giới Tâm Mộng sụp đổ. Thuở trước, bức phù điêu rất lớn... chắc phải bằng diện tích tòa biệt thự này. Giờ nó chỉ còn một mẩu bé tí, thảm hại như những năm tháng tàn lụi của Ngũ Pháp Sư. Nhưng không sao! Hờ hờ hờ! Chúng ta đã có đủ chìa khóa để mở cửa đền thờ. Phục chế lại di vật từ một mớ của nợ, mày thấy ta giỏi không, con nhãi?

Cụ cố ưỡn mình chờ đợi lời khen ngợi rốt rít từ Tiểu Hồ. Nhưng cô gái chưa kịp mở miệng thì một tiếng “Cách!” rõ to vang lên. Cụ Cố Tổ sụm lưng, bộ mặt già khoắm nhăn nhúm như tấm giẻ nhàu. Tiểu Hồ hốt hoảng: 

- Ngài bị sao thế? Cụ cố? Ngài ổn chứ?!

- Thôi xong ta rồi... – Cụ cố mếu máo – Trật xương rồi... cái lưng của ta... ôi trời ơi...

Vì đứng quá lâu, cái lưng của Cụ Cố Tổ không chịu nổi. Cụ cố sống thọ nhưng không có nghĩa miễn nhiễm với tất cả bệnh tật. Như bao ông già bình thường, cụ cố cũng gặp vấn đề xương khớp. Nhưng vì phép thuật phức tạp cộng thêm bệnh sĩ muốn tỏ vẻ ta đây tài giỏi, Cụ Cố Tổ khuấy vạc liên tục mà chẳng nghỉ ngơi, giờ cái lưng quay ra phản chủ. 

Nhưng đó không phải vấn đề lớn nhất. Cụ cố đau lưng, phép thuật không thể duy trì, đám nhện bỏ bùa cũng không còn nghe lời ông già. Chúng buông đôi kìm khỏi cổ đám vệ sĩ rồi lổm ngổm bò đi chỗ khác. Thoát khỏi lũ nhện, Tinh Ngôn Gia cùng bọn vệ sĩ đứng dậy, ai nấy mặt mũi hung thần ác sát. Tiểu Hồ nhìn bọn họ rồi lại nhìn điện thờ tan hoang, lòng bất giác nhờ lời cảnh báo năm xưa của đại thánh sứ. Nàng nhún vai cười mếu: 

- Tôi sẽ gửi hóa đơn chi trả, được không? 

- Tính hóa đơn ngay tại đây. – Tinh Ngôn Gia nói, tóc tai xơ xác – Hóa đơn viết bằng máu và xương, thưa quý cô.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 6: Cứu tinh


Trông đám vệ sĩ đằng đằng sát khí, Tiểu Hồ chậm rãi lùi bước. Nàng đánh gót chân vào Cụ Cố Tổ đang nằm bò dưới đất ý hỏi rằng có thể chiến đấu hay không. Đáp lại nàng, ông già nhăn nhó chỉ vào lưng. Cô gái lắc đầu cười mếu. Với pháp sư hay kiếm thuật sư, xương sống là con đường liên kết họ với thần linh, hễ xương sống gặp vấn đề thì phép thuật cũng thiếu ổn định. Oái oăm thay, nó lại xảy ra đúng với bọn Tiểu Hồ và ngay ở thời khắc nguy hiểm nhất. “May mắn luôn trễ hẹn còn xui xẻo luôn đúng giờ!” – Tiểu Hồ lẩm bẩm. 

Từ đám vệ sĩ, một gã hộ pháp bước ra định khống chế Tiểu Hồ bằng tay không. Gã nghĩ cô gái tóc vàng nhỏ nhắn yếu đuối. Tiểu Hồ xác nhận gã nghĩ đúng một nửa. Cô gái quả thực nhỏ nhắn nhưng cú móc hàm tay trái mà nàng tặng gã chẳng hề có nửa phân yếu đuối. Cú đấm nhanh như cắt còn gã vệ sĩ bị bất ngờ. Tên này ngã ngửa, đổ xuống sàn như núi sập lôi theo ánh mắt ngỡ ngàng của tất cả mọi người. Ông chủ Tinh Ngôn Gia ngờ ngợ: 

- Hình như ta đã thấy cô ở đâu đó... nhưng là ai không quan trọng bằng bàn thờ nhà ta! Giết nó!

Bọn vệ sĩ rút súng. Tiểu Hồ bèn lôi Cụ Cố Tổ ra sau ghế sô pha vừa lúc đạn nổ. Tia lửa bay veo véo phá tan những bình cổ tường ngọc, bấy nhiêu ngọc ngà đổ vỡ là từng ấy tiền của ra đi nhưng Tinh Ngôn Gia chẳng quan tâm. Ông ta thừa tiền mua lại và xây lại mọi thứ đẹp gấp mười lần, nhưng danh dự gia đình dòng tộc đã tan nát theo bàn thờ, tiền không thể gỡ gạc mà tên tuổi sau này cũng bị bêu xấu. Hơn lúc nào hết, Tinh Ngôn Gia muốn lấy máu rửa nhục, càng nhiều máu càng tốt. 

Súng bắn rát xuyên đục phá nát chiếc sô-pha, Tiểu Hồ phải vận lực tạo khiên chống đạn. Bên dưới, Cụ Cố Tổ nghiến răng kèn kẹt: 

- Thằng ranh con láo toét! Dám bắn ta... ui... cái lưng đau! Đã thế, ta cho cả mày lẫn tổ tiên nhà mày câm họng cả nút! Dám hỗn láo với người già! Ui... cái lưng!

Lão già lục túi áo rồi ném ra một mớ bi gỗ. Hàng chục viên bi lăn lông lốc trên sàn, bất thình lình phát nổ như đạn pháo thổi bay cả Tinh Ngôn Gia lẫn vệ sĩ. Bọn họ bắn ngược về phía sau, lao thẳng vào khu điện thờ vốn đã tan hoang đổ nát, kẻ nào kẻ nấy toàn thân ám khói đen sì. Cụ Cố Tổ chỉ cần một đòn để thổi bay tất cả. Tiểu Hồ nhíu mày: 

- Ngài giết họ? 

- Không, chỉ là mấy thứ pháo hoa vớ vẩn, giết người sao đặng? – Cụ cố làu bàu – Nhưng thế còn hay hơn giết. Thằng ranh con đó phải sống để thấy tổ tiên nhà nó bị phá chanh bành. Mày dám đụng ta sao, thằng ranh con? Giờ thì nhục chưa! Há há há! Ông bà ông vải nhà mày be bét thành một bãi như nhà vệ sinh công cộng rồi! Dám đụng ta à? Tổ tiên của mày cũng chỉ đáng tuổi chút chít chụt chịt với ta mà dám lên mặt à? Úi... cái lưng!

Cụ cố ngoạc mồm nhạo báng vị gia chủ đã bất tỉnh và nằm chỏng gọng trong khu điện thờ. Tiểu Hồ đỡ vai dìu đi, ông già còng lưng vẫn dẩu mỏ chửi bới như mụ già đanh đá. Hai người ra cửa thì bắt gặp một toán người áo đen từ thang máy đổ xô đến, đao kiếm bủa vây mọi lối thoát. Chuông báo động đang réo ầm ĩ và đám vệ sĩ Tinh Ngôn Gia đã tràn lên đỉnh tòa tháp. Thấy kẻ địch quá đông, Tiểu Hồ rút kiếm đoạn niệm chú ngữ. Cô gái vung kiếm đánh ra một mảnh lửa màu vàng cam như trăng lưỡi liềm xẻ mặt sàn cắt đôi đội hình bọn vệ sĩ. Tiểu Hồ niệm chú ngữ lần hai, mảnh lửa phát nổ văng tứ tán vô số đụn lửa nhỏ rào rào như mưa. Bọn vệ sĩ vội nấp sau cột gỗ tránh cơn mưa nóng rực rồi thò súng bắn trả. Tiểu Hồ đẩy cánh cửa vàng làm khiên chắn đoạn quay lại hỏi cụ cố: 

- Ngài có cách gì không? Chúng ta phải xuống tháp!

Ông già đau lưng đến á khẩu, chỉ quẳng ra một cái túi thay câu trả lời. Túi cuộn bằng da, bên trong giắt ống gỗ chứa độc dược, bi gỗ nhồi thuốc nổ, những lá bùa vẽ đầy hình thù khó hiểu hay vài hộp kim loại chứa chất lỏng, chưa kể ti tỉ thứ linh tinh lắt nhắt khác. Không khó để Tiểu Hồ nhận ra chúng là đồ ếm phép và hoạt động bằng mật khẩu chú ngữ. Vấn đề ở chỗ nàng không biết mật khẩu. Cụ Cố Tổ thấy thế liền trích máu đầu ngón tay rồi ấn vào gáy cô gái. Tiểu Hồ cảm giác một dòng máu ấm lan khắp cổ tưởng chừng đang thẩm thấu qua da thịt. Ông già nói: 

- Mày có thể mượn máu của ta, khỏi cần đọc mật khẩu! Cứ niệm chú ngữ cơ bản! Úi... cái lưng! Cái lưng đau quá! Giá mà có bọn giúp việc ở đây đấm bóp! Thứ bệnh chết tiệt chẳng có thuốc chữa, giời ơi là giời! Cầm cự một tí nhé, con nhãi, ta cần thư giãn... 

Cụ Cố Tổ còng lưng lê chân tới chiếc ghế đệm duy nhất còn lành lặn sau vụ bắn phá. Ông già đặt người xuống, vừa rên rỉ vừa đấm lưng bóp hông, chẳng hề quan tâm cuộc chiến mà Tiểu Hồ đang gánh chịu. Phía cửa ra vào, Tiểu Hồ chẳng biết sử dụng mấy món đồ ếm phép ra sao trong khi bọn vệ sĩ bắt đầu tràn lên. Cô nàng cực chẳng đã bèn quẳng hai viên bi gỗ rồi niệm chú ngữ Hỏa niệm. Bi lăn lông lốc, đột nhiên phát nổ bùng lên lửa lẫn lôi điện. Lửa như cơn bão thổi phăng một lớp mái cùng vài tay vệ sĩ xấu số, lôi điện chớp giật lung tung đánh nát lớp vàng ngọc phủ quanh bốn bức tường. Khu sảnh bỗng chốc thành lò nướng người, cuộn chặt trong nó tiếng la hét lẫn mùi da thịt cháy. Hai viên bi nọ hoàn toàn khác thứ “pháo hoa vớ vẩn” ban nãy của Cụ Cố Tổ. Tiểu Hồ ngây người nhìn cảnh tượng trước mắt, nàng vừa gây ra một vụ thảm sát. 

- Ấn tượng không, nhãi con? Chẹp chẹp chẹp! – Cụ Cố Tổ chép miệng – Mấy thứ đó chứa Hỏa Tích Lịch, một trong tám mươi mốt ngọn lửa hình thành thế giới Tâm Mộng. Mày thấy sao? Chẳng pháp sư nào trên đời sử dụng nó giỏi bằng ta, chấp cả Ngũ Pháp Sư nhé! Hờ hờ!

Mấy lời huênh hoang tự cao tự đại của ông già không làm Tiểu Hồ dễ chịu hơn. Nàng đã nghe về Hỏa Tích Lịch, thứ lửa tàn bạo mà rất ít pháp sư khống chế nổi – nỗi sợ hãi đầu tiên của loài người từ thuở sơ khai. Trông đám vệ sĩ kêu rên thảm thiết vì bị lửa cháy và lôi điện lột từng mảng da thịt, cuống họng của nàng chợt lẩn mẩn những sợ hãi. Nàng đã giết người, chiến binh nào trên thế giới Tâm Mộng cũng từng vấy máu mình hoặc máu kẻ khác. Nhưng đây là lò mổ, nơi mà con người chẳng khác gì món đồ chơi mặc cho Hỏa Thần tiêu khiển. Lần đầu tiên, Tiểu Hồ ghê sợ ngọn lửa. 

Như không thể chịu đựng thêm, cô gái đưa Cụ Cố Tổ ra ngoài và rời khỏi khu biệt thự. Hai người bước qua một trường ngổn ngang xác chết bốc khói khét lẹt, lửa ngùn ngụt vương vãi khắp nơi, tia lửa điện thi thoảng nhá lên đánh vào các cột trụ. Họ xuống tầng dưới tòa tháp bằng thang máy, mỗi người một cảm xúc trái ngược. Tiểu Hồ im lặng còn Cụ Cố Tổ cười khề khà. Ông già mở chai rượu tu ừng ực như lấy hơi cồn xoa dịu cơn đau lưng, sau thở một hơi khoan khoái: 

- Mày nghĩ gì thế, nhãi con tóc vàng? Ồ, ta biết mày nghĩ gì! Nhưng phép thuật là vậy đấy. Khi sự mông muội còn bao phủ thế giới, nó chẳng hơn gì một thứ công cụ giúp ta sống sót, là phương tiện giúp chúng ta phụ việc Tử Thần. Chà, thuở đó Tử Thần mới thật nhàn rỗi làm sao! Ông ta chẳng cần đem cái chết tới mà tự con người chúng bay rước về. Úi... cái lưng!

- Ngài đâu phải thần thánh? – Tiểu Hồ nhăn trán – Ngài có thể là pháp sư mạnh nhất thế giới, hơn cả Ngũ Pháp Sư, nhưng ngài không phải thần. Ngài là con người. Chẳng phải ngài nói mình không thể sống tới ngày chứng kiến Vạn Thế sụp đổ?! Ngài hữu hạn, không phải vô hạn. Chỉ những sức mạnh vô hạn như Vạn Thế hoặc Đấng Sáng Tạo mới được quyền phán xét con người. 

Cụ cố đấm bóp lưng, đáp lời: 

- Ta không phải thần thánh, dĩ nhiên, vì ta sợ trời. Nhưng ta có nói mình là người à? 

Cô gái nhìn Cụ Cố Tổ, lão già nhìn lại bằng nụ cười nhe hàm răng sứt sẹo. Đúng lúc ấy, thang máy chợt khựng lại. Chuông báo động réo khắp tòa tháp cùng lệnh truy nã hai kẻ khủng bố: một lão già khoắm và một cô gái tóc vàng trẻ măng. “Hẳn là được nâng cấp thành khủng bố!” – Tiểu Hồ khổ sở lắc đầu. Qua cửa kính thang máy, nàng ngó xuống tầng trệt tòa tháp và nhận ra hàng tá phiền phức đang tìm đến mình. Lần này không chỉ vệ sĩ của Tinh Ngôn Gia mà còn có binh lính trang bị khí giới tận răng. 

Tiểu Hồ bèn đặt lên cửa thang máy một miếng kim loại hình đĩa to bằng nắm đấm rồi niệm chú ngữ. Vành đĩa phát sáng xì quầng lửa xanh trắng đục xuyên cửa, sau đấy xoay tròn, vành lửa nở rộng tới đâu kim loại chảy rữa tới đó. Khi vòng tròn lửa đủ rộng, chiếc đĩa ngừng xoay và để lại một mảng cửa mỏng dính. Tiểu Hồ co chân đạp, nó nát vụn như vôi vữa. Cụ Cố Tổ phấn khích: 

- Thứ này hay đấy! Ít ồn ào! Mày tự làm hả, nhãi con? 

Tiểu Hồ gật đầu. Nàng không dư thời gian trả lời. Ở các tầng, khách vui chơi đang chạy tán loạn vì tiếng súng tiếng nổ, những trang phục lòe loẹt và tóc nhuộm sặc sỡ của họ khiến Tiểu Hồ hoa mắt. Cô gái chẳng thấy đường thoát ở đâu trong khi binh lính lẫn vệ sĩ của Tinh Ngôn Gia đang bao vây tòa tháp và tràn vào sảnh tầng trệt. Chẳng kịp nghĩ ngợi, Tiểu Hồ xốc cụ cố lên lưng rồi nhảy cóc bậc thang bộ xuống tầng dưới. Nàng khẩn trương chen lấn giữa dòng người mặc Cụ Cố Tổ kêu la oai oái, ánh mắt dáo dác tìm lối đi. Giữa vội vã, nàng bỗng thấy lối thoát hiểm đằng xa mà chẳng mấy ai ngó ngàng. Có lẽ Tây Vực Châu bình yên quá lâu, hoặc nó quá thiếu dưỡng khí giúp não bộ thông suốt nên đầu óc con người nơi đây không mảy may nghĩ đến biện pháp an toàn cơ bản. Tiểu Hồ liền rẽ ngang dòng người, thẳng hướng về lối ấy. 

Vượt qua cánh cửa bên cạnh khu vệ sinh, Tiểu Hồ tiến vào khu thoát hiểm – một khu vực có những tầng hành lang hẹp và cầu thang bộ, cửa kính trông ra khắp Cổ Lâu Trấn cùng bầu trời đặc khói bụi. Nơi đây ảm đạm với màu vàng của lân tinh cùng những dải đèn nê-ông trải dọc lan can, trái ngược hẳn thế giới đầy màu sắc ở bên trong. Lúc này, nhiều người khác đã nhớ tòa tháp có đường thoát hiểm. Họ tràn vào, chen lấn đi xuống như thể hành lang hoặc cầu thang quá bé dù chúng chẳng tới mức ấy. Tiểu Hồ không còn cách nào ngoài cạnh tranh từng mét đường đi lối lại với kẻ khác, mất cả phút để chạy xuống tầng thứ tư. 

Chẳng cặp mắt con người nào chú ý Tiểu Hồ nhưng các máy quay đã kịp thời tóm lấy cô nàng. Tiểu Hồ chạy xuống tầng thứ năm thì đụng mặt đội vệ sĩ áo đen. Vừa thấy nàng, bọn vệ sĩ giương súng bắn cấp tập, chẳng thèm quan tâm những người đang chạy loạn. Khiên chắn đạn trên tay Tiểu Hồ rung bần bật, lớp nội lực trắng bạc bị đạn xoáy lõm sâu, lố nhố như thạch nhũ. Khu thoát hiểm hỗn loạn tiếng súng, tiếng người chạy la hét, tiếng cửa kính vỡ để gió bụi rít u u qua những lỗ thủng. Nhưng Tiểu Hồ không phản đòn mà chỉ dùng khiên nội lực đỡ đạn rồi chạy vào một ngách hẹp. Nàng đặt Cụ Cố Tổ xuống, lắp ghép Cáo Lửa thành cây cung ngắn đoạn chĩa mũi tên về phía đầu cầu thang, đợi kẻ địch xuất hiện là buông dây. Túi da đựng đồ ếm phép còn đó nhưng Tiểu Hồ quyết tâm không đụng đến dù chỉ một món. Cụ Cố Tổ gắt gỏng: 

- Sao thế, nhãi con? Mày không dùng đồ ếm phép thì hai ta thoát ra thế nào? Cây cung của mày hay đấy, nhưng chống đỡ được bao nhiêu? Chẹp chẹp, mày sợ hả? Mày từng tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, đúng không? Mày đã thấy con người bị xay thành thịt băm trong máy xay chiến tranh, vậy tại sao bây giờ mày sợ? Nếu mày sợ thì ta dùng! Úi... cái lưng! Đau quá!

Cụ cố thò tay định chộp cái túi da đương lể thể ở thắt lưng của Tiểu Hồ. Cô gái quay ngoắt đi khiến ông già hẫng người ngã chúi, lưng đau càng thêm đau, cong mình bò trên sàn như con tôm luộc. Tiểu Hồ lắc đầu: 

- Hãy giữ lại đồ ếm phép, thưa ngài! Không cần thiết phải sử dụng chúng! Cháu sẽ đưa cả hai chúng ta ra khỏi đây! Cháu đảm bảo!

- Đảm bảo cái con khỉ! – Cụ cố gào lên – Giời ơi là giời! Con điên thích thiện nguyện! Mày khùng à? Chúng nó có súng! Súng đấy! Còn mày... 

Ông già chưa dứt lời, Tiểu Hồ đã buông dây cung. Mũi tên nhỏ xé gió lao vút tới đám vệ sĩ vừa đặt chân lên tầng. Nó nhắm đến khoảng không phía trên bọn vệ sĩ thay vì nhằm vào một đối tượng cụ thể. Bất thình lình, mũi tên nổ bùng phát ra ánh sáng chói mắt lẫn âm thanh lộng óc. Bọn vệ sĩ nhất loạt đổ gục vì choáng. Nhân lúc bọn họ chưa tỉnh, Tiểu Hồ xốc ông già lên lưng chạy tiếp. Nàng nhảy qua đám vệ sĩ đang nằm dài rồi xuống cầu thang. Cụ Cố Tổ gào lên: 

- Giết chúng nó, con nhãi! Đặt bom hay cái gì đó, giết hết lũ này! Tại sao mày chạy? Giời ơi là giời! Lát nữa chúng nó tỉnh dậy sẽ bắn nát mông chúng ta! 

- Chúng ta tìm đền thờ chứ không phải giết người, thưa ngài! – Tiểu Hồ nổi cáu – Lẽ ra mọi thứ đã bình thường nếu ngài không đạp cửa nhà người ta và xin xỏ một cách thô thiển! Ngài đạp bàn thờ nhà người khác! Ngài là con vượn kém văn minh!

- Cái gì? Mày dám gọi ta là vượn?! Con nhãi láo toét! Ta sẽ trừng phạt mày! Ta sẽ...

Tiểu Hồ buông tay thả ông già, binh lính Bắc Thần đã xuất hiện buộc nàng phải rút kiếm. Cụ cố tiếp đất bằng bàn tọa, đau điếng người. Ông già vừa nguyền rủa Tiểu Hồ vừa kêu trời đất, kêu cả Vạn Thế như thể không gì sánh được với nỗi đau này. Cụ cố rên rỉ còn Tiểu Hồ không có thời gian nghỉ. Giữa vòng vây của đám lính, Tiểu Hồ thoăn thoắt di chuyển, lúc đánh kiếm khi vận Hỏa niệm hạ gục từng người. Trước cô gái lanh lẹ, đám lính hết sức bối rối dù tất cả đều là quân nhân chuyên nghiệp, mặc áo giáp chống đạn kháng phép đầy đủ. Họ muốn dùng số đông áp đảo nhưng Tiểu Hồ chưa bao giờ ngán quần chiến, nàng được huấn luyện và liên tục tập luyện cho tình huống kiểu này. 

Gần hai chục nhân mạng không đánh nổi một cô gái, đám lính liền tản ra và dùng súng điện tấn công. Tiểu Hồ tránh được loạt đạn đầu tiên, chùm điện bay veo véo văng tứ tung, bắn nhầm vào người chạy nạn hoặc đâm đầu lẫn nhau. Tiểu Hồ nhận định tình hình không ổn, tính quay lại kiếm đường khác. Nhưng cô gái bỗng trượt chân ngã dúi dụi vì dẫm phải mớ đạn lổn nhổn vương vãi khắp mặt sàn. Thấy thế, bọn lính hè nhau bắn vội. Những chùm điện liên tục giáng vào Tiểu Hồ, cô gái lên cơn co giật, cơ bắp đau thắt tưởng chừng toàn thân bị trói nghiến bằng xích sắt. Xui xẻo cho nàng, túi đựng đồ ếm phép vẫn ở bên nàng chứ không nằm trong tay Cụ Cố Tổ. Nhưng kể cả vậy thì mọi chuyện chẳng khá hơn. Cụ Cố Tổ đã đau lưng nay đau thêm bàn tọa, nhấc một ngón tay cũng khó khăn. Người mạnh thứ hai thế giới lúc này ôm mông bò sát rạp, hết than vãn lại rên rỉ, vô dụng hơn bao giờ hết. 

Binh lính nhào tới tóm gọn Tiểu Hồ lẫn Cụ Cố Tổ. Bỗng đâu một quả lựu đạn rơi lổng cổng trước mặt họ, xoay tròn rồi xì khói mù mịt như lò hơi nước vỡ van. Họ chưa kịp mở đèn pin, những tiếng đấm đá bình bịch vang lên liên tiếp, vài người ngã gục và bất tỉnh nhân sự. Đám lính hốt hoảng vung kiếm bắn súng điện loạn xà ngầu nhưng toàn đánh vào hư không, thậm chí bị phản đòn dữ dội hơn. Tiểu Hồ mắt nhắm mắt mở trông thấy một bóng người to lớn quần thảo giữa làn khói trắng, nàng chẳng hiểu kẻ đó chiến đấu thế nào, chỉ biết đội quân nhân Bắc Thần lần lượt nằm đo sàn. Cái bóng nọ bước ra, đỡ nàng trở dậy bằng đôi tay cơ bắp. Đàn ông! – Tiểu Hồ nghĩ. Vị cứu tinh nhìn nàng qua mặt nạ phòng độc, cười:

- Tôi nói rồi, Tây Vực “Chau” rất nguy hiểm, em không nên mạo hiểm. Thật may là em chưa giết quân nhân Bắc Thần nào, nếu không là rắc rối to!

Giọng nói đặc sệt khẩu âm phương bắc làm Tiểu Hồ ngờ ngợ. Gã nọ cởi mặt nạ, lộ ra bộ râu quai nón bọc bộ hàm bạnh, hai gò má đầy tàn nhang, chính là anh chàng mà Tiểu Hồ gặp ở trạm sạc điện. Gã thanh niên liền vác Tiểu Hồ lên vai đoạn chạy qua cắp nách Cụ Cố Tổ như cắp món hàng. Cụ cố nhìn lên, nghiến răng trèo trẹo: 

- Mày... mày... thằng mất dạy! Sao bây giờ mày mới đến? Chạy chậm thôi... giời ơi... cái lưng!

Gã thanh niên chạy một mạch nhanh như bay dù mang vác hai người cùng lúc. Gã nói gấp:

- Xin lỗi, nhưng ngài chẳng để lời nhắn hay tín hiệu, báo hại chúng tôi đi tìm suốt. Mà thời gian gấp lắm, chúng ta nói chuyện sau. Đừng gây sự, xin ngài đấy! Ngài có thể chứ chúng tôi không thể đấu lại cả Tây Vực “Chau” đâu! 

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! – Cụ Cố Tổ gào lên – Cẩn thận, cái lưng của ta! 

Nhờ màn đối thoại, Tiểu Hồ mới ngỡ ra gã phương bắc này là người phục vụ Cụ Cố Tổ. Anh ta chạy đến tận cùng hành lang, đạp cửa xông vào một nhà kho. Gã đặt hai người xuống, dúi vào Tiểu Hồ một mớ đồng phục nhân viên vệ sinh và bảo nàng cải trang. Phần Cụ Cố Tổ, gã đặt ông già vào một thùng rác di động lơ lửng trên không trung. Cụ cố quàng quạc, nước miếng văng tứ tung:

- Cái gì?! Cái gì? Mày ném ta vào thùng rác?! Ta nuôi mày to dưỡn xác để mày ném ta vào thùng rác? Quân mất dạy, mày đối xử với người già thế hả? 

Mặc cơn đau lưng lẫn đau bàn tọa, ông già đấm đá gã nọ bôm bốp. Tên này không phản ứng, chỉ cố nhét cụ cố vào thùng rác, cười:

- Ngài thông cảm nhé! Tình huống khẩn cấp mà! Đừng giận, tôi sẽ biếu ngài mấy chai rượu. Giờ thì im lặng giùm tôi nhé!

Nhét cụ cố vào thùng rác xong xuôi, gã thanh niên đóng nắp rồi lôi nó ra thang máy. Anh ta đưa cái thùng cho Tiểu Hồ như gửi gắm vật quý giá, tiếp đấy đưa nàng giấy thông hành cùng điện thoại liên lạc. Tiểu Hồ chỉ việc đi xuống và rời khỏi thị trấn, anh ta sẽ lo nốt những rắc rối ở đây. Tiểu Hồ hỏi gấp:

- Khoan đã, tôi chưa biết tên anh?!

Gã thanh niên trở ra và ấn đóng cửa thang máy, trả lời: 

- Tôi tên Ly Đốc, phiên âm chữ “Uyjiluk” trong tiếng Băng Thổ nghĩa là “con hoang”, thành viên Thập Kiếm. Hy vọng sẽ gặp lại em! Tạm biệt!

Cánh cửa khép lại hình ảnh gã Ly Đốc trong mắt Tiểu Hồ. Thang máy chậm rãi di chuyển, âm thanh hỗn loạn từ khu thoát hiểm nhỏ dần. Cô gái chống gối thở dốc, chân tay bấy giờ mới run lên vì sợ. Nàng chiến đấu như cỗ máy nhưng khi cuộc chiến kết thúc, cỗ máy đó chùng xuống với dây xích rệu rã và động cơ long ốc lọc xọc. Vài ngày trước, những hình dung của nàng về chuyến đi tới Tây Vực Châu có mạo hiểm, chút phiêu lưu pha thêm nhiều điều thần bí – một câu chuyện kỳ ảo theo kiểu thiếu nữ mộng mơ. Nó không hề có mấy tình tiết phá cửa, đập lọ hoa đạp bàn thờ hay đấu súng đùng đoàng. Tôi còn trẻ! Tôi là phụ nữ! Tôi muốn mơ mộng! Tại sao chứ? – Tiểu Hồ ôm mặt than thở. 

- Thả ta ra, con nhãi tóc vàng! – Cụ Cố Tổ đấm thùng rác bình bình – Thả ra, cái thùng thối quá! Ta không chịu được!

- Ngài muốn chúng ta chết hay sao? Ở yên đó, nếu không cháu sẽ bỏ ngài lại! – Tiểu Hồ xẵng giọng. 

- Nếu thế ta sẽ cắt lưỡi cả mày lẫn thằng Ly Đốc! – Cụ cố gào lên – Lũ mất dạy không kính trọng người già!

- Tùy ngài thôi! Ngài cứ la lối, cháu sẽ bỏ ngài lại! Cháu không chắc nhà tù của người Bắc Thần có rượu đâu! – Tiểu Hồ đáp. 

Nghe thế, ông già im bặt rồi ngừng đấm thùng rác. Tiểu Hồ dọa chơi chơi nhưng viễn cảnh thiếu rượu trong nhà tù là có thật. Nếu bị bắt, đó là tai họa cho cụ cố đồng thời là món hời cho Bắc Thần quốc. Nếu biết kẻ mạnh thứ hai thế giới đang nằm trong xà lim của mình, Bắc Thần sẽ không đời nào chịu thả ra. Người Bắc Thần chỉ tử tế với kẻ đã chết. 

Thang máy xuống tầng trệt, mở ra một lối đi thông thoáng và không có bóng dáng cảnh binh, binh lính hay vệ sĩ. Tiểu Hồ kéo mũ che mặt rồi kéo thùng rác ra khỏi tòa tháp, không quên làm bộ hớt hải như người chạy nạn. Nàng bước sang vỉa hè con phố tấp nập người, trở lại những ngõ ngách nhỏ hẹp ở phía sau khu giải trí. Suốt quãng đường ấy cụ cố không ho he lời nào, kể cả khi Tiểu Hồ quẳng thùng rác lên cốp xe điện và rời Cổ Lâu Trấn. 

Đợi khi cách thị trấn khoảng dăm ba cây số, Tiểu Hồ mới giải thoát cho ông già. Nàng đổ nghiêng thùng, cụ cố lăn ra ngoài cùng vỏ chai nhựa, bao bì rách lẫn thức ăn thừa. Trên đầu ông già còn bề bệt nước sốt cà chua từ một miếng bánh kẹp thịt mà ai đó bỏ mứa. Bằng cách thần kỳ nào đấy, cụ cố đã hết đau lưng. Ông già nhìn Tiểu Hồ, hai mắt long sòng sọc như muốn ăn tươi nuốt sống. Nhưng sau rốt cụ cố giật phắt cái túi đựng đồ ếm phép, vừa trở vào xe vừa rít lên: 

- Ta cấm mày kể với Bất Vọng! Không được kể cho bất cứ ai! Cẩn thận, con nhãi, nếu không ta cắt lưỡi!

Tiểu Hồ nín cười dù nàng rất muốn bình luận mớ nước sốt cà chua đang chảy tong tỏng trên đầu ông già. Hai người lên xe điện tiến về đền thờ Mộc Thần trong im lặng. Cụ Cố Tổ vẫn không hay biết bộ tóc trắng của mình đang nhuộm một màu đỏ thơm ngọt dễ dụ ruồi kiến. Được một lúc, Tiểu Hồ dợm nói: 

- Trên đầu ngài... cháu có khăn lau...

Cụ Cố Tổ nhìn gương chiếu hậu, thẹn quá hóa bực bèn gầm lên: 

- BIẾT RỒI, KHỔ LẮM, NÓI MÃI! Mày cười cái gì, con nhãi?! Ta cắt lưỡi đấy!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 7: Thời gian


Sự vụ ở Cổ Lâu Trấn buộc Tiểu Hồ phải đổi lộ trình. Thay vì băng băng đi thẳng, cô gái ngược lên hướng bắc rồi vòng một quãng đường dài gấp bốn lần để tới điểm cuối cùng của khe nứt vĩ đại. Nàng không ghé qua thị trấn, mọi chuyện ăn ngủ đều trên xe, nhỡ cần vệ sinh thì giải quyết ở ven đường. Cụ Cố Tổ ghét vụ này. Ông già cần mua rượu, những chai rẻ tiền sắp hết và ổng không muốn đụng tới thứ rượu thượng hạng mua từ Phi Thiên thành. Nốc một mớ của nả hàng trăm thùng vàng trôi xuống ruột sau đó theo ra ngoài bằng đường bài tiết, cụ cố không đành lòng. Tiểu Hồ kiên quyết từ chối: 

- Không! Chúng ta không vào thị trấn! Cháu không nhắc lại nữa đâu! Chúng ta lên bảng tin truy nã rồi! Ngài nghĩ Tinh Ngôn Gia chịu ngồi yên? Ông ta đang lùng sục chúng ta khắp Tây Vực Châu. Chúng ta không thể đối đầu quân đội Bắc Thần quốc! Ngài có thể nhưng cháu thì không! 

- Mày nghĩ ta ngu chắc, con nhãi? Chẹp chẹp! – Cụ cố chép miệng – Nếu là truy nã thật thì đừng nói ta, ngay cả Bất Vọng hoặc Liệt Giả cũng không thể thoát khỏi nơi này. Biết tại sao không? Vì người Bắc Thần chỉ tử tế với kẻ đã chết. Nhưng yên tâm đi, thằng nhóc Ly Đốc và bọn phục vụ sẽ giải quyết hết. Nó được việc lắm...

- Không là không! – Tiểu Hồ nổi đóa cắt ngang – Cháu không vào thị trấn! Nếu ngài muốn thì đường ai nấy đi!

Một, hai giây sau, Tiểu Hồ nhận ra mình vừa hét vào mặt người mạnh thứ hai thế giới, lòng bất giác run sợ. Nhưng Cụ Cố Tổ chỉ hằm hằm kéo mũ trùm kín mặt rồi ngả ghế ngáy phì phò. Tiểu Hồ thở phào. Ông già nóng tính thành quen nhưng có lẽ không chấp đứa nhãi con như nàng. Sự thật là nàng bịa chuyện nhằm tránh ông già gây sự. Đúng như cụ cố nói, chẳng có thông báo lệnh truy nã hay lệnh phong tỏa nào, Tây Vực Châu vẫn thanh bình trong khói bụi ô nhiễm như bao lâu nay vẫn thế. Tiểu Hồ phỏng đoán “đám giúp việc” của Cụ Cố Tổ đã giải quyết tất cả. 

Kể từ đó hai người không trò chuyện, chỉ còn chiếc xe điện độc thoại suốt cuộc hành trình. Chiếc xe đi theo con đường vòng nằm ngoài khu khai thác, hoang vu và ít được cải tạo, đa phần là những lối mòn hằn lốt bánh xe cơ giới do đám buôn lậu đi lâu mà thành hình. Từ sớm, dân buôn lậu đã khai thác tuyến đường này để chở hàng hóa vào khu khai thác hoặc thị trấn, đồng thời mang vật liệu thừa cùng sản phẩm kém chất lượng ra ngoài. Đường mòn gồ ghề đá cứng lõm ổ gà trũng ổ trâu, chiếc xe điện hiếm khi nào cân bằng mà thường xuyên lắc lư, chốc chốc gằn tiếng máy vượt những hố sụt với cái miệng lởm chởm ngoạm chặt bánh. Chiếc xe muốn hai con người ngồi trong lên tiếng.

Nhưng mọi nỗ lực của chiếc xe đều vô ích, người lái cứ lái còn người ngủ cứ ngủ. Nó đành lầm lũi chạy dưới mặt trời trắng dã tựa con mắt trợn ngược, bóng hình nhỏ bé chậm rãi kẻ một vệt khói bụi li ti qua vùng đất đá xám khổng lồ trọc thụi lụi không một bóng cây xanh. Có lúc nó bị nuốt chửng bởi cái bóng của dãy núi lởm chởm thủng lỗ chỗ như tổ mối trải khắp từ phía bắc xuống phía tây. Tây Vực Châu vốn ảm đạm vì khí quyển ô nhiễm, những cái bóng còn u ám hơn. Tiểu Hồ nhỏng cổ ngó mấy lỗ thủng và nhận ra bên cạnh chúng là nhiều máy đào chỏng chơ, giàn giáo xây dở hoặc máy xúc hỏng hóc. Đã có giai đoạn người Bắc Thần tới đây và đặt mìn phá đá tìm mỏ quang tố. Họ phá liên tục rồi cũng bỏ liên tục vì chẳng đào được một mảnh kim loại nào, vứt lại hàng tá máy móc cùng vô số vết thương cho dãy núi. 

Dãy núi dài mãi dài mãi, chiếc xe đi từ trưa đến chiều muộn vẫn không hết. Trời tối nhanh, Tiểu Hồ bật đèn pha rọi đường. Nàng phát hiện vài đoạn chân núi phập phồng vô số bọng khí ú nu màu vàng lợt, chúng vỡ ra rồi tiếp tục mưng mủ bọng khí mới. Dù ngồi trong xe nhưng Tiểu Hồ vẫn ngửi được mùi hôi thối loảng thoảng. Chúng là hậu quả từ việc đào sâu mà không tính toán, không khảo sát nên đụng trúng khối khí ngầm độc hại. Một thời kỳ khai phá của người Bắc Thần kết thúc bằng công trường ngổn ngang, những hàng rào quây tạm bợ quanh hố khí ngầm và một vùng đất không sự sống. Thật khó tưởng tượng Tây Vực Châu từng có thuở tươi xanh tốt lá như Cụ Cố Tổ nói. Tiểu Hồ muốn nghe kể về thời kỳ đẹp đẽ đó, ngặt nỗi nàng đang tránh mặt Cụ Cố Tổ. Phía bên kia, ông già cũng im lặng, bộ mặt sàu sạu như quả cam ủng. Cụ cố giận Tiểu Hồ vì không cho ổng mua rượu. 

Mãi khi đêm xuống, Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ mới chịu mở miệng. Hai người họ chẳng giống nhau điểm gì trừ việc cần nghe cái gì đấy trước lúc ngủ. Giữa nơi đồng không mông quạnh tối đen như mực, thứ duy nhất đáp ứng được nhu cầu “nghe cái gì đấy” là máy phát thanh trên xe điện. Tiểu Hồ thích âm nhạc – lẽ thường ở các cô gái trẻ, và loại nhạc mà nàng thích không xập xình cũng chát chúa như búa đinh chọc vào tai người già. Cụ Cố Tổ dĩ nhiên không ưa, bèn đổi sang chương trình thời sự Bắc Thần quốc. Tiểu Hồ chẳng vừa, đợi ông già thiu thiu ngủ thì chuyển kênh. Bị nhạc nhẽo đánh thức, cụ cố bực mình đổi kênh cũ. Vậy là cuộc chiến giành máy phát thanh diễn ra, ông già không nhường còn cô gái ngoan cố chẳng kém. Sau rốt cụ cố đe dọa:

- Này con nhãi, nếu mày tiếp tục nghe thứ nhạc chết tiệt đó thì chúng ta xong việc nhé! Đường ai nấy đi, thế nào?

Tiểu Hồ đắn đo, cuối cùng ấm ức chịu thua. Lúc nàng quay đi, cụ cố thở phì phò đằng mũi, đấm đùi phanh phách thể hiện sự chiến thắng tuyệt đối. Kênh thời sự Bắc Thần quốc thì chán không thể tả. Đám biên tập viên Bắc Thần nói nhiều, nói nhanh như súng bắn nhưng chỉ quanh đi quẩn lại chủ đề ca ngợi hoàng đế lẫn chính phủ, phô trương sức mạnh kinh tế Bắc Thần quốc hoặc sức mạnh quân sự khối liên minh Nhất Thống Cục. Thi thoảng họ mời mấy cô gái dễ thương chui lên từ lỗ nẻ nào đấy và phỏng vấn dăm câu hỏi chính trị nhằm câu khách, trong khi những câu trả lời – vốn được soạn thảo sẵn – thì không mấy khác biệt. Tiểu Hồ không chịu nổi, đành trùm áo khoác lên mặt và cố quăng mình vào giấc ngủ. 

- Tại sao mày tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, con nhóc? – Cụ Cố Tổ mở lời, xem chừng đã chán cảnh im lặng ở vùng đất hoang vu – Mày biết tại sao thằng nhóc Tây Minh phải nhờ ta dẫn mày đi gặp Thôn Cơ không? Thứ nhất: không thể tìm Ngũ Pháp Sư nếu không biết cách. Thứ hai: Ngũ Pháp Sư không thân thiện như đám thánh sứ, chúng nguy hiểm như lũ nhện bỏ bùa. Ta ghét thánh sứ nhưng phải thừa nhận điều đó. Ta đã gặp con bé Thôn Cơ vài lần, nó là một đứa quái gở! Mày muốn gì từ đứa quái gở đó, con nhãi tóc vàng? 

Tiểu Hồ không trả lời. Cụ Cố Tổ cũng giống màn đêm ở Tây Vực Châu: gió thổi vi vu song thi thoảng rù rù vài ngọn roi gió bụi bặm quất ô cửa xe điện, bóng tối đen sầm giấu trong mình hằng sa bí mật mà chẳng ai dám tìm hiểu dù rằng nó chưa gây hại hay bộc lộ sự nguy hiểm nào. Ngày rời Phi Thiên thành, nàng đã nghe Bất Vọng cảnh báo đủ điều và ngay cả bức thư của Tây Minh cũng không có dòng nào khuyên nàng nên đặt niềm tin Cụ Cố Tổ. Ở trường hợp này, Tiểu Hồ chấp nhận làm đứa con ngoan chứ không định trứng khôn hơn vịt. Vả lại nàng không tin lời ông già vì chẳng ai trên đời quái gở như ổng – nàng dám khẳng định điều ấy.

- Gần đây bọn chiến binh đồn ầm lên Tuyệt Tưởng Thành đã xảy ra chuyện... – Cụ Cố Tổ ngả ghế –...mấy đứa phục vụ nói với ta rằng Liệt Giả vừa dẫn dụ một thứ gì đó rất kinh khủng đến thế giới này, một thứ gì đó không tồn tại qua sách vở mà truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chà, nếu thằng nhóc Liệt Giả dẫn “nó” tới thì hay ho phải biết! Sống đến giờ cũng không uổng!

Nghe vậy, Tiểu Hồ lập tức đoán ra vài chuyện. Nàng không biết thứ kinh khủng nọ có hình dáng ra sao nhưng rõ ràng Liệt Giả đã mở cổng không gian. Trong lĩnh vực tin đồn, nàng hoàn toàn tin tưởng Cụ Cố Tổ. 

Hồi đầu năm, Tiểu Hồ đến Diệp quốc. Bằng bức thư tay giới thiệu của công chúa Lục Châu, nàng kết thân và được Thôn Tàng bảo trợ – người mà giờ đây là Phó Tổng Lãnh liên minh Khối Ngũ Giác[1]. Nhờ vậy, nàng có thể tiếp cận các thư viện theo danh sách do đại thánh sứ Tây Minh để lại. Trong thời gian này, Tiểu Hồ phát hiện các tài liệu đều chung một đặc điểm: mọi phiên bản thật của những truyện cổ Diệp quốc chỉ ra sự tồn tại của cổng không gian và nó luôn dẫn về “một nơi có ngọn tháp cao phun ánh sáng lam bạc” – chính là Tuyệt Tưởng Thành cùng tòa tháp Ngọn Xám. Giống anh chàng Từ Thức mà nàng đọc được ở truyện cổ Xích Quỷ, người Diệp quốc cũng có nhiều nhân vật từng đặt chân tới Tuyệt Tưởng Thành. Nói cách khác, con người thuở xa xưa đã biết cổng không gian, nhưng vì lý do nào đấy mà họ giấu nhẹm rồi biến sự thực thành chuyện dọa trẻ con lên ba. 

“Cổng không gian thật sự tồn tại sao, cha?” – Tiểu Hồ hỏi đại thánh sứ Tây Minh. Thời điểm nàng đặt câu hỏi là lúc chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành leo thang ác liệt, Hoàng Tử Cát chưa chết và người Tuyệt Tưởng nghĩ họ sắp chiến thắng. “Con từng hỏi nhiều người, hỏi cả các pháp sư hùng mạnh, họ nói cổng không gian là tạo vật chỉ tồn tại trong tưởng tượng, một thứ bẻ cong luật lệ mà con người hằng khao khát nhưng không bao giờ thực hiện được. Tại sao Liệt Giả tìm nó? Nó đâu có thật?” – Nàng tiếp tục. 

“Có thể Liệt Giả đã tìm thấy chi tiết quan trọng giữa vô vàn bí mật trên thế giới Tâm Mộng, hoặc đơn giản là niềm tin sắt đá của gã khiến ta bị lung lay. Gã là kiểu người như thế.” – Đại thánh sứ Tây Minh đáp lời – “Nhưng không chỉ Liệt Giả quan tâm cổng không gian. Thầy của ta khi còn sống cũng từng nghiên cứu nó. Ông ấy nói rằng cổng không gian chẳng bẻ cong luật lệ như người ta thường nói, mà hợp nhất toàn bộ quy tắc vật lý lẫn các đại lượng. Muốn thế, phải tìm ra một đường dẫn liên kết toàn bộ đại lượng vật chất hoặc một công thức thỏa mãn toàn bộ quy tắc vật lý, nếu được vậy, cổng không gian sẽ hình thành. Đáng tiếc là thầy nói mấy thứ đó khi ta còn quá trẻ, còn mải miết tìm kiếm vinh quang trong Thời Đại Thủy Triều.” 

“Bây giờ thì sao? Cha nghĩ cái cổng đó tồn tại không?” – Tiểu Hồ tiếp lời. 

“Ta chưa dám khẳng định, cần phải đọc nhiều tài liệu hơn nữa. Bất luận kết quả cuộc chiến thế nào, ta sẽ ghé qua các thư viện cổ xưa ở phương đông rồi phương bắc. Nhưng tài liệu mà anh bạn Vô Phong tìm kiếm ở thư viện Xích Quỷ rồi quyển sách mà Trần Độ đưa ta đều đề cập cổng không gian. Một sự ngẫu nhiên đáng lưu ý. Vả lại Trần Độ là kẻ thực tế, lão già đó chẳng bao giờ tốn mồ hôi cho chuyện vô căn cứ.”

“Vậy Liệt Giả tính làm gì với cái cổng đó? Ông ta định mở ra cái gì?”

“Ta không biết, con gái. Thế giới vô hạn mà ta thì hữu hạn.” – Tây Minh lúc lắc đầu – “Ta biết vài người có thể giải đáp câu hỏi này. Có lẽ sau cuộc chiến, ta cần gặp họ...”

Dự định của đại thánh sứ Tây Minh không bao giờ thành sự thật và Tiểu Hồ đang nối tiếp công việc đó. Từ cuộc nói chuyện nọ, nàng đã băng qua Diệp quốc rồi có mặt ở đây, ngay giữa nơi hoang vu không bóng người này với một lão già vừa nguy hiểm vừa kém văn minh. Nghĩ ngợi một lúc, Tiểu Hồ hỏi Cụ Cố Tổ: 

- “Nó” mà ngài nói là cái gì? 

Cụ cố thở phì phì tự mãn, hai cánh mũi nở to. Trêu trọc lũ nhóc khiến chúng phát điên và đặt ra những câu hỏi làm chúng tò mò luôn đứng đầu danh mục tiêu khiển của ông già. Cụ Cố Tổ huơ tay diễn tả: 

- Một tạo vật vĩ đại tới nỗi không ai tưởng tượng nổi, một con quái vật không tồn tại ở thế giới Tâm Mộng hay thế giới thực mà chúng ta đang sống. Nó lang thang đâu đó giữa một thế giới đặc biệt mà chẳng đôi mắt hay trí tuệ siêu phàm nào với tới. Vì quá to lớn nên “nó” không được ghi chép cũng không được nhớ tới, nói đúng hơn là chẳng ai rõ chân dạng của nó ra sao mà mô tả. Nhưng từ những kẻ đã chứng kiến, đó là một khoảnh khắc không thể quên, nó sẽ găm vào não chừng nào bộ não đó chưa lủng. “Nó” không có tên vì trước đó có ai biết nó đâu? Nhưng rồi gã anh cả trong Ba Thủ Lĩnh cũng đặt tên cho nó là “Khổng Thú”. 

- Quái vật? – Tiểu Hồ hỏi. 

- Gọi “quái vật” cũng được. Phàm cái gì mà con người không hiểu hoặc ghê sợ thì đều gọi là quái vật, nhưng biết đâu Khổng Thú lại là một vị tà thần? Hay thậm chí là một vị thần cổ xưa nào đó mà loài người lãng quên? – Cụ Cố Tổ nhún vai – Ta từng nghĩ mình là tất cả, là mọi thứ. Nhưng khi gặp Khổng Thú, ta ngộ ra mình chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi. Ta nhận ra trời. Trời vô hạn còn ta hữu hạn. Đừng hỏi ta Khổng Thú đến từ đâu hay có vai trò gì ở thế giới Tâm Mộng, bởi ta cũng tự hỏi mình như thế sau rất nhiều năm. Có một dạo mà ta không thể nhớ là ngày tháng năm nào, khi ngồi cùng anh cả của Ba Thủ Lĩnh, ta đã hỏi Khổng Thú. Đáp lại ta, gã anh cả chỉ lắc đầu, ngay cả gã cũng không biết kia mà! Chẹp chẹp! Nên là... nếu Liệt Giả thực sự mang Khổng Thú đến thì ta rất hứng thú! Ta muốn gặp lại nó thêm lần nữa!

Bóng đèn ở nóc xe rọi rõ những háo hức trong mắt Cụ Cố Tổ. Ông già chẳng quan tâm con quái vật khủng khiếp kia sẽ gây hại thế giới thế nào mà chỉ muốn tận mắt chứng kiến cho thỏa nỗi tò mò cá nhân. Và cụ cố không giấu giếm điều đó. Tiểu Hồ hỏi: 

- Cháu biết anh cả của Ba Thủ Lĩnh, thậm chí từng gặp ông ấy. Vậy ngài bao nhiêu tuổi? Ngài đã sống qua thời kỳ nào?

Cụ cố mỉm cười tự đắc rồi cũng giống bao lần khác, ông già tiếp tục im ỉm. Kiêu ngạo vì hiểu biết và giữ rịt những kiến thức trong bí mật, sau đó nở nụ cười mỉa mai trước người trẻ tuổi vốn là đặc trưng của đám đầu bạc, riêng Cụ Cố Tổ nâng tầm nó thành nghệ thuật. Mọi câu trả lời đã sờ sờ trên khóe mép cười nhếch, cái ngả lưng thư thái hay con mắt hấp háy của ông già, tưởng chừng Tiểu Hồ chỉ cần động não một chút là đoán ra. Nhưng chừng nào cụ cố vẫn im lặng thì những phỏng đoán ấy vẫn không được xác nhận. Muốn biết, nàng phải hỏi. 

- Vậy... Khổng Thú đến đây bằng cách nào? – Tiểu Hồ lên tiếng, giả bộ mình đã bị cuốn theo nghệ thuật câu tò mò của cụ cố – Ngài nói rằng nó tồn tại ở một khoảng không đặc biệt, tóm lại không phải thế giới thực. Vậy nó tới đây bằng cách nào, ngài biết không? 

- Thế thì mày cho ta vào thị trấn mua rượu trước! – Cụ cố quay sang nói. 

- Cháu sẽ mua giùm ngài. – Tiểu Hồ trả lời. 

- Thế thì còn lâu ta mới kể! – Cụ Cố Tổ quay đi đoạn trùm chăn kín mặt. 

- Tùy ngài thôi, cháu cũng không cần biết nhiều. – Tiểu Hồ nhún vai ráo hoảnh – Thế giới vô hạn mà con người hữu hạn, biết nhiều biết nữa cũng chỉ đến thế mà thôi! Chúc ngài ngủ ngon!

Nói rồi cô gái trùm áo lên mặt. Cụ cố không dè con nhãi tóc vàng chơi bài dỗi ngược, trong khi lão mới là người có quyền dỗi. Niềm vui được kiêu ngạo chẳng kéo dài lâu, Cụ Cố Tổ lại một phen nhức đầu vì tiếc rượu ngon. Xe dừng giữa đồng không mông quạnh, cụ cố lết tới thị trấn gần nhất cũng è cành hông bè cơ mông, khéo chừng gãy luôn cột sống. Mà ép buộc Tiểu Hồ nổ xe đi thì cụ cố chẳng đáng mặt người mạnh thứ hai thế giới. Đấu tranh nội tâm mãi, Cụ Cố Tổ gầm gừ: 

- Được rồi, ta chịu thua mày, con nhãi! Nghe xong thì nhớ mua rượu cho ta! Nghe đây, ta không rõ Khổng Thú đến thế giới thực bằng cách nào. Chỉ biết rằng khi gã anh cả của Ba Thủ Lĩnh tìm ta nhờ giúp đỡ, con quái vật đã xuất hiện. Ta không rõ tường tận câu chuyện nhưng gã anh cả nói rằng có người đã sử dụng đồ ma thuật, một chiếc đĩa vàng, để mở cánh cổng dẫn Khổng Thú tới. Đại khái là một thằng ngu ngốc nào đó lỡ nghịch dại cái đĩa và con quái vật cứ thế chườn mặt xuống Tâm Mộng thôi!

Tiểu Hồ biết chiếc đĩa vàng, thậm chí chạm vào nó vài lần. Nhưng nàng lắng nghe bằng tâm thế của đứa con nít tò mò chuyện lạ thay vì tỏ ra hiểu biết. Cô gái chống cằm chăm chú, mắt mở to không chớp. Cụ cố trông vậy thì rất hài lòng, ngửa cổ tu một ngụm rượm lớn rồi hào hứng kể: 

- Như ta nói, Khổng Thú tồn tại ở thế giới đặc biệt. Để xuất hiện ở thế giới thực, nó cần đi qua một cánh cửa liên kết hai thế giới. Ta có nghe bọn khoa học gia thời nay gọi nó là... cổng không gian à? Trừu tượng vậy? Nhưng gọi là “cổng không gian” vẫn không thể bao hàm hết ý nghĩa. Vì cánh cửa đó là sự thống nhất giữa các phép thuật và mọi nguyên tố trong Ngũ Hành...

- Ý ngài là thống nhất toàn bộ quy tắc vật lý và các đại lượng không – thời gian? 

Cụ cố nhìn chằm chằm Tiểu Hồ theo kiểu “Mày đùa ta à?”. Rõ ràng ông già không biết các khái niệm vật lý hay đại lượng không – thời gian. Sự hiểu biết của cụ cố hoàn toàn thuộc về thời đại cũ. Cô gái vội sửa chữa: 

- Ý cháu là nếu hợp nhất mọi phép thuật và nguyên tố trong Ngũ Hành, chúng ta sẽ tạo ra cổng không gian? 

- Ờ... ờ... nhưng đấy chỉ là một nửa vấn đề, nửa còn lại là “thời gian”. Nếu có loại phép thuật đảo ngược hoặc đẩy nhanh thời gian, cánh cửa sẽ mở. Nhưng trên đời chẳng có thứ phép thuật như vậy. 

- Tại sao phải cần thời gian? – Tiểu Hồ hỏi. 

Cụ Cố Tổ rút tẩu thuốc, châm lửa rít một hơi đoạn thở ra làn khói mỏng màu xanh lá. Khói quần tụ hình cầu thành thế giới Tâm Mộng với đủ sáu lục địa, hai đại dương cùng chín biển lớn. Cụ Cố Tổ đặt ngón trỏ vào Tây Vực Châu: 

- Bây giờ là tám giờ tối ở Tây Vực Châu, còn ở Phi Thiên thành là mười một giờ sáng. Nếu cái gọi là “cổng không gian” tồn tại, nghĩa là mày có thể bước từ đây về Phi Thiên thành qua mười múi giờ! Nếu điều đó thành sự thật, nghĩa là bản thể của mày hiện diện ở hai thời điểm khác nhau. Hiểu theo một cách khác, mày đang du hành đến tương lai hoặc trở lại quá khứ. Để thực hiện điều này, cần có một loại phép thuật ngưng đọng thời gian. Không tính chiếc đĩa vàng thì đó là chuyện bất khả. 

- Không cách nào sao? – Tiểu Hồ nghi hoặc. 

- Không có cách nào cả. – Cụ cố lắc đầu, ngửa cổ tu rượu tiếp – Thời gian là những lớp màng mỏng đi xuyên qua chúng ta, xuyên qua vạn vật. Nó chưa từng sinh ra cũng không thể biến mất, sự tồn tại của nó bao hàm toàn thế giới này. Nếu quả thực... quả thực có thứ phép thuật gập lại các lớp màng mỏng của thời gian thì phải trả một cái giá tương đương cho nó. Tức là ngưng đọng thời gian ở đây thì phải hoàn trả thời gian ở chỗ khác. Nhưng đó chỉ là lý thuyết! Chẹp chẹp chẹp! Ai mà gập được thời gian? Ta cho mày một tờ giấy mỏng, bất kể to nhỏ ra sao, mày giỏi lắm chỉ gập được nó bảy lần, không hơn! Trong khi thời gian vô định hình, vô định lượng và biến chuyển liên tục, thứ mà ta tưởng là hiện tại thực chất đang thành quá khứ, và thứ mà ta tưởng là tương lai lại trở thành hiện tại. Thời gian mỏng hơn giấy mà cũng dày hơn mọi vật chất. Phép thuật nào gập được cả ba mốc thời gian đó? 

Tiểu Hồ hiểu lời cụ cố. Nàng biết tính chất hoàn trả trong phép thuật. Mọi phép thuật đều cần nguồn năng lượng hoặc sự đánh đổi tương đương, nhưng thời gian không phải năng lượng cũng không phải vật thể định hình. Nó nằm ngoài tầm tay con người, thậm chí mọi sự vật hay đại lượng biểu diễn thời gian chỉ là cách diễn giải của con người chứ không phải tự thân nó là vậy. Rốt cục Tiểu Hồ không thể rút ngắn cuộc hành trình, nàng vẫn phải tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ để hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành. 

Im lặng một lát, Tiểu Hồ cất lời: 

- Ngài còn người thân không? 

Cụ cố không đáp mà ngáy khò khò, chai rượu trong tay vơi quá nửa. Nhưng Tiểu Hồ không tin ông già uống ngần ấy đã say. Có lẽ cụ cố không muốn trả lời, giống màn đêm Tây Vực Châu chỉ hiện lên những bóng hình đầy nghi vấn mà không cho lời giải đáp. Màn đêm có bí mật, Cụ Cố Tổ cũng vậy.

...

Ngủ được khoảng năm tiếng, Tiểu Hồ tiếp tục lái xe xuôi theo hướng tây nam, nhằm thẳng tới điểm cuối khe nứt vĩ đại. Dọc đường, cô gái đứng tim vài phen khi gặp quân đội Bắc Thần quốc. Họ đi tuần hoặc kiểm soát những lối dẫn vào khu công nghiệp chính hết sức nghiêm ngặt, không bỏ qua bất cứ xe cơ giới nào dù khách lạ hay người quen. Tiểu Hồ đã bám theo một đoàn xe buôn lậu có tiếng là “nhẵn mặt” ở Tây Vực Châu nhưng vẫn không thể lọt qua trạm kiểm soát. Đám lính sục sạo khắp xe của Tiểu Hồ, lôi ra một nùi vũ khí, thiết bị do thám hoặc súng đạn. Và tất nhiên họ lôi ra cả Cụ Cố Tổ. Bị làm phiền giấc ngủ, ông già nổi quạu: 

- Làm gì thế? Không thấy người già nghỉ ngơi à? Ta cắt lưỡi chúng mày bây giờ?!

Nhìn ông già, đám lính Bắc Thần to nhỏ kháo nhau rồi kiểm tra giấy thông hành của Tiểu Hồ. Đọc một lúc, họ tái xanh mặt mũi đoạn nhanh chóng mở cửa cho Tiểu Hồ đi qua. Đó không phải là thái độ trọng thị mà giống tiễn vong đuổi tà. Cả bốn lần Tiểu Hồ gặp lính Bắc Thần quốc đều chung một kịch bản. nàng không biết gã Ly Đốc và đám phục vụ đã giở trò gì hay bản thân Cụ Cố Tổ là cái gì, nhưng ít nhất nàng không phải đọ súng, đấu kiếm hay chạy trối chết như lúc ở Cổ Lâu Trấn. 

Hai ngày sau mớ rắc rối tại Cổ Lâu Trấn, nhóm Tiểu Hồ đã tới điểm cuối khe nứt vĩ đại. Ở đây có một thị trấn vô danh, ít người sinh sống và cũng là thị trấn cuối cùng của Tây Vực Châu. Từ đây lên phía bắc là một vùng hoang mạc chỉ toàn đá cứng, không có bất cứ đường mòn công trình nhân tạo nào. Cũng từ đây đi ra phía tây sẽ bắt gặp một hoang mạc lớn có tuyến đường sắt thông sang Chi Chiếu quốc – nước láng giềng của Bắc Thần quốc nhưng không thuộc liên minh Nhất Thống Cục, mà là thành viên của Trục Chữ Thập do Lưu Vân quốc đứng đầu. Ở đây chỉ có một đội bảo vệ do các ông chủ nhà máy lập nên Tiểu Hồ dễ dàng tiến vào thị trấn. 

So với toàn bộ Tây Vực Châu, thị trấn vô danh này xếp chót bảng về mức độ tiện nghi và đứng đầu bảng mức độ ô nhiễm không khí. So với Cổ Lâu Trấn, nó quả thực là một chốn nhà quê chuồng gà chuồng vịt. Không nơi tụ tập giải trí, không biển hiệu quảng cáo cũng không có một cửa tiệm đúng nghĩa, thị trấn quả thực rất thích hợp cho những ông bà già sắp chết hoặc kẻ muốn tìm kiếm nơi tốt nhất để tự tử. Thứ duy nhất ồn ào và rền rĩ là nhà máy tái chế kim loại, nơi làm việc duy nhất đồng thời là công việc của đa số người dân. Thị trấn không có xưởng lọc khí nên khói bụi đóng tầng đóng tảng trong không khí, bằng mắt thường cũng nhận ra, nên ai nấy đều kè kè mặt nạ phòng độc mọi nơi mọi lúc. 

Và rất khó để mua bán nếu không hỏi thăm dân bản địa. Các cửa hàng trong thị trấn vô danh bán đủ thứ tạp phí lù, không chuyên biệt loại mặt hàng nào. Tiểu Hồ đã nghĩ mấy nơi bán thực phẩm có rượu nhưng thực tế nơi duy nhất bán rượu lại là tiệm sửa chữa da giày. Cô gái cùng Cụ Cố Tổ đến tiệm, bà già chủ hàng lục ra một chai rượu khắm lặm mùi da giày đoạn đưa cụ cố, giọng cắn cảu: 

- Còn đúng một chai! Một đồng vàng nhé!

Một đồng quá đắt cho một chai rượu nhưng Cụ Cố Tổ chẳng để tâm. Cụ cố ném đồng vàng cho bà chủ hàng, hỏi: 

- Hàng bán nồi vẫn còn chứ? Chủ hàng chưa chết chứ hả? 

- Vẫn bán, thằng cha điên khùng đó... – Bà chủ hàng chữa giày bĩu môi chỏng lỏn –...thời nào rồi còn nặn đất làm nồi? Ngày nào cũng bày một lô một lốc tràn ra đường, không thể chịu nổi! Sao thằng chả không chết luôn cho rồi?!

Trước bà già độc mồm độc miệng, cụ cố chỉ cười hề hề. Ông già cởi mặt nạ phòng độc, nhấp thử tí rượu cho lợm giọng rồi nhổ toẹt xuống đất, mồm lẩm bẩm chửi “Cái con khỉ, toàn cồn!”. Nhưng sau rốt cụ cố vẫn nốc thứ cồn ấy vào ruột, cười cười nói nói: 

- Lâu lâu mới tái ngộ kẻ giữ cửa đền Mộc Thần. Bao lâu rồi? Ba thế kỷ không? Chẹp chẹp! Khó nhớ quá! Lúc ta trao lại ngôi đền Mộc Thần cho người kế nhiệm, hắn chỉ là thằng nhóc học việc. Một đứa bé khá xinh trai. Còn giờ, hờ hờ, thằng bé xinh trai đó chắc đã rụng hết răng. Hắn tên là... tên là... con khỉ! Quên mất rồi! Ta chỉ nhớ ta thường gọi hắn là Mắt Xanh!

- Ngài quên sao? – Tiểu Hồ hỏi kháy.

- Bộ não chỉ có thể lưu trữ các sự kiện trong ba trăm năm đổ lại. – Cụ Cố Tổ gõ gõ vào thái dương – Ta chỉ nhớ những gì ấn tượng nhất thôi! Đừng cười, con nhãi, thử sống lâu như ta và mày sẽ hiểu thế nào là thời gian thực sự.

Cụ cố khệnh khạng bước nhưng không có vẻ gì là quên đường. Ông già dẫn Tiểu Hồ vòng qua những tòa nhà bê tông xập xệ, mái tôn đóng két bụi và những ô cửa sổ giăng màng ngăn không khí bẩn. Cuối cùng họ dừng lại trước cửa hàng bán nồi. Nó đích xác là cửa hàng duy nhất ở thị trấn này có biển hiệu và buôn bán đúng thứ mặt hàng mà biển hiệu quảng cáo. Bán Nồi – chỉ một chữ duy nhất như thế, bên dưới tấm biển la liệt những chiếc nồi đất. Hàng tá nồi kiểu cổ xưa với miệng rộng, thân bè, thích hợp cho món nấu hầm hàng tiếng đồng hồ của người Bắc Thần. Đến giờ người Bắc Thần quốc vẫn thích và ăn những món đó, nhưng không phải ở đây, không phải Tây Vực Châu này, nơi mà cuộc sống công nghiệp biến con người thành máy móc. Nồi xếp đống thành chồng một, tất cả bạc màu tựa cuộc đời bạc bẽo. Có lẽ chúng đã ở đây hàng trăm năm nhưng không một ai thèm nhìn ngó. Thậm chí ngay cả chủ nhân cửa hàng cũng biến đi đâu chẳng rõ. 

Lúc này, kẻ duy nhất chịu nhìn ngó đống nồi là Cụ Cố Tổ. Ông già nhón chân lần mò giữa các chồng nồi, lật cái nọ xem cái kia rồi lớn giọng: 

- Còn vạc không? Ta cần cái vạc! Mắt Xanh, mày có nhà không?

Có tiếng lệch xệch lách cách từ bên trong cửa hàng vọng ra. Cửa mở, liền sau đó xuất hiện một ông già cao tuổi lưng còng, khoác trên người một nùi giẻ rách – chúng thực sự là “giẻ rách” vì không thể phân biệt được đâu là tay áo và đâu là vạt áo. Trên đầu ông già đeo chiếc kính to tướng chắn bụi, cổ khoác mấy chiếc máy kỳ quặc như máy đo đạc. Nhưng dù kỳ dị, già cỗi hay xơ xác tới đâu, ông ta vẫn hiện lên những nét đặc biệt như mái tóc màu nâu và đôi mắt màu xanh thẳm. Tiểu Hồ hơi ngờ ngợ. Trông thấy Cụ Cố Tổ, ông chủ bán nồi Mắt Xanh nọ há hốc miệng: 

- Ngài?! Thực sự là ngài?! Ngài đã quay về! 

- Phải, là ta. – Cụ cố đáp – Mày chưa chết hả? Tốt, ta cần một cái vạc, mày hiểu ý ta chứ? Một cái vạc! Ta có đầy đủ ba món đồ vật ở đây rồi, không cần lo. Có gì ăn không? Mày có tủ lạnh chứ?

Ông chủ bán nồi vừa gật đầu, cụ cố liền tót vào nhà ngay. Dáng vẻ của ông chủ khiến Tiểu Hồ ngờ ngợ, nhìn mãi không thôi. Nàng nhận ra khuôn mặt ông ta có những nét góc cạnh của dân phương tây, không phải người phương đông, nhất là cái mũi thẳng tắp khoằm khoằm như mỏ chim ưng. Quan trọng hơn cả, nàng cảm giác có thứ gì đấy hết sức quen thuộc. Ông chủ bán nồi nhìn Tiểu Hồ, mở lời:

- Ta nhớ mặt từng đứa phục vụ của cụ cố. Thi thoảng chúng qua đây lấy nguyên liệu. Bé con không phải một trong số chúng. Nhưng trên đời chẳng mấy ai được đi cùng Cụ Cố Tổ, bé con thuộc số ít đó. Vậy ngươi muốn hỏi ta điều gì? 

Đôi mắt xanh thẳm của ông già làm Tiểu Hồ khó thở. Nàng biết một cặp mắt tương tự đang ngồi trên ngai vàng Phi Thiên thành và cũng sắp sửa rời khỏi ngai vàng đó. Cô gái hỏi: 

- Ngài là ai? Tại sao ngài có đôi mắt giống Bạch Dương Đệ Thập? Tôi biết đôi mắt này!

- Thế bé con là ai mà biết Bạch Dương Đệ Thập? – Ông chủ bán nồi hỏi lại. 

- Tôi là Tiểu Hồ, hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu, con gái Bạch Dương Đệ Thập. Từ bé tôi đã gặp ngài Đệ Thập. – Tiểu Hồ trả lời. 

Ông chủ hàng bán nồi ngó xuống Tiểu Hồ. Bấy giờ cô gái mới để ý ông ta tuy còng lưng nhưng vẫn cao hơn mình một chút. Người đàn ông dùng mấy cái máy đeo cổ soi Tiểu Hồ một lượt rồi đáp: 

- Không nói dối. Được thôi, ta sẽ trả lời. Ta họ Bạch Dương, tên Lục Triều. Nói cách khác, ta là tổ tiên của Bạch Dương Đệ Thập và con bé Lục Châu. Cháu gái Lục Châu của ta vẫn khỏe chứ?

- Vâng... vâng... công chúa vẫn khỏe, thưa ngài! – Tiểu Hồ lắp bắp – Nhưng tại sao ngài ở đây? 

- Chuyện rất dài. Thời gian, ôi thời gian! – Lục Triều thở dài – Nhưng ngươi có thể hiểu rằng Ngũ Pháp Sư từng can thiệp chính trị thế giới, khi ấy họ còn nhiều tiếng nói. Để làm tin và cầu cạnh khi cần, các dòng họ lớn mà thường là dòng họ đế vương sẽ gửi con cái mình theo Ngũ Pháp Sư. Mẹ ta, Bạch Dương Đệ Tứ, nữ hoàng đầu tiên của Phi Thiên quốc đã gửi ta tới đền thờ Mộc Thần. Ta từng chủ trì đền thờ này cho tới khi trao lại nó cho Lập Hoa Ngân Thôn Cơ và trở thành người canh giữ đền. Vào đi, bé con, hãy ăn một bữa trước khi tiến vào đền thờ. Có bánh bột mì, trứng, thịt hun khói và pho-mát, hy vọng ngươi sẽ thích. 

Ông chủ hàng bán nồi ghé đầu mời Tiểu Hồ vào nhà cùng nụ cười thân thiện. Tiểu Hồ ngơ ngác bước theo, mặt nghệt ra còn hai lỗ tai ù ù. Nàng không biết Cụ Cố Tổ đang giữ rịt bao nhiêu bí mật nữa. Ở một nghĩa khác, Cụ Cố Tổ chính là nếp gập thời gian, nơi hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai. Vả lại, bản thân con vượn già kém văn minh đó chính là phép thuật. – Tiểu Hồ dợm nghĩ.

[1]: xem lại Quyển 3 Chương 124, Tiểu Hồ đã nhờ công chúa viết một bức thư gửi cho Thôn Tàng trước khi đến Diệp quốc
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 8: Bát biến


Không có nhiều từ ngữ miêu tả nơi ở của đàn ông độc thân, nhất là một ông già. Và, tất nhiên, trong số lượng từ ngữ ít ỏi đó chẳng được mấy nghĩa tích cực. Khu vực này dường như bị bỏ quên trong ngôn ngữ loài người. 

“Nghèo nàn” – Tiểu Hồ chẳng nghĩ ra từ nào tốt hơn để nói về ngôi nhà của Bạch Dương Lục Triều. Nghèo nàn vật chất là thứ dễ thấy nhất. Ông già buôn bán một thứ mặt hàng lạc quẻ thời đại và rõ ràng người dân thị trấn không mặn mà, thậm chí không quan tâm. Nhìn mớ đồ đạc cũ nát phủ bụi trong nhà, Tiểu Hồ đoán rằng vụ buôn bán nồi đất đã ế ẩm lâu năm. Tất cả nội thất đều xập xệ: bàn ghế gãy chân, kệ đựng đồ xiêu vẹo, tủ lạnh han gỉ méo mó như cục kim loại ép khuôn từ bãi phế liệu. Ngay cả chiếc bàn xoay nặn đất cũng nghỉ phép quá lâu, làm mái nhà cho lũ kiến và chưa biết khi nào hoạt động lại. 

Tiểu Hồ ngó quanh và không thấy máy chiếu ba chiều, báo giấy hay tạp chí. Lục Triều sống hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Nhưng ngay cả thế giới tinh thần cũng nghèo nàn chẳng kém tình trạng vật chất. Tiểu Hồ thất vọng, nàng đã mong chờ nhiều hơn thế từ người gác đền Mộc Thần. Sách vở, dụng cụ thí nghiệm, vài món đồ ếm phép, chai lọ thủy tinh đựng độc dược, bình ngâm xác động vật trong phoóc-môn – những thứ cơ bản nhất về pháp sư hay những kẻ tỏ vẻ mình là pháp sư – Lục Triều đều không có. Thay vào đó, tất cả đều là nồi. Nơi đáng để sách, chỗ đáng để bình đều bị chúng xâm chiếm, chen chân lấn chỗ khắp nơi. Tiểu Hồ mở nắp vài chiếc nồi và hy vọng Lục Triều giấu đồ nghề ở đó. Đống nồi mở miệng đáp lại nàng bằng bụi rồi nhện. Cô gái thấy nhện liền giãy nảy, nhảy chồm chồm như con mèo bị kích động. Nàng sợ nhện, nỗi sợ cố hữu và không thể sửa. 

Nghèo nàn bừa bộn là vậy nhưng căn nhà khá trong lành dù không lắp đặt máy lọc khí. Tiểu Hồ thực sự ngạc nhiên. Nàng có thể cởi mặt nạ phòng độc và hít thở, cảm nhận không khí dưới cánh mũi. Nghèo nàn không làm căn nhà sực mùi cũ mốc hay hôi hám. Có bụi, có mạng nhện, có kiến bò, có tiếng thạch sùng chặc lưỡi “tạch tạch tạch” ở xó xỉnh nào đấy nhưng chúng đến đây như một lẽ tự nhiên chứ không phải vì căn nhà bẩn thỉu. Đã lâu Tiểu Hồ mới lại thấy thạch sùng. Phi Thiên thành nơi nàng sống hay những thành phố mà nàng đi qua quá hiện đại, quá sạch sẽ, lũ thạch sùng chắc chắn sẽ ngã lộn cổ khi đụng phải tường sơn bóng nhẫy hay cửa kim loại lạnh toát. So với thế giới Tây Vực Châu ô nhiễm ngoài kia, căn nhà thực sự là thiên đường.

Lúc này Cụ Cố Tổ đang nằm khểnh trên cái ghế gãy một chân, say sưa nhấm nháp rượu cùng đồ ăn vặt. Ông già Lục Triều mở tủ lạnh đoạn hỏi Tiểu Hồ: 

- Chuyện bầu cử thế nào? Con bé Lục Châu tìm được nhà tài trợ chưa? Ai là người hướng dẫn? Lập cương lĩnh tranh cử rồi chứ? 

Cô gái nghe vậy thì hơi lạ. Ở nơi không có chó mà ăn đá và càng không có gà để gặm sỏi này, câu hỏi đó như ngược chiều gió. Nàng không nhớ trong thị trấn có nơi nào lắp đặt máy chiếu. Nhưng suy cho cùng nó cũng không phải vấn đề to tát. Tiểu Hồ giúp ông già chuẩn bị bữa ăn rồi trả lời: 

- Tôi chỉ nghe loáng thoáng, thưa ngài. Từ lúc công chúa vận động tranh cử, tôi ít gặp gỡ cô ấy. Công chúa bận lắm, tôi cũng không rõ cô ấy soạn thảo cương lĩnh tranh cử hay chưa. Mà nếu có thì cô ấy cũng không thể nói với tôi, ngài biết đấy, chuyện hệ trọng mà! Nhưng tôi biết người hướng dẫn cô ấy là Trần Độ - thủ lĩnh Hội Đồng Pháp Quan, còn nhà tài trợ là Cao Khánh - ông chủ tập đoàn giải trí Phi Thiên thành. 

Hai người vừa trò chuyện vừa mang đống thức ăn vào bếp. Tiểu Hồ xé bao bì đựng thực phẩm, nhận ra vài thứ lạ hoắc đóng đá tuyết, nhìn qua không biết là giống ôn gì. Ông già Lục Triều đặt chúng vào lò quay, nói: 

- Lục Châu không có nhiều cơ hội. Nó sinh ngày 28 tháng 3 năm 7495, khoảng tám giờ tối, để xem... – Lục Triều khoanh tay ngẫm nghĩ –...năm đó trời đẹp, tiết xuân thịnh vượng, ba mặt trăng rõ ràng, ánh trăng chiếu thẳng hướng bắc tức hoàng cung nơi con bé sinh ra. Chà, vậy thì tính cách của Lục Châu chủ yếu là hiền hòa nhưng dễ xáo động, thường xuyên phiền muộn lo nghĩ, bề ngoài tuy an bình nhưng bên trong tiềm tàng những cơn giận dữ bất chợt. Làm thánh sứ thì ổn mà chính trị gia thì không. Con bé chẳng có cửa nào với anh trai nó. 

- Ngài đã gặp công chúa? – Tiểu Hồ hỏi. 

- Chưa một lần. Ta chỉ biết ngày tháng năm sinh của con bé. – Lục Triều lắc đầu – Làm người gác đền thờ là vinh dự đồng thời là tù ngục. Ta phải ở đây tới khi thành nắm tro tàn. 

Tiểu Hồ chẳng dè ông già hiểu rõ công chúa nhường ấy. Nhưng nàng nghĩ Lục Triều từng gặp gỡ bí mật cha con Đệ Thập, tiếp xúc đủ lâu rồi tự khoác lên mình vẻ thông thái. Dăm ngày nay nàng có thành kiến với người già, nguyên nhân chủ yếu là Cụ Cố Tổ. Lúc này cụ cố đang nhấm nháp rượu với đồ ăn vặt, nghe hai người trò chuyện thì lên tiếng: 

- Lại giở mấy trò bói toán hả, Mắt Xanh? Vậy mày thử bói xem khi nào ta tắc thở coi? Chẹp chẹp chẹp! 

Lục Triều mỉm cười đoạn ngó vào lò quay rồi hít hít hửi hửi. Cảm thấy thời gian vừa đủ, ông già lôi mớ thức ăn từ lò ra ngoài. Tất cả đều là đồ lòng động vật, Tiểu Hồ vừa nhìn qua đã có cảm giác ghê cổ. Lục Triều nói: 

- Ở đây không nhiều việc, tôi đành chơi bói toán giết thời gian. Có báo và tạp chí, nhưng ba tháng mới phát một lần, chờ đợi thực lâu! Cái máy chiếu ba chiều cũ thì hỏng, không sửa được và tôi không có tiền mua cái mới. Thi thoảng tôi cũng nấu thuốc nhưng chỉ giúp được người sắp chết hoặc người quá nghèo, những người đường cùng đã hết niềm tin vào thế giới hiện đại. 

- Bọn chúng sống sót chứ? – Cụ cố hỏi. 

- Một vài, nhưng ngay cả độc dược hạng nhất cũng không thể chữa bệnh tiểu đường giai đoạn cuối. Tấm ván nào có thể che lấp con thuyền đã thủng đáy? 

Đương ngửa cổ tu rượu, cụ cố hơi nghẹn họng. Tiểu Hồ được dịp cười khanh khách. Lục Triều trút mớ đồ lòng vào chảo dầu sôi, dùng muôi khuấy dòng chất lỏng sủi sùng sục. Ông già lưng còng đi đứng chậm chạp nhưng nấu ăn nhanh nhẹn lạ thường. Mùi chiên rán bốc lên, Lục Triều trầm ngâm cất lời, giọng khi chậm khi mau, không rõ là nói với Tiểu Hồ hay cụ cố. Hoặc có thể là ông ta đang tự sự:

- Hơn ba trăm năm trước khi phi thuyền còn cồng kềnh, những vị hoàng đế còn nắm toàn quyền sinh sát và tôi còn chủ trì đền Mộc Thần, nơi đây vẫn đông người qua lại. Cứ nửa tháng, tôi lại tiếp một nhóm hai người hoặc có khi bốn, năm người. Họ là pháp sư, đại diện chính phủ, đại diện Đại Hội Đồng, thậm chí sứ giả Thánh Vực. Họ không thể vào đền thờ Mộc Thần mà chỉ đứng ngoài ngắm nhìn với lòng tôn trọng, kính ngưỡng và cầu thị. Khi ấy căn bếp này là một phần đại sảnh rộng thênh thang, tôi đón tiếp họ ở đây rồi bàn luận nhiều thứ, khuyên đám pháp sư hoặc kiếm thuật sư trẻ tuổi nên cống hiến cho con người thay vì lang thang làm kẻ dị hợm, hoặc tham vấn cho các chính phủ trước khi họ đẩy đám thanh niên trai tráng ra mặt trận. Chà... ít nhất tôi đã ngăn chặn được vài cuộc chiến tranh và một cơ số những gã điên muốn dùng cơ thể con người để thí nghiệm phép thuật. Nhưng cuối cùng tôi lại không thể ngăn chặn Thời Đại Thủy Triều. Đích thân Bạch Dương Đệ Lục đã tới và xin tôi lời khuyên, hoàng đế Lưu Vân quốc cũng đến, dòng máu Bạch Liên Đại Đế cũng đến, cả những ông vua họ Hoang Vệ của Tuyệt Tưởng Thành... Họ rất chân thành, rất muốn hòa bình, nhưng bằng một cách lố bịch đến không tưởng, Thời Đại Thủy Triều vẫn nổ ra. Tôi đã thất bại. 

Cụ cố ngừng uống, miệng chem chép: 

- Không riêng mày, tất cả Ngũ Pháp Sư đều vậy. Mà đó không phải là thất bại. Chúng ta chẳng thất bại điều gì, tự lũ con người muốn thế! Hồi đó nếu ta chủ trì đền thờ, ta sẽ bảo chúng đập nhau ngay lập tức!

Lục Triều cười phì. Ông già trút mớ đồ lòng đã chiên sơ sang cái chảo khác, niệm chú ngữ rồi ném vào đó một vốc đốm lửa đỏ vàng. Chúng bùng lên, cuộn vòng thành nhiều ngọn nóng cong vồng đẹp mắt và nhấn xuống đáy chảo khối nhiệt lượng nóng rực. Chất đốt khan hiếm, Lục Triều tận dụng phép thuật vào cuộc sống, nhân tiện tranh thủ tiết kiệm tiền. Thứ lửa đó dậy mùi thơm nức lại trào lên những đường nét thanh mảnh như có bàn tay vô hình uốn nắn, vẫn nóng hừng hực nhưng đầy tính nghệ thuật. Tiểu Hồ không làm được như thế, lửa của nàng luôn dữ dội và chỉ chực bùng cháy thiêu đốt mọi thứ. Các đại pháp sư Hỏa niệm mà nàng biết cũng không thể tạo ngọn lửa như vậy. Nếu làm việc ở nhà hàng, hẳn rằng Lục Triều sẽ khiến tất cả đầu bếp lẫn thực khách lác mắt ngưỡng mộ. 

- Tôi trao lại trách nhiệm cho Thôn Cơ. Con bé tiếp quản đền thờ vào những năm tháng khó khăn nhất, thời kỳ Ngũ Pháp Sư bắt đầu suy tàn. – Lục Triều tiếp tục nói – Người ta nhận ra súng đạn giải quyết vấn đề triệt để hơn, và Ngũ Hành vẫn hoạt động bất kể Ngũ Pháp Sư tồn tại hay không. Số người đến đền thờ ít dần, ít dần. Rồi chẳng ai đến nữa. Những pháp sư hay kiếm thuật sư lang thang cũng chẳng còn vì họ mải liều mình tìm kiếm vinh quang hoặc chôn thây dưới những cơn sóng của Thời Đại Thủy Triều. Ôi, nực cười thay, chính tôi đã khuyên đám lang thang ấy làm việc có ích, vậy mà lúc họ biến mất thì tôi nhớ họ kinh khủng! Thôn Cơ chẳng thể làm gì. Khi tôi quay lại đây với tư cách canh gác đền Mộc Thần, con bé ấy đã mất niềm tin. Nó, như ngài bây giờ, bắt đầu dùng từ “loài người” như một cách đặt lên bàn cân với “loài khỉ”, “loài cá” hoặc “loài động vật” nào đấy. Và khi sự vụ thảm sát họ Bạch Liên xảy ra, Thôn Cơ đã bỏ đi. Con bé không còn niềm tin phụng sự Ngũ Hành nữa, nó coi đó chỉ là công cụ phép thuật. 

- Thôn Cơ có một người bạn mang dòng máu Biệt Liên, nhỉ? Con bé xinh xẻo đó... tên gì nhỉ? – Cụ Cố Tổ hỏi.

- Vâng, là công chúa Biệt Liên Đích Trạc. Công chúa Đích Trạc bị giết hại trong cuộc đảo chính. Có lẽ tôi nên ngừng lại, dù sao thì ai cũng biết cả, nói thêm nữa mất vui. Vả lại nó không thích hợp cho ngày tái ngộ.... à, có vẻ được rồi!

Lục Triều hoan hỉ vớt món lòng sang một cái rổ để ráo dầu, sau nấu thêm món mì sợi bản to kiểu Bắc Thần quốc. Nhờ lửa phép thuật, món đồ lòng vàng rộm và không hề có vết cháy. Ông ta vui vẻ nấu ăn, hoàn toàn quên bẵng câu chuyện vừa kể. Tiểu Hồ biết chuyện đó, đúng hơn là quá nửa dân số Tâm Mộng đều thuộc làu. Trong số mười bảy người họ Biệt Liên bị giết, công chúa Đích Trạc bi thảm nhất. Người ta kể rằng sau khi bị bắn, công chúa không chết vì kẻ hành quyết run tay làm nòng súng chệch hướng. Thay vì bắn tiếp, đám tướng lĩnh đảo chính ra lệnh lột trần công chúa và ném cô ra ngoài khu phố đông người. Cô bị sỉ nhục, cưỡng bức rồi bị đánh đập tan thây bởi một đám đông nhân danh “cách mạng”. Công chúa Đích Trạc nổi tiếng sắc đẹp đã kết thúc cuộc đời như thế. 

Nhờ phép thuật, Lục Triều nấu ăn nhanh hơn đầu bếp hạng nhất. Chỉ một loáng, ông già đã dọn ra những món truyền thống của Phi Thiên cộng thêm đĩa mì trộn đồ lòng thơm nức mũi. Trong lúc Tiểu Hồ băn khoăn nên thử món mì hay không thì hai ông già cụng ly rượu mừng ngày hội ngộ. Ông già Lục Triều vừa cụng ly vừa cúi thấp đầu, Cụ Cố Tổ gật gù tỏ vẻ hài lòng sau đánh ngoảnh sang Tiểu Hồ, ý nhắc nhở cô gái cần học tập thói quen kính trọng người già. Nhưng Tiểu Hồ chẳng quan tâm vì đã dồn hết tâm trí vào đĩa mì. Cô nàng thử đụng dĩa, nhắm mắt nhắm mũi nhai thứ thức ăn mà chưa một lần nếm thử. Cụ cố chép miệng lắc đầu:

- Thế đấy, lũ ranh con vô ý thức! Mà Thôn Cơ thế nào? Con bé ấy có quay lại đền thờ không? – Cụ cố lại ngoảnh về Lục Triều. 

- Sau sự vụ dòng họ Biệt Liên, Thôn Cơ mất tích chừng năm mươi năm. Nhưng hai mươi năm gần đây, con bé ghé qua khá thường xuyên. Cứ độ hai, ba năm một lần, lần nào cũng mang theo người lạ vào đền thờ.

- Người lạ? Ai thế?

- Tôi không rõ, người đó luôn trùm kín mặt, dáng dấp như phụ nữ lớn tuổi. Tôi cũng không hỏi vì Thôn Cơ vẫn là chủ trì đền Mộc Thần, luật lệ ghi rằng người canh đền không được phép hỏi. – Lục Triều đáp lời – Tôi không thể bất tuân luật lệ. 

Một tiếng sì sụp rõ to chen giữa hai ông già. Tiểu Hồ đã trót mê mẩn món mì trộn đồ lòng, cái miệng xinh xắn không kiềm chế nổi mà phát ra mấy âm thanh kém ý tứ. Hai ông già không lấy đó làm phiền, mà gật gù tán thưởng cô nàng biết cách thưởng thức. Cụ Cố Tổ xắn mấy miếng lòng nhai bọp bẹp, lẩm bẩm vừa khen ngon vừa chửi thề đoạn tiếp tục cuộc trò chuyện: 

- Mày biết Thôn Cơ đang ở đâu chứ, Mắt Xanh? Ta cần gặp con bé đó. 

Lục Triều đương bận đưa thức ăn sang chỗ Tiểu Hồ. Gần như mọi cái đĩa trên bàn đều tập trung trước mặt cô gái, Tiểu Hồ ngượng đỏ tía tai. Ông già Lục Triều mỉm cười với nàng tỏ ý cứ tự nhiên, sau đấy trở lại với cụ cố: 

- Tôi đã hỏi nhưng Thôn Cơ từ chối trả lời. Người Diệp quốc mà, chắc ngài quá quen, họ sùng bái sự riêng tư tới mức cực đoan. Nhưng như vậy mới đúng là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ mà chúng ta biết. Ít nhất thì sau nửa thế kỷ, con bé chịu ngồi lại với tôi, nói nhiều thứ, kể nhiều chuyện. Thậm chí chúng tôi còn chơi trò bói toán. Thôn Cơ không hoàn toàn lãng quên thế giới như bốn người khác của Ngũ Pháp Sư. Con bé biết những gì đang xảy ra với Tâm Mộng: Quỷ Vương trở lại, ác quỷ cánh đen Liệt Giả trở lại, Tuyệt Tưởng Thành sụp đổ, Liên Minh Phương Bắc tan rã... chúng tôi biết mọi thứ và dự đoán chúng từ mười năm trước. 

- Bây giờ mày không còn là người Phi Thiên, không phải người phương tây nữa, Mắt Xanh. Mày là một ông già Đông Thổ thích bói toán và nằm dài trên ghế chờ ngày xuống lỗ! Chẹp chẹp! – Cụ cố chép miệng – Thế bói toán thế nào? Được vụ gì mới không? 

- Vài thứ... hầu hết không hay ho... một số rất khủng khiếp. – Lục Triều trầm ngâm – Chúng tôi đã nhìn về Phi Thiên quốc. Những điềm báo nói rằng Bạch Dương Đệ Thập không thọ lâu, thằng nhóc đó sẽ ra đi trong năm nay, đi rất sớm. Biết đâu ngay tháng 3 này? Nhưng tôi hy vọng đó chỉ là sai số. Trời nhiều khi cũng sai, ngài từng dạy tôi như thế, phải không?

Đương lùa thức ăn vào miệng, Tiểu Hồ mém sặc. Nàng trố mắt nhìn hai ông già và đợi một trong số họ lên tiếng phủ nhận. Nàng mong đợi Cụ Cố Tổ sẽ giở giọng kẻ cả, chê người gác đền ít kiến thức thiếu kinh nghiệm. Nhưng cụ cố chỉ im lặng uống rượu. Lục Triều thấy cô gái trẻ hoang mang, bèn nói: 

- Con người có vận mệnh. Vận mệnh tùy thời thay đổi, chia hai nửa: nửa trên và nửa dưới. Nửa trên do tay mình quyết định, nửa dưới do ngoại cảnh quyết định. Nửa trên áp chế nửa dưới thì vạn sự hanh thông, mà ngược lại thì trắc trở khúc mắc. Đệ Thập sinh tháng 10 năm 7445, xem bói vào mùa xuân thì ổn, nhưng năm nay tuyết tràn ngập Phi Thiên thành, mãi tháng 3 mà tuyết chưa tan, xuân chẳng phải xuân mà là đông giá rét. Từ đó ta thấy vận mệnh Đệ Thập nửa trên bị nửa dưới lấn át, toàn điềm gở không một điềm lành. Nhưng biết đâu ta tính sai? Trời và Vạn Thế quyết định đời người, không phải ta. 

- Chỉ “trời” thôi! – Cụ Cố Tổ sửa lại. 

- Không, tôi vẫn tin Vạn Thế. – Lục Triều nhún vai. 

Cụ cố lắc đầu thở phì phì như khinh thị niềm tin ấy. Tiểu Hồ ngẩn ngơ chẳng biết hai ông già bàn luận cái gì, chỉ hiểu rằng Bạch Dương Đệ Thập đang gặp nguy hiểm. Nàng không tin bói toán quyết định đời người. Nhưng nghĩ lại cuộc bầu cử đang diễn ra ở Phi Thiên quốc, cô gái chợt có dự cảm không tốt. Những ông già có cái lý của họ. 

Sau bữa ăn, Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ tới đền thờ Mộc Thần. Thời gian không còn nhiều, hai người phải khẩn trương trước khi những dấu hiệu của Lập Hoa Ngân Thôn Cơ biến mất. Trước khi đi, Lục Triều mang theo một chiếc vạc đất màu nâu cánh gián có quai xách. Cái vạc vừa nhỏ vừa nhẹ, trông giống vật đun nấu hơn là dụng cụ điều chế phép thuật. Tiểu Hồ định xách ba lô khởi hành thì Lục Triều nói: 

- Đi đâu thế, bé con? Đền thờ ở ngay đây! Mà nhớ mang theo áo ấm!

Nói rồi ông già dẫn cô gái và cụ cố vào phòng ngủ, sau mở ra một lối đi bí mật dưới gầm giường và được che đậy bằng tấm tôn sắt. Nó khoét xuống sàn nhà một cái lỗ vuông đen ngòm, sâu hun hút, thi thoảng phả lên những làn gió lạnh. Cái lạnh không rởn óc mà mát lành, đối lập hoàn toàn bầu không khí hầm hập bí bách bên ngoài ngôi nhà. Đám con buôn Tây Vực Châu mà biết nơi này hẳn sẽ thi nhau tới đây, vác theo cơ man máy hút khí cùng bình dự trữ và hét giá bán cao ngất. Trong cảm giác kỳ quặc xen lẫn nỗi sợ không gian kín, Tiểu Hồ miễn cưỡng chui mình qua cái lỗ vuông rồi trèo xuống bằng những nấc thang gắn vào tường. Nàng cẩn trọng rờ mũi chân, thấp thỏm lo sợ có con quỷ dữ nào đó từ bóng tối vươn ra tóm chân mình lôi tuột đi. 

Kế tiếp Tiểu Hồ, hai ông già lần lượt bước xuống. Khi hai người chạm chân trên đất, miếng tôn sắt tự động khép lại. Không để Tiểu Hồ thêm lo ngại giữa không gian tối om, Lục Triều niệm chú ngữ vận Hỏa niệm, bàn tay của ông bùng cháy ngọn lửa màu xanh lục. Ánh sáng soi rọi, khung cảnh xung quanh dần hiện hữu. Bao quanh ba người là một đường hầm đất rộng rãi, hai bên tường vồng lên thành mái vòm khum khum rủ xuống vài chùm rêu xanh ẩm ướt. Màu xanh! – Tiểu Hồ thầm reo lên. Nhiều ngày ở Tây Vực Châu, nàng đã phát chán màu xám, đen, vàng ối đầy ô nhiễm của xứ sở này. Nay gặp sắc xanh rêu, cô gái mừng ứa nước mắt. Rốt cục Tây Vực Châu cũng có màu xanh thực vật.

Lục Triều lấy một ngọn đuốc đoạn thả mồi lửa, đuốc cháy nồng mùi nhựa cây phả ánh xanh lục. Ông già đi trước, Cụ Cố theo sau, không quên tu rượu trên chặng đường quá đỗi quen thuộc. Tiểu Hồ thì khác. Nàng mới đến lần đầu, đôi mắt phấn khích nhìn ngang ngó dọc chẳng biết chán dù đường hầm loanh quanh chỉ có đất đá và những chùm rêu lan ra từ các kẽ nứt chân chim trên tường. Nhờ đám rêu nên không khí ở đây trong lành hơn rất nhiều, mặt nạ phòng độc trở thành vật dụng thừa thãi. Theo lời Lục Triều, đường hầm chỉ dài khoảng một cây số. 

- Khi năm tháng của Ngũ Pháp Sư dần tàn lụi, Thôn Cơ và ta đã yểm bùa lên ngôi đền. – Lục Triều kể chuyện giết thời gian – Nó dần chìm xuống lòng đất trong khi người viếng thăm ngày càng ít đi, cuối cùng biến mất hẳn. Những người thực sự biết vị trí đền thờ đã biến mất cùng Thời Đại Thủy Triều, tài liệu sách vở ghi lại một cách mơ hồ nên lớp người kế cận không bao giờ tìm được ngôi đền. Còn ta ở lại đây, mỗi năm gia cố thêm bùa phép để tránh đôi mắt con người và máy móc trắc địa. Một lúc nào đó, ngôi đền sẽ bị tầng đất chèn ép và sụp đổ, lúc ấy nhiệm vụ gác đền mới hoàn thành. Sẽ không còn người chủ trì, không còn người gác đền cũng không còn Ngũ Pháp Sư nữa. 

- Tại sao phải như thế? Chẳng lẽ ngài và bà Thôn Cơ không muốn người ta kính ngưỡng Ngũ Pháp Sư nữa? – Tiểu Hồ hỏi. 

- Chỉ là vòng lặp cho một chu kỳ khác. Con người lại kính ngưỡng Ngũ Pháp Sư, tìm kiếm mục đích riêng của họ qua những cuộc tranh chấp và ruồng bỏ khi thời gian đến. Vậy tốt nhất là để Ngũ Pháp Sư biến mất. Việc đó đơn giản thôi. Chúng ta từng ở đỉnh cao, ai ai cũng biết tiếng cho tới khi suy sụp. Nhưng hàng trăm năm đã qua, chỉ còn một số rất ít người biết ta gác đền Mộc Thần hoặc từng là Ngũ Pháp Sư. Thời gian là vậy đấy! 

- Những đền thờ khác thì sao?

- Chung số phận. Tất cả đều chìm xuống lòng đất. – Lục Triều trả lời – Đất hoặc “Thổ” tuy là một nguyên tố trong Ngũ Hành nhưng đồng thời là trung tâm Ngũ Hành. Vạn vật đều trở về đất. Dẫu sao các vị tà thần Ngũ Hành vẫn còn đó, đền thờ chỉ là công cụ giao kết mà thôi, chúng chẳng linh thiêng cũng không thần thánh. Chúng quá mệt mỏi với thế giới Tâm Mộng rồi, hãy để chúng an nghỉ. 

Tiểu Hồ bất giác nhìn quanh. Lịch sử huy hoàng của Ngũ Pháp Sư đang kết thúc như bóng tối đường hầm. Sau chuyến đi này, cửa hầm lại đóng kín. Một ngày nào đó, người gác đền lại đi qua đây với ngọn đuốc cháy sáng nhưng leo lét giữa bóng tối sâu thẳm. Cứ lặp đi lặp lại như vậy cho tới khi ngôi đền hoàn toàn tan vỡ dưới sức ép của tầng địa chất. Cuối cùng sự hoang hóa hoàn toàn chiến thắng và ngự trị Tây Vực Châu trong vĩnh hằng. Nghĩ ngợi một hồi, Tiểu Hồ hỏi tiếp: 

- Đệ Thập đang gặp nguy hiểm sao? Có cách nào cứu giúp ông ấy không, thưa ngài? Ngài có thể quay về Phi Thiên thành chứ? 

Lục Triều đăm đăm nhìn bóng tối, đôi mắt xanh thẳm phản chiếu những giọt lửa xanh lục. Ông già tặc lưỡi: 

- Cái giá của sống lâu là cô độc. Họ Bạch Dương thọ lâu hơn người thường, còn ta sống lâu hơn mọi thành viên dòng họ. Nó là món quà của Mộc Thần nhưng cũng là sự trừng phạt. Về Phi Thiên thành? Muốn chứ, sao không? Ta chưa bao giờ nhìn thấy ngôi mộ của mẹ ta, không bao giờ biết bà ấy nói điều gì trước lúc chết. Ta cũng muốn gặp hậu duệ của mình. Ông già nào không muốn thấy con cháu? Nhưng số phận của ta là ở đây và chờ ngày đền thờ sụp đổ, chỉ khi đền thờ sụp đổ, ta mới tự do. Còn Đệ Thập... vận mệnh của thằng nhóc đó đã được định đoạt, ta chẳng thể làm gì hơn. Sao, bé con yêu quý Đệ Thập hả? 

Tiểu Hồ gật đầu không do dự. Trong giới chính trị, Đệ Thập là kẻ đáng ghét nhưng với Tiểu Hồ, hoàng đế chỉ đơn thuần là một ông hàng xóm tốt tính mà mọi trẻ con nào đều yêu thích. Nàng chưa thấy hoàng đế bế Lục Châu bao giờ, nhưng bản thân nàng được ông công kênh trên vai nhiều lần. Lúc đó, ông kể cho nàng nhiều thứ mà có lẽ ngay cả công chúa cũng chưa từng nghe. Tới khi Tiểu Hồ lớn lên, hoàng đế vẫn luôn tươi cười chào đón nàng, dù ngoài kia ông nổi tiếng “mặt sắt” và không khoan nhượng trước bất cứ ai. “Con gái!” – Giống đại thánh sứ, Đệ Thập thường gọi nàng như vậy.

Thấy Tiểu Hồ buồn so, Lục Triều nói: 

- Này bé con, muốn thử bói toán không? Thi thoảng bày trò cho vui! Ta chưa từng dạy dỗ ai, nhưng dạy cho bé con vài thứ, coi như quà gặp mặt. 

Tiểu Hồ chưa kịp trả lời, cụ cố phía sau đã đằng hắng: 

- Nó phải gọi mày là “thầy”, quỳ gối dưới Mộc Thần và bốn vị tà thần khác, cắt máu ăn thề vĩnh viễn trung thành với đền thờ thì mới được phép học. 

- Chuyện quá lâu rồi, cụ cố! Bỏ qua đi! – Lục Triều cười – Cùng lắm là tôi hối lộ cho ngài một chai rượu, nhé?

Cụ Cố Tổ đang nghiêm mặt, nghe tới “rượu” thì mừng quýnh, khỏi quan tâm lễ nghi quy tắc gì ráo. Tiểu Hồ nghi hoặc: 

- Tôi không thích bói toán, thưa ngài. 

- Chỉ là thú vui thôi! – Lục Triều cười – Nhưng nếu hiểu về thứ này, bé con sẽ dùng phép thuật tốt hơn. Đã nghe Bát Biến bao giờ chưa? 

Cô gái lắc đầu. Lục Triều giảng giải, giọng già nua vang trong đường hầm tối om, đùa giỡn trên ngọn lửa xanh lục cháy tí tách như kể lại thời đại huy hoàng nhất của Ngũ Pháp Sư: 

- Ngũ Hành và Bát Biến vừa là hai nhưng cũng vừa là một. Ngũ Hành có năm nguyên tố, Bát Biến có tám cửa. Lấy “Trời” chủ phía nam đối nghịch “Đất” ở phía bắc, lấy “Lửa” chủ phía đông đối nghịch “Nước” ở phía tây. Giữa Trời và Lửa có “Đầm” nằm hướng đông nam, giữa Đất và Nước có “Núi” nằm tại tây bắc, hai thứ thông nhau. Giữa Trời và Nước có “Gió” nằm hướng tây nam, giữa Đất và Lửa có “Sấm” nằm hướng đông bắc, hai thứ xô xát nhau. Tám cửa đó đối nghịch nhau, tương trợ nhau, và đó là cách thế giới Tâm Mộng hình thành. Những phép thuật cổ xưa nhất từ phương đông đã sinh ra như thế... 

...

Trong lúc Lục Triều dẫn Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ đến đền thờ thì bên ngoài thị trấn vô danh, một kẻ khác vừa đặt chân tới. Y đi một mình, đôi chân rệu rã vì cuộc hành trình dài đằng đẵng, chiếc mặt nạ phòng độc trên mặt đã dính đầy cát bụi. Việc y cần làm bây giờ là uống chút nước. Nhưng ở thị trấn khỉ ho cò gáy này, những cửa hàng chẳng quan tâm lời lãi hay thu hút khách, cứ sáu giờ là đóng kín cửa để tránh gió bụi. Mà hiện tại đã bảy giờ tối. 

Lang thang khắp thị trấn song chẳng tìm được miếng nước, kẻ nọ đánh liều gõ một tiệm nhỏ. Ngay tức thì cánh cửa sổ mở bung, va mạnh tới nỗi màng chắn bụi rung bần bật. Một người phụ nữ nhỏng đầu ra quát tháo: 

- Điên à? Không thấy đóng cửa hả? Muốn sửa giày thì mai quay lại!

Kẻ nọ ngước lên, nhận ra tấm biển quảng cáo sửa chữa giày dép... không hề tồn tại. Y cười rồi xòe một đồng vàng xin nước. Bà chủ tiệm sửa giày chỏng lỏn xòe ba ngón tay. Kẻ nọ chép miệng, đặt thêm ba đồng vàng lên bệ cửa. Y nhận được một chai nước hơi xỉn màu và có cặn dưới đáy. Nhưng ít nhất nó vẫn là nước có thể uống. Y tu một hơi sạch bách, nhổ toẹt mấy rỉ cặn, sau hỏi: 

- Người bán nồi có ở đây không? Một người chỉ bán nồi đất... bà biết người đó không? 

- Đằng kia! – Bà chủ tiệm chỉ tay – Đi một quãng, quẹo phải là tới! Mà sao hôm nay ai cũng hỏi lão già ấy thế? Bộ có đám ma à? 

Nghe vậy, kẻ nọ gật gù. Y tháo mặt nạ phòng độc, lộ ra một dung diện đã qua thẩm mỹ. Từng cái cười đôi môi lẫn cử động đôi mắt đều cứng nhắc thiếu tự nhiên. Bà chủ tiệm nhìn y hồi lâu. Cuộc đời bà ta gắn liền với thị trấn và Tây Vực Châu đã năm mươi năm, nhưng đây là lần đầu tiên bà thấy đàn ông phẫu thuật thẩm mỹ. Kẻ nọ thấy vậy thì cười nhã nhặn: 

- Ở đây có trẻ con không? Tôi chẳng thấy đứa nhóc nào. Thị trấn mà không có trẻ con thì buồn nhỉ? Ý tôi là bé gái ấy... ở đây có bé gái không?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 9: Tin tức


Chưa bao giờ Tiểu Hồ thích cuốc bộ như lúc này. Nếu phải đi tới trật khớp thì nàng cũng đi, mà nếu đường tới đền Mộc Thần dài như chuyến hành hương tới Vạn Thế thì nàng cũng chịu, miễn sao có thể bám chân Bạch Dương Lục Triều lâu hơn. 

Với một pháp sư, học tập sách vở không tốt bằng thực hành, thực hành không tốt bằng thực chiến, thực chiến không bằng trò chuyện với đại pháp sư lớn tuổi. Trong giới thờ phụng Ngũ Hành, một số kết thúc sự nghiệp với gia đình yên ấm, số khác bỏ mạng vì đánh thuê hoặc chôn thây ở nơi xa xôi không người lui tới, số nữa tàn tật vì tai nạn thí nghiệm phép thuật. Chỉ có rất ít kẻ dám đánh đổi tất cả để tìm thấy đỉnh cao phép thuật mới, họ là đại pháp sư. Cụ Cố Tổ hay Lục Triều là những người ngự trị ở đỉnh cao đó. Khác đại thánh sứ luôn chia sẻ, các đại pháp sư là những kẻ ích kỷ, bởi lẽ những kinh nghiệm của họ đều đánh đổi bằng xương máu, gia đình và cả phần con người. Loài người giữ tiền bạc thế nào, đại pháp sư ém nhẹm phép thuật y như vậy. 

Dưới ánh đuốc xanh lục, ông già gác đền chậm rãi giảng giải cho Tiểu Hồ nhiều điều. Dựa theo tiếng thở phì phì của Cụ Cố Tổ ở phía sau, cô gái đoán rằng Lục Triều đang giãi bày những thứ đáng tự hào nhất của một đời pháp sư:

- Bát Biến tám cửa. Mỗi cửa thể hiện bằng ba vạch, mỗi vạch liền hoặc đứt đoạn. Ví dụ “Trời” là ba vạch liền, “Đất” là ba vạch đứt, “Đầm” một vạch đứt hai vạch liền... Mỗi cửa sắp xếp với nhau và tự chúng sắp xếp với chính mình thì được sáu mươi tư (64) biến thể. Mỗi biến thể chia hai nửa: nửa trên và nửa dưới. Từng biến thể có nhiều lời ứng nghiệm tùy theo hoàn cảnh hay sự việc muốn coi bói, nhưng chung quy sự biến chuyển của vạn vật đều nằm trong Bát Biến. Hiểu được Bát Biến sẽ vận dụng Ngũ Hành tốt hơn. Mà nắm được Ngũ Hành sẽ hiểu Bát Biến, nên mới nói hai thứ tuy khác nhau mà là một, mà gọi là một nhưng thực chất là hai. 

- Vậy tại sao trong Bát Biến, “Trời” ở phía nam mà lại xếp phía trên, trong khi “Đất” phía bắc xếp phía dưới? – Tiểu Hồ thắc mắc – Cũng như trong Ngũ Hành, tại sao lại xếp “Hỏa” phía trên trong khi nó ở phương nam, còn “Thủy” xếp dưới trong khi nó ở phía bắc? Là sắp xếp phương vị sai hay phương vị không áp dụng cho những trường hợp này? Tôi từng hỏi những đại pháp sư phương tây nhưng họ không hiểu rõ. Hay là họ không muốn trả lời?

Lục Triều trả lời:

- Vì bé con chưa gặp những đại pháp sư phương đông. Các đại pháp sư phương tây sắp xếp Ngũ Hành theo phương vị tiêu chuẩn nhằm dễ hình dung khi thực nghiệm hoặc thực chiến. Nhưng ở phương đông, Ngũ Hành sắp xếp như vậy dựa theo tính chất mỗi nguyên tố. “Hỏa” nằm ở phương nam do phương nam có tính nóng, nhưng xếp trên vì hơi nóng bốc lên cao; “Thủy” nằm ở phương bắc vì phương bắc mang tính lạnh, nhưng xếp dưới vì nước có chiều hướng ngấm xuống lòng đất. Bát Biến cũng tương tự Ngũ Hành: “Trời” ở phương nam vì hướng nam có “Hỏa” thuộc tính nóng, bởi vì chính Trời cho cho con người ngọn lửa đầu tiên. “Đất” ở phương bắc vì nước bắt nguồn từ nơi đó mà nuôi dưỡng đất đai, lục địa. Nhưng vì Trời trên cao, Đất phía dưới, nên người xưa sắp xếp Bát Biến theo thuộc tính chứ không theo phương vị. 

- Vậy “Lửa” và “Nước” trong Bát Biến thì sao? Phải chăng chúng là “Hỏa” và “Thủy” trong Ngũ Hành? Và nếu đúng, tại sao không chung một phương vị mà lại khác biệt? 

Người gác đền trầm ngâm: 

- Vừa tương đồng nhưng cũng vừa khác biệt. Bát Biến tượng trưng sự vận động của thế giới, mỗi cửa bao hàm nhiều nghĩa khác nhau và không giới hạn như cái tên của nó. “Lửa” trong Bát Biến tượng trưng cho vật thể sáng nhất ở phương đông: mặt trời, khởi nguồn ánh sáng, đồng thời bao hàm cả nguyên tố Hỏa. “Nước” trong Bát Biến nằm phía tây, tượng trưng cho mặt trăng khuyết – vật thể đại diện bóng đêm đồng thời bao hàm nguyên tố Thủy. Mặt trăng mọc phía đông nhưng khuyết nhất khi nằm phía tây; nó không phải bóng đêm nhưng tự bóng đêm không có cách nào thể hiện chính mình, vì vậy lấy trăng khuyết làm đại diện; ánh trăng lạnh chứ không nóng ấm nên đối nghịch mặt trời. Ngũ Hành tương sinh tương khắc còn Bát Biến đối nghịch tương trợ, tuần hoàn không bao giờ dứt. Nhờ Bát Biến mà khi bản thân nó và mỗi cửa còn mang những cái tên thần bí hơn, con người tìm ra rằng bộ số lẻ thuộc về trời, còn số chẵn thuộc về đất. Bởi vậy luật thờ cúng ở phương đông luôn dùng số lẻ làm tiêu chuẩn. 

Nghe lời người gác đền, Tiểu Hồ chợt nhớ những bài học vỡ lòng. Hồi đó, người cha đầu tiên – người mà nhận nuôi Tiểu Hồ trước cả đại thánh sứ Tây Minh – đã dạy nàng về số lẻ trong phép thuật. Bằng cách nào đó, những câu chú ngữ hoặc sự vận hành phép thuật đều tuân theo dãy số lẻ. Tiểu Hồ vẫn nhớ khi đó mắt mình mở to thế nào khi chứng kiến sự kỳ diệu cũng như sự tàn khốc của phép thuật. Nàng nhớ người cha đầu tiên không cười nhiều giống đại thánh sứ Tây Minh, ông thường xuyên nghiêm nghị, giọng điệu có khoảng cách như đặt ra giới hạn giữa mình và Tiểu Hồ. 

“1, 3, 5, 7, 9, cách sử dụng phép thuật nằm năm số cơ bản này. 1 là độc nhất, 3 là vững vàng, 5 là bảo toàn, 7 là đa dạng, 9 là cường đại. Chỉ có một bộ não cho lý trí, một trái tim cho cảm tính và một mạng người để từ bỏ hay tiếp tục cống hiến cho phép thuật. Phép thuật đến từ ba yếu tố: bầu trời, mặt đất và con người, hợp lại thành một vòng hoạt động. Ngũ Hành gồm năm nguyên tố tạo nên thế giới Tâm Mộng, tuần hoàn vững chắc không thay đổi. Khi Ngũ Hành cân bằng hoàn chỉnh sẽ tạo ra Lưỡng Cực, tổng cộng bảy nguyên tố, sản sinh sự đa dạng thế giới. Cuối cùng, pháp sư thành thạo toàn bộ các bước cơ bản sẽ tiến đến mức sáng tạo phép thuật hoặc khuếch đại chúng, các đại pháp sư sẽ tiệm cận thánh thần và số “9” tượng trưng cho đỉnh cao này. Nhớ lấy, Tiểu Hồ!”

Chuyện cũ làm Tiểu Hồ bất giác bồi hồi. Nàng không yêu quý con người đó bằng Tây Minh. Thực tâm nàng là thế, không dối trá. Nó chẳng phải “căm ghét” mà chỉ là “không yêu quý”, một cách so sánh mang tính cân đo đong đếm. Cô gái lắc đầu xua ký ức đoạn hỏi Lục Triều: 

- Nếu số lẻ thuộc về trời thì số chẵn thuộc về đất, tôi nói đúng không, thưa ngài? Nhưng nếu vậy thì chẳng phải mâu thuẫn sao? Bài học đầu tiên của pháp sư là số hiệu mỗi nguyên tố. Thủy là 1, Hỏa là 2, Mộc là 3, Kim là 4 và Thổ là 5. Nếu vậy thì Thủy, Mộc và Thổ thuộc về trời? Sao lạ vậy?

- Thực ra tự thân mỗi nguyên tố đều có “trời” lẫn “đất”, chỉ là người ta thường không rõ mặt kia của chúng. – Người gác đền nói – Nhờ Bát Biến và sự đa dạng của nó, ta phát triển được dãy số mới cho Ngũ Hành. Cụ thể là Thủy gồm 1 và 6, Hỏa gồm 2 và 7, Mộc gồm 3 và 8, Kim gồm 4 và 9, cuối cùng Thổ gồm 5 và 10. Từng nguyên tố có sự tương trợ lẫn đối nghịch của riêng nó. Bởi vậy... à, có lẽ chúng ta nên để vấn đề này sau, bé con. Đền thờ kia rồi!

Tiểu Hồ chưng hửng. Nàng muốn nghe nhiều hơn, muốn giải đáp vô vàn thắc mắc đang xoay mòng mòng quanh đầu. Nhưng quãng đường một cây số quá ngắn ngủi. Đền Mộc Thần đã ở phía trước. 

Lần đầu trông thấy một trong năm địa điểm linh thiêng nhất giới phép thuật, Tiểu Hồ phấn khích bao nhiêu mà cũng lấn cấn bấy nhiêu. Nó – tòa kiến trúc trong mắt nàng được rọi sáng bằng ngọn đuốc xanh lục – thực sự là một mớ hỗn độn. Nằm kẹt giữa hai tầng đất đá, đền thờ Mộc Thần rúm ró nhúm nhăn như trái mơ khô quắt bị vắt kiệt nước từ lâu. Mái, cột chống, gạch ngói, tượng đá... tất thảy bị xô vào nhau, oằn cong, lổn nhổn và chen chúc. Dường như quá trình ép bẹp này chưa kết thúc. Trong không gian lạnh buốt vì tầng sâu dưới lòng đất lẫn tiếng gió hẻo hút qua kẽ đá, mọi thứ đều bất động, nhưng Tiểu Hồ cảm giác kết cấu địa chất đang dịch chuyển chậm chạp như con sên nghìn tuổi trườn tấm thân lầy nhầy nhẫy nhớt của nó. Bằng mắt thường không thể nhìn thấy nhưng thực chất là con sên đó đang bò. Và hai mươi năm, năm mươi năm hoặc non một thế kỷ nữa, ngôi đền sẽ hoàn toàn nát vụn. 

Lục Triều niệm chú ngữ làm ngọn đuốc sáng hơn, Tiểu Hồ có dịp trông thấy ngôi đền rõ ràng và cố gắng hình dung diện mạo thuở ban đầu của nó. Đỉnh đền – lúc này bị hai tầng đất đá xô ép gãy làm chín, mười đoạn gấp khúc, có chỗ bị chọc thủng bởi cái đầu của một bức tượng lớn nằm bên trong – có lẽ từng là một tấm mái dài mênh mông lợp gạch ngói màu đỏ au, tươi sắc và rực lên dưới ánh mặt trời. Tàn tích những miếng ngói đó giờ đây vương vãi khắp mặt đất, nát bấy hoặc xỉn quách mủn mùi rêu hôi, nhưng khi tắm ánh đuốc thì chúng phản ứng rất mãnh liệt, những phần chưa bị rêu phủ nhá sáng tựa thể muốn kẻ chứng kiến biết rằng mình đã huy hoàng thế nào. Phía dưới phần đỉnh gãy thủng là những ô cửa sổ méo mó nát tươm. Trước hồi bị vùi lấp, chúng tròn vành vạnh và che chắn bằng những nan gỗ hoa văn, xếp thành hàng đều tăm tắp dọc theo một hành lang có lan can gỗ sơn son thếp vàng trông ra bầu trời Tây Vực Châu xanh ngắt đang trùm lên từng ngọn núi xám xanh, từng khoảnh rừng um tùm lá, từng khúc suối bạc len lỏi giữa vùng bình nguyên um cỏ – cái thuở mà xứ sở này chưa bị máy móc băm nát. Từng được người đời kính ngưỡng quỳ gối trọng vọng, giờ phải sống ở nơi tối tăm không ánh mặt trời, đám cửa sổ giờ cau có như người già, trừng trừng nhìn xuống Tiểu Hồ một cách đầy đe dọa. 

Người gác đền cắm đuốc lên một mô đất nhô cao, sau đó mang chiếc vạc hứng nước từ một cái khe nhỏ gần mô đất nọ. Nước chảy tí tách rỏ từng giọt, chậm nhưng trong vắt tự nhiên, không gây gây mùi lọc tẩy như thứ nước nhân tạo nhan nhản khắp Tây Vực Châu. Tiểu Hồ đoán xung quanh đền thờ có mạch nước ngầm và nhờ vậy mà rêu có thể sinh sôi. Sẽ không lạ nếu đám chủ xưởng nơi đây sẵn sàng trả hàng núi tiền đền bù cho Lục Triều để sở hữu nguồn nước. 

Trong lúc đợi vạc đầy nước, Lục Triều tìm kiếm nhặt nhạnh gỗ làm củi giữ lửa. Không phải gỗ rơi rớt từ đền thờ mà là những súc gỗ được chẻ ngay ngắn, thấy rõ vết rìu bổ lẹm cùng mảnh dằm tua tủa. “Gỗ thiết tùng, mọc trên núi Tây Vực Châu, mỗi núi chỉ có khoảng dăm mười cây...” – Lục Triều vừa bới đống đổ nát trên đất vừa nói – “...giờ thì chẳng còn cây nào, tuyệt chủng vài trăm năm rồi. Chúng màu nâu nhạt, đường gân màu ngà, thịt gỗ màu cam sáng. Đẹp lắm!”. Chốc chốc, ông ta dùng mấy cái máy đeo cổ soi mấy miếng gỗ nhặt được. Tiểu Hồ phụ giúp ông già, cứ theo mấy đặc điểm đó mà tìm, thoáng chốc đã ôm dăm súc bên hông. Về khoản này thì nàng trội hơn hẳn ông già gác đền mắt mờ chân chậm. 

- Tại sao ngài không giữ chúng lại trước khi yểm bùa ngôi đền? – Tiểu Hồ hỏi. 

- Bệnh đãng trí. – Lục Triều nhún vai – Ngày yểm bùa, ta hơn hai trăm còn con bé Thôn Cơ ngót nghét chín mươi tuổi. Chúng ta minh mẫn thông tuệ hơn phần lớn người già bình thường nhưng đôi lúc giống họ. Quên là thường! Vả lại khi yểm bùa chỉ có ta và Thôn Cơ, chẳng ai biết hay nhớ về đền Mộc Thần nữa. 

- Từ đó đến giờ có ai hành hương về đền nữa không? – Tiểu Hồ tiếp lời. 

- Ta không biết bốn đền thờ khác, ta đã mất liên lạc với họ. Nhưng ở đây thì chưa đến mười người trong ba trăm năm, bé con chính là người thứ mười. Thật dài! – Lục Triều nói – Chẳng đoạn trường khúc nào của Tuyệt Tưởng Thành có thể mô tả quãng thời gian đó. Đám giúp việc của cụ cố cũng thường qua đây, nhưng chỉ thằng nhóc Ly Đốc biết nơi này có đền Mộc Thần. 

Tiểu Hồ ngoảnh đầu nhìn Cụ Cố Tổ, thấy cụ cố hết đấm bóp lưng lại tập mấy động tác thể dục, xem chừng sợ lặp lại màn ăn hại mất thể diện ở Cổ Lâu Trấn. Nghĩ vụ thùng rác, cô nàng bụm miệng cười đoạn quay lại Lục Triều: 

- Cụ cố bao nhiêu tuổi rồi, thưa ngài? Ông ấy có người thân không? 

Lục Triều bật cười tựa thể cô gái vừa hỏi chuyện hài hước. Người gác đền để Tiểu Hồ làm thay mình, nghỉ chân trên một bệ đá đoạn trả lời vừa đủ cho cô nàng nghe thấy:

- Ta không biết. Khi ta còn là đứa bé con, ta đã nghe tên Cụ Cố Tổ chủ trì đền Mộc Thần. Không ai rõ ông ấy đến từ đâu hay bao nhiêu tuổi. Ta từng hỏi nhưng cụ cố không trả lời. Ông ấy luôn gọi “loài người” một cách khinh miệt vì ông ấy già hơn tất cả, nhưng không bao giờ nói tuổi thật. Ai cũng có bí mật mà, bé con. Nhưng đúng là cụ cố có người thân. Ông ấy từng có nhiều rồi mất gần hết. Chiến tranh, thời đại pháp sư du đãng, kỷ nguyên kiếm sĩ lang thang, Thời Đại Thủy Triều, Chiến Tranh Tài Nguyên... ông ấy vẫn sống nhưng người thân cứ mất đi. Hồi Chiến Tranh Tài Nguyên, quả bom của Phi Thiên quốc đã giết gần hết hậu duệ của cụ cố. 

- Hậu duệ? – Tiểu Hồ ngạc nhiên – Cháu tưởng người giúp việc? 

Người gác đền mỉm cười. Ông già rời chỗ đoạn kiểm tra chiếc vạc. Thấy nước lưng lưng vạc, Lục Triều xách nó về chỗ Cụ Cố Tổ. Củi thiết tùng xếp phía dưới, vạc nước đặt bên trên, lấy thêm một chiếc muôi kim loại làm đồ khuấy, Lục Triều đã sắp xếp đủ những thứ cần thiết để vào đền. Ông già quỳ trên đất rồi hướng về ngôi đền đổ nát, miệng lầm rầm: 

- Kẻ viếng thăm mạo muội quấy quả Mộc Thần. Ở đây đã có ba di vật mà ngài để lại, nếu có thiêng, xin hãy chứng giám. Lấy Thổ chứa đựng vạn vật, lấy Hỏa làm phương tiện, lấy Mộc làm vật dẫn, lấy Kim làm trung gian, lấy Thủy làm trung hòa. Ngũ Hành luân chuyển. 

Sau đó người gác đền niệm chú ngữ. Ngay tức thì, ngọn đuốc phía xa rực sáng cuộn một luồng lửa sà xuống đám củi, bốc lên hơi nóng hừng hực liếm quá nửa thân chiếc nồi đất. Lửa sáng rực như có mặt trời mọc nơi lòng đất tăm tối, đồng thời soi rọi cánh cửa ngôi đền cách đây khoảng chục bước chân. Dưới phần đỉnh đền lẫn hành lang cửa sổ tan hoang, cánh cửa đền xem chừng là thứ duy nhất còn toàn vẹn. Nó làm bằng gỗ, hai cánh chập nhau để một khe hờ thoảng tiếng gió rít, trên mặt mỗi cánh cửa có mặt thú kim loại ngậm vòng, giống kiểu kiến trúc cổ của Bắc Thần mà Tiểu Hồ từng nhìn thấy. Đền Mộc Thần xây dựng trên đất Bắc Thần quốc nên không lạ khi nó mang hơi thở Bắc Thần quốc. 

Ngọn lửa xanh lục bùng cháy mạnh tới khi cái vạc sôi sùng sục. Bấy giờ Cụ Cố Tổ cởi áo khoác ngoài, mình trần bước ra, hơi cúi đầu lấy lệ trước ngôi đền rồi trút ba di vật vào vạc: tẩu hút thuốc, cái bô và một mớ bài vị người chết. Vạc hơi nhỏ mà đống bài vị cồng kềnh, cụ cố phải vớt chúng ra và đạp gãy làm đôi (Tiểu Hồ không dám nhìn cảnh này). Xong xuôi đâu đấy, cụ cố ấn ngón tay cái lên thân vạc nóng rực. Ngọn lửa quấn ngón tay, sau đấy một loạt chú ngữ màu xanh lục xuất hiện, nổi khắp tay trái Cụ Cố Tổ rồi lan ra toàn thân theo đường gân thịt. Tiểu Hồ phấn khích vô cùng vì đã lâu lắm mới lại thấy “chân diện” của một pháp sư. Chỉ khi làm lễ tế, đối mặt cảnh ngặt nghèo hoặc tác động phép thuật, pháp sư hoặc kiếm thuật sư mới lộ chân diện. 

Ngày cúi đầu trước Ngũ Hành, pháp sư hoặc kiếm thuật sư sẽ nhận chú ngữ từ vị tà thần tùy thuộc nguyên tố mà họ lựa chọn. Với nguyên tố Mộc, chú ngữ có màu xanh lục, đường nét uốn lượn tựa nhành dây leo, khởi điểm từ ngón cái và chiếm lĩnh tay trái, dẫn đi khắp cơ thể thông qua cơ gân. Các chú ngữ này chính là lời niệm mà họ sử dụng trong chiến đấu, càng tinh thông phép thuật thì chú ngữ càng nhiều. Chân diện của Cụ Cố Tổ là minh chứng: bao nhiêu cơ gân là bấy nhiêu đường chú ngữ, chúng chi chí dày đặc khắp thân thể kể cả bộ mặt già xọm (trừ cánh tay phải), không chừa một sợi cơ gân nào, ăn sang cả những bộ phận vốn thuộc về nguyên tố khác. Tiểu Hồ đoán rằng cụ cố đã thông thạo tất cả Mộc niệm, thậm chí tự sáng tạo phép thuật mới. 

Cụ cố thở một hơi đoạn cầm muôi khuấy vạc, giống lúc ở biệt thự của ông chủ Tinh Ngôn Gia. Cụ cố khuấy ba lần theo chiều kim đồng hồ, sau tiếp tục khuấy tám lần ngược chiều, cứ thế lặp đi lặp lại. Ngọn lửa bé dần rồi thu thành cụm cháy liu riu dưới đáy vạc. Lửa bé nhưng không khí lại nóng hơn tựa thể mùa hè vừa tràn đến lòng đất khiến Tiểu Hồ phải cởi bớt áo khoác ngoài. Cụ Cố Tổ càng khuấy vạc, nhiệt lượng càng gia tăng, khe cửa đền Mộc Thần cũng rít tiếng gió mạnh hơn. Vài làn sóng vô hình từ đền tỏa ra, tràn tới Lục Triều và Tiểu Hồ. Cô gái bất giác phát hiện Lục Triều lộ chân diện, khắp cơ thể đầy chú ngữ Mộc niệm ngang ngửa Cụ Cố Tổ. Bản thân nàng cũng phản ứng. Từ ngón trỏ của hai bàn tay Tiểu Hồ, chú ngữ Hỏa niệm nối đuôi nhau chạy rần rật khắp mạch máu rồi tụ thành một điểm nóng rát giữa ngực, ngay phía trước trái tim. Khác chú ngữ Mộc niệm, chú ngữ Hỏa niệm nhỏ hơn, đường nét vừa cong vồng vừa nhiều ngạnh nhọn tựa lửa cháy; chúng bắt nguồn từ ngón trỏ, định cư tại bất cứ chỗ nào có huyết mạch. Cơ thể Tiểu Hồ giờ y hệt một cục đá lửa với đường nứt rực sáng. Trông chân diện của cô gái, Lục Triều nhướn mày nghiêng đầu: 

- Còn trẻ mà học được ngần này chú ngữ? Khá tốt! Nhưng cẩn thận, đừng quên phép thuật là đánh đổi. Số “1” trong phép thuật, nhớ chứ? Chỉ có một bộ não cho lý trí và một trái tim cho cảm tính. Hỏa niệm tập trung ở giữa ngực, nơi trái tim ngự trị đồng nghĩa người dùng phải dâng hiến trái tim cho Hỏa Thần. Kẻ dùng Hỏa niệm không bao giờ bị thiêu nhưng trái tim có thể cháy rụi đấy, bé con. 

Tiểu Hồ im lặng. Đây không phải lần đầu nàng được khuyên nhủ về Hỏa niệm. Đại thánh sứ Tây Minh và cả người cha nuôi đầu tiên đều cảnh báo nàng. Dường như người lớn tuổi biết chuyện gì đó mà nàng không hiểu, hoặc đơn giản là họ quá lo lắng về một cô bé suốt ngày chơi đùa với lửa. Thực tình Tiểu Hồ yêu thích lửa, giống cái nhìn của con trẻ khi lần đầu khám phá một thứ bỏng rãy biết phát sáng. 

Được chừng mười lăm phút, Cụ Cố Tổ ngừng khuấy. Nước trong vạc hiện chuyển màu xanh và đám di vật đã biến mất, chỉ để lại một cục gỗ vuông thành sắc cạnh nổi lềnh bềnh. Cụ cố múc cục gỗ ra ngoài, ngắm nghía nó một hồi đoạn gọi Lục Triều: 

- Coi xem, Mắt Xanh! Ta đủ tư cách vào đền chưa? 

Người gác đền lau chùi khối gỗ rồi xem xét qua loa, có lẽ chẳng muốn kiểm nghiệm hay đánh giá trình độ phép thuật của cụ cố. Ông ta nhét cục gỗ vào mớ áo lùng nhùng đoạn rút ra... một chùm chìa khóa. Tiểu Hồ ngớ người: 

- Chìa khóa? Thế là thế nào? Cháu tưởng khối gỗ là chìa khóa? 

- Vật cầu may thôi, tránh tình trạng thần đánh thánh vật ấy mà! Hờ hờ hờ! – Cụ Cố Tổ cười khoái trá như thể đang lỡm mặt Tiểu Hồ – Bộ mày nghĩ đền thờ xảy ra hỏa hoạn thì ngồi khuấy cái nồi thổ tả này luyện thành chìa khóa, mở cửa và chạy vào dập á? 

- Thế chúng ta khốn khổ ở Cổ Lâu Trấn chỉ nhằm cầu may? – Tiểu Hồ ngỡ ngàng. 

- Có thờ có thiêng có kiêng có lành mà! Hờ hờ hờ!

Cụ cố vừa cất bước vừa cười hỉ hả. Trêu tức Tiểu Hồ chính thức trở thành thú tiêu khiển của ông già. Lục Triều vỗ vai cô gái: 

- Chúng chỉ là vật cầu may, một thủ tục trước khi vào đền. Nhưng sự chứng giám là có thật. Nếu khối gỗ sứt mẻ hoặc không thành hình, kẻ vào đền sẽ bị nguyền rủa. Ta sẽ cất khối gỗ vào kho và đợi ngày mọi di vật tập hợp đầy đủ. Chúng không vô nghĩa. 

Dứt lời, người gác đền bước đến tra khóa vào khe ổ bên dưới mặt thú ngậm vòng. Khóa cách một tiếng thì hai cánh cửa rùng rùng rũ bụi lẫn nước, bản lề cọt kẹt tự động xoay chuyển. Toàn bộ lòng đất run rẩy, bụi cát xô nhau chảy thành những đoạn thác nhỏ rót xuống. Tiểu Hồ bèn cầm đuốc rồi theo chân hai ông già tiến nhập ngôi đền. Ánh lửa xanh lục đi tới đâu, ngôi đền bừng sáng tới đó nhờ những ngọn đuốc ẩn thân giữa bóng tối. Kể từ lần cuối Thôn Cơ ghé thăm, ngôi đền mới lại thức giấc chào đón con người. 

Song như vị chủ nhà đã ngủ quá lâu và chưa kịp hồi tỉnh để dọn dẹp phòng ốc, ngôi đền Mộc Thần ôm lấy ba con người bằng sự đổ nát. So với bên ngoài, nơi đây cũng chẳng mấy khác biệt. Ngoại lực chèn ép mạnh khiến mặt nền gãy nứt vô số, chỗ bênh lên chỗ lõm xuống, đá lát không miếng nào còn vẹn nguyên. Lục Triều nói rằng nơi họ đang đứng vốn là đại sảnh đền. Xa xa phía sau nền đá, tượng Mộc Thần nằm đối diện cửa chính. Tượng tạc một người đàn ông già thật già, râu tóc dài quá lưng, chân xếp bằng, tay phải chống gậy, tay trái chìa ra và xòe rộng năm ngón. Vài thế kỷ trước, hàng ngàn pháp sư lặn lội tới đây chỉ mong được bước đi giữa đại sảnh bao bọc bởi những ngọn đuốc màu xanh lục và quỳ gối trước Mộc Thần. Nhưng bức tượng uy nghiêm thuở nào giờ nứt vỡ, nghiêng vẹo, nửa thân trên bám đầy rêu kẹt giữa lớp mái gãy đổ. Không còn huy hoàng nữa, tất cả đã kết thúc.

Nhưng vượt lên tất cả, chính giữa lòng bàn tay trái của tượng Mộc Thần trồi lên một gốc cây. “Cây xanh!” – Tiểu Hồ thầm reo. Một cái cây đúng nghĩa, không nhân tạo, không bị quây bởi lồng kính, không được nuôi dưỡng bằng phân bón hóa học như cái cách mà chính phủ Bắc Thần đang gây giống. Tuy chỉ bé bằng cây cà chua nhưng nó đích xác là thứ tạo vật đẹp đẽ nhất xứ sở này. 

Rồi sao nữa? – Tiểu Hồ tự hỏi đoạn dáo dác nhìn quanh. Nàng phấn khích vì đền thờ, mừng vui vì thấy điều kỳ diệu ở Tây Vực Châu ô nhiễm trầm trọng, nhưng đó không phải là chuyện chính. Nàng đang tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ – người chủ trì ngôi đền. Phiền nỗi chẳng có dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện của người chủ trì. Không một dấu chân, không ký hiệu, không lời nhắn gửi. Thôn Cơ không có ở đây và người phụ nữ ấy chẳng để lại bất cứ dấu tích nào.

- Rồi sao nữa? – Cụ Cố Tổ lên tiếng – Sao ta không cảm thấy gì nhỉ, Mắt Xanh? Thấy lạ không? Mày nói rằng hai mươi năm gần đây, Thôn Cơ thường ghé thăm đền hả? Vậy sao ta không cảm thấy gì? 

Cũng giống Tiểu Hồ, người gác đền chẳng thấy dấu vết báo hiệu rằng Thôn Cơ từng đặt chân ở đây. Và cũng giống cụ cố, ông ta không cảm nhận được phép thuật. Phép thuật không tự nhiên sinh ra mà cũng không tự nhiên mất đi, chúng thường lưu lại đâu đó và một pháp sư có thể cảm nhận mơ hồ hoặc rõ ràng tùy thuộc trình độ của người đó. Lục Triều rảo bước khắp sảnh, ngắm nghía tượng Mộc Thần thật kĩ, rà soát từng lối đi ngách hẻm. Sau rốt ông già cất lời: 

- Nửa thế kỷ nay tôi chưa vào đây nhưng nó chẳng hề thay đổi. Có nhiều vết nứt nhiều thứ đổ vỡ hơn. Cái mái sắp sụp rồi... – Lục Triều chỉ tay –...nhưng không có dấu vết phép thuật, không có cặn bã độc dược, không bùa phép. Không lẽ Thôn Cơ đến đây chỉ để cầu nguyện? 

Cụ Cố Tổ vuốt râu, sau cười: 

- Hoặc cố tình che giấu điều gì đấy. Ta chẳng bao giờ ghé các đền thờ mà không thử nghiệm dăm ba thứ thú vị. Nếu con nhỏ Thôn Cơ muốn cầu nguyện, nó nên gặp Vạn Thế chứ không phải các tà thần Ngũ Hành. 

- Ngài nghi ngờ chuyện gì? – Lục Triều hỏi. 

- Ta nghi ngờ nhưng không biết. Thế nên mới hỏi mày! – Cụ cố gắt – Thử dùng phép bói toán xem, Mắt Xanh, bói giùm ta xem con nhỏ quái gở đó đã giở trò gì ở đây!

Lục Triều nhún vai lắc đầu: 

- Phận sự người gác đền không cho phép tôi làm thế. Vả lại chỉ Thôn Cơ mới có quyền ra lệnh cho tôi, không phải ngài. Ngài chỉ là cựu chủ trì. Luật là luật, mong ngài thông cảm. 

Nói rồi người gác đền cúi lưng thật thấp. Cụ Cố Tổ tức điên dậm chân bành bạch, miệng sắp sửa phun hàng đống từ ngữ nguyền rủa. Nhưng cơn giận dữ đó không kéo dài lâu. Cụ cố thở một hơi dài cho dịu bớt tâm tình, sau khoanh tay ngẫm ngợi. Chút linh thiêng còn sót của ngôi đền khiến cụ cố phải giữ phép cư xử. Nghĩ chán chê, cụ cố nói: 

- Phải dùng Bát Biến sao? Ta ghét nhất bói toán! Tổ sư nó... bói cái gì đây? Chắc mất cả ngày quá! Rượu, thôi chết rồi, quên không mang rượu!

Cụ cố lẩm bẩm suốt nhưng chẳng còn cách nào. Ông già chọn một chỗ bằng phẳng nhất giữa mặt sàn cong vênh rạn nứt, kiểm tra thật kĩ nhằm tránh vụ lên cơn đau mông đau lưng bất chợt rồi ngồi xuống. Đặt hai tay trên đầu gối xếp bằng, cụ cố lầm bầm niệm phép, khắp thân thể gầy guộc nổi lên chú ngữ. Nhưng không chỉ chú ngữ Mộc niệm mà cả bốn nguyên tố còn lại cũng xuất hiện. Tiểu Hồ giật mình kinh sợ. Nàng thấy chú ngữ Hỏa niệm đỏ rực giữa vùng ngực, chú ngữ Kim niệm sắc bén chằng chịt màu trắng bên tay phải, chú ngữ Thổ niệm vuông vức bao quanh bụng một màu vàng, riêng phần lưng dày đặc chú ngữ Thủy niệm màu đen và nhiều đường dài thanh mảnh. Đó mới thực sự là chân diện của Cụ Cố Tổ. Không đại pháp sư nào có cơ thể này! – Nàng khẳng định điều đó và đoan chắc cụ cố đã thông thạo tất cả Ngũ Hành. 

Nhưng chừng ấy chưa phải tất cả. Cụ Cố Tổ niệm phép lần hai, một làn sóng mơ hồ tỏa rộng khắp ngôi đền. Gạch vụn, đá lát, gỗ ván, sỏi rêu... chúng nhất loạt tụ tập tại một phạm vi nhất định mà cụ cố đứng ở trung tâm, xếp thành tám đồ hình. Trời - Đất - Lửa - Nước - Gió – Núi - Đầm - Sấm, tám cửa của Bát Biến đều xuất hiện. Trong khi đó cụ cố đã nhắm mắt, hơi thở chậm rãi tựa hồ say ngủ còn cơ thể vẫn dày đặc chú ngữ. Người gác đền vỗ vai Tiểu Hồ: 

- Ngài ấy đã nhập tâm vào vòng xoay Ngũ Hành, sẽ mất một chút thời gian. Chúng ta nên về, nấu cái gì đó rồi quay lại đây sau ba tiếng nữa. Đoán ra hành tung của Ngũ Pháp Sư không dễ, ta e là sẽ lâu hơn. 

Nghe lời người gác đền, Tiểu Hồ theo chân ông ta quay lại đường cũ. Lúc ra cửa, nàng không quên ngoái lại nhìn Cụ Cố Tổ một lần nữa để đảm bảo ông già đang nghiêm túc. Tiểu Hồ cẩn thận một cách quá đáng nhưng dăm ngày đi chung rồi chứng kiến đủ thứ rắc rối mà cụ cố gây ra, nàng khó lòng an tâm. 

Trên đường về, Tiểu Hồ liên tục hỏi han Lục Triều về phép thuật, hết chạy lên đối diện ông già lại tụt về phía sau nghĩ ngợi, ríu rít suốt. Người gác đền chẳng phiền, cố gắng trả lời hết những câu hỏi rắc rối của cô gái. Họ không thân thiết, thời gian quá ngắn cho họ bước vào lĩnh vực “thân thiết”. Nhưng một người cả trăm năm làm bạn với nồi đất, thui thủi một mình ở nơi bị thế giới lãng quên cố nhiên hợp cạ với một cô gái năng động muốn biết mọi thứ. Từ đường hầm tối tăm tới lúc leo thang trở lại ngôi nhà, họ vẫn cười nói trò chuyện. Chỉ khi gặp một người lạ mặt ở phòng khách, họ mới ngừng nói ngừng cười. Nói đúng hơn, nụ cười của họ im bặt. 

- Chào ngài, đã lâu không gặp! – Kẻ lạ mặt cúi đầu, mái tóc bóng bẩy hằn ánh đèn điện – Ô kìa, người quen! Hình như... chúng ta đều tham gia chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, đúng không? 

Vừa thấy kẻ nọ, Tiểu Hồ lập tức rút kiếm. Hồi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, nàng chưa từng đối mặt, chỉ nghe kể về gã thông qua Vô Phong. Cuộc chiến đẫm máu ở nửa sau quận Tây Chinh Kiếm hại chết hàng ngàn người dân in đậm dấu tay của kẻ này. Bộ mặt bóng loáng, phong thái lịch thiệp, nụ cười thiếu tự nhiên vì phẫu thuật thẩm mỹ... Tiểu Hồ không quên bất cứ đặc điểm nào, chúng đáng ghét hơn lời kể gấp chục lần. 

- Hiệp Dung hả? Lâu lắm mới gặp! Bình tĩnh, bé con, hắn là người cung cấp nguyên liệu phép thuật cho ta. Chuyện cũ, khoảng chục năm rồi. – Lục Triều vỗ lưng Tiểu Hồ – Sao vậy, Hiệp Dung? Đầu quân cho Liệt Giả rồi thì đến tìm ta làm gì thế? Ngươi muốn đưa ra đề nghị chăng? 

Tiểu Hồ thu kiếm nhưng không thu lại đôi mắt rực lửa nhằm vào Hiệp Dung. Vẫn nụ cười lịch thiệp, gã Đầu Sói trả lời: 

- Vâng, rất nhiều đề nghị mà Liệt Giả muốn nhờ tôi chuyển tới ngài. Nhưng trước hết tôi thỉnh cầu ngài sửa chữa một thứ, và như thường lệ, tôi sẽ đền đáp tương xứng. Tôi đã tìm Ngũ Pháp Sư nhưng không được. Tôi cũng không thể tìm thấy những người gác đền khác ngoài ngài và đền Mộc Thần. Hy vọng quan hệ giữa chúng ta vẫn ở cái mức mà ngài có thể chấp nhận thỉnh cầu của tôi. Được không, thưa thầy? 

Tiểu Hồ quay sang Lục Triều như muốn hỏi chữ “thầy” từ đâu mà ra. Người gác đền nhìn Hiệp Dung, hất hàm: 

- Sửa cái gì, nói xem? 

Hiệp Dung cúi đầu lần nữa tỏ lòng tôn kính, sau đấy hai tay nâng một vật bọc trong vải bố như đang dâng lên vật báu cho Lục Triều. Người gác đền nhíu mày nhìn mớ vải bố rồi bóc từng lớp. Vải rơi rụng, một vật gì đó giống kiếm dần hiển lộ kèm theo mùi hôi thối nồng nặc làm Tiểu Hồ vô thức đưa tay bịt mũi. Lục Triều cau mày: 

- Cái thứ chết tiệt này... A Sạ Kiếm... thằng súc vật! Ngươi đào đâu ra thứ này? 

- Không phải tôi. – Hiệp Dung giơ tay – Tôi còn sợ trời lắm, như ngài chỉ dạy! Nhưng chính phủ Bắc Thần quốc thì không. Họ đang nghiên cứu những món đồ cũ của thời đại chạy đua vũ trang. A Sạ Kiếm, Bùa Ngải, Mắt Trắng... chúng đã và đang xuất hiện trên thị trường chợ đen. Giá trị không tưởng! Các chính phủ đang sợ hãi. Trong cơn bối rối, họ tìm đến tôi, thưa ngài. Nhân tiện... ngài muốn uống trà chứ? Tôi có mang theo đây. Cô uống không, cô gái xinh đẹp? Cô là... Tiểu Hồ, nhỉ? Chà, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau nhiều ha! Thời đại tên lửa mà, nhiều tin tức lắm!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 10: Núi và hồ


Nhìn kẻ thù ngoe nguẩy trước mặt mà không thể làm gì, Tiểu Hồ tức lộn ruột. Chưa hết, gã nọ vừa đứng bếp đun nước pha trà vừa xướng lên mấy bài ca ỉ ôi mà lời lẽ toàn những yêu thương mùi mẫn, những triết lý tình thương con người. Oái oăm ở chỗ giọng hát khá tốt nếu không muốn nói là hay. Mà cũng hàm răng đó, cuống lưỡi đó, cổ họng đó cách đây vài tháng đã hạ lệnh tàn sát dân thường quận Tây Chinh Kiếm – Tuyệt Tưởng Thành. Tiểu Hồ thiết nghĩ có bao giờ cái lưỡi cái răng của tên này biết tự trọng mà cắn lẫn nhau để chủ nhân của chúng khỏi làm ô nhiễm khí quyển thế giới Tâm Mộng? Nhưng nàng chợt hiểu chẳng loài thú ăn thịt nào tự giết mình theo cách đó, nhất là sói. 

- Xong rồi! Xin mời! – Hiệp Dung từ bếp đi ra cùng khay trà nghi ngút khói – Của thầy đây, đậm đặc vừa đủ như thầy ưa thích. Còn cô, Tiểu Hồ, cô dùng đường chứ? 

Hiệp Dung lịch thiệp đẩy lọ đường về phía trước, Tiểu Hồ giơ tay dứt khoát như muốn ngăn chặn cái lịch thiệp này chạm vào mình. Tất nhiên Tiểu Hồ cũng không đụng vào chén trà vì nàng coi nó là ổ bệnh dịch, chỉ thiếu điều hất xuống đất. Gã Đầu Sói mỉm cười chấp nhận thái độ thù hằn của cô gái rồi tự thưởng cho mình một ngụm trà pha đường. Bầu không khí trong căn nhà phồng lên tựa mặt căng của nước mà chỉ một cú chạm nhẹ là tràn, nhưng Hiệp Dung vẫn điềm nhiên hưởng thụ trà. Y nhâm nhi bằng mũi, xuýt xoa hơi nóng mờ mờ rồi sụp soạt từng ngụm hôi hổi ở miệng tách, bộ mặt chó gặm sau chuyến dặm trường Tây Vực Châu nay dãn ra như miếng phô mai đặc nóng chảy, vẻ chừng khoan khoái. Thông họng thông phổi, y mở lời với Lục Triều, giọng nói vừa đủ mân mê thứ mặt nước đương căng tràn nọ: 

- Thầy nhớ chúng ta gặp nhau thế nào không? Chà, khi ấy chính phủ cử tôi tới đây tìm kiếm một mầm cây ở Tây Vực Châu. Tôi đã nghĩ họ nói đùa hoặc là họ muốn thực hiện vọng tưởng cải tạo Tây Vực Châu, trong khi chính họ phá nó tanh bành. Tôi đã tìm kiếm hàng tháng trời, nghi ngờ, nguyền rủa bọn chính phủ mất trí rồi tuyệt vọng vì hết tiền, không nguồn viện trợ và kiệt sức bên chân núi trơ trọi toàn sỏi đá. Thầy biết tôi nghĩ gì lúc ấy không? Chà, nghe thật buồn cười nhưng quả thật tôi nghĩ rằng bản thân mình chính là vật thí nghiệm. Cái xác của tôi sẽ trở thành nguồn dinh dưỡng cho mầm cây đầu tiên có thể mọc tự nhiên ở Tây Vực Châu. Tôi đã nghĩ mình lớn lao như thế! Tuổi trẻ mà!

Người gác đền uống trà nhưng thay vì mừng việc hội ngộ học trò cũ, ông già đếm từng cái nồi trên ngăn kệ chồng chất nồi, đếm chán, ông lại đếm từng cái nắp nằm ngay ngắn hoặc chỏng chơ ngửa bụng. Hiệp Dung cũng không cần ông già lắng nghe, chỉ tiếp tục: 

- Lúc tôi nghĩ mình sắp trở thành mớ phân bón lịch sử cho Tây Vực Châu thì thầy xuất hiện. Đúng lúc làm sao! – Y nâng tách trà đoạn nghiêng đầu thể hiện sự tán thưởng – Thầy có nước lọc cho cổ họng khát cháy, có cháo đại mạch cho dạ dày lục cục những mảnh lương khô cứng ngắc. Quan trọng hơn, thầy là con người chứ không phải những oan hồn mà tôi bắt gặp. Chỉ cần thế và thầy cho tôi câu hỏi đầu tiên: đấng cứu thế xuất hiện trong dạng người hay chính con người mang chiếc áo đấng cứu thế? Tới giờ tôi vẫn không thể trả lời. Chà... thực khó. Tôi chỉ nhớ ngày đó khi vừa ăn cháo vừa hớp ngụm nước, tôi hiểu rằng nếu chết ở đây thì xác mình sẽ trở thành phân nhưng là một đống phân bình thường nồng nặc mùi phân hủy, tuyệt nhiên không phải phân bón cũng chẳng phải bãi phân thần thánh nào cả. Nhưng cũng nhờ lần suýt chết ấy, tôi có dịp đồng hành cùng thầy trong ba tháng. Thời gian ngắn ngủi nhưng tôi học hỏi được rất nhiều, đáng giá gấp trăm lần thời gian mài đũng quần ở học viện phép thuật. Cảm ơn thầy!

Gã Đầu Sói cúi thấp đầu nhưng cũng giống Tiểu Hồ, người gác đền từ chối tiếp nhận lòng trân trọng này. Ông già đặt tách trà lên bàn, chuyển vấn đề: 

- Huyên thuyên đủ rồi. Giờ nói xem ngươi mang A Sạ Kiếm tới đây làm gì? Nhưng trước hết hãy trả lời ta: ngươi kiếm nó từ đâu ra? Nói thật, đừng che giấu. Trước mặt Ngũ Pháp Sư hay những người từng ngồi vị trí đó, ngươi không thể nói dối. 

Hiệp Dung giơ tay tỏ ý rằng mình rất đàng hoàng rồi đặt thanh kiếm bọc vải lên bàn để minh họa diễn giải. Nghĩ sao, y lại cất nó xuống chân như không muốn không khí thưởng trà trong căn nhà tồi tàn này hứng thêm một nhát búa tạ. Tiểu Hồ không biết đó là kiếm hay thùng rác di động. “Hôi quá!” – Nàng nhăn mặt, cảm giác mùi thịt ôi thối phảng phất. Trong khi đó, vẫn chất giọng nhã nhặn lịch thiệp, gã Đầu Sói bắt đầu câu chuyện: 

- Tuyệt Tưởng Thành đang hỗn loạn. Nó quá thơm, quá ngọt và miễn phí nên ai cũng muốn tranh giành. Cả bốn liên minh, quốc gia trung lập, tổ chức khai thác, công ty tập đoàn... tất cả đều đòi chia chác dưới danh nghĩa thiết lập hòa bình. Họ vừa đánh vừa tìm cách bắt tay quân đoàn Liệt Giả nhằm tìm kiếm mối lợi hoặc hất cẳng đám dây máu ăn phần khác. Trong khi Tuyệt Tưởng Thành thực sự đang ở miền đất hoang vu phía tây lục địa Thượng Cổ, họ chưa di cư xong và thậm chí không biết chọn vùng đất nào để xây thành phố. Họ cần tiền và nhân lực nhưng không ai thực sự quan tâm, thậm chí chảy máu chất xám. Mà thôi, lịch sử Tuyệt Tưởng Thành đã chấm dứt và họ sẽ viết nốt khúc hát cuối cùng ở hoang mạc tồi tàn. Họ xong rồi! Giờ hãy quay lại chảo lửa tranh chấp... 

Gã Đầu Sói nhún vai cười đoạn hớp ngụm trà. Với tư cách đứng bên kia chiến tuyến, Tiểu Hồ rất vui lòng thoi một đấm vào bộ mặt thẩm mỹ đương lim dim sau khói trà nghi ngút kia. Nàng dần hiểu tại sao Vô Phong luôn có ác cảm lẫn thành kiến với người đụng dao kéo lên mặt. Mỗi hơi thở dửng dưng lẫn điệu cười hí hách của gã Đầu Sói đều nhuốm máu nàng, máu Vô Phong lẫn máu người Tuyệt Tưởng Thành. 

- Quân đoàn Liệt Giả rất rảnh tay, thực sự... khục... khục... – Hiệp Dung ho rũ vì nước trà đắng sặc cổ –...thực sự là thế! Bởi vì những người mang tới “hòa bình” còn mải đánh lẫn nhau. Đã xuất hiện bất hòa trong liên quân Đại Hội Đồng, trước giờ họ đã như vậy, nay miếng bánh Tuyệt Tưởng Thành càng làm họ nghi ngờ nhau hơn. Trong số ấy, kẻ hăng máu đòi chia chác nhất là Băng Hóa quốc. Họ cần quang tố, thật nhiều quang tố để giải quyết mớ bòng bong ở tít phương bắc thế giới. Vậy là đám gìn giữ hòa bình quay sang chỉ trích rồi đánh lộn. Truyền thông chính thống dĩ nhiên chẳng bao giờ đưa tin mấy vụ đó, hi hi! – Hiệp Dung ngoảnh sang Tiểu Hồ cùng nụ cười méo mó – Tất nhiên không đến mức chiến trận quy mô hay chĩa pháo vào mặt nhau nhưng có xung đột, có đụng súng đụng kiếm, có thương vong. Để dễ hình dung thì nó giống băng đảng tranh giành địa bàn, hoặc là giống các Đầu Sói tranh chấp lãnh địa. Đã ai nói với hai người rằng chính phủ thực chất là một tập đoàn xã hội đen hoạt động công khai chưa? 

Lục Triều và Tiểu Hồ nhìn nhau. Trên sợi dây vô hình kết nối hai đôi mắt ngờ vực đó, Hiệp Dung nhún nhảy từng bước rung rinh như nghệ sĩ diễn xiếc:

- Những tập đoàn sừng sỏ nhất đều tụ hội ở mỏ tiền vô chủ Tuyệt Tưởng Thành, người đến sau giành giật với kẻ đến trước. Đánh nhau là đương nhiên nhưng không thể cử quân đội chính quy giao chiến, giờ đâu phải thời kỳ Chiến Tranh Tài Nguyên? Họ cũng không thể đánh quân đoàn Liệt Giả vì những khí tài quân sự mà người Tuyệt Tưởng Thành bỏ lại đủ để đội quân ấy đối đầu bất cứ ai[1]. Vậy là họ nghĩ ra giải pháp: thỏa thuận với bọn Chó Hoang đang ngáp ruồi bên trong tường thành, lấy máu của chúng tranh giành mỏ quang tố hoặc mỏ kim loại quý, tiện thể phô bày trước truyền thông thế giới rằng bọn thổ phỉ phương nam dã man thế nào và lập lại hòa bình là cần thiết. Liệt Giả chấp nhận nhưng thay vì tự bỏ vốn, ông ta yêu cầu được cung cấp vũ khí. Hai người hiểu đấy, nếu anh có khẩu súng làm theo lệnh khách hàng thì anh cũng phải có khẩu súng chĩa vào đầu khách hàng, làm ăn mà! Các nước không thể đáp ứng yêu cầu của Liệt Giả vì mọi vũ khí đều có số hiệu đàng hoàng, không phải đồ chợ mà trao qua đổi lại. Vậy là tất cả phải viện tới một bên trung gian: bọn lái súng. Nói tới đây, chắc hai người hiểu rồi chứ?!

- Bọn lái súng không chỉ mang theo súng, phải chứ? – Lục Triều lên tiếng. 

Hiệp Dung gật gù. Y nghiêng bình trà rót cho Lục Triều. Ân cần. Lịch thiệp. Tao nhã. Khó mà kiếm được tay học trò nào lễ phép với người thầy như thế. Hiệp Dung cũng bày tỏ những đức tính ấy trước Tiểu Hồ nhưng cô gái lập tức trừng mắt. Hoặc quay lại vấn đề chính hoặc uống trà bằng ống truyền dịch – thông điệp của Tiểu Hồ rất rõ ràng. Nhìn cô nàng bặm trợn ác sát, gã Đầu Sói nháy mắt cười đoạn tiếp tục câu chuyện: 

- Phải, thưa thầy. Không chỉ súng mà rất nhiều súng, và, như thầy dự đoán, có cả những vũ khí bị quên lãng. Bọn lái súng là lũ bán hàng hào phóng nhất! Mọi hợp đồng đều có giảm giá, hàng tá đồ giết người với giá cả khuyến mãi, thậm chí mua theo cân như mua thực phẩm. Như A Sạ Kiếm đây là ví dụ, thứ kinh khủng nhất trong vô vàn thứ kinh khủng mà phép thuật Kim niệm từng tạo ra. Ồ, cô biết thứ này chứ, Tiểu Hồ? 

Thêm một lần nữa Hiệp Dung phớt lờ đe dọa và chạm vào cấm địa xung quanh Tiểu Hồ. Y cố tình, nửa bỡn cợt nửa muốn cuộc đối thoại bớt góc cạnh đàn ông, y cần một giọng nói thứ ba để làm mềm không khí căng thẳng. Một sự cố tình có chủ đích. Hay ho ở chỗ nó làm Tiểu Hồ thực sự ngứa ngáy. Những kiến thức hoặc câu chuyện phép thuật luôn rù quến pháp sư mãnh liệt, vừa là thuốc kích thích vừa là thuốc gây nghiện, càng bí ẩn nguy hiểm bao nhiêu càng hấp dẫn bấy nhiêu. Ngày bé, Tiểu Hồ có thể thức xuyên ngày xuyên đêm chỉ vì mấy cuốn sách huyền bí hoặc truyện phép thuật. 

Nhưng thay vì hỏi gã Đầu Sói, cô gái phó thác nỗi thắc mắc cho Lục Triều. Người gác đền nhìn tách trà, ánh mắt ở tầng đáy chất lỏng tựa trầm mình chuyện thuở cũ: 

- A Sạ Kiếm là một thanh kiếm tế luyện bằng phép thuật Kim niệm, một phép thuật từ thời tối cổ khi pháp sư thường xuyên dùng máu nhằm liên kết và mượn sức mạnh từ năm vị tà thần. Không biết ai tạo ra nó, không biết nó xuất hiện khi nào, mọi phương thức tế luyện đều truyền miệng. Lưu ý từ “tế luyện”, nó là phương thức sử dụng phép thuật thông qua hình thức hiến tế máu thịt sinh vật sống. Chó mèo, chim chóc, cá chuột, thậm chí con người... đều là nguyên liệu tế luyện. A Sạ Kiếm là một thứ phép thuật như vậy nhưng quái thai và tàn ác hơn nhiều. Kẻ tế luyện tìm một thai phụ có thai tuần khoảng từ một tới hai tháng rồi cấy một mảnh kim loại đã ếm bùa sẵn vào người đó. Mảnh kim loại hút dinh dưỡng rồi giết chết thai nhi, sau bốn mươi chín ngày thì hấp thụ linh hồn sinh linh này, phát triển thành một thanh kiếm và tiếp tục quá trình giết chết người mẹ. Lại sau bốn mươi chín ngày nữa, linh hồn người mẹ bị thanh kiếm hấp thụ. Kẻ tế luyện mổ xác người đó sẽ có một lưỡi kiếm hoàn chỉnh với hai linh hồn đầy thù hận. Nhưng kẻ tế luyện không bao giờ hài lòng. Hắn sẽ nung chảy lưỡi kiếm, cô đặc nó rồi tìm nạn nhân mới cùng quá trình tế luyện mới, càng thêm nhiều người chết. 

Tiểu Hồ rùng mình, cổ họng buồn nôn. Huyền thoại về cái nồi sôi sùng sục nhểu nhãi chất dịch xanh nhớt với đủ thứ phèo phổi ếch nhái rắn chuột của mụ phù thủy còn khuya mới sánh nổi với thứ phép thuật này, ít nhất là về độ kinh tởm. Cô gái thở khẽ: 

- Tôi nghe nói con người cổ xưa thường dùng kim loại trừ tà ma, cả phương đông lẫn phương tây, chưa nghe nói nó là vật tế luyện linh hồn bao giờ. 

- Chỉ là một phần câu chuyện. – Lục Triều lắc đầu – Đúng là kim loại trừ tà ma, nhưng đồng thời cũng là vật cầm tù ngăn linh hồn trở về Tụ Hồn Hải. Từ xưa con người đã biết linh hồn nếu không thể về Tụ Hồn Hải sẽ trở thành oan hồn, bởi vậy mọi chiếc quan tài đều làm bằng gỗ chứ không phải kim loại. Phép tế luyện A Sạ Kiếm thực chất đi ngược lại mọi quy tắc chôn cất người chết, phá hủy mọi liên kết căn bản giữa người với người. Bản thân thanh kiếm là nhà tù giam giữ linh hồn, biến chúng thành oan hồn và lợi dụng sự giận dữ của oan hồn làm sức mạnh. Nguy hiểm ở chỗ nó là một thứ mất cân bằng. Vạn vật trên thế giới đều có nửa nọ nửa kia, mặt trời chói sáng cũng có vài vệt đen, mặt trăng lạnh lẽo cũng có lúc rực rỡ. Riêng A Sạ Kiếm chỉ có bóng tối và lòng đất.

Tiểu Hồ ngẫm ngợi một chút rồi nói: 

- Nói như vậy, A Sạ Kiếm có thể hấp thụ linh hồn mãi mãi. Mỗi lần tế luyện, nó giết hai người. Toàn số chẵn, số của đất. 

- Phải, ánh sáng mặt trời không thể chạm vào thứ quái quỷ đó. Bản thân thanh kiếm là mầm bệnh và không thể phá hủy theo cách thông thường. Thế nên chỉ có kẻ điên mới tế luyện A Sạ Kiếm và bản thân tên đó cũng hết thuốc chữa. Ta chưa từng gặp gã nào mang thanh kiếm đó, chỉ nghe qua chuyện kể. Vậy... Hiệp Dung, ngươi lấy thứ này từ đâu? 

Gã Đầu Sói pha thêm nước sôi vào bình trà đã nguội. Y lắng bình để những lá trà thiết mộc nổi lên đoạn trả lời: 

- Một câu chuyện hài hước, thưa thầy, khi kẻ bán nhờ người mua sửa chữa món đồ mà họ muốn bán. Như đã nói, bọn lái súng là bước trung gian để các quốc gia cấp vũ khí cho quân đoàn Liệt Giả. Bắc Thần quốc cũng không ngoại lệ, họ đã chuyển cho chúng tôi mười đơn hàng. Họ không hề biết trong chuyến hàng thứ mười có A Sạ Kiếm, một tạo vật mà họ bỏ quên từ thời chạy đua vũ trang Chiến Tranh Tài Nguyên. Hồi chiến tranh đó, vũ khí hủy diệt xuất hiện nhan nhản, trao qua bán lại như mua rau. Một trong số các A Sạ Kiếm đã rơi vào tay bọn lái súng. Bản thân chúng không biết mình đang bán cái gì, còn đám tướng lĩnh Bắc Thần quốc chưa đủ già đời hoặc thiếu kiến thức để hiểu mình đang sở hữu cái gì. Và “cái gì” đó lọt vào túi chúng tôi. Dĩ nhiên chẳng thằng Đầu Sói hay Sói Chúa nào có thể dùng thanh kiếm, lũ man rợ ấy chưa hoàn toàn mất trí. Tôi nghĩ ra giải pháp hợp lý hơn: bán lại nó cho Bắc Thần quốc với giá rẻ. Bắc Thần cần nó để chạy đua vũ trang, đổi lại quân đoàn Liệt Giả sẽ yên thân với họ và liên minh Nhất Thống Cục. 

- Bắc Thần phát triển A Sạ Kiếm mà giờ phải mua lại? – Tiểu Hồ buột miệng. 

Dứt lời, cô gái chợt nhận ra mình đã cuốn vào vòng xoáy ngôn từ của gã Đầu Sói. Chiến tranh kết thúc cách đây chưa lâu và khắp người Tiểu Hồ vẫn còn đầy dư vị chiến trường. Là một mảng màu trên bức tranh sụp đổ khổng lồ của Tuyệt Tưởng Thành, nàng không thể làm ngơ khi kẻ khác cứ nói về nó mãi – một sự tức khí vì muốn biết câu chuyện kế tiếp, vì nỗi thất bại trong việc bảo vệ tòa thành. Thấy nàng quạu quọ, gã Đầu Sói nháy mắt chỉ tay như tán thưởng: 

- Ngay chóc vấn đề! – Hiệp Dung cười – Sau Chiến Tranh Tài Nguyên, tất cả đều nhận ra góc nhà mình chất đầy một mớ vũ khí chẳng để làm gì, giữ lại thì hao tiền bảo trì, vậy là họ bán tháo cho đám lái súng hoặc bọn buôn lậu. Lũ này luôn biết cách tiêu thụ hàng hóa. Nhưng một số kẻ tham lam như đám tướng lĩnh Bắc Thần lại thích gom tiền đầy nhà hơn là lo lắng an ninh quốc gia. Họ bắt đầu bán vũ khí cấm, những thứ mà đáng ra phải tiêu hủy hoặc niêm phong như A Sạ Kiếm. Thời đó ở Bắc Thần quốc, phe phái chính trị đấu đá nhau suốt, lãnh thổ có nguy cơ chia cắt nên đám tướng lĩnh được dịp vét kho kiếm lời. Họ bán những thứ tốt nhất! Vậy nên sau này Bắc Thần không còn mẫu vật phẩm đối chứng, còn những thanh A Sạ Kiếm qua tay hết gã buôn súng nọ tới chiến trường kia, đến nỗi chỉ còn rất ít người nhớ nguồn gốc của chúng. 

- Không còn tiêu bản thì vẫn còn tài liệu và những pháp sư tạo ra chúng. Sao có chuyện một quốc gia để lọt vũ khí cấm như thế? – Tiểu Hồ phản bác. 

- Tài liệu thất lạc. Chuyện bình thường trong năm tháng hỗn loạn, hi hi! – Hiệp Dung cười – Tài liệu thiếu sót, những pháp sư hay nhà khoa học tạo ra thanh kiếm thì bỏ trốn hoặc bị thanh trừng do cuộc chiến phe phái. Bởi vậy Bắc Thần quốc không thể tạo ra A Sạ Kiếm hoàn chỉnh. Họ nghiên cứu, lại bỏ, lại nghiên cứu tiếp, lại bỏ dở rồi ném đề án vào kho vì tiêu xài hàng đống tiền mà chẳng ra kết quả. Chiến tranh khắp nơi, Bắc Thần đang xung đột với Diệp quốc và chẳng ai biết nó sẽ kéo dài bao lâu hoặc lớn cỡ nào. Nên với tư cách từng là công dân Bắc Thần cùng với lòng yêu tổ quốc mãnh liệt, tôi tình nguyện trở thành vị cứu tinh giúp đỡ họ. Hi hi! Bởi vậy, tôi thỉnh cầu sự giúp đỡ. Thầy có thể sửa thanh kiếm giùm tôi không? 

Gã Đầu Sói quay sang người gác đền. Ông già Lục Triều nhướn mắt nhìn y, bờ trán già nua cau lại như thửa ruộng cằn cỗi giữa trưa nắng. Lời đề nghị sống sượng dành cho một vật kinh tởm rõ ràng không phù hợp với một người đáng kính như Lục Triều. Giới pháp sư không “hiền lành” như thánh sứ, mọi sự xúc phạm có thể phải trả giá đắt. Hiệp Dung biết rõ điều đó nhưng vẫn lấn tới, trong từng lát cắt biểu cảm không mảy may úy kỵ. Sự tự tin, lá bài tẩy, kế hoạch dự phòng... y đang nắm một trong những thứ đó hoặc có thể là tất cả. Cái cách Hiệp Dung ngồi đây cùng nụ cười mỉm gần giống những hình dung của Tiểu Hồ về y trong cuộc chiến Tuyệt Tưởng Thành. Con sói đang kiên nhẫn chờ đợi, kiên nhẫn một cách thoải mái. 

Nhưng kể cả là một lời đề nghị sống sượng, Hiệp Dung vẫn có thể mang nó trên vai và bước trên sợi dây mỏng manh. Hễ dây đứt hay sảy chân, y sẽ lao xuống bề mặt căng phồng vốn đã ngự trị không khí căn nhà. Nhưng dây không đứt mà cái bề mặt mong manh kia cũng chẳng tràn, con sói thực sự là tay diễn xiếc đại tài. Thay vì – hoặc là kiềm chế ham muốn – liệng tách trà vào mặt Hiệp Dung, người gác đền im lặng suy nghĩ rồi cẩn trọng nhìn Hiệp Dung:

- Sói không yêu tổ quốc, sói yêu mảnh đất nhiều thịt. Bắc Thần quốc trả cho ngươi bao nhiêu thịt để ăn vậy? Ta có nghe chuyện về ngươi. Người ta nói rằng ngươi bị truy nã vì phạm tội. Tội lỗi kinh tởm. Ngươi bỏ trốn cùng một bộ mặt thẩm mỹ. Hồi chúng ta gặp nhau, gương mặt ngươi to bè, mũi ngắn, da đen sạm, đôi mắt quầng thâm vì thiếu ngủ, tóc rối bù xù, hàm răng vàng khè vì hút thuốc. Nhưng ít nhất thì đó là gương mặt con người. Bởi lẽ đó nên ta cứu ngươi một mạng ở Tây Vực Châu. Con người không bỏ rơi nhau. Giờ thì sao? Ngươi đẹp đẽ hơn, mũi cao và thẳng, làn da trắng trẻo, đôi mắt đầy sức sống. Nhưng chúng thật lạc quẻ, lạc quẻ kinh khủng như thể chúng được cắt ghép từ nhiều gương mặt khác nhau, như thể ngươi đã trộm đi những phần đẹp đẽ nhất từ người khác. Nếu ngày đó ngươi nằm vạ vật bên đường với bộ mặt đẹp đẽ chắp vá này, ta sẽ để ngươi chết khô tại chỗ. 

- Đính chính lại, tôi rất yêu tổ quốc Bắc Thần, thưa thầy. – Hiệp Dung cười – Bởi vì ở đây cũng rất nhiều thịt trong khi tôi chưa cắn được miếng nào. Quan trọng hơn là Bắc Thần cho tôi quay lại cố hương để ăn thịt. 

Lục Triều thở mạnh đằng mũi làm tách trà trên mặt bàn gợn sóng. Hay rồi đây! – Tiểu Hồ nghĩ thầm, lòng khấp khởi chờ mong ông già gác đền làm thịt Hiệp Dung. Nồi ở đây nhiều vô số, hầm hấp nấu canh con sói đều khả dĩ. Nhưng cô gái trông đợi quá nhiều vào một tình huống xảy ra theo kiểu phim ảnh. Giới pháp sư không hiền lành không đồng nghĩa rằng họ sẽ choảng nhau ngay tại thời điểm mà họ ít hiền lành nhất. Một trận đấu phép thuật thường phá hoại kha khá khung cảnh xung quanh, Lục Triều không thích lắm cảnh phơi thân già ngoài bầu trời Tây Vực Châu đầy khói bụi. Vả chăng ông già không có tiền tu sửa ngôi nhà sập. 

- Nói xem, Hiệp Dung, nếu ta không sửa thanh kiếm thì sao? – Rốt cục người gác đền lựa chọn giải pháp đối thoại – Trước khi đến đây, chắc chắn ngươi đã biết câu trả lời, vậy nên ngươi đã dự tính chuyện gì đó nhằm ép ta đồng ý. Nói xem? 

Hiệp Dung cười đoạn cúi đầu: 

- Thầy thẳng thắn thì tôi không vòng vo nữa. Thầy biết đấy, người Bắc Thần thích đi đường vòng. Họ đập phá Tây Vực Châu rồi tìm cách cứu nó. Họ là vậy. Tôi cũng vậy, vì tôi là người Bắc Thần. Thế này... tôi cần thầy sửa chữa thanh kiếm, đổi lại tôi sẽ cung cấp nguyên liệu phép thuật như chúng ta vẫn làm suốt nhiều năm qua. Nguyên liệu hiếm có, đắt đỏ vô cùng, tôi đảm bảo. Thầy biết tôi luôn giữ lời hứa... 

- Giữ lời hứa bằng cách đốt mù mắt người khác hả? – Tiểu Hồ xen ngang. 

Hai người đàn ông quay ra nhìn cô gái. Ông già gác đền ngoảnh sang Hiệp Dung chờ lời giải thích. Gã Đầu Sói nhún vai cười, lấp liếm lời Tiểu Hồ bằng cách tiếp tục vấn đề: 

- ...tôi hy vọng thầy chấp nhận thỉnh cầu này. Quan hệ giữa chúng ta vẫn tốt đẹp sau nhiều năm, phải chứ? Tôi không nghĩ quan điểm chính trị là trở ngại. Cả tôi và thầy đều không quan tâm cái đám mặc quần áo là lượt ngoài kia nghĩ gì, chơi trò gì trong sảnh đường nghị viện của chúng, hay đấu đá cắn xé nhau thế nào trong tòa đại thành của Đại Hội Đồng. Chúng ta làm những điều chúng ta muốn, để phép thuật tồn tại thêm một thời gian nữa trước khi máy móc hoàn toàn xâm chiếm thế giới này. Thời đại của sự phân chia đã hết rồi. Chẳng còn phép thuật, tà thuật, ma thuật, hiến tế, tế luyện, trận đồ, trận phép... chẳng còn nữa, chúng sắp biến mất. Máy móc đang tới và sẽ chiếm lĩnh thế giới Tâm Mộng, chúng ta không thể ngăn cản nó. Ngay cả pháp sư cũng chẳng còn bao nhiêu, kiếm thuật sư thì ngày càng thích giải quyết vấn đề bằng kiếm hơn là phép thuật. Số phận của chúng ta là bước vào diệt vong. Vậy trong năm tháng điêu tàn này, hồi sinh A Sạ Kiếm có gì đáng ngại? Nó sẽ thành hiểm họa ngàn đời hay chỉ đơn giản là vết trầy nhỏ trên lớp da lịch sử? Thầy sống lâu hơn tôi, sống lâu hơn con người, hẳn thầy biết câu trả lời. 

- Nói nhiều quá. Ngươi chưa trả lời vấn đề chính. Nếu ta từ chối, ngươi sẽ làm gì? 

Hiệp Dung nhún vai, đôi tay đang chắp lại dựng lên hai ngón cái như đóng khung những lời y sắp nói đây là giải pháp cuối cùng, không còn đường nào khác: 

- Nhiều năm trước, tôi suýt chết ở Tây Vực Châu vì một mầm cây. Chắc ngài hiểu ý nghĩa ẩn dụ của nó là ngôi đền Mộc Thần. Nếu biết vị trí ngôi đền, người Bắc Thần sẽ đến đây khai quật nó. Ngài biết người Bắc Thần đấy! Ngôi đền sẽ hồi sinh Tây Vực Châu, khiến nơi đây phần nào xanh tươi trở lại và dồi dào khoáng sản, nhưng không phải phục vụ con người mà cống hiến cuộc chiến dai dẳng ngoài kia. Tây Vực Châu sẽ trở thành công xưởng vũ khí. Bốn ngôi đền khác cũng chẳng thoát khỏi số phận bị đào mả, không ai muốn Bắc Thần là nước có vật thiêng duy nhất. Những bọn pháp sư bán mạng sẽ lại xuất hiện như Thời Đại Thủy Triều năm xưa. Phép thuật sẽ diệt vong, nhưng không phải lặng lẽ như bây giờ mà bị nghiền nát trong một cái máy trộn... giống máy xay sinh tố, thưa thầy. 

- Ta nhớ là ta chưa bao giờ kể với ngươi về đền Mộc Thần. – Người gác đền nói. 

- Đúng là thầy không chỉ dạy nhưng tôi chẳng phải đứa học trò tối dạ. – Hiệp Dung cười.

Trông dáng dấp thư thái của tên Đầu Sói, Tiểu Hồ đồ rằng y đã biết chính xác ngôi đền nằm ở đâu. Phiền thay, những lời cảnh báo từ miệng y không phải chuyện giỡn. Thời Đại Thủy Triều là một quá khứ nhưng cũng có thể là một tương lai gần nếu các đền thờ Ngũ Hành bị khai quật. Tiểu Hồ biết thời đại đó. Vì nó mà hàng trăm thế hệ pháp sư vong mạng đồng thời bỏ lại vô số di sản không lời giải đáp. 

Nhưng đổi lại một tương lai yên bình cho A Sạ Kiếm hồi sinh, Tiểu Hồ còn thấy khó chấp nhận hơn. Nàng trông đợi Lục Triều ra quyết định dứt khoát. Người gác đền suy nghĩ hồi lâu, sau ngẩng mặt nhìn tên Đầu Sói: 

- Sáng mai quay lại đây, ta sẽ trả lời. Ta cần suy nghĩ. 

Tiểu Hồ ngạc nhiên. Nàng không nghĩ Lục Triều lại chần chừ trước một lĩnh vực đạo đức đã quá rõ ràng. Ngược lại cô gái, Hiệp Dung hồ hởi: 

- Cảm ơn thầy chiếu cố. Còn một việc nữa, Liệt Giả nhờ tôi chuyển lời... 

- Báo với Liệt Giả rằng ta không có hứng thú nghe hắn nói. Kẻ phá hủy Tuyệt Tưởng Thành không có tư cách đề nghị. Đi đi, ra khỏi nhà của ta, mang theo cả thứ bẩn thỉu kia. Đừng làm nhà ta ô nhiễm. Cút!

Tên Đầu Sói đơ mặt như bị dội gáo nước lạnh song nhanh chóng lấy lại vẻ bình tĩnh. Dường như kết quả thương lượng vượt quá mong đợi nên y không dám làm tổn hại nó bằng mấy lời nằn nì nài nỉ. Tây Vực Châu đã tối đen và sẽ chẳng ngôi nhà nào trong thị trấn vô danh mở cửa đón tiếp, trừ phi cuốc bộ sang thị trấn khác, nhưng Hiệp Dung vẫn vui vẻ mang A Sạ Kiếm rời đi, không quên nở nụ cười lịch thiệp với Tiểu Hồ. Cô gái tức điên, đợi tên nọ khuất mắt thì liến thoắng: 

- Tại sao, thưa ngài? Tại sao ngài cần suy nghĩ? Ngài không thể sửa chữa thứ kinh khủng đó! Tại sao ngài không xử lý hắn ngay? 

- Ta biết một chút chuyện ở Tuyệt Tưởng Thành. Người Tuyệt Tưởng không thua Liệt Giả mà thua cái gã pha trà đó. – Lục Triều đáp lời – Hắn nói đúng, ta có trách nhiệm bảo vệ ngôi đền, để nó mãi mãi biến mất chứ không phải bị khai quật thêm lần nữa. Ta đã chứng kiến Thời Đại Thủy Triều từ ngày bắt đầu đến khi thằng nhóc Tây Minh chấm dứt nó. Không ai muốn quay lại thời đó, trừ kẻ điên. 

- Nhưng ngài không thể hồi sinh một thứ giết người! – Tiểu Hồ phân bua – Nó trái đạo đức!

- Ta chưa trả lời. Ta cần suy nghĩ. Nhưng nếu phải hồi sinh thanh kiếm, ta sẽ làm. Đừng nói chuyện đạo đức với ta, bé con tóc vàng. Đạo đức chỉ là cái hồ phản chiếu ngọn núi sự thật cao vời vợi. Người ta lên núi thì khó nhưng bơi ra hồ thì dễ. Biết gì không? Trên đỉnh núi đầy phân chim nhưng dưới đáy hồ đầy xác chết. Quay lại đền thờ đón cụ cố trước khi ông ấy nổi cáu. Ngươi hết chuyện ở đây rồi, bé con!

Tiểu Hồ mở miệng cự nự nhưng chữ nghĩa vừa thoát khỏi vòm họng đã bị ánh mắt nghiêm nghị của người gác đền chặn đứng. Ông già không nói lần hai. Cô gái thở dài ngao ngán đoạn vào bếp làm đồ ăn cho cụ cố. Căn nhà lặng thinh, chỉ còn tiếng thở từ người đàn ông đang cân nhắc lựa chọn và tiếng lửa xèo xèo dưới bàn tay cô gái đang bực dọc. Tiểu Hồ tức đỏ mặt tía tai, ngọn Hỏa niệm của nàng cũng đầy thịnh nộ. 

Bấy giờ Tiểu Hồ chợt nhận ra thế giới phép thuật chỉ tồn tại một đỉnh núi và chẳng có mặt hồ nào phản chiếu ngọn núi đó.

[1]: Xem lại Quyển 3 Chương 132. Đấu Thánh đã thỏa thuận với Liệt Giả để giữ lại rẻo Mạn Đà, đất tổ của người Tuyệt Tưởng Thành; đổi lại Liệt Giả được sử dụng kho vũ khí tồn dư ở phía bắc tiểu quốc, nhờ đó mà đủ sức chống lại lực lượng liên quân.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
602,785
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 11: Ngáo ộp


Tiểu Hồ tin rằng phương tiện di chuyển thời hiện đại là một thứ tiện lợi theo chiều dọc, không phải chiều ngang. 

Từ vùng mỏ ô nhiễm, Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ bắt chuyến tàu đêm sang thành phố lân cận rồi hướng về miền đông Bắc Thần quốc bằng phi thuyền, sau lại tiếp tục đi tàu. Tất cả chỉ mất nửa ngày. Nhưng nửa ngày là không đủ cho Tiểu Hồ thích nghi thời tiết lạnh ẩm ở miền đông bắc, trong khi làn da của cô gái mới quen cái bức bối ngột ngạt của Tây Vực Châu. Và lúc nàng đang tỉnh táo để chuẩn bị một chuyến hành trình dài thì miền đông bắc nước này đang say ngủ. Lệch múi giờ thực sự là vấn đề. Cụ Cố Tổ chẳng coi mấy thứ đó vào đâu. Sáng ngụm rượu nhỏ, chiều ngụm rượu to, khỏi cần ăn uống là lão già lăn ra ngáy, thời tiết hay lệch múi giờ cứ thế trôi vào tiếng khò khò. Tiểu Hồ để ý từ ngày khởi hành, cụ cố hiếm khi đụng vào thức ăn, chẳng rõ vì kén chọn hay không cần. Dù sao người già cũng gần tương tự lũ mèo. 

Trì Chú thành – thành phố nơi hai người đặt chân tới có lối sinh hoạt kiểu bà già: đêm xuống là tắt đèn đi ngủ và cáu kỉnh nếu bị làm phiền. Như bà cô soát vé sân ga là ví dụ. Bà cô mập ù, ngáp ngắn ngáp dài vì làm ca đêm, đặc biệt khó chịu khi Tiểu Hồ xuất hiện giữa buổi khuya khoắt. Các bà cô luôn ghét mấy nàng trẻ đẹp như Tiểu Hồ. 

- Về khách sạn? Không biết, ra ngoài kia mà hỏi! – Bà soát vé gắt gỏng khi Tiểu Hồ hỏi có phi thuyền chở về khách sạn hay không – Bộ không đọc biển chỉ dẫn hả? Đây là trạm soát vé, không trả lời chuyện linh tinh! Người đâu vô ý thức! Chữ cũng không chịu đọc!

Sa sả một chặp, bà soát vé dòm dòm Tiểu Hồ lượt nữa, cặp mắt tô lông mày quá đà chăm chú đâu đó phía dưới rồi buông lời đủ cho cô gái nghe thấy. “Quân lố lăng mất nết!” – bà cô lầm bầm. Tiểu Hồ ngơ ngác, sau cảm giác như là ám chỉ chiếc quần bó của mình. “Vấn đề gì?” – Cô gái tự hỏi. Nàng chẳng tìm được thứ nào vừa tiện di chuyển vừa tiện chiến đấu như quần bó. Vả lại thứ quần này luôn xếp đầu bảng những trang phục khuyên dùng dành cho nữ chiến binh, ít nhất là trên dưới mười tạp chí uy tín bình chọn. Tiểu Hồ bất mãn, tủ đồ của nàng có thừa mọi thứ để nặn ra một đứa con gái mất nết lố lăng nhưng tuyệt đối không phải cái quần này. Bất chợt Cụ Cố Tổ vỗ vai nàng: 

- Khỏi về khách sạn. Cứ nghỉ ở đây, đằng nào chúng ta cũng đi sớm. Đừng lằng nhằng với mấy mụ béo. 

Cụ cố nói nghiêm túc, không đùa cợt, xem chừng đã gặp vô khối rắc rối với mấy mụ béo trong quãng đời dài đằng đẵng. Người già ít khi sai, Tiểu Hồ cũng thôi cự cãi. Cô gái bực bội co kéo, chỉnh nắn cái quần che đi mấy cái “lố lăng mất nết” vốn ngốn rất nhiều thời gian luyện tập, kiêng khem khổ sở – những thứ mà đám người thích ăn thả phanh như bà soát vé chẳng bao giờ hiểu. “Biết vậy mặc quần ngắn khoe đùi luôn!” – Cô nàng hậm hực. 

Hai người tới khách sạn con nhộng cạnh phòng chờ, thử thách thân thể trong những căn phòng nhỏ xíu xếp chồng lên nhau và san sát như kho lưu trữ tử thi, đệm cứng ngắc còn chăn mỏng lạnh toát. Trừ phi kẹt tiền hoặc bản tính kẹt sỉ thì chẳng ai muốn lưu lại khách sạn con nhộng, và cũng chẳng nhà ga Bắc Thần nào muốn đầu tư cho một thứ ít lời lãi. Có lẽ Tiểu Hồ và cụ cố là những vị khách duy nhất đang lưu trú. “Tường không cách âm! Vui chưa?!” – Tiểu Hồ gục đầu chán nản. Nàng có thể nghe rõ ràng tiếng sột soạt, tiếng ho hắng khạc đờm, tiếng tu rượu ừng ực dỗ giấc ngủ từ phòng kế bên của Cụ Cố Tổ, trong khi đồng hồ sinh học chưa cho phép nàng chợp mắt. 

Ngần đó vẫn chưa hết khó chịu. Cứ mươi mười phút, ánh đèn từ bên ngoài lại rọi vào nhà ga. Cửa phòng con nhộng không kín, tia sáng cứ thế luồn lách qua khe hở rồi mặc nhiên sục sạo. Tiểu Hồ bực dọc. Quyền riêng tư của nàng đang bị xâm hại. Nhưng kể cả khi nàng được phép bày tỏ điều này thì quân đội Bắc Thần quốc cũng chẳng quan tâm. Bắc Thần đang xung đột với Diệp quốc, quân đội tuần tra ngày đêm nhất là những vùng biên như Trì Chú thành. Bọn họ sẽ rọi đèn nữa, rọi mãi, rọi tới khi kẻ nào đấy phát điên, gây chuyện ngu ngốc để ăn trọn hàng tá đạn súng máy. Lúc ấy, kẻ chết mới được hưởng sự tử tế của Bắc Thần. 

- Sao vậy, nhóc con? Hờ hờ hờ! – Cụ Cố Tổ nghe được Tiểu Hồ hục hặc liền cười mỉa – Ta tưởng mày kiên nhẫn lắm, sao giờ nhăn nhó suốt thế? Chẹp chẹp! Chiến tranh mà, thời nào cũng vậy, làm quen đi. Mặt trận thực sự không phải nơi ác liệt nhất mà nằm ở chỗ yên bình nhất. Mày không chịu đựng được ở đây thì tính vào rừng thế nào? Đừng đùa với rừng già Bắc Thần. Tin ta đi, nhóc con, Thôn Cơ đang ở đâu đó giữa vùng chiến sự, mày cần chuẩn bị tinh thần. Nghỉ ngơi và đừng xị mặt. Rượu không? Cho dễ ngủ? 

Ông già gõ đáy chai vào tường ngăn dội tiếng “cộp cộp” khô khốc. Cụ cố không trêu tức mà nói sự thật. Từ lúc rời Tây Vực Châu, Tiểu Hồ luôn ở trạng thái khó ở và dễ bốc hỏa chỉ vì dăm ba thứ vụn vặt. Nhưng chiến tranh không phải nguyên nhân bởi lẽ cơ thể nàng còn nguyên mùi khói lửa Tuyệt Tưởng Thành, chút bất tiện ở đây chỉ là chuyện vặt. Cơ mà vặt vãnh sẽ trở thành vấn đề nếu cái tôi và sự hiếu thắng không được thỏa mãn – chuyện dễ thấy ở người trẻ như Tiểu Hồ.

- Mày vẫn cú chuyện cũ hả, nhãi con? – Cụ cố lên tiếng, lúc này đã vắt chân nằm khểnh – Thế giới phép thuật là vậy, không phải mấy thứ lãng mạn mà con người chúng bay tô vẽ. Chẹp chẹp! Lục Triều có quyết định của riêng mình, thằng nhóc đó cần làm điều tốt nhất để bảo vệ đền Mộc Thần. Lục Triều có thể đấu tay đôi với hàng nghìn chiến binh, nhưng không thể tay đôi với hàng triệu hoặc hàng chục triệu binh lính Bắc Thần. Tin không, nếu phải dùng một trăm cái cẩu để bốc ngôi đền khỏi lòng đất, người Bắc Thần sẽ lập tức điều động một vạn cái cẩu tới. Quy luật “gấp một trăm lần” của người Bắc Thần đó! Hờ hờ! 

Tiểu Hồ cựa mình. Ngọn lửa của cái tôi và sự hiếu thắng bên trong nàng âm ỉ mấy ngày nay được thể cháy to, lưỡi nóng liếm vào lý trí. Thế giới có nghề cứu hỏa còn cụ cố hành nghề đốt nhà. Cô gái cất lời: 

- Ngài nghĩ ông gác đền chấp nhận thỉnh cầu của Hiệp Dung không? Tiếp tay cho một gã vô đạo đức như thế? 

- Đó là chuyện của thằng nhóc Lục Triều. Nó già khú đế rồi còn đợi người khác chỉ bảo đúng sai? Mà ta cũng đếch quan tâm. Sửa chữa A Sạ Kiếm cũng hay, mà cái đền bị móc lên thì càng vui. – Cụ cố vỗ đùi phanh phách – Mày không biết đâu, nhãi con, tác hại của sống lâu là buồn chán. 

- Nhưng...

- Mày giết người bao giờ chưa? – Cụ Cố Tổ cắt ngang. 

- Có. – Tiểu Hồ trả lời không do dự – Nhưng đây là vấn đề khác!

Cụ cố thở phì phì, lè nhè: 

- Thế thì đừng nói chuyện đạo đức. Tay không sạch thì đừng nói chuyện vệ sinh. 

Nói rồi cụ cố thở pho pho, chẳng mấy chốc đã ngáy phò phò. Tiểu Hồ tức điên, răng trên gặm môi dưới lằn lên những lốt đỏ. Cơ mà ánh đèn sục sạo thêm một lần nữa nhắc nhở nàng rằng cụ cố lại nói đúng. Tây Vực Châu đã lùi về phía sau, cách đây hàng ngàn dặm và thu mình trong màn khói bụi – nó không muốn cũng không cần Tiểu Hồ quan tâm, còn con đường vào rừng rậm lại ở ngay phía trước. Rừng núi chừa lối sống cho người cẩn trọng và ăn thịt kẻ lơ mơ đầu óc. Tuy biết là thế nhưng tâm trí Tiểu Hồ vẫn hãm trong khói mù. Khói của hiếu thắng, của cái tiếc nuối khi không tặng Hiệp Dung một quả đấm tối đa vận tốc, của nỗi bức xúc vì một tạo vật trái đạo đức có khả năng sắp tái sinh. Tiểu Hồ còn trẻ, nàng thích mọi chuyện rành mạch hoặc kết quả rõ ràng. Thế nên đoạn kết lửng lơ ở Tây Vực Châu làm nàng đứng ngồi không yên. 

Phi thuyền quân đội di chuyển qua nơi khác, ánh đèn loa lóa bỏ đi không một lời xin lỗi, để lại Tiểu Hồ với căn phòng chật hẹp lạnh ngắt. Khó mà ngủ được khi cái lạnh bò lân rân dưới lưng, chưa tới nỗi bức xúc nhưng thừa nỗi khó chịu. Cái đệm đã trở thành hòn đá chứ không còn là chính nó – một thứ có thể nằm và ủ ấm. Cô gái liền trở dậy, ngón tay day day thái dương. Nàng cần tìm hoặc làm cái gì đó để giết thời gian. Đồng hồ sinh học không cho nàng ngủ và cũng chỉ có ma mới ngủ được khi ngay bên kia bức tường là Cụ Cố Tổ. “Khò, chẹp chẹp! Khò! Chẹp chẹp! Khò! Grừ! Khò” – Cụ cố vừa ngủ vừa nghiến răng. 

Không để cái lưng thêm khổ, Tiểu Hồ rời phòng con nhộng rồi sang phòng chờ nhà ga, chọn cho mình một chỗ ngồi trên hàng ghế nhựa và trông ra sân ga qua một lớp cửa kính ám bụi. Nhà chờ không bóng người, Tiểu Hồ lọt thỏm giữa hàng ghế. Cô gái tìm ảnh phản chiếu của mình trên cửa kính nhưng chỉ thấy bụi bẩn đóng chạc. Đêm tối, đèn điện lại lờ mờ, con người không tìm được chân diện của mình. Tiểu Hồ chợt nhớ từ ngày đại thánh sứ Tây Minh qua đời, nàng chưa một lần tự ngắm mình trong gương. “Có xấu hơn không? Bị mọc mụn không? Lâu lắm rồi chưa kẻ mắt, cũng chẳng diện quần áo nữa!” – Cô gái thở dài. 

Ngồi mãi mà chẳng buồn ngủ, Tiểu Hồ lục ba lô. Bàn tay nàng tìm được dăm món giết thời gian. Một quyển sổ dày ghi đủ những thứ về Bát Biến – món quà từ Lục Triều. Thừa biết cô gái lấn cấn không thôi chuyện về Hiệp Dung nên người gác đền tặng quyển sổ như một cách xoa dịu. Nhưng giờ Tiểu Hồ không có hứng với chữ nghĩa, bèn chuyển qua món khác. Bản đồ, điện thoại, máy chiếu ba chiều, cẩm nang địa lý... bất cứ cái gì cũng có thể kéo hoàng hôn đến nhanh hơn, nhưng không cái nào phù hợp với tâm trạng Tiểu Hồ. Khó mà kiếm được một thứ vừa làm dịu mát tâm trạng bốc hỏa vừa không khuấy tung không gian tĩnh lặng này. 

Ngần ngừ mãi, nàng nhấc điện thoại gọi Liệt Trúc. Tính theo múi giờ bên Phi Thiên, Liệt Trúc vừa tan trường. Tiểu Hồ không chắc con bé sẽ nghe máy. Ngày nàng rời khỏi Phi Thiên thành, Liệt Trúc khá lạnh nhạt. Trẻ con muốn mọi thứ vận hành theo sự ích kỷ của chúng và không cần lời giải thích cho bất kỳ sự không thỏa mãn nào. Ở một khía cạnh nào đó, lũ trẻ là biểu trưng của sự ác độc mang tính loài người – chúng độc ác và ích kỷ ngay từ khi mới sinh ra. Nhưng Tiểu Hồ không nhọc công giải thích, nàng chỉ muốn gọi điện hỏi thăm con bé. 

Mọi chuyện diễn ra như Tiểu Hồ nghĩ, đứa nhỏ không bắt máy. Nàng mường tượng cảnh con bé nằm trên giường và nhìn điện thoại nháy đèn liên hồi, nửa muốn trả lời nửa không sau lại úp mặt xuống gối cùng tai nghe nhạc. Liệt Trúc không muốn người lớn nghĩ rằng mình mềm yếu, hoặc đơn giản là nó quyết không chịu thua thi gan. Tiểu Hồ thở dài rồi cất lời: 

- Đang làm gì thế, em gái? Ngủ hả? Ăn chưa? Đừng ăn nhiều trứng quá, nó sẽ làm em phát phì, khó tập luyện lắm. Ở trường thế nào? Học hành vẫn tốt chứ? Đừng lười biếng, chị vẫn theo dõi sổ điểm từ nhà trường đấy! Đừng chơi với bọn lêu lổng và tuyệt đối tránh xa những thứ mà chúng đưa cho em. Có lẽ em nghĩ chị lắm lời, nhưng... cứ tưởng tượng chúng đưa cho em chất kích thích, những thứ hủy hoại đám người thèm khát vị trí thánh sứ hoặc hộ vệ thánh sứ ở mỗi kỳ thi tuyển. Cha đã từng cho em thấy hậu quả những vụ đó, nên hãy cẩn trọng, Liệt Trúc. Còn gì nữa... à, hãy nghe lời Mộng Dụ, chị ấy rất tốt dù rằng có lúc hay quên đường hoặc đãng trí, chuyện bình thường ở mấy cô ngực to. Chúng ta, những cô gái ngực vừa sẽ chẳng bao giờ hiểu họ, nhỉ? Nhưng hãy nghe lời Mộng Dụ, cả ngài Bất Vọng nữa. Nghe lời người lớn là cái gì đó rất khó chịu, nhưng em phải biết nghe khi cần thiết. Vậy nhé... chị ở đây vẫn bình thường, không có gì nguy hiểm, chỉ như đi du lịch, đừng lo lắng cho chị. Vậy... khỏe nhé, Liệt Trúc, chúng ta là chị em, là gia đình, chúng ta không phải lũ nhện. Nhớ nhé?! Yêu em rất nhiều!

Tiểu Hồ tắt máy, lòng khấp khởi hy vọng những lời nhắn nhủ từ tâm can sẽ lay động Liệt Trúc. Nhưng chung quy con bé im lặng. Nó muốn thi gan và muốn là kẻ chiến thắng. Tiểu Hồ phải bỏ dở công việc, quay về Phi Thiên rồi vỗ về an ủi xin lỗi – đó là mục tiêu của con bé. Tiểu Hồ vừa bật cười vừa rối trí vì chẳng biết đối phó ra sao với đứa nhỏ. Nàng hung dữ và thừa cách đối phó người ngoài nhưng chẳng bao giờ nghĩ ra giải pháp với người thân thiết. Nàng yêu gia đình, đó là lý do. 

Nhắc chuyện người thân, tâm trí Tiểu Hồ hiện lên nhiều người cùng đủ loại cảm xúc. Mơ hồ về người cha nuôi nghiêm khắc, tiếc nuối cho ngài đại thánh sứ, vui vẻ vì công chúa Lục Châu, sau cùng là nhớ nhung một gã trai. Dạo gần đây, nỗi nhớ chẳng ngày nào bỏ quên nàng. Nó ghé thăm thường xuyên và không dưới hai lần một ngày, mà luôn xuất hiện đột ngột hoặc theo cách ít ngờ tới. Vài ngọn lá bay bay, vài cơn gió thoảng, hoặc đơn giản là khi tâm trí đang rảnh rang thì nhắm mắt đưa chân theo một lối oằn tà vằn nào đó: chỉ như thế cũng khiến Tiểu Hồ nhung nhớ. Giờ này hắn làm gì? Ở đâu? Đang chạy trốn hay yên thân tại nơi bí mật? – Tiểu Hồ thắc mắc mãi cho tới khi đầu nàng gục xuống rồi thiu thiu ngủ. Trong giấc ngủ, nàng lại thấy vài hình ảnh ở đất thánh Hỗn Nguyên. 

- Này, cô gái, muộn rồi, chúng ta có việc!

Cái vỗ vai cùng giọng nói làm Tiểu Hồ tỉnh giấc, nửa mê nửa tỉnh. Nàng nhớ mình vừa cùng Vô Phong sắm sửa vài đồ đạc, ăn uống ở một nhà hàng sang trọng rồi cười đùa trên những thảm cỏ nhân tạo chìa ra từ mái nhà cao tầng. Sau đấy vì quá mệt, Tiểu Hồ ngủ gục trên đùi tên tóc đỏ; có lẽ hắn đang gọi nàng để quay về. Nhưng đó chỉ là giấc mơ, mà giấc mơ luôn kết nối một cách hoàn hảo với thế giới thực. Quả là có người vỗ vai Tiểu Hồ cơ mà là một bàn tay khác, một người khác với vóc dáng cao lớn, gò má đầy tàn nhang cùng mái tóc vàng úa. Cô gái thọc tay vào túi áo định rút kiếm nhưng người đó xua tay: 

- Bình tĩnh! Em quên tôi sao? Chúng ta từng gặp nhau ở Tây Vực “Chau”!

Nghe giọng nói lơ lớ, Tiểu Hồ ngờ ngợ, sau nói: 

- Anh chàng người Băng Thổ! Tên... xin lỗi, tôi không nhớ tên anh... nhưng tại sao anh ở đây? 

- Tôi tên Ly Đốc, người phục vụ Cụ Cố Tổ. Em vô tâm quá! – Gã nọ cười – Chuyến đi sắp tới chẳng tốt lành tí nào nên cụ cố gọi tôi trợ giúp. Năm giờ sáng rồi, tàu sắp đến, ta nên đi ngay. 

Tiểu Hồ dụi mắt, tay xách ba lô tất tả chạy theo gã cao lớn người Băng Thổ. Nàng hỏi gấp: 

- Tại sao cụ cố gọi anh? Chúng tôi đang có việc riêng, tại sao anh đến? 

- Cụ cố yêu cầu thì tôi phải đáp ứng. – Ly Đốc nói – Tôi không biết hai người tìm kiếm cái gì trong rừng nhưng đó là khu vực chiến sự. Chẳng tốt lành tí nào! Bắc Thần và Diệp quốc đấu pháo nhau, lính đánh thuê tự do đi lại, bọn thổ phỉ cướp bóc mới nổi lên, lũ săn tiền thưởng, bọn thu thập tin tức... Chúng ta không cần quan tâm thú hoang vì bọn chúng chạy hết rồi, cả khu rừng chỉ toàn người là người thôi. Nhưng yên tâm, tôi đã lo liệu kha khá. Ít nhất là chúng ta sẽ an toàn nếu đám người – mà chúng ta lỡ chạm mặt – còn biết phải trái, tin vui là theo tôi điều tra, ở đó không có người rừng. 

Gã người Băng Thổ cười tếu táo. Tiểu Hồ chẳng có lý do để nghi ngờ gã. Nếu không nhờ Ly Đốc, nàng và cụ cố chưa biết chừng nào mới rời khỏi Tây Vực Châu. Vả lại nàng cũng an tâm hơn khi được một Thập Kiếm hỗ trợ. Nàng từng gặp Tòa Mỗ – một thành viên Thập Kiếm, và dù rất ghét thói phô trương trịch thượng của ông ta nhưng nàng thừa nhận Thập Kiếm rất khác, hoàn toàn khác so với chiến binh thông thường. 

- Nhân tiện, em đã nghe về thành viên mới của Thập Kiếm chưa? Chà, em sẽ bất ngờ đấy! – Ly Đốc tiếp lời – Chiến Tử, hộ vệ của công chúa Lục Châu đã gia nhập Thập Kiếm. Em cũng là hộ vệ của công chúa nên quen anh ta, đúng không? Chà, tôi rất muốn thử sức với anh chàng đó, em sắp xếp được không? 

- Tôi không giúp được. – Tiểu Hồ trả lời – Chiến Tử không thách đấu, anh ta chiến đấu. 

- Vậy chán nhỉ? – Ly Đốc vòng tay ôm đầu vẻ thất vọng – Em biết đấy, chúng ta là chiến binh mà, không thể ngồi yên một chỗ được! Chỉ những công việc khó, những chuyện thách thức mới làm chúng ta thấy mình có giá trị. Tưởng tượng một ngày kia, thế giới này hòa bình và chẳng cần chiến binh nữa xem? Chán chết!

- Anh thích chiến tranh? 

- Một phần nào đó! – Ly Đốc cười – Con người nhớ những cuộc chiến tranh chứ chẳng quan tâm những phát minh. Mấy ai nhớ người thợ rèn kết hợp kiếm với máy móc? Mấy ai hay bác sĩ đầu tiên phẫu thuật cấy ghép bộ phận cơ sinh học? Và tôi dám cá không ai biết người phát minh kim loại co dãn khiến thế giới này thay đổi hoàn toàn...

- Người đó là Cùng Tháp, kỹ sư người Hảo Vọng quốc, một đất nước nằm tại cực nam lục địa Thượng Cổ. – Tiểu Hồ đáp lời – Bốn trăm năm trước, ông ấy phát minh kim loại co dãn, chính phủ sở tại trả ông ấy một thùng vàng. Cùng Tháp chết trong nợ nần túng thiếu, nhưng con cái ông ấy giờ là quý tộc. 

Bộ mặt gã trai thừ ra như có vật nặng treo dưới cằm. Rõ ràng màn diễn thuyết của gã bị cắt ngang theo cách không dễ chịu, hệt một trang sách bị xé đúng vào đoạn quan trọng nhất. Nhưng giấy rách có thể dán. Ly Đốc vá víu lại bài diễn thuyết:

- Suy cho cùng là ít người để tâm chuyện như vậy! Nhưng em phải đồng ý với tôi rằng chúng ta biết chiến tranh nhiều hơn! Thời Đại Thủy Triều, Chiến Tranh Tài Nguyên, thời đại pháp sư du đãng, kỷ nguyên kiếm sĩ lang thang, Trận Sông Đỏ... đám con trẻ có thể kể vanh vách người ta chặt đầu nhau thế nào. Vậy tại sao một kiếm sĩ như tôi phải chán ghét chiến tranh? Tại sao phải chán ghét cái nơi mà mình được quyền chứng tỏ mình? Nếu không còn chiến đấu hay chiến tranh, người như tôi hay như em thất nghiệp mất! 

- Đừng nghĩ ai cũng như anh! – Tiểu Hồ xẵng giọng – Anh là Thập Kiếm nhưng anh biết gì về chiến tranh? 

- Ồ, ồ, tôi biết nhiều hơn em tưởng đấy! Bởi vì tôi là người Băng Thổ. Lịch sử phương bắc xây nên từ Biệt Liên Đại Đế, vó ngựa, sắt và máu. Em nghĩ tôi không biết? 

- Tôi không quan tâm. Mà sao anh xưng “em” nhiều thế? – Tiểu Hồ hất hàm – Ai là “em” của anh? Chú ý ngôn ngữ!

- Vì tôi lớn tuổi hơn em... – Ly Đốc cúi người –...và vì em là cô bé nấm lùn. Vậy đủ chưa? 

Gã nọ nhìn Tiểu Hồ bằng đôi mắt xanh lục đầy sự tự mãn. Nó không đáng ghét hay mang tính hăm dọa, chỉ là cái tự mãn của một gã đàn ông có năng lực và có tự tin vào điều mà mình đang nói. Ít nhất là nó không làm Tiểu Hồ khó chịu như lúc gặp tên đầu sói Hiệp Dung. Nhưng thấy Ly Đốc nhìn quá lâu, cô gái liền xua tay tỏ ý không muốn những suy nghĩ bên trong cái nhìn của gã trai biến đổi cả chất và lượng. Phụ nữ vốn nhạy cảm. 

Hai người trở lại khách sạn con nhộng rồi lôi Cụ Cố Tổ sặc mùi rượu lên chuyến tàu điện tới vùng ngoại vi cách Trì Chú thành khoảng năm mươi cây số. Tàu vắng người, các toa hầu hết trống rỗng, khác hẳn cảnh tượng “gà qué quang quác, heo ụt ịt từ sáng đến trưa và người người cãi lộn giành chỗ ngồi” – Ly Đốc chia sẻ một ít trải nghiệm quá khứ với Tiểu Hồ rồi dài người tận hưởng sự rộng rãi. Có thể giải thích là mới năm giờ sáng nên ít người đi, nhưng thời gian không phải vấn đề, vấn đề là vùng ngoại vi cận kề khu vực chiến sự nên cấm dân thường. Chuyến tàu đi vùng ngoại vi giờ chẳng khác tàu chở ma. 

Nhưng ma thì không có tiếng bước chân. Thi thoảng Tiểu Hồ thấy vài hành khách đi ngang qua chỗ mình, hoặc vừa mới lên hoặc chuẩn bị xuống bến. Họ đều vận quân phục, số khác khoác đồng phục quân đánh thuê, có người mặc thường phục chẳng rõ thuộc phe nào. Tất cả đều mang vũ khí, thậm chí chẳng ngại ngần phô trương điều đó. Những kẻ đi qua đều tò mò về nhóm Tiểu Hồ, họ không thấy sự ăn nhập nào giữa một cô gái phương tây, một gã to lớn phương bắc và một ông già khú đế đương ngáy khò khò. Tiểu Hồ đáp lại bằng ánh mắt chẳng mấy thân thiện. Ly Đốc cười: 

- Ở đây ai cũng thích nhìn kẻ khác, kệ đi. Giờ chúng ta phải thay đổi một chút, cứ mặc mấy thứ này là bọn họ tự khắc bỏ qua... – Ly Đốc lôi ra những chiếc áo bọc trong túi ni-lông –...ngoài chiến trường nó cũng hữu dụng lắm. Nhưng đừng quá phụ thuộc. Em biết đấy, đạn có đầu nhưng không có mắt, kiếm có lưỡi nhưng không có tai.

Tiểu Hồ bóc túi ni-lông, trải ra một áo khoác mỏng màu trắng, bên vai thêu chữ thập đỏ cùng ba tòa thành không trung. Nó là đồng phục của đội hỗ trợ nhân đạo từ Đại Hội Đồng. Với đồng phục này, nhóm Tiểu Hồ có thể tự do đi lại giữa chiến trường, trừ phi gặp lũ thổ phỉ hay bọn mù văn hóa chẳng hiểu rằng đội hỗ trợ nhân đạo Đại Hội Đồng hưởng quyền bất khả xâm phạm. Tiểu Hồ không biết Ly Đốc đào thứ này từ đâu ra nhưng cũng không truy vấn. Cụ Cố Tổ hay đám phục vụ ông già luôn hiệu quả một cách kỳ quặc lẫn khó hiểu. 

Qua bốn mươi phút, tàu cập bến vùng ngoại vi. Nơi đó là một vùng đất pha trộn giữa rừng xanh và những quả núi. Có điều người Bắc Thần lẫn dân bản địa không gọi “quả núi”, bản thân Tiểu Hồ cũng thấy chúng không giống thế. “Cột núi” xem chừng là cái tên thích hợp vì chúng vươn lên khỏi rừng, dựng đứng, vách trơn nhẵn, nằm san sát nhau tựa tường thành. Người ta kể rằng vào thời phi cơ giới, một vị hoàng đế Bắc Thần đã ra lệnh cải tạo khu vực, san phẳng mọi chướng ngại chắn hướng đông bắc rồi đẽo gọt toàn bộ núi đá, biến chúng thành một bức tường phòng thủ trải dài từ hướng đông nam mờ mịt lên tận mạn bắc mù sương, ước chừng hàng trăm cây số. Người ta cũng kể rằng khi vùng đất xa xôi phía đông bắc chưa có tên và còn chia năm xẻ bảy bởi những dòng họ hùng mạnh, họ – tổ tiên người Diệp quốc sau này – thường xuyên tấn công vào Bắc Thần quốc, ngay tại bức tường thành tự nhiên đó. Họ thất bại vô số, những lần vượt qua chỉ đếm trên đầu ngón tay nhưng mỗi lần như thế là chiến thắng kéo dài cả trăm năm, còn người Bắc Thần vất vả tìm lại độc lập. Không ai nhớ vị hoàng đế năm xưa đặt danh xưng gì bởi mọi tài liệu đã biến mất sau thời đại phi cơ giới, giờ người ta gọi tường thành là Thiên Lý Huyệt Thi. 

- Dưới chân tường thành đầy xương người, cũng phải thôi, họ đánh nhau lâu mà! – Ly Đốc giải thích tên gọi tường thành cho Tiểu Hồ – Ngày xưa lấy đâu ra máy xúc? Nên cứ để quạ và thú hoang no căng bụng, đất sẽ nuốt những thứ còn lại. Em thấy đất đai xanh tốt chứ? Nhiều dinh dưỡng mà!

Lúc này nhóm Tiểu Hồ đã rời bến tàu và xếp hàng chờ thông quan. Tiểu Hồ nhóng mắt lên cao, thấy nhiều ngôi nhà mái cong nằm lẫn giữa cây cối trên con đường mòn ngoằn ngoèo quanh các cột núi. Thời hiện đại, Thiên Lý Huyệt Thi không còn giá trị quân sự nên người dân lập vài thị trấn nhỏ trên tường thành. Giờ đây quân đội Bắc Thần trưng dụng chúng để đồn trú và đặt pháo ở cao điểm. Quốc kỳ màu cam với nữ thần thân rắn cắm khắp cột núi, rủ xuống dưới cơn mưa phùn buổi sớm. Thi thoảng tiếng pháo nổ đùng làm Tiểu Hồ giật mình tưởng có chiến sự, nhưng đó chỉ là bắn thử nhằm đo khoảng cách tác xạ. Chưa có cuộc chiến chính thức nào tại Thiên Lý Huyệt Thi nhưng bom đạn đã mở đường cho chiến trường. 

Tiểu Hồ ngoảnh đầu nhìn quanh, nhận ra từng mét vuông nơi đây chẳng còn mấy dân thường do hầu hết đã sơ tán, nhường vùng đất cho chiến tranh, khí tài quân sự và những kẻ biết sử dụng vũ khí. Ngoài quân đội chính quy Bắc Thần còn có lực lượng đánh thuê với áo khoác xanh dài quá thắt lưng. Ngó lên ve áo đám này, nàng nhận ra phần nhiều bọn họ đeo huy hiệu hình quan tài đóng dấu chữ thập – biểu tượng của Siêu Sinh Giáo Đoàn. Hồi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, nàng tiếp xúc với họ đôi ba lần, cảm giác họ giống thầy tu hơn là chiến binh. Nhưng đánh thuê là đánh thuê và đám thấy tu này biết cách giết người – Tiểu Hồ khẳng định điều đó. 

Nhóm Tiểu Hồ không mất nhiều thời gian. Chỉ một mảnh giấy từ tay Ly Đốc, lính Bắc Thần không hỏi han cũng chẳng truy xét, chỉ nhìn ba người một chút rồi cho thông quan. Cũng giống lính Tây Vực Châu, binh lính ở đây đều sốt xình xịch khi bắt gặp Cụ Cố Tổ. Tiểu Hồ không chắc là mảnh giấy hay chính cụ cố làm mọi việc đơn giản hơn. 

Rời khỏi cửa kiểm soát, ba người rảo bước trên đường mòn hằn sâu vệt lốp xe cơ giới và quánh bùn bởi trận mưa đêm hôm trước, sau đó tiến vào Thiên Lý Huyệt Thi. Năm xưa, người Bắc Thần đã xây dựng nhiều đoạn thành nhỏ liên kết các cột núi đồng thời sử dụng nó như lối đi lại. Chúng thấp hơn những cột núi nhưng đủ cao để người đi trên đó trông ra vùng đất đông bắc xơ xác vì đạn pháo từ hai bên nã xuống. Xa xa, qua dòng sông ẩn hiện giữa làn sương mù là lãnh thổ Diệp quốc. Ngày trước người Bắc Thần có thể qua sông, tiến sang bên kia khoảng vài trăm mét cũng không vấn đề. Người Diệp quốc cũng vậy, thậm chí tự do vào thị trấn cột núi mà không cần xuất trình giấy phép. Giờ mọi chuyện đã khác, cảnh tượng đó không còn và chẳng rõ bao nhiêu năm nữa mới tái hiện. 

Mang danh hỗ trợ nhân đạo, nhóm Tiểu Hồ đi theo một toán lính người Bắc Thần quốc. Họ mặc áo rằn ri xanh nâu, vai mang súng và kiếm, lưng gùi ba lô lẫn quân trang, vai trái gắn huy hiệu quốc kỳ Bắc Thần. Tiểu Hồ không thể nhìn rõ gương mặt từng người phần vì ánh đèn bên trong tường thành tù mù, phần vì khói thuốc súng đã bám chạc khuôn mặt họ, hằn những mảng đen bóng. Họ đi chậm, chừng như muốn kéo dài thời gian để hớp không khí trong lành trước khi quay lại chiến trường đầy mùi bom đạn. Tiểu Hồ theo chân họ băng qua những lối đi rộng đượm mùi cổ xưa, những lối đi hẹp chăng đầy dây điện thời hiện đại, những bậc đá xước xát qua hàng trăm cuộc chiến. Hơn sáu giờ sáng nhưng trời chưa hửng, mưa phùn chưa dứt. Tiểu Hồ chợt nghe ai đó trong toán quân cất tiếng hát. Lính thích hát – như thể một định lý. Chẳng có lời giải thích chính xác nào cho việc này. 

Hạ dài lê thê, đông trường tái tê

Xuân giăng nẻo mê, thu chắn lối rẽ

Mẹ ơi con về

Ngày đi cắt tóc, tay nải vai áo

Ngày đi cắp giáo, vì mộng đế vương

Mẹ ơi con về

Mẹ ơi con về...

Thẻ đeo chân chiêu, thân bọc trong chiếu

Bạc nén treo tay, rọi ánh tà chiều

Mẹ ơi con về

Nhưng...

Mẹ ơi, xin đừng gọi tên

Vì Ngáo Ộp đến

Từ rừng sâu thẳm

Nơi không miếu đền

Mẹ ơi, xin đừng gọi con

Vì Ngáo Ộp đón

Linh hồn con đi

Xuống nơi tăm tối

Không có đất chôn

Mẹ ơi con về, nhưng đừng gọi tên

Mẹ ơi con về, xin đừng gọi tên...

Mải nghe bài hát, Tiểu Hồ không nhận ra toán lính đã xuống tầng dưới. Thay vì đi tiếp lên phía bắc, họ dừng chân ở cánh cổng dẫn ra chiến địa hướng đông bắc. Nhóm Tiểu Hồ sẽ bắt đầu từ đó, lần tìm giữa khu rừng nham nhở có thể hứng chịu đạn pháo hoặc bom trải thảm bất cứ lúc nào. Cụ Cố Tổ ngáp dài ơ hờ trong khi hai người trẻ tuổi thở không ra hơi. Chiến tranh có thể lấy mạng bất cứ ai, không kể người thường hay Thập Kiếm. Ly Đốc thì thầm: 

- Rốt cục thì em muốn tìm cái gì ngoài đó, Tiểu Hồ? 

Tiểu Hồ không trả lời nhưng tâm trí nhớ lại đền thờ Mộc Thần tăm tối. Khi đó nàng cùng Lục Triều mang thức ăn cho Cụ Cố Tổ...

*

* *

Sau cuộc gặp chóng vánh với Hiệp Dung, người gác đền cùng Tiểu Hồ trở lại ngôi đền. Hai người rảo chân, không dám phí sức lực trò chuyện, chỉ muốn mau mau chóng chóng đến nơi trước khi cụ cố phát khùng. Tiểu Hồ dám chắc “đói” là lý do dễ khiến lão già khú đế nổi cơn điên nhất. 

Nhưng mọi chuyện trái với suy đoán của nàng. Khi tới nơi, cô gái nhận ra cụ cố ngồi giữa trận đồ Bát Biến, tay chống cằm còn ánh mắt đăm chiêu trên mặt đất. Không biết vì lửa hay cái gì mà trận đồ cháy gần hết, chỉ để lại một đồ hình gồm ba vạch thẳng liền mạch, không đứt đoạn. Tiểu Hồ lẩm nhẩm, nhớ rằng ba vạch này tượng trưng cho “Trời” trong Bát Biến. Người gác đền lên tiếng: 

- Ngài đã xong? 

- Đã xong. – Cụ Cố Tổ xác nhận – Đúng là Thôn Cơ đang che giấu cái gì đó. Con ranh xóa sạch mọi dấu vết phép thuật làm ta không bói được, trận đồ loạn xị hết! Ta không biết nó từng làm cái gì ở đây, nhưng ta thử bói xem nó đến “vì mục đích gì?” thì được một biến thể. Thôn Cơ có thể xóa dấu vết phép thuật nhưng không thể xóa tâm địa của mình. 

Lục Triều nhìn đồ hình “Trời”, nói: 

- Chỉ còn một cửa, vậy là tự thân nó ghép lại thành một biến thể. Biến thể đó gọi là “Kiền”, thứ cơ bản nhất trong sáu mươi tư(64) biến thể. “Kiền” là trời, là vua, là đứng đầu. Vậy... Thôn Cơ tìm kiếm cái gì? 

Cụ Cố Tổ mở bộ bài một trăm linh tám lá, rít một hơi tẩu thuốc rồi nhả khói xanh tạo thành bản đồ Tâm Mộng. Lão gọi Tiểu Hồ đến xáo bài đoạn trả lời: 

- “Kiền” là đạo, là khởi đầu, là cái rốn sinh ra muôn loài, nhưng cũng hàm nghĩa về một đỉnh cao nằm ngoài bàn tay con người. Mày nói rằng hai mươi năm nay, Thôn Cơ thường xuyên đến đây cùng một bà già phỏng? 

- Thưa, đúng thế. – Người gác đền đáp – Nhưng ý ngài là gì? 

Tiểu Hồ xáo bài đủ chín lần. Cụ cố bốc ra từng bộ chín lá, đập tay xuống đất, các lá bài bay lên vẽ bản đồ sao trên bản đồ Tâm Mộng. Những vì sao sáng nhất chỉ về vùng biên giới giữa Bắc Thần quốc và Diệp quốc. Đó sẽ là điểm đến kế tiếp của Tiểu Hồ và cụ cố. 

- Vậy sau hai mươi năm, con mụ già đó vẫn chưa chết hả? – Cụ cố tiếp lời – Con mụ đấy là ai mà khiến Thôn Cơ nhọc công vậy? Đừng quên Thôn Cơ là người thế nào. Tin ta đi, Mắt Xanh, con ranh ấy bẩn tính hơn ta nhiều!

- Ngài ám chỉ điều gì? – Lục Triều nghi hoặc. 

Cụ cố chép miệng: 

- Kéo dài sự sống, có thể là bất tử. Con ranh ngu ngốc! Mộc Thần cho chúng ta cuộc sống dài lâu chứ không có nghĩa là cho chúng ta bất tử. Nếu muốn bất tử, nó có thể hỏi ta, sao lại hỏi Mộc Thần?! Chẹp chẹp! Mà thôi, tìm nó trước! Đi thôi, con nhãi tóc vàng! – Lão già quay sang Tiểu Hồ – Chúng ta đến biên giới, nhớ mang theo tiền và cẩn thận Ngáo Ộp. Cái con khỉ, tại sao lại là ở đó? Ở đó có Ngáo Ộp! Con ranh Thôn Cơ không biết sợ à?

*

* *

Ban đầu Tiểu Hồ nghĩ cụ cố hù dọa mình cho vui, dạo này ông già thích trêu chọc Tiểu Hồ làm thú tiêu khiển. Nhưng sự thật là cụ cố không dọa ai. Dường như có những truyền thuyết không phải do con người sáng tác. 

- Ở đây có Ngáo Ộp không? – Tiểu Hồ hỏi khẽ. 

Ly Đốc ngoảnh đầu nhìn các binh lính Bắc Thần. Họ nhìn lại gã bằng gương mặt sạm đen cùng đôi mắt trắng dã trơ trơ vì nhiều đêm không ngủ, hoặc là không dám ngủ. Gã phương bắc bật cười: 

- Ma quỷ hay Ngáo Ộp cũng phải sợ bom đạn. Chúng ta nên sợ người chứ không cần sợ thần thánh ma quỷ.

Cánh cửa dẫn ra chiến địa bật mở, he hé một cái khe vừa đủ cho toán lính cùng nhóm Tiểu Hồ bước qua. Vùng chiến sự chào đón họ bằng sương mờ lẫn mưa phùn. Nó ôm ấp con người một cách thịnh tình, chừng như muốn họ ở lại với mình và không bao giờ cho họ trở về. 
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom