Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
624,502
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Kẻ Nhắc Tuồng

Kẻ Nhắc Tuồng
Tác giả: Donato Carrisi
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Năm bé gái lần lượt bị mất tích.

Năm cánh tay trái được tìm thấy trong khu rừng vắng.

Khi phát hiện ra cánh tay thứ sáu, nhóm điều tra phải nhờ đến sự giúp đỡ của Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích.

Số phận của bé gái thứ sáu sẽ ra sao khi hung thủ tỏ ra rất khôn ngoan và luôn đi trước nhóm điều tra một bước?
 
Chương 1


Nhà tù tối mật, quận xxxx

Trại giam số 45

Báo cáo của giám đốc, Alphonse Bérenger

Ngày 23 tháng 11

Kính gửi: Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin

Chủ đề: MẬT

Thưa ông Marin,

Tôi mạn phép viết thư này để lưu ý ông về trường hợp kỳ lạ của một phạm nhân.

Đối tượng được đề cập mang số tù RK-357/9. Sau đây chúng tôi xin gọi hắn bằng số hiệu này, do lẽ hắn ta chưa bao giờ chịu tiết lộ danh tính.

Cảnh sát bắt đối tượng vào đêm 22 tháng 10. Hắn đi lang thang trong đêm một mình và không mặc quần áo, trên một con lộ gần quận xxxx.

Đối chiếu dấu vân tay với hồ sơ lưu trữ cho phép loại trừ sự liên đới của hắn ta với các vi phạm trước đây cũng như với các tội ác chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, việc một mực từ chối cung cấp danh tính, ngay cả lúc ở trước tòa, đã khiến đối tượng bị kết án bốn tháng mười tám ngày tù giam.

Kể từ khi vào tù, phạm nhân RK-357/9 chưa bao giờ tỏ ra vô kỷ luật và luôn tuân thủ các quy định của nhà tù. Thêm vào đó, hắn ta có bản tính cô độc và ít hòa đồng.

Có lẽ cũng vì lý do này mà không ai để ý đến hành vi lạ lùng của hắn, cho đến gần đây, khi hắn bị một trong các quản giáo của chúng tôi nhận ra.

Phạm nhân RK-357/9 lau chùi mọi đồ vật mà hắn tiếp xúc bằng một miếng dạ, nhặt tất cả lông và tóc rụng hàng ngày của mình, rửa kỹ lưỡng các đồ dùng ăn uống và vệ sinh sau mỗi lần sử dụng.

Như vậy chúng ta đang gặp phải hoặc là một tay cuồng sạch sẽ, hoặc rất có thể là một kẻ muốn tránh bằng mọi giá việc để lại các “dấu vết sinh học”.

Do đó, chúng tôi rất nghi ngờ rằng phạm nhân số hiệu RK-357/9 đã gây ra một tội ác cực kỳ nghiêm trọng, và muốn ngăn cản chúng ta lấy mẫu ADN của hắn để đem đi xác định danh tính.

Cho đến hôm nay, đối tượng được giam cùng phòng với một phạm nhân khác, kẻ chắc chắn đã giúp hắn tiêu hủy các dấu vết sinh học. Tuy nhiên, xin thông báo để ông được biết, biện pháp xử lý đầu tiên của chúng tôi là đưa đối tượng ra khỏi buồng giam chung và biệt giam hắn.

Tôi lưu ý trường hợp này với văn phòng của ông để các ông mở một cuộc điều tra, và nếu cần, xin các ông cho một trát khẩn cấp của tòa án bắt buộc phạm nhân RK-357/9 phải cung cấp mẫu ADN.

Vấn đề này rất khẩn cấp vì sau khoảng một trăm lẻ chín ngày (tức ngày 12 tháng 3), đối tượng sẽ mãn hạn tù.

Trân trọng kính chào,

Giám đốc

Alphonse Bérenger

Một địa điểm trong vùng phụ cận W., ngày 5 tháng 2.

Tưởng như ông được một con bướm khổng lồ đưa đi trong đêm tối. Bay dựa theo trí nhớ, nó đập đôi cánh bụi bặm, khéo léo tránh những ngọn núi im lìm như những gã khổng lồ nằm cạnh nhau.

Trên đầu họ, bầu trời mượt như nhung. Còn phía bên dưới là tán rừng rậm rạp.

Viên phi công quay sang ông và giơ tay chỉ một khoảng trống rộng hoác trên mặt đất nom như một miệng núi lửa.

Chiếc trực thăng rẽ sang hướng ấy.

Bảy phút sau, họ hạ cánh xuống bên cạnh quốc lộ. Con đường đã bị phong tỏa, cảnh sát đang giám sát khu vực. Một người đàn ông mặc comlê xanh khom người đi dưới cánh quạt trực thăng còn đang quay tít đến đón vị khách vừa đến, nhọc nhằn giữ lấy chiếc càvạt đang bay phần phật.

- Giáo sư Gavila, chúng tôi đang đợi ông. - Anh ta hét toáng lên để át tiếng động cơ.

Goran Gavila không đáp.

Đặc vụ Stern nói tiếp:

- Mời ông theo lối này. Trên đường đi tôi sẽ giải thích.

Hai người men theo một lối đi mấp mô, bỏ lại tiếng gầm rú của chiếc trực thăng đang cất cánh rồi mất hút trong màn đêm đen như mực.

Màn sương mù như một tấm vải liệm phủ lên các quả đồi, những mùi hương hỗn độn của khu rừng chung quanh họ được làm dịu bớt đi bởi làn hơi ẩm ban đêm lạnh lẽo lướt qua da thịt.

- Bảo đảm với ông vụ này không hề đơn giản. Ông cứ nhìn tận mắt rồi sẽ thấy.

Đặc vụ Stern đi trước giáo sư Goran vài bước để mở đường xuyên qua các lùm cây, miệng vẫn tiếp tục nói trong khi mắt không nhìn xung quanh.

- Mọi chuyện bắt đầu từ sáng nay, tầm mười một giờ. Hai cậu bé dắt chó đi dạo theo con đường mòn vào rừng. Chúng trèo lên đồi rồi tới một trảng đất trống. Con chó giống Labrador, ông biết đấy, giống ấy ưa đào bới... Tự nhiên nó phát cuồng lên vì đánh hơi được một thứ gì đó. Nó đã đào một cái hố, và thế là cái đầu tiên xuất hiện.

Ông Goran tập trung bám theo Stern trong khi hai người đi sâu vào đám cây cối càng lúc càng rậm rạp trên một sườn đồi cao dần. Ông để ý thấy ống quần của Stern hơi bị xước ở chỗ đầu gối, chứng tỏ hôm nay anh ta đã đi qua đi lại theo lối này nhiều lần.

- Dĩ nhiên là bọn trẻ bỏ chạy ngay lập tức và báo cho cảnh sát địa phương. - Stern tiếp lời. - Họ liền đến đây khảo sát vị trí và các ngọn đồi, lùng tìm manh mối, tóm lại là làm theo đúng quy trình. Thế rồi một người đề nghị tiếp tục đào bới để xem còn gì khác hay không... và cái thứ hai xuất hiện! Đến nước này thì họ phải cầu viện chúng tôi. Bọn tôi có mặt tại đây từ lúc ba giờ đêm. Chúng tôi vẫn chưa biết dưới này có bao nhiêu cả thảy. Đây, ta đến nơi rồi...

Trước mặt hai người mở ra một trảng đất trống được chiếu sáng bởi các luồng đèn rọi. Đúng là một miệng núi lửa. Hương rừng đột ngột biến mất, chỉ còn thứ mùi chua nồng đặc trưng xộc thẳng vào mũi hai người. Goran ngẩng đầu, để cho mùi chua tràn vào mũi. Mùi phenol, ông tự nhủ.

Rồi ông nhìn thấy chúng.

Những cái hố nhỏ nằm theo một vòng tròn, cùng khoảng ba chục người đàn ông trong bộ áo liền quần màu trắng đang đào bới dưới ánh đèn halogen ma mị. Họ được trang bị xẻng nhỏ và cọ để có thể làm sạch bụi đất một cách nhẹ nhàng. Vài người săm soi đám cỏ, trong khi những người khác chụp ảnh và lập danh sách mọi thứ tìm thấy. Những thao tác của họ chính xác, thành thục như bị thôi miên trong sự im lặng trang nghiêm chỉ thi thoảng bị gián đoạn bởi những tiếng đèn flash.

Goran nhận ra hai đặc vụ Sarah Rosa và Klaus Boris. Chánh thanh tra Roche nhìn thấy ông và lập tức sải những bước dài tiến lại chào, nhưng chưa kịp mở miệng thì Goran đã hỏi độp luôn:

- Có bao nhiêu cả thảy?

- Năm. Dài năm mươi, rộng hai mươi, sâu năm mươi centimét... Theo ông, người ta chôn gì trong những cái hố như thế?

Một thứ gì đó trong mỗi cái hố. Cùng một thứ.

Nhà tội phạm học nhìn ông ta, chờ đợi.

Câu trả lời đến ngay lập tức:

- Một cánh tay trái.

Goran quay ra nhìn mấy người mặc đồ bảo hộ trắng đang lúi húi làm việc giữa cái nghĩa địa lộ thiên quái gở. Lòng đất chỉ cung cấp những mảnh thịt đã bị phân hủy, nhưng nguồn gốc của thứ tội ác ma quỷ này chắc hẳn phải xảy ra đâu đó trước thời điểm phi thực tế và lửng lơ này.

- Là chúng à? - Goran hỏi. Nhưng lần này ông đã biết quá rõ câu trả lời.

- Theo phân tích mẫu ADN, chủ nhân của các cánh tay là những bé gái da trắng, tuổi từ chín đến mười ba...

Những bé gái.

Thanh tra Roche nói huỵch toẹt câu vừa rồi chẳng chút ngập ngừng như thể nhổ đi một bãi nước bọt đã ngậm quá lâu trong miệng.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

Mọi chuyện bắt đầu trước đó hai mươi lăm ngày, khi mục tin vắn của tờ báo địa phương đề cập đến vụ mất tích của một nữ sinh trong trường trung học dành cho con nhà giàu. Lúc đó ai cũng tưởng nó chỉ là một vụ bỏ nhà đi bụi. Học sinh nữ mất tích tên là Debby, mười hai tuổi. Các bạn học của em còn nhớ đã nhìn thấy em ra về sau buổi học. Trong ký túc xá, mọi người chỉ nhận ra sự vắng mặt của cô bé vào lúc điểm danh buổi tối. Vụ việc có vẻ giống với những chuyện mà người ta chỉ dành cho vài hàng ở trang trong và lặng lẽ trôi vào quên lãng, trong khi chờ một kết cục vui vẻ, dễ đoán.

Nhưng sau đó, đến lượt vụ mất tích của Anneke.

Nó xảy ra trong một khu làng nhỏ có những ngôi nhà gỗ và một nhà thờ trắng. Anneke mới mười tuổi. Lúc đầu người ta tưởng cô bé đi lạc trong rừng, vì em thường đạp xe đi dạo trong đó. Toàn bộ dân làng đã tham gia tìm kiếm, nhưng vô hiệu.

Trước khi kịp hiểu được chuyện gì đang thực sự diễn ra, sự việc lại tái diễn.

Nạn nhân thứ ba tên là Sabine, bé gái nhỏ nhất, mới lên bảy. Vụ mất tích xảy ra trong thành phố vào một tối thứ Bảy. Bố mẹ Sabine dẫn em đi hội chợ như rất nhiều gia đình khác. Sabine trèo lên vòng xoay ngựa gỗ đầy con nít. Mẹ cô bé nhìn thấy con mình ở vòng đầu tiên và vẫy tay. Vòng thứ hai, bà lại vẫy tay. Đến vòng quay thứ ba thì cô bé biến mất.

Đến lúc ấy, người ta bắt đầu cho rằng ba bé gái mất tích trong ba ngày liên tục là một điều không bình thường.

Việc tìm kiếm đã diễn ra rất quy mô. Truyền hình bắt đầu vào cuộc. Mọi người bỗng chốc bàn tán về một hay nhiều gã loạn óc, thậm chí cả một băng cuồng sát. Nhưng không có manh mối nào cho phép thu hẹp đối tượng điều tra. Cảnh sát đã thiết lập một đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, kể cả nặc danh. Họ nhận được hàng trăm cuộc gọi và mất hàng mấy tháng trời để xác minh toàn bộ, nhưng vẫn chẳng truy ra được tung tích của các bé gái. Thêm vào đó, những vụ mất tích xảy ra tại nhiều địa phương khác nhau và các cảnh sát khu vực không tài nào thống nhất được phạm vi trách nhiệm điều tra.

Đơn vị điều tra hình sự do thanh tra Roche đứng đầu lúc ấy mới vào cuộc. Tìm người mất tích không thuộc phạm vi điều tra của họ, nhưng tâm lý hoảng loạn leo thang buộc họ phải đặt ra ngoại lệ.

Roche và cả đội đang điều tra thì một bé gái thứ tư mất tích.

Melissa là cô bé lớn nhất, mười ba tuổi. Cũng như đối với mọi bé gái ở tuổi ấy, bố mẹ Melissa áp dụng lệnh giới nghiêm vì sợ con mình sẽ trở thành nạn nhân của tên cuồng sát đang làm cả nước lên cơn sốt. Nhưng lệnh cấm lại rơi vào ngày sinh nhật của Melissa, và dĩ nhiên tối hôm đó cô bé đâu chịu ngồi nhà. Cùng với đám bạn, Melissa đã bày ra một kế hoạch để trốn ra khỏi nhà đi chơi bowling. Các cô bạn đều đến nơi cả, chỉ có Melissa là không.

Từ lúc đó, một cuộc săn lùng trong náo loạn và tự phát bắt đầu diễn ra. Người ta động viên nhau vào cuộc, sẵn sàng đòi lại công lý. Cảnh sát chặn đường kiểm soát khắp nơi. Việc kiểm tra những cá nhân từng bị kết án hoặc nghi án trong các vụ lạm dụng trẻ em được siết chặt. Các bậc cha mẹ chẳng dám cho con em mình ra khỏi nhà dù là để đến trường. Nhiều trường học đã phải tạm nghỉ vì thiếu học sinh. Mọi người chỉ ra khỏi nhà khi thật cần thiết. Sau một thời điểm nhất định trong ngày, ngoài đường vắng tanh vắng ngắt.

Trong vài ngày liền không thấy xảy ra vụ mất tích nào nữa. Nhiều người cho rằng các biện pháp để phòng đã phát huy tác dụng và khiến tên điên loạn kia chùn tay. Nhưng họ đã nhầm.

Vụ bắt cóc bé gái thứ năm là vụ ly kỳ nhất.

Nạn nhân tên Caroline, mười một tuổi. Em bị bắt cóc ngay tại giường khi đang ngủ trong căn phòng sát phòng bố mẹ mà cả hai không hề hay biết.

Năm bé gái bị bắt cóc trong vòng một tuần. Sau đó là mười bảy ngày không có tin tức.

Cho đến hôm nay.

Cho đến năm cánh tay chôn dưới đất này.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

Goran nhìn một vòng những cái hố. Một vòng tròn ghê rợn được kết bằng những cánh tay. Tưởng như ông có thể nghe thấy điệu nhạc múa vòng.

- Kể từ lúc này, đã rõ đây không phải là mất tích đơn thuần. - Thanh tra Roche vừa nói vừa ra hiệu mời mọi người đến để nói vài lời.

Như thông lệ, Rosa, Boris và Stern đến nhập hội với hai người, mắt cắm xuống đất, tay chắp sau lưng.

Thanh tra Roche lên tiếng trước:

- Tôi đang nghĩ đến kẻ đã đưa ta tới đây, tối hôm nay. Kẻ đã gây ra tất cả chuyện này. Chúng ta có mặt ở đây vì hắn muốn thế, vì hắn đã hình dung ra như thế. Và hắn đã bày ra tất cả chuyện này cho chúng ta. Bởi vì, các bạn ạ, tất cả tấn tuồng này là dành cho chúng ta. Chỉ cho chúng ta mà thôi. Hắn đã chuẩn bị nó rất kỹ lưỡng và khoái trá thưởng thức khoảnh khắc này, phản ứng này của chúng ta. Để cho chúng ta phải kinh ngạc, cho chúng ta biết ai “vĩ đại và mạnh mẽ”.

Mọi người gật gù tán thành.

Dù là ai, thủ phạm của vụ này cũng đã chuồn êm không ai hay biết.

Thanh tra Roche, người từ lâu đã coi Gavila như một thành viên của đơn vị, nhận thấy ông có vẻ lơ đãng, mắt đờ ra như thể đang chìm trong một dòng suy nghĩ nào đó.

- Thế còn ông, thưa tiến sĩ, ông nghĩ sao?

Goran thoát ra khỏi sự im lặng và chỉ nói vỏn vẹn hai từ:

- Lũ chim.

Lúc đầu chẳng ai hiểu mô tê gì.

Ông tiếp tục nói tỉnh như không:

- Lúc đến đây tôi không để ý, giờ mới nhận ra. Lạ lắm. Hãy lắng nghe...

Tiếng hót của hàng ngàn con chim đang tràn ngập cả khu rừng.

- Chúng hót kìa. - Rosa kinh ngạc thốt lên.

Gora quay về phía cô, gật gù.

- Tại mấy cái đèn pha... Lũ chim tưởng là ánh sáng của bình minh. Thế nên chúng hót. - Boris nhận xét.

- Mọi người có nghĩ điều này mang một ý nghĩa nào đó không? - Goran nói tiếp, đưa mắt nhìn toán cảnh sát. - Thật ra là có đấy... Năm cánh tay bị chôn vùi. Những mảnh thịt. Không thi thể. Có thể nói là, không có sự tàn nhẫn thực sự trong tất cả chuyện này. Không thi thể, không có khuôn mặt. Không có khuôn mặt tức là không có cá nhân, thậm chí không có con người. Chúng ta chỉ phải tự hỏi những bé gái hiện đang ở đâu. Vì các em không nằm dưới mấy cái hố này. Chúng ta không thể nhìn vào mắt các em. Không thể nhìn nhận các em như những người bình thường như chúng ta được. Bởi làm gì có con người trong chuyện này. Đó chỉ là những bộ phận... Không có sự thương hại. Hắn không cho phép chúng ta có được cảm xúc đó. Hắn chỉ dành cho ta sự sợ hãi. Chúng ta không thể thương xót những nạn nhân nhỏ tuổi này. Hắn muốn chúng ta chỉ biết các em đã chết... Mọi người có thấy chuyện này có ý nghĩa không? Hàng ngàn con chim trong đêm tối, bị dụ cho hót lên chung quanh một nguồn sáng kỳ dị. Nhưng đó là sản phẩm của ảo giác. Hãy cảnh giác trước các ảo thuật gia: đôi khi, cái ác lừa mị chúng ta bằng hình thức giản đơn nhất.

Mọi người lặng thinh. Thêm một lần nữa nhà tội phạm học đã nắm bắt được một điều mang tính biểu tượng, dù nhỏ nhưng lại rất quan trọng. Điều mà những người khác thường không thể nhìn thấy, hay trong trường hợp này là cảm thấy. Những chi tiết, đường nét, sắc thái. Bóng tối bao quanh các sự việc, và cái ác đang rình rập trong quầng tối.

Mọi tên sát nhân đều có một kế hoạch cụ thể, nhằm mang lại cho chúng sự thỏa mãn, thậm chí niềm kiêu hãnh. Cái khó nhất là hiểu được thế giới quan của chúng. Chính vì lẽ đó mà Goran có mặt ở đây. Vì lẽ đó mà họ đã vời ông đến. Để ông xử lý tội ác không thể lý giải này bằng các kiến thức khoa học vững vàng của ông.

Đúng lúc đó, một kỹ thuật viên mặc đồ bảo hộ trắng đến gần nhóm người và báo cáo trực tiếp với chánh thanh tra bằng vẻ hoang mang ra mặt:

- Thưa thanh tra, có một vấn đề... Giờ chúng ta có những sáu cánh tay.
 
Chương 2


Thầy dạy nhạc đã lên tiếng.

Nhưng đó không phải là điều khiến cô chú ý. Đây không phải lần đầu tiên. Rất nhiều người cô độc nói thành tiếng suy nghĩ của họ những lúc ở trong nhà mình. Ngay cả Mila cũng thỉnh thoảng tự nói chuyện một mình khi cô ở nhà.

Không, điều mới mẻ ở đây là chuyện khác. Nó là phần thưởng cho cả một tuần rình rập, ngồi chịu trận trước cái lạnh cắt thịt trong chiếc xe hơi đậu phía trước ngôi nhà màu nâu để theo dõi tình hình trong nhà với cặp ống nhòm nhỏ xíu. Đối tượng của cô là một gã đàn ông trạc bốn mươi tuổi, to béo và trắng trẻo. Hắn bình thản đi lại giữa không gian ngăn nắp của mình, lặp đi lặp lại các cử chỉ ấy, tựa như đang dệt một tấm mạng nhện chỉ mình hắn trông thấy.

Thầy dạy nhạc đã lên tiếng, nhưng lần này điều mới mẻ là hắn đã thốt ra một cái tên.

Mila đã nhìn thấy nó phát ra từ môi hắn, từng chữ cái một. Đó chính là điểm then chốt cho phép cô len vào trong cái thế giới bí ẩn của hắn. Giờ thì cô đã biết.

Thầy dạy nhạc có một người khách.

Mươi ngày trước đó, Pablo chỉ là một cậu bé tám tuổi, tóc nâu và đôi mắt lanh lợi, thích chơi trượt ván trong khu phố nhà mình. Nếu Pablo phải đi mua đồ cho mẹ hoặc bà, chắc chắn cậu sẽ đi bằng ván trượt có bánh xe. Cậu dành hàng giờ để chạy tới chạy lui trên đường cùng nó. Đối với những người hàng xóm thường trông thấy cậu phóng qua trước cửa sổ nhà mình, Paplito - cái tên mà mọi người dùng để gọi cậu bé - đã trở thành một phần của quang cảnh khu phố.

Có lẽ cũng vì điều đó mà không ai nhận thấy gì vào buổi sáng một ngày thứ Bảy trong tháng Hai ấy, tại khu phố nơi mà ai cũng biết tên tuổi của nhau, nơi mà mọi căn nhà và mọi cảnh đời đều tương tự như nhau. Một chiếc Volvo màu xanh xuất hiện trên phố - thầy dạy nhạc hẳn đã chọn nó vì nó giống với đám xe hơi đậu trên những con đường nhỏ. Sự yên lặng của buổi sáng thứ Bảy hoàn toàn bình thường bị phá vỡ bởi tiếng lốp xe nghiến chầm chậm trên lớp nhựa đường và tiếng lạo xạo mờ nhạt của một chiếc ván trượt đang tăng dần tốc độ... Mất sáu giờ sau mới có người để ý rằng trong những âm thanh của buổi sáng thứ Bảy đã thiếu mất một điều gì đó. Tiếng lạo xạo. Và vào buổi sáng nắng lạnh tê người ấy, cậu bé Pablo đã bị nuốt chửng bởi một cái bóng ghê rợn nhất quyết không nhả cậu ra, chia tách cậu với chiếc ván trượt yêu quý.

Tấm ván có bốn bánh xe rốt cuộc nằm chỏng chơ giữa một toán cảnh sát kéo đến khu vực ngay khi có người báo động.

Giờ đây, mười ngày sau, có thể đã quá muộn để cứu Pablo. Quá muộn cho tâm hồn mong manh thơ dại của cậu bé. Quá muộn để đánh thức cậu khỏi cơn ác mộng mà không phải chịu ảnh hưởng gì.

Lúc này tấm ván trượt đang nằm trong cốp xe của nữ cảnh sát cùng với những món vật dụng khác như đồ chơi và quần áo. Những manh mối mà Mila đã dùng để tìm kiếm dấu vết và dẫn cô tới cái sào huyệt sơn màu nâu này. Tới ông thầy giáo dạy nhạc trong trường trung học và chơi organ tại nhà thờ mỗi sáng Chủ nhật, đồng thời là phó chủ tịch một hiệp hội âm nhạc chuyên tổ chức liên hoan nhạc Mozart quy mô nhỏ hàng năm. Một người đàn ông độc thân nhút nhát vô danh tiểu tốt, mắt đeo kính, hói đầu bẩm sinh và có đôi bàn tay mềm, ướt mồ hôi.

Mila đã quan sát hắn rất cẩn thận. Vì đó là năng khiếu của cô.

Cô vào ngành cảnh sát với một mục đích rõ ràng và dồn hết tâm huyết của mình cho nghề nghiệp sau khi rời học viện. Cô chẳng hứng thú gì với bọn tội phạm, chưa nói tới luật pháp. Đó không phải là lý do khiến cô không ngừng sục sạo mọi ngóc ngách tối tăm, nơi cuộc sống cứ thế thối rữa ra.

Khi nhìn thấy trên môi của tên cai ngục kia mấp máy cái tên Pablo, Mila cảm thấy một cơn đau nơi chân phải. Có lẽ đó là do cô đã ngồi quá lâu trong xe để chờ đợi dấu hiệu kia. Cô lại thấy đau thêm lần nữa, chắc là vì vết thương nơi bắp đùi mà cô đã tự tay băng bó.

Mình sẽ xử lý nó sau, cô tự hứa với bản thân. Chỉ sau khi xong việc. Trong khi suy nghĩ, Mila nhận thấy mình đã sẵn sàng để vào trong căn nhà, phá vỡ lớp bùa chú và đặt dấu chấm hết cho cơn ác mộng.

- Cảnh sát Mila gọi trung tâm: đã nhận diện được nghi phạm bắt cóc cậu bé Pablo Ramos. Ngôi nhà có màu nâu ở số 27 đại lộ Alberas. Tình huống có thể nguy hiểm.

- Tốt, cảnh sát Vasquez, chúng tôi đang cử viện binh đến, nhưng phải mất ít nhất ba mươi phút nữa.

Quá lâu.

Mila không có nhiều thời gian đến thế. Pablo không còn nhiều thời gian.

Nỗi sợ phải nói ra hai chữ “quá muộn” khi báo cáo tình hình đã thôi thúc cô tiến về phía ngôi nhà.

Bỏ lại tiếng bộ đàm văng vẳng, súng lục lăm lăm, cánh tay hạ thấp quá trọng tâm cơ thể, mắt nhìn cảnh giác, chân bước những bước nhanh và ngắn, Mila tiến đến hàng rào gỗ sơn màu kem bao quanh căn nhà nhỏ.

Một cây tiêu huyền đồ sộ phủ bóng trùm lên cô. Những chiếc lá đổi màu trong gió, lấp lánh ánh bạc. Mila dán người vào hàng rào, dỏng tai nghe ngóng. Thinh thoảng tiếng trống của một bài hát rock vang đến chỗ cô, hẳn nó được gió mang đến từ một nơi lân cận. Mila nghiêng người qua cánh cổng gỗ và thấy một mảnh vườn được cắt tỉa gọn gàng, một cái chòi cất dụng cụ, một đoạn ống nước màu đỏ chạy dích dắc qua bãi cỏ đến một vòi phun, mấy món đồ bằng nhựa và một cái lò nướng ga. Tất cả đều rất bình thường. Một cánh cửa màu hoa cà với lớp kính mờ. Mila vươn tay qua cánh cổng và khéo léo nhấc then. Các bản lề kêu rin rít khi cô mở hé cánh cổng đủ rộng để lách người qua.

Cô đóng cổng để không ai trong nhà nhận thấy sự khác biệt khi nhìn ra ngoài. Mọi thứ phải ở nguyên chỗ của nó. Rồi cô đi như đã được huấn luyện, thận trọng đặt từng bước chân lên thảm cỏ - chỉ đi bằng mũi chân để không lưu lại dấu vết - và sẵn sàng bật nhảy khi cần thiết. Một lát sau, cô đã ở bên cạnh cửa hậu, ở phía không đổ bóng khi thò đầu nhìn vào trong nhà. Lớp kính mờ khiến cô không thể quan sát bên trong, nhưng nhìn hình dáng của đồ đạc thì có vẻ như đó là phòng khách. Mila đưa tay tới nắm cửa ở phía bên đối diện, vặn nó xuống. Khóa cửa kêu tách.

Cửa mở.

Thầy dạy nhạc chắc hẳn cảm thấy rất an toàn trong hang ổ mà hắn đã chuẩn bị cho mình và cho tù nhân của mình. Chẳng mấy chốc Mila đã hiểu tại sao.

Sàn nhà trải vải nhựa kêu kin kít khi tiếp xúc với đế giày cao su của cô trong mỗi bước đi. Mila cố gắng điều chỉnh dáng đi để không gây ra quá nhiều tiếng động, nhưng sau đó cô đành phải cởi luôn đôi giày thể thao và đặt nó cạnh một cái tủ. Bước đi trên đôi chân trần, cô lần đến cuối hành lang và nghe thấy tiếng nói chuyện của hắn:

- Tôi cũng muốn đặt một gói khăn lau vạn năng. Cùng với sản phẩm tẩy rửa gốm sứ... Đúng rồi, loại ấy đấy... Tiếp theo, mang cho tôi sáu hộp súp gà, đường, một tờ chương trình tivi và một hộp thuốc lá loại nhẹ, hiệu như mọi lần...

Tiếng nói vọng ra từ trong phòng khách. Thầy dạy nhạc đang mua hàng qua điện thoại. Quá bận nên không thể ra khỏi nhà chăng? Hay là hắn không muốn rời xa nó, để có thể kiểm soát nhất cử nhất động của con tin?

- Phải, số 27 đại lộ Alberas, cám ơn. Vui lòng cầm theo tiền thối cho năm mươi đồng, vì tôi chỉ có tiền loại ấy thôi.

Mila lần theo giọng nói và đi ngang qua một cái gương cho hình ảnh phản chiếu méo mó giống như ở nhà gương trong hội chợ. Khi đến ngưỡng cửa phòng, cô giương súng lên, hít một hơi rồi đột ngột bước qua cửa. Cô cứ ngỡ mình sẽ làm đối phương bất ngờ trong khi hắn đứng cạnh cửa sổ, lưng quay về phía cửa phòng, điện thoại vẫn còn trong tay. Một mục tiêu hoàn hảo.

Nhưng cô chẳng thấy hắn đâu.

Phòng khách trống không, ống nghe đang gác trên điện thoại. Khi cô hiểu ra chẳng có ai gọi điện từ trong phòng này thì cảm thấy một nòng súng lạnh ngắt chạm nhẹ vào gáy mình.

Hắn đang ở sau lưng cô.

Mila rủa thầm trong bụng, tự gọi mình là con ngốc. Thầy dạy nhạc đã sửa soạn rất kỹ lưỡng sào huyệt của hắn. Cánh cổng vườn kêu ken két và lớp vải nhựa rin rít chính là lời cảnh báo khi có kẻ đột nhập. Từ đó mới có trò giả vờ gọi điện thoại, một thứ mồi nhử để thu hút con mồi. Cái gương dị dạng là để có thể đứng phía sau cô mà không bị trông thấy. Tất cả là một cái bẫy.

Mila cảm thấy tay hắn vươn đến tước súng của mình. Cô để yên cho hắn làm.

- Mày có thể bắn tao, nhưng đừng vội mừng. Đồng đội tao sắp đến rồi. Mày sẽ không thoát được đâu. Tốt hơn là tự nộp mình đi.

Hắn không nói không rằng. Qua khóe mắt, Mila có cảm tưởng như nhìn thấy hắn. Hắn đang cười chăng?

Thầy dạy nhạc lùi lại, họng súng rời khỏi gáy Mila, nhưng cô vẫn còn cảm thấy lực hút giữa đầu mình và viên đạn trong nòng. Thế rồi gã đàn ông đi vòng qua người cô và bước đến trước mặt. Hắn nhìn cô chòng chọc một lúc lâu. Nhìn mà như không nhìn. Trong đáy mắt hắn có cái gì đó, tựa như một căn buồng tăm tối.

Thầy dạy nhạc đường hoàng quay lưng lại với cô. Mila thấy hắn đi thẳng đến chỗ chiếc đàn piano kê sát tường. Khi đến nơi, hắn ngồi xuống ghế và đưa mắt nhìn các phím đàn. Đặt hai khẩu súng xuống phía bên trái, hắn nâng tay lên rồi lập tức thả những ngón tay xuống các phím đàn.

Bản dạ khúc số 20 cung Đô thăng thứ của Chopin vang lên tràn ngập căn phòng. Mila hít thật mạnh. Cơn co cứng lan tỏa khắp các thớ cơ trên cổ của cô. Những ngón tay của thầy dạy nhạc lướt trên phím đàn một cách điêu luyện và nhẹ nhàng. Những nốt nhạc êm dịu khiến Mila bỗng chốc thành một người thưởng ngoạn màn biểu diễn, tựa như bị thôi miên.

Nhưng cô cương quyết bắt mình phải tỉnh táo lại và lướt nhẹ về phía sau trên đôi chân trần, thật chậm rãi, cho đến khi ra hẳn ngoài hành lang. Cô lấy lại hơi thở, cố kìm hãm nhịp tim của mình, rồi bắt đầu tìm kiếm các căn phòng trong tiếng nhạc riết róng. Cô kiểm tra từng căn một: phòng làm việc, phòng tắm, phòng ăn. Rồi đến lượt một cánh cửa đóng kín.

Mila đẩy cửa. Vết thương ở đùi làm cô nhức nhối, nên cô dồn toàn lực vào vai. Cánh cửa gỗ bật mở.

Ánh sáng yếu ớt ngoài hành lang là thứ đầu tiên tràn vào trong căn phòng có các cửa sổ bị bịt kín. Mila bước theo luồng sáng vào trong, và vấp phải đôi mắt ươn ướt đang nhìn trừng trừng vào cô như hóa đá. Pablo đang ngồi trên giường, co hai chân vào bộ ngực gầy còm. Trên người thằng bé mặc độc cái quần lót và chiếc áo ba lỗ. Nó đang cố nghĩ xem liệu mình có nên hoảng sợ hay không, liệu Mila có phải là một phần của cơn ác mộng này không. Cô nói với cậu bé câu quen thuộc mà cô vẫn luôn nói mỗi khi tìm ra một đứa trẻ.

- Đi thôi cháu.

Thằng bé ưng thuận, giơ tay ra nắm lấy đôi tay cô. Mila vẫn nghe ngóng tiếng nhạc đang vang lên đầy ám ảnh. Cô sợ bản nhạc sẽ không đủ dài và hai người sẽ không có đủ thời gian để ra khỏi ngôi nhà. Cô lại bắt đầu lo lắng đến một vấn đề khác. Cô đã đặt mạng sống của mình và con tin vào vòng nguy hiểm, nên giờ cô thấy sợ. Cô sợ mình lại mắc sai lầm, sợ làm lỡ cơ hội thoát thân cuối cùng này, sợ là ngôi nhà sẽ khép chặt cửa như một cái tổ nhớp nhúa, giữ rịt lấy cô mãi mãi.

Nhưng cửa mở được, và hai cô cháu bước ra vùng ánh sáng ban ngày tuy yếu nhưng an lành.

Khi nhịp tim Mila đã chậm lại, khi cô thôi không nghĩ đến khẩu súng bỏ lại trong nhà và ôm chặt Pablo, dùng cơ thể mình như một cái khiên ấm áp để trấn an nó, thằng bé ghé miệng vào tai cô thì thầm:

- Còn chị ấy, chị ấy không ra hở cô?

Đôi chân của Mila như lún xuống đất trước sức nặng đột ngột, cô lảo đảo, nhưng vẫn giữ được thăng bằng.

- Chị ấy ở đâu?

Thằng bé giơ tay chỉ lên tầng trên của ngôi nhà. Ngôi nhà giương các cửa sổ nhìn hai cô cháu và cười ngạo nghễ bằng khuôn cửa mở rộng vừa để cả hai thoát ra ngoài.

Lúc ấy nỗi sợ của cô hoàn toàn biến mất. Mila chạy nốt quãng đường ngắn ngủi còn lại đến bên chiếc xe hơi của mình, đặt Pablo vào trong xe, rồi bình tĩnh nói với cậu bé:

- Cô sẽ quay lại ngay.

Thế rồi cô quay trở lại ngôi nhà, tự nguyện để mình bị nuốt gọn trong cái miệng toang hoác kia.

Mila đứng dưới chân cầu thang. Cô nhìn lên phía trên, tự hỏi mình sẽ tìm thấy gì trên đó. Cô bám lấy lan can cầu thang để trèo lên. Giai điệu của Chopin vẫn không hề ngắt quãng, bám theo cô trong cuộc tìm kiếm. Đôi bàn chân Mila nhấn sâu vào các bậc thang, trong khi hai tay cô dính vào hàng lan can như đang muốn níu chặt cô không rời.

Tiếng nhạc đột ngột chấm dứt.

Mila sững người, các giác quan căng ra cảnh giác. Tiếp đó là tiếng vang khô khốc của một phát súng, một tiếng thình và những phím đàn vang lên hỗn loạn dưới trọng lượng cơ thể của thầy dạy nhạc. Mila trèo thật nhanh lên tầng trên. Cô không thể biết chắc đây có phải là một cái bẫy hay không. Cầu thang kết thúc và bậc thang trên cùng nối vào một hành lang hẹp trải thảm dày. Cuối hành lang là một cái cửa sổ. Còn phía trước nó, là một thân người. Dặt dẹo, mong manh, nổi bật trên nền sáng, cô gái trẻ đặt đôi chân trên một chiếc ghế, vươn cổ và hai tay về phía một nút thòng lọng từ trần nhà buông xuống. Mila trông thấy cô gái tròng đầu vào thòng lọng. Cô thét lên. Cô gái nhìn thấy Mila và cuống cuồng làm nhanh hơn. Bởi đó là điều mà hắn đã bảo, điều mà cô gái đã thuộc nằm lòng.

“Nếu bọn họ đến, con phải tự sát”.

“Bọn họ”, đó là những người khác, từ thế giới bên ngoài, những kẻ không chịu thông hiểu và sẽ không bao giờ tha thứ.

Mila lao bổ về phía cô gái, tuyệt vọng tìm cách ngăn em lại. Càng đến gần, cô càng có cảm giác như đang lao ngược trở về quá khứ.

Bởi nhiều năm trước, ở trong một cuộc sống khác, cô gái trẻ này đã từng là một đứa bé.

Mila còn nhớ như in tấm ảnh của cô bé. Cô đã nghiên cứu nó rất tỉ mỉ, từng đường nét một, ghi nhớ trong đầu từng nếp nhăn biểu cảm, vừa làm vừa phân loại và lưu giữ mọi dấu hiệu riêng biệt, ngay cả những tì vết nhỏ nhất trên da cô bé.

Và đôi mắt ấy. Với sắc xanh rực rỡ và sống động. Có thể lưu giữ trọn vẹn ánh chớp của đèn flash. Đôi mắt của một bé gái mười tuổi, Elisa Gomes. Tấm ảnh được bố cô bé chụp. Một khoảnh khắc bất chợt trong một ngày lễ, khi cô bé chuẩn bị mở một gói quà. Mila thậm chí đã hình dung ra bối cảnh của bức ảnh. Bố Elisa cất tiếng gọi con bé để làm nó bất ngờ. Và Elisa quay sang bố, thậm chí chưa kịp ngạc nhiên. Một nét mặt vĩnh viễn được ghi lại, một điều gì đó mà mắt thường không thể chộp bắt được. Một nụ cười tuyệt vời chớm nở trên đôi môi Elisa ngay trước khi thành hình và khiến đôi mắt của cô bé sáng lên như ánh sao tân sinh.

Chính vì lý do đó mà Mila không bất ngờ khi bố mẹ Elisa đưa cho cô bức ảnh này lúc cô yêu cầu họ cung cấp một tấm hình mới chụp của con mình. Đó không phải là bức ảnh thích hợp nhất, nét biểu cảm không tự nhiên của Elisa khiến cho khó có thể sử dụng nó để thực hiện các thay đổi, chẳng hạn như làm cho khuôn mặt già đi theo thời gian. Các thành viên khác trong đội điều tra phàn nàn điều này, nhưng đối với Mila, chuyện đó không quan trọng, bởi vì trong bức ảnh có một cái gì đó, một thứ năng lực khác lạ. Đó chính là thứ mà họ cần tìm. Không phải một khuôn mặt như những khuôn mặt khác, một đứa trẻ như những đứa trẻ khác. Mà là cô bé này, với nguồn sáng trong đôi mắt ấy. Mong rằng không ai có thể làm ánh sáng đó tắt đi...

Mila ngăn cô gái lại vừa kịp lúc. Cô tóm lấy hai chân của cô gái trước khi cô kịp thả người trên sợi dây thòng lọng. Cô gái trẻ vùng vẫy, gào thét chống cự.

- Elisa. - Mila gọi tên cô gái thật nhẹ nhàng.

Và cô gái bừng tỉnh.

Elisa đã quên mất mình là ai. Những năm tháng bị giam cầm đã tước đi nhân thân của cô, mỗi ngày một ít. Cho đến khi cô tự thuyết phục mình rằng người đàn ông ấy là gia đình của mình, vì những người khác đã lãng quên cô. Những người khác sẽ không bao giờ cứu cô. Elisa ngạc nhiên nhìn vào mắt Mila, bình tĩnh trở lại và để cho mình được giải cứu.
 
Chương 3


Sáu cánh tay. Năm cái tên.

Cùng với bí ẩn đó, nhóm điều tra rời khoảng đất trống giữa rừng để đến một trạm nghỉ lưu động đặt cạnh quốc lộ. Cà phê và thức ăn nhẹ có vẻ không thích hợp trong hoàn cảnh này, mặc dù nó giúp tạo ra một sự kiểm soát giả tạo. Dù sao thì cũng chẳng có ai đụng đến đồ ăn trong cái lạnh buốt của buổi sáng tháng Hai này.

Stern lấy từ trong túi ra một hộp kẹo ngậm bạc hà. Anh lắc lắc hộp kẹo, đổ ra tay vài ba viên rồi tống luôn vào họng. Anh vẫn bảo nó giúp anh suy nghĩ.

- Sao có thể xảy ra chuyện này được chứ? - Stern cất tiếng, tự hỏi mình nhiều hơn là hỏi những người khác.

- Chó… - Boris buột miệng, nhưng anh nói nhỏ đến nỗi không ai nghe thấy.

Rosa tìm kiếm một điểm ở bên trong chiếc xe cắm trại để nhìn đăm đăm vào nó. Goran nhận thấy điều đó. Ông rất hiểu, cô cũng có một đứa con gái trạc tuổi những cô bé kia. Con cái mình. Đó là điều đầu tiên người ta nghĩ đến trước một tội ác đối với trẻ em. Và họ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu... Nhưng họ không dám nghĩ nốt vế sau, vì nó quá tàn nhẫn.

- Hắn sẽ cung cấp cho chúng ta từng mảnh thi thể. - Chánh thanh tra Roche lên tiếng.

- Thế ra đấy là công việc của chúng ta à? Nhặt xác ấy? - Boris hỏi xóc.

Là con người của hành động, anh không thể chịu nổi khi thấy mình phải làm công việc của phu đào huyệt. Anh muốn truy tìm thủ phạm. Những người khác cũng vậy. Tất cả đều đồng tình với câu nói của anh.

Roche trấn an cả nhóm:

- Ưu tiên hàng đầu luôn là lùng bắt thủ phạm. Nhưng chúng ta không thể miễn cho mình công việc tìm thi thể kinh khủng này được.

- Rõ ràng là có sự sắp đặt.

Mọi người đều nhìn vào giáo sư Goran đầy ngạc nhiên.

- Con chó tìm ra cánh tay và đào đất, đó là một phần của “kế hoạch”. Hắn biết hai cậu bé sẽ đưa con chó đi dạo trong rừng. Chính vì thế hắn đã đặt khu nghĩa trang nhỏ của hắn ngay tại địa điểm đó. Một ý đồ đơn giản. Hắn đã hoàn tất “công việc” của mình, và cho chúng ta xem. Thế thôi.

- Ý ông là, không phải chúng ta phát hiện ra hắn à? - Boris tức giận hỏi, anh không tài nào tin được chuyện đó.

- Anh biết rõ hơn tôi những chuyện như thế này diễn ra thế nào mà...

- Nhưng hắn sẽ thực hiện điều đó, không đúng sao? Hắn sẽ lại giết người… - Rosa nói, không chịu chấp nhận. - Hắn đã rất thành công, hắn sẽ tiếp tục.

Rosa muốn nghe một lời phản bác, nhưng Goran không thể. Và kể cả là có một quan điểm về chuyện này, ông cũng không biết diễn đạt thế nào cho dễ chấp nhận sự tàn nhẫn của việc bị giằng xé giữa ý nghĩ về những cái chết thê thảm kia và mong muốn vô tâm rằng kẻ sát nhân sẽ ra tay lần nữa. Bởi vì, như mọi người đều biết, khả năng duy nhất để tóm được hắn là hắn không ngừng việc giết chóc lại.

Thanh tra Roche lên tiếng:

- Nếu chúng ta tìm được thi thể của các cháu bé, ít ra gia đình của nạn nhân cũng có thể tiến hành chôn cất cho tử tế.

Như thường lệ, Roche thường lật lại vấn đề để nhìn nhận nó một cách khách quan nhất có thể. Đó là sự tổng dượt cho điều mà ông sẽ nói với báo chí, để xoa dịu sự việc tránh ảnh hưởng tới tên tuổi mình. Đầu tiên là tang lễ, sự đau buồn, để thêm thời gian. Sau đó mới đến cuộc điều tra và các thủ phạm.

Nhưng Goran thừa biết là chiến thuật đó sẽ không thành công, cánh nhà báo sẽ mổ xẻ vụ án và thêm thắt các chi tiết kinh tởm nhất. Và nhất là, kể từ lúc đó, nhóm điều tra sẽ không được lượng thứ bất kỳ điều gì. Nhất cử nhất động của họ, mọi lời ăn tiếng nói của họ sẽ được gán cho giá trị của một sự hứa hẹn, một lời cam kết long trọng. Roche tin tưởng có thể buộc được giới truyền thông phải tôn trọng mình bằng cách nhả cho họ ít một những điều mà họ muốn nghe, và Goran để yên cho ngài chánh thanh tra mặc sức bay bổng với cái ảo tưởng làm chủ tình hình mong manh ấy.

- Tôi tin rằng ta phải đặt cho gã này một cái tên... trước khi báo chí làm chuyện đó. - Roche nói.

Goran đồng tình, nhưng không phải vì cùng một lý do với ngài chánh thanh tra. Giống như mọi nhà tội phạm học làm việc trong ngành cảnh sát, ông có những phương pháp riêng của mình. Trước hết, phải gắn các đặc điểm cho tên tội phạm, để con người hóa một hình ảnh vẫn còn rất lờ mờ và sơ sài. Trên thực tế, trước một tội ác man rợ và vô cớ đến vậy, người ta có khuynh hướng quên mất rằng thủ phạm chỉ là một con người, cũng giống như nạn nhân, có một cuộc sống nhiều khi rất bình thường, có công ăn việc làm, và đôi khi còn có cả gia đình nữa. Để củng cố cho giả thiết này, giáo sư Goran Gavila luôn nhắc nhở các sinh viên của mình rằng gần như trong tất cả các vụ, việc bắt giữ một tên tội phạm giết người hàng loạt là một điều hoàn toàn gây chấn động đối với hàng xóm láng giềng và người thân của hắn.

“Chúng ta gọi chúng là quái vật, vì chúng ta cảm thấy chúng quá xa lạ với mình, nên chúng ta muốn chúng khác biệt”, giáo sư Goran từng nói như thế trong bài giảng của mình. “Ngược lại, bọn chúng hoàn toàn không khác gì chúng ta. Nhưng ta cứ thích chối bỏ suy nghĩ rằng một kẻ đồng loại với mình lại có thể tàn bạo đến thế. Tựa như một sự miễn tội cho bản chất của con người chúng ta. Những nhà nhân loại học gọi đó là ‘sự giải thể nhân cách của tội phạm’, và đó thường là trở ngại chính trong việc nhận dạng một tên giết người hàng loạt. Một con người thì luôn có các điểm yếu và có thể bị bắt. Còn một con quỷ thì không”.

Để minh họa cho điều này, Goran từng cho treo trong phòng học một bức ảnh đen trắng chụp một đứa trẻ. Một cậu bé mũm mĩm, vô hại. Các sinh viên của ông nhìn nó mỗi ngày và trở nên thân thuộc với hình ảnh đó. Cho đến một ngày - vào khoảng giữa học kỳ - một ai đó đánh bạo hỏi ông cậu bé là ai. Ông đã thách họ đoán. Những câu trả lời rất đa dạng và đầy liên tưởng. Và rồi ông khoái chí quan sát nét mặt của các sinh viên khi tiết lộ rằng cậu bé đó chính là Adolf Hitler.

Sau chiến tranh, tên trùm phát xít Đức đã trở thành một con quái vật trong tâm tưởng của mọi người, và trong nhiều năm trời, những quốc gia giành chiến thắng đã chống lại tất cả những cách nhìn nhận khác về Hitler. Đến mức chẳng ai biết tới những tấm ảnh thời thơ ấu của tên độc tài. Một con quái vật thì không thể nào từng là một đứa trẻ, không thể có được tình cảm nào khác ngoài sự thù hận, và không thể nào từng sống một cuộc sống tương tự như những đứa trẻ đồng lứa khác, những trẻ em mà sau này trở thành nạn nhân của hắn.

“Đối với nhiều người, nhân tính hóa Hitler tức là ‘lý giải’ hắn”, sau đó Goran nói với cả lớp. “Nhưng xã hội ngụy biện rằng, cái ác tột cùng thì không thể cắt nghĩa hoặc hiểu thấu, vì nếu làm điều đó tức là ta đang tìm cách bào chữa cho nó”.

Trong chiếc xe cắm trại cơ động, Boris đề nghị đặt tên “Albert” cho thủ phạm của nghĩa địa cánh tay, như là kỷ niệm về một chuyện cũ. Ý kiến của anh được những người có mặt hồ hởi đón nhận, nên họ quyết định luôn.

Ngày qua ngày, Albert sẽ hoàn chỉnh dần diện mạo. Một chiếc mũi, hai con mắt, một khuôn mặt, một cuộc sống. Mỗi người sẽ có cách nhìn riêng của mình, và hắn sẽ không còn là một bóng ma lẩn khuất nữa.

- Albert à? - Khi buổi họp kết thúc, Roche vẫn còn cân nhắc về giá trị truyền thông của cái tên này. Ông lặp đi lặp lại, nhẩm nha nó. Có lẽ được đây.

Nhưng một điều vẫn còn làm bận lòng ngài chánh thanh tra. Ông nói với Goran:

- Nói thật, tôi đồng tình với Boris. Lạy Chúa! Tôi không thể ép người của mình đi nhặt xác trong khi một gã loạn thần kinh biến chúng ta thành cả một lũ ngu!

Goran biết thừa khi Roche nói đến “người của mình”, thì chủ yếu ông ta muốn nói đến chính mình. Chính ông ta mới là người sợ không trưng ra được bất cứ kết quả nào. Cũng chính ông ta là người sợ rằng ai đó sẽ khui ra năng lực yếu kém của cảnh sát liên bang nếu như họ không bắt được thủ phạm.

Hơn nữa, vẫn còn đó câu hỏi về cánh tay thứ sáu.

- Tôi nghĩ chúng ta sẽ không tiết lộ về sự tồn tại của một nạn nhân thứ sáu.

Goran chưng hửng.

- Thế thì làm thế nào chúng ta biết cánh tay đó của ai?

- Tôi đã tính hết rồi, ông đừng lo...

Trong sự nghiệp của mình, Mila Vasquez đã giải quyết được tám mươi chín vụ mất tích. Cô đã nhận được ba huy chương và hàng loạt bằng khen. Cô được coi như một chuyên gia trong lĩnh vực này, và mọi người thường tham vấn ý kiến cô, kể cả từ nước ngoài.

Chiến dịch buổi sáng hôm ấy đã giải cứu được Pablo và Elisa, có thể coi đó là một chiến thắng tuyệt đối. Mila không nói gì. Nhưng nó làm cô áy náy. Cô những muốn thừa nhận các sai lầm của chính cô. Tự mình đột nhập vào hang ổ kẻ thù mà không có lực lượng hỗ trợ, đánh giá thấp tình hình và mắc bẫy, đánh liều mạng sống của bản thân và con tin khi để cho kẻ tình nghi tước vũ khí rồi chĩa súng vào gáy mình. Và cuối cùng, không ngăn cản được vụ tự sát của thầy giáo dạy nhạc.

Nhưng tất cả những điều đó đã được cấp trên của cô bỏ qua hết, chẳng những thế họ càng thổi phồng công trạng của cô trong lúc được cánh báo chí săn ảnh.

Mila không bao giờ xuất hiện trong những bức ảnh đó. Lý do chính thức mà cô đưa ra là cô muốn giấu kín danh tính của mình để còn tiếp tục nghiệp điều tra sau này. Nhưng sự thực là cô ghét bị chụp ảnh. Thậm chí cô còn không chịu nổi hình ảnh mình trong gương. Không phải vì cô không đẹp, ngược lại là đằng khác. Nhưng, ở vào cái tuổi ba mươi hai này, những ngày tháng miệt mài trong phòng tập đã tước mất toàn bộ vẻ nữ tính của cô. Mọi đường cong, mọi nét mềm mại. Như thể việc làm phụ nữ là một điều cần phải xóa bỏ. Cô hay mặc đồ của đàn ông tuy không hề nam tính. Đơn giản là cô chẳng có nét gì tiết lộ giới tính của mình cả. Mà cô cũng muốn thế. Trang phục của cô giới nào cũng mặc được. Quần jean không quá bó sát, giày thể thao thoải mái, áo khoác da. Chúng chỉ là quần áo, không gì hơn. Chức năng của chúng là giữ ấm và che thân. Cô chẳng mất nhiều thời gian để chọn đồ, cứ thế mua và mặc. Thường là mua cùng một món nhiều lần. Có quan trọng gì đâu. Cô thích thế.

Được vô hình giữa những người tàng hình.

Cũng vì thế mà cô có thể dùng chung phòng thay đồ với cánh đàn ông.

Suốt mười phút vừa qua, Mila nhìn cái tủ đựng đồ mở toang của mình trong lúc điểm lại những sự kiện trong ngày. Cô có việc gì đó phải làm, nhưng tâm trí cô cứ để đâu đâu. Sau đó, một cơn đau nhói ở bắp đùi đưa cô về thực tại. Vết thương của cô lại bị mở miệng. Cô đã cố cầm máu bằng bông băng, nhưng vô ích. Mảnh da quanh vết cắt quá ngắn, khiến cô không thể làm tốt việc khâu vết thương. Chắc là lần này cô phải đi khám bác sĩ, nhưng cô không thích đi bệnh viện. Quá nhiều câu hỏi. Cô quyết định băng chặt hơn, với hy vọng cầm được máu, rồi sau đó sẽ thử khâu lại lần nữa. Nhưng dù sao cô cũng phải dùng kháng sinh để tránh nhiễm trùng. Mila sẽ xoáy cho mình một toa thuốc rởm, nhờ một tay thỉnh thoảng vẫn cung cấp thông tin cho cô về những kẻ mới đến trong đám người lang thang ngoài ga...

Những ga tàu.

Lạ thật, Mila nghĩ bụng. Trạm trung chuyển của người này, nhưng với người khác lại là nơi để lưu lại và không rời đi nữa. Các nhà ga là một dạng phòng chờ của địa ngục, nơi những linh hồn lưu lạc dồn đống lại trong khi đợi ai đó đến hốt đi.

Mỗi ngày trung bình có từ hai mươi đến hai nhăm cá nhân biến mất. Mila nắm số liệu thống kê rất rõ. Đùng một cái, chẳng có tin tức gì của bọn họ nữa. Họ biến đi không báo trước, cũng không mang theo hành lý. Tựa như họ đã rơi vào cõi hư không.

Mila biết đa phần trong số họ là những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, bọn nghiện hút, du thủ du thực, sẵn sàng phạm tội, vào tù ra khám như cơm bữa. Nhưng cũng có những người - thiểu số thôi - mà vào một thời điểm trong đời, họ quyết định từ bỏ tất cả. Như là một bà mẹ đi chợ và không bao giờ quay về nữa, hoặc là đứa con trai hay thằng anh nó nhảy lên tàu và không bao giờ tới được đích muốn đến.

Mila nghĩ mỗi người có một con đường riêng. Một con đường đưa chúng ta về nhà, đến chỗ người thân, những người mà chúng ta gắn bó nhất. Thường thì đó là con đường chúng ta tìm hiểu từ bé và đi tiếp cho đến cuối cuộc đời. Nhưng cũng có khi con đường đó gián đoạn giữa chừng để rồi tiếp nối ở nơi khác. Hoặc là sau khi đã theo một lộ trình gập ghềnh, nó quay lại điểm đứt đoạn. Hoặc cũng có thể là nó cứ lỡ dở như thế mãi.

Nhưng đôi khi, nó mất hút vào trong bóng tối.

Mila biết hằng hơn phân nửa những người mất tích quay về và luôn kể những câu chuyện. Một số chẳng có gì để kể và quay lại cuộc sống như lúc trước. Những người khác kém may mắn hơn khi chỉ còn là cái xác vô hồn. Và có những người mà ta không bao giờ hay biết gì về họ nữa.

Trong số những người này, thể nào cũng có một đứa bé.

Có những bậc cha mẹ sẵn sàng đánh đổi cả cuộc sống để biết điều gì đã xảy ra. Họ đã sai lầm ở chỗ nào. Sự lơ đãng nào đã dẫn tới thảm kịch câm lặng ấy. Điều gì đã xảy đến với con họ. Kẻ đã bắt nó, và lý do của hắn. Có những người cật vấn Chúa trời để biết họ bị trừng phạt vì tội lỗi gì, có người quay quắt đi tìm câu trả lời trong suốt phần đời còn lại, hoặc chết dần chết mòn trong khi cố giải đáp các câu hỏi. “Ít ra hãy khẳng định với tôi rằng nó đã chết”, họ nói như thế. Một số có thể đi đến chỗ mong ước chuyện đó, vì họ muốn than khóc, thế thôi. Mong muốn duy nhất của họ không phải là sự bỏ cuộc, mà là khả năng chấm dứt hy vọng. Bởi hy vọng giết chết con người ta chậm rãi hơn.

Nhưng Mila không tin vào thứ “sự thật giúp giải tỏa”. Cô đã cảm thấy như thế vào lần đầu tiên giải thoát con tin, và một lần nữa vào buổi chiều hôm ấy, khi đưa Pablo và Elisa về nhà.

Chào đón thằng bé, cả khu phố reo mừng, xe hơi bóp còi và tuần hành vui vẻ.

Nhưng về phần Elisa, một khoảng thời gian quá dài đã trôi qua.

Sau khi cứu cô gái, Mila đưa Elisa đến một trung tâm đặc biệt, nơi cô gái được các nhân viên cứu trợ xã hội chăm sóc, cho ăn uống và thay quần áo sạch. Mila tự hỏi tại sao mấy thứ quần áo đó bao giờ cũng có vẻ rộng hơn một đến hai số. Có lẽ là vì những người được mặc chúng đã hao gầy đi trong suốt những năm tháng của sự quên lãng, để rồi được tìm thấy lại ngay trước khi biến mất hẳn.

Elisa không nói tiếng nào. Cô gái chỉ mặc kệ cho người ta chăm sóc mình, chấp nhận tất cả những gì họ làm với cô. Sau đó, khi nghe Mila thông báo sẽ đưa cô về nhà, Elisa cũng chẳng nói chẳng rằng.

Trong khi nhìn đăm đăm chiếc tủ đựng đồ, Mila không thể nào xóa khỏi đầu hai gương mặt của cha mẹ Elisa Gomes khi cô bấm chuông nhà cùng với con gái họ. Hai ông bà có vẻ bất ngờ và thậm chí có phần hơi khó chịu. Có lẽ họ nghĩ trong đầu rằng người ta sẽ trả lại cho họ một cô bé mười tuổi, chứ không phải là cô gái trẻ mà với cô, họ hoàn toàn không còn điểm chung nào.

Elisa từng là một đứa trẻ thông minh và phát triển sớm. Cô bé biết nói rất sớm. Từ đầu tiên phát ra từ miệng cô bé là “May”, tên của con gấu bông. Nhưng mẹ cô cũng không thể quên từ cuối cùng cô nói. Đó là từ “mai”, trong câu “Hẹn mẹ ngày mai”. Elisa đã nói câu ấy trên ngưỡng cửa nhà mình, trước khi đi sang nhà bạn ngủ. Thế nhưng ngày mai ấy đã không đến, và vẫn chưa đến. Ngược lại, “ngày hôm qua” của cô là một ngày rất dài và chưa có vẻ gì là muốn kết thúc.

Trong khoảng thời gian đó, đối với bố mẹ Elisa, cô tiếp tục là một cô bé mười tuổi, phòng ngủ của cô đầy búp bê và cạnh lò sưởi là đống quà Giáng sinh. Elisa mãi là như thế trong ký ức của bố mẹ cô. Đông cứng trong hình ảnh mà họ giữ trong đầu, tựa như tù nhân của một lời nguyền.

Vậy đấy, mặc dù Mila đã tìm lại được Elisa, nhưng họ vẫn tiếp tục chờ đợi cô bé gái mà họ đã đánh mất. Để rồi không bao giờ thanh thản.

Sau một cái ôm kèm theo nước mắt và sự xúc động như thông lệ, bà Gomes đưa hai chị em vào nhà, mời trà và bánh quy. Bà đối xử với con gái mình như với một người khách. Có lẽ trong thâm tâm, bà vẫn nuôi một hy vọng là cô gái lạ hoắc này sẽ ra đi sau chuyến viếng thăm, để lại vợ chồng bà với sự trống vắng dễ chịu thường khi.

Mila so sánh nỗi buồn với mấy cái tủ đồ cũ kỹ mà người ta muốn dẹp bỏ nhưng vẫn nằm đó, tỏa một thứ mùi đặc trưng ra khắp phòng. Cùng với thời gian, người ta quen dần với nó, và rồi trở nên lệ thuộc vào nó.

Elisa đã quay về, và bố mẹ cô sẽ phải phá bỏ sự đau buồn của họ, gác đi tất cả những thương hại mà người ta đã dành cho họ trong những năm vừa qua. Họ đâu còn lý do gì để mà buồn nữa. Nhưng họ sẽ phải cần nhiều dũng khí hơn nếu muốn kể cho mọi người nghe về nỗi bất hạnh mới của mình. Nỗi bất hạnh đó là việc có một kẻ lạ mặt ở trong nhà!

Sau một giờ thăm hỏi xã giao, Mila cáo từ. Dường như cô đọc thấy trong mắt của mẹ Elisa một lời cầu cứu câm lặng: “Giờ tôi biết làm gì đây?”

Bản thân Mila cũng có một thực tế khác phải đối mặt: việc tìm thấy Elisa hoàn toàn là do tình cờ. Nếu như tên bắt cóc, sau chừng ấy năm trời, không nảy ra ý định mở rộng “gia đình” bằng việc bắt Pablo thì sẽ chẳng ai biết chuyện đã xảy ra. Và Elisa sẽ mãi mãi bị giam cầm trong thế giới đã được cố ý tạo ra cho cô và cho sự si mê của kẻ bắt cóc cô. Đầu tiên hắn xem cô như con gái, sau đó như một người vợ chung thủy.

Nghĩ đến đây, Mila đóng tủ đồ cá nhân của mình lại. “Quên đi, quên đi nào”, cô tự nhủ. “Đó là giải pháp duy nhất”.

Trụ sở vắng dần. Mila muốn về nhà. Cô sẽ đi tắm, mở một chai porto và nướng hạt dẻ. Sau đó cô sẽ ngồi nhìn cái cây ngoài cửa sổ phòng khách, và biết đâu, nếu may mắn, cô sẽ ngủ thiếp đi trên xa lông. Tuy nhiên, khi cô chuẩn bị thưởng cho mình một buổi tối cô độc thì một đồng nghiệp thò đầu vào phòng thay đồ.

Trung sĩ Morexu muốn gặp cô.

Làn hơi ẩm phủ trùm lên các con đường trong buổi tối tháng Hai. Giáo sư Goran bước xuống xe taxi. Ông không có xe hơi riêng cũng chẳng có bằng lái, nên ông để cho người khác đưa mình đến nơi cần đến. Chẳng phải ông chưa từng thi lấy bằng, ông thi tốt là đằng khác. Nhưng đối với một người thường xuyên chìm vào các suy tưởng mông lung, cầm vôlăng là điều nên tránh. Vậy là ông từ bỏ chuyện cầm lái.

Sau khi đã trả tiền cho tài xế và đặt đôi chân đi giày số bốn mươi bốn xuống vỉa hè, ông rút từ áo vest ra điếu thuốc lá thứ ba trong ngày. Ông châm thuốc, rít hai hơi rồi vứt đi. Ông đã tập thói quen đó từ khi quyết định bỏ thuốc. Một kiểu tự thỏa thuận với bản thân để đánh lừa cơn thèm nicotine.

Ông quan sát hình ảnh mình trong một cửa kính, tự kiểm tra trong chốc lát. Bộ râu viền quanh khuôn mặt càng ngày càng mỏi mệt. Mắt thâm quầng, tóc bù xù. Ông nhận ra mình đã không ngó ngàng nhiều đến bản thân. Người thường chăm sóc ông từ lâu đã rời bỏ bổn phận của mình.

Điểm nổi bật nhất ở Goran, như lời nhận xét của mọi người, là sự im lặng dài hơi và bí ẩn của ông.

Cùng với đôi mắt to và xuyên thấu.

Đã sắp đến giờ ăn tối. Ông chậm rãi leo lên cầu thang, vào trong nhà và nghe ngóng. Nhiều giây liền trôi qua, khi đã quen với sự yên tĩnh mới mẻ này, ông nhận ra âm thanh chào đón quen thuộc của Tommy. Nó đang chơi trong phòng của mình. Ông đi vào tìm con, nhưng chỉ quan sát nó từ trên ngưỡng cửa mà không có can đảm làm gián đoạn trò chơi của nó.

Tommy lên chín, hoàn toàn vô lo. Mái tóc của thằng bé có màu hạt dẻ. Nó thích màu đỏ, thích bóng rổ và ăn kem, kể cả vào mùa đông. Bạn thân nhất của Tommy là Bastian, hai đứa thường tổ chức những chuyến thám hiểm kỳ thú trong vườn trường. Cả hai đều là hướng đạo sinh, hè năm sau chúng sẽ cùng nhau đi cắm trại. Gần đây hai đứa chỉ toàn nói về chuyện đó.

Tommy giống mẹ một cách đáng kinh ngạc, nhưng thằng bé thừa hưởng từ bố mình đôi mắt to và xuyên thấu.

Khi nhận ra sự có mặt của Goran, thằng bé quay lại mỉm cười.

- Bố về muộn. - Nó trách.

- Ừ, bố xin lỗi. - Ông biện hộ. - Bà Runa đi lâu chưa con?

- Con trai bà ấy đến đón từ nửa tiếng trước rồi ạ.

Chuyện này làm giáo sư Goran bực mình. Bà Runa giúp việc nhà cho họ đã vài năm nay. Bà ta hẳn phải biết ông không thích để Tommy ở nhà một mình. Đôi khi sự bực dọc này cùng với những thứ khác khiến Goran chẳng thiết sống nữa. Một mình ông không thể lo liệu hết mọi chuyện được. Như thể là người có cái biệt tài lo liệu bí ẩn kia đã quên mất không để lại cho ông quyển sách ghi các câu thần chú trước khi ra đi.

Ông sẽ phải làm rõ mọi chuyện với bà Runa và có lẽ phải tỏ ra cứng rắn hơn một chút với bà ta. Lúc nào ông cũng bảo bà ta phải ở lại buổi tối cho đến khi ông về nhà. Chắc là đọc được suy nghĩ của bố, Tommy xịu mặt. Ngay lập tức, Goran thay đổi chủ đề, ông hỏi con:

- Đói không con?

- Con đã ăn một quả táo, mấy cái bánh quy và uống một cốc nước.

Goran lắc đầu.

- Ăn tối kiểu gì thế không biết.

- Con mới ăn lót dạ thôi mà. Bây giờ con muốn ăn cái khác cơ...

- Mì ống nhé?

Thằng bé tỏ ra thích thú với đề nghị của bố. Goran xoa đầu con.

Hai bố con cùng nhau nấu ăn và dọn bàn, như một cặp đôi hoàn hảo, mỗi người tự làm phần việc của mình mà không cần phải hỏi ý kiến người kia. Tommy học nhanh và làm Goran rất tự hào.

Những tháng vừa qua mọi việc không được dễ dàng.

Cuộc sống của hai bố con có nguy cơ tan rã, và ông đã cố gắng giữ lại phần nào nếp song cũ của hai bố con, kiên nhẫn hàn gắn lại các mảnh vỡ. Khi vắng mặt, ông đưa ra các mệnh lệnh. Ăn uống đều đặn, giờ giấc chính xác, các thói quen được củng cố. Nhìn từ góc độ này thì chẳng có gì thay đổi so với lúc trước. Tất cả lặp đi lặp lại y hệt và khiến Tommy yên tâm.

Hai bố con cuối cùng cũng đã biết cách cùng nhau sống với sự trống vắng này mà không chối bỏ thực tại. Ngược lại là khác, khi một trong hai người muốn bàn đến thực tế thì họ sẽ trò chuyện cùng nhau.

Điều duy nhất mà cả hai không bao giờ làm, đó là gọi sự trống vắng này bằng tên của nó. Cái tên ấy đã ra khỏi từ điển của họ. Họ dùng những biện pháp khác, những cách diễn đạt khác. Thật kỳ lạ, người luôn bận tâm đến việc đặt tên cho những tay giết người hàng loạt mà ông điều tra lại không biết phải gọi người đã từng là vợ ông như thế nào, và để cho con trai mình “giải thể nhân cách” mẹ nó. Như thể bà chỉ là một nhân vật trong các truyện ngụ ngôn mà ông đọc cho cậu bé nghe mỗi tối.

Tommy là đối trọng duy nhất neo giữ Goran lại với trần gian. Không có thằng bé, ông sẽ lập tức rơi tõm xuống cái vực thẳm mà ông thám hiểm hàng ngày.

Sau bữa tối, Goran vào trong phòng làm việc. Tommy theo sau. Đó là nghi thức buổi tối của hai bố con. Ông ngồi xuống chiếc ghế bành kẽo kẹt, trong khi cậu con trai nằm dán bụng xuống tấm thảm, tiếp tục màn đối thoại tưởng tượng.

Goran quan sát tủ sách của mình. Những quyển sách về tội phạm học, nhân loại học hình sự và pháp y đập vào mắt ông. Một vài quyển được đóng bìa vải có dập chữ mạ vàng. Những quyển khác thì được đóng cuốn đơn giản. Trong đó là những câu trả lời. Nhưng điều khó khăn nhất - như ông luôn nói với các học viên của mình - là việc tìm ra câu hỏi. Trong các cuốn sách kia tràn ngập những hình ảnh đáng sợ. Những thân thể đầy thương tích, bị hãm hại, tra tấn, đốt cháy, cắt thành từng mảnh. Tất cả được in nghiêm cẩn trên những tờ giấy bóng bẩy, kèm theo chú thích tỉ mỉ. Mạng sống của con người được tối giản thành một đối tượng nghiên cứu lạnh lùng.

Vì lý do này mà trước đây không lâu, Goran không cho phép Tommy vào trong nơi biệt trữ này. Ông sợ rằng vì tò mò thằng bé sẽ mở một quyển sách và nhận ra cuộc sống có thể tàn bạo đến mức nào. Thế nhưng, một lần nọ, Tommy đã không nghe lời ông. Ông phát hiện ra cậu bé nằm giống như hôm nay, tay lần giở một trong những quyển sách của ông. Ông vẫn còn nhớ thằng bé đã dừng lại tại hình ảnh của một phụ nữ được vớt lên từ dưới sông, giữa mùa đông. Chị ta lõa thể, da tím tái và có đôi mắt bất động.

Nhưng Tommy tỏ ra không nao núng, nên thay vì mắng mỏ con, Goran chỉ ngồi khoanh chân cạnh cậu bé.

- Con biết đây là gì không?

Tommy chờ một lúc lâu, khuôn mặt kín như bưng. Sau đó nó trả lời bằng cách liệt kê tỉ mỉ những thứ đã nhìn thấy. Đôi tay mảnh khảnh, mái tóc bám đầy sương giá, ánh mắt thất thần. Cuối cùng, nó nói lan man sang nghề nghiệp của người phụ nữ, bạn bè và nơi ở của chị ta. Lúc ấy Goran mới nhận ra rằng, Tommy đã đọc được mọi điều trên bức ảnh, ngoại trừ một điều. Cái chết.

Trẻ con không nhìn thấy cái chết. Bởi vì cuộc sống của chúng chỉ gói gọn trong một ngày, từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ.

Sau lần ấy, Goran đã hiểu ra rằng, dù có nỗ lực đến đâu, ông cũng sẽ không bao giờ có thể bảo vệ con trai mình khỏi cái xấu trong đời. Giống như mấy năm sau, ông đã không thể tự giải thoát mình khỏi những gì mà mẹ nó đã gây ra cho ông.

Trung sĩ Morexu khác với các cấp trên khác của Mila. Ông coi khinh sự danh giá và những tấm ảnh đăng trên báo. Vì thế, Mila đã chuẩn bị tinh thần nghe trách mắng vì cách thức hành động ở nhà thầy giáo dạy nhạc.

Morexu rất mau lẹ trong cung cách và cả trong suy nghĩ. Ông không thể giữ nguyên một cảm xúc quá vài giây. Vừa mới nổi giận đùng đùng, thoắt cái ông đã lại tươi cười và tử tế đáng kinh ngạc. Thêm vào đó, để cho tiện, Morexu hay kết hợp các động tác với nhau. Chẳng hạn như, để an ủi người khác, ông vừa đặt tay lên vai người đó vừa đưa anh ta ra cửa. Hoặc là khi nói chuyện điện thoại, ông đưa ống nghe lên gãi trán.

Nhưng lần này Morexu không vội.

Ông để Mila đứng trước bàn làm việc của mình, không mời cô ngồi xuống. Sau đó ông nhìn cô chăm chú, trong khi duỗi hai chân dưới bàn và dang rộng hai tay.

- Tôi không biết liệu cô có nhận thức được việc đã xảy ra hôm nay...

- Tôi biết, tôi đã phạm một sai lầm. - Mila nói luôn.

- Không phải thế, cô đã cứu được ba mạng người.

Lời tuyên bố khiến Mila sững người một lúc lâu.

- Những ba ạ?

Morexu ngồi thẳng người lại trên ghế và đưa mắt nhìn tờ giấy đặt trước mặt.

- Họ đã tìm thấy các ghi chú tại nhà của thầy dạy nhạc. Có vẻ như hắn đã có ý định bắt cóc một lần nữa...

Morexu đưa cho Mila bản chụp của một trang sổ tay. Bên dưới dòng ngày tháng có ghi một cái tên.

- Priscilla? - Cô tự hỏi.

- Priscilla. - Morexu lặp lại.

- Ai thế ạ?

- Một cô bé may mắn.

Morexu không nói gì thêm. Vì ông không biết gì hơn. Không có họ, không địa chỉ, cũng chẳng có ảnh chụp. Không có gì. Chỉ vỏn vẹn cái tên Priscilla.

- Vậy nên cô đừng có đá thúng đụng nia nữa. Hôm nay tôi đã quan sát cô ở buổi họp báo: cô có vẻ muốn tung hê mẹ nó hết cả. - Morexu nói thêm trước khi Mila kịp phản ứng.

- Đúng vậy.

- Khỉ thật, Vasquez! Thế cô không nhận ra những người được cô cứu thoát biết ơn cô đến mức nào à? Đó là còn chưa nói đến gia đình của họ!

Ông chưa thấy mẹ của Elisa Gomes đâu, Mila đã định vặc lại như thế. Nhưng cô ngoan ngoãn chấp nhận. Morexu nhìn nét mặt cô và lắc đầu.

- Từ khi cô đến đây, tôi chưa hề nghe ai phàn nàn về cô.

- Thế là hay hay dở?

- Nếu cô không tự biết lấy câu trả lời, thì cô có vấn đề đấy, cô bé ạ... Vì lý do này, tôi đã quyết định hình thức làm việc theo nhóm sẽ có ích cho cô.

Nhưng Mila không đồng ý.

- Tại sao? Tôi làm công việc của tôi, đó là điều duy nhất mà tôi quan tâm. Hiện nay tôi đã quen tự mình xoay xở như thế này. Tôi sẽ phải điều chỉnh phương pháp của mình cho thích hợp với người khác. Làm thế nào tôi có thể giải thích được...

- Cô đi thu xếp hành lý đi. - Morexu gạt phăng lời phản đối của Mila.

- Việc gì phải vội thế?

- Vì cô sẽ lên đường tối nay.

- Tôi bị phạt hay sao?

- Không, nhưng đây cũng không phải là một kỳ nghỉ. Người ta đang cần sự hỗ trợ của chuyên gia. Mà cô thì nổi tiếng quá rồi.

Nữ cảnh sát nghiêm mặt.

- Có chuyện gì thế ạ?

- Vụ bắt cóc năm bé gái.

Mila có loáng thoáng nghe nói về vụ này trên bản tin thời sự.

- Sao lại là tôi? - Cô hỏi.

- Bởi vì hình như có một cô bé thứ sáu, nhưng bọn họ chưa biết được là ai...

Cô những muốn có thêm các giải thích khác, nhưng Morexu đã quyết định chấm dứt cuộc nói chuyện. Ông tỏ ra vội vã và cầm một tập hồ sơ rồi chỉ ra cửa.

- Trong này có cả vé tàu của cô.

Mila cầm lấy tập hồ sơ và đi ra. Nhưng trước khi rời văn phòng, cô quay lại nhìn ông trung sĩ cảnh sát.

- Priscilla, hả sếp?

- Ừ...
 
Chương 4


The Piper at the Gates of Dawn, 1967. A Saucerful of Secrets, 1968. Ummagumma là vào năm 1969, giống như album nhạc phim More. Năm 1971 thì có đĩa nhạc Meddle. Nhưng trước đó còn một đĩa hát khác... Vào năm 1970, hắn chắc chắn điều đó. Hắn không nhớ ra tựa đề. Trên bìa đĩa có hình ảnh một con bò cái. Khỉ thật, cái đĩa tên là gì nhỉ?

Mình phải đổ xăng mới được, hắn nghĩ bụng.

Kim xăng đang ở mức thấp nhất, đèn báo đã thôi không còn nhấp nháy mà để sáng liên tục một màu đỏ nhức nhối.

Nhưng hắn không muốn dừng lại.

Lúc này hắn đã lái xe được năm tiếng đồng hồ và đi được gần sáu trăm cây số. Nhưng dù đã ở cách xa sự việc xảy ra đêm qua, hắn vẫn không cảm thấy khá hơn. Đôi tay hắn cứng đơ trên vôlăng. Cơ cổ căng lên khiến hắn đau nhức.

Hắn ngoảnh đầu lại một lúc.

Đừng nghĩ đến nó... đừng nghĩ đến nó...

Hắn làm đầu óc mình bận rộn với việc lục lọi trong trí nhớ những điều quen thuộc, để tự làm mình yên lòng. Trong suốt mười phút vừa qua, hắn tập trung vào các đĩa nhạc của nhóm Pink Floyd. Còn trong bốn tiếng đồng hồ trước đó, hắn điểm lại các tựa phim yêu thích, những cầu thủ đã chơi cho đội khúc côn cầu mà hắn hâm mộ trong ba mùa giải vừa qua, tên những người bạn học cùng lớp và các thầy cô giáo của hắn. Hắn lần ngược đến tận bà giáo Berger. Bà ấy thế nào rồi nhỉ? Hắn muốn gặp lại bà. Cái gì cũng được, miễn là đẩy lùi được suy nghĩ đó. Còn bây giờ, tâm trí hắn đang mắc kẹt với cái đĩa nhạc đáng nguyền rủa với hình con bò cái trên bìa!

Ý nghĩ kia lại xuất hiện.

Cần phải xua nó đi một lần nữa. Nhét nó trở vào trong góc tâm trí, nơi hắn đã cầm giữ nó thành công nhiều lần trong đêm nay. Nếu không được, hắn sẽ lại toát mồ hôi, thỉnh thoảng run bắn lên vì tuyệt vọng, mặc dù chuyện đó không kéo dài. Nỗi sự làm bụng hắn thắt lại, nhưng hắn buộc mình phải tỉnh táo.

- Atom Heart Mother!

Phải rồi, đó là tựa đề của đĩa nhạc. Trong một lúc, hắn đã cảm thấy sung sướng. Nhưng tâm trạng đó không kéo dài lâu. Ở vào tình thế của hắn thì làm sao có thể vui vẻ được.

Hắn lại ngoảnh đầu nhìn phía sau.

Mình phải đổ xăng mới được, hắn lại nghĩ.

Lâu lâu, mùi khai khẳm từ dưới tấm thảm xe dưới chân lại xộc lên, nhắc hắn nhớ mình đã đi tiểu ngay lên đó. Các cơ bắp ở chân hắn nhức nhối, hắn không còn cảm nhận được bắp chân của mình nữa. Cơn bão vừa càn quét qua đường cao tốc suốt cả đêm đã đi xa dần lên núi. Hắn vẫn còn thấy những tia sáng xanh lét ở phía chân trời, trong khi tay phát thanh viên trên đài đọc bản tin thời tiết đến lần thứ bao nhiêu không biết nữa. Trời sắp rạng đến nơi rồi. Một giờ trước đó hắn đã rời đường cao tốc và đi theo quốc lộ. Thậm chí hắn không buồn dừng lại để trả phí cầu đường. Lúc này, mục tiêu của hắn là đi thật xa.

Và làm theo mệnh lệnh đã được giao.

Trong vài phút, hắn thả hồn đi vơ vẩn nơi khác. Nhưng rồi, không thể tránh khỏi, những ký ức đêm qua lại ùa về.

Sáng hôm qua hắn đã đến khách sạn Modigliani tầm độ mười một giờ. Suốt buổi chiều, hắn làm công việc chào hàng trong thành phố, sau đó dùng bữa tối với khách hàng ở khách sạn, đúng như dự kiến. Quá mười giờ đêm một chút, hắn về phòng mình.

Sau khi đã khép cửa phòng, hắn bắt đầu tháo càvạt trước gương. Chính lúc đó, hình ảnh trong gương đã cho hắn thấy bộ mặt quỷ ám thực sự của hắn, với làn da xâm xấp mồ hôi và đôi mắt vằn đỏ. Hắn có diện mạo này những khi bị dục vọng chế ngự.

Lúc nhìn vào hình ảnh bản thân, hắn ngạc nhiên tự hỏi làm thế nào hắn che giấu những suy nghĩ thực sự của mình trước các khách hàng tài tình đến thế trong suốt buổi tối. Hắn đã trò chuyện với họ, lắng nghe câu chuyện tào lao nhạt nhẽo của họ về môn golf và đám đàn bà yêu sách, lại còn cười ha hả trước những câu pha trò vô duyên tục tĩu của bọn họ nữa. Nhưng hắn đã ở một nơi khác. Hắn tận hưởng trước cái khoảnh khắc mà hắn được ở trong phòng khách sạn, càvạt đã nới lỏng, cho phép bụm acid mắc kẹt trong họng được trào ngược lên và bung ra trên khuôn mặt mình, dưới dạng những giọt mồ hôi, làn hơi thở gấp gáp và tia nhìn hiểm độc.

Khuôn mặt thật của hắn bên dưới lớp mặt nạ.

Trong căn phòng riêng biệt, rốt cuộc hắn cũng đã có thể thả tự do cho nỗi ham muốn chất chứa trong lồng ngực và trong quần, chỉ chực bùng vỡ. Nhưng không. Hắn đã tự kiềm chế được.

Bởi vì hắn sắp sửa ra ngoài.

Như mọi khi, hắn thề độc rằng đây là lần cuối. Như thường lệ, lời hứa ấy được lặp lại trước và sau đó. Và cũng đã bao lần, nó đều bị phá vỡ, để rồi lại được tái lặp ở lần sau.

Hắn đã rời khách sạn vào tầm nửa đêm trong tình trạng cực kì hưng phấn. Hắn đi lòng vòng vì còn sớm. Lúc ban chiều, giữa hai cuộc hẹn, hắn đã kiểm tra vị trí để bảo đảm là mọi thứ diễn ra suôn sẻ theo đúng kế hoạch. Từ hai tháng trước, hắn đã chuẩn bị và ve vãn “nàng bướm” của mình một cách thận trọng. Sự chờ đợi chỉ là niềm vui trước mắt của khoái lạc. Và hắn tận hưởng nó. Hắn chăm chút cho từng chi tiết, vì các chi tiết luôn tự tiết lộ lẫn nhau. Nhưng với hắn thì không, chuyện đó chưa bao giờ xảy ra. Sẽ không bao giờ xảy ra. Mặc dù bây giờ, sau vụ cảnh sát phát hiện ra nghĩa địa cánh tay, hắn sẽ phải cẩn trọng hơn. Trên đường phố có nhiều cảnh sát trong tình trạng báo động, nhưng hắn rất giỏi biến mình thành vô hình. Hắn chẳng có gì phải sợ. Chỉ việc thư giãn. Chẳng bao lâu nữa, hắn sẽ nhìn thấy nàng bướm của mình trên đại lộ, tại một địa điểm đã ấn định từ hôm trước. Hắn luôn sợ chúng sẽ đổi ý vào phút chót. Hắn sợ có điều gì nhầm lẫn trong vai trò mà cả hai sẽ cùng đóng. Trong trường hợp đó, hắn sẽ buồn lắm. Nỗi buồn cay đắng mà người ta phải mất mấy ngày mới tống khứ đi được, và tệ hơn nữa là họ không thể che giấu nó. Nhưng hắn tiếp tục tự nhắc mình rằng lần này mọi thứ cũng sẽ diễn ra trôi chảy.

Nàng bướm sẽ đến.

Hắn sẽ nhanh chóng đưa nàng lên xe, với thái độ đón tiếp nhã nhặn thường lệ. Điều đó không chỉ làm hắn thích thú, mà quan trọng là giúp xua tan những mối nghi ngờ do nỗi sợ gây ra. Hắn đưa nàng bướm đến nơi hắn đã chọn lúc chiều: một con đường nhỏ tách biệt, nơi người ta có thể nhìn thấy hồ.

Những nàng bướm luôn có mùi hương rất mạnh. Kẹo cao su, giày thể thao. Và mồ hôi. Hắn thích thế. Từ giờ, thứ mùi ấy sẽ là một phần của chiếc xe.

Hiện tại cũng thế, hắn ngửi thấy nó, trộn lẫn với mùi nước tiểu. Hắn lại khóc. Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra kể từ khoảnh khắc đó. Sự chuyển đổi từ hạnh phúc và hưng phấn sang thứ ập đến sau đó xảy ra quá đột ngột.

Hắn ngoái nhìn đằng sau.

Mình phải đổ xăng thôi.

Nhưng hắn lại quên bẵng ngay, và sau khi hít một chút không khí xú uế, hắn lại chìm đắm trong hồi ức về chuyện đã xảy ra sau đó...

Hắn đã dừng xe đợi bướm. Vầng trăng mờ chốc chốc lại chọc xuyên qua màn mây. Để xua nỗi lo lắng, hắn ôn lại kế hoạch. Đầu tiên, cả hai sẽ nói chuyện. Nhưng hắn thì nghe là chính. Vì hắn biết những nàng bướm luôn có nhu cầu đón nhận điều không tìm thấy ở nơi khác: đó là sự chú ý. Vai trò này cực kì hợp với hắn. Kiên nhẫn lắng nghe con mồi bé nhỏ dốc bầu tâm sự và dần trở nên mềm yếu. Nàng bướm sẽ thôi đề phòng và để cho hắn thoải mái đi vào những lãnh địa sâu kín.

Gần rãnh nứt của tâm hồn.

Hắn luôn nói điều gì đó thật thích hợp. Lần nào cũng thế. Chính nhờ vậy mà hắn đã làm chủ được những nàng bướm. Dạy người khác về những ham muốn của bản thân họ, giảng giải chi tiết điều họ muốn, chỉ cho họ cách tiến hành. Quan trọng là ở chỗ đó. Trở thành trường đào tạo, thành bãi huấn luyện. Khai sáng về cái được gọi là khoái cảm.

Trong khi soạn bài học kì diệu cho phép mở toang cánh cửa thân mật ấy, hắn đã lơ đãng nhìn vào kính chiếu hậu của xe hơi.

Lúc đó hắn mới trông thấy.

Một thứ gì đó hư ảo như một bóng ma. Thứ mà người ta hoàn toàn có thể không thấy, vì nó hiện ra ngay từ trong tưởng tượng của họ. Và hắn đã nghĩ ngay đến một ảo ảnh.

Đến khi có cú đấm ấy vào kính cửa xe.

Cánh cửa bật mở với một âm thanh sắc lạnh. Bàn tay luồn vào trong xe, tóm lấy cổ hắn, rồi siết lại. Không có cách nào phản ứng. Một luồng không khí lạnh tràn vào trong xe, và hắn còn nhớ mình đã nghĩ: Mình quên mất cái chốt an toàn rồi! Chốt an toàn! Làm như nó đủ để ngăn chuyện đó lại.

Gã lạ mặt có một sức mạnh khủng khiếp. Hắn bị lôi tuột ra khỏi xe chỉ bằng một tay của gã. Một chiếc mũ trùm đầu đã che mất khuôn mặt của kẻ tấn công. Trong khi bị túm cổ, hắn liền nghĩ tới nàng bướm: con mồi quý giá mà hắn đã mất bao công sức dụ dỗ thế là đã tuột mất.

Và đương nhiên, tại thời điểm đó hắn đã trở thành con mồi.

Cái siết cổ lơi ra, hắn bị quẳng xuống đất. Tiếp đó, gã đàn ông bỏ mặc hắn nằm đấy để quay lại chiếc xe. Thôi rồi, nó đang đi kiếm vũ khí để kết liễu mình. Thế là, do bản năng sinh tồn thúc đẩy, hắn đã cố lê lết trên nền đất ướt lạnh lẽo, mặc dù chỉ cần vài bước thôi là kẻ tấn công đội mũ trùm đầu sẽ bắt kịp hắn và hoàn tất công việc.

Toàn những việc vô ích mà người ta hay làm khi muốn thoát chết, bây giờ hắn ngẫm lại trong khi lái xe. Một số người đưa bàn tay lên trước nòng súng, chỉ để bị viên đạn xuyên qua. Số khác thì ném mình qua cửa sổ nhà cao tầng để thoát khỏi đám cháy... Ai cũng muốn tránh điều không thể tránh được, và tự biến mình thành trò cười.

Hắn không nghĩ mình nằm trong số những người đó. Hắn luôn tin chắc hắn có thể đương đầu với cái chết một cách đường hoàng. Ít nhất là cho đến đêm hôm ấy, khi hắn bò trườn như một con sâu ngớ ngẩn tìm đường thoát thân. Khó nhọc lê lết, hắn đi được đúng hai mét.

Rồi hắn ngất đi.

Hai cái tát vào mặt làm hắn tỉnh lại. Gã đàn ông bịt mặt đã quay lại. Gã cúi xuống nhìn hắn bằng đôi mắt mờ đục. Gã hất đầu chỉ chiếc xe và nói gọn lỏn:

- Đi đi, đừng có dừng lại, Alexander.

Gã đàn ông bịt mặt biết tên hắn.

Lúc đầu, hắn thấy chuyện đó có vẻ hợp lý. Nhưng về sau nghĩ lại, việc đó càng làm hắn kinh hoàng hơn.

Đi khỏi chỗ đó. Lúc ấy hắn không tin nổi điều mình nghe được. Hắn gượng dậy và loạng choạng tiến đến chiếc xe, cố gắng đi nhanh hết mức có thể vì sợ gã kia đổi ý. Hắn ngồi vào ghế lái, mắt vẫn còn nhập nhèm, tay run đến mức không thể khởi động xe. Khi hắn nổ máy được cũng là lúc chuyến đi dài suốt đêm bắt đầu. Đi xa khỏi chỗ đó, càng xa càng tốt...

Mình phải đổ xăng mới được, hắn nghĩ bụng, quay về thực tế được một chút.

Bình xăng đã gần cạn. Hắn tìm kiếm bảng báo hiệu trạm nghỉ ven đường, trong bụng tự hỏi liệu đây có phải là một phần của nhiệm vụ mà hắn nhận được đêm nay hay không.

Đừng dừng lại.

Cho đến lúc một giờ sáng, hai câu hỏi vẫn quay cuồng trong tâm trí hắn. Tại sao gã đàn ông bịt mặt để hắn đi? Chuyện gì đã xảy ra trong lúc hắn bất tỉnh nhân sự?

Hắn có câu trả lời khi đã hồi phục phần nào sự sáng suốt của mình và nghe thấy tiếng động.

Một âm thanh cọ xát khe khẽ vào thành xe, kèm theo tiếng đập đều đặn - kịch, kịch, kịch. Tiếng động nghe đục và cứ vang lên mãi. Gã đã làm cái gì đó với chiếc xe. Sớm muộn gì thì một bánh xe cũng sẽ long ra khỏi trục, mình sẽ mất lái và đâm sầm vào dải phân cách! Nhưng chuyện đó không xảy ra. Vì âm thanh kia không phải là trong kết cấu xe phát ra. Mãi sau hắn mới hiểu ra điều đó... Dù hắn không đủ tỉnh táo để thừa nhận việc này.

Đúng lúc ấy, hắn trông thấy một tấm bảng chỉ đường, cho biết trạm dừng gần nhất còn cách không đầy tám cây số. Hắn có thể đến đó, nhưng phải tăng tốc lên.

Nghĩ đến đây, hắn quay nhìn phía sau một lần nữa.

Nhưng hắn không bận tâm đến con đường quốc lộ đã bỏ lại phía sau, cũng như những chiếc xe hơi đang chạy theo xe hắn.

Không, cái nhìn của hắn dừng lại ở một điểm gần hơn thế nhiều.

Thứ đang bám theo hắn không ở trên đường. Nó gần hơn. Nó chính là thứ đã gây ra tiếng động. Một thứ mà hắn không thể rũ bỏ.

Nó nằm trong cốp xe của hắn.

Hắn nhìn chằm chằm vào cái cốp xe. Mặc dù hắn cố tình không muốn nghĩ đến thứ đang nằm trong đó. Khi Alexander Bermann quay lại nhìn phía đằng trước thì đã quá muộn. Viên cảnh sát đứng bên vệ đường đang ra hiệu cho hắn dừng xe.
 
Chương 5


Mila xuống tàu, gương mặt nhờn bóng và đôi mắt sưng mọng sau một đêm không ngủ. Cô bước đi dưới mái che của ga tàu. Nhà ga gồm có một tòa nhà chính được xây từ thế kỷ thứ XIX và một trung tâm thương mại khổng lồ. Tất cả mọi thứ đều ngăn nắp và sạch sẽ. Thế nhưng, chỉ sau vài phút, cô đã nhận ra tất cả những góc tối của nó. Những nơi mà cô sẽ sục vào nếu phải đi tìm bọn trẻ mất tích. Nơi cuộc sống được mua và bán, rình mò hay ẩn nấp. Nhưng cô ở đây không phải vì những chuyện đó.

Sắp tới, một ai đó sẽ đến đưa cô đi xa khỏi nơi này. Hai đồng nghiệp ngồi đợi cô trong chốt cảnh sát của ga tàu. Một là nữ, khoảng bốn mươi, béo lùn, nước da vàng nâu, mái tóc cắt ngắn và cái hông rộng, quá rộng so với chiếc quần jean. Người kia là nam giới, tuổi khoảng ba tám, to cao và vạm vỡ. Anh ta khiến cô nhớ đến đám choai choai lực điền ở thị trấn quê nhà cô. Hồi học trung học, cô đã đi chơi với hai ba cậu trong đám ấy. Hồi ấy bọn cô mới vụng về làm sao.

Anh chàng cảnh sát mỉm cười với Mila, trong khi người đồng nghiệp của anh ta chỉ nhướng một bên mày quan sát cô. Cô tiến đến để chào họ theo nghi thức. Sarah Rosa chỉ nêu tên và cấp bậc của mình, trong khi anh chàng cảnh sát chìa tay ra với cô:

- Cảnh sát đặc nhiệm Klaus Boris. - Anh nói, đoạn tỏ ý muốn đỡ hộ cô cái túi vải dù. - Để đấy, tôi xách cho.

- Không cần đâu, cám ơn anh. Tôi tự xách được rồi. - Mila đáp.

Nhưng anh ta cứ nài ép:

- Có gì đâu mà.

Qua giọng điệu của anh chàng cùng với nụ cười dai dẳng, Mila cảm thấy tay cảnh sát Boris này thuộc dạng Don Juan, trong đầu luôn nghĩ mình có thể quyến rũ mọi phụ nữ anh ta gặp gỡ. Cô thậm chí còn tin rằng ngay từ lúc nhìn thấy cô ở phía xa, anh ta đã quyết định thử vận may.

Boris đề nghị uống cà phê trước khi lên đường, nhưng Sarah Rosa lườm anh chàng một cái.

- Có chuyện gì thế? Tôi nói gì sai à? - Anh ta biện hộ.

- Ta không có thời gian, cậu quên rồi à? - Sarah hỏi lại với giọng cương quyết.

- Đồng nghiệp của chúng ta đã phải đi một chặng đường dài, nên tôi nghĩ...

- Không cần đâu. - Mila cắt ngang. - Tôi thế này cũng ổn rồi. Cám ơn anh.

Mila không định chống đối Sarah, mặc dù cô ta cũng chẳng có vẻ gì là cảm kích trước sự nhiệt tình của cô.

Ba người tiến đến chiếc xe hơi ngoài bãi đậu xe. Boris ngồi vào ghế lái. Rosa chiếm lấy chỗ cạnh anh chàng. Mila ngồi phía sau, cùng với túi đồ của cô. Chiếc xe hòa vào dòng xe cộ trên con đường chạy dọc bờ sông.

Sarah Rosa có vẻ phật ý vì phải làm nhiệm vụ hộ tống một nữ đồng nghiệp. Ngược lại Boris không hề bực mình.

- Chúng ta đi đâu đây? - Mila rụt rè hỏi.

Boris nhìn cô qua gương chiếu hậu.

- Đến sở. Chánh thanh tra Roche muốn nói chuyện với cô. Ông ấy là người sẽ chỉ đạo cô.

- Chúng tôi không yêu cầu cô bắt bớ gì đâu. - Rosa xẵng giọng. - Chuyện đó để chúng tôi lo. Việc của cô chỉ là tìm ra tên của bé gái thứ sáu. Tôi hy vọng là cô đã xem hồ sơ...

Mila phớt lờ âm điệu chán ngán trong giọng nói của Rosa, chỉ vì câu nói của chị ta khiến cô nhớ lại đêm thức trắng cô vừa trải qua. Những tấm ảnh chụp các cánh tay bị chôn vùi. Vài thông tin pháp y ít ỏi về tuổi và thời điểm tử vong của các nạn nhân.

- Chuyện gì đã xảy ra? Trong rừng ấy? - Cô hỏi.

- Vụ án lớn nhất trong thời gian qua! - Boris phớt lờ việc lái xe để buông lời bình phẩm, phấn khích như một cậu bé. - Tôi chưa bao giờ thấy điều gì tương tự. Theo tôi, vụ này làm nóng đít khối ông lớn đấy. Chính vì thế mà Roche đứng ngồi không yên.

Mila chưa gặp ông chánh thanh tra, nhưng rõ ràng là thuộc cấp của Roche chẳng nể trọng ông ta cho lắm. Boris dám nói huỵch toẹt như thế trước mặt Sarah Rosa, chứng tỏ cô ta cũng đồng tình, mặc dù không biểu hiện ra. Không hay rồi. Cô nghĩ bụng. Mặc kệ những lời bình phẩm vừa nghe, cô định bụng chỉ phán xét thanh tra Roche trên cung cách làm việc của ông ta thôi.

Rosa lặp lại câu hỏi, khiến Mila nhận ra cô ta đang nói chuyện với mình.

- Máu của cô đấy à?

Sarah Rosa đang quay người lại trên ghế trước, tay chỉ xuống dưới. Mila nhìn vào đùi mình. Quần cô có một vệt thẫm màu. Vết thương của cô lại bị hở miệng. Cô lập tức đặt tay lên chỗ đó và cảm thấy cần phải thanh minh.

- Tôi bị ngã trong khi chạy thể dục. - Cô nói dối.

- Cô hãy để ý đến nó đi, vết thương của cô ấy. Chúng tôi không muốn máu của cô dây vào tang chứng đâu.

Mila tự nhiên cảm thấy khó chịu trước lời phàn nàn vừa rồi, đặc biệt là khi Boris cũng đang nhìn cô qua gương chiếu hậu. Cô không muốn nói tiếp chuyện này, nhưng Rosa chưa chịu ngừng lên lớp:

- Có lần, một cậu lính mới phụ trách bảo vệ hiện trường một vụ án có yếu tố tình dục đã sử dụng phòng vệ sinh của nạn nhân. Thế là trong suốt sáu tháng trời, chúng tôi bám theo một bóng ma vì tưởng là tên sát nhân đã quên giật nước.

Boris bật cười. Mila cố gắng thay đổi chủ đề:

- Tại sao các anh chị lại gọi tôi đến? Chẳng lẽ mọi người không thể điểm lại các báo cáo mất tích trong tháng vừa rồi để lần ngược ra cô bé hay sao?

- Đừng có hỏi chúng tôi... - Rosa nói với giọng hậm hực.

Công việc bẩn thỉu, Mila thầm nghĩ. Lý do họ gọi cô đến đã rõ quá rồi. Thanh tra Roche muốn giao việc đó cho một người ngoài nhóm, không quá gần gũi, để có thể đổ trách nhiệm cho người đó nếu như họ không tìm được cái xác thứ sáu.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

- Thế còn gia đình của năm bé gái kia? - Mila hỏi.

- Bọn họ cũng đã đến sở cảnh sát. Để phân tích ADN.

Mila nghĩ đến những ông bố bà mẹ khốn khổ buộc phải chơi trò xổ số ADN, để được chắc chắn là con gái mình đã bị giết chết và cắt xẻo một cách man rợ. Cuộc sống của họ sắp thay đổi mãi mãi.

- Vậy chúng ta đã biết gì về con quái vật đó? - Cô hỏi để xua đi ý nghĩ vừa rồi.

- Ở đây, chúng tôi không dùng chữ “quái vật”. - Boris lưu ý Mila. - Làm như vậy là giải thể nhân cách cho thủ phạm. - Anh chàng vừa nói vừa nháy mắt với Rosa đầy ngụ ý. - Giáo sư Gavila không hài lòng với chuyện ấy.

- Giáo sư Gavila? - Mila thắc mắc.

- Rồi cô sẽ được gặp ông ấy.

Cảm giác khó chịu của cô tăng dần. Rõ ràng là mức độ hiểu biết ít ỏi về vụ án khiến cô gặp bất lợi so với các đồng nghiệp những người có thể dựa vào đó để chơi khó cô. Nhưng lần này cũng thế, Mila không nói gì.

Rosa rõ ràng không muốn để cho Mila yên thân. Cô ta dọa cô bằng giọng kẻ cả:

- Biết không, cô em, nếu cô có tắc tị trong vụ này thì cũng đừng ngạc nhiên. Chắc chắn cô rất giỏi trong lĩnh vực của mình, nhưng đây là một chuyện khác. Các tội ác hàng loạt đều có những nguyên lý khác. Những nạn nhân của chúng cũng thế. Họ chẳng làm gì nên tội cả. Lỗi lầm duy nhất của họ là xuất hiện ở một nơi tệ hại vào thời điểm tệ hại. Hoặc rời khỏi nhà với bộ trang phục màu này mà không phải là màu khác. Hay thậm chí, như trường hợp này, ai bảo các cô bé là con gái, da trắng, tuổi từ chín đến mười ba làm gì... Nói cô đừng buồn, chứ chuyện này, cô không thể nào thấu hiểu được đâu. Tôi nói không có ý cá nhân gì đâu nhé.

Phải, nói cứ như đúng rồi ấy, Mila nghĩ bụng. Kể từ phút đầu tiên gặp mặt, Rosa đã biến mọi chủ đề thành chuyện cá nhân.

- Tôi học nhanh mà. - Mila đáp.

Rosa quay lại nhìn cô, ánh mắt nghiêm nghị hơn.

- Cô có con chứ?

Mila chưng hửng mất một giây.

- Không, mà sao vậy? Có liên quan gì ở đây?

- Bởi vì khi cô tìm ra bố mẹ của đứa trẻ thứ sáu, cô sẽ phải giải thích cho họ “lý do” khiến cô con gái cưng của họ bị hành hạ như thế. Ấy vậy nhưng cô lại chẳng biết cái quái gì về họ, cô không biết được những hy sinh họ đã trải qua để nuôi nấng con bé, những đêm trắng khi nó bị sốt, những khoản tiền chắt bóp để cho nó ăn học, bảo đảm một tương lai cho nó, những khoảng thời gian dài lê thê họ phải dành ra để ngồi chơi hoặc làm bài tập cùng nó.

Giọng nói của Rosa càng lúc càng lạc đi.

- Và cô cũng sẽ không biết tại sao ba trong số các nạn nhân đã dùng sơn móng tay bóng, tại sao một trong số chúng lại có một vết sẹo cũ ở khuỷu tay, có thể là do ngã xe đạp hồi năm tuổi, hay tại sao chúng nó lại xinh xắn và dễ thương đến thế, với những ước mơ và khát vọng của thời thơ ngây mà nay đã bị vẩn đục! Những chuyện ấy, cô sẽ không hiểu được, bởi vì cô chưa từng làm mẹ.

- Hollie. - Mila đáp gọn lỏn.

- Cái gì? - Sarah Rosa nhìn cô thắc mắc.

- Nhãn hiệu của sơn móng tay là Hollie. Nó bóng và có màu san hô. Đó là quà khuyến mãi cách đây một tháng của một tờ tạp chí tuổi ô mai. Chính vì thế mà có đến ba nạn nhân cùng sử dụng: chiêu khuyến mãi đó rất thành công... Ngoài ra, một trong số các nạn nhân có đeo một chiếc vòng tay may mắn.

- Chúng tôi có tìm thấy cái vòng tay nào đâu? - Boris nói. Anh bắt đầu cảm thấy hứng thú với câu chuyện.

Mila lôi các tấm hình trong hồ sơ ra.

- Cô bé số hai, Anneke. Làn da nơi cổ tay hơi sáng hơn, cho thấy cô bé có đeo một thứ gì đó. Có lẽ tên giết người đã tháo nó đi, hoặc là cô bé đã làm mất nó khi bị bắt cóc hay trong lúc chống cự. Các nạn nhân đều thuận tay phải, trừ số ba. Cô bé có vết mực ở mặt cạnh của ngón trỏ trái, chứng tỏ thuận tay trái.

Boris ngưỡng mộ ra mặt, Rosa thì ngỡ ngàng. Mila không dừng lại ở đó.

- Một điều cuối cùng: nạn nhân số sáu, người mà chúng ta còn chưa biết danh tính, có quen biết nạn nhân đầu tiên, Debby.

- Làm sao cô biết được chuyện này? - Rosa hỏi.

Mila rút ra hai tấm ảnh chụp cánh tay số một và số sáu.

- Điểm màu đỏ trên đầu của hai ngón trỏ... Hai cô bé này từng kết nghĩa chị em.

Ban khoa học hành vi của cảnh sát liên bang chuyên phụ trách những tội ác đặc biệt nghiêm trọng. Roche đứng đầu ban này đã được tám năm, và kể từ đó, ông đã làm một cuộc cách mạng trong tác phong lẫn phương pháp làm việc. Chính ông là người đã mở cửa cho những nhân vật không phải là cảnh sát như giáo sư Gavila, người được xem như là chuyên gia tội phạm học cách tân nhất hiện giờ.

Trong đơn vị điều tra, Stern là chuyên viên xử lý thông tin. Anh là người có thâm niên và cấp bậc cao nhất. Công việc của anh là tập hợp các thông tin dùng để thiết lập các hồ sơ cá nhân và đối chiếu với các vụ án khác. Anh đóng vai trò “bộ nhớ” của nhóm.

Sarah Rosa phụ trách điều phối và là một chuyên gia tin học. Cô dành phần lớn thời gian để cập nhật các công nghệ mới. Cô là người được đào tạo chuyên biệt cho việc lên kế hoạch các chiến dịch của cảnh sát.

Cuối cùng, Klaus Boris là thẩm vấn viên. Nhiệm vụ của anh là xét hỏi các cá nhân có liên quan ở nhiều mức độ khác nhau và dồn ép kẻ bị tình nghi đến khi chịu nhận tội. Anh sở hữu nhiều kỹ năng chuyên sâu cho công việc đó. Và nói chung thì anh luôn đạt được mục tiêu.

Tuy Roche là người điều hành, nhưng ông không thực sự dẫn dắt nhóm, mà để cho trực giác của giáo sư Gavila định hướng các cuộc điều tra. Ngài chánh thanh tra trước hết là một chính trị gia, nên các lựa chọn của ông thường bị chi phối bởi những nguyên nhân gắn bó mật thiết với sự nghiệp chính trị của mình. Đối với những cuộc điều tra kết thúc tốt đẹp, ông luôn ra mặt đón nhận chiến công, còn ngược lại, ông sẽ chia trách nhiệm cho các thành viên trong nhóm, hay “đội của Roche”, như cách gọi mà ông hay dùng.

Đó là chiến thuật khiến cho ông phải chịu thái độ bất bình và thường là khinh bỉ của thuộc cấp.

Mọi người đang tụ tập trong phòng họp ở tầng sáu của tòa nhà ngay trung tâm thành phố, nơi ban điều tra đóng đô.

Mila đứng ngay hàng đầu. Cô đã xử lý lại vết thương của mình trong buồng vệ sinh và dán nó bằng hai miếng băng gạc. Sau đó cô đã thay một chiếc quần jean mới, giống hệt chiếc cũ.

Cô ngồi vào chỗ, đặt túi xuống đất. Ngay lập tức cô nhận ra người đàn ông bên cạnh mình là thanh tra Roche. Ông đang trao đổi gì đó rất hăng với một người khiêm nhường. Người này dường như có một cái quầng lạ lùng màu xám xịt bao quanh. Cô dám cá là ở ngoài đường, ông ta sẽ mất hút ngay như một bóng ma. Nhưng ở trong này, sự hiện diện của ông rất quan trọng. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là giáo sư Gavila mà Rosa và Boris đã nhắc tới ở trong xe.

Tuy nhiên, ở giáo sư có điều gì đó khiến người ta lập tức quên ngay bộ quần áo nhăn nhúm và mái tóc rối bù.

Chính là đôi mắt to và xuyên thấu kia.

Vừa tiếp tục trao đổi với Roche, ông vừa chiếu tướng cô bằng đôi mắt của mình. Mila khó chịu nhìn đi hướng khác, và sau một lúc thì giáo sư cũng làm theo, trước khi ngồi xuống cách chỗ cô không xa. Rồi ông hoàn toàn không để ý đến cô nữa, và vài phút sau đó thì cuộc họp chính thức bắt đầu.

Roche bước lên bục mở lời với một cử chỉ trịnh trọng, như thể đang nói chuyện trước một cử tọa đông đảo, chứ không phải một nhóm vẻn vẹn năm người.

- Tôi vừa gọi cho bên khoa học hình sự. Tay Albert của chúng ta không để lại bất kì dấu vết nào. Gã rất khôn khéo. Tại nơi chôn các cánh tay, không hề có vết tích hay dấu vân tay nào. Gã chỉ để lại cho chúng ta sáu cô bé cần phải tìm ra. Sáu thi thể... và một cái tên.

Sau đó thanh tra nhường lời cho giáo sư Goran, nhưng ông không bước lên bục. Ông ngồi tại chỗ, hai tay khoanh lại, chân duỗi dài ra bên dưới hàng ghế phía trước.

- Ngay từ đầu Albert đã biết mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào. Hắn đã trù tính từng chi tiết nhỏ nhất. Hắn là kẻ dẫn dắt trò chơi. Hơn nữa, sáu đã là một con số tròn trịa trong đầu óc của một tên giết người hàng loạt.

- Sáu trăm sáu mươi sáu, con số của quỷ. - Mila xen vào.

Mọi người quay lại nhìn cô với thái độ khó chịu.

- Đừng viện dẫn thứ tầm thường vớ vẩn ấy. - Goran nói với Mila khiến cô muối mặt. - Khi chúng ta nói đến một con số tròn trịa, nghĩa là đối tượng đã hoàn thành một hay nhiều chuỗi giết chóc của mình.

Mila hơi nheo mắt. Đoán chắc cô chưa hiểu, Goran liền giải thích tiếp:

- Chúng ta gọi những kẻ đã giết người ít nhất ba lần với một phương thức tương tự nhau là “kẻ sát nhân hàng loạt”.

- Hai mạng người thì cấu thành tội “sát nhân nhiều lần”. - Boris thêm vào.

- Do vậy sáu nạn nhân tạo thành hai chuỗi.

- Một dạng quy tắc bất thành văn à? - Mila hỏi.

- Không. Nó có nghĩa là khi cô giết người đến lần thứ ba, cô sẽ không dừng lại nữa. - Rosa chen vào để chấm dứt cuộc tranh luận.

- Những cái phanh hãm bên trong đã nhả, cảm giác tội lỗi đã lắng, và kể từ đó tên sát nhân giết chóc một cách máy móc. - Goran chốt lại, sau đó quay ra nói với mọi người. - Nhưng vì sao chúng ta vẫn chưa biết tí gì về thi thể số sáu?

Roche chen vào:

- Chúng ta có biết một manh mối. Theo những gì tôi được nghe báo cáo, thì nữ đồng nghiệp nhanh nhạy của chúng ta đã cung cấp một manh mối tôi cho là quan trọng. Cô ấy đã liên hệ nạn nhân vô danh với Debby Gordon, bé gái đầu tiên. - Roche nói cứ như thể công trạng của Mila thuộc về ông ta vậy. - Mời cô, cảnh sát Vasquez: hãy nói cho chúng tôi nghe về trực giác của cô.

Một lần nữa Mila là tâm điểm của sự chú ý. Cô cụp mắt xuống quyển sổ ghi chép để sắp xếp lại các ý tưởng trước khi nói. Trong lúc đó, Roche ra hiệu cho cô đứng dậy.

Cô đứng lên.

- Debby Gordon và cô bé số sáu quen biết nhau. Tất nhiên đây vẫn chỉ là một giả thiết, nhưng điều này giải thích được lý do tại sao hai đứa có cùng một dấu vết nơi ngón trỏ...

- Nó chính xác là gì vậy? - Goran tò mò hỏi.

- Ơ... nghi thức chích đầu ngón tay bằng một cái kim băng rồi áp hai ngón tay vào nhau để hòa trộn máu: một kiểu cắt máu ăn thề của tụi nhóc. Thông thường nó dùng để ghi dấu ấn cho tình bằng hữu.

Mila cũng đã từng làm thế với cô bạn Graciela. Hai đứa đã dùng một cái đinh gỉ nhặt được, vì chúng thấy kim băng là thứ quá con gái. Kỷ niệm đột ngột hiện về trong đầu Mila. Graciela đã từng là đồng minh của cô. Hai đứa biết tường tận các bí mật của nhau, và có lần đã từng cùng nhau chia sẻ một cậu con trai mà đối tượng không biết gì. Hai cô gái đã để cho cậu chàng tưởng bở rằng mình có thể bắt cá hai tay mà hai cô không hề hay biết. Graciela thế nào rồi nhỉ? Đã nhiều năm Mila không có tin tức gì của cô ấy. Cả hai đứt liên lạc quá sớm, và chưa bao giờ gặp lại nhau. Vậy nhưng hai đứa đã cùng thề nguyền một tình bạn vĩnh cửu. Sao có thể quên điều đó một cách giản đơn đến thế?

- Nếu đó là sự thực thì bé gái số sáu cũng trạc tuổi Debby.

- Phân tích mật độ canxi trong xương của cánh tay số sáu đã khẳng định giả thiết này: nạn nhân ở độ tuổi mười hai. - Boris chen ngang, anh chàng nôn nóng muốn ghi điểm cho Mila.

- Debby Gordon học nội trú trong một trường nhà giàu. Loại trừ khả năng chị em kết nghĩa của cô bé là một trong các cô bạn cùng lớp vì trong các học sinh còn lại không ai bị mất tích.

- Như vậy Debby phải quen cô bé kia ở bên ngoài trường họ. - Boris lại xen vào.

Mila gật gù.

- Debby mới đến ngôi trường này được tám tháng. Chắc hẳn cô bé cảm thấy rất cô độc khi phải sống xa nhà. Tôi bảo đảm cô bé gặp khó khăn trong việc kết bạn. Do vậy tôi cho rằng hai bé gái đã quen biết nhau trong những bối cảnh khác.

- Tôi muốn cô xem qua phòng của cô bé ở trường nội trú. - Roche nói. - Biết đâu sẽ tìm được thứ gì đấy.

- Tôi cũng muốn nói chuyện với bố mẹ của Debby, nếu có thể.

- Tất nhiên, cứ làm những gì cô thấy cần.

Trước khi ngài chánh thanh tra kịp nói thêm, có tiếng gõ cửa vang lên. Ba cú gõ nhanh. Họ nhìn thấy một anh chàng nhỏ thó mặc blouse trắng lao vào không đợi được mời. Anh chàng có mái tóc dày và đôi mắt giống hai hạt hạnh nhân.

- À, bác sĩ Chang. - Thanh tra Roche chào anh ta.

Chang là bác sĩ pháp y phụ trách vụ án này. Mila nhanh chóng nhận ra anh ta không phải là người châu Á. Vì một sự đột biến di truyền kỳ lạ, anh ta bỗng dưng được thừa hưởng những đường nét đặc trưng kia. Tên anh là Leonard Vross, nhưng từ thuở nào đến giờ mọi người vẫn gọi anh là Chang.

Chang đến đứng cạnh Roche. Anh lập tức mở tập hồ sơ mang theo, mặc dù không cần phải đọc vì nội dung của nó anh đã thuộc nằm lòng.

- Tôi muốn mọi người chú ý lắng nghe báo cáo của bác sĩ Chang. - Thanh tra Roche nói. - Mặc dù tôi biết một vài điểm có thể khó hiểu đối với một số người.

Ông ta có ý nhắc khéo Mila, cô chắc chắn như thế.

Chang rút kính trong túi áo ra đeo lên mắt, rồi hắng giọng tuyên bố:

- Tình trạng các cánh tay rất tốt dù bị chôn dưới đất.

Điều này khẳng định giả thiết mà theo đó khoảng thời gian từ lúc các cánh tay bị chôn đến lúc bị phát hiện là khá ngắn. Tiếp theo, bác sĩ Chang nói thêm một vài chi tiết, rồi chuyển sang mô tả cái chết của sáu cô bé gái mà không rào đón gì cả.

- Thủ phạm đã giết các nạn nhân bằng cách chặt tay.

Các vết thương có tiếng nói của chúng. Khi bác sĩ pháp y giơ tấm ảnh chụp một cánh tay lên, cô lập tức chú ý đến quầng màu hơi đỏ chung quanh vết cắt và vết gãy của xương. Sự thâm nhập của máu vào trong mô là dấu hiệu đầu tiên để kết luận vết thương có gây chết người hay không. Nếu nó được gây ra trên một thi thể, khi đó tim đã ngừng hoạt động, máu sẽ chảy dần dần qua các mạch máu bị vỡ mà không ăn sâu vào các mô lân cận. Trong trường hợp ngược lại, vết thương được gây ra khi nạn nhân còn sống, huyết áp tiếp tục truyền đi trong các động mạch và mao mạch, do tim vẫn bơm máu vào các mô tổn thương, trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm hàn gắn chúng lại.

Chang nói tiếp:

- Vết thương nằm ở đoạn giữa cơ nhị đầu cánh tay. Xương không bị giập gãy, vết cắt rất ngọt. Chắc thủ phạm đã dùng một lưỡi cưa rất bén, vì không tìm thấy mạt sắt nơi bờ vết thương. Vết cắt đồng nhất của các mạch máu và các sợi gân cho thấy việc cưa tay đã được thực hiện với một sự khéo léo mà tôi tin là của dân trong nghề giải phẫu. Nguyên nhân tử vong là do mất máu. Đó là một cái chết rất khủng khiếp.

Nghe đến đây, Mila bất giác cụp mắt xuống như một sự thành kính. Nhưng cô lập tức nhận ra chỉ có mình làm như thế.

Chang tiếp tục:

- Tôi cho rằng thủ phạm đã kết liễu các nạn nhân ngay lập tức. Gã không có lợi gì trong việc duy trì sự sống cho bọn trẻ lâu hơn mức cần thiết, và gã không hề chần chừ. Phương pháp ra tay với các nạn nhân là như nhau. Ngoại trừ một cô bé...

Câu nói của Chang lơ lửng trong không trung mất một lúc, trước khi đổ ập xuống nhóm điều tra như một gáo nước lạnh.

- Nghĩa là sao? - Goran hỏi.

Chang đẩy lại gọng kính đã bị tụt xuống chóp mũi, rồi nhìn nhà tội phạm học đăm đăm.

- Đối với một nạn nhân, tình trạng thậm chí còn tệ hại hơn cái chết.

Một sự yên lặng tuyệt đối bao trùm lên căn phòng.

- Thử nghiệm độc chất học đã tiết lộ dấu vết của một hỗn hợp thuốc hiện diện trong máu và mô. Chính xác chúng gồm có các loại thuốc chống loạn nhịp tim như disopyramide, các chất ức chế men chuyển và atenolol, một chất chẹn beta...

- Gã vừa làm chậm nhịp tim của cô bé vừa gây hạ huyết áp. - Giáo sư Goran Gavila thêm vào, lúc này ông đã vỡ lẽ.

- Tại sao? - Stern hỏi, với anh thì mọi chuyện vẫn tối như bưng.

Đôi môi Chang nhăn nhúm lại thành một nụ cười cay nghiệt.

- Gã đã làm giảm nhịp tim của nạn nhân để cái chết đến với cô bé chậm hơn… Gã muốn thưởng thức tấn tuồng.

- Cô bé nào vậy? - Roche hỏi, mặc dù tất cả đều đã biết câu trả lời.

- Số sáu.

Lần này thì Mila chẳng cần phải là chuyên gia về giết người hàng loạt để hiểu được sự tình. Bác sĩ pháp y vừa mới khẳng định rằng tên sát nhân đã thay đổi cách thức hành động của mình. Nói cách khác, gã đã chắc ăn hơn về việc mình làm. Gã đã thử nghiệm một trò chơi mới. Và điều đó làm gã thích thú.

- Gã đã thay đổi vì gã thấy hài lòng với kết quả. Mọi việc đã diễn ra ngày càng thuận lợi hơn. - Goran kết luận. - Có vẻ như gã đã bén mùi.

Một cảm xúc lạ lùng xâm chiếm khắp người Mila. Đó là cú lạnh gáy mà cô cảm thấy mỗi khi đến gần với lời giải của một vụ mất tích. Một điều rất khó lý giải. Thường thì cảm giác đó kéo dài lâu hơn, nhưng lần này, trước cả khi cô kịp nghĩ đến, nó đã bị câu nói tiếp theo của Chang xua tan.

- Còn một việc nữa... - Anh nói thêm với Mila. (Chang không biết cô, nhưng cô là gương mặt lạ duy nhất trong phòng, và chắc hẳn anh đã biết nguyên nhân cô đến đây). - Cha mẹ của các cô bé nạn nhân đang ở phòng bên.

Nhìn từ khung cửa sổ của đồn cảnh sát nằm heo hút trong vùng núi trông ra thành phố, Alexander Bermann có thể thấy toàn bộ bãi đậu xe. Chiếc xe của hắn đậu ở phía cuối bãi, hàng thứ năm. Nhìn từ chỗ hắn thì nó có vẻ rất xa.

Mặt trời trên cao làm mái tôn rực sáng. Sau cơn giông đêm qua, hắn không thể nào tưởng tượng nổi hôm nay là một ngày đẹp trời đến thế. Thời tiết khá ấm áp khiến người ta ngỡ như trời đã sang xuân. Một cơn gió nhẹ len vào qua ô cửa sổ tạo cảm giác thanh bình. Hắn thấy khoan khoái lạ lùng.

Khi bị chặn kiểm tra xe bên đường lúc tảng sáng, hắn không suy sụp, cũng không bị nỗi kinh hoàng chế ngự. Hắn ngồi yên trong xe cùng với cảm giác ẩm ướt khó chịu giữa hai chân.

Từ ghế người lái, hắn thấy rất rõ các viên cảnh sát làm nhiệm vụ của họ bên cạnh chiếc xe hơi. Một người cầm cái bóp đựng giấy tờ của hắn trong tay, và vừa lật ra xem vừa đọc cho người kia các chi tiết để anh ta thông báo qua điện đàm.

Chẳng mấy chốc họ sẽ mở cốp xe của mình, hắn nghĩ bụng.

Tay cảnh sát đã chặn xe hắn có vẻ rất lễ độ. Anh ta trò chuyện về cơn giông dữ dội và tỏ ra thông cảm. Anh ta không nghĩ hắn đã phải lái xe cả đêm trong lúc giông gió như thế.

- Anh không phải người ở đây. - Viên cảnh sát nói khi nhìn biển sổ xe.

- Không, quả thực tôi không phải người vùng này. - Hắn đáp.

Mẩu đối thoại dừng lại ở đó. Trong một thoáng, hắn đã định sẽ kể hết cho viên cảnh sát, nhưng rồi lại đổi ý. Chưa phải lúc. Sau đó viên cảnh sát tiến về phía người đồng nghiệp. Alexander Bermann không rõ chuyện gì sắp diễn ra, nhưng đó là lần đầu tiên bàn tay hắn lơi đi một chút trên vôlăng. Máu lại bắt đầu tuần hoàn trong đôi tay hắn, trả lại cho chúng sắc diện bình thường.

Và hắn lại nghĩ đến lũ bướm.

Chúng quá mỏng manh, quá vô tư về sức hấp dẫn của mình. Hắn đã làm thời gian ngừng lại đối với chúng, làm cho chúng ý thức được những bí ẩn bên trong sự quyến rũ của mình. Những kẻ khác chỉ dừng lại ở chỗ cuỗm lấy vẻ đẹp của chúng. Còn hắn, hắn nâng niu chúng. Xét cho cùng, người ta có thể kết tội hắn vì điều gì kia chứ?

Khi hắn nhìn thấy tay cảnh sát tiến lại xe mình lần nữa, những suy nghĩ kia vụt biến mất, và sự căng thẳng vừa chớm giải tỏa đã lại tăng gấp bội. Họ đã mất quá nhiều thời gian, hắn nghĩ bụng. Trong lúc tiến lại gần, viên cảnh sát đặt một tay lên hông, ngay gần thắt lưng. Gã biết cử chỉ đó có nghĩa là anh ta đang sẵn sàng rút súng. Khi rốt cuộc anh ta cũng đã ở bên cạnh gã, anh ta nói một câu mà gã không ngờ đến.

- Alexander Bermann, mời anh theo chúng tôi về đồn. Giấy tờ của anh thiếu bằng lái xe.

Quái lạ, hắn nghĩ bụng. Mình chắc chắn là có cất bằng lái trong đó mà. Nhưng rồi hắn hiểu ra ngay: gã đàn ông bịt mặt đã lấy nó đi trong khi hắn bất tỉnh... Và giờ thì hắn ở đây, trong cái phòng đợi này, tận hưởng sự ấm áp khác thường của cơn gió nhẹ. Cảnh sát nhốt hắn ở đây sau khi tạm giữ chiếc xe hơi. Việc không rõ mức phạt hành chính của mình chỉ là mối bận tâm thứ yếu đối với hắn. Bọn họ đang túm tụm trong văn phòng làm việc, hoàn toàn không biết gì, bận ra quyết định về những chuyện không còn có chút quan trọng nào với hắn. Làm thế nào để thay đổi thứ tự ưu tiên cho một người chẳng còn gì để mất? Đối với hắn bây giờ, điều quan trọng nhất là cơn gió nhẹ kia tiếp tục mơn trớn không dừng lại.

Trong lúc chờ đợi, hắn quan sát chăm chú bãi đậu xe và các nhân viên cảnh sát ra vào. Chiếc xe hơi của hắn vẫn ở đó, trong tầm mắt của mọi người. Cùng với bí mật nằm trong cốp. Nhưng chưa ai phát hiện được điều gì.

Trong khi nghĩ đến tình thế khác thường của mình, hắn nhận thấy một tốp cảnh sát trên đường quay lại làm việc sau khi giải lao uống cà phê sáng. Ba nam ba nữ, mặc đồng phục. Một người trong số đó hình như đang kể một giai thoại gì đấy, vừa đi vừa làm điệu bộ. Khi anh ta kể xong, những người kia cười vang. Anh chàng cao to nhất đột ngột dừng lại, để mặc những người kia bước tiếp. Anh ta đã phát hiện ra một điều gì đó.

Alexander Bermann lập tức nhận ra biểu hiện trên gương mặt của anh ta.

Cái mùi đó, hắn thầm nghĩ. Chắc là anh ta đã ngửi thấy nó.

Vẫn không nói gì với các đồng nghiệp, anh chàng cảnh sát nhìn chung quanh rồi hít hít không khí, như thể tìm kiếm thứ đã khiến các giác quan của mình báo động trong một thoáng. Khi đã tìm ra, anh ta liền quay về phía chiếc xe hơi gần đấy. Anh ta bước mấy bước về phía nó, rồi dừng lại ngay chỗ cốp xe đang đóng.

Nhìn thấy cảnh đó, Alexander Bermann thở phào một cái. Hắn thấy nhẹ người. Nhẹ người vì sự trùng hợp đã mang hắn đến đây, vì cơn gió, và vì hắn không phải là người mở cái cốp xe quỷ quái kia.

Cơn gió ngừng vuốt ve da thịt hắn. Alexander Bermann đứng dậy từ chỗ ngồi cạnh cửa sổ và rút điện thoại di động trong túi ra.

Đã đến lúc gọi một cú điện thoại.
 
Chương 6


Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

Mila lẩm nhẩm mấy cái tên trong đầu khi quan sát bố mẹ của các nạn nhân đã được nhận dạng qua lớp kính. Họ đã được triệu tập đến nhà xác của Viện pháp y. Đó là một tòa nhà kiểu gô-tích với nhiều cửa sổ rộng, bao quanh bởi một khuôn viên trơ trụi.

Còn thiếu hai người, Mila thầm nghĩ. Một ông bố và một bà mẹ chưa được tìm ra.

Cô muốn đặt một cái tên cho cánh tay trái số sáu bằng mọi giá. Đó là cô bé gái mà Albert đã bỏ nhiều công sức nhất với hỗn hợp thuốc kéo dài sự sống.

Gã muốn thưởng thức tấn tuồng.

Cô lại nghĩ đến vụ thầy giáo dạy nhạc, lúc cô giải thoát cho Pablo và Elisa. “Cô đã cứu ba mạng người”, Morexu đã nói như thế khi nhắc đến dòng ghi chú trong quyển sổ của tên bắt cóc. Cái tên đó...

Priscilla.

Ông sếp của cô nói có lý: cô bé ấy đã gặp may. Mila để ý đến một mối tương quan nghiệt ngã giữa cô bé và sáu nạn nhân bị chặt tay.

Priscilla đã bị tên bắt cóc lựa chọn. Cô bé không trở thành con mồi thuần túy là một việc ngẫu nhiên. Bây giờ cô bé đang ở nơi nào? Cuộc sống của em ra sao? Có thể một phần trong em, phần sâu kín và bí ẩn nhất, đã cảm thấy mình vừa thoát được một cái bẫy kinh hoàng.

Khi đặt chân lên nhà của thầy dạy nhạc, chính Mila đã cứu mạng cô bé. Nhưng cô bé sẽ không bao giờ biết chuyện đó. Cô bé sẽ không bao giờ cảm kích trước cuộc sống thứ hai mà mình đã nhận được.

Priscilla cũng giống như Debby, Anneke, Sabine, Melissa, Caroline. Số phận của em đã được định đoạt, nhưng không giống với các bé gái kia.

Priscilla cũng giống như số sáu. Một nạn nhân không có khuôn mặt, nhưng ít ra cô bé còn có một cái tên.

Bác sĩ Chang tin đây chỉ là vấn đề thời gian và sớm hay muộn thì người ta cũng sẽ biết được danh tính của nạn nhân số sáu. Tuy nhiên, Mila thấy ít có hy vọng. Ý nghĩ cho rằng cô bé đã mất tích mãi mãi gây trở ngại cho việc xem xét các khả năng khác của cô.

Nhưng lúc này, cô cần phải tỉnh táo. Đến lượt mình rồi, cô thầm nghĩ trong khi nhìn vào tấm kính ngăn cách cô với cha mẹ của những nạn nhân đã có tên. Cô nhìn vào thứ nom như một cái bể cá đầy người, quan sát chuyển động của những sinh vật sầu thảm và câm lặng ấy. Chẳng bao lâu nữa, cô sẽ phải vào trong đó để trao cho bố mẹ Debby Gordon cái tin sẽ khiến cho nỗi đau buồn của họ lên đến đỉnh điểm.

Hành lang nhà xác vừa dài vừa tối. Nó nằm ở tầng hầm của tòa nhà. Người ta có thể đến đó bằng một cái cầu thang, hoặc sử dụng chiếc thang máy nhỏ thường xuyên hỏng hóc. Những ô cửa sổ bé tẹo nằm hai bên trần nhà chỉ để một chút ánh sáng lọt qua. Lớp gạch men trắng ốp trên tường không tài nào phản xạ được ánh sáng, dường như đó là ý đồ của người lát gạch. Kết quả là tòa nhà luôn tăm tối dù vào ban ngày hay ban đêm và mấy chiếc đèn neon trên trần luôn phải bật sáng, phả vào không khí yên lặng ma quái tiếng ro ro bất tận.

Một nơi kinh khủng để đón nhận sự mất mát của đứa con yêu dấu, Mila nghĩ bụng trong khi quan sát nhóm người nhà các nạn nhân. Để tạo sự thoải mái cho họ, trong phòng chỉ có hai cái ghế nhựa vô danh cùng với một chiếc bàn, trên đó đặt vài quyển tạp chí với những khuôn mặt tươi cười ở trang bìa.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

- Nhìn đi. - Goran nói mà không quay lại nhìn Mila. - Em trông thấy gì?

Lúc nãy, trước sự hiện diện của những người khác, ông ta đã làm cô mất mặt. Thế mà bây giờ lại đòi xưng hô thân mật cơ đấy?

Mila tiếp tục quan sát một lúc lâu.

- Em thấy sự đau khổ của họ.

- Nhìn kỹ vào. Chẳng phải chỉ có thế thôi đâu.

- Em thấy những cô bé ấy. Mặc dù chúng không có mặt ở đây. Khuôn mặt của chúng là sự tổng hòa của dung mạo bố mẹ chúng. Do vậy em nhìn thấy các nạn nhân.

- Còn tôi, tôi nhìn thấy năm tế bào gia đình. Mỗi cái có một gốc gác xã hội khác biệt. Với thu nhập và mức sống khác nhau. Tôi thấy những cặp vợ chồng vì nguyên nhân thế này thế khác mà chỉ có độc một đứa con. Tôi thấy những người phụ nữ đã quá bốn mươi và do đó không thể hy vọng có con được nữa... Đó là những gì tôi thấy.

Giáo sư Goran quay lại nhìn cô.

- Chính họ mới là nạn nhân. Gã đã nghiên cứu họ, đã lựa chọn họ. Một đứa con gái độc nhất. Gã muốn tước mất khỏi họ mọi hy vọng khép lại nỗi đau và quên đi sự mất mát. Họ sẽ phải nhớ điều gã đã làm với mình cho đến hết đời. Gã làm cho sự thống khổ của họ tăng lên bội phần khi lấy đi tương lai của họ. Gã đã tước đoạt cơ hội lưu truyền hồi ức của bản thân họ cho tương lai, cơ hội trường tồn sau cái chết của chính họ... Gã sống bằng điều đó. Chính nó là sự tưởng thưởng cho sự tàn ác của gã, là nguồn khoái lạc của gã.

Mila nhìn đi chỗ khác. Ông giáo sư tội phạm học nói đúng: có một sự cân đối trong tai họa giáng xuống đầu những con người này.

- Một kế hoạch. - Goran khẳng định, chỉnh lại những suy nghĩ của cô.

Mila lại nghĩ đến cô bé số sáu. Chưa ai khóc cho em. Đáng lẽ em phải được nhận những giọt nước mắt, giống như những nạn nhân khác. Sự đau đớn có vai trò của nó. Nó giúp hàn gắn mối liên kết giữa những gì còn sống và đã chết. Nó là một thứ ngôn ngữ thế chỗ cho từ ngữ và làm thay đổi cục diện vấn đề. Chính đó là điều mà các bậc cha mẹ ở bên kia lớp kính đang làm. Cẩn thận xây dựng lại trong nỗi đau một chút gì của cuộc đời đã mất. Đồng thời hòa trộn những ký ức mong manh của họ bằng cách kết các sợi chỉ trắng của quá khứ với đám chỉ tơ mảnh mai của hiện tại.

Mila thu hết can đảm bước qua ngưỡng cửa. Ngay lập tức mọi cái nhìn của các ông bố bà mẹ đổ dồn vào cô và cả căn phòng im phăng phắc.

Cô tiến lại gần mẹ của Debby Gordon. Bà ngồi cạnh chồng, người đang đặt một bàn tay lên vai bà. Tiếng bước chân của cô vang lên nhức nhối trong khi cô đi ngang qua những người còn lại.

- Ông bà Gordon, tôi cần trò chuyện với hai ông bà một lát...

Mila đưa tay chỉ đường, sau đó cô để cho hai người đi trước. Họ tiến đến một căn phòng nhỏ khác, trong có đặt máy pha cà phê và máy bán bánh kẹo. Những vật dụng còn lại trong phòng là một cái ghế xa lông cũ mòn kê sát tường, chiếc bàn cùng với mấy cái ghế nhựa màu xanh da trời và một sọt rác đầy ly giấy.

Cô mời cặp vợ chồng ngồi xuống ghế xa lông trong khi mình đi lấy một chiếc ghế nhựa. Cô ngồi xuống, bắt chéo chân, và cảm thấy vết thương ở đùi nhói lên. Nhưng nó không còn đau nhiều như trước. Nó đang bắt đầu lành dần.

Mila lại thu hết can đảm để tự giới thiệu. Cô nói về cuộc điều tra nhưng không thêm bất cứ chi tiết nào ngoài những gì hai người kia đã biết. Ý định của cô là giúp cho cặp vợ chồng thấy thoải mái, trước khi đặt các câu hỏi với họ.

Hai vợ chồng ông bà Gordon nhìn cô đăm đăm, như thể cô có khả năng chấm dứt cơn ác mộng này của họ. Hai người nom khá lịch thiệp. Cả hai đều là luật sư và được trả thù lao theo giờ. Mila hình dung họ ở trong một ngôi nhà lý tưởng, chung quanh là những người bạn có chọn lọc và có một cuộc sống vàng son. Cũng hợp lý khi họ có thể cho cô con gái độc nhất vào một ngôi trường tư thục danh giá. Cô biết điều đó: hai vợ chồng là những chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ là những người biết cách ứng phó trong những tình huống ngặt nghèo nhất, đã quen với việc nghiền nát đối phương và không bao giờ chùn bước trong các cuộc đấu trí. Thế nhưng hiện tại họ có vẻ hoàn toàn chưa hề chuẩn bị cho một bi kịch như thế này.

Khi Mila trình bày xong sự việc, cô chuyển sang vấn đề mình quan tâm:

- Thưa ông bà Gordon, ông bà có tình cờ biết liệu Debby có một tình bạn đặc biệt thân thiết với một cô bạn gái nào ở ngoài trường không ạ?

Hai vợ chồng nhìn nhau như thể tìm kiếm một lý do khả dĩ cho câu hỏi trên trước khi đưa ra câu trả lời. Nhưng họ không tìm ra được lý do.

- Không, đấy là theo như chúng tôi biết.

Nhưng Mila không chịu hài lòng với câu trả lời cụt lùn đó.

- Ông bà chắc chắn là Debby chưa bao giờ kể qua điện thoại về một cô bé nào đó không phải bạn học chứ?

Trong khi bà mẹ cố gắng lục tìm trong trí nhớ, thì Mila quan sát thân hình của bà: cái bụng rất phẳng, đôi chân săn chắc. Cô hiểu ngay quyết định dừng lại ở một đứa con đã được cân nhắc rất kỹ. Người đàn bà này sẽ không để mình bị phát tướng vì lần mang thai thứ hai. Nhưng dù sao thì bây giờ cũng đã quá trễ: tuổi tác gần năm mươi không cho phép bà có con nữa. Goran đã có lý: Albert không lựa chọn họ một cách ngẫu nhiên…

- Không... nhưng dạo gần đây, trên điện thoại con bé có vẻ thanh thản hơn trước nhiều. - Bà Gordon đáp.

- Tôi đoán cô bé đã từng đòi bà đưa về nhà...

Cô đã chạm đến một điểm nhạy cảm, nhưng cô không thể làm khác được, nếu muốn khám phá sự thật. Với giọng điệu lạc đi vì hối lỗi, bố của Debby thừa nhận:

- Phải, con bé cảm thấy lạc lõng. Nó nhớ chúng tôi, cả Sting nữa... Con chó của nó ấy mà. - Ông giải thích khi Mila ngẩn ra nhìn họ. - Debby muốn quay về nhà và trường học cũ. Thật ra thì, con bé chưa bao giờ nói ra điều đó. Có lẽ nó sợ làm phật lòng chúng tôi, nhưng... Chuyện đó là quá rõ, căn cứ theo giọng điệu của nó.

Mila biết điều gì sắp sửa diễn ra: hai người sẽ mãi mãi tự dằn vặt mình vì đã không thực hiện tâm nguyện muốn được về nhà của cô con gái. Nhưng ông bà Gordon đã đặt tham vọng của họ trước con gái mình, như thể tham vọng là thứ có thể di truyền được. Suy xét cho kỹ thì cách cư xử của họ không có gì sai. Họ chỉ muốn điều tốt nhất cho cô con gái độc nhất của mình. Nói cho cùng, họ chỉ hành động như bao ông bố bà mẹ khác. Nếu như mọi chuyện khác đi, thì có lẽ một ngày Debby sẽ thấy biết ơn họ. Nhưng cái ngày ấy, đáng tiếc thay, sẽ không bao giờ đến.

- Thưa ông bà, tôi rất tiếc khi phải thúc ép, tôi hiểu điều này đau đớn như thế nào, nhưng buộc lòng tôi phải yêu cầu ông bà nhớ lại những lần trò chuyện với Debby. Đám bạn bè ngoài trường của cô bé có thể rất quan trọng cho việc phá án. Tôi xin ông bà nhớ lại thật kỹ, và nếu như phát hiện được điều gì...

Hai ông bà Gordon cùng gật đầu, hứa sẽ cố gắng nhớ lại. Lúc đó Mila trông thấy một bóng người qua lớp kính cửa. Đó là Sarah Rosa. Cô ta đang cố gắng gây sự chú ý với cô. Mila xin lỗi hai vị khách và ra khỏi phòng. Khi hai người đứng đối diện nhau trong hành lang, Sarah Rosa chỉ nói vẻn vẹn mấy chữ:

- Cô chuẩn bị đi, ta phải lên đường. Đã tìm thấy thi thể của một bé gái.

Đặc vụ Stern luôn đóng thùng trong bộ comlê, thường là các màu nâu, be, xanh sẫm, đi kèm với sơmi kẻ sọc nhuyễn. Mila suy ra rằng vợ anh ta rất câu nệ việc chồng mình phải ăn mặc chỉnh tề khi ra đường. Ngoại hình của Stern được chăm chút kỹ lưỡng. Mái tóc luôn chải lật ra sau và vuốt một chút keo. Sáng nào anh cũng cạo râu, làn da của anh ngoài khoản nhẵn nhụi còn có vẻ rất mềm mại và thơm tho. Stern thuộc típ người tỉ mẩn. Những người không bao giờ thay đổi thói quen, và việc gọn gàng sạch sẽ quan trọng hơn nhiều so với hợp thời trang.

Thêm vào đó anh có vẻ rất giỏi trong việc thu thập thông tin.

Trong suốt quãng đường đi đến nơi phát hiện thi thể nạn nhân, Stern bắt đầu bằng việc ngậm một viên kẹo bạc hà, rồi sau đó trình bày nhanh chóng các sự việc mà họ đã nắm được cho đến thời điểm hiện tại.

- Kẻ bị bắt giữ tên là Alexander Bermann, bốn mươi tuổi, nhân viên kinh doanh thiết bị ngành dệt, nhân thân tốt. Đã có vợ và một cuộc sống ổn định. Hắn rất được mọi người vị nể. Công việc của hắn có vẻ khấm khá: hắn không giàu, nhưng cũng ổn.

- Nói chung là lý lịch sạch sẽ. - Rosa đế thêm. - Không có gì đáng ngờ.

Khi họ đến đồn cảnh sát giao thông, viên cảnh sát phát hiện ra xác chết đang ngồi thừ trong một cái ghế xa lông cũ của văn phòng. Anh ta bị sốc.

Cảnh sát địa phương đã nhường lại phận sự cho đơn vị điều tra hình sự. Họ nhanh chóng vào cuộc với sự hỗ trợ của giáo sư Goran và trong sự quan sát của Mila. Vai trò của cô chỉ là kiểm tra xem có hay không sự hiện diện của những thứ hữu ích cho nhiệm vụ của mình, chứ không can thiệp một cách chủ động. Roche ở lại trong văn phòng, chờ các nhân viên báo cáo tình hình.

Mila nhận ra Sarah Rosa đang giữ khoảng cách với cô. Điều này chỉ càng làm cho cô hài lòng, mặc dù cô biết chắc Rosa luôn dò xét và sẵn sàng bắt lỗi cô.

Một trung úy trẻ tuổi lãnh nhiệm vụ đưa họ đến địa điểm chính xác. Cố tỏ ra tự tin, anh chàng quả quyết rằng mọi thứ không hề bị xê dịch. Nhưng mọi thành viên trong nhóm điều tra đều hiểu đây có lẽ là lần đầu tiên đội của anh ta gặp phải một cảnh tượng như thế. Trong sự nghiệp của cảnh sát tỉnh lẻ, họ ít có dịp nào được tham dự vào một vụ án có tính chất man rợ đến vậy.

Trên đường đi, viên trung úy trình bày sự việc một cách rất hàm súc. Chắc hẳn anh chàng đã chuẩn bị bài diễn thuyết từ trước để tránh bị ngắc ngứ. Quả thực, anh ta nói không khác gì đang đọc một biên bản báo cáo.

- Chúng tôi đã kiểm tra. Nghi phạm Alexander Bermann đã đến khách sạn ở một thị trấn nhỏ cách đây rất xa vào sáng hôm qua.

- Cách đây sáu trăm cây số. - Stern bổ sung.

- Có vẻ như hắn đã lái xe cả đêm. Chiếc xe gần như cạn sạch xăng. - Viên trung úy nói.

- Hắn có gặp ai ở khách sạn không? - Boris hỏi.

- Hắn đã ăn tối cùng với khách hàng. Sau đó thì rút về phòng... theo như lời khẳng định của những người có mặt trong bữa tối. Nhưng chúng tôi còn đang kiểm chứng các sự việc mà họ kể.

Rosa ghi lại điều đó trong quyển sổ tay, với một dòng ghi chú mà Mila liếc nhìn thấy qua vai cô ta. “Thu thập thông tin về thời gian biểu của khách trọ trong khách sạn”.

Goran xen vào:

- Bermann chưa khai gì cả, đúng không?

- Nghi phạm Alexander Bermann từ chối phát ngôn khi không có mặt luật sư.

Họ đã đến bãi đỗ xe. Goran nhận thấy chiếc xe của Bermann đã được quây lại bằng vải bạt trắng để che đi cảnh tượng chết chóc. Nhưng nó chỉ là một biện pháp đề phòng giả tạo. Đứng trước những tội ác kinh hoàng, biểu hiện khó chịu chỉ là lớp mặt nạ bên ngoài của con người. Đó là điều mà giáo sư Gavila đã nhanh chóng hiểu ra. Cái chết có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với những người sống, đặc biệt là những cái chết thảm. Gần như tất cả chúng ta đều cảm thấy hiếu kì trước các xác chết. Cái chết có tính quyến rũ rất cao.

Trước khi tiếp cận hiện trường, toán điều tra đeo túi ni lông bảo vệ giày, đội mũ trùm để che kín tóc, và tất nhiên không thể thiếu những đôi găng tay tiệt trùng. Sau đó họ được cung cấp một hũ nhỏ đựng bột long não. Mỗi người lấy một ít bôi lên hai lỗ mũi để át mùi.

Đó là một quy trình rất quen thuộc, gần như không cần giải thích bằng lời. Nó cũng là một cách để tìm lại sự tập trung. Khi nhận lấy hũ long não từ tay Boris, Mila có cảm giác mình đã là một phần của nghi thức lạ lùng này.

Viên trung úy cảnh sát giao thông được mời đi trước. Đột nhiên toàn bộ sự tự tin của anh chàng biến đâu mất. Anh ta ngần ngừ một lúc lâu rồi mới đi trước dẫn đường.

Trước khi bước qua ngưỡng của thế giới mới mẻ này, giáo sư Goran nhìn sang Mila. Cô gật đầu, và ông có vẻ bình tĩnh hơn.

Bước khởi đầu luôn khó khăn nhất. Mila sẽ không dễ dàng quên được bước chân đầu tiên của mình.

Nó giống như đi vào một chiều không gian khác vậy. Khu vực vài mét vuông, nơi ánh sáng mặt trời bị trộn lẫn với thứ ánh sáng nhân tạo lạnh lùng của các ngọn đèn halogen, gần như tạo nên một vũ trụ khác, theo những nguyên lý và định luật hoàn toàn khác với thế giới của chúng ta. Thêm vào ba chiều không gian: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu, là một chiều thứ tư: chiều trống. Mọi nhà tội phạm học đều biết các câu trả lời thường nằm ở những “khoảng trống” của một hiện trường. Khi lấp đầy nó bằng sự hiện diện của nạn nhân hoặc thủ phạm, người ta sẽ tái hiện lại tội ác, lý giải được sự bạo lực, và làm sáng tỏ điều chưa biết. Người ta nới rộng thời gian bằng cách kéo nó ngược về quá khứ, với một sức căng luôn luôn tồn tại rất ngắn và không bao giờ có lại được. Chính vì thế mà ấn tượng đầu tiên về hiện trường luôn là điều quan trọng nhất.

Với Mila, nó thuộc về khứu giác.

Dù đã bôi long não, mùi của hiện trường vẫn xộc mạnh vào mũi cô. Thứ mùi của cái chết vừa gây buồn nôn lại vừa dịu ngọt. Rất mâu thuẫn. Đầu tiên, nó ập vào ta như một cú đấm vào bụng, sau đó ta phát hiện ra một thứ gì đó, ẩn rất sâu trong thứ mùi ấy, mà ta chỉ có thể cảm thấy thích thú.

Các thành viên trong nhóm điều tra nhanh chóng tiến vào vị trí chung quanh chiếc xe hơi của Bermann. Mỗi người chiếm lấy một điểm quan sát, tạo thành bốn cực. Như thể mắt họ cùng chia sẻ các thông số của một lưới tọa độ bao phủ từng centimét hiện trường, không bỏ lọt bất cứ thứ gì.

Mila đi theo giáo sư ra phía đuôi xe.

Cốp xe đang mở, ở y nguyên trong tình trạng mà viên cảnh sát phát hiện ra xác chết đã để lại. Giáo sư Goran cúi người quan sát bên trong cốp. Mila cũng làm theo.

Cô không nhìn thấy cái xác, bởi vì trong cốp chỉ có một cái túi ni lông đen to, bên trong đựng một thứ có hình thù giống thân người.

Xác của một bé gái chăng?

Chiếc túi dính sát vào thi thể, lồi lõm theo những đường nét trên khuôn mặt. Cái miệng há to trong một tiếng thét câm lặng. Tuồng như không khí đã bị hút vào cái hốc đen ngòm ấy.

Hệt một tấm vải liệm.

Anneke, Debby, Sabine, Melissa, Caroline... hay là số sáu?

Có thể thấy hốc mắt và khuôn mặt ngửa ra phía sau. Thi thể không mềm oặt mà ngược lại, nó ở trong một tư thế căng cứng như bị sét đánh. Điều đập vào mắt từ bức tượng bằng xương bằng thịt này là sự thiếu vắng của một cánh tay. Tay trái.

- Nào, chúng ta bắt đầu phân tích. - Goran nói.

Phương pháp của giáo sư tội phạm học là đặt câu hỏi. Kể cả những câu đơn giản và tưởng như vô nghĩa nhất. Cả nhóm sẽ cùng nhau tìm lời giải đáp cho các câu hỏi đó. Vụ này cũng thế, mọi ý kiến đều được chấp thuận.

- Trước tiên, định hướng. - Ông mở lời. - Hãy cho tôi biết, tại sao chúng ta ở đây?

- Tôi bắt đầu nhé. - Boris xung phong. Anh đang đứng ở cạnh ghế người lái. - Chúng ta ở đây do một vụ điều khiển xe mà không có bằng lái.

- Các anh chị nghĩ sao về điều này? Liệu giải thích như vậy đã đủ chưa, theo các anh chị? - Giáo sư Goran hỏi trong lúc đưa mắt nhìn những người còn lại.

- Các chốt kiểm soát. - Sarah Rosa đáp. - Từ khi các bé gái mất tích, đã có khoảng một chục chốt kiểm soát được dựng lên, rải rác nhiều nơi. Điều có thể xảy đến... đã đến. Chúng ta đã gặp may.

Goran lắc đầu. Ông không tin vào may rủi.

- Việc gì hắn phải mạo hiểm di chuyển cùng với tang chứng như thế này?

- Có thể hắn chỉ đơn thuần muốn vứt bỏ nó. - Stern phỏng đoán. - Hoặc cũng có thể hắn sợ bị chúng ta phát hiện, nên cố gắng tống khứ các dấu vết ra càng xa khỏi hắn càng tốt.

- Tôi cũng thế. Tôi nghĩ đây là một mưu toan đánh lạc hướng. - Boris hùa vào. - Nhưng không thành công.

Mila nhận ra bọn họ đã khẳng định Alexander Bermann là Albert. Chỉ duy có giáo sư Goran vẫn tỏ ra hơi nghi ngại.

- Chúng ta vẫn còn phải hiểu cho được kế hoạch của hắn. Hiện tại ta chỉ có một thi thể nằm trong cốp xe. Nhưng câu hỏi ban đầu là khác kia, và ta vẫn chưa trả lời được: tại sao chúng ta ở đây? Điều gì đã đưa chúng ta đến đứng quanh chiếc xe này, trước cái xác này? Ngay từ đầu, chúng ta đã cho rằng thủ phạm rất khôn ngoan. Có thể còn hơn cả chúng ta nữa ấy chứ. Nói cho cùng thì hắn đã chơi chúng ta nhiều lần khi bắt cóc thành công các bé gái mặc cho tình trạng được báo động trên diện rộng... Vậy thì, liệu có thể tưởng tượng ra rằng hắn lại để cho mình bị bại lộ chỉ vì một cái bằng lái xe ngớ ngẩn hay không?

Mọi người cùng nghiền ngẫm khả năng đó trong yên lặng.

Sau đó nhà tội phạm học quay sang phía viên trung úy cảnh sát giao thông, người từ nãy giờ đứng hơi tách biệt, miệng câm như hến, còn da mặt thì tái xanh như màu chiếc áo sơmi anh ta mặc bên trong quân phục.

- Trung úy này, anh đã bảo Bermann yêu cầu một luật sư, phải không nhỉ?

- Đúng vậy ạ.

- Có lẽ một luật sư được chỉ định là đủ, vì chúng tôi muốn thẩm vấn nghi phạm, để cho anh ta cơ hội phản bác những kết quả phân tích của chúng tôi sau khi đã xong việc tại đây.

- Ông có muốn tôi lo việc này ngay không ạ?

Viên trung úy đang hy vọng sẽ được giáo sư Goran phái đi chỗ khác. Ông giáo sư sắp sửa chiều lòng anh ta.

- Có thể Bermann đã chuẩn bị trước các lời khai. Tốt hơn nên làm hắn bất ngờ và tìm cách khiến hắn tự mâu thuẫn với bản thân, trước khi hắn học bài quá kỹ càng.

- Tôi xin mạn phép phỏng chừng rằng trong thời gian này, có lẽ hắn cũng đang tự vấn lương tâm rất kỹ lưỡng đấy ạ.

Nghe thấy những lời này của viên trung úy, các thành viên của nhóm điều tra nhìn nhau bán tín bán nghi.

- Ý anh là... các anh đang để hắn một mình? - Goran hỏi.

Viên trung úy ngơ ngác:

- Chúng tôi để hắn lại một mình, như lệ thường. Sao thế ạ? Có g…

Anh ta không kịp nói dứt câu. Boris là người đầu tiên hành động. Chỉ bằng một cú sải chân, anh đã phóng ra khỏi khu vực cô lập, Stern và Sarah Rosa bám theo bén gót. Họ vừa lao đi vừa gỡ túi bảo vệ giày để không bị trượt chân trong lúc chạy.

Mila cũng như viên trung úy cảnh sát giao thông có vẻ không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Goran đuổi theo những người kia, quăng lại vẻn vẹn một câu:

- Đây là một kẻ nguy hiểm, lẽ ra các anh phải giám sát hắn cẩn mật!

Lúc đó, Mila và viên trung úy mới hiểu ra nguy cơ mà ông giáo sư muốn nói.

Giây lát sau, tất cả mọi người đã tề tựu trước cánh cửa buồng giam của nghi phạm. Tay cảnh sát canh gác bên ngoài phòng lập tức mở lỗ nhòm khi Boris chìa thẻ ra. Qua lỗ nhòm trên cửa, chẳng thấy Alexander Bermann đâu cả.

Hắn đã chọn một góc khuất tầm nhìn. Goran thầm nghĩ.

Khi viên cảnh sát gác cửa mở chiếc khóa to đùng, viên trung úy vẫn còn cố thử trấn an cả nhóm, hay đúng hơn là bản thân anh ta, bằng cách sống chết bảo đảm rằng quy trình đã được tuân thủ nghiêm ngặt. Họ đã lấy đi đồng hồ, thắt lưng, càvạt, kể cả giây dày của Bermann. Hắn chẳng còn thứ gì có thể dùng để tự làm hại bản thân.

Nhưng cánh cửa mở ra đã phủ nhận những điều anh ta nói.

Alexander Berman nằm trong một góc khuất tầm nhìn của buồng giam.

Lưng dựa vào tường, tay buông thõng trên đầu gối, hai chân xoạc ra, miệng đầy máu. Chung quanh hắn là một cái vũng màu đen.

Để tự sát, hắn đã sử dụng một biện pháp khác thường.

Alexander đã dùng răng xé rách thịt ở cổ tay và để cho máu chảy đến chết.
 
Chương 7


Họ sẽ đưa thi thể cô bé về nhà em.

Với lời hứa thầm như vậy, nhóm điều tra đã đem xác nạn nhân về.

Họ sẽ đòi lại công lý cho em.

Sau khi Bermann tự sát, lời cam kết của họ trở nên khó thực hiện hơn, nhưng họ vẫn sẽ cố gắng.

Vậy nên cái xác nằm ở đây, trong Viện pháp y.

Bác sĩ Chang chỉnh lại chiếc micro treo trên trần để cho nó nằm vuông góc với bàn phẫu thuật. Sau đó anh bật máy quay phim.

Trước tiên, anh dùng một con dao mổ rạch nhanh một đường rất thẳng trên túi ni lông. Anh đặt con dao xuống và khéo léo cầm lấy hai mép của đường rạch.

Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng mờ tối phát ra từ chiếc đèn nằm bên trên bàn mổ. Chung quanh đó là bóng tối đen ngòm. Đứng chông chênh bên bờ hố đen ấy là Goran và Mila. Không có thành viên nào khác của nhóm điều tra cảm thấy cần phải tham gia vào nghi lễ này.

Bác sĩ pháp y cùng với hai người khách đều vận trang phục tiệt trùng, đeo găng tay và khẩu trang để không làm nhiễm các chứng cứ.

Dùng dung dịch nước muối sinh lý, Chang chầm chậm tách hai mép túi và gỡ lớp ni lông dính chặt trên thi thể. Từng chút, từng chút một, với sự kiên nhẫn cao độ.

Mila thấy hiện ra dần dần một chiếc váy nhung kẻ màu xanh lá, chiếc áo sơmi trắng và áo chẽn màu xám. Sau đó là lớp vải flannel của chiếc áo khoác.

Chang lần từ từ đến vùng cánh tay bị mất. Chiếc áo khoác tại chỗ đó không hề bị vấy máu, vì đơn giản là ống tay áo đã bị cắt bỏ kể từ phần vai trái, để lòi ra một đoạn tay cụt.

- Hắn không giết nạn nhân khi cô bé mặc bộ trang phục này. Hắn mặc đồ lại cho cái xác sau đó. - Bác sĩ pháp y Chang nói.

Từ “sau đó” vang vọng khắp căn phòng, trong cái hốc tối om vây quanh họ, tựa như viên sỏi chạm vào thành một cái giếng không đáy.

Chang gỡ cánh tay phải ra. Ở cổ tay nạn nhân có một chiếc xuyến, trên đó có mặt trang trí hình chiếc chìa khóa.

Anh dừng lại một lát nơi cổ nạn nhân để rút khăn tay ra lau trán. Lúc đó Mila mới nhận ra Chang đang toát mồ hôi. Anh đã đến phần nhạy cảm nhất. Sợ nhất là khi gỡ cái túi, lớp thượng bì cũng bong ra theo.

Mila từng tham gia vào việc khám nghiệm tử thi. Thường thì các bác sĩ pháp y không phải ngần ngại nhiều đến thế đối với tử thi mà họ phải khám nghiệm. Họ cứ thế cắt xẻo rồi khâu lại. Nhưng bác sĩ Chang muốn bố mẹ của nạn nhân có thể nhìn con gái mình lần cuối trong một tình trạng tốt nhất có thể. Mila bỗng cảm thấy nể trọng anh vô cùng.

Cuối cùng, sau nhiều phút dài vô tận, Chang đã gỡ bỏ hoàn toàn lớp túi ni lông đen khỏi khuôn mặt của nạn nhân. Mila nhận ra cô bé ngay lập tức.

Debby Gordon. Mười hai tuổi. Nạn nhân mất tích đầu tiên.

Đôi mắt cô bé mở to. Cái miệng há hốc như thể cố gắng nói gì đó trong tuyệt vọng.

Cô bé cặp một chiếc kẹp mái có đính một bông hoa huệ tây. Gã đã chải tóc cho cô bé. Quái đản! Gã thấy thoải mái khi tỏ lòng trắc ẩn đối với một cái xác hơn là đối với một cô bé còn sống! Nhưng nghĩ lại Mila nhận ra gã chăm chút cho cô bé vì một lý do hoàn toàn khác.

Gã đã chải chuốt cho cô bé vì chúng ta!

Suy nghĩ này khiến cô nổi điên. Nhưng ngay lập tức cô nhận ra cảm xúc này không phải của mình. Nó thuộc về người khác. Chẳng bao lâu nữa cô sẽ phải ra ngoài, quên đi bóng tối sâu thẳm và nói với hai vị phụ huynh đang tan nát cõi lòng rằng cuộc sống của họ đã thực sự kết thúc.

Bác sĩ Chang và giáo sư Goran đưa mắt nhìn nhau. Đã đến lúc xác định xem họ đang phải đối diện với loại sát nhân nào, mối quan tâm của hắn đối với cô bé này chỉ là chung chung hay có đích nhắm cụ thể. Nói khác đi, cần kiểm tra xem cô bé có bị xâm hại tình dục hay không.

Tất cả mọi người trong phòng đều có chung cảm giác bị giằng xé giữa mong muốn rằng nạn nhân đã không phải chịu thêm thứ nhục hình đó và hy vọng điều ngược lại, vì trong trường hợp này, sẽ có thêm khả năng thủ phạm để lại những dấu vết sinh học cho phép nhận dạng hắn.

Có một quy trình cụ thể để khám nghiệm những vụ xâm hại tình dục. Bác sĩ Chang chẳng có lý do gì để làm khác đi. Quy trình này bắt đầu bằng thẩm vấn để làm rõ tình huống cũng như phương thức tấn công. Nhưng trong thực tế, do không thể có được thông tin từ nạn nhân, anh không có cách nào tái hiện lại được sự việc.

Bước tiếp theo là giám định khách quan. Để biết liệu nạn nhân có phản đối hoặc chống cự hành vi giao cấu hay không, cần phải khám tổng quát kèm theo một hồ sơ ảnh chụp, đi từ hình ảnh toàn diện cho đến chi tiết từng tổn thương bên ngoài.

Thường thì người ta bắt đầu với việc ghi nhận và xếp loại trang phục, sau đó tìm kiếm những vết tích đáng ngờ trên lớp trang phục này như sợi vải, lông tóc, lá cây. Tiếp theo là việc nạo móng nạn nhân bằng một dụng cụ nom như cây tăm xỉa răng, nhằm thu thập các mảnh da của thủ phạm - trong trường hợp nạn nhân chống cự - hoặc đất cát, các loại sợi bất kỳ cho phép tiết lộ nơi gây án.

Lần này các kết quả đều là âm tính. Ngoài một cánh tay bị cắt, tình trạng của tử thi là hoàn hảo, trang phục cũng sạch sẽ.

Như thể ai đó đã kỳ công tắm gội cho nạn nhân trước khi nhét tử thi vào túi.

Bước thứ ba là bước có tính xâm lấn nhất. Đó là việc khám phụ khoa.

Bác sĩ Chang cầm một dụng cụ soi cổ tử cung và bắt đầu kiểm tra khu vực giữa hai đùi, với hy vọng tìm thấy các vết máu, tinh dịch hoặc các dịch tiết khác. Sau đó anh lấy từ khay kim loại bộ dụng cụ khám âm đ*o, gồm một tăm bông cho da và một tăm bông khác cho niêm mạc. Sau khi lấy mẫu, anh chuẩn bị hai lam kính, cố định mẫu thứ nhất bằng dung dịch Citofix[1], còn mẫu thứ hai thì để khô tự nhiên.

Mila biết thử nghiệm đó nhằm để xác định dấu vết di truyền của hung thủ.

Bước cuối cùng là bước bạo liệt nhất. Bác sĩ Chang ngả cái bàn thép ra phía sau, gác đôi chân cô bé lên hai giá đỡ, rồi ngồi xuống một chiếc ghế đẩu, và dùng một cái kính lúp có gắn đèn cực tím để kiểm tra các thương tổn bên trong nếu có.

Sau vài phút, anh ngẩng đầu lên nhìn Goran và Mila, lạnh lùng buông một câu:

- Thủ phạm đã không đụng đến cô bé.

Mila gật đầu, và trước khi rời khỏi phòng, cô cúi xuống thi thể của Debby để tháo chiếc xuyến đeo tay có mặt trang trí hình chiếc chìa khóa. Món đồ ấy, cùng với thông tin rằng cô bé không bị xâm hại, là tất cả những gì mà ông bà Gordon có thể mang đi.

Sau khi chào tạm biệt bác sĩ Chang và giáo sư Goran, Mila cảm thấy cần phải cởi chiếc áo blu tiệt trùng này ra ngay. Vào lúc này cô thấy mình thật bẩn thỉu. Khi đi qua phòng thay đồ, cô dừng lại trước bồn rửa mặt bằng gốm, mở nước nóng rồi đưa hai tay vào kỳ cọ thật mạnh.

Trong lúc rửa ráy cật lực, cô ngước mắt lên nhìn tấm gương đối diện. Dường như cô thấy phản chiếu trong gương hình ảnh cô bé Debby đang tiến vào phòng thay đồ, trên người mặc chiếc váy xanh lá cây cùng với cái áo khoác màu xanh dương, còn trên đầu là cái kẹp tóc. Tựa người vào cánh tay còn lại, em ngồi xuống băng ghế kê sát tường. Rồi Debby nhìn Mila, đong đưa hai chân, miệng há ra rồi ngậm lại, như thể tìm cách nói chuyện với cô. Nhưng không có từ ngữ nào vang lên. Mila rất muốn hỏi ai là chị em kết nghĩa của em. Nạn nhân mà mọi người chỉ biết gọi là cô bé số sáu.

Rồi Mila choàng tỉnh.

Nước đang tuôn ra từ vòi. Hơi nóng bốc lên nghi ngút, làm mờ đi phần lớn diện tích của tấm gương.

Lúc ấy Mila mới cảm thấy đau.

Cô đưa mắt nhìn xuống và vội vàng rụt tay ra khỏi dòng nước nóng bỏng. Lớp da trên mu bàn tay của cô đỏ ửng và ngón tay cô bắt đầu xuất hiện vài vết phồng rộp. Mila quấn tay vào một chiếc khăn bông, sau đó đi đến tủ thuốc tìm bông băng cá nhân.

Không ai được biết về chuyện vừa xảy ra.

Khi cô mở mắt, điều đầu tiên cô nhớ đến là vết bỏng ở hai bàn tay. Cô ngồi phắt dậy, đột ngột kết nối trở lại với hiện thực trong căn phòng ngủ chung quanh mình. Cái tủ áo với tấm gương bị rạn ở phía trước mặt, tủ commốt bên trái, ô cửa sổ đã hạ các lá trập nhưng vẫn để lọt qua vài vệt sáng xanh nhạt. Mila đã ngủ thiếp đi mà không buồn thay quần áo. Lớp vải phủ giường và chăn gối của cái nhà nghỉ ven đường này đầy các vết bẩn loang lổ.

Sao cô lại tỉnh dậy? Có lẽ ai đó đã gõ cửa. Hay cũng có thể cô chỉ đang mơ.

Tiếng gõ cửa lại vang lên. Cô đứng dậy, tiến đến cửa, nhưng chỉ mở hé nó ra.

- Ai đó? - Cô hỏi cũng bằng thừa vì đã nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của Boris.

- Tôi đến đón cô. Sau một tiếng nữa, chúng ta sẽ tiến hành khám xét nhà của Bermann. Mọi người sẽ đợi chúng ta ở đó... Mà này, tôi đã mua cho cô bữa sáng đây.

Anh lắc lắc trước mũi cô cái túi giấy, bên trong chắc là cà phê và bánh sừng bò.

Mila nhanh chóng nhìn lại mình. Trông cô thật tơi tả, nhưng thế lại hóa hay: cô sẽ không thể khiến anh chàng đồng nghiệp nổi hứng. Cô mời anh vào phòng.

Boris bước vài bước vào trong phòng và lúng túng nhìn quanh trong khi Mila tiến lại gần một cái bồn rửa đặt trong một góc để rửa mặt, nhưng trước hết là để giấu đôi tay băng bó.

- Nó còn tệ hơn là tôi nhớ. - Boris vừa hít không khí vừa nói. - Vẫn cái mùi này.

- Tôi nghĩ đó là mùi thuốc xua đuổi côn trùng.

- Hồi tôi đến nhập đội, tôi đã phải ở đây cả tháng trời trước khi tìm được một căn hộ... Cô có biết là chìa khóa ở đây mở phòng nào cũng được không? Khách trọ thường xuyên bỏ đi mà không trả tiền, nên người chủ đâm chán, chẳng buồn thay ổ khóa nữa. Tốt hơn cô nên lấy cái tủ commốt chặn cửa vào ban đêm.

Mila quan sát mình trong tấm gương phía trên chậu rửa.

- Cám ơn về lời khuyên.

- Tôi nói nghiêm túc đấy. Nếu cô cần tìm một nơi khả dĩ hơn để ở, tôi có thể giúp.

Mila nhìn Boris với ánh mắt thăm dò.

- Không phải anh đang mời tôi đến ở nhà anh đấy chứ?

Boris luống cuống, vội vàng giải thích:

- Không, ý tôi không phải thế. Chỉ là tôi có thể hỏi thăm hộ cô xem có nữ cảnh sát nào muốn chia sẻ căn hộ của mình không, thế thôi.

- Hy vọng tôi không phải ở đây lâu đến mức ấy. - Mila vừa bình luận vừa nhún vai.

Sau khi lau mặt xong, cô trỏ tay vào cái túi giấy mà Boris đem đến. Gần như giật phăng cái túi khỏi tay anh chàng cảnh sát, cô ngồi chéo chân trên giường, xem xét những thứ trong túi.

Bánh sừng bò và cà phê. Đúng như cô đoán.

Boris hơi ngạc nhiên trước thái độ của Mila, và càng bất ngờ hơn khi phát hiện tay cô bị băng. Nhưng anh không nói gì.

- Cô có đói không? - Anh rụt rè hỏi.

Mila vừa nhai nhồm nhoàm vừa đáp:

- Đã hai ngày nay tôi chẳng nuốt thứ gì vào bụng. Nếu anh không đến thì tôi không dám chắc mình có đủ sức để bò ra khỏi đây không nữa.

Mila biết cô không nên nói những lời có tính chất vuốt đuôi như thế, nhưng cô không biết phải cám ơn Boris bằng cách nào khác, vả lại cô đói thật. Boris mỉm cười hài lòng.

- Thế, cô thấy ở đây ra sao? - Anh hỏi.

- Tôi thích nghi nhanh lắm. Vậy nên, tôi thấy ổn.

Ngoại trừ cái bà chị Sarah Rosa ghét tôi ra mặt kia.

- Không tồi, vụ suy luận về chị em kết nghĩa của cô ấy mà…

- Chẳng qua tôi gặp may thôi: chỉ cần lục lọi trong đống kinh nghiệm bản thân hồi mới dậy thì. Chắc anh cũng từng làm đủ trò ngớ ngẩn hồi mười hai tuổi, nhỉ?

Nhìn vẻ ngơ ngác trên gương mặt Boris khi anh cố tìm một câu trả lời, Mila bật cười.

- Tôi đùa đấy...

- À... Ừ. - Anh đỏ bừng mặt.

Mila đã ăn xong miếng cuối cùng của cái bánh thứ nhất. Cô mút ngón tay rồi tấn công sang chiếc bánh sừng bò thứ hai. Đáng lẽ nó là của Boris, nhưng trước vẻ ngon miệng của cô, anh chẳng dám lên tiếng.

- Boris này, anh giải thích cho tôi một chuyện được không? Tại sao anh đặt tên cho hắn là Albert?

- Đó là một câu chuyện rất thú vị. - Boris vừa đáp vừa ung dung bước đến ngồi xuống bên cạnh Mila. - Năm năm trước, chúng tôi đã điều tra một vụ khá kỳ lạ. Một tên giết người hàng loạt bắt cóc phụ nữ, cưỡng đoạt họ, siết cổ đến chết rồi để cho chúng tôi phát hiện những thi thể bị cưa mất chân phải.

- Chân phải à?

- Đúng thế. Chẳng ai hiểu ra chuyện gì, vì hung thủ tỏ ra rất tỉ mỉ và sạch sẽ. Hắn không để lại bất kì dấu vết nào, ngoài vụ cưa chân. Và hắn tấn công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên... Nói tóm lại, chúng tôi đã phát hiện đến cái xác thứ năm rồi mà vẫn chưa có cách nào bắt thủ phạm dừng lại được. Thế rồi giáo sư Gavila đã nảy ra một ý...

Mila đã ăn xong cái bánh thứ hai và chuyển sang uống cà phê.

- Ý tưởng kiểu nào?

- Ông ấy đã bảo chúng tôi tìm hiểu về tất cả những vụ có liên quan đến chân cẳng, kể cả những vụ đơn giản và tầm thường nhất.

Mila đực mặt ra.

Trong khi chờ nghe kể tiếp, cô đổ ba gói đường vào trong cốc cà phê. Boris nhăn mặt, nhưng anh quyết định nói tiếp:

- Tôi cũng thế, lúc đầu, tôi thấy chuyện đó có vẻ phi lý. Nhưng dẫu vậy chúng tôi cũng bổ đi tìm, và phát hiện ra trước đấy không lâu một tên trộm đã ra tay trong vùng. Hắn đánh cắp giày phụ nữ trưng bày trên kệ đặt bên ngoài các cửa hàng. Tất nhiên người ta chỉ bày mỗi mẫu một chiếc giày. Cô biết đấy, họ làm thế để tránh bị ăn cắp. Thường thì đó là chiếc bên phải, nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng khi thử giày.

Mila khựng lại, ly cà phê lơ lửng trong không khí. Cô thấy ngưỡng mộ trước một trực giác hiếm có của Goran.

- Các anh đã theo dõi các hiệu giày và bắt được tên trộm...

- Albert Finley. Một tay kĩ sư ba mươi tám tuổi, đã có vợ, hai con nhỏ, một căn nhà ở ngoại thành và một chiếc xe cắm trại.

- Một kẻ tầm thường.

- Trong nhà cất xe của gã, chúng tôi đã tìm thấy một cái tủ đông. Ở trong đó là năm cái chân phải của phụ nữ được bọc ni lông cẩn thận. Hung thủ tiêu khiển bằng cách cho chúng mang những chiếc giày mà hắn đã ăn trộm được. Một kiểu tôn sùng đồ vật bệnh hoạn.

- Chân phải, tay trái. Thảo nào có cái tên Albert!

- Chính xác! - Boris nói và đặt một tay lên vai Mila, tỏ vẻ đồng tình.

Mila giãy nảy, vùng ra khỏi giường. Anh chàng cảnh sát có vẻ bị xúc phạm.

- Tôi xin lỗi. - Cô nói.

- Không sao đâu.

Anh ta nói dối. Mila không tin điều đó, nhưng quyết định làm ra vẻ như tin. Cô quay lưng lại phía anh và tiến đến bồn rửa mặt.

- Tôi cần chuẩn bị. Chỉ một phút là đủ, sau đó ta có thể lên đường.

Boris đứng dậy và tiến ra cửa.

- Cô cứ thong thả. Tôi sẽ đợi ở ngoài.

Mila thấy anh ta bước ra khỏi phòng. Rồi cô nhìn vào gương. Chúa ơi, cô tự nhủ, khi nào tất cả những chuyện này mới kết thúc đây? Khi nào con mới lại có thể để cho ai đó chạm vào mình?

Trong suốt quãng đường đến nhà Bermann, hai người không nói với nhau một lời. Lúc trèo vào trong xe, Mila nhận thấy Boris đã bật radio. Cô hiểu ra ngay. Boris tỏ ra bị xúc phạm, và có lẽ từ nay cô đã có thêm một kẻ thù nữa trong đội điều tra. Chưa đầy nửa tiếng sau, hai người đã đến nơi. Chỗ ở của Alexander Bermann là một vila nhỏ, bao xung quanh là bãi cỏ xanh, tọa lạc trong một khu dân cư yên bình.

Con đường đã bị chặn. Phía bên ngoài vòng cách ly là đám đông những kẻ hiếu kỳ, hàng xóm láng giềng và cánh nhà báo. Nhìn thấy bọn họ, Mila nhủ thầm đây mới chỉ là điểm khởi đầu. Khi đến nơi, họ nghe thấy một bản tin truyền thanh đang loan báo việc khám phá ra thi thể của Debby và thậm chí còn tiết lộ cái tên Bermann.

Lý do để cho giới truyền thông phát rồ lên cũng đơn giản. Vụ nghĩa địa cánh tay là một đòn mạnh giáng vào chính quyền, và giờ đây cơn ác mộng cuối cùng đã có một cái tên.

Mila đã chứng kiến điều này xảy ra trước kia. Báo chí hùng hổ lao vào vụ việc và chỉ trong một thời gian ngắn sẽ nghiền nát mọi khía cạnh trong cuộc đời của Bermann không chút câu nệ. Vụ tự tử của gã có giá trị như một lời thú tội. Các phương tiện truyền thông sẽ nhào nặn ra phiên bản riêng của mình. Họ miêu tả gã như một con quái vật, không để sót một điểm mâu thuẫn khả dĩ nào, chỉ dựa vào sức mạnh đoàn kết của họ. Giới truyền thông sẽ cắt gã thành từng mảnh giống như điều người ta tin gã đã làm với các nạn nhân nhỏ tuổi, nhưng lại không gây ra chút mai mỉa nào từ sự tương đồng đó. Bọn họ sẽ rút ra hàng lít máu từ toàn bộ vụ án này để tô vẽ các trang nhất, khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn. Không tôn trọng, cũng chẳng vô tư. Và nếu như có ai đó dám tự cho phép mình nhắc nhở chuyện đó, họ sẽ đỡ đòn bằng tấm bùa “quyền được thông tin”, vốn luôn tiện dụng và hợp thời.

Mila bước xuống xe lách qua đám đông nhà báo lẫn dân thường để chui vào trong vòng cô lập. Cô bước nhanh trên lối vào nhà, tiến đến cửa chính, lóa mắt vì ánh đèn flash máy ảnh. Lúc đó, ánh mắt cô và giáo sư Goran giao nhau qua cửa sổ. Bỗng dưng cô cảm thấy tội lỗi vì đã để ông nhìn thấy cô đi cùng Boris. Nhưng rồi cô thấy mình thật ngớ ngẩn với ý nghĩ đó.

Goran hướng sự chú ý của ông trở vào trong nhà. Sau đó vài giây, Mila cũng bước qua ngưỡng cửa.

Stern và Sarah Rosa cùng với các thanh tra khác đã làm việc được một lúc. Họ di chuyển như những con côn trùng cần mẫn. Mọi thứ bị xới tung lên. Các cảnh sát rà soát từng món đồ, mọi vách tường, tất cả những gì có thể ẩn chứa các manh mối có khả năng làm sáng tỏ vụ án.

Một lần nữa, Mila không thể tham gia vào việc lục soát căn nhà. Thêm vào đó, Sarah Rosa cũng đã từng bóng gió rằng cô sẽ chỉ có quyền quan sát. Vậy nên cô nhìn chung quanh mình, tay đút túi để không phải giải thích về lớp bông băng bó.

Những tấm ảnh đã làm cô chú ý.

Có chừng một chục tấm trong phòng, tất cả được đóng trong những cái khung sang trọng bằng gỗ hoặc mạ bạc. Đó là những hình ảnh của Bermann và vợ y trong những giờ phút hạnh phúc. Một cuộc đời mà giờ đây có vẻ xa lắc, gần như không có thật. Mila nhận thấy hai vợ chồng đã đi du lịch khá nhiều. Các tấm ảnh được chụp ở khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, những tấm càng mới và gương mặt họ càng bị thời gian hằn dấu thì biểu hiện hạnh phúc của họ càng phai nhạt. Có một điều gì đó trong những tấm ảnh, Mila đoán chắc như thế, nhưng chưa thể nói được nó là gì. Cô có một cảm giác lạ lùng trong ngôi nhà này. Bây giờ cô đã cảm nhận được rõ rệt hơn.

Sự hiện diện của một người.

Ngoài toán nhân viên điều tra đi qua đi lại, Mila nhận ra một khán giả nữa: người phụ nữ trong ảnh, Veronica Bermann, vợ của nghi phạm. Cô lập tức đoán ra Veronica là một người có tính tình ngạo mạn. Cô ta thể hiện thái độ dửng dưng rõ rệt trong khi những con người xa lạ kia tự tiện lục lọi đồ đạc của mình, xâm phạm tính riêng tư của những món đồ, những vật kỷ niệm bằng sự hiện diện suồng sã của họ. Veronica hoàn toàn tỏ ra hợp tác với ngài chánh thanh tra Roche, và bảo đảm với ông rằng, chồng mình không thể là đối tượng của những cáo buộc như vậy.

Mila tiếp tục dành thì giờ quan sát. Khi quay người lại, cô đối diện với một thứ không ngờ tới.

Phủ kín một bức tường là những tiêu bản bướm.

Chúng được đặt trong các khung kính. Có những con bướm khác thường và đẹp tuyệt. Một số mang tên ngoại quốc được ghi cùng với nơi phát hiện trên một tấm bảng đồng. Những con bướm đẹp nhất đến từ châu Phi và Nhật Bản.

- Chúng mê hoặc ta vì chúng đã chết. - Goran buông lời nhận xét.

Nhà tội phạm học mặc một chiếc áo thun đen và một quần da lạc đà. Cổ áo sơmi của ông lòi ra bên trên cổ áo thun. Ông đang đứng cạnh Mila để ngắm nhìn rõ hơn bức tường bướm.

- Đứng trước một thứ kì vĩ như thế này, chúng ta quên mất một điều quan trọng nhất và hiển nhiên nhất... Lũ bướm này sẽ không còn bay được nữa.

- Thật phi tự nhiên. - Mila đồng tình. - Nhưng cũng thật quyến rũ...

- Đó chính là điều mà cái chết gây ra đối với con người. Chính vì nó mà thế gian này có những kẻ giết người hàng loạt.

Goran khoát tay ra hiệu. Chỉ cần thế, mọi thành viên trong nhóm điều tra lập tức tề tựu quanh ông. Điều đó chứng tỏ rằng, mặc dù có vẻ bị cuốn vào công việc, họ vẫn luôn để mắt đến ông, theo dõi từng cử chỉ và thái độ của ông.

Mila đã có lời khẳng định cho sự tin tưởng vô đối mà mọi người dành cho trực giác của Goran. Ông là người soi đường cho họ. Điều này thật lạ lùng, vì các cảnh sát, hay “cớm” - ít ra như những người mà Mila biết - luôn gặp khó khăn trong việc đặt niềm tin vào một người dân thường. Nói thật lòng, đội điều tra này lẽ ra nên được gọi là “đội của Gavila” hơn là “đội của Roche”, người thường xuyên vắng mặt. Ông ta sẽ chỉ xuất đầu lộ diện nếu như họ tìm thấy một bằng chứng mạnh mẽ và có tính chất quyết định chống lại Bermann.

Stern, Boris và Rosa đứng xung quanh giáo sư tội phạm học như sơ đồ mọi khi, mỗi người một vị trí. Mila đứng ở phía sau họ một bước. Vì sợ cảm thấy bị gạt ra rìa, cô đã tự loại mình ra.

Goran hạ thấp giọng, nhanh chóng ấn định cho mọi người giọng điệu của cuộc trao đổi mà ông muốn. Có lẽ ông không muốn làm phiền Veronica Bermann.

- Thế nào, chúng ta có được những gì rồi?

Stern là người đầu tiên lên tiếng. Anh lắc đầu:

- Trong căn nhà này, không có bất cứ thứ gì liên kết Bermann với sáu cô bé nạn nhân.

- Cô vợ hoàn toàn không biết gì. Tôi đã hỏi cô ta vài câu và tôi không nghĩ cô ta nói dối. - Boris thêm vào.

- Người của chúng ta đang tiến hành rà soát ngoài vườn cùng với bầy chó. - Rosa nói. - Nhưng cho đến lúc này vẫn chưa thấy gì.

- Chúng ta sẽ điểm lại nhất cử nhất động của Bermann trong sáu tuần vừa qua. - Giáo sư Goran nhận xét, và cả nhóm cùng gật gù, mặc dù họ biết đó là một việc gần như bất khả thi.

- Stern, ta còn gì nữa không?

- Không có biến động bất thường trong tài khoản. Khoản chi lớn nhất mà Bermann đã thực hiện trong năm vừa qua liên quan đến việc thụ tinh nhân tạo.

Nghe đến đây, Mila mới hiểu được cảm giác mà cô có từ trước khi vào nhà cho đến khi nhìn các tấm ảnh. Đó không phải là sự hiện diện như cô đã tưởng lúc đầu. Cô đã nhầm.

Đó đúng hơn là sự vắng mặt.

Người ta có thể cảm thấy sự vắng mặt của một đứa trẻ trong căn nhà toàn đồ đạc đắt tiền và vô hồn này. Nó đã được thu xếp dành cho hai cá thể ý thức được rõ ràng cuộc sống quạnh vắng của họ. Ca thụ tinh trong ống nghiệm mà Stern vừa nhắc đến dường như là một sự mâu thuẫn, vì nơi này không toát lên nỗi lo âu của một cặp đôi hiếm muộn.

Stern chốt lại phần trình bày của mình bằng một chân dung ngắn gọn về cuộc sống riêng tư của Bermann:

- Hắn không dùng ma túy, không uống rượu hay hút thuốc. Hắn có đăng ký tham gia một phòng tập thể dục và một câu lạc bộ băng hình, nơi hắn thuê các cuốn phim tài liệu về các loài côn trùng. Hắn đi lễ nhà thờ Lutheran trong khu vực, và hai lần mỗi tháng đến làm tình nguyện viên trong một trại dưỡng lão.

- Một ông thánh sống. - Boris mai mỉa.

Goran quay sang phía Veronica Berman để bảo đảm là cô ta không nghe thấy câu nói vừa rồi. Sau đó ông nhìn Rosa.

- Còn gì khác không?

- Tôi đã phân tích ổ cứng máy vi tính ở nhà và ở văn phòng của hắn. Tôi cũng đã thực hiện việc khôi phục các tập tin bị xóa, nhưng chẳng có gì đáng quan tâm cả. Toàn chuyện làm ăn. Tên này bị ám ảnh bởi công việc.

Mila nhận thấy Goran đột nhiên có vẻ lơ đãng. Điều này chỉ xảy ra trong một vài giây, sau đó ông tập trung trở lại vào cuộc trao đổi.

- Vậy còn việc lên mạng của Alexander, ta biết được gì?

- Tôi đã gọi đến nhà mạng của hắn, và họ đã cung cấp cho tôi một bản danh sách các trang web hắn đã truy cập trong vòng sáu tháng gần đây. Cũng lại chẳng có gì... Có vẻ như hắn rất mê các trang mạng về thiên nhiên, du lịch, và động vật. Ngoài ra, hắn mua trên mạng các món đồ cổ và bướm sưu tập, nhất là trên trang eBay.

Khi Rosa trình bày xong, Goran khoanh tay lại, rồi nhìn các điều tra viên, từng người một. Kể cả Mila, người cuối cùng cũng cảm thấy được tham gia.

- Vậy, các bạn nghĩ sao? - Ông giáo sư hỏi.

- Tôi thấy như bị lóa mắt. - Boris đáp ngay và đưa tay lên che mắt để nhấn mạnh ý muốn nói. - Tất cả đều sạch sẽ quá mức.

Những người còn lại gật gù.

Mila không rõ anh chàng căn cứ vào đâu, nhưng cô không muốn hỏi thẳng. Giáo sư Goran đưa một tay lên vuốt trán, rồi xoa đôi mắt mệt mỏi. Một lần nữa, trên gương mặt của ông lại xuất hiện sự lơ đãng ấy... Một luồng suy nghĩ đưa ông đi nơi khác trong một vài giây, nhưng rồi bằng cách nào đó ông quay lại ngay với thực tại.

- Nguyên tắc đầu tiên khi điều tra một nghi phạm là gì?

- Chúng ta ai cũng có bí mật. - Boris trả lời ngay.

- Đúng. - Goran nói. - Chúng ta ai cũng có nhược điểm, ít nhất là một lần trong đời. Mỗi người trong chúng ta đều có bí mật của mình, dù nhỏ hay lớn, dù có thú nhận hay không... Hãy nhìn xung quanh các bạn: người đàn ông này là hình mẫu của một người chồng lý tưởng, ngoan đạo, làm việc chăm chỉ. - Ông giơ ngón tay lên đếm. - Đó là một nhà hảo tâm, biết giữ gìn sức khỏe, chỉ thuê phim tài liệu, không có thói hư tật xấu, chăm sưu tập bướm... các bạn có tin nổi một con người như thế không?

Lần này câu trả lời hiển nhiên là không.

- Vậy, một con người như thế làm gì với xác một bé gái trong xe hơi của mình?

Stern xen vào:

- Hắn đã xóa sạch tất cả...

Goran gật gù:

- Alexander đã mê hoặc chúng ta bằng sự hoàn hảo này, để chúng ta không nhìn đi chỗ khác... Thế chúng ta đang không nhìn vào đâu trong thời điểm này?

- Ta phải làm gì đây? - Rosa hỏi.

- Bắt đầu lại từ đầu. Câu trả lời nằm ở đây, trong những thứ mà các bạn đã tìm hiểu. Hãy rà soát chúng thật kỹ. Cần phải bóc đi lớp vỏ bọc lấp lánh của chúng. Đừng để mình bị lừa bởi cuộc sống hoàn hảo kia: ánh hào quang đó chỉ làm chúng ta phân tán tư tưởng và rối trí. Ngoài ra, cần phải...

Goran lại tỏ ra lơ đãng. Sự chú ý của ông đang ở đâu đâu. Lần này thì tất cả mọi người đều nhận ra. Một thứ gì đó đang thành hình và lớn dần trong đầu ông.

Mila quyết định quan sát theo hướng nhìn của ông giáo sư. Ông không đơn thuần là nhìn vào khoảng không. Ông đang nhìn cái gì đó trong phòng.

Goran hỏi thành tiếng:

- Có ai nghe các tin nhắn trên máy trả lời tự động của điện thoại chưa?

Trong một thoáng, các điều tra viên cứng người, nhất loạt nhìn vào cái điện thoại đang nhấp nháy đỏ và cảm thấy có lỗi khi bị bắt quả tang sơ sót của mình. Goran không bận tâm chuyện đó. Ông chỉ tiến đến bấm nút cho chạy máy ghi âm số.

Một lúc sau, những lời của người quá cố vang lên từ trong bóng tối.

Alexander Bermann đang trở lại trong ngôi nhà một lần cuối.

“Hừm... Anh đây... E hèm... Anh không có nhiều thời gian… Nhưng dẫu sao anh cũng muốn xin lỗi em... Anh xin lỗi em, vì tất cả... Lẽ ra anh phải làm điều này sớm hơn, nhưng anh đã không thể... Em cố gắng tha thứ cho anh. Tất cả đều là lỗi của anh...”

Giọng nói chấm dứt và một sự im lặng như đá đè nặng lên căn phòng. Bất giác mọi ánh nhìn đều đổ dồn vào Veronica Bermann, người đang đứng trơ trơ như tượng tạc.

Goran Gavila là người đầu tiên nhúc nhích. Ông tiến lại gần, nắm lấy hai vai cô ta và nhờ một nữ cảnh sát đưa cô ta sang phòng khác. Stern lên tiếng phá vỡ bầu im lặng:

- Rồi, đã đến lúc nghe lời thú nhận rồi đây.
 
Chương 8


Mila sẽ gọi cô bé là Priscilla.

Cô sẽ dùng phương pháp của giáo sư Goran Gavila, người luôn đặt tên cho những kẻ sát nhân mà ông truy tìm. Để “con người hóa” chúng, khiến chúng trở nên “thực” hơn trong con mắt của ông và không còn là những bóng ma lẩn khuất nữa. Cũng thế, Mila đặt tên cho nạn nhân thứ sáu bằng cái tên của một cô bé khác, may mắn hơn, người mà ở đâu đó - cô không biết chính xác - đang tiếp tục được làm một bé gái bình thường như những cô bé khác, và không hề hay biết mình đã thoát khỏi chuyện gì.

Mila quyết định như thế trên đường quay về phòng trọ. Một cảnh sát đã nhận đưa cô về. Lần này Boris không xung phong nữa, và Mila cũng chẳng thể trách được anh sau khi đã đột ngột đẩy anh ra lúc sáng nay.

Việc gọi cô bé số sáu là Priscilla không chỉ bởi cần phải cho cô bé một tính trạng con người. Còn một nguyên nhân khác: Mila không thể cứ gọi cô bé bằng một con số. Từ giờ trở đi, cô cảm thấy chỉ có mỗi mình cô là còn để tâm đến việc khám phá danh tính của cô bé, vì sau khi nghe thấy lời nhắn của Bermann, chuyện đó không còn là mối ưu tiên hàng đầu nữa.

Họ đã có một xác chết trong xe, và đoạn băng ghi âm từ máy trả lời tự động rất gần với một lời tự thú. Không cần quá lao tâm khổ tứ nữa. Lúc này chỉ cần liên kết tay chào hàng với các nạn nhân còn lại, sau đó đi tìm động cơ. Nhưng động cơ của hắn, có lẽ họ đã biết cả rồi...

Nạn nhân không phải là các cô bé. Mà là gia đình của các em.

Chính Goran đã đưa ra lời giải thích ấy trong lúc quan sát cha mẹ của các nạn nhân xấu số trong nhà xác. Những người cha người mẹ mà, vì những lý do này khác, chỉ có mỗi một đứa con.

Một bà mẹ đã gần năm mươi tuổi và về mặt sinh học không thể mong chờ một lần mang thai khác nữa...

“Chính họ mới là nạn nhân. Gã đã nghiên cứu họ, đã lựa chọn họ. Một đứa con gái độc nhất. Gã muốn tước mất khỏi họ mọi hy vọng khép lại nỗi đau và quên đi sự mất mát. Họ sẽ phải nhớ điều gã đã làm với mình cho đến hết đời. Gã làm cho sự thống khổ của họ tăng lên bội phần khi lấy đi tương lai của họ. Gã đã tước đoạt cơ hội lưu truyền hồi ức của bản thân họ cho tương lai, cơ hội trường tồn sau cái chết của chính họ... Gã sống bằng điều đó. Chính nó là sự tưởng thưởng cho sự tàn ác của gã, là nguồn khoái lạc của gã”.

Alexander Bermann không có con cái. Hắn đã cố gắng có con, đã cầu viện đến biện pháp thụ tinh nhân tạo. Nhưng vô ích. Có lẽ vì lý do đó mà hắn đã trút cơn điên cuồng vào các gia đình khốn khổ kia. Có thể hắn muốn trả thù vì sự vô sinh của mình.

Không. Đây không phải là sự trả thù. Có điều gì đó khác... Mila không thể chấp nhận suy nghĩ đó, nhưng cô không biết linh cảm ấy từ đâu mà ra.

Chiếc xe hơi về đến khu nhà nghỉ. Mila xuống xe, chào từ biệt viên cảnh sát kiêm tài xế. Anh ta gật đầu rồi quay đầu xe phóng đi, bỏ cô lại giữa con đường trải sỏi rộng rãi. Phía sau cô là cánh rừng với những ngôi nhà nghỉ. Trời khá lạnh. Ánh sáng độc nhất phát ra là từ tấm bảng đề chữ “CÒN PHÒNG” và “CÓ TRUYỀN HÌNH CÁP”. Mila tiến về nhà nghỉ của mình. Mọi ô cửa sổ đều tối om.

Cô là người khách trọ duy nhất.

Cô đi ngang qua phòng của bảo vệ. Căn phòng đang chìm trong thứ ánh sáng xanh lờ mờ phát ra từ chiếc ti vi. m thanh đã bị tắt và nhân viên bảo vệ không có ở đó. Chắc anh ta đi vệ sinh, Mila nghĩ bụng, rồi bước tiếp. May mắn là cô đã cầm theo chìa khóa, chứ nếu không cô buộc phải đợi anh ta quay lại.

Trong tay Mila là một bao giấy đựng món đồ uống có ga và hai cái bánh kẹp phômai, bữa tối hôm nay của cô. Cô cũng đã mua một lọ thuốc mỡ để bôi vào các vết phỏng trên hai bàn tay. Hơi thở của cô tạo thành đám khói trong bầu không khí lạnh giá. Cô bước nhanh hơn, cảm thấy như sắp chết cóng. Những bước chân của cô trên con đường rải sỏi là âm thanh duy nhất trong màn đêm. Nhà nghỉ của cô nằm tận cuối dãy.

Priscilla. Cô nhớ lại những điều mà bác sĩ Chang đã nói: “Tôi cho rằng thủ phạm đã kết liễu các nạn nhân ngay lập tức. Gã không có lợi gì trong việc duy trì sự sống cho bọn trẻ lâu hơn mức cần thiết, và gã không hề chần chừ. Phương pháp ra tay với các nạn nhân là như nhau. Ngoại trừ một cô bé...”

Giáo sư Gavila đã yêu cầu anh giải thích rõ hơn, và Chang đã vừa nhìn ông vừa đáp rằng đối với nạn nhân số sáu, sự việc còn tệ hại hơn...

Câu nói của bác sĩ Chang đã ăn sâu vào tâm trí Mila.

Không chỉ vì nạn nhân thứ sáu đã phải trả một cái giá đắt hơn các cô bé còn lại... “Gã đã làm giảm nhịp tim của nạn nhân để cái chết đến với cô bé chậm hơn... Gã muốn thưởng thức tấn tuồng”. Không, vẫn còn một điều gì khác nữa. Vì sao thủ phạm lại thay đổi phương thức gây án? Cũng hệt như lúc nghe bác sĩ Chang báo cáo, Mila bất giác thấy lạnh nơi gáy.

Phòng trọ của cô chỉ còn cách vài mét. Cô đang tập trung suy nghĩ, chắc mẩm lần này mình sẽ tìm được câu trả lời. Bỗng cô hụt chân vì một cái lỗ trên mặt đất.

Lúc đó cô mới nghe thấy.

Tiếng động rất khẽ phía sau lưng Mila khiến mọi suy nghĩ trong đầu cô biến mất. Một tiếng đạp nhẹ trên sỏi. Một kẻ nào đó đang bắt chước những bước đi của cô. Kẻ đó căn chỉnh nhịp bước của mình cho trùng khớp với cô. Bước hụt của Mila khiến hắn lỡ đà và bị lộ.

Mila không bối rối và tiếp tục duy trì nhịp độ. Những bước chân của kẻ theo dõi lại hòa nhập làm một với nhịp bước của cô. Theo tính toán của mình, Mila cho rằng kẻ theo dõi ở cách cô tầm chục mét. Cô bắt đầu tính đến các giải pháp. Rút khẩu súng đang giắt sau lưng thì chỉ vô ích, vì nếu tên kia có vũ khí, hắn sẽ có thừa thời gian để khai hỏa trước. Nhân viên bảo vệ, cô nghĩ bụng. Chiếc ti vi được bật trong căn phòng trống. Hắn đã khử anh ta. Giờ thì đến lượt mình. Lúc này cô đang ở rất gần cánh cửa nhà nghỉ. Cần phải quyết định ngay. Cô buộc phải hành động. Không còn cách nào khác.

Mila lục tìm chìa khóa trong túi và nhanh chóng trèo lên bậc tam cấp dưới hàng hiên nhà. Xoay hai vòng chìa, cô mở cửa và lỉnh ngay vào bên trong. Tim cô đập thình thịch. Một tay cô rút khẩu súng lục ra, tay kia bật công tắc điện. Ngọn đèn cạnh giường vụt sáng. Mila đứng im không nhúc nhích, vai tì vào cửa, hai tai căng lên nghe ngóng. Hắn đã không tấn công mình, cô nhủ thầm. Rồi cô nghe thấy tiếng bước chân trên lớp ván gỗ ngoài hàng hiên.

Boris đã nói với cô chìa khóa của khu nhà nghỉ có thể mở được tất cả các phòng, vì người chủ đã chán thay khóa sau khi khách trọ cầm chìa bỏ đi mất. Kẻ theo dõi mình có chìa khóa không? Rất có khả năng. Cô tự nhủ nếu hắn cố tình lẻn vào trong phòng, cô sẽ gây bất ngờ cho hắn từ phía sau.

Mila quỳ xuống, di chuyển trên lớp thảm sàn vấy bẩn để ra cửa sổ. Cô dán mình vào tường, đưa tay lên mở cửa. Băng giá đã làm bản lề cứng lại. Cô khá vất vả nhưng cuối cùng cũng đã mở được một cánh cửa sổ, rồi bật dậy nhảy ra bên ngoài, giữa đêm tối.

Trước mặt cô là cánh rừng. Những ngọn cây xào xạc bên nhau nhịp nhàng. Mặt sau của khu nhà nghỉ có một con đường tráng xi măng nối liền các căn nhà với nhau. Mila lần dọc theo nó, người cúi lom khom, cảnh giác dò tìm mọi động tĩnh chung quanh. Cô nhanh chóng băng ngang qua nhà nghỉ bên cạnh nhà mình, rồi đi qua một nhà nữa. Sau đó cô đi vào khe trống giữa hai nhà nghỉ.

Bây giờ, Mila cần phải thò đầu ra để quan sát hàng hiên. Nhưng việc này khá rủi ro. Dùng cả hai tay giữ súng cho chắc, cô nén đau đếm từ một đến ba, hít ba hơi sâu, rồi nhảy phắt ra khỏi góc tường, chĩa súng ra trước mặt. Không có ai cả. Đây không thể là đều do cô tưởng tượng ra. Cô tin chắc có người theo dõi mình. Một kẻ có khả năng di chuyển theo nhịp bước của mục tiêu.

Một kẻ săn mồi.

Mila quét mắt tìm kiếm dấu vết của hắn trên mặt đất. Dường như hắn đã tan biến vào không khí, trong tiếng cây lá xào xạc quanh khu nhà.

- Xin lỗi cô...

Mila quay phắt lại và nhìn người đàn ông vừa lên tiếng, súng chúc xuống. Cô đờ người vì ba từ ngắn ngủi đó. Phải mất vài giây cô mới nhận ra người bảo vệ. Nhận ra mình đã làm cô hoảng sợ, anh ta lặp lại, lần này là để cho cô hoàn hồn:

- Xin lỗi cô.

- Có chuyện gì vậy? - Mila hỏi trong khi tim vẫn đang đập dồn dập.

- Có người muốn nói chuyện điện thoại với cô...

Nhân viên bảo vệ chỉ cho cô máy điện thoại trong phòng trực. Mila tiến đến, không buồn đợi anh ta.

- Mila Vasquez. - Cô nói vào ống nghe.

- Chào cô, Stern đây... Giáo sư Gavila muốn gặp cô.

- Tôi á? - Cô hỏi, vừa ngạc nhiên lại vừa hãnh diện.

- Phải. Chúng tôi đã báo cho viên cảnh sát vừa đưa cô về. Anh ta sẽ đến đón cô.

- Được thôi. - Mila thấy bối rối vì Stern không nói gì thêm nên cô hỏi tiếp. - Có tin gì mới à?

- Alexander Bermann đã giấu chúng ta một chuyện.

Boris cố điều chỉnh thiết bị định vị toàn cầu mà không rời mắt khỏi con đường. Mila nhìn thẳng phía trước, không nói gì. Gavila ngồi ghế sau. Ông thu mình trong chiếc áo măngtô sờn cũ, mắt nhắm lại. Họ đang trên đường đến nhà người chị của Veronica Bermann, nơi vợ của Alexander tạm lánh để trốn cánh phóng viên.

Goran đã kết luận rằng Alexander Bermann cố tình che giấu điều gì đó trong lời nhắn để lại trên điện thoại.

“Hừm... Anh đây... E hèm... Anh không có nhiều thời gian... Nhưng dẫu sao anh cũng muốn xin lỗi em... Anh xin lỗi em, vì tất cả... Lẽ ra anh phải làm điều này sớm hơn, nhưng anh đã không thể... Em cố gắng tha thứ cho anh. Tất cả đều là lỗi của anh...”

Nhờ vào bảng kê chi tiết các cuộc gọi, toán điều tra phát hiện ra Bermann để lại lời nhắn khi hắn ở đồn cảnh sát giao thông, gần như đúng vào lúc xác của Debby Gordon được phát hiện.

Goran bất chợt nảy ra câu hỏi vì sao một người ở vào tình thế như của hắn - với một tử thi trong cốp xe và ý định tự kết liễu cuộc đời - lại gọi một cú điện thoại như thế cho vợ mình.

Những tên giết người hàng loạt không bao giờ xin lỗi. Những khi chúng làm thế chẳng qua là vì chúng muốn trưng ra một hình ảnh khác của bản thân, vì điều đó thuộc về bản chất dối trá của chúng. Mục đích của chúng là làm rối nhiễu sự thật, phủ thêm tấm màn mờ ảo bao quanh chúng. Nhưng với Bermann, việc này có vẻ khác. Có một sự khẩn cấp trong giọng điệu của hắn. Hắn muốn hoàn tất một điều gì đó trước khi quá muộn.

Alexander Bermann muốn được tha thứ chuyện gì?

Goran tin rằng chuyện này có liên quan đến người vợ và cuộc hôn nhân của họ.

- Thưa giáo sư, xin ông vui lòng kể lại một lần nữa...

Goran mở mắt và thấy Mila đang xoay sang phía ông. Đôi mắt cô đang chăm chú nhìn ông chờ đợi.

- Có thể Veronica Bermann đã phát hiện ra điều gì đó. Điều này có thể là chủ đề gây tranh cãi giữa họ. Theo tôi, hắn đã muốn được tha thứ cho điều đó.

- Thế tại sao thông tin này lại quan trọng đến thế với ta?

- Tôi không biết liệu nó có thực sự quan trọng hay không... Nhưng một người đàn ông ở trong tình thế của Alexander sẽ không bỏ thì giờ đi giải quyết mâu thuẫn vợ chồng.

- Thế thì sao?

- Có thể cô vợ không hoàn toàn ý thức được điều cô ta đang biết.

- Và hắn, với cú điện thoại này, hắn muốn làm chủ tình hình, ngăn không cho vợ mình đi đến tận cùng, hoặc báo cho chúng ta về chuyện ấy...

- Phải, đó là điều tôi đang nghĩ... Cho đến lúc này Veronica Bermann tỏ ra rất hợp tác. Cô ta không có lợi lộc gì khi giấu giếm chúng ta điều gì đó, trừ phi cô ta cho rằng thông tin ấy chỉ liên quan đến hai vợ chồng họ, và không dính dáng gì với tội ác mà chúng ta đang gán cho chồng cô ta.

Đối với Mila, mọi việc giờ đã rõ ràng hơn. Trực giác của giáo sư Gavila sẽ dẫn tới việc đổi hướng điều tra. Trước tiên cần phải kiểm chứng nó đã. Chính vì lý do này mà ông giáo sư chưa cho thanh tra Roche biết.

Họ hy vọng sẽ thu được thông tin có ý nghĩa sau cuộc nói chuyện với Veronica Bermann. Với kỹ năng thẩm vấn nhân chứng lành nghề, lẽ ra Boris sẽ là người dẫn dắt cuộc đối thoại không mang tính chính thức này. Nhưng Goran đã quyết định chỉ có ông và Mila gặp trực tiếp bà Bermann. Boris chấp hành như thể đó là một mệnh lệnh của cấp trên chứ không phải của một người dân thường. Nhưng sự thù nghịch của anh đối với Mila chỉ càng tăng thêm. Anh chàng không thể hiểu được tại sao cô cần phải có mặt.

Mila cảm nhận được sự căng thẳng ấy, nhưng ngay cả cô cũng không hiểu lý do gì đã khiến giáo sư Gavila lựa chọn như vậy. Nhiệm vụ duy nhất còn lại của Boris là hướng dẫn cho Mila cách dẫn dắt cuộc nói chuyện, và anh đã làm hết mình cho đến lúc này, trước khi phải vật lộn với cái máy định vị toàn cầu để buộc nó chạy trở lại.

Mila nhớ lại câu bình phẩm của Boris khi Stern và Rosa miêu tả Alexander Bermann: “Tôi thấy như bị lóa mắt. Tất cả đều ‘sạch sẽ’ quá mức”.

Sự hoàn hảo đó khó có thể tin được. Nó dường như được sắp đặt từ trước. Ai cũng có bí mật, Mila tự nhủ. Mình cũng vậy.

Người ta luôn có điều gì đó cần giấu giếm. Bố cô từng nói hồi cô còn bé xíu: “Chúng ta ai cũng từng thò tay ngoáy mũi. Thường thì chúng ta chỉ làm điều đó khi không ai trông thấy. Nhưng đúng là chúng ta có làm chuyện đó”.

Vậy thì bí mật của Alexander Bermann là gì?

Vợ hắn biết những gì?

Khi họ đến nơi thì trời đã tảng sáng. Ngôi làng với một mái vòm nhà thờ nhỏ nhô cao nằm ở chỗ uốn khúc của bờ sông. Các ngôi nhà nằm ngấp nghé bờ nước.

Chị gái của Veronica Bermann ở trong một căn hộ nằm phía trên một hiệu bánh. Sarah Rosa đã gọi điện báo cho cô ta về chuyến viếng thăm. Như dự kiến, cô ta không phản đối và cũng không hề tỏ ra dè dặt. Ý đồ của việc báo trước là nhằm trấn an cô ta rằng đây không phải là một buổi thẩm vấn. Nhưng Veronica Bermann không bận tâm đến sự cẩn trọng của đặc vụ Rosa. Cô ta thậm chí sẵn sàng chấp nhận bị tra khảo.

Khi Veronica Bermann ra đón Mila và Goran thì đã gần bảy giờ sáng. Cô ta trông hoàn toàn thoải mái trong chiếc áo ngủ và đôi dép bông. Vợ Bermann đưa hai người vào phòng khách. Trần phòng có những thanh xà lộ liễu, đồ đạc trong phòng toàn bằng gỗ dát. Veronica mời họ dùng cà phê nóng. Mila và Goran ngồi xuống chiếc trường kỷ, còn cô ta thì ngồi xuống mép cái ghế bành, với đôi mắt tối bưng của người không thể ngủ nghê hay khóc lóc gì nữa. Nhìn thấy đôi tay chắp lại đặt trên đầu gối, Goran hiểu cô ta đang căng thẳng.

Căn phòng được chiếu sáng bởi ánh vàng ấm áp của một ngọn đèn có chụp bằng lụa đã cũ. Mùi hương của những bụi cây leo ngoài cửa sổ góp thêm một chút hiếu khách cho nó.

Chị của Veronica Bermann dọn cà phê rồi bê cái khay đỏ ra khỏi phòng. Goran để cho Mila nói trước. Các câu hỏi mà họ sắp đặt ra đòi hỏi nhiều sự khéo léo. Mila thư thả dùng cà phê. Cô không có gì phải vội. Cô muốn người phụ nữ trước mặt hạ hẳn hàng rào cảnh giác xuống trước khi mở lời. Boris đã cảnh báo rằng trong một vài trường hợp chỉ cần một câu nói vụng về là đối tượng sẽ khép kín lại và không chịu hợp tác nữa.

- Thưa bà Bermann, tất cả những chuyện này quá đau đớn, và chúng tôi rất lấy làm tiếc vì đã đường đột đến đây vào lúc sáng sớm như thế này.

- Cô đừng lo, tôi luôn thức dậy sớm.

- Chúng tôi cần tìm hiểu kỹ hơn về chồng bà, nhất là để hiểu được ông ấy thực sự có liên quan tới vụ án đến mức độ nào. Vụ việc này còn rất nhiều uẩn khúc, bà tin tôi đi. Xin bà hãy kể cho chúng tôi nghe về chồng bà...

Các biểu hiện trên gương mặt của Veronica Bermann không mảy may suy suyển, nhưng ánh mắt cô ta đã sinh động hơn. Cô bắt đầu kể:

- Alexander và tôi quen nhau từ hồi học trung học. Anh ấy hơn tôi hai tuổi, và chơi trong đội khúc côn cầu. Anh ấy không phải là một vận động viên xuất sắc, nhưng ai cũng hâm mộ. Anh ấy chơi với một cô bạn của tôi, từ đó mới biết tôi. Chúng tôi bắt đầu đi chơi cùng nhau, nhưng luôn đi cùng nhóm, như những người bạn đơn thuần: lúc ấy giữa chúng tôi vẫn chưa có gì cả, và thậm chí chúng tôi cũng chẳng nghĩ có điều gì có thể gắn kết cả hai với nhau. Thật ra, tôi không tin anh ấy có bao giờ định “tiến tới” với tôi... tức là đặt vấn đề cưới xin ấy. Mà tôi cũng không...

- Chuyện ấy sau này mới xảy ra...

- Phải, cũng lạ, cô nhỉ? Sau khi tốt nghiệp, tôi mất liên lạc với anh ấy trong nhiều năm. Qua bạn bè, tôi biết anh ấy đã lên đại học. Một ngày nọ, anh ấy tái xuất hiện trong đời tôi: anh ấy gọi điện thoại cho tôi, bảo rằng tình cờ tìm thấy số điện thoại của tôi trong cuốn kỷ yếu. Thật ra, sau đó cũng qua bạn bè, tôi biết được sau khi học xong, anh ấy đã quay về hỏi han tin tức của tôi...

Trong khi lắng nghe, Goran có cảm giác Veronica không hoàn toàn đơn giản là trải lòng với những kỷ niệm xưa, mà với một cách nào đó, câu chuyện của cô ta có một mục tiêu chính xác. Như thể cô ta cố ý dẫn họ đến một nơi nào đó xa xưa trong quá khứ, nơi mà họ có thể tìm thấy điều cần tìm.

- Từ đó, hai người nối lại quan hệ... - Mila nói.

Goran hài lòng nhận ra cô cảnh sát đã làm theo những chỉ dẫn của Boris. Cô không đặt ra các câu hỏi cho Veronica Bermann, mà mớm lời để cô ta nói tiếp, để cho giống một cuộc đối thoại hơn là một buổi thẩm vấn.

- Từ đó chúng tôi nối lại quan hệ. - Vợ của Bermann lặp lại lời Mila. - Alexander theo đuổi tôi dữ lắm, để thuyết phục tôi cưới anh ấy. Rồi rốt cuộc tôi cũng đồng ý.

Goran chú ý đến câu nói cuối cùng của cô ta. Nghe nó hơi gượng, tựa như một câu nói dối nhằm giữ thể diện được hấp tấp chen vào trong lời kể với hy vọng không bị phát hiện. Ông nhớ lại những gì đã chú ý ở lần đầu tiên gặp người đàn bà này: Veronica không đẹp, có lẽ hồi trẻ cũng thế. Một phụ nữ tầm thường, không có sức quyến rũ nào. Alexander Bermann, ngược lại, khá đẹp trai với đôi mắt xanh nhạt và nụ cười tự tin của một người đàn ông ý thức được sức hấp dẫn của mình. Giáo sư Gavila thấy khó mà tin được Bermann phải nài nỉ cô vợ đồng ý lấy mình.

Đúng lúc đó, Mila quyết định nắm thế chủ động trở lại trong cuộc nói chuyện:

- Nhưng rồi rốt cuộc, chuyện giữa hai ông bà không thật sự êm đẹp...

Veronica ngừng một lúc. Khá lâu, theo đánh giá của giáo sư Goran.

Có lẽ Mila đã quăng mồi quá sớm.

- Chúng tôi có một số vấn đề. - Cuối cùng cô ta thú nhận.

- Hai người đã cố gắng có con trước đây…

- Tôi đã trải qua một đợt điều trị bằng hormone. Sau đó chúng tôi cũng đã thử bơm t*ng trùng.

- Chắc hai ông bà muốn có một đứa con lắm...

- Alexander là người muốn nhất. - Veronica Bermann nói với một giọng phòng thủ, dấu hiệu cho thấy đó chính là chủ đề gây bất hòa giữa hai người.

Họ đã đến gần mục tiêu. Goran khá hài lòng. Ông đã chọn Mila để khiến Veronica Bermann trải lòng, vì ông tin rằng phụ nữ là lý tưởng nhất để tạo dựng sự cảm thông cũng như khuất phục các kháng cự nếu có. Đúng ra ông có thể dùng Sarah Rosa, như thế có lẽ sẽ đỡ động chạm đến lòng tự ái của Boris. Nhưng ông cảm thấy Mila thích hợp nhất, và ông đã không lầm.

Để có thể nhìn vào mắt Goran mà không bị chú ý, Mila đặt tách cà phê xuống chiếc bàn đặt giữa trường kỷ và cái ghế bành mà Veronica Bermann đang ngồi, đồng thời nghiêng đầu. Nhà tội phạm học khẽ gật đầu: đã đến lúc thôi rào đón và đi thẳng vào chủ đề.

- Bà Bermann này, tại sao trong tin nhắn của máy trả lời tự động, chồng bà lại xin bà tha thứ cho ông ấy? - Mila hỏi.

Veronica quay mặt giấu một giọt lệ đang chực trào ra do xúc động.

- Bà Bermann, bà có thể tin ở chúng tôi. Xin nói thật với bà là không có ai, dù là cảnh sát, công tố viên hay quan tòa nào có thể ép được bà phải trả lời câu hỏi này, bởi vì nó không có liên quan trực tiếp đến vụ án. Nhưng nó rất quan trọng đối với chúng tôi, vì chồng bà có thể là hoàn toàn vô tội...

Nghe đến chữ ấy, Veronica quay lại nhìn Mila.

- Vô tội ư? Alexander không giết ai cả… nhưng không có nghĩa là chồng tôi không có tội!

Cơn thịnh nộ đột ngột làm Veronica lạc cả giọng. Goran đã có lời khẳng định mà ông đang chờ đợi. Mila cũng đã hiểu ra: Veronica Bermann đã chờ đợi họ. Cô ta đã mong chờ cuộc thăm viếng này cũng như những câu hỏi gài trong các câu nói vô thưởng vô phạt của Mila. Họ cứ tưởng đang dẫn dắt cuộc đối thoại, nhưng thật ra người đàn bà kia đã chuẩn bị sẵn kịch bản để đưa họ đến chỗ hiện tại. Cô ta cần phải tiết lộ sự việc với một ai đó.

- Tôi nghi Alexander có nhân tình. Đàn bà luôn cảm nhận được những chuyện như vậy và là người quyết định xem có tha thứ được cho người đàn ông của mình hay không. Nhưng sớm muộn rồi họ cũng muốn biết rõ. Chính vì thế, một hôm tôi đã lục lọi đồ đạc của Alexander. Tôi không biết chính xác mình phải tìm gì, và cũng không biết sẽ phản ứng ra sao nếu phát hiện ra bằng chứng.

- Bà đã phát hiện được gì vậy?

- Một sự khẳng định: Alexander che giấu một sổ nhật ký điện tử giống hệt cái mà anh ta dùng trong công việc. Tại sao lại mua hai lần cùng một thứ, nếu không phải là để dùng cái nọ lấp liếm cái kia? Nhờ thế tôi phát hiện ra mụ nhân tình của anh ta. Alexander ghi lại tất cả mọi cuộc hẹn! Tôi trưng bằng chứng ra trước mặt anh ta, nhưng Alexander chối bay chối biến và thủ tiêu luôn cuốn nhật ký thứ hai. Tuy vậy, tôi không hề bỏ cuộc. Tôi đã bám theo anh ta đến tận nhà ả kia, trong cái ổ tò vò ấy. Vậy nhưng tôi lại không dám tiến xa hơn. Tôi dừng lại ở ngoài cửa. Thật ra, tôi không muốn nhìn thấy mặt con đàn bà ấy.

Đây là bí mật không thể thú nhận của Alexander sao? Goran tự hỏi. Một ả nhân tình? Họ cất công đến tận đây chỉ để khám phá được có thế?

Cũng may ông đã không báo cho Roche về nước đi của mình, nếu không ông sẽ phải gồng mình nhận lấy những lời nhạo báng của viên chánh thanh tra, người sẽ coi như vụ án đã được khép lại. Trong lúc đó, Veronica giận sôi lên và không hề có ý định để cho hai vị khách ra về trước khi trút cạn nỗi oán hận đối với người chồng quá cố. Rõ ràng việc cô ta cương quyết bênh vực chồng khi xác chết trong xe bị phát hiện chỉ là lớp vỏ bọc. Nó chỉ là một phương tiện để tránh sức nặng của cáo buộc, để tránh bị dây vào vết bùn. Giờ thì cô ta đã tìm được sức mạnh để giải phóng mình khỏi tình nghĩa vợ chồng, và cũng như những người khác, cô ta đang ra sức đào một cái hố thật to để cho Alexander Bermann không bao giờ thoát ra được.

Goran ra hiệu bằng mắt cho Mila kết thúc cuộc trao đổi càng sớm càng tốt. Khi đó, ông thấy vẻ biến sắc trên gương mặt của cô, pha trộn giữa vẻ ngạc nhiên và bối rối.

Trong cả sự nghiệp của mình, Goran đã học được cách phát hiện ra biểu hiện của nỗi sợ hãi trên gương mặt người khác. Một điều gì đó đã làm Mila chấn động sâu sắc.

Đó là một cái tên.

Ông nghe thấy cô hỏi Veronica Bermann:

- Bà vừa nói tên nhân tình của chồng bà là gì cơ?

- Tôi xin nhắc lại. Tên của con đàn bà lăng loàn đó là Priscilla.
 
Chương 9


Đó không thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Mila trình bày cho những người có mặt nghe các tình tiết nổi bật của vụ án gần nhất mà cô đảm trách, vụ thầy dạy nhạc. Khi nghe cô thuật lại lời của trung sĩ Morexu về việc phát hiện ra cái tên Priscilla trong cuốn sổ của “con quỷ”, Sarah ngước mắt nhìn trời, còn Stern cũng lắc đầu hùa theo.

Họ không tin cô. Cũng dễ hiểu thôi. Nhưng Mila không chịu chấp nhận ý nghĩ cho rằng không có mối liên quan nào cả. Chỉ mình Goran là để mặc cô. Không biết ông muốn đi đến đâu với điều đó. Mila muốn bằng mọi giá tìm hiểu sâu hơn về sự tình cờ này. Nhưng từ cuộc trao đổi với Veronica Bermann, cô chỉ thu được một kết quả duy nhất: cô ta nói đã theo dõi ông chồng đến tận nhà của nhân tình, nơi hiện tại nhóm điều tra đang tìm đến. Có thể chỗ đó đang che giấu các bí mật kinh hoàng khác. Biết đâu là thi thể của các bé gái còn lại.

Và còn lời giải đáp cho câu hỏi về nạn nhân số sáu.

Mila những muốn nói với mọi người rằng cô muốn đặt tên Priscilla cho cô bé, nhưng cô nín thinh. Giờ đây cái tên đó giống như một lời chế nhạo. Như thể cái tên ấy đã được lựa chọn bởi chính Bermann, tên đao phủ của cô bé.

Tòa chung cư nhỏ có cấu trúc điển hình của một khu ngoại ô. Một khu nhà tồi tàn kinh điển, được xây dựng vào thập niên sáu mươi, hệ quả của một khu công nghiệp mới mở hồi ấy. Nó bao gồm nhiều tòa nhà màu xám, bị thời gian phủ lên lớp bụi đỏ bay ra từ một nhà máy thép trong khu vực. Các ngôi nhà có giá trị thương mại thấp và cần được trùng tu khẩn cấp. Sống trong đó là một lớp người tạm cư, gồm chủ yếu là dân nhập cư, thất nghiệp và các gia đình sống nhờ vào trợ cấp của chính phủ.

Goran nhận thấy không ai dám nhìn Mila. Họ giữ khoảng cách vì nữ cảnh sát dường như đã vượt qua giới hạn khi nêu ra một ý kiến không ai chờ đợi.

- Làm thế nào bọn họ chọn sống trong một nơi như thế này? - Boris lẩm nhẩm tự hỏi trong khi kinh tởm nhìn xung quanh.

Căn hộ họ tìm kiếm nằm ở cuối khối nhà. Nó là một tầng lửng chỉ có thể tiếp cận bởi cầu thang lộ thiên. Cửa vào bằng sắt. Ba ô cửa sổ duy nhất nhìn ra đường được lắp chấn song và bịt ván gỗ từ bên trong.

Stern cố gắng nhìn qua cửa trong một tư thế lom khom kì cục, tay khum lại che mắt, hông đưa ra phía sau để giữ cho quần khỏi bị vấy bẩn.

- Ta chẳng thể tìm ra được gì từ chỗ này.

Boris, Stern và Rosa gật đầu với nhau rồi đứng vào vị trí bên cạnh cửa. Stern ra hiệu cho Goran và Mila lùi lại phía sau. Boris tiến đến gần cánh cửa. Nhà không có chuông, nên anh dùng bàn tay đập cửa rất mạnh. Tiếng động có tác dụng trấn át, nhưng ngược lại anh cất tiếng nói bằng một giọng điềm tĩnh:

- Thưa bà, cảnh sát đây. Vui lòng mở cửa...

Đó là kỹ thuật gây sức ép tâm lý để làm đối tượng mất phương hướng: nói chuyện bằng giọng cố tình kiên nhẫn, trong khi vẫn gây sức ép. Nhưng có vẻ lần này nó không thành công, vì căn hộ dường như không có người.

- Ta vào thôi. - Rosa đề nghị. Cô ta là người sốt ruột nhất trong nhóm.

- Cần phải đợi Roche gọi điện báo là đã xin được lệnh khám nhà. - Boris nói, mắt nhìn đồng hồ. - Chắc cũng không còn lâu nữa đâu..

- Mặc xác ông ta với cái lệnh khỉ gió kia! - Rosa phản đối. - Trong nhà chẳng biết đang có cái quái gì nữa!

Goran can thiệp:

- Rosa có lý, chúng ta vào thôi.

Theo như cách mà bọn họ tiếp nhận quyết định của ông, Mila có thể khẳng định, trong đội điều tra, tiếng nói của Goran có trọng lượng hơn của Roche.

Mọi người vào vị trí quanh cánh cửa. Boris rút ra một cái tuốcnơvít và bắt đầu phá ổ khóa. Nó nhanh chóng bị tháo tung. Súng nắm chắc trong tay, anh đẩy cánh cửa bằng sắt ra.

Thoạt nhìn, căn hộ dường như không có người ở.

Nhà có một hành lang hẹp, trống trải. Ánh sáng ban ngày không đủ rọi sáng nó. Rosa bật đèn pin. Ba cánh cửa hiện lên. Hai cái nằm bên trái. Cái cuối cùng nằm ở cuối hành lang. Nó đã bị đóng.

Cả đội chầm chậm tiến vào trong căn hộ. Boris đi đầu, tiếp đến là Rosa, rồi Stern và Goran. Mila khóa đuôi. Ngoại trừ nhà tội phạm học, những người còn lại đều có súng trong tay. Mila chỉ là một thành viên “dự thính” của đội, và trên lý thuyết cô không được dùng súng, nhưng cô vẫn để nó trong túi quần, tay siết chặt báng, sẵn sàng rút nó ra. Chính vì lý do này mà cô là người vào sau cùng.

Boris thử bật công tắc trên tường.

- Không có điện.

Anh giơ đèn pin lên để quan sát bên trong căn phòng thứ nhất. Nó trống rỗng. Trên tường là một vết ố lan từ dưới sàn ra trên lớp thạch cao, nom như một con cua. Các đường ống của lò sưởi và nước bẩn dính với nhau trên trần nhà. Một lỗ nước thải xuất hiện trên sàn nhà.

- Tởm quá! - Stern thốt lên.

Không ai có thể sống trong điều kiện như thế này.

- Tôi thấy rõ ràng là căn hộ không có người ở. - Rosa nói.

- Vậy cái chỗ này là gì? - Boris hỏi.

Họ chuyển sang căn phòng thứ hai. Cánh cửa đã bị kẹt, hơi long ra khỏi tường, bản lề han gỉ: cái xó này tạo thành một nơi lẩn trốn dễ dàng cho một tên giết người, nếu có. Boris đá tung cánh cửa, nhưng phía sau nó không có ai. Căn phòng hoàn toàn giống hệt với cái đầu tiên. Gạch lát nền bị bong lên đôi chỗ, để lộ lớp xi măng bên dưới. Không hề có đồ đạc gì, ngoại trừ khung thép của một chiếc xa lông. Họ tiếp tục công cuộc khám nhà.

Chỉ còn một căn phòng nằm ở cuối hành lang, nơi có cánh cửa đóng kín.

Boris đưa ngón cái và ngón trỏ trái lên, chỉ vào mắt mình. Stern và Rosa hiểu ý, lập tức đứng vào hai bên cửa. Chàng cảnh sát trẻ lùi lại một bước, rồi đá một cú đúng vào chỗ nắm cửa. Cánh cửa bật mở và ba người lập tức chĩa súng, rọi đèn pin vào trong phòng. Bên trong phòng cũng không có ai.

Goran lách qua các cảnh sát, lướt bàn tay đi găng cao su trên tường. Ông tìm thấy công tắc. Sau hai hồi chớp tắt, một ngọn đèn tuýp bật sáng trên trần, rọi xuống căn phòng thứ ánh sáng huỳnh quang của nó. Căn phòng rất khác biệt so với hai cái trước. Trước tiên, nó sạch sẽ. Các bức tường không có vết ố nào vì được dán giấy chống thấm. Lớp gạch lát sàn còn nguyên vẹn và sạch sẽ. Căn phòng không có cửa sổ, nhưng sau vài giây, một cái máy điều hòa bắt đầu chạy. Các thiết bị điện không được gắn ngầm trong tường, chứng tỏ chúng đã được lắp vào sau này. Các ống nhựa dẫn dây cáp điện tỏa ra từ công tắc mà Goran vừa bật, và từ một bảng điện ở phía bên phải của căn phòng. Ở đó, có một cái bàn và một chiếc ghế văn phòng kê sát tường. Trên bàn là một máy tính đang tắt.

Đó là những món đồ hiện diện trong căn phòng, ngoài ra một chiếc ghế bành bọc da cũ kê dựa vào bức tường bên trái, phía đối diện.

- Có vẻ như đây là căn phòng duy nhất mà Alexander Bermann quan tâm. - Stern nói với giáo sư Goran.

Rosa tiến lại gần máy vi tính.

- Tôi bảo đảm là các câu trả lời chúng ta đang tìm kiếm nằm ở trong này.

Nhưng Goran đã giữ tay Rosa lại.

- Không. Nên tiến hành theo trình tự. Chúng ta sẽ ra khỏi đây để không làm ảnh hưởng đến độ ẩm của không khí. - Sau đó ông nói với Stern. - Anh gọi cho Krepp, để anh ta cùng nhóm của mình đến thu thập dấu vân tay. Còn tôi sẽ báo cho Roche.

Căn cứ vào ánh sáng lấp lánh trong đôi mắt của nhà tội phạm học, Mila hiểu ông đang tin chắc mình đã đến gần sát một điều rất quan trọng.

Krepp lướt các ngón tay trên đầu tựa như để chải lại tóc, mặc dù chẳng còn mấy sợi ngoài một vành tóc sau gáy cột thành chiếc đuôi ngựa dài xuống lưng. Một con rắn hai màu xanh đỏ duỗi mình trên cẳng tay, há miệng ngay vị trí bàn tay ông. Ngoài hình xăm đó, ông còn một hình tương tự trên cánh tay kia cũng như trên ngực, lộ ra qua lớp áo sơmi. Đằng sau những cái khuyên xỏ trên mặt, người ta có thể nhận ra Krepp, chuyên viên của đội khoa học hình sự.

Mila ngẩn người trước ngoại hình của ông già sáu mươi khác người. Cô tự nhủ chắc đây là hình ảnh về già của những người hâm mộ nhạc rock. Tưởng vậy, nhưng cho đến vài năm trước đây, Krepp vẫn là một người đàn ông trung niên hoàn toàn bình thường, khá nghiêm khắc và có ngoại hình tương đối nhàm chán. Sau khi đã biết ông không mất trí, chẳng ai còn phàn nàn gì về ngoại hình hiện tại của ông, vì Krepp là người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình.

Sau khi cám ơn giáo sư Goran vì đã gìn giữ độ ẩm nguyên bản của hiện trường, Krepp lập tức bắt tay vào công việc. Ông ở trong căn hộ một tiếng đồng hồ cùng với nhóm làm việc của mình, tất cả đều mặc áo blu và đeo khẩu trang để tự bảo vệ mình trước các loại hóa chất dùng để phát hiện dấu vân tay. Sau đó Krepp xuống khỏi căn gác lửng, tiến lại gần nhà tội phạm học và Roche, lúc này đã đi đến nơi.

- Anh khỏe không Krepp? - Ngài chánh thanh tra chào ông.

- Vụ nghĩa địa cánh tay khiến tôi phát điên. - Krepp bình phẩm. - Chúng tôi đang khám nghiệm các cánh tay này để tìm kiếm một dấu vân tay hữu ích thì các anh gọi.

Goran biết việc lấy dấu vân tay trên lớp da người là điều cực kỳ khó, do sự nhiễm bẩn có thể xảy ra, do mồ hôi của chủ thể, hoặc là do hiện tượng phân hủy nếu là da của tử thi, giống như trường hợp của các cánh tay.

- Tôi đã thử xông iốt, giấy Kromekote, thậm chí dùng cả điện ký.

- Nó là gì vậy?

- Đó là phương pháp hiện đại nhất để lấy dấu vân tay in trên da: chụp X-quang điện tử... Cái gã Albert đáng nguyền rủa này quá khôn khéo trong việc xóa dấu vết. - Krepp nói.

Mila nhận thấy Krepp là người duy nhất còn dùng cái tên đó để gọi kẻ sát nhân, vì đối với những người còn lại, kể từ nay kẻ sát nhân đã mang nhân dạng của Alexander Bermann.

- Vậy, ở đây chúng ta có gì nào? - Roche hỏi, tỏ vẻ mệt mỏi khi phải nghe những điều mà ông cho là vô ích.

Người kỹ thuật viên tháo găng tay và thuật lại những việc ông vừa làm, mắt vẫn nhìn xuống đất.

- Chúng tôi đã sử dụng ninhydrin, nhưng do kết quả không rõ nét dưới đèn laser, nên tôi đã thay bằng dung dịch muối kẽm chlorua. Chúng tôi đã tìm thấy nhiều loạt vân tay trên giấy dán tường cạnh công tắc, và trên lớp phủ nhiều lỗ xốp của chiếc bàn. Còn với máy vi tính, mọi việc có khó khăn hơn. Các dấu vân tay chồng chéo lên nhau chúng tôi sẽ phải dùng đến cyanoacrylate, nhưng cần phải đem bàn phím vào buồng áp suất và...

- Để sau hãy hay. Chúng ta không có thời gian để kiếm một cái bàn phím khác thay thế, trong khi cần phải kiểm tra máy tính ngay. - Thanh tra Roche vội vã cắt ngang. - Nói tóm lại, các dấu vân tay thu được là của cùng một người à?

- Phải, tất cả đều là của Alexander Bermann.

Những chữ ấy khiến mọi người chấn động, ngoại trừ những ai đã biết trước câu trả lời, và những người đã biết ngay từ lúc đặt chân vào căn hộ tầng lửng này.

- Có vẻ như Priscilla không hề tồn tại. - Giáo sư Gavila nói.

Ông buông ra lời khẳng định mà không buồn nhìn sang Mila. Cô thấy tự ái ghê gớm.

Krepp tiếp tục nói:

- Còn một điều nữa... Cái ghế bành bọc da.

- Sao cơ? - Mila cất tiếng hỏi.

Krepp nhìn cô cảnh sát như khi người ta quan sát một ai đó lần đầu tiên, sau đó mắt ông chiếu vào đôi tay băng bó của cô và tỏ ra kinh ngạc. Mila không thể không cảm thấy ngược đời khi Krepp, với tác phong ăn mặc của ông, lại đi nhìn cô như vậy. Nhưng cô không để lộ điều đó.

- Trên ghế không có dấu vân tay.

- Như thế là không bình thường à? - Mila hỏi.

- Tôi không rõ. - Krepp nói gọn lỏn. - Tôi chỉ nói là dấu tay có ở khắp nơi, ngoại trừ trên đó.

- Nhưng chuyện đó thì nhằm nhò gì? Chúng ta có dấu vân tay của Bermann ở trên tất cả những thứ khác. - Roche chen ngang. - Như vậy là đủ để cho chúng ta buộc tội hắn... Mà, nếu anh cần biết thì, cái tay này làm tôi càng ngày càng ngán đấy.

Mila lại nghĩ lẽ ra Roche phải rất đỗi hài lòng mới phải, vì hắn là giải pháp cho mọi vấn đề rắc rối của ông ta kia mà.

- Vậy tôi làm gì với cái ghế đây? Tiếp tục phân tích à?

- Kệ cha cái ghế đi. Anh để cho người của tôi xem qua cái máy tính đã.

Nghe thấy viên thanh tra nói chuyện bằng giọng ấy, các thành viên trong đội điều tra phải cố không nhìn nhau để khỏi bật cười. Đôi khi Roche nói chuyện bằng giọng điệu còn ngang tàng hơn cả bộ dạng của Krepp.

Roche tiến về phía chiếc xe đang đợi ông ở cuối khối nhà, trước đó không quên buông lời động viên mọi người:

- Các bạn, tôi trông cậy ở các bạn đấy nhé.

Khi ông ta đã đi đủ xa, Goran nói với cả nhóm:

- Được rồi, ta cùng xem trong cái máy tính kia có gì.

Họ quay trở vào trong phòng. Lúc này các bức tường đã được phủ vải nhựa, nom như một bào thai khổng lồ. Sào huyệt của Alexander Bermann cuối cùng cũng phải mở cửa với họ. Chí ít thì đó là điều cả nhóm đang hy vọng. Mọi người đeo găng tay cao su vào. Sarah Rosa ngồi vào vị trí. Đã đến lượt cô ra tay.

Trước khi bật nguồn, cô nhét một thứ vào cổng USB. Stern bật máy ghi âm đặt cạnh bàn phím. Rosa bắt đầu diễn giải:

- Tôi vừa kết nối một bộ nhớ ngoài vào máy tính của Bermann: nếu như máy bị treo, lập tức mọi dữ liệu trong ổ cứng sẽ được chuyển sang bộ nhớ ngoài.

Những người còn lại im lặng đứng chung quanh Rosa.

Cô mở máy.

Đèn tín hiệu nhấp nháy, nối tiếp bằng tiếng ro ro đặc trưng khi ổ đĩa cứng khởi động. Mọi thứ có vẻ bình thường. Chiếc máy vi tính uể oải thức dậy. Nó thuộc một đời máy cũ, giờ đã không còn được bán trên thị trường nữa. Trên màn hình lần lượt xuất hiện các dữ liệu hệ thống trước khi nhường chỗ cho một màn hình làm việc. Chẳng có gì quan trọng: một hình nền bầu trời xanh, với các biểu tượng chương trình hoàn toàn bình thường.

- Trông chẳng khác gì cái máy ở nhà mình. - Boris thử tếu táo một câu, nhưng không ai cười cả.

- Tốt... giờ thì ta xem trong thư mục hồ sơ của ngài Bermann có gì nào...

Rosa nhấp chuột vào biểu tượng hồ sơ. Trống rỗng. Cũng giống như thư mục hình ảnh và dành sách các tập tin được mở gần đây.

- Không có một tập tin văn bản nào... Chuyện này rất lạ. - Goran nhận xét.

- Có lẽ hắn xóa tất cả sau mỗi lần sử dụng. - Stern phỏng đoán.

- Nếu là thế, tôi có thể thử khôi phục lại chúng. - Rosa khẳng định, chắc như đinh đóng cột.

Cô nhét một chiếc đĩa vào trong đầu đọc và nhanh chóng cho chạy một chương trình có thể khôi phục bất cứ tập tin bị xóa nào.

Bộ nhớ của máy tính không bao giờ bị xóa hoàn toàn, và ta không thể xóa được một số thông tin nhất định, tựa như chúng đã được khắc sâu không thể xóa nhòa. Mila còn nhớ đã từng nghe nói là hợp chất silicone hiện diện trong mỗi chiếc máy tính hoạt động hơi giống não người. Ngay cả khi người ta ngỡ đã quên một điều gì đó, trên thực tế ở đâu đó trong bộ não vẫn có một nhóm tế bào lưu giữ lại thông tin ấy, và một ngày kia sẽ cung cấp nó cho chúng ta dưới dạng một hình ảnh hoặc một linh tính. Điều cốt yếu không phải là ghi nhớ xem khi nào chúng ta bị bỏng lửa lần đầu tiên, mà quan trọng là, sau khi lược bỏ mọi tình huống sinh học gây ra nó, ý thức đó được ghi sâu vào bộ nhớ của chúng ta và nhắc ta mỗi khi đến gần thứ gì quá nóng. Đó là điều Mila nghĩ đến khi một lần nữa nhìn xuống đôi tay băng bó... Rõ ràng là ở đâu đó trong đầu cô đã lưu giữ một thông tin sai lạc.

- Trong này chẳng có gì.

Lời nhận xét đầy tiếc nuối của Rosa đưa Mila trở lại với thực tại. Chiếc máy tính hoàn toàn trống rỗng.

Nhưng Goran không bỏ cuộc.

- Còn trình duyệt mạng nữa.

- Nhưng máy tính này không có kết nối Internet. - Boris lưu ý.

Tuy nhiên lần này Rosa đã hiểu ý đồ của nhà tội phạm học. Cô rút điện thoại di động ra và bấm các nút điều chỉnh trên màn hình.

- Có sóng... Có lẽ hắn vào mạng nhờ điện thoại.

Rosa mở trình duyệt trên máy tính và kiểm tra danh sách các địa chỉ trang mạng lưu trong quá khứ. Chỉ có một địa chỉ duy nhất.

- Hóa ra đây là thứ Bermann làm ở trong cái xó này!

Đó là một dãy số. Địa chỉ là một mã số.

http://4589278497.89474525.com

- Nó có thể là địa chỉ của một máy chủ tư nhân. - Rosa phỏng đoán.

- Nghĩa là sao? - Boris hỏi.

- Tức là cậu không thể truy cập nó từ một trang tìm kiếm, và để vào được cậu phải có mật mã. Có lẽ nó được cài trực tiếp trong chiếc máy tính này rồi cũng nên. Nhưng nếu không phải vậy, chúng ta có nguy cơ bị từ chối truy cập vĩnh viễn.

- Vậy thì ta phải thận trọng và làm chính xác những gì Bermann đã làm… - Goran nói, trước khi quay sang phía Stern. - Ta có điện thoại di động của hắn không?

- Có, tôi để nó trong xe hơi, cùng với máy vi tính nhà hắn.

- Vậy anh ra lấy nó đi...

Khi Stern quay lại, mọi người đón anh trong im lặng. Rõ ràng mọi người đang rất sốt ruột đợi anh quay vào. Anh đưa di động của Bermann cho Rosa. Cô kết nối nó với máy tính, sau đó bắt đầu kết nối vào mạng. Máy chủ phải cần một lúc để tiếp nhận máy tính. Nó thiết lập các thông số, sau đó nhanh chóng tải dữ liệu.

- Có vẻ như nó để cho chúng ta truy cập không gặp trở ngại...

Mọi người dán mắt vào màn hình, chờ đợi một hình ảnh có thể hiện lên vào bất cứ lúc nào. Đó có thể là bất cứ cái gì, Mila thầm nghĩ. Một sự căng thẳng tột độ bao trùm lên mọi thành viên trong nhóm tựa như một dòng năng lượng chạy xuyên từ cơ thể người này sang người khác. Họ có thể cảm nhận được nó trong không khí.

Trên màn hình xuất hiện các điểm ảnh nằm lung tung như những miếng ghép bé xíu của một bức tranh ghép hình. Nhưng mọi người không ngờ đến điều họ nhìn thấy. Luồng năng lượng cao tràn ngập trong không gian nãy giờ đột ngột tụt xuống, sự nhiệt tình của mọi người tan biến.

Màn hình hóa đen.

- Chắc hẳn là có một hệ thống bảo vệ. - Rosa tuyên bố. - Nó coi lần thử vừa rồi của chúng ta như một sự xâm nhập.

- Nó giấu tín hiệu đi à? - Boris lo lắng hỏi.

- Tất nhiên rồi! - Rosa nổi cáu. - Cậu nghĩ tôi ngu chắc? Có lẽ phải cần từ khóa, hoặc một thứ gì đó...

- Cái gì đó kiểu như “Tên đăng nhập” và “Mật mã” ấy à? - Goran hỏi, ông đang cố hiểu tình hình.

- Đại loại như thế. - Rosa lơ đãng đáp. - Cái chúng ta có là một địa chỉ kết nối trực tiếp. Tên đăng nhập và mật mã là cơ chế bảo mật xưa rồi. Chúng để lại dấu vết và luôn cho phép ta truy ngược ra người sử dụng. Những kẻ truy cập vào đây không muốn để lộ danh tính.

Mila không nói tiếng nào. Tất cả những chuyện này khiến cô căng thẳng. Cô hít thật sâu và siết chặt nắm đấm làm các khớp xương kêu răng rắc. Có một điều gì đó không hợp lý, nhưng cô không tài nào xác định được. Goran quay sang cô trong một thoáng, như thể rất bứt rứt về cái nhìn của cô. Mila vờ như không nhận thấy điều đó.

Trong khi chờ đợi, không khí trong căn phòng bắt đầu nóng dần. Boris trút giận vào Rosa vì cú thử nghiệm vô ích.

- Nếu chị nghĩ có thể tồn tại một hàng rào ngăn chặn truy cập, tại sao chị không thực hiện quy trình kết nối song song?

- Thế sao cậu không đề nghị chuyện đó lúc nãy?

- Tại sao? Chuyện gì đang xảy ra thế? - Giáo sư Goran hỏi.

- Chuyện là khi có một hệ thống bảo vệ như thế này thì ta không có cách nào truy cập được!

- Chúng ta sẽ thử chế ra một từ khóa mới và cố gắng lần nữa. - Sarah Rosa đề nghị.

- Thật á? Nhưng phải có đến hàng triệu tổ hợp ấy! - Boris chế nhạo.

- Cậu xéo ra chỗ khác đi! Cậu muốn đổ lỗi lên đầu tôi đấy à?

Mila im lặng chứng kiến màn quặc nhau của họ.

- Nếu ai có đề nghị hay định dạy dỗ gì, cứ việc nói ngay từ đầu có phải hơn không!

- Nhưng hễ ai nói một chữ là chị lại nhảy chồm chồm lên!

- Này, Boris, khôn hồn thì biến! Tôi có thể cho cậu...

- Cái gì thế này?

Câu nói của Goran rơi xuống như một thanh chắn giữa hai đối thủ. Giọng điệu của ông không hoảng hốt, cũng không sốt ruột như Mila tưởng, nhưng nó vẫn có hiệu quả để buộc hai người kia phải im lặng.

Nhà tội phạm học đang chỉ một thứ gì đó phía trước mặt. Nhìn theo cánh tay phải của ông, mọi người lại một lần nữa chú ý màn hình máy tính.

Nó không còn đen ngòm nữa.

Ở góc trên bên trái, một hàng chữ xuất hiện.

“a do ha?”

- Khỉ thật! - Boris rủa.

- Này, có chuyện gì thế? Ai đó giải thích cho tôi nghe được không? - Goran hỏi lại một lần nữa.

Rosa lại ngồi vào trước màn hình, đưa tay vào bàn phím.

- Chúng ta đã vào được. - Cô thông báo.

Những người khác xúm lại quanh cô để nhìn cho rõ hơn.

Dấu chuột trên hàng chữ vẫn tiếp tục nhấp nháy, như thể đợi một câu trả lời cho đến lúc này vẫn chưa xuất hiện.

“a ha?”

- Tóm lại, ai đó có thể giải thích cho tôi chuyện đang diễn ra được không? - Goran sốt ruột nói.

Rosa nhanh chóng đưa ra lời giải thích:

- Đây là một cái cổng.

- Nghĩa là sao?

- Cổng truy cập. Rõ ràng chúng ta đang vào trong một hệ thống phức tạp. Trên màn hình là một hộp thoại: một kiểu chát... Ở đầu bên kia có một kẻ nào đó.

- Và kẻ đó muốn nói chuyện với chúng ta... - Boris nói thêm.

- Hay đúng hơn là với Alexander Bermann. - Mila đính chính.

- Vậy thì còn đợi gì nữa? Trả lời đi! - Stern vội vàng nói.

Giáo sư Gavila nhìn Boris: anh chàng cảnh sát chính là chuyên gia thương thuyết. Anh tiến đến đứng sau lưng Rosa để nhắc cho cô dễ hơn.

- Cứ trả lời là chị đang ở đây.

Rosa gõ phím:

“Uh, anh day”

Họ đợi một vài giây. Sau đó một hàng chữ khác xuất hiện trên màn hình.

“ko co tin gi cua a, e lo wa”

Boris đọc tiếp một câu trả lời khác cho Rosa. Anh nhắc cô viết chữ thường, giống như kẻ đối thoại, do rằng một số người thấy e ngại khi đối phương dùng chữ hoa. Mà họ thì đang muốn kẻ kia cảm thấy thoải mái.

“a ban lam, e sao roi?”

“ho hoi e nhiu lem, nhung e ko noi gi het”

Người nào đó đã đặt câu hỏi? Về chuyện gì?

Mọi người, đặc biệt là giáo sư Goran, lập tức có cảm giác là người mà họ đang đối thoại có dính líu đến một điều gì đó mờ ám.

- Có thể hắn đã bị cảnh sát hỏi thăm, nhưng rồi họ thấy không cần thiết phải bắt giữ hắn lại. - Rosa phỏng đoán.

- Hoặc có thể là họ không có đủ bằng chứng. - Stern ủng hộ ý kiến của Rosa.

Trong đầu mọi người bắt đầu vẽ lên hình ảnh kẻ tòng phạm của Bermann. Mila nhớ lại chuyện đã xảy ra ở nhà nghỉ, khi cô cảm thấy bị bám theo. Cô chưa tiết lộ chuyện này với ai, do sợ rằng đó chỉ là ảo giác.

Boris quyết định hỏi người đối thoại bí mật:

“ai hoi e?”

Bên kia ngừng một chút.

“ho”

“ho la ai?”

Không có câu trả lời. Boris quyết định phớt lờ sự im lặng và thử đi vòng qua chướng ngại vật bằng cách đặt một câu hỏi khác.

“e da noi gi voi ho?”

“e noi voi ho chien a dan e, vay la ok”

Ngoài sự tối nghĩa của từ ngữ sử dụng, Goran còn lưu ý các lỗi chính tả mà kẻ kia liên tục mắc phải.

- Đây có thể là một kiểu mật mã nhận diện. - Ông lý giải. - Có thể hắn cũng chờ đợi chúng ta phạm các lỗi chính tả tương tự. Nếu như chúng ta không làm thế, hắn có thể chấm dứt đối thoại.

- Có lý đấy. Chị hãy bắt chước lối viết và các cách sử dụng từ ngữ của hắn. - Boris nhắc Rosa.

Trong lúc đó, một hàng chữ khác xuất hiện trên màn hình.

“e da chun bi moi thu nhu a dan. e mun di lem. bao gio a?”

Cuộc đối thoại này chẳng đưa họ tới đâu cả. Vậy nên Boris bảo Rosa trả lời là hắn sẽ sớm biết “thời điểm”, nhưng lúc này cần phải ôn lại kế hoạch để bảo đảm là nó trót lọt.

Mila thấy đó là một ý rất hay. Làm như thế, họ có thể thu được thêm thông tin về kẻ mà họ đang đối thoại. Một lát sau, hắn hồi âm:

“ke hoach la: ra khoi nha ban dem de ko ai thay. 2h ra dau duong nup trong bui cay doi. a se nhay den xe 3 lan de e chui ra”

Chẳng ai hiểu chuyện gì. Boris nhìn quanh dò hỏi. Mắt anh chạm mắt giáo sư Goran.

- Giáo sư, ông nghĩ sao?

Nhà tội phạm học suy nghĩ một lúc.

- Tôi không biết nữa... Có một thứ gì đó không ổn, nhưng tôi không tài nào chộp được nó.

- Tôi cũng thế, tôi cũng có cùng cảm giác như thế. - Boris đáp. - Kẻ ở đầu bên kia... có thể nói là hắn bị chậm phát triển trí tuệ hoặc là thiểu năng tâm lý.

Goran tiến lại gần Boris hơn nữa.

- Cần phải buộc hắn lộ diện.

- Bằng cách nào?

- Tôi không biết nữa... Cứ bảo hắn là anh không chắc chắn được, rằng anh tự hỏi liệu có nên chấm dứt mọi chuyện. Cứ bảo hắn “họ” cũng đang sờ gáy anh, sau đó yêu cầu hắn cung cấp một minh chứng... Chẳng hạn, bảo hắn gọi điện cho anh theo một số an toàn!

Rosa vội vã đánh máy. Sau đó suốt một lúc lâu, dòng hồi đáp trên màn hình chỉ có dấu nháy. Rồi rốt cuộc câu trả lời cũng xuất hiện.

“e ko goi dien dc. ho nghe len”

Rõ quá rồi: hoặc hắn rất khôn ranh, hoặc hắn sợ bị rình mò thật.

- Thúc ép hắn. Xoay đường khác. Tôi muốn biết “họ” ở đây là ai. - Goran nói. - Hỏi hắn xem “họ” đang ở đâu lúc này.

Câu trả lời đến ngay lập tức.

“ho o gan lem”

- Hỏi hắn xem gần đến mức nào? - Goran nhấn mạnh.

“ho o ke ben e”

- Nhưng thế là thế nào? Khỉ thật! - Boris văng tục, anh cáu tiết đưa tay lên ôm lấy gáy.

Rosa ngả người dựa vào lưng ghế, lắc đầu chán nản.

- Nếu như “họ” ở gần hắn đến thế, và lại đang trông chừng hắn nữa, tại sao họ không nhìn thấy những điều hắn đang viết?

- Vì họ không thấy những gì chúng ta đang thấy. - Mila đáp.

Cô hài lòng nhận thấy mọi người không quay lại để nhìn cô như nhìn một bóng ma vừa lên tiếng. Nhưng ngược lại, nhận xét của cô làm cho cả nhóm chú ý trở lại.

- Ý cô là thế nào? - Giáo sư Gavila hỏi.

- Chúng ta cứ nghĩ là hắn cũng giống như chúng ta, đang ngồi trước một màn hình đen. Nhưng theo tôi nghĩ, hộp thoại của hắn nằm trong một trang mạng cùng với nhiều thứ khác, có thể là những hình trang trí chuyển động, các văn bản hoặc hình ảnh... Đó là lý do mặc dù “họ” ở rất gần, nhưng vẫn không nhận ra hắn đang trao đổi với chúng ta.

- Cô ấy nói có lý! - Stern thốt lên.

Một không khí sảng khoái kỳ lạ lại tràn ngập trong phòng. Giáo sư Goran nói với Rosa:

- Ta có thể thấy những gì hắn thấy được không?

- Tất nhiên rồi. - Rosa đáp. - Tôi sẽ gửi cho hắn một tín hiệu nhận biết, và khi máy tính của hắn gửi lại, chúng ta sẽ có địa chỉ trang web mà hắn đang kết nối.

Trong lúc nói, cô đã kịp mở điện thoại di động để tạo một kết nối mạng thứ hai.

Một lúc sau, trên màn hình xuất hiện dòng chữ:

“a con o do ko?”

Boris nhìn Goran:

- Ta trả lời thế nào đây?

- Tìm cách câu giờ. Nhưng đừng để hắn nghi ngờ.

Boris viết cho hắn, bảo đợi một lát vì có người gọi cửa nên phải ra mở.

Trong lúc đó, trên điện thoại của mình, Sarah Rosa đã sao chép thành công địa chỉ Internet mà kẻ kia đang vào để chát.

- Đây rồi, ta tìm ra rồi... - Cô thông báo.

Cô đưa các thông tin vào trong cửa sổ truy cập và nhấn nút “chạy”. Sau một vài giây, một trang web xuất hiện.

Không ai rõ liệu sự kinh ngạc hay nỗi kinh hoàng đang làm mọi người câm lặng.

Trên màn hình, những con gấu đang nhảy múa cùng với bầy hươu cao cổ, hà mã dùng chân đánh trống châu Phi theo nhịp và một con tinh tinh chơi đàn ukulele. m nhạc tràn ngập căn phòng. Giữa không gian rừng xanh, một con bướm đủ màu sắc chào mừng sự kết nối của họ.

Tên của nó là Priscilla.

Tất cả mọi người không tin nổi vào mắt mình và hoàn toàn câm lặng. Boris ngước mắt nhìn màn hình máy tính, nơi một câu hỏi vẫn đang nhấp nháy:

“a con o do ko?”

Chỉ đến giây phút đó, anh mới có thể thốt ra những chữ đau lòng:

- Chó chết... Đây là một đứa trẻ.
 
Chương 10


Từ khóa được gõ nhiều nhất trong các trang tìm kiếm là “sex”. Thứ hai là “God”. Cứ mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, Goran lại thắc mắc vì sao người ta tìm kiếm Chúa ở trên mạng. Ở vị trí thứ ba đồng hạng, là hai từ khóa: “Britney Spears” và “death” - cái chết.

Sex, God, Death và Britney Spears.

Ngược lại, lần đầu tiên Goran nhập tên vợ vào một trang tìm kiếm là ba tháng trước đó. Ông không hiểu tại sao mình lại làm thế. Ông cứ thế đánh, như thể bị bản năng xúi giục. Ông không nghĩ sẽ tìm thấy bà, và quả thật ông đã không tìm thấy. Nhưng đó chính thức là nơi tìm kiếm cuối cùng mà ông nghĩ đến. Có lẽ nào ông biết về vợ mình ít đến thế? Khi đó, một thứ gì đấy trong ông đã thay đổi.

Ông đã hiểu ra tại sao ông theo dõi bà.

Thực tế là, ông không muốn biết nơi bà đang ở. Trong thâm tâm, ông mặc kệ chuyện đó. Ông chỉ muốn biết liệu bà có hạnh phúc không. Bởi xét cho cùng, chính điều đó đã làm ông sôi máu: bà đã rũ bỏ ông và Tommy để đi tìm hạnh phúc ở nơi khác. Sao người ta có thể làm tổn thương ai đó sâu sắc đến thế chỉ để thỏa mãn khát khao hạnh phúc đầy ích kỷ? Rõ ràng câu trả lời là có. Vợ ông đã làm như thế, và tệ hơn, bà đã không hề quay lại để chữa lành vết thương lòng, khâu lại vết rách đang nằm trong da thịt của người đàn ông mà chính bà đã chọn để chia sẻ cuộc sống và trong chính da thịt của bà. Bởi người ta có thể quay lại, và buộc phải quay lại. Luôn có một thời điểm mà, do chỉ nhìn về phía trước, ta nhận thấy một thứ gì đó gợi nhắc quá khứ, và ta quay lại trong chốc lát để xem phía sau có còn nguyên vẹn như xưa, hay là có gì đó đã thay đổi ở những người ta bỏ lại sau lưng cũng như trong chính bản thân chúng ta. Ai rồi cũng gặp khoảnh khắc đó. Tại sao với bà thì không? Tại sao bà thậm chí không cố thử? Không có một cú điện thoại nửa đêm yên ắng nào. Không một tấm bưu thiếp trắng nào. Đã bao nhiêu lần Goran đứng quan sát gần trường của Tommy với hy vọng bắt gặp bà bí mật rình xem cậu con trai. Nhưng chẳng có gì. Bà đã không đến đó, thậm chí không buồn đến để bảo đảm là con mình khỏe mạnh. Do vậy Goran bắt đầu tự hỏi: ai là người đàn bà mà ông nghĩ có thể giữ bên mình suốt cuộc đời đây?

Và thật ra, điều gì làm ông khác Veronica Bermann đến như thế?

Người phụ nữ ấy cũng đã bị lừa dối. Chồng cô ta đã lợi dụng vợ mình để tạo nên một lớp vỏ bọc hoàn hảo, để cho cô ta chăm lo cho những gì hắn sở hữu: cái họ của hắn, căn nhà của hắn, gia tài của hắn, tất cả. Bởi dù sao thì điều hắn muốn cũng nằm ở nơi khác. Nhưng khác với Goran, người phụ nữ ấy đã linh tính thấy vực thẳm đang mở ra bên dưới cuộc sống hoàn hảo của mình, cô ta đã thoáng ngửi thấy mùi thối rữa. Và cô ta đã im lặng, đồng thuận với sự lừa dối dù không tham gia vào đó. Cô ta là kẻ đồng lõa câm lặng, đóng vai người bạn đời mẫu mực, người vợ hiền dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Goran chưa bao giờ nghi ngờ vợ ông có ý định chia tay. Không có một dấu hiệu hay manh mối nào, không có chút trục trặc cảnh báo nào để ông có thể ngẫm lại rồi tự nhủ sao nó quá hiển nhiên và ông ngu ngốc đến độ không nhận ra. Bởi ông đã chỉ muốn ngộ ra mình là một người chồng rất tệ, để có thể tự buộc tội mình, trách móc sự thờ ơ và thiếu ân cần của mình. Ông ước gì có thể tìm kiếm lý do ở phía mình, như vậy ít ra ông cũng có lý do nào đó. Nhưng không, chẳng có gì ngoài sự chết lặng. Và ngờ vực. Đối với những người khác, ông đưa ra phiên bản trần trụi nhất của sự việc: vợ ông đã ra đi, thế thôi. Vì Goran biết dẫu sao mỗi người đều sẽ nhìn nhận sự việc đó theo cách họ muốn. Ai là ông chồng tội nghiệp. Ai là người đàn ông đã làm điều gì đó để bà ấy phải trốn chạy. Ông nhận ngay những vai diễn đó chính là mình và chuyển từ vai này sang vai kia không chút khó khăn. Bởi mọi nỗi đau đều có bài tụng ca của nó và cần phải được tôn trọng.

Còn vợ ông? Đã bao nhiêu lần bà phải đóng kịch? Ý đồ đó đã chín muồi trong lòng bà từ bao lâu rồi? Mất bao nhiêu thời gian để bà thai nghén ý đồ đó bằng những khao khát không nói ra, những suy nghĩ giấu vào trong gối mỗi đêm khi nằm cạnh chồng, trong khi vẫn trộn lẫn nó với những công việc thường ngày của một người mẹ, người vợ? Cho đến khi biến khao khát đó thành kế hoạch, thành mưu đồ. Khi nào bà cảm thấy bị thuyết phục, hay nói cách khác, khi nào bà hiểu ra những gì mà bà mơ đến là có thể thực hiện? Cô búp bê che giấu trong mình sự biến đổi bí mật ấy, trong lúc vẫn tiếp tục sống bên cạnh ông và Tommy. Và âm thầm chuẩn bị thay đổi.

Giờ thì bà ở đâu? Vợ ông vẫn tiếp tục sống, nhưng ở một nơi khác, trong một vũ trụ song song, được tạo thành từ những người đàn ông đàn bà như Goran gặp gỡ hàng ngày, từ những ngôi nhà cần được gìn giữ, những người chồng cần phải chịu đựng, và những đứa trẻ cần sự chăm sóc. Một thế giới bình đẳng và tầm thường, nhưng cách xa ông và Tommy, với những màu sắc mới, những người bạn mới, những khuôn mặt mới và những cái tên mới. Bà tìm kiếm điều gì trong cái thế giới ấy? Đâu là thứ mà bà đã cần đến thế nhưng lại không thể tìm thấy ở đây? Suy cho cùng, tất cả chúng ta đều đi tìm câu trả lời trong một thế giới song song, Goran nghĩ bụng. Giống như người ta đi tìm trên mạng những Sex, God, Death và Britney Spears.

Còn Alexander Bermann, hắn đi lùng tìm những đứa trẻ trên mạng.

Mọi thứ nhanh chóng được làm sáng tỏ. Từ khi mở trang web của con bướm Priscilla trên máy tính Bermann cho đến khi xác định chiếc máy chủ quốc tế quản lý toàn bộ hệ thống đó, tất cả đã trở nên rõ ràng.

Đó là một đường dây lạm dụng tình dục trẻ em, với các chi nhánh ở nhiều quốc gia.

Mila đã có lý: trong mạng lưới đó có cả tay thầy giáo dạy nhạc “của cô”.

Đơn vị đặc nhiệm chuyên phụ trách an ninh mạng đã xác định được gần một trăm người đăng ký. Các vụ bắt bớ đầu tiên đã diễn ra và còn tiếp tục trong những giờ sắp tới. Một số lượng nhỏ và có chọn lọc. Tất cả họ đều không có gì khả nghi, có cuộc sống thoải mái, làm những công việc tự do, và sẵn sàng bỏ ra các khoản tiền lớn để che giấu tên tuổi.

Trong số đó có Alexander Bermann.

Tối hôm đó khi về đến nhà, Goran nghĩ đến người đàn ông dịu dàng, luôn tươi cười và đạo đức vẹn toàn theo như mô tả của bạn bè và người quen của Bermann. Một chiếc mặt nạ hoàn hảo. Tại sao ông lại có sự đối chiếu giữa Bermann và vợ mình? Có thể ông biết lý do, nhưng không muốn chấp nhận. Dù sao thì, khi đã ở trong nhà, ông gạt qua một bên tất cả những suy nghĩ đó và dành toàn tâm toàn ý cho Tommy, như đã hứa trên điện thoại khi báo với nó là ông về nhà sớm. Thằng bé đón nhận tin tức một cách hào hứng và hỏi liệu ông có thể gọi một chiếc pizza hay không. Ông chấp nhận ngay không để nó phải nài nỉ, vì ông biết sự nhượng bộ nhỏ bé ấy là đủ để làm thằng bé hài lòng. Bọn trẻ có thể tìm thấy niềm hạnh phúc ở bất cứ nơi nào nó hiện diện.

Thế là Goran gọi một chiếc pizza ớt chuông cho mình và một chiếc nhiều phô mai gấp đôi cho Tommy. Hai bố con cùng nhau gọi bánh bằng điện thoại, vì theo thông lệ việc chọn pizza phải được thực hiện cùng nhau. Tommy bấm số rồi để cho bố nói chuyện. Sau đó hai bố con đem đĩa ăn ra bày. Tommy uống nước trái cây, còn Goran thì tự cho phép mình uống một cốc bia. Trước khi mang nước và bia ra bàn, hai bố con đặt hai chiếc cốc vào trong tủ đá, cho đến khi chúng mờ đi vì sương đọng và đủ lạnh để rót thức uống.

Nhưng Goran không cảm thấy bình yên. Những suy nghĩ của ông vẫn còn luẩn quẩn với mạng lưới hoàn hảo kia. Các cảnh sát thuộc đơn vị an ninh mạng đã phát hiện ra một cơ sở dữ liệu với hơn ba triệu cái tên trẻ em có kèm theo địa chỉ và hình ảnh của chúng. Mạng lưới sử dụng những tên miền giả đối với trẻ em để dụ chúng vào bẫy. Bướm Priscilla. Những con thú, các trò chơi đầy màu sắc, âm nhạc vui tươi sẽ làm nốt phần còn lại... Chúng quá giống với những bộ phim hoạt hình mà Goran và Tommy cùng nhau ngồi xem sau bữa tối trên truyền hình vệ tinh. Con cọp xanh và sư tử trắng. Ông quan sát cậu con trai nằm cuộn tròn người, hoàn toàn tập trung vào chuyến phiêu lưu của hai con thú trong rừng.

Ông tự nhủ mình phải bảo vệ thằng bé.

Ông nghĩ đến điều đó với một chút sợ hãi trong lồng ngực, một nút thắt tối tăm và nhớp nháp. Nỗi sợ không làm đủ và không sống đủ. Bởi một ông bố đơn thần thì không thể đủ được. Ngay cả khi về cơ bản, hai bố con ông vẫn tự xoay xở được. Điều gì sẽ xảy ra nếu như phía sau màn hình máy tính đen ngòm của Bermann không phải là một đứa bé xa lạ, mà là Tommy của ông? Liệu ông có nhận ra được nếu như có kẻ nào đó cố gắng thâm nhập vào đầu óc và cuộc sống của con trai ông?

Trong khi Tommy làm nốt bài tập, Goran đã rút về phòng làm việc. Lúc đó còn chưa đến bảy giờ, nên ông lại giở hồ sơ của Bermann ra xem, thử tìm những ý tưởng mới có thể hữu ích cho cuộc điều tra.

Trước hết, cái ghế xa lông bằng da trong căn hộ tầng lửng mà trên đó Krepp không tìm thấy một dấu vân tay nào.

Có dấu vân tay trên tất cả những thứ khác, nhưng trên cái ghế đó lại không có dấu nào... Tại sao?

Ông chắc chắn phải có một lý do. Nhưng mỗi khi tưởng như đã nắm bắt được một ý tưởng, tâm trí ông lại trôi đi nơi khác, trôi về phía những mối nguy hiểm đang rình rập xung quanh cuộc sống của con trai ông.

Goran là người nghiên cứu tội phạm, ông biết bản chất cái ác là như thế nào. Nhưng ông luôn quan sát nó từ phía xa, với tư cách là một nhà nghiên cứu. Ông không bao giờ để cho mình bị lung lạc với ý nghĩ rằng cái ác ấy có thể vươn bàn tay xương xẩu của nó ra đủ dài để chạm đến ông. Tuy vậy hôm nay, ông lại nghĩ đến điều đó.

Khi nào con người ta trở thành một “con quái vật”?

Cái từ mà ông đã chính thức cấm dùng ấy giờ lại len lỏi vào trong sâu thẳm tâm hồn ông. Bởi vì ông muốn biết điều đó diễn ra như thế nào. Khi nào thì người ta nhận ra mình đã vượt qua giới hạn đó.

Bermann là thành viên của một tổ chức có cơ cấu cực kỳ chặt chẽ, có thứ bậc và cương vị rạch ròi. Hắn đã tham gia vào tổ chức này từ hồi học đại học. Thời đó, Internet còn chưa được khai phá, và người ta khó có thể giấu mình đi mà không gây nghi ngờ. Chính vì lý do này mà các thành viên trong tổ chức được khuyến cáo nên tạo dựng một cuộc sống kiểu mẫu và an toàn nhằm che đậy bản chất thật và kiểm soát các xung năng của bản thân. Ngụy trang, hòa trộn và biến đi, đó là những nguyên tắc cơ bản của chiến thuật đó.

Sau khi tốt nghiệp, Bermann đã xác định rõ ràng trong đầu điều hắn sẽ làm. Đầu tiên, hắn nối lại quan hệ với một cô bạn cũ đã nhiều năm không gặp. Cô nàng Veronica, người chưa bao giờ có đủ hấp dẫn để bọn đàn ông, kể cả hắn, phải để mắt đến. Hắn đã làm cho Veronica tin rằng, hắn yêu thầm cô ta từ lâu, nhưng lại giấu giếm tình cảm vì nhát gan. Và cô, như dự tính, đã ngay lập tức nhận lời lấy hắn làm chồng. Những năm đầu hôn nhân trôi qua với nhiều thăng trầm, giống như bao cặp vợ chồng son khác. Hắn hay vắng nhà vì công việc. Trên thực tế, hắn thường lợi dụng những chuyến công tác để gặp những kẻ giống mình, hoặc để dụ dỗ những con mồi nhỏ tuổi.

Cùng với sự xuất hiện của Internet, mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Những tên ấu dâm[2] lập tức nắm bắt lấy mạng liên kết kì diệu đó. Nó cho phép chúng không chỉ hoạt động trong sự vô danh, mà còn lường gạt các nạn nhân thông qua những cái bẫy tài tình.

Nhưng Alexander Bermann chưa thể hoàn tất kế hoạch ngụy trang hoàn hảo của mình, vì Veronica không thể sinh con nối dõi cho hắn. Đó là thứ còn thiếu, là chi tiết khiến cho hắn không thể bị nghi ngờ, vì một ông bố của gia đình sẽ không nhòm ngó con cái của người khác.

Giáo sư Goran xua đi sự phẫn nộ đang dâng lên tận cổ họng và khép lại tập hồ sơ đã dày lên đáng kể trong những giờ vừa qua. Ông không muốn đọc nó nữa. Ông muốn đi ngủ, muốn được trốn mình vào trong giấc mộng.

Ai có thể là Albert, nếu không phải Bermann? Mặc dù còn cần phải gắn hắn với nghĩa địa cánh tay và vụ bắt cóc sáu cô bé, rồi tìm ra những thi thể còn thiếu, không ai khác ngoài hắn xứng đáng khoác lên người chiếc áo của tên đao phủ.

Nhưng càng nghĩ, ông càng thấy có gì đó chưa thuyết phục.

Đúng tám giờ tối, Roche sẽ chính thức thông báo về vụ bắt giữ thủ phạm trong một cuộc họp báo lớn. Goran nhận ra sự băn khoăn của ông đã luẩn quẩn trong đầu ngay từ sau khi phát hiện ra bí mật của Bermann. Suốt cả buổi chiều, nó giống như một màn sương mờ ảo, chập chờn ở một góc nhỏ trong đầu ông. Nhưng dù nấp kín trong cái góc tối ấy, nó vẫn tiếp tục phát xung động để cho ông biết là nó vẫn luôn hiện hữu ở đó. Chỉ đến bây giờ, trong không khí tĩnh lặng của căn hộ, Goran mới dành cho nó một sự suy nghĩ thấu đáo.

Có gì đó không ăn khớp trong vụ án này... Ngươi nghĩ Berman không phải là thủ phạm ư? Ồ, tất nhiên là có chứ, hắn chính là thủ phạm: hắn là một tên ấu dâm. Nhưng hắn không phải là kẻ đã giết sáu đứa trẻ. Hắn chẳng có gì dính líu hết... Mà làm thế nào ngươi dám chắc về điều đó?

Bởi vì nếu Alexander Bermann thực sự là gã Albert của chúng ta, thì ta đã tìm thấy cô bé cuối cùng trong cốp xe của hắn - nạn nhân số sáu - chứ không phải là Debby Gordon, nạn nhân đầu tiên. Lẽ ra hắn phải phi tang xác cô bé đầu tiên từ lâu rồi mới phải...

Đúng lúc rút ra kết luận này, nhà tội phạm học nhìn đồng hồ: cuộc họp báo lúc tám giờ sẽ diễn ra trong vài phút nữa.

Cần phải ngăn Roche lại.

Viên chánh thanh tra đã triệu tập các tờ báo lớn ngay khi các thông tin về diễn tiến của vụ Bermann bắt đầu lan rộng. Nguyên cớ chính thức là ông không muốn các phóng viên sử dụng thông tin nghe ngóng được từ những lỗ rò rỉ của các nguồn chính thức. Còn lý do thực sự là ông lo rằng vụ việc có thể rò rỉ theo các hướng khác nhau, và như thế ông sẽ không trở thành trung tâm chú ý của dư luận.

Tiếng ồn ào trong phòng họp báo bên cạnh văn phòng thanh tra Roche khiến ông thích thú, nó như nguồn năng lượng nuôi dưỡng cái tôi của ông ta. Trong khi chờ đến buổi họp báo, ông ngồi yên, gác đôi chân lên chiếc bàn làm việc được thừa hưởng từ người tiền nhiệm mà ông đã phò tá trong suốt một thời gian dài, quá dài theo như ông nghĩ, nếu là ông, ông sẽ không ngần ngại mà hất văng đi từ hồi tám năm về trước.

Các đường dây điện thoại của ông đều nhấp nháy báo hiệu cuộc gọi đến, nhưng ông không có ý định trả lời. Ông muốn để thế cho thêm phần kịch tính.

Có tiếng gõ cửa vang lên.

- Mời vào. - Roche lên tiếng.

Ngay khi bước vào, Mila nhận thấy một nụ cười khinh khỉnh trên gương mặt viên thanh tra. Cô tự hỏi ông ta đòi gặp cô vì cái quái gì đây.

- Cảnh sát Vasquez, tôi muốn đích thân cám ơn cô vì sự đóng góp vô cùng to lớn của cô trong cuộc điều tra.

Mila chắc đã đỏ mặt nếu như cô không hiểu ngay ra đó chỉ là lời mở đầu khéo léo cho việc tống khứ cô.

- Tôi không nghĩ mình đã làm được gì nhiều.

Roche cầm lấy con dao rọc giấy và bắt đầu dùng mũi nhọn của nó để nạo móng tay. Ông lơ đãng nói:

- Không, sự hiện diện của cô là rất hữu ích.

- Chúng ta vẫn chưa xác định được danh tính của bé gái thứ sáu.

- Ta sẽ sớm tìm ra thôi, giống như những thứ khác.

- Xin ông cho phép tôi được hoàn tất công việc của mình, ít ra là một vài ngày. Tôi bảo đảm mình sẽ thu được kết quả...

Thanh tra Roche buông con dao dọc giấy xuống, nhấc chân khỏi bàn và đứng dậy tiến lại gần Mila. Với nụ cười tươi nhất có thể, ông cầm lấy bàn tay phải vẫn còn đang bị băng của cô và bắt lấy, không nhận ra ông đang làm cô đau.

- Tôi đã nói chuyện với cấp trên của cô. Trung úy Morexu bảo đảm với tôi rằng cô sẽ được khen thưởng về vụ này.

Nói xong ông dẫn cô ra cửa.

- Chúc cô trở về bình an. Thỉnh thoảng nhớ nghĩ đến chúng tôi nhé.

Mila gật đầu vì chẳng còn gì để nói. Vài giây sau cô thấy mình ở ngoài hành lang, giương mắt nhìn cánh cửa phòng làm việc của thanh tra Roche từ từ đóng lại.

Cô muốn trao đổi một chút với Goran Gavila về chuyện của mình, vì cô dám chắc ông giáo sư không hay biết gì về vụ tống tiễn cô. Nhưng ông đã về nhà. Vài giờ đồng hồ trước cô có nghe thấy ông thu xếp bữa tối qua điện thoại. Căn cứ vào giọng điệu của nhà tội phạm học, người ở đầu dây bên kia chỉ có thể là một đứa bé không quá tám chín tuổi. Hai người đã quyết định gọi pizza.

Vậy là giáo sư Goran có một cậu con trai. Mila tự hỏi liệu trong cuộc đời ông có một người phụ nữ nào không, và liệu bà ấy có chia sẻ bữa tối ấm cúng mà hai bố con đang chuẩn bị hay không. Tự nhiên Mila cảm thấy một chút ghen tỵ.

Ở cửa trụ sở cảnh sát, Mila trả lại thẻ và được đưa cho một chiếc phong bì bên trong đựng vé tàu để cô về nhà. Lần này không ai đưa cô ra ga cả. Cô sẽ phải gọi một chiếc taxi với hy vọng sở cảnh sát chủ quản của mình sẽ hoàn tiền lại, và tạt qua nhà nghỉ lấy đồ.

Tuy nhiên, khi đã ở ngoài đường, Mila bỗng nhận ra cô không vội. Cô nhìn quanh, hít một hơi dài làn không khí thanh bình và trong lành. Thành phố như thể được nhúng ngập trong một quả bóng lạnh lẽo bất thường, đe dọa thay đổi thời tiết bất cứ lúc nào. Chỉ cần hơn hoặc kém một độ là mọi thứ sẽ khác ngay. Bầu khí quyển loãng này có thể báo trước một đợt tuyết rơi. Nhưng cũng có thể mọi thứ sẽ không thay đổi và vẫn bất động như bây giờ.

Cô lấy chiếc vé trong phong bì ra. Ba giờ nữa tàu mới khởi hành. Nhưng đầu óc cô đang nghĩ đến một chuyện khác. Liệu khoảng thời gian ít ỏi này có đủ để làm điều cô đang nghĩ hay không? Suy cho cùng, nếu cô chỉ phí công vô ích thì cũng đâu có ai biết. Mà cô lại không thể yên lòng ra đi với mối nghi ngờ này.

Ba tiếng đồng hồ. Chắc là đủ.

Mila đã thuê một chiếc xe hơi và chạy được khoảng một tiếng. Những đỉnh núi chọc thẳng lên trời ở phía trước mặt cô. Những căn nhà gỗ mái dốc. Những làn khói xám thoang thoảng mùi nhựa bốc lên từ các ống khói. Gỗ chất đống trong các sân nhà. Phía sau những ô cửa sổ là thứ ánh sáng nâu vàng ấm cúng.

Từ quốc lộ 115, Mila đã rẽ vào lối ra số 25, nhằm thẳng hướng trường học của Debby Gordon. Cô muốn xem phòng ở của cô bé. Cô tin rằng mình có thể tìm thấy một thứ gì đó gắn cô bé với nạn nhân số sáu và tên của em. Ngay cả khi từ giờ việc đó hoàn toàn không cần thiết nữa, như cách nghĩ của thanh tra Roche, Mila cũng không thể bỏ lại sau lưng một danh tính chưa được làm sáng tỏ. Đó là một hành động vì tình thương. Vụ mất tích của bé gái thứ sáu chưa được loan báo, nên chưa ai có cơ hội để khóc thương em. Cô biết họ sẽ không thể làm được điều đó nếu thiếu một cái tên. Cô bé sẽ trở thành một vệt trắng trên tấm bia mộ, một dấu lặng ở cuối danh sách ngắn ngủi, một con số đơn lẻ thêm vào cuốn sổ sinh tử. Và Mila không muốn để cho chuyện đó xảy ra.

Thật ra, một ý nghĩ khác đang ám ảnh cô, vì nó mà cô đã lái xe nhiều dặm đường như thế này. Chỉ vì một thoáng lạnh gáy ấy...

Nữ cảnh sát đến nơi lúc hơn chín giờ tối một chút. Trường nội trú nằm trong một ngôi làng nhỏ ở độ cao một ngàn hai trăm mét. Vào giờ này, mọi ngả đường đã vắng ngắt. Các khối nhà của ngôi trường nằm ngay bên ngoài làng, trên một ngọn đồi, chung quanh là một khuôn viên xinh xắn, với một sân quần ngựa và các sân bóng rổ, tennis. Để đến được đó, cô phải đi theo một lối nhỏ dài, ở đó các em học sinh đang trên đường đi chơi thể thao về. Tiếng cười giòn tan của các em làm xôn xao cả một góc đường.

Mila vượt qua các em học sinh và dừng xe trên một khu đất. Sau đó cô tự giới thiệu mình với thư kí của trường, và yêu cầu được vào thăm phòng của Debby, thầm hy vọng không bị ai làm to chuyện. Sau khi trao đổi với cấp trên, người thư kí quay sang bảo rằng cô có thể đi xem phòng. May mắn là sau khi trao đổi qua điện thoại, mẹ Debby đã gọi đến trường để báo trước về cuộc thăm viếng của Mila. Người thư kí đưa cho cô cái thẻ đề “Khách thăm” rồi chỉ đường cho cô.

Mila đi theo các hành lang cho đến khu nội trú của nữ sinh. Cô không gặp chút khó khăn nào khi tìm phòng của Debby. Các bạn học đã dán đầy trên cửa phòng của em những mảnh giấy đủ màu sắc ghi rằng họ sẽ rất nhớ em, không bao giờ quên em. Trong đó đương nhiên có câu “Cậu sẽ luôn ở trong tim chúng tớ”.

Mila nghĩ đến Debby, nghĩ đến những cú điện thoại nài xin bố mẹ đưa em về nhà và nỗi cô đơn mà một cô bé nhút nhát và vụng về ở tuổi em có thể cảm thấy trong một nơi như thế này. Đó là lý do khiến cô cảm thấy những mảnh giấy kia có phần không hợp lẽ, chúng thể hiện một sự quan tâm muộn màng đầy đạo đức giả. Lẽ ra các bạn nên chú ý đến Debby khi cô bé còn ở đây. Hoặc là khi có kẻ bắt cóc cô bé ngay trước mắt các bạn.
 
Chương 11


Con bé mở mắt.

Nó hít thật sâu, như thể vừa trồi lên từ một vực nước trong lúc những bàn tay nhỏ bé vô hình vẫn còn đang kéo tụt nó xuống. Nhưng nó cố giữ cân bằng trong trạng thái tỉnh thức.

Cơn đau đột ngột ở vai trái giúp nó lấy lại một chút sáng suốt. Nó cố nhớ xem mình đang ở đâu. Nó đã mất khả năng định hướng. Nó biết là mình đang nằm ngửa. Chắc chắn nó đang sốt và không thể nhúc nhích được: nó cảm thấy như đang bị đè chặt. Chỉ còn hai giác quan đủ sức vượt qua màn sương mù của tình trạng nửa tỉnh nửa mê này. Mùi khai và mùi đá ẩm, giống như trong một cái hang. Cùng với tiếng nhỏ lách tách nhức nhối lặp đi lặp lại của một giọt nước.

Chuyện gì đã xảy ra?

Ký ức lần hồi quay lại với con bé. Nó muốn khóc. Những giọt nước mắt lăn dài trên má, làm ướt đôi môi khô khốc của nó. Nó nhận ra mình đang khát khô cổ.

Dịp cuối tuần cả nhà dự định sẽ đi ra hồ chơi. Bố mẹ và nó. Nó chỉ nghĩ đến chuyến đi đó trong suốt mấy ngày liền. Bố nó sẽ dạy nó câu cá. Nó đã nhặt giun đất trong vườn và bỏ vào trong một cái lọ thủy tinh. Chúng uốn éo. Chúng còn sống. Nhưng nó mặc kệ. Hay đúng hơn nó không coi chuyện đó là quan trọng. Vì nó cho rằng bọn giun đất không có cảm xúc. Vậy nên nó chẳng buồn tự hỏi chúng cảm thấy ra sao khi bị nhốt trong cái lọ. Nhưng giờ thì nó bắt đầu đặt câu hỏi ấy cho mình. Bởi vì nó đang cảm thấy như thế. Nó thấy thương cho lũ giun, cũng như thương chính bản thân nó. Và nó thấy hổ thẹn vì đã thật độc ác. Nó dồn hết tâm sức vào hy vọng rằng kẻ đã bắt cóc nó và lôi nó đi khỏi cuộc sống của mình là một người tốt hơn nó.

Nó không còn nhớ chính xác về chuyện đã xảy ra.

Nó đã thức dậy sớm để đi học, sớm hơn thường lệ, vì hôm đó là thứ Năm, và như mọi thứ Năm khác, bố nó không thể đưa nó đến trường vì phải đi gặp khách hàng. Ông bán các sản phẩm cho thợ làm tóc, và để phòng hờ cho lượng khách tăng cao vào dịp cuối tuần, ông phải đi đưa hàng, cùng với keo xịt tóc, dầu gội đầu và cả mỹ phẩm nữa. Vì thế, con bé phải đến trường một mình. Nó đã làm thế từ hồi lên chín tuổi. Nó còn nhớ lần đầu tiên bố nó đi kèm nó một đoạn ngắn đến trạm xe buýt. Nó nắm tay ông và chú ý lắng nghe những lời ông dặn, chẳng hạn như phải nhìn sang hai bên trước khi băng qua đường, không được đi muộn vì bác lái xe sẽ không chờ, không được nói chuyện với người lạ mặt vì có thể gặp nguy hiểm. Dần dà, nó đã nhập tâm những lời căn dặn ấy đến độ không còn cảm nhận được giọng nói của bố khi nói ra chúng nữa. Nó đã thuộc nằm lòng.

Sáng thứ Năm ấy, nó thức dậy với một niềm vui mới. Ngoài chuyến đi chơi sắp tới ở hồ, nó còn lý do khác để vui vẻ. Cái băng ở ngón tay nó. Trong phòng tắm, nó đã dùng nước nóng để gỡ một góc cái băng và nhìn ngón tay mình với một cảm giác tự hào xen lẫn đau đớn.

Nó đã có một người chị kết nghĩa.

Nó đang muốn nhanh chóng gặp lại chị ấy. Nhưng chuyện đó chỉ có thể xảy ra vào buổi tối, vì hai chị em không học cùng trường. Hai đứa hẹn nhau ở chỗ thường ngày để kể cho nhau nghe các tin tức mới, vì đã mấy ngày rồi chúng không gặp nhau. Hai chị em sẽ cùng chơi đùa, lên kế hoạch, và trước khi chia tay, hai đứa sẽ cùng lặp lại lời thề mãi mãi là bạn của nhau.

Phải, mọi thứ hứa hẹn sẽ là một ngày rất thú vị.

Nó đã nhét cuốn sách hình học vào trong cặp. Đó là môn học nó ưa thích, và điểm số của nó đã chứng minh điều đó. Lúc mười một giờ, nó có giờ thể dục, nên nó lấy bộ đồ thể thao bó sát từ trong tủ ra, đồng thời nhét đôi giày và vớ vào trong một cái túi giấy. Trong khi nó đang dọn giường, mẹ nó gọi xuống ăn sáng. Mọi người luôn ăn sáng vội vã. Sáng hôm ấy cũng không là ngoại lệ. Bố nó chỉ uống một tách cà phê. Ông không ngồi xuống mà đứng để đọc báo. Ông cầm tờ báo bằng một tay, trong khi tay kia đều đặn đưa cái tách lên miệng. Mẹ nó thì đã kịp gọi điện thoại cho một đồng nghiệp, bà dọn món trứng cho nó mà không bỏ sót một chữ nào trong mẩu đối thoại với đầu dây bên kia. Houdini cuộn người nằm trong cái ổ của mình và chẳng buồn nhìn nó từ lúc nó xuống phòng ăn đến giờ. Ông nó bảo là con mèo bị huyết áp thấp giống ông nên buổi sáng thường rất uể oải. Còn nó, đã từ lâu nó không còn khó chịu về sự thờ ơ của Houdini. Giữa hai đứa như có một thỏa thuận ngầm về việc chia sẻ không gian, và thế là đủ.

Sau bữa sáng, nó đem đĩa của mình vào đặt trong bồn rửa rồi đi một vòng quanh bếp để hôn tạm biệt bố mẹ. Sau đó nó lên đường.

Khi đã ra khỏi nhà, nó vẫn còn cảm thấy cái hôn nồng mùi cà phê của bố trên má. Hôm ấy trời rất trong. Một vài đám mây điểm trên nền trời nom không có vẻ gì là đe dọa. Dự báo thời tiết đã nói là trời sẽ tiếp tục đẹp như thế trong suốt những ngày cuối tuần. “Thật tuyệt vời để đi câu”, bố nó đã bình luận như thế. Với lời hứa của bố trong tim, nó thả bộ trên vỉa hè về phía trạm xe buýt. Cả thảy là ba trăm hai mươi chín bước chân. Nó đã từng đếm nhiều lần. Theo năm tháng, số bước chân ngày càng giảm đi, dấu hiệu cho thấy nó đang lớn dần lên. Lâu lâu nó phải đếm lại. Đúng vào bước chân thứ ba mươi chín, có người gọi nó.

Nó sẽ không bao giờ quên con số đó. Thời điểm chính xác khi cuộc sống của nó tan vỡ.

Nó quay lại và nhìn thấy ông ta. Người đàn ông tươi cười đang tiến đến chỗ nó có gương mặt xa lạ. Nhưng ông ta đã gọi tên nó, nên nó nghĩ ngay: ông ta biết mình, nên không thể là một mối nguy hiểm. Trong lúc ông ta tiến về phía nó, nó đã cố nhìn thật kĩ để xem ông ta là ai. Ông ta bước nhanh hơn để bắt kịp nó, còn nó thì đứng lại đợi. Mái tóc của ông ta... thật kì quặc. Giống như tóc của một con búp bê hồi xưa của nó hay chơi. Trông giả giả thế nào. Khi nó nhận ra ông ta đội một bộ tóc giả thì đã quá trễ. Nó thậm chí không để ý đến chiếc xe tải nhẹ màu trắng đang đậu gần đó. Ông ta túm lấy nó, đồng thời mở cửa xe và chui vào trong đó, lôi nó theo. Nó đã cố hét lên, nhưng ông ta lấy một tay bịt miệng nó lại. Bộ tóc giả rơi xuống trong khi ông ta ấp một chiếc khăn tay lên mặt nó. Sau đó đột nhiên nước mắt nó giàn giụa, những chấm đỏ và trắng xuất hiện trước mắt nó, che mất mọi thứ. Và cuối cùng là bóng tối.

Người đàn ông đó là ai? Ông ta muốn gì? Tại sao ông ta đưa nó đến chỗ này? Bây giờ ông ta ở đâu?

Những câu hỏi quay cuồng không lời giải đáp. Những hình ảnh của buổi sáng cuối cùng biến mất, và con bé lại thấy mình trong cái hang này - hay là cái bụng ẩm ướt của con quái vật đã nuốt chửng nó. Để bù lại, cảm giác tê dại dễ chịu một lần nữa chiếm lấy nó. Cái gì cũng được, miễn là không phải nghĩ đến tất cả những chuyện này, nó nghĩ bụng. Nó nhắm mắt, và lại rơi vào cái bể đầy các bóng đen đang vây quanh mình.

Thậm chí nó không nhận ra một trong số những cái bóng ấy đang quan sát nó.
 
Chương 12


Tuyết rơi dày đặc suốt đêm và bao phủ sự yên ắng lên mọi vật.

Nhiệt độ đã dịu đi. Những cơn gió nhẹ thổi qua phố phường. Trong khi thời tiết biến đổi làm mọi thứ chậm lại như dự kiến thì các thành viên trong nhóm điều tra lại đang sôi sục một khí thế mới.

Rốt cuộc, họ đã có một mục đích. Một cách để sửa chữa dù chỉ là một phần tội ác này. Tìm ra bé gái số sáu, giải cứu cô bé. Và tự cứu chính họ.

- Với hy vọng là cô bé còn sống. - Goran liên tục nhắc lại nhằm giảm bớt phần nào nhiệt tình của những người khác.

Bác sĩ Chang đã bị thanh tra Roche khiển trách vì không đưa ra được kết luận trước. Báo chí vẫn còn chưa được thông tin về vụ bắt cóc của cô bé thứ sáu, nhưng thanh tra Roche vẫn chuẩn bị sẵn một cái cớ cho giới truyền thông, và ông ta cần một kẻ bung xung.

Trong khi chờ đợi, Roche đã triệu tập một nhóm bác sĩ - mỗi người một chuyên môn khác nhau - để trả lời một câu hỏi căn bản duy nhất: Một đứa trẻ có thể sống sót bao lâu trong điều kiện như vậy?

Không có câu trả lời thống nhất cho câu hỏi đó. Những người lạc quan nhất cho rằng, nếu được chăm sóc y tế thích hợp và không bị nhiễm trùng, cô bé có thể cầm cự từ mười đến hai mươi ngày. Những người bi quan thì khẳng định rằng, dù cho tuổi còn nhỏ, nhưng với việc bị mất một cánh tay như thế, khả năng sống còn của em đang càng lúc càng giảm dần, và rất có thể là cô bé đã chết.

Roche không hài lòng chút nào và quyết định dù thế nào vẫn ủng hộ công khai giả thiết Alexander Bermann là nghi phạm số một. Mặc dù tin rằng hắn không có liên quan gì với vụ mất tích của các cô bé, Goran không bác bỏ phiên bản chính thức đó của Roche. Đó không phải là vấn đề sự thật hay không. Thanh tra Roche không thể để bị mất mặt khi đảo ngược những tuyên bố trước đây của mình về Bermann. Điều đó sẽ làm tổn hại hình ảnh của ông và cả sự tin cậy của phương pháp điều tra mà họ sử dụng.

Ngược lại, nhà tội phạm học tin rằng Bermann đã bị “gài” bởi thủ phạm thực sự.

Albert đã quay lại vị trí trung tâm chú ý của cả nhóm.

- Gã biết Bermann bị ấu dâm. - Goran nói khi mọi người tề tựu đông đủ. - Trong một thời gian dài chúng ta đã đánh giá thấp gã.

Một yếu tố mới đã xuất hiện trong chân dung của Albert. Họ đã lần đầu tiên linh cảm điều đó khi Chang mô tả vết thương trên các cánh tay được tìm thấy và dùng từ “phẫu thuật” để diễn tả độ chính xác khi thủ phạm ra tay. Việc sử dụng các loại thuốc làm hạ huyết áp của bé gái số sáu khẳng định khả năng y khoa của gã. Cuối cùng, việc gã có thể đang duy trì mạng sống của cô bé cho phép nghĩ rằng gã nắm rất vững các kỹ thuật hồi sức và những quy trình chăm sóc đặc biệt.

- Có thể gã là bác sĩ, hoặc đã từng là bác sĩ. - Goran suy luận.

- Tôi sẽ tìm kiếm trong danh sách đăng ký hành nghề: có thể gã đã bị tước giấy phép. - Stern nói ngay.

Đó là một khởi đầu hứa hẹn.

- Làm thế nào gã có được các loại thuốc để duy trì sự sống cho cô bé?

- Câu hỏi hay đấy Boris. Chúng ta sẽ kiểm tra các nhà thuốc tư nhân và hiệu thuốc bệnh viện để biết ai đã tìm những loại thuốc đó.

- Có lẽ gã đã trữ thuốc từ nhiều tháng nay. - Rosa nhận xét.

- Nhất là các loại kháng sinh: gã cần chúng để tránh nhiễm khuẩn. Còn gì khác không?

Có vẻ như không còn gì nữa. Lúc này, chỉ cần phát hiện ra cô bé dù còn sống hay đã chết.

Mọi người trong phòng họp quay lại nhìn Mila. Cô là chuyên gia, là người phải tham khảo ý kiến nếu họ muốn đạt được mục đích. Thứ sẽ mang lại ý nghĩa cho công việc của họ.

- Cần phải tìm ra một cách liên lạc với gia đình cô bé.

Mọi người nhìn nhau, cho đến khi Stern lên tiếng hỏi:

- Để làm gì? Lúc này, chúng ta đang có lợi thế trước Albert. Gã chưa biết chúng ta đã biết chuyện.

- Anh tin là một cái đầu có thể nghĩ ra những chuyện này lại không lường trước được những động thái của ta sao?

- Nếu như giả thiết của chúng ta chính xác, gã duy trì sự sống cho cô bé là vì chúng ta.

Giáo sư Gavila chen vào để bảo vệ giả thiết mới của Mila:

- Chính gã mới là người dẫn dắt cuộc chơi, và cô bé gái là phần thưởng cuối cùng. Cô bé sẽ thuộc về kẻ nào khôn ngoan hơn.

- Vậy gã sẽ không giết cô bé sao? - Boris hỏi.

- Gã không phải là người định đoạt tính mạng cô bé. Mà là chúng ta.

Nhận xét vừa rồi thật khó để chấp nhận, nhưng nó là điểm chính yếu trong thử thách này của họ.

- Nếu như chúng ta mất quá nhiều thời gian trong việc tìm kiếm, cô bé sẽ chết. Nếu chúng ta làm gã nổi giận dù là theo cách nào, cô bé sẽ chết. Nếu chúng ta không tôn trọng luật chơi, cô bé cũng sẽ chết.

- Luật chơi à? Luật nào? - Rosa hỏi, cố nén sự lo lắng.

- Các luật lệ mà gã đã dựng lên, và thật không may là chúng ta không biết. Những mưu đồ của gã chỉ bí ẩn đối với chúng ta, chứ rất rõ ràng đối với gã. Trong tình thế đó, bất cứ hành động nào từ phía chúng ta cũng đều có thể bị xem như phạm luật.

Stern gật gù:

- Trong trường hợp này, tiếp xúc trực tiếp với gia đình của cô bé số sáu sẽ gần như là chơi trò chơi của gã.

- Phải. - Mila đáp. - Hiện tại đó là điều gã đang chờ đợi ở chúng ta. Gã đã tính đến nó. Nhưng gã tin rằng chúng ta sẽ thất bại, vì cha mẹ của cô bé quá sợ hãi nên sẽ không dám xuất đầu lộ diện, nếu không thì họ đã làm thế rồi. Gã muốn chứng minh cho chúng ta thấy khả năng thuyết phục của gã mạnh hơn mọi cố gắng của chúng ta. Điều nghịch lý là, gã đang tìm cách để xuất hiện trong mắt họ như là “người hùng” của vụ này. Tựa như gã đang nói với họ rằng: “Tôi là người duy nhất có thể cứu được con gái ông bà, ông bà chỉ có thể tin vào tôi thôi”... Mọi người có tưởng tượng ra khả năng gã sẽ gây một áp lực tâm lý ở mức nào không? Nếu có thể thuyết phục cha mẹ cô bé liên lạc với chúng ta, chúng ta sẽ ghi được một điểm.

- Nhưng ta có nguy cơ chạm vào chỗ nhạy cảm của gã. - Sarah Rosa phản đối, cô có vẻ chưa đồng tình.

- Đó là một nguy cơ mà ta phải chấp nhận. Nhưng tôi không tin rằng gã sẽ làm hại cô bé vì chuyện đó. Có thể gã sẽ trừng trị chúng ta bằng cách rút bớt thời gian của chúng ta. Gã sẽ không giết chết cô bé ngay, trước tiên gã cần phải cho chúng ta xem toàn bộ tác phẩm của mình đã.

Goran nhận thấy sự nhạy bén rất tuyệt vời của Mila trong việc nắm bắt cơ chế điều tra vụ án. Cô có thể vạch ra chính xác phương hướng điều tra. Tuy vậy, dù những người khác cuối cùng cũng đã chịu nghe cô, nhưng sẽ không dễ để họ hoàn toàn chấp nhận cô. Họ đã nhanh chóng coi cô như một kẻ khác biệt, và quan điểm của họ sẽ không thay đổi được trong một sớm một chiều.

Đúng lúc đó, thanh tra Roche cho rằng mình đã nghe đủ và quyết định can thiệp:

- Chúng ta sẽ làm theo đề nghị của cảnh sát Vasquez: nhanh chóng thông báo về sự tồn tại của bé gái thứ sáu, đồng thời công khai kêu gọi gia đình em. Lạy Chúa! Hãy chứng tỏ là chúng ta có gan đi nào! Tôi mệt mỏi phải chạy theo sự kiện lắm rồi. Cứ như thể con quái vật này đang quyết định hết mọi việc vậy.

Một số người tỏ ra bất ngờ trước thái độ mới của ngài chánh thanh tra, chứ Goran thì không. Cho dù không nhận ra, Roche đang dùng chiêu hoán đổi vai trò của kẻ giết người hàng loạt, và cũng hoán đổi luôn trách nhiệm: nếu họ không tìm ra được cô bé, thì có nghĩa là cha mẹ của em không tin vào các điều tra viên và không chịu xuất hiện.

Nhưng cũng phải công nhận rằng trong lời nói của ông có một thực tế: đã đến lúc phải tìm cách đón đầu các sự kiện.

- Mọi người đã nghe mấy tay bác sĩ kia nói rồi chứ gì? Theo họ, cô bé chỉ còn tối đa mười ngày. - Thanh tra Roche lần lượt nhìn từng thành viên trong nhóm rồi tuyên bố bằng một giọng nghiêm túc. - Tôi quyết định: ta mở cửa lại studio.

Vào giờ ăn tối, trong bản tin thời sự, khuôn mặt của một nam diễn viên nổi tiếng xuất hiện trên truyền hình. Mọi người đã chọn ông ta để truyền đạt lời kêu gọi đến cha mẹ của cô bé số sáu. Ông ta có một gương mặt quen thuộc, đồng thời diễn đạt đúng cảm xúc cần có. Đương nhiên ý tưởng là của Roche. Mila thấy nó rất thích hợp: nó sẽ ngăn cản những kẻ quấy rối và bịa chuyện gọi điện đến số điện thoại nóng xuất hiện trên màn hình.

Vào khoảng thời gian các khán giả xem đài khám phá về sự tồn tại của cô bé nạn nhân thứ sáu trong cảm giác lẫn lộn giữa kinh hoàng và hy vọng, nhóm điều tra lục tục kéo vào studio.

Đó là một căn hộ nằm ở tầng bốn của một tòa nhà vô danh gần trụ sở cảnh sát. Trong tòa nhà có nhiều văn phòng phụ của cảnh sát liên bang, đa phần phục vụ cho bộ phận hành chính và kế toán cũng như lưu trữ các hồ sơ giấy tờ quá cũ kỹ, chưa kịp số hóa để đưa vào kho dữ liệu mới.

Trước đây, studio được chương trình bảo vệ nhân chứng sử dụng để tiếp đón những người cần lẩn trốn. Nó được bố trí nằm giữa hai căn hộ chung cư y hệt nhau. Vì lý do này mà nó không có cửa sổ. Máy điều hòa được bật liên tục và lối tiếp cận duy nhất là cửa ra vào. Tường được thiết kế rất dày và trang bị nhiều hệ thống an ninh. Do hiện tại căn hộ không còn được dùng cho mục đích nguyên thủy nữa, nên các thiết bị đã bị gỡ bỏ. Thứ duy nhất còn lại là cánh cửa chống đạn nặng nề.

Goran đã nhắm đến chỗ này khi đội trọng án được thành lập. Roche chẳng mất gì mà không chiều lòng ông giáo sư, vì ông biết căn hộ an toàn đã không được sử dụng từ nhiều năm trước đó. Goran một mực cho rằng họ cần phải tự nhốt mình trong bốn bức tường trong thời gian điều tra. Các ý tưởng sẽ lan truyền dễ dàng hơn và lập tức được chia sẻ cũng như triển khai thêm mà không qua khâu trung gian nào. Việc ở chung bắt buộc của cả nhóm sẽ làm nảy sinh mối đồng cảm, xúc tác cho một bộ não chung duy nhất hoạt động. Giáo sư Gavila đã mượn phương pháp này từ “thuyết kinh tế mới”, nhằm xây dựng một môi trường làm việc, tạo ra những không gian chung và một sự phân chia phận sự ngang nhau, trái với sự phân cấp thường thấy hiện nay trong ngành cảnh sát, gắn liền với cấp hàm và hay dẫn đến tình trạng cạnh tranh lẫn đấu đá. Trong studio, những khác biệt đều bị xóa bỏ, các giải pháp được khai triển, mọi đóng góp của từng cá nhân đều được trưng tập, lắng nghe và xem xét.

Khi Mila vào bên trong căn hộ, cô lập tức có cảm tưởng rằng đây là nơi những tên giết người hàng loạt bị tóm cổ. Điều đó không xảy ra ở ngoài đời thực, mà ở trong bốn bức tường này.

Trung tâm của tất cả những điều này không chỉ là một cuộc săn người đơn giản, mà là nỗ lực để nắm bắt động cơ ẩn phía sau một chuỗi tội ác nghiêm trọng khó lý giải, tầm nhìn méo mó của một tâm hồn bệnh hoạn.

Ngay ở thời điểm băng qua ngưỡng cửa, Mila chợt hiểu một chương mới của cuộc điều tra đã thực sự được mở ra.

Stern xách một cái túi giả da màu nâu được vợ anh chuẩn bị. Anh tránh qua một bên để những người khác bước vào. Boris khoác một chiếc ba lô trên vai. Tiếp sau anh là Rosa, rồi cuối cùng là Mila.

Phía bên kia của cánh cửa gia cố là một dạng như buồng kính chống đạn, có lẽ trước đây được dùng cho các cảnh sát làm nhiệm vụ canh gác, bên trong có các màn hình đã tắt của hệ thống video, vài cái ghế xoay, cùng một giá vũ khí trống không. Một chốt chặn an toàn bằng cổng điện ngăn cách giữa buồng trực gác với phần còn lại của căn hộ. Trước kia, cái cổng được đóng mở bởi nhân viên gác cửa, nhưng hiện tại thì nó mở toang.

Mila nhận thấy một thứ mùi ngột ngạt, ẩm mốc và mùi thuốc lá, cùng với tiếng ì ì liên tục của hệ thống thông gió điều hòa. Sẽ khó ngủ đây. Cô cần phải kiếm hai cái nút tai.

Một hành lang dài chia căn hộ làm đôi. Trên các vách tường gắn những mẩu giấy ghi chú và các tấm ảnh từ một vụ án trước đây.

Khuôn mặt của một thiếu nữ xinh đẹp.

Căn cứ vào ánh mắt trao đổi của những người còn lại, Mila hiểu ra vụ án đã không kết thúc tốt đẹp, và có lẽ họ không quay lại nơi này từ đó.

Không ai nói hay giải thích gì với Mila. Chỉ có Boris buột miệng:

- Khỉ thật, chí ít họ cũng nên gỡ hình cô ta xuống mới phải!

Căn phòng đầu tiên chất đầy những đồ đạc văn phòng cũ được hóa phép thành tủ quần áo và tủ buýpphê. Trong bếp, một chiếc bàn làm việc được sử dụng làm bàn ăn. Tủ lạnh thuộc đời cũ, loại dùng khí CFC gây thủng tầng ozone. Ai đó đã bỏ công xả tuyết và để nó mở toang, nhưng lại không buồn cọ sạch những dấu vết thức ăn Trung Quốc đã hóa đen. Có một phòng sinh hoạt chung được trang bị hai chiếc trường kỷ, một cái ti vi và chỗ cắm máy tính xách tay cùng với các thiết bị đi kèm. Máy pha cà phê nằm ở một góc phòng. Đây đó là những chiếc gạt tàn đen bẩn và rác rến đủ loại, đặc biệt là hộp giấy đựng thức ăn nhanh của một nhãn hiệu quen thuộc. Chỉ có một phòng tắm duy nhất, nhỏ xíu và bốc mùi. Bên cạnh chiếc vòi sen, ai đó đã gắn một cái kệ nhỏ và trên đó nằm chỏng chơ vài lọ xà phòng lỏng, chai nước gội đầu dùng dở, cùng với một gói năm cuộn giấy vệ sinh. Có hai căn phòng đóng kín dùng để thẩm vấn.

Phía cuối căn hộ là phòng ngủ. Ba chiếc giường tầng cùng hai cái giường gấp được kê sát tường. Mỗi giường có kèm một cái ghế để đặt va li hoặc đồ cá nhân. Tất cả mọi người ngủ chung trong phòng này. Mila chờ cho mọi người chọn giường trước, cô nghĩ người nào đã có giường người nấy. Là người đến sau cùng, cô sẽ lấy chiếc giường còn lại. Rốt cuộc, cô chọn một trong hai chiếc giường gấp. Chiếc ở xa giường Rosa nhất.

Boris là người duy nhất chọn một chiếc giường ở tầng trên.

- Stern ngáy đấy. - Anh hạ giọng nói nhỏ bên cạnh Mila.

Giọng điệu khoái chí và nụ cười tự tin kèm theo cho Mila thấy anh chàng không còn giận cô nữa. Tốt thôi, chuyện đó cũng chỉ làm cho việc sống tập thể trở nên dễ thở hơn. Cô từng hai lần chia sẻ không gian sinh hoạt với các bạn đồng nghiệp, nhưng cô luôn cảm thấy khó khăn khi phải chung đụng với họ. Ngay cả với các đồng nghiệp cùng giới. Trong khi tình bạn cùng phòng nhanh chóng nhen nhóm ở những người khác, thì Mila vẫn luôn tách ra, không thể thu hẹp được khoảng cách. Lúc đầu, chuyện này làm cô bực bội, nhưng dần dà cô đã học được cách tự tạo ra cho mình một thứ “bong bóng sinh tồn”, một khoảng không gian mà chỉ có những gì cô cho phép mới được lọt vào, kể cả âm thanh, tiếng ồn, lời bàn tán của những người xung quanh.

Goran đã đặt túi đồ xuống chiếc giường gấp còn lại. Ông đang đợi mọi người trong căn phòng chính. Căn phòng được Boris đặt biệt danh là “phòng suy tưởng”.

Họ yên lặng bước vào phòng và thấy Goron đang đứng quay lưng lại, mải viết lên bảng hàng chữ: “thành thạo kỹ thuật hồi sức và các quy trình chăm sóc đặc biệt: có khả năng là bác sĩ”.

Trên tường có gắn ảnh chụp của năm bé gái, nghĩa địa cánh tay và chiếc xe hơi của Bermann, cũng như bản sao của mọi báo cáo liên quan đến vụ án. Trong một cái thùng cách chỗ đó khá xa, Mila nhận ra khuôn mặt của cô gái xinh đẹp kia: chắc chắn ông giáo sư đã gỡ ảnh của cô khỏi tường để gắn những tấm ảnh mới lên.

Giữa căn phòng có năm chiếc ghế đặt thành vòng tròn.

Phòng suy tưởng.

Goran nhận thấy Mila đang nhìn chỗ đồ đạc ít ỏi ở trong phòng, bèn giải thích:

- Nó giữ cho chúng ta khả năng tập trung. Ta cần phải nghiền ngẫm những gì đã thu thập được. Tôi làm những việc này theo một phương pháp mà tôi cho là tốt, nhưng như tôi luôn nói, nếu có điều gì khiến cho cô không vừa lòng, cô có thể thay đổi. Cứ dịch chuyển thứ gì cô muốn. Trong căn phòng này, chúng ta có toàn quyền làm theo những suy nghĩ vụt qua trong đầu. Mấy cái ghế là một nhượng bộ nhỏ, còn cà phê và vòi sen sẽ là những phần thưởng đặc biệt, chúng ta cần phải xứng đáng với chúng.

- Được thôi, - Mila đáp, - ta phải làm gì đây?

Goran vỗ tay một cái, rồi chỉ lên bảng, chỗ ông vừa khởi sự ghi các đặc điểm của tên sát nhân hàng loạt.

- Ta cần tìm hiểu về con người của Albert. Mỗi lần khám phá được một chi tiết mới về gã, chúng ta sẽ ghi lên đây... Cô có biết lối điều tra theo kiểu thâm nhập vào đầu bọn giết người hàng loạt và cố gắng suy nghĩ như chúng không?

- Có chứ, tất nhiên rồi.

- Thế thì, quên nó đi, vớ vẩn đấy. Nó không hiệu quả đâu. Gã Albert của chúng ta có một cách thức biện giải riêng cho tất cả những điều mà gã đã làm, nó được cấu trúc rất chặt chẽ trong đầu hắn. Đó là một quá trình trải qua nhiều năm kinh nghiệm với các tổn thương hoặc hoang tưởng. Đó là lý do tại sao ta không phải cố gắng tưởng tượng ra điều gã sắp làm, mà cần nỗ lực tìm hiểu xem làm thế nào gã đã thực hiện những việc đó. Hy vọng điều này sẽ giúp chúng ta lần ra gã.

Mila tin rằng loạt manh mối mà tên sát nhân vạch ra đã chấm dứt sau cái chết của Bermann.

- Chúng ta cần phát hiện một xác chết khác.

- Tôi đồng ý với anh, Stern ạ, nhưng hiện tại vẫn còn thiếu một thứ gì đó, anh có thấy không?

- Thứ gì kia chứ? - Boris hỏi. Cũng như những người khác, anh chàng chưa kịp hiểu nhà tội phạm học đang muốn đi đến đâu.

Nhưng giáo sư Goran Gavila không phải là người thích đưa ra những câu trả lời dễ dàng và thẳng thừng. Ông muốn hướng các điều tra viên đến một điểm suy luận nhất định, rồi để cho họ tự bơi.

- Kẻ giết người hàng loạt vận động trong một thế giới đầy các biểu tượng. Hắn đi theo một lộ trình bí hiểm từ nhiều năm trước đó, từ một góc sâu kín trong đầu, và tiếp tục lần theo nó trong hiện tại ở ngoài đời thực. Những bé gái bị bắt cóc chỉ là một phương tiện để hắn đi đến đích.

- Đó là một cuộc tìm kiếm hạnh phúc. - Mila thêm vào.

Goran nhìn cô.

- Chính xác. Albert đi tìm cách giải tỏa cơn khát, một phần thưởng cho không chỉ những điều gã đã làm, mà cả cho chính bản thân con người gã. Gã chỉ làm theo những gì bản năng thúc đẩy. Và trong khi làm như thế, gã cố nói với chúng ta một điều gì đó...

Đó chính là cái còn thiếu. Một dấu hiệu. Một thứ gì đó dẫn họ đi xa hơn là sự khám phá thế giới nội tâm của Albert.

Sarah Rosa lên tiếng:

- Trên thi thể của nạn nhân đầu tiên không có một dấu vết nào.

- Đó là một quan sát đáng chú ý. - Goran công nhận. - Trong tàng thư lưu trữ về những tên sát nhân hàng loạt, tính luôn cả những tác phẩm điện ảnh chuyển thể, người ta ghi nhận rằng bọn giết người hàng loạt có khuynh hướng “vạch ra” lộ trình của mình, để lại cho các nhà điều tra những manh mối để họ bám theo... nhưng Albert thì không.

- Hoặc giả gã có làm nhưng ta chưa nhận ra.

- Có thể là vì chúng ta chưa thể đọc được các dấu hiệu. - Goran thừa nhận. - Có thể chúng ta chưa biết đầy đủ. Chính vì thế, đã đến lúc để tái dựng các giai đoạn...

Có cả thảy năm giai đoạn, tương ứng với cách thức ra tay của bọn giết người hàng loạt. Trong các tài liệu về tội phạm học, sự phân chia này được dùng để đánh dấu quá trình hành động của những kẻ sát nhân hàng loạt tại những thời điểm chính xác, và sau đó cho phép phân tích từng giai đoạn riêng biệt.

Người ta đi từ giả thuyết rằng không ai vừa chào đời đã là kẻ sát nhân hàng loạt, nhưng những đối tượng này tích tụ một cách thụ động các kinh nghiệm và các nhân tố kích thích, giống như một dạng ủ bệnh của bản tính giết người, để rồi sau đó bùng phát thành hành vi bạo lực.

Giai đoạn đầu tiên là “ảo tưởng”.

- Trước khi đi tìm kiếm trong thực tại, mục tiêu nhắm đến của dục vọng đã tồn tại một thời gian dài trong ảo tưởng. - Goran nói. - Ta vẫn biết thế giới nội tâm của một tên sát nhân hàng loạt là sự giao thoa giữa các tác nhân kích thích và các áp lực, khi chúng vượt quá sức chứa của nó thì sự bộc phát thành hành động là không thể tránh khỏi. Đời sống nội tâm, vốn là của trí tưởng tượng, rốt cuộc sẽ thay thế cuộc sống thực tại. Chính vì thế mà kẻ giết người hàng loạt nhào nặn thế giới thực tại chung quanh theo trí tưởng tượng của hắn.

- Vậy ảo tưởng của Albert là gì? - Stern hỏi trong lúc tay đút vào miệng viên kẹo bạc hà thứ không biết bao nhiêu. - Điều gì đã thu hút gã?

- Thách thức. - Mila đáp.

- Có lẽ trong suốt một thời gian dài, gã đã bị hoặc cảm thấy bị đánh giá thấp. Giờ đây, gã muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy gã tài giỏi hơn người khác... và hơn chúng ta.

- Nhưng gã đâu chỉ “mơ tưởng” đến chuyện đó, đúng không? - Goran hỏi, không phải để tìm một lời khẳng định, mà bởi ông xem giai đoạn đó như đã kết thúc. - Albert đã đi xa hơn thế, gã đã lên kế hoạch cho mọi hành động, bên cạnh đó đã dự trù phản ứng của chứng ta. Chính gã là người nắm quyền điều khiển. Đó chính là điều gã đang nói với chúng ta: gã tự biết mình quá rõ, nhưng gã cũng rất hiểu chúng ta.

Giai đoạn thứ hai là “tổ chức”, hay “lên kế hoạch”. Óc tưởng tượng đã chín muồi và được chuyển sang hành động, với khởi đầu không thể tránh khỏi là lựa chọn nạn nhân.

- Chúng ta đã biết gã không chọn các cô bé, mà chọn gia đình của các em. Đích nhắm thực sự của gã là các ông bố bà mẹ, những người đã quyết định chỉ sinh một con. Gã muốn trừng phạt sự ích kỷ của họ... Tính biểu tượng của các nạn nhân ở đây không rõ rệt. Các cô bé rất khác nhau và không cùng tuổi, mặc dù sự khác biệt là không lớn. Xét về diện mạo, các nạn nhân không có những đặc điểm chung, chẳng hạn như tóc vàng hay tàn nhang.

- Đó là lý do gã không đụng đến các cô bé. - Boris nói. - Gã không quan tâm đến các em theo lối ấy.

- Vậy tại sao chỉ toàn con gái mà không có con trai? - Mila hỏi.

Không ai trả lời câu hỏi của cô. Goran gật gù, cân nhắc:

- Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Nhưng vấn đề là chúng ta không biết ảo tưởng của gã có nguồn gốc từ đâu. Thường thì lời giải thích đơn giản hơn là ta tưởng. Nó có thể là do gã đã từng bị sỉ nhục bởi các bạn cùng lớp, ai mà biết được... Sẽ rất quan trọng nếu biết được câu trả lời. Nhưng vẫn chưa có các manh mối khác, nên chúng ta đành phải tự bằng lòng với những cái hiện có.

Mila vẫn còn tin rằng nhà tội phạm học thấy khó chịu trước sự hiện diện của cô. Tuồng như ông tức tối vì không biết hết mọi câu trả lời.

Giai đoạn thứ ba là “gài bẫy”.

- Các nạn nhân bị tiếp cận như thế nào? Albert đã giở mánh khóe gì để bắt cóc các bé gái?

- Debby, bên ngoài cổng trường. Anneke, trong khu rừng nơi cô bé thường dạo chơi bằng xe đạp.

- Gã đã bắt cóc Sabine trên một vòng quay ngựa gỗ, ngay dưới mũi mọi người. - Stern nói.

- Bởi vì trên thực tế mọi người chỉ biết đến con cái mình. - Rosa đáp một cách chua chát. - Bọn họ mặc kệ. Sự thực là thế.

- Nhưng dù sao thì gã đã ra tay ngay trước bàn dân thiên hạ. Gã cực kỳ ranh ma, cái đồ quỷ quái ấy!

Goran ra hiệu cho Stern bình tĩnh lại. Ông không muốn sự tức giận làm anh mờ mắt.

- Hai cô bé đầu tiên đã bị bắt cóc tại những địa điểm cách biệt với nơi các em ở. Nó giống như cuộc tổng diễn tập. Khi đã tự tin hơn, gã ra tay bắt cóc Sabine.

- Gã đã nâng tầm thử thách đối với cô bé.

- Đừng quên là vào thời điểm đó gã chưa bị ai săn lùng. Chỉ sau vụ Sabine, các vụ mất tích mới được xâu chuỗi lại với nhau, và tâm lý sợ hãi nảy sinh...

- Đúng, nhưng đằng nào thì Albert cũng đã bắt cóc Sabine ngay trước mắt bố mẹ của em. Gã đã làm cho cô bé biến mất như một trò ảo thuật. Và tôi không thực sự tin rằng, như lời Rosa nói, những người ở đó không bận tâm... Không, gã cũng đã làm ảo thuật với cả bọn họ nữa.

- Hoan hô Stern, chính điểm này là thứ chúng ta cần điều tra thêm. - Goran nói. - Làm thế nào mà Albert ra tay thành công?

- Tôi hiểu rồi: gã dùng phép tàng hình.

Câu nói đùa của Boris làm mọi người bật cười. Nhưng với Gavila thì trong đó có một phần sự thực.

- Điều đó buộc chúng ta nghĩ rằng gã không khác một người bình thường là mấy, và gã có khả năng ngụy trang rất tốt: gã đã đóng vai một ông bố khi nhấc Sabine xuống khỏi con ngựa gỗ. Tất cả chuyện đó ngốn mất của gã bao lâu nhỉ? Bốn giây chắc?

- Gã lẩn ngay lập tức vào trong đám đông.

- Thế cô bé không kêu khóc, không chống cự sao? - Boris phản đối, tỏ vẻ không tin.

- Anh biết bao nhiêu đứa trẻ nhỏ không khóc lóc mè nheo ở ngoài hội chợ nào? - Mila lưu ý anh chàng.

- Kể cả nếu như cô bé khóc lóc thì đó cũng là một chuyện bình thường đối với những người chứng kiến. - Goran nói, rồi tiếp tục mạch suy luận. - Sau đó đến lượt Melissa...

- Tình trạng báo động đã lan rộng. Cô bé bị cấm ra ngoài, nhưng vẫn muốn trốn đi chơi bowling với bạn bè.

Stern đứng dậy, tiến lại gần tấm ảnh Melissa tươi cười gắn trên tường. Nó được lấy từ cuốn kỷ yếu của trường. Cô bé nhiều tuổi nhất trong các nạn nhân, nhưng vẻ ngoài của em vẫn còn giữ những nét trẻ con, hơn nữa em cũng thuộc loại nhỏ người. Chẳng bao lâu nữa Melissa sẽ bước vào tuổi dậy thì, cơ thể em sẽ bắt đầu có những đường cong và bọn con trai rồi sẽ chú ý đến em. Còn lúc này, dòng chữ chú thích chỉ tiết lộ năng khiếu thể thao và việc em tham gia làm báo tường với tư cách tổng biên tập. Ước mơ của Melissa là trở thành nhà báo, nhưng nó sẽ không bao giờ thành hiện thực.

- Albert đã phục sẵn. Cái đồ con hoang ấy...

Mila nhìn Stern. Anh có vẻ bị sốc với chính phát ngôn của mình.

- Caroline, thì ngược lại, gã đã bắt cóc cô bé ngay tại giường.

- Mọi thứ đều đã được tính toán...

Goran tiến đến chỗ tấm bảng, cầm lấy một cây bút rồi nhanh chóng viết ra một vài chi tiết.

- Hai nạn nhân đầu tiên, gã chỉ đơn giản là làm cho biến mất. Gã càng gặp thuận lợi khi mỗi ngày có hàng chục trẻ em bỏ nhà đi vì bị điểm xấu hoặc cãi cọ với bố mẹ. Vậy nên không ai xâu chuỗi hai vụ mất tích lại với nhau... Vụ thứ ba chắc hẳn phải nhuốm màu bắt cóc, vì báo động đã được lan truyền... Trong vụ thứ tư, gã đã biết thừa Melissa sẽ không thể cưỡng lại ham muốn được đi ăn mừng sinh nhật với đám bạn gái... Và cuối cùng, đối với nạn nhân thứ năm, gã đã nghiên cứu kỹ lưỡng nơi ăn ở và nếp sinh hoạt của gia đình, để có thể đột nhập vào nhà cô bé một cách êm thấm... Từ đó chúng ta rút ra được gì?

- Mưu đồ của gã được chuẩn bị rất kỹ. Không chỉ nhắm vào các nạn nhân, mà còn nhắm cả vào những người bảo hộ: các bậc phụ huynh, các nhân viên công lực. - Mila nói. - Đâu cần phải dàn dựng này nọ để chiếm được sự tin tưởng của các cô bé gái, chỉ cần gã giở vũ lực bắt cóc, thế là xong.

Tuy nhiên Mila lại nhớ đến trường hợp của Ted Bundy, kẻ giả vờ bị bó bột để tỏ ra yếu đuối, qua đó chinh phục được niềm tin của các nữ sinh viên. Gã nhờ họ bưng giúp mấy món đồ nặng và thuyết phục họ leo vào trong chiếc xe con bọ của mình. Khi các cô gái nhận ra cửa xe bên phía mình không có tay nắm thì đã quá muộn...

Lúc Goran viết xong, ông tuyên bố chuyển sang giai đoạn thứ tư. Giai đoạn “sát hại”.

- Kẻ giết người hàng loạt lặp đi lặp lại một “nghi thức” giết chóc. Với thời gian, hắn có thể lên tay, nhưng nhìn chung là không thay đổi. Đó là nhãn hiệu của hắn. Mỗi một nghi thức lại đi kèm theo một biểu tượng riêng biệt.

- Tính đến nay, chúng ta đã có sáu cánh tay nhưng chỉ một cái xác. Gã giết nạn nhân bằng cách chặt gọn cánh tay, ngoại trừ cô bé số sáu, như chúng ta đã biết. - Sarah Rosa bổ sung.

Boris cầm lấy tập báo cáo của giáo sư tội phạm học và đọc to:

- Chang khẳng định gã giết các nạn nhân ngay sau khi bắt cóc chúng.

- Sao phải vội như thế? - Stern hỏi.

- Bởi vì gã không quan tâm đến các cô bé gái, nên không việc gì phải giữ gìn mạng sống cho các em.

- Gã không xem các cô bé đó như con người. - Mila xen vào. - Đối với Albert, các em chỉ là những món đồ.

Kể cả số sáu. Tất cả cùng nghĩ đến điều đó, nhưng không ai có đủ dũng khí để nói ra. Rõ ràng Albert phớt lờ việc cô bé có phải chịu đựng đau đớn hay không. Gã sẽ giữ cho cô bé còn sống trong thời gian gã đi tìm mục tiêu của mình.

Giai đoạn cuối cùng là “trưng bày dấu tích”.

- Đầu tiên là nghĩa địa cánh tay, sau đó Albert nhét một cái xác vào trong cốp xe của một tên ấu dâm. Liệu đó có phải là một lời nhắn gửi không nhỉ?

Goran đưa mắt nhìn mọi người dò hỏi.

- Gã muốn nói rằng gã không giống như Alexander Bermann. - Sarah Rosa nói. - Thậm chí có thể gã đang nhắn nhủ chúng ta rằng gã từng là nạn nhân bị bạo hành hồi còn nhỏ. Như thể gã muốn nói rằng: “Đấy, tao là như thế này bởi vì có kẻ đã muốn biến tao thành con quỷ!”

Stern lắc đầu.

- Gã muốn thách thức chúng ta, làm trò với chúng ta. Nhưng trang nhất của các báo hôm nay chỉ nói về Bermann. Tôi không tin gã muốn chia sẻ niềm vinh dự đó với một người nào hết. Gã không lựa chọn một tên ấu dâm vì mục đích trả thù. Chắc hẳn phải có lý do nào khác...

- Còn một chuyện mà tôi thấy kỳ cục nữa... - Giáo sư Goran nói, trong đầu ông hiện lên hình ảnh của buổi khám nghiệm tử thi. - Gã đã tắm gội và sửa soạn tươm tất cho thi thể của Debby Gordon, mặc lại váy áo cho cô bé.

Gã làm đẹp cho Debby vì Bermann, Mila thầm nghĩ.

- Ta không biết liệu gã có làm như thế với các nạn nhân khác, hay biến thao tác đó thành nghi thức của gã hay không. Nhưng nó rất lạ...

Cái lạ lùng mà giáo sư Gavila muốn nói, và Mila cũng hiểu dù không phải chuyên gia, là bọn giết người hàng loạt thường giữ lại một thứ gì đó của các nạn nhân. Một tấm bùa hộ mạng hay một món đồ kỷ niệm, để ôn lại kinh nghiệm giết chóc của mình.

Sở hữu một món đồ đối với chúng cũng tương đương với việc sở hữu con người đó.

- Gã không lấy đi thứ gì từ Debby Gordon hết.

Khi Goran nói ra câu vừa rồi, Mila lập tức nghĩ ngay đến chiếc chìa khóa mà Debby đeo ở cổ tay, vốn dùng để mở chiếc hộp thiếc là nơi mà cô tin cô bé đã dùng để cất giấu quyển nhật ký.

- Thằng khốn nạn! - Cô buột miệng. Một lần nữa cô lại trở thành trung tâm chú ý.

- Cô vui lòng giải thích xem nào, nếu không thì...

Mila ngước mắt nhìn Goran.

- Lúc tôi vào phòng của Debby ở trường nội trú, tôi đã tìm thấy một cái hộp thiếc được giấu dưới tấm nệm. Tôi đã tưởng cô bé cất nhật ký trong đó, nhưng không.

- Thì sao? - Rosa ngao ngán hỏi.

- Cái hộp bị khóa bởi một ổ khóa nhỏ. Chìa khóa đeo ở cổ tay của Debby, nên lúc đó tôi nghĩ, nếu chỉ có cô bé mở được cái hộp, thì không tồn tại cuốn nhật ký nào cả... Nhưng hóa ra tôi nhầm. Chắc chắn đã có một cuốn nhật ký trong đó!

Boris bật dậy.

- Gã đã ở đó! Thằng khốn nạn đã vào phòng của cô bé.

- Nhưng việc gì gã phải liều mạng như thế? - Sarah Rosa phản đối, rõ ràng không muốn nghe theo lời Mila.

- Bởi vì gã luôn ưa thích liều mạng. Nó kích thích gã. - Goran nói.

- Nhưng còn một lý do khác nữa. - Mila nói thêm, càng lúc cô càng cảm thấy vững tin vào lập luận của mình. - Tôi nhận thấy vài tấm ảnh đã biến mất khỏi bức tường, có lẽ là những tấm chụp Debby và nạn nhân số sáu. Gã muốn bằng mọi giá ngăn cản chúng ta phát hiện ra danh tính của cô bé.

- Cũng vì vậy gã đã lấy đi cuốn sổ nhật ký của Debby... trước khi khóa cái hộp lại... Tại sao?

Stern không tài nào hiểu nổi. Nhưng Boris thì lại thấy rất rõ ràng.

- Anh không hiểu à? Cuốn nhật ký đã biến mất trong khi cái hộp vẫn được khóa, chìa khóa thì đeo ở cổ tay của Debby... Như vậy gã muốn tuyên bố với chúng ta rằng chính gã là người đã lấy nó đi.

- Nhưng tại sao gã muốn cho chúng ta biết?

- Bởi gã đã để lại thứ gì đó... cho chúng ta ở đó!

“Dấu hiệu” mà họ đang tìm kiếm.

Một lần nữa, Phòng suy tưởng đã phát huy hiệu quả và chứng tỏ cho Goran thấy tính đúng đắn của phương pháp suy luận tập thể. Ông quay sang phía Mila nói:

- Cô là người đã đến đó, cô đã thấy trong phòng có những gì...

Mila cố gắng nhớ lại, nhưng không tìm được thứ gì nổi bật.

- Nhưng chắc chắn nó phải có một dấu hiệu nào đó! - Goran thúc ép. - Chúng ta đang đi đúng đường đấy.

- Tôi đã lục tung mọi góc phòng, nhưng không còn thứ gì khác khiến tôi phải chú ý nữa.

- Nó phải là một thứ gì đó rất hiển nhiên, cô không thể nào để tuột mất nó được!

Nhưng Mila không nhớ thêm được gì, nên Stern đề nghị mọi người quay lại trường để kiểm tra kỹ hơn. Boris gọi điện thoại thông báo chuyến viếng thăm của nhóm điều tra, trong khi Sarah Rosa yêu cầu Krepp đến đó gặp họ càng sớm càng tốt để lấy dấu vân tay.

Lúc đó, Mila bỗng nhận ra một điều.

- Vô ích thôi. - Cô nói, sự tự tin đã quay lại với cô. - Dù là gì thì nó cũng không còn nằm trong căn phòng đó nữa.

Khi họ đến trường nội trú, các bạn học của Debby đã được gọi vào một gian phòng thường được dùng làm nơi hội họp và phát bằng. Các bức tường được ốp gỗ gụ. Trên tường treo các bức chân dung của các thầy cô đã đóng góp cho tiếng tăm của ngôi trường trong quá khứ. Những gương mặt nghiêm nghị với nét mặt bất biến đang quan sát tất cả từ những khung ảnh ở trên cao.

Mila là người lên tiếng đầu tiên. Cô cố gắng tỏ ra thật dễ chịu, vì các bé gái đang rất sợ sệt. Bà hiệu trưởng trường đã cam đoan sẽ không trừng phạt ai hết, nhưng qua vẻ sợ hãi hiện trên gương mặt của bọn trẻ, rõ ràng là chúng chẳng mấy tin tưởng vào lời hứa đó.

- Chúng tôi biết một số em đã vào phòng của Debby sau khi bạn ấy qua đời. Tôi tin là hành động ấy được thôi thúc bởi mong muốn có được một vật gì đó để tưởng nhớ người bạn gái đã ra đi mãi mãi.

Trong khi nói, Mila quan sát ánh mắt của cô bé mà cô đã bắt quả tang lấy đồ trong phòng tắm của Debby. Nếu không có vụ việc đó, chắc cuộc điều tra của cô đã lâm vào ngõ cụt.

Sarah Rosa quan sát Mila từ trong một góc phòng, chắc mẩm việc cô đang làm sẽ chẳng thu được kết quả gì. Ngược lại, Boris và Stern tỏ ra rất tin tưởng. Còn Goran thì chỉ chờ đợi.

- Lẽ ra tôi không nên yêu cầu các em làm chuyện này, nhưng tôi biết trong thâm tâm các em rất quý mến Debby. Do vậy tôi cần các em mang tất cả những món đồ đó ra đây, ngay bây giờ.

Mila thử tỏ ra cứng rắn.

- Tôi mong các em không bỏ sót thứ gì, ngay cả những món đồ tầm thường nhất cũng có thể rất hữu ích. Chúng tôi tin rằng một manh mối rất quan trọng đã bị để lọt trong quá trình điều tra. Tôi tin rằng tất cả các em đều mong muốn kẻ sát hại Debby bị trừng trị. Và vì tôi biết sẽ không em nào bị kết tội che giấu bằng chứng, tôi tin rằng các em sẽ làm tốt việc được yêu cầu.

Lời đe dọa sau cùng, tuy chỉ là dọa suông vì các cô bé chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cũng góp phần nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng của hành động mà chúng đã làm. Đồng thời nó cũng là một sự phục thù nho nhỏ cho Debby, người khi còn sống thì bị xem thường, đến lúc chết đi lại trở thành mục tiêu của sự chú ý và trộm cắp.

Mila dừng lại một chút để dành thời gian suy nghĩ cho các cô bé. Sự im lặng là vũ khí thuyết phục hiệu quả nhất, và cô biết mỗi giây trôi qua lại càng thêm nặng nề đối với bọn trẻ. Cô để ý thấy một số đang trao đổi ánh mắt với nhau. Chẳng có đứa nào muốn đi trước, đó là điều bình thường. Sau đó, có hai cô bé cùng bước ra khỏi hàng một lượt. Năm đứa nữa đi theo. Những đứa còn lại ngồi yên.

Mila đợi thêm một phút, trong lúc mắt vẫn dò xét gương mặt của những đứa ngồi lại xem có con kên kên nào quyết định không bay theo đàn, nhưng không thấy gì. Cô đành hy vọng chỉ bảy đứa kia phạm tội.

- Thôi được, các em còn lại có thể đi.

Bọn trẻ chẳng đợi nhắc thêm và mau chóng rời phòng. Mila quay lại nhìn các đồng nghiệp và chạm phải ánh mắt dửng dưng của giáo sư Goran. Bỗng một hành động của ông khiến cô bất ngờ: ông nháy mắt với cô. Cô suýt cười, nhưng cố kìm lại, vì mọi người đang nhất loạt nhìn cô.

Sau khoảng mười lăm phút, bảy nữ sinh quay lại phòng cùng với các món đồ. Chúng được đặt lên chiếc bàn dài, nơi các thầy cô giáo thường ngồi trong các buổi lễ. Bọn trẻ đứng đợi Mila và các điều tra viên đến xem xét từng món.

Đa số là quần áo và phụ kiện, các món đồ chơi của các bé gái như là búp bê hay thú nhồi bông. Một máy nghe nhạc mp3 màu hồng, một cặp kính râm, mấy lọ nước hoa, muối tắm, một cái bóp cầm tay hình con bọ rùa, chiếc khăn quàng màu đỏ của Debby, và một bộ trò chơi điện tử...

- Cái này không phải do cháu làm hỏng đâu ạ...

Mila ngước mắt nhìn cô bé mũm mĩm vừa lên tiếng. Nó là đứa nhỏ tuổi nhất, cùng lắm là tám tuổi. Nó có một bím tóc dài vàng óng và đôi mắt xanh ngân ngấn nước. Nữ cảnh sát mỉm cười trấn an cô bé trước khi nhìn món đồ kỹ hơn. Sau đó cô đưa nó cho Boris.

- Đây là cái gì vậy?

Anh chàng lật lật món đồ, xem xét.

- Trông như một máy chơi điện tử.

Anh bật cái máy lên.

Một đốm sáng đỏ nhấp nháy xuất hiện trên màn hình, đều đặn phát ra những âm thanh ngắn.

- Nó hỏng rồi ạ. Cái chấm đỏ không chịu chạy. - Con bé vội vàng giải thích.

Mila nhận thấy mặt Boris bỗng tái hẳn đi.

- Tôi biết nó là cái gì rồi... Khỉ thật!

Nghe thấy tiếng chửi thề, con bé mở to mắt, không dám tin có người lại dám rủa xả trong một nơi nghiêm trang như thế.

Nhưng Boris chẳng buồn để ý đến con bé. Sự chú ý của anh đang dồn vào món đồ trên tay.

- Đây là một thiết bị bắt sóng định vị toàn cầu. Ở đâu đó có người đang gửi tín hiệu cho chúng ta.
 
Chương 13


Lời kêu gọi trên truyền hình dành cho gia đình của bé gái số sáu không thu được kết quả nào.

Phần lớn các cuộc gọi là từ những người muốn bày tỏ sự cảm thông chia sẻ, rốt cuộc chỉ làm nghẽn đường dây. Một bà cụ rất lo lắng cho năm đứa cháu của mình đã gọi ít nhất bảy lần chỉ để “nghe ngóng tin tức của cháu bé tội nghiệp”. Đến cuộc gọi lần thứ bao nhiêu không biết, một cảnh sát viên đã lịch sự yêu cầu bà lão đừng gọi nữa, anh ta chỉ nhận được lời mắng nhiếc của bà.

- Khi anh cố nói rằng họ không giúp ích gì được, họ sẽ bảo anh là đồ vô tâm. - Goran bình luận khi nghe Stern báo cáo lại chuyện đã xảy ra.

Mọi người đang ngồi trên chiếc xe lưu động, lần theo tín hiệu định vị toàn cầu.

Phía trước họ, những chiếc xe bọc thép chở các đơn vị đặc nhiệm đi trước mở đường, như lời thông báo trịnh trọng của Roche trước đó ít lâu.

Tất cả những biện pháp thận trọng này chẳng qua cũng bởi họ chưa biết Albert sẽ dẫn mọi người đi đến đâu. Nó hoàn toàn có thể là một cái bẫy. Nhưng Goran không đồng tình với ý kiến đó.

- Ngược lại, gã muốn cho chúng ta thấy một thứ gì đó. Một thứ mà rõ ràng gã rất tự hào.

- Tín hiệu định vị toàn cầu đã được xác định trong một khu vực rộng nhiều cây số vuông. Từ xa họ không thể định vị chính xác nơi phát tín hiệu. Cần phải đến tận nơi.

Sự căng thẳng bao trùm chiếc xe. Goran trao đổi vài từ với Stern. Boris kiểm tra vũ khí rồi chỉnh lại chiếc áo chống đạn. Mila quan sát chỗ giao cắt của quốc lộ qua cửa sổ, nơi những cây cầu và các khúc đường đan cài vào nhau.

Thiết bị thu tín hiệu đã được giao cho đội trưởng đội đặc nhiệm, nhưng Sarah Rosa có thể quan sát trên màn hình máy tính những gì mà các đồng nghiệp đi trước nhìn thấy.

Một giọng nói thông báo qua điện đàm:

- Chúng ta đang đến gần mục tiêu. Tín hiệu có vẻ như được phát từ một điểm ở cách ta một cây số.

Mọi người trong xe nhìn nhau.

- Chỗ này là chỗ nào? - Rosa hỏi.

Mila trông thấy từ xa một tòa nhà lớn xây bằng gạch đỏ, gồm nhiều khối nhà nối liền với nhau tạo thành một hình chữ thập. Kiểu dáng kiến trúc tân gô tích những năm 1930, mộc mạc và u tối, tiêu biểu cho các tòa nhà xứ giáo phận của thời kỳ đó. Mặt bên tòa nhà có một tháp chuông vươn lên. Ngay cạnh nó là một nhà thờ.

Những cỗ xe bọc thép tiến vào con đường đất dẫn vào tòa nhà trung tâm. Vừa đến nơi, các cảnh sát đặc nhiệm lập tức chuẩn bị để đột nhập vào bên trong.

Mila cùng với đồng đội bước xuống xe. Cô ngước mắt quan sát mặt tiền đồ sộ của tòa nhà đã bị thời gian làm cho đen nhẻm. Bên trên cánh cổng là một hàng chữ nổi: Visitare Pupillos In Tribulatione Eorum Et Immaculatum Se Custodire Ab Hoc Saeculo[3].

- Cứu giúp các trẻ em mồ côi trong nỗi thống khổ và bảo vệ chúng khỏi thế giới ô trọc này. - Goran dịch cho cô.

Trước kia nơi đây từng là một trại mồ côi, nhưng giờ nó đã bị đóng cửa.

Đội trưởng đội đặc nhiệm ra dấu để cho các thành viên trong đội chuẩn bị tiến vào qua cửa hông. Do không có kế hoạch trước nên họ buộc phải tùy cơ ứng biến.

Sau khi đợi khoảng một phút, Mila và nhóm điều tra cùng với đội trưởng đội đặc nhiệm bước vào qua cửa chính.

Gian phòng đầu tiên cực kỳ rộng lớn. Phía trước họ là hai cầu thang xoắn đôi dẫn lên tầng trên. Ô cửa sổ trên cao để lọt qua một thứ ánh sáng leo lét. Những chủ nhân duy nhất của tòa nhà là vài con bồ câu hoảng hốt trước sự hiện diện của người lạ. Chúng nháo nhác đập cánh bay quanh ô cửa sổ và hắt xuống nền nhà những cái bóng lao vun vút. Tiếng giày ủng của đơn vị đặc nhiệm đang lục soát từng căn phòng vang rền trong không gian.

- Trống! - Họ hô to mỗi khi một căn phòng đã được xác nhận an toàn.

Mila nhìn quanh, choáng ngợp bởi một bầu không khí siêu thực.

Lại một trường học nữa trong kế hoạch của Albert, nhưng rất khác với ngôi trường nội trú danh tiếng mà Debby Gordon từng học.

- Một trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi. Tại đây, chí ít thì bọn trẻ cũng được bảo đảm có một mái nhà và được giáo dục. - Stern bình phẩm.

Nhưng Boris thấy cần phải chỉnh lại:

- Người ta chỉ đưa vào đây những đứa trẻ không bao giờ được nhận nuôi: con em của các tù nhân, hoặc có bố mẹ tự tử.

Mọi người chờ đợi một khám phá. Bất cứ thứ gì phá vỡ lời nguyền kinh hoàng cũng được chào đón. Miễn là nó giải đáp được nguyên nhân dẫn họ đến tận đây. Tiếng chân bước đột ngột dừng lại. Vài giây sau, một giọng nói vang lên trên bộ đàm:

- Thưa sếp, trong này có một thứ gì đó...

Thiết bị phát tín hiệu định vị được tìm thấy ở dưới hầm. Mila và những người khác cùng chạy đến nơi, ngang qua khu nhà bếp với những cái vạc sắt to tướng, rồi một nhà ăn tập thể rộng mênh mông với những bộ bàn ghế gỗ phủ formica màu xanh lơ. Cô leo xuống một chiếc cầu thang xoắn hẹp cho đến khi thấy mình đang ở trong một căn phòng rộng có trần thấp. Sàn nhà bằng đá hoa cương thoai thoải dốc về phía một hành lang trung tâm là nơi nước bẩn đổ vào. Những cái bồn nằm dọc theo vách tường cũng đều bằng đá.

- Chắc đây là xưởng giặt. - Stern nói.

Các thành viên đội đặc nhiệm đang vây quanh một trong số mấy cái bồn, cố không làm xáo trộn hiện trường. Một người gỡ bỏ mũ bảo hiểm và cúi gục xuống nôn thốc nôn tháo. Không một ai muốn nhìn.

Boris là người đầu tiên băng qua vòng người nom như một hàng rào ngăn cách thứ không biết là cái gì, nhưng anh lập tức dừng phắt lại, đưa tay lên bụm miệng. Sarah Rosa quay vội mặt đi. Stern buột miệng thốt lên:

- Xin Chúa tha tội chúng con...

Giáo sư Gavila vẫn bình thản. Mila là người cuối cùng khám phá sự tình.

Anneke.

Thi thể cô bé ngập trong vài centimet chất lỏng.

Làn da như sáp đã bắt đầu có dấu hiệu phân hủy. Cô bé hoàn toàn trần truồng. Trong bàn tay phải của em có một chiếc máy phát tín hiệu định vị toàn cầu đang tiếp tục nhấp nháy, hắt ra thứ ánh sáng sinh động ngược đời giữa khung cảnh chết chóc.

Anneke cũng đã bị cắt mất cánh tay trái và có lồng ngực biến dạng. Nhưng điều làm cho mọi người ghê sợ không phải chi tiết đó, không phải tình trạng của cái xác, cũng không phải việc chứng kiến sự dung tục ngây thơ trước mắt họ. Một thứ khác đã gây ra cho họ cảm giác rùng rợn đó.

Cái xác đang mỉm cười.
 
Chương 14


Cha Timothy chắc khoảng ba mươi lăm tuổi, với mái tóc vàng mềm mại, chải ngôi lệch. Cha đang run lẩy bẩy.

Cha là người duy nhất sống ở đây.

Cha Timothy sống trong dãy nhà xứ ở bên cạnh nhà thờ, những tòa nhà duy nhất trong giáo phận còn được sử dụng. Các tòa nhà còn lại đều đã bị bỏ không từ nhiều năm trời.

- Tôi ở đây là vì nhà thờ vẫn còn phụng sự Chúa. - Vị cha xứ trẻ trung, người hiện tại chỉ làm lễ cho chính mình, giải thích. - Không ai đến đây cả. Khu ngoại ô nằm ở quá xa, và xa lộ đã cô lập hoàn toàn nơi này.

Cha Timothy mới đến đây được sáu tháng để thay thế cho cha Rolf đã nghỉ hưu, và rõ ràng là hoàn toàn không biết gì về chuyện đã xảy ra.

- Tôi chẳng bao giờ bước chân xuống đó. - Cha Timothy thú thật. - Tôi xuống đó làm gì kia chứ?

Sarah Rosa và Mila là người đến thông báo cho cha Timothy về vụ đột kích. Cùng với thứ mà họ đã tìm thấy. Khi được biết về sự hiện diện của cha Timothy, Goran đã quyết định cử hai người phụ nữ đến để hỏi chuyện. Rosa làm bộ như đang ghi chép vào quyển sổ tay, nhưng rõ ràng là cô chẳng thèm bận tâm đến lời cha xứ nói. Mila cố gắng trấn an cha Timothy bằng cách nói rằng không ai ép cha chuyện gì hết, và cũng không ai trách cứ cha về điều đã xảy ra.

- Cô bé tội nghiệp! - Cha Timothy thốt lên, rồi bật khóc nức nở.

- Khi nào cha cảm thấy sẵn sàng, xin mời cha xuống xưởng giặt để gặp chúng tôi. - Sarah Rosa nói, khơi lại nỗi kinh hãi của vị cha xứ.

- Để làm gì kia?

- Vì chúng tôi cần phải hỏi cha vài câu về chỗ này. Nó không khác gì một mê cung.

- Nhưng tôi đã nói với hai cô rồi. Tôi hiếm khi vào trong đó, và tôi tin rằng...

Mila cắt ngang:

- Chuyện này chỉ mất có vài phút thôi ạ. Chúng tôi đã mang cái xác đi rồi.

Cô cố tình đưa chi tiết đó vào, vì cô hiểu cha Timothy không muốn hình ảnh của cô bé kia bị ghi vào bộ nhớ của mình. Suy cho cùng, cha phải tiếp tục sống tại cái nơi ghê rợn này. Thế là đã đủ nhọc nhằn lắm rồi.

- Tùy các cô vậy. - Cha xứ gật đầu ưng thuận rồi tiễn hai nữ cảnh sát ra cửa, miệng luôn bảo đảm là mình sẽ hợp tác.

Lúc quay về với nhóm điều tra, Rosa đi trước Mila vài bước, rõ ràng để giữ khoảng cách tồn tại giữa hai người. Nếu vào lúc khác thì Mila đã phản ứng lại sự khiêu khích đó, nhưng ở đây cô là một phần của nhóm điều tra, và cô phải tôn trọng các luật lệ nếu muốn được yên thân làm việc.

Sau vụ này tôi sẽ tính sổ với cô, Mila định bụng.

Khi nghĩ như thế, cô nhận ra mình tin chắc chuyện này sẽ kết thúc, và một ngày kia tấn tuồng ghê rợn này sẽ chỉ còn là quá khứ.

Cõi người là thế, cô nghĩ bụng. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Những người chết đi sẽ được chốn xuống đất, và rồi cùng với thời gian mọi thứ sẽ tiêu tan. Chỉ còn là một chút ký ức mơ hồ, điều bị gạt đi bởi bản năng tự bảo toàn trong mỗi người chúng ta.

Với ai cũng vậy. Nhưng không phải với cô, vì cô sẽ làm mọi cách để sự việc này được khắc ghi mãi mãi trong đầu mình.

Người ta có thể thu được hàng đống thông tin từ một hiện trường vụ án, cả về động cơ cũng như nhân cách của kẻ sát nhân.

Nếu như chiếc xe hơi của Bermann không thể được xem là một hiện trường án mạng đúng nghĩa, thì ngược lại, thi thể thứ hai này cho phép điều tra thêm nhiều thứ về Albert. Vì thế, một cuộc phân tích hiện trường tỉ mỉ điều là rất cần thiết. Thông qua công việc đòi hỏi sự nỗ lực tập thể đó, họ sẽ xác định rõ hơn kẻ sát nhân mà họ đang truy tìm.

Mặc cho Sarah Rosa tìm cách gạt Mila ra khỏi nhóm, cô vẫn tìm thấy vị trí của mình trong dây chuyền công tác nhóm - cô đã gọi nó như thế khi được tham gia vào vụ phát hiện thi thể đầu tiên trong xe hơi của Bermann - và bây giờ cả Boris lẫn Stern đều coi cô như người trong đội.

Khi lực lượng đặc nhiệm đã ra về, Goran và nhóm điều tra bắt tay vào nghiên cứu xưởng giặt.

Hiện trường được chiếu sáng bằng những ngọn đèn halogen đặt trên giá ba chân và nối với một máy phát điện, vì trong tòa nhà không có điện.

Họ chưa đụng chạm vào bất cứ thứ gì, tuy vậy bác sĩ Chang đã bắt tay vào làm việc với cái xác. Anh cầm theo một chiếc va li đựng các món dụng cụ lạ mắt gồm ống nghiệm, thuốc thử hóa học và kính hiển vi. Anh lấy mẫu thứ nước âm u mà cái xác đang được nhúng ngập một phần. Krepp sắp sửa đến để lấy dấu vân tay.

Nhóm điều tra sẽ có khoảng nửa giờ trước khi giao lại hiện trường cho cảnh sát hình sự.

- Cái chúng ta đang thấy không phải là hiện trường án mạng sơ cấp. - Giáo sư Goran nhìn nhận. Nói cách khác, theo ông nó chỉ là hiện trường thứ cấp, vì cô bé rõ ràng đã chết ở một nơi khác.

Trong các vụ giết người hàng loạt, nơi tìm thấy nạn nhân quan trọng hơn nhiều so với nơi nạn nhân bị giết. Bởi lẽ, trong khi hành động giết chóc là thứ mà thủ phạm chỉ giữ cho riêng mình, mọi chuyện diễn ra tiếp sau đó đại để là một kiểu chia sẻ kinh nghiệm. Thông qua những cái xác, tên sát nhân muốn thiết lập một sự giao tiếp với các nhà điều tra.

Nếu xét trên quan điểm này thì Albert là một kẻ rất chuyên nghiệp.

- Chúng ta cần phải đọc hiện trường. Hiểu được thông điệp mà nó chứa đựng, và đối tượng mà nó nhắm đến. Ai muốn bắt đầu nào? Tôi xin nhắc lại, mọi ý kiến đều được chào đón, nên mọi người cứ thoải mái nói ra những gì có trong đầu.

Không ai muốn làm trước. Có quá nhiều mối nghi ngờ trong đầu họ.

- Có lẽ thủ phạm đã trải qua quãng đời thơ ấu trong cô nhi viện này. Có lẽ sự căm thù và oán hận của gã khởi nguồn từ đây. Cần phải xem các hồ sơ lưu trữ.

- Thật tình tôi không nghĩ là Albert muốn tiết lộ thông tin cá nhân của gã cho chúng ta đâu Mila à.

- Tại sao?

- Vì tôi không nghĩ gã muốn mình bị bắt... ít ra là tại thời điểm này. Xét cho cùng thì ta mới tìm được xác chết thứ hai thôi.

- Có thể tôi nhầm, nhưng không phải đôi khi bọn sát nhân hàng loạt muốn mình bị cảnh sát bắt bởi vì chúng cảm thấy không thể tự mình dừng lại hay sao?

- Nhảm nhí. - Sarah Rosa nói với giọng điệu khiêu khích thường lệ.

- Đúng, việc bị bắt giữ thường là khao khát sau cuối của một tên giết người hàng loạt. - Goran nói. - Không phải vì hắn không thể tự kiểm soát, mà chính xác hơn là việc bị bắt giúp hắn bước ra ánh sáng. Thường thì kẻ giết người hàng loạt mắc chứng tự tôn quá mức, hắn muốn được thừa nhận vì tầm vóc của công trình mà hắn đã thực hiện. Khi danh tính của hắn chưa bị lộ thì hắn còn chưa đạt được mục đích.

Mila đồng tình, nhưng không hoàn toàn bị thuyết phục. Goran ghi nhận điều đó, rồi quay sang nói với những người còn lại:

- Có lẽ chúng ta phải ôn lại cách tiếp cận để tái dựng mối quan hệ giữa hiện trường vụ án và phương thức ra tay của một tên giết người hàng loạt.

Đây là một bài học dành cho Mila, nhưng cô không thấy phiền lòng. Đó là một cách để đưa trình độ của cô lên ngang bằng với các đồng nghiệp. Dựa trên phản ứng của Boris và Stern, cô tin rằng họ cũng không muốn cô bị tụt lại.

Stern là người lên tiếng trước. Anh nói mà không nhìn trực tiếp Mila vì không muốn cô bị bối rối.

- Tùy theo tình trạng của hiện trường, chúng ta sẽ xếp kẻ giết người hàng loạt vào hai nhóm: “thiếu tổ chức” và “có tổ chức”.

Boris nói tiếp:

- Những kẻ thuộc nhóm đầu thường rất bê bối trong cuộc sống. Chúng thất bại trong các mối quan hệ cá nhân, có cuộc sống cô độc. Chúng có trí tuệ dưới trung bình, ít học, và làm những công việc không đòi hỏi năng lực cao. Chúng là những kẻ yếu kém về mặt tình dục. Theo quan điểm này, chúng chỉ có những kinh nghiệm vụng về và thoáng qua.

Goran tiếp lời:

- Đó thường là những kẻ từng chịu một sự giáo dục hà khắc lúc còn bé. Do vậy nhiều chuyên gia tội phạm học tin rằng chúng tìm cách trút lên các nạn nhân của mình những nỗi đau đớn và khổ sở mà chúng đã phải chịu đựng. Chúng nung nấu lòng căm hận và sự thù địch mà những người quanh chúng không phải lúc nào cũng có thể nhận thấy.

- Những kẻ thiếu tổ chức không lập kế hoạch, mà hành động một cách tự phát. - Rosa xen vào, không muốn mình bị gạt ra khỏi cuộc thảo luận.

- Sự thiếu tổ chức trong hành vi gây án làm cho tên giết người lo lắng. - Goran giải thích. - Chính vì thế, hắn có khuynh hướng hành động ở những địa điểm quen thuộc với mình, nơi hắn cảm thấy thoải mái. Tâm trạng lo lắng, cộng với việc không thể đi quá xa khiến hắn phạm sai lầm, chẳng hạn như để lại những dấu vết làm hắn bị bại lộ.

- Nạn nhân của hắn thường là những người xui xẻo có mặt không đúng chỗ và không đúng lúc. Hắn ra tay vì đó là cách duy nhất hắn biết để liên hệ với người khác. - Stern kết luận.

- Vậy còn những kẻ có tổ chức, chúng hành động thế nào? - Mila hỏi.

- Trước tiên, hắn rất ma mãnh. - Goran nói. - Khó mà nhận dạng được hắn, vì hắn nhập vai một cách hoàn hảo là một cá nhân bình thường, tôn trọng pháp luật. Hắn có chỉ số trí tuệ cao, làm tốt công việc của mình. Thường thì hắn giữ một vị trí quan trọng trong cộng đồng nơi hắn sinh sống. Hắn không chịu một sự ngược đãi nào lúc còn nhỏ. Hắn có một gia đình yêu thương mình. Hắn không bất lực, và không gặp vấn đề gì trong các mối quan hệ khác giới. Hắn giết người chỉ để mua vui.

Lời khẳng định cuối cùng khiến Mila rùng mình. Nhưng cô không phải là người duy nhất: bác sĩ Chang cũng lần đầu tiên ngừng tay để ngước mắt nhìn họ. Có lẽ anh cũng đang tự hỏi làm thế nào một con người lại có thể có được khoái cảm trong khi gây đau đớn cho đồng loại.

- Đó là một kẻ săn mồi. Hắn lựa chọn nạn nhân, thường là xa nơi hắn cư ngụ. Hắn tinh ranh và rất thận trọng. Hắn có thể tiên lượng diễn tiến của cuộc điều tra nhằm vào mình, và dự tính các bước hành động của điều tra viên. Do vậy rất khó bắt được thủ phạm: hắn biết rút kinh nghiệm. Kẻ giết người có tổ chức luôn theo dõi, chờ đợi rồi ra tay. Hành động của hắn có thể được lên kế hoạch trong nhiều ngày, thậm chí là nhiều tuần lễ. Hắn chọn nạn nhân, quan sát họ, len lỏi vào cuộc sống của họ để thu thập thông tin. Hắn luôn tìm cách thiết lập một sự tiếp xúc, khoác lên mình một cách hành xử hoặc một điểm tương đồng nào đó để tạo dựng sự tin tưởng nơi nạn nhân. Để chế ngự họ, hắn dùng lời lẽ hơn là vũ lực. Thành công của hắn có được là do công sức quyến rũ.

Mila quay đi để nhìn hiện trường án mạng. Rồi cô nói:

- Hiện trường vụ án của gã luôn sạch sẽ. Vì phương châm của gã là “kiểm soát”.

Goran gật gù.

- Có vẻ như cô đã nắm bắt được Albert rồi đấy.

Boris và Stern mỉm cười. Sarah Rosa thì né tránh cái nhìn của Mila và làm ra vẻ như đang xem giờ, miệng lầm bầm rủa xả sự lãng phí thời gian của nhóm.

- Thưa các vị, chúng ta có một phát hiện mới...

Thành viên kín tiếng nhất của nhóm điều tra vừa lên tiếng. Bác sĩ Chang đã đứng dậy, trong tay cầm lam kính mà anh vừa quan sát dưới kính hiển vi.

- Có chuyện gì vậy, Chang? - Giáo sư Gavila nôn nóng hỏi.

Nhưng vị bác sĩ pháp y muốn tận hưởng khoảnh khắc này. Trong mắt anh hiện lên một chút đắc thắng.

- Khi trông thấy cái xác, tôi đã tự hỏi vì sao hắn nhúng nó trong nước...

- Ta đang ở trong một xưởng giặt. - Boris nói, như thể đó là điều hiển nhiên nhất quả đất.

- Đúng, nhưng cũng như điện, nước thủy cục đã bị cắt từ nhiều năm rồi.

Tiết lộ này khiến cho mọi người bất ngờ. Nhất là Goran.

- Vậy nước này là nước gì?

- Giáo sư, ông bình tĩnh nhé... Nó là nước mắt.
 
Chương 15


Con người là loài động vật duy nhất có khả năng khóc hoặc cười.

Mila biết điều đó. Nhưng điều cô không biết là mắt người sản sinh ra ba loại nước mắt. Nước mắt cơ bản, có tác dụng làm ẩm và nuôi dưỡng nhãn cầu. Nước mắt phản xạ, tự tiết ra khi có vật thể lạ rơi vào mắt. Nước mắt cảm xúc, đi kèm với sự đau đớn. Loại nước mắt sau cùng này có một thành phần hóa học khác biệt: nó chứa một hàm lượng cao mangan và prolactin, một loại nội tiết tố.

Trong thế giới của các hiện tượng tự nhiên, mọi thứ đều có thể được tối giản hóa thành công thức, nhưng giải thích tại sao nước mắt do đau đớn có thành phần khác với các loại nước mắt còn lại là một điều không thể.

Nước mắt của Mila không chứa prolactin.

Đó là bí mật của cô.

Cô không biết thế nào là chịu đựng. Cô cũng không có được sự thấu cảm cần thiết để thấu hiểu được người khác và để không cảm thấy mình cô độc giữa mọi người.

Liệu có phải cô luôn như thế? Hay một điều gì, một ai đó đã làm cô mất đi khả năng ấy?

Mila nhận ra điều đó khi cha cô qua đời. Lúc đó cô mới mười bốn tuổi. Cô là người đã tìm thấy ông nằm bất động trên trường kỷ chiều hôm ấy. Trông ông như đang ngủ. Ít ra thì đó là những gì cô nói khi bị người khác cật vấn tại sao không gọi cấp cứu ngay, mà để cả giờ đồng hồ trôi qua. Thật ra Mila đã hiểu ra ngay không còn làm gì được nữa. Nhưng sự kiện bi thảm đó không làm cô mảy may xúc động. Điều khiến cô kinh ngạc là sự bất lực của cô trong việc tìm kiếm cảm xúc trước việc cô chứng kiến. Cha cô, người đàn ông quan trọng nhất cuộc đời cô, người đã dạy dỗ cô mọi điều, hình mẫu của cô, đã ra đi. Mãi mãi. Nhưng cô không thấy tan nát cõi lòng.

Lúc chôn cất ông, cô đã khóc. Không phải vì cái chết cuối cùng đã gây dựng được một chút tuyệt vọng trong đầu cô, mà chỉ bởi đó là điều mà mọi người chờ đợi ở một đứa con gái. Những giọt nước mắt cá sấu đó là kết quả của một nỗ lực to lớn.

Do ức chế, cô đã tự nhủ như thế. Đơn giản là ức chế. Chắc là do căng thẳng. Mình bị sốc mà. Chắc hẳn chuyện này cũng từng xảy đến với người khác. Cô đã thử mọi cách. Cô tra tấn bản thân với những hoài niệm về quá khứ để chí ít cũng tạo cho mình cảm giác có lỗi. Nhưng vô ích.

Cô không tài nào lý giải được chuyện đó. Do vậy cô giấu mình trong sự im lặng không thể xuyên phá, không để cho người khác thắc mắc về trạng thái tinh thần của mình. Ngay đến mẹ cô sau vài lần cố gắng cũng đành bỏ cuộc trước bức tường u uất mà cô đã dựng lên.

Mọi người tưởng cô đau đớn, gục ngã. Nhưng thật ra, khi giấu mình trong phòng, Mila đã tự hỏi vì sao cô chỉ có một mong muốn duy nhất, đó là trở lại với cuộc sống thường nhật và chôn cất người cha quá cố trong tim nhanh nhất có thể.

Theo thời gian, mọi chuyện vẫn không thay đổi. Nỗi đau mất mát không bao giờ xuất hiện. Đã có những đám tang khác. Bà cô, một cô bạn học, mấy người họ hàng. Nhưng đối với họ, Mila cũng vẫn không cảm thấy gì, ngoài mong muốn được quên đi cái chết của họ thật nhanh.

Cô có thể giãi bày chuyện này với ai đây? Người ta sẽ nhìn cô như một con quái vật không đáng được làm người. Chỉ có mẹ cô lúc gần đất xa trời là thoáng cảm thấy sự dửng dưng của cô con gái và bà đã rụt tay khỏi bàn tay cô, như thể bất ngờ cảm thấy nó thật lạnh lẽo.

Khi những dịp đưa tiễn người thân về cõi vĩnh hằng đã hết, việc phải giả vờ có những cảm xúc mà cô không có đối với những người xa lạ đã trở nên đơn giản hơn. Khi đến tuổi bắt đầu cần đến những cuộc tiếp xúc cá nhân, nhất là với người khác phái, cô lại gặp vấn đề. Mình không thể cặp kè với một cậu con trai nếu như không thể thấu cảm người ta được, Mila cứ tự nhắc nhở mình như thế suốt. Trước đó, cô đã nhận ra vấn đề của mình khi biết được định nghĩa trong sách vở của chữ “thấu cảm”: đó là “khả năng hướng các cảm xúc của bản thân mình vào một chủ thể để đồng cảm với chủ thể đó”.

Khi ấy, cô đã đến gặp các nhà phân tích tâm lý lần đầu tiên. Vài người trong số họ không biết phải trả lời cô như thế nào, những người khác thì bảo cô quá trình điều trị sẽ kéo dài và rất phức tạp, cần phải đào sâu nghiên cứu để tìm ra “căn nguyên tâm lý” và biết được luồng xúc cảm của cô bị gián đoạn ở chỗ nào.

Nhưng tất cả đều nhất trí ở một điểm: cần phải gỡ bỏ sự ức chế.

Cô đi làm phân tích tâm lý trong nhiều năm trời nhưng không đạt kết quả. Cô thay đổi bác sĩ điều trị nhiều lần, và có lẽ sẽ tiếp tục như thế mãi nếu như một người trong số họ - kẻ vô liêm sỉ nhất, người mà cô biết ơn đời đời - không nói huỵch toẹt ra với cô rằng: “Sự đau buồn không hề tồn tại. Cũng như mọi cung bậc cảm xúc còn lại của con người. Hóa học cả thôi. Tình yêu chỉ là vấn đề endorphiri, một loại morphin nội sinh. Với một mũi tiêm Pentothal, tôi có thể dẹp bỏ mọi đòi hỏi cảm xúc cho cô. Chúng ta chỉ là những cỗ máy bằng thịt”.

Rốt cuộc cô cũng thấy nhẹ lòng. Hài lòng thì không, nhưng nhẹ nhõm thì có! Cô chẳng thể làm gì để thay đổi nó được nữa: cơ thể cô đã rơi vào chế độ “tự bảo vệ”, giống như một số thiết bị điện tử khi bị quá tải và buộc phải bảo vệ mạch điện của chúng. Tay bác sĩ tâm lý kia cũng cho cô biết có một số người ở một thời điểm nào đó cảm thấy rất, rất đau buồn, hơn cả những gì mà một con người có thể chịu được trong cả cuộc đời. Và họ thôi không sống nữa, hoặc là tập làm quen với nó.

Mila không biết liệu có nên xem việc “tập làm quen” của mình là một điều may mắn không, nhưng cũng nhờ nó mà cô thành ra như bây giờ. Một người đi tìm trẻ con mất tích. Tìm ra phương thuốc hóa giải cho sự chịu đựng của những người khác là hành động bù đắp cho những gì mà cô không bao giờ cảm nhận được. Lời nguyền cô bị dính phải bỗng trở thành năng lực của cô.

Mila giải cứu lũ trẻ và đưa chúng về nhà. Chúng biết ơn cô. Một vài đứa còn gắn bó với cô tới mức sau này, khi đã lớn vẫn đến tìm cô để xin cô kể lại chuyện của chúng.

Chúng cảm ơn cô đã quan tâm đến chúng.

Tất nhiên cô không thể tiết lộ rằng thật ra “sự quan tâm” đó là gì, bất kể đứa nào được cô tìm thấy cũng vậy. Cô có thể cảm thấy phẫn nộ về chuyện đã xảy đến với chúng, giống như cô bé số sáu trong vụ án này, nhưng cô chưa bao giờ cảm thấy “động lòng”.

Cô đã chấp nhận số mệnh của mình. Nhưng dù vậy cô cũng phải tự hỏi một câu: liệu cô có khả năng yêu được một ai đó hay không?

Không biết câu trả lời, Mila đã dọn sạch trái tim và tâm hồn của mình từ lâu. Cô sẽ không bao giờ có một tình yêu, một người chồng hay bạn trai, con cái hoặc thậm chí là thú nuôi. Bởi bí mật của cô nằm ở chỗ cô không có gì để mất. Không ai có thể lấy đi điều gì ở cô. Cách duy nhất giúp cô chui sâu vào trong đầu những người cô đi tìm là tạo ra quanh mình sự trống trải đang vây quanh họ.

Nhưng một ngày nọ, một vấn đề đã nảy sinh. Đó là sau khi Mila giải phóng một thằng bé khỏi móng vuốt của một kẻ ấu dâm. Hắn đã bắt cóc thằng bé để chơi bời trong dịp cuối tuần. Hắn đã định sẽ thả thằng bé sau ba ngày, vì trong đầu óc bệnh hoạn của hắn, hành động bắt cóc chỉ là “mượn tạm”. Tình trạng của thằng bé khi hắn trả nó về với gia đình không quan trọng đối với hắn. Hắn tự bào chữa rằng mình sẽ không bao giờ làm hại thằng bé.

Vậy còn những thứ khác thì sao? Hắn định nghĩa cú sốc của việc bắt cóc như thế nào? Sự giam giữ? Sự bạo hành?

Đó không phải là một toan tính tuyệt vọng nhằm tìm kiếm tính hợp pháp hóa cho điều mà hắn đã làm, mà hắn thực sự tin vào nó! Bởi hắn không thể đặt mình vào vị trí của nạn nhân. Rốt cuộc Mila đã hiểu ra, con người đó cũng bị giống như cô.

Kể từ hôm ấy, cô đã xác định sẽ không để cho tâm hồn mình bị thiếu đi sự thương hại, thứ giúp cô cảm nhận người khác và cuộc sống chung quanh. Nếu không thể tự tìm thấy nó, cô sẽ tìm cách tạo ra nó.

Cô đã nói dối nhóm điều tra và giáo sư Gavila. Thật ra cô biết rất rõ về bọn sát nhân hàng loạt, hay chí ít là một khía cạnh trong thái độ của chúng.

Sự ác dâm.

Gần như luôn là thế, hành vi của một kẻ sát nhân hàng loạt về căn bản có sự tàn ác rõ rệt và sâu sắc. Các nạn nhân bị xem như “món đồ” mà việc sử dụng và hành hạ họ sẽ đem lại một ưu thế cá nhân.

Kẻ sát nhân hàng loạt thu được khoái cảm thông qua hành vi bạo hành những nạn nhân của mình.

Thường thì người ta nhận thấy thủ phạm không thể đạt được một mối quan hệ chín chắn và trọn vẹn với người khác, vốn bị hắn coi như đồ vật hơn là một con người. Bạo lực do đó chỉ là khả năng tiếp cận duy nhất của hung thủ với phần còn lại của thế giới.

Mình không muốn bị như thế, Mila tự nhủ. Dù ý nghĩ cho rằng cô có vài điểm chung với những tên sát nhân không biết thương xót là gì đi nữa cũng đủ khiến cô phát ốm.

Sau khi phát hiện ra thi thể của Anneke, lúc cùng với Rosa rời nhà cha Timothy, Mila một lần nữa tự hứa rằng tối nay, cô sẽ khắc cốt ghi tâm những gì đã xảy ra với cô bé kia. Vì vậy, vào lúc cuối ngày, khi những người khác quay về studio để tổng hợp và sắp xếp lại các kết quả điều tra thu được, Mila quyết định ra ngoài vài tiếng.

Thế rồi, như đã từng làm đôi lần trước kia, cô đi đến hiệu thuốc, mua mọi thứ cần thiết. Thuốc sát trùng, băng cá nhân, bông thấm nước, băng dính tiệt trùng, kim và chỉ khâu vết thương.

Cùng với một lưỡi dao lam.

Cô quay về phòng trọ cũ ở khu nhà nghỉ với một ý định rõ ràng trong đầu. Cô chưa trả phòng và vẫn tiếp tục thanh toán tiền trọ chỉ với mục đích này. Cô kéo rèm, bật chiếc đèn ngủ đầu giường, rồi ngồi xuống và trút những thứ vừa mua từ trong túi giấy lên nệm.

Cô xắn quần jean lên.

Sau khi đổ một ít thuốc sát trùng ra tay rồi xoa mạnh hai tay với nhau, cô dùng bông gòn thấm thuốc và bôi lên da đùi phải. Ở phía trên chỗ đó có một vết sẹo cũ, hậu quả của một lần thử vụng về trước đó. Nhưng lần này cô sẽ không thất bại và sẽ làm thật tốt. Cô dùng răng xé giấy bọc lưỡi lam. Kẹp lưỡi thép giữa các ngón tay, cô nhắm mắt, và hạ tay xuống. Cô đếm đến ba, rồi vuốt lớp da đùi. Cô cảm thấy lưỡi lam cứa vào trong thịt, di chuyển và tạo ra một vết thương hở.

Cơn đau thể xác bùng nổ trong một tiếng thét câm lặng. Từ vết thương, nó chạy dọc theo thân thể cô, lên đến tận đỉnh đầu, xóa sạch mọi hình ảnh chết chóc trong đó.

- Dành cho cháu đấy, Anneke. - Mila nói với sự im lặng.

Và rồi, cô bật khóc.

Nụ cười trong nước mắt.

Đó là hình ảnh ấn tượng mà hiện trường vụ án để lại. Tiếp đến là chi tiết không thể bỏ qua: thi thể trần truồng của cô bé thứ hai đã được tìm thấy trong một xưởng giặt.

- Ý đồ của hung thủ liệu có phải là làm sạch tác phẩm của mình bằng nước mắt? - Roche đã hỏi như thế.

Nhưng như thường lệ, giáo sư Goran Gavila không tin vào những lối giải thích quá đơn giản. Cho đến lúc ấy, bộ óc giết người của Albert tỏ ra quá tinh xảo để có thể sa đà vào những chuyện tầm thường như thế. Gã tự cho rằng mình có đẳng cấp cao hơn bọn sát nhân hàng loạt trước đây.

Tại studio, sự mệt mỏi đã lộ rõ. Mila từ nhà nghỉ quay về lúc chín giờ tối với đôi mắt sưng húp, chân phải hơi kéo lê. Ngay lập tức cô vào trong phòng nằm xuống nghỉ một lúc, chẳng buồn dọn giường và cởi quần áo. Tầm mười một giờ, cô bị đánh thức bởi giọng thì thầm qua điện thoại của Goran ở ngoài hành lang. Cô nằm yên, làm ra vẻ như đang ngủ. Sự thực là cô đang dỏng tai lên nghe. Cô tưởng đầu dây bên kia là vợ ông, nhưng hóa ra là một bà vú nuôi hoặc là quản gia, mà ông gọi là “bà Runa”. Ông hỏi thăm bà ta về tin tức của Tommy, - vậy ra đó là tên thằng bé - xem liệu nó có bỏ làm bài tập về nhà, nó có hư hay không. Goran ừ hử nhiều lần trong lúc nghe bà Runa báo cáo tình hình. Cuối mẩu đối thoại, ông hứa sáng hôm sau sẽ về nhà để chơi với Tommy vài tiếng.

Mila nằm cuộn mình quay lưng về phía cửa, không nhúc nhích. Khi Goran gác máy, có vẻ như ông dừng lại trên ngưỡng cửa một chút và đưa mắt nhìn về phía cô. Cô nhận ra điều đó khi thấy bóng ông hắt lên bức tường trước mặt mình. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô quay người lại? Ánh mắt hai người sẽ chạm nhau trong bóng tối. Biết đâu sự ngượng ngập ban đầu sẽ nhường chỗ cho một cảm giác khác. Một cuộc đối thoại câm lặng. Nhưng liệu đó có phải là điều cô thực sự cần hay không? Người đàn ông này có một sức hút lạ lùng đối với cô. Cuối cùng cô quyết định xoay người lại. Nhưng Goran đã biến mất.

Cô nhanh chóng chìm lại vào giấc ngủ.

Mila... Mila...

Như một tiếng thì thầm, giọng nói của Boris luồn lách vào trong một giấc mơ đầy những thân cây tối thẫm và con đường hun hút. Mila mở mắt và nhìn thấy anh chàng đang cúi xuống mình trên chiếc giường gấp. Anh không đụng vào người cô để đánh thức cô dậy mà chỉ khẽ gọi tên cô. Nhưng anh đang mỉm cười.

- Mấy giờ rồi? Tôi ngủ quên à?

- Không, mới có sáu giờ sáng… Tôi đi đây. Giáo sư Gavila muốn tôi đi thẩm vấn vài người từng ở trong trại trẻ mồ côi. Tôi tự hỏi liệu cô có muốn đi cùng không.

Mila thấy bất ngờ trước lời đề nghị này. Nhưng nhận thấy sự lúng túng của Boris, cô hiểu đây không phải là ý của anh.

- Được, tôi sẽ đi.

Anh chàng cao to gật đầu, thầm cảm ơn cô đã không bắt anh phải nài ép.

Năm phút sau, hai người gặp nhau tại bãi đậu xe trước tòa nhà. Chiếc xe hơi đã nổ máy sẵn. Boris đứng đợi cô bên ngoài, lưng dựa vào xe, trên môi phì phèo một điếu thuốc lá. Anh mặc một áo khoác đã sờn cũ dài gần đến đầu gối. Mila thì vẫn khoác chiếc áo da thường mặc. Trong lúc soạn đồ, cô đã không nghĩ trời lạnh đến thế. Ánh mặt trời e ấp rọi xuyên qua các tòa nhà chỉ đủ làm ấm đôi chút các đụn tuyết ứ lại nơi góc đường, và tình hình cũng sẽ chẳng kéo dài: chiều nay dự báo sẽ có bão tuyết.

- Lẽ ra cô nên mặc ấm hơn, cô thấy đấy. - Boris vừa nói vừa nhìn cô bằng ánh mắt lo lắng. - Vào thời điểm này trong năm, ở đây trời lạnh lắm.

Trong xe thật ấm áp và dễ chịu. Một cái cốc nhựa và một túi giấy đã đặt sẵn trên bảng điều khiển.

- Cà phê và bánh sừng bò nóng à?

- Tất cả là của cô đấy! - Boris đáp, trong đầu nhớ lại sự háu ăn của cô.

Một lời đề nghị giảng hòa. Mila chấp nhận ngay không bàn cãi. Cô vừa nhai nhồm nhoàm vừa hỏi:

- Chúng ta đi đâu đây?

- Tôi đã nói rồi: đi thẩm tra một số học sinh cũ của cô nhi viện. Gavila tin rằng vụ dàn dựng với cái xác trong bể giặt không phải chỉ để chúng ta xem cho vui.

- Có thể nó gợi nhắc một chuyện trong quá khứ.

- Rất xa xưa, nếu quả thực là thế. May mắn là những chỗ như thế này đã không còn tồn tại từ gần hai mươi tám năm nay, khi người ta thay đổi luật.

Có một chút gì đó đau đớn trong giọng điệu của Boris. Anh thú nhận.

- Cô biết không, tôi cũng đã từng vào một nơi như thế này. Hồi đó tôi khoảng mười tuổi. Tôi chưa bao giờ biết bố mình là ai, mẹ tôi chỉ có một mình nên không thể xoay xở nuôi tôi được. Thế nên bà ấy đã đưa tôi vào chỗ như thế này trong một thời gian.

Mila không biết phải nói gì. Cô bối rối trước tiết lộ quá riêng tư đó. Boris hiểu ra ngay.

- Cô không cần phải nói gì đâu. Không phải lo. Mà, không hiểu sao tôi lại đi kể cho cô nghe chuyện này nhỉ.

- Tôi xin lỗi, tôi không phải là người cởi mở. Thường thì người khác thấy tôi là một người lạnh lùng.

- Tôi thì không.

Boris nhìn con đường. Giao thông đã bị chậm lại do sương giá vẫn còn bám trên mặt đường nhựa. Khói thải từ các ống xả lơ lửng trong không trung. Trên vỉa hè, mọi người bước đi vội vã.

- Stern, cầu Chúa giữ cho anh ấy luôn như thế, đã tìm ra được một tá cựu học viên của cô nhi viện. Chúng ta lãnh một nửa, Rosa và anh ấy phụ trách phần còn lại.

- Chỉ có chừng ấy thôi sao?

- Trong chừng đó thôi. Tôi không biết ông giáo sư có ý gì trong đầu, nhưng ông ấy cho rằng ta có thể rút ra được điều gì đó...

Thật ra thì họ không có lựa chọn nào khác, và đôi khi cũng phải bấu víu vào một thứ gì đó để tiếp tục cuộc điều tra.

Sáng hôm ấy, họ đi thẩm vấn bốn học sinh cũ. Tất cả đều trên hai mươi tám tuổi, và có lý lịch tương đối bất hảo. Cô nhi viện, trường giáo dưỡng, nhà tù, tại ngoại có quản thúc, xộ khám trở lại, tù treo. Chỉ có duy nhất một người đã thoát ra khỏi vòng xoáy bùn lầy, nhờ vào nhà thờ: ông ta đã trở thành mục sư của một trong số nhiều cộng đồng Tin lành trong vùng. Hai người khác sống trong chật vật. Người thứ tư đang bị giam giữ tại gia do hành vi buôn lậu. Nhưng khi họ nhắc đến quãng thời gian ở trong cô nhi viện, Mila và Boris đều nhận thấy họ đột ngột đổi giọng. Những kẻ từng vào tù ra khám nhiều lần nhưng không sao quên được chốn ấy.

- Anh có để ý nét mặt họ không? - Mila hỏi anh bạn đồng nghiệp sau chuyến viếng thăm thứ tư. - Anh có nghĩ một điều gì đó rất khủng khiếp đã từng xảy ra trong cô nhi viện này, giống như tôi không?

- Chỗ này cũng không khác gì những nơi khác, tin tôi đi. Nhưng tôi nghĩ có gì đó liên hệ với thời thơ ấu của gã. Khi ta đã lớn, mọi thứ trôi tuột đi, kể cả những điều tồi tệ nhất. Nhưng ở vào tuổi ấy, những kỷ niệm ăn sâu vào trong xương tủy và nằm nguyên trong đó.

Cứ mỗi lần họ thuật lại việc phát hiện ra cái xác trong bể giặt với mọi sự cẩn trọng cần thiết, những học sinh cũ của cô nhi viện đều lắc đầu. Hình ảnh ghê rợn đó chẳng nói lên điều gì với họ.

Sau nửa ngày, Mila và Boris dừng lại ăn qua quýt món bánh mì kẹp cá ngừ và uống cà phê. Bầu trời trở nên nặng trĩu. Các nhà khí tượng học đã không nhầm: trời lại sắp đổ tuyết.

Họ còn phải gặp hai người nữa trước khi thời tiết trở nên quá xấu và chặn mất đường về. Họ quyết định bắt đầu với người ở xa nhất.

- Ông ta tên là Feldher, sống cách đây khoảng ba chục cây số.

Boris đang có tâm trạng vui vẻ. Mila định tận dụng cơ hội để hỏi han một chút về Goran. Ông giáo sư khiến cô tò mò: dường như với cô ông không thể có một cuộc sống riêng, với một vợ và một con trai. Đặc biệt, vợ ông là một ẩn số thực sự. Nhất là sau cuộc nói chuyện điện thoại mà Mila đã nghe được đêm hôm qua. Vợ ông đang ở đâu? Tại sao bà ấy không có mặt ở nhà để chăm sóc cậu con trai Tommy? Tại sao lại có bà Runa thế vào chỗ của bà ấy? Biết đâu Boris có câu trả lời cho những câu hỏi đó? Nhưng Mila không tìm được cách để đề cập tới thắc mắc của mình, nên đành bỏ cuộc.

Hai người đến nhà của Feldher khi đồng hồ vừa chỉ hai giờ chiều. Họ đã cố gọi điện thoại để báo trước, nhưng chỉ nhận được câu trả lời tự động rằng số điện thoại họ gọi không tồn tại.

- Có vẻ ông bạn của chúng ta đang gặp một chút khó khăn. - Boris bình phẩm.

Khi nhìn thấy nơi ở của ông ta, họ đã có lời khẳng định. Căn nhà, nếu người ta có thể gọi đó là nhà, nằm ở giữa một bãi phế liệu, chung quanh toàn những xác xe. Một con chó có bộ lông hung nom như bị han gỉ giống những thứ xung quanh chào đón hai người bằng một tiếng tru khàn khàn. Một người đàn ông tầm bốn mươi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Ông ta mặc độc một chiếc áo thun bẩn thỉu và quần jean, dù trời đang rất lạnh.

- Ông là Feldher?

- Phải... còn mấy người là ai?

Boris dùng tay phải giơ thẻ cảnh sát ra.

- Chúng ta có thể nói chuyện được không?

Feldher có vẻ không chào đón chuyến viếng thăm, nhưng vẫn ra hiệu cho họ bước vào.

Ông ta có một cái bụng to đùng và những ngón tay vàng ệch vì thuốc lá.

Bên trong, căn nhà cũng giống với chủ nhân của nó, dơ dáy và bừa bãi. Ông ta cho họ uống món trà nguội trong hai cái cốc cọc cạch, đoạn châm một điếu thuốc và ngồi xuống một chiếc ghế dài ọp ẹp, nhường cho khách chiếc xa lông.

- Hai người may lắm mới tìm được tôi đấy. Thường thì tôi đi làm...

- Vậy sao hôm nay ông không đi? - Mila thắc mắc.

Ông ta nhìn ra bên ngoài.

- Tuyết. Thời tiết thế này thì làm lụng thế quái nào được. Tôi mất hàng mấy ngày trời rồi.

Mila và Boris cầm cốc trà lên, nhưng không uống. Feldher không tỏ ra phật ý.

- Vậy sao ông không thử đổi công việc? - Mila dò hỏi, cố làm ra vẻ quan tâm để tạo sự tiếp xúc thân thiện.

Feldher thở dài.

- Tôi có thử đấy chứ! Hai người tưởng tôi không hả? Nhưng rồi có ra cái trò gì đâu, y như con mụ vợ nhà tôi. Nó tếch đi tìm chỗ tốt hơn rồi. Ngày nào nó cũng lải nhải cái điệp khúc là tôi chẳng làm được trò trống gì. Giờ thì nó đi làm bồi bàn và ở ghép với hai đứa đần độn giống như nó. Tôi đã biết mà. Mấy người biết không, chỗ đó do cái nhà thờ mà nó theo quản lý đó! Bọn họ bảo nó là ngay cả một con hầu vứt đi như nó cũng có chỗ trên thiên đàng cơ đấy! Hai người có thấy không?

Mila nhớ đã nhìn thấy chừng một tá nhà thờ tân giáo như ông ta nói trên đường đi. Tất cả đều có những tấm bảng gắn đèn nêông to tướng đề tên giáo phận và câu biểu ngữ của họ. Từ nhiều năm nay, các nhà thờ này mọc lên như nấm trong vùng, thu hút những người cải đạo, chủ yếu là đám công nhân thất nghiệp dạt ra từ các khu công nghiệp lớn, những bà mẹ đơn thân và những người thất vọng với nhà thờ truyền thống. Mặc dù có tuyên ngôn khác nhau, nhưng các nhà thờ này vẫn có chung một sự gắn bó với thuyết sáng tạo, bài trừ đồng tính, phản đối phá thai, khẳng định nguyên tắc theo đó mỗi cá nhân đều có quyền sở hữu vũ khí và hoàn toàn ủng hộ án tử hình.

Mila tự hỏi Feldher sẽ phản ứng như thế nào khi họ cho ông ta biết là một trong số các bạn học cũ của ông ta ở cô nhi viện nay đã trở thành mục sư của một trong các nhà thờ kia.

- Lúc hai người tới, tôi tưởng là người của bọn kia. Bọn nó tới tận đây để thuyết giáo cơ đấy! Hồi tháng rồi, con mụ vợ tôi, cái con điếm ấy, nó đã cử hai đứa đến để thuyết phục tôi cải đạo đấy!

Ông ta cười hềnh hệch, để lộ hai hàm răng sâu. Mila thử tìm cách lái câu chuyện ra khỏi đề tài hôn nhân bằng một câu hỏi dò:

- Trước khi đi lao động thì ông làm nghề gì?

- Hai người không tin nổi đâu... - Ông ta bật cười, đưa mắt nhìn đống rác rưởi chung quanh mình. - Tôi từng có một tiệm giặt nhỏ.

Hai cảnh sát viên cố không nhìn nhau để không lộ ra cho Feldher thấy là điều ông ta tiết lộ đáng quan tâm tới mức nào. Mila nhận thấy Boris lướt một tay qua hông và mở bao súng. Cô nhớ lại khi đến nơi cô đã nhận ra chỗ này không có sóng di động. Do không biết gì nhiều về người đàn ông trước mặt, họ buộc phải thận trọng.

- Ông từng đi tù, phải không?

- Mấy cái tội vặt vãnh thôi mà. Chẳng khiến một người tử tế phải mất ngủ đâu.

Boris tỏ rõ anh đang ghi nhận thông tin này, đồng thời nhìn Feldher chằm chằm để khiến ông ta nao núng.

- Này, tôi giúp gì được cho mấy người đây? - Người đàn ông hỏi, không buồn che giấu sự bực dọc.

- Chúng tôi biết hồi còn nhỏ ông đã trải qua phần lớn thời gian trong một cô nhi viện. - Boris thận trọng vào đề.

Feldher nhìn anh dò xét, vẻ nghi ngờ: cũng như những người kia, ông ta không nghĩ đến việc bị hai cảnh sát đến làm phiền chỉ vì lý do đó.

- Những năm tốt nhất đời tôi đó. - Ông ta nói một cách hằn học.

Boris giải thích cho ông ta hiểu lý do đã đưa anh và Mila đến tận đây. Feldher có vẻ hài lòng khi được nghe các chi tiết trước cả cánh báo chí.

- Tôi có thể kiếm bộn tiền nếu tuồn tin này ra cho đám nhà báo. - Ông ta chỉ nói có thế khi nghe xong.

- Cứ thử đi, chúng tôi sẽ bắt ông ngay lập tức. - Boris vừa nói vừa nhìn xoáy vào mặt ông ta.

Nụ cười trên gương mặt Feldher tắt ngóm. Boris cúi người tới trước, về phía ông ta. Đó là một kỹ thuật thẩm vấn mà ngay cả Mila cũng biết. Trừ phi có một mối liên hệ tình cảm hoặc đặc biệt thân mật, người ta luôn phải tôn trọng một ranh giới vô hình với người đối thoại. Tuy nhiên, thẩm vấn viên luôn áp sát đối tượng được hỏi để xâm nhập vào vùng không gian riêng tư của anh ta, khiến anh ta lúng túng.

- Ông Feldher, tôi tin chắc là ông rất thích giỡn mặt đám cảnh sát đến tìm ông bằng cách rót cho họ món trà pha nước tiểu của mình, để ông khoái trá nhìn họ đần mặt ngồi cầm cốc mà không dám uống.

Feldher không nói lời nào. Mila nhìn Boris, tự hỏi liệu anh có đang hành động đúng trong tình trạng này. Họ sẽ biết ngay thôi. Boris bình tĩnh đặt cốc trà xuống cái bàn thấp, rồi nhìn thẳng vào mắt Feldher trở lại.

- Bây giờ tôi muốn ông kể lại khoảng thời gian ông sống trong trại mồ côi...

Feldher cụp mắt, lí nhí nói:

- Có thể nói là tôi đã được sinh ra trong đó. Tôi chẳng bao giờ biết ba mẹ mình là ai. Bọn họ đưa tôi đến đó ngay khi tôi mới chào đời. Tên tôi là do cha Rolf đặt cho. Ông ấy bảo cái tên ấy thuộc về một người ông biết rõ và đã hy sinh trong chiến tranh. Tôi tự hỏi làm sao ông cha xứ điên rồ đó lại nghĩ rằng cái tên mang đến sự xui xẻo cho người khác thì có thể mang lại hạnh phúc cho tôi kia chứ!

Bên ngoài, con chó lại sủa khiến Feldher quay ra bắt nó im tiếng:

- Yên nào Koch! - Feldher quay lại nhìn hai cảnh sát. - Hồi trước tôi có đầy chó. Cái chỗ này là một bãi rác. Lúc tôi mua nó, người ta bảo đảm là nó đã được tẩy uế. Nhưng cứ lâu lâu một thứ gì đó lại xì ra: nước rỉ rác cùng với đủ thứ bẩn thỉu khác, nhất là khi trời mưa. Lũ chó uống vào, bụng chúng trương lên rồi vài ngày sau thì chết. Tôi chỉ còn mỗi con Koch, nhưng tôi nghĩ nó cũng sắp ngoẻo rồi.

Feldher đang tìm cách đánh trống lảng. Ông ta không muốn quay trở lại nơi có lẽ đã định đoạt số mệnh của mình. Bằng câu chuyện về cái chết của đàn chó, ông ta cố gắng đấu dịu với hai cảnh sát viên để được yên thân. Nhưng Boris và Mila không chịu bỏ cuộc.

- Tôi muốn ông nỗ lực một lần này, ông Feldher... - Mila nói, cố gắng tỏ ra thuyết phục.

- Thôi được, cô nói đi...

- Tôi muốn ông nói cho chúng tôi biết đối với ông, hình ảnh “cười trong nước mắt” gợi cho ông nghĩ đến điều gì.

- Cái này giống trò của bọn bác sĩ tâm thần chứ gì? Một kiểu kết hợp hú họa hả?

- Đại loại thế. - Mila đồng tình.

Feldher ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ, đôi mắt hướng lên trần nhà, tay gãi cằm. Ông ta muốn làm ra vẻ hợp tác, hoặc cũng có thể đã hiểu hai cảnh sát không thể buộc tội mình vì đã “ém nhẹm chuyện cũ” nên tìm cách chế giễu họ.

- Billy Moore. - Cuối cùng Feldher nói.

- Ai vậy? Một trong đám bạn học của ông hả?

- À, một thằng rất đặc biệt! Nó vào cô nhi viện năm chín tuổi. Lúc nào nó cũng vui vẻ cười đùa. Nó nhanh chóng trở thành người đem lại may mắn cho tụi tôi... Hồi đó, cô nhi viện đã bắt đầu đóng cửa. Chúng tôi chỉ còn có mười sáu người cả thảy.

- Cả một chỗ rộng lớn như thế chỉ để cho một nhúm trẻ em thôi sao?

- Ngay cả các cha xứ cũng đã ra đi! Chỉ mình cha Rolf là còn ở lại… Tôi là một trong những đứa lớn nhất, lúc đó tôi mười lăm tuổi, tầm đó... Chuyện của Billy buồn lắm. Ba mẹ nó treo cổ tự tử. Nó đã phát hiện ra họ. Nó không khóc, cũng không kêu cứu, mà chỉ bắc ghế leo lên và gỡ xác họ từ trần nhà xuống.

- Kinh nghiệm nhớ đời.

- Không phải với Billy. Nó luôn vui vẻ. Nó thích ứng được với những điều tồi tệ nhất. Đối với nó, mọi thứ chỉ là một trò chơi. Tụi tôi chưa từng thấy cái gì như thế. Với đám trẻ chúng tôi, chỗ đó là một nhà tù, nhưng Billy mặc kệ. Nó rất năng động, tôi không biết phải nói thế nào nữa... Nó có hai niềm đam mê lớn: đôi giày có bánh xe mà nó hay dùng để trượt qua các hành lang vắng vẻ, và các trận bóng đá! Nhưng nó không thích đá bóng. Nó chỉ thích ngồi làm bình luận viên tại chỗ thôi! “Tôi là Billy Moore, tường thuật trực tiếp trận chung kết cúp bóng đá thế giới từ sân vận động Aztec, thủ đô Mexico...” Vào hôm sinh nhật của nó, chúng tôi đã hùn nhau mua tặng nó một cái máy ghi âm! Đúng là cá gặp nước: nó dành hàng giờ để thu âm rồi ngồi nghe đi nghe lại!

Feldher bắt đầu huyên thuyên và đi lạc chủ đề. Mila cố đưa ông ta trở lại:

- Ông hãy kể cho chúng tôi nghe về những ngày tháng cuối cùng trong cô nhi viện của ông...

- Như tôi đã nói, nó sắp sửa bị đóng cửa, chúng tôi chỉ có hai lựa chọn: được nhận nuôi, hoặc là đi sang những tổ chức khác, các mái ấm tình thương chẳng hạn. Nhưng chúng tôi chỉ là những đứa trẻ mồ côi loại hai, chẳng ai muốn nhận về. Billy thì khác, người ta xếp hàng nhận nuôi nó! Tất cả mọi người đều quý mến và muốn có nó!

- Mọi chuyện kết thúc như thế nào? Billy có tìm được một gia đình tử tế không?

- Billy chết rồi.

Feldher nói câu đó với một sự thất vọng não nề đến nỗi tưởng như đó là định mệnh của chính ông ta. Mà có lẽ là thế thật: thằng bé kia giống như một sự cứu chuộc cho những đứa bạn của nó. Rốt cuộc cũng có một đứa có khả năng thoát ra khỏi cô nhi viện.

- Chuyện xảy ra thế nào? - Boris hỏi.

- Viêm màng não.

Feldher sụt sịt, mắt hơi ươn ướt. Ông ta quay về phía cửa sổ, vì không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt người lạ. Mila chắc chắn là khi cô và Boris đi khỏi, những hồi ức về Billy vẫn sẽ tiếp tục ùa vào căn nhà này như một bóng ma. Nhưng cũng nhờ những giọt nước mắt, Feldher đã thuyết phục được họ. Mila thấy Boris rời tay khỏi bao súng. Ông ta là người vô hại.

- Bệnh viêm màng não đã đem Billy đi. Do sợ nó thành dịch, người ta đã lập tức đem chúng tôi ra khỏi chỗ đó... trong cái rủi cũng có cái may, nhỉ? - Feldher cười gằn. - Họ đã ân xá cho chúng tôi, theo một cách nào đó! Và cái lỗ cống đó đã bị đóng cửa sáu tháng trước dự kiến.

Lúc hai người đứng dậy ra về, Boris hỏi lại lần nữa:

- Ông có gặp lại ai trong đám bạn cũ không?

- Không, nhưng cách đây khoảng hai năm tôi có gặp lại cha Rolf.

- Bây giờ ông ta đã nghỉ hưu.

- Chỉ mong ông ta xuống lỗ cho rồi.

- Tại sao? - Mila hỏi, nghĩ đến điều tệ hại nhất. - Ông ta đã làm gì ông à?

- Không hề. Nhưng khi trải qua cả thời thơ ấu trong một nơi như thế, buộc lòng người ta phải căm ghét tất cả những gì khiến họ nhớ lại nó.

Một suy nghĩ không khác mấy so với Boris. Bất giác anh gật gù đồng tình.

Feldher không tiễn họ ra cửa. Ông ta cúi xuống bàn và cầm lấy chỗ trà nguội mà Boris không uống, đưa lên môi nốc cạn.

Rồi ông ta nhìn họ một cách đắc thắng:

- Chúc một ngày tốt lành.

Một tấm ảnh cũ của nhóm học sinh cũ - những đứa trẻ cuối cùng từng sống ở cô nhi viện trước khi nó bị đóng cửa - đã được tìm thấy tại nơi ngày trước vốn là văn phòng của cha Rolf.

Trong số mười sáu đứa trẻ đứng cùng cha Rolf, chỉ có một đứa mỉm cười trước ống kính.

Một nụ cười trong nước mắt.

Đôi mắt lanh lợi, mái tóc rối bù, một chiếc răng cửa bị khuyết, một vệt dầu mỡ trên chiếc áo phông xanh nom giống như chiếc huy chương.

Billy Moore mãi mãi nằm lại trong bức ảnh và khu nghĩa trang nhỏ cạnh nhà thờ của cô nhi viện. Nó không phải là đứa trẻ duy nhất được chôn tại đó, nhưng ngôi mộ của nó là cái đẹp nhất. Một bức tượng thiên thần bằng đá giương cánh trong tư thế bảo vệ thằng bé.

Sau khi đã nghe báo cáo của Mila và Boris, giáo sư Gavila yêu cầu Stern thu thập tất cả những tài liệu có liên quan đến cái chết của Billy. Anh thực hiện công việc bằng sự nhiệt tình thường lệ, và trong khi phân tích hồ sơ, anh đã phát hiện một sự trùng hợp lý thú.

- Đối với loại bệnh có khả năng lây lan như viêm màng não, việc báo cáo cho nhà chức trách là bắt buộc. Người bác sĩ đã ký vào biên bản báo cáo do cha Rolf viết cũng chính là người đã viết giấy chứng tử. Hai giấy tờ này được ký cùng ngày.

Goran ngẫm nghĩ:

- Bệnh viện gần nhất cách đây ba mươi cây số. Khó có chuyện ông ta cất công đi đến tận nơi để tự mình xác nhận.

- Ông ta tin tưởng vào lời của cha xứ. - Boris nói. - Vì nhìn chung các cha không bao giờ nói dối...

Không phải lúc nào cũng thế, Mila nghĩ bụng.

Gavila thì không còn nghi ngờ nữa.

- Ta cần phải khai quật ngôi mộ.

Tuyết rơi từng bông nhỏ xíu, như thể dọn đường cho trận rơi tiếp theo. Do vậy, họ cần phải nhanh tay lên. Đội đào huyệt của bác sĩ Chang đang làm việc. Nhờ sự trợ giúp của một chiếc máy xúc, họ đào xuống lớp đất đông cứng vì lạnh. Không ai nói nửa lời.

Thanh tra Roche đã được thông báo về diễn tiến của vụ án và đang bận xua đuổi cánh báo chí đã sôi sục trở lại. Có lẽ Feldher quả thật đã thử đồn đoán dựa trên những gì được hai cảnh sát kể cho, nhưng vẫn tránh không tiết lộ quá nhiều. Thêm vào đó, như Roche vẫn luôn nói: “Khi không biết chuyện, truyền thông sẽ dựng chuyện”.

Do vậy họ cần phải gấp rút hơn trước khi có ai đó quyết định bù khuyết vào sự im lặng này bằng những thứ vớ vẩn được dựng lên. Đến lúc đó sẽ rất khó để bác bỏ mọi thứ.

Một tiếng thịch vang lên. Máy xúc cuối cùng đã chạm phải thứ gì đó.

Đội của Chang trèo xuống hố và bắt đầu đào bới bằng tay. Một tấm vải bạt được phủ lên quan tài để làm chậm quá trình phân hủy. Họ cắt nó ra. Qua vết cắt, có thể nhìn thấy nắp của một cỗ áo quan màu trắng nhỏ.

- Nó mục rữa hết cả rồi. - Bác sĩ Chang nói sau khi quan sát thật nhanh. - Nếu nhấc nó lên, ta có nguy cơ làm nó vỡ vụn. Chưa kể tuyết đang làm mọi thứ lộn xộn hết cả. - Anh nói thêm với giáo sư Goran và chờ nghe quyết định của ông.

- Thôi được, mở nó ra đi.

Không ai chờ đợi việc ông quyết định mở quan tài tại chỗ. Do đó đội của Chang trải một tấm vải dầu trên cái hố, dùng mấy cái cuốc căng nó ra như một mái che lớn để bảo vệ hiện trường khai quật.

Anh mặc vào người một chiếc áo chẽn có gắn đèn trên vai, rồi leo xuống hố dưới cái nhìn của thiên thần đá. Một kỹ thuật viên dùng ngọn lửa hàn xì nung chảy mối hàn bằng kẽm của cỗ áo quan. Nắp quan tài bắt đầu nhúc nhích.

Làm sao người ta có thể đánh thức một đứa trẻ đã chết từ mười tám năm trước? Mila tự hỏi. Billy More lẽ ra xứng đáng với một buổi lễ nho nhỏ, hoặc một vài lời cầu nguyện. Nhưng không ai muốn và cũng chẳng có thời gian cho việc đó.

Khi Chang mở nắp quan tài, họ phát hiện ra phần còn lại của thằng bé Billy tội nghiệp trong bộ trang phục của lễ ban thánh thể. Lịch lãm, với càvạt có ghim kẹp và quần dài gấu lơvê. Trong một góc quan tài là đôi giày trượt han gỉ và một chiếc máy ghi âm cũ.

Mila nhớ lại lời kể của Feldher: “Nó có hai niềm đam mê lớn: đôi giày có bánh xe mà nó hay dùng để trượt qua các hành lang vắng vẻ, và các trận bóng đá! Nhưng nó không thích đá bóng. Nó chỉ thích ngồi làm bình luận viên tại chỗ thôi”.

Đó là tất cả những gì mà Billy sở hữu.

Chang bắt đầu dùng dao mổ cắt lớp vải quần áo ở một đôi chỗ. Mặc dù tư thế không được thoải mái, các thao tác của anh vẫn rất mau lẹ và chính xác. Anh kiểm tra tình trạng của bộ xương, rồi quay ra tuyên bố với những người còn lại:

- Có rất nhiều vết gãy. Tôi không thể khẳng định thời điểm của chúng... Nhưng theo tôi nghĩ, thằng bé này chắc chắn không chết vì viêm màng não.
 
Chương 16


Sarah Rosa đưa cha Timothy vào trong chiếc xe cắm trại di động, Goran và mọi người đang đợi ở đó. Cha Timothy vẫn chưa hết vẻ lo lắng.

- Chúng tôi cần cha giúp cho một việc. - Stern mở lời. - Chúng tôi muốn được nói chuyện ngay với cha Rolf.

- Tôi nói rồi mà, ông ấy đã nghỉ hưu. Tôi không biết hiện ông ấy đang ở đâu. Lúc tôi đến đây, khoảng sáu tháng trước, tôi chỉ gặp ông ấy trong vài giờ đồng hồ, đủ để nghe các lời dặn dò. Ông ấy đã giảng giải cho tôi một số việc, trao lại vài thứ giấy tờ, chìa khóa, rồi ra đi.

Boris quay sang Stern nói:

- Có lẽ chúng ta phải liên lạc trực tiếp với tòa thánh thôi. Theo anh, họ đưa các cha đã nghỉ hưu đi đâu?

- Tôi nghe nói có một dạng như nhà dưỡng lão dành cho họ.

- Có thể, nhưng...

Cả hai quay sang cha Timothy.

- Cha bảo sao ạ? - Stern hỏi.

- Tôi nhớ là cha Rolf có ý định đến sống với người em gái... Phải rồi, ông ấy bảo hai anh em sàn sàn tuổi nhau, và bà ấy không lập gia đình.

Cha xứ có vẻ hài lòng vì rốt cuộc cũng đóng góp được chút ít cho cuộc điều tra và tìm cách trợ giúp họ mà trước đó ông từng từ chối.

- Tôi sẽ nói chuyện với tòa thánh, nếu các vị muốn. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy cũng không khó để tìm ra cha Rolf. Và tôi cũng đang có một ý khác nữa.

Vị cha xứ trẻ tuổi có vẻ như đã bình tâm hơn.

Goran nói:

- Cha sẽ giúp cho chúng tôi rất nhiều, và để chúng tôi đỡ phải đối mặt với những ồn ào vô ích xoay quanh sự việc diễn ra tại đây. Tôi nghĩ tòa thánh sẽ không phiền lòng đâu.

- Tôi cũng nghĩ thế. - Cha Timothy thừa nhận.

Khi cha Timothy đã rời khỏi xe, Sarah Rosa liền nói với giáo sư Goran bằng vẻ băn khoăn lộ rõ:

- Nếu chúng ta nhất trí rằng cái chết của Billy không phải là một tai nạn thì tại sao ông không xin lệnh bắt cha Rolf? Rõ ràng trong chuyện này có điều gì uẩn khúc!

- Có, nhưng ông ta không phải là người chịu trách nhiệm trong vụ giết hại thằng bé.

Mila nhận ra giáo sư Goran lần đầu tiên sử dụng từ “giết hại”. Những chỗ gãy xương của Billy chỉ cho thấy đó là một cái chết thương tâm, nhưng không có bằng chứng nào chứng tỏ nó là do người khác gây ra.

- Làm thế nào ông tin chắc cha Rolf không phải thủ phạm? - Sarah Rosa hỏi tiếp.

- Cha Rolf chỉ là người phát hiện vụ việc. Ông ta đã dựng lên việc Billy chết vì viêm màng não để không ai liều mạng tìm hiểu sâu hơn, do sợ lây nhiễm. Thế giới bên ngoài đã lo liệu phần còn lại: chẳng ai buồn quan tâm đến mấy đứa trẻ mồ côi này. Cô cũng thừa hiểu điều đó mà, phải không?

- Hơn nữa, cô nhi viện lúc đó đang chuẩn bị đóng cửa. - Mila nói thêm.

- Cha Rolf là người duy nhất biết được sự thật, do đó chúng ta cần phải gặp ông ta. Nhưng tôi e là nếu chúng ta mang lệnh bắt giữ đến... thì ta hoàn toàn có thể để tuột mất ông ta. Ông ta đã già, và rất có thể đã quyết định đem câu chuyện này xuống mồ.

- Vậy, ta phải làm sao đây? - Boris nôn nóng hỏi. - Đợi cha Timothy đem tin tức về à?

- Dĩ nhiên là không. - Nhà tội phạm học đáp, đoạn ông cúi xuống nhìn sơ đồ tòa cô nhi viện mà Stern đã lấy từ trong văn phòng địa bạ. Ông chỉ cho Rosa và Boris một chỗ trên đó. - Hai người sẽ đến tòa nhà phía đông. Đây này. Ở đấy có tàng thư lưu trữ tất cả hồ sơ về những đứa trẻ mồ côi từng ở cô nhi viện cho đến khi nó ngừng hoạt động. Dĩ nhiên chúng ta chỉ quan tâm đến nhóm mười sáu đứa trẻ sau cùng.

Goran đưa cho họ tấm ảnh chụp nhóm trẻ với nụ cười rạng rỡ của Billy Moore. Ông lật tấm hình lại, phía mặt sau bức ảnh có chữ ký của tất cả những đứa trong ảnh.

- Hãy đối chiếu những cái tên. Chúng ta cần tìm đứa trẻ có hồ sơ bị thiếu...

Boris và Rosa nhìn nhau kinh ngạc.

- Làm sao ông biết bị thiếu mất một hồ sơ?

- Vì Billy Moore đã bị giết hại bởi một trong số những đứa bạn học của nó.

Trên cùng tấm ảnh chụp có Billy cười tươi tắn, Ronald Dermis là đứa thứ ba từ trái sang. Thằng bé lên tám. Điều đó có nghĩa nó là cục cưng trước khi Billy đến cô nhi viện. Đối với một đứa trẻ, ghen tỵ là một lý do đủ mạnh để cầu cho ai đó chết đi cho khuất mắt.

Nó đã rời cô nhi viện cùng lúc với những đứa khác, và sự quan liêu đã làm lạc mất dấu tích thằng bé. Nó đã được nhận nuôi chăng? Khó có khả năng đó. Có lẽ nó đã vào một mái ấm tình thương. Đó là một bí ẩn. Gần như chắc chắn một lần nữa, bàn tay của cha Rolf đã đứng sau sự khiếm khuyết thông tin này.

Cần phải tìm cho ra ông ta.

Cha Timothy đã bảo đảm là tòa thánh đang lo liệu việc đó. “Em gái cha Rolf đã qua đời. Cha liền yêu cầu được trở lại làm thường dân”. Như vậy ông ta đã trả lại áo tu. Có lẽ do cảm giác hối hận sau khi bao che cho vụ sát hại, hoặc cũng có thể do phát hiện ra một điều nghiệt ngã rằng, cái ác hoàn toàn có thể khoác cho mình diện mạo của một đứa trẻ.

Giả thiết này, cùng với những cái khác, khiến cả nhóm điều tra bối rối.

- Tôi vẫn không rõ mình nên phát động một cuộc săn người thế kỷ, hay ngược lại nên chấp nhận để ông hạ cố ban cho tí chút giải thích đây!

Giọng nói của Roche làm cho các bức vách thạch cao trong phòng làm việc của ông rung lên. Nhưng trước mối lo ngại của ông chánh thanh tra, giáo sư Goran tỏ ra khá bình thản.

- Tất cả mọi người đều nhắm vào tôi vì con bé số sáu kia. Họ bảo chúng ta chưa làm tới nơi tới chốn!

- Chúng ta sẽ chưa tìm ra cô bé chừng nào mà Albert chưa đưa ra manh mối. Tôi vừa gọi điện cho Krepp, anh ta bảo hiện trường sạch sẽ.

- Ít ra hãy cho tôi biết liệu ông có nghĩ Ronald Dermis và Albert là một người hay không!

- Chúng ta đã phạm cùng một sai lầm như trường hợp của Alexander Bermann. Cho đến thời điểm này, tôi sẽ giữ lại mọi kết luận.

Roche không quen bị lên lớp về cách điều tra của mình. Nhưng lần này thì ông phải chấp nhận.

- Nhưng chúng ta không thể ngồi đó đợi cho tên điên kia dẫn chúng ta đến nơi gã muốn. Chúng ta không thể cứu con bé theo cách đó! Nếu giả dụ nó còn sống.

- Chỉ có một người có thể cứu cô bé, chính là gã.

- Ông thực sự tin gã ta sẽ tự mình giao nộp con bé hay sao?

- Tôi chỉ nói là sớm hay muộn, biết đâu gã sẽ cố tình phạm một sai lầm.

- Chó chết! Nhưng ông tưởng tôi có thể sống nhờ hy vọng trong khi mọi người ngoài kia đang muốn tuốt xác tôi ra à? Tôi muốn có kết quả, thưa giáo sư!

Goran đã quen với những cơn tam bành của Roche. Chúng không chỉ nhằm vào ông. Ngài chánh thanh tra tức tối với tất cả mọi người. Đó là mặt trái của sự nghiệp: khi ta có chức vị quá cao, sẽ luôn có ai đó muốn kéo ta xuống dưới.

- Thời gian vừa qua tôi đã hứng khá nhiều thứ bẩn thỉu, và không phải tất cả đều nhằm vào tôi đâu nhá.

Goran biết cách giữ kiên nhẫn, nhưng ông hiểu không phải lúc nào Roche cũng làm được như thế. Do vậy ông thử đưa ra một chi tiết để cho mình yên thân.

- Ông muốn tôi nói ra một điều đang khiến tôi điên đầu không?

- Bất cứ cái gì giúp đưa tôi ra khỏi cái ngõ cụt này. Xin ông đấy.

- Tôi chưa nói điều này với ai, cho đến bây giờ... Chỗ nước mắt ấy.

- Thì sao?

- Có ít nhất là năm lít nước mắt xung quanh thi thể của bé gái thứ hai! Trong nước mắt có muối, do đó nó có khuynh hướng khô đi rất nhanh. Nhưng chỗ nước mắt đó thì không. Tôi đã tự hỏi tại sao.

- Tại sao nào?

- Đó là nước mắt nhân tạo. Nó có cùng thành phần hóa học với nước mắt tự nhiên của con người, nhưng đó chỉ là trò lòe bịp. Chính vì thế mà nó không bị khô đi... Ông biết người ta làm thế nào để chế ra nước mắt nhân tạo không?

- Không.

- Đấy nhé. Albert thì biết. Và gã đã chế ra nước mắt giả, dành thì giờ cho việc đó. Ông biết chuyện này có ý nghĩa gì không.

- Thôi ông nói luôn cho rồi.

- Gã đã sắp đặt mọi thứ một cách tỉ mỉ. Tất cả những gì gã cung cấp cho chúng ta là kết quả của một kế hoạch mà gã đã mất nhiều năm trời chuẩn bị. Và chúng ta, chúng ta phải hành động thật nhanh. Đấy, ý nghĩa là thế đấy.

Roche ngả người dựa vào lưng ghế, mắt nhìn xa xăm.

- Theo ông, chúng ta có thể chờ đợi điều gì?

- Nói thật tình, tôi sợ là điều tệ hại nhất vẫn còn đang ở phía trước.

Mila bước xuống tầng hầm của Viện pháp y. Cô đã mua nhiều hình sticker các chân sút nổi tiếng - chí ít thì đó cũng là lời khẳng định của người bán hàng. Cử chỉ nhỏ này là một phần của nghi thức tiễn biệt. Trong nhà xác, Chang sắp sửa khâu xác Billy Moore lại để trả cậu về dưới chiếc bóng của thiên thần đá.

Anh đã hoàn thành việc khám nghiệm tử thi và chụp X-quang các chỗ gãy xương. Các tấm phim được bày trên một hộp đèn trước mặt Boris. Mila ngạc nhiên khi thấy anh chàng cảnh sát ở đó. Nhận ra sự hiện diện của cô, Boris cảm thấy cần phải đưa ra lời giải thích:

- Tôi chỉ tạt qua xem có gì mới hay không thôi.

- Có gì mới không vậy? - Mila hỏi, cô nương theo cái cớ của anh để không làm anh khó xử.

Rõ ràng Boris ở đó vì những lý do cá nhân.

Bác sĩ Chang dừng tay để trả lời cho câu hỏi của Mila:

- Thi thể đã bị rơi xuống từ một độ cao nhất định. Căn cứ vào mức độ trầm trọng của các vết gãy tìm thấy trên bộ xương, ta có thể kết luận là cái chết đã diễn ra gần như ngay tức thì.

Đằng sau chữ “gần như” ấy ẩn chứa niềm hy vọng và cả sự lo ngại.

- Đương nhiên không ai có thể nói là Billy đã tự ngã hay bị đẩy xuống...

- Đương nhiên rồi.

Mila nhận thấy trên một chiếc ghế có tờ quảng cáo của một nhà tang lễ, một dịch vụ vốn không được cảnh sát chi trả. Chắc là Boris đã bỏ tiền túi ra để lo liệu cho Billy một lễ mai táng đúng mực. Trên một chiếc kệ là đôi giày trượt của thằng bé đã được đánh bóng, và chiếc máy ghi âm, món quà sinh nhật mà nó không bao giờ rời xa.

- Chang có lẽ đã biết cái chết của Billy xảy ra tại địa điểm nào. - Boris thông báo.

Bác sĩ pháp y tiến về phía những bức ảnh cô nhi viện phóng to.

- Cơ thể khi rơi trong không trung sẽ trở nên nặng hơn do gia tốc: đó là hiệu ứng của trọng lực. Kết quả là nó sẽ giống như bị một bàn tay vô hình đè nghiến xuống mặt đất. Do vậy, khi đối chiếu những thông tin có liên quan đến nạn nhân, chẳng hạn như quá trình canxi hóa của xương, với độ nặng của các vết gãy, ta có thể ước tính được độ cao của cú rơi. Ở trường hợp này là trên mười lăm mét. Dựa vào độ cao trung bình của tòa nhà và độ nghiêng của mặt đất, tôi có thể khẳng định một cách gần như chắc chắn là thằng bé đã rơi từ trên tháp xuống. Chỗ này này... Cô thấy không?

Lại một chữ “gần như” nữa được thốt ra từ miệng Chang trong khi anh chỉ vào một địa điểm cụ thể trên bức ảnh. Vào lúc đó, một phụ tá thò đầu qua cánh cửa.

- Bác sĩ Vross, có người cần gặp ông…

Trong một thoáng, Mila không thấy mối liên quan giữa dung mạo của vị bác sĩ pháp y và tên thật của anh ta. Rõ ràng như không có cấp dưới nào dám gọi anh bằng cái tên Chang.

- Tôi xin lỗi. - Anh cáo lui, để lại Mila và Boris trong nhà xác.

- Tôi cũng phải đi đây. - Mila nói.

Boris gật đầu.

Trong khi đi ra, cô bước ngang qua gần chiếc kệ có để đôi giày trượt và cái máy ghi âm của Billy, Mila liền đặt mấy hình sticker đã mua xuống bên cạnh chúng. Boris trông thấy hành động của cô.

- Giọng nói của thằng bé vẫn còn đó...

- Sao cơ? - Cô ngơ ngác.

Boris hất đầu chỉ chiếc máy ghi âm, nhắc lại:

- Giọng nói của Billy. Lời tường thuật tưởng tượng của nó.

Anh cười. Nhưng đó là một nụ cười buồn.

- Anh vẫn nghe được kia à?

Boris gật đầu.

- Phải, chỉ một đoạn đầu thôi, sau đó tôi không thể nào...

- Tôi hiểu. - Mila nói ngắn gọn.

- Cái băng vẫn còn gần như nguyên vẹn, cô biết không? Acid sinh ra từ... - anh nghẹn ngào - ... quá trình phân hủy đã không làm hỏng nó. Chang xác nhận đó là một điều rất hiếm có. Chắc có lẽ là do loại đất ở nơi chôn cất thằng bé. Trong máy không có pin, nên tôi đã lắp vào.

Mila tỏ vẻ ngạc nhiên để làm dịu sự căng thẳng của Boris:

- Thế là nó chạy à?

- Dĩ nhiên. Hàng Nhật mà!

Cả hai cùng bật cười.

- Cô có muốn cùng tôi nghe hết đoạn băng không?

Mila suy nghĩ một chút trước khi đáp. Trên thực tế, cô không muốn lắm. Có những chuyện nên được ngủ yên, cô nghĩ bụng. Nhưng trong trường hợp này, Boris lại cần nghe, và cô không muốn bảo anh thôi đi.

- Được, anh bật nó lên đi.

Boris tiến lại gần chiếc máy ghi âm, nhấn vào nút play, và trong căn phòng khám nghiệm tử thi lạnh lẽo, giọng nói của Billy Moore sống lại:

“... Chúng ta đang ở sân vận động Wembley huyền thoại, thưa các bạn! Trận đấu hôm nay sẽ đi vào lịch sử bóng đá: tuyển Anh đối đầu tuyển Đức!”

Thằng bé có một chất giọng vui nhộn và phát âm chữ s với một tiếng xì, khiến cho câu văn nghe hơi nặng. Có thể cảm nhận được nó đang cười, họ thực sự có cảm giác như đang trông thấy Billy, với tất cả vẻ vô tư con trẻ, cố gắng thổi vào mọi thứ niềm hân hoan đặc trưng của thằng bé.

Mila và Boris mỉm cười.

“Thời tiết mát dịu, dự báo sẽ không có mưa, mặc dù đã vào đầu thu. Cầu thủ hai đội đang dàn hàng ngang giữa sân để lắng nghe bài quốc ca... Các khán đài chật cứng cổ động viên. Một không khí tuyệt vời, thưa quý vị. Chỉ trong ít phút nữa thôi, chúng ta sẽ được tham gia vào một bữa tiệc bóng đá, nhưng trước hết, xin được điểm qua danh sách của các cầu thủ thi đấu trên s... Lạy Chúa, con vô cùng ăn năn và hối hận về các tội lỗi của con, do phạm tội con đáng nhận sự trừng phạt của Người, và do con đã xúc phạm Người, đấng tối cao và đáng tôn kính hơn hết thảy mọi thứ...”

Mila và Boris nhìn nhau ngơ ngác. Giọng nói được ghi đè lên đoạn băng nguyên thủy nghe rất nhỏ.

- Một lời cầu nguyện.

- Nhưng đó không phải là giọng Billy...

“... với sự giúp đỡ thiêng liêng của Người, con nguyện sẽ không bao giờ xúc phạm đến Người nữa, và lánh xa tất cả những cơ hội phạm tội. Chúa nhân từ, xin Người xá tội cho con”.

“Thôi được rồi”.

Giọng của một người đàn ông.

“Con còn điều gì cần nói với ta nữa không?”

“Gần đây con đã nhiều lần nói tục. Cách đây ba ngày, con đã lấy cắp bánh quy trong chạn, nhưng Jonathan đã ăn chỗ bánh cùng với con...”

“Không có gì khác nữa chứ?”

- Chắc đây là cha Rolf. - Mila nói.

“…”

“Suy nghĩ cho kỹ vào, Ron”.

Cái tên vừa được nói ra đã bao phủ một sự im lặng lạnh lẽo xuống căn phòng. Và Ronald Dermis trở lại thành một đứa bé.

“Dạ... có một việc...”

“Con có muốn kể ta nghe về việc đó hay không?”

“... Dạ không”.

“Nếu con không nói ra, làm sao ta có thể xá tội cho con được?”

“... Con không biết nữa”.

“Con biết chuyện đã xảy ra với Billy phải không, Ron?”

“Chúa đã mang bạn ấy đi”.

“Không phải Chúa, Ron. Con biết là ai không?”

“Bạn ấy bị ngã. Billy bị ngã từ trên tháp xuống”.

“Nhưng lúc đó con ở cùng với Billy...”.

“... Dạ”.

“Ai đã nảy ra ý định trèo lên đó?”

“... Có người đã giấu đôi giày trượt của bạn ấy trên tháp”.

“Là con phải không?”

“... Dạ”.

“Con đã đẩy cậu ấy?”

“…”

“Ronald, trả lời câu hỏi của ta đi nào”.

“…”

“Không ai trừng phạt con nếu con nói ra sự thật. Ta hứa”.

“Có người đã bảo con làm chuyện đó”.

“Người đó là ai? Billy à? Billy đã bảo con đẩy cậu ấy sao?”

“Dạ không”.

“Vậy là một đứa khác?”

“Dạ không”.

“Vậy thì ai?”

“…”

“Ron?”

“Dạ”.

“Coi nào, trả lời ta đi. Người mà con nói không tồn tại, phải không? Đó chỉ là sự tưởng tượng của con...”

“Dạ không”.

“Ở đây không có ai, ngoài con và các bạn học”.

“Người đó chỉ đến gặp một mình con”.

“Nghe ta bảo này, Ron: ta muốn con nói là con rất hối tiếc vì chuyện đã xảy ra với Billy”.

“... Con rất tiếc vì chuyện đã xảy ra với Billy”.

“Ta hy vọng là con thật lòng... Dù sao thì, chuyện này sẽ là bí mật giữa con, ta và Chúa trời”.

“Dạ”.

“Con không được kể với ai nghe chưa”.

“Dạ”.

“Ta xá tội cho con. Nhân danh Cha, Con, và Thánh thần. Amen”.

“Amen”.
 
Chương 17


- Chúng tôi tìm một người có tên là Ronald Dermis. - Roche tuyên bố với rừng đèn flash và micro. - Người này khoảng ba mươi tám tuổi. Tóc nâu, mắt nâu, da sáng.

Ông đưa ra trước mặt mọi người một tấm ảnh đã chỉnh sửa cho già đi từ tấm ảnh gốc chụp chung với nhóm trẻ trong cô nhi viện, thể hiện hình ảnh của một Ron người lớn. Ông giơ cao tấm ảnh trong khi ánh đèn flash chớp liên hồi.

- Chúng tôi có lý do để cho rằng người này có liên quan trong vụ bắt cóc các bé gái. Ai biết anh ta, có thông tin gì, hoặc đã từng tiếp xúc với anh ta trong ba mươi năm trở lại đây, xin vui lòng liên hệ với cảnh sát. Xin cám ơn.

Hai chữ cuối là phát súng lệnh cho hàng tràng câu hỏi và những lời năn nỉ từ đám đông báo giới.

- Thưa ngài Roche!...

- Thưa chánh thanh tra!...

- Một câu hỏi thôi ạ!...

Roche phớt lờ bọn họ và bỏ đi thẳng một mạch ra khỏi phòng họp báo bằng cửa phụ.

Động thái của ông là điều không thể tránh khỏi. Họ buộc phải báo động.

Phát hiện của Boris và Mila đã gây ra hai tiếng đồng hồ sôi sục. Giờ thì tình hình đã rõ ràng.

Cha Rolf đã thu lại lời xưng tội của Ron trên chiếc máy ghi âm của Billy. Sau đó ông đã chôn nó cùng với thằng bé như thể chôn xuống một cái hạt cây, biết rằng sớm muộn gì nó cũng sẽ ra quả, với hy vọng là một ngày kia sự thật sẽ cứu chuộc cho cả ba con người. Kẻ dù còn trong lứa tuổi thơ ngây đã gây ra tội ác kinh hoàng ấy. Người đã là nạn nhân của việc làm đó. Và người đã hành động để chôn sâu nó dưới ba tấc đất.

“... Dù sao thì, chuyện này sẽ là bí mật giữa con, ta và Chúa trời”.

- Làm thế nào Albert biết được câu chuyện này? - Goran hỏi. - Cha Rolf và Ron là những người duy nhất biết được bí mật. Như vậy, lý giải duy nhất: Ron và Albert chỉ là một người.

Nhưng có lẽ cũng cần phải xem lại quyết định gắn Alexander Bermann vào vụ án. Nhà tội phạm học không thể nhớ được ai đã nói rằng kẻ giết người hàng loạt nhắm vào một tên ấu dâm vì gã đã bị lạm dụng hồi còn nhỏ. Hình như là Sarah Rosa. Nhưng Stern đã lập tức bác bỏ giả thiết này, và giáo sư Gavila cũng đồng tình với anh. Giờ đây, có lẽ ông phải thừa nhận là ông đã nhầm.

- Những nạn nhân lý tưởng của bọn ấu dâm là trẻ mồ côi và bụi đời, vì chẳng có ai bảo vệ chúng cả.

Goran tự trách mình vì đã không đi đến kết luận sớm hơn. Thế mà ông đã có tất cả mọi miếng ghép trước mắt ngay từ đầu. Ông đã bị mờ mắt vì ý nghĩ cho rằng Albert là một chiến lược gia đại tài.

“Bọn giết người hàng loạt, qua hành động của chúng, muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện: chuyện về mâu thuẫn nội tại của chính chúng”. Ông vẫn hay nhắc đi nhắc lại như thế với các sinh viên.

Tại sao ông lại để cho mình bị lầm lạc vì một giả thiết khác?

- Gã đã dùng sự tự ái của tôi để xỏ mũi tôi. Tôi chỉ nghĩ gã muốn thách thức chúng ta. Tôi đã sung sướng trước ý nghĩ được đối đầu với một kẻ cố tỏ ra thông minh hơn.

Sau khi xem trên truyền hình cuộc họp báo của thanh tra Roche, giáo sư Gavila một lần nữa tập hợp cả nhóm điều tra tại xưởng giặt của cô nhi viện, nơi họ đã tìm thấy xác của Anneke. Ông cảm thấy đây là nơi lý tưởng để tái khởi động cuộc điều tra. Màn “tự vấn” ngắn ngủi của giáo sư Gavila có tác dụng xua đi mọi hoài nghi về việc họ vẫn là một nhóm, chứ không chỉ là một phòng thí nghiệm cho các phép thử của ông.

Thi thể của bé gái thứ hai đã được mang đi từ lâu, chỗ nước mắt trong bể giặt bằng đá đã được xả hết. Chỉ còn các bóng đèn halogen và tiếng rì rì của máy nổ. Chẳng mấy chốc những thứ đó cũng sẽ được đưa đi nốt.

Goran đã yêu cầu sự hiện diện của cha Timothy. Cha xuất hiện trong hơi thở đứt quãng và tình trạng kích động thấy rõ: mặc dù không còn gì trong phòng giặt gợi ra hình ảnh hiện trường một vụ án mạng, cha vẫn cảm thấy cực kỳ khó ở.

- Không thể tìm ra cha Rolf. - Cha Timothy thông báo. - Và tôi nghĩ là...

- Cha Rolf chắc đã qua đời. - Goran đột ngột cắt ngang. - Nếu không thì chúng tôi đã có thông tin sau thông báo của thanh tra Roche.

Cha Timothy có vẻ chấn động.

- Vậy tôi có thể giúp gì được cho các ông đây?

Goran cân nhắc cẩn thận trước khi nói với mọi người:

- Có thể chuyện này khác thường với mọi người, tôi biết... Nhưng tôi muốn chúng ta cùng cầu nguyện.

Rosa không giấu nổi sự kinh ngạc, cũng như Boris. Hai người lập tức nhìn nhau. Mila thì ngơ ngác. Chỉ có Stern là không. Anh là người ngoan đạo nhất, và là người đầu tiên làm theo đề nghị của giáo sư Goran. Anh bước đến đứng giữa gian phòng và dang hai tay ra để nắm lấy tay người khác, tạo thành một vòng tròn. Mila nhanh chóng tiến đến. Rosa buộc lòng làm theo. Boris là người miễn cưỡng nhất, nhưng anh không thể từ chối lời mời của giáo sư Gavila. Cha Timothy gật đầu và bước đến đứng chính giữa vòng tròn. Rốt cuộc cha cũng đã bình tâm trở lại. Goran không biết cầu nguyện, và có lẽ cũng không có lời nguyện cầu nào thích hợp với tình hình. Nhưng ông vẫn thử làm với chất giọng đầy buồn bã:

- Thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều chuyện kinh khủng. Sự việc đã diễn ra ở đây là một minh chứng. Tôi không biết liệu Chúa có tồn tại hay không, dù tôi luôn mong mỏi điều đó. Tôi biết chắc chắn là cái ác có tồn tại. Vì cái ác có thể được chứng tỏ. Cái thiện thì không bao giờ. Cái ác để lại dấu vết khi nó đi qua. Thi thể của những đứa trẻ tội nghiệp chẳng hạn. Còn cái thiện, ta chỉ có thể chứng kiến mà thôi. Thế nhưng điều đó không đủ đối với chúng ta, những người luôn tìm kiếm các bằng chứng cụ thể… - Ông ngừng một chút.

- Nếu Chúa trời tồn tại, thì tôi muốn hỏi Người... Vì sao Billy Moore phải chết? Sự thù hận của Ronald Dermis từ đâu mà ra? Chuyện gì đã xảy đến với hắn trong những năm vừa qua? Ronald đã học cách giết người như thế nào? Lý do gì đã đẩy Ronald đến chỗ phạm tội? Và tại sao Chúa không chấm dứt nỗi kinh hoàng khủng khiếp này?

Những câu hỏi của giáo sư Goran treo lơ lửng trong sự im lặng vây bủa mọi người.

- Xin cha cứ tự nhiên, thưa cha... - Một lúc sau Stern nói.

Cha Timothy bắt đầu điều khiển nhóm người. Ông họp các bàn tay lại và ngân nga một điệu thánh ca. Chất giọng tự tin và rất đẹp của cha vang vọng trong gian phòng, bay lượn xung quanh họ. Mila nhắm mắt và để cho những ngôn từ cuốn mình đi. Dù là tiếng La tinh, ý nghĩa của chúng vẫn thật rõ ràng ngay cả với những người điếc nhất. Cùng với bài thánh ca, cha Timothy mang lại sự yên bình cho nơi từng bị hỗn loạn, thanh lọc mọi thứ khỏi tàn dư của cái ác.

Bức thư được gửi cho ban khoa học hành vi. Đáng lẽ nó đã bị liệt vào nhóm thư rác của những kẻ dựng chuyện, nếu như nét chữ viết tay không cho thấy có nhiều điểm tương đồng với nét chữ trong một bài tập mà Ronald Dermis từng làm hồi đi học.

Nó được thảo trên một trang giấy tập bằng loại bút bi thông thường. Người gửi không buồn quan tâm đến những dấu tay để lại trên tờ giấy.

Có vẻ như Albert không cần đến những biện pháp cẩn trọng nhất định nữa.

Đoạn văn nằm co cụm ở giữa trang giấy, được viết buông tuồng như một câu duy nhất, gần như không có chấm phẩy.

gửi những người đang lùng tìm tôi billy là một thằng con hoang, một THẰNG CON HOANG! và tôi đã đúng khi giết nó tôi căm thù nó nó sẽ làm bọn tôi đau đớn vì nó sẽ có một gia đình còn bọn tôi thì không những gì đã xảy ra với tôi còn tệ hơn nhưng KHÔNG AI đến cứu tôi KHÔNG AI CẢ. tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người không thấy tôi thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi chính mấy người đã muốn tôi thành ra như vậy hồi xưa mấy người không hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ thật, rốt cuộc đây là lỗi của mấy người tôi là thế đấy. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ.

RONALD

Goran đã chụp một bản sao để tiện nghiên cứu. Ông sẽ ngủ đêm ở nhà cùng cậu con trai. Ông thật sự rất muốn trải qua buổi tối với Tommy. Đã mấy ngày rồi ông không gặp thằng bé.

Vừa bước qua ngưỡng cửa căn hộ, ông lập tức nghe thấy tiếng bước chân thằng bé chạy tới.

- Mọi chuyện thế nào rồi bố?

Goran dang tay ôm Tommy thật chặt.

- Không có gì phải phàn nàn. Còn con?

- Con bình thường.

Ba chữ kỳ diệu. Con trai ông đã biết cách dùng chúng khi hai bố con gặp lại nhau. Như thể để bảo ông không việc gì phải lo lắng, vì con trai ông “vẫn bình thường”. Nó không thấy nhớ mẹ. Nó đã học được cách quên đi.

Nhưng đó cũng là giới hạn sau cuối. Cùng với ba chữ đó, họ dừng mẩu đối thoại. Mọi thứ đã được thỏa thuận. Đấy nhé, bố con mình vừa nhớ ra thiếu mẹ thì đau khổ đến chừng nào. Bây giờ thì chúng ta có thể sống tiếp.

Và mọi chuyện diễn ra đúng như thế.

Goran mang về một cái túi giấy mà Tommy đang nôn nóng mở ra.

- Tuyệt hảo! Đồ ăn Tàu!

- Bố nghĩ con sẽ thích khi ta thay đổi thực đơn của bà Runa một chút.

Tommy nhăn mặt.

- Con ghét món thịt viên của bà Runa! Bà ấy cho quá nhiều lá bạc hà, làm nó có vị như kem đánh răng.

Goran bật cười. Quả thực thằng bé nói đúng.

- Nào, đi rửa tay đi con.

Tommy chạy ào vào trong phòng tắm, sau đó bắt đầu dọn bàn. Goran đã xếp phần lớn các dụng cụ nhà bếp vào các ngăn kệ ở vừa tầm với của thằng bé. Ông muốn nó tham gia vào việc nhà trong giai đoạn mới. Cùng nhau làm việc đồng nghĩa rằng từ nay hai bố con phải chăm sóc lẫn nhau, và không ai được “bỏ cuộc”. Không ai được quyền buồn bã.

Tommy lấy một cái đĩa, trút chỗ hoành thánh chiên ra cùng với sốt chua ngọt, trong lúc Goran đổ cơm chiên vào trong một cái tô. Hai người dùng đũa, và thay cho món kem chiên hay được phục vụ trong các nhà hàng Trung Hoa, Goran đã mua một hộp kem sôcôla vani.

Hai bố con vừa ăn vừa bàn chuyện trong ngày. Tommy kể về việc tổ chức đi cắm trại cùng với các hướng đạo sinh. Goran hỏi han về việc học hành của thằng bé và ông hãnh diện khi biết nó được điểm số rất cao trong môn thể dục.

- Bố rất kém trong các môn thể thao. - Ông thú nhận.

- Thế bố giỏi gì nào?

- Cờ vua.

- Nhưng đó không phải là thể thao.

- Có chứ: nó được đưa vào Thế vận hội đấy.

Tommy có vẻ không bị thuyết phục. Nhưng nó biết bố không bao giờ nói dối nó. Thật ra đó là một bài học nhớ đời. Vì lần đầu tiên nó hỏi ông về mẹ, ông đã kể lại toàn bộ sự thật. Không quanh co. “Không giỡn nha”, như lời Tommy vẫn nói khi nó muốn người khác trung thực. Bố nó đã làm đúng như nó muốn. Không cay cú, không tìm cách trừng phạt mẹ nó. Những lời nói dối - hay tệ hơn là những sự thật nửa vời - chỉ càng làm tăng thêm nỗi lo cho đứa con. Một mình nó sẽ phải đương đầu với hai sự dối trá nặng nề: một là của mẹ, người đã ra đi, và một là của bố, người không đủ dũng khí để nói ra sự thật.

- Hôm nào bố dạy con chơi cờ nhé?

- Dĩ nhiên rồi.

Cùng với lời hứa đó, Goran đưa thằng bé vào giường nằm, rồi ông giam mình trong phòng làm việc. Ông lấy bức thư của Ronald ra đọc lần không biết thứ bao nhiêu. Ngay từ đầu có một thứ đã làm ông chú ý. Đó là câu: “thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”, trong đó các từ “người” được cố ý viết bằng chữ in hoa. Goran đã một lần nghe thấy sự ám chỉ kỳ lạ này. Đó là trong cuốn băng ghi lại lời thú tội của Ronald trước cha Rolf.

“Người đó chỉ đến gặp một mình con”.

Đây là một ví dụ điển hình của sự tách đôi nhân cách, trong đó cái tôi tiêu cực luôn tách rời với cái tôi chủ thể. Và trở thành người.

“Đó là TÔI. Nhưng NGƯỜI đã bảo tôi làm điều đó. Do lỗi của NGƯỜI mà TÔI mới thành ra như thế này”.

Trong ngữ cảnh này, tất cả những người khác trở thành “KHÔNG AI CẢ”. Và cũng được viết chữ in hoa.

“KHÔNG AI đến cứu tôi. KHÔNG AI CẢ. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ”.

Ron đã muốn được cứu thoát. Nhưng mọi người đã quên mất nó vì nó chỉ là một thằng bé.

Mila ra ngoài để mua đồ ăn. Sau khi đi lòng vòng qua các cửa hiệu và tiệm ăn đóng cửa vì thời tiết xấu, cô đành mua một gói súp trong một cửa hàng thực phẩm nhỏ. Cô định sẽ hâm nóng bằng lò vi sóng trong bếp của studio, nhưng mua xong cô sực nhớ ra cô còn không biết nó có hoạt động hay không.

Mila quay về căn hộ trước khi bị cái lạnh làm cho tê cóng và khiến cô không bước nổi. Giá cô có đôi giày và bộ đồ tập thể thao: từ nhiều ngày nay cô không chạy bộ, chỗ acid lactic ứ lại trong các khớp khiến cho cử động của cô đâm khó khăn.

Lúc vừa dợm bước lên bậc cấp thì Mila trông thấy Rosa trên vỉa hè trước mặt, đang tranh luận rất căng với một người đàn ông. Anh ta định xoa dịu cô ta nhưng bất thành. Mila nghĩ đó chắc là chồng của Rosa, và đột nhiên cô thấy thông cảm cho anh chàng. Trước khi mụ yêu tinh kia nhận thấy sự hiện diện của cô, điều sẽ càng khiến mụ có lý do để thù ghét cô, Mila bước vào trong nhà.

Trên cầu thang, cô gặp Boris và Stern đang đi xuống.

- Hai anh đi đâu đấy?

- Chúng tôi sang bên trụ sở để xem tình hình săn người đã làm đến đâu. - Boris đáp trong lúc đưa điếu thuốc lên môi. - Cô đi không?

- Không, cám ơn.

Boris nhìn thấy gói súp.

- Vậy thì “bon appétit”[4] nhá!

Trong khi bước tiếp, Mila nghe thấy Boris nói với anh bạn đồng nghiệp nhiều tuổi hơn mình.

- Anh nên bắt đầu hút lại đi.

- Cậu nên bỏ cái món ấy thì có...

Mila nhớ lại hộp kẹo bạc hà của Stern và bật cười khe khẽ.

Trong studio chỉ có mình Mila. Goran đã về nhà ngủ với cậu con trai. Cô hơi thất vọng. Cô đã quen với việc thấy ông ở đó, và thích thú trước phương pháp điều tra của ông. Trừ màn cầu nguyện. Nếu mẹ cô mà còn sống và thấy cô tham gia vào cái trò ấy, chắc bà sẽ không tin ở mắt mình.

Lò vi sóng hoạt động được. Món súp không quá tệ. Cũng có lẽ cơn đói đã khiến cho nó có vẻ ngon hơn bình thường. Mila cầm tô súp và cái muỗng vào phòng ngủ, hài lòng khi được ở một mình.

Cô ngồi chéo chân trên giường. Vết thương nơi đùi trái hơi căng, nhưng nó đang lành. Mọi thứ đều sẽ được chữa lành. Vừa ăn, cô vừa lấy bản sao bức thư của Ronald Dermis để trước mặt. Cô nhìn bức thư trong khi miệng tiếp tục nhai. Dù sao thì Ronald cũng đã chọn đúng thời điểm để tái xuất hiện trong câu chuyện. Nhưng có điều gì đó bất hợp lý trong những câu chữ. Cô không đủ can đảm để nói ra điều đó với Goran, vì cô không nghĩ mình có thể đưa ra lời khuyên với ông. Tuy nhiên, ý nghĩ kia cứ quấy rối cô suốt cả buổi chiều. Bức thư cũng đã được trao cho báo chí, một việc làm bất bình thường. Gavila rõ ràng đã muốn làm hài lòng cái tôi của tên thủ phạm giết người hàng loạt. Cứ như thể ông đang nói: “Thấy chưa? Chúng tôi đang quan tâm đến ông đó nha!” trong khi trên thực tế, họ chỉ tìm cách hướng sự chú ý của gã ra khỏi cô bé mà gã đang bắt giữ.

“Tôi không rõ gã có thể kháng cự lại thôi thúc muốn kết liễu cô bé được bao lâu”, vài giờ trước ông đã nói như thế.

Mila cố gạt bỏ ý nghĩ kia ra khỏi đầu và tập trung vào bức thư. Cô rất khó chịu trước lối viết của Ronald. Cô thấy nó nghịch mắt. Cô không thể nói tại sao, nhưng đoạn thư được viết ở giữa tờ giấy, cái kiểu viết buông tuồng không ngắt nghỉ khiến cô không sao hiểu được trọn vẹn ý nghĩa.

Cô quyết định ngắt thành nhiều câu. Đặt cái tô xuống, cô cầm lấy tập giấy và cây bút chì.

gửi những người đang lùng tìm tôi:

- billy là một thằng con hoang, một THẰNG CON HOANG! và tôi đã đúng khi giết nó. tôi căm thù nó. nó sẽ làm bọn tôi đau đớn. vì nó sẽ có một gia đình còn bọn tôi thì không.

- những gì đã xảy ra với tôi còn tệ hơn! nhưng KHÔNG AI đến cứu tôi! KHÔNG AI CẢ.

- tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người không thấy tôi.

- thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi.

- chính mấy người đã muốn tôi thành ra như vậy. hồi xưa mấy người không hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ thật, rốt cuộc đây chỉ là lỗi của mấy người.

- tôi là thế đấy. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ.

- RONALD

Mila đọc lại từng câu. Đó là một giọng văn huênh hoang, chất chứa đầy thù hận và căm hờn. Nó nhắm vào tất cả mọi người, không phân biệt ai. Vì trong đầu óc của kẻ đã giết Billy, thằng bé tượng trưng cho một thứ rất lớn và thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Điều mà Ron sẽ không bao giờ có được.

Hạnh phúc.

Billy luôn vui vẻ, trong khi nó đã chứng kiến vụ tự tử của bố mẹ. Billy sẽ được nhận nuôi, dù nó chỉ là một đứa trẻ mồ côi loại hai. Billy được nhận tất cả, dẫu nó không có gì để cho đi.

Khi hãm hại thằng bé, Ron đã vĩnh viễn xóa đi nụ cười trên gương mặt đạo đức giả của thiên hạ.

Tuy nhiên, càng đọc những lời này, Mila càng nhận ra các câu văn ít giống với một lời tự thú, hoặc một sự thách thức, mà giống những câu trả lời nhiều hơn. Như thể một người nào đó đã hỏi Ronald, và hắn nôn nóng muốn thoát ra khỏi vòng im lặng vây bủa mình trong một thời gian dài, muốn tự giải phóng khỏi bí mật do cha Rolf áp đặt.

Nhưng câu hỏi là gì? Ai là người đã hỏi hắn?

Mila nhớ lại điều Goran đã nói trong khi cầu nguyện. Về việc điều thiện không thể được chứng minh, trong khi trước mắt chúng ta đầy rẫy những ví dụ của cái ác. Bằng chứng. Ronald cho rằng hắn đã hoàn thành một việc tích cực, cần thiết, khi ra tay hãm hại người bạn học. Đối với hắn, Billy tượng trưng cho cái ác. Ai có thể chứng tỏ được hắn đã không làm điều tốt? Lập luận của hắn thật hoàn hảo. Bởi biết đâu khi lớn lên Billy Moore sẽ trở thành một người rất xấu. Ai mà khẳng định được?

Hồi còn nhỏ và còn theo học ở lớp giáo lý Cơ đốc, Mila luôn tự hỏi mình một câu. Khi cô đã lớn, câu hỏi đó vẫn chưa được trả lời.

Tại sao một đức Chúa trời mà người đời cho là nhân từ lại để cho những đứa trẻ chết đi?

Khi nghĩ kỹ về điều đó, rõ ràng nó đối lập với lý tưởng về tình yêu và sự công bằng vốn luôn tràn trề trong đạo giáo.

Tuy vậy, chết sớm có lẽ là định mệnh mà Chúa đã dành cho những đứa con xấu xa nhất của Người. Và biết đâu những đứa trẻ mà cô đã cứu thoát có thể biến thành những kẻ sát nhân hoặc bọn giết người hàng loạt. Rất có thể, điều cô đã làm là không đúng. Nếu như ai đó đã giết chết Adolf Hitler, hoặc Jeffrey Dahmer, Charles Manson từ khi bọn chúng vẫn còn quấn tã, hành động của người đó là tốt hay xấu đây? Kẻ giết chết bọn chúng chắc sẽ bị kết án và trừng trị, chứ chẳng thể nào được ca tụng như người cứu nhân độ thế.

Mila kết luận là cái thiện và cái ác thường lẫn lộn với nhau. Cái này đôi khi là phương tiện của cái kia và ngược lại.

Làm thế nào người ta có thể lẫn lộn giữa ngôn từ của một lời cầu nguyện và sự điên dại của một tên sát nhân?

Đột nhiên cô cảm thấy lành lạnh sau gáy. Giống như có thứ gì đó bí mật xuất hiện sau lưng cô. Rồi cô nhớ lại ý nghĩ vừa rồi, và lúc ấy cô bỗng nhận ra mình biết các câu hỏi mà Ronald đã tìm cách trả lời trong bức thư của hắn.

Chúng nằm trong lời cầu nguyện của Goran.

Cô cố nhớ lại những lời cầu nguyện của Goran, dù chỉ nghe duy nhất một lần. Cô thử viết ra nhiều lần trên tập giấy, rồi cô làm lẫn lộn thứ tự và phải bắt đầu lại, nhưng rốt cuộc cô đã thành công khi viết chúng ra giấy trắng mực đen, ngay trước mắt mình. Sau đó cô thử lắp ghép chúng với từng câu ở trong bức thư. Phục dựng lại mẩu đối thoại từ xa ấy.

Sau cùng, cô đọc lại toàn bộ...

Tất cả thật rõ ràng, ngay từ câu đầu tiên.

“gửi những người đang lùng tìm tôi”.

Câu này dành cho họ, các cảnh sát. Để trả lời các câu hỏi mà nhà tội phạm học đã nêu ra nhưng chưa được giải đáp...

- Vì sao Billy Moore phải chết?

“billy là một thằng con hoang, một THẰNG CON HOANG! và tôi đã đúng khi giết nó. tôi căm thù nó. nó sẽ làm bọn tôi đau đớn. vì nó sẽ có một gia đình còn bọn tôi thì không”.

- Sự thù hận của Ronald Dermis từ đâu mà ra?

“những gì đã xảy ra với tôi còn tệ hơn! nhưng KHÔNG AI đến cứu tôi! KHÔNG AI CẢ”.

- Chuyện gì đã xảy đến với hắn trong những năm vừa qua?

“tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người không thấy tôi”.

- Ronald đã học cách giết người như thế nào?

“thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”.

- Lý do gì đã đẩy Ronald đến chỗ phạm tội?

“chính mấy người đã muốn tôi thành ra như vậy. hồi xưa mấy người không hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ thật, rốt cuộc đây chỉ là lỗi của mấy người”.

- Và tại sao Chúa không chấm dứt nỗi kinh hoàng khủng khiếp này?

“tôi là thế đấy. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ”.

Mila không biết phải nghĩ sao nữa. Nhưng có lẽ câu trả lời cho thắc mắc của cô nằm ở cuối bức thư.

Một cái tên.

“RONALD”.

Cô cần phải lập tức kiểm tra giả thuyết của mình.
 
Chương 18


Tuyết rơi xuống từ những đám mây màu tím trên bầu trời âm u.

Mila phải chờ ngoài đường mất bốn mươi phút mới bắt được một chiếc taxi. Khi cô cho biết nơi đến, người tài xế lắc đầu phản đối. Anh ta nói nó quá xa và do đêm tối cộng với thời tiết, anh ta sẽ không tìm được khách cho chuyến về. Khi Mila đề nghị trả gấp đôi tiền cho chuyến đi, anh ta mới đồng ý.

Trên đường, một lớp tuyết dày nhiều centimet đã hình thành, khiến việc rắc muối thành ra vô ích. Người ta chỉ có thể lưu thông với bánh xe quấn xích, việc này làm hạn chế tốc độ rất nhiều. Bên trong xe taxi bốc mùi. Mila để ý thấy phần còn lại của một chiếc bánh mì Thổ Nhĩ Kỳ kẹp hành tây để trên ghế hành khách phía trước. Mùi của nó trộn lẫn với mùi thông trong chai khử mùi đặt trước quạt thổi của máy sưởi. Một sự tiếp đón không mấy niềm nở đối với hành khách.

Trong khi xe băng qua thành phố, Mila sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu. Cô chắc chắn lý luận của mình là đúng, và càng gần nơi cần đến, sự tin tưởng của cô càng mạnh hơn. Cô đã định gọi cho giáo sư Gavila để nhận được một sự khẳng định, nhưng điện thoại của cô sắp cạn pin đến nơi. Cô sẽ dời cuộc gọi đến thời điểm tìm ra điều mình cần.

Họ băng qua khu vực đặt trạm thu phí của xa lộ. Một đội cảnh sát tuần tra đang chặn dòng xe trước trạm, yêu cầu quay đầu.

- Tuyết quá dày, đường đi rất nguy hiểm! - Các cảnh sát liên tục nhắc đi nhắc lại với các tài xế.

Nhiều chiếc xe tải kéo đang dừng bên đường, với hy vọng có thể tiếp tục hành trình vào sáng hôm sau. Xe taxi chạy vào một tỉnh lộ để tránh chốt chặn. Có thể đến được cô nhi viện mà không cần đi bằng quốc lộ. Ngày xưa có lẽ đó là con đường duy nhất, và rất may người lái taxi biết đến nó.

Chiếc taxi thả Mila xuống gần cánh cổng. Cô không nghĩ đến việc đưa thêm tiền và bảo tài xế chờ mình. Cô tin mình không nhầm, và các đồng đội của cô sẽ lại kéo đến nơi này.

- Cô không muốn tôi ở lại đây cho đến khi cô xong việc à? - Anh tài xế hỏi khi trông thấy tình trạng hoang vắng của khu vực.

- Không, cám ơn, anh có thể đi.

Anh ta không nài nỉ, mà chỉ nhún vai rồi quay đầu xe, để lại phía sau một thoáng mùi bánh mì kẹp hành.

Mila trèo qua cổng, lội bộ qua hỗn hợp bùn và tuyết trên con đường đất. Cô biết các cảnh sát đã rút đi theo lệnh của Roche. Cả chiếc xe cắm trại lưu động cũng đã ra đi. Nơi này chẳng còn gì hấp dẫn cho cuộc điều tra nữa.

Cho đến đêm nay, cô thầm nghĩ.

Cô đã đến cửa chính, nhưng sau khi bị đội đặc nhiệm phá khóa, giờ nó đã được thay ổ khóa mới. Cô quay sang phía nhà xứ để nhìn xem liệu cha Timothy có còn thức hay không.

Đã đi đến tận đây, cô không còn lựa chọn nào khác.

Mila tiến về phía nhà của cha xứ. Cô gõ cửa một lúc. Cuối cùng một ô cửa sổ ở tầng hai bật mở, cha Timothy ló đầu ra.

- Ai đó?

- Thưa cha, tôi là cảnh sát. Chúng ta đã từng gặp mặt. Cha còn nhớ không?

Cha Timothy cố gắng nhìn ra cô cảnh sát giữa những bông tuyết rơi dày đặc.

- À, tất nhiên rồi. Cô cần gì vào cái giờ khuya khoắt này? Tôi tưởng các cô đã kết thúc công việc ở đây...

- Tôi biết. Mong cha thứ lỗi, nhưng tôi cần xác minh một vài điều trong xưởng giặt. Cha có thể cho tôi mượn chìa khóa được không ạ?

- Được, để tôi xuống.

Vài phút sau, khi Mila bắt đầu sốt ruột tự hỏi cha Timothy làm gì mà lâu đến thế thì có tiếng mở then cửa. Cha Timothy xuất hiện, quấn mình trong chiếc áo khoác len đã sờn ở hai cùi chỏ, khuôn mặt vẫn giữ vẻ hiền hậu như thường ngày.

- Cô lạnh run rồi kìa.

- Xin cha đừng lo.

- Cô hãy vào trong sưởi ấm một chút trong lúc tôi tìm chìa khóa. Cô biết đấy, cảnh sát các cô đã làm xáo trộn chỗ này hết cả.

Mila theo cha xứ vào trong nhà. Sự ấm áp lập tức khiến cô cảm thấy dễ chịu.

- Tôi sắp sửa đi ngủ.

- Tôi xin lỗi.

- Không sao. Cô uống trà nhé? Tôi luôn uống ít trà trước khi đi ngủ. Nó làm tôi thư giãn.

- Thôi ạ, cám ơn cha. Tôi muốn quay về càng sớm càng tốt.

- Cứ uống một chút đi, cô sẽ thấy khỏe hơn. Trà đã pha rồi, chỉ việc rót ra thôi mà. Trong lúc đó tôi sẽ đi tìm chìa khóa.

Cha Timothy rời phòng. Mila tiến về phía nhà bếp theo hướng cha đã chỉ. Quả thực ấm trà đang đặt trên bàn. Mùi trà bốc lên theo hơi nước nóng, khiến cô không thể cưỡng lại được. Cô rót một tách, thêm vào thật nhiều đường. Cô nhớ lại món trà nguội ngắt kinh khủng mà Feldher đã cố gài cho cô và Boris uống, trong căn nhà phế thải của hắn ta. Cô tự hỏi hắn lấy nước pha trà từ nguồn nào.

Cha Timothy quay lại với một chùm chìa khóa to và bắt đầu lần tìm chiếc chìa cần thiết.

- Giờ thì cô khỏe hơn rồi chứ? - Cha mỉm cười, hài lòng vì đã thấy cô uống trà.

Mila cười đáp lễ.

- Vâng ạ.

- Đây, chắc là cái chìa này, để mở cánh cửa lớn... Cô có muốn tôi đi cùng không?

- Thôi ạ, cám ơn cha. - Mila trả lời trong sự nhẹ nhõm của cha xứ. - Nhưng tôi có việc này cần nhờ cha giúp.

- Tôi nghe đây.

Mila chìa ra một tấm thẻ.

- Nếu trong một tiếng đồng hồ tôi không quay lại, cha hãy bấm số điện thoại này để gọi trợ giúp.

Cha Timothy tái mặt.

- Tôi tưởng chẳng còn nguy hiểm nào nữa.

- Chỉ là một biện pháp cẩn trọng thôi ạ. Thật ra, tôi không nghĩ sẽ có chuyện gì xảy ra đâu. Chỉ là tôi không chắc mình định hướng tốt trong tòa nhà lớn, nhỡ mà gặp tai nạn... Thêm nữa, trong ấy chẳng có đèn đuốc gì.

Nói xong câu vừa rồi, cô nhận ra mình đã không lường trước vấn đề này. Làm thế nào đây? Điện thì không có, máy nổ để chạy đèn chắc chắn đã được mang đi cùng các thiết bị khác.

- Chết thật! - Cô buột miệng. - Cha có đèn pin không ạ?

- Tôi rất tiếc... Nhưng nếu cô có điện thoại di động, cô có thể dùng ánh sáng của màn hình.

Mila đã không nghĩ ra chuyện đó.

- Cám ơn cha.

- Không có chi.

Ngay sau đó, Mila lại bước ra màn đêm lạnh giá, trong khi cha Timothy cài then cửa lại đằng sau cô, từng cái một.

Cô leo lên con dốc nhỏ và đứng trước cửa cô nhi viện. Cô đút chìa vào trong ổ khóa, nghe thấy tiếng lách cách vang dội trong gian phòng phía bên kia cánh cửa. Cô đẩy mở cánh cửa đồ sộ, trước khi đóng nó lại sau lưng.

Cô đã ở bên trong cô nhi viện.

Những con bồ câu trên cửa sổ áp mái chào đón cô bằng tiếng đập cánh loạn xạ. Màn hình điện thoại của cô phát ra một thứ ánh sáng xanh nhạt, chỉ cho phép cô ghi nhận một khoảng không gian nhỏ trước mặt. Quả cầu ánh sáng đó bị bao bọc bởi bóng tối dày đặc, sẵn sàng xâm chiếm nó vào bất cứ lúc nào. Mila cố nhớ lại lộ trình đi xuống xưởng giặt. Rồi cô bắt đầu bước đi.

Tiếng những bước chân của cô phá tan sự im lặng. Hơi thở của cô ngưng đọng trong bầu không khí lạnh giá. Rất nhanh chóng, cô tìm thấy nhà bếp và nhận ra hình dáng của những cái vạc lớn bằng sắt. Sau đó cô băng qua phòng ăn, cẩn thận luồn tránh những chiếc bàn phủ formica. Hông cô va phải một chiếc bàn, làm rơi một trong số mấy cái ghế xếp trên đó. Tiếng ồn cộng thêm tiếng vang to váng óc. Trong khi xếp lại mọi thứ, Mila nhìn thấy một lối đi dẫn xuống tầng dưới qua chiếc cầu thang xoắn chật hẹp. Cô chui vào trong đoạn ruột đó và chầm chậm bước xuống những bậc thang đã bị năm tháng làm cho trơn tuột.

Cô xuống đến xưởng giặt.

Cô soi điện thoại di động để quan sát chung quanh. Trong bồn giặt bằng đá nơi thi thể Anneke được tìm thấy, ai đó đã đặt một bông hoa. Mila lại nhớ đến màn cầu nguyện tập thể tại đây.

Cô bắt tay vào tìm kiếm.

Trước tiên cô nhìn dọc theo các vách tường, sau đó lướt tay theo các chân tường. Không có gì. Cô tránh không nghĩ đến việc pin của điện thoại di động còn cầm cự được bao nhiêu thời gian nữa, không phải vì viễn cảnh phải quay ra trong bóng tối, mà chủ yếu là vì không có ánh sáng yếu ớt của nó, cô sẽ mất nhiều thời gian hơn. Sau một tiếng cha Timothy sẽ gọi cứu viện, và cô sẽ trở nên kém cỏi trong mắt người khác. Cần phải nhanh chóng hơn.

Nó ở đâu nhỉ? Cô nghĩ bụng. Mình biết nó ở đâu đó trong này mà...

Đột nhiên một tiếng động rất lớn vang lên khiến Mila thót tim. Cô mất một lúc mới nhận ra đó là tiếng chuông điện thoại của mình.

Cô nhìn màn hình và trông thấy cái tên Goran trên đó.

Đeo tai nghe vào, cô bắt máy.

- Trong studio không có ai cả sao? Tôi đã gọi cả chục cuộc mà không ai nhấc máy.

- Boris và Stern đã ra ngoài, nhưng lẽ ra Sarah phải có mặt ở đó chứ.

- Thế còn cô, cô đang ở đâu vậy?

Mila tự nhủ giờ không phải là lúc nói dối. Mặc dù chưa hoàn toàn chắc chắn về suy đoán của mình, cô vẫn quyết định nói luôn.

- Tôi nghĩ Ronald đã nghe lỏm chúng ta tối hôm trước.

- Điều gì khiến cô nghĩ như vậy?

- Tôi đã so sánh bức thư của hắn với những câu hỏi mà ông đặt ra trong lời cầu nguyện. Phải nói bức thư đúng là những câu trả lời...

- Một suy luận rất tốt.

Nhà tội phạm học không tỏ ra ngạc nhiên. Có lẽ ông cũng đã đi đến kết luận giống cô. Mila cảm thấy hơi ngu ngốc vì đã tưởng mình sẽ làm ông bất ngờ.

- Nhưng cô chưa trả lời câu hỏi của tôi. Cô đang ở đâu vậy?

- Tôi đi tìm cái micro.

- Micro nào?

- Cái mà Ronald đã bí mật gắn lại trong xưởng giặt.

- Cô đang ở cô nhi viện hả?

Giọng của Goran bắt đầu trở nên lo lắng.

- Phải.

- Cô hãy ra khỏi đó ngay.

- Sao vậy?

- Mila, chẳng có micro nào hết!

- Nhưng tôi tin chắc là...

Goran ngắt lời:

- Nghe tôi nói đây, họ đã rà soát kỹ khu vực đó, nếu có micro thì họ phải phát hiện ra nó rồi.

Mila thấy mình ngu ngốc thực sự. Giáo sư tội phạm học nói có lý: cô có thể nông cạn đến mức không nghĩ ra chuyện đó hay sao? Đầu cô toàn là bã đậu trong đó à?

- Vậy hắn đã làm thế nào để...

Mila bỏ lửng câu nói. Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo sống lưng cô.

Hắn đã ở đây.

- Màn cầu nguyện chỉ là chiêu dụ rắn ra khỏi hang!

Sao mình không nghĩ ra chuyện đó nhỉ?

- Mila, ra khỏi đó mau, vì lòng kính Chúa!

Lúc đó cô mới ý thức được nguy cơ trước mắt. Cô rút súng, nhanh chóng quay ngược ra cửa chính nằm cách chỗ mình đang đứng ít nhất là hai trăm mét. Một khoảng cách lớn khủng khiếp, với sự hiện diện của “hắn” ở trong cô nhi viện này.

Là ai nhỉ? Mila tự hỏi trong khi đi theo cầu thang xoắn lên phòng ăn.

Khi cảm thấy sức mạnh của đôi chân bắt đầu rời bỏ mình, cô đã có câu trả lời. Nước trà...

Tín hiệu quá yếu, trong điện thoại vang lên những tiếng xì xẹt. Cô nghe thấy tiếng Goran hỏi trong tai nghe:

- Cái gì?

- Cha Timothy là Ronald, phải không ạ?

Xì xẹt Tiếng động. Lại xì xẹt.

- Phải! Sau cái chết của Billy Moore, cha Rolf đã gửi tất cả mọi người đi chỗ khác trước thời điểm cô nhi viện bị đóng cửa chính thức. Trừ hắn. Cha đã giữ hắn lại, vì ông sợ bản chất của hắn và hy vọng có thể kiểm soát được hắn.

- Tôi nghĩ hắn đã... thuốc tôi.

Giọng nói của Goran nghe lúc được lúc mất.

- … bảo sao? Tôi không h...

- Tôi nghĩ… - Mila cố gắng lặp lại, nhưng các từ ngữ cứ dính trong cổ họng cô không chịu thoát ra.

Cô ngã chúi.

Tai nghe điện thoại văng ra. Chiếc di động tuột khỏi tay cô và trượt vào dưới gầm một cái bàn. Nhịp tim cô tăng lên do nỗi sợ hãi và càng khiến cho thuốc khuếch tán trong cơ thể cô. Các giác quan của cô trơ ì ra. Tuy vậy cô vẫn còn nghe thấy tiếng Goran phát ra từ chiếc tai nghe nằm cách mình vài mét:

- Mila! Mila!... lời tôi đi! Có chuyện... vậy?

Cô nhắm mắt, kinh hoàng trước ý nghĩ rằng cô sẽ không bao giờ mở mắt được nữa. Rồi cô tự nhủ mình không thể chết trong một cái nơi như thế này.

Adrenalin... Mình cần adrenalin...

Cô biết cần tìm nó như thế nào. Tay phải cầm chắc khẩu súng, cô kê nòng súng vào vai mình, bóp cò. Viên đạn xé toang lớp da áo khoác và xuyên vào thịt Mila. Tiếng nổ vang dội chát chúa trong cái vực thẳm bao quanh cô. Mila hét lên đau đớn và tỉnh lại.

Goran thét gọi tên cô.

- MILA!

Cô trườn về phía phát ra ánh sáng màn hình di động, bắt lấy nó rồi trả lời:

- Mọi chuyện vẫn ổn.

Mila đứng dậy và bắt đầu bước. Cô phải nỗ lực kinh khủng mới bước được một bước. Cô thấy như mình đang ở trong giấc mơ, khi bị người khác đuổi theo mà không làm cách nào chạy được, vì hai chân cứ nặng như bị nhúng ngập đến gối trong một thứ chất lỏng đặc quánh.

Vết thương của cô nhức nhối, nhưng cô không bị mất quá nhiều máu. Cô đã tính đường đạn rồi. Nghiến chặt răng, cô bước từng bước. Lối ra đang mỗi lúc một gần hơn.

- Nếu ông đã biết mọi chuyện, tại sao ông không bắt ngay thằng khốn nạn đó? - Mila hét vào trong điện thoại. - Và tại sao tôi không được thông báo?

Giọng nói của nhà tội phạm học đã rõ ràng trở lại.

- Tôi xin lỗi. Chúng tôi muốn cô tiếp tục cư xử một cách tự nhiên với hắn để không gây nghi ngờ. Chúng tôi đã đặt các thiết bị dò tìm trong xe hơi của hắn. Chúng tôi đã hy vọng hắn sẽ đưa ta đến chỗ của bé gái số sáu...

- Nhưng hắn đã không làm thế...

- Vì hắn không phải Albert.

- Nhưng hắn vẫn nguy hiểm chứ?

Goran ngừng một lúc khá lâu. Rất lâu.

- Tôi đã báo động. Một nhóm đang đến. Nhưng sẽ mất thời gian đấy. Vùng kiểm soát quanh đó có bán kính hai cây số.

Dù gì thì cũng đã quá muộn, Mila nghĩ bụng. Với thời tiết xấu như thế này, cộng thêm lượng thuốc chạy trong cơ thể làm bào mòn sức lực, cô hết hy vọng rồi. Cô biết. Đáng lẽ cô phải nghe theo lời của người lái taxi khi anh ta thuyết phục cô bỏ ý định đến đây. Nhưng - khốn nạn thật - tại sao cô không chịu chấp nhận khi anh ta đề nghị ở lại đợi kia chứ? Vì cô dị ứng với cái mùi hành trong xe, thế đấy! Và giờ thì cô đang kẹt trong bẫy. Cô tự chui đầu vào, có lẽ cũng vì một phần trong cô muốn điều đó, một cách vô thức. Cô thích liều mạng. Thậm chí mất mạng!

Không! Mình muốn sống.

Ronald, hay cha Timothy, còn chưa động thủ. Nhưng cô chắc chắn mình không còn nhiều thời gian nữa.

Ba tiếng bíp lôi cô ra khỏi dòng suy nghĩ.

- Chết rồi. - Cô buột miệng khi chiếc điện thoại cạn pin.

Bóng tối chụp lấy cô như một bàn tay vô hình.

Đã bao nhiêu lần cô bị mắc bẫy như thế này? Nó đã từng xảy ra. Chẳng hạn như vụ ở nhà thầy dạy nhạc. Nhưng đã bao giờ cô rơi vào hoàn cảnh tệ hại đến mức này? Câu trả lời khiến cô sững người.

Chưa bao giờ.

Bị đánh thuốc, bị thương, kiệt sức và không còn điện thoại di động. Nghĩ về khoản cuối cùng ấy, cô chỉ muốn bật cười: liệu cô có thể làm gì nếu còn pin điện thoại đây? Chắc là gọi một cô bạn cũ. Graciela chẳng hạn. Và hỏi cô ấy: “Cậu ổn không? Còn tớ thì chết đến nơi rồi đây này!”

Điều tệ nhất là bóng tối. Nhưng cô cũng có thể coi nó như một lợi thế: nếu cô không thể nhìn thấy Ronald thì hắn cũng đâu thể thấy cô.

Hắn đang đợi mình bước ra ngoài...

Quả thực, cô chỉ có một mong muốn duy nhất là ra khỏi chỗ này. Nhưng cô thừa biết mình không nên nghe theo bản năng, nếu không muốn chết.

Mình cần phải nấp kỹ và đợi cứu viện đến.

Mila thấy đó là quyết định khôn ngoan nhất. Bởi cô có thể lịm đi bất cứ lúc nào. Có khẩu súng, cô cũng an tâm phần nào. Biết đâu hắn cũng có vũ khí. Nhưng Ronald xem vẻ không giỏi về khoản dùng vũ khí, chí ít cũng không giỏi bằng cô. Tuy vậy, có thể hắn chỉ đóng vai một cha xứ Timothy nhút nhát và sợ sệt. Suy cho cùng, có thể hắn đang che giấu những năng lực khác của mình.

Mila co người lại bên dưới một chiếc bàn trong gian phòng ăn mênh mông, nghe ngóng. Tiếng vang không giúp gì được cho cô. Nó khuếch đại những âm thanh không cần thiết, những tiếng cót két xa xăm ma quái, lừa mị mà cô không thể lý giải được. Mí mắt cô bắt đầu cụp xuống.

Hắn không thể thấy mình. Hắn không thể thấy được mình. Cô tự nhắc đi nhắc lại trong đầu. Hắn biết mình có vũ khí. Nếu hắn gây tiếng động và sử dụng đèn pin để tìm kiếm mình, hắn coi như tiêu đời.

Những màu sắc quái dị bắt đầu nhảy múa trước mắt Mila.

Chắc là do thuốc. Cô tự nhủ.

Các vệt màu sắc biến thành những hình thù nhảy múa. Đó không thể là do cô tưởng tượng ra. Trên thực tế, chúng giống như những tia chớp bất thần lóe lên ở nhiều chỗ khác nhau trong phòng.

Thằng khốn nạn đang ở đây. Hắn dùng đèn flash!

Mila cố nhắm bắn. Nhưng những chớp sáng chói mắt cộng thêm tác động làm suy yếu của thuốc khiến cô không thể tìm được mục tiêu.

Cô đã bị cầm tù trong một cái kính vạn hoa khổng lồ.

Cô lắc đầu, nhưng không còn kiểm soát được mình nữa. Một giây sau cô cảm thấy luồng run rẩy chạy qua tay và chân, như thể một cơn động kinh không thể kiểm soát. Khi cô cố dừng nó lại, ý nghĩ về cái chết tiếp tục quyến rũ cô với lời hứa hẹn rằng nếu cô nhắm mắt, tất cả sẽ chấm hết. Mãi mãi.

Bao nhiêu thời gian đã trôi qua? Nửa giờ? Mười phút? Còn bao nhiêu lâu nữa?

Ngay lúc đó, cô nghe thấy hắn.

Hắn đang ở gần, rất gần. Cách cô bốn hay năm mét, không hơn.

Rồi cô thấy hắn.

Chuyện đó chỉ kéo dài chưa đầy một giây. Trong vùng ánh sáng bao quanh hắn, cô chỉ kịp nhìn thấy nụ cười ghê rợn trên gương mặt hắn. Mila biết hắn sẽ phát hiện ra cô vào bất cứ lúc nào, và cô không còn đủ sức để bắn hắn nữa. Do đó cô phải hành động ngay, dù có nguy cơ bị lộ.

Cô nhắm bắn trong bóng tối, chĩa nòng súng về nơi cô nghĩ hắn sẽ tái xuất hiện trong ánh chớp đèn flash. Cũng có nghĩa là một chỗ ngẫu nhiên, nhưng cô còn lựa chọn nào khác đâu.

Cô vừa định bóp cò thì Ronald bắt đầu cất tiếng hát. Vẫn giọng hát tuyệt vời của cha Timothy lúc hát bài thánh ca trước sự chứng kiến của cả nhóm điều tra. Thật nghịch lý và sai lầm khi một năng khiếu như thế lại nằm trong trái tim lạnh lùng của một kẻ sát nhân. Và từ trái tim đó cất lên khúc hát chết chóc rợn người.

Lẽ ra nó có thể dịu dàng và cảm động. Nhưng Mila chỉ cảm thấy hãi hùng. Hai chân cô nhũn ra, cũng giống như các bắp thịt nơi cánh tay. Người cô trượt xuống sàn.

Ánh chớp đèn flash lóe lên.

Trạng thái lơ mơ phủ lên cô như một tấm chăn lạnh. Cô nghe thấy tiếng bước chân của Ronald đang tiến lại gần để lôi cô ra.

Lại một ánh chớp nữa.

Hết rồi. Hắn sẽ nhìn thấy mình.

Thật ra, phương thức giết người của hắn không quan trọng mấy đối với Mila. Cô buông xuôi trước lời nịnh nọt của cái chết với một sự bình thản không ngờ. Những ý nghĩ sau cuối của cô là dành cho bé gái số sáu.

Mình sẽ không bao giờ biết được tên của em...

Một ánh chớp phủ trùm lên toàn bộ cơ thể cô.

Khẩu súng bị tước mất khỏi tay cô. Hai bàn tay tóm lấy cô. Mila cảm thấy mình bị nhấc lên. Cô cố nói điều gì đó, nhưng âm thanh cứ mắc kẹt lại trong cổ họng.

Cô ngất đi.

Mila thức dậy khi cảm thấy cơ thể mình nhấp nhô theo nhịp: Ronald đang vác cô trên vai và trèo lên các bậc thang.

Cô lại ngất một lần nữa.

Mùi amoniac rất nồng lôi Mila ra khỏi giấc ngủ nhân tạo. Ronald đang lắc một cái lọ nhỏ trước mũi cô. Hắn đã trói tay cô nhưng muốn cô tỉnh lại.

Cơn gió lạnh lẽo thổi vào mặt cô. Họ đang ở ngoài trời. Nhưng ở đâu? Mila cảm thấy mình đang ở trên cao. Rồi cô nhớ đến tấm ảnh chụp cô nhi viện phóng to mà bác sĩ Chang đã cho cô xem để chỉ rõ nơi Billy Moore đã rơi xuống.

Cái tháp. Mình đang ở trên tháp!

Ronald quay đi trong một thoáng. Mila nhìn thấy hắn tiến đến gờ tường và nhìn xuống phía dưới.

Hắn muốn quăng mình xuống đó!

Ronald quay lại, túm lấy chân Mila và kéo cô đến gờ tường. Dùng chút sức tàn còn sót lại, Mila cố đá chân nhưng vô hiệu.

Cô thét lên, giãy giụa. Nỗi tuyệt vọng dâng ngập hồn cô. Hắn nhấc cô lên, gác người cô nằm ngửa lên gờ tường. Đầu ngả ra đằng sau, Mila trông thấy cái hốc đen ngòm phía dưới. Rồi qua làn tuyết, cô nhận thấy những ánh đèn xe cảnh sát đang lao đến trên xa lộ.

Ronald ghé sát vào tai Mila. Cô cảm thấy hơi thở ấm nóng khi hắn thì thầm:

- Muộn quá rồi, chúng không còn thời gian nữa...

Rồi hắn đẩy cô. Mặc dù hai tay đang bị trói sau lưng, Mila vẫn bíu được gờ tường trơn tuột. Cô dùng hết sức để chống lại cú đẩy, nhưng cô biết mình không thể cầm cự lâu được. Đồng minh duy nhất của cô là lớp băng phủ trên nền tháp. Nó khiến cho hai bàn chân của Ronald trượt đi khi hắn tìm điểm tựa để đẩy cô ra khỏi gờ tường. Cô nhìn thấy khuôn mặt của hắn nhăn nhúm lại vì gắng sức. Rồi hắn nổi xung lên trước sự kháng cự kiên cường của nạn nhân. Hắn thay đổi chiến thuật và quyết định nâng chân cô qua gờ tường. Hắn đứng thẳng người lên ngay trước mặt cô. Đúng vào lúc đó, bản năng sống còn đã giúp Mila dồn mọi sức lực còn lại để thúc đầu gối vào bụng dưới gã đàn ông.

Ronald lảo đảo lùi lại, há miệng thở, hai tay ôm lấy phần giữa hai chân. Mila nhận ra đây là cơ hội duy nhất của mình trước khi hắn kịp hồi phục.

Không còn sức mạnh, đồng minh duy nhất của cô là trọng lực.

Vết thương nơi vai đau xé ruột nhưng cô mặc kệ. Cô gượng dậy. Bây giờ lớp băng trơn trượt chống lại cô, nhưng cô vẫn lấy đà lao vào Ronald, khiến hắn mất thăng bằng. Hắn vung tay tìm điểm tựa, nhưng lúc này một nửa thân người hắn đã nằm ở ngoài gờ tường.

Khi nhận ra không còn cơ hội thoát chết, Ronald vươn một bàn tay ra định túm lấy Mila và kéo cô rơi xuống cùng. Cô nhìn thấy những ngón tay của hắn lướt qua ve áo khoác da của mình, rồi hắn từ từ rơi xuống, như thể những bông tuyết đã làm cho cú ngã chậm lại.

Bóng tối nuốt chửng lấy hắn.
 
Chương 19


Tối đen như mực.

Vách ngăn tuyệt đối giữa ngủ và thức. Cơn sốt trở nặng. Con bé cảm thấy điều đó ở đôi má ửng hồng, đôi chân đau nhức và cái dạ dày sôi sục.

Nó không xác định được ngày đêm. Không rõ mình đã nằm đó được vài giờ hay vài tuần. Khái niệm thời gian không tồn tại trong cái bụng của con quái vật đã nuốt chửng nó vào: thời gian cứ hết co vào rồi lại giãn ra, giống như một cái dạ dày đang chầm chậm tiêu hóa bữa ăn. Một cách vô ích. Ở đây, thời gian chẳng dùng để làm gì được. Bởi vì nó không thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất.

Bao giờ thì chuyện này chấm dứt?

Bị tước đi khái niệm thời gian là sự trừng phạt kinh khủng nhất. Hơn cả cơn đau nơi cánh tay trái thỉnh thoảng lại lan đến cổ và dồn ép lên thái dương khiến con bé không chịu nổi. Bởi giờ nó đã rõ một điều.

Tất cả chuyện này là một đòn trừng phạt

Tuy vậy, nó không dám chắc mình bị phạt vì tội gì.

Chắc tại mình không nghe lời bố mẹ, hay vòi vĩnh, không chịu uống sữa mà lén đổ đi khi bố mẹ không để ý. Mình đòi bố mẹ mua một con mèo và hứa sẽ chăm sóc nó, nhưng khi đã có Houdini thì mình lại đòi một con chó làm bố mẹ nổi trận lôi đình. Bố mẹ bảo không thể bỏ con mèo đi, còn mình thì cứ cố công giải thích cho họ hiểu là Houdini không ưa mình. Cũng có thể tại điểm số của mình không tốt. Năm nay bảng tổng kết học kỳ đầu của mình đúng là thảm họa, mình phải thi lại môn địa lý và vẽ. Hoặc là tại vì ba điếu thuốc lá mình đã lén hút trên nóc phòng tập thể thao cùng với ông anh họ, nhưng mình đâu có hít khói vào phổi. Chắc có lẽ vì mấy cái kẹp tóc hình con bọ rùa mà mình đã lấy cắp ở trung tâm thương mại, mình thề là mình chỉ ăn cắp đúng một lần duy nhất. Cũng tại mình cứng đầu nữa, nhất là khi mẹ cứ muốn chọn váy áo cho mình. Mẹ không hiểu mình đã lớn và mẹ mua toàn những món mình chẳng thích, vì bây giờ mẹ với mình không cùng gu thời trang nữa...

Khi con bé tỉnh, nó đi tìm lời giải thích, tìm một nguyên nhân cho những điều đã xảy ra. Nó đã nghĩ đến những điều vô lý nhất. Nhưng cứ mỗi lần nó tưởng đã tìm ra nguyên nhân thì mọi lý lẽ lại đổ ụp như một lâu đài xây bằng những quân bài, vì sự đau đớn mà nó đang chịu quá lớn so với lỗi lầm nó đã phạm phải.

Ngược lại, đôi lúc con bé phát cáu vì bố mẹ chưa chịu đến tìm mình.

Hai người đợi cái gì mà chưa chịu đến giải thoát cho mình? Hay cả hai đã quên mất mình là con gái của họ?

Nhưng rồi nó thấy hối tiếc ngay. Nó lại thầm gọi bố mẹ trong đầu, với hy vọng có thể thần giao cách cảm. Đó là cứu cánh duy nhất còn lại của nó.

Cũng có những lúc nó tin rằng mình đã chết.

Phải, mình chết rồi, người ta đã chôn mình xuống dưới này. Thật ra mình không nhúc nhích được là vì mình đang nằm trong quan tài. Mình sẽ mãi mãi như thế này thôi…

Nhưng cơn đau lập tức nhắc nhở rằng nó còn sống. Cơn đau vừa là một án phạt, lại vừa là sự giải thoát, giúp lôi nó ra khỏi cơn mê và đưa nó trở về thực tại. Giống như lúc này.

Một thứ chất lỏng nong nóng chạy vào cánh tay phải của con bé. Nó cảm thấy thế. Thật dễ chịu. Có mùi thuốc. Ai đó đang chăm sóc nó. Nó không chắc liệu có nên vui mừng hay không. Vì chuyện này đồng nghĩa với hai điều: thứ nhất, nó không đơn độc, thứ hai, nó không rõ sự có mặt của người kia là tốt hay xấu.

Nó đã biết đợi người kia. Nó biết khi nào người ta xuất hiện. Chẳng hạn, nó đã hiểu cơn mệt mỏi và buồn ngủ mà nó gặp phải không do cơ thể nó quyết định. Đó là do một loại thuốc gây ngủ.

Chuyện đó chỉ diễn ra khi người kia xuất hiện.

Người kia ngồi gần nó, kiên nhẫn dùng một cái thìa để đút cho nó ăn. Vị của thức ăn khá ngọt và nó không cần phải nhai. Sau đó người ta cho nó uống nước. Người ta không bao giờ chạm vào nó, không đưa cho nó thứ gì hết. Nó những muốn nói chuyện, nhưng miệng nó không thốt nên lời, cổ họng nó không phát ra nổi âm thanh. Đôi khi nó cảm thấy người kia cựa quậy bên cạnh mình, nhưng có lúc nó lại có cảm tưởng người ta chỉ quan sát nó trong bất động.

Một cơn đau nữa. Tiếng thét tắc nghẹn vang dội trong các vách tường của nhà ngục đang giam giữ con bé, và làm nó tỉnh dậy.

Lúc đó nó nhận thấy một thứ.

Trong bóng tối, nó thấy một ánh sáng yếu ớt ở phía xa. Một chấm đỏ đột nhiên xuất hiện, đánh dấu giới hạn tầm quan sát của nó. Cái gì vậy? Nó cố nhìn cho rõ hơn nhưng không làm được. Sau đó nó cảm thấy gì đó trong bàn tay phải. Một thứ trước đó không hiện diện. Nó có độ rắn không đồng đều và sần sùi, giống như có vảy. Thật tởm. Chắc chắn là một con thú chết. Con bé muốn vứt đi nhưng vật đó đã dính chặt vào lòng bàn tay của nó. Dùng chút sức lực còn lại, nó cố tống khứ vật kia đi. Nhưng khi nhúc nhắc cổ tay, nó bắt đầu hiểu ra... Đó không phải là một con thú chết. Món đồ khá rắn vì được làm bằng nhựa. Không phải dính vào lòng bàn tay của con bé mà chỉ được gắn vào đó bằng băng dính. Trên đó không có vảy, mà là các nút bấm.

Đó là một cái điều khiển từ xa.

Đột nhiên tất cả trở nên rõ ràng. Con bé chỉ cần nhấc cổ tay lên một chút, hướng món đồ về phía chấm đỏ và ấn bừa một cái nút. Một loạt tiếng động tiếp theo cho biết nó đã không nhầm lẫn. Đầu tiên là một tiếng tách. Sau đó là tiếng tua băng. Những âm thanh quen thuộc của một cái đầu máy. Đồng thời, một màn hình bật sáng trước mắt nó.

Lần đầu tiên có một nguồn sáng trong gian phòng.

Bao quanh nó là những vách tường bằng đá tăm tối. Con bé đang nằm trên một thứ nom như giường bệnh, có tay tựa và lưng dựa bằng thép. Bên cạnh nó là một cái giá treo bình dịch truyền nối với một mũi kim găm ở tay phải của nó. Cánh tay trái hoàn toàn khuất dạng sau những lớp băng quấn chặt, lớp băng này cũng cố định cả lồng ngực của nó. Trên một chiếc bàn là những hộp thức ăn cho trẻ con. Và rất nhiều, cực kỳ nhiều thuốc. Mặc dù vậy, phía sau cái ti vi vẫn là bóng tối đen ngòm không gì có thể xuyên thủng.

Rốt cuộc cuốn băng cũng đã tua xong và đột ngột dừng lại. Sau đó nó bắt đầu chạy, thật chậm rãi. Tiếng rột roẹt báo hiệu phần mở đầu của một bộ phim. Tiếp đến là tiếng nhạc vui tươi và chói gắt - âm thanh hơi bị méo. Rồi màn hình hiện lên các vệt màu. Một người đàn ông nhỏ thó mặc quần yếm màu xanh, đội mũ cao bồi xuất hiện. Ông ta có cả một con ngựa chân cao. Ông lùn cố trèo lên ngựa nhưng không được, lần nào cũng bị ngã và bị con ngựa chế giễu. Chuyện đó tiếp diễn trong khoảng mười phút. Sau đó bộ phim hoạt hình kết thúc mà không có đoạn giới thiệu ở cuối phim. Nhưng cuốn băng vẫn đều đều chạy tiếp. Khi hết băng, nó tự động tua ngược lại. Và bộ phim được phát trở lại từ đầu. Vẫn ông già đó. Vẫn con ngựa mà ông ta không tài nào leo được lên lưng. Nhưng con bé vẫn tiếp tục xem. Dù nó biết chuyện gì sẽ xảy ra với con ngựa ưa chọc ghẹo ấy.

Nó hy vọng.

Bởi đó là thứ duy nhất còn sót lại với nó. Hy vọng. Không phó thác hoàn toàn cho nỗi kinh hoàng. Có lẽ người đã chọn bộ phim hoạt hình này cho nó có một ý đồ ngược lại. Nhưng việc ông lùn kia không chịu từ bỏ mà cứ cố gắng mãi, mặc cho những cú ngã đau đớn đã tiếp thêm can đảm cho nó.

Nào, lại trèo lên nào! Nó thầm nói với nhân vật trong phim. Trước khi giấc ngủ lại ập đến với nó.

Quận xxxx

Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin

Ngày 11 tháng 12 năm hiện hành

Kính gửi: Ngài giám đốc, Alphonse Bérenger

Nhà tù tối mật, quận xxxx

Trại giam số 45

Tiêu đề: Phúc đáp báo cáo “mật” ngày 23 tháng 11

Thưa ông Bérenger,

Theo yêu cầu của ông, tôi đã cho điều tra thêm về đối tượng hiện bị giam giữ trong trại giam của ông và cho đến hiện tại chỉ được điểm danh bằng số hiệu RK-357/9. Tôi lấy làm tiếc phải thông báo với ông rằng các cuộc điều tra sâu hơn về danh tính của hắn không mang lại bất kỳ kết quả nào.

Tôi nhất trí với nghi ngờ của ông rằng phạm nhân RK-357/9 có thể đã gây ra một tội ác nghiêm trọng trước đây và đang làm mọi cách để che giấu chuyện đó. Ở thời điểm hiện tại, việc xét nghiệm ADN của hắn là phương tiện duy nhất chúng ta có để khẳng định hoặc loại trừ nghi ngờ trên.

Tuy nhiên, như ông đã biết, chúng ta không thể ép buộc phạm nhân RK-357/9 thực hiện cuộc xét nghiệm này. Trên thực tế, điều đó sẽ khiến chúng ta xâm phạm nghiêm trọng các quyền lợi của hắn, vượt quá mức độ cho phép của hành vi vi phạm đã khiến hắn bị bắt giữ (không chịu cung cấp giấy tờ cho nhân viên công lực).

Tình thế sẽ khác đi nếu như có những bằng chứng xác thực và rõ ràng cho thấy phạm nhân RK-357/9 chịu trách nhiệm về một tội ác nghiêm trọng, hoặc nếu chúng ta có “những động cơ nghiêm túc vì sự an nguy của xã hội”.

Hiện tại, điều này chưa được chứng thực.

Với các luận điểm trên, biện pháp duy nhất để chúng ta thu được ADN của hắn là việc lấy mẫu trực tiếp, với điều kiện mẫu thử hữu cơ đó đã bị rơi rớt ngẫu nhiên hoặc tự đối tượng bỏ lại trong các sinh hoạt hàng ngày của hắn.

Xét thấy cung cách vệ sinh thái quá của phạm nhân RK-357/9, văn phòng chúng tôi cho phép các quản giáo được vào khám xét trong xà lim của hắn mà không báo trước với mục đích thu lượm mẫu thử hữu cơ đã đề cập ở trên.

Hy vọng cách thức này sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu một cách hợp lý. Tôi xin gửi đến ông lời chào trân trọng.

Phó biện lý

Matthew Sedris
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom