Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20


Bệnh viện quân y R.

Ngày 16 tháng 2

- Họ thích nói gì kệ họ! Cô là một cảnh sát tốt, rõ chưa?

Trung sĩ Morexu đã lôi toàn bộ tinh thần digan của mình ra để bày tỏ sự ủng hộ với Mila. Ông chưa bao giờ nói với cô bằng giọng đau khổ như thế. Gần như kiểu cha nói với con. Tuy nhiên, cô cảm thấy mình không xứng đáng với sự ủng hộ ấy. Ông sếp đã bất ngờ gọi cho Mila ngay khi tin tức về chuyến phiêu lưu trong đêm đến trại mồ côi của cô lan ra. Họ sẽ quy trách nhiệm về cái chết của Ronald Dermis cho cô, Mila chắc chắn như thế, mặc dù đó là một cách phòng vệ chính đáng.

Cô thấy mình nằm trong một bệnh viện quân y. Roche đã khôn ngoan không chọn một bệnh viện dân sự nhằm tránh con mắt soi mói của báo chí. Vì vậy Mila được ở hẳn một khu riêng. Khi cô hỏi những người bệnh khác đâu, câu trả lời ngắn gọn cô nhận được là khu điều trị này đã được thiết kế cho việc cách ly những người bị tấn công bằng vũ khí sinh học.

Giường được dọn mỗi sáng, khăn trải giường được giặt sạch và ủi thẳng thớm. Trong khoa dược, các loại thuốc men được bổ sung nhanh chóng. Tất cả những ưu đãi này chỉ nhằm phục vụ cho duy nhất một khả năng: một thằng cha căng chú kiết nào đấy quyết định phát tán một loại virus hoặc vi khuẩn biến đổi gen tiêu diệt loài người.

Cái trò rồ dại nhất quả đất, Mila thầm nghĩ.

Vết thương nơi cánh tay của cô đã được khâu khoảng bốn chục mũi, bởi một người bác sĩ phẫu thuật tốt bụng không hề đề cập đến các vết sẹo khác của cô khi thăm khám.

- Cô không thể bị bắn ở vị trí nào nhẹ nhàng hơn nữa đâu. - Ông ta chỉ nói có thế.

- Có liên quan gì giữa virus vi khuẩn và đạn thế ạ? - Cô hỏi khích.

Ông ta chỉ bật cười.

Sau đó, một bác sĩ khác đã đến khám cho cô hai hay ba bận gì đấy, đo huyết áp và cặp nhiệt độ cho cô. Tác dụng của những loại thuốc ngủ hoạt tính mạnh mà cha Timothy đã chuốc cho cô tiêu tan sau vài tiếng đồng hồ. Thêm một liều thuốc lợi tiểu nữa là giải quyết xong vấn đề.

Mila có đầy đủ thời gian để suy nghĩ.

Cô không thể không nghĩ đến bé gái số sáu. Cô bé không có cả một bệnh viện cho mình như cô. Hy vọng lớn nhất của Mila là Albert thường xuyên gây ngủ cho cô bé. Các chuyên gia y khoa được Roche hỏi về khả năng sống sót của cô bé đều tỏ ra bi quan khi căn cứ trên mức độ thương tổn trầm trọng về thể chất và cú sốc tinh thần mà em phải chịu đựng.

Thậm chí có thể cô bé chưa nhận ra mình bị mất cánh tay, Mila thầm nghĩ. Điều này thường xảy ra cho những người bị mất cánh tay. Cô đã nghe kể về một số thương binh sau khi đã bị mất một cánh tay vẫn còn cảm giác ở đó, thậm chí lâu lâu còn cảm thấy ngứa. Các bác sĩ gọi đó là “ý thức của cánh tay ma”.

Ý nghĩ này quấy rầy cô không yên, đặc biệt là trong sự tĩnh lặng của phòng bệnh. Có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay cô thấy hối tiếc vì không có bạn bè. Sau cú điện thoại của Morexu, chẳng ai đến thăm cô, kể cả Goran, Boris hay Stern, chứ đừng nói đến Rosa. Chuyện này chỉ nói lên một điều: họ đang quyết định xem sẽ làm gì với cô, và liệu có tiếp tục giữ cô ở lại với nhóm điều tra hay không. Ngay cả khi Roche dù gì cũng là người ra quyết định cuối cùng.

Cô giận mình vì đã khờ khạo đến thế. Có lẽ cô đáng bị thất sủng. Ý nghĩ duy nhất an ủi cô là Ronald Dermis chắc chắn không phải Albert. Nếu không thì chẳng thể làm gì cho cô bé số sáu được nữa.

Nằm một mình trong phòng bệnh, Mila không biết chút gì về sự tiến triển của cuộc điều tra. Cô hỏi thăm tình hình qua người y tá phục vụ bữa sáng và được đưa cho một tờ nhật báo sau đó một lúc.

Vụ án chiếm hết sáu trang đầu. Lượng thông tin ít ỏi lọt ra ngoài được dùng đi dùng lại nhiều lần và thổi phồng hết cỡ. Mọi người đang khát thông tin. Sau khi công chúng được biết về sự tồn tại của bé gái số sáu, tinh thần đoàn kết đang dâng cao khắp cả nước, đẩy mọi người đến chỗ làm những chuyện không thể tưởng tượng được, chẳng hạn như tổ chức những buổi cầu nguyện hoặc những nhóm tương trợ. Một chiến dịch đã được phát động: “Mỗi cửa sổ một cây nến”. Những ánh nến nhỏ thể hiện sự trông chờ vào “phép màu”, và sẽ chỉ được tắt đi khi cô bé số sáu trở về với gia đình. Những người từ lâu không ngó ngàng đến ai, nay nhờ vụ án này mà được trải qua một kinh nghiệm mới về sự tiếp xúc giữa con người với con người. Họ không còn phải tìm cớ để thiết lập mối quan hệ với nhau nữa, bởi từ giờ mọi người đã có một điểm chung là sự thương cảm dành cho cô bé. Điều đó giúp họ giao tiếp được với nhau. Mọi người làm như thế ở khắp nơi: siêu thị, quán bar, trong lúc làm việc, dưới tàu điện ngầm. Trên truyền hình, dù là chương trình nào cũng chỉ nghe nhắc đến chuyện đó.

Tuy nhiên, trong số tất cả những sáng kiến đưa ra, có một điều đặc biệt đã gây tiếng vang, đến mức làm rối trí các điều tra viên.

Một khoản tiền thưởng.

Mười triệu cho bất cứ ai cung cấp thông tin giúp cứu sống bé gái số sáu. Một khoản lớn, đủ để gây tranh cãi dữ dội. Một số người tin rằng nó làm hỏng sự thể hiện của tinh thần đoàn kết. Ngược lại, số khác lại cho đó là ý tốt, nhằm giúp cho mọi việc chuyển động, bởi đằng sau tấm mặt nạ vị tha, lòng ích kỷ vẫn luôn ngự trị và có thể được khai thác bằng một khoản lợi lộc trước mắt.

Thế là, dù không nhận ra, đất nước lại một lần nữa chia rẽ.

Sáng kiến thưởng tiền đến từ quỹ Rockford. Khi Mila hỏi bà y tá ai là người đứng sau quỹ từ thiện kia, bà ta giương to mắt kinh ngạc.

- Mọi người đều biết đó là ngài Joseph B. Rockford.

Phản ứng của bà y tá làm Mila hiểu cô đã tự cắt đứt với thế giới bên ngoài đến mức nào khi đắm mình vào những cuộc truy tìm bọn trẻ mất tích và tìm kiếm lời giải cho các vấn đề của bản thân.

- Tôi xin lỗi, tôi không biết. - Cô đáp.

Mila cảm thấy thật vô lý khi đường đời của một nhà tài phiệt và một cô bé vô danh giao nhau. Hai con người cho đến thời điểm này có hai cuộc sống quá khác biệt, và họ có lẽ sẽ tiếp tục con đường của riêng mình cho đến điểm kết thúc nếu như Albert không đưa họ xích lại gần nhau.

Với suy nghĩ ấy, cô thiếp đi, và tận hưởng một giấc ngủ không mộng mị, giúp tẩy sạch những ngày kinh hoàng vừa qua khỏi đầu cô. Sau khi thức giấc một cách thư thái, cô thấy mình không đơn độc.

Goran đang ngồi cạnh giường cô.

Mila ngồi dậy, tự hỏi nhà tội phạm học đã ở đó được bao lâu rồi. Ông vội trấn an cô:

- Tôi thích đợi hơn là đánh thức cô dậy. Cô có vẻ rất nhẹ nhõm. Tôi có làm gì sai không đấy?

- Không. - Cô nói dối. Thật ra, giáo sư làm cô bất ngờ vào lúc không có sự phòng bị nào cả. Trước khi ông nhận thấy sự bối rối của cô, Mila vội đổi chủ đề câu chuyện. - Họ muốn giữ tôi ở đây để theo dõi. Nhưng tôi đã nói là chiều nay tôi sẽ ra viện.

Goran nhìn đồng hồ.

- Thế thì cô phải nhanh lên. Tối đến nơi rồi đấy.

Mila không nhận ra mình ngủ nhiều đến thế.

- Có tin gì mới không ạ?

- Tôi vừa mới có một buổi họp khá dài với chánh thanh tra Roche.

Vậy ra đây là lý do khiến ông ta đến, cô nghĩ bụng. Ông ta muốn đích thân thông báo rằng cô không còn ở trong nhóm điều tra nữa. Nhưng hóa ra cô nhầm.

- Chúng tôi đã tìm ra cha Rolf.

Mila thấy bụng quặn lên. Cô nghĩ đến khả năng xấu nhất.

- Ông ta đã chết cách đây khoảng một năm, chết tự nhiên.

- Ông ấy được chôn ở đâu?

Nghe đến đây, Goran hiểu Mila đã đoán ra mọi chuyện.

- Phía sau nhà thờ. Ở đó còn những cái hố khác, chôn nhiều xác động vật.

- Cha Rolf đã đem xuống mồ cùng ông ấy một vài bí mật nho nhỏ.

- Có vẻ như thế thật. Ronald bị chứng rối loạn nhân cách. Đó là một tên sát nhân hàng loạt đang hoàn thiện mình, và cha Rolf biết điều đó. Việc giết thú vật rất điển hình trong trường hợp này. Mọi thứ luôn diễn ra như vậy: khi đối tượng không còn thỏa mãn với việc giết thú, hắn chuyển mục tiêu sang đồng loại của mình. Ronald cũng thế, sớm hay muộn, sẽ chuyển sang giết người. Xét cho cùng thì việc đó đã là một phần trong vốn liếng cảm xúc từ thời ấu thơ của hắn.

- Nhưng giờ chúng ta đã chặn được hắn.

Goran lắc đầu quầy quậy:

- Không, thật ra chính Albert mới là kẻ đã ngăn chặn được hắn.

Đó là một thực tế đầy mâu thuẫn.

- Nhưng Roche thà bị lên cơn đau tim còn hơn chấp nhận chuyện này!

Mila nghĩ giáo sư Goran đang tìm cách trì hoãn việc công bố chuyện cô bị loại khỏi cuộc điều tra, nên cô nói thẳng toẹt luôn:

- Tôi bị đuổi rồi, phải không?

Goran tỏ ra bất ngờ.

- Sao cô lại nói thế?

- Vì tôi đã làm một chuyện ngu ngốc.

- Chúng ta ai chẳng từng dại dột.

- Tôi đã gây ra cái chết của Ronald Dermis, vậy là chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được Albert đã tìm ra vụ này như thế nào...

- Trước tiên, tôi tin rằng Ronald đã dự trù trước cái chết của mình. Hắn muốn chấm dứt những gì đã hành hạ hắn từ nhiều năm nay. Cha Rolf đã biến hắn thành một thầy tu giả hiệu, thuyết phục Ronald rằng hắn có thể sống như một người phụng sự Chúa và đồng loại. Nhưng hắn lại không muốn yêu thương đồng loại: hắn muốn giết người để tìm thú vui.

- Vậy còn Albert, làm thế nào gã biết được?

Khuôn mặt của Goran bỗng sa sầm.

- Hẳn gã đã tiếp xúc với Ronald ở một thời điểm nào đó. Tôi chưa thể nghĩ ra được cách lý giải khác. Gã đã hiểu ra điều mà cha Rolf đã biết trước đó. Và gã tìm đến vì có nhiều điểm chung với Ronald. Theo cách nào đó, chúng đã tìm thấy nhau và nhận ra nhau.

Mila thở dài, nghĩ đến định mệnh. Chỉ có hai người hiểu được Ronald Dermis trong suốt cuộc đời của hắn. Một là cha xứ, người không tìm được giải pháp nào tốt hơn là che giấu hắn. Một là đồng sự, kẻ có khả năng đã bóc trần chân tướng của hắn.

- Đáng lẽ cô đã là người thứ hai...

Câu nói của Goran kéo Mila ra khỏi dòng suy nghĩ.

- Sao ạ?

- Nếu cô không ngăn được hắn, Ronald đã giết cô, như đã làm với Billy Moore nhiều năm về trước.

Lúc ấy, ông rút từ túi áo trong ra một chiếc phong bì và đưa cho Mila.

- Tôi nghĩ cô có quyền xem mấy thứ này...

Mila cầm lấy phong bì và mở ra. Bên trong phong bì có những tấm ảnh Ronald đã chụp lúc truy tìm cô trong nhà ăn. Cô xuất hiện ở góc của một tấm ảnh. Co quắp dưới gầm bàn, đôi mắt đầy kinh hoàng.

- Tôi không được ăn ảnh cho lắm. - Mila cố gắng pha trò. Nhưng Goran hiểu cô đang dao động.

- Sáng nay, Roche đã giải tán đội trong hai mươi tư giờ... Hay ít ra là đến khi xác chết tiếp theo xuất hiện.

- Tôi không muốn nghỉ. Tôi muốn tìm ra cô bé số sáu. - Mila nói. - Cô bé không thể chờ đợi được.

- Tôi tin ngài chánh thanh tra biết điều đó... Nhưng ông ta đang thử chơi một con bài khác, tôi e là vậy.

- Món tiền thưởng.

- Nó có thể mang lại những kết quả bất ngờ.

- Vậy còn việc tìm kiếm trong danh sách những người hành nghề y? Còn giả thiết cho rằng Albert là một bác sĩ đã bị rút giấy phép?

- Một hướng khá phập phù. Không ai thực sự tin vào nó ngay từ đầu. Cũng như tôi không nghĩ ta có thể rút ra được gì từ việc truy tìm nguồn gốc các loại thuốc đã giúp gã duy trì sự sống cho cô bé. Tay này có cả ngàn phương cách để có được chúng. Gã rất ranh ma và có sự chuẩn bị từ trước, đừng quên điều đó.

- Kỹ càng hơn chúng ta nhiều, có vẻ như thế. - Mila đá xoáy.

Goran không phản đối.

- Tôi đến đây để đưa cô đi, không phải để tranh cãi.

- Đưa tôi đi... Giáo sư định đưa tôi đi đâu?

- Đi ăn tối... À, nhân tiện, chúng ta xứng hô bớt khách sáo đi nhé.

Sau khi rời bệnh viện, Mila đòi được tạt qua studio. Cô muốn tắm rửa và thay quần áo. Cô đã nghĩ nếu như chiếc áo phông không bị đạn xé rách và phần còn lại của trang phục không bị vấy máu, thì cô đã mặc nguyên như thế mà đi. Thực ra thì lời mời ăn tối bất ngờ khiến cô bối rối, và cô không muốn mình bốc mùi hôi hoặc mùi cồn iốt.

Thỏa thuận ngầm giữa cô với giáo sư Gavila - mặc dù từ giờ cô phải làm quen với việc gọi ông bằng tên - là chuyện này không được coi như một chuyến đi chơi, và sau bữa tối, cô sẽ lập tức quay về studio để tiếp tục công việc. Dù sao thì, ngay cả nếu như điều này khiến cho cô thấy có lỗi với bé gái số sáu, cô cũng không khỏi mừng rỡ về lời mời.

Do vết thương, Mila không tắm bằng vòi sen được. Cô chỉ có thể lau rửa cẩn thận từng chút một, đến mức hết cả bình nước nóng.

Cô mặc một chiếc áo phông cổ tròn màu đen. Chiếc quần jean còn lại nom khiêu khích vì quá bó sát, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác. Chiếc áo khoác da của cô bị rách ở vai trái, chỗ đạn bắn, nên cô không thể mặc được. Tuy vậy cô rất ngạc nhiên khi thấy trên giường mình là một chiếc áo khoác màu xanh quân đội, với một lời nhắn: “Ở đây, cái lạnh gây chết nhiều hơn súng đạn. Chào mừng cô trở lại với mọi người. Thân ái, Boris”.

Cô cảm thấy ấm lòng và biết ơn. Nhất là khi Boris tự coi mình như một “người bạn”. Điều đó khiến cô yên tâm rằng anh chàng sẽ không thử cưa cẩm mình. Trên chiếc áo khoác còn có một hộp kẹo bạc hà, đóng góp của Stern cho động thái chăm sóc thân tình này.

Đã từ nhiều năm nay, Mila không mặc gì ngoài màu đen. Nhưng chiếc áo khoác xanh lá rất hợp ý cô. Nó lại vừa nữa chứ. Khi trông thấy cô từ studio bước xuống, Goran có vẻ không nhận ra bề ngoài mới mẻ của cô. Ông lúc nào cũng lơ đễnh và chẳng chú ý gì đến vẻ ngoài của người khác.

Hai người đi bộ đến nhà hàng. Cuộc đi dạo khá dễ chịu, và nhờ món quà của Boris, Mila không bị lạnh.

Tấm biển steak house hứa hẹn món thịt bò tái Argentina mềm ngon. Họ ngồi vào một bàn dành cho hai người cạnh cửa sổ. Bên ngoài, tuyết phủ trắng tất cả mọi thứ, bầu trời ráng đỏ âm u dự báo những đợt tuyết rơi khác trong đêm. Bên trong nhà hàng, mọi người cười nói vô tư lự, một điệu nhạc jazz làm nóng bầu không khí, nhưng không át đi những cuộc đối thoại vui vẻ.

Trong thực đơn, món nào cũng có vẻ hấp dẫn, khiến Mila phải mất một lúc để lựa chọn. Cuối cùng, cô chọn món bít-tết chín kỹ dùng kèm với khoai tây đút lò và lá hương thảo. Goran gọi một miếng sườn và salad cà chua. Hai người chỉ dùng nước khoáng có ga.

Mila không biết phải nói về chuyện gì: công việc, hay cuộc sống riêng. Lựa chọn thứ hai dù rất thú vị nhưng lại khiến cô không thoải mái. Tuy nhiên, trước hết, cô phải giải tỏa thắc mắc của mình cái đã.

- Thực sự chuyện đó diễn ra như thế nào?

- Chuyện gì cơ?

- Roche đã muốn loại em ra khỏi cuộc điều tra, nhưng rồi ông ta thay đổi ý định. Tại sao vậy?

Goran ngần ngừ, nhưng rồi ông quyết định nói hết.

- Chúng tôi đã tiến hành bỏ phiếu xem có giữ em lại hay không.

- Bỏ phiếu á? - Mila ngạc nhiên. - Vậy là đa số đã muốn như vậy.

- Một chênh lệch lớn đấy.

- Nhưng... sao lại thế được?

- Ngay cả Sarah Rosa cũng bỏ phiếu thuận giữ em ở lại. - Giáo sư vừa nói vừa suy đoán phản ứng của cô.

Mila choáng váng.

- Ngay cả chị ta, kẻ thù không đội trời chung của em!

- Lẽ nào em có ác cảm với Rosa đến thế!

- Thật ra, em lại nghĩ điều ngược lại kìa...

- Rosa đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Cô ấy vừa mới ly thân chồng.

Mila định nói cô đã nhìn thấy hai vợ chồng họ cãi vã dưới cửa studio tối hôm nọ, nhưng lại thôi vì không muốn tỏ ra quá tọc mạch.

- Em rất tiếc.

- Khi đã có con cái, chuyện này không bao giờ dễ dàng.

Mila có cảm giác như ẩn ý của Goran đi xa hơn là sự việc của Sarah Rosa, có lẽ nó liên hệ trực tiếp đến ông.

- Con gái Rosa đã bị rối loạn ăn uống do ảnh hưởng từ sự chia tay của bố mẹ. Hai người vẫn tiếp tục sống dưới cùng một mái nhà, nhưng em có thể tưởng tượng hệ quả của tình trạng đó rồi đấy.

- Không lẽ việc này cho phép chị ta trút giận vào em?

- Là người mới đến, hơn nữa lại là một phụ nữ duy nhất còn lại trong nhóm ngoài cô ấy, em dễ dàng trở thành đích nhắm của Rosa. Cô ấy không thể trút giận vào Boris hay Stern, vì họ đã quen biết nhau nhiều năm rồi...

Mila rót một chút nước khoáng, sau đó sự tò mò của cô chuyển sang các đồng đội còn lại.

- Em muốn hiểu họ rõ hơn để có cách cư xử cho thích hợp, nếu ông không phiền.

- Ờ, theo tôi, với Boris thì khá dễ. Em nhìn thấy thế nào thì cậu ấy là như thế.

- Quả vậy. - Mila công nhận.

- Tôi cũng xin nói luôn, cậu ấy từng phục vụ trong quân đội và trở thành chuyên gia thẩm vấn. Tôi thường chứng kiến Boris làm việc, nhưng lần nào cậu ấy cũng khiến tôi kinh ngạc. Cậu ấy biết cách chui vào trong đầu của bất cứ người nào.

- Em không biết là Boris lại giỏi đến thế.

- Cậu ấy giỏi, rất giỏi... Cách đây hai năm, một tay nọ bị bắt giữ do bị tình nghi đã giết chết rồi phi tang xác của cậu mợ hắn, hai người sống cùng nhà với hắn. Em chưa từng thấy ai như thế đâu: hắn lạnh lùng và cực kỳ điềm tĩnh. Sau mười tám giờ bị thẩm tra tích cực với năm cảnh sát luân phiên dồn ép, hắn vẫn không thừa nhận gì hết. Cuối cùng, Boris đến, ngồi hỏi hắn hai mươi phút là hắn thú nhận mọi thứ.

- Thế cơ à! Vậy còn Stern?

- Stern là một người rất gan dạ. Tôi còn nghĩ chữ ấy đúng là được viết ra để miêu tả anh ấy. Stern đã kết hôn được ba mươi bảy năm, có hai cậu con trai sinh đôi, cả hai đều vào hải quân.

- Anh ấy có vẻ là một người khá trầm. Em cũng thấy Stern rất ngoan đạo nữa.

- Chủ nhật nào Stern cũng đi lễ nhà thờ, thậm chí còn hát trong ca đoàn.

- Ngoài ra, em thấy trang phục của anh ấy thật không thể tin nổi. Cứ như một tài tử điện ảnh những năm 70.

Goran bật cười đồng tình. Rồi ông nghiêm nghị trở lại.

- Marie, vợ Stern ấy, phải chạy thận năm năm trời trong khi chờ ghép thận. Cuối cùng cách đây hai năm Stern đã hiến một quả thận cho Marie.

Ngỡ ngàng xen lẫn khâm phục, Mila không thốt nên lời. Goran nói tiếp.

- Người đàn ông này đã từ bỏ một nửa phần đời còn lại của mình để tiếp chút hy vọng cho vợ.

- Chắc anh ấy yêu chị nhà lắm.

- Phải, tôi nghĩ là thế. - Goran nói với một chút chua chát mà Mila không thể không nhận thấy.

Lúc đó thức ăn được dọn lên. Hai người ăn trong yên lặng, nhưng không phải một sự yên lặng nặng nề. Họ giống như hai người đã biết nhau rõ đến nỗi không cần phải liên tục dùng ngôn từ để lấp đầy khoảng trống cho đỡ lúng túng.

- Có vài điều em phải nói. - Mila lên tiếng sau đó một lúc. - Chuyện này xảy ra lúc em mới đến, vào đêm thứ hai khi em về nhà nghỉ của mình, trước lúc chúng ta dọn vào trong studio.

- Em nói đi.

- Cũng có thể là chẳng có gì hết, hoặc chỉ là linh cảm... nhưng em cảm thấy bị người ta theo dõi, lúc em về nhà nghỉ.

- Cảm thấy nghĩa là thế nào?

- Kẻ đó bắt chước nhịp bước của em.

- Nhưng tại sao người đó theo dõi em?

- Chính vì thế mà em không kể với ai hết. Em cũng thấy chuyện này rất vô lý. Chắc em tưởng tượng...

Goran ghi nhận lại thông tin và im lặng.

Lúc cà phê được dọn lên, Mila nhìn đồng hồ.

- Em muốn ghé một chỗ này. - Cô nói.

- Vào giờ này sao?

- Phải.

- Thôi được, để tôi gọi thanh toán.

Mila đề nghị chia tiền, nhưng Goran nhất định trả hết vì ông là người mời. Đúng kiểu lộn xộn đặc trưng - và cũng rất dễ thương nữa - khi ông rút từ trong túi ra chỗ giấy bạc, tiền xu và mấy tờ ghi chú nguệch ngoạc, thì vài quả bóng đủ màu rơi ra.

- Của Tommy, con trai tôi đấy.

- Ô, em không biết là ông có... - Mila vờ vịt.

- Không, không đâu. - Ông vội nói và cụp mắt xuống. - Giờ thì hết rồi.

Mila chưa bao giờ tham gia vào một buổi an táng ban đêm. Thời điểm chôn cất Ronald Dermis được lựa chọn nhằm né tránh công chúng. Đối với cô, suy nghĩ cho rằng ai đó có thể trả thù vào một cái xác cũng ghê rợn không kém bản thân buổi mai táng.

Các phu đào huyệt đang làm việc quanh cái hố. Họ không dùng máy xúc. Mặt đất đông cứng khiến họ rất vất vả. Bốn người bọn họ đổi phiên cho nhau năm phút một, hai người đào và hai người soi đèn pin. Thỉnh thoảng, một người lại buột miệng chửi thời tiết giá lạnh, và để tự sưởi ấm, họ chuyển nhau chai Wild Turkey.

Goran và Mila yên lặng quan sát cảnh tượng đào huyệt. Quan tài chứa xác của Ronald vẫn đang còn nằm trong chiếc xe thùng. Xa hơn một chút là tấm bia đá không tên tuổi hay ngày tháng, chỉ ghi độc một con số. Cùng với một hình thập tự nhỏ.

Lúc này, trong đầu Mila hiện lên hình ảnh cú rơi của Ronald từ trên tháp xuống. Trong lúc hắn rơi, Mila không thấy trên gương mặt hắn một biểu hiện sợ hãi hay kinh hoàng nào. Cứ như thể hắn không hề sợ chết. Có lẽ cũng giống như Alexander Bermann, hắn thích giải pháp đó hơn. Chiều theo ham muốn xóa sổ bản thân mình mãi mãi.

- Mọi chuyện vẫn ổn chứ? - Goran hỏi, phá vỡ sự thinh lặng của cô.

Mila quay sang phía ông giáo sư.

- Mọi chuyện vẫn ổn.

Đúng lúc đó hình như cô thấy một người đứng nấp sau một cái cây trong nghĩa trang. Cô nhìn kỹ hơn và nhận ra Feldher. Hóa ra đám tang của Ronald không kín đáo đến thế.

Feldher mặc một chiếc áo khoác dày bằng len kẻ carô, trong tay cầm lon bia, tuồng như muốn nâng ly lần cuối với người bạn cũ thời thơ ấu, mặc dù có lẽ nhiều năm nay hai người không gặp lại nhau. Mila nhìn sự việc theo hướng tích cực: ngay cả tại nơi quỷ sứ nằm xuống, vẫn có chỗ cho tình thương.

Nếu không có Feldher và sự trợ giúp vô tình của hắn thì họ đã không đi được đến đây. Hắn cũng xứng đáng được thưởng vì đã ngăn chặn tên sát nhân hàng loạt đang hoàn thiện kia - như cách nói của Goran. Ai mà biết có bao nhiêu nạn nhân tương lai đã được cứu thoát?

Khi ánh mắt của họ gặp nhau, Feldher bóp bẹp lon bia và quay về phía chiếc xe hơi của hắn đậu cách đó không xa. Hắn sẽ lại quay về với căn nhà nơi bãi phế liệu, món trà nguội rót trong mấy cái ly cọc cạch, con chó có bộ lông màu gỉ sắt, và đợi cái chết vô danh một ngày kia đến gõ cửa.

Lý do thúc đẩy Mila đến dự buổi mai táng ngắn ngủi này có lẽ liên quan đến điều Goran đã nói với cô trong bệnh viện:

“Nếu cô không ngăn được hắn, Ronald đã giết cô, như đã làm với Billy Moore nhiều năm về trước”.

Và ai mà biết được, sau cô, có lẽ hắn sẽ còn tiếp tục giết người.

- Mọi người không biết chứ, theo thống kê của chúng tôi thì có từ sáu đến tám tên giết người hàng loạt đang hoạt động trên đất nước này trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, chưa có người nào xác định được chúng. - Goran nói trong lúc các phu nhà đòn hạ huyệt cỗ quan tài gỗ.

Mila choáng váng.

- Sao có thể như thế được?

- Bởi vì chúng ra tay một cách ngẫu nhiên, không có kịch bản. Hoặc vì chưa có ai xâu chuỗi được hai án mạng có vẻ rất khác biệt. Hay cũng có thể bởi vì các nạn nhân không đáng được nhận một cuộc điều tra chuyên sâu... Chẳng hạn như một cô gái điếm bị giết rồi bị vứt xác xuống mương. Trong đa số trường hợp, cái chết đó là do ma túy, ma cô, hoặc khách hàng gây ra. Căn cứ trên mức độ rủi ro của cái nghề ấy, trung bình một trên mười gái điếm bị giết, và không phải lúc nào họ cũng rơi vào danh sách nạn nhân của bọn giết người hàng loạt. Thật khó để chấp nhận chuyện này, nhưng nó là như vậy đấy.

Một cơn gió xới tung những bông tuyết và bụi đất. Mila run lên, cô thu mình lại trong chiếc áo khoác.

- Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? - Cô hỏi.

Thật ra trong câu hỏi của cô ẩn giấu một lời khẩn cầu. Nó chẳng có liên quan gì với vụ việc mà họ đang phụ trách, cũng như với cái nghề cô đã chọn. Đó là một lời cầu nguyện, một cách để chấp nhận sự bất lực của cô trong việc thấu hiểu động cơ của cái ác, nhưng cũng là một lời cầu xin sự cứu rỗi. Dù sao thì cô cũng không chờ đợi một câu trả lời.

Nhưng Goran đã lên tiếng:

- Chúa trời im lặng. Quỷ dữ thì thầm.

Hai người không nói gì.

Các phu nhà đòn lấp lỗ huyệt với chỗ đất đông cứng. Trong nghĩa trang chỉ còn tiếng xẻng vang lên. Rồi điện thoại di động của Goran đổ chuông. Ông còn chưa tìm được điện thoại trong túi áo choàng thì đến lượt di động của Mila réo vang.

Họ không cần phải nghe máy nhưng cũng biết rằng thi thể của bé gái thứ ba đã được tìm thấy.
 
Chương 21


Gia đình Kobashi - ông bố, bà mẹ và hai người con, một cậu bé mười lăm và một cô bé mười hai - sống trong khu biệt thự Capo Alto sang trọng. Sáu mươi hécta đầy cây xanh, với hồ bơi, sân quần ngựa, sân golf và một nhà sinh hoạt cộng đồng dành riêng cho chủ nhân của bốn mươi tòa biệt thự trong khu. Một bến đỗ cho những người giàu có, gồm chủ yếu là các bác sĩ chuyên khoa, kiến trúc sư và luật sư.

Một bức tường cao hai mét được khéo léo ngụy trang bằng một hàng giậu là thứ ngăn cách thiên đường nhỏ ấy với phần còn lại của thế giới. Một dịch vụ bảo vệ hai bốn trên hai bốn. Hệ thống bảy mươi camera an ninh giám sát toàn bộ chu vi khu vực và một đội cảnh sát tư bảo đảm an ninh cho toàn bộ dân cư.

Kobashi là nha sĩ. Thu nhập cao, sở hữu một chiếc Maserati và một chiếc Mercedes trong gara, một ngôi nhà nghỉ trên núi, một chiếc thuyền buồm, cùng một bộ sưu tập rượu vang đáng ghen tỵ trong hầm. Vợ ông quán xuyến việc nuôi nấng hai đứa con và trang trí nhà cửa với những món hàng độc và cực đắt.

- Họ đi nghỉ ở vùng nhiệt đới từ ba tuần nay và vừa về tối hôm qua. - Stern thông báo khi Goran và Mila đến nơi. - Nguyên nhân của chuyến nghỉ mát là vụ mất tích của các bé gái. Con gái họ cũng tầm tuổi các nạn nhân, nên họ quyết định cho người làm tạm nghỉ và cả nhà đi đổi gió một thời gian.

- Hiện tại họ đang ở đâu?

- Ở khách sạn. Chúng tôi đưa họ đến đó vì lý do an ninh. Bà vợ đã phải cần đến hai viên Valium. Có thể nói là họ đang bị chấn động mạnh.

Câu cuối của Stern cũng là để chuẩn bị tinh thần cho họ trước những gì sắp nhìn thấy.

Căn biệt thự không còn là một ngôi nhà nữa, mà từ nay đã trở thành “hiện trường điều tra mới”. Nó đã bị chăng dây bảo vệ xung quanh để cách ly với những người hàng xóm đang kéo đến xem chuyện gì đã xảy ra.

- Ít ra thì báo chí cũng sẽ không thể vào tận đây. - Goran nhận xét.

Họ băng qua thảm cỏ nằm giữa ngôi biệt thự và con đường. Khu vườn được chăm sóc rất kỹ, các loại cây hàn đới tuyệt đẹp vươn lên từ những chậu đất mà vào mùa hè, bà Kobashi tự tay trồng các loại hoa hồng để đem đi thi đấu của mình.

Một cảnh sát viên đứng chặn cửa, chỉ cho những người được phép vào nhà qua cửa. Krepp và Chang đã tiến hành làm việc cùng với nhóm của mỗi người. Khi Goran và Mila tiến đến ngưỡng cửa, họ gặp thanh tra Roche đang bước ra ngoài.

- Hai người không hình dung nổi đâu... - Ông thanh tra nói với khuôn mặt tái mét, tay rịt chiếc khăn mùi soa trên miệng. - Vụ này càng lúc càng ghê rợn. Chỉ mong sao chúng ta có thể tránh được cuộc thảm sát này... Vì lòng kính Chúa, chúng nó chỉ là những đứa bé gái thôi mà! - Ông nói thêm với một sự phẫn nộ thật sự. - Chưa hết, dân cư khu này đã bắt đầu kêu ca về sự hiện diện của chúng ta và gây sức ép lên những mối quan hệ chính trị họ có để đuổi chúng ta đi ngay cho khuất mắt! Ông có hiểu không đấy? Tôi phải gọi cho một lão nghị sĩ chết rấp để trấn an lão rằng chúng ta sẽ làm nhanh hết sức!

Mila quét mắt nhìn qua đám đông dân cư đang tụ tập phía trước ngôi biệt thự. Đây là thiên đường riêng tư của họ, và họ coi các điều tra viên như những kẻ xâm phạm.

Tuy nhiên, bỗng đâu một lỗ thông xuống địa ngục đã mở ra trong một góc của cái thiên đường ấy.

Stern đưa cho cô hũ đựng bột long não để bôi vào lỗ mũi. Mila hoàn tất nghi thức trình diện xác chết bằng việc mang bao giày và xỏ găng tay cao su. Viên cảnh sát đứng trước cửa dịch sang bên để họ bước qua.

Trên lối đi vẫn còn mấy chiếc va li du lịch và các túi đồ lưu niệm. Chuyến bay đưa gia đình Kobashi từ miền nhiệt đới về với cái lạnh tháng Hai hạ cánh lúc mười giờ đêm. Sau đó họ vội vã về nhà để quay lại với những sở thích quen thuộc và sự tiện nghi của nơi mà từ giờ sẽ không bao giờ còn như trước nữa.

Các gia nhân đến ngày mai mới quay lại làm việc, nên họ là những người đầu tiên bước qua ngưỡng cửa.

Mùi hôi thối tràn ngập trong không khí.

- Đây là mùi mà gia đình Kobashi đã ngửi thấy khi mở cửa. - Goran nói ngay.

Trong một thoáng, họ tự hỏi đó là mùi gì, Mila nghĩ bụng. Rồi họ bật đèn...

Trong gian phòng khách rộng lớn, các kỹ thuật viên của đội cảnh sát khoa học và đội pháp y đang phối hợp hành động một cách nhịp nhàng, như thể được điều khiển bởi một biên đạo múa vô hình. Mặt sàn lát đá cẩm thạch quý lạnh lùng phản chiếu ánh sáng của những ngọn đèn halogen. Nhiều đồ nội thất hiện đại được phối hợp với các món đồ cổ. Ba chiếc trường kỷ bằng da mềm màu khói tạo thành một hình vuông, phía trước một lò sưởi đồ sộ bằng đá hồng.

Trên chiếc tràng kỷ chính giữa là thi thể của bé gái thứ ba đang ngồi.

Đôi mắt cô bé đang mở - hai đốm màu xanh lơ. Và cô bé đang nhìn họ.

Cái nhìn đăm đăm ấy là dấu ấn con người cuối cùng còn sót lại trên gương mặt biến dạng. Quá trình phân hủy đã bước vào giai đoạn muộn. Cánh tay trái bị mất khiến cho cô bé có dáng ngồi nghiêng tựa như có thể ngã sang một bên vào bất cứ lúc nào. Nhưng cô bé vẫn đang ngồi.

Cô bé mặc một chiếc váy ngắn có những bông hoa xanh. Đường cắt và các mũi khâu cho thấy nó được làm bằng tay, có lẽ là may đo riêng. Mila cũng nhận thấy các mũi móc trên đôi vớ trắng và chiếc thắt lưng bằng satanh được gắn vào phần eo bằng một cái khóa khảm xà cừ.

Cô bé phục sức như một con búp bê. Một con búp bê hỏng.

Mila không thể nhìn cô bé lâu hơn vài giây. Cô cụp mắt xuống và nhận ra tấm thảm tơ đặt trước tràng kỷ. Nó được trang trí bằng những đóa hồng Ba Tư và các vân sóng nhiều màu. Cô có cảm giác như chúng đang chuyển động. Cô tập trung nhìn kỹ hơn.

Tấm thảm đang bị bao phủ hoàn toàn bởi những con côn trùng nhỏ xíu đang bò lúc nhúc.

Mila bất giác đưa tay lên bóp vết thương nơi vai. Những người xung quanh có thể nghĩ nó đang hành cô, nhưng thật ra là ngược lại.

Như thường lệ, cô tìm điểm tựa ở sự đau đớn.

Nó không kéo dài, nhưng nó cho cô sức lực để làm một nhân chứng kỹ lưỡng trước cảnh tượng kinh tởm kia. Cô thôi bóp vết thương khi đã đủ đau và nghe thấy bác sĩ Chang nói với giáo sư Goran:

- Đây là ấu trùng của loài Sarcophaga carnaria. Chu trình sinh lý của chúng khá nhanh nếu ở trong điều kiện nhiệt độ cao. Chúng rất háu ăn.

Mila biết Chang đang nói đến cái gì, vì nhiều vụ mất tích thường kết thúc với việc phát hiện ra xác chết. Cần phải tiến hành cả quy trình nhận dạng lẫn xác định thời điểm chết. Có nhiều loại côn trùng khác nhau tham gia vào những giai đoạn tiếp nối sau cái chết, nhất là khi tử thi bị để lộ thiên. Người ta gọi chúng là “hệ động vật ăn xác chết” và được chia làm tám nhóm. Mỗi nhóm ứng với một giai đoạn của sự biến đổi mà vật chất hữu cơ trải qua sau khi chết. Do đó, tùy vào loài động vật hiện hữu, người ta có thể truy ngược ra thời điểm chết.

Sarcophaga carnaria là một loài ruồi đẻ con, chắc là thuộc vào nhóm thứ hai, vì Mila nghe bác sĩ pháp y cho biết thêm rằng tử thi chắc chắn đã ở đây được ít nhất một tuần.

- Albert đã có đầy đủ thời gian để hành động trong khi gia chủ đi nghỉ mát. Nhưng còn một điều mà tôi không thể giải thích được. - Chang nói. - Làm thế nào gã đưa được cái xác đến đây, trong khi bảy mươi camera và ba chục bảo vệ giám sát khu này cả ngày lẫn đêm?
 
Chương 22


- Hệ thống điện của chúng tôi đã bị quá tải. - Chỉ huy đội bảo vệ cho biết khi Sarah Rosa yêu cầu giải thích về ba tiếng đồng hồ ngừng hoạt động của các camera an ninh diễn ra trước đó một tuần, đúng vào thời điểm Albert được cho là đã đem xác bé gái tới biệt thự của gia đình Kobashi.

- Chuyện đó không đặt các ông vào tình trạng báo động sao?

- Không, thưa cô...

- Tôi hiểu rồi.

Rosa không nói gì thêm mà chỉ đưa mắt nhìn quân hàm đại úy mà anh ta đang gắn trên bộ đồng phục. Một cấp bậc cũng ảo như chức năng của anh ta. Đội bảo vệ là để bảo đảm an ninh cho dân cư, nhưng trên thực tế họ chỉ là những gã cơ bắp mặc đồng phục. Sự huấn luyện của họ chỉ gói gọn trong một đợt đào tạo trả phí kéo dài ba tháng, thực hiện bởi mấy tay cảnh sát về vườn, tại trụ sở của công ty đã tuyển dụng họ. Họ được trang bị tai nghe nối với bộ đàm và một bình xịt hơi cay. Như vậy Albert chẳng gặp khó khăn gì trong việc qua mặt đám bảo vệ. Ngoài ra người ta đã phát hiện một lỗ hổng khoảng một mét rưỡi ở tường rào, ẩn sau hàng giậu vốn được dùng để che chắn cho bức tường. Ý đồ thẩm mỹ rốt cuộc lại vô hiệu hóa phương tiện bảo vệ thực sự duy nhất của Capo Alto.

Giờ vấn đề là cần phải tìm hiểu vì sao Albert chọn địa điểm và gia đình này.

Nỗi sợ hãi phải đối mặt với một Alexander Bermann khác đã khiến Roche cho phép sử dụng mọi phương thức điều tra đối với ngài Kobashi và bà vợ, kể cả những thứ có tính xâm phạm nhất.

Boris được phân công khai thác ông nha sĩ.

Kobashi có lẽ không biết gì về đặc sủng được dành cho mình trong những giờ sắp tới. Bị thấm vấn bởi một chuyên gia không giống chút nào với những gì thường diễn ra tại các đồn cảnh sát, nơi mọi thứ đều dựa trên sự kiệt quệ của đối tượng sau hàng giờ chịu dồn ép tâm lý và không được ngủ, đồng thời phải trả lời đi trả lời lại những câu hỏi giống nhau.

Boris gần như không bao giờ tìm cách gài bẫy đối tượng, vì anh biết sự căng thẳng thường gây ra tác dụng tiêu cực đối với việc cung khai, và do đó lời khai thu được sẽ trở thành điểm dễ bị tấn công bởi một luật sư giỏi tại tòa. Anh cũng không hứng thú với những lời thú tội nửa vời và các nỗ lực thương lượng mà kẻ tình nghi vẫn sử dụng khi cảm thấy bị dồn đến chân tường.

Không. Đặc vụ Klaus Boris chỉ nhắm đến một lời thú nhận hoàn chỉnh.

Trong nhà bếp của studio, Mila nhìn thấy anh chàng chuẩn bị ra sàn diễn. Bởi lẽ xét cho cùng công việc của anh chính là như thế: một vở diễn mà các vai thường bị đảo ngược. Bằng những lời nói dối, Boris sẽ bẻ gãy hàng rào phòng vệ của Kobashi.

Anh xắn tay áo lên và đi tới đi lui trong nhà bếp với một chai nước trong tay để luyện chân. Quả vậy, khác với Kobashi, Boris sẽ không ngồi mà phải đứng để dùng vóc người to lớn của mình trấn áp ông nha sĩ.

Trong lúc đó, Stern cập nhật cho Boris những gì anh đã phát hiện được về đối tượng tình nghi cho đến lúc này.

- Tay nha sĩ có trốn một phần thuế. Ông ta có một tài khoản ở hải ngoại và gửi vào đó các khoản thu chưa khai báo thuế của phòng mạch, cùng với các món tiền thưởng lĩnh từ những giải golf mà ông ta thi đấu gần như mọi dịp cuối tuần như một vận động viên bán chuyên nghiệp... Còn về Kobashi phu nhân, bà ta có một thú tiêu khiển thời gian khác: cứ chiều thứ Tư hàng tuần, bà ta lại đến gặp một tay luật sư có tiếng tại một khách sạn ở khu trung tâm. Không cần phải nói thêm rằng, cũng chính tay luật sư đó vẫn chơi golf cùng ông chồng bà ta vào cuối tuần...

Các thông tin này sẽ là khung sườn của buổi thẩm vấn. Boris sẽ cân nhắc và sử dụng chúng vào những thời điểm vàng để hạ gục ông nha sĩ.

Phòng thẩm vấn cạnh phòng ngủ tập thể của studio đã được cải tạo từ lâu. Nó khá hẹp, ngột ngạt và không có cửa sổ. Cửa vào duy nhất sẽ được Boris khóa lại ngay khi anh cùng đối tượng vào trong phòng. Tiếp đến, anh đút chìa khóa vào trong túi như thường lệ: cử chỉ này cho thấy rõ ràng anh đang ở vị trí của kẻ mạnh.

Ánh sáng đèn nêông không quá mạnh, nó lại phát ra một tiếng ro ro rất bức bối: âm thanh này cũng là một trong số những phương tiện tạo áp lực của Boris. Về phần mình, anh giảm bớt tác động của nó bằng hai nút bông gòn trong lỗ tai.

Một chiếc gương giả ngăn cách căn phòng và phòng kế bên, vốn có một cửa vào riêng, để cho các thành viên của đội điều tra có thể chứng kiến buổi thẩm vấn. Một điều tối quan trọng là đối tượng không được ngồi đối diện gương. Phải để cho hắn cảm nhận được rằng hắn bị quan sát mặc dù không thể đáp lại tia nhìn vô hình ấy.

Bàn và các vách tường đều được sơn màu trắng: màu sắc đơn nhất không tạo ra bất cứ điểm nhìn nào cho đối tượng khi hắn muốn tập trung suy nghĩ. Ghế ngồi cũng có một chân ngắn hơn bình thường để gây khó chịu cho nghi phạm.

Mila bước vào căn phòng liền kề khi Sarah Rosa đang chuẩn bị máy phân tích giọng nói, thiết bị cho phép đo mức độ căng thẳng dựa trên độ rung của giọng nói. Những rung động nhỏ gắn với sự co thắt của bắp thịt được đo bằng số dao động trong một phút, với tần số từ 10 đến 12 hertz. Khi đối tượng nói dối, lượng máu trong các dây thanh quản sẽ giảm xuống vì căng thẳng, và do đó làm giảm độ rung của giọng nói. Một máy tính phân tích các biến đổi rất nhỏ trong giọng nói của Kobashi và chỉ ra những lần ông ta nói dối.

Nhưng kỹ thuật quan trọng nhất mà đặc vụ Klaus Boris sử dụng - cái mà anh đặc biệt thuần thục - chính là sự quan sát thái độ của đối tượng.

Kobashi được đưa vào trong phòng thẩm vấn sau khi đã được mời đến một cách nhã nhặn - mà không hề báo trước - để cung cấp các chi tiết của vụ việc cho đội điều tra. Các cảnh sát hộ tống ông ta từ khách sạn, nơi cả nhà ông ta đang lưu lại, đồng thời bắt ông ta ngồi trên băng ghế phía sau của xe hơi và đi theo một lộ trình dài hơn bình thường để đến studio, nhằm làm tăng thêm tình trạng hoài nghi và không chắc chắn của ông ta.

Do đây là một buổi thẩm tra không chính thức, Kobashi đã không đòi sự hiện diện của luật sư. Ông ta sợ yêu cầu đó chỉ càng làm tăng mối nghi ngờ đổ lên đầu mình. Đó chính là điều Boris đã chờ đợi.

Trong phòng thẩm vấn, nha sĩ Kobashi có vẻ khổ sở. Mila quan sát ông ta. Kobashi mặc một chiếc quần mùa hè màu vàng, có lẽ thuộc về một trong những bộ trang phục chơi golf mà ông ta đã mang theo khi đi nghỉ, những thứ duy nhất ông ta có trong thời điểm hiện tại. Ông ta mặc một cái áo len chui đầu bằng casơmia màu đỏ tía, để lộ chiếc áo thun trắng có cổ bên trong.

Họ đã nói với ông ta rằng một điều tra viên sẽ đến để đặt vài câu hỏi. Kobashi gật đầu, hai tay đặt trên đầu gối, trong tư thế phòng thủ.

Trong lúc đó, ở phía bên kia của tấm gương, Boris đang quan sát ông nha sĩ. Anh bắt ông ta ngồi đợi để nghiên cứu kỹ hơn.

Kobashi thấy trên bàn có một tập hồ sơ đề tên ông. Boris là người đã để nó ở đó. Ông nha sĩ không đụng đến nó, cũng không hề nhìn về phía cái gương, vì biết thừa rằng mình đang bị quan sát.

Thật ra tập hồ sơ chẳng có gì bên trong.

- Xem có giống phòng đợi chữa răng không kìa? - Sarah Rosa châm chọc, mắt nhìn chằm chằm người đàn ông ở bên kia tấm kính.

Boris tuyên bố:

- Nào, ta bắt đầu thôi.

Sau đó, anh bước qua ngưỡng cửa phòng thẩm vấn. Anh chào Kobashi, khóa cửa lại và xin lỗi ông ta vì mình đã đến muộn. Một lần nữa anh nhắc lại với ông nha sĩ rằng những câu hỏi anh sắp đưa ra chỉ là để làm sáng tỏ một số việc, trước khi cầm lấy tập hồ sơ trên bàn và mở ra, vờ như đang đọc gì đó.

- Ông Kobashi này, ông năm nay bốn mươi tuổi, phải không ạ?

- Đúng vậy.

- Ông làm nha sĩ từ khi nào?

- Tôi là bác sĩ phẫu thuật chỉnh nha. - Kobashi chỉnh lại. - Tôi đã hành nghề được mười lăm năm.

Boris giành mấy giây để xem tập hồ sơ trống.

- Tôi có thể biết tổng thu nhập năm vừa qua của ông là bao nhiêu được không?

Ông nha sĩ hơi nhổm người. Boris đã ghi điểm đầu tiên: khơi chuyện thu nhập để ngầm bóng gió đến vụ nộp thuế. Như dự kiến, Kobashi nói dối như cuội về tình hình tài chính của mình, khiến Mila không thể không nghĩ ông ta là một người khá ngây thơ khi làm như vậy. Đây là một buổi thẩm vấn liên quan đến án mạng, những thông tin về thuế má nếu xuất hiện cũng chẳng có nghĩa lý gì, và cũng không thể chuyển cho bên thuế vụ được.

Kobashi nói dối trên một số chi tiết khác, tin rằng mình có thể dễ dàng lèo lái các câu trả lời. Boris để cho ông ta hươu vượn như thế thêm một lúc nữa.

Mila hiểu anh chàng điều tra viên đang chơi trò gì. Cô đã chứng kiến những cảnh sát viên được đào tạo theo trường phái cổ điển dùng mánh này mặc dù Boris thực hiện nó ở một đẳng cấp cao hơn.

Khi một người nói dối, anh ta phải tập trung tâm lý cao độ để đối phó với hàng loạt căng thẳng. Nhằm làm cho câu trả lời của mình đáng tin hơn, anh ta buộc phải lược bớt các thông tin chân thực đã nằm trong trí nhớ và nhờ cậy đến việc lập luận lôgíc để trộn chúng với thông tin dối trá mà anh ta đưa ra. Điều này đòi hỏi một nỗ lực lớn và một sức tưởng tượng nhất định.

Mỗi khi đưa ra một câu nói dối, người ta phải ghi nhớ tất cả những chi tiết giúp nó đứng vững. Khi nói dối nhiều lần, việc đó trở nên phức tạp. Nó gần giống như diễn viên xiếc diễn trò xoay đĩa trên những cái que. Mỗi lần thêm một chiếc, màn biểu diễn lại trở nên khó hơn, và anh ta phải chạy liên tục không ngừng nghỉ từ cái que này sang cái que khác.

Chính lúc đó người nói dối bị yếu đi và dễ để lộ mình.

Nếu Kobashi vận dụng trí tưởng tượng của mình là Boris biết ngay. Sự lo lắng gây ra những cử chỉ nhỏ khác thường, chẳng hạn như khòm lưng, chà xát hai tay vào nhau, day thái dương hoặc xoa cổ tay. Thường thì những cử chỉ này đi kèm với các biến đổi sinh lý, chẳng hạn như tăng tiết mồ hôi, cất cao giọng, hoặc các chuyển động không kiểm soát của nhãn cầu.

Nhưng một chuyên viên được đào tạo kỹ lưỡng như Boris cũng biết đó chỉ là những gợi ý cho việc nói dối của đối tượng, và chúng chỉ được xem xét ở mức độ đó. Để chứng tỏ là đối tượng đang nói dối, cần phải dồn hắn đến chỗ thú nhận điều đó.

Khi cảm thấy Kobashi đã đủ tự tin, Boris liền phản công bằng cách đưa vào các câu hỏi những thành tố có liên quan đến Albert và vụ mất tích của sáu bé gái.

Hai giờ sau đó, Kobashi đã kiệt sức vì một loạt câu hỏi khó khăn, càng lúc càng riêng tư và mạnh bạo hơn. Boris đã siết chặt chiếc thòng lọng bao quanh ông nha sĩ, thu hẹp khoảng an toàn của ông ta. Lúc này Kobashi chẳng còn hồn vía nào nghĩ đến việc gọi cho luật sư nữa, mà chỉ muốn ra khỏi phòng thẩm vấn càng sớm càng tốt. Với tình trạng suy sụp tinh thần như thế, ông ta có thể nói bất cứ điều gì để được yên thân. Có khi ông ta còn thú nhận mình là Albert là đằng khác.

Trừ phi đó không phải là sự thật.

Khi Boris nhận ra điều đó, anh rời phòng với cớ là đi lấy cho Kobashi cốc nước, rồi vào gặp Goran và những người khác trong phòng bên cạnh.

- Ông ta không dính dáng gì với vụ của chúng ta. - Anh nói. - Và không hay biết gì hết.

Goran gật đầu.

Sarah Rosa vừa quay lại với kết quả phân tích các máy tính và điện thoại di động của gia đình Kobashi. Chúng không cho thấy bằng chứng nào, và cũng không cung cấp thông tin gì hữu ích về các bạn bè hay người quen của họ.

- Như vậy chỉ có thể là ngôi nhà. - Nhà tội phạm học kết luận.

Phải chăng nơi ở của gia đình Kobashi là sân khấu cho một tấn thảm kịch nào đó chưa được hé lộ, giống như trường hợp của cô nhi viện?

Nhưng giả thiết này xem ra khá yếu.

- Biệt thự đó được xây dựng sau cùng, trên lô đất duy nhất còn trống của cả khu. Nó vừa mới hoàn thành được gần ba tháng, và gia đình Kobashi là những người chủ đầu tiên. - Stern cho biết.

Nhưng Goran có vẻ không nhượng bộ.

- Ngôi nhà đó che giấu một bí mật.

Stern hiểu ra ngay. Anh hỏi:

- Ta bắt đầu từ đâu?

Goran suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Bắt đầu bằng việc đào khu vườn.

Đầu tiên họ đưa chó nghiệp vụ đến để đánh hơi dò tìm thi thể và cả những cái được chôn sâu dưới đất. Sau đó đến lượt các máy dò đặc biệt để thăm dò lòng đất, nhưng không phát hiện được gì.

Mila quan sát những nỗ lực dò tìm của mọi người. Cô vẫn đang chờ bác sĩ Chang cung cấp danh tính của cô bé được tìm thấy trong nhà sau khi đã đối chiếu mẫu ADN của các bậc phụ huynh.

Họ bắt đầu đào vào tầm ba giờ chiều. Các máy xúc nhỏ xới tung lớp đất trong vườn, phá hủy công trình trang trí ngoại thất đã làm tiêu tốn rất nhiều công sức và tiền bạc. Đất đá được vội vã đổ đống và được các xe ben đem đi.

Tiếng ồn của các động cơ diesel khuấy đảo không gian yên tĩnh của Capo Alto. Như thể vẫn chưa đủ, chấn động từ các cỗ máy xúc đất liên tục kích hoạt hệ thống báo động trên chiếc xe Maserati của Kobashi.

Sau khu vườn, nhóm tìm kiếm chuyển vào trong biệt thự. Một công ty chuyên biệt đã được vời đến để nhấc các phiến đá hoa lát sàn phòng khách. Những chỗ hổng trong các bức tường nhà được dò tìm rồi mở ra bằng cuốc. Ngay cả các món đồ nội thất cũng không thoát được số phận bất hạnh: sau khi đã bị tháo tung và cắt rời, chúng trở thành đồ bỏ. Việc lục soát cũng diẽn ra ở hầm rượu và móng nhà.

Roche đã phê chuẩn sự phá hủy này. Ban chuyên án không thể để mình thất bại một lần nữa, dù phải đánh đổi nguy cơ đền bù hàng triệu cho những thiệt hại. Nhưng gia đình Kobashi cũng không hề muốn quay lại sống ở ngôi nhà này nữa. Tất cả những thứ thuộc về nó đã bị nhuốm màu kinh hoàng không gột rửa được. Họ sẽ bán nó với giá thấp hơn khoản tiền đã bỏ ra, vì cuộc sống thượng lưu của họ sẽ không bao giờ còn được như xưa khi bị ám ảnh bởi những điều đã xảy ra.

Khoảng sáu giờ tối, vẻ căng thẳng đã hiện rõ hơn trên khuôn mặt những người điều tra hiện trường.

- Có ai tắt cái báo động của nợ kia được không? - Roche vừa hét toáng lên vừa chỉ tay vào chiếc Maserati.

- Chúng tôi không tìm được điều khiển từ xa của nó. - Boris đáp.

- Gọi cho lão nha sĩ! Chẳng lẽ chuyện gì tôi cũng phải nhắc sao?

Họ đang tốn công vô ích. Thay vì đoàn kết mọi người lại, sự căng thẳng đang chia rẽ họ. Tất cả đều bực tức vì không thể giải được mật mã bí ẩn mà Albert đã bày ra.

- Tại sao gã lại cho cô bé ăn mặc như con búp bê?

Câu hỏi này làm cho Goran điên đầu. Mila chưa bao giờ thấy ông như thế. Có điều gì đó rất cá nhân trong thử thách này. Một điều mà bản thân nhà tội phạm học có lẽ cũng không nhận ra. Nó ngăn cản ông suy luận một cách sáng suốt.

Mila cố tình giữ một khoảng cách với những người khác. Sự chờ đợi khiến cô căng thẳng. Hành vi của Albert mang ý nghĩa gì chứ?

Trong thời gian ngắn ngủi cô được tiếp xúc với nhóm điều tra và phương pháp của giáo sư Gavila, Mila đã học được nhiều thứ. Chẳng hạn như, bọn sát nhân hàng loạt ra tay với những khoảng cách thời gian thay đổi từ vài giờ cho đến vài tháng, thậm chí vài năm, do một sức mạnh nào đó thôi thúc mà chúng không thể dập tắt được. Vì nguyên nhân này, sự tức giận hay báo thù không thuộc về thế giới của chúng. Kẻ giết người hàng loạt ra tay để lặp lại một động cơ nào đó, có thể chỉ là nhu cầu hoặc ham muốn được giết chóc.

Nhưng Albert đã khiến cho toàn bộ khái niệm trên lung lay.

Gã đã bắt cóc các bé gái sau đó giết hại, lần lượt từng em, nhưng giữ lại một. Tại sao? Gã không làm vụ này vì khoái cảm giết chóc, mà chỉ sử dụng nó để làm dấy lên sự chú ý, không phải vào gã, mà vào những kẻ khác. Alexander Bermann, một tên ấu dâm. Ronald Dermis, một kẻ đang trên đường trở thành sát thủ hàng loạt như gã.

Nhờ có Albert, cả hai tên đã bị ngăn chặn. Xét cho cùng, gã đã làm điều có ích cho xã hội. Nghịch lý nằm ở chỗ cái xấu xa của gã là nhằm mục đích tốt.

Nhưng Albert thật ra là ai?

Một người bình thường - bởi gã là như thế, không phải một con quỷ hay một bóng ma - vào lúc này đang sống một cách bình thường như không có gì xảy ra. Gã mua sắm, đi dạo trên đường, gặp gỡ người khác: các bà bán hàng, khách bộ hành, hàng xóm láng giềng, những người tuyệt nhiên không thể tưởng tượng ra được con người thật của gã.

Gã bước đi giữa họ không có gì nổi trội.

Phía sau lớp vỏ bọc đó là sự thật. Sự thật đó được xây nên từ bạo lực. Thứ bạo lực cho phép những kẻ sát nhân hàng loạt trải qua cảm giác có quyền lực, giúp hắn xóa bỏ mặc cảm thua kém, dù chỉ là tạm thời. Hành động bạo lực mà hắn gây ra mang lại cho hắn một lúc hai hiệu quả: đạt khoái thú và cảm thấy mạnh mẽ. Hành vi này không cần đến mối quan hệ với người khác nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất, với mức lo ngại giao tiếp nhỏ nhất.

Như thể chúng chỉ tồn tại trên cái chết của những người khác, Mila thầm nghĩ.

Đúng nửa đêm, tiếng còi báo động từ xe hơi của Kobashi vẫn còn điểm nhịp thời gian trôi qua, như lời nhắc nhở nghiệt ngã rằng mọi nỗ lực của nhóm điều tra đến giờ chỉ là công cốc.

Họ không tìm thấy gì ở dưới hầm. Cả ngôi biệt thự đã bị phanh bụng, nhưng các bức tường của nó không tiết lộ bất cứ bí mật nào.

Mila đang ngồi trên vỉa hè trước nhà thì Boris đi đến, tay cầm điện thoại di động.

- Tôi đang cố gọi nhưng không có sóng...

Mila nhìn điện thoại của mình.

- Chắc tại thế nên Chang không hề gọi cho tôi để thông báo kết quả giám định ADN.

Boris nhìn quanh.

- Ít ra thì ta cũng đỡ chạnh lòng khi biết người giàu cũng không phải có tất cả, nhỉ?

Anh chàng mỉm cười, nhét điện thoại vào túi rồi ngồi xuống bên cạnh cô. Mila vẫn chưa cảm ơn anh về chiếc áo khoác, nên đã tranh thủ dịp này để bày tỏ sự cảm kích.

- Có gì đâu mà. - Boris đáp.

Đúng lúc đó, hai người trông thấy các nhân viên bảo vệ của khu dân cư bắt đầu dàn hàng ngang quanh ngôi biệt thự, tạo thành một hàng rào cô lập.

- Có chuyện gì vậy?

- Đám nhà báo sắp đến. - Boris thông báo với cô. - Roche đã quyết định cho phép lấy hình ảnh ngôi biệt thự: một vài phút trên bản tin truyền hình để cho thấy chúng ta đang làm hết sức.

Mila nhìn các tay bảo vệ đang vào vị trí. Trông họ rất tức cười trong bộ đồng phục hai màu cam và xanh lam bó sát, phô trương thân hình cơ bắp. Nét mặt dữ dằn và bộ đàm đeo tai tạo cho họ một hình ảnh khá chuyên nghiệp.

Albert đã xỏ mũi cả đám các người chỉ bằng cách gây chập mạch camera an ninh và khoan một cái lỗ trên tường rào. Mila nghĩ bụng.

- Sau tất cả những chuyện này mà vẫn chưa tìm được câu trả lời, chắc Roche đang nổi cơn tam bành...

- Ông ta luôn tìm được cách giải quyết, cô đừng lo.

Boris im lặng lấy giấy ra quấn một điếu thuốc. Mila có cảm giác anh chàng đang muốn hỏi cô chuyện gì đó, nhưng không hỏi thẳng. Nếu cô im lặng thì lại càng không giúp được gì.

Cô quyết định quăng cho Boris cái phao cứu trợ:

- Anh đã làm gì trong hai mươi bốn giờ xả trại?

Boris thoái thác:

- Tôi chỉ ngủ và suy nghĩ về vụ án. Lâu lâu làm trống đầu óc cũng tốt... Tôi biết cô đã đi chơi với Gavila tối qua.

Rốt cuộc cũng đến chuyện này! Nhưng Mila đã nhầm khi nghĩ Boris đang ghen. Ý định của anh chàng hoàn toàn khác. Cô hiểu ra điều đó khi anh nói tiếp:

- Tôi tin là ông ấy đã phải chịu đựng nhiều.

Boris đang nhắc đến vợ của Goran. Giọng điệu của anh nghe buồn bã đến nỗi Mila cảm thấy dù chuyện gì đã xảy ra với hai người họ thì cũng đã ảnh hưởng đến cả nhóm.

- Tôi không biết chuyện đó. - Mila nói. - Ông ấy không kể với tôi. Chỉ có hơi bóng gió một chút vào cuối buổi tối.

- Vậy có lẽ bây giờ cô nên biết…

Trước khi nói tiếp Boris châm thuốc, rít một hơi thật sâu rồi phả khói ra. Anh đang tìm từ ngữ.

- Vợ của giáo sư Gavila là một phụ nữ tuyệt vời, không chỉ đẹp mà còn rất tốt tính. Tôi không thể đếm được chúng tôi đã ăn tối ở nhà họ bao nhiêu lần nữa. Bà ấy nhập bọn với chúng tôi như thể là một thành viên trong nhóm. Khi chúng tôi gặp một vụ án hóc búa, những bữa ăn tối là dịp xả hơi duy nhất sau cả ngày vật lộn với máu me và xác chết. Một sự hòa giải với cuộc sống, cô hiểu không...

- Sau đó chuyện gì đã xảy ra?

- Chuyện đó cách đây đã một năm rưỡi. Không một lời báo trước, không một dấu hiệu, bà ấy đột ngột bỏ đi.

- Bỏ ông ấy á?

- Không chỉ giáo sư Gavila, mà cả Tommy, cậu con trai duy nhất của họ. Đó là một đứa trẻ rất dễ thương. Bây giờ nó ở với bố.

Mila đã cảm thấy nỗi buồn chia cắt nơi nhà tội phạm học, nhưng cô không thể tưởng tượng được chuyện này. Cô tự hỏi làm thế nào một người mẹ có thể bỏ rơi đứa con do chính mình đẻ ra.

- Tại sao bà ấy bỏ đi?

- Không ai hiểu được. Có lẽ bà ấy có người khác, cũng có thể bà ấy đã chán ngấy cuộc sống như vậy... ai mà biết được. Bà ấy không nhắn lại một lời nào. Chỉ dọn hành lý rồi bỏ đi. Chấm hết.

- Phải tôi thì tôi sẽ làm cho ra nhẽ.

- Lạ nhất là ông ấy chưa bao giờ nhờ chúng tôi tìm xem bà ấy đang ở nơi nào. - Boris nói, rồi đưa mắt nhìn xung quanh để chắc ăn Goran không xuất hiện, trước khi tiếp lời. - Có một điều mà giáo sư Gavila không biết, không được biết...

Mila gật đầu cho Boris thấy anh có thể tin tưởng ở cô.

- Thì... vài tháng sau đó, Stern và tôi đã tìm thấy dấu vết của bà ấy. Bà sống ở bờ biển. Chúng tôi không trực tiếp đến gặp, mà chỉ xuất hiện trên đường đi, với hy vọng bà ấy mở lời.

- Và bà ấy...

- Bà ấy bị bất ngờ khi gặp chúng tôi, nhưng vẫn gật đầu chào rồi cụp mắt và đi tiếp.

Mila không biết phải hiểu thế nào về sự im lặng diễn ra sau đó. Boris vứt mẩu thuốc đi, mặc kệ một người trong đám bảo vệ quắc mắt giận dữ rồi đi nhặt nó trong vườn.

- Sao anh kể cho tôi nghe chuyện này vậy?

- Vì giáo sư Gavila là một người bạn của tôi. Và cô cũng thế, mặc dù tôi biết cô chưa lâu.

Chắc hẳn Boris đã hiểu ra một điều gì đó mà cả Mila lẫn Goran đều chưa hiểu. Một điều liên quan đến hai người. Anh đang tìm cách bảo vệ họ.

- Sau khi vợ bỏ đi, giáo sư Gavila vẫn ngẩng cao đầu. Ông không có lựa chọn nào khác, nhất là vì cậu con trai. Do đó không có gì thay đổi đối với chúng tôi. Ông ấy vẫn như ngày trước: chính xác, đúng hẹn, hiệu quả. Chỉ hơi xuề xòa trong việc ăn mặc. Điều đó không quan trọng, không có gì đáng lo. Nhưng rồi xảy ra vụ Wilson Pickett...

- Giống tên của ca sĩ nhỉ?

- Phải, ông ấy gọi hắn như thế. - Boris hối tiếc ra mặt vì đã lỡ lời. - Vụ án đó diễn ra không suôn sẻ. Chúng tôi đã phạm sai lầm, người ta đã đe dọa sẽ giải tán đội điều tra và tống khứ giáo sư Gavila. Chính Roche là người đã bảo vệ chúng tôi và kiên quyết giữ chúng tôi ở lại làm việc.

Mila sắp sửa hỏi tiếp điều gì đã xảy ra và chắc chắn Boris sẽ kể hết, thì còi báo động của chiếc xe Maserati lại rú lên.

- Chó chết, cái thứ đinh tai nhức óc kia!

Lúc đó, Mila ngoái nhìn ngôi nhà và ghi lại một loạt hình ảnh khiến cô chú ý: đám nhân viên bảo vệ đang có cùng một gương mặt khó chịu và nhất loạt đưa tay lên máy bộ đàm đeo tai, như thể nó bị nhiễu sóng.

Mila lại nhìn chiếc xe Maserati. Rồi cô lấy điện thoại di động ra khỏi túi: vẫn không có sóng. Đột nhiên cô nảy ra một ý.

- Có một chỗ chúng ta chưa tìm kiếm... - Cô nói với Boris.

- Chỗ nào vậy?

Cô chỉ tay lên trời.

- Trên kia.

Non một nửa giờ đồng hồ sau, các chuyên viên điện tử đã bắt tay vào dò tìm trong bóng đêm giá lạnh. Tất cả đều đeo tai nghe và cầm một thiết bị nom như cái parabol nhỏ hướng lên trời. Họ bước đi thật chậm rãi và im lặng như những bóng ma, cố gắng bắt sóng vô tuyến điện hoặc những tần số đáng ngờ, trong trường hợp bầu trời đang che giấu một thông điệp nào đó.

Và quả có thế thật.

Chính nó đã tương tác với hệ thống báo động của chiếc xe Maserati và làm nhiễu sóng di động, đồng thời len lỏi vào bộ đàm của các nhân viên bảo vệ và gây ra tiếng rít chói tai.

Khi các kỹ thuật viên điện tử đã bắt được tín hiệu, họ cho biết nó khá yếu.

Ngay sau đó, tín hiệu được chuyển đến một máy thu.

Tất cả mọi người tụ tập xung quanh chiếc máy để nghe xem bóng tối đang nói gì với họ.

Nhưng không có từ ngữ nào, chỉ có âm thanh.

Thỉnh thoảng chúng lẫn vào trong một loạt những tiếng rẹt rẹt, rồi lại rõ rệt trở lại. Nhưng trong trình tự âm thanh đó có một sự hài hòa nhất định. Ngắn, rồi dài.

- Ba chấm, ba gạch, rồi ba chấm. - Goran giải nghĩa cho những người khác. Trong hệ thống mã vô tuyến phổ biến nhất thế giới, những âm thanh cơ bản đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất.

SOS.

- Nó phát ra từ đâu vậy? - Nhà tội phạm học hỏi.

Kỹ thuật viên quan sát dải tín hiệu đang phân tán rồi tập trung trở lại trên màn hình một lúc. Sau đó anh ngước mắt nhìn qua đường và chỉ rõ:

- Từ ngôi nhà đối diện.
 
Chương 23


Nó đã ở trước mắt họ ngay từ đầu.

Ngôi nhà đối diện đã quan sát họ hoài công đi tìm lời giải đáp trong câm lặng suốt cả ngày trời. Nó ở đó, cách họ vài bước chân, và kêu gọi họ bằng cách nhắc đi nhắc lại tín hiệu cầu cứu lỗi thời duy nhất ấy.

Ngôi nhà hai tầng thuộc về một bà Yvonne Gress nào đó. Một họa sĩ, theo như lời kể của hàng xóm. Bà ta sống với hai người con, một cậu bé mười một và một cô bé mười sáu tuổi. Họ dọn đến Capo Alto sau khi Yvonne ly dị chồng, và bà quay lại với niềm đam mê nghệ thuật đã từng từ bỏ để đi lấy một luật sư trẻ nhiều triển vọng.

Lúc đầu, những bức tranh trừu tượng của Yvonne không được công chúng đón nhận. Phòng tranh không bán được một bức nào sau cuộc triển lãm cá nhân. Nhưng tin tưởng ở tài năng của mình, bà đã không bỏ cuộc. Khi một người bạn đặt vẽ một bức chân dung gia đình bằng chất liệu sơn dầu để treo trên lò sưởi, Yvonne đã phát hiện ra mình có một thế mạnh ở trường phái hội họa ngây thơ. Chỉ trong thời gian rất ngắn, bà đã trở thành họa sĩ vẽ tranh chân dung được yêu cầu nhiều nhất bởi những ai đã chán những tấm ảnh thông thường và muốn lưu giữ hình ảnh gia đình mình trên vải.

Khi thông điệp bằng mã Morse hướng sự chú ý của mọi người sang ngôi nhà bên kia đường, một người bảo vệ sực nhớ ra rằng bà Yvonne và các con đã không xuất hiện một thời gian.

Rèm cửa sổ đã được buông xuống, nên không thể quan sát bên trong.

Trước khi thanh tra Roche ra lệnh tiến vào trong nhà, Goran đã gọi vào số điện thoại của Yvonne. Ngay sau đó, giữa sự yên tĩnh của con đường, họ nghe thấy tiếng chuông điện thoại vang ra từ trong nhà, nhỏ nhưng rõ. Không ai bắt máy.

Các cảnh sát cũng đã cố liên lạc với người chồng cũ của bà Yvonne Gress với hy vọng ít ra bọn trẻ đang ở cùng ông ta. Khi tìm ra người đàn ông đó, cảnh sát được cho biết là bố con họ không gặp nhau từ lâu. Chẳng có gì phải ngạc nhiên vì ông ta đã bỏ gia đình để chạy theo một cô người mẫu ngoài hai mươi tuổi và cho rằng việc gửi một khoản tiền chu cấp hàng tháng là đã làm tròn nghĩa vụ của một người cha.

Đội kỹ thuật đã đặt các cảm ứng nhiệt độ quanh nhà để tìm nguồn nhiệt nếu có.

- Nếu như có vật thể sống trong nhà, chúng ta sẽ biết ngay. - Roche nói, tin tưởng một cách mù quáng vào công nghệ.

Trong lúc đó, các chỉ số tiêu thụ điện, ga và nước được kiểm tra kỹ lưỡng. Tất cả không bị cắt do các hóa đơn được thanh toán tự động qua ngân hàng, nhưng côngtơ đã ngừng từ ba tháng trước đó, cho thấy không ai bật dù chỉ một bóng đèn trong nhà trong khoảng chín mươi ngày vừa qua.

- Nghĩa là từ khi ngôi nhà của gia đình Kobashi được hoàn thành và cả nhà họ dọn đến đây. - Stern lưu ý.

Goran nói:

- Rosa này, tôi muốn cô kiểm tra băng hình các camera an ninh. Có một mối liên hệ giữa hai ngôi nhà, và chúng ta cần phải phát hiện ra nó.

- Hy vọng là không có lần mất điện hệ thống nào nữa. - Rosa đáp.

- Chúng ta chuẩn bị vào thôi. - Gavila tuyên bố.

Trong lúc đó, Boris mặc áo chống đạn trong chiếc xe cơ động.

- Tôi muốn vào bên trong. - Anh nói khi gặp Mila ở cửa xe. - Họ không thể ngăn tôi được. Tôi muốn tự mình vào trong đó.

Boris không thể chịu được ý nghĩ rằng Roche sẽ yêu cầu đơn vị đặc nhiệm vào nhà trước.

- Bọn họ sẽ làm hỏng việc. Ở trong đó họ sẽ phải dò dẫm trong bóng tối...

- Tôi nghĩ họ sẽ xoay xở được. - Mila bình luận, tuy không muốn phủ nhận lời Boris.

- Vậy họ cũng biết bảo vệ các bằng chứng chứ? - Boris hỏi với giọng mỉa mai.

- Vậy thì tôi cũng muốn vào. Tôi nghĩ mình đáng được làm chuyện này. Nói cho cùng tôi là người đã phát hiện ra thông điệp...

Boris ngừng phắt lại và nhìn Mila không nói. Sau đó anh ném cho cô một chiếc áo chống đạn.

Lát sau hai người rời khỏi xe cơ động đến gặp Goran và Roche để giải thích vì sao họ phải vào nhà.

- Không có chuyện đó. - Ngài chánh thanh tra lập tức gạt phăng. - Đây là việc của đội đặc nhiệm. Tôi không thể chấp nhận một hành động khinh suất như vậy.

- Ông nghe này, thanh tra. - Boris đứng đối mặt với Roche để ông ta không thể tránh né cái nhìn của anh. - Cứ để Mila và tôi vào do thám trong đó. Những người khác chỉ vào khi thực sự cần. Tôi là một cựu binh, tôi đã được huấn luyện cho những chuyện này. Stern đã có hai mươi năm kinh nghiệm thực địa, anh ấy sẽ xác nhận với ông, và nếu như không thiếu một quả thận thì anh ấy đã xung phong đi cùng tôi. Ông thừa biết điều đó. Còn với đặc vụ Mila Vasquez, cô ấy từng một mình vào trong hang ổ của kẻ điên khùng đã giam giữ một thằng bé và một cô gái.

Mila chua xót tự nhủ nếu Boris biết chuyện gì đã xảy ra khi cô để cho tính mạng của con tin và của bản thân mình bị đe dọa, chắc anh chàng đã không hăng hái bảo vệ cô đến thế.

- Ông nghĩ kỹ đi. Có một bé gái còn sống đang ở đâu đó, nhưng không lâu nữa đâu. Mỗi hiện trường lại cho chúng ta biết thêm điều gì đó về kẻ thủ ác. Nếu ở trong kia có gì giúp chúng ta tiếp cận được Albert, - anh đưa tay chỉ ngôi nhà của Yvonne, - thì cần phải bảo đảm là nó không bị phá hủy. Và cách duy nhất là phái chúng tôi vào trong đó.

- Tôi không nghĩ vậy. - Roche cương quyết phản đối.

Boris dấn tới thêm một bước, mắt nhìn thẳng vào mắt ông thanh tra.

- Ông có muốn mọi chuyện phức tạp hơn không? Như thế này là đã khó khăn lắm rồi nha...

Câu này nghe như một lời đe dọa, Mila nghĩ bụng. Cô ngạc nhiên khi Boris dám ăn nói với cấp trên bằng giọng như thế. Có chuyện gì đó giữa hai người này mà cả cô lẫn Goran đều không biết.

Roche nhìn Gavila khá lâu: ông ta đang cần lời khuyên, hay chỉ đơn giản là cần một ai đó để chia sẻ trách nhiệm trong quyết định này?

Nhưng ông giáo sư tội phạm học không mảy may tính toán. Ông chỉ gật đầu.

- Tôi tin là chúng ta sẽ không phải hối tiếc. - Thanh tra Roche dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nhấn mạnh phần trách nhiệm của Goran.

Đúng lúc đó, một kỹ thuật viên tiến đến, trên tay là màn hình của thiết bị tầm nhiệt.

- Thưa thanh tra, máy dò đã xác định được thứ gì đó trên gác... Một sinh vật sống.

Mọi người cùng quay nhìn về phía ngôi nhà.

- Đối tượng vẫn ở trên tầng hai, không di chuyển. - Stern thông báo qua radio.

Boris đếm ngược trước khi xoay nắm đấm cửa ra vào. Trưởng nhóm bảo vệ đã đưa cho anh chìa khóa dự phòng. Mỗi ngôi biệt thự đều có một chiếc để phòng trường hợp khẩn cấp.

Mila quan sát sự tập trung của Boris. Phía sau họ, đội đặc nhiệm đã sẵn sàng để can thiệp. Boris bước qua ngưỡng cửa trước, Mila theo sau, giơ cao súng, và ngoài bộ áo chống đạn, họ còn đội một chiếc mũ cối có gắn tai nghe, micro cùng một đèn pin nhỏ ở thái dương bên phải. Stern chỉ đường cho hai người từ bên ngoài qua radio, trong khi vẫn để mắt đến vật thể được ghi nhận trên màn hình của thiết bị tầm nhiệt. Nó có nhiều cấp độ màu sắc để thể hiện những vùng nhiệt khác nhau của cơ thể, đi từ xanh dương sang vàng rồi đến đỏ. Không thể phân biệt rõ hình thù của đối tượng.

Nhưng nó trông giống như một người nằm trên sàn nhà.

Có thể đó là một người bị thương, nhưng trước khi đoán chắc về điều này, Boris và Mila phải thăm dò một cách kỹ lưỡng, đặt tiêu chí an toàn lên trên hết.

Phía bên ngoài biệt thự, hai đèn chiếu cực mạnh được đặt để rọi sáng hai mặt tiền nhà, tuy vậy ánh sáng lọt vào bên trong khá yếu do bị rèm cửa che chắn. Mila cố gắng tập cho mắt quen với bóng tối.

- Mọi chuyện ổn cả chứ? - Boris thì thầm hỏi cô.

- Vẫn ổn. - Cô đáp.

Trong khi chờ đợi, Goran Gavila đứng ở nơi từng là khu vườn của Kobashi, thèm một điếu thuốc lá như thể chưa được hút hàng năm trời. Ông thấy lo lắng. Nhất là cho Mila. Bên cạnh ông, Sarah Rosa đang xem lại các đoạn băng an ninh trên bốn màn hình trước mặt. Nếu thực sự có một mối liên hệ giữa hai ngôi nhà đối diện nhau thì họ sẽ sớm tìm ra thôi.

Điều đầu tiên Mila ghi nhận được là nhà của Yvonne Gress rất lộn xộn.

Ngay từ cửa vào, họ đã thấy toàn bộ phòng khách ở bên trái và gian bếp bên phải. Trên bàn là hàng đống hộp ngũ cốc đã mở, những chai nước cam vơi phân nửa và các hộp sữa đã hỏng. Ngoài ra còn có nhiều vỏ lon bia rỗng. Tủ chạn đang mở toang và một phần đồ ăn bên trong đã bị đổ lung tung xuống sàn.

Quanh bàn có bốn chiếc ghế. Chỉ có một chiếc bị dời chỗ. Bồn rửa đầy chén đĩa bẩn và xoong nồi dính cặn thức ăn. Mila chiếu đèn vào tủ lạnh: bên dưới một miếng nam châm hình con rùa là tấm ảnh của một phụ nữ tóc vàng ngoài bốn mươi đang tươi cười, hai tay quàng qua một cậu bé và một cô bé lớn hơn.

Trong phòng khách, trên chiếc bàn thấp đặt phía trước màn hình ti vi cực lớn ngổn ngang các chai rượu đã cạn, lon bia và gạt tàn đầy đầu lọc thuốc lá. Một chiếc trường kỷ đã bị kéo ra giữa phòng. Thảm lót sàn lem luốc dấu giày.

Boris khều Mila và chỉ vào sơ đồ ngôi nhà, giải thích cho cô hiểu rằng họ phải tách nhau ra trước khi gặp lại tại chân cầu thang dẫn lên tầng trên. Anh chỉ cho cô một khu vực nằm phía sau bếp, để thư viện và phòng làm việc lại cho mình.

- Stern, mọi thứ trên lầu vẫn ổn chứ?

- Không có động tĩnh gì. - Stern trả lời.

Hai người ra hiệu cho nhau rồi Mila tiến đến khu vực được phân công.

- Đây rồi. - Trong lúc đó Sarah Rosa tuyên bố trước dãy màn hình. - Ông nhìn này...

Goran nghiêng người qua vai cô: theo như ngày tháng ghi trên một góc màn hình, đoạn băng đã được quay chín tháng trước đó. Biệt thự của Kobashi lúc đó hãy còn là một công trường đang xây dựng. Trong đoạn băng tua nhanh, các công nhân ríu rít xung quanh mặt tiền dang dở như những chú kiến hoảng loạn.

- Giờ thì ông xem cái này…

Rosa tua đoạn băng đến thời điểm chiều tối, khi mọi người rời công trường để về nhà trước khi quay lại vào sáng hôm sau. Cô cho đoạn băng chạy với tốc độ bình thường trở lại.

Họ có thể thoáng thấy một thứ gì đó ở ngay cửa ra vào ngôi nhà của Kobashi.

Đó là một cái bóng bất động, như thể đang chờ đợi. Nó hút thuốc.

Đốm lửa chập chờn của điếu thuốc tiết lộ vị trí của cái bóng.

Cái bóng đứng ở trong ngôi biệt thự của ông nha sĩ, chờ đợi cho trời tối hẳn, rồi mới bước ra ngoài. Hắn nhìn quanh, sau đó băng qua đoạn đường vài mét giữa hai ngôi nhà và bước vào trong ngôi nhà đối diện, không buồn gõ cửa.

- Nghe này...

Mila đang ở trong xưởng vẽ của Yvonne Gress, ở đó các tấm tranh nằm chồng chất khắp nơi, giá vẽ và màu vẽ nằm lung tung. Nghe thấy giọng nói của Goran, cô dừng bước.

- Chúng tôi có lẽ đã biết được chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà này.

Cô chờ đợi.

- Chúng ta đang gặp phải một tên ăn bám: một trong các công nhân được thuê để xây dựng ngôi nhà của Kobashi tối nào cũng ở lại sau giờ làm việc và lẻn sang nhà đối diện. Chúng tôi e là hắn... - ông ngừng một lúc để tìm từ diễn đạt sự việc kinh hoàng - đã giam cầm gia đình bà Yvonne trong chính ngôi nhà của họ.

Kẻ lạ mặt chiếm lấy cái tổ và hành xử như những người khác, tự thuyết phục rằng hắn là một thành viên của nó. Hắn chứng tỏ mọi thứ bằng tình yêu bệnh hoạn của mình. Nhưng khi đã chán, hắn loại bỏ gia đình mới quen và đi tìm một cái tổ khác.

Trong khi quan sát các dấu ấn ghê tởm hắn để lại trong xưởng vẽ của Yvonne, Mila lại nhớ đến những con giòi Sarcophaga carnaria lúc nhúc trên tấm thảm nhà Kobashi.

Sau đó cô nghe tiếng Stern hỏi:

- Trong bao lâu?

- Sáu tháng. - Goran đáp.

Mila thấy bụng quặn lên. Suốt trong sáu tháng trời, bà Yvonne và các con đã bị giam cầm bởi một kẻ tâm thần được tùy ý muốn làm gì họ thì làm. Quá đáng hơn, hắn làm chuyện đó ngay giữa một tá các ngôi nhà khác, nơi các gia đình khép mình trong thiên đường xa hoa này để tách rời khỏi thế giới tàn khốc và đặt niềm tin vào một sự an ninh lý tưởng đến vô lý.

Sáu tháng. Và không một ai nhận ra chuyện gì.

Khu vườn được xén cỏ hàng tuần, các luống hoa hồng đều đặn nhận sự chăm sóc tận tâm của các bác làm vườn. Ánh đèn trước hiên nhà được bật lên mỗi tối, nhờ công tắc hẹn giờ theo đúng quy định của ban quản lý. Đám trẻ đạp xe và chơi đá bóng trên con đường trước nhà, các quý bà vừa đi dạo vừa tán gẫu và trao đổi công thức làm bánh, còn cánh đàn ông chạy bộ mỗi sáng Chủ nhật và rửa xe trước gara nhà mình.

Sáu tháng trời. Mà không ai thấy gì.

Họ không tự hỏi vì sao các tấm rèm luôn che kín mít, kể cả vào ban ngày. Họ không nhận ra đống thư từ dồn ứ trong hộp thư. Không ai buồn chú ý đến sự vắng mặt của Yvonne và các con trong các dịp sinh hoạt của câu lạc bộ, chẳng hạn như vũ hội mùa thu và buổi quay xổ số may mắn ngày 23 tháng Mười hai. Các món đồ trang trí Giáng sinh - nhà nào cũng như nhà nào - được các công nhân sắp đặt như thường lệ, rồi gỡ đi sau dịp lễ. Điện thoại đổ chuông không người nhấc máy, bà Yvonne và các con không mở cửa khi có người gọi, nhưng chẳng ai lo lắng.

Các họ hàng của bà Yvonne Gress đều ở xa. Mà ngay cả họ cũng không thấy gì bất thường bởi sự im lặng quá lâu này.

Trong suốt khoảng thời gian dài đó, gia đình nhỏ đã ao ước, hy vọng, cầu nguyện hàng ngày cho một sự giúp đỡ hoặc một sự chú ý chẳng bao giờ đến.

Có lẽ gã là một kẻ ác dâm. Và đây là trò chơi, là thú tiêu khiển của hắn.

Ngôi nhà búp bê của hắn, Mila thầm nghĩ trong đầu khi nhớ đến trang phục mà Albert đã mặc cho thi thể đặt trong nhà Kobashi.

Cô nghĩ đến những trò bạo lực không đếm xuể mà bà Yvonne và các con đã phải hứng chịu trong khoảng thời gian dài đó. Sáu tháng đày ải. Sáu tháng bị tra tấn. Sáu tháng thống khổ. Nhưng nghĩ cho cùng, chỉ cần một khoảng thời gian ngắn hơn là đã đủ để cho mọi người quên hẳn họ.

Ngay cả “đội ngũ giữ gìn pháp luật” cũng không nhận ra điều gì, dù họ đứng trước nhà suốt hơn hai mươi bốn giờ vừa qua, trong tình trạng báo động. Họ cũng có tội và là những kẻ đồng lõa theo một nghĩa nào đó. Ngay cả cô cũng vậy.

Một lần nữa. Albert đã cho thấy thói đạo đức giả nơi nhóm người cảm thấy “bình thường” chỉ vì mình không giết và cắt tay của các bé gái vô tội. Chính sự vô tâm của họ cũng là một tội ác nghiêm trọng không kém.

Boris cắt ngang dòng suy nghĩ của Mila.

- Stern, trên đó vẫn ổn chứ?

- Đường vẫn thông.

- Vậy chúng ta đi thôi.

Họ gặp nhau như đã hẹn ở chân cầu thang dẫn lên tầng trên, ở đó có các phòng ngủ.

Boris ra hiệu cho Mila yểm trợ phía sau. Từ lúc này, họ phải quan sát trong tình trạng yên lặng hoàn toàn để không bị lộ. Stern chỉ được phép lên tiếng để cảnh báo họ trong trường hợp vật thể sống trên màn hình di chuyển.

Hai người bước lên các bậc thang. Kể cả thảm trải cầu thang cũng dính đầy vết bẩn, dấu giày và đồ ăn. Trên tường treo những tấm ảnh chụp các chuyến du lịch, những dịp sinh nhật hoặc lễ kỷ niệm gia đình, và một bức chân dung bà Yvonne cùng các con nơi đầu cầu thang. Kẻ nào đó đã khoét đi những đôi mắt trên đó, chắc là cảm thấy khó chịu vì cái nhìn thiêu đốt.

Khi lên đến nơi, Boris tránh sang bên đợi cho Mila bắt kịp mình. Sau đó anh đi trước mở đường. Có nhiều cánh cửa khép hờ hai bên hành lang. Ở phía cuối, hành lang rẽ sang trái.

Sau chỗ rẽ là nơi phát ra nguồn nhiệt.

Boris và Mila chầm chậm tiến về phía đó. Khi đi ngang qua một trong những cánh cửa khép hờ, Mila nhận ra tiếng động nhịp nhàng của thông điệp kêu cứu bằng mã Morse mà họ đã nhận được. Cô nhẹ nhàng mở cửa và phát hiện ra đó là phòng của cậu con trai mười một tuổi. Những tấm áp phích hình các hành tinh phủ kín các bức tường, sách thiên văn học chiếm đa số trên các kệ sách. Một chiếc kính viễn vọng được đặt ngay trước cửa sổ.

Trên chiếc bàn học nhỏ, cô thấy một mô hình thu nhỏ tái hiện lại thiết bị đánh điện tín hồi đầu thế kỷ XX. Nó gồm một miếng gỗ nhỏ và hai cục pin khô được nối thông qua các điện cực và dây đồng với một chiếc đĩa đục lỗ quay trên một bánh răng theo từng đợt - ba chấm, ba gạch, ba chấm. Tất cả được nối dây với một máy bộ đàm hình khủng long. Mô hình được gắn một tấm bảng nhỏ bằng đồng để chữ GIẢI NHẤT.

Tín hiệu phát ra từ đây.

Cậu bé đã biến bài tập của mình thành một trạm phát tín hiệu, tránh được sự kiểm soát và cấm đoán của kẻ cầm tù ba mẹ con.

Mila hướng chùm sáng đèn pin vào chiếc giường chưa dọn. Bên dưới nó có một cái xô nhựa. Cô còn để ý thấy những vết trầy xước nơi gờ của đầu giường.

Căn phòng đối diện trong hành lang là của cô chị gái mười sáu tuổi. Trên cửa phòng dán những chữ cái đủ màu tạo thành một cái tên: Keira. Đứng trên ngưỡng cửa, Mila quét mắt nhìn nhanh trong phòng. Vải trải giường bị vo thành một cục tròn nằm dưới sàn. Một cái tủ nhiều ngăn đựng quần áo lót lăn kềnh trên sàn. Chiếc gương của tủ commốt đã bị quay vào giường. Không khó để hiểu lý do tại sao. Ở đây cũng có những vết trầy xước trên thanh đầu giường.

Còng số tám, Mila thầm nghĩ. Ban ngày hắn còng họ vào giường.

Một cái xô nhựa bẩn khác được đặt trong một góc phòng. Chắc nó được dùng cho nhu cầu cá nhân.

Cách đó vài ba mét là phòng ngủ của Yvonne. Nệm giường bẩn thỉu, chỉ có một lớp vải trải. Trên lớp thảm trải sàn có dấu vết nôn mửa và băng vệ sinh đã sử dụng. Ở một bức tường, trên cái đinh lúc trước từng dùng để treo tranh là một chiếc thắt lưng da đập vào mắt, lời nhắc nhở đến kẻ ra lệnh và cách thức thực thi mệnh lệnh của hắn.

Đây là phòng chơi bời của mày, thằng khốn nạn! Tao nghĩ mày cũng thỉnh thoảng lượn sang phòng của con bé nữa! Và khi đã chán hai mẹ con, mày sẽ mò sang phòng thằng bé để tẩn cho nó mấy cái...

Cơn giận là thứ cảm xúc còn lại duy nhất của Mila. Và cô tận dụng nó, hút lấy hút để từ trong cái giếng tối tăm đó.

Đã bao nhiêu lần, bà Yvonne Gress bị buộc phải “chiều chuộng” con quái vật ấy, nhằm giữ hắn lại trong căn phòng này và không để hắn trút giận lên đầu hai đứa con của bà?

- Chú ý, có gì đó đang chuyển động. - Stern cảnh báo.

Boris và Mila nhất loạt quay về phía chỗ rẽ ngoặt trong hành lang. Không còn thời gian để trinh sát nữa. Họ chĩa súng và đèn về hướng đó, chờ đợi một thứ gì đó xuất hiện.

- Đứng yên! - Boris hô to.

- Nó đang tiến đến chỗ hai người.

Mila đặt ngón trỏ lên cò súng và bắt đầu ấn nhẹ vào đó. Tim cô đập càng lúc càng mạnh.

- Nó ở ngay đằng sau góc tường.

Con vật kêu rên một tiếng nhỏ. Một cái mõm lông lá xuất hiện và quan sát họ. Một con chó giống Terre-neuve. Mila hạ vũ khí, Boris cũng làm theo.

- Mọi chuyện ổn cả. - Anh nói vào bộ đàm. - Chỉ là một con chó thôi.

Con vật có bộ lông cứng và dính bết, đôi mắt đỏ. Nó đang bị thương ở một chân.

Hắn đã không giết nó, Mila thầm nghĩ trong khi tiến lại gần con vật.

- Lại đây nào, cưng, lại đây...

- Nó đã sống sót một mình trong gần ba tháng ròng. Làm sao nó sống được? - Boris hỏi.

Mila càng tiến tới thì con chó càng thụt lùi.

- Coi chừng. Nó đang hoảng sợ. Nó có thể cắn cô đấy.

Cô phớt lờ lời khuyến cáo của Boris và tiếp tục tiến về phía con chó. Cô quỳ xuống để làm nó an tâm, trong khi tiếp tục gọi:

- Lại đây, bé cưng, lại đây nào.

Khi đã đến đủ gần, cô nhìn thấy một bảng tên gắn vào vòng cổ của con chó. Nhờ ánh sáng đèn pin, cô có thể đọc được tên của con vật.

- Terry, lại đây nào, ngoan nào...

Rốt cuộc con chó cũng để cho cô tiếp cận. Mila đưa một tay lên trước mõm nó để nó ngửi.

Boris tỏ ra sốt ruột.

- Được rồi đấy, chúng ta kiểm tra nốt tầng trên này rồi gọi mọi người vào.

Con chó giơ một chân khều Mila, như thể nó muốn chỉ cho cô xem một thứ gì đó.

- Chờ đã...

- Cái gì vậy?

Cô không đáp mà chỉ đứng dậy. Con chó lại quay về chỗ rẽ của hành lang.

- Nó muốn chúng ta đi theo.

Hai người đi sau con chó. Sau ngã rẽ, hành lang chỉ còn tiếp tục thêm vài mét. Ở cuối hành lang, bên phải, có một căn phòng cuối cùng. Boris xem sơ đồ.

- Nó trông ra mặt hậu, nhưng tôi không biết nó là phòng gì.

Cửa phòng đang đóng. Phía trước nó có nhiều món đồ nằm lộn xộn. Một cái chăn may chần với họa tiết khúc xương, một cái tô, một quả bóng nhiều màu, một sợi dây dắt chó và đồ ăn thừa.

- Ra đây là kẻ đã lục đồ ăn. - Mila nói.

- Tôi tự hỏi sao nó lại đem đồ chơi của mình đến chỗ này...

Con chó tiến lại gần cánh cửa, như thể muốn khẳng định cái ổ của nó nằm ở đó.

- Anh nghĩ nó dọn vào chỗ này một mình à? Tại sao chứ?

Như để trả lời cho câu hỏi của Mila, con chó bắt đầu cào vào cánh cửa và rên ư ử.

- Nó muốn chúng ta vào trong.

Mila cầm lấy sợi dây và buộc con vật vào một cái máy sưởi.

- Ngoan nào, Terry.

Con chó sủa một tiếng, xem vẻ đã hiểu. Nó tránh khỏi lối đi trong lúc Mila cầm lấy tay nắm và Boris chĩa súng vào cánh cửa. Thiết bị tầm nhiệt không phát hiện được sự hiện diện của sinh vật sống nào khác, nhưng ai mà biết được. Tuy vậy cả hai người đều tin rằng, phía sau tấm chắn mỏng manh này là kết cục bi thảm của những điều đã xảy ra trong những tháng vừa qua.

Mila ấn mạnh tay nắm để mở khóa cửa, rồi đẩy nhẹ. Ánh sáng đèn pin chọc xuyên qua bóng tối, nhảy từ bên này sang bên kia căn phòng.

Nó trống không.

Căn phòng rộng khoảng hai mươi mét vuông. Sàn phòng không trải thảm, các vách tường được sơn trắng. Ô cửa sổ bị che kín bởi một tấm rèm dày. Một bóng đèn treo trên trần. Dường như căn phòng này chưa từng được sử dụng.

- Sao con chó dẫn chúng ta vào trong này? - Mila tự hỏi chính mình nhiều hơn là hỏi Boris. - Bà Yvonne và bọn trẻ đâu?

Cô tránh không hỏi thẳng rằng “Xác của ba mẹ con ở đâu?”

- Stern.

- Tôi đây.

- Anh bảo đội khoa học vào đi. Chúng tôi xong việc rồi.

Mila bước ra hành lang, cởi dây buộc con chó. Nó lập tức lao vào trong phòng. Mila chạy theo và thấy nó chúi mũi vào một góc.

- Terry, mày không thể ở đây được.

Nhưng con chó không nhúc nhích. Mila bèn tiến lại gần, tay cầm sợi dây dắt chó. Con vật lại sủa, nhưng không có vẻ đe dọa. Rồi nó bắt đầu hít hít sàn nhà gần chân tường. Mila cúi xuống cạnh nó, đẩy mõm nó ra và rọi đèn pin vào. Chẳng có gì. Nhưng rồi cô nhìn thấy.

Một vết màu nâu.

Nó có đường kính nhỏ hơn ba milimet. Mila cúi xuống gần hơn. Cô thấy nó có góc cạnh và bề mặt dợn sóng.

Cô không còn nghi ngờ gì về nó nữa.

- Đây là nơi chuyện đó xảy ra.

Boris không hiểu chuyện gì.

Rồi cô quay về phía anh

- Đây là nơi hắn đã giết họ.

- Thật ra chúng tôi biết có người vào nhà, nhưng mà... các anh biết đấy, Yvonne Gress là một phụ nữ hấp dẫn, sống một mình nên... thỉnh thoảng vẫn được đàn ông khu này ghé chơi vào đêm hôm khuya khoắt.

Tay đội trưởng đội bảo vệ gục gặc đầu đầy ngụ ý khiến cho Goran phải phản ứng bằng cách nhón gót, đưa mắt mình ngang tầm mắt anh ta.

- Sao anh dám bóng gió những chuyện như thế...

Ông nói với một giọng bình thường nhưng hàm chứa đầy vẻ đe dọa.

Tay bảo vệ đáng lẽ phải giải thích về sai sót nghiêm trọng của mình và các thuộc cấp. Nhưng ngược lại, anh ta đang cố dùng thủ đoạn đã thống nhất với đám luật sư của Capo Alto. Họ tìm cách biến bà Yvonne Gress thành một phụ nữ dễ dãi dựa trên việc bà đã bỏ chồng và sống độc thân.

Goran lưu ý rằng kẻ lạ mặt - vì họ chưa thể xác định danh tính của hắn - kẻ đã ra vào nhà bà Yvonne trong suốt sáu tháng trời, đã lợi dụng chính cái cớ đó để hành động tùy thích.

Ông và Rosa đã xem hầu hết các đoạn video an ninh được quay trong thời gian trên. Cùng một sự việc như thế đã diễn ra gần như mỗi ngày. Thỉnh thoảng gã đàn ông không ở lại qua đêm, Goran tự nhủ đó là những thời điểm dễ thở nhất cho gia đình bị cầm tù kia. Nhưng biết đâu đó là những lúc tệ hại nhất, vì họ bị trói vào giường và không được ăn uống gì nếu bị hắn bỏ mặc.

Bị bạo hành cũng có nghĩa là còn sống, trong hành trình vô tận đi tìm cái ác ít kinh khủng hơn.

Trong các đoạn băng ghi hình, họ nhìn thấy gã đàn ông vào ban ngày, trong khi hắn làm việc trên công trường. Hắn luôn đội mũ lưỡi trai để không bị quay rõ mặt.

Stern đi dò hỏi công ty chủ quản đã thuê hắn theo hợp đồng mùa vụ. Họ bảo hắn tên là Lebrinsky, nhưng đó là một cái tên giả. Chuyện này xảy ra cũng là điều bình thường, đặc biệt là vì các công trường xây dựng hay dùng lao động nước ngoài chưa có giấy tờ lưu trú. Theo luật, chủ lao động phải có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ của họ để xem họ có hợp pháp hay không.

Nhiều công nhân từng làm việc ở công trình xây dựng biệt thự Kobashi cho biết kẻ có tên Lebrinsky là một người ít nói, sống khép mình. Họ cung cấp những mô tả về hắn nhằm dựng lên một chân dung trên máy tính. Nhưng các mô tả quá khác biệt nên không thể sử dụng được.

Khi đã xong việc với tay đội trưởng đội bảo vệ, Goran vào gặp những người còn lại trong ngôi nhà của bà Yvonne Gress, vốn đã được nhóm của Krepp “càn quét” nãy giờ.

Mấy cái khuyên xỏ lấp lánh trên khuôn mặt của chuyên gia vân tay trong khi ông di chuyển như một vị thần trong khu rừng ma thuật. Bởi bây giờ ngôi nhà trông thật khác thường: thảm trải sàn đã được bao phủ toàn bộ bằng một lớp nhựa trong, các ngọn đèn halogen được đặt đây đó để chiếu sáng nhiều chỗ, có khi chỉ một chi tiết rất nhỏ. Những con người trong bộ đồ bảo hộ màu trắng và đeo mặt nạ trong suốt đang phủ bột hóa chất lên mọi thứ.

- Đối tượng của chúng ta không được thông minh cho lắm. - Krepp bình phẩm. - Ngoại trừ sự lộn xộn do con chó gây ra, hắn đã bỏ lại đủ thứ rác rưởi: lon bia, đầu lọc thuốc lá, ly cốc bẩn. Dữ liệu di truyền nhiều đến độ ta có thể nhân bản hắn!

- Còn dấu tay? - Sarah Rosa hỏi.

- Cả đống! Nhưng đáng tiếc là hắn chưa bao giờ vào tù nên ta chưa có thông tin trong hệ thống.

Goran lắc đầu: dấu vết nhiều như thế mà họ thậm chí không tìm ra nổi một kẻ tình nghi. Rõ ràng tên ăn bám này bất cẩn hơn nhiều so với Albert, kẻ đã phá hoại hệ thống camera an ninh trước khi đưa thi thể bé gái vào trong nhà của Kobashi. Chính vì vậy ông thấy có điều gì đó không hợp lý.

- Vậy còn xác của các nạn nhân? Chúng ta đã xem hết băng an ninh, kẻ ăn bám chưa bao giờ mang thứ gì ra khỏi căn nhà này.

- Vì gã không đưa họ ra ngoài qua cửa chính...

Mọi người bối rối nhìn nhau, cố hiểu ý nghĩa của câu nói. Krepp giải thích thêm:

- Chúng tôi đang kiểm tra các cống rãnh. Tôi tin là hắn đã phi tang các xác chết theo ngả đó.

Hắn đã cắt họ thành từng mảnh nhỏ, Goran thầm kết luận. Tên cuồng sát đã nhập vai ông chồng và người cha hờ dễ thương, để rồi một ngày kia khi đã chán, hoặc có thể là khi đã hết việc ở công trình đối diện, hắn đã vào đây một lần cuối cùng. Ông tự hỏi liệu bà Yvonne và các con có dự cảm được kết cục của họ hay không.

- Nhưng tôi dành chuyện quái lạ nhất để nói sau cùng... - Krepp lên tiếng.

- Chuyện gì mới được chứ?

- Căn phòng trống trên gác, nơi cô bạn cảnh sát của chúng ta đã tìm thấy vết máu nhỏ tí ấy.

Mila cảm thấy cái nhìn đầy ẩn ý của Krepp chiếu vào mình. Goran thấy cô cứng người phòng thủ. Krepp làm nhiều người phát sợ.

- Căn phòng trên gác là nhà nguyện Sixtine của tôi. - Ông nói. - Vết máu khiến chúng ta nghĩ đó là nơi xảy ra vụ thảm sát, trước khi được hắn lau chùi sạch sẽ, mặc dù còn để sót một vết máu nhỏ. Nhưng hắn thậm chí còn đi xa hơn thế. Hắn đã sơn lại các bức tường.

- Tại sao? - Boris hỏi.

- Vì hắn rất ngu. Rõ ràng là thế. Sau khi đã để lại cả đống rác rưởi lẫn dấu vết và xả tuột mọi thứ xuống cống, hắn đã kiếm cho mình đủ án chung thân. Vậy thì, việc quái gì phải đi sơn lại căn phòng đó?

Goran cũng thấy động cơ của hành động đó không rõ ràng.

- Vậy anh sẽ làm gì tiếp?

- Tôi sẽ bóc đi lớp sơn để xem có gì bên dưới. Việc này cần nhiều thời gian, nhưng với các công nghệ mới tôi có thể thu thập mọi vết máu mà tên đần kia đã phi tang một cách tầm thường đến thế.

Goran cảm thấy chưa được thuyết phục.

- Hiện tại chúng ta chỉ mới có một vụ giam giữ người bất hợp pháp và che giấu thi thể. Hắn sẽ bị kết án chung thân, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đã lập lại công lý. Để làm sáng tỏ sự thật và buộc hắn nhận tội giết người, chúng ta cần chỗ máu đó.

- Ông sẽ có, thưa giáo sư.

Cho đến lúc này, họ vẫn chỉ có được một mô tả rất vắn tắt về đối tượng tìm kiếm. Họ kết hợp chúng với các thông tin mà Krepp thu thập được.

- Tôi có thể nói đây là một gã đàn ông tuổi từ bốn mươi đến năm mươi. - Sarah Rosa khơi mào. - Vóc người vạm vỡ, cao khoảng một mét sáu tám.

- Các dấu giày trên thảm có cỡ bốn mươi ba, nên tôi nghĩ mô tả tương đối trùng khớp.

- Nghiện thuốc.

- Hắn hút thuốc rê.

- Giống tôi. - Boris nói. - Rất vui khi được có một điểm chung nào đó với một gã như hắn.

- Có thể nói hắn yêu chó. - Krepp chốt lại.

- Chỉ vì hắn để cho con chó sống sót thôi à? - Mila hỏi.

- Không phải thế. Chúng tôi đã tìm thấy nhiều loại lông chó lai.

- Nhưng làm sao có thể khẳng định hắn là người đem lông chó vào nhà?

- Lông chó nằm trong chỗ bùn của các vết giày trên thảm. Đương nhiên trong đó có cả các vật liệu xây dựng, xi măng, mát tít, dung môi - thứ trở thành keo dán cho tất cả những thứ khác. Và dĩ nhiên cho cả những thứ hắn mang từ nhà mình đến.

Krepp nhìn Mila theo kiểu một người bỗng dưng đụng phải thách thức nhưng đã vượt qua một cách khéo léo. Sau phút giây đắc thắng đó, ông quay mắt đi và thoắt biến trở lại thành chuyên gia lạnh lùng như mọi người vẫn biết.

- Và còn một điều này nữa, nhưng tôi vẫn chưa rõ liệu nó có ý nghĩa gì không...

- Nói luôn đi. - Goran ra lệnh, biết tỏng Krepp thích được người khác nài nỉ.

- Trong chỗ bùn của các dấu giày, có một lượng vi khuẩn lớn. Tôi đã tham khảo ý kiến một nhà hóa học đáng tin cậy...

- Tại sao là hóa học mà không phải vi sinh vật học?

- Bởi vì tôi nghĩ chúng là những vi sinh vật “ăn rác” tồn tại trong thiên nhiên nhưng được sử dụng cho các chức năng khác nhau, chẳng hạn như tiêu hủy nhựa, hoặc các dẫn chất của dầu mỏ. Thực ra không phải chúng “ăn” thực sự, mà chỉ sản xuất ra một loại men. Người ta dùng men đó để xử lý các bãi rác cũ...

Nghe đến đây, Goran thấy Mila và Boris quay sang nhìn nhau.

- Bãi rác cũ? Khốn nạn... Chúng tôi biết gã này!
 
Chương 24


Feldher đang đợi họ.

Gã ký sinh cố thủ trong sào huyệt của mình trên đỉnh ngọn đồi rác.

Bên cạnh hắn là các vũ khí đủ loại mà hắn đã thu thập từ hàng tháng trời để chuẩn bị cho màn thanh toán này. Thực ra thì hắn chẳng nhọc công trốn tránh. Hắn biết sớm hay muộn sẽ có người đến sờ gáy mình.

Mila đến cùng những người khác và một đơn vị đặc nhiệm đang vào vị trí quanh nhà của Feldher.

Từ trên cao, trong hang ổ của mình, Feldher có thể kiểm soát con đường dẫn vào bãi phế liệu. Ngoài ra, hắn đã phát quang cây cối để có tầm nhìn tốt hơn. Nhưng hắn không khai hỏa ngay mà đợi cho mọi người vào chỗ mới bắt đầu bắn tỉa.

Đầu tiên hắn nhắm vào con chó Koch của mình. Con chó với bộ lông màu gỉ sắt đang chạy lăng quăng giữa đống sắt phế liệu. Hắn hạ gục nó bằng một phát súng vào đầu. Hắn muốn chứng tỏ cho bọn người ngoài kia thấy hắn không đùa. Nhưng cũng có lẽ hắn muốn tránh cho con vật một kết cục tồi tệ hơn, Mila thầm nghĩ.

Núp sau một trong những chiếc xe bọc thép, cô quan sát sự việc. Đã bao nhiêu thời gian trôi qua từ sau lần cô cùng Boris đến căn nhà kia để hỏi hắn về cô nhi viện ngày xưa hắn từng ở? Hóa ra hắn che giấu một bí mật còn khủng khiếp hơn bí mật của Ronald Dermis.

Hắn đã nói dối nhiều thứ.

Khi Boris hỏi hắn có từng bị đi tù, hắn đáp có. Nhưng không phải vậy. Bằng chứng là họ không tìm thấy dấu vân tay hắn để lại ở nhà bà Yvonne trong hồ sơ cảnh sát. Tuy nhiên những lời nói dối được Feldher dùng để bảo đảm Mila và Boris không kiếm tra thông tin của mình. Boris đã không nhận ra vì theo lẽ thường, chẳng ai đi nói sai sự thật chỉ để làm xấu hình ảnh của mình.

Nhưng đó lại chính là điều Feldher đã làm. Hắn rất tinh ranh, Mila thầm nghĩ.

Hắn đã thăm dò tình hình và xỏ mũi hai người, chắc ăn họ không có manh mối nào để liên hệ hắn với ngôi nhà của bà Yvonne. Nếu hắn nghi ngờ điều ngược lại, chắc họ đã không sống sót mà rời khỏi nhà hắn được.

Sau đó, Mila lại bị lừa thêm một lần thứ hai với sự hiện diện của Feldher hôm hạ huyệt Ronald. Cô cứ tưởng đó chỉ là một hành động thương hại, nhưng thật ra Feldher đến để kiểm tra tình hình.

- Bọn con hoang kia, đến đây kiếm tao đi nào!

Một loạt đạn liên thanh rạch toang không khí, vài viên trúng vào chiếc xe bọc thép kêu lịch bịch, những viên còn lại đập vào đống sắt phế liệu với những tiếng chát chúa.

- Mẹ kiếp! Chúng mày không bắt sống tao được đâu!

Không ai đáp lại lời hắn, không ai tìm cách thỏa thuận với hắn. Mila nhìn quanh: không có người thương thuyết cầm loa để thuyết phục Feldher hạ vũ khí. Hắn đã tự tay ký vào bản án tử cho mình. Chẳng ai bận tâm đến chuyện cứu mạng hắn.

Họ chỉ đợi hắn sai sót để gạch tên hắn khỏi cõi đời này.

Hai xạ thủ đã vào chỗ, sẵn sàng khai hỏa ngay khi Feldher ló đầu ra thêm. Lúc này thì họ để mặc cho hắn hả hê. Như vậy hắn càng có cơ phạm sai lầm.

- Mụ ta là của tao, đồ khốn chúng bay! Tao đã cho nó thứ nó muốn!

Hắn đang khiêu khích họ. Căn cứ vào sự căng thẳng trên những gương mặt đang quan sát hắn, nước cờ của hắn khá thành công.

- Cần phải bắt sống hắn. - Goran nói. - Đó là cách duy nhất để ta tìm được mối liên hệ giữa hắn và Albert.

- Tôi không tin là đội đặc nhiệm đồng tình với chúng ta, thưa giáo sư. - Stern nói.

- Vậy thì ta phải nói chuyện với Roche. Ông ta phải ra lệnh đưa người thương thuyết đến.

- Feldher sẽ không để bị bắt đâu. Hắn đã dự tính trước mọi thứ, kể cả kết cục cuối cùng. - Sarah Rosa lưu ý ông. - Hắn sẽ làm một cú bất ngờ để ra đi trong ngạo nghễ.

Cô nói không sai. Các kỹ thuật viên cháy nổ đi cùng họ đã xác định được một số thay đổi trên nền đất chung quanh ngôi nhà.

- Mìn sát thương. - Một trong số họ nói với Roche khi ông đến nơi.

- Với tất cả những thứ thối tha nằm bên dưới, đó sẽ là tận thế.

Họ đã tham khảo ý kiến của một nhà địa chất học. Ông ta khẳng định rằng, ngọn đồi rác có thể che giấu nhiều túi khí mêtan bên dưới do quá trình phân hủy rác thải tạo nên.

- Các anh cần phải lùi ra xa ngay. Chỉ cần một đám cháy thôi là thảm họa sẽ xảy ra.

Goran nhấn mạnh với ông chánh thanh tra rằng chí ít họ cũng phải thử thương lượng với Feldher. Rốt cuộc Roche đồng ý cho họ ba mươi phút.

Nhà tội phạm học đã định dùng điện thoại gọi cho hắn, nhưng Mila nhớ ra đường dây đã bị cắt do chậm trả tiền cước. Khi cô và Boris tìm cách điện thoại liên hệ với Feldher lúc trước, cô chỉ nghe thấy tiếng trả lời tự động. Phải mất bảy phút để công ty viễn thông mở lại đường dây. Họ chỉ còn hai mươi ba phút để thuyết phục hắn nộp mình. Nhưng khi điện thoại trong nhà reo, Feldher đáp trả bằng một loạt đạn nhằm vào các cảnh sát.

Goran không bỏ cuộc. Ông lấy một cái loa phóng thanh và đến nấp sau chiếc xe bọc thép gần ngôi nhà nhất.

- Feldher, tôi là Goran Gavila!

- Cút mẹ mày đi! - Hắn đáp trả trước khi bắn một loạt đạn.

- Anh nghe tôi nói này: tôi chẳng coi anh là cái thá gì, cũng giống như những người đi cùng tôi!

Mila nhận ra Goran không muốn lừa Feldher, vì chuyện đó chẳng để làm gì. Gã đàn ông này đã tự quyết định số mạng của mình, nên ông giáo sư chơi bài ngửa luôn.

- Thằng con hoang, tao không thèm nghe mày nói đâu!

Một phát đạn trúng vào chỗ cách ông giáo sư vài centimet. Mặc dù được bảo vệ an toàn, ông vẫn bị bất ngờ.

- Nhưng anh phải nghe tôi nói, vì như thế chỉ có lợi cho anh mà thôi!

Đã đến nước này thì ông còn có thể đưa ra đề nghị nào nữa đây?

Mila chưa thông được nước đi của Goran.

- Chúng tôi cần anh, Feldher, vì có thể anh biết kẻ đang bắt cóc bé gái thứ sáu. Chúng tôi gọi hắn là Albert, nhưng tôi tin chắc anh biết tên thật của gã.

- Tao không biết cái cóc khô gì hết!

- Ngược lại, anh đang quan tâm đến nó, vì thông tin này rất đáng giá trong thời điểm hiện tại!

Khoản tiền thưởng.

Hóa ra đây là chiến thuật của Goran! Mười triệu được quỹ Rockford tặng cho bất kỳ ai cung cấp được thông tin hữu ích để cứu bé gái số sáu.

Người ta có thể tự hỏi liệu một kẻ đã chắc suất đi tù chung thân có thể được lợi lộc gì từ món tiền đó. Nhưng Mila đã hiểu. Nhà tội phạm học muốn gieo vào đầu Feldher ý tưởng rằng hắn có thể ra đi cùng với khoản tiền, rằng hắn có thể “đánh lừa” cả một hệ thống đã bạc đãi cuộc đời hắn và biến hắn thành người như bây giờ. Một thằng khốn nạn, một kẻ thất bại. Cùng với món tiền, hắn sẽ có thể thuê cho mình một luật sư giỏi, người có thể vin vào lý do khuyết tật trí năng để làm giảm nhẹ tội cho hắn, một trò vốn chỉ dành cho những can phạm có tiền, vì rất khó để theo đuổi và chứng minh nó nếu không có đủ năng lực tài chính. Feldher có thể hy vọng được giảm án xuống còn hai mươi năm giam giữ, không phải trong tù, mà là trong bệnh viện dành cho tội phạm tâm thần. Sau đó, một khi đã mãn hạn, hắn có thể tận hưởng phần còn lại của khoản tiền. Như một người tự do.

Goran đã đi đúng đường. Bởi Feldher luôn muốn được hơn con người hiện tại của mình. Chính vì vậy mà hắn đã thâm nhập vào gia đình bà Yvonne Gress. Để ít nhất một lần biết cảm giác được sống sung túc trong một nơi chỉ dành cho người giàu, cùng với một phụ nữ đẹp, con cái, và những món đồ xinh xắn.

Giờ đây, hắn có thể cùng lúc có được hai thứ: ẵm trọn khoản tiền thưởng, và thoát khỏi cuộc sống hiện tại.

Hắn sẽ ra khỏi căn chòi rách trên hai chân, miệng nở nụ cười ngạo nghễ trước hàng trăm nhân viên công lực đang muốn băm vằm hắn ra. Nhưng trên hết, hắn sẽ trở nên giàu có. Theo một nghĩa nào đó, hắn sẽ trở thành người hùng.

Lần này thì Feldher không chửi và cũng không bắn phát nào. Hắn đang cân nhắc.

Goran lợi dụng sự im lặng đó để nuôi thêm hy vọng cho hắn:

- Không ai có thể tước mất những gì anh sẽ có được. Và mặc dù không muốn thú nhận, nhưng chúng tôi cũng sẽ phải nói lời cảm ơn anh. Vậy nên, anh hãy hạ vũ khí, bước ra ngoài và hàng phục...

Một lần nữa, cái ác phục vụ cho cái thiện, Mila thầm nghĩ. Goran đang sử dụng cùng một phương thức như của Albert.

Nhiều giây phút dài dằng dặc trôi qua. Nhưng thời gian càng kéo dài thì họ càng có hy vọng thành công. Từ phía sau chiếc xe bọc thép, Mila nhìn thấy một cảnh sát đặc nhiệm thò một cái gương con gắn trên đầu một cái que dài ra để kiểm tra vị trí của Feldher trong nhà.

Ngay sau đó cô nhìn thấy hình ảnh của hắn.

Họ chỉ thấy vai và gáy hắn. Hắn mặc một cái áo khóa rằn ri và đội một chiếc mũ đi săn. Một thoáng sau, cô thấy khuôn mặt nhìn nghiêng và cái cằm tua tủa râu ria của hắn.

Chuyện đó chỉ diễn ra trong chưa đầy một giây. Feldher giương súng lên, không rõ để bắn hay để giao nộp vũ khí.

Một tiếng rít chói tai vang lên ngay trên đầu họ. Trước khi Mila kịp hiểu tình hình thì viên đạn đầu tiên đã găm vào cổ Feldher. Sau đó là viên đạn thứ hai, đến từ một hướng khác.

- Không! - Goran gào lên. - Ngừng lại! Đừng bắn!

Các xạ thủ của đơn vị đặc nhiệm đang ra khỏi chỗ nấp để nhắm bắn tốt hơn.

Máu ồng ộc trào ra từ hai cái lỗ trên cổ Feldher, theo nhịp đập của động mạch cảnh. Hắn loạng choạng, miệng há ra. Bằng một tay, hắn cố gắng cầm máu nhưng vô hiệu, trong khi tay kia vẫn cố gắng giương súng bắn trả.

Goran mặc kệ nguy hiểm và bước ra khỏi chỗ nấp, cố gắng ngăn mọi chuyện lại rơi vào tuyệt vọng.

Ngay lúc đó, phát đạn thứ ba chính xác hơn hai phát trước, găm vào gáy Feldher.

Tên ăn bám đã bị hạ gục.
 
Chương 25


- Sabine thích chó lắm, cô biết không?

Mila nhận thấy bà mẹ không thêm chữ “từng” vào trong câu nói. Chẳng mấy chốc nỗi đau sẽ tấn công bà, khiến cho bà không thể tìm lại sự bình yên và giấc ngủ trong nhiều ngày.

Nhưng chưa phải bây giờ. Hãy còn quá sớm.

Trong trường hợp như thế này, nỗi đau để lại một khoảng trống, một màng ngăn giữa bà và cái tin dữ, một rào chắn mềm dẻo có thể giãn ra hay co vào, ngăn không cho câu “chúng tôi đã tìm thấy thi thể con gái bà” đến được đích. Những từ ngữ ấy bị dội lại trên một trạng thái bình thản kỳ lạ. Một sự chịu đựng ngắn ngủi trước khi suy sụp.

Hai giờ trước đó, Chang đã đưa cho Mila chiếc phong bì chứa kết quả đối chiếu ADN. Bé gái ngồi chết trên trường kỷ trong nhà của Kobashi là Sabine.

Cô bé bị bắt cóc thứ ba.

Cũng là nạn nhân thứ ba được tìm thấy.

Giờ thì nó đã trở thành một lịch trình cố định. Một phương thức hành động, như lời Goran nói. Ngay cả khi không ai đưa ra giả thiết nào về danh tính của thi thể, mọi người đều cho rằng đó là Sabine.

Mila bỏ lại các đồng nghiệp đang ngẩn ngơ trước thất bại tại nhà Feldher và tìm kiếm một manh mối có thể dẫn họ đến chỗ Albert giữa núi rác kia. Cô đã yêu cầu sở cấp một chiếc xe hơi, và lúc này đang ngồi trong phòng khách của gia đình Sabine, giữa một vùng thôn quê với dân cư chủ yếu là những người nuôi ngựa và những ai thích sống gần gũi với thiên nhiên. Cô đã phải đi gần một trăm rưỡi cây số để đến được đây. Mặt trời đang lặn trong khi cô thưởng ngoạn cảnh vật, những cánh rừng bị các con suối nhỏ cắt ngang trước khi đổ vào những cái hồ nhỏ màu hổ phách. Cô cảm thấy đối với cha mẹ của Sabine, việc được cô đến gặp, ngay cả vào giờ giấc khác thường thế này, cũng có thể có tác dụng trấn an họ, chứng tỏ rằng có ai đó đang quan tâm đến con gái họ. Và cô đã không nhầm.

Mẹ của Sabine là một người nhút nhát, có thân mình gầy guộc và khuôn mặt hằn sâu các nếp nhăn, tạo ra nơi bà một hình ảnh mạnh mẽ nhất định. Mila nhìn các tấm ảnh bà đang cầm, lắng nghe câu chuyện về cuộc đời bảy năm của Sabine. Ông bố thì ngược lại, chỉ đứng trong một góc phòng, tựa người vào tường, hai mắt cụp xuống và chắp tay sau lưng: ông đang đong đưa người tới lui, đầu óc tập trung vào mỗi việc thở. Mila tin rằng bà mẹ là người nắm quyền điều hành trong căn nhà này.

- Sabine sinh non đến tám tuần. Chúng tôi hay tự bảo nhau đó là vì nó muốn ra đời quá. Nói thế cũng đúng một phần. - Bà cười nhẹ và nói thêm, trong lúc mắt nhìn ông chồng đang gật gù. - Các bác sĩ nói với chúng tôi là con bé sẽ không sống nổi vì tim nó còn yếu quá. Nhưng ngược lại, Sabine đã trụ vững. Nó không to hơn bàn tay của tôi và chỉ nặng có nửa cân, nhưng nó đã chiến đấu bằng tất cả sức lực của mình, trong chiếc lồng ấp. Tuần qua tuần, quả tim nó cứng cáp dần... Thế là các bác sĩ phải thay đổi ý kiến, họ bảo có lẽ nó sẽ sống sót, nhưng sẽ phải ra vào bệnh viện suốt, uống đủ loại thuốc và trải qua nhiều cuộc phẫu thuật. Nói tóm lại, lẽ ra chúng tôi nên cầu mong cho nó chết đi... - Bà ngừng lời một chút. - Có thời điểm tôi đã bị thuyết phục rằng con bé sẽ phải chịu đựng suốt cuộc đời trước mắt của nó, và tôi đã cầu cho quả tim nó ngừng đập. Nhưng Sabine đã mạnh mẽ hơn những lời cầu khẩn của tôi: Nó phát triển như một đứa trẻ bình thường, và tám tháng sau, chúng tôi đã đem được nó về nhà.

Bà ngừng nói. Trong một thoáng, nét mặt của bà thay đổi và trở nên dữ dằn hơn.

- Thằng con hoang chết rấp ấy đã hủy hoại mọi nỗ lực của con bé!

Sabine là nạn nhân nhỏ tuổi nhất của Albert. Cô bé bị bắt cóc trên một đu quay ngựa gỗ. Một buổi tối thứ Bảy. Ngay dưới mắt bố mẹ và các bậc phụ huynh khác.

“Trên thực tế mọi người chỉ biết đến con cái mình”, Sarah Rosa đã nói như vậy trong buổi họp đầu tiên ở Phòng suy tưởng. Mila còn nhớ cô ta đã nói thêm: “Bọn họ mặc kệ. Sự thực là thế”.

Tuy nhiên, Mila không đến tận đây chỉ để an ủi bố mẹ Sabine. Cô muốn đặt một số câu hỏi, lợi dụng khi nỗi đau chưa bùng nổ khỏi nơi ẩn náu tạm thời của nó và xóa sạch mọi thứ một cách không phục hồi lại được. Cô biết hai vợ chồng đã bị hỏi hàng chục lần về hoàn cảnh mất tích của Sabine. Nhưng các đồng nghiệp của cô không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này bằng cô.

- Thật ra thì, - cô mở lời, - ông bà là những người duy nhất có thể nhìn thấy hay ghi nhận một điều gì đó. Tất cả những lần khác, kẻ bắt cóc đều ra tay tại một nơi cách biệt, hoặc khi chỉ có một mình với nạn nhân. Còn lần này, hắn đã liều lĩnh. Biết đâu hắn sai sót một điều gì đó.

- Cô muốn tôi kể lại từ đầu à?

- Vâng ạ.

Bà mẹ sắp xếp lại các ý nghĩ một chút rồi bắt đầu kể:

- Đó là một buổi tối đặc biệt đối với chúng tôi. Cô nên biết là hồi Sabine được ba tuổi, chúng tôi đã bỏ công việc ở thành phố để về sống tại đây. Chúng tôi bị quyến rũ bởi thiên nhiên và cơ may nuôi nấng con gái mình ở một nơi xa sự ồn ào và ô nhiễm.

- Bà nói buổi tối hôm Sabine bị bắt cóc là một tối đặc biệt...

- Quả vậy. - Bà đáp, đưa mắt tìm ánh mắt của ông chồng. - Chúng tôi trúng số. Một khoản kha khá. Không đủ để trở nên rất giàu có, nhưng cũng đủ để bảo đảm một tương lai cho Sabine và con cái của nó... Thật ra tôi chưa bao giờ chơi xổ số, nhưng một sáng nọ, tôi đã mua một tờ vé số, và thắng giải. - Bà nói với một nụ cười gượng. - Tôi dám cá là cô luôn tự hỏi một người trúng số thì sẽ như thế nào. (Mila gật đầu). Giờ cô có câu trả lời rồi đấy.

- Vậy là cả nhà đi ra hội chợ để ăn mừng?

- Đúng vậy.

- Tôi muốn bà kể lại thời điểm chính xác khi Sabine ngồi trên vòng quay ngựa gỗ.

- Chúng tôi cùng chọn một con ngựa nhỏ màu xanh dương. Trong hai vòng quay đầu, bố nó ngồi chung với con bé. Sau đó Sabine nằng nặc đòi ngồi một mình ở vòng thứ ba. Nó cứng đầu lắm, nên chúng tôi đành chiều ý con.

- Tôi hiểu, chuyện này cũng bình thường đối với trẻ con. - Mila nói để giải tỏa cho mọi cảm giác tội lỗi của bà mẹ.

Bà ngước mắt lên nhìn cô rồi nói, đầy quả quyết:

- Ở trên vòng xoay còn có các vị phụ huynh khác, tất cả đều ở bên cạnh con mình. Tôi thì dõi mắt theo Sabine. Tôi xin thề với cô là tôi không bỏ lỡ một giây nào, ngoại trừ lúc con bé ở phía bên kia của vòng quay.

“Gã đã làm cho cô bé biến mất như một trò ảo thuật”, Stern đã nói như thế trong Phòng suy tưởng, khi nhắc đến việc chú ngựa gỗ xuất hiện trở lại mà không có Sabine.

Mila giải thích:

- Giả thiết của chúng tôi là kẻ bắt cóc đã có mặt trên vòng quay, đóng giả làm một vị phụ huynh. Chúng tôi kết luận là hắn có diện mạo của một người bình thường. Hắn giả dạng một ông bố, chuồn đi cùng với cô bé và lẫn vào trong đám đông. Có thể Sabine đã khóc lóc hoặc chống cự. Nhưng không ai để tâm, vì trong mắt những người khác, nó chỉ là một con bé khóc lóc, vòi vĩnh.

Giả thiết cho rằng Albert đóng giả bố của cô bé có lẽ còn gây đau đớn hơn mọi thứ khác.

- Tôi xin bảo đảm với cô là nếu như có một người đàn ông lạ mặt trên vòng quay thì tôi đã để ý ngay. Một người mẹ luôn có linh cảm trước những chuyện như vậy.

Bà nói với một sự quả quyết khiến Mila không muốn phản bác.

Albert đã thành công trong việc ngụy trang.

Hai mươi lăm cảnh sát nhốt mình trong một căn phòng trong vòng mười ngày đã cẩn thận xem xét hàng trăm tấm ảnh được chụp tại hội chợ tối hôm đó. Họ cũng đã xem các thước phim quay bằng camera gia đình. Không có gì cả. Không có máy ảnh nào chộp được Sabine cùng với kẻ bắt cóc dù chỉ là thoáng qua. Hắn không xuất hiện trên bất kỳ tấm ảnh nào, dù chỉ loáng thoáng.

Không còn câu hỏi nào khác, Mila xin cáo từ. Trước khi cô đi khỏi, mẹ Sabine nhất định muốn cô cầm theo một tấm ảnh chụp con gái mình.

- Như vậy cô sẽ không bỏ quên con bé. - Bà nói, không hề biết rằng dù sao Mila cũng sẽ không quên được, và chỉ vài giờ sau cô sẽ khắc vào cơ thể mình một sự tưởng niệm cho cái chết của Sabine, dưới dạng một vết sẹo mới.

- Cô sẽ bắt được hắn, phải không?

Câu hỏi của bố Sabine không làm Mila bất ngờ. Cô đang chờ đợi nó. Họ luôn hỏi như vậy. “Cô sẽ bắt được thủ phạm chứ?”

Và cô luôn trả lời theo cùng một cách.

- Chúng tôi sẽ làm hết sức có thể.

Mẹ của Sabine đã ước cho con gái mình được chết đi. Bà đã được thỏa nguyện bảy năm sau đó. Mila không thể không nghĩ đến chuyện này trong khi lái xe về studio. Cánh rừng đã làm cho chặng đi của cô trở nên vui mắt giờ chẳng khác gì những ngón tay đen ngòm chọc lên bầu trời đầy gió chướng.

Cô lập trình thiết bị định vị toàn cầu để quay về theo đường ngắn nhất. Sau đó cô chỉnh màn hình sang chế độ ban đêm. Ánh sáng xanh dương thật dễ chịu.

Radio trên xe chỉ bắt được sóng AM, và sau nhiều nỗ lực rốt cuộc cô đã tìm được một đài chuyên phát các bản nhạc cổ điển. Mila đặt tấm ảnh của Sabine lên ghế ngồi bên cạnh. Ơn trời, bố mẹ cô bé không phải trải qua nỗi đau đớn của quy trình nhận dạng xác chết, vì thi thể đã phân hủy và bị tàn phá bởi các vi sinh vật ăn xác chết. Cô thấy biết ơn những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực nghiên cứu ADN.

Cuộc trò chuyện ngắn ngủi để lại cho cô cảm giác không trọn vẹn. Có điều gì đó không hợp lý, điều gì đó không đúng và khiến cô bế tắc. Đó là một suy nghĩ đơn giản. Một ngày nọ, người đàn bà ấy đã mua một tấm vé số và đã trúng giải. Con gái bà ta trở thành nạn nhân của một tên giết người hàng loạt.

Hai sự việc hy hữu trong một đời người.

Tuy nhiên, kinh khủng nhất là hai sự kiện đó có liên quan với nhau.

Nếu họ không trúng số, họ sẽ không đi đến hội chợ. Sabine sẽ không bị bắt cóc và sát hại dã man.

Không phải, cô nghĩ thầm. Gã chọn các gia đình, không phải các cô bé. Dù thế nào thì gã cũng bắt cóc Sabine thôi.

Con đường uốn lượn quanh các quả đồi. Thỉnh thoảng một trại ngựa lại xuất hiện. Chúng cách nhau khá xa, và để được vào đến nơi, cần phải đi theo các đường nhánh chạy xuyên qua những khu vực hoang vắng dài hàng mấy cây số. Trong suốt chuyến đi, Mila chỉ gặp vài ba chiếc xe hơi chạy theo chiều ngược lại, cùng với một chiếc máy gặt đập vừa chạy vừa nháy đèn để lưu ý tốc độ di chuyển rất chậm của nó cho các phương tiện khác.

Đài truyền thanh đang phát một bản nhạc đình đám xưa của Wilson Pickett, bài You Can’t Stand Alone.

Cô mất vài giây để liên hệ người nghệ sĩ và tên vụ án mà Boris đã nhắc tới khi kể cho cô nghe về Goran và vợ ông. “Chúng tôi đã phạm sai lầm, người ta đã đe dọa sẽ giải tán đội điều tra và tống khứ giáo sư Gavila. Chính Roche là người đã bảo vệ chúng tôi và kiên quyết giữ chúng tôi ở lại làm việc”.

Chuyện gì đã xảy ra? Liệu nó có gì liên quan với bức ảnh cô gái trẻ xinh đẹp mà Mila đã thấy trên tường của studio không? Có phải các đồng nghiệp mới của cô không vào studio kể từ dạo ấy?

Dù sao thì cô cũng chẳng thể trả lời được những câu hỏi đó. Cô xua chúng ra khỏi đầu. Rồi cô hạ máy sưởi một nấc: bên ngoài trời âm ba độ, nhưng trong xe lại khá ấm. Thậm chí cô đã cởi áo khoác trước khi ngồi vào ghế lái và chờ cho đến khi chiếc xe ấm lên. Sự chuyển đổi từ cái lạnh tê tái sang sự ấm áp khiến cô bớt căng thẳng.

Mila thoải mái buông mình để sự mệt mỏi dần dần tiêu tan. Rốt cuộc chuyến đi này hóa ra lại tốt cho cô. Trong một góc của kính chắn gió, bầu trời khoác tấm áo mây dày cộm từ nhiều ngày, hôm nay bỗng quang quẻ hẳn. Như thể ai đó đã rút chỉ một vạt áo, vạch cho xem những ngôi sao rời rạc và để ánh trăng xuyên qua.

Trong khoảnh khắc giữa những cánh rừng cô quạnh ấy, Mila thấy mình như được hưởng một đặc quyền. Như thể quang cảnh bất ngờ này chỉ dành riêng cho cô. Khi cua xe theo một đoạn cong, ánh trăng trượt đi trên lớp kính chắn gió. Cô đưa mắt nhìn theo nó. Nhưng trong một thoáng nhìn vào gương chiếu hậu, cô thấy một tia sáng.

Ánh trăng phản chiếu trên thân chiếc xe đang bám theo cô trong tình trạng tắt hết đèn.

Bầu trời chụp xuống cô và tối tăm trở lại. Mila cố giữ bình tĩnh. Một lần nữa, kẻ nào đó đang bám theo cô, giống như hồi ở nhà nghỉ. Nếu như ở lần đầu cô còn cho đó là sản phẩm của trí tưởng tượng, thì lần này cô hoàn toàn tin vào sự tồn tại của nó.

Mình phải giữ bình tĩnh và suy nghĩ.

Nếu tăng tốc, cô sẽ để lộ sự hốt hoảng của mình. Thêm nữa, cô không biết gì về khả năng lái xe của kẻ bám theo, nên việc tháo chạy có thể nguy hiểm đến tính mạng. Không có bất kỳ căn nhà nào trong tầm mắt, ngôi làng đầu tiên còn cách đó ít nhất ba chục cây số. Ngoài ra, chuyến phiêu lưu trong đêm tới cô nhi viện và món trà độc địa của Ronald Dermis đã đặt lòng can đảm của cô vào một thử thách gay go. Cho tới lúc đó, cô không thừa nhận chuyện ấy, thậm chí còn khăng khăng cho rằng mình cảm thấy ổn, và không hề bị chấn động. Nhưng vào lúc này, cô không còn dám chắc mình có thể đương đầu với một tình huống hiểm nghèo đến như thế nữa. Cô cảm thấy đôi tay mình trở nên cứng đờ và độ căng thẳng thần kinh tăng cao. Nhịp tim cô nhanh dần, nhưng cô không biết làm thế nào để kìm hãm nó lại. Cô đang hốt hoảng.

Mình phải bình tĩnh, bình tĩnh nghĩ cách.

Mila vặn nhỏ radio để có thể tập trung tốt hơn. Cô hiểu kẻ bám đuôi đang đi theo đèn xe mình. Cô liếc nhanh máy định vị toàn cầu, gỡ nó ra khỏi hộc và đặt vào lòng.

Sau đó cô với tay đến công tắc đèn và tắt đi.

Cô đột ngột tăng tốc. Trước mặt cô là bóng đêm mịt mùng. Không biết mình đi đâu, cô chỉ tin vào lộ trình được chỉ ra trên màn hình. Cung đường vòng sang bên phải bốn mươi độ. Cô làm theo và trông thấy đốm sáng vẽ nên lộ trình của cô trên màn hình. Đi thẳng. Cô lết bánh một chút. Đôi bàn tay cô siết chặt lấy vô lăng, bởi cứ lái bừa thế này chỉ chệch một chút là cô sẽ bay ra khỏi đường. Cua sang trái sáu mươi độ. Lần này cô phải giảm số để không bị mất lái và ngoặt vô lăng sang hướng ngược lại. Một đoạn đường thẳng khác, dài hơn lần trước. Liệu cô cầm cự được bao lâu mà không bật đèn xe? Cô có lừa được kẻ đang bám đuổi mình không?

Lợi dụng đoạn đường thẳng, Mila nhìn nhanh vào gương chiếu hậu. Chiếc xe bám đuôi cô đã bật đèn.

Rốt cuộc hắn đã để lộ mình, và hắn không bỏ cuộc. Luồng đèn pha từ xe hắn chiếu lên xe cô và một đoạn đường phía trước. Mila bẻ tay lái vừa kịp lúc để ôm cua, đồng thời bật đèn xe lên. Cô đạp ga chạy hết tốc lực thêm hơn ba trăm mét nữa.

Rồi cô thắng lại ngay giữa lòng đường và nhìn vào gương chiếu hậu.

Cô chỉ nghe thấy tiếng tích tắc của động cơ xe và tiếng trống ngực thình thịch. Chiếc xe kia đã dừng lại trước cung lượn. Mila nhìn thấy ánh đèn pha của nó phản chiếu trên lớp nhựa đường. Tiếng gầm gừ từ ống xả của nó khiến cô liên tưởng đến một con thú hoang sẵn sàng nhảy chồm tới xé xác con mồi.

Tới đây nào, tao đang đợi mày đây.

Mila rút súng ra và lên đạn. Cô không biết từ đâu ra thứ dũng khí mà mới cách đó ít phút cô tưởng đã biến mất. Sự tuyệt vọng đã đẩy cô đến một cuộc đấu tay đôi lố bịch giữa chốn đồng không mông quanh.

Nhưng kẻ bám theo không nhận lời thách đấu. Phía bên kia cung lượn, hai luồng đèn pha biến mất, nhường chỗ cho hai ánh đèn đỏ. Chiếc xe đã quay đầu.

Mila không nhúc nhích. Cô đã lấy lại được nhịp thở bình thường. Cô cụp mắt xuống nhìn cái ghế bên cạnh, như để tìm kiếm một chút an ủi trong nụ cười của Sabine.

Lúc ấy cô mới nhận ra trên tấm ảnh có điều gì đó không ổn.

Mila về đến studio ngay trước nửa đêm. Cô vẫn còn đang căng thẳng, và trong suốt đoạn đường còn lại, cô chỉ nghĩ đến tấm ảnh của Sabine, trong khi không quên nhìn quanh quất, chờ đợi kẻ đã bám đuôi mình đột ngột lao ra từ trên một con đường nhánh hoặc giăng bẫy chờ sẵn sau một cung lượn.

Cô ba chân bốn cẳng lao lên cầu thang của căn hộ. Cô muốn nói chuyện với Goran và thông báo cho nhóm về chuyện vừa xảy ra. Biết đâu chính Albert là kẻ đã bám theo cô. Có thể lắm. Nhưng tại sao lại là cô? Ngoài ra cô còn vấn đề của Sabine, nhưng chuyện này có thể chỉ là một sai lầm...

Khi lên đến nơi, cô mở cánh cửa bọc thép nặng nề bằng chiếc chìa khóa mà Stern đã đưa, bước qua ngưỡng cửa và thấy mình chìm trong một sự im lặng hoàn toàn. Tiếng đế giày cao su của cô miết trên lớp vải nhựa lót sàn nhà là thứ âm thanh duy nhất trong những căn phòng được cô kiểm tra nhanh. Đầu tiên là phòng sinh hoạt chung, nơi cô nhận thấy gác trên gạt tàn là một điếu thuốc đã cháy hết. Trên bàn bếp, cô thấy vết tích của bữa tối - một cái nĩa nằm cạnh chiếc đĩa ăn, một cái bánh flan ăn dở - như thể ai đó đã phải bỏ ngang bữa ăn của mình. Tất cả các bóng đèn đều bật sáng, kể cả trong Phòng suy tưởng. Mila tiến nhanh đến phòng ngủ: chắc chắn có chuyện gì đó đã xảy ra. Giường của Stern đang bừa bộn, một hộp kẹo bạc hà nằm lăn lóc trên gối anh.

Điện thoại di động của cô kêu lên một tiếng bíp, báo hiệu có tin nhắn. Cô đọc tin:

“Chúng tôi đến nhà bà Gress. Krepp muốn cho chúng tôi xem một thứ. Cô đến nhập nhóm nhé. Boris”.
 
Chương 26


Lúc đến nhà bà Yvonne Gress, Mila nhận thấy không phải tất cả mọi người đều đã vào trong: Sarah Rosa đang mặc bộ áo liền quần và mang túi bọc giày bên cạnh chiếc xe thùng. Mila cảm thấy thái độ của Sarah đỡ gây hấn hơn hẳn trong những ngày vừa qua. Cô ta vẫn tự cô lập và đắm mình trong những suy nghĩ riêng. Chắc là do các rắc rối cá nhân.

Rosa ngước mắt lên nhìn cô.

- Mẹ kiếp! Cô chẳng bỏ sót cái gì, hả?

Tôi xin rút lại những gì vừa nghĩ... Mila nhủ thầm.

Cô phớt lờ và định trèo vào trong xe kiếm một bộ đồ bảo hộ. Nhưng Rosa đứng ngay bậc cửa chắn đường.

- Ê, tôi đang nói với cô đấy!

- Chị thích dạy đời người khác nhỉ?

Mặt cô chỉ cách mặt Rosa có vài phân. Mila có thể ngửi thấy mùi thuốc lá, kẹo cao su và cà phê. Cô chỉ muốn phớt lờ hoặc nói chuyện thẳng thắn với Rosa, nhưng nhớ đến điều Goran đã nói về vụ ly thân của Rosa và chứng rối loạn ăn uống của con gái cô ta, Mila quyết định chọn một giải pháp khác.

- Sao chị ghét tôi đến thế, hả Rosa? Tôi chỉ làm việc của mình thôi mà.

- Nếu thế thì lẽ ra cô đã phải tìm thấy nạn nhân số sáu rồi chứ?

- Tôi sẽ tìm ra.

- Cô biết không, tôi không nghĩ là cô sẽ tồn tại lâu trong cái đội này đâu. Hiện giờ cô tưởng đã chinh phục được họ, nhưng sớm muộn rồi họ cũng sẽ hiểu chúng tôi có thể xoay xở tốt mà không có cô.

Rosa sấn tới, nhưng Mila không lùi bước.

- Nếu chị ghét tôi đến vậy, thì tại sao sau vụ cô nhi viện, khi Roche muốn đuổi cổ tôi, chị lại bỏ phiếu giữ tôi lại?

Rosa quay về phía Mila, ánh mắt lộ vẻ thích chí.

- Ai nói với cô vậy?

- Giáo sư Gavila.

Rosa bật cười, lắc đầu.

- Này, cô em thân mến ạ, chính vì những trò như thế này mà cô sẽ không tồn tại lâu được. Bởi vì nếu như Gavila tiết lộ cho cô chuyện bỏ phiếu, thì khi cô kể cho tôi nghe, cô đã phản lại ông ấy... Mà này, ông ấy đã cho cô vào tròng đấy... Vì tôi đã bỏ phiếu chống lại cô mà.

Nói đoạn Rosa bỏ mặc Mila đứng như trời trồng và đường hoàng tiến về phía ngôi nhà. Mila nhìn theo, hoang mang vì những gì cô ta vừa nói. Sau đó cô chui vào trong xe thùng để mặc đồ bảo hộ.

Krepp đã bảo đảm đó sẽ là “nhà nguyện Sixtine” của mình. Sự so sánh ông đã dành cho căn phòng trên gác trong ngôi nhà của bà Yvonne Gress hóa ra không sai chút nào.

Vào thời kỳ hiện đại, kiệt tác của Michelangelo đã được phục chế toàn bộ, trả lại cho các bức tranh sự lộng lẫy nguyên thủy, giải phóng chúng khỏi lớp dày bụi khói và keo động vật tích tụ qua nhiều thế kỷ sử dụng nến và lò than. Các chuyên gia đã bắt đầu công việc với một khu vực rất nhỏ, không nhỉnh hơn một con tem bưu chính, để tìm hiểu xem thứ gì nằm bên dưới. Đó là một bất ngờ lớn: dưới lớp bồ hóng dày là những màu sắc đẹp tuyệt vời mà họ không thể tưởng tượng ra trước đó.

Cũng như thế, Krepp đã bắt đầu với một giọt máu đơn giản mà Mila đã phát hiện ra nhờ con chó và tìm ra kiệt tác của mình.

- Trong thùng rác không có vật chất hữu cơ nào. - Krepp nói. - Nhưng ống cống đã bị ăn mòn và có dấu vết của acid chlorhydric. Chúng tôi phỏng đoán là Feldher đã dùng nó để tiêu hủy các phần thi thể, để có thể phi tang chúng dễ hơn. Acid vốn rất hiệu quả trong việc hủy xương.

Khi lên đến nơi, Mila chỉ nghe được phần sau của câu nói. Krepp đang ở giữa hành lang, đứng trước mặt ông là Goran, Boris và Stern. Sau lưng họ, Rosa đang dựa lưng vào tường.

- Như vậy manh mối duy nhất chúng ta có để ghép tội cuồng sát cho Feldher là vệt máu nhỏ đó.

- Anh đã phân tích nó chưa?

- Chang khẳng định chín mươi phần trăm nó là của cậu con trai.

Goran quay lại nhìn Mila, rồi nói với Krepp:

- Tốt rồi, tất cả mọi người đã có mặt. Chúng ta có thể bắt đầu...

Họ đang đợi cô. Lẽ ra cô phải thấy hãnh diện, nhưng cô không sao tiêu hóa được câu nói của Sarah Rosa. Biết tin ai bây giờ? Người phụ nữ rồ dại đã xử tệ với cô ngay từ đầu, hay Goran? Trong lúc đó, Krepp cảnh báo mọi người trước khi đưa họ vào trong căn phòng:

- Chúng ta chỉ có thể ở trong đó tối đa mười lăm phút, do vậy nếu như mọi người có thắc mắc gì thì hỏi luôn đi.

Không ai lên tiếng.

- Được rồi, ta vào thôi.

Căn phòng bị cô lập bởi hai cánh cửa kính cách nhau một khoảng hẹp, chỉ cho phép một người bước qua. Nó dùng để bảo toàn vi khí hậu. Trước khi vào trong, một người trong đội của Krepp đo thân nhiệt của từng người bằng chiếc nhiệt kế hồng ngoại nom giống như cái người ta vẫn dùng cho các em bé. Sau đó anh ta nhập dữ liệu vào một máy tính nối với các thiết bị tạo ẩm đặt trong phòng để chúng có thể điều chỉnh sao cho nhiệt độ trong phòng vẫn được duy trì ổn định.

Nguyên nhân của việc làm này được Krepp đích thân giải thích. Ông là người bước vào phòng sau cùng.

- Vấn đề chính nằm ở chỗ lớp sơn được Feldher sử dụng để sơn lên các vách tường. Chúng ta không thể xóa bỏ chúng bằng các dung môi thông thường nếu không muốn xóa luôn những thứ nằm bên dưới.

- Vậy anh đã làm thế nào? - Goran hỏi.

- Chúng tôi đã phân tích và khám phá ra đó là một loại sơn nước sử dụng chất kết dính có nguồn gốc từ chất béo thực vật. Chỉ cần phun cồn tinh chế vào không khí trong phòng và để như thế trong khoảng vài giờ, ta sẽ hòa tan được lượng chất béo đó và làm mỏng đi lớp sơn tường. Nếu có máu bên dưới, luminol sẽ làm chúng xuất hiện...

3-aminophthalhydrazide, được biết đến nhiều hơn dưới cái tên luminol. Đó là thuốc thử có vai trò rất quan trọng trong ngành khoa học hình sự hiện đại. Nó dựa vào tính chất của nhóm hem trong phân tử hemoglobin[5]. Khi luminol phản ứng với thành phần này của máu, nó sẽ tạo ra một ánh sáng huỳnh quang màu xanh dương đặc trưng, chỉ thấy được trong tối. Tuy nhiên, để có hiệu quả, trước tiên thuốc thử phải được kết hợp với một tác nhân oxy hóa, thường là nước oxy già, sau đó phun sương vào trong không khí.

Luminol chỉ có một khuyết điểm duy nhất: thời gian phát huỳnh quang chỉ kéo dài không quá ba mươi giây. Sau đó ta không thể lặp lại phép thử được nữa.

Vì lý do này, một loạt các máy chụp ảnh sử dụng phim có thời gian phơi sáng dài sẽ chụp lại kết quả thử nghiệm trước khi chúng biến mất mãi mãi.

Krepp phân phát mặt nạ có lọc đặc biệt và mắt kính bảo hộ, vì cho dù chưa được chứng minh, người ta vẫn sợ là luminol có thể gây ra ung thư. Sau đó ông quay sang nói với giáo sư Gavila:

- Khi nào ông sẵn sàng…

- Ta bắt đầu thôi.

Sử dụng bộ đàm, Krepp truyền lệnh cho ê kíp của ông ở bên ngoài.

Tất cả các bóng đèn tắt phụt.

Mila cảm thấy sợ hãi trong bóng tối tột cùng đang vây quanh: cô chỉ có thể cảm nhận được hơi thở của mình lọt qua màng lọc của mặt nạ, nghe như tiếng nấc hấp hối. Nó hòa lẫn với tiếng xì đều đặn trầm trầm của các thiết bị tạo ẩm đang liên tục phun hơi vào trong phòng.

Cô cố giữ bình tĩnh mặc dù nỗi lo lắng đang dâng cao trong lồng ngực và cô chỉ muốn mọi chuyện kết thúc nhanh chóng.

Ngay sau đó, tiếng động thay đổi. Các đầu phun phả vào trong không khí dung dịch hóa chất sẽ làm hiện hình các vết máu trên tường. Tiếng rít nhẹ của chúng đi kèm theo một thứ ánh sáng xanh lơ yếu ớt đang xuất hiện xung quanh mọi người, nom như ánh sáng mặt trời ở sâu dưới biển.

Lúc đầu, Mila tưởng đó chỉ là ảo ảnh, một dạng ảo giác được tạo thành trong đầu khi ta thở quá nhanh. Nhưng khi hiệu ứng lan dần, cô nhận ra mình lại có thể trông thấy các bạn đồng đội, như thể ai đó đã bật đèn, nhưng thay thế thứ ánh sáng lạnh lẽo của đèn halogen bằng tông màu xanh chàm. Cô tự hỏi làm thế nào điều này diễn ra được, và bỗng hiểu ra mọi chuyện.

Trên các vách tường có một lượng máu đủ để làm cho phản ứng của thuốc thử luminol soi sáng cả căn phòng.

Những vết máu nằm tung tóe khắp nơi, nhưng có vẻ như đều phát xuất từ một vị trí trong phòng, như thể ở ngay chính giữa phòng đã từng có một đàn hiến tế hay đại loại thế. Trần phòng giống như một bầu trời sao. Sự ngoạn mục của cảnh tượng chỉ bị hoen ố bởi ý thức của người chứng kiến về thứ đã gây ra nó.

Feldher có lẽ đã dùng cưa điện cắt vụn các thi thể để có thể dễ dàng xả chúng xuống cống.

Mila nhận ra những người khác cũng đang sững sờ giống mình. Họ nhìn quanh như những con rôbốt trong khi các máy ảnh được đặt khắp nơi trong phòng đang liên tục chụp lại cảnh tượng một cách vô hồn. Mười lăm giây đã trôi qua, nhưng thuốc thử luminol vẫn đang tiếp tục làm xuất hiện các vết máu mới, càng lúc càng nhỏ.

Họ nhìn trân trối cảnh tượng kinh hoàng trước mắt.

Boris giơ tay chỉ về một bên phòng để lưu ý mọi người thứ đang dần xuất hiện trên tường.

- Nhìn này... - Anh nói.

Trên một mảng tường, luminol không phát sáng, nó không phát hiện được gì, mảng tường vẫn sạch không. Nó được viền quanh bởi các chấm xanh li ti. Giống như khi người ta phun sơn lên một món đồ đặt cạnh tường rồi lấy nó ra, hình dáng của nó được lưu lại trên đó. Như một tấm phim âm bản.

Đường viền đó giống với một hình người.

Trong khi Feldher miệt mài làm việc với thi thể của bà Yvonne và các con với một thú tính khủng khiếp thì trong một góc phòng, một ai đó đã thản nhiên chứng kiến mọi việc.
 
Chương 27


Họ đã gọi tên nó.

Con bé chắc chắn như vậy. Nó không mơ. Lần này, tiếng gọi là thứ đã lôi nó ra khỏi giấc ngủ, không phải nỗi sợ, cũng không phải sự nhận thức đột ngột về nơi nó đang nằm từ lúc nào chẳng biết.

Tác dụng làm trì trệ các giác quan của thuốc đã tan biến ngay khi nó nghe thấy tên mình vang dội trong cái bụng của con quái vật. Gần giống như một tiếng vọng đến tìm nó từ nơi chẳng ai biết là đâu, và rốt cuộc đã tìm thấy nó.

“Tôi ở đây!” Nó muốn hét lên nhưng không được, mồm nó khô khốc.

Giờ thì có những tiếng động vang lên. Những âm thanh nó chưa từng nghe. Có phải là tiếng bước chân không? Phải, đó là những tiếng giày nặng nề. Nhiều chiếc giày đi cùng nhau. Có người! Ở đâu? Họ đang ở phía trên con bé, xung quanh con bé. Ở khắp mọi nơi, nhưng xa rất xa. Họ làm gì ở đây? Họ đến tìm nó à? Đúng, đúng rồi. Họ đến đây là vì nó. Nhưng họ không thể nhìn thấy nó, trong cái bụng của con quái vật. Phương cách duy nhất là làm cho họ nghe thấy.

Cứu với, nó cố gắng thốt lên.

Giọng nói của nó nghèn nghẹt, bị ảnh hưởng bởi những ngày ngắc ngoải, bởi giấc ngủ thô bạo và hèn hạ được đưa vào nó một cách lung tung tùy hứng, chỉ để làm cho nó ngoan ngoãn trong khi con quái vật tiêu hóa nó trong cái dạ dày đá này. Còn thế giới bên ngoài kia, họ đã hoàn toàn quên nó.

Nhưng nếu họ đang ở đây, thì tức là họ chưa quên mình!

Suy nghĩ ấy đã thổi vào nó một sức mạnh mà nó tưởng không có được. Một kho dự trữ nằm bên trong cơ thể nó, tại một nơi rất sâu kín, chỉ được sử dụng trong những trường hợp cấp bách. Nó nghĩ ngợi một lúc.

Làm thế nào báo cho họ biết về sự hiện diện của mình đây?

Cánh tay trái của con bé vẫn đang bị băng kín mít. Đôi chân nó nặng trịch. Khả năng cử động duy nhất là cánh tay phải của nó, thứ duy nhất giữ nó ở lại với cuộc đời. Cái điều khiển từ xa vẫn đang được gắn vào lòng bàn tay nó dùng để bật một đoạn phim hoạt hình từ giờ chỉ khiến nó điên tiết. Nó nhấc tay lên, hướng vào màn hình. m lượng đang ở mức bình thường, nhưng nó có thể tăng lên. Nó cố thử, nhưng không tìm ra được phím đúng. Có lẽ là do chúng chỉ điều khiển một chức năng duy nhất chăng? Trong lúc đó, trên đầu nó vẫn tiếp tục vang lên tiếng ồn. Nó nghe thấy một giọng phụ nữ. Nhưng còn có một người đàn ông đi cùng. Thậm chí là hai.

Mình cần phải gọi họ! Phải khiến họ nhận ra sự tồn tại của mình, nếu không mình sẽ chết!

Đó là lần đầu tiên con bé nghĩ đến khả năng bị chết. Cho đến lúc ấy, nó vẫn tránh nghĩ tới điều đó. Có lẽ là do mê tín. Cũng có thể là vì một cô bé gái không nên nghĩ tới cái chết. Nhưng vào lúc này, nó nhận ra nếu không ai đến cứu thì định mệnh của nó sẽ là cái chết.

Điều vô lý nhất là kẻ sẽ kết liễu nó cũng chính là người hiện đang chăm sóc nó. Người đó đã băng bó cánh tay nó, cho nó dùng thuốc qua đường tiêm truyền. Người đó lo cho nó một cách chu đáo. Tại sao hắn ta làm thế, nếu đằng nào cũng sẽ giết nó? Câu hỏi không khiến nó yên lòng chút nào. Chỉ có một lý do duy nhất: hắn muốn giữ cho nó còn sống. Và nó sợ là hắn sẽ còn bắt nó chịu đựng nhiều hơn nữa.

Như vậy đây có thể là cơ hội duy nhất để nó thoát khỏi nơi này, quay về nhà và gặp lại người thân. Bố, mẹ, ông, cả con Houdini nữa. Nó thề sẽ chăm sóc con mèo đáng nguyền rủa ấy nếu như cơn ác mộng này chấm dứt.

Con bé giơ tay lên và bắt đầu đập cật lực cái điều khiển vào thành giường thép. Tiếng động vang lên nhức óc, ngay với chính bản thân nó, nhưng lại có tính chất giải thoát. Mạnh hơn, càng lúc càng mạnh hơn. Cho đến khi nó cảm thấy món đồ bằng nhựa bắt đầu nứt vỡ. Nó mặc kệ. Tiếng kim loại vang lên càng lúc càng điên cuồng. Một tiếng thét đau đớn cuối cùng cũng thoát ra khỏi cổ họng con bé.

- Tôi ở đây!

Cái điều khiển từ xa rời ra khỏi lòng bàn tay nó, buộc nó ngừng lại. Nhưng nó nghe thấy thứ gì đó ở trên đầu. Có thể tốt, hoặc không tốt. Im lặng. Có lẽ họ đã nghe thấy gì đó và đang căng tai lên để nghe ngóng cho rõ hơn. Phải rồi, họ không thể nào đã đi mất được! Thế là nó đập tiếp, mặc dù cánh tay phải của nó đau nhói. Mặc cho cơn đau chạy qua vai sang phía bên trái. Cho dù nếu chuyện này chỉ làm tăng thêm sự tuyệt vọng của nó cũng mặc. Bởi lẽ, nếu không ai nghe thấy nó thì sau này mọi thứ sẽ càng tệ hơn, nó biết như thế. Ai đó sẽ trả đũa nó. Và bắt nó trả giá.

Những giọt nước mắt lạnh lăn trên má con bé. Nhưng tiếng động đã lại tiếp tục, nó tiếp tục huy động sự can đảm của mình.

Một cái bóng tách ra từ bức tường đá và tiến lại chỗ con bé.

Nó nhìn thấy cái bóng nhưng vẫn không dừng lại. Khi cái bóng đã đến đủ gần, nó nhận thấy đôi bàn tay dịu dàng, chiếc váy ngắn màu xanh, mái tóc màu nâu dẻ mềm mại buông trên hai vai.

Cái bóng nói với nó bằng chất giọng của một cô bé:

- Thôi, đủ rồi đấy. Họ sẽ nghe thấy chúng ta.

Rồi cô bé đặt một bàn tay lên bàn tay của nó. Sự đụng chạm đó đủ để dừng nó lại.

- Xin cậu đấy. - Cô bé nói thêm.

Lời khẩn khoản của cô bé nghe buồn rầu đến nỗi nó bị thuyết phục và không gây ồn ào nữa. Nó không biết tại sao cô bé này lại thích một thứ nhảm nhí như việc ở lại đây. Nhưng nó nghe lời cô bé ngay lập tức. Nó không biết liệu nó phải khóc lóc vì cố gắng bất thành này hay phải vui mừng vì khám phá ra mình không cô độc. Nó cực kỳ biết ơn vì sự hiện diện đầu tiên của con người mà nó biết đến là một cô bé gái giống như nó, người mà nó không muốn làm thất vọng. Nó quên bẵng cả chuyện nó muốn ra khỏi chỗ này.

Ở trên đầu nó, tiếng người nói và tiếng ồn đã ngừng cả lại. Lần này là một sự im lặng tuyệt đối.

Cô bé nhấc tay ra khỏi tay nó.

- Ở lại đi... - Nó van nài.

- Đừng lo, chúng ta sẽ còn gặp nhau...

Cô bé đi xa dần, quay trở vào trong bóng tối. Còn nó, nó để cho cô bé đi. Và nó thì bám víu vào lời hứa nhỏ nhoi vô nghĩa ấy để tiếp tục hy vọng.
 
Chương 28


- Cái ghế bành của Alexander Bermann!

Tại phòng suy tưởng, cả nhóm đang tập trung vào câu nói của Gavila. Họ nhớ lại khu ngoại ô nơi tên ấu dâm đặt hang ổ, cùng với chiếc máy tính mà hắn đã sử dụng để săn mồi trên mạng.

- Krepp đã không tìm thấy bất kỳ dấu vân tay nào trên cái ghế bành bọc da ở dưới tầng hầm đó!

Goran đột ngột nhận ra đó là một manh mối.

- Trên tất cả những thứ khác có hàng trăm dấu tay, nhưng trên cái ghế thì không! Tại sao? Bởi vì ai đó đã cất công xóa sạch chúng!

Nhà tội phạm học tiến về phía bức tường đang găm các báo cáo, các bức ảnh và những kết luận về vụ việc ở cô nhi viện. Ông gỡ một tờ xuống và đọc. Đó là biên bản ghi lại đoạn băng thu âm lời thú tội của Ronald Dermis lúc còn là một cậu bé với cha Rolf, vốn được tìm thấy trong máy ghi âm chôn theo quan tài của Billy Moore.

- “Con biết chuyện đã xảy ra với Billy phải không, Ron?” “Chúa đã mang cậu ấy đi”. “Không phải Chúa, Ron. Con biết là ai không?” “Bạn ấy ngã. Bạn ấy bị ngã từ trên tháp xuống”. “Nhưng lúc đó con ở cùng với Billy”. “… Dạ”. Sau đó cha Rolf trấn an thằng bé: “Không ai trừng phạt con nếu con nói ra sự thật. Ta hứa”. Rồi ta nghe thấy Ronald đáp: “Có người đã bảo con làm chuyện đó”. Mọi người có hiểu không? “Người đó”.

Goran quan sát những gương mặt đang bối rối nhìn mình.

- Rồi ta nghe thấy cha Rolf hỏi: “Người đó là ai? Billy à? Billy đã bảo con đẩy cậu ấy sao?” “Dạ không”, Ronald đã đáp như thế. “Vậy là một đứa khác?” và Ronald lại đáp: “Dạ không”. “Vậy thì ai? Coi nào, trả lời ta đi. Người mà con nói không tồn tại, phải không? Đó chỉ là sự tưởng tượng của con...” Ronald có vẻ đoan chắc khi phủ nhận một lần nữa, nhưng cha Rolf độp luôn: “Ở đây không có ai, ngoài con và các bạn học”. Rốt cuộc Ronald trả lời: “Người đó chỉ đến gặp một mình con”.

Dần dần, mọi người hiểu ra vấn đề.

Giáo sư Goran mừng rỡ như một đứa trẻ. Ông chạy đến bên những tờ giấy gắn trên tường và gỡ xuống bản sao bức thư của Ronald viết khi đã là người lớn để gửi cho đội điều tra.

- Câu này đã đập vào mắt tôi: “thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”.

Ông giơ bức thư lên, chỉ cho mọi người thấy câu vừa đọc.

- Mọi người thấy không? Chữ “người” đã được cố tình viết hoa... Tôi đã nghĩ đến điều này, nhưng đã rút ra một kết luận sai lầm. Tôi đã tin đây là một ví dụ rõ ràng của dạng phân ly nhân cách, trong đó cái tôi tiêu cực luôn biệt lập với cái tôi đại diện. Và trở thành “người đó”... “Đó là TÔI. Nhưng NGƯỜI đã bảo tôi làm điều đó. Do lỗi của NGƯỜI mà TÔI mới thành ra như thế này”. Tôi đã nhầm! Tôi đã mắc cùng một lỗi với cha Rolf ba mươi năm về trước. Trong lúc thú tội, khi Ronald dùng chữ “Người”, cha Rolf đã tưởng là thằng bé muốn nói tới chính mình, và nó đang tìm cách đổ thừa tội của mình. Ở trẻ con thì đó là một việc khá điển hình. Nhưng Ronald mà chúng ta biết đã không còn là một đứa trẻ nữa...

Mila thấy năng lượng trong ánh mắt của Goran đang giảm đi. Điều này thường xảy ra mỗi khi ông mắc một sai lầm trong đánh giá.

- “Người” mà Ronald muốn nói tới ở đây không phải là một phóng chiếu từ nội tâm của hắn, một bản ngã thứ hai luôn chịu trách nhiệm cho những hành động của hắn! Không phải, cũng chính “Người” đó là kẻ đã ngồi trong chiếc ghế bành của Alexander Bermann mỗi khi hắn lên Internet tìm trẻ con! Feldher đã để lại vô vàn dấu vết trong nhà bà Yvonne Gress, nhưng lại lo lắng sơn lại căn phòng nơi diễn ra vụ thảm sát, bởi vì thứ ở trên tường là cái duy nhất hắn buộc phải che giấu... hoặc nhấn mạnh: hình ảnh được ghi lại bằng máu của người chứng kiến! Như vậy, “người” ở đây là Albert.

- Tôi rất tiếc, nhưng chuyện này không hợp lý. - Sarah Rosa lên tiếng với một sự bình tĩnh và quả quyết đầy bất ngờ. - Chúng ta đã xem tất cả những đoạn băng trong hệ thống máy quay an ninh của Capo Alto, và ngoài Feldher, không còn ai khác vào trong căn nhà đó.

Goran quay sang phía Sarah, chỉ một ngón tay vào cô:

- Chính xác! Bởi vì mỗi lần làm như thế, gã đều vô hiệu hóa chúng bằng cách gây quá tải. Nếu cô nghĩ đến điều này, cô cũng có thể thu được cùng một kết quả trên tường với một hình nhân bằng bìa, hoặc một con ma nơ canh. Vậy thì, chuyện này cho chúng ta biết điều gì?

- Gã rất giỏi trong việc tung hỏa mù. - Mila nói.

- Rất chính xác! Ngay từ đầu, con người này đã thách chúng ta hiểu được những thủ đoạn của gã. Lấy ví dụ như vụ bắt cóc Sabine trên vòng quay ngựa gỗ... Thần sầu! Mấy chục con người, mấy chục cặp mắt trong hội chợ hôm ấy, nhưng tuyệt không một ai nhìn thấy gì!

Xem vẻ Goran thực sự hứng thú trước sự tinh ranh của kẻ mà ông đang phải đối đầu. Không phải vì ông không thấy thương các nạn nhân. Đó không phải là minh chứng cho sự thiếu nhân đạo của ông. Albert là đối tượng nghiên cứu của ông. Thấu hiểu những uẩn khúc trong đầu gã là một thử thách đầy hấp dẫn.

- Tuy vậy, cá nhân tôi tin rằng, Albert đã thực sự có mặt trong căn phòng nơi Feldher sát hại các nạn nhân của hắn. Tôi loại trừ khả năng dùng hình nhân, hoặc thứ gì đó tương tự. Các bạn biết tại sao không? - Ông nói, thoáng thích thú trước nét mặt băn khoăn của các thành viên trong đội điều tra. - Trong cách sắp đặt của các vết máu trên tường quanh hình người, Krepp đã nhận thấy thứ mà anh ta gọi là “các biến đổi đều đặn”. Điều này đồng nghĩa rằng, dù cho vật nằm giữa nguồn bắn máu và bức tường là gì, nó cũng không hề bất động, mà có di chuyển!

Sarah Rosa há hốc mồm. Không còn gì để nói nữa.

- Ta hãy suy nghĩ một chút. - Stern đề nghị. - Nếu Albert đã biết Ronald Dermis khi hắn còn là một đứa trẻ, thì hồi đó gã có thể ở độ tuổi nào? Hai mươi? Ba mươi? Như vậy, bây giờ gã đã năm mươi hoặc sáu mươi tuổi.

- Chính xác. - Boris nói. - Và theo như kích thước của hình người trên tường, tôi có thể nói gã cao khoảng một mét bảy mươi.

- Một mét sáu chín. - Rosa chỉnh lại. Cô đã kiểm tra thông tin này.

- Chúng ta đã có mô tả một phần của kẻ mà chúng ta tìm kiếm, đó là một bước tiến.

Goran lại lên tiếng:

- Bermann, Ronald, Feldher giống như những con sói. Và lũ sói thường đi săn theo bầy đàn. Mỗi đàn có một con thủ lĩnh. Đây là điều mà Albert muốn nói với chúng ta: gã chính là con sói đầu đàn. Mỗi tên đã gặp gã ở một thời điểm trong đời, gặp riêng, hoặc cùng nhau. Ronald và Feldher thì biết nhau, cả hai trưởng thành trong cùng cô nhi viện. Nhưng ta có thể phỏng đoán chúng không biết ai là Alexander Bermann... Yếu tố chung duy nhất là gã, Albert. Đó là lý do tại sao gã để lại dấu ấn của mình tại mọi hiện trường án mạng.

- Vậy điều gì sẽ xảy ra đây? - Sarah Rosa hỏi.

- Các bạn có thể tự mình nghĩ ra... Hai. Vẫn còn thiếu hai thi thể bé gái, và do đó, ta còn thiếu hai bộ phận của đàn sói.

- Còn cả bé gái số sáu nữa. - Mila nhắc.

- Phải... Nhưng cô bé đó thì Albert sẽ giữ cho riêng mình.

Từ nửa giờ trước, cô đứng trên vỉa hè phía trước, không đủ dũng khí để bấm chuông. Cô cố tìm những từ ngữ thích hợp để biện minh cho sự xuất hiện của mình. Cô lạ lẫm với mối quan hệ giữa các cá nhân đến độ những tiếp cận đơn giản nhất cũng trở nên không khả thi. Cô thấy lạnh, nhưng vẫn không thể tự quyết định được.

Đến chiếc xe màu xanh kế tiếp, mình sẽ đi, mình hứa đấy.

Đã quá chín giờ, xe cộ gần như không còn lưu thông. Các ô cửa sổ của căn hộ giáo sư Goran trên tầng ba đang sáng đèn. Con đường ướt sũng vì tuyết tan là một bản hòa âm của những tiếng nhỏ giọt tong tong, tiếng máng xối kêu óc ách và tiếng cống nước ùng ục.

Thôi được, mình đi.

Mila ra khỏi bóng tối cho đến lúc ấy vẫn bảo vệ cô khỏi những cái nhìn của những người hàng xóm tọc mạch, để bước nhanh đến cửa ra vào. Tòa nhà cổ kính với những khuôn cửa sổ to lớn, gờ tường rộng và mái nhà đầy ống khói chắc hẳn từng là một công xưởng vào thời giữa thế kỷ XX. Trong khu này có rất nhiều tòa nhà như vậy. Cả khu phố có lẽ đã được cải tạo lại nhờ một kiến trúc sư nào đó, người đã biến các công xưởng thành nhà ở.

Cô ấn điện thoại nội bộ và chờ.

Cô đợi gần một phút thì nghe thấy giọng nói của Goran vang lên khọt khẹt.

- Ai đó?

- Mila ạ. Em xin lỗi, nhưng em cần nói chuyện với ông mà lại không muốn nói qua điện thoại. Lúc nãy, ở trong studio, ông quá bận, nên em đã nghĩ là…

- Em lên đi. Tầng ba.

Một tiếng tạch vang lên và cánh cửa mở ra.

Thang chuyển hàng được sử dụng làm thang máy. Để làm nó chạy, cần phải dùng tay đóng hai cánh cửa trượt và kéo một cái cần. Mila được nâng lên từ từ đến tầng ba. Trên chiếu nghỉ, cánh cửa duy nhất đang hé mở sẵn chờ cô.

- Mời vào. - Giọng nói của Goran vọng ra từ bên trong căn hộ.

Mila đi theo tiếng nói vào trong một căn phòng rộng rãi, ăn thông với nhiều phòng khác. Sàn nhà lát gỗ thô. Những hệ thống sưởi bằng gang bọc quanh các cột trụ. Một lò sưởi lớn đang cháy lép bép làm cho không gian có màu hổ phách. Mila khép cửa căn hộ sau lưng, tự hỏi Goran đang ở đâu. Cô nhìn thấy ông qua cửa bếp.

- Chờ chút, tôi ra ngay.

- Ông cứ từ từ.

Mila nhìn xung quanh. Căn hộ rất ngăn nắp, tương phản với bề ngoài luộm thuộm thường thấy của nhà tội phạm học. Trong nhà không có một hạt bụi, mọi thứ dường như nói lên sự ân cần mà ông đã bỏ ra để mang lại một chút hòa hợp cho cuộc sống của con trai mình.

Một lát sau, nhà tội phạm học xuất hiện với một cốc nước trong tay.

- Em xin lỗi, em đến đường đột quá.

- Không có gì, tôi luôn ngủ muộn. Tôi đang cho Tommy ngủ. - Ông nói và chỉ vào cốc nước đang cầm. - Việc này không mất nhiều thời gian đâu. Em ngồi đi. Hay em tự làm cho mình chút gì uống nhé. Quầy bar phía đằng kia.

Mila gật đầu và nhìn ông tiến đến một trong các phòng ngủ. Để đỡ ngượng ngập, cô đi làm một cốc vodka đá. Đứng cạnh lò sưởi, cô nhìn cánh cửa phòng ngủ con trai ông mở hé, và thấy Goran đang ngồi trên giường thằng bé, vừa trò chuyện vừa vuốt ve nó. Trong căn phòng mờ tối chỉ được chiếu sáng bằng một ngọn đèn ngủ hình chú hề, Tommy chỉ là một hình hài nhỏ bé dưới lớp chăn được tạo nên bởi những cái vuốt ve của bố.

Trong tình huống này, Goran trông rất khác biệt.

Cô chợt nhớ lần đầu tiên đến văn phòng của bố hồi còn nhỏ. Ở đó, người đàn ông mặc comlê thắt càvạt mà cô thấy rời khỏi nhà mỗi sáng trở thành một con người cứng rắn và nghiêm nghị, khác hẳn ông bố dịu dàng của cô. Mila còn nhớ cô đã rất sốc.

Còn đối với Goran thì ngược lại. Trông thấy ông trong vai trò làm bố khiến cô cảm nhận được một tình cảm trìu mến lớn lao.

Sự lưỡng phân đó rất xa lạ đối với Mila. Cô chỉ có một phiên bản duy nhất. Không hề có một sự đứt quãng nào trong cuộc đời của cô. Cô chưa bao giờ thôi là một nữ cảnh sát đi tìm kiếm những người mất tích. Cô tìm họ suốt: trong thời gian rảnh rỗi, khi cô được nghỉ phép, lúc đi mua sắm. Việc dò xét những gương mặt không quen đã trở thành một thói quen của cô.

Các trẻ em vị thành niên mất tích cũng có một câu chuyện như những người khác. Nhưng đến một lúc nào đó, câu chuyện ấy bị gián đoạn. Mila dò theo những bước chân nhỏ bé mất hút vào trong tăm tối của chúng. Cô sẽ không bao giờ quên những khuôn mặt đó. Nhiều năm trời có thể trôi qua, nhưng cô sẽ vẫn có khả năng nhận các em.

Bởi vì những đứa trẻ đang ở chung quanh ta, cô nghĩ. Đôi khi, chỉ cần tìm chúng nơi những người lớn mà chúng đã trở thành.

Goran đang kể một câu chuyện cho con trai. Mila không muốn cái nhìn của mình làm hỏng cảnh tượng rất đỗi riêng tư đó. Nó không phải là trò diễn để cô xem. Cô quay đi, nhưng mắt lại bắt gặp nụ cười của Tommy trên một tấm ảnh. Nếu như cô từng gặp thằng bé, chắc nó đã khiến cô thấy khó xử và cô sẽ đến muộn hơn trong hy vọng nó đã ngủ say. Tommy là một phần cuộc sống của Goran mà cô chưa được biết.

Một lát sau, nhà tội phạm học đến chỗ Mila, mỉm cười tuyên bố:

- Nó ngủ rồi.

- Em không muốn làm phiền ông. Nhưng chuyện này quan trọng lắm.

- Em đã xin lỗi rồi mà. Nào, em hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra...

Ông ngồi xuống một chiếc trường kỷ rồi bảo cô ngồi cạnh mình. Ngọn lửa lò sưởi tạo nên những hình bóng nhảy múa trên tường.

- Chuyện đó lại diễn ra: người ta theo dõi em.

Nhà tội phạm học nhíu mày.

- Em chắc chứ?

- Lần trước thì không, lần này thì có.

Cô thuật lại sự việc cho ông nghe không sót chi tiết nào. Chiếc xe tắt đèn, ánh trăng phản chiếu trên nóc xe, việc kẻ bám đuôi cố quay đầu bỏ đi sau khi bị phát hiện.

- Tại sao ai đó lại có lý do để theo dõi em?

Ông đã đặt câu hỏi đó với cô lúc ở nhà hàng, khi cô kể lại cảm giác bị theo dõi ở nhà nghỉ. Lần này câu hỏi được ông dành cho chính mình thì đúng hơn.

- Tôi không tài nào tìm được một lý do xác đáng. - Ông kết luận sau một thoáng suy nghĩ.

- Em nghĩ hoàn toàn không cần thiết phải cắt cử một người bảo vệ em để bắt quả tang kẻ theo dõi.

- Giờ thì chắc hắn biết em đã để ý hắn, nên hắn sẽ không làm chuyện đó nữa đâu.

Mila gật đầu.

- Nhưng em đến đây không phải chỉ vì chuyện đó.

Goran lại nhìn vào Mila:

- Em đã phát hiện được chuyện gì à?

- Đúng hơn thì em đã hiểu ra một chuyện. Một trong những trò ảo thuật của Albert.

- Cái nào?

- Cách gã đã làm để bắt cóc cô bé gái trên vòng quay ngựa gỗ mà không ai hay biết.

Đôi mắt Goran sáng lên:

- Nói tiếp đi, tôi đang muốn nghe đây…

- Chúng ta luôn cho rằng Albert là kẻ bắt cóc. Tức là một người đàn ông. Nhưng nếu như ngược lại, đó là một phụ nữ?

- Tại sao em nghĩ như thế?

- Thật ra, chính mẹ Sabine đã khiến em tin vào giả thiết này. Dù em không hỏi, bà ta đã nói rằng nếu như có một người đàn ông lạ mặt trên vòng quay ngựa gỗ, tức không phải một ông bố, thì bà ta đã nhận ra ngay. Bà ta cũng nói thêm là một người mẹ luôn có giác quan thứ sáu trước những chuyện như thế. Em tin bà ta.

- Tại sao?

- Bởi vì cảnh sát đã xem hàng trăm bức ảnh được chụp tối hôm đó từ những tay máy nghiệp dư, nhưng không ai thấy một người đàn ông nào tình nghi. Từ đó chúng ta đã suy ra rằng gã Albert có một diện mạo rất tầm thường... Còn em thì cho rằng một phụ nữ có thể dễ dàng hơn trong việc bắt cóc cô bé.

- Vậy là theo em, gã có một kẻ đồng lõa... - Ông có vẻ thích giả thiết của Mila. - Nhưng chúng ta không có bất kỳ manh mối nào để chứng minh điều đó.

- Em biết. Đó là vấn đề lớn.

Goran đứng dậy và bắt đầu rảo bước trong phòng. Ông vuốt râu suy nghĩ.

- Đây không phải là lần đầu. Điều này từng xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn như vụ Fred và Rosemary West ở Gloucester.

Nhà tội phạm học kể nhanh vụ một cặp đôi sát thủ hàng loạt. Đối tượng nam là thợ nề, đối tượng nữ nội trợ. Mười đứa con. Cùng nhau, chúng đã dụ dỗ và giết hại các bé gái vô tội, sau khi ép các nạn nhân tham gia vào các trò tình dục bệnh hoạn. Chúng đã chôn xác các cô bé trong sân sau ngôi nhà số 25 phố Cromwell, Gloucester. Người ta thậm chí đã tìm thấy xác đứa con gái ruột mười sáu tuổi của cặp tội phạm, con bé có thể đã táo gan chống đối chúng. Hai nạn nhân khác đã được tìm thấy ở những nơi có thể liên hệ tới Fred. Mười hai thi thể cả thảy. Nhưng cảnh sát đã phải ngừng đào bới vì sợ cả ngôi nhà nhỏ sẽ sụp đổ.

Theo ví dụ đó, Gavila cho rằng giả thiết của Mila về kẻ đồng lõa của Albert không phải là không có cơ sở.

- Biết đâu người phụ nữ đó đang chăm sóc cho nạn nhân số sáu.

Goran có vẻ rất thích thú, nhưng ông không muốn để sự nhiệt tình cuốn mình đi.

- Em đừng hiểu nhầm tôi nhé. Linh cảm của em rất tuyệt vời, nhưng ta cần phải kiểm chứng cái đã.

- Ông sẽ nói với những người khác chứ?

- Tôi sẽ suy nghĩ. Trong lúc đó, tôi sẽ yêu cầu một người trong nhóm chúng ta xem lại các bức ảnh và đoạn phim được thực hiện tại hội chợ.

- Em có thể phụ trách việc này.

- Đồng ý.

- Còn một việc nữa... Là em tò mò thôi. Em đã thử tự mình tìm câu trả lời nhưng không được.

- Chuyện gì thế?

- Trong quá trình phân hủy, mắt của tử thi có chịu một sự biến đổi, phải không ạ?

- Thường thì mống mắt nhạt đi dần dần...

Goran nhìn Mila đăm đăm. Ông không hiểu cô muốn đi đến đâu.

- Tại sao em lại hỏi chuyện này?

Mila rút từ trong túi ra bức ảnh của Sabine mà mẹ cô bé đã đưa cho cô vào cuối chuyến thăm viếng của cô. Tấm ảnh mà cô đã đặt trên ghế ngồi bên cạnh mình trong suốt chặng lái xe về. Tấm ảnh mà cô đã nhìn rất kỹ sau màn đuổi bắt nghẹt thở, và đã gieo mối nghi ngờ vào lòng cô.

Có điều gì đó không ổn.

Goran cầm lấy tấm ảnh quan sát.

- Thi thể bé gái tìm thấy trong nhà Kobashi có đôi mắt màu xanh. - Mila nhắc ông. - Còn mắt của Sabine lại có màu nâu.

Ngồi trong taxi, Goran không nói một lời suốt chuyến đi. Sau khi cho ông biết khám phá của mình, Mila đã thấy tâm trạng của ông đột ngột thay đổi. Và ông đã nói một điều khiến cô chấn động.

- Có những người ta tưởng đã hiểu cặn kẽ, nhưng thật ra chẳng biết gì về bọn họ... Ông ta đã biến chúng ta thành lũ ngốc.

Lúc đầu, cô tưởng ông muốn nói tới Albert, nhưng không phải.

Ông đã nhanh chóng gọi điện cho các thành viên trong đội điều tra và bà vú nuôi của Tommy. Sau đó, ông nói với cô một câu ngắn gọn:

- Ta đi thôi.

- Còn con trai ông?

- Bà Runa sẽ có mặt sau hai mươi phút nữa, dù sao thì thằng bé cũng đã ngủ.

Họ đã gọi một chiếc taxi.

Trụ sở cảnh sát liên bang vẫn còn sáng đèn vào thời điểm khuya khoắt ấy. Trong tòa nhà, các cảnh sát viên đang nhộn nhịp thay ca. Gần như tất cả đều đang bận rộn với vụ án. Từ nhiều ngày nay, họ đã tiến hành khám xét nhà các nghi phạm hoặc những địa điểm được mách nước qua điện thoại bởi những người dân nhiệt tình muốn giúp đỡ cuộc tìm kiếm bé gái số sáu.

Sau khi thanh toán tiền taxi, Goran tiến đến cửa trụ sở, không buồn đợi Mila đang nhọc nhằn đuổi theo. Tại ban khoa học hành vi, họ thấy Rosa, Boris và Stern đang đứng đợi.

- Có chuyện gì vậy? - Stern hỏi.

- Cần phải làm rõ tình hình. - Goran đáp. - Chúng ta cần phải gặp Roche.

Ông tìm thấy ngài chánh thanh tra giữa cuộc họp của các sếp cảnh sát liên bang. Cuộc họp đã diễn ra nhiều giờ đồng hồ, với chủ đề chính là vụ Albert.

- Chúng ta cần nói chuyện.

Roche đứng lên khỏi ghế:

- Thưa quý vị, tất cả đều đã biết giáo sư Gavila, người đã hợp tác với bộ phận của tôi từ nhiều năm qua...

Goran thì thầm vào tai ông thanh tra:

- Ngay bây giờ.

Nụ cười nhã nhặn vụt tắt trên gương mặt của Roche.

- Mong mọi người thứ lỗi, vừa có tin mới nên tôi phải đi.

Trong khi thu xếp giấy tờ, Roche cảm thấy mọi ánh nhìn đang đổ dồn vào mình. Goran lùi về sau đứng đợi ông, trong khi các thành viên khác chờ ngoài cửa phòng.

- Tôi hy vọng chuyện này thực sự quan trọng. - Ngài chánh thanh tra nói sau khi lẳng tập hồ sơ lên bàn làm việc của mình.

Goran đợi cho tất cả mọi người vào trong phòng xong xuôi rồi mới khép cửa lại và đối mặt với Roche.

- Xác chết tìm thấy trong phòng khách nhà Kobashi không phải là của nạn nhân số ba.

Giọng điệu đanh thép của ông không cho phép người khác phủ nhận. Ngài chánh thanh tra ngồi xuống, hai tay chắp lại trên bàn.

- Ông nói tiếp đi.

- Đó không phải là Sabine. Mà là Melissa.

Mila nhớ đến bé gái số bốn. Cô bé nhiều tuổi nhất trong số các nạn nhân, nhưng cơ thể còn chưa dậy thì có lẽ đã gây ra sự nhầm lẫn. Và cô bé có đôi mắt xanh.

- Nói tiếp đi, tôi đang nghe đây... - Thanh tra Roche lặp lại.

- Điều này có thể nói lên hai việc. Hoặc là Albert đã thay đổi phương thức hành động của gã, bởi vì cho đến lúc này gã vẫn giao cho chúng ta thi thể của các bé gái theo thứ tự bắt cóc. Hoặc là Chang đã nhầm lẫn trong khi phân tích ADN.

- Tôi tin cả hai giả thiết đều có thể xảy ra. - Roche tự tin khẳng định.

- Còn tôi thì ngược lại. Tôi tin là giả thiết đầu gần như không thể xảy ra... Còn về cái thứ hai, tôi thực sự nghĩ ông đã ra lệnh tráo kết quả trước khi đưa nó cho Mila!

Thanh tra Roche tím mặt.

- Nghe này, giáo sư, ông tưởng tôi sẽ ngồi yên cho ông buộc tội đấy à?

- Xác của bé gái thứ ba đã được tìm thấy ở đâu?

- Cái gì? - Ngài chánh thanh tra cố làm ra vẻ ngạc nhiên.

- Rõ ràng là ông đã tìm thấy, nếu không thì Albert đã không trưng ra cái xác thứ tư.

- Cái xác nằm ở nhà Kobashi từ hơn một tuần nay! Chúng ta lẽ ra phải tìm thấy nạn nhân số ba trước, như ông nói. Hoặc đơn giản là, chúng ta đã tìm thấy số bốn trước, rồi sau đó Chang đã nhầm lẫn, tôi thì biết gì?

Nhà tội phạm học nhìn thẳng vào mắt thanh tra Roche.

- Chính đó là lý do khiến ông cho chúng tôi xả trại hai mươi bốn giờ sau vụ việc ở cô nhi viện. Để chúng tôi không quẩn chân ông.

- Goran, tôi đã nghe đủ những cáo buộc nực cười đó rồi đấy! Ông không có gì để chứng minh cho những gì ông vừa nói!

- Đây là vì vụ Wilson Pickett, có phải không?

- Những gì xảy ra hồi đó không dính gì với vụ này, tôi cam đoan với ông.

- Không, thực tế là ông không còn tin tôi nữa. Và có lẽ ông đã không hoàn toàn sai... Nhưng nếu ông nghĩ cuộc điều tra này đang tuột khỏi tay tôi, thì tôi muốn ông nói thẳng với tôi và miễn cho tôi các trò chính trị kia. Cứ nói đi, và chúng tôi sẽ lùi lại, nhận lãnh trách nhiệm của mình mà không làm phiền đến ông.

Thanh tra Roche không đáp ngay. Ông ta chắp hai bàn tay dưới cằm và ngả người tới lui trên ghế bành. Sau đó ông ta mở lời:

- Thành thực mà nói, tôi không hiểu...

- Thôi nào, ông nói cho ông ấy đi. - Stern cắt ngang và nhận lấy ánh mắt phóng lửa của thanh tra.

- Anh cứ ở yên chỗ của anh!

Goran quay lại nhìn Stern, rồi Boris và Rosa. Ông nhận ra tất cả mọi người đều đã biết vụ việc ngoại trừ ông và Mila.

Ra đây là lý do Boris tỏ ra lảng tránh khi mình hỏi anh ta đã làm gì vào ngày xả trại, Mila nghĩ bụng. Cô cũng nhớ giọng điệu có phần đe dọa mà anh chàng đã dùng để nói với thanh tra Roche trước cửa nhà bà Yvonne Gress, khi ông ta từ chối cho anh vào trong nhà trước đội đặc nhiệm. Đó ngầm hiểu là một lời đe dọa tố giác.

- Phải đấy, thanh tra. Ông hãy nói tất cả và chúng ta kết thúc luôn chuyện này. - Sarah Rosa hối thúc, bênh vực cho Stern.

- Ông không thể gạt bỏ ông ấy, như thế là không công bằng. - Boris nói thêm, hất đầu chỉ nhà tội phạm học.

Cả ba thành viên trong nhóm điều tra đều có vẻ hối lỗi vì đã cho Goran ra rìa, và cảm thấy có tội vì đã tuân theo một mệnh lệnh mà họ cho là bất công.

Thanh tra Roche đợi thêm vài giây nữa, rồi lần lượt nhìn Goran và Mila.

- Thôi được rồi... Nhưng nếu để rò rỉ chuyện này, hai người chết với tôi.
 
Chương 29


Mặt trời rón rén mọc lên trên những cánh đồng.

Ánh sáng chỉ vừa đủ để làm hiện lên đường nét của nhiều quả đồi tiếp nối nhau như những con sóng đất khổng lồ. Màu xanh ngắt của thảm cỏ lộ ra dưới lớp tuyết nổi trên nền trời xám. Một dải đường nhựa len lỏi qua các thung lũng, vặn mình theo những chuyển động của quang cảnh.

Tì trán vào kính cửa sau xe hơi, Mila bình tĩnh lạ lùng, có lẽ là do mệt mỏi, hay cũng có thể là do cam chịu. Bất luận chuyện gì được cô khám phá ở cuối chuyến đi ngắn này cũng sẽ không làm cô ngạc nhiên nữa. Roche đã không tiết lộ gì nhiều. Sau khi lệnh cho cô và Goran giữ bí mật, ông ta đã giam mình trong văn phòng cùng với nhà tội phạm học để nói chuyện tay đôi với nhau.

Cô ở lại ngoài hành lang, trong khi Boris giải thích những lý do khiến ngài chánh thanh tra không tin tưởng họ.

- Ông ấy là dân thường, còn cô... Cô đến đây như một người cố vấn, nên...

Không có gì nhiều để nói thêm. Dù cho bí mật mà Roche muốn giấu kín có là gì thì tình hình vẫn phải nằm trong kiểm soát. Như vậy mấu chốt là phải tránh mọi sự rò rỉ. Biện pháp duy nhất là tiết lộ nó cho những người trực tiếp bị ông ta quản lý và do vậy có thể bị dọa dẫm.

Ngoài chuyện đó ra, Mila không biết gì hơn. Mà cô cũng không đặt câu hỏi nào.

Hai giờ sau, cánh cửa văn phòng của Roche bật mở. Ngài chánh thanh tra lệnh cho Boris, Stern và Rosa đưa giáo sư Gavila đến hiện trường thứ ba. Dù không nhắc đến tên Mila, nhưng ông ta vẫn chấp thuận để cô đi cùng.

Họ đã rời khỏi tòa nhà và đến một nhà để xe cách đó không xa. Mọi người lấy hai chiếc xe hòm bình thường để tránh bị theo dõi bởi đám nhà báo đang túc trực trước trụ sở.

Mila lên một chiếc xe cùng với Stern và Gavila, cố tình không đi chung xe với Sarah Rosa. Sau khi cô ta rắp tâm phá hỏng mối quan hệ của cô với Goran, Mila cảm thấy mình không thể chịu nổi người đàn bà này và sợ rằng sớm muộn gì cô cũng sẽ tính sổ với cô ta.

Họ đã chạy xe được một lúc và Mila đã cố ngủ chút ít. Khi cô thức dậy thì họ sắp sửa đến đích.

Con đường khá vắng vẻ. Mila trông thấy ba chiếc xe hơi sẫm màu đậu bên vệ đường, trên mỗi chiếc xe có hai người ngồi.

Lính canh, cô nghĩ thầm, để ngăn chặn những kẻ tọc mạch nếu có.

Họ đi dọc theo một bờ tường cao bằng gạch đỏ khoảng một cây số nữa và đến một cánh cổng sắt.

Con đường chấm dứt ở đó.

Không có chuông, cũng chẳng có điện thoại nội bộ. Trên một cây cột có một camera an ninh đang chiếu con mắt điện tử của nó vào họ khi hai chiếc xe dừng lại. Một phút sau, cánh cổng tự động mở ra. Con đường tiếp tục rồi biến mất sau một mô đất. Không thể thấy gì phía sau giới hạn đó ngoài một thảm cỏ trải dài.

Mười phút trôi qua trước khi họ trông thấy một tòa nhà cổ kính. Nó xuất hiện trước mắt họ như thể vừa từ dưới đất chui lên. Ngôi nhà rất đồ sộ và có kiến trúc khô khan. Kiểu dáng của nó giống như những tòa dinh thự đầu thế kỷ XX, vốn được xây dựng bởi những tay trùm sắt thép hay dầu mỏ để khoe của.

Mila nhận ra tấm gia huy bằng đá trấn ngay mặt tiền. Một chữ R to tướng được khắc trên đó.

Đây là nơi ở của Joseph B. Rockford, ngài chủ tịch của quỹ cùng tên, nguồn gốc của giải thưởng mười triệu cho bất cứ ai tìm ra bé gái số sáu.

Họ vượt qua ngôi nhà và dừng xe gần mấy chuồng ngựa. Để đến được hiện trường thứ ba, nằm ở ranh giới phía tây của khuôn viên rộng nhiều mẫu đất, nhóm điều tra phải sử dụng những chiếc xe hơi chạy điện tương tự như xe cho người chơi golf.

Mila trèo vào chiếc xe do Stern lái. Anh bắt đầu tóm lược cho cô nghe về Joseph B. Rockford, xuất thân và khối tài sản khổng lồ của ông ta.

Gia tộc được hình thành từ một thế kỷ trước cùng với Joseph B. Rockford đệ nhất, người ông nội. Theo như lời kể, ông ta là con trai độc nhất của một thợ cắt tóc nhập cư. Không quan tâm đến cây kéo và con dao cạo, ông ta đã bán cửa tiệm của bố mình để làm ăn. Trong khi mọi người thời đó đều đầu tư vào ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ non trẻ thì Rockford đệ nhất đã may mắn sử dụng khoản tiền tiết kiệm của mình để lập nên một doanh nghiệp đào giếng. Xuất phát từ ý tưởng cho rằng dầu mỏ thường nằm ở những mảnh đất cằn cỗi, Rockford đi đến kết luận là những kẻ dành cả đời để làm giàu từ lòng đất sẽ nhanh chóng thiếu thốn một khoản thiết yếu: nước. Khai thác từ những chiếc giếng khoan cạnh những mỏ dầu khổng lồ, thứ nước quý giá ấy được bán với giá cao gấp đôi giá dầu.

Joseph B. Rockford đệ nhất trở thành tỉ phú trước khi chết. Ông qua đời trước khi tròn năm mươi tuổi do căn bệnh ung thư dạ dày dạng bộc phát hiếm gặp.

Joseph B. Rockford đệ nhị đã thừa hưởng từ bố mình một di sản khổng lồ. Ông này đã nhân đôi nó bằng cách đầu cơ vào tất cả những gì trong tầm tay: từ cây gai dầu cho đến bất động sản, từ việc nuôi bò cho đến ngành công nghiệp điện. Để tưởng thưởng cho sự giàu lên của mình, ông này đã cưới một cô hoa hậu nhí và cô vợ này đã sinh cho ông ta hai đứa con. Tuy nhiên, ít lâu trước khi vượt qua ngưỡng năm mươi tuổi, ông có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh ung thư dạ dày và mất không đầy hai tháng sau đó.

Người con trai cả của ông, Joseph B. Rockford đệ tam, đã nối bước cha mình lên nắm quyền một đế chế khổng lồ ở độ tuổi rất trẻ. Mệnh lệnh đầu tiên và cũng là duy nhất của anh ta là cắt bỏ con số thứ tự đầy phiền toái khỏi tên mình. Không có bất kỳ tham vọng kinh tế nào, và có thể sẵn sàng vung tay quá trán, Joseph B. Rockford sống một cuộc đời không mục đích.

Quỹ gia tộc trùng tên là ý tưởng của người em gái, Lara. Nó cung cấp thức ăn, mái nhà, sự chăm sóc y tế và giáo dục cho các trẻ em không được may mắn như hai anh em nhà họ. Lara đã hiến luôn một nửa di sản gia đình cho quỹ này. Mặc cho sự hào phóng đó, theo tính toán của các nhà tư vấn, gia đình Rockford vẫn còn có thể sống thoải mái trong ít nhất một thế kỷ nữa.

Lara Rockford đã ba mươi bảy tuổi, năm năm về trước chị ta đã sống sót một cách thần kỳ sau một tai nạn xe hơi. Joseph năm nay bốn mươi chín. Căn bệnh ung thư dạ dày di truyền vốn đã cướp đi sinh mạng của ông nội và bố anh ta vừa mới xuất hiện trên cơ thể anh ta mười một tháng trước.

Từ ba mươi tư ngày nay, Joseph B. Rockford rơi vào hôn mê và ở trong ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết.

Mila chăm chú lắng nghe lời kể của Stern trong khi chiếc xe hơi chạy điện nhấp nhổm trên những mô đất gồ ghề. Họ đang đi trên một lối mòn đã được thành hình một cách tự phát trong vòng hai ngày vừa qua, sau những chuyến đi tới lui của nhiều phương tiện đi lại giống như thứ họ đang sử dụng.

Khoảng nửa tiếng sau, họ đã đến rìa của hiện trường thứ ba. Từ xa, Mila đã trông thấy những bộ áo liền quần màu trắng thường thấy ở mọi hiện trường vụ án. Ngay cả trước khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng mà Albert đã bày sẵn cho họ, Mila đã thấy chấn động vì hình ảnh trước mắt.

Số lượng của các kỹ thuật viên đang làm việc lên đến hơn một trăm.

Cơn mưa tỉ tê rơi không ngừng. Trong lúc tìm đường len qua những công nhân đang xúc nhiều khối đất lớn, Mila cảm thấy nôn nao khó chịu. Khi chỗ xương lần lượt được phát hiện, có người đã phân loại và bỏ chúng vào trong những cái túi nhựa trong có dán nhãn, trước khi xếp vào những chiếc hộp chuyên dụng.

Trong một chiếc hộp, Mila đếm được ít nhất ba chục cái xương đùi. Còn trong một hộp khác, cô nhìn thấy toàn xương chậu.

Stern quay sang nói với Goran:

- Cô bé đã được tìm thấy ở khu này đây...

Anh chỉ một khu vực được căng các tấm ni lông che mưa gió. Trên mặt đất, đường nét của một thi thể được vẽ lại bằng latex. Cánh tay trái bị thiếu.

Sabine.

- Nạn nhân nằm trên cỏ, trong tình trạng phân hủy nặng. Cô bé đã nằm đó quá lâu, bọn thú hoang đã đánh hơi thấy thi thể.

- Ai đã tìm ra cái xác?

- Một trong những người gác rừng của khu vực này.

- Các anh đã lập tức cho đào bới à?

- Đầu tiên chúng tôi đưa chó nghiệp vụ đến, nhưng chúng không đánh hơi được gì. Sau đó chúng tôi quan sát bằng trực thăng để xem liệu mặt đất có những chỗ gồ ghề bất thường không. Chúng tôi đã nhận thấy là xung quanh chỗ tìm thấy thi thể, hệ thực vật có vẻ khác biệt. Chúng tôi liền đưa các tấm ảnh chụp cho một nhà thực vật học kiểm tra, và ông ta khẳng định sự biến đổi đó có thể là do thứ gì đấy được chôn bên dưới.

Mila từng nghe nói đến điều này: các kỹ thuật tương tự đã được sử dụng ở Bosnia để tìm ra các hố chôn tập thể sau thảm kịch diệt chủng. Các thi thể nằm trong đất gây ra nhiều tác động lên hệ thực vật bên trên, do đất được tiếp nhận nhiều dưỡng chất từ quá trình phân hủy xác. Goran nhìn quanh.

- Có cả thảy bao nhiêu?

- Ba mươi, bốn mươi, chúng tôi chưa thể khẳng định được...

- Họ đã ở đó được bao lâu?

- Chúng tôi đã tìm được những cái xương rất cũ, những cái khác có vẻ mới hơn.

- Chúng là của ai?

- Đàn ông. Đa phần còn trẻ, tuổi từ mười sáu đến hai mươi hai, hai mươi ba. Phân tích cung hàm đã khẳng định điều đó, trong đa số trường hợp.

- Chuyện này khiến những thứ khác hoàn toàn bị lu mờ. - Nhà tội phạm học nói, ông đang nghĩ đến những hậu quả khi vụ việc được công khai hóa. - Dù vậy Roche không định ém nhẹm vụ này chứ? Với chừng ấy con người ở đây thì...

- Không, ngài chánh thanh tra chỉ tìm cách trì hoãn việc công bố nó, chờ cho mọi thứ được làm sáng tỏ.

- Bởi vì không ai có thể hiểu được tại sao lại có một cái hố chôn tập thể nằm trong khuôn viên dinh thự nhà Rockford. - Goran nói với một chút giận dữ mà ai cũng thấy được. - Ngược lại, tôi lại nghĩ là ngài chánh thanh tra của chúng ta đang có một ý đồ riêng... đúng không nhỉ?

Stern không biết phải trả lời thế nào. Boris và Mila cũng thế.

- Stern này, tôi tò mò một chút nhé... Người ta đã tìm thấy cái xác trước hay sau khi công bố khoản tiền thưởng?

- Trước đó. - Stern lí nhí thừa nhận.

- Biết ngay mà.

Khi họ quay trở lại chuồng ngựa, Roche đang đợi mọi người cạnh chiếc xe công vụ đã đưa ông đến nơi. Goran bước ra khỏi xe đánh golf và đi đến gặp ông thanh tra, vẻ quả quyết.

- Này, tôi có còn phải phụ trách vụ này không đây?

- Tất nhiên là có rồi! Chứ ông tưởng tôi dễ dàng đẩy ông đi lắm sao?

- Dễ dàng thì không, căn cứ vào việc tôi vừa mới khám phá được. Nhưng cũng tiện thể thật đấy nhỉ.

- Ông nói vậy là sao? - Viên thanh tra bắt đầu bực mình.

- Nghĩa là tôi đã xác định được danh tính thủ phạm.

- Sao ông có thể chắc chắn đến thế?

- Bởi vì nếu cả anh cũng không nghĩ là Rockford đứng sau tất cả chuyện này, thì anh đã chẳng nhọc sức ém nhẹm vụ việc.

Roche nắm lấy một tay nhà tội phạm học.

- Ông nghe này, Goran, ông cứ nghĩ tôi là người duy nhất có quyền quyết định. Nhưng không phải vậy đâu, tin tôi đi. Ông không biết tôi phải chịu áp lực từ bên trên như thế nào đâu.

- Anh đang tìm cách bao che cho ai? Có bao nhiêu người liên đới trong vụ này?

Roche quay lại ra hiệu bảo người tài xế đi chỗ khác. Sau đó, ông nói với toàn êkíp:

- Trước hết, xin nói rõ một lần cho dứt điểm với mọi người... Tôi ngấy đến tận cổ chuyện này rồi. Thậm chí tôi chẳng cần đe dọa để mọi người giữ bí mật, bởi vì nếu mọi người hé răng dù chỉ một lời, tất cả sẽ sụp đổ ngay tức khắc. Sự nghiệp, chế độ hưu trí. Và tôi cũng chìm luôn cùng mọi người.

- Chúng tôi đã hiểu rồi... Giờ thì, hắn là ai? - Goran thúc ép.

- Từ khi chào đời, Joseph B. Rockford chưa bao giờ rời khỏi nơi này.

- Sao có thể thế được? - Boris thắc mắc. - Không bao giờ á?

- Không bao giờ. - Roche xác nhận. - Lúc đầu, có vẻ như đó là ý tưởng ngông cuồng của bà mẹ, cựu nữ hoàng sắc đẹp nhí. Bà ta yêu con một cách bệnh hoạn, ngăn cản nó sống một thời thơ ấu và niên thiếu bình thường.

- Nhưng, khi bà ta qua đời... - Sarah Rosa phản đối.

- Khi bà ta qua đời thì đã quá muộn: cậu ấm không thể xây dựng nổi một mối quan hệ cá nhân nào. Cho đến lúc đó, anh ta được cung phụng bởi đám người phục vụ trong nhà. Thêm vào đó, treo lơ lửng trên đầu anh ta là lời nguyền của gia tộc Rockford, theo đó tất cả những người thừa kế đều phải chết lúc năm mươi tuổi vì ung thư dạ dày.

- Có lẽ mẹ anh ta đã tìm cách cứu con mình khỏi định mệnh đó, một cách vô thức. - Goran phỏng đoán.

- Còn em gái anh ta? - Mila hỏi.

- Một kẻ nổi loạn. - Roche nói. - Nhỏ tuổi hơn anh trai, cô ta đã thoát được xiềng xích của bà mẹ vừa đúng lúc. Sau đó cô ta đã sống một cuộc đời như mình muốn: đi du lịch, phung phí tài sản, buông thả trong các mối quan hệ điên rồ và thử tất cả các loại ma túy cũng như những trò khác. Bất cứ thứ gì, để trở nên khác biệt so với ông anh, người đã trở thành tù nhân tại nơi này... Cho đến khi vụ tai nạn xe hơi cách đây năm năm buộc cô ta phải sống trong một nhà cùng với anh trai.

- Joseph B. Rockford là người đồng tính. - Goran nói.

- Phải. - Roche xác nhận. - Và những thi thể tìm thấy trong hố chôn tập thể đã không phủ nhận điều đó. Toàn là các nam thanh niên.

- Vậy tại sao lại giết họ? - Sarah Rosa hỏi.

Goran là người trả lời:

- Ngài chánh thanh tra sẽ chỉnh lại nếu tôi nói sai, nhưng tôi tin là Rockford không chấp nhận được bản thân. Hoặc cũng có thể là hồi còn trẻ, ai đó đã phát hiện ra khuynh hướng tình dục của hắn, và hắn không bao giờ tha thứ cho người đó.

Mọi người đều nghĩ đến bà mẹ, dù không ai nói ra.

- Sau mỗi lần vui thú hắn lại cảm thấy có tội. Nhưng thay vì tự trừng phạt, hắn ta trừng trị những nhân tình của mình... bằng cách giết họ. - Mila kết luận.

- Những xác chết bị chôn ở đây, trong khi hắn chưa bao giờ rời khỏi nhà. - Goran nói. - Như vậy hắn đã giết họ tại đây. Liệu có thể nào không ai hay biết chuyện gì, từ đám gia nhân, làm vườn đến người gác rừng?

Roche biết câu trả lời, nhưng ông ta để cho họ tự mình đoán ra.

- Tôi thật không thể nào tin nổi. - Boris lên tiếng. - Hắn đã dùng tiền để bịt miệng tất cả.

- Hắn đã mua sự im lặng của họ trong suốt nhiều năm trời. - Stern thêm vào với vẻ mặt kinh tởm.

Linh hồn một con người đáng giá bao nhiêu? Mila tự hỏi. Bởi chung quy mọi chuyện nằm ở đó. Đôi khi một con người khám phá ra bản chất ác độc của mình, hắn chỉ tìm được khoái lạc trong việc giết những người khác, Với hắn, ta gọi là kẻ sát nhân, hay tên giết người hàng loạt. Nhưng những người khác, những kẻ ở bên cạnh hắn mà lại không hề ngăn chặn tất cả chuyện này, thậm chí còn kiếm lợi từ nó, phải gọi bọn họ bằng cái tên nào đây?

- Hắn kiếm trai bằng cách nào? - Goran hỏi.

- Chúng tôi vẫn chưa biết. Chúng tôi đã tiến hành truy nã thư ký riêng của hắn, kẻ đã biến mất từ khi xác của bé gái thứ ba được tìm thấy.

- Vậy còn những gia nhân khác, ông xử lý họ thế nào?

- Tôi đang đợi, chừng nào chúng ta còn chưa xác định được liệu họ có nhận tiền hay không, cũng như họ đã biết cụ thể những gì.

- Rockford không chỉ mua chuộc những người thân cận của hắn, phải không?

Goran đã đọc được suy nghĩ của thanh tra Roche. Ông ta thú nhận:

- Cách đây vài năm, một cảnh sát đã có ý nghi ngờ: anh ta điều tra vụ mất tích của một thiếu niên bỏ nhà đi bụi và ăn cướp một cửa hàng tạp hóa. Dấu vết dẫn anh ta đến đây. Rockford đã nhờ đến những người quen ở bên trên, và tay cảnh sát đã phải câm miệng... Lần khác, một cặp đôi đang đi dạo trên con đường dọc theo tường rào thì thấy một người trèo ra: đó là một cậu trai trong tình trạng gần như khỏa thân, bị thương ở chân và đang sốc nặng. Họ đã cho cậu ta lên xe hơi và đưa đến bệnh viện. Cậu ta chỉ ở lại đó có vài tiếng đồng hồ: một người đã đến đó tìm cậu ta, tự xưng là cảnh sát. Kể từ đó, không ai nghe thấy gì về cậu ta nữa. Các bác sĩ và y tá đã được cho tiền để câm họng. Cặp nam nữ là một đôi quan hệ bất chính, nên chỉ việc dọa tiết lộ chuyện đó cho người bạn đời của họ là xong.

- Thật kinh khủng. - Mila nói.

- Tôi biết.

- Vậy còn em gái hắn, ta có thể nói thế nào về cô ta?

- Tôi tin là Lara Rockford không bình thường. Vụ tai nạn xe hơi đã để lại những di chứng trên cô ta. Nó xảy ra cách đây không lâu. Cô ta đã tự lao xe khỏi đường và đâm vào một cây sồi.

- Dù sao vẫn phải nói chuyện với cô ta. Và với cả Rockford nữa. - Goran quả quyết. - Con người này có thể biết Albert là ai.

- Ông định nói chuyện với hắn thế nào đây? Hắn đã rơi vào hôn mê không phục hồi kia mà!

- Hắn đã thắng chúng ta, cùng với cái món ung thư của hắn! - Boris tức tối thốt lên. - Không những hắn không giúp ích gì cho ta, mà hắn còn không phải ngồi tù một ngày nào cho những việc hắn đã làm!

- Không đâu, cậu nhầm rồi. - Thanh tra Roche nói. - Nếu địa ngục tồn tại, thì họ sẽ đợi hắn dưới đó. Nhưng hắn sẽ xuống đó một cách chậm rãi và đau đớn. Gã con hoang ấy bị dị ứng với morphin, nên không có cách gì giảm đau cho hắn được cả.

- Vậy tại sao lại duy trì sự sống của hắn?

Roche nở một nụ cười mỉa mai và nhướng mày:

- Em gái hắn muốn như thế.

Nội thất trong dinh thự Rockford khiến người ta nghĩ ngay đến một cung điện. Sàn và tường được ốp đá cẩm thạch đen, các vân đá đã hấp thu toàn bộ ánh sáng. Các cửa sổ được che phủ bằng rèm nhung dày màu tối. Đa phần các bức tranh và thảm tường tái hiện các quang cảnh điền viên hoặc những cuộc săn bắn. Một chùm đèn pha lê treo lủng lẳng trên trần nhà.

Ngay khi vừa bước qua ngưỡng cửa, Mila đã cảm thấy cái lạnh chộp lấy mình. Mặc dù được chiếu sáng, ngôi nhà vẫn mang một không khí điêu tàn. Nếu chú ý, người ta có thể nghe thấy âm hưởng của sự im lặng trôi qua, lắng đọng qua thời gian cho đến khi tạo nên sự trầm mặc đầy dọa dẫm này.

Lara Rockford đã “chấp thuận tiếp họ”. Cô ta thừa biết mình không có lựa chọn, nhưng những từ ngữ được gia nhân chuyển đến ấy giúp nhóm điều tra ý thức được về loại người mà họ sắp đối diện.

Nữ tỉ phú đợi họ trong thư viện. Mila, Goran và Boris là những người sẽ hỏi chuyện cô ta.

Mila trông thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của Lara. Cô ta ngồi trên chiếc ghế trường kỷ bọc da, cánh tay tạo thành một đường cong thanh nhã trong khi đưa một điếu thuốc lá lên môi. Cô ta rất đẹp. Từ xa, họ đã bị hớp hồn vì đường cong lượn từ trán xuống chiếc mũi thanh tú cho đến đôi môi mọng. Đôi mắt của Lara có màu xanh lá cây thăm thẳm, viền quanh bằng hai hàng lông mi rất dài.

Nhưng khi ngồi trực diện với Lara, họ bị sốc khi nhìn thấy nửa kia của khuôn mặt. Nó bị biến dạng bởi một vết sẹo to tướng từ chân tóc cày qua trán, chui vào hốc mắt trống hoác rồi kéo dài như một vệt nước mắt xuống dưới cằm.

Mila nhận thấy cái chân cứng nhắc mà Lara không thể che giấu dù đã vắt chân kia lên. Một quyển sách đang được đặt cạnh cô ta. Bìa sách úp xuống nên họ không thể đọc được tựa đề cũng như tên tác giả.

- Xin chào. - Cô ta chào họ. - Điều gì đã khiến tôi được các người viếng thăm vậy?

Lara chẳng buồn mời họ ngồi xuống. Họ đứng trên tấm thảm vĩ đại che một nửa diện tích sàn.

- Chúng tôi rất muốn đặt vài câu hỏi với cô. - Goran nói. - Nếu được, tất nhiên rồi...

- Mời ông, tôi nghe đây.

Lara Rockford dụi phần còn lại của điếu thuốc vào chiếc gạt tàn bằng bạch ngọc, rồi lấy một điếu khác từ trong chiếc bao da đặt trên đầu gối, cùng một chiếc bật lửa bằng vàng. Khi châm lửa, những ngón tay của cô ta hơi run nhẹ.

- Cô chính là người đã treo giải thưởng mười triệu để tìm ra cô bé số sáu. - Goran nói.

- Đó là việc nhỏ nhặt nhất mà tôi có thể làm.

Lara đang thách thức họ dựa trên sự thật. Có lẽ cô ta muốn gây sốc, hoặc cũng có thể đó chỉ là do sự phá bỏ lề thói khác thường, trái hẳn với sự hà khắc của ngôi nhà mà cô ta đang náu mình.

Goran quyết định chấp nhận lời thách thức.

- Cô biết chuyện anh trai cô chứ?

- Mọi người đều biết. Nhưng không ai lên tiếng.

- Tại sao lần này lại khác?

- Ý ông là sao?

- Tay gác rừng đã tìm thấy thi thể của bé gái ấy. Tôi thiển nghĩ, chắc ông ta cũng đã bị mua chuộc...

Mila nghĩ Goran đã đoán ra và biết Lara có thể dễ dàng cho mọi chuyện chìm xuồng, nhưng lại không muốn như thế.

- Ông tin vào sự tồn tại của linh hồn chứ?

Vừa hỏi câu ấy, Lara vừa vuốt ve bìa sau của cuốn sách đặt trên ghế.

- Còn cô?

- Tôi đã nghĩ đến chuyện đó...

- Chính vì thế mà cô đã không cho phép các bác sĩ ngắt những thiết bị đang duy trì sự sống cho anh trai cô phải không?

Nữ tỉ phú không đáp ngay. Cô ta ngước mắt nhìn lên trần. Joseph B. Rockford đang nằm ở tầng trên, trong chiếc giường hắn thường nằm từ thuở ấu thơ. Phòng ngủ của hắn đã được biến thành một phòng chăm sóc đặc biệt xứng tầm với một bệnh viện hiện đại. Hắn được gắn với những thiết bị hỗ trợ thở, cung cấp thuốc men và dịch truyền cho hắn, lọc máu và giảm tải cho ruột rà của hắn.

- Xin đừng hiểu nhầm. Tôi muốn anh tôi chết.

Cô ta có vẻ thành thật.

- Có thể anh cô biết kẻ đã bắt cóc và giết chết năm bé gái, đồng thời giam giữ bé gái số sáu. Cô không thể hình dung được ai có thể là kẻ đó...

Lara hướng con mắt duy nhất của mình vào Goran. Rốt cuộc cô ta cũng đã để mắt đến ông. Hay đúng hơn là cô ta công khai để cho ông quan sát.

- Ai mà biết được, kẻ đó có thể là một người trong đám gia nhân. Một người đang có mặt, hay có thể là từng làm việc ở đầy. Ông chỉ việc kiểm tra.

- Chúng tôi đang làm việc đó, nhưng tôi sợ rằng kẻ chúng tôi đang tìm kiếm quá ranh ma để có thể ban cho chúng tôi nhường ấy ân huệ.

- Như ông đã thấy, chỉ có những ai có thể bị Joseph mua chuộc mới bước chân được vào trong ngôi nhà này. Bị quản lý và được cho tiền, dưới sự kiểm soát của anh tôi. Tôi chưa từng thấy người lạ ở đây.

- Vậy còn những thanh niên mà anh trai cô đã quan hệ? - Mila đột ngột lên tiếng.

Lara mất một lúc lâu để trả lời:

- Anh tôi cũng trả tiền cho bọn họ. Thỉnh thoảng, nhất là trong thời gian gần đây, anh tôi đề nghị với họ một kiểu hợp đồng theo đó họ bán linh hồn mình cho anh ấy. Họ cứ nghĩ đó chỉ là trò chơi, một câu chuyện đùa của nhà tỉ phú nhằm tiêu tán chút tiền. Thế là họ ký. Tất cả đều ký. Tôi đã tìm thấy các bản hợp đồng trong két sắt văn phòng. Những chữ ký khá là rõ ràng, ngay cả khi bọn họ không sử dụng chúng một cách nghiêm túc...

Lara bật cười trước sự liên tưởng rùng rợn ấy, nhưng đó là một tiếng cười quái lạ, nó khiến Mila rợn người. Tiếng cười bật ra từ trong sâu thẳm, như thể đã nằm đó từ lâu, trong buồng phổi của cô ta, trước khi bị khạc ra ngoài. Nó khàn đặc vì nicotin, và cả vì đau đớn nữa. Sau đó Lara cầm lấy cuốn sách đặt bên cạnh mình.

Faust.

Mila tiến một bước lại gần.

- Cô không phản đối nếu chúng tôi tìm cách thẩm vấn anh trai cô chứ?

Goran và Boris nhìn Mila như thể cô đang mất trí.

Lara lại bật cười.

- Cô định làm thế nào đây? Anh tôi đang chết nhiều hơn là sống. - Rồi cô ta nghiêm túc trở lại. - Muộn mất rồi.

Nhưng Mila kiên quyết:

- Cứ để chúng tôi thử.
 
Chương 30


Thoạt nhìn, Nicla Papakidis có vẻ là một phụ nữ yếu đuối.

Có lẽ do bà thấp người và có cái hông quá khổ. Cũng có thể là do đôi mắt toát lên một sự hài hước buồn bã và khiến người ta nghĩ đến một bài hát trong vở nhạc kịch của Fred Astaire, một tấm ảnh chụp trong buổi dạ vũ mừng năm mới thời trước hoặc vào ngày cuối cùng của mùa hè.

Trên thực tế, bà là một phụ nữ mạnh mẽ.

Bà đã tạo dựng sức mạnh cho mình từng chút một, sau những năm tháng ít nhiều sống trong nghịch cảnh. Bà sinh ra ở một ngôi làng nhỏ, là chị cả và cũng là đứa con gái duy nhất trong một gia đình có bảy người con. Năm lên mười một tuổi, bà mồ côi mẹ. Bà đã phải trông nom gia đình, chăm sóc bố và nuôi dạy các cậu em trai. Nhờ bà, họ đã đỗ đạt thành tài và tìm được việc làm tốt. Nhờ tiền bạc có được từ sự hy sinh vô bờ của bà và việc thắt chặt chi tiêu trong gia đình, các em trai của bà chưa bao giờ bị thiếu thốn thứ gì. Bà đã chứng kiến các em cưới những cô gái nhà lành, xây dựng gia đình và cho ra đời hơn hai chục đứa cháu cả trai lẫn gái, niềm vui và tự hào của bà. Khi người em trai út rời khỏi mái nhà chung, bà đã ở lại để chăm sóc cho người cha già yếu, từ chối đứa ông vào viện dưỡng lão. Bà luôn nói: “Đừng có lo cho tôi. Các cậu có gia đình của các cậu, còn tôi chỉ có một mình. Đây chẳng phải là hy sinh gì đâu”.

Bà đã chăm sóc cha như một đứa trẻ cho đến khi ông được chín chục tuổi. Lúc ông mất, bà tập hợp các cậu em lại.

“Tôi đã bốn mươi bảy, tôi nghĩ từ giờ mình hết lập gia đình được rồi. Tôi không có con cái, nhưng tôi sẽ luôn xem đàn cháu như chính con ruột mình và thế là đủ. Tôi cám ơn các cậu đã mời tôi về ở cùng, nhưng ý tôi đã quyết từ cách đây nhiều năm, dù hôm nay tôi mới cho các cậu biết. Chúng ta sẽ không gặp nhau nữa, các cậu em trai yêu quý của tôi ạ... Tôi đã quyết định dành cuộc đời mình cho Chúa, và từ ngày mai tôi sẽ náu mình trong nhà tu kín cho đến khi từ giã cõi đời”.

- Hóa ra là một bà tu sĩ! - Boris vừa nói vừa lái xe, sau khi đã nghe Mila kể lại câu chuyện.

- Bà ấy còn hơn thế nhiều.

- Tôi vẫn chưa thể tin là cô đã thuyết phục thành công giáo sư Gavila. Lại càng không tin là ông ấy thuyết phục được Roche.

- Đây chỉ là một phép thử, chúng ta có mất gì đâu? Hơn nữa, tôi nghĩ ta có thể tin tưởng ở Nicla trong việc giữ kín chuyện này.

- À, việc đó thì hẳn rồi!

Trên ghế sau xe có đặt một chiếc hộp thắt dây ruy băng đỏ.

- Sôcôla là điểm yếu duy nhất của Nicla. - Mila đã nói thế khi cô yêu cầu Boris dừng xe trước một hiệu bánh.

- Nhưng bà ấy theo dòng tu kín, tức là không thể đi cùng chúng ta.

- Thật ra thì chuyện phức tạp hơn thế...

- Nghĩa là sao?

- Nicla đã sống vài năm trong tu viện. Nhưng khi họ phát hiện ra điều bà đã làm, họ đã trả bà về với thế giới bên ngoài.

Họ đến nơi sau mười hai giờ trưa một chút. Khu vực này của thành phố khá lộn xộn. Tiếng ồn ào của dòng xe cộ trộn lẫn với tiếng nhạc xập xình, tiếng la hét cãi vã phát ra từ các căn hộ, cũng như từ những hoạt động hợp pháp lẫn phi pháp đang diễn ra trên đường phố. Những người sống ở đây không bao giờ thoát được chúng. Trung tâm thành phố, nơi chỉ cách đó có vài trạm xe điện, với những nhà hàng sang trọng, các cửa hiệu và những tiệm trà, đối với họ cũng xa vời như sao Hỏa.

Thiết bị định vị toàn cầu trên xe đã ngừng cung cấp thông tin từ khi họ rời khỏi xa lộ. Những chỉ dẫn duy nhất là các hình vẽ trên tường đánh dấu ranh giới địa bàn của các băng nhóm.

Boris lái xe vào một phố ngang kết thúc trong ngõ cụt. Anh đã quan sát một chiếc xe hơi bám đuôi họ được vài phút. Một chiếc xe với hai cảnh sát ngồi trong không thể không bị chú ý bởi những tên cảnh giới vốn luôn nghe ngóng động tĩnh mọi ngóc ngách trong khu vực.

- Lái chậm thôi, và để cho chúng thấy hai bàn tay của anh. - Mila đã nói với Boris như thế. Cô từng đến chỗ này khá nhiều lần.

Tòa nhà hai người định đến nằm ở cuối con phố nhỏ. Họ đậu xe ở giữa những cái xác xe cháy. Cả hai bước xuống xe Boris nhìn chung quanh. Anh chuẩn bị bấm điều khiển để chốt cửa xe, nhưng Mila đã ngăn anh lại.

- Đừng làm thế. Cứ để chìa khóa trong xe. Chúng có thể phá cửa chỉ vì “ngứa mắt”.

- Nhưng ai sẽ ngăn chúng trộm xe bỏ chạy?

Mila đi sang bên phía ghế lái, lục lọi trong túi và lôi ra một tràng hạt nhỏ bằng nhựa màu đỏ. Cô treo nó vào gương chiếu hậu.

- Ở đây nó là bùa chống trộm hiệu quả nhất đấy.

Boris lúng túng nhìn Mila, sau đó đi theo cô về phía tòa nhà.

Tấm bảng bằng bìa treo ngay cửa có đề: “Xếp hàng nhận thức ăn bắt đầu từ mười một giờ”. Và vì không phải người nào trong số các đối tượng của hàng chữ đó cũng biết đọc, nên người ta đã vẽ ở bên cạnh hình kim đồng hồ bên trên một đĩa thức ăn bốc khói.

Không khí thoang thoảng thứ mùi của thức ăn hòa lẫn với chất tẩy trùng. Tại cửa vào, vài chiếc ghế nhựa cọc cạch được bày quanh một cái bàn nhỏ trên có để mấy tờ báo cũ. Trên bàn cũng có mấy tờ rơi in thông tin của nhiều chủ đề khác nhau, từ phòng ngừa sâu răng trẻ em cho đến các biện pháp phòng tránh một số loại bệnh hoa liễu. Tất cả là nhằm biến chỗ này thành một phòng đợi. Trên tường, thông báo và yết thị được gắn kín mít trên tấm bảng thông tin. Có thể nghe thấy nhiều tiếng người nói vọng qua căn phòng, nhưng không thể biết chúng đến từ đâu. Mila kéo tay áo Boris.

- Ta đi nào, bà ấy ở tầng trên.

Hai người bước lên cầu thang. Các bậc thang đều đã hư hỏng và lan can lung lay một cách đáng sợ.

- Nhưng ta đang ở nơi quái quỷ gì thế này?

Boris tránh không đụng chạm vào bất cứ thứ gì vì sợ nhiễm khuẩn. Anh càu nhàu liên tục cho đến khi họ lên đến tầng trên. Trước một cánh cửa kính, một cô gái tuổi tầm đôi mươi rất xinh xắn đang đưa một lọ thuốc cho một ông già quần áo tả tơi, người chua khẳm và nồng mùi rượu.

- Phải uống một viên mỗi ngày, bác nhé?

Cô gái không có vẻ khó chịu vì mùi hôi hám của ông già. Cô nói với giọng rõ ràng, từ tốn, rành mạch từng chữ như nói với trẻ con. Ông già gật gù nhưng xem vẻ không thật thuyết phục.

- Việc này rất quan trọng. - Cô gái trẻ nhấn mạnh. - Bác không được quên đâu đấy. Nếu không, sẽ lại giống như lần trước, khi người ta đưa bác đến đây trong tình trạng dở sống dở chết.

Cô gái rút một chiếc khăn tay từ trong túi ra và buộc quanh cổ tay ông già.

- Phải thế này, bác mới không quên.

Ông già mỉm cười, vẻ hài lòng, rồi cầm lấy cái lọ và đi về, vừa đi vừa ngắm nghía món quà nơi cổ tay mình.

- Anh chị cần gì thế ạ? - Cô gái hỏi hai người.

- Bọn chị tìm bà Nicla Papakidis. - Mila đáp.

Boris đần mặt nhìn cô gái trẻ, đột nhiên những nỗi bực bội của anh bay đi đâu mất.

- Em nghĩ bà đang ở trong căn phòng áp cuối, dưới kia. - Cô vừa nói vừa chỉ hành lang sau lưng mình.

Khi họ đi ngang qua cô gái trẻ, Boris cụp mắt xuống nhòm ngực cô, và vấp ngay phải cây thánh giá mạ vàng đeo trên cổ cô.

- Nhưng cô ấy là…

- Phải. - Mila đáp ngay, cố nhịn cười.

- Tiếc thật.

Trong khi đi xuôi hành lang, họ nhìn qua các căn phòng. Những chiếc giường sắt, giường gấp, hoặc chỉ là xe lăn, tất cả đều đã được sử dụng bởi những kẻ dạt nhà, không phân biệt già trẻ. Họ bị mắc bệnh AIDS, nghiện ma túy hay nghiện rượu, mắc bệnh gan ở giai đoạn cuối, hoặc chỉ đơn giản là bệnh già. Họ có hai điểm chung: ánh mắt mệt mỏi và cảm giác đã sống một cuộc đời vứt đi. Không bệnh viện nào tiếp nhận họ trong tình trạng như thế. Họ không có gia đình hoặc đã bị đẩy ra khỏi nhà.

Ở đây, người ta đến để chết. Đó là điểm đặc biệt của nó. Nicla Papakidis gọi nó là “cảng trung chuyển”.

- Ngày hôm nay đẹp thật, Nora ạ.

Bà tu sĩ ân cần chải mái tóc dài bạc trắng của một bà già nằm trên chiếc giường đối diện cửa sổ, vừa chải vừa nói những lời dịu dàng.

- Sáng nay, lúc đi ngang qua công viên, tôi đã để bánh mì lại cho lũ chim. Với tình hình tuyết thế này, chúng sẽ dành thời gian ở trong tổ để ủ ấm cho nhau.

Mila gõ cánh cửa đang mở. Bà Nicla quay lại, mắt sáng lên khi nhìn thấy cô.

- Cháu tôi! - Bà vừa nói vừa đến ôm hôn cô. - Thật vui vì được gặp lại cháu!

Bà mặc một chiếc áo thun màu xanh xám xắn tay quá khuỷu vì lúc nào bà cũng cảm thấy nóng, cộng thêm một chiếc váy đen quá đầu gối, chân xỏ đôi giày thể thao. Làn da rất trắng làm đôi mắt xanh thẳm của bà nổi bật hẳn lên. Tất cả toát lên sự tinh khiết và sạch sẽ. Boris nhận thấy bà quàng một tràng hạt đỏ trên cổ, giống như cái mà Mila đã buộc vào gương chiếu hậu.

- Cháu xin giới thiệu Boris, đồng nghiệp của cháu.

Boris hơi rụt rè tiến lên.

- Rất hân hạnh.

- Cậu vừa mới gặp xơ Mary, đúng không? - Bà Nicla vừa bắt tay anh vừa hỏi.

- Dạ... phải. - Boris đỏ mặt đáp.

- Cậu đừng lo, con bé gây thiện cảm với rất nhiều người… Tại sao cháu đến đây, đến cái cảng trung chuyển này, hử Mila? - Bà hỏi cô.

- Chắc là bà đã nghe đến vụ các bé gái mất tích? - Mila hỏi nghiêm túc.

- Bọn ta cầu nguyện cho chúng mỗi tối. Nhưng họ không cho biết gì nhiều trên bản tin.

- Cháu cũng thế, cháu không thể tiết lộ gì nhiều.

Bà Nicla nhìn thẳng vào mắt Mila.

- Cháu đến vì cô bé số sáu, có phải không?

- Bà có thể nói gì về cô bé ấy không?

Bà Nicla thở dài.

- Bà đã thử tìm cách bắt liên lạc, nhưng không dễ. Bà không còn như hồi trước nữa. Khả năng của bà đã yếu đi nhiều. Lẽ ra bà có thể vui mừng vì chuyện đó, vì nếu bà mất nó hoàn toàn thì người ta đã cho phép bà quay về tu viện, với các xơ dễ mến ở đó.

Nicla Papakidis không thích bị người ta gọi là bà đồng. Bà bảo đó không phải là chữ thích hợp để định nghĩa một “ân huệ của Chúa”. Bà không cảm thấy mình đặc biệt. Năng lực của bà mới là thứ đặc biệt. Bà chỉ là người trung gian được Chúa chọn để đón nhận ân huệ và ban phước lành.

Trong suốt chuyến đi, ngoài những chủ đề khác, Mila đã kể cho Boris nghe làm thế nào bà Nicla đã phát hiện ra mình sở hữu những năng lực cảm nhận hơn người.

“Năm lên sáu tuổi, bà ấy đã nổi tiếng trong làng vì có thể tìm thấy những món đồ bị mất: nhẫn, chìa khóa, những bản di chúc bị giấu quá kỹ bởi người quá cố... Một tối nọ, cảnh sát trưởng của địa phương đã đến gặp bà. Một đứa bé năm tuổi đã bị lạc, mẹ nó rất tuyệt vọng. Người ta đưa bà ấy đến nhà bà mẹ, người van xin bà tìm hộ con trai mình. Bà Nicla nhìn người mẹ một hồi, rồi nói: ‘Người đàn bà này nói láo. Bà ta đã chôn con trai mình trong vườn rau sau nhà’. Và quả thực, họ đã tìm thấy thằng bé ở đó”.

Boris đã rất kinh ngạc vì câu chuyện được nghe. Đến mức anh ngồi hơi cách xa một chút, để mình Mila nói chuyện với bà tu sĩ.

- Điều cháu định nhờ bà hơi khác thường một chút. - Cô nói. - Cháu cần bà đi cùng chúng cháu và bắt liên lạc với một người đàn ông sắp chết.

Mila đã nhờ cậy đến năng lực của bà Nicla nhiều lần trước đây. Thỉnh thoảng việc đó giúp cô giải quyết công việc của mình.

- Cháu à, bà không đi đâu được, cháu biết mà. Họ cần bà ở đây.

- Cháu biết, nhưng cháu vẫn rất muốn nhờ bà. Đó là hy vọng duy nhất giúp chúng cháu tìm lại cô bé số sáu.

- Bà đã nói rồi, bà không còn chắc chắn là “ân huệ” của mình còn hoạt động hay không nữa.

- Nhưng cháu thì lại nghĩ đến bà vì một lý do khác nữa... Một khoản tiền thưởng lớn đã được hứa trao cho người cung cấp các thông tin hữu ích nhằm tìm ra cô bé.

- Ồ, bà biết chuyện đó. Nhưng bà biết làm gì với mười triệu đây?

Mila đảo mắt nhìn quanh, ám chỉ dùng tiền thưởng vào việc tu sửa chỗ này là lẽ đương nhiên.

- Bà tin cháu đi. Khi bà đã tường tận vụ này, bà sẽ nhận ra đó là cách sử dụng món tiền thưởng tốt nhất có thể... Vậy, bà định thế nào ạ?

- Đáng lẽ Vera đến đây gặp tôi hôm nay.

Người vừa lên tiếng là bà già đang nằm trên giường. Cho đến lúc đó, bà ta vẫn nằm bất động và im lặng, mắt nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Bà Nicla tiến đến gần bà già.

- Phải rồi, Nora, Vera sẽ đến muộn.

- Con bé đã hứa.

- Phải, tôi biết. Nó đã hứa và nó sẽ giữ lời, rồi bà sẽ thấy.

- Nhưng thằng bé kia đang ngồi trên ghế của nó. - Bà già vừa nói vừa chỉ vào Boris, khiến anh dợm đứng lên.

Bà Nicla ngăn anh lại.

- Cậu cứ ngồi. Vera là người em song sinh của bà ấy. Vera chết cách đây bảy chục năm, hồi cả hai còn bé. - Bà hạ giọng giải thích.

Trông thấy mặt Boris tái đi, bà Nicla bật cười.

- Không, tôi không có khả năng trò chuyện với người chết đâu! Nhưng Nora thì lại thích nói là em gái mình sắp đến thăm.

Boris đã để cho câu chuyện Mila kể dẫn mình đi quá xa. Anh thấy mình thật ngốc.

- Vậy, bà đi cùng bọn cháu chứ ạ? - Mila nằn nì. - Cháu hứa là sẽ có người đưa bà quay về đây trước tối nay.

Nicla Papakidis suy nghĩ thêm một lúc.

- Cháu có đem gì đến cho ta không đấy?

Mila mỉm cười.

- Sôcôla cháu để dưới xe. Chúng đang đợi bà đấy.

Bà Nicla gật gù, vẻ hài lòng, rồi nghiêm túc trở lại.

- Ta sẽ không ưa những gì sắp biết được về người đàn ông đó, đúng không?

- Thật tình cháu không nghĩ thế.

Bà Nicla sờ tràng hạt nơi cổ.

- Thôi được, chúng ta đi nào.

“Pareidolia”[6] là chữ dùng để gọi khuynh hướng thấy những hình thù quen thuộc trong các hình ảnh lộn xộn. Những đám mây, những tinh vân, hay thậm chí là những hạt yến mạch nổi trên một bát sữa.

Cùng một cách như thế, Nicla Papakidis nhìn thấy các sự việc xuất hiện trong đầu mình. Bà không coi chúng là ảo giác. Ngoài ra, bà thích chữ pareidolia vì nó có nguồn gốc Hy Lạp giống như bà.

Bà giải thích điều đó với Boris trong khi ngồi đằng sau xe, vừa nói vừa nhanh chóng ăn sôcôla. Điều khiến anh kinh ngạc không hẳn là câu chuyện của bà tu sĩ, mà là việc thấy chiếc xe hơi ở nguyên vị trí, không một vết trầy xước, trong khu phố đầy tiếng xấu.

- Tại sao bà gọi nó là “cảng trung chuyển” thế ạ?

- Tùy thuộc vào điều mà cậu tin vào, Boris ạ. Một số người chỉ thấy nó như một điểm đến. Những người khác lại nhìn nhận nó như điểm xuất phát.

- Vậy bà nhìn nhận nó theo cách nào?

- Cả hai.

Họ đến khu nhà của Rockford vào đầu giờ chiều.

Goran và Stern đứng đợi họ phía trước nhà. Sarah Rosa đang ở trên tầng cùng với nhân viên y tế, người luôn trông chừng bệnh nhân hấp hối.

- Mọi người đến vừa kịp lúc. - Stern nói. - Tình hình đã xấu đi rất nhanh kể từ sáng nay. Các bác sĩ khẳng định là chúng ta chỉ còn vài tiếng.

Gavila tự giới thiệu với bà Nicla và giải thích cho bà việc phải làm, không giấu vẻ hoang mang. Ông đã từng chứng kiến các nhà thần giao cách cảm đủ kiểu hợp tác với cảnh sát. Thường thì sự can thiệp của họ chẳng mang lại điều gì, hay tệ hơn, họ làm rối thêm cuộc điều tra khi tạo ra các manh mối sai lạc và những trông đợi vô ích.

Bà tu sĩ không ngạc nhiên trước sự bối rối của nhà tội phạm học. Bà thường xuyên thấy sự nghi ngờ hiện diện trên gương mặt người khác.

Vốn là một con chiên ngoan đạo, Stern không tin ở khả năng đặc biệt của bà Nicla. Đối với anh, đó chỉ là trò lừa bịp. Nhưng anh dao động vì bà là một nữ tu sĩ tốt bụng. “Ít ra thì bà ta cũng không làm vì tiền”, ít phút trước anh đã nói như thế với một Sarah Rosa thậm chí còn hoài nghi hơn.

- Anh chàng tội phạm học này hay đấy. - Nicla nói nhỏ với Mila trong khi lên cầu thang. - Anh ta nghi ngờ và không tìm cách giấu giếm chuyện đó.

Câu bình luận đó không phải phát xuất từ năng lực của bà. Mila hiểu nó đi từ trong trái tim của bà. Nghe thấy những lời ấy từ một người rất thân thiết của mình, Mila thấy rất cảm kích. Nó đã xua đi mọi hồ nghi về Goran mà Sarah Rosa đã cố gieo vào đầu cô.

Phòng ngủ của Joseph B. Rockford nằm ở cuối đoạn hành lang rộng treo đầy thảm trang trí.

Những ô cửa sổ rộng mở ra hướng đông, phương mặt trời mọc. Đứng từ các ban công người ta có thể chiêm ngưỡng thung lũng phía dưới.

Chiếc giường có màn quây nằm ngay giữa phòng, vây quanh bởi các máy móc y khoa hỗ trợ cho những giờ phút cuối cùng của người bệnh. Chúng tạo cho hắn một nhịp điệu máy móc, hợp bởi tiếng bíp của máy theo dõi nhịp tim, tiếng hít thở phì phò từ máy hô hấp, tiếng nhỏ giọt lặp đi lặp lại và tiếng rì rì liên tục của thiết bị điện.

Thân trên của Rockford được kê gối cao lên, hai cánh tay nằm xuôi theo người trên tấm vải phủ giường có thêu trang trí, đôi mắt nhắm nghiền. Hắn mặc một bộ quần áo ngủ bằng lụa màu hồng nhạt, mở toang nơi cổ để chừa chỗ cho ống đặt nội khí quản. Mớ tóc ít ỏi còn lại đã hoàn toàn bạc trắng. Khuôn mặt hắn hõm sâu chung quanh chiếc mũi khoằm, phần cơ thể còn lại của hắn gồ lên bên dưới tấm vải. Nom hắn như một lão già một trăm tuổi dù chỉ mới năm mươi.

Một y tá phụ trách việc chăm sóc vết mổ nơi cổ đang thay miếng gạc đặt quanh lỗ thở. Trong tất cả các gia nhân túc trực ngày đêm, chỉ có bác sĩ tư và phụ tá của ông ta là được ở lại.

Khi bước qua ngưỡng cửa, các thành viên trong nhóm điều tra trông thấy Lara Rockford, người quyết không bỏ lỡ sự việc sắp diễn ra vì bất cứ lý do nào. Cô ta ngồi trên một chiếc ghế bành, cách xa những người khác, và thản nhiên hút thuốc mặc kệ các quy định vệ sinh. Khi y tá nhắc nhở rằng đó có lẽ không phải là một việc tốt cho tình hình sức khỏe của anh trai, Lara đáp gọn lỏn: “Dù sao thì nó cũng chẳng làm hại anh tôi được”.

Nicla tự tin tiến đến bên giường, quan sát quang cảnh lâm chung đặc biệt của gia chủ. Một kết thúc rất khác so với những cái chết trong nghèo khó, nhơ nhớp mà bà từng chứng kiến hàng ngày tại “cảng trung chuyển”. Khi đã ở bên cạnh Joseph B. Rockford, bà làm dấu thánh, trước khi nói với Goran:

- Chúng ta có thể bắt đầu.

Chưa có ban bồi thẩm nào từng chấp nhận một bằng chứng như thế. Báo giới lại càng không được phép biết về cuộc thử nghiệm này. Mọi thứ phải ở lại trong bốn bức tường của ngôi nhà.

Boris và Stern đứng lại bên cạnh cánh cửa đã đóng. Sarah Rosa tiến đến một góc nhà và tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực. Nicla ngồi xuống một chiếc ghế đặt cạnh giường. Mila ngồi cạnh bà. Goran đứng đối diện họ vì muốn quan sát cả bà tu sĩ lẫn Rockford.

Bà đồng bắt đầu tập trung.

Các bác sĩ vẫn dùng thang Glasgow để đánh giá tình trạng hôn mê của bệnh nhân. Nhờ vào ba phản ứng - bằng lời nói, mắt và cử động, người ta có thể xác định mức độ tổn hại của chức năng thần kinh.

Việc sử dụng hình ảnh của một cái thang để đánh giá tình trạng hôn mê không chỉ là do ngẫu nhiên, mà bởi vì tình trạng nhận thức suy giảm từ từ, giống như khi ta bước xuống các bậc thang.

Ngoại trừ lời kể của những người đã từng tỉnh lại sau cơn hôn mê về sự nhận biết thế giới chung quanh và trạng thái yên bình mà họ trôi lơ lửng bên trong, người ta không biết điều gì thực sự xảy ra trong khoảng giữa sự sống và cái chết. Thêm vào đó, những người tỉnh lại sau hôn mê đều tụt xuống tệ nhất là hai, ba bậc trên chiếc thang kia. Một số nhà thần kinh học tin rằng có thể tồn tại cả trăm bậc thang như thế.

Mila không biết thực sự Joseph B. Rockford đang ở bậc nào.

Có lẽ hắn ta đang ở đó cùng với họ, thậm chí là đang nghe thấy họ. Hoặc cũng có thể hắn đã tụt xuống đủ sâu để xa rời những ma quái của bản thân.

Tuy nhiên, có một điều cô chắc chắn: Nicla sẽ phải tụt xuống một vực thẳm sâu và tăm tối để đi tìm hắn ta.

- Đây rồi, tôi đang nghe thấy một thứ gì đó...

Bà tu sĩ đang đặt hai tay trên đầu gối. Mila nhận thấy các ngón tay của bà co lại do căng thẳng.

- Joseph vẫn còn đây. - Bà tuyên bố. - Nhưng anh ta rất... xa cách. Tuy vậy, anh ta có thể cảm nhận được chút gì đó...

Sarah Rosa đưa cặp mắt bối rối nhìn Boris. Anh chàng suýt chút nữa thì bật cười, nhưng nén lại được.

- Anh ta rất lo lắng. Anh ta đang tức giận... Anh ta không chịu nổi việc vẫn còn ở đây... Anh ta muốn ra đi, nhưng không được. Có điều gì đó níu giữ anh ta ở lại... Mùi làm anh ta rối trí.

- Mùi nào? - Mila hỏi.

- Mùi hoa tàn. Anh ta nói nó thật không thể chịu đựng nổi.

Họ hít hà, tìm sự khẳng định cho những lời nói vừa rồi, nhưng chỉ ngửi thấy một mùi hương dễ chịu. Trên bậu cửa sổ có một cái lọ to, cắm những bông hoa còn tươi nguyên.

- Bà cố bắt hắn ta nói ra đi.

- Ta không nghĩ anh ta muốn làm thế... Không, anh ta không muốn nói chuyện với ta.

- Bà phải thuyết phục hắn.

- Anh xin lỗi...

- Sao ạ?

Nhưng bà tu sĩ không nói hết câu. Thay vào đó, bà nói:

- Ta nghĩ anh ta muốn cho ta thấy thứ gì đó… Phải rồi… Anh ta chỉ cho ta một căn phòng… Căn phòng này. Nhưng chúng ta không hiện diện. Tất cả chỗ máy móc thiết bị duy trì sự sống cho anh ta cũng thế... Có ai đó ở đây cùng với anh ta. - Bà Nicla nói thêm và ngồi thẳng người lại.

- Ai vậy?

- Một phụ nữ, rất xinh đẹp... Ta tin đó là mẹ anh ta.

Mila thoáng thấy Lara Rockford cựa mình trong chiếc ghế bành, tay châm điếu thuốc không biết là thứ bao nhiêu nữa.

- Bà ta làm gì?

- Joseph chỉ là một thằng bé... Bà ta để nó ngồi trên đầu gối và giảng giải chuyện gì đó... Bà ta cảnh cáo, giám sát nó... Bà ta bảo thế giới ngoài kia chỉ làm hại nó. Đổi lại, chừng nào thằng bé còn ở trong này thì nó còn được an toàn... Bà ta hứa sẽ bảo vệ nó, chăm sóc cho nó, và không bao giờ bỏ rơi nó...

Goran và Mila nhìn nhau. Vậy là cái lồng vàng của Joseph đã bắt đầu như thế, chính bà mẹ là người đã ngăn cản hắn tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

- Bà ta bảo trong tất cả những mối nguy hiểm trên đời, đàn bà là thứ tồi tệ nhất... Ngoài kia có cả đống đàn bà muốn cướp mọi thứ của thằng bé... Bọn họ chỉ yêu nó vì những gì mà nó sở hữu... Bọn họ sẽ lừa thằng bé, sẽ lợi dụng nó... Anh xin lỗi. - Bà lặp lại.

Mila lại nhìn Goran. Sáng hôm nay, trước mặt thanh tra Roche, nhà tội phạm học đã khẳng định nguồn gốc sự điên cuồng của Rockford, thứ theo thời gian đã biến hắn thành một tên giết người hàng loạt. Tất cả chỉ vì hắn không chấp nhận được con người thật của mình. Một ai đó, rất có thể là mẹ hắn, đã phát hiện ra khuynh hướng tình dục của hắn và không bao giờ tha thứ cho hắn. Việc giết bạn tình cũng đồng nghĩa với xóa đi tội lỗi.

Hóa ra, Goran đã nhầm.

Những gì vừa được bà tu sĩ tiết lộ đã phủ nhận một phần giả thiết của ông.

Sự đồng tính của Joseph có liên quan đến chứng cuồng sợ của bà mẹ. Có lẽ bà ta biết điều đó nhưng không nói gì.

Nhưng nếu vậy thì, tại sao Joseph lại giết các nhân tình của mình?

- Tôi thậm chí không được phép mời các bạn gái của mình đến chơi...

Mọi người quay lại nhìn Lara Rockford. Cô ta bóp điếu thuốc lá giữa hai ngón tay run rẩy, mắt nhìn xuống sàn nhà.

- Chính bà mẹ là người đã đưa đám trai trẻ đến đây. - Goran nói.

- Phải, mẹ tôi đã trả tiền cho họ. - Lara xác nhận.

Những giọt nước mắt tuôn trào từ con mắt lành lặn biến khuôn mặt của cô ta biến thành một chiếc mặt nạ dị hợm.

- Mẹ tôi ghét tôi.

- Tại sao? - Nhà tội phạm học thắc mắc.

- Vì tôi là con gái.

- Anh xin lỗi... - Bà Nicla lặp lại.

- Anh im đi! - Lara thét lên với người anh của mình.

- Anh xin lỗi em...

- Im ngay đi!

Lara thét lên điên dại và đứng bật dậy. Cằm cô ta run lên.

- Các người không tưởng tượng nổi đâu. Các người không thể tưởng tượng được việc đi loanh quanh trong này và cảm thấy đôi mắt đó găm vào người. Ánh mắt bám riết tôi khắp nơi, và tôi thừa hiểu nó muốn nói điều gì. Ngay cả khi tôi không muốn thừa nhận, vì chỉ nội suy nghĩ đó cũng khiến tôi phát tởm. Tôi tin là anh ta cố gắng hiểu... tại sao anh ta thấy bị hấp dẫn bởi tôi.

Nicla vẫn đang lên đồng. Toàn thân bà run lên. Mila nắm lấy tay bà.

- Có phải vì vậy mà cô đã bỏ nhà đi, phải không? - Goran hỏi và nhìn xoáy vào Lara Rockford, cương quyết đòi bằng được một câu trả lời. - Từ lúc đó anh ta bắt đầu giết người...

- Phải, tôi nghĩ thế.

- Và rồi, cách đây năm năm, cô đã quay về…

Lara Rockford bật cười.

- Tôi không biết gì hết. Anh ta lừa tôi khi nói rằng anh ta cảm thấy cô đơn và bị mọi người bỏ rơi. Rằng tôi là em gái anh ta, anh ta rất yêu quý tôi, anh ta muốn giảng hòa. Rằng tất cả những thứ khác là do tôi tưởng tượng ra. Tôi đã tin anh ta. Khi tôi quay về đây, những ngày đầu anh ta cư xử bình thường: anh ta tỏ ra dịu dàng, ân cần chăm sóc tôi. Anh ta không hề giống với Joseph mà tôi từng biết hồi còn nhỏ. Cho đến khi...

Lara lại cười gằn. Hơn cả ngôn từ, nụ cười ấy nói lên toàn bộ những sự bạo hành mà chị ta từng phải chịu.

- Cô bị như thế này không phải là do một tai nạn giao thông... - Goran nói.

Lara lắc đầu.

- Chỉ như thế này anh ta mới chắc chắn là tôi sẽ không ra đi nữa.

Họ cảm thấy đau xót tột cùng cho người phụ nữ trước mặt. Cô ta bị giam cầm không phải bởi ngôi nhà này, mà bởi chính diện mạo của mình.

- Tôi xin lỗi. - Lara nói trong khi tiến về phía cửa, kéo lê cái chân thương tật.

Stern và Boris tách ra để cho cô ta đi qua, rồi cùng nhìn Goran, chờ quyết định của ông. Nhà tội phạm học nói với Nicla:

- Bà cảm thấy tiếp tục được không?

- Được. - Bà tu sĩ nói, dù nom bà mệt mỏi thấy rõ sau nỗ lực vừa rồi. Câu hỏi tiếp theo là câu quan trọng hơn hết thảy. Sẽ không còn dịp nào khác để hỏi nữa. Câu trả lời sẽ định đoạt không chỉ sự sống sót của bé gái số sáu, mà cả của chính họ. Bởi lẽ, nếu như họ không thể tìm ra ý nghĩa của những gì đã xảy ra trong thời gian qua, họ sẽ mãi mãi bị câu chuyện này đè nặng như một lời nguyền.

- Nicla, bà hãy bảo Joseph kể lại lúc anh ta gặp gỡ kẻ giống như mình...
 
Chương 31


Ban đêm, họ nghe thấy tiếng bà la hét.

Những cơn đau nửa đầu hành hạ và không cho bà ngủ. Từ giờ, ngay cả morphin cũng không thể làm dịu chúng. Bà vùng vẫy trên giường và la hét cho đến khi tắt tiếng. Vẻ đẹp ngày trước mà bà từng bỏ công gìn giữ trước sự tàn phá không ngừng của thời gian nay đã tàn lụi. Bà trở nên dễ bị tổn thương. Bà, một người từng rất để ý đến ngôn từ và ăn nói chừng mực, nay lại thành ra thô tục không tưởng tượng nổi. Bà chửi rủa tất cả mọi người. Chửi chồng, người đã chết quá sớm. Chửi con gái, đứa đã bỏ chạy khỏi bà. Và cả Chúa nữa, vì đã làm bà ra nông nỗi này.

Chỉ hắn mới xoa dịu được bà.

Hắn vào phòng bà, trói hai tay bà vào giường bằng một chiếc khăn lụa, để bà không tự làm đau mình. Bà đã rứt sạch cả chỗ tóc trên đầu, khuôn mặt đầy các vệt máu đã khô sau những lần bà chọc móng tay vào da thịt.

“Joseph”, bà gọi tên hắn khi được hắn vuốt trán. “Con hãy nói mẹ là người mẹ tốt đi. Nói đi, mẹ xin con đấy”.

Và hắn vừa nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của bà vừa nói những gì bà muốn nghe.

Joseph B. Rockford đã ba mươi hai tuổi. Hắn chỉ còn mười tám năm trước khi về chầu Diêm Vương. Ít lâu trước đó, hắn đã nhờ đến một nhà di truyền học tên tuổi để xem mình có phải chịu chung số phận với cha và ông nội hay không. Do hiểu biết hạn hẹp thời đó về sự di truyền của các loại bệnh tật, câu trả lời khá là mơ hồ: khả năng hắn bị mắc hội chứng bẩm sinh hiếm gặp đó dao động trong khoảng từ bốn mươi đến bảy mươi phần trăm. Từ lúc đó, Joseph sống với bản án tử của mình. Tất cả mọi thứ khác chỉ là những “giai đoạn” để tiến đến kết thúc. Giống như căn bệnh của mẹ hắn. Hằng đêm, ngôi nhà lớn bị rúng động bởi những tiếng la hét dị thường của bà, chúng vang dội khắp các gian phòng mênh mông. Sau nhiều tháng trời bị mất ngủ, Joseph đã quen đi ngủ với hai cái nút tai, để khỏi phải chịu cái cực hình đó.

Nhưng như vậy cũng không đủ.

Một hôm, vào khoảng bốn giờ sáng, hắn thức dậy. Hắn đã có một giấc mơ nhưng không sao nhớ lại được. Nhưng không phải chuyện đó. Hắn ngồi trên giường, cố tìm hiểu xem điều gì đã lôi hắn ra khỏi giấc ngủ.

Cả ngôi nhà chìm trong một sự im lặng lạ thường.

Joseph hiểu ngay. Hắn đứng dậy, mặc một chiếc quần dài, áo thun cổ lọ và áo khoác Barbour màu xanh lá. Sau đó hắn rời phòng, ngang qua căn phòng đang đóng cửa của bà mẹ và đi tiếp. Hắn bước xuống cầu thang đồ sộ bằng cẩm thạch, và sau đó vài phút, hắn ra bên ngoài.

Hắn đi hết lối đi dài trong khuôn viên nhà cho đến cánh cổng phía tây, là nơi thường dành cho các nhà cung cấp và các gia nhân. Thế giới của hắn giới hạn tại đây. Hồi còn nhỏ, hắn đã khám phá đến tận đây, cùng với Lara. Mặc dù nhỏ hơn hắn nhiều tuổi, Lara vẫn muốn đi xa hơn, minh chứng của một lòng can đảm đáng ghen tỵ. Nhưng Joseph luôn khước từ. Lara đã bỏ đi từ gần một năm nay. Sau khi đã đủ mạnh để vượt qua giới hạn này, em gái hắn đã bặt tăm bặt tích. Hắn thấy nhớ Lara.

Trong cái lạnh lẽo của buổi sáng tháng Mười một này, Joseph đứng yên vài phút trước cánh cổng, rồi bắt đầu leo lên. Khi bàn chân hắn tiếp đất phía bên kia cổng, một cảm giác mới mẻ tràn qua người hắn, một cái rùng mình lan từ lồng ngực ra toàn bộ cơ thể hắn. Lần đầu tiên hắn biết đến niềm vui.

Hắn bước đi dọc theo con đường trải nhựa.

Hừng đông bắt đầu với một vệt sáng yếu ớt nơi chân trời. Cảnh vật xung quanh hắn giống hệt như trong khuôn viên nhà, tới mức trong một thoáng hắn tự hỏi liệu mình đã ra khỏi đó hay chưa, và phải chăng cái cổng kia chỉ là một cái cớ, vì toàn bộ thế giới khởi đầu và chấm dứt tại đó, mỗi khi hắn vượt qua giới hạn thì hắn lại quay về điểm xuất phát, không hề thay đổi, và tiếp tục như thế cho đến vô cùng. Một chuỗi vô hạn những vũ trụ song song giống hệt nhau. Sớm muộn gì thì hắn cũng sẽ trông thấy ngôi nhà của mình mọc lên trên đường, và hắn sẽ biết chắc tất cả chuyện này chỉ là một ảo tưởng.

Nhưng điều đó không xảy ra. Càng đi xa, hắn càng nhận ra mình có thể làm được.

Không có bóng người nào ở chung quanh hắn. Không một chiếc xe hơi, hay một ngôi nhà nào. Tiếng bước chân hắn trên lớp nhựa đường là dấu hiệu duy nhất của con người giữa tiếng chim hót chào ngày mới. Không có cơn gió nào lay động đám cây cối đang giương mắt nhìn hắn như một kẻ lạ mặt. Hắn cảm thấy như muốn chào chúng. Bầu không khí rất sinh động và mang hương vị của sương giá, lá khô cùng cỏ xanh.

Lúc này mặt trời đã hé rạng. Nó trượt qua thảm cỏ, trải mỏng và loang ra như một biển dầu. Joseph không rõ mình đã đi bao nhiêu cây số. Hắn chẳng có mục đích nào, nhưng như thế mới hay: hắn cóc cần. Acid lactic rần rật chảy qua các bắp thịt ở chân hắn. Hắn không ngờ cơn đau nhức lại có thể dễ chịu như thế. Hắn có năng lượng trong người và không khí để thở. Hai yếu tố đó quyết định mọi thứ còn lại. Lần đầu tiên trong đời hắn muốn không suy nghĩ gì hết. Cho đến ngày hôm nay, đầu óc của hắn vẫn luôn thắng thế và tìm ra những nỗi sợ hãi khác nhau để ngăn cản hắn. Và ngay cả khi cái sự không biết còn nằm phục đâu đó quanh đây, một chút thời gian ngắn ngủi này cũng đã đủ để hắn hiểu được rằng, ngoài nguy hiểm, nó có thể che giấu một thứ gì đó quý giá. Như là sự kinh ngạc, hoặc thán phục.

Đó chính là điều hắn cảm nhận được khi nghe thấy một tiếng động mới mẻ. Nó rất nhỏ và xa xôi, nhưng đang tiến lại gần từ phía sau hắn. Hắn nhận ra âm thanh của một chiếc xe hơi. Hắn quay người và trông thấy mui xe lộ ra sau một quả đồi nhỏ. Tiếp đó, chiếc xe thụp xuống dốc, rồi trồi lên trở lại. Đó là một chiếc break cũ màu be. Nó tiến lại gần hắn. Kính chắn gió cáu bẩn không cho phép hắn quan sát người ngồi trong xe. Joseph quyết định phớt lờ chiếc xe và bước tiếp.

Khi chiếc xe đến gần, có vẻ như nó chạy chậm lại.

- Ê!

Hắn ngập ngừng không muốn quay đầu lại. Biết đâu ai đó đến để chấm dứt chuyến phiêu lưu của hắn. Phải rồi. Mẹ hắn đã thức giấc và gào thét tên hắn. Không tìm thấy hắn trên giường, bà sai đám gia nhân truy tìm hắn cả bên trong lẫn bên ngoài khuôn viên nhà. Có thể người đàn ông vừa gọi hắn là một trong số các thợ làm vườn. Ông ta dong xe đi tìm hắn, hau háu trước món tiền thưởng.

- Ê, em giai, đi đâu đấy? Có muốn đi nhờ xe không?

Câu hỏi làm hắn yên tâm. Đây không thể là một người trong nhà. Chiếc xe giảm tốc độ. Joseph không thể nhìn thấy người cầm lái. Hắn ngừng bước. Chiếc xe hơi cũng dừng lại.

- Tôi đi lên phía bắc. - Người lái xe nói. - Tôi có thể cho cậu đi nhờ một đoạn. Chỉ vài cây số thôi, nhưng cậu sẽ không có nhiều cơ may trong khu vực này đâu.

Không thể xác định được tuổi của anh ta. Anh ta có lẽ tầm bốn mươi, hoặc ít hơn. Anh ta có một bộ râu màu hung dài và xồm xoàm. Tóc anh ta cũng dài, chải lật ra sau và rẽ ngôi giữa. Anh ta có đôi mắt xám.

- Thế cậu định thế nào? Lên xe chứ?

Joseph suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Vâng, cám ơn anh.

Hắn ngồi vào ghế bên cạnh người lạ mặt và chiếc xe liền lăn bánh. Ghế ngồi được bọc nhung nâu, đôi chỗ bị sờn để lộ lớp vải bên dưới. Trong xe có một mùi kỳ quặc, hỗn hợp của những túi thơm khử mùi tiếp nối nhau qua năm tháng nơi chiếc gương chiếu hậu. Ghế sau đã được gập xuống để chừa chỗ cho các thùng giấy, túi xách, đủ thể loại dụng cụ và can nhựa. Tất cả được sắp xếp rất gọn gàng. Bảng đồng hồ bằng nhựa sẫm màu có mấy vết băng dính cũ. Máy nghe nhạc cổ lỗ sĩ dùng băng cátxét đang phát nhạc đồng quê. Người lái xe bật nhạc to lên sau khi đã vặn nhỏ âm thanh để bắt chuyện với hắn lúc nãy.

- Cậu cuốc bộ lâu chưa?

Joseph tránh không nhìn anh ta, vì sợ bị phát hiện mình sắp nói dối.

- Lâu rồi ạ, từ hôm qua.

- Sao cậu không vẫy xe đi nhờ?

- Có chứ. Em được một tài xế xe tải cho đi nhờ, nhưng rồi anh ta rẽ sang hướng khác.

- Thế, cậu định đi đâu?

Hắn bị bất ngờ trước câu hỏi, và nói thật luôn.

- Em không biết nữa.

Người đàn ông bật cười.

- Nếu không biết thì tại sao cậu không ngồi lại trên xe tải?

Joseph quay sang nhìn người lái xe, tỏ vẻ thật nghiêm túc.

- Tại ông ta hỏi quá nhiều.

Người đàn ông cười phá lên.

- Chúa ơi, tôi thích cái kiểu bí hiểm của cậu rồi đấy, cậu em ạ.

Chiếc áo gió đỏ của người lái xe có tay rất ngắn. Anh ta mặc một chiếc quần tây màu nâu nhạt, một chiếc áo len chui đầu có các môtíp trang trí hình thoi và đôi giày công nhân có đế cao su được gia cố. Anh ta cầm lái bằng hai tay. Cổ tay trái của anh ta đeo một chiếc đồng hồ rẻ tiền.

- Này, tôi không biết cậu định thế nào, tôi cũng không muốn ép cậu nói ra, nhưng nếu cậu muốn thì, nhà tôi ở gần đây, cậu có thể ghé vào ăn sáng. Cậu thấy thế nào?

Joseph đã định từ chối. Hắn đã quá khinh suất khi đồng ý trèo lên xe, bây giờ hắn sẽ không đi theo anh ta đến một chỗ nào đó để bị trấn lột hoặc tệ hơn. Nhưng rồi hắn nhận ra đó chỉ là một nỗi sợ hãi khác trong vô số sự sợ hãi của mình. Tương lai chỉ bí ẩn, chứ không đe dọa. Hắn vừa mới phát hiện ra điều đó trong buổi sáng sớm này. Và để thưởng thức thành quả của nó thì phải đánh liều thôi.

- Được ạ.

- Trứng, thịt muối và cà phê đấy nhá. - Người lạ mặt hứa hẹn.

Hai mươi phút sau, hai người rời con đường lớn để rẽ vào một con đường đất. Họ chạy xe rất chậm qua các ổ gà ổ trâu trước khi đến một ngôi nhà gỗ mái dốc. Màu sơn trắng đã bị hư hỏng nhiều chỗ. Cánh cửa ở trong một tình trạng thảm hại và các khe ván đã bị cỏ dại mọc lung tung. Họ đậu xe cạnh nhà.

Tay này là ai mới được? Joseph tự hỏi trong khi quan sát nơi ở của người lạ mặt, nhưng đối với hắn lời đáp cho câu hỏi đó không thú vị bằng việc được khám phá thế giới của anh ta.

- Mời vào. - Người đàn ông nói khi cả hai băng qua ngưỡng cửa.

Gian phòng đầu tiên có kích thước trung bình. Đồ đạc chỉ có một cái bàn và ba chiếc ghế, một tủ buýpphê thiếu vài ngăn và một cái trường kỷ cũ mèm rách nát nhiều chỗ. Trên một bức tường có treo một bức tranh phong cảnh vớ vẩn thiếu khung.

Bên cạnh ô cửa sổ độc nhất là một lò sưởi bằng đá nhem nhuốc bồ hóng với các súc củi đen nhẻm lạnh tanh. Trên một khúc cây thế chỗ cho ghế đẩu có một chồng xoong chảo dính đầy mỡ cháy. Ở cuối phòng là hai cánh cửa đóng kín.

- Tôi xin lỗi, ở đây không có nhà vệ sinh. Nhưng ngoài kia cây cối đấy. - Người lạ vừa nói vừa cười.

Điện nước cũng không có, nhưng tay chủ nhà đã dỡ từ trên xe xuống mấy chiếc can mà Joseph đã trông thấy trước đó.

Nhờ vài tờ báo cũ và mớ củi nhặt được bên ngoài, anh ta châm lửa trong lò. Sau khi đã đánh sạch hết mức một cái chảo, anh ra thắng bơ rồi bắt đầu chiên trứng cùng với thịt muối. Chỗ thức ăn tầm thường đó tỏa ra thứ mùi thật ngon lành.

Joseph bối rối quan sát người đàn ông và đặt cho anh ta hàng đống câu hỏi, hệt như những đứa trẻ thắc mắc với người lớn khi chúng đến tuổi tò mò tìm hiểu thế giới. Nhưng người lạ mặt có vẻ không bực bội, mà ngược lại, anh ta thích trò chuyện.

- Anh ở đây từ bao lâu rồi?

- Từ hơn một tháng nay, nhưng căn nhà này không phải của tôi.

- Anh nói vậy là sao?

- Nhà thực sự của tôi ở ngoài kia. - Anh ta vừa nói vừa chỉ vào chiếc xe hơi đậu bên ngoài. - Tôi thích đi chu du thiên hạ.

- Vậy sao anh dừng lại?

- Vì tôi thích nơi này. Một ngày nọ, tôi đang đi trên đường thì trông thấy lối mòn này. Tôi rẽ vào và đi đến đây. Căn nhà đã bị bỏ hoang từ bao lâu không biết nữa. Có lẽ nó là của đám nông dân vì đằng sau nhà có một cái chòi cất dụng cụ.

- Chuyện gì đã xảy ra với bọn họ?

- Tôi không biết. Rõ ràng là họ đã hành động giống như nhiều người khác: khi khủng hoảng gia tăng, họ bỏ đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn trên thành phố. Trong vùng này có không ít trang trại bỏ hoang đâu.

- Tại sao bọn họ không tìm cách bán đất?

- Ai mà mua một chỗ như thế này? - Người đàn ông mỉm cười đáp. - Chỗ đất này chẳng đáng giá một xu, em ạ.

Anh ta ngừng nấu nướng và trút thức ăn từ chảo vào thẳng hai cái đĩa đặt trên bàn. Không chần chừ, Joseph cắm ngay nĩa vào chỗ thức ăn màu vàng ươm. Hắn đang rất đói. Thức ăn ngon tuyệt.

- Cậu thích chứ, hả? Cứ từ từ, muốn ăn bao nhiêu cũng được.

Hắn ăn ngấu nghiến. Rồi khi trong mồm vẫn đầy thức ăn, hắn hỏi:

- Anh sẽ ở lại đây lâu chứ?

- Tôi định cuối tuần này sẽ đi: mùa đông vùng này khắc nghiệt lắm. Tôi tích trữ lương thực và đi quanh các nông trại bỏ hoang với hy vọng nhặt nhạnh được mấy món đồ vẫn còn dùng được. Sáng nay tôi tìm thấy một cái máy nướng bánh. Chắc nó hỏng rồi, nhưng tôi có thể sửa lại.

Joseph ghi nhận lại mọi thứ, tuồng như muốn làm một cuốn cẩm nang tổng hợp: từ làm thế nào chuẩn bị một bữa sáng ngon lành chỉ với trứng, bơ và thịt muối, cho đến làm sao tìm được nước uống. Hắn nghĩ có lẽ nó sẽ có ích cho mình trong một cuộc đời mới sau này. Cuộc sống của người lạ mặt khiến hắn háo hức. Mặc dù khắc nghiệt và khó khăn, nó vẫn làm hắn hài lòng hơn hẳn so với những gì hắn đã sống cho đến hiện tại.

- Cậu có biết chúng ta vẫn chưa giới thiệu tên cho nhau không?

Joseph khựng lại, cái nĩa lơ lửng trong không khí.

- Nếu cậu không muốn cho tôi biết tên, cũng chẳng sao. Dù sao thì cậu cũng rất dễ mến.

Joseph tiếp tục ăn. Người lạ không nài ép, nhưng hắn cảm thấy cần phải bù đắp cho anh ta bằng cách này hay cách khác, vì anh ta quá hiếu khách. Hắn quyết định tự mình tiết lộ một điều gì đó.

- Em sẽ chết vào năm năm mươi tuổi, đó là điều gần như chắc chắn.

Sau đó hắn giải thích lời nguyền đã đè nặng lên những người đàn ông trong gia đình mình. Người lạ mặt lắng nghe chăm chú. Tuy không để lộ tên tuổi, Joseph nói với anh ta hắn giàu có và kể lại nguồn gốc tài sản của mình. Hắn nhắc đến người ông nội táo bạo và có tầm nhìn xa, người đã gieo mầm cho một gia sản khổng lồ, rồi cha hắn, người đã biết cách làm cho di sản đó nhân lên nhiều lần nhờ năng khiếu kinh doanh. Cuối cùng hắn nói về mình, về việc hắn không còn mục tiêu gì, bởi tất cả đều đã đạt được. Hắn ra đời chỉ để truyền lại hai thứ: một gia tài đáng kể và một cái gen chết người.

- Tôi hiểu căn bệnh đã giết chết cha và ông nội cậu là không thể tránh khỏi, nhưng với tiền bạc thì ta luôn có một giải pháp: tại sao cậu không từ bỏ sự giàu có của mình nếu như cậu không cảm thấy đủ tự do?

- Bởi vì em đã lớn lên cùng với nó và em không biết cách tồn tại mà không có tiền, dù chỉ là một ngày. Như anh thấy đấy, dù lựa chọn thế nào thì rốt cuộc em cũng sẽ chết cả thôi.

- Tào lao! - Người lạ mặt nói rồi đứng dậy đi rửa bát.

Joseph cố thử giải thích rõ hơn cho anh ta:

- Em có thể có được mọi thứ mình muốn. Nhưng cũng chính vì thế mà em không còn biết ham muốn là gì nữa.

- Vớ vẩn! Tiền không mua được tất cả.

- Ngược lại, nó mua được đấy. Anh cứ tin em đi. Nếu em muốn anh chết, em có thể trả tiền cho người khác để bọn họ giết anh mà không ai hay biết.

- Cậu đã từng làm thế rồi hả? - Người lạ hỏi, đột ngột trở nên nghiêm trọng.

- Làm gì cơ?

- Cậu từng trả tiền cho ai đó để họ giết người thay mình hả?

- Em thì chưa, nhưng bố và ông em thì có đấy. Em biết mà.

Im lặng bao trùm.

- Nhưng còn sức khỏe, cậu không thể mua được nó.

- Phải. Nhưng khi biết trước mình sẽ chết, vấn đề sẽ trở nên nhẹ nhàng. Anh thấy không: những người giàu có cảm thấy bất hạnh vì họ biết rằng sớm muộn gì họ cũng sẽ phải từ bỏ những gì mình sở hữu. Nào có ai mang được của cải xuống mồ đâu. Còn em thì ngược lại, em không cần phải mất thời gian nghĩ đến cái chết của mình, nó đã được thu xếp hộ em rồi.

Người lạ mặt dừng lại suy nghĩ.

- Cậu nói cũng phải. Nhưng không ham muốn gì hết thì buồn chết. Chắc chắn phải có gì đó thực sự làm cậu thỏa mãn chứ? Vậy ta hãy bắt đầu từ đó.

- Ờ thì... em thích đi bộ. Từ sáng nay, em cũng thích ăn trứng với thịt muối. Và em thích bọn con trai.

- Cậu muốn nói là cậu...

- Em không biết, thật đấy. Em đi với chúng, nhưng không thể nói là thật sự ham muốn.

- Vậy tại sao cậu không thử với phụ nữ?

- Chắc có lẽ em phải thử. Nhưng trước hết em cần phải ham muốn điều đó, anh hiểu không? Em không biết phải giải thích thế nào.

- Tôi hiểu mà. Tôi thấy cậu đã giải thích rất rõ ràng rồi đó.

Anh ta gác cái chảo cùng với những thứ khác lên chiếc ghế đẩu, rồi nhìn đồng hồ đeo tay.

- Đã mười giờ rồi. Tôi phải vào thị trấn. Tôi cần các món phụ tùng để sửa cái máy nướng bánh.

- Vậy em cũng đi đây.

- Không, sao phải thế? Cậu cứ ở đây và nghỉ ngơi chút đỉnh, nếu muốn. Tôi sẽ về sớm, nên ta có thể cùng ăn và tán gẫu thêm một chút. Cậu rất dễ thương, cậu biết không?

Joseph quan sát cái trường kỷ cũ rách. Trông nó đầy vẻ mời gọi.

- Thôi được. - Hắn nói. - Em sẽ ngủ một chút, nếu anh không phiền.

Người đàn ông bật cười:

- Tuyệt!

Rồi anh ta nói thêm khi chuẩn bị ra khỏi cửa:

- Mà này, cậu muốn thứ gì cho bữa tối?

- Em không biết. - Joseph nhìn anh ta. - Làm em ngạc nhiên đi.

Một bàn tay nhẹ nhàng lay hắn. Joseph mở mắt và nhận ra trời đã tối.

- Mệt quên đời, hả! - Người bạn mới vừa cười vừa nói với hắn. - Cậu đã ngủ suốt chín tiếng đồng hồ đấy.

Joseph ngồi dậy duỗi người. Đã lâu rồi hắn không cảm thấy thư giãn như thế. Dạ dày hắn đang kêu réo.

- Đã đến giờ ăn tối rồi ạ? - Hắn hỏi.

- Tôi bắt đầu làm bữa tối: đùi gà nướng than dùng với khoai tây. Cậu thấy thực đơn ổn chứ?

- Tuyệt hảo. Em chết đói đến nơi rồi đây.

- Trong khi chờ đợi, cậu lấy bia mà uống. Ở trên bậu cửa sổ ấy.

Joseph chưa bao giờ uống bia, ngoại trừ chỗ bia mà mẹ hắn bỏ vào trong món punch Giáng sinh. Hắn lấy một lon từ trong lốc sáu và mở nắp, rồi kề môi vào gờ nhôm của nó tu một hơi dài. Món đồ uống lành lạnh nhanh chóng chạy xuống thực quản hắn. Cảm giác thật dễ chịu và mát mẻ. Sau khi làm hơi thứ hai, hắn ợ một cái.

- Chúc sức khỏe! - Người đàn ông hô to.

Bên ngoài trời khá lạnh, nhưng ở trong nhà ngọn lửa tỏa ra một hơi ấm dễ chịu. Ánh sáng từ cây đèn bão đặt trên bàn nhè nhẹ chiếu lên căn phòng.

- Ông già bán đồ đồng nát bảo là cái máy nướng bánh có thể sửa được. Ông ta thậm chí còn chỉ cho tôi vài chỗ. Càng tốt, tôi có thể sửa rồi bán lại nó ngoài chợ.

- Vậy ra anh sống bằng nghề này?

- Ừ, thỉnh thoảng cũng nhờ đến nó. Người ta vứt đi khối thứ còn dùng được. Tôi đi nhặt chúng, sửa chữa rồi bán kiếm tiền. Tôi cũng giữ lại vài món, chẳng hạn như bức tranh này...

Anh ta giơ tay chỉ bức tranh phong cảnh không có khung treo trên tường.

- Tại sao là bức tranh này? - Joseph hỏi.

- Tôi không biết, tôi thích nó. Tôi nghĩ nó nhắc tôi nhớ đến nơi tôi sinh ra, hoặc có thể là nơi tôi chưa từng đến, ai có thể dám khẳng định là mình đã đi hết...

- Anh đã đi nhiều đến thế kia à?

- Ừ, nhiều lắm. - Nói đoạn anh ta trầm ngâm suy nghĩ, trước khi tiếp lời. - Món gà của tôi rất đặc biệt. Rồi cậu sẽ thấy. À mà này, tôi có một bất ngờ dành cho cậu.

- Bất ngờ á? Bất ngờ nào?

- Không phải bây giờ. Để sau bữa tối cái đã.

Hai người ngồi vào bàn. Món gà và khoai tây được nêm nếm rất vừa miệng. Joseph lấy thức ăn hết lần này đến lần khác. Người đàn ông - từ bây giờ đó là cách Joseph gọi anh ta trong đầu - ăn không ngậm miệng và uống ba lon bia. Sau bữa tối anh ta rút cái tẩu đẽo bằng tay và gói thuốc lá ra. Trong khi nhồi tẩu, anh ta nói:

- Cậu biết không, tôi đã nghĩ rất nhiều đến điều cậu nói ban sáng.

- Điều gì cơ?

- Những gì cậu nói về “ham muốn” ấy. Nó làm tôi rất ấn tượng.

- Thật ạ? Tại sao?

- Cậu biết đấy, tôi thì tôi không nghĩ việc biết chính xác thời điểm chết của mình là một điều tồi tệ. Ngược lại tôi thấy đó là một đặc quyền.

- Sao anh có thể nói như vậy được?

- Dĩ nhiên, nó tùy thuộc vào cách cậu nhìn nhận sự việc. Cái ly vơi một nửa hay đầy một nửa. Tóm lại: cậu có thể làm bảng liệt kê những thứ mình thiếu. Hoặc cậu có thể ấn định phần còn lại của đời mình theo hạn định đó.

- Em chưa hiểu.

- Tôi cho rằng việc biết mình sẽ phải chết lúc năm mươi tuổi khiến cậu nghĩ cậu không có chút quyền lực nào trên cuộc đời của bản thân. Nhưng đó chính là chỗ cậu nhầm đấy, bạn ạ.

- Anh định nghĩa chữ “quyền lực” thế nào?

Người đàn ông lấy một nhánh củi trong lò và châm tẩu. Anh ta rít một hơi dài trước khi trả lời:

- Quyền lực và ham muốn luôn đi với nhau. Chúng được hình thành từ cùng một chất liệu đáng nguyền rủa. Cái sau phụ thuộc vào cái trước, và ngược lại. Đó không phải là một thứ triết lý vớ vẩn đâu, mà chính là thiên nhiên đã định đoạt như vậy. Sáng nay cậu đã nói rất đúng: chúng ta chỉ có thể ham muốn thứ mà chúng ta không có được. Cậu nghĩ cậu có đủ quyền lực để có mọi thứ nên cậu chẳng ham muốn gì nữa. Nhưng điều đó là do quyền lực của cậu bắt nguồn từ tiền bạc.

- Vậy còn có những dạng quyền lực khác sao?

- Dĩ nhiên, quyền lực của ý chí chẳng hạn. Để hiểu được thì cần phải đặt nó vào trong thử thách. Nhưng tôi sợ cậu không muốn làm điều đó...

- Sao anh lại nói như thế? Em có thể làm được.

Người đàn ông quan sát hắn.

- Cậu chắc chứ?

- Chắc.

- Tốt. Trước khi dùng bữa tối, tôi đã nói là có một bất ngờ dành cho cậu. Thời điểm tiết lộ nó đã đến. Cậu đi với tôi.

Anh ta đứng dậy và tiến đến một trong số những cánh cửa khép kín ở cuối phòng. Joseph loạng choạng đi theo.

- Nhìn này.

Hắn bước qua ngưỡng cửa vào trong bóng tối và nghe thấy thứ gì đó trong phòng đang thở gấp. Hắn nghĩ ngay đến một con thú và lùi lại.

- Can đảm lên. - Người đàn ông nói. - Nhìn cho kỹ vào.

Joseph mất vài giây để quen với bóng tối. Ánh sáng yếu ớt từ ngọn đèn bão ở trên bàn chỉ vừa đủ rọi sáng khuôn mặt của thằng bé. Nó đang nằm trên giường, tay và chân bị trói vào thành giường bằng những sợi thừng to. Nó mặc một cái áo sơmi kẻ ô và quần jean, chân trần. Một cái khăn tay buộc ngang miệng làm cho nó không nói được, nên chỉ phát ra những âm thanh khó hiểu giống như tiếng kêu của động vật. Chỗ tóc trên trán nó ướt đẫm mồ hôi. Thằng bé vùng vẫy như một con thú bị nhốt, mắt nó mở to đầy sợ hãi.

- Ai đây? - Joseph hỏi.

- Một món quà tặng cậu.

- Em phải làm gì với nó đây?

- Bất cứ điều gì cậu muốn.

- Nhưng em không biết nó là ai.

- Tôi cũng thế. Nó bắt xe quá giang, tôi cho nó lên xe trong khi quay về đây.

- Ta nên cởi trói và tha cho nó.

- Nếu đó là điều cậu muốn.

- Tại sao em phải muốn chuyện gì khác kia chứ?

- Bởi vì đây là minh chứng cho cái gọi là quyền lực, và việc nó liên quan như thế nào với ham muốn. Nếu cậu muốn thả tự do cho thằng nhóc thì cứ việc. Nhưng nếu cậu muốn điều gì khác từ nó, cậu có toàn quyền lựa chọn.

- Ý anh là chuyện tình dục, đúng không?

Người đàn ông lắc đầu ra vẻ thất vọng.

- Tầm nhìn của cậu hạn hẹp quá. Cậu đang nắm trong tay một sinh mạng người, tạo vật vĩ đại và đáng kinh ngạc nhất của Chúa trời, vậy mà điều duy nhất cậu nghĩ đến là chuyện ấy...

- Em phải làm gì với một mạng người trong tay?

- Hôm nay cậu chẳng đã nói rồi đấy thôi: nếu cậu muốn giết một ai đó, cậu chỉ cần trả tiền cho một người khác để ra tay hộ mình. Nhưng cậu thực sự tin là việc đó đem lại cho cậu quyền cướp đi sinh mạng của người khác à? Tiền của cậu có cái quyền đó, chứ nào phải cậu. Chừng nào cậu còn chưa tự mình làm chuyện đó, thì cậu còn chưa biết được nó có ý nghĩa như thế nào.

Joseph lại nhìn thằng bé đang hoảng hốt thấy rõ.

- Nhưng em không muốn biết. - Hắn nói.

- Tại vì cậu sợ. Sợ hậu quả, sợ bị trừng phạt hoặc sợ cảm thấy có tội.

- Có sợ những chuyện đó thì cũng bình thường thôi mà.

- Không, không phải vậy, Joseph à.

Hắn thậm chí không nhận ra người đàn ông vừa gọi tên mình: hắn còn đang mải lia mắt nhìn từ anh ta sang thằng nhóc.

- Vậy nếu như tôi bảo cậu có thể làm việc đó, việc tước đi sinh mạng của một người mà không ai hay biết thì sao?

- Không à? Vậy còn anh?

- Tôi là người đã bắt cóc thằng bé và mang nó về đây, cậu quên rồi sao? Ngoài ra tôi cũng sẽ là người chôn cái xác.

Joseph cụp mắt xuống.

- Sẽ không có ai biết việc này chứ?

- Nếu tôi bảo là cậu sẽ không bị trừng phạt, liệu như thế có khơi lên ham muốn thử làm chuyện đó trong cậu không?

Joseph nhìn hai bàn tay mình một lúc lâu, nhịp thở của hắn tăng dần trong lúc hắn thấy khoái cảm trong mình dâng lên, một điều hoàn toàn mới mẻ đối với hắn.

- Em muốn một con dao. - Hắn nói.

Người đàn ông đi vào trong bếp. Trong lúc chờ đợi, Joseph nhìn thằng nhóc đang khóc lóc van xin mình qua ánh mắt. Hắn nhận ra mình vô cảm trước những giọt nước mắt câm lặng kia. Sẽ chẳng có ai khóc thương cho cái chết của hắn khi căn bệnh của cha và ông nội mang hắn đi vào năm năm mươi tuổi. Đối với mọi người, hắn vẫn luôn giàu có và không cần sự thương xót dưới bất kỳ hình thức nào.

Người đàn ông quay lại với một con dao sắc. Anh ta đặt con dao vào trong tay hắn.

- Không có gì vui sướng cho bằng việc tước đi một mạng sống. - Anh ta nói với hắn. - Không phải của một người đặc biệt như kẻ thù hoặc người đã hại cậu. Mà là của một người bất kỳ. Điều đó cho cậu quyền lực như Chúa trời.

Anh ta để mặc hắn ở đó và bước ra ngoài, khép cửa phòng lại sau lưng.

Ánh trăng sượt qua những khe cửa chớp đã hỏng, làm con dao trong tay hắn sáng loáng. Thằng nhóc cựa quậy, và Joseph cảm thấy sự lo lắng, nỗi sợ hãi của nó thông qua cả tiếng động phát ra lẫn mùi cơ thể của nó. Hơi thở chua nồng, mồ hôi dưới nách nó. Hắn tiến lại gần giường, chậm rãi, để mặc ván sàn kêu cọt kẹt dưới chân, nhằm làm cho thằng nhóc ý thức được điều đang diễn ra. Hắn chạm lưỡi dao vào ngực nó. Liệu hắn có phải nói gì không đây? Trong đầu hắn trống rỗng. Một cơn rùng mình chạy qua cơ thể hắn và một điều hắn không ngờ tới đã xảy ra: hắn cương lên.

Hắn nhấc con dao lên vài centimet, rồi chầm chậm rê nó dọc theo thân người xuống đến bụng thằng nhóc, và dừng lại. Hắn hít một hơi rồi chầm chậm ấn đầu nhọn của con dao qua lớp vải áo sơmi, cho đến khi nó chạm vào da thịt. Thằng nhóc cố hét lên, nhưng những gì phát ra chỉ là sự mô phỏng khốn khổ của một tiếng thét đau đớn. Joseph ấn con dao thêm vài centimet, lớp da toạc ra như thể bị xé rách. Hắn nhận ra màu trắng của lớp mỡ. Nhưng vết thương chưa chảy máu. Vậy nên hắn ấn dao mạnh hơn, cho đến khi cảm thấy máu ấm trên tay mình và mùi hăng từ trong ruột xộc lên. Thằng nhóc ưỡn người, vô tình làm cho công việc của hắn thuận lợi hơn. Hắn ấn nữa, cho đến khi cảm thấy lưỡi dao chạm vào xương sống. Thằng nhóc giờ chỉ còn là một mớ cơ và xương căng cứng dưới tay hắn. Nó giữ nguyên tư thế ưỡn người trong vài giây. Rồi nó nặng nề rơi trở xuống giường, như một đồ vật vô tri.

Và đúng lúc đó, chuông báo động...

... bắt đầu kêu toáng lên. Bác sĩ và y tá chạy bổ đến bên cạnh người bệnh cùng với thiết bị cấp cứu đặt trên xe đẩy. Bà Nicla cúi gập người, cố lấy lại hơi thở: cú sốc từ những gì trông thấy đã lôi bà ra khỏi trạng thái lên đồng. Mila đặt tay lên lưng Nicla, cố giúp bà thở. Bằng một động tác dứt khoát, bác sĩ mở phanh áo ngủ của Joseph B. Rockford ngay chỗ lồng ngực, làm các cúc áo bay tung tóe trên sàn. Boris suýt nữa thì ngã nhào khi anh lao đến giúp Mila. Tay bác sĩ đặt hai tấm điện cực mà y tá vừa đưa lên ngực bệnh nhân, rồi hét lớn: “1... 2... 3!” trước mỗi lần sốc điện. Goran tiến lại gần Mila.

- Chúng ta đưa bà ấy ra khỏi đây thôi. - Ông nói trong lúc giúp cô đỡ bà tu sĩ dậy.

Trong khi họ cùng Rosa và Stern rời khỏi phòng, Mila quay lại nhìn một lần cuối Joseph B. Rockford. Toàn thân hắn rung chuyển theo từng hồi sốc điện, nhưng bên dưới tấm chăn, cô nhận thấy hình như hắn đang cương cứng.

Đồ khốn nạn, cô nghĩ bụng.

Tiếng bíp của máy theo dõi nhịp tim kéo thành một hồi dài liên tục. Đúng vào lúc đó, Joseph B. Rockford mở mắt. Đôi môi hắn mấp máy nhưng không thốt ra tiếng. Các dây thanh quản của hắn đã bị tổn hại khi bị người ta mở khí quản để giúp thở dễ hơn.

Hắn đã chết. Mớ thiết bị xung quanh cho biết hắn chỉ còn là một đống thịt vô hồn không hơn. Thế nhưng hắn vẫn cố nói. Tiếng lào phào của hắn nghe giống như một người chết đuối đang cố gắng hít không khí một lần cuối.

Việc đó không kéo dài.

Rốt cuộc, một bàn tay vô hình lại lôi hắn đi, và linh hồn của Joseph B. Rockford như bị chiếc giường nuốt chửng, bỏ lại một thân xác trống rỗng.
 
Chương 32


Khi đã hoàn hồn trở lại, Nicla tự nguyện hợp tác với một trong những nhân viên phác họa của cảnh sát liên bang để vẽ hình ảnh nhận dạng của người đàn ông mà bà đã thấy cùng với Joseph.

Người lạ mặt mà hắn gọi là “người đàn ông”, kẻ mà họ cho là Albert.

Hàm râu dài và mái tóc bù xù không cho phép bà miêu tả các đường nét của gương mặt một cách chính xác. Bà không biết cung hàm của gã như thế nào, chiếc mũi chỉ là một cái bóng lờ mờ. Hình dạng chính xác của đôi mắt cũng nằm ngoài sự nắm bắt của bà.

Bà chỉ có thể nói một cách chắc chắn rằng chúng có màu xám.

Dẫu vậy kết quả cũng sẽ được phân phát cho tất cả các đơn vị cảnh sát, các bến cảng, sân bay và cửa khẩu. Roche đã nghĩ đến khả năng cung cấp một bản sao cho báo giới, một việc đòi hỏi phải giải thích cách thức họ đã làm để có được hình ảnh nhận dạng. Nếu họ tiết lộ chuyện nhờ đến một bà đồng, các phóng viên sẽ suy ra rằng cảnh sát chẳng có gì trong tay, phải mò mẫm và nhờ đến bà trong tình cảnh tuyệt vọng.

- Đó là một nguy cơ ta phải đối mặt. - Goran nói.

Ngài chánh thanh tra đã quay lại cùng nhóm điều tra ở nhà Rockford. Ông ta không muốn gặp bà tu sĩ, vì ngay từ đầu đã nói thẳng là không muốn dính dáng đến cuộc thử nghiệm: như mọi khi, tất cả trách nhiệm sẽ bị đổ lên đầu Goran. Nhà tội phạm học sẵn lòng chấp nhận điều đó vì ông tin ở linh cảm của Mila.

- Cháu à, bà đã nghĩ ra một chuyện. - Bà Nicla nói với Mila trong chiếc xe cắm trại di động của cảnh sát, trong khi cô quan sát Gavila và ngài chánh thanh tra thảo luận trên bãi cỏ phía trước ngôi nhà.

- Chuyện gì vậy ạ?

- Bà không muốn món tiền thưởng.

- Nhưng nếu đó là người mà bọn cháu đang tìm, thì bà có quyền hưởng số tiền đó.

- Bà không muốn có nó.

- Bà hãy nghĩ đến những gì có thể làm được cho những người mà bà chăm sóc hàng ngày.

- Họ còn cần thứ gì nữa chứ? Họ đã có sự yêu thương, chăm sóc của bọn bà, cháu tin bà đi, khi một sinh vật của Chúa trời đi đến điểm kết thúc của sự tồn tại, sinh vật đó không cần gì thêm đâu.

- Nếu bà nhận khoản tiền đó thì theo cháu nghĩ, một điều tốt đẹp sẽ có thể nảy sinh từ tất cả chuyện này...

- Cái ác chỉ sản sinh ra cái ác. Đó luôn là đặc trưng của nó.

- Có một người đã nói với cháu là cái ác luôn có thể được chứng tỏ. Còn điều thiện thì không bao giờ. Bởi cái ác để lại dấu vết trên những gì nó đi qua. Còn điều thiện, ta chỉ có thể chứng kiến thôi.

Rốt cuộc bà Nicla cũng mỉm cười.

- Vớ vẩn. - Bà nói. - Cháu biết không, thực ra là cái thiện rất chóng qua nên không thể ghi nhận lại được. Và nó không để lại rác rưởi gì sau khi đã đi qua. Cái thiện rất sạch sẽ, cái ác thì dơ bẩn... Nhưng bà có thể chứng tỏ là cái thiện tồn tại, vì bà nhìn thấy nó mỗi ngày. Khi một trong số những con người nghèo khổ của bà gần đất xa trời, bà cố dành nhiều thời gian với họ hết sức có thể. Bà cầm tay người đó, lắng nghe người ta nói chuyện, nếu có thú nhận điều gì không phải thì bà cũng không phán xét. Khi họ hiểu điều sắp xảy ra với mình, nếu họ sống tốt và không làm gì sai trái, hoặc từng làm nhưng đã sửa chữa... thì họ vẫn luôn mỉm cười. Bà không biết tại sao, nhưng nó là như thế, bảo đảm với cháu đấy. Bằng chứng của cái thiện là nụ cười đi cùng họ khi đối diện với cái chết.

Mila yên tâm gật đầu. Cô không muốn cố ép bà Nicla nhận món tiền thưởng. Biết đâu bà nói đúng.

Đã năm giờ chiều, bà tu sĩ khá mệt mỏi, nhưng vẫn còn một việc phải làm.

- Bà có chắc là nhận ra được cái lán bỏ hoang đó không? - Cô hỏi.

- Có, bà biết nó nằm ở đâu.

Họ chỉ cần làm một cuộc kiểm tra đơn giản trước khi quay lại studio là có thể xác nhận thông tin do bà Nicla cung cấp.

Nhưng dù thế cả nhóm vẫn lên đường.

Trong xe, Sarah Rosa làm theo các chỉ dẫn của bà Nicla. Dự báo thời tiết cho biết vẫn còn nhiều trận tuyết rơi mới. Một mặt, trời quang mây và mặt trời đang lặn nhanh chóng. Nhưng mặt khác, các đám mây đang tích tụ ở chân trời và nhiều ánh chớp đầu tiên đang đến gần.

Họ đang ở ngay chính giữa nó.

- Ta phải nhanh chóng hơn. - Stern giục. Trời sắp tối rồi.

Khi đi đến lối rẽ, họ rời con đường chính. Những viên sỏi kêu lạo xạo dưới bánh xe. Sau chừng ấy năm tháng, cái lán gỗ vẫn còn nằm đó. Lớp sơn trắng đã bong tróc hoàn toàn và chỉ còn sót lại ở một đôi chỗ. Những miếng ván bị phơi bày dưới mưa nắng đã thối mục, khiến cho cái lán nom như một chiếc răng sâu.

Họ xuống xe và tiến đến cửa.

- Coi chừng, nó có thể sập đấy. - Boris cảnh báo.

Goran bước lên bậc thềm đầu tiên. Địa điểm rất trùng khớp với các mô tả của bà tu sĩ. Phía bên trong, sàn nhà bị phủ bởi một lớp đất và họ có thể nghe thấy lũ chuột bị đánh động chạy nhốn nháo bên dưới. Gavila nhận ra cái trường kỷ, dù nó chỉ còn là một đống những lò xo han gỉ. Chiếc tủ buýpphê vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lò sưởi bằng đá đã sụp một phân. Ông lấy từ trong túi ra một chiếc đèn pin nhỏ để xem xét hai căn phòng phía sau. Trong lúc đó, Boris và Stern cũng đã bước vào và đang xem xét căn nhà.

Goran mở cánh cửa đầu tiên.

- Đây là phòng ngủ.

Nhưng chiếc giường đã biến mất. Sự hiện diện của nó được đánh dấu bởi một khu vực nhạt màu hơn trên sàn. Đây là nơi Joseph B. Rockford đã được nhập môn giết chóc. Chúa mới biết ai là thằng bé đã bị kết liễu trong căn phòng này hai mươi năm về trước.

- Cần phải đào quanh chỗ này để tìm kiếm các phần còn sót lại của thi thể. - Gavila nói.

- Tôi sẽ báo cho các thợ đào huyệt và đội của Chang ngay khi chúng ta tìm ra vị trí. - Stern nói.

Trong lúc đó, ở phía bên ngoài của cái lán gỗ, Sarah Rosa bồn chồn rảo bước, hai tay đút trong túi áo cho đỡ lạnh. Bà Nicla và Mila ngồi trong xe quan sát cô ta.

- Cháu không thích chị ta. - Bà nói.

- Nói đúng hơn là chị ta không thích cháu.

- Cháu đã thử tìm hiểu lý do chưa?

Mila nhìn xéo bà tu sĩ.

- Bà định nói đây là lỗi của cháu đấy à?

- Không, bà chỉ muốn nói trước khi buộc tội ai thì phải thật chắc chắn cái đã.

- Chị ta không ưa cháu ngay từ khi cháu mới đến.

Bà Nicla giơ tay đầu hàng.

- Thôi được, cháu đừng có cáu. Khi cháu ra đi thì mọi chuyện đâu lại vào đấy thôi.

Mila lắc đầu. Đôi khi sự tốt bụng của bà Nicla thật đúng là không chịu đựng nổi.

Ở bên trong, Goran bước ra khỏi phòng ngủ và tiến đến cánh cửa đóng còn lại.

Bà tu sĩ đã không đề cập đến căn phòng thứ hai này.

Ông chiếu đèn vào tay nắm rồi mở cửa.

Nó rộng đúng bằng căn phòng bên cạnh, và trống rỗng. Hơi ẩm đã tấn công các bức tường, một lớp mốc đã xuất hiện ở trong các góc phòng. Goran quét đèn pin quan sát. Khi lia đèn qua một trong các vách tường, ông nhận thấy có thứ gì đó phản chiếu lại ánh sáng.

Ông dừng đèn pin tại điểm đó và trông thấy năm ô sáng, mỗi cái rộng chừng một tấc. Ông bước lại gần và sững người. Được găm trên tường là các tấm ảnh.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

Trong các bức ảnh, các cô bé vẫn còn sống. Albert đã đưa bọn trẻ đến đây trước khi giết chúng, và gã đã chụp ảnh chúng trong căn phòng này, ngay trước bức tường. Đầu tóc các em bù xù, quần áo nhàu nát. Một ánh đèn flash lạnh lùng đã gây bất ngờ cho những đôi mắt đỏ hoe vì khóc. Khuôn mặt chúng đầy sợ hãi.

Chúng đang cười và vẫy tay chào.

Gã đã bắt bọn trẻ làm động tác kỳ cục đó trước ống kính máy ảnh. Niềm vui bị ép buộc bởi nỗi sợ hãi nom thật kinh khủng.

Đôi môi của Debby méo xệch bởi một sự hoan hỉ giả tạo. Có cảm tưởng như nó sắp sửa òa khóc bất cứ lúc nào.

Anneke giơ một tay lên, trong khi tay còn lại buông xuôi theo thân mình trong một tư thế nhẫn nhục và quy phục.

Sabine được chụp đúng vào khoảnh khắc cô bé đang nhìn quanh, cố hiểu một điều mà trái tim non trẻ của con bé không thể nắm bắt được.

Melissa thì đang căng thẳng và chống đối. Nhưng rõ ràng là con bé cũng sẽ nhanh chóng bị khuất phục.

Caroline đứng bất động, đôi mắt mở to dù đang cười. Một nụ cười hoài nghi.

Sau khi đã xem lại hết các tấm ảnh, Goran mới gọi những người khác.

Thật phi lý. Không thể hiểu nổi. Tàn nhẫn một cách không cần thiết.

Không thể nhìn nhận sự việc theo cách khác được. Không ai dám phá vỡ sự yên lặng trong suốt chuyến đi trở về studio.

Đêm nay sẽ thật dài. Không ai hy vọng sẽ ngủ được sau một ngày như thế. Mila đã không ngủ suốt bốn mươi tám giờ qua, quá nhiều sự việc đã liên tiếp diễn ra trong những giờ phút ấy.

Vụ phát hiện ra hình dáng của Albert trên tường căn biệt thự của bà Yvonne Gress. Cuộc nói chuyện của cô với Goran ở nhà ông tối qua, khi cô báo cho ông biết mình đã bị theo dõi, cũng như giả thiết của cô về việc thủ phạm có một kẻ đồng lõa. Tiếp đến là thắc mắc về màu mắt của Sabine, dẫn đến việc phát hiện ra sự lừa dối của thanh tra Roche. Chuyến viếng thăm dinh thự gia đình Rockford. Hố chôn tập thể. Lara Rockford. Sự can thiệp của bà Nicla Papakidis. Vụ khám phá sâu trong đầu của tên giết người hàng loạt.

Và sau cùng, những tấm ảnh.

Mila đã từng thấy nhiều tấm ảnh trong quá trình công tác. Hình ảnh của những em nhỏ, được chụp ngoài bãi biển, hoặc trong buổi liên hoan văn nghệ cuối năm học. Các bậc phụ huynh hoặc người thân đã cho cô xem chúng khi cô đến gặp họ. Những đứa trẻ mất tích để rồi tái xuất hiện trong những tấm ảnh khác, thường là trong tình trạng trần truồng hoặc mặc quần áo của người lớn. Những tấm ảnh thuộc bộ sưu tập của bọn ấu dâm hoặc trong hồ sơ của nhà xác.

Thế nhưng, trên năm tấm ảnh được tìm thấy tại căn nhà bỏ hoang, còn có một điều gì đó rất khác lạ.

Albert đã biết họ sẽ lần đến tận đấy. Gã đã đợi họ.

Có khi nào gã tiên liệu được việc họ nhờ đến một bà đồng để điều tra tên học trò Joseph của gã hay không?

Gã đã quan sát chúng ta ngay từ đầu. Goran đã bình luận ngắn gọn như thế. Gã luôn đi trước chúng ta một bước.

Mila tin rằng mọi động thái của họ đều đã bị gã đoán trước và vô hiệu hóa. Giờ đây họ buộc phải cảnh giác phía sau lưng. Đó là gánh nặng đang đè lên các đồng đội hiện ngồi cùng xe với cô trên đường quay về trụ sở.

Và vẫn còn hai nạn nhân cần được phát hiện.

Nạn nhân đầu tiên chắc chắn đã chết. Cô bé thứ hai sớm muộn rồi cũng sẽ như thế. Không ai có đủ can đảm thú nhận điều đó, nhưng họ đang tuyệt vọng trong nỗ lực ngăn chặn vụ giết hại bé gái số sáu.

Về phần Caroline, ai có thể biết nỗi kinh hoàng nào sẽ được hé lộ. Biết đâu nó sẽ còn tồi tệ hơn những gì họ đã phát hiện được cho đến thời điểm này? Nếu vậy thì Albert đang chuẩn bị cho một kết thúc rất hoành tráng với nạn nhân số sáu.

Khi Boris dừng xe phía dưới studio thì đã quá mười một giờ tối. Anh để mọi người xuống xe, đóng cửa xe lại, và chợt nhận ra họ đang đợi anh lên cùng.

Họ không muốn để anh một mình.

Sự kinh hoàng mà mọi người đang đối mặt đã thắt chặt hơn tình đoàn kết của họ. Bởi tất cả những gì còn lại với họ là các đồng đội.

Mila cũng nằm trong số đó, giống như Goran. Hai người đã bị gạt ra trong một thời gian, nhưng điều đó đã không kéo dài lâu, và nó chỉ xảy ra do toan tính kiểm soát mọi chuyện của Roche. Kể từ lúc này, khoảng cách đã bị xóa đi và sai lầm đã được tha thứ.

Nhóm điều tra chậm rãi bước lên các bậc thang. Stern vòng tay ôm lấy vai Rosa.

- Tối nay cô về nhà đi. - Anh nói.

Nhưng cô chỉ cương quyết lắc đầu. Mila đã hiểu: Rosa không thể phá vỡ sợi xích liên kết này. Nếu cô ta làm vậy, cả thế giới sẽ sụp đổ, những rào chắn bảo vệ nó sẽ vỡ tung, để mặc cho ma quỷ tràn vào. Họ là thành lũy cuối cùng trong cuộc chiến này, cho dù hiện đang thua họ vẫn không hề có ý định bỏ cuộc.

Họ cùng bước vào căn hộ. Boris nấn ná lại sau để đóng cánh cửa, trước khi quay lại và thấy mọi người chết sững trong hành lang như thể đang bị thôi miên. Anh không hiểu chuyện gì đang xảy ra, cho đến khi nhìn thấy qua vai các đồng đội một cái xác đang nằm trên sàn. Sarah Rosa hét lên. Mila quay vội đi vì cô không thể nhìn được nữa. Stern làm dấu thánh. Còn Gavila thì lặng thinh.

Caroline, nạn nhân số năm.

Lần này, thi thể của cô bé được dành sẵn cho họ.

Nhà tù tối mật, quận xxxx

Trại giam số 45

Báo cáo số 2 của giám đốc, Alphonse Bérenger

Ngày 16 tháng 12 năm hiện hành

Kính gửi: Phó biện lý Matthew Sedris

Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin

Tiêu đề: Kết quả điều tra - Mật

Thưa ông Sedris,

Tôi xin thông báo với ông rằng việc khám xét buồng biệt giam của phạm nhân số hiệu RK-357/9 đã được thực hiện một cách bất ngờ tối hôm qua.

Các quản giáo đã đột ngột ập vào phòng giam để thu thập các vật chất hữu cơ bị “rơi rớt ngẫu nhiên” hoặc “tự đối tượng bỏ lại”, nhằm mục đích xác định dấu vết di truyền của hắn, theo thư khuyến nghị từ văn phòng ông.

Người của tôi đã chứng kiến một buồng giam “sạch bóng”, đến mức có cảm giác như tù nhân RK-357/9 đã đón lõng chúng tôi. Tôi cho rằng hắn ta luôn ở trong trạng thái báo động thường trực và đã trù tính sẵn mọi động thái của chúng tôi.

Tôi e rằng, nếu không có sai sót nào của đối tượng hoặc một thay đổi tình hình bất ngờ, sẽ rất khó để cuộc điều tra này có thể thu được kết quả.

Có lẽ chúng ta chỉ còn một khả năng duy nhất để phá vỡ bí mật. Chúng tôi nhận thấy nghi phạm RK-357/9 thỉnh thoảng nói chuyện một mình, chắc chắn là do ảnh hưởng của việc bị biệt giam. Có vẻ hắn chỉ lẩm bẩm linh tinh, nhưng dù sao, theo chúng tôi, và dưới sự chấp thuận của ông, nên chăng ta giấu một chiếc micro trong phòng giam để thu âm lời nói của hắn.

Lẽ đương nhiên, chúng tôi sẽ không từ bỏ việc thực hiện lại những cuộc kiểm tra đột xuất nhằm thu được mẫu ADN của đối tượng này.

Còn một ghi nhận cuối cùng tôi phải báo với ông: đối tượng luôn bình thản và dễ tính. Hắn không bao giờ phàn nàn, và cũng không tỏ ra khó chịu trước những mưu toan khiến hắn phạm sai lầm của chúng tôi.

Thời gian không còn nhiều. Sau 86 ngày nữa, ta sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trả lại tự do cho đối tượng.

Xin trân trọng kính chào.

Giám đốc

Alphonse Bérenger
 
Chương 33


Căn hộ được biết đến với tên “studio”

Và từ bây giờ được gọi là “hiện trường số năm”

Ngày 22 tháng 2

Mọi thứ sẽ không bao giờ trở lại như trước đây được nữa.

Với bóng ma ám ảnh ấy, họ rút vào phòng ngủ tập thể trong khi chờ đội của Chang và Krepp đến tìm dấu vết trong căn hộ. Sau khi nhanh chóng được báo cáo, thanh tra Roche đã trao đổi với Goran từ gần một tiếng đồng hồ nay.

Stern nằm trên chiếc giường gấp, tay kê sau đầu, hai mắt nhìn đăm đăm lên trần nhà. Nom anh như một gã cao bồi. Các nếp là thẳng thớm trên bộ comlê của anh không hề hấn gì sau những giờ căng thẳng vừa qua, thậm chí anh cũng không cảm thấy cần phải nới lỏng nút thắt càvạt. Boris đang nằm nghiêng, nhưng rõ ràng là anh chàng không ngủ. Chân trái của anh bồn chồn gõ nhịp trên tấm vải phủ giường. Rosa thì đang cố gọi điện thoại cho ai đó, nhưng không bắt được sóng.

Mila lần lượt quan sát đồng đội của mình, trước khi nhìn xuống màn hình máy tính xách tay đặt trên đầu gối. Cô đã yêu cầu gửi các tấm ảnh chụp trong buổi hội chợ mà Sabine bị bắt cóc. Chúng đều đã được xem xét, nhưng cô muốn quan sát lần nữa, dưới ánh sáng của giả thiết mà cô đã trình bày với Goran, trong đó kẻ bắt cóc nhiều khả năng là một phụ nữ.

- Tôi rất muốn biết làm thế quái nào gã đã mang được thi thể của Caroline đến tận đây... - Stern buột miệng thốt ra câu hỏi đang ám ảnh tất cả bọn họ.

- Phải, tôi cũng muốn biết điều đó. - Rosa đồng tình.

Tòa nhà gần như trống rỗng và các hệ thống an ninh đã bị tháo gỡ, nhưng lối duy nhất vào căn hộ là cánh cửa chính, và nó đã được bọc thép.

- Hắn đã đi qua cửa chính. - Boris nói vỏn vẹn có thế sau khi thoát ra khỏi tình trạng uể oải giả tạo của mình.

Nhưng có một điều khiến họ tức tối hơn hẳn những thứ khác. Lần này thông điệp mà Albert muốn gửi đến là gì? Tại sao gã lại quyết định phủ một bóng ma nặng nề đến thế lên vai những người truy lùng gã?

- Theo tôi, gã chỉ muốn làm chúng ta chậm bước. - Rosa nói. - Chúng ta đã đến quá gần, nên gã đã xáo trộn các lá bài thêm lần nữa.

- Không, Albert không làm điều gì một cách ngẫu nhiên. - Mila xen vào. - Gã đã dạy chúng ta rằng tất cả mọi điều gã làm đều có căn nguyên của nó.

Sarah Rosa liếc xéo cô.

- Vậy thì sao? Ý cô là thế nào? Một trong số chúng ta là một con quỷ à?

- Đó không phải là điều cô ấy muốn nói. - Stern đáp. - Mila chỉ nói là nguyên do của chuyện này phải gắn liền với kế hoạch của Albert: nó là một phần của trò chơi mà gã đã buộc chúng ta chơi cùng ngay từ khi bắt đầu… Nguyên nhân có thể gắn với chỗ này, với công năng của nó trong quá khứ.

- Nó có thể liên quan tới một vụ án cũ. - Mila nói thêm khi nhận thấy giả thiết đưa ra không được hiểu đúng.

Trước khi cuộc nói chuyện tiếp diễn thì Goran đã bước vào, khép cửa lại sau lưng.

- Tôi cần tập trung sự chú ý của mọi người.

Giọng điệu của ông có vẻ khẩn cấp. Mila rời mắt khỏi màn hình. Tất cả đều nhìn về phía nhà tội phạm học.

- Theo lý thuyết, chúng ta vẫn còn đang phụ trách cuộc điều tra này, nhưng tình hình đang phức tạp lên.

- Nghĩa là sao? - Boris thốt lên.

- Các bạn sẽ hiểu ra sớm thôi, nhưng từ bây giờ tôi yêu cầu mọi người giữ bình tĩnh. Tôi sẽ giải thích sau...

- Sau cái gì chứ?

Goran chưa kịp đáp thì cánh cửa đã bật mở.

Thanh tra Roche bước vào phòng. Tháp tùng ông ta là một người đàn ông vạm vỡ, tuổi trạc năm mươi, áo vét nhàu nhĩ, chiếc càvạt quá mỏng manh so với cái cổ đồ sộ. Trên môi ông ta là một điếu xì gà không cháy.

- Bình tĩnh ngồi xuống nào. - Thanh tra Roche nói, mặc dù chưa ai kịp đứng lên chào. Ông cố nặn ra một nụ cười đáng lẽ mang tính trấn an nhưng lại chỉ càng gây thêm lo lắng.

- Các bạn, tình hình đang rất phức tạp, nhưng chúng ta sẽ tháo gỡ được nó. Tôi sẽ không để cho một gã điên gieo rắc sự nghi ngờ vào nhóm điều tra của tôi! - Ông nói và nhấn khá mạnh ở hai chữ cuối cùng, như thường lệ. - Chính vì lẽ đó mà tôi đã dùng một biện pháp đề phòng, vì lợi ích của mọi người, và đưa thêm một người vào cuộc cùng các bạn. - Ông thông báo mà không hề giới thiệu người đang đứng bên cạnh. - Hãy hiểu cho tôi, vì những lý do hiển nhiên tôi đã định rút mọi người ra khỏi vụ này. Tình hình không còn gì rối rắm hơn: chúng ta không tài nào tìm ra được Albert, trong khi gã mò được đến tận đây! Vậy nên, theo sự nhất trí của giáo sư Gavila, tôi đã giao phó cho đại úy Mosca đây trách nhiệm hỗ trợ các bạn cho đến khi cuộc điều tra kết thúc.

Không ai nói gì, dù họ thừa hiểu sự “hỗ trợ” mà họ nhận được ở đây là gì. Mosca sẽ nắm quyền kiểm soát và chỉ để cho họ một lựa chọn duy nhất: hoặc theo phe ông ta và cố vớt vát phần nào sự tin tưởng, hoặc là biến đi.

Terence Mosca là người khá nổi danh trong ngành cảnh sát. Ông ta được biết đến sau một chiến dịch nằm vùng trong một ổ buôn ma túy kéo dài sáu năm. Bảng thành tích của ông ta có hàng trăm cuộc bắt bớ và nhiều chiến dịch nằm vùng khác. Tuy nhiên, ông ta chưa bao giờ phụ trách các vụ giết người hàng loạt, hay các tội ác bệnh hoạn khác.

Roche đã nhờ đến Terence Mosca chỉ vì một lý do duy nhất: nhiều năm trước đây, Mosca đã tranh giành chiếc ghế chánh thanh tra với ông. Căn cứ vào diễn biến tình hình, ông thấy đây là cơ hội để ép đối thủ hứng lấy phần nào gánh nặng của một thất bại đã khá rõ rệt. Một quyết định liều lĩnh, cho thấy ông cảm nhận được tình thế cấp bách, của mình đến mức nào: nếu như Terence Mosca phá được vụ Albert này, thanh tra Roche sẽ phải nhường cho ông ta thâu tóm quyền lực.

Trước khi lên tiếng, ngài đại úy tiến lên một bước như thể muốn gạt Roche qua một bên và chứng tỏ sự chủ động của mình.

- Phía bệnh học và cảnh sát khoa học vẫn chưa tìm được điều gì có ý nghĩa. Điều duy nhất mà ta biết là để vào được trong căn hộ này, thủ phạm phải mở được cánh cửa bọc thép kia.

Khi mở cửa lúc quay trở về studio, Boris không nhận thấy dấu vết phá hoại nào.

- Gã đã cẩn thận xóa sạch mọi dấu vết: gã không muốn làm hỏng sự ngạc nhiên của mọi người.

Mosca tiếp tục nhay nhay điếu xì gà trong lúc dò xét mọi người, hai tay vẫn đút túi. Xem vẻ ông đại úy này không phải là một người sẵn sàng tính sổ ai, nhưng ông ta vẫn tạo ra được ấn tượng đó.

- Tôi đã cử nhiều cảnh sát viên đi điều tra quanh vùng với hy vọng tìm được một nhân chứng. Biết đâu chúng ta sẽ thu được một số đăng ký xe... Còn về động cơ thúc đẩy đối tượng đem cái xác đến đây, chúng ta buộc phải tự nghĩ ra. Nếu các anh chị nghĩ được điều gì thì đừng ngần ngại. Hiện tại tôi chỉ nói được có thế thôi.

Terence Mosca quay gót, và không để cho ai kịp phản ứng hay đối đáp gì, ông ta đi thẳng ra hiện trường.

Thanh tra Roche không nhúc nhích.

- Các bạn không còn nhiều thời gian. Cần phải tìm ra được một suy đoán, thật nhanh.

Rồi đến lượt mình ông cũng rời phòng. Goran đóng cửa lại, những người khác vây quanh ông.

- Tin sốt dẻo này là thế nào đây? - Boris hỏi đầy nghi hoặc.

- Tại sao chúng ta cần phải có một con chó giữ nhà ngay lúc này? - Rosa hùa theo.

- Bình tĩnh nào, mọi người không hiểu rồi. - Goran nói. - Đại úy Mosca là người thích hợp nhất tại thời điểm này. Chính tôi là người đề nghị sự can thiệp của ông ta.

Mọi người không tin nổi ở tai mình.

- Tôi biết tất cả đang nghĩ gì, nhưng với cách này, tôi đã cho thanh tra Roche một lối thoát và giữ lại được vai trò của chúng ta trong cuộc điều tra.

- Chính thức ra thì chúng ta vẫn còn đang tham gia, nhưng ai cũng biết là Terence Mosca thích đơn thương độc mã. - Stern nhận xét.

- Vì thế mà tôi đã tiến cử Mosca: do đã biết rõ ông ta, chúng ta sẽ không bị ngáng trở, ông ta sẽ không thể biết những gì chúng ta làm. Chúng ta chỉ cho ông ta biết những điều cần biết, thế thôi.

Đây có vẻ là một giải pháp tối ưu, nhưng nó không loại bỏ được mối nghi ngờ đang đè nặng trên mỗi người.

- Mọi người sẽ dồn mắt vào chúng ta. - Stern vừa lắc đầu vừa nói, vẻ khó chịu.

- Còn ta, ta sẽ để cho Mosca tiếp tục tìm kiếm Albert trong lúc ta tập trung vào nạn nhân số sáu...

Một chiến thuật hay, có vẻ như vậy: nếu họ tìm ra cô bé còn sống, họ sẽ xua tan sự nghi ngờ vây quanh mình.

- Tôi cho rằng Albert đã đặt thi thể của Caroline tại đây để chơi xỏ chúng ta. Bởi lẽ, dù chưa có gì chống lại chúng ta, mối nghi ngờ nhắm vào chúng ta vẫn tồn tại.

Mặc cho ông tìm mọi cách để giữ vẻ bình tĩnh, Goran vẫn thừa biết những nhận định của ông sẽ không đủ để xoa dịu tình hình: kể từ lúc thi thể thứ năm được phát hiện, từng người trong số họ đã bắt đầu nhìn người kia bằng con mắt khác. Họ biết nhau đã lâu, nhưng không ai có thể loại trừ việc mỗi người trong số họ đều đang che giấu một bí mật nào đó. Đây chính là mục đích thực sự của Albert: gây chia rẽ nội bộ. Nhà tội phạm học tự hỏi còn bao lâu trước khi hạt giống nghi ngờ nảy mầm trong bọn họ.

- Cô bé cuối cùng không còn nhiều thời gian. - Ông nói một cách quả quyết. - Albert đã gần như hoàn thành kế hoạch của mình. Gã đang chuẩn bị cho hồi kết. Nhưng gã cần được rảnh tay, nên gã đã gạt chúng ta khỏi cuộc đua. Hiện tại ta chỉ có một cơ may duy nhất để tìm thấy gã, cơ may đó ở trong tay một cá nhân nằm ngoài mọi mối nghi ngờ, vì người này tham gia vào nhóm khi Albert đã lập kế hoạch xong.

Đột ngột nhận mọi ánh mắt đổ dồn vào mình, Mila cảm thấy không thoải mái.

- Cô có thể hành động tự do hơn chúng tôi nhiều. - Stern khích lệ cô. - Nếu - Phải nghe theo linh cảm của mình, cô sẽ làm gì?

Thật ra thì Mila đã có một suy đoán, nhưng cô muốn giữ nó cho riêng mình.

- Tôi biết tại sao gã chỉ chọn các bé gái.

Họ từng đặt ra câu hỏi đó trong phòng suy tưởng, khi vụ việc chỉ mới bắt đầu. Tại sao Albert không bắt cóc các cậu bé trai? Hành vi của gã không nhằm mục đích tính dục, vì gã không xâm hại các bé gái.

“Không, gã chỉ dừng lại ở việc giết chúng”.

Vậy tại sao gã có sự lựa chọn như vậy. Mila tin là cô đã có một giả thiết.

- Các nạn nhân đều phải là nữ, do nạn nhân số sáu là nữ. Tôi gần như chắc chắn gã đã chọn cô bé này đầu tiên, chứ không phải cuối cùng như gã muốn chúng ta tin. Việc những đứa còn lại là bé gái chỉ để che đậy chi tiết này. Số sáu là đối tượng đầu tiên ám ảnh của gã. Vì sao thì ta chưa biết. Có thể số sáu có một đặc điểm nào đó nổi bật hơn những đứa khác. Chính vì thế mà gã muốn che giấu tung tích của cô bé đến cùng. Việc cho chúng ta biết một trong các cô bé vẫn còn sống vẫn chưa đủ với gã. Không, ta cần phải hoàn toàn không biết cô bé đó là ai.

- Bởi điều đó có thể cho phép ta lần ra gã. - Goran kết luận.

Nhưng phỏng đoán thú vị này chẳng giúp ích gì cho ai trong đội.

- Trừ phi... - Mila nói, dường như cô đã đoán trước suy nghĩ của mọi người. - Trừ phi vẫn luôn có một mối liên hệ giữa chúng ta và Albert.

Bây giờ thì không còn gì để mất nữa, nên Mila không ngần ngại nói với mọi người rằng cô từng bị theo dõi.

- Việc đó xảy ra hai lần. Mặc dù tôi chỉ tuyệt đối chắc chắn ở lần thứ hai. Tại nhà nghỉ, nó giống với một ảo giác hơn...

- Vậy thì sao? - Stern thắc mắc. - Chuyện đó có liên quan gì ở đây?

- Ai đó đã theo dõi tôi. Có lẽ nó đã diễn ra nhiều lần khác mà tôi không biết và không nhận ra… Nhưng vì sao? Để kiểm soát tôi à? Với mục đích gì kia chứ? Tôi không nắm giữ bất cứ thông tin gì có tầm quan trọng cốt yếu, tôi luôn là cái bánh xe thừa trong nhóm.

- Có thể để làm ta lạc lối. - Boris phỏng đoán.

- Cũng vậy cả thôi: thật ra làm gì có lối nào, trừ phi tôi đã tiến rất gần đến một phát hiện gì đó, và tôi tự nhiên trở thành quan trọng mà không hề hay biết.

- Nhưng lúc ở khu nhà nghỉ, cô chỉ vừa mới đến. - Goran nói. - Điều này phủ nhận giả thiết trên.

- Tôi chỉ còn một cách giải thích... Kẻ theo dõi tôi muốn dọa cho tôi sợ.

- Vì lẽ gì? - Sarah Rosa hỏi.

Mila phớt lờ cô ta.

- Trong cả hai lần, kẻ bám theo tôi không phải vô tình để lộ mình. Ngược lại, tôi cho rằng hắn cố tình làm thế.

- Thôi được, chúng tôi đã hiểu. - Rosa nói. - Nhưng hắn làm thế thì được gì? Chuyện này thật vô nghĩa.

Mila đột ngột quay sang Rosa, dùng chiều cao của mình để áp đảo đối phương.

- Bởi vì ngay từ đầu, tôi là người duy nhất trong số các anh chị có thể tìm ra được nạn nhân số sáu. Đừng hiểu lầm tôi, nhưng những kết quả mà tôi có được cho đến ngày hôm nay cho thấy tôi có lý. Mọi người rất giỏi trong việc chặn đứng những tên sát nhân hàng loạt. Còn tôi, tôi chuyên đi tìm người mất tích: tôi luôn tìm được và tôi biết cách để làm điều đó.

Không ai phản bác Mila. Đứng ở góc độ này, Mila là nguy cơ rõ ràng nhất đối với Albert, vì cô là người duy nhất có khả năng làm đổ bể kế hoạch của gã.

- Ta tóm tắt lại nhé: gã bắt cóc bé gái số sáu đầu tiên. Nếu tôi phát hiện ra ngay cô bé đó là ai, kế hoạch của gã sẽ sụp đổ tan tành.

- Nhưng cô đâu có tìm được. - Rosa nói. - Có lẽ cô không giỏi đến thế.

Mila phớt lờ câu nói xóc của Rosa.

- Khi tiếp cận tôi ở khoảng cách gần như vậy, tại khu nhà nghỉ, Albert có thể đã phạm một sai lầm. Chúng ta cần phải quay lại khoảnh khắc đó.

- Bằng cách nào? Đừng có nói là cô có máy quay ngược thời gian nhé!

Mila mỉm cười: dù không biết, Rosa đã ở rất gần sự thật. Vì có một cách để quay về quá khứ. Một lần nữa cô phớt lờ hơi thở nồng mùi thuốc lá của cô ta để quay sang Boris.

- Anh giỏi ở mức nào, trong việc thẩm vấn bằng phương pháp thôi miên?

- Cô thư giãn nào...

Giọng nói của Boris chỉ còn là một lời thì thầm. Mila đang nằm trên chiếc giường gấp, tay xuôi theo thân mình, hai mắt khép lại. Boris ngồi bên cạnh cô.

- Bây giờ, tôi muốn cô đếm đến một trăm.

Stern đã phủ một cái khăn lên ngọn đèn để khiến cho căn phòng chìm trong ánh sáng mờ ảo. Rosa tách ra, ngồi trên giường mình. Goran cũng đang ngồi trong một góc và quan sát tỉ mỉ những gì đang diễn ra.

Mila chậm rãi đếm từng số. Hơi thở của cô bắt đầu đều đặn. Khi cô đếm đến một trăm, cô đã hoàn toàn thả lỏng cơ thể mình.

- Bây giờ, tôi muốn cô quan sát trong đầu. Cô sẵn sàng chưa?

Mila gật đầu.

- Cô đang ở trên một thảo nguyên. Đang là buổi sáng, mặt trời sưởi ấm khuôn mặt cô, không khí tràn ngập mùi hương hoa cỏ. Cô bước đi với đôi chân trần: cô có thể cảm nhận được mặt đất mát mẻ dưới chân mình. Tiếng suối róc rách mời gọi cô. Cô tiến đến và cúi xuống trên mặt đất mềm nhão. Cô nhúng tay xuống nước, rồi vốc một ngụm lên uống. Nước có vị rất ngon.

Hình ảnh này được lựa chọn là có lý do của nó: Boris đã đánh thức các cảm quan này để làm chủ năm giác quan của Mila. Như vậy sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa cô quay trở lại thời điểm ở nhà nghỉ.

- Bây giờ cô đã thỏa cơn khát, tôi muốn cô làm một việc. Hãy quay lại vài ngày trước đây, vào buổi tối...

- Được. - Mila đáp.

- Đang là ban đêm, một chiếc xe hơi vừa đưa cô trở lại nhà nghỉ.

- Trời lạnh. - Cô nói ngay.

Goran có cảm giác cô đang rùng mình.

- Còn gì nữa không?

- Người cảnh sát đã đưa tôi về gật đầu chào, rồi quay xe. Tôi chỉ còn một mình tại chỗ đó.

- Chỗ đó như thế nào? Cô hãy miêu tả đi.

- Trời khá tối. Chỉ có tấm bảng đèn kêu kèn kẹt trong gió. Trước mắt tôi là những căn nhà nghỉ, nhưng không có ô cửa nào sáng đèn. Tôi là khách trọ duy nhất đêm nay. Phía sau dãy nhà là một hàng cây rất cao đang xào xạc. Mặt đất được rải sỏi.

- Tiến lên đi...

- Tôi chỉ nghe thấy tiếng bước chân của mình.

Cô gần như nghĩ mình có thể nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo.

- Giờ thì cô ở đâu?

- Tôi đang tiến về nhà nghỉ của mình, tôi đi ngang qua chốt gác của bảo vệ. Không có ai ở đó, nhưng ti vi đang bật. Tôi cầm trên tay một túi giấy có hai cái bánh kẹp phô mai. Đó là bữa tối của tôi. Tôi thở ra khói trong bầu không khí lạnh lẽo. Thế nên tôi tăng tốc. Nhà nghỉ của tôi là căn ở xa nhất.

- Rất tốt, tiếp tục đi.

- Tôi chỉ còn cách đó vài mét, tôi đang nghĩ ngợi rất nhiều. Có một cái lỗ trên mặt đất, tôi không nhìn thấy và bị hụt chân... Thế là tôi nghe thấy.

Bất giác Goran nghiêng người về phía chiếc giường Mila đang nằm, như thể ông có thể đến tận chỗ đó cùng cô và bảo vệ cô khỏi mối nguy mà cô đang gặp phải.

- Cô nghe thấy gì?

- Một bước chân trên lớp sỏi, phía đằng sau. Ai đó đã bắt chước các bước chân tôi. Hắn muốn tiến đến gần mà không để tôi phát hiện. Nhưng hắn đã lỡ nhịp.

- Cô đã làm gì?

- Tôi cố giữ bình tĩnh, nhưng tôi sợ. Tôi tiếp tục giữ nguyên tốc độ khi tiến về phía nhà nghỉ, mặc dù tôi chỉ muốn chạy. Trong lúc đó, tôi suy tính.

- Cô suy tính chuyện gì?

- Việc rút súng chỉ vô ích bởi lẽ, nếu hắn có vũ khí, hắn có thừa thời gian để khai hỏa trước. Tôi nhớ đến cái ti vi đang mở trong chòi gác, tự nhủ nhân viên bảo vệ đã bị hạ thủ. Và giờ đến lượt tôi... Tôi phát hoảng.

- Phải, nhưng cô vẫn giữ được bình tĩnh.

- Tôi lục trong túi tìm chìa khóa, vì khả năng duy nhất là vào trong phòng... Nếu hắn để tôi làm thế.

- Cô tập trung vào cánh cửa. Nó chỉ còn cách cô vài mét, đúng không?

- Đúng. Đó là thứ duy nhất trong tầm mắt của tôi, những thứ còn lại đã biến mất.

- Nhưng bây giờ, cần phải đem chúng trở lại...

- Tôi đang cố...

- Mạch máu cô đang đập nhanh, adrenaline chảy mạnh, tất cả mọi giác quan của cô đang trong trạng thái báo động. Tôi muốn cô tả lại vị giác...

- Miệng tôi khô khốc, nhưng tôi có thể cảm thấy vị chua của nước bọt.

- Xúc giác…

- Độ lạnh của chùm chìa khóa phòng trong bàn tay phải của tôi.

- Khứu giác...

- Gió mang theo mùi rác rưởi. Ở bên phải tôi có mấy cái thùng rác. Có cả mùi lá thông, và mùi nhựa cây.

- Thị giác...

- Tôi nhìn thấy bóng mình trên đất.

- Và rồi?

- Tôi thấy cửa nhà nghỉ, nó vàng và bị tróc sơn. Tôi thấy bậc tam cấp dẫn lên đó.

Boris đã cố tình để dành giác quan cốt yếu nhất lại sau cùng, vì cảm nhận duy nhất của Mila về kẻ theo dõi mình là âm thanh.

- Thính giác...

- Tôi không nghe thấy gì, ngoại trừ tiếng những bước chân của mình.

- Lắng nghe kỹ hơn đi.

Goran nhìn thấy một nếp nhăn xuất hiện ngay giữa hai mắt Mila, do cô đang cố nhớ lại.

- Tôi nghe thấy chúng! Giờ thì tôi nghe thấy từng bước chân mình rõ mồn một!

- Tốt lắm. Nhưng tôi muốn cô tập trung hơn nữa...

Mila làm theo. Rồi cô lên tiếng:

- Cái gì vậy nhỉ?

- Tôi không biết. - Boris đáp. - Ở đó chỉ có mình cô, tôi thì không nghe thấy gì.

- Nhưng có một cái gì đó!

- Cái gì vậy?

- Tiếng động này.

- Tiếng động nào?

- Một tiếng... kim loại. Phải rồi! Một thứ bằng kim loại vừa rơi xuống đất, trên lớp sỏi!

- Cố gắng nói rõ hơn đi.

- Tôi không biết...

- Cố lên...

- Đó là... một đồng xu!

- Một đồng xu à? Cô có chắc không?

- Chắc! Một đồng tiền vàng! Hắn đã làm rơi nó, nhưng hắn không nhận ra!

Đó là một dấu vết không ngờ tới. Nếu tìm được đồng tiền, họ sẽ có được dấu vân tay và lần ra kẻ theo dõi. Với hy vọng đó là Albert.

Mila vẫn nhắm nghiền mắt, nhưng miệng cô cứ nhắc đi nhắc lại:

- Một đồng xu! Một đồng xu!

Boris lại kiểm soát tình hình.

- Tốt rồi, Mila. Giờ thì, tôi sẽ đánh thức cô. Tôi muốn cô đếm đến năm, rồi tôi sẽ vỗ tay và cô mở mắt nhé. Một, hai, ba, bốn... và năm!

Mila mở mắt. Cô có vẻ bối rối và ngơ ngác. Cô cố ngồi dậy, nhưng Boris nhẹ nhàng đặt tay lên vai cô cản lại.

- Chưa được đâu. - Anh nói. - Cô sẽ chóng mặt đấy.

- Có kết quả không? - Cô hỏi.

Boris mỉm cười.

- Dường như ta có một manh mối.

Mình cần phải tìm cho ra nó, cô nhủ thầm trong lúc sục tay vào lớp sỏi. Sự tín nhiệm của mình phụ thuộc vào nó... và cả cuộc sống của mình nữa.

Cô dồn mọi sự chú ý vào mặt đất, nhưng phải làm thật nhanh. Không còn nhiều thời gian nữa.

Cô chỉ phải tìm có vài mét vuông thôi. Diện tích nằm giữa cô và nhà nghỉ tối hôm đó. Cô bò trên đất, mặc kệ chiếc quần jean bị bẩn. Cô sục tay vào giữa những viên sỏi trắng, các khớp tay cô đã bắt đầu bị trầy xước vì lớp bụi bám trên chúng. Nhưng cơn đau không làm cô khó chịu, thậm chí nó còn giúp cô tập trung hơn.

Một đồng xu, cô tiếp tục nhắc lại trong đầu. Sao mình lại không nhận ra nhỉ.

Rất có thể ai đó đã tìm thấy nó. Một khách trọ, hoặc là người bảo vệ.

Cô đã đến khu nhà nghỉ trước những người khác, vì cô không thể tin một ai. Cô có cảm giác các đồng đội cũng không còn tin mình.

Mình phải làm thật nhanh!

Cô hất tung các viên sỏi, ném chúng ra sau lưng, răng cắn chặt môi. Cô đang rất cuống. Cô căm tức bản thân, và tức bực với mọi người. Cô hít thở thật mạnh nhiều lần, cố trấn át cơn kích động.

Lạ một điều là cô nhớ đến chuyện xảy ra khi cô mới rời trường cảnh sát. Cô có một tính cách khép kín và khó tiếp xúc với người khác. Người ta ghép cô vào cùng đội với một đồng nghiệp nhiều tuổi hơn, và người này không thể chịu nổi cô. Họ đã bám theo một nghi can trong các hẻm hóc của một khu phố Tàu. Hắn chạy rất nhanh, họ không thể bắt kịp hắn, nhưng đồng đội của cô cho rằng hắn đã vứt cái gì đó vào bể hàu khi chạy vòng ra đằng sau một nhà hàng. Vậy là anh ta đã bắt cô quỳ xuống trong chỗ nước tù đọng đó và lục tìm giữa những con hàu nhớp nháp. Dĩ nhiên là chẳng có gì. Có lẽ anh ta đã bắt cô làm chuyện mà tân binh nào cũng phải học qua. Từ lúc đó, cô không ăn món hàu nữa. Nhưng cô đã học được một bài học quan trọng hơn.

Và những viên sỏi nhám mà cô điên cuồng vứt qua một bên cũng là một phép thử.

Một điều gì đó để tự chứng tỏ mình vẫn còn khả năng tháo gỡ mọi chuyện. Điều đó từng là tài nghệ của cô trong một thời gian dài. Nhưng trong khi tự chúc mừng mình, một ý nghĩ chợt xẹt qua đầu cô. Cũng như lần ấy, hôm nay một người khác đã chơi xỏ cô.

Chẳng có đồng tiền nào, sự thật là thế. Đó chỉ là một chiêu lừa đảo.

Ngay khi Sarah Rosa hiểu ra điều đó, cô ta ngước mắt lên và trông thấy Mila tiến đến gần mình. Bị lột mặt nạ và hoàn toàn bất lực trước nữ đồng nghiệp ít tuổi hơn mình, sự tức giận của cô rơi rụng mất và đôi mắt cô nhòa lệ.

- Gã đã bắt con gái chị, có phải thế không? Con bé chính là nạn nhân số sáu.
 
Chương 34


Trong cơn mê của con bé, mẹ nó hiện diện ở đó.

Mẹ nói chuyện với nó kèm theo nụ cười “màu nhiệm” - nó dùng chữ đó, bởi nụ cười ấy rất đẹp, những khi mẹ không cáu, mẹ trở thành người dễ thương nhất trên đời, nhưng chuyện đó ngày càng trở nên hiếm.

Trong cơn mê của nó, mẹ kể về mình, và cả về bố nó nữa. Bây giờ bố mẹ nó lại hòa thuận và không cãi nhau nữa. Mẹ nó kể chuyện bố mẹ đang làm gì, về công việc và chuyện nhà cửa khi nó vắng mặt, mẹ thậm chí còn liệt kê các bộ phim bố mẹ đã xem. Nhưng không phải là những phim nó thích. Hai người sẽ chờ nó về để cùng xem những bộ phim đó. Nó thấy sung sướng khi nghe mẹ nói như vậy. Nó muốn hỏi khi nào nó có thể về được. Nhưng trong cơn mê của nó, mẹ nó không thể nào nghe thấy nó được. Tựa như nó đang nói với mẹ qua màn hình. Nó đã rất cố gắng, nhưng vô ích. Và nụ cười trên khuôn mặt mẹ nó chợt có chút gì đó tàn nhẫn.

Một cái vuốt ve nhẹ trên tóc khiến nó tỉnh dậy.

Bàn tay nhỏ nhắn vuốt từ đầu nó xuống đến cái gối, và một chất giọng êm dịu khe khẽ hát một bài.

- Là cậu!

Nó mừng đến nỗi quên mất mình đang ở đâu. Điều quan trọng lúc này là cô bé kia tồn tại thật sự.

- Tớ đợi cậu mãi. - Nó nói.

- Tớ biết, nhưng tớ không thể đến sớm hơn.

- Cậu không được phép à?

Bé gái nhìn nó với đôi mắt nghiêm nghị:

- Không, là do tớ bận.

Nó tự hỏi chuyện gì làm cô bé bận đến nỗi không thể đến thăm nó. Nhưng lúc này, chuyện đó không quan trọng. Nó có hàng đống câu hỏi để đặt ra với cô bé. Nó bắt đầu bằng câu hỏi bức thiết nhất:

- Bọn mình làm gì ở đây vậy?

Với nó rõ ràng là cô bé kia cũng đang bị cầm tù, mặc dù chỉ có nó bị trói vào giường, trong khi cô bé kia được tự do đi lại tùy ý trong bụng con quái vật.

- Đây là nhà tớ.

Câu trả lời khiến nó bối rối.

- Vậy còn tớ? Tại sao tớ lại ở đây?

Cô bé không nói gì, chỉ cắm cúi vuốt tóc nó. Nó hiểu cô bé đang lảng tránh câu hỏi, nên nó không nài ép, rồi sẽ đến lúc thôi.

- Cậu tên là gì?

Cô bé mỉm cười với nó.

- Gloria.

Nó quan sát cô bé kỹ hơn.

- Không...

- Không gì cơ?

- Tớ biết cậu... Không phải cậu tên là Gloria...

- Có chứ.

Nó gắng nhớ lại. Nó đã từng nhìn thấy cô bé, từng thấy rồi, nó chắc chắn như thế.

- Cậu ở trên hộp sữa.

Cô bé nhìn nó, không hiểu nó muốn nói gì.

- Đúng rồi, hình khuôn mặt cậu cũng có cả trên các tờ quảng cáo. Đầy thành phố ấy. Trong trường của tớ, ở siêu thị. Chuyện này... (Đã bao lâu rồi nhỉ? Hồi ấy nó mới lớp bốn). Cách nay đã ba năm rồi.

Cô bé vẫn không hiểu.

- Tớ ở đây chưa lâu. Cùng lắm mới có bốn tuần lễ.

- Tớ đã bảo là không phải mà! Ít nhất cũng ba năm rồi.

Cô bé không tin.

- Không phải như thế.

- Có, và bố mẹ cậu đã lên cầu cứu trên truyền hình.

- Bố mẹ tớ mất rồi

- Không, họ còn sống! Còn cậu, cậu tên là... Linda! Tên cậu là Linda Brown!

Cô bé cứng giọng:

- Tên tớ là Gloria! Bạn Linda mà cậu nói là một người khác. Cậu nhầm rồi.

Nghe thấy sự thay đổi trong giọng điệu, nó quyết định không cố ép nữa: nó không muốn cô bé bỏ đi và lại bỏ nó một mình.

- Thôi được rồi, Gloria, như cậu muốn. Chắc tớ đã nhầm. Tớ xin lỗi.

Cô bé gật đầu hài lòng. Rồi như thể chưa có gì xảy ra, cô bé lại vừa vuốt tóc nó vừa hát.

Thế là nó thử một chuyện khác.

- Gloria này, tớ thấy mệt lắm. Tớ không thể nào nhúc nhích cánh tay được. Tớ bị sốt. Tớ thường hay bị ngất đi...

- Rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi

- Tớ cần được khám bác sĩ.

- Các bác sĩ chỉ toàn là lang băm thôi.

Cái câu này nghe thật tức cười khi phát ra từ miệng cô bé. Như thể cô bé đã nghe nhiều lần đến nỗi trở thành quen miệng. Và giờ cô bé chỉ lặp lại.

- Tớ sẽ chết, tớ cảm thấy thế.

Hai giọt lệ to tướng trào ra từ mắt nó, Gloria lau chúng đi. Rồi cô bé nhìn các ngón tay mình, không để ý đến nó.

- Cậu có hiểu tớ nói gì không, hở Gloria? Tớ sẽ chết, nếu cậu không giúp tớ.

- Steve đã nói là cậu sẽ khỏi.

- Steve là ai?

Cô bé có vẻ lơ đãng, những vẫn đáp:

- Steve, đó là người đã mang cậu đến đây.

- Người đã bắt cóc tớ, ý cậu là như thế chứ gì!

Cô bé lại nhìn nó.

- Steve không bắt cóc cậu.

Mặc dù nó sợ làm cô bé giận lần nữa, nhưng nó vẫn không thể đồng ý về điểm này: sự sống còn của nó phụ thuộc vào điều đó.

- Có, và Steve cũng đã bắt cóc cậu. Tớ chắc chắn như vậy.

- Cậu nhầm rồi. Steve đã cứu bọn mình.

Nó không muốn, nhưng câu trả lời khiến nó phát cáu:

- Cậu nói cái quái gì vậy? Cứu bọn mình khỏi chuyện gì?

Gloria ngập ngừng. Nó trông thấy đôi mắt cô bé thất thần, nhường chỗ cho một nỗi sợ hãi kỳ lạ. Cô bé lùi lại một bước nhưng bị nó tóm lấy cổ tay giữ lại. Gloria muốn bỏ chạy và cố giằng tay ra, nhưng nó sẽ không để cô bé ra đi mà không trả lời.

- Khỏi ai?

- Frankie.

Gloria cắn môi. Lẽ ra cô bé không muốn nói. Nhưng đã lỡ nói mất rồi.

- Frankie là ai?

Cô bé đã giằng tay ra được, nó quá yếu nên không thể ngăn được chuyện đó.

- Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau chứ?

Gloria lảng đi.

- Không, chờ đã. Đừng đi!

- Bây giờ cậu cần phải nghỉ ngơi.

- Không, tớ xin cậu đấy! Cậu sẽ không quay lại.

- Có chứ. Tớ sẽ quay lại.

Cô bé bỏ đi. Nó òa khóc. Một nỗi tuyệt vọng cay đắng chẹn ngay cổ họng và lan dần xuống ngực nó. Nó nức nở, nghẹn ngào thốt vào thinh lặng:

- Tớ xin cậu đấy! Frankie là ai?

Nhưng không ai trả lời nó cả.
 
Chương 35


- Con bé tên là Sandra.

Terence Mosca viết cái tên lên đầu xấp giấy của mình. Rồi ông lại ngước mắt nhìn Sarah Rosa.

- Nó bị bắt cóc khi nào?

Sarah ngồi lại cho thoải mái trên ghế, trước khi trả lời, cố gắng sắp xếp lại cho mạch lạc các suy nghĩ trong đầu:

- Đã bốn mươi bảy ngày nay.

Mila có lý: Sandra đã bị bắt cóc trước năm nạn nhân còn lại. Sau đó Albert đã dùng cô bé để dụ Debby Gordon, chị em kết nghĩa của Sandra. Hai cô bé đã gặp gỡ ở ngoài công viên vào một buổi chiều, trong khi quan sát lũ ngựa. Hai đứa đã trao đổi vài câu và nhanh chóng kết thân. Debby buồn vì phải xa nhà, còn Sandra thì buồn vì bố mẹ ly thân. Do có cùng tâm trạng, hai đứa đã trở thành bạn bè.

Cả hai đều nhận được món quà là một phiếu cưỡi ngựa. Đó không phải là một sự tình cờ. Albert đã đạo diễn cuộc gặp gỡ đó.

- Sandra bị bắt cóc như thế nào?

- Lúc nó ở trường. - Rosa trả lời.

Mila và Goran thấy Mosca gật đầu. Tất cả mọi người đều có mặt - kể cả Boris và Stern - trong gian phòng lưu trữ nằm ở tầng một của tòa trụ sở cảnh sát liên bang. Ông đại úy đã chọn nơi khác thường này để tránh bị rò rỉ thông tin và để cho cuộc đối thoại không mang màu sắc thẩm vấn.

Vào thời điểm này, gian phòng vắng tanh. Họ đang ở nơi hội tụ của các dãy kệ chất đầy tài liệu. Nguồn sáng duy nhất là từ chiếc bàn mà tất cả mọi người đang ngồi quanh. m thanh và tiếng nói vang đi mất hút trong bóng tối.

- Cô có thể nói gì về Albert?

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy hay nghe thấy gã. Tôi không biết gã là ai.

- Dĩ nhiên rồi... - Terence Mosca bình luận, như thể đó là một tình tiết làm nặng thêm tội cho Sarah Rosa.

Chính thức ra thì Sarah Rosa vẫn chưa bị áp vào bất cứ biện pháp hạn chế quyền tự do nào. Nhưng cô ta sẽ sớm bị điều tra vì tội đồng lõa trong việc bắt cóc và giết hại trẻ vị thành niên.

Chính Mila là người đã phát hiện ra Sarah khi nghiên cứu lại vụ bắt cóc Sabine ở hội chợ. Sau cuộc trò chuyện với mẹ nạn nhân, cô tự nhủ có thể Albert đã sử dụng một phụ nữ để cho không ai phát hiện vụ bắt cóc. Nhưng không phải một kẻ bất kỳ, mà phải là người gã có thể đe dọa. Mẹ của nạn nhân số sáu chẳng hạn.

Mila đã có được sự khẳng định khi xem qua các tấm ảnh chụp trong buổi tối hôm đó. Ở phía xa trong một tấm ảnh được một ông bố chụp, cô đã để ý đến một mái tóc và một phần của khuôn mặt nhìn nghiêng, thứ đã khiến gáy cô nhột nhạt, và một cái tên đã bật lên không chút do dự: Sarah Rosa!

- Tại sao là Sabine? - Mosca hỏi.

- Tôi không biết. - Rosa đáp. - Gã đã đưa cho tôi một tấm ảnh của con bé và cho biết tôi sẽ tìm thấy nó ở đó, có thế thôi.

- Và không ai nhận thấy gì hết.

Ở Phòng suy tưởng, Sarah từng nói: “Trên thực tế mọi người chỉ biết đến con cái mình”. Mila vẫn còn nhớ câu đó như in. Sarah biết điều đó, bản thân cô ta đã trải qua chuyện đó. Mosca nói tiếp:

- Vậy là gã nắm được sự đi lại của các gia đình.

- Tôi nghĩ là vậy. Các chỉ dẫn của gã luôn rất chính xác.

- Gã chuyển các mệnh lệnh đến chỗ cô như thế nào?

- Luôn luôn qua thư điện tử.

- Cô chưa bao giờ tìm cách truy nguyên xuất xứ các bức thư đó à?

Câu hỏi của viên đại úy thực ra là thừa: Sarah Rosa là chuyên viên tin học. Nếu cô ta không làm được điều đó, có nghĩa là nó bất khả thi.

- Dù sao thì, tôi cũng lưu lại tất cả. Gã rất ranh ma, ông biết không? Và gã rất giỏi. - Rồi cô ta nói thêm như thể muốn thanh minh. - Ngoài ra, gã có con gái tôi trong tay.

Ánh mắt Rosa chiếu vào Mila. Cô từng chứng kiến sự thù địch ấy ngay ngày đầu tiên, bởi lẽ cô ta sợ cô phát hiện ra danh tính của nạn nhân số sáu, và như vậy sẽ khiến sinh mạng con bé lâm nguy.

- Gã là người đã ra lệnh cho cô lập tức loại bỏ Mila Vasquez à?

- Không, đó là ý của tôi. Ai biết được, Mila có thể gây cản trở.

Thêm một lần nữa, Sarah bộc lộ thái độ khinh miệt. Nhưng Mila tha thứ cho cô ta. Cô nghĩ đến Sandra, cô bé đã phải chịu các rối loạn ăn uống, theo lời kể của Goran, và giờ đây đang nằm trong tay của một gã tâm thần, với một cánh tay bị cắt đứt và chịu đau đớn khôn tả. Trong suốt những ngày qua, cô không thôi nghĩ tới danh tính của cô bé. Bây giờ rốt cuộc cô đã có một cái tên.

- Vậy nên cô đã bám theo cảnh sát Vasquez hai lần, để khiến cô ấy sợ và từ bỏ cuộc điều tra.

- Phải.

Mila còn nhớ là sau khi bị chiếc xe hơi bám theo, cô đã về studio, và không có ai ở đó. Boris đã nhắn tin báo với cô là mọi người đều ở chỗ Yvonne Gress. Cô đã đến đó, và thấy Sarah Rosa đang sửa soạn bên cạnh chiếc xe cắm trại của đơn vị lưu động. Cô đã không tự hỏi tại sao lúc đó Sarah không ở cùng với mọi người trong biệt thự. Cô đã không nghi ngờ gì sự chậm trễ của cô ta. Hoặc cũng có thể Sarah rất khôn lanh và tấn công cô ngay khiến cô không kịp suy nghĩ bằng việc gieo mối nghi ngờ về giáo sư Goran.

“Mà này, ông ấy đã cho cô vào tròng đấy... Vì tôi đã bỏ phiếu chống lại cô mà”.

Trên thực tế, cô ta đã không làm vậy, vì nếu thế cô ta sẽ bị chú ý.

Terence Mosca không vội vã. Ông ghi lại các câu trả lời của Sarah Rosa trên tập giấy ghi chú và ngẫm nghĩ trước khi bước sang câu hỏi kế tiếp:

- Cô còn làm chuyện gì khác cho gã không?

- Tôi đã lén vào phòng nội trú của Debby Gordon. Tôi đã lấy đi cuốn sổ nhật ký trong cái hộp thiếc, sau khi mở khéo ổ khóa. Sau đó tôi đã gỡ các tấm ảnh có dính đến con gái tôi trên tường xuống. Và tôi đã đặt thiết bị phát sóng định vị toàn cầu để dẫn mọi người đến chỗ của cái xác thứ hai, trong cô nhi viện...

- Cô có bao giờ nghĩ là sớm muộn gì cũng sẽ có người biết chuyện không? - Mosca hỏi.

- Tôi còn quyền lựa chọn sao?

- Chính cô là người đã đưa thi thể bé gái số năm đến studio.

- Phải.

- Cô đã dùng chìa khóa mở cửa studio, và làm giả các chỗ hư hại trên cửa.

- Để không ai nghi ngờ gì.

Mosca nhìn Sarah hồi lâu.

- Tại sao gã ra lệnh cho cô đem cái xác tới studio?

- Tôi không biết.

Đó là câu trả lời mà tất cả mọi người đã nghĩ đến.

Mosca hít một hơi thật sâu. Cử chỉ này cho thấy cuộc nói chuyện đã kết thúc. Sau đó viên đại úy quay sang phía Goran nói:

- Tôi nghĩ thế là đủ rồi. Trừ phi ông còn thắc mắc điều gì đó…

- Không. - Nhà tội phạm học đáp.

Mosca nói với Sarah Rosa:

- Cảnh sát Sarah Rosa, trong mười phút nữa tôi sẽ gọi điện cho văn phòng chánh biện lý, họ sẽ chính thức ra các cáo buộc chống lại cô. Như dự kiến, cuộc nói chuyện này chỉ chúng ta biết với nhau, nhưng tôi khuyên cô chỉ nên mở miệng khi có sự hiện diện của luật sư. Một câu hỏi sau cùng: ngoài cô ra, còn ai khác dính líu trong vụ này không?

- Nếu ông nghĩ đến chồng tôi, thì anh ta không hay biết gì. Chúng tôi đang chờ quyết định ly dị. Khi Sandra mất tích, tôi đã kiếm cớ đuổi anh ta ra khỏi nhà, để giữ anh ta tránh xa tất cả chuyện này. Thời gian vừa rồi chúng tôi thường xuyên cãi vã vì chồng tôi muốn gặp con gái và cứ nghĩ tôi cố tình ngăn cản chuyện đó.

Mila từng nhìn thấy hai người cãi cọ dưới đường, trước studio.

- Thôi được. - Mosca thốt lên trong khi đứng dậy, trước khi nói với Boris và Stern, tay chỉ vào Rosa. - Tôi sẽ lập tức gọi điện để có lệnh bắt chính thức.

Hai cảnh sát viên gật đầu. Viên đại úy cúi người nhặt chiếc túi da. Mila thấy ông ta nhét xấp giấy ghi chú cạnh một hồ sơ màu vàng, ngoài bìa có vài chữ cái đánh máy: “w” ... “on” và “p”.

Wilson Pickett, cô nghĩ bụng.

Terence Mosca chậm rãi bước ra cửa, theo sau là Goran. Mila ở lại với Boris và Stern cạnh Rosa. Hai người đàn ông không nói gì và tránh nhìn nữ đồng nghiệp, người đã không tin họ.

- Tôi xin lỗi. - Cô ta nói trong nước mắt. - Tòi không còn lựa chọn…

Boris không đáp. Anh khó lắm mới không nổi đóa lên. Còn Stern chỉ buông một câu gọn lỏn:

- Không sao đâu.

Nhưng nghe chừng anh có vẻ không mấy tin tưởng.

Sarah Rosa bèn nhìn hai anh chàng, khẩn khoản:

- Xin hãy tìm ra con gái tôi, tôi van các anh...

Nhiều người có suy nghĩ sai lầm rằng bọn sát nhân hàng loạt luôn có động cơ tình dục. Mila cũng đã từng nghĩ như vậy, trước khi đụng phải vụ Albert.

Trên thực tế, tùy theo mục đích cuối cùng, có nhiều loại sát nhân hàng loạt khác nhau.

Bọn “mộng tưởng” bị chi phối bởi một bản ngã thứ hai, chuyên đối đáp và ra những chỉ thị cho chúng, đôi khi dưới dạng ảo ảnh hoặc những “giọng nói” đơn thuần. Hành vi của chúng thường được xem như loạn thần.

Bọn “hành đạo” thì có một mục đích vô ý thức và bị chi phối bởi trách nhiệm mà chúng tự áp đặt cho mình. Đó là việc cải thiện thế giới chung quanh mình, và nhiệm vụ này luôn gắn với việc loại bỏ một số loại người: người đồng tính, mại dâm, những kẻ bội tín, các luật sự, nhân viên thuế vụ và vân vân.

Bọn “khát quyền” lại có một sự đánh giá thấp về bản thân. Sự thỏa mãn của chúng bắt nguồn từ việc kiểm soát sinh mạng và cái chết của các nạn nhân. Hành vi giết người đi kèm với việc xâm hại tình dục, nhưng hãm hiếp chỉ là một công cụ để làm nhục nạn nhân. Cuối cùng là bọn “tầm lạc”. Chúng giết người vì sự khoái trá khi làm chuyện đó. Nằm trong số này là những kẻ có động cơ tình dục.

Benjamin Gorka cùng lúc thuộc về cả bốn thể loại nói trên. Hắn bị những ảo giác thúc đẩy đến chỗ giết hại các gái điếm sau khi hành hung họ, bởi hắn không thể quan hệ tình dục, và hành vi đó gây cho hắn một khoái cảm đặc biệt.

Đã có ba mươi sáu nạn nhân được cho là bị hắn giết hại, mặc dù hắn chỉ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cái chết của tám trong số họ. Người ta e rằng hắn còn giết nhiều hơn thế nhưng đã phi tang rất khéo. Hắn đã ra tay trong hai mươi lăm năm trước khi bị bắt.

Khó khăn trong việc xác định vị trí của hắn chủ yếu là do sự đa dạng và khoảng cách giữa các nơi mà hắn gây án.

Gavila và nhóm điều tra đã xác định được hắn sau ba năm truy đuổi. Họ đã nhập dữ liệu của các vụ giết người vào một máy tính để lập nên một sơ đồ tuần hoàn. Khi chồng nó lên một bản đồ đường bộ, họ nhận ra các nét vẽ của nó trùng khớp với một chu trình phân phối hàng hóa.

Benjamin Gorka là tài xế xe tải.

Hắn đã bị tóm cổ vào đêm Noel tại một trạm dừng trên xa lộ. Nhưng do một sơ suất trong tố tụng, hắn đã được tuyên miễn trách nhiệm hình sự do bị tâm thần và chỉ phải vào nhà tù cho bệnh nhân tâm thần. Gã chưa bao giờ rời khỏi đó.

Khi bắt được gã, cả đất nước đã khám phá ra tên tuổi của một trong những tên tội phạm khát máu nhất trong lịch sử. Nhưng dù sao thì, với Goran và “người của ông”, hắn vẫn luôn là Wilson Pickett.

Khi hai viên cảnh sát đến để đưa Sarah Rosa đi, Mila đợi cho Boris và Stern đi khỏi để được ở một mình trong kho lưu trữ. Cô đã tra cứu các tài liệu và tìm thấy bản sao của hồ sơ.

Trong khi lật xem hồ sơ, cô không phát hiện ra nguyên nhân tại sao nhà tội phạm học lại đặt cho tên sát nhân cái tên của người ca sĩ nổi tiếng. Nhưng cô đã tìm thấy tấm ảnh của cô gái trẻ mà cô từng nhìn thấy trên tường vào ngày đầu tiên đặt chân tới studio.

Cô ta tên là Rebecca Springher, nạn nhân cuối cùng của Gorka.

Ngoài ra thì trong hồ sơ cũng không có gì nhiều. Mila tự hỏi tại sao vụ án này vẫn còn là một vết thương dai dẳng đối với các thành viên trong nhóm, và nhớ lại câu trả lời của Boris, khi cô hỏi anh.

“Vụ án đó diễn ra không suôn sẻ. Chúng tôi đã phạm sai lầm, người ta đã đe dọa sẽ giải tán đội điều tra và tống khứ giáo sư Gavila. Chính Roche là người đã bảo vệ chúng tôi và kiên quyết giữ chúng tôi ở lại làm việc”.

Một sai sót gì đó đã xảy ra. Nhưng hồ sơ cô có trong tay không đề cập đến bất cứ sai lầm nào, ngược lại vụ việc còn được mô tả như là một chiến dịch “mẫu mực” và “thành công tuyệt đối”. Chắc là không phải vậy một khi Terence Mosca có lý do để quan tâm tới nó.

Mila lấy ra biên bản lời làm chứng của Goran trong phiên tòa xét xử tên giết người. Nhà tội phạm học khi đó đã định nghĩa Gorka là “một kẻ tâm thần tuyệt đối, cũng hiếm gặp trong cuộc sống như một con cọp bạch tạng”.

Sau đó ông thêm vào: “Những kẻ này khó bị lật mặt. Nhìn bên ngoài, chúng có vẻ hoàn toàn bình thường. Nhưng khi cạo đi lớp vỏ bình thường đó, ‘cái tôi’ bên trong của chúng lộ ra, cái mà đa phần chúng gọi là ‘con quỷ’. Gorka đã tiếp tế cho nó bằng những mộng tưởng của hắn, nuôi dưỡng nó bằng những ham muốn của hắn. Đôi khi hắn đã phải thỏa hiệp với nó. Có lẽ thậm chí hắn đã đánh bại nó ở vào những thời điểm nhất định trong đời. Tuy nhiên cuối cùng hắn đã chịu thua. Hắn đã hiểu mình chỉ có một cách duy nhất để làm cho nó thôi đòi hỏi: phải thỏa mãn nó. Nếu không, nó sẽ gặm sạch hắn từ bên trong”.

Khi đọc những dòng này, Mila gần như nghe thấy giọng nói của Goran vang lên trong đầu.

“Cho đến một ngày, bỗng xuất hiện một khe nứt giữa hiện thực và mộng tưởng. Benjamin bắt đầu trù tính những việc hắn đã ấp ủ cho đến lúc đó. Bản năng sát thủ hiện diện trong mỗi chúng ta. Nhờ trời, tất cả mọi người đều có một chốt an toàn để kiểm soát và ức chế. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm vỡ”.

Mila ngẫm nghĩ một chút về điểm tới hạn này. Sau đó cô đọc tiếp, và dừng lại ở một đoạn khác.

“… nhưng rất nhanh chóng, hành vi phạm tội cần phải được lặp lại. Bởi hiệu quả bắt đầu giảm sút, kỷ niệm trong đầu là không đủ nữa, cảm giác không thỏa mãn và chán ngấy tăng gần. Những mộng tưởng là không đủ, cần phải lặp lại hành động. Nhu cầu cần phải được thỏa mãn. Đến vô cùng”.

Đến vô cùng!

Cô trông thấy Stern ở bên ngoài. Anh đang ngồi trên một bậc thang bằng thép của chiếc thang thoát hiểm. Anh đã châm một điếu thuốc và đang đưa lên môi. Điếu thuốc nằm cân bằng trên các ngón tay của anh.

- Đừng mách vợ tôi nhé. - Stern nói khi nhìn thấy Mila bước qua cửa chống cháy.

- Anh đừng lo. Tôi biết giữ miệng mà. - Mila vừa trấn an vừa bước đến ngồi xuống bên cạnh Stern.

- Thế nào, tôi giúp được gì cho cô đây?

- Sao anh biết tôi đang định hỏi anh?

Stern chỉ đáp bằng cách nhướng một bên lông mày.

- Albert sẽ không bao giờ để cho bị bắt, anh cũng biết thế mà. - Mila nói. - Tôi nghĩ gã đã vạch lộ trình sẵn cho cái chết của mình. Nó sẽ là một phần của kế hoạch.

- Gã đi chầu Diêm Vương thế nào tôi không quan tâm. Tôi biết nói như vậy thì không được phải đạo cho lắm, nhưng sự thật là thế.

Mila nhìn anh một cách nghiêm túc.

- Gã biết các anh, Stern ạ. Gã biết nhiều điều về nhóm điều tra, nếu không gã sẽ không bao giờ sai Sarah đưa thi thể số năm đến studio. Gã đã theo các vụ điều tra trước đây của nhóm anh. Gã biết các anh làm việc như thế nào, do đó gã luôn đi trước các anh. Tôi tin là gã đặc biệt hiểu rõ Gavila...

- Điều gì làm cô nghĩ như vậy?

- Tôi đã đọc một biên bản tố tụng của một vụ án cũ, và Albert đang hành động y như thể gã muốn bác bỏ lý thuyết của Goran. Gã là một kẻ giết người hàng loạt độc nhất vô nhị. Có vẻ gã không bị chứng tự đề cao bản thân quá mức, vì gã muốn lôi kéo sự chú ý vào những tên tội phạm khác, hơn là vào chính mình. Gã cũng không bị chi phối bởi bản năng quá mạnh, gã rất biết tự kiềm chế. Việc gã làm không vì khoái cảm, mà đúng hơn, gã thích thú với thử thách mà gã đã đặt ra cho chúng ta. Anh giải thích chuyện này như thế nào?

- Rất đơn giản: tôi không thể. Và tôi cũng không hứng thú.

- Sao lại như thế được? - Mila thốt lên.

- Tôi không nói là tôi không quan tâm, mà là tôi không hứng thú. Đó là hai điều khác biệt. Về phần mình, chúng tôi không bao giờ nhận lời “thách đấu” với gã. Chúng tôi lo sốt vó là bởi còn một bé gái cần được cứu sống. Nói gã không có tính tự cuồng là không đúng, vì gã muốn sự chú ý của chúng ta, chứ không phải của ai khác: chỉ của chúng ta, cô hiểu không? Đám nhà báo sẽ phát rồ lên nếu như được gã phất cờ, nhưng Albert không quan tâm. Ít nhất là cho tới lúc này.

- Bởi chúng ta chưa biết gã đang chuẩn bị gì cho hồi kết.

- Đúng vậy.

- Nhưng tôi tin là ở thời điểm này, Albert đang tìm cách thu hút sự chú ý vào các anh. Tôi muốn nói tới vụ Benjamin Gorka.

- Wilson Pickett.

- Tôi muốn anh kể với tôi...

- Cô cứ việc đọc hồ sơ.

- Boris bảo tôi là có chuyện gì đó không hay đã xảy ra...

Stern vứt điếu thuốc đang hút dở đi.

- Đôi khi Boris chẳng biết mình đang nói cái gì.

- Thôi nào Stern, kể cho tôi nghe đi! Tôi không phải là người duy nhất quan tâm tới vụ này mà...

Cô kể cho anh về tập hồ sơ nằm trong chiếc túi đeo chéo của Terence Mosca. Stern trở nên ngờ vực.

- Thôi được. Nhưng cô sẽ không thích chuyện này đâu. Tin tôi đi.

- Tôi sẵn sàng nghe mọi thứ.

- Khi bắt Gorka, chúng tôi đã rà soát lại cuộc đời hắn. Hắn sống hầu hết thời gian trên chiếc xe tải, nhưng, nhưng chúng tôi đã tìm thấy hóa đơn mua một số thức ăn đóng hộp. Chúng tôi đã cho rằng hắn nhận ra vòng vây đang siết lại và chuẩn bị trốn đến một nơi an toàn trong lúc chờ cho mọi chuyện lắng xuống...

- Nhưng không phải vậy...

- Khoảng một tháng sau ngày bắt giữ hắn, chúng tôi đã khám phá ra một đơn cầu cứu có liên quan đến sự mất tích của một gái điếm.

- Rebecca Springher.

- Chính xác. Vụ việc xảy ra vào thời điểm gần với dịp Giáng sinh...

- Tức là lúc Gorka bị bắt.

- Phải. Và nơi cô gái điếm hành nghề cũng nằm trên đường đi của chiếc xe tải.

Mila có thể tự hiểu ra ngay.

- Gorka bắt cóc cô ta, chỗ thức ăn là để dành cho cô ta.

- Chúng tôi không biết cô ta ở đầu, cũng như khoảng thời gian cầm cự của cô ta còn được bao lâu. Nên chúng tôi đã trực tiếp tra hỏi hắn.

- Và đương nhiên là hắn chối.

- Không hề. - Stern lắc đầu. - Hắn đã thú nhận tất cả. Nhưng để đổi những tiết lộ về nơi giam giữ, hắn đã đặt ra một điều kiện: hắn muốn sự có mặt của giáo sư Gavila lúc cung khai.

Mila ngơ ngác.

- Vậy thì rắc rối ở đâu?

- Rắc rối là Gavila không biết đang ở đâu lúc đó.

- Làm sao Gorka biết được sự việc?

- Thằng khốn nạn ấy đâu có biết! Chúng tôi đã đi tìm giáo sư, trong khi thời gian trôi qua dần với cô ả gái điếm kia. Boris đã bắt Gorka phải trải qua đủ các thể loại thẩm vấn.

- Anh ấy đã không thành công à?

- Không, nhưng khi nghe lại các băng ghi âm những lần thẩm vấn trước, Boris nhận ra Gorka từng nhắc tới một nhà kho cũ nơi có một cái giếng. Chính Boris là người đã một mình tìm ra Rebecca Springher.

- Và cô ta đã chết đói.

- Không. Cô ta đã tự cắt mạch máu mình bằng một cái mở hộp mà Gorka để lại cùng với chỗ đồ hộp. Nhưng tức nhất là một điều... Theo bác sĩ pháp y, cô ta đã tự sát chỉ hai giờ trước khi được Boris tìm thấy.

Mila rùng mình ớn lạnh. Nhưng cô vẫn hỏi tiếp:

- Vậy còn Gavila, trong thời gian đó ông ấy làm gì?

Stern mỉm cười để che giấu cảm xúc thực.

- Một tuần sau đó, chúng tôi đã tìm ra ông ấy trong nhà vệ sinh của một trạm dừng xa lộ. Các tài xế đã gọi xe cứu thương: ông ấy bị hôn mê do ngộ độc cồn. Goran đã phó mặc con trai mình cho bà vú em và bỏ đi lang thang để lãng quên sự ra đi của vợ. Khi chúng tôi đến thăm Goran tại bệnh viện, thật khó mà nhận ra ông ấy.

Câu chuyện này cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa cảnh sát chính quy và một người dân thường như Goran. Bởi theo lẽ thông thường thì chính các thảm kịch sẽ tạo ra mối liên hệ giữa các cá nhân với nhau, Mila nghĩ bụng. Và cô nhớ đến một câu nói của Goran khi cô đến nhà ông sau khi phát hiện ra trò lừa dối của thanh tra Roche trong vụ Joseph B. Rockford: “Có những người ta tưởng đã hiểu cặn kẽ, nhưng thật ra chẳng biết gì về bọn họ...”

Đúng vậy, cô nghĩ. Cho dù có cố đến đâu, Mila cũng không bao giờ có thể tưởng tượng nổi Goran trong tình trạng tồi tệ như thế lúc được tìm thấy. Say bét nhè và bất tỉnh. Suy nghĩ đó khiến cô bối rối. Cô bèn đổi chủ đề:

- Tại sao các anh gọi vụ này là Wilson Pickett?

- Một biệt danh hay, đúng không?

- Theo những gì tôi hiểu, Gavila vẫn thích đặt một tên cho đối tượng truy lùng, để khiến hắn trở nên thật hơn.

- Thường là vậy. - Stern nói. - Nhưng lần này là một ngoại lệ.

- Tại sao?

Stern quan sát cô.

- Chẳng bõ công nát óc tìm kiếm đâu, tôi bảo đảm đấy. Tôi có thể tiết lộ. Nhưng nếu cô thực sự muốn biết, cô phải tự đi tìm hiểu lấy thôi...

- Tôi sẵn sàng làm điều đó.

- Cô biết đấy, trong vụ Gorka, đã xảy ra một việc hiếm thấy... Cô có bao giờ gặp một nạn nhân sống sót dưới tay một tên sát nhân hàng loạt chưa?
 
Chương 36


Người ta không sống sót dưới tay một kẻ giết người hàng loạt.

Có khóc lóc van xin cũng chẳng ích gì. Ngược lại, làm như thế chỉ càng tăng thêm khoái cảm cho hắn. Khả năng duy nhất dành cho con mồi là trốn chạy. Nhưng nỗi sợ hãi, sự hoảng loạn và việc không nắm được những gì đang diễn ra khiến ưu thế nghiêng về kẻ thủ ác.

Tuy vậy, trong một số vụ hiếm hoi, tên sát nhân hàng loạt không đi được đến cùng. Đó là khi mà hắn chuẩn bị ra tay, bỗng một cử chỉ hoặc câu nói của nạn nhân, giống như chiếc phanh khiến hắn dừng ngay lại.

Đó chính là điều đã giúp Cinthia Pearl sống sót.

Mila đến gặp cô ta trong căn hộ thuê trọ ở gần sân bay. Nội thất khá giản dị, nhưng đó là thành công lớn nhất của một Cinthia mới. Cô Cinthia cũ đã trải qua nhiều kinh nghiệm tiêu cực, vô số lỗi lầm và lựa chọn tai hại.

- Tôi từng làm điếm để có tiền mua thuốc.

Cinthia nói chẳng chút ngập ngừng, như thể đang kể về một người khác. Mila không thể tin nổi người phụ nữ trẻ trước mặt mình đã phải trải qua một thời kỳ đáng sợ như vậy. Cinthia chỉ mới có hai mươi tư tuổi. Cô ta tiếp Mila trong bộ đồng phục nhân viên. Từ vài tháng nay, Cinthia làm thu ngân tại một siêu thị. Dáng điệu khiêm nhường, mái tóc hung buộc đuôi ngựa và khuôn mặt mộc không hề làm mất đi vẻ đẹp hoang dã, quyến rũ tự nhiên.

- Vợ chồng đặc vụ Stern đã kiếm giúp cho tôi căn hộ này. - Cinthia nói một cách hãnh diện.

Mila nhìn quanh để cho Cinthia vừa lòng. Chỗ đồ đạc cọc cạch dù nhằm để lấp đầy khoảng trống và phục vụ những nhu cầu thiết yếu hơn là để bày biện theo đúng nghĩa. Nhưng có thể thấy Cinthia quan tâm và chăm chút cho căn hộ của mình. Tất cả đều sạch sẽ và ngăn nắp.

Cô bày chỗ này chỗ nọ vài món đồ mỹ nghệ, đa phần là những con giống bằng sứ.

- Chúng là niềm đam mê của tôi. Tôi sưu tập chúng đấy, chị thấy không?

Ngoài ra cũng có các tấm ảnh của một đứa trẻ. Cinthia làm mẹ từ khi còn trẻ. Con trai cô đã bị sở bảo trợ xã hội mang đi cho một gia đình tiếp nhận.

Để giành lại con mình, Cinthia đã đi cai nghiện. Ngoài ra, cô còn thường xuyên đi nhà thờ, nơi Stern và vợ vẫn lui tới. Trải qua nhiều thăng trầm, cuối cùng cô đã tìm đến với Chúa. Và cô thấy tự hào về đức tin mới đây của mình, chiếc mặt dây chuyền hình thánh Sebastian đeo ở cổ Cinthia đã chứng tỏ điều đó. Nó là món trang sức duy nhất của Cinthia ngoài chiếc nhẫn hình chuỗi hạt cô đeo ở ngón áp út.

- Cô Pearl này, tôi không muốn ép cô phải kể lại những việc mà Benjamin Gorka đã gây ra...

- Không sao, bây giờ tôi nói ra những chuyện đó tương đối dễ dàng. Hồi đầu thì khó thật đấy, nhưng giờ thì ổn rồi. Thậm chí tôi đã gửi cho hắn ta một bức thư, cô có biết không?

Mila không thể biết Gorka có phản ứng như thế nào với lá thư, nhưng những tên như hắn thì cô tin chắc sẽ sử dụng nó để tạo cảm hứng cho những lần tự sướng ban đêm của mình.

- Hắn có hồi âm cho cô không?

- Không. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh là người đàn ông này rất cần được ân xá.

Vừa nói, Cinthia vừa kéo ống tay áo bên phải xuống. Mila nghĩ cô ta muốn che đi một hình xăm nào đó giờ đã thuộc về quá khứ. Có lẽ Cinthia chưa tiết kiệm đủ tiền để đi xóa nó.

- Sự việc đã diễn ra như thế nào?

Cinthia sầm mặt.

- Chúng tôi gặp nhau sau một chuỗi những sự trùng hợp. Lúc đó tôi không còn đứng đường nữa, tôi thích vào quán bar tìm khách hơn. Nó an toàn hơn, và ít nhất tôi cũng được sưởi ấm. Bọn gái chúng tôi luôn biết để lại ít tiền cà phê cà pháo cho tay phục vụ. Tôi sinh ra tại một thị trấn nhỏ, nơi sắc đẹp là một tai họa. Tôi đã sớm hiểu ra mình có thể sử dụng vốn tự có để ra đi, trong khi rất nhiều bạn bè tôi không bao giờ rời khỏi đó, tụi nó lấy nhau để rồi bất hạnh cả đời. Tụi nó nhìn tôi như thể tôi là một người đặc biệt và đặt tất cả kỳ vọng vào tôi. Tôi là niềm hy vọng của tụi nó.

Mila thấy thông cảm cho Cinthia, có lẽ cô đã đoán được diễn biến tiếp theo của cuộc đời cô gái điếm này. Cinthia ra đi sau khi tốt nghiệp trung học và đến một thành phố lớn, nhưng không tìm thấy điều mình mong đợi ở đó. Ngược lại, cô làm quen với cả đống cô gái có hoàn cảnh giống mình, với cùng vẻ ngơ ngác và nỗi lo lắng trong lòng. Nghề mại dâm không phải là một khúc ngoặt xui xẻo, mà là kết cuộc tất yếu cho con đường của cô.

Điều làm Mila thấy đáng tiếc nhất khi nghe những lời thổ lộ kiểu này, đó là chỉ mới hai mươi tư tuổi đầu mà một cô gái như Cinthia đã phí hoài toàn bộ tuổi thanh xuân của mình. Cô đã nhanh chóng trượt dốc và Benjamin Gorka chỉ đơn thuần đứng đợi cô ở cuối con dốc.

- Tối hôm đó, tôi câu được một gã. Hắn đeo nhẫn và có vẻ bình thường. Chúng tôi leo lên xe hơi của hắn, đi ra khỏi thành phố. Khi xong việc, hắn không chịu trả tiền, thậm chí còn đánh tôi nữa. Hắn bỏ tôi lại đó, ngay trên đường. Tôi không thể bắt được xe đi nhờ. Không ai cho một con điếm đi quá giang cả. Vậy là tôi đứng mời chào khách, với hy vọng tay khách hàng tiếp theo sẽ đưa tôi trở lại thành phố.

- Và Gorka xuất hiện...

- Tôi vẫn còn nhớ lúc chiếc xe tải to tướng của hắn dừng lại. Trước khi lên xe, chúng tôi đã thỏa thuận giá cả đôi chút. Hắn có vẻ tốt bụng. Hắn nói: “Cô làm gì ngoài này? Lên xe đi, trời lạnh đó”.

Cinthia cụp mắt xuống. Cô có vẻ khó chịu khi phải kể về công việc mình từng làm để nuôi thân. Nhưng cô cũng xấu hổ vì đã ngây thơ đến thế.

- Chúng tôi trèo ra sau, vào trong cabin nơi hắn ngủ. Đó là một ngôi nhà thật sự, cô biết không? Có đủ hết mọi thứ. Ngay cả mấy tấm áp phích bậy bạ... Cũng không có gì lạ, đám lái xe ai mà chẳng có. Nhưng trên những hình ảnh đó có một thứ gì đó rất kỳ lạ...

Mila nhớ lại một chi tiết đã đọc được trong hồ sơ: Gorka đã chụp ảnh các nạn nhân trong những tư thế tục tĩu rồi làm thành các tấm áp phích nhỏ.

Điểm đặc biệt của những hình ảnh đó là các nhân vật chính đều đã chết. Nhưng Cinthia đâu biết điều đó.

- Hắn cưỡi lên người tôi, và tôi để mặc cho hắn hành sự. Hắn hôi hám lắm. Tôi đã hy vọng hắn làm nhanh chóng. Hắn vùi mặt vào cổ tôi, nên tôi không cần phải diễn nhiều. Tôi chỉ việc rên la vài tiếng. Trong lúc đó, mắt tôi mở thao láo... (Cinthia ngừng một hồi để lấy lại hơi thở). Tôi không biết sau bao lâu thì đồng tử của tôi trở nên quen với bóng tối, nhưng vào lúc tôi nhìn ra hàng chữ đó trên trần cabin...

Nó được viết bằng sơn dạ quang. Mila đã trông thấy một tấm ảnh của nó.

Tao sẽ giết mày.

- Tôi bắt đầu hét lên... Còn hắn thì bắt đầu cười. Tôi cố đá chân để thoát ra, nhưng hắn khỏe hơn tôi. Hắn rút dao ra và đâm tôi. Tôi lấy tay đẩy được nhát dao đầu tiên, nhát thứ hai trúng vào hông tôi, nhát thứ ba xuyên vào bụng. Tôi cảm thấy máu trào ra và tự nhủ mình thế là xong đời.

- Nhưng hắn đã dừng lại... Vì sao?

- Bởi vì, đột nhiên tôi nói ra một điều... Nó cứ thế bật ra, có lẽ là do quá kinh hoàng, tôi chẳng biết nữa. Tôi đã nói: “Tôi xin anh, khi tôi chết, hãy chăm sóc con trai tôi. Nó tên là Rick. Nó lên năm...” (Cinthia cười cay đắng và lắc đầu). Chị có hiểu không? Tôi đã yêu cầu tên sát nhân đó chăm sóc con mình... Tôi không hiểu cái gì đã diễn ra trong đầu mình lúc đó nữa, tôi sẵn sàng đầu hàng, nhưng hắn phải đền bù theo một cách nào đó. Thật dở hơi: tôi đã nghĩ hắn nợ tôi!

- Có thể dở hơi thật, nhưng nó đã dập tắt cơn hung bạo của hắn.

- Tôi biết, nhưng dù sao thì tôi cũng không thể tha thứ cho mình điều đó. - Cinthia nuốt nước mắt.

- Wilson Pickett.

- Đúng rồi, tôi còn nhớ... Tôi sống dở chết dở trong cabin, còn hắn thì ngồi vào ghế lái. Hắn đem tôi đi bỏ lại một bãi đỗ xe. Nhưng tôi chưa biết ý định đó của hắn. Tôi tê bại và lả đi vì mất máu. Dọc đường đi, trên đài người ta phát cái bài hát đáng nguyền rủa ấy... In the Midnight Hour... Sau đó tôi ngất đi và tỉnh lại ở trong bệnh viện, không còn nhớ gì nữa. Cảnh sát đã hỏi tôi bị thương như thế nào, nhưng tôi không thể trả lời. Tôi ra viện và nương nhờ nhà một người bạn gái một thời gian. Một tối nọ, trên bản tin thời sự, tôi thấy người ta đưa tin về vụ bắt giữ Gorka. Nhưng ngay cả khi hình ảnh của hắn được đưa lên, tôi cũng không nhận ra... Cho đến một buổi chiều, khi tôi ở nhà một mình và nghe đài. Họ phát bài hát đó của Wilson Pickett. Tôi chợt nhớ ra.

Mila hiểu biệt danh này được nhóm điều tra đặt cho Gorka sau khi họ đã tóm được hắn. Nó đã được chọn để ghi nhớ những sai lầm của họ.

- Nó kinh khủng lắm. - Cinthia nói tiếp. - Giống như sống lại khoảnh khắc đó lần thứ hai vậy. Hơn nữa, tôi nghĩ tới chuyện đó, chị biết không? Nếu tôi nhớ ra sớm hơn, biết đâu tôi đã có thể cứu được những cô gái khác...

Câu nói cuối cùng này chẳng qua để cho có vẻ, Mila nhận thấy điều đó qua giọng điệu của Cinthia. Không phải số phận của các cô gái kia không có ý nghĩa gì đối với cô ta, nhưng cô ta đã đặt một màng lọc giữa mình và số phận của họ. Đó là một trong nhiều cách để tiếp tục sống sau khi phải đối mặt với một trải nghiệm như thế.

- Cách đây một tháng, tôi đã gặp cha mẹ của Rebecca Springher, nạn nhân cuối cùng của hắn. - Cinthia nói thêm, qua đó khẳng định suy nghĩ của Mila.

Cô ta không bị hắn giết, cô nghĩ bụng. Còn tệ hơn thế: hắn đã đẩy cô ta đến chỗ tự sát.

- Chúng tôi đã tham dự một buổi lễ cầu siêu cho các nạn nhân của Benjamin Gorka. Chị biết không, họ ở cùng trong một giáo đoàn với tôi. Họ đã quan sát tôi trong suốt buổi tưởng niệm, và tôi đã cảm thấy mình thật tội lỗi.

- Tại sao? - Mila hỏi, dù đã quá hiểu.

- Vì đã sống sót, tôi nghĩ thế.

Mila cám ơn cô gái và ra về. Lúc tiễn cô ra cửa, Cinthia im lặng một cách lạ lùng, như thể muốn hỏi cô điều gì đó nhưng không biết phải mở lời thế nào. Vậy nên Mila quyết định dành thêm ít phút cho cô ta và hỏi xem liệu mình có thể sử dụng nhà vệ sinh được không. Cinthia chỉ chỗ cho cô.

Phòng vệ sinh không được thông thoáng cho lắm. Trong buồng tắm có treo mấy đôi vớ. Màu hồng chiếm ưu thế, và mấy con giống bằng sứ cũng có cả ở trong này. Mila cúi xuống lavabo rửa mặt. Cô cảm thấy rất mệt mỏi và kiệt sức. Cô đã mua thuốc sát trùng và những thứ cần thiết để tự làm mình bị thương. Cô phải tưởng nhớ đến cái chết của bé gái số năm. Cô đã hoãn chuyện đó lại, nhưng tối nay cô sẽ thực hiện điều đó.

Cơn đau đó là cần thiết với cô.

Khi lau tay và mặt bằng một cái khăn bông, cô trông thấy một lọ thuốc trị bệnh tưa lưỡi trên chiếc kệ. Màu của chất lỏng khá sậm. Cô hít thử: nó có mùi rượu. Cinthia Pearl cũng có một bí mật của mình. Một thói quen xấu, còn sót lại của cuộc đời trước đây. Mila tưởng tượng ra cô ta khép mình trong buồng vệ sinh này, ngồi bệt xuống nắp bồn cầu và nhấp hai, ba ngụm rượu, mắt đờ đẫn nhìn xuống sàn gạch. Cô ta đã thay đổi rất nhiều theo chiều hướng tích cực, nhưng dù sao cũng vẫn còn giữ một góc khuất cho riêng mình.

Đã là con người thì ai cũng như thế, Mila nghĩ thầm. Nhưng bí mật của mình thì sâu xa hơn...

Khi rốt cuộc cô đã có thể ra về, trên ngưỡng cửa, Cinthia lấy hết can đảm hỏi cô liệu hai người có thể gặp lại nhau để cùng đi mua sắm hoặc đi xem phim hay không. Mila nhận ra Cinthia rất khao khát một người bạn, nên cô không nỡ lòng nào từ chối.

Để làm cho Cinthia vừa lòng, cô lưu số điện thoại của cô ta lại, dù biết họ sẽ không gặp lại nhau nữa.

Hai mươi phút sau, Mila về đến trụ sở cảnh sát liên bang. Cô nhìn thấy nhiều đặc vụ mặc thường phục giơ thẻ ở cửa vào, đồng thời các đội tuần tra cũng đi vào. Ai đó đã triệu tập họ.

Chắc hẳn có chuyện gì đó đã xảy ra.

Cô leo thang bộ để khỏi mất thời gian đứng vào hàng người đang chờ trước thang máy. Cô nhanh chóng lên tầng ba, nơi nhóm điều tra đã dời về sau khi cái xác được tìm thấy.

- Mosca đã triệu tập mọi người. - Cô nghe thấy một thanh tra nói vào điện thoại.

Cô tiến đến phòng họp. Đám đông chen chúc nhau qua cửa để giành chỗ ngồi. Ai đó lịch sự nhường cho cô qua trước. Mila tìm thấy một chỗ trống ở hàng ghế cuối cùng. Ngồi phía trước cô, hơi chếch ra rìa một chút là Boris và Stern. Stern nhận thấy cô vào và gật đầu chào. Mila cố ra dấu để kể lại cuộc gặp gỡ với Cinthia, nhưng anh ra hiệu để chuyện đó lại sau.

Tiếng rít của loa phóng thanh làm cho mọi người ngừng tán gẫu trong giây lát: một kỹ thuật viên đang cân chỉnh micro trên bục phát biểu và gõ gõ mấy cái để kiểm tra nó. Tấm bảng đèn và máy pha cà phê đã được cất đi để kê thêm ghế, nhưng vẫn không đủ, nên nhiều cảnh sát đành phải đứng dọc các vách tường.

Cuộc họp này có vẻ không bình thường, Mila tự nhủ chắc phải có chuyện gì nghiêm trọng lắm. Hơn nữa, cô không nhìn thấy cả Goran lẫn thanh tra Roche. Cô hình dung ra họ đang cùng với Mosca họp bàn trong một văn phòng nào đó để thống nhất về những gì sắp được công khai.

Sự chờ đợi thật không thể chịu đựng nổi. Nhưng cuối cùng cô cũng nhìn thấy ngài chánh thanh tra xuất hiện trên ngưỡng cửa. Ông ta đi vào nhưng không tiến đến bục phát biểu, mà chỉ ngồi xuống hàng ghế đầu, lấp vào chỗ ngồi được một cảnh sát viên mau mắn nhường lại. Gương mặt Roche kín như bưng. Ông ta có vẻ bình thản, chỉ bắt chéo chân và chờ đợi giống như những người khác.

Goran và Mosca cùng vào một lượt. Các đặc vụ đứng gần cửa dồn sát vào nhau trong khi hai người tiến đến bục phát biểu. Nhà tội phạm học đi đến tựa người vào chiếc bàn kê sát tường, trong khi ông đại úy gỡ micro ra khỏi giá đỡ và tuyên bố:

- Thưa quý vị, xin vui lòng chú ý... (Trật tự được vãn hồi). Được rồi... Là thế này... Chúng tôi đã cho triệu tập mọi người lại vì có một tin quan trọng cần thông báo. (Mosca dùng chữ “chúng tôi” dù ông ta đang giữ vai chính). Nó có liên quan đến cô bé được tìm thấy xác tại studio. Rất đáng tiếc, như đã lường trước, hiện trường hoàn toàn sạch sẽ. Nhưng chúng ta đã quen với sự cẩn thận của thủ phạm. Không có dấu vân tay nào, không có dịch cơ thể, cũng như các dấu vết bên ngoài...

Rõ ràng là Mosca không vội. Mila không phải là người duy nhất nhận thấy điều đó: xung quanh cô, mọi người tỏ ra sốt ruột. Người duy nhất tỏ ra bình thản là Goran. Hai tay khoanh lại, ông chỉ đưa mắt nhìn cử tọa. Từ lúc này, sự hiện diện của ông chỉ để làm nền. Mosca đã giành quyền làm chủ tình hình.

- Tuy vậy, chúng tôi có thể hiểu lý do vì sao tên sát nhân hàng loạt đã mang cái xác đến đó. Điều này có liên quan đến một vụ án mà tất cả chúng ta đều nhớ rõ: vụ Benjamin Gorka...

Tiếng xì xầm lan khắp gian phòng như một làn sóng. Mosca dang tay ra hiệu cho mọi người yên lặng để ông nói cho hết. Rồi ông đút một tay vào túi và đổi giọng:

- Có vẻ như cách đây vài tháng chúng ta đã nhầm lẫn. Một sai lầm trầm trọng đã xảy ra.

Mosca nói một cách chung chung, không chỉ ra cụ thể người phải chịu trách nhiệm, nhưng nhấn nhá khá mạnh câu nói của mình.

- Đáng mừng là chúng ta vẫn còn có khả năng sửa chữa nó...

Đúng lúc này, Mila nhận ra một sự việc khác lạ. Stern vẫn nhìn thẳng trước mặt, nhưng bàn tay anh đang chầm chậm lăn xuống hông, mở bao súng.

Lập tức cô đoán ra mọi chuyện và phát hoảng.

- Rebecca Springher, nạn nhân cuối cùng của Gorka, đã bị giết không phải bởi hắn ta... mà bởi một người trong số chúng ta.

Tiếng xì xầm biến thành sự náo loạn, và Mila nhìn thấy viên đại úy giơ tay chỉ một người trong đám đông cử tọa. Stern. Anh ta đứng dậy và rút súng. Giữa lúc bối rối, Mila suýt nữa thì làm theo, nhưng rồi Stern quay sang trái và chĩa súng vào Boris.

- Này, anh bị sao thế? - Boris ngạc nhiên hỏi.

- Tôi muốn cậu giơ hai tay lên, sao cho tôi nhìn thấy rõ. Và đừng buộc tôi phải nhắc lại.
 
Chương 37


- Anh nên nói cho chúng tôi biết thực sự mọi việc đã diễn ra như thế nào.

Họ đã cho mời ba chuyên viên thẩm vấn của quân đội thay phiên nhau quần đảo Boris. Anh đã biết mọi kỹ thuật moi thông tin, nhưng ý đồ của ba người khiến anh kiệt sức vì các câu hỏi không ngừng nghỉ. Việc thiếu ngủ có tác động lên Boris còn hơn cả bất cứ chiến thuật nào.

- Tôi đã nói là tôi không biết gì hết rồi mà.

Mila quan sát đồng nghiệp của mình qua tấm gương không tráng thủy. Chỉ có mình cô trong căn phòng nhỏ. Bên cạnh cô là chiếc camera kỹ thuật số đang gửi hình ảnh cuộc thẩm vấn vào một hệ thống khép kín, tránh không để cho các nhân vật chóp bu của ban điều tra - trong đó có Roche - được tham dự một cách trực tiếp vào vụ xử lý một trong những người giỏi nhất mà họ có. Họ có thể theo dõi vụ việc trong khi vẫn ngồi chễm chệ trong văn phòng của mình.

Riêng phần Mila, cô muốn có mặt tại chỗ. Bởi lẽ cô chưa thể tin nổi cáo buộc nặng nề nhằm vào Boris.

“Chính Boris là người đã một mình tìm ra Rebecca Springher”.

Stern đã kể với cô rằng, trong một phòng thẩm vấn tương tự như phòng cô đang nhìn thấy, Benjamin Gorka đã vô tình tiết lộ cho Boris những manh mối dẫn tới nhà kho cũ, nơi có một cái giếng.

Theo báo cáo chính thức thì Boris đã một mình đi tới địa điểm đó và tìm thấy nạn nhân đã chết.

“Cô ta đã tự cắt mạch máu mình bằng một cái mở hộp mà Gorka để lại cùng với chỗ đồ hộp. Nhưng tức nhất là một điều... Theo bác sĩ pháp y, cô ta đã tự sát chỉ hai giờ trước khi được Boris tìm thấy”. Stern đã kể như thế.

Hai giờ.

Nhưng Mila đã xem hồ sơ. Ngay từ hồi đó, khi phân tích chỗ thức ăn còn lại trong dạ dày cô gái điếm và sự dừng đột ngột của quá trình tiêu hóa sau khi tử vong, bác sĩ pháp y đã cho rằng, họ không thể xác định một cách chính xác thời điểm tử vong của nạn nhân. Và do vậy, cái chết có thể đã xảy ra muộn hơn hai tiếng đồng hồ.

Hôm nay, sự nghi ngờ đã được dỡ bỏ hoàn toàn. Người ta buộc tội Boris đã đến nơi lúc Rebecca Springher còn sống và anh đứng trước hai lựa chọn. Hoặc cứu cô gái điếm và trở thành anh hùng. Hoặc làm điều không tưởng mà mọi kẻ sát nhân đều mong muốn. Một tội ác hoàn hảo. Nó sẽ không bị trừng phạt, bởi anh không hề có động cơ.

Được một lần được cảm nhận quyền năng kiểm soát sự sống chết của một đồng loại. Đồng thời hoàn toàn chắc ăn là mình thoát tội, vì tội lỗi sẽ được đổ lên đầu kẻ khác. Suy nghĩ ấy đã cám dỗ Boris, theo những người buộc tội anh lập luận.

Khi làm chứng trong phiên tòa xét xử Benjamin Gorka, giáo sư Gavila đã khẳng định: “Bản năng sát thủ hiện diện trong mỗi chúng ta. Nhờ trời, tất cả mọi người đều có một chốt an toàn để kiểm soát và ức chế. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm vỡ”.

Boris đã đạt đến điểm này khi đối diện với cô gái tội nghiệp không thể tự vệ kia. Xét cho cùng, cô ta chỉ là một ả điếm. Nhưng Mila không thể tự thuyết phục mình tin vào điều đó.

Tuy nhiên, thứ mà lúc đầu chỉ là một hướng điều tra đã được khẳng định sau đó, bằng việc khám xét nhà Boris và tìm thấy một vật chứng.

Một món đồ kỷ niệm để anh chàng nhớ lại sự việc trên: chiếc quần lót của cô gái, bị lấy từ trong kho tang vật sau khi cuộc điều tra kết thúc.

- Anh không có đường thoát đâu, Boris. Chúng tôi sẽ ở lại đây cả đêm nếu cần. Và cả ngày mai, ngày kia nữa.

Tay điều tra viên phun cả nước bọt trong khi nói. Việc này cũng góp phần làm sa sút tinh thần của đối tượng bị thẩm vấn.

Cánh cửa phòng bên bật mở. Mila thấy Terence Mosca bước vào. Trên ve áo ông ta có một vệt mỡ, chắc là rơi rớt từ đồ ăn nhanh của bữa trưa.

- Mọi thứ thế nào rồi? - Viên đại úy hỏi, hai tay vẫn đút túi như thường lệ.

Mila trả lời, mắt không nhìn ông ta.

- Vẫn không có gì.

- Hắn sẽ đầu hàng thôi.

Ông ta có vẻ rất tự tin.

- Điều gì làm ông tin chắc như vậy?

- Sớm muộn gì tất cả bọn họ cũng làm cho hắn phải thú nhận thôi. Hắn thừa biết chuyện đó. Có lẽ cần thêm một ít thời gian, nhưng rốt cuộc hắn sẽ phải chọn cái ít đau đớn nhất.

- Tại sao ông bắt Boris trước sự chứng kiến của mọi người?

- Để không cho hắn khả năng hành động.

Mila sẽ không quên đôi mắt ngân ngấn nước của Stern khi anh bập còng vào tay người anh coi như con trai mình. Khi được biết kết quả vụ khám xét căn hộ của Boris, anh đã đề nghị tự mình bắt giữ Boris, và cương quyết không nghe khi Roche tìm cách thuyết phục anh đổi ý.

- Vậy nếu Boris vô can trong vụ này thì sao?

Mosca đứng vào giữa Mila và tấm gương, rút hai tay ra khỏi túi.

- Trong hai mươi lăm năm điều tra, tôi chưa từng bắt lầm một người nào.

Mila bật cười mỉa mai.

- Lạy trời, vậy ông là cảnh sát giỏi nhất thế giới rồi còn gì.

- Các chánh án luôn luôn chốt lại những vụ mà tôi điều tra bằng bản cáo trạng. Không phải vì tôi đã làm tốt công việc của mình. Cô có muốn biết lý do thật sự không?

- Có chứ.

- Thế giới này kinh tởm lắm, cảnh sát Vasquez ạ.

- Sự khẳng định của ông bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân à? Thực sự tôi rất muốn biết...

Mosca không nổi cáu, kiểu châm chọc này làm ông khoái trá.

- Điều đang diễn ra trong những ngày này, điều mà chúng ta đã được phép khám phá nhờ... Các cô gọi gã ta là gì nhỉ?

- Albert.

- Phải rồi. Thì, điều mà gã cuồng tín đó đã thực hiện một cách hoàn hảo, nó rất giống với một khúc khải huyền nho nhỏ... Cô biết khải huyền là gì chứ, cảnh sát Vasquez? Trong kinh thánh, đó là thời điểm tận thế, khi mà mọi tội lỗi của con người bị phơi bày để phán xét. Gã Albert dở hơi này đã cho chúng ta được chứng kiến một nỗi kinh hoàng đến mức cả thế giới, chứ không chỉ riêng đất nước này, lẽ ra đã phải dừng lại để suy nghĩ, chí ít là thế... Nhưng ngược lại, cô biết chuyện gì đang xảy ra không?

Mosca không nói tiếp, nên Mila hỏi:

- Chuyện gì kia chứ?

- Không có gì. Hoàn toàn không có gì. Những con người ngoài kia tiếp tục giết chóc, trộm cắp, đè đầu cưỡi cổ đồng loại như thể không có gì xảy ra! Cô nghĩ bọn giết người sẽ dừng tay, lũ trộm cắp sẽ tự vấn lương tâm à? Để tôi cho cô một ví dụ cụ thể nhé: sáng nay, hai quản giáo đã gõ cửa nhà một phạm nhân mới được ân xá cách đây chưa lâu nhờ có thái độ cải tạo tốt. Họ đến vì đối tượng quên không ra trình diện tại đồn cảnh sát địa phương theo như hạn định. Và cô biết kẻ đó đã làm gì không? Hắn bắt đầu xả súng. Thế đấy, chẳng có cơn cớ gì. Hắn làm một trong hai quản giáo bị thương nặng và hiện đang cố thủ tại nhà, vãi đạn vào bất cứ người nào đến gần. Theo cô thì tại sao nào?

- Tôi không biết. - Mila thừa nhận.

- Tôi cũng không. Nhưng một người đồng nghiệp của chúng ta đang vật lộn giữa sự sống và cái chết tại bệnh viện; còn tôi, trước sáng ngày mai, tôi phải nặn ra một lời giải thích cho người góa phụ sẽ cật vấn tôi tại sao chồng mình phải chết một cách xuẩn ngốc đến thế! Thế giới này kinh tởm lắm, cảnh sát Vasquez ạ. Và Klaus Boris là kẻ có tội. Chấm hết. Nếu tôi là cô, tôi sẽ chấp nhận chuyện đó.

Terence Mosca quay lưng, đút hai tay vào túi rồi bước ra khỏi phòng, sập cửa lại sau lưng.

- Tôi không biết, chuyện này thật vớ vẩn. - Boris lên tiếng.

Nhưng Boris có vẻ bình thản và biết tiết kiệm sức lực cho những giờ phút khó khăn trước mặt sau cơn giận dữ ban đầu. Mila đã quá mệt khi chứng kiến cảnh tượng này. Cô mệt mỏi vì liên tục phải thay đổi quan điểm của mình về những người khác. Chính Boris là người đã cưa cẩm cô lúc cô vừa mới đến. Người đã mang bánh sừng bò và cà phê nóng cho cô, và tặng cô chiếc áo khoác khi cô bị lạnh. Ở bên kia tấm kính, vẫn là người đồng nghiệp đã cùng với cô giải quyết phần lớn những bí mật của Albert. Anh chàng cao to hoạt bát rất dễ thương và hơi phiền phức, người rất dễ mủi lòng khi nói về người khác.

Nhóm điều tra của Goran đã hoàn toàn tan vỡ, kéo theo cuộc điều tra và hy vọng cứu sống cô bé Sandra hiện đang kiệt dần sức lực ở một nơi nào đó. Rốt cuộc em sẽ chết không phải vì một tên sát nhân hàng loạt ẩn danh, mà bởi sự vị kỷ và tội lỗi của những người khác.

Đó là cái kết hoàn hảo nhất mà Albert có thể nghĩ ra.

Trong lúc suy nghĩ, Mila nhìn thấy khuôn mặt của Goran xuất hiện trên tấm kính. Ông đang đứng ngay sau cô. Nhưng ông không nhìn sang phòng thẩm vấn. Ông tìm ánh mắt cô trong hình ảnh phản chiếu. Mila quay lại. Họ yên lặng nhìn nhau hồi lâu. Họ gặp nhau ở cùng trạng thái buồn bã và đau đớn. Bất giác cô ngả người về phía ông, nhắm mắt lại và tìm đến đôi môi ông. Cô ấp môi mình vào đó, và cảm thấy ông đáp lại.

Cơn mưa tồi tệ đổ xuống thành phố. Nó làm ngập các con đường, nghẹt các miệng cống, các máng xối hết hút vào lại khạc nước ra không ngừng. Chiếc taxi đưa họ đến một khách sạn gần nhà ga. Mặt tiền của khách sạn đen nhẻm vì khói bụi. Các lá sách cửa sổ luôn đóng im ỉm, bởi những người dừng chân ở đây không có thời gian để mở chúng.

Người ta đến rồi lại đi. Những chiếc giường được dọn lại cả ngày lẫn đêm. Trong hành lang, các bà dọn phòng mệt mỏi đẩy mấy chiếc xe cọt kẹt chất đầy khăn và xà bông. Bữa ăn nhẹ được phục vụ mọi lúc. Một số khách hàng tạt vào đây để nghỉ ngơi và thay quần áo. Số khác thì đến để làm tình.

Người trực ban đưa cho họ chìa khóa phòng số 23.

Họ vào thang máy, không nói một lời, tay trong tay. Nhưng không phải như một đôi tình nhân, mà giống như hai con người sợ để mất nhau.

Phòng khách sạn toàn những món đồ nội thất lẻ bộ, sực nức mùi thuốc xịt phòng pha lẫn mùi thuốc lá. Họ ôm hôn nhau lần nữa, lần này mạnh bạo hơn, như thể muốn gạt bỏ mọi suy nghĩ trước khi cởi bỏ quần áo.

Ông đặt tay lên một bên ngực cô. Cô nhắm mắt.

Ánh sáng nhập nhoạng qua màn mưa từ tấm bảng hiệu của một nhà hàng Trung Hoa lọt vào phòng, khắc họa bóng hình của hai người trong tối.

Goran cởi đồ cho cô.

Mila để yên cho ông làm điều đó, cô chờ đợi phản ứng của ông.

Ông khám phá chiếc bụng phẳng của cô trước tiên, sau đó hôn dần lên ngực cô.

Vết sẹo đầu tiên xuất hiện ở hông cô.

Ông tuột chiếc áo thun chui đầu của cô một cách khéo léo.

Rồi ông nhìn thấy những vết sẹo khác.

Nhưng mắt ông không dừng lại ở đó, mà để cho đôi môi làm nhiệm vụ.

Trước sự ngạc nhiên của Mila, ông lần lượt đặt những nụ hôn dài lên từng vết sẹo. Tựa hồ như ông muốn chữa lành cho chúng theo một cách nào đó.

Khi cởi chiếc quần jean của cô, ông lặp lại những cử chỉ yêu thương đó trên đôi chân cô. Nơi vết thương vẫn còn tươi máu hoặc chỉ vừa mới đông. Nơi lưỡi dao cạo vừa cứa vào da thịt của cô gần đây.

Mila lại cảm thấy nỗi đau đớn mỗi khi cô khắc ghi hình phạt kia vào tâm hồn thông qua thể xác. Nhưng trên cả cơn đau cũ là một điều gì đó rất đỗi dịu dàng.

Giống như cảm giác hơi ngứa ngáy khi vết thương lên da non, vừa châm chích lại vừa dễ chịu.

Đến lượt cô cởi quần áo cho ông. Cô làm điều đó giống như người ta gỡ từng cánh mỏng của một bông hoa. Ông cũng có những dấu ấn đau khổ của riêng mình. Hai bên sườn quá gầy do nỗi tuyệt vọng chầm chậm hằn dấu. Và những chiếc xương nhô ra ở nơi các bắp thịt đã bị nỗi buồn gặm mất.

Họ làm tình với một sự mãnh liệt khác thường. Cuồng dại, nóng bỏng, nhưng cũng rất gấp gáp. Như thể qua đó người này muốn hòa nhập vào thân thể người kia. Và sẵn sàng quên ngay lập tức.

Khi mọi thứ đã trôi qua, họ nằm cạnh nhau - tuy đã rời nhau ra nhưng vẫn còn nhập làm một - và lắng nghe nhịp thở của mỗi người. Rồi thắc mắc đến trong im lặng. Mila có thể cảm thấy nó lởn vởn bên trên hai người như một con chim màu đen.

Nó gắn với cội nguồn đau khổ của họ, của cô và của ông.

Điều mà cô đã khắc sâu trên da thịt để rồi phải cố dùng trang phục để che đi.

Tất nhiên, câu hỏi đó liên quan mật thiết với số mệnh của một bé gái. Sandra. Trong khi họ cùng chia sẻ cảm xúc này, thì ở một nơi nào đó, rất rất xa, cô bé ấy đang chết dần chết mòn.

Mila đáp trước khi Goran đặt câu hỏi:

- Công việc của em là tìm người mất tích. Đặc biệt là trẻ con. Một số mất tích hàng mấy năm trời và không còn nhớ gì được nữa. Em không rõ liệu như thế là tốt hay là xấu. Nhưng rõ ràng khía cạnh này của công việc làm em gặp rắc rối nhiều nhất...

- Tại sao vậy?

- Bởi vì khi em lặn sâu xuống vực tối để lôi một ai đó lên, em luôn cần phải có một lý do, một lý do thật mạnh để đưa em trở lại với ánh sáng. Nó giống như là một sợi dây an toàn để kéo em lên vậy. Nếu có một điều em học được, thì đó là bóng tối luôn mời gọi chúng ta, quyến rũ chúng ta bằng sự hun hút chóng mặt của nó. Rất khó để cưỡng lại nó... Khi em thoát ra khỏi bóng tối cùng với những người mà em cứu được, em nhận thấy bọn em không ra khỏi đó một mình. Luôn luôn có một thứ gì đó từ cái lỗ đen ấy bám theo bọn em, bám riết không rời. Khó mà rũ bỏ nó được.

Goran nhìn vào mắt cô.

- Sao em lại nói đến chuyện này?

- Vì em từ bóng tối chui ra. Và thỉnh thoảng, em phải quay lại với bóng tối.
 
Chương 38


Con bé tựa người vào tường, tay để sau lưng, trong bóng tối. Cô bé kia đã quan sát nó được bao lâu rồi?

Nó quyết định gọi tên cô bé.

- Gloria ơi...

Cô bé tiến lại gần.

Cô bé luôn có cái vẻ tò mò ấy, nhưng lần này thì hơi khác. Một chút hoài nghi.

- Tớ đã nhớ ra một điều... Trước đây tớ từng có một con mèo. - Cô bé nói.

- Tớ cũng thế. Con mèo của tớ tên là Houdini.

- Nó có xinh không?

- Nó xấu tính lắm. - Nhận ra đó không phải là câu trả lời cô bé kia đang chờ đợi, nên nó vội sửa lại. - À, nhưng nó cũng khá xinh. Nó có bộ lông màu đen và nâu, ban ngày nó ngủ suốt, và lúc nào nó cũng đói.

Gloria ngẫm nghĩ một lúc, rồi hỏi:

- Thế theo cậu, sao tớ lại quên mất con mèo của mình được nhỉ?

- Tớ không biết.

- Tớ nghĩ... nếu tớ quên mất nó, tức là tớ cũng không nhớ những chuyện khác. Có khi ngay cả tên thật của tớ cũng nên.

- Tớ thích cái tên Gloria. - Nó động viên, trong bụng thầm nghĩ đến phản ứng của cô bé khi nó nói tên thật của cô bé là Linda Brown.

- Gloria này...

- Ừ?

- Cậu có muốn nói về Steve cho tớ nghe không?

- Steve quý tụi mình lắm. Rồi cậu cũng sẽ thích Steve cho mà xem.

- Tại sao cậu lại bảo là Steve đã cứu tụi mình?

- Vì sự thật là như thế mà. Steve đã cứu tụi mình.

- Nhưng tớ đâu có cần được Steve cứu?

- Cậu không biết đấy thôi, cậu đang gặp nguy hiểm.

- Frankie là mối nguy hiểm à?

Gloria sợ cái tên đó. Cô bé do dự, không biết liệu có nên nói ra hay không. Cô bé cân nhắc tình hình, rồi tiến lại gần giường con bé và thì thào thật khẽ.

- Frankie muốn làm hại hai đứa mình. Hắn truy lùng tụi mình. Chính vì thế mà mình phải trốn ở đây.

- Tớ chẳng biết ai là Frankie, cũng không hiểu hắn thù ghét tớ vì chuyện gì.

- Hắn không thù hằn gì với tụi mình, mà với bố mẹ tụi mình kia.

- Bố mẹ tớ á? Sao lại thế?

Con bé không tin, chuyện này nghe thật vớ vẩn. Nhưng Gloria thì lại có vẻ rất chắc chắn.

- Bố mẹ cậu và tớ đã lừa hắn, chuyện này có liên quan đến tiền nong.

Lại một lần nữa, câu nói của cô bé nghe như đã được ai đó nói ra và cô bé chỉ học thuộc lòng một cách thụ động.

- Bố mẹ tớ không thiếu nợ ai cả.

- Bố mẹ tớ chết rồi. Frankie đã giết hai người họ. Giờ hắn đi tìm tớ để thanh toán nốt. Nhưng Steve tin rằng hắn sẽ không bao giờ tìm được tớ nếu tớ trốn trong này.

- Gloria, cậu nghe này...

Thỉnh thoảng Gloria lại có vẻ lơ đãng và cần phải được lôi ra khỏi dòng suy nghĩ.

- Gloria, tớ bảo...

- Ừ, chuyện gì thế?

- Bố mẹ cậu vẫn còn sống. Tớ còn nhớ đã nhìn thấy họ trên truyền hình cách đây không lâu. Họ tham dự một chương trình đối thoại, và họ đã kể về cậu. Họ chúc cậu sinh nhật vui vẻ.

Cô bé có vẻ không xúc động mấy trước tiết lộ của nó. Nhưng cô bé cũng bắt đầu tự hỏi liệu tất cả những chuyện này có phải là sự thật hay không.

- Tớ không xem ti vi được. Chỉ xem toàn băng của Steve thôi.

- Steve. Chính Steve mới là kẻ xấu, Gloria ơi, Frankie không tồn tại đâu. Đó chỉ là một nhân vật được dựng lên để giữ cậu ở lại đây mà thôi.

- Hắn có thật.

- Cậu nghĩ cho kỹ vào. Cậu đã nhìn thấy hắn chưa?

- Chưa. - Cô bé công nhận.

- Vậy làm thế nào cậu tin là hắn có thật?

Gloria cũng tầm tuổi nó, nhưng có vẻ trẻ con hơn cái tuổi mười hai rất nhiều. Như thể bộ não của cô bé đã ngừng phát triển từ năm lên chín, tức là trùng với thời điểm Steve bắt cóc Linda Brown. Chính vì thế mà cô bé luôn cần nhiều thời gian hơn đôi chút để ngẫm nghĩ.

- Steve rất yêu tớ. - Cô bé lặp lại, nhưng có vẻ để tự thuyết phục thì đúng hơn.

- Không phải vậy. Hắn không yêu quý gì cậu đâu.

- Vậy cậu đang định nói là nếu tớ tìm cách ra khỏi đây thì Frankie sẽ không giết tớ à?

- Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Hơn nữa, chúng ta sẽ đi cùng nhau. Cậu sẽ không đơn độc.

- Cậu sẽ đi cùng tớ à?

- Phải. Nhưng tụi mình phải tìm ra cách thoát khỏi Steve.

- Nhưng cậu đang ốm.

- Tớ biết. Và tớ không thể cử động cánh tay được.

- Tay cậu bị gãy.

- Chuyện xảy ra thế nào? Tớ không nhớ được...

- Cậu ngã ở cầu thang lúc Steve đưa cậu vào đây. Steve giận lắm: Steve không muốn cậu chết. Nếu cậu chết, Steve sẽ không thể dạy cho cậu cách yêu thương ông ấy. Chuyện đó quan trọng lắm, cậu biết không?

- Tớ sẽ không bao giờ yêu thương hắn.

Gloria ngẫm nghĩ một lúc.

- Tớ thích cái tên Linda.

- Tớ thấy mừng là cậu thích nó, vì đó là tên thật của cậu.

- Vậy thì cậu có thể gọi tớ bằng cái tên đó...

- Tớ đồng ý, Linda... - Con bé phát âm thật rành rọt, làm cô bé mỉm cười. - Giờ chúng ta là bạn.

- Thật chứ?

- Khi gọi nhau bằng tên, người ta trở thành bạn bè, không ai bảo với cậu chuyện đó à?

- Tớ biết tên cậu rồi... Cậu tên là Maria Eléna.

- Ừ, nhưng bạn bè gọi tớ là Mila.
 
Chương 39


- Thằng khốn nạn ấy tên là Steve, Steve Smitty.

Mila phát âm cái tên đó với thái độ ghê tởm. Goran nắm lấy tay cô trên chiếc giường mét rưỡi trong khách sạn.

- Hắn chỉ là một thằng du côn vô tích sự. Hắn nhảy hết việc này sang việc khác, luôn luôn bị sa thải trong vòng một tháng. Phần lớn thời gian hắn thất nghiệp. Khi bố mẹ qua đời, hắn được thừa kế một căn nhà - nơi hắn nhốt hai đứa bọn em - và tiền bảo hiểm nhân thọ. Không nhiều, nhưng cũng đủ để thực hiện “kế hoạch lớn” của hắn.

Mila nhấn mạnh ba chữ “kế hoạch lớn”. Rồi cô lắc đầu quầy quậy khi nhớ đến sự phi lý của câu chuyện.

- Steve thích phụ nữ, nhưng không dám tiếp cận họ vì cái của nợ của hắn chỉ to bằng ngón tay út và hắn sợ bị họ chế giễu. - Nụ cười mỉa mai và hả hê hiện rõ trên khuôn mặt Mila trong một thoáng. - Thế nên hắn chuyển sang quan tâm các cô bé gái, tin rằng mình sẽ thành công hơn.

- Anh còn nhớ vụ Linda Brown. - Goran nói. - Lúc đó anh vừa kiếm được việc làm đầu tiên tại trường đại học. Anh đã nghĩ cảnh sát phạm sai lầm trong vụ đó.

- Sai lầm á? Phải, bọn họ sai lè lè ra ấy chứ! Steve chỉ là một gã ăn may non kinh nghiệm, hắn để lại cả đống dấu vết và nhân chứng! Nhưng cảnh sát đã không thể tìm ra hắn ngay và biện bạch rằng hắn rất ranh ma. Nhưng đó chỉ là một thằng ngu! Một thằng ngu gặp may...

- Thằng ngu đó đã thuyết phục Linda thành công...

- Hắn bỏ bùa Linda bằng cách lợi dụng nỗi sợ hãi của cô ấy. Hắn dựng lên gã Frankie xấu xa và cho đóng vai ác để mình trở thành người tốt bụng, một “vị cứu tinh”. Hắn thậm chí còn chẳng có óc sáng tạo: hắn lấy cái tên Frankie, bởi vì đó là tên của con rùa hắn nuôi hồi bé!

- Và hắn đã thành công.

Mila trấn tĩnh lại.

- Với một cô bé hốt hoảng và sốc nặng thì trong hoàn cảnh như thế rất dễ bị mất đầu óc thực tế. Em bị nhốt trong một căn hầm kinh tởm, mà vẫn cứ gọi nó là “cái bụng của con quái vật”. Bên trên chỗ đó là một căn nhà, nằm trong một vùng ven đô với nhiều nhà cửa xung quanh, tất cả đều từa tựa và bình thường như nhau. Người ta đi qua trước nhà mà không hề biết em đang bị nhốt bên dưới. Tệ nhất là Linda, hay còn được hắn gọi bằng cái tên Gloria, tên của cô gái đầu tiên từ chối hắn, có thể đi lại tự do nhưng thậm chí không nghĩ tới việc ra khỏi nhà, dù cửa ra vào gần như lúc nào cũng mở! Hắn không khóa trái cửa ngay cả khi hắn đi vắng. Hắn rất chắc ăn với câu chuyện về Frankie!

- Em rất may khi thoát được ra khỏi chỗ đó.

- Tay em đã bị hoại tử. Trong một thời gian dài, các bác sĩ đã tuyệt vọng cứu chữa nó. Hơn nữa, em bị suy dinh dưỡng nặng. Gã điên đó chỉ cho em ăn thức ăn đóng hộp của trẻ con và uống những thứ thuốc quá hạn mà hắn nhặt được trong thùng rác của một hiệu thuốc. Hắn chẳng cần phải chuốc thuốc cho em: máu em bị nhiễm độc nặng bởi những thứ rác rưởi đó đến nỗi việc em còn tỉnh táo được là một điều thần kỳ.

Ngoài trời mưa như trút nước, cuốn trôi đi những cụm tuyết còn đóng lại. Màn mưa đột ngột quất túi bụi vào những cánh cửa chớp.

- Một lần nọ, em thoát ra khỏi cơn mê sảng vì nghe thấy ai đó gọi tên mình. Em đã cố gây sự chú ý, nhưng lúc đó Linda đã xuống thuyết phục em ngừng lại. Thế là em đã đánh đổi cơ hội thoát nạn bằng hạnh phúc nhỏ nhoi là không bị cô độc. Nhưng hóa ra em không nhầm: ở trên đầu em lúc đó có hai cảnh sát đang rà soát khu vực. Họ vẫn còn tìm kiếm em! Nếu em hét to hơn, có lẽ họ đã nghe thấy. Giữa họ và em chỉ có một lớp ván sàn mỏng. Đi cùng họ còn có một phụ nữ, chính bà là người đã gọi tên em. Nhưng bà không gọi thành tiếng, mà chỉ gọi thầm trong đầu.

- Là bà Nicla Papakidis phải không? Vậy ra em đã quen bà ấy như thế...

- Vâng. Nhưng dù em không đáp lại, bà ấy vẫn nghe được điều gì đó. Thế là trong những ngày tiếp theo bà đã quay lại, đảo quanh nhà với hy vọng cảm nhận được chút gì đó...

- Vậy không phải Linda là người cứu em sao?

- Linda á? - Mila thở dài. - Linda kể lại tất cả mọi chuyện với Steve, và vô tình trở thành đồng lõa của hắn. Trong suốt ba năm trời, hắn là cả thế giới đối với Linda. Trong nhận thức của Linda, Steve là người lớn duy nhất trên mặt đất. Và trẻ con thì luôn đặt niềm tin vào người lớn. Nhưng khác với Linda, Steve đã nghĩ đến việc thanh toán em: hắn tin là em sắp chết đến nơi, nên hắn đã đào sẵn một cái hố trong căn chòi cất dụng cụ ở sau nhà.

Những bức ảnh chụp cái hố đã khiến Mila chấn động hơn hết thảy những thứ còn lại.

- Khi ra khỏi căn nhà đó em ở trong tình trạng mười phần chết chín. Em không nhận ra các y tá đang khiêng mình trên một chiếc cáng và đi ngược lên những bậc thang mà Steve đã đẩy em ngã xuống. Em không thấy hàng chục cảnh sát tập hợp lại quanh nhà. Em không nghe thấy những tràng pháo tay của đám đông kéo đến chúc mừng cho tự do của em. Nhưng giọng nói của bà Nicla đã đi theo em, trong đầu em giọng nói ấy đã tả lại mọi thứ và luôn bảo em đừng đi về hướng có ánh sáng...

- Ánh sáng nào? - Goran tò mò hỏi.

- Bà ấy tin rằng có một nguồn sáng đâu đó. - Mila mỉm cười đáp. - Có lẽ đó là do đức tin của bà. Em nghĩ bà đã đọc được ở đâu đó rằng, khi con người ta chết, linh hồn sẽ thoát ra khỏi thân xác, và sau khi đi qua một đường hầm, họ sẽ nhìn thấy ánh sáng diệu kỳ đó... Em chưa bao giờ nói với bà là em không hề nhìn thấy nó. Chỉ toàn một màu đen. Em không muốn làm bà thất vọng.

Goran nghiêng người qua hôn vào vai Mila.

- Chuyện này chắc kinh khủng lắm.

- Em đã gặp may. - Mila nói, trong đầu chợt nghĩ đến Sandra, cô bé số sáu. - Lẽ ra em phải cứu thoát cô bé. Nhưng em đã không làm. Cô bé còn bao nhiêu cơ may sống sót đây?

- Đó không phải là lỗi của em.

Có chứ. Đây là lỗi của mình.

Mila nhỏm người ngồi dậy ở cạnh giường. Goran lại vươn tay về phía cô, nhưng không muốn đụng vào cô. Cái vuốt ve chỉ dừng lại ở bề mặt da mà không chạm đến nơi, bởi cô đã lại trở thành xa cách.

Ông nhận ra điều đó và thả cho cô đi.

- Anh sẽ đi tắm một cái. - Ông nói. - Anh phải về, Tommy cần anh.

Mila ngồi yên, không mặc quần áo, cho đến khi nghe thấy tiếng nước chảy trong phòng tắm. Cô muốn xóa sạch khỏi đầu những hồi ức kinh tởm ấy để lại có một cái đầu trống rỗng, nhẹ nhàng tinh khôi như của một đứa trẻ, một đặc quyền mà cô đã bị tước mất một cách thô bạo.

Cái hố trong lán dụng cụ sau nhà Steve không hoàn toàn trống rỗng. Mila đã chôn xuống đó khả năng thấu cảm của mình.

Cô vươn tay cầm lấy điều khiển ti vi trên bàn đầu giường. Cô bật ti vi với hy vọng là những mẩu đối thoại và các hình ảnh vô nghĩa sẽ giống như nước vòi sen cuốn trôi mọi thứ tồi tệ trong đầu mình.

Trên màn hình, một phụ nữ đang ghì chặt chiếc micro trong khi gió và mưa rắp tâm giật nó đi. Bên góc phải là logo bản tin thời sự. Còn bên dưới đang chạy các tít của một chương trình đặc biệt. Hậu cảnh của bản tin là một ngôi nhà vây quanh bởi hàng chục xe cảnh sát bật đèn lấp loáng trong đêm tối.

“… trong vòng một giờ nữa thôi, ngài chánh thanh tra sẽ ra một thông cáo chính thức. Trong khi chờ đợi, chúng tôi có thể xác nhận rằng sự việc là có thật: danh tính của tên cuồng sát các bé gái và làm cả đất nước hoảng loạn đã được xác định...”

Mila không nhúc nhích, mắt dán vào màn hình.

“... đó là một phạm nhân vừa được tại ngoại có quản thúc, kẻ sáng nay đã bắn vào hai quản giáo khi họ đến nhà hắn để kiểm tra…”

Chuyện này Terence Mosca đã kể cho cô nghe trong căn phòng nhỏ cạnh buồng thẩm vấn Boris. Thậm chí cô vẫn còn chưa tin nổi.

“... sau cái chết của một quản giáo tại bệnh viện, các đơn vị đặc nhiệm được cử đến đã quyết định xông vào. Sau khi hạ gục tên cuồng sát và tiến vào nhà hắn, họ đã có một phát hiện bất ngờ không mong đợi…”

Cô bé, nói về cô bé nhanh lên!

“… chúng tôi xin nhắc lại cho những ai chưa kịp theo dõi: tên của kẻ tấn công là Vincent Clarisso...”

Albert, Mila thầm sửa lại trong đầu.

“... các nguồn tin nội bộ cho biết, nạn nhân số sáu vẫn đang còn ở trong ngôi nhà sau lưng tôi: hiện tại cô bé đang được một đội cứu hộ thực hiện các chăm sóc ban đầu. Chúng tôi vẫn chưa có được sự khẳng định chắc chắn, nhưng có vẻ như cô bé Sandra vẫn còn sống”.

Biên bản ghi âm số 7

Ngày 23 tháng 12 năm hiện hành

Lúc 3strong5’ sáng

Độ dài: 1 phút 35 giây

Phạm nhân RK-357/9

“... biết, sẵn sàng, chuẩn bị cho [câu tiếp theo thiết bị không hiểu được]... những thứ đáng hứng chịu cơn giận dữ của ta... làm điều gì đó... niềm tin trước hết... [câu tiếp theo thiết bị không hiểu được] quá tốt, chiếu cố... không được để bị lừa... biết, sẵn sàng, chuẩn bị cho [câu tiếp theo thiết bị không hiểu được] luôn có một ai đó lợi dụng ta... hình phạt cần thiết... thi hành án phạt của kẻ đó... chỉ hiểu chuyện thôi chưa đủ, đôi khi cần phải hành động... biết, sẵn sàng, chuẩn bị cho [câu tiếp theo thiết bị không hiểu được]... ngay cả khi phải giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom