Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
715,529
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Đêm Thao Thức

Đêm Thao Thức
Tác giả: Jayne Ann Krentz
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Đêm, trên nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ, có hai kẻ trằn trọc không sao ngủ được…

Mười bảy năm trước, cô bé Irene Stenson trở về nhà sau một buổi đi chơi khuya, để rồi bàng hoàng thấy bố mẹ mình nằm chết trên sàn bếp. Giờ đây, khi bất ngờ nhận được manh mối chấn động về hai cái chết vẫn bám riết nàng trong những cơn mơ, Irene quyết tìm cho ra sự thật. Và lần này nàng không đơn độc. Luke Danner – một cựu lính thủy quân lục chiến chỉ quen thói nạt nộ, cũng như Irene quen thói tảng lờ - đã nhìn thấu nỗi sợ hãi ẩn dưới vẻ ngoài tự tin của Irene, và không cưỡng được ham muốn bảo vệ nàng. Khi cả hai cuốn vào nhau giữa tâm điểm của hiểm nguy và những bí mật rúng động nơi thị trấn Dunsley, họ phải chạm trán với cơn ác mộng còn rùng rợn hơn những gì họ từng trải.

Đến từ tác giả của hàng chục đầu sách bán chạy nhất theo xếp hạng của tờ New York Times, Đêm thao thức xứng đáng là một thiên tiểu thuyết lãng mạn cực kỳ sống động, pha trộn tài tình giữa đam mê và vụ án ở một thị trấn bé nhỏ song không hề yên bình.
 
Sửa lần cuối:
Chương 1


Mười bảy năm trước...

Căn nhà ở cuối con đường mòn tràn ngập đêm đen và bóng tối.

Có gì không ổn rổi, Irene nhủ thầm. Bố mẹ luôn để đèn sáng cho cô cơ mà.

“Đừng giận nhé Irene.” Pamela dừng xe ngay lối chạy vào nhà. Ánh đèn pha của chiếc xe mui trần rọi sáng rực một khoảng ngắn chiếu vào dãy cây linh sam ken dày khum khum bên hông nhà. “Chỉ đùa thôi mà, được chưa? Này, trông kìa, trong nhà cậu đèn đóm tắt hết. Ông bà già cậu ngủ cả rồi. Hai người sẽ chẳng hay là cậu về nhà sau giờ cấm đâu.”

Irene đẩy cửa xe lồm cồm leo ra. “Bố mẹ tớ sẽ biết thôi. Cậu làm hỏng hết mọi chuyện rồi.”

“Thế thì thưa với ông bà là do lỗi của tớ,” Pamela nói bừa. “Tớ quên hết cả khái niệm về thời gian.”

“Là lỗi của tớ kia. Tớ đã phạm sai lầm vì quá tin rằng cậu thực sự là bạn tớ. Tớ cứ tưởng có thể tin cậy được cậu. Ông bà già tớ chỉ có hai quy định thôi. Không ma túy và không được lái xe qua bên kia hồ.”

“Tha cho tớ đi. Tối nay cậu mới chỉ phạm có một luật chứ mấy.” Dưới ánh sáng hắt lên từ mặt đồng hồ điều khiển trong xe, nụ cười của Pamela thật rạng rỡ. “Tớ thậm chí còn không có ma túy trong xe cơ mà.”

“Lẽ ra chúng ta không được phép đi ra ngoài thị trấn, và cậu biết điếu đó. Cậu chỉ mới lấy được bằng lái xe thôi. Bố tớ bảo cậu chưa có nhiều kinh nghiệm cầm lái lắm đâu.”

“Thì tớ đã đưa cậu về đến nhà an toàn không sứt mẻ gì hết, phải không nào ?”

“Vấn đề không phải thế, mà cậu cũng thừa biết rồi. Tớ đã hứa với bố mẹ rồi cơ mà.”

“Cậu ngoan quá nhỉ.” Giọng Pamela đầy vẻ khinh khi và cáu tiết. “Thế chẳng khi nào cậu phát ngấy vì phải nhất nhất tuân theo quy định sao ?”

Irene lùi lại một bước. “Đấy có phải là mục đích mọi chuyện tối nay không? Cậu muốn thử xem có khiến tớ vi phạm luật lệ được hay không chứ gì? Này, vậy thì cậu thành công rồi đấy, nên hy vọng cậu vừa lòng. Đây sẽ là lần cuối cùng cậu và tớ làm chuyện gì đó cùng nhau. Nhưng chắc đấy chính là điều cậu muốn, nhỉ? Ngủ ngon nhé, Pamela.”

Irene quay lưng bước về phía căn nhà tối om, thò tay lục lọi trong túi xách tìm chìa khóa nhà.

“Irene, chờ đã nào...”

Irene tảng lờ bạn. Tay đã nắm sẵn chìa khóa, cô bé vội vã bước đến cửa trước. Bố mẹ cô rồi sẽ giận lắm đây. Họ sẽ cấm cửa cô cả đời mất, hay ít nhất cũng là cấm ra khỏi nhà hết mùa hè này.

“Thôi được, cứ việc như thế đi,” Pamela gọi với theo sau. “Cứ quay về với cuộc đời gái ngoan không lầm lỡ buồn chán và cái gia đình nhỏ hoàn hảo tẻ ngắt của cậu đi. Lần tới nếu phải chọn một người bạn thân thì tớ sẽ chọn đứa nào biết chơi bời cho vui vẻ vào.”

Pamela nhanh chóng lái xe đi. Khi ánh đèn pha của chiếc mui trần khuất hẳn, Irene thấy mình chỉ còn trơ lại với đêm đen. Cô bé cảm nhận thấy rõ hơi lạnh trong không khí. Thế này cũng không bình thường nốt, cô nghĩ. Đang là mùa hè cơ mà.

Ánh trăng đang soi tỏ ngoài hồ. Tối nay cô cùng Pamela đã hạ mui chiếc xe thể thao phô trương ấy xuống. Thế thì trời đêm lẽ ra không lạnh đến vậy mới phải.

Có lẽ đấy là cảm giác khi ta phát hiện ra rằng ta không thể tin tưởng kẻ mà ta nghĩ là bạn.

Irene rầu rĩ nhìn xem liệu ánh đèn trong phòng ngủ của bố mẹ bên hông nhà có bật sáng hay không. Hẳn bố mẹ đã nghe thấy tiếng xe của Pamela rồi, cô bụng bảo dạ. Nhất là khi bố cô rất thính ngủ.

Nhưng căn nhà vẫn tối om. Irene thoáng thấy nhẹ lòng. Nếu tối nay bố mẹ không thức dậy thì cô sẽ trì hoãn được cái viễn cảnh không thể tránh khỏi ấy đến sáng hôm sau. Đến giờ điểm tâm thì sẽ biết ngay rằng cô có bị cấm cửa vĩnh viễn hay không thôi.

Irene chỉ nhìn được lờ mờ những bậc cấp đi lên hiên trước nhà. Bố cô đã quên bật đèn trên cửa trước. Lạ thật đấy, Bố luôn để đèn suốt đêm ở cả cửa trước lẫn cửa sau cơ mà. Đấy là một trong những quy định của bố.

Cô dừng bước, tay vẫn cầm chìa khóa. Phòng ngủ của bố mẹ cô ở ngay mé bên phải lối vào nhà. Hầu như chắc chắn ông bà sẽ nghe thấy tiếng cô nếu cô vào nhà qua cửa trước. Nhưng nếu cả hai vẫn còn đang ngủ, hẳn ông bà sẽ không để ý thấy tiếng cửa sau mở ra đâu. Nếu đi vào qua nhà bếp cô sẽ có cơ hội lẻn xuống hành lang đi vào phòng ngủ của mình mà không kinh động tới bố mẹ.

Cô bé quay người bước khỏi mấy bậc thềm dẫn lên cửa trước rồi vội vã đi vòng qua hông nhà. Trời quá tối. Không may là cô bé chẳng mang theo đèn pin. Dưới ánh trăng bàng bạc, cầu tàu nho nhỏ và chiếc thuyền con mà bố Irene thường dùng đi câu cá trở nên gần như vô hình.

Irene giật mình phát hiện ra đèn ở cửa sau cũng tắt. Trong bóng tối dày đặc, cô bé vấp phải bậc thềm dưới cùng nên loạng choạng suýt nữa ngã kềnh. Cô tóm được tay vịn cầu thang, giữ cho mình khỏi té.

Khả năng bố cô quên bật cả hai bóng đèn hiên là bao nhiêu nhỉ ? Ở đây đang có điều gì rất kỳ lạ. Biết đâu hai bóng đèn ấy đã hỏng cùng lúc.

Irene lập cập tra chìa khóa vào ổ và cẩn thận vặn nắm cửa, cố gắng mở sao cho không gây ra tiếng động nào.

Cánh cửa cưỡng lại sức đẩy của cô, nhất định không chịu mở. Dường như có thứ gì đó rất nặng đã chặn lại từ bên trong. Irene xô cửa mạnh hơn.

Một mùi hôi kinh khủng, lợm giọng xộc ra từ khe cửa mở. Chẳng lẽ đã có con thú nào lẻn vào nhà hay sao? Sáng mai mẹ mình sẽ làm toáng lên cho mà xem.

Nhưng một phần trong cô đã biết rằng có chuyện gì đó cực kỳ không hay rồi. Irene bắt đầu run lẩy bẩy. Tất cả những gì cô bé có thể làm là lèn một chân qua ngưỡng cửa và quờ tay tìm công tắc điện trên tường.

Ánh đèn òa sáng làm Irene lóa mắt trong giây lát. Rồi cô bé nhìn thấy máu trên sàn bếp.

Irene nghe thấy ai đó thét lên. Từ một góc khuất xa xăm nào đó trong tâm trí, cô bé hiểu rằng kẻ phát ra những tiếng kêu gào chói tai điên cuồng và tuyệt vọng chất chứa đau đớn, kinh hoàng và từ chối thực tại ấy là chính mình. Nhưng âm thanh nghe thật xa xôi thăm thẳm.

Cô đã du hành đến một nơi khác, đến một lãnh địa nơi chẳng thứ gì còn như chúng đáng ra phải thế; nơi chẳng còn gì bình thường được nữa.

Khi quay về từ cuộc hành trình ấy, Irene phát hiện ra rằng cái định nghĩa riêng của cá nhân cô về sự bình thường đã bị sửa đổi vĩnh viễn.

TIN NHẮN QUA EMAIL

NGÀY THÁNG: 7 tháng Ba

TỪ: Pwebb

ĐẾN: Istenson

NHAN ĐỀ: Quá khứ

Chào Irene:

Tớ biết email này đến với cậu là cả một sự ngạc nhiên to lớn. Hy vọng cậu không quẳng ngay nó vào hòm thư rác khi trông thấy tên người gửi. Nhưng tớ nghe nói giờ cậu đã là phóng viên rồi, mà phóng viên nói chung là loại tò mò, nên cầu trời cậu sẽ đọc email này.

Thật khó tin là đã mười bảy năm trôi qua kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, nhỉ ? Tớ nhận ra rằng, sau những gì đã xảy ra, cậu sẽ rất vui vẻ sống thêm mười bảy năm khác nữa mà không cần phải nghe tin gì về tớ. Nhưng tớ phải nói chuyện với cậu, và phải nói thật sớm.

Đây là chuyện về quá khứ. Những gì tớ cần nói với cậu không thể kể qua email hay điện thoại được. Tin tớ đi, chuyện này rất quan trọng đối với cả cậu và tớ đấy.

Tớ còn phải lo vài việc trước khi chúng ta gặp mặt. Hãy đến bên hồ vào chiều thứ Năm nhé. Đến lúc ấy thì chắc tớ chuẩn bị xong xuôi các thứ rồi. Ngay khi cậu vào thị trấn thì gọi cho tớ một tiếng.

Mà này, tớ không bao giờ quên cậu rất thích ăn kem cam đá bào trộn chung với kem vani. Những chuyện người ta nhớ cũng buồn cười nhỉ?

Bạn thân cũ của cậu,

Pamela

“Tôi sẽ đứa cô trở về cabin, cô Stenson,” Luke Danner nói.

Irene cảm thấy tóc gáy dựng ngược. Nàng ngừng lại khi tay vẫn đang thắt dở chiếc áo khoác dài màu đen. Lẽ ra mình nên rời khỏi đây sớm hơn, nàng nghĩ thầm. Lẽ ra phải trở về cabin ngay khi trời còn sáng.

Tất cả chỉ vì nghiện tin tức. Tối nào nàng cũng phải xem thời sự trên ti vi, mà cả khu nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ chỉ có duy nhất một chiếc ti vi cổ lỗ sĩ đặt ở khu sảnh bé con con. Rốt cuộc nàng đành đánh bạn với anh chủ nhà nghỉ nguyên buổi tổi, xem hàng tá bản tin u ám từ các phóng viên khắp nơi trên quả đất. Hồi sớm, nàng đã thấy anh ta lật bảng Hết Chỗ lên. Điều này khiến nàng hơi lo lắng. Chẳng có bóng dáng người khách nào khác trong khu nhà nghỉ này.

Nàng cố nặn ra một cái có hợp lý để từ chỗi lời đề nghị hộ tống này. Nhưng Luke đã đứng dậy rồi. Anh thong thả sải những bước dài băng ngang qua khu sảnh tồi tàn cũ kỹ ra quầy tiếp tân.

“Đường từ đây về tới cabin tối lắm,” anh bảo. “Bóng đèn dọc lối đi đã bị hỏng mấy cái rồi.”

Một luồng ớn lạnh khác chạy dọc người nàng. Nàng đã phải đối phó với nỗi sợ hãi bóng tối tột cùng từ năm mười lăm tuổi. Nhưng sự bồn chồn này không chỉ do nỗi sợ hãi thường trào lên mỗi khi màn đêm buông xuống. Nó còn pha trộn với cảm giác căng thẳng xa lạ khi đối diện Luke Danner.

Thoạt nhìn thì có lẽ sẽ không ít người có xu hướng đánh giá thấp anh. Riêng nàng sẽ chẳng đời nào mắc phải sai lầm đó. Đây không phải người đơn giản. Trong một số tình huống nào đó chắc chắn anh sẽ trở nên rất nguy hiểm.

Anh cao vừa phải, đôi vai rộng trên thân hình rắn chắc. Nét mặt anh khắc khổ và dạn dày gió sương. Đôi mắt nâu lục nhạt giống như mắt một nhà giả kim phải chăm chú nhìn thật lâu vào ngọn lửa trong lò luyện.

Mái tóc đen cắt tỉa gọn gàng của anh điểm xuyết vài sợi bạc. Nàng ước chừng anh mới ngoài bốn mươi. Ngón áp út bên trái của anh không đeo nhẫn. Nàng kết luận chắc anh đã ly dị. Những người đàn ông thú vị ở tuổi này thường đã kết hôn ít nhất một lân, và Luke Danner không nằm ngoài nhóm những người thú vị. Nếu không muốn nói là hẫp dẫn.

Anh hầu như chẳng nói với nàng lời nào khi cả hai cắm mắt vào chiếc ti vi phát-toàn-tin-tức suốt hơn tiếng rưỡi vừa qua. Anh chỉ ngồi cạnh nàng, ngả người uể oải trên một trong mấy chiếc ghế bành to đùng kiểu cổ, duỗi thẳng chân trên tấm thảm mòn vẹt, và với vẻ bình thản cam chịu, anh chăm chú ngắm nhìn những phóng viên và phát thanh viên luôn tỏ ra tươi tắn một cách phi tự nhiên. Có gi đó trong thái độ của anh cho thấy người đàn ông này đã từng chứng kiến những điều tồi tệ nhất xảy ra trên thế giới rồi nên các phiên bản truyền hình chẳng hề gây ấn tượng với anh.

“Tôi về một mình cũng được mà,” nàng nói và móc trong túi áo khoác ra một chiếc đèn pin bé xíu bằng cỡ cây bút. “Tôi có đèn pin.”

“Tôi cũng vậy.” Luke nhanh nhẹn thụp người xuống sau quầy tiếp tân. Lúc đứng lên, anh cầm trong tay một cây đèn pin to tướng nặng trịch. Trong bàn tay to khỏe của anh, trông nó giống vũ khí đến phát sợ. Anh liếc xuống chiếc đèn mini của nàng. Thoáng khôi hài loáng qua mắt anh. “Của tôi to hơn.”

Mặc kệ lời bình luận đó đi, vừa tự nhủ nàng vừa mở cửa trước khi anh kịp mở thay cho nàng.

Không khí mát lành của trời đêm khiến nàng rùng mình. Nàng biết chắc hiếm khi trời đổ tuyết ở độ cao này. Khu nghỉ dưỡng hồ Ventana ở miền núi, nhưng tiết trời ở đây cũng chẳng khác khí hậu ôn đới của vùng trồng nho là mấy. Tuy nhiên, chỉ mới chớm xuân nên ban đêm ở vùng Bắc California này trời có thể sẽ rất lạnh.

Luke vơ chiếc áo khoác da cổ lót lông cừu hơi nhàu nát máng trên một cái mắc áo làm từ sừng nai, rồi theo nàng ra cửa. Nàng để ý thấy anh còn chẳng màng khóa cửa. Nhưng quả thật, tội phạm chưa từng là vấn đề nổi cộm ở thị trấn Dunsley. Nàng biết rõ là chỉ có hai vụ án mạng từng xảy ra ở đây trong suốt hai thập kỷ qua. Trong một đêm hè mười bảy năm trước.

Irene dừng ngay đầu cổng nhà nghỉ dựng bằng đá và gỗ khúc. Mới bảy giờ rưỡi nhưng nhìn trời cứ như đã nửa đêm. Màn đêm dưới bóng núi rậm rạp rừng cây bao phủ buông xuống nhanh và tổi hơn.

Nàng kéo cao cổ áo khoác và bật đèn pin lên. Luke bật chiếc đèn pin to tướng lấy từ dưới quầy tiếp tân.

Anh ta nói đúng, Irene cay đắng nghĩ; cây đèn pin của anh ta quả thật to áp đảo. Quầng sáng rộng nó phát ra nuốt chửng tia sáng biên độ hẹp từ chiếc đèn bé xíu của nàng và chiếu thẳng tới trước đẩy lùi đi một mảng tướng của màn đêm đen kịt.

“Cây đèn tốt nhỉ,” nàng ngập ngừng thể hiện sự thích thú. Chẳng ai hâm mộ một cây đèn pin tốt bằng nàng. Nàng vẫn tự cho mình là người sành sỏi. “Loại đèn gì thế?”

“Quân dụng thừa ấy mà. Mua trên eBay.”

“Ra vậy.” Nàng ghi nhớ lần sau nếu cần mua đèn pin mới thì phải xem qua các trang mua sắm online chuyên bán quân trang quân dụng thừa. Mà cũng chẳng lâu lắm đâu. Nàng rất thường xuyên nâng cấp vật dụng.

Luke bước xuống ba bậc cấp bằng đá sau lưng Irene, cách anh thong dong uyển chuvển bước đi mách bảo cho nàng biết anh rõ là chẳng sợ gì bóng đêm. Nàng có cảm giác hiếm có điều gì làm Luke Danner sợ được.

Irene xem xét lối đi. “Tôi thấy không chỉ vài cái bóng đèn dọc lối đi bị hỏng thôi đâu. Trông như chẳng bóng nào hoạt động thì có.”

“Đã đặt bóng mới từ cửa hàng dụng cụ rồi,” anh trả lời chẳng mấy để tâm.

“Nếu chúng được lắp trước khi hè tới thì tuyệt quá phải không?”

“Nghe giọng cô có chút mai mỉa thì phải, cô Stenson nhỉ ?”

Nàng nhìn anh cười tươi. “Trời đất, làm gì có.”

“Hỏi cho chắc thôi. Đôi khi những vị khách tinh tế từ phố thị như cô hơi quá sắc sảo nên dân địa phương chúng tôi theo không kịp.”

Đừng có mà giở giọng tỉnh lẻ với tôi nhé Luke Danner. Tôi không dễ bị xỏ mũi đâu. Đúng thật, nàng không biết nhiều về anh - cũng không chắc là nàng có muốn tìm hiểu nhiều hơn không - nhưng nàng có thể nhìn thấy được vẻ thông minh sắc sảo trong ánh mắt anh.

“Có điều gì đó nói với tôi rằng anh không đậm chất Dunsley nhiều hơn tôi đâu, anh Danner.”

“Điều gì khiến cô nghĩ như vậy?” anh hỏi, hơi quá lịch sự.

“Cứ cho là đoán già đoán non đi.”

“Cô làm thế nhiều lần lắm à?”

“Làm gì nhiều lần?”

“Đoán già đoán non ấy?”

Nàng ngẫm nghĩ một chốc. “Thi thoảng thôi.”

“Tôi thì không ưa mấy trò suy đoán,” anh bảo. “Tôi thích dữ kiện hơn.”

“Không có ý xúc phạm gì anh đâu nhé, nhưng như thế nghe hơi quá ám ảnh đấy.”

“Ừ, nghe ám ảnh thật, nhỉ?”

Họ bước lạo xạo dọc lối đi rải sỏi nối mười hai cabin gỗ riêng biệt của khu nhà nghỉ. Hay nói đúng hơn, nàng là người bước đi lạo xạo trên đôi bốt cao gót da đen hợp mốt. Luke mang giày chạy bộ. Nàng thậm chí còn không nghe được tiếng bước chân của anh dù anh đang đi ngay bên cạnh.

Qua rặng cây, Irene nhác thấy những ánh bạc lấp lỏa phản chiếu từ mặt hồ như tấm gương đen lớn. Nhưng ánh trăng không thể xuyên thấu những hàng thông và rặng linh sam cao vút bao phủ khu nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ. Nàng có thể nghe được các hồn ma đang thầm thì trên những tán cây kia. Tay nàng chợt siết chặt cứng chiếc đèn mini.

Nàng sẽ không bao giờ thú nhận đâu, Irene thầm nghĩ, nhưng nàng mừng vì có Luke đi cùng. Ban đêm chẳng khi nào là thời khắc tốt đẹp. Thậm chí đêm nay còn tệ hơn vì nàng đang phải trải qua đêm đen ở một thị trấn đã luôn ám ảnh các giấc mơ của mình. Nàng biết mình khó có thể ngủ được cho tới khi trời sáng.

Tiếng sỏi lạo xạo và tiếng gió rít ma quái qua cành cây khiến các dây thần kinh của nàng căng lên. Đột nhiên nàng muốn nói chuyện; muốn chuyvện vãn để trấn an mình. Những căn cứ vào vẻ im lặng của anh trước đấy khi hai người cùng xem tin tức, nàng có linh cảm rằng Luke Danner không thích những cuộc trò chuyện vô nghĩa mang tính xã giao. Mấy cuộc hẹn ăn tối có lẽ là thử thách gay go nhất dành cho anh.

Nàng liếc qua cabin đầu tiên, nơi Luke dùng làm chỗ ở riêng. Đèn trước thềm bật sáng nhưng cửa sổ thì tối om. Các cabin khác chẳng có tí ánh sáng nào trừ quầng sáng chói lòa từ căn cabin được giao cho nàng. Ánh sáng rực lên từ mọi khung cửa sổ cũng như hiên trước lẫn hiên sau của cabin số Năm. Ban nãy nàng đã bật hết đèn lên khi quyết định rời khỏi phòng để đi đến khu vực sảnh có cái ti vi duy nhất.

“Hình như tôi là vị khách duy nhất của anh tối nay thì phải,” nàng nói.

“Mùa thấp điểm.”

Irene chợt nhớ ra cụm nghỉ dưỡng bé tí hin quanh khu vực hồ Ventana này chỉ biết có hai mùa, thấp điểm và cao điểm. Thế nhưng khu nhà nghỉ vắng quá thế này thì cũng rất lạ.

“Có phiền anh không nếu tôi muốn biết tại sao anh bật bảng Hết Chỗ lên?” nàng hỏi.

“Tôi không thích bị làm phiền vào buổi tối,” Luke trả lời. “Suốt cả ngày bị người ta đến hỏi mướn phòng đã mệt lắm rồi. Không chịu được.”

“Tôi hiểu rồi.” Nàng hắng giọng. “Anh mới bước chân vào ngành kinh doanh lòng hiếu khách à?”

“Tôi không coi đây là buôn bán lòng hiếu khách gì cả,” anh đáp. “Mà chỉ là cung cấp cái người ta cần. Ai đó cần một chỗ ngủ qua đêm, được thôi, vậy thì tôi cho họ thuê. Nhưng nếu khách không màng thu xếp để đến đây vào giờ giấc hợp lý, thì họ cứ việc chạy lòng vòng quanh hồ đến Kirbyville mà tìm nhà trọ đi.”

“Đây chắc cũng là một cách quản lý nhà nghỉ nhỉ,” nàng nói. “Mặc dù không hẳn là biện pháp dễ sinh lời nhất. Anh tiếp quản khu nhà trọ này khi nào thế?”

“Khoảng năm tháng trước.”

“Thế chuyện gì đã xảy ra với người chủ cũ ở đây?”

Ngay lập tức Irene cảm nhận được câu hỏi này đă khơi gợi tính tò mò của Luke.

“Cô biết Charlie Gibbs à.” anh dửng dưng hỏi.

Nàng hối tiếc vì đã hỏi. Đúng là tối nay nàng muốn chuyện trò với ai đó, nhưng cái đề tài nàng tuyệt nhiên chẳng muốn đụng đến là quá khứ của mình ở thị trấn này. Tuy vậy, chính nàng đã dẫn dắt anh vào chủ đề này đấy thôi.

“Tôi biết Charlie,” nàng thận trọng trả lời. “Nhưng tôi đã không gặp bác ấy nhiều năm nay rồi. Nhân tiện, bác ấy bây giờ như thế nào?”

“Người môi giới địa ốc đã bán khu nhà nghỉ này cho tôi kể rằng ông ta mất hồi năm ngoái.”

“Tôi rất tiếc.”

Và nàng nhận ra mình đã nói thật lòng. Khi nàng còn sống ở đây thì bác Charlie đã khá lớn tuổi rồi. Vì thế nàng không mấy ngạc nhiên khi nghe tin bác mất. Nhưng cái tin này lại càng tô đậm thêm cảm giác mất mát be bé mà nàng đã cảm nhận suốt mấy giờ qua kể từ lúc mới đến.

Nàng không thân thiết với Charlie Gibbs lắm, nhưng cũng giống như bức tượng đài của thư viện trong công viên, bác ấy và khu nhà nghỉ cũ kỹ này đã từng là một nét đặc trưng trong bức tranh tuổi niên thiếu của nàng.

“Người ta bảo tình hình kinh doanh sẽ khá hơn ngay sau lễ Tưởng niệm,” Luke nói mà giọng chẳng mấy mặn mà. “Nghe nói là từ đấy đến hết lễ Lao động thì khu này sẽ hoạt động hết công suất.”

“Các thị trấn nghỉ mát mùa hè đều như vậy hết mà.” Irene ngừng lại một chút. “Anh có vẻ không hào hứng mấy trước viễn cảnh kinh doanh khá khẩm.”

Luke nhún vai. “Tôi thích chỗ nào đẹp và yên tĩnh. Đó là nguyên nhân chính khiến tôi mua nơi này. Cộng với chuyện tôi biết chắc mua các bất động sản ven bờ nước sẽ không lỗ vào đâu được.”

“Chẳng phải kinh doanh theo kiểu của anh thì hơi khó sống sao?”

“Tôi lay lất sống qua ngày thôi mà. Hè đến, tôi sẽ tăng giá. Thế là bù lỗ cho những tháng thấp điểm.”

Nàng nghĩ đễn chiếc SUV đậu trước cabin của anh. Chiếc xe to cộ, mới cáu và đắt tiền. Charlie Gibbs chưa bao giờ có đủ tiền để mua một phương tiên vận chuyển cao cấp như thế. Bác ấy cũng chả bao giờ đeo được chiếc đồng hồ nào như Luke đang đeo, nàng nhớ lại. Loại đồng hồ vỏ titan có vẻ chịu được nước ở độ sâu cả trăm thước và hiển thị nhiều múi giờ khác nhau không hề rẻ chút nào.

Trí tò mò của nàng dần trỗi dậy, nhưng nàng cảm nhận được rằng Luke sẽ không hoan nghênh bất kỳ cuộc trao đổi nào đào sâu tình trạng tài chính cá nhân của anh. Nàng chuyển qua đề tài khác.

“Anh làm gì trước khi mua lại khu nhà nghỉ này?” nàng hỏi.

“Khoảng sáu tháng trước tôi rời Hải quân,” anh đáp. “Thử đi làm việc cho hãng một thời gian ngắn. Nhưng không thành công”

Nàng chắc chắn tin được anh đã từng trong quân ngũ, Irene nhủ thầm. Không chỉ ở cách hành xử, như thể là anh đang mặc quân phục chứ không phải là quần jean áo sơ mi; mà còn ở phong thái tự tin, quyền uy và thích ra lệnh. Kiểu người lãnh đạo đích thực. Nàng biết rõ mẫu người này. Cha nàng từng là lính Thủy quân lục chiến trước khi thành cảnh sát.

Luke thuộc dạng người luôn ngẩng cao đầu và dẫn dắt ta thoát khỏi vùng đạn lửa đến nơi an toàn trong khi người khác chạy quáng quàng trong cơn hoảng loạn. Những người như vậy đương nhiên rất hữu ích, nhưng chung sống với họ thật không dễ dàng gì. Không dưới một lần mẹ nàng đã lý giải điều này cho nàng bằng giọng điệu giận dữ đằng đằng.

“Khi anh mua lại thì khu nhà nghỉ này chắc cũng sập xệ lắm rồi nhỉ,” nàng nói. “Lần cuối cùng tôi trông thấy thì nó hầu như đã rệu rã hết cả, mà khi ấy cách đây cũng lâu lắm rồi.”

“Đã phải sửa sang cơ sở hạ tầng một tí “ Anh nhìn về hướng cabin của nàng, nằm bên mép hồ giữa những tán cây cao.

“Có lẽ cô không thấy tấm thiếp nhỏ đề nghị giúp đỡ ban quản lý nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ bảo vệ môi trường bằng cách nhớ tất tất cả đèn đóm trước khi rời khỏi cabin rồi.”

Nàng nhìn theo anh về phía cabin số Năm. Cabin sáng rực như sân vận động đang diễn ra trận đấu ban đêm.

“Tôi có nhìn thấy tấm thiếp,” nàng trấn an anh. “Nhưng tôi cũng nhận thấy ban quản lý đang sử dụng một chiếc xe thể thao to tướng có thể tiêu thụ hơn ba lít rưỡi xăng dù chưa chạy hết tám cây số. Do vậy, theo lẽ thường tôi cho rằng lời đề nghị tiết kiệm năng lượng hóa ra chỉ là một mánh lới gian manh, nếu không muốn nói là đạo đức giả để làm cho khách trọ thấy áy náy khi không giúp ban quản lý tiết kiệm vài đồng hóa đơn tiền điện của khu nhà nghỉ.”

“Chết tiệt. Đã bảo với Maxine là tấm thiếp sẽ không hiệu quả rồi mà. Đối với mấy chuyện này thì tế nhị sẽ không có tác dụng. Tôi đã nói rồi, nếu muốn mọi người tuân thủ luật lệ, ta phải quy định cho rõ ràng, rành mạch. Không thể nói nước đôi như vậy được.”

“Maxine là ai thế?”

“Maxine Boxell. Trợ lý quản lý của tôi. Cô ấy là người mẹ đơn thân. Con trai cô ấy, Brady, sẽ quản lý chiếc thuyền của nhà nghỉ vào mùa hè. Theo tôi biết thì dịp đó sẽ có nhiều khách muốn du ngoạn hồ. Maxine nói rằng chúng tôi có thể kiếm cả đống tiền từ những chuyến câu cá dài ba tiếng. Cô ấy cứ nằng nặc giục tôi trang bị thêm một chiếc thuyền nhanh hơn dùng cho môn trượt nước. Nhưng tôi đang trì hoãn quyết định đó. Nó có thể thu hút quá nhiều khách.”

Cái tên rất quen thuộc. Có một Maxine tốt nghiệp trường trung học địa phương vào tháng Sáu của cái năm cả thế giới vỡ vụn. Khi ấy cô ta là Maxine Sprangler.

“Cho phép tôi hỏi điều gì mang cô đến Dưnsley thế, cô Stenson?” Luke hỏi.

“Việc riêng.”

“Việc riêng ư?”

“Vâng” Nàng nghĩ thầm, mình cũng có thể chơi trò bí hiểm chứ.

“Cô làm nghề gì?” anh hỏi khi thấy rõ nàng không muốn đề cập đến những chủ đề không-được-tế-nhị.

Có chuyên gì vậy nhỉ? Irene băn khoăn. Hồi nãy anh ta còn không nói được tới hai từ nhưng giờ lại đột ngột đặt ra những câu hỏi rất trực tiếp.

“Tôi là phóng viên,” nàng đáp.

“Vậy à?” Anh có vẻ vui vui, hơi chút ngạc nhiên thích thú. “Có thể qua mặt được tôi đấy. Chẳng thể nghĩ được là cô thuộc giới truyền thông.”

“Anh biết không, nhiều người cũng đã nói vậy,” nàng đáp.

“Đôi bốt cao gót và chiếc áo khoác hợp mốt thật sự ấn tượng. Chỉ là trông cô không giống mấy cô nàng óc bã đậu gầy nhẳng thi trượt cuộc thi sắc đẹp rồi trở thành người đọc tin tức trên ti vi.”

“Có lẽ là do tôi làm cho một tờ báo chứ không phải đài truyền hình hay mạng truyền thông gì,” nàng trả lời cộc lốc.

“A, cô thuộc ngành báo giấy. Một thể loại hoàn toàn khác.” Anh ngừng một thoáng. “Báo nào thế?”

“Tờ Glaston Cove Beacon.” Nàng chờ đợi một phản ứng không tránh khỏi.

“Chưa từng nghe tên,” anh nói.

Đoán trúng phóc, nàng nghĩ thầm.

“Tôi cũng nghe nhiều người nói như vậy,” nàng đáp một cách kiên nhẫn. “Glaston Cove là một thành phố nhỏ ven biển. Tờ Beacon là một tờ nhật báo nhỏ, nhưng chủ báo, và cũng là biên tập viên kiêm nhà xuất bản, mới đây vừa cho mở thêm một trang web để người ta có thể tải các kỳ báo hiện hành.”

“Chịu không thể nghĩ ra được điều gì đang diễn ra ở Dunsley mà lại thu hút được sự quan tâm của một phóng viên từ Glascon Cove cơ đấy.”

Đây không đơn thuần là một câu tò mò lịch sự, Irene kết luận. Câu chuyện nhanh chóng trở thành một cuộc điều tra.

“Tôi đã bảo rồi, tôi đến đây vì việc riêng” nàng đáp nhẹ. “Không phải để viết bài.”

“Ồ, vâng, phải rồi. Xin lỗi, tôi quên khuấy phần việc riêng.”

Còn lâu anh ta mới quên. Irene u ám cười thầm. Anh ta bắt đầu tạo chút áp lực nhưng sẽ chẳng ăn thua đâu. Nàng không định bộc bạch cho một người lạ, đặc biệt là một người từ nơi mang cái mã vùng này. Sau khi gặp xong Pamela nàng sẽ nhìn vào Dunsley qua kính chiếu hậu xe hơi ngay.

Khi họ đến cabin số Năm, nàng ngạc nhiên phát hiện mình đang bị giằng xé giữa cảm giác nhẹ nhõm và một chút nuối tiếc. Nàng lấy chìa khóa ra khỏi túi áo và bước lên bậc cấp cửa trước.

“Cảm ơn anh đã đưa về,” nàng nói.

“Không có chi.” Anh đi theo nàng đến cửa, lấy chùm chìa khóa từ tay nàng tra vào ổ khóa. “Khi làm thủ tục nhận phòng cho cô hồi chiều, hình như tôi quên dặn có cà phê và bánh vòng miễn phí ở sảnh từ bảy giờ đến mười giờ sáng.”

“Thật à? Tôi ngạc nhiên đấy. Anh đã nói rất rõ là ban quản lý nhà nghỉ này không đầu tư cung cấp dịch vụ hòa nhã kia mà.”

“Lạy thánh Pete, lúc ấy cô hỏi về việc phục vụ ăn tận phòng kia.” Anh mở cửa và xem xét gian chính sáng rực đèn của cabin nhỏ. “Chúng tôi không định cung cấp những dịch vụ như thế đâu. Nhưng chúng tôi có cà phê và bánh vòng cho buổi sáng. Chỉ khi chúng tôi có khách thôi. Và nhờ có cô nên lúc này đúng là chúng tôi đang có khách thật.”

“Xin lỗi vì đã đòi hỏi anh đến vậy.”

“À, vâng, trong ngành này khách thường hay như thế ấy mà,” anh nhận xét một cách kém hòa nhã.

“Thái độ đầy tính triết lý nhỉ.”

“Tôi biết,” anh nói. “Tôi đã phải trau dồi thái độ kiểu thế kể từ khi trở thành chủ nhà nghỉ. Rất may là tôi cũng có được đào tạo chút ít. Dù sao, như đã nói, bánh vòng là ý của Maxine.”

“Tôi biết rồi.”

“Tôi đã đồng ý cho cô ấy thử trong vòng một tháng. Nhưng nói thật nhé, tôi sẽ không khuyên cô nếm thử đâu. Mấy cái bánh chẳng khác gì đường trộn mạt cưa ấy. Có vẻ như chúng vừa sắp hết hạn sử dụng khi Maxine mua về. Nhưng cũng không thể hoàn toàn khẳng định như thế, bởi vì siêu thị Dunsley không thích đóng dấu ‘hạn sử dụng’ cho những sản phẩm mau hư hỏng.”

“Lẽ ra trên đường đến đây tôi nên mua sẵn đồ để làm điểm tâm.”

“Cô có thể lái xe vào thị trấn bất cứ lúc nào. Quán cà phê Ventana View mở cửa lúc sáu giờ sáng.”

“Tôi sẽ ghi nhớ thông tin này.”

Irene phải len qua anh để đi vào cabin. Hành động này khiến nàng cọ sượt qua thân hình chắc nịch của anh. Nàng có thể cảm nhận được hơi nóng từ người anh tỏa ra. Thoáng hương đàn ông sạch sẽ như khiêu khích làm dậy lên một cơn rùng mình khác trong nàng.

Khi quay người lại để chào tạm biệt, nàng giật mình phác hiện anh đang săm soi nhìn mình với vẻ mặt đầy chăm chú đến mức khiến người ta phải lúng túng.

“Gì thế?” nàng hỏi đầy vẻ cảnh giác “Cô nghiêm túc về vụ ăn sáng chứ?”

“Vâng.”

“Hầu hết phụ nữ tôi biết đều không coi trọng bữa sáng.”

Nàng không định giải thích với anh rằng bữa sáng là một trong những thói quen tuy nhỏ nhưng thực sự quan trọng mà nàng thiết lập nhằm duy trì trật tự trong thế giới riêng tư của mình. Bữa sáng đánh dấu sư kết thúc của đêm tối. Đó là bữa ăn rất cần thiết. Nhưng không cách nào nàng giải thích được. Anh sẽ chẳng thể nào hiểu nổi.

Người duy nhất từng hiểu được sự tối cần thiết của bữa sáng là vị bác sĩ điều trị râm lý cuối cùng trong số nửa tá bác sĩ mà nàng đã theo trong nhiều năm qua. Bác sĩ LaBarre đã nhẹ nhàng hết mức có thể đế giúp cho bệnh nhân của mình bỏ bớt một số thói quen mang tính ám ảnh đã từng có lúc đe dọa khống chế cuộc đời của Irene. Nhưng vị bác sĩ tốt bụng này cho phép giữ lại bữa ăn sáng nhờ một số lợi ích khác của nó.

“Bất cứ chuyên gia dinh dưỡng nào cũng sẽ nói với anh rằng bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày,” Irene đáp. Nàng thấy mình hết sức ngốc nghếch, như mọi lần nàng buộc phải giải thích hoặc che đậy cái nhu cầu cần nhất bám vào một thói quen của mình.

Thật ngạc nhiên, Luke không hề cười cợt điều này. Thay vào đó anh nghiêng đâu vẻ rất trang nghiêm.

“Hẳn rồi,” anh nói. “Bữa sáng rất cần thiết.”

Anh ta đang nhạo báng nàng ư? Nàng cũng không chắc. Nàng đứng thẳng người và lùi lại, chuẩn bị đóng cửa.

“Cảm phiền anh nhé, tôi cần gọi điện thoại,” nàng bảo.

“Dĩ nhiên.” Anh lùi lại một chút. “Hẹn gặp cô vào sáng mai.”

Nàng khép gần hết cửa thì lại thoáng lưỡng lự. “Suýt quên. Báo cho anh biết, có thể ngày mai tôi sẽ trả phòng.”

Anh nhìn nàng cau có. “Cô đặt hai đêm mà.”

“Đêm thứ hai chỉ để dự phòng thôi, phòng khi vì một lý do nào đó tôi không thể rời khỏi đây như đã định.”

“Ở nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ này chúng tôi không có chính sách đặt phòng hờ. Chúng tôi tuân thủ nghiêm ngặt chính sách hủy phòng trước 24 giờ.” Anh kiểm tra đồng hồ. “Cô đã quá hạn chót hủy phòng từ lâu rồi.”

“Tôi sẽ thảo luận thêm với anh về chính sách hủy phòng vào ngày mai sau khi tôi biết chắc là mình có cần lưu lại Dunsley thêm một ngày nữa hay không. Chúc anh ngủ ngon, anh Danner.”

“Chúc việc riêng của cô ở đây được thuận lợi, cô Stenson.”

“Cảm ơn anh,” nàng nói. “Với tôi, kết thúc càng sớm càng tốt.”

Anh nhoẻn cười vẻ thích thú. “Tôi cảm thấy cô không thật sự mặn mà với thị trấn nghỉ dưỡng ở vùng núi tuyệt đẹp này.”

“Quan sát tốt nhỉ.”

“Chúc ngủ ngon...”

“Đừng nói nữa,” nàng cảnh báo. “Tôi đã nghe câu ấy rồi.”

“Chịu không thể không nói được.” Anh nhe răng cười. “Ngủ ngon nhé Irene.”

Cánh cửa sập đánh sầm đầy vẻ hả dạ khi nàng đóng lại trước mặt anh. Tiếng bản lề lách cách khớp vào nhau nghe còn khoái chí hơn nữa. Rất chắc chắn. Rất dứt khoát. Luke Danner có thể là người mới đến Dunsley, nhưng dù sao, anh cũng là một phần của cái nơi mà nàng căm ghét. Nàng không đời nào muốn dính líu đến anh.

Nàng tiến đến cửa sổ và lén nhìn qua tấm màn để chắc chắn rằng anh đã rời khỏi.

Quả vậy, anh đang bước xuống các bậc thềm. Anh giơ tay vẫy chào tạm biệt, cử chỉ cho thấy anh biết nàng đang dõi theo.

Khi đã an tâm rằng chỉ còn một mình mình, Irene móc điện thoại từ trong ví ra và nhấn nút gọi lại. Nàng không nhớ mình đã gọi Pamela bao nhiêu lần từ lúc mới tới Dunsley hồi chiều.

Vẫn không có ai trả lời.

Nàng bấm tắt trước khi chức năng hộp thư thoại bật lên. Nàng đã để lại không biết bao nhiêu tin nhắn trong ngày hôm nay rồi. Thêm một tin nữa cũng chẳng ích gì.
 
Chương 2


Đôi mắt màu nâu hổ phách đẹp đến ám ảnh, vừa sáng lên vẻ thông minh vừa u uẩn những bí mật; mái tóc đen óng cắt tỉa khéo léo ôm sát xương hàm; dáng người cân đối với những đường cong đầy nữ tính và tràn trề sức sống; đôi bốt cao gót gợi cảm và chiếc áo khoác đen điệu đàng. Và cô nàng coi trọng bữa ăn sáng.

Hình ảnh này có gì đó không ổn ư? Rõ ràng anh chẳng phải bậc thầy về thời trang, nhưng anh tin tưởng vào bản năng của mình, Luke nghĩ thầm. Giờ đây, bản năng của anh đang mách bảo Irene Stenson mang bốt, áo choàng dài và khoác cái thái độ ấy theo kiểu một gã đàn ông vận bộ giáp chống đạn ra trận.

Cô ấy đang sợ ai hoặc điều gì vậy nhỉ?

Và còn mấy cái đèn nữa chứ? Vài phút trước anh vừa kiểm tra lại. Cabin số Năm vẫn trông như một nhà máy sản xuất bóng đèn đang chạy như điên. Vừa rồi lúc đưa nàng về phòng, anh đã kịp nhìn thấy một vài bóng đèn đêm được gắn thêm vào các ổ điện trên tường phòng ngoài. Nàng còn thủ sẵn một cái đèn pin trong túi áo.

Irene Stenson sợ bóng đêm ư?

Anh bỏ dở ý định hoàn tất chương mình đang làm nửa chừng từ cả tuần nay và tắt máy tính. Tối nay anh không thể suy nghĩ được gì về Dự án. Đầu óc của anh đang bị bài toán đố mang tên Irene Stenson chi phối. Những phần còn lại trên thân thể của anh có lẽ cũng hứng thú muốn điều tra đề tài này tương tự. Ba tiếng trước anh đã bỏ Irene lại cabin của nàng, nhưng anh vẫn thấy bồn chồn và xao động một cách mơ hồ, khó chịu.

Anh cần đi loanh quanh đâu đó. Vào những đêm như vậy, những đêm thật sự dài, anh thường đi dạo để làm tiêu bớt vài nỗi căng thẳng điên người. Sau đó, anh sẽ rót cho mình một liều dược phẩm là thứ rượu mạnh của Pháp cất ở đằng sau tủ ly kia để xoa dịu chút điều xốn xang còn sót lại. Thói quen này không hẳn lúc nào cũng hiệu nghiệm, nhưng cũng có tác dụng tương đối. Hầu hết là vậy.

Nhưng tối nay thì khác. Anh không nghĩ rằng cuộc tản bộ quanh hồ và một ngụm rượu mạnh sẽ hữu hiệu.

Có lẽ mọi người trong gia đình anh đúng, có lẽ anh gặp rắc rối với việc sống có tổ chức, và biết đâu mọi thứ đang trở nên tồi tệ đi, chứ không hề tốt hơn như anh tưởng. Chết tiệt, có lẽ anh là một thằng hết thuốc chữa, đúng như mọi người đã lo sợ.

Nhưng có một điều anh biết chắc chắn - anh vẫn chưa đánh mất niềm đam mê đối với các điểm dữ kiện. Mỗi khi phát hiện một loạt những sự kiện rời rạc lý thú, từ trong tâm khảm anh bị thúc đẩy phải xâu chuỗi lại bằng được.

Irene nhấn phím gọi lại trên điện thoại của nàng ít nhất là năm lần trong khi xem tin tức buổi tối trên ti vi với anh. Ai đó nàng tìm gặp tại Dunsley này đã không trả lời máy. Điều gì đó nói cho anh biết là nàng sẽ không chịu ngồi yên chờ đợi thêm nữa. Nàng đã thừa nhận là chẳng hứng thú gì với nơi này và mong muốn thoát khỏi đây ngay khi việc riêng hoàn thành.

Có tiếng máy xe rì rầm phát ra từ lối xe chạy nối các cabin trong khu nhà trọ. Ánh đèn xe hắt lên phía bên kia rèm cửa, quét nhanh qua màn đêm trước khi hướng ra đường lớn.

Vị khách độc nhất của anh đang rời khỏi đây. Đã có người trả lời cuộc gọi của nàng rồi sao? Hay là nàng tính lặng lẽ chuồn khỏi thị trấn và quỵt tiền phòng?

Một cách vô thức, anh xem lại đồng hồ và ghi nhớ thời gian. Mười giờ hai mươi lăm phút.

Nếu không phải cuối tuần thì tầm giờ này trong những đêm đầu xuân ở Dunsley không có nhiều hoạt động lắm, và dĩ nhiên chẳng có gì để lôi kéo một vị khách với gu thưởng thức tinh tế. Quán cà phê Ventana View đóng cửa đúng chín giờ. Harry’s Hang-Out, quán bar duy nhất, thường mở cửa đến giữa đêm miễn là còn đủ khách, nhưng không hiểu sao anh tin rằng nét duyên dáng lạ kỳ của quán bar ấy chẳng đủ sức thu hút Irene.

Anh tiến đến cửa sổ và nhìn theo hai luồng đèn từ chiếc xe nhỏ gọn thời thượng màu vàng hướng ra đường cái. Nàng rẽ trái vào thị trấn, chứ không rẽ phải ra xa lộ.

Được rồi, nàng không lỉnh đi để né tiền thuê phòng. Chắc chắn nàng đi gặp ai đó. Nhưng một phụ nữ sợ hãi đêm đen có lẽ sẽ không ra ngoài một mình vào giờ này, trừ phi điều đó tuyệt đối cần thiết. Ai đó hoặc việc gì đó ở trong thị trấn này hẳn phải thật sự quan trọng đối với Irene Stenson.

Anh đã ở Dunsley được vài tháng. Đây là một thị trấn rất nhỏ, một nơi chưa từng có gì lạ thường xảy ra. Chết tiệt, đó là nguyên nhân chính khiến anh dọn đến đây. Anh cũng không nghĩ ngay ra được bất cứ ai trong cộng đồng dân cư này có thể hù dọa được một người như Irene, tuy nhiên anh vẫn sẵn sàng đánh cược là nàng đang sợ gì đó.

Nhưng vì cái quái gì mà anh phải quan tâm chứ?

Luke nghĩ về vẻ rầu rầu cương quyết lẫn với niềm lo lắng đã làm nàng xao động suốt buổi tối. Khi thấy một gương mặt dũng cảm kiên cường và cam chịu bền bỉ là anh nhận biết ngay. Anh cũng hiểu rằng ra ngoài vào ban đêm mà gặp phải bọn xấu sẽ như thế nào. Người ta sẽ chẳng bao giờ làm thế một mình nếu không có lựa chọn nào khác.

Biết đâu Irene có thể cần đến chút hỗ trợ cứu viện.

Anh móc chùm chìa khóa ra khỏi túi, vơ lấy áo khoác và đi ra chiếc SUV.
 
Chương 3


Đường đến nhà Webb đưa Irene ngang qua khu vực trung tâm bé xíu của thị trấn Dunsley. Chuyến đi này rõ ràng là một trải nghiệm khiến nàng lo lắng. Dường như có quá nhiều thứ quen thuộc ở nơi đây.

Không đúng, nàng phản bác. Sau từng ấy năm nơi đây lẽ ra phải thay đổi nhiều hơn thế này chứ. Nàng dừng một chút ngay biển dừng nơi giao nhau của bốn con đường tạo nên giao lộ chính của trấn. Có vẻ Dunsley mười bảy năm trước đã rơi vào hố đen vũ trụ và bị kẹt lại trong chiều thời gian đứng yên ngưng đọng.

Thật vậy, mặt tiền hầu hết các cửa hiệu đã được sơn sửa lại. Một số tiệm đã đổi tên. Nhưng những thay đổi này chỉ diễn ra trên bề mặt. Mọi thứ vẫn như cũ một cách khó chịu, nếu không muốn nói là lỗi thời. Phải, dứt khoát là thời gian ở đây đã ngừng trôi rồi, Irene tự nhủ.

Hầu như chẳng còn chiếc xe nào khác trên đường vào giờ này. Nàng nhấn mạnh chân ga, nôn nóng hướng tới điểm đến.

Đèn vẫn còn sáng bên ngoài bãi đậu xe rải sỏi của quán bar Harry’s Hang-Out. Chữ H thứ hai trên cái bảng hiệu đèn neon phai màu vẫn còn nhấp nháy, đúng như mười bảy năm trước. Vài chiếc bán tải móp méo và SUV đậu đằng trước vẫn y như những gì đã đậu trong bãi xe ấy hồi nàng còn nhỏ. Không ít lần cha nàng bị kéo ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để dẹp yên một cuộc cãi vã ở bar Harry.

Nàng cho xe chạy qua công viên và đi thêm một đoạn ngắn nữa. Đến lối Woodcrest thì nàng rẽ trái để tiến vào khu vực giàu chất thượng lưu nhất mà thị trấn Dunsley sở hữu.

Các ngôi nhà ở lối Woodcrest nằm trên những khoảnh đất rộng lớn cây cối rậm rạp kéo dài xuống tới mé nước. Chỉ một ít căn thuộc về dân địa phương. Hầu hết là nhà nghỉ hè, vào mùa này thường tối tăm và trống vắng.

Nàng chạy chậm lại và rẽ vào con đường hẹp dẫn đến nhà Webb. Các cửa sổ bên hông kiến trúc hai tầng này tối om, nhưng ngọn đèn ngay thềm trước còn sáng. Không có xe nào đậu trên lối đi cong cong. Thế nghĩa là không có ai ở nhà, Irene tự nhủ. Nhưng email của Pamela đã ghi rất rõ ngày hẹn cơ mà.

Nàng dừng xe, tắt máy, khoanh tay đặt trên vô lăng, suy nghĩ phải làm gì tiếp. Quyết định đi đến lối Woodcrest sau khi không cuộc gọi nào của mình được trả lời là quyết định xuất phát từ một phút ngẫu hứng do cảm giác bực bội và nôn nóng mỗi lúc một dâng cao.

Pamela đã đợi nàng tối nay. Cô ấy lẽ ra phải đang ở đây chờ nàng chứ. Có chuyện không ổn rồi.

Irene mở cửa xe và chầm chậm bước xuống. Hơi lạnh của đêm bủa vây. Nàng phải mất vài giây để trấn áp nỗi lo sợ do đêm đen đem đến. Đoạn nàng bước vội đến vùng an toàn nơi cửa trước sáng đèn và bấm chuông.

Không ai trả lời.

Nàng nhìn quanh và thấy cửa ga ra đang đóng. Nếu nàng nhớ không lầm, có một cửa sổ nhỏ ở mé bên kia.

Irene ngần ngừ. Bên kia ga ra rất tối. Nàng lần tay tới chiếc đèn pin mini trong túi áo. Mình cần nhiều ánh sáng hơn, nàng thầm nghĩ. Cây đèn pin chuyên dụng cất ở hộc đựng đồ vặt trong xe có thể to hơn nhưng vẫn không đủ đẩy lùi bóng đêm đen kịt như thế này. Nàng trở lại xe, mở cốp lấy ra một trong hai cây đèn pin công nghiệp. Khi nàng bật công tắc lên, tia sáng chói lóa cắt một sọc dài qua màn đêm khiến nàng vững tâm hơn.

Lấy hết can đảm, Irene quay lại lối đi, vòng qua góc ga ra và nhìn qua ô cửa kính đầy bụi. Một chiếc BMW lù lù bên trong.

Thêm một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng nàng. Ai đó, chắc là Pamela, đang ở đây. Nhưng tại sao người này không trả lời máy hay ra mở cửa?

Qua khóe mắt nàng nhác thấy một tia sáng le lói. Tia sáng phát ra từ phần sau căn nhà.

Nàng quay lại và chầm chậm tiến đến nguồn sáng, bụng có cảm giác như mình là một con thiêu thân bị hút theo ngọn nến.

Con đường dẫn nàng lướt qua cánh cửa kho dụng cụ bên hông nhà. Nàng nhớ rõ lối vào này. Pamela từng giấu một chìa khóa phụ bên dưới bậc thềm để ban đêm cô có thể lẻn ra lẻn vào nhà. Thoáng nhói lòng, Irene chợt nghĩ cha Pamela hay người quản gia nào có lưu tâm đến chuyện đi đi về về của cô đâu.

Thuở mười lăm tuổi, nàng và mọi thiếu niên trong vùng đều ganh tị với mức độ tự do mà Pamela Webb có được. Nhưng nhìn từ quan điểm người lớn, rõ ràng sự tự do thái quá của cô bạn cũ thực chất là do sự thờ ơ của cha mẹ. Mẹ Pamela mất trong một vụ tai nạn thuyền giữa hồ khi cô chưa đầy năm tuổi. Những năm sau đó, cha cô, ông Ryland Webb, lại mải mê theo đuổi sự nghiệp chính trị. Kết quả là Pamela bị bỏ rơi cho cho cả tá vú em và quản gia chăm sóc.

Irene mở then cổng ở cuối đường và bước vào khu vườn tràn ngập ánh trăng. Bức rèm che ô cửa sổ cao từ trần đến sàn nhà mở toang. Ánh sáng nàng đang lần theo phát ra từ ngọn đèn bàn vặn rất nhỏ.

Irene rọi cây đèn pin to tướng qua khung cửa kính. Thật không ngờ nàng kinh ngạc khi thấy mình nhận ra hầu hết vật dụng trong phòng. Lại thêm một trường hợp khác của miền thời gian ngưng đọng nữa rồi, nàng nhủ thầm. Nhiều năm trước, ngôi nhà được trang hoàng nhờ tay của một chuyên gia thiết kế từ San Francisco. Nội thất thể hiện nét xa hoa của căn biệt thự nghỉ dưỡng trượt tuyết. Pamela ngầm đặt tên cho ngôi nhà này là Cầu Tiêu Thanh Nhã.

Nàng cẩn thận xem xét căn phòng tối một cách có hệ thống, bắt đầu từ mạn bên trái nơi lò sưởi bằng đá to tướng tạo thành phần lớn bức tường. Đến giữa phòng, nàng nhìn thấy một chiếc dép đi trong nhà chơ vơ chổng vó. Nó nằm trên tấm thảm ở một đầu chiếc sofa da màu nâu. Một gót chân trần tháp thoáng bên rìa cái gối tựa.

Irene sững người. Dạ dày quặn lên, nàng đi dọc theo dãy cửa sổ cho đến khi có thể chĩa thẳng đèn pin vào sofa.

Một phụ nữ đang nằm trên đống gối tựa. Cô mặc quần màu vàng nâu và áo lụa xanh dương. Gương mặt xoay vào trong. Mái tóc vàng xõa trên nền da nâu của chiếc ghế. Một cánh tay mảnh khảnh buông thõng xuống nền nhà.

Trên chiếc bàn nước thâm thấp bằng gỗ có một bình cocktail và một cốc martini đã cạn.

“Pamela.”Irene đấm lên khung cửa kính. “Pamela, dậy đi.”

Người phụ nữ trên ghế bành không động đậy.

Irene chụp tay nắm của cánh cửa trượt, dùng hết sức bình sinh đẩy mạnh. Cửa khóa.

Quay ngoắt người lại, nàng chạy ào ra khỏi vườn, ánh đèn pin quét qua quét lại đến điên loạn, rồi nàng vội vã đến chỗ cửa phòng vật dụng.

Nàng quỳ xuống, lần tay mò dưới bậc thềm cuối cùng. Ngón tay nàng quơ trúng một phong bì nhỏ dán ở mặt dưới tấm cao su phủ bậc thềm.

Phải loay hoay một lúc nàng mới gỡ được miếng băng keo dán lâu năm, cuối cùng cái phong bì cũng rơi xuống tay nàng. Nàng có thể cảm thấy sức nặng của chiếc chìa khóa bên trong. Vừa đứng dậy, nàng vừa xé toạc phong bì lấy cái chìa khóa rồi lập cập tra vào ổ.

Nàng mở cửa, lần tay đến công tắc đèn. Bóng đèn trên trần chớp chớp rồi bật lên ánh sáng yếu ớt soi rọi một mớ dụng cụ đi thuyền, câu cá và trượt nước có tuổi hàng thập kỳ.

Nàng chạy dọc theo hành lang tối vào phòng khách.

“Pamela, mình đây, Irene đây. Dậy đi.”

Nàng dừng lại bên sofa và với tay chụp lấy vai Pamela.

Da thịt bên dưới lần áo lụa mỏng lạnh băng. Nhân dạng của người phụ nữ này không lẫn vào đâu được.

Thời gian mười bảy năm đã để lại quá ít thay đổi trên gương mặt tuyệt đẹp của Pamela. Thậm chí ngay cả khi chết, cô vẫn là một nàng tóc vàng mang vẻ đẹp cổ điển quý tộc.

“Trời ơi, không.”

Irene bước thụt lùi, cố nén cơn nôn ọe chực trào lên. Một cách vô thức, nàng cho tay vào ví lấy điện thoại di động.

Một bóng người đang đi dọc theo hành lang tối om nối với kho dụng cụ.

Nàng quay ngoắt người lại, tay nắm chặt cây đèn pin nặng trịch. Ánh sáng chói lòa chiếu thẳng lên người Luke. Đó là tất cả những gì nàng có thể làm để ngăn tiếng thét gần như làm nàng nghẹt thở.

“Chết rồi à?” Luke hỏi, tiến đến ghế bành.

“Anh đang làm gì ở đây? Mà thôi.” Hỏi han gì để sau. Ngón tay nàng run rẩy nhấn phím 911. “Cô ấy lạnh lắm. Quá lạnh.”

Anh với xuống đặt ngón tay lên cổ họng của người phụ nữ đầy vẻ thành thục. Tìm xem có mạch đập hay không, Irene nghĩ. Nhìn cách anh làm, nàng biết đây không phải lần đầu tiên anh xử lý một xác chết.

“Chết thật rồi,” anh nói khẽ. “Có vẻ cô ta đã chết một lúc khá lâu.”

Cả hai liếc qua chiếc bình rỗng trên bàn. Kế bên là một lọ thuốc. Cả lọ thuốc này cũng rỗng nốt.

Irene cố chống chọi cảm giác tội lỗi đang dâng trào. “Lẽ ra tôi nên đến đây sớm hơn.”

“Tại sao?” anh hỏi. Anh khuỵu chân xuống để đọc nhãn dán trên lọ thuốc nhỏ. “Làm sao cô biết được chứ?”

“Tôi không thể, tôi cũng không biết,” nàng thều thào. “Nhưng tôi đã biết có điều gì đấy bất ổn khi cô ấy không bắt máy.”

Anh trầm ngâm xem xét xác chết. “Trước khi cô nhận phòng chiều nay thì người cô ta đã lạnh rồi.”

Dứt khoát anh chàng này có kinh nghiệm với các xác chết, Irene tự nhủ.

Giọng người trực tổng đài 911 sắc lạnh bên tai nàng, yêu cầu cho biết chuyện gì đã xảy ra.

Irene hít sâu, trấn tĩnh lại rồi mô tả chi tiết một cách nhanh chóng và chính xác hết sức. Tập trung vào sự kiện giúp nàng trấn tĩnh phần nào.

Cuộc gọi vừa kết thúc thì một cơn tê cứng lạ kỳ đã xâm chiếm nàng. Nàng lóng ngóng suýt làm rơi chiếc điện thoại trước khi có thể bỏ nó trở lại túi xách. Nàng không thể nhìn cái xác thêm lần nữa.

“Chúng ta không cần đợi trong này,” Luke vừa nói vừa kéo cánh tay nàng. “Ta đi ra ngoài nào.”

Nàng không cãi lại. Anh đưa nàng trở ra theo lối dọc hành lang, qua căn tiền sảnh tới bậc tam cấp đằng trước nhà.

“Anh đến đây bằng cách nào?”

Nàng nhìn quanh lối chạy xe. “Xe của anh đâu?”

“Tôi đậu nó ở phía cuối đường.” Nàng choáng váng hiểu ra. “Anh theo dõi tôi.”

“Ừ.”

Giọng anh chẳng có vẻ xin lỗi, hay ngượng ngùng hoặc lóng ngóng gì. Chỉ là một câu tuyên bố đơn giản, ừ, tôi theo dõi cô đó. Vậy thì sao nào? Cơn giận làm nàng sôi người, làm tan chảy một phần cảm giác tê cứng vừa rồi. “Tại sao anh làm vậy? Anh không có bất cứ quyền gì...”

“Người phụ nữ trên chiếc sofa trong kia,” anh nói, cắt ngang dòng dung nham phẫn nộ của nàng bằng thái độ trịch thượng của người quen ra lệnh. “Đó có phải là người cô cố gắng liên lạc suốt tối nay không?” Nàng nghiến răng, hai tay khoanh chặt trước ngực. “Nếu anh không trả lời câu hỏi của tôi thì tôi thấy không có lý do gì để trả lời anh.”

“Tùy cô thôi, thưa cô Stenson.” Anh hơi xoay đầu hướng về phía có tiếng còi hụ. “Nhưng rõ ràng cô quen biết nạn nhân.”

Irene ngập ngừng. “Chúng tôi từng là bạn rất lâu rồi. Tôi chưa từng gặp hoặc nói chuyện với cô ấy suốt mười bảy năm qua.”

“Tôi rất tiếc,” anh đột nhiên dịu giọng, ánh mắt ảm đạm đến lạ kỳ. “Một người thân tự sát lúc nào cũng là sự thật khó tiếp nhận với những người còn lại.”

“Tôi không chắc đây là do tự sát,” nàng đáp, trước khi ngừng lại để suy nghĩ.

Anh cúi đầu, tiếp thu một giả thiết khác. “Có thể là tai nạn do uống thuốc quá liều.”

Nàng cũng không tin khả năng đó nốt, nhưng lần này nàng quyết định im lặng.

“Tại sao tối nay cô đến gặp cô ta?” Luke hỏi.

“Anh quan tâm làm gì?” nàng đốp chát lại. “Tại sao anh theo tôi đến đây?”

Một chiếc xe cảnh sát rẽ vào lối xe chạy trước khi anh kịp trả lời, ấy là giả dụ như anh có trả lời, nàng rầu rĩ nghĩ. Loạt ánh sáng chói lòa nhấp nháy trong đêm đen. Tiếng còi hụ đinh tai đến nỗi nàng bất giác đưa tay lên bịt tai lại.

Đột nhiên tiếng còi tắt ngấm. Một cảnh sát mặc đồng phục bước xuống xe. Anh ta liếc nhìn Irene trước rồi ngay lập tức quay sang Luke.

“Nhận tin báo có xác chết,” anh ta nói.

Luke giật ngón tay cái chỉ về lối hành lang ngay sau lưng. “Phòng trước.”

Viên cảnh sát thò đầu nhìn vào tiền sảnh. Xem ra anh ta không sẵn lòng đi vào nhà. Irene nhận ra anh ta còn khá trẻ. Trong suốt sự nghiệp ngắn ngủi tại Dunsley này, có lẽ anh ta chưa tiếp cận với nhiều xác chết lắm.

“Tự sát à?” viên cảnh sát hỏi, có vẻ không thoải mái.

“Hoặc quá liều,” Luke đáp. Anh liếc sang Irene. “Ít ra là trông có vẻ như thế.”

Viên cảnh sát gật đầu nhưng vẫn chẳng tiến vào điều tra gì cả.

Thêm một loạt còi hụ nữa từ đằng xa. Họ đồng loạt nhìn ra đường. Một xe cứu thương và một xe cảnh sát nữa chạy về phía căn nhà.

“Chắc là sếp,” viên cảnh sát nói, lộ rõ vẻ nhẹ nhõm.

Hai chiếc xe đậu ngay sau xe của viên cảnh sát đến trước. Hai nhân viên y tế xuống xe cứu thương và mang găng tay vào. Cả hai đều nhìn Luke chờ đợi.

“Phòng trước,” Luke lặp lại.

Irene thở dài. Kiểu người lãnh đạo, nàng nhắc nhở mình. Kiểu người mà ai cũng tự động tìm đến xin chỉ thị trong cơn khủng hoảng.

Các nhân viên y tế biến mất trong hành lang. Viên cảnh sát trẻ bước theo sau, sẵn lòng nhường cho nhân viên y tế dẫn đường.

Cửa xe cảnh sát thứ hai bật mở. Một người đàn ông to lớn bệ vệ tầm bốn mươi bước ra. Mái tóc nâu nhạt của anh ta thưa dần trên đỉnh đầu. Gương mặt góc cạnh với những đường nét rắn rỏi phủ nét u ám. Không như Pamela, năm tháng đã để lại dấu ấn rõ nét lên Sam McPherson, Irene nghĩ thầm.

Anh ta lướt mắt xem xét Irene từ đầu đến chân. Ánh mắt cho thấy anh ta vẫn chưa nhận ra nàng. Anh ta quay sang Luke, cũng như những người khác.

“Danner,” anh ta hỏi. “Anh làm gì ở đây thế?”

“Chào sếp.” Luke hất cằm về phía Irene. “Tôi đi với cô Stenson. Cô ấy là khách ở nhà nghỉ.”

“Stenson ư?” Sam quay ngoắt người lại và nhìn Irene kỹ hơn. “Irene Stenson?”

Nàng xốc lại tinh thần. “Chào Sam.”

Anh ta nhăn mặt. “Tôi chẳng thể nào nhận ra cô. Cô thay đổi nhiều quá. Cô quay về đây làm gì vậy?”

“Tôi đến gặp Pamela. Giờ anh là cảnh sát trưởng ở đây rồi à?”

“Tiếp quản sau khi Bob Thornhill mất,” Sam thờ ơ đáp. Anh ta nhìn về phía cửa, vẻ căng thẳng lướt qua mặt. “Cô chắc là Pamela trong đó chứ?”

“Chắc.”

“Tôi cũng đã e rằng như thế.” Anh ta thở dài ngao ngán. “Nghe đồn cô ấy trở lại thị trấn tuần này. Nhưng tối nay khi nhận cuộc gọi, tôi đã hy vọng chỉ là do nhầm lẫn. Biết đâu cô ấy cho bạn mình ở thành phố mượn nhà vài ngày.”

“Đó là Pamela,” Irene đáp.

“Chết tiệt.” Sam lắc đầu, trông đau khổ tang thương nhưng đành cam chịu sự đã rồi. “Cô là người tìm thấy cô ấy à?”

“Vâng.”

Anh ta dành cho Luke một cái nhìn dò xét ngắn rồi trở lại với nàng. “Chuyện xảy ra như thế nào?”

“Chiều nay tôi tới Dunsley rất trễ,” nàng đáp. “Tôi cố gọi cho Pamela vài lần suốt buổi tối. Không ai trả lời máy. Tôi bắt đầu thấy lo lắng nên cuối cùng quyết định đến đây xem cô ấy có nhà không.”

“Cathy Thomas, người nhận cuộc gọi của cô, nói rằng cô báo cáo có thuốc và rượu ở hiện trường.”

“Đúng vậy,” Irene đáp. “Nhưng...” Nàng định bảo nàng không nghĩ rằng Pamela tự sát, nhưng Luke quắc mắt nhìn khiến nàng, dù bực mình lắm, vẫn ngập ngừng không nói tiếp.

Ngay lúc nàng chuẩn bị tiếp lời thì Sam đã lên tiếng.

“Cứ nghĩ là cô ấy đã khá ổn rồi chứ,” Sam nói khẽ. “Cô ấy cứ vào ra trung tâm cai nghiện mãi sau khi tốt nghiệp, nhưng vài năm qua, cô ấy có vẻ như đang tránh xa ba cái thứ rác rưởi ấy rồi.”

“Lọ thuốc trong kia có kê toa trên đó,” Luke nói.

Sam nheo nheo mắt. “Chắc cô ấy lại tái điều trị.” Anh ta tiến vào tiền sảnh và dừng lại ở ngay ngưỡng cửa, quay lại nói với Irene. “Cô sẽ ở lại đây một thời gian nữa chứ?”

“Tôi định sáng mai sẽ đi,” nàng nói dù trong lòng hiện không chắc sẽ làm gì tiếp.

“Sáng mai tôi muốn hỏi cô vài điều. Thủ tục thôi mà.” Sam hất đầu về phía Luke. “Cả anh cũng vậy nhé, anh Danner.”

“Được rồi,” Luke đáp.

Irene gật đầu, không nói gì.

“Tôi sẽ gặp cả hai tại đồn khoảng chín rưỡi sáng mai,” Sam nói.

Anh ta biến mất vào trong nhà. Luke nhìn Irene. “Cô không hẳn là người lạ ở thị trấn Dunsley này, phải không?”

“Tôi lớn lên ở đây. Rời khỏi đây năm mười lăm tuổi.”

“Đây là lần đầu cô trở về à?”

“Ừ.”

Anh chăm chú nhìn nàng trong ánh sáng của bóng đèn trước thềm. “Tôi cho rằng cô có kỷ niệm không đẹp đối với nơi đây.”

“Những gì tôi có ở đây là ác mộng thì đúng hơn, anh Danner ạ.”

Nàng băng qua lối đi bước lên xe mình.

Đây sẽ là một trong những đêm thật dài đây, Irene vừa nhủ thầm vừa khởi động máy, một trong những đêm dài vô tận nho nhỏ khi mà không một thói quen thông thường nào có tác dụng.
 
Chương 4


Trở về cabin sáng trưng của mình, nàng lấy từ trong túi đeo vai ra một gói trà nhỏ rồi vào góc bếp đun một ít nước sôi.

Những cabin trong nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ chẳng cung cấp dịch vụ nhiều nhặn gì, nhưng lại được thiết kế như chỗ lưu trú dài hạn dành cho những du khách mùa hè thích dành hai tuần đến một tháng nghỉ ở hồ. Ngoài thiết bị bếp núc tối thiểu, ở đây còn có đủ bộ đồ ăn cho bốn người, một ấm pha trà và ít nồi niêu đơn giản.

Nàng nghĩ về Pamela trong khi chờ trà ngấm. Bóng ma đen tối của ký ức tưởng chừng đã chôn chặt trong hầm mộ tâm trí nàng nay lại chực chờ vùng dậy. Bao nhiêu năm qua các bác sĩ trị liệu và tư vấn tận tâm đã làm hết khả năng để giúp nàng ru yên các bóng ma đó, nhưng nàng biết rõ chỉ sự thật mới có tác dụng triệt để. Thật không may, sự thật lại là thứ đã từ chối nàng.

Nàng cầm tách trà bị mẻ trở ra ngồi xuống chiếc tràng kỳ đã lún. Có tiếng máy xe nặng nề văng vẳng trong đêm. Luke đã về. Nàng nhìn qua rèm cửa, trông theo anh bước xuống xe rồi vào cabin số Một. Dù sao, biết được anh ở gần bên cũng tốt.

Nàng lặng lẽ ngồi suy nghĩ về mùa hè kinh hoàng năm mười lăm tuổi, mùa hè nàng trở thành bạn thân của Pamela Webb trong vỏn vẹn ba tháng đáng nhớ. Mùa hè mà bố mẹ nàng bị giết.

Ba giờ kém mười lăm sáng, nàng đi đến quyết định cuối cùng và lấy điện thoại ra. Adeline Grady nhấc máy sau sáu hoặc bảy hồi chuông.

“Grady đây,” Adeline ngái ngủ trả lời bằng, giọng nói đã được chế độ dinh dưỡng hằng ngày gồm whisky đắt tiền và xì gà hảo hạng làm cho vĩnh viễn khản đặc. “Irene này, nếu đây không phải việc hệ trọng thì cô bị sa thải rồi nhé.”

“Em có tin độc quyền cho chị đây, Addy.”

Adeline ngáp rõ to trong máy. “Là gì đi nữa cũng nên hay ho hơn chuyện tranh cãi về đề án xây dựng công viên cho chó trong cuộc họp hội đồng thành phố vừa rồi.”

“Dĩ nhiên. Pamela, con gái của thượng nghị sĩ Ryland Webb, được phát hiện đã chết trong nhà nghỉ mát của gia đình tại hồ Ventana lúc...” Nàng liếc nhìn đồng hồ. “Mười giờ bốn mươi lăm tối nay.”

“Nói cho tôi nghe nào nhóc con.”

Kỳ diệu thay, cơn buồn ngủ biến mất hoàn toàn khỏi giọng nói của Adeline, giờ đây chỉ còn sự nôn nóng khôn tả. “Chuyện gì đang xảy ra thế?”

“Ít nhất, em có thể cam đoan rằng tờ Beacon sẽ là tờ báo đầu tiên trên toàn nước Mỹ đăng tin về cái chết trẻ đầy bí ẩn của Pamela Webb.”

“Chết trẻ và bí ẩn à.”

“Giới chức địa phương sẽ giả thiết đây là trường hợp tự sát hoặc uống thuốc quá liều, nhưng em nghĩ chuyện này còn nhiều điều sâu xa hơn nữa.”

“Pamela Webb,” Adeline nói, giọng đã ra chiều trầm tư. “Đó có phải là người cô hẹn gặp ở Dunsley không?”

“Vâng.”

“Tôi không biết là cô quen cô ấy.”

“Đã lâu lắm rồi,” Irene đáp.

“À.” Có tiếng di chuyển sột soạt ở đầu dây bên kia và sau đó là tiếng bật công tắc đèn đánh tách. “Hình như tôi nhớ đã từng nghe vài tin đồn về chuyện cô ấy có thời gian ở trại cai nghiện.” Trước khi Adeline nghỉ hưu và chuyển đến Glaston Cove tiếp quản tờ Beacon, bà từng là phóng viên cho một trong những tờ nhật báo lớn của bang trong suốt ba mươi năm. Irene có thể cảm nhận rõ ràng vẻ quan tâm và tò mò trong giọng nói khàn khàn của sếp. Chắc chắn có đề tài để khai thác, nàng nghĩ thầm. Và Adeline cũng đánh hơi được điều này.

“Ít phút nữa em sẽ email cho chị những gì em biết, được không?”

Irene bảo.

“Cô có chắc đây sẽ là tin độc quyền chứ?”

“Tin em đi, cho tới giờ, Beacon là tờ báo duy nhất trên thế giới biết được Pamela Webb đã chết.”

“Sao lại có chuyện may mắn đến thế?” Adeline hỏi.

“Em chính là người phát hiện thi thể cô ấy.”

Adeline khẽ huýt sáo. “Được, đáng giá một bản tin độc quyền đó. Tôi dành cho cô nửa trên của trang nhất và cả dòng đề tên cô nữa. Thông thường, cái chết của con gái một thượng nghị sĩ chỉ mang tính bi kịch cá nhân. Nhưng trong tình huống hiện tại khi Webb đang chuẩn bị chạy đua vào Nhà Trắng, câu chuyện này sẽ chấn động hơn nhiều.”

“Thêm một chuyện nữa này Addy. Chị làm ơn bảo Jenny hay Gail đến căn hộ của em, gói ghém giùm ít đồ đạc và chuyển nhanh qua đêm đến đây cho em được không?”

“Sao vậy?”

“Bởi vì em sẽ ở lại Dunsley một thời gian nữa.”

“Tưởng là cô ghét thị trấn đó chứ,” Adeline đáp.

“Em vẫn ghét. Em ở lại chỉ vì linh cảm sẽ có nhiều thứ liên quan đến chuyện này.”

“Tôi có thể cảm nhận được lòng tham đang trỗi dậy trong trái tim phóng viên già nua này đây. Chuyện gì đang diễn ra vậy?”

“Em cho rằng Pamela Webb bị mưu sát.”
 
Chương 5


Chín giờ sáng, cơn lốc nhỏ mang tên Maxine ùa vào sảnh. Maxine là một phụ nữ ngoài ba mươi năng động và quyến rũ, với đôi mắt xanh và mái tóc nhuộm vàng lúc nào cũng như thể vừa bị cánh quạt trực thăng thổi tung. Cô dùng băng đô để giữ mái tóc không vào nếp của mình.

Sau vài tháng thì Luke khám phá ra cô nàng có vô số băng đô đủ màu sắc. Hôm nay là ngày của màu hồng tươi.

Anh nhận thấy lòng nhiệt thành đối với công việc của cô thật buồn cười, thường không có căn cứ và hơi khiến người ta mệt mỏi.

Cô nàng dùng chân đá cửa đóng rồi đứng lại, hai tay ôm một túi giấy to in logo siêu thị Dunsley, mắt nhìn xoáy vào anh chừng như muốn buộc tội.

“Tôi vừa ở chợ về. Mọi người nói rằng Irene Stenson đã trở lại và rằng cô ấy đang ở ngay nhà trọ này và rằng hai người đã tìm thấy xác Pamela Webb tối qua.”

Luke tựa vào bàn. “Cái cách tin đồn lan ra khắp thị trấn này nên được xếp vào hàng bí mật quân sự mới phải.”

“Sao anh không kể cho tôi nghe?” Maxine đặt túi đồ lên cái bàn cô chọn dùng để phục vụ bánh vòng và cà phê sáng. “Trời ạ, tôi làm việc ở khu nhà nghỉ này cơ mà. Lẽ ra tôi phải là người đầu tiên biết chuyện chứ. Thay vào đó, tôi phải nghe ngóng tin tức từ Edith Harper. Anh có biết tôi thấy xấu hổ đến dường nào không?”

“Irene Stenson gọi điện cho tiếp tân để đặt phòng sáng hôm qua, lúc cô ra ngoài chạy việc. Nhận phòng cuối giờ chiều khi cô đã về nhà. Mãi đến mười một giờ kém mười lăm tối hôm qua chúng tôi mới tìm thấy thi thể. Sự việc cứ liên tiếp diễn ra như vậy nên tôi không có thời gian gọi cho cô để cập nhật tin tức. Xin lỗi về việc đó nhé.”

Maxine huýt sáo khe khẽ trong khi máng áo khoác lên một trong mấy cái mắc áo gạc nai. “Cả thị trần đồn ầm lên. Tôi ngờ rằng hàng bao nhiêu năm rồi kể từ lúc Irene rời khỏi thị trấn, chưa có sự kiện nào gây náo động đến như vậy.” Cô cau mày vẻ quan tâm chân thành. “Mà này, cô ấy giờ như thế nào rồi nhỉ? Chắc cô ấy phải thấy kinh khủng lắm khi tìm ra Pamela trong tình trạng như thế. Anh biết không, họ là bạn thân trong một kỳ hè hồi trung học đấy.”

“Chỉ một mùa hè thôi à?”

“Thường Pamela chỉ ở đây vào mùa hè. Thời gian còn lại, cô ấy ở trong một ngôi trường nội trú danh giá hoặc trượt tuyết ở rặng Alps hay đại loại như thế. Nói thật, cô ấy và Irene chẳng khác nào một đôi đũa lệch. Họ không thể nào khác nhau hơn thế.”

“Có lẽ vì vậy mà họ kết nhau.” Maxine bĩu môi, cân nhắc khả năng đó, rồi nhún vai. “Cũng có thể lắm. Pamela là một đứa trẻ hư hỏng điển hình. Cô ta sa đà vào hút xách, trai gái, còn ông bố thượng nghị sĩ thì cho cô ta mọi thứ mà cô ta đòi hỏi. Cô ta luôn có những bộ cánh mốt nhất, một chiếc xe hơi thể thao bóng lộn khi vừa được mười sáu tuổi, tấn tần tật.”

“Thế còn Irene Stenson?”

“Hoàn toàn đối lập, như tôi đã nói. Kiểu học sinh trầm lặng và chăm chỉ. Hầu hết thời gian cô ấy ở thư viện. Lúc nào cũng chúi mũi vào một cuốn sách. Luôn luôn lễ phép với người lớn. Chưa bao giờ dính vào rắc rối. Chưa từng hẹn hò nốt.”

“Bố mẹ cô ấy làm nghề gì?”

“Bà Elizabeth mẹ cô ấy là họa sĩ, mặc dù tôi không cho rằng bà ấy kiếm sống được từ tác phẩm của mình. Cha cô, ông Hugh Stenson, là cảnh sát trưởng ở Dunsley.”

“Một nghề có lẽ không thể chu cấp được vô số quần áo thời trang cho mấy cô choai choai, hay đủ thứ xe mới và các kỳ nghỉ ở khu trượt tuyết.”

“Anh đúng đấy.” Maxine cau mày ngó cái khay trống trên bàn pha cà phê. “Anh không bày bánh vòng ra cho khách gì cả.”

“Hôm qua tôi đã vứt chỗ bánh cũ rồi. Nếu không vứt đi thì có thể đem nung thành neo thuyền cũng được ấy chứ. Ngoài ra, hiện tại chỉ có duy nhất một khách trọ, và linh tính cho tôi biết rằng cô ấy không hảo bánh vòng, hoặc ít nhất là loại được bán ở siêu thị Dunsley.”

“Hóa ra nguồn cơn là đây. May mà tôi có mua đợt bánh mới sáng nay.” Maxine lấy từ trong túi giấy ra một cái hộp, xé vỏ ra và tuần tự bày bánh trên khay nhựa. “Có một ít bánh trái và cà phê nóng buổi sáng sẽ bắt mắt hơn. Tất cả các nhà nghỉ và khách sạn cao cấp đều làm thế.”

“Tôi thích nghĩ rằng nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ tự thân nó thuộc về một đẳng cấp riêng,” Luke đáp lại. “Hãy kể nốt cho tôi câu chuyện về nhà Stenson đi.”

“À, như tôi đang nói, không biết vì lý do gì mà vào mùa hè năm mười sáu tuổi, Pamela Webb quyết định kết thân với Irene Stenson.” Maxine nghiêng nghiêng đầu ra chiều suy nghĩ lung lắm. “Có thể anh đúng. Có thể là do Pamela thích sự tương phản giữa cô ta và Irene. Có lẽ cô ta cho rằng có cô bé Irene trầm lặng, quê mùa bên mình sẽ càng làm cô ta tỏa sáng và thú vị hơn. Dù sao đi nữa, suốt ba tháng hè họ không rời nhau. Mặc dù không ai hiểu được do đâu mà bố mẹ Irene cho phép con mình giao du với Pamela.”

“Tôi đồ rằng Pamela bị xem như có ảnh hưởng xấu, phải không?”

Maxine cau mày. “Xấu hết mức ấy chứ. Nhiều người rỗi chuyện còn tự thấy mình có bổn phận phải khuyên ông bà Stenson nên lưu ý nếu không tách Irene khỏi Pamela, cô bé sẽ không có kết cuộc tốt đẹp. Nhiều người còn tiên đoán rằng chẳng chóng thì chày cô bé Irene Stenson ngoan hiền sẽ biến thành nạn nhân của thói hư hỏng bởi ma túy, tình dục và rock & roll.”

“À, những trò vui của tuổi trẻ.”

“Ừm, những ngày xưa tươi đẹp,” Maxine đồng tình. “Nhưng vì lý do gì đó không ai trong thị trấn hiểu nổi, ông bà Stenson dường như không phản đối tình bạn giữa hai cô bé. Có lẽ họ thích cái suy nghĩ Irene đang cặp kè với con gái của thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, mặc dù tôi chưa từng cho rằng nhà Stenson ấn tượng với cái thứ hư danh đó.”

Luke ngắm nghía cabin số Năm qua các tán cây. Hầu như toàn bộ các bóng đèn được thắp sáng suốt đêm. Lần cuối cùng anh kiểm tra, tầm bốn giờ sáng, từ phòng ngủ chỉ còn phát ra ánh sáng xanh mờ bàng bạc. Có lẽ Irene rốt cuộc đã thiếp đi mà vẫn bật đèn ngủ trong phòng.

“Tiếp tục câu chuyện đi,” anh nói. Sắp có chuyện không hay đây, anh nghĩ thầm. Từ trong xương tủy anh có thể cảm nhận được điều đó.

“Một đêm Hugh Stenson bắn chết vợ mình trong bếp. Sau đó ông ta chĩa súng vào đầu mình.”

“Trời đất.” Anh đã biết trước là sự việc sẽ tồi tệ mà, Luke tự nhủ. “Còn Irene thì sao?”

“Đêm đó cô ấy đi chơi với Pamela Webb. Khi trở về nhà, cô ấy trông thấy hai cái xác.” Maxine ngừng lại. “Irene khi ấy chỉ mới mười lăm tuổi, và bước vào nhà một mình. Bao nhiêu năm qua rồi nhưng chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi cũng đủ khiến tôi rùng mình.” Luke không nói gì.

“Bi kịch không thể tưởng. Cả cộng đồng rúng động. Sau này có tin đồn Elizabeth Stenson gian díu với ai đó ở Dunsley và Hugh đã lên cơn điên khi phát hiện ra.”

“Điên à?”

Maxine buồn bã gật đầu. “Người ta cũng nói nhiều về chuyện Hugh đã từng chứng kiến vài trận đánh khốc liệt trong thời gian ở Hải quân và bị chấn động tâm lý gì đó.”

“Hội chứng rối loạn căng thẳng hậu chấn thương.”

“Đúng rồi.”

Anh nhìn cabin số Năm lần nữa và thấy Irene thấp thoáng sau các tán cây hướng đến sảnh. Nàng ăn vận chẳng khác hôm qua là mấy, quần đen cắt khéo léo và áo thun đen. Chiếc áo choàng dài màu đen không cài cúc. Vạt áo phát phơ quanh cổ đôi bốt da đen bóng của nàng.

Thảm kịch gia đình rõ ràng đã giải thích những điều bí ẩn chất chứa trong đôi mắt tuyệt đẹp ấy, Luke thầm nghĩ.

“Ồ.” Maxine nhìn Irene qua ô cửa kính. “Có phải Irene đó không?”

“Cô ấy đấy.”

“Tôi hẳn sẽ không thể nào nhận ra cô ấy. Cô ấy trông thật...”

“Sao?”

“Tôi không biết,” Maxine thừa nhận. “Trông khác quá, chắc là vậy. Không hề giống cô bé con tội nghiệp suy sụp mà tôi từng thấy ở đám tang.”

“Irene dọn đi đâu sau khi bố mẹ mất?”

“Thật tình tôi không chắc. Vào đêm án mạng xảy ra, một sĩ quan cảnh sát tên là Bob Thornhill đưa cô ấy về nhà ông. Hôm sau, một bà dì già đến đón Irene. Chúng tôi chưa từng gặp lại Irene sau khi họ chôn cất bố mẹ cô ấy.”

“Cho tới giờ.”

Maxine không rời mắt khỏi Irene. “Tôi không ngờ cô ấy thay đổi đến mức này. Trông thật sành điệu. Như tôi đã nói đấy, hồi đi học cô nàng chưa từng hẹn hò.”

“Chắc giờ thì có rồi,” Luke đáp. “Nhiều nữa là khác.”

Anh không thể tin nổi lại có gã đàn ông nào phớt lờ được một bóng hồng lạnh lùng nhưng tinh tế đến thế.

“Ai có thể ngờ cô ấy lại trở nên sành điệu và sang trọng đến thế?” Maxine trở lại bàn nước và trở nên bận rộn. “Xem nào, cô ấy có lẽ đã ba mươi hai tuổi, vẫn dùng tên cũ. Có vẻ như cô ấy chưa từng kết hôn. Hoặc đã ly dị và lấy lại tên của mình.”

“Cô ấy chưa từng đề cập tới chuyện chồng con,” Luke nói. Nếu không thì anh đã nhớ rồi. “Cũng không đeo nhẫn nốt.”

“Không hiểu sao cô ấy lại trở về?”

“Hình như là để gặp Pamela Webb.”

“Rồi đến và phát hiện ra xác của Pamela.” Maxine trút bã cà phê cũ vào sọt rác. “Ý tôi là, trừ phi anh là cảnh sát, chứ nghĩ xem có được mấy cơ hội anh tình cờ va phải ba xác chết trong đời mình nào, chưa kể khi anh chưa tròn bốn mươi ấy? Hầu hết mọi người chỉ thấy xác chết ở đám tang thôi, nhưng chuyện này thì làm sao mà giống được.”

“Cô ở bên mẹ mình khi bà mất đấy thôi.”

“Ừ, nhưng...” Maxine ngừng lại, nhăn trán một chút, như thể không biết phải giải thích như thế nào. “Bà bị bệnh đã lâu và nằm viện suốt. Cái chết của bà không đột ngột hoặc bạo lực hoặc không được báo trước, nếu anh hiểu tôi đang muốn nói gì. Nói cho cùng là khá nhẹ nhàng. Giống như một sự chuyển tiếp thì đúng hơn.”

“Tôi hiểu,” Luke lặng lẽ đáp.

Cô ấy đúng, anh nghĩ. Cái chết bạo lực không được báo trước khác hoàn toàn. Người còn sống không may tiếp cận nó đúng lúc họ chưa được cảnh báo hay chuẩn bị trước thì sẽ không có thời gian để tiêu hóa cái sự thật kinh khủng ấy một cách bình thường, chỉn chu được. Và có những thứ quá kinh hoàng đến nỗi không bao giờ có thể được tiêu hóa hoàn toàn. Người ta sẽ phải học cách chôn chặt hoặc đầu hàng nó.

“Tội nghiệp Irene. Mà có phải cả ba xác chết cô ấy tìm thấy là ai xa lạ đâu cơ chứ.” Maxine châm nước lọc vào máy pha cà phê. “Đầu tiên là bố mẹ, rồi giờ đây là người phụ nữ từng là bạn thân của cô ấy.”

Liệu có bao nhiêu phần trăm khả năng xảy ra chứ? Luke thắc mắc.

Câu hỏi đã ám anh suốt đêm qua giờ tiếp tục làm tình làm tội anh, một tia lửa nhỏ có thể châm mồi cho ngọn lửa thiêu cháy cả khu rừng nếu anh không dập tắt ngay.

Điểm dữ kiện. Chúng là liều thuốc độc đối với sự tồn tại của anh. Khao khát kết nối chúng lại thành một phác họa hoàn chỉnh là cơn nghiện ám ảnh anh.

Đừng vướng vào, anh nhủ thầm. Mày không cần thêm rắc rối này. Bản thân mày đã đủ rắc rối lắm rồi. Lẽ ra mày phải cố gắng ổn định lại cuộc sống. Thời điểm này đó là việc duy nhất mày cần làm.

Maxine cho cà phê vào miếng lọc giấy. “Sau khi bà dì đưa cô ấy đi, nhiều người trong thị trấn cho rằng Irene có thể sẽ sống khổ sở cả đời. Họ bảo cô ấy sẽ không bao giờ được như xưa sau cái đêm tìm thấy bố mẹ mình trên sàn bếp. Họ nói rằng cô ấy sẽ không bao giờ thật sự bình thường, anh hiểu ý tôi chứ.”

“Ừ,” Luke đáp khẽ, “tôi hiểu cô muốn nói gì.”

Maxine quan sát Irene với vẻ lo ngại. “Tôi còn nghe bà Holton nói với mọi người rằng việc tìm thấy thi thể Pamela đêm qua có lẽ là vượt quá sức chịu đựng của Irene tội nghiệp sau những gì đã xảy đến trong quá khứ. Bà ta còn nói chuyện đó thậm chí có thể đẩy Irene vượt quá giới hạn chịu đựng.”

Luke nhìn theo Irene lướt qua cửa sổ, đi đến cửa trước gian sảnh. Gương mặt nàng đanh lại với vẻ cương quyết. Không phải vẻ mặt một phụ nữ đang rúng động sửa soạn nhảy xuống vực. Gương mặt này giống với một người luôn làm việc có kế hoạch hơn.

Cửa mở. Irene bước vào phòng, mang theo làn gió mát lành buổi sớm mai.

Chào buổi sáng tốt lành xem ra không hợp hoàn cảnh lắm, Luke nghĩ. Anh lục tìm một câu chào khác phù hợp hơn.

“Chào,” anh nói. Ai bảo anh không giỏi ứng phó trong giao tế nào?

Nàng nhoẻn miệng cười, nhưng ánh mắt cảnh giác cao độ. “Chào.”

“Tối qua cô có ngủ được chút nào không?” anh hỏi.

“Không nhiều lắm. Thế còn anh?”

“Chút ít.”

Chuyện vãn như vậy là quá nhiều, anh nghĩ.

“Irene.” Maxine tươi cười với nàng từ bên kia phòng. “Nhớ mình không? Maxine Spangler. Giờ là Maxine Boxell.”

“Maxine.” Nụ cười của Irene tươi hơn. “Luke bảo cậu đang làm việc ở đây. Mình tưởng cậu đã rời khỏi thị trấn sau khi tốt nghiệp.”

“Đúng vậy thật. Mình lên học cao đẳng cộng đồng chuyên ngành kinh doanh và kế toán. Đi làm ở một công ty thuộc ngành công nghệ cao và, chờ này, kết hôn với ông Hoàn Hảo và có một đứa con trai.” Maxine đảo mắt. “Nhưng mọi việc không hoàn toàn suôn sẻ. Mình bị cho thôi việc. Ông Hoàn Hảo rời bỏ mình đi theo huấn luyện viên yoga của hắn, rồi thì mẹ mình bệnh nặng. Mình dẫn theo con trai mình Brady về đây để chăm sóc bà.”

“Mẹ cậu sao rồi?”

“Bà mất cách đây sáu tháng.”

“Mình rất tiếc,” Irene đáp khẽ.

“Cảm ơn cậu.”

“Mình còn nhớ mẹ cậu. Mình rất quý bà. Bà còn là bạn của mẹ mình.”

“Mình biết,” Maxine đáp.

“Và cậu quyết định tiếp tục ở lại đây sau khi mẹ mất à?”

Maxine ngập ngừng. “Nói thật, Brady không phù hợp với trường trung học ở thành phố lớn. Khi cha thằng bé bỏ đi, nó gần như suy sụp. Điểm số trượt dần. Rồi nó bắt đầu gây rắc rối.”

“Mình hiểu.”

“Rồi chuyện này tiếp chuyện kia, mình rút ra kết luận là có lẽ thằng bé sẽ sống tốt hơn ở một thị trấn nhỏ như Dunsley. Có vẻ như nó đã dần ổn định. Điểm số đã được cải thiện. Ngoài ra, ở đây nó có vài tấm gương đàn ông tốt để noi theo. Sam McPherson cho phép thằng bé cùng đi trên xe tuần tra vài lần rồi còn dẫn nó đi câu cá. Luke đây thì dạy nó cách bảo dưỡng chiếc tàu của nhà nghỉ để nó có thể đưa khách trọ đi câu cá trên hồ mùa hè này. Brady rất hào hứng với chuyện này.”

“Mình hiểu,” Irene đáp. Nàng nhìn thật lâu, thật trầm ngâm vào Luke.

Luke có cảm giác mình đang bị đánh giá rồi cân nhắc.

“Nghe này, về chuyện của Pamela Webb ấy mà,” Maxine tiếp. “Mình biết thật khó khăn đối với cậu khi tìm thấy cô ấy trong tình trạng như tối qua.” Cô nàng với tay lấy cái bình cà phê. “Cậu dùng một tách cà phê nóng và bánh vòng nhé?”

Luke cho rằng Maxine chỉ phí thời giờ. Irene trông giống kiểu người chỉ uống trà ngon hoặc cà phê thượng hạng làm từ những hạt cà phê được rang một cách đặc biệt và chỉ xay ngay trước khi pha. Và anh cũng chắc chắn là nàng ghét bánh vòng.

Nhưng anh ngớ ra khi thấy nàng mỉm cười với Maxine.

“Tuyệt thật,” nàng đáp. “Cảm ơn cậu.”

Mắt Maxine sáng lên. Cô đưa Irene cốc cà phê và một chiếc bánh vòng lót tờ giấy ăn nhỏ lấy từ trong hộp ra.

Irene nhấp một ngụm cà phê và duyên dáng nhấm nháp cái bánh dở tệ. Cung cách của nàng cho thấy nàng đang thưởng thức cả hai. Đang có chuyện lạ lùng gì đó đây, Luke nghĩ.

“Tìm thấy Pamela quả là một cú sốc kinh khủng,” Irene nói. “Gần đây cô ấy có thường về Dunsley không?”

Cái quái gì thế nhỉ? Luke cảm giác bộ cảm biến rắc rối bên trong cơ thể mình phát tín hiệu báo động.

“Cũng như thường lệ thôi,” Maxine đáp, hoàn toàn mù tịt về ý định của nàng. “Nhiều năm qua, cô ấy có thói quen thỉnh thoảng về đây dịp cuối tuần. Cô ấy thường đi cùng một người đàn ông hoặc vài người bạn ở thành phố. Nhưng cũng ít người nhìn thấy cô ấy.”

“Cậu có biết Pamela về thị trấn lần này không?”

“Ồ, biết chứ. Mới đầu tuần người ta thấy cô ấy lái xe ngang qua quán cà phê.” Maxine liếc nhìn Luke. “Mỗi khi có người nhà Webb về đây là tin tức lan nhanh lắm. Họ giống như gia đình hoàng tộc ở địa phương ấy mà, trừ phi anh vẫn chưa biết về điều đó.”

“Tôi cũng có ấn tượng đó sau khi để ý thấy tòa thị chính, công viên, bệnh viện địa phương và con đường chính ở Dunsley, tất cả đều mang tên Webb.”

Maxine cười lớn. “Gia tộc Webb gắn bó với Dunsley tới bốn thế hệ.”

“Bảng tên của các công trình và con đường đều để vinh danh Victor Webb,” Irene giải thích, “ông nội của Pamela, ông ta chính là người nhà Webb đã xây dựng một đế chế dụng cụ thể thao vài năm trước. Sau khi trở nên giàu có, ông ta đã quyên góp rất nhiều tiền cho các hoạt động từ thiện và dự án khác nhau trong cộng đồng địa phương.”

Maxine rót cho mình một ít cà phê. “Có thể cho Victor Webb là ông Bụt đỡ đầu của thị trấn này. Nhiều người ở thị trấn này mang ơn ông ta vì lý do này hoặc khác. Phải không Irene?”

Irene gật đầu. “Hồi mình ở đây là như vậy.”

“Nhưng ông ta không sống ở đây,” Luke nhận xét. “Ông ta không còn sống ở đây nữa,” Maxine xác nhận. “Khi mở chuỗi cửa hàng của mình, ông ta đặt trụ sở chính ở San Francisco. Sau này, khi đã bán lại doanh nghiệp được khối tiền, ông ta trở về Phoenix nghỉ hưu. Giờ chúng tôi chỉ thấy ông ta ở đây vào mùa thu khi ông ta trở lại Dunsley đi săn bắn. Nhưng ông chưa bao giờ quên Dunsley.” Maxine nhăn mũi. “Nhưng không thể có cùng nhận xét đối với tay con trai thượng nghị sĩ của ông ta được.”

“Ý cô là sao?” Luke hỏi.

“Tôi có thể trả lời,” Irene vừa ngồm ngoàm vừa nói. “Ryland Webb luôn là một chính trị gia đầy tham vọng. Ông ta chưa bao giờ dành nhiều thời gian ở Dunsley. Ít nhất là như thế khi tôi còn sống ở đây.” Nàng nhìn Maxine ý dò hỏi.

“Cũng không có gì thay đổi,” Maxine nói. Cô ta nhún vai. “Đôi lần ông ta xuất hiện vào mùa thu cũng chỉ để đi săn với cha mình, vậy thôi.” Irene nhấp thêm một ngụm cà phê. “Tôi nhớ cha có lần nói rằng cản trở Ryland đến với thứ ông ta muốn không bao giờ là ý kiến hay ho.”

“Về việc này thì không có gì để tranh cãi,” Maxine nói. “Nhưng tôi nghĩ nguyên nhân chính khiến thiện cảm của dân cư ở đây đối với Ryland Webb không được như với Victor là vì ngài thượng nghị sĩ không dành cho Dunsley nhiều mối quan tâm sau khi thắng cử.”

“Không mang về nhà miếng thơm phải không?” Luke hỏi.

Maxine đưa tay chỉ khung cảnh bên ngoài cửa sổ sảnh. “Nhìn quanh thử xem. Anh chẳng thấy bất kỳ dự án tầm cỡ liên bang nào đang diễn ra ở Dunsley này phải không? Không có tiền sửa sang đường sá. Không một sự phát triển nào để giúp tăng trưởng kinh tế địa phương.”

“Riêng tôi, tôi thấy đấy mới là nét duyên dáng của nơi này,” Luke đáp giọng khô khốc. Maxine cười to. “Anh đi mà nói với hội đồng thị trấn ấy. Vấn đề ở đây là do chúng ta không có những Mạnh Thường Quân giàu có quyên góp cho các chiến dịch của Ryland Webb nên ông ấy phớt lờ chúng ta.”

“Pamela cũng tham gia các chiến dịch của Ryland phải không?” Irene nói với Maxine.

Maxine gật đầu. “Cô ta về làm việc cho bố sau khi tốt nghiệp. Cô ta phụ trách giao tế. Ông ta không có vợ giúp đỡ mọi công việc giao tế quen thuộc của các chính trị gia vì ông chưa từng tái hôn sau khi mẹ Pamela mất.”

Irene có vẻ trầm tư. “Nhưng tình thế sắp thay đổi phải không? Thượng nghị sĩ Webb vừa công bố lễ đính hôn của mình vài tuần trước.”

“Đúng vậy.” Maxine ngừng một chút, cốc cà phê của cô gần chạm môi. “Mình cũng không nghĩ tới nhưng vì cậu đã đề cập nên mới nói, Pamela sẽ sớm bị mất việc thôi phải không? Một công việc trong mơ. Ý mình là, riêng chuyện làm đại diện giao tế của thượng nghị sĩ Webb cũng đủ để cô ấy thành là người quan trọng rồi.”

“Ừ,” Irene nói. “Cô ấy giao thiệp với toàn mấy người tai to mặt lớn, không chỉ ở cấp tiểu bang mà còn tới tận thủ đô Washington nữa kia.”

Mắt Maxine mở to. “Cậu có cho rằng vì vậy mà Pamela tự sát không? Cô ấy suy sụp vì mình sẽ không còn quan trọng nữa?”

“Chúng mình không chắc rằng Pamela tự sát,” Irene đáp giọng đều đều.

Đủ rồi đấy, Luke nghĩ. Đã đến lúc phải làm chủ tình hình. Anh cho tay vào túi lấy ra chìa khóa chiếc SUV. “Cô đã sẵn sàng cho cuộc hẹn ngắn giữa chúng ta với McPherson chưa? Có lẽ ta nên đi cùng xe vào thị trấn.” Irene cân nhắc lời đề nghị một chốc rồi gật đầu, như thể đi cùng xe với anh là chuyện lớn lao. “Được thôi,” nàng đáp.

Luke lấy áo khoác khỏi cái gạc nai. “Cậu sẽ ở lại đây bao lâu, Irene?” Maxine hỏi.

“Một thời gian,” Irene đáp.

Luke kéo khóa áo khoác lên. “Cô ấy đặt thêm một đêm nữa.”

Irene đặt chiếc cốc rỗng xuống và ném tờ giấy ăn vào giỏ rác. “Có lẽ tôi sẽ kéo dài thời gian ở đây hơn so với dự tính ban đầu.”

Luke nhìn nàng. “Lâu hơn là bao lâu?”

“Còn tùy.” Nàng đi ra mở cửa. “Chúng ta nên đi là vừa. Tôi không muốn bị trễ cuộc hẹn với cảnh sát trưởng.”

“Sẽ trở lại ngay thôi, Maxine,” Luke nói. Anh đi theo ra cửa.

“Được mà.” Maxine bước ra sau quầy tiếp tân. “Cứ thong thả.”

Luke theo Irene ra đến chiếc SUV, cố đến mở cửa phía ghế phụ suýt soát trước Irene.

“Cảm ơn,” nàng nói khá khách sáo.

Nàng bước lên xe và với tay thắt dây an toàn.

Anh đóng cửa, đi vòng sang bên kia ngồi vào sau tay lái.

“Có phiền không khi tôi hỏi cô đang nghĩ cái quái quỷ gì trong suốt cuộc chuyện trò vừa rồi ở trong kia thế?” anh hỏi trong khi khởi động máy. “Anh bảo sao?”

“Quên đi.” Anh đạp chân ga. “Câu hỏi tu từ thôi. Tôi biết câu trả lời rồi.”

“Anh đang nói chuyện gì thế?”

“Cô đang quay Maxine.”

“Tôi không chắc mình hiểu anh muốn ám chỉ gì với từ ‘quay’.”

Anh cười nhưng không có vẻ gì như đang đùa. “Tôi có thể hiểu được ẩn ý của từng câu hỏi khi tôi nghe thấy chúng. Cô đang cố gắng tự làm một cuộc điều tra nho nhỏ phải không?”

Nàng liếc xéo anh đầy cảnh giác. “Có thể.”

“Maxine đã cho tôi biết mối quan hệ giữa cô và Pamela Webb. Tôi công nhận rằng thật chẳng vui gì khi tìm thấy bạn thân cũ của mình trong tình trạng vừa rồi. Nhưng như thế không có nghĩa cái chết của cô ấy còn gì bí ẩn.”

Nàng nhìn thẳng trước mặt, quan sát dải lề đường hẹp đang uốn quanh hướng vào thị trấn.

“Tôi định làm gì là chuyện riêng của tôi,” nàng đáp khẽ.

“Nghe này, tôi thừa nhận là tôi chỉ mới ở thị trấn này vài tháng, nhưng theo những gì tôi nghe được, Sam McPherson là một cảnh sát trung thực. Không có lý do gì để tin rằng anh ta sẽ không tiến hành một cuộc điều tra hợp pháp nếu phát hiện được mấu chốt cần thiết.”

“Sẽ không có cuộc điều tra nào đâu. Trừ phi thượng nghị sĩ Webb muốn, và tôi khá chắc chắn rằng chuyện này sẽ không xảy ra. Ngược lại thì đúng hơn.”

“Bởi vì ông ta chuẩn bị công bố ý định tranh cử tổng thống sao?”

“Chính xác. Ông ta sẽ không đời nào cho phép điều tra nguyên nhân cái chết của con gái mình.”

Anh siết chặt tay lái. “Từ những đồn thổi tôi nghe được ở Dunsley, đồ rằng chuyện này sẽ rối tung lên đây.”

“Nhiều năm qua gia đình Webb đã giữ kín được quá khứ nghiện ngập và, nói sao đây nhỉ, tuổi trẻ thác loạn của Pamela. Nhưng bất kỳ cuộc điều tra nghiêm túc nào cũng sẽ lật tung những chuyện cũ, mà tôi chắc rằng tay chân của Ryland Webb sẽ cố xoay xở che khỏi tầm ngắm của báo giới. Nó có thể phá hủy hình ảnh người cha tận tụy của ông ta.”

“Làm gì đi chăng nữa ông ta cũng sẽ không thoát được cánh truyền thông,” Luke chỉ ra. “Con gái của một thượng nghị sĩ chết do uống thuốc quá liều sẽ thu hút làng báo.”

“Tin tôi đi, Webb và người của ông ta có thừa khả năng kiểm soát câu chuyện này. Nhưng nếu rò rỉ ra tin đồn thổi dù chỉ xa xôi rằng Pamela bị sát hại thì đó mới là một cơn bão lửa.”

Anh thở ra chầm chậm. “Chết tiệt. Tôi đã e rằng cô đang theo đuổi hướng đó mà.”

Nàng không trả lời, nhưng khi liếc sang, anh thấy bàn tay đặt trên đùi nàng siết lại thành một nắm đấm nhỏ.

“Cô có thật sự tin chuyện đã xảy ra theo hướng ấy không?” anh dịu giọng.

“Tôi không biết. Nhưng tôi định tìm cho ra.”

“Cô có bằng chứng mạnh mẽ nào củng cố cho ý tưởng là có ai đó giết Pamela Webb chăng?”

“Không hề,” nàng thừa nhận. “Nhưng để tôi nói cho anh nghe nhé. Nếu tôi đúng về nguyên nhân Pamela chết, thì có khả năng cái chết của cô ấy có liên quan đến vụ án mạng của bố mẹ tôi mười bảy năm trước.”

“Tôi không có ý xúc phạm đâu, nhưng cô bắt đầu nói nghe giống một học thuyết gia âm mưu rồi đấy.”

“Tôi biết.”

“Có lẽ một người dưng như tôi nói ra điều này cũng chẳng có ý nghĩa gì mấy với cô,” anh lặng lẽ nói, “nhưng tôi vẫn phải nói, tôi rất tiếc về những gì cô đã trải qua trong đêm tìm thấy thi thể của bố mẹ. Chắc hẳn đấy là một cơn ác mộng kinh hoàng.”

Nàng nheo mắt ném cho anh một cái nhìn tò mò, như thể anh đã làm nàng ngạc nhiên bởi những lời chia buồn đơn giản và cực kỳ ngắn gọn ấy.

“Vâng, đúng vậy.” Nàng ngập ngừng. “Cảm ơn anh.”

Anh hiểu rõ hơn ai hết đôi lúc im lặng thì tốt hơn. Anh tập trung lái xe.

Irene tì khuỳu tay lên cạnh bên cửa xe và tựa cằm vào tay. “Thật ra tôi không có bất kỳ bằng chứng xác thực nào cho thấy Pamela có thể bị mưu sát. Nhưng tôi có một thứ.”

“Là gì?” anh hỏi, thật sự lo lắng.

“Mùa hè năm tôi và Pamela còn là bạn thân, chúng tôi tạo ra một mật khẩu để báo cho nhau biết có việc cực kỳ quan trọng mà chúng tôi không muốn bất kỳ ai biết.”

“Thi sao?”

“Pamela sử dụng mật khẩu đó trong email cô ấy gửi yêu cầu tôi đến gặp cô ấy ở Dunsley.”

Anh siết chặt tay lái. “Nói thật đừng giận nhé, nhưng một mật khẩu từ thuở thiếu thời không đủ để tiếp tục đâu.”

“Với tôi vậy là đủ,” nàng nói.
 
Chương 6


Trung tâm thị trấn trông nhộn nhịp hơn bất cứ khi nào kể từ hồi Luke dọn đến Dunsley này. Bãi đậu xe trước bưu điện chật cứng những xe tải, xe thùng lẫn SUV. Anh liếc nhìn qua cửa sổ quán cà phê Ventana View và thấy mọi chỗ ngồi đều đã có người.

Một chiếc limo dài thượt màu đen sáng loáng chiếm hết ba chỗ đậu trong bãi xe phía trước tòa thị chính, nơi đặt văn phòng thị trưởng, các phòng ban của hội đồng thị trấn và sở cảnh sát. Luke tấp xe vào chỗ đậu bên cạnh chiếc xe to tướng và ngồi im một lúc, quan sát toàn cảnh.

“Có gì thiêu thiếu ở đây,” anh bảo.

Irene khẽ bật ra một âm thanh tỏ vẻ ghê tởm. “Như là thiếu đám truyền thông chủ đạo ấy à?”

“Trông có vẻ như tin Pamela Webb chết chưa vượt quá biên giới của thị trấn nhỉ.”

“Ý anh là, ngoại trừ câu chuyện trên ấn bản sáng nay của tờ Glaston Cove Beacon ấy phỏng,” Irene nói với vẻ hãnh diện ngấm ngầm.

“Ngoại trừ chuyện ấy,” Luke đồng tình. “Nhưng vì tôi không cho là có ai sống ngoài thành phố Glaston Cove lại đi đọc tờ Beacon này, nên tôi nghĩ nói rằng câu chuyện ấy vẫn còn ít người biết đến thì cũng không ngoa.” Irene tháo dây an toàn ra. “Mấy năm trước tờ Dunsley Herald bị phá sản. Và tôi không tin là tờ Kirbyville Journal đã nhận được tin rồi. Với lại anh nói đúng về khả năng lưu hành quá hạn chế của tờ Beacon.” Nàng cười lạnh lùng. “Chung quy tôi vẫn còn có câu chuyện độc quyền.”

Ruột gan Luke thắt lại. Thảm họa lù lù hiện đến.

“Này cô,” anh lên tiếng, cẩn thận lựa chọn lời lẽ, “có lẽ sẽ là ý kiến không tồi nếu chúng ta thảo luận đôi chút về cách thức tiếp cận đề tài này với McPherson. Có chiến lược bao giờ cũng tốt cả.”

Nhưng anh chỉ đang độc thoại thôi. Irene đã xuống xe rồi, nàng sập cửa xe thật mạnh sau lưng và xăm xăm đi về phía lối vào tòa thị chính. Anh trông thấy nàng cho tay vào cái túi xách quá khổ để rút ra một dụng cụ nho nhỏ.

Máy ghi âm à, anh tự nhủ. Trong lúc Luke đang quan sát thì Irene đút máy ghi âm vào túi áo choàng dài của mình.

“Vậy mà mình tưởng mình đến Dunsley để được yên bình và tĩnh lặng cơ đấy,” anh làu bàu với chiếc ghế trống bên cạnh.

Luke ra khỏi chiếc SUV, bỏ khóa xe vào túi quần rồi theo chân Irene. Khi nàng đã dóng bước qua khỏi cửa chính của tòa thị chính thì anh mới bắt kịp nàng.

Cách cửa ra vào một quãng ngắn, một người đàn ông điển trai, cao ráo có nét mặt nhìn nghiêng trông rất quen đang đứng thì thào nói chuyện với Sam McPherson.

Ryland Webb sở hữu mái tóc bạc trắng, đây dường như là một điều kiện cần thiết cho những ai làm việc trong cơ quan công quyền. Ông ta cũng có cả gương mặt thích hợp với công việc nữa, Luke tự nhủ. Một sự kết hợp giữa khuôn mặt góc cạnh nhăn nheo kiểu người miền Viễn Tây lẫn với một thoáng vừa đủ nét quý tộc thời xưa thành ra rất ăn ảnh.

Một người phụ nữ chải chuốt, hấp dẫn, khoảng chừng ba mươi mấy tuổi đang đứng bên cạnh, nắm chặt tay ông ta như một cử chỉ yêu thương an ủi thầm lặng. Cô vợ sắp cưới đây, Luke quả quyết.

Ở đầu kia sảnh, một anh chàng trông bực bội, căng thẳng đang nói chuyện điện thoại dù gấp gáp nhưng rất khẽ. Chiếc cặp da trông đắt tiền đặt dưới chân anh ta.

“Cả thị trấn này đều rõ Pamela có cuộc sống lộn xộn vô cùng,” Webb bảo với Sam. Ông ta lắc đầu u sầu buồn bã, đúng kiểu người cha đau khổ bao lâu nay đã phải chịu đựng và lo sợ rằng con gái của mình sẽ gặp kết cục bi thảm, dù mình đã cố hết sức để cứu lấy con. “Anh cũng như tôi đều biết quá rõ từ hồi thiếu nữ, con bé đã phải đấu tranh với những con quỷ nội tâm.”

“Tôi tưởng mấy năm vừa qua cô ấy đã ổn rồi chứ,” Sam nói không lộ chút cảm xúc.

“Thì nó đang gặp bác sĩ trị liệu tâm lý trở lại mà,” Ryland đáp. “Nhưng rõ ràng rốt cuộc bệnh tình đã lấn át con bé.”

“Trông không có vẻ như cô ấy chết vì sử dụng ma túy quá liều.” Sam cau mày. “Lọ thuốc chúng tôi tìm thấy trên bàn là thuốc được kê toa hợp pháp. Tôi đã gọi cho vị bác sĩ kê toa rồi.”

Ryland gật đầu. “Hẳn là bác sĩ Warren. Đã chữa cho Pamela cũng khá lâu rồi. Không phải lỗi của ông ấy đâu. Tôi cam đoan là ông ấy không bao giờ nhận ra con bé đang lên kế hoạch kết liễu đời mình.”

Anh chàng bồn chồn mang chiếc cặp táp kia kết thúc cuộc điện thoại và vội vã đi về phía Ryland.

“Xin lỗi đã làm gián đoạn, thưa ông, nhưng tôi vừa mới trao đổi với bên tổ chức tang lễ. Họ đã đón xác con gái ông từ nhà xác bệnh viện vài phút trước và bây giờ đang trên đường quay lại San Francisco. Chúng ta cũng phải lên đường thôi. Chẳng mấy chốc bên truyền thông sẽ đánh hơi được tấn thảm kịch này. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng lời thông cáo.”

“À vâng, dĩ nhiên là phải thế rồi anh Hoyt nhỉ,” Ryland bảo. “Tôi sẽ nói chuyện với anh sau nhé Sam.”

“Được thôi,” Sam đáp.

Irene bước thẳng đến ngáng ngang đường ông Ryland. “Thưa thượng nghị sĩ Webb, tôi là Irene Stenson. Ông còn nhớ tôi chứ? Tôi là bạn của Pamela hồi xưa lúc còn ở Dunsley.”

Ryland thảng thốt. Nhưng vẻ mặt ông ta nhanh chóng chuyển sang nồng hậu và lịch sự. “Ồ Irene, cháu yêu quý. Tất nhiên tôi còn nhớ cháu chứ. Đã lâu quá rồi còn gì. Cháu thay đổi nhiều quá. Tôi suýt nữa đã không nhận ra cháu kia đấy.” vẻ mặt ông ta chuyển sang ảm đạm. “Sam bảo cháu là người tìm thấy Pamela tối qua.”

Lời nhắc tuồng của tay này đây, Luke thầm nghĩ. “Cô ấy không chỉ có một mình,” anh lên tiếng. “Tôi có mặt cùng cô ấy. Luke Danner.”

“Danner.” Đuôi mắt Ryland hơi nheo lại. “Sam có nhắc đến người chủ mới của khu nhà nghỉ cũng có mặt ở hiện trường.” ông ta khoa tay chỉ vào người phụ nữ đang đứng cạnh. “Luke, Irene, cho phép tôi giới thiệu hôn thê của tôi, Alexa Douglass.”

“Chào hai người.” Alexa khẽ nghiêng đầu duyên dáng trước lời giới thiệu. “Tôi lấy làm tiếc rằng chúng ta phải gặp nhau trong hoàn cảnh đáng buồn như thế này.”

“Xin thứ lỗi thưa ông,” Hoyt thì thầm. “Chúng ta thực sự phải đi ngay thôi.”

“Được rồi Hoyt,” Ryland đáp. Ông ta có vẻ áy náy. “Irene và Luke này, đây là phụ tá của tôi, Hoyt Egan. Cậu ấy có nhiệm vụ giúp tôi làm việc theo đúng lịch trình. Đây là thời điểm khá bận rộn với tôi, chắc là các bạn đều đã biết rõ. Tôi có những buổi tiệc gây quỹ liên tiếp nhau xếp hàng đến hết hai tháng tới. Rồi bây giờ còn phải lo cho đám tang của Pamela nữa.”

“Trời ạ, nghĩ thử mà xem, một bữa tiệc gây quỹ và đám ma của con gái ông trong cùng một khoảng thời gian,” Irene lầm bầm. “Chọn cái nào bây giờ? Toàn là lựa chọn, chọn lựa.”

Một thoáng bàng hoàng sửng sốt. Luke quan sát thấy quai hàm của tất cả mọi người trong phòng, trừ chính anh, đều há hốc cả ra đến nỗi thật kỳ lạ làm sao là chúng không rơi lách cách xuống sàn.

Ryland định thần lại trước nhất. Ông ta làm lơ Irene, chăm chú để tâm đến Luke. “Tôi không thực sự rõ vì sao tối qua hai người lại đi thăm Pamela.”

“Cũng phức tạp lắm,” Luke đáp.

Irene lấy máy ghi âm ra khỏi túi áo và kẹp vào quai túi xách. Nàng cho tay vào túi khác lấy bút và tập ghi chép.

“Thưa thượng nghị sĩ Webb, tôi làm việc cho tờ Glaston Cove Beacon. Không biết ông có biết hay không, chúng tôi đã thông báo về cái chết của con gái ông trên số báo hôm nay.”

“Không thể nào,” Hoyt vặc lại. “Chưa có phương tiện truyền thông nào biết đến cái chết của Pamela cả”

“Tôi vừa nói rồi đấy thôi, tôi là phóng viên,” Irene điềm tĩnh nói. “Chuyện đã được đăng sáng nay. Anh cũng có thể tìm thấy tin ấy trong trang mạng của tờ Beacon. ” Nàng quay lại với Ryland. “Ông có thể cho chúng tôi biết liệu có cuộc giải phẫu tử thi nào để xác định nguyên nhân cái chết của con gái ông không vậy?” Vẻ giận dữ loáng qua mặt Ryland, nhưng chỉ trong tích tắc. Ông ta che đậy nó lại gần như ngay lập tức. “Tôi nhận thấy việc tìm thấy xác của Pamela tối qua hẳn đã làm cô rất sốc Irene à. Nhưng tôi phải nói rõ là tôi không có bất cứ ý định trao đổi chi tiết cái chết của con gái tôi với bất kỳ thành viên nào của cánh báo chí, kể cả với cô. Đây là vấn đề riêng tư cao độ mà tôi chắc là cô đây, hơn hết thảy mọi người, phải hiểu.”

Irene hơi giật mình, như thể vừa mới bị tát vào mặt, nhưng nàng vẫn không nhượng bộ. Luke quan sát nàng hí hoáy gì đấy vào tập ghi chép.

“Vậy cảnh sát trưởng McPherson có kể với ông rằng tôi quay lại đây là vì nhận được email của Pamela yêu cầu tôi về Dunsley gặp cô ấy không?” nàng hỏi.

Thông tin này rõ ràng đã làm Ryland kinh ngạc. “Pamela liên lạc với cô à? Con bé muốn gì thế?”

“Cô ấy không nói. Chỉ hẹn tôi về đây thôi.”

Ryland quay người sang căn vặn Sam. “Anh đã không kể cho tôi nghe chi tiết này.”

Sam ngượng đỏ bầm mặt. “Tôi không nghĩ chi tiết này có gì quan trọng “

“Thưa ông,” Hoyt bồn chồn xen vào, “chúng ta thực sự phải đi thôi.” Ryland hướng sự chú ý vào Irene.

“Tôi không biết là cô và Pamela còn giữ liên lạc với nhau cơ đấy.”

“Bức email ấy là những lời đầu tiên tôi nhận được từ cô ấy sau mười bảy năm,” Irene giữ giọng bình thản. “Dĩ nhiên là khi nhận email tôi còn hơn là ngạc nhiên ấy chứ.”

“Con bé chẳng hé lộ bất cứ điều gì về lý do nó muốn trao đổi với cô ư?” Ryland hỏi dồn.

“Không,” Irene đáp. “Nhưng tôi có cảm tưởng là chuyện phải có liên quan gì đấy đến quá khứ.”

“Quá khứ gì kia? Cô muốn nói đến tình bạn giữa cô và con bé ấy à?” Ryland trở lại bình tĩnh thấy rõ. “Ừ, có vẻ thế cũng có nghĩa đôi chút. Tôi đoán là con bé muốn nói lời từ biệt với người quen cũ. Tôi nghe nói những người có ý định tự sát đôi khi hay hành xử như thế.”

“Thật sao? Ai nói cho ông điều này vậy?” Irene vừa hỏi vừa điên cuồng hí hoáy.

“Đọc được ở đâu đó thôi,” Ryland lẩm bẩm. Ông ta khó chịu đưa mắt nhìn máy ghi âm. “Pamela đang điều trị chứng trầm cảm lâm sàng trầm trọng,” ông ta nói thêm, phát âm rạch ròi từng từ một.

“Thưa nghị sĩ, tôi không tin rằng cô ấy liên lạc với tôi để nói lời từ biệt,” Irene nói. “Tôi cho rằng có lẽ cô ấy muốn thảo luận về những tình huống liên quan đến cái chết của bố mẹ tôi, Hugh và Elizabeth Stenson. Tôi tin là ông vẫn nhớ vụ này.”

Ryland trừng mắt nhìn Irene. “Cô đang nói cái quái gì thế?”

Alexa bấu chặt cánh tay áo của Ryland bằng những đầu móng tay trau chuốt thanh lịch. “Anh Ryland à?”

“Không sao đâu em yêu.” ông ta trấn tĩnh lại. “Nhiều năm trước ở Dunsley đã xảy ra một thảm kịch. Một vụ giết người tự sát. Cả bố và mẹ Irene đều chết.” Ryland hơi lên giọng và nói thẳng vào máy ghi âm. “Cô bé Irene tội nghiệp này là người đã tìm thấy xác chết. Ai ai cũng bảo rằng sự việc ấy đã làm con bé chấn thương tâm lý nặng nề và chắc hẳn sẽ chẳng bao giờ bình thường trở lại được. Đừng lo, chẳng có liên quan gì đến cái chết của Pamela cả.”

Alexa nhìn qua Irene. “Tôi xin chia buồn sâu sắc cùng cô, cô Stenson ạ”

“Cảm ơn.” Irene không rời mắt khỏi Ryland. “Thưa ông, ông không cho là ít nhất vẫn có một khả năng rất nhỏ rằng cái chết của Pamela có liên quan đến những chuyện đã xảy ra từ rất lâu đó sao?”

“Không,” Ryland đáp lại dữ tợn. Hoyt Egan giật nảy người. Anh ta trân trối nhìn Irene với vẻ kinh hoàng ngày một leo thang. “Những gì cô đang ám chỉ là điều không thể, thưa cô Stenson, tuyệt đối không thể. Và nếu tòa báo của cô đăng tải bất cứ lời bóng gió nào kiểu như thế này thì ngài thượng nghị sĩ sẽ làm việc với luật sư của ông ấy đấy.”

Ryland tàn nhẫn trừng mắt nhìn Irene. “Chính cô bảo sau khi rời Dunsley cô đã không liên lạc gì với Pamela nữa. Thế có nghĩa là cô không biết con bé đấy thần kinh không ổn định đến mức nào. Sam bảo rằng tại hiện trường chẳng có gì chứng tỏ còn bất cứ khả năng nào khác ngoài uống thuốc quá liều. Vì lợi ích của những ai có liên quan, nhưng trên hết là để tôn trọng ký ức về con gái tôi, tôi yêu cầu cô để cho chuyện này được yên.”

Alexa tặng thêm cho Irene một nụ cười dễ mến, “Xin cô yên tâm, cô Stenson, khi quay về Washington ông Ryland dự định sẽ đề xuất dự luật gia tăng quỹ tài trợ cho công cuộc nghiên cứu sức khỏe tâm thần.”

“Chắc chắn điều này sẽ làm tôi thấy yên lòng hơn nhỉ,” Irene đáp.

Nhìn thấy những đốt ngón tay của Irene trắng bệch, Luke biết rõ nàng đang bấu móng tay vào dây đeo da của túi xách.

“Ngài thượng nghị sĩ rất bận rộn,” Hoyt thông báo. “Chúng tôi không thể trì hoãn chuyến đi của mình thêm phút nào nữa.”

Dứt lời anh ta bước xen vào ngay trước mặt Ryland và Alexa rồi dứt khoát dẫn đường hai người này về phía cửa.

Ra đến cửa, Ryland ngừng lại quay nhìn Irene. “Tôi hy vọng cô nhớ cho rằng trước nhất, cô là một người bạn của gia đình đấy, cô Stenson.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên Pamela đã có thời là bạn thân nhất của tôi,” Irene đáp trả.

Ryland sa sầm nét mặt, không biết phải nghĩ gì. Luke có thể nhìn ra ông ta không rõ phải hiểu câu nói của Irene như thế nào. Nhưng Hoyt Egan lại bước tiếp, dẫn sếp của mình ra lối cửa.

“Tôi chưa bao giờ nghe đến tờ Glaston Cove Beacon,” Hoyt bảo với Ryland. “Thế có nghĩa đây là tờ tin tức rất nhỏ. Đừng lo thưa ông, sẽ không có rắc rối gì đâu.”

Ba người bọn họ bước xuống bậc cấp rồi chui vào chiếc limo.

Luke nhìn sang Irene. “Chúc mừng nhé, tôi nghĩ cô vừa mới rung cây dọa được ngài thượng nghị sĩ Hoa Ky cơ đấy.”

“Vì mục đích cao cả thôi mà.” Nàng cho hai tay vào túi áo khoác. “Sẽ không có cuộc điều tra nào cả, phải không Sam?” Sam khẽ cựa quậy, hồ như ngạc nhiên khi thấy cũng còn có người nhớ đến sự hiện diện của mình trong căn phòng này.

“Trừ phi cô có thêm chi tiết thuyết phục nào ngoài bức email Pamela yêu cầu cô đến đây gặp cô ấy, bằng không tôi chẳng có lý do gì để tiến hành điều tra,” Sam lặng lẽ trả lời.

Irene cười lạnh lùng. “Trong khi lại có đủ loại lý do để không đâm đầu vào đấy, phải không?”

Miệng Sam mím lại. “Cô nghĩ tôi thối lui vì không muốn đối đầu với Ryland Webb chứ gì?”

Irene nhăn mặt. “Lẽ ra tôi không nên ám chỉ như thế. Nhưng cũng không thể chối bỏ sự thực rằng Webb là một người rất thế lực.”

“Webb có thể có thế lực đấy, nhưng ông ta cũng là người bố có con gái vừa tự kết liễu đời mình, hoặc vô tình hoặc cố ý. Bố cô đã từng bảo tôi rằng gia đình người ta thường cố gắng giấu nhẹm chuyện tự sát. Vài năm qua tôi đã phải làm việc với vài vụ, và tôi có thể đảm bảo với cô rằng bố cô nói đúng. Những nỗ lực mà người ta bỏ ra để ỉm đi những chuyện như thế này thật đáng kinh ngạc.”

Irene thở dài. “Tôi hiểu mà.”

“Về phần tôi,” Sam nói tiếp, “trừ phi có được lý do chắc chắn để phải nghĩ khác đi, bằng không thì một gia đình có quyền được giữ bí mật riêng cho họ.”

Anh ta nhìn sang Luke, rõ ràng để tìm kiếm vài lời ủng hộ.

Luke nhún vai. “Tôi nghĩ phải tùy thuộc xem đấy là loại bí mật gì. Nhưng chắc chắn, gia đình nào cũng có đôi ba bí mật cả.”
 
Chương 7


Bốn mươi phút sau, Sam tiễn hai người ra khỏi cửa tòa thị chính. Irene vẫn còn bực dọc lắm, nhưng một quyết tâm mới đang định hình trở lại trong nàng. Nàng tự nhắc nhở mình rằng ngay từ đầu nàng đã biết cơ may thuyết phục được McPherson tiến hành điều tra toàn diện là dưới cả mức zero.

“Irene này, cứ thư thả chút đã,” Sam bảo. “Tôi biết là tìm ra cô ấy trong tình trạng như thế cũng không dễ chịu gì. Nhưng sau khi cơn chấn động phai đi, cô sẽ nhận ra rằng đây chỉ là một vụ dùng thuốc quá liều, chứ chẳng phải án mạng.”

“Hẳn rồi,” nàng đáp.

Luke không nói lời nào, chỉ cầm cánh tay Irene đưa nàng đi xuống các bậc cấp về phía chiếc SUV. Anh mở cửa xe bên phía ghế phụ. Irene nhanh nhẹn leo lên.

Luke ngồi vào cầm lái và chạy xe ra khỏi bãi đậu. Irene có thể thấy tất cả mọi người trong quán cà phê Ventana View đều quay đầu theo hướng chiếc xe.

“Một đám kền kền,” nàng lẩm bẩm. “Tha cho người ta đi,” Luke lẳng lặng nói. “Đây là một thị trấn bé xíu. Cái chết của một người như Pamela Webb, con gái ngài thượng nghị sĩ mà lại từng là cô gái hư trong vùng, buộc phải làm mọi người chú ý thôi.” Irene siết chặt túi đeo vai đang đặt trong lòng. “Bọn họ chằm chằm nhìn tôi đúng như cái cách họ từng nhìn tại đám tang bố mẹ tôi.”

Luke thoắt đưa ánh mắt dò xét sắc lẻm nhìn nàng rồi quay sang chú ý vào đường đi.

“Nói thật nhé,” một lúc sau anh lên tiếng, “tôi nghĩ McPherson nói đúng đấy. Cái chết của bạn cô hoặc là tai nạn hoặc chỉ là tự sát mà thôi.”

“Tôi chẳng tin.”

“Phải rồi, tôi có thể nhìn thấy thế. Nhưng cũng phải công bằng với McPherson chứ. Không phải anh ta đang góp phần vào vụ bưng bít nào đâu. Anh ta đã trình bày mọi dữ kiện cho cô biết hết rồi đấy thôi. Chẳng có gì cho phép mở rộng điều tra cả.”

“Vẫn còn bức email Pamela gửi cho tôi mà. Làm sao anh ta có thể bỏ qua chi tiết ấy chứ?”

“Anh ta nào có bỏ qua,” Luke nhẫn nại nói. “Cũng giống như Webb, anh ta nghĩ là Pamela đã lên kế hoạch tự sát và đang trong quá trình nói lời chia tay với vài người trong quá khứ của mình.”

“Vậy thì tại sao cô ấy không đợi cho đến khi nói được lời chia tay với tôi rồi hẵng tự tử?”

“Những người lên kế hoạch tự sát thường không suy nghĩ theo cùng một kiểu logic mà những người như chúng ta thường nghĩ. Họ chỉ chú tâm vào nỗi đau đớn chịu đựng của mình mà thôi. Họ chỉ nghĩ được có chừng đó.”

Cái cách nói đều đều quá mức của anh khiến một cơn ớn lạnh chạy dọc thân nàng.

“Anh nói nghe cứ như anh đã có kinh nghiệm cá nhân với việc tự sát ấy,” nàng nhận xét.

“Mẹ tôi tự tử khi tôi được sáu tuổi.” Irene thoáng nhắm mắt giấu đi một luồng cảm thông và u sầu. “Lạy Chúa tôi, Luke ạ.” Nàng ngước hàng mi nhìn lên anh. “Tôi thật sự lấy làm tiếc.”

Anh gật đầu, vẫn chẳng nói chẳng rằng. “Hẳn là tối qua anh thấy rất tồi tệ,” nàng bảo.

“Là tôi tự chọn lấy việc đi theo cô, không nhớ à?”

Nàng cau mày. “Tại sao anh lại đi theo tôi vậy? Anh vẫn chưa giải thích chuyện này.”

Khóe môi anh thoáng cong lên.

“Khi nhìn thấy những điểm dữ kiện, tôi luôn phát sinh nhu cầu choáng ngợp muốn kết nối chúng lại.”

“Tôi là một điểm ấy ư?”

“À há.” Anh nhìn nhanh qua nàng, xem xét đánh giá, đoạn lắc đầu đầu hàng. “Cô sẽ không buông tha vụ này, đúng không?”

“Vụ cái chết của Pamela ấy à? Không”

“Cô không phiền cho tôi hỏi vì sao cô cứ chắc như bắp là vụ này lại có điều bí ẩn vậy? Có phải chỉ vì bức email Pamela gửi cho cô không? Hay là trong vụ này còn nhiều điều khác nữa?”

Irene cân nhắc. “Là do cảm giác của tôi.”

“Một cảm giác à.”

“Phải.”

“Một cảm giác không thôi thì chẳng nhiều nhặn gì để tiếp tục đâu,” anh nói tỉnh bơ.

“Nghe mới đến là buồn cười nhỉ, xét đến việc câu này được thốt ra từ một người vừa mới thú nhận rằng anh ta đi theo tôi tối hôm qua chỉ vì anh ta cảm giác rằng tôi là một điểm dữ kiện đang chờ được kết nốt với một điểm khác.”

“Thôi được, tôi chịu thua cô ở điểm này,” Luke nhượng bộ. “Thôi nói tiếp nào, cô thấy được gì từ Ryland Webb sáng nay nào? Cô nghĩ ông ta tin rằng còn có nhiều thứ liên quan đến cái chết của con gái mình hơn là chỉ có rượu và thuốc nhưng ông ta lại muốn che đậy à?”

Irene do dự. “Rõ là ông ta không muốn có cuộc điều tra nào, đúng không?”

“Có thể cô không thích mấy lý do của ông ta, nhưng quả thật ông ta có kha khá lý do đấy.”

“Tôi biết chứ.” Nàng khoanh tay lại. “Đã nói với anh rồi mà, ông ta là con người tham vọng, chỉ toàn tâm toàn ý vào sự nghiệp của mình thôi. Mười bảy năm trước ông ta chẳng có thời gian cho Pamela, và chắc chắn là bây giờ ông ta cũng không muốn phí hoài thời gian cho cô ấy đâu.”

“Nghe tôi đây này, cô Irene Stenson. Nếu cô đang nghĩ đến việc đấu lại Ryland Webb, thì cô nên chắc chắn là mình có hậu thuẫn vững vàng. Webb là người rất thế lực.”

“Anh tưởng tôi không biết thế à?” Luke im lặng lái xe một lúc.

“Theo tôi thấy thì Sam McPherson biết Pamela khá rõ phải không?”

Câu hỏi khiến Irene ngã ngửa. “Ngày trước hai người họ là bạn mà. Nhưng tôi không biết quan hệ giữa hai người trong mười bảy năm qua là như thế nào nữa.”

“Cô có từng nghĩ anh ta quyến luyến tình cảm gì với cô ấy không?” Irene cân nhắc câu hỏi ấy trong giây lát. “Chắc chắn là tôi chưa từng nghĩ như thế, và tôi khá chắc là Pamela cũng không. Tất nhiên Sam lớn hơn chúng tôi vài tuổi. Cô ấy mới chỉ mười sáu. Lúc ấy Sam đã ngoài hai mươi rồi.”

“Khoảng cách tuổi tác ấy cũng đâu có lớn lắm.”

“Nhưng ở trong trường trung học thì thế có vẻ là lớn lắm rồi đấy.” Nàng gõ nhịp ngón tay trên ghế. “Nhưng bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ là cái cách cô ấy đối xử với anh ta làm cho tôi kết luận rằng giữa họ không có mối dây tình cảm nam nữ nào.”

“Cô ta đối xử với anh ta thế nào?”

“Như với một người bạn, chứ không phải như một kẻ cần chinh phục tiềm năng khác.”

Luke nhướng mày. “Ngày đó mà Pamela đã có người cần chinh phục rồi sao?”

“Pamela lúc nào cũng nghĩ đến chinh phục mà.” Irene cười chua chát. “Mà còn nữa, khi ấy chẳng bao giờ thiếu đám con trai tự dâng mình để được chinh phục. Cô ấy xinh đẹp và rất có tài lẳng lơ tán tỉnh. Đám con trai cứ rớt như ruồi ấy. Nhưng Pamela nổi tiếng không phải chỉ nhờ vẻ bề ngoài và sức hấp dẫn khêu gợi không thôi.”

“Cô ta còn là con nhà Webb.”

“Sáng nay anh đã nghe Maxine nói rồi đấy - gia đình ấy như là gia đình hoàng gia của địa phương vậy.”

“Có lẽ là Sam McPherson muốn làm con mồi được chinh phục của Pamela nhưng cô ta đã tảng lờ anh ấy,” Luke gợi ý. “Có lẽ anh ta nung nấu một kiểu ám ảnh bệnh hoạn về Pamela. Một trong những thứ kiểu như ‘nếu tao không có được cô ta thì sẽ không có ai đoạt được cô ta sất’ ấy.”

Irene thoáng rùng mình. “Nếu là vậy, tại sao phải chờ lâu như thế này rồi mới ra tay giết hại?”

“Làm thế quái nào mà tôi biết được chứ? Đây là dự án của cô chứ có phải của tôi đâu. Tôi chỉ đang cố gắng chỉ cho cô thấy rằng nếu cô định lập danh sách những kẻ sát nhân tiềm ẩn, thì có thể danh sách ấy sẽ rất dài đấy.”

“Tôi không chắc thế lắm đâu,” nàng lặng lẽ bảo.

“Nói thế là ý gì?”

“Dường như ai cũng nghĩ Pamela gọi tôi về Dunsley để nói lời từ biệt. Nhưng chẳng có lý do gì để nghĩ rằng giữa cơn trầm cảm lâm sàng nghiêm trọng cô ấy lại có thể nhớ đến người bạn gái mình chỉ quen thân có một mùa hè duy nhất từ tận thời trung học. Tôi thì nghĩ cô ấy gửi cho tôi email này bởi vì muốn nói cho tôi biết chuyện quan trọng gì đấy về quá khứ.”

“Về cái chết của bố mẹ cô.”

“Phải.

“Thôi được, ta suy nghĩ logic xem nào.”

Irene suýt nhoẻn cười khi nghe thấy thế. “Nếu dịch ra thì có nghĩa là anh sẽ tranh cãi với tôi về kết luận của tôi chứ gì.”

“Hẳn nhiên rồi. Nhưng đấy chỉ là vì kết luận của cô dựa trên những căn cứ không vững vàng. Pamela thì biết được gì về những chuyện đã xảy đến với bố mẹ cô? Và nếu cô ấy có biết được điều gì đi nữa, tại sao phải chờ đến mười bảy năm mới nói cho cô nghe chứ?”

“Tôi không biết câu trả lời cho những câu hỏi đó, nhưng tôi có thể nói với anh một điều. Pamela Webb là người cuối cùng tôi gặp trước khi tôi... tìm thấy bố mẹ tôi.”

Luke liếc sang nàng. “Người cuối cùng ư?”

“Chiều hôm ấy Pamela gọi hỏi xem tôi có muốn sang nhà cô ấy chơi một chút không, rồi ra tiệm cà phê ăn tối xong đi xem phim. Mẹ tôi bảo cũng được thôi, với điều kiện tôi hứa giữ lời như thường lệ.”

“Hứa gì thế?”

“Mùa hè ấy tôi và bố mẹ đã thỏa thuận là nếu Pamela uống say hay chơi ma túy khi tôi đang đi với cô ấy, thì tôi phải bỏ đi ngay lập tức mà về thẳng nhà.”

“Nhưng bố mẹ cô đã không từ chối cho phép cô giao du với cô ấy miễn là cô làm theo quy định.”

“Tôi nghĩ mẹ tôi thấy thương cho Pamela vì Ryland đã quá lơ là cô ấy. Còn với bố tôi, ông tin tưởng tôi sẽ gọi cho ông ngay nếu Pamela bắt đầu nhậu nhẹt hay hút xách. Nhưng những lúc tôi đi với cô ấy cô ấy chẳng uống cũng chẳng hút gì.”

“Chẳng hề ư?”

Irene lắc đầu. “Không có lấy một lần. Chẳng hiểu là do đâu, nhưng cô ấy thực sự muốn làm bạn với tôi. Cô ấy hiểu rằng tôi sẽ không bao giờ được phép đi chơi với cô ấy nếu xảy ra bất cứ chuyện phi pháp nào. Dầu gì thì bố tôi cũng là cảnh sát trưởng cơ mà.”

“Nói tiếp đi.”

“Chúng tôi ăn tối lại quán cà phê Ventana View rồi sau đấy đi xem phim. Sau đó chúng tôi lên xe của Pamela. Lẽ ra cô ấy phải lái xe đưa tôi về thẳng nhà tôi. Anh biết đấy, bố tôi cũng có quy định khác nữa. Tôi không được phép đi cùng Pamela ra ngoài thị trấn vì Pamela chỉ mới có bằng và chưa có nhiều kinh nghiệm cầm lái. Nhưng thay vì đưa tôi về nhà, đột nhiên cô ấy ngoặt sang đường Lakefront và hướng thẳng đến Kirbyville.”

“Khi đó cô làm gì?”

“Thoạt tiên tôi nghĩ cô ấy chỉ chọc tôi cho vui thôi. Cô ấy biết bố tôi sẽ không bao giờ cho tôi đi với cô ấy nữa nếu tôi vi phạm quy định. Rồi đến khi nhận ra cô ấy không đùa, tôi năn nỉ Pamela quay xe lại, nhưng cô ấy chỉ cười phá lên mà lái đi tiếp. Tôi nổi xung và dọa sẽ nhảy ra khỏi xe. Pamela càng lái nhanh hơn. Rồi tôi thấy sợ.”

“Nghĩ là cô ấy chơi thuốc mà mình không biết chứ gì?”

“Tôi có buộc tội Pamela như thế. Nhưng cô ấy bảo mình chẳng sử dụng thuốc gì cả. Khi đó cô ấy lái quá nhanh làm tôi không dám nhảy khỏi xe, nên tôi chỉ làm một việc duy nhất mình có thể làm; tôi gài chặt dây an toàn và cầu nguyện cho cô ấy chơi chán mà quay đầu xe lại.”

“Chuyện có xảy ra như thế không?”

“Không. Khi đến Kirbyville thì Pamela phải đi chậm lại. Tôi bảo với cô ấy là mình sẽ xuống xe và gọi bố mẹ đến đón về. Nhưng cô ấy bật khóc rồi xin lỗi và bảo rằng sẽ đưa tôi về. Tôi nổi khùng vì cô ấy đã phá hỏng mọi chuyện. Đến khi về lại Dunsley thì chúng tôi thậm chí còn không nói với nhau một tiếng. Cô ấy cũng biết rõ như tôi là tôi sẽ không bao giờ được đi chơi cùng cô ấy nữa.”

“Vì cô sẽ kể cho bố mẹ nghe chuyện đã xảy ra và họ sẽ phạt cấm cửa cô ư?”

Irene cười buồn. “Nói dối bố hay mẹ tôi thật chẳng có ích gì đâu. Pamela biết rõ điều này cũng như tôi vậy. Mà thôi, cô ấy đã đưa tôi về rồi thả tôi xuống trước sân mà không nói lời nào. Thậm chí cô ấy còn bỏ đi trước khi tôi kịp lấy chìa khóa nhà ra khỏi túi. Tôi không bao giờ gặp lại Pamela nữa.”

Irene ngừng nói vì nàng đã cảm thấy rất lạnh, cái lạnh như mọi lần khi phải kể về đêm hôm ấy. Nếu tiếp tục nói nữa nàng sẽ bắt đầu run lập cập cho xem.

Luke rẽ vào con đường dẫn đến nhà nghỉ.

“Nói thật đừng giận nhé,” một lúc sau anh bảo, “nhưng vẫn chẳng có vẻ gì là Pamela phải chờ lâu đến thế này rồi mới liên lạc với cô nếu cô ấy biết điều gì quan trọng về chuyện xảy ra đêm ấy.”

“Biết đâu mãi đến gần đây cô ấy mới biết được vài chi tiết hay sự kiện gì đó mà trước đây cô ấy không biết thì sao.”

“Ở điểm này thì cô đang suy luận vội vàng đấy, thừa nhận đi.” Chợt anh buột miệng rủa, quai hàm nghiến lại. “Cái quỷ gì thế này?”

Irene nhận ra anh đang nhìn vào chiếc xe đỗ trước sảnh. Một anh chàng điển trai mới ngoài hai mươi đang thoải mái tựa mình vào một trong những cột đá trên lối vào.

“Anh đúng thật là có vấn đề với khách đến trọ nhỉ?” nàng bảo.

“Chẳng phải khách trọ gì đâu.”

Luke cho chiếc SUV dừng lại bên cạnh chiếc xe kia rồi tắt máy. “Tên nó là Jason Danner. Là em út của tôi đấy”

Chẳng hiểu sao chuyện Luke có gia đình nghe có vẻ đáng ngạc nhiên.

Tại sao nàng đã suy đoán điều ngược lại nhỉ? Tất nhiên anh ta phải có bà con rồi, nàng nghĩ. Đa phần người ta có lắm bà con. Nàng là ngoại lệ, vì sau khi bà dì mất đi vài năm trước nàng chẳng còn ai cả. Nhưng đấy không phải là lý do để cứ quy kết rằng bất cứ ai khác nàng gặp cũng đều ở trong tình huống tương tự.

Tuy vậy, ở Luke có cái vẻ gì đó khiến cho nàng nghĩ rằng anh thật cô độc, có lẽ là một cảm giác xa cách, như thể là anh, cũng như nàng, nhìn ra thế giới từ một chiều không gian khác, giống như nàng đã phải học để nhìn được như vậy.

Irene quan sát Jason qua cửa sổ chiếc SUV, lòng dấy lên một cảm giác tò mò khó hiểu. Rõ ràng không có nhiều nét giống nhau của người một nhà rồi, nàng thầm nghĩ. Xét về ngoại hình hai người đàn ông này trông rất khác biệt. Không chỉ trẻ hơn, Jason còn cao hơn và, như một kẻ theo chủ nghĩa thuần túy kén chọn sẽ nói, còn đẹp trai hơn nữa. Nhưng không phải là hấp dẫn hơn đâu, Irene tự nhủ, chỉ là đẹp trai hơn thôi. Khác biệt lớn lắm đấy.

Nàng nhận ra rằng, căn cứ vào sự chênh lệch tuổi tác quá lớn giữa hai anh chàng này và sự thật rằng Luke đã nói anh mất mẹ khi mới lên sáu, thì Jason hẳn phải là con của cuộc hôn nhân thứ hai. Cậu ta và Luke là anh em cùng cha khác mẹ.

Luke đã xuống xe. Khuôn mặt anh toát lên vẻ khó chịu. Anh không hẳn vui mừng khi gặp em trai mình.

“Chú làm gì ở đây thế Jase?” Luke hỏi. “Anh không ngờ chú sẽ đến đây đấy.”

Jason dang rộng hai tay. “Thư giãn đi nào anh cả. Em chỉ nghĩ tạt qua đây xem anh làm ăn thế nào trong ngành kinh doanh nhà nghỉ thôi mà.”

Cậu ta đang tươi cười, nhưng thế cũng chẳng mấy tác dụng để xua tan bầu không khí căng thẳng giữa hai anh em.

Luke mở cửa xe phía bên Irene. “Jason, làm quen với cô Irene Stenson đây đi. Cô ấy là khách trọ trong nhà nghỉ đấy.”

“Chào Jason.” Irene mỉm cười bước xuống khỏi ghế xe cao.

Jason gật đầu, vẻ thích thú lấp lánh trong mắt khi cậu ta nhìn qua thoáng qua hết lượt từ đầu đến chân nàng. “Rất vui được gặp cô, cô Stenson.”

Cái nhìn của cậu ta chẳng có ý đồ gì đâu, Irene tự nhủ, chỉ là một sự pha trộn giữa tò mò và đánh giá thôi mà. Cậu chàng đang thắc mắc bản chất mối quan hệ giữa nàng và Luke. “Phức tạp lắm,” nàng cộc lốc đáp.

Jason giật mình, chớp chớp mắt. Đoạn cậu toe miệng cười. “Thường thì cái gì liên quan đến Luke cũng thế cả.”

“Hai người đang nói gì thế hử?” Luke gầm gừ.

“Chẳng có gì quan trọng cả,” Irene nhanh nhảu đáp. “Thôi, hai người thứ lỗi cho nhé, tôi sẽ để hai người cần bàn luận chuyện riêng gì thì cứ thoải mái.”

Nàng cười rạng rỡ tạm biệt hai người đàn ông, đoạn bước dọc theo lối đi.

Cho dù đang xảy ra chuyện gì ở đây đi nữa, chuyện ấy vẫn không dính dáng đến nàng. Chỉ là chuyện gia đình họ mà thôi.
 
Chương 8


Jason ngồi xuống một trong mấy chiếc ghế bên hàng hiên, nhấm nháp chút cà phê mà Luke vừa rót ra mời. Cậu nhăn mặt.

“Này anh,” cậu nói, “nếu anh đầu tư vào một trong những cái máy pha espresso của Ý loại kỹ thuật cao ấy mà, anh có thể pha được món cà phê khả dĩ uống được đấy.”

Luke ngồi xuống, gác gót giày lên lan can hàng hiên. “Anh không uống cà phê vì cái vị của nó. Anh uống vì nó nóng và vì nó giúp anh tập trung suy nghĩ.”

“Có phiền không nếu em hỏi hiện tại anh đang tập trung vào gì vậy?” Luke đưa mắt nhìn về phía cabin Số Năm. “Về Irene Stenson.”

“Em cũng nghĩ thế. Nếu em nói có sai thì sửa lại giùm nhé, nhưng em có cảm giác cô ấy không phải là một trong mấy vị khách bình thường của anh.”

“Chú có thể nói là từ đêm qua chúng tôi đã phần nào ràng buộc vào nhau.”

“Ái chà, hay nhỉ, đấy là cái cách người ta gọi mối quan hệ kiểu ấy ở trên vùng đồi núi này đấy à?”

“Ràng buộc kiểu khác kìa,” Luke chữa lại. “Những gì anh và Irene có là một loại liên hệ ta có được khi ta cùng nhau tìm thấy một xác chết.”

“Hả?” Vừa nuốt cà phê xuống Jason đã phải phun bắn ra.“Đêm qua Irene đi thăm một người bạn cũ ở Dunsley này đây. Là con gái của thượng nghị sĩ Webb. Rồi cô ấy tìm thấy bạn mình nằm chết do uống lẫn rượu và thuốc.”

“Hượm cái nào.” Jason từ từ hạ tách cà phê xuống. “Anh đang nói đến thượng nghị sĩ Ryland Webb, cái ông đang muốn tranh cử vào Nhà Trắng đấy à?”

“Ừ hứ.”

“Con gái ông ta chết rồi ư? Em chẳng nghe thấy gì trên bản tin cả.”

“Chú sẽ sớm nghe thôi. Anh biết đấy là tin chủ đạo trên tờ Glaston Cove Beacon sáng nay.”

“Anh biết không, cũng lạ lắm, em không mua tờ Glaston Cove Beacon. Nói thực ra là em chưa bao giờ nghe đến nó cả.”

“Nhiều người khác cũng có biết gì về nó đâu. Nhưng tờ này đăng tin ấy độc quyền vì Irene làm việc cho tòa báo ấy. Thông tin về Pamela Webb chắc chắn sẽ tràn ngập trên các phương tiện truyền thông chủ đạo vào chiều nay hay sáng mai thôi.” Jason khó chịu cau mày. “Rượu mạnh và thuốc ư?”

“Có vẻ là thế.”

“Tự tử à?”

Luke quan sát mặt hồ. “Hoặc là lỡ uống thuốc quá liều. Cũng không chắc lắm.”

“Chắc là sốc kinh lắm, khi tìm thấy người ta như thế.”

Luke cảm thấy hàm mình nghiến chặt. Anh biết quá rõ Jason thực sự đang nghĩ gì; cả những gì mọi người khác trong gia đình sẽ nghĩ khi họ biết được chuyện gì đã xảy ra. Trong sáu tháng qua mọi người ngày càng thêm lo lắng cho anh. Cái chết của Pamela Webb chỉ làm cho mọi người thêm cảnh giác.

“Với Irene còn khó chịu hơn nhiều kia,” anh lặng lẽ nói. “Anh chưa bao giờ gặp Pamela Webb khi cô ta còn sống. Nhưng Irene là bạn thân với cô ta thời trung học.”

“Và anh chỉ tình cờ có mặt cùng Irene khi cô ấy tìm thấy cô bạn cũ thôi ư?”

“Ừ.”

“Sao lại vậy chứ, nếu anh không phiền em hỏi?”

“Anh tò mò khi thấy Irene rời khỏi nhà nghỉ rất khuya tối qua, thế là anh đi theo cô ấy,” Luke đáp.

“Chỉ thế thôi hử?”

“Ừ.”

“Anh hay làm thế lắm à?” Jason thận trọng hỏi.

“Làm gì?”

“Đi lò dò theo khách của anh quanh thị trấn ấy?”

“Không. Thường thì anh cố gắng tránh mặt khách càng nhiều càng tốt. Đa phần bọn họ phiền toái kinh khủng.”

“Nhưng người khách này thì không ư?”

“Cô này cũng phiền.” Luke uống thêm cà phê. “Nhưng cô ấy khác.” Đến lúc đổi đề tài rồi đây. “Sao chú lại lên tận đây vậy Jase?”

“Em bảo anh rồi, chỉ muốn lên coi tình hình anh ra sao thôi mà.”

“Cho nói lại đó.”

Jason khẽ kêu lên vẻ sốt ruột rồi khoa tay chỉ về loạt nhà nghỉ lẫn căn sảnh của nhà trọ Bình Minh Bên Hồ. “Thôi tha cho em đi. Bố Già mình nói đúng. Anh đâu có thuộc về nơi này. Anh thì cũng như em, đâu có thích hợp với vai trò quản lý một nhà nghỉ hạng ba đâu nào.”

“Anh cũng không thích hợp với công việc làm ăn của gia đình. Anh đã thử rồi đấy thôi, nhớ không? Đâu có suôn sẻ gì.”

“Nhưng đấy là vì mọi chuyện rối beng lên cùng với những gì đang xảy ra giữa anh và Katy khi ấy,” Jason nói, giọng trở nên rất sốt sắng. “Gordon và bố muốn anh thử lại lần nữa đấy.”

“Anh không nghĩ ý kiến ấy hay đâu,” Luke đáp.

“Bố đang lo lắng. Mọi người khác cũng vậy.”

“Anh biết chứ. Nhưng anh chẳng làm được gì ngoài việc luôn miệng bảo với chú là anh ổn.”

“Bố mẹ tin rằng càng ngày anh càng lún sâu vào chứng trầm cảm lâm sàng do những gì đã xảy ra lúc anh và Katy cùng nhau bỏ đi đấy.”

“Anh chẳng trầm cảm gì cả.”

“Anh cứ nói thế mãi, nhưng chẳng ai tin đâu.”

Luke nhướng mày. “Một câu đánh đố đầy tính triết lý phải không? Làm sao để anh chứng minh là anh không sao đây?”

“Anh có thể bắt đầu bằng việc hẹn điều trị với bác sĩ Van Dyke.”

“Thôi quên đi. Bác sĩ Van Dyke rất dễ thương và chắc chắn là một bác sĩ tâm thần giỏi tuyệt, nhưng anh không muốn nói chuyện với bà ta.”

“Bà ấy là bạn lâu năm với nhà mình mà Luke. Việc bố mẹ hỏi han ý kiến của bà ấy khi họ bắt đầu thấy lo cho anh là hoàn toàn tự nhiên thôi. Bà ấy chỉ đề nghị cho anh và bà ấy nói chuyện tí chút với nhau, có vậy thôi à.”

“Nếu có khi nào biết mình cần được giúp đỡ như thế, anh sẽ gọi cho bà ta.”

Jason tựa người sâu hơn vào ghế. “Em đã bảo Bố Già chuyện này chỉ tốn thời gian vô ích thôi mà.”

“Chú tới thăm anh là ý của bố đấy à?”

“Bố nghĩ biết đâu em làm anh thông ra.”

“Anh đã có cảm giác lý do là thế rồi,” Luke bảo. “Cứ coi như lời nhắn đã được chuyển xong rồi nhé.”

“Anh sẽ quay về dự sinh nhật bố chứ?”

“Anh sẽ đến.”

“Tốt. Đấy mới là điều quan trọng.”

“Anh hiểu mà,” Luke gật gù. “Nhưng mà này, chuẩn bị tinh thần nghe xem lời chào quay trở lại công ty sẽ thú vị đến thế nào đi nhé.”

“Được báo trước nghĩa là đã chuẩn bị trước luôn rồi.” Luke dợm uống thêm ngụm cà phê. Tiếng động cơ xe quen thuộc làm anh khựng lại.

“Khỉ thật.” Anh nhấc chân khỏi lan can và đứng dậy. “Nào, giờ thì cô ta sẽ đi đâu nào?”

Jason nhìn Luke, ngỡ ngàng. “Ai cơ?”

“Irene.” Luke băng qua hàng hiên đi xuống mấy bậc cấp.

“Chờ với.” Jason phóng người ra khỏi ghế vội vã chạy theo anh trai. “Anh đi đâu vậy?”

Luke không trả lời. Anh đi vòng qua bên hông cabin, bước ra giữa lối đi hẹp và dừng ngay trước mũi chiếc xe màu vàng nhỏ nhắn.

Irene buộc phải dừng xe lại. Luke đi đến đứng bên cửa sổ xe phía ghế lái, một tay đặt trên mái xe lùn tịt và cúi người xuống nhìn nàng.

Nàng hạ cửa kính xe xuống nhìn lại anh qua đôi kính râm.

“Có chuyện gì không ổn à?” nàng lịch sự hỏi.

“Cô đang đi đâu thế?”

Nàng đưa tay lên gỡ kính ra chiều chậm rãi, suy tư lắm.

“Anh biết không, suốt đời tôi đã từng ở qua nhiều loại nhà nghỉ lắm rồi, nhưng đây là lần đầu tiên tôi phải trình báo mọi lần ra vào của mình với chủ nhà đấy.”

“Ở nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ này chúng tôi vận hành hơi khác một chút.”

“Tôi có để ý thấy thế.” Nàng nhịp nhịp tay lên khung kính đằng trước vô lăng. “Có thể nào là vận hành theo cách thức nhà binh không nhỉ?”

“Sẽ là cách thức của dân Thủy quân lục chiến đấy, cô Stenson ạ,” Jason đỡ lời. “Anh trai tôi chỉ mới xuất ngũ được vài tháng thôi. Cô phải chiếu cố chút nhé. Anh ấy vẫn tập quen lại với môi trường dân sự mà.”

Irene gật đầu rất quả quyết, như thể thông tin này đã xác nhận một kết luận rất riêng nào đó mà nàng đã rút ra từ trước.

“Thế thì giải thích nhiều chuyện rồi.” Nàng mỉm cười với Jason và quay sang nhìn Luke dò xét. “Tôi chợt nhận ra là tôi còn nợ anh do bao nhiêu chuyện phiền toái tôi gây ra cho anh từ tối qua đến sáng nay.”

“Phải đấy nhỉ?” Luke hỏi.

“Tôi đang nghĩ có lẽ hôm nay mình có thể bù đắp lại cho anh bằng một bữa tối tại nhà chăng.”

Đấy là điều anh chẳng hề nghĩ đến.

“Trời, hay quá,” Jason hăm hở nói. “Cô biết nấu ăn sao cô Stenson?”

“Tôi phải báo cho các anh biết rằng các anh đang nhìn thấy nữ phóng viên một tay đảm trách việc chọn lựa mọi công thức món ăn được phổ biến trên mục Trao đổi công thức của tờ Glaston Cove Beacon đấy nhé.”

Jason cười toe. “Liệu tôi có nên bất ngờ không nhỉ?”

“Cậu sẽ còn hơn cả bất ngờ ấy chứ, cậu sẽ kinh ngạc đến á khẩu nếu được nhìn thấy một vài công thức vừa bị tôi từ chối. Tin tôi đi, tốt hơn là cậu nên sống hết cả đời mà không cần phải biết vài người có thể làm được những gì với gelatin mùi chanh và đậu đỏ.”

“Tôi sẽ ghi nhớ lời này của cô,” Jason đáp.

“Mà này, cậu cũng được mời luôn đấy, hẳn là thế rồi, cứ cho là cậu sẽ ở qua đêm tối nay chứ nhỉ?”

“Giờ thì tôi sẽ ở lại thôi,” Jason đoan chắc.

“Hay quá. Gặp lại hai người vào lúc năm giờ ba mươi nhé. Chúng ta sẽ uống chút gì đó trước bữa tối.” Nàng quay sang Luke, nhã nhặn thách thức. “Dĩ nhiên chỉ khi nào anh đồng ý thôi?”

“Một trong những điều người ta dạy cho chúng tôi khi còn trong quân đoàn là phải biết tranh thủ những cơ hội mang tính chiến lược khi chúng được bày ra sẵn,” anh đáp. “Chúng tôi sẽ có mặt trước cửa nhà cô vào lúc mười bảy giờ ba mươi, thưa cô.”

“Tôi cho là trong đời thực thì đấy là năm giờ ba mươi chứ gì,” nàng nói. “Thôi, chuyện này thông qua rồi, tôi có vài việc vặt cần làm đây.”

Luke không nhấc tay ra khỏi xe.

“Cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi. Cô đang tính đi đâu thế?”

Một tia thích thú nhảy nhót trong đôi mắt màu hổ phách của nàng. “Anh biết đấy, thái độ này có lẽ rất hữu dụng trong quân ngũ. Nhưng anh nên xem xét lại khi anh phải làm việc với khách đến trọ.”

“Chỉ có hai cách để làm việc thôi, cô Stenson à, cách của dân Thủy quân lục chiến, hay là cách còn lại.”

“Nói cho anh biết luôn là tôi chọn khả năng thứ hai, cách còn lại ấy,” Irene đáp. “Tuy nhiên, thể theo việc anh sẽ là khách mời tại chỗ tôi tối nay, tôi sẽ rất lịch sự mà trả lời câu hỏi của anh vậy. Tôi đi mua đồ tại siêu thị Dunsley.”

“Mua đồ à?”

“Anh biết đấy, mua thức ăn với mấy thứ chiêu đãi anh với em trai anh đấy mà?”

“Phải rồi. Mua sắm.”

Nàng cười hơi quá đỗi ngọt ngào. “Muốn xem danh sách cần mua của tôi không?”

“Có bao gồm gelatin vị chanh và đậu đỏ không thế?”

“Không hề.”

“Vậy thì chắc tôi không có gì phải lo đâu nhỉ,” anh nói.

“Chuyện phải lo thì khi nào chả có, anh Danner ạ.”

Nàng đạp hết chân ga. Anh giật tay ra khỏi nóc xe chỉ trong tích tắc trước khi chiếc xe nhỏ xíu phóng thẳng trên đường mòn.

Một thoáng im lặng bao trùm.

“Ái chà, hay nhỉ,” Jason thốt lên. “Anh biết không, làm vậy anh có thể mất một cánh tay như chơi.”
 
Chương 9


Irene đứng tại quầy rau củ trong siêu thị Dunsley, săm soi những mặt hàng xà lách, dưa leo và cà chua ít ỏi, vờ như không để ý gì đến những cái liếc mắt len lén hiếu kỳ của những người đang mua sắm khác. Đây không phải lần đầu tiên nàng thành nhân vật chính trong câu chuyện tin tức ở nơi này, nàng tự nhủ. Nhưng lần này nàng là người lớn, chứ không phải là cô nhóc choai choai đang rã rời đau khổ.

Thêm nữa, sau năm năm làm phóng viên đưa tin về các cuộc họp hội đồng thành phố Glaston Cove, rồi chọn lọc công thức món ăn cho mục Trao đổi công thức cộng với việc làm thông tin tiểu sử cho những doanh nhân địa phương, ví dụ như ông chủ Hãng Thu mua Tảo biển Glaston Cove, nàng bắt đầu cảm thấy như mình là một phóng viên điều tra thực thụ.

Nàng nhớ lại nội dung cuộc trao đổi với Adeline ít phút trước đó.

“Quỷ thật đấy Irene, cô chưa tìm được tin gì để tôi có thể sử dụng ngoài những gợi ý mơ hồ về một cuộc điều tra đang tiến hành, mà tôi phải nói thêm là có vẻ như rốt cuộc sẽ không xảy ra.”

“Ý chị là sao chứ? Em đang điều tra đây này.”

“Nhưng nếu như đám cảnh sát địa phương không ra tay gì ráo...”

“Chuyện này còn ẩn chứa nhiều điều lắm, Addy, em có thể cảm nhận được đấy.”

“Tôi biết chứ.” Adeline nặng nề thở ra ở đầu dây bên kia. “Ruột gan của tay nhà báo già nua này cũng đang chộn rộn cả lên đây, mà tôi không nghĩ là do đống ớt tôi ăn hồi trưa đâu. Chuyện này có quá nhiều tình tiết trùng hợp. Nhưng hứa với tôi là cô phải cẩn thận nhé. Theo kinh nghiệm già đời của tôi, chính trị, tình dục và người chết trộn với nhau thì ôi lắm đấy.”

“Em sẽ cẩn thận.”

“Với lại, Gail và Jenny bảo chúng nó đã chuyển nhanh số quần áo đủ mặc trong một tuần gồm đồ lót, quần dài và áo sơ mi đấy. Chắc đến sáng thì cô nhận được. Chúng nó bảo chỉ chọn toàn đồ đen cơ bản thôi để cô khỏi phải lo đến chuyện kết hợp quần này áo nọ làm gì. Hầu như mọi thứ đều có thể mặc chung với nhau được.”

“Bảo với hai người ấy cho em cảm ơn nhé.”

Tiếng xe đẩy hàng loảng xoảng ngay cạnh giật Irene khỏi cơn mơ màng.

“Ối trời, chẳng phải Irene Stenson đây sao. Ta nghe nói cô quay về đây rồi.”

Người đó có kiểu giọng khàn khàn, khó chịu luôn biết cách vượt trội lên trên nền âm thanh chung quanh.

Irene ngay lập tức nhận ra giọng nói ấy mặc dù đã mười bảy năm trôi qua kể từ lần cuối cùng nàng nghe thấy cái giọng kèn kẹt độc nhất vô nhị của bà Betty Johnson. Một mảnh ký ức nhức nhối khiến tim nàng đập dồn.

Cô bé đang đứng với bà dì Helen trong phòng khách ngập ngụa bóng tối của nhà tang lễ Drakenham nhìn ra đám đông ngoài bãi đậu xe. Cơn mưa như trút nước cũng chẳng làm cho sự tò mò của những cư dân thị trấn Dunsley vơi đi tí nào.

“Đám kền kền, ” cô bé lẩm bẩm.

“Mọi người trong thị trấn này đều biết bố mẹ con và họ biết cả con nữa.” Dì Helen nắm chặt tay Irene. “Không thể tránh khỏi việc tất cả mọi người đều đến đây dự tang lễ đâu con.”

Ben Drakenham, điều hành nhà tang lễ, không vừa ý lắm với lựa chọn của dì Helen là đem Hugh và Elizabeth Stenson đi hỏa táng. Irene hiểu đó là vì hỏa táng sẽ ít tốn tiền hơn nhiều so với trọn gói dịch vụ hòm-và-huyệt mà ông ta hy vọng bán được.

Thế nhưng, bà dì già cả của cô bé đã đưa ra quyết định như thế dựa trên những lý do hoàn toàn không phụ thuộc vào giá cả.

“Bia mộ trong nghĩa trang địa phương nặng như chì, sẽ trì kéo con trở lại thời gian và địa điểm này đấy, Irene ạ. Chắc hẳn bố mẹ con sẽ không muốn như thế. Họ sẽ muốn con được thanh thản sống tiếp.”

Cô bé đã nghe theo lời thông thái của bà dì, nhưng trong tâm khảm cô băn khoăn không rõ liệu bà Helen có lựa chọn đúng đắn hay chăng. Bia mộ cũng có thể như một cột mốc, cho cô có được chút sợi dây liên kết hữu hình với quá khứ vốn đã bị cướp đoạt khỏi mình.

Vào cái ngày mưa lạnh lẽo ấy, mọi ghế ngồi của nhà tang lễ trong nhà thờ bé nhỏ đều có người. Nhưng Irene biết rõ đa phàn những người hiện diện đến chỉ để ngó nghiêng và bàn tán, chứ chẳng phải đến để tiếc thương gì bố mẹ cô bé.

Betty Johnson trước đấy đã tìm cách chiếm được ghế ngòi hàng đàu tiên trong tang lễ. Giờ đây bà ta cùng nhiều người khác lởn vởn bên ngoài cửa chính, chờ đợi để được nói lời chia buồn giả tạo cùng bao điều vô nghĩa khác.

Chiếc xe đang đứng chờ ngoài lối xe chạy dường như xa xăm như mãi tận cung trăng.

“Đi thôi nào Irene, ” Helen nhỏ nhẹ nói. “Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua chuyện này.”

Irene hít một hơi sâu và siết thật chặt tay bà dì. Hai người cùng nhau bước ra bậc cấp. Đám đông rẽ lối nhường đường cho họ. Bà Helen đáp lại vẻ thông cảm của mọi người bằng cái gật đầu ra vẻ vương quyền. Irene nhìn chăm chăm về phía trước chiếc xe.

Khi chỉ còn cách xe vài mét, cô bé nghe thấy giọng Betty Johnson vượt lên khỏi những tiếng xì xầm từ đám đông.

“Tội nghiệp con bé Irene, cầu Chúa phù hộ cho trái tim của nó, con bé sẽ không bao giờ bình thường trở lại, sau những chuyện đã xảy ra... ” Irene cẩn thận nhặt lấy một cây xà lách, đoạn chậm rãi quay lại đối mặt với người đàn bà khuôn mặt sắc cạnh với mái đầu phồng to sau lưng nàng.

“Chào cô Johnson,” nàng nhã nhặn đáp.

Betty nặn ra nụ cười giả dối. “Ta khó mà nhận ra cháu đấy. Cháu trông khác quá.”

“Ý cô là trông bình thường quá phải không ạ?”

Mặt Betty biến sắc. “Gì cơ?”

“Không có gì ạ.” Irene đặt cây xà lách vào xe đẩy rồi nắm chặt tay xe. “Cô thứ lỗi cho nhé, cháu có vài việc cần làm.”

Betty trấn tĩnh lại rồi nắm chặt lấy tay nắm xe đẩy. “Hẳn phải là sốc kinh dị lắm nhỉ, khi phải tìm thấy Pamela Webb tội nghiệp trong tình trạng như vậy.”

Đưa mắt nhìn quanh một vòng, Irene trông thấy hai người mua sắm khác đã dừng xe đẩy của họ lại cách đấy không xa. Một phụ nữ đang diễn trò chọn cà rốt. Người kia đang chăm chú lựa qua một chồng khoai tây đút lò như thể đang tìm kiếm vỉ khoai làm từ vàng ròng vậy. Cả hai người này đều nghểnh đầu theo cái cách chỉ ra rằng họ đang lắng nghe chăm chú.

“Vâng, sốc thật đấy chứ,” Irene bảo. Nàng đẩy xe tránh xa khỏi Betty Johnson.

“Ta nghe bảo cậu Luke Danner dễ thương ấy đi cùng cháu khi cháu tìm thấy cái xác,” Betty không thôi, lại còn xoay xe đẩy của mình lại theo nàng sát gót. “Cháu đang ở nhà nghỉ đấy, phải không nào?”

“Phải ạ.” Irene đẩy xe quành qua một đầu kệ rồi chui vào giữa hai hàng kệ chất đầy lố bia sáu chai và rượu vang.

Nàng chọn lấy một chai vang trắng giá vừa phải nhưng rồi lưỡng lự.

Luke có vẻ là kiểu người thích uống bia hơn.

“Có người để ý thấy cháu dường như hơi bực bội sáng nay sau khi nói chuyện với cảnh sát trưởng McPherson và thượng nghị sĩ Webb,” Betty lớn tiếng gọi với sau lưng nàng.

Irene vơ lấy một lốc sáu chai bia rồi tiếp tục bước đi. Nàng có thể nghe ra tiếng xe đẩy của Betty đang tăng tốc sau lưng mình.

“Pamela Webb là con nhỏ ngỗ ngược quá sức, cháu biết mà,” Betty nói. “Lúc nào cũng hoang đàng. Trời đất, ta nhớ có lần bố cháu bắt gặp con bé đang chơi ma túy với mấy đứa nhỏ trong vùng trên một nhà thuyền bên bến du thuyền cũ. Rồi cũng phải giấu nhẹm mọi chuyện đi thôi, dĩ nhiên rồi, ai bảo con bé là con gái của Ryland Webb chứ. Nhưng ai ai trong thị trấn cũng biết chuyện gì đã xảy ra.”

Đủ rồi nhé. Irene đột ngột dừng phắt lại, thả tay cầm xe đẩy ra và nhanh nhẹn lách mình bước sang bên.

Betty Johnson đang đi theo quá gần với vận tốc như thế nên không thể dừng lại kịp thời. Xe đẩy của bà ta đâm sầm vào xe đẩy của Irene kèm tiếng thép va nhau loảng xoảng. Cú va chạm làm Betty loạng choạng.

Irene mỉm cười lịch sự. “Trí nhớ của bà hơi tệ đấy, bà Johnson ạ. Bố tôi không gia ân gì cho Ryland Webb cả.”

Betty chậc chậc lưỡi, “Ôi cháu yêu, mọi người ai cũng biết Pamela lúc đó đang làm gì trong căn nhà thuyền ấy kia mà.”

“Cũng như mọi người đều biết rằng chồng bà say như chết trong cái đêm ông ta đâm xe tải vào quầy kính trưng bày ở mặt tiền cửa hiệu dụng cụ Tarrant ấy chứ gì.”

Bà Betty trân trối trợn mắt kinh ngạc. Rồi gương mặt bà ta chất chứa phẫn nộ. “Ed không say. Đấy chỉ là tai nạn thôi.”

“Bà có thể nói là bố tôi cũng đã giấu nhẹm vụ đó đi đấy, vì ông đã không cho bắt Ed, đúng không nhỉ? Ông biết chồng bà vừa bị đuổi việc. Ông hiểu rằng nếu bị bắt vì lái xe trong khi say xỉn thì Ed sẽ khó mà tìm được việc khác.”

“Đấy là tai nạn thôi, tôi nói cho cô biết thế. Bố cô hiểu mà.”

“Tai nạn à.” Irene nhìn quanh và trông thấy một gương mặt hơi hơi quen thuộc phía cuối dãy kệ hàng. “Giống như cái lần Jeff Wilkins và hai thằng bạn chí cốt tình cờ chôm xe tải mới của Harry Benson và lái đi vi vu vài vòng trên đường Bell ấy nhỉ.”

Annie Wilkins trắng bệch. “Làm sao cô dám lôi cái vụ xưa rích đó ra chứ? Đấy chỉ là trò phá phách trẻ con thôi mà.”

“Đấy là một vụ ăn cắp xe hơi, và bà cũng nên tin là lúc ấy ông Benson cương quyết muốn thưa kiện,” Irene nói. “Nhưng bố tôi đã thuyết phục ông ta bình tĩnh lại và nhường nhịn đôi chút. Rồi bố tôi nói chuyện phải trái với con trai bà và mấy thằng bạn của anh ta. Dọa bọn họ ra trò. Rồi sao nào? Jeff cùng đám bạn đã tránh bị hầu tòa đấy.”

“Chuyện đó xảy ra bao nhiêu năm qua rồi,” Annie giận dữ nói. “Cũng nói cho cô biết luôn là giờ Jeff thành luật sư rồi đấy nhé.”

“Thật là sự đời đôi chút trớ trêu nhỉ. Tôi chắc là bố tôi sẽ lấy đó làm thú vị lắm.” Irene chầm chậm xoay gót, đưa mắt tìm thêm một mục tiêu khác trong đám đông nho nhỏ. “Xem nào, xem ai còn được lợi từ cách bố tôi làm việc nào?”

Một thoáng rùng mình sượt qua nhóm người đang túm tụm phía cuối kệ hàng. Đột nhiên hai người đằng sau quay ngoắt đi, cố gắng trốn chạy.

Irene vồ lấy người phụ nữ tóc nhuộm đỏ đang cua thật gấp sang khu vực TRÁI CÂY & RAU CỦ ĐÓNG HỘP.

“Becky Turner phải không nhỉ? Tôi còn nhớ bà mà. Tôi cũng nhớ cái lần con gái bà giao du với nhóm mấy đứa nhóc trại hè gây ra quá nhiều rắc rối đến nỗi...” Becky đứng phỗng như tượng rồi lẩn nhanh về phía quầy tính tiền.

Lúc này những người đi mua sắm gần đấy bắt đầu di chuyển, đẩy xe đẩy của mình về phía lối ra gần nhất. Có thật nhiều tiếng lanh canh lách cách vang lên, đoạn một sự im lặng vắng ngắt bao trùm.

Trong vài giây Irene tưởng nàng chỉ còn lại một mình nơi dãy kệ bày bán bia rượu. Nhưng rồi nàng cảm nhận được một sự hiện diện sau lưng.

Nàng từ từ quay lại, trông thấy một người phụ nữ trung niên quyến rũ đang quan sát mình với vẻ thích thú.

“Chào Irene,” người phụ nữ lên tiếng.

“Cô Carpenter ạ?”

“Gọi cô là Tess đi. Em đâu còn trong lớp cô nữa. Không cần phải trang trọng làm gì.”

Tess Carpenter đẩy xe đẩy đi qua dãy kệ, rút ngắn khoảng cách giữa hai người. Lần đầu tiên kể từ khi đặt chân về thị trấn này, Irene cảm nhận được chút ấm áp trong lòng do những ký ức vui vẻ mang lại.

Trước kia Tess dạy môn tiếng Anh tại trường trung học Dunsley. Bà đã tích cực khuyến khích lòng ham đọc và khát khao muốn viết của Irene.

Mái tóc nâu óng màu mật của bà được nhuộm điểm xuyết vài dải vàng hoe để che đi những sợi bạc, nơi khóe mắt có đôi nếp chân chim, nhưng ngoài những điều đó ra, Tess dường như không già đi mấy.

“Có vẻ em đã giải tán hết cả cái chợ rồi đấy,” Tess vừa nói vừa phá ra cười. “Chúc mừng em nhé. Hẳn Pamela phải rất tự hào về em. Con bé ấy thích mấy màn thế này lắm phải không nhỉ?”

“Vâng, nhưng chỉ khi nào chính bạn ấy là người gây náo thôi ạ.”

“Đúng thật.” Gương mặt Tess dịu lại. “Em sao rồi Irene? Có người bảo em giờ là phóng viên rồi phải không?”

“Em làm việc cho một tờ báo nhỏ ở một thành phố vùng duyên hải. Còn cô thì sao ạ? Vẫn còn dạy ở trung học Dunsley chứ ạ?”

“Còn. Phil bây giờ đã sở hữu một ga ra sửa xe rồi đấy.”

Irene mỉm cười. “Bố em luôn bảo là đụng đến xe cộ thì Phil tài tình lắm.”

“Bố em nói đúng đấy.” Tess dò xét Irene với vẻ quan tâm và thấu hiểu. “Hiển nhiên cô có nghe được chuyện đã xảy ra. Cả thị trấn này đều biết chuyện Pamela. Cô rất tiếc rằng em phải là người tìm ra con bé.”

“Lý do duy nhất em về đây là vì bạn ấy muốn nói chuyện với em. Sau mười bảy năm im lặng bạn ấy email cho em bảo rằng phải gặp em cho bằng được. Nhưng chúng em chẳng còn cơ hội nào mà gặp nhau nữa.”

“Em thật sự nghĩ là có bí ẩn gì trong cái chết của bạn ấy hay sao?” Irene cười chua chát. “Chuyện đàm tiếu này truyền đi nhanh thật đấy.”

“Đây là Dunsley mà, em không nhớ sao? Chúng ta còn không cần phải có báo chí tin tức gì cả. Thông tin truyền đi với tốc độ ánh sáng mà.” Một cô nàng gương mặt chất phác cột tóc đuôi gà đi dọc dãy kệ.

“Chào Irene. Sandy Pace đây. Còn nhớ em không? Trước đây em là Sandy Warden ấy. Em học sau chị một khóa tại trường Dunsley.”

“Chào Sandy. Gặp lại em hay thật đấy. Em thế nào rồi?”

“Mọi chuyện đều tốt, cảm ơn nhé. Em kết hôn với Carl Pace ngay sau khi tốt nghiệp trung học. Giờ bọn em có hai nhóc rồi. Carl làm công việc xây dựng quanh hồ đấy. Anh ấy bận suốt.”

“Tốt thật,” Irene bảo. “Chúc mừng em có hai đứa con nhé.”

“Cảm ơn chị. Chúng làm em bận rộn tối tăm mặt mũi, và dường như từng xu từng đồng Carl làm ra đều đem lo sắm áo quần cho bọn nhỏ hết, nhưng chúng em cũng ổn thôi. Bọn em đang xây nhà mới nữa.”

“Tuyệt thật đấy Sandy.”

Sandy ưỡn thẳng hai vai với vẻ quả quyết. “Nghe ngày, em không thể không nghe thấy những gì chị đối đáp lại Bettt Johnson và những người kia. Em chỉ muốn nói là chị đã đúng khi làm cho mấy bà già nhiều chuyện ấy bẽ mặt như thế.”

“Chị e là chị đã để họ chọc trúng vài điểm yếu của mình rồi.”

“Em vui khi thấy chị cũng chọc trả. Sự thật là, rất nhiều người quanh đây có lý do phải biết ơn bố chị đấy. Phải thế không cô Tess?”

“Chính xác,” Tess đồng tình. “Cũng hay thật khi trí nhớ người ta mới đoản làm sao.”

“Có khối lần Hugh Stenson xử lý mọi chuyện trong im lặng để cho ai đó không phải đi tù hay có tì vết trong lý lịch hoặc chỉ là khỏi bị xấu hổ đến chết,” Sandy thêm vào. “Mà ông ấy còn biết giữ bí mật nữa chứ.”

Irene rộn lên cảm giác biết ơn. “Cảm ơn nhé Sandy.”

“Một trong những bí mật ấy có liên quan đến mẹ con em. Bố dượng của em, Rich Harrell, là một tên rất, rất xấu xa. Hắn ta uống say rồi đánh đập mẹ em chạy vòng quanh, rồi hắn bắt đầu nhắm đến em nữa chứ.”

“Chị không biết chuyện này,” Irene bảo. Nàng thấy choáng váng kỳ lạ. Sao nàng có thể không biết trong hộ gia đình ấy đã xảy ra chuyện gì vậy chứ? Nàng thắc mắc.

“Dĩ nhiên là chị không biết đâu,” Sandy bình tĩnh bảo. “Em chẳng hé răng kể cho ai nghe. Mẹ em cũng không. Bà muốn bỏ Harrell, nhưng bà sợ hắn sẽ giết cả hai mẹ con mất. Như em đã nói ấy, mẹ em chẳng nói cho ai nghe, nhưng cảnh sát trưởng Stenson không hiểu sao lại biết được chuyện đang xảy ra. Một ngày kia ông đến nhà em và bảo Harrell lên xe của ông. Hai người họ lái xe một lúc thật lâu. Khi quay trở lại, em có thể thấy Harrell đang rất lo lắng. Hắn thu dọn đồ đạc rồi rời khỏi thị trấn ngay trong ngày hôm ấy. Sau đó mẹ con em không bao giờ trông thấy hắn nữa.”

Tess cau mày. “Những tên thích lạm dụng người khác thường không tự nhiên biến mất chỉ bởi vì một cuộc trò chuyện với cảnh sát thôi đâu.”

“Có đấy nếu chúng bị dọa sợ phát khiếp lên,” Sandy đáp. “Vài năm sau mẹ con em nghe được rằng Harrell uống say, đâm xe vào gốc cây và bỏ mạng. Hai mẹ con ăn mừng. Rồi khi ấy mẹ mới kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra vào ngày Hugh Stenson mang hắn đi nói chuyện riêng.”

“Chuyện gì vậy?” Irene hỏi dồn.

Mắt Sandy ánh lên niềm thỏa mãn được hồi tưởng. “Em không rõ ông ấy làm thế nào, nhưng cảnh sát trưởng đã phát hiện ra rằng Harrell từng nẫng tay trên tiền của một tay cực kỳ nguy hiểm ở San Diego, tay này chuyên rửa tiền cho mấy trùm ma túy ở Nam Mỹ. Harrell giả chết sau khi hắn cuỗm tiền của tay kia. Bố chị đã cảnh cáo Harrell rằng nếu hắn quay lại Dunsley hay có bất cứ chuyện khả nghi nào xảy ra cho em hay mẹ em, thì bố chị đảm bảo sẽ đánh tiếng cho San Diego biết rằng tên từng cuỗm tiền của hắn thật ra vẫn chưa chết.”

Irene thoáng rùng mình. “Chị chưa bao giờ nghe đến chuyện này cả.”

“Cô cũng chưa từng,” Tess thêm vào.

Sandy nhìn hai người còn lại với vẻ thông cảm. “Như em đã nói đấy, Hugh Stenson giữ rất nhiều bí mật dơ bẩn của thị trấn này. Ông ấy đã đem theo xuống tận mồ.”
 
Chương 10


Sam nhấc điều khiển lên bấm tắt âm thanh khó chịu do cô phát thanh viên quá tươi tỉnh, quá hoàn hảo trong bản tin tối phát ra. Gã ngả người lên ghế thư giãn và nhắm mắt lại.

Cảm giác tội lỗi tận cùng bóp nghẹt lấy gã. Sam tự hỏi liệu mình có tắt thở hoàn toàn dưới sức nặng của tội lỗi ấy không nữa. Có lẽ đó chẳng phải là điều tồi tệ nhất trên thế giới này.

Trong mấy năm qua gã đã khá bình ổn đấy chứ, Sam thầm nghĩ. Cũng phải tốn nhiều công sức, nhưng rốt cuộc gã cũng đã có thể nhét tội lỗi ấy vào hố sâu mà vùi lấp lại. Dĩ nhiên gã có gặp vài vấn đề. Một trong số đó là gã đã phá hỏng cuộc hôn nhân của mình, nhưng đấy chẳng phải chuyện độc nhất vô nhị gì. Rất nhiều người sống sót qua chuyện này mà.

Tuy nhiên xét theo khía cạnh tươi sáng, gã nghĩ mình đã trở thành một cảnh sát khá tốt, kiểu cảnh sát mà Hugh Stenson hẳn sẽ tán đồng. Gã đã giữ gìn luật pháp ở Dunsley này. Gã chưa từng nhận hối lộ, nói thế không có nghĩa hối lộ là điều hết sức cám dỗ ở trị trấn nơi mà thu nhập có khuynh hướng từ trung bình đến thấp. Và gã cũng giữ bí mật cho mọi người, như Stenson đã từng dạy gã.

Dạo gần đây gã cũng từng nghĩ đến chuyện phục hồi lại thứ gì đó gần giống như là một cuộc sống có bạn bè. Tháng vừa rồi có đến sáu lần gã suýt nhấc điện thoại lên gọi cho cô. Nhưng gã cứ chần chừ mãi. Cô là cô gái đàng hoàng, lại xinh đẹp, là người phụ nữ giàu lòng trắc ẩn. Vấn đề là cô chỉ coi gã là bạn. Gã không rõ cô sẽ phản ứng ra sao nếu gã thử biến tình bạn giữa họ thành một thứ tình khác.

Gã nhìn vào điện thoại trên bàn cạnh ghế ngồi. Một điều quá rõ là, gã biết chắc giờ thì không thể gọi cho cô được nữa. Sự quay về của Irene Stenson đã làm thay đổi mọi thứ. Chỉ nhìn một lần vào đôi mắt ám ảnh đó thôi là bao tội lỗi trước đây gã từng cẩn thận chôn vùi lại được quật dậy khỏi mồ.

Gã biết rằng chẳng có gì gã từng gặt hái trong cương vị cảnh sát trưởng có thể bù đắp cho những việc gã từng làm mười bảy năm về trước.
 
Chương 11


Đương lúc Irene đưa cho Jason chai bia thì bên cabin số Sáu vang lên tiếng nhạc rock hạng nặng inh tai.

“Thế đấy.” Đang dựa lưng vào tường, Luke lập tức bật dậy đặt chai bia của mình xuống bàn. “Ngay khi Maxine làm thủ tục nhận phòng cho đám choai choai này chiều nay là tôi biết chắc chúng sẽ gây rắc rối mà. Tôi sẽ quay lại ngay.”

Anh mở cửa hàng hiên hậu và đi ra.

Irene nhìn theo khi anh bước xuống các bậc cấp, đi thẳng đến cabin bên cạnh khuất sau các hàng cây.

“Coi Luke ra tay lúc nào cũng đã.”

Jason nhe răng cười với vẻ chờ đợi khoái chí. Cậu ta đi tới cửa sổ để nhìn rõ hơn cái cabin ồn ào kia. “Anh ấy đang đứng trước cửa. Tôi cho là cái thứ nhạc ấy chỉ còn kêu được năm giây nữa thôi, tối đa đấy. Một, hai, ba...”

Sự yên lặng đột ngột bao trùm.

“Chỉ mất ba giây,” Jason nói.

“Anh của cậu đúng là có tác phong làm việc độc đáo nhỉ,” Irene quan sát.

“Vài năm làm lính Thủy quân lục chiến tôi luyện con người ta ra thế đó.”

“Tôi biết.” Nàng mở tủ lạnh lấy ra tô xà lách tươi rói đã rửa sạch. “Cha tôi cũng từng là lính Thủy quân lục chiến.”

Jason huýt sáo. “À ra vậy.”

“Ra vậy là sao?”

“Là vì sao mà cô hiểu Luke rõ hơn hầu hết mọi phụ nữ mà tôi từng biết.” Nàng giật mình, liếc mắt lên. “Điều gì khiến cậu nghĩ rằng tôi hiểu anh ta?”

“Qua cái cách hai người đối đáp, tôi đoán thế. Anh ấy ra lệnh. Cô phớt lờ. Có vẻ như thế rất hiệu quả với cả hai người.” Jason chợt đổi đề tài. “Có cần tôi giúp làm đồ ăn tối không?”

“Cảm ơn, tôi nghĩ mọi thứ đang trong tầm kiểm soát. Cậu ở lại thị trấn trong bao lâu?”

“Sáng mai tôi về lại Santa Elena. Có cuộc họp với nhà cung cấp. Tôi chỉ ghé đây xem Luke ra sao và cũng để chắc chắn rằng anh ấy vẫn còn dự định về dự tiệc sinh nhật Bố Già.”

Nàng mở cửa lò nướng. “Bố Già là ai?”

“Chúng tôi gọi bố như thế.” Cậu ta thích thú xem xét cái khay Irene vừa lấy ra khỏi bếp. “Này, có phải bánh mì bột bắp không đấy?”

“Ừ. Thích không?”

“Ồ, thích chứ. Nhưng so với mức độ hâm mộ của Luke, tôi còn kém xa. Anh ấy thích mê món bánh mì bắp. Thực ra, anh ấy ưa mọi bữa ăn nấu ở nhà. Tôi nghĩ chắc là do hồi đi lính anh ấy ăn quá nhiều lương khô.”

“Có phải là loại đồ ăn sẵn dùng trong quân đội không?”

“Đúng thế.” Jason hít hà tán thưởng. “Với lại, Luke không được ăn cơm nhà nhiều lắm kể từ khi anh ấy đi học đại học, mà đấy cũng đã khá lâu rồi. Anh ấy cũng có lần kết hôn được một thời gian nhưng vợ cũ của anh ấy lại không thích nấu ăn. Chị ta chuyên mua đồ ăn sẵn về nhà mà thôi.”

“Luke đã từng có vợ à?” nàng nghe bản thân mình nói với giọng điệu cố làm ra vẻ tự nhiên nhất. Chỉ là một nhà báo đang tác nghiệp. Thu thập thông tin thôi mà.“Đừng lo, chị ta bước ra khỏi cuộc đời Luke lâu lắm rồi. Họ chia tay cũng phải năm hoặc sáu năm gì đó. Một trong những chuyện gió thoảng qua đường thôi. Chỉ tồn tại chừng năm phút.”

“Tôi hiểu.”

“À, thật ra thì lâu hơn thế một chút. Họ sống với nhau được vài tháng trước khi Luke chuyển công tác ra nước ngoài. Khi Luke trở về, cô dâu của anh ấy ngộ ra rằng ở Luke còn có nhiều thứ khác ngoài bộ quân phục hấp dẫn. Chị ta kết luận rằng mình không hề muốn trở thành vợ của một quân nhân Thủy quân lục chiến.”

“Luke chưa bao giờ tái hôn à?” Ngay lập tức nàng biết là mình đã giẫm chân vào vùng cấm địa. vẻ mặt tươi cười, cởi mở và dễ chịu của Jason bỗng sa sầm như có một hàng rào bảo vệ chắn ngang.

“Sáu tháng trước anh ấy đính hôn được một thời gian, nhưng...” Jason đột nhiên ngừng lại như thể cậu đã bị hớ miệng. “Có chuyện. Mọi sự đã không diễn tiến như ý.”

Irene cảm thấy nỗi tò mò nhột nhạt quen thuộc đang ngọ nguậy tận sâu trong tâm khảm. Chắc là có gì đó bí ẩn ở đây rồi, nàng thầm nghĩ. Luke đã từng nói gì về những bí mật gia đình ấy nhỉ? Nhưng chắc chắn một điều, gia đình nào cũng có đôi ba bí mật Nàng rắc một chút xíu muối hột lên ba miếng phi lê cá hồi mua ở siêu thị Dunsley. Nàng đã lấy chúng từ khu hàng đông lạnh sau khi nhớ lại lời mẹ dặn trong một cuộc trò chuyện về đề tài mua cá ở siêu thị Dunsley. Đừng bao giờ mua đồ tươi. Không biết được đồ ấy cũ đến mức nào rồi đâu.

“Buổi tiệc sinh nhật hoành tráng tổ chức ở đâu thế?” nàng hỏi, cố gắng khôi phục lại cuộc nói chuyện đang bị va vấp.

“Santa Elena.” Jason có vẻ nhẹ nhõm khi nàng đổi đề tài. “Cơ sở kinh doanh của gia đình chúng tôi đặt ở đấy.”

“Chính xác thì gia đình cậu kinh doanh lĩnh vực nào?”

Jason nhướng mày. “Luke không kể cho cô nghe nhiều về anh ấy đúng không?”

“Không, không nhiều lắm.” Nàng lấy chai vang trắng rẻ tiền mua hồi sớm ra khỏi tủ lạnh, đặt lên quầy. “Chúng tôi rất bận. Không có nhiều thời gian để chuyện vãn.”

“Phải rồi, chắc có lẽ vậy.” Jason ngắm nghía chai rượu nàng đang mở. “Nhưng tôi cho rằng đúng hơn dạo này anh ấy không muốn kể chuyện kinh doanh của gia đình bởi Bố Già và cộng sự đang tạo áp lực bắt Luke phải trở về phụ giúp. Cô đã bao giờ nghe nói đến nhãn hiệu Elena Creek Vineyards chưa?”

“À, dĩ nhiên. Ai từng sống tại các vùng trồng nho hoặc lân cận đều biết tiếng Elena Creek Vineyards. Loại rượu vang rất hảo hạng, rất cao cấp. Nhãn hiệu này đã giành rất nhiều giải thưởng.”

“Chúng tôi đương nhiên thích nghĩ thế,” Jason nói.

Nàng nhìn lại nhãn trên chai rượu trắng. “Tôi bắt đầu thấy xấu hổ về chai này rồi đây.”

“Đừng quá lo về vụ rượu vang trắng. Luke và tôi chắc chắn chẳng để tâm đâu.”

“Gia đình cậu sở hữu Elena Creek Vineyards à?”

“Cha tôi và cộng sự của ông, Gordon Foote, sáng lập nó cách đây bốn mươi năm. Bố Già là đầu não của mảng đối ngoại doanh nghiệp. Gordon lo việc sản xuất rượu. Họ có chung một ước mơ và đã biến nó thành hiện thực. Giờ đây họ muốn truyền lại cho thế hệ sau.”

“Vậy thế hệ mai sau nghĩ thế nào về việc đó?”

Jason cười gượng gạo. “Anh Hackett và tôi đã tham gia. Katy, con gái của bác Gordon, cũng thế. Thực ra, tôi không cho rằng cô có thể kéo ba chúng tôi ra khỏi ngành kinh doanh rượu. Nó đã thấm vào máu rồi.”

“Nhưng đã không thấm vào máu Luke phải không?”

“Đó là anh ấy tuyên bố thế thôi, còn theo quan điểm chung của cả gia đình thì Luke không biết rõ mình muốn gì. Này nhé, Luke chưa bao giờ thực sự gắn bó với một cái gì lâu dài cả. Ví như chuyện học đại học chẳng hạn.”

“Anh ta bỏ ngang à?”

“Anh ấy học rất giỏi. Lấy được bằng cử nhân và đậu chương trình cao học. Chúng tôi đều nghĩ rằng anh ấy sẽ gia nhập giới hàn lâm cơ đấy.”

“Anh ấy học ngành gì?”

“Cô không bao giờ tin được đâu.” Jason cười khùng khục. “Triết học cổ điển.”

Irene sững người trong chốc lát. Rồi nàng bật cười. “Cậu không đùa chứ. Choáng thật đấy.”

“Đừng để cái dáng dấp của một cựu quân nhân Thủy quân lục chiến xuề xòa ấy đánh lừa cô. Đạt điểm cao trong học tập đối với Luke chỉ là chuyện bỡn. Như đã nói, có vẻ như anh ấy sẵn sàng cho cuộc sống ở tháp ngà, nhưng đùng một cái anh ấy lại báo tin là đã xin nhập ngũ. Ai cũng sốc nặng. Anh ấy được đưa đi tham gia các chương trình huấn luyện về chiến thuật và chiến trận gì đấy. Luke thực ra đã cố gắng hoàn thành bậc Tiến sĩ khi còn tại ngũ. Nhưng anh ấy bị điều đi suốt. Nhiều lắm.”

“Nhiều lắm à?”

“Những năm qua lực lượng Thủy quân lục chiến rất bận rộn.”

Nàng bất giác ớn lạnh, “Ừ, tôi biết.”

“Dù sao thì sáu tháng trước anh ấy cũng giải ngũ. Luke để cho Bố Già và Gordon thuyết phục mình vào làm việc ở hãng rượu.”

“Theo tôi hiểu thì đấy không phải là bước ngoặt sự nghiệp thành công gì mấy nhỉ.”

“Cô cũng có thể gọi đó là một thảm họa không thể bàn cãi. Như đã kể, cùng thời gian đó Luke cũng đính hôn rồi tan tành luôn.” Jason gạt tay. “Còn giờ thì sao, anh ấy đang ở Dunsley điều hành một nhà nghỉ câu cá cũ nát.”

“Để tôi thử đoán xem nhé. Gia đình đang lo phát sốt phải không?”

“Cũng có phần lo lắng thái quá,” Jason thừa nhận. “Riêng cá nhân tôi, tôi nghĩ chỉ là Luke thuộc dạng người bỏ chút thời gian để tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời của mình, cô hiểu không? Nhưng những người khác lại lo rằng Luke đang tuột dốc không phanh.

Irene cân nhắc một thoáng rồi lắc đầu. “Tôi không cho là như vậy. Ngược lại là khác. Luke có lẽ đang đi theo một hướng khác, nhưng tôi nghĩ là anh ấy biết mình đang đi đâu.”

“Đồng ý với cô.” Jason hơi ngập ngừng. Lần đầu tiên cậu ta tỏ vẻ buồn rầu. “Nhưng gia đình tôi có lo lắng thì cũng không trách được. Có lẽ Luke chưa từng kể cô nghe chuyện này, nhưng trong vài năm rồi anh ấy đã trải qua một số nhiệm vụ rất gay go.”

Irene chợt nghĩ đến những gì mình vô tình bắt gặp đôi lần ẩn sau vẻ lạnh lùng và tự chủ trong đôi mắt Luke. “Tôi có thể hình dung ra ít nhiều.”

“Anh ấy thi hành phận sự rất tài tình. Có vài cái huy chương quan trọng được nhét đâu đó trong ngăn kéo ấy. Nhưng để có những thứ đó quả thực ta phải trả giá.”

“Tôi biết,” nàng đáp khẽ.

Nét căng thẳng trên mặt Jason dịu dần. “Tôi linh cảm là cô có lẽ đã đoán ra rồi. Như đã nói, hai người có vẻ giao tiếp rất tốt với nhau. Điều này cũng hơi lạ vì Luke không phải mẫu người được cho là giỏi giao tiếp.” Cậu ta ngừng lại nhìn ra cửa sổ. “Nghĩa là trừ những lúc anh ấy ra lệnh. Luke chỉ giỏi việc truyền đạt mệnh lệnh thôi.”

Cánh cửa bất chợt mở ra. Luke bước vào bếp. Anh dừng phắt lại, hết nhìn Jason lại quay sang Irene.

“Gì thế?” anh hỏi.

Irene nở một nụ cười hết sức bình thản. “Tôi vừa phát hiện ra mình sắp mời cái thứ được gọi là rượu vang trắng hết sức tầm thường cho hai anh em lớn trên trong một gia đình làm rượu huyền thoại của California.”

“Em đã bảo cô ấy đừng ngại ngần gì chuyện đó,” Jason trấn an, “nhờ vào món bánh mì bắp cô ấy làm.”

“Ôi chao,” Luke thốt lên, trông như thể anh sắp được ăn bánh thánh. “Bánh mì bắp.”

“Lưỡi của anh gần rớt ra rồi kìa,” Jason bảo. “Cố đừng làm mất mặt gia đình ở đây nhé.”

“Anh nói gì với bọn nhóc trong cabin đang bật nhạc rock inh ỏi kia thế?” Irene vừa hỏi vừa vặn nút chai rượu.

Luke nhún vai. “Tôi chỉ nhắc bọn chúng về quy định không làm phiền láng giềng của nhà nghỉ thôi.”

Irene cúi xuống kiểm tra món cá hồi. “Chỉ vậy thôi mà tụi nó vặn nhỏ volume à?”

“Tôi cũng nhắc cho chúng nhớ rằng tôi cũng là một trong những láng giềng của chúng, và tôi cũng nói rất rõ rằng nếu không vặn nhỏ nhạc ngay thì tự tay tôi sẽ ném từng đứa khỏi cầu tàu xuống hồ.”

Jason cười toe toét. “Tôi đã nói mà, Luke truyền đạt mệnh lệnh rất cừ.

“Tôi biết mình chẳng có quyền đưa ra lời khuyên cho một tài năng điều hành resort chớm nở,” Irene nói, “nhưng nếu anh hy vọng khách quen quay trở lại thì anh nên triển khai một phương thức nhã nhặn hơn để đối đãi với khách trọ đi nhé.”

“Luke gia nhập Thủy quân lục chiến, chứ không phải sở ngoại vụ,” Jason đáp. “Văn hóa ứng xử khác biệt hoàn toàn.”

Nàng lấy mấy miếng phi lê cá ra khỏi lò nướng. “Tôi cũng từng nghe thế rồi.”
 
Chương 12


Luke choàng tỉnh giữa đêm đen.

Tiếng trực thăng xạch-xạch-xạch vang vọng từ xa xăm lùi dần vào đêm đen cùng với những mảnh vụn của cơn mơ vừa rồi.

Anh từ từ ngồi dậy bên mép giường. Mồ hôi vã ra bết áo thun vào ngực và lưng anh. Anh thấy bị kích thích; thấy tỉnh táo khác thường. Tất cả các giác quan cơ hồ đã được lên dây cót sẵn sàng lâm trận.

Anh quá rõ cảm giác này. Anh cũng biết phương thuốc hóa giải duy nhất là phải đi loanh quanh đâu đó, làm tiêu tan bớt lượng adrenaline và buộc bản thân phải tập trung vào một điều gì đó ngoài giấc mơ kia.

Lần này giấc mơ thật kinh khủng. Anh trở lại những đường mòn nhỏ hẹp và ngõ ngách tối đen của một bối cảnh đô thị đã trở thành phế tích từ trước khi Hoa Kỳ tồn tại. Trong bóng tối nơi đó anh và đồng đội của mình tham gia một trận đánh sinh tử theo chiến thuật ba chiều không gian, tức là kẻ thù có thể hiện diện bất cứ nơi đâu - trên đầu, sau lưng, trước mặt hoặc thậm chí bên trong một mê cung các đường hầm ngay bên dưới chân. Chẳng có nơi nào an toàn, không một chỗ nào để nghỉ ngơi dù chỉ trong một hai giờ ngắn ngủi đủ cho các giác quan đã làm việc quá sức của ta được hồi phục. Cách duy nhất để sống còn là phải luôn luôn đề cao cảnh giác và tỉnh thức. Đừng dây vào đó. Hãy tập trung vào một thứ khác. Mày biết cách mà. Hãy để đầu óc mình bận rộn với những suy nghĩ khác.

Anh ấn cái nút nhỏ xíu ở cạnh bên mặt đồng hồ của mình để xem giờ. Trong vầng sáng xanh lục le lói đủ soi rọi mấy con số điện tử, anh nhìn thấy đã một giờ kém mười.

Luke đứng dậy nhưng không bật đèn ngủ cạnh giường. Anh không muốn đánh thức Jason đang say ngủ trên chiếc ghế sofa ở phòng trước. Anh bước đến cửa sổ vén màn nhìn ra ngoài.

Ánh trăng đêm bàng bạc lấp lánh trên mặt hồ. Đèn đã tắt ở cabin Maxine cho bọn nhóc mê rock thuê. Nhưng mọi cửa sổ ở cabin của Irene vẫn còn sáng trưng.

Anh biết rõ mình cần làm gì để giải phóng bớt mớ năng lượng dư thừa đang sôi sục bên trong người.

Nhưng anh cũng biết khá rõ việc chủ nhà nghỉ tán tỉnh khách nữ là đi ngược lại với các điều lệ.

Quỷ tha ma bắt cái ngành nghề ngu si với mớ luật lệ như thế.

Anh bước qua khoảng không gian nhỏ tới cái bàn gỗ cũ kỹ đặt sát tường và bật laptop lên. Có lẽ tập trung vào Dự án sẽ giúp giải phóng bộ não của anh khỏi dư âm của giấc mơ. Rốt cuộc đó chẳng phải là lý do anh tạo ra Dự án hay sao. Nói một cách đơn giản nhất, chiến lược là thay thế nỗi ám ảnh này bằng một ám ảnh khác, về mặt lý thuyết nghe có vẻ hay, và trong nhiều đêm cách này cũng thực sự hữu hiệu.

Màn hình máy tính nhấp nháy tỏa sáng chờ đợi. Anh mở tập tin và lướt con trỏ xuống đến chương đang viết dở dang tuần rồi.

Thình lình tiếng máy êm êm của một chiếc xe nhỏ đang chạy chầm chậm ngắt ngang dòng suy nghĩ của anh. Luke dừng tay gõ phím lắng nghe chăm chú. Nếu bọn nhóc ở cabin số Sáu lái xe vào thị trấn tìm trò tiêu khiển thì chúng sẽ thất vọng não nề cho xem. Harry’s Hang-Out giờ này đã đóng cửa còn đâu. Anh chờ đợi, nhưng không có ánh đèn nào xuyên qua màn đêm. Là ai đang lái xe ra phía đường lớn thì người này cũng không bật đèn.

“Mẹ kiếp.” Anh bật dậy vơ lấy cái quần jean vắt ở lưng ghế. “Lại là cô ta nữa rồi.”

Anh vội vã tròng quần jean vào, giật chiếc áo sơ mi tối màu khỏi móc, xỏ chân vào đôi giày chạy bộ rồi chạy nhanh ra khỏi phòng ngủ.

Jason ngẩng đầu dậy khi anh đi ngang qua ghế sofa.

“Anh đi đâu giờ này vậy?” cậu ta lúng búng với giọng ngái ngủ.

“Ra ngoài.”

“Ừ hén.” Jason thả người xuống gối. “Khi nhìn thấy món bánh mì bắp thì em biết ngay anh đi đời rồi mà.”
 
Chương 13


Nàng ghét cái suy nghĩ phải trở lại căn nhà ấy, nhất là vào giờ này.

Dừng chân giữa vùng bóng tối đang nuốt chửng các bậc cấp bên ngoài phòng dụng cụ, Irene lấy chìa khóa ra khỏi túi áo khoác. Nàng có mang theo đèn pin nhưng không dám bật lên cho tới khi vào trong nhà. Nàng cũng cẩn thận đậu xe khuất tầm mắt ở đầu đường.

Tối nay nàng không muốn bị bắt gặp đang lảng vảng gần ngôi nhà nghỉ mát của gia đình Webb. Những gì nàng sắp sửa làm có thể bị khép tội danh xâm nhập gia cư bất hợp pháp, nàng bụng bảo dạ. Sam McPherson đã không vừa ý với nàng rồi. Nàng cũng chẳng muốn tặng không cho anh ta lý do để trục xuất nàng ra khỏi thị trấn này.

Một làn gió ma quái luồn qua hàng cây. Bên trong ngôi nhà chìm đắm trong màn đêm và bóng tối. Khác với đêm rồi, không có ngọn đèn nào bật ở phòng trước.

Nàng mở khóa cửa, thả chìa khóa lại vào túi áo, nín thở bước vào bóng tối đen kịt của căn phòng dụng cụ. Nhanh chóng đóng cửa lại, nàng lấy ra chiếc đèn pin bé xíu bằng cây bút bật lên.

Irene chỉ thở lại được khi tia sáng mỏng dính xuyên qua màn đêm. Nàng thận trọng di chuyển qua hành lang đến cầu thang dẫn từ phòng khách và phòng ăn lên lầu. Bóng đêm bên dưới cầu thang đặc quánh. Nàng mất một khắc để nhận ra ai đó đã kéo rèm che các cửa sổ cao từ trần tới sàn sau khi người ta chuyển thi thể của Pamela đi. Chắc là Sam rồi, nàng nghĩ. Mục đích của anh ta rõ ràng là để ngăn chặn mấy kẻ tò mò bệnh hoạn, nhưng cũng nhờ thế mà nàng không phải lo có ai đi ngang qua sẽ thấy được tia sáng từ đèn pin của nàng.

Nàng thấy choáng đến kỳ cục khi nhận ra mọi vật trong nhà đêm nay thật trật tự đẹp đẽ bình thường như trong tạp chí Nhà & Vườn. Đáng lẽ ở đây phải phảng phất cảm giác vừa có một người chết chứ. Nhưng cái chết của Pamela không liên quan đến bạo lực công khai hoặc máu me gì cả, nàng tự nhủ, chỉ có thuốc và rượu thôi.

Rượu và thuốc. Một trong những phương thức tự sát cổ điển. Nhỡ nàng sai và mọi người khác đúng thì sao nhỉ? Nhỡ Pamela tử vong do quá liều, vô tình hay không vô tình thì sao nào?

Thôi được, thì cứ gọi tôi là học thuyết gia âm mưu đi.

Nàng không lẩn quẩn ở tầng dưới. Nếu Pamela có cất giấu bất kỳ bí mật nào trước khi chết thì hẳn nó phải ở trong phòng ngủ của cô.

Suốt mùa hè nàng và Pamela thân thiết với nhau, nàng đã thông thuộc căn phòng của Pamela như thể của mình. Nàng đã ở tầng trên căn nhà này hàng giờ nghe những bản nhạc mới nhất, bàn luận về các cậu trai và đọc hằng hà sa số các tạp chí buôn chuyện thời trang và ngôi sao nổi tiếng.

Nàng leo các bậc thang dẫn lên lầu hai, đi đến căn phòng Pamela từng sử dụng hồi còn thiếu nữ. Cánh cửa chỉ khép hờ.

Mười bảy năm trước thì đã không như thế này rồi. Pamela luôn có lý do chính đáng để đóng cửa phòng suốt ngày. Cô có hàng tá thứ để giấu cha và người quản gia, bao gồm cả thuốc ngừa thai, bao cao su và những gói bí ẩn cô dùng để chứa thứ ma túy tinh lọc mua từ các tay buôn lảng vảng quanh khu trường nội trú danh giá.

Pamela rất tự hào về ngăn chứa bí mật mà cô tự tạo ra để cất giữ kho tàng của mình - thực tế, cô tự hào đến nỗi ngày ấy, sau khi bắt Irene phải thề độc tuyệt đối giữ bí mật, cô đã chỉ cho nàng xem.

Cảm giác hy vọng cuộn trào trong Irene khi nàng bước vào phòng. Chính ký ức về nơi giấu đồ bí mật của Pamela đã kéo nàng trở lại đây đêm nay. Cơ may tìm được thứ gì trong ấy để có thể cho ra lời lý giải hoặc một manh mối cơ hồ rất mong manh, nhưng đấy là nơi khởi điểm.

Rèm và mành cũng được kéo xuống che phủ căn phòng này. Thở phào vì khỏi phải quá cẩn trọng với ánh sáng từ cây đèn pin, nàng nhanh chóng lia đèn một lượt khắp gian phòng.

Cơn choáng váng đánh bật nỗi mong chờ mà nàng đang cảm thấy nãy giờ. Cảm giác ngờ ngợ như đã gặp cảnh này trong quá khứ khiến một luồng ớn lạnh đen tối sắc lẻm khuấy đảo toàn bộ dây thần kinh của nàng.

Chẳng có gì thay đổi.

Lấy lại bình tĩnh, Irene bước chầm chậm vào phòng. Đúng là tầng trệt không được trang hoàng lại, nhưng dù gì thì nó cũng luôn được bài trí theo phong cách của người trưởng thành. Thậm chí mười bảy năm trước, căn phòng trang trí theo tông màu hồng-trắng của Pamela cũng đã khiến nàng ngạc nhiên bởi nó quá đỗi ngọt ngào, ngây thơ để có thể tương xứng với một Pamela trần tục và tinh tế. Tối nay, chiếc giường màn che trướng phủ với chăn ga bồng bềnh và những chiếc gối xa tanh màu hồng trông hết sức kỳ khôi.

Lại thêm một trường hợp thời gian ngưng đọng, nàng nghĩ thầm. Khó có thể tin được rằng căn phòng này chưa từng được trang trí lại. Chắc chắn Pamela phải cần nó cho khách của mình mỗi khi cô đưa bạn bè về nghỉ bên hồ này chứ. Tội nghiệp Pamela. Phải chăng cô ấy quyến luyến tuổi thơ đến nỗi không chịu thay đổi căn phòng ngủ cũ? Dường như điều đó không giống với Pamela mấy. Cô luôn là người ưa mạo hiểm; luôn phấn khích trong những chuyện bị cấm kỵ. Và cô yêu thích thời trang.

Nhưng Pamela cũng là một cô bé mất mẹ khi chỉ mới năm tuổi, Irene tự nhủ. Có lẽ một phần nào đó trong cô ấy đã cố bấu víu những mảnh vụn ký ức gắn liền với căn phòng này.

Thật có lắm điều nàng chẳng bao giờ hiểu được về Pamela, Irene nghĩ. Nàng thậm chí còn không biết vì sao Pamela lại chọn nàng làm bạn thân mùa hè xa xưa ấy. Lúc đó nàng chẳng mảy may thắc mắc về cái sự may mắn của mình. Chìm đắm trong vùng sáng phản chiếu bởi ánh hào quang nguy hiểm lấp lánh của Pamela là đã quá đủ rồi; quá đủ để vờ như nàng cũng là một cô bé hư nốt. Nhưng từ sâu thẳm, nàng cũng thường tự vấn liệu Pamela đã nhìn thấy ở mình điểm gì.

Nàng băng ngang qua phòng đến chiếc giường cổ tích, chọn lấy một trong những chiếc gối xa tanh màu hồng đặt lên tủ kê đầu giường. Nàng kê đèn pin lên chiếc gối sao cho ánh sáng chiếu thẳng vào công tắc đèn trên tường.

Thò tay vào túi, nàng lấy ra một cái tuốc vít mang theo sẵn. Rất cẩn thận, nàng đưa đầu vít vào một trong những con ốc đính bảng công tắc đèn lên tường.

Lời Pamela trong đêm cô chỉ cho nàng chỗ cất giấu bí mật của mình vang vọng trong trí Irene khi nàng vặn vít.

“Trò này là của bọn con trai, giấu đò trên tường đằng sau công tắc đèn. Chẳng ai tưởng tượng được một cô gái lại làm điều đó.”

Chắc chắn chẳng phải loại con gái sống trong căn phòng màu trắng-hồng như của công chúa thế này, Irene hồi tưởng khi mở con ốc thứ hai.

Nàng đặt tấm bảng và các con ốc lên bàn rồi tiếp tục vặn hai con ốc bắt dính cái công tắc. Một lát sau nàng đã có thể tháo nó ra khỏi tường.

Mạch đập dồn, nàng cầm lấy đèn pin chiếu vào hộp ổ cắm.

Ánh sáng phản chiếu lên một vật bằng đồng. Nàng gần như nghẹn thở khi phát hiện mình đang nhìn vào một chiếc chìa khóa.

Nàng với tay lấy ra vật nhỏ xíu mình vừa phát hiện. Khi giơ nó lên sát ánh đèn để nhìn kỹ hơn thì nàng thất vọng vì nó trông giống như một cái chìa khóa nhà bình thường.

Tại sao Pamela lại giấu một cái chìa khóa nhà dự phòng trong hộc chứa bí mật của mình vậy nhỉ?

Nàng bỏ chìa khóa vào túi áo rồi với lấy tấm bảng công tắc đèn.

Đương lúc siết con ốc cuối cùng trên bảng công tắc thì nàng bỗng nghe tiếng cửa mở ở tầng dưới.

Máu trong mạch nàng thoắt đông cứng.

Nàng không còn ở trong căn nhà này một mình nữa rồi.
 
Chương 14


Âm thanh hầu như không thành tiếng khi chiếc tuốc vít rơi xuống tấm thảm trắng dày êm dưới chân đã phá vỡ trạng thái đờ đẫn vì sợ của nàng.

Cuối cùng Irene cũng nhớ ra là mình phải thở.

Trong bóng đêm bên dưới, các tấm lót sàn kêu cót két. Có ai đó đang di chuyển quanh nhà. Kẻ đột nhập không bật bất kỳ một cái đèn nào lên.

Trộm ư? Xem ra đó là lời giải thích hợp lý nhất. Một tên du thủ du thực nào đó trong vùng quyết định thử thời vận ở căn nhà của một phụ nữ vừa mới chết.

Nàng nghe thấy tiếng bước chân trong khu vực tiền sảnh. Dù bên dưới kia có là ai, hắn cũng không có ý giữ im lặng. Nàng thầm cầu mong điều này có nghĩa hắn không biết còn có người khác trong nhà. Nhưng nếu hắn lục tìm tiền bạc và đồ đạc quý giá, chẳng chóng thì chày hắn cũng sẽ lên tới trên này.

Nàng phải thoát ra trước khi hắn phát giác. Người ta thường bị giết khi đối đầu với bọn trộm. Đôi khi nàng cũng thắc mắc liệu có phải điều tương tự đã xảy đến với bố mẹ nàng chăng.

Nàng cố nén cơn hoảng loạn chực chờ bóp nghẹn cổ, gắng hết sức để tập trung. Lối thoát duy nhất từ tầng trên này là cầu thang, đầu kia cầu thang kết thúc lồ lộ ở khu vực phòng ăn và phòng khách. Bất cứ kẻ nào đang ở tầng dưới chắc chắn sẽ bắt gặp nàng nếu nàng cố thoát ra theo lối đó. Nàng nhận ra cây đèn pin vẫn còn đang phát sáng. Nàng cuống cuồng tắt đèn đi, để rồi phải tìm cách chống trả nỗi sợ hãi không tránh khỏi đang bủa vây nàng cùng với đêm đen.

Nàng quỳ xuống quờ quạng nhặt chiếc tuốc vít khi nãy đánh rơi. Khi những ngón tay run rẩy của nàng chạm đến chiếc cán nhựa cứng thì nàng cảm nhận rõ một đợt andrenaline rần rật không lý giải được. Chiếc tuốc vít này xem ra chẳng nhiều nhặn gì, nhưng nó là thứ duy nhất nàng có trong tay làm vũ khí.

Đừng nghĩ như thế. Mày không thể chạm trán tay đôi ở đây được. Cần phải hành xử thông minh và ẩn nấp ở đây cho tới khi cái kẻ bên dưới kia làm xong những gi hắn đến đây để làm.

Nàng nghĩ mình đang có một lợi thế lớn. Nàng biết rõ cách bài trí của căn nhà này. Phòng ngủ của Pamela chẳng khác nào một cái bẫy. Chẳng có chỗ nào để ẩn nấp.

Tin tốt lành là toàn bộ tầng trên đều được trải thảm, và tên nào đang ở dưới kia cũng đang gây ra thật lắm tiếng ồn. Nếu cẩn thận, nàng có thể di chuyển trên này mà không đánh động hắn.

Nàng tháo đôi giày ra. Một tay giữ giày, nàng nhón gót đi ra cửa phòng ngủ.

Nhờ một loạt tiếng bước chân ồn ã ở tầng dưới kia át đi, nàng có thể đi qua một căn phòng ngủ dành cho khách và phòng tắm.

Nàng dừng lại khi đến được đầu cầu thang, áp sát lưng vào tường và đánh liều ngó qua góc tường.

Tia đèn pin xuyên qua màn đêm chĩa thẳng vào chân cầu thang, nhưng nàng không thể nhìn thấy dáng dấp của kẻ đang cầm đèn. Nỗi sợ hãi tột cùng đang bóp nghẹt ruột gan nàng.

Khi nghe thấy một loạt tiếng bước chân trên nền bếp lát gạch, nàng di chuyển đến phòng ngủ chính.

Rèm cửa của căn phòng này đang mở. Ánh trăng xuyên qua cửa kính lùa, chiếu trên mặt thảm nhàn nhạt. Nàng có thể nhìn rõ dãy lan can của hàng hiên nhìn ra hồ.

Hàng hiên này là mục tiêu của nàng. Nó tạo thành mái che khu vực ăn sáng ở tầng trệt. Không có cầu thang dẫn xuống dưới, nhưng nếu nàng có thể ra đó mà không đánh động kẻ đột nhập, nàng có thể nép bên dưới bóng của mái che cho đến khi hắn bỏ đi.

Nàng bước khẽ khàng trên thảm, cố gắng canh sao cho mỗi bước chân khớp với tiếng động ở bên dưới.

Khi đến tới cửa lùa, nàng nhẹ nhàng mở khóa nhưng chợt khựng lại.

Có tiếng một vật bằng kim loại kêu loảng xoảng trong khu vực gần nhà bếp. Sẽ chẳng có cơ hội nào tốt hơn thế được, nàng quả quyết. Nàng đẩy cửa và bước ra ngoài hàng hiên.

Nhẹ nhàng đóng cửa lùa lại, nàng di chuyển đến vùng tối của một cái tủ chứa cao mà gia đình Webb dùng để bảo vệ đồ đạc ở hàng hiên trong suốt mùa đông.

Một chốc sau ánh đèn quét qua bên trong phòng ngủ chính. Kẻ đột nhập đã lên đến tầng trên.

Gần như ngay lập tức, ánh đèn biến mất. Kẻ đột nhập đã rời phòng ngủ chính và tiến đến phòng ngủ cũ của Pamela.

Nàng không hề cảm nhận có sự hiện diện của một người khác ở hàng hiên cho tới khi một bàn tay đàn ông bịt miệng nàng lại. Những ngón tay mạnh mẽ khóa bàn tay nàng đang nắm chặt chiếc tuốc vít, tước vũ khí của nàng chỉ bằng một cú vặn cổ tay uy lực.

“Tôi đây,” Luke nói vào tai nàng. “Đừng hoảng.”
 
Chương 15


Tất cả những gì nàng có thể làm là cố hết sức để nhũn ra thành bùn nhão vì nhẹ người. Thật quá sức chịu đựng, nàng tự nhủ. Tối nay mà thêm một cú sốc nữa thì nàng sẽ bại não mất. Cơ thể con người ta chỉ có thể chứa đến chừng ấy lượng adrenaline là cùng.

Luke vòng tay qua người nàng.

Anh tóm lấy tay nắm cửa.

Irene bất giác hiểu ra anh định xông vào nhà đối đầu với kẻ đột nhập. Lại thêm một liều hoảng loạn thốc thẳng vào hệ thống thần kinh đã quá tải của nàng.

Nàng vung cả hai tay chộp lấy anh. Luke khựng lại. Dưới ánh trăng Irene trông thấy anh khẽ quay đầu sang phía nàng, ngạc nhiên không hiểu vì sao nàng cố ngăn anh lại.

“Anh điên à?” nàng vừa nói không thành tiếng vừa giằng tay anh mạnh hơn.

Một lần nữa anh lại kề miệng sát tai nàng. “Ở yên đây.”

Không. Nàng chỉ muốn gào thật lớn như thế. Nhưng kiểu đàn ông như Luke thường không đáp lại phương thức tiếp cận bằng tình cảm.

Thế là thay vào đó nàng lại thì thào, “Súng,” để đánh vào khía cạnh lý trí. Súng, nghĩa là dù kẻ trong ấy là ai thì biết đâu hắn lại có súng, nàng câm lặng nói thêm.

Luke vỗ vỗ vai nàng theo cách rõ là có ý định trấn an. Nhưng theo thiển ý của nàng thì hành động ấy chẳng khác nào một kiểu bề trên kẻ cả.

Khi nàng không chịu thả tay anh ra, Luke có vẻ hơi bực mình. Anh gỡ từng ngón tay nàng ra rồi lanh lẹ mở cửa.

Mùi kerosene không lẫn vào đâu được ùa ra khe cửa mở.

Irene nghĩ mình nghe thấy Luke thì thào tiếng gì đó nghe rất giống như là “chết tiệt,” nhưng nàng cũng không chắc lắm vì anh di chuyển quá nhanh.

Anh đóng cửa lại, vồ lấy cánh tay Irene mà kéo mạnh nàng về phía lan can hàng hiên.

Khi nàng hiểu ra anh định làm gì thì đã quá trễ.

Irene cố gắng bình tĩnh trước kế hoạch này. Vài mảnh xương gãy thì sẽ phiền phức đấy, nhưng phương án này chiến thắng áp đảo lựa chọn còn lại.

“Không sao đâu, tôi vừa tới đây theo lối ấy,” Luke thì thào. “Nắm chặt hai cổ tay tôi này. Trèo qua bên kia đi. Tôi sẽ hạ cô xuống thấp hết sức. Dưới kia chỉ toàn là cỏ và bụi cây không thôi. Hạ cánh êm đẹp, bảo đảm đấy.”

“Ừ phải rồi.” Nàng nhìn qua bên kia thanh rào chắn. Quang cảnh này nhắc cho nàng nhớ cái lần nàng thu hết can đảm leo lên ván nhảy cầu trong hồ bơi. Chỉ cần nhìn qua một lần vào khoảng rơi thật xa xuống mặt nước là nàng leo xuống ngay lập tức. “Thế còn anh thì sao?”

“Tin tôi đi, tôi sẽ theo ngay sau cô thôi. Tôi không biết tên khốn kia đang tẩm toàn bộ ngôi nhà bằng chất gì nhưng chắc chắn là để cháy cho nhanh hơn đấy. Đến khi hắn châm ngòi thì nơi này sẽ nổ tung như bom ngay. Này cô, di chuyển nào.”

Vừa khi hai bàn tay anh siết chặt cổ tay mình, Irene thấy vững dạ ngay. Những ngón tay anh như gọng kềm sắt thép. Anh sẽ không để cho nàng ngã.

Irene vụng về leo qua bên kia thanh rào chắn rồi bỗng thấy mình đung đưa chân cách mặt đất bên dưới một khoảng. Luke thả tay nàng ra. Nàng rơi nhẹ nhàng xuống mặt cỏ, loạng choạng rồi ngã ngồi thật mạnh xuống đất.

Cũng chẳng tệ lắm nhỉ, nàng thầm nghĩ, lồm cồm đứng dậy phủi phủi hai tay.

Ngay khi nàng nhìn lên thì Luke đã vắt mình qua bên kia lan can. Anh lửng lơ trên đấy một chốc, một chân lần tìm đến mép khung cửa sổ của góc phòng điểm tâm rồi thoải mái phóc xuống đất. Irene nhận ra thoạt đầu anh leo lên được hàng hiên là nhờ mép cửa sổ ấy. Ôi đám đàn ông và sức mạnh từ phần thân trên của họ.

Luke chộp lấy tay nàng. “Chạy mau.”

Họ lao mình vào rừng cây.

Tiếng rền nghèn nghẹt của một đoàn tàu chở hàng từ xa vọng lại xé tan đêm tối.

Chỉ có điều là vùng lân cận Dunsley đây chẳng có đường tàu nào cả, Irene thầm nghĩ.

Nàng không cần phải nghe thấy tiếng ngọn lửa phừng phừng hay cảm nhận được làn sóng nhiệt sau lưng để biết được chuyện gì đã xảy ra. Kẻ đột nhật đã châm ngòi cho cơn bão lửa rồi.

Luke lôi nàng dừng phắt lại.

“Đứng lại đây,” anh bảo. “Có mang theo điện thoại không?”

“Có, nhưng mà...”

“Gọi 9-1-1 đi.” Anh quay mình tính bước.

“Trời đất ạ, anh định đi đâu thế?” Irene gọi với sau lưng anh.

“Đi xem thử tôi có tìm thấy thằng khốn đó không. Hắn đi bộ đến đây, như chúng ta thôi. Chắc là đậu xe đâu đó ngoài đường lộ. Biết đâu tôi có thể bắt kịp hắn.”

“Này Luke, nói thật nhé, tôi nghĩ đấy là ý kiến rất không hay đấy.”

Nhưng nàng chỉ đang nói chuyện với trời đêm. Luke đã hòa mình vào bóng tối. Cửa kính nổ tung. Irene đứng lặng quan sát khi ngọn lửa nhấn chìm căn nhà với tốc độ chóng mặt. Nàng rút phắt điện thoại ra khỏi túi áo và bấm gọi số cấp cứu khẩn cấp.

Đâu đó xa xa có tiếng động cơ thuyền máy rồ lên bỏ đi. Vậy là nàng biết Luke sẽ không thể nào bắt kịp kẻ phóng hỏa. Tên đột nhập này không bỏ trốn bằng xe. Hắn đã đến đây bằng thuyền.
 
Chương 16


“Tôi cần làm một ly.” Luke nhanh nhẹn dứt khoát đóng sập cửa cabin. Anh bước sầm sập vào nhà đến thẳng căn bếp nhỏ. “Còn sót lại chai bia nào không thế?”

“Trong tủ lạnh ấy.” Irene thận trọng quan sát anh, bụng không rõ trạng thái tinh thần của anh là gì. Mãi đến tận bây giờ anh mới mở miệng nói chuyện với nàng kể từ khi họ chấm dứt trao đổi với Sam McPherson tại hiện trường đám cháy. Theo nàng thì cuộc trao đổi ấy không mấy thành công. Sau đấy sự câm lặng của Luke trong chiếc SUV cũng chẳng giúp cải thiện tình hình. “Này anh, tôi xin lỗi vì đã làm anh can dự đến chuyện này. Tôi chẳng hề có ý muốn...”

“Nếu cô mà nói thế thêm một lần thì tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho hành động của mình nữa đâu đấy.” Luke mở tủ lạnh, lấy ra một chai bia và bật mở nắp. “Cô biết sao không, lần đầu tiên trong đời tôi bắt đầu tin rằng có lẽ đúng là có thứ được gọi là quả báo. Chẳng điều gì khác có thể thực sự lý giải vì sao tôi rốt cuộc phải dây vào một người khách trọ như cô tại nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ này.” Anh tu một hơi bia dài, hạ chai xuống nhíu mắt nhìn cô. “Ý tôi là, xác suất là bao nhiêu cơ chứ?”

Irene chợt ngộ ra là anh đang lạnh lùng phẫn nộ. Tình cảnh bất công này làm nàng bực mình. Nàng khoanh tay đứng ngay giữa phòng.

“Tôi nào có yêu cầu anh đi theo tôi tới nhà Webb tối nay đâu nhỉ,” nàng vặc lại.

“Không, rõ là cô chẳng yêu cầu.” Luke tựa mình vào quầy bếp, bắt tréo hai chân ngang mắt cá rồi tu thêm bia. “Thật ra là cô lái xe ra khỏi đây mà không bật đèn pha với chủ ý không cho tôi nhìn thấy cô.”

“Đấy chẳng phải chuyện của anh.”

“Có lẽ thoạt đầu thì không đấy, nhưng bây giờ thì rõ là có.” Anh nhướng mày. “Thế cô không nhận thấy là hiện giờ McPherson đang xem xét đến khả năng tôi và cô là kẻ chịu trách nhiệm cho vụ hỏa hoạn tối nay à?”

Nàng nuốt khan. “Có chứ. Nhưng chính chúng ta là người đã báo động mà.”

“Chẳng phải là lần đầu tiên mà kẻ phóng hỏa châm lửa, gọi cho đội chữa cháy rồi lảng vảng quanh đấy để chứng kiến trò phấn khích đâu.”

“Tôi có ý thức được điều này. Nhưng Sam phải biết là chúng ta không có động cơ. Cả hai chúng ta chẳng ai được lợi lộc gì từ cái hợp đồng bảo hiểm giả dụ nhà Webb có mua cho nơi ấy.”

“Ối kẻ phóng hỏa chẳng phải để hưởng tiền bảo hiểm gì đâu. Bọn chúng chỉ nghiện cảm giác mạnh của ngọn lửa thôi. Nhưng trong vụ này chuyện đó không quan trọng. Cô muốn nói đến động cơ chứ gì? Được thôi. Ta hãy bắt đầu từ tôi xem nào.” Irene cau mày. “Anh làm gì có động cơ nào.”

“Chính xác.” Anh gật gù, như thể đang khuyến khích một sinh viên chậm trí. “Nhưng mặt khác cô thì có đấy.”

Irene suýt sặc vì nổi xung. “Anh đang nói cái quái gì thế hử?”

“Chẳng phải bỏ nhiều công sức để khiến cô trông như một kẻ tình nghi hàng đầu đâu. Ai ai trong thị trấn này cũng biết cô bị ám ảnh với ý tưởng là Pamela Webb bị sát hại. Cô muốn ép McPherson tiến hành một cuộc điều tra sâu chứ gì?”

“Phải, nhưng mà...”

“Châm lửa phóng hỏa ngôi nhà của nạn nhân chắc chắn là một cách gây chú ý cho anh ta và để đảm bảo có một kiểu điều tra nào đó được tiến hành.”

Irene hoảng kinh. “Động cơ này quá yếu. Rất, rất yếu.”

“Nếu cô tin như thế thì cô đang chạy trốn thực tại đấy.” Luke săm soi nàng bằng ánh nhìn lạnh lùng tính toán của một tay thợ săn. “Cô có mổ xẻ cách nào đi chăng nữa thì tôi vẫn là chứng cứ ngoại phạm của cô trong trận hỏa hoạn tối nay, và cô là chứng cứ ngoại phạm của tôi. Vấn đề là, cả hai chúng ta chẳng ai có uy tín gì lắm ở Dunsley này. Tôi là tay mới đến thị trấn. Không ai biết gì nhiều về tôi cả. Điều này biến tôi thành kẻ đương nhiên bị tình nghi. Nhưng cô lại còn ở trong tình huống xấu hơn nhiều vì cô có dây mơ rễ má với nơi này. McPherson mà không nghi ngờ chúng ta thì anh ta hẳn phải là tay cảnh sát tồi lắm đấy.”

Irene buông tay rồi vung tay ra. “Nhưng tối nay còn có tên khác nữa. Chúng ta đã nhìn thấy thằng đấy.” Lưỡng lự. “Hay là con đấy.”

“McPherson chỉ nghe thấy chuyện này từ phía chúng ta mà thôi.”

“Thôi được, anh có lý. Biết sao không? Tôi nghĩ tôi cũng phải làm một chai.” Nàng sầm sập bước đến bên tủ lạnh, mở cửa tủ lấy ra chai bia cuối cùng. “Nhưng mà này, tôi hoàn toàn ý thức được chuyện anh là người cứu mạng tôi tối nay.” Nàng mở nắp chai bia. “Cảm ơn anh.”

“Hừ.” Luke uống tiếp.

“Thật ấy chứ, anh làm tôi thất kinh tán đởm khi chẳng biết từ đâu chui ra trên hiên. Nhưng nếu không có anh ở đấy, hẳn khi tôi nhận ra kẻ đột nhập đang làm gì thì đã quá muộn.”

“Cô thấy sợ à? Thế cô nghĩ tôi cảm thấy cái quái gì khi nhận ra cô lẻn vào biệt thự nhà Webb giữa đêm giữa hôm khi trong đấy lại có thêm kẻ khác với cô nữa? Cô muốn so sánh trống ngực sao hả cô nương?” Tốt nhất là nên lờ câu này đi, Irene tự nhủ.

“Anh chưa khi nào giải thích tại sao anh lại theo chân tôi,” một lúc sau nàng mới hỏi.

“Lý do quá rõ ràng rồi còn gì. Tôi đang cho một người phụ nữ có khuynh hướng rất lạ là muốn đâm đầu vào rắc rối giữa đêm khuya thuê cabin. Một tay quản lý nhà trọ phải biết đề cao cảnh giác khi đương đầu với loại khách như cô.”

“Hẳn là anh đang cáu lắm nhỉ?”

“Phải, tôi đang cáu tiết lên đây,” Luke gầm lên. “Lẽ ra cô không nên lai vãng tới bất cứ nơi nào gần căn biệt thự quỷ sứ đó.”

“Anh này, cái thái độ sĩ-quan-cao- cấp-nuốt-lống-thuộc-hạ ấy của anh khiến cho việc biết ơn anh đúng cách mới khó khăn làm sao.”

Luke nghiền ngẫm một hồi.

“Việc quái gì mà tối nay cô phải quay lại nơi ấy thế?” cuối cùng anh hỏi.

Irene tựa người vào mép bồn rửa chén mà săm soi nhãn chai bia. “Anh đã nghe hết những gì tôi trình bày với McPherson rồi. Tôi cứ mãi băn khoăn vì sao Pamela Webb không để lại thư tuyệt mệnh. Tối nay, sau khi anh và Jason dùng bữa rồi ra về, tôi lại phải suy nghĩ đến điều ấy. Tôi vẫn còn giữ chìa khóa phòng dụng cụ. Thế là tôi lái xe đến biệt thự ấy để xem qua thôi mà. Kẻ đột nhập làm tôi gián đoạn khi tôi đang lục lọi trên lầu.”

“Tôi có nghe những gì cô trình báo với McPherson rồi.” Miệng Luke cong cớn giễu cợt. “Tôi cũng biết là cô đang nói dối trắng trợn nữa.”

Irene thấy mặt mình nóng bừng. “Anh nói gì thế?”

“Cô không tin là Pamela tự sát, cho nên cô có đi đến biệt thự nhà Webb để tìm thư tuyệt mệnh đâu. Cô đến để tìm thứ khác.” Luke ngừng ngang rồi hạ giọng xuống. “Còn nữa, tôi nghĩ là là cô đã tìm thấy rồi kia.”

Khi còn chưa chắc, đừng động thủ, Irene tự nhủ.

“Chỉ tò mò thôi nhé, điều gì khiến anh nghĩ như thế?” nàng hỏi.

“Cứ cho là tôi có khả năng ngoại cảm đi.”

“Cũng như anh, tối nay tôi không có tâm trạng gì để giỡn chơi đâu nhé,” nàng nói qua kẽ răng.

“Trong mấy ngày qua tôi với cô đã có được khoảng thời gian bên nhau khăng khít còn hơn là mấy cặp vợ chồng có trong một năm. Vậy hãy coi như tôi đã học được vài điều về con người cô đi. Khi tôi lắng nghe cô thuật chuyện lại cho McPherson, tôi đã linh cảm chắc chắn là cô không hoàn toàn thẳng thắn với anh ta.”

“Chúng ta đã cùng nhau tìm thấy một phụ nữ đã chết, trốn thoát khỏi một căn nhà chuẩn bị nổ tung do một kẻ phóng hỏa gây ra, và cùng nhau tiến hành vài cuộc trao đổi không dễ chịu gì với cảnh sát địa phương và thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Định nghĩa về thời gian bên nhau khăng khít của anh quả có hơi kỳ lạ thật.”

“Chắc vậy.” Anh quan sát nàng với vẻ mặt không nao núng. “Cô sẽ nói cho tôi biết cô đã tìm thấy gì chứ?” Sao lại không nói cho anh ta biết nhỉ? Không như Sam McPherson và Ryland Webb, ít nhất anh ta cũng hơi hơi nghiêm túc tin lời cô kia mà.

“Hồi trước Pamela có một nơi giấu đồ bí mật trong phòng ngủ của mình,” Irene lặng lẽ kể. “Một hộc nho nhỏ đằng sau bảng công tắc đèn. Đấy là nơi cô ấy cất những thứ cô ấy không muốn bố hay người quản gia nhìn thấy. Cũng chẳng phải là hai người này có vẻ như có ý quan tâm tìm hiểu xem Pamela có bí mật gì không đâu. Mà thôi, cô ấy cũng đã chỉ cho tôi thấy chỗ này rồi bắt tôi hứa không bao giờ được tiết lộ. Tối nay tôi chợt nghĩ đến chỗ ấy nên quyết định đến tìm xem sao.”

“Bảng công tắc đèn ư?” Luke gật gù. “Ừ, thế thì chuyện này lý giải cho cái tuốc vít. Tôi cứ thắc mắc cô tìm cái thứ ấy ở đâu ra và cô còn định làm gì với nó.”

“Khi tôi nghe thấy tiếng kẻ đột nhập lẻn vào, tôi nhận ra mình chỉ có mỗi cái tuốc vít ấy làm vũ khí mà thôi.” Chai bia run run trong mấy ngón tay nàng. Nàng nắm chặt hơn. “Phòng trường hợp hắn tìm thấy tôi ấy mà. Tôi chẳng biết làm gì khác hơn cả.”

Luke thong thả đặt chai bia của mình xuống, gỡ chai bia của nàng khỏi những ngón tay nàng rồi đặt xuống kệ bếp cạnh chai của mình.

Hai cánh tay mạnh mẽ của anh choàng lên vai Irene.

“Nếu cô cần nó làm vũ khí, hẳn nó sẽ là vũ khí rất hữu hiệu,” anh bảo. Giọng anh trầm trầm khàn đục nhưng cũng thật doa xịu đến ngạc nhiên.

Irene nhận ra anh đang cố an ủi nàng. Nỗi cám dỗ được thả mình thư thái trong bức tường cảm thông thấu hiểu rắn rỏi ấy suýt chút nữa đã dâng trào choáng ngợp.

Nhưng rồi lý trí nghiền nát nàng. Thế này thì không hay rồi, Irene tự nhủ. Bao nhiêu năm nay nàng đã xây dựng bản năng tự chủ để bảo vệ mình. Nếu nàng mà suy sụp trước mặt người đàn ông này - người nàng chưa kịp hiểu biết gì nhiều, mặc cho có khăng khít hay không - thì có khốn không chứ.

“Cái tuốc vít thì chắc hẳn chẳng được tích sự gì chống lại căn nhà hừng hực như hỏa ngục ấy đâu,” nàng bình thản bảo.

Hai cánh tay anh rời vai nàng di chuyển lên trên, bàn tay anh nâng lấy mặt nàng. “Cô đã tìm thấy gì trong biệt thự nhà Webb tối nay vậy?”

Irene chầm chậm thở hắt ra rồi cho tay vào túi trước của chiếc quần jean đen. “Cũng không phải là thứ trông như một manh mối hữu dụng gì lắm. Vì thế nên tôi mới không đề cập với Sam McPherson.”

Nàng rút chiếc chìa khóa xòe ra trong lòng bàn tay.

Luke hạ tay khỏi mặt nàng nhặt chiếc chìa khóa lên.

“Có biết chìa này mở gì không?” anh vừa hỏi vừa tỉ mỉ săm soi nó.

Nàng lắc đầu. “Không. Trông như một chiếc chìa khóa thật bình thường nhi?

“Thường thật. Chiếc chìa khóa như thế này có thể mở bất cứ thứ gì. Khóa nhà, khóa ngăn đựng đồ, khóa kho dụng cụ, khóa ga ra.” Anh khẽ cau mày. “Nhưng chiếc này lại có chất lượng cao đấy. Kiểu như loại ta không thể đánh thêm chiếc khác, ít nhất là các tiệm đánh khóa lấy liền thông thường khác thì không thể cắt được khóa này. Có người đã tốn tiền cho lắp đặt một mảnh thiết bị cao cấp vào đâu đó.”

“Không có cách nào biết được Pamela đã giấu chìa khóa sau bảng công tắc từ khi nào,” Irene bảo.

“Theo tôi đoán thì mấy năm trước cô ấy nhét nó vào đó rồi quên béng.” Nàng ngập ngừng, ngẫm nghĩ.

“Ngoại trừ là...”

“Ngoại trừ chuyện gì?”

“Trông chìa khóa này còn mới, anh có nghĩ thế không? Nó vẫn còn sáng màu và bóng loáng đây này. Nó chưa bị trầy xước hay xỉn màu vì đã qua sử dụng gì cả. Với lại, trong hộc chứa dây điện có phủ một lớp bụi mỏng, nhưng trên chìa khóa này thì không. Anh không nghĩ là nếu nó đã nằm trong đấy bao nhiêu năm nay thì nó cũng phải bám bụi rồi ư?”

“Cô có chắc về lớp bụi bên trong ngăn chứa không thế? Lúc ấy là đêm tối mà cô thì chỉ có chiếc đèn pin.” Irene những muốn bảo anh rằng nàng hoàn toàn chắc chắn. Nhưng nàng phải thú thật là anh cũng có lý. Đêm nay nàng hành động trong điều kiện ánh sáng cực kỳ giới hạn khi dỡ bảng công tắc ra. Hơn nữa, lúc ấy nàng đang căng cả lên vì adrenaline và bồn chồn lo lắng.

“Tôi công nhận ý này của anh.” Irene đưa tay phải lên vuốt vuốt gáy, cố làm dịu đi nỗi căng thẳng phần nào vẫn còn đang đeo bám nàng.

“Tôi không thể thề là chẳng có chút bụi nào trên chiếc chìa khóa. Mà nếu có đi chăng nữa, thì nó cũng đã bị chùi hết cả đi khi tôi bỏ chìa khóa vào túi mất rồi.”

“Nói lại cho tôi nghe xem vì sao cô không đưa chiếc chìa khóa ra cho Sam McPherson,” Luke hỏi vặn, giọng anh hơi quá dửng dưng.

Miệng nàng mím lại. “Tối nay Sam đã bỏ lơ cho tôi chuyện này vì quá khứ và cũng vì một nửa Dunsley này nghĩ tôi là bằng chứng sống của một ca rối loạn căng thẳng hậu chấn thương, dù cho họ còn chẳng rõ đánh vần tên chứng bệnh này ra sao nữa.” Khi thấy một vẻ giật mình ngạc nhiên thoáng qua trên mặt Luke thì Irene nổi đóa. “Gì chứ?”

“Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương à?” anh lặp lại cũng bằng giọng đều đều dửng dưng như khi nãy.

“Đấy chỉ là tên gọi mỹ miều thôi. Cơ bản là quanh đây có một nhóm người nghĩ rằng vì những gì đã xảy ra khi bố mẹ tôi mất nên tôi không phải là thứ mà anh sẽ gọi là người bình thường.”

“Hừ. Bình thường.”

“Là từ chuyên môn đấy,” nàng đáp. “Phải rồi. Hiểu rồi. Nói tiếp đi.”

Irene quay người bước ra khỏi căn bếp bé xíu rồi đi vào khu vực phòng khách. “Vấn đề mấu chốt là, mặc dù tôi biết Sam chắc sẽ không quẳng tôi vào tù vì tôi đã lẻn vào nhà Webb tối nay, nhưng tôi vẫn không rõ anh ta sẽ phản ứng thế nào nếu biết được tôi đã lấy chiếc chìa khóa ra khỏi ngăn giấu bí mật của Pamela nữa.”

“Tôi vẫn không tin lấy một chữ khỉ gió nào từ những gì cô đang nói.”

Irene dừng bước quay lại đối mặt Luke. “Đấy là chuyện của anh, chẳng phải của tôi.”

“Chẳng là chẳng thế nào. Cô dứt khoát đã trở thành một rắc rối to tướng cho tôi rồi. Tại sao cô không kể cho McPherson nghe về chiếc chìa khóa hử?”

“Thôi được, thôi được rồi.” Irene ngưng lại. “Tôi có linh cảm là Sam đang tìm mọi lý do có thể để không phải mở cuộc điều tra nào về cái chết của Pamela. Tôi còn sợ là anh ta hoặc phớt lờ chiếc chìa khóa đi hoặc làm cho nó biến mất. Mà có theo kiểu nào đi nữa thì tôi cũng sẽ mất dấu nó thôi.”

Thật ngạc nhiên làm sao là Luke lại trở về trạng thái trầm tư. “Tôi đến bị nguyền rủa mất. Cô nghĩ là McPherson đang bắt tay với một trò che đậy tội ác à?”

“Tôi buộc phải nghĩ đến khả năng đó.” Nàng ưỡn thẳng vai. “Tôi đã biết rành rành là thượng nghị sĩ Webb không muốn có cuộc điều tra. Tôi cũng biết luôn là hầu hết mọi người trong thị trấn luôn luôn vui vẻ hoàn thành bất cứ yêu cầu nào được thành viên gia đình Webb đưa ra.”

“Tôi vẫn nghe nói thế.” Luke nhặt chai bia lên uống cạn. Anh đặt cái chai rỗng xuống kệ bếp rồi chăm chú nhìn nàng một hồi lâu. “Người ta thực tình bảo với cô rằng cô mắc chứng rối loạn căng thẳng hậu chấn thương sao?”

“Đấy là lời chẩn đoán tôi nhận được khi dì tôi cho tôi đi tư vấn tâm lý một thời gian sau khi bố mẹ tôi mất. Bao nhiêu năm qua tôi cũng nhận được lời chẩn đoán tương tự từ vài chuyên gia trị liệu khác nữa.”

“Thế chuyện trị liệu ấy có tác dụng gì không?”

“Chút xíu thôi.” Nàng hắng giọng. “Nhưng mà nói chung người ta cho rằng tôi sẽ không cải thiện được gì đáng kể trừ phi tôi học được cách chấp nhận thực tế theo quan điểm sáng suốt của người lớn. Còn tôi thì, ừm, phần nào từ chối không chấp nhận như thế.”

“Bởi vì cô không thể hoặc sẽ không chấp nhận những thực tế mà người ta mớm cho cô,” Luke nói. Đây không phải là câu hỏi.

“Tôi không chấp nhận tin rằng cha tôi giết chết mẹ mình rồi sau đó tự sát. Chuyện này đi ngược hết với mọi điều tôi từng hiểu hay tin vào cha mình. Các chuyên gia trị liệu bảo rằng đến khi nào tôi biết nắm bắt thực tế thì tôi mới chấm dứt được chứng bệnh của mình.”

“Vậy cô đã bảo sao với mấy tay trị liệu tâm lý thế?”

“Tôi bảo rằng điều duy nhất thực sự giúp tôi tiếp cận được việc chấm dứt chứng bệnh của mình là sự thật.” Nàng thở dài. “Chắc lại nghe như là cái nhân cách bất thường, bị ám ảnh của ta đang nói ấy, phải không nhỉ?”

“Chắc thế, nhưng tôi có thể hiểu được. Sáu tháng trước gia đình tôi cũng đập vào mặt tôi lời chuẩn đoán y chang “

Irene chớp chớp mắt, cố thẩm thấu mảnh dữ liệu này. “Thật ư?”

Luke nhún vai. “Cũng không thể nói chắc là họ sai. Phải thừa nhận rằng, dạo này tôi có hơi khang khác.”

Vẻ đoan chắc câm lặng như chiếc vòng sắt trong từng lời anh nói làm nàng xao động. Nàng tự nhủ trước nay mình chưa từng nói chuyện thân mật với bất cứ ai cũng bị dán mác rối loạn căng thẳng hậu chấn thương.

“Thế anh có vài thói quen nào không?” Irene ngập ngừng hỏi. “Có lẽ là vài quy luật riêng tư nào đó mà anh dứt khoát không bỏ dù cho anh biết người ta có thể nghĩ là anh hơi chút kỳ quặc ấy?”

“Như là bật đèn sáng suốt đêm ấy à?”

Nàng cau mày. “Ừ.”

“Có chứ sao không.”

“Đôi khi tính khí lại thất thường chứ?” nàng hỏi tới.

“Cũng có luôn.”

“Cứ mơ thấy chuyện không hay hoài chứ?”

“Này, ai mà không thế chứ.”

“Theo như tôi thấy thì,” nàng dịu dàng bảo, “đôi khi ranh giới giữa bình thường và không-bình-thường-cho-lắm cũng hơi nhập nhằng.”

“Về điểm này thì tôi hoàn toàn đồng ý.” Luke băng qua khoảng cách chia cắt hai người họ rồi dừng sững lại ngay trước mặt Irene. “Nhưng mà phải nói là, ngay lúc này tôi có cảm giác như hôn cô là việc bình thường và tự nhiên nhất trên thế giới này.”

Những lời anh nói làm sức nóng bừng lên khắp người nàng. Cơn rần rật lạ lẫm của xúc cảm nhức nhối làm nàng giật bắn mình. Nàng mở miệng định bảo rằng đấy là một trong những lĩnh vực của cuộc sống mà nàng đã kết luận mình không được bình thường cho lắm.

Nhưng Irene không có cơ hội để nói năng dài dòng về cái chủ đề khả năng hứng tình rất hạn chế của mình, vì môi Luke đã choàng lên môi nàng và nàng bất giác nhận thấy mình đang rạo rực lên đến thật bàng hoàng, thật mãnh liệt, thật nồng nàn.

Luồng điện giật nhảy nhót qua những đầu dây thần kinh vốn đã bị những ảnh hưởng vì lượng andrenaline quá cao và nỗi căng thẳng quá mức làm cho kịch ngưỡng. Nàng không chỉ đang hứng tình, Irene tự nhủ, mà là nàng đang cồn cào khao khát. Nỗi khao khát không giống như bất cứ điều gì nàng từng trải nghiệm - thật dữ dội, đầy phấn khích và tuyệt đối đòi được thỏa mãn.

Luke lẩm bẩm gấp gáp điều gì đấy trên môi nàng và choàng một tay ra sau đầu nàng, vít chặt nàng ở nơi mà anh muốn hôn nàng. Tay kia của anh đặt gọn lên đường cong eo nàng, khóa cứng phần thân dưới của nàng gọn gàng áp vào hạ thể của anh.

Irene có thể cảm nhận được hình dáng anh qua lần vải jean - rắn chắc, căng thẳng, và đòi hỏi.

Môi anh rê chặt môi nàng, hối thúc nàng hé mở. Nhưng dù đang phấn khích tột cùng, Irene vẫn cưỡng lại. Cơn rần rật đâm đầu vào sự gần gụi thể xác khiến nàng ngỡ ngàng. Đây không phải là thông lệ dè dặt, nhàm chán, chậm chạp thường có của mình, Irene thầm nghĩ.

Nhưng Luke sử dụng lưỡi mình như một kiếm sĩ khéo léo sử dụng thanh kiếm - những cú tấn công mời gọi, đùa bỡn, nhanh gọn khiến nàng phải bấu chặt móng tay xuống vai anh. Thay vì làm cho mình lo lắng, nàng lại thấy mình đang muốn tham chiến và chống đỡ.

Thật nhẹ nhàng, nàng nhấm nháp môi dưới của anh, cảm thấy mình đang vô cùng mạo hiểm. Để đáp lại, những ngón tay anh trượt xuống gấu áo len của nàng. Hai bàn tay anh thật ấm nóng và mạnh mẽ trên làn da nàng trần trụi.

Giờ thì người nàng như có chớp giật. Nàng vòng tay quanh người Luke mà ghì chặt lấy. Năng lượng cùng sức nóng lách tách chảy xuyên qua nàng đến tận đầu ngón chân.

Hơi thở của Luke khàn đi. Khi kiễng chân nhâm nhi thùy tai của anh, Irene cảm nhận được một cơn rùng mình làm thân anh bần bật.

Có lẽ nàng không hẳn rụt rè như chính nàng và danh sách ngắn đến thảm hại những anh chàng đã từng chia chăn sẻ gối với nàng kết luận.

Luke ngẩng đầu lên, cắt ngang vòng tay cuồng nhiệt bằng ý chí tưởng chừng đến phi thường.

“Tôi nên đi ra khỏi đây trước khi mình còn bước nổi,” Luke bảo. “Nếu còn chờ thêm chút nữa thì hết đêm nay chắc tôi sẽ chẳng đi đâu được hết.”

Irene chợt nhận ra chính anh mới là người làm ngưng đoạn. Ngượng chết được. Chỉ thêm vài phút nữa thôi chắc hẳn nàng đã lột trần anh ra mà đè nghiến anh xuống sàn rồi.

Nàng hắng giọng, ý thức được mặt mình đang nóng bừng bừng. “Chúng ta hơi mất tự chủ một chút, nhỉ? Chắc là do hậu quả của bao lượng adrenaline đã trút lên chúng ta lúc trước. Tôi có đọc đâu đó bảo rằng chuyện tăng adrenaline có thể làm hại con người ta. Kiểu như là bản năng sinh tồn cơ bản trỗi dậy sau khi suýt va vào thảm họa ấy mà. Một nhu cầu nền tảng muốn tìm kiếm nguồn sống.”

“Phải không đấy?” Anh chậm chạp mỉm cười. “Cô đọc mấy thứ như thế à?”

Bây giờ thì Irene đã ngượng chín người, “Ừ thì, cũng chẳng phải giữa chúng ta đang có mối quan hệ gắn bó nào. Trời đất ạ, chúng ta còn chưa biết gì về nhau cơ.”

“Thế là cô quên mất khoảng thời gian khăng khít mà tôi đã đề cập hồi nãy rồi.”

Lực trọng tâm của nàng có điều gì không ổn. Cơ thể nàng cứ mãi dúi về trước, ngã thẳng vào vòng tay anh. Để kháng lại xung lực này nàng đành đột ngột ngồi xuống tay ghế sofa bọc nệm, bắt tréo chân và cố gắng phi thường để trông sao cho thật sành sỏi và bình thản. Trời ạ, chỉ là một cái hôn thôi mà. Trấn tĩnh lại đi chứ.

Nàng cố hếch cằm lên trong tư thế mà nàng hy vọng là rất tự chủ. “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên đổi đề tài chứ nhỉ?”

“Nếu cô muốn thế.”

“Như vậy là tốt nhất cho cả hai. Tôi chắc là sáng mai cả hai chúng ta sẽ cảm thấy hơi chút gượng gạo về chuyện này cho mà xem.”

Luke liếc đồng hồ đeo tay. “Có tin cho cô đây - giờ đã gần năm giờ sáng rồi đấy mà tôi vẫn chẳng thấy chút quái gì gượng gạo cả.”

“Anh cần phải ngủ. Cả hai ta đều cần.”

“Không nghĩ là tôi có thể ngủ được,” Luke nói, giọng thờ ơ đến lạ. Anh đi ra phía cửa. “Này, chắc chắn tôi sẽ ghét mình lắm vì đã hỏi chuyện này, nhưng tôi thà tránh né thêm bất cứ mối ngạc nhiên giữa đêm khuya nào nữa thì hơn. Rồi đây cô sẽ làm gì khi mà căn nhà của gia đình Webb đã cháy trụi thành than như thế kia?” Câu hỏi này làm Irene lặng người. “Tôi cũng không rõ,” nàng thừa nhận. “Tôi nghĩ bước kế tiếp là tìm ra xem Pamela có thuê ai chăm sóc nhà cửa không. Tôi dám cá là cô ấy không tự tay lau chùi quét dọn gì rồi. Đằng nào thì cô ấy cũng lớn lên có quản gia bên cạnh mà. Tôi ngờ là cô ấy chẳng biết cách quản lý nhà cửa khi không có quản gia ấy chứ. Với lại, cô ấy cũng có ở Dunsley này thường xuyên đâu. Chắc hẳn cô ấy phải cần ai đó coi ngó nơi này.”

Luke gật đầu, như thể những gì nàng nói chỉ là xác nhận lại bất cứ kết luận nào mà anh đã nghĩ ra.

“Cũng biết là cô sẽ không bao giờ từ bỏ mà,” anh nói.

“Không thể bỏ. Chưa được đâu.”

“Tôi hiểu.”

Anh hiểu thật, Irene nghĩ thầm. Đúng là anh hết sức nghi ngờ tính khôn ngoan của những gì nàng đang làm, nhưng anh có thấu hiểu.

“Gặp lại cô vào buổi sáng nhé,” Luke bảo. Anh mở cửa, làm một luồng khí lạnh tràn vào. Anh đi ra đến hàng hiên, rồi dừng bước và quay người lại. “Mà này, cái lý thuyết con con của cô ấy mà, về việc chúng ta suýt chút nữa làm tình nóng bỏng với nhau chỉ vì cả hai đang vận hành dựa trên chút adrenaline còn sót lại và rằng mấy cái bản năng sinh tồn nguyên sơ của chúng ta đang trỗi dậy cùng với ba cái thứ tâm lý lăng nhăng ấy?”

Irene cảnh giác đanh người lại. “Thế thì sao?”

“Theo ý tôi thì toàn là rác rưởi cả. Tôi đã muốn làm tình với cô ngay từ lần đầu tiên tôi trông thấy cô đứng ngoài bàn tiếp tân, gõ gõ lên cái chuông bạc bé xíu kia.”

Anh bỏ đi vào bóng đêm và đóng cửa lại trước khi nàng kịp bắt đầu cho não mình trở về hoạt động.
 
Chương 17


“Anh đốt rụi một căn nhà cơ à?” Jason giật bắn người đến nỗi lát bơ cậu đang định xúc vào đĩa của mình rơi tõm xuống ly nước ép cam. “Em nghĩ anh sang cabin của Irene để ăn thêm một phần bánh mì bắp nướng thôi chứ. Hay làm chuyện gì đấy. Thế mà thay vào đó hai người lại cùng nhau đi đốt nhà người khác à?”

“Chú biết quá rõ ý anh không phải là thế.” Luke xúc ba lát bánh mì chiên trứng anh vừa làm xong sang đĩa mình, mang đĩa điểm tâm sang bàn rồi ngồi xuống. “Có kẻ khác đã châm lửa đốt nhà gia đình Webb. Anh và Irene chỉ tình cờ có mặt ở tầng trên ngôi nhà lúc đó thôi.”

“Ái chà, hay nhỉ, chờ cho tới khi nhà mình nghe được chuyện này xem.” Jason dùng nĩa câu miếng bơ ra khỏi ly nước cam. “Nhưng ít ra xét mặt tích cực thì em có thể về nhà báo cáo lại là lúc em ở đây anh có đi chơi hò hẹn thực thụ.”

Luke xỉa một miếng bánh mì chiên trứng rõ to. “Anh không nghĩ Irene lại nhìn nhận chuyện này theo tinh thần đó.”

Nhưng nàng đã hôn chúc mình ngủ ngon, Luke tự nhủ. Và đấy là một nụ hôn nghiêm túc, ác chiến, dã man, lăn xả. Bất chấp vụ cháy kia, chưa sáng nào anh cảm thấy sảng khoái như thế này kể từ cái thời anh còn buồn quan tâm nghĩ đến điều đó. Mà ấy chỉ là một nụ hôn thôi đấy. Đầu óc anh quay cuồng suy nghĩ không biết hôm nay mình sẽ cảm thấy như thế nào đây nếu nàng thực sự đã mời anh lên giường.

“Luke này?” Jason huơ huơ chiếc nĩa và búng ngón tay. “Ê này? Có ai đang ở nhà không? Anh Cả ơi, nghe em đây này. Trả lời câu hỏi của em đi chứ.”

“Câu hỏi gì?”

“Về vụ hỏa hoạn ấy. Thế có khả năng dính líu đến pháp luật gì không? Bởi vì nếu có thì ta cần phải cho Bố Già với Gordon biết chuyện gì đang xảy ra đấy.”

“Chuyện này thì có liên quan gì đến gia đình hay chuyện làm ăn đâu. Không có ai đe dọa sẽ bắt anh hết. Dù sao thì cũng chưa.”

“Nghe yên tâm thật nhỉ.” vẻ mặt Jason chợt trở nên nghiêm trang. “Anh nói nhà đó là do thượng nghị sĩ Ryland Webb sở hữu à?”

“Anh có cảm giác là ông ta sẽ muốn dìm im vụ phóng hỏa này, giống như kiểu ông ta giữ im lặng vụ con gái mình chết vì sử dụng thuốc quá liều thôi. Ông ta không muốn đám gây quỹ và những người có tiềm năng đóng góp bị phân tâm.”

“Nhưng muốn gói lửa trong giấy cũng hơi khó đấy, anh không nghĩ thế sao?”

“Linh tính mách bảo anh rằng lần tới anh gặp cảnh sát trưởng McPherson, anh ta sẽ bới cho ra một lời lý giải thật hợp tình về việc tại sao phải bỏ qua một vụ phóng hỏa vừa tình cờ xảy ra trong ngôi nhà có một phụ nữ mới mất vì sử dụng thuốc quá liều.” Luke cắn thêm miếng bánh mì chiên trứng, nhai nhai rồi với tay lấy ly nước cam. “Dĩ nhiên, có lẽ McPherson và Webb đã không tính đến Irene. Nếu có ai có thể đưa tin về vụ phóng hỏa lên truyền hình thì người đó chính là cô ấy.”

“Luke này?”

“Hử?”

“Đừng hiểu sai ý em nhé, nhưng anh không nghĩ là có lẽ nên cẩn thận đừng dính líu thêm đến Irene Stenson à? Ý em là, em quý cô ấy lắm chứ. Cô ấy thực sự rất khác biệt so với những cô khác anh từng quan hệ. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng dường như cô ấy là người đóng góp to lớn vào mức độ căng thẳng của anh đấy.”

Luke trừng mắt hung dữ nhìn cậu em rồi ăn thêm miếng bánh mì nữa.

Jason hắng giọng. “Bác sĩ Van Dyke bảo với bố rằng, căn cứ vào tiền sử bệnh của anh thì giờ đây không nên ép anh phải chịu thêm nhiều căng thẳng hơn nữa.”

“Kệ mẹ bác sĩ Van Dyke.”

Jason nhăn nhó. “Em thì không dám rồi. Chắc có liên quan gì đấy đến mấy đôi giày mõm vuông và bộ vest cứng nhắc bằng vải tuýt mà bà ta hay mặc. Có lẽ do em thiếu trí tưởng tượng, nhưng em không nghĩ mình có thể cho qua những thứ ấy.”

“Quay về Santa Elena mà bảo với mọi người thôi đừng có lo lắng cho anh nữa. Anh sẽ về gặp chú trong tiệc sinh nhật.”

“Thế còn Irene Stenson thì sao?”

“Có thể cô ta làm anh căng thẳng đấy, nhưng ít ra cô ta không mang giày mõm vuông và mặc vest bằng vải tuýt. Hay có lẽ chú đã bỏ qua không để ý thấy bốt cao gót và áo choàng dài màu đen sao?”

Jason đảo tròn mắt chịu thua. Cậu khẽ nhăn mặt. “Ồ phải rồi. Em có thấy đôi bốt mà. Thấy cả chiếc áo choàng đen nữa. Anh có nghĩ biết đâu còn có thêm cây roi nhỏ đi kèm với hai thứ ấy hay không?”

“Chẳng biết. Nhưng việc tìm kiếm lời đáp cho câu hỏi cấp bách ấy đã trở thành sứ mệnh của đời anh rồi đây này.”

Luke đang làm thủ tục nhận phòng cho một cặp mới cưới thì Irene đẩy cửa trước sải bước - anh quyết định đấy là từ miêu tả đúng nhất, sải bước - vào trong sảnh nhà nghỉ. Chỉ một cái liếc nhanh dò xét kín đáo cũng đủ nói cho anh những gì anh cần biết về tâm trạng của nàng. Lại thêm một cái áo thun đen và quần tây đen nữa, lại đôi bốt da đen và chiếc áo choàng dài. Nàng lại đang mặc bộ giáp ra trận, sẵn sàng tay đôi với cả thị trấn Dunsley.

Irene đứng nhìn quanh khung cảnh quầy tiếp tân mà không nói không rằng rồi lặng lẽ băng qua phòng đi đến bàn cà phê tự phục vụ. Qua khóe mắt, Luke thấy nàng săm soi bình cà phê và mớ bánh vòng cũ quá ngày mà anh bỏ ra đấy từ trước.

Ngay lúc này đây anh không muốn bị đám khách trọ quấy rầy chút nào, Luke thầm nghĩ. Anh có chuyện cần làm với Irene Stenson.

Anh thảy mẫu đơn đăng ký và cây viết ra trước mặt anh chồng trẻ lóng ngóng.

“Này Addison, tên, địa chỉ liên lạc và số bằng lái xe,” anh bảo. “Ký rồi ghi đầy đủ họ tên ở phía cuối. Ký nháy vào ngày trả phòng.”

Cặp mắt của cô gái vừa mới thành bà Addison mở lớn cảnh giác. Cô ta vội vàng lùi một bước khỏi quầy, trông như thể đang sợ Luke sẽ nhảy chồm tới chộp lấy cổ mình.

Gì nữa đây? Luke thắc mắc, cố gắng giữ vẻ nhẫn nại. Những gì anh vừa làm chỉ là yêu cầu chồng cô ta điền vào cái đơn khỉ gió ấy thôi mà.

Anh chồng nuốt khan khó nhọc đến nỗi Luke có thể trông thấy yết hầu anh ta trượt lên trượt xuống.

“Ừm, vâng, thưa ông,” Addison đáp. Anh chàng vơ lấy cây viết rồi vội vã lúi húi điền vào đơn.

Từ phía bên kia sảnh, Irene đang dở tay lôi từ túi xách ra gói trà túi lọc thì chợt sững lại. Nàng cau mày.

Luke chọn cách tảng lờ nàng.

“Xong hết rồi thưa ông.” Addison đẩy trả lại tờ đơn qua quầy với vẻ nhẹ nhõm ra mặt.

Luke liếc thoáng qua tờ giấy, kiểm tra xem mỗi mục đã được điền đầy đủ hay chưa. “Giờ trả phòng là một nghìn hai trăm.”

Ở đầu kia phòng, Irene nhắm mắt lại kiểu như đang đau đớn lắm.

Addison tái mặt. “ơ, một nghìn hai trăm gì thưa ông?”

“Giờ ấy. Chính ngọ.”

“Vâng thưa ông,” Addison hấp tấp đáp. “Đừng lo, chúng tôi sẽ ra đi trước trưa.”

Luke giật một chiếc chìa khóa khỏi móc và đưa cho Addison. “Cabin số Mười. Có một danh sách các điều dán phía sau cánh cửa ấy. Đọc đi.” Addison bứt rứt hấp háy mắt. “Điều gì ạ?

“Điều lệ quy định chứ điều gì nữa,” Luke cố gắng bình tĩnh. “Không được gây ồn quấy nhiễu dưới bất cứ hình thức nào, không được có hoạt động phi pháp nào, người chưa được đăng ký chính thức thì không được ở lại qua đêm, vân vân.”

“À phải. Chắc chắn rồi. Ơ ý tôi là, vâng, thưa ông.” Addison bồn chồn lắc nhẹ đầu. “Không thành vấn đề. Chỉ có hai chúng tôi thôi, thưa ông.”

“Anh cũng sẽ thấy tấm thiệp nhỏ trên bàn ngủ đầu giường yêu cầu anh hỗ trợ ban quản lý của nhà nghỉ này tiết kiệm năng lượng. Anh sẽ phải xem yêu cầu ấy như là một điều lệ quy định. Rõ chưa?”

“Vâng thưa ông.” Addison gấp gáp đưa mắt liếc sang cô vợ đang lo lắng của mình. “Janice và tôi rất hăng hái tham gia bảo vệ môi trường, phải không nào Janice?”

“Phải ạ,” cô vợ trả lời lí nhí chẳng nghe ra hơi.

“Rất mừng vì được nghe thấy thế,” Luke bảo. “Nghỉ lại khu trăng mật vui vẻ nhé.”

Addison chớp chớp mắt. “Khu phòng trăng mật ư?”

Bà Addison rõ là sửng sốt. “Chúng tôi được ở trong khu cao cấp dành cho các cặp hưởng tuần trăng mật sao?”

“Phải,” Luke đáp “Sao lại không chứ? Hai người đang đi hưởng tuần trăng mật, đúng không? Không phải hai người khai như thế để được ở trong khu trăng mật đấy chứ?”

“Không đâu thưa ông,” bà Addison đảm bảo. “Chúng tôi mới kết hôn sáng nay thôi. Ở tòa án bên Kirbyville ấy ạ.”

Addison trông không thoải mái chưa từng thấy, nhưng anh chàng cố giữ bình tĩnh, “Ừm, phòng trăng mật thì phải trả thêm bao nhiêu thế ạ?” Luke rướn người qua quầy. “Với hai người ấy à? Không thu thêm phí gì cả. Tất nhiên, với điều kiện là hai người tuân thủ các điều lệnh.”

Phía đầu kia phòng, Irene trợn mắt ngó lên trần nhà cao vồng.

“Vâng thưa ông. Cảm ơn ông thưa ông.” Addison vơ lấy tay vợ mình lôi ra cửa. “Đi nào Janice. Anh lấy được cho hai đứa mình khu trăng mật rồi nhé.”

“Em nôn nóng được quay về Kirbyville để kể cho mọi người nghe chuyện này quá,” Janice nói, mặt sáng bừng háo hức.

Cặp đôi tích tắc đã phóng ra ngoài.

Luke đứng khoanh tay trên quầy dõi mắt trông theo đôi vợ chồng trẻ qua cửa sổ. “Mấy người đi nghỉ trăng mật. Yêu quá đi thôi.”

“Hồi nãy trông có vẻ là anh đang cố hù cho họ sợ chứ yêu cái nỗi gì,” Irene lên tiếng.

“Sao tôi phải làm thế chứ? Đời sống hôn nhân rồi sẽ làm cho họ sợ phát khiếp lên nhanh thôi ấy mà. Chẳng cần tôi phải đẩy nhanh tiến trình làm gì.”

“Tôi cá là ở nhà nghỉ Bình Minh Bên Hồ này anh không có nhiều khách quen quay lại lần hai đâu nhỉ?” Luke dang hai tay ra. “Tôi đã nói gì à?”

“Vấn đề không phải là anh nói gì, mà do cái cách anh nói kìa. Anh nói chuyện với chàng trai tội nghiệp kia như thể anh ta là lính mới tò te trong trại huấn luyện ấy. Vì Chúa, anh ta đến đây nghỉ trăng mật cơ mà, với lại xét đến việc anh ta cùng vợ phải đặt phòng ở đây, tôi cho là họ có ngân sách cực kỳ khiêm tốn.”

“Thôi tha cho tôi đi. Tôi chỉ làm thủ tục cho họ nhận cabin thôi mà.”

“Hừm, khu trăng mật hử? Tôi không biết nhà trọ này lại có một khu như thế đấy.”

“Ban quản lý quan niệm là nếu như người ta nghỉ kỳ trăng mật tại một trong những cabin của chúng tôi, thì cabin đó, theo định nghĩa, là khu trăng mật.”

“Tôi hiểu rồi. Chí lý thật.”

“Hẳn nhiên là tôi thấy chí lý,” Luke đáp.

“Mà dù sao đi nữa, lẽ ra anh đã có thể dịu dàng hơn chút với ông bà Addison ấy.”

“Tôi chỉ yêu cầu họ điền mấy mẫu đơn quỷ sứ này thôi mà.”

“Luke à, anh làm họ thấy lo.”

Luke đi vòng qua quầy để rót cho mình thêm tách cà phê nữa. “Biết sao không, tôi bắt đầu nghĩ rằng đó là rắc rối lớn nhất của công việc kinh doanh nhà nghỉ đấy.”

“Gì chứ?”

“Đám khách hàng ấy mà. Bọn họ toàn lũ vô kỷ luật, không được huấn luyện và không thể lường trước được.” Anh nhìn theo nhà Addison chui vào chiếc Ford bán tải cũ kỹ rồi lái về phía cabin số Mười. “Phải đấy, phải nói là nếu không có những khách trọ ấy thì đây không phải là loại công việc khó chịu gì.”

Irene chỉ còn biết lắc đầu. “Jason đâu rồi?”

“Nó về ngay sau bữa sáng. Có chuyện phải họp gì đấy với nhà cung cấp trưa nay. Hôm nay cô định làm gì?”

“Tôi đã gọi cho một người quen cũ trong thị trấn này, bà Sandra Pace, để hỏi xem bà ta có biết ai là người trước nay chăm sóc nhà cửa cho gia đình Webb hay không. Hóa ra người đó là Connie Watson, cũng là người đã lau dọn nhà cửa cho Pamela và cha cô ấy trong những năm tháng tôi sống tại nơi này.”

“Cô sẽ đi nói chuyện với Watson à?”

“Vâng.” Irene liếc nhìn đồng hồ.

“Tôi nghĩ bây giờ tôi sẽ chạy xe đến chỗ bà ấy. Hy vọng có thể gặp được trước khi bà ấy đi làm.”

Luke chầm chậm thở hắt ra.

“Nghĩa là bà ấy không biết cô sẽ đến đó chứ gì?”

“Tôi sợ là nếu mình gọi xin hẹn gặp thì bà ấy sẽ không chịu nói chuyện với tôi đâu. Giống như nhiều người trong trấn này, Connie cũng có lý do để trung thành với nhà Webb.”

“Tôi sẽ đi với cô.”

“Không cần đâu Luke.”

“Tôi bảo tôi sẽ đi với cô.”

Irene trông bồn chồn không yên. “Có lẽ tốt nhất là anh không dính líu gì hơn nữa vào chuyện này.”

“Jason cũng đã nói vài điều tương tự thế rồi đấy.”

Ánh mắt nàng sa sầm. “Thật ư? À, cậu ấy nói đúng đấy. Dù gì thì anh cũng đang sinh sống trong thị trấn này mà. Anh có việc kinh doanh tại đây, mặc dù là, căn cứ vào cái cách anh điều hành, tôi không chắc anh làm cách nào mà kiếm đủ tiền đóng thuế đây. Nhưng đó lại là chuyện khác. Cơ bản là, anh nên tránh xa mớ hỗn loạn này. Ở Dunsley này thì bất cứ chuyện gì liên quan đến mấy người nhà Webb đều khá là bất trắc.”

“Bất trắc tại Dunsley.” Luke khẽ mỉm cười. “Nghe xuôi tai chứ nhỉ.”

“Tôi nói thật đấy,” Irene nhấn mạnh. “Tôi thực lòng nghĩ anh nên tránh xa khỏi tình huống này. Rõ ràng là em trai anh cũng nghĩ thế.”

“Điều mà hình như cả cô và Jason đều không hiểu ra là giờ thì có khuyên bảo hay ho thế nào cũng đã quá muộn rồi. Tôi đã ngập đến, ừm...” Luke ngưng bặt, húng hắng giọng. “Ngập đến họng trong chuyện này rồi.”

“Chưa phải quá muộn đâu.” Irene đặt chiếc cốc xuống mặt bàn mạnh đến nỗi nước trà bắn tung tóe ra mặt gỗ sứt sẹo. Nàng vội vơ lấy một tờ giấy ăn chậm chậm mấy giọt nước. “Chỉ là do anh lỳ quá thôi.”

Luke nhẹ cả người khi cánh cửa mở ra, làm gián đoạn nửa chừng bài chỉ trích của Irene. Maxine ùa vào phòng.

“Chào mọi người.” Cô lột áo khoác ra. “Tôi vừa nhìn thấy có chiếc xe tải trước cabin số Mười. Có khách mới à?”

“Một cặp từ tận Kirbyville đến đây nghỉ tuần trăng mật,” Luke đáp.

“Thật sao?” Maxine trông phấn khích. “Từ hồi tôi làm việc tại nhà nghỉ này đến giờ chúng ta chưa nhận khách mới cưới nào cả. Anh biết không, đây có thể là một kẽ hở trên thị trường mà chúng ta đã bỏ sót đấy.”

“Luke đã cho họ ở tại khu trăng mật,” Irene xen vào.

Maxine cau mày. “Bọn tôi làm gì có khu ấy.”

“Giờ thì có rồi này,” Luke bảo. “Cabin số Mười.”

Maxine rạng ngời hăng hái. “Tôi biết mình sẽ làm gì rồi, tôi sẽ soạn tặng họ một giỏ đồ ăn thức uống nho nhỏ.”

“Nếu là cô thì tôi sẽ bỏ qua mấy chiếc bánh vòng,” Luke nói.
 
Chương 18


Connie Watson nhìn trừng trừng qua cánh cửa lưới. Bà ta là người to lớn, dềnh dàng, có đôi mắt luôn mang vẻ ngờ vực. Một bàn tay thô ráp vì lao động của bà nắm chặt chiếc khăn lau đĩa. Tất tần tật mọi thứ ở con người bà, từ vẻ mặt cho đến ngôn ngữ cơ thể, đều toát ra một vẻ là con người này đã không còn mong đợi điều tốt đẹp của cuộc sống từ rất lâu rồi.

“Ta nhớ cô chứ, Irene,” bà ta bảo. Đoạn phóng cái liếc nhanh gọn, khó chịu sang Luke. “Tôi cũng biết anh là ai nữa, anh Danner. Hai anh chị muốn gì đây?”

Chuyện này rồi sẽ chẳng dễ dàng gì đâu, Irene thầm nghĩ. Linh cảm của nàng sáng nay hóa ra lại đúng. Nếu nàng gọi điện đến trước thì Connie hẳn đã tìm ra cái cớ để không có mặt ở nhà.

“Cháu muốn hỏi bà vài câu về Pamela ạ,” nàng lên tiếng, cố giữ cho giọng mình hết mực bình tĩnh và dịu dàng. “Có thời chúng cháu từng là bạn, bà còn nhớ chứ?”

“Tất nhiên là nhớ rồi.” Bà Connie chùi tay vào khăn. Bà ta chẳng tiến thêm tí nào về phía cửa lưới. “Ta có nghe hai người đã tìm thấy Pamela đêm hôm nọ. Cũng có nghe hai người đốt rụi nhà ông Webb nữa.”

“Có kẻ khác đã châm lửa đốt căn nhà đó,” Luke xen vào. “Chúng tôi chỉ tình cờ có mặt gần đấy lúc đó thôi.”

“Mọi người trong thị trấn đâu có nói như thế,” Connie làu bàu.

“Là sự thật đấy ạ,” Irene thưa. “Lạy Chúa lòng lành, Connie ơi, bà thực sự nghĩ là cháu lại đi đốt nhà ư?”

“Nghe bảo là cô hành xử hơi kỳ lạ trong vụ Pamela chết. Có người bảo cho ta biết là cô mắc cái chứng mà người ta gọi là chứng ám ảnh không lành mạnh đối với chuyện này, đại loại thế.”

Luke nhìn thẳng vào bà ta xuyên qua cửa lưới. “Ai bảo bà thế đấy?” Connie giật nảy người khẽ thụt lùi một chút. Thế rồi bà ta với tay ra lập cập khóa chốt cánh cửa. “Quan trọng gì. Tin đồn truyền quanh thị trấn thôi mà.”

Irene cau mày nhìn Luke, thầm lệnh cho anh câm mồm. Chắc hẳn anh có biệt tài ra lệnh và dọa dẫm người khác, nhưng lúc này đây nàng lại đang cần sự hợp tác của Connie.

Luke nhướng mày và khẽ nhún vai, ra hiệu cho nàng biết là anh đã nhận được tín hiệu của nàng.

Irene quay sang Connie. “Ngay trước khi cô ấy qua đời, Pamela đã gửi cho cháu bức email bảo rằng cô ấy muốn gặp cháu tại Dunsley. Bà có biết cô ấy định nói với cháu điều gì không ạ?”

“Không.”

“Pamela có tỏ dấu hiệu lo lắng hay bực bội gì không?”

“Không.”

“Bà có nhìn thấy cô ấy vào ngày cô ấy chết không?”

“Không.”

Chuyện này không suôn sẻ rồi, Irene tự nhủ. Nàng có thể cảm nhận được Luke đang quan sát nàng, chờ đợi nàng thả cửa cho anh để anh có thể áp dụng kiểu hỏi cung kém lịch sự hơn của riêng anh. Nàng lật lại ký ức hòng tìm ra góc tiếp cận khác.

“Bà Connie này, cháu hiểu là bà cảm thấy bà nợ gia đình Webb lòng trung thành của mình, và cháu đồng ý như vậy. Nhưng bà cũng còn nợ gia đình cháu một điều mà, phải không nhỉ?” Connie nghiến chặt mảnh khăn trong nắm tay. Bà ta lùi lại một bước. “Có lẽ là ta có nợ nần với bố cô, nhưng ông ấy đã chết, cầu Chúa phù hộ linh hồn ông ấy.”

“Cái chết đâu có xóa bỏ mọi nợ nần đâu,” Irene lặng lẽ bảo. “Bố cháu đã mất rồi, nhưng cháu vẫn còn đây. Để tưởng nhớ đến ông, bà có thể làm ơn bảo cho cháu biết bất kể điều gì bà có thể nói về cái ngày cuối cùng của Pamela ở Dunsley được không?”

Gương mặt bà Connie chùng xuống. Bà ta thở hắt ra như mệt mỏi đầu hàng. “Phải hứa với ta là cô sẽ không kể cho ông ấy những gì ta kể với cô.”

“Ý bà là cảnh sát trưởng McPherson ấy à?” Luke hỏi.

Connie chớp mắt lia lịa, vẻ cảnh giác hẳn. “Cũng không được nói với cả anh ta nữa. Chắc chắn rồi anh ta sẽ đến thẳng...” Bất giác bà ta im bặt. “Mà thôi.” Bà ta quay lại Irene.

“Nghe này, ta thực sự không biết gì cả, và đấy hoàn toàn là sự thật.”

“Thì chỉ kể cho cháu nghe những gì bà biết thôi,” Irene thuyết phục.

“Thôi được, bốn ngày trước khi cô tìm thấy cô ấy chết, ta có nhận được cuộc gọi từ Pamela yêu cầu ta dọn dẹp nhà cửa sẵn sàng cho cô ấy. Chuyện này không có gì lạ cả. Cô ấy không thường xuyên sử dụng nơi này, nhưng hễ khi nào cần thì cô ấy sẽ gọi trước cho ta để đảm bảo tủ lạnh có thức ăn và chăn màn sạch sẽ và vân vân.”

“Bà có thấy cô ấy khi cô ấy về không ạ?”

Connie nhanh nhảu lắc đầu. “Không. Như ta đã nói rồi đấy, ta chỉ sửa soạn mọi thứ xong rồi về. Có người bảo họ thấy cô ấy lái xe qua thị trấn ngày hôm sau. Hai ngày sau thì cô ấy chết. Ta chỉ biết có thế.” Irene mỉm cười theo kiểu mà nàng hy vọng là một cách trấn an. “Vậy cô ấy có bảo bà trữ thức ăn cho hơn một người không ạ?” Connie cau mày. “Không.”

“Nghĩa là cô ấy không mong có người khác về cùng mình à?”

Connie lắc đầu. “Ta không nghĩ thế đâu. Nếu định chiêu đãi đám bạn thành phố xa hoa của mình thì hẳn cô ấy đã bảo ta trữ sẵn mấy món nhâm nhi với lại phô mai và rất nhiều bia rượu rồi.”

Irene sững người. “Cô ấy không nhờ bà mua tí rượu mạnh nào ư?”

“Lần này thì không.”

Luke chống một tay lên tường nhà. “Có một bình rượu rỗng và một ly martini trên bàn khi chúng tôi tìm thấy cô ấy.”

Connie phẩy tay mơ hồ. “Ta có nghe đến chuyện này. Không biết cô ấy lấy chai rượu đâu ra. Thường thì cô ấy luôn nhờ ta mua hộ, dĩ nhiên là trừ rượu vang ra.”

“Rượu vang ư?” Luke thận trọng lặp lại.

“Cô ấy rất kén rượu vang. Khi nào cũng tự mình mang theo. Nhưng với loại nặng đô thì cô ấy có thỏa thuận trước với tay Joe ở dưới siêu thị Dunsley ấy. Hắn ta biết Pamela thích loại gì và luôn trữ sẵn cho cô ta.” Connie nhún vai. “Ta cho là hẳn lần này cô ấy đã mua martini từ thành phố đem về đây thôi.”

“Rượu mạnh có thể cất lâu lắm mà,” Irene nói. “Chắn hẳn Pamela còn giữ vài chai trong nhà từ lần về thị trấn trước.”

“Không đâu,” Connie quả quyết. “Cô ấy không bao giờ để lại rượu bia trong nhà cả. Mọi người vùng này đều biết thế. Cô ấy luôn bảo làm thế chẳng khác nào lời mời để ngỏ cho mọi đứa choai choai quanh hồ này đột nhập vào nhà để chôm chỉa. Pamela bảo cô ấy không muốn chịu trách nhiệm cho việc mấy đứa trẻ trong vùng say xỉn rồi chạy xe chệch khỏi đường Lakefront mà đâm xuống hồ đâu. Bảo rằng thế thì sẽ không hay cho hình tượng của ngài thượng nghị sĩ.”

“Bà mua bao nhiêu thức ăn cho cô ấy thế ạ?” Irene hỏi. “Gì chứ?” Connie vặn vẹo chiếc khăn lau đĩa bằng cả hai tay.

“Chắc là đủ dùng cho vài ngày chứ ạ? Nghỉ cuối tuần dài ngày ấy mà?”

“À, thức ăn ấy hả.” Nắm tay bà Connie đang vặn chiếc khăn hơi nới ra. “Giờ nghĩ lại mới thấy chuyện đó hơi lạ thật. Khi gọi cho ta cô ấy bảo mình cần có sữa, ngũ cốc, rau trộn xa lát và đại loại thế đủ dùng cho một tuần”

“Thế thì có gì lạ cơ?”

“Thường thì cô ấy chỉ về nghỉ cuối tuần thôi, nhiều nhất là ba ngày. Chẳng thể nhớ được lần cuối cùng cô ấy định ở lại suốt cả tuần là khi nào nữa. Mà lại là ở một mình thôi nhé. Hễ khi nào ló mặt về đây là y như rằng cô ấy lại có một anh theo cùng.”

“Khi nào cũng thế à?” Irene cẩn thận hỏi lại.

Connie bĩu môi. “Cô còn nhớ Pamela như thế nào hồi cỡ tuổi teen chứ gì, cô ấy khi nào cũng có một đám con trai bu quanh mình như là bầy ong vo ve quanh hũ mật ấy?”

“Vâng ạ.”

“À há, có những chuyện không bao giờ thay đổi. Khi nào cũng có một thằng đàn ông loanh quanh lân cận.”

Irene nghĩ đến căn phòng ngủ hai màu trắng-hồng. “Thế họ ngủ ở đâu?”

Connie trông ngạc nhiên hết cỡ. “Thì ở nhà chứ còn ở đâu nữa. Họ còn ngủ ở chỗ nào khác cơ chứ?”

“Ý cháu là, phòng ngủ nào trong nhà cơ?”

“Pamela luôn luôn sử dụng căn phòng ngủ chính với lý do phòng ấy có hàng hiên và nhìn thấy được toàn cảnh hồ. Đám khách của cô ấy ngủ trong mấy phòng ngủ phụ. Có một phòng ở lầu trên và một ở lầu dưới.”

“Cô ấy không để khách nào ngủ trong phòng ngủ cũ của cô ấy hết à? Căn phòng Pamela dùng hồi thiếu niên ấy?”

“Ồ không đâu,” Connie đáp. “Cô ấy không bao giờ cho ai sử dụng căn phòng đó cả.”

“Có khi nào cô ấy giải thích vì sao không ạ?” Irene hỏi.

“Không.” Connie ngập ngừng. “Nói trắng ra thì Pamela đối xử với căn phòng đó hơi hơi kỳ lạ. Luôn nói rõ là mình muốn giữ cho căn phòng ấy chính xác như trước nay vẫn thế. Thậm chí ta còn không được phép di chuyển bàn ghế trong ấy nữa kia. Ta đoán là Pamela có nhiều tình cảm với căn phòng ấy hay sao đó.”

“Cảm ơn bà, Connie ạ.” Irene bước lui. “Cháu rất biết ơn vì bà đã kiên nhẫn như vậy. Bà thật tử tế đã trả lời các câu hỏi của cháu.”

“Cô chỉ muốn có thế thôi sao?” Connie hỏi lại, vẻ mặt thoáng chút rạng ngời.

“Vâng ạ.”

“Vậy là chúng ta huề rồi phải không, ta và gia đình cô ấy?”

“Vâng ạ,” Irene đáp. “Đã thanh toán sòng phẳng.”

“Ước gì ta có thể trả nợ hết cho mọi người bằng cách dễ dàng như thế này,” Connie lẩm bẩm. Bà ta dợm đóng cửa lại. Nhưng giây phút cuối cùng, bà khựng lại, hé nhìn ra Irene qua khe cửa. Giọng bà trầm xuống. “Này cháu, nhớ cẩn thận đấy nghe không? Có những người không muốn cháu hỏi han lung tung về Pamela đâu đấy.”

“Liệu bà có vui lòng nói rõ hơn một chút không ạ?” Irene hỏi lại.

“Ta luôn mến cháu, Irene à, và ta rất tiếc khi nghe về cái chứng rối loạn hậu chấn thương mà mọi người bảo cháu mắc phải ấy. Vả lại, ta thực lòng biết ơn những gì cha cháu làm cho con trai ta. Bao năm nay Wayne đã làm việc ổn định. Đã lập gia đình vài năm trước và giờ đây đang có một gia đình nhỏ rất dễ thương.”

“Mừng cho bà, bà Connie ạ.”

“Như ta đã nói, ta rất biết ơn. Nhưng ta sẽ thực lòng hàm ơn nếu cháu đừng chóng quay lại đây thêm lần nào nữa nhé.”

Cánh cửa dứt khoát nặng nề đóng sập lại. Irene sánh bước bên Luke quay trở lại chiếc SUV. Chẳng ai nói năng gì cho đến khi lên xe.

Irene lôi cuốn sổ tay ra khỏi túi xách. “Được rồi, xem ta biết được gì nào. Pamela đã yêu cầu trữ đủ thức ăn cho một tuần và không cho mua tí rượu mạnh nào, nhưng cô ấy lại được cho là đã chết vì sử dụng martini và uống thuốc quá liều.”

Luke gài số cho xe chạy trên con đường hẹp dẫn ra khỏi căn nhà nhỏ bé của Connie.

“Lượng thực phẩm gợi ý cho ta biết rằng Pamela không nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình,” Luke tán thành. “Nhưng lại không có nghĩa là cô ấy không chết vì vô tình sử dụng thuốc quá liều.”

“Tôi biết mà.” Irene gõ gõ đầu bút xuống tập sổ. “Chai rượu mạnh mới làm tôi thắc mắc nhất đây. Đúng là có thể lần này Pamela đã tự mang theo mình, nhưng nếu cô ấy luôn có thói quen nhờ Connie mua trữ sẵn cùng với những nhu yếu phẩm khác, thì cớ gì lại phải thay đổi thói quen từ hồi đến giờ vậy?”

“Hỏi hay lắm,” Luke thừa nhận. “Còn tôi thì đang mải nghĩ đến người đàn ông cơ.”

“Người đàn ông nào?”

“Connie bảo là hễ nói đến Pamela thì khi nào cũng có một người đàn ông đính kèm.”

“Nhưng lần này thì không,” Irene chầm chậm nói tiếp.

“Ít nhất là Connie không biết có người nào.”

Irene nghiền ngẫm khía cạnh này. “Ngày trước, Pamela luôn coi đàn ông như trang sức phụ kiện. Cô ấy luôn có sẵn một hai anh chàng túc trực để mang theo bất cứ khi nào cô ấy muốn đi chơi hay tiệc tùng gì. Nếu Connie nói đúng, rằng chuyện này chẳng có gì thay đổi ấy, thì nghĩa là khá chắc ăn vào thời điểm chết Pamela đã có sẵn một anh chàng ở đâu đó gần đấy.”

“Nếu chúng ta tìm ra tay này, có thể anh ta biết được cô ấy nghĩ gì trong những ngày cuối đời mình.”

Irene mỉm cười. “Tôi thích cách anh suy nghĩ đấy, anh Danner ạ.”

“Xì, cảm ơn nhé. Tôi luôn muốn được người ta ngưỡng mộ trí óc của mình mà.” Luke liếc qua nàng. “Bố cô đã làm gì cho con trai của bà Connie thế?

Irene đưa mắt dõi theo ánh nắng và bóng râm nhảy nhót trên mặt hồ. “Wayne Watson vướng phải rắc rối với pháp luật sau khi tốt nghiệp trung học. Rốt cuộc bị ngồi tù. Khi ra tù chẳng ai quanh vùng hồ này muốn mướn cậu ta. Bố tôi đã thuyết phục một nhà thầu ở Kirbyville nhận cậu ta vào. Nghe có vẻ như chuyện này đã xuôi chèo mát mái.”
 
Chương 19


Kể từ lần đầu tiên đem chiếc SUV đến ga ra của Carpenter để thay dầu tra nhớt định kỳ, Luke đã thầm ngưỡng mộ nơi này. Anh biết có những người thích lang thang bảo tàng và phòng tranh nghệ thuật. Còn anh lại thấy thỏa mãn khi đến một nơi làm việc được bố trí gọn gàng, tiện dụng và hiệu quả như cái ga ra này. Phil Carpenter thấu hiểu tầm quan trọng của sự sạch sẽ, của trật tự ngăn nắp và tính chuẩn xác.

Luke dừng bước giây lát ngay nơi ngưỡng cửa để chiêm ngưỡng thán phục không gian sạch sẽ sáng bóng này. Người ta có thể bốc đồ ăn ngay trên sàn bê tông này ấy chứ, anh thầm nghĩ. Mỗi một thanh dụng cụ hay các loại máy móc chưa dùng đến đều được cất vào đúng chỗ. Ánh thép không gỉ sáng lóa như bạc. Hai anh chàng đang làm việc dưới gầm một chiếc bán tải được nâng cao ăn vận đồng phục sạch sẽ mang logo của xưởng. Theo kinh nghiệm cá nhân thì Luke biết nhà vệ sinh ở đây cũng sạch sẽ sáng bóng không kém. Lúc nào cũng có đầy xà phòng và khăn giấy lau tay.

Anh dợm bước đi về phía văn phòng ở đầu kia ga ra.

Một người đàn ông gầy gò, hốc hác, mắt trũng sâu đang đẩy cây lau nhà gật đầu chào anh một cái khi anh đi ngang qua.

Luke gật đầu chào lại.

“Mọi chuyện thế nào rồi hả Tucker?”

“Tốt, thưa ông Danner.” Vẻ mặt bơ phờ, kiệt lực của Tucker Mills khiến cho người ta không dễ gì đoán đúng tuổi của ông ta. Ông ta có thể khoảng đâu đó giữa ba mươi đến sáu mươi tuổi. Mái tóc dài lơ thơ mỏng dính và đang ngả sang xám. Ông này được xếp hạng khoảng từ cận đáy đến đáy của tôn ti xã hội trong thị trấn Dunsley, sống được là nhờ làm những việc năm thì mười họa cùng những chuyến thăm dò cẩn trọng đến bãi rác thị trấn. Luke đã nhận ra rằng với ti tỉ những việc liên quan đến bảo trì và chăm sóc vườn cây vốn đang khiến cho nhà nghỉ đau đầu thì Tucker chẳng có ích gì.

Tucker chăm chú đẩy cây lau nhà bên dưới bàn thao tác. Ông ta chẳng muốn người khác nhận quen hay nói chuyện gì cả. Ai cũng hiểu rõ rằng nếu muốn mướn ông này làm việc, ta cần phải nói rõ các yêu cầu của mình bằng các câu ngắn gọn nhưng lịch sự và rồi ta để ông ta một mình làm việc cho đến lúc phải trả tiền. Tucker không chịu nhận séc hay chuyển tiền vào thẻ tín dụng gì sất. Theo như những gì Luke biết được, tay Mills này chẳng có mối liên hệ chính thức với bất kỳ loại ngân hàng nào cũng như với sở thuế, ông ta chỉ nhận trả bằng tiền mặt hay trao đổi hàng hóa mà thôi.

Luke bước tiếp cho đến khi tới được văn phòng. Phil Carpenter đang ngồi ở bàn, cẩn thận lật mở một cuốn catalog phụ tùng to sụ. Mái đầu cạo bóng lưỡng của ông ta ánh lên sáng ngời như ánh mặt trời dưới bóng đèn huỳnh quang soi tỏa.

Phil có vóc người chắc nịch nhưng lại di chuyển lẹ làng đến ngạc nhiên so với người mang một chân giả. Luke biết rằng bên dưới cánh tay áo bộ đồng phục tinh tươm của Phil là một biểu tượng mỏ neo-địa cầu[1] được xăm trên cánh tay. Chân bên trái bị mất là hệ quả của một vụ nổ mìn. Một cuộc chiến tranh khác, không phải cuộc chiến của mình, Luke tự nhủ. Nhưng “Chào Danner.” Phil gập cuốn catalog lại rồi ngửa người ra sau ghế, trông vừa vui lại vừa ngạc nhiên, ông khoát tay chỉ vào chiếc ghế. “Mời ngồi. Phải nói là tôi ngạc nhiên khi thấy cậu đấy. Theo như những gì tôi nghe được thì dạo gần đây cậu bận rộn lắm.”

“Dứt khoát là mọi chuyện không tẻ ngắt rồi.” Luke ngồi xuống. “Công việc ga ra sao rồi chú?”

“Không đến nỗi. Thế còn chuyện làm ăn của nhà nghỉ thì sao?”

“Như cháu bảo với Irene sáng nay, công việc ấy sẽ thú vị hơn nhiều nếu thực tình cháu không phải tiếp xúc với khách hàng.”

Phil nheo nheo mắt ra chiều đăm chiêu. “Có khi nào cậu nhận ra là có lẽ mình không hợp với ngành kinh doanh khách sạn không?”

“Dạo gần đây người ta cứ hỏi cháu thế mãi.”

“Nếu thế thì tôi sẽ không nhắc lại nữa đâu.” Phil cầm một ấm đầy cà phê lên rót ra chiếc cốc trắng không trầy trợt, không sứt mẻ. Ông đặt chiếc cốc xuống tấm khăn giấy nhỏ trước mặt Luke. “Thế có thể cho đây là một dịp đặc biệt không nhỉ?”

“Cháu cần chút thông tin. Cháu nghĩ đây chắc hẳn là nơi tốt nhất trong thị trấn này để tìm thông tin ấy.”

“Quả đúng thật.” Phil ngửa người đan tay sau gáy. “Ga ra Carpenter là nơi mà cậu có thể gọi là trung tâm thường trực của vũ trụ.” ông nhướng mày. “Phần thông tin cậu đang tìm đấy, liệu có liên quan gì đến cô bạn mới của cậu chăng?”

Luke suy nghĩ một thoáng. “Mọi người quanh đây đang gọi Irene như thế ạ? Cô bạn mới của cháu à?”

“Những tay lịch sự đang bắt đầu gọi cô ấy như thế, đúng vậy. Vả lại, cái chuyện cậu sống ở Dunsley được năm tháng mà lại chẳng có cô bạn gái nào khác chỉ làm cho Irene thêm phần thú vị hơn mà thôi.”

“Thật vậy sao?”

“Người ta bắt đầu đồn đoán rằng có lẽ cậu không quan tâm đến bầu bạn là phụ nữ.”

“Hừ.” Luke nhám nháp cốc cà phê. Ngon thật, cà phê ở ga ra Carpenter này lúc nào cũng ngon.

“Tuy nhiên, trò đồn đại không căn cứ ấy đã nhường chỗ cho cuộc thảo luận sâu xa hơn về bản chất bất thường của các cuộc hẹn hò mà cậu và Irene Stenson có vẻ như là đang tận hưởng.”

“Bất thường ư?”

“Cậu tin hay không thì tùy, nhưng trong thị trấn này thì thật là hiếm hoi vô cùng khi có hai người dành thời gian đi chơi đêm để tìm ra xác chết hay xém chút bị thiêu thành tro trong các đám cháy nhà. Trong vùng này ấy à, những cặp trai gái không bị ràng buộc hôn nhân thường chọn phong cách lãng mạn truyền thống hơn nhiều. Ví dụ như là làm tình trên băng ghế sau xe hơi chẳng hạn.”

“Phải rồi. Cảm ơn đã mách nước nhé. Cháu sẽ phải xem lại xem mình có thể làm được gì để khiến cho mọi chuyện trông bình thường hơn một chút vậy.”

Phil nhún vai. “Đôi khi với mấy tay như chúng ta thì bình thường hóa ra lại khó.”

“Đấy đấy.” Luke đặt cốc cà phê xuống tấm khăn giấy để khỏi lưu lại vết cốc ẩm trên mặt bàn bóng loáng. “Trong khi đó, chú có thể cho các khách hàng thân thiết của mình biết là cháu sẽ rất lấy làm phật lòng nếu cháu nghe được bất cứ ai đề cập đến Irene theo bất cứ cách nào có thể được cho là bất lịch sự đấy nhé.” Phil nghiêm trang gật đầu. “Rõ.” Ông nhấp chút cà phê rồi hạ cốc xuống. “Vậy cậu đang định tìm thông tin gì đây?”

“Irene biết Pamela Webb từ hồi họ còn là mấy cô choai choai.”

“Theo như tôi nhớ thì họ thân nhau trong một mùa hè, nhưng chỉ có vậy thôi,” Phil đáp. “Cùng mùa hè đó bố mẹ Irene đã mất.”

“Irene và Pamela không gặp nhau cũng không nói chuyện với nhau sau mùa hè ấy. Ấy vậy mà chẳng rõ vì lý do gì vài ngày trước Pamela lại email cho Irene, yêu cầu Irene đến Dunsley gặp mình. Hàm ý trong email là cô ta muốn bàn bạc một chuyện quan trọng. Thậm chí còn dùng cả mã bí mật ngày xưa mà hai cô đã tự đặt ra. Nói chung là, chừng đó chuyện đã đủ để thuyết phục Irene tin rằng cái chết của Pamela có lẽ không phải là tai nạn hay tự sát gì cả.”

“Cũng có nghe qua giả thiết của Irene,” Phil bảo. “Còn cậu thì nghĩ sao?

“Thì ta cứ nói là sau khi nhìn thấy có kẻ châm lửa đốt nhà gia đình Webb tối qua, cháu lại thấy giả thiết của Irene thú vị đấy chứ.”

“Sam McPherson đã lý giải rằng có lẽ vụ hỏa hoạn là trò phá hoại thôi, rất có khả năng là từ Kirbyville, hang ổ khét tiếng của đám trộm cắp và lũ vô lại.”

“Động cơ?”

Phil gỡ hai bàn tay đang đan lại ra rồi dang rộng cánh tay. “Đấy mới là điều tuyệt vời của tội phóng hỏa phải không nào? Bọn thích đốt nhà ấy là bọn điên mà. Ai ai cũng biết bọn chúng nào có cần đến động cơ làm gì”

“Một thông tin tung hỏa mù hữu dụng ấy chứ nhỉ, nếu như có thông tin ấy thật.”

Phil trông đăm chiêu. “Cậu không nhìn thấy kẻ ấy à?”

Luke lắc đầu. “Chỉ nhìn thấy cái bóng. Lúc ấy cháu quá bận đưa Irene ra khỏi hiên trước khi căn nhà bùng cháy. Cháu chỉ biết được là hắn ta bỏ đi bằng thuyền.” Luke mím môi. “Dĩ nhiên cháu còn giúp cho hắn trốn đi dễ dàng hơn do cháu nghĩ hắn đến bằng xe. Thế là cháu đâm đầu ra đường trong khi hắn chạy theo hướng ngược lại quay về hồ.”

“Đừng tự trách mình làm gì. Trong những tình huống như thế cậu phải lựa chọn thôi.”

“Chỉ là một cách uyển ngữ thanh tao để chỉ việc làm hỏng chuyện.”

“Làm hỏng chuyện thì lúc nào chẳng có.”

Luke duỗi hai chân. “Mà thôi nói tiếp nhé, cháu đến đây hỏi chú là liệu chú có nghe thấy tin gì về người bạn trai mới nhất của Pamela hay không.”

“Bạn trai mới nhất à?”

“Rõ ràng cô ta không có thói quen về Dunsley một mình.”

“Đúng.” Phil ngừng lời, thoáng cau mày. “Nhưng dường như lần này cô ta phá vỡ thói quen ấy. Tôi chẳng nghe thấy gì về việc cô ta có mang theo quý ông nào trong chuyến về thăm lần này.”

“Những chuyện như thế chú có hay nghe thấy không?”

“Khi Pamela ở đây thì luôn có chuyện để đàm tiếu. Cô ta là con nhà Webb mà, và nhất cử nhất động của nhà Webb trước nay luôn là nỗi quan tâm kha khá của mọi người trong cộng đồng này đấy.”

“Có khả năng nào lý do lần này cô ta không mang theo bạn về là vì cô ta đã có sẵn ai đó trong thị trấn này chờ đợi cô ta chăng?”

Phil khịt mũi khinh bỉ. “Theo như những gì tôi biết về Pamela Webb, tôi nghĩ có nói rằng chẳng thằng đàn ông nào tại Dunsley này có khả năng đáp ứng được những chuẩn tinh tế và thanh lịch của cô ta thì cũng không ngoa chút nào. Tất nhiên là ngoại trừ anh bạn đang có mặt tại đay.”

“Đương nhiên rồi.”

“Nhưng căn cứ vào việc không ai trong hai chúng ta là cái gã có đẳng cấp và tinh tế đang hẹn hò với Pamela, nên tôi đảm bảo rằng cô ta không dây dưa với ai trong địa phương cả. Tin tôi đi, nếu cô ta mà có quan hệ với ai trong vùng này thì lời đồn đại hẳn đã truyền đi như vũ bão rồi.”

“Đấy chỉ là một ý tưởng thôi mà.”

“Có ý tưởng khác đây này,” Phil nói tiếp, hai mắt chăm chăm kiên định. “Cậu và Irene đang đương đầu với một tay thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, người mà, nhờ vào các mối quan hệ của gia đình, đã gần như tóm gọn cả thị trấn này vào túi của hắn.”

“Ý tưởng đó đã lóe lên trong đầu cháu không chỉ một lần đâu.”

“Dù chuyện rành rành là thế, tôi cũng muốn chỉ ra rằng không phải tất cả mọi người ở đây đều đã nằm trong túi Webb đâu nhé,” Phil lặng lẽ nói thêm. “Nếu cậu có cần ai yểm hộ, cứ tự nhiên mà gọi cho tôi.”

Luke đứng dậy. “Cảm ơn.”

“Semper fi[2] anh bạn.”

“Semper fi.”

[2] Semper fidelis – Luôn luôn trung thành: Khẩu hiệu của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom