Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
627,683
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Gone Girl - Cô Gái Mất Tích

Gone Girl - Cô Gái Mất Tích
Tác giả: Gillian Flynn
Tình trạng: Đã hoàn thành




Ngay từ những trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết Cô gái mất tích nó đã khiến tôi hình dung đến một cuộc hôn nhân tuyệt vời. Nhưng nhắc đến hôn nhân là tôi lại nghĩ đến một câu nói mỉa mai mà mọi người vẫn hay truyền tai nhau rằng: “ Hôn nhân là một nấm mồ của tình yêu”.

Cho đến khi tôi gặp Amy- một người chuyên viết ra những tình huống trắc nghiệm về tính cách, vô cùng thông minh, xinh đẹp, tốt nghiệp đại học Havard và cũng là cô vợ của Nick Dunne – một gã bảnh trai từng viết báo kiếm sống thì tôi mới nhận thấy rằng hôn nhân giữa họ thuở ban đầu mới gặp gỡ, yêu nhau, lấy nhau thật ngọt ngào và đẹp biết bao. Mỗi năm đến dịp kỉ niệm ngày cưới của họ Amy luôn thích chơi trò “Săn tìm kho báu” đó là trò chơi mà Amy luôn đưa ra những câu đố và Nick phải giải được chúng. Đáp án thường sẽ là những nơi họ đã đi qua và để lại ấn tượng đẹp của hai người! Thật hấp dẫn và li kì phải không? Cuộc hôn nhân của họ sẽ thật hoàn hảo…..

Nếu.… không xảy ra vụ mất tích bí ẩn của Amy. Mọi chuyện đều bắt đầu vào đúng dịp kỷ niệm 5 năm ngày cưới của họ Amy đột nhiên biến mất. Những chứng cứ rời rạc để lại hiện trường không đủ để cảnh sát kết luận ai đã là người gây ra vụ mất tích. Trong hoàn cảnh đó, Nick trở thành nghi can số một và là tâm điểm chỉ trích của dư luận. Bản thân tôi cũng nghi ngờ Nick là hung thủ đã sát hại vợ mình bởi anh ta đã nhiều lần nói dối khi cảnh sát lấy lời khai. Dù luôn khẳng định mình vô tội, lời khai của Nick vẫn có những sơ hở như thể anh ta đang che giấu một bí mật nào đó. Chính vì vậy, ngay lập tức một cuộc điều tra được tiến hành, cùng với sự quan tâm đặc biệt của dư luận dành cho đôi vợ chồng có vẻ ngoài vô cùng hạnh phúc này.
 
Sửa lần cuối:
Chương 1


Ngày của Nick Dunne

Khi nghĩ đến vợ mình, tôi thường nghĩ tới cái đầu của cô ấy. Trước hết là dáng hình của nó. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, gáy cô ấy là hình ảnh đập vào mắt tôi trước tiên và các góc cạnh của nó có gì đó thật duyên dáng. Tựa như một hạt ngô bóng bẩy, cứng cáp hay một hóa thạch dưới lòng sông. Dưới thời Victoria, hình dáng như vậy sẽ được thán tụng là tuyệt đẹp. Các bạn hẳn có thể hình dung một cách dễ dàng.

Dù ở bất cứ nơi đâu, tôi đều nhận ra đầu cô ấy.

Và cả những gì đang diễn ra trong đó. Tôi cũng quan tâm tới suy nghĩ của cô ấy nữa. Bộ não, tất cả các nếp nhăn, và dòng chảy suy nghĩ lan chạy qua những nếp nhăn đó, chằng chịt như chân rết. Giống như một đứa trẻ, tôi mường tượng rằng mình đang hé mở hộp sọ của vợ, gỡ bộ não ra và nghiên cứu nó, cố gắng để bắt kịp và tóm chặt lấy những suy nghĩ của cô ấy. Em đang nghĩ gì vậy, Amy? Đó là câu hỏi mà tôi vẫn thường đặt ra trong suốt cuộc hôn nhân của mình, một cách âm thầm và không phải dành cho người có thể trả lời được. Đối với tôi, cuộc hôn nhân nào cũng bị phủ bóng bởi những câu hỏi tựa như: Em đang nghĩ gì vậy? Em cảm thấy thế nào? Em là ai? Chúng ta đã đối xử với nhau thế này sao? Rồi chúng ta sẽ phải làm gì đây?

Mắt tôi bật mở vào đúng sáu giờ sáng. Hai bờ mi không hề hấp háy, dù chỉ là chớp nhẹ theo ý thức. Sự thức tỉnh đó như thể một cái máy. Thứ âm thanh khô khốc đầy ma quái khi đôi mắt của một con rối bật mở: không gian đen đặc và rồi, màn trình diễn bắt đầu! Mặt đồng hồ báo 6:0:0 - thứ đập vào ngay trước mắt tôi. 6:0:0. Quả thực là khác biệt. Tôi hiếm khi tỉnh dậy vào giờ đúng mà thường là giờ lẻ như: 8:43, 11:51, 9:26. Cuộc sống của tôi không cần phải được báo thức.

Vào thời điểm chính xác, 6:0:0 đó, mặt trời bắt đầu le lói sau rặng cây sồi, hé lộ toàn bộ gương mặt mùa hè cáu kỉnh của Chúa trời. Ánh nắng phản chiếu lấp loáng trên mặt khúc sông đối diện ngôi nhà, như thể một ngón tay dài khó chịu đang xỉa xói qua tấm màn gió mỏng manh trong phòng ngủ để chỉ đích danh tôi. Rồi buộc tội: Ngươi đã bị phát hiện. Ngươi sẽ bị theo dõi.

Tôi vùi mình trên giường, chiếc giường New York trong ngôi nhà mới của chúng tôi. Gọi là nhà mới nhưng chúng tôi đã dọn đến đây được hai năm rồi. Nó là một ngôi nhà thuê nằm bên bờ sông Mississippi, thuộc khu ngoại ô dành cho những kẻ mới lên đời giàu có, một nơi mà tôi hằng ước ao được chuyển tới ở từ khi còn là một đứa trẻ sống trong khu nhà xây lệch tầng bình dân. Kiểu nhà vốn dĩ khá quen thuộc: nhìn chung rất rộng rãi, không đặc sắc, và là một ngôi nhà mới, mới tinh tươm, điều mà vợ tôi sẽ luôn - và tuyệt đối − ghét cay ghét đắng.

"Liệu em có nên rũ bỏ linh hồn mình trước khi bước vào trong không nhỉ?" Đó là lời đầu tiên cô ấy thốt lên khi dọn đến đây. Chúng tôi đã phải thỏa hiệp: Amy muốn chúng tôi chỉ thuê, chứ không mua căn nhà trong thị trấn Missouri nhỏ bé này, với hy vọng chắc chắn rằng chúng tôi sẽ không bị kẹt ở đây quá lâu. Nhưng những ngôi nhà cho thuê lại chỉ tập trung trong khu vực chưa hề được phát triển đó: một thị trấn bé nhỏ heo hút, gồm những căn biệt thự thuộc sở hữu của ngân hàng với mức giá khá thấp do tình trạng suy thoái kinh tế, một khu vực vốn dĩ đã phải đóng cửa trước khi nó được mở rộng thêm. Đó là một sự thỏa hiệp, nhưng Amy lại không nhìn sự việc theo hướng đó, không một chút nào. Đối với Amy, đấy là ý muốn điên rồ của tôi, một sự trả đũa khó chịu và ích kỷ. Tôi đã lôi kéo cô ấy, một cách lỗ mãng, tới một thị trấn mà cô ấy đã kịch liệt phản đối, và buộc phải sống trong căn nhà mà lúc nào cô ấy cũng mỉa mai. Theo tôi, đó không còn là thỏa hiệp nữa khi mà chỉ có một trong hai người nhìn nhận sự việc theo cách ấy, nhưng những thỏa hiệp của chúng tôi dường như lúc nào cũng đi theo chiều hướng như vậy. Một trong hai người luôn luôn phải khó chịu. Và thường thì đó là Amy.

Đừng đổ lỗi cho anh vì nỗi phiền muộn riêng có này, Amy ạ. Nỗi phiền muộn mang tên Missouri. Hãy đổ lỗi cho nền kinh tế, cho những gì không may mắn, cho bố mẹ em, cho Internet và những kẻ đã sử dụng Internet nữa. Tôi đã từng là một nhà báo chuyên viết bài về truyền hình, phim ảnh và các cuốn sách. Trở lại thời khi mọi người còn đọc những thứ in trên giấy, thời mọi người còn quan tâm đến những ý kiến của tôi. Tôi đến New York vào những năm cuối thập niên 90, giai đoạn hấp hối của thời kỳ hoàng kim, mặc dù khi đó chưa có ai nhận thức được điều này. New York là nơi tập trung của các nhà báo, những cây bút thực thụ bởi ở đây có rất nhiều tạp chí, những tạp chí thực sự. Internet thời ấy mới chỉ là một con thú nuôi mới lạ bị giữ chân trong một xó xỉnh của thế giới xuất bản phẩm - ném cho nó một ít thức ăn công nghiệp rồi ngắm nhìn nó nhảy múa với sợi dây xích mới thật dễ thương làm sao - làm gì có chuyện trong đêm tối nó lại có thể giết ta được. Hãy nghĩ mà xem: đó là thời kỳ mà những sinh viên vừa tốt nghiệp đến New York và được trả thù lao để viết bài. Chúng tôi không mảy may ngờ rằng mình đang đâm đầu vào một nghiệp sẽ biến mất chỉ trong vòng một thập kỷ nữa.

Tôi đã có được công việc đó và cũng mất việc trong vòng mười một năm, quả thực là ngắn ngủi. Khắp cả nước, các tạp chí bắt đầu khốn đốn, không thể chống chịu được trước căn bệnh truyền nhiễm bất ngờ do sự đổ vỡ của nền kinh tế đưa lại. Những người cầm bút (theo quan niệm của tôi là những nhà văn có khát khao, những nhà tư tưởng, những người mà bộ não của họ không hoạt động đủ nhanh để viết blog, để nối kết hay đưa tin trên trang mạng xã hội, mà chỉ là những kẻ kiêu ngạo lỗi thời và cứng đầu) coi như xong. Chúng tôi giống như những người thợ làm mũ cho phụ nữ hay những nhà sản xuất roi da: Thời đại của chúng tôi đã chấm hết. Ba tuần sau khi tôi bị liệt vào diện cắt giảm, Amy cũng mất việc, thế đấy.(Lúc này tôi có thể cảm thấy Amy đang nhìn qua vai tôi, cười nhạt khi tôi kể lể về sự nghiệp, nỗi bất hạnh của mình và gói gọn sự kinh qua của cô ấy chỉ trong một câu nói. Cô ấy sẽ nói với bạn một câu nói đặc trưng. Nick ấy mà, cô ấy sẽ nói vậy. Nó đã trở thành điệp khúc của cô ấy rồi: Nick ấy mà… và dù có nói gì tiếp sau đó đi nữa, dù gì thì cũng là tôi ấy mà, dốt tệ.) Hai kẻ trưởng thành không công ăn việc làm, dành hàng tuần liền lang thang khắp khu phố nhà giàu Brooklyn của chúng tôi trong bộ đồ ngủ và đôi bít tất, mặc kệ tương lai, vứt bừa bãi trên mặt bàn và sofa những bức thư còn chưa mở, ăn kem lúc mười giờ sáng và vùi mình trong những giấc ngủ trưa thật dài.

Rồi một hôm điện thoại đổ chuông. Đứa em gái song sinh của tôi ở bên kia đầu dây. Margo đã dọn từ New York về nhà sau khi bị tinh giản một năm trước đó - con bé lúc nào cũng đi trước tôi một bước, ngay cả với cái vận rủi chết tiệt này. Margo gọi từ ngôi nhà thân yêu ở Bắc Carthage, Missouri, nơi chúng tôi đã lớn lên. Và khi nghe giọng nói của con bé, tôi như nhìn thấy hình ảnh của nó lúc mười tuổi, với mái tóc đen nhánh và mặc chiếc quần soóc yếm đang ngồi trên cầu tàu phía sau nhà ông bà tôi, rũ rượi như một cái gối cũ nhàu, đôi chân gầy nhẳng đang đung đưa khỏa nước, mắt ngắm nhìn dòng chảy của con sông lùa qua đôi bàn chân nhỏ xinh như con cá trắng của mình một cách chăm chú và vô cùng bình thản, dù mới chỉ là một đứa trẻ.

Giọng nói của Margo ấm áp và dịu dàng ngay cả khi con bé thông báo tin buồn: Người mẹ kiên cường của chúng tôi đang hấp hối. Cha chúng tôi gần như đã ra đi - tư duy (hay công kích) và trái tim (khốn khổ) của ông đã trở nên mệt mỏi khi dần bước sang thế giới bên kia. Nhưng có vẻ như mẹ chúng tôi sẽ đánh bại ông ở đó.Khoảng sáu tháng, có lẽ là một năm, bà đã thành công. Tôi biết Margo đã tự mình đến gặp bác sĩ, thận trọng ghi lại những điều cần lưu ý qua những dòng chữ nguệch ngoạc của mình, và rồi rơm rớm nước mắt khi cố đọc lại những gì mình đã viết.Ngày giờ và liều lượng.

"Chết tiệt, em không hiểu gì đây nữa, số chín chăng? Mà chẳng thấy có nghĩa nữa cơ chứ?" Con bé thốt lên khiến dòng suy nghĩ của tôi bị ngắt quãng. Đây là một nhiệm vụ, một ý định nằm gọn trong lòng bàn tay em gái tôi như một quả mận. Tôi gần như đã khóc một cách khuây khỏa.

"Anh sẽ về nhà, Go. Bọn anh sẽ về nhà. Em không nên một mình gánh vác tất cả những việc này."

Con bé đã không tin lời tôi. Tôi có thể nghe tiếng nó thở hắt ra ở bên kia đầu dây.

"Anh nói nghiêm túc đấy, Go. Tại sao lại không chứ? Ở đây chẳng còn gì nữa."

Một tiếng thở dài đáp lại. "Còn chị Amy thì sao?"

Đó chính điều mà tôi đã không cân nhắc kỹ. Tôi đã quá đơn giản khi nghĩ rằng tôi sẽ gói ghém cả người vợ New York của mình cùng những mối bận tâm và niềm tự hào về New York của cô ấy, tách rời cô ấy khỏi cha mẹ mình - rũ bỏ lại sau lưng vùng đất hứa Manhattan cuồng nhiệt và đầy đam mê - rồi đưa cô ấy đến một thị trấn nhỏ bé nằm bên sông ở Missouri, và mọi việc sẽ lại ổn thỏa.

Tôi đã không nhận thức được mình mới ngu ngốc, mới ảo tưởng, mới - đúng vậy, mới Nick ấy mà làm sao khi tư duy theo cách đó. Điều này sẽ chỉ đưa đến bất hạnh mà thôi.

"Amy sẽ ổn thôi. Amy…" Những gì tôi nên nói tiếp là "Amy yêu mẹ mà." Nhưng tôi không thể nói với Go rằng Amy yêu quý mẹ chúng tôi, bởi sau chừng ấy thời gian, Amy vẫn chỉ biết về mẹ tôi rất ít. Đôi lần gặp gỡ khiến họ vẫn còn xa lạ với nhau. Rồi Amy sẽ lại mổ xẻ các cuộc đàm thoại của họ những ngày sau đó - "Mẹ có ý gì vậy khi…" - như thể mẹ tôi là một phụ nữ thị tộc quê mùa cổ hủ nào đó đến từ vùng lãnh nguyên với những tảng thịt bò Tây Tạng mới xẻ và một ít cúc áo để trao đổi hàng hóa, cố gắng để có được thứ gì đó từ Amy mà không phải trả giá vậy.

Amy không tỏ ý muốn tìm hiểu về gia đình tôi cũng như không quan tâm đến nơi tôi sinh ra, nhưng dù sao đi nữa, vì một lý do nào đấy tôi đã cho rằng trở về nhà là một ý hay.

Hơi thở của tôi làm chiếc gối trở nên ấm áp. Tôi đổi chủ đề trong tâm trí mình. Hôm nay không phải là ngày để tiếp tục đoán xét hay nuối tiếc nữa, mà là một ngày hành động. Từ dưới nhà, tôi có thể nghe thấy thứ âm thanh tưởng như đã biến mất vẳng lên: Amy đang chuẩn bị bữa sáng. Tiếng va đập trên giá bát bằng gỗ (cộc cộc!), tiếng đặt để những chiếc hộp thiếc và hộp thủy tinh (lạch cạch!), tiếng di chuyển và sắp xếp bộ xoong nồi kim loại và chảo sắt (loảng xoảng!). Bản nhạc bếp núc bắt đầu nổi lên, huyên náo một cách sinh động cho đến hồi kết, chiếc khuôn bánh rơi xuống dội lên một hồi âm thanh trên sàn nhà rồi đập vào tường tạo ra một tiếng xanh-ban chói tai. Một món gì đó ấn tượng đang được chế biến, có lẽ là bánh kếp, bởi bánh kếp rất đặc biệt và hôm nay chắc hẳn Amy muốn làm món gì đó thật đặc biệt.

Hôm nay là kỷ niệm năm năm ngày cưới của chúng tôi.

Tôi bước chân trần tới gần mép cầu thang đứng nghe ngóng, dũi dũi những ngón chân của mình vào đám lông của tấm thảm trải sàn, điều mà về mặt nguyên tắc Amy ghét cay ghét đắng. Tôi băn khoăn xem liệu mình đã sẵn sàng xuống giúp cô ấy chưa. Amy đang ở trong bếp, hoàn toàn không để ý tới sự lưỡng lự của tôi. Cô ấy đang ngân nga một giai điệu gì đó nghe sầu não và quen thuộc. Tôi cố vắt óc nhớ xem đó là giai điệu nào - một bài dân ca hay sao ấy? Hay một bài hát ru nhỉ? - và rồi tôi nhận ra đó là bản nhạc Suicide is painless trong bộ phim M.A.S.H. Nghĩ vậy tôi liền bước xuống nhà.

Tôi quanh quẩn ở lối vào và nhìn ngắm vợ mình. Mái tóc màu vàng bơ của Amy được buộc túm lên kiểu đuôi ngựa, đu đưa một cách vui mắt như thể đang nhảy dây, trong khi cô ấy vừa đưa đầu ngón tay bị bỏng lên mút lấy mút để, vừa ấm ứ trong miệng. Amy ngân nga một mình vì cô ấy là người vô địch trong việc lời các bài hát. Lần đầu tiên chúng tôi hẹn hò, một bài hát của nhóm nhạc Genesis vang lên trên sóng phát thanh: "Nàng dường như có cái chạm tay vô hình, yeah." Và Amy đã hát theo rằng "Nàng nhấc chiếc mũ của tôi ra rồi đặt lên giá trên cùng." Khi tôi thắc mắc tại sao cô ấy lại nghĩ lời hát của mình hợp lý, thì Amy đáp cô ấy luôn cho rằng người phụ nữ trong bài hát đó thực lòng yêu mến người đàn ông kia bởi nàng đã đặt chiếc mũ của anh ta lên giá trên cùng. Tôi nhận ra mình đã thích Amy từ đó, rất thích, một người con gái có lời giải nghĩa cho mọi vấn đề.

Điều gì đó đã cắt ngang dòng hồi tưởng về một kỷ niệm đẹp đẽ và cảm giác lạnh thấu xương.

Amy vừa chăm chú nhìn chiếc bánh kếp đang xèo xèo trên chảo, vừa liếm thứ gì đó trên cổ tay mình. Trông cô ấy thật viên mãn, theo cách của một người vợ. Nếu tôi ôm Amy trong vòng tay mình thì hẳn cô ấy sẽ có mùi của dâu tây và đường kính.

Khi phát hiện thấy tôi lôi thôi trong chiếc quần soóc kiểu boxer đang thập thò ở đó với mái tóc dựng đứng Heat Miser, Amy tựa người vào quầy bếp và cất tiếng: "Ồ, xin chào, gã bảnh trai."

Mật đắng và sợ hãi dấn dứ trong cổ họng tôi.Tôi thầm nghĩ: Thôi nào, tiến lên.

Tôi bắt tay vào công việc khá muộn.Cô em gái và tôi đã cùng thực hiện một ý tưởng điên rồ khi cả hai dọn về nhà.Chúng tôi đã thực hiện điều mà chúng tôi luôn bàn tới.Đó là mở một quán bar. Chúng tôi mượn tiền của Amy để làm điều đó, 80.000 đô-la, một khoản tiền mà đối với Amy đã từng không là gì cả, nhưng tại thời điểm ấy thì gần như là tất cả. Tôi thề sẽ trả lại cho cô ấy, cộng thêm cả tiền lãi nữa. Tôi sẽ không bao giờ là gã đàn ông mượn tiền vợ - và tôi cảm nhận được cái trề môi của cha tôi khi ông biết về ý tưởng này. Lối nói đả kích thường thấy của ông là "Trên đời có rất nhiều loại đàn ông,vế còn lại thì bỏ ngỏ và con là loại lầm lối."

Nhưng thành thật mà nói, đó là một quyết định thực tế, một bước kinh doanh nhạy bén. Cả Amy và tôi đều cần có công việc mới, và đây sẽ là công việc của tôi. Rồi sau này cô ấy cũng sẽ đi làm, hoặc có thể không, nhưng trong khi chờ đợi thì đây chính là một nguồn thu nhập, được hiện thực hóa nhờ có nguồn quỹ tín thác cuối cùng của Amy. Giống như khu McMansion mà tôi đã thuê, quán bar được trang hoàng như một biểu tượng trong ký ức tuổi thơ tôi - một nơi mà những người trưởng thành có thể đến và làm bất cứ điều gì họ muốn. Có lẽ đó là nguyên do vì sao tôi lại khăng khăng muốn mua nó sau khi bị tước mất kế sinh nhai. Nó nhắc nhở tôi rằng, trên hết, tôi là một người đàn ông trưởng thành, một người có ích, cho dù đã mất đi sự nghiệp giúp cho tôi trở thành con người như thế. Tôi sẽ không lập lại sai lầm đó nữa: Hàng tá những nhà báo sẽ tiếp tục bị thải loại - vì Internet, vì suy thoái kinh tế, vì công chúng Mỹ, những người thà xem tivi hay chơi các trò điện tử hoặc cập nhật thông tin với bạn bè mình trên các trang mạng, kiểu như, mưa vãi! Nhưng sẽ không điều gì mang lại cảm giác hứng khởi bằng bên ly whisky vào một ngày ấm áp trong quầy bar tối mờ và dễ chịu. Thế giới luôn có nhu cầu về một thứ đồ uống nào đó.

Quán bar của chúng tôi được bài trí theo kiểu quây góc với phong cách nghệ thuật chắp vá và ngẫu hứng. Điểm nhấn nổi bật nhất là hàng loạt những chiếc đầu rồng và gương mặt thiên thần thời nữ hoàng Victoria được tạc nổi trên mặt gỗ sồi đặt ở phía sau quầy - một kiểu chơi đồ gỗ xa xỉ trong thời đại mà thứ gì cũng được làm từ nhựa dẻo. Không gian còn lại trong quán, trên thực tế không đáng để mắt tới, là một loạt các thiết kế rất tầm thường tiêu biểu cho các thập niên trước: kiểu ván sàn sơn bóng thời Eisenhower mà mép gỗ xung quanh khiến nó trông giống như ổ bánh mỳ cháy, những bức tường ốp gỗ không rõ có phải xuất phát từ một bộ phim khiêu dâm từ những năm 70 hay không nữa, những chiếc đèn sàn halogen, một thứ tình cờ gợi nhớ tới căn phòng ở ký túc xá của tôi từ thập niên 90. Hiệu ứng cuối cùng lại tạo ra một không gian ấm cúng lạ thường - trông nó giống như ngôi nhà của ai đó bị sao nhãng chăm chút hơn là một quán bar. Và điều vui nhất là: Chúng tôi có chung bãi để xe với một sàn chơi bowling ở địa phương, và mỗi khi cánh cửa quán chúng tôi mở ra, một loạt những âm thanh loảng xoảng vang lên như một tràng pháo tay đón chào ở ngay lối vào dành cho khách.

Chúng tôi đặt tên quán bar là Quán Bar. "Mọi người sẽ nghĩ chúng ta có vẻ châm biếm chứ không phải là những kẻ thất nghiệp sáng tạo." Em gái tôi cắt nghĩa.

Vâng, chúng tôi đã nghĩ mình là những công dân New York tài ba - khi cái tên kia chỉ là một trò vui mà không ai có thể hiểu được ý nghĩa của nó, theo cách mà chúng tôi hiểu. Chẳng phải siêu phàm gì. Chúng tôi hình dung người dân địa phương sẽ chun mũi mà hỏi rằng: Sao lại đặt tên là Quán Bar? Nhưng vị khách đầu tiên của chúng tôi, một phụ nữ có mái tóc màu xám tro đeo cặp kính mắt tròn và mặc bộ đồ thể dục màu hồng, đã phát biểu: "Tôi thích cái tên này. Giống như trong phim Bữa sáng ở Tiffany vậy, khi Audrey Hepburn đặt tên con mèo của mình là Mèo."

Kể từ ấy chúng tôi thấy mình bớt hợm hĩnh hơn, và đó là một dấu hiệu tốt.

Tôi đánh xe vào bãi đỗ và chờ đợi cho đến khi âm thanh của tiếng giật bóng từ sàn bowling vang lên - xin cảm ơn, xin cảm ơn các bạn - rồi mới bước ra khỏi xe. Tôi rất yêu thích không gian quanh đây, một cảnh quan hoàn mỹ chưa hề bị nhàm chán: phía bên kia con phố là bưu điện thâm thấp được xây bằng gạch vàng (lúc này đang đóng cửa, vì là thứ bảy), tòa văn phòng khiêm tốn sơn màu be chạy dọc theo con phố (giờ cũng đang tạm nghỉ). Thị trấn này không phồn thịnh, nó đã không còn như thế nữa, dù trên bất cứ phương diện nào. Quỷ tha ma bắt, nó thậm chí còn không phải là duy nhất, mà chỉ là một trong hai thị trấn Carthage, thuộc Missouri - thị trấn của chúng tôi đúng ra là Bắc Carthage, nên tưởng như chúng là hai thị trấn song sinh. Thực ra thị trấn của chúng tôi cách thị trấn kia đến hàng trăm dặm và nhỏ hơn: một thị trấn cổ kính nhỏ xinh của những năm 50 đã được mở rộng thành một khu ngoại ô cỡ trung tiêu chuẩn và trở nên phát triển. Nhưng nó là nơi mẹ tôi lớn lên, là nơi bà nuôi dưỡng tôi và Margo trưởng thành, nên nó chứa đựng lịch sử. Chí ít thì nó cũng là thị trấn của tôi.

Khi băng qua bãi đỗ xe được đổ nền bê-tông và ngập cỏ dại để đi về phía quán bar, tôi nhìn xuôi theo con phố và thấy dòng sông. Chính là nó, thứ khiến tôi luôn yêu quý thị trấn này: Chúng tôi đã không xây một kè sông an toàn để nhìn xuống dòng Mississippi, mà chúng tôi ở ngay trên con sông. Tôi có thể đi xuống cuối con phố, bước ngay vào một quãng dốc gần một mét không khó khăn gì và thẳng tiến tới Tennessee. Mọi tòa nhà ở khu trung tâm đều được đánh dấu những mực nước sông dâng lên trong các trận lụt năm 1961, 1975, 1984, 1993, 2007, 2008, 2011. Và còn nhiều điều khác nữa.

Hiện giờ thì dòng sông không đầy nước, nhưng tốc độ chảy khá lớn với những dòng nước xiết. Một nhóm hai người đàn ông đang di chuyển theo tốc độ của dòng sông, mắt họ chăm chăm nhìn xuống chân, hai bờ vai căng ra, bước sải một cách vững vàng. Khi tôi đang quan sát họ thì bỗng nhiên một người ngước lên nhìn tôi, khuôn mặt anh ta bị khuất bóng, một hình trái xoan tối đen. Tôi liền quay đi.

Tôi có cảm giác hối thúc muốn bước ngay vào trong quán. Khi tôi đi được chừng sáu mươi mét thì thấy cổ mình đổ mồ hôi ròng ròng. Từ trên cao mặt trời vẫn chiếu xuống tia nhìn khó chịu. Ngươi đã bị phát hiện.

Ruột gan tôi như lộn tùng phèo, và tôi rảo bước hơn. Tôi cần uống một thứ gì đó.
 
Chương 2: Amy Elliott


Tháng 1 năm 2005

- Nhật ký -

Ô la la! Khi viết những dòng này, tôi đang ngoác miệng cười như thể một đứa trẻ mồ côi vừa mới được nhận nuôi vậy. Tôi cảm thấy ngượng ngùng trước niềm vui sướng của chính mình, giống như một cô nàng xì-tin với mái tóc đuôi ngựa trong tập truyện tranh đang buôn chuyện qua điện thoại rằng: Mình đã gặp một anh chàng đấy!

Nhưng thực là vậy. Một sự thực đúng nghĩa và hiển nhiên. Tôi đã gặp một anh chàng, một anh chàng rất tuyệt vời, vô cùng đẹp trai, vui tính và dễ thương đến chết đi được.Thử hình dung tới con cái mình sau này mà xem, thật đáng để nghĩ đến (thôi, thôi nào, mình không nghĩ xa đến thế chứ, làm sao có chuyện con cái ở đây được!) Nhưng không thể đừng được.Năm mới đã sang rồi nhưng vẫn còn dư âm của không khí đầu năm.Trời mùa đông: nhập nhoạng tối và lạnh tê cóng.

Carmen, một cô bạn mới - mới biết sơ sơ, mới thân sơ sơ, một kiểu bạn bè mà ta không thể hủy lời hẹn - đã rủ tôi cùng cô ấy tới Brooklyn tham dự một trong những buổi tiệc của cánh nhà báo. Giờ thì, tôi thấy thích chúng, tôi thích các nhà báo, tôi vốn là con của các nhà báo, mà bản thân cũng là một nhà báo nữa. Tôi muốn viết đi viết lại mãi từ này - NHÀ BÁO - bất cứ khi nào phải điền vào một tờ khai, một bảng câu hỏi hay giấy tờ yêu cầu thông tin về nghề nghiệp. Được rồi, tôi chỉ là người viết ra những tình huống trắc nghiệm về tính cách mà thôi. Tôi không viết bài về những Sự Kiện Lớn diễn ra trong ngày thì có sao nào. Nhưng tôi nghĩ, công bằng mà nói tôi vẫn là một nhà báo. Tôi viết nhật ký là để mài giũa kỹ năng, để góp nhặt những chi tiết và mọi quan sát của mình. (một nụ cười ngoác miệng của một đứa trẻ mồ côi vừa mới được nhận nuôi, ý tôi là điều đó cũng chẳng lấy gì làm tệ cho lắm, nhỉ).Nhưng thẳng thắn mà nói, ít nhất những câu hỏi tình huống của tôi cũng giúp cho bản thân trưởng thành hơn. Phải vậy không?

Tại một bữa tiệc mà xung quanh bạn đều là những nhà báo vô cùng tài năng, là người chắp bút cho những tờ báo và tạp chí danh tiếng và uy tín.

Bạn chỉ là người viết những câu hỏi tình huống trắc nghiệm cho báo lá cải dành cho phụ nữ. Khi có ai đó hỏi thăm bạn làm nghề gì, thì bạn sẽ:

A. Ngượng ngùng và trả lời: "Tôi chỉ viết những tình huống trắc nghiệm về tính cách thôi, một công việc vớ vẩn ấy mà!"

B. Chủ động khiêu khích: "Hiện giờ thì tôi viết báo, nhưng tôi đang cân nhắc một công việc gì đó thách thức hơn và đáng làm hơn - tại sao lại không nhỉ, còn anh làm nghề gì vậy?"

C. Tự hào về khả năng của mình: "Tôi viết những tình huống trắc nghiệm về tính cách dựa trên kiến thức thu nhận được với tấm bằng thạc sĩ về tâm lý học của mình - à, có một điều thú vị nữa, tôi chính là nguồn cảm hứng cho một bộ sách trẻ em rất được yêu thích đấy, Amy tuyệt vời, anh chắc hẳn biết bộ sách đó chứ? Yeah, ngán ngẩm chưa, kẻ hợm hĩnh!

Câu trả lời: C, chắc chắn là C.

Dù sao đi nữa thì bữa tiệc cũng đã rơi vào một tình huống khó xử bởi một người bạn thân của Carmen, một tay bút chuyên viết về phim ảnh cho một tạp chí điện ảnh, mà theo Carmen là một người rất vui tính. Tôi thấy hơi lo lắng vì cô ấy muốn dàn dựng để chúng tôi gặp nhau: Tôi không thích giả vờ. Tôi phải rơi vào bẫy tình, vờ như không biết gì, giống một kẻ cuồng si vì yêu. Nhưng dẫu vậy tôi vẫn thấy bồn chồn. Tôi có cảm giác mình đang cố tỏ vẻ duyên dáng, rồi nhận ra rõ ràng là tôi đang cố tỏ ra mình thật duyên dáng, thậm chí sau đó tôi còn cố trở nên duyên dáng hơn nữa bằng cách bôi trát cho cái vẻ duyên dáng giả tạo của mình. Thế là, về cơ bản, tôi trở thành một Liza Minnelli: Em đang khiêu vũ trong bộ đồ bó sát đính hạt lấp lánh, van nài để nhận được tình yêu của anh. Chiếc mũ quả dưa, điệu nhảy jazz và những nụ cười rạng rỡ.

Mà không, tôi chợt nhận ra, Carmen đã thổ lộ về anh bạn của cô ấy: Cô ấy thích anh ta. Tốt thôi.

Chúng tôi leo ba đoạn cầu thang rồi bước vào một không gian ấm áp hơi người và sặc mùi báo chí: rất nhiều cặp kính gọng đen, những mái tóc bù xù, áo sơ-mi giả cổ Đức và áo cổ lọ, những chiếc áo va-rơi bằng len màu đen ngổn ngang trên ghế bành, lòa xòa cả xuống sàn,bức áp-phích bằng tiếng Đức của bộ phim Tẩu thoát nhanh (Ihre Chance war gleich Null!) phủ kín cả một bức tường đã rạn màu sơn. Tiếng hát của Franz Ferdinand đang vang lên với nhạc phẩm "Take me out"

Một nhóm người đang vây quanh chiếc bàn cờ nơi tất cả rượu đã được bày sẵn và rượu lại được rót đầy mỗi khi ly của họ chỉ vơi đi vài nhấp. Ai nấy đều nhận thấy rượu không còn nhiều nữa. Tôi lăn người vào trong rồi đặt chiếc cốc nhựa của mình lên giữa bàn như thể một nghệ sỹ hát rong xin tiền, lấy đá viên và xin chút vodka từ một anh chàng có gương mặt dễ thương đang mặc chiếc áo phông in dòng chữ "Những kẻ xâm chiếm vũ trụ."

Chai rượu táo xanh trông chết người kia, thứ đồ uống lạ thường của chủ nhà, sẽ sớm là mục tiêu của chúng tôi nếu không có ai đó ra ngoài mua ngay một chầu rượu khác, và có vẻ như sẽ chẳng có ai cả, vì mọi người đều cho rằng họ đã mua rồi. Đó là một bữa tiệc tháng giêng, lẽ dĩ nhiên là mọi người vẫn còn ngất ngây và say sưa, lười biếng và đồng thời bị kích động nữa. Một bữa tiệc mà mọi người đều uống quá nhiều và gây chiến với nhau bằng những ngôn từ sắc sảo, nhả khói thuốc qua cửa sổ đang mở ngay cả khi chủ nhà đã đề nghị họ ra ngoài hút thuốc. Chúng tôi nói chuyện với nhau ở hàng ngàn bữa tiệc năm mới như vậy rồi, chẳng còn gì để nói với nhau nữa cả, chúng tôi đều ngán ngẩm như nhau, nhưng lại không muốn về nhà trong cái lạnh giá này của tháng giêng, xương cốt của chúng tôi vẫn còn rã rời vì leo bộ những bậc thang ở ga tàu điện ngầm.

Tôi đã để tuột mất Carmen vào tay anh chàng bảnh chọe chủ bữa tiệc - bọn họ đang có cuộc trao đổi khá căng thẳng trong một góc bếp, cả hai đều chụm vai lại, mặt đối mặt theo hình một trái tim. Tốt thôi. Tôi nghĩ mình nên làm gì đó ngoài việc cứ đứng ở giữa phòng, mỉm cười như một đứa trẻ con mới nhập hội trong phòng ăn. Nhưng phần lớn đồ ăn đã hết. Chỉ còn vài mẩu vụn khoai tây chiên còn sót lại dưới đáy một chiếc bát lớn mang nhãn hiệu Tupperware. Khay thức ăn trên bàn cà phê đầy ắp cà rốt tía và cọng cần tây vẫn chưa ai động đến, cùng với những mẩu đầu lọc thuốc lá trông như thể những cọng rau trang trí. Tôi đang mải mê với suy nghĩ của mình, một thứ suy nghĩ bốc đồng: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngay bây giờ tôi nhảy xuống từ ban công nhà hát nhỉ? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi làm tình bằng miệng với người đàn ông vô gia cư ngồi đối diện với tôi trên tàu điện ngầm đó? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi ngồi ngay xuống sàn nhà giữa bữa tiệc này rồi ăn ngấu nghiến mọi thứ, kể cả những đầu lọc thuốc lá kia?

"Làm ơn đừng có ăn bất cứ thứ gì ở đó nhé." Anh ta lên tiếng. Chính là anh ta (bùm, bùm, bùmmm), nhưng tôi vẫn chưa biết đó chính là anh ta (bùm, bùm, bùmmm). Tôi chỉ biết đó là anh chàng sẽ nói chuyện với tôi. Một anh chàng mang vẻ tự mãn hệt như chiếc áo phông với dòng chữ châm biếm, nhưng xem ra lại có vẻ phù hợp với anh ta. Anh ta là loại đàn ông thể hiện cái tôi như thể mình đã làm tình với rất nhiều người, một gã hám gái, và thực sự sẽ biết cách làm tình với tôi. Tôi mong muốn có kẻ nào đó biết làm tình với mình lắm chứ! Những cuộc hẹn hò của tôi dường như chỉ quay vòng trong ba loại đàn ông: loại giống như Ivy Leaguers, tự cho mình là nhân vật chính trong tiểu thuyết của Fitzgerald, những kẻ mồm mép tép nhảy ở phố Wall lúc nào cũng thấy tiền trong mắt, trong tai, trong mồm miệng bọn họ, và những gã khôn lanh, nhạy cảm, những kẻ luôn ý thức rằng mọi thứ trên đời chỉ là trò vui. Loại bạn tình như trong tiểu thuyết của Fitzgerald thường chẳng mấy khêu gợi khi ở trên giường, mà chỉ ồn ào và uốn éo rồi kết thúc chóng vánh. Loại luôn nghĩ đến tiền thì trở nên cuồng bạo và yếu đuối. Loại khôn lanh thì chỉ làm tình như thể bọn họ đang soạn một bản math rock: tay này thì gảy đàn chỗ này, ngón tay kia lại chơi một đoạn bass… Nghe có vẻ như tôi là một thứ đàn bà dâm đãng ấy nhỉ, phải không? Hãy tạm dừng để tôi đếm xem bao nhiêu nào… mười một. Không tệ lắm. Lúc nào tôi cũng nghĩ mười hai là con số ổn định nhất, một con số thỏa đáng để là điểm dừng.

"Nghiêm túc đấy." Số 12 nói tiếp. (Ha!) "Hãy tránh xa khay thức ăn đó. James có đến ba loại thực phẩm trong tủ lạnh của cậu ấy. Tôi có thể lấy cho cô một trái ô-liu với mù-tạc. Nhưng chỉ một trái thôi nhé."

Nhưng chỉ một trái thôi nhé. Một câu nói không chỉ có phần buồn cười, mà còn tạo cảm giác đằng sau nó là một lời trêu đùa, một kiểu đùa mà còn buồn cười hơn nếu bâng quơ lặp lại. Tôi nghĩ: Một năm nữa, chúng ta sẽ dạo bước trên cầu Brooklyn dưới ánh hoàng hôn và một trong hai ta sẽ thầm thì rằng: "Chỉ một trái ô-liu thôi nhé" và cả hai phá lên cười. (Rồi tôi thức tỉnh chính mình. Tệ thật. Nếu anh ta mà biết mình chưa gì đã nghĩ đến một năm nữa rồi thì chắc chắn anh ta sẽ chạy biến và mình chỉ còn biết đứng cổ vũ mà thôi.)

Tôi thừa nhận tôi mỉm cười chủ yếu là vì anh ta trông quá điển trai. Vẻ đẹp khiến tâm trí con người ta rối bời, khiến người nhìn phải hoa mày chóng mặt, khiến bạn chỉ muốn nói toạc ra - "Anh biết là mình rất quyến rũ, phải vậy không?" - rồi lại tiếp tục trò chuyện. Tôi dám chắc bọn đàn ông không ưa gì anh ta: Anh ta giống một gã trai giàu có thuộc tuýp nhân vật phản diện trong những bộ phim dành cho tuổi teen từ thập niên 80 - kiểu nhân vật chuyên chèn ép những kẻ yếu thế hơn, kiểu nhân vật cuối cùng sẽ ngậm được miếng bánh trong miệng mình với kem tươi chảy quanh cổ áo dựng lên, trong sự reo hò cổ vũ của mọi người trong quán.

Nhưng anh ta lại không hề cư xử như vậy. Tên anh ta là Nick. Tôi thích cái tên này. Nó khiến anh ta trông có vẻ đứng đắn, và bình thường, như chính anh ta vậy. Khi anh ta giới thiệu tên mình, tôi đã thốt lên: "Giờ thì đã có một cái tên thật." Anh ta có vẻ rạng rỡ hơn và nói trơn tru: "Nick là kiểu đàn ông mà cô có thể cùng uống bia, kiểu đàn ông sẽ không ngại nếu cô có nôn mửa trong xe của anh ta. Đó chính là Nick!"

Anh ta đã đọc một loạt những lời thoại thật ngớ ngẩn. Tôi có thể nhận ra ba phần tư nội dung những lời thoại đó trong các bộ phim mà anh ta đã dẫn. Có lẽ là hai phần ba. Anh ta rót đầy lại ly của tôi mà không đợi tôi đề nghị, và bằng cách nào đó đã tìm được ly cuối cùng của một loại rượu khá ngon. Anh ta đã tuyên bố và cắm cờ lên lãnh địa của tôi: Tôi đã ở đây trước nhé, cô ấy là của tôi, của tôi. Sau hàng loạt những gã trai yếu đuối, luôn tỏ ra tôn trọng theo kiểu hậu chủ nghĩa nữ quyền, việc trở thành một lãnh địa riêng của ai đó quả là cảm giác tuyệt vời. Anh ta có nụ cười rất quyến rũ, nụ cười của một con mèo. Cách anh ta mỉm cười với tôi như có thể ho ra những chiếc lông vũ màu vàng của chú chim Tweety vậy. Anh ta không hề hỏi tôi làm nghề gì, đó là một dấu hiệu tốt, một dấu hiệu của sự khác biệt. (Tôi đã nói mình là một nhà báo chưa nhỉ?) Anh ta nói chuyện với tôi bằng thứ ngữ âm gợn sóng của dòng sông Missouri, anh ta sinh ra và lớn lên ở vùng ngoại ô Hannibal, nơi nuôi dưỡng tuổi thơ của Mark Twain, là niềm cảm hứng của tác phẩm Tom Sawyer. Anh ta kể rằng đã từng làm việc trên một chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước khi còn ở tuổi vị thành niên, chuyên phục vụ bữa tối và chơi nhạc jazz cho du khách. Và khi tôi (một con bé ngỗ ngược người New York chưa bao giờ từng phiêu lưu tới những bang rộng lớn ở miền trung nước Mỹ, Những Bang Mà Rất Nhiều Người Khác Vẫn Đang Sinh Sống Ở Đó) cười phá lên thì anh ta nói với tôi rằng Missoura là một mảnh đất thần tiên, một nơi đẹp nhất trên thế giới này, không một bang nào có thể sánh bằng. Anh ta có ánh mắt tinh quái và đôi mi dài mướt. Tôi có thể hình dung ra hình ảnh của anh ta khi còn là một cậu bé.

Chúng tôi đi chung taxi về nhà. Ánh đèn đường lấp loáng mờ ảo. Chiếc xe lao nhanh như thể đang bị rượt đuổi phía sau. Khi chúng tôi về đến một trong những nơi tắc nghẽn không lý giải được của New York, cách căn hộ của tôi mười hai khu nhà, lúc đó đã là một giờ sáng. Chúng tôi ra khỏi taxi, lao mình vào giá lạnh và lao mình vào Điều Tuyệt Vời Nào Tiếp Đây? Nick đi cùng tôi về nhà, tay anh khẽ đặt lên lưng tôi, khuôn mặt hai chúng tôi buốt giá vì cái lạnh. Khi chúng tôi ngoặt sang ngã rẽ, cửa hàng bánh của khu phố đang nhận đường kính được giao tới. Đường được đổ vào hầm rượu với số lượng lớn như thể chúng là xi-măng vậy. Chúng tôi không thể thấy gì khác ngoài cái bóng của những người vận chuyển đường lẫn trong đám mây mù màu trắng có vị ngọt đó. Con phố nổi gió cuồn cuộn, Nick kéo tôi lại gần và nở nụ cười, vẫn là nụ cười quyến rũ ấy. Anh đưa hai ngón tay lên gạt lọn tóc của tôi, rồi vuốt xuống đến tận ngọn, giật giật nó hai lần, như thể đang kéo một chiếc chuông. Lông mi của anh lấm tấm trắng, và trước khi ngả người sát vào, anh khẽ liếm bụi đường bám trên môi tôi trước khi nếm trải vị ngọt của tôi thực sự.
 
Chương 3: Ngày của Nick Dunne


Tôi mở toang cánh cửa ra vào của quán bar, lẩn mình vào bóng tối và lần đầu tiên trong ngày lấy một hơi thật sâu hít vào mùi thuốc lá, mùi bia, mùi hương của từng giọt rượu bourbon, và mùi vị bỏng ngô cũ. Trong quán bar chỉ có một khách hàng duy nhất đang ngồi ở tận sâu phía trong: một phụ nữ lớn tuổi tên là Sue, vẫn thường xuyên cùng chồng tới quán vào thứ Năm hàng tuần cho đến khi ông chồng mất cách đây ba tháng. Giờ thì thứ năm nào bà cũng đến đây một mình, không trò chuyện nhiều mà chỉ ngồi đó với một cốc bia và trò chơi ô chữ như thể gìn giữ một nghi lễ của mình.

Em gái tôi đang làm việc ở phía sau quầy, mái tóc buộc túm lên với chiếc nơ bướm cỡ lớn, cả hai cánh tay nhuộm hồng khi con bé nhúng từng cốc bia lên xuống giữa đám bọt xà phòng. Margo có dáng người mảnh dẻ và nét mặt khá lạ, không hẳn là không cuốn hút. Phải mất một lúc mới có thể định hình những đường nét của con bé: quai hàm rộng, chiếc mũi nhỏ xinh xắn, đôi mắt đen sâu thẳm. Nếu ở trong một bộ phim cổ trang, chắc hẳn sẽ có một gã đàn ông ngả mũ huýt sáo khi nhìn thấy con bé rồi nói: "Này, thứ đàn bà quỷ tha ma bắt!" Gương mặt của một nữ hoàng phim hài thời kỳ những năm 30 không phải lúc nào cũng phù hợp với thời đại công chúa thần tiên của chúng ta. Nhưng qua những năm tháng chúng tôi sống cùng nhau, tôi biết bọn đàn ông thích em gái tôi, rất thích, điều khiến tôi với cương vị của một người anh vừa cảm thấy tự hào lại vừa phải cảnh giác.

"Họ vẫn làm thịt cuộn ớt tiêu chứ anh?" Con bé lên tiếng thay cho lời chào, mắt không nhìn lên nhưng vẫn biết đó chính là tôi, và tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm thường thấy mỗi khi gặp con bé: mọi việc có thể không tuyệt vời, nhưng đều ổn thỏa.

Em gái song sinh của tôi, Margo. Tôi đã nói câu này không biết bao nhiêu lần rồi. Nó đã trở thành một câu thần chú giúp tôi nhẹ lòng thay vì ý nghĩa thực của nó: Go-song-sinh-của-tôi. Những năm 70, sinh đôi như chúng tôi lúc đó là việc khá hiếm gặp và nó giống một phép màu, như thể là anh em họ của loài kỳ lân hay anh chị em ruột rà với những người tí hon vậy. Thậm chí chúng tôi ít nhiều còn có thần giao cách cảm của những cặp sinh đôi. Go quả thực là người duy nhất trên thế gian này tôi hoàn toàn cảm thấy thoải mái khi ở bên cạnh. Tôi không có cảm giác phải cắt nghĩa những hành động của mình đối với con bé. Tôi không giải thích, không nghi ngờ, không lo lắng. Tôi không nói tất cả mọi chuyện với Margo, không còn như vậy nữa, nhưng cho đến giờ con bé là người mà tôi thổ lộ nhiều hơn bất cứ ai. Tôi kể với Margo nhiều hết mức có thể. Dù gì chúng tôi cũng đã từng nương tựa vào nhau, che chở cho nhau trong suốt chín tháng trời. Điều đó đã trở thành một thói quen trọn đời rồi. Đối với tôi không thành vấn đề khi Margo là con gái, một cô gái lạ kỳ với ý thức sâu sắc. Tôi có thể nói gì được đây? Con bé lúc nào cũng tuyệt vời.

"Thịt cuộn ớt tiêu à, một loại thịt cho bữa trưa đúng không? Anh nghĩ họ có làm đấy."

"Chúng ta nên mua một ít." Con bé nói rồi nhướng một bên lông mày nhìn tôi. "Em thấy tò mò quá."

Không nói không rằng, con bé rót cho tôi một ít bia PBR tươi vào chiếc ly có quai trông bẩn đến mức khó hiểu. Khi bắt gặp ánh mắt tôi chăm chăm nhìn vào vết ố trên miệng ly, con bé đưa chiếc ly lên ngang miệng mình rồi liếm sạch vết ố đó, chỉ để một ít nước miếng vương lại rồi đặt phần quai của chiếc ly đối diện vuông góc với tôi. "Được chưa, hoàng tử của tôi?"

Go luôn cho rằng tôi được thừa hưởng những gì tốt đẹp nhất từ bố mẹ, rằng tôi là đứa con trai mà bố mẹ tôi đã ao ước, là đứa con duy nhất mà họ được trời ban cho, và rằng con bé bước vào thế giới này là nhờ lén bám chặt vào mắt cá chân của tôi, giống như một kẻ lạ mặt không hề được mong đợi. (Đặc biệt là đối với cha tôi.) Con bé tin rằng trong suốt thời thơ ấu của mình nó đã bị bỏ mặc để tự lo liệu tất cả mọi việc, một thứ sinh vật đáng thương, chỉ luôn mặc đồ thừa, chỉ nhận được sự cho phép vì lỡ miệng còn tiền tiêu vặt thì hạn chế, nói chung là gắn liền với sự hối tiếc. Có lẽ cách nhìn đó có phần đúng. Tôi chỉ biết đứng ở đấy mà gật đầu thừa nhận.

"Được rồi, thưa cô nông dân khổ hạnh của tôi." Tôi đáp lại với điệu bộ vẫy hai bàn tay mình theo kiểu cách của hoàng gia.

Tôi tu vội cốc bia. Phải ngồi xuống mà uống một hoặc ba ly bia mới được. Suốt từ sáng tới giờ đầu óc tôi vẫn đang căng ra.

"Anh có chuyện gì thế?" Go hỏi. "Trông anh cứ rối bời thế nào ấy." Con bé vẩy bọt xà phòng vào tôi, thực ra là nước thì đúng hơn. Điều hòa không khí bắt đầu chạy làm những lọn tóc trên đỉnh đầu chúng tôi bay bay. Chúng tôi dành nhiều thời gian ở Quán Bar hơn mức cần thiết. Nó đã trở thành ngôi nhà tuổi thơ mà chúng tôi chưa từng có được. Năm ngoái, vào một đêm say mèm, chúng tôi đã bật mở những chiếc thùng chứa đồ trong tầng hầm ngôi nhà của bố mẹ. Khi ấy mẹ tôi còn sống nhưng cũng đã yếu lắm rồi, chúng tôi cảm thấy cần được vỗ về và hai anh em đã lục tìm lại những món đồ chơi cũ, cứ sau mỗi ngụm bia lại là những tiếng u u, a a. Giáng sinh tháng tám. Sau khi mẹ mất, Go chuyển về ngôi nhà cũ của gia đình tôi. Những món đồ chơi, từng thứ một, dần được chúng tôi sắp đặt lại ở Quán Bar: một con búp bê kiểu Strawberry Shortcake giờ không còn mùi thơm nữa được đặt trên chiếc ghế đẩu cao (quà của tôi tặng Go),một chiếc xe Hot Wheels El Camino nhỏ xíu, đã mất một bánh, được đặt trên chiếc giá trong góc quán (quà của Go tặng tôi).

Chúng tôi đã nghĩ tới việc cho ra mắt một chương trình buổi tối gồm những trò chơi tập thể, nhưng phần lớn khách hàng của chúng tôi đều đã quá tuổi để còn chút hoài nhớ về trò chơi Những chú hà mã đói ngấu hay Trò chơi cuộc sống qua những chiếc ô-tô nhỏ xíu bằng nhựa, bên trong đầy những chiếc ghim tượng trưng cho các cặp vợ chồng và con cái. Tôi không thể nhớ người ta đã giành chiến thắng bằng cách nào nữa.

Go rót đầy lại ly bia của mình và của tôi. Mí mắt trái của con bé hơi cụp xuống. Đã đúng giữa trưa rồi,12:00, và tôi tự hỏi không rõ Go uống từ bao giờ. Con bé đã có một chặng đường mười năm vất vả. Cô em gái ưa mạo hiểm của tôi, với bộ não của một nhà khoa học tên lửa và tinh thần của một kẻ cưỡi ngựa chăn gia súc, đã bỏ ngang việc học ở trường cao đẳng từ cuối những năm 90 để tới Mahattan. Con bé là một trong những hiện tượng ‘chấm-com’ đầu tiên - điên cuồng kiếm tiền trong vòng hai năm, để rồi đến năm 2000 cũng bị nhấn chìm trong sự bùng nổ của Internet. Go không chịu khuất phục. Con bé gần với ngưỡng tuổi hai mươi hơn là ba mươi, nó vẫn ổn. Chuyển sang phương án hai, Go hoàn tất việc học và tham gia vào giới đầu tư tài chính. Con bé ở mức độ trung bình, không hào nhoáng, cũng không có gì đáng hổ thẹn cả, nhưng con bé mất việc - một cách nhanh chóng - trong cuộc khủng hoảng năm 2008. Tôi thậm chí không hề biết Go đã rời New York cho đến khi con bé gọi cho tôi từ nhà bố mẹ: Em bỏ cuộc rồi. Tôi nài nỉ, phỉnh phờ con bé quay trở lại, nhưng từ phía đầu dây bên kia không một lời nào đáp lại ngoài sự im lặng giận dữ. Sau khi gác máy, trong tâm trạng rối bời tôi đến ngay căn hộ của Go ở Bowery và thấy Gary, cây si yêu quý của con bé đã héo úa và được đặt bên cạnh cửa thoát hiểm. Tôi nhận ra rằng con bé sẽ không bao giờ trở lại nữa.

Quán Bar dường như là niềm vui của Go. Con bé lo việc sổ sách, rót bia. Tuy thường xuyên lấy khoản tiền boa trong chiếc lọ, nhưng con bé làm việc nhiều hơn cả tôi. Chúng tôi chẳng bao giờ nói chuyện với nhau về cuộc sống trước đây. Chúng tôi là những kẻ mang họ Dunne mà. Chúng tôi chấp nhận cuộc sống và hài lòng với nó một cách khác thường.

"Này, sao vậy?" Go lên tiếng, theo cách con bé thường mở đầu một cuộc hội thoại.

"Ơ."

"Ơ cái gì? Ơ, tệ quá à? Trông anh kinh thật."

Tôi nhún vai tỏ ý đồng tình. Con bé dò xét nét mặt tôi.

"Lại là Amy sao?" Go hỏi. Một câu hỏi quá dễ để trả lời. Tôi lại nhún vai lần nữa - lần này là cái nhún vai khẳng định, kiểu biết làm sao được?

Go làm vẻ mặt hứng thú, chống khuỷu tay lên quầy bar, hai tay đỡ lấy cằm rồi gác chân lên ghế, chuẩn bị mổ xẻ cuộc hôn nhân của tôi đến cùng. Go - chuyên gia duy nhất của ban cố vấn. "Có chuyện gì với chị ta vậy?"

"Một ngày tệ hại. Chỉ là một ngày tệ hại thôi."

"Đừng để chị ta làm phiền anh." Go châm một điếu thuốc lá. Con bé hút mỗi ngày chỉ đúng một điếu. "Đàn bà là thứ điên rồ." Go không tự cho mình là một phần trong phạm trù tổng quát đàn bà đó, từ mà con bé đưa ra với ý giễu cợt.

Tôi thổi làn khói thuốc về phía chủ nhân của nó. "Hôm nay là kỷ niệm ngày cưới của bọn anh. Năm năm."

"Ái chà." Cô em gái của tôi nghếch đầu về phía sau. Con bé đã từng là phù dâu cho đám cưới với mọi thứ được trang hoàng trong ánh tím - "một quý cô tóc đen duyên dáng trong chiếc váy màu thạch anh tím", đúng như lời khen tặng của mẹ Amy dành cho Go. Nhưng ngày kỷ niệm đám cưới không phải là điều mà con bé để trong đầu. "Trời đất. Điên thật. Ông tướng này. Sao nhanh thế nhỉ." Con bé nhả khói thuốc về phía tôi, một kiểu đùa giỡn với mầm mống của căn bệnh ung thư. "Chị ta lại sắp sửa bày cái trò, ờ, anh gọi nó là gì nhỉ, hình như không phải săn tìm câu đố…"

"Săn tìm kho báu." Tôi đáp.

Vợ tôi rất thích các trò chơi, thường là các trò chơi trí tuệ, nhưng thực tế thì cũng là những trò chơi mang tính giải trí. Và vào các dịp kỷ niệm ngày cưới, cô ấy luôn chuẩn bị một trò chơi săn tìm kho báu rất tỉ mỉ, mỗi câu đố lại dẫn đến nơi cất giấu câu đố tiếp theo cho đến khi tôi về tới đích, nơi giấu món quà cô ấy dành tặng tôi. Đó là cách mà bố Amy luôn làm cho mẹ cô ấy vào mỗi dịp kỷ niệm ngày cưới của họ, và xin đừng cho rằng tôi không nhìn nhận ra vai trò giới trong trò chơi này, rằng tôi không hiểu được ẩn ý phía sau nó. Nhưng tôi không lớn lên trong gia đình của Amy. Tôi lớn lên trong gia đình của tôi, và món quà cuối cùng tôi nhớ bố tôi đã tặng mẹ là một chiếc bàn là được đặt trên bàn bếp, không gói bọc gì cả.

"Chúng ta có nên đánh cược xem năm nay chị ta sẽ khiến anh ngao ngán đến mức nào không nhỉ?" Margo vừa gợi ý vừa mỉm cười nhấp một ngụm bia.

Vấn đề với trò săn tìm kho báu của Amy là: Tôi chưa bao giờ giải được câu đố nào cả. Lần đầu tiên kỷ niệm ngày cưới, hồi còn ở New York, tôi giải được hai trong số bảy câu. Đấy là lần giỏi nhất rồi. Câu mở đầu như sau:

Nơi đây tuy chút tầm thường,

Nụ hôn thu đó yêu thương ngập tràn.

Bạn đã từng chơi trò đánh vần của trẻ con rồi chứ? Cái phút giây ngỡ ngàng sau khi một từ được xướng lên đó, khi mà bộ não của bạn phải phân tích xem liệu mình có đánh vần được từ đó hay không? Cảm giác giống như thế đấy, hoang mang và trống rỗng.

"Một quán bar kiểu Ireland ở một nơi chẳng hề Ireland chút nào." Amy huých huých khuỷu tay mình.

Tôi cắn mím một bên mép, nhún vai một cái rồi nhìn khắp phòng khách như thể câu trả lời có thể đang nằm ở đó. Vợ tôi lại cho thêm một phút thật lâu nữa.

"Chúng ta đã bị lạc trong mưa." Amy nói với giọng khẩn thiết đến mức gần như tức giận.

Tôi chỉ biết nhún vai.

"Quán McMann’s, Nick. Anh có nhớ không, bọn mình đã bị lạc ở khu phố Tàu dưới trời mưa trong khi cố tìm cái quán sủi cảo đó. Cả hai ta cứ tưởng quán đó ở gần chỗ đặt bức tượng Khổng Tử nhưng hóa ra lại có đến hai bức tượng như thế, và rồi bọn mình vô tình bước vào quán bar đó, ướt như chuột lột. Sau đó chúng ta gọi vài ly whisky, rồi anh đã ôm và hôn em, đó là…"

"Phải rồi! Đáng lẽ em nên đưa ra chi tiết về Khổng Tử, hẳn là anh đã nhớ ra."

"Bức tượng không phải vấn đề. Mà vấn đề là địa điểm đó. Khoảnh khắc đó. Em đã tưởng rằng nó đặc biệt lắm cơ đấy." Amy nhấn nhá những từ cuối cùng bằng giọng giận dỗi trẻ con đã từng khiến tôi phải say đắm.

"Đặc biệt mà." Tôi kéo Amy vào lòng rồi hôn cô ấy. "Nụ hôn này là sự tái hiện kỷ niệm đặc biệt của anh. Nào chúng mình cùng làm lại như lần ở quán McMann’s đó nhé."

Tay chủ quán McMann’s, người to béo như gấu với bộ râu quai nón nhìn thấy chúng tôi bước vào liền mỉm cười rạng rỡ, rót cho chúng tôi hai ly whisky, và đưa đẩy sang câu đố tiếp theo.

Khi tôi mỏi mệt và chán chường

Duy chỉ một nơi giấu vấn vương.

Câu đó té ra muốn nói đến bức tượng Alice ở xứ sở thần tiên trong Công viên Trung tâm mà Amy đã nói với tôi - cô ấy đã từng nói với tôi, cô ấy biết cô ấy đã nói với tôi nhiều lần rồi, rằng khi còn nhỏ đó chính là nơi luôn khiến cô ấy cảm thấy nhẹ lòng. Tôi đã không một nhớ chút nào về những cuộc hội thoại đó. Ở điểm này tôi hoàn toàn thành thật, tôi không hề nhớ. Tôi mắc chứng rối loạn mất tập trung, và tôi luôn cảm thấy vợ mình rực rỡ vô cùng, theo đúng nghĩa thuần khiết nhất của từ rực rỡ: người ta sẽ bị lóa mắt, nhất là khi nhìn vào thứ ánh sáng rạng ngời đó. Được ở bên và nghe cô ấy nói đã là quá đủ rồi, không hẳn lúc nào cũng phải để ý cô ấy đang nói gì. Đáng lý ra tôi nên để ý, nhưng thực tế đã không như vậy.

Đến cuối ngày, khi chúng tôi trao nhau những món quà thực sự - những món quà được bọc trong giấy gói như thường lệ nhân ngày kỷ niệm đầu tiên - Amy đã không nói gì với tôi cả.

"Anh yêu em, Amy. Em biết là anh yêu em mà." Tôi vừa nói vừa đuổi theo cô ấy, len lỏi qua những nhóm khách du lịch gia đình tụ tập trên hè phố còn đang sửng sốt, mắt chữ o miệng chữ a. Amy lách mình giữa những đám đông trong Công viên Trung tâm, thoăn thoắt len qua khe hở giữa những người chạy bộ và những người trượt ván, giữa những cặp bố mẹ và lũ trẻ còn đang chập chững bước đi. Cô ấy lao nhanh như kẻ say, lúc nào cũng ở phía trước tôi, môi mím chặt và vội vội vàng vàng thẳng tiến mà không có đích đến. Tôi cố gắng đuổi theo, tóm lấy cánh tay cô ấy. Cuối cùng Amy cũng dừng lại, làm vẻ mặt lạnh tanh khi tôi phân trần cho chính mình, ngón tay giữa giơ lên đã khiến sự tức giận của tôi nhẹ bớt: "Amy, anh không hiểu nổi tại sao anh cần chứng minh tình yêu của mình dành cho em bằng cách phải ghi nhớ chính xác những gì em làm, chính xác theo cách em muốn. Điều đó không có nghĩa là anh không yêu cuộc sống mà chúng ta đang cùng sẻ chia."

Một chú hề gần đó đang thổi bóng hình con thú. Một người đàn ông đang mua một bông hồng. Một đứa trẻ đang liếm láp chiếc kem ốc quế. Giữa cảnh tượng đó, một thực tế trần trụi ra đời, một thực tế mà tôi sẽ không bao giờ quên được: Amy lúc nào cũng quá phấn khích, còn tôi chưa bao giờ, chưa từng bao giờ xứng đáng với những nỗ lực đó. Xin chúc mừng lễ kỷ niệm, tên khốn nạn.

"Em nghĩ, năm năm rồi, chị ta sẽ thấy thực sự ngán ngẩm cho mà xem." Go tiếp lời. "Nên em hy vọng anh sẽ tặng chị ta một món quà ra trò."

"Anh sẽ ghi lại trong mục những việc cần làm."

"Năm năm thì, cái gì nhỉ, giống như biểu trưng ấy? Giấy à?"

"Giấy là năm đầu tiên." Tôi đáp. Sau khi kết thúc trò chơi săn tìm kho báu khốn khổ không mong đợi vào dịp kỷ niệm đầu tiên ấy, Amy đã tặng tôi một bộ văn phòng phẩm trang nhã. Các chữ cái đầu viết tắt tên của tôi được in nổi ở trên cùng, và loại giấy đó mềm đến mức tôi đã thầm mong những ngón tay mình đừng có ướt. Để đáp lại, tôi tặng vợ mình một chiếc diều giấy màu đỏ với hình dung về công viên và những cuộc dạo chơi ngoài trời trong nắng hè dịu nhẹ. Chẳng ai trong chúng tôi thích món quà mình được tặng cả, chúng tôi thích nhận được món quà của người kia hơn. Một thứ ngạc nhiên trái khoáy.

"Là bạc à?" Go đoán. "Là đồng? Hay ngà? Nói cho em biết đi."

"Là gỗ." Tôi nói. "Chẳng có món quà lãng mạn nào làm bằng gỗ cả."

Ở phía cuối quầy bar, Sue đã gập gọn gàng tờ báo của mình lại và đặt nó lên mặt quầy cùng với chiếc cốc rỗng không và tờ giấy bạc năm đô-la. Chúng tôi mỉm cười chào nhau khi bà ấy rời khỏi quán.

"Em có ý này." Go nói. "Về nhà đi, làm tình cuồng nộ vào, dùng cái của quý của anh mà quật vào chị ta rồi hét lên: "Đây là thứ gỗ dành cho cô đây, đồ quỷ cái!"

Chúng tôi cười phá lên. Cả hai anh em đều đỏ ửng hai bên má và ở cùng một vị trí. Go thích thú khi nhắm thẳng câu đùa có phần thô tục và hư hỏng ấy vào tôi như thể vừa ném một trái lựu đạn vậy. Đó cũng là lý do vì sao, thời trung học, chúng tôi luôn bị đồn thổi là đã vụng trộm giao cấu với nhau. Tình dục giữa anh em song sinh. Chúng tôi đã quá gắn bó, từ những trò đùa ẩn ý đến những lời thì thầm lả lướt. Tôi khá tự tin rằng mình không phải dông dài về điều này, nhưng các bạn không phải là Go, các bạn có thể hiểu sai, vì vậy tôi sẽ nói cho rõ: Em gái tôi và tôi chưa từng bao giờ giao cấu với nhau hay thậm chí nghĩ đến việc giao cấu với nhau cả. Chỉ là chúng tôi thực sự yêu quý nhau.

Lúc này Go đang giả diễn trò dùng thứ của quý đó tát vào mặt vợ tôi.

Không, Amy và Go không bao giờ có thể là bạn được. Bọn họ là hai thế giới khác biệt. Go đã từng là cô nàng nổi loạn trong cuộc đời tôi, còn Amy lại từng là cô nàng nổi loạn trong cuộc đời của tất cả mọi người. Đối với hai người đàn bà sống trong cùng một thành phố - đến những hai lần cùng thành phố, đầu tiên là New York, giờ là thành phố này - bọn họ hầu như chẳng biết gì về nhau cả. Bọn họ nhẹ nhàng bước vào rồi lại bước ra khỏi cuộc đời tôi như thể những diễn viên kịch chuyển vai, kẻ này vừa bước ra tới cửa thì người kia đi vào. Và những dịp hiếm có mà bọn họ cùng có mặt trong một căn phòng, dường như cả hai đều có phần sửng sốt vì sự chạm mặt đó.

Trước khi Amy và tôi tính chuyện nghiêm túc, đính hôn rồi làm đám cưới, tôi có thể lờ mờ bắt được suy nghĩ thành lời của Go ở chỗ này hay chỗ khác. Thật buồn cười, em không thể hoàn toàn nhận diện được chị ta, không biết chị ta thực sự là người thế nào nữa. Rồi: Anh dường như không phải là chính mình khi ở bên chị ta. Hay: Việc thực sự yêu một ai đó và yêu suy nghĩ của người đó là hai việc khác nhau. Và cuối cùng: Quan trọng là chị ta làm cho anh thực sự hạnh phúc.

Đó là quãng thời gian Amy thực sự đã làm cho tôi hạnh phúc.

Amy cũng có quan điểm riêng của mình về Go: Cô ấy rất… Missouri, phải vậy không? Hay: Đối với cô ấy anh phải lựa cảm xúc của mình. Và: Cô ấy có phần nũng nịu với anh

nhỉ, nhưng em đoán là ngoài anh ra cô ấy chẳng còn ai khác nữa.

Tôi đã hy vọng khi chúng tôi quay trở về Missouri cả hai sẽ bỏ qua mọi chuyện - dù hòa thuận hay bất hòa thì cũng thoải mái là chính mình. Nhưng không ai được như mong đợi cả. Dẫu vậy thì Go vẫn vui vẻ hơn Amy, cho nên thế trận dường như không cân sức. Amy khôn khéo, ngạo nghễ và hay châm biếm. Amy có thể khiến tôi phát điên lên, có thể chọc xoáy một cách sắc sảo, nhưng Go lại luôn khiến tôi bật cười. Và cười nhạo vị hôn thê của mình quả là điều nguy hiểm.

"Go, anh tưởng chúng ta đã thỏa thuận là em sẽ không bao giờ nhắc đến cái của quý của anh nữa cơ mà." Tôi nói. "Điều đó nằm trong giới hạn tình anh em của chúng ta, hãy coi như anh không có cái của quý đó."

Điện thoại đổ chuông. Go nhấp thêm một ngụm bia nữa rồi nhấc máy. Con bé nhướng mày và mỉm cười. "Chắc chắn anh ấy ở đây rồi, đợi một lát nhé!" Go quay sang tôi mấp máy môi: "Carl."

Carl Pelly ở đối diện bên kia con phố với tôi và Amy. Đã nghỉ hưu từ ba năm nay. Đã ly hôn từ hai năm trước. Ngay sau đó anh ta chuyển vào khu phố của chúng tôi. Anh ta từng là người bán dạo - những đồ thiết yếu cho bữa tiệc của trẻ con - và tôi có cảm giác sau bốn thập kỷ sống rong ruổi, với anh ta không hẳn ở nhà mới là sống ở nhà. Hầu như ngày nào anh ta cũng đến quán bar với một túi đồ ăn Hardee nặng mùi gia vị rồi than phiền về vấn đề tài chính của mình cho đến khi anh ta được mời một ly miễn phí. (Đây là một đặc điểm khác về Carl mà tôi tìm hiểu được qua thời gian anh ta lui tới Quán Bar - anh ta là một kẻ nghiện rượu nặng dù vẫn có thể tự kiếm sống được.) Carl luôn nhanh nhẹn nhận xin bất kể thứ gì mà chúng tôi "cố gắng vứt đi", và anh ta làm thế là có ý của mình: Trong vòng một tháng tròn Carl đã không uống gì ngoài những chai Zima được sản xuất từ năm 1992 mà chúng tôi tìm được ở dưới hầm. Khi ốm vì rượu và buộc phải ở nhà, Carl sẽ viện cớ gì đó để gọi điện: Hộp thư nhà anh hôm nay trông đầy ứ, Nicky ạ, hình như có một gói hàng mới chuyển đến thì phải. Hay là: Trời có vẻ sắp mưa, chắc anh phải đóng cửa sổ vào. Những cái cớ vớ vẩn. Với Carl, anh ta chỉ cần nghe tiếng chạm cốc hay tiếng rượu được rót ra mà thôi.

Tôi vừa cầm máy vừa lắc lắc một chiếc cốc vại đầy đá gần phía đầu ống nói để Carl có thể tưởng tượng ra ly rượu gin của mình.

"Này, Nicky." Giọng lướt khướt của Carl cất lên. "Xin lỗi vì làm phiền anh bạn. Tôi chỉ nghĩ là anh nên biết… cửa nhà anh đang mở toang hoang, và con mèo của anh đang chạy ra ngoài. Mà đáng lẽ nó không nên thế, đúng không?"

Tôi lẩm bẩm không thành lời.

"Tôi định ra xem thế nào, nhưng tôi hơi mệt vì say quá." Carl líu lưỡi nói.

"Không sao." Tôi đáp. "Cũng đến lúc tôi phải về rồi."

Mất mười lăm phút lái xe, thẳng về hướng bắc dọc theo Đường Sông. Lái xe vào khu phố nhà mình thi thoảng vẫn khiến tôi rùng cả mình, một số lớn những ngôi nhà tăm tối cửa mở toang hoác - chúng chẳng bao giờ có người đến ở, hoặc có chủ thì họ lại buộc phải rời đi. Những ngôi nhà nằm đó hiên ngang, trống trải và không hơi người.

Khi Amy và tôi chuyển tới khu này, những người hàng xóm đến thăm chúng tôi chỉ gồm có: một người mẹ đơn thân trung tuổi với ba đứa con, mang theo món thịt hầm, một ông bố trẻ có ba đứa con sinh ba mang theo một két bia loại sáu chai (vợ anh ta đã bỏ nhà ra đi cùng với ba đứa con), một cặp vợ chồng già theo Cơ đốc giáo sống cách chúng tôi chừng vài căn, và tất nhiên cả Carl nữa, người sống phía bên kia con phố. Chúng tôi ngồi bên ngoài khoảng sàn gỗ phía sau nhà và ngắm nhìn dòng sông. Tất cả bọn họ đều rầu rĩ bàn luận về cổ phiếu của ARM, lãi suất không phần trăm, hay việc mua nhà không phải trả tiền trước, rồi sau đó tất cả bọn họ lại bình luận về việc Amy và tôi là những người duy nhất có căn nhà nhìn ra mặt sông, là cặp duy nhất vẫn chưa có con. "Chỉ có hai anh chị thôi à? Trong cả căn nhà rộng lớn thế này ư?" Người mẹ đơn thân kia hỏi chúng tôi khi đang làm món trứng bác hay gì đó.

"Chỉ có hai chúng tôi thôi." Tôi mỉm cười xác nhận và gật đầu cảm kích khi đưa một thìa đầy món trứng xốp mềm đó lên miệng.

"Có vẻ trống trải quá."

Về điều này thì chị ta đúng.

Bốn tháng sau, người phụ nữ đó không thể đặt tiền thế chấp nhà và đã biến mất trong đêm cùng với ba đứa con của mình. Căn nhà của chị ta vẫn bỏ không. Cửa sổ phòng khách vẫn còn treo bức tranh vẽ một chú bướm của đứa con, tông màu tươi sáng rực rỡ giờ đã ngả dần sang màu nâu. Một buổi tối cách đây không lâu, tôi lái xe qua đây và nhìn thấy một người đàn ông râu quai nón trong bộ quần áo dơ dáy đứng phía sau bức tranh nhìn đăm đăm ra ngoài, thập thò trong bóng tối như thể một chú cá u sầu bơi trong bể. Khi nhận ra tôi đang nhìn thì ông ta thụt người lại về phía bóng tối hun hút của ngôi nhà. Ngày hôm sau tôi để ở thềm trước ngôi nhà một túi giấy màu nâu bên trong đựng đầy bánh mỳ kẹp, nó vẫn nằm y nguyên ở đó dưới cái nắng suốt một tuần liền, thiu thối cả ra cho đến khi tôi nhặt nó đem vứt đi.

Im lặng. Cả khu phố lúc nào cũng im lặng một cách đáng sợ. Khi tôi về gần đến nhà, nhận ra tiếng động cơ ô-tô nên tôi đã thấy con mèo ngoan ngoãn ở trên bậc thềm. Hai mươi phút sau cuộc gọi của Carl, nó vẫn ở đó. Thật kỳ lạ. Amy rất thích con mèo này, một con mèo đã được cắt móng, chưa bao giờ biết ra ngoài, chưa từng bao giờ cả, bởi con mèo Bleecker này rất ngoan nhưng lại cực kỳ ngu đần. Mặc cho thiết bị dò tìm LoJack đã được cài đặt ở đâu đó trong đám lông xù bông tròn kia của nó, Amy vẫn hiểu rằng cô ấy sẽ không bao giờ còn thấy nó nữa nếu như nó bỏ ra ngoài. Con mèo sẽ lặc lè thẳng tiến về phía dòng sông Mississippi - tèn tén ten - thế là trôi tuột về Vịnh Mexico và rơi vào miệng của một con cá mập bò mộng đói khát nào đó.

Nhưng rốt cuộc con mèo thậm chí chẳng đủ thông minh để đi quá mấy bậc thềm. Bleecker ngồi chồm hỗm trên mép hiên nhà, một anh lính canh béo ú nhưng ngạo nghễ - cố sức quá mức. Khi tôi đánh xe vào nhà, Carl xuất hiện và đứng trên thềm trước nhà anh ta. Tôi có thể cảm thấy cả con mèo lẫn anh ta đều đang nhìn mình khi tôi bước xuống xe và đi về phía ngôi nhà. Những đóa mẫu đơn đỏ thắm đã bừng nở dọc hai bên hàng rào như lên tiếng đòi được ngắm nhìn.

Thấy cửa trước đang mở, tôi định đi về phía có thể chặn đường để bắt con mèo. Carl đã nói không sai, nhưng tận mắt nhìn thì mới thấy khác biệt. Cửa không để ngỏ theo kiểu chỉ-ra-ngoài-một-lát-để-đổ-rác. Cửa mở toang-hoác-một-cách-đáng-ngờ.

Carl đứng tần ngần bên kia đường chờ đợi phản ứng của tôi. Và như một trích đoạn kịch tồi tệ, tôi cảm thấy chính mình đang đóng vai Người chồng lo lắng. Tôi đứng trên bậc giữa thềm tư lự, rồi sau đó bước vội vàng hai bậc một và lớn tiếng gọi tên vợ mình.

Im lặng.

"Amy, em có ở nhà không?"

Tôi chạy thẳng lên tầng trên. Không có Amy. Chiếc bàn ủi đồ đã được đặt sẵn ở đó, bàn là vẫn cắm điện, một chiếc váy đang chuẩn bị được là.

"Amy!"

Khi chạy xuống nhà, qua lối cửa ra vào đang mở tôi thấy Carl vẫn đứng đó, hai tay chống nạnh quan sát. Tôi rẽ ngoặt sang phía phòng khách rồi đột ngột dừng lại. Chiếc thảm trải sàn lấp loáng đầy những mảnh vỡ của thủy tinh. Chiếc bàn uống cà phê đã vỡ tan tành. Mấy chiếc bàn phụ vẫn ở bên cạnh. Sách nằm ngổn ngang trên sàn nhà như những quân bài. Ngay cả chiếc ghế cổ bọc đệm cũng bị lật ngửa, bốn chân ghế nhỏ xíu chổng ngược lên trông như thứ gì đó đã chết. Giữa đám đổ vỡ ấy là một chiếc kéo sắc bén.

"Amy!"

Tôi bắt đầu chạy và hét gào tên cô ấy. Xuyên qua gian bếp - nơi chiếc ấm nước vẫn đang đỏ lửa, rồi xuống tầng hầm - nơi phòng khách trống không, rồi lao ra khỏi cửa hậu. Tôi chạy rầm rập băng qua sân rồi bước lên khoảng sàn gỗ mỏng manh lối dẫn ra phía bờ sông. Tôi trộm liếc sang bên để xem liệu cô ấy có đang ở trên chiếc thuyền mái chèo của chúng tôi hay không, nơi tôi đã có lần bắt gặp cô ấy ngồi trên thuyền vẫn buộc dây neo bến và ném đá xuống sông, mặt hướng về phía mặt trời và mắt nhắm lại. Khi tôi ngó xuống mặt sông lấp loáng, chăm chú nhìn ngắm khuôn mặt xinh đẹp của cô ấy thì Amy bất chợt mở choàng đôi mắt xanh biếc của mình và chẳng nói với tôi một lời nào. Tôi cũng không nói gì mà chỉ lủi thủi đi vào nhà.

"Amy!"

Cô ấy không ở ngoài đó. Cô ấy không ở trong nhà. Không thấy Amy đâu cả.

Cô ấy đã biến mất.

Đã sửa bởi Trần Thu Lệ lúc 10.03.2015, 11:16.
 
Chương 4: Amy Elliott


18 tháng 9 năm 2005

- Nhật ký -

Nào, nào, nào! Thử đoán xem ai đã trở lại? Nick Dunne, anh chàng tiệc tùng ở khu Brooklyn với nụ hôn êm dịu ngọt ngào và hành tung bí ẩn. Tám tháng, hai tuần, vài ngày đã qua, không một lời nào, rồi sau đó lại xuất hiện, như thể tất cả đều nằm trong kế hoạch vậy. Té ra là anh ta đã để mất số điện thoại của tôi. Điện thoại cầm tay của anh ta hết pin nên anh ta đã phải ghi số của tôi vào một tờ giấy nhớ. Sau đó tờ giấy dán lại được nhét vào túi quần jeans, chiếc quần jeans lại được cho vào máy giặt, và rốt cuộc là mẩu giấy nhớ trở thành một cục giấy nhàu nát. Anh ta đã cố gỡ nó ra nhưng chỉ còn đọc được một số 3 và một số 8. (Anh ta nói)

Và sau đó công việc đã cuốn lấy anh ta. Rồi đột nhiên đã đến tháng Ba. Đã quá muộn màng và bối rối để cố gắng bắt lại liên lạc với tôi. (Anh ta nói)

Hiển nhiên là tôi đã rất giận. Tôi đã thực sự tức giận. Nhưng giờ thì tôi không giận nữa. Để kể lại câu chuyện nhé. (Cô ấy nói.) Hôm nay. Một ngày tháng Chín nổi dông gió. Tôi đang dạo bước dọc theo Đại lộ số Bảy, dành khoảng thời gian nghỉ trưa để trầm ngâm suy nghĩ về những chiếc thùng bodega đặt bên đường - loại thùng chứa như không đáy bằng nhựa dành cho các loại dưa xanh, dưa vàng và mật ngọt. Chúng được đặt trên đá lạnh trông như thể một mẻ cá được đánh bắt trong ngày. Rồi tôi có cảm giác một người đàn ông áp gần sát phía bên cạnh mình khi tôi lững thững bước đi. Tôi liếc nhìn kẻ lạ mặt đó và nhận ra đó là ai. Chính là anh ta. Anh chàng mà tôi đã viết ở trang "Mình đã gặp một anh chàng!"

Tôi không dừng lại mà chỉ quay sang phía anh ta và nói:

A. "Tôi có biết anh không nhỉ?" (vừa lôi kéo, vừa thách thức)

B. "Chao ôi, tôi rất vui lại gặp anh!" (vừa háo hức, vừa như một kẻ đáng khinh)

C. "Anh cút xéo đi cho tôi nhờ." (vừa hung hăng, vừa chua chát)

D. "Ồ, chắc hẳn anh cần thời gian cho chuyện đó, phải không Nick?" (nhẹ nhàng, khôi hài và thoải mái)

Câu trả lời: D

Và giờ thì chúng tôi đang ở bên nhau. Ở bên nhau, ở bên nhau. Mọi sự đã dễ dàng như thế đấy.

Thật thú vị và thật đúng lúc. Thời cơ, nếu bạn nắm bắt được. (Và tôi sẽ nắm bắt được) Mới tối qua thôi bữa tiệc mừng cuốn sách Amy tuyệt vời và Ngày trọng đại của bố mẹ tôi đã được tổ chức. Vâng, Rand và Marybeth đã không thể kìm nén được nên cả hai đã tặng cho nhân vật cùng tên với con gái mình thứ mà thực tế họ đã không tặng được cho cô: một người chồng! Vâng, trong sách thì ở tuổi hai mươi, cô Amy tuyệt vời đó sẽ cưới chồng! Hay quá nhỉ. Chẳng ai quan tâm. Chẳng ai muốn Amy tuyệt vời kia sẽ trưởng thành, ngay cả tôi. Cứ mặc kệ cô ta mang đôi vớ ngang đầu gối với mái tóc buộc ruy-băng và hãy để tôi trưởng thành mà không bị cản mũi bởi cái bản ngã văn học đã được sửa đổi đó, một nửa tốt đẹp nằm trên giấy đó của tôi, hình mẫu mà đáng lẽ tôi phải là như vậy.

Nhưng Amy giống như thứ bánh mỳ và bơ Elliott, khiến người ta thấy rất ưng vị, nên tôi cho là mình không thể nào sánh với một nửa hoàn hảo của cô ta được. Lẽ dĩ nhiên là cô ta sẽ cưới anh chàng Able Andy thân thiết tuyệt vời đó. Bọn họ sẽ giống như bố mẹ tôi: hạnh phúc và hạnh phúc.

Tuy nhiên vẫn có vấn đề đáng ngại, đó là số lượng bản in vô cùng ít ỏi mà nhà xuất bản đưa ra. Thời kỳ những năm 80, một bản Amy tuyệt vời mới tinh thường được xuất bản hàng trăm nghìn cuốn. Giờ chỉ là mười nghìn. Bữa tiệc ra mắt cuốn sách cũng vì thế mà kém hoành tráng. Lệch điệu. Làm sao người ta lại muốn tổ chức một bữa tiệc rình rang chỉ vì một nhân vật hư cấu, bước ra thế giới từ khi còn là một đứa bé sáu tuổi đáng yêu sớm trưởng thành, mà giờ khi đã là một cô dâu hai mươi tuổi rồi vẫn mang giọng điệu của một đứa trẻ thơ? ("Ôi trời, vị hôn phu đáng mến của mình chắc chắn sẽ tức điên lên khi anh ấy không được như ý muốn…" Amy nghĩ. Thực tế đó mới là một trích đoạn, chứ đọc cả cuốn sách khiến tôi chỉ muốn đập thẳng vào cái nghìn vàng vẫn còn trong trắng và ngu độn của cô ta.) Cuốn sách là một thứ hoài niệm, muốn nhắm vào những phụ nữ đã từng lớn lên cùng Amy tuyệt vời, nhưng tôi không dám chắc trên thực tế có ai muốn đọc nó hay không. Tất nhiên, tôi đã đọc nó. Tôi chúc nguyện cho cuốn sách - đến hàng trăm lần ấy chứ. Rand và Marybeth đã sợ rằng việc kết hôn của Amy có thể sẽ khiến cho tình trạng độc thân thường xuyên của tôi bị tổn thương. ("Đối với mẹ, mẹ không cho là phụ nữ nên cưới chồng trước tuổi ba mươi lăm." Mẹ tôi, người phụ nữ đã cưới bố tôi ở tuổi hai mươi ba, đã nói như vậy đấy.)

Bố mẹ tôi luôn lo lắng rằng tôi sẽ nghĩ Amy là một nhân vật đả kích mình - họ lúc nào cũng khuyên tôi đừng có đọc nhiều về cô ta nữa. Thế nhưng tôi không thể không nhận thấy là bất cứ khi nào tôi làm hỏng một việc gì thì Amy luôn luôn làm đúng: Khi tôi bỏ học đàn violon năm mười hai tuổi, Amy trở thành thần đồng âm nhạc trong cuốn sách tiếp theo. ("Ối trời, học đàn violon là một việc khó làm sao, nhưng làm việc khó mới là cách duy nhất để nên người!") Khi tôi bỏ thi đấu giải trẻ môn quần vợt năm mười sáu tuổi để đi nghỉ cuối tuần ở biển với bạn bè thì Amy quay trở lại với cuộc chơi. ("Ôi trời, mình biết đi chơi với các bạn thì sẽ vui lắm, nhưng mình sẽ khiến chính mình và những người khác phải thất vọng nếu mình bỏ cuộc.") Điều đó đã khiến tôi phát điên lên được, nhưng sau khi vào trường Harvard (còn Amy thì chọn chính xác trường của bố mẹ tôi), tôi đã tự nhủ sẽ thật ngớ ngẩn nếu cứ nghĩ về những chuyện như thế. Đó là vấn đề của bố mẹ tôi, hai nhà tâm lý học trẻ em, khi chọn cách thức công khai đặc biệt này về chứng bệnh gây sự thụ động của đứa con gái mình, không chỉ chán ngắt mà còn ngu xuẩn và kỳ quái với vẻ khôi hài. Đã vậy thì cứ để thế đi.

Bữa tiệc ra mắt cũng kỳ quái như chính cuốn sách vậy - được tổ chức tại quán Bluenight, nằm ngoài Quảng trường Thống nhất, một trong những salon mờ ảo đặc trưng bởi những chiếc ghế tựa và những tấm gương trang trí nghệ thuật với ý đồ giúp cho khách hàng có cảm giác Trẻ trung Tươi mới. Những ly rượu gin martini lắc lư nằm trên khay được nâng lên hạ xuống bởi mấy tay phục vụ lúc nào cũng ngoác miệng cười. Cánh nhà báo toàn kẻ phàm ăn tục uống với điệu cười ngớ ngẩn làm trò chỉ nhằm ăn chực cho xong trước khi biến đi chỗ nào khác khá khẩm hơn.

Bố mẹ tôi nắm tay nhau đi một vòng quanh khán phòng - câu chuyện tình của họ luôn là một phần của Amy tuyệt vời: chồng và vợ cùng nhau lao động sáng tạo trong suốt một phần tư thế kỷ. Những người bạn tâm giao. Bố mẹ tôi luôn tự cho họ là như vậy, cũng phải thôi, bởi tôi nghĩ quả thực họ là những người bạn tâm giao. Tôi có thể bảo đảm về điều này, với tư cách là đứa con bé bỏng đơn côi duy nhất sau bấy nhiêu năm ngẫm suy về bố mẹ mình. Họ chẳng bao giờ xô xát hay có mâu thuẫn sâu sắc nào. Họ cùng nhau trải nghiệm cuộc sống như đôi sứa, lúc xòe ra, khi cụp lại một cách bản năng, nhẹ nhàng giúp nhau lấp kín những khoảng trống. Cuộc sống diễn ra thật êm đẹp, khi là những người bạn tâm giao. Người ta nói con cái trong những gia đình tan vỡ thường đón nhận cuộc sống không mấy dễ dàng, nhưng con cái dưới những mái nhà êm đẹp cũng có nỗi khổ tâm riêng.

Như thường lệ, tôi phải ngồi bên bàn tiệc có bọc đệm nhung nằm trong góc khán phòng, tách biệt hẳn khỏi đám đông, vì thế tôi đã trả lời vài phỏng vấn của một số thực tập sinh đang bế tắc với việc "tìm một trích dẫn", một nhiệm vụ từ các biên tập viên của họ.

Chị cảm thấy thế nào khi Amy cuối cùng đã kết hôn cùng Andy? Bởi chị chưa kết hôn, phải vậy không ạ?

Câu hỏi này được đặt ra bởi:

A. một cậu nhóc có đôi mắt ốc nhồi bẽn lẽn đang cố giữ cuốn sổ ghi chép cân bằng trên chiếc túi đưa thư của mình

B. một em gái trẻ trung chưng diện quá mức với mái tóc bóng mượt trên đôi cao gót kiểu gạ tình

C. một cô nàng mang hơi hướng rock và xăm mình, đầy háo hức với vẻ quan tâm đến Amy hơn mức mà người ta nghĩ một cô nàng kiểu đó có thể quan tâm

D. tất cả những đối tượng trên

Đáp án là: D

Tôi đáp: "Ồ, tôi thấy rất xúc động vì Amy và Andy, cầu chúc cho họ những điều tuyệt vời nhất. Ha, ha."

Còn đây là câu trả lời của tôi dành cho tất cả câu hỏi, không theo thứ tự nhất định nào:

"Một số điểm về Amy được lấy cảm hứng từ chính tôi, còn một số khác chỉ là hư cấu."

"Hiện tại tôi rất thoải mái với cuộc sống độc thân của mình, không phải vướng bận với anh chàng Able Andy nào cả!"

"Không, tôi không cho rằng Amy đã đơn giản hóa quá mức mối quan hệ nam-nữ."

"Không, tôi không nói Amy lạc hậu, tôi nghĩ toàn bộ seri truyện là một dạng kinh điển."

"Vâng, tôi đang độc thân. Hiện không có Able Andy nào bên tôi cả."

"Tại sao Amy tuyệt vời và Andy thì có tài ư? Ồ, chẳng lẽ anh lại không biết đến những phụ nữ quyền năng và tuyệt đỉnh đến mức chỉ kết đôi với những anh chàng chuẩn mực, kiểu như Average Joe hay Able Andy vậy? Tôi nói đùa thôi, đừng viết cái đó nhé."

"Vâng, tôi vẫn độc thân."

"Vâng, bố mẹ tôi hoàn toàn là những người bạn tâm giao của nhau."

"Vâng, tôi cũng mong một ngày nào đó mình được như thế."

"Vâng, độc thân, mẹ kiếp."

Hết câu hỏi này đến câu hỏi khác đều giống như nhau, và tôi cố lờ đi cách tư duy khiêu khích của bọn họ. Còn bọn họ thì cố lờ đi rằng mình đang khiêu khích. Ơn trời vì không gian cởi mở này.

Sau đó không ai khác muốn trò chuyện với tôi cả - nhanh thật - và cô nàng phụ trách PR thì làm ra vẻ như đó là một việc tốt: Giờ thì chị có thể trở lại với bữa tiệc được rồi nhé! Tôi len mình trở lại một nhóm (ít người), chỗ bố mẹ tôi đang đứng tiếp khách với vẻ mặt xúc động - Rand mỉm cười khoe hàm răng của loài cá quỷ thời tiền sử còn Marybeth thì cứ lắc lư cái đầu hớn hở như gà con, hai bàn tay họ xoắn lấy nhau, thích thú và làm cho nhau cười vui sung sướng - còn tôi thì nghĩ rằng mình mới lẻ loi làm sao.

Tôi về nhà và khóc lóc một lúc. Tôi đã gần ba mươi hai rồi. Tuổi đó chưa phải già, nhất là ở New York, nhưng thực tế là đã nhiều năm qua tôi không thực sự thấy thích một ai cả. Vậy thì làm sao có chuyện tôi sẽ gặp người nào đó mà tôi yêu được cơ chứ, chưa nói đến việc gặp một người khiến tôi yêu đến mức muốn cưới làm chồng? Tôi mệt mỏi vì không biết ai sẽ là người ở bên tôi hay liệu sẽ có ai ở bên tôi hay không.

Nhiều bạn bè của tôi đã lập gia đình - không nhiều trong số đó có cuộc hôn nhân hạnh phúc, nhưng đúng là nhiều người đã cưới rồi. Một số ít người cũng hạnh phúc như bố mẹ tôi thì cảm thấy trăn trở vì tôi vẫn độc thân. Một cô gái thông minh, xinh đẹp, tốt tính như tôi, một cô gái với biết bao niềm đam mê và lòng nhiệt thành, có công việc tốt, có gia đình gắn bó. Nói thẳng ra là: tiền. Họ nhíu mày và cố nghĩ tới một người đàn ông mà họ có thể mách mối cho tôi, nhưng tất cả bọn họ đều hiểu rằng không còn ai cả, không còn ai tốt cả, và tôi biết họ nghĩ bụng rằng có điều gì đó không ổn với tôi, có điều gì đó thầm kín khiến tôi không thể thỏa mãn và không hài lòng.

Những người đã lập gia đình mà không phải bạn thân thiết với tôi thậm chí không thèm ý tứ gì với việc tôi độc thân hết: Chẳng khó khăn gì để tìm một ai đó mà cưới, bọn họ nói vậy. Theo bọn họ thì chẳng có mối quan hệ nào hoàn hảo cả, bởi bọn họ là những kẻ coi chuyện chăn gối như một thứ nghĩa vụ và một kiểu tín ngưỡng khoa trương vào giờ đi ngủ, coi tivi như kênh giao tiếp, coi những điều kiện của chồng - vâng, anh yêu, được rồi, anh yêu - như là hiệp ước. Tôi đã nghĩ rằng, anh ta làm những gì mà họ yêu cầu bởi vì anh ta chẳng thèm tranh cãi. Những yêu cầu nhỏ nhặt đó của họ chỉ khiến anh ta cảm thấy mình ở thế mạnh hơn, hoặc khiến anh ta bực bội, rồi một ngày nào đó anh ta sẽ làm tình với cô nàng đồng nghiệp trẻ trung, xinh đẹp, người chẳng hề đòi hỏi thứ gì ở anh ta, và lúc đó họ mới vỡ lẽ ra. Hãy cho tôi một người đàn ông mà có ít nhiều tiếng nói đấu tranh, một người có thể chỉ trích tôi vì những điều sai vụn vặt. (Nhưng cũng có phần nào thích những việc ngớ ngẩn đó.) Thế nhưng, đừng đưa tôi vào một trong những mối quan hệ kia, khi mà người ta lúc nào cũng xỉa xói nhau, lăng mạ nhau trá hình qua những trò đùa, cái nhướng mày hay những cãi vã "một cách khôi hài" trước mặt bạn bè, mong rằng sẽ lừa phỉnh được họ đứng về phía mình trong cuộc tranh luận mà họ không thể ngoảnh mặt đi. Những thứ quan hệ giá như tồi tệ đó: Giá như… cuộc hôn nhân này sẽ tuyệt vời biết bao và người ta sẽ cảm nhận được rằng danh sách những điều giá như đó dài hơn rất nhiều so với những gì bọn họ nhận ra.

Cho nên tôi biết rằng mình đã đúng khi không cưới xin gì, nhưng điều đó chẳng hề khiến tôi thoải mái hơn chút nào. Bạn bè đều có đôi còn tôi thứ sáu nào cũng ở nhà làm bạn với chai rượu và tự nấu cho mình một bữa ăn hoành tráng rồi tự nhủ, Thật hoàn hảo, như thể tôi đang hẹn hò với chính mình vậy. Tôi rơi vào vòng luẩn quẩn với tiệc tùng và những đêm ở quán bar, xức nước hoa, chải chuốt và hy vọng, lượn lờ khắp căn phòng như thể một thứ kẹo ngọt đáng ngờ. Tôi hẹn hò với những người đàn ông hấp dẫn, điển trai và thông minh - trên lý thuyết họ đều hoàn hảo, họ khiến tôi có cảm giác như mình đang ở một miền đất lạ, đang cố để hiểu chính mình và cố để chứng tỏ sự hiện hữu của mình. Chẳng phải đó là mấu chốt của mọi mối quan hệ hay sao: được ai đó biết đến mình và hiểu mình? Anh ấy hiểu tôi. Cô ấy hiểu tôi. Câu nói đó chẳng phải là kỳ diệu sao?

Vậy là bạn phải chịu đựng một buổi tối với người đàn ông hoàn-hảo-trên-lý-thuyết - những câu chuyện đùa lắp bắp gây hiểu lầm, những lời bình phẩm khôi hài ngớ ngẩn và vô duyên. Hoặc có lẽ anh ta nhận ra bạn vừa đưa ra một lời bình phẩm khôi hài nhưng không chắc phải làm gì để đáp lại nên anh ta giữ nó trong lòng bàn tay, như một thứ đàm thoại nhơ nháp mà lát nữa anh ta sẽ chùi đi. Cả hai dành cả tiếng đồng hồ sau đó cố tìm hiểu nhau, nhận diện nhau. Bạn uống hơi nhiều và cố cũng hơi quá. Rồi bạn về nhà với chiếc giường lạnh lẽo và nghĩ, Ổn mà. Và cuộc sống của bạn là một chuỗi những cái ổn như thế.

Thế rồi bạn chạm mặt với Nick Dunne trên Đại lộ số Bảy khi đang mua dưa vàng xắt miếng, và bùm, cả hai đều biết và nhận ra nhau. Cả hai bạn đều nhận ra chính xác những điểm đáng nhớ. (Chỉ một trái ô-liu thôi.) Hai con người đồng điệu. Tách. Họ hiểu nhau. Đột nhiên bạn nhận thấy mình đọc sách trên giường và nói chuyện dông dài vào ngày Chủ nhật lại còn cười phá lên chẳng vì thứ gì và rồi môi anh ấy đặt lên môi bạn. Mọi chuyện khác xa cái sự ổn đến mức bạn hiểu rằng mình sẽ không bao giờ cần phải ổn nữa. Nhanh thật. Và bạn nghĩ: Ồ, đây chính là phần còn lại của cuộc đời mình. Cuối cùng thì thời khắc đó đã đến.
 
Chương 5: Ngày của Nick Dunne


Ban đầu tôi đợi cảnh sát ở trong bếp nhưng cái mùi khét lẹt từ bình đun nước bị cháy cứ cuộn lên trong cổ họng khiến tôi buồn nôn, nên tôi ra hiên trước ngồi ở bậc tam cấp trên cùng và cố trấn tĩnh lại. Tôi đã liên tục gọi cho Amy nhưng điện thoại luôn chuyển sang chế độ hộp thư thoại với giọng nói nhịp nhàng của cô ấy hứa rằng sẽ liên lạc lại. Thường thì Amy sẽ gọi lại ngay. Ba giờ đồng hồ đã trôi qua, tôi đã để lại năm tin nhắn và cô ấy không hề gọi lại.

Tôi không mong là cô ấy sẽ gọi lại. Tôi sẽ khai với cảnh sát rằng Amy không bao giờ rời khỏi nhà mà để bình đun nước còn cắm điện, cửa còn mở, hay thứ gì đó chuẩn bị được là. Người phụ nữ ấy sẽ làm xong tất thảy mọi thứ và cô ấy không phải kiểu người sẽ bỏ dở một việc gì đó (như người chồng cần phải cải tạo lại của cô ấy chẳng hạn) cho dù cô ấy cho rằng mình không hề thích việc đó đi nữa. Trong hai tuần trăng mật của chúng tôi bên bờ biển Fiji, trông cô ấy thật đáng sợ khi vùi đầu vào cả triệu trang sách huyền bí của cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót và ngán ngẩm liếc xéo tôi khi thấy tôi ngấu nghiến đọc thể loại tiểu thuyết ly kỳ, hết cuốn này đến cuốn khác. Kể từ khi chuyển về Missouri và kể từ sau khi bị mất việc, cuộc sống của cô ấy chỉ loanh quanh (hay là trách nhiệm nhỉ? ) với đủ những thứ việc linh tinh bất tận. Cái váy kia đáng lẽ đã được là.

Và trong căn phòng khách này, có những dấu hiệu của sự gắng sức chịu đựng. Tôi biết rằng Amy sẽ không gọi lại. Tôi muốn chuyện gì xảy đến thì hãy cứ xảy đến.

Đây là thời điểm tuyệt vời nhất trong ngày. Bầu trời tháng Bảy không chút gợn mây, mặt trời đang khuất dần để lại một chùm sáng le lói ở phương đông, ánh vàng óng ả và bóng mượt bao trùm lên cảnh vật trông như thể một bức họa sơn dầu. Cảnh sát đột nhiên xuất hiện. Cảm giác vẫn thật bình thường - tôi vẫn đang ngồi trên bậc tam cấp, tiếng chim chiều muộn vẫn đang ríu rít trong vòm cây. Hai viên cảnh sát xuống xe, thong thả bước tới như thể bọn họ chỉ đang ghé qua một buổi cắm trại của nhà hàng xóm vậy. Mấy tay cớm nhãi, chắc chỉ tầm hăm lăm chứ mấy, trông trâng tráo và tẻ ngắt như thể đã quen xoa dịu những bậc phụ huynh hay lo lắng của bọn trẻ vị thành niên thường phá luật giới nghiêm. Viên nữ cảnh sát có vẻ ngoài rất Tây Ban Nha với bím tóc tết đen dài còn viên cảnh sát da màu kia trông như thể một tay lính thủy đánh bộ vậy. Số người da trắng ở Carthage đã giảm đi (tuy rất ít) trong khoảng thời gian tôi không ở đây, nhưng nó vẫn mang cái vẻ dị biệt chủng tộc đến mức số người da màu mà tôi nhận thấy trong cuộc sống thường nhật chỉ là những nhân viên thực hiện các công việc phải liên tục di chuyển như nhân viên giao nhận hàng, nhân viên cứu thương, nhân viên bưu điện. Và cảnh sát. (Amy đã phải thốt lên rằng "Nơi này toàn người da trắng, thật khó chịu!" khi cô ấy quay trở lại ‘chảo lửa’ Manhattan và chỉ đếm được duy nhất một người Mỹ gốc Phi trong số những người bạn của mình. Tôi đã quy chụp cô ấy chỉ thích tô vẽ cho bức tranh chủng tộc của mình, coi người thiểu số chỉ là phông nền. Điều đó chẳng hay hớm gì.)

"Ông là Dunne? Tôi là sĩ quan Velásquez và đây là sĩ quan Riordan." Viên nữ cảnh sát lên tiếng. "Theo chúng tôi được biết thì ông đang lo lắng cho vợ mình phải không?"

Riordan vừa ngậm một viên kẹo vừa nhìn xuôi theo con phố. Tôi có thể thấy ánh mắt của anh ta dõi theo một chú chim đang vút bay lên từ phía mặt sông. Rồi anh ta quay sang nhìn tôi chăm chú, cặp môi cong cớn như thể cho tôi biết rằng anh ta thấy được những gì mà người khác đã làm. Tôi có một khuôn mặt khiến kẻ khác chỉ muốn đấm vào mặt: Một đứa trẻ người Ireland thuộc tầng lớp lao động bị mắc kẹt trong thân hình của một tên đê tiện sống bằng quỹ ủy thác đầu tư. Tôi luôn phải cười rất nhiều để bù đắp lại khuyết điểm đó, nhưng chỉ thi thoảng nó mới có tác dụng. Khi ở trường đại học, tôi thậm chí còn thử đeo kính một thời gian, loại kính không số để tạo vẻ nhã nhặn và thân thiện hơn. "Mày có biết là cái kính khiến mày trông còn khốn nạn hơn không?" Quả thực vậy. Nên tôi đã quẳng nó đi và cố cười nhiều hơn nữa.

Tôi ra hiệu mời họ vào trong: "Mời vào nhà và tìm hiểu."

Cả hai bước lên bậc tam cấp, tiếng lách cách của súng va đập vào dây lưng vang lên. Tôi đứng ở cửa phòng khách và chỉ tay về phía đám đổ vỡ.

"Ồ." Viên sĩ quan Riordan thốt lên và bẻ tay răng rắc. Bỗng dưng trông anh ta có vẻ bớt nhàm chán hơn.

Riordan và Velásquez ngồi bên bàn ăn, ngả người về trước và đặt cho tôi tất cả những câu hỏi cơ bản: ai, ở đâu, bao lâu. Đôi tai của bọn họ đúng nghĩa đang vểnh lên lắng nghe. Một cuộc gọi đã được thực hiện ngoài tầm nghe của tôi, rồi Riordan thông báo với tôi về việc các điều tra viên đang được phái đến. Tôi vô cùng hài lòng vì họ đã xử lý công việc một cách nghiêm túc.

Khi Riordan đang hỏi lại tôi lần thứ hai về việc gần đây tôi có thấy bất cứ kẻ lạ mặt nào quanh khu vực này không, đến lần thứ ba khi tôi nghĩ tới nhóm đàn ông vô gia cư đi lang thang ở Carthage, thì điện thoại đổ chuông. Tôi lao người qua phòng và nhấc máy.

Giọng của một phụ nữ gắt gỏng vang lên: "Chào ông Dunne, chúng tôi gọi từ Trung tâm trợ giúp người già và người khuyết tật Comfort Hill". Đó là nơi Go và tôi đang gửi ông bố mắc bệnh Alzheimer khó hiểu của mình.

"Hiện tôi không tiện nói chuyện, tôi sẽ gọi lại cho chị sau." Tôi cấm cảu trả lời rồi gác máy. Tôi rất khinh thường người phụ nữ làm việc ở Comfort Hill này: chẳng tươi cười và luôn khó chịu. Có lẽ bọn họ không bao giờ cười hay có thái độ dễ chịu nổi bởi bọn họ được trả một mức lương quá thấp, thấp một cách thảm hại. Tôi hiểu là thái độ tức giận của mình với bọn họ là giận cá chém thớt - nhưng tôi vô cùng điên tiết khi cha mình còn cố nán lại trên đời này trong khi mẹ tôi đã yên nghỉ.

Đến lượt Go phải thanh toán tiền. Tôi dám chắc tháng Bảy là đến lượt Go. Nhưng tôi cá là con bé đã nghĩ rằng đến lượt tôi. Chúng tôi đã từng quên như thế này rồi. Go nói chúng tôi hẳn là có thần giao cách cảm khi quên thanh toán tiền và rằng cái mà chúng tôi thực sự muốn quên chính là người bố của mình.

Khi tôi đang kể lại cho Riordan nghe về người đàn ông lạ mặt mà tôi đã thấy trong ngôi nhà hàng xóm bỏ không thì chuông cửa vang lên. Tiếng chuông cửa. Nghe có vẻ bình thường như thể tôi đang đợi người ta mang pizza đến vậy.

Hai điều tra viên đi vào cùng với sự mệt mỏi sau khi tan ca. Người đàn ông cao gầy cằm nhọn má hóp. Còn người phụ nữ thì xấu và trâng tráo một cách đáng ngạc nhiên, vượt xa chuẩn mực thông thường của cái xấu: hai con mắt tròn nhỏ xíu sát vào nhau như hai cái khuy áo, mũi dài và khoằm, da sần sùi đầy những nốt nhỏ li ti, mái tóc dài màu lông thỏ bẩn bụi thẳng rũ xuống. Tôi rất có duyên với những phụ nữ xấu. Tôi được nuôi dưỡng bởi ba người phụ nữ rất khó coi - bà, mẹ và bác gái - nhưng họ đều rất thông minh, tốt bụng, vui tính, khỏe mạnh và tử tế, những người phụ nữ tuyệt vời. Amy là cô gái xinh đẹp đầu tiên mà tôi từng hẹn hò, hẹn hò thực sự.

Người phụ nữ xấu xí lên tiếng trước và lặp lại y hệt những lời của nữ sĩ quan Velásquez. "Ông Dunne phải không? Tôi là thanh tra Rhonda Boney và đây là đồng nghiệp của tôi, thanh tra Jim Gilpin. Chúng tôi hiểu là ông đang lo lắng cho vợ của mình."

Bụng tôi sôi lên đủ to để tất cả mọi người đều nghe thấy nhưng làm ra vẻ như không nghe thấy gì.

"Chúng tôi xem xét một lượt được chứ, thưa ông?" Gilpin nói. Anh ta có bọng mắt dày và những sợi ria mép trắng tua tủa. Chiếc áo sơ mi mà anh ta đang mặc khá phẳng phiu, nhưng trông cách anh ta mặc như thể nó vô cùng nhàu nhĩ. Nhìn anh ta giống một người nặng mùi thuốc lá và cà phê bị chua, dù thực sự không hề có mùi như vậy. Anh ta có mùi của xà phòng Dial.

Tôi bước vài bước ngắn dẫn họ vào phòng khách và một lần nữa chỉ vào đống đổ vỡ, nơi mà hai viên sĩ quan trẻ đang tỳ gối xuống xem xét cẩn thận, như thể họ đang mong chờ sẽ tìm được thứ gì đó có ích. Boney chỉ dẫn tôi ra một chiếc ghế ở phòng ăn, cách xa nhưng vẫn có thể quan sát được những dấu hiệu của sự gắng sức chịu đựng kia.

Rhonda Boney vừa hỏi lại tôi những chi tiết cơ bản mà tôi mới báo cáo với Velásquez và Riordan, vừa chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt chim sẻ của mình. Gilpin thì ngồi quỳ trên một bên gối để đánh giá tình trạng của căn phòng.

"Ông đã gọi điện cho bạn bè hoặc người thân, những người mà vợ ông có thể đang ở cùng chưa?" Rhonda Boney hỏi.

"Tôi… Chưa. Tôi vẫn chưa gọi. Tôi nghĩ mình nên đợi các anh chị đến."

"À." Cô ta mỉm cười. "Để tôi đoán thử nhé: đứa trẻ của gia đình."

"Sao kia?"

"Anh chính là đứa trẻ trong gia đình."

"Tôi có em gái sinh đôi." Tôi có cảm giác cô ta đang ngầm đánh giá mình. "Sao cô nói vậy?" Chiếc bình hoa yêu thích của Amy đang nằm trên sàn nhà, chạm vào tường nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Đó là món quà cưới, một kiệt tác từ Nhật Bản, mà mỗi tuần khi người quét dọn đến Amy đều cất đi vì sợ nó bị vỡ.

"Chỉ là suy đoán của tôi thôi, lý do anh đợi chúng tôi là vì anh đã quen với việc luôn có người bảo anh phải làm gì rồi." Boney nói. "Giống hệt như em trai tôi. Đó là vấn đề thứ tự ra đời." Rồi cô ta viết vội cái gì đó vào tập giấy ghi chép.

"Được thôi." Tôi nhún vai giận dữ. "Cô có cần biết cả cung hoàng đạo của tôi luôn không, hay chúng ta có thể bắt đầu được chưa vậy?" Boney nở một nụ cười ân cần với tôi và chờ đợi.

"Tôi đợi để xem các anh chị làm gì bởi, theo tôi, rõ ràng là cô ấy đã không ở đây với một người bạn." Tôi nói và chỉ vào đống lộn xộn ở phòng khách.

"Ông đã sống ở đây, xem nào, ông Dunne, được hai năm rồi phải không?" Cô ta hỏi.

"Đến tháng Chín là được hai năm."

"Từ đâu chuyển đến?"

"New York."

"Thành phố?"

"Đúng vậy."

Cô ta chỉ tay lên tầng trên ra hiệu muốn có sự cho phép của tôi nhưng không mở lời. Tôi gật đầu và đi theo cô ta, còn Gilpin thì theo sau tôi.

"Tôi từng là nhà báo khi sống ở đó." Tôi buột miệng trước khi kịp ngăn mình lại. Thậm chí bây giờ, sau hai năm quay trở lại nơi này tôi vẫn không thể chịu đựng được khi ai đó nghĩ rằng đây là cuộc sống duy nhất của tôi.

Boney: "Nghe ấn tượng đấy."

Gilpin: "Về lĩnh vực gì?"

Tôi ấn định câu trả lời của mình theo mỗi bước lên cầu thang: Tôi viết bài cho một tạp chí (bước), tôi viết về văn hóa bình dân (bước) cho một tạp chí đàn ông (bước). Lên đến bậc trên cùng tôi quay người lại thì thấy Gilpin vẫn đang quan sát phòng khách. Anh ta vội vàng đi theo chúng tôi.

"Văn hóa bình dân à?" Anh ta nói với lên khi bắt đầu bước lên cầu thang. "Cụ thể là liên quan đến những gì?"

"Văn hóa có tính chất đại chúng." Tôi nói khi lên đến bậc trên cùng, Boney đang đợi chúng tôi ở đó. "Phim ảnh, truyền hình, âm nhạc, nhưng, ừm, anh biết đấy, không phải là thứ nghệ thuật cao quý, không có gì quá khoa trương đâu." Tôi nhăn mặt: khoa trương? Nghe mới kẻ cả làm sao. Hai kẻ quê mùa như anh chị đây có lẽ cần tôi phải cắt nghĩa tiếng Anh của mình, phẩy, thứ ngôn ngữ của vùng duyên hải miền Đông nước Mỹ sang thứ tiếng Anh thông thường, phẩy, thứ tiếng Anh thôn dã của miền Trung Tây nước Mỹ. Tôi tổng kết mấy dòng nguệch ngoạc trong đầu mình sau khi thấy bọn họ cứ đi lại quẩn quanh.

"Chị ấy rất thích phim ảnh." Gilpin vừa nói vừa ra hiệu về phía Boney. Boney gật đầu: Đúng vậy.

"Hiện giờ tôi đang làm chủ Quán Bar trong khu trung tâm." Tôi bổ sung. Tôi cũng đang dạy ở một trường cao đẳng nữa, nhưng nói thêm điều đó thì có cảm giác kể lể quá. Giờ không phải lúc.

Boney chăm chú quan sát nhà tắm khiến tôi và Gilpin đứng ngập ngừng giữa lối đi. "Quán Bar à?" Chị ta hỏi lại. "Tôi biết quán đó và cũng đã định ghé qua. Tôi thích cái tên. Rất hàm ý."

"Có vẻ là một nước cờ thông minh đấy nhỉ." Gilpin nói. Boney đi về phía phòng ngủ và chúng tôi theo sau. "Cuộc sống với toàn bia xung quanh không hẳn tệ lắm nhỉ."

"Đôi khi câu trả lời lại nằm ở dưới đáy chai rượu." Tôi nói rồi lại rùng mình vì một điều đáng ra không nên nói.

Chúng tôi bước vào phòng ngủ.

Gilpin phá lên cười. "Sao tôi lại không hiểu cảm giác đó nhỉ."

"Anh chị thấy chiếc bàn là vẫn còn cắm điện không?" Tôi lên tiếng.

Boney gật đầu, sau đó mở cánh cửa phòng chứa đồ rộng rãi của chúng tôi và bước vào trong. Cô ta bật đèn lên, lướt đôi bàn tay mang găng cao su của mình qua những chiếc áo sơ-mi và váy khi di chuyển dần về phía cuối căn phòng. Đột nhiên cô ta gây ra tiếng động, rồi cúi xuống và xoay người lại - thứ cô ta đang cầm trong tay là một chiếc hộp vuông được bọc hoàn hảo trong lớp giấy bạc.

Bụng dạ tôi như thắt lại.

"Sinh nhật của ai đó phải không?" Cô ta hỏi.

"Lễ kỷ niệm ngày cưới của chúng tôi."

Boney và Gilpin đều rụt tay lại như những con nhện nhưng lại giả bộ như không có gì.

Khi chúng tôi quay lại phòng khách, mấy viên sĩ quan trẻ đã rời khỏi đó. Gilpin quỳ xuống và quan sát chiếc ghế cổ bị lật nhào.

"Ừm, tôi đã có chút hoảng sợ, rõ ràng là vậy." Tôi lên tiếng.

"Tôi không hề đổ lỗi cho anh, Nick." Gilpin nghiêm túc nói. Anh ta có đôi mắt màu xanh xám cứ nháy nháy liên tục, một kiểu máy mắt khiến người khác thấy sợ.

"Chúng ta có thể làm được gì đây? Để tìm vợ tôi. Ý tôi là vì cô ấy rõ ràng không có ở đây."

Boney chỉ vào bức ảnh cưới treo trên tường: tôi trong bộ tuxedo khoe hàm răng với nụ cười cứng ngắc trên gương mặt, tay tôi vòng qua eo của Amy, Amy với mái tóc vàng được búi chặt và xịt keo, tấm khăn voan bay bay trong làn gió biển Cape Cod, đôi mắt mở lớn bởi vì cô ấy luôn chỉ chớp mắt lúc cuối cùng và cô ấy đang phải cố hết sức để không chớp mắt. Đó là ngày sau hôm quốc khánh, mùi lưu huỳnh còn vương lại từ pháo hoa lẫn với mùi muối biển - hương vị của mùa hè.

Đối với chúng tôi Cape quả thực tuyệt vời. Tôi nhớ sau vài tháng tôi mới biết Amy, bạn gái của tôi, khá giàu có và là con gái yêu quý duy nhất của cặp vợ chồng đầy tài năng sáng tạo. Cô ấy giống như một biểu tượng nhờ có loạt sách cùng tên mà tôi nghĩ là hồi nhỏ tôi có biết. Amy tuyệt vời. Amy cắt nghĩa cho tôi bằng giọng điệu từ tốn và chừng mực, như thể tôi là một bệnh nhân vừa mới tỉnh dậy sau hôn mê. Giống như cô ấy đã phải làm việc này rất nhiều lần rồi và chuyện chẳng hay ho gì - việc thừa nhận sự giàu có của cô ấy luôn được chào đón quá mức nồng nhiệt, việc tiết lộ một danh tính bí mật mà chính cô ấy không hề tạo dựng nên.

Amy đã kể cho tôi về thân thế và con người của cô ấy, sau đấy chúng tôi về thăm ngôi nhà truyền thống lịch sử của gia đình Elliott trên đường Nantucket Sound rồi cùng nhau đi chèo thuyền. Lúc đó tôi đã nghĩ: Tôi chỉ là một chàng trai đến từ vùng Missouri, bay qua đại dương cùng với những con người hiểu biết hơn tôi rất nhiều. Cho dù tôi có bắt đầu tìm hiểu mọi thứ kể từ bây giờ và sống hết mình, thì tôi vẫn không thể nào bắt kịp được họ. Điều đó không hề khiến tôi đố kỵ. Nó khiến tôi cảm thấy bằng lòng. Tôi chưa bao giờ thiết tha với sự giàu có hay nổi tiếng. Tôi không được nuôi dưỡng bởi những ông bố bà mẹ luôn ao ước lớn lao rằng con cái họ sẽ trở thành tổng thống tương lai. Tôi được nuôi dạy bởi ông bố và bà mẹ thực dụng, luôn chỉ hình dung tương lai con mình sẽ trở thành nhân viên văn phòng và kiếm sống bằng cách này hay cách khác. Đối với tôi, được gần gũi với gia đình Elliott, được vượt qua Đại Tây Dương rồi lại trở về ngôi nhà sang trọng được xây dựng từ năm 1822 bởi một thuyền trưởng săn bắt cá voi, thế là đủ. Chúng tôi đã ở đó, cùng chuẩn bị những bữa ăn và thưởng thức những loại thực phẩm hữu cơ có lợi cho sức khỏe, những thứ có tên mà tôi cũng không biết phải phát âm thế nào nữa. Quinoa. Tôi nhớ là mình đã tưởng quinoa là một loài cá.

Thế là vào một ngày hè trời cao xanh biếc, chúng tôi đã tổ chức lễ cưới bên bờ biển và ăn uống say sưa dưới một chiếc lều rạp trắng muốt lồng lộng gió cuộn như một cánh buồm. Vài giờ sau đó tôi đã lén trốn Amy ra ngoài, lẩn mình trong bóng tối và đi về phía những con sóng, chỉ bởi tôi có cảm giác không thật một chút nào, như thể tôi đã trở thành một thứ ánh sáng huyền ảo nào đó. Màn sương mù lạnh giá phủ trên da thịt đã kéo tôi trở lại, Amy đã kéo tôi quay về phía ánh vàng rực rỡ phát ra từ căn lều rạp kia, nơi những vị thần đang mở tiệc với đủ món cao lương mỹ vị. Chúng tôi đã tìm hiểu nhau như thế đấy.

Boney nghiêng người về trước để quan sát kỹ Amy. "Vợ anh quả thực rất đẹp."

"Đúng vậy, cô ấy rất xinh đẹp." Tôi nói và cảm thấy bụng mình dễ chịu trở lại.

"Hôm nay là ngày kỷ niệm gì vậy?" Cô ta hỏi.

"Năm năm ngày cưới của chúng tôi."

Tôi đảo chân này qua chân kia, bồn chồn muốn làm cái gì đó. Tôi không muốn họ bàn luận xem vợ tôi đáng yêu như thế nào, tôi muốn họ đi ra ngoài và tìm kiếm người vợ chết tiệt của tôi. Tuy vậy, tôi không nói ra, tôi thường không nói ra mọi việc kể cả khi tôi nên làm như vậy. Tôi chịu đựng và tự giằng xé mình đến mức rối loạn: Sâu thẳm trong tâm hồn tôi là hàng trăm chiếc chai chứa đựng cơn thịnh nộ, sự tuyệt vọng và nỗi sợ hãi. Nhưng mọi người sẽ không bao giờ nhận ra khi nhìn vào tôi.

"Năm năm, lễ kỷ niệm lớn đấy. Để tôi đoán xem nào, đặt bàn ở nhà hàng Houston’s phải không?" Gilpin hỏi tôi. Đó là nhà hàng sang trọng nhất ở thị trấn. Các con nhất định phải ăn thử ở Houston’s, mẹ tôi đã nói vậy khi chúng tôi chuyển về thị trấn này bởi bà nghĩ rằng nó là bí mật nhỏ bé duy nhất của thành phố Carthage và hy vọng nó sẽ làm vợ tôi hài lòng.

"Đương nhiên là Houston’s rồi."

Đó là lời nói dối thứ năm của tôi với cảnh sát. Tôi chỉ vừa bắt đầu mà thôi.
 
Chương 6: Amy Elliott Dunne


5 tháng 7 năm 2008

- Nhật k ý-

Tôi đắm chìm trong tình yêu! Ngập tràn trong nhiệt huyết! Mê dại để hiến dâng! Một con ong nghệ hạnh phúc và bận rộn với sự hăng hái của hôn nhân. Tôi rối rít, tíu tít và quấn lấy anh ấy. Tôi trở nên thật kỳ lạ. Tôi đã là một người vợ. Tôi thấy mình đang lái con tàu trong mỗi cuộc trò chuyện - một con tàu đồ sộ và bất bình thường - chỉ để tôi có thể gọi lớn tên của anh ấy. Tôi đã trở thành một người vợ. Tôi đã trở thành một kẻ nhàm chán. Tôi đã bị tước mất thẻ hội viên Những người trẻ độc lập theo chủ nghĩa nữ quyền. Nhưng tôi chẳng bận tâm. Tôi nắm việc chi tiêu của anh ấy. Tôi sửa sang kiểu tóc của anh ấy. Tôi trở nên hoài cổ, có lúc tôi dùng từ sổ tay chi tiêu, có lúc lại cấp tập ra khỏi nhà trong chiếc áo khoác vải tuýt không cài vạt và tô son môi đỏ chót để đến tiệm làm đẹp. Tôi chẳng bận lòng với điều gì. Mọi thứ dường như đều trở nên tốt đẹp. Những điều khó chịu hóa ra lại trở thành những mẩu chuyện thú vị được kể lại trong bữa tối. Hôm nay em đã hạ một tay hobo, anh yêu... hahahaha! A, bọn em đã rất vui!

Nick giống như một loại rượu mạnh tuyệt hảo: Anh ấy nhìn nhận mọi việc một cách chính xác. Không phải nhìn nhận mọi việc một cách khác biệt, mà là một cách chính xác. Khi ở bên Nick, tôi nhận ra rất rõ ràng và thực tế là nếu có thanh toán hóa đơn tiền điện muộn vài ngày, hay trò trắc nghiệm mới nhất của tôi xem ra không ra đâu vào đâu, thì cũng chẳng vấn đề gì. (Tôi không nói đùa, câu trắc nghiệm mới nhất của tôi là: "Bạn muốn mình là loài cây gì?" Với tôi, tôi sẽ là một cây táo! Đúng là một câu trắc nghiệm vô nghĩa!) Nếu cuốn Amy tuyệt vời vừa mới xuất bản có nhận được những phê bình chính đáng hay những lời nhận xét ác ý, hoặc doanh thu của cuốn sách có tụt dốc không phanh sau sự khởi đầu ì ạch, cũng không thành vấn đề. Dẫu tôi có sơn căn phòng của chúng tôi màu gì đi nữa, mặc cho giao thông tệ hại làm tôi muộn đến thế nào, hay những đồ tái chế của chúng tôi có thực sự được tái chế hay không, cũng chẳng khiến tôi bận lòng.(Thôi nào New York, hãy thành thật với tôi, được chứ?) Mọi thứ không còn là vấn đề nữa, bởi tôi đã tìm thấy một nửa của mình. Đó là Nick, nhẹ nhàng, điềm tĩnh, thông minh, vui tính và giản đơn.Dễ tính,vui vẻ.Tốt bụng.Và "cậu nhỏ" lớn.

Tất cả những gì tôi không thích về bản thân mình đều bị gạt sang một bên. Có lẽ đó là điều tôi thích nhất ở anh ấy, cách mà anh ấy khiến tôi không cần bận tâm về những điều đó. Không chỉ là khiến tôi cảm thấy tôi không cần bận tâm, mà thực sự khiến tôi không cần bận tâm. Tôi vui. Tôi đùa nghịch. Tôi làm trò. Tôi cảm thấy hạnh phúc một cách tự nhiên và hoàn toàn thỏa mãn. Tôi là một người vợ! Thật kỳ quặc khi nói ra những lời này.(Nhưng về chuyện tái chế đó, New York, tôi nghiêm túc đấy - thôi nào, chỉ trong nháy mắt thôi mà.)

Chúng tôi thường làm những việc ngớ ngẩn, chẳng hạn như tuần trước chúng tôi đã lái xe đến Delaware chỉ vì chưa ai trong chúng tôi từng làm tình ở đó. Để tôi kể lại chuyện của ngày hôm ấy nhé, bởi bây giờ nó thực sự có ích cho thế hệ sau. Khi chúng tôi đi qua phân giới của bang, tấm biển Chào mừng tới Delaware! hiện ra, với lời ghi chú thêm Kỳ quan nhỏ bé, Bang đầu tiên và cả Nơi mua sắm miễn thuế.

Delaware là bang của rất nhiều đại gia.

Tôi chỉ cho Nick rẽ xuống con đường đất đầu tiên mà tôi nhìn thấy. Chiếc xe chạy lao xuống đó chừng năm phút cho tới khi kẹt cứng giữa những cây thông bao bọc xung quanh. Chúng tôi không nói một lời nào. Nick đẩy ghế của anh ấy ra phía sau. Tôi kéo váy của mình lên. Tôi không mặc đồ lót. Miệng Nick trễ xuống và nét mặt anh ấy trở nên yếu đuối, vẻ đê mê và quyết đoán mỗi khi anh ấy bị kích thích. Tôi trèo lên người anh ấy, lưng quay lại, mặt đối diện với kính chắn gió. Tôi bị ghì chặt vào tay lái, và khi chúng tôi cùng nhau chuyển động, tiếng còi ô-tô phát ra âm thanh cùng nhịp điệu với tôi, tay tôi tạo ra những âm thanh ướt át khi tỳ lên kính chắn gió. Nick và tôi có thể đi đến cùng trời cuối đất, không ai trong chúng tôi cảm thấy e ngại khi làm chuyện ấy, và đó là điều mà chúng tôi khá tự hào. Sau đó chúng tôi lái xe trở về nhà. Tôi ăn thịt bò khô và gác chân trần lên trên hộp số.

Chúng tôi yêu ngôi nhà của mình. Ngôi nhà mà Amy tuyệt vời đã xây nên. Một ngôi nhà lát đá nâu Brooklyn trong khu Promenade với tầm nhìn bao quát toàn cảnh Manhattan mà bố mẹ tôi đã mua cho chúng tôi. Nó đắt vô cùng, điều đó khiến tôi cảm thấy có lỗi, nhưng ngôi nhà quá hoàn hảo. Tôi đã phải tranh đấu với suy nghĩ của một cô-con-gái-nhà-giàu-được-nuông-chiều bất cứ khi nào có thể. Nhiều việc trong nhà chúng tôi đều tự làm. Chúng tôi đã tự mình sơn tường trong hai kỳ nghỉ cuối tuần: màu xanh cải bắp, vàng nhạt và xanh biển sẫm. Không màu sơn nào lên màu như mong muốn, nhưng chúng tôi vẫn tỏ ra thích chúng. Chúng tôi trang trí ngôi nhà với những đồ rẻ tiền mua ở chợ trời và còn mua một vài đĩa hát để nghe bằng chiếc máy quay đĩa của Nick. Tối hôm qua, chúng tôi đã ngồi trên chiếc thảm Ba Tư cũ uống rượu và lắng nghe âm thanh sột soạt của đĩa hát. Trời tối dần và Manhattan bắt đầu lên đèn, Nick đã nói: "Anh luôn hình dung khung cảnh như thế này. Đây chính xác là những gì mà anh đã nghĩ đến."

Những ngày cuối tuần, chúng tôi giấu mình dưới bốn lớp chăn trải giường để trò chuyện, khuôn mặt chúng tôi được giữ ấm bởi chiếc chăn lông vũ màu vàng tươi nắng. Đến cả những tấm ván lát sàn cũng vui mừng hớn hở: Có hai tấm ván mỏng cũ lúc nào cũng cọt kẹt mỗi khi chúng tôi bước vào phòng. Tôi yêu ngôi nhà, tôi yêu nó bởi ngôi nhà thuộc về chúng tôi, bởi chúng tôi có một lịch sử tuyệt vời đằng sau chiếc đèn sàn cổ, hay chiếc cốc có tai bằng đất sét méo mó đặt cạnh bình cà phê, thứ chẳng bao giờ đựng được gì ngoài duy nhất một chiếc kẹp giấy. Tôi dành thời gian của mình để nghĩ về những điều ngọt ngào mà tôi có thể làm cho anh ấy - mua bánh xà phòng mùi bạc hà mà khi anh ấy cầm trong lòng bàn tay sẽ như cầm một hòn đá ấm, hoặc có thể chỉ là một lát cá hồi mỏng mà tôi có thể nấu cho anh ấy ăn, hay một bài thơ cho những ngày anh ấy đi chèo thuyền trên sông. Tôi biết là mình rất ngớ ngẩn. Nhưng tôi thích vậy - tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể trở nên ngớ ngẩn đến thế chỉ vì một người đàn ông. Đó là sự khuây khỏa. Thậm chí tôi còn ngắm nhìn một cách vui thích những chiếc tất mà anh ấy loay hoay để xỏ vào, xộc xệch một cách đáng yêu, như thể chúng vừa mới được một con cún con tha về từ một căn phòng khác.

Hôm nay là lễ kỷ niệm một năm ngày cưới của chúng tôi và tôi đang ngập tràn trong tình yêu, mặc dù mọi người đều nói với chúng tôi rằng năm đầu tiên sẽ rất khó khăn, cứ như thể chúng tôi là những đứa trẻ ngây thơ đang trốn chạy khỏi một cuộc chiến vậy. Một năm qua đâu có khó khăn đến thế. Chúng tôi là một đôi trời định rồi. Hôm nay là lễ kỷ niệm một năm ngày cưới và Nick sẽ rời văn phòng vào giờ ăn trưa, tôi đã chuẩn bị trò chơi săn tìm kho báu để đợi anh ấy. Tất cả những câu đố đều nói về chúng tôi, về một năm qua chúng tôi đã ở bên nhau:

Những khi nào chồng yêu cảm lạnh

Nhà hàng luôn hân hạnh phục vụ món ăn này.

Đáp án: món tom-yum ở khu phố Thái Lan trên đường President. Chiều nay người quản lý sẽ ở đó chuẩn bị món tom-yum ngon tuyệt cùng với câu đố tiếp theo tôi dành cho anh ấy.

Còn có cả quán McMann’s ở khu phố Tàu và bức tượng Alice trong Công viên trung tâm nữa. Một chuyến du lịch quanh New York. Điểm kết thúc sẽ là chợ cá trên phố Fulton. Chúng tôi sẽ mua một cặp tôm hùm thật ngon ở đó, và tôi sẽ là người giữ thùng đựng tôm hùm trong khi Nick thì bồn chồn kinh hãi bên cạnh tôi trên taxi. Chúng tôi sẽ về nhà thật nhanh và sau đó tôi sẽ thả chúng vào chiếc nồi mới rồi đặt lên cái bếp cũ kỹ với tất cả sự khéo léo của một cô gái đã nhiều mùa hè sống ở thị trấn Cape. Trong khi đó, Nick chỉ đứng ngoài cửa bếp cười khúc khích và làm ra vẻ đang trốn tránh vì sợ hãi.

Tôi đã gợi ý là chúng tôi sẽ ăn bánh kẹp, nhưng Nick lại muốn chúng tôi ra ngoài - một khách sạn năm sao, hoành tráng - một nơi nào đó với thực đơn đặc biệt và có nhân viên phục vụ. Chính vì thế những con tôm hùm là cách hóa giải hoàn hảo. Và cũng theo những gì mọi người nói với chúng tôi (hết lần này đến lần khác), tôm hùm đối với hôn nhân có ý nghĩa là sự thỏa hiệp!

Chúng tôi sẽ ăn tôm hùm với bơ và làm tình trên sàn nhà trong nền nhạc du dương và giọng hát văng vẳng xa xôi của một nữ ca sĩ từ một trong những đĩa nhạc jazz quen thuộc. Chúng tôi ngà ngà say bên ly rượu Scotch tuyệt hảo, loại rượu ưa thích của Nick. Tôi sẽ tặng quà cho anh ấy - một món đồ văn phòng phẩm của Crane & Co, thứ mà anh ấy vẫn hằng mong ước, được trang trí bằng những chữ cái thuộc phông chữ sans-serif rõ nét, có màu xanh ô-liu được viết lồng trên chất giấy dày dặn và mềm mại, giúp giữ mực viết và những ngôn từ của chủ nhân nó luôn được tươi mới.Một thứ văn phòng phẩm dành cho nhà báo, và vợ của nhà báo có thể nhờ đó mà tranh thủ viết được một hay hai bức thư tình.

Rồi sau đó có thể chúng tôi sẽ lại làm tình. Rồi ăn bánh kẹp vào đêm khuya. Thêm cả chút rượu Scotch nữa. Hãy nhìn xem: đôi tình nhân hạnh phúc nhất khu nhà! Thế mà họ nói hôn nhân là một việc rất mệt mỏi.
 
Chương 7: Đêm của Nick Dunne


Boney và Gilpin chuyển địa điểm cuộc thẩm vấn của chúng tôi tới sở cảnh sát, nơi trông giống như một ngân hàng cộng đồng làm ăn thua lỗ. Bọn họ để mặc tôi một mình suốt bốn mươi phút trong một căn phòng nhỏ. Tôi thì quyết chí chẳng động cựa gì. Theo một cách nào đó, muốn giả vờ như đang điềm tĩnh thì phải điềm tĩnh. Tôi nhoài người ra trên bàn, tựa cằm lên cánh tay mình. Chờ đợi.

"Anh có muốn gọi điện cho bố mẹ Amy không?" Boney hỏi.

"Tôi không muốn làm họ phát hoảng." Tôi nói. "Nếu một giờ nữa mà chúng ta không có tin tức gì của cô ấy, tôi sẽ báo cho họ."

Đã ba lần chúng tôi trao đổi về vấn đề này rồi.

Rốt cuộc mấy tay cớm cũng đi vào và ngồi xuống bàn đối diện với tôi. Tôi cố nín để không phá lên cười bởi cảnh tượng này y chang như trong một bộ phim truyền hình. Cũng căn phòng như thế này, tôi đã từng thấy khi lướt trên kênh truyền hình cáp lúc tối khuya trong suốt mười năm qua, cùng với hai tay cớm - trông mệt mỏi và dữ dằn - diễn xuất như những ngôi sao thực thụ. Hoàn toàn giả tạo. Một sở cảnh sát ở Epcot. Boney thậm chí còn cầm một cốc cà phê giấy và một túi hồ sơ bằng bìa manila trông như thể một thứ đạo cụ. Đạo cụ của cảnh sát. Tôi thấy phấn khích, cảm giác như chúng tôi giống mấy kẻ giả đò: Nào, hãy cùng chơi trò Cô vợ mất tích!

"Anh ổn chứ Nick?" Boney hỏi.

"Tôi ổn, sao vậy?"

"Anh đang cười."

Sự phấn khích bỗng trôi tuột xuống dưới sàn nhà. "Tôi xin lỗi, chỉ là…"

"Tôi hiểu." Boney vừa nói vừa nhìn tôi như thể đang vỗ về. "Chuyện thật kỳ lạ, tôi hiểu." Cô ta hắng giọng. "Trước hết chúng tôi muốn chắc rằng anh cảm thấy thoải mái khi ở đây. Nếu anh có nhu cầu gì thì cứ cho chúng tôi biết. Hiện giờ anh càng cung cấp nhiều thông tin cho chúng tôi sẽ càng thuận lợi, nhưng anh cũng có thể rời khỏi đây bất kỳ lúc nào, không sao cả."

"Bất cứ điều gì các vị cần."

"Được, tốt lắm, cảm ơn anh." Cô ta nói. "Thế này. Trước hết tôi muốn loại trừ những thứ phiền hà ra trước đã. Những chuyện tào lao. Nếu vợ anh thực sự bị bắt cóc - khả năng này chúng ta vẫn chưa rõ, nhưng nếu điều đó xảy ra thật - thì chúng tôi muốn tóm cổ tên đó, và một khi đã bắt được hắn, chúng tôi muốn buộc tội hắn, rất nặng. Sẽ không có lối thoát. Hết đường ngọ nguậy."

"Đúng vậy."

"Cho nên chúng tôi muốn loại trừ anh ra một cách nhanh gọn và dễ dàng. Để tên đó không thể quay về và bảo là chúng tôi đã không loại trừ anh, anh hiểu ý tôi chứ?"

Tôi gật đầu một cách máy móc. Tôi không thực sự hiểu ý cô ta cho lắm, nhưng tôi muốn tỏ ra hợp tác hết sức có thể. "Bất cứ điều gì các vị cần."

"Chúng tôi không muốn làm anh phát hoảng lên đâu." Gilpin chen vào. "Chúng tôi chỉ muốn thực hiện tất cả những bước cơ bản."

"Tốt thôi." Lúc nào cũng là anh chồng, tôi nghĩ. Mọi người đều biết lúc nào cũng là anh chồng, vậy sao họ không thể nói thẳng ra rằng: Chúng tôi nghi ngờ anh bởi vì anh là chồng, và kẻ đó luôn chính là người chồng. Cứ xem Dateline thì biết.

"Được rồi, tốt lắm, Nick." Boney nói. "Trước tiên chúng tôi sẽ lấy mẫu gạc ở phần bên trong má của anh để có thể loại trừ tất cả các mẫu ADN không phải là của anh trong ngôi nhà. Việc đó không sao chứ?’

"Chắc chắn rồi."

"Tôi cũng muốn quét hai bàn tay của anh để kiểm tra dấu tích của vụ nổ súng. Một lần nữa, chỉ để phòng trường hợp…"

"Khoan, khoan, khoan. Có phải các vị đã tìm thấy gì đó khiến các vị nghĩ rằng vợ tôi đã…"

"Không, không, Nick" Gilpin ngắt lời. Anh ta kéo một chiếc ghế về phía bàn và ngồi ngược nó. Tôi tự hỏi liệu các tay cớm có thường ngồi như thế thật không. Hay một diễn viên cự tài nào đó đã làm vậy và tụi cớm bắt đầu bắt chước theo khi xem vì thế trông thật oách?"

"Chỉ là một kỹ thuật nhanh gọn thôi." Gilpin nói tiếp. "Chúng tôi sẽ cố gắng thực hiện tất cả những bước cơ bản: Kiểm tra tay anh, lấy mẫu bông gạc, và nếu chúng tôi có thể kiểm tra cả xe của anh nữa…"

"Tất nhiên. Như tôi đã nói, bất cứ điều gì các vị cần."

"Cảm ơn anh, Nick. Tôi thật sự cảm kích vì điều đó. Đôi khi các anh chàng cứ hay làm khó chúng tôi chỉ đơn giản vì họ có thể làm vậy."

Tôi thì chính xác là tuýp ngược lại. Bố tôi đã nhuốm đẫm tuổi thơ tôi bằng sự buộc tội không thành lời, ông thuộc tuýp người luôn đi quẩn quanh để tìm cớ nổi giận. Điều này khiến Go trở nên đề phòng và hiếm khi nào chịu được sự giận dữ điên khùng vô căn cứ. Nhưng nó lại biến tôi thành một thằng xu nịnh như một phản xạ trước uy quyền. Mẹ tôi, bố tôi, các giáo viên của tôi: Bất cứ điều gì để công việc của thầy/cô/bố/mẹ được thuận lợi ạ. Tôi thèm khát nhận được sự đồng ý. Go đã từng nói với tôi: "Anh quả thực là một kẻ dối trá, lừa gạt và vụng trộm - chết tiệt thật - chỉ để khiến người ta tin rằng anh là người tốt." Lúc đó chúng tôi đang xếp hàng mua bánh knish ở tiệm Yonal Schimmel, cách căn hộ cũ của Go ở New York không xa - tôi nhớ rõ mọi việc đến mức như vậy - và tôi mất hẳn cảm giác muốn ăn, bởi điều đó hoàn toàn đúng nhưng tôi chưa bao giờ nhận ra cả. Thậm chí khi Go nói như vậy, tôi đã nghĩ: Mình sẽ không bao giờ quên điều này, đây là một trong những giây phút sẽ ghi tạc mãi mãi trong tâm trí mình.

Chúng tôi, tôi và mấy tay cớm, đã có cuộc trò chuyện nho nhỏ về màn pháo hoa ngày 4 tháng 7 và về thời tiết trong lúc họ kiểm tra trên tay tôi có thuốc súng hay không, rồi họ dùng bông thấm chất dịch bên trong má tôi. Tôi làm ra vẻ mọi thứ bình thường như thể đang khám nha khoa vậy.

Khi mọi việc hoàn tất, Boney đặt một cốc cà phê khác lên bàn trước mặt tôi rồi nắm chặt lấy vai tôi nói: "Tôi rất tiếc về thủ tục này. Phần tệ nhất trong công việc của tôi. Anh có nghĩ mình đã sẵn sàng để trả lời một vài câu hỏi ngay bây giờ không? Nó sẽ thực sự giúp ích cho chúng tôi."

"Vâng, chắc chắn rồi, ta tiến hành thôi."

Cô ta đặt lên bàn một chiếc máy ghi âm kỹ thuật số nhỏ ngay trước mặt tôi. "Anh không phiền chứ? Nếu ghi âm anh sẽ không phải trả lời đi trả lời lại những câu hỏi giống nhau…" Cô ta muốn ghi âm để trói tôi vào một câu chuyện. Mình nên gọi luật sư, tôi nghĩ, nhưng chỉ những kẻ phạm tội mới cần đến luật sư, thế là tôi gật đầu: Không vấn đề gì.

"Vậy là: Amy." Boney nói. "Hai người đã sống ở đây được bao lâu rồi?"

"Mới được khoảng hai năm."

"Và cô ấy là người New York. Ở thành phố."

"Đúng vậy."

"Cô ấy có đi làm không?" Gilpin hỏi.

"Không. Trước đây cô ấy từng viết những câu trắc nghiệm tính cách."

Mấy tay điều tra viên nhìn nhau: Câu trắc nghiệm?

"Cho các tạp chí tuổi mới lớn và các tạp chí phụ nữ." Tôi nói. "Các anh cũng biết đấy, kiểu như "Bạn có phải tuýp người hay ghen tuông không? Hãy thử làm các trắc nghiệm của chúng tôi và tìm hiểu điều đó! Các anh chàng có cảm thấy bạn đáng sợ hay không? Hãy thử làm các trắc nghiệm của chúng tôi đi và bạn sẽ biết!’"

"Rất thú vị, tôi thích mấy cái đó lắm." Boney nói. "Tôi không biết đó thực sự lại là một công việc đấy. Viết những câu trắc nghiệm như thế. Giống như… một nghề."

"Giờ thì nó không còn là một nghề nữa. Không còn như thế nữa. Trên Internet đầy ắp những câu trắc nghiệm miễn phí. Những gì Amy viết thì thông thái hơn - cô ấy đã có bằng thạc sĩ ngành tâm lý học - vẫn đang có bằng thạc sĩ tâm lý học." Tôi cười ha hả một cách không thoải mái bởi câu nói hớ của mình. "Nhưng thông thái đâu có bằng được miễn phí."

"Sau đó thì thế nào?"

Tôi nhún vai. "Sau đó chúng tôi chuyển về đây. Hiện giờ cô ấy chỉ ở nhà thôi."

"Ồ! Vậy là hai người đã có con rồi?" Boney cất giọng vui vẻ, như thể cô ta vừa phát hiện được một tin tốt lành.

"Vẫn chưa."

"Ồ. Vậy thì hầu hết thời gian cô ấy làm việc gì?"

Tôi cũng có cùng thắc mắc đó. Amy đã từng là một người phụ nữ lúc nào cũng làm tất cả mọi việc, nhưng mỗi việc một chút. Khi chúng tôi dọn về ở cùng nhau, cô ấy đã rất quyết tâm học nấu ăn kiểu Pháp, phô diễn các kỹ năng dùng dao siêu tốc và trổ tài nấu món bò hầm rượu vang đỏ rất hào hứng. Sinh nhật lần thứ 34 của cô ấy chúng tôi bay đi Barcelona, và cô ấy đã làm tôi choáng váng khi phát ra những âm rung của tiếng Tây Ban Nha qua các cuộc hội thoại, nhờ đã bí mật học trước đó hàng tháng trời. Vợ tôi có một bộ não thông minh, nhạy bén và ham hiểu biết. Tuy nhiên những ám ảnh của cô ấy có khuynh hướng bị kích động bởi sự ganh đua: Cô ấy cần phải làm lóa mắt những gã đàn ông và khiến đám đàn bà phải ghen tỵ: Tất nhiên, Amy có thể nấu những món ăn kiểu Pháp và nói trôi chảy tiếng Tây Ban Nha và làm vườn và đan lát và chạy đường dài và giao dịch chứng khoán trong ngày và lái máy bay và trông cô ấy lúc nào cũng như một người mẫu đang ở trên sàn diễn khi làm những việc đó. Cô ấy nhất thiết phải là một Amy Tuyệt vời, luôn luôn như vậy. Ở vùng Missouri này, phụ nữ thường đi chợ ở Target và họ cần mẫn nấu những món ăn dễ tiêu hóa. Họ cười vì vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi mà họ còn nhớ được từ thời trung học. Họ chẳng cần phải ganh đua. Những thành quả không ngừng của Amy tuy được tán thưởng thật lòng nhưng có lẽ cũng có cả một chút thương hại nữa. Điều đó nói lên rằng kết cục tồi tệ nhất có thể xảy đến với cô vợ ưa đua tranh của tôi chính là: Một thị trấn của những kẻ bằng lòng mình thua cuộc.

"Cô ấy có rất nhiều sở thích." Tôi nói.

"Có điều gì khiến anh phải lo lắng không?" Boney hỏi với vẻ quan ngại. "Anh không cảm thấy có vấn đề gì với chất gây nghiện hay rượu bia ư? Tôi không định nói xấu về vợ anh, nhưng có rất nhiều phụ nữ nội trợ, nhiều hơn anh nghĩ, họ sống qua ngày theo cách đó. Mỗi ngày đều dài lê thê khi anh chỉ có một mình. Và nếu từ rượu bia chuyển sang dùng chất gây nghiện - tôi chưa dùng đến heroin mà mới chỉ thuốc giảm đau theo đơn thôi - thì, hiện tại có một vài kẻ khá đáng ngại đang làm ăn quanh đây."

"Nạn mua bán chất gây nghiện diễn biến ngày một xấu đi." Gilpin nói. "Chúng tôi đã cắt giảm cả đám nhân viên cảnh sát - hẳn một phần năm lực lượng, và chúng tôi đang gặp khó khăn. Ý tôi là, tình hình khá tệ, chúng tôi bị quá tải rồi."

"Tháng trước có một bà nội trợ, một quý bà dễ mến, đã đi đời mất cái răng vì dùng Oxycontin." Boney bổ sung.

"Không đâu. Amy có thể uống rượu hay gì đó, nhưng không hề có ma túy."

Boney nhìn tôi chằm chằm, chắc hẳn đây không phải câu trả lời mà cô ta mong đợi. "Cô ấy có bạn bè thân thiết ở đây chứ? Chúng tôi muốn gọi cho vài người trong số họ, chỉ để chắc chắn thôi. Không có ý xúc phạm gì đâu. Nhưng đôi khi hễ dính líu đến nghiện ngập ma túy thì ông chồng lại là người cuối cùng được biết đấy. Người ta thường thấy hổ thẹn, đặc biệt là phụ nữ."

Bạn bè. Hồi còn ở New York, Amy kết bạn và đá bạn hàng tuần, họ chỉ giống như những dự án của cô ấy. Cô ấy có thể phấn khích tột độ vì họ: Paula là người dạy hát cho cô ấy và có giọng nói đong đưa rất dễ thương. (Amy đã học tại một trường nội trú ở Massachusetts, tôi rất thích mỗi khi cô ấy dùng kiểu diễn đạt vùng New England đó với tôi: đong đưa rất dễ thương), và Jessie, bạn cùng khóa học thiết kế thời trang. Nhưng chỉ sau đó một tháng, khi tôi hỏi về Jessie hay Paula, Amy nhìn tôi như thể tôi đang bịa chuyện vậy.

Rồi có cả đám đàn ông luôn chạy rầm rầm theo sau Amy, sẵn lòng làm đủ thứ việc của một người đàn ông trong nhà mà đức lang quân của cô ấy không làm được. Sửa chân ghế, kiếm tìm loại trà Á Đông nhập khẩu mà cô ấy ưa thích. Đám đàn ông mà cô ấy thề rằng bọn họ chỉ là bạn, chỉ là những người bạn tốt mà thôi. Amy giữ họ ở khoảng cách xa đúng bằng một cánh tay - đủ xa để tôi không cảm thấy quá khó chịu, đủ gần để cô ấy chỉ cần búng ngón tay là bọn họ sẽ tuân lệnh ngay.

Còn ở Missouri… lạy Chúa, tôi thực sự không biết nữa. Ý nghĩ này chỉ vừa mới xuất hiện trong đầu tôi. Mày quả là một thằng khốn, tôi nghĩ. Chúng tôi ở đây đã hai năm rồi, và sau thời kỳ đầu náo nhiệt với việc gặp gỡ và chào hỏi, những tháng ngày đầu tiên bận rộn đó, Amy chẳng thường xuyên gặp ai nữa. Cô ấy có mẹ tôi, giờ thì bà cũng mất rồi, và tôi - cách thức chuyện trò chủ yếu của chúng tôi là công kích và phản bác nhau. Khi chúng tôi về nhà được một năm, tôi hỏi cô ấy một cách lịch thiệp giả tạo rằng: "Vậy bà thấy thích Bắc Carthage nhiều đến thế nào, thưa bà Dunne?". "Ý anh là một Carthage khác, phải vậy không?" Cô ấy đáp. Tôi từ bỏ luôn ý định hỏi cô ấy muốn ám chỉ gì, nhưng tôi vẫn hiểu đó là một lời lăng mạ.

"Cô ấy có vài người bạn tốt, nhưng hầu hết họ đều ở phía Đông."

"Còn những người bà con của cô ấy?"

"Họ sống ở New York.Thành phố."

"Và anh vẫn chưa gọi cho bất kỳ người nào trong số họ?" Boney hỏi và nở nụ cười có phần sửng sốt.

"Từ lúc đó tới giờ tôi phải thực hiện mấy việc khác mà các vị bảo tôi phải làm. Tôi đã có lúc nào gọi điện được đâu." Nói rồi tôi ký luôn giấy xác nhận cho phép điều tra thẻ tín dụng, thẻ ATM và truy lại các cuộc gọi từ máy di động của Amy. Tôi cũng cho họ biết số điện thoại cầm tay của Go và tên của Sue, người phụ nữ góa chồng hay lui tới Quán Bar, người có lẽ có thể làm chứng cho khoảng thời gian tôi tới quán.

"Đứa trẻ trong gia đình." Boney lắc đầu. "Anh thật sự làm tôi nhớ đến cậu em trai của tôi." Một cú đánh."Tôi xin thề, đó là một lời khen."

"Chị ấy cưng chiều cậu ta lắm." Gilpin vừa nói vừa viết nguệch ngoạc vào một cuốn sổ. "Được rồi, vậy là anh rời khỏi ngôi nhà vào khoảng bảy giờ rưỡi sáng, tầm trưa thì có mặt tại Quán Bar, và giữa quãng thời gian đó anh đã ở bãi sông."

Có một đầu cầu đổ bộ cách nhà chúng tôi khoảng mười dặm về phía Bắc, một nơi tập hợp những cát, bùn và mảnh chai bia vỡ, không lấy làm dễ coi cho lắm. Những chiếc thùng tròn lớn chứa rác đầy ứ cốc làm bằng chất dẻo Styrofoam và tã lót bẩn. Nhưng ở đó có một chiếc bàn picnic đón ngược hướng gió và ngập tràn ánh nắng ấm áp, và khi bạn nhìn thẳng về phía dòng sông, có nhiều thứ kinh khủng khác mà bạn có thể phớt lờ.

"Thỉnh thoảng tôi mang cà phê và tờ báo ra đó chỉ để ngồi thôi. Tận hưởng mùa hè hết mức có thể."

Không, tôi chưa từng nói chuyện với ai ở bãi sông cả. Không, chẳng ai thấy tôi hết.

"Đó là một nơi khá yên tĩnh vào quãng thời gian giữa tuần." Gilpin thừa nhận.

Nếu cảnh sát có hỏi chuyện bất cứ người nào biết tôi, họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra tôi hiếm khi nào tới bãi sông và rằng chưa bao giờ có chuyện tôi thỉnh thoảng mang cà phê ra đó chỉ để tận hưởng khí trời buổi sáng. Tôi có nước da trắng nhợt kiểu Ireland và không đủ kiên nhẫn để ngồi trầm ngâm, tư lự quá mức được: Tôi không phải một anh chàng sông nước. Tôi nói với cảnh sát như vậy bởi nó đã từng là ý tưởng của Amy, để tôi có thể tới nơi nào đó, ngồi một mình nhìn ngắm dòng sông mà tôi yêu quý và suy ngẫm về cuộc sống của hai chúng tôi. Cô ấy đã nói điều này với tôi sáng nay, sau khi chúng tôi thưởng thức những chiếc bánh kếp mà cô ấy làm. Cô ấy đã nghiêng người về phía trước, tựa lên bàn và nói: "Em biết chúng ta đang trải qua khoảng thời gian khó khăn. Em vẫn yêu anh nhiều lắm, Nick ạ, và em hiểu em còn rất nhiều điều phải nỗ lực. Em muốn trở thành một người vợ tốt đối với anh, và em muốn anh là chồng em và anh được hạnh phúc. Nhưng anh cần phải xác định xem anh muốn gì."

Rõ ràng cô ấy đã luyện tập trước lối trình bày của mình, cô ấy đã mỉm cười một cách tự mãn khi nói ra những lời lẽ đó. Và ngay cả khi vợ tôi đề nghị với một sự ân cần đến thế, tôi vẫn nghĩ: Tất nhiên là cô ấy phải làm đạo diễn cho mấy thứ này rồi. Cô ấy muốn hình ảnh của tôi bên dòng sông cuộn chảy dữ dội kia, với mái tóc bay bay trong gió nhẹ khi ánh mắt tôi dõi nhìn xa xăm về phía đường chân trời và ngẫm nghĩ về cuộc sống của chúng tôi. Tôi không thể chỉ đến mỗi cửa hàng bánh Dunkin’ Donuts được.

Anh cần phải xác định xem mình muốn gì. Thật không may cho Amy, tôi đã xác định rồi.

Boney ngẩng đầu lên khỏi những ghi chép của mình với vẻ hồ hởi. "Anh có thể cho tôi biết nhóm máu của vợ anh được không?" Cô ta hỏi.

"Ừm, không, tôi không biết."

"Anh không biết nhóm máu của vợ anh sao?"

"Có thể là nhóm O?" Tôi đoán.

Boney cau mày, rồi kéo dài giọng như đang tập yoga. "Được rồi, Nick, đây là những việc chúng tôi sẽ làm để giúp anh." Cô ta liệt kê: điện thoại cầm tay của Amy sẽ được theo dõi, hình cô ấy sẽ được lan truyền, thẻ tín dụng sẽ được điều tra. Những đối tượng tội phạm tình dục được nhận diện trong vùng cũng sẽ được thẩm vấn. Khu vực hẻo lánh xung quanh nơi ở của chúng tôi cũng sẽ được tìm hiểu. Điện thoại trong gia đình sẽ được ghi âm, phòng trường hợp nhận được bất kỳ cuộc gọi nào đòi tiền chuộc.

Tôi không rõ nên nói gì vào lúc này. Tôi lục trong trí nhớ của mình để tìm lời thoại: Trên phim người chồng thường nói gì vào thời điểm này nhỉ? Điều đó còn tùy thuộc vào việc anh ta có tội hay vô tội.

"Tôi không thể nói rằng những việc này khiến tôi thấy an tâm. Các anh chị… đây là một vụ bắt cóc hay một vụ mất tích, hay chính xác chuyện gì đang xảy ra vậy?" Tôi biết rõ những con số thống kê, qua chính chương trình truyền hình mà tôi đang đóng vai chính: Nếu trong vòng bốn mươi tám giờ đầu tiên không thấy bất kỳ một dấu hiệu nào, tình huống có khả năng rơi vào bế tắc. Bốn mươi tám giờ đầu tiên đóng vai trò quyết định. "Ý tôi là, vợ tôi đã mất tích rồi. Vợ tôi đã mất tích rồi!" Tôi nhận ra đây là lần đầu tiên tôi diễn đạt theo cách đáng lẽ đã phải được nói ra: hoảng loạn và giận dữ. Bố tôi là người đàn ông của muôn hình vạn trạng những cay đắng, thịnh nộ và chán ghét. Trong cuộc tranh đấu suốt đời để không biến mình thành một người như ông ấy, tôi đã nuôi dưỡng một sự bất lực trong việc biểu lộ hầu hết các cảm xúc tiêu cực. Lại thêm một điểm nữa khiến tôi càng giống một thằng tồi - dù cho ruột gan tôi có đang lộn tùng phèo thì người ta vẫn chẳng nhận thấy được điều gì trên gương mặt tôi và càng ít hơn qua những lời tôi nói. Đó là một vấn đề bất biến: hoặc kiểm soát quá mức hoặc hoàn toàn không kiểm soát gì.

"Nick, chúng tôi đang cực kỳ nghiêm túc trong vụ này." Boney nói. "Các nhân viên khám nghiệm đã có mặt ở nhà anh trong lúc chúng ta đang nói chuyện, và việc đó sẽ cung cấp cho chúng tôi thêm thông tin để tiếp tục việc điều tra. Ngay lúc này đây, anh càng cho chúng tôi biết nhiều về vợ mình thì càng hữu ích. Cô ấy là người thế nào?"

Những câu nói thông thường của các ông chồng xuất hiện trong đầu tôi: Cô ấy ngọt ngào, cô ấy tuyệt vời, cô ấy tốt bụng, cô ấy cảm thông.

"Cô ấy là kiểu người thế nào ư?" Tôi hỏi.

"Cho tôi biết về tính cách của cô ấy." Boney gợi ý. "Chẳng hạn, anh tặng gì cho cô ấy nhân dịp kỷ niệm ngày cưới của hai người? Đồ trang sức à?"

"Tôi chưa chuẩn bị được gì cả." Tôi nói. "Tôi định chiều nay sẽ làm việc đó." Tôi tưởng cô ta sẽ cười và lại nói ‘đứa trẻ trong gia đình’ thêm lần nữa, nhưng cô ta đã không làm thế.

"Được rồi. Vậy hãy cho tôi biết về cô ấy. Cô ấy có hướng ngoại không? Cô ấy có - tôi không biết phải nói thế nào - cô ấy có mang tính New York không? Theo kiểu có thể để lại ấn tượng khiếm nhã với một số người? Có thể gây cho người ta cảm giác bực bội?"

"Tôi không biết nữa. Cô ấy không phải tuýp người không bao giờ tiếp xúc với người lạ, nhưng cô ấy không… không khó chịu đến mức khiến ai đó… hại mình."

Đây là câu nói dối thứ mười một của tôi rồi. Amy của ngày hôm nay đủ khó chịu đến mức khiến người ta đôi lúc muốn làm hại cô ấy. Tôi phải nói rõ là Amy của ngày hôm nay, người mà giờ chỉ còn chút mơ hồ giống với người phụ nữ mà tôi đã phải lòng. Đó là sự hoán đảo khủng khiếp của một câu chuyện cổ tích. Chỉ trong có vài năm, Amy của ngày xưa, cô gái có tiếng cười sảng khoái và dễ chịu đã đúng nghĩa rũ bỏ chính mình, rũ bỏ những lớp da và cả tâm hồn, chất thành đống trên sàn nhà, và từ đó bước ra là một Amy mới với tính cáu bẳn và gắt gỏng như bây giờ. Vợ tôi không còn là vợ tôi nữa mà giống như nút thắt của dây kẽm gai đang thách thức tôi dám liều mình gỡ bỏ. Trong khi tôi với những ngón tay to bè, vụng về và căng thẳng lại chẳng hề có khả năng thực hiện được việc đó. Những ngón tay quê mùa. Những ngón tay kém cỏi đã không được rèn giũa để thực hiện một nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa nguy hiểm, đó là kết thúc Amy. Trong khi tôi còn đang rối trí, cô ấy chỉ thở dài và quay sang cuốn sổ tay trí tuệ bí mật của mình, trong đó cô ấy kiểm điểm tất cả mọi khiếm khuyết của tôi, vĩnh viễn ghi nhớ những thất vọng, bạc nhược, kém cỏi. Amy ngày xưa của tôi, chết tiệt, cô ấy vui vẻ. Cô ấy hài hước. Cô ấy làm tôi cười. Tôi đã quên hẳn quá khứ đó. Còn cô ấy thì cười nhạo. Từ sâu trong cổ họng mình, ngay phía sau cái hõm nhỏ có hình như ngón tay, đó là nơi tuyệt nhất để bật ra tiếng cười. Cô ấy ném tung những phiền muộn của mình như ném những nắm hạt cho chim ăn: Chúng đã ở đó, và giờ chúng biến mất rồi.

Con người cô ấy không phải như bây giờ, kiểu người mà tôi sợ nhất: một người đàn bà cáu kỉnh. Tôi không giỏi đối phó với những phụ nữ hay cáu bẳn. Bọn họ khiến tôi lộ ra những mặt không đẹp đẽ gì bên trong con người tôi.

"Cô ấy hách dịch à?" Gilpin hỏi. "Hay kiểm soát?"

Tôi nghĩ đến lịch làm việc của Amy, một kế hoạch được lên sẵn cho những ba năm sau đó. Nếu nhìn vào kế hoạch cho một năm tiếp sau đấy, người ta thậm chí sẽ thấy những cuộc hẹn gặp bác sĩ da liễu, khám nha khoa hay đến bác sĩ thú y. "Cô ấy là người luôn lập kế hoạch - cô ấy, các vị biết đấy, không làm việc gì mà không có sự chuẩn bị trước. Cô ấy thích lập các danh sách và đánh dấu các công việc được hoàn tất. Hoàn tất mọi thứ. Đó là lý do vì sao chuyện này thật khó hiểu…"

"Điều này hẳn khiến anh phát điên." Boney thông cảm nói. "Nếu anh không phải tuýp người như vậy, xem ra anh rất giống với những người có nhóm máu B."

"Tôi nghĩ mình có phần thoải mái hơn." Tôi đáp, rồi nói thêm một ý mà tôi cho rằng nên có: "Chúng tôi bổ sung cho nhau."

Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường, và Boney chạm nhẹ vào tay tôi.

"Này, sao anh không ra ngoài kia và gọi cho bố mẹ Amy đi? Tôi chắc là họ sẽ cảm kích vì điều đó."

Đã quá nửa đêm rồi. Bố mẹ Amy đi ngủ từ chín giờ tối, họ tỏ ra hợm hĩnh một cách lạ lùng với cái giờ đi ngủ sớm sủa ấy. Giờ này hẳn họ đã say giấc rồi nên đây sẽ là một cuộc gọi khẩn cấp lúc nửa đêm. Điện thoại di động luôn được tắt vào 8:45, vì vậy Rand Elliott sẽ phải đi từ giường ngủ ra tận cuối hành lang để nhấc cái máy điện thoại cũ kỹ nặng nề lên nghe, ông ấy sẽ phải dò dẫm với lấy cặp kính, rồi nhặng xị với tay bật đèn bàn. Ông ấy sẽ tự viện ra với mình đủ mọi lý do để không phải lo lắng về một cú điện thoại lúc đêm khuya, tất cả những lý do vô hại khiến chiếc điện thoại có thể đổ chuông.

Tôi quay số hai lần nhưng đều dập máy trước khi chuông đổ. Khi tôi giữ máy thì lại chính Marybeth, chứ không phải Rand, đã trả lời điện thoại bằng chất giọng trầm ù ù bên tai tôi. Tôi chỉ kịp nói "Marybeth, con Nick đây" thì tôi không còn thấy ù ù nữa.

"Có chuyện gì vậy Nick?"

Tôi hít vào một hơi.

"Chuyện về Amy à? Nói ta nghe đi."

"Con, ừm - con xin lỗi, lẽ ra con nên gọi sớm hơn…"

"Nói cho ta biết xem nào, chết tiệt thật!"

"Bọn con kh-ông tìm thấy Amy." Tôi lắp bắp.

"Không tìm thấy Amy?"

"Con không biết nữa…"

"Amy mất tích rồi sao?"

"Bọn con không chắc lắm về chuyện đó, bọn con vẫn đang…"

"Từ khi nào?"

"Bọn con không rõ. Con rời nhà sáng nay, khoảng hơn bảy giờ một chút…"

"Và anh đợi đến tận giờ mới chịu gọi cho chúng tôi?"

"Con xin lỗi, con không muốn…"

"Lạy Chúa tôi. Tối nay chúng tôi đã chơi quần vợt. Quần vợt, trong khi chúng tôi lẽ ra… Chúa ơi. Cảnh sát đã vào cuộc chưa? Anh có báo cho họ không?"

"Hiện giờ con đang ở sở cảnh sát."

"Làm ơn chuyển máy cho người phụ trách, Nick."

Ngoan ngoãn như một đứa trẻ, tôi đi tìm Gilpin. Mẹ vợ tôi muốn nói chuyện với anh.

Cuộc gọi đến nhà Elliott đã chính thức hóa chuyện này. Thông tin khẩn cấp - Amy mất tích - sẽ lan rộng ra bên ngoài.

Khi quay trở lại phòng thẩm vấn, tôi đã nghe thấy giọng nói của bố tôi. Đôi khi, trong những giây phút đặc biệt xấu hổ, tôi thường nghe thấy giọng nói của ông trong đầu mình. Nhưng đây là giọng nói của bố tôi thật, ở đây. Lời ông nổi lên thành đám bong bóng, như thể thứ gì đó từ một vũng lầy hôi thối. Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn. Bố tôi trong trạng thái hoàn toàn mất trí sẽ ném những lời ấy vào mặt bất cứ người phụ nữ nào, dù người đó chỉ hơi chọc giận ông: khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn. Tôi ngó vào một căn phòng họp, và kia, ông ấy đang ngồi trên chiếc ghế dài đặt cạnh tường. Bố tôi từng là một người đàn ông đẹp trai, mạnh mẽ với chiếc cằm chẻ. Tuyệt vời đến choáng ngợp là những ngôn từ mà dì tôi đã dùng để miêu tả ông. Giờ thì ông ngồi đó, lẩm bẩm với sàn nhà, mớ tóc vàng rối bù, quần lấm đầy bùn và những cánh tay trầy xước như thể vừa vật lộn thoát ra khỏi một bụi cây gai. Một vệt nước dãi lấp loáng chảy xuống chiếc cằm của ông trông như vết dãi của một con ốc sên, và ông hết gập rồi lại duỗi các cơ bắp chưa đến nỗi xuống cấp trên cánh tay mình. Một nữ sĩ quan với vẻ khó chịu đang ngồi kế bên bố tôi, cặp môi cô ta mím lại vì giận dữ và cố gắng lờ ông đi: Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn.

"Có chuyện gì xảy ra vậy?" Tôi hỏi cô ta. "Đây là bố tôi."

"Anh nhận được cuộc gọi của chúng tôi không?"

"Cuộc gọi nào?"

"Để đến đón bố anh." Cô ta phát âm rõ quá mức, như thể tôi là một đứa trẻ mười tuổi ngớ ngẩn vậy.

"Tôi - vợ tôi đang mất tích. Tôi đã ở đây gần như cả đêm."

Cô ta chăm chú nhìn tôi mà không xâu chuỗi được thông tin nào. Tôi có thể thấy cô ta đang cân nhắc việc dẹp bỏ sự bực bội của mình và xin lỗi cũng như hỏi thăm tôi. Rồi bố tôi lại tiếp tục, khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn, và thế là cô ta quyết định giữ nguyên sự bực bội của mình.

"Thưa ông, bên Comfort Hill đã cố gắng liên lạc với ông cả ngày nay. Sáng sớm nay bố ông đã đi lang thang ra ngoài theo lối thoát hiểm hỏa hoạn. Như ông thấy đấy, ông ấy có vài vết trầy xước và xây xát, nhưng không bị tổn thương gì. Chúng tôi tìm được ông ấy trước đây vài giờ, lúc đó ông ấy đang đi bộ xuôi theo Đường Sông và bị mất phương hướng. Chúng tôi đã cố gắng liên lạc với ông."

"Tôi đã ở ngay đây." Tôi nói. "Ngay căn phòng chết tiệt ở bên cạnh, mà sao chẳng ai chịu xâu chuỗi mấy chuyện này lại với nhau cơ chứ?"

Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn. Bố tôi nói.

"Thưa ông, làm ơn đừng có nói với tôi bằng cái giọng đó."

Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn.

Boney yêu cầu một viên cảnh sát - nam giới - lái xe đưa bố tôi về nhà để tôi có thể hoàn tất công chuyện với họ. Chúng tôi đứng trên bậc tam cấp bên ngoài sở cảnh sát, quan sát bố tôi được đưa vào yên vị trong xe, miệng vẫn tiếp tục lầm bầm. Suốt khoảng thời gian từ nãy đến giờ ông không hề nhận ra sự có mặt của tôi. Khi họ lái xe đi, ông thậm chí không buồn quay đầu nhìn lại.

"Hai cha con anh không thân nhau à?" Boney hỏi.

"Chúng tôi chính là khái niệm của sự không thân thiết."

Đám cảnh sát kết thúc các câu hỏi của họ và đẩy tôi lên một chiếc xe tuần tra vào khoảng hai giờ sáng với lời dặn dò nên đi ngủ và phải quay lại đó lúc mười một giờ sáng để chuẩn bị cho buổi họp báo vào mười hai giờ trưa.

Tôi không hỏi liệu tôi có được về nhà không. Tôi bảo họ đưa tôi đến chỗ Go, vì tôi biết con bé sẽ thức và uống chút gì đó cùng tôi, chuẩn bị cho tôi một cặp bánh mỳ kẹp. Thảm hại thay, đó là tất cả những gì tôi muốn khi ấy: một người phụ nữ chuẩn bị cho tôi một cặp bánh mỳ và không hỏi bất kỳ câu hỏi nào.

"Anh không muốn đi tìm chị ta sao?" Go ngỏ ý trong lúc tôi đang ăn. "Chúng ta có thể lái xe đi tìm quanh đây."

"Có vẻ vô ích thôi." Tôi ngu ngốc nói. "Anh biết tìm ở đâu cơ chứ?"

"Nick, chuyện này thực sự nghiêm trọng."

"Anh hiểu, Go ạ."

"Vậy hãy hành động cho đúng mực, có được không, Lance? Đừng có kiểu ầm ừ chết tiệt như thế." Đó là một kiểu giọng nặng nề mà Go luôn thể hiện khi muốn gạt bỏ sự thiếu quyết đoán của tôi, cùng với đó là ánh mắt trừng trừng và việc lôi tên khai sinh của tôi ra gọi. Làm gì có ai với khuôn mặt như của tôi đây lại đáng bị gọi là Lance cơ chứ. Con bé đưa cho tôi một cốc rượu Scotch. "Uống cái này đi, nhưng chỉ thế thôi đấy. Anh sẽ không muốn mình ngất ngưởng vào ngày mai đâu. Chị ta có thể ở chỗ quái nào được chứ? Chúa ơi, em thấy phát ốm lên được." Go tự rót cho mình một cốc, uống ừng ực, sau đó lại cố nhấp từng ngụm trong khi đi tới đi lui trong bếp. "Anh không thấy lo lắng sao, Nick? Rằng nhỡ đâu có một gã nào đó, kiểu như, thấy chị ta trên phố và đơn giản là, quyết định bắt cóc chị ta? Đánh vào đầu chị ta và…"

Tôi cắt ngang. "Sao em lại nói cô ấy bị đánh vào đầu hả, cái quái gì vậy?"

"Em xin lỗi. Em không có ý vẽ ra cảnh tượng ấy, em chỉ… em không biết nữa, em cứ có ý nghĩ như vậy. Về một kẻ điên khùng nào đó." Go rót thêm một ít rượu Scotch nữa, rơi bắn tung tóe vào cốc của mình.

"Nhắc đến những kẻ khùng điên." Tôi nói. "Hôm nay bố lại trốn ra ngoài, bọn họ tìm thấy bố đang lang thang dọc Đường Sông. Hiện giờ bố về lại Comfort rồi."

Go nhún vai: được rồi. Đây là lần thứ ba trong vòng sáu tháng bố tôi bỏ ra ngoài. Go châm một điếu thuốc và vẫn nghĩ về Amy. "Ý em là, chẳng lẽ chúng ta không thể tìm gặp ai để hỏi chuyện hay sao?" Con bé hỏi. "Phải có việc gì đó chúng ta có thể làm chứ?"

"Lạy Chúa, Go! Em thật sự còn muốn anh cảm thấy bất lực hơn thế này nữa hay sao?" Tôi phát cáu. "Anh đếch biết mình nên làm gì nữa. Chẳng có cái gì gọi là ‘101 lời khuyên khi vợ bạn mất tích’ hết. Cảnh sát nói anh có thể về. Nên anh về. Anh sẽ chỉ làm những gì họ bảo anh làm."

"Tất nhiên là anh sẽ làm theo chỉ dẫn của họ." Go lẩm bẩm. Con bé đã nhận cái trách nhiệm gian nan đằng đẵng là cố gắng biến tôi thành một kẻ nổi loạn. Chẳng đi đến đâu cả. Ở trường trung học tôi là đứa trẻ luôn tuân theo lệnh giới nghiêm, tôi là nhà báo luôn nộp bài viết đúng hạn, kể cả là những thời hạn giả. Tôi tôn trọng các quy tắc, bởi nếu người ta tuân theo các quy tắc, mọi việc sẽ thường êm xuôi.

"Mẹ kiếp, Go, anh phải quay lại sở cảnh sát chỉ sau vài tiếng nữa thôi, hiểu chứ? Em có thể làm ơn tử tế với anh một giây thôi có được không? Anh sợ đến phát điên lên rồi."

Chúng tôi đọ mắt nhìn nhau trong vòng năm giây, rồi sau đó Margo đổ đầy cốc của tôi thêm lần nữa, để xin lỗi. Con bé ngồi xuống bên cạnh tôi, đặt một bàn tay lên vai tôi.

"Tội nghiệp Amy." Con bé nói.
 
Chương 8: Amy Elliott Dunne


21 tháng 4 năm 2009

- Nhật ký -

Thật tội nghiệp tôi. Để tôi kể lại sự việc xem nào: Campbell, Insley và tôi đang ăn tối tại nhà hàng Tableau ở khu Soho. Có rất nhiều bánh tác pho-mát dê, thịt cừu viên nướng và rau tên lửa. Tôi không hiểu vì sao tâm trạng chúng tôi lại phấn khích đến mức gọi nhiều đồ ăn như vậy. Dẫu sao, bọn tôi đang ăn uống kiểu ngược đời: ăn tối trước, sau đó mới đi uống, ở một quán nhỏ mà Campell đã đặt trước, được bài trí theo kiểu buồng cá nhân kín đáo, một nơi mà người ta có thể ngồi chơi thư giãn một cách xa xỉ trong không gian, có thể nói là, không khác mấy so với phòng khách ở nhà. Nhưng rất vui, thi thoảng làm mấy trò thịnh hành và ngớ ngẩn kiểu này cũng thú vị. Cả bọn đều chưng diện, mặc váy dài sặc sỡ, đi giày cao gót mũi nhọn, và ai nấy đều được phục vụ đồ ăn đặt trên những chiếc đĩa nhỏ, chia thành từng miếng một, trông cầu kỳ và nhạt nhẽo như chính chúng tôi vậy.

Chúng tôi đã bàn nhau sẽ gọi các ông chồng đến cùng uống với mình. Và thế là sau khi ăn tối bọn tôi đã ở đó, chui vào góc nhỏ của mình với những ly mojito, martini, và rượu bourbon dành riêng cho tôi được phục vụ bởi một cô hầu bàn, người lẽ ra nên đi thử một vai thứ cho nhân vật Cô gái Vừa Rời Xe Buýt mới phải.

Bọn tôi bắt đầu hết chuyện để nói, hôm đó là thứ ba và chẳng ai trong chúng tôi thấy có bất cứ điều gì khác thường so với một ngày thứ ba cả. Chúng tôi uống một cách dè dặt: cả Insley và Campbell đều có những cuộc hẹn không chính xác vào sáng ngày hôm sau, trong khi tôi vẫn còn công việc của mình nên cả bọn không chuẩn bị cho một đêm ăn chơi, mà chỉ nhẹ nhàng thư giãn, rồi dần trở nên uể oải và buồn tẻ. Đáng lẽ chúng tôi đã ra về nếu không phải chờ đợi sự hiện diện không lấy gì làm chắc chắn của các ông chồng. Campbell không ngừng liếc nhìn chiếc Blackberry của mình, Insley thì nghiên cứu hai bắp chân cong của cô nàng từ các góc độ khác nhau. John là người đến đầu tiên - khẩn khoản xin lỗi Campbell với nụ cười rạng rỡ và hôn chào cả bọn, một người đàn ông với vẻ phấn khởi khi đến đây, vui vẻ xuất hiện vào phút chót của buổi cocktail dù phải đi hết cả một vòng thành phố chỉ để uống một ly, rồi cùng vợ mình về nhà. Khoảng hai mươi phút sau thì George xuất hiện - ngượng ngùng và căng thẳng với lời biện minh gọn lỏn là vì công việc. Insley đã cáu gắt với anh ta: "Anh muộn bốn mươi phút rồi." Anh ta phản pháo: "Vâng, xin lỗi vì còn mải kiếm tiền cho chúng ta." Hai người hầu như không nói chuyện gì với nhau nữa vì cả hai còn mải chuyện trò với những người khác.

Nick không hề xuất hiện, không một cú điện thoại. Chúng tôi đợi thêm bốn mươi lăm phút nữa rồi Campbell tỏ vẻ lo lắng ("Có lẽ anh ấy mắc kẹt với thời hạn phải hoàn thành công việc nào đấy vào phút chót rồi." Vừa nói Campbell vừa mỉm cười với John thân yêu và tử tế, người chẳng bao giờ để mấy thứ thời hạn kiểu đó làm ảnh hưởng đến kế hoạch của vợ mình), sự tức giận của Insley với chồng cũng nguôi dần khi cô nàng nhận ra chồng mình mới chỉ là gã đần thứ hai trong nhóm ("Cậu có chắc là anh ấy thậm chí còn chưa nhắn tin không đấy, tình yêu?")

Tôi ư, tôi chỉ cười: "Ai mà biết anh ấy đang ở đâu - tớ sẽ gặp anh ấy ở nhà vậy." Và giờ thì đến phiên những người ông chồng tỏ ra sửng sốt: Ý em là chồng em được làm vậy à? Có thể lảng tránh buổi tối ngày hôm nay mà không phải chịu bất kỳ hậu quả cay đắng nào sao? Không phải chịu tội hay bị cáu giận hoặc hờn dỗi gì ư?

Chà, với các anh thì có lẽ không được như vậy đâu.

Tôi và Nick, thi thoảng chúng tôi vẫn cười nhạo, cười thật lớn tiếng trước những điều điên rồ mà phụ nữ thường bắt chồng họ phải làm để chứng tỏ tình yêu với mình. Những nhiệm vụ ngớ ngẩn, sự hy sinh vô kể, và những lần nhượng bộ cỏn con nhưng vô tận. Chúng tôi gọi những gã đàn ông đó là đám khỉ nhảy múa.

Sau một ngày ở sân bóng chày, Nick thường về nhà nhớp nháp và ướt mặn mồ hôi, không nồng nặc mùi bia, còn tôi thì cuộn mình trong lòng anh ấy, hỏi xem trận đấu thế nào, anh bạn Jack của anh ấy có quãng thời gian vui vẻ hay không, và anh ấy sẽ bảo: "Ồ, cậu ta tụt hứng chơi vì một vụ khỉ nhảy múa - Jennifer tội nghiệp đã có ‘một tuần làm việc thực sự căng thẳng’ và cô ấy thực sự cần cậu ta ở nhà."

Hay một anh bạn đồng nghiệp của anh ấy, người không thể tụ tập chè chén vì bạn gái anh ta thực sự cần anh ta ghé qua một quán ăn nhỏ nào đó, nơi cô ta đang dùng bữa tối với một người bạn phương xa. Rốt cuộc chỉ để họ có thể gặp nhau, và để cô ta có thể khoe khoang rằng con khỉ của mình biết nghe lời đến thế nào: Tôi gọi là anh ấy đến ngay, và trông anh ấy mới chỉnh tề làm sao!

Mặc cái này, đừng mặc cái đó. Làm cái việc vặt vãnh này ngay bây giờ và làm nó ngay khi nào anh có thể, nói như vậy anh phải hiểu ý em tức là ngay lúc này. Và dứt khoát, dứt khoát phải vì em mà từ bỏ những thứ anh yêu thích, để em có căn cứ tin rằng anh yêu em trên hết thảy. Đó là cuộc thi đấu xuẩn ngốc của phụ nữ. Trong lúc bọn tôi lượn quanh mấy hội đọc sách và những buổi cocktail, có rất ít điều mà phụ nữ thích làm hơn là việc kể lể chi tiết những hy sinh mà đàn ông dành cho họ. Một kiểu gọi-và-đáp, và câu đáp luôn là: "Ôiiii, điều đó mới ngọt ngào làm sao."

Tôi thấy hạnh phúc vì mình không nằm trong đám người đó. Tôi không hùa theo và cũng không thoải mái với việc áp đặt tình cảm của mình, ép buộc Nick phải đóng vai một ông chồng hạnh phúc nào đó - luôn nhún nhường, vui vẻ, nghe lời Anh đi đổ rác đi, anh yêu à! Đối nghịch với người đàn ông trong mơ của tất cả các bà vợ, trong mộng tưởng của những ông chồng luôn là một người đàn bà ngọt ngào, nóng bỏng, dễ tính, thích làm tình và uống rượu mạnh.

Tôi thích ý nghĩ rằng tôi đủ tự tin, lòng tin tưởng và sự chín chắn để biết Nick yêu tôi mà không cần anh ấy lúc nào cũng phải chứng tỏ điều đó. Tôi không cần diễn đi diễn lại những vở kịch khỉ múa một cách tội nghiệp cho bạn bè mình xem. Tôi hài lòng với việc để anh ấy được là chính mình.

Tôi không biết tại sao phụ nữ thấy việc này khó khăn đến vậy.

Về đến nhà sau bữa tối, xe taxi của tôi dừng lại đúng lúc Nick bước ra từ chiếc taxi của mình. Anh ấy đứng trên phố với đôi cánh tay rộng mở về phía tôi cùng với nụ cười rạng rỡ trên gương mặt - "Em yêu!" - và tôi chạy đến, nhảy bổ vào vòng tay Nick rồi anh ấy cọ chiếc cằm râu ria lởm chởm của mình vào cằm tôi.

"Tối nay anh đã làm gì vậy?" Tôi hỏi.

"Mấy cậu bạn của anh chơi bài poker sau giờ làm, nên anh đã tham gia một lúc. Hy vọng là việc đó không thành vấn đề."

"Tất nhiên rồi." Tôi nói. "Thú vị hơn buổi tối của em đấy."

"Có những ai đã đến vậy?"

"Ồ, Campbell và Insley cùng đám khỉ nhảy múa của bọn nó. Chán lắm. Anh đã né được một vụ. Một vụ thật chán hết sức."

Anh ấy siết chặt tôi vào lòng - đôi cánh tay rắn chắc ấy - rồi kéo tôi lên cầu thang và nói: "Chúa ơi, anh yêu em."

Tiếp đó chúng tôi làm tình và thưởng thức một ly rượu mạnh. Một đêm ngon giấc trong ổ chuột ngọt ngào của chúng tôi trên chiếc giường rộng rãi và êm ái. Thật khổ thân tôi.
 
Chương 9: Nick Dunne


Một ngày trôi qua

Tôi đã không nghe lời Go về việc uống say quá mức. Tôi ngồi một mình trên chiếc tràng kỷ ở nhà Go, uống hết nửa chai, cho đến khi thứ adrenaline trong tôi bùng phát lần thứ mười tám thì tôi tự nhủ mình phải đi ngủ thôi: Mí mắt tôi sụp xuống, khi tôi di chuyển chiếc gối với đôi mắt nhắm nghiền thì tôi thấy vợ mình, mái tóc vàng của cô ấy bết lại vì máu, mù lòa và khóc lóc trong đau đớn, lê thân mình dọc theo sàn bếp, la hét gọi tên tôi. Nick, Nick, Nick!

Tôi giật ngửa chai rượu liên tục, chuẩn bị tinh thần để ngủ - một thói quen đã mất. Giấc ngủ giống hệt như một con mèo: Nó chỉ đến bên khi người ta lờ nó đi. Tôi uống thêm và tiếp tục câu thần chú của mình. Đừng nghĩ nữa, một ngụm lớn, để cho đầu óc trống rỗng, một ngụm nữa, nào, ngay bây giờ, nghiêm túc đi, không nghĩ gì nữa, hãy làm thế ngay, lại một ngụm nữa. Ngày mai mày cần phải tỉnh táo, mày cần phải ngủ! Lại tiếp một hơi. Tôi chẳng còn làm gì được ngoài việc chợp mắt một lúc tới khi trời sáng. Một giờ sau đó tôi tỉnh dậy và cảm thấy khó chịu vì dư lượng cồn. Không phải cảm giác mệt mỏi, mà dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy yếu đuối và uể oải. Mùi hôi. Có lẽ tôi vẫn hơi say. Tôi bước chệnh choạng tới chiếc bên chiếc Subaru của Go, cảm giác rất kỳ quái như thể chân tôi đang đi giật lùi vậy. Tôi có quyền sở hữu tạm thời đối với chiếc xe này, cảnh sát đã nhã nhặn đề nghị tạm giữ chiếc Jetta được gìn giữ cẩn thận của tôi để điều tra, cả máy tính xách tay nữa - tất cả chỉ mang tính thủ tục, đó là những gì tôi đã được đảm bảo. Tôi lái xe về nhà để tìm vài bộ đồ nào đó cho đàng hoàng.

Ba chiếc xe tuần tra của cảnh sát đỗ trước khu nhà tôi ở, mấy người hàng xóm đang đi lại quanh đó. Không có Carl, nhưng có Jan Teverer - người phụ nữ theo Cơ đốc giáo - và Mike, ông bố của ba đứa trẻ ba tuổi được sinh ba nhờ thụ tinh trong ống nghiệm, có tên là Taylor, Topher và Talullah ("Em ghét những cái tên đó." Amy, một thẩm phán khó tính đối với bất cứ thứ gì theo mốt, đã phát biểu như vậy. Khi tôi đề cập rằng cái tên Amy cũng từng rất được ưa chuộng, thì vợ tôi nói: "Nick, anh biết câu chuyện về tên của em mà." Tôi đã không hiểu cô ấy muốn nói về chuyện gì.)

Jan gật đầu từ đằng xa mà không nhìn vào mắt tôi, nhưng Mike bước vội đến khi tôi vừa xuống xe. "Tôi rất lấy làm tiếc, anh bạn, bất cứ việc gì tôi có thể làm, cứ cho tôi biết nhé. Bất cứ việc gì.Sáng nay tôi đã cắt cỏ rồi, nên ít nhất anh không phải lo lắng về việc đó."

Mike và tôi thay nhau cắt cỏ tại những ngôi nhà bỏ hoang do bị tịch thu thế nợ ở trong khu. Những cơn mưa lớn vào mùa xuân đã biến khoảng sân của những ngôi nhà đó thành một khu rừng nhiệt đới, thu hút cả một bầy chồn hương lui tới. Chồn hương có ở khắp mọi nơi, cứ đêm đến chúng lại gặm nhấm rác rưởi, lẻn vào tầng hầm nhà chúng tôi, nhiều khi còn nằm cả trên hiên nhà như những con thú cưng lười biếng. Việc cắt cỏ xem ra không có tác dụng gì trong việc đuổi chúng đi, nhưng ít ra bây giờ chúng tôi có thể quan sát chúng mỗi khi chúng đến gần.

"Cảm ơn, cảm ơn anh bạn." Tôi nói.

"Anh biết không, vợ tôi, cô ấy đã hoảng loạn kể từ lúc biết chuyện." Anh ta nói. "Hoàn toàn hoảng loạn."

"Tôi rất tiếc khi nghe vậy." Tôi nói. "Tôi phải..." Vừa nói tôi vừa chỉ về phía cửa ra vào.

"Vợ tôi chỉ ngồi đó khóc lóc nhìn bức ảnh của Amy."

Tôi chẳng ngạc nhiên khi cả nghìn bức ảnh sau một đêm đã ngập tràn trên Internet, chỉ để đáp ứng nhu cầu thương cảm của đám đàn bà như vợ Mike. Tôi chẳng khoái những nữ hoàng giả dối kiểu như thế.

"Này, tôi muốn hỏi..." Mike bắt đầu.

Tôi vỗ vào cánh tay anh ta và chỉ vào cửa lần nữa, như thể đang có việc rất gấp vậy. Rồi tôi quay người bước đi trước khi anh ta có thể hỏi bất cứ câu gì hay đến gõ cửa nhà tôi.

Sĩ quan Velásquez hộ tống tôi lên tầng trên, vào phòng ngủ và sang phòng chứa đồ, đi qua chiếc hộp đựng quà hình lập phương lấp lánh ánh bạc, rồi cô ta để tôi lướt tìm những thứ mình cần. Phải chọn lựa quần áo trước mặt cô gái trẻ với mái tóc nâu dài tết chặt này khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Cô ta hẳn là đang phán xét tôi và bình luận gì đó. Rốt cuộc, tôi túm bừa lấy một số thứ: bộ quần áo có phong cách công sở, quần Âu và áo ngắn tay, cứ như thể tôi sắp sửa đi dự hội nghị vậy. Hẳn sẽ có một bài viết thú vị đây, tôi nghĩ bụng, tìm chọn một bộ đồ phù hợp trong khi người thân yêu của mình đang mất tích. Dường như không thể vùi lấp được phần tham lam và thèm khát ý tưởng của một nhà báo ở trong tôi.

Tôi nén chặt đám quần áo vào trong một chiếc túi và quay nhìn chung quanh, thấy hộp quà nằm trên sàn nhà tôi hỏi cô sĩ quan. "Tôi có thể xem bên trong nó được không?"

Cô ta lưỡng lự nhưng sau đó đưa ra quyết định an toàn. "Không được, thưa ông, tôi lấy làm tiếc. Tốt hơn hết không phải lúc này."

Mép giấy gói hộp quà đã bị bóc ra một cách cẩn trọng. "Đã có ai xem bên trong đó chưa?"

Cô ta gật đầu.

Tôi đi vòng qua Velásquez tiến đến chỗ chiếc hộp. "Nếu nó đã được bóc rồi vậy thì..."

Cô ta bước sang chặn trước mặt tôi. "Thưa ông, tôi không thể để ông xem chiếc hộp được."

"Thật nực cười. Đây là món quà mà vợ tôi tặng cho tôi..."

Tôi bước vòng ra phía sau cô ta, cúi xuống, và khi một tay tôi đặt lên góc chiếc hộp thì cô ta đập mạnh cánh tay vào lưng tôi. Tôi cảm thấy cơn thịnh nộ dâng trào, người phụ nữ này tự cho mình có quyền bảo tôi phải làm gì trong ngôi nhà của chính tôi hay sao. Dù tôi có cố gắng đến thế nào để là con trai của mẹ tôi, giọng nói của cha tôi vẫn cứ văng vẳng trong đầu, mang đến những suy nghĩ tồi tệ và những câu nói tục tĩu.

"Thưa ông, đây là hiện trường vụ án, ông…"

Ngữ khốn nạn.

Đột nhiên Riordan, đồng nghiệp của cô ta xuất hiện trong phòng và cũng tham gia ngăn cản tôi. Còn tôi thì cố hất tay bọn họ ra - được rồi, được rồi, mẹ kiếp - và bọn họ buộc tôi phải xuống nhà. Gần cửa chính có một phụ nữ đang bò loay hoay trên mặt đất, khám xét gì đó dọc theo các tấm ván sàn, tôi đoán là tìm vết máu. Cô ta ngước lên thản nhiên nhìn tôi, rồi lại cúi xuống.

Tôi buộc mình phải kiềm chế khi lái xe trở lại nhà Go để thay quần áo. Đây chỉ là một trong chuỗi dài những công việc khó chịu và ngu xuẩn mà cảnh sát sẽ thực hiện trong quá trình điều tra (tôi thích những quy tắc hợp lý, chứ không phải những quy định thiếu logic), vì thế tôi cần phải trấn tĩnh lại: Không được chống đối bọn cớm, tôi tự bảo mình. Lặp lại nếu cần thiết: Không được chống đối bọn cớm.

Tôi chạm mặt với Boney ngay khi bước vào sở cảnh sát. "Bố mẹ vợ anh đang ở đây, Nick ạ." Cô ta nói với thái độ động viên tôi, như thể đang mời tôi một chiếc bánh xốp nướng còn nóng hổi vậy.

Marybeth và Rand Elliott đang đứng đó, vòng tay ôm lấy nhau. Ở giữa sở cảnh sát mà trông họ giống như đang tạo dáng chụp hình ở vũ hội vậy. Đó là kiểu cách mà tôi luôn thấy mỗi khi gặp họ, nắm tay, cọ cằm, hay vuốt má. Bất cứ khi nào đến nhà Elliott, tôi bị ám ảnh là mình phải hắng giọng - tôi sắp vào đấy - bởi vợ chồng Elliott có thể âu yếm nhau ở bất cứ chỗ nào. Họ hôn môi nhau mỗi khi tạm biệt, và Rand sẽ vỗ vào lưng vợ khi ông ta đi ngang qua bà ấy. Việc đó với tôi thật kỳ quặc. Bố mẹ tôi ly hôn khi tôi mới mười hai tuổi, và tôi nghĩ có lẽ khi còn rất nhỏ tôi đã chứng kiến kiểu hôn má không hề có tình cảm gì giữa hai người họ, chỉ vì tình huống khi ấy bắt buộc phải thế. Đó là mỗi dịp Giáng sinh hoặc sinh nhật. Những nụ hôn tẻ nhạt. Ngay cả trong thời kỳ hôn nhân tuyệt vời nhất thì giao tiếp giữa hai người vẫn hoàn toàn chỉ như giao dịch: Chúng ta lại hết sữa rồi. (Hôm nay em sẽ mua một ít.) Tôi muốn cái này phải được là cẩn thận. (Hôm nay em sẽ là.) Mua sữa khó lắm sao? (Im lặng.) Cô quên gọi thợ hàn rồi đấy. (Thở dài.) Mẹ kiếp, mặc áo khoác vào, ngay bây giờ, đi ra ngoài và mua sữa về đây. Ngay lập tức. Kiểu sai bảo và ra lệnh như vậy là của bố tôi, một quản lý cấp trung của công ty điện thoại, người luôn đối xử với mẹ tôi tốt nhất cũng chỉ như với một nhân viên kém cỏi của mình. Còn tệ nhất ư? Ông không bao giờ đánh đập bà, nhưng cơn giận dữ hiển nhiên và vô cớ của ông có thể choán ngợp cả ngôi nhà trong nhiều ngày trời, hàng tuần liền, và khiến cho không khí lúc nào cũng ngột ngạt, khó thở. Bố tôi bực bội đi lại với dáng vẻ bệ vệ, quai hàm dưới đưa ra khiến ông có vẻ ngoài giống với một võ sĩ quyền anh đang bị thương và muốn báo thù, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, đến mức người ta có thể nghe rõ từ phía bên kia căn phòng. Ông ném đồ vật về phía mẹ tôi nhưng không trúng người bà. Tôi dám chắc ông đã tự nhủ: Mình không bao giờ đánh đập bà ta. Tôi dám chắc bằng lối hành xử đó, không bao giờ ông ấy coi mình là một kẻ có thể hành hung người khác. Nhưng ông ấy đã biến cuộc sống gia đình chúng tôi trở thành một hành trình dài vô tận, bởi những định hướng tồi cùng một người cầm lái luôn chất chứa trong mình những cơn thịnh nộ dồn nén. Một kỳ nghỉ không bao giờ có cơ hội được vui vẻ. Đừng khiến tôi phải quay xe lại. Sự thực là, làm ơn hãy quay xe lại đi.

Tôi không nghĩ cách hành xử của ông ấy cá biệt đối với mẹ. Chỉ là ông ấy không ưa phụ nữ. Ông ấy nghĩ tất cả bọn họ đều ngu ngốc, tầm thường, khó chịu. Cái ngữ khốn nạn ngu đần ấy. Đó là những lời ưa thích của ông ấy dành cho bất cứ phụ nữ nào khiến ông ấy bực mình: nữ tài xế, nữ bồi bàn, các giáo viên phổ thông của chúng tôi, dù ông ấy chưa thực sự gặp một ai trong số họ. Những cuộc họp phụ huynh xem ra đều thối nát hết cả vì đám đàn bà, cũng như chính bản chất của bọn họ. Tôi vẫn nhớ khi Geraldine Ferraro được xướng tên là ứng cử viên Phó tổng thống năm 1984, lúc ấy cả nhà đang xem thời sự trước bữa tối. Mẹ tôi, người mẹ bé nhỏ yêu dấu của tôi, đã đặt một tay lên gáy Go và nói: "Chà, em nghĩ tin này thật tuyệt." Thế là bố tôi đã tắt phụt tivi đi và nói: "Đó là một trò đùa. Cô thừa hiểu đó là một trò đùa chết tiệt. Cứ như đang xem một con khỉ đi xe đạp vậy."

Phải mất năm năm sau, cuối cùng mẹ tôi đã quyết định là bà quá mệt mỏi. Một ngày nọ tôi từ trường về nhà, bố tôi đã bỏ đi. Buổi sáng ông ấy vẫn ở nhà nhưng buổi chiều thì không còn nữa. Mẹ bảo chúng tôi ngồi xuống quanh bàn ăn và thông báo: "Bố các con và mẹ đã quyết định sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu bố mẹ chia tay." Go đã òa khóc rồi nói: "Tốt thôi, con ghét cả hai người!" và rồi, thay vì chạy về phòng như kịch bản phải thế, con bé chạy đến và ôm chầm lấy mẹ.

Vậy là bố tôi đã ra đi còn người mẹ gầy gò, đau khổ của tôi đã lên cân và vui vẻ - tuy lên cân vừa phải nhưng bà vô cùng hạnh phúc, như thể bà đã mong đợi ngày đó từ lâu lắm rồi - một quả bóng xịt hơi được bơm đầy không khí. Trong vòng một năm, bà dần trở thành một người phụ nữ bận rộn, sôi nổi và vui tươi như chính con người bà cho tới lúc mất. Chị gái của bà đã nói những lời như thể người phụ nữ đã nuôi nấng chúng tôi chỉ là một kẻ mạo danh vậy: "Ơn trời, Maureen của ngày xưa đã quay trở lại."

Còn về phía bố tôi, trong nhiều năm liền tôi nói chuyện với ông qua điện thoại, khoảng một tháng một lần. Cuộc chuyện trò lễ phép và đủ thông tin, đúng nghĩa thuật lại những gì đã xảy ra. Câu hỏi duy nhất ông từng hỏi về Amy là "Amy thế nào rồi?", thực sự chẳng có ý khơi gợi bất cứ câu trả lời nào khác ngoài "Cô ấy vẫn ổn." Ông vẫn ngoan cố giữ khoảng cách, kể cả lúc ông mắc chứng bệnh mất trí nhớ và đã ngoài sáu mươi tuổi. Nếu bạn luôn sớm thì bạn sẽ không bao giờ muộn. Đó là câu thần chú của bố tôi, và nó bao gồm cả sự bắt đầu của căn bệnh Alzheimer - một sự xuống cấp từ từ về sức khỏe sau đó chuyển sang cú tuột dốc đột ngột, buộc chúng tôi phải chuyển người bố không phụ thuộc và căm ghét phụ nữ của mình đến một khu nhà rộng lớn, lúc nào cũng nặng mùi canh gà và nước tiểu, nơi mà những người phụ nữ luôn ở bên cạnh giúp đỡ ông. Ha.

Bố tôi có những hạn chế của mình. Đó là điều mà người mẹ nhân hậu đã luôn nhắc nhở chúng tôi. Ông ấy cũng có khiếm khuyết, nhưng vô hại. Mẹ tôi đã quá tốt bụng khi nói vậy, nhưng sự thực ông ấy không vô hại. Tôi ngờ rằng việc em gái tôi không có ý kết hôn bởi con bé sợ rằng đàn ông sẽ làm nó phải rơi những giọt nước mắt ủy mị. Nếu con bé buồn, bối rối hay tức giận, nó chỉ cần được ở một mình. Tôi cũng yếu đuối như thế. Những điểm tốt tôi có được là từ mẹ. Tôi có thể nói đùa, có thể cười, có thể trêu ghẹo, tán dương, ủng hộ và khen ngợi - hay nói đơn giản là tôi có thể nhìn cuộc sống tích cực, nhưng tôi không thể đối phó được với những người phụ nữ hay cáu kỉnh hoặc khóc lóc. Tôi có cảm giác như sự tức giận của bố tôi trỗi dậy trong tôi theo hướng tiêu cực nhất. Amy có thể nói với bạn về điều này. Cô ấy chắc chắn sẽ nói nếu cô ấy ở đây.

Tôi nhìn Rand và Marybeth một lúc trước khi họ thấy tôi. Tôi tự hỏi không biết họ sẽ tức giận với tôi đến mức nào. Tôi đã mắc một tội không thể tha thứ được vì đã thông báo cho họ quá muộn. Vì sự hèn nhát của tôi, buổi tối chơi tennis đó sẽ luôn hằn sâu trong tâm trí họ: một buổi tối vui vẻ với những quả bóng vàng chậm rãi nảy bật trên sân, tiếng giày tennis cọ trên mặt đất, một buổi tối thứ Năm như thường lệ vẫn diễn ra trong khi con gái họ thì đã biến mất.

"Nick." Rand Elliott thốt lên khi phát hiện ra tôi. Ông ấy bước ba bước dài về phía tôi, và khi tôi gồng mình lên chờ đợi một cú đấm thì ông ấy ôm chặt lấy tôi một cách tuyệt vọng.

"Làm thế nào mà con chịu đựng được vậy?" Ông ấy thì thầm bên cổ tôi rồi bắt đầu run lên bần bật. Cuối cùng, ông ấy nấc lên một tiếng the thé, khóc lóc thổn thức và giữ chặt hai cánh tay tôi. "Chúng ta sẽ tìm thấy Amy, Nick. Sẽ là như thế. Con hãy tin vào điều đó, được chứ?" Rand Elliott giữ tôi với cái nhìn đau đáu từ đôi mắt xanh thẳm của ông ấy vài giây, rồi sau đó lại thổn thức - ông ấy ỏn ẻn bật ra ba hơi thở hổn hển như tiếng nấc cụt - còn Marybeth bước đến chỗ chúng tôi, vùi khuôn mặt mình dưới cánh tay của ông chồng.

Khi chúng tôi buông nhau ra, bà ấy ngước nhìn tôi bằng đôi mắt to đẹp hút hồn của mình. "Đó chỉ là... chỉ là một cơn ác mộng chết tiệt thôi." Bà ấy nói. "Con có khỏe không, Nick?"

Khi Marybeth hỏi Con có khỏe không, đó không phải là phép lịch sự mà là một câu hỏi về sự tồn tại. Bà ấy dò xét khuôn mặt tôi, chắc chắn là bà ấy đang dò xét và sẽ còn tiếp tục lưu lại từng suy nghĩ và hành động của tôi. Vợ chồng nhà Elliott tin rằng mỗi đặc điểm đều đáng được lưu ý, đánh giá và phân loại. Chúng đều có ý nghĩa nào đó và có thể hữu ích. Mẹ, bố, đứa trẻ, ba loại người bậc cao với ba cấp độ tiên tiến trong tâm lý học - họ suy nghĩ vào thời điểm trước chín giờ sáng nhiều hơn so với suy nghĩ trong cả tháng của hầu hết mọi người. Tôi nhớ có lần tôi từ chối một chiếc bánh anh đào trong bữa tối, và Rand đã ngẩng đầu lên nói: "A! Một kẻ bài trừ những phong tục truyền thống. Khinh thường chủ nghĩa yêu nước tượng trưng và dễ dãi." Khi tôi cố cười xòa và nói rằng tôi không thích cả cocktail anh đào nữa, Marybeth đã huých vào cánh tay Rand: "Do cuộc ly hôn của bố mẹ thôi. Tất cả những món ăn dễ tiêu hóa và những món tráng miệng mà cả gia đình thường ăn cùng nhau, chúng là những ký ức buồn đối với Nick."

Nghe thật ngớ ngẩn nhưng cũng vô cùng dễ thương. Những con người này đang tốn quá nhiều năng lượng để tìm hiểu xem tôi là người thế nào. Câu trả lời đơn giản chỉ là: Tôi không thích anh đào.

Đến mười một rưỡi thì sở cảnh sát trở nên náo nhiệt. Tiếng chuông điện thoại đổ dồn, mọi người gọi nhau qua lại náo loạn cả căn phòng. Một phụ nữ mà tôi chưa từng nghe tên, người mà tôi chỉ nhớ là có cái đầu ngọ nguậy liên tục và nói rất nhiều, đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi. Tôi không biết cô ta đã ở đó được bao lâu rồi: "...và điểm cốt lõi là, Nick, phải để mọi người tìm kiếm Amy, để họ biết rằng cô ấy có một gia đình thương yêu mình và mong ngóng cô ấy trở về. Việc này phải được kiểm soát chặt chẽ. Nick, anh phải để tâm... Nick?"

"Vâng."

"Người ta sẽ muốn nghe một lời tuyên bố ngắn gọn từ chồng của cô ấy."

Ở phía bên kia căn phòng, Go đang lao như tên bắn về phía tôi. Con bé đã đưa tôi đến sở cảnh sát trước rồi mới ghé qua Quán Bar lo toan mọi việc ở đó trong khoảng nửa tiếng, và giờ thì Go đã quay lại và hành động như thể con bé đã bỏ rơi tôi cả một tuần rồi. Go chạy vòng vèo qua những chiếc bàn, với dáng vẻ gọn gàng và trang nghiêm tĩnh tại, chẳng cần quan tâm tới viên sĩ quan trẻ - người rõ ràng được chỉ định để đưa con bé vào đây.

"Cho tới giờ mọi việc vẫn ổn chứ?" Go vừa hỏi vừa quàng một cánh tay ôm chặt lấy tôi, một cái ôm kiểu đàn ông. Con cái nhà Dunne chẳng biết ôm thế nào cho đúng cách. Ngón cái của Go đặt lên đúng đầu ngực bên phải của tôi. "Em ước gì Mẹ ở đây." Con bé thì thầm, thật trùng hợp với điều tôi đang nghĩ. "Vẫn không có tin tức gì sao?" Con bé hỏi khi buông tôi ra.

"Không, chẳng hề có một tin chết tiệt nào..."

"Trông như thể anh đang cảm thấy rất tệ ấy."

"Anh cảm thấy như cứt." Tôi đang định nói mình là một thằng ngu vì đã không nghe lời con bé về việc uống rượu.

"Nếu là mình, hẳn em cũng đã nốc cạn chai luôn." Go vỗ vai tôi nói.

"Sắp đến giờ rồi." Người phụ nữ phụ trách truyền thông nói và lại xuất hiện một cách kỳ diệu.

"Số lượng người tham dự không tệ lắm vào dịp cuối tuần thứ tư của tháng Bảy như thế này." Cô ta bắt đầu lùa chúng tôi vào một phòng họp tối tăm với mành cửa nhôm và những chiếc ghế gấp, cùng một nhóm phóng viên trông tẻ ngắt, rồi cô ta bước lên bục. Tôi có cảm giác như mình giống như một diễn giả hạng ba tại một hội nghị tầm thường: tôi trong bộ đồ công sở màu xanh, diễn thuyết trước đám khán giả mỏi mệt đang mơ màng về thứ họ sẽ ăn vào bữa trưa. Tuy vậy, tôi có thể nhận thấy đám nhà báo đã hào hứng hẳn lên khi thoáng thấy tôi xuất hiện - nói thẳng ra là: một gã đàn ông trẻ tuổi đẹp trai - rồi sau đó người phụ nữ phụ trách truyền thông kia đặt lên chiếc giá gần đó tấm ảnh phóng to của Amy được in trên mặt bìa cứng, một bức ảnh chụp Amy xinh đẹp vô cùng, với khuôn mặt khiến người ta phải dò xét tỉ mỉ: Có thể nào cô ấy lại xinh đẹp đến thế sao? Có thể chứ, cô ấy xinh đẹp như vậy đấy, và tôi chăm chú nhìn vào bức ảnh khi hàng loạt ống kính giương lên để ghi lại khoảnh khắc tôi đang nhìn nó. Tôi nhớ ngày hôm ấy ở New York khi tôi gặp lại cô ấy: mái tóc vàng óng ả và chiếc gáy đó là tất cả những gì mà tôi nhìn thấy, nhưng tôi biết ngay đấy là Amy và tôi xem nó như một dấu hiệu. Đã có hàng triệu cái đầu mà tôi từng thấy trong đời mình, nhưng tôi biết chiếc hộp sọ xinh đẹp đang thấp thoáng ngay trước mặt tôi trên Đại lộ số Bảy kia chính là của Amy. Tôi biết đó chính là cô ấy, và rằng chúng tôi sẽ ở bên nhau.

Máy ảnh chớp liên tục. Tôi quay đi và nhìn thấy những đốm sáng. Thật kỳ lạ. Đó là điều mà người ta luôn thốt lên để mô tả những khoảnh khắc không bình thường. Tôi nghĩ: Các người chẳng biết quái gì về những điều kỳ lạ hết. Cảm giác khó chịu đang thực sự dâng lên, mắt trái của tôi giật giật như nhịp tim đập vậy.

Tiếng máy bấm lách tách. Hai gia đình đứng cùng nhau, tất cả chúng tôi đều đang mím môi. Margo là người duy nhất trông còn giống con người thật sự. Còn lại đám chúng tôi đều trông như những kẻ đóng thế, thân thể đã được di chuyển và dựng lên trên bục. Thậm chí Amy ở trên giá ảnh trông còn hiện thực hơn. Trước đây chúng tôi đã từng xem những cuộc họp báo như thế này về những phụ nữ mất tích. Giờ thì chúng tôi đang bị ép diễn cảnh đó theo những gì mà người xem truyền hình mong đợi: một gia đình đang lo lắng nhưng tràn đầy hy vọng. Đôi mắt đờ đẫn như nghiện cà phê và cánh tay thõng thượt như tay búp bê vải.

Tên của tôi được xướng lên, cả căn phòng đồng loạt nín thở chờ đợi. Buổi trình diễn bắt đầu.

Sau này khi xem lại phần phát sóng, tôi đã không thể nhận ra giọng nói và gần như cũng không thể nhận ra gương mặt của chính mình. Hơi men chếnh choáng vẫn còn dưới lớp da mặt khiến tôi trông như một tên lưu manh bị thịt, chỉ đủ biểu cảm để diễn một vai đầy tai tiếng. Tôi đã lo lắng là giọng mình sẽ bị run, vì thế tôi đã điều chỉnh giọng quá mức khiến nhiều từ bị nuốt mất, cứ như tôi đang đọc báo cáo chứng khoán vậy. "Chúng tôi chỉ muốn Amy an toàn trở về nhà..." Hoàn toàn không thuyết phục và rời rạc. Có lẽ tôi đang đọc ngẫu nhiên những con số cũng nên.

Rand Elliott bước lên và cố cứu nguy cho tôi: "Con gái chúng tôi, Amy, là một cô gái đáng yêu và sôi nổi. Đó là đứa con duy nhất của chúng tôi. Con bé thông minh, xinh đẹp và tốt bụng. Thực sự con bé là một Amy tuyệt vời. Chúng tôi mong con mình sẽ trở về. Nick mong vợ mình sẽ trở về." Ông ta đặt một tay lên vai tôi, lau nước mắt, và tuy không hề chủ ý nhưng tôi bỗng trở nên sắt đá. Hình ảnh cha tôi lại xuất hiện: Đàn ông không được khóc.

Rand nói tiếp: "Tất cả chúng tôi đều mong muốn Amy trở về nơi mà con bé gắn bó, về với gia đình. Chúng tôi vừa lập một trung tâm chỉ huy ở khách sạn Days Inn..."

Những tin tức đó sẽ được kèm theo hình ảnh của Nick Dunne, chồng của người phụ nữ mất tích, đang cứng rắn đứng bên cạnh bố vợ, tay khoanh trước ngực, mắt đờ đẫn, trông tẻ ngắt khi cha mẹ vợ đang rơi nước mắt. Và còn tệ hơn. Câu trả lời chậm chạp của tôi, sự cần thiết phải nhắc nhở mọi người rằng tôi không phải là một thằng khốn nạn, tôi là một gã trai tử tế bất chấp ánh nhìn chăm chăm vô cảm và khuôn mặt kiêu căng đáng ghê tởm của mình.

Thế nên mới đột nhiên xuất hiện cảnh tượng đó: Rand mỉm một nụ cười chết người khi khẩn cầu sự trở về của con gái ông ấy.
 
Chương 10: Amy Elliott Dunne


5 tháng 7 năm 2010

- Nhật ký -

Tôi sẽ không đổ tội cho Nick. Tôi không trách Nick. Tôi từ chối và cự tuyệt việc biến mình thành một con bé xẵng giọng cáu bẳn với miệng lưỡi xấc xược. Tôi đã tự hứa với bản thân hai điều khi tôi cưới Nick. Thứ nhất: Không có những mệnh lệnh vô lý. Thứ hai: Tôi sẽ không bao giờ nói, Vâng, với em thì ổn thôi (nếu anh muốn ở ngoài muộn hơn, nếu anh muốn có những ngày cuối tuần của đám đàn ông, nếu anh muốn làm điều gì mà anh muốn) rồi sau đó lại trừng phạt anh ấy vì đã làm những việc mà với em thì ổn thôi. Tôi lo rằng mình đang đến gần hiểm họa của việc phá vỡ những lời hứa đó.

Nhưng chẳng thể khác được. Hôm nay là kỷ niệm ba năm ngày cưới của chúng tôi và tôi đang ở nhà một mình, nước mắt giàn giụa vì, vâng, bởi vì: Chỉ mới chiều nay thôi, tôi nhận được thư thoại của Nick, và tôi đã biết tình hình sẽ tệ đến thế này. Tôi biết ngay từ giây phút mà thư thoại được mở bởi tôi dám chắc là anh ấy đang gọi bằng điện thoại di động. Tôi có thể nghe được tiếng của đám đàn ông vọng lại từ xa, như thể anh ấy đang quyết định xem mình nên nói gì. Và rồi tôi nghe thấy loáng thoáng giọng nói của anh ấy ở trong taxi, cái giọng lè nhè vì rượu, và tôi biết mình sẽ nổi giận - nuốt ực cục nghẹn, môi mím chặt, vai gồng lên, cảm giác tôi không hề muốn nổi khùng lên nhưng tôi không thể chịu được nữa. Cánh đàn ông không biết cảm giác đó hay sao? Người ta không muốn nổi đóa lên, nhưng buộc phải thế, gần như là phải thế. Bởi vì một nguyên tắc, một nguyên tắc có hảo ý, một nguyên tắc tử tế đang bị phá vỡ. Hay có lẽ nào nguyên tắc là một từ không đúng. Phải là giao ước chăng? Hay điều tế nhị? Nhưng cái nguyên tắc/giao ước/điều tế nhị đó - hay chính là lễ kỷ niệm của chúng tôi - đang bị phá vỡ vì một lý do hợp lý, tôi hiểu, tôi hiểu lắm chứ. Các tin đồn đều đúng: Mười sáu nhà báo bị sa thải ở tạp chí của Nick. Một phần ba số nhân viên. Cho đến giờ thì Nick được ở lại và tất nhiên anh ấy cảm thấy mình có nghĩa vụ phải mời những người kia một chầu bét nhè. Tất cả bọn họ đều là đàn ông, nhồi nhét nhau trong một chiếc taxi, thẳng hướng về Đại lộ số Hai, và làm ra vẻ mình can đảm lắm. Một vài người đã về nhà với vợ nhưng một số đáng kinh ngạc những người khác lại đi. Nick sẽ bỏ cả buổi tối kỷ niệm của chúng tôi để mời rượu những người này, rồi đến câu lạc bộ thoát y và những quán bar rẻ tiền, cợt nhả với những cô nàng hai mươi hai tuổi (Anh bạn tôi đây vừa mới bị sa thải, nhưng anh ta vẫn có thể ôm được đấy). Đám đàn ông thất nghiệp đó sẽ tuyên bố Nick là một anh chàng tuyệt vời vì anh ấy đã mời rượu bọn họ bằng thẻ tín dụng kết nối với tài khoản ngân hàng của tôi. Nick sẽ có khoảng thời gian đáng nhớ vào ngày kỷ niệm lễ cưới của chúng tôi, điều mà anh ấy không hề nhắc đến trong thư thoại. Thay vì đó, anh ấy đã nói: Anh biết chúng ta đã lên kế hoạch nhưng...

Tôi đúng là đồ con gái. Tôi chỉ nghĩ đó là một truyền thống: Tôi đã rải khắp thành phố này những thông điệp tình yêu nhỏ bé, nhắc nhở chúng tôi về một năm qua ở bên nhau, trò chơi săn tìm kho báu. Tôi có thể mường tượng đến hình ảnh câu đố thứ ba được dính bằng băng keo đang phất phơ ở khúc gập chữ V của tác phẩm điêu khắc tình yêu Robert Indiana, gần Công viên Trung tâm. Rồi ngày mai, sẽ có vị khách du lịch mười hai tuổi nào đó đang thất thểu theo sau bố mẹ, bắt được nó, đọc nó, rồi nhún vai liệng nó bay theo gió như một miếng giấy gói kẹo cao su.

Đoạn kết trò chơi săn tìm kho báu của tôi đã rất hoàn hảo, nhưng giờ thì không. Đó là một chiếc cặp đựng tài liệu phong cách cổ điển đẹp vô cùng. Bằng da. Lễ kỷ niệm lần thứ ba là đồ da. Món quà tặng hữu ích cho công việc có lẽ là một ý tưởng tồi khi xét đến tình hình công việc hiện giờ không thực sự thuận lợi. Ở trong bếp tôi đã chuẩn bị hai con tôm hùm còn tươi nguyên, vẫn như mọi khi. Hay như những gì được cho là vẫn như mọi khi. Tôi phải gọi điện cho mẹ để hỏi xem có cách nào giữ được chúng trong vòng một ngày không, để chúng vẫn bơi bơi hoảng hốt trong chiếc thùng kia, hay liệu tôi phải vào cuộc với đôi mắt quáng mờ vì rượu của mình, vật lộn với chúng và thả chúng vào nồi luộc lên chẳng vì một lý do tốt đẹp nào cả. Tôi đang giết hai con tôm hùm mà tôi thậm chí sẽ chẳng ăn tới chúng.

Bố tôi gọi điện để chúc mừng chúng tôi. Tôi nghe máy và định tỏ vẻ mọi thứ đều ổn, nhưng rồi khi bắt đầu mở lời thì tôi bật khóc - tôi đang đóng vai một con bé dở hơi vừa nói vừa khóc: oa-oa-oa-và-oa-oa-oa - thế nên tôi đành phải kể cho bố nghe chuyện gì đã xảy ra. Và rồi bố khuyên tôi nên mở một chai rượu và đắm mình với nó một lát. Bố lúc nào cũng là người gợi ý một cách tuyệt vời để nuông chiều sự hờn dỗi của bản thân mình. Dù vậy, Nick vẫn sẽ tức giận khi biết tôi kể cho Rand, và đương nhiên Rand cũng sẽ thực hiện nghĩa vụ của một ông bố, vỗ vai Nick và nói: "Ta nghe nói con có một cuộc nhậu khẩn cấp ngay trong ngày kỷ niệm của các con phải không, Nicky." Rồi cười khoái trá. Vì thế Nick sẽ biết, và anh ấy sẽ giận tôi bởi anh ấy muốn mình hoàn hảo trong mắt bố mẹ tôi - anh ấy luôn tươi cười rạng rỡ mỗi khi tôi kể cho bố mẹ mình nghe những mẩu chuyện để họ thấy anh ấy là một chàng rể hoàn mỹ đến thế nào.

Ngoại trừ tối hôm nay. Tôi biết, tôi biết, tôi đúng là đồ con gái.

***

Năm giờ sáng. Mặt trời vừa ló rạng và đang bừng lên để thay thế những ngọn đèn đường bên ngoài kia vừa phụt tắt. Tôi rất thích sự hoán đổi ấy và tôi thức dậy là vì nó. Đôi lúc, khi không ngủ được, tôi thường kéo mình ra khỏi giường và đi dạo qua những con phố vào lúc bình minh. Rồi đến khi những ngọn đèn đường đồng loạt tắt vụt, tôi luôn có cảm giác như mình vừa chứng kiến một điều gì đó đặc biệt vô cùng. Ồi, những ngọn đèn đường tắt rồi! Tôi muốn loan tin đó tới mọi người. Ở New York, ba hay bốn giờ sáng không phải là khoảng thời gian tĩnh lặng - có rất nhiều người lúc đó đi bar về í ới gọi nhau và oang oang nói chuyện, trong khi họ đổ gục vào taxi, rồi lại hét toáng lên qua điện thoại khi họ điên cuồng hút điếu thuốc cuối cùng trước khi đi ngủ. Năm giờ sáng, đó mới là quãng thời gian tuyệt vời nhất, khi tiếng giày cao gót lộc cộc trên hè phố dường như bị cấm cản. Tất cả mọi người đều đã bị gói gọn trong những chiếc hộp, và bạn có cả một khoảng không bao la cho riêng mình.

Chuyện là thế này: Nick về nhà lúc hơn bốn giờ sáng, mang theo thứ mùi pha tạp của bia, thuốc lá và trứng chiên, một thứ như mùi của nhau thai. Tôi vẫn thức đợi anh ấy. Đầu óc tôi căng như dây đàn sau cuộc chạy đua marathon giữa Quy định và Mệnh lệnh. Anh ấy ngồi xuống chiếc ghế cổ và liếc nhìn món quà trên bàn mà không nói gì. Tôi chăm chú nhìn lại anh ấy. Rõ ràng anh ấy còn không định nói một câu xin lỗi - này, xin lỗi nhé, mọi chuyện hôm nay thật điên rồ. Đó là tất cả những gì tôi muốn, chỉ một câu thừa nhận ngắn gọn.

"Mừng ngày sau lễ kỷ niệm." Tôi lên tiếng.

Anh ấy thở dài, một tiếng rền rĩ đầy phiền muộn. "Amy, anh vừa có một ngày tệ nhất trong đời. Làm ơn đừng trách móc gì anh thêm nữa."

Nick lớn lên với một ông bố chưa bao giờ, chưa từng bao giờ biết xin lỗi, vì thế khi Nick cảm thấy bị dồn vào đường cùng, anh ấy sẽ tấn công trước. Tôi hiểu điều đó, và thường tôi sẽ đợi đến khi nó diễn ra.

"Em chỉ nói chúc mừng thôi."

"Chúc mừng, người chồng khốn nạn đã bỏ bê tôi trong một ngày trọng đại."

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc, ruột gan tôi như thắt lại. Tôi không muốn đóng vai một kẻ tệ bạc ở đây. Tôi không đáng phải như thế. Nick đứng dậy.

"Vậy, tình hình thế nào?" Tôi ngớ ngẩn hỏi.

"Tình hình thế nào ư? Vô cùng tồi tệ. Mười sáu người bạn của anh giờ thành ra thất nghiệp. Thật khốn khổ. Có lẽ cũng sẽ đến lượt anh phải ra đi, chỉ một vài tháng nữa thôi."

Bạn. Anh ấy thậm chí còn chẳng thích một nửa trong số những người mà anh ấy đi cùng, nhưng tôi không nói gì hết.

"Em hiểu chuyện đó hiện giờ thật kinh khủng, Nick. Nhưng..."

"Nó không kinh khủng đối với em, Amy. Không phải với em, sẽ không bao giờ kinh khủng cả. Nhưng đối với bọn anh thì sao? Nó rất khác đấy."

Vẫn vậy. Nick oán giận vì tôi chưa từng phải lo lắng về tiền bạc và sẽ chẳng bao giờ phải như thế. Anh ấy nghĩ rằng điều đó khiến cuộc sống của tôi dễ chịu hơn người khác, và tôi sẽ không phản đối anh ấy. Nhưng tôi có làm việc mà. Tôi cũng phải đến đúng giờ và về đúng giờ. Mấy cô bạn gái của tôi mới đúng nghĩa là chưa bao giờ từng đi làm, họ bàn luận về những người đi làm với giọng thương hại giống như khi người ta nói về một cô gái béo ú nhưng lại có "một khuôn mặt xinh đẹp" vậy. Họ sẽ túm tụm với nhau và nói: "Nhưng tất nhiên, Ellen phải làm việc chứ", một lời thoại hay gì đó trong vở kịch của Noël Coward. Họ chừa tôi ra, bởi tôi có thể bỏ việc bất cứ khi nào tôi muốn. Tôi dành thời gian của mình cho các ủy ban từ thiện, cho việc trang hoàng nhà cửa, làm vườn hay làm tình nguyện, và tôi không thấy có gì sai trái khi gắn bó cuộc sống của mình với những công việc đó. Hầu hết những điều tuyệt vời và tốt đẹp đều được thực hiện bởi những người phụ nữ mà người ta khinh miệt. Nhưng tôi có làm việc.

"Nick, em luôn ở bên anh. Chúng ta sẽ ổn thôi dù thế nào đi nữa. Tiền của em cũng là của anh."

"Theo thỏa thuận tiền hôn nhân thì không phải vậy."

Anh ấy đang say. Anh ấy chỉ nhắc đến thỏa thuận tiền hôn nhân khi anh ấy say. Rồi tất cả sự phẫn uất quay trở lại. Tôi đã nói với anh ấy hàng trăm lần rồi, đúng nghĩa là hàng trăm lần tôi đã nói những lời này: Thỏa thuận tiền hôn nhân chỉ đơn thuần là sự làm ăn. Nó không vì em, cũng không phải vì bố mẹ em, mà là vì luật sư của họ. Nó chẳng nói lên điều gì về chúng ta cả, không phải về anh và em.

Nick bước về phía bếp, ném chiếc ví và vài đồng đô-la nhàu nát lên chiếc bàn cà phê, vò nát một mẩu giấy ghi chép và quẳng nó vào thùng rác cùng với một loạt hóa đơn thẻ tín dụng.

"Thật đáng khinh khi nói ra điều đó đấy Nick."

"Cảm giác cũng thật đáng khinh khi nói ra điều đó đấy Amy."

Anh ấy tiến về phía quầy bar - dáng vẻ thận trọng của một kẻ say rượu như đang lội qua đầm lầy - và thậm chí đang tự rót cho mình thêm một ly nữa.

"Anh sẽ khiến mình mệt đấy." Tôi nói.

Anh ấy nâng ly chúc tụng đầy khiêu khích với tôi. "Em không hiểu đâu, Amy. Chỉ là em không thể hiểu được. Anh đã làm việc từ lúc mười bốn tuổi. Anh không được tham gia hội trại tennis hay hội trại viết văn sáng tạo, hay chuẩn bị cho kỳ thi đại học hay tất cả những thứ chết tiệt nào mà có vẻ như những người khác sống ở New York này đều làm. Bởi vì lúc đó anh đang phải lau bàn ở trung tâm thương mại, đi cắt cỏ thuê hoặc lái xe xuống Hannibal và hóa trang thành Huck Finn để phục vụ du khách, hoặc đang rửa những chiếc khuôn làm bánh ống khói lúc nửa đêm."

Tôi muốn cười phá lên, thậm chí là cười ha hả. Một tràng cười đau quặn bụng mà có thể lan sang cả Nick, và ngay sau đó hai chúng tôi sẽ cùng nhau cười rồi chuyện này sẽ qua đi. Thứ kinh giảng về những công việc mạt hạng. Kết hôn với Nick luôn nhắc nhở tôi rằng: Con người ta làm những việc tồi tệ là vì tiền. Kể từ khi tôi kết hôn với Nick, tôi luôn vẫy tay chào những người phải làm công việc hóa trang thành đồ ăn.

"Anh đã phải làm việc chăm chỉ nhiều hơn bất cứ ai ở tạp chí đó để được vào tòa soạn. Hai mươi năm, về cơ bản là anh luôn làm việc để đến được vị trí ngày hôm nay, và giờ thì anh sắp mất hết tất cả, trong khi chẳng hề có một công việc chết tiệt nào khác mà anh có thể làm để thế vào đó, trừ phi anh muốn trở về nhà và lại làm một con chuột chui rúc ở bờ sông."

"Có lẽ anh đã quá già để đóng Huck Finn rồi." Tôi nói.

"Cút xéo đi, Amy."

Rồi anh ấy về phòng ngủ. Trước đây anh ấy chưa từng nói thế với tôi bao giờ, nhưng những lời đó đã tuột khỏi miệng anh ấy trôi chảy đến mức khiến tôi phải nghĩ - dù cũng chưa bao giờ ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu tôi - rằng anh ấy đã thực sự nghĩ như thế. Nhiều lần rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôi là loại phụ nữ sẽ bị chồng mình nặng lời. Và chúng tôi đã thề là sẽ không bao giờ đi ngủ khi còn đang tức giận. Thỏa hiệp, trò chuyện và không bao giờ đi ngủ khi còn đang tức giận - ba lời khuyên nhỏ chúng tôi đã được tặng và xin tặng lại tất cả các cặp đôi mới cưới. Nhưng gần đây, có vẻ như tôi là người duy nhất thỏa hiệp, việc trò chuyện giữa chúng tôi cũng chẳng giải quyết được gì, và Nick thì rất giỏi trong việc đi ngủ khi vẫn còn tức giận. Anh ấy có thể khóa tất cả cảm xúc của mình lại như khóa một chiếc vòi. Và anh ấy đang ngáy rồi.

Sau đó tôi đã không thể kiềm chế được mình, mặc dù đó chẳng phải chuyện của tôi, và Nick có thể sẽ tức giận nếu anh ấy biết được: Tôi chạy lại chỗ thùng rác và nhặt ra những tờ hóa đơn để có thể hình dung được anh ấy đã ở những đâu cả đêm hôm qua. Hai quán bar và hai câu lạc bộ thoát y. Tôi có thể mường tượng ra cảnh anh ấy ở từng nơi một, kể lể về tôi cho các bạn của anh ấy nghe, và chắc hẳn anh ấy đã nói về tôi bởi tất cả sự đê tiện hèn hạ và bẩn thỉu đó đã lộ ra quá dễ dàng. Tôi tưởng tượng ra họ ở một trong những câu lạc bộ thoát y đắt tiền, một nơi ăn chơi hạng sang khiến đám đàn ông tin rằng bọn họ được sinh ra để thống trị, còn phụ nữ để phục tùng. Thứ nhạc mộc dở hơi đó được chơi khoan thai và dền dứ để không ai phải nói chuyện, và một ả với bộ ngực căng phồng đang cưỡi lên chồng tôi (người đã thề rằng tất cả chỉ để vui vẻ thôi), tóc ả ta xõa tung phía sau lưng, môi ướt nhẫy son bóng. Nhưng tôi không cho rằng đó là mối đe dọa, không, đó chỉ đơn giản là trò trẻ con, và tôi sẽ cười vào nó, tôi sẽ chơi đẹp.

Sau đó tôi mở mẩu giấy ghi chép nhàu nát kia ra và thấy chữ viết tay của một cô gái - Hannah - cùng một số điện thoại. Tôi ước gì nó giống như trong phim, sẽ là một cái tên gì đó rất ngớ ngẩn, như CanDee hay Bambie chẳng hạn, cái tên khiến người ta phải tròn mắt nhìn. Misti với hai trái tim trên đầu chữ I chẳng hạn. Nhưng đó lại là Hannah, một phụ nữ thực sự, có lẽ cũng như tôi. Nick chưa từng phản bội tôi, anh ấy đã thề như vậy, nhưng tôi cũng biết anh ấy có rất nhiều cơ hội. Tôi có thể hỏi anh ấy về Hannah, và anh ấy sẽ nói. Anh chẳng biết tại sao cô ta cho anh số điện thoại, nhưng anh không muốn tỏ ra thô lỗ vì thế anh đã nhận nó. Điều đó có thể đúng. Hoặc không. Anh ấy có thể phản bội tôi và không bao giờ nói ra, rồi sau đó anh ấy nghĩ về tôi ít đi vì tôi đã không đoán biết được chuyện đó. Anh ấy sẽ nhìn tôi ở phía bên kia chiếc bàn cà phê, vô tư nhai ngũ cốc, nghĩ tôi là một con ngốc, và làm sao người ta lại có thể tôn trọng một con ngốc được cơ chứ?

Giờ thì tôi lại khóc, với cái tên Hannah trong tay mình.

Đó là việc rất đàn bà, chẳng phải vậy ư, chỉ vì một đêm của đám đàn ông mà làm to chuyện thành việc hôn nhân không chung thủy, điều mà sẽ hủy hoại cuộc hôn nhân của chúng tôi sao?

Tôi không biết mình phải làm gì đây. Tôi thấy mình giống như một mụ đàn bà chua ngoa hay la thét, hoặc một cái thảm chùi chân ngu ngốc - tôi không biết mình thuộc loại nào nữa. Tôi không muốn tức giận, tôi thậm chí còn không biết mình có nên tức giận hay không. Tôi nghĩ đến việc thuê phòng khách sạn và để cho anh ấy phải băn khoăn về tôi mà đổi khác đi.

Tôi ngồi im một chỗ trong vài phút, rồi hít một hơi thật sâu và chạy vào phòng ngủ nồng nặc hơi rượu. Khi tôi lên giường, anh ấy quay sang và vòng đôi cánh tay ôm lấy tôi, chôn khuôn mặt mình vào bên cổ tôi, và rồi cả hai chúng tôi nói cùng một lúc: "Anh/Em xin lỗi."
 
Chương 11: Nick Dunne


Một ngày trôi qua

Ánh đèn sáng lóa, và tôi nở một nụ cười, nhưng không kịp nữa. Tôi cảm thấy một luồng khí nóng quấn quanh cổ mình, và từng giọt mồ hôi đầm đìa trên sống mũi. Ngu ngốc, Nick, ngu ngốc. Rồi sau đó, ngay khi tôi trấn tĩnh lại thì cuộc họp báo đã kết thúc, và quá muộn để tạo thêm bất kỳ ấn tượng nào.

Tôi bước ra khỏi phòng cùng gia đình Elliott, đầu cúi thấp bởi ánh đèn nháy còn nhiều hơn. Khi tôi gần đến lối ra thì Gilpin chạy nhanh ngang qua căn phòng, hướng về phía tôi và ngăn lại: "Cho tôi một phút được không, Nick?"

Anh ta cập nhật thông tin cho tôi khi chúng tôi đi về phía bộ phận phụ trách hậu cần: "Chúng tôi đã kiểm tra ngôi nhà hàng xóm bị đột nhập mà anh nói, có vẻ như người ta đã cắm trại ở đó. Vì thế chúng tôi đã đi một vòng và nhận thấy một ngôi nhà khác bên cạnh khu nhà của anh cũng có vài người định cư bất hợp pháp."

"Đấy chính là điều khiến tôi lo lắng." Tôi nói. "Những gã này hạ trại ở khắp mọi nơi. Cả cái thành phố này tràn ngập những kẻ thất nghiệp khó chịu đó."

Carthage, cho tới một năm trước đây, vẫn là một khu vực chịu sự chi phối của Trung tâm thương mại Riverway. Bản thân trung tâm này đã hệt như một thành phố thu nhỏ và tạo công ăn việc làm cho bốn nghìn người dân địa phương, chiếm tới một phần năm dân số của Carthage. Trung tâm thương mại Riverway được xây dựng vào năm 1985 như một điểm đến nhằm thu hút những khách hàng mua sắm trong khắp vùng Trung Tây nước Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ như in ngày khai trương: tôi, Go và bố mẹ đã đến xem một loạt những hoạt động chào mừng diễn ra tại một bãi đỗ xe được trải nhựa rộng mênh mông. Chúng tôi đứng ở tận cùng phía sau của đám đông, bởi bố tôi dù ở đâu cũng muốn chúng tôi có thể rời đi một cách nhanh chóng. Ngay cả đi xem đấu bóng chày, chúng tôi thường đỗ xe gần lối ra và rời trận đấu ở lượt chơi thứ tám. Tôi và Go luôn phản ứng theo kiểu có thể đoán trước được như khóc lóc nhặng xị, hờn dỗi và tức giận: Chúng ta chẳng bao giờ được xem đoạn kết cả. Nhưng lần đó, vị trí thuận lợi từ phía xa của chúng tôi lại rất đáng ao ước, bởi chúng tôi có thể bao quát toàn cảnh của sự kiện: đám đông mất kiên nhẫn, đồng loạt đảo trọng tâm từ chân này sang chân kia, ngài thị trưởng ở trên chiếc bục đỏ-trắng-xanh ấy, cả loạt mỹ từ được thốt ra như niềm tự hào, tăng trưởng, thịnh vượng, thành công đã cuốn lấy chúng tôi - những người lính trên chiến trường bảo vệ chủ nghĩa trọng tiêu dùng với trang bị là những cuốn ngân phiếu bọc nhựa vinyl và những chiếc túi xách được may chần. Rồi những cánh cửa ấy mở ra. Và đám đông ào tới những gian hàng có máy lạnh, có âm nhạc, có những nhân viên bán hàng tươi cười - cũng chính là những người hàng xóm của chúng tôi. Thực sự hôm đó bố tôi đã cho chúng tôi vào bên trong, rồi xếp hàng và mua cho chúng tôi thứ gì đó kiểu như những cốc giấy đổ đầy nước cam mát lạnh.

Trung tâm thương mại Riverway là một thành công trong suốt một phần tư thế kỷ. Rồi sau đó cú sốc suy thoái kinh tế đã đánh bật từng cửa hiệu một ở Riverway cho tới khi toàn bộ trung tâm này bị phá sản. Giờ đây nó chỉ còn là một nơi hoang tàn rộng hai triệu dặm vuông. Chẳng có công ty nào đến để đòi lại nó, không một thương nhân nào hứa hẹn sẽ khôi phục nó, không một ai biết phải làm gì với nó hoặc chuyện gì sẽ xảy đến với tất cả những người từng làm việc tại đây, trong đó có mẹ tôi, người đã mất việc tại cửa hàng Shoe-Be-Doo-Be. Hai thập kỷ quỳ gối để tìm kiếm, phân loại những chiếc hộp và tập hợp những mặt hàng dệt kim thấm mồ hôi chân, đã tan biến mà không có một nghi lễ nào để tưởng nhớ.

Sự sụp đổ của trung tâm thương mại về cơ bản đã làm Carthage xuống dốc. Người dân mất việc, mất nhà. Không ai nhận thấy trong tương lai gần sẽ có bất kỳ điều gì tốt đẹp xảy đến cả. Chúng tôi chẳng bao giờ được xem đoạn kết cả. Ngoại trừ lần này, có vẻ như Go và tôi sẽ được chứng kiến điều đó. Tất cả chúng tôi.

Sự phá sản này hoàn toàn phù hợp với tâm lý của tôi. Trong nhiều năm, tôi đã rất buồn chán. Không phải sự buồn chán của một đứa trẻ hiếu động hay than vãn (mặc dù tôi không buồn nhiều hơn mức đó) mà là sự phiền muộn ám ảnh nặng nề. Dường như đối với tôi không có gì mới mẻ để khám phá thêm nữa. Chúng ta nhìn chằm chằm vào các kỳ quan của thế giới với ánh mắt tẻ nhạt và chẳng ấn tượng gì. Mona Lisa, kim tự tháp, tòa nhà Empire State. Động vật rừng nhiệt đới bị xâm phạm, những núi băng cổ đang sụp đổ, những ngọn núi lửa đang phun trào. Không có bất cứ điều tuyệt vời nào được tận mắt nhìn mà tôi không liên hệ ngay tức thì tới một bộ phim hay một chương trình truyền hình nào đó. Loạt chương trình quảng cáo chết tiệt ấy. Bạn thừa biết nhịp điệu khủng khiếp của những thứ nhàm chán rồi đấy: Xemmm hết rồi. Tôi quả thực đã xem tuốt rồi, và điều tệ nhất, điều mà khiến não tôi muốn vỡ tung ra, là: Trải nghiệm gián tiếp luôn tuyệt vời hơn hẳn. Hình ảnh sinh động hơn, khung cảnh sắc nét hơn, góc quay và nhạc nền làm tăng sự hưng phấn của tôi theo cách mà thực tế không còn có thể gây xúc cảm được nữa. Tôi không biết liệu rằng tại thời điểm này chúng ta có còn là những con người thực sự nữa hay không, bởi phần lớn trong chúng ta đều giống như vậy, những thế hệ lớn lên cùng với tivi, phim ảnh và giờ là Internet. Nếu chúng ta bị phản bội, chúng ta biết cần nói những gì, khi một người yêu thương mất đi, chúng ta biết nên nói những gì. Nếu chúng ta muốn xử sự như những gã đàn ông lăng nhăng, những kẻ hợm hĩnh tỏ ra mình thông minh hay như một tên ngốc, chúng ta cũng biết phải nói những gì. Tất cả chúng ta đang hành động theo cùng một kịch bản cũ rích.

Một thời đại khó khăn để có thể làm người, một con người thực sự và đúng nghĩa, thay vì là một tập hợp các đặc tính cá nhân được góp nhặt từ một chiếc máy tự động sản xuất ra vô tận các tính cách.

Và nếu tất cả chúng ta đều đang diễn kịch thì không thể nào tồn tại những thứ như bạn tâm giao, bởi chúng ta đâu có sự chân thật trong tâm hồn.

Điều này dẫn đến một quan điểm mà xem ra cũng chẳng thành vấn đề, bởi khi tôi không phải là một người chân thật thì những người khác cũng sẽ vậy cả thôi.

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được có lại cảm giác chân thật đó.

Gilpin mở cánh cửa vào chính căn phòng mà đêm hôm trước họ thẩm vấn tôi ở đó. Ngay giữa bàn là hộp quà lấp lánh ánh bạc của Amy.

Tôi đứng đó nhìn chằm chằm vào chiếc hộp ở trên bàn, một điềm chẳng lành trước cảnh tượng mới này. Cảm giác kinh hãi choáng ngợp trong tôi. Tại sao tôi không thấy nó trước chứ? Đáng lẽ tôi đã phải trông thấy nó.

"Xin cứ tự nhiên." Gilpin nói. "Chúng tôi muốn anh xem qua thứ này."

Tôi rón rén mở chiếc hộp như thể sẽ có một cái đầu người ở trong đó. Tôi thấy duy nhất một chiếc phong bì màu xanh kem đựng câu đố đầu tiên.

Gilpin ngớ ngẩn cười. "Thử hình dung sự bối rối của chúng tôi mà xem: Một vụ mất tích, và đây chúng tôi tìm thấy một chiếc phong bì cho biết câu đố đầu tiên."

"Đó là trò chơi săn tìm kho báu mà vợ tôi..."

"Đúng vậy. Cho lễ kỷ niệm ngày cưới của anh. Bố vợ anh có nhắc đến nó."

Tôi mở chiếc phong bì, rút ra một mảnh giấy gập đôi, khá dày và có màu xanh da trời - thứ văn phòng phẩm đặc trưng của Amy. Cổ họng tôi đắng ngắt. Những trò săn tìm kho báu chung quy lại luôn đặt ra một câu hỏi duy nhất: Amy là ai? (Vợ tôi đang nghĩ gì vậy? Điều gì là quan trọng đối với cô ấy trong một năm vừa qua? Khoảnh khắc nào khiến cô ấy hạnh phúc nhất? Amy, Amy, Amy, nào hãy nghĩ về Amy.) Hai hàm răng tôi nghiến chặt vào nhau khi đọc câu đố đầu tiên. Trước tình trạng hôn nhân như trong năm vừa rồi của chúng tôi, chuyện này sẽ khiến tôi phát điên lên mất. Tôi không cần thêm bất cứ thứ gì khác nữa để khiến tôi trông như phát điên.

Hình dung em là học trò của anh

Một thầy giáo đẹp trai và từng trải

Tâm trí em chẳng còn thấy e ngại (có màng chi cả thể xác của em!)

Nếu em là học trò của anh, đâu cần những bông hoa phải hiện diện

Có lẽ chỉ cần một cuộc hẹn, chút bông đùa trong giờ làm việc của anh

Vậy hãy nhanh, bắt đầu nhé, xin anh

Em sẽ dạy anh vài điều lần này đấy.

Đó là một kế hoạch cho một cuộc sống khác. Nếu mọi chuyện xảy ra như viễn tưởng của vợ tôi, ngày hôm qua hẳn là cô ấy sẽ quanh quẩn ở bên khi tôi đọc bài thơ này, dõi nhìn tôi đầy mong đợi với niềm hy vọng tỏa ra từ cô ấy như thể một cơn sốt: Làm ơn hãy hiểu. Làm ơn hãy hiểu em.

Rồi cuối cùng cô ấy sẽ hỏi: Thế nào anh? Và tôi trả lời:

"Ồ, thực ra tôi hiểu mà! Hẳn là cô ấy đã ám chỉ văn phòng của tôi. Tại trường cao đẳng. Tôi làm trợ giảng ở đó. Vâng. Ý tôi là, chắc chỉ có thể là chỗ đó thôi, phải vậy không?" Tôi liếc mắt nhìn và đọc lại. "Câu đố của cô ấy năm nay không làm khó được tôi rồi."

"Anh muốn tôi đưa anh đến đó không?" Gilpin hỏi.

"Không, tôi có xe của Go rồi."

"Vậy tôi sẽ theo sau anh."

"Anh nghĩ cần thiết phải như vậy sao?"

"Ồ, điều này cho thấy động thái của cô ấy trong một hoặc hai ngày trước khi cô ấy mất tích. Vì vậy nó không hề không cần thiết." Anh ta nhìn vào tờ giấy đó. "Điều này rất ngọt ngào, anh thấy chứ? Giống như trong phim vậy: săn tìm kho báu. Vợ tôi và tôi, chúng tôi chỉ tặng nhau những tấm thiệp và có thể cùng nhau dùng bữa nhẹ. Có vẻ như hai người đang làm đúng đấy. Duy trì sự lãng mạn."

Nói đoạn Gilpin nhìn xuống đôi giày của anh ta và trở nên ngượng ngùng, rồi xóc chùm chìa khóa quay bước đi.

Trường cao đẳng trang bị cho tôi khá đàng hoàng, một văn phòng nhỏ nhưng đủ rộng để kê một chiếc bàn, hai chiếc ghế và vài giá sách. Gilpin và tôi đi qua đám sinh viên của khóa học mùa hè, một sự kết hợp giữa những đứa trẻ không thể nào trẻ hơn (buồn tẻ nhưng bận rộn, các ngón tay không đang nhắn tin thì cũng đang dò tìm bài hát) và một đám người lớn tuổi với thái độ nghiêm túc mà tôi buộc phải nghĩ rằng đó là những nhân viên trung tâm thương mại bị sa thải, đang cố gắng để được đào tạo lại cho một công việc mới.

"Anh dạy chuyên ngành gì?" Gilpin hỏi.

"Báo chí, dành cho tạp chí." Một cô bé đang vừa đi vừa nhắn tin, quên mất cả cảm giác của người đi sau và suýt đâm sầm vào tôi. Cô bé bước tránh sang một bên mà không hề ngước nhìn lên. Điều đó khiến tôi cảm thấy mình già nua và gàn dở: Tránh khỏi đường của tôi ngay!

"Tôi tưởng anh không làm báo nữa cơ mà."

"Tôi không thể đừng được..." Tôi cười.

Tôi mở cửa văn phòng, bước vào không gian ngột ngạt đầy bụi bặm. Tôi đã nghỉ hè và hàng tuần rồi tôi không đến đây. Một chiếc phong bì khác ghi câu đố thứ hai đang nằm trên bàn làm việc của tôi.

"Chìa khóa văn phòng của anh luôn được gắn với chùm chìa khóa à?" Gilpin hỏi.

"Đúng vậy."

"Tức là Amy có thể đã mượn chìa khóa để vào đây?"

Tôi xé một bên mép chiếc phong bì.

"Chúng tôi còn có một chìa dự phòng ở nhà." Amy làm bản sao dự phòng cho mọi thứ - tôi rất hay để chìa khóa, thẻ tín dụng, điện thoại không đúng chỗ và tôi không muốn kể cho Gilpin về điều này, để rồi phải nhận lấy lời trêu chọc về đứa-trẻ-trong-gia-đình. "Tại sao?"

"Ồ, chỉ để chắc rằng cô ấy sẽ không phải nhờ vả ai đó, tôi không rõ nữa, như người gác cổng hoặc ai đấy chẳng hạn." "Theo như tôi để ý thì không có loại người kiểu như Freddy Krueger ở đây đâu."

"Chưa bao giờ xem phim đó." Gilpin đáp.

Bên trong phong bì là hai mảnh giấy gập đôi. Một mảnh có hình một trái tim, mảnh kia được đề là câu đố.

Hai thông điệp. Khác nhau. Ruột gan tôi thắt lại. Có Chúa mới biết Amy định nói gì. Tôi mở mảnh giấy có hình trái tim ra. Tôi uớc gì mình đã không để Gilpin đến đây, và tôi đọc những dòng đầu tiên.

Gửi chồng thương yêu của em,

Em phát hiện ra đây là nơi hoàn hảo - những căn phòng học thiêng liêng này! - để nói với anh rằng em nghĩ anh là một người đàn ông tài giỏi. Em không nói hết với anh, nhưng em rất ngạc nhiên bởi trí tuệ của anh: những con số thống kê kỳ quặc, những giai thoại, những sự thật lạ thường, khả năng khó nhằn khi trích dẫn từ bất cứ bộ phim nào, sự hài hước nhạy bén, hay cách diễn tả mọi chuyện thật tuyệt vời của anh. Sau nhiều năm bên nhau, em nghĩ một cặp đôi có thể đã quên mất họ nhìn nhận về nhau tuyệt vời đến thế nào. Em còn nhớ lần đầu chúng ta gặp nhau em đã choáng ngợp vì anh, em muốn nhân giây phút này nói với anh rằng em vẫn cảm thấy thế và đó là một trong những điều em thích nhất ở anh: Anh thật tài giỏi.

Miệng tôi ứa nước miếng. Gilpin đang đọc từ sau vai tôi, và thậm chí đã thở dài. "Một quý cô ngọt ngào." Anh ta thốt lên. Rồi hắng giọng. "Ừm, những thứ này là của anh phải không?"

Gilpin dùng đầu có tẩy của chiếc bút chì để khều một đôi quần lót phụ nữ (đúng nghĩa thì chúng là đôi quần xi líp - loại dây, bằng ren đỏ - nhưng tôi biết phụ nữ sẽ không thoải mái với từ đó - hãy cứ thử Google cụm từ không thích quần xi líp mà xem). Cả hai chiếc quần được treo lủng lẳng trên cái núm của thiết bị điều hòa.

"Ôi, trời. Thật xấu hổ."

Gilpin đang chờ một lời giải thích.

"Ừm, có lần Amy và tôi, ừm, anh đã đọc lời nhắn của cô ấy rồi đấy. Chúng tôi đã, anh biết đấy, đôi khi anh phải thêm chút gia vị cho mọi thứ."

Gilpin cười nhăn nhở. "Ồ, tôi hiểu rồi, vị giáo sư dâm đãng và cô sinh viên hư hỏng. Tôi hiểu. Hai người thực sự làm tốt đấy." Tôi với tay nhặt lại đồ lót nhưng Gilpin đã lấy ra một chiếc túi để đựng chứng cớ và nhét chúng vào. "Chỉ là lo xa thôi." Anh ta cắt nghĩa một cách không rõ ràng.

"Ồ, xin đừng." Tôi nói. "Amy sẽ chết mất..." Tôi dừng lại trước khi nói hết câu.

"Đừng lo, Nick, chỉ là thủ tục thôi, anh bạn. Anh sẽ không tin nổi những gì mà chúng ta sẽ phải trải qua đâu. Chỉ để phòng xa thôi, chỉ để phòng xa thôi. Thật ngớ ngẩn. Câu đố nói gì thế?"

Tôi để anh ta đọc qua vai tôi lần nữa, cái mùi khó chịu của anh ta còn chưa phai khiến tôi sao nhãng.

"Vậy nó có nghĩa gì?" Anh ta hỏi.

"Tôi cũng không biết nữa." Tôi nói dối.

Cuối cùng thì tôi cũng thoát khỏi anh ta. Tôi lái xe một cách vô định vào đường cao tốc để có thể gọi một cuộc điện thoại bằng chiếc thẻ dùng một lần của mình. Không bắt máy. Tôi cũng không để lại tin nhắn. Tôi tăng tốc một đoạn dài, như thể tôi có thể đi đến bất cứ nơi đâu, và rồi mất bốn mươi lăm phút sau để lái xe quay trở lại thành phố gặp gia đình Elliott tại khách sạn Days Inn. Tôi bước vào hành lang chật kín thành viên của Hiệp hội kế toán tiền lương vùng Trung Tây - những chiếc vali kéo ở khắp mọi nơi, trong khi chủ nhân của chúng vừa chuyện trò vừa mải mê với các loại thức uống được phục vụ kèm trong những chiếc cốc nhựa nhỏ, tiếng cười gượng ép ùng ục trong cổ họng và túi bọn họ đầy danh thiếp. Tôi vào thang máy cùng với bốn người đàn ông, tất cả đều hói đầu, mặc quần kaki và áo chơi gôn, những chiếc dây đeo thẻ lắc lư trên cái bụng tròn trịa của bọn họ.

Marybeth mở cửa khi vẫn đang nói chuyện điện thoại, bà ấy chỉ tay về phía tivi và thì thầm với tôi: "Chúng ta có một khay thịt nguội với phô mai, nếu con muốn ăn, con yêu." Rồi bà ấy vào phòng tắm và đóng cửa lại, tiếp tục rì rầm qua điện thoại.

Vài phút sau bà ấy xuất hiện, vừa đúng lúc bản tin thời sự địa phương lúc năm giờ được phát đi từ St. Louis, đưa tin Amy mất tích. "Tấm ảnh thật hoàn hảo." Marybeth lẩm bẩm bên màn hình, nơi ánh mắt chăm chú của Amy đang nhìn lại chúng tôi. "Người ta sẽ nhìn ảnh và biết được Amy trông ra sao."

Tôi thì nghĩ bức ảnh chân dung đó - một bức chân dung nghệ thuật do người tình của Amy chụp - xinh đẹp nhưng bất an. Những bức ảnh của Amy đều gây cảm giác cô ấy đang nhìn bạn với ánh mắt chuyển động từ trái sang phải, giống một bức chân dung trong ngôi nhà cổ bị ma ám.

"Chúng ta cũng nên cung cấp cho họ vài tấm ảnh chụp trực diện nữa." Tôi nói. "Một vài tấm ảnh thường nhật."

Vợ chồng Elliotts đồng loạt gật đầu nhưng chẳng ai nói lời nào mà chỉ xem chăm chú. Khi mục tin tức kết thúc, Rand phá vỡ sự im lặng: "Anh cảm thấy thật kinh khủng."

"Em hiểu." Marybeth nói.

"Con thì thế nào, Nick?" Rand vừa hỏi vừa gập người xuống, hai tay đặt lên đầu gối như thể ông ấy chuẩn bị đứng dậy khỏi chiếc trường kỷ nhưng không hẳn vậy.

"Thực lòng mà nói, con bấn loạn mất rồi. Con cảm thấy mình thật vô dụng."

"Con biết đấy, ta phải hỏi, còn đám nhân viên của con thì sao, Nick?" Rand cuối cùng cũng đứng dậy. Ông ấy đi về phía quầy bar mini, tự rót cho mình một ly rượu gừng, rồi quay sang tôi và Marybeth. "Mọi người? Có ai muốn uống gì không? Bất cứ thứ gì?" Tôi lắc đầu, còn Marybeth muốn một ly club soda.

"Em có muốn thêm chút rượu gin vào không, em yêu?" Rand hỏi bằng chất giọng thấp trầm của mình, nhưng lên giọng ở từ cuối cùng.

"Hẳn rồi. Vâng. Em muốn." Marybeth nhắm mắt lại, cúi người và vùi mặt mình vào giữa hai đầu gối, rồi bà ấy hít sâu và trở lại tư thế ngồi như ban đầu, như thể một động tác yoga vậy.

"Con đã cung cấp cho họ danh sách các nhân viên rồi." Tôi nói. "Nhưng công việc kinh doanh đó khá nhạt nhẽo, Rand. Con không nghĩ đó là điểm đáng phải bận tâm."

Rand đặt một bàn tay che ngang qua miệng rồi vuốt lên mặt, phần cơ trên hai má của ông ấy bị đẩy lên quanh mắt. "Tất nhiên, chúng ta cũng định làm như thế với công việc kinh doanh của mình, Nick ạ."

Rand và Marybeth luôn ám chỉ đến loạt sách Amy tuyệt vời như một công việc kinh doanh, điều mà bề ngoài luôn gây cho tôi một ấn tượng ngu ngốc: Chúng chỉ là những cuốn sách cho trẻ em, với hình ảnh một cô bé hoàn hảo được vẽ trên bìa mỗi cuốn sách, một phiên bản hoạt họa của Amy, vợ tôi. Nhưng dĩ nhiên, những cuốn sách đó (đã từng) là một công việc kinh doanh, một vụ kinh doanh lớn. Đó là những tài liệu dành cho học sinh tiểu học trong suốt hơn một thập kỷ, chủ yếu là do những câu trắc nghiệm nằm ở cuối mỗi chương sách.

Thí dụ như ở lớp Ba, Amy Tuyệt vời đã bắt gặp bạn của cô bé, Brian, đang cho con rùa của lớp học ăn quá nhiều. Cô bé đã cố giải thích với cậu bạn, nhưng khi Brian khăng khăng cho con rùa ăn thêm, Amy đành phải mách với giáo viên: "Cô Tibbles, con không muốn là một kẻ mách lẻo, nhưng con không chắc mình phải làm gì nữa. Con đã cố nói chuyện với Brian, nhưng bây giờ... con nghĩ là có thể con cần sự giúp đỡ từ người lớn..." Kết quả là:

A. Brian nói với Amy rằng cô bé là một người bạn không đáng tin cậy và không nói chuyện với cô bé nữa.

B. Người bạn gái nhút nhát Suzy nói rằng Amy đáng lẽ không nên mách với cô giáo, đáng lẽ cô bé nên bí mật vớt thức ăn mà không để cho Brian biết.

C. Đối thủ truyền kiếp của Amy, Joanna, nói rằng Amy đang ghen tỵ và chỉ muốn tự mình cho rùa ăn.

D. Amy không nhượng bộ - cô bé thấy mình đã làm một việc đúng.

Ai đúng?!

Ồ, dễ thôi, bởi Amy luôn luôn đúng, trong mọi chuyện. (Đừng nghĩ rằng tôi chưa từng đem chuyện này ra để tranh luận với Amy trong đời thực, bởi vì tôi đã làm thế nhiều hơn một lần rồi.)

Những câu trắc nghiệm - được viết bởi hai nhà tâm lý học, những người cũng là cha mẹ giống như các bạn! - có nhiệm vụ phải khơi gợi những tính cách đặc trưng của một đứa trẻ: Đứa con nhỏ bé của bạn có phải là một đứa trẻ hay hờn dỗi, không chịu sửa sai, như Brian? Một người khởi xướng nhu nhược, như Suzy? Một người hay gây chuyện, như Joanna? Hay hoàn hảo, như Amy? Những cuốn sách này đã cực kỳ được ưa chuộng trong tầng lớp trí thức trẻ giàu có đang lên: Chúng là một thứ cẩm nang, một khối rubic đa diện, trong việc nuôi dạy con cái. Nhờ đó gia đình Elliott đã trở nên giàu có. Có thời điểm người ta ước tính rằng mỗi thư viện trong các trường học ở Mỹ đều có một cuốn Amy tuyệt vời.

"Bố có nghĩ chuyện này có thể liên quan tới công việc kinh doanh Amy tuyệt vời không?" Tôi hỏi.

"Có vài người mà bọn ta nghĩ cũng nên kiểm tra xem sao." Rand nói.

Tôi hắng giọng bật ra một tiếng cười. "Bố có nghĩ Judith Viorst đã bắt cóc Amy vì Alexander không, để anh ta không còn phải chịu Những Ngày Khủng Khiếp, Khó Chịu, Vô Tích Sự và Rất Tồi Tệ nữa?"

Rand và Marybeth đồng loạt quay sang nhìn tôi với vẻ mặt thất vọng xen lẫn ngạc nhiên. Thật trắng trợn và khiếm nhã khi nói ra điều đó - não tôi đã nảy ra những suy nghĩ thật sự không phù hợp vào những thời điểm không hề thích hợp một chút nào. Một thứ xì hơi của sự mất trí mà tôi đã không thể kiềm chế. Giống như mỗi khi gặp cô bạn cảnh sát của mình là tự nhiên tôi lại nhẩm hát trong đầu bài "Bony Moronie". Cô ấy gầy như một sợi mỳ ống, tâm trí tôi sẽ đánh nhịp khi Thanh tra Rhonda Boney nói với tôi về việc nạo vét con sông để tìm cô vợ mất tích của tôi. Cơ chế tự vệ, tôi tự nói với mình, chỉ là một cơ chế tự vệ kỳ quặc thôi mà. Tôi muốn nó dừng lại ngay.

Tôi xếp chân lại một cách ý tứ, nói chuyện một cách ý tứ, như thể những lời nói của tôi là một đống đồ sứ cao cấp cồng kềnh. "Con xin lỗi, con không hiểu tại sao mình lại nói thế."

"Tất cả chúng ta đều mệt mỏi mà." Rand xoa dịu.

"Chúng ta sẽ đề nghị cảnh sát theo dõi Viorst." Marybeth tuyên bố. "Và cả con khốn Beverly Cleary đó nữa." Có vẻ giống lời nói đùa hơn là một sự tha thứ.

"Con nghĩ mình nên nói với bố mẹ." Tôi nói. "Cảnh sát, thực ra cũng là chuyện bình thường trong trường hợp như thế này..."

"Sẽ điều tra người chồng đầu tiên, bố hiểu." Rand cắt lời. "Bố đã nói với họ là họ đang lãng phí thời gian thôi. Những câu hỏi mà họ đặt ra cho bố mẹ..."

"Chúng khá xúc phạm." Marybeth tiếp lời.

"Vậy là họ đã nói chuyện với bố mẹ rồi ư? Về con?" Tôi đi về phía quầy bar mini, thong thả rót cho mình một ly rượu gin. Tôi uống liền ba ngụm và lập tức thấy tồi tệ hơn. Dạ dày tôi đang dần đẩy ngược rượu lên thực quản. "Bọn họ đã hỏi những gì vậy ạ?"

"Đã bao giờ con làm Amy bị đau chưa, Amy có bao giờ nhắc đến việc con đe dọa con bé chưa?" Marybeth bực mình nói. "Rồi con có phải là một kẻ lăng nhăng không, đã bao giờ Amy đề cập đến việc con phản bội con bé hay chưa? Bởi vì nghe có vẻ rất giống Amy, đúng không? Ta nói với họ là chúng ta không nuôi dạy một cái thảm chùi chân."

Rand đặt một bàn tay lên vai tôi. "Nick, điều trước tiên mà chúng ta đáng lẽ nên nói đó là: Chúng ta biết con sẽ không bao giờ làm tổn thương Amy. Ta thậm chí đã nói với cảnh sát, kể cho họ nghe câu chuyện về việc con cứu một con chuột trong ngôi nhà bên bờ biển đó, cứu nó thoát khỏi bẫy." Ông ấy nhìn sang Marybeth như thể bà ấy không biết câu chuyện đó vậy, và Marybeth buộc phải tập trung sự chú ý. "Mất cả một giờ đồng hồ để cố dồn con chuột vào một góc, và sau đó đúng nghĩa là chở con chuột hoang nhỏ xíu đó ra khỏi thị trấn. Điều này nghe có giống một người chồng sẽ làm đau vợ mình không?"

Tôi bỗng cảm thấy tội lỗi ghê gớm và tự thấy ghê tởm chính mình. Tôi đã thoáng nghĩ trong đầu rằng tôi có thể khóc.

"Chúng ta yêu con, Nick." Marybeth nhắc lại. "Con là con trai của chúng ta. Chúng ta thấy khó nghĩ khi bên cạnh việc Amy mất tích, con còn phải đối mặt với những chuyện này - những nghi hoặc."

Tôi không thích cụm từ những nghi hoặc. Tôi thích dùng cụm từ thủ tục điều tra hay quy trình điều tra hơn.

"Họ đã muốn biết về việc con có đặt bàn ở nhà hàng vào đêm đó không." Marybeth nói với ánh mắt quá mức tự nhiên.

"Đặt bàn?"

"Họ nói con đã nói với họ rằng con đặt bàn ở nhà hàng Houston’s, nhưng họ đã xác minh và không có ai đặt bàn trước cả. Xem ra bọn họ có vẻ quan tâm tới chi tiết đó."

Tôi không đặt chỗ trước, cũng chẳng chuẩn bị quà tặng. Bởi nếu tôi định giết Amy vào ngày hôm đó, tôi đâu cần phải đặt bàn cho đêm hôm ấy hay chuẩn bị một món quà mà tôi sẽ chẳng bao giờ phải tặng cô ấy cả. Những dấu hiệu quá rõ ràng để nhận biết một kẻ giết người cực kỳ thực dụng.

Tôi thực dụng vô cùng - lẽ dĩ nhiên bạn bè của tôi có thể nói với cảnh sát về điều đó.

"À, vâng. Con chưa từng đặt bàn trước. Bọn họ hẳn đã hiểu lầm con. Con sẽ nói lại với họ."

Tôi ngồi thụp xuống chiếc trường kỷ đối diện với Marybeth. Tôi không muốn Rand lại chạm vào mình.

"Ồ, được rồi. Tốt." Marybeth nói. "Con bé có, ừm, năm nay con có nhận được câu đố nào cho trò săn tìm kho báu không?" Đôi mắt bà ấy lại rưng rưng. "Trước đây..."

"Vâng, hôm nay họ đã đưa cho con câu đố đầu tiên. Gilpin và con đã tìm thấy câu đố thứ hai trong văn phòng của con ở trường cao đẳng. Con vẫn đang cố giải nghĩa nó."

"Chúng ta có thể xem được không?" Mẹ vợ tôi ngỏ ý.

"Con không mang theo nó ở đây mẹ ạ." Tôi nói dối.

"Con sẽ... con sẽ cố giải nó chứ, Nick?" Marybeth hỏi.

"Tất nhiên rồi, Marybeth. Con sẽ cố."

"Mẹ chỉ ghét ý nghĩ rằng những thứ mà con bé đã từng gắn bó, giờ chúng nằm ở đó, tất cả đều trơ trọi..."

Điện thoại của tôi đổ chuông, chiếc điện thoại có thẻ dùng một lần. Tôi liếc nhìn màn hình hiển thị, rồi tắt máy. Tôi cần phải gạt bỏ chuyện này, nhưng tôi vẫn không thể.

"Con nên nhận mọi cuộc gọi, Nick." Marybeth nói.

"Con biết cuộc gọi này - chỉ là một quỹ của cựu sinh viên ở trường con đang tìm nguồn hỗ trợ thôi."

Rand ngồi xuống chiếc trường kỷ bên cạnh tôi. Chiếc đệm cổ bị sử dụng quá mức đã lún xuống thêm vì sức nặng của chúng tôi, nên cả hai bị đẩy ngồi lại gần nhau, cánh tay chạm vào nhau, nhưng điều đó với Rand có vẻ vẫn ổn. Ông ấy thuộc tuýp người sẽ tuyên bố Tôi là người hay ôm khi ông ấy thấy ai đó mà không cần hỏi xem cảm giác của người kia thế nào.

Marybeth quay trở lại chủ đề kinh doanh: "Bố mẹ thực sự nghĩ rằng có khả năng một kẻ bị ám ảnh bởi Amy đã bắt cóc con bé." Bà ấy quay sang tôi nói như thể đang biện hộ cho một vụ án. "Chúng ta đã luôn gặp những kẻ như thế từ bao năm nay rồi còn gì."

Amy đã từng thích thú tập hợp chuyện về những người đàn ông bị ám ảnh bởi cô ấy. Cô ấy mô tả những kẻ bám đuôi mình vào những thời điểm khác nhau trong cuộc hôn nhân của chúng tôi bằng giọng nói nhỏ nhẹ trong lúc thưởng thức những ly rượu vang - những gã đàn ông đó vẫn đang ở ngoài kia, luôn nghĩ về cô ấy và thèm khát cô ấy. Tôi nghi ngờ những câu chuyện đó đã bị thổi phồng: Những gã đàn ông này luôn được cho là nguy hiểm tới một mức độ rất chính xác - đủ để khiến tôi lo lắng nhưng chưa đủ để chúng tôi phải nhờ cậy cảnh sát. Nói tóm lại, đó là thế giới tuồng kịch mà tôi có thể đã sắm vai một người hùng với bộ ngực nở nang để bảo vệ Amy vì lòng tôn nghiêm của cô ấy. Amy quá tự lập, quá hiện đại để có thể chấp nhận một sự thật: Cô ấy muốn diễn vở kịch giữ gìn tiết hạnh.

"Mới gần đây hả mẹ?"

"Không phải mới gần đây đâu." Marybeth vừa nói vừa cắn môi. "Nhưng có một con bé mất trí ở trường trung học."

"Mất trí như thế nào ạ?"

"Con bé bị ám ảnh bởi Amy. Ồ, đúng hơn là với Amy tuyệt vời. Tên con bé đó là Hilary Handy - con bé biến mình thành Suzy, bạn thân của Amy trong sách. Ban đầu thì nó khá dễ thương, mẹ nghĩ vậy. Và rồi có vẻ như thế vẫn chưa đủ - con bé đó muốn làm Amy tuyệt vời chứ không phải chỉ là Suzy, một người bạn tri kỷ nữa. Vì thế con bé bắt đầu bắt chước Amy của chúng ta. Con bé mặc giống Amy, nhuộm tóc vàng rồi lảng vảng bên ngoài ngôi nhà của chúng ta ở New York. Một lần mẹ đi xuống phố thì con bé chạy đến bên, cái đứa con gái kỳ lạ đó, khoác tay mẹ và nói: "Từ giờ con sẽ là con gái mẹ. Con sẽ giết Amy và sẽ là Amy mới của mẹ. Vì điều đó với mẹ chắc không thành vấn đề gì, phải không mẹ? Chỉ cần mẹ vẫn có một Amy là được." Cứ như thể đứa con gái của bố mẹ chỉ là một nhân vật hư cấu mà con bé đó có thể viết lại vậy."

"Cuối cùng bọn ta đã phải yêu cầu cách ly vì nó đã đẩy Amy ngã xuống từ cầu thang ở trường học." Rand kể. "Đúng là một con bé mất trí. Kiểu người tâm thần như thế không bao giờ hết cả."

"Rồi sau đó là Desi." Marybeth nói.

"Đúng, cả Desi nữa." Rand nói thêm.

Tôi cũng biết Desi. Amy theo học một trường nội trú ở Massachusetts có tên là Học viện Wickshire - tôi đã xem các bức ảnh chụp Amy mặc những chiếc váy thể thao khác nhau với dải băng buộc đầu, nền ảnh luôn là khung cảnh mùa thu, như thể ngôi trường đó không phải được đặt trong một thị trấn mà đặt trong bối cảnh chỉ một tháng vậy. Tháng Mười. Desi Collings theo học trường nội trú dành cho nam sinh, hoạt động song song với Wickshire. Trong những câu chuyện của Amy, anh ta là một kẻ nhạt nhẽo, đúng kiểu hình tượng lãng mạn, và thời gian tìm hiểu của cả hai về cơ bản chỉ xoay quanh các hoạt động của trường nội trú: những trận bóng bầu dục giữa tiết trời giá lạnh và những điệu nhảy nóng bỏng, những đóa hoa tử đinh hương cài trên ngực áo và những lần dạo chơi trên chiếc Jaguar cổ điển. Tất cả đều mang hơi hướng của những năm giữa thế kỷ hai mươi.

Amy đã hẹn hò với Desi, khá nghiêm túc, trong vòng một năm. Nhưng cô ấy bắt đầu phát hiện ra anh ta thật đáng sợ: Desi nói chuyện cứ như thể họ đã đính hôn, anh ta xác định sẵn số lượng và giới tính những đứa con của họ. Họ dự định sẽ có bốn đứa con, tất cả đều là con trai. Việc đó có vẻ rất đáng ngờ như chính gia đình của Desi vậy. Và khi anh ta đưa mẹ đến gặp cô ấy, Amy cảm thấy buồn nôn trước sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa cô ấy và bà Collings. Người phụ nữ lớn tuổi đó đã hôn vào má cô ấy một cách lạnh lùng và điềm tĩnh thì thầm: "Chúc may mắn." Amy đã không thể phân định được đó là một sự cảnh báo hay một lời đe dọa.

Sau khi Amy chia tay Desi, anh ta vẫn lảng vảng ở khu ký túc xá trường Wickshire như một bóng ma trong chiếc áo khoác giả vest tối màu, tựa mình bên những cây sồi mùa đông trụi lá ảm đạm. Một đêm tháng Hai, khi Amy trở về phòng từ lớp khiêu vũ thì phát hiện ra anh ta đang ở trên giường cô, khỏa thân, nằm trên đám chăn gối, chếnh choáng vì uống thuốc quá liều. Không lâu sau đó, Desi rời khỏi trường.

Nhưng anh ta vẫn gọi điện cho cô ấy, thậm chí đến tận bây giờ, và mỗi năm lại vài lần gửi những phong thư dày đến mức Amy không thèm đọc chúng và vứt ngay sau khi cho tôi xem. Chúng được đóng dấu bưu điện của St. Louis, nơi chỉ cách chỗ ở của chúng tôi bốn mươi phút chạy xe. "Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên kinh khủng và đáng thương." Cô ấy đã nói với tôi như vậy. Mối liên quan tới St. Louis của Desi xuất phát từ gia đình bên ngoại của anh ta. Amy chỉ biết có chừng ấy nhưng cũng chẳng muốn biết thêm. Tôi đã nhặt lại một bức thư từ trong thùng rác, còn dính đầy nước sốt mỳ Ý, để đọc và nó hoàn toàn vô vị: những câu chuyện về tennis, về du lịch và những thứ khác tương tự thế. Một loại người khúm núm. Tôi cố hình dung gã công tử bột yếu ớt này, một kẻ với chiếc nơ đeo trên cổ, mang cặp kính gọng sừng, lẻn vào nhà tôi và tóm lấy Amy bằng những ngón tay mềm mại đã được chăm sóc móng của mình, rồi sau đấy ném cô ấy vào chiếc xe mui trần hai chỗ cổ điển và đưa cô ấy đi... mua sắm ở Vermont. Desi. Ai có thể tin được đó là Desi chứ?

"Quả thực là Desi sống không xa đây lắm." Tôi nói. "Ở St. Louis thôi."

"Đấy, thấy không?" Rand nói. "Tại sao cảnh sát vẫn chưa tính đến chuyện này nhỉ?"

"Ai đó sẽ phải làm thế." Tôi nói. "Con sẽ đi. Sau cuộc tìm kiếm ở đây ngày mai."

"Cảnh sát chắc chắn sẽ nghĩ sự việc xảy ra... ở gần nhà." Marybeth nói. Bà ấy nhìn tôi một lúc lâu, rồi rùng mình, như thể đang xua đi một suy nghĩ nào đó.
 
Chương 12: Amy Elliott Dunne


23 tháng 8 năm 2010

- Nhật ký -

Mùa hè. Chim chóc. Ánh nắng.Tôi dành cả ngày lê bước quanh công viên Prospect. Làn da mềm mại của tôi, khung xương yếu ớt của tôi. Chống chọi với sự đau khổ. Đó đã là một sự tiến bộ rồi, bởi ba ngày qua tôi chỉ quanh quẩn ở nhà, chỉ mặc một bộ quần áo ngủ thô cứng và điểm thời gian cho đến năm giờ, lúc đó tôi có thể uống một ly rượu. Tôi cố buộc mình nhớ đến sự khổ hạnh ở Darfur. Nhìn nhận mọi việc theo đúng góc độ. Một việc mà tôi nghĩ chỉ làm tội thêm những người dân Darfur mà thôi.

Tuần vừa rồi có quá nhiều việc đã được sáng tỏ. Tôi nghĩ mọi thứ đã được sắp đặt như vậy, rằng tất cả đều xảy ra cùng một lúc, vì thế tôi bị ức chế cảm xúc. Một tháng trước Nick đã mất việc. Cuộc suy thoái có thể sẽ lắng xuống, nhưng có vẻ như không ai biết điều đó cả. Vì thế Nick đã mất việc. Đợt sa thải thứ hai, đúng như những gì anh ấy đã dự đoán - chỉ vài tuần sau đợt đầu tiên. Ối! Chúng tôi vẫn chưa sa thải đủ người mà. Một lũ ngốc.

Ban đầu tôi nghĩ Nick sẽ ổn thôi. Anh ấy lập một danh sách dài dằng dặc những việc mà anh ấy đã luôn mong muốn thực hiện. Một vài trong số đó là những việc lặt vặt như: Anh ấy thay pin đồng hồ và đặt lại giờ, thay ống nước dưới bồn rửa và sơn lại tất cả các phòng chúng tôi đã sơn trước đó mà không thấy thích. Về cơ bản, anh ấy đã làm xong rất nhiều việc. Cũng tốt khi làm lại một số việc vào lúc mà bạn có quá ít việc để làm trong cuộc sống. Rồi anh ấy bắt tay vào những việc to tát hơn: đọc Chiến tranh và Hòa bình. Anh ấy nghĩ đến việc học tiếng Ả Rập. Anh ấy dành rất nhiều thời gian cố cân nhắc xem những kỹ năng nào có thể dùng được trong vài thập kỷ tới. Điều đó khiến trái tim tôi tan nát nhưng tôi vờ như không có chuyện gì, vì anh ấy.

Tôi luôn hỏi Nick: "Anh chắc là mình vẫn ổn chứ?"

Ban đầu tôi thử đặt câu hỏi một cách nghiêm túc, trong khi đang uống cà phê, vừa nhìn vào mắt anh ấy vừa đặt tay mình lên tay anh ấy. Sau đó tôi thử đặt câu hỏi một cách vui vẻ, nhẹ nhàng và tình cờ. Rồi tôi lại thử đặt câu hỏi một cách dịu dàng, khi ở trên giường và vuốt ve mái tóc của anh ấy.

Luôn chỉ có một câu trả lời: "Anh ổn. Anh không thực sự muốn nói về chuyện này."

Tôi đã viết một câu trắc nghiệm hoàn hảo cho những lần trao đổi đó: "Bạn đối mặt với việc bị sa thải như thế nào?"

A. Bạn mặc quần áo ngủ và ăn thật nhiều kem - hờn dỗi cũng là một liệu pháp!

B. Bạn viết những điều xấu xa về ông chủ cũ trên mạng, ở khắp mọi nơi - thật tuyệt vời khi hả được giận!

C. Cho đến khi có công việc mới, bạn cố tìm những việc hữu ích để làm trong khoảng thời gian rảnh rỗi này, như học một ngoại ngữ có ích cho công việc sau này hoặc rốt cuộc cũng bắt tay vào việc đọc Chiến tranh và Hòa bình.

C là đáp án đúng. Đó là lời khen dành cho Nick, nhưng anh ấy chỉ mỉm cười chua chát khi tôi cho anh ấy xem.

Một vài tuần sau đó, sự bận rộn kết thúc, sự có ích chấm dứt, như thể một buổi sáng anh ấy thức dậy với dấu hiệu của sự mệt mỏi mơ hồ bật lên thành tiếng. Việc quái gì phải bận tâm chứ? Anh ấy trở nên chán nản. Giờ thì anh ấy xem tivi, tìm kiếm phim khiêu dâm trên mạng, rồi lại xem phim khiêu dâm trên tivi. Anh ấy ăn rất nhiều đồ ăn nhanh, cả chồng vỏ hộp xếp bên cạnh thùng rác đã đầy ắp. Anh ấy không nói chuyện với tôi nữa, như thể nói chuyện sẽ làm anh ấy đau đớn về thể xác và tôi là người phụ nữ xấu xa khi đòi hỏi anh ấy phải nói chuyện.

Anh ấy chỉ nhún vai khi tôi nói với anh ấy rằng tôi đã mất việc. Tuần trước.

"Tệ nhỉ, anh rất tiếc." Anh ấy nói. "Ít ra thì em còn có tiền của em để trông cậy lúc cần thiết."

"Tiền đó là của chúng ta. Tuy vậy, em vẫn thấy thích công việc của mình."

Anh ấy bắt đầu hát bài "Bạn không thể luôn có những gì mình muốn" bằng giọng hát the thé lạc điệu cùng với điệu nhảy có phần vụng về. Tôi nhận ra là anh ấy đang say. Đó là buổi chiều muộn vào một ngày đẹp trời u ám, căn nhà của chúng nồng nặc mùi ngòn ngọt của đồ ăn Trung Quốc đã hỏng. Tất cả những tấm rèm bị kéo lại, và tôi bắt đầu đi từ phòng này sang phòng khác để đẩy thứ mùi đó ra khỏi phòng, vén rèm lên, xua xua đám bụi. Khi tôi bước vào căn phòng làm việc tối om, tôi vấp phải một chiếc túi trên sàn nhà, rồi hết chiếc này đến chiếc khác, như thể một con mèo hoạt hình đang bước vào căn phòng đầy bẫy chuột vậy. Khi bật đèn lên, tôi thấy hàng tá những chiếc túi mua sắm, và chúng đều xuất phát từ những nơi mà chẳng ai thất nghiệp lại dám bén mảng tới. Đó đều là những cửa hiệu quần áo sang trọng dành cho nam giới, nơi mà những bộ vest được cắt may thủ công, nơi mà từng nhân viên bán hàng sẽ treo cà-vạt ở một bên cánh tay và mang chúng đến trước mặt các vị khách đang ngả lưng trên những chiếc ghế bành bọc da. Ý tôi là, những thứ chết tiệt ấy chỉ được làm theo yêu cầu của khách mà thôi.

"Tất cả những thứ này là gì vậy, Nick?"

"Cho buổi phỏng vấn xin việc. Nếu ai đó muốn bắt đầu được tuyển dụng trở lại."

"Anh cần nhiều đến thế này sao?"

"Chúng ta có tiền mà." Anh ấy khoanh tay nhìn tôi cười với vẻ cay nghiệt.

"Ít ra thì anh cũng muốn treo chúng lên chứ?" Một vài túi nhựa đựng đồ đã bị Bleecker nhai rách. Một bãi nôn nhỏ của con mèo nằm gần một bộ vest trị giá ba nghìn đô-la, chiếc áo trắng được may đo dính đầy những dúm lông màu vàng cam vì con mèo đã ngủ trên đó.

"Không hẳn vậy." Anh ấy vừa nói vừa nhăn nhở cười với tôi.

Tôi chưa bao giờ là một người hay cằn nhằn cả. Tôi luôn tự hào về cái sự không hay cằn nhằn đó của mình. Vì thế khi Nick đã ép buộc tôi phải cằn nhằn, tôi như phát điên lên được. Tôi sẵn lòng chung sống với sự luộm thuộm, lười biếng và yếu đuối đến một mức nào đó thôi. Tôi nhận ra rằng tôi giống tuýp người thuộc nhóm A hơn là Nick, và tôi cố cẩn trọng để không áp đặt lên Nick bản tính gọn gàng đến đáng sợ và luôn lên kế hoạch cho mọi việc của mình. Nick không phải kiểu đàn ông có ý thức về việc hút bụi hay dọn dẹp tủ lạnh. Anh ấy thực sự không nhìn ra những công việc như thế. Tốt thôi. Thực sự tốt thôi. Nhưng tôi vẫn thích một tiêu chuẩn sống nhất định - tôi nghĩ cũng công bằng khi nói rằng những túi rác kia quả thực không nên quá đầy, và những chiếc đĩa không nên nằm trong bồn rửa một tuần liền cho tới khi vệt nước sốt của bánh bột ngô khô cáu lại. Tiêu chuẩn ấy chỉ để trở thành một người sống cùng nhà tốt bụng và chín chắn mà thôi. Nick không còn làm bất cứ việc gì nữa, vì thế tôi phải cằn nhằn, và điều đó khiến tôi bực mình: Anh biến em thành một người mà em chưa từng và không bao giờ muốn mình như thế, một kẻ hay cấm cảu, bởi vì anh không thực hiện đến cùng những thỏa thuận rất cơ bản. Đừng như thế này nữa, thế này không ổn đâu.

Tôi hiểu, tôi hiểu, tôi hiểu, rằng mất việc gây căng thẳng vô cùng, và nhất là đối với một người đàn ông. Người ta nói việc ấy có thể như một cái chết trong gia đình, đặc biệt với một người đàn ông luôn tay luôn chân như Nick. Vì thế tôi đã hít một hơi thật sâu, dồn nén cơn giận dữ của mình vào một quả bóng cao su, và bằng lý trí đá nó vào không trung. "Nào, anh có phiền không nếu em treo những thứ này lên? Chỉ để giữ chúng đẹp đẽ cho anh thôi?"

"Cứ việc tự nhiên."

Cả chàng và nàng đều mất việc, điều đó không ngọt ngào hay sao? Tôi biết chúng tôi may mắn hơn bao người: Mỗi khi cảm thấy bất an, tôi lên mạng và kiểm tra quỹ ủy thác đầu tư của mình. Tôi chưa bao giờ gọi đó là quỹ ủy thác đầu tư cho tới khi Nick gọi nó như thế, thực ra cũng không có nhiều tiền đến vậy. Ý tôi là, cũng được, một khoản cũng khá - 785.404 đô-la mà tôi có trong tài khoản tiết kiệm là nhờ cả vào bố mẹ tôi. Nhưng đó không phải khoản tiền sẽ cho phép bạn thôi không làm việc mãi mãi, lại càng không khi bạn ở New York. Thực chất bố mẹ tôi làm vậy là để đảm bảo cho tôi không phải cân nhắc đến vấn đề tiền bạc khi đưa ra những lựa chọn - về việc học hành, về nghề nghiệp - nhưng cũng không quá sung túc để tôi cho phép mình bòn rút nó. Nick chế nhạo điều này, nhưng tôi cho rằng đó là một nghĩa cử tuyệt vời mà bố mẹ đã dành cho tôi. (Và phù hợp nữa, nếu xét đến việc họ đã sao chép tuổi thơ của tôi vào những cuốn sách ấy.)

Nhưng tôi vẫn cảm thấy ngán ngẩm vì vô công rồi nghề, sự vô công rồi nghề của chúng tôi, khi bố tôi gọi điện và hỏi xem liệu họ có thể ghé qua được hay không. Họ cần nói chuyện với chúng tôi, ngay chiều nay, thực ra là ngay lúc này, nếu được. Đương nhiên là được rồi, tôi nói, và trong đầu tôi nghĩ: Một thứ ung nhọt, một thứ ung nhọt, một thứ ung nhọt.

Bố mẹ tôi xuất hiện trước cửa nhà với vẻ như gắng gượng. Bố tôi mặc bộ đồ được là lượt kỹ càng và bóng lộn, không chê vào đâu được ngoại trừ sự nhàm chán tận trong đáy mắt của ông. Mẹ tôi mặc một trong những chiếc váy tím sáng màu mà bà luôn diện tới những buổi lễ trang trọng hay đi diễn thuyết, thời mà bà còn hay được mời. Bà nói màu này đòi hỏi người mặc phải có sự tự tin.

Cả hai trông rất tuyệt, nhưng có vẻ ngại ngần. Tôi đưa họ đến bên chiếc trường kỷ và chúng tôi ngồi trong im lặng một lát.

"Các con, mẹ các con và ta, có vẻ như chúng ta..." Bố tôi cuối cùng cũng mở lời, rồi dừng lại giữa chừng vì họ. Ông đặt hai tay lên đầu gối mình, khớp gối to nhưng yếu ớt. "Ừm, có vẻ như chúng ta đã rơi vào tình trạng khủng hoảng về tài chính."

Tôi không biết mình nên phản ứng thế nào nữa: sốc, cảm thông hay thất vọng đây? Bố mẹ tôi chưa từng bao giờ chia sẻ bất cứ rắc rối nào với tôi cả. Tôi không nghĩ họ có nhiều điều phải lo lắng.

"Vấn đề là, bố mẹ đã hành xử vô trách nhiệm." Marybeth tiếp lời. "Mười năm qua bố mẹ đã sống như thể bố mẹ đã kiếm ra khoản tiền tương đương với những gì đã kiếm được trong hai thập kỷ trước đó. Nhưng đâu phải. Chúng ta vẫn chưa kiếm được một nửa số đó, nhưng chúng ta không thừa nhận điều đó. Bố mẹ đã... lạc quan, có thể đó là một cách tích cực để nhìn nhận sự việc. Cả hai ta đã luôn nghĩ rằng cuốn Amy tiếp theo sẽ lại thành công rực rỡ. Nhưng điều ấy chưa xảy ra. Trong khi đó, bố mẹ liên tục đưa ra những quyết định tồi tệ. Bố mẹ đầu tư tiền một cách ngu ngốc. Bố mẹ tiêu xài một cách ngu ngốc. Và giờ thì thế này đây."

"Về cơ bản là bố mẹ đã khánh kiệt rồi." Rand nói. "Ngôi nhà của bố mẹ, và cả ngôi nhà này nữa, tất cả đều bị gán nợ."

Tôi đã tưởng là - đã mặc nhiên là - bố mẹ mua đứt ngôi nhà này cho chúng tôi. Tôi không hề biết rằng họ vẫn đang phải trả góp tiền cho nó. Tôi cảm thấy day dứt vì xấu hổ rằng tôi đang được che chở đúng như Nick đã nói.

"Như mẹ đã nói đấy, bố mẹ đã đưa ra những phán đoán sai lầm nghiêm trọng." Marybeth nói. "Bố mẹ nên viết cuốn Amy tuyệt vời và Lãi suất thế chấp thả nổi. Chúng ta sẽ đưa đáp án sai cho mỗi câu trắc nghiệm. Chúng ta chính là câu chuyện để cảnh báo. Bạn của Amy, Wendy Muốn Nó Ngay."

"Harry Head ở Biển cát." Rand bổ sung.

"Vậy chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo đây ạ?" Tôi hỏi.

"Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào các con." Bố tôi nói. Mẹ tôi lấy ra một cuốn sách nhỏ tự đóng bìa mềm từ trong xắc tay của mình và đặt nó lên bàn trước mặt chúng tôi - những đồ thị hình cột và hình tròn được vẽ bằng máy tính của họ ở nhà. Tôi đau nhói lòng khi hình dung bố mẹ mình tham khảo cuốn cẩm nang dành cho người sử dụng rồi cố làm cho bản đề xuất của họ trông thật hấp dẫn đối với tôi.

Marybeth mở lời: "Bố mẹ muốn hỏi xem liệu có thể mượn tạm một khoản tiền từ quỹ ủy thác đầu tư của con được không, trong lúc bố mẹ cân nhắc những gì cần làm với phần đời còn lại."

Bố mẹ tôi ngồi trước mặt chúng tôi như hai sinh viên trẻ đang háo hức mong chờ công việc thực tập đầu tiên. Đầu gối của bố tôi rung nhẹ cho tới khi mẹ tôi khẽ đặt đầu ngón tay mình lên đó.

"Quỹ ủy thác đầu tư là tiền của bố mẹ, vì thế đương nhiên bố mẹ có thể mượn tiền từ đó rồi." Tôi nói. Tôi chỉ muốn giây phút này trôi qua thật nhanh, vẻ mặt đầy hy vọng đó của bố mẹ khiến tôi không thể chịu đựng nổi. "Bố mẹ tính sẽ cần bao nhiêu tiền, để trả hết mọi khoản và sống thoải mái một thời gian?"

Bố tôi nhìn xuống đôi giày của mình. Mẹ tôi thì hít một hơi thật sâu. "Sáu trăm năm mươi ngàn." Bà nói.

"Ồ." Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Số tiền đó gần như là tất cả những gì mà chúng tôi có.

"Amy, có thể em và anh nên bàn thêm..." Nick nói.

"Không, không, chúng ta có thể cho bố mẹ vay." Tôi nói. "Em sẽ đi lấy cuốn séc."

"Thực ra, nếu con có thể gửi vào tài khoản của bố mẹ ngay ngày mai là tốt nhất. Nếu không bố mẹ sẽ không được phép giao dịch trong vòng mười ngày nữa." Marybeth nói.

Đến lúc đó thì tôi nhận ra rằng bố mẹ tôi đang thực sự vấp phải vấn đề nghiêm trọng.
 
Chương 13: Nick Dunne


Hai ngày trôi qua

Tôi tỉnh giấc trên chiếc giường kéo trong căn phòng của gia đình Elliott, mệt mỏi rã rời. Nhà tôi vẫn bị tiếp quản nên bố mẹ vợ đã khăng khăng giữ tôi lại qua đêm, với một sự khẩn thiết tương tự như lúc họ chộp lấy tờ hóa đơn bữa tối: lòng mến khách giống như một thế lực dữ dội của tự nhiên vậy. Con phải để chúng ta làm việc này cho con. Và tôi đã để họ làm thế. Cả đêm tôi nằm nghe tiếng ngáy của họ vẳng qua cửa phòng ngủ, một người ngáy đều và sâu như tiếng đốn gỗ dồn dập, người kia thì hổn hển và ngắt quãng như thể đang nằm mơ thấy mình bị chết đuối vậy.

Tôi luôn có thể khóa cơ thể mình như tắt một chiếc đèn. Anh ngủ đây, tôi nói rồi chắp tay kề má như đang cầu nguyện - zzzzzz - rồi chìm vào giấc ngủ sâu giống hệt một đứa trẻ sau khi uống thuốc Nyquil vậy. Trong khi đó, cô vợ mắc chứng mất ngủ của tôi vẫn nhặng xị bên cạnh tôi ở trên giường. Vậy mà đêm qua tôi đã giống Amy, não vẫn hoạt động, cơ thể bồn chồn không yên. Hầu như mọi lúc tôi đều thoải mái với chính bản thân mình. Khi Amy và tôi ngồi trên đi-văng xem tivi, tôi dính chặt vào chiếc ghế như thể sáp nến chảy ra, trong khi vợ tôi ở bên cạnh liên tục xoay mình và đảo vị trí. Có lần tôi hỏi rằng có phải cô ấy mắc một hội chứng hiếu động chân tay không - khi ấy tivi đang phát mẩu quảng cáo về căn bệnh này, nỗi đau đớn hiện rõ trên gương mặt của những diễn viên khi họ rung bắp chân và xoa bóp đùi mình - và Amy đáp: Em có hội chứng hiếu động mọi thứ.

Tôi ngắm nhìn trần nhà trong căn phòng khách sạn chuyển dần từ màu xám sang hồng rồi vàng và cuối cùng nhỏm dậy để đón ánh mặt trời chói lòa, lại rọi thẳng vào tôi từ bên kia sông, nắng nóng bỏng cấp độ ba. Rồi những cái tên bật lên trong đầu tôi - bing! Hilary Handy. Cái tên quá đỗi đáng yêu để có thể bị quy chụp cho hành động quấy nhiễu. Desi Collings, một kẻ từng bị ám ảnh vì Amy, sống cách đây chừng một giờ xe chạy. Tôi đã nhận trách nhiệm về hai người này. Giờ là thời đại tự-mình-làm-lấy: từ việc chăm sóc sức khỏe, bất động sản, đến điều tra như cảnh sát. Cứ tự mình lên mạng mà tìm hiểu mọi vấn đề vì ai cũng trong tình trạng quá tải về công việc và người làm thì lại thiếu. Tôi là một nhà báo cơ mà. Hơn mười năm trời tôi đã kiếm sống bằng việc phỏng vấn mọi người và buộc họ phải bộc lộ về bản thân mình. Tôi có năng lực để thực hiện nhiệm vụ này. Marybeth và Rand cũng tin như vậy. Tôi thấy biết ơn vì họ đã cho tôi thấy rằng tôi vẫn được họ tin tưởng, dù là một người chồng đang phần nào đó bị tình nghi. Hay là tôi đang tự huyễn hoặc bản thân mình khi sử dụng cụm từ phần nào đó nhỉ?

Khách sạn Days Inn đã dành tặng căn phòng khiêu vũ bỏ không để làm trụ sở cho công tác Tìm kiếm Amy Dunne. Một nơi nhếch nhác, đầy những vệt ố bẩn màu nâu và nặng mùi. Nhưng chỉ ngay sau khi bình minh vừa ló rạng, Marybeth đã bắt tay vào việc cải tạo nó, hút bụi và lau chùi, sắp xếp hệ thống bảng niêm yết và máy điện đàm, rồi treo một bức chân dung lớn của Amy lên tường. Bức chân dung Amy với ánh nhìn tự tin, sắc lạnh, một đôi mắt gây ám ảnh người xem - trông nó giống như một bức ảnh trong cuộc vận động tranh cử tổng thống vậy. Trên thực tế, cho đến khi Marybeth hoàn tất công việc thì cả căn phòng đã náo nhiệt hoạt động rồi - niềm hy vọng chứa chan khẩn thiết của một chính trị gia yếu thế và đông đảo những người ủng hộ tâm huyết quyết không từ bỏ.

Hơn mười giờ sáng thì Boney đến, vừa đi vừa nói chuyện điện thoại. Cô ta vỗ nhẹ vào vai tôi rồi bắt đầu loay hoay với chiếc máy in. Những tình nguyện viên ào ào xuất hiện: Go và cả nửa tá bạn bè của người mẹ đã quá cố của tôi. Có năm người phụ nữ khoảng trên dưới bốn mươi tuổi gì đó, tất cả đều mặc quần ống ngắn như thể họ đang diễn tập cho một buổi trình diễn khiêu vũ vậy: hai người trong số bọn họ có dáng vẻ mảnh khảnh, tóc vàng và làn da rám nắng, đang ganh đua nhau để giành vị trí chủ chốt, số còn lại vui vẻ lùi về hàng phía sau. Một nhóm phụ nữ tóc bạc ồn ào, người này đang cố trao đổi với người kia, một vài trong số họ đang nhắn tin nữa, những người cao tuổi đó có một nguồn năng lượng mạnh mẽ đến khó tin, sinh lực trẻ trung dồi dào tới mức người ta phải băn khoăn không hiểu có phải họ đang cố làm trầm trọng thêm vấn đề hay không. Chỉ duy nhất một người đàn ông có mặt - một anh chàng bảnh trai tầm tuổi tôi, ăn mặc lịch thiệp, đi một mình và hoàn toàn không cần có lời giải thích nào cho sự hiện diện của mình. Tôi vừa theo dõi Anh chàng Cô đơn đang ngửi ngửi những chiếc bánh nướng kia, vừa liếc nhìn bức chân dung của Amy.

Boney đã lắp đặt xong máy in, nhón lấy một chiếc bánh xốp nướng - có vẻ như loại có hạt ngũ cốc - rồi bước đến bên cạnh tôi.

"Các vị có để ý theo dõi những ai đến đăng ký làm tình nguyện viên không?" Tôi hỏi. "Ý tôi là, phòng trường hợp có ai đó…"

"Ai đó có vẻ quan tâm tới mức đáng ngờ phải không? Tất nhiên rồi." Cô ta bẻ đường viền ngoài của chiếc bánh đưa lên miệng, rồi hạ giọng: "Nhưng thành thật mà nói, những tên giết người hàng loạt cũng xem các bộ phim truyền hình giống như chúng ta. Chúng biết rằng chúng ta biết chúng thích được…"

"Tự tham gia vào cuộc điều tra về chính mình."

"Đúng vậy." Cô ta gật đầu. "Cho nên giờ bọn chúng cẩn trọng hơn với những việc đại loại như thế này. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ xem xét tất những ai có vẻ khác thường để chắc chắn là bọn họ thật ra, anh biết đấy, chỉ là mấy kẻ trông khác thường thế thôi."

Tôi nhướng một bên lông mày.

"Giống như, trường hợp cách đây vài năm khi tôi và Gilpin điều tra vụ Kayla Holman. Vụ Kayla Holman ấy?"

Tôi lắc đầu: chẳng có chút khái niệm nào về vụ đó cả.

"Dù sao thì anh sẽ thấy vài kẻ bệnh hoạn hứng thú với những vụ kiểu thế này. Hãy để ý hai người kia nhé…" Boney chỉ tay về phía hai phụ nữ xinh đẹp tầm ngoài bốn mươi. "Trông bọn họ có vẻ giống kiểu đó đấy. Khá sốt sắng với việc an ủi người chồng bất an thì phải."

"Ồ, thôi nào…"

"Anh sẽ phải ngạc nhiên đấy. Đẹp trai như anh. Chuyện như vậy là bình thường."

Ngay sau đó một trong hai người phụ nữ, người có mái tóc vàng hơn và nước da rám nắng hơn, quay sang phía chúng tôi. Cô ta vừa nhìn tôi vừa mỉm với điệu bộ duyên dáng và ngượng ngùng nhất, sau đó cúi đầu e lệ như thể một con mèo đang đợi chờ được ve vuốt. "Mặc dù vậy, cô ta sẽ làm việc tận tâm đấy, đó sẽ là một Quý cô tình nguyện viên nhỏ xinh." Boney nói. "Thế cũng tốt."

"Vụ Kayla Holman kết cục thế nào?" Tôi hỏi.

Cô ta lắc đầu: không.

Bốn phụ nữ nữa lần lượt bước vào, họ chuyền tay nhau một lọ kem chống nắng rồi bôi vô tội vạ lên cánh tay, vai và mũi. Cả căn phòng sực nức thứ mùi giống mùi dừa.

"Nhân tiện, Nick." Boney nói. "Còn nhớ khi tôi hỏi anh về việc Amy có người bạn nào trong thị trấn không - thế Noelle Hawthorne thì sao? Anh không hề nhắc đến cô ta. Cô ta đã để lại cho chúng tôi hai tin nhắn."

Tôi nhìn Boney với ánh mắt trống rỗng.

"Noelle ở cùng khu nhà với anh? Mẹ của ba đứa trẻ sinh ba ấy?"

"Không, họ không phải bạn bè."

"Ồ, hay thật. Cô ta rõ ràng đã cho rằng bọn họ là bạn."

"Chuyện đó rất hay xảy ra với Amy." Tôi nói. "Cô ấy nói chuyện với người ta một lần, và rồi họ cứ đeo bám cô ấy. Thật kỳ dị."

"Bố mẹ cô ấy cũng nói thế."

Tôi cân nhắc việc hỏi trực tiếp Boney về Hilary Handy và Desi Collings. Rồi tôi quyết định không làm thế, trông tôi sẽ ổn hơn với vai trò người đảm trách chính trong chuyện này. Tôi muốn Rand và Marybeth thấy tôi với phong thái của một anh hùng hành động. Tôi không thể rũ bỏ cái nhìn đó của Marybeth đối với tôi: Cảnh sát chắc chắn sẽ nghĩ sự việc xảy ra... ở gần nhà.

"Mọi người cho rằng họ hiểu cô ấy vì họ đã đọc những cuốn sách đó." Tôi nói.

"Tôi có thể hiểu điều này." Boney gật đầu nói. "Mọi người muốn tin là họ hiểu người khác. Cha mẹ muốn tin là họ hiểu con mình. Các bà vợ muốn tin là họ hiểu chồng mình."

Một giờ đồng hồ sau đó trung tâm tình nguyện bắt đầu giống với một khu dã ngoại cho gia đình. Mấy cô bạn gái cũ của tôi có ghé qua để chào hỏi và giới thiệu con cái họ. Một trong những người bạn thân nhất của mẹ tôi, bà Vicky, đến cùng với ba cô cháu gái, những cô bé nhút nhát có độ tuổi từ mười đến mười hai và mặc toàn màu hồng.

Những đứa cháu. Mẹ tôi đã nói rất nhiều về những đứa cháu, như thể đó là điều chắc chắn sẽ thành hiện thực. Bất cứ khi nào bà mua một món đồ nội thất mới, bà sẽ giải thích rằng bà thích kiểu dáng đặc biệt đó bởi "nó sẽ thích hợp khi có cháu." Bà muốn sống để được nhìn mặt các cháu của mình. Tất cả bạn bè của bà đều có thừa thãi những đứa cháu như vậy. Có lần tôi và Amy mời mẹ tôi và Go đến ăn tối để kỷ niệm tuần lễ tưng bừng nhất của Quán Bar. Khi tôi thông báo rằng chúng tôi có một lý do để ăn mừng, mẹ tôi đã đứng bật dậy, òa khóc và ôm chầm lấy Amy, người lúc ấy cũng bắt đầu ứa nước mắt và thì thào trong vòng tay ôm ghì nghẹt thở của mẹ tôi: "Anh ấy đang nói về Quán Bar, anh ấy chỉ đang nói về chuyện của Quán Bar thôi mẹ ạ." Và sau đó mẹ tôi đã cố hết sức để tỏ ra là bà đang phấn khích cũng vì chuyện ấy: "Còn khối thời gian cho những đứa trẻ mà." Bà nói với giọng vỗ về hết mực, đến mức Amy lại bắt đầu rơi nước mắt. Điều đó thật lạ kỳ, vì chính Amy đã quyết định là cô ấy không muốn có con, và cô ấy còn lặp đi lặp lại điều này rất nhiều lần. Nhưng những giọt nước mắt ấy đã cho tôi chút hy vọng ngoan cố rằng có thể cô ấy đang suy nghĩ lại. Bởi thực sự không còn nhiều thời gian nữa. Khi chúng tôi chuyển về Carthage thì Amy đã ba mươi bảy rồi. Tháng Mười tới, cô ấy sẽ bước sang tuổi ba mươi chín.

Và rồi tôi nghĩ: Nếu tình hình này cứ kéo dài mãi, chúng tôi sẽ phải tổ chức tiệc sinh nhật giả hay thứ gì đó tương tự thế. Chúng tôi sẽ phải kỷ niệm nó, bằng cách này hay cách khác, một buổi lễ chẳng hạn, để thu hút sự chú ý của các tình nguyện viên và giới truyền thông lần nữa. Tôi sẽ phải vờ như mình đang tràn trề hy vọng.

"Đứa con hoang đã trở về." Một thứ giọng với âm mũi cất lên, và khi quay lại nhìn, tôi thấy một gã đàn ông gầy gò mặc chiếc áo phông giãn sợi, đang gãi gãi bộ ria mép cong như ghi-đông xe đạp của mình. Cậu bạn cũ của tôi, Stucks Buckley, hay gọi tôi là đứa con hoang, mặc dù cậu ta chẳng biết phát âm từ này thế nào cho đúng, mà cũng chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Tôi cho là cậu ta dùng nó như một từ đồng nghĩa thú vị với từ thằng ngốc. Stucks Buckley, nghe như tên của một vận động viên bóng chày vậy, và đó cũng chính là điều mà đáng ra Stucks đã làm, ngoại trừ việc cậu ta chưa bao giờ có tài năng, mà chỉ có một mơ ước cháy bỏng. Trong thị trấn thì cậu ta là người khá nhất, nhưng thế vẫn chưa đủ. Cú sốc lớn nhất trong đời cậu ta là hồi học cao đẳng, khi bị loại khỏi đội bóng, và sau đó mọi thứ trở nên cực kỳ khốn nạn. Giờ cậu ta là một kẻ nghiện ngập chuyên làm những việc lặt vặt với tính khí nóng nảy thất thường. Cậu ta đã từng ghé Quán Bar một vài lần để cố kiếm công việc gì đó, nhưng rồi cậu ta lắc đầu trước cả đống những việc linh tinh hàng ngày mà tôi đề nghị cậu ta làm, và còn tỏ ra khó chịu trong khi miệng vẫn nhóp nhép nhai kẹo cao su: Thôi nào, anh bạn, cậu có gì khác không, cậu chắc hẳn phải còn việc gì khác nữa chứ.

"Stucks." Tôi cao giọng chào đón, chờ xem liệu cậu ta có đang trong tâm trạng thân thiện hay không.

"Nghe nói đám cảnh sát đang long trọng làm hỏng bét vụ này." Cậu ta vừa nói vừa kẹp hai tay dưới nách.

"Nói thế bây giờ vẫn còn hơi sớm."

"Thôi nào, anh bạn, với mấy cái trò tìm kiếm ẻo lả như thế này sao? Tôi thấy đến tìm con chó của ông thị trưởng người ta còn bỏ nhiều công sức hơn thế." Khuôn mặt Stucks bị cháy nắng, tôi có thể cảm nhận được cả hơi nóng tỏa ra khi cậu ta ngả người lại gần hơn và phả vào mặt tôi một hơi thở đặc mùi Listerine và sợi thuốc lá. "Tại sao họ không bố ráp vài tên nào đó nhỉ? Có cả đống người ở cái thành phố này để lựa mà bọn cớm không túm được một đứa nào à? Không một ai sao? Tụi Blue Book chẳng hạn? Tôi đã hỏi ả thanh tra đó như vậy đấy: Tụi Blue Book thì thế nào? Ả ta thậm chí còn không thèm đáp lời tôi."

"Tụi Blue Book là sao? Một băng đảng à?"

"Tất cả những kẻ bị đuổi việc khỏi nhà máy Blue Book hồi mùa đông năm ngoái ấy. Không được bồi thường, không gì cả. Cậu có thấy một vài tên trong đám người vô gia cư, vác theo mấy cái túi tỏ vẻ vô cùng khó chịu và cứ quanh quẩn trong thành phố đó không? Dễ là bọn Blue Book lắm đấy."

"Tôi vẫn chưa hiểu ý cậu: Nhà máy Blue Book?"

"Cậu cũng biết đấy: Xưởng in River Valley đó. Ở ngoại vi thành phố ấy? Họ in những quyển sổ màu xanh mà cậu từng dùng cho việc viết luận và mấy thứ quái quỷ hồi học đại học còn gì."

"Ồ. Tôi không biết chuyện đó."

"Giờ thì các trường đại học đều dùng máy vi tính cả rồi, đâu mà chẳng thế, cho nên - phiuuu! - chào nhé, các giai Blue Book."

"Trời ạ, cả cái thị trấn này sắp đóng cửa đến nơi rồi." Tôi lẩm bẩm.

"Đám Blue Book ấy, chúng nó uống rượu, dùng ma túy và quấy rối mọi người. Ý tôi là, chúng vẫn làm thế từ trước rồi, nhưng chúng luôn phải tạm dừng để trở lại làm việc vào ngày thứ Hai. Còn giờ thì chúng như phát cuồng."

Stucks ngoác miệng cười với tôi, khoe hàm răng sứt mẻ. Tóc cậu ta lốm đốm những vệt sơn, đó là công việc mùa hè của Stucks kể từ thời trung học: sơn nhà. Tôi có chuyên môn trong những công việc có tính sạch sẽ, cậu ta sẽ nói vậy, và chờ đến khi người ta hiểu được câu đùa của mình. Nếu họ không cười, cậu ta sẽ giải thích.

"Thế tụi cớm đã tìm đến chỗ trung tâm thương mại chưa?" Stucks hỏi. Tôi lúng túng nhún vai.

"Chết tiệt, anh bạn, chẳng phải cậu từng là nhà báo hay sao?" Stucks luôn có vẻ tức giận với nghề nghiệp trước đây của tôi, như thể nó là một sự dối trá đã tồn tại từ lâu rồi. "Đám Blue Book ấy, bọn chúng lập ra một khu buôn bán nhộn nhịp ngay trong trung tâm thương mại. Chúng ngồi chồm hỗm ở đó, mua bán ma túy. Cảnh sát cứ đuổi chúng đi thì ngay hôm sau chúng lại quay trở lại. Dù sao đó cũng là những gì tôi đã nói với quý cô thanh tra kia: Lục soát cái trung tâm thương mại khốn kiếp ấy đi. Bởi vì một tháng trước đây, mấy thằng trong số bọn chúng đã hãm hiếp tập thể một cô gái. Ý tôi là, khi đã có một đám đàn ông bất đắc chí tụ tập với nhau, sẽ chẳng có gì tốt đẹp xảy đến với bất kể phụ nữ nào đi ngang qua bọn chúng cả."

Trên đường lái xe đến khu vực tìm kiếm buổi chiều, tôi gọi điện cho Boney, và bắt đầu nói ngay khi cô ta bắt máy.

"Tại sao khu trung tâm thương mại vẫn chưa được điều tra vậy?"

"Khu đó sẽ được điều tra, Nick. Chúng tôi đã cắt cử người, hiện đang trên đường tới đó."

"Ồ. Tốt rồi. Bởi anh bạn của tôi…"

"Stucks hả, tôi hiểu, tôi có biết anh ta."

"Cậu ta đã nói về chuyện…"

"Đám Blue Book phải không, tôi có biết. Hãy tin ở chúng tôi, Nick, chúng tôi hiểu tình hình. Chúng tôi cũng mong muốn tìm được Amy như anh vậy."

"Vậy tốt rồi. Cảm ơn."

Tinh thần chính trực của tôi tụt dốc không phanh. Tôi uống liền một hơi cà phê trong chiếc cốc nhựa lớn và lái xe về khu vực được chỉ định. Ba địa điểm sẽ được tìm kiếm trong chiều nay: khu vực hạ thủy Gully (mà giờ được hiểu là Nơi Nick Đã Đến Vào Buổi Sáng Hôm Đó Mà Không Có Ai Chứng Kiến), khu rừng Thung lũng Cối xay (một nơi chẳng hề xứng với tên gọi, người ta có thể thấy rất nhiều nhà hàng phục vụ đồ ăn nhanh thấp thoáng sau hàng cây), và Công viên Wolky, một khu bảo tồn tự nhiên với những đường mòn đi bộ leo núi và cưỡi ngựa. Tôi được giao nhiệm vụ đến Công viên Wolky.

Khi tôi đến nơi, một sĩ quan cảnh sát đang chỉ huy một nhóm khoảng mười hai người, ai nấy chân cẳng đều rắn chắc, mặc quần soóc bó, đeo kính mát và đội mũ, cùng với thứ oxit kẽm đó, thành phần của kem chống nắng, dính trên đầu mũi. Toàn cảnh trông như thể một buổi cắm trại ngoài trời.

Hai tổ công tác truyền hình khác nhau đang quay phim cho đài địa phương. Đó là dịp Quốc khánh 4 tháng 7 cuối tuần, Amy chắc hẳn sẽ bị chen lấn giữa hội chợ thông tin của bang và các cuộc thi nướng thịt. Một tay phóng viên mới vào nghề không ngừng vo ve quanh tôi, dồn dập đặt cho tôi những câu hỏi vô nghĩa, toàn thân tôi lập tức trở nên đơ cứng, thái độ lạnh lùng trước sự chú ý đó, còn khuôn mặt "lo âu" của tôi trông thật giả tạo. Một mùi ngai ngái của phân ngựa thoảng lên trong không khí.

Đám phóng viên nhanh chóng bỏ đi cùng các tình nguyện viên theo lối đường mòn. (Nhà báo kiểu gì mà coi người chồng bị tình nghi là đối tượng để khai thác thông tin rồi lại bỏ đi như thế chứ? Đúng là thứ nhà báo kém cỏi với mức lương mạt hạng, rơi rớt lại sau khi tất cả những nhà báo chân chính đã bị sa thải.) Một tay cớm trẻ mặc cảnh phục yêu cầu tôi đứng lại - ngay tại đó, chính lối dẫn vào những đường mòn khác nhau ấy, ở gần một bảng thông báo có dán chằng chịt những tờ bướm cũ rích, trong đó có cả thông tin tìm người mất tích là Amy, vợ tôi, với ánh mắt chăm chăm trên bức ảnh. Ngày hôm nay cô ấy đã đeo bám tôi đến khắp mọi nơi.

"Tôi nên làm gì bây giờ?" Tôi hỏi viên sĩ quan. "Ở đây tôi thấy mình như thằng ngốc vậy. Tôi cần phải làm một việc gì đó." Đâu đấy trong khu rừng, tiếng hí của một con ngựa cất lên nghe thật thảm thương.

"Chúng tôi thực sự cần anh có mặt ở đây, Nick. Chỉ cần tỏ ra thân thiện và cổ vũ tinh thần là được rồi." Anh ta vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc bình thủy tinh màu cam chói lọi ngay cạnh tôi. "Rồi mời nước. Và để ý bất cứ ai xuất hiện trong khu vực của tôi." Anh ta quay người và đi về phía chuồng ngựa. Tôi chợt nghĩ bọn họ đang cố tình ngăn tôi xuất hiện ở bất kỳ khu vực nào có khả năng là hiện trường phạm tội. Tôi không chắc hành động này là có ý gì.

Trong lúc tôi đang đứng vẩn vơ, làm ra vẻ bận rộn với chiếc thùng làm lạnh, thì một chiếc SUV màu đỏ bóng loáng như sơn móng tay muộn màng lăn bánh vào. Một nhóm phụ nữ tầm bốn mươi gì đó ở trụ sở chính từ trong xe bước ra. Người phụ nữ đẹp nhất, được Boney phong là cổ động viên nhiệt tình, đang túm cao mái tóc lên theo kiểu đuôi ngựa để một trong số những cô bạn xịt giúp thuốc chống sâu bọ lên gáy cho mình. Người phụ nữ đó cẩn thận xua tay trước đám hơi xịt. Cô ta liếc ngang nhìn sang phía tôi, rồi sau đó tách khỏi nhóm bạn, chậm rãi bước tới với mái tóc buông xõa trên vai cùng nụ cười đầy vẻ cảm thông và đau buồn hiện trên gương mặt, nụ cười kiểu Tôi rất lấy làm tiếc. Cô ta có đôi mắt nai to tròn màu nâu, chiếc áo màu hồng chỉ dài vừa tới cạp chiếc quần soóc màu trắng bằng chất vải nhăn. Chân đi xăng-đan cao gót, tóc uốn gợn sóng và tai đeo đôi khuyên vòng bằng vàng. Tôi thầm nghĩ Người ta sẽ không ăn mặc như thế này để đi tìm người mất tích.

Làm ơn đừng bắt chuyện với tôi, thưa cô.

"Chào, Nick, tôi là Shawna Kelly. Tôi rất lấy làm tiếc." Cô ta nói với âm lượng lớn quá mức cần thiết, giọng hơi the thé kiểu tiếng một con lừa kêu đầy phấn khích. Cô ta chìa tay ra, và tôi cảm thấy hơi chột dạ khi trông thấy đám bạn của Shawna vừa thong thả bước trên con đường mòn, vừa gieo về phía chúng tôi những cái nhìn ngụ ý của hội con gái.

Tôi trả lễ cô ta những gì mà tôi có: lời cảm tạ, nước uống, cái bặm môi lúng túng. Shawna không tỏ vẻ gì sẽ rời đi, ngay cả khi tôi đã hướng ánh nhìn chăm chăm của

mình về phía trước, phía con đường mòn nơi nhóm bạn cô ta đã khuất dạng.

"Tôi mong là anh có bạn bè hoặc họ hàng để chăm sóc cho mình trong lúc này, Nick ạ." Cô ta vừa nói vừa đập mạnh một con ruồi trâu. "Đàn ông rất hay quên tự chăm sóc bản thân. Những gì anh cần là thức ăn dễ tiêu hóa."

"Chúng tôi chủ yếu ăn món thịt nguội với phô mai thôi - cô biết đấy, vừa nhanh gọn, vừa dễ làm." Tôi có thể cảm thấy mùi vị xúc xích Ý vẫn đọng lại ở cổ họng, và hơi men tiêu hóa thức ăn trong dạ dày đang đẩy lên. Tôi chợt nhận ra là từ sáng đến giờ mình vẫn chưa đánh răng.

"Ồ, tội nghiệp anh chưa. Chà, thịt nguội kèm phô mai, món đó không ổn đâu." Cô ta lắc lắc đầu, đôi vòng đeo tai lấp loáng dưới ánh nắng. "Anh cần phải giữ sức. Hiện giờ thì anh may mắn đấy, vì tôi đã làm một chiếc bánh Frito nhân thịt gà bình thường. Anh biết không? Tôi sẽ gói lại và gửi nó tại trung tâm tình nguyện vào ngày mai. Anh chỉ việc hâm nóng bằng lò vi sóng bất cứ khi nào anh muốn một bữa tối nóng sốt ngon lành."

"Ồ, nghe có vẻ phiền hà quá, thật đấy. Chúng tôi ổn mà. Chúng tôi thật sự vẫn ổn."

"Anh sẽ còn ổn hơn sau khi ăn một bữa tử tế." Cô ta vừa nói vừa vỗ nhẹ vào cánh tay tôi.

Im lặng. Rồi cô ta thử tấn công ở góc độ khác.

"Tôi thực sự hy vọng việc này sẽ không dính líu gì… đến những kẻ vô gia cư đó." Cô ta nói. "Tôi thề là mình đã đệ đơn kiện hết lần này đến lần khác. Tháng trước, có một tên đã đột nhập vào vườn nhà tôi. Vì bộ phận cảm biến của nhà tôi phát tín hiệu báo động nên tôi đã lén nhìn ra ngoài, và thấy hắn ta đang ở đó, quỳ mọp trên bùn đất, ngấu nghiến ăn cà chua. Hắn ta gặm chúng rau ráu như gặm táo, mặt và áo bê bết nước và hạt cà chua. Tôi cố gắng đuổi hắn ta đi nhưng hắn còn cố lấy thêm ít nhất hai mươi quả nữa trước khi bỏ chạy. Dù gì thì đám người ấy cũng lâm vào cảnh khốn cùng rồi, những tên Blue Book đó. Vì chúng có tay nghề gì khác đâu."

Bỗng nhiên tôi cảm thấy một mối liên hệ mật thiết giữa mình với đội quân những người đàn ông Blue Book đó. Tôi hình dung mình đang tiến vào giữa khu vực đóng quân đầy cay đắng của bọn họ, tay vẫy lá cờ trắng: Tôi là anh em của các bạn, tôi cũng từng làm việc trong ngành xuất bản. Máy vi tính cũng đã cướp mất việc làm của tôi.

"Đừng nói với tôi là anh quá trẻ để có thể nhớ ra những quyển sổ màu xanh đó nhé, Nick." Shawna vẫn đang nói. Cô ta huých một cái vào cạnh sườn tôi làm tôi nhảy dựng lên quá mức cần thiết.

"Tôi già quá rồi, cô mà không nhắc thì tôi đã quên mất mấy quyển sổ màu xanh đó đấy."

Cô ta cười: "Anh bao nhiêu tuổi, ba mốt hay ba hai vậy?"

"Sao không thử đoán là ba mươi tư nhỉ?"

"Một đứa trẻ."

Ngay lúc đó thì một nhóm ba phụ nữ lớn tuổi đầy nhiệt huyết cũng vừa đến. Họ nặng nề bước về phía chúng tôi, một người trong số họ đang nói chuyện điện thoại. Tất cả đều mặc váy xòe, dài quá gối, được may bằng chất vải bố dày dặn. Những đôi giày Keds và áo chơi gôn cộc tay để lộ ra những bắp tay lỏng lẻo. Họ gật đầu chào tôi một cách trọng thị, rồi đưa ánh mắt có ý chê trách khi nhìn thấy Shawna. Trông chúng tôi như thể một cặp đôi đang tổ chức tiệc thịt nướng ở sân sau nhà mình vậy. Trông thật không đúng đắn chút nào.

Làm ơn đi đi, Shawna. Tôi thầm nghĩ.

"Dù sao thì mấy gã vô gia cư đó, bọn họ có thể rất hung hăng, như đe dọa phụ nữ chẳng hạn." Shawna nói. "Tôi đã đề cập điểm này với Thanh tra Boney, nhưng tôi có cảm giác là cô ta không ưa tôi lắm."

"Sao cô lại nói vậy?" Tôi biết cô ta sắp sửa nói những gì, một thứ kinh thánh của tất cả những phụ nữ quyến rũ.

"Phụ nữ có vẻ không ưa tôi cho lắm." Cô ta nhún vai. "Cũng chẳng biết làm thế nào khác được. Amy đã… Amy có nhiều bạn bè ở thành phố này không?"

Một vài phụ nữ - bạn của mẹ tôi và bạn của Go - đã mời Amy tham gia vào các câu lạc bộ sách hay các buổi tiệc của Amway, hoặc đêm của những cô gái được tổ chức tại nhà hàng Chili’s. Dễ đoán được là Amy từ chối hầu hết, trừ một vài sự kiện cô ấy đã tham dự và không hề thấy thích: "Bọn em đã gọi cả triệu những món đồ rán linh tinh và uống cocktail được làm từ kem."

Shawna đang nhìn tôi với vẻ muốn biết về Amy, muốn được xếp chung một nhóm với vợ tôi, người thật ra sẽ ghét cô ta.

"Tôi nghĩ có lẽ cô ấy có cùng vấn đề với cô." Tôi nói nhát gừng.

Cô ta mỉm cười.

Đi đi, Shawna.

"Thật khó khăn khi đến một thành phố mới." Cô ta nói. "Càng nhiều tuổi, càng khó kết bạn. Cô ấy bằng tuổi anh à?"

"Ba mươi tám."

Điều này hình như cũng lại làm cô ta hài lòng.

Cút xéo đi cho tôi nhờ.

"Đàn ông thông minh luôn thích phụ nữ lớn tuổi hơn mình."

Cô ta vừa cười vừa lôi ra từ trong chiếc túi xách lớn màu xanh lục nhạt của mình một chiếc điện thoại cầm tay. "Lại đây." Nói đoạn cô ta vòng một tay ôm lấy tôi. "Cười một điệu thật hoành tráng kiểu thịt gà hầm Frito cho tôi xem nào."

Ngay lúc đó tôi những muốn tát cô ta một cái, cái kiểu vô duyên, khêu gợi đó của cô ta: chỉ nhăm nhe để thỏa mãn cái tôi của mình từ chồng của một phụ nữ đang mất tích. Tôi nuốt cơn giận, cố hành động ngược lại, cố gắng sửa chữa sai lầm và tỏ ra tử tế, thế nên tôi đã cười một cách máy móc khi cô ta kề sát mặt mình vào má tôi và tự sướng với chiếc điện thoại đó. Thứ âm thanh giả tiếng máy chụp ảnh làm tôi sực tỉnh.

Cô ta xoay điện thoại lại phía tôi và tôi thấy hai bộ mặt cháy nắng tươi cười kề sát nhau, như thể chúng tôi đang hẹn hò tại một trận thi đấu bóng chày vậy. Nhìn cái điệu cười xun xoe nhăn nhở với đôi mi trễ xuống của mình, tôi đã nghĩ: Mình ghét tên này.
 
Chương 14: Amy Elliott Dunne


15 tháng 9 năm 2010

-Nhật ký-

Tôi đang ngồi viết những dòng này ở một nơi nào đó tại Pennsylvania. Phía Tây Nam. Một nhà nghỉ bên đường cao tốc. Phòng của chúng tôi nhìn ra bãi đậu xe, và nếu tôi nhìn ra phía sau tấm rèm cửa dày màu be này, sẽ thấy rất nhiều người đang túm tụm bên dưới ánh đèn huỳnh quang. Một nơi để người ta tha thẩn như thế. Tôi lại thấy ức chế cảm xúc. Quá nhiều việc đã xảy ra, và xảy ra quá nhanh, giờ tôi đang ở đây, phía Tây Nam bang Pennsylvania, còn chồng tôi thì đang tận hưởng giấc ngủ ngang tàng giữa những gói khoai tây chiên và kẹo mà anh ấy đã mua ở máy bán hàng tự động dưới sảnh. Đó chính là bữa tối. Anh ấy giận vì tôi không tỏ ra tử tế, độ lượng. Tôi nghĩ mình đã thể hiện một bộ mặt khá thuyết phục - tuyệt vời, một cuộc phiêu lưu mới! - nhưng hình như không phải vậy.

Cách đây hai tuần, chúng tôi vẫn trong tình trạng thất nghiệp: ăn mặc tuềnh toàng, ngán ngẩm kinh khủng, sẵn lòng ăn một bữa sáng im lặng, và ngồi đọc báo cho tới khi đọc hết toàn bộ các tin. Giờ chúng tôi thậm chí còn đọc luôn cả phần phụ lục xe hơi nữa. Mười giờ sáng, điện thoại di động của Nick đổ chuông, và nghe giọng Nick thì tôi có thể nhận ra đó là Go. Giọng anh ấy nghe sôi nổi và trẻ con, giọng điệu mà anh ấy vẫn thường thể hiện khi nói chuyện với Go. Giọng điệu mà trước đây anh ấy vẫn thường thể hiện khi nói chuyện với tôi.

Anh ấy đi vào phòng ngủ rồi đóng cửa lại, bỏ mặc tôi ở đó với hai tay là hai phần trứng Benedict mới làm vẫn còn rung rinh nóng hổi trên đĩa. Tôi đặt đĩa của anh ấy lên bàn và ngồi vào chỗ đối diện, băn khoăn không biết có nên đợi anh ấy cùng ăn hay không. Nếu là mình, tôi nghĩ, hẳn là tôi đã quay trở ra và bảo anh ấy cứ ăn đi, hoặc tôi sẽ giơ một ngón tay lên ra hiệu: Chỉ một phút thôi. Tôi sẽ quan tâm đến người kia, đến chồng tôi, người đang bị bỏ lại trong bếp với mấy đĩa trứng này. Tôi thấy mình thật tệ khi suy nghĩ như vậy. Bởi chỉ một lúc sau tôi có thể nghe thấy từ phía sau cánh cửa phát ra những tiếng thì thào lo lắng, tiếng kêu la khổ sở rồi lại dịu dàng vỗ về, và tôi bắt đầu băn khoăn có khi nào Go lại đang gặp rắc rối ở nhà với anh chàng nào đó. Go có nhiều cuộc tình tan vỡ. Ngay cả những lần mà cô ấy là người chủ động chia tay thì cô ấy vẫn cần rất nhiều sự quan tâm và an ủi từ Nick.

Vậy nên khi Nick trở ra, tôi đã thể hiện bộ mặt quen thuộc kiểu Tội nghiệp Go, lúc đó những quả trứng đã nguội cứng lại trên đĩa. Tôi nhìn Nick và hiểu rằng đó không chỉ đơn thuần là rắc rối của Go.

"Mẹ anh." Anh ấy mở lời và ngồi xuống. "Chết tiệt. Mẹ anh bị ung thư. Giai đoạn bốn rồi, đã di căn đến gan và xương. Như vậy là rất tệ, như vậy là…"

Hai tay anh ấy ôm lấy mặt mình, và tôi đi tới vòng tay ôm lấy anh ấy. Khi anh ấy ngước nhìn lên, đôi mắt không hề vương lệ. Mà điềm tĩnh. Tôi chưa bao giờ thấy chồng mình khóc cả.

"Thế này thì thực là quá sức Go, khi phải chăm lo cả căn bệnh Alzheimer của bố anh

nữa."

"Alzheimer ư? Alzheimer? Từ bao giờ vậy?"

"Ừ thì, cũng một thời gian rồi. Lúc đầu người ta nghĩ đó là một dạng thức mất trí nhớ giai đoạn đầu. Nhưng thực tình thì tệ hơn thế, nghiêm trọng hơn thế."

Ngay tức thì, tôi cảm thấy có gì đó không ổn giữa hai chúng tôi, điều gì đó có lẽ không thể hàn gắn được, khi mà chồng tôi đã không hề nghĩ đến việc cho tôi biết về chuyện này. Đôi khi tôi có cảm giác như đây là trò chơi cá nhân của riêng anh ấy, rằng anh ấy đang tham gia vào một thứ đại loại như cuộc thi ngấm ngầm về khả năng không thể bị thấu hiểu của mình. "Sao anh không nói gì với em?"

"Anh không thích nói nhiều đến mức ấy về một người như bố anh."

"Nhưng dù sao…"

"Amy, làm ơn đi." Anh ấy nhìn tôi như thể tôi đang tỏ ra thật vô lý đến mức chính tôi phải tự hỏi hay là tôi vô lý thật.

"Nhưng hiện giờ, Go nói trường hợp của mẹ anh phải cần đến hóa trị… bà sẽ trở nên ốm yếu, thực sự ốm yếu. Sẽ cần có người để chăm bà."

"Chúng ta có nên thử tìm dịch vụ chăm sóc tại nhà cho mẹ không? Một y tá chẳng hạn?"

"Mẹ anh không có bảo hiểm dành cho loại dịch vụ đó."

Anh ấy khoanh tay nhìn tôi chằm chằm, và tôi hiểu anh ấy đang thách thức mình, thách tôi dám đề nghị chi trả cho dịch vụ đó. Nhưng chúng tôi không thể, vì tôi đã đưa số tiền tôi có cho bố mẹ tôi rồi.

"Thôi được rồi, anh yêu." Tôi nói. "Vậy anh định sẽ làm gì?"

Chúng tôi đứng đối diện nhau, một cuộc đối đầu, như thể chúng tôi đang ở trong một trận chiến mà tôi không hề được báo trước. Tôi với tay để chạm vào tay anh ấy, còn anh ấy chỉ nhìn bàn tay của tôi.

"Chúng ta phải chuyển về đó thôi." Anh ấy mở to mắt nhìn tôi trừng trừng. Anh ấy xòe những ngón tay của mình ra như thể đang cố gắng thoát khỏi một cái gì đó nhớp nháp. "Chúng ta sẽ có một năm và chúng ta sẽ làm điều nên làm. Cả hai vợ chồng đều không có việc làm, không tiền bạc, chẳng có gì níu kéo chúng ta ở đây cả. Thậm chí em sẽ phải chấp nhận điều đó."

"Thậm chí em sẽ phải chấp nhận ư?" Anh ấy nói như thể tôi đã phản đối vậy. Tôi cảm thấy tức giận nhưng cố kìm nén.

"Chúng ta sẽ làm vậy. Chúng ta sẽ làm những việc đúng đắn. Chí ít là một lần, chúng ta sẽ giúp đỡ bố mẹ của anh."

Tất nhiên đó là việc chúng tôi phải làm, và tất nhiên, nếu anh ấy đừng có đặt vấn đề với tôi như thể tôi là kẻ thù vậy, thì chính tôi đã là người nói ra những điều đó. Nhưng anh ấy bước ra từ sau cánh cửa và đối xử với tôi như thể tôi mới là một vấn đề cần phải giải quyết. Tôi là thế lực gay gắt cần phải bị đè bẹp.

Chồng tôi là người đàn ông chung thủy nhất trên thế gian này, cho tới khi anh ấy không như vậy nữa. Tôi đã chứng kiến ánh mắt anh ấy, đúng nghĩa là tối sầm lại khi cảm thấy bị bạn mình, một người bạn thân lâu năm phản bội. Và kể từ đó, người bạn ấy không bao giờ còn được nhắc đến nữa. Lúc này anh ấy nhìn tôi như thể tôi chỉ là một vật thể sẽ bị vứt bỏ nếu cần thiết. Cái nhìn ấy, thực sự khiến tôi ớn lạnh.

Vậy là mọi chuyện đã nhanh chóng được quyết định mà chỉ với bấy nhiêu đó sự bàn bạc: Chúng tôi sẽ rời New York. Chúng tôi sẽ đến Missouri. Chúng tôi sẽ tới sống trong một ngôi nhà bên bờ sông ở Missouri. Điều này thật không tưởng, mà tôi thì chẳng phải người hay lạm dụng từ không tưởng.

Tôi biết mọi chuyện rồi sẽ ổn. Chỉ là nó quá xa so với những gì tôi mường tượng, khi tôi hình dung về cuộc đời mình. Tôi không nói thế là tồi tệ, chỉ là… Ngay cả khi tôi có thể đoán một triệu lần về những ngã rẽ của cuộc đời mình, tôi cũng không thể đoán được chuyện sẽ thế này. Điều đó khiến tôi cảm thấy hoang mang.

Việc đóng gói đồ đạc của hãng vận chuyển U-Haul đúng là một bi kịch nho nhỏ: Nick, với vẻ quả quyết cùng mặc cảm tội lỗi đã nín thinh, không nói một lời nào. Anh ấy bắt tay vào việc mà không buồn nhìn đến tôi. Xe của U-Haul đã đỗ lại hàng giờ liền, làm tắc nghẽn cả con phố nhỏ, liên tục nhấp nháy đèn hiệu cảnh báo - nguy hiểm, nguy hiểm, nguy hiểm - trong khi Nick thực hiện dây chuyền lắp ráp một thành viên, hết đi lên lại đi xuống cầu thang, vác theo những hộp đựng sách, đựng dụng cụ nhà bếp, những chiếc ghế, bàn kê tường. Chúng tôi mang theo chiếc trường kỷ cổ điển - một chiếc trường kỷ rộng và cũ kỹ mà bố tôi gọi là thú kiểng, chúng tôi cưng nó hết mực. Đó là thứ cuối cùng mà chúng tôi đóng gói, một nhiệm vụ vụng về và đẫm mồ hôi dành cho hai người. Việc đưa thứ đồ sộ đó xuống cầu thang quả là một bài rèn luyện đòi hỏi rất nhiều tinh thần hợp tác làm việc nhóm (Từ từ đã, em cần nghỉ. Nhấc sang bên phải. Từ từ thôi, anh đi nhanh quá. Cẩn thận, mấy ngón tay của em, mấy ngón tay của em!) Sau khi chuyển xong chiếc trường kỷ, chúng tôi mua đồ ăn trưa tại một nhà hàng ở góc phố, món bánh kẹp vòng, rồi ăn ngay trên đường cùng với soda lạnh.

Nick để tôi mang theo chiếc trường kỷ, nhưng những thứ đồ đạc cồng kềnh khác sẽ phải để lại New York. Một người trong đám bạn Nick sẽ thừa hưởng chiếc giường, anh ta sẽ qua lấy chiếc giường sau, căn nhà trống của chúng tôi khi đó sẽ chẳng còn gì ngoài đám bụi và những sợi dây thừng xoắn. Rồi anh ta sẽ sống cuộc sống New York của mình trên chiếc giường New York của chúng tôi, ăn món Trung Hoa vào lúc hai giờ sáng và làm tình không bao cao su với những cô nàng làm nghề PR, lúc nào cũng say ngà ngà và ăn nói trâng tráo. (Ngôi nhà của chúng tôi sẽ bị tiếp quản bởi một cặp đôi ồn ào, một cặp vợ chồng luật sư với vẻ sung sướng một cách trơ trẽn và vô liêm sỉ khi vớ được thỏa thuận có hời này. Tôi ghét bọn họ.)

Mỗi lần Nick chuyển được bốn món đồ thì tôi mới chuyển được một. Tôi lê từng bước chậm chạp, như thể xương tôi đang đau nhức, một trạng thái tê tê sốt bao trùm lấy cơ thể tôi. Chỗ nào cũng đau. Nick cứ rầm rập đi qua, hết lên rồi lại xuống, cau có nhìn tôi rồi cấm cảu hỏi "Em ổn đấy chứ hả?" rồi lại đi tiếp trước khi tôi kịp trả lời, mặc tôi còn đang há miệng định nói, y như một nhân vật hoạt hình với cái hốc miệng đen ngòm vậy. Tôi không ổn. Tôi sẽ ổn, nhưng ngay lúc này thì không. Tôi muốn chồng tôi vòng tay ôm lấy tôi, an ủi tôi, nuông chiều tôi một chút. Chỉ một giây thôi.

Bên trong thùng xe tải, anh ấy nhặng xị lên với đống thùng giấy. Nick luôn tự hào về khả năng đóng gói của mình: Anh ấy (đã từng) là người khuân vác máy rửa bát và đóng gói túi du lịch. Nhưng sau ba giờ đồng hồ, rõ ràng là chúng tôi đã bán hoặc đem cho quá nhiều đồ đạc của mình. Khoang chứa khổng lồ của chiếc xe tải U-Haul mới chỉ đầy có một nửa. Điều đó mang lại cho tôi cảm giác hài lòng duy nhất của ngày hôm ấy, cảm giác hèn hạ âm ỉ nóng trong bụng. Tốt, tôi nghĩ. Tốt thôi.

"Chúng ta có thể mang theo chiếc giường nếu em thực lòng muốn thế." Nick nói nhưng chẳng buồn nhìn tôi ở dưới đường. "Chúng ta vẫn còn đủ chỗ."

"Không, anh đã hứa cho Wally rồi, Wally nên có nó." Tôi nghiêm túc nói.

Anh đã sai. Chỉ cần nói là: Anh đã sai rồi, xin lỗi em, hãy mang theo chiếc giường đi. Em nên mang theo chiếc giường quen thuộc và thoải mái của mình tới nơi ở mới này. Hãy cười với em và đối xử tốt với em. Ngày hôm nay, hãy đối xử tốt với em.

Nick thở dài. "Thôi được, nếu em muốn vậy. Amy? Em chắc chứ?" Anh ấy đứng đó, hơi thở có phần hổn hển, người dựa vào đống đồ đạc có chiếc thùng ở trên cùng đề nguệch ngoạc dòng chữ viết bằng bút dạ quang Magic Marker: Quần áo mùa đông của Amy. "Amy, đây sẽ là lần cuối cùng anh đề cập về chiếc giường đấy nhé? Bởi ngay lúc này đây anh đang đề nghị em. Anh sẵn lòng đóng gói chiếc giường lại cho em."

"Anh thật tử tế quá." Tôi nói chỉ với một hơi thở nhẹ. Đó là cách mà tôi vẫn thường trả miếng: một làn nước hoa được phun ra từ loại bình xịt có hạng. Tôi là một kẻ hèn nhát. Tôi không thích phải đối đầu. Tôi nhấc một chiếc thùng giấy lên và tiến về phía xe tải.

"Em nói sao?"

Tôi lắc đầu. Tôi không muốn anh ấy thấy tôi khóc, bởi nó sẽ chỉ khiến anh điên tiết thêm.

Mười phút sau, những bậc cầu thang sầm sập rung lên - rầm! rầm! rầm! − Nick đang một mình kéo chiếc trường kỷ xuống nhà.

Khi chúng tôi rời New York, tôi thậm chí còn không thể nhìn lại phía sau vì thùng xe tải che khuất. Qua gương chiếu hậu, tôi dõi theo đường chân trời (đường chân trời đang lùi xa dần - chẳng phải đây là cảnh vẫn thường được miêu tả trong những cuốn tiểu thuyết thời Victoria đó sao, khi mà vị nữ anh hùng bị kết án buộc phải rời khỏi ngôi nhà mà tổ tiên cô ta truyền lại?), nhưng không có tòa nhà kỳ vĩ nào - không có Chrysler, Empire State hay Flatiron, chúng không bao giờ xuất hiện trong khung hình chữ nhật nhỏ xíu rạng rỡ đó.

Bố mẹ tôi đã ghé qua vào buổi tối hôm trước để tặng chúng tôi chiếc đồng hồ chim cúc cu mà hồi nhỏ tôi đã rất thích, rồi cả ba chúng tôi ôm nhau khóc trong khi Nick đút tay vào túi quần và hứa sẽ chăm lo cho tôi.

Anh ấy hứa sẽ chăm sóc tôi, vậy mà tôi lại cảm thấy sợ. Tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn, rất không ổn, đang diễn ra và thậm chí sẽ ngày càng tồi tệ hơn. Tôi không cảm thấy mình còn là vợ của Nick nữa. Tôi không cảm thấy mình còn chút nào giống một con người: Tôi giống thứ gì đó có thể chất lên rồi dỡ xuống, như chiếc trường kỷ hay chiếc đồng hồ chim cúc cu kia. Tôi giống thứ nếu cần có thể bị quăng vào kho phế liệu hoặc bị ném xuống sông. Tôi không cảm thấy thời thực nữa. Tôi cảm thấy như mình có thể tan biến đi.
 
Chương 15: Nick Dunne


Ba ngày trôi qua

Cảnh sát sẽ không tìm được Amy trừ khi có ai đó muốn cô ấy được tìm thấy. Chừng đó là quá rõ rồi. Mọi nơi có màu xanh và màu nâu đều đã được tìm kiếm: hàng dặm sông Mississippi bùn lầy, tất cả những con đường mòn và đường bộ leo núi, hàng loạt những cánh rừng thưa. Nếu cô ấy còn sống, ai đó cần phải đưa trả cô ấy về. Còn nếu cô ấy đã chết, thiên nhiên sẽ phải buông tha cô ấy. Sự thật đã rõ ràng như vị chua trên đầu lưỡi. Tôi đến trung tâm tình nguyện và nhận ra tất cả mọi người đều hiểu điều này: Một không khí bơ phờ và thất bại bao trùm cả căn phòng. Tôi đi loanh quanh không chủ đích tới quầy bánh nướng và cố gắng thuyết phục mình ăn một thứ gì đó. Món bánh nướng Đan Mạch. Tôi bắt đầu tin rằng không có loại đồ ăn nào đáng thất vọng hơn món bánh kiểu Đan Mạch này, thứ bánh vừa mới được đem ra mà có vẻ đã bị hỏng rồi.

"Tôi vẫn cho là ở khu vực con sông thôi." Một tình nguyện viên nói với bạn của anh ta, cả hai đều đang nhặt bánh nướng với bàn tay còn lấm lem. "Ngay phía sau nhà gã đó, còn gì tiện hơn thế nữa?"

"Giờ này đáng lẽ cô ta đã phải nổi lên ở chỗ nước xoáy rồi chứ nhỉ, hoặc ở một cửa cống hay chỗ nào tương tự thế mới phải."

"Nếu cô ta bị chặt ra thì không đâu. Chặt rời chân, tay… thì cơ thể có thể trôi đến tận vùng Vịnh ấy chứ. Ít nhất là đến Tunica."

Tôi quay đi trước khi bọn họ trông thấy mình.

Một giáo viên cũ của tôi, thầy Coleman, đang ngồi bên chiếc bàn chơi bài, vừa lúi húi với điện thoại vừa nguệch ngoạc ghi lại thông tin. Khi tôi bắt gặp ánh mắt của ông ấy, ông ấy liền ra tín hiệu cúc cu: ngón tay xoay tròn chỉ vào tai, sau đó lại chỉ vào chiếc điện thoại. Hôm qua ông ấy đã mở lời chào tôi rằng: "Cháu gái tôi đã bị một gã lái xe say rượu đâm chết, cho nên..." Chúng tôi đã thì thầm và lúng túng vỗ nhẹ vào nhau.

Điện thoại di động của tôi đổ chuông, loại có thẻ dùng một lần - tôi không biết nên để nó ở đâu nên tôi đã giữ nó bên mình. Tôi đã gọi một cuộc điện thoại, và họ đang gọi lại, nhưng tôi không thể nghe được. Tôi tắt điện thoại, rồi nhìn quanh phòng để chắc chắn là ông bà Elliott đã không thấy hành động đó. Marybeth đang lách tách bấm chiếc BlackBerry của bà ấy, rồi đưa nó xa ra khoảng một cánh tay để có thể đọc được dòng chữ. Khi nhìn thấy tôi, bà ấy thoăn thoắt tiến lại gần, tay ôm khư khư chiếc BlackBerry trước ngực như một tấm bùa hộ mệnh.

"Từ đây đến Memphis mất bao lâu?" Bà ấy hỏi.

"Gần năm tiếng. Có gì ở Memphis vậy mẹ?"

"Hilary Handy sống ở Memphis. Kẻ đeo bám Amy từ hồi trung học. Chẳng phải rất trùng hợp hay sao?"

Tôi không biết phải nói gì nữa: chẳng trùng hợp tý nào?

"Phải đấy, Gilpin cũng làm ta tức điên lên được. Chúng tôi không thể chi phí cho một vấn đề đã xảy ra cách đây hơn 20 năm rồi. Đồ khốn. Thằng nhóc đó luôn cư xử với ta như thể ta sắp bị chứng cuồng loạn đến nơi, hắn ta nói chuyện với Rand trong khi ta ở ngay đó, hoàn toàn phớt lờ như thể ta là một mụ ngớ ngẩn cần được chồng mình giải thích cho mọi chuyện ấy. Đồ khốn."

"Thành phố này đang sa sút." Tôi nói. "Con chắc rằng họ thực sự không có đủ kinh phí, Marybeth ạ."

"Chà, chúng ta thì có. Ta nghiêm túc đấy, Nick. Đứa con gái này rất điên rồ. Và ta biết cô ta đã cố liên lạc với Amy trong suốt những năm qua. Amy đã kể cho ta vậy."

"Cô ấy chưa bao giờ kể với con cả."

"Lái xe tới đó thì tốn bao nhiêu tiền? Năm mươi đô-la chứ gì? Được thôi. Con sẽ đi chứ? Con đã nói là con sẽ đi mà. Làm ơn đi? Ta sẽ không thể thôi suy nghĩ cho tới khi biết có ai đó nói chuyện với cô ta."

Chí ít thì tôi biết điều này là thật, vì con gái bà ấy cũng bị chứng bệnh lo nghĩ dai dẳng giống như thế: Amy có thể bứt rứt suốt cả buổi tối đi chơi về việc hình như cô ấy chưa tắt bếp, dù cho ngày hôm đó chúng tôi chẳng hề nấu ăn. Hoặc không biết cửa đã khóa chưa? Liệu tôi có chắc không? Cô ấy là một nhà soạn kịch tài ba luôn dựng lên những tình huống xấu nhất. Bởi không bao giờ đơn giản chỉ là vấn đề cửa chưa được khóa, mà chính việc cửa chưa được khóa đó sẽ dẫn đến việc có kẻ đã đột nhập vào nhà, chúng đang chờ để hãm hiếp và giết chết cô ấy.

Tôi cảm thấy mồ hôi lấm tấm trên da mình, bởi rốt cuộc những nỗi sợ hãi của vợ tôi đã thành hiện thực. Hãy thử hình dung sự thỏa mãn khủng khiếp đó, khi biết rằng những lo lắng trong suốt bao năm qua giờ đã được đáp trả.

"Tất nhiên là con sẽ đi. Và tiện đường con sẽ ghé qua St. Louis để gặp cái gã Desi kia nữa. Chuyện này coi như xong nhé." Tôi quay người và đi ra để gây ấn tượng, được chừng mươi mét thì đột nhiên Stucks lại xuất hiện, gương mặt cậu ta vẫn váng vất vẻ thiếu ngủ ấy.

"Tôi nghe nói hôm qua tụi cớm đã kiểm tra khu trung tâm thương mại." Cậu ta vừa nói vừa lấy tay gãi gãi quai hàm. Tay kia cầm một chiếc bánh vòng bóng loáng, còn chưa cắn miếng nào. Ở túi trước chiếc quần hộp mà cậu ta đang mặc có thứ gì đó phồng lên hình vòng tròn. Suýt chút nữa thì tôi đã trêu cậu ta: Trong túi cậu có phải còn một chiếc bánh nữa không hay cậu bị...

"Ừ. Chẳng thấy gì cả."

"Ngày hôm qua. Bọn họ đi vào ngày hôm qua, mấy thằng ngốc ấy." Cậu ta cúi đầu nhìn quanh như thể đang lo lắng sẽ có ai nghe thấy mình. Cậu ta ngả người lại gần tôi. "Cậu phải đi vào ban đêm, khi ấy chúng mới ở đó. Ban ngày thì chúng ở dưới chỗ bờ sông, hoặc đi phất cờ rồi."

"Phất cờ ư?"

"Thì cậu biết đấy, chúng ngồi ở những cung đường thoát khỏi đường cao tốc, mang theo những bảng hiệu như: Bị mất việc, Làm ơn cứu giúp, Cần tiền mua bia, đại loại thế." Cậu ta vừa nói vừa liếc nhìn quanh căn phòng. "Thế là phất cờ đấy, anh bạn ạ."

"Được rồi."

"Ban đêm thì chúng ở trung tâm thương mại." Cậu ta nói.

"Vậy thì hãy đi vào tối nay." Tôi nói. "Cậu và tôi, cùng bất kỳ ai khác nữa."

"Joe và Mikey Hillsam." Stucks nói. "Tụi nó sẵn sàng làm việc này." Anh em nhà Hillsam hơn tôi khoảng ba, bốn tuổi, là mấy gã dữ dằn trong thành phố. Bọn họ thuộc tuýp những kẻ sinh ra đã không có gen sợ hãi và miễn nhiễm với sự đau đớn. Những gã trai không chịu ngồi yên, đã guồng đôi chân cơ bắp ngắn ngủn của mình qua bao mùa hè, nào là chơi bóng chày, rồi uống bia, và tham gia những trò thách thức kỳ lạ: trượt ván trong kênh thoát nước hay leo tháp nước với bộ dạng trần như nhộng. Đó là kiểu người mà vào một đêm thứ Bảy tẻ nhạt nào đó sẽ lái xe điên cuồng với ánh mắt hoang dại, và bạn biết chuyện gì sẽ xảy ra rồi đấy, có thể chẳng tốt đẹp gì, nhưng chắc chắn là có chuyện. Lẽ dĩ nhiên, anh em nhà Hillsam sẽ hăng hái trong vụ này.

"Tốt." Tôi nói. "Đêm nay chúng ta sẽ đi."

Điện thoại trong túi tôi đổ chuông. Cái thứ đó vẫn chưa được tắt nguồn đúng cách. Nó lại đổ chuông rồi.

"Cậu không định bắt máy à?" Stucks hỏi.

"Không."

"Cậu nên trả lời mọi cuộc gọi, anh bạn ạ. Thực sự cậu nên làm thế."

Thời gian còn lại trong ngày chẳng có việc gì để làm cả. Không có kế hoạch tìm kiếm, không cần thêm phi công, điện thoại đã được bố trí trực đầy đủ. Marybeth bắt đầu cho các tình nguyện viên về nghỉ, họ chỉ quanh quẩn ở đó, ăn uống và chán nản. Tôi nghi là Stucks đã rời khỏi đây với hơn một nửa số đồ ăn sáng trên bàn được nhét đầy các túi quần của cậu ta.

"Có ai nghe được tin gì từ mấy viên thanh tra không?" Rand hỏi.

"Không có tin gì cả." Tôi và Marybeth đồng thanh trả lời.

"Có lẽ thế lại tốt, phải vậy không?" Rand hỏi với đôi mắt tràn đầy hy vọng. Tôi và Marybeth chiều theo ý ông ấy. Vâng, hẳn rồi.

"Bao giờ con đi Memphis?" Marybeth hỏi tôi.

"Ngày mai ạ. Đêm nay con và vài người bạn sẽ tìm ở khu trung tâm thương mại một lần nữa. Bọn con nghĩ ngày hôm qua nó chưa được kiểm tra đúng cách."

"Tuyệt vời." Marybeth nói. "Chúng ta đang cần chính những hành động như thế này. Bố mẹ ngờ rằng ngay từ đầu mọi việc đã không được tiến hành đúng cách, chúng ta sẽ tự giải quyết lấy. Bởi ta - chỉ là ta không ấn tượng cho lắm với những gì đã được thực hiện cho tới thời điểm này."

Rand đặt bàn tay lên vai vợ mình, một dấu hiệu cho thấy điệp khúc này đã được truyền đạt và đón nhận nhiều lần rồi.

"Ta muốn đi với con, Nick." Ông ấy nói. "Đêm nay, ta cũng muốn đi cùng." Rand đang mặc một chiếc áo chơi gôn màu xanh lơ với chiếc quần màu ô-liu, đầu đội mũ bảo hộ hơi tối màu. Tôi hình dung cảnh ông ấy cố gắng làm thân với anh em nhà Hillsam, cách quen thuộc có phần liều lĩnh của ông ấy khi tỏ ra mình-cùng-một-hội - này, tớ cũng mê bia ngon lắm, mà đội thể thao của các cậu thế nào? - rồi cảm thấy khó xử trước một mối đe dọa có thể xảy đến.

"Tất nhiên, Rand. Tất nhiên rồi."

Tôi có mười tiếng ngoài kế hoạch để thoải mái làm gì mình muốn. Xe của tôi sẽ được trả lại - sau khi đã được gia công, hút bụi và sơn, tôi nghĩ vậy - nên tôi đi nhờ xe của một phụ nữ lớn tuổi đến sở cảnh sát. Bà ấy là một tình nguyện viên, thuộc tuýp mấy bà ngoại hay lăng xăng và tỏ vẻ hơi căng thẳng khi trên xe chỉ có mình tôi và bà ấy.

"Tôi chỉ lái xe đưa anh Dunne đây đến sở cảnh sát. Gần nửa tiếng nữa tôi sẽ trở lại." Bà ta nói với một người bạn trong hội. "Không quá nửa tiếng đâu."

Gilpin đã không giữ mẩu ghi chú thứ hai của Amy làm vật chứng, anh ta quá hân hoan với mấy món đồ lót nên chẳng bận tâm thêm. Tôi vào xe của mình, mở tung cửa, rồi ngồi xuống khi hơi nóng trong xe xả hết và đọc lại câu đố thứ hai của vợ tôi:

Hãy hình dung: em điên cuồng vì anh

Tương lai em dù ra sao vẫn say anh chếnh choáng

Anh đưa em đến để nghe anh bầu bạn

Những cuộc phiêu lưu thời niên thiếu của anh: chiếc mũ không chóp, chiếc quần jeans không lành

Chỉ có chúng mình, mặc kệ những kẻ khác

Một nụ hôn vụng trộm… vờ như duyên mình đã tạc.

Đó là thành phố Hannibal thuộc bang Missouri, nơi ghi dấu ấn thời niên thiếu của Mark Twain, nơi tôi đã lớn lên và trải qua mỗi mùa hè trong bộ dạng của Huck Finn, đầu đội chiếc mũ rơm và mặc chiếc quần mài rách, đi quanh thị trấn và mỉm cười tinh quái, nài nỉ mọi người ghé vào hàng kem Ice Cream Shoppe. Đó là một trong những câu chuyện mà bạn kể để mua vui trong bữa tối, ít ra là ở New York, bởi chẳng ai có được một tuổi thơ như vậy. Không ai có thể thốt lên rằng: Ồ phải đấy, tôi cũng thế.

Lời chú giải cho "mũ không chóp" là một câu chuyện đùa nho nhỏ giữa chúng tôi: Lần đầu tiên tôi kể với Amy rằng tôi từng đóng vai Huck là khi chúng tôi cùng ra ngoài ăn tối, uống đến chai vang thứ hai và cô ấy đã ngà ngà say một cách cực đáng yêu. Mỗi khi say, cô ấy đều toét miệng cười với đôi má ửng đỏ, nhoài người qua bàn như thể có nam châm gắn trên người tôi vậy. Cô ấy liên tục hỏi liệu tôi có còn giữ chiếc mũ không chóp đó, liệu tôi có chịu đội nó cho cô ấy xem không, và khi tôi thắc mắc tại sao cô ấy lại nghĩ Huck Finn đội mũ không chóp được nhỉ, thì cô ấy uống một ngụm rồi trả lời "Ồ, ý em là chiếc mũ rơm ấy!" cứ như thể đó là hai từ có thể hoàn toàn thay thế được cho nhau vậy. Sau lần đó, mỗi khi xem tennis, chúng tôi đều khen ngợi những chiếc mũ rơm thể thao của các vận động viên.

Hannibal là một lựa chọn lạ lùng đối với Amy, bởi tôi không nhớ có kỷ niệm đặc biệt vui hay buồn nào của chúng tôi ở đó, duy có một lần. Cách đây cũng gần một năm rồi, tôi nhớ chúng tôi đã thả bộ dạo quanh, chỉ trỏ thứ này thứ kia, đọc những tấm áp-phích và nói với nhau "Cái đó thú vị nhỉ," trong khi người còn lại gật gù "Công nhận." Kể từ đó, tôi đã trở lại nơi này khi không có Amy (bệnh hoài cổ của tôi là không thể chữa được) và có một ngày tuyệt vời, với nụ cười rạng rỡ trên môi và cảm thấy cuộc sống biết bao thú vị. Nhưng với Amy, nơi đây hoàn toàn bình lặng và nhàm chán. Có phần kỳ quặc nữa. Tôi vẫn nhớ khi tôi bắt đầu kể một câu chuyện ngốc nghếch về chuyến đi thực tế thời thơ ấu của mình ở nơi này, tôi đã bắt gặp ánh mắt trống rỗng của cô ấy, và tôi đã giận điên lên, suốt 10 phút liền tôi đã phải kìm nén mình - bởi ở thời điểm hôn nhân đó của hai chúng tôi, tôi đã quen nổi giận với cô ấy rồi, và điều đó khiến tôi cảm thấy khá thích thú, giống như việc cắn lớp biểu bì trên tay mình vậy. Bạn biết rằng mình nên dừng lại, rằng điều đó thực sự chẳng mang lại cảm giác dễ chịu như bạn tưởng, nhưng bạn không thể ngừng gặm nhấm nó một cách say sưa. Tất nhiên, ngoài mặt thì Amy đã không nhận ra. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi dạo, đọc áp-phích, và chỉ trỏ.

Amy đã buộc phải chọn Hannibal cho trò chơi săn tìm kho báu của cô ấy, như một lời nhắc nhở khá khó chịu về sự thiếu vắng những kỷ niệm đẹp đẽ giữa hai đứa kể từ khi chúng tôi chuyển nhà.

Mất gần hai mươi phút thì tôi đến Hannibal. Tôi lái xe qua trụ sở lộng lẫy một thời của tòa án Gilded Age, giờ đây chỉ còn là nơi bán cánh gà rán dưới tầng hầm của tòa nhà. Tôi cho xe chạy thẳng hướng sông, qua một loạt những cơ sở kinh doanh đã ngừng hoạt động - những ngân hàng cộng đồng đổ nát và những rạp chiếu bóng đã không còn tồn tại nữa. Tôi đỗ xe tại khu vực bãi đậu ngay bên bờ sông Mississippi, đối diện với con thuyền của Mark Twain. Đó là bãi đỗ xe miễn phí. (Tôi không khỏi rùng mình trước điều khác thường đó, sự hào phóng khi đỗ xe không mất tiền.) Những tấm băng-rôn in hình một người đàn ông có bờm tóc trắng được treo phất phơ trên các cột đèn, những tấm áp-phích quảng cáo quăn lại vì hơi nóng. Tiết trời hôm đó hừng hực như luồng hơi được thổi ra từ máy sấy. Mặc dù vậy, Hannibal vẫn có vẻ yên bình một cách bất an. Khi đi bộ dọc theo dãy cửa hàng đồ lưu niệm - bán chăn chần bông, đồ cổ và kẹo bơ cứng - tôi nhận thấy các biển hiệu rao bán xuất hiện nhiều hơn. Ngôi nhà của Becky Thatcher đã đóng cửa để nâng cấp, được chi trả bằng nguồn kinh phí còn chưa được gây quỹ. Với mười đô-la bạn đã có thể viết tên mình lên hàng rào quét vôi trắng của Tom Sawyer, nhưng chẳng mấy ai chịu chơi cả.

Tôi ngồi trên bậc tam cấp trước mặt tiền trống không của một cửa hàng. Trong đầu xuất hiện ý nghĩ rằng chính mình đã đẩy Amy tới kết thúc của mọi việc. Chúng tôi thực sự đã trải qua sự tận diệt của một lối sống, cách diễn đạt mà tôi chỉ dùng đối với các thổ dân New Guinea và những người thợ thổi thủy tinh vùng Appalachia. Suy thoái kinh tế đã kết liễu số phận của trung tâm thương mại. Máy tính đặt dấu chấm hết cho xưởng in Blue Book. Carthage kiệt quệ, thành phố chị em với nó là Hannibal thì mất thị trường vì những địa điểm du lịch hào nhoáng, náo nhiệt và vui nhộn hơn. Dòng sông Mississippi thân yêu của tôi đang chết dần bởi loài cá chép châu Á đã đổi hướng di cư ngược về phía hồ Michigan. Thế là kết thúc Amy tuyệt vời. Màn kết cho sự nghiệp của tôi và sự nghiệp của cô ấy, cho cuộc đời bố tôi và cuộc đời mẹ tôi. Màn kết cho cuộc hôn nhân của chúng tôi, và cho Amy.

Ngoài sông vẳng lên tiếng còi tàu hơi nước u u đầy ma mị. Lưng áo sơ-mi của tôi đã ướt đẫm mồ hôi. Tôi buộc mình đứng dậy, rồi buộc mình mua một tấm vé tham quan. Tôi đi bộ theo tuyến đường mà tôi và Amy đã từng qua, trong tâm trí, vợ tôi vẫn ở ngay bên cạnh. Ngày hôm đó cũng là một ngày rất nóng. Anh thật tuyệt vời. Trong hình dung của tôi, cô ấy vẫn đang sóng đôi dạo bước bên tôi, và lần này cô ấy đã mỉm cười. Bụng dạ tôi bỗng cảm thấy nhộn nhạo.

Tôi đi dạo trong tâm tưởng cùng vợ mình theo tuyến đường tham quan chính. Một cặp đôi có mái tóc hoa râm đang dừng lại quan sát ngôi nhà của Huckleberry Finn nhưng không buồn bước vào trong. Phía cuối dãy nhà, một người đàn ông phục sức như Mark Twain - tóc trắng, vest trắng - bước ra từ một chiếc Ford Focus, vươn vai và dõi mắt xuôi theo con phố đìu hiu, rồi sau đấy chúi mặt vào một miếng bánh pizza lớn. Đây rồi, chính nơi chúng tôi đã đến, ngôi nhà được dựng bằng ván xếp, nơi từng là phòng xử án của bố Samuel Clemen. Tấm biển bên ngoài đề chữ: J. M. Clemens, Công lý của Hòa bình.

Một nụ hôn vụng trộm… vờ như duyên mình đã tạc.

Em đang đặt ra những câu đố quá thú vị và dễ dàng, Amy ạ. Như thể em thực sự muốn anh tìm được câu trả lời vậy, để anh cảm thấy hài lòng với chính mình. Cứ tiếp tục như thế đi và anh sẽ phá vỡ kỷ lục của mình cho mà xem.

Không có ai bên trong ngôi nhà. Tôi quỳ trên những tấm ván sàn bụi bặm và quan sát bên dưới chiếc ghế băng đầu tiên. Nếu Amy để lại câu đố ở một địa điểm công cộng, cô ấy sẽ luôn gắn nó bên dưới các đồ vật, kẹp giữa bã kẹo cao su và một lớp bụi, và cô ấy đã luôn đúng, vì chẳng có ai thích nhìn vào mặt dưới những đồ vật đó cả. Không có gì bên dưới chiếc ghế thứ nhất, nhưng có một chiếc túi giấy treo bên dưới chiếc ghế ở phía sau. Tôi trèo qua nó và giật mạnh lấy chiếc phong bì màu xanh của Amy, một mẩu băng ghi âm rơi ra.

Chào chồng yêu quý,

Anh đã tìm được rồi! Đúng là người đàn ông tài giỏi. Điều đó có lẽ sẽ giúp em quyết định không biến trò chơi săn tìm kho báu năm nay trở thành một chặng đường hành quân gượng ép đầy đau khổ trong những ký ức bí ẩn của riêng em.

Em đã tìm được một gợi ý từ nhà văn Mark Twain yêu quý của anh: "Phải làm gì với người đã phát minh ra việc tổ chức những lễ kỷ niệm? Chỉ giết thôi là quá nhẹ."

Rốt cuộc thì em đã hiểu, những điều mà anh đã nói bao năm nay, rằng trò săn tìm kho báu này nên là khoảng thời gian để mừng lễ kỷ niệm của chúng mình, chứ không phải một bài kiểm tra xem liệu anh có nhớ mọi thứ em từng nghĩ hoặc nói trong suốt một năm qua hay không. Hẳn anh đã cho rằng đó là điều mà một người phụ nữ trưởng thành phải tự nhận thức được, nhưng… em đoán chừng đó cũng là lý do tồn tại của những ông chồng. Để chỉ ra điều mà người vợ không thể tự mình nhìn thấy, cho dù việc đó mất đến năm năm trời. Vậy nên giờ đây em muốn nắm lấy giây phút này, trên những vùng đất in đậm dấu ấn tuổi thơ của Mark Twain, và cảm ơn anh vì sự hóm hỉnh. Anh đích thực là người thông minh, hài hước nhất mà em từng biết. Em có một trí nhớ tuyệt vời về những cảm giác: trong suốt những năm qua anh đã gần kề bên tai em - em có thể cảm thấy hơi thở của anh nhột nhột bên vành tai mình khi đang viết những dòng này - và thì thầm điều gì đó với riêng em, chỉ cốt để em cười. Em nhận ra khi người chồng cố gắng làm vợ anh ta cười, đó quả thật là hành động cao thượng. Và anh đã luôn chọn những thời điểm tuyệt vời nhất. Anh còn nhớ khi Insley và gã chồng khỉ múa của cô ta mời chúng mình đến nhà để chiêm ngưỡng đứa con của họ không, hai ta đã bắt buộc phải đến thăm ngôi nhà hoàn hảo một cách kỳ quặc, tràn ngập hoa và bánh nướng của bọn họ, để dùng bữa sáng gộp bữa trưa và hỏi thăm đứa bé nữa. Bọn họ đã tỏ ra tự cao và trịch thượng quá mức trước việc chúng ta không có con, trong khi đứa bé trai kinh dị của họ thì ngập ngụa trong đống nước dãi lẫn cà rốt hầm, và hình như cả phân nữa - trên người chẳng mặc gì ngoài mỗi chiếc yếm dãi viền đăng-ten và mang đôi ủng len. Khi em đang nhâm nhi ly nước cam của mình, anh đã ngả người qua thì thầm: "Lát nữa anh sẽ mặc như thế." Em thực sự đã sặc nước đến phun phì cả ra. Đó là một trong những khoảnh khắc mà anh đã cứu em, anh đã làm em cười thật đúng lúc. Chỉ một trái ô-liu thôi nhé. Thế nên hãy để em nhắc lại một lần nữa: anh thật hóm hỉnh. Giờ thì hôn em đi!

Tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống. Amy đang sử dụng trò săn tìm kho báu để lái chúng tôi quay lại với nhau. Nhưng quá muộn rồi. Trong lúc cô ấy viết những câu đố này, cô ấy không hề biết đến tâm trạng của tôi. Tại sao vậy, Amy, sao em không làm việc này sớm hơn chứ?

Chúng tôi không bao giờ chọn đúng thời điểm cả.

Tôi mở câu đố tiếp theo, đọc rồi nhét nó vào túi, sau đó quay về nhà. Tôi biết nơi mình phải đến, nhưng tôi chưa sẵn sàng. Tôi không thể chịu được thêm một lời khen, thêm một lời tử tế từ vợ mình, và thêm một cành ô-liu nào khác nữa. Những cảm xúc của tôi về cô ấy đang hoán đổi quá nhanh, từ vị đắng chuyển sang ngọt ngào.

Tôi về nhà Go, dành vài giờ đồng hồ một mình, uống cà phê và mở loanh quanh các kênh truyền hình để giết thời gian trong tâm trạng lo lắng và bực bội, chờ cho tới cuộc hẹn 11:00 tối đi chung xe tới trung tâm thương mại. Cô em sinh đôi của tôi về nhà lúc hơn bảy giờ, trông phờ phạc sau khi phải một mình lo liệu quán bar. Cái liếc nhìn của con bé về phía tivi có ý bảo tôi nên tắt nó đi. "Hôm nay anh đã làm gì vậy?" Con bé vừa hỏi vừa châm một điếu thuốc và ngồi phịch xuống bên chiếc bàn chơi bài cũ kỹ của mẹ tôi.

"Túc trực tại trung tâm tình nguyện… và 11 giờ bọn anh sẽ tìm kiếm ở trung tâm thương mại." Tôi đáp, không muốn kể cho Go nghe về những câu đố của Amy. Tôi cảm thấy tội lỗi thế là đủ lắm rồi.

Go dàn bài ra chơi một mình, tiếng những quân bài đều đều ập xuống mặt bàn như quở trách. Tôi bắt đầu đi tới đi lui. Go lờ tôi đi.

"Anh xem tivi cốt để sao nhãng bản thân thôi."

"Em hiểu, em cũng thường như vậy."

Con bé lật lên một quân J.

"Phải có việc gì đó anh có thể làm được chứ." Tôi vừa nói vừa lén ngó quanh phòng khách của con bé.

"Thì, vài giờ nữa anh sẽ đi lùng sục khu trung tâm thương mại đó đấy thôi." Go nói, và không có thêm bất kỳ lời động viên nào nữa. Con bé lật tiếp ba quân bài.

"Nghe như việc đó chỉ tổ phí thời gian thôi ấy nhỉ."

"Ồ, không. Nên kiểm tra tất cả mọi nơi. Chẳng phải bọn họ đã bắt được tên Con trai của Sam nhờ biên lai phạt đỗ xe còn gì?"

Go là người thứ ba nhắc với tôi về chuyện này, hẳn đó là câu thần chú cho những vụ việc có xu hướng bị đóng băng. Tôi ngồi xuống, đối diện với con bé.

"Anh không quá lo lắng về việc của Amy." Tôi nói. "Anh biết điều đó."

"Có lẽ là không." Rốt cuộc con bé cũng ngước lên nhìn tôi. "Anh cư xử thật kỳ quặc."

"Anh nghĩ thay vì phát hoảng lên, anh đã tập trung trút sự tức giận vào cô ấy. Bởi tình cảnh của bọn anh dạo này rất tệ. Đến mức anh có cảm giác như mình sai khi lo lắng quá mức, vì anh không có tư cách làm thế. Anh cho là vậy."

"Em phải nói thực là anh cư xử rất kỳ quặc." Go nói. "Nhưng đây là một trường hợp không bình thường." Con bé dập tắt điếu thuốc. "Em không bận tâm anh thể hiện như thế nào với em. Nhưng hãy cẩn thận với những người khác, anh hiểu chứ? Người ta sẽ đánh giá. Rất nhanh."

Con bé quay lại với ván bài, nhưng tôi muốn Go chú ý đến mình. Tôi tiếp tục.

"Có thể lúc nào đó anh sẽ ghé qua thăm bố." Tôi nói. "Anh không biết liệu có nên kể cho bố về chuyện Amy không."

"Không." Go nói. "Đừng nói gì hết. Đối với Amy ông ấy còn cư xử kỳ quặc hơn cả anh."

"Anh luôn có cảm giác hẳn là cô ấy đã gợi cho bố nhớ về một cô bạn gái cũ hay gì đó đại loại thế - người đã bỏ ông ấy đi. Sau khi ông ấy…" Tôi làm động tác rũ bàn tay xuống, ý nói đến căn bệnh Alzheimer của bố tôi - "Ông ấy khá thô lỗ và kinh khủng, nhưng…"

"Đúng vậy, nhưng đồng thời cũng muốn gây ấn tượng với chị ấy." Con bé nói. "Bản năng ngớ ngẩn của một đứa trẻ 12 tuổi bị mắc kẹt trong cơ thể của một lão già 68 tuổi đê tiện."

"Có phải phụ nữ cho rằng tất cả đàn ông chỉ là những tên ngốc mang tâm tư của một đứa trẻ 12 tuổi không?"

"Ồ, nếu như tâm tư đó quả là vậy."

23 giờ 08 phút. Rand đang đợi chúng tôi ngay phía sau cánh cửa trượt tự động của khách sạn, khuôn mặt ông ấy nghiêng nghiêng trong bóng tối để nhìn rõ chúng tôi hơn. Anh em nhà Hillsam lái xe đến đón, tôi và Stucks đều leo lên phần đệm. Rand lóc cóc chạy về phía chúng tôi trong chiếc quần soóc chơi gôn bằng kaki và chiếc áo phông Middlebury nhăn nhúm. Ông ấy leo lên phía sau xe, ngồi thụp xuống phần vỏ bọc bánh xe một cách thoải mái, rồi thực hiện màn giới thiệu qua lại như thể ông ấy đang là chủ xị chương trình trò chuyện lưu động của mình vậy.

"Cháu rất tiếc vì chuyện của Amy, thưa bác Rand." Stucks nói lớn khi xe chúng tôi ầm ầm lao ra khỏi bãi đỗ với một tốc độ nhanh đến mức không cần thiết, rồi chạy thẳng vào đường cao tốc. "Amy quả là một phụ nữ ngọt ngào. Có lần cô ấy thấy cháu đang sơn tường bên ngoài một ngôi nhà, mồ hôi đầm đìa, thế là cô ấy đã lái xe đến cửa hàng 7-Eleven, mua một chai nước có ga thật lớn mang về cho cháu, khi đó còn đang vắt vẻo trên chiếc thang."

Đó là một lời nói dối. Stucks hay sức khỏe của cậu ta thậm chí chẳng đáng để cô ấy tè cho một cốc nước.

"Nghe rất giống kiểu của con bé." Rand nói, còn tôi đỏ mặt tía tai tỏ rõ sự bực mình và khó chịu ra mặt. Có lẽ là do tính cách nhà báo của tôi, nhưng sự thật vẫn là sự thật, và người ta không thể biến Amy trở thành người bạn thân thiết đáng yêu của tất cả mọi người chỉ đơn giản vì điều đó có lợi về mặt tình cảm.

"Áo Middlebury ạ?" Stucks vừa nói tiếp vừa chỉ tay vào chiếc áo phông của Rand. "Họ có một đội bóng bầu dục thật ghê gớm."

"Đúng vậy, chúng tôi có một đội bóng mạnh." Rand nói rồi lại cười rạng rỡ. Ông ấy và Stucks bắt đầu cuộc thảo luận tận đâu đâu về thứ bóng bầu dục tự do và nghệ thuật, bất kể tiếng ồn của xe, bất kể không gian, thời gian, trong suốt quãng đường đến trung tâm thương mại.

Joe Hillsam đỗ chiếc xe tải của anh ta bên ngoài viên đá đặt nền Mervyns khổng lồ. Tất cả chúng tôi nhảy xuống, duỗi chân, lắc lắc người cho tỉnh táo. Trời đêm oi bức và lấp lánh ánh trăng. Tôi để ý thấy Stucks đang mặc một chiếc áo phông in dòng chữ - có lẽ là một kiểu châm biếm, hoặc có thể không - Để dành hơi mà xì chơi vào lọ.

"Vậy là đến nơi rồi, việc chúng ta đang làm cực nguy hiểm, tôi không đùa đâu." Mikey Hillsam lên tiếng. Qua bao nhiêu năm, các cơ bắp của anh ta ngày càng cuồn cuộn, cả người anh em của anh ta cũng vậy, bọn họ không chỉ có bộ ngực vạm vỡ mà cái gì cũng vạm vỡ. Đứng bên cạnh nhau bọn họ phải nặng tổng cộng đến gần hai tạ rưỡi ấy chứ.

"Bọn tôi đã từng đến đây một lần rồi, tôi và Mikey, chỉ để - biết nói thế nào nhỉ, chỉ để xem nơi này đã thành một nơi thế nào và bọn tôi xém chút nữa đã bị một trận nhừ tử." Joe nói. "Vậy nên tối nay chúng ta không thể liều lĩnh được." Anh ta với tay vào buồng lái lấy một chiếc túi vải bạt, mở khóa và để lộ đến nửa tá gậy bóng chày. Anh ta bắt đầu phân phát chúng một cách rất long trọng. Khi tới lượt Rand, anh ta ngần ngừ. "Ừm, ông muốn một chiếc chứ?"

"Khỉ thật, có chứ." Rand nói, và tất cả bọn họ đều gật đầu mỉm cười ưng thuận, một nguồn năng lượng lan tỏa khắp cả nhóm, một tinh thần cổ động thân thiện, tốt lắm ông bạn già.

"Đi nào." Mike nói và dẫn cả bọn đi dọc theo khu vực bên ngoài tòa nhà. "Phía đằng này, gần cửa hàng Spencer ấy, có một cánh cửa đã bị phá khóa."

Vừa lúc đó chúng tôi đi ngang qua khu cửa kính tối tăm của cửa hàng giày Shoe-Be-Doo-Be, nơi mẹ tôi đã từng làm việc trong suốt hơn một nửa quãng đời của tôi. Tôi vẫn còn nhớ sự hứng khởi của bà khi nộp đơn xin việc tại một nơi được coi là kỳ diệu nhất này - trung tâm thương mại! Hôm đó là một buổi sáng thứ Bảy, bà rời nhà đến hội chợ việc làm trong bộ âu phục màu hồng đào tươi sáng. Một phụ nữ 40 tuổi, lần đầu tiên đi tìm việc và trở về nhà với nụ cười rạng rỡ: Chúng tôi đã không thể hình dung nổi trung tâm thương mại tấp nập đến mức nào, có vô vàn những cửa hàng khác nhau! Và ai mà biết được bà sẽ làm việc ở cửa hàng nào cơ chứ? Bà đã nộp đơn vào chín nơi! Các cửa hàng quần áo, cửa hàng thiết bị âm thanh lập thể và thậm chí cả cửa hàng bán bỏng ngô tạo hình nữa. Một tuần sau, khi bà thông báo rằng mình đã chính thức trở thành nhân viên bán giày, những đứa con của bà đã vô cùng thất vọng.

"Mẹ sẽ phải chạm vào tất cả các loại chân bốc mùi đấy." Go phàn nàn.

"Mẹ sẽ được gặp tất cả những kiểu người thú vị chứ." Mẹ chúng tôi chỉnh lại.

Tôi nhìn vào một ô cửa sổ tối tăm. Bên trong hoàn toàn trống không, ngoại trừ một dụng cụ đo cỡ giày được dựa vào tường một cách lạc lõng.

"Mẹ con đã từng làm việc ở đây." Tôi nói với Rand, buộc ông ấy phải cùng nán lại.

"Nơi này thế nào?"

"Một nơi tốt, họ đối xử tử tế với bà ấy."

"Ý ta là họ làm gì ở đây?"

"Ồ, giày. Họ làm giày."

"Một công việc đúng nghĩa! Những đôi giày. Ta thích điều đó. Mọi người đều cần thứ sản phẩm này. Vào cuối mỗi ngày, con biết mình đã làm được những gì: Con đã bán được giày cho năm người khách. Nó không giống như việc viết lách, phải không?"

"Dunne, đi thôi nào!" Phía trước, Stucks đang tựa vào cánh cửa đã được mở, những người khác đã vào trong.

Tôi hình dung mùi của trung tâm thương mại khi chúng tôi bước vào sẽ là mùi của một không gian trống không đã được điều chỉnh nhiệt độ. Thay vào đó, tôi lại ngửi thấy mùi cỏ úa và đất bẩn, mùi của thiên nhiên ở bên trong một nơi chẳng còn sự tồn tại này. Tòa nhà vô cùng nóng bức, hầu như mịt mùng, như thể đang ở bên trong một tấm nệm vậy. Ba người trong chúng tôi cầm đèn pin cỡ lớn, loại dùng để đi cắm trại, ánh sáng rực lên soi rõ những hình ảnh gai người: một thế giới hoang tàn không tưởng, thời kỳ hậu sao chổi, hậu zombie, và hậu loài người. Một tập hợp những chiếc giỏ mua hàng bê bết bùn đất nối nhau tạo thành những đường vòng cung điên cuồng trên mặt sàn màu trắng. Một con chồn hương đang gặm khúc xương dinh dưỡng dành cho chó ở ngay lối vào phòng vệ sinh nữ, đôi mắt nó lấp loáng như hai đồng xu.

Cả trung tâm thương mại im lặng, chỉ vọng lại tiếng nói của Mikey, tiếng bước chân của chúng tôi, tiếng rúc rích lướt khướt say của Stucks. Chúng tôi sẽ không phải là một đòn tấn công bất ngờ, nếu tấn công là những gì chúng tôi nghĩ đến.

Khi chúng tôi tới khu dạo chơi của trung tâm thương mại, toàn bộ khu vực trông phình ra như một quả bóng: bốn tầng cao, cầu thang cuốn và cầu thang máy chằng chịt đan nhau trong bóng đêm đen đặc. Cả bọn tập trung lại gần một đài phun nước đã cạn và chờ ai đó đứng ra lãnh đạo cả nhóm.

"Thế nào, các anh bạn." Rand nói với vẻ ngờ vực. "Kế hoạch ở đây là gì? Tất cả đều biết nơi này, còn tôi thì không. Chúng ta cần phải tìm cách để hệ thống…"

Tiếng động lớn của kim loại lạch cạch vang lên ngay phía sau chúng tôi, một cánh cửa an ninh được kéo lên.

"Ồ, có người!" Stucks hét lên. Cậu ta vừa chĩa đèn pin của mình vào một người đàn ông trong bộ áo mưa bay phần phật, vừa hết tốc lực chạy vụt ra khỏi cửa hàng Claire để đuổi theo.

"Chặn hắn lại!" Joe hét lớn và bắt đầu chạy theo Stucks, đôi giày tennis đế dày của anh ta nện xuống mặt sàn gạch gốm. Mikey bám đuổi phía sau, ánh đèn pin chĩa vào kẻ lạ mặt. Hai anh em bọn họ cộc cằn gọi với theo: đứng lại đó, này, kẻ kia, bọn này chỉ muốn hỏi một câu thôi. Người đàn ông đó thậm chí chẳng thèm ngó lại nhìn. Đã bảo đứng lại cơ mà, mẹ kiếp thật! Kẻ bỏ chạy vẫn im thin thít giữa những tiếng la hét, rồi hắn tăng tốc và lao xuống khu hành lang của trung tâm thương mại, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh đèn pin lấp loáng, tấm áo mưa của hắn ta phần phật bay về phía sau trông như một chiếc áo choàng. Sau đó kẻ lạ mặt chuyển sang màn nhào lộn: nhảy qua thùng rác, đu người qua thanh chắn đài phun nước, và cuối cùng trượt người qua bên dưới cánh cửa an ninh bằng kim loại, vào cửa hàng Gap rồi biến mất.

"Tên khốn!" Anh em nhà Hillsam đỏ gay mặt mũi, cổ và bàn tay. Bọn họ thay nhau càu nhàu trong lúc ráng sức nâng cánh cửa lên.

Tôi cúi xuống nâng cùng bọn họ nhưng vẫn không thể làm cánh cửa nhúc nhích lên quá nửa phân. Tôi nằm xuống sàn và cố lách người qua bên dưới cánh cửa đó: những ngón chân, rồi đến bắp chân, nhưng đến thắt lưng thì kẹt lại.

"Không, không qua được rồi." Tôi làu bàu. "Mẹ kiếp!" Tôi đứng dậy và soi đèn vào bên trong cửa hàng. Phòng trưng bày trống không ngoại trừ một đống những giá treo quần áo bị ai đó lôi vào giữa phòng, trông như để chuẩn bị đốt lửa trại vậy. "Tất cả các cửa hàng đều thông nhau ở phía sau, dẫn ra lối đi bộ để đổ rác và đường ống nước." Tôi nói "Giờ này có lẽ hắn ta đã sang đến phía bên kia tòa nhà rồi."

"Ra mau, thằng khốn kia!" Joe hét lên, đôi mắt nhắm chặt lại, đầu ngả về sau. Giọng anh ta vang vọng khắp khu nhà. Chúng tôi bắt đầu thất thểu rời đi, kéo lê những chiếc gậy bóng chày theo mình, chỉ trừ anh em Hillsam vẫn nắm tay nện rầm rầm vào cánh cổng và cửa an ninh, như thể bọn họ thuộc lực lượng quân đội đang đi tuần tra trong khu vực chiến sự đặc biệt ác liệt vậy.

"Tốt hơn hết là mày nên ra, đừng để bọn tao phải vào tóm!" Mikey lớn tiếng.

"Ồ, xin chào!" Trên lối vào một cửa hàng thú cảnh, một người đàn ông và một phụ nữ đang ngồi chỗm chệ trên những chiếc chăn quân đội với mái tóc bết mồ hôi. Mikey lù lù xuất hiện trước mặt bọn họ, hơi thở nặng nề và đưa tay quệt mồ hôi trên lông mày. Khung cảnh này giống như trong một bộ phim chiến tranh, khi những người lính tuyệt vọng bắt gặp những dân làng vô tội và điều tồi tệ xảy đến.

"Các người muốn cái quái gì hả?" Người đàn ông ngồi trên sàn hỏi. Anh ta trông hốc hác, gương mặt mỏng quẹt và thiểu não tới mức như thể nó đang chảy ra. Tóc anh ta xõa rũ rượi trên vai, ánh mắt rầu rĩ nhìn ngước lên: một hình hài của Chúa Jesus bị tước đoạt. Người phụ nữ trong bộ dạng khá hơn, chân tay sạch sẽ và đầy đặn, mái tóc cô ta buông xuống, bết dầu nhưng đã được chải gọn ghẽ.

"Mày là một thằng Blue Book à?" Stucks hỏi.

"Chẳng có thằng nào ở đây cả." Người đàn ông vừa lẩm bẩm vừa khoanh tay trước ngực.

"Hãy tỏ một chút tôn trọng xem nào." Người phụ nữ cấm cảu nói. Nhìn cô ta khi ấy như thể sắp khóc đến nơi. Cô ta quay mặt đi, vờ như đang nhìn gì đó xa xăm. "Tôi phát ngấy vì không một ai có một chút tôn trọng nào hết."

"Bọn này đã hỏi rồi đấy, anh bạn." Mikey vừa nói vừa lại gần người đàn ông, đá đá vào lòng bàn chân anh ta.

"Đây chẳng phải Blue Book gì sất." Người đàn ông kia nói. "Chỉ là rơi vào cảnh khốn cùng thôi."

"Nhảm nhí."

"Ở đây có rất nhiều loại người, không chỉ đám Blue Book đâu. Nhưng nếu mấy người muốn tìm những kẻ đó…"

"Thì cứ việc, cứ việc đi mà tìm bọn chúng ấy." Người phụ nữ trề môi nói. "Đi mà quấy rầy bọn chúng."

"Bọn chúng làm ăn ở dưới cái Hố ấy." Người đàn ông nói. Khi thấy chúng tôi đều nghệt mặt ra, anh ta chỉ tay. "Chỗ viên đá Mervyns đi vào tận trong cùng, qua khu vực trước đây từng là vòng quay ngựa gỗ đó."

"Mẹ kiếp các người." Người phụ nữ lẩm bẩm.

Ở nơi trước đây từng có vòng quay ngựa gỗ chỉ còn một vệt tròn sẫm lại. Tôi và Amy đã từng chơi trò này trước khi trung tâm thương mại đóng cửa. Hai kẻ trưởng thành, ngồi cạnh nhau trên những con thỏ bay. Vợ tôi muốn được xem khu trung tâm thương mại nơi đã ghi dấu phần lớn tuổi thơ của tôi, muốn được nghe những câu chuyện ngày đó. Với chúng tôi, trung tâm thương mại này không phải lúc nào cũng tệ.

Thanh chắn barrier trên đường ra chỗ viên đá Mervyns đã bị phá, nên khu vực cửa hàng mở rộng cửa chào đón như trong buổi sáng bán hàng hạ giá nhân Ngày của các tổng thống Mỹ. Phía trong cửa hàng mọi thứ đã được di dời, trừ một vài chiếc quầy trước đây dùng để đặt máy tính tiền điện tử, giờ thì quây lấy gần một tá người đang trong tình trạng phê thuốc, phía bên dưới là những tấm biển đề chữ Trang sức, sản phẩm chăm sóc sắc đẹp và sản phẩm ga gối. Bọn họ nằm đó dưới ánh sáng của những ngọn đèn bão đốt gas đang cháy bập bùng như những ngọn đuốc tiki. Vài gã gần như chỉ hé một mắt khi chúng tôi đi qua, còn những kẻ khác đã hoàn toàn mất ý thức. Ở phía xa góc phòng, có hai đứa trẻ không quá tuổi vị thành niên đang cuồng nhiệt đọc thuộc lòng Diễn văn Gettysburg. Ngày nay chúng ta đang tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại… Một người đàn ông nằm sõng soài trên tấm thảm trải sàn, anh ta mặc chiếc quần soóc vải bò sạch sẽ không tỳ vết và mang đôi giày tennis trắng, trông như chuẩn bị đến dự trận đấu bóng chày thiếu nhi của con mình. Rand nhìn anh ta chằm chằm như thể quen biết.

Tôi chưa từng thấy tệ nạn ma túy ở Carthage nghiêm trọng đến mức này: Hôm qua cảnh sát mới ở đây, vậy mà hiện giờ những con nghiện này đã quay trở lại như lũ ruồi đeo bám. Trong khi chúng tôi đang lần tìm đường để lách qua đống người ngổn ngang đó, thì một phụ nữ béo phệ xuất hiện trên một chiếc xe điện khiến cả bọn im bặt. Khuôn mặt mụ ta đầy mụn và nhớp nháp mồ hôi, hàm răng nhe ra như răng mèo.

"Các người hoặc là mua hàng, hoặc là cút xéo, đây không phải khu trưng-bày-và-giới thiệu." Mụ ta nói.

Stucks rọi đèn thẳng vào mặt mụ ta.

"Đừng có chiếu cái thứ khốn kiếp ấy vào đây." Cậu ta liền làm theo.

"Tôi đang tìm vợ tôi." Tôi mở lời. "Amy Dunne. Cô ấy đã mất tích từ hôm thứ Năm."

"Cô ta sẽ xuất hiện thôi. Cô ta sẽ tỉnh và sẽ tự lết về nhà."

"Chúng tôi không lo về chuyện ma túy." Tôi nói. "Điều chúng tôi bận tâm hơn là mấy gã đàn ông ở đây. Chúng tôi đã nghe nhiều tin đồn."

"Không có gì đâu, Melanie." Một giọng nói cất lên. Gần kề với quầy hàng dành cho thiếu niên là một gã đàn ông chân tay khẳng khiu, đang dựa người vào bức tượng ma-nơ-canh bán thân trơ trụi, hắn ta nhìn chúng tôi và nhếch mép cười.

Melanie nhún vai với vẻ chán nản và bực bội, rồi chạy xe đi.

Gã đàn ông vừa dõi mắt nhìn chúng tôi vừa gọi với ra phía sau khu vực đồ thiếu niên. Bốn cặp chân thò ra từ các phòng thay đồ, bọn chúng đang duỗi cẳng trong những căn buồng ngủ nhỏ riêng biệt của mình.

"Này, Lonnie! Tất cả bọn mày! Tụi khốn đó lại viếng thăm đấy. Năm tên cả thảy." Gã đàn ông kia vừa nói vừa đá một lon bia rỗng về phía chúng tôi. Đằng sau hắn, ba cặp chân bắt đầu động đậy, bọn chúng đang thức dậy. Một cặp chân vẫn không nhúc nhích, thân chủ của chúng vẫn còn say ngủ hoặc chết rồi cũng nên.

"Đúng đấy, lũ khốn, bọn tao đã trở lại." Mikey Hillsam nói. Anh ta cầm cây gậy bóng chày như cầm cơ bi-a và chọc một cú vào chính giữa ngực bức tượng ma-nơ-canh bán thân. Bức tượng chao đảo rồi đổ ập xuống sàn, còn gã Blue Book đó rụt tay lại một cách duyên dáng như thể tất cả chỉ là một phần của cuộc diễn tập. "Bọn tao cần vài thông tin về một cô gái mất tích."

Ba gã đàn ông đi ra từ phòng thay đồ để nhập hội với đồng bọn. Tất cả bọn chúng đều mặc những chiếc áo phông hội hè kiểu Hy Lạp có in chữ: Pi Phi Tie-Dye và Fiji Island. Những món đồ lưu niệm cũ ấy tràn ngập các quầy hàng từ thiện ở địa phương, được quyên tặng bởi những sinh viên sắp tốt nghiệp vào mùa hè tới này.

Tất cả bọn đàn ông trông đều khỏe mạnh, dẻo dai, với những bắp tay rắn chắc và gân guốc. Phía sau bọn chúng là một gã với hàng ria dài rủ xuống hai bên, tóc buộc túm lên kiểu đuôi ngựa - chính là Lonnie - bước ra từ phòng thay đồ lớn nhất nằm ở trong cùng. Gã ta mặc áo phông Gamma Phi và kéo lê bên mình một đoạn ống dài. Chúng tôi nhìn đám bảo vệ đó của trung tâm thương mại.

"Chuyện gì hả?" Lonnie lớn tiếng.

Chúng ta không thể cung hiến, chúng ta không thể thánh hóa hay làm rạng danh mảnh đất này… Bọn trẻ vẫn đang đọc làu làu với âm độ gần như hét lên.

"Bọn này đang tìm Amy Dunne, có thể các người đã nhìn thấy cô ấy qua bản tin. Cô ấy mất tích từ hôm thứ Năm." Joe Hillsam nói. "Một quý cô tốt bụng, xinh đẹp, ngọt ngào, bị bắt cóc khỏi ngôi nhà của chính mình."

"Đây có nghe về chuyện đó. Thế rồi sao?" Lonnie trả lời.

"Cô ấy là vợ tôi." Tôi nói.

"Bọn tao biết chúng mày có dính líu vào chuyện đó, tại đây." Joe nói tiếp và có ý chỉ nhằm vào Lonnie, kẻ đang lắc lắc túm tóc đuôi ngựa buộc phía sau và nắn chỉnh quai hàm mình. Những hình xăm màu xanh đã mờ che kín mít các ngón tay của hắn. "Bọn tao biết về vụ hiếp dâm tập thể đó."

Tôi liếc nhìn Rand xem ông ấy thế nào, nhưng ông ấy chỉ chăm chăm nhìn bức tượng ma-nơ-canh khỏa thân đang nằm trên sàn.

"Hiếp dâm tập thể." Lonnie vừa nói vừa hất hàm. "Các người đang nói cái mẹ gì về một vụ hiếp dâm tập thể vậy."

"Chính bọn mày." Joe nói. "Lũ Blue Book chúng mày…"

"Lũ Blue Book, nghe như thể bọn tao là một đám đầu trâu mặt ngựa vậy." Lonnie khịt khịt mũi. "Bọn tao không phải lũ súc vật, thằng khốn. Bọn tao không bắt cóc phụ nữ. Người ta thêu dệt để cảm thấy dễ chịu khi không phải giúp đỡ bọn tao. Đấy thấy chưa, chúng nó đâu xứng đáng, chúng nó là một lũ hiếp dâm. Chà, nhảm nhí thật. Tao sẽ cuốn xéo khỏi thành phố này nếu cái nhà máy đó chịu trả tao tiền công nợ. Nhưng tao

chẳng nhận được gì sất. Chẳng ai trong bọn tao nhận được gì. Vậy nên bọn tao ở đây."

"Chúng tôi sẽ trả tiền, một khoản khá, nếu các anh có thể cho chúng tôi biết điều gì đó về vụ mất tích của Amy." Tôi nói. "Các anh biết nhiều người, có thể các anh đã nghe được gì đó."

Tôi lấy ra bức ảnh của Amy. Anh em nhà Hillsam và Stucks có vẻ ngạc nhiên, và tôi nhận thấy - tất nhiên rồi - đối với bọn họ đây chỉ là chiến thuật nghi binh của kẻ quân tử. Tôi chìa bức ảnh ra trước mặt Lonnie, chỉ mong hắn liếc nhìn lấy một cái. Thay vào đó, hắn ngả người lại gần hơn.

"Ồ, chết tiệt." Hắn ta nói. "Cô ta ư?"

"Anh nhận ra cô ấy sao?"

Trông hắn ta thực sự sửng sốt. "Cô ta đã muốn mua một khẩu súng."
 
Chương 16: Amy Elliott Dunne


16 tháng 10 năm 2010

- Nhật kí-

Mừng lễ kỉ niệm của chính tôi! Vậy là tròn một tháng với tư cách một cư dân Missouri, và tôi đang trên đường trở thành một người dân Trung Tây kiểu mẫu. Thực vậy, tôi đã cai tất cả những thứ thuộc về miền biển bờ Đông nước Mỹ và đạt được miếng gắn chứng nhận ba mươi ngày rồi (chứ ở đây thì chỉ có miếng khoai tây chiên giòn thôi). Tôi ghi lại những điều cần lưu ý, bởi tôi trân trọng những truyền thống. Tôi là Margaret Mead của cái bang Mississip chết tiệt này mà.

Xem nào, có gì mới nhỉ? Tôi và Nick hiện đang rối như tơ vò với thứ mà tôi (tự) gọi là Vấn đề hóc búa với Đồng hồ chim cúc cu. Thứ vật dụng gia truyền yêu quý đó của bố mẹ tôi trông thật lố bịch trong ngôi nhà mới. Nhưng kể ra thì mọi thứ đồ đạc từ New York đều như vậy. Chiếc trường kỷ cỡ lớn đáng tôn quý của chúng tôi, cùng với chiếc nệm nhỏ đồng bộ với nó, trông mới ngỡ ngàng làm sao khi được đặt ở phòng khách, như thể nó đang ngủ yên trong môi trường vốn có của mình và rồi tỉnh giấc giữa một không gian tù túng mới mẻ kỳ lạ này, bị bủa vây bởi tấm thảm nhái hạng sang, những vật dụng bằng gỗ nhân tạo và những bức tường trống trơn. Thực sự tôi thấy nhớ ngôi nhà cũ của chúng tôi - với tất cả những khối gồ ghề, những lằn gợn và những vệt nứt nhỏ li ti mang dấu ấn hàng bao thập kỷ đó. (Tạm dừng để chấn chỉnh thái độ đã nào.) Nhưng ngôi nhà mới cũng tốt! Chỉ hơi khác thôi. Chiếc đồng hồ hẳn sẽ phản đối. Cả chú chim cúc cu cũng đang nhọc nhằn để làm quen với không gian mới của nó: Con chim nhỏ lảo đảo phi ra như say rượu, lúc thì quá giờ 10 phút, khi thì sớm 17 phút, lúc lại muộn 41 phút. Nó cất tiếng kêu rền rĩ như sắp chết - cu-crrrru - khiến Bleecker lần nào cũng nhảy bổ ra từ một chỗ ẩn náu nào đó với ánh mắt hoang dại và trở nên căng thẳng, đuôi nó trông như cái chổi cọ chai khi nó chúi đầu vào lớp lông của mình và meo meo kêu ầm ĩ.

"Chà, bố mẹ em chắc ghét anh lắm." Nick nói vậy mỗi khi cả hai chúng tôi nghe được thứ âm thanh huyên náo đó, mặc dù anh ấy đủ thông minh để chưa vội đề xuất việc giải thoát chúng tôi khỏi tình trạng này. Thực ra tôi cũng muốn tống khứ nó đi cho rồi. Tôi là một kẻ (thất nghiệp) cả ngày ở nhà, chỉ chờ đợi tiếng quác quác của nó, giống như một người đi xem phim lúc nào cũng căng thẳng khi cố buộc mình phải cứng rắn trước mỗi lần bùng nổ cảm xúc của vị khách mất trí đang ngồi phía sau - vừa thanh thản (đến cảnh đó rồi!) lại vừa giận dữ (đến cảnh đó rồi!)

Vấn đề chiếc đồng hồ (ồ, nhìn kìa, chiếc đồng hồ cổ đó) được tạm gác lại, bởi có rất nhiều việc cần làm để chuẩn bị cho bữa tiệc mừng tân gia, bữa tiệc mà Mẹ Maureen Dunne khăng khăng là phải có. Thực ra, không hẳn là khăng khăng phải có, Mẹ Mo không cố nài về việc tổ chức bữa tiệc. Bà chỉ đơn giản biến mọi thứ trở thành hiện thực bằng cách cho rằng những việc đó đương nhiên là phải có: Buổi sáng đầu tiên sau khi chúng tôi chuyển đến, bà xuất hiện trước cửa nhà chúng tôi với món trứng bác chào-mừng-trở-về-nhà cùng một bịch giấy vệ sinh gia đình (chẳng liên quan gì với món trứng bác cho lắm), và bà đã nói về bữa tiệc mừng tân gia như thể đó là điều hiển nhiên. Thế bao giờ các con định tổ chức tiệc mừng tân gia? Các con đã tính đến việc ta nên mời những ai tham dự chưa? Các con thích một buổi tiệc mừng tân gia, hay một kiểu gì đó vui nhộn, như một bữa tiệc đại hỷ chẳng hạn? Nhưng tiệc tân gia kiểu truyền thống thì lúc nào cũng dễ chịu.

Rồi sau đó bất thình lình một ngày được định ra, và ngày đó chính là ngày hôm nay, cả gia đình và bạn bè nhà Dunne đang giũ những hạt mưa phùn tháng Mười bám trên những chiếc ô, rồi cẩn thận và chu đáo lau chân vào tấm thảm trước cửa nhà mà mẹ Maureen đã mang đến cho chúng tôi sáng nay. Tấm thảm ghi dòng chữ: Tất cả những ai bước vào đây đều là bạn. Nó là sản phẩm của cửa hàng Costco. Tôi đã học được về việc mua sỉ sau bốn tuần sống ở đây với tư cách một cư dân vùng Mississippi. Những người theo Đảng cộng hòa thì mua hàng ở Sam’s Club, còn ai theo Đảng dân chủ thì mua ở Costco. Nhưng mọi người đều mua sỉ vì - không giống người dân Manhattan - tất cả bọn họ đều có chỗ để chứa đến hai mươi tư hũ đồ muối chua. Và - không giống người dân Manhattan - tất cả bọn họ đều dùng hết hai mươi tư hũ đồ muối chua đó. (Một buổi tụ họp sẽ không chu toàn nếu thiếu chiếc mâm quay đầy ắp các món đồ muối ấy và những trái ô-liu Tây Ban Nha, cũng là thứ đồ muối ngâm trong hũ nốt. Đúng là một bãi liếm muối.)

Sự việc đã diễn ra thế này: Đó là một ngày nồng nặc các loại mùi, mọi người mang không khí ngoài trời vào nhà cùng với họ, mùi của mưa vương trên tay áo và trên tóc. Những phụ nữ lớn tuổi - bạn của Maureen - mang đến rất nhiều món ăn khác nhau đựng trong những hộp nhựa được thiết kế dành cho máy rửa bát, những chiếc hộp mà sau đó họ sẽ đề nghị gửi trả lại. Trả lại và trả lại. Giờ thì tôi mới hiểu, rằng đáng lẽ tôi phải rửa những chiếc hộp đó và mang từng chiếc đến trả cho từng nhà - một đám hộp Ziploc ngồn ngộn trên ôtô - nhưng khi tôi mới đến đây, tôi đã không biết thông lệ ấy. Tôi đã thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình bằng việc phân loại những chiếc hộp nhựa này để tái chế, và vì thế tôi đã phải mua mới một loạt hộp khác. Bà Vicky, bạn thân của Maureen, đã ngay lập tức nhận ra chiếc hộp đựng kia là hoàn toàn mới và được mua ở cửa hàng, một thứ đồ mạo danh, và khi tôi giải thích về sự nhầm lẫn của mình, mắt bà ấy mở to đầy kinh ngạc: Vậy ra đó là cách người ta hay làm ở New York.

Còn về buổi tiệc mừng tân gia: Những phụ nữ lớn tuổi là bạn lâu năm của Maureen, họ biết nhau từ các cuộc gặp mặt của hội phụ huynh, từ câu lạc bộ sách, hay tại cửa hàng Shoe-Be-Doo-Be ở trung tâm thương mại, nơi bà đã phải làm việc bốn mươi giờ mỗi tuần để ướm những đôi giày cao gót đế gộc vào chân những người phụ nữ thuộc một nhóm tuổi nhất định. (Bà có thể đoán được cỡ chân mà chỉ cần thoáng nhìn - cỡ số 8 của nữ, hẹp mũi! - đó là bí kíp khi tham gia các bữa tiệc của bà.) Tất cả bạn bè của Mo đều yêu quý Nick, và tất cả bọn họ đều kể những câu chuyện về những điều ngọt ngào mà Nick đã từng làm cho họ trong suốt bao năm qua.

Những phụ nữ trẻ hơn, những người đại diện cho nhóm có tiềm năng là bạn của Amy, tất cả đều có cùng một kiểu tóc ngắn mái lệch màu bạch kim và đi giày kín mũi không quai hậu. Bọn họ là con gái của các bạn Maureen, ai nấy đều yêu quý Nick và đều kể những điều ngọt ngào mà Nick đã từng làm cho họ trong suốt bao năm qua. Phần lớn bọn họ đều thất nghiệp hoặc chồng của bọn họ thất nghiệp vì trung tâm thương mại đóng cửa, do đó bọn họ bày cho tôi công thức nấu những món "rẻ tiền và dễ ăn", phần lớn đều liên quan đến một món hầm nào đó với nguyên liệu là súp đóng hộp, bơ và thực phẩm phụ liệu.

Những người đàn ông thì khá dễ chịu và yên lặng, họ ngồi tụ tập thành những vòng tròn, trò chuyện về thể thao và mỉm cười với tôi rất hiền hậu.

Ai nấy đều tử tế. Họ đúng nghĩa là tử tế hết mực có thể. Maureen, bệnh nhân ung thư giai đoạn ba gan dạ nhất, đã giới thiệu tôi với các bạn của bà theo cách mà người ta khoe một loài thú cưng mới có phần nguy hiểm của mình: "Đây là vợ Nick, Amy, sinh ra và lớn lên ở thành phố New York đấy." Các bạn của bà, người nào cũng mũm mĩm và nồng nhiệt, ngay lập tức như mắc chứng bệnh Tourette kỳ lạ: Họ lặp đi lặp lại cụm từ Thành phố New York! - rồi đan hai bàn tay vào nhau và nói điều gì đó khiến tôi không biết phải đáp lại thế nào: Ở đó hẳn là gọn gàng lắm nhỉ. Hoặc, bằng chất giọng the thé của mình họ vừa cất tiếng hát "New York, New York" vừa xòe những bàn tay nhỏ xíu ra và lắc lư sang hai bên. Bà Barb, người bạn làm cùng với Maureen ở cửa hàng giày, thì dài giọng "Thành phố New York cơ đấy! Cho ta một sợi dây nào." Và khi tôi liếc nhìn sang với vẻ khó hiểu thì bà ta nói: "Ồ, đó là lời thoại trong một quảng cáo cũ về nước sốt salsa ấy mà!" Đến khi thấy tôi vẫn tỏ vẻ chẳng hiểu gì, thì bà ta đỏ mặt và đặt tay lên cánh tay tôi nói: "Ta sẽ không treo cổ con thật đâu."

Rốt cuộc, bọn họ cũng lặng tiếng dần rồi khúc khích cười và thú nhận họ chưa từng đến New York, hoặc đã từng đến đấy - một lần - nhưng không để ý nó cho lắm. Thế là tôi đành phải nói điều gì đó kiểu như: Các bác sẽ thấy thích nó cho xem hoặc Chỗ đó không phải ai cũng hợp đâu ạ hoặc là chỉ Ừmm, bởi tôi chẳng biết nói gì khác nữa.

"Hãy thân thiện một chút đi, Amy." Nick khó chịu nói khi chúng tôi vào bếp lấy thêm đồ uống (người miền Trung Tây thích hai lít sô-đa, lúc nào cũng phải là hai lít, và phải được rót vào những chiếc cốc bằng nhựa to màu đỏ của hãng Solo, luôn luôn là vậy.) "Em đang thế đấy thôi." Tôi rền rĩ. Tôi thực sự cảm thấy bị tổn thương, bởi nếu bạn hỏi bất kỳ ai trong phòng rằng tôi có thân thiện hay không, tôi biết họ nhất định sẽ nói là có.

Đôi khi tôi có cảm giác như Nick đã quyết định lựa chọn một phiên bản khác không hề tồn tại của tôi. Từ khi chuyển đến đây, tôi đã tham gia những buổi đi chơi đêm với các cô bạn gái và những buổi đi bộ từ thiện, tôi nấu món thịt hầm cho bố anh ấy và giúp bán xổ số từ thiện. Tôi đã rút khoản tiền cuối cùng của mình đưa cho Nick và Go để họ có thể mua quán bar mà họ hằng mong ước, và thậm chí tôi còn kẹp tờ séc vào một tấm thiệp có hình vại bia - Cạn ly vì Anh! - còn Nick thì chỉ miễn cưỡng nói vài lời cảm ơn nhạt nhẽo. Tôi không biết mình phải làm gì nữa. Tôi đang cố gắng lắm rồi.

Chúng tôi phục vụ sô-đa cho mọi người, tôi hết cười mỉm rồi lại cười thành tiếng thật nhiều hơn nữa, thể hiện một hình ảnh duyên dáng và vui vẻ, hỏi han mọi người liệu có cần tôi lấy thêm bất kỳ thứ gì khác nữa không, rồi ngợi khen đám phụ nữ với món salad tuyệt ngon, món cua nướng phô mai, món xúc xích salami cuộn phô mai kem với đồ muối chua.

Bố Nick đến cùng với Go. Họ đứng yên lặng ở bậc cửa, dè dặt và trầm tính. Bill Dunne trông rắn rỏi và vẫn đẹp trai, trên trán ông là một miếng băng dán nhỏ. Go thể hiện vẻ mặt dữ dằn, mái tóc được kẹp lên và ánh mắt lảng tránh không nhìn vào bố mình.

"Nick." Bill Dunne vừa nói vừa bắt tay Nick rồi bước vào nhà và chau mày nhìn tôi. Go bước theo sau, ôm chầm lấy Nick và kéo anh ấy ra phía sau cửa thì thầm: "Em không biết tình trạng hiện giờ của ông ấy thế nào đâu, phải để ý nhé. Không rõ ông ấy đang có một ngày tồi tệ hay đang chỉ trong vai một kẻ đần độn nữa. Không hiểu được."

"Được rồi, được rồi. Đừng lo, anh sẽ trông chừng ông ấy."

Go nhún vai với vẻ ngán ngẩm.

"Anh nghiêm túc đấy, Go. Lấy một ly bia và nghỉ ngơi một chút đi. Em được giải phóng khỏi nghĩa vụ với bố trong vòng một tiếng nữa."

Tôi thầm nghĩ: Nếu đó là mình, anh ấy sẽ than phiền là mình quá nhạy cảm.

Mấy người phụ nữ lớn tuổi thì cứ lượn lờ quanh tôi, kể lể rằng Maureen đã luôn nói với họ về việc tôi và Nick là một cặp tuyệt vời thế nào, và bà ấy đúng, chúng tôi rõ ràng sinh ra là để dành cho nhau.

Tôi thích cách nói rập khuôn đầy ý nghĩa đó hơn là những gì mà chúng tôi đã được nghe trước khi kết hôn. Hôn nhân là sự thỏa hiệp và nan giải, càng lúc càng thêm nan giải, cần đối thoại và lại thỏa hiệp nhiều hơn. Rồi sau đó lại là những vấn đề nan giải. Nó dập tắt mọi hy vọng, một khi bạn đã dấn thân mình.

Chính bữa tiệc đính hôn hồi còn ở New York là dẫn chứng tệ hại nhất cho điều này. Tất cả khách mời hôm ấy đều nóng bừng hơi men và sự oán giận, như thể mỗi cặp vợ chồng trên đường đến câu lạc bộ đều vướng phải một cuộc tranh cãi vậy. Hoặc có thể họ đã nhớ lại một cuộc cãi vã nào đó. Như bà Binks chẳng hạn. Bà Binks Moriarty, bà cụ 88 tuổi là mẹ của bạn thân mẹ tôi, đã chặn tôi lại ở quầy bar - kêu ầm lên với giọng cấp bách: "Amy! Ta cần nói chuyện với con!" Bà ấy xoay xoay những chiếc nhẫn đắt tiền trên các ngón tay xương xẩu của mình - nào xoay, nào vặn, nào cọ - rồi vuốt ve cánh tay tôi (cái dò dẫm của người già - những ngón tay lành lạnh của bà ấy như đang thèm muốn làn da tươi trẻ, mềm mại, ấm áp và dễ chịu của bạn), rồi sau đó bà Binks kể với tôi về việc ông chồng quá cố của bà ấy đã gặp vấn đề với việc "giữ cái của quý của ông ta nằm yên trong quần" trong suốt sáu mươi ba năm như thế nào. Bà ấy kể về chuyện đó với điệu cười kiểu Chết mất thôi, sao tôi lại có thể kể chuyện này được nhỉ với đôi mắt mờ đục. "Chỉ là ông ấy chẳng thể giữ yên được nó ở trong quần." Bà cụ nói một cách khẩn thiết, cái siết tay chết lặng của bà ấy khiến tôi rùng mình. "Nhưng ông ấy yêu ta hơn bất kỳ ai trong số bọn họ. Ta biết điều đó, và con cũng biết điều đó." Bài học đạo đức rút ra từ câu chuyện là: Ông Binks là một gã chồng lăng nhăng, nhưng, bạn biết đấy, hôn nhân là sự thỏa hiệp mà.

Tôi nhanh chóng rút lui và đi lòng vòng quanh đám đông, mỉm cười với một loạt những gương mặt nhăn nheo. Ở tuổi trung niên, người ta thường mang dáng vẻ khệ nệ, mệt mỏi, chán chường và tất cả những bộ mặt đều như vậy. Hầu hết bọn họ đã say và nhảy nhót như thời còn trẻ - xoay mình trong điệu nhạc funk ở các câu lạc bộ đồng quê - và điều đó khiến bọn họ trông thậm chí còn thảm hại hơn. Trong lúc tôi đang len lỏi ra phía ô cửa sổ kiểu Pháp để hít thở chút không khí, một bàn tay siết lấy cánh tay tôi. Đó là mẹ Nick, Mẹ Maureen, với đôi mắt to đen láy và ánh nhìn như tia laser, vẻ háo hức hiện lên trên khuôn mặt chảy xệ của giống chó pug. Vừa nhét một miếng phô mai và bánh quy giòn vào miệng, Maureen vừa cố nói: "Thật không dễ dàng gì, khi phải gắn bó với một ai đấy mãi mãi. Đó là một điều tuyệt vời, và ta mừng là cả hai con đều đang làm việc này, nhưng, ôi những cô bé-cậu bé, sẽ có ngày các con ước rằng mình chưa bao giờ làm điều như vậy. Và lúc ấy sẽ là những thời khắc tốt lành, bởi sẽ chỉ còn sự hối tiếc hàng ngày, chứ không phải hàng tháng trời nữa." Trông tôi lúc đó hẳn là rất sốc - mà tôi sốc thực sự - vì bà đã nói ngay rằng: "Nhưng các con cũng sẽ có những khoảng thời gian đẹp đẽ. Ta biết là các con sẽ có. Cả hai con. Rất nhiều những khoảnh khắc tuyệt vời. Cho nên… thứ lỗi cho ta, con yêu, vì những gì ta vừa nói lúc trước. Ta chỉ là một bà già ngốc nghếch đã ly hôn. Ồi, quỷ thần ơi, có lẽ ta đã uống quá nhiều rượu rồi." Rồi bà vẫy tay chào tôi và vội vàng lách người qua những cặp đôi với vẻ mặt cũng chán chường khác.

"Đáng lẽ ra cô không nên có mặt ở đây." Đột nhiên Bill Dunne lên tiếng, và ông ấy đang nhằm vào tôi. "Tại sao cô lại ở đây? Cô không được phép ở đây."

"Con là Amy." Tôi vừa nói vừa chạm vào cánh tay ông ấy như thể làm vậy sẽ khiến ông thức tỉnh. Bill luôn quý mến tôi, cho dù ông ấy chẳng nghĩ được điều gì để nói với tôi cả. Tôi có thể nhận thấy ông ấy quý mến mình, qua cách ông ấy theo dõi tôi như thể tôi là một loài chim quý hiếm vậy. Giờ thì ông ấy đang quắc mắt lên, ưỡn ngực về phía tôi, tựa như một bức tranh biếm họa về một thủy thủ trẻ đang sẵn sàng gây hấn. Chỉ cách đó vài bước chân, Go đã đặt phần thức ăn của mình xuống và chuẩn bị lao về phía chúng tôi, một cách lặng lẽ, như thể cô ta đang cố để bắt một con ruồi.

"Tại sao cô lại ở trong nhà của chúng tôi?" Bill Dunne nhăn miệng nói. "Gan cô to đấy, quý cô."

"Nick?" Go gọi vọng lại phía sau, không lớn tiếng nhưng khẩn cấp.

"Anh biết rồi." Nick đáp và xuất hiện. "Bố, đây là vợ con, Amy. Bố có nhớ Amy không? Bọn con chuyển về đây để có thể gặp bố thường xuyên hơn. Đây là nhà mới của bọn con."

Nick nhìn tôi trừng trừng: Tôi là người đã khăng khăng mời bố anh ấy đến.

"Tất cả những gì ta muốn nói, Nick…" Bill Dunne vừa nói vừa chĩa ngón tay trỏ thẳng vào mặt tôi, bữa tiệc bỗng trở nên im bặt, một vài người đàn ông chầm chậm và thận trọng từ phòng bên bước vào, tay họ giật giật, sẵn sàng hành động. "…đó là cô ta không thuộc về nơi này. Con nhỏ khốn kiếp ấy nghĩ rằng nó có thể làm bất cứ điều gì nó muốn sao."

Mẹ Mo lao vào ôm chầm lấy chồng cũ của mình. Bà luôn luôn, luôn luôn xuất hiện đúng lúc như vậy. "Tất nhiên là con bé thuộc về nơi này, Bill. Con bé là vợ của con trai anh. Anh nhớ chứ?"

"Ta muốn nó biến khỏi đây ngay, bà có hiểu không, Maureen?" Ông ấy giằng mình ra khỏi bà và lại bắt đầu tiến về phía tôi. "Con khốn ngu ngốc, con khốn ngu ngốc."

Không rõ là ông ấy đang nói tôi hay nói Maureen nữa, nhưng ông ấy nhìn tôi và mím chặt môi. "Con bé đó không thuộc về nơi này."

"Tôi sẽ đi." Tôi nói, rồi quay người bước thẳng ra cửa, lao vào làn mưa. Lời nói của một bệnh nhân Alzheimer, tôi nghĩ vậy để cố gắng làm dịu bớt tình cảnh của mình. Tôi đi một vòng quanh khu hàng xóm, mong chờ Nick sẽ xuất hiện và đưa tôi về nhà. Cơn mưa nhẹ nhàng vỗ về, ướt đẫm người tôi. Tôi thực sự tin Nick sẽ đuổi theo mình. Tôi quay người nhìn về phía ngôi nhà, và chỉ thấy một cánh cửa khép chặt.
 
Chương 17: Nick Dunne


Bốn ngày trôi qua

Năm giờ sáng. Rand và tôi ngồi uống cà phê trong trụ sở Tìm kiếm Amy Dunne trống không, chờ đợi cảnh sát đang điều tra Lonnie. Từ tấm ảnh treo trên tường, Amy lại chăm chăm nhìn chúng tôi. Bức ảnh của cô ấy trông thật đau khổ.

"Ta chỉ không hiểu tại sao con bé không nói gì với con nếu nó cảm thấy sợ hãi chứ." Rand nói. "Tại sao nó lại không nói với con nhỉ?"

Amy đã đến khu trung tâm thương mại vào Ngày lễ tình yêu, chứ không phải ngày nào

khác, để mua một khẩu súng - đó là điều mà anh bạn Lonnie của chúng tôi đã cho biết. Cô ấy có phần lúng túng và bồn chồn: Có lẽ tôi đang dại dột, nhưng… thực sự chỉ là tôi nghĩ mình cần một khẩu súng. Tuy nhiên, cô ấy hầu như rất sợ hãi. Có kẻ nào đó đã uy hiếp cô ấy, Amy nói với Lonnie như vậy. Cô ấy không nói gì cụ thể hơn, nhưng khi anh ta hỏi Amy xem cô ấy cần loại súng nào, thì cô ấy nói rằng: Loại có thể nhanh chóng hạ gục đối phương. Anh ta đã hẹn cô ấy vài ngày sau hãy quay lại, và cô ấy đã đúng hẹn. Lonnie đã không thể kiếm cho cô ấy một khẩu súng ("Anh bạn biết đấy, đó không phải mối bận tâm của tôi"), nhưng giờ thì anh ta ước gì mình đã có thể giúp. Anh ta nhớ Amy khá rõ, đã nhiều tháng qua, anh ta luôn băn khoăn không hiểu cô gái đó thế nào rồi, một cô gái tóc vàng xinh đẹp với nét mặt sợ hãi, đã cố kiếm cho mình một khẩu súng vào Ngày lễ tình yêu.

"Con bé có thể sợ ai được nhỉ?" Rand đặt câu hỏi.

"Hãy cho con biết thêm về Desi nữa đi, Rand." Tôi nói. "Bố đã bao giờ gặp hắn ta chưa?"

"Nó có đến nhà ta vài lần." Rand chau mày, cố nhớ lại. "Một gã khá bảnh trai, rất quan tâm đến Amy - nó đối xử với con bé như công chúa vậy. Nhưng ta chưa bao giờ thích nó cả. Ngay cả khi chuyện của hai đứa diễn ra tốt đẹp - thứ tình yêu trẻ dại, mối tình đầu của Amy - thậm chí lúc ấy ta đã ghét nó rồi. Nó rất vô lễ với ta, không thể hiểu nổi sao lại thế nữa. Nó tỏ rõ tính sở hữu đối với Amy, lúc nào cũng vòng tay ôm lấy con bé. Ta thấy hành động đó thật kỳ quặc, vô cùng kỳ quặc, đến mức nó còn không thèm tỏ ra lễ phép với chúng ta. Trong khi phần lớn các chàng trai đều muốn giữ quan hệ tốt với bố mẹ của bạn gái mình."

"Con cũng vậy."

"Và con đã như vậy!" Rand mỉm cười. "Con đã tỏ ra lo lắng rất đúng mực, điều đó rất dễ thương. Desi thì chẳng tỏ gì hết mà chỉ thấy ghê tởm."

"Desi chỉ ở cách thành phố này khoảng một giờ xe chạy."

"Đúng vậy. Còn Hilary Handy thì sao?" Rand vừa nói vừa dụi mắt. "Ta không muốn là một kẻ thành kiến về giới tính - nhưng con bé đó đáng sợ hơn cả Desi. Mà gã Lonnie ở khu mua sắm đó cũng không nói rằng Amy đang khiếp sợ một gã đàn ông."

"Không, hắn ta chỉ nói cô ấy sợ hãi." Tôi nói. "Có một phụ nữ trẻ ở Noelle Hawthorne - sống gần bọn con. Cô ta đã khai với cảnh sát rằng cô ta là bạn thân của Amy, mà con thừa biết là không phải vậy. Cả hai thậm chí còn không phải bạn bè. Chồng cô ta nói cô ta mắc chứng cuồng loạn. Rằng cô ta vừa xem những tấm ảnh của Amy, vừa khóc lóc. Lúc ấy con đã nghĩ đó là những bức ảnh trên Internet, nhưng… chuyện gì sẽ xảy ra nếu đó là những tấm ảnh thực sự về Amy mà cô ta có được? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ta đã lén lút theo dõi Amy?"

"Cô ta đã cố bắt chuyện với ta hôm qua, lúc ấy ta đang bận bịu một chút." Rand nói. "Cô ta đã trích dẫn một vài điều gì đó trong Amy tuyệt vời. Đúng hơn là Amy tuyệt vời và Cuộc chiến của những người bạn thân. ‘Bạn thân là những người hiểu rõ chúng ta nhất.’"

"Nghe có vẻ giống Hilary thật." Tôi nói. "Tất cả đều đã trưởng thành."

Hơn bảy giờ sáng thì chúng tôi gặp Boney và Gilpin tại một quán IHOP nằm bên đường cao tốc để chốt lại vấn đề: Điều ngớ ngẩn là chúng tôi đang phải thực hiện nhiệm vụ của bọn họ. Thật điên rồ khi chính chúng tôi mới là người lần tìm ra manh mối. Đã đến lúc phải để FBI vào cuộc nếu những tay cớm vùng này không thể giải quyết được vấn đề.

Một cô phục vụ bàn mũm mĩm có đôi mắt màu hổ phách nhận yêu cầu của chúng tôi, và rõ ràng là cô ta nhận ra tôi, nên vừa rót cà phê, vừa cố nấn ná để nghe lỏm từ xa cho đến khi Gilpin xua cô ta đi. Mặc dù vậy, cô ta vẫn lởn vởn như một con ruồi bướng bỉnh. Khi thì rót đầy lại cà phê, khi thì mang khay thức ăn tới, và đồ ăn của chúng tôi được phục vụ nhanh đến mức kỳ diệu. Trong lúc đó, cuộc tranh luận của chúng tôi trở nên căng thẳng. Điều này là không thể chấp nhận được… không cần thêm cà phê nữa, cảm ơn… thật không thể tin được là… ừ, được rồi, rượu whisky lúa mạch đen cũng được…

Trước khi chúng tôi kết thúc, Boney cắt lời. "Tôi hiểu, cũng là thường tình khi mọi người muốn tham dự vào việc này. Nhưng những gì các anh đã làm là vô cùng nguy hiểm. Các anh phải để chúng tôi giải quyết vấn đề này."

"Chỉ có vậy thôi nhưng cô đã không giải quyết được." Tôi nói. "Các anh chị không bao giờ có được thông tin này, về khẩu súng ấy, nếu không phải chính chúng tôi đêm qua đã đến đó. Vậy Lonnie đã khai gì với các anh chị?"

"Cũng giống như những gì anh ta nói với anh thôi." Gilpin nói. "Amy muốn mua một khẩu súng, cô ấy đã khiếp sợ."

"Anh có vẻ không ấn tượng mấy với thông tin này nhỉ." Tôi gắt gỏng. "Có phải anh cho rằng hắn ta đang dựng chuyện phải không?"

"Chúng tôi không cho là hắn ta dựng chuyện." Boney lên tiếng. "Chẳng có lý do gì để hắn ta phải buộc cảnh sát để mắt tới mình cả. Hắn ta có vẻ ấn tượng về vợ anh. Rất là… Tôi không rõ nữa, có vẻ bối rối khi chuyện này xảy ra với cô ấy. Hắn ta nhớ từng chi tiết cụ thể. Nick, hắn ta nói hôm đó cô ấy đã mang một chiếc khăn màu xanh lục. Anh biết đấy, không phải một chiếc khăn mùa đông mà là một chiếc khăn thời trang." Cô ta phẩy phẩy tay để ra hiệu rằng cô ta nghĩ thời trang là một thứ ngớ ngẩn, không đáng để cô ta phải chú ý. "Màu xanh ngọc. Anh nhận ra chứ?"

Tôi gật đầu. "Amy vẫn hay quàng chiếc khăn ấy khi mặc chiếc quần jeans màu xanh da trời."

"Còn có cả một chiếc ghim cài áo nữa - một chữ A màu vàng cách điệu thì phải?"

"Đúng rồi."

Boney nhún vai: Vậy nhé, vấn đề đã rõ.

"Cô không nghĩ có thể hắn ta đã quá ấn tượng với cô ấy đến mức… bắt cóc cô ấy sao?" Tôi hỏi.

"Hắn ta có bằng chứng ngoại phạm. Vững như bàn thạch." Boney vừa nói vừa nhìn tôi với vẻ châm chọc. "Thành thật mà nói, chúng tôi vừa bắt đầu chuyển hướng điều tra theo… một loại động cơ khác."

"Điều gì đó… mang tính cá nhân hơn." Gilpin bổ sung. Anh ta hồ nghi nhìn xuống chiếc bánh kếp được trang trí bằng dâu tây và kem của mình, rồi gạt đám dâu và kem sang một bên đĩa.

"Mang tính cá nhân sao?" Tôi nói. "Vậy có nghĩa là các anh chị sẽ nói chuyện với Desi Collings hoặc Hilary Handy phải không? Hay tôi phải làm việc đó?" Thực tế thì tôi đã hứa với Marybeth là hôm nay sẽ đi gặp bọn họ.

"Chắc chắn rồi, chúng tôi sẽ nói chuyện với bọn họ." Boney nói với giọng điệu xoa dịu như thể một cô bé đang hứa với bà mẹ khó tính của mình rằng sẽ ăn nhiều hơn vậy. "Chúng tôi không cho đó là một manh mối - nhưng vẫn sẽ nói chuyện với bọn họ."

"Vậy thì tốt rồi, cảm ơn vì đã thực hiện đúng phận sự của các anh chị, đại loại vậy." Tôi đáp. "Còn Noelle Hawthorne thì sao? Nếu cô muốn tìm ai đó ngay gần kề nhà chúng tôi thì đó chính là cô ta, và cô ta có vẻ bị ám ảnh vì Amy thì phải."

"Tôi hiểu, cô ta đã gọi cho chúng tôi, và cô ta cũng có trong danh sách của chúng tôi." Gilpin gật đầu. "Hôm nay."

"Tốt. Các anh chị còn định làm gì nữa không?"

"Nick, thực tế là chúng tôi mong anh sẽ dành chút thời gian cho chúng tôi, để chúng tôi có thể hỏi thêm anh một số vấn đề." Boney nói. "Vợ chồng thường hiểu nhau hơn họ tưởng. Chúng tôi muốn anh suy nghĩ thêm một chút về cuộc cãi vã - sự việc mà cô, ờ, Teverer đó đã vô tình nghe được giữa anh và Amy vào buổi tối trước khi cô ấy mất tích."

Rand đột ngột quay sang tôi.

Jan Teverer, người phụ nữ với món thịt hầm kiểu Cơ đốc giáo, không còn chỗ đứng trong mắt tôi nữa.

"Ý tôi là, liệu có phải vì - tôi biết điều này rất khó nghe, nhưng thưa ông Elliott - vì Amy đang phải chịu áp lực gì đó hay không?" Boney hỏi với ánh mắt ngây ngô. "Ý tôi là, có lẽ cô ấy đã tiếp xúc với một số đối tượng không hay trong thị trấn này. Có vô vàn những kẻ buôn bán ma túy. Có thể cô ấy đã bị mất kiểm soát, nên đó chính là lý do vì sao cô ấy muốn mua một khẩu súng. Phải có một lý do nào đó khiến cô ấy muốn có một khẩu súng để phòng vệ mà không nói với chồng mình. Và Nick ạ, chúng tôi muốn anh suy nghĩ kỹ hơn về việc anh đã ở đâu tại thời điểm đó - thời điểm của cuộc cãi vã, khoảng 11 giờ đêm, cũng là lần cuối cùng người ta nghe thấy tiếng Amy…"

"Bên cạnh tôi."

"Bên cạnh anh - và buổi trưa, khi anh đến quán bar. Nếu anh ra ngoài và đi lòng vòng trong thị trấn, lái xe ra bãi biển, loanh quanh ở bến tàu, thì chắc hẳn phải có ai đó trông thấy anh chứ. Thậm chí là một ai đó, anh biết đấy, dắt chó đi dạo chẳng hạn. Nếu anh có thể giúp chúng tôi, tôi nghĩ điều đó thực sự…"

"Hữu ích." Gilpin bổ sung khi xiên trái dâu.

Cả hai bọn họ đều nhìn tôi chăm chú một cách đồng điệu. "Điều đó sẽ vô cùng hữu ích, Nick ạ." Gilpin thân mật nhắc lại. Lần đầu tiên tôi được nghe về cuộc cãi vã - và rằng bọn họ biết là có chuyện đó - và bọn họ đã chọn thời điểm để nói với tôi ngay trước mặt Rand - và vờ như không phải đang bắt thóp tôi.

"Dĩ nhiên rồi." Tôi nói.

"Anh không phiền cho chúng tôi biết đó là chuyện gì chứ?" Boney hỏi. "Cuộc cãi vã ấy?"

"Cái cô Teverer đó đã nói gì với các anh chị?"

"Tôi ghét phải tin lời cô ta vì tôi đã có anh ở đây rồi." Cô ta rót thêm kem vào cà phê của mình.

"Cuộc cãi vã đó chẳng có nội dung gì cả." Tôi mở lời. "Đó là lý do vì sao tôi đã không đề cập đến nó. Chỉ là hai chúng tôi lời qua tiếng lại với nhau, cặp vợ chồng nào đôi khi chẳng thế."

Rand nhìn tôi như thể ông không thể hiểu tôi đang nói gì nữa: Lời qua tiếng lại? Anh nói lời qua tiếng lại là cái gì mới được chứ?

"Chỉ là, cãi vã về bữa tối." Tôi nói dối. "Về việc chúng tôi sẽ làm gì cho bữa tối nhân kỷ niệm ngày cưới. Anh chị biết đấy, Amy thuộc tuýp người truyền thống trong những sự việc thế này…"

"Tôm hùm!" Rand cắt ngang. Ông ấy quay sang đám cảnh sát. "Năm nào Amy cũng làm tôm hùm cho Nick."

"Đúng vậy. Nhưng trong thị trấn này thì mua tôm hùm ở đâu được chứ, mà còn tươi sống, bơi trong bể nữa, nên cô ấy đã tức giận. Tôi đã đặt bàn ở nhà hàng Houston..."

"Ta tưởng con đã nói là con không đặt bàn ở Houston cơ mà?" Rand chau mày.

"Ồ, vâng, xin lỗi, con đang lẫn lộn hết cả. Tôi mới chỉ có ý đặt bàn ở Houston thôi. Nhưng đáng lẽ tôi nên đặt trước ở đó để họ chuyển tôm hùm đến mới phải."

Cả hai viên cảnh sát tình cờ cùng nhướng mày. Thật lạ lùng làm sao.

"Việc đó cũng chẳng phải đắt đỏ gì. Nhưng dù sao thì chúng tôi cũng đã bất hòa với nhau, đó là một trong những cuộc cãi vã không đáng có." Tôi đưa một mẩu bánh kếp lên miệng. Tôi có thể cảm thấy hơi nóng đang bốc lên từ bên dưới cổ áo mình. "Chúng tôi đã cười phá lên cả tiếng đồng hồ liền chỉ vì chuyện đó."

Tất cả những gì Boney nói chỉ là một tiếng "À."

"Còn việc giải đố của anh đã đi đến đâu rồi?" Gilpin hỏi.

Tôi đứng dậy, đặt tiền lên bàn, chuẩn bị rời đi. Tôi không phải kẻ buộc phải chứng minh mình ở đây. "Vẫn chưa đi đến đâu cả - rất khó có thể nghĩ được gì mạch lạc trong lúc có quá nhiều chuyện xảy ra như thế này."

"Thôi được rồi." Gilpin nói. "Có vẻ như trò săn tìm kho báu không cho thấy manh mối

gì. Giờ thì chúng ta đều biết Amy đã có cảm giác bị đe dọa từ nhiều tháng nay. Nhưng

dù sao có thông tin gì xin cứ cho chúng tôi biết, được chứ?"

Tất cả lục tục bước ra ngoài trời nóng nực. Khi Rand và tôi đã vào trong xe thì Boney gọi với theo: "Này, Amy vẫn là số hai phải không Nick?"

Tôi chau mày về phía cô ta.

"Cỡ số hai ấy?" Cô ta nhắc lại.

"À, tôi nghĩ là vậy." Tôi nói. "Đúng đấy. Cô ấy vẫn mặc cỡ số hai."

Boney làm vẻ mặt kiểu Hmmm rồi vào xe của mình.

"Theo con nghĩ thế là thế nào?" Rand hỏi.

"Hai người đó ấy ạ, ai mà biết được chứ?"

Chúng tôi hầu như im lặng trên suốt chặng đường trở về khách sạn. Rand chăm chú nhìn dãy nhà hàng bán đồ ăn nhanh nhấp nhô phía ngoài cửa sổ, còn tôi thì mải nghĩ về lời nói dối của mình - nhiều lần nói dối của mình. Chúng tôi phải đi một vòng để tìm chỗ đỗ xe tại khách sạn Days Inn, cuộc hội thảo về tiền lương quả thực là một sự kiện lớn.

"Con biết không, thật buồn cười khi một kẻ sống cả đời ở New York như ta, mà vẫn quê kệch làm sao." Rand nói trong khi đặt tay lên tay nắm cửa xe. "Khi Amy nói sẽ chuyển về đây, sống bên dòng sông Mississippi thơ mộng này, với con, ta đã hình dung… một màu xanh tươi, với ruộng đồng, với hàng cây táo, và cả những chuồng trại màu đỏ cũ kỹ kia nữa. Ta buộc phải nói với con rằng, ở đây quả thực là xấu." Ông ấy cười phá lên. "Ta không thể nào nghĩ được một thứ gì đẹp đẽ trong cả thị trấn này. Ngoại trừ con gái ta."

Ông ấy ra khỏi xe và sải bước thật nhanh về phía khách sạn, và tôi cũng không cố đuổi theo. Tôi bước vào trung tâm chỉ huy chỉ sau ông ấy một vài phút, ngồi xuống bên một chiếc bàn kê tách biệt ở phía cuối căn phòng. Tôi cần phải hoàn tất việc giải đố trước khi các câu đố biến mất, tìm hiểu bằng được Amy định đưa tôi đến đâu. Trong vài giờ ngồi ở đây, tôi sẽ giải câu đố thứ ba. Trong lúc chờ đợi, tôi bấm điện thoại.

"Vâng." Một giọng nói bất nhẫn cất lên. Tiếng trẻ con khóc văng vẳng trong điện thoại. Tôi có thể nghe thấy người phụ nữ đó đang sấy tóc.

"Xin chào, có phải - có phải là Hilary Handy không?"

Cô ta gác máy. Tôi gọi lại.

"Xin chào?"

"Xin chào. Tôi nghĩ cuộc gọi trước đã bị gián đoạn."

"Anh có thể đưa số máy này vào danh sách không nên gọi của anh được không…"

"Hilary, tôi không bán hàng gì cả, tôi gọi vì việc của Amy Dunne - Amy Elliott."

Im lặng. Tiếng trẻ con khóc lại thét lên, một tiếng gào nửa cười nửa cáu giận.

"Có chuyện gì với cô ta vậy?"

"Tôi không biết cô có xem trên truyền hình không, nhưng cô ấy đã mất tích. Amy mất tích hôm mùng 5 tháng 7, trong một tình huống có khả năng liên quan đến vấn đề bạo lực."

"Ồ. Tôi rất lấy làm tiếc."

"Tôi là Nick Dunne, chồng cô ấy. Tôi vừa gọi điện cho các bạn cũ của cô ấy."

"Ồ, vâng?"

"Tôi băn khoăn liệu cô có liên lạc với cô ấy không. Gần đây ấy."

Cô ta thở phì phò vào điện thoại, ba lần hít vào thật sâu. "Có phải vì chuyện đó không, cái thứ nhảm nhí từ thời trung học ấy?" Ông bố xuất hiện qua điện thoại, tiếng trẻ con làm nũng toáng lên. "Mẹ, con muốn mẹ cơ."

"Một lát nữa thôi, Jack." Cô ta nói lớn vào khoảng không phía sau mình, rồi quay trở lại nói chuyện với tôi bằng thứ giọng chói tai giận dữ. "Có phải vậy không? Có phải đó là lý do anh gọi cho tôi không hả? Bởi chuyện đã từ hai mươi năm chết tiệt về trước rồi. Còn hơn ấy chứ."

"Tôi biết. Tôi biết. Nghe này, tôi buộc phải hỏi. Nếu không hỏi thì tôi sẽ là một tên khốn nạn."

"Mẹ kiếp, trời đất ơi. Giờ tôi là mẹ của ba đứa con rồi. Tôi chưa hề nói chuyện lại với Amy kể từ hồi trung học. Tôi đã rút ra được bài học cho mình. Nếu tôi có thấy cô ta trên phố thì tôi cũng tránh sang đường khác." Tiếng đứa trẻ thét lên. "Tôi phải gác máy đây."

"Chỉ một lát thôi, Hilary…"

Cô ta ngắt máy, và ngay lập tức điện thoại có thẻ dùng một lần của tôi rung lên. Tôi mặc kệ nó. Tôi phải tìm chỗ nào đấy để giấu cái thứ chết tiệt này mới được.

Tôi cảm thấy sự có mặt của ai đó, một phụ nữ, ở gần bên mình, nhưng tôi không ngước nhìn lên và thầm mong cô ta sẽ bỏ đi.

"Còn chưa đến trưa mà trông anh như thể vừa trải qua cả một ngày rồi vậy, tội nghiệp chưa kìa."

Shawna Kelly. Cô ta cột tóc lên theo kiểu đuôi ngựa của mấy cô nàng õng ẹo. Cô ta đang trề đôi môi bóng nhẫy của mình về phía tôi. "Anh đã sẵn sàng nếm chút bánh Frito của tôi chưa nào?" Cô ta mang theo một hộp đồ ăn và đặt nó chỉ ngay phía dưới bộ ngực của mình, chất nhựa dẻo saran đổ mồ hôi đầm đìa. Những lời cô ta nói nghe như thể trong một video của mấy ban nhạc rock để tóc dài từ những năm 80 vậy: Anh có muốn nếm một chút bánh của em không?

"Tôi ăn sáng no rồi. Dù sao cũng cảm ơn. Cô thật tốt bụng."

Thay vì bỏ đi thì cô ta lại ngồi xuống. Chiếc váy tennis màu lam ngọc làm lộ ra đôi chân được thoa kem kỹ lưỡng đến mức bóng loáng của cô ta. Cô ta đá đá tôi bằng mũi giày sạch bong hiệu Tretorn của mình. "Cưng có ngủ không vậy?"

"Tôi vẫn khỏe."

"Nick, anh phải ngủ. Anh mà kiệt sức rồi thì còn giúp được ai nữa."

"Có thể tôi sẽ đi trong ít phút nữa, để xem tôi có vài giờ nghỉ ngơi hay không."

"Tôi nghĩ anh nên làm vậy. Tôi thực lòng đấy."

Đột nhiên tôi cảm thấy biết ơn sự quan tâm của cô ta vô cùng. Bản chất đứa-con-trai-của-mẹ lại trỗi dậy trong tôi. Thật nguy hiểm. Dẹp đi, Nick.

Tôi đợi cô ta rời đi. Cô ta cần phải đi - mọi người đã bắt đầu hướng ánh mắt về phía chúng tôi rồi.

"Nếu anh muốn, ngay bây giờ tôi sẽ đưa anh về nhà." Cô ta nói. "Một giấc ngủ ngắn chính là điều mà anh cần."

Cô ta với tay chạm vào đầu gối tôi, và tôi bỗng thấy giận điên người khi cô ta không nhận ra là mình phải biến đi chỗ khác. Để cái hộp đồ ăn đó ở lại rồi biến đi, đồ gái lăng loàn bám dai như đỉa đói. Bản chất đứa-con-trai-của-bố lại trỗi dậy. Thực điên người.

"Sao cô không đăng ký với Marybeth?" Tôi cộc cằn nói và chỉ về phía mẹ vợ tôi bên chiếc máy Xerox, đang sao chụp cơ man nào là ảnh của Amy.

"Được thôi." Cô ta chần chừ, còn tôi bắt đầu mặc kệ thái độ thẳng thừng của cô ta. "Vậy thì tôi để lại chiếc bánh cho anh. Mong là anh thích."

Tôi có thể nhận thấy thái độ xua đuổi của mình đã khiến cô ta khó chịu, bởi cô ta chẳng thèm nhìn vào mắt tôi khi bỏ đi, chỉ xoay người rồi thong thả bước. Tôi cảm thấy thật tồi tệ, muốn xin lỗi và cư xử cho phải phép. Đừng có đi theo cô ta, tôi tự ra lệnh cho mình.

"Có tin tức gì không?" Là Noelle Hawthorne, xuất hiện tại đúng chỗ mà Shawna vừa mới bỏ đi. Cô ta trẻ tuổi hơn Shawna nhưng trông già hơn - thân mình béo ú với bộ ngực đồ sộ chảy sệ. Nét mặt cô ta chau lại.

"Cho đến giờ thì chưa."

"Anh có vẻ đối mặt với mọi chuyện bình thản nhỉ."

Tôi quay sang nhìn cô ta, không biết nên phải nói gì.

"Anh thậm chí có biết tôi là ai không?" Cô ta hỏi.

"Dĩ nhiên rồi. Cô là Noelle Hawthorne."

"Tôi là bạn thân của Amy đấy."

Tôi phải nói trước với cảnh sát mới được. Chỉ có hai cách để nhìn nhận về Noelle: Cô ta là một ả dối trá công khai trắng trợn - cô ta thích để lại ấn tượng rằng mình là bạn thân thiết với một người phụ nữ đang mất tích - hoặc là cô ta bị điên. Cô ta là một kẻ đeo bám kiên quyết phải trở thành bạn của Amy, và khi Amy né tránh cô ta thì…

"Cô có biết gì về Amy không hả Noelle?" Tôi hỏi.

"Dĩ nhiên là tôi biết, Nick. Tôi là bạn thân của cô ấy đấy."

Chúng tôi trừng mắt nhìn nhau một lúc.

"Cô sẽ chia sẻ những gì mình biết chứ?" Tôi hỏi.

"Cảnh sát biết phải tìm tôi ở đâu. Nếu bọn họ quan tâm."

"Thật quý hóa làm sao, Noelle. Tôi sẽ̃ đảm bảo là bọn họ phải nói chuyện với cô."

Hai má cô ta đỏ ửng, hai khoảng tròn đỏ ở hai bên.

Cô ta bỏ đi. Còn tôi thì nghĩ̃ đến những điều nghiệt ngã, một trong những suy nghĩ đó đã vượt xa khỏi tầm kiểm soát của tôi. Tôi nghĩ: Bọn đàn bà thật quái đản. Không một ai có đủ tư cách hết: Ít cũng không, nhiều cũng không. Đàn bà thật điên rồ.

Khi trời tối hẳn, tôi lái xe về ngôi nhà bỏ không của bố tôi. Trên ghế bên cạnh tôi là câu đố của Amy.

Có thể anh thấy có lỗi khi đưa em đến đây

Phải thú nhận rằng em cảm thấy có phần kỳ quặc

Nhưng dường như chúng ta không có nhiều lựa chọn

Chúng ta quyết định: Mình sẽ ở lại đây

Hãy mang tình yêu của chúng ta tới ngôi nhà màu nâu nhỏ xinh này

Cho em chút thiện nguyện nào, hỡi chồng yêu nóng bỏng!

Câu đố này khó hiểu hơn so với những câu khác, nhưng tôi đoan chắc mình hiểu đúng. Amy đang ám chỉ đến Carthage, và rốt cuộc đã tha thứ cho tôi vì chuyển về đây. Có thể anh thấy có lỗi khi đưa em đến đây… [nhưng] Mình sẽ ở lại đây. Ngôi nhà màu nâu nhỏ xinh chính là ngôi nhà của bố tôi. Thực ra nó có màu xanh lam, nhưng Amy đang nhắc đến một chuyện đùa nho nhỏ khác nữa. Tôi luôn thích thú với những câu chuyện đùa của chúng tôi - chúng khiến tôi cảm thấy gắn bó với Amy hơn bất kỳ điều tâm sự nào hay những lần làm tình cuồng nhiệt hoặc nói chuyện tào lao cho đến sáng. Câu chuyện ngôi nhà màu nâu nhỏ xinh nói về bố tôi, và Amy là người duy nhất mà tôi đã kể câu chuyện này: sau khi bố mẹ ly hôn, tôi rất ít khi gặp bố nên tôi đã nghĩ về ông như một nhân vật trong sách truyện. Ông không hẳn còn là bố tôi nữa - người đáng lẽ phải yêu chiều tôi và dành thời gian ở bên tôi - mà là một nhân vật đôn hậu và có phần tầm cỡ tên là Ông Brown. Đó là nhân vật lúc nào cũng bận rộn với những công việc lớn lao vì nước Mỹ và thi thoảng (lắm) mới gặp tôi như một cách ngụy trang để đi lại dễ dàng hơn trong thành phố. Amy đã rưng rưng nước mắt khi nghe tôi kể câu chuyện này, tôi không có ý làm cho cô ấy khóc, mà chỉ có ý kể nó như một câu chuyện trẻ con vui vẻ mà thôi. Cô ấy nói với tôi rằng giờ đây cô ấy chính là gia đình của tôi, rằng cô ấy yêu tôi nhiều đến mức có thể bù đắp cho tôi tình thương bằng mười ông bố tệ bạc như vậy, và rằng kể từ giờ chúng tôi, hai chúng tôi, chính là gia đình Dunne. Sau đó cô ấy thì thầm bên tai tôi rằng: "Em có một nhiệm vụ có thể rất thích hợp với anh…"

Về chi tiết thiện nguyện kia, đó lại là một sự hòa giải khác. Sau khi bố tôi hoàn toàn mất trí vì căn bệnh Alzheimer, chúng tôi đã quyết định bán ngôi nhà của ông, nên Amy và tôi đã dọn dẹp lại ngôi nhà, sắp xếp đồ đạc để tặng cho tổ chức Thiện nguyện. Lẽ dĩ nhiên là Amy đã vô cùng hăng hái với công việc - gói ghém, xếp sắp, di chuyển - trong lúc đó tôi thờ ơ xem xét lại những đồ đạc của bố. Đối với tôi, mọi thứ đều là một câu đố. Một chiếc cốc có quai với những vết ố cà phê đậm màu hơn những chiếc khác chắc hẳn là chiếc cốc ông rất yêu thích. Một món quà tặng chăng? Ai đã tặng ông nhỉ? Hay là ông tự mua cho mình? Tôi hình dung việc mua sắm đối với bố tôi hẳn bị coi là một thứ nhu nhược. Mặc dù vậy, lục tìm trong tủ quần áo của ông tôi phát hiện được năm đôi giày, còn mới tinh bóng loáng, vẫn đặt trong hộp. Ông đã tự mình mua những thứ này sao, cho thấy một Bill Dunne cởi mở hơn so với một con người dần tách biệt mình trong cô đơn chăng? Có phải ông đã đến cửa hàng Shoe-Be-Doo-Be để mẹ tôi chọn giúp, một điều thường thấy trong hàng loạt những đức tính tốt đẹp của bà? Lẽ dĩ nhiên là tôi đã không chia sẻ những suy tư đó của mình với Amy, như thế tôi sẽ không mang tiếng là kẻ chểnh mảng trốn việc như tôi vẫn thường vậy.

"Đây. Hộp đây. Để cho Thiện nguyện." Cô ấy nói khi bắt quả tang tôi ngồi bệt trên sàn nhà, tựa mình vào tường và chăm chăm nhìn chiếc giày. "Anh cho đôi giày vào hộp đi. Được không?" Tôi xấu hổ nên đã cằn nhằn cô ấy, cô ấy gắt gỏng lại với tôi, và… lại như mọi khi.

Tôi phải nói thêm, để bênh vực cho Amy, rằng cô ấy đã hai lần hỏi xem liệu tôi có muốn nói chuyện, liệu có tôi có chắc rằng mình muốn làm điều này không. Đôi khi tôi bỏ qua những chi tiết như vậy. Sẽ tiện cho tôi hơn. Thực tế là, tôi muốn cô ấy phải thấu hiểu suy nghĩ của tôi, như vậy tôi sẽ không phải hạ thấp mình bằng cách nói toạc ra theo kiểu cách phụ nữ đó. Đôi khi tôi cảm thấy mình có lỗi, cũng như Amy, khi chơi trò cố-hiểu-anh-đi đó. Tôi cũng đã bỏ qua chi tiết này nữa.

Tôi là một kẻ chỉ thích dối trá về sự chểnh mảng của mình.

Khoảng hơn mười giờ tối thì tôi dừng xe trước cửa ngôi nhà của bố tôi. Một ngôi nhà nhỏ xinh gọn gàng, một nơi lý tưởng để bắt đầu (hoặc kết thúc) một mái ấm gia đình. Hai phòng ngủ, hai phòng tắm, phòng ăn, căn bếp tuy cũ kỹ nhưng tươm tất. Tấm biển đề bán nhà được dựng ở sân trước đã hoen gỉ. Một năm qua vẫn không thay đổi gì.

Tôi bước vào ngôi nhà nặng mùi ẩm mốc, hơi nóng cuốn lấy tôi. Hệ thống báo động rẻ tiền mà chúng tôi đã lắp đặt sau ba lần bị trộm bắt đầu kêu bíp bíp, như thể tiếng quả bom nổ chậm đang đếm ngược vậy. Tôi nhập mật mã, những con số đã khiến Amy phát điên vì nó đi ngược với tất cả những nguyên tắc cài đặt mật mã. Đó là ngày sinh của tôi: 81577.

Mật mã bị từ chối. Tôi thử lại lần nữa. Mật mã bị từ chối. Mồ hôi chảy thành giọt trên lưng tôi. Amy đã luôn cảnh báo tôi về việc đổi mật mã. Cô ấy nói thật vô tác dụng khi đặt một mật mã có thể dễ dàng đoán được như thế, nhưng tôi biết lý do thực sự. Cô ấy tức giận vì đó là ngày sinh của tôi chứ không phải là ngày cưới của chúng tôi: Lại một lần nữa tôi đã chọn tôi thay vì chúng tôi. Giờ thì những hoài niệm ngọt ngào về Amy của tôi đã biến mất. Tôi ấn mạnh ngón tay mình lên các con số một lần nữa, mỗi lúc một thêm hốt hoảng vì tiếng chuông báo động vẫn tiếp tục bíp bíp bíp để đếm ngược - cho đến khi nó thực sự kêu toáng lên.

Uuuuuuu-uuuuuuu-uuuuuu!

Điện thoại di động của tôi sẽ đổ chuông, do đó tôi có thể ngắt nó: Tao đây, đồ đại ngu đần kia. Nhưng điện thoại đã không đổ chuông. Tôi đợi đúng một phút. Tiếng chuông báo động gợi tôi nhớ lại một bộ phim về chiếc tàu ngầm bị đắm. Hơi nóng bí bách từ ngôi nhà kín như bưng trong tiết trời tháng Bảy tỏa ra trùm lấy tôi. Lưng áo tôi đã ướt đẫm. Khốn kiếp, Amy. Tôi dò tìm số điện thoại công ty trên chiếc chuông báo động nhưng không tìm được gì. Tôi kéo một chiếc ghế và giật chiếc chuông báo động thật mạnh. Nó rời khỏi tường, lủng lẳng trên sợi dây nối và điện thoại của tôi cuối cùng đã đổ chuông. Một giọng nói khó chịu phía bên kia đầu dây đòi biết tên con vật nuôi đầu tiên của Amy.

Uuuuuuu-uuuuuuu-uuuuuu!

Chính xác đó là ngữ điệu không được mong đợi một chút nào - tự mãn, nóng nảy, lạnh lùng - và chính xác đó là câu hỏi không thích hợp một chút nào, bởi tôi không biết câu trả lời, điều đó khiến tôi phát điên lên được. Cho dù tôi có giải được bao nhiêu câu đố đi chăng nữa, tôi vẫn phải đối mặt với những thứ tầm phào của Amy, buộc tôi phải thoái chí.

"Nghe này, tôi là Nick Dunne, đây là nhà của bố tôi, số tài khoản này là do chính tôi mở." Tôi gắt gỏng. "Cho nên tên con vật nuôi đầu tiên của vợ tôi là cái đếch gì thì cũng không phải việc của tôi nghe chưa."

Uuuuuuu-uuuuuuu-uuuuuu!

"Thưa ông, làm ơn đừng nói chuyện với tôi bằng giọng điệu đó."

"Nghe này, tôi chỉ đến để lấy một thứ đồ trong nhà bố tôi, và giờ thì tôi sẽ đi, được chứ?"

"Tôi buộc phải báo cảnh sát ngay tức thì."

"Cô có thể tắt ngay cái chuông khốn kiếp này đi để tôi nghĩ câu trả lời được hay không?"

Uuuuuuu-uuuuuuu-uuuuuu!

"Chuông báo đã ngắt."

"Chuông báo chưa hề ngắt."

"Thưa ông, tôi đã cảnh báo rồi, xin đừng nói chuyện với tôi bằng giọng điệu đó."

Đồ khốn nạn.

"Cô biết gì không? Khốn kiếp, khốn kiếp, khốn kiếp."

Tôi ngắt máy ngay vừa lúc nhớ ra tên con mèo của Amy, con vật nuôi đầu tiên đó: Stuart.

Tôi liền gọi lại thì gặp một tổng đài viên khác, một người biết điều hơn, người đã ngắt chuông báo động và, Chúa ban phước lành cho cô ta, đã hủy bỏ việc báo cảnh sát. Thực sự tôi không có tâm trạng nào để phân bua về mình nữa.

Tôi ngồi trên chiếc thảm mỏng dính và rẻ tiền, thở hổn hển và nghe tim đập loạn xạ. Một phút sau, khi vai không còn cứng lại nữa, quai hàm thả lỏng, tay không còn nắm chặt và tim trở lại nhịp đập bình thường, tôi đứng dậy và trong giây lát cân nhắc xem có nên rời đi hay không, như thể đó sẽ là một bài học cho Amy vậy. Nhưng khi đứng lên, tôi thấy chiếc phong bì màu xanh lam trên bàn bếp, giống như một lời nhắn dành cho John yêu quý vậy.

Tôi hít một hơi thật sâu rồi thở ra - thái độ khác đây - và mở chiếc phong bì, lôi ra một bức thư được đánh dấu bằng một hình trái tim.

Chào anh yêu quý,

Vậy là cả hai chúng ta đều có những điểm mà chúng ta cần suy xét. Với em, đó là tính cầu toàn và đôi khi (mơ tưởng) tự cho mình là đúng. Còn với anh? Em hiểu anh lo lắng rằng đôi khi anh quá dè dặt, quá xa cách, đến mức không thể dịu dàng và ân cần. Thực ra, em muốn nói với anh - ngay trong căn nhà này của bố anh - rằng điều đó không đúng. Anh không giống với bố anh. Anh cần biết rằng anh là một người đàn ông tuyệt vời, một người đàn ông ngọt ngào và tốt bụng. Em vừa trừng phạt anh đấy, vì đôi lúc anh đã không thể hiểu cho em, vì anh đã không thể hành động theo đúng cách mà em mong đợi vào đúng thời điểm đó. Em trừng phạt anh vì đã là một người đàn ông sống thực. Em đã yêu cầu anh làm việc này, việc khác thay vì tin tưởng anh sẽ tự tìm được cách riêng của mình. Em đã không tin tưởng để cho anh cơ hội: cho dù anh và em có sai lầm đến thế nào, anh vẫn luôn yêu em và mong em được hạnh phúc. Và bấy nhiêu đó là đủ với bất kỳ cô gái nào, phải không anh? Em e là mình đã nói nhiều điều không thực sự đúng về anh, còn anh thì đã tin vào những lời nói đó. Vậy nên lúc này đây em sẽ nói rằng: Anh là một người nồng ấm. Anh là mặt trời của em.

Nếu Amy đang ở đây bên tôi, như cô ấy luôn thể hiện, cô ấy sẽ dụi mình vào người tôi theo cách mà cô ấy vẫn làm, áp mặt vào một bên cổ tôi và hôn tôi, rồi mỉm cười nói: Anh biết không, anh là mặt trời của em. Cổ họng tôi thắt nghẹn lại. Tôi nhìn quanh một lượt ngôi nhà của bố mình rồi cất bước, khép lại cánh cửa trước làn hơi nóng ngột ngạt kia. Ngồi trong xe, tôi lóng ngóng mở chiếc phong bì có chứa câu đố thứ tư. Chúng tôi hẳn đã đến gần chặng đường cuối.

Hình dung về em: Một cô gái xấu xa

Em đáng bị trừng phạt, thật không đáng được tha

Đó là nơi anh giữ điều tốt đẹp cho năm năm kỷ niệm

Xin thứ lỗi cho em nếu lại làm khó anh!

Anh có nhớ nơi đây, một ngày trưa nắng ấy

Nhâm nhi cocktail, mọi thứ thật rạng ngời

Lúc này đây anh hãy tới ngay nơi,

cảnh tượng tuyệt vời đang trải ra trước mắt

Hãy mở cánh cửa với bất ngờ trước mặt.

Ruột gan tôi như thắt lại. Tôi không biết câu đố này có nghĩa gì. Tôi đọc lại, nhưng vẫn không thể đoán nổi. Amy không còn dễ dàng với tôi nữa rồi. Rốt cuộc, tôi vẫn sẽ không thể kết thúc trò chơi săn tìm kho báu này.

Tôi giận sôi người. Một ngày chết tiệt. Boney thì bắt nọn tôi, Noelle thì điên loạn, Shawna thì tức tối, Hilary thì bực bội, cô ả nhân viên của công ty an ninh thì khốn nạn, và cuối cùng vợ tôi lại gây khó cho tôi. Đã đến lúc kết thúc cái ngày chết tiệt này. Ngay lúc này, chỉ duy nhất một người phụ nữ mà tôi có thể chịu đựng được khi ở bên mà

thôi.

Go liếc nhìn tôi - cái nhìn lo lắng, kín tiếng và kiệt lực được thừa hưởng từ bố - rồi để tôi ngồi lại trên chiếc trường kỷ trong khi thông báo sẽ chuẩn bị chút gì đó cho bữa tối muộn. Năm phút sau, Go cẩn trọng bước ra, cố giữ thăng bằng đồ ăn trên chiếc khay hình chữ nhật cổ. Món ăn nhanh gọn truyền thống của gia đình Dunne: phô mai nướng và khoai tây thái lát nướng, một cốc nhựa đựng…

"Không phải Kool-Aid đâu." Go nói. "Bia đấy. Kool-Aid xem ra có phần lạc hậu rồi."

"Em thật ân cần và kỳ lạ, Go ạ."

"Ngày mai anh sẽ phải nấu đấy."

"Hy vọng là em sẽ thích súp đóng hộp."

Con bé ngồi xuống trường kỷ bên cạnh tôi, nhón một miếng khoai tây nướng trên đĩa và hỏi, một cách ngẫu nhiên: "Anh có biết tại sao cảnh sát lại hỏi em về việc liệu Amy vẫn là cỡ số hai không?"

"Trời đất, bọn họ không chịu bỏ qua chuyện đó hay sao." Tôi nói.

"Chuyện này khiến anh phát hoảng à? Có lẽ bọn họ tìm thấy quần áo của chị ấy hay thứ gì đấy."

"Bọn họ sẽ phải đề nghị anh nhận diện chúng. Phải vậy không?"

Suy nghĩ khoảng một giây, con bé chau mặt nói. "Có lý." Nét mặt Go vẫn chau lại cho đến khi bắt gặp cái nhìn của tôi thì mỉm cười. "Em đã ghi lại trận bóng chày đấy, có muốn xem không? Anh ổn đấy chứ?"

"Anh ổn." Tôi thấy rất tệ, bụng dạ ngán ngẩm, tâm trạng như tan nát. Có lẽ vì câu đố tôi chưa giải được. Nhưng đột nhiên tôi cảm thấy như mình đã bỏ qua một điều gì đó. Tôi đã mắc một sai lầm vô cùng lớn, một lỗi thảm họa. Có lẽ đó là lương tâm của tôi, đang trỗi dậy trở lại thế giới bên ngoài từ nơi giam giữ bí mật của nó.

Go chuyển sang tập trung vào trận đấu, và trong suốt mười phút sau đó chỉ bình luận về trận đấu mỗi khi nhấp một ngụm bia. Go không thích phô mai nướng, con bé đang xúc bơ lạc từ trong chiếc lọ và phết lên trên những chiếc bánh quy giòn. Khi chương trình quảng cáo giữa trận đấu xuất hiện, con bé tạm dừng và nói. "Em mà có thứ của quý giống các anh thì em sẽ làm tình với cái thứ bơ lạc này." Nói rồi con bé cố ý phủi tung vụn bánh quy về phía tôi.

"Anh nghĩ em mà có thứ của quý đó, thì hẳn những gì xấu xa nhất đều sẽ xảy ra."

Go tua nhanh qua phần diễn biến không có gì đáng chú ý của trận đấu. Đội Cards bị dẫn trước năm điểm. Cho đến phần quảng cáo tiếp theo, Go lại tạm dừng và nói: "Em đã gọi điện để thay đổi nhạc nền điện thoại đấy, nhạc chờ là bài hát của Lionel Richie - anh có bao giờ nghe Lionel Richie không ấy nhỉ? Em thích bài ‘Penny Lover’, nhưng nhạc chờ không phải bài đó. Tuy nhiên, dù sao đi nữa thì lúc đấy, có một phụ nữ đã nghe máy, và cô ta nói rằng tất cả các đại diện chăm sóc khách hàng đều ở Baton Rouge, điều này nghe có vẻ kỳ quặc vì giọng cô ta nghe không có ngữ điệu đó, nhưng cô ta nói rằng mình sinh ra ở New Orleans, và có một điểm lưu ý nho nhỏ là - mà người ta gọi những người quê ở New Orleans là gì ấy nhỉ, người New Orleans à? - dù sao đi nữa thì mấy người đó cũng không có ngữ điệu của vùng này. Rồi cô ta nói về gói dịch vụ của em, gói dịch vụ loại A…"

Go và tôi có một trò chơi được lấy cảm hứng từ mẹ, một người có thói quen nói chuyện vô cùng tẻ nhạt. Go quả quyết rằng chính những câu chuyện dài vô tận đó của bà đã âm thầm ngược đãi chúng tôi. Từ mười năm nay rồi, bất kể khi nào Go và tôi không biết phải nói gì, thì một trong hai chúng tôi sẽ phá vỡ sự im lặng bằng một câu chuyện về chủ đề sửa chữa các thiết bị hoặc sử dụng phiếu giảm giá. Tuy nhiên, Go có phong độ ổn định hơn tôi. Những câu chuyện của con bé kéo dài lê thê, không đứt quãng, mãi mãi không thôi - chúng tiếp diễn lâu tới mức khiến người ta thấy thực sự bực mình và sau đó lại có cảm giác buồn cười.

Go đã chuyển sang câu chuyện về chiếc đèn tủ lạnh của con bé mà chẳng hề tỏ ra một chút ngập ngừng. Bỗng nhiên tôi cảm thấy biết ơn con bé vô cùng. Tôi nhoài người qua chiếc trường kỷ và hôn lên má Go.

"Vì điều gì thế?"

"Chỉ là cảm ơn thôi." Tôi thấy đôi mắt mình nhòa lệ. Trong giây lát, tôi nhìn đi nơi khác, chớp mắt để lùa những giọt nước tràn ra, còn Go thì vẫn thao thao bất tuyệt. "Thế nên em đã phải thay cả ba cục pin loại A, nhưng hóa ra lại khác với loại pin của transistor, vì vậy em đã phải tìm tờ biên lai để mang trả lại đống pin đó…"

Chúng tôi xem nốt trận đấu. Cards thua. Khi trận đấu kết thúc, Go chuyển tivi sang chế độ im lặng. "Anh muốn nói chuyện hay muốn phân tán tư tưởng nào? Bất cứ điều gì anh cần."

"Em đi ngủ đi, Go. Anh sẽ đi nằm một lúc. Có lẽ là sẽ ngủ. Anh cần phải ngủ."

"Anh có muốn uống một viên thuốc ngủ không?" Đứa em gái song sinh của tôi là một tín đồ trung thành với những cách dễ dàng nhất. Không cần các phương thức thư giãn hay bài hát của cá voi, uống một viên thuốc và không còn biết trời đất là gì nữa.

"Không."

"Em để ở trong tủ thuốc ấy, nếu anh thay đổi ý kiến. Phòng trường hợp anh cần hỗ trợ để ngủ được…" Go chần chừ nhìn tôi một lát, rồi sau đó, rất đúng kiểu Margo, con bé thoăn thoắt bước xuôi xuống hành lang, trông rõ ràng chẳng buồn ngủ chút nào cả, và đóng cửa phòng mình lại, hiểu rằng điều tử tế nhất với tôi lúc này chính là để tôi lại một mình.

Rất nhiều người không có được tính cách ấy: biết lúc nào nên phải rút lui. Người ta thích nói, còn tôi thì chưa bao giờ là một người hay nói cả. Tôi chỉ độc thoại âm thầm với mình, và những ngôn từ đó chẳng bao giờ bật được ra khỏi miệng cả. Hôm nay trông con bé thật dễ thương. Tôi nghĩ được như vậy, nhưng không hiểu sao chẳng khi nào thốt được nên lời. Mẹ tôi nói, rồi em gái tôi cũng nói. Tôi được nuôi lớn là để lắng nghe. Vì vậy, ngồi một mình trên trường kỷ, tôi chẳng nói một lời nào và cảm thấy mình thật tàn tạ. Tôi xem qua một cuốn tạp chí của Go, lướt qua hết kênh truyền hình này đến kênh truyền hình khác, cuối cùng cũng thích thú với một chương trình trắng-đen lỗi thời, những người đàn ông đội mũ rộng vành cặm cụi ghi chép trong khi một cô vợ xinh đẹp đang giải thích về việc chồng cô ta đang ở Fresno, điều khiến hai tay cảnh sát quay sang nhìn nhau đầy ẩn ý và gật đầu. Tôi nghĩ đến Gilpin và Boney, chợt thấy lòng dạ mình nôn nao.

Chiếc điện thoại có thẻ dùng một lần trong túi tôi phát ra thứ âm thanh của máy đánh bạc mini, có nghĩa là tôi có tin nhắn.

Em đang ở bên ngoài, mở cửa đi.
 
Chương 18: Amy Elliott Dunne


28 tháng 4 năm 2011

- Nhật kí -

Hãy cứ phải tiếp tực con nhé. Đó là điều mà Mẹ Mo đã dặn, và trong lúc dặn dò, sự chắc chắn của bà khi nhấn mạnh từng từ một, giống như thể đó thực sự là một chiến lược sống còn - đã khiến cho câu nói sáo rỗng kia không chỉ là một tập hợp từ nữa, mà đã trở thành một điều gì đó xác thực vô cùng. Và quý giá. Phải tiếp tục tiếp tục, chính xác là vậy! Tôi tự nhủ

Tôi thực sự thích điểm này của người Trung Tây: Người ta không quan trọng hóa vấn đề. Ngay cả cái chết. Mẹ Mo sẽ tiếp tục tiếp tục cho đến khi căn bệnh ung thư khiến bà gục ngã, và sau đó bà ra đi.

Vì vậy, tôi cúi đầu và cố làm những gì tốt nhất dù trong một tình thế tệ hại, và từ trong thâm tâm mình tôi thực lòng muốn làm như vậy, đúng với những gì mà Mẹ Mo đã làm. Tôi cúi đầu và làm việc của mình: Tôi lái xe đưa Mẹ Mo đến gặp bác sĩ và đi hóa trị. Tôi thay nước đã có mùi trong chiếc bình cắm hoa đặt ở phòng bố Nick. Tôi mang bánh quy cho nhân viên ở đó để họ có thể chăm sóc ông được tốt hơn.

Tôi đang cố gắng để làm những gì tốt nhất trong một tình thế thực sự tệ hại, và tình thế đó hầu như không có gì tốt đẹp cả bởi chồng tôi, người đã đưa tôi đến đây, người đã buộc tôi phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình để được ở gần bên bố mẹ đau yếu của anh ấy, giờ đây dường như không còn quan tâm chút nào tới cả tôi lẫn bố mẹ già yếu của anh ấy.

Nick đã hoàn toàn gạt bỏ bố mình: Anh ấy thậm chí còn không nhắc đến tên ông ấy nữa. Tôi biết là mỗi lần chúng tôi nhận được điện thoại từ Comfort Hill, Nick đều hy vọng rằng họ thông báo về việc bố anh ấy đã mất. Còn đối với Mẹ Mo, Nick chỉ ở bên bà duy nhất trong một lần hóa trị rồi tuyên bố rằng đó là việc ngoài sức chịu đựng của mình. Anh ấy ghét bệnh viện, ghét những người ốm yếu, ghét quãng thời gian nặng nề trôi đi, ghét những túi thuốc truyền ri rỉ nhỏ từng giọt một. Chỉ là anh ấy không thể. Và khi tôi thử nói chuyện với Nick về việc phải đối mặt với nó, khi tôi thử nắn gân anh ấy với những điều như phải làm việc anh phải làm, thì anh ấy đã đề nghị tôi làm việc đó. Vậy nên tôi đã làm, và tôi đang làm việc này. Lẽ dĩ nhiên là Mẹ Mo đã nhận trách nhiệm về mình trước hành động ấy của Nick. Có một hôm, chúng tôi ngồi cùng nhau xem lướt một bộ phim hài tình cảm trên máy tính của tôi, chủ yếu nói chuyện phiếm là chính trong lúc chờ những giọt nước truyền qua tĩnh mạch nhỏ xuống… chậm chạp… đến khi nhân vật nữ chính trong phim vấp ngã trên chiếc sofa, Mẹ Mo đã quay sang tôi và nói: "Con đừng gay gắt quá với Nick nhé. Về chuyện nó không muốn làm những việc như thế này ấy. Lúc nào mẹ cũng nhẹ nhàng với nó, mẹ chiều chuộng nó - thì sao con lại không thể làm được nhỉ? Khuôn mặt đó. Dù như vậy nó khó có thể làm được những việc nặng nề. Nhưng mẹ thực sự không bận lòng, Amy ạ. Thực sự."

"Mẹ nên bận lòng." Tôi nói.

"Nick không phải chứng minh tình yêu của nó với mẹ." Bà vừa nói vừa vỗ về bàn tay tôi. "Mẹ biết là nó yêu mẹ."

Tôi ngưỡng mộ tình yêu vô điều kiện của Mẹ Mo, thực sự ngưỡng mộ. Chính vì vậy tôi không nói với bà về thứ mà tôi đã tìm được trong máy tính của Nick, một đề xuất viết cuốn hồi ký của một nhà báo từng làm việc cho một tạp chí ở Mahattan, sau đó quay trở về quê hương Missouri của mình để chăm sóc bố mẹ già yếu. Nick có tất cả các thể loại kỳ quặc trong máy tính của mình, và đôi khi tôi không thể kìm nén một chút rình mò - điều đó giúp tôi có được manh mối về những suy nghĩ của chồng mình. Lịch sử tìm kiếm của anh ấy trên internet cho tôi biết những thông tin gần đây nhất: các bộ phim đen, trang tin của tạp chí mà anh ấy từng làm, một nghiên cứu về dòng sông Mississippi, cho biết liệu có thể tự do thả nổi trên dòng sông từ đây cho tới vùng Vịnh hay không. Tôi biết anh ấy định làm gì: thả thuyền xuôi theo dòng Mississippi, giống như Huck Finn, và viết một bài báo về chuyến đi đó. Nick luôn tìm kiếm những cách đặc biệt để suy nghĩ về một vấn đề gì đó.

Khi đang chúi đầu vào những thứ đó thì tôi phát hiện ra bản đề xuất viết sách kia.

Hai cuộc đời: Hồi ký về sự kết thúc và sự khởi đầu là cuốn sách đặc biệt dành cho những người đàn ông thuộc Thế hệ X, sinh vào các năm giữa thập kỷ 60 và 80, những cậu bé trưởng thành, những người vừa mới bắt đầu trải nghiệm căng thẳng và áp lực trước sự quan tâm của cha mẹ đều là người lớn tuổi. Trong Hai cuộc đời, tôi sẽ trình bày tỉ mỉ về:

Sự hiểu biết ngày càng tăng của tôi về một người bố không bình thường và đã từng xa cách.

Sự thay đổi bắt buộc và đau khổ, từ một người đàn ông trẻ tuổi tự do thành trụ cột gia đình, khi tôi phải đối mặt với cái chết được dự báo trước của người mẹ hằng yêu quý của mình.

Sự oán giận của người vợ Mahattan giàu có của tôi khi bước ngoặt sang con đường này trong cuộc đời sung sướng trước đây của cô ấy. Cũng cần phải nói thêm là, vợ tôi, chính là Amy Elliott Dunne, nguồn cảm hứng cho các tập sách best-seller Amy Tuyệt vời.

Bản đề xuất sẽ không bao giờ được hoàn thành, bởi theo những gì tôi nghĩ thì Nick đã nhận ra rằng anh ấy sẽ không bao giờ hiểu được người bố từng xa cách của mình, và bởi Nick đã trốn tránh tất cả những trách nhiệm của "một trụ cột gia đình", và bởi tôi không biểu hiện bất cứ sự khó chịu nào trước cuộc sống mới này. Một chút bất mãn, đúng là có, nhưng không phải cơn thịnh nộ đáng phải viết cả một cuốn sách như vậy. Trong rất nhiều năm qua, chồng tôi luôn tán dương bản lĩnh cảm xúc của những người miền Trung Tây: sức chịu đựng, tính khiêm tốn, không hề giả tạo! Nhưng những con người mang đức tính đó không phải là nguồn cảm hứng để có thể viết nên một hồi ký hay được. Hãy thử hình dung lời tựa trên bìa cuốn sách: Con người luôn cư xử tử tế và rồi họ chết.

Mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy một chút xót xa trong lòng, "Sự oán giận của người vợ Mahattan giàu có của tôi". Có lẽ tôi đã tỏ ra… ương bướng. Tôi nghĩ đến Maureen lúc nào cũng đáng yêu, rồi tôi lo lắng rằng Nick và tôi không phải là một cặp đôi phù hợp, rằng anh ấy sẽ hạnh phúc hơn với một người phụ nữ luôn vui sướng khi được chăm sóc chồng và lo toan cho gia đình. Tôi không xem thường những khả năng đó: tôi ao ước mình có được khả năng đó. Tôi ước gì mình đã quan tâm nhiều hơn tới việc Nick luôn mua loại kem đánh răng mình yêu thích, rằng trong đầu tôi cần phải biết cỡ áo sơ-mi của anh ấy, rằng tôi nên là một phụ nữ luôn dành tình yêu thương vô điều kiện, và niềm hạnh phúc lớn nhất là làm cho người đàn ông của mình được hạnh phúc.

Tôi đã từng như vậy khi ở với Nick, trong một khoảng thời gian. Nhưng nó không lâu dài. Tôi không có đủ lòng vị tha. Là con một mà, giống như Nick vẫn thường nói vậy.

Nhưng tôi đang cố gắng… Tôi tiếp tục tiếp tục, và Nick lại chạy loanh quanh khắp cả thị trấn như hồi còn nhỏ. Anh ấy hạnh phúc vì được trở lại với chốn rong chơi thỏa chí của mình - anh ấy đã giảm khoảng năm kilogram, để kiểu tóc mới, mua quần jeans mới, trông anh ấy vô cùng tuyệt vời. Nhưng tôi chỉ nhận ra điều đó khi thấy anh ấy trở về nhà hoặc lại đi ra ngoài, lúc nào cũng trong trạng thái tỏ ra vội vã. Em sẽ không thích đâu, đó là câu trả lời mặc định cho mỗi lần tôi đề nghị cùng đi với anh ấy, đến bất cứ nơi nào mà anh ấy đến. Cũng như việc anh ấy đã bỏ mặc bố mẹ mình khi họ không còn có ích gì cho mình nữa, anh ấy bỏ rơi tôi bởi tôi không phù hợp với cuộc sống mới của anh ấy. Nick phải làm việc để tôi được sống thoải mái ở nơi này, và anh ấy không hề muốn như vậy. Anh ấy chỉ muốn mình hưởng thụ mà thôi.

Thôi ngay, thôi ngay. Tôi phải nhìn vào mặt tích cực chứ. Một cách đúng nghĩa. Tôi phải gạt bỏ chồng mình ra khỏi những suy nghĩ bi quan mờ ảo đó và chiếu rọi lên anh ấy một chút ánh sáng vàng tươi vui. Tôi phải thể hiện sự ngưỡng mộ của mình đối với anh ấy rõ nét hơn như tôi đã từng làm. Nick luôn đáp lại sự ngưỡng mộ đối với mình. Tôi chỉ ước sao điều đó công bằng hơn. Tâm trí tôi quá ư bận rộn với những suy nghĩ về Nick, như thể một đàn côn trùng vo ve trong đầu tôi: Nicknicknicknicknick! Và khi hình dung về tâm trí của anh, tôi chỉ nghe thấy tên mình như một thứ âm thanh pha lê rụt rè, khẽ vang lên một lần, hoặc có chăng hai lần mỗi ngày rồi nhanh chóng tắt lịm. Tôi chỉ mong sao anh ấy nghĩ về tôi nhiều như tôi nghĩ về anh ấy.

Điều đó là sai trái chăng? Thậm chí tôi còn không biết nữa.
 
Chương 19: Nick Dunne


Ngày thứ tư mất tích

Cô ấy đang đứng đó, dưới ánh sáng ấm áp màu vàng cam của ngọn đèn đường, chiếc

váy hai dây mỏng manh và mái tóc lượn sóng giữa tiết trời nóng ẩm. Andie. Cô ấy chạy qua lối vào, dang rộng vòng tay ôm chầm lấy tôi, và tôi khẽ suỵt. "Khoan nào, khoan nào!" Rồi tôi đóng cửa lại trước khi cô ấy quấn lấy mình. Cô ấy dụi má vào ngực tôi, còn tôi đặt tay mình lên tấm lưng trần của cô ấy và nhắm mắt lại. Một cảm giác nôn nao, vừa khuây khỏa, vừa sợ hãi: khi sự khao khát ngừng lại thì bạn chợt nhận ra đó là vì bạn vừa giựt mất một mẩu da của mình.

Tôi có nhân tình. Giờ đến đoạn tôi phải nói với các bạn rằng tôi có nhân tình, và các bạn sẽ không còn thích tôi nữa. Nếu các bạn muốn, thì điều trước tiên để nói đó là tôi có một cô nhân tình xinh đẹp, trẻ trung, rất trẻ trung. Tên cô ấy là Andie.

Tôi biết. Thật xấu xa.

"Anh yêu, anh làm cái quái gì mà không gọi cho em vậy hả?" Cô ấy nói trong khi vẫn áp mặt vào người tôi.

"Anh biết, em yêu, anh biết. Em không tưởng tượng nổi đâu. Một cơn ác mộng. Sao em lại tìm được anh?"

Cô ấy vẫn quấn lấy tôi. "Nhà anh tối om, nên em nghĩ thử qua nhà Go."

Andie biết thói quen của tôi, biết nơi ở của tôi. Chúng tôi đã ở bên nhau một thời gian rồi. Tôi có một cô tình nhân xinh đẹp, trẻ trung, và chúng tôi đã ở bên nhau được một thời gian.

"Em đã rất lo cho anh, Nick. Phát điên lên được. Em đang ngồi ở nhà Madi, và tivi thì đang mở, rồi đột nhiên em thấy trên tivi, hình ảnh này, như thể là, một anh chàng trông rất giống anh đang nói về người vợ mất tích của anh ta. Rồi sau đó em nhận ra: Đó chính là anh. Anh có thể tưởng tượng em đã hoảng sợ đến thế nào không? Trong khi anh thậm chí còn không thèm liên lạc với em nữa chứ?"

"Anh đã gọi cho em mà."

"Đừng nói gì cả, đừng làm gì cả, đừng nói gì cho tới khi chúng ta nói chuyện. Đó là một mệnh lệnh, chứ đâu phải là anh đang cố liên lạc với em."

"Anh không mấy khi ở một mình, bên cạnh anh lúc nào cũng có người. Bố mẹ của Amy, Go, rồi cảnh sát." Tôi hít vào thật sâu mùi hương của mái tóc cô ấy.

"Amy đã biến mất sao?"Andie hỏi.

"Cô ấy đã biến mất." Tôi kéo mình ra khỏi Andie và ngồi xuống trường kỷ. Cô ấy ngồi bên tôi, chân nép vào chân tôi, cánh tay chạm vào cánh tay tôi. "Có ai đó đã bắt cóc cô ấy."

"Nick? Anh ổn chứ?"

Mái tóc màu nâu chocolate đổ từng lọn sóng xuống ngang cằm, xương đòn, bộ ngực của cô ấy, và tôi dõi theo từng rung động nhẹ theo mỗi nhịp cô ấy thở.

"Không, không hẳn." Tôi ra hiệu cho cô ấy im lặng và chỉ ra tiền sảnh. "Em gái anh."

Chúng tôi ngồi bên nhau im lặng, ánh sáng lấp loáng của tivi khi đang phát một chương trình phim cũ về những tay cớm, những gã đàn ông đội mũ phớt truy bắt người. Tôi nhận thấy bàn tay của Andie đang đan vào những ngón tay mình. Cô ấy ngả vào người tôi như thể chúng tôi đang có một buổi tối ngồi xem phim, một cặp đôi biếng nhác và thảnh thơi, rồi cô ấy kéo khuôn mặt tôi sát về phía mình và hôn tôi.

"Không được, Andie." Tôi thì thầm.

"Được mà, em cần anh." Cô ấy lại hôn tôi và trèo vào lòng tôi, rồi bước chân sang hai bên ngồi lên người tôi, chiếc váy cotton bị kéo lên quá đầu gối, một chiếc dép xỏ ngón của cô ấy rơi xuống nền nhà. "Nick, em đã lo lắng cho anh biết bao nhiêu. Em cần có cảm giác bàn tay anh vuốt ve cơ thể em, đó là tất cả những gì em đã nghĩ đến. Em sợ lắm."

Andie là một con người xác thịt, nhưng điều đó không có nghĩa rằng Tất cả chỉ có tình dục. Cô ấy là một người hay ôm ấp và đụng chạm, cô ấy thích luồn tay qua mái tóc của tôi hoặc vuốt ve dọc lưng tôi bằng một cái cào nhẹ nhàng gần gũi. Đụng chạm khiến cô ấy có cảm giác yên lòng và thoải mái. Và vâng, được rồi, cô ấy còn thích cả tình dục

nữa.

Chỉ một động tác giật nhanh và mạnh, cô ấy kéo tụt phần váy trên của mình xuống và đặt hai bàn tay của tôi lên bộ ngực của cô ấy. Sự ham muốn của một chú chó trung thành trong tôi nổi lên.

Anh chỉ muốn đè em xuống ngay thôi. Thiếu chút nữa tôi đã nói toạc ra. Anh là một người nồng ấm, tiếng vợ tôi lại văng vẳng bên tai. Tôi xua nó đi. Tôi đã quá mệt mỏi rồi, còn căn phòng thì đang chao đảo.

"Nick?" Môi dưới của cô ấy ướt nhoẹt nước bọt của tôi. "Gì vậy? Chúng ta không ổn sao anh? Có phải vì Amy không vậy?"

Andie lúc nào cũng thấy mình trẻ trung - hai mươi ba tuổi, hiển nhiên là cô ấy thấy mình trẻ trung rồi - nhưng ngay lúc đó tôi nhận ra cô ấy trẻ trung một cách kệch cỡm, một cách vô trách nhiệm và có phần thảm hại. Trẻ trung một cách hư hỏng. Mỗi khi nghe cô ấy nhắc đến tên vợ mình tôi lại thấy khó chịu. Mà cô ấy nhắc rất nhiều lần. Cô ấy thích bình luận về Amy, như thể Amy là nhân vật nữ chính trong bộ phim truyền hình đêm dài tập vậy. Andie chưa bao giờ coi Amy là đối thủ cả, mà luôn hình tượng hóa Amy. Lúc nào cô ấy cũng đặt ra các câu hỏi về cuộc sống của chúng tôi, về Amy: Hồi ở New York hai người đã làm gì, cụ thể là hai người thường làm gì vào cuối tuần? Có lần Andie đã tròn miệng khi nghe tôi kể về việc đi xem nhạc kịch. Hai người đi xem nhạc kịch cơ á? Chị ấy đã mặc gì vậy? Váy dài à? Choàng khăn hay mang áo lông thú? Còn trang sức và kiểu tóc thì sao? Thêm cả những câu hỏi: Bạn bè của Amy thì thế nào? Chúng ta đã nói về cái gì ấy nhỉ? Thực sự thì Amy trông như thế nào? Chị ấy có giống với cô gái trong những cuốn sách đó, có hoàn hảo không? Câu chuyện gối đầu giường yêu thích của Andie luôn là: Amy.

"Em yêu, em gái anh đang ở phòng bên kia. Đáng lẽ em không nên ở đây. Chúa ơi, anh muốn em ở đây biết bao nhiêu, nhưng thực sự em không nên đến đây, ôi em yêu. Hãy đợi cho đến khi chúng ta biết mình sẽ phải đối mặt với những gì."

Anh thật tài giỏi Anh thật dí dỏm Anh thật nồng ấm. Giờ thì hôn em đi!

Andie vẫn đang ở trên người tôi, bộ ngực để trần với hai nụ hoa cương lên trong hơi lạnh của điều hoà không khí.

"Ôi anh yêu, điều mà chúng ta đang phải đối mặt lúc này là em cần phải chắc chắn rằng quan hệ của hai ta vẫn ổn. Đó là tất cả những gì em cần." Cô ấy ép mình sát vào tôi, thật ấm áp và căng tràn sức sống. "Đó là tất cả những gì em cần. Làm ơn đi mà,

Nick, em bứt rứt lắm rồi. Em hiểu anh quá đi chứ: Em biết lúc này anh không muốn nói chuyện, tốt thôi. Nhưng em cần anh... cùng với em."

Tôi thực sự muốn hôn cô ấy, theo cái cách mà tôi hôn cô ấy lần đầu tiên: răng chúng tôi va vào nhau, cô ấy nghiêng đầu, mái tóc mơn man trên cánh tay tôi, một nụ hôn lưỡi ẩm ướt. Tôi chẳng thể nghĩ được điều gì khác ngoài nụ hôn đó, bởi ngoài việc nghĩ về nụ hôn này tuyệt vời đến thế nào thì nghĩ về bất cứ điều gì cũng thật nguy hiểm. Điều duy nhất ngăn tôi đưa cô ấy vào phòng ngủ lúc này không phải cảm giác sai trái - tuy rằng lúc nào cũng có rất nhiều sắc thái của mặc cảm tội lỗi - mà vì tình thế hiện giờ thực sự nguy hiểm.

Và bởi vì vẫn còn có Amy. Rốt cuộc thì Amy vẫn ở đó, giọng nói của cô ấy đã luôn văng vẳng bên tai tôi suốt nửa thập kỷ nay rồi, giọng nói của vợ tôi, giờ đây không còn là những lời nhiếc móc nữa, mà là những lời ngọt ngào âu yếm. Tôi ghét sự thực rằng chỉ ba lời nhắn nhủ nhẹ nhàng của vợ mình đã có thể khiến tôi ra nông nỗi này, yếu đuối và ủy mị.

Tôi hoàn toàn không được phép ủy mị.

Andie đang dò xét tôi, còn tôi thì băn khoăn tự hỏi liệu cảnh sát có theo dõi nhà của Go không, liệu tôi có nên nghe ngóng xem có ai gõ cửa không. Tôi có một cô nhân tình trẻ trung và vô cùng xinh đẹp.

Mẹ tôi luôn dặn dò con cái rằng: Nếu các con định làm điều gì mà các con muốn biết liệu đó có phải một ý tưởng tồi hay không, hãy tưởng tượng cảm giác khi thấy nó được in trên một tờ báo phát hành trên toàn thế giới.

Nick Dunne, một cựu nhà báo viết cho tạp chí vẫn bị tổn thương lòng tự trọng do đợt cắt giảm nhân sự năm 2010, đã nhận lời giảng dạy cho một lớp báo chí tại Trường cao đẳng sơ cấp Bắc Carthage. Người đàn ông lớn tuổi đã kết hôn này nhanh chóng lợi dụng vị thế của mình khi có một cuộc tình nóng bỏng với một trong những sinh viên trẻ dễ bị dụ dỗ của anh ta.

Tôi chính là sự hiện thân cho nỗi sợ hãi kinh khủng nhất của mọi nhà báo: sự khuôn sáo.

Giờ thì để tôi xâu chuỗi thêm những câu văn rập khuôn như vậy để tiêu khiển cho các

bạn nhé: Mọi chuyện đã từ từ xảy đến. Tôi không hề có ý làm tổn thương bất kỳ ai. Tôi đã đi xa hơn những gì tôi nghĩ. Nhưng mối quan hệ này còn hơn cả một cuộc tình thoáng qua. Hơn cả việc chỉ để nâng cao cái tôi của bản thân. Tôi thực sự yêu Andie. Tôi rất yêu cô ấy.

Lớp học mà tôi đang giảng dạy - "Làm thế nào để khởi đầu sự nghiệp báo chí" - có mười bốn sinh viên ở nhiều cấp độ kỹ năng. Tất cả đều là con gái. Tôi định nói là phụ nữ, nhưng tôi nghĩ con gái thì chính xác hơn. Tất cả bọn họ đều muốn làm việc cho các tạp chí. Không phải những tạp chí với giấy in nhem nhuốc, mà là những tờ tạp chí in giấy bóng bẩy. Bọn họ đã xem bộ phim đó: Bọn họ hình dung mình chạy vòng quanh khu Manhattan, một tay cầm cốc cà phê latte, tay kia cầm chiếc điện thoại, và làm gãy gót giày cao gót của mình một cách đáng yêu trong khi đang vẫy taxi, và rồi ngã vào vòng tay của một anh chàng là bạn tâm giao quyến rũ và cởi mở với mái tóc mềm mại đầy lôi cuốn. Bọn họ chẳng hề hay biết rằng lựa chọn học chuyên ngành này là ngu ngốc và dốt nát như thế nào. Tôi đã dự định nói với họ rất nhiều, về chính sự mất việc của tôi như một câu chuyện cảnh báo. Tuy rằng tôi không hề thích trở thành một hình tượng bi thương chút nào. Tôi hình dung mình kể chuyện một cách thờ ơ, bông đùa - chẳng có gì to tát. Dành nhiều thời gian hơn cho cuốn tiểu thuyết của mình.

Và rồi tôi dành buổi học đầu tiên trả lời rất nhiều câu hỏi đáng sợ, và tôi đã biến thành một tên ba hoa tự cao tự đại, một tên khốn cần sự ngưỡng mộ, đến nỗi tôi không dám nói sự thật, rằng mình đã bị gọi vào phòng của chủ bút và bị cắt giảm nhân sự vòng hai, lê bước trở ra trên quãng đường bi đát đó xuôi theo một hàng dài những vách ngăn ô làm việc, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía tôi, một xác chết đang lê bước, vẫn đang hy vọng rằng mình sẽ nhận được thông báo về một điều gì đó khác - rằng tạp chí cần tôi lúc này hơn bao giờ hết - đúng vậy! Đó sẽ là một lời nói động viên, một bài diễn thuyết kêu gọi sự cống hiến! Nhưng không, ông chủ của tôi chỉ nói: Tôi đoán là anh đã biết, rất không may là, tại sao tôi lại gọi anh vào đây. Rồi ông ấy dụi đôi mắt bên dưới cặp kính để thể hiện rằng ông ấy đã mệt mỏi và chán nản đến mức nào.

Tôi muốn có cảm giác của một kẻ chiến thắng điềm tĩnh và bóng bẩy, vì thế tôi đã không kể cho sinh viên nghe về thất bại của mình. Tôi nói với bọn họ rằng gia đình tôi gặp khó khăn và cần sự chăm sóc của tôi, điều này đúng, vâng, tôi tự dặn lòng mình vậy, hoàn toàn đúng sự thật, và mới anh hùng làm sao. Rồi Andie xinh đẹp với những nốt tàn nhang ngồi cách vài bước chân ngay trước mặt tôi, đã mở to đôi mắt xanh biếc phía bên dưới những lọn tóc màu chocolate kia, với đôi môi mềm mại he hé mở, bộ ngực thật và lớn một cách lố bịch, đôi chân và đôi cánh tay thon dài - một cô gái gợi tình khủng khiếp, tôi phải thừa nhận như vậy, và hoàn toàn khác với người vợ thanh lịch cao quý của tôi. Từ Andie tỏa ra hơi nóng của cơ thể và mùi hoa oải hương khi đang gõ gõ những dòng ghi chú vào máy tính xách tay của mình, rồi đặt câu hỏi bằng chất giọng khàn khàn "Làm thế nào để người cung cấp thông tin đặt niềm tin và cởi mở với thầy ạ?" Và ngay tức thì, tôi đã nghĩ: Cô gái này từ nơi chết tiệt nào rơi xuống vậy? Đùa à?

Bạn tự hỏi mình rằng Tại sao? Tôi lúc nào cũng chung thủy với Amy. Tôi là kiểu đàn ông sẽ sớm rời quán bar nếu có một người phụ nữ tán tỉnh quá mức, nếu sự đụng chạm của cô ta mang lại cảm giác quá tuyệt vời. Tôi không phải là kẻ bội tình. Tôi (đã từng?) không thích những kẻ bội tình: dối trá, đáng khinh, tầm thường và hư hỏng. Tôi chưa từng bị quyến rũ. Nhưng đó là khi tôi còn hạnh phúc. Tôi ghét khi phải nghĩ rằng mình có câu trả lời dễ dàng đến thế, nhưng cuộc sống của tôi đã từng rất hạnh phúc, và giờ không còn như vậy nữa. Trong khi Andie ở đó, nán lại sau giờ học, đặt những câu hỏi về tôi mà Amy chưa từng hỏi, ít nhất là gần đây. Điều đó khiến tôi có cảm giác mình là một người đàn ông quan trọng, chứ không phải một tên ngốc bị mất việc, một gã đần độn quên không hạ nắp bệ toilet, một gã khờ không bao giờ có thể làm đúng, bất cứ một điều gì.

Có một hôm Andie đã mang cho tôi một quả táo. Quả Táo Mọng Đỏ (đó sẽ là tựa đề cho cuốn hồi ký về cuộc tình vụng trộm của chúng tôi, nếu tôi có ý định viết một cuốn như thế). Cô ấy nhờ tôi xem qua câu chuyện của cô ấy. Đó là sơ lược tiểu sử của một vũ công thoát y ở câu lạc bộ St. Louis, và nó giống như một mẩu tin trên Diễn đàn Phòng gác mái vậy. Khi tôi đang đọc thì Andie bắt đầu ăn quả táo của tôi, nhoài người qua vai tôi, và nước táo đọng lại một cách ngớ ngẩn trên môi cô ấy. Tôi đã nghĩ Khỉ thật, cô gái này đang cố quyến rũ mình, rồi sửng sốt một cách ngốc nghếch, như thể một Benjamin Braddock đã già nua.

Và nó có hiệu quả. Tôi bắt đầu nghĩ về Andie như một lối thoát và một cơ hội. Một sự lựa chọn. Tôi về nhà và thấy Amy đang cuộn tròn trên ghế sofa, đăm đăm nhìn vào tường, im lặng, và không bao giờ mở lời trước với tôi, mà luôn chỉ chờ đợi một trò chơi để phá tan bầu không khí sống sượng vô tận đó. Một thách thức tâm lý không thôi - điều gì có thể khiến Amy hôm nay vui vẻ được nhỉ? Tôi nghĩ: Andie sẽ không làm thế. Cứ như thể tôi hiểu Andie lắm. Andie sẽ cười vào trò đùa đó, Andie sẽ thích câu chuyện đó. Andie là một cô gái Ireland với bộ ngực lớn, xinh đẹp, tốt bụng, và là đồng hương với tôi, một người khiêm tốn và vui vẻ. Andie ngồi ở hàng ghế đầu trong lớp, trông cô ấy lúc nào cũng nhẹ nhàng và luôn chú ý.

Khi nghĩ về Andie, ruột gan tôi không thắt lại như khi nghĩ về vợ mình - một nỗi sợ hãi khôn nguôi khi phải trở về chính ngôi nhà thân yêu, nơi mà tôi không được chào đón.

Tôi bắt đầu hình dung chuyện có thể diễn ra như thế nào. Tôi bắt đầu thèm khát sự đụng chạm của cô ấy - chính thế đấy, như vậy đấy, giống như lời một bài hát ngớ ngẩn từ thập niên 80 - tôi thèm khát sự đụng chạm của cô ấy, nói chung tôi thèm khát được đụng chạm, bởi vợ tôi đã lảng tránh tôi: Ở nhà cô ấy chỉ lướt qua tôi như một chú cá, rồi trôi tuột vào một khoảng xa cách dù ở trong nhà bếp hay trên cầu thang. Chúng tôi ngồi lặng im trên hai chiếc sofa xem tivi, tách biệt như thể đó là những chiếc bè cứu sinh vậy. Khi ở trên giường, cô ấy quay lưng về phía tôi, đẩy chăn và ga trải giường ngăn cách ở giữa. Có lần tôi tỉnh dậy trong đêm, biết rằng cô ấy đang ngủ, nên tôi đã tuột dây áo ngủ của cô ấy sang một bên, rồi áp má và đặt lòng bàn tay của mình lên bờ vai trần của cô ấy. Đêm đó tôi không tài nào ngủ tiếp được. Tôi quá ghê tởm bản thân mình. Tôi đã ra khỏi giường và thủ dâm trong phòng tắm, tưởng tượng ra Amy với ánh mắt cuồng dại mà cô ấy từng nhìn tôi, đôi mắt với bờ mi đầy sáng trong đó đã kích thích tôi, khiến tôi cảm thấy mình như được tận thấu. Khi đã xong, tôi ngồi vào bồn tắm và nhìn chăm chăm vào đường ống nước dẫn qua chiếc vòi xịt. "Cậu nhỏ" của tôi nằm vật sang một bên dọc theo đùi trái một cách thảm hại, như thể một con vật nhỏ bé nào đó vừa mới trôi dạt vào bờ. Tôi ngồi bệt xuống đáy bồn, bẽ bàng và cố không khóc.

Vậy là chuyện đã xảy ra. Vào một trận bão tuyết kỳ lạ và đột ngột đầu tháng Tư. Không phải tháng Tư năm nay, mà là tháng Tư năm ngoái.Tôi làm việc một mình trong quán bar vì Go đang phải chăm mẹ. Chúng tôi thay phiên nhau nghỉ làm, ở nhà với mẹ và cùng xem vài chương trình tivi ngớ ngẩn. Mẹ chúng tôi đã ra đi quá nhanh, bà đã không gắng gượng được cho đến hết năm, thậm chí còn không được gần đến mức như thế.

Thực ra tại thời điểm đó tôi cảm thấy rất ổn, khi mẹ tôi và Go đang ngồi bên nhau xem một bộ phim về bãi biển Annette Funicello, còn Quán Bar đã có một đêm náo nhiệt và bận rộn, một trong những đêm tuyệt vời khi mọi người đến đây. Những cô gái xinh đẹp đều tử tế với các anh chàng chất phác. Mọi người mời rượu những người xa lạ chỉ vì họ thích thế. Cứ như một ngày hội vậy. Và rồi kết thúc buổi tối, đến lúc đóng cửa, mọi người đều ra về. Tôi đang chuẩn bị tra khóa vào ổ thì Andie đẩy cánh cửa bật mở và bước vào, gần như nhảy lên người tôi, và tôi có thể ngửi thấy vị ngọt ngào thoang thoảng mùi bia trong hơi thở của cô ấy, mùi của khói bếp củi trên mái tóc của cô ấy. Tôi đã sững lại trong khoảnh khắc choáng váng ấy, đó là khi bạn đang cố hình dung một người mà bạn chỉ gặp gỡ trong một bối cảnh duy nhất, giờ lại xuất hiện trong một khung cảnh khác. Andie ở Quán Bar. Được rồi. Cô ấy cười phá lên, tiếng cười của một nữ cướp biển và đẩy tôi lùi lại vào trong.

"Em vừa có một cuộc hẹn tồi tệ khủng khiếp, và thầy phải uống với em." Những bông tuyết vương trên từng nếp tóc gợn sóng tối màu của cô ấy, những đốm tàn nhang bừng lên thật ngọt ngào, đôi má ửng hồng như thể ai đó đã tát cô ấy đến hai lần vậy. Cô ấy có chất giọng tuyệt vời đó, thứ âm thanh nghe mơ hồ như tiếng vịt con, mới đầu thì dễ thương vô cùng, sau lại cực kỳ gợi cảm. "Thầy Nick, làm ơn đi, em phải đẩy ngay mùi vị của cuộc hẹn tồi tệ này ra khỏi miệng mình."

Tôi nhớ là chúng tôi đã cười vang, và tôi cảm thấy thật thoải mái khi ở bên một phụ nữ và được nghe tiếng cười của cô ấy. Andie mặc quần jeans và áo cashmere cổ chữ V, cô ấy là một trong những cô gái mặc jeans đẹp hơn mặc váy. Nét mặt, thân hình đều tự nhiên đến hoàn hảo. Tôi đứng sau quầy bar, cô ấy thả mình lên chiếc ghế trước quầy rồi đưa mắt dò xét những chai rượu ở phía sau tôi.

"Cô muốn dùng gì, thưa quý cô?"

"Hãy làm em ngạc nhiên xem nào." Cô ấy nói.

"Phản đối." Tôi chu môi nói như đang gửi một nụ hôn.

"Giờ thì hãy làm em ngạc nhiên bằng một ly rượu đi." Cô ấy ngả người về phía trước,

tựa phần thân trên của mình vào quầy bar khiến bầu ngực bị đẩy lên. Cô ấy đeo một sợi dây chuyền mảnh bằng vàng có mặt đá quý, chiếc mặt đá lọt vào giữa khe ngực, ẩn sâu bên dưới chiếc áo len chui đầu. Đừng có trở thành gã đàn ông đó, tôi tự nhủ. Gã đàn ông đang khao khát nơi chiếc mặt đá kia đang ngự trị.

"Em thích mùi vị thế nào?" Tôi hỏi.

"Bất cứ thứ gì thầy đưa, em đều thích."

Câu nói ấy đã thu hút tôi, chỉ bởi sự giản đơn của nó. Rằng tôi có thể làm một điều gì đó và nó khiến cho một phụ nữ cảm thấy hạnh phúc, và điều đó thật dễ dàng làm sao. Bất cứ thứ gì thầy đưa, em đều thích. Tôi có cảm giác nhẹ nhõm ngập tràn trong lòng mình. Và rồi nhận ra tôi không còn yêu Amy nữa.

Tôi không còn yêu vợ tôi nữa, tôi vừa nghĩ vừa quay sang cầm lấy hai chiếc bình lắc. Thậm chí không còn một chút nào nữa. Tôi đã lau sạch dấu vết tình yêu, hoàn toàn sạch sẽ. Tôi làm thứ đồ uống ưa thích của mình có tên là Buổi sáng Giáng sinh, được làm từ cà phê nóng và rượu schnapps bạc hà lạnh. Tôi uống với cô ấy một ly, và khi cô ấy khẽ rùng mình và bậ̣t cười - một tiếng cười giòn tan - tôi rót cho chúng tôi một lượt nữa. Chúng tôi uống với nhau thêm chừng một tiếng đồng hồ sau giờ đóng cửa, và tôi nhắc đến từ vợ ba lần, bởi tôi đang nhìn Andie và mường tượng cô ấy không một mảnh vải che thân. Một sự cảnh báo rằng đó là điều tối thiểu tôi có thể làm: Tôi có vợ rồi. Em làm gì thì làm.

Cô ấy ngồi trước mặt tôi, tay chống cằm và mỉm cười.

"Đi bộ cùng em về nhà chứ?" Cô ấy nói. Andie đã có lần nhắc đến việc cô ấy sống gần trung tâm thành phố, rằng cô ấy muốn một tối nào đó sẽ ghé qua Quán Bar và chào tôi, mà cô ấy đã nhắc đến việc cô ấy sống gần trung tâm thành phố đến thế nào chưa nhỉ? Trí óc tôi như đã được chỉ dẫn: Rất nhiều lần trong tâm trí mình, tôi đã dạo qua một vài khu nhà để đến trước khu chung cư bằng gạch xây không trát đó, nơi cô ấy đang sống. Chính vì vậ̣y, kể cả khi bỗng nhiên bước chân ra khỏi cửa và đưa cô ấy về nhà, với tôi dường như điều đó chẳng có gì xa lạ - không hề có tiếng chuông cảnh báo nhắc nhở tôi rằng: Điều này thật không bình thường, chúng ta không làm thế này.

Tôi đi bộ cùng cô ấy về nhà, ngược chiều gió và tuyết bay ngập không gian. Tôi giúp cô ấy cuốn lại chiếc khăn len màu đỏ, một vòng, hai vòng, rồi đến vòng thứ ba, tôi cài chiếc khăn cho cô ấy thật gọn gàng, và khuôn mặt chúng tôi gần sát nhau, hai má cô ấy ửng hồng rạng rỡ như trong ngày Giáng sinh, và đây là điều có thể không bao giờ xảy ra trong hàng trăm những đêm khác, nhưng đêm hôm đó lại có thể. Trò chuyện, chếnh choáng say, gió bão, và chiếc khăn quàng.

Cùng lúc, cả hai chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Tôi đẩy cô ấy tựa vào một thân cây để giữ thăng bằng, cành cây khẳng khiu làm rơi một ụ tuyết lên người chúng tôi, một

khoảnh khắc tuyệt đẹp và khôi hài chỉ khiến tôi càng muốn được chạm vào cô ấy, chạm vào mọi thứ cùng một lúc, một tay luồn vào trong phía bên trên chiếc áo len chui đầu, tay còn lại ở giữa hai chân cô ấy. Và cô ấy đã để tôi làm vậy.

Rồi cô ấy giằng mình ra khỏi tôi và hai hàm răng va vào nhau lập cập. "Lên nhà với em."

Tôi sững người.

"Lên nhà với em đi." Cô ấy nhắc lại. "Em muốn được ở bên anh."

Cuộc làm tình không tuyệt vời cho lắm, nhất lại là lần đầu tiên. Cơ thể của hai chúng tôi vốn đã quen với những nhịp điệu khác nhau, chưa từng hiểu về nhau cả, trong khi đã từ lâu rồi tôi không gần gũi một phụ nữ. Tôi đạt cực khoái trước, rất nhanh, nhưng vẫn tiếp tục chuyển động, trong ba mươi giây quyết định thì tôi bắt đầu mềm dần bên trong cô ấy, chỉ đủ lâu để cô ấy cảm thấy được quan tâm trước khi tôi hoàn toàn kiệt sức.

Thật thích, nhưng vẫn đáng thất vọng khi không lên được tới đỉnh, đó hẳn là cảm giác của các cô gái khi từ bỏ sự trinh trắng của mình: Đây là tất cả những gì mà người ta vẫn hay nói sao? Nhưng tôi thích cách cô ấy quấn mình quanh tôi, và tôi thích thú nhận ra cô ấy quả là mềm mại như tôi đã hình dung. Làn da mới mẻ. Tươi trẻ, tôi nghĩ một cách hổ thẹn khi hình dung đến Amy và cách thoa kem dưỡng da thường ngày của cô ấy, ngồi trên giường và vỗ đều những lớp kem một cách giận dữ.

Tôi bước vào phòng tắm của Andie, tiểu tiện và nhìn mình trong gương, rồi buộc bản thân phải lên tiếng: Mày là một thằng phản bội. Mày vừa mới thi trượt một trong những bài kiểm tra căn bản nhất của bọn đàn ông. Mày không phải là một thằng tử tế. Và khi ngay cả điều đó cũng không hề khiến tôi thấy khó chịu, tôi đã nghĩ: Mày thực sự không phải một thằng đàn ông tử tế chút nào.

Điều kinh hoàng nhất là, nếu cuộc làm tình không mê mẩn quá mức đến thế, thì có thể đó chỉ là hành động vô ý của mình tôi mà thôi. Nhưng mọi thứ chỉ ở mức ổn, mà giờ thì tôi đã là một tên phản bội mất rồi. Tôi không thể hủy hoại danh tiếng thủy chung của mình vì một thứ gì đó chỉ ở tầm trung bình thế này. Vì vậy tôi biết là sẽ có lần tiếp theo. Tôi không hề hứa với bản thân mình rằng sẽ không còn lần nào nữa. Và rồi lần tiếp theo quả thực rất, rất tuyệt, và lần sau đó nữa thì vô cùng tuyệt vời. Andie đã nhanh chóng trở thành một sự đối lập dễ chịu về thể xác với mọi thứ của Amy. Cô ấy cười với tôi và làm tôi cười, cô ấy không ngay lập tức phản bác hay nghi hoặc tôi. Cô ấy không bao giờ cau có với tôi. Cô ấy thật dễ chịu. Mọi thứ đều vô cùng dễ chịu. Và tôi nghĩ: Tình yêu khiến bạn muốn trở thành một người đàn ông tốt hơn - điều đó đúng, rất đúng. Nhưng có lẽ tình yêu, tình yêu thật sự, còn cho phép bạn sống đúng với bản thân mình.

Tôi đã định nói với Amy. Tôi hiểu rằng sẽ phải có việc đó. Nhưng tôi đã tiếp tục không nói với Amy, hết tháng này qua tháng khác. Và rồi thêm nhiều tháng nữa. Chủ yếu là vì hèn nhát. Tôi không chịu nổi cuộc nói chuyện đó, để phải phân bua về bản thân mình. Tôi không thể tưởng tượng sẽ phải bàn luận vấn đề ly hôn với Rand và Marybeth, bởi chắc chắn họ sẽ tham gia vào cuộc tranh cãi. Nhưng một phần nữa, thực lòng mà nói, đó chính là bởi bản chất chủ nghĩa thực dụng của tôi - khá là lố bịch khi tôi thực dụng đến thế nào. Tôi chưa đề nghị Amy ly hôn một phần vì Amy đã bỏ vốn vào Quán Bar. Về cơ bản, cô ấy sở hữu nó, và lẽ dĩ nhiên cô ấy sẽ lấy lại nó. Và tôi sẽ không thể chịu nổi khi phải nhìn cô em gái sinh đôi của mình sẽ phải tỏ ra can đảm khi phải mất thêm vài năm nữa trong cuộc đời mình. Vì vậy tôi đã để cho mình bị cuốn vào tình thế khổ sở này, mong rằng đến một lúc nào đó Amy sẽ chủ động, sẽ đòi ly hôn, và khi đó tôi sẽ đóng vai một gã đàn ông tử tế.

Niềm khao khát đó - được thoát khỏi tình thế này mà không phải gánh chịu trách nhiệm - quả thực đáng khinh. Càng trở nên đáng khinh, tôi càng thèm khát Andie, người biết rằng tôi không xấu xa như vẻ bề ngoài, giả như câu chuyện của tôi có được phát hành trên báo để những người xa lạ chiêm ngẫm. Amy sẽ ly hôn với mày thôi, tôi luôn nghĩ như vậy. Cô ấy không thể để tình hình này kéo dài lâu hơn nữa. Nhưng khi xuân qua và hè đến, rồi thu sang, và đông tới, tôi trở thành thằng đàn ông phản bội ở tất cả các mùa - quan hệ vụng trộm với một cô nhân tình lúc nào cũng nôn nóng một cách dễ thương - tình thế rõ ràng đã đến lúc một việc nào đó sẽ phải được giải quyết.

"Ý em là, em yêu anh, Nick." Giọng nói của Anide, đang ở đây, thật không thể tin nổi, trên chính chiếc sofa này của em gái tôi. "Dù chuyện gì có xảy ra đi nữa. Em thực sự không biết phải nói gì khác, em thấy khá là..." Cô ấy giơ hai tay lên. "Ngớ ngẩn."

"Đừng cảm thấy ngớ ngẩn." Tôi nói. "Anh cũng không biết phải nói gì. Chẳng có gì để nói cả."

"Anh có thể nói anh yêu em cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa."

Tôi thầm nghĩ: Anh không thể thốt ra những lời đó được nữa rồi. Tôi đã nói điều này một hay hai lần, lầm rầm bên cổ cô ấy, khi đó tôi có cảm giác nhớ nhà vì một điều gì đó. Nhưng những lời ấy thì đã nói rồi, và có nói nhiều hơn nữa thì cũng thế mà thôi. Rồi tôi nghĩ đến những dấu tích chúng tôi đã để lại, một cuộc tình vụng trộm luôn bận rộn và sơ hở, mà tôi đã không bận tâm đầy đủ đến nó. Nếu tòa nhà của cô ấy có máy quay an ninh, tôi sẽ bị ghi hình. Tôi đã mua một chiếc điện thoại có thẻ dùng một lần chỉ để gọi cho Andie, nhưng thư thoại và tin nhắn đều được gửi đến điện thoại cố định của cô ấy. Tôi đã viết cho cô ấy một tấm thiệp tục tĩu nhân ngày lễ Tình yêu, đến mức tôi có thể hình dung nó phủ kín trang nhất trên các tờ báo, khi tôi gieo vần mê muội với âm hộ. Và nữa: Andie mới hai mươi ba tuổi, nên tôi cho là những lời nói của mình, thư thoại, và thậm chí là những bức ảnh của tôi đều được ghi lại bằng những thiết bị điện tử khác nhau. Một đêm nọ, tôi đã xem lướt qua những bức ảnh trong điện thoại của cô ấy, bởi cảm giác ghen tuông, muốn sở hữu, và tò mò. Rồi tôi thấy rất nhiều ảnh của một hay hai anh bồ cũ đang hãnh diện cười trên chiếc giường của cô ấy, và tôi nghĩ đến một lúc nào đó tôi cũng gia nhập nhóm này thôi - tôi khá là muốn gia nhập nhóm này - và vì lý do nào đó tôi không cảm thấy lo lắng, cho dù những bức ảnh đó có thể được tải về và gửi tới một triệu người trên thế giới này chỉ trong một giây phút muốn trả thù.

"Tình thế hiện giờ cực kỳ rối, Andie à. Anh cần em nhẫn nại thêm một chút."

Cô ấy đẩy người ra khỏi tôi. "Anh không thể nói anh yêu em cho dù có chuyện gì xảy ra hay sao?"

"Anh yêu em, Andie. Anh yêu em mà." Tôi nhìn vào mắt cô ấy. Nói Anh yêu em lúc này khá mạo hiểm, nhưng không nói thì cũng thế mà thôi.

"Vậy thì làm tình với em đi." Cô ấy thì thầm và bắt đầu giật mạnh thắt lưng của tôi.

"Lúc này chúng ta phải thực sự thận trọng. Anh... Đây là nơi rất, rất không hay đối với anh, nếu cảnh sát mà biết chuyện của chúng ta. Xem ra còn hơn cả không hay ấy chứ."

"Đó là điều mà anh đang lo lắng à?"

"Anh là người đàn ông đang có vợ mất tích và còn có một… cô bạn gái bí mật nữa. Quả thực, nghe có vẻ tệ thật. Cứ như là tội phạm vậy."

"Điều đó có vẻ như trái đạo đức vậy." Ngực cô ấy vẫn lộ ra ngoài.

"Mọi người không hiểu chúng ta, Andie. Họ sẽ nghĩ đó là trái đạo đức."

"Trời ạ, cứ như bộ phim đen tệ hại nào ấy."

Tôi cười. Tôi là người đã chỉ cho Andie về phim đen - về Bogart và Giấc ngủ sâu, Bồi thường gấp đôi, tất cả đều là những tác phẩm kinh điển. Đó là một trong những điều tôi thích nhất về quan hệ của hai chúng tôi, rằng tôi có thể cho cô ấy xem mọi thứ.

"Tại sao chúng ta không nói với cảnh sát?" Cô ấy hỏi. "Không phải như vậy sẽ tốt hơn..."

"Không được. Andie, đừng có nghĩ đến việc đó. Không được."

"Họ sẽ phát hiện ra..."

"Tại sao? Làm sao họ có thể biết được? Em đã kể với bất kỳ ai về chúng ta chưa đấy, em yêu?"

Cô ấy nhìn tôi tức tối. Tôi thấy thật tệ: Đây không phải điều mà cô ấy nghĩ sẽ diễn ra đêm nay. Cô ấy đã rất hào hứng khi gặp được tôi, cô ấy đã hình dung một sự đoàn tụ đầy đam mê, một sự an tâm về ham muốn thể xác, còn tôi chỉ bận che đuôi mình.

"Anh xin lỗi, em yêu, anh chỉ muốn biết thôi." Tôi nói.

"Họ không biết tên anh."

"Không biết tên, ý em là sao?"

"Ý em là…" Cô ấy nói, và rốt cuộc cũng kéo quai váy lên. "…Bạn bè em, mẹ em, họ biết em đang hẹn hò với ai đó, nhưng không biết tên anh."

"Và không có bất cứ mô tả gì về anh đấy chứ, đúng không?" Giọng tôi thúc giục hơn tôi muốn, có cảm giác như tôi đang chống đỡ trần nhà sắp đổ sập xuống vậy. "Chỉ có hai người biết chuyện này thôi, Andie nhé. Em và anh. Nếu em giúp anh, nếu em yêu anh, thì sẽ chỉ có hai chúng ta biết mà thôi, và khi đó cảnh sát sẽ không bao giờ phát hiện ra được."

Cô ấy đưa ngón tay dọc theo quai hàm của tôi. "Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như - nếu như họ không bao giờ tìm được Amy?"

"Em và anh, Andie à, chúng ta sẽ ở bên nhau cho dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Nhưng chỉ khi chúng ta thận trọng. Nếu chúng ta không thận trọng, có thể - tình thế đủ xấu đến mức anh có thể phải ngồi tù."

"Có thể chị ấy đã bỏ trốn cùng ai đó." Andie vừa nói vừa kề má vào vai tôi. "Có thể..."

Tôi có thể cảm nhận được những suy nghĩ kiểu con gái của cô ấy đang rì rầm, biến sự mất tích của Amy thành một câu chuyện tình lãng mạn phù phiếm và tai tiếng, lờ đi bất cứ thực tế nào không phù hợp với câu chuyện đó.

"Cô ấy không bỏ trốn. Chuyện nghiêm trọng hơn thế." Tôi đặt một ngón tay dưới cằm để cô ấy phải nhìn lên tôi. "Andie? Anh cần em nhìn nhận một cách nghiêm túc về chuyện này, được chứ?"

"Đương nhiên là em nhìn nhận sự việc một cách nghiêm túc rồi. Nhưng em cần được nói chuyện với anh thường xuyên hơn. Được nhìn thấy anh. Em sợ, Nick ạ."

"Lúc này chúng ta chỉ cần ngồi yên là được." Tôi nắm chặt hai vai cô ấy, buộc cô ấy phải nhìn mình. "Vợ anh đang mất tích, Andie."

"Nhưng anh thậm chí còn không..."

Tôi biết điều cô ấy định nói gì - anh thậm chí còn không yêu chị̣ ấy - nhưng cô ấy đủ khôn ngoan để ngừng lại.

Cô ấy vòng tay ôm lấy tôi. "Xem này, em không muốn tranh cãi. Em hiểu là anh quan tâm đến Amy, và em biết anh thực sự đang lo lắng. Em cũng vậy. Em biết anh đang bị... Em không thể tưởng tượng nổi áp lực đó. Vì vậy em không thấy vấn đề gì với việc phải cư xử kín đáo hơn trước đây, nếu có thể. Nhưng anh phải nhớ là sự việc này cũng ảnh hưởng tới em nữa. Em cần được biết tin tức của anh. Mỗi ngày một lần. Hãy gọi khi nào anh có thể, thậm chí chỉ trong vài giây thôi, để em có thể nghe được giọng nói của anh. Mỗi ngày một lần, Nick nhé. Hàng ngày. Không thì em sẽ phát điên lên mất. Em sẽ phát điên đấy."

Cô ấy mỉm cười với tôi và thì thầm. "Giờ thì hôn em đi."

Tôi hôn cô ấy rất nhẹ nhàng.

"Em yêu anh." Cô ấy nói, và tôi hôn lên cổ của cô ấy, miệng lầm rầm đáp lại. Chúng tôi ngồi trong im lặng, tivi vẫn nhấp nháy sáng.

Tôi nhắm mắt lại. Giờ thì hôn em đi, ai đã từng nói điều đó vậy?

Tôi lơ mơ tỉnh dậy khi mới hơn năm giờ sáng. Go dậy rồi, tôi có thể nghe thấy tiếng con bé vọng lại qua hành lang, đang xả nước trong phòng tắm. Tôi lay Andie - Năm giờ, năm giờ rồi - với những lời hứa hẹn yêu đương và sẽ gọi điện, tôi vội vàng xô cô ấy về phía cửa như thể người tình một đêm đáng xấu hổ.

"Anh nhớ nhé, hàng ngày phải gọi cho em đấy." Andie thầm thì.

Tôi nghe thấy tiếng cửa phòng tắm bật mở.

"Hàng ngày." Tôi đáp lại, nấp sau cánh cửa khi hé nó mở ra và Andie rời khỏi.

Khi tôi quay lưng lại, Go đang đứng ở phòng khách. Con bé há hố́c mồm sửng sốt, nhưng tất cả những phần còn lại trên cơ thể đều đang trong trạng thái đầy phẫn nộ: tay chống nạnh, lông mày cau lại hình chữ V.

"Nick, anh là đồ ngu."
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom