Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Lật Mở Thiên Thư

Lật Mở Thiên Thư
Tác giả: Đường Tiểu Hào
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Người dịch: Trần Hữu Nùng

Một con người là kỳ tài về phục chế, chữa trị, tái tạo.

Một cuốn Thiên thư ghi chép đầy đủ về bản chất của tất cả sự vật trên thế gian.

Phó Thanh có trong tay cuốn kỳ thư tổ tiên truyền lại, cuốn kỳ thư khiến cho mấy thế hệ nhà Phó Thanh phải tan tác.

Giáo sư Chung, rồi người đẹp bí hiểm Thạch Bình Nhi xuất hiện.

Đường Tiểu Bạch, Mông Nhân - bạn thân của Phó Thanh ngẫu nhiên gặp một nhân vật kỳ lạ có khả năng tái tạo, mô phỏng giống hệt người khác khiến cho các câu chuyện ngày một trở nên rối tung lên.

Lại một Tập đoàn X lao vào thám hiểm tìm kho báu.

Tất cả cuốn vào một dòng xoáy truy tìm kho báu của những người trẻ tuổi chứa đựng vô vàn sự kỳ bí, khiến cho Thiên thư ngày càng trở nên kỳ ảo.

Và rồi từ đó một bức màn bí mật dần được vén lên, một tổ chức bí mật từ đời Thanh lộ ra ánh sáng...

Liệu Thiên thư có chứa đựng những bí mật về trường sinh bất tử thật không? Hay là nó ẩn chứa những bí mật về các ngôi mộ cổ lừng danh Trung Quốc và kho báu trong đó?

***

Được ví như Mật mã Tây Tạng, thậm chí có phần nổi hơn. (Tế Như)

Cuối thu sang đông, thời tiết vẫn vô cùng oi bức, có những sự việc có vẻ như đơn giản nhưng thực tế lại rất phức tạp. Nếu muốn nghiên cứu nó, e sẽ phải tốn rất nhiều thời gian mới có thể biết được kết quả. (Đường Tiểu Hào)

Tác giả

Bút danh: Đường Tiểu Hào
Giới tính: Nam

Tứ chi lành lặn, bộ não phát triển bình thường.

Yêu tổ quốc, yêu cuộc sống. Chỉ thích viết tiểu thuyết, không có sở thích gì không hay.

Các tác phẩm của Đường Tiểu Hào đều có nội dung lành mạnh, nỗ lực vươn lên, phù hợp với các độc giả mọi lứa tuổi (nếu là độc giả dưới 5 tuổi, cần có phụ huynh hướng dẫn đọc).
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 1-1: Lời Nói Đầu


Mùa đông năm tôi lên một tuổi, ông nội tôi ốm nặng, họ hàng ở quê ra nhắn rằng, ông tôi nằng nặc đòi gặp tôi bằng bất cứ giá nào. Hôm đó tôi đang bị sốt cao đã hai ngày trời, đi viện truyền dung dịch rồi mà vẫn chưa đỡ. Nhưng ông tôi đã nhắn như thế thì cha tôi không thể không vội đưa tôi về quê. Lúc lên đường trời bỗng mưa rào, cha tôi nhớ lại rằng mùa đông thì hiếm khi có mưa to đến thế. Hơi vất vả nhưng rốt cuộc cũng về đến quê, gần như toàn bộ họ hàng thân thích đều đang có mặt. Ông tôi nằm trên giường ở trong buồng, cha tôi bế ngay tôi vào với ông, và chỉ lát sau thì ông tôi tắt thở… Cũng thật lạ lùng, ngay sau khi ông tôi qua đời thì tôi khỏi sốt.

Về sau, một vài người già nói rằng, đó là ông trời để cho hai ông cháu tôi tranh sinh tử, và ông tôi đòi gặp mặt tôi tức là ông có ý muốn nhường mệnh sống cho tôi, nếu không, tôi cũng chẳng sống nổi mấy bữa nữa.

Ông Lưu thầy bói là người chọn đất mai táng cho ông tôi. Hôm chôn cất ông tôi, tôi đang được mẹ bế, ông Lưu nhìn tôi rất lâu rồi nói ngày giờ tháng năm sinh của tôi, sau đó bảo mẹ tôi rằng: “Ngày giờ sinh của thằng bé này bản mệnh rất vững, đời nó luôn vấp váp nhưng vẫn là mệnh được hưởng vinh hoa tốt đẹp, luôn có quý nhân phù trợ; mệnh nó có vấn đề khắc thê, sau này lấy vợ nên tìm một cô gái cũng có mệnh vững như nó thì mới yên.”

Tôi chẳng rõ ông Lưu thầy bói nói có đúng không, chỉ biết kể từ khi đi học, tôi luôn luôn rất suôn sẻ thuận lợi nhưng rất hay gặp tai nạn lặt vặt, và luôn được người đứng ra giúp đỡ hóa giải cho. Sau khi tốt nghiệp đại học, dấn thân vào đời, làm phóng viên tòa báo, phóng viên truyền hình, rồi làm biên tập cho tạp chí, làm về thiết kế ý tưởng sáng tạo cho công ty, làm quản lý ban bảo dưỡng duy tu của nhà máy, làm giám định viên cho công ty bảo hiểm, làm ban kinh doanh… Tôi đã làm và thay đổi nhiều vị trí, đổi nhiều nghề, nhưng không có một nghiệp vụ nào có thể khiến tôi yên tâm làm việc. Chuyện tình cảm với bạn gái cũng thế, kể từ khi biết yêu đương đến giờ, tôi đã thất tình không biết bao nhiêu lần và cũng để cho vô số bạn gái phải thất vọng. Cứ như một người bạn xem tướng cho tôi cách đây mấy năm, thì đời tôi không có gì là ổn định cả.

Tôi đã sắp đi hết 30 năm của cuộc đời, có rất ít bạn, chỉ có một người bạn duy nhất có thể hoàn toàn cởi mở mọi phương diện, là Mông Nhân. Mông Nhân sinh vào mùa đông, khi mới chào đời, cậu có làn da trắng bong, trắng như tuyết ngoài trời, nhưng tay phải cậu ta có một vết chàm nhỏ xíu hình chữ “thập”. Khi đó, bác sĩ và cha của Mông Nhân đều thấy choáng váng. Phải một tuần sau khi sinh, nước da của Mông Nhân mới giống như mọi đứa trẻ sơ sinh. Một ông già ở quê Mông Nhân nói: Thằng bé này là một con bạch mã trên trời xuống trần, vết chàm ở chân trước bên phải của nó là dấu ấn cho thiên đình khắc cho.

Có lẽ vì tôi và Mông Nhân đều có khả năng thiên phú là rất ham tìm hiểu khám phá sự thật, nên chúng tôi thân với nhau, rồi cùng trải nghiệm, tìm tòi, nghe ngóng đủ thứ chuyện mà chúng tôi cảm thấy hứng thú: chuyện về quá khứ, về hiện tại, thậm chí cả về tương lai nữa… Đương nhiên cũng bắt nguồn từ việc cả tôi và Mông Nhân đều thích gõ bàn phím trao đổi những câu chuyện của cả hai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 1-2: Nhiệm vụ phỏng vấn


Ghi chép (I) Những chuyện kỳ lạ mà Đường Tiểu Bạch chứng kiến - Phục chế ký

Phục chế, sao chép, hoặc copy phục chế, chỉ hành động dùng các cách in ấn, ghi âm, vẽ lại… để chế tác một thứ gì đó thành hai hoặc nhiều bản.

Khi dùng máy tính, chúng ta thường ấn Ctrl+C sau đó ấn Ctrl+V, để sao một văn bản nằm trong tệp văn bản hoặc một khu vực nào đó của ổ cứng rồi đặt nó sang một vùng khác, rất đơn giản nhanh gọn; các văn bản có thể khác nhau về dung lượng, hoặc cũng có vấn đề là có thể copy hay không. Sự việc kể ra sau đây có vẻ như đơn giản nhưng thực tế lại rất phức tạp; nếu muốn nghiên cứu nó, e sẽ phải tốn rất nhiều thời gian mới có thể biết được kết quả.

Năm 2003, tôi vẫn đang công tác tại đài truyền hình thành phố C, tôi mới tốt nghiệp không lâu, nhưng đã nhanh chóng nhận ra rằng những điều thơm tho tốt lành mà tôi háo hức mong mỏi khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ không bao giờ đến lượt tôi. Ví dụ, tôi sẽ tình cờ quen biết nữ phóng viên xinh đẹp, hai bên nảy nở tình cảm, rồi phát triển thành một tình yêu long trời lở đất quỷ khốc thần sầu, nhưng thực tế là tôi toàn gặp gỡ nam phóng viên trong giới truyền thông, thậm chí đôi khi nảy sinh va chạm rồi biến thành đấu đá nhau… Từ đó tôi dần cảm thấy công tác và sinh hoạt hàng ngày đều rất khô khan vô vị. Những lúc ngán ngẩm, tôi kéo Mông Nhân cũng đang buồn tênh như tôi đi dạo chơi; có lần chúng tôi uống say rồi mò đến ga tàu hỏa, cuối cùng bị hiểu lầm là hai thằng lưu manh, chúng tôi suýt nữa bị họ tóm cổ rồi tống về quê!

Một năm nọ, cuối thu sang đông, thời tiết vẫn rất oi bức, tôi còn nhớ rất rõ dịp quốc khánh, tôi và Mông Nhân đang ở bể bơi trong nhà lớn nhất thành phố C; đó là vào buổi chiều ngày quốc khánh. Tôi vừa trèo lên thành bể bơi, chuẩn bị thay quần áo sau đó sẽ đi quán rượu, thì Mông Nhân nhận được cú phôn của đài truyền hình gọi về gấp. Họ chỉ gọi Mông Nhân, nhưng tôi đang rỗi chẳng có việc gì làm nên tôi cũng “trơ trẽn lì lợm” đi theo Mông Nhân, nhằm đỡ tốn tiền đi tắc-xi trở về.

Về đến đài, sếp bảo Mông Nhân tối nay phải làm việc, có thể sẽ rất khuya hoặc làm qua đêm. Hồi đó tôi và Mông Nhân đều cùng làm ở tiết mục “3-15” tức tiết mục hợp tác giữa Sở công thương và một vài cơ quan chấp pháp, mục đích là phanh phui các vụ việc làm hàng giả hàng nhái, đánh cắp bản quyền sản phẩm. Sếp dặn chúng tôi tối nay đi cùng Phòng công thương của khu X thâm nhập một cơ sở phi pháp chuyên làm giả tiết vịt tiết lợn đặt ở ngoại thành. Sếp còn cảnh báo chúng tôi phải chú ý an toàn khi quay phim tác nghiệp; vì bên công an và Sở công thương nói rằng họ đã phát hiện ra: đứng đầu bọn làm ăn phi pháp ấy là một gã đại ca của một băng đảng lưu manh có màu sắc xã hội đen, được biết chúng luôn thủ sẵn mã tấu, và không loại trừ khả năng chúng có cả súng nữa.

Tôi và Mông Nhân nghe xong rất hào hứng. Bấy lâu nay tiết mục của chúng tôi toàn làm về những vụ nho nhỏ đơn giản, chưa giương máy ra thì họ đã khai nhận luôn. Tôi và Mông Nhân đã mấy lần đề nghị được đi theo cảnh sát tác nghiệp các vụ hình sự nhưng sếp cứ ép chúng tôi tiếp tục công việc như hiện nay, và còn châm biếm chúng tôi chưa biết đi đã đòi chạy!

Tôi hỏi sếp cho tôi đi cùng Mông Nhân, sếp đồng ý; tôi cũng nói thêm: hôm sau Mông Nhân được nghỉ nửa ngày, còn tôi vẫn đến đài làm như thường. Dặn dò xong, sếp ra về, trong phòng còn lại tôi và Mông Nhân chuẩn bị máy móc thiết bị.

Tất cả xong xuôi, chúng tôi về nhà, rồi liên hệ với Sở công thương, nhất trí 12 giờ đêm nay gặp nhau ở phòng công thương khu X. Hai chúng tôi ăn qua loa, đặt đồng hồ báo thức lúc 11 giờ đêm, rồi đi ngủ. Tôi vừa nằm vừa nghĩ ngợi, nếu sớm biết như thế này thì không đi cùng gã Mông Nhân phải gió này làm gì, mình phải hy sinh mất giấc ngủ đêm nay.

Đến nơi tập kết, tôi mới biết ngoài nhân viên chấp pháp của Sở công thương ra còn có gần chục cảnh sát vũ trang đầy đủ, có cả các dụng cụ chống bạo động rất chuẩn. Xem ra, tin tình báo là chính xác, bọn người của cái xưởng bí mật ấy không phải tay vừa.

Trên đường đi, lúc đến gần mục tiêu, chúng tôi dừng lại, lặng lẽ đỗ xe vào một ga-ra sửa chữa ô tô đã liên hệ từ trước, sau đó mọi người bắt đầu chờ đợi. Vì đã điều tra được biết, cái xưởng phi pháp này tuy sản xuất ra khối lượng hàng rất lớn nhưng họ phải từ sau nửa đêm mới nhập nguyên liệu, cho nên mọi người phải chờ đến 4 giờ sáng mới bắt đầu hành động để bảo đảm bắt tại trận cả người lẫn tang vật.

Tôi khẽ hỏi Mông Nhân: “Cậu cho rằng làm giả tiết lợn, tiết vịt, cần những nguyên liệu gì?”

Mông Nhân nói: “Bột tiết, chứ còn gì nữa?”

Tôi cố ý giả vờ cười ngạc nhiên: “Tôi dám chắc rằng không đơn giản thế đâu. Nếu chỉ là bột tiết thì không cần bày binh bố trận hùng mạnh thế này. Hay là họ… dùng máu người?”

Tôi vừa nói đến đây thì bị anh họ Lý chấp pháp của Sở công thương cắt ngang: “Nói vớ vẩn gì thế? Nguyên liệu là tiết bò! Nói thế nghe sợ chết khiếp, nói là máu người thì lâu nay phải có bao nhiêu người chết? Cậu cho là đem người ra hiến tế chắc?”

Tôi vội rút thuốc lá ra mời anh ta. Mông Nhân thì bắt đầu bật máy quay, anh Lý thấy thế vội nói: “Đừng quay tôi. Cần quay cần phỏng vấn thì gặp lãnh đạo của bọn tôi.”

Tôi khẽ hỏi Mông Nhân: dùng tiết bò làm giả tiết vịt tiết lợn mà cần huy động lắm cảnh sát làm gì, thì anh Lý nói: “Tiết bò là thứ có thể ăn, nhưng tiết bò mà bọn người này dùng lại rất kỳ quái: mẻ tiết bò đầu tiên bọn tôi tịch thu được ở thị trường là tiết bò có bệnh, nhưng rất lạ ở chỗ, sau khi xét nghiệm thì thấy rằng chúng là tiết của cùng một con bò, đám tiết ấy nhiều chừng nào, biết không?”

Tôi và Mông Nhân lắc đầu. Anh Lý bèn nói ra số lượng khiến hai chúng tôi giật mình, vì phải dùng đến mười mấy con bò. Anh Lý nói: “Cho nên, đó mới là lạ! Ngoài ra, chúng tôi mai phục ở đây mãi, ít ra đã nửa tháng trời, thấy rằng chỉ có đêm thứ ba hàng tuần có người chuyển tiết bò đến, sau đó, từ 5 đến 7 giờ sáng thì có người đến chở sản phẩm đi, có người đạp xe đạp, có người đi xe máy, có người lái xe tải nhỏ đến chở. Chúng tôi tính rằng, dù đem toàn bộ số tiết bò kia chế biến cũng không thể làm ra nhiều tiết vịt giả tiết lợn giả đến thế! Và, gã chủ cái lò sản xuất này cũng chẳng hay hớm gì, nghe nói mấy năm nay gã kiếm ra rất nhiều tiền, và còn cho con trai ra nước ngoài nữa.”

Tôi và Mông Nhân nghe đến đây cũng cảm thấy hay hay. Hai chúng tôi cố thức được đến 2 giờ sáng thì lăn ra ngủ, nhưng rồi anh Lý đánh thức dậy, sau đó chúng tôi đi theo các nhân viên chấp pháp của Sở công thương và cảnh sát lặng lẽ xuất phát tiến về phía cái xưởng đáng ngờ ấy, toàn bộ cảnh sát đi trước. Khi đến cái xưởng ấy thì tôi mới nhận ra “xưởng” chỉ là một ngôi nhà nho nhỏ kiểu nông thôn, bốn bề có tường vây tương đối cao; “nhà” là một khoảng trống được lợp tôn nhựa. Cửa, là cửa sắt khá kiên cố, không dễ gì mà mở được. Nhưng, cửa đang khóa ngoài, còn bên trong thì không một tiếng động. Lạ thật.

Tôi khẽ hỏi Mông Nhân: “Hay là chúng ta đến nhầm nhà rồi?” Nhưng các anh cảnh sát thì đang bố trí nhân lực bao vây quanh nhà, sau đó bắt đầu gọi vào bên trong, gọi chán chê mà không có ai trả lời. Cảnh sát đành hô lên: “Nếu không ra mở cửa chúng tôi sẽ phá cửa!” Lúc này trong nhà mới bật đèn, sau đó là một giọng phụ nữ: “Ai đấy?” Tiếp đó là im lặng.

Cảnh sát bí quá, đành cử người ra đem ô tô đến đây để kéo đổ cổng sắt. Đúng lúc này bỗng thấy một bóng người nhô lên ở trên tường, giá mà cái bóng ấy nhỏ thì chúng tôi sẽ nghĩ đó là con mèo hay con vật gì đó. Nhưng rõ ràng là bóng người. Tôi kêu lên: “Kìa, có người ra!”

Tôi vừa hô xong thì cái bóng đó ngồi chồm hỗm trên đỉnh tường, sau đó nhảy xuống rất nhanh rồi biến mất vào khu đất xung quanh. Tốc độ của nó cực nhanh, nhanh đến nỗi tất cả chúng tôi đều không kịp có phản ứng gì. Hai anh cảnh sát vội đuổi theo ngay. Lát sau, ô tô đã đến, rồi cảnh sát giải quyết được cái cửa sắt. Cảnh sát xông vào, tôi cầm bộ đèn đi sau, tiếp đó là Mông Nhân vác máy quay phim theo sát tôi.

Vào nhà rồi mới biết, khu này rất rộng, vì phía sau nhà là một cái dốc, dưới dốc là một khu đất trũng hẳn xuống dưới tựa như cái hố to, giữa hố là một cái bể nước xây gạch trát xi măng, trong bể toàn là tiết bò... đỏ như máu. Có vài công nhân trông có vẻ chân chất đứng bên cạnh bể, họ há hốc mồm trợn tròn mắt, phát hoảng khi thấy cảnh sát ập đến, tay họ vẫn đang cầm dụng cụ để khuấy trộn...

Cảnh sát đã lôi gã đầu sỏ từ trong ngôi nhà gác nhỏ ra, cùng với các thứ vũ khí mà gã giấu ở gầm giường: hai khẩu súng kíp, mấy thanh mã tấu, một khẩu súng bắn bi sắt. Đám vũ khí này tạm xếp gọn ở giữa sân. Sau đó cảnh sát bắt đầu thẩm vấn tại chỗ, nhưng người đàn ông gần năm chục tuổi tên là Trương Quân này chỉ nói độc ba chữ “tôi không biết”, ông ta còn nói mình chữ nhất bẻ đôi cũng không biết, ngay họ tên mình cũng không viết nổi. Khi hỏi đám súng ống đao kiếm kia là thế nào thì ông ta lại càng ù lì ngậm miệng.

Lúc này hai anh cảnh sát đuổi theo bóng đen kia đã quay về, họ thở hồng hộc nói rằng bóng đen ấy chạy quá nhanh, mình đeo vũ khí và dụng cụ nặng nề không sao đuổi kịp; nhưng cả hai khẳng định rằng bóng đen đó là người. Anh đội trưởng cảnh sát trợn mắt: “Tôi cũng biết hắn là người!” Sau đó anh hỏi Trương Quân gã ấy là ai, thì Trương Quân chỉ cười, không hé răng, cuối cùng lão nhắm tịt mắt lại.

Cảnh sát thẩm vấn được một lúc, Mông Nhân chấm ngón tay vào ly trà, viết lên bàn một chữ “tử” và hỏi Trương Quân có biết chữ này đọc là gì không. Trương Quân nhìn, rồi cười khẩy. Mông Nhân quay sang nói với tôi: “Cũng chưa đến nỗi nào, lão cũng biết đó là chữ “tử”...”

Động tác này của Mông Nhân khiến mọi người bật cười, đương nhiên ngoại trừ Trương Quân.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 1-3: Người đàn ông muốn đăng thông báo tìm người


Đêm hôm đó, sau khi hoàn thành nhiệm vụ quay phim, tôi và Mông Nhân trở về nhà lúc 7 giờ sáng. Anh cảnh sát họ Lý tiễn chúng tôi về, dọc đường, anh và chúng tôi bàn bạc về đám tiết bò. Vì chúng tôi không nhìn thấy quá trình sản xuất, nên bảo lão Trương Quân diễn tả xem sao nhưng lão quyết không nói. Nguyên liệu sền sệt chúng tôi nhìn thấy chứa đầy hai cái bể chứa, nhưng bên cạnh đó còn có tám cái bể lớn nhỏ khác nhau nữa; điều kỳ lạ là chúng tôi ở đó suốt mà không thấy ai đánh xe chở nguyên liệu đến. Các nhân viên điều tra trước đó nói rằng họ mai phục ít ra đã nửa tháng không thấy ai tiếp liệu, nhưng cứ đêm thứ ba thì có người đến lấy hàng, chuyện đó là thế nào, Trương Quân cũng không trả lời. Về đám vũ khí kia, thì lão nói là một người bạn của lão thích sưu tầm vài đồ quân dụng, đã gửi ở chỗ lão.

Tôi chưa từng nghe nói có ai thích sưu tầm súng ống đạn dược!

Cuối cùng, chúng tôi nói về cái bóng đen trên tường. Anh Lý đang rất buồn ngủ, bắt đầu ngờ rằng tại chúng tôi hoa mắt nhìn nhầm cũng nên. Tôi phản bác: “Nếu chỉ là tôi và Mông Nhân hoa mắt thì cũng được, nhưng chính anh cũng nhìn thấy, mấy người khác cũng thế, lẽ nào tất cả mọi người cùng hoa mắt?”

Anh Lý lắc đầu: “Không. Nhưng đúng là thằng cha ấy nhảy xuống đất rồi chạy quá nhanh, nếu hắn thi Ô-lem-pích cũng sẽ lập nên kỷ lục đặc biệt...”

Vài ngày trôi qua, khi tôi và Mông Nhân cho rằng câu chuyện nói trên đã mờ nhạt, thì bỗng có một nam giới đến đài truyền hình xin đăng một mẩu quảng cáo tìm người. Kỳ quái ở chỗ anh ta đăng tìm chính mình! Đài chúng tôi vốn không đăng tải những mẩu quảng cáo như thế, mà chỉ đã từng làm những chuyên mục về tìm người, vì đằng sau những tin tức ấy thường có rất nhiều câu chuyện. Điều khiến chúng tôi kinh ngạc hơn nữa là, người ấy đặt vấn đề xong thì đề nghị muốn gặp đích danh Mông Nhân.

Hôm đó tôi và Mông Nhân vừa đi phỏng vấn về. Vừa bước vào đài thì Mông Nhân bị Tăng Trân là đồng nghiệp cùng phòng kéo lại, chỉ vào một người đàn ông đứng bên ngoài, nói: “Người kia muốn gặp anh.” Mông Nhân nhìn sang phía người đàn ông đang ngồi đọc báo, nói: “Gặp tôi làm gì? Tôi không quen anh ta.”

Tăng Trân lại nói: “Anh ta nói là muốn đăng quảng cáo tìm người.”

Mông Nhân nói: “Tìm tôi để đăng? Tôi đâu có phụ trách cái mảng đó, tôi đâu có quyền quyết định?”

Tăng Trân lại nói: “Họ nói rõ là muốn gặp cậu, họ ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ rồi. Cậu cứ ra hỏi xem sao, nếu đúng là có việc cần nhờ cậu thì sao?”

Mông Nhân đành giao các thứ cho tôi rồi bước đến gặp người lạ kia. Tôi chẳng có việc gì làm, đành đi vào ngồi bên bàn làm việc, vừa ngồi uống được tách trà thì Mông Nhân cầm một lô các thứ láo nháo bước vào ném xuống bàn cho tôi: “Cậu xem đi! Cậu sẽ sợ hết hồn!”

Tôi nhìn xem, đó là một lô chứng minh thư, nhìn kỹ, ảnh trên đó đều là ảnh của một người, quê quán, địa chỉ và tên người thì khác nhau. Chỉ có một điểm nhất trí duy nhất là họ Trương.

Tôi xem một lúc lâu, sau đó Mông Nhân kéo tôi ra bên cửa sổ, nói: “Chuyện này thật kỳ cục, có vẻ như đều là chứng minh thư giả, chính kẻ phạm pháp lại lò dò đến. Ta có nên tiếp không? Nếu không ổn thì lát nữa đưa anh ta sang chỗ sếp để xử lý.”

Tôi gật đầu, rồi cùng Mông Nhân dẫn anh ta sang phòng hút thuốc. Tôi lấy bao thuốc ra mời anh ta hút, anh ta từ chối nói là không biết hút, rồi anh ta hỏi tôi và Mông Nhân: “Anh Nhân... liệu có thể đăng giúp tôi không?”

Mông Nhân nhìn tôi, rồi trả lời anh ta: “Sao anh lại đăng tin tìm... chính mình? Anh đang ngồi đây còn gì?”

Anh ta tỉnh bơ, nói: “Bởi vì... bởi vì tôi quên mất mình là ai.”

Mông Nhân lại nhìn tôi. Tôi bèn hỏi: “Anh tên gì?”

Anh ta nhìn đám chứng minh thư trên bàn, nói: “Tôi không biết. Và cũng không biết những thứ này ở đâu ra. Sáng hôm qua tôi ngủ dậy thì thấy những cái này ở trong cặp của mình, có cả tiền nữa, rất nhiều tiền!”

Nghe xong mấy câu này của anh ta, tôi bỗng sững sờ, phản ứng đầu tiên của tôi là nhớ đến bộ phim “Điệp ảnh trùng trùng” chiếu năm 2002. Lúc này tôi rất muốn hỏi anh ta: Anh có đem theo súng không? Hộ chiếu đâu?

Mông Nhân hỏi: “Bao nhiêu tiền?” Tôi và Mông Nhân đều nhìn chằm chằm vào anh ta và chờ câu trả lời. Anh ta nghĩ mãi rất lâu, rồi mở cái ba lô đem theo lấy ra một đống tiền, gồm mấy tệp tiền, có lẽ mỗi tệp phải là 10 ngàn tệ, tổng số phải đến năm sáu chục ngàn tệ. Thảo nào anh ta phải địu cái ba lô du lịch này.

Anh ta lại nói: “Tôi quên mất mình là ai, tôi chỉ nhớ khi thức dậy thì tôi đang ở trong một khách sạn mi-ni, sau đó không nhớ gì nữa.”

Khi anh ta nói, tôi mở sổ tay ghi lại các nội dung chính. Tôi rất tiếc vì mình học tốc ký không đến nơi đến chốn, nếu thạo tốc ký tôi sẽ ghi lại toàn bộ một cách ngon lành. May sao tôi có mang theo máy ghi âm mi-ni, đó là do bệnh nghề nghiệp...

Nói xong xuôi, anh ta cau mày rồi uống nước ừng ực, vừa uống vừa thở mạnh. “Tôi thật sự không thể nhớ ra, cho nên các vị giúp tôi đăng thông báo tìm người, được không?”

Mông Nhân bèn cầm giấy và bút của tôi đưa cho anh ta, nói: “Thế này vậy, anh cứ viết ra đây mọi chi tiết mà anh còn nhớ được, để không bị bỏ sót không bị quên. Cứ nghĩ đi, rồi viết ra.”

Anh ta cầm bút và giấy, chần chừ, có vẻ như chưa biết nên bắt đầu viết từ đâu. Mông Nhân lại gợi ý: “Tất cả những điều anh có thể nhớ được, ví dụ, anh ở khách sạn nào, tình hình lúc tỉnh dậy ra sao, rồi viết ra.”

Nhân lúc anh ta ngồi viết, tôi và Mông Nhân viện cớ ra ngoài để rót nước. Ra khỏi phòng, Mông Nhân bỗng vỗ đét vào đùi: “Tôi thộn quá, sao không hỏi anh ta điều hệ trọng nhất.” Tôi cũng chợt hiểu ra, nói: “Đúng! Sao chúng ta không hỏi anh ta tại sao lại muốn gặp chính cậu?”

Nghĩ thế, chúng tôi bèn quay lại. Tôi vừa ngồi xuống thì anh chàng kia đẩy mảnh giấy về phía Mông Nhân, nói: “Tôi chỉ có thể nhớ ra tên khách sạn ấy, còn những điều khác thì tôi chịu thôi. Vậy có thể đăng thông báo được không?”

Mông Nhân cầm tờ giấy lên, thoáng nhìn rồi đưa cho tôi, Mông Nhân lại hỏi anh ta: “Tại sao anh lại tìm tôi để đăng thông báo? Anh biết tôi à?”

Anh ta gãi đầu: “Lúc... lúc tôi tỉnh lại, tôi không biết làm gì bèn bật ti-vi xem, thấy ghi họ tên anh ở một chương trình ti-vi; chương trình đó có quay một khu vực mà tôi nhìn rất quen, hình như tôi đã từng đến đó. Cho nên tôi nghĩ rằng anh có thể giúp tôi, nên tôi tìm gặp anh. Tôi phải tìm rất lâu mới tìm đến phòng này được.”

Khi anh ta đang nói, tôi nhìn vào mấy chữ anh ta viết trong tờ giấy, nhìn như bình thường nhưng suýt nữa thì tôi phải kêu lên. Tôi cố tự trấn an, rồi lại nhìn thật kỹ. Tôi tự khẳng định mình đã nhìn không nhầm, sau đó đưa lại tờ giấy cho Mông Nhân đồng thời chỉ tay vào hàng chữ đó. Mông Nhân nhìn xong chẳng bảo sao. Tôi bèn gõ tay thật mạnh vào hàng chữ trên giấy, Mông Nhân mới cúi xuống nhìn lại. Thoáng nhìn, sau đó Mông Nhân vội cầm tờ giấy lên đưa sát mặt để nhìn cho kỹ hơn. Rồi anh đưa mắt cho tôi, tôi lắc đầu với Mông Nhân, vẻ mặt anh tỏ rõ nét ngạc nhiên không sao tưởng tượng nổi.

Mông Nhân lại đưa giấy bút cho anh chàng kia, nói: “Anh viết tên tôi ra đây, xem có phải anh tìm nhầm người hay không?”

Anh ta lại cầm giấy bút, còn hai chúng tôi đứng lên chăm chú nhìn vào tờ giấy. Tôi nhận ra ngón cái tay phải anh ta có một vết sẹo hơi giống hình ngôi sao sáu cánh. Rất nhanh, anh ta đã viết xong họ tên của Mông Nhân. Hai chúng tôi cầm giấy lên cùng nhìn thật kỹ, sau đó lại đặt xuống trước mặt anh ta, hỏi: “Anh... đang làm nghề gì?”

Sở dĩ chúng tôi hỏi thế, là vì mấy chữ tên khách sạn, tên Mông Nhân, nét chữ của anh ta giống hệt nét chữ của tôi! Hồi đó tôi đang rất “nổi tiếng” về chữ viết kỳ quái của mình, các lãnh đạo đều bảo chữ tôi chẳng khác gì vẽ bùa trừ ma trừ quỷ, hễ viết hơi nhanh thì không ai đọc nổi. Còn chữ anh chàng này thì viết hệt như tôi: chữ viết ngoáy tít nhưng vẫn nhận ra rằng chữ anh ta y hệt lối viết của tôi!

Khi tôi đang nghĩ xem gã này làm nghề gì, thì Mông Nhân nhằm vào trọng tâm vấn đề hỏi anh ta: “Anh đã xem chương trình ti-vi nào?”

Anh ta đáp: “Chương trình phát lúc 8 giờ 30 tối qua.”

Chương trình đài truyền hình phát tối qua, nói về việc chúng tôi đã tham gia, tức chuyên đề điều tra vụ làm giả tiết vịt tiết lợn ở cái xưởng chui kia. Tại sao nó lại gây ấn tượng cho anh chàng này nhỉ? Mông Nhân lại hỏi: “Anh có nhớ mình họ gì không? Anh có đúng là họ Trương không?” Hỏi xong, Mông Nhân đưa mắt cho tôi, tôi hiểu ngay vấn đề: gã trùm ở cái xưởng chui kia họ tên là Trương Quân; trước đó, cảnh sát đã biết Trương Quân có một con trai đi du học nước ngoài, hiện vẫn đang ở Úc.

Tôi và Mông Nhân cùng hỏi anh chàng này vài tình hình khác, và nhắc đến cái xưởng chế biến kia và gã Trương Quân, xem xem anh chàng này có nhớ lại được điều gì không. Bởi vì lúc đó tôi vẫn chưa thật tin rằng anh chàng đang ngồi trước mặt mình đã mất trí nhớ, và rất có thể anh ta có liên quan đến cái xưởng đó, nhưng vì muốn trốn tránh trách nhiệm nên anh ta đến đây tìm Mông Nhân và tôi để bịa ra câu chuyện ly kỳ này. Có điều, nó na ná như sự bắt chước các tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 1-4: Bí mật về một dị nhân


Trong quá trình tôi và Mông Nhân hỏi anh chàng này, tôi thấy anh ta bắt đầu cầm bao thuốc lá trên bàn rồi châm hút, động tác hút thuốc, vẻ mặt khi nói năng và tư thế ngồi... cũng dần dần biến thành rất giống Mông Nhân đang ngồi bên cạnh tôi. Nếu giọng nói anh ta cũng trở nên giống nốt, thì e nếu tôi không chú ý thì sẽ tưởng là một Mông Nhân thứ hai đang ngồi đối diện với tôi.

Thoạt đầu, tôi ngờ rằng mình hơi bị ảo giác, tôi bèn kéo cái ghế sang bên cạnh để ngồi sao cho tiện quan sát Mông Nhân và cả anh ta nữa. Rồi tôi nhận ra mình không hề có ảo giác nào hết, mỗi khi Mông Nhân có một động tác nào đó thì sau đó khoảng hai phút, anh ta cũng bắt đầu mô phỏng, tức là sau một khoảng thời gian nhất định. Động tác mô phỏng của anh ta không giống như chúng tôi vẫn đùa vui với nhau bằng cách cố ý “lặp lại” động tác của bạn, anh chàng này rất tự nhiên mô phỏng động tác của Mông Nhân.

Sau khoảng hơn mười phút, thì động tác của anh ta bắt đầu có sự biến đổi, toàn thân cũng quay sang phía tôi. Tôi hơi sửng sốt, bất giác vung tay trái lên không trung, rồi ngón tay phải gõ nhịp lộc cộc xuống mặt bàn, sau đó đưa bàn tay lên chống cằm, mắt nhìn sang nơi khác nhưng vẫn chú ý đến anh ta. Khoảng một phút sau, anh ta làm các động tác y hệt tôi vừa rồi và cũng đưa tay lên chống cằm. Tôi ngẩng nhìn Mông Nhân, rõ ràng Mông Nhân cũng nhận ra tất cả. Sau đó tôi và Mông Nhân nói là phải đi báo cáo lãnh đạo xem sao, rồi bước ra khỏi phòng hút thuốc.

Trở về phòng làm việc, hai chúng tôi bàn nhau rồi quyết định sẽ giao anh chàng kia cho cảnh sát, vì lý do anh ta mất trí nhớ, hoặc vì anh ta có liên quan đến cái xưởng gia công kia, dù sao chúng tôi cũng cứ giao cho cảnh sát. Khi hai chúng tôi trở lại phòng hút thuốc, thì không thấy anh ta đâu nữa, đám thẻ chứng minh thư và cái ba lô vẫn còn ở đây. Tôi vội chạy ra hỏi các đồng nghiệp ở các phòng bên cạnh, họ nói vừa nãy thấy có một người từ phòng hút thuốc đi ra, lượn quanh một lượt rồi không thấy đâu nữa. 

Mông Nhân và tôi vội đi một vòng các khu vực trong đài truyền hình, không thấy bóng anh chàng kia đâu. Chúng tôi ra cổng hỏi anh bảo vệ. Bảo vệ nói vừa nãy có một nam giới đi ra, vai khoác một cái túi, gọi tắc-xi rồi đi luôn. Mông Nhân vội hỏi các anh có nhớ biển số xe không, anh nói không nhớ, nhưng có nghe rõ người ấy nói với lái xe tắc-xi rằng muốn đến khách sạn Giá Nhật. Khách sạn này cách đài không xa lắm, Mông Nhân bèn vẫy luôn tắc-xi ngồi lên đuổi theo.

Tôi vội quay vào đài, rồi sắp xếp các thứ còn lại trên bàn cho gọn. Vừa làm xong thì thấy Lưu Cương là một đồng nghiệp từ phòng làm việc đi ra, nói là anh bị thất lạc một cái túi đeo vai, trong đó có một máy DV mới mua, thẻ công tác... Tôi nhớ lại, anh bảo vệ ở cổng vừa nói anh chàng kia vai đeo túi đi ra, chắc là anh ta đã thó cái túi của Lưu Cương rồi, tôi liền gọi điện cho Mông Nhân, nói rõ sự việc, sau đó tôi bảo Lưu Cương nên gọi điện 110 báo cảnh sát ngay. Sau đó chúng tôi ra đi cổng đài, trách anh bảo vệ tại sao không ngăn chặn người lạ đeo túi đi ra khỏi cơ quan.

Anh bảo vệ nói cũng rất lạ lùng: “Anh ta là anh Trương, phóng viên mới về đài công tác, mấy hôm nay sáng nào tôi cũng nhìn thấy anh Trương!” Nghe anh bảo vệ nói thế, tôi giật mình. Đúng lúc này cảnh sát đến đài, hỏi rõ tình hình là gì, tôi bèn giao đống chứng minh thư và chiếc ba lô của anh chàng kia cho cảnh sát. Sau đó cảnh sát bảo tôi và Lưu Cương cùng đến trụ sở để tìm hiểu thêm về sự việc. Chúng tôi vừa bước lên xe cảnh sát thì thấy Mông Nhân xuất hiện ở cổng đài, mặt mũi lấm tấm mồ hôi, nói rằng không tìm thấy người đàn ông lúc nãy. Tôi cũng đã đoán chắc Mông Nhân sẽ không tìm thấy, vì khách sạn ấy khá lớn, dù muốn tìm khắp lượt các phòng thì cũng phải tốn kha khá thì giờ. Vả lại, cũng chưa biết lúc này anh ta tự xưng mình là người như thế nào, phóng viên chúng tôi đâu phải cảnh sát, khách sạn không cần thiết phải hợp tác với chúng tôi.

Mông Nhân kéo tôi ra một chỗ, nói: “Tôi cảm thấy sự việc này chắc chắn có liên quan đến cái xưởng gia công kia; lão Trương Quân đang bị tạm giam, tôi sẽ đến đó xem có thể khai thác được thông tin gì từ lão không.”

Cảnh sát chở tôi và Lưu Cương về trụ sở. Ngồi chưa ấm chỗ, họ đã dẫn chúng tôi sang một phòng làm việc, và ghi biên bản rất tỉ mỉ. Biên bản chưa ghi xong, thì một cảnh sát khác đẩy cửa bước vào, nói rằng phần lớn chứng minh thư là đồ giả, trình độ làm giả rất siêu. Tôi bèn hỏi về đám tiền trong ba lô, anh ta nói đều là tiền thật, và có một chứng minh thư là đồ thật: chứng minh thư ghi họ tên Trương Ái Dân, quê quán, địa chỉ cũng đều đúng cả, chỉ hiềm không rõ “gã đàn ông kỳ quái” kia có giống Trương Ái Dân trong ảnh không.

Tôi nghĩ ngợi, rồi hỏi: “Địa chỉ ghi trong chứng minh thư đó, là nơi nào?” Thực ra tôi đã đoán ra rồi. Anh cảnh sát nói ra địa chỉ, tôi liền đập tay xuống bàn “rầm” một cái, khiến anh cảnh sát giật mình. Địa chỉ đó cũng là địa chỉ của cái xưởng gia công kia, cũng tức là gã tên là Trương Ái Dân phải có liên quan đến cái xưởng ấy. Tôi liền kể với cảnh sát toàn bộ những điều đã tìm hiểu được, kể cả chuyện Trương Ái Dân bắt chước chữ viết và các động tác của tôi. Tôi nói xong, anh cảnh sát ghi biên bản cũng cảm thấy hoàn toàn không ngờ, bèn hỏi: “Anh có chắc mình không nhầm đấy chứ?” Tôi liền cầm tờ giấy trong cái xắc của người đàn ông kia đưa cho anh. Nhìn xong, anh bảo tôi thử viết ra mấy chữ, sau đó anh so sánh, rồi bảo: “Đúng là chữ của một người viết ra.”

Tôi thề sống thề chết cam đoan rằng mấy chữ kia là của gã Trương Ái Dân viết, nếu chưa tin thì anh cứ hỏi Mông Nhân vì lúc đó Mông Nhân cũng có mặt. Anh cảnh sát kẹp tờ giấy đó vào tập biên bản, nói: “Các anh cứ về đi, nếu có tin gì lạ, chúng tôi sẽ thông báo đến các anh.”

Tôi và Lưu Cương ra khỏi trụ sở công an, đang định trở về đài truyền hình thì Mông Nhân gọi điện đến: “Có chuyện rất kỳ lạ, à không, có chuyện nghiêm trọng, cậu về đài ngay!”

Về đến nơi, Mông Nhân kéo tôi vào phòng hút thuốc, chỉ vào cái bàn rồi nói: “Chắc không phải tôi đang ngủ mê? Vừa nãy có một nam giới ngồi đây đúng không?” Tôi gật đầu. Mông Nhân lại lắc đầu nói: “Tôi đến trại tạm giam gặp lão Trương Quân, vừa tự giới thiệu mình là phóng viên thì anh cảnh sát phụ trách tiếp khách nói: vừa rồi cũng có một phóng viên đến đây, có cả thẻ công tác hẳn hoi. Nhưng vì chưa đủ thủ tục khác nên chúng tôi không cho anh ta gặp Trương Quân. Sau đó anh ta đi luôn. Tôi bèn hỏi anh cảnh sát rằng trông anh ta như thế nào, anh bèn miêu tả đại khái về người ấy; cũng tức là người đàn ông vừa ngồi đây lúc trước. Thật là kỳ lạ làm sao!”

Tôi kể với Mông Nhân các chuyện ở trụ sở công an và tình hình về gã Trương Ái Dân. Mông Nhân châm điếu thuốc lá, nửa cười nửa không, nói: “Cậu đoán xem, cảnh sát nói họ tên người trên tấm thẻ công tác đó là gì?”

Lưu Cương bị gã Trương Ái Dân lấy cắp cái túi, thế thì quá đơn giản: họ tên trên thẻ công tác phải là Lưu Cương. Nhưng tôi cảm thấy không ổn, vì Lưu Cương béo đậm, còn Trương Ái Dân thì gầy gò, không khớp với tấm ảnh dán trên thẻ, cho nên tôi lắc đầu.

Mông Nhân rít một hơi thuốc lá, rồi nói: “Cảnh sát bảo, họ tên trên thẻ công tác ghi là Đường Tiểu Bạch!”

Gì thế? Tôi suýt ngã khỏi ghế. Là tên tôi ư? Đâu có thể như thế? Tôi trở về phòng làm việc, mở ngăn kéo tìm tấm thẻ công tác của mình, sau đó cầm đến phòng hút thuốc đưa cho Mông Nhân, nói: “Thẻ công tác của tôi đây! Chưa mất! Cho nên không thể có chuyện đó.”

Lúc này tôi chợt nhớ ra anh bảo vệ ở cổng đài truyền hình nói rằng gần đây anh ta nhìn thấy Trương Ái Dân, tôi bèn ra hỏi anh ta. Anh ta nói, kể từ tuần trước, người đàn ông ấy đến đài từ sớm, đến khi tan tầm buổi chiều mới ra về. Anh ta cũng từng trò chuyện với anh bảo vệ rằng mình là phóng viên mới, được điều từ đài truyền hình khác đến... Trong những lần tiếp xúc, anh ta còn kể đủ thứ chuyện vớ vẩn xảy ra trong đài. Mông Nhân hỏi anh bảo vệ, “đủ thứ chuyện vớ vẩn” ấy là gì, anh bảo vệ kể lại vắn tắt. Nghe xong, hai chúng tôi đều tái mặt, vì trong đó có cả mẩu chuyện Mông Nhân và một người bạn to tiếng trong phòng làm việc chỉ vì một chuyện nhỏ bằng cái móng tay. Tại sao gã Trương Ái Dân lại biết được những chuyện đó? Tôi và Mông Nhân quay lại phòng làm việc, và hỏi các đồng nghiệp về vài mẩu chuyện, họ cũng công nhận rằng những mẩu chuyện mà Trương Ái Dân nói với anh bảo vệ là đã từng xảy ra thật. Tôi và Mông Nhân đều ngẩn tò te.

Hai chúng tôi ngồi trong phòng làm việc, hồi lâu sau mới trấn tĩnh lại được. Mẹ kiếp, đúng là quái dị, không sao tưởng tượng nổi. Nó đâu phải là phim ảnh? Khi chúng tôi đang bàn xem sau đây nên thế nào, thì anh bảo vệ tay xách cái túi bước vào, nói: “Vừa rồi có một thằng bé đưa tôi cái túi này dặn tôi giao tận tay các anh, rồi đi luôn.” Chúng tôi xem cái túi, vì nó chẳng phải của chúng tôi, và cũng không rõ bên trong có những gì. Trong túi có một tờ giấy A4 viết “Tôi lấy 200 tệ, sau này tôi sẽ trả lại”. Bên dưới còn ghi rõ họ tên, nhưng nét chữ hệt như chữ của tôi. Tôi giữ lại tờ giấy, sau đó cùng Mông Nhân đem cái túi trả cho Lưu Cương, hỏi anh ta có mất thứ gì không. Lưu Cương hết sức ngạc nhiên, vội mở túi ra xem, thấy thiếu mất 200 tệ, các thứ khác thì vẫn còn nguyên vẹn.

Lưu Cương hỏi chúng tôi thế này là chuyện gì, tôi và Mông Nhân nhất trí trả lời anh ta: “Để sau hãy hay.” Rồi tôi gọi điện cho cảnh sát, kể cho họ biết sự việc này. Cảnh sát nói họ đã điều tra: Trương Ái Dân đúng là con trai của Trương Quân, nhưng nghe nói anh ta vẫn đang ở nước ngoài chưa trở về; họ cũng đang tra cứu các ghi chép về xuất nhập cảnh, nhưng còn phải chờ kết quả.

Tôi và Mông Nhân ngồi đờ đẫn trong phòng làm việc hơn một tiếng đồng hồ. Mông Nhân bỗng đập bàn: “Đi! Ta đi gặp Trương Quân. Chắc chắn lão ta phải biết thực chất mọi chuyện là gì.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 1-5: Giải tỏa mối nghi hoặc


Trương Quân đang bị tạm giam, cho nên tôi và Mông Nhân đành đi tìm anh Lý ở Sở công thương, nhờ anh ấy nói giúp rằng nhiệm vụ phỏng vấn của chúng tôi chưa kết thúc, cần gặp Trương Quân. Chúng tôi đến văn phòng xin tờ giấy giới thiệu, sau đó đến Sở công thương làm thủ tục cần thiết, rồi vội vã đến trại tạm giam nơi đang giam giữ Trương Quân.

Sau mấy ngày không gặp, thấy lão già hẳn đi, tóc bạc thêm không ít. Nhìn thấy hai chúng tôi, lão im lặng không nói gì hết. Tôi và Mông Nhân đưa mắt nhìn nhau, rồi Mông Nhân hỏi: “Con trai ông bao giờ về?” Nghe thấy câu này, lão đứng bật dậy: “Các anh gặp Ái Dân à? Gặp khi nào? Nó đang ở đâu? Hiện nay nó thế nào?”

Thấy lão xúc động, chúng tôi hiểu rằng chuyến đi của mình là đúng rồi. Chắc chắn Trương Quân biết rõ mọi sự thật là gì. Thế là chúng tôi bắt tay vào việc, nói rằng lão tàng trữ vũ khí phi pháp, tội này ít ra là ngồi nhà đá ba năm, và, còn chưa biết tiết vịt tiết lợn giả đã bán ra có gây ngộ độc cho người tiêu dùng không, nếu có, thì tội của lão càng nặng thêm. Tôi nói xong, Mông Nhân tiếp lời về chuyện Trương Ái Dân con trai lão: mắc tội trộm cắp, mạo danh phóng viên... Mông Nhân cố ý nhấn mạnh rằng tội rất nặng. Nói cả thảy gần nửa giờ, sau đó Trương Quân mở miệng: “Nếu tìm thấy thằng Ái Dân thì mong các anh giúp đỡ nó, nếu không giúp đỡ thì nó sẽ chẳng biết đi đâu, làm gì, đầu óc nó rỗng tuếch...”

Trương Ái Dân sinh năm 1981, kém tôi và Mông Nhân một tuổi. Sau khi chào đời, đến năm lên ba tuổi, Trương Ái Dân không hề nói một câu nào, gọi bố mẹ cũng không biết gọi, thậm chí rất ít khóc. Trương Quân đã đưa con đi khắp các bệnh viện để thăm khám, được trả lời rằng Trương Ái Dân không có năng lực học tập như mọi đứa trẻ khác tức là khả năng học tập rất kém, thể lực của cậu ta cũng tồi, thậm chí, đi lại cũng cần có người lớn đỡ nếu không sẽ ngã dúi ngã dụi. Cho đến khi lên năm, Trương Ái Dân mới biết gọi bố.

Kể đến đây, Trương Quân cười như mếu. “Người già xưa kia thường bảo, người đầu tiên mà đứa trẻ mở miệng gọi, người ấy sẽ khổ suốt đời. Có lẽ điều đó đúng thật.”

Vì Trương Ái Dân luôn thua kém bọn trẻ cùng lứa về mọi phương diện, nên Trương Quân sớm đã cho đứa con trai đi học lớp tiền học đường, bỏ qua cả nhà trẻ. Ngày đầu đi học, Trương Ái Dân rón rén ra khỏi lớp trở về nhà rồi trốn trong cái ổ chó ở cổng nhà, nằm im. Sau đó cô giáo đến tận nhà tìm, Trương Quân và cô giáo lo lắng, định khóa cửa đi tìm thì mới phát hiện ra thằng bé đã nằm ngủ say tít ở cái ổ chó. Trương Quân bí quá, đành bảo vợ chịu khó kèm con đi học liền nửa tháng; khi Trương Ái Dân vào lớp học, thì bà mẹ bắc cái ghế con ngồi ngoài phòng học, thỉnh thoảng ghé nhìn thằng bé, tất nhiên không để cho nó phát hiện ra thì nó mới yên tâm ngồi học.

Thoạt đầu, Trương Ái Dân học rất kém. Khi đó giáo viên nhận xét rằng, so với những cháu khác, Trương Ái Dân không có vấn đề gì về trí lực nhưng về tinh thần thì không có khả năng tập trung, dường như không có chuyện gì có thể gây hứng thú cho thằng bé.

Thấy thế, Trương Quân bèn mời một giáo viên tiểu học ở thôn hàng ngày đến dạy riêng cho Trương Ái Dân. Hồi đó Trương Quân làm nghề giết mổ gia súc, người ta quen gọi là đồ tể, cho nên thu nhập cũng rủng rỉnh hơn dân thôn, mời gia sư dạy con, chẳng qua là nấu thêm một suất cơm; đôi khi mổ lợn thì ông ta biếu thầy cái thủ lợn hoặc vài cái tai lợn...

Cứ thế diễn ra cho đến năm Trương Ái Dân lên sáu tuổi. Năm đó xảy ra một chuyện khiến Trương Quân khó quên.

Ở địa bàn của xóm Trương Quân ở có một cây thị rất to, chẳng rõ nó mọc từ thời nào, Trương Quân nói mình hồi bé đã nhìn thấy cây thị này rồi. Thông thường, trèo lên một cây thị không khó, nhưng cây thị này lại mọc rất thẳng, cành của nó thì nhỏ mảnh hơn hẳn mọi cây thị thường gặp, cho nên không dễ trèo lên. Hồi đó lũ trẻ cùng lứa tuổi với Trương Ái Dân không đứa nào trèo lên được, mà chỉ những cậu thiếu niên 14-15 tuổi mới có thể trèo lên. Có lần Trương Quân đang ở trong nhà nghe đài rất say sưa, thì thấy ông chú ở nhà sát bên cạnh chạy vào hét lên: “Thằng con quý tử nhà anh dám trèo lên cây cao như thế, coi chừng ngã xuống thì chết!”

Trương Quân vội chạy ra xem sao. Đến nơi, thấy Trương Ái Dân đã trèo lên tận ngọn cây nhìn xuống cười với bố, dưới gốc cây là một đám con nít đang vỗ tay tán thưởng, chỉ có vài đứa khoảng mười tuổi đứng xa xa hơn. Trương Quân nghĩ, tại sao bọn trẻ con bé tẹo lại trèo lên cây cao như thế được, và chắc chắn Trương Ái Dân không thể trèo lên nổi, đây hẳn là trò khỉ do mấy đứa lớn tuổi hơn bày ra. Nhưng mấy đứa ấy và lũ con nít đứng dưới gốc cây đều nói tự Trương Ái Dân trèo lên. Trương Quân đành đứng dưới gọi đứa con mình tụt xuống. Trương Ái Dân xuống đất rồi, Trương Quân hỏi nó tại sao trèo lên được, thì nó nhìn mấy đứa lớn tuổi kia và mỉm cười. Trương Quân tức quá căn vặn một thằng bé trong số đó, nó vừa khóc vừa nói rằng mấy đứa kia trèo lên trước, Trương Ái Dân đứng dưới xem, khi chúng tụt xuống đất rồi thì nó bèn trèo lên.

Trương Quân không tin một đứa trẻ lên sáu tuổi có thể trèo cây cao như thế. Ông ta sắp nổi nóng thì nghe thấy bọn trẻ đứng phía sau vỗ tay, bèn quay lại nhìn, thì thấy Trương Ái Dân đang từ từ trèo lên cây thị. Trương Quân đứng nghệt ra nhìn, rồi lớn tiếng quát nó tụt xuống ngay, nhưng nó không nghe, vẫn tiếp tục trèo lên, cuối cùng nó trèo lên tận ngọn cây, sau đó mỉm cười nhìn Trương Quân và gọi “Bố ơi!”.

Lúc này, thằng bé bị Trương Quân mắng mỏ lúc nãy chạy đến trước mặt ông ta nói: “Cháu nói rồi mà, tự nó trèo lên được!”

Kể từ hôm đó, Trương Quân nhận ra Trương Ái Dân phát triển có phần kỳ lạ. Nhiều khi các hành vi của nó khá giống, không, mà là hoàn toàn giống mọi đứa trẻ khác - một số đứa trẻ chơi với Trương Ái Dân khi ăn cơm cầm đũa tay trái, thì thằng bé Trương Ái Dân cũng dần chuyển sang dùng tay trái, nó thuận tay trái một cách suôn sẻ chứ không hề lóng ngóng; cũng trong thời gian đó, thành tích học tập của Trương Ái Dân bỗng tiến nhanh, rất tốt, nhất là môn ngữ văn nếu cần học thuộc lòng thì nó gần như chỉ đọc qua một lần là thuộc làu làu, thậm chí có thể đọc ngược từ dưới lên. Dân thôn gọi nó là thần đồng. Thoạt đầu Trương Quân rất mừng, nhưng dần dần ông phát hiện ra những điều bất ổn...

Trương Ái Dân có những hành vi gần như giống hệt người khác, ví dụ, Trương Quân thường thức dậy lúc 1-2 giờ sáng để mổ lợn thì Trương Ái Dân cũng dậy vào lúc đó; Trương Quân làm gì thì cậu ta cũng đứng sau bắt chước. Thậm chí có lần Trương Quân cầm dao chọc tiết lợn, vừa thọc vào cổ con lợn thì bỗng nghe thấy ở nhà trong cũng có tiếng lợn kêu rống lên. Ông ta bèn chạy vào thì nhìn thấy Trương Ái Dân tay cầm dao, và đã xử lý xong con lợn sữa của nhà nuôi, người nó dính tiết đỏ lòm; điều kỳ quái hơn nữa là Trương Ái Dân không hề tỏ ra căng thẳng hay sợ hãi, nó còn mỉm cười với Trương Quân.

Trương Quân ngớ ra, sau đó vội đưa nó vào nhà tắm gội thay quần áo, rồi mắng vợ một chập rằng không chịu để mắt đến thằng bé. Trương Quân lại quay ra chuồng lợn xem xét, thấy rằng nhát dao của Trương Ái Dân lúc nãy thọc rất chuẩn vào cổ con lợn, không hề vụng về như những người lần đầu chọc tiết lợn.

Trương Quân thở dài, nói: “Năm xưa mình học nghề, đã học rất lâu mà sư phụ vẫn không dám cho mình cầm dao.”

Trương Ái Dân càng lớn lên, thì nhà Trương Quân cũng xảy ra càng lắm chuyện rắc rối, ví dụ, trước cửa nhà là con đường hay có máy kéo chạy qua, Trương Ái Dân bèn chạy theo cho đến khi máy kéo dừng lại. Sau đó nó leo lên, chật vật khởi động máy rồi lái máy kéo chạy đi. Những chuyện tương tự cứ thế xảy ra, khiến dân chúng khi xưa khen Trương Ái Dân là thần đồng thì nay đâm ra ghét nó, coi nó là đồ quỷ sứ khó bảo.

Cuối cùng, Trương Quân đành đưa Trương Ái Dân đến gửi nhà họ hàng ở thành phố C, phải rất tốn kém để xin học cho nó. Nhưng kể từ đó Trương Ái Dân thật sự xảy ra vấn đề lớn. Giáo viên phụ trách mời Trương Quân đến trường, nói rằng Trương Ái Dân học lực cũng khá nhưng có một số biểu hiện rất khác thường, đặc biệt là học môn tập làm văn. Khi học lớp 6, nó viết rất được, nhưng nếu đọc kỹ thì nhận thấy không phải là do nó viết mà là do nó sao chép lại từ một tuyển tập các bài tập làm văn đặc sắc nào đó. Thầy giáo cũng tấm tắc khen Trương Ái Dân có trí nhớ siêu phàm. Có lần nó viết một bài tập làm văn giống y hệt bài in trong tuyển tập, không thiếu một chữ, thậm chí không sai một dấu chấm dấu phẩy!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 1-6: Kết thúc, nhưng chưa kết thúc


Năm Trương Ái Dân 19 tuổi, một người họ hàng xa đến thăm Trương Quân vào dịp tết, người này làm ngành y, nhận thấy Trương Ái Dân có một số nét đặc biệt bèn nói chuyện với Trương Quân rằng hình như Trương Ái Dân có vấn đề thần kinh, nếu không sớm điều trị thì e sẽ xảy ra rắc rối to. Trương Quân hỏi người bà con ấy có cách gì để điều trị, điều trị ở đâu, người ấy bảo, nghe nói ở nước ngoài rất giỏi điều trị về loại bệnh thần kinh này. Tất nhiên chỉ là nghe nói mà thôi. Về sau Trương Quân nhờ người tính toán hộ về mọi chi phí, thấy mình còn thiếu khá nhiều tiền, từ đó ông ta đánh liều mạo hiểm, bắt đầu làm những chuyện phi pháp để kiếm tiền. Ví dụ, chế tạo súng ống, bán thịt lợn được bơm nước cho nặng cân, gia công tiết vịt tiết lợn giả. Phải nói rằng Trương Quân rất có đầu óc, lại giỏi chịu đựng gian khổ, cho nên chỉ sau vài năm ông ta đã chuẩn bị được đủ tiền; khi Trương Ái Dân 21 tuổi, được ông ta cho ra nước ngoài và nói với bên ngoài rằng cho con đi du học. Tất nhiên là, trước khi đi, vốn khẩu ngữ tiếng nước ngoài của Trương Ái Dân cũng đã rất khá.

Nghe Trương Quân kể đến đây, tôi nghĩ bụng, đó chẳng phải là câu chuyện năm ngoái hay sao?

Nhưng nào ngờ, đưa Trương Ái Dân sang Úc chưa được nửa năm, thì cậu ta đã lò dò trở về; Trương Quân cũng không rõ người họ hàng kia đã đi đâu, không thể liên lạc được. Ông ta hỏi Trương Ái Dân, thì cậu ta nói “Chú ấy bảo con cứ tự trở về nước”, các chuyện khác thì cậu ta không rõ. Trương Quân nhận ra, khi Trương Ái Dân trả lời mình, cách nói năng và vẻ mặt của nó khác xa với trước khi nó đi nước ngoài, nhưng cũng không mấy bận tâm, ông ta chỉ chăm chú tìm việc làm cho đứa con mình, hoặc nếu nó muốn, thì ông sẵn sàng cho nó tiếp tục đi học. Nhưng Trương Ái Dân chỉ muốn ở nhà để phụ giúp công việc của bố.

Trương Quân vốn không muốn nó dính dáng vào các chuyện làm ăn phi pháp, nhưng lại nhận ra rằng kể từ khi Trương Ái Dân tham gia phụ giúp thì việc làm ăn của ông ta lại rất phát đạt, phát đạt một cách khác thường: chỉ cần dùng một lượng nguyên liệu có thể chế ra lượng sản phẩm nhiều gấp mười. Trương Quân nhiều lần hỏi Trương Ái Dân chuyện đó là thế nào, thì anh ta chỉ mỉm cười không đáp. Trương Ái Dân bắt đầu thích mua sách và đĩa DVD, gần như tuần nào anh ta cũng vào nội thành ôm về một chồng to tướng, sau khi làm hết việc nhà thì anh ta vùi đầu vào đọc sách và xem đĩa chứ không thiết gì khác. Trương Quân đã nhiều lần nghe thấy Trương Ái Dân nói mê trong đêm, hình như anh ta gặp ác mộng; nói lảm nhảm những gì thì Trương Quân không nghe rõ, nhưng hình như không phải tiếng Trung Quốc.

Kể đến đây, Trương Quân dừng lại xin tôi thuốc lá. Tôi nhìn anh cảnh sát vẫn ngồi bên cạnh, xem chừng anh ta nghe từ nãy cũng rất ngạc nhiên, bèn gật đầu đồng ý. Tôi bèn mời Trương Quân hút thuốc. Anh cảnh sát nói: “Kể tiếp đi!”

Tôi, Mông Nhân và Trương Quân cùng quay sang nhìn anh cảnh sát, có lẽ anh ta cũng nhận ra thái độ của mình “có phần thiếu nghiêm nghị”, nên e hèm giả vờ ho mấy tiếng. Trương Quân rít thuốc lá một lúc, rồi nói: “Chuyện còn lại, là nói về cái hôm các anh đến khám nhà tôi. Khi đó tôi cũng sắp dậy để làm việc như thường lệ - các anh cũng biết rồi: chúng tôi chuyên làm về ban đêm, không thể để lộ ra ngoài. Nhưng... tôi phải nói ngay điều này: đúng là tôi bán tiết vịt tiết lợn giả, nhưng những thực phẩm ấy ăn không chết người, không hề độc hại; vì chính nhà chúng tôi cũng ăn, nếu không tin thì các anh cứ hỏi người nhà tôi thì biết ngay.”

Tôi nhớ đến cái bóng đen trèo trên đỉnh tường. Bây giờ gần như có thể khẳng định bóng đen ấy chính là Trương Ái Dân. Tôi bèn nói ra cách nhìn nhận của tôi. Trương Quân gật đầu, nói: “Khi các anh chưa gọi mở cửa, thì Ái Dân đã bắt đầu bảo tôi hãy chạy trốn. Tôi không biết có chuyện gì xảy ra, chỉ thấy nó lục tìm đĩa DVD, tôi gọi nó nó cũng phớt lờ. Rồi nó gom những cái đĩa ấy lại... sau đó... sau đó...”

Trương Quân ngắc ngứ, nín lặng, không nói tiếp nữa. Mông Nhân thúc giục: “Sau đó thì sao?”

Trương Quân hít một hơi thật sâu, rồi nói: “Sau đó nó lại bảo chúng tôi chạy đi, còn nó thì đi ra nhảy lên tường rào.”

Tôi và Mông Nhân nhớ lại, bức tường ấy khá cao, bằng đầu người cao khoảng 1,75 mét, thế mà Trương Ái Dân có thể nhảy lên được? Lúc này anh cảnh sát bèn hỏi Trương Quân: “Hắn cứ thế mà nhảy lên à?”

Trương Quân gật đầu. Anh cảnh sát hít thở thật sâu, rồi lẩm bẩm: “Không thể!”

Tôi và Mông Nhân cũng biết đó là chuyện không thể. Dù là vận động viên nhảy cao, phá kỷ lục thế giới, cũng không thể nhảy lên cao như thế, trừ phi là nhảy sào. Nhưng Trương Ái Dân, chỉ tay không mà nhảy vọt lên tường!

Trương Quân nói tiếp: “Các chuyện sau đó thì các anh đã biết rồi.” Nói xong, ông ta gục đầu xuống bàn khóc thút thít. “Chẳng rõ kiếp trước tôi đã có tội lỗi gì, đã gây nên nghiệp chướng gì...”

Tôi và Mông Nhân thấy Trương Quân đã kể rõ mọi chuyện mình cần biết, bèn ra khỏi trại tạm giam, trở về. Một thời gian dài sau đó, chúng tôi không gặp lại ông ta nữa, vì ông ta không muốn gặp chúng tôi. Anh cảnh sát đã cùng chúng tôi ngồi nghe Trương Quân kể lể, nói với chúng tôi rằng Trương Quân không khai báo điều gì khác về Trương Ái Dân, mọi chuyện đều nhận hết về mình. Khi bị hỏi về nguồn gốc nguyên liệu, về cách gia công tiết giả với số lượng lớn như thế, Trương Quân chỉ trả lời mấy chữ gọn ghẽ: “Đó là bột tiết!”

Tôi và Mông Nhân đương nhiên hiểu rõ đó không phải là bột tiết gì hết, bèn đi hỏi anh Lý ở Sở công thương. Anh Lý nói, đã cho làm xét nghiệm rất tỉ mỉ cũng không rõ thực ra nó là chất gì, chỉ biết nó gần như không có hại gì cho sức khỏe con người. Vụ việc về Trương Ái Dân, rốt cuộc cũng không thành vụ án, vì trong toàn bộ sự việc, anh ta chỉ là một vai phụ, rất nhỏ, chẳng mấy can hệ gì. Cái túi của Lưu Cương cũng đã trở về, tuy thiếu mất tí tiền cũng chẳng sao; Lưu Cương chín bỏ làm mười, cho qua, không “truy kích” làm gì. Còn tôi và Mông Nhân thì hiểu rằng, phải tìm ra Trương Ái Dân thì mới hòng triệt để làm rõ câu chuyện là thế nào.

Nhưng, khi đã đưa ra kết luận cuối cùng về vụ việc Trương Quân làm giả tiết vịt tiết lợn, thì tôi và Mông Nhân đồng thời nhận được một tấm thiếp chúc mừng, viết một lô những câu tốt lành, bên dưới ghi hai chữ rõ to: Cảm ơn! Bút tích vẫn giống hệt chữ tôi, ký tên là Trương Ái Dân. Tôi và Mông Nhân bàn bạc một hồi, vẫn quyết định sẽ không điều tra làm gì nữa; thực tế là, năng lực của cả hai chúng tôi có hạn, khó mà điều tra nổi. Đành gác lại vậy. Chỉ hiềm, tại sao gã Trương Ái Dân lại gửi thiếp chúc mừng hai chúng tôi, việc này có ý nghĩa gì?

Một thời gian sau đó, tôi và Mông Nhân đến dự tiệc rượu do một người bạn tổ chức, gặp một anh cảnh sát tên là Trần Trọng. Anh ta lại nói về sự việc này với chúng tôi, và nói rằng lão Trương Quân trước khi chính thức vào nhà tù, nói rằng Trương Ái Dân con trai lão đôi khi mắc chứng mất trí nhớ đứt quãng, và mong anh Trần Trọng sau này nếu có thì giờ thì đến cái thôn ấy, nếu gặp Trương Ái Dân thì nhắn anh ta vào thăm bố.

Tôi hỏi Trần Trọng, sau đó anh đã đi chưa, anh nói mình đã đến đó mấy lần nhưng đều không gặp Trương Ái Dân. Còn ngôi nhà xưởng kia thì đã bị ông chú của Trương Ái Dân chiếm giữ, ông chú nói là vợ Trương Quân đã nhượng lại cho mình. Sau đó vợ Trương Quân đi đâu mất hút, cứ như là đã bốc hơi lên trời.

Nghe Trần Trọng nói thế, tôi đoán rằng chắc là Trương Ái Dân đã quay về đón mẹ đi khỏi thành phố C. Có lẽ Trương Ái Dân vẫn còn ở Trung Quốc hoặc đã sang Úc; hồi nọ anh ta mạo nhận là phóng viên là vì muốn gặp mặt người cha một lần.

À, còn điều này nữa: sau khi tôi và Mông Nhân đã gặp Trương Quân, cảnh sát cho biết một tin: họ đã tra cứu danh sách xuất nhập cảnh, thì cách đây một tuần, Trương Ái Dân mới về nước! Nghe tin này, tôi và Mông Nhân đều cực kỳ kinh ngạc, vì Trương Quân cha anh ta đã nói rằng con trai mình ra nước ngoài chưa đầy nửa năm thì đã trở về, vậy đâu có thể có chuyện cách đây một tuần anh ta mới về nước? Nhưng cảnh sát khẳng định rằng họ không nhầm, hồ sơ ghi chép xuất nhập cảnh tuyệt đối không nhầm lẫn.

Thế thì đây lại là một câu đố... đáp án nằm ở Trương Quân hay nằm ở Trương Ái Dân, tôi và Mông Nhân khỏi cần suy nghĩ cùng thừa hiểu rồi.

Khi hai chúng tôi chỉnh lý lại các tư liệu đã ghi chép, Mông Nhân nói rằng anh cảm thấy vị người nhà của Trương Quân, tức người đã đưa Trương Ái Dân sang Úc, có liên quan rất lớn đến vụ việc này. Điều quan trọng nhất là, nếu biết những chuyện về Trương Ái Dân xảy ra ở Úc thì sẽ biết được toàn bộ câu chuyện này là thế nào, tại sao Trương Ái Dân lại có thể thay đổi - đến mức trở nên giống người bình thường ở một số phương diện, tại sao anh ta lại mua nhiều sách và đĩa DVD? Anh ta muốn tìm ra thứ gì trong đó, hay là vì nguyên nhân gì khác?

Sau khi gặp Mễ Đâu, biết cô học ngành tâm lý học, tôi và Mông Nhân hỏi Mễ Đâu có biết trong bệnh học thần kinh có căn bệnh nào như thế không, cô trả lời rằng có căn bệnh này nhưng không đến mức thổi phồng quá đáng như vậy; có một số bệnh nhân chỉ hay bắt chước một cách đơn giản, nhưng rất vụng về chứ không như Trương Ái Dân mà chúng tôi nói - mô phỏng còn khéo hơn cả đối tượng bị mô phỏng.

Và thế là câu chuyện về Trương Ái Dân tạm dừng lại ở đây. Tôi và Mông Nhân đều thuộc nhóm những người nếu chưa tìm ra gốc rễ ngọn ngành sự việc thì chưa chịu thôi, điều mà chúng tôi không ngờ là chỉ ít lâu sau, Trương Ái Dân lại xuất hiện trước mặt chúng tôi một cách rất ly kỳ, và, anh ta đã gây ra cho chúng tôi rắc rối cực lớn. Tất nhiên, đó là chuyện về sau này. Theo cách viết bút ký phóng sự tuần tự theo dòng thời gian, thì khi thời gian đến, mọi bí mật sẽ đều được tháo gỡ.

Việc chỉnh lý của tôi đối với “Phục chế ký”

Từ sau khi Trương Ái Dân biến mất, tôi đã cất công tìm hiểu qua nhiều kênh khác nhau, thấy rằng các tình tiết mà Trương Quân người cha của anh ta kể, căn bản là đúng, không hề ba hoa nói vống lên. Tôi đã ghi chép đầy đủ các tình tiết, sau đó liệt kê ra các điểm còn nghi vấn, nhằm khi nào đó có được manh mối thì sẽ truy tìm đáp án cho mình.

Điểm thứ nhất: Trương Ái Dân có phải con đẻ của Trương Quân thật không?

Về điểm này, tôi rất nghi ngờ. Tôi đã đi hỏi một vị bác sĩ. Xét từ góc độ di truyền học, một ai đó có một biểu hiện đặc biệt, thì có khả năng rất lớn là bố, mẹ, hoặc đời ông, đời cụ đã từng có biểu hiện tương tự; có lẽ biểu hiện sẽ không thật rõ rệt như Trương Ái Dân. Tôi đã điều tra về cha và mẹ của Trương Ái Dân, thậm chí tìm hiểu cả ông nội ông ngoại anh ta, họ đều là những nông dân bình thường, không có gì kỳ lạ nổi trội. Tất nhiên cũng có thể là do tôi chưa điều tra triệt để, nhưng tôi vẫn rất nghi ngờ điểm này. Nguyên nhân là: khi tôi điều tra về Trương Quân - bố của Trương Ái Dân, thì ông ta chỉ cười chua chát chứ không nói gì cả; nếu hỏi lại lần nữa thì ông ta rống lên mắng mỏ tôi. Nếu Trương Ái Dân đúng là con trai ông ta, thì riêng chuyện anh ta mất tích cũng đủ để ông ta bồn chồn lo lắng. Tôi cho rằng ông ta phải lập tức phẫn nộ với tôi, chứ không phải là gượng cười chua chát cùng với vẻ mặt như đang hồi tưởng những chuyện xa xưa.

Điểm thứ hai: năng lực đặc biệt của Trương Ái Dân là gì?

Tôi cho rằng đó là mô phỏng. Tôi gọi nó là phục chế. Xét những hành động của Trương Ái Dân hồi nhỏ, anh ta không sáng tạo ra hoặc không chủ động làm một việc gì đó, mà chỉ sau khi người khác đã làm thì anh ta làm theo giống hệt, ví dụ, mô phỏng bút tích của tôi. Tôi rất nghi ngờ, tại sao anh ta có thể trong một thời gian rất ngắn làm ra thẻ công tác phóng viên giả mạo v.v... Dù làm giả những thứ như thế không khó lắm, nhưng vẫn phải khá tốn thời gian; anh ta có thể làm giả thành công trong thời gian cực ngắn, lẽ nào tất cả vốn đã nằm trong kế hoạch của anh ta?

Điểm thứ ba: có thật là Trương Ái Dân mắc chứng mất trí nhớ tạm thời không?

Tuy Trương Quân cha của anh ta nói rõ điều này, và khi Trương Ái Dân đến tìm tôi và Mông Nhân cũng thể hiện “sự quên” kỳ cục ấy, nhưng tôi vẫn chưa thật tin hẳn. Nếu Trương Ái Dân có bệnh mất trí nhớ thật, thì năng lực phục chế của anh ta cũng chỉ có thể là ngắn hạn, khoảng một hai giờ hoặc lâu hơn chút ít chứ không thể là quá lâu.

Điểm thứ tư: khi Trương Ái Dân ở Úc, đã xảy ra những chuyện gì?

Hoàn toàn không có chứng cứ gì về chuyện đó, tôi chỉ có thể suy đoán, rất có thể anh ta sang Úc chữa bệnh, hoặc điều trị thuốc men, hoặc vì nguyên nhân gì đó, dẫn đến năng lực của anh ta bỗng phát triển đột biến, nhưng không điều trị được bệnh mất trí nhớ tạm thời của anh ta. Tôi còn can đảm suy đoán rằng, rất có thể nhân vật họ hàng của cha Trương Ái Dân đã dùng Trương Ái Dân làm vật thí nghiệm, coi như chuột bạch! Xem ra, muốn triệt để điều tra rõ đã xảy ra những chuyện gì với Trương Ái Dân, vẫn cần phải gặp chính anh ta, hoặc gặp nhân vật đã đưa anh ta sang Úc.

Điểm thứ năm: thứ gọi là tiết bò ấy, là thế nào?

Trước hết, tôi loại trừ ý kiến nói là “bột tiết”. Là bột tiết, không thể cho kết quả xét nghiệm là tiết của cùng một con bò; vả lại, số lượng thì cực nhiều, khiến người ta kinh ngạc. Khi tôi đi gặp Trương Quân, ông ta chỉ lặp lại hai chữ “bột tiết”, ngoài ra chỉ lắc đầu nói rằng không rõ, tất cả là do Trương Ái Dân người con trai thực hiện. Mông Nhân từng nêu vấn đề: bò, có thể nhân bản được không? Tôi loại trừ điều này, vì ở cái xưởng bí mật ấy không hề có một thứ máy móc thiết bị kỹ thuật gì cả, một nhà xưởng vớ vẩn đâu có thể thực hiện nổi kỹ thuật nhân bản? Đây là một mớ bòng bong bí mật, rối tinh rối mù, khiến tôi không thể suy đoán nổi điều gì. Tôi không có nổi những tài liệu xét nghiệm tiết bò ấy, và tôi cho rằng có lẽ tiết bò không phải vấn đề chủ yếu. Vấn đề cốt lõi là: rốt cuộc Trương Ái Dân là gì vậy? Tôi không muốn gọi anh ta là “một người như thế nào”.

Điểm thứ sáu: tại sao Trương Ái Dân lại tìm gặp Mông Nhân và tôi?

Trong sổ ghi chép ban đầu, khi tôi viết đến chỗ này, thì bên dưới toàn bỏ trống. Tôi cho rằng khả năng anh ta đến tìm để xin đăng thông báo tìm người, chỉ không đến 10%. Các lý do khác là gì, tôi chịu không biết.

(Hết “Phục chế ký”)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 2-1: Chốn nhân gian, mọi thời đại đều có cao thủ


Ghi chép (II) Những chuyện kỳ lạ mà Đường Tiểu Bạch chứng kiến: Thần thâu ký



Tôi thường nhìn thấy trên mạng những bức ảnh khiến người ta phải bật cười, ví dụ, có người nằm ngủ trên xe đạp, có người đặt lon bia rỗng xuống đất làm ghế ngồi, có người nằm ngửa móc hai chân lên gờ ban công đu người lên hạ người xuống, thậm chí có người nhảy lên mặt tường và đi nghiêng cả chục bước...

Tôi nghĩ, những chuyện đó ngoài gây cười ra, còn phản ánh một điểm chung là: cao thủ luôn có mặt khắp chốn nhân gian.

Điều này có thể đọc thấy trong rất nhiều tiểu thuyết cổ điển hoặc trong các tài liệu đã được ghi chép lại. Có người gọi là “thần hành”, ngày đi 300 dặm; có người có thể nín thở lặn dưới nước từ 5-10 phút, có người đứng xa anh chục mét vẫn lấy cắp được một thứ đồ trên người anh... Nói đến hành vi trộm cắp, thì nhân vật nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc được gọi là “thần thâu”[1] có biệt hiệu “Yến tử Lý Tam”, truyền thuyết nói rằng anh ta có biệt tài leo trèo đột nhập. Đương nhiên tên nhân vật chính mà câu chuyện này kể không phải Lý Tam, mà là một siêu trộm khác, thật sự có bản lĩnh, chính mắt tôi chứng kiến - là một thần thâu mà “thành tích quang vinh” của anh ta khiến các cảnh sát kỳ cựu ở thành phố C vẫn còn nhớ như in.

[1] Tức “siêu đạo chích”; tài đến mức được coi là “thần trộm cắp”.

Mùa đông năm 2003, trước Tết. Cũng như năm ngoái, đài truyền hình đều tung ra một tiết mục nhằm nhắc nhở dân thành phố cảnh giác đề phòng bọn trộm cướp hoành hành trong dịp tết. Tiết mục này thường là sự hợp tác giữa đài và cảnh sát, lật giở lại một số vụ án thường gặp, nếu có điều kiện thì sẽ đi cùng cảnh sát để mai phục quay tại chỗ, hoặc tái hiện một lần gây án có tính chất điển hình, nhà sản xuất tìm gặp đương sự, quay phim, làm mờ khuôn mặt, kể lại trình tự câu chuyện và phát lên sóng.

Trước đây tôi và Mông Nhân chưa từng làm tiết mục kiểu này, nên cảm thấy rất mới mẻ. Vì chúng tôi cứ cho rằng đi theo cảnh sát để làm phóng sự tại chỗ thì mới lý thú, có cơ hội chúng tôi không bao giờ bỏ qua. Nhưng sau một thời gian làm việc, lại dần cảm thấy mệt mỏi, chúng tôi nhận ra rằng công việc của cảnh sát không gây kích thích như chúng tôi tưởng tượng, nên cảm thấy buồn chán và vất vả. Thường xuyên ra đứng đầu đường, ra bến xe buýt hoặc ra chợ chầu chực và thao tác nửa ngày hoặc cả ngày, thì ai cũng chán đến phát ốm. Chờ đợi chán chê, cảnh sát nói đã phát hiện ra một tên trộm, chúng tôi phấn chấn hẳn lên, khi tên trộm đó ra tay thì lập tức bị khổ chủ bắt quả tang. Khổ chủ cũng không phải tay vừa, tóm được rồi ông ta tát cho hắn lệch cả mặt, rồi đấm đá tơi bời. Chúng tôi và cảnh sát định chen vào cũng khó. Khi lôi được tên trộm đó ra, thì người hắn đã mềm oặt. Thẩm vấn, thì ra hắn là lần đầu trộm cắp! Thời kỳ đó cảnh sát bắt được không ít kẻ trẻ tuổi lần đầu gây án, chưa từng có tiền sự.

Tiết mục lần này của chúng tôi đã làm xong, tết cũng sắp đến gần. Vì gia đình tôi mới mở thêm một cửa hàng lẩu, vì sắp tết nên thiếu nhân lực, gia đình bèn bảo tôi về phụ giúp mấy hôm. Công việc của tôi ở đài cũng không bận lắm, cứ theo như năm ngoái, thì chắc đài sẽ cử thêm người trực ban, cho nên tôi xin với sếp cho nghỉ phép một tuần. Nào ngờ sếp vui vẻ chấp nhận ngay, chỉ yêu cầu tôi mồng 2 tết phải đến đài làm việc.

Quê tôi ở thành phố J, là một vùng văn hóa có tiếng trong tỉnh. Vào thời Đường, vùng này đã từng xuất hiện một nhà thơ lớn, cho nên về sau người ta khai thác nơi ở cũ của danh nhân này, thậm chí tìm ra ngôi trường cũ mà danh nhân đã học hồi còn bé, trùng tu khôi phục, và biến thành điểm du lịch; từ đó tiếp tục phát triển, khiến thành phố J quê tôi trở thành thành phố công nghiệp không khói là chủ yếu.

Cha tôi vốn là bộ đội chuyển ngành, sau khi trở về địa phương, làm sếp một cơ quan ít lâu, sau đó ông xin thôi việc để làm kinh doanh. Hồi đó cả họ đều phản đối, nhưng cha tôi viện ra lý do là mình không muốn dính dáng đến các chuyện tranh đấu ở chốn quan trường, chỉ muốn sống ung dung ít năm, sau này có thêm cháu chắt, tâm trạng sẽ càng nhẹ nhõm dễ chịu.

Thế rồi cha tôi bắt đầu từ ngành ẩm thực, làm các món ăn nhẹ, lẩu... Chỉ sau vài năm, quy mô kinh doanh ngày càng lớn, đã mở thêm ba cửa hàng tương tự cửa hàng lần này. Mẹ tôi cũng xin thôi việc cơ quan, trở về cùng trông nom với cha tôi. Có điều, họ rất không muốn tôi kế tục những hoạt động này, chỉ muốn tôi nếu rỗi thì trở về nhà giúp một tay, và nói rằng tôi nhất định phải có một công tác nghiêm chỉnh và có thu nhập ổn định; hiện giờ tôi chưa đủ kinh nghiệm trường đời và năng lực để có thể một mình đảm đương.

Về đến nhà, tôi mới nhận ra rằng, cái cửa hiệu mới mở thêm này có thêm tôi hay không cũng chẳng hề gì. Cửa hàng kinh doanh chủ yếu là các món lẩu cá; cá, do một vị có biệt hiệu là “Ngô lão ngư” cung cấp cho - đều là cá nuôi tự nhiên không dùng thức ăn công nghiệp, nên có hương vị rất ngon. Ngô lão ngư là triệu phú trẻ nhất địa phương, tuổi không nhiều hơn tôi bao nhiêu.

Cha mẹ tôi nói “bận tối mắt tối mũi”, thực ra chỉ là cha mẹ tôi thiếu một người ngồi uống rượu tiếp đãi các bạn, các đồng nghiệp cũ, các nhân viên cũ của cha tôi đến chúc mừng ông. Tôi về rồi, cha tôi dặn đi dặn lại rằng, làm ngành ăn uống, cần nấu ăn thật ngon, mặt khác cũng cần phải duy trì quan hệ xã hội cho tốt, “Con hãy chịu khó tiếp xúc với những người đó, chứ đừng nên ngồi chưa ấm chỗ đã đứng dậy lủi ra chỗ khác”.

Thế là, hai ngày đầu tiên về nhà, tôi chủ yếu là ngồi bên vò rượu. Hồi đó, điểm khác biệt lớn nhất giữa tôi và Mông Nhân là, Mông Nhân ham rượu, tôi thì không. Hễ thấy rượu là tôi “đau đầu”, tuy vẫn biết mình được hưởng gen di truyền dù uống một hơi nửa lít cũng không vấn đề gì, nhưng khi đối mặt với những con “sâu rượu” kia, thì tôi vẫn thua họ về lòng can đảm. Hai ngày đầu, tôi hầu như ăn rất ít, chỉ căng bụng vì rượu, ngày nào cũng phải hâm vài cốc sữa bò để uống hoặc uống cái thứ thuốc giải rượu giời ơi đất hỡi gì đó.

Sang ngày thứ ba, tôi thật sự không kham nổi nữa, bèn gọi ông anh họ đến “uống rượu” giúp. Anh ấy đang là sếp của một phòng ban gì đó ở ủy ban chính quyền, rất có khả năng giao tiếp, đám khách khứa ở đây hầu như đều quen biết anh. Còn về tửu lượng thì miễn chê: anh đã luyện uống rượu từ hồi học đại học, dù không đến nhà tôi uống thì ngày nào anh cũng uống ở nơi khác, uống đến say mềm.

Được ông anh họ đến chống đỡ giúp cho, tôi thấy nhẹ cả mình. Tôi ngồi ở quầy thu ngân, vừa xem ti-vi vừa dỏng tai nghe đám khách trong nhà đang hò hét inh ỏi. Lúc 8 giờ tối, cả nhà hàng đã đông nghịt người, có vị khách phải ngồi ở ngoài cửa hàng để chờ, thỉnh thoảng lại vào hỏi tôi bao giờ thì có chỗ. Khi tôi đang bận tíu tít thì có một gã ăn mày ăn mặc rách rưới đẩy cửa bước vào, sau đó chìa tay ra xin tiền khách ngồi bàn đầu tiên ở sát cửa.

Một cậu nhân viên cửa hàng đang định bước ra quát mắng, tôi vốn tốt tính, bèn ngăn anh ta lại, rồi mở ngăn kéo lấy ra ít tiền lẻ dúi cho gã ăn mày. Gã nhận tiền và mỉm cười với tôi, rồi chẳng thiết ngoái đầu, bước ra ngay. Cách đi của gã khác hẳn cách đi lúc mới bước vào.

Lúc này cậu nhân viên đứng bên mới nói với tôi: “Anh Đôn, anh rộng rãi quá đấy! Anh cho hẳn 100 tệ để lùa gã ăn mày đi!” Tôi giật mình, vội mở ngăn kéo ra xem. Thì ra lúc trước thu tiền hàng vội quá, tôi chưa phân loại tiền; tờ 100 tệ cũng để vào ngăn kéo, lúc tiện tay lấy tiền lẻ ra cho gã ăn mày, đã kẹp lẫn cả tờ tiền 100. Tôi định đuổi theo để đòi lại, nhưng ai có thể đòi nổi tiền từ tay một gã ăn mày? Thôi đành cho qua. Tôi rút tờ tiền 100 tệ từ túi mình ra bù vào ngăn kéo vậy. Vì nếu tôi không làm thế thì cậu nhân viên láu táu kia sẽ báo cáo với mẹ tôi khi bà đến “thị sát” trước giờ đóng cửa hàng, và tối nay tôi khó tránh khỏi bị ăn mắng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 2-2: Câu chuyện do chú Nam kể lại


Tôi ngồi xuống châm điếu thuốc lá, thở dài, bụng vẫn thầm trách mình hấp tấp vụng về. Lúc này, chú Nam là nhạc phụ của ông anh họ tôi ngồi bàn bên cạnh, bước đến ngồi bên tôi, nói: “Vừa nãy, coi như cháu gặp may đấy!” Chú Nam nói thế, tôi rất lấy làm lạ. Chú là cảnh sát kỳ cựu ở thành phố J, hiện đã lùi về tuyến hai, ngày trước chú từng là cảnh sát hình sự, về sau được điều sang phụ trách đại đội an ninh quốc gia, những người đường hoàng cũng như những kẻ ám muội ở thành phố J này đều biết chú.

Thấy tôi có vẻ băn khoăn không hiểu, chú Nam mời tôi hút điếu thuốc lá thơm Phù Dung Vương, rồi nói: “Có biết gã ăn mày vừa rồi làm nghề gì không?”

Tôi đáp: “Chuyên đi ăn xin. Ai cũng gọi là ăn mày...”

Chú Nam cười, rồi nói: “Cháu đã bao giờ thấy kẻ ăn mày nào có nước da trắng trẻo như thế chưa?” Tôi cố nhớ lại. Đúng thế thật, gã ăn mày vừa nãy mặt mũi lem nhem nhưng có nước da rất ưa nhìn, quần áo rách rưới nhưng không giống như quần áo nhặt ở thùng rác; hình như cố ý làm cho quần áo rách bươm, các chỗ rách rất không tự nhiên.

Tôt gật đầu với chú, rồi nói: “Chú nói vậy... đúng là thế thật.” Chú Nam lại mỉm cười, rồi bước lại bàn tiệc vừa nãy cầm cốc bia sang, đặt trên quầy trước mặt tôi, nói: “Trời lạnh thật, cháu cùng uống với chú một cốc cho ấm người.”

Nói đến “uống”, cái đầu tôi lại ong ong. Tôi vừa mới thoát nạn rượu chè chưa đầy 24 giờ, chú ấy lại lôi tôi vào cuộc hay sao? Nếu tôi uống, khách khứa sẽ nhìn thấy, họ không thể không chạy lại kéo tôi vào uống. Tôi bèn kéo chú Nam vào gian nhà kho nho nhỏ ở bên cạnh bếp. Vào rồi, chú Nam nói: “Thế này không được. Cháu không ra ngoài đó hay sao?”

Tôi lắc đầu: “Không cần ạ. Nếu có việc, sẽ có người gọi cháu.”

Chú Nam nói: “Không! Ý chú là cửa hàng, nếu cửa hàng có việc thì sao?”

Tôi không hiểu chú nói gì, bèn hỏi lại “Là việc gì ạ?” Chú bèn kéo tôi trở ra quầy, cùng tôi uống cạn cốc bia, rồi nói: “Cháu ạ, đang dịp tết nhất, ai cũng phải ăn tết, ăn tết thì phải tiêu tiền; dù làm nghề gì thì cũng nhân dịp này tranh thủ kiếm thêm tí tiền tiêu, kẻ ăn mày cũng thế, bọn trộm cắp sắm vai ăn mày thì lại càng hoạt động mạnh hơn.”

Tôi ngớ ra, nghĩ bụng, lẽ nào gã ăn mày vừa nãy là một tên trộm cắp?

Chú Nam đã ngà ngà say. Chú ấy vốn rất kỳ lạ, tuy tửu lượng không khá mấy nhưng rất thích uống mỗi khi rỗi rãi. Có thể là do ngày trước công tác bận rộn nên rất ít uống cũng nên? Nghe vợ của anh họ tôi kể rằng, hồi đó chú Nam rất ít nói, nhất là khi trở về nhà, tuyệt đối không bao giờ nhắc đến các vụ án ở đơn vị, chú luôn giữ mồm giữ miệng kín như bưng, sau khi lui về, chú thích nhâm nhi vài chén, nên mới cởi mở hơn trước.

Chú Nam nhìn ra ngoài cửa, nói: “Tên trộm lúc nãy, thuộc loại tương đối thông minh. Bọn trộm cắp mà bọn chú biết, thường hoạt động ở chợ, ở bến ô tô, cùng lắm là ở trung tâm thương mại. Tuy nói rằng ngày tết thì ai cũng cảnh giác hơn, nhưng tâm trạng vui vẻ vẫn là chính; hễ vui thì kém cảnh giác. Ở bến xe hoặc trung tâm thương mại, rất dễ nhận ra ai trong người có nhiều tiền, ít tiền. Điều này đương nhiên là ngón nghề cơ bản của bọn trộm cắp. Gã lúc nãy, thuộc nhóm rất đẳng cấp. Trong dịp tết, những người nào ít cảnh giác nhất? Đương nhiên là những người đang lâng lâng men say. Có rất nhiều người hễ uống vài rượu là quên béng mình đem theo bao nhiêu tiền, lúc đó dù đánh rơi thứ gì cũng không kịp có phản ứng gì hết. Nếu bị những tên trộm sắm vai ăn mày nhìn chằm chằm vào mình, cũng không nhận ra, không nghi ngờ gì cả, hoặc chỉ cảm thấy đáng ghét là cùng. Còn cửa hàng lẩu, hiện nay phần lớn các tiệm ăn đều lắp cửa kính chấm sàn, đứng ngoài nhìn thấy hết bên trong; thực khách, có người vắt áo trên ghế, ví tiền lòi ra ngoài, thậm chí có người đặt luôn ví tiền lên bàn. Bọn trộm cắp sắm vai ăn mày sẽ lò dò vào xin tiền, chúng đi vòng quanh khắp lượt để tăm tia mục tiêu; vào mỗi tiệm ăn ra tay một lần là ổn!”

Chú Nam nói đến đây, tôi thấy rất hứng thú, vội rót thêm bia cho chú. Nhưng chú che tay lên miệng cốc, nói rằng thôi không uống nữa. Rồi chú bảo tôi pha trà. Tôi liền lấy ra một túi trà Trúc Diệp Thanh pha cho chú. Chú châm điếu thuốc lá, rồi nói: “Chú biết cháu rất thích nghe những chuyện này, hồi nọ cháu cứ đòi chú kể về các vụ án ngày trước đấy thôi! Có nhiều vụ việc không thể nói ra, nhưng về chuyện trộm cắp thì chú có thể kể một vụ, một vụ điển hình.”

Chú Nam vừa nói gã trộm sắm vai ăn mày lúc nãy thuộc loại rất to gan, nghĩa là sao? Gã trộm cắp đi vào các quán lẩu, nói chung đều đi cùng một tên nữa. Tên này ăn mặc rất nhếch nhác, khiến người ta thoạt nhìn biết ngay là gã có vấn đề; gã thường lượn khắp các bàn ăn, cố ý tỏ ra lấm lét gian giảo, làm cho mọi người đều để ý đến gã. Kẻ sắm vai ăn mày thường ra trước, gã này ra sau, cả hai tản ra ngược chiều nhau. Một khi có người bị mất cắp, phản ứng đầu tiên của người ấy sẽ là tìm cái gã này chứ không tìm gã ăn mày. Gã này nhìn thấy có người đuổi theo, gã sẽ chạy bộ mấy bước, người ta sẽ tóm được gã nhưng trên người gã chẳng có tang vật gì hết. Những gã này thường có một công việc ổn định ở đâu đó, nếu cảnh sát điều tra sâu thêm thì cũng không tìm thấy tiền sự tiền án gì.

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Đúng là ngành nghề nào cũng có ‘trạng nguyên’, không sai! Kẻ cắp mà cũng bợm như thế ư?”

Chú Nam mỉm cười, nhìn ra ngoài và chỉ tay: “Cháu nhìn kia, lúc này đang có một gã ăn mày, na ná như gã ăn mày lúc nãy; hắn ngồi đó cứ như đang bới rác thực ra mắt hắn vẫn tia vào trong này. Thằng nhãi ấy, chú biết, nó tên là Trần Tứ Oa, trộm cắp chuyên nghiệp. Hắn nhìn thấy chú ngồi đây, chắc chắn hắn không dám vào.” Nói rồi chú Nam quay người, cười hề hề nhìn ra gã ăn mày ở bên thùng rác. Gã cũng cười với chú Nam, sau đó gã bước đi.

Tôi hỏi chú Nam: “Chú đã biết hắn là tên trộm cắp, sao không bắt?”

Chú nói, một là mình đã về hưu, hai là, muốn đối phó với hạng người như thế cần bắt tại chỗ cả người lẫn tang vật, nếu không sẽ vô ích. Huống chi, vào dịp tết hiện nay, khắp nơi đều bố trí “cá chìm”, thì bọn cao thủ trộm cắp sẽ không ló mặt ra. Tôi hỏi chú, tại sao bọn cao thủ không ló mặt ra. Chú bảo, những kẻ trộm cắp sừng sỏ sẽ không hành động gây án trong tình hình cạnh tranh dữ dội và đầy nguy hiểm như thế này.

Chú Nam nhấp một hụm trà, sau đó bắt đầu kể chuyện về một “thiên tài” trong làng trộm cắp...

Hồi đó là những năm 90 của thế kỷ trước, chú Nam còn là đồn trưởng một đồn cảnh sát ở một thành phố khác. Ở thành phố J này, có một thị trấn nhỏ trực thuộc, thị trấn ấy vốn là nơi phát tích của thành phố J; vì nhà nước xây dựng một nhà máy luyện thép đồ sộ ở thị trấn, cho nên trung tâm thành phố J mới chuyển về vị trí hiện nay. Nhà máy đó hình thành, đã thu hút người dân chuyển đến, toàn thị trấn trở nên đông vui nhộn nhịp hơn ngày trước.

Hồi đó chú Nam chỉ làm đồn trưởng tạm thời, vì ở Sở công an còn có vài vụ án lớn đang phải xử lý. Chú gần như bận tối mắt tối mũi gần nửa năm, rồi mới tạm hồi sức. Có vụ đã xử lý xong, vụ nào chưa xong thì cùng các đồng nghiệp tiếp tục làm, cho nên gánh nặng của chú cũng đã nhẹ đi rất nhiều.

Dịp đó có một vụ án khiến chú Nam phải đau đầu rất lâu. Trong vòng ba tháng, khu tập thể công nhân viên nhà máy luyện thép xảy ra 8 vụ trộm, tiền mặt và tài sản mất trộm không lớn lắm nhưng cũng là tổn thất nghiêm trọng. Sau khi phân tích hiện trường, cơ bản có thể nhận định là do cùng một tên trộm gây ra. Chú Nam nói, trong làng trộm cắp, những tên trộm già đời đều có một thói quen riêng của mình. Những tên nhãi ranh theo sư phụ vài năm “học nghề”, thường chọn thời gian, hay nhận định mục tiêu để hành động na ná như kiểu của sư phụ; nhưng sau đó ít lâu, chúng sẽ tạo ra thói quen của riêng mình. Chính sư phụ cũng đã dạy điều này. Cho nên, cảnh sát cũng không dễ gì mà tóm được cả lò bọn tội phạm.

Các vụ trộm này là do một tên làm, tên ấy tương đối táo tợn: gọi là 8 vụ trộm nhưng chỉ xảy ra ở bốn gia đình; cũng tức là nói rằng nghi phạm ra tay hai lần đối với một hộ gia đình. Bốn hộ này đều là các vị có chức sắc như quản đốc, trưởng ca... của nhà máy. Tổn thất, đều là dây chuyền vàng, hoa tai, và các vụ trộm đều có chung đặc điểm: lần thứ nhất mất tiền mặt, lần thứ hai mất đồ trang sức. Dù sau vụ mất trộm thứ nhất, họ có báo cảnh sát, nhà máy cũng phối hợp với cảnh sát để tăng cường tuần tra bảo vệ khu tập thể, nhưng vẫn cứ xảy ra vụ trộm thứ hai.

Kể đến đây, chú Nam thở dài, nói: “Cháu có biết, một khi tái diễn các vụ trộm na ná lần trước, thì người dân ai oán và trút giận cho ai không? Đương nhiên là cảnh sát. Trong thời gian ấy, đầu chú chỉ muốn nổ tung.”

Thời kỳ đó, chú Nam cũng bí, chú đành “triệu tập” các cơ sở để hỏi. Gọi là “cơ sở” tức là những quần chúng đắc lực hỗ trợ cảnh sát. Chớ coi thường những quần chúng này, vì họ luôn luôn và lâu dài “cận kề” với những kẻ mờ ám, có những quần chúng cuộc sống rất khó khăn, tính mạng của họ cũng không được bảo đảm. Cho nên, vào dịp tết nhất, chú Nam thường có chút quà biếu, hoặc món tiền nho nhỏ để động viên an ủi họ. Chú nói, nếu không có các “cơ sở” như thế giúp đỡ thì cảnh sát điều tra xử lý các vụ án sẽ vô cùng khó khăn.

Tất nhiên cảnh sát không thể triệu tập một lần toàn bộ các “cơ sở”, chú Nam chỉ có thể lần lượt gặp từng người một cách kín đáo, ví dụ giả vờ đi câu cá ở đập nước, hay bảo họ giả vờ gây sự đánh nhau nho nhỏ rồi “bắt” về đồn xét hỏi... để gặp và trao đổi thông tin. Phải mất hơn nửa tháng, chú mới có được một chút manh mối. Một cơ sở quen gọi là “Voi béo” cho biết, gần đây có một thằng bé khoảng 14-15 tuổi thường xuyên đến quán trò chơi và tiêu tiền rất xông xênh. Ở đây gọi quán trò chơi, không giống như những nơi vui chơi mà hồi còn bé chúng tôi hay đến; quán trò chơi này ngoài kinh doanh các máy trò chơi ra, còn lén lút đặt các máy đánh bài. Hồi đó có rất nhiều người dựa vào những cái máy đánh bài này mà ăn nên làm ra, phất to.

Voi béo còn nói, thằng bé đó có biệt hiệu là “chó hoang”, không rõ tên thật của nó là gì, chỉ biết vóc người nó thấp và còm, có vẻ như một đứa bé bị suy dinh dưỡng từ nhỏ. Cách đây hơn một năm, Voi béo thường xuyên nhìn thấy nó. Ngoài lăn lộn ở quán trò chơi này, thằng bé cũng hay xuất hiện ở khu vực gần đó. Nó đã nhiều phen trộm cắp vặt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 2-3: Thằng bé có biệt hiệu “Chó hoang”


Chú Nam nghĩ rằng “Chó hoang” có liên quan đến các vụ trộm nói trên, hoặc là nó quen với kẻ gây án, hoặc là chính nó trực tiếp gây ra. Nhưng chú cho rằng khả năng thứ hai rất thấp, phía sau nó chắc phải có một lũ đồng bọn. Chú bèn bố trí người đến quán trò chơi để theo dõi thằng bé. Để cho chắc ăn, không bị mất mục tiêu, chú Nam bố trí sáu người thay phiên nhau trực chiến.

Vài hôm sau, chú Nam và đồng nghiệp đã xác định rõ mọi hành tung của Chó hoang. Ban đêm nó ở khu vực vứt những quả cân phế phẩm của nhà máy luyện thép, vì ở đó ấm, cứ nằm xuống là ngủ được ngay. Nói chung, rất khuya nó mới trở về khu vực đó của nhà máy, hơn 7 giờ sáng thì dậy, sau đó đi đến bên ngoài trường học trong khu nhà máy, đứng ở cổng trường nhìn vào trong, nó nhìn cái gì thì không rõ, cứ thế loanh quoanh hết cả buổi sáng. Đến trưa, nó chơi đùa với vài học sinh vừa tan học đi ra, chơi các trò chơi mà đám học trò vẫn thích, chứ không có gì đặc biệt. Buổi chiều, nó đến quán trò chơi; khi học sinh tan học buổi chiều ra về, nó lại chơi với chúng. Người ta không thấy thằng bé biệt hiệu Chó hoang ấy có biểu hiện gì kỳ quái cả, chỉ cảm thấy nó như một đứa trẻ lang thang lêu lổng mà thôi.

Cứ thế theo dõi suốt một tuần chẳng có kết quả gì, nhưng chú Nam vẫn không buông manh mối “Chó hoang”, vì trong thời gian ấy, ở khu tập thể nhà máy không xảy ra vụ trộm nào, điều này khiến chú càng tin chắc thằng bé phải có liên quan. Cuối cùng, có một lần thằng bé đi đến một hiệu vàng bạc để bán một tang vật bị trộm cắp, cảnh sát vẫn theo dõi nó bèn tóm cổ nó ngay tại chỗ.

Chú Nam nói, chú đoán rằng thằng bé đã hết tiền. Nó ngày nào cũng ra vào quán trò chơi, chủ quán nói có hôm nó bị thua đến 600 tệ. Vào những năm ấy, 600 tệ là một món tiền không nhỏ.

Chú Nam và các đồng nghiệp bắt thằng bé đem về đồn, nó hầu như không mở miệng nói một câu, mà chỉ đòi uống nước. Cảnh sát hỏi nó ăn cắp đồ để làm gì, thì nó lườm lại, và nói: “Tôi đói rồi, không có tiền ăn cơm mà vẫn còn hỏi à? Đồ tâm thần!” Khiến anh cảnh sát ấy tức lộn ruột.

Chú Nam thấy thằng bé lỳ lợm không chịu hé răng, cũng không thể căn vặn nó về chuyện liên quan đến vụ án ăn trộm kia, đành tạm giam nó, nhưng hàng ngày chú vẫn xách cơm canh vào cho nó ăn. Nói cho cùng nó vẫn là đứa trẻ con, dễ bị cảm hóa hơn là bọn tội phạm lớn tuổi; chưa đầy một tuần sau, thằng bé nói là xin gặp chú Nam. Chú Nam thấy vui vui, vì đã có “đột phá khẩu”.

Sau khi gặp chú Nam, thằng bé liền hỏi xin chú thuốc lá để hút. Chú Nam kể với tôi rằng, sau này chú mới nhận ra một quy luật của thằng bé: hễ nó hỏi xin ai thuốc lá, tức là nó có thiện cảm với người ấy. Cũng tức là nó chuẩn bị mở miệng.

Nó phì phèo điếu thuốc của chú Nam, rồi bắt đầu khai báo toàn bộ quá trình gây án của mình.

Thằng bé “Chó hoang” vốn không sống ở thị trấn này, nó dạt đến từ một thị trấn khác thuộc thành phố J, nguyên nhân cũng đơn giản thôi: ở thị trấn này, mùa đông có thể tìm chỗ ngủ một cách dễ dàng, không lo giá rét. Nó còn nói, nó không dám đi ăn trộm quần áo, vì nó đã thấy không ít những đứa trộm cắp trạc tuổi nó, đánh cắp quần áo được ít hôm thì bị những người tinh mắt tóm cổ luôn. Cho nên nó chỉ có vài thứ quần áo đã mặc từ trước (nghe đến đây, chú Nam thầm trầm trồ, thằng bé này rất có tính nhẫn nại, thậm chí còn thông minh hơn một số gã thanh niên trộm cắp).

Sau khi đến thị trấn này, Chó hoang phát hiện ra rằng đám người có thực lực kinh tế khá hơn cả là các công nhân của nhà máy luyện thép. (Tất nhiên nó không biết dùng từ thực lực kinh tế. Hồi đó nhà máy luyện thép chưa rơi vào khủng hoảng, thì công nhân luyện thép đúng là tầng lớp khá giả nhất thành phố J, họ đều cảm thấy mình có phúc tu được từ kiếp trước.) Nhưng đồng thời nó cũng nhận ra rằng những người công nhân ấy có tính cẩn thận hơn nhiều so với dân chúng bình thường, và khu vực họ ở còn được bố trí bảo vệ tuần tra canh gác. Nó mai phục quan sát rất lâu, rồi cũng tìm ra cách thức để thâm nhập - đó là đám con cái của công nhân nhà máy luyện thép. Nó bèn bắt đầu lân la ở cổng trường học để chơi đùa với bọn chúng. Trong đám con em công nhân, có những đứa trẻ rất hiếu động ham chơi, có trò gì sốc chúng đều chơi tất. Và thế là Chó hoang kết bạn với chúng, từ miệng chúng khai thác ra nhà nào khá giả giàu có... Sau đó, nó lại bày trò dẫn bọn trẻ ấy đến những nơi nó hay chơi, ví dụ quán trò chơi. Rồi nó nói thẳng ra rằng mặc đồng phục học sinh rất bất tiện, bảo chúng cởi ra đổi cho mình. Nó lại chi tiền cho bọn trẻ ấy chơi trò chơi, nhân lúc đó, nó chỉnh trang qua loa bộ đồng phục mặc trên người rồi lủi vào khu tập thể công nhân nhà máy.

Thoạt đầu, nó đi lượn khắp khu tập thể, không làm gì, cũng không ra tay; nó vừa đi vừa cố nhớ kỹ địa hình đường đi lối lại, nhà cửa cao thấp ra sao, nhà nào có lắp máy điều hòa... Có máy điều hòa thì đương nhiên là nhà giàu. Nó cố nhớ cho chuẩn để lần sau sẽ hành động.

Chú Nam kể đến đây, tôi bèn hỏi: “Vậy hắn gây án kiểu gì? Cạy cửa à?”

Chú Nam lắc đầu: “Thằng Chó hoang đâu có biết cạy cửa? Nó toàn đột nhập qua ban công, nó dùng chìa khóa mở cửa.”

Sau khi xác định được “nhà giàu”, Chó hoang bèn tìm đám học trò để chơi, rồi dùng thủ đoạn cũ: đổi quần áo ở quán trò chơi, nhân đó đem ngay chìa khóa của chúng đi đánh thêm chìa. Cứ thế, nó đàng hoàng đi vào khu tập thể rồi đột nhập vào nhà ăn trộm.

Chú Nam nói Chó hoang rất thông minh, lần đầu hành động, nó chỉ lấy tiền mặt; lý do thật đơn giản: phần lớn mọi người đều cất đồ trang sức ở một chỗ nào đó nhưng chưa chắc đã khóa lại, nếu nó lấy, thì người ta sẽ khóa lại hoặc đổi chỗ cất đồ trang sức, như thế, lần sau sẽ khó mà lấy trộm được.

Tôi hỏi chú Nam: “Có lẽ không đúng. Thông thường, nhà đã mất trộm rồi, thì dù đồ quý không bị mất thì họ cũng sẽ đổi chỗ, cất sang chỗ khác chứ?”

Chú Nam cười vang: “Đây chỉ là cách nghĩ của riêng thằng bé Chó hoang. Một ai đó muốn cất một thứ đồ quý ở nhà mình, họ sẽ cất trong tủ áo chẳng hạn, trong tủ ấy lại đặt một ngăn tủ nho nhỏ, bên ngoài đặt một nắm băng phiến lên, trông có vẻ như bên trong không có gì hết. Khi gia đình bị mất trộm một thứ gì đó, người ấy sẽ chạy đến cái tủ nhỏ mở ra xem, thấy đồ quý vẫn còn nguyên thì yên tâm, liệu có cần chuyển ra chỗ khác nữa không?”

Tôi lắc đầu, nói là không biết. Chú Nam lại nói: “Chưa chắc đã chuyển đi, vì họ cho rằng, chỗ khác chưa chắc đã an toàn hơn chỗ cũ, vì vừa rồi mất trộm thì đồ quý này vẫn còn. Hiểu chưa? Thằng bé đã biết lợi dụng tâm lý này của chủ nhà.”

Chó hoang, sau khi ăn trộm thành công, trước khi ra khỏi nhà, nó đạp hỏng ổ khóa cửa (thời kỳ đó rất ít người lắp thêm cửa sắt bên ngoài, chỉ dùng cửa gỗ thông thường, lắp khóa kiểu lò xo, đạp một cái là bật tung). Nó làm thế để cho người ta nghĩ rằng kẻ trộm phá cửa đột nhập chứ không phải dùng chìa khóa. Khi cảnh sát điều tra, cũng không nghĩ rằng tên trộm đã đàng hoàng dùng chìa khóa để mở cửa, rồi từ đó lần ra thằng bé là thủ phạm. Đã nhìn thấy ổ khóa bị phá, liệu có ai dùng giác quan thứ sáu để nhận ra sự thật mà báo cảnh sát không?

Khi Chó hoang đột nhập lần thứ hai, có ba hộ trong số đó bị đạp cửa, nó vào đúng vị trí cần thiết để nẫng được đồ trang sức, sau đó chuồn mất. Điều kỳ lạ là, một hộ trong số đó, lần thứ nhất nó đột nhập, nó đã mang theo một cái khóa mới và đặt ngay trên bàn trà của chủ hộ (tất nhiên nó đã đánh sẵn cho mình một chiếc chìa khóa rồi). Nó có ý cầu may, thử xem sao. Không ngờ, lần thứ hai đột nhập, nó thấy nhà ấy lại khóa cửa bằng cái khóa mới mà lần trước nó cầm đến đặt trên bàn trà!

Nghe chú Nam kể đến đây, tôi hồi hộp gần như tắc họng, ho sặc sụa. Mẹ kiếp, thằng bé Chó hoang này quả là... tôi không biết nên hình dung ra sao nữa. Về sau, chú Nam đến nhà đó điều tra đối chiếu, thì đúng thế: gia đình ấy dọn dẹp nhà cửa, thấy trên bàn có một cái khóa mới thì cũng không nghi ngờ gì, tưởng là chính mình đã mua từ trước, bèn dùng luôn nó thay cho khóa cũ. Hậu quả là, Chó hoang đột nhập lần thứ hai vẫn dùng cách cũ: đàng hoàng mở khóa bước vào.

Tôi nhìn chú Nam, nói: “Hẳn là thằng nhóc ấy có chỉ số IQ khá cao? Nó nghĩ ra cách đó kể cũng tài thật!”

Chú Nam mỉm cười lắc đầu: “Mấy chú cảnh sát có thâm niên cũng phải chép miệng than rằng, đối phó với thằng bé ấy khó hơn những tên trộm trưởng thành. Nếu nó không cung khai, thì e cảnh sát còn phải điều tra khá lâu mới kết luận được. Nhưng, chuyện thần kỳ thật sự vẫn còn ở phía sau...”

Chó hoang đã khai nhận tất cả các chi tiết ăn trộm ở từng hộ: đã lấy được bao nhiêu tiền, trong đó có bao nhiêu tờ tiền mệnh giá bao nhiêu; vị trí các đồ đạc trong nhà... nó đều nhớ hết. Nào là ti-vi đặt ở đâu, tủ lạnh kê ở chỗ nào, máy giặt máy khâu đặt ở đâu... đều nhớ rất chuẩn xác. Từng lần ăn trộm ở mỗi hộ, nó nẫng được những gì, những thứ đó để ở chỗ nào, có bao nhiêu thứ... cũng vẫn nhớ được rất rõ. (Về sau, chú Nam cho đối chiếu lại, thấy rằng Chó hoang nói không hề nhầm lẫn, tất cả đều đúng. Chú nói rằng đã từng bắt vô số tên trộm nhưng chỉ có thằng Chó hoang khiến chú cảm thấy khó mà tưởng tượng nổi.)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 2-4: Người quen


Chó hoang còn khai rằng, có một hộ cất cuốn sổ tiết kiệm ở dưới chân cái tủ áo to, chân tủ ở sát tường, bên trên cuốn sổ còn đặt một mảnh bìa đè lên. Nó đã mở ra xem, nhưng vì lấy trộm sổ tiết kiệm là quá mạo hiểm, nó lại không thể biết mật mã là gì, nên lại cất trở lại chỗ cũ. Chú Nam bèn thông báo cho nhà ấy biết chuyện, họ rất ngạc nhiên nói rằng mình để thất lạc tìm mãi chưa thấy, không ngờ tên trộm nhãi ranh ấy lại “tìm hộ” được cho mình.

Chú Nam hỏi thằng bé tại sao biết bên dưới tờ bìa là cuốn sổ tiết kiệm, nó nói “Cháu có cảm giác bên dưới sẽ có thứ gì đó”, vì nhìn bốn chân tủ có vẻ không thăng bằng, nếu chỉ vì một tờ bìa thì không thể khiến tủ bị kênh, nên mới tò mò lật ra nhìn xem là thứ gì. Chú Nam đã đến tận gia đình ấy, đứng trước cái tủ ngắm nghía nhưng không nhận thấy cái tủ không thăng bằng ra sao...

Luật hình sự của Trung Quốc quy định rằng, người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi, nếu phạm tội cố ý giết người, cố ý gây thương tích hoặc dẫn đến tử vong, cưỡng dâm, cướp của, bán ma túy, đốt nhà, gây nổ, đầu độc... vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu kẻ đó chưa đầy 14 tuổi thì miễn xử lý hình sự, cha mẹ hoặc người giám hộ phải coi sóc giáo dục kẻ đó; nếu cần thiết, nhà nước sẽ đưa vào trại giáo dưỡng.

Chó hoang mắc tội trộm cắp, có thể không chịu trách nhiệm hình sự nhưng phải chịu trách nhiệm dân sự. Nếu là kẻ vị thành niên có tài sản, thì kẻ đó phải bồi thường; nếu không có tài sản, thì cha mẹ hoặc người giám hộ kẻ đó phải bồi thường thay. Chó hoang chưa đến 16 tuổi, hỏi cha mẹ nó ở đâu, họ hàng ở đâu, nó chỉ một mực lắc đầu, lắc đầu chán chê rồi nó khóc. Một cảnh sát ở đồn, vốn rất có tâm, anh đề nghị được nuôi dưỡng thằng bé Chó hoang này, cho nó đi học, đồng thời nhờ người đi các nơi nghe ngóng tin tức về người nhà của nó, nhưng không có kết quả. Nó quyết ngậm miệng không nói mình từ đâu đến, gia đình vốn ở đâu, nhưng nghe giọng nói, thì nó là người địa phương thành phố J này.

Sau đó, khi người ta định đặt cho Chó hoang một cái tên, thì nó bỗng mở miệng nói rằng nó họ Ngô, Ngô Cường. Cảnh sát ở đồn đều bật cười nói rằng họ tên của nó rất hay, thật sự là rất “tài” ở mọi mặt[1] !

[1] Hai chữ Ngô Cường, đồng âm với từ vô cường theo ngữ âm Bắc Kinh, có thể hiểu là “không gì là không giỏi”.

Kể đến đây, chú Nam mỉm cười, im lặng. Tôi hỏi: “Về sau thì sao? Hết chuyện à?”

Chú đáp: “Về sau, bọn chú đã tìm thấy một người họ hàng của Ngô Cường, người ấy nói: cha của Ngô Cường đã từng can án, rồi chạy trốn nhưng lại bị bắt, rồi đi tù. Sau đó mẹ Ngô Cường đi theo người khác, bỏ nó ở lại nhà người họ hàng. Người này cũng chỉ mải bán quà sáng ngoài phố nên không thể trông coi nó. Cứ thế, thằng bé tự do lêu lổng, rồi dạt lên thị trấn.”

Tôi lại hỏi tiếp theo đó ra sao. Chú Nam bèn quay người sang phía một người trẻ tuổi mặt mũi sáng sủa ngồi ở bàn đối diện: “Sau đó anh chàng này ngồi ở đây cùng uống bia với chú.”

Tôi nhìn anh ta, bỗng ngớ ra. Đây chính là “Ngô lão ngư” bấy lâu nay vẫn quan hệ tốt với tôi. Thảo nào, từ nãy chú Nam nhắc đến cái tên “Ngô Cường”, tôi cứ cảm thấy rất quen nhưng hoàn toàn không ngờ “Ngô lão ngư” lại chính là thằng bé “Chó hoang” ngày trước.

Ngô Cường đứng dậy, bước đến bên chú Nam nói: “Chắc chú Nam lại đang kể chuyện về cháu à? Đó toàn là những chuyện ngày xưa cháu đã từng làm, nhưng sẽ không tái diễn nữa.” Chú Nam chỉ vào tôi, nói: “Anh Đôn đây là phóng viên, chú kể cho anh ấy nghe. Biết đâu sẽ có ngày anh Đôn hứng lên, viết chuyện của cháu thành sách cũng nên, thì cháu sẽ được nổi tiếng gần xa.”

Ngô Cường cười hề hề, bước đến bên tôi. Lúc này tôi bỗng rất lúng túng không biết nên nói gì với “Ngô lão ngư”, chỉ cảm thấy con người này bỗng trở nên xa lạ. Ngô lão ngư ngồi bên quầy nhìn tôi rất lâu, sau đó nhích lại gần tôi mỉm cười: “Anh Đôn có thuốc lá không? Cho tôi xin...”

Chú Nam đưa mắt nhìn tôi. Tôi vừa định lấy thuốc ra thì đã thấy Ngô lão ngư cầm trong tay bao thuốc của tôi đặt lên bàn, tự rút ra điếu thuốc châm hút, đồng thời không ngớt nhìn tôi mỉm cười.

Việc chỉnh lý của tôi đối với “Thần thâu ký”

Câu chuyện mà chú Nam kể cho tôi nghe, tôi không hề nghi ngờ gì. Bởi vì về sau tôi đã hỏi chuyện Ngô lão ngư, anh ta cũng công nhận là đúng thế. Và còn nói hiện nay anh ta rất có hứng thú với ngón nghề “ảo thuật” nghiệp dư, hoặc nói cách khác, anh ta đang khám phá lĩnh vực ảo thuật. Tôi không thể không phục Ngô lão ngư có tư duy linh hoạt và đôi bàn tay khéo léo. Anh ta biết người khác chú ý đến những gì, không chú ý đến những gì; anh ta biết một động tác nho nhỏ có thể khiến ánh mắt người khác tập trung vào nơi mà anh ta chú ý. Tôi nghĩ, anh ta rất nên làm một ảo thuật gia chứ không phải tên trộm cắp. Phía dưới đây là một số câu tôi hỏi anh ta, anh ta trả lời tôi, và tôi đã chỉnh lý cho sáng sủa.

Một là: Về cái gọi là “kỹ thuật” trộm cắp, anh đã từng học sư phụ nào chưa?

Ngô lão ngư nói, anh ta chưa từng học thầy nào, nhưng đã từng nhìn thằng bạn nghịch ngợm cạy khóa của người khác, cảm thấy hay hay, nên mới thử làm. Nhưng anh ta rút ra kết luận: nếu tìm cách kiếm được chìa khóa thì vẫn hơn. Tôi đã từng đọc một số tư liệu, thì tệ nạn trộm cắp ở Trung Quốc đã có từ thời cổ với các tên gọi khác nhau; ví dụ, có khi gọi là “moi lưng”, tức dùng một số công cụ để “câu” tài sản trên thuyền; gọi là “thập trướng đầu”, tức là chuyên bắt trộm gà; hành vi trộm trâu bò, gọi là “xỏ mũi”; đào trộm mộ, gọi là “quật trủng” và “truy mai”; ngoài ra còn rất nhiều cách trộm cắp tùy vào sở trường của tên đạo chích, ví dụ: thiết toán bàn, oa thủ, khai thiên song, lập tường đầu... cũng đều rất cần có “trí tuệ”. Tuy nhiên, cách trộm cắp của Ngô lão ngư thời niên thiếu, thì đúng là không do sư phụ nào truyền nghề cho mà đó là “sản phẩm” của cái đầu và đôi con mắt của anh ta.

Hai là: Anh đã phát hiện ra cuốn sổ tiết kiệm ở chân tủ áo của nhà người ta như thế nào?

Ngô lão ngư tủm tỉm cười, rồi trả lời tôi rằng anh ta cảm thấy cái tủ hơi bị nghiêng. Nhưng theo chú Nam nói, sau đó chú đến nhà ấy quan sát, thì không nhận ra cái tủ bị nghiêng ngả gì hết, ngay chủ nhà cũng cho là thế. Còn Ngô lão ngư thì khăng khăng nói rằng mình lập tức nhận ra cái tủ ấy bị nghiêng. Tôi bèn thử ngay tại quán trà đang ngồi: tôi cầm bộ bài tú-lơ-khơ chất lượng giấy bình thường, chia làm hai tệp, tệp này nhiều hơn tệp kia 1 quân bài, sau đó đặt hai tệp bài lên hai bàn tay (tôi hơi ưỡn bàn tay lên), và bảo Ngô lão ngư đoán xem. Anh ta lập tức chỉ ra tập bài thiếu một quân bài một cách dễ dàng. Tôi làm lại như thế vài lần, Ngô lão ngư vẫn xác định được rất chuẩn. Tôi nghĩ, dù là “ngẫu nhiên” thì cũng không thể ngẫu nhiên đến cái mức ấy.

Ba là: Tại sao anh có thể nhớ rõ mọi sắp đặt trong những ngôi nhà ấy?

Ngay tại chỗ, Ngô lão ngư lấy ra một tờ giấy đặt lên bàn trà. Anh ta cầm bút vẽ luôn sơ đồ “mặt bằng” của quán trà đang ngồi, và miêu tả rất tỉ mỉ; kể cả gian phòng anh ta đi qua để đến toa-lét, có mấy người ngồi trong phòng đó, ngồi ở vị trí nào, mỗi người mặc trang phục màu gì, là nam hay nữ, đang ngồi hướng nào để đánh mạt chược... Tôi cầm tờ giấy lên và bước đến căn phòng đó xem sao, quả nhiên là chính xác đến 8-9 phần. Ngô lão ngư còn nói, tuy anh ta có thể nhớ rất rất rõ, nhưng nếu bảo anh ta đọc thuộc lòng một bài tập đọc trong sách học sinh thì anh ta sẽ đầu hàng.

Bốn là: Tại sao anh lại đi bán cá?

Tôi biết, mình hỏi câu này thật chẳng ra sao nhưng cũng cứ hỏi, tôi thậm chí nói đùa rằng anh có cái đầu và hai bàn tay “tài tình” như thế, hoàn toàn có thể làm những việc “đàng hoàng chính quy” hơn, ví dụ, hỗ trợ cảnh sát phá án, hoặc làm “dịch vụ mở khóa” (tôi được biết, học phí học nghề này rất đắt, nhưng phạm vi ứng dụng rất rộng, ví dụ, mở khóa két, có thể được trả phí hàng chục ngàn tệ; lâu nay nghề thợ khóa còn ứng dụng để mở khóa cửa ô tô... Những người thợ này luôn nhanh nhẹn hơn công nhân trong xưởng duy tu bảo dưỡng xe hơi, họ mở khóa cửa xe mất vài giờ nhưng các thợ dịch vụ khóa chỉ cần vài chục giây là xử lý xong - tất nhiên là ngoại trừ các ổ khóa điện tử). Ngô lão ngư nói, thực ra, khi cảnh sát phá án, anh chẳng thể giúp được họ là mấy, tuy nhiên, anh có một tay bạn, người này đã từng bị ngồi tù. Vì vốn có quan hệ rộng, lại giàu kinh nghiệm, cho nên sau khi mãn hạn tù trở về làm ăn lương thiện, anh ta có tham gia hỗ trợ cảnh sát. Ngô lão ngư nói đến đây mỉm cười nhìn tôi.

Thực ra, tôi đã quá “đề cao” anh ta. Anh ta phạm tội lúc vị thành niên và từ sau đó không tái phạm nữa, thì đâu có thể có lắm kinh nghiệm “nhà nghề” để mà hỗ trợ cảnh sát? Còn về chuyện bán cá, thì hoàn toàn là vì nhân vật “ân oán” của anh ta là chú Nam, chú Nam rất thích ăn cá...

Năm là: Khi ngồi trong cửa hàng lẩu, tại sao anh lại thó được bao thuốc lá của tôi?

Tôi nhớ rất rõ lúc đó tôi để bao thuốc ở túi áo bên phải, nếu có người xuất hiện bên phải tôi thì tôi phải biết ngay. Ngô lão ngư tủm tỉm cười, nói rằng khá lâu về sau anh ta mới biết đến khái niệm gọi là “điểm mù”. Anh ta chỉ vào một vị trí ở góc bên cạnh, nói: anh đứng ở đó nhìn sang đây thì nhìn rất rõ, nhưng nếu ngồi đây nhìn sang đó thì sẽ không nhìn thấy ở đó có người ngồi hay không, đó gọi là “điểm mù”. Tôi không hiểu lắm, nhưng tôi biết rằng nếu hỏi tỉ mỉ thì anh ta cũng sẽ không nói. Thôi thì, tạm coi đó là một trò ảo thuật vậy.

(Hết “Thần thâu ký”)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 3-1: Tứ vị dược


Ghi chép (III) Những chuyện kỳ lạ mà Đường Tiểu Bạch chứng kiến: Tầm tiên ký

Trước khi kể chuyện này, tôi không thể không nhắc đến một nhân vật, một gã đàn ông dặt dẹo cực kỳ khó nắm bắt tâm can của gã. Gã này hễ xuất hiện trước mặt tôi và Mông Nhân, thì chúng tôi rất có thể sẽ không thèm nói nửa lời, vung tay tát cho gã một trận bẹp gí mặt... Thực tế là gần như hiếm ai có thể gọi ra họ tên đầy đủ của gã, chúng tôi đều gọi gã là “lão Phó”. Nghe Mông Nhân nói, hồi còn đi học, ngay thầy giáo cũng gọi gã như thế. Nguyên nhân rất đơn giản: vì cha mẹ gã dám đặt cho gã cái tên “quá đáng”: Phó Thanh!

Phó Thanh? Phụ thân[1] !

[1] Phó Thanh, coi như đồng âm với từ Phụ thân. Vậy thì, ai gọi đủ họ tên anh ta, tức là gọi “Bố ơi!”. Trong tiếng Trung Quốc, thường là người ít tuổi gọi người nhiều tuổi hơn bằng cách gọi “lão + họ”; ở đây có ý hài hước.

Lão Phó kém tôi và Mông Nhân một tuổi, anh ta là con người luôn rón rén sợ sệt, đi buôn sợ lỗ vốn, rửa mặt sợ bong da mặt! Nhưng người cha của lão Phó, từ khi nhà nước cải cách mở cửa, ông đánh liều dấn thân vào thương trường, bắt đầu từ kinh doanh vật liệu thép. Về sau, ông chuyển sang tân trang công trình kiến trúc, kinh doanh nhà đất. Khi lão Phó vừa vào đại học năm thứ nhất thì người cha bỗng chuyển một món tiền khổng lồ và một lô nhà mặt tiền ở thành phố C cho lão Phó đứng tên, sau đó để lại bức thư nói rằng ông phải đi tìm ông nội của lão Phó. Kể từ đó, cha của lão Phó bốc hơi khỏi chốn nhân gian. Cho đến nay, trong hồ sơ của Sở công an thành phố S, người cha của lão Phó vẫn thuộc diện “mất tích”.

Vì thế, khi tôi và Mông Nhân còn đang lúng túng về sinh kế, thì anh ta vẫn nhởn nhơ phóng chiếc xe Nissan Bluebird đi chơi khắp thành phố. Anh ta chẳng có việc gì làm, thường ngày, ra tán gẫu với các hộ thuê cửa hàng của mình, nhắc họ trả tiền nhà, rồi lại gọi điện cho Sở cảnh sát thành phố xem đã có tin gì về người cha của mình chưa.

Tuy chỉ suốt ngày ba hoa chích chòe, nhưng đến trưa thì lão Phó vẫn mở túi xắc lấy ra một cuốn sách cũ ố vàng, bìa sắp bợt hết, và ngồi đọc. Tôi đã từng gạ anh ta cho xem, nhưng anh ta nghiêm sắc mặt từ chối thẳng thừng, nói rằng đó là cuốn sách do ông nội và cha anh ta truyền lại, ngoài người nhà họ Phó ra, người khác tuyệt đối không được xem. Tôi liếc nhìn, thì thấy mình không sao đọc nổi chữ trong đó. Nó đúng là một cuốn Thiên thư!

Mông Nhân nói với tôi rằng lão Phó chưa từng nói ra cuốn sách đó chép những gì, nhưng có lẽ là liên quan đến một số sự việc nào đó của nhà họ Phó. Có lần lão Phó say rượu rồi nói về cuốn sách, nói chưa được mấy câu, anh ta đã ôm mặt khóc nức nở cứ như cô dâu khóc trước khi đi lấy chồng. Rồi anh ta nói ra những cái tên phụ nữ, như “Phương”, “Hồng”, “Lệ”... Mông Nhân còn nói sẽ tìm cách để xem được cuốn sách đó.

Tôi hỏi Mông Nhân: “Cách gì?”

Mông Nhân đáp rằng, lão Phó nói chỉ người nhà họ Phó mới được xem, thế thì cậu cứ gọi riêng hắn ra một chỗ, khóc rưng rức và bảo hắn rằng “Lão Phó à, tôi không thể không nói với cậu điều này: thực ra tôi cũng họ Phó, tôi là cha của cậu đây mà...”

Tất nhiên tôi gạt đi, vì nếu dùng cách này thì hoặc là tôi bị lão Phó nện cho một trận, hoặc bị hắn nhổ nước bọt đầy mặt...

Mùa xuân năm 2004, tôi xin thôi việc ở đài truyền hình. Mông Nhân trước đó cũng đã thôi việc, anh ta giới thiệu tôi đến một doanh nghiệp nước ngoài để làm về quảng cáo và các ý tưởng sáng tạo. Tuy lương bổng khá hơn làm ở đài truyền hình nhiều, nhưng công việc này rất khô khan, suốt ngày ngồi trước máy tính viết phương án này phương án nọ, mỗi ngày phải đưa ra gần chục phương án, may ra mới có một phương án được dùng. Mông Nhân thường than thở: cũng may, công việc này không đến nỗi bị tính theo sản phẩm “một ngàn chữ hưởng bao nhiêu tiền”, nếu không chúng ta chết đói mất thôi.

Nhưng tức nhất là sếp của chúng tôi: Dương Sạn, là một tên khốn kiếp hoàn toàn mù máy tính, ngay bật máy tính cũng không biết. Nghe nói khi trước anh ta vào được công ty này là nhờ có khả năng ngoại ngữ làu làu, rất siêu, có thể dễ dàng đọc cả văn ngôn[2] cũng như tiếng Anh. Tuy nhiên, tôi và Mông Nhân chưa từng chứng kiến anh ta nói tiếng Anh, chỉ thấy anh ta hàng ngày sau khi đến phòng làm việc thì lập tức gọi tôi và Mông Nhân sang, bật máy tính cho anh ta, sau đó anh ta ngồi trước máy tính cười khì...

[2] Tức cổ văn Trung Quốc (ngay người Trung Quốc cũng phải có trình độ mới hiểu được cổ văn).

Tôi và Mông Nhân về công ty ấy chưa đầy hai tháng thì Dương Sạn bị một giám đốc khu vực mới đến tống cổ đi, vì anh ta thường xuyên rời công ty mà không xin phép, lại không tắt máy tính. Tức, tội danh là “biến mất”, hoặc thêm hai chữ nữa: “thường xuyên biến mất”.

Hôm Dương Sạn thu xếp các thứ để đi khỏi công ty, tôi và Mông Nhân đều đang ngồi bên ngoài gian của anh ta và lén nhìn vào xem sao, thấy Dương Sạn vừa sắp xếp vừa mỉm cười dường như rất vui. Hai chúng tôi băn khoăn, thằng cha này cười cái gì thế nhỉ? Bị sa thải mà vẫn vui vẻ được?

Thu xếp xong xuôi, anh ta bước ra. Tôi đứng dậy, giả bộ ái ngại nói: “Mong lãnh đạo đừng nản lòng, có tài thì sẽ có khối chỗ tìm đến mình. Anh đừng bận tâm. Tôi rất thông cảm với anh.” Tôi vừa nói xong thì Dương Sạn cười khẩy, rồi đáp: “Tôi mà cần hạng người phàm trần như anh thông cảm ư?” Nói rồi Dương Sạn vừa đi vừa đọc một bài thơ: Xuống trần chống kiếm đã điên rồ. Rượu vào ta quyết sẽ lên trời. Rong chơi tinh tú cười nhật nguyệt. Say nằm mây trắng ngạo người đời[3] .

[3] Thơ trích từ game “Tiên kiếm kỳ hiệp truyện”.

Nghe xong, tôi nói với Mông Nhân: “Không ngờ thằng cha thộn này cũng có văn hóa ra trò!”

Mông Nhân nhìn theo bóng Dương Sạn, nói: “Văn hóa cái con khỉ! Cậu chưa chơi game ‘Kiếm tiên kỳ hiệp truyện’ à? Đó là tình tiết trong đoạn Lý Tiêu Dao phá miếu và gặp Tửu Kiếm Tiên!”

Đến chiều, khi tan tầm, lúc rời công ty thì tôi và Mông Nhân nhìn thấy Dương Sạn ăn mặc như sắp đi du lịch, lưng đeo ba lô, đứng ở bên ngoài công ty, dưới chân anh ta là một bãi toàn là đầu mẩu thuốc lá, nếu không chú ý sẽ tưởng công ty vệ sinh mới đặt cái thùng rác ở đó. Tôi kéo Mông Nhân bước đến chỗ Dương Sạn, chúng tôi chưa kịp nói gì thì anh ta đã hỏi: “Trước đây các cậu là phóng viên chứ gì? Tôi nhớ rằng sơ yếu lý lịch của các cậu viết như thế.”

Tôi và Mông Nhân gật đầu. Dương Sạn kéo chúng tôi sang bên cạnh, nói nhỏ: “Chắc các cậu quen biết rất rộng, tôi muốn các cậu tìm giúp tôi một thứ được không?”

Tôi hỏi Dương Sạn: “Là thứ gì?”

Anh ta mở ba lô lấy ra một tờ giấy nền vân hoa, trên đó viết rất nhiều chữ, tôi nhìn mãi mới nhận ra vài chỗ: một chỗ viết là tử náo sa, một chỗ nữa viết là khổ đậu thảo. Các chỗ khác, chữ bút lông viết thảo quá khủng, tôi đã học đại học mà không sao đọc nổi là những chữ gì. Tôi đưa tờ giấy cho Mông Nhân, và hỏi Dương Sạn: “Sếp tìm những thứ này để làm gì?”

Sắc mặt Dương Sạn bỗng khác hẳn, anh gần như nghiến răng, nói: “Không việc gì đến cậu, cậu cứ giúp tôi là được. Tìm thấy, tôi sẽ hậu tạ. Hai cậu đã có số phôn của tôi rồi, nếu máy tôi tắt thì cứ gọi về máy để bàn ở nhà là sẽ gặp được tôi. Nhưng không dám nói là khi nào tôi có nhà, vậy thì nếu các cậu tìm thấy, nhưng tôi lại vắng nhà, thì các cậu cứ đưa đến địa chỉ này.” Nói rồi Dương Sạn đưa tôi mẩu giấy, sau đó quay người bước đi, tôi vội kéo giật lại, nói: “Anh Sạn à, trên này còn mấy chữ tôi không đọc được.”

Dương Sạn quay lại, rồi viết lên tờ giấy bốn cái tên: khổ đậu thảo, tử náo sa, dương trịch trục, hồng nương trùng.

Viết xong, Dương Sạn nhìn tôi và Mông Nhân, rồi bước đi. Đúng ra nên nói là anh ta chạy đi, vừa chạy vừa nhìn bốn phía xung quanh có vẻ rất hoang mang. Sau khi thấy anh ta lên tắc-xi, hai chúng tôi cầm mấy tờ giấy rồi chầm chậm đi về nhà.

Tại sao Dương Sạn lại bảo chúng tôi đi tìm mấy thứ này? Chúng là gì vậy? Dùng vào việc gì? Trở về nhà rồi, tôi và Mông Nhân bắt đầu bàn bạc sôi nổi về bốn thứ này. Tôi chỉ vào ba chữ “tử náo sa”, nói: “Cái này, chắc là đồ sứ thì phải?” Mông Nhân nhìn thoáng qua rồi gật đầu: “Có lẽ thế. Có thể là thứ gì đó na ná như ấm tử sa[4].” Tôi lại chỉ vào ba chữ “hồng nương trùng”: “Còn đây, chắc là một loại côn trùng.” Mông Nhân cũng gật đầu. Tôi lại chỉ vào ba chữ “khổ đậu thảo” nói: “Còn đây chắc chắn là một vị thuốc đông y, nhìn chữ này thì biết.” Mông Nhân lại gật đầu nữa... Còn ba chữ cuối cùng “dương trịch trục”, tôi nhìn mãi không đọc ra nổi, nghĩ một lúc, tôi nói: “Còn đây, chắc là tên một loại vòng đeo tay?”

[4] Ấm pha trà, đồ gốm màu gan gà. Rất đẹp.

Tôi vừa nói xong thì nghe thấy tiếng ai đó mắng nhiếc ngay bên tai: “Đồ ăn hại, hai gã mù chữ ạ! Các cậu sống thế này thì chán chết! Đọc chữ chỉ đọc một nửa à? Nửa chữ trọc là vòng đeo tay khác với nửa chữ trục. Thế mà cũng tốt nghiệp đại học, lại là học ngữ văn, mồm thì leo lẻo là sẽ trở thành nhà văn kia đấy?” Tôi và Mông Nhân ngoảnh sang, thì ra là thằng khỉ lão Phó vừa ngáp dài vừa bước từ gian trong ra, tay bưng tách cà phê, vừa nhấp vừa khinh khỉnh nhìn chúng tôi.

Lão Phó ngồi xuống cầm tờ giấy lên xem, rồi nói với tôi và Mông Nhân: “Bốn thứ này đều là vị thuốc đông y, tôi nghe rất quen tai.”

Mông Nhân định nói gì đó, nhưng tôi đã chỉ vào lão Phó nói: “Đồ khỉ nhà cậu sao lại ở đây? Dám tự tiện đột nhập nhà dân, coi chừng tôi kiện ra ủy ban, ít ra cậu cũng bị phạt giam 15 ngày!”

Lão Phó mặt tỉnh bơ, một tay cầm tờ giấy, tay kia cầm chiếc chìa khóa đặt lên mặt bàn, chẳng thèm ngẩng đầu lên, nói: “Tối qua Mông Nhân giao chìa khóa cho tôi, đêm qua tôi mất ngủ, buồn quá bèn chạy đến đây.”

Lúc này Mông Nhân mới nói với tôi: “Tối qua cậu uống quá chén, nằm ngủ say như chết, thằng cha này bèn chạy đến đây ngủ với tôi.”

Lão Phó nhìn tờ giấy, rồi bỗng đặt mạnh xuống bàn, miệng cắn đầu ngón tay nghĩ ngợi gì đó. Rồi anh ta đứng phắt dậy, sau đó lại ngồi xuống, cầm tờ giấy lên hỏi chúng tôi: “Cái... cái này... hai cậu lấy ở đâu ra?”

Tôi và Mông Nhân thấy lão Phó như bị kích thích mạnh, bèn kể lại từ đầu đến cuối mẩu chuyện về Dương Sạn. Nghe xong, lão Phó vừa cắn ngón tay vừa nói: “Kỳ lạ, kỳ lạ thật! Sao lại có chuyện trùng hợp như thế này?”

Tôi và Mông Nhân đưa mắt nhìn nhau, không hiểu lão Phó đang nói gì. Sau đó hai chúng tôi đứng kẹp lão Phó vào giữa, ấn anh ta ngồi xuống, châm một điếu thuốc cắm vào mép anh ta, rồi nói: “Bọn tôi nói thật nhé, lão Phó! Nếu hôm nay cậu không nói cho rõ ràng thì cậu không ra nổi căn nhà này đâu!”

Lão Phó nhìn hai chúng tôi, hơi sửng sốt, sau đó thì bật cười, định đứng dậy nhưng lại bị tôi và Mông Nhân ghìm xuống. Anh ta hất tay ra, rồi nói: “Tôi vào pha thêm nước nóng đã, cà phê này quá đặc.” Hai chúng tôi bỏ tay ra, lão Phó bèn đi vòng qua chúng tôi, nhưng bất ngờ bước ra mở cửa rồi chạy ào xuống cầu thang, chân vẫn đi dép lê. Tôi và Mông Nhân vội đuổi theo, nhưng không hiểu tại sao gã họ Phó lại chạy nhanh đến thế, khi chúng tôi xuống đến sân thì nhìn thấy gã chui vào ô tô rồi khởi động máy, lao vút ra khỏi khu chung cư. Tôi và Mông Nhân không thể đuổi kịp, đành gọi điện để mắng gã khốn kiếp ấy một chập nhưng gã không thèm nghe máy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 3-2: Thôn Thiên Trì


Trong mấy hôm sau đó, tôi và Mông Nhân đều không có một chút tin tức gì về lão Phó cũng như Dương Sạn. Gọi điện cho Dương Sạn, thì không thấy nghe máy. Hai chúng tôi cũng nghĩ, liệu lão Phó và Dương Sạn có quan hệ gì với nhau không, nhưng ngồi đoán mãi cũng không ra. Sau khi tan tầm, chúng tôi đành đi nhờ người tìm mua thuốc vậy. Chúng tôi nhớ ra một người bạn học đại học, có người cha mở công ty đông dược. Người bạn đã giúp chúng tôi hỏi các nghiên cứu viên của công ty, họ nói 4 vị thuốc đó đúng là thuốc đông y, có công dụng khác nhau, có độc tính, nếu không cẩn thận thì e có thể dẫn đến cái chết. Và còn nói rằng, hơi khó tìm mua trên thị trường.

Tôi và Mông Nhân đều mù tịt về thuốc men, cũng không biết người bạn ấy nói thế là thật hay không; nhưng chúng tôi cảm thấy hễ đụng đến thuốc đông y thì đều có vẻ rất bí hiểm. Đây cũng là điều khiến chúng ta hay bỏ qua những thứ của phương Tây, để chuyên nghiên cứu những thứ trong nước mà mình vẫn chưa hiểu rõ. Các sản phẩm trong nước, mình còn chưa hiểu nổi, mà lại đi nghiên cứu các thứ của nước ngoài, thì rõ ràng là chuyện hão huyền còn gì?

Tôi lại hỏi người bạn, có thể tìm mua bốn vị thuốc này ở đâu, anh ta bảo “tử náo sa” khó có thể tìm thấy trong các hiệu thuốc đông y; dù họ có thì họ cũng không bán, cho nên có thể thử hỏi các xưởng dược phẩm xem sao, rất có thể họ có sản phẩm “tử náo sa” công nghiệp. “Khổ đậu thảo” thì có thể tìm thấy, nhưng hai thứ còn lại thì đều là chất kịch độc, nếu không có đơn thuốc thì không thể mua nổi.

Nghe xong, tôi giật mình. Gã Dương Sạn định dùng những thứ này để làm gì? Anh ta đã chủ tâm đi tìm mà còn tìm không ra, thì tôi và Mông Nhân tìm sao nổi? Hai chúng tôi cứ vật vờ như thế cho đến cuối tuần, sáng thứ bảy, tôi và Mông Nhân ngồi thu lu ở nhà, tôi xem đĩa DVD, Mông Nhân thì đang tí tửng ngồi trước máy tính giao lưu với một cô tự xưng là “nữ văn sĩ trẻ”, đề tài là những bài viết về “nửa dưới của con người”. Di động của tôi bỗng “tít tít tít”, tôi cầm lên xem, đó là tin nhắn của lão Phó. Nội dung đơn giản ngắn gọn: thôn Thiên Trì xã Thệ Thủy thị trấn Thiết Nham thành phố M. Mau đến ngay, càng nhanh càng tốt. Khẩn cấp!

Đọc xong tin nhắn, tôi liền đưa cho Mông Nhân. Xem xong, Mông Nhân nói: “Đồ con lừa ấy sao lại chạy đến tận nơi xa như thế? Thành phố âm cách đây ít nhất là hai giờ xe chạy. Chúng ta còn chưa biết cái thị trấn ấy ở đâu...”

Mông Nhân lập tức ngừng cuộc giao lưu, rồi tra cứu trên mạng về các địa danh kia. Những năm ấy, đã có thể tra mạng nhưng thông tin không đầy đủ như hiện nay. Về địa phương đó, chỉ có thể tra thấy thông tin có thị trấn Thiết Nham, các xã thôn thì không tra được. Tóm lại, chỉ biết rằng từ Bắc Trạm của thành phố có thể đi xe buýt mi-ni về xã đó, và hành trình khoảng hai giờ xe chạy...

Thành phố J chúng tôi đang ở cách thành phố âm không xa. Tôi cũng từng nghe nói ở đó có cái thị trấn này với đặc sản nổi tiếng là hoa quả. Tuy thuộc vùng núi nhưng đến mùa thu hoạch hoa quả thì nơi ấy cũng đông nghịt người; vào mùa hoa nở thì đương nhiên là tuyệt vời.

Tôi và Mông Nhân thử tính toán, nếu xuất phát ngay bây giờ thì sớm nhất là khoảng 6 giờ chiều chúng tôi mới đến được thị trấn Thiết Nham. Dù sao lão Phó cũng là bạn nối khố của Mông Nhân, còn tôi, từ ngày quen lão Phó cũng rất thân tình, chỉ chưa cắt tiết gà đốt vàng mã ăn thề kết nghĩa anh em mà thôi. Tuy gã rất “xấu tính” nhưng hễ tôi và Mông Nhân có việc gì thì gã luôn sẵn sàng đứng ra giúp đỡ tài lực, sức lực, thậm chí bảo gã hiến thận cũng xong ngay. Cho nên lần này lão Phó có việc, thì dù phải xông pha hòn tên mũi đạn chúng tôi cũng chẳng nề hà. Không chậm trễ, hai chúng tôi giản đơn thu xếp vài thứ rồi lập tức đi ra bến xe.

Trên đường cao tốc đến thành phố M, Mông Nhân vừa nhìn ra ngoài cửa kính có những chiếc xe du lịch vượt lên xe buýt đang ngồi, vừa ca cẩm chẳng rõ đến khi nào mình mới có xe riêng mà đi, sẽ tiện biết mấy, đỡ phải ngồi xe tập thể như thế này, chỉ cần nhấn ga phóng thẳng đến thành phố M, thích đi nhanh đi chậm kiểu gì cũng được.

Sau khi đến thành phố M, tôi và Mông Nhân lập tức vẫy xe đi Bắc Trạm, đến Bắc Trạm, lập tức chuyển xe chạy đến thị trấn Thiết Nham. Lúc lên xe, hai chúng tôi bị lèn chặt gần chết ngạt. Nếu nói là đi ngắm hoa đào thì cũng không có ai đi vào buổi chiều như hai chúng tôi. Trên đường đi Bắc Trạm, bị tắc đường, chờ khi đến được Bắc Trạm thì đã gần 7 giờ tối. Tôi và Mông Nhân xuống xe, rồi đi tìm xe chạy về xã Thệ Thủy nhưng không có, mà chỉ có một số xe máy túc trực, dân địa phương gọi là “xe ôm”. Ngoài xe ôm ra, không có xe bốn bánh nào đi nổi, vì đường rất xấu. Chúng tôi đành tìm một xe ôm, anh tài xế này chừng 19 tuổi là cùng. Sau khi nói rõ các địa danh, anh ta nói có thể chở cả hai chúng tôi đến thẳng thôn Thiên Trì, vì nhà anh ta ở thôn bên cạnh. Thỏa thuận giá cả xong xuôi, tôi và Mông Nhân ngồi lên xe rồi xuất phát ngay.

Đi được một hồi, tôi hỏi anh ta: “Độ bao lâu thì đến thôn Thiên Trì?”

Nhưng vì gió quá mạnh nên anh ta không nghe rõ, tôi bèn nhắc lại, anh ta đáp: “Không xa mấy! Xe của tôi chạy cực nhanh, vào khoảng hơn một trăm phút sẽ đến nơi.” Tôi tạm yên tâm, vừa tiếp tục “hưởng thụ” xe xóc ra sao, vừa nhìn những xóm thôn hoa đào thấp thoáng ở hai bên đường.

Rốt cuộc, khi chúng tôi đến thôn Thiên Trì thì đã 9 giờ tối. Tôi và Mông Nhân trả tiền xe, anh xe ôm phóng xe đi luôn. Tôi nhìn theo bóng anh ta, lầu bầu: “Thằng khỉ ấy dám nói là khoảng một trăm phút! Rõ ràng là hai tiếng đồng hồ!”

Mông Nhân nói luôn: “Hai giờ là 120 phút, thằng cha ấy đâu có nói dối cậu?” Tôi day mông nắn đùi, rồi bắt đầu quan sát thôn Thiên Trì. Khắp xung quanh chẳng thấy nhà cửa cũng không thấy hoa màu trồng trọt gì, tất cả chỉ là một vùng núi hoang vu. Tôi thầm nghĩ: gay rồi, thằng nhãi xe ôm đã lừa chúng tôi, hắn thả chúng tôi xuống một nơi vớ vẩn rồi vù ga biến luôn. Rất có thể còn có mai phục cướp đường cũng nên.

Trời thì tối đen như mực không thể nhận rõ địa hình ra sao, xung quanh chúng tôi toàn là cây cối um tùm, nhưng cũng có một con đường mòn dẫn vào núi. Tuy lúc này chúng tôi đã đứng ở núi rồi, nhưng ngọn núi thật sự đồ sộ thì vẫn ở phía trước, ngẩng đầu nhìn là thấy ngay. Giờ này, dù muốn quay ra cũng không thể, tôi và Mông Nhân chỉ còn cách đánh liều bước đi. Đi chưa được bao lâu, Mông Nhân bỗng dừng lại, bước đến bên một gốc cây nói: “Chắc đã đến đầu thôn rồi đây!”

Tôi hỏi: “Sao cậu biết? Cậu đã từng đến đây à?”

Mông Nhân chỉ tay vào gốc cây to bên cạnh, lấy bật lửa ra bật, soi mấy giây. Trên cây có gắn tấm biển gỗ viết ba chữ: Thôn Thiên Trì.

Chúng tôi chuẩn bị tiếp tục bước đi, thì bỗng nhiên phía sau gốc cây có một người đi ra. Mông Nhân lại bật lửa lên soi, thấp thoáng nhìn thấy người ấy ăn mặc theo lối cổ điển, cách ăn mặc chỉ nhìn thấy trong các bộ phim chứ hiếm khi nhìn thấy trong thực tế. Người ấy tay xách một vật trông tựa như chiếc đèn lồng, bước đến hỏi: “Trong hai vị, có một vị tên là Mông Nhân phải không?”

Mông Nhân gật đầu, rồi lại nhìn sang tôi, sau đó anh ta bước lên chắp vòng hai tay, nói: “Tại hạ chính là Mông Nhân.” Nhìn Mông Nhân ứng phó như thế, tôi nghĩ bụng “chết dở rồi, gã này cũng dại dột quá...”

Người kia xách vật đó bước lại gần, tôi đã nhìn rõ tay người ấy xách một cái đèn bão nhưng đèn không sáng, người ấy ăn mặc như kiểu đạo sĩ.

Không dài dòng, người ấy vẫy tay, nói gọn lỏn: “Đi theo tôi, bạn của các vị đang chờ ở trong kia.”

Tôi và Mông Nhân hơi lưỡng lự. Mông Nhân nháy mắt với tôi, tôi chỉ im lặng, sau đó hai chúng tôi đi theo sau người ấy. Cứ thế chấp chới đi mãi không rõ bao lâu, chắc là đã lên đến sườn núi, lúc này tôi mới nhìn thấy một chỗ khá bằng phẳng có một ngôi nhà mái ngói. Đi đến gần, thấy ngôi nhà rất xập xệ, chắc đã xây cất từ lâu lắm rồi, vì trời tối quá nên không thể nhìn rõ chi tiết. Người ấy dẫn chúng tôi vào nhà, vừa bước vào thì nhìn thấy ngay lão Phó đang ngồi xếp chân bằng tròn trong đó. Chính giữa ngôi nhà đặt một pho tượng, dưới ánh nến leo lét không thể nhận ra là tượng ai. Chỉ biết nơi đây tựa như một cái miếu gì đó.

Tôi và Mông Nhân bắt đầu tháo các thứ hành lý trên người xuống, rồi rảo bước đến chỗ lão Phó định tẩn cho hắn một trận, nhưng bị anh ta đẩy ra, và nói rất nghiêm túc: “Đừng có đùa! Ngay trên đỉnh đầu là thần nhìn xuống, hai cậu biết không? Nơi này đâu có thể tùy hứng làm nhộn cả lên?”

Nghe nói thế, Mông Nhân điên tiết: “Này, cậu vẫn giả vờ à? Không được làm nhộn lên chứ gì? Lúc này bọn tôi không tùy hứng mà là cố ý đấy! Cậu nói cho rõ xem, cậu đến đây làm gì? Và còn gọi bọn tôi đến cái chốn đồng không mông quạnh gió thổi mịt mùng này!?”

Lúc Mông Nhân đang mắng mỏ lão Phó, thì tôi nhìn thấy từ phía sau pho tượng có một người cũng ăn mặc kiểu đạo sĩ bước ra, đi đến trước bàn thờ. Dưới ánh nến, tôi nhận ra đó là Dương Sạn! Tôi vội mạnh tay kéo giật Mông Nhân, Mông Nhân ngẩng đầu lên nhìn thấy Dương Sạn, nhưng Dương Sạn vẫn cứ thản nhiên đứng đó, hệt như một pho tượng thứ hai đứng bên pho tượng kia. Tôi vừa định mở miệng hỏi thì Dương Sạn đã hô lên: “Đón tiên!” Sau đó anh ta quỳ xuống. Anh chàng lúc nãy xách chiếc đèn bão từ từ đi đến, phía sau lại có thêm một người nữa, là một ông già vóc người tầm thước, để bộ râu rất dài. Ông già chầm chậm bước ra từ bên trong, sau đó ngồi xuống trước bàn thờ, chỉ tay vào tôi và Mông Nhân, hỏi lão Phó: “Hai vị này là người đến cầu tiên mà ngươi nói à?”

Lão Phó liền gật đầu: “Vâng! Xin mời lão quân điểm hóa cho!” Tôi và Mông Nhân nghe rồi cứ ngẩn tò te, lão Phó và Dương Sạn đang bày trò gì vậy? Vừa nói là tiên, vừa bảo là lão quân, rồi thì điểm hóa, cầu tiên cái gì thế này?

Tôi sắp sửa phát cáu thì Mông Nhân giật gấu áo tôi một cái, tôi cúi đầu xuống nhìn, ngón tay anh ta đang chỉ xuống dưới. Tôi nhìn theo hướng ngón tay, thấy lão Phó đang ngồi xếp chân bằng tròn, một bàn tay đặt ra phía sau từ từ phe phẩy...

Sau đó thấy ông già mỉm cười gật đầu, rồi nói đại ý là: những người cầu tiên ai cũng có tâm, nhưng người đắc đạo chỉ là số ít, thành tâm mới là gốc rễ căn bản để được hóa thành tiên. Tôi và Mông Nhân ngồi xuống hai bên lão Phó, rồi ông già ấy niệm một chập những câu gì đó tôi nghe không hiểu, nhưng, vẻ mặt lão Phó thì hết sức chân thành nghiêm túc, có vẻ như muốn cầm bút ghi lại bằng hết những lời ông già đang niệm.

Ông già niệm xong thì đứng dậy, nói với Dương Sạn: “Đệ tử à, sớm tinh mơ sáng mai, ngươi đưa các vị này ra rừng đào sau núi tìm ta; nếu ta có ở đó thì mấy người có hy vọng sẽ được điểm hóa, nếu ta không có ở đó, thì mấy người có lẽ không có hy vọng gì. Tất cả là tùy vào thiên duyên.” Nói rồi ông già bước đi. Dương Sạn lại hô to: “Tiễn tiên!” Bộ dạng anh ta cứ như một gã tâm thần phân liệt...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 3-3: Chuyện xưa của nhà họ Phó


Sau đó, Dương Sạn cũng đi vào. Tôi đang định bước lên đuổi theo thì bị lão Phó kéo lại, và khẽ “suỵt...” ra hiệu cho chúng tôi giữ im lặng. Tiếp đó, tôi và Mông Nhân đi theo anh ta ra khỏi ngôi miếu, đi đến khu rừng ở dưới dốc miếu. Trong rừng có dựng một cái lều bạt, ba chúng tôi chui vào lều rồi, Mông Nhân đẩy lão Phó xuống đất định đánh, thì anh ta kêu lên: “Các cậu đừng nên... hãy nghe tôi nói đã, rồi các cậu sẽ hiểu.”

Lão Phó đứng dậy rồi, tôi bèn hỏi: “Cậu nói đi, tại sao sếp cũ của bọn tôi - gã Dương Sạn lại tụ tập ở đây với cậu? Cậu biết hắn từ trước? Có phải cậu và hắn vào hùa để bày trò trêu chọc Mông Nhân và tôi không?”

Lão Phó lắc đầu, rồi lục túi áo lấy ra một mẩu giấy đưa cho chúng tôi xem. Chúng tôi cầm xem, thì ra là mẩu giấy mà Dương Sạn đã đưa cho chúng tôi, sao bây giờ lại ở trong tay lão Phó? Chả trách lúc trước chúng tôi không tìm thấy, nói đúng ra là chúng tôi vì mải lo về việc đơn thuốc nên không chú ý đến mẩu giấy này nữa.

Lão Phó nói: “Tôi lần theo địa chỉ này tìm ra Dương Sạn, địa chỉ này tôi đã từng đến, là một hiệu sách, tôi hỏi bà chủ hiệu sách thì bà ấy nói có biết Dương Sạn nhưng không rõ về anh ta; Dương Sạn chỉ hay đến mua sách, thế rồi họ quen nhau. Vì là khách quen nên Dương Sạn bèn nhờ bà ấy giúp đỡ chút việc, nói rằng nếu có ai gửi thứ gì cho anh ta thì bà cứ giữ hộ, anh ta sẽ đến lấy sau.”

Lúc ấy lão Phó nghĩ rằng Dương Sạn không có mặt ở đó, bà chủ hiệu sách cũng không biết tìm anh ta ở đâu, nghĩ rằng cách một ít bữa anh ta lại đến, cho nên lão Phó bèn ngồi chầu ở quán trà bên kia đường, đối diện hiệu sách, nào ngờ hôm sau Dương Sạn đã xuất hiện.

Kể đến đây, lão Phó ngừng một lát châm điếu thuốc và mời hai chúng tôi hút thuốc, rồi nói tiếp: “Trước đây tôi rất tò mò về Dương Sạn, nên tôi giả vờ là bạn của anh ta, bèn nói với bà chủ hiệu sách rằng tôi nhờ Dương Sạn tìm giúp một cuốn sách, không rõ anh ta tìm hộ được chưa. Bà chủ bèn nói Dương Sạn chưa tìm cuốn sách nào hết, anh ta chỉ hay đọc những cuốn nói về tướng số, phong thủy hoặc một vài cuốn tiểu thuyết nội dung nói về tu tiên tu đạo...”

Nghe đến đây, tôi đã tạm hiểu ra vấn đề rồi: Dương Sạn là một gã rồ dại! Tôi nhớ lại các mẩu chuyện trước sau, nhớ lại anh ta đã nói những gì hôm đi khỏi công ty, nói rằng không cần kẻ phàm trần như chúng tôi hiểu anh ta. Và cả những lời ông già kia vừa nói nữa. Tôi chỉ có thể đưa ra một kết luận: cái đầu Dương Sạn có vấn đề, hắn đã chạy đến tận đây để tu tiên (hồi ấy tôi chưa biết cái chuyện đó vốn có một danh từ chuyên dùng, gọi là “tu chân”; về sau lên mạng, vào một diễn đàn có chủ đề tu chân, thực ra là nhờ có Mông Nhân sau này viết mấy cuốn tiểu thuyết về tu chân, anh ta phải sưu tầm rất nhiều tư liệu nên tìm thấy diễn đàn này, nên tôi mới biết. Trong đó toàn là những người muốn thành tiên, đều nói rằng mình đã tu đắc đạo ở núi X nào đó, hoặc đang độ một kiếp gì đó... phương pháp rất đơn giản: vào ngày gió mưa sấm chớp, tìm một khoảng đất trống, tay cầm một ống sắt, đứng đó chờ sét phóng xuống, nếu sét đánh trúng mà không chết thì mình sẽ độ kiếp thành công, đầu mình sẽ được mở một đường thiên môn, sau đó linh hồn mình sẽ thoát xác bay vào thiên môn, thế là thành tiên. Thực ra chỉ là chuyện tầm phào).

Sau khi Dương Sạn xuất hiện, lão Phó cũng không đến hỏi thẳng Dương Sạn mà chỉ theo dõi anh ta, Dương Sạn đi đâu lão Phó cũng bám theo. Sau hai ba hôm, toàn thấy Dương Sạn hoặc là vào các hiệu thuốc nghe ngóng, hoặc là đến cái hiệu sách ấy, sau đó ít hôm, Dương Sạn đi khỏi thành phố C, lão Phó cũng đi theo, thế rồi đi theo đến tận đây.

Khi lão Phó đang định kể tiếp thì có người đứng ngoài lều gọi tên tôi và Mông Nhân. Đó là giọng của Dương Sạn. Thấy chúng tôi, Dương Sạn tươi cười hết cỡ, hỏi rằng: “Hai cậu đã tìm được những thứ kia chưa? Phải khẩn trương lên. Chỉ còn thiếu mấy thứ đó mà thôi.”

Tôi và Mông Nhân lắc đầu. Khuôn mặt Dương Sạn bỗng đầy thất vọng. Lúc này chúng tôi mới chú ý đến nhân vật lúc trước xách đèn bão đang đứng sau Dương Sạn. Mông Nhân nói với người ấy: “Trông tiên sinh ăn mặc thế này, chắc hẳn tiên sinh là người của đường môn Thục Nam?”

Người ấy chỉ im lặng không đáp. Dương Sạn ngạc nhiên nhìn Mông Nhân. Tôi hiểu ngay Mông Nhân nói thế nghĩa là anh ta định làm gì, tôi cố nhịn cười. Còn lão Phó đứng bên cũng cố nén nhịn. Người kia vẫn cứ nín lặng, Mông Nhân bèn hỏi lại lần nữa thì người ấy gật đầu. Tôi và lão Phó suýt nữa phì cười. Mông Nhân lại hỏi: “Tôi đoán, có lẽ tiên sinh đã tu hành vài chục năm rồi, tiên sinh có biết một vị tiền bối ở chỗ các vị tên là Bộ Kinh Vân không?”

Lúc đó tôi chỉ muốn cười sằng sặc, tôi cố véo thật mạnh vào đùi mình để nén lại. Mẹ kiếp, thằng cha Mông Nhân này dám lôi cả “Phong Vân” ra[1] để tán dóc...

[1] Thực ra, Bộ Kinh Vân chỉ là tên nhân vật trong game “Phong Vân” trên mạng. Ở đây, Mông Nhân cố ý hài hước, chế nhạo.

Lúc này, tiên sinh (lúc nãy xách đèn lồng) bèn cười toe toét và gật đầu tới bến. Tôi đã không nén nổi nữa bèn chạy vào trong lều, ôm bụng, lăn tròn mấy vòng. Lát sau, Mông Nhân bước vào, lắc đầu nói: “Hai gã tâm thần phân liệt đã biến rồi. Sáng mai chúng ta lên đường trở về nhà vậy! Không nán lại để rồi hóa điên theo họ nữa.”

Nào ngờ, Mông Nhân vừa nói thế thì bị lão Phó ngăn lại, lão Phó nói sáng mai tuyệt đối không được về. Lúc này tôi mới nhận ra một vấn đề then chốt: “Lão Phó, tại sao cậu lại hứng thú với gã Dương Sạn, hoặc tại sao cậu lại hứng thú với cái thứ mà Dương Sạn muốn tìm về đến thế?”

Lão Phó châm thuốc hút, hút liền mấy điếu, khiến cả căn lều khét lẹt. Mông Nhân bèn mở ô cửa sổ ở đỉnh lều để thông gió. Lão Phó chắc đã hút đủ đô, nên bây giờ rút cuốn sách trong người ra. Dưới ánh đèn điện, chúng tôi cùng ngó nhìn. Nó là cuốn sách mọi ngày lão Phó vẫn cầm, anh ta chỉ vào cuốn sách, nói: “Đều là vì cái này!”

Lão Phó nói đây là cuốn sách mà ông nội và cha anh ta truyền lại, ngày xưa, ông cụ nội anh ta là kẻ cướp, chỉ suốt ngày dẫn các đàn em mai phục ở bên đường, nếu thấy tiều phu hay người buôn bán nhỏ thì cho qua, nếu gặp người cưỡi ngựa béo mượt, có vẻ có tiền thì xông ra cướp. Cũng có thể nói là một cường đạo chưa mất hết lương tâm. Nguyên tắc của ông già cường đạo ấy là nếu chưa phải là bất đắc dĩ thì không lấy mạng ai.

Nhưng rồi hậu quả là ông cụ nội của lão Phó (sau đây gọi là ông già Phó) trong một vụ cướp cuối cùng đã gây ra án mạng, khiến mấy người bỏ mạng. Trước khi làm vụ đó, ông già Phó gặp một thầy bói, thầy nói là ông phải lập tức bỏ nghề thì may ra vẫn còn kịp - tuy phải bỏ qua cơ hội lớn để được phú quý nhưng không đến nỗi mắc tội giết người.

Về nhà, ông già nghĩ đi nghĩ lại, mình đã làm kẻ cướp bao năm trời chưa từng gây án mạng, kinh nghiệm lâu nay cho thấy, cướp bóc, không nhất thiết phải giết người. Mặt khác, các đàn em đi theo mình đều là những kẻ cùng khổ, dẫu bị buộc phải hành nghề bất lương nhưng vẫn chưa biến thành những tên tàn bạo ác độc, chưa đến nỗi hễ rút dao ra thì dao phải nhuốm máu. Rốt cuộc, ông già Phó bỏ qua lời khuyên của thầy bói.

Năm ấy trời hạn hán ghê gớm, nghề cường đạo cũng “thất thu” chẳng kiếm chác được gì, ông già Phó đang có ý đem gia đình đi lánh nạn. Nhưng vào lúc sắp sửa ra đi thì ông ta nhìn thấy bên ngoài có đám người qua đường dừng bước, trông có vẻ như những tay áp tải hàng, họ có cả thảy năm người, một cỗ xe đẩy, chắc xe chở những đồ đáng tiền. Ông già Phó nghĩ bụng, trước khi ra đi, nên ra tay một vố này cũng tốt. Thế rồi ông ta gọi các đàn em chuẩn bị khí giới, cả bọn cải trang thành dân thôn lảng vảng đi qua đi lại, bí mật bám sát bọn người kia. Cuối cùng, năm người ấy đẩy xe ra khỏi đầu thôn. Ông già Phó bố trí các đàn em mai phục, sau đó dặn dò người nhà, để khi “giải quyết xong” thì lên đường ngay.

Khi ông ta trở lại chỗ mai phục thì thấy các đàn em của mình đang giao chiến với năm “con mồi” kia, bốn tên đàn em đã bị tiêu diệt, ông già Phó nghĩ bụng “gay rồi, lần này gặp phải cao thủ”. Ông rất biết các đàn em của mình đều xuất thân nông dân, tay cầm dao nhưng chỉ có sức trâu bò vung dao chém bừa chứ không có võ công gì hết, tình huống này thì hết cách rồi. Thế là ông già Phó lén đi vòng ra phía sau rồi lao ra chém phăng hai người; ba người còn lại thấy thế bèn bỏ chạy, vứt cả xe hàng lại. Ông già nhìn thấy một người đang khoác cái túi to, nghĩ bụng, đằng nào mình cũng giết người rồi, đã trót thì trét, giết nốt cũng vậy thôi. Ông ta bèn dặn mấy đàn em trông xe, các đàn em khác thì theo ông truy sát họ. Ba người kia tuy có võ công nhưng vẫn không thể địch nổi số đông, hai người bị giết luôn, còn một người trẻ tuổi thì ném cái túi xuống, lạy van xin ông già Phó tha chết. Ông già chẳng nói chẳng rằng vung dao đâm nốt, cho anh ta về chầu Diêm Vương. Anh chàng ấy trước khi chết còn nói “thế là đã có dịp... gì đó”, anh ta moi trong ngực ra một thứ nhét vào mồm nuốt luôn, sau đó cười và nhắm mắt. Ông già Phó mở túi của anh ta ra, thấy bên trong có một cái hộp, bên trong là một cuốn sách. Ông già thì mù chữ, vốn định vứt bỏ cho xong, nhưng lại nghĩ, sách cất trong cái hộp rất đẹp, chắc là sách hay, bèn giữ lại.

Sau đó ông già Phó gọi các anh em lại để chia chác, họ lục lọi cái xe hàng, thấy toàn là dược liệu và chỉ có một ít tiền lẻ. Mọi người chia nhau rồi tản đi mỗi người một phương sinh sống. Hồi ấy là thời kỳ đầu của Quốc dân đảng, thời cuộc biến động rất bất ổn nên ông già Phó cũng không dám đem tiền bạc tích cóp được ra tiêu, vì sợ bị để ý. Ông ta bèn đi theo một thầy thuốc ở thị trấn để buôn dược liệu. Lúc này mới nhận ra rằng, đám dược liệu cướp bóc mà phần ông ta vớ được toàn là những vị thuốc quý, rất đáng giá. Rồi ông già Phó nhớ đến cuốn sách kia, bèn đem ra để ông thầy thuốc xem, ông nghĩ rằng dược liệu trên xe là thuốc quý thì chắc cuốn sách này cũng là sách thuốc. Ông thầy thuốc nói mình đọc cũng không hiểu sách viết gì, nhưng khẳng định nó không phải sách thuốc.

Thấy không phải sách thuốc, nhưng ông già Phó cũng không vứt đi hay đốt bỏ nó, vì ông vẫn cảm thấy nó có giá trị, bèn cất đi. Sau đó, ông gặp phải một chuyện khiến ông kinh sợ suốt đời...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 3-4: Chết rồi sống lại


Khi lão Phó kể đến đây, anh ta đã phải cầm chiếc gạt tàn cỡ nhỏ đem ra ngoài đổ đi mấy lần, bao thuốc đã sắp hết. Lão Phó lại châm điếu nữa, rồi nói: “Thực ra, những chuyện này đều do cha tôi kể cho mẹ tôi biết; khi cha tôi đi thì tôi vẫn còn bé chưa hiểu gì, ông dặn mẹ tôi sau này phải cho tôi biết chuyện. Các chuyện phía trên, tôi cho rằng cũng bình thường thôi, nhưng những chuyện sau đây, một phần là do mẹ tôi kể lại, ngoài ra là từ bức thư mà cha tôi để lại. Tất nhiên tôi phải thanh minh trước rằng tôi không biết những nội dung trong đó là thật hay không. Riêng tôi thì tôi không tin.”

Ông già Phó (tức cụ nội của lão Phó) buôn bán dược liệu ở thị trấn được hai năm, vào ngày tết Đoan Ngọ[1] của năm thứ ba, ông ở nhà trông coi cửa hàng, đến tối chuẩn bị đóng cửa, thì ông thầy thuốc nói rằng ông đưa một người họ hàng xa của ông già Phó đến chơi. Ông già Phó nhìn người ấy, và nói mình không nhận ra là ai. Người ấy lập tức ngắt lời và bảo ông thầy thuốc cứ về đi. Sau đó người ấy ngồi xuống và đưa ra một tờ đơn thuốc cho ông già Phó, nói là mình muốn mua thuốc. Ông già Phó cầm đơn thuốc lên xem, không hiểu là gì. Tuy đã kinh doanh dược liệu hai năm nhưng ông mù chữ vẫn là mù chữ. Ông chỉ có thể nghe tên các vị thuốc và đưa ra đúng vị thuốc ấy; khi có khách hàng cầm đơn thuốc đến, ông đều phải nhờ một nhân viên vốn làm nghề dạy học đọc hộ, sau đó ông bốc thuốc, hoặc phải mời ông thầy thuốc đã kê đơn đến cửa hàng mà lấy thuốc.

[1] Mồng 5 tháng 5 âm lịch.

Và đang định đóng cửa hàng, nên ông già Phó nói rằng lúc này bốc thuốc không kịp, người nhân viên biết chữ thì đã ra về. Vị khách này bèn nói mình cần gấp, và còn cười ông già Phó chê tiền không thiết bán hàng hay sao? Nhìn nét cười này, ông già Phó sửng sốt, rồi ông nhận ra: người này là anh chàng khoác túi bị mình đâm chết cuối cùng trong vụ cướp năm xưa. Khuôn mặt anh ta dường như không thay đổi, lẽ ra, sau mấy năm trời thì phải khác đi mới đúng. Ngày ấy chính ông đâm chết anh ta, nên ông nhớ rất rõ.

Ông già Phó nghệt ra như người chết rồi, mồ hôi toát ra ướt hết lưng, nghĩ bụng “thế là hết, chắc là hắn biến ra ma trở về báo thù”, ông bèn co cẳng chạy ra ngoài. Người ấy liền đuổi theo và ra sức gọi, nhưng ông già Phó đã không nghe thấy gì hết. Cho đến lúc đã rất tối, ông nghĩ bụng cả nhà vẫn còn đó, nếu mình bỏ đi thì chẳng ra sao, trở về thì cũng rất sợ, ông bèn rủ một người quen ở thị trấn về cùng, người này vốn làm nghề lên đồng trừ tà trừ ma; nhưng ông không nói rõ lý do, sợ ông ta biết mình từng can tội giết người. Về đến nhà thì người kia đã đi nhưng để lại cái đơn thuốc và cả tiền nữa, dặn lại rằng ngày mai sẽ đến để lấy thuốc.

Ông già Phó ngồi phịch xuống ghế, bắt đầu suy nghĩ xem nên xử trí ra sao. Ông lại nghĩ, hay là mình nhớ nhầm? Trên đời này thiếu gì người trông hao hao nhau, gã kia thì đã chết rồi, người khách này đến cửa hàng vào lúc trời chưa tối, nếu là ma thật thì đâu có thể xuất hiện giữa ban ngày? Ông cầm tờ đơn thuốc lên nhìn, rồi đưa cho “ông bạn trừ tà ma” xem xem có nhận ra những chữ viết trong đó không. Ông thầy trừ tà ma nhìn mãi hồi lâu cũng không sao đọc nổi, nhưng ông ta lại bị thu hút bởi những thứ in phía sau tờ đơn thuốc. Ông ta nói rằng phía sau vẽ những bùa chú. Ông già Phó hỏi là bùa gì, ông ta đáp đó là bùa trừ ma quỷ, chắc chắn là thế, vì ngày trước đi giang hồ cùng với sư phụ, ông đã nhìn thấy sách của sư phụ vẽ rất nhiều bùa chú tương tự. Ông thầy trừ tà ma này chỉ là hạng mù mờ dở ông dở thằng không thạo cái gì, chỉ chuyên lòe bịp thiên hạ, tuy nhiên, về bùa chú thì ông ta có nhớ. Bùa chú in trên sách khác với bùa chú mà ông hay vẽ cho khách hàng, hoặc ngược chiều với các thứ bùa chú thường thấy.

Ông già Phó càng nghĩ càng thấy không ổn, ngay đêm hôm đó ông gọi cả nhà thu xếp chuẩn bị để đi. Nào ngờ bà già Phó quyết không chịu đi, nói rằng cả đời di chuyển thế này thì bao giờ mới yên? Lần này bà nhất định ở lại. Ông già bí quá, đành thấp thỏm ở lại qua đêm. Sáng hôm sau người nhân viên đến, ông bảo người ấy đọc xem tờ đơn thuốc viết những gì; nếu người khách kia không phải là ma, thì nhận thuốc rồi sẽ đi. Người nhân viên bèn đọc và cho biết đó là tên bốn vị thuốc bắc: khổ đậu thảo, tử náo sa, dương trịch trục và hồng nương trùng.

Kể đến đây, lão Phó nói: “Cậu đã biết tại sao tôi đuổi theo đến đây rồi chứ? Nhưng đó mới chỉ là một nguyên nhân trong đó. Cụ nội tôi không thấy người khách đáng ngờ kia quay lại lấy thuốc, nên cụ sợ sau này sẽ có chuyện gì đó, bèn cất giữ tờ đơn thuốc thật kỹ. Nhưng các cậu cũng biết rồi: là tờ giấy thì bền làm sao được, cho nên cụ nội tôi nhờ người vẽ lại các thứ trông tựa bùa chú, cứ sau vài năm lại vẽ lại để tiếp tục bảo quản, cứ thế nó tồn tại cho đến ngày nay.

Khi ông nội tôi lên mười tuổi thì cụ nội tôi bỗng bỏ nhà ra đi, đi đâu không rõ. Chỉ biết, trước khi đi, cụ nói rằng đi tìm người nào đó, và dặn dò ông nội tôi hãy giữ gìn cuốn sách chu đáo, nguyên vẹn; nếu ông nội tôi về già sắp chết mà vẫn chưa thấy tin tức về cụ, thì ông nội tôi phải giao cuốn sách cho thế hệ sau bảo quản. Thực tế là, khi cha tôi lên mười tuổi thì ông nội tôi cũng để lại những lời như thế, sau đó bỏ nhà ra đi. Những năm gần đây, cha tôi cũng bỏ đi, đi đâu thì không rõ...”

Kể đến đây, lão Phó nhìn tôi và Mông Nhân, rồi lắc đầu nói: “Tôi thật sự không biết cuốn sách ấy viết những gì, nhiều năm qua tôi đã photo một số đoạn rồi nhờ người cầm đi hỏi các vị học giả nhưng họ đều không thể kết luận điều gì, nó gần như vô nghĩa. Vì chữ viết trong đó rất hỗn loạn, chữ thuộc về mấy thời đại. Chỉ có các vị sưu tầm đồ cổ nói rằng cuốn sách đó rất đáng giá, ít ra đáng vài trăm ngàn hoặc một triệu nhân dân tệ, nhưng cha tôi đã dặn lại rằng đáng cả chục triệu cũng phải giữ lại, cấm không được bán. Cha tôi đã đi ngần ấy năm trời không có tin tức gì, còn tôi thì quá ư mệt mỏi, tôi rất muốn bán quách đi cho xong, chứ để lại thì cũng vô ích, cha tôi sẽ không bao giờ trở về.”

Lão Phó nói xong, tôi bật đèn pin để soi cho rõ, rồi cùng Mông Nhân lật giở cuốn sách thử nhìn một lượt. Mông Nhân giỏi hơn tôi chút ít, anh ta đọc hiểu đại khái chương một, nói về những cơ quan chức năng của cơ thể người; các chỗ khác viết về gì thì chịu, nhưng có thể sơ bộ nhận ra rằng chương một cũng viết rất chắp vá lộn xộn.

Trước khi đi ngủ, lão Phó nói: “Tôi đoán rằng hình như hiện nay Dương Sạn cũng liên quan gì đó đến chuyện này, hoặc ông già kia phải biết một số chuyện gì đó; hai cậu cũng thấy rồi đấy, ông già ấy hoặc là dở hơi hoặc là một tên lừa đảo, ông ta có quá nhiều sơ hở lộ liễu. Còn về Dương Sạn, tôi cứ cảm thấy... cái đầu anh ta đúng là có vấn đề, trông rất thật chứ không phải là giả vờ. Lúc tôi và anh ta cùng lên núi, khi nhìn thấy ông già thì anh ta xúc động rất mạnh rồi bước ra. Tôi định hỏi anh ta, nhưng thấy cả hai đều nói năng linh tinh, nên không thể khái thác được điều gì, tôi đành giả vờ rồ dại như họ vậy. Tôi thấy mình không ứng phó nổi bọn họ, và cũng không có ai đáng tin cậy, nên tôi mới gọi hai cậu đến đây.”

Ba chúng tôi bàn bạc một lúc, nhất trí rằng để ngày mai xem xem Dương Sạn và ông già kia làm trò khỉ gì đã, rồi tính sau; nếu có thể, sẽ trói gô Dương Sạn lại để hỏi, nếu ông già kia không phải nhà tu hành tôn giáo gì thì sẽ báo cảnh sát.

Sáng tinh mơ hôm sau, Dương Sạn đã chạy đến đánh thức chúng tôi, nói là buổi tu tập sáng sớm sắp bắt đầu, chúng tôi đành mắt nhắm mắt mở đi theo anh ta đến bên ngoài miếu. Dương Sạn chỉ những giọt sương bám trên bãi cỏ, nói đó là tiên lộ, bảo chúng tôi uống, coi như ăn sáng. Sau đó anh ta bắt đầu liếm láp rất say sưa, sương trên những ngọn cỏ xung quanh chúng tôi nhanh chóng bị anh ta liếm sạch... Trông bộ dạng Dương Sạn, tôi thầm nghĩ: chết thật, thằng cha này thật sự hết thuốc chữa rồi!

Ba chúng tôi cũng sà xuống bãi cỏ giả vờ liếm láp, sau đó giả bộ rất thỏa mãn, mỉm cười rất tươi nhìn Dương Sạn. Anh ta dường như cũng rất vui mừng, hỏi rằng: “Chắc các cậu không còn cảm giác đói nữa, và tinh thần cũng phấn chấn hơn hôm qua, phải không?”

Ba chúng tôi đều gật đầu nói: đã thấy rất dễ chịu, tinh thần sảng khoái không gì sánh bằng. Thực ra chúng tôi nghĩ bụng: đồ khốn nhà ngươi, nếu có cơ hội, sẽ tẩn cho ngươi một trận nên thân, sẽ ném ngươi xuống núi, để ngươi được đằng vân[2]!

[2] Cưỡi mây

Tiếp đó, Dương Sạn bắt đầu hướng dẫn chúng tôi đọc kinh thư. Điều này khiến tôi nhớ lại hồi học tiểu học và cấp II tập học thuộc lòng lúc sáng sớm. Nhưng trông vẻ mặt Dương Sạn “thành tâm” một cách rất ngô nghê, chúng tôi dẫu muốn nổi nóng cũng không làm nổi. Mình chẳng nên chấp kẻ ngớ ngẩn, và cũng vì lão Phó nữa, nên chúng tôi phải nén lại.

Khi Dương Sạn bắt đầu đọc câu thứ nhất thì ba chúng tôi thật sự đờ ra: quái dị thật, chỉ là Tam Tự Kinh[3] mà gọi là kinh thư ư? Sau một lát, Mông Nhân cũng sắp hóa rồ, và bắt đầu nhẩm “3,1415926...” Cứ thế, chúng tôi à ơi một hồi lâu. Tiếp theo, Dương Sạn bảo chúng tôi tọa tu. Tọa tu tức là tu tâm. Tu thân và tu tâm đều quan trọng như nhau. Lúc tu tâm thì phải để cho đầu óc mình bước vào cảnh giới minh tưởng gì đó... tu đến một giai đoạn nhất định thì có thể nhìn thấy thiên môn, nhưng chưa tiến vào.

[3] Một tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc, hình thức: văn vần, mỗi câu chỉ có “ba chữ”, rất nổi tiếng. Học trò tiểu học Trung Quốc đều được học trong chương trình ngữ văn, coi như nhập môn về cổ văn. (Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn...)

Minh tưởng à? Lát nữa ta sẽ ném ngươi xuống núi để ngươi đến thẳng minh giới[4] cho gọn!

[4] Minh tưởng: gạt bỏ mọi ý nghĩ, tựa như vô thức; Minh giới: chỉ âm phủ.

Thế rồi ba chúng tôi ngồi ở phía sau Dương Sạn, bắt đầu minh tưởng... Lão Phó cúi xem di động, Mông Nhân thì nghe MP3, còn tôi thì nhìn lên mái ngói đếm xem có bao nhiêu cái mạng nhện. Lúc này tôi chợt nhớ đến bài hát “Thằng khờ”, nó rất hợp để cho ba chúng tôi hát.

Minh tưởng được một hồi, thì nhân vật tối qua xách đèn bão (đệ tử của đường môn Thục Nam mà bậc tiền bối là Bộ Kinh Vân!) lò dò đến (để cho tiện, từ đây tôi gọi người này là Đèn Bão). Đèn Bão bước đến, nói: “A di đà Phật! Đại tiên mời các vị! Các vị hãy đi theo tôi.”

Hừ! Ngươi tu đạo, mà lại niệm A di đà Phật[5]? Lúc này Mông Nhân lại tha hồ phát huy, anh ta nói với Đèn Bão: “Tôi muốn hỏi điều này: tôi vốn là môn đồ của Giê-su, nếu tôi gia nhập môn phái của các vị e rằng bề trên sẽ không tha thứ cho tôi; ít ra ông ấy sẽ đến xử lý môn phái chúng ta. Mong đại tiên sẽ cứu giúp.”

[5] Người tu đạo, khác với tu hành Phật giáo; không thể tùy tiện pha trộn.

Đèn Bão lắc đầu nói: “Phái Giê-su, không đáng ngại. Pháp lực của ông ta chỉ bằng một nửa của đại tiên. Các vị theo tôi!” Tôi nhận ra hai mép Dương Sạn cứ giật giật, hình như định cười nhưng cố nén lại và chửi thầm gã khốn kiếp này đầu óc có vấn đề.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 3-5: Đầu mối bị đứt đoạn


Chúng tôi đi theo Đèn Bão đến rừng đào ở sau núi, nhìn thấy ông già đang ngồi dưới một gốc cây đào. Nhìn thấy chúng tôi, ông ta cười nói: “Hôm nay các vị đã thể hiện khá lắm, rất có khả năng sẽ đắc đạo. Bản tiên quyết định dẫn các vị vào động để chính thức tu tiên, nhưng các vị buộc phải bỏ hết tất cả những gì mang theo người, ngoại trừ quần áo.”

Lão Phó nhìn chúng tôi. Giờ đây có thể khẳng định lão già bát nháo này là tên lừa đảo, lão bảo chúng tôi bỏ tiền nong và các thứ ra để ở ngoài, sau đó đi theo lão ư? Lão Phó bỗng đứng lên đấm cho Dương Sạn một quả ngã dúi dụi, sau đó chạy lại co chân đá Đèn Bão. Đèn Bão sợ quá đứng lên né tránh, nhưng người chao đi và cũng ngã lăn kềnh. Tôi và Mông Nhân cùng chạy lên ghì lão già xuống rồi cho lão mấy cái tát. Lão già chịu trận nhưng miệng vẫn cãi: “Các ngươi dám đánh bản tiên, thì trời sẽ trừng phạt các ngươi!”

Xem ra, sự nhẫn nại của lão Phó và Mông Nhân đã đến giới hạn cuối cùng...

Mông Nhân lại cho thêm cái tát nữa: “Cút mẹ nhà ngươi đi! Trời trời cái gì? Trời cứ trừng phạt đi, cứ giáng sấm sét cho ta xem đi? Từ nhỏ, ta đã biết ông tây Franklin[1] , ta được sét đánh từ bé rồi lớn lên đây này!”

[1] Benjamin Franklin (1706 - 1790), người Mỹ; danh nhân nhiều lĩnh vực, nhà khoa học; cột thu lôi là một trong nhiều phát minh của ông.

Lão già bắt đầu mấp máy môi lẩm nhẩm gì đó, tôi và Mông Nhân để ý xem lão định diễn trò gì. Thì ra là lão đang niệm A di đà Phật. Lão Phó nói: “Tạm nghỉ đã, để chờ cảnh sát đến. Vừa nãy tôi nhắn tin cho người đang ở xã Thệ Thủy để báo cảnh sát đưa người đến tìm chúng ta; dọc đường tôi đã đánh dấu rồi, họ sẽ tìm thấy.”

Thì ra lão Phó không đến đây một mình, anh ta đi với hai chú em họ, hai người ấy tạm ở lại xã Thệ Thủy để chờ tin, nếu cần sẽ hành động ngay. Sau vài giờ, lão già gần như đã ngủ say, chú em họ của lão Phó dẫn cảnh sát đến. Tôi đá vào mông lão già, hỏi rằng tại sao lão có thể ngủ được? Lão nói, giả vờ làm thần tiên mệt ơi là mệt!

Sau đó lão già, Dương Sạn và gã Đèn Bão bị đưa đi. Lão già và gã Đèn Bão là hai cha con, đều tuyệt đối mù chữ, vốn là dân bản ở sâu tít trong núi. Mấy năm trước hai cha con ra ngoài làm thuê lặt vặt, nhận ra rằng lâu nay dân thành phố đua nhau đi cầu tiên, đi tìm tiên dược, bèn nảy ra ý định lừa bịp. Họ trở về bản nói rằng mình đi xa, gặp được cao nhân, hiện nay có tài này tài nọ... rồi học lỏm trên ti-vi các mánh lới lừa bịp để hù dọa dân bản thật thà ngô nghê, sau đó họ tự xưng là thổ hoàng đế trong rừng núi; họ làm y như hoàng đế thật. Quái dị nhất là họ đặt ra cả quốc hiệu gọi là đại thánh gì đó, rồi tự xưng là Ngọc hoàng đại đế, và phong cho người khác là đại thần tướng quân. Sau đó cử người đi loan tin khắp nơi rằng ở đây có thần tiên (lão già nói, trang phục và bộ dạng thần tiên thì lão bắt chước trong phim “Tây du ký” chiếu trên ti-vi), và đã lừa được rất nhiều gã ngốc ở thành phố đang muốn tầm tiên học đạo.

Nhưng gã Dương Sạn quyết không chịu hé răng, gã chỉ nói mình cũng là nạn nhân bị lừa v.v... chứ không nói thêm gì khác. Mấy ngày sau, chuyện này bị đưa lên trang nhất của báo chí, lúc này mới biết mấy năm qua có đến hơn hai trăm người bị lừa, hai cha con lão già đã kiếm được vài trăm ngàn nhân dân tệ.

Nhưng điều đáng kinh ngạc vẫn còn ở phía sau. Cảnh sát khám cái nơi gọi là “hoàng cung” của lão ở (là một hang núi), thấy trong đó có xác người đã bị phân hủy, là nữ. Quần áo của xác nữ ấy vẫn nguyên vẹn; họ điều tra ra rằng, người phụ nữ ấy chết trong trạng thái không quần áo, sau đó mới được mặc trở lại. Trên đầu có vết thương nhẹ, không thể dẫn đến tử vong; mũi, mồm và hai lỗ tai nhét đầy đất cát. Khám tử thi cho thấy nạn nhân chết ngạt do bị chôn sống. Và, nữ nạn nhân này là vợ của Dương Sạn!

Nghe nói sau này Dương Sạn khai rằng, anh ta đã từng mất rất nhiều công sức theo đuổi thành công, rồi kết hôn chưa được hai năm. Cô vợ vẫn như xưa: rất thích cảm giác mình được đàn ông bao vây tán tỉnh, cô ta chỉ mải mê tung ảnh của mình lên mạng, ảnh chụp đủ các tư thế làm dáng, hoặc là ra ngoài gặp bạn quen trên mạng, cô ta đã cho Dương Sạn bị cắm sừng vô số lần. Còn Dương Sạn vốn là anh chàng ít nói, hàng ngày anh ta luôn có nét buồn buồn, mọi sự việc luôn giấu kín trong lòng. Về sau, lên mạng đọc thấy có người đã tu tiên thành công nói rằng: có thể biến đổi hoàn toàn tâm tính con người, chỉ cần dán bùa vào người ấy và đem chôn ba ngày, sau đúng ba ngày đào lên, thì trái tim người ấy sẽ mãi mãi thuộc về mình. Dương Sạn vốn không tin, nhưng mọi hành vi của cô vợ khiến Dương Sạn không thể bình tĩnh nổi nữa, trong một lần cãi nhau, anh ta đã lỡ tay đánh vợ chết ngất. Trong lúc hoang mang, Dương Sạn tưởng cô vợ đã chết, anh ta nhớ đến cái biện pháp đã học được trên mạng, bèn thử xem sao. Dịp ấy đang vừa khéo nghe thấy tin đồn ở thành phố âm có “thần tiên”, Dương Sạn đang lú lẫn u mê, bèn nghĩ rằng đem xác vợ đến chôn ở núi tiên thì đúng là “một công đôi việc”. Dương Sạn bèn mượn xe, khuân xác vợ lên, dùng nước đá để ướp, rồi chở đến núi, tìm lão “Ngọc hoàng thượng đế” ấy...

Vào đến núi, Dương Sạn lập tức nhận ra thần tiên chỉ là đồ giả dối, nhưng vì mình trót “giết vợ”, hết cách rồi, bèn loan tin với bên ngoài rằng vợ đã đi về nhà mẹ đẻ ở miền Bắc. Dương Sạn dự định sẽ ở mãi trong núi này đến cuối đời.

Đâu dễ gì được gặp một tử tù, nhưng tôi nhờ vào các mối quan hệ gia đình và mấy người bạn của lão Phó, đã được gặp Dương Sạn. Khi gặp, tôi không dài dòng, đi ngay vào đề, hỏi anh ta bốn vị thuốc bắc kia là thế nào? Dương Sạn khóc và nói rằng anh ta thật lòng muốn cứu vợ, có người trên mạng viết rằng dùng bốn vị thuốc bắc ấy nhét vào miệng người chết, kết hợp với dán bùa thì sẽ có tác dụng. Dương Sạn còn nói chính mình cũng đã đọc thấy ở một cuốn sách nào đó trong hiệu sách viết như thế, cụ thể là ở hiệu sách mà anh ta hay đến. Lúc này chúng tôi mới nhớ ra chuyện những cái bùa kia, bèn bảo Dương Sạn thử vẽ ra xem sao. Nào ngờ cảnh sát lại cấm Dương Sạn không được vẽ được viết gì hết. Tôi đành bảo Dương Sạn nói cho biết địa chỉ của trang web đó, Dương Sạn nói đã quên mất, vì lúc đó anh ta chỉ ngẫu nhiên tìm thấy...

Về sau, chúng tôi tìm đến hiệu sách có tên là “Tuổi xuân lướt nhanh”, và tìm thấy cuốn sách như lời miêu tả của Dương Sạn. Đúng ra, chỉ là tệp sách thuộc loại “lá cải” giống như những cuốn “Tự xem bói”, “Năm Dần của những người tuổi Hổ”... mà người ta vẫn mua! Cuốn này còn khá nhiều trong hiệu này. Mở sách ra tìm, quả nhiên thấy có một trang viết về chuyện kia, trang này chẳng ăn nhập gì với các trang trước và sau nó cả, phía sau cũng vẽ một cái bùa. Lão Phó nhìn xong nói rằng bùa này giống hệt bùa vẽ trong sách mà cụ nội anh ta để lại. Chúng tôi bèn hỏi bà chủ hiệu, cuốn sách này ở đâu ra. Bà nói rằng người bán những thứ sách như thế này thỉnh thoảng đến đây tiếp thị, họ bán theo cân, cả chồng sách chỉ mua có mười mấy đồng, bà nghĩ rằng dù bán ra mỗi cuốn chỉ hơn một đồng thì cũng được tí tiền lãi, nên bà đã mua lại.

Bà còn nói, người bán sách ấy có trở lại đây một lần. Đó là một nam trung niên cao lớn, trông có vẻ có văn hóa chứ không giống như người đi bán sách. Lão Phó bèn miêu tả về một “nhân vật” - tức cha anh, theo ấn tượng của anh về cha mình - cho bà chủ hiệu sách nghe, bà lắc đầu nói: “Không! Người này cao ít nhất là 1,85 mét.” Nghe xong, lão Phó nhìn tôi và Mông Nhân lắc đầu. Vậy là manh mối về sách bị đứt đoạn. Mông Nhân nói, nên về tra trên mạng, biết đâu có thể tìm thấy người đã tung cái tin này ra, xem xem người ấy có thể biết được những gì.

Nhưng chúng tôi mò trên mạng rất lâu cũng không tìm thấy gì. Sau đó lại nghĩ: dù tìm thấy, nhưng nếu người ấy cũng chỉ biết có ngần ấy điều trên cuốn sách kỳ cục này thì sao?

Rốt cuộc, tôi và Mông Nhân lại tập trung cho công tác, lại ngày ngày mơ ước sẽ phát tài hoặc sẽ trở thành nhà văn. Còn lão Phó thì bắt tay vào kinh doanh nghiêm túc ở lĩnh vực mà anh ta hứng thú nhất là vật tư máy tính, thỉnh thoảng anh ta cũng đi các sạp bán sách sưu tầm những cuốn sách “lá cải” nho nhỏ, xem xem có tìm ra manh mối gì không; anh cũng hay hỏi han các khách hàng của mình xem có nhìn thấy ở đâu ghi chép về mấy vị thuốc bắc kia hoặc có vẽ cái bùa chú kia không.

Cuốn sách kia được lão Phó gửi vào két bảo hiểm của ngân hàng, anh ta chỉ luôn mang bên mình một bản photo, và gửi cho Phòng văn hóa thành phố C một bản, mong sao những ai chuyên làm về khảo cổ có thể từ đó tra cứu được một vài thông tin gì chăng.

Còn Dương Sạn, ít lâu sau bị thi hành án tử hình. Lãnh đạo công ty thường nhắc lại sự việc ấy trong các cuộc họp để nhắc nhở răn đe nhân viên hãy tu dưỡng cho tốt... Năm 2005, tôi lại trở về công ty bảo hiểm thành phố âm làm việc. Khi kể lại câu chuyện trên với một bạn học thời đại học, bạn tôi nói mình đã từng phỏng vấn hai vụ án tương tự xảy ra ở thành phố khác, hoặc là chồng giết vợ rồi đem chôn xác, hoặc ngược lại; nhưng khác ở chỗ đương sự không bị ai “chỉ bảo”, hoặc không mô phỏng cách phạm tội ở những vụ án nào cả.

Việc chỉnh lý của tôi đối với “Tầm tiên ký”

Cũng như các bài ghi chép trước đây, tôi có thói quen sau khi chỉnh lý xong câu chuyện thì tôi liệt kê ra các vấn đề cho mình.

Một là, nguồn cơn nhà họ Phó có trong tay cuốn sách ấy, có thật không?

Sau khi nghĩ đến vấn đề này, tôi bèn gọi lão Phó đến nhà chơi, và hỏi dò anh ta một lượt. Nhưng lão Phó lập tức nổi giận, nguyền rủa, và thề độc với tôi rằng tuyệt đối là sự thật chứ không nói dối một chi tiết nào. Tôi thanh minh rằng, ý tôi muốn hỏi xem cụ nội anh ta có giấu bớt điều gì không; và ông nội cũng như cha anh được “thừa hưởng” câu chuyện, có phát hiện ra điều gì không - và, vì không muốn lão Phó nhận ra các manh mối trong đó rồi truy tìm, họ đành phải giấu nhẹm? Rất có thể ông nội và cha của lão Phó đã phát hiện ra manh mối nhưng cũng nhận ra mối nguy tiềm ẩn trong đó, thì sao? Lão Phó không trả lời mà chỉ ngồi rít thuốc lá.

Hai là, tại sao chỉ có bốn vị thuốc bắc?

Về vấn đề này, trước đây tôi đã viết một đoạn suy đoán dài mười ngàn chữ, nhưng về sau đều bị “lật đổ”; hiện giờ tôi tạm “treo” lại đã, tôi sẽ miêu tả kỹ ở câu chuyện về sau này.

Ba là, cụ nội, ông nội và người cha của lão Phó đều ra đi khi con trai mình mới khoảng mười tuổi, có phải họ đã mất tích không?

Tôi đã hỏi lão Phó rằng người cha mất tích khi anh ta bao nhiêu tuổi. Lão Phó nói, khi đó anh đã mười bảy tuổi; và ngay năm đó thì bà mẹ kể cho anh biết rằng cha anh đã ra nước ngoài hợp tác kinh doanh với người ngoại quốc rồi. Lão Phó liền tin ngay, nhưng nửa năm sau không thấy cha gọi điện hay viết thư về nhà, thì lão Phó cho rằng đã xảy ra chuyện. Lão Phó còn nói rằng, không rõ có phải khi ông nội ra đi thì cha anh đã mười bảy tuổi không, vì cha anh chỉ nói chung chung rằng “khoảng mười tuổi”. Cha lão Phó cũng không rõ khi cụ nội lão Phó ra đi, thì ông nội lão Phó mười mấy tuổi.

Tôi và lão Phó trao đổi xong, bèn kéo nhau đi gặp bà mẹ lão Phó để hỏi chuyện. Bà mẹ lão Phó nói rằng mình không biết gì nhiều hơn những điều lão Phó đã biết; hồi nọ không kể cho lão Phó biết chuyện về cha mình, vì bà lo cậu con trai đang tuổi trưởng thành sẽ bị sốc mạnh, rồi đi vào những ngả đường sai trái (tôi nhớ lại Mông Nhân từng nói rằng: hình như kể từ đó lão Phó bỗng thay đổi tâm tính và hành vi hao hao bọn lêu lổng đầu đường xó chợ. Xem ra, bà mẹ có ý lo lắng như thế cũng không phải là thừa).

Bốn là, nội dung cuốn sách kia là gì?

Trước hết, tôi tuyệt đối không tin vào chuyện trường sinh bất tử. Ít ra là quan điểm của riêng tôi: con người là sinh vật, trên trái đất này không có sinh vật nào là sống mãi không bị hủy diệt, dù có loài thực vật đã sống đến vài trăm năm thì sớm muộn gì cũng có ngày khô héo. Đó là một thứ định luật tuần hoàn.

Cuốn sách Thiên thư mà tôi đã mở ra xem, sau khi xem kỹ thấy rằng: đại đa số chữ viết trong đó được viết từ những thời đại khác nhau, thậm chí có nhiều ký tự không phải là chữ Hán, nhưng tất cả đều có một điểm chung là hai thái cực khác hẳn nhau: hoặc là viết những thứ rất nhạt nhẽo, chán đến nỗi không thấy những tư liệu văn bản đó nằm ở đâu; hoặc là những nội dung khiến người ta phải kinh ngạc, ví dụ có hai trang viết sơ kỳ thời Tùy - Đường[1] , thời đó ở vùng trung và hạ du sông Trường Giang vẫn còn triều đình nhà Trần, vị vua gần cuối cùng triều Trần là Trần tuyên đế sau khi chết thì con trai tên là Thúc Bảo lên kế vị (được gọi là Trần hậu chủ); Trần hậu chủ bất tài không ngó ngàng chính sự, chỉ mải ăn chơi hưởng lạc, không nhận ra nhà Tùy sắp tiêu diệt nhà Trần. Về sau, vì Trần hậu chủ nói năng ngông cuồng với Tùy văn đế nên ông ta nổi giận rồi đem quân chinh phạt nhà Trần. Viết đến đây thì giống như sách sử đã chép, nhưng đoạn sau thì viết rằng: khi đó quân nhà Tùy đã tấn công hậu cung nhà Trần, rồi phát hiện thấy Trần hậu chủ và vợ nấp trong giếng nước, chứ không như sử chép là họ bị bắt làm tù binh. Sau đó quân Tùy ném đá xuống giếng giết chết Trần hậu chủ; còn về chuyện Trần hậu chủ bị bắt, thì đó là người khác chứ không phải ông ta, người ấy là anh em sinh đôi với Trần hậu chủ.

[1] Thế kỷ 6 - 7

Đọc đến chỗ này tôi rất kinh ngạc: Trần hậu chủ lại có anh em sinh đôi? Chuyện này chưa từng nghe nói. Sách này còn viết rằng, những tình tiết nói trên là chép lại từ cuốn sách có tên là “Hậu Trần nhai ngữ”. Sau đó tôi lập tức đi tra cứu hỏi han rất nhiều người nhưng chưa có ai nghe nói về cuốn sách “Hậu Trần nhai ngữ” cả. Đây là sự nhắc nhở của cuốn sách này? Hoặc là, Trần hậu chủ không hề có anh em sinh đôi nào cả, mà chỉ là cuốn sách này bịa đặt, nhằm mục đích kích thích người ta đi tìm cuốn “Hậu Trần nhai ngữ” hoặc đi tìm một thứ gì đó, là bí mật về trường sinh bất tử? Tôi tạm giả thiết mình tin là có trường sinh bất tử, thì, nếu cuốn sách này có chứa những bí mật về nó thì rất có thể trong sách sẽ chứa một chữ, một từ, thậm chí một câu, căn cứ vào một thứ tự nào đó sắp xếp tổ hợp lại, thì có thể có được cách để trường sinh bất tử chăng?

Tất nhiên là, sau khi nắm được bí mật về cuốn sách này thì tôi cực kỳ xúc động, dù tôi không rõ những chuyện đó có thật hay không. Những tình tiết này để sau hãy hay, tôi sẽ viết tỉ mỉ trong những ghi chép ở phía sau.

Nhưng vẫn cần nói về một điểm này: chuyện Dương Sạn chôn vợ, về sau tôi có đọc thấy trên nhật báo của thành phố M; vì lúc đó tôi đang có việc hệ trọng nên chưa lập tức theo dõi. Báo chí đăng như sau: một gã thầy bói nói với một anh nông dân rằng sau này vợ anh sẽ trăng hoa ngoại tình, muốn cô ta đổi tâm tính và hết lòng chung thủy với anh, thì phải đem cô ta đi chôn một đêm, phải chọn đêm trăng tròn, đồng thời dán bùa; sáng sớm hôm sau đào vợ lên đem về. Thế là được. Cảnh sát bắt gã thầy bói, và đưa ra khởi tố về tội xúi giục giết người, thì gã lý sự rằng: hôm đó tôi say rượu nên nói bừa, không ngờ thằng khốn trời đánh ấy lại tin là thật. Đọc đến đây, độc giả dở khóc dở cười. Tôi tiếp tục theo dõi, về sau anh nông dân kia bị pháp luật trừng trị, phải “đi gặp” vợ mình. (Tôi chợt nhớ đến mấy câu hài hước của ai đó đăng trên mạng QQ sau đó: mùa xuân, tôi đem vợ tôi chôn xuống đất, đến mùa thu, tôi gặt hái được rất nhiều vợ! Sự thật là: mùa xuân tôi đem vợ tôi chôn xuống đất, đến mùa thu tôi bị chú cảnh sát chôn luôn). Còn tôi, tôi đi tìm gã thầy bói kia, mới biết gã bị đi tù, trong tù, gã lỡ trượt chân ngã đập đầu vào chậu hoa, rồi chết ngay tại chỗ. Tôi cho rằng nếu dùng từ báo ứng để diễn tả mẩu chuyện này thì rất xác đáng.

(Hết “Tầm tiên ký”)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 4-1: Mùa xuân của lão Phó


Ghi chép (IV) Những chuyện kỳ lạ mà Đường Tiểu Bạch chứng kiến: Thiên thư ký

Sau khi sự việc Dương Sạn trôi qua, lão Phó bắt đầu thích dành nhiều thì giờ vùi đầu trong hiệu sách, không đến các hiệu sách khác, anh ta chỉ đến hiệu sách mà trước kia Dương Sạn thường đến. Gần như ngày nào lão Phó cũng xách theo một bình nước trà đi đến đó ngồi, ngồi lỳ cả một ngày. Về sau anh ta nói, đọc nhiều quá cũng phát chán, muốn thay đổi khẩu vị, bèn biếu chủ hiệu một chiếc ti-vi, kèm cả một đầu DVD nữa; tôi và Mông Nhân có cảm giác từ ngày quen lão Phó đến giờ, chưa từng thấy gã siêu keo kiệt là anh ta hào phóng với bất cứ ai như lần này. Chúng tôi nghĩ, chắc anh ta có âm mưu gì đây, bèn bí mật mò đến đó xem sao. Lúc chúng tôi tan tầm, thì trùng vào lúc các lái xe tắc-xi thay ca (ca chiều, đổi cho ca tối), nên khó gọi xe. Tìm mãi mới thấy chiếc xe do một cô gái cầm lái, chúng tôi cho cô ta biết địa chỉ cần đến, cô nói “May quá em cũng đang định đi đến đó để thay ca”, thế là chúng tôi lên đường suôn sẻ.

Đến nơi, tôi và Mông Nhân trả tiền xe rồi bước xuống, đi về phía hiệu sách. Vừa đi đến cửa thì nhìn thấy lão Phó đóng bộ rất thoải mái đứng ngay ở cửa, với tư thế cố ý ra vẻ ta đây. Hai chúng tôi định bước lại sạc cho anh ta một trận thì thấy anh ta mỉm cười. Chúng tôi đang băn khoăn lão Phó cười cái gì nhỉ, thì anh ta đã nói to: “Bây giờ mới đổi ca à? Có mệt không?”

Thì ra là nụ cười của lão Phó không dành cho hai chúng tôi, bèn quay người lại. Thật đáng ngạc nhiên, chúng tôi nhìn thấy cô gái vừa lái xe chở chúng tôi đến đây! Nữ tài xế ấy bước vào hiệu sách, lão Phó liền rót trà rồi cầm hộ cô ta áo khoác... xun xoe trông cứ như thằng hầu. Tôi và Mông Nhân bỗng hiểu ra, thằng cha họ Phó đâu có thể chịu nhọc nhằn nhiều như thế, thực ra là anh ta mò đến đây để tán gái.

Hai chúng tôi bước vào hiệu sách. Nữ tài xế đi vào gian nhà kho để thay trang phục. Tôi và Mông Nhân kéo lão Phó lại, nói: “Này này, tầm mắt của cậu quá tầm thường thì phải? Hạng người như cô ta, ra phố đèn mờ X của thành phố, khua tay một cái thì vơ được cả một đàn!”

Lão Phó trợn mắt lườm chúng tôi, rồi kéo chúng tôi ra vỉa hè, nói: “Các cậu thì biết cái cóc gì! Tôi đang dùng chiến thuật vu hồi, mẹ cô ta là bà chủ hiệu sách này; tôi cho rằng bà ấy vẫn đang giấu chúng ta một chuyện gì đó, nên tôi mới tìm cách để tiếp cận.”

Mông Nhân gật đầu: “Kể cũng phải! Cậu hãy cố hơn nữa, mẹ cô ta sẽ biến thành mẹ cậu, khi nào mọi người trở thành một nhà rồi thì bà ấy sẽ phun ra hết mọi bí mật chứ gì?” Nghe Mông Nhân nói xong, lão Phó mỉm cười gật đầu, và khen Mông Nhân sáng dạ, thông minh. Tôi và Mông Nhân đều cố nhịn cười. Nói phét kiểu này, anh ta tưởng như hồi học trung học, định bám riết bạn nữ thì bịa rằng muốn tìm người để bổ túc cho mình môn sinh lý học hay sao?

Cô gái kia bước ra, nhìn biết ngay là cô vừa mới chải đầu, tô chút son phấn, tôi chỉ thoáng nhìn rồi cúi xuống; Mông Nhân thì đang lẩm bẩm như tự nói với mình: “Trông kể cũng khá đấy!” Tôi bèn nhìn lại lần nữa, thấy cô ta rất xinh nhưng tôi chẳng có chút rung động gì, còn Mông Nhân thì vẫn nhìn cô ta, nhìn mãi rất lâu...

Lúc này lão Phó đã trở lại cái vẻ xun xoe như lúc nãy, bắt đầu săn đón hỏi han này nọ, và còn hỏi cô ta tối nay thích ăn món gì. Lúc họ nói chuyện với nhau, tôi nghe rõ lão Phó gọi tên cô ta là Mễ Đâu. Cái tên thật kỳ quái! Tôi nói với Mông Nhân, thì anh ta lừ mắt với tôi: “Cậu cho rằng tên tôi, tên cậu và tên lão Phó, cả ba cái tên đều là bình thường chắc?”

Mễ Đâu hỏi lão Phó rằng hai chúng tôi có phải là bạn không, lúc này lão Phó mới nhớ ra là cần giới thiệu. Giới thiệu xong, anh ta mặc kệ chúng tôi đứng một chỗ, tiếp tục ngồi bên bàn trò chuyện với Mễ Đâu. Lúc này bà mẹ cô ta bước ra nói rằng phải về nhà có việc, và dặn Mễ Đâu trông hàng. Bà mẹ đi rồi, Mễ Đâu nói với lão Phó giọng tiếc nuối: “Anh à, tối nay em phải trông hàng, không thể ra ngoài ăn lẩu.”

Lão Phó cười, nói: “Không sao, chúng ta ăn ngay ở đây, được chứ? Anh sẽ gọi điện bảo nhà hàng đem đến. Chủ quán là chỗ anh em rất thân với anh, gọi một câu là được ngay!” Nói rồi anh ta chuẩn bị gọi điện. Tôi và Mông Nhân thở dài, thời nay vẫn có không ít những gã đàn ông sẵn sàng sinh tử vì các cô nàng!

Lão Phó gọi điện xong, hình như nhớ ra điều gì đó, anh ta kéo hai chúng tôi ra một chỗ nói rằng vấn đề cuốn sách kia đã có chút manh mối. Hai tháng nay anh ta đã tốn rất nhiều thì giờ vào chuyện này, đã đi khắp nơi tìm sách để đọc nhằm phong phú kiến thức cho mình, đã bắt đầu chi tiền nhờ nhà chuyên môn giúp đỡ... rốt cuộc đã sơ bộ làm rõ được một số vấn đề. Trước hết, chương một của cuốn sách ấy bắt đầu ghi chép từ thời Đông Hán[1] , với những nội dung rất kỳ lạ; từng đoạn hầu như không liên quan gì đến các đoạn trước và sau, ví dụ phía trước nói về phong thủy thì sau đó lại nói về quân sự... Sau thời Đông Hán thì đến thời Tam Quốc, tức là bỏ cách quãng tương đối dài. Tiếp đó là thời Nam Bắc Triều, rồi thời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Những đoạn chép từ thời Minh thì chữ viết rất kỳ quái, thậm chí còn xen lẫn chữ phương Tây. Cách chép cũng na ná phía trên, có đủ thứ linh tinh, thậm chí chép cả “hôm nay ăn món gì, sức khỏe kém, đi tìm thầy thuốc, thầy thuốc kê đơn, mình làm những việc gì”. Có cảm giác đây là cuốn nhật ký do nhiều người viết.

[1] Đông Hán: năm 25 SCN đến năm 220 SCN.

Đương nhiên chúng tôi chú ý đến việc suy luận năm tháng thời đại, từ chữ viết và nội dung của sách. Phần đầu cách quãng rất xa, ví dụ: bắt đầu từ thời Tây Hán[2] thì sau đó nên là Đông Hán chứ không nên đến luôn thời Tam Quốc. Phía sau đó lại càng quá đáng hơn, có lúc “nhảy cóc” qua vài triều đại. Lúc này chúng tôi rất nghi ngờ về tính chân thực của cuốn sách. Thời Đông Hán cách ngày nay bao nhiêu năm? Huống chi, thời đó toàn viết trên thẻ tre thẻ gỗ, hiếm khi dùng giấy dó giấy bản, vì người đương thời cho rằng viết chữ lên giấy thì không thể bảo quản lâu dài; sách viết lên thẻ tre mà các nhà khảo cổ khai quật được đều còn khá nguyên vẹn, nhưng sách hoặc tranh giấy thì đều đã mục nát hoặc hóa thành tro. Nhưng cuốn sách của nhà lão Phó thì lại được bảo quản khá tốt, khiến người ta không thể không nghi ngờ về độ tin cậy của nó.

[2] Tây Hán: năm 206 TCN đến năm 25 SCN.

Mông Nhân đã từng xem ti-vi nói rằng, có một số sách cổ được chép trên da động vật, trước đó được ngâm trong dược liệu đặc biệt nào đó. Mông Nhân hỏi lão Phó đã đem sách đi giám định chưa, thì anh ta lắc đầu: “Chưa! Sách ấy tôi vẫn gửi trong két của ngân hàng, rất ổn. Nếu có ngày tôi phá sản, kiệt quệ, thì sẽ trông vào báu vật vô giá ấy để gây dựng lại cơ đồ.”

Tôi cũng tán thành nhận xét của Mông Nhân. Tổ tiên nhà họ Phó bấy lâu vẫn nhắc đến chuyện về dược liệu kia, rất có thể, sách này ẩn chứa những bí mật gì đó, rất nên đưa đi giám định. Tôi bèn bảo lão Phó chỉ cần lấy một trang bất kỳ đem đi giám định là được, không cần đem cả cuốn sách đi, vì nó đang ở tình trạng rất xộc xệch, tơi tả.

Chúng tôi đang bàn chuyện này thì Mễ Đâu bước lại, đặt hai tách trà trước mặt tôi và Mông Nhân, nói: “Các anh nói chuyện gì mà sôi nổi thế? Chuẩn bị giám định thứ gì? Thử DNA à? Bạn em làm việc trong bệnh viện, nếu cần sẽ hỗ trợ các anh.”

Mông Nhân vội nói luôn: “Trước kia lão Phó có quen một cô gái, nay cô ấy đến gặp lão Phó nói rằng mình sắp sinh con, chẳng rõ là chuyện thật hay không, nên anh ấy muốn tìm cách giám định xem có phải là con mình hay không.”

Nghe Mông Nhân nói thế, lão Phó sửng sốt, vội đứng bật dậy mắng mỏ Mông Nhân, và nói với Mễ Đâu rằng “Đừng tin Mông Nhân nói bừa, xưa nay anh luôn giữ mình trong sáng, chưa từng có mối tình đầu, anh luôn tinh khiết chẳng khác nào những bông tuyết trên trời rơi xuống...”

Anh ta diễn tả khiến tôi và Mông Nhân nghe mà phát ớn không sao chịu nổi. Tôi nói: “Cậu mà chưa yêu bao giờ? Vậy cậu hay leo lẻo nhắc đến nào là ‘Phương’ nào là ‘Khiết’, là những ai thế?” Lão Phó phát cáu, nói: “Đó là tên các bà cô bà dì tôi hồi nhỏ, họ đã chết sớm rồi. Tôi vẫn tưởng niệm đến họ!” Tôi và Mông Nhân cười phá lên. Mễ Đâu cũng bưng miệng cười không ngớt. Thấy Mễ Đâu cười, lão Phó cũng bớt căng thẳng, rồi anh bắt đầu kể chuyện về cuốn sách cho Mễ Đâu nghe.

Tôi thầm nghĩ, trước đây bảo thằng cha quỷ sứ này kể về tình hình cuốn sách thì hắn quyết không chịu, còn nói rằng chỉ kể cho người họ Phó nghe. Lão Phó kể được nửa chừng thì có khách hàng vào mua sách, Mễ Đâu vội bước ra hỏi han. Tôi hỏi lão Phó: “Cậu nói rằng chỉ ai họ Phó mới được tìm hiểu kia mà?” Anh ta đáp: “Thì hai cậu đều không phải họ Phó, tôi đã kể cho biết rồi còn gì? Vì tôi coi hai cậu như anh em. Tôi kể cho Mễ Đâu nghe là vì cô ấy sớm muộn gì cũng mang họ nhà chồng, họ Phó Mễ, hiểu chưa?”

Lúc này tôi thật sự tin rằng mùa xuân của lão Phó đã về...

Khi nhà hàng bưng lẩu đến, tôi và Mông Nhân giật mình vì nhìn thấy chữ dập nổi trên nồi lẩu, chúng tôi biết đó là một tiệm lẩu khá nổi tiếng trong thành phố C, gần đây họ mở thêm một cửa hàng cách đây sáu bảy con phố. Xem ra, lão Phó “rất chịu chi” rồi đây. Lúc sắp ăn, Mông Nhân nói muốn có rượu uống, nhưng lão Phó đáp rằng, rượu càng uống vào thì càng nóng đầu, đầu nóng thì sinh ra trì trệ. Anh ta nói với vẻ rất nghiêm chỉnh. Nhưng Mễ Đâu lại nói muốn uống bia, vì cả ngày chạy xe mệt nhoài. Lão Phó vội “chữa lại”: “Có thể nhấp tí men, có lợi cho sức khỏe.” Nghe xong tôi chỉ muốn nhảy dựng lên để xoắn hắn thành linh vật Panda của Á vận hội năm xưa!

Mễ Đâu uống bia vào, dần trở nên hay nói. Lúc này chúng tôi mới biết Mễ Đâu đã tốt nghiệp ngành tâm lý ở một đại học danh tiếng. Năm cô tốt nghiệp thì cha cô bị tai nạn giao thông, qua vụ đó, cô và bà mẹ nhận được một khoản tiền lớn từ công ty bảo hiểm, trước đó cha cô cũng mua bảo hiểm tai nạn cho mình. Thế rồi hai mẹ con bàn bạc, quyết định mở một hiệu sách, bà mẹ vốn là nhân viên của công ty sách Tân Hoa thư điếm. Mễ Đâu cũng không muốn ra ngoài tìm việc làm, dù ngành học của cô là mới mẻ, rất được trọng dụng trong xã hội hiện đại ngày nay. Và cũng vì Mễ Đâu không thích làm việc dưới tầm tay của người khác, tự mở Phòng điều trị tâm lý thì cô cũng chưa đủ tư cách, cô lại thích lái xe, rốt cuộc cô xin lái tắc-xi cho chủ hãng, nghĩ rằng sau vài năm lăn lộn sẽ dành dụm đủ tiền để mua một chiếc tắc-xi cho mình, thì cũng tốt.

Biết Mễ Đâu học về tâm lý học, tôi bèn kể chuyện về anh chàng Trương Ái Dân hồi nọ cho cô nghe, để cô phân tích xem sao. Nhưng cô phân tích bình luận hồi lâu, vẫn không đưa ra được kết luận gì ra hồn. Cô chỉ nói rằng có những bệnh nhân tương tự, đều thuộc nhóm phát sinh về sau, chứ không giống như Trương Ái Dân mà tôi kể - anh ta bẩm sinh đã thích mô phỏng người khác.

Khi hai chúng tôi nói chuyện với Mễ Đâu, không thấy lão Phó tham gia phát biểu gì cả, bèn trở lại đề tài cuốn sách vậy. Lão Phó nói: “Từ nãy tôi vẫn ngẫm nghĩ lời hai cậu nói, có lẽ vẫn nên đem cuốn sách đi nhờ chuyên gia giám định xem nó xuất hiện từ thời nào, chất giấy là gì, đã gia công làm lại gì chưa...”

Lúc nãy Mễ Đâu chưa nghe hết câu chuyện về cuốn sách, cho nên lão Phó bèn kể nốt. Sau khi chúng tôi ăn xong, chờ nhân viên nhà hàng lẩu đến nhận nồi khay đem về, thì đã gần 10 giờ tối, Mễ Đâu nói đã muộn rồi, cô cần đi nghỉ để sáng sớm mai đi làm, vì người lái xe ca sáng có việc đột xuất không đến được, cô sẽ phải làm cả ngày mai, chắc sẽ rất mệt.

Chúng tôi giúp Mễ Đâu đóng cửa hàng, sau đó lên xe của lão Phó. Anh ta chở Mễ Đâu về nhà cô, dặn dò phải chú ý sức khỏe... Sau khi Mễ Đâu lên gác rồi, lão Phó vẫn chưa lái xe đi, anh chờ nhìn thấy căn hộ của Mễ Đâu sáng đèn, lại gọi điện dặn dò cô hãy đi nghỉ cho sớm. Câu cuối cùng của anh ta khiến chúng tôi “lộn ruột quá”: “Em ơi, nếu nằm mơ thì hãy nằm mơ thấy anh, em nhé!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 4-2: Kẻ đánh tráo “Thiên thư”


Sau khi chở tôi và Mông Nhân về đến nhà, lão Phó đòi vào nhà ngồi một lúc. Vào rồi, anh ta bảo hai chúng tôi ngày mai cùng đi xem triển lãm. Vị chuyên gia khảo cổ trước đây hỗ trợ lão Phó dò tìm, nói rằng Viện bảo tàng thành phố C mở triển lãm, tuy các hiện vật trưng bày chưa chắc đã giúp gì cho lão Phó nhưng anh ta sẽ có dịp tiếp xúc với rất nhiều chuyên gia về lĩnh vực này, lão Phó rất có thể sẽ tìm ra manh mối nào đó.

Tôi và Mông Nhân không nhận lời, vì ban ngày phải đi làm; mặt khác, chúng tôi không thạo những thứ đó, e sẽ chẳng hỗ trợ được gì cho anh ta. Lão Phó nói, vậy thì anh ta đành rủ Mễ Đâu đi cùng vậy.

Trưa hôm sau, lúc đang ăn, lão Phó gọi điện nói rằng, chiều nay nếu chúng tôi rỗi thì sẽ hội ý ít phút, vì chuyện về cuốn sách đã có chút tiến triển. Nhưng nghe giọng anh ta rất không thoải mái, hình như chẳng phải là tin tốt lành gì. Tôi trả lời, chiều nay vẫn phải đi làm, nếu cần thì anh ta cứ đến thẳng công ty chúng tôi. Lão Phó nhất trí, và nói rằng chúng tôi phải ở công ty đừng đi đâu cả, khoảng 2-3 giờ chiều anh ta sẽ đến.

Lúc xấp xỉ 3 giờ chiều, lão Phó đến chỗ chúng tôi, và rất tự giác chui vào gian hút thuốc. Tôi và Mông Nhân vừa bước vào chưa kịp ngồi xuống thì anh ta đã ném phịch cuốn sách xuống bàn. Xem chừng không ổn rồi đây, vì xưa nay anh chàng này rất nâng niu cuốn sách báu vật, sao hôm nay hắn lại rồ dại thế này? Mông Nhân vội cầm cuốn sách lên, khẽ vỗ vai lão Phó: “Có chuyện gì mà cậu nóng nảy khiếp thế?”

Lão Phó vừa rít thuốc lá vừa chỉ tay vào cuốn sách, nói: “Hôm nay tôi đã đến đó, nhà khảo cổ đã quen, đưa tôi đến gặp mấy vị chuyên gia, họ lần lượt giám định rồi cho tôi biết một tin vui lớn...”

“Tin vui gì?” Tôi hỏi. Lão Phó khịt mũi, rồi nói: “Năm vị chuyên gia xem xét một hồi, rồi đưa ra kết luận: đây là sách giả, các nội dung ghi chép bên trong cũng không đáng giá một xu; nếu đưa ra thị trường, người không sành sẽ trả giá vài trăm đồng, người sành thì sẽ mua theo cân như kiểu đồng nát!”

Tôi và Mông Nhân ngớ ra, Mông Nhân nói luôn: “Trước đây cậu nói rằng sách này rất đáng tiền kia mà?”

Lão Phó nghiêng đầu sang một bên: “Bị người ta lừa! Nó chỉ là cuốn sách vứt đi!” Anh ta rít mạnh một hơi thuốc rồi đứng dậy chỉ tay vào cuốn sách: “Cậu có biết, thực ra trong này viết những của nợ gì không?”

Tôi và Mông Nhân đều lắc đầu. Lão Phó nói tiếp: “Một vị chuyên gia nói rằng, đem nó dịch ra ngôn ngữ hiện đại, nó tựa như một cách luyện ‘Cửu âm bạch cốt trảo[1]’ tốc thành trong 5 ngày!”

[1] Tên một thế võ công hiểm độc, miêu tả trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung.

Tôi lập tức phì cười, vì nó chỉ là trò hề vớ vẩn nhưng lão Phó bấy lâu nay vẫn nâng niu rất mực, và còn hy vọng rằng nếu mình bị phá sản thì sẽ nhờ vào cuốn sách đáng giá tiền triệu để dựng lại cơ đồ! Lão Phó nói: “Nếu sớm biết thế này thì tôi bán quách cho thằng cha phán rằng nó đáng bạc triệu cho xong!”

Mông Nhân không nói gì, chỉ mở cuốn sách lật đi lật lại nhìn hồi lâu, rồi anh ta khẽ lẩm bẩm gì đó, lát sau lại ngẩng đầu lên hỏi lão Phó: “Cậu à, có lẽ không đúng, nếu là đồ giả, thì vào thời đại cụ nội của cậu sinh sống, kỹ nghệ làm đồ giả đã rất phát đạt hay sao?”

Lão Phó nói: “Tôi cũng đã nêu ra cái ý này, nhưng vị chuyên gia nói rằng thời xưa đã có người làm giả những bức tranh nổi tiếng, chỉ những chuyên gia lành nghề mới có thể phát hiện ra, huống chi làm giả một cuốn sách vớ vẩn!”

Mông Nhân lại giở đi giở lại cuốn sách rất lâu, rồi anh bỗng đứng bật dậy, nói: “Không! Lão Phó à, sách này không phải cuốn sách trước đây của cậu.”

Tôi vội hỏi: “Tại sao?” Lão Phó cũng xúm đến. Mông Nhân bèn chỉ vào trang cuối cùng, nói: “Lần trước tôi xem cuốn sách của cậu, tôi đang uống cà phê, rồi lỡ để rớt một giọt vào trang này; lúc đó tôi sợ cậu càu nhàu nên không dám nói với cậu. Còn bây giờ thì trang này không còn vệt cà phê nữa, chất giấy này tuy cũng vàng vàng nhưng trông rất không tự nhiên, cậu không cảm thấy như vậy ư?”

Tôi định cầm cuốn sách xem nhưng lão Phó đã nhanh tay giằng lại, rồi nhìn một lúc lâu. "Đúng thật! Tại sao nó lại không giống trước đây nhỉ?”

Mông Nhân nói: “Tôi đoán rằng... nó đã bị người ta đánh tráo rồi.”

Lão Phó nói: “Không thể! Vì, hồi nọ, sau khi tôi đưa cho hai cậu xem, tôi luôn giữ rịt nó, sau đó đưa vào ngân hàng gửi. Lẽ nào lại...”

Mông Nhân cười nhạt: “Cậu luôn giữ rịt nó ư? Hôm nay cậu cầm sách đem đi đâu? Cái đầu cậu là đầu đất chắc?”

Lão Phó nói: “Không thể! Vì họ đều là hàng chuyên gia, chuyên gia đầu ngành có đủ nhãn mác nghe mà giật cả mình, đâu có thể... Không! Không thể! Tôi cảm thấy rất ít có khả năng này.”

Mông Nhân đập tay lên bàn: “Cậu tuyệt đối không nên tin chuyên gia chuyên vào gì hết, ngoại trừ việc họ không thể đưa ra lời giải thích nào! Tôi cho rằng, trước hết ta nên xem xét bắt đầu từ nhân vật đề nghị cậu đi xem triển lãm. Bởi vì, muốn làm giả cuốn sách này thì buộc phải tốn rất nhiều thời gian, sau đó mới có thể gợi ý cậu đi xem triển lãm, tiếp theo là... đánh tráo, thì quá đơn giản.”

Nghe Mông Nhân phân tích như thế, tôi thấy cũng có lý. Sự việc nên nghĩ theo hướng này, nếu không có kẻ sớm có ý đồ chiếm đoạt cuốn sách thì hầu như không có ai làm giả cuốn sách từ trước, và luôn mang theo người, khi gặp cơ hội nhìn thấy lão Phó cầm cuốn sách thật thì ra tay đánh tráo.

Ba chúng tôi bàn bạc rồi quyết định đến gặp thẳng chuyên gia khảo cổ là “người anh em” của lão Phó. Lão Phó nói người ấy tên là Vương Cường, hồi ở đại học thì học khóa trên lão Phó, anh ta học khoa Ngữ văn nhưng rất thích nghiên cứu lịch sử. Theo lão Phó, thì Vương Cường hồi đó tựa như một pho sử “sống” đối với anh. Về sau, một thầy giáo gợi ý Vương Cường nên chuyển sang học khoa Lịch sử nhưng không thể chuyển khoa, chuyện đó dường như biến thành một thứ tâm bệnh của Vương Cường, sau khi tốt nghiệp đại học, Vương Cường nhờ cậy người quen hỗ trợ, vào làm việc ở Sở văn hóa thành phố C, suất ngày vùi đầu vào kho sách và chuyên nghiên cứu về lịch sử cổ đại.

Lão Phó phôn cho Vương Cường trước, nói là gần đây đã làm phiền anh nhiều, muốn mời anh đi dùng cơm. Điện thoại xong, lão Phó nói với hai chúng tôi: “Không ổn rồi! Tôi nghe giọng hắn có vẻ căng thẳng, chắc chắn hắn có vấn đề! Nếu hắn chuồn mất thì sao? Chúng ta nên đến nhà hắn ngăn chặn trước, nếu không xong thì phải báo cảnh sát.”

Tôi và Mông Nhân tán thành, và bảo lão Phó cứ phóng xe đến đó trước, hai chúng tôi sẽ làm thủ tục xin nghỉ một buổi làm rồi chạy đến ngay.

Khi tôi và Mông Nhân đi đến nhà Vương Cường thì nhận ra nhà thằng cha ấy ở trong khu chung cư Dầu khí. Chúng tôi xuống xe tắc-xi rồi đi vào, nhưng lại bị phòng bảo vệ ngăn lại, phải gọi điện cho lão Phó. Lão Phó nói mình đang gõ cửa nhà Vương Cường, nghe bên trong nhà có tiếng động, đoán rằng “đối tượng” vẫn còn trong nhà, và bảo chúng tôi lập tức vào ngay, có thêm nhân lực, thì dù phải đánh nhau cũng không thể bị lép vế.

Tôi và Mông Nhân nói với bảo vệ rằng muốn vào nhà Vương Cường, nhưng bảo vệ vẫn không cho vào, nói rằng khu này không thể tùy tiện ra vào, ngay các nhân viên chở nước sạch đến, cũng phải làm Thẻ ra vào và xuất trình, thì chúng tôi cũng phải làm Thẻ ra vào thì mới được vào. Mông Nhân nghe xong rất điên tiết, tôi phải can ngăn, rồi nói ngọt với anh bảo vệ: “Khu nhà dầu khí của các anh, tức là chuyên bán xăng dầu chứ gì? Thực ra tôi và các anh là cùng một hệ thống, tôi cũng là dân xăng dầu, anh cho chúng tôi vào, được không?”

Anh ta lừ mắt: “Anh ở hệ thống nào?”

Tôi toe toét cười, nói: “Tôi ở Kim Long Ngư...”

Nhưng anh bảo vệ vẫn quyết không cho chúng tôi vào, bí quá, chúng tôi đành làm một tờ Thẻ ra vào tạm thời, mỗi người đặt 20 tệ, chúng tôi phải để lại cả chứng minh thư nữa. Anh ta nói khi ra, sẽ trả Thẻ và nhận lại tiền.

Sau khi lên gác, chúng tôi thấy nhà Vương Cường mở cửa, không thấy ai đứng ngoài, nên đoán rằng lão Phó đã vào nhà, nhưng bên trong im ắng không một âm thanh. Hai chúng tôi bước vào, thì thấy dưới sàn có một người đang nằm, nằm sấp; còn lão Phó thì đang đứng nghệt ra nhìn người ấy. Chúng tôi bước lại gần, thấy mồm người ấy sùi bọt trắng. Mông Nhân ngồi xuống đặt tay vào mũi người ấy, sắc mặt anh bỗng tái nhợt, rồi nói với tôi: “Người này hình như chết rồi!”. Tôi và Mông Nhân nhìn chằm chằm lão Phó, gọi mấy câu anh ta mới tỉnh ra, rồi nói rằng khi bước vào nhà thì đã nhìn thấy cảnh tượng này. Tôi hỏi ai mở cửa cho cậu? Thì lão Phó nói, lúc đó anh đang rất bực mình, bèn đạp cửa vào một cách dễ dàng, thì ra cửa không hề khóa; bước vào đã thấy Vương Cường nằm trên sàn, lão Phó cực kỳ ngạc nhiên.

Tôi chạy ra đóng cửa lại, sau đó hỏi Mông Nhân và lão Phó xem nên làm gì bây giờ, mạng người là rất hệ trọng. Lão Phó vừa định châm thuốc hút, thì Mông Nhân chạy đến giật lấy cái bật lửa. “Chúng ta chưa biết gã Vương Cường chết ra sao, có vẻ như gã bị ngộ độc, nhưng không rõ là bị giết hay tự sát. Nhà này đã để lại nhiều vết tích của cậu, sẽ rất bất lợi cho chúng ta.”

Lúc này tôi thấy mồm miệng khó chịu, chỉ muốn hút thuốc, bụng thì cồn cào rất khó tả. Nghĩ ngợi một lúc, tôi nói: “Phải báo cảnh sát! Dù sao chúng ta cũng không phải là hung thủ, nếu chúng ta bỏ đi thì vẫn sẽ bị cảnh sát truy tìm. Lúc đó dù nói gì thì cũng rất khó.”

Mông Nhâu gật đầu: “Đúng! Có khối người nhìn thấy chúng ta vào đây. Chúng ta phải báo cảnh sát.” Nói rồi, anh mở di động gọi cho cảnh sát. Tôi đờ đẫn ngồi không dám động đậy, sợ sẽ khiến cho hiện trường sai lệch. Lão Phó còn căng thẳng hơn tôi gấp bội, trán anh ta đầm đìa mồ hôi. Mông Nhân thì ngồi ở đi-văng nhìn chằm chằm vào xác Vương Cường, lát sau anh ngồi xuống cầm di động gẩy nhẹ vào bàn tay Vương Cường. Lão Phó gắt lên: “Lúc này mà cậu vẫn còn đùa được? Người chết, có gì hay ho mà đùa?”

Mông Nhân không ngoảnh đầu lại, nói: “Các cậu nhìn đi, có phải tay anh ta đang có thứ gì đó không?”

Chúng tôi nhìn về phía bàn tay Mông Nhân, đúng lúc này nghe thấy tiếng còi hú của xe cảnh sát. Đúng là cảnh sát đã đến. Mông Nhân kéo dài ống tay áo của mình trùm lên mấy ngón tay, sau đó tẽ ngón tay Vương Cường ra, cầm mẩu giấy trong bàn tay Vương Cường lên. Anh lại cảm thấy không ổn, bèn gấp mẩu giấy đó lại rồi nhét vào ví của mình. Tôi nhận ra, lúc Mông Nhân mở mẩu giấy đó ra thì sắc mặt anh tỏ ra rất kinh ngạc. Tôi chưa kịp hỏi anh thì đã nghe thấy tiếng gõ cửa. Cảnh sát đến. Tôi chạy ra mở cửa. Hai cảnh sát bước vào.

Họ hỏi: “Ai đã báo cảnh sát?”

Mông Nhân đứng lên: “Tôi!”

Ngay lập tức họ lập tức nhìn thấy một người nằm trên sàn, họ bèn gọi to vào máy bộ đàm...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 4-3: Hai người khác


Khoảng 3 giờ sáng, ba chúng tôi mới ra khỏi Sở công an. Nếu không gọi điện cho Trần Trọng thì có lẽ chúng tôi chưa thể nhanh chóng được ra về như vậy. Trần Trọng cùng ba chúng tôi vào một quán nhỏ đối diện với Sở công an. Câu đầu tiên anh nói là: “Tôi cảm thấy các cậu chẳng khác gì trong truyện khoa học viễn tưởng! Lần trước gặp một quái nhân, còn lần này thì gặp một xác chết!”

Mông Nhân kể lại toàn bộ sự việc trước sau cho Trần Trọng nghe. Trần Trọng gật đầu nói: “Vừa nãy tôi đã nghe cảnh sát nói, họ sơ bộ nhận định rằng Vương Cường tử vong do ngộ độc; nhưng là chất độc gì thì hơi phức tạp, chất độc bao gồm nhiều thành phần, phải ngày mai thì mới có kết quả xét nghiệm. Mấy hôm tới đây, các cậu đừng đi đâu xa, có thể cảnh sát sẽ gọi bất cứ lúc nào...” Trần Trọng ngừng lại một lát, rồi hỏi nhỏ: “Chuyện về cuốn sách mà các cậu nói lúc nãy... có thật thế không?”

Tôi đáp: “Kìa, anh Trọng! Sự việc đã đến nước này, đã có người chết, lẽ nào chúng tôi lại nói dối anh? Đây đâu phải là chuyện đùa?”

Lúc ngồi trong Sở công an, lão Phó đã kể lại câu chuyện về cuốn sách, nhưng về những điều đã tra được là gì hoặc lịch sử của cuốn sách, đều không nói; chỉ nói rằng đó là cuốn sách cổ do các cụ truyền lại, nhờ Vương Cường giám định giúp, nhưng phát hiện thấy cuốn sách đã bị đánh tráo, cả ba anh em bèn đến gặp Vương Cường để hỏi xem sao, khi đến nơi thì thấy anh ta đã chết trong nhà.

Khỏi phải bàn, lão Phó đương nhiên là nghi phạm hàng đầu. Thử nghĩ mà xem: có một cuốn sách trị giá bạc triệu nhưng bị người ta đánh tráo thì tức điên lên và rất có thể làm đủ thứ chuyện. Nhưng thời gian tử vong của Vương Cường cách xa thời gian lão Phó vào khu chung cư đó; trong phòng khách của Vương Cường chỉ tìm thấy dấu vân tay của lão Phó trên ghế đi-văng, các nơi khác không hề có; ngoài ra, cảnh sát cũng loại trừ khả năng lão Phó hành hung Vương Cường.

Sau khi chúng tôi bàn với Trần Trọng về chuyện Vương Cường, Trần Trọng nói anh phải về nhà đi ngủ, nếu không sáng mai đi làm sẽ biến thành con gà rù thì gay, nói rồi anh ra về. Tôi và Mông Nhân lại kéo lão Phó ra một góc quán ngồi xuống, sau đó Mông Nhân mở ví lấy ra mẩu giấy mà anh lấy từ tay Vương Cường, đặt lên bàn nhưng chưa mở ra vội, Mông Nhân hỏi: “Có biết đây là cái gì không?”

Tôi và lão Phó lắc đầu. Lão Phó sốt ruột thò tay ra cầm lên mở ra xem, mặt anh ta bỗng biến sắc, sau đó anh đưa cho tôi xem. Trên giấy chỉ viết tên 4 vị thuốc bắc, viết bằng chữ phồn thể[1] nhưng vẫn đọc được một cách dễ dàng. Phía dưới còn vẽ một cái bùa, giống hệt cái bùa mà khi trước chúng tôi đã nhìn thấy trong vụ việc Dương Sạn. Lão Phó nói: “Vụ việc này giờ đây đã thành to chuyện, và có cả người chết nữa.”

[1] Chữ Hán viết đủ số nét như truyền thống, chưa lược bớt số nét. Một số chữ Hán đã quy định lược bớt số nét, gọi là chữ giản thể.

Mông Nhân đưa tay sờ cằm, nói: “Tôi đoán rằng Vương Cường đã ăn mấy thứ đó rồi lăn ra chết. Thử nghĩ mà xem hỗn hợp cả bốn vị thuốc đó, ăn không chết mà được à?”

Tôi gật đầu tán thành, nhưng tại sao Vương Cường lại biết về bốn vị thuốc và lá bùa ấy? Lão Phó thì bảo mình chưa từng nhắc đến những thứ ấy với Vương Cường. Lúc này tôi cảm thấy may mắn vì lúc ở hiện trường Mông Nhân đã lấy mẩu giấy đó từ tay Vương Cường. Nếu không, cảnh sát sẽ tìm thấy, tuy chúng tôi sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi diện tình nghi nhưng nếu gặp tay cảnh sát có đầu óc, thì họ sẽ lật lại vụ án Dương Sạn để đối chiếu, nhận thấy cũng có bốn vị thuốc và lá bùa; cả hai vụ án đều dính dáng đến tôi, Mông Nhân và lão Phó, thì chắc chắn ba chúng tôi dù thanh minh kiểu gì cũng không ai tin. Cảnh sát sẽ không cho rằng tất cả chỉ là ngẫu nhiên, nếu họ đi sâu vào chuyện cuốn sách thì chúng tôi sẽ bị rắc rối to...

Cả ba chúng tôi ngồi nghệt ra đến hơn nửa giờ, người nọ nhìn người kia, rồi thở dài lắc đầu. Mông Nhân bỗng hỏi lão Phó: “Lão Phó à, cậu nhớ lại xem, lúc cầm sách đến triển lãm đã xảy ra những chuyện gì?”

Lão Phó: “Ý cậu là sao?”

Mông Nhân nói lão Phó nên nhớ lại mình đã đi như thế nào, lúc đó Vương Cường ở đâu, sau đó xảy ra những chuyện gì. Lão Phó nghĩ ngợi rồi nói: lúc 8 giờ sáng, Vương Cường gọi điện đến hẹn anh 8 giờ 30 có mặt ở quán trà vỉa hè bên cạnh cổng triển lãm để gặp nhau, anh đã đến đúng giờ, và thấy Vương Cường và hai người nữa đã ngồi trong quán trà chờ anh. Một người già, mặc áo Tôn Trung Sơn, không hay cười, thấy lão Phó bước đến, ông ta cũng chỉ khẽ gật đầu; một người trung niên mặc quần áo bộ đội cũ, ông ta cùng Vương Cường đứng lên, chủ động chìa tay ra bắt tay lão Phó. Sau khi Vương Cường giới thiệu, lão Phó biết ông già tên là Chung Sênh, hội trưởng Hội những người yêu thích cổ vật dân gian; còn vị trung niên kia là Chu Văn Thắng, trưởng ban tổ chức hoạt động lần này ở bảo tàng. Cả hai đều thích nghiên cứu các văn bản cổ đại. Chung Sênh tuy ít nói nhưng mỗi câu ông nói ra đều rất rõ ràng súc tích, lúc đó lão Phó có cảm giác Chung Sênh là một nhân vật rất có uy tín.

Thoạt đầu, Chu Văn Thắng mở xem cuốn sách của lão Phó, vừa xem vừa trầm trồ kinh ngạc nhưng ông ta nói rất khẽ, lão Phó không nghe thấy gì; và cũng vì anh đang tập trung kể cho Chung Sênh nghe về lai lịch của cuốn sách.

Mông Nhân ngắt lời lão Phó: “Cậu kể tất cả lai lịch cuốn sách cho ông ta nghe à?”

Lão Phó lắc đầu: “Tôi có chế biến lại, tôi nói cụ nội tôi là nhà buôn, trong khi đi buôn đã cứu một người, người ấy lúc sắp lìa đời đã để lại cho cụ nội tôi cuốn sách. Các chi tiết khác tôi cũng lựa theo đó mà nói chệch đi. Tôi không kể về chuyện cụ nội, ông nội và cha tôi bỏ nhà ra đi. Tôi vẫn nhớ mục đích của mình là tìm họ để nghiên cứu cuốn sách, các tình tiết khác là chuyện riêng của gia đình tôi, không cần phải nói ra.”

Khi mở xem cuốn sách, sắc mặt của ông già tên là Chung Sênh hơi tái nhợt. Đây là nguyên văn câu nói của lão Phó. Lúc đó anh nghĩ bụng, có lẽ Chung Sênh phát hiện ra điều gì đó trong sách? Cuối cùng, sách trở lại tay Vương Cường, lát sau Chung Sênh lại nói muốn xem lại cuốn sách, Vương Cường đưa cho ông ta. Cuối cùng Chung Sênh đưa ra kết luận: đây là cuốn sách làm giả. Một lúc sau có vài nhà nghiên cứu khác đến, họ cũng mở xem và nói là sách giả, tuy trông rất giống sách cổ nhưng vẫn là đồ giả. Sau đó lão Phó cầm cuốn sách gọi điện cho chúng tôi, tiếp đó là các sự việc chúng tôi đều đã biết rồi.

“Trong khoảng thời gian ấy cậu có nhìn thấy họ cầm sách đem đi đâu không?” Mông Nhân hỏi lão Phó. Lão Phó nghĩ ngợi rồi khẳng định: "Tuyệt đối không! Không có ai rời quán trà cả. Tôi luôn luôn không rời mắt khỏi cuốn sách của mình, nó là báu vật của tôi thì tôi phải theo dõi chặt. Cho nên, rất kỳ lạ, tại sao nó bị người ta đánh tráo được? Tôi rất băn khoăn, vì hoàn toàn không có cơ hội để có thể đánh tráo."

Mông Nhân nằm kềnh ra đi-văng ở phía sau, dụi mắt, rồi anh ta bỗng nhổm dậy hỏi lão Phó: “Cái bàn ở quán trà, trông như thế nào?” Lão Phó giơ tay diễn tả. “Cao hơn bàn này của chúng ta một chút, ghế mây thì thấp hơn ghế chúng ta đang ngồi. Là thứ bàn ghế mà các cậu vẫn hay nhìn thấy ở các quán trà.”

Mông Nhân lại hỏi: “Còn họ, họ xem sách như thế nào?”

Lão Phó hỏi lại: “Xem như thế nào, là sao?”

Mông Nhân làm các tư thế. "Tức là cách họ cầm cuốn sách, như thế nào?”

Lão Phó vội thể hiện một tư thế ngồi, và cầm tờ quảng cáo của quán trà lên nhìn. Mông Nhân ngắm nghía rồi nói: "Tôi hiểu ra rồi, tại chúng ta đã nghĩ phức tạp về một sự việc đơn giản.”

Tôi và lão Phó đồng thanh: “Gì cơ?”

Mông Nhân mỉm cười: “Các cậu có còn nhớ hồi đi học, lúc lên lớp chúng ta thường lén đọc truyện tranh hoặc đọc các thứ khác không? Hoặc là, khi làm bài thi chúng ta đã gian lận kiểu gì không?”

Tôi thử làm động tác rồi hiểu ra ngay: quá đơn giản, ba người ấy, ngoại trừ Chu Văn Thắng, thì Chung Sênh và Vương Cường đều cầm sách thấp hơn mặt bàn để đọc, tuy lão Phó vẫn nhìn chằm chằm nhưng chỉ có thể nhìn thấy bàn tay họ; và, hoặc Chung Sênh hoặc Vương Cường đã đánh tráo cuốn sách giả mà họ đã chuẩn bị từ trước giấu sẵn dưới gầm bàn. Hoặc nói cách khác là, cả ba đã hợp tác để đánh tráo cuốn sách. Trước hết, tư thế xem sách của họ là như nhau, có thể là Chu Văn Thắng xem xong thì đưa cho Chung Sênh, Chung Sênh xem xong khẳng định đúng là cuốn sách quý bèn ra ám hiệu với Vương Cường; cuốn sách giả đã giấu sẵn trong người Chung Sênh, cho nên ông ta đưa cuốn sách thật cho Vương Cường, Vương Cường cầm sách thấp hơn mặt bàn để xem, trong lúc đang xem thì cùng Chung Sênh bí mật làm động tác đánh tráo luôn. Sau đó Vương Cường lại đưa sách (giả) cho Chung Sênh, Chung Sênh cầm cuốn sách (giả) rồi bắt đầu phán xét kết luận...

Mông Nhân gật đầu, nói: “Cậu phân tích cũng na ná tôi, tôi chợt nhớ đến câu nói của một nhà văn nước ngoài danh tiếng: một chuyên gia uy tín nào đó nói về một thứ là chính xác thì có thể ông ta đã đúng, nhưng nếu ông ta bảo thứ đó là tuyệt đối sai thì chắc chắn ông ta đã nhầm... Không có thứ gì trên đời là tuyệt đối cả, vì chúng ta đã nghĩ về sự việc một cách quá phức tạp, nên bây giờ chúng ta không thể đi chệch hướng đó. Lúc nãy khi tôi nghĩ Chung Sênh là kẻ đáng ngờ, thậm chí tôi còn nghĩ Chung Sênh đã giở thủ đoạn để trừ khử Vương Cường nhằm độc chiếm cuốn sách, nhưng tôi nghĩ lại thấy rằng ông ta không cần thiết phải làm như vậy. Chúng ta cần tìm người điều tra kỹ về con người Chung Sênh.”

Mông Nhân nói xong, cả ba chúng tôi cùng nghĩ đến Trần Trọng. Anh ta là cảnh sát, điều tra tư liệu về một con người thì dễ dàng hơn hẳn chúng tôi.

Gọi điện cho Trần Trọng, thấy ở đầu dây bên kia anh ta càu nhàn rằng vừa nằm ngủ một lát thì bị đánh thức, có phải chúng tôi hóa rồ rồi không, anh ta rất xúi quẩy vì đã gặp chúng tôi v.v... Mông Nhân vội vỗ về Trần Trọng mấy câu, rồi nói trăm sự nhờ anh điều tra về con người Chung Sênh. Trần Trọng đã hết bực mình, và lập tức nhận lời, ngày mai sẽ thông báo cho chúng tôi biết. Nhưng anh cũng cảnh báo rằng, điều tra về nhân thân một ai đó là vi phạm pháp luật, nhất là sử dụng tư liệu đó để làm việc gì đó thì là mắc tội to. Mông Nhân vội nói không có ý đó, chúng tôi là những công dân nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp, khi rỗi rãi chúng tôi thường ngồi đầu phố đến khuya, nếu thấy kẻ cướp giật hoạt động, chúng tôi sẽ xông ra tấn công, chúng tôi không bao giờ làm chuyện tệ hại cả...

Rời quán, tôi và Mông Nhân trở về nhà đi ngủ; cũng rủ luôn lão Phó về, để ngày mai cùng chờ tin tức, khỏi cần gọi điện cho thêm phiền hà. Lão Phó nhìn đồng hồ, nói rằng đã 5 giờ rưỡi sáng, lát nữa Mễ Đâu ngủ dậy, anh sẽ mua đồ ăn sáng đem đến cho cô ấy. Tôi và Mông Nhân định nói kháy lão Phó mấy câu thì anh ta lại bảo, giờ đây, sách đã mất, có tìm lại được không là một chuyện, nhưng nếu lại mất nốt vợ thì đời anh ta coi như con số không.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 4-4: Giáo sư Chung Sênh


Tôi và Mông Nhân ngủ chưa được ba tiếng đồng hồ thì phải dậy, rồi lần lượt tắm gội, còn ngái ngủ nhưng vẫn phải đến công ty, Mông Nhân còn kịp tập thể dục độ mươi phút, nói là vận động một lúc sẽ có lợi cho trí não. Tôi phải công nhận rằng Mông Nhân sống nền nếp hơn tôi rất nhiều. Chưa đầy một giờ sau khi đến công ty, thì Trần Trọng gọi điện đến, nói rằng đã có thông tin. Tôi hỏi, là những tin gì?

Ở đầu dây bên kia, Trần Trọng nói: “Đã điều tra ra nguyên nhân tử vong của Vương Cường, là ngộ độc. Cảnh sát tìm thấy ở căn hộ của Vương Cường một số vị thuốc đông y, là những thứ không được phép tùy tiện sử dụng. Có thể suy luận ra rằng anh ta đã hỗn hợp chúng lại rồi nuốt, tức là một vụ tự sát điển hình. Ở hiện trường cũng không có dấu vết vật lộn, ngoại trừ dấu vân tay và dấu giày của ba cậu chứ không có dấu hiệu của ai khác. Các dấu vết nói trên của ba cậu cũng chỉ xuất hiện ở phòng khách. Tôi không thể có tác động gì với bên cảnh sát hình sự, nhưng hiện giờ cả ba cậu chưa hẳn là đã được loại ra khỏi diện tình nghi. Cảnh sát vẫn đang truy tìm nguồn gốc các thứ đông dược ấy và nguyên nhân tự sát. Ba cậu không được đi lại lung tung, hễ cảnh sát triệu tập thì phải đến ngay. Và, cấm ba cậu không được nói ra rằng tôi đã thông tin cho biết. Tôi tin ở ba tên khốn các cậu, hiểu chưa?”

Tôi vội hứa rằng sẽ nghe lời anh ta. Và hỏi về Chung Sênh là con người như thế nào.

Trần Trọng tiếp tục nói: “Tôi đang định nói đây mà. Tôi đã nhờ người xem xét, trong kho hồ sơ không có tư liệu về Chung Sênh, nhưng có thể lên mạng tra thấy ngay...” Nghe Trần Trọng nói đến dây, tôi thấy mình thật ngớ ngẩn: nếu Chung Sênh là nhân vật có uy tín hàng đầu về lĩnh vực kia thì chắc chắn trên mạng phải có tên ông ta mới đúng! Tôi vội mở mạng ra tra cứu hai chữ “Chung Sênh”. Trần Trọng vẫn đang tiếp tục nói gì đó, tôi bỗng nhớ đến vấn đề “thuốc”, bèn hỏi Trần Trọng: “Kết quả khám nghiệm tử thi Vương Cường, có thấy vị thuốc nào tên là Khổ đậu thảo không?” Ở đầu dây bên kia, Trần Trọng bỗng ngập ngừng, rồi lớn tiếng nói: “Đúng! Có vị thuốc đó! Tôi nhớ ra rồi. Nhưng tại sao cậu lại biết? Thế mà còn nói là không liên quan gì ư? Chắc chắn các cậu vẫn đang giấu tôi chuyện gì đó!”

Tôi vội nói ngay: “Không! Anh Trọng ạ, tôi xin thề, cái chết của gã Vương Cường không liên quan gì đến ba chúng tôi cả, mà chỉ liên quan gián tiếp. Tôi xin cam đoan với anh, chúng tôi chẳng làm điều gì phạm pháp. Được chưa? Nếu chúng tôi có làm càn, thì hễ ra đường chúng tôi sẽ bị ô tô đâm chết!” Thấy tôi phát biểu hăng hái như vậy, Trần Trọng cũng nói nhẹ nhõm hơn nhưng anh vẫn truy hỏi sự thực là thế nào? Tôi chỉ đáp khi nào có kết quả thì sẽ nói hết với anh thật rõ ràng, rồi nói “tạm biệt anh nhé!”

Tôi tìm thấy “Chung Sênh” trên mạng. Ngày trước ông từng là một nguyên lão của Hội nhà văn của tỉnh, đã nhiều năm nghiên cứu các tác phẩm cổ đại, người trong nghề đều gọi ông là chuyên gia có uy tín, các tài liệu đến tay ông, ông dễ dàng kết luận đó là đồ thật hay giả. Ông không có sở thích sưu tầm, những cổ vật được người khác biếu, ông toàn tặng lại cho Viện bảo tàng. Chung Sênh còn có một trang web của riêng mình, nói mình không ham tiền tài vật chất, mình có lương hưu, có thu nhập do tham gia thỉnh giảng hoặc làm cố vấn cho các đơn vị. Ông còn nói nhiều điều khác chẳng mấy thiết thực đối với chúng tôi. Tôi giở tiếp các nội dung phía sau, tìm thấy địa chỉ “Chung Sênh hiện đang cư trú ở khu biệt thự X thành phố C” nhưng không tra thấy địa chỉ cụ thể.

Mông Nhân ngồi bên đang mải uống cà phê, tôi vội nói ngay tin này cho anh biết. Mông Nhân bèn xán lại đọc, rồi bảo tôi gọi điện cho lão Phó. Và nói, nếu hết cách rồi thì chúng ta sẽ sang đó, lão Phó vẫn quen mấy vị nhà nghề kia, chúng tôi sẽ dò la nghe ngóng để tìm ra địa chỉ cụ thể của Chung Sênh. Lão Phó nghe điện xong, thì nhất trí ngay, nhưng lại do dự, vì lần trước chúng tôi đi tìm Vương Cường thì hắn đã chết đứ đừ, lần này đi, liệu có xảy ra tình huống tương tự không? Nếu thế thì ba chúng tôi sẽ chết luôn: cảnh sát sẽ không nói nhiều, rút súng ra tuyên bố “thay mặt nhân dân và chính phủ” bóp cò xử lý chúng tôi luôn...

Tôi nói: “Đâu có thể có chuyện trùng hợp lạ đời như thế? Theo tôi, Vương Cường là gã dở hơi điển hình, chưa làm rõ vấn đề là gì thì đã tự đẩy mình đến chỗ chết. Chung Sênh là nhân vật lão thành kỳ cựu về nghiên cứu văn bản cổ đại, ông ta không thể ngớ ngẩn kiểu đó. Đừng chần chừ nữa, nếu muốn biết sự thật là gì thì ta cứ phải đi nghe ngóng xem sao. Sau đây sẽ xuất phát, cậu đánh xe lại đây đón chúng tôi đi!”

Tôi dập máy. Chưa đến mười phút sau, lão Phó phôn cho chúng tôi nói rằng anh đang đứng dưới sân công ty, và bảo chúng tôi xuống ngay. Tôi và Mông Nhân chưa xin phép sếp, thôi đành, chúng tôi cầm cái đĩa D9 “Đạo hỏa tuyến” hiện đang cực hiếm sang “hối lộ” sếp vậy! Cái đĩa này, tôi và Mông Nhân đã lùng sục khắp nơi, cuối cùng mua lại được từ một gã khốn kiếp chuyên sưu tầm đĩa, và phải chi ra một khoản tiền kha khá.

Lúc đi xuống cầu thang, tôi và Mông Nhân lầu bầu nguyền rủa lão Phó, và thề rằng, xong việc rồi sẽ bắt hắn phải chiêu đãi một chầu thật hoành tráng tốn kém mới bõ!

Xuống sân rồi, chúng tôi nhìn thấy lão Phó ngồi bên phải vô-lăng, người lái xe là Mễ Đâu. Mễ Đâu cười nói với chúng tôi: “Mau lên xe đi! Hôm nay em làm tài xế cho các anh.” Tôi nghĩ bụng, có vẻ như lão Phó đã coi Mễ Đâu là vợ mình rồi, đi đâu hắn cũng “ẵm” theo! Lên xe rồi, lão Phó mới nói Mễ Đâu cũng biết ông Chung Sênh và vẫn có giao lưu; hồi Mễ Đâu học đại học cũng từng nghe ông ta giảng bài, rồi dần trở nên thân quen, trong thâm tâm vẫn nghĩ Chung Sênh như ông nội của cô. Tôi thấy vui vui, nghĩ rằng sự việc trùng hợp thật là khéo.

Lúc đi vào khu biệt thự, anh bảo vệ nhìn thấy xe hơi Nissan Bluebird của lão Phó liền mở cổng ngay và chào hỏi tử tế, nhìn thấy Mễ Đâu thì anh ta rất khách khí. Mễ Đâu dừng xe lại giao lưu với anh bảo vệ mấy câu, rồi tiếp tục lái đi. Cô nói với chúng tôi: “Nghe nói trước đây họ cho anh ta nghỉ không làm nữa, nhưng ông Chung Sênh đã cố giữ lại, vì thế rất thân thiết với ông Chung Sênh.”

Đến sân dưới nhà Chung Sênh, chúng tôi xuống xe và nhìn thấy ông ta đang ngồi ở vườn hoa, tay cầm cuốn sách, trên bàn là bộ đồ trà. Chắc phải là trà ngon, vì chúng tôi đứng từ xa đã ngửi thấy hương thơm ngát rất hấp dẫn. Thấy chúng tôi đến, Chung Sênh chào Mễ Đâu, rồi bảo chúng tôi vào với ông, ông còn nói với lão Phó: “Tôi biết là anh sẽ đến, không ngờ anh lại đến sớm thế này. Tôi đang định đi tìm anh.”

Nghe thấy thế, tôi hiểu rằng ông già này rất tinh tường, nếu không ông sẽ không nói như vậy. Rất có thể hôm nay sẽ có những tình tiết gì đó bắt đầu sáng tỏ. Cả bốn chúng tôi đi theo ông Chung Sênh vào phòng khách. Ông bảo người giúp việc pha trà, sau đó ông mở két sắt lấy ra một cuốn sách đặt trước mặt lão Phó: “Tôi trả lại anh cái này.” Lão Phó cầm cuốn sách lên mở ra xem hồi lâu, rồi đưa cho Mông Nhân, Mông Nhân mở luôn trang cuối cùng, nhận ra vết ố cà phê vẫn còn ở đó, nhưng hình như anh vẫn chưa thể khẳng định đây chính là cuốn sách nguyên bản. Ông Chung Sênh ngồi bên bàn, mời chúng tôi hút thuốc lá, ông tự châm cho mình một điếu, rồi nói: “Cứ yên tâm, đây là bản gốc, thứ thiệt. Nhưng tôi phải thanh minh trước: không phải tôi, mà là Vương Cường đã lấy nó.”

Chúng tôi nhìn nhau, im lặng. Lão Phó hỏi: “Thế thì... tại sao nó lại đến tay bác?”

Chung Sênh lim dim mắt, thở dài. “Vương Cường là học trò cũ của tôi, là người có năng khiếu hơn cả trong mọi sinh viên tôi đã từng dạy, nhưng cũng là anh chàng ích kỷ nhất trong đó. Người ta vẫn có câu ‘cái lợi làm mờ mắt’ là thế. Sống trên đời đừng nên biến mình thành một kẻ chết rồi, vì hám một thứ lợi lộc mà biến mình thành hạng giá áo túi cơm chẳng khác gì cái xác biết đi, cuối cùng tự mình lại hại mình.”

Chúng tôi chưa thật hiểu rõ, chỉ biết Vương Cường vốn là học trò của Chung Sênh.

Chung Sênh nói tiếp: “Ngay lần đầu Vương Cường cầm cuốn sách này, anh ta đã biết ngay nó là thứ gì, và nảy lòng tham chiếm đoạt. Anh ta bèn đến hỏi tôi về chuyện cuốn sách, tôi liền nói với anh ta những nhận xét của tôi về nó. Và hỏi, có phải anh đã nhìn thấy nguyên bản cuốn sách ấy không. Vương Cường đáp rằng mình chỉ biết một số tư liệu, thấy rất có hứng thú, cho nên tôi cũng không hỏi kỹ anh ta nữa. Về sau, Vương Cường cầm một cuốn sách đến chỗ tôi, đó là sách giả, hỏi tôi có thể xác định được không. Tôi đã mở nó ra xem, thấy nội dung căn bản giống hệt bản gốc, bèn hỏi sách này ở đâu ra, nhưng Vương Cường không nói. Sau đó ít hôm, anh cầm cuốn sách đến đưa tôi xem, Vương Cường nhân lúc đó đã đánh tráo; khi tôi cầm cuốn sách từ tay Vương Cường đưa cho, tôi đã biết ngay là sách giả nhưng tôi không nói gì. Tôi biết các anh sẽ hỏi tôi ‘tại sao lại thế’... Vì, Vương Cường là học trò tôi, còn tôi, tôi cũng muốn biết nội dung mà bản chính ghi chép là gì, tôi muốn nghiên cứu nó, sau đó sẽ trả sách lại cho các anh.”

Mông Nhân hỏi: “Thưa thầy Chung Sênh, sao thầy biết cuốn sách kia là đồ giả? Trước đó thầy đã nhìn thấy cuốn sách thật hay sao?”

Chung Sênh ngẫm nghĩ rồi gật đầu: “Đã từng nhìn thấy. Nhưng không phải cuốn sách này... lát nữa tôi sẽ nói cho các anh biết. Vương Cường, sau khi lấy được cuốn sách thì đến tìm tôi vào buổi tối, anh ta tỏ ra rất phấn chấn, và nói rằng muốn cùng tôi nghiên cứu nó, chắc lần này sẽ thành công. Lúc đó tôi không rõ ‘thành công cái gì’, nhưng cũng thấy vui vui vì lại một lần nữa nhìn thấy bản gốc cuốn sách. Vương Cường cùng tôi nghiên cứu hồi lâu, rồi anh ta bỗng đứng dậy ra về, tôi không rõ tại sao. Sau đó mới biết tin về cái chết của Vương Cường. Cảnh sát đến tìm tôi, tôi kể lại với họ tất cả mọi chuyện mà mình biết, chỉ giữ kín độc một chi tiết không nói ra, vì tôi lo cảnh sát sẽ cho rằng ông già này đã giở chứng hóa điên.”

Chung Sênh nói thế khiến tôi bỗng cảm thấy hết sức hứng thú, tôi kéo ghế xích lại gần ông, hỏi: “Thưa thầy, thực ra cuốn sách này viết về gì?”

Chung Sênh vẫy tay bảo lão Phó đưa cho cuốn sách, lão Phó vâng lời ngay. Chung Sênh mở sách ra, lật vài trang, sau đó gấp đôi trang giấy lại, rồi bảo chúng tôi nhìn xem. Chúng tôi xúm lại nhìn, trang đầu, sau khi gấp lại thì hiện ra ba chữ “khổ đậu thảo”. Tôi lập tức hiểu ra vấn đề là gì. Tiếp tục xem các trang gấp sau đó, thì thấy tên ba vị thuốc bắc nữa. Tôi ngẩng đầu định hỏi, thì ông Chung Sênh đã nói luôn: “Tôi biết anh định hỏi rằng “lá bùa” ở đâu chứ gì? Các anh nhìn đây...”

Ông Chung Sênh đứng dậy khép cửa sổ lại, rồi bật ngọn đèn trên bàn, gí bìa sách sát bóng đèn. Lát sau, tôi nhìn thấy trên mặt bìa sách hiện lên hoa văn của một lá bùa nhưng chỉ có một nửa; ông Chung Sênh lại gí bìa cuối cuốn sách sát ngọn đèn, ở đây hiện ra hoa văn của nửa sau lá bùa. Tôi bèn nói ngay: “Thật là thần kỳ! Thì ra nó được ẩn giấu ở đây. Nhưng tại sao thầy lại phát hiện ra được?”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom