Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Tôi nằm trên giường, nhìn lên trần nhà trắng trơn được chiếu sáng bởi ánh đèn đường sáng trắng từ bên ngoài, cảm thấy hoàn toàn tỉnh ngủ. Tôi đang tính toán trong đầu về chi phí cho việc gắn thêm tấm huy hiệu bằng thạch cao trên trần và những cái gờ mái thì một ý nghĩ vụn vặt chợt đến bỗng cắt ngang dòng suy tưởng của tôi. Tôi ngồi dậy, giật mình khi thấy ý nghĩ ấy đến thật gấp gáp và nửa nhận biết rằng ý nghĩ ấy không phải do tôi tự nghĩ đến. Gần như thể có người nào đó đã thì thầm từ sau lưng tôi, giống như một kiểu quảng cáo ngầm. Hãy nhìn vào tấm hình lễ rửa tội trong cuốn album.

Tôi nhanh chóng trượt khỏi giường và chạy ngang phòng trong ánh đèn lờ mờ, chỉ để chợt nhớ ra rằng mình đang ở trong căn hộ cũ với những trần nhà trơn và rằng tôi đã để lại toàn bộ album của Louisa trong ngôi nhà ở phố Tradd. Ðứng ở giữa phòng, tôi nhắm mắt lại, tưởng tượng ra tấm hình chụp Louisa với Nevin trong bộ áo dài mặc cho lễ rửa tội, cố nhớ lại những chi tiết trong ấy. Cả mẹ lẫn con đều sáng ngời, và cả hai đều mặc đồ trắng, sợi dây ren đầy trau chuốt của chiếc áo Nevin đang mặc trải dài lên hai cánh tay của Louisa, che đi hai bàn tay bà ấy. Mái tóc sẫm màu của Louisa được búi cao trên đỉnh đầu, và bà ấy không đeo hoa tai.

Mắt tôi bỗng bừng mở. Bà ấy không đeo hoa tai, nhưng bà ấy có đeo một sợi dây chuyền. Nhảy phóc một bước, tôi với tay định lấy cái điện thoại đặt cạnh giường và cầm ống nghe lên, nhưng lại cúp máy ngay khi tôi nhìn thấy con số điện tử tỏa sáng trên chiếc đồng hồ báo thức, lúc này đã báo ba giờ mười lăm phút sáng. Vốn không phải là người hay tự phân tích cảm xúc của mình, tôi chẳng đắn đo vì sao ý nghĩ đầu tiên của tôi là gọi cho Jack chứ không phải gọi cho ba tôi hay Marc.

Tôi ngồi trên mép giường, toàn bộ ý nghĩ cố ngủ lại giờ đây hoàn toàn biến mất. Tôi nghĩ tôi có thể hoặc là thức trắng đêm và trăn trở, hoặc là sẽ tròng vào người vài món quần áo dài tay rồi hướng ra ngôi nhà trên phố Tradd ngay lúc này. Cuối cùng thì đó là nhà của tôi, và tôi được phép đến hoặc đi bất cứ lúc nào tôi muốn.

Không nghĩ ngợi gì nhiều nữa, tôi chui vội vào quần áo mặc ngoài, đánh răng, rồi trải ga giường lại cho ngăn nắp trước khi bước ra xe. Dòng xe cộ cũng đã vắng, và tôi thấy mình rẽ vào phố Tradd không đầy hai mươi phút sau đó. Ðã có ai đó để đèn sáng cho tôi bên ngoài nhà, cũng như đã bật sáng một ngọn đèn bên cửa sổ dưới nhà để cho ngôi nhà trông không quá tối và như có điềm gở, theo như những gì tôi nhớ từ lần cuối tôi nhìn thấy ngôi nhà. Cứ như thể có người biết rằng tôi sẽ quay trở lại vào đêm nay vậy.

Tôi lướt nhanh nhìn lên những ô cửa sổ trên lầu, cố giữ cho nhịp tim đập chậm lại khi tôi không nhìn thấy hay cảm nhận có bất cứ thứ gì đó đang nhìn lại tôi. Tôi liếc nhìn vào ánh đèn trong ô cửa sổ dưới nhà, nhận thấy rằng nó chiếu ra từ phòng khách ở tầng trệt mà toàn bộ đồ đạc và đèn bàn đã được mang ra ngoài cách đây trên một tháng. Cám ơn bà, Louisa, tôi tự nói với chính mình, cảm thấy thoải mái vì sự hiện diện của bà ấy và vững tâm bước vào ngôi nhà trống hoắc.

Tôi đẩy thanh khóa cổng vườn lên và hướng về những bậc thang dẫn lên hành lang mái vòm, ngửi thấy mùi sơn mới và để ý thấy những viên gạch bị mất giờ đây đã được thay mới. Tôi mở khóa cửa trước, hài lòng khi nghe những tiếng bíp bíp của hệ thống báo trộm và nhập mã số 1-2-2-1 vào hệ thống.

Ngôi nhà đang say ngủ thật lặng yên và tĩnh mịch, chỉ có tiếng động duy nhất là tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc, nghe như nhịp tim đập trong lồng ngực. Tôi bước vào sảnh chính, bật đèn lên, để ý thấy cái giàn giáo cùng những tấm vải bạt lót sàn đã được dỡ đi. Trong một thoáng tôi nghĩ rằng đó là vì công việc đã bị bỏ dở. Và sau đó tôi lại thấy lớp giấy dán tường đã không còn rũ xuống nữa, còn các cột đều ánh lên màu sơn mới. Tò mò, tôi bước về hướng phòng khách và thấy bộ đèn chùm to đang yên vị ở chỗ cũ trên trần nhà được trang trí công phu, những miếng pha lê của nó thật sạch sẽ và lấp lánh, phản chiếu ánh đèn đường từ bên ngoài.

Tôi xoay nhìn xung quanh căn phòng, hít ngửi mùi sơn mới và nhìn sàn gỗ dưới chân lấp lánh với lớp sáp và sơn mới bóng lộn, nhớ có lần Chad đã nói với tôi rằng anh ta là người có nghề với chiếc máy chà sàn gỗ chạy điện. Rõ ràng, công việc trùng tu vẫn tiếp diễn trong khi tôi vắng mặt, với Sophie, Jack, và Chad, sử dụng bất cứ nguồn lực nào mà họ có thể tìm. Tôi thật xúc động nhưng cùng lúc lại cảm thấy buồn, có ý nghĩ kỳ quặc là ước gì mình đã tham gia một phần trong ấy.

Tôi xoay người và đi lên lầu, chân tôi đá phải vật gì mềm mại khiến nó lăn lông lốc trên sàn nhà bóng lộn. Ðó là một con chó nhồi bông, lông nâu đốm đen, với đôi tai nhọn hình tam giác cùng một cái đuôi dài và to. Cái đuôi của nó có vẻ như đã bị gặm, và tôi nghĩ không biết có phải ai đó đã mua nó làm đồ chơi cho Ðại tướng Lee hay không. Trên bàn tay của con chó nhồi bông có một cái nút đỏ với dòng chữ Bấm vào Tôi, thế là tôi làm thế và được nghe con chó gào lên “gâu gâu”. Rõ là cuộc sống vẫn tiếp diễn trong ngôi nhà này mà không có tôi, trong đó những người bạn của tôi sửa chữa ngôi nhà và thậm chí còn mua đồ chơi cho con chó của tôi nữa. Toàn bộ những việc này đã xảy ra mà không hề có sự tham gia của tôi, hay thậm chí tôi cũng đã không hề biết đến. Như thể, mọi người đều được mời đi dự tiệc sinh nhật, còn tôi thì không.

Những ý nghĩ này thật là xuẩn ngốc, tôi nghĩ thế rồi đặt con chó lên bậc thang đầu tiên và leo lên lầu bước về phòng ngủ của mình. Tôi do dự trong một giây rồi vặn nắm cửa và bước vào, nhẹ nhõm vì nhiệt độ trong phòng vẫn ấm cho thấy ở đây chỉ có mình tôi. Tôi liếc nhìn về chồng album đặt trên bàn trang điểm, nơi tôi đã đặt chúng lên lần trước, trong đó cuốn album mà tôi giở xem lần cuối cùng - với tấm hình lễ rửa tội của em bé - đang nằm trên cùng. Khi chợt nhớ ra là mình không mang theo găng tay thì đã quá muộn, thế là tôi với tay cầm lấy cuốn album, cảm giác châm chích vì sự tiếp xúc với cuốn album mang lại bắt đầu xộc lên hai cánh tay tôi. Tôi bước về giường và ngồi xuống, mở cuốn album ra và đặt trên đùi.

Tôi bắt đầu ngửi thấy mùi cỏ thơm và hương hoa nhài Carolina của mùa hè, và tôi bỗng cảm nhận được cảm giác mềm mại của lớp đất mùn dưới bàn chân mình khi tôi vươn người đẩy chiếc xích đu bằng gỗ. Những tiếng cười đùa trẻ thơ mềm nhẹ như những bong bóng xà phòng đơm đầy căn phòng cùng với bầu không khí ấm nóng của mùa hè, bất giác tôi cảm thấy mình đang mỉm cười mặc dù gương mặt tôi hoàn toàn bất động. Một người đàn ông to cao với mái tóc sẫm màu đang đứng đối diện với tôi, tay cầm chiếc máy ảnh Brownie. Tôi cảm nhận được sợi dây thừng qua lớp găng tay bằng da dê của mình khi tôi nhẹ nhàng dừng chiếc xích đu lại để chúng tôi có thể cùng nhau nhìn vào chiếc máy ảnh. Người đàn ông bảo chúng tôi mỉm cười và chúng tôi làm thế, bắt kịp được sự hoàn hảo tuyệt đẹp của một ngày hè.

Tôi nhìn xuống và lại thấy cuốn sổ nháp, bàn tay với những ngón dài mà tôi đã quen nhìn nhón lấy cây bút máy và nó bắt đầu di chuyển sột soạt trên trang giấy.

Ngày 31 tháng 8, năm 1929

Anh Robert yêu dấu của tôi bắt đầu trở nên nghiện chụp hình giống như tôi, và anh ấy không thể cưỡng lại được việc chụp hình tôi cùng đứa con trai Nevin yêu dấu của chúng tôi. Tôi chẳng màng, bởi vì tôi không thể tưởng tượng được, chụp hình con trai của chúng tôi bao nhiêu thì mới đủ. Tuy nhiên, tôi đã cho rằng chúng tôi đã có khá nhiều hình của tôi rồi, nhưng Robert vẫn cứ nằng nặc đòi chụp thêm và tôi đã chiều lòng anh ấy. Anh ấy thật tốt với tôi và con trai, và luôn khẳng định rằng việc bạn bè và hàng xóm chúng tôi gặp khó khăn trong việc làm ăn cũng như rất nhiều các ngân hàng đang phải đóng cửa sẽ không ảnh hưởng gì đến chúng tôi. Nhưng tôi thì rất lo, bởi vì tôi có cảm giác rằng tình hình khó khăn này đã đẩy Robert vào hoàn cảnh phải làm ăn chung với những hội nhóm mà anh ấy sẽ không hề muốn dây dưa vào trước đây, nhưng tôi cũng tin rằng anh ấy sẽ lèo lái cả gia đình ra khỏi cơn sóng gió này. Dù sao thì, anh ấy cũng là một người con của dòng họ Vanderhorst, cũng như tôi bây giờ, và đây chỉ là một việc vặt vãnh so với những gì tổ tiên chúng tôi đã phải đương đầu, và những hy sinh mất mát mà họ đã buộc phải làm để có thể giữ gìn ngôi nhà tuyệt đẹp cho chúng tôi trên phố Tradd này.

Tôi đẩy cuốn sổ nháp ra khỏi đùi cho lên giường, cảm thấy nhẹ nhõm khi được chui lại vào cơ thể của chính mình. Rồi tôi dùng một góc của tấm trải giường mà lật qua các trang album chứa đầy hình của Louisa và Nevin, thêm vài tấm nữa cũng vẫn là hình ngôi nhà và khu vườn và thậm chí có vài tấm hình của Robert, cho đến khi tôi dừng lại khi thấy tấm hình lễ rửa tội. Có thể đây chỉ là sự tưởng tượng của tôi, nhưng lần này tôi có cảm giác nét mặt của Louisa không được tươi rạng như trước. Như thể bà ấy đang nhìn vào tôi từ phía sau máy hình, một sự tha thiết nào đó nằm sau đôi mắt ấy của bà khiến tôi phải nhìn gần hơn.

Tôi nhíu mắt lại trong khi đẩy người lên phía trước, xem kỹ sợi dây chuyền với hạt đá quý khổng lồ vòng quanh cổ bà. Jack nói đúng. Tôi lại nhìn lần nữa, chỉ muốn khẳng định lại, nhưng bây giờ tôi đã biết mình đang tìm gì, rõ ràng viên đá quý treo vòng quanh cổ Louisa là một viên kim cương được cắt rất công phu và sáng lấp lánh.

Tôi tìm điện thoại để gọi cho Jack, tự cho rằng bây giờ ít nhất đã là rạng sáng, chợt nhớ ra rằng anh thợ làm ống nước cần đặt điện thoại ở khu vực khác của ngôi nhà. Túi xách của tôi, cùng với điện thoại bên trong, đã được đặt trên chiếc bàn ở hành lang, là nơi tôi đã thả nó xuống khi vừa bước vào nhà.

Mẹ kiếp, tôi lẩm bẩm rồi cúi người xuống và liếc nhìn đồng hồ. Những con số có dạ quang sáng nhẹ chỉ bốn giờ mười ba phút. Chẳng hề gì. Tôi cần phải gọi cho Jack, và tôi chẳng muốn trì hoãn việc này thêm hai tiếng nữa. Tôi chớp mắt, tự nhủ không biết có phải vì kiệt sức nên thị giác tôi đã mờ đi chăng. Tôi thở hắt ra, một luồng không khí trắng toát che phủ không gian trước mặt và tôi rùng mình vì cái lạnh đột ngột ấy.

Mệt rã rời, tôi cố bước về phía cửa, đi ngang qua chiếc bàn trang điểm với chiếc gương to bên trên. Có cái gì đó vừa chuyển động gần chiếc gương khiến tôi xoay vòng người lại để nhìn, và hơi trong phổi tôi bỗng phụt mạnh ra đường miệng và tạo thành một lớp sương trắng đục. Ta mạnh hơn ngươi. Ta mạnh hơn ngươi.

Một cái bóng đen mang dáng dấp một người đàn ông nhìn tôi chằm chằm từ chiếc gương. Hắn đứng sau lưng tôi, và nếu khi ấy tôi có thể chuyển động, tôi sẽ có thể vươn tay ra sau và sờ được vào hắn. Những đường nét trên mặt hắn trông không rõ lắm, đôi mắt hắn bị che khuất bởi cái bóng của cái mũ rộng vành hắn đang đội. Cái ác tỏa ra từ người hắn như ánh sáng được phản chiếu trong một cái giếng sâu hút và tối đen. Tôi nín thở, chẳng muốn cho hắn thấy rằng tôi đang sợ.

Cái bóng trong gương của hắn bắt đầu lung linh mờ ảo như thể khi tôi đang nhìn chằm chặp vào cái ao thì có ai đó thả xuống đấy một hòn sỏi, khiến cho hình ảnh ấy trở nên méo mó dị dạng và càng trông gớm ghiếc hơn. Tôi mở miệng ra để la lớn, nhưng tôi chỉ có thể ho sù sụ vì vừa hít vào họng mùi khói cay nồng. Chùm đèn chính trong phòng chớp chớp một lần, hai lần, rồi dần chuyển sang lờ mờ như thể có ai đó đang dùng một cái khăn vải đen và chầm chậm bao bọc lấy những cái bóng đèn trên ấy. Và rồi chúng tắt phụt hoàn toàn.

Tôi quẳng mình về phía cửa phòng, suy nghĩ đầu tiên của tôi khi ấy là trước hết phải chạm vào tay nắm cửa để xem nó có nóng hay không rồi mới vặn mở cửa ra. Những làn khói mỏng luồn qua hành lang trên lầu như những đám mây của bầu trời đêm, mang theo mùi vị cay xè luồn cả vào mũi và họng tôi. Tôi lại ho sằng sặc và cố kéo gấu áo đang mặc lên và bịt mũi lại để có thể dễ thở hơn.

Tôi lại liếc qua những thanh vịn cầu thang và nhìn xuống đại sảnh bên dưới nhà và thấy rằng những cuộn khói dày và đen hơn đang tuồn ra từ phía sau nhà, hướng từ nhà bếp. Chạy nhanh xuống cầu thang, tôi cảm nhận hơn bao giờ hết sự tĩnh mịch dễ sợ của ngôi nhà vào lúc này, ngoại trừ tiếng lách tách và tiếng nổ nhẹ của lớp nhựa cứng và gỗ đang cháy từ bếp cùng với tiếng tích tắc không ngớt của chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách chính. Hệ thống báo cháy, vốn được nối trực tiếp vào đường điện thoại của trạm cứu hỏa, hoàn toàn yên lặng.

Lúc này tôi bắt đầu ho sặc sụa và há hốc mồm cố hít thở, tôi ngã nhào vào cửa trước, chẳng muốn để sự hoảng loạn khiến tôi phải đầu hàng và cố tìm cách mở khóa những cái then cửa một cách khoa học. Sau khi biết chắc rằng tôi đã mở hết các lớp khóa, tôi vặn nắm cửa và kéo cửa ra. Cánh cửa vẫn nằm im. Giờ thì tôi lại di chuyển nhanh hơn và kiểm tra toàn bộ các lớp khóa cửa một lần nữa để biết chắc rằng chúng đã được rút hết chốt và cố kéo cửa ra một lần nữa. Cánh cửa hoàn toàn kẹt cứng, không hề nhúc nhích như thể có ai đó đang cố kéo cho nó đóng lại từ phía bên kia.

Mắt tôi bắt đầu nổ đom đóm, và tôi nhắm nghiền mắt lại để xua những cái đốm ấy đi, rồi lại mở bừng mắt ra chỉ để thấy rằng chúng chỉ muốn được nhắm lại biết bao. Tôi lại kéo mạnh cửa một lần nữa, rồi tuột xuống cửa chính và quỵ xuống gối. Há họng cố hớp lấy hơi, buồng phổi của tôi giờ đây đang khao khát cần có ôxy hơn bao giờ hết, nhưng làm thế thì tôi lại chỉ có thể thở gấp rút mà thôi. Những cái đốm lại tiếp tục nhảy múa trước mắt tôi, giống như cái quả lắc trong tay nhà thôi miên đang khẩn nài tôi hãy thiếp ngủ.

Tỉnh dậy nào, Melanie. Sẽ có người đến giúp. Tôi cố ép cho mắt mình mở to ra, không biết có phải tôi đã thực sự nghe tiếng của người đàn bà ấy hay chỉ vì khói đen đã len lỏi vào não của tôi nữa. Bám chặt vào nắm cửa, tôi gắng hết sức để đứng dậy, cảm thấy có hai bàn tay nhỏ trên lưng mình như thể đang cố đỡ tôi lên. Lảo đảo, tôi quay lại nhìn sau lưng, rồi lạnh cứng người khi chỉ thấy bóng đen của một người đàn ông đang bay lượn phía sau làn khói trong phòng khách, những tia sáng li ti đỏ rực hắt ra từ hai hốc mắt của hắn.

Tôi lại giật mạnh cánh cửa hơn nữa, nhưng lúc này tôi bắt đầu khóc, cảm thấy sự tuyệt vọng lẫn hoảng loạn đang dần đánh ngã gục tôi. Kiệt sức, tôi buông tay ra khỏi chiếc nắm cửa và lại trượt xuống cái cửa một lần nữa, mắt đã cứng đơ vì buồn ngủ và không thể nào cố gắng thêm nữa. Tôi biết rằng nếu tôi cứ thiếp ngủ, thì mọi thứ sẽ bình yên.

Tôi mơ màng nghe thấy tiếng còi hụ từ xa và dần dần ầm ĩ lên. Ðầu tôi nặng trĩu ngoài sức tưởng tượng, giờ đây đã gục xuống ngực, và tôi chẳng còn màng đến ngôi nhà hay đám khói đen, thậm chí cả tiếng người đàn bà ấy không ngớt gọi tên tôi, bảo tôi hãy tỉnh lại.

Một vật gì đó cưng cứng vừa gõ vào hông tôi, cùng lúc tôi cảm nhận một làn gió lạnh mơn man trên mặt. Tôi rên ư ử và cố nhớ ra xem cái hông của mình nằm ở đâu để tôi có thể xoa vào nó.

“Melanie? Melanie? Cô có ở đây không?”

Có một vật thể rắn nào đó, rất có thể là một chiếc giày, thọc mạnh vào mạn sườn tôi và rồi tôi cảm nhận những ngón tay ấm áp đang chạm vào da mặt mình. Cảm giác ấy thật thích, và tôi cố xoay mặt lại những ngón tay đang tìm kiếm ấy, giả vờ như đó là những ngón tay của Jack dù trong lòng biết rằng không phải thế. Anh ta sẽ không chạm vào tôi bằng cách ấy. Trừ phi anh ta nghĩ rằng tôi là Emily. Tôi lại rên rỉ và cố lăn ra khỏi anh ta.

Và rồi đôi cánh tay khỏe mạnh đang nhấc bổng tôi lên. Tôi chống cự người đang cứu tôi, chỉ muốn được cuộn lại trong cái kén ấm áp nơi tôi có thể ngủ vùi cùng với cảm giác thanh thản dịu êm mà nó đã mang lại cho tôi khi nãy. Tiếng còi hụ lúc này đã to hơn, và tôi cố đưa hai tay lên áp vào tai để ngăn tiếng ồn ấy lại và như thế tôi sẽ có thể tiếp tục ngủ, nhưng hai bàn tay tôi giờ đây đã nặng như chì, còn hai cánh tay thì mềm nhũn như những cái ống cao su và chúng không còn được gắn vào cơ thể của tôi nữa.

Những cọng cỏ lạnh lẽo và đầy gai châm chích vào da khi tôi được đặt xuống đất trong khu vườn, và tôi tự nhủ đây sẽ là một nơi thật đáng yêu để họ chôn cất tôi - nơi đây giữa những khóm hồng và bụi hoa trà, nơi mỗi năm sẽ có mùi hương ngọt ngào của hoa lài nhắc nhở tôi rằng xuân đã về.

“Melanie, cô có nghe tôi không? Melanie, tỉnh dậy. Tôi đây - Jack đây.”

Jack. Tôi muốn mở mắt ra để được nhìn thấy anh lần nữa, để được chiêm ngưỡng đôi mắt xanh tuyệt đẹp của anh cùng với tia sáng tinh quái trong ấy mà tôi nghĩ rằng sẽ còn sáng hơn kể từ khi chúng tôi gặp gỡ lần đầu. Tôi cảm thấy Emily đang ở gần, và Louisa cùng với đôi bàn tay nhỏ nhắn của một đứa bé đang nắm lấy tay tôi như thể đang cố kéo tôi xuống lớp cỏ để tôi không thể bay mất vào bầu trời đêm.

Mở mắt ra nào, Melanie. Ðó là tiếng nói của bà ngoại tôi, và ước muốn mãnh liệt được nhìn thấy bà khiến tôi đã mở mắt ra lại. Nhưng không phải là tôi đang nằm dưới đất và nhìn lên trời, mà là tôi đang bay lơ lửng trên không trung, nhìn xuống tôi và Jack bên dưới, và đứng bao quanh chúng tôi là một đám đông mà tôi không biết mặt - ngoại trừ một quý ông đứng ở hàng đầu, một sĩ quan kỵ binh miền Nam đang đứng nghiêm trang với chiếc mũ được cặp sát vào ngực trái.

Bà ngoại đang quỳ xuống cạnh đầu tôi, tay bà đặt lên trán tôi, nhưng bà lại nhìn lên tôi ở bên trên và lắc đầu. Chưa đến lúc cháu phải đi, cháu yêu à. Cháu cần phải quay về khu vườn của bà và ăn bánh uống trà với mẹ cháu lần nữa. Mở mắt ra, Melanie. Mở mắt ra.

Tôi cũng thấy Louisa nữa, tôi nhận ra bà ấy bởi chiếc váy bà đang mặc và sợi dây chuyền kim cương đeo trên cổ. Bà đang quỳ gối ở phía trước chiếc đài phun nước, vén lớp cỏ vạt qua một bên như thể muốn để lộ ra cái gì đó vòng quanh chiếc bệ, và tôi nhìn thấy những chữ số La Mã mà Jack và tôi đã từng nhìn thấy trước đây.

Tôi nhìn Jack quỳ gối bên cạnh tôi, và tôi cảm nhận làn môi ấm của anh trên môi mình. Và rồi anh thổi mạnh vào miệng tôi, hơi thở của anh được truyền vào cơ thể tôi, cảm giác ấy giống như thủy triều lên trên dải cát khô cằn, tưới mát những phần trong cơ thể tôi vốn đã héo hắt từ rất lâu. Tôi nhắm mắt lại, biến mất vào làn hơi ấm của Jack, cảm giác như mặt trời vừa tan chảy vào đại dương đêm.

Và rồi tôi mở mắt ra, và khi ấy chỉ có Jack và tôi trong khu vườn hồng của Louisa, mặt của anh đang kề sát mặt tôi, môi tôi vẫn còn vương vấn hương vị từ làn môi của Jack.

“Tạ ơn Chúa,” anh nói, ngả đầu lên trán tôi, hơi thở của anh gấp gáp.

Tôi hít đầy hơi vào buồng phổi của mình, như thể để biết chắc rằng tôi vẫn còn có thể làm việc ấy, rồi ho mạnh cố tống hết làn khói cháy ra ngoài. Rồi tôi tập trung nhìn vào mặt Jack và mỉm cười với anh. “Việc này không được tính là một nụ hôn thứ hai đấy nhé.” Giọng của tôi nghe lạ hoắc, như thể những ngôn từ này vừa được chà xát bằng giấy nhám.

Và rồi Jack mỉm cười lại với tôi, đôi mắt anh thật sáng và ấm áp, và khi ấy, tôi biết rằng mọi việc rồi sẽ bình an.

***

Họ bắt tôi phải ở lại qua đêm trong bệnh viện để chữa cho tôi vì đã hít quá nhiều khói cũng như để theo dõi tình hình sức khỏe của tôi. Ba tôi, Jack, Sophie, và thật ngạc nhiên, cả Chad nữa, đã ở lại trong phòng chờ cả đêm qua, và vây quanh tôi vào buổi sáng ngay khi mặt nạ dưỡng khí của tôi vừa được tháo ra. Tôi biết theo chính sách của bệnh viện thì không được phép tiếp nhiều khách cùng một lúc như thế này, và tôi đoán rằng Jack đã quyến rũ những cô y tá khiến họ phải đồng ý, nhưng tôi thật ngạc nhiên khi Jack bảo rằng toàn bộ công lao ấy là của ba tôi, người mà theo tôi nghĩ hẳn đã cư xử với nhân viên y tế như thể họ là những lính mới.

Chad và Sophie chỉ ở lại trong chốc lát để xem tôi có ổn hay không trước khi Chad phải về để cho Ðại tướng Lee ăn sáng và đưa nó đi ra ngoài. Tôi nhìn và cảm thấy thật thú vị khi Sophie ra về với Chad, lảm nhảm một lý do không đâu vào đâu là nó muốn mượn tấm đệm tập yoga của anh chàng. Rồi nó hôn lên trán tôi, chiếc dây đeo cổ bằng vải gai của nó làm tôi nhột sống mũi, và nó hứa với tôi rằng nó sẽ bói bài cho tôi ngay khi tôi được xuất viện. Rõ ràng, bọn tôi đã bỏ qua một cái gì đó rất lớn, và nó sẽ không bao giờ để cho việc ấy xảy ra lần nào nữa.

Tôi kéo tay nó. “Còn một việc nữa. Còn nhớ chiếc hộp của ông nội mình để lại mà ba mình tìm thấy hay không? Nó có một cánh hoa hồng héo trong ấy. Bọn mình nghĩ rằng đó có thể là hoa hồng Louisa, và bọn mình hy vọng cậu có biết ai đó trong trường có thể giúp nhận diện nó giúp mình. Mình để nó trong xe đậu trước nhà vì mình định mang nó đến cho cậu vào sáng nay.”

Nó vỗ nhẹ vào bàn tay tôi. “Ðừng lo lắng gì cả. Mình vẫn còn giữ chìa khóa xe sơ-cua của cậu khi cậu đi nghỉ mát hồi cách đây ba năm. Mình sẽ đi lấy chìa khóa và xem mình có thể làm gì.”

Sophie và Chad vừa đi khỏi thì Jack kéo ghế đến sát đầu giường. “Này, Melanie, chuyện gì đã xảy ra đêm qua hả?”

Tôi đã tường thuật câu chuyện của mình cho cảnh sát và thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên vì nó đã trở nên thật ngắn và đơn giản. Giọng tôi vẫn còn khô và khàn khi tôi nói. “Tôi đang ở trên lầu thì ngửi thấy mùi khói. Rồi tôi đi xuống nhà dưới và không mở cửa ra được - tôi nghĩ khói đã làm đầu óc tôi mụ mị, và có lẽ khi ấy tôi đã không mở hết các chốt cửa ra. Tôi ngất xỉu trên sàn nhà ngay trước cửa cho đến khi anh đến và đưa tôi ra ngoài.”

Ba tôi siết chặt bàn tay tôi. “Con thật là một đứa may mắn. Có lẽ con không nhớ, nhưng bằng cách nào đó con đã kịp gọi cho trạm cứu hỏa và cho Jack trước khi con ngất xỉu.”

Tôi nhìn Jack. “Tôi chẳng gọi cho ai cả. Trong phòng tôi không có điện thoại, và tôi đã để điện thoại trong túi xách ở dưới nhà.”

Tôi thấy ba tôi và Jack đang liếc nhìn nhau trước khi Jack tiếp tục nói. “Ông đội trưởng trạm cứu hỏa nói với tôi rằng cuộc gọi đến từ bên trong ngôi nhà và người gọi là một phụ nữ - một phụ nữ không xác nhận danh tính của mình.”

Ba tôi cúp hai bàn tay vào nhau. “Có lẽ là con quên. Có lẽ con đã gọi trước từ phòng khác trước khi con đi xuống nhà dưới. Cũng không ngạc nhiên lắm khi trí nhớ của con giờ đây hơi bị mơ hồ. Hít khói vào phổi là việc khá nghiêm trọng mà.”

Tôi quay sự chú ý sang Jack. “Nhưng ai đã gọi cho anh? Anh có nhận ra giọng của tôi không?”

Xương hàm của Jack hơi bạnh ra. “Thật ra, không ai nói gì cả. Ai đó đã gọi liên tục và liên tục, cúp máy khi tôi trả lời, và rồi lại gọi nữa. Nhưng đó là số di động của cô. Tôi biết vì tôi đã lưu số của cô vào máy, và tên cô cứ xuất hiện mỗi lần gọi.”

“Thấy không, Melanie? Chắc chắn là con đã gọi những cuộc gọi ấy trước khi con ngất xỉu.” Ba tôi vỗ nhẹ lên bàn tay tôi nhưng tôi có thể nói rằng ông ấy không hoàn toàn bị thuyết phục lắm.

“Ngôi nhà có sao không? Có thiệt hại nặng nề không?” Bản thân tôi thậm chí cũng cảm thấy ngạc nhiên vì câu hỏi này. Cách đây cũng không lâu lắm, tôi đã từng nghĩ rằng nếu ngôi nhà bị thiêu rụi thì việc ấy sẽ giải quyết toàn bộ các vấn đề của tôi.

Jack lắc đầu. “Cũng không thiệt hại gì đáng kể. Ông đội trưởng nói rằng ngọn lửa bắt ra từ phòng bếp, có lẽ là do lỗi mắc đường dây điện, và họ đã đến nơi kịp thời để ngăn chặn cơn hỏa hoạn. Phòng bếp bị hư hại khá nặng - mà cũng không phải là việc xấu bởi vì dù sao thì nó cũng cần được tháo dỡ thôi - và cũng không có nhiều hư hại do khói gây ra cho phần còn lại của ngôi nhà bởi vì hầu hết các tấm thảm, đồ gỗ, và các bức tranh treo tường đã được mang đi. Ông ấy nói cô có thể quay lại ngôi nhà sau hai ngày - để chờ cho khói và hơi độc tỏa hết ra ngoài - nhưng bà Houlihan thì phải đi tìm một phòng bếp mới.”

Tôi chau mày. “Ông ấy có biết vì sao mà hệ thống báo cháy không hoạt động không?”

“Không. Và ông ấy đã có kiểm tra và xác nhận rằng chúng đã được đi dây đúng cách và pin dự phòng cũng hoạt động tốt. Tôi có gọi cho công ty lắp đặt hệ thống báo cháy đến kiểm tra vào ngày mai. Nhưng hiện thời thì việc này quả là hơi khó hiểu.”

“Tin tốt,” ba tôi nói và duỗi người ra, “là chúng ta sẽ có thể yêu cầu bảo hiểm bồi thường thiệt hại cho nhà bếp. Ba nghĩ cuối cùng thì bà Houlihan sẽ có thể tạo ra nhà bếp trong mơ cho mình. Nhưng ba phải cảnh báo con trước nhé, bà ta rất mê đá granite và thép sáng đấy.”

Tôi lại nhìn Jack, lúc này đang chau mày nhìn xuống tôi. “Mà cô đang làm gì ở ngôi nhà vào lúc ấy, Melanie? Khi tôi đưa cô về căn hộ của cô, tôi cứ nghĩ cô sẽ đi ngủ ngay.”

“Tôi cũng nghĩ thế đấy. Nhưng rồi tôi lại nhớ một điều gì đó mà tôi đã thấy ở một trong những album ảnh của Louisa. Một bức hình chụp bà ấy và Nevin. Khi ấy tôi đang nằm trên giường, và bỗng nhiên tôi lại nhớ đến tấm hình ấy.”

Tôi đảo mắt nhìn Jack rồi sang đến ba tôi rồi tiếp tục nói. “Trong ấy, Louisa đang đeo một sợi dây chuyền mà Robert tặng bà ấy. Và dường như có một hạt kim cương thật lớn treo trên sợi dây chuyền ấy.”

Ba tôi có vẻ cảnh giác. “Những cuốn album ấy có bị cháy không con?”

Tôi lắc đầu. “Con để chúng trong phòng ngủ, cho nên chúng đã được an toàn. Sau này chúng ta có thể đi xem nó.”

Jack dựa gần hơn vào tôi. “Cô biết việc này có ý nghĩa gì, phải không? Rằng ít nhất chồng bà ấy đã có biết về những viên kim cương, và không chỉ biết về chúng mà còn nắm giữ chúng trong tay nữa.”

Tôi chợt nhớ ra một việc nữa mà tôi đã từng thấy trước đây trong album mà chẳng nghĩ rằng nó đủ quan trọng để kể cho Jack. Cho đến bây giờ. “Jack này, anh có biết tên lót của Joseph Longo là gì không?”

“Ðúng là tôi có biết. Ðó là cái tên của gia tộc mà họ dùng trong mỗi thế hệ.” Anh cười khẩy một tí. “Ðó là Marc.”

JML. “Vậy thì, rất có thể là, Joseph Longo đã có biết rằng dòng họ Vanderhorst biết những viên kim cương ấy ở đâu. Ông ta đã gửi cho Louisa một mảnh báo có tấm hình chụp bà ấy. Trên mảnh giấy báo này không viết gì cả - nó chỉ được xếp lại gửi kèm với danh thiếp có ghi tên viết tắt của ông ta.”

“JML.” Jack nhìn vào mắt tôi, và tôi thách anh ta dám nói bất cứ điều gì về việc Marc biết về vụ này nhưng may sao anh chỉ yên lặng. Anh chống hai khuỷu tay lên đầu gối, rồi chĩa những ngón tay lên cao. “Vậy thì, bây giờ vụ việc lại trở nên hấp dẫn đây.”

Ba tôi đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại, lưng rướn thẳng, như thể ông ấy đang kiểm duyệt quân sự. “Hãy xem lại những gì chúng ta đã biết. Huyền thoại về những viên kim cương có thể chỉ là một huyền thoại bởi vì chúng ta có một thứ gần như là bằng chứng về sự tồn tại của chúng - dưới dạng một sợi dây chuyền trong tấm hình chụp Louisa Vanderhorst. Rõ ràng là Joseph Longo - hoặc bất kỳ ai đã gửi mảnh giấy báo ấy - cũng đã nhận ra điều này, và muốn dòng họ Vanderhorst biết rằng hắn ta đang theo dõi vụ ấy. Chúng ta cũng biết rằng Longo đã có ảnh hưởng rất sâu đậm trong phi vụ kinh doanh rượu lậu vào thời ấy, và Jack cũng phát hiện rằng đồn điền Magnolia Ridge có vài cái lò chưng cất rượu và do đó Vanderhorst có thể hoặc là một đối thủ cạnh tranh trong ngành hoặc là một đối tác của Longo. Chúng ta biết rằng dòng họ Vanderhorst không hề gặp phải khó khăn tài chính nào trong suốt thời Ðại khủng hoảng - có thể nhờ vào những viên kim cương ấy, hoặc nhờ vào những doanh nghiệp làm ăn phi pháp của ông ta. Hoặc có thể nhờ cả hai. Dù là gì đi nữa, ba không thể tưởng tượng nổi ông Longo có thể vui vẻ mà để cho ông Vanderhorst không chỉ sở hữu những viên kim cương danh tiếng của miền Nam ấy, mà còn khoắng cả vào lĩnh vực làm ăn mà ông ta cho rằng là lãnh địa của riêng mình.”

“Và đừng quên Louisa,” tôi nói. “Con nghĩ rằng việc Joseph mất bà ấy vào tay Robert Vanderhorst sẽ mang tính hận thù cá nhân hơn bất cứ thứ gì liên quan đến tiền bạc.”

Ba tôi gật đầu. “Cứ cho rằng ông ta đã thật sự mất Louisa. Có lẽ bà ấy lấy Robert chỉ để tìm hiểu về những viên kim cương cho Joseph, rồi bỏ trốn với Joseph và mang theo những viên kim cương ấy.”

“Không,” tôi nói. “Con nghĩ việc ấy cũng là một khả năng, nhưng con biết đó không phải là sự thật.”

Cả hai người đều nhìn tôi như đang chờ đợi một lời giải thích, nhưng tôi chỉ im lặng. Tôi không thể giải thích cho họ hiểu rằng tôi đã được lồng ghép vào cơ thể của Louisa như thế nào mỗi khi tôi sờ tay vào những cuốn album của bà ấy, cảm nhận được tình yêu vô bờ bến của bà ấy dành cho con trai, cho chồng bà, và cho ngôi nhà của họ. Việc này còn khó hơn cả việc làm sao tôi có thể giải thích cho họ rằng đêm hôm trước tôi đã thoát xác và đã nói chuyện với bà ngoại của mình.

Jack nhìn vào đồng hồ đeo tay của anh. “Tạm thời chúng ta cứ nghĩ kỹ về việc này, sau đó sẽ thảo luận sâu hơn.” Anh quay qua nhìn tôi. “Cô sẽ được xuất viện trong vòng nửa tiếng. Nếu cô muốn, tôi sẽ quanh quẩn chờ ở đây và đưa cô về căn hộ.”

Tôi biết rằng còn việc gì nữa mà anh cần nói với tôi - một việc gì đó anh không muốn ba tôi nghe thấy. “Ðược,” tôi nói. “Tôi thật sự cám ơn anh. Nhưng còn việc đi gặp ông Sconiers sáng nay thì sao?”

Ba tôi đứng lên, rõ ràng đã hiểu ngầm ý của tôi. “Ba sẽ tự đi gặp ông ấy. Ba đang giữ cuộn phim, hy vọng đến tối nay thì ba sẽ có câu trả lời.” Ông cúi xuống và hôn tôi, và tôi xúc động khi thấy mắt ông ươn ướt. “Ba thật mừng vì con không bị làm sao cả, con gái yêu ạ. Khi nãy con làm ba sợ lắm.” Ông lại hôn tôi lần nữa. “Ba đã gọi cho mẹ con để cho bà ấy biết là con không sao. Bà ấy sẽ rất lo lắng khi đọc tin này trên báo.”

Tôi thấy mềm lòng khi ông xưng hô với tôi như khi tôi còn là cô gái bé bỏng. “Không hề gì, ba à,” tôi nói và siết chặt bàn tay ông.

Ông chào tạm biệt và rời khỏi phòng, sau đó bác sĩ đến để cho tôi xuất viện, và trong vòng một tiếng đồng hồ sau đó, tôi đã ngồi trong chiếc Porsche của Jack. Một sự im lặng nặng nề bao trùm lấy chúng tôi.

Giọng của Jack nghe có vẻ gượng ép và quan tâm lo lắng một cách không tự nhiên. “Có lẽ khi về đến nhà thì cô sẽ muốn ngủ cả ngày cho lại sức phải không.”

Nghĩ đến việc hai lá phổi của tôi đã nuốt vào cả một quả bom đầy khói nhưng tôi lại cảm thấy khỏe mới lạ. “Thật ra, tôi muốn quay lại phố Tradd. Tôi cần phải... tôi muốn...” Tôi ngưng lại khi nhận thấy mình định nói rằng Tôi muốn biết chắc rằng ngôi nhà vẫn ổn. Và việc này hoàn toàn không liên quan gì đến những viên kim cương còn ẩn nấp đâu đó. Ðiều tôi quan tâm là, ngôi nhà này cùng với toàn bộ đồ đạc bên trong của nó, cùng với tất cả những sự kiện lịch sử đã sống cùng nó, giờ đây đã là của tôi. Chẳng phải là tôi sở hữu gì nó - thật ra tôi cho rằng chẳng ai thật sự sở hữu một ngôi nhà cổ cả, nhưng tôi là người quản gia và tôi cần phải biết chắc rằng tôi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình trong phạm vi ấy.

“Tôi hiểu,” Jack nói, và tôi mỉm cười nhìn ra cửa sổ xe để anh không nhìn thấy, và tôi biết rằng anh đã thực sự hiểu.

Anh đậu xe sát vỉa hè ngay sau xe của tôi, vẫn còn nằm ở chỗ tôi đã đậu vào ngày hôm trước. Những dải băng cảnh sát màu vàng đang bay phấp phới sau ngôi nhà, nơi đã từng là nhà bếp, còn khu vườn mà ba tôi đã và đang chăm sóc giờ đây đã bị giẫm nát và đảo lộn, nhưng bằng cách nào đó vẫn đẹp vẻ đẹp hoang dại của nó. Những khóm hồng ấy, với vài bông hoa vẫn còn kiên trì đung đưa trên cuống của chúng mặc dù giờ đây đã là cuối mùa, mọc thành cụm phía sau đài phun nước khô khan, giống như những đứa trẻ đang chơi trên sân, chờ đợi ai đó thảy cho chúng một quả bóng.

Mắt tôi lướt lên tầng trên ngôi nhà, đến ô cửa sổ lớn nơi tôi thường thấy hình hài của một người đàn ông. Rồi tôi thở phào khi thấy rằng lão ta không có ở đó.

Jack tắt máy xe nhưng vẫn không di chuyển để bước ra khỏi xe. “Tôi cần phải... tôi cần phải nói cho cô biết một chuyện... rất kỳ lạ. Một việc kỳ lạ đã xảy ra đêm qua.”

Tôi quay qua anh, cố làm ra vẻ bối rối.

“Tôi biết là cô đã không gọi những cú điện thoại đêm qua. Một người lính cứu hỏa đã đưa tôi cái túi xách của cô và điện thoại của cô vẫn còn nằm trong ấy và tắt máy. Tôi không nghĩ rằng trong suốt cơn hỏa hoạn ấy mà cô lại có thể lo xa đến mức không chỉ tắt máy mà còn đặt nó gọn gàng trong túi xách như thế.”

Tôi vẫn im lặng, chờ đợi xem anh ta sẽ nói gì tiếp theo đó.

Anh tập trung nhìn vào đôi tay đang nắm chặt lấy tay lái. “Và khi tôi bước đến cửa và cố mở nó ra, tôi có cảm giác như có ai đó đang kéo cho nó đóng lại từ bên trong. Nó hơi nhích ra một tí rồi lại đóng sầm trở vào, nên tôi biết cửa không hề bị khóa. Và khi tôi nhìn qua lớp bóng đèn sát cạnh cửa, tôi thấy... tôi thấy một người đàn bà đang nhìn chằm chặp vào tôi. Tôi nghe bà ấy bảo hãy nhanh chân lên mặc dù bà ấy đang ở bên trong còn tôi thì ở ngoài và lẽ ra thì tôi không thể nào nghe được gì. Khi tôi cố gắng một lần nữa thì cửa mở ra rất dễ dàng, và tôi tìm thấy cô và đưa cô ra ngoài.”

Jack nhìn tôi, da anh hơi tái đi. “Tôi có ấn tượng rất rõ hồi đêm qua là có hai người trong nhà với cô - một người thì cố làm hại cô còn người đàn bà thì cố bảo vệ cô. Dường như mỗi khi người đàn bà ấy cố chứng tỏ sự hiện diện của mình thì người kia sẽ bỏ đi.”

Tôi cắn môi, chờ đợi câu hỏi không thể tránh được.

“Vậy thì, Melanie, cô nói tôi nghe xem” - anh hít một hơi thật mạnh rồi nhìn thẳng vào mắt tôi - “có phải ngôi nhà bị ma ám không?”

“Chẳng phải sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu anh cứ tin rằng anh đã tưởng tượng ra tất cả những thứ ấy và mọi việc đều được giải thích một cách có lô-gic hay không?”

“Ờ, như thế sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng đó sẽ không phải là sự thật, phải không nào?”

“Tôi không...”

“Melanie, tại sao cô lại e ngại việc ấy? Rằng tôi sẽ cười vào mũi cô à? Tôi sẽ không làm thế, cô biết mà. Thậm chí tôi còn không nghĩ nổi ra điều ấy nữa là. Thật ra tôi còn nghĩ rằng đó là một khả năng thiên phú thật tuyệt diệu.” Anh ngừng một chút. Khi tôi không nói gì, anh lại hỏi lần nữa. “Ngôi nhà của cô bị ma ám, phải không?”

Từ từ, tôi gật đầu. Không nhìn vào mắt anh, tôi nói, “Có ba hồn ma rất rõ trong nhà - một người đàn bà và một cậu bé con, và một người đàn ông, lão ta hoàn toàn là một kẻ độc ác. Tôi khá chắc chắn rằng người phụ nữ và cậu bé chính là Louisa và Nevin, nhưng tôi không biết người đàn ông ấy là ai. Tôi cứ nghĩ có lẽ đó là Robert Vanderhorst, nhưng tôi chắc chắn không phải thế. Robert cao hơn, và Louisa yêu ông ấy. Bà ấy sẽ chẳng thể yêu một người hung ác được.”

Jack nhướn một bên mày. “Và cô biết tất cả những điều này bởi vì cô nhìn thấy người chết.”

Tôi nhìn ra nơi khác, về hướng ngôi nhà, lần đầu tiên chợt nhận ra những đường nét yêu kiều và sự cân đối hoàn hảo của nó, thế là tôi cảm nhận một cơn nhói đau nhẹ nhàng của một thứ cảm xúc mà tôi chỉ có thể gọi là lòng tự hào. Ðó là một mảnh lịch sử mà ta đang nắm trong tay. Tôi thở dài, biết rằng mình sẽ nói sự thật cho Jack biết. Anh sẽ không cười tôi vì anh nghĩ rằng tôi có một khả năng thiên phú tuyệt diệu. Ý nghĩ ấy khiến tôi mỉm cười. “Ðúng vậy Jack ạ. Tôi luôn luôn nhìn thấy người chết. Kể từ khi tôi còn là một cô bé con.”

Anh chỉ gật đầu và nhìn ra kính chắn gió một hồi lâu. “Cô có nghĩ rằng mình có thể cứ hỏi Louisa về những viên kim cương được không?”

Tôi cười to, nhưng với cái giọng bị khản đi vì nuốt quá nhiều khói, âm thanh ấy nghe giống như một tiếng sủa hơn. Anh nhìn tôi với cái chau mày đầy lo lắng. “Thật ra việc không đơn giản như thế đâu Jack ạ. Thật lòng, tôi ước được như thế. Bởi vì tôi sẽ có thể chỉ hỏi những con người này tại sao họ cứ đi luẩn quẩn theo tôi và sẽ giải quyết xong việc từ lâu rồi.”

“Cứ thế thì bực thật.” Anh cười một cách méo mó.

“Ờ, thỉnh thoảng.” Nụ cười của tôi bỗng nhạt dần đi. “Thường thì tôi có thể phớt lờ họ. Nhưng tôi không thể nếu tôi cùng sống chung nhà với họ.” Tôi nhìn xuống đôi tay mình, nhớ lại một việc mà mẹ tôi từng nói với tôi. “Ðó là sự may mắn. Và cũng là tai ương. Tôi không thể giúp tất cả bọn họ, bởi vì với mỗi người mà tôi lắng nghe, mỗi người tôi giúp, nó sẽ lấy đi một ít gì đó của tôi.” Tôi nhìn vào mắt anh và chỉ thấy sự quan tâm hứng thú, không phải sự chế giễu hoặc nghi ngờ mà tôi đã quen thuộc.

“Họ có bao giờ nhát cô không?”

Tôi nhớ những tuần lễ sau đám ma bà ngoại khi mẹ và tôi vẫn còn sống ở ngôi nhà trên phố Legare, khi ấy những cái bóng đen cứ bắt đầu xuất hiện, thật đột ngột, giống như những cơn giông bão tháng mười một. Khi ấy tôi cứ nghĩ rằng họ chỉ thuộc về những giấc mơ ban đêm của tôi mà thôi, cho đến khi mẹ đánh thức tôi dậy lúc nửa đêm và đưa tôi ra ngoài vườn của bà ngoại rồi nói cho tôi biết rằng bà cũng nhìn thấy họ. Và rằng họ không đến đấy để nhờ tôi giúp đỡ; họ đến để biến tôi trở thành một trong số họ. Ðó là lúc mẹ tôi dặn tôi rằng tôi mạnh hơn bọn họ, và nếu tôi cứ lặp đi lặp lại đủ nhiều, tôi sẽ bắt đầu tin vào điều đó.

“Có,” tôi nói. “Thi thoảng họ có nhát tôi.”

“Giống như cái gã trong nhà ấy.”

Tôi gật đầu, rồi nhìn về phía ngôi nhà một lần nữa và biết rằng tôi không thể trì hoãn lâu hơn được nữa. “Emily đã yêu anh lắm, Jack ạ. Cô ấy chưa bao giờ hết yêu anh.” Tôi lắng nghe tiếng anh thở mạnh mà không dám nhìn anh.

“Cô đã... thấy cô ấy à?”

“Một vài lần, lúc nào cũng gần bên anh. Nhờ thế mà tôi nhận biết đó không phải là Louisa. Cô ấy... cô ấy muốn tôi nói với anh rằng cô ấy bỏ đi chỉ vì cô ấy yêu anh. Và rằng cô ấy vẫn còn yêu anh.”

Anh nuốt nước bọt và quay đi. “Cô ấy có nói tại sao không?”

“Không. Tôi tự tìm hiểu ra việc ấy. Khi mẹ anh nói với tôi rằng Emily đã chuyển lên New York, tôi đã ngờ ngợ. Cho nên tôi đã gọi đi vài nơi.”

Anh đối diện tôi và nhìn vào mắt tôi, và lúc ấy gương mặt anh trông giống như những người mà ta nhìn thấy trên tivi trong chương trình phỏng vấn những người sống sót sau một thiên tai không lường trước được nào đấy.

“Bệnh viện Mount Sinai ở New York.” Tôi ngừng trong một chốc để những lời ấy thấm vào anh, nhưng gương mặt anh vẫn trơ ra. “Tôi được sếp Emily cho biết rằng cô ấy có một người bà con sống gần thành phố Rochester, và đó là nơi Emily đã đến sau khi cô ấy rời Charleston.” Tôi im lặng một lúc. “Jack, người bà con ấy cho tôi biết rằng Emily bị ung thư bạch huyết. Khi mà các bác sĩ ở đây phát hiện ra được thì nó đã lây lan trong cơ thể cô ấy rồi. Cô ấy đến Mount Sinai để xem cô ấy có thể tham gia vào các chương trình thử nghiệm y khoa hoặc các biện pháp cứu chữa phục vụ cho nghiên cứu hay không.” Tôi lần tìm tay anh và chúng đã lạnh ngắt tự bao giờ. “Họ không thể làm gì cho cô ấy cả. Tôi nghĩ sau lần chẩn đoán đầu tiên, cô ấy đã biết rằng cô ấy sẽ không sống nổi, đó là tại sao cô ấy bỏ đi một cách thậm tệ như thế. Cô ấy chẳng muốn anh phải chịu đựng, nên cô ấy đã cố làm cho anh ghét cô ấy.” Tôi cố chống chọi lại cơn nức nở của chính mình khi nghĩ đến mẹ và tôi đã không bao giờ có thể hồi phục lại vì đã mất bà ấy như thế nào. “Oán hận thì dễ vượt qua hơn yêu thương rất nhiều.”

Jack vẫn tập trung nhìn vào kính chắn gió trước mặt, một cái nhìn trống rỗng có thể nhìn thấy một thứ gì đó mà tôi không thể thấy. “Tôi có tự tìm tòi nghiên cứu và tìm ra người bà con ấy ở Rochester. Ðó là khoảng một tuần sau khi cô ấy vừa bỏ đi, khi tôi vẫn còn rất tức giận. Cô ấy đã không muốn tôi nữa, cho nên việc cô ấy có ở Charleston này hay ở nơi khác cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chỉ là vì tôi đã không thể chịu đựng được sự nhục nhã to tát ấy. Tôi đã chẳng bao giờ nghĩ đến việc cô ấy có thể đã...” Anh siết tay lái thật chặt đến nỗi các đốt ngón tay của anh trở nên trắng bệch, và rồi anh lại thả hai tay rơi thõng sang hai bên. “Cô có biết cô ấy được chôn cất ở đâu không?”

Tôi lắc đầu. “Tôi không biết. Nhưng tôi có thể tìm ra nếu anh muốn.”

“Không cần gấp đâu.” Jack ngồi hoàn toàn bất động, như thể nếu di chuyển thì anh sẽ vỡ nát ra thành từng mảnh nhỏ. Tôi biết cảm giác ấy, nên tôi đã làm một việc duy nhất mà tôi có thể làm - tôi biết bởi vì nó là một thứ mà tôi nhớ nhất kể từ khi mẹ tôi bỏ đi. Tôi tìm đến anh và choàng hai tay ôm lấy anh trong khi toàn thân anh run bắn lên với những giọt nước mắt được nuốt vào trong. Tôi không thể xua tan đi nỗi đau của anh, nhưng có lẽ khi chia sẻ, ít ra tôi cũng có thể giúp anh làm lành vết thương lòng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Tôi để cho Jack ở lại trong xe, không rõ anh sẽ làm gì sau đó nhưng tôi biết rằng anh muốn được ở một mình. Anh đã chu đáo mang túi xách đến bệnh viện cho tôi trước đó. Tôi xộc tay vào đáy túi mò tìm chìa khóa nhà, rồi đứng tần ngần trước cửa hết năm phút liền trước khi hội đủ can đảm mà mở khóa và bước vào.

Mùi dây điện cháy khét treo nặng nề trong không khí, bồ hóng và bụi bao phủ những bề mặt phẳng trông giống như một quả bom tro vừa nổ tung. Những dấu chân tạo thành lối đi xuyên qua lớp đá mạt trên sàn nhà, khiến ta liên tưởng đến những dấu chân của lịch sử đã đi xuyên qua trên cùng sàn nhà này, và ý nghĩ ấy khiến tôi mỉm cười. Nếu là cách đây không lâu thì tôi đã chỉ có thể nhìn thấy bụi bặm và chi phí liên quan đến việc thuê thêm người để giúp bà Houlihan dọn dẹp. Tôi chau mày, nhận ra rằng tôi vẫn cần phải làm việc ấy, nhưng hiện giờ thì phần tiền bạc có lẽ sẽ phải đến từ túi tiền của tôi thôi.

Tôi đứng giữa tiền sảnh và nhìn lên lồng cầu thang thanh nhã dẫn lên bộ đèn chùm đồ sộ treo bên trên hai tầng lầu. “Tao thật mừng là mày vẫn ổn,” tôi nói nhỏ với ngôi nhà, cảm giác nặng nề và sền sệt chợt ập đến trong dạ dày khi sự việc bỗng trở nên rõ ràng với tôi rằng suýt tí nữa thì tôi đã mất tất cả những thứ tại đây.

“Tôi cũng thế,” Jack nói từ sau lưng tôi, và tôi xoay nhanh người về phía anh. “Tôi thật mừng vì cô đã an toàn,” anh lặp lại.

Sắc diện anh đã trở lại bình thường và mắt anh cũng có một tia sáng nhỏ lấp lánh. Tôi mỉm cười một cách thăm dò. “Tôi vẫn chưa có dịp cám ơn anh đã giúp tôi đêm qua.”

“Tôi đã quen nghe câu này từ nhiều người khác nhau đấy,” anh nói, nụ cười rạng rỡ cố hữu lại tách đôi gương mặt anh ra.

Tôi đấm nhẹ lên vai anh. “Cám ơn vì đã cứu mạng tôi,” tôi nói.

“Tôi thật mừng vì đã có thể giúp cô việc gì đó.” Gương mặt anh bỗng trở nên nghiêm nghị khi anh nhìn tôi thật chăm chú khiến tôi muốn lùi bước lại vì cảm xúc mãnh liệt tỏa ra từ đôi mắt ấy. “Nhưng tôi cũng cần phải cám ơn cô nữa. Bằng một cách nào đó, cô cũng đã cứu mạng tôi đấy.” Anh ngừng nói, mắt anh dường như tối lại khi anh nhìn xoáy vào tôi. “Tôi luôn nghe những gia đình có người thân bị mất tích nói rằng khi không biết gì còn tệ hơn là biết được sự thật, và tôi chưa bao giờ tin họ. Giờ thì tôi đã tin.” Anh chà hai tay lên mặt khiến những sợi tóc quanh trán anh dựng đứng lên và tạo cho anh một vẻ ngoài thật mong manh yếu đuối, điều mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy nơi anh. Nó khiến tôi ấm lòng khi được nhìn thấy sự mềm mỏng trong anh như thế này, nhưng tôi không hề muốn cho anh biết điều đó.

Jack tiếp tục nói. “Giống như là... được giải thoát ấy, hiểu theo một cách nào đó. Như thể cuối cùng thì tôi cũng được quyền cứ đau khổ cho thỏa rồi vượt qua và bắt đầu một cuộc sống mới.” Rồi anh nhìn tôi một cách kỳ lạ. “Thật lạ, khi nghe cô kể cho tôi một việc mà đáng lý ra tôi đã phải biết từ lâu. Giống như tâm trí tôi đã chấp nhận nó từ lâu, và tôi cũng đã trải qua nhiều đau đớn dằn vặt - nhưng tôi vẫn cần được nghe nó từ một người khác trước khi tôi tự cho phép mình được bắt đầu một cuộc sống mới.”

“Tốt lắm,” tôi nói và mỉm cười với anh. “Tôi thật vui vì đã giúp được gì đấy cho anh.”

Anh bước đến gần hơn nữa. Bằng một giọng thật khẽ, anh nói, “Trong suốt thời gian ngồi trong xe, với tất cả những việc này đang xảy ra trong đầu, tôi vẫn không khỏi nghĩ đến việc đôi mắt cô chuyển từ màu nâu xám sang xanh lá khi cô bực bội - vốn xảy ra rất nhiều lần. Hoặc khi cô mừng rỡ - vốn không xảy ra đủ nhiều.”

Một dòng hơi ấm chậm rãi cuộn nhẹ và trải đều trong ruột gan tôi rồi đổ xô vào huyết quản, giống như một con sóng đang vỗ vào bờ. Thậm chí không nhận biết mình đang làm gì, tôi nhắm mắt lại rồi hơi nghiêng đầu ra sau, chờ đợi để lại được nếm đôi môi anh và tự hỏi không biết lần này cảm giác có thích hơn lần anh hà hơi thổi ngạt trực tiếp vào miệng tôi đêm qua hay không.

Một tiếng động lớn và vỡ toác đi theo sau tiếng gỗ đập phát vào nhau khiến tôi mở bừng mắt, vừa kịp nhìn thấy mắt của Jack đang gần sát mặt tôi và mang cùng trạng thái ngạc nhiên như tôi.

“Cái... gì thế này?” Jack nắm tay tôi và kéo tôi chạy về hướng phòng khách chính, nơi phát ra tiếng động. Nơi đây, nằm ngay trước chiếc đồng hồ quả lắc đã được bao phủ bằng vải bạt, là khung hình hoàn toàn sạch bụi của Louisa và Nevin. Ðây là khung hình mà tôi đã cất cùng với những phụ kiện khác trong một trong những phòng ngủ trên lầu.

Tôi cúi người để nhặt nó lên. “Ðó là Louisa đấy, tôi chắc là thế.” Tôi ngừng nói, hít bầu không khí chung quanh. “Anh có ngửi thấy hương hoa hồng không? Thế có nghĩa là bà ấy đang ở đâu đây. Bà ấy đã và đang cố nói cho tôi biết một điều gì đấy, nhưng tôi lại không thể đoán được gì cả. Một điều gì đó có liên quan đến bà ấy và Nevin - tôi chỉ không thể biết đó là việc gì.”

“Hay là,” Jack nói, bắt đầu cuộn lên lớp vải bạt đầy bụi bặm đang bao phủ chiếc đồng hồ cổ, “nó chắc phải có liên quan gì đến chiếc đồng hồ này bởi vì đây là vật mà nó cứ ném mãi vào.” Anh vươn người kéo tấm bạt ở phần trên cùng của chiếc đồng hồ rồi thả nó xuống vũng nước xanh bẩn dưới chân chúng tôi.

“Ý anh là sao?” tôi hỏi.

“Cô còn nhớ những tấm hình mà tôi đã chụp mặt trước chiếc đồng hồ hay không? Cuối cùng thì tôi cũng đã mang chúng đi rửa và đã nhận hình.”

Tôi đượm một chút cảm giác phấn khích, và tự hỏi có phải mắt tôi vừa chuyển thành màu xanh lá cây hay không. “Mẹ anh có vẻ khá chắc chắn rằng mặt đồng hồ này không phải là đồ nguyên thủy cùng với chiếc đồng hồ, nên có lẽ là có ai đó trong gia tộc Vanderhorst đã thay nó đi. Nhưng tại sao như thế?”

“Chính xác là những gì tôi nghĩ, cho nên tôi hơi ngạc nhiên khi những tấm hình này chẳng cho thấy gì cả. Phần bán nguyệt ghép thêm vào chỉ cho thấy một loạt những lá cờ hiệu, rõ ràng là không theo một thứ tự cụ thể nào do đó sẽ không tạo thành một thông điệp. Tôi đã cố thử sắp xếp chúng theo nhiều cách khác nhau nhưng vẫn bó tay. Dù sao đi nữa, mẹ tôi có nói rằng toàn bộ những chiếc đồng hồ Johnstone khác đều có hình những cánh đồng nuôi bò sữa, trong khi bức tranh của chiếc này lại được thay thế bằng chủ đề hàng hải - phô diễn một cuộc nổ súng trên pháo đài Fort Sumter.” Anh cười tươi với tôi. “Ðó là nơi đã nổ ra những phát súng đầu tiên trong thời Nội chiến.”

Tôi khoanh hai tay trước ngực. “Tôi biết việc ấy.”

“À thì, có lần cô đã nói với tôi rằng cô rất sung sướng vì mình dốt lịch sử, cho nên tôi chỉ muốn chắc rằng cô có biết vụ này.”

Tôi trợn tròn mắt. “Tôi là dân Charleston đấy nhé. Tôi có nhiệm vụ phải biết về pháo đài Fort Sumter - toàn bộ những ai sinh trưởng ở Charleston đều phải biết, nếu không thì sẽ bị đuổi cổ ra khỏi thành phố này.”

Jack cười khìn khịt. “Ờ, đại loại là như thế. Về vụ này, ban đầu tôi cứ nghĩ có lẽ người ta làm việc này để tưởng niệm những sự kiện lịch sử mà ngôi nhà này và những người đã từng cư ngụ nơi đây đã chứng kiến. Nhưng khi tôi xem kỹ mặt đồng hồ,” anh nói và vặn cái nắm nhỏ bằng đồng rồi kéo mở cái cửa kính bên ngoài mặt trước chiếc đồng hồ, “thì tôi phát hiện rằng đại đa số những đường rãnh lồng vào bức tranh này thật ra có ba chiều, được nâng lên từ phía sau chỉ vừa đủ sao cho chúng chỉ được phát hiện khi sờ bằng tay chứ không phải khi nhìn bằng mắt.”

Cẩn thận kẹp khung hình giữa cánh tay và bên hông mình, tôi bước qua đứng cạnh anh rồi trượt dài ngón trỏ trên cột buồm của một chiếc tàu lớn nơi anh vừa chỉ, và cảm thấy đúng là có lằn gợn. “Ðúng là thế thật. Nhưng mục đích của việc này là gì?”

“Tôi có mua một ít giấy làm thủ công và một cây sáp, rồi gỡ hai cái kim đồng hồ ra và chà sáp lên những lằn gợn này.”

“Giống như cách người ta chà sáp lên bia mộ vậy,” tôi nói.

“Chính xác.”

“Thế thì anh đã tìm thấy những gì?” Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn. “Nó có cho anh biết nơi cất giấu những viên kim cương hay không? Hoặc cho biết việc gì đã xảy đến cho Louisa?”

Anh thở dài não nuột. “Cô còn nhớ có lần tôi hỏi xem cô có thể chỉ việc nêu thắc mắc của mình với những hồn ma để họ trả lời cho hay không? Và cô nói gì đấy đại loại là sự việc không hề dễ dàng như thế? Ðấy, việc này cũng giống y như thế đấy. Nếu mọi việc quá dễ dàng thì hiện giờ chúng ta đã chẳng phải cố tìm hiểu như thế này bởi vì chắc hẳn đã có ai khác đã tìm ra manh mối từ lâu rồi.”

“Có lý đấy,” tôi nói, cảm thấy được xoa dịu một chút. “Nhưng mà nó nói gì nào?”

“Chẳng có nghĩa gì cả.” Anh lôi ra một mảnh giấy từ túi quần sau. “Tôi có viết lại đây này.”

Tôi mở tờ giấy ra và nhìn thấy một dãy ba mươi hai chữ cái mang mẫu tự tiếng Anh, không chia khoảng cách và cũng không theo một thứ tự cụ thể nào cả: IFANKRNGMFEFIVEEMNROQNPDKNIASRKE. Tôi nhìn lên Jack. “Chẳng phải chúng ngầm mang một ý nghĩa nào chăng?”

“Ðó là một mật mã thay thế - một loại mã cơ bản và đơn giản, miễn là ta biết một từ chính yếu giúp giải mật mã. Cứ mỗi khoảnh khắc rảnh rỗi là tôi lại cố thử dùng những từ khác nhau để xem có từ nào giải được mật mã không, nhưng từ nào cũng không khớp.”

“Hóa ra những quyển sách về giải mã trên căn gác mái là dành cho việc này - và đó cũng là lý do anh muốn mượn chúng.”

“Cũng gần đúng như thế.” Trông anh có vẻ bẽn lẽn và đứng đắn. “Nếu tôi có phát hiện ra điều gì nữa, tôi sẽ chia sẻ với cô, cô biết mà. Thậm chí nếu tôi có biết rằng cô sẽ căm tức tôi đến trọn đời.”

Tôi nhìn anh với thật nhiều cáo buộc và thương tổn trong lòng, nhiều đến nỗi tôi có thể làm cho chúng cô đặc lại, nhưng vẫn chẳng nói gì.

“Dù sao thì, những cuốn sách ấy toàn là của thế kỷ trước, đó là lý do khiến tôi nghĩ rằng chính Robert Vanderhorst là người đã cho thay mặt đồng hồ.”

“Như thế cũng có nghĩa rằng dù bất cứ thứ gì được phát hiện từ cái đồng hồ này cũng có thể cho chúng ta biết hoặc về Louisa hoặc về những viên kim cương ấy.”

“Hoặc cả hai,” Jack nói và cẩn thận đóng cửa mặt đồng hồ lại. “Và còn một việc nữa.” Anh vặn chiếc chìa khóa cũ vào hộp gỗ của chiếc đồng hồ và kéo mở cánh cửa nặng nề có gắn bản lề ra. “Tôi có tìm thấy một ngăn tủ bí mật trong đây.”

“Và trước đây thì anh đã chẳng thèm nghĩ đến việc cho tôi xem à?”

“Tôi thấy chẳng cần. Nó trống rỗng chẳng có gì cả.” Anh quỳ xuống phía trước nơi cánh cửa vừa mở ra, cho thấy hệ thống vận hành bên trong của chiếc đồng hồ trong khi tôi liếc nhìn từ phía sau anh. Vươn tay về phía xa bên trái, anh nhấn một cái nút làm bằng gỗ nằm ngang bằng với cái tủ bên trong. Nó đã và đang vô hình đối với mắt trần và hầu như chỉ có thể được phát hiện khi có ai đó chạm tay vào. Một cánh cửa nhỏ bật mở ra, và Jack bước lùi lại để tôi có thể nhìn rõ hơn.

Tôi sục tay vào và sờ chung quanh bên trong một cái ngăn nhỏ, gõ gõ vào đáy và các mặt cạnh của nó. Phần trên đã mở ra, một đường hầm tối đen dẫn lên trên bên trong chiếc đồng hồ. “Tôi nghĩ là anh đã đoán biết rằng không có khoảng cách giữa các bức tường của ngăn tủ và mặt ngoài của chiếc đồng hồ thì phải.”

“Ðúng. Và tôi còn rọi đèn pin vào cái lỗ bên trên cùng, và trông giống như nó đi thẳng lên bên trên trần tường của ngôi nhà. Tôi đồ là nếu đây đã từng là nơi cất giấu kim cương thì chúng đã mất tự đời nào rồi.”

Tôi đứng lên và đóng cửa cái ngăn bí mật ấy lại, rồi đóng cánh cửa kính, chậm rãi vặn chìa khóa cho đến khi nó khớp vào khung. “Còn một việc nữa - một việc mà tôi nhớ từ đêm qua khi anh đang làm hô hấp nhân tạo cho tôi trong vườn.”

Anh nhướn một bên mày nhưng tôi không bị mắc bẫy. “Tôi đã nhìn thấy bà ấy... Louisa. Bà ấy đang quỳ bên chiếc đài phun nước, vén lớp cỏ ra sau, như thể đang cố cho tôi thấy những chữ số La Mã. Bởi vì chiếc đài phun nước này chưa có khi Louisa còn sống ở đây nên tôi đồ là Robert đã cho xây nó. Và rằng những chữ số ấy có ý nghĩa gì đó với ông ấy.”

“Có lẽ cô nói đúng. Những ngày này tôi đã mày mò những chữ số ấy, và ba cô cũng thế.” Anh lại nhìn tôi đầy vẻ biết lỗi. “Tôi và ông ấy đã cố tìm xem chúng có tương hợp với bất cứ ngày sinh, tuổi, ngày tháng trong lịch sử, hoặc bất cứ cái gì quan trọng với gia tộc Vanderhorst hay không. Và chẳng có gì cả. Chúng tôi hoàn toàn không tìm ra cái gì hết.” Anh chải hai bàn tay vào tóc, một việc mà tôi bắt đầu nghi ngờ rằng anh làm khá thường xuyên khi cố giải quyết một vấn đề. Tôi tưởng tượng anh làm thế rất nhiều mỗi khi làm việc, giống như một thói quen thường tình của các tay nhà văn, và tôi thầm nghĩ thói quen ấy đúng là khá hấp dẫn. Anh quay sang tôi. “Tôi muốn nhìn tấm hình chụp Louisa và viên kim cương bà ấy đeo trên cổ khi chúng ta ở đây. Chỉ cần nhìn vào hình dáng và kích cỡ của nó thì tôi sẽ có thể nhận biết xem đó có đúng là thứ mà chúng ta đang tìm hay không.”

“Nếu như chúng vẫn còn đâu đây và chờ được phát hiện. Nhưng, dĩ nhiên rồi - những cuốn album nằm trên lầu đấy. Tôi sẽ cho anh xem trước khi chúng ta rời khỏi đây. Và tôi cũng muốn xem những thứ mà anh đã tìm được vốn có liên quan đến việc giải mã với cái đồng hồ này. Thật ra thì tôi cũng khá trong việc giải đố đấy.”

“Bắt tay vào việc thôi,” Jack nói. “Tôi rất sẵn lòng cho cô xem những chữ tôi lấy được khi chà sáp lên mặt đồng hồ.”

Tôi định huých khuỷu tay vào anh, quên mất rằng tôi vẫn còn kẹp cái khung hình giữa khuỷu tay và hông khi tôi bước đến xem mặt đồng hồ khi nãy. Bức hình rơi xuống sàn, lớp bìa giấy độn đằng sau tấm hình và lớp kính rơi ra ngoài. Khi tôi cúi người nhặt nó lên, tôi để ý thấy nằm dưới lớp kính là một mảnh giấy xé rời mà rõ là đã được nhét vào giữa tấm hình và lớp bìa giấy phía sau nó.

“Cái gì thế?” Jack hỏi trong khi tôi nhặt nó lên và vuốt cho thẳng ra.

“Tôi cũng chẳng biết. Trông giống như một phần của phong bì thư.” Phần có nắp bì thư vẫn còn nguyên vẹn nhưng để trống, nhưng khi tôi lật nó lên, một cái tên và một phần địa chỉ người gửi được viết nguệch ngoạc trên ấy: Susannah Barnsley, và rồi những chữ, Orchard Lane. Tôi đưa lên cho Jack nhìn. “Không có cái tên nào nghe quen với tôi cả.”

“Tôi cũng thế.” Anh lật qua lật lại mảnh giấy nhiều lần, rõ ràng đang suy nghĩ rất sâu. “Ðể tôi mang cái này cho người bạn làm ở thư viện xem cô ấy có thể tìm ra được gì không. Ai mà biết được: có thể cái người Susannah này vẫn còn sống cũng không chừng.” Rồi anh chau mày. “Nhưng giờ đây thì tôi lại thắc mắc, có phải Louisa chẳng hề muốn chúng ta chú ý đến cái đồng hồ chút nào hay không.”

“Thật ra không phải lúc nào những gì mà hồn ma muốn nói với mình đều rõ ràng cả. Và đôi khi họ cố ý chẳng nói gì cả mà chỉ muốn được chú ý đến thôi.”

“Tốt lắm. Thế thì mảnh bao thư này có thể chỉ là một vật giúp tấm hình khớp hơn trong khung và chẳng có ý nghĩa gì cả.”

“Hoặc là cái người Susannah Barnsley này, dù cho bà ấy là ai và cứ xem rằng bà ấy vẫn còn sống, có thể biết những viên kim cương được cất giấu ở đâu. Hoặc biết Louisa đã ở đâu.”

“Hoặc chỉ là cả hai chúng ta đều điên khùng vì đã tin rằng người chết có thể liên lạc với người sống.”

Tôi nhướn một bên mày.

“Hoặc không thể,” Jack lại nói với nụ cười độc quyền của anh. “Sao cô còn không đưa tôi lên lầu để chỉ cho tôi xem tấm hình có viên kim cương ấy? Sau đó tôi sẽ đi ra thư viện trong khi cô nghỉ ngơi. Hy vọng khi tôi quay về thì chúng ta sẽ có thêm tin tức từ ba cô và Sophie.”

“Kế hoạch nghe hay đấy,” tôi nói và hướng về cầu thang trong khi Jack theo sau tôi. Tôi dừng lại và xoay người đối diện với anh. “Tại sao anh lại gọi tôi bằng tên đầy đủ của tôi thế hả?”

Mắt anh mở to một cách ngây thơ. “Bởi vì cô đã yêu cầu mà.”

“Ồ, đúng là tôi đã bảo anh làm thế, nhỉ?” Tôi cắn môi một lúc trong khi cả hai nhìn nhau thật gần. Cuối cùng, tôi lại xoay người và bước đi lên. “À, giờ thì anh có thể thôi không gọi tôi như thế nữa. Nghe thật là... lạ khi anh gọi tôi như thế.”

Tôi nghe thấy âm hưởng của nụ cười trong giọng nói của anh. “Ðược thôi, thưa cô.”

Chúng tôi bước lên thêm vài bậc, thì Jack lại nói. “Nhân tiện, trong trường hợp cô vẫn còn tiếp tục đếm, thì khi nãy suýt tí nữa là nụ hôn thứ hai đấy nhé.”

“Tôi chẳng đếm,” tôi nói trong khi bước lên các bậc thang, cảm nhận đôi mắt của Jack dán vào người tôi trong suốt thời gian chúng tôi bước lên lầu.

***

Tôi cảm thấy kiệt sức khi Jack ra về sau khi đã xem tấm hình và xác nhận viên kim cương mà Louisa đeo trên cổ rất có thể là một trong những viên kim cương huyền thoại ấy. Hậu quả đêm thức trắng vừa qua bắt đầu thấm dần vào người tôi trong lúc tôi mở toang toàn bộ các cửa sổ trên lầu để gió lùa xuyên vào phòng, rồi sau đó, thay vì lái xe trở về căn hộ của mình, tôi lại nằm cuộn tròn trên xa-lông - cảm thấy an toàn hơn trong ánh sáng ban ngày - trong phòng khách trên lầu và chìm vào một giấc ngủ không mộng mị.

Tôi chẳng biết mình đã ngủ trong bao lâu, chỉ biết rằng khi ba tôi la lớn gọi tên tôi, tôi trượt khỏi chiếc xa-lông trong cơn hoảng loạn, đầu đập vào chiếc khay đặt phía trước. Vừa xoa đầu, tôi vừa ngồi bệt trên sàn nhà và cau có nhìn ba tôi. “Ba à, con đâu phải lính mới của ba đâu. Ba làm ơn đừng bao giờ làm thế với con nữa.”

“Cho ba xin lỗi, con gái cưng.” Ông ấy cười xòa ra vẻ biết lỗi, rồi đưa tay cho tôi. “Có lẽ ba chỉ theo thói quen thôi. Và ba cũng quá nôn nóng không chờ được cho đến khi con tự thức dậy.”

Cảm nhận sự phấn khởi của chính mình, tôi để ông kéo tôi lên rồi ngồi lên chiếc xa-lông. “Ba đã tìm thấy gì nào?”

Tôi để ý thấy chiếc hộp đựng xì gà nhét dưới cánh tay ông rồi nhìn ông đặt nó lên bàn. “Ông Sconiers đã tráng rọi được cuộn phim trong khi ba ngồi chờ - có lẽ bởi vì chỉ có ba tấm hình lộ ra trong toàn bộ cuộn phim.” Ông mở nắp hộp và lấy ra ba tấm hình trắng đen có kích cỡ mười bốn phân vuông, giống y như những tấm hình tôi đã thấy trong cuốn album của Louisa. Ông ấy đưa chúng cho tôi xem. “Cho ba biết con nghĩ gì nào.”

Tấm hình đầu tiên chụp chiếc đài phun nước. Cỏ ở mặt trước ngắn hơn, do đó những chữ số La Mã khi ấy dễ nhìn thấy phía sau lớp cỏ được cắt tỉa. “Ðiều duy nhất con để ý về chiếc đài phun này là trong ấy không hề có nước. Nó cũng chẳng có giọt nước nào khi con đến gặp ông Vanderhorst, và người thợ ống nước của con dường như cũng không biết cách làm cho nó hoạt động được.” Tôi bắt gặp ánh mắt của ông. “Có lẽ việc ấy mang một ý nghĩa nào đó.”

Ba tôi lôi một quyển sổ tay bỏ túi có gáy lò xo ra. “Ba đang viết lại tất cả mọi thứ mà chúng ta phát hiện ra. Thậm chí nếu hiện giờ chẳng có cái gì mang ý nghĩa cụ thể nào cả thì chúng ta vẫn có khả năng phát hiện ra điều gì đó một khi chúng ta xem xét toàn bộ mọi thứ cùng một lúc.”

“Tốt lắm,” tôi nói và lật qua tấm hình tiếp theo chụp chiếc đồng hồ cổ, chiếc biểu đồ tăng trưởng vẽ trên tường bên cạnh nó hầu như không nhìn thấy được. Tôi nhìn vào mặt đồng hồ, để ý rằng nó không giống như mặt đồng hồ hiện tại. Thất vọng, tôi nói, “À, giờ thì ta đã biết được việc này rồi - Robert đã cho thay mặt đồng hồ và lồng vào đó một loại mật mã nào đó mà Jack hiện đang cố giải. Con hy vọng tấm hình thứ ba là một cái gì mới hơn.”

Tôi lật sang tấm hình tiếp theo và dừng lại. Ðó là bức chân dung một người phụ nữ xinh đẹp, với làn da nâu nhạt và mắt cũng màu nhạt, đang ngồi trên một chiếc ghế đánh đàn dương cầm. Cô đang ủ rũ nhìn người chụp ảnh, đôi môi dầy của cô nở một nụ cười buồn. “Ba nghĩ người trong ảnh này là ai?”

Ba tôi cầm lấy tấm hình. “Có một bản nhạc bài “Ồ, Susannah” trên đùi cô ấy. Ba không biết việc này có ý nghĩa gì không.”

“Con nghĩ là có đấy.” Tôi lần tay vào túi sau chiếc quần jeans đang mặc - chiếc quần jeans đầu tiên mà tôi từng sở hữu và đã mua theo sự hối thúc của Sophie, và cả Jack, vốn đã chán ngán với những chiếc quần lửng hiệu Lily Pulitzer của tôi - rồi lôi ra chiếc bì thư đã bị xé đi.

“Susannah Barnsley,” ba tôi đọc to. “Cái tên này nghe chẳng có nghĩa gì với ba cả, và ba cũng đã xem qua hết tất cả những giấy tờ lưu trữ trong ngôi nhà này và ba khá chắc rằng ba chưa từng nhìn thấy cái tên này bao giờ.” Ông tiếp tục nhìn vào tấm hình, ngân nga vài giai điệu của bản nhạc ấy.

“Jack có người bạn ở thư viện. Hôm nay anh ấy đã đi gặp người này để xem cô ta có tìm được gì trong phòng lưu trữ hay không.” Có lẽ tôi đã cố nhấn mạnh từ “bạn” vì ba vừa quan sát tôi thật kỹ.

“Bạn, hả? Ba nghĩ đó hẳn phải là một cô gái rồi.”

Tôi nhún vai. “Chẳng biết. Chẳng quan tâm.” Rồi để thay đổi đề tài, tôi nói, “Ðể con giữ bức thư viết cho Nevin luôn nhé. Con muốn đọc lại lần nữa, để xem chúng ta có bỏ sót gì không.”

Ba tôi lấy bức thư ra từ chiếc hộp đựng xì gà rồi trao nó cho tôi. Trước khi ông ấy kịp nói gì thêm thì điện thoại của tôi reo vang. Tôi cầm điện thoại lên thì thấy đó là Sophie. “Chào, Soph.”

“Chào Melanie. Giọng của cậu nghe đỡ hơn đấy. Hiện cậu cảm thấy trong người thế nào?”

“Tốt.” Tôi nghe tiếng em bé khóc trong điện thoại. “Cậu đang ở đâu?”

“Mình đang ở phòng y tế của trường. Mình đang đợi chích ngừa cho vụ dị ứng lông chó.”

“Nhưng cậu đâu có nuôi chó.”

Một thoáng im lặng. “Không, nhưng cậu thì có, Melanie ạ, và bọn mình ở bên nhau rất nhiều.”

Tôi nghĩ một lúc. “Nhưng Ðại tướng Lee có lẽ chỉ ở với tớ chừng ba mươi phút trong suốt năm tháng vừa qua thôi.”

Sophie không trả lời ngay, và khi nó nói chuyện lại, đó là một đề tài hoàn toàn mới. “Mình đã tìm ra thông tin về bông hoa hồng của cậu. Bạn mình cần làm thêm vài thí nghiệm khoa học mới có thể chắc chắn hoàn toàn, nhưng nhìn vào cấu trúc của những cánh hoa, anh ấy khá chắc chắn đó là một bông hoa hồng Louisa. Việc này có giúp gì cho cậu không?”

“Mình cũng chẳng biết. Giờ đây dường như bọn mình có rất nhiều mảnh thông tin rời rạc nhưng chẳng có cái nào khớp với cái nào.”

“Ngôi nhà thế nào rồi?”

Tôi có thể nghe thấy sự e sợ trong giọng nói của Sophie. “Nó không sao cả. Phòng bếp thì tiêu rồi, nhưng phần còn lại của ngôi nhà sẽ ổn sau khi được thông gió thật tốt. Và cảm ơn cậu.”

“Về việc gì?”

“Vì đã tiếp tục làm việc cho ngôi nhà trong khi mình thì lại đi du hí giải sầu. Ngôi nhà đã rất đẹp cậu ạ.”

Giọng của Sophie có vẻ hơi sắc cạnh. “Tại sao cậu lại nói bằng thì quá khứ hử?”

“À, hiện giờ thì bồ hóng che phủ mọi thứ cậu ạ. Cho tớ xin vài ngày rồi cậu hãy quay lại, được chứ?”

“Tất nhiên rồi. Hiện giờ thì cậu có cần mình làm giúp việc gì nữa không?”

“Ờ, cậu có thể nói hộ với Chad giúp mình rằng mình đã lên danh sách thêm bốn căn hộ cho anh ấy đến xem và mình cần anh ấy gọi lại cho mình.” Tôi vừa định chào tạm biệt thì bỗng nghĩ ra thêm một việc khác nữa. Tôi nghĩ đó là một điều cầu may, nhưng thật ra Sophie Wallen thường có nhiều bất ngờ. “Còn một việc nữa - cậu có bao giờ nghe đến cái tên Susannah Barnsley không?”

Nó thậm chí không cần ngừng lại trước khi trả lời. “Dĩ nhiên rồi. Hoặc ít nhất là mình có biết nhà của bà ấy. Nó nằm trong một trong những tua kiến trúc mà mình đưa khách đi tham quan.”

Một cảm giác vỡ òa vì mừng rỡ lan tỏa trong ngực tôi. “Nhà của bà ấy? Nó nằm ở đâu?”

“Trên phố Chalmers - trong một trong những khu dân cư đã hoàn toàn được nâng cấp. Bà ấy là con lai và được người bảo trợ da trắng của bà tặng cho một ngôi nhà khá xinh ở đấy.”

Lòng tôi chùng xuống. Robert đã có bồ? “Bà ấy có còn sống ở đấy không?”

“Không - ngôi nhà và toàn bộ khu dân cư ấy hầu như đã bị bỏ hoang từ những năm một chín năm mươi. Chỉ vì Hội Bảo tồn Lịch sử đã rất quyết liệt nên khu ấy mới không đổ nát vì những chiếc cần cẩu giật sập nhà.” Tôi nghe được sự giận dữ trong giọng nói của Sophie lần đầu tiên trong đời. “Mình đã giúp được gì cho cậu hay chưa?”

“Có lẽ là có đấy. Mình sẽ cho cậu biết sau khi mình nói chuyện với Jack.”

Có tiếng ai đó gọi to tên bệnh nhân trong phòng chờ ở đầu dây bên kia. “Họ vừa gọi mình đấy, nên mình phải đi đây. Mình sẽ gọi lại cho cậu sau nhé.”

“Tạm biệt, Soph,” tôi nói, nhưng nó đã tắt điện thoại.

“Jack đang ở đây,” ba tôi nói khi ông nhìn ra cửa sổ bên hông ngôi nhà. “Cậu ta mang theo những thứ lỉnh kỉnh gì thế này?”

Tôi bước đến đứng cạnh ba tôi, và nhìn qua khung cửa sổ trong khi Jack lôi ra hai chiếc vali, một hộp đầy sách, và ngạc nhiên hơn cả, một bông hoa lan to tướng cắm trong chậu.

“Làm sao anh ấy biết đó là hoa mà con thích nhất nhỉ?” Tôi lẩm bẩm.

“Là hoa lan à?” ba tôi hỏi, và chúng tôi nhìn nhau trân trối trong khi cả hai cố để cho điều ngụ ý ấy trôi qua.

“Anh ấy chắc hẳn đã gọi cho Nancy,” tôi nói và ngưỡng mộ sự phô diễn cơ bắp của Jack khi anh nhấc cả hai chiếc vali lên một cách nhẹ nhàng và còn giữ cho chậu hoa lan khỏi ngã.

“Có vẻ như cậu ấy dọn lại vào đây rồi,” ba tôi nhận xét một cách tinh ý.

Tôi chẳng trả lời nhưng đã xoay người chạy nhanh xuống cầu thang vừa kịp lúc để bật mở cửa trước khi Jack tự mở ra. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa, mồm há hốc không thốt nên lời. Marc đang đứng cạnh Jack trên hiên nhà, tay ôm một chậu lan giống hệt như hoa của Jack mang đến.

Khi đã bắt đầu lấy lại được giọng, tôi chào cả hai người rồi bước lùi lại cho họ vào nhà.

Không nói một lời, Jack đặt chậu hoa lan của anh ấy lên chiếc bàn ở hành lang, rồi tự bước lên lầu hướng về phòng ngủ trước đây của anh, cứ cách mỗi vài bước thì hai chiếc vali lại va đập lộp cộp vào bậc thang.

Marc đặt hoa lan của anh ấy phía trước chậu hoa của Jack, rồi hôn tôi lên cả hai bên má. “Anh có nghe về vụ đêm qua và nghĩ rằng bông hoa mà em thích nhất sẽ làm em vui lên. Anh lo quá, nhưng Nancy có nói với anh rằng em sẽ sớm khỏe lại.” Anh hít ngửi không khí trong phòng. “Cháy do chập dây điện à?”

Tôi gật đầu. “Phải. May mắn là chỉ có phòng bếp là bị thiệt hại. Phần còn lại của ngôi nhà thì không sao.”

Anh cười. “Ngôi nhà đẹp như thế này mà có bị cháy rụi thì cũng chẳng phải là việc không hay cho em mà, phải không?”

Tôi chợt nhớ đến âm điệu giận dữ trong giọng của Sophie khi nó nói chuyện với tôi ban nãy, và tôi phải cố gắng thật nhiều để không phải lặp lại cái giọng ấy. “Thật ra, em nghĩ rằng có lẽ mình sẽ tan nát cõi lòng nếu nó cháy rụi đấy.”

Marc nhìn tôi đầy vẻ ngạc nhiên. “À, vậy thì bây giờ tình hình là như thế. Anh có nghe nói rằng những ngôi nhà cổ này có thể dễ lây bệnh lắm đấy.”

“Cái gì dễ lây bệnh?” Ba tôi đang đi xuống cầu thang, chiếc hộp đựng xì gà nằm dưới cánh tay ông.

“Những ngôi nhà cổ,” Marc nói. “Tôi nghĩ Melanie đây đã nhiễm bệnh rồi.”

Ba tôi đã đi xuống hết cầu thang và đứng trước chúng tôi. “À, nghe cũng có lý đấy, phải không, Melanie?”

Tôi nhìn ba tôi đầy cảnh cáo nhưng rõ ràng việc ông ấy không biết đến loài hoa ưa thích nhất của tôi không phải là điều duy nhất mà ông ấy đã bỏ sót. “Thật sao?’ Marc có vẻ quan tâm thích thú một cách tự nhiên.

“Ðúng. Melanie đã ở trong ngôi nhà cổ của bà ngoại nó trên phố Legare khá lâu. Có lẽ tình yêu dành cho những ngôi nhà cổ của nó bắt đầu từ nơi ấy.”

Tôi không rõ nếu mình có cần biện hộ cho bản thân hay cứ ngầm đồng ý như thế, nên tôi vẫn giữ im lặng.

Ba tôi nhìn Marc dò xét trong một lúc. “Cậu sinh trưởng ở Charleston phải không? Có lẽ cậu đã từng nghe đến cái tên Susannah Barnsley.”

Marc nhíu mày tập trung suy nghĩ thật lâu. “Không, cái tên này hoàn toàn chẳng khiến tôi liên tưởng được gì cả. Có phải đây là người tôi chắc chắn phải biết hay không?”

“Thật ra thì không phải,” ba tôi nói trong khi tôi quan sát Marc. “Mặc dù đây có thể là người mà ba tôi đã từng biết. Tôi tìm thấy tấm hình của bà ấy trong chiếc hộp của ba tôi để lại.”

Marc lắc đầu. “Xin lỗi, thật tình là tôi không thể giúp gì cho ông được.” Anh ngừng một lúc. “Có phải ba của ông là bạn thân của Robert Vanderhorst - một trong những chủ sở hữu cũ của ngôi nhà này?”

“Ðúng. Họ đã từng là bạn chí cốt và cũng là đối tác làm ăn lâu năm.”

“Vậy là tôi đã nhớ đúng về việc ấy. Hầu như tôi thường chẳng nhớ nổi mình đã ăn gì cho bữa sáng, nhưng lại luôn có xu hướng nhớ những thứ linh tinh lặt vặt mà mình nghe ngóng được đó đây.”

Ba tôi cười giòn. “Chẳng phải thế sao! Và cứ chờ đến khi cậu già hơn, khi ấy sự việc còn tồi tệ hơn nữa đấy.”

Tiếng cười chung vui của hai người bị ngắt quãng khi Jack bước thình thịch xuống cầu thang và tiến đến nhóm chúng tôi ở đại sảnh. Marc khinh khỉnh liếc nhìn Jack. “Có lẽ tôi nhầm, Jack à, nhưng dường như ông đang dọn lại vào đây ở thì phải.”

“À, Matt, tôi thấy sức mạnh của khả năng quan sát của ông có lẽ cũng ngang tầm với sự hăng nồng từ mùi nước hoa của ông đấy.”

Tôi ngưỡng mộ khả năng tự chủ của Marc khi anh chẳng đáp trả gì mà chỉ quay sang tôi. “Tối nay sẽ có pháo hoa mừng Ngày Cựu Chiến binh ở Patriot’s Point đấy. Anh nghĩ là em sẽ thích đi xem.”

“Em muốn đi xem lắm,” tôi nói, thật lòng. Chúng tôi đã không ở bên nhau nhiều kể từ khi tôi hủy chuyến đi đảo Isle of Palms lần trước. Nếu những gì chúng tôi đã có với nhau mà có thể được gọi là một mối quan hệ, thì lần này chúng tôi cần phải đi xem pháo hoa hoặc cùng nhau làm bất cứ việc gì khác mà có thể giúp cho chúng tôi khắng khít với nhau hơn nhằm củng cố mối quan hệ giữa hai người. Không tính đến bao nhiêu lần tôi đã hồi tưởng lại những lần Jack và tôi suýt hôn nhau và tôi đã gần như khao khát được anh hôn như thế nào. Hoặc khi sự thật về Emily vẫn chẳng thay đổi được điều gì. Anh ta vẫn cứ là một anh chàng Jack - quá ngạo nghễ, quá tự tin thoải mái trong vỏ bọc của chính bản thân mình, quá dễ để ta ngắm nhìn nhưng lại quá khó để ta có thể yêu.

“Tốt lắm,” anh nói và hôn lên môi tôi, và tôi tự nhủ làm sao mình có thể không cảm nhận được một nụ hôn như thế này. “Hay là chúng ta đi ăn tối trước ở nhà hàng Jestine nhé? Anh đang khao khát món bánh kem dừa đây. Anh sẽ đón em lúc bảy giờ.”

“Kế hoạch nghe thật tuyệt anh ạ,” tôi nói và tiễn anh ra cửa. Anh lại hôn tôi lần nữa, lần này thì anh nấn ná lâu hơn trên môi tôi, rồi ra về.

Tôi bước lại về phía Jack và ba tôi, vừa kịp lúc nghe Jack nhại lại giọng của Marc, “ ‘Anh đang khao khát món bánh kem dừa đây.’ Thôi đi cha nội, ai đời lại còn xài cái từ ‘khao khát’ nữa chứ?”

“Làm người lớn đi,” tôi nói, khoanh hai tay trước ngực. “Những cái vali này để làm gì thế?”

“Tôi sẽ dọn lại vào ở trong phòng cũ của tôi. Sau vụ tối hôm qua, tôi nghĩ cô cần được bảo vệ.”

Không chỉ là tôi hoàn toàn đồng ý với anh, mà tôi còn biết rằng có tranh cãi cũng vô ích, thế nên tôi chống nạnh rồi nói, “Ðược thôi, nhưng tôi muốn anh phải tuân thủ các luật lệ của tôi. Thứ nhất, phải giữ...”

Jack ngắt lời. “Tôi biết, tôi biết. Luôn giữ bồn cầu nằm xuống, và không được tiếp khách nữ trong nhà sau mười giờ đêm. Nhớ rồi.”

Tôi phải cố ép mình không cười lại với anh. “Tốt. Mừng vì anh còn nhớ.”

“Tôi chỉ cần được người ta chỉ bảo một lần thôi, Mellie.” Anh cười. “Vậy thì, cô có phát hiện gì mới không?”

“Sophie gọi và xác nhận rằng hoa hồng trong hộp ấy rất có thể là hoa hồng Louisa. Việc này có ý nghĩa gì, tôi chẳng biết. Và ba tôi cũng đã tráng rửa được cuộn phim.”

Ba tôi mở chiếc hộp và lấy ra những tấm hình rồi đưa cho Jack, anh nhìn chúng một hồi thật lâu. “Cô nghĩ gì về mục đích của tấm hình chụp chiếc đồng hồ này?”

“Tôi cũng không rõ, nhưng tôi cho rằng đó là để gây chú ý đến sự thay đổi của mặt đồng hồ - nhưng mà chúng ta đã suy luận ra được việc ấy rồi. Và tôi cũng chẳng rõ về cái đài phun nước ấy nữa, ngoài một thực tế là nó cạn khô. Nhưng hãy nhìn tấm hình kia xem. Anh có tìm ra được gì từ đấy không?”

Jack xem kỹ tấm hình chụp người phụ nữ ấy. “Ðây là ai nhỉ?”

“Bọn mình chưa biết đâu. Nhưng ba tôi có chỉ ra rằng trong hình có bản nhạc “Ồ, Susannah” đặt trên đùi cô ấy.” Một cách cẩn thận, tôi bồi thêm, “Có người từng nói với tôi rằng trên đời không có gì là trùng hợp ngẫu nhiên cả, cho nên tôi mạo muội đoán rằng tên của người phụ nữ ấy là Susannah.”

Jack nhìn tôi thật sắc. “Thật vui khi biết rằng tôi đang có ảnh hưởng đến cô đấy.” Rồi anh liếc nhìn qua ba tôi. “Và ý cháu là rất kính trọng đấy, thưa Ðại tá.”

Ba tôi đưa tay chào Jack theo lối nhà binh một cách châm chọc, rồi tiếp tục quan sát chúng tôi.

Jack tiếp tục. “Như vậy đây chính là nhân vật Susannah Barnsley đầy bí ẩn đây?”

Tôi gật đầu. “Rất có thể đấy. Và điều hay ho nhất là Susannah Barnsley có nhà trên đường Chalmers - ngôi nhà này là một trong những điểm dừng trong tua tham quan kiến trúc của Sophie, nhờ đó mà tôi biết được điều này. Ðó có lẽ là nơi chúng ta có thể khởi điểm công việc tìm kiếm. Còn anh thì sao?” Tôi hỏi. “Anh có tìm thêm được gì từ thư viện không?”

Jack lắc đầu. “Tôi vẫn chưa đến đó. Trước hết tôi phải đóng gói hành lý và dọn đồ sang đây đã. Tôi hy vọng cô có thể đi cùng tôi đến đó, rồi mình sẽ ghé nhà tôi để tôi cho cô xem những bản khắc của tôi.”

“Ý anh ấy nói là những bản chà sáp trên mặt đồng hồ đấy ba ạ.”

Ba tôi lắc đầu. “Ngồi nhìn hai đứa giống như xem một trận quần vợt ấy. Ba phải về nhà để xem có tìm được gì thêm trong đống đồ của ông nội con hay không, hy vọng chúng có thể giúp hé mở thêm chút ánh sáng vào tấm màn bí mật này. Rồi ba sẽ cho con biết sau.”

Jack và tôi theo ông đi ra ngoài, cẩn thận ghi nhớ phải khóa trái cửa ngay. Rồi chúng tôi quay lại xe của Jack. Tôi lấy ra lá thư mà Robert đã viết cho Nevin và đọc lại, chăm chú vào đoạn cuối cùng. Hãy cẩn trọng trong bất cứ việc gì con làm, và hãy luôn vững tin rằng con đã được cả cha lẫn mẹ, cũng như tất cả những người đã biết con, yêu thương con vô bờ bến. Hãy nhớ mẹ đã từng thường gọi con là gì, và đừng nghi ngờ bao giờ. Cerca Trova.

“Cerca trova,” Jack lặp lại.

“Anh đã có đưa từ ấy vào những mật mã anh đang cố giải phải không?” Tôi hỏi.

Anh nhướn một bên mày nhưng không nói gì.

“Có phải không?” Tôi lặp lại.

“Có lẽ,” anh nói và trông có vẻ bực mình. Tôi cười vang khi anh nhấn mạnh vào cần đạp tăng tốc, khiến dạ dày tôi nảy xóc lên.

“Tôi vẫn chưa tha thứ cho anh về tội nói dối đấy.”

“Tôi biết,” anh nói, rẽ nhanh vào góc đường khiến tôi ngã sang bên anh ngồi. “Nhưng Emily chắc chắn sẽ muốn tôi tiếp tục và không được bỏ cuộc.”

Tôi quay sang đối diện anh, những cái bóng dài của buổi chiều chiếu ánh sáng màu cam vào chiếc xe. “Emily sẽ muốn thế à?”

Anh vẫn tập trung vào con đường trước mặt. “Ờ. Ðó là tại sao cô ấy quay lại, tôi nghĩ thế. Ðể được tha thứ. Ðể tốt cho cả hai chúng ta.”

Tôi ngồi dựa lại vào ghế nệm bọc da và nhắm mắt lại, nhận ra rằng mình đã không cảm nhận được sự có mặt của Emily xung quanh Jack kể từ khi tôi cho anh biết sự thật khi hai chúng tôi đang ngồi trong xe. Mùi hoa trà nồng nặc, vật báo hiệu mùa thu đang đến ở vùng gần biển và cũng là loài hoa ưa thích nhất của Emily, giờ đây đang thoang thoảng trong xe và quấn lấy không gian quanh chúng tôi trước khi từ từ biến mất. Tôi mỉm cười một mình, biết rằng anh nói đúng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Căn hộ của Jack nằm trên phố Queen trong một khu dân cư được gọi là Khu Pháp vì trong quá khứ đã từng là nơi có đông đảo lái buôn người Pháp sinh sống. Nơi đây cũng được biết đến vì đã có lần suýt bị giật sập trong những năm một chín bảy mươi, và việc ấy đã rất có thể xảy ra mặc cho những nỗ lực kêu gọi của Hiệp hội Bảo tồn Charleston cũng như tiền quyên góp của người dân trên khắp nước Mỹ. Sophie, với nhiều người làm công tác bảo tồn cùng giuộc với nó, đã nói bằng một giọng rất nghiêm trang khi đề cập đến toàn bộ vụ việc này. Khi Jack và tôi rẽ trái vào khu Vendue Range, tôi hơi co rúm lại, nhớ lại điều tôi đã từng nói với Sophie rằng chỉ cần một quả tạ treo cần cẩu thì sẽ có thể giải quyết được rất nhiều cho vấn đề thiếu bãi đậu xe nơi đây.

Khi chúng tôi bước đến thang máy bên trong nhà kho chứa gạo thời thế kỷ thứ mười chín giờ đây đã được chuyển đổi thành căn hộ, tôi thấy thật ngưỡng mộ công việc trùng tu đã được thực hiện nơi đây sao cho vừa chuyển đổi không gian hiện tại của nhà kho mà vẫn giữ được phong cách cổ của nó, vừa tạo nên những căn hộ mới tân thời và trẻ trung. Tôi thấy Jack đang quan sát tôi với một nụ cười mãn nguyện nên tôi nhanh chóng lái tia nhìn của mình tập trung vào chiếc thang máy hầm hố bằng kim loại ấy.

Jack đẩy mạnh cửa vào căn hộ của anh, và tôi dừng lại ở bậc cửa, tự hỏi không biết anh có đi nhầm vào nhà hàng xóm của anh không. Căn hộ này có tất cả những đặc điểm hiện đại như những bức tường để lộ gạch xây, những ô cửa sổ cao, và những trần nhà cao vút với những xà ngang bằng gỗ khiến cho những căn hộ chuyển đổi như thế này trở thành thứ hàng hóa đang cực đắt hàng trong thị trường bất động sản hiện nay. Nhưng chính những bức tranh treo tường cùng đồ nội thất tuyệt đẹp nơi đây - một sự kết hợp hài hòa của những nét tinh tế hiện đại cùng những món đồ cổ lộng lẫy - đã gần khiến tôi như hoa mắt vì ngạc nhiên tột độ, giống như một vị khách không được báo trước trong chương trình truyền hình người thật việc thật vậy.

“Cô làm sao thế?” Jack hỏi, chùm chìa khóa đung đưa trong tay anh.

“Tôi chỉ... bị ngạc nhiên thôi.” Tôi nhìn chung quanh và nhìn thấy những chồng thư tín đặc trưng nằm trên quầy rượu trong phòng bếp, những tờ báo cũ vứt tứ tung bên dưới chiếc bàn nước bằng kính và thép xám, và đủ loại tạp chí thể thao đang để mở trên chiếc ghế xa-lông bằng da khiến tôi cảm thấy ngứa ngáy muốn đến đấy để sắp xếp chúng lại cho thẳng thóm. Rồi tôi chợt nhớ ra là mình phải ở đúng vị trí của mình.

“Ngạc nhiên à?”

“Ờ,” tôi đáp, và quay sang nhìn anh. “Có phải mẹ anh đã trang trí toàn bộ căn hộ này không?”

Anh thảy chùm chìa khóa vào cái tô sứ nhỏ trông giống như loại hiệu Herend đặt trên chiếc rương cổ hiệu Beidemeier ở lối vào nhà. “Thật ra, không phải. Tôi tự làm hết đấy. Bà ấy có giúp tôi mua vài món ở vài cuộc đấu giá, nhưng ngoài việc ấy ra thì còn lại là tôi toàn tự làm.” Anh bước vào phòng bếp thông với phòng khách rồi bước đến chiếc tủ lạnh làm bằng thép sáng. Rồi anh lấy ra một chai bia không cồn, giơ lên một chai về phía tôi, nhưng tôi lắc đầu.

Tôi bước đến một bức tường trong phòng khách và nhìn chăm chú vào bức tranh vẽ bằng bút chì hình vũ công ba-lê của danh họa Degas. “Anh có chắc mình không phải dân đồng tính không đấy?”

Anh đứng sát tôi rồi tu một hơi dài trên chai bia cổ cao đang cầm trên tay. “Chắc chứ. Tôi lúc nào cũng biết nên đặt chiếc ghế gác chân đơn lẻ vào chỗ nào, cũng như biết làm sao kết hợp cách xài đồ cổ Chippendale với dụng cụ cầm tay Craftsman. Ðây chắc là di truyền rồi.”

Tôi nhớ lại lần ấy anh đã lặng lẽ soi thật kỹ căn hộ của mình rồi lắc đầu, cố xóa đi hình ảnh ấy. “Chúng ta hãy xem những cái mật mã ấy nào,” tôi nói, cố hớn hở tập trung vào công việc thay vì vào sự thiếu tinh tế trong việc trang trí nhà cửa của mình trong khi rõ ràng đó là sở trường của Jack.

Anh dẫn đường vào khu vực được ngăn cách với phòng khách bằng một tấm phông kiểu Nhật Bản. Chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ to tướng, với chiếc máy vi tính Mac nằm chễm chệ ngay chính giữa một đống giấy tờ, chiếm hầu hết cả cái bàn, những bức tường để lộ gạch được bao phủ bởi những giá sách hiện đại bằng thép chứa đầy sách. Một tấm thảm Ba Tư màu dịu bao phủ sàn gỗ, làm ấm không gian và biến nó trở thành thiên đường ẩn dật cho một nhà văn. Một chiếc ghế đệm dài bằng da lạc đà lộn được đẩy sát vào một bức tường, và tôi đoán đây chắc phải là nơi anh dùng ngả lưng khi anh tập trung viết sách - cứ xem như anh đã từng phải tạm ngưng không liên lạc với thế giới bên ngoài vậy. Anh chàng Jack Trenholm mà tôi biết chưa bao giờ là người thiếu chữ nghĩa.

“Ðến đây nào,” anh nói và chỉ vào chiếc ghế xa-lông. Anh cầm lên một cuộn giấy vẽ rồi trải nó ra trước khi đặt lên sàn nhà. Rồi anh quỳ gối lên một bên và đè xuống hai góc, và tôi cũng làm tương tự ở phía bên kia. “Ðây là phần mà tôi đã chà sáp trên đồng hồ - và, như cô đã thấy lần trước, chúng chẳng mang ý nghĩa gì cả.”

Tôi nhìn vào cuộn giấy nhăn nhúm ở phần đỉnh và những con chữ khác nhau được vẽ bằng bút chì và không theo thứ tự rõ ràng nào cả: IFANKRNGMFEFIVEEMNROQNPDKNIASRKE.

“Như cô thấy đấy, ở phần đỉnh đây tôi đặt những chữ cái trong những cái cột theo thứ tự của chúng trên bề mặt. Bắt đầu từ lúc không giờ - cũng khá lô-gic, vì xem đây là khởi đầu của một ngày.”

Tôi xem xét mặt giấy, lần này để ý thấy rằng ở phần cuối tờ giấy là bảng chữ cái được viết từ A đến Z ngang qua chiều rộng của tờ giấy. Còn tờ giấy bên dưới những chữ cái này đã bị bôi xóa đến gần rách bằng cục tẩy vì, theo tôi nghĩ, những nỗ lực của Jack trong việc tìm ra một từ khóa có thể sử dụng để giải mã.

“Cái bảng này sử dụng như thế nào đây?” tôi hỏi và thấy nó có vẻ quen thuộc. Bà ngoại tôi từng rất thích chơi đủ loại ô đố chữ, và bà cũng rất thích chế ra những ô chữ cho tôi giải. Nhà của bà thời ấy có một phòng dành cho tôi và phòng ấy luôn chứa đầy sách chơi giải ô chữ. Tôi đã nhớ thật nhiều những cuốn sách ấy sau khi tôi chuyển sang ở với ba. Có lẽ những quyển sách ấy giờ đây vẫn còn nằm trong hộp trên gác mái của ngôi nhà hoặc đã bị quẳng đi từ đời nào cũng nên.

“Nếu biết được từ khóa, ta chỉ cần viết nó bên dưới bảng chữ cái, bắt đầu với chữ “A” sao cho mỗi chữ cái trong từ khóa có một chữ cái tương ứng từ bảng chữ cái này. Rồi, sau khi đã viết ra từ khóa ấy, ta bắt đầu một bảng chữ cái mới ngay sau nó - nhớ bỏ ra những chữ cái đã được tìm thấy trong từ khóa này.”

Anh cầm lên cây bút chì trên bàn làm việc rồi viết “CERCA TROVA” bên dưới bảng chữ cái, cẩn thận viết những chữ cái cho ngay hàng trong mỗi cột. “Mình không được để cho từ khóa có bất kỳ chữ cái nào lặp lại, nhưng tôi đã từng giải được ô chữ khi chỉ cần bỏ đi chữ cái nào lặp lại chữ đã có khi nó xuất hiện lần thứ hai.” Anh gạch bỏ chữ “A” trong từ “TROVA” vì nó đã xuất hiện trước đó trong từ “CERCA”, rồi viết phần còn lại của bảng chữ cái theo sau nó, cẩn thận không viết lại bất cứ chữ cái nào có trong từ khóa. Khi đã xong, anh nhìn tôi chờ đợi. “Xong rồi, cô đọc chậm cho tôi những chữ cái có trên đồng hồ nhé, từng chữ một.”

Tôi liếc lên trên tờ giấy vẽ, nơi Jack đã viết những chữ cái to đậm rồi đọc lớn cho anh nghe. “I, F, A, N, K, R, N, G…”

“Chờ tí, tôi không theo kịp.” Anh bắt đầu đảo những chữ cái ấy để tạo mật mã bằng cách tìm chữ cái trong bảng chữ cái chính, và rồi tìm chữ cái tương ứng của nó trong bảng chữ cái anh vừa tạo ra bằng cách dùng từ khóa “CERCA TROVA”. Tôi nghiêng người nhìn qua vai anh để xem mình có thể nghĩ ra được từ gì hay không. Từ trang giấy này, những chữ cái BTCIFMIO đập vào mắt tôi. Jack thảy cây bút chì xuống sàn. “Mẹ kiếp. Ðó không phải là mật mã đúng. Những chữ cái này chẳng hợp lại thành một từ nào cả.”

“Hay là ông Vanderhorst đã đảo lộn các chữ cái này để sau khi mật mã được giải xong thì bất kỳ ai đã giải được phải có nhiệm vụ sắp xếp chúng lại để có được câu trả lời thật sự.”

“Cũng có thể lắm, nhưng thông điệp này lại quá dài và không hề có khoảng cách giữa các chữ khiến cho việc giải mã gần như là bất khả. Và vụ này là để dành cho con trai ông ấy - để tránh những con mắt tò mò tọc mạch cũng như không để lạc vào tay người chuyên giải mật mã.” Anh gãi đầu. “Tôi sẽ hoàn tất những chữ cái còn lại trong bộ mã này trong trường hợp chúng ta phải xem lại từ đầu và xem chúng ta có cần xới tung nó lên lần nữa hay không.”

“Xê ra nào,” tôi nói và dịch chuyển những quyển sách ra các góc để chặn lên tờ giấy rồi ngồi xuống cạnh Jack. “Bọn mình hãy ngồi đây và nghĩ ra thật nhiều từ hoặc cụm từ mà Robert Vanderhorst có thể đã sử dụng. Mình nhất định sẽ tìm ra được gì đó.”

“Ðược thôi. Ðể tôi đi lấy chai bia đã. Tôi lấy cho cô một chai luôn nhé? Bia này không có cồn nhưng uống cũng khá ngon.”

“Cám ơn anh, nhưng chỉ một chai thôi nhé. Tôi nghĩ là việc này sẽ không mất nhiều thời gian đâu.”

Anh nhướn một bên mày nhưng không nói gì, chỉ đi vào bếp và mang ra hai chai bia.

Sau ba tiếng đồng hồ và thêm ba chai bia nữa, Jack và tôi đã viết ngoáy hết toàn bộ những tập giấy viết trong phòng làm việc, sử dụng tất cả những từ khóa mà chúng tôi có thể nghĩ ra, chẳng hạn như “hành lang cổng vòm,” “Nội Chiến,” “Magnolia Ridge,” “Louisa,” “Nevin,” và thậm chí “Ðại tướng Lee.”

Jack ngồi bệt xuống sàn nhà, lưng anh tựa vào những chiếc giá sách, rồi anh quẳng cây bút chì qua bên kia sàn nhà. “Chúng ta nhất định sẽ tìm ra được gì đó, hả?”

Tôi dùng mu bàn tay dụi đôi mắt mệt mỏi của mình. “Có lẽ chúng ta cần phải sắp xếp lại thứ tự các con chữ mà chúng ta tìm được khi dùng từ cerca trova.”

Jack lắc đầu, rồi nhắm mắt lại. “Tôi đã nhìn thấy những chữ này ở đâu rồi nhỉ? Nó khiến tôi phát điên lên được.” Anh nhìn vào đồng hồ. “Cũng muộn rồi, và Thư viện Lịch sử đóng cửa lúc bốn giờ. Hay là chúng ta đi ra ngoài, biết đâu có cái gì khác lại nảy ra trong đầu thì sao.”

“Nghe được đấy,” tôi nói và để anh kéo tôi đứng dậy. Tôi chẳng hứng thú về việc gặp gỡ người bạn làm ở thư viện của anh, và đầu óc tôi bắt đầu đau nhức, nhưng tôi cứ nhìn thấy gương mặt của ông Vanderhorst trong lần cuối cùng tôi gặp ông khiến tôi có cảm giác thôi thúc vốn đã lẩn tránh tôi cho đến tận bây giờ.

“Chúng ta đi đâu đây?” tôi hỏi sau khi anh đánh vòng xe ghé vào vỉa hè phố Market, vốn hoàn toàn chẳng nằm trong vùng lân cận của Thư viện Lịch sử.

“Tôi phải đi mua hoa. Yvonne rất yêu hoa và sẽ thất vọng nếu tôi đến mà chẳng mang theo gì. Tôi sẽ quay lại ngay.” Anh nháy mắt với tôi trước khi bước ra khỏi xe.

Tôi khoanh hay tay trước ngực rồi lặng lẽ nhại lại cái tên “Yvonne” khi ngồi một mình trong xe.

Jack mang về một lẵng hoa hồng vàng và nhờ tôi ôm chúng. “Màu vàng là màu ưa thích nhất của người ấy,” anh nói thêm.

Tôi ôm lẵng hoa trên đùi cho đến khi chúng tôi về đến Dinh thự Fireproof trên phố Meeting, là nơi tọa lạc của Thư viện Lịch sử. Sự may mắn của Jack trong việc luôn tìm được chỗ đậu xe sát vỉa hè đã không còn, và chúng tôi phải đậu xe trong bãi. Tôi vẫn đang ôm lẵng hoa hồng trên tay khi chúng tôi bước đến tòa nhà với những chiếc mái cổng phong cách Hy Lạp cổ. Mãi đến khi đi được nửa đoạn đường trên những bậc thang thì tôi mới nhận ra điều ấy và dúi những bông hoa ấy lại cho Jack.

Không gian bên trong thật tĩnh mịch, cùng với mùi nước sơn véc-ni và mùi sách cũ. Lồng cầu thang bằng đá có ba bậc mút chìa chiếm lĩnh sảnh cầu thang hình bầu dục và được thắp sáng bởi đỉnh vòm có ô kính trên cùng. Tôi lặng lẽ tự hoan hô mình vì không chỉ nhận biết mà còn hiểu rõ “mút chìa” hay “đỉnh vòm” nghĩa là gì, nhờ vào những cuốn sách của Sophie. Tôi cũng không quên để ý thấy rằng mình thật sự đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong phong cách kiến trúc của một công trình vốn đã được xây từ trước thế kỷ thứ hai mươi mốt.

“Bạn tôi kìa,” Jack nói, còn tôi đứng đợi và nhìn anh bước đến một phụ nữ tóc búi sau gáy đang ngồi ở chiếc bàn dài và đang nghiên cứu một cuốn sách to đang mở. “Yvonne,” anh gọi lần nữa khi anh tiến đến chỗ người ấy đang ngồi. Người phụ nữ ấy quay lại nhìn anh và mỉm một nụ cười rất chân thật hiếm có khi ta làm một người quen bất ngờ tại một nơi mà ta không nghĩ là sẽ gặp được người ấy. Anh trao cho bà ấy lẵng hồng, và bà áp mũi lên chúng.

Jack kéo chiếc ghế của bà ra sau và giúp bà đứng dậy, sau đó quay sang tôi. Tôi suýt vấp ngã khi bước đến đấy, và chợt để ý thấy cây gậy đang dựng dựa vào chiếc bàn cách đấy một sải tay. “Yvonne Craig, xin giới thiệu với bà đây là Melanie Middleton.”

Yvonne chìa tay ra cho tôi nắm, và tôi ngạc nhiên vì sức mạnh của bàn tay ấy khi bắt tay bà. Bà nhỏ nhắn và ăn mặc thật đẹp, với đôi mắt nâu thông minh và sáng lấp lánh. Bà cỡ khoảng tám mươi tuổi. Bà mỉm cười, để lộ ra hai hàm răng giả trắng bóng hoàn hảo. “Vậy cô đây là người may mắn đã được thừa kế ngôi nhà của Nevin. Tôi cứ luôn tự hỏi ông ấy sẽ làm gì với nó sau khi ông ấy mất. Middleton, có phải cháu vừa nói đến cái tên ấy không?”

“Dạ phải,” tôi nói, hăm hở lẩn tránh những câu hỏi kế tiếp chắc chắn sẽ xảy ra về ba mẹ tôi. “Thật vinh hạnh được biết bà ạ,” tôi nói. “Jack đã kể với cháu rất nhiều về bà.”

Yvonne khiến tôi ngạc nhiên khi bà ấy cười khìn khịt. “Ha ha! Ta biết chắc là cậu ấy đã cố tình làm cho cháu tin rằng ta là một cô nàng trẻ đẹp nào đấy và đã phải lòng cậu ta. Chẳng phải là ta sẽ không chộp lấy cơ hội ấy, dĩ nhiên rồi, nhưng ta nghĩ sức sống mãnh liệt của cậu ấy chắc sẽ giết ta mất, chắc cháu cũng hiểu ý ta muốn nói gì chứ.” Bà nháy mắt và tôi không nhịn được cười. “Ðưa cho ta cây gậy nào, chàng trai đáng yêu?”

Khi Jack đưa cho bà cây gậy, tôi máy môi từ sau vai bà cho Jack nhìn thấy, Chàng trai đáng yêu? Nhưng anh chỉ nhướn nhướn đôi mày thay cho câu trả lời.

“Yvonne thích giả vờ như bà ấy là một bà già, nhưng bất cứ ai biết bà ấy đều đồng ý rằng có một cô gái mười tám tràn đầy sức sống đang ẩn nấp bên trong cái vẻ ngoài ấy. Tôi đã chờ đợi nhiều năm để chờ cơ hội, nhưng đám đông đang theo đuổi bà ấy quả khiến tôi cạnh tranh không lại.”

Yvonne vụt gậy vào chân Jack. “Hãy nhớ, chàng trai trẻ ạ, rằng những lời xu nịnh sẽ giúp cậu đạt được mọi thứ đấy.”

“Dạ nhớ,” Jack nói. “Vậy thì, bà đã tìm được gì về Susannah Barnsley chưa ạ?”

“Có đấy, ta đã tìm ra thông tin về người ấy. Và hãy thứ lỗi vì ta làm quá lâu nhưng vì có ai đó vào đây sáng nay và sử dụng quyển sách mà ta cần rồi tự cất nó trở lại vào giá sách - là điều mà họ không được phép làm,” bà nói điều ấy với một cái liếc ngang thật dài. “Và cái kẻ ngu dốt ấy đã nhét cuốn sách vào một chỗ hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với nội dung cuốn sách - chỉ hoàn toàn là do lười nhác, nếu cậu hỏi ta tại sao. Việc ta tìm ra được cuốn sách ấy quả là một phép mầu vì khi ấy ta đang đi tìm một thứ khác cho một khách hàng. Và trong bao nhiêu loại sách trên đời, thì nó nằm ngay đấy, nhét giữa những tấm bản đồ của thế kỷ mười tám.”

“Có lẽ là một thằng nhãi ranh nào đấy,” Jack nói một cách lơ đãng.

Yvonne nhún vai. “Ta chẳng biết đó là ai vì ta không ở đây sáng nay. Ta chỉ biết rằng đã có ai đó đến đây và xem nó vì Priscilla nói với ta như thế khi ta hỏi cô ấy có thấy quyển sách ấy hay không.”

“Ði lối này,” bà nói, chỉ vào một chiếc bàn trong góc phòng với vài bộ sách bọc gáy da dày cộp chất chồng trên đỉnh. Chúng tôi len lỏi đi đến đấy rồi chờ đến khi bà mở quyển sách trên cùng. “Cậu biết không, cậu thật là may đấy. Có một tâm hồn nhân đức nào đó từ bảy mươi lăm năm về trước đã quyết định tìm cho ra hậu duệ của toàn bộ những nô lệ đã từng sống tại đồn điền Barnsley Hall dưới khu Dauphuskie. Ông này là cháu nội của người thợ rèn, và ta nghĩ là ông ta muốn tìm hiểu xem mình có còn ai là bà con thân thuộc còn sống hay không. Căn cứ vào tên họ của Susannah, ta nghĩ mình nên tìm hiểu chỗ này trước tiên.” Bà nháy mắt. “Và, như mọi khi, ta đã đoán đúng.” Rồi bà nhẹ nhàng mở một cuốn sách trông giống như cuốn sổ kế toán, và bọn tôi nhìn chằm chằm vào những nét chữ viết tay li ti đến không tưởng và viết đầy từng dòng trong cuốn sách.

“Ðừng hoảng hốt, cưng à,” bà nói với tôi. “Ta đã tìm ra thông tin mà cô cần và đã sao y bản chính cho Jack lưu lại. Nó cũng không nhiều chi tiết lắm đâu - chỉ là về ông bà cha mẹ của bà ta là ai - và đáng lưu ý nhất là chi tiết ông của bà ta là người da trắng. Bà ấy lớn lên ở khu Bắc Charleston, mẹ của bà làm nghề giặt ủi tại đấy. Ðó là toàn bộ thông tin ta biết về tuổi thơ của bà ấy. Mảnh thông tin cuối cùng là phần có liên quan nhiều nhất, ta nghĩ thế, là bởi vì nó có ghi rằng ở tuổi mười chín, bà ta dọn đến Charleston và sống ở phố Chalmers. Ðó là một ngôi nhà khang trang, trong khi bà ấy không được học hành và cũng chẳng có tiền của gì.”

Yvonne bĩu môi. “Bởi vì cậu đã cho ta địa chỉ cuối cùng được biết đến của bà ấy, nên ta không gặp trở ngại nào trong việc tìm hiểu về hồ sơ chủ sở hữu của ngôi nhà ấy. Và mảnh thông tin này có thể nói là hơi... gây sốc, nếu ta có thể dùng từ như thế.”

Bà đẩy một tập hồ sơ bằng giấy dày màu vàng nâu lên bàn cho tôi. “Ta nghĩ rằng cô Middleton phải là người đầu tiên được xem hồ sơ này.”

Tôi nhìn Jack, và anh gật đầu. Tôi lật trang bìa và nhìn thấy bên trong những tờ giấy sao y chằng chịt những dòng chữ viết tay nặng nề.

“Ta nghĩ nó nằm ở trên cùng thì phải,” Yvonne nói.

Tôi cầm lên trang đầu tiên và đọc kỹ tờ giấy. “Ðó là hợp đồng thuê nhà,” tôi nói, rồi đọc lướt xuống dưới, phần dành cho chỗ ký tên. Và chính chỗ này, viết bằng mực đen đậm, là chữ ký của ông Augustus Middleton.

Tôi bật ngược người lại và Jack cầm lấy tờ giấy từ tay tôi. “Ðó là... đó là ông nội của cháu. Tại sao ông ấy lại ký hợp đồng thuê nhà cho Susannah Barnsley nhỉ?”

Cả Yvonne và Jack cùng nhìn tôi với cùng một vẻ ngạc nhiên pha lẫn thú vị. Tôi chớp mắt khi sự thật bỗng vỡ òa trong đầu. “Ồ, ông ấy... ồ, tôi hiểu rồi.” Phản ứng đầu tiên của tôi là cảm giác nhẹ nhõm - nhẹ nhõm vì Robert Vanderhorst đã không có tình nhân. Mặt khác, tôi chưa bao giờ gặp ông nội nên chẳng cảm thấy xấu hổ hay ngạc nhiên khi biết rằng ông ấy ít ra cũng có thói tật như thế này.

“Rõ ràng là họ đã cặp với nhau trong mười năm - rồi sau đó ngôi nhà được cho người khác thuê, với bất kỳ giá nào. Bà ấy đã dọn ra khỏi ngôi nhà ấy vào năm một chín ba mươi.”

Jack cất tờ giấy trở lại vào tập hồ sơ. “Bà ấy đã dọn đi đâu nhỉ?”

Yvonne mỉm cười rạng rỡ. “Ta biết là cậu sẽ hỏi ta câu ấy - cho nên ta cũng đã tự mình tìm tòi đôi chút để xem có thể tìm ra gì không.” Rồi bà cười ngoác miệng giống như con mèo Cheshire trong truyện Alice lạc vào xứ thần tiên, và tôi biết rằng bà ấy đã đào đúng mạch. “Việc những người làm việc ở Thư viện Lịch sử như ta vốn chỉ chuyên về vùng Nam Carolina này không có nghĩa là ta và họ không bao giờ cần phải đi hỏi thông tin ở nơi khác. Thật ra đã rất nhiều lần ta đã phải làm như thế - và tương tự - những hội ban chuyên ngành khác cũng có lúc phải hỏi thông tin từ nơi này. Và đó cũng là việc tốt thôi.”

“Tại sao lại như thế?” Jack châm chọc.

“À, trước hết ta đã tìm trong những bản lưu trữ của bưu điện để xem có địa chỉ chuyển tiếp nào không. Chẳng có gì trong đó cả - việc này cũng hơi lạ. Nó khiến ta nghĩ rằng bà ấy đang cố tình ẩn dật hay gì đấy. Mà thôi, ta nghĩ rằng hầu như nơi nào cũng yêu cầu đặt cọc khi thuê nhà và sau đó được trả lại khi dọn ra. Ðúng là cũng bõ công ta thử tìm hiểu xem có cái séc nào đã được gửi đi sau khi Susannah dọn ra hay không. Rất có khả năng là nó được gửi lại cho ông Augustus, bởi vì ông ấy đã trả tiền thuê nhà. Nhưng nếu nó không được gửi cho ông ấy thì sao? Bà ta đã sống ở đấy trong mười năm cơ mà. Có lẽ chủ nhà nghĩ rằng số tiền cọc ấy thuộc về bà ta.”

“Thế thì, bà đã tìm được gì nào?” Jack ngồi lên góc bàn, sự mất kiên nhẫn của anh chỉ được lộ ra bởi những tiếng lắc rắc nhẹ từ xương hàm của anh.

“Cậu thật may mắn, vì vị chủ nhà này lưu giữ sổ sách cực kỳ tỉ mỉ - bao gồm cả những địa chỉ mà ông ấy đã từng gửi thư tín cho những người thuê nhà cũ.” Bà lại nhìn chúng tôi và mỉm cười đầy mãn nguyện trong khi bà lật nhanh các trang giấy trong tập hồ sơ, rồi lấy ra một mảnh giấy sao y trong đó có ghi địa chỉ bằng chữ viết tay. “Ta nghĩ rằng có lẽ cậu sẽ cần có cái này để tiện bề tham khảo, nên ta đã sao y một bản cho cậu. Trong khi chờ cậu đến, ta cũng đã lên mạng và tìm số điện thoại của bà ấy. Ta tự ý gọi cho bà ấy luôn và xin gặp Susannah. Người phụ nữ trả lời điện thoại chắc hẳn phải là điều dưỡng hoặc bạn bè hay gì đó bởi vì chị ấy bảo ta rằng Susannah đang ngủ nhưng sẽ vui lòng gọi lại sau. Ta bảo chị ta là không, cám ơn, rồi cúp máy.” Ðôi mắt bà ánh lên. “Ta nghĩ như thế có nghĩa bà ấy còn sống.”

Jack cầm lấy tờ giấy từ tay bà và nhìn vào đấy. “Susannah Barnsley, một-không-hai phố Orchard Lane, thành phố Colchester, tiểu bang Vermont.” Mắt chúng tôi giao nhau, và tôi biết cả hai đều nhớ lại mảnh giấy từ chiếc bao thư mà chúng tôi tìm được trong khung hình, là phần có ghi tên của Susannah nhưng chỉ có chữ “Orchard Lane” cho phần địa chỉ.

Vẫn ôm khư khư mảnh giấy trong tay, Jack trượt ra khỏi bàn và ôm chầm lấy bà lão ấy - là điều rõ ràng làm bà thích, nhìn vào nụ cười mỉm nhẹ nhàng của bà cũng như cái cách mà bàn tay gầy guộc ấy vỗ nhẹ lên vai anh thì đoán được ngay. “Bà thật tuyệt vời, bà Yvonne ạ. Nếu là cháu thì có lẽ sẽ phải mất vài tuần mới tìm ra được bất cứ thông tin nào mà bà tìm được đấy.” Rồi Jack đặt cho bà đứng trở lại.

“Cậu chỉ cần biết tìm đúng chỗ thôi, chàng trai đáng yêu ạ.” Bà liếc lên nhìn anh và đúng là bà đang chớp chớp hai hàng mi. “Ta nghĩ việc này cũng có nghĩa là cậu nợ ta một bữa ăn tối đấy nhé.”

“Lại nhà hàng Blossom hay là bà thích đi ăn thử ở nơi khác?”

“Blossom thôi. Ta sẽ gọi cho cậu để hẹn ngày giờ.” Rồi bà nháy mắt với tôi. “Và cô Middleton đây xin cứ tự nhiên tham gia cùng chúng tôi nhé.”

“Cháu rất vui lòng,” tôi nói, cầm lấy tay bà bằng cả hai tay và siết chặt. Ðiện thoại di động trong ví tôi bắt đầu reng nên tôi xin phép đi ra ngoài để Jack và Yvonne có thể chào tạm biệt nhau, rồi ra khỏi tòa nhà để trả lời điện thoại.

Khi tôi vừa ra ngoài thì cuộc gọi đã chuyển vào hộp tin nhắn. Tôi bấm nút để bật tin nhắn lên và nghe thấy tiếng của Marc, anh muốn hủy cuộc hẹn với tôi vào đêm ấy vì anh vừa có việc gấp phải đi xa vào giờ chót. Giọng nói mượt mà của anh thật khác với giọng của Jack. Ðầy tự chủ và gợi cảm hơn nhiều, nhưng cũng gần như là do cố ý nữa. Tôi dập máy điện thoại, tự nhủ làm quái gì mà tôi lại đi so sánh giọng nói của hai người đàn ông ấy với nhau chứ.

Tôi vừa cho điện thoại vào túi xách thì Jack cũng vừa trờ tới từ tòa nhà. “Marc vừa gọi,” tôi nói. “Anh ấy có việc phải đi xa và do đó phải hủy kế hoạch tối nay với tôi.”

“Thật là tiếc quá,” Jack nói, giọng nói và nét mặt của anh chẳng biểu cảm gì. “Như thế thì mình có thêm thời gian để giải mã tiếp. Và cũng để lên kế hoạch đi Vermont luôn.”

“Bọn mình sẽ đi Vermont à?”

“À, tôi nghĩ là cô có thể ở lại, nhưng có lẽ nếu được gặp trực tiếp bà Susannah thì sẽ thú vị hơn là chờ nghe tôi kể lại toàn bộ mọi việc.”

“Ðúng thế, nhưng chúng ta không thể gọi điện cho bà ấy được sao?”

“Gọi thì cũng được đấy, nhưng kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu cho tôi thấy rằng mình tìm hiểu được rất nhiều nếu đi gặp trực tiếp nguồn thông tin mà mình khai thác. Cô muốn đi với tôi hay không thì tùy cô thôi, nhưng tôi thì chắc chắn sẽ đi đấy.”

Tôi suy nghĩ một lúc, nhớ lại rằng công việc của tôi hiện không có gì quá quan trọng, và rằng dù sao thì Marc cũng không ở đây nữa. “Ðược thôi,” tôi nói và đi theo anh xuống những bậc thang xuống phố, nhận ra rằng ý nghĩ có thể giải được mã và gặp gỡ một người vốn có thể đã từng biết Louisa và Robert, và cũng là người chắc chắn đã từng biết ông nội của tôi, nghe thật hấp dẫn hơn nhiều so với việc đi ăn tối và ngắm pháo hoa cùng Marc. “Tôi nghe nói hoa lá mùa này ở vùng New England đẹp tuyệt vời.”

Jack nháy mắt với tôi. “Thế có ngoan không. Nào, giờ thì hãy quay về căn hộ của tôi và bọn mình sẽ tìm việc gì đó để cùng làm với nhau.”

Tôi nhướn mày trong khi anh mở cửa xe cho tôi.

Anh lắc đầu giả vờ phẫn nộ. “Ðể giải mã chứ còn làm gì nữa. Ðừng có nghĩ bậy nào, Mellie.”

“Tôi nghĩ là tôi sẽ đòi được đi ăn tối ở nhà hàng Jestine vì đã giúp anh đấy.”

“Cô có nói gì với Yvonne sau lưng tôi không thế?”

“Không hề,” tôi nói, tập trung nhìn vào con đường trước mặt. “Chỉ là tôi tự dưng lại khao khát món bánh kem dừa thôi.”

Anh cười hềnh hệch. “Tôi cũng thế.” Anh nói và tôi cười giòn khi anh bẻ lái đánh xe xuống đường và quay về phố Queen.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Anh có thử “Thành phố Thánh” chưa? Tôi hỏi Jack khi chúng tôi đang ngồi trong máy bay của hãng Delta trên đường băng của Phi trường Quốc tế Charleston. Trước và sau bữa-ăn-làm-tắc-nghẽn-động-mạch-vành ở nhà hàng Jestine vào đêm trước ấy - bao gồm một rổ gà rán và bánh bông lan bắp phết bơ mật ong - thì chúng tôi vẫn tiếp tục tìm cách giải mã về chiếc đồng hồ ấy, một lần nữa lại đưa ra tất cả những từ hoặc cụm từ mà chúng tôi có thể nghĩ ra. Ðể tạm nghỉ, chúng tôi đã lần lượt xoay chuyển các chữ số La Mã tìm được ở đài phun nước nhưng cuối cùng thì cũng chỉ đạt được kết quả như nhau: hoàn toàn không có gì.

“Ừ. Và cả Thánh Michael, Thánh Philip, và cả Khu di tích Battery. Sắp tới tôi sẽ thử với các từ Jihad, Hussein, và Iraq.”

Tôi nhìn anh, hoàn toàn bối rối. “Tại sao lại phải làm thế?”

“Bởi vì tôi nghĩ rằng đó là những từ duy nhất trong từ điển mà chúng ta chưa sử dụng đến.” Rồi anh liếc dài sang tôi. “Nói đùa thôi mà.”

“Tôi biết,” tôi nói rồi lại tập trung vào tập giấy viết trước mặt và viết những chữ “Vườn White Point” vào bộ mã.

Tiếp sau đó chúng tôi trải qua năm tiếng rưỡi đồng hồ của chuyến đi - ngoại trừ thời gian quá cảnh ở Atlanta - hết giải mã rồi lại ngủ. Chúng tôi đáp xuống thành phố Burlington, tiểu bang Vermont, khoảng chín giờ tối, thuê một chiếc xe, và thuê hai phòng trọ gần đấy để tiết kiệm thời gian lái xe đến Colchester vào buổi sáng và kịp đáp chuyến bay quay về lại Charleston sau đó.

Tôi ngủ chập chờn, cứ choàng tỉnh giấc vì những bộ mã quay cuồng trong đầu và tự hỏi không biết có phải Jack cũng đang nghĩ đến cuộc gặp ngày mai với Susannah Barnsley hay không. Jack đã nói chuyện ngắn gọn với bà ấy trên điện thoại, giải thích cho bà chúng tôi là ai và xin phép cho chúng tôi được gặp mặt. Ban đầu bà ấy có vẻ ngần ngại nhưng khi anh giải thích rằng tôi là cháu nội của ông Augustus Middleton thì bà đổi ý. Bà đã đồng ý gặp chúng tôi nhưng không nói gì thêm, và đầu tôi đầy rẫy những nghi ngờ rằng bà chẳng có gì cho chúng tôi biết thêm và rằng chuyến đi của chúng tôi chỉ là vô bổ và tốn thời gian mà thôi.

Tôi cảm thấy bức bối khó chịu vào sáng hôm sau trong khi chúng tôi ghé tiệm thức ăn nhanh mua cà phê và đồ ăn sáng trước khi lái xe đi Colchester. Jack thì vui vẻ hoạt bát và trông có vẻ như anh đã ngủ ngon đêm qua, việc này càng khiến tôi cáu kỉnh hơn khi anh chúc tôi một buổi sáng tốt lành.

Chúng tôi gõ địa chỉ của Susannah vào thiết bị dẫn đường GPS và lái đi theo chỉ dẫn của nó qua vùng quê lạnh giá của Vermont. Tôi biết chắc chắn rằng phong cảnh ở đây rất hữu tình và đầy màu sắc nhưng tôi chẳng còn lòng dạ nào mà thưởng thức vẻ đẹp của nó bằng đôi mắt sưng mọng và ngứa ngáy của mình. Jack cũng biết điều nên cứ giữ im lặng.

Ngôi nhà chúng tôi đang tìm quả là hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi cứ nghĩ chắc chắn Susannah sẽ muốn sống trong một ngôi nhà kiểu miền Nam truyền thống, giống như ngôi nhà cũ của bà ở Charleston, chứ không phải kiểu nhà gọn ghẽ và trắng toát với những hàng rào cọc cũng trắng cùng với những cánh cửa sổ giả kiểu Pháp màu đen trước mặt tôi như thế này. Tuy nhiên, tôi biết rằng chúng tôi đã tìm đúng nhà khi tôi nhìn khu vườn có cổng rào ở phía sau nhà. Ở Vermont vào cuối thu như thế này, các khóm hoa và bụi cây đã phai tàn hết sắc màu, nhưng chính cái tổng thể tinh khiết của nó đã khiến tôi nghĩ rằng đây chắc chắn là nơi cư ngụ của một người gốc Charleston.

Chúng tôi đứng trên bậc thềm bằng gạch được quét tước sạch sẽ, và Jack bấm chuông cửa. Có tiếng bước chân vội vã từ bên trong, rồi một người phụ nữ trạc ngoài năm mươi và ăn mặc gọn gàng ra mở cửa.

“Xin chào,” bà chào chúng tôi. “Tôi là bà Marston. Tôi chăm sóc cho bà Barnsley.” Rồi bà mở rộng cửa hơn. “Xin mời vào. Chúng tôi đang chờ quý vị đến đây.”

Ngôi nhà được trang hoàng bằng đồ cổ, nhưng không phải theo phong cách tầm thường thực dụng thường thấy trong một ngôi nhà vùng quê Vermont. Trái lại, đây là những món đồ rất tao nhã mà nếu được bày biện trong ngôi nhà trên phố Tradd thì sẽ hợp thời hợp cảnh hơn.

Ngọn lửa réo gào chào đón chúng tôi khi cả hai bước vào phòng khách chính, và tôi suýt không để ý thấy người đàn bà nhỏ thó được dựng ngồi lên bằng nhiều chiếc gối trong chiếc ghế bành khổng lồ đặt cạnh lò sưởi. Mặc dù bà đã cao tuổi, tôi đoán cũng cỡ chín mươi, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra bà từ tấm hình. Bà có rất ít nếp nhăn trên gương mặt da nâu nhạt ấy, như thể bà đã mất cả đời chăm sóc nó, còn đôi mắt màu xanh lá cây của bà thật to và đầy sức sống, hoàn toàn ngược lại với tuổi tác của bà.

“Trông cô thật giống ông nội của cô đấy,” bà nói bằng một giọng thật khỏe và cùng với nó vẫn còn âm hưởng nhẹ nhàng và ngữ điệu phảng phất của Charleston. Nó khiến tôi cảm thấy như đang ở quê nhà.

“Thật thế à?” Tôi hỏi bà, rồi tiến lên phía trước và cầm lấy cánh tay của bà vừa chìa ra. Chúng tôi bắt tay, cái nắm tay của bà khá khỏe, rồi tôi giới thiệu bà với Jack. Tôi có thể nhận thấy đôi mắt bà sáng lên chứng tỏ sức mê hoặc của Jack rõ ràng là không vượt ra khỏi sự quan sát ấy. Nhớ lại phản ứng tương tự của Yvonne với Jack, tôi tự nhủ sau này nhớ phải nói với Jack rằng nếu nghề viết của anh không phất lên được thì anh luôn luôn có thể chuyển sang làm giám đốc quan hệ khách hàng cho nhà dưỡng lão. Hoặc làm trai bao.

Bà Marston mang đi áo khoác của tôi và Jack rồi chúng tôi ngồi lên chiếc ghế sô-pha đối diện với bà Susannah, hơi ấm từ ngọn lửa thấm dần vào cơ thể lạnh ngắt của tôi. Bởi vì tôi là dân sinh trưởng ở Nam Carolina nên nếu nhiệt độ xuống dưới mười bốn độ C là quá lạnh đối với tôi rồi. Bà Marston rời khỏi phòng để lấy khay trà, để chúng tôi có thể nói chuyện riêng với nhau.

Jack mở màn. “Cám ơn bà Barnsley, vì đã cho phép chúng cháu đến thăm viếng. Chắc bà cũng lấy làm lạ khi bỗng dưng lại nhận được cú điện thoại từ Charleston hoàn toàn bất ngờ như thế này.”

“Thật ra thì cũng không đến nỗi lạ lắm đâu. Cuộc gọi của cậu là cuộc gọi thứ ba trong những ngày này đấy.”

“Thật sao?” Tôi hỏi. “Bà có biết những người kia không?”

“À, hai cuộc gọi đầu mà bà Marston nói cho ta biết thì người gọi chỉ cúp máy, nên ta cũng không rõ. Tuy nhiên, bà ấy đã nhận ra mã vùng, nên ta biết cuộc gọi từ đâu đến. Rồi khi cậu gọi, ta nghĩ hai lần gọi trước cũng là từ cậu luôn.”

Tôi nhớ rằng Yvonne có kể cho chúng tôi biết rằng bà ấy đã gọi để xem Susannah còn sống hay không và tôi cho rằng bà đã gọi hai lần và quên đề cập đến việc ấy.

Jack rướn người lên phía trước, hai khuỷu tay anh đặt trên hai đầu gối. “Dạ, cháu cũng mừng là đã báo trước cho bà về cháu nội của ông Middleton, vì cháu biết rằng việc gặp Melanie sẽ gợi lại nhiều kỷ niệm xưa cho bà.”

“Ðúng đấy. Thật sự là như thế. Nhưng gần như toàn là kỷ niệm đẹp thôi.” Bà mỉm cười, nhưng đôi mắt bà dường như lại hướng nội và quay về một thời kỳ khác, một địa điểm khác. Tôi bỗng cảm thấy chóng mặt trong một thoáng, như thể tôi đang du hành cùng với bà, và cả hai chúng tôi đều đang quay lại Charleston và rằng tất cả trong tim bà chỉ có ông nội của tôi mà thôi. Bà ấy đã yêu ông nội thật nhiều, tôi nghĩ. Bà lại nhìn thẳng vào tôi và đôi mắt bà long lanh, và tôi có một ý nghĩ lướt qua rằng bà đã cảm nhận tôi trong đầu. “Thế thì cô cậu muốn biết về việc gì nào?”

Tôi mở túi xách và lấy ra tấm hình của bà mà tôi đã kẹp lại giữa hai miếng bìa các-tông cứng. “Ðây có phải là bà hay không?” Tôi hỏi.

Bà cầm nó bằng cả hai tay, móng tay của bà được cắt tỉa gọn gàng và sơn nước bóng. Bàn tay bà hơi run rẩy khi bà săm soi tấm hình. “Ðúng rồi,” bà khẽ nói. “Ðó là ta đấy. Hay nói đúng hơn, đó đã là ta. Gus cho chụp tấm hình này. Ta chỉ nhìn thấy nó một lần - anh ấy bảo anh thích giữ tấm hình này bên mình.”

“Vậy thì, theo như bà biết, tấm hình này đã luôn luôn ở bên ông Gus,” Jack xen vào.

Susannah gật đầu. “Theo như ta biết, đúng là như thế.”

Tôi nhìn Jack trong khi anh gật đầu, như đã biết chắc chắn rằng Robert và Augustus chắc hẳn đã cùng nhau lên kế hoạch cho những gì vào trong chiếc hộp ấy cho Nevin.

Jack tiếp tục. “Bà có quen thân với ông Robert Vanderhorst hay không?”

“Không thân chút nào. Dĩ nhiên, thời ấy thì khác xa bây giờ nhiều. Ngày nay dân tình thuộc đủ màu da đều được tự do bước vào bất kỳ giới quan hệ xã hội nào. Nhưng còn thời xưa ấy, vị trí của tôi không hề đồng đẳng với gia tộc Vanderhorst và Middleton.”

“Nhưng bà đã từng là tình nhân của ông Gus Middleton phải không?”

Bà không tỏ vẻ ngạc nhiên hay bực bội trước sự thẳng thừng của Jack. Thay vào đó, bà chỉ mỉm cười với anh. “Ðúng, ta đã từng. Anh ấy thậm chí còn muốn cưới ta nữa nhưng ta biết việc ấy thật điên khùng, và không chỉ là vì ta trẻ hơn anh ấy đến mười tám tuổi. Ta biết anh ấy có tình cảm như thế nào với ta, và ta không cần một chiếc nhẫn để chứng minh việc ấy. Nếu cưới ta, anh ấy sẽ phải từ bỏ tất cả mọi thứ - bạn bè thân hữu, nghề luật sư, vị trí xã hội của mình. Và đó sẽ là việc mà ta và anh ấy không muốn làm. Một ngày nào đó, anh ấy sẽ nhận ra rằng anh ấy đã mất tất cả những thứ ấy, và sẽ không có cách nào để lấy lại.” Bà lắc đầu. “Không, không đâu. Ta và anh ấy đã hài lòng với mọi việc vào lúc ấy. Trong một khoảng thời gian, nói đúng hơn là như thế.”

“Thế thì tại sao bà lại phải bỏ xứ đi xa?” Tôi hỏi và tự nhủ không biết bà nội tôi đã cảm nhận về việc này như thế nào. Nhưng bà nội thì trẻ hơn ông nội rất nhiều, và tôi chợt nhận ra rằng mãi đến tận năm một chín bốn mươi hay bốn mốt gì đấy thì hai người mới cưới nhau - khoảng mười năm sau khi Susannah đã rời bỏ Charleston vĩnh viễn.

Susannah nhìn xuống hai bàn tay nhỏ bé của mình, lúc này đang xếp gọn gàng trên chiếc mền len đan đặt trên đùi. “Bởi vì anh Gus muốn thế.”

Những lời của bà âm vang trong căn phòng yên lặng trong một lúc. “Xin phép cho cháu hỏi tại sao, nếu bà không phiền ạ?” Tôi bắt đầu thoáng cảm nhận một chút phấn khởi. Sự ra đi của bà ấy trùng hợp với việc Louisa mất tích, và kể từ khi tôi bắt đầu cố làm sáng tỏ sự kỳ bí xoay quanh việc gì đã xảy ra với mẹ của Nevin, thì đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình đang vươn gần đến sự thật hơn bao giờ hết.

Bà Marston bước vào phòng cùng với chiếc khay chất đầy những chiếc bánh mì kẹp thịt nhỏ, các loại bánh ngọt, và trà nóng. Susannah rót trà cho chúng tôi, đôi bàn tay bà rõ ràng rất vững chãi trong khi đôi cổ tay ấy thật mảnh dẻ và mong manh. Sau khi nhận thấy rằng chúng tôi đã có tất cả những thứ cần thiết, bà Marston lại bước ra khỏi phòng, đóng cửa lại sau lưng.

Tôi nhón lấy vài chiếc bánh ngọt cùng một miếng bánh mì kẹp thịt nhỏ đặt vào đĩa và bắt đầu ăn, rồi ngưng nhai giữa chừng khi tôi để ý thấy bà Susannah đang ngắm tôi với nụ cười nửa miệng. “Ông nội của cô cũng thích đồ ngọt lắm. Quả thật là ông ấy cực thích đồ ngọt. Thật vui khi ngày nay ta vẫn còn được nhìn thấy một cô gái trẻ ăn uống ngon lành tự nhiên như thế này.”

Tôi nghe tiếng Jack cười rục rịch trong miệng nhưng tôi không chắc là anh ta cười vì lời nhận xét về sự ăn uống của tôi hay vì tôi vừa được gọi là “cô gái trẻ” khiến anh ta cảm thấy buồn cười.

Bà Susannah chấm nhẹ khăn ăn lên miệng một cách tao nhã. “Trước khi trả lời câu hỏi của cô, ta hy vọng cô không phiền nếu ta được hỏi vài câu của riêng ta trước.”

Tôi để ý thấy Jack đang nhìn chằm chằm vào chân tôi, và tôi hoảng hồn khi thấy nó đang bập lên bập xuống vì sự mất kiên nhẫn không kiểm soát nổi. Tôi đè hai bàn tay lên bắp chân để giữ cho nó yên, rồi mỉm cười với bà Susannah. “Tất nhiên rồi. Bọn cháu sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của bà.”

Bà lão bắt đầu chậm rãi nhấp một ngụm trà, và tôi phải đè hai bàn tay mạnh hơn nữa lên cái chân đang bị kích động của mình. “Làm sao mà cô tìm ra tôi?”

Jack ra hiệu cho tôi trả lời. “Ba của cháu, ông James Middleton - là con trai của ông Gus - đã tìm thấy tấm hình của bà trong chiếc hộp đựng xì gà, cùng với một bức thư cho con trai của Robert là Nevin, cùng với một cuộn phim.” Tôi bắt đầu nhăn nhó. “Cháu e rằng mọi việc đều hơi kỳ bí một chút. Bọn cháu hy vọng rằng toàn bộ những manh mối này sẽ dẫn dắt bọn cháu tìm ra vợ của ông Robert là bà Louisa. Và...” Tôi nhìn Jack chờ anh đồng ý, và anh nhanh chóng gật đầu. “Và thậm chí có lẽ là một manh mối giúp tìm hiểu xem việc gì đã xảy ra với sáu viên kim cương hoàn hảo mà nghe đồn là đã từng do gia tộc Vanderhorst nắm giữ.”

“À, vậy có nghĩa toàn bộ mọi chuyện đều là vì vụ này.” Giọng bà có vẻ thất vọng.

“Thật ra, không phải như thế ạ.” Tôi suy nghĩ trong một thoáng, cố nhớ lại từ lúc nào mà trong những tháng vừa qua tôi đã không còn hăm hở chỉ chăm chăm phục hồi ngôi nhà cổ cho xong nhằm bán kiếm lời, mà thay vào đó mọi việc đã hoàn toàn chuyển sang sứ mạng đi tìm người mẹ mất tích của cậu bé con để báo cho cả thế giới biết rằng bà ấy đã không bỏ rơi con trai của mình. Tôi đã nhận thức rằng ngay từ đầu đây mới là việc quan trọng đối với tôi, kể từ khi tôi đọc lá thư của ông Nevin vào dạo ấy. Gần như thể tôi đã tự thử thách mình trong việc chứng minh cho thế giới thấy rằng không phải người mẹ nào đã bỏ rơi con của mình đều đã cố ý làm thế. Tôi nghĩ đến những lời của ông trong lá thư mà tôi đã thuộc nằm lòng kể từ lúc ấy. Có lẽ số phận đã mang cháu đến trong đời ta giúp đưa sự thật ra ánh sáng để bà ấy có thể yên nghỉ sau những năm tháng qua. Tôi đằng hắng giọng và bắt gặp ánh mắt của bà Susannah. “Ông Vanderhorst - Nevin - đã qua đời mà chẳng bao giờ biết được sự thật về việc gì đã xảy ra cho mẹ ông ấy. Mục đích của cháu là tìm ra sự thật và gột rửa thanh danh cho bà ấy để cả hai cuối cùng có thể yên giấc ngàn thu. Bởi vì cháu biết chắc rằng Louisa đã yêu chồng yêu con thật nhiều. Bà ấy sẽ chẳng bao giờ cố tình bỏ rơi họ đâu.”

Gương mặt bà Susannah hơi chùng xuống. “Vậy là Nevin đã ra đi. Theo một cách nào đó, việc này có vẻ không hợp lý chút nào, vì cậu ấy lại ra đi trước ta.” Rồi bà lắc đầu. “Còn về việc Louisa đã bỏ rơi con trai của mình ấy à, không bao giờ. Nevin là cả cuộc đời của bà ấy.”

Tôi nhìn bà lòng tràn đầy hy vọng. “Vậy là bà có biết bà ấy?”

“Không, ta không quen biết bà ấy. Nhưng ta có biết đến bà ấy qua những trang báo xã hội và từ anh Gus. Chúng ta gọi bà ấy là “phẩm chất ưu tú” trong thời xưa ấy. Thật là một quý bà đúng nghĩa. Và chẳng có một giây nào mà ta tin vào mấy cái tờ báo ấy khi họ phao tin rằng bà ấy đã bỏ trốn với cái gã Joseph Longo chẳng ra gì ấy.”

“Vậy thì... bà đã không biết việc gì đã xảy ra cho bà ấy sao?” Tôi cảm thấy đôi vai mình đổ sụp xuống. Sự trùng hợp về ngày bà Susannah ra đi với ngày Louisa mất tích khiến tôi đã hy vọng họ đã cùng nhau đi lên miền bắc.

Susannah lắc đầu. “Ta xin lỗi, cưng ạ, nhưng thật lòng ta không biết. Gus biết việc ấy, nhưng anh ấy chẳng chịu nói cho ta nghe. Anh ấy chỉ nói rằng càng có ít người biết về việc này thì càng tốt cho tất cả mọi người. Anh ấy còn nói đây là loại thông tin có thể khiến người ta bị giết.” Ðôi mắt sáng của bà ánh lên nhìn tôi, rồi lại quay sang Jack. “Ta nghĩ việc này có nghĩa rằng đã đến lượt ta phải trả lời các câu hỏi của cô rồi.”

Bà ngồi lại và lắc một cái chuông nhỏ đặt trên chiếc rương thấp cạnh chiếc ghế bành của bà. Bà Marston xuất hiện ngay lập tức, như thể bà ấy đã chờ sẵn ngay bên ngoài cửa phòng. Susannah gật đầu nhẹ với bà ấy và bà Marston lại vội vã rời khỏi căn phòng. Tôi cho thêm một cái bánh ngọt vào miệng rồi lắng nghe.

Bà Susannah lại tiếp tục. “Ta không biết toàn bộ chi tiết - chỉ là những gì ta nghe từ anh Gus mà thôi - nhưng ta nghĩ như thế cũng đủ để trả lời câu hỏi của cô.” Jack và tôi chờ đợi trong khi bà lại nhấp thêm một ngụm trà. Bàn chân tôi lại bắt đầu đá lên vì mất kiên nhẫn, nhưng tôi đã kịp kềm và khóa nó lại bằng cả hai tay.

“Vào đêm Louisa mất tích, Gus đến gặp ta. Anh ấy nói với ta rằng có một việc không hay đã xảy ra - anh ấy chẳng cho ta biết việc gì nhưng chỉ nói ta cần rời khỏi thành phố ngay lập tức. Dĩ nhiên, ta không muốn đi. Ta không muốn rời xa anh ấy. Ta đã yêu anh ấy còn hơn cả trái tim của ta nữa, cô cũng thấy đấy.” Bà liếc ra nơi khác trong một khắc. Tôi nhìn những hạt ngọc trai trên chiếc áo len của bà dâng lên rồi hạ xuống, giống như sự thay đổi bất thường của thời gian, rồi chờ đợi cho đến khi bà có thể nói trở lại.

“Anh Gus nói với ta rằng anh ấy cần đưa một vật cho ta mang theo, và rằng không ai được tìm thấy nó. Không bao giờ. Anh ấy biết rằng kẻ nào đấy mà muốn nó thì ban đầu sẽ không nghĩ đến ta, nhưng nếu họ biết ta đang nắm giữ vật ấy, thì ta sẽ bị thủ tiêu ngay. Anh ấy còn nói với ta rằng nếu có ai đó phát hiện ra cái... vật mà anh ấy sẽ đưa cho ta, điều ấy cũng có nghĩa rằng chắc chắn anh ấy và Robert sẽ khó bảo toàn mạng sống. Và thậm chí cả cậu bé Nevin nữa.”

Bà nhìn chúng tôi và cười run rẩy, và Jack đứng lên đi lấy một chiếc khăn sạch trên khay trà đưa cho bà. Bà chậm góc khăn vào mắt và run rẩy thở. “Anh ấy đã hứa với ta rằng anh ấy sẽ chăm sóc cho ta, rằng anh ấy sẽ lo cho ta có một ngôi nhà thật đẹp cho ta ở bao lâu tùy thích và một nguồn tiền không giới hạn trong một ngân hàng nơi ta sẽ đến cư ngụ. Ta sẽ chẳng bao giờ thiếu bất cứ cái gì nếu ta đồng ý việc ấy.” Gương mặt bà nhăn nhúm lại như một cánh hồng đang héo khô. “Nhưng anh ấy đã lầm, cô thấy đấy, bởi vì tất cả những gì ta muốn chỉ là anh ấy mà thôi.”

“Nhưng bà đã đồng ý,” Jack khẽ nói.

Bà gật đầu. “Ðúng. Vì ta biết anh Gus sẽ không nhờ ta nếu đó không phải là một tình huống mang tính sống chết như thế này. Trong mười năm, anh ấy đã cho ta tất cả, và ta chẳng có gì để cho lại ngoài tình yêu mà ta dành cho anh ấy. Ta đã nghĩ thôi thì ít ra đây cũng là một việc mà ta có thể làm cho anh ấy.”

Có một tiếng gõ nhẹ trên cánh cửa, và bà Marston lại bước vào phòng, nhưng lần này bà ấy đang cầm một vật gì đó trên tay. Tôi đứng lên và nhận ra chiếc hộp đựng xì gà của ông nội tôi. Jack cũng đứng dậy, rồi ra hiệu cho tôi ngồi xuống. “Ðó không phải là cái hộp của mình, Mellie à. Nhìn xem, cái khóa vẫn còn đấy.”

Jack đưa tay ra nhận lấy cái hộp, và khi Susannah gật đầu, bà Marston đưa nó cho anh. Cả hai chúng tôi lại ngồi xuống và chờ bà Susannah lên tiếng. “Anh Gus đã giúp ta thu dọn đồ đạc, rồi đưa ta ra ga tàu lửa. Anh ấy mua vé cho ta và ngồi chờ với ta cho đến khi tàu đến. Và rồi... anh hôn tạm biệt và đưa ta cái hộp ấy. Gus nói với ta rằng anh ấy có một đối tác làm ăn, người sẽ đến đón ta tại ga tàu ở Atlanta và sẽ mua vé cho chặng tiếp theo rồi đưa ta lên miền bắc. Gus không muốn biết điểm đến cuối cùng của ta ngộ nhỡ... à, anh ấy sợ rằng ngộ nhỡ sẽ có ai đó đi tìm ta. Anh ấy còn nói rằng đối tác làm ăn này - ta chưa bao giờ biết tên ông ta - sẽ giúp thu xếp tài chính cho ta và đi cùng để giúp ta mua nhà. Gus đưa cho ta một cái gói nhỏ để đưa cho ông ấy, giải thích với ta rằng đó là chi phí để giúp ta trang trải cho chuyến đi và thời gian sắp tới nằm trong đó. Ta cho rằng đó là tiền, nhưng ta cũng không chắc lắm.”

Tôi cảm thấy nghèn nghẹn trong họng. “Bà có bao giờ gặp lại ông nội của cháu nữa không?”

Ðôi mắt bà trở nên xám xịt khi bà trả lời tôi. “Không, cưng à. Ta chưa bao giờ gặp lại anh ấy.” Căn phòng bỗng yên ắng nặng nề, chỉ có tiếng nổ nhẹ lách tách của ngọn lửa trong lò sưởi là vẫn còn đấy. “Anh ấy đã rất yêu ta - ta biết điều ấy. Nhưng anh ấy cũng yêu cả những người bạn và cậu con trai đỡ đầu của anh ấy nữa. Anh ấy đã làm một việc duy nhất mà anh ấy có thể nghĩ đến nhằm giúp cho tất cả mọi người được an toàn, và ta hiểu điều đó.” Bà nhún vai. “Và ta cũng biết, rằng thời gian chúng ta bên nhau cũng đang đi đến hồi kết. Cô thấy đấy, gia đình thật quan trọng đối với anh ấy. Một ngày nào đó anh ấy sẽ sớm muốn có một người vợ và vài đứa con, và ta chẳng thể nào giúp anh ấy trong cả hai việc ấy được. Và anh ấy thật là một người đàn ông sống rất quy tắc nên anh ấy sẽ chẳng bao giờ muốn tiếp tục mối quan hệ với ta trong khi lại đi cưới một người đàn bà khác. Những người đàn ông khác thì có thể làm việc ấy, nhưng Augustus Middleton thì không.”

Bà ưỡn ngực, như thể trong ấy chất chứa đầy tự hào. “Không, ta chưa bao giờ gặp lại anh ấy. Và việc ấy cũng là món quà chia tay của ta cho anh ấy: nó không chỉ giúp anh ấy cứu mạng những người anh yêu thương, mà còn giúp anh ấy có thể chia tay ta nữa.”

Những ngón tay của Jack đã trắng bệch và bấu chặt vào chiếc hộp. “Và bà không hề biết Gus lúc ấy đã sợ ai.”

Susannah lắc đầu. “Không. Và anh ấy đã bắt ta hứa không được đưa chiếc hộp này cho ai khác xem ngoại trừ Nevin. Không một ai. Anh ấy nói rằng khi Nevin lớn lên, cậu ta sẽ được biết sự thật, hoặc ít ra cũng sẽ được dẫn đường để tìm ra sự thật, và cậu ấy sẽ tìm gặp ta ở đây. Ta nghĩ những gì cô tìm được trong chiếc hộp của anh Gus chính là để giúp Nevin tìm ra ta ở đây.”

Jack gật đầu. “Phải. Bọn cháu đoán rằng Augustus đã cất giữ cái hộp ấy cho Nevin, trong trường hợp cha cậu ta có mệnh hệ nào và không kịp nói cho Nevin biết sự thật. Nhưng Robert và Gus lại qua đời cách nhau chỉ vài ngày khiến Nevin chẳng bao giờ biết được gì cả. Và rồi cái hộp đầu tiên lại do Gus nắm giữ cho đến một ngày vào tháng trước thì ba của Mellie tìm ra nó.”

Ðầu của bà buông thõng xuống khiến cằm của bà gần như dựa vào ngực. “Mãi về sau ta mới biết việc Robert qua đời, nhưng ta có biết về Gus. Ta nhận được một mảnh giấy thời báo Charleston đăng tin cáo phó của ông ấy. Phong bì được đóng dấu bưu điện từ Atlanta, nên ta cho rằng nó được gửi từ đối tác làm ăn của anh ấy. Ta vẫn còn nhớ mình đã khóc cả ngày hôm ấy, nhưng đó không hoàn toàn vì đau buồn. Ồ không - vẫn còn có rất nhiều người như ta vốn có nhiều điều để khóc hơn. Ta đã có mười năm tuyệt đẹp với chàng.” Bà liếc nhìn lên và mắt chúng tôi giao nhau. “Ta khóc vì toàn bộ những năm tháng mà ta đã nhớ chàng vì ta luôn vờ xem như chàng đã chết. Và đây, chàng lại xuất hiện, lần này thì chàng đã mất thật sự, và ta lại phải quay về nhớ thương chàng như từ đầu.”

“Việc này thật không dễ dàng cho bà chút nào,” Jack nói.

Susannah làm chúng tôi ngạc nhiên khi bà mỉm cười. “Thật ra cũng không phải thế. Cậu thấy đấy, ta cảm nhận được anh ấy tại đây, ngay trong ngôi nhà này. Ở bên ta. Khi ta đi ngủ, ta thấy chàng. Giống như chàng đang đợi ta vậy.”

Tôi nhìn đi nơi khác, sợ rằng nếu không làm thế thì tôi sẽ khóc mất. “Vậy ra những manh mối đều nằm tại đây trong suốt những năm tháng qua, và Nevin chẳng bao giờ biết đến nó. Ông ấy đã mất mà chẳng biết gì về sự thật.”

“Không đúng đâu, cháu gái ạ,” Susannah nhẹ nhàng nói. “Cậu ấy biết rằng mẹ cậu ấy đã yêu mình thật nhiều. Và cậu ấy cũng biết đủ nhiều khi để lại ngôi nhà cho cô. Cậu ấy chắc chắn đã phải biết rõ rằng cô sẽ tiếp tục giúp cậu ấy tìm mẹ mình.” Bà mỉm cười. “Và đó là tại sao ta quyết định đưa chiếc hộp cho cô chứ không phải đưa cho gã kia.”

Jack ngồi nhổm dậy. “Có một người nào khác đã đến đây và hỏi về Louisa à?”

Susannah nhăn trán. “Ðúng - vào chiều tối hôm qua. Anh ta chỉ ở đây trong chốc lát, có lẽ vì thế mà ta quên bẵng đi mất cho đến bây giờ.” Bà lắc đầu. “Ta xin lỗi - ta e rằng trí nhớ của ta không còn được như xưa nữa.”

Một cảm giác lành lạnh và nặng nề bỗng quấn lấy ruột gan tôi. “Bà có nhớ tên của người ấy không?” Giọng tôi nghe nghèn nghẹn, như thể tôi đang gắng sức lôi những từ ấy ra khỏi cổ họng đang xiết chặt lại của mình vậy. Tôi nhớ lại Marc đã hủy cuộc hẹn của chúng tôi vì một chuyến đi xa bất chợt của anh, rồi lại có người đã đến Thư viện Lịch sử và đã đặt sai chỗ cuốn sách mà chúng tôi cần để tìm ra Susannah Barnsley. Và cả những cuộc gọi ẩn danh và cúp máy mà bà Barnsley đã nhận từ Charleston mà không phải do chúng tôi gọi. Tôi cảm thấy mắt của Jack đang dán vào tôi, nhưng tôi không nhìn lại anh.

Susannah gõ nhẹ móng lên tay ghế bành của bà. “Rồi ta sẽ nhớ ra thôi. Chờ một chút.” Bà tiếp tục nhấp nhấp những ngón tay, đôi lông mày bà châu lại tạo thành một nếp nhăn thật sâu.

Jack hắng giọng. “Hắn ta trông như thế nào?”

“Ồ, việc ấy thì dễ. Ta luôn để ý một người đàn ông ưa nhìn. Anh ta rất cao, cao hơn cậu. Tóc đen và mắt sẫm màu. Và anh ta vận bộ veston đắt tiền. Gus đã dạy ta biết cách nhận ra kỹ thuật cắt may khéo léo.” Bà cười khoái trá ra mặt. “Thật buồn cười phải không, rằng ta có thể nhớ những thứ như thế từ đời nảo đời nào nhưng lại không thể nhớ nổi những việc chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua?”

Jack hơi do dự, và tôi biết anh đang chờ tôi hoặc là hỏi câu hỏi ấy, hoặc là chẳng hỏi gì cả. Tôi quyết định hỏi, cảm giác như giọng nói ấy đến từ một người nào khác. “Có phải tên anh ta là Marc Longo?”

Cái nhăn mày của Susannah nhanh chóng giãn ra và gương mặt bà bừng sáng. “Ðúng rồi, chính xác là nó. Ít ra ta cũng phải nhớ cho được cái họ chứ, vì Joseph Longo chính là kẻ mà thiên hạ đồn đãi là Louisa đã bỏ trốn cùng. Dĩ nhiên là ta chẳng bao giờ tin vào chuyện ấy.”

Tôi lại mở miệng định hỏi câu hỏi kế tiếp nhưng rồi tôi không thể thốt nên lời. Thế là Jack nói thay cho tôi. “Hắn ta có hỏi gì về Louisa và Joseph hay không?”

Bà lại chau mày. “Cậu biết không, ta cũng không chắc lắm về việc ấy. Nhưng ta nhớ rằng anh ta có hỏi về những viên kim cương. Anh ta hỏi ta nhiều lần có phải anh Gus đã gửi những viên kim cương ấy đi cùng với ta hay không.”

“Thế bà đã nói gì với hắn?”

Susannah mỉm cười dịu dàng. “Dĩ nhiên là ta trả lời ‘không’ với anh ta rồi. Rằng ta chưa bao giờ nghe gì đến những viên kim cương ấy. Mà việc này thì không đúng sự thật - bởi vì ta đã có nghe về chúng, nhưng ta chẳng biết gì về chúng cả. Dù sao thì ta cũng sẽ chẳng cho anh ta biết việc ấy làm gì. Có cái gì đó ở anh ta mà ta không thích. Một cái gì đó... không đáng tin cậy.”

Jack lại rất biết điều mà chẳng nói gì thêm.

Lúc này tôi đã lấy lại được giọng. “Bà có muốn bọn cháu mở cái hộp bây giờ không?”

Có vẻ như bà đang cân nhắc câu hỏi của tôi trong chốc lát, nhưng rồi lại lắc đầu. “Không. Ta nghĩ không nên như thế. Nó chẳng bao giờ dành cho ta cả, cô có thấy không. Ta đã giữ nó và không nói cho ai biết ngoài cô cậu trong từng ấy năm, đúng như lời ta đã hứa với Gus. Giờ thì ta chẳng muốn phá vỡ lời hứa ấy.”

Jack chầm chậm gật đầu, rồi đứng dậy. “Có lẽ bọn cháu đã làm phiền bà khá nhiều rồi, thưa bà Barnsley. Thật không biết dùng từ nào hơn để cảm ơn bà. Bà đã giúp ích cho bọn cháu rất nhiều.”

Tôi cũng đứng lên, hai đầu gối tôi run rẩy, không biết mình có đi nổi với tảng băng đang cuộn tròn nặng nề trong dạ dày của mình hay không nữa. Tôi bước đến bà Susannah và quỳ gối trước mặt bà. “Dạ, cháu xin cám ơn bà rất nhiều. Cám ơn bà đã tin tưởng mà giao cho cháu chiếc hộp này.”

Bà chạm vào tóc tôi, rồi ôm hai má tôi và mỉm cười. “Ta thật vui vì đã gặp được cháu. Thật thú vị khi được nhìn một phần xương thịt của Gus sau chừng ấy năm. Cháu đã làm cho bà già này thật mãn nguyện và hạnh phúc.”

Tôi ấp lấy tay bà bằng cả hai tay. “Nếu chỉ có thế thôi cũng đã bõ công cho chuyến đi này rồi. Bà có muốn cháu gửi cho bà món gì từ quê nhà không? Bà có cần gì không?”

Bà siết chặt bàn tay tôi. “Gus đã ra đi rồi, cho nên ta chẳng còn cần gì trên đời này nữa. Nhưng ta muốn cháu hứa với ta một chuyện.”

“Việc gì cũng được ạ. Bà cứ nói đi.”

“Hứa với ta rằng cháu sẽ thực hiện mọi việc cho đúng đắn - không chỉ cho Louisa mà còn cho tất cả những người đã khuất.”

“Cháu sẽ làm như thế, thưa bà Barnsley. Cháu hứa.”

“Tốt lắm,” bà nói, siết lấy bàn tay tôi một lần nữa rồi liếc lên nhìn Jack. “Anh này có phải là chàng hoàng tử của cháu không?”

“Hoàn toàn không,” tôi nói cùng lúc khi Jack nói, “Cháu thích cái ý nghĩ ấy.”

Susannah làm tôi ngạc nhiên khi bà cười phá lên. “Ta hiểu. Anh này hơi giống Gus, cái con người ấy. Cháu cứ kháng cự và kháng cự anh ta, và rồi một ngày nào đó cháu sẽ cảm thấy như bị một thùng nước dội thẳng lên đầu, và cháu sẽ tự nhủ làm sao mình có thể sống thiếu anh ta đấy.”

Tôi đứng lên và cười gượng. “Có lẽ trước tiên thì cái thùng ấy phải đánh vào đầu cháu đủ mạnh để làm cháu không còn lý trí gì nữa cũng nên.”

Jack huých khuỷu tay vào người tôi trong khi anh cúi xuống hôn vào má bà Susannah. “Tạm biệt bà Barnsley. Thật hân hạnh được gặp bà hôm nay. Cháu hy vọng chúng ta sẽ có dịp gặp nhau lần nữa.”

“Ta cũng thế,” bà nói trong khi bà Marston xuất hiện với áo khoác của chúng tôi trong tay để tiễn chúng tôi ra về.

***

Im lặng, Jack và tôi bước vào chiếc xe thuê, và Jack đưa cho tôi cầm cái hộp. Như đã có thỏa thuận ngầm, tôi và anh cứ giữ yên lặng như thế cho đến khi chúng tôi lái ra đến xa lộ thì Jack cất tiếng. “Cô có muốn nói về việc ấy không?”

Tôi lắc đầu.

“Ðược thôi.” Anh hít một hơi thật mạnh. “Có ý kiến gì để mở cái hộp này không?”

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ xe và ngắm khung cảnh đồng quê bao la đang chạy băng băng trước mặt, màu xanh dương và xanh lá còn sót lại của mùa hè ẩn giấu bên dưới sắc đỏ và vàng của mùa thu. “Tạt vào lề.”

Jack thật thông minh khi anh chẳng hỏi gì tôi mà tắp xe ngay vào lề của xa lộ hai chiều. Tôi nhảy ra khỏi xe cùng với chiếc hộp, còn Jack đi theo tôi đến ven bìa một cánh đồng. “Giúp tôi tìm một hòn đá to nào.”

Mắt anh bừng sáng khi hiểu ra vấn đề và anh vội vã quay đi, và chúng tôi bắt đầu càn quét ven dọc cánh đồng để tìm cho ra bất cứ thứ gì đủ nặng để bẻ khóa. Khi chúng tôi đi tìm được chừng năm phút thì Jack gọi lớn, tay cầm một hòn đá hơi to hơn cổ tay anh một chút. Anh tiến đến và đưa tay vớ lấy chiếc hộp.

“Không,” tôi nói. “Ðể tôi làm.”

Anh chẳng cãi lại mà đưa cho tôi hòn đá. Tôi quỳ xuống dưới cỏ bên cạnh chiếc hộp, dùng tay trái giữ cho nó nằm yên còn tay phải giơ cao hòn đá lên và đập. Tôi phải đập đến lần thứ ba thì cái khóa kim loại mới sứt ra khỏi hộp gỗ.

Jack cầm chiếc hộp lên và kiểm tra công trình đập phá của tôi. “Ôi, đúng là sư tử Hà Ðông mà!”

Tôi cảnh cáo anh bằng một cái liếc xéo thật dài. Một lần nữa Jack lại tỏ ra rất biết điều, anh gập người thực hiện nghĩa vụ tháo những mảnh vụn của cái khóa ra khỏi phần gỗ rồi đưa chiếc hộp lại cho tôi. “Tôi nghĩ cô nên là người được vinh dự mở nó ra.”

“Cám ơn anh,” Tôi nói. Trong khi anh cầm cái hộp, tôi từ từ mở cái nắp hộp và nghía vào bên trong.

“Sao rồi?” Jack hỏi một cách mất kiên nhẫn.

“Ồ,” tôi nói. “Chắc chắn là tôi không nghĩ nó là cái này.” Tôi đặt cái hộp xuống để chúng tôi có thể cùng nhau kiểm tra những thứ bên trong.

“Ngạc nhiên thật đấy,” Jack nói trong khi anh đưa tay vào và lấy ra một khẩu súng lục nhỏ và bắt đầu ngắm nghía nó. “Ðây là loại súng lục Remington,” anh nói và kiểm tra hai nòng súng. “Nó chỉ có thể bắn ra hai lần từng phát một và cả hai nòng súng đều không có đạn.” Mắt chúng tôi giao nhau trong một thoáng khi nghĩ đến những điều ẩn ý rồi tôi xộc tay vào và lôi ra một phong bì giống hệt như phong bì đựng bên trong chiếc hộp xì gà của ông nội.

“Mở nhanh ra nào,” Jack thúc giục.

Tên của Nevin được viết nguệch ngoạc ở mặt trước phong bì bằng nét chữ giống với nét chữ trên phong bì chúng tôi đã tìm thấy trước đó, nhưng lần này tôi chẳng ngần ngại mở toạc nó ra. Thư được viết trên ba trang giấy bằng nét chữ thảo gọn gàng. Tôi đằng hắng giọng trước khi đọc lên.

Ngày 1 tháng 9 năm 1930

Con trai yêu quý của cha,

Khi con đang đọc những dòng này thì có lẽ cha đã lìa đời mà chưa bao giờ có cơ hội để nói cho con biết việc gì đã xảy ra vào cái đêm mà mẹ con mất tích. Cha lấy làm tiếc khi phải cho con biết sự thật bằng cách này, nhưng cha hy vọng con hiểu rằng cha không còn chọn lựa nào khác và rằng từng quyết định mà cha đã làm là hoàn toàn vì yêu con và mẹ con. Cha cũng hy vọng rằng ký ức của con về cái đêm khủng khiếp ấy sẽ quay về sau khi con đọc xong lá thư này để con thêm vững tin về những gì cha đang viết, và biết rằng đây là toàn bộ sự thật.

Vào đêm mà mẹ con biến mất khỏi cuộc sống của cha con mình, gia đình ta đã có một người khách đến nhà - một đối tác làm ăn của cha, Joseph Longo. Trước tiên, để cha giải thích rằng việc ông ta là đối tác làm ăn không phải là do sự lựa chọn của cha. Gia đình ông ta chi phối toàn bộ ngành kinh doanh rượu lậu và các hoạt động phi pháp khác ở Charleston thời ấy, và ông ta cũng có tham vọng quản lý toàn bộ các hoạt động khác của thế giới ngầm trong thành phố.

Vì chưa bao giờ có dính dáng gì đến lĩnh vực này, cha đã khá ngây thơ khi cha bắt đầu nấu rượu lậu ở đồn điền Magnolia Ridge nhằm nỗ lực tránh cho gia đình ta phải đi đến phá sản sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm hăm chín. Ðó thật là một ngành kinh doanh sinh lợi rất cao, cho phép chúng ta giữ được ngôi nhà và đủ sức cho con đi học trường tốt hơn. Thật không may, khi làm ăn sinh lợi cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp của cha bắt đầu rơi vào tầm ngắm của Longo. Cha biết hắn ta đã lót tay rất đậm cho giới chức chính quyền, do đó nếu cha tố cáo hắn thì cũng chẳng có nghĩa lý gì, trong khi cha thì lại không được ai bảo kê như thế.

Hắn đã đe dọa sẽ làm cho cha kiệt quệ tài chính cũng như cả thanh danh bằng cách tố cáo với chính quyền về những hoạt động phi pháp của cha trừ phi cha đồng ý đổi chác lại cho hắn một thứ để mua lấy sự im lặng của hắn. Thật đáng tiếc, cha đã vô tình cho hắn một thứ vũ khí duy nhất mà hắn cần để ép buộc cha. Con biết không, cách đây nhiều năm, theo sau cuộc chiến tranh chống lại miền Bắc, gia đình ta đã được sở hữu sáu viên kim cương cực kỳ quý báu. Những viên kim cương này vẫn được cất giấu cho đến khi cha vô tình phát hiện ra chúng cách đây vài năm. Khi ấy cha chẳng nghĩ gì đến sự phức tạp của vấn đề, nên cha đã lấy ra một viên kim cương cho làm một chiếc dây chuyền đeo cổ cho mẹ con, đó là chiếc dây chuyền mà bà ấy đã đeo trong tấm hình đăng trên báo thời ấy. Longo có biết về những viên kim cương này nhưng hắn nghĩ đó chỉ là huyền thoại, cho đến một ngày hắn nhìn thấy tấm hình ấy. Cha đã sẵn sàng đi tù hơn là để cho con người ấy chạm tay đến những thứ mà cha luôn xem như của thừa kế cho con, và cho con của con nữa. Nhưng hắn cũng biết điểm yếu của mẹ con khi sự việc có liên quan đến cha và con, và hắn đã đánh động vào lương tâm của mẹ con bằng cách nói với bà ấy rằng ngục tù khổ sai sẽ ra sao đối với cha, và khi ấy thì mẹ con bà ấy sẽ thiếu sự che chở như thế nào. Nhận thấy rằng không còn lựa chọn nào khác, bà ấy đã đầu hàng và đưa cho hắn sợi dây chuyền - bởi vì bà ấy không hề biết nơi cất giấu của những viên kim cương còn lại - và việc ấy đã làm dịu cơn thèm khát của hắn, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Longo đã bay sang châu Âu và đánh bạc với số tiền ấy, và chẳng bao lâu sau đó thì hắn lại quay trở về. Lần này hắn đã đòi hỏi nhiều hơn.

Vào cái ngày mẹ con biến mất, Joseph Longo - vốn đã biết rằng cha sẽ ở văn phòng làm việc, và gần như cũng biết rằng thứ Tư là ngày nghỉ của những người giúp việc trong nhà - đã đến nhà mình để gặp mẹ con và đòi thêm một viên kim cương khác. Mẹ con đã nói với hắn rằng hắn phải nói chuyện với cha bởi vì bà ấy không biết những viên kim cương còn lại nằm ở đâu. Hắn đã hiểu đúng vấn đề khi cho rằng cha sẽ không bao giờ đưa cho hắn thêm một viên kim cương nào khác, nên hắn đã bắt đầu đe dọa bà ấy vì cho rằng bà ấy nói dối. Ngay khi bà ấy đã nài xin hắn hãy tin bà ấy, thì con, Nevin yêu quý, có lẽ đã nghe thấy tiếng xô đẩy nên đã bước vào phòng.

Không may cho Joseph Longo, khi ấy cha cũng vừa quay trở về nhà từ văn phòng để lấy vài tập tài liệu mà cha đã vô ý để quên ở nhà. Cha đã thấy xe hơi của hắn đậu bên ngoài và cha biết rằng sẽ có rắc rối. Nghe thấy tiếng mẹ con khóc, cha đã lao vào phòng khách chính và thấy Longo đang chĩa một khẩu súng lục về phía con. Sự có mặt của cha đã làm hắn mất tập trung, và mẹ con đã nhìn thấy cơ hội để bảo vệ con. Bà ấy đã chạy về phía con, và ngay khi Longo xoay lưng lại, hắn đã nổ súng. Cha tin rằng hắn cố tình bắn con, nhưng viên đạn lại trúng vào bà ấy.

Người mẹ hiền của con đã chết ngay tức khắc, vì viên đạn đã xuyên thủng vào tim bà ấy. Ðừng than khóc, con trai Nevin thương yêu. Bà ấy cũng sẽ không sống nổi nếu như con bị hại. Bà ấy đã chết như bà đã từng sống, hết lòng yêu thương cả hai cha con ta, và cha tự an ủi mình bằng niềm tin rằng cha con mình sẽ lại được trùng phùng với bà ấy.

Cha cũng không nhớ chính xác trình tự những sự việc diễn biến tiếp theo đó. Trong đời cha chưa bao giờ thịnh nộ như lúc ấy cả. Cha đã lao vào Longo, và hắn không thể tự vệ trước cơn giận dữ ấy của cha. Cha đã giật lấy khẩu súng lục từ tay hắn và bắn một phát vào ngực hắn mà không kịp nghĩ gì đến hậu quả của việc ấy. Thật đáng đời, hắn không chết ngay tức khắc. Và cha đã được chứng kiến khi hắn phải chịu đựng một cái chết thật dài và đau đớn. Cha cảm thấy toại nguyện về điều đó, bởi vì hắn đáng chết vì những gì hắn đã làm. Nhưng cha cũng biết rằng mình không bao giờ được tiết lộ sự thật về việc này.

Những đối tác làm ăn cùng bà con họ hàng đông đảo của Longo quen biết nhau rất mật thiết. Cha e sợ rằng nếu sự thật bị phát hiện thì không chỉ mạng sống của cha bị đe dọa, mà cả con nữa, cũng sẽ nằm trong vòng nguy hiểm. Bọn chúng rất nhẫn tâm và sẽ không hề đắn đo khi phải giết một đứa trẻ. Vì mẹ con đã hy sinh cả mạng sống của mình để con được sống nên cha không thể để cho cái chết của bà ấy trở nên vô nghĩa.

Cha đã gọi người bạn thân và đối tác hãng luật, và cũng là cha đỡ đầu của con, Augustus Middleton, để nhờ giúp đỡ. Cha đã hoàn toàn sụp đổ vào lúc ấy vì đau buồn khi đã mất mẹ con và suýt nữa thì cũng mất luôn cả con, cho nên ông ấy phải là người giúp cha suy nghĩ vì khi ấy cha cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ông ấy đã giúp cha giấu đi hai thi hài ấy để không ai có thể tìm thấy trừ phi họ biết đi tìm ở đâu. Ông ấy cũng đã dàn dựng nên sáng kiến xoay quanh hai chiếc hộp đựng xì gà này để giữ cho bí mật gia đình mình khỏi những con mắt hồ nghi mà vẫn có thể cho phép con tìm được chúng trong trường hợp cả cha và Gus có mệnh hệ nào trước khi cha kịp giải thích mọi việc cho con. Và, hiện như con đã biết, ông ấy đưa chiếc hộp còn lại cho cô Barnsley giữ cho an toàn.

Augustus cũng đã nghĩ rằng tốt nhất nên gửi cho tòa soạn báo một thông tin nặc danh ám chỉ rằng mẹ con đã bỏ trốn cùng Longo. Cha đau đớn khôn cùng khi nghĩ đến sự vu khống trắng trợn dành cho mẹ con như thế, nhưng cha cũng biết rằng đó là cách duy nhất để giữ cho con được an toàn. Cha cũng tin rằng người mẹ hiền của con cũng sẽ đồng ý với bất cứ việc gì để có thể bảo vệ an toàn cho con.

Mọi việc đã hoàn toàn ổn thỏa, nhưng có một phần duy nhất không khớp với toàn bộ sự sắp đặt này chính là con, con trai thương yêu của cha. Những sự kiện xảy ra trong cái đêm định mệnh ấy đã gây tổn thương cho con theo một cách mà cha không hề lường trước được - trong cái rủi lại có cái may. Sáng hôm sau đó con thức dậy và hỏi mẹ đâu mà chẳng nhớ gì đến tai nạn đã xảy ra vào đêm trước đó. Cha nghĩ đây là cách mà đầu óc non nớt của con đối phó với thảm kịch này, bằng cách khóa nó lại không cho vào trí nhớ của con, và với việc ấy, cha thật mừng.

Con trai Nevin của cha, hãy vững tin rằng cả cha lẫn mẹ đều đã yêu con vô vàn. Khi con đang đọc những dòng chữ này thì con sẽ nhìn lại cuộc đời vừa qua của con và biết rằng đây chính là sự thật.

Hẹn ngày tái ngộ, con trai yêu quý,

Người cha mến yêu của con,

Robert Nevin Vanderhorst.

Tôi chậm rãi gấp lá thư lại và đặt nó vào trong bao thư. “Tội cho Louisa quá,” tôi nói, cố ngăn những giọt nước mắt sắp rơi ra. “Và tội cho Nevin. Bà ấy đã chết để bảo vệ mạng sống cho ông ấy, trong khi ông ấy lớn lên và tin rằng bà ấy đã bỏ rơi mình. Thật buồn làm sao.”

Jack choàng cánh tay quanh vai tôi, và tôi cho phép anh được làm thế vì tôi cần một nơi để che giấu những giọt nước mắt của mình. “Nhưng ít ra giờ đây chúng ta đã biết được sự thật. Và chúng ta có thể cho phần còn lại của thế giới biết về điều ấy. Việc này sẽ làm cho cả hai chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn.” Tôi gật đầu, biết rằng anh nói đúng, nhưng tôi vẫn không thể ngưng nhìn thấy sự khắc khổ tuyệt vọng trên gương mặt ông Vanderhorst trong khi tôi chào tạm biệt ông ở khung cửa nhà ông. Một cảm giác không thỏa mãn bỗng vờn quanh, như thể chúng tôi vẫn chưa thật sự hoàn tất với câu chuyện của Louisa và Nevin.

Jack xoa lưng tôi. “Vẫn còn rất nhiều điều cần được giải đáp. Chẳng hạn như Louisa và Joseph đã được chôn ở đâu? Và những viên kim cương còn lại hiện đang ở đâu - giả sử như chúng vẫn còn tồn tại?”

Tôi vùng người ra, dụi mắt và bắt đầu nhìn khắp nơi ngoài Jack ra. Vẫn còn một vật nằm bên trong cái hộp, và anh sục tay vào trong rồi lôi ra một chiếc túi nhỏ bằng nhung đỏ đã phai màu có sợi dây màu hoàng kim thắt miệng túi, núm tua đính vào sợi dây đã mất hẳn màu vàng ánh xưa kia của nó nhưng vẫn còn treo lủng lẳng trên đầu sợi dây. Một cảm giác rờn rợn châm chích chạy dọc sống lưng khiến tôi rùng mình. Tôi nhớ lại có một lần mẹ đã từng nói với tôi rằng cảm giác ấy cũng tương tự như cảm giác mà các hồn ma cảm nhận được khi có người bước đi trên nấm mộ của họ, và tôi lại rùng mình lần nữa, cố tập trung nhìn Jack. Anh nới lỏng phần miệng túi, và tôi cảm thấy thúc bách phải đưa tay ra, lòng bàn tay khum lại và ngửa lên chờ đợi. Anh nghiêng cái túi nhỏ vào bàn tay tôi, và chúng tôi kinh ngạc khi cùng nhau nhìn một viên kim cương thật to, gần như không tì vết, từ từ trượt nhẹ nhàng vào lòng bàn tay tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Mặt trời chiếu thẳng vào viên kim cương được cắt theo kiểu truyền thống khiến những lăng kính đầy sắc màu bùng phát ra từ viên đá quý, tựa hồ một tiếng thét to của tự do. “Ðây, vậy là thắc mắc của anh cũng đã được giải đáp rồi đó,” tôi nói, những ngón tay vẫn che viên kim cương lại như vẫn còn muốn bảo vệ bí mật của Robert Vanderhorst.

“Cũng gần như thế. Nhưng chúng ta vẫn chưa tìm được ba viên kim cương còn lại. Bọn mình đã biết về ba viên: một viên được làm vòng đeo cổ cho Louisa và đã bị bán rồi thua bạc, chúng ta có một viên ở đây, và tôi dám cá cược bằng bộ sưu tập đồ hiệu veston Ý của Marc Longo rằng viên kim cương thứ ba đã được bán đi để có tiền trang trải cho chuyến đi chóng vánh của Susannah Barnsley khi bà rời khỏi Charleston.”

Quai hàm tôi giật phắt khi nghe nói đến cái tên của Marc. “Vậy thì ba viên kim cương còn lại ấy hoặc là đã bị bán đi từ đời nào, hoặc là chúng vẫn còn ẩn giấu nơi Robert đã cất giữ chúng.”

“Chính xác.”

Tôi nhìn xuống viên kim cương trong tay. “Nhưng ít ra chúng ta đã biết rằng Louisa và Joseph đã chết, và rằng Louisa đã không hề bỏ rơi con trai mình. Anh không thể nào hiểu được tôi đã nhẹ nhõm thế nào khi nói như thế đâu.”

Jack nhìn tôi cười nửa miệng. “Tôi nghĩ là mình hiểu hơi bị đúng đấy.” Anh mở miệng túi ra, và tôi miễn cưỡng thả viên kim cương trở lại vào trong ấy.

“Ước gì tôi biết Louisa đã được chôn cất ở đâu nhỉ. Tôi nghĩ chúng ta cần phải tìm cho ra việc này thì bà ấy mới có thể yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng được.”

Jack gật đầu. “Mình cần phải làm việc cật lực hơn nữa để giải những cái mã ấy.” Anh đặt cái túi và khẩu súng trở lại vào trong hộp, nhưng tôi vẫn giữ lá thư lại bên mình, vẫn chưa sẵn sàng rời nó ra. Chúng tôi bước lại trên đường đê rồi vào trong xe.

Jack khởi động máy xe. “Bọn mình phải ghé Wal-mart hoặc siêu thị nào đấy để mua vali vì mình phải ký gửi hành lý trên máy bay. Chúng ta không thể mang cái khẩu súng ấy trong hành lý xách tay, và tôi cũng chẳng muốn giải thích gì về viên kim cương ấy.”

“Chúng ta không thể ký gửi nó lên máy bay được - lỡ nó bị đánh cắp thì sao?”

Jack rẽ ra đường xa lộ. “Không đâu. Bọn mình sẽ mua một cái hành lý hiệu Dora Nhà thám hiểm để nó trông giống như hành lý của một đứa trẻ, và một ít quần áo để quấn quanh nó. Tin tôi đi - sẽ chẳng có ai chạm đến nó đâu.”

“Thật chứ?” Tôi hỏi, vẫn cảm thấy không thoải mái lắm.

“Thật đấy,” anh trấn an tôi. “Tôi có bao giờ chỉ sai đường cho cô không nào?”

Tôi không rõ có phải anh đang ngụ ý đến việc tôi đã thiếu cân nhắc về Marc trước đây hay không, nên tôi chỉ nhìn ra nơi khác mà không trả lời. “Thế ai là Nhà thám hiểm Dora?”

“Chỉ là một nhân vật hoạt hình vốn rất nổi tiếng trong giới trẻ mẫu giáo thời nay - nó mang tính giáo dục nhiều hơn một chút so với loạt phim hoạt hình Scooby-Doo thời bọn mình.”

“Tôi chưa bao giờ xem Scooby-Doo, nhớ không? Và làm sao mà anh biết về Dora Nhà thám hiểm?”

Jack nhún vai. “Thỉnh thoảng tôi có trông chừng mấy đứa cháu ngoại của Yvonne trong khi bà ấy giúp tôi tra cứu.”

Tôi không thể hòa hợp nổi hình ảnh tay chơi mà tôi đã ấn tượng về Jack với việc anh ta ngồi bệt trên sàn nhà và chơi với những đứa trẻ, thế nên tôi xoay cuộc nói chuyện về chủ đề ban đầu. “Tôi nghĩ toàn bộ việc sứt mẻ quan hệ giữa Robert và Gus chỉ là cái cớ được dàn dựng để làm xao lãng sự chú ý của gia đình Longo không cho họ tìm hiểu sự thật từ Gus cùng các cộng sự của ông ấy.”

“Suy luận hay lắm, bác sĩ Watson[9] ạ,” Jack nói cùng với nụ cười rộng miệng cố hữu trên mặt. “Cô thấy không, chúng ta làm việc với nhau thật ưng ý. Hai đứa mình nên tiếp tục cùng nhau hợp tác về sau.”

[9] Nhân vật cộng sự thân tín của thám tử Sherlock Holmes.

Tôi quẳng cho anh cái nhìn mà tôi hy vọng trông thật nghiêm khắc và đầy hoài nghi. “Tôi thì nghĩ thà trải qua cuộc giải phẫu cắt bỏ ruột thừa bằng dao bỏ túi mà không gây mê còn hơn phải chịu đựng những ngày tháng đau đớn và chết dần chết mòn này thêm lần nào nữa.”

Trông anh có vẻ thật sự bị tổn thương. “Mọi việc có thật sự tồi tệ đến thế không?”

Tôi nghĩ lại tất cả những việc đã xảy ra kể từ khi chúng tôi gặp gỡ lần đầu, và tôi biết rằng mình đã không thật lòng khi phát biểu như thế. Nếu như tôi phải hoàn toàn thẳng thắn với anh, tôi sẽ phải nói với anh rằng đời tôi chưa bao giờ được cười nhiều như trong những tháng vừa qua, và rằng được nhìn thấy công việc trùng tu nhà đầy nặng nhọc của mình bắt đầu đến hồi đơm hoa kết trái thật là một trong những thành công nổi bật nhất của đời mình. Thậm chí khi bắt buộc phải đương đầu với những hồn ma ấy cũng đã là một kinh nghiệm thật kỳ thú, và nhất là chắc chắn có một việc nào đó sẽ không bao giờ xảy ra nếu như tôi chưa bao giờ gặp gỡ Jack Trenholm. Tôi tự mỉm cười với mình. Hoặc là cuộc sống của tôi đã quá được bảo bọc, hoặc là tôi đã thực sự hưởng thụ cuộc sống của mình lần đầu tiên trong đời - và tôi phải cám ơn Jack cho hầu hết những việc ấy. Nhưng rồi, anh ta đã lừa dối tôi, và nếu tôi đã không nghĩ quá khắt khe về việc ấy, tôi cũng đã có thể đổ lỗi cho anh ta, rằng anh ta chính là lý do đã khiến tôi rất cương quyết khi chọn Marc Longo. Thế nên, tôi lại vòng vo không trả lời thẳng cho câu hỏi ấy.

“Dĩ nhiên là không phải toàn bộ mọi việc.”

Anh bĩu môi rồi gật đầu. “Tôi cũng cho rằng cô sẽ không đổ lỗi cho tôi về vụ Marc Longo.”

“Tôi đã nói với anh rằng tôi chẳng muốn nói về việc ấy.”

Anh bật đèn xi-nhan lên rồi chuyển làn xe lên phía trước một chiếc xe bảy chỗ ngồi đầy ắp bọn trẻ con trong những bộ đồng phục bóng đá với tài xế là một bà mẹ bị quấy rầy và đang uống một cốc cà phê Starbucks. “Tôi hiểu. Tôi xin lỗi. Tất cả những gì mà tôi định nói về toàn bộ cái thảm họa ấy là ít ra cô cũng đã không ngủ với hắn.”

Tôi vẫn im lặng nhưng cảm thấy đôi gò má mình trở nên nóng râm ran.

Anh nhìn tôi với vẻ mặt có thể nói là một sự pha trộn bối rối của cả ngạc nhiên lẫn kinh hoàng. Có ai đó vừa bấm còi, và Jack tạt xe nhanh trở lại vào chính giữa làn xe anh đang lái. “Cái đồ khỉ gió,” anh vừa lẩm bẩm vừa thở mạnh.

Phần còn lại của chuyến đi ấy bao trùm trong yên lặng nặng nề, thi thoảng xen vào vài cuộc nói chuyện ngắn gọn và lịch sự hoặc có liên quan đến những từ tiềm năng cho việc giải mã. Tất cả những nỗ lực ấy rốt cuộc cũng chẳng đưa đến đâu mà chỉ tổ làm hai đứa thêm bức bối. Chúng tôi về lại đến ngôi nhà trên phố Tradd sau mười giờ đêm. Toàn bộ đèn trong nhà đã tắt, và tôi biết chắc mình sẽ không màng đến việc bước vào ngôi nhà nếu không có Jack đi cùng, mặc dù tôi sẽ chẳng bao giờ cho anh biết điều ấy.

Khi chúng tôi bước qua cổng vào khu vườn, Jack nắm lấy cánh tay tôi và giữ tôi lại. “Cô có nghe thấy không?”

Tôi lắng nghe màn đêm yên tĩnh, và đây, giữa những tiếng ồ ồ vang vọng của xe cộ từ xa là tiếng của chiếc xích đu treo trên sợi dây thừng đang cọ vào vỏ cây. Tôi mỉm cười trong bóng tối. “Có, tôi có nghe thấy. Ðó là Louisa và Nevin đấy. Họ đang cho chúng ta biết họ đang ở đây.”

“Ồ,” anh nói, và tôi có cảm giác anh đang rùng mình bên cạnh tôi.

“Họ sẽ không làm hại anh đâu, anh biết đấy. Họ biết rằng bọn mình đang cố giúp họ. Ngoài ra...” tôi hơi lưỡng lự khi cố nhớ lại những gì Nevin Vanderhorst đã nói với tôi.

“Ngoài ra cái gì?”

“À, Louisa chỉ xuất hiện trước những người mà bà ấy chấp thuận. Cho đến nay, những người ấy là tôi, Ðại tướng Lee, người thợ ống nước, và anh.”

“Người thợ ống nước?” anh hỏi.

“Phải. Anh ta cũng nhìn thấy bà ấy.”

“Tôi thật vinh hạnh,” Jack nói trong khi anh bước lên những bậc thang đi vào hành lang mái vòm rồi tạm dừng nơi cửa chính. “Cô có cảm giác gì không?” anh hỏi.

Tôi gật đầu, hai hàm răng tôi đánh lập cập. Nhiệt độ không khí bỗng sụt đi cỡ mười độ kể từ khi chúng tôi vừa bước vào cổng cho đến khi bước lên những bậc thang này. “Tôi nghĩ chúng ta có khách đây.”

“Có phải loại khách tốt không?” anh hỏi, giọng lo lắng.

Tôi lắc đầu. “Không đâu. Nếu đó là Louisa, chúng ta sẽ ngửi được mùi hoa hồng của bà ấy. Nếu anh chỉ cảm thấy lạnh và run rẩy, đó là... là thực thể kia mà tôi đã nhìn thấy vài lần. Hắn ta chẳng đàng hoàng chút nào.”

Hàm răng trắng của anh sáng lóa một cách kỳ quái dưới ánh trăng. “Tuyệt lắm. Vậy thì chúng ta phải làm gì?”

“Anh chỉ phải tự nói với mình rằng anh mạnh hơn hắn ta, và hầu như lần nào việc này cũng linh nghiệm.”

“Hầu như lần nào cũng thế? Vậy những lần còn lại thì sao?”

“Thì hắn sẽ đốt nhà và nhốt anh lại bên trong.”

Anh im lặng hồi lâu. “Vậy thì tại sao chúng ta lại đứng đây, cố tìm cách vào nhà thay vì chạy thục mạng ra khỏi nơi này?”

Tôi hít một hơi thật sâu. “Bởi vì bây giờ tôi đã biết đến sức mạnh của hắn. Trước đây, tôi cố phớt lờ hắn và cả Louisa nữa, mặc cho họ có cố gây sự chú ý nơi tôi đến đâu. Ðó đã là khẩu hiệu của tôi trong một thời gian dài - cứ phớt lờ họ thì cuối cùng họ sẽ bỏ đi. Nhưng bây giờ thì sự việc đã mang tính cá nhân, nên tôi cần lắng nghe họ. Và ngay lúc này đây, cái gã xấu tính ấy đang bảo tôi phải đi ra khỏi ngôi nhà. Mà việc này, dĩ nhiên, cũng có nghĩa là chúng ta càng phải đi vào trong ấy. Có cái gì đấy bên trong mà lão chẳng muốn chúng ta tìm thấy.” Tôi vươn vai. “Chúng ta chỉ cần phải để ý đề phòng và không được rời nhau ra. Và nếu anh ngửi được mùi hoa hồng, thế là tốt, vì nó có nghĩa rằng Louisa đang ở đấy và gã xấu ấy không thể làm hại gì ta được.”

“Cô có biết hắn là ai không?”

“Ban đầu tôi nghĩ có thể đó là Robert. Nhưng Robert thì không ác, còn gã này chính xác là một thằng khốn. Giờ đây tôi đã biết rằng Joseph Longo đã bị giết trong nhà này, tôi nghĩ mình có thể đoán khá chính xác đây chính là hắn.”

“À, như thế thì sự việc lại dễ dàng hơn đây.”

“Nghĩa là sao?”

“Này nhé. Thử tưởng tượng nếu cô sẽ nghiền nát một thằng cha đã từng định giết một bé trai vô tội thì việc ấy sẽ làm cho việc đương đầu với kẻ địch của cô dễ dàng hơn nhiều - dù hắn là ma hay là người. Mọi việc rồi cũng chỉ quy về một mối: Tôi là người tốt và hắn là kẻ xấu. Và tôi chỉ cần biết như thế thôi.”

Tôi giơ lên chiếc chìa khóa cửa, ánh đèn đường lóe sáng trên mảnh kim loại trông như con lắc của nhà thôi miên. “Sẵn sàng chứ?”

“Vào cuộc thôi,” anh khẽ nói trong khi tôi lần tìm lỗ khóa và vặn chìa.

Thật ngạc nhiên, cánh cửa mở ra nhẹ nhàng chẳng có dấu vết kháng cự nào. Tôi nhanh chóng bước vào trong và trượt tay lần mò trên tường cho đến khi chạm vào công tắc đèn. Tôi cảm thấy biết ơn khi ánh đèn vàng trải lên người hai đứa. Tôi liếc nhìn xung quanh đầy ngỡ ngàng. Rõ ràng là bà Houlihan đã rất bận rộn trong suốt thời gian tôi vắng nhà. Lớp đá mạt và bụi bặm vốn đã phủ đầy khắp nơi giờ đây đã được dọn sạch, để lại sàn nhà và cửa kính bóng loáng cùng mùi sơn bóng gỗ đặc trưng.

“Chẳng còn lạnh nữa,” Jack nhận xét.

“Tôi nghĩ hắn biết rằng chúng ta không sợ hắn, và rằng Louisa cũng đang ở đâu đây.”

Cả hai chúng tôi cùng hướng về căn phòng khách chính, nơi chiếc đồng hồ quả lắc vừa điểm nửa giờ đồng hồ, và bật lên toàn bộ các bóng đèn khi chúng tôi đi qua nhằm xua tan bóng đêm đầy rùng rợn ấy. Tôi di chuyển sang ô cửa sổ bên hông nhà và nhòm ra ngoài trời đêm nơi có cây sồi, nhưng chẳng thấy gì. Nhưng tôi biết họ đã ở đó vì tôi đã cảm nhận họ đang nhìn và chờ đợi. Chờ đợi cái gì, tôi cũng không rõ.

“Cerca Trova,” Jack nói. Anh đứng bên trước chiếc đồng hồ, cánh cửa kính bao lấy mặt đồng hồ đang mở. “Tôi biết mình đã nhìn thấy những từ này ở đâu đó rồi. Chúng là ở đây - được viết trên một trong những lá cờ tín hiệu. Có lẽ tôi quên mất mình đã nhìn thấy nó ở đâu bởi vì không phải lúc nào nó cũng hiển thị.”

Tôi bước đến đứng cạnh anh. “Ðó là những từ nằm trong lá thư đầu tiên viết cho Nevin. Hãy mưu cầu và ngươi sẽ tìm thấy.”

“Nhưng mà chúng ta đã xem xét kỹ lưỡng từng centimet của chiếc đồng hồ này, và tôi cũng đã tìm ra cái ngăn bí mật nữa.” Jack suy nghĩ trong một lúc. “Như thế có phải rằng chúng đã không còn, rằng ba viên kim cương thất lạc đã bị lấy đi trước khi Robert tìm ra nơi cất giấu chúng?”

“Tôi chẳng biết. Và chúng ta sẽ mãi không biết trừ khi chúng ta giải được mã.”

Jack vẫn tiếp tục nhìn chăm chăm vào mặt đồng hồ, đôi mày anh châu lại vì đăm chiêu suy nghĩ. Khi tôi vừa định đề nghị đi lên lầu và chuẩn bị đi ngủ thì tôi nghe có tiếng cào sột soạt, nghe giống như tiếng bút chì cào trên mặt giấy. Hoặc tiếng móng tay cào trên mặt nhựa.

“Anh có nghe thấy gì không?” tôi hỏi.

Jack gật đầu. “Chuột?”

Tôi lắc đầu. “Không. Nếu là mối, phải đấy. Còn chuột, thì không.” Tôi bước đến nơi mà dường như tiếng động nghe mỗi lúc một to dần. Nó phát ra từ bức tường sát với chiếc đồng hồ, nơi mà những tấm màn cửa dài đã từng che phủ biểu đồ tăng trưởng của Nevin. Giờ đây nó đã được bảo vệ bởi một lớp kính nhựa mỏng, và khi tôi quỳ gối phía trước nó, thì tiếng cào dừng lại. Tôi kiểm tra thật cẩn thận toàn bộ những số đo viết trên biểu đồ, tìm xem có gì bất thường không, và khi tôi từ từ lướt nhìn trở lên cho đến tận cùng biểu đồ thì tôi dừng lại, hơi thở của tôi bỗng nghèn nghẹn. Nơi đây, những nét chữ viết tay thật cẩn thận của Louisa đã viết nên những chữ viết tắt MBG. Anh chàng mẹ yêu nhất.

Tôi thẳng người lên, tim tôi đập mạnh. “Jack này, Robert đã nói gì trong bức thư đầu tiên viết cho Nevin? Cái gì đấy có liên quan đến mẹ ông ấy, đại loại là mẹ ông ấy đã gọi ông ấy là gì đấy.”

“À ờ: ‘Hãy nhớ mẹ con đã từng gọi con là gì.’ Tại sao? Cô vừa nghĩ ra được điều gì đó à?”

“Anh chàng mẹ yêu nhất - đó là từ mà Louisa đã gọi ông ấy, nhớ không? Nó được viết ngay tại đây trên bức tường này.” Tôi quỳ gối trên sàn và lôi ra quyển sổ tay, lúc này đã gần kín những từ khóa vô vọng, rồi mở ra một trang mới. Một cách nhanh chóng, tôi viết bảng chữ cái lên trang ấy và những chữ “MY BEST GUY” ngay bên dưới nó, bỏ đi chữ Y cuối cùng và lần theo cụm từ này cùng bảng chữ cái, bắt đầu bằng chữ “A” rồi cứ thế tiếp tục đến “Z” mà không lặp lại bất kỳ chữ cái nào.

Jack quỳ gối ngay cạnh tôi và bắt đầu lặp lại cho tôi dãy ba mươi hai chữ cái mà cả hai đều đã thuộc lòng vì đã lặp đi lặp lại không ngớt mật mã của chiếc đồng hồ. Sau khi tôi đã viết xuống một dòng, tôi hít một hơi mạnh trước khi nhìn lại tập giấy. Một cách chậm rãi, tôi bắt đầu ghi vào những chữ cái vừa tìm ra từ từ khóa mới: V,A,O,N,U,A,Ð,E,M,N,H,U,N,G,N,G,O,I,S,A, O,S,A,N,G,T,U,A,K,I,M,C,U,O,N,G. Tôi nhìn xuống những gì tôi vừa viết và đọc to lên. “Vào nửa đêm, những ngôi sao sáng tựa kim cương.” Mắt chúng tôi giao nhau. “Ôi, trời ơi,” tôi la to trong khi cả hai cùng nhau bò lên chiếc đồng hồ để xem nó lại lần nữa.

Jack mở chiếc mặt đồng hồ một lần nữa. “Vào nửa đêm...” Anh quay sang tôi. “Còn nhớ những tấm hình rửa ra từ cuộn phim không? Tấm hình có chiếc đồng hồ quả lắc đang chỉ mười hai giờ ấy.”

“Nhưng cả hai chúng ta đều đã ở trong căn phòng này vào nửa đêm vài lần rồi, và chẳng có gì xảy ra cả.” Tôi cố chống chế sự thất vọng của mình. “Anh nghĩ mình có thể xoay hai chiếc kim đồng hồ và kéo cho chúng vào vị trí mười hai giờ để xem điều gì sẽ xảy ra hay không?”

Jack liếc nhìn đồng hồ đeo tay của anh. “Hiện giờ đã hơn mười một giờ rồi. Tôi không muốn làm bất cứ điều gì vốn có thể thay đổi những việc phải xảy ra. Hay là chúng ta cứ đi thay quần áo và đánh răng rửa mặt rồi gặp nhau tại đây vào lúc nửa đêm?”

Tôi gật đầu, dù hiểu sự thận trọng của anh nhưng vẫn không thể hoàn toàn gạt sang một bên sự nôn nóng của mình được. Chúng tôi cầm lấy túi của mình, và Jack để cho tôi mang chiếc túi du lịch Dora, Nhà thám hiểm lên lầu. Có lẽ anh nghĩ rằng đó là vì chiếc túi có chứa viên kim cương, nhưng đúng hơn là vì những lá thư và những lời trăn trối của người cha để lại cho con mình nhưng chưa bao giờ được đọc. Câu chuyện bi thảm của họ khiến tôi cảm thấy nặng trĩu trong lòng và quả là khi tìm ra được sự thật thì câu chuyện của họ vẫn chưa kết thúc. Tôi cảm giác họ đang ở trong nhà vào lúc này, ẩn nấp đâu đó và đang nhìn khi chúng tôi bước lên cầu thang. Tôi dừng lại ở đỉnh cầu thang, cảm giác như mình có thể chạm được vào những điều sắp xảy ra vốn đang phình lên và râm ran quanh chúng tôi.

“Anh có cảm nhận được gì không?” Tôi thì thầm.

Jack lắc đầu. “Cảm nhận cái gì?”

Tôi chau mày, cố tìm cách định nghĩa cái cảm giác kỳ lạ đang phớt lên người và xoa lấy da thịt tôi lúc này. “Họ đang theo dõi chúng ta đấy. Ðang chờ đợi.”

“Họ là ai?” anh hỏi và làm tôi ấn tượng bởi giọng điệu thật chắc nịch.

Tôi lắng tai nghe những tiếng thì thầm lúc này bắt đầu nghe rõ hơn. “Louisa. Nevin.” Tôi dừng lại, cảm giác của da thịt đang bò dọc sống lưng mình. “Và Joseph.”

Những cái bóng đèn bắt đầu rung rinh và mờ dần, rồi lại bật mở trở lại. “Ta mạnh hơn ngươi. Ta mạnh hơn ngươi,” tôi thì thầm dưới làn hơi của mình.

Jack nắm lấy khuỷu tay của tôi rồi đưa tôi đi dọc hành lang về phòng của tôi. “Hãy cứ liên tục nói như thế nhé? Nó giúp tôi cảm thấy đỡ hơn.” Anh đẩy và mở cửa phòng cho tôi rồi bật công tắc điện. “Tôi sẽ chờ ở đây trong khi cô chuẩn bị, khi nào xong thì bọn mình sẽ đi xuống dưới nhà và chờ.”

Khi ấy tôi đã quá nhẹ nhõm nên chẳng màng đến việc đôi co với anh rằng tôi cần sự riêng tư cho mình cũng như về những luật lệ để được ở trong nhà này thì anh không bao giờ được phép bước chân vào phòng tôi chẳng hạn. Tôi bước vào phòng tắm, rửa mặt và đánh răng rồi thay đồ ngủ dài tay cùng áo choàng ngủ. Tôi tránh không nhìn vào gương vì sợ sẽ nhìn thấy gì đó sau lưng mình.

Khi tôi bước ra khỏi phòng tắm, Jack đang ngồi trên giường, một quyển sách to đang mở trước mặt anh trên tấm ga trải giường. Ban đầu, tôi ngỡ rằng đó là một trong những quyển album ảnh của Louisa, nhưng khi tôi đến gần thì thấy rằng không phải.

“Cô tìm đâu ra quyển sách này thế?” anh hỏi và cho tôi xem bìa sách. Tôi đọc tựa sách: “Những mật mã của Thế giới cổ đại.”

Tôi lắc đầu. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả.”

“Nhưng nó nằm trên giường của cô.”

Mắt tôi mở to. “Nhưng tôi đâu có đặt nó trên ấy.”

“Thế thì tại sao nó có thể leo lên đây được? Tôi khá chắc chắn rằng nó không nằm cùng với những cuốn sách giải mã còn lại trên căn gác mái, vì tôi đã xem qua hết tất cả số sách ấy và biết rằng cuốn này không nằm trong đó.”

“Chúc mừng anh đã đến với thế giới của tôi,” tôi nói trong khi ngồi lên giường bên cạnh phía bên kia của cuốn sách. “Từ kinh nghiệm trước đây của mình, tôi có thể nói rằng có ai đó muốn chúng ta nhìn thấy nó.” Chúng tôi nhìn nhau, và tôi bỗng nhận ra rằng hai đứa tôi đang ở một mình trong phòng ngủ của tôi và cùng ngồi trên giường. Tôi thấy có một tia sáng mỏng lướt qua đôi mắt anh như thể anh cũng đang nghĩ đến điều ấy.

Một cách đột ngột, tôi đứng dậy và kéo chiếc ghế đặt cạnh bàn làm việc đến cạnh giường. “Thế anh đã tìm được gì trông có vẻ hứa hẹn chưa?”

Ðôi mắt anh chiếu vào chiếc áo choàng ngủ và bộ đồ dài tay của tôi rồi quay trở lại quyển sách, đoạn, anh lật sang một trang. “Chưa, nhưng tôi cũng vừa bắt đầu thôi. Hy vọng việc này sẽ giúp bọn mình giải mã từ “nửa đêm” bằng cách khác, nếu như...” Ðôi tay anh bỗng bất động trên trang sách đang mở.

“Cái gì thế?” tôi hỏi, rồi đứng dậy và nhìn qua vai anh.

Anh đưa quyển sách lên cao. “Ðây,” anh nói, chỉ ra một hình vẽ những đường kẻ ô bao gồm năm cột và năm dòng. Bên trên hàng trên cùng và cạnh cột ngoài cùng bên trái là những con số từ một đến năm, theo thứ tự, và bên trong những ô kẻ, bắt đầu từ ô bên trái trên cùng, là từng ký tự trong bảng chữ cái, trong đó chữ “Y” và “Z” cùng nằm trong ô cuối cùng. “Cái này gọi là ô chữ Polybius của Hy Lạp cổ đại. Tôi đã có nhìn thấy nó trong một trong những quyển sách giải mã khác, nhưng tôi bỏ qua vì loại này quá đơn giản.” Rồi anh nhìn tôi ra vẻ biết lỗi. “Tôi quên mất những gì cô nói về việc những mật mã được sử dụng để giữ bí mật khỏi những con mắt tò mò - và cũng không bắt bí Nevin.”

“Nhưng cái này giải như thế nào, Jack? Nếu bọn mình cố tìm ra nghĩa khác của từ “nửa đêm,” thì nó sẽ chuyển sang một con số chứ không phải là một từ khác.”

Anh vừa lắc đầu vừa lôi ra một cây viết bên trong túi áo khoác. “Giải mã sai rồi, Mellie. Ðây là loại mã thay thế vốn chuyển đổi những con số thành các con chữ. Nói theo cách khác, mật mã ở đây là một chuỗi những con số mà sau khi được giải, sẽ trở thành một từ.”

“Ồ đúng rồi - cái đài phun nước!”

“Chính xác,” anh nói. “Cô còn nhớ những con số ấy không?”

Tôi gật đầu. “Có, nhưng không theo một thứ tự cụ thể nào cả.”

“Không thành vấn đề - chỉ có ba chữ số thôi, và bọn mình có thể sắp xếp chúng lại nếu cần.”

Tôi nhắm mắt, cố nhớ lại những chữ số La Mã được khắc bên hông chiếc đài phun nước. “Bốn mươi mốt, bốn mươi hai, và hai mươi bốn.”

Tôi nhìn anh giải con số thứ nhất, XLI (41), bằng cách tìm hàng có chữ số bốn trước, rồi lần theo hàng ngang sang cột có chữ số một và viết ra ký tự trong ô tương ứng - “P”. Anh lại tiếp tục theo cách này để tìm ra hai ký tự còn lại, cuối cùng là được hai ký tự “R” và “I”.

“P-R-I?” tôi hỏi.

Jack nhìn chằm chằm vào những ký tự vừa tìm được, mặt anh sáng hẳn ra. “Ta chỉ phải dịch chuyển ký tự ở giữa để tìm ra từ có ý nghĩa.”

Tôi lại nhìn vào những ký tự một lần nữa, ngay lập tức bỏ qua từ đầu tiên mà tôi nghĩ đến và cuối cùng dừng lại ở từ “RIP”[10]. Tôi ngồi lên giường trở lại. “Ngàn thu yên giấc,” tôi lặng lẽ nói. “Ðó là từ mà ta thường thấy trên bia mộ.”

[10] Viết tắt của “Rest in Peace”, là những chữ được khắc trên bia mộ ở phương tây, tương đương với “Ngàn thu yên giấc”.

“Ðúng, nó đấy.” Jack nói và đặt cây viết lên quyển sách. “Thế thì giờ đây bọn mình đã biết Robert và Gus đã giấu những tử thi ở đâu rồi.”

“Và cả việc tại sao cái đài ấy chẳng bao giờ phun nước - có lẽ nó cũng không được nối với đường ống nước nào cả. Robert cho xây cái đài phun nước ấy như một đài tưởng niệm cho vợ ông ấy, nhưng lại sợ những người thợ sẽ tìm ra những thi hài ấy nếu họ đào đủ sâu để lắp đặt đường ống nước.” Tôi lắc đầu, nhớ lại những lúc tôi ở trong vườn và cảm nhận sự có mặt của Louisa. Và giờ đây thì tôi đã biết tại sao.

“Bọn mình cần phải gọi cho cảnh sát,” Jack nói.

“Tôi biết.” Tôi chau mày, cảm thấy không thoải mái khi nghĩ đến việc khu vườn yên tĩnh sẽ bị xáo trộn, thậm chí nếu chỉ là tạm thời. “Bọn mình có thể chờ đến sáng được không? Tôi nghĩ Louisa thích ở đây hơn. Tôi muốn cho bà ấy được nghỉ ngơi thêm một đêm trong khu vườn yêu thích của bà ấy.”

“Dĩ nhiên rồi.” Jack quay đầu lại. “Nè, cô có ngửi thấy cái mùi ấy không?”

Hương hoa hồng tươi thơm ngào ngạt bao trùm cả căn phòng, mùi ngọt ngào của nó tràn ngập tận vào hốc mũi. “Có,” tôi nói và mỉm cười. “Tôi nghĩ Louisa đang nói lời cảm ơn đấy.”

Ðồng hồ lại điểm chuông ở dưới nhà và Jack đứng dậy. “Vẫn còn mười lăm phút nữa. Tôi nghĩ bọn mình nên đi xuống dưới ấy để không lỡ mất bất cứ việc gì.”

Tôi gật đầu và đi theo anh ra đến cửa phòng. Khi chúng tôi bước gần đến ngưỡng cửa thì nó bỗng đóng sầm lại ngay trước mặt. Jack phóng theo cái cửa và cố vặn nắm cửa. “Tôi nghĩ cửa bị khóa rồi. Cô có chìa khóa không?”

“Không,” tôi nói, đồng thời ngửi thấy mùi hôi thối lúc này đang hòa trộn với hương hoa hồng.

“Trời đất ơi, cái mùi hôi thối ở đâu ra thế này?” Jack hỏi và nhăn mũi. “Tôi nhớ đã ngửi thấy nó một lần, và tôi chẳng bao giờ muốn ngửi nó thêm một lần nào nữa trong đời.”

“Là cái gì?” tôi hỏi, suýt chết ngạt khi hương hoa hồng hoàn toàn bị lấn át bởi mùi hôi thối kinh tởm kia.

Anh nhìn tôi chằm chặp một hồi lâu, và tôi chợt nhớ lại những gì tôi đã đọc về thời gian anh phục vụ trong quân đội, và tôi ước gì mình đã không hỏi anh câu ấy. “Mùi này giống như mùi xác chết bị phơi cả ngày dưới nắng. Nó là thứ mùi thật khó quên đấy.”

Tôi xoay mặt đi và nhắm mắt lại để mắt bớt bị cay. “Hắn đang cố làm cho chúng ta sợ đấy. Ðừng để hắn làm thế, nếu không hắn sẽ thắng. Và nhớ rằng Louisa nằm bên phe của mình.” Những lời này chỉ là một sự an ủi cho có lệ, nhưng tôi chỉ biết làm thế thôi.

Jack xoay cái nắm cửa và kéo mạnh cánh cửa. Ban đầu nó chẳng dịch chuyển gì, nhưng rồi lực giữ cho cánh cửa đóng chặt bỗng thả ra đột ngột khiến Jack bay ngược về phía tôi vì cánh cửa lúc này đã thả lỏng. Ðèn trong phòng lại bắt đầu chớp tắt và Jack lần tìm tay tôi. “Ðừng thả tay tôi ra nhé, Mellie. Hắn muốn chúng ta tách rời nhau ra đấy.”

Tôi chẳng cãi cọ gì với Jack mà ngược lại còn bấu chặt vào tay anh như một người sắp chết đuối sẽ cố vớ lấy một mảnh gỗ trôi giạt nào đó. Những bóng điện ngày càng sáng lên và sáng hơn nữa, ngôi nhà bao trùm trong tiếng lắc cắc cho đến khi chúng tôi nghe những tiếng bốp bốp, từng cái bóng điện một bắt đầu vỡ tan tành. Một luồng gió lạnh nhấn chìm lấy chúng tôi, sự băng giá của nó đủ làm những ngón tay và mũi tôi cóng lại. Tôi rùng mình và Jack siết chặt lấy bàn tay tôi trong khi chiếc bóng điện cuối cùng vỡ tung, nhấn chìm chúng tôi vào bóng tối dày đặc.

“Nhắm mắt lại, Mellie - làm như thế cô sẽ có thể dựa vào các giác quan khác của mình cho đến khi mắt cô làm quen được với bóng tối.”

Tôi gật đầu và nhắm tịt mắt lại, mường tượng ra hành lang trên lầu khi tôi bắt đầu đi theo Jack hướng ra cầu thang. Khi anh bước đến bậc thang đầu tiên, tôi níu cánh tay anh lại. “Hắn đã cố xô tôi xuống cầu thang một lần, nhớ không? Hãy ngồi xuống rồi lần dò xuống dưới.”

“Ý hay đấy,” anh nói và ngồi xuống, kéo tôi ngồi cạnh anh. Chầm chậm từng nấc thang một, chúng tôi lê người đi xuống. Khi chúng tôi đến gần bậc thang cuối, Jack bỗng bịt miệng và rên lên, rồi giật mạnh lấy bàn tay tôi.

Tôi dừng lại. “Gì thế?”

Anh đang thở nặng nhọc và cố hết sức để không nôn ọe vì mùi thối ngày càng nặng hơn, và khi ta nhắm mắt trong bóng tối thì nó sẽ dễ khiến ta liên tưởng đến một cái mồ chôn đã lâu ngày. “Có cái gì đó vừa đá mạnh vào lưng tôi. Tôi không sao, nhưng nó khiến tôi nghẹn thở một chút. Cứ tiếp tục đi.”

Bọn tôi tiến xuống thêm được một bậc thang nữa. Khi tôi quay sang Jack để hỏi anh liệu tôi có thể mở mắt ra được chưa thì những ngón tay băng giá vô hình quấn quanh cổ tôi và bắt đầu siết chặt. Tôi buông tay Jack ra và đưa tay lần lên cổ, không cảm thấy gì hết trừ màn không khí lạnh giá và trống rỗng. Tôi giẫy giụa cố thở; thậm chí với bầu không khí tràn đầy mùi hôi thối này thì vẫn tốt hơn nếu tôi có thể làm thông đường thở mà hít nó vào.

“Mellie, cô không sao chứ?”

Tôi cảm nhận được hơi thở ấm áp của Jack trên mặt mình, và nó giúp tôi bớt lạnh phần nào. Có cái gì đó phun trào từ yết hầu lên đến miệng tôi, và rồi Jack giằng lấy hai bàn tay tôi, cố kéo chúng ra khỏi cổ tôi.

“Hãy nhớ - cô mạnh hơn hắn. Hãy liên tục nói như thế đi, Mellie. Mellie, cô có nghe tôi nói gì không?”

Tôi đá chân loạn xạ, nhưng không đá trúng được vật gì. Mắt tôi bắt đầu nổ đom đóm, còn hai buồng phổi nóng rực lên và khô ran. Giọng của Jack nghe xa vời vợi. “Mellie, cô mạnh hơn hắn - nói đi nào! Coi kìa, Mellie, quay lại với tôi nào.”

Tôi lờ mờ hiểu ra những điều Jack nói và cảm nhận hơi thở của anh vờn trên má mình. Và rồi tôi nhìn thấy gương mặt mẹ tôi, và bà ấy đang nói với tôi rằng tôi rất mạnh mẽ, rằng không có hồn ma nào có thể làm hại tôi trừ phi tôi cho phép chúng. Mẹ ơi, tôi nghĩ, và bà đang ở đây cùng tôi, vuốt tóc tôi, nói với tôi rằng bà yêu tôi. Tôi mở choàng mắt vì bị sốc bởi kỷ niệm ấy và há hốc miệng hớp một hơi tràn đầy buồng phổi, mang tôi trở về với thực tại. Ta mạnh hơn ngươi, tôi hét to trong đầu. “Ta mạnh hơn ngươi,” những lời này bỗng nổ tung trong miệng tôi khi tôi phá được ma lực vô hình đã siết lấy họng tôi tự nãy giờ, rồi rơi xuống bốn bậc thang cuối và lăn xuống sàn.

Ðồng hồ vừa điểm chuông. “Nhanh lên, Jack. Gần đến nửa đêm rồi.”

Anh bước đến từ sau lưng tôi, nắm lấy tay tôi và kéo tôi chạy vào phòng khách vừa kịp lúc chuông đồng hồ vừa điểm lần thứ ba. Ánh sáng lờ mờ của đèn đường và trăng tròn tràn ngập căn phòng, làm cho cái bóng lù lù của chiếc đồng hồ cổ càng hiển hiện rõ rệt và lớp sương mỏng như lơ lửng trong không khí bao quanh nó, tựa như niềm hy vọng xa xưa của một cậu bé con.

Bọn tôi đứng trước chiếc đồng hồ, tay vẫn trong tay, và một luồng gió lạnh thổi nhanh qua chúng tôi. Lúc này tôi bắt đầu ngửi thấy hương hoa hồng, từ từ chế ngự mùi hôi thối của mục rữa và chết chóc. Chiếc đồng hồ cổ lại điểm chuông liên tục, cho đến lần thứ tám.

“Nghe nào,” Jack nói trong khi anh mở hộc tủ của chiếc đồng hồ. Nó lại điểm chuông lần thứ chín và rồi lần thứ mười trong khi chúng tôi nhìn chăm chăm vào cái hốc rỗng tối tăm sâu hoắm bên trong chiếc đồng hồ, con lắc bằng đồng của nó bắt đầu đẩy những phút cuối qua nhanh và phản chiếu ánh sáng mờ sương trong căn phòng. “Cô có nghe thấy không?”

Tôi quỳ gối xuống cạnh Jack và lắng nghe thật chăm chú. Tôi nghe thấy tiếng của bộ máy điểm chuông của chiếc đồng hồ đang vận động, nhưng có thêm tiếng gì khác nữa, là tiếng lách cách yếu ớt vọng ra từ bên trong chiếc đồng hồ. “Nó nằm trong ngăn bí mật,” tôi nói, giọng tôi the thé và khàn khàn. Tôi đưa bàn tay run rẩy của mình lần vào bên trong và dò dẫm lần tìm cái nút bí mật và nhấn vào. Không có gì xảy ra. Chiếc đồng hồ lại điểm chuông lần thứ mười một, và tôi nhấn chiếc nút mạnh hơn nữa, lúc này tôi nghe thấy tiếng “cách” rồi ngăn kéo bí mật mở ra. Jack nghiêng đầu ra sau để cho ánh sáng bên ngoài chiếu vào vừa kịp lúc cho tôi nhìn thấy một chiếc hộp gỗ nhỏ bắt đầu được đưa lên cao, giống như một chiếc thang máy tí hon lồng bên trong thân chiếc đồng hồ. Tôi khoắng bàn tay vào bên trong và nắm lấy một vật gì đó mềm mại và kềnh càng.

Tôi rút vội tay ra và nhìn chiếc hộp nhỏ lúc này đang từ từ được đưa lên trên cùng của chiếc đồng hồ cho đến khi mặt đáy của nó tạo thành mặt giả bên trên của hộc tủ bí mật. Tiếng quay vù vù và tiếng lách cách ngừng lại, chiếc đồng hồ lặng im cho đến lần nửa đêm sắp đến thì lại bắt đầu cuộc phô diễn trở lại.

Tôi ngồi xổm, cảm thấy chóng mặt.

“Cô có tìm được gì không?” Jack thều thào mặc dù chỉ có hai đứa tôi với nhau. Thậm chí lúc này những hồn ma cũng đã đi mất, chỉ để lại hương hoa hồng đang phai dần.

Tôi mở bàn tay ra, trong ấy có cái túi nhỏ giống hệt như cái túi chúng tôi tìm thấy bên trong chiếc hộp đựng xì gà của ông nội Gus. Tôi nhìn Jack và anh mỉm cười. “Tôi nghĩ quyển sách mà tôi sắp viết sẽ có một kết thúc có hậu.”

Như chúng tôi đã làm lần trước, Jack cầm lấy chiếc túi nhỏ từ tay tôi và tháo dây cột ra, rồi nghiêng nó trên hai bàn tay đang vốc lại của tôi. Chúng tôi lặng nhìn ba viên kim cương to rơi vào lòng bàn tay tôi, lấp lánh dưới ánh đèn từ cửa sổ hắt vào.

Một tiếng sấm nổ vang trời làm lay động cả móng nhà, rồi một cơn cuồng phong táp mạnh vào ngôi nhà, khiến cho mái hiên rít lên. Rồi một tiếng ầm to bên ngoài khiến chúng tôi chạy nhanh đến ô cửa sổ và nhìn ra khu vườn lúc nửa đêm. Một ánh chớp làm sáng rực sân sau trong một khoảnh khắc, cho thấy một nhánh cây sồi đã gãy và rơi trên chiếc đài phun nước và bị chẻ ngọt làm đôi. Một cái lỗ đen xuất hiện bên cạnh chiếc đài phun nước trông giống như vết mực lấm lem, và một hình hài dị dạng trỗi lên từ trong bóng tối, trông thật đáng sợ với hình ảnh mờ đục rõ mồn một ấy.

Gió cuốn đi những chiếc lá và cành con của cây sồi, nhưng hình hài ấy vẫn bất động, như thể đang chờ ai đó. Rồi một hình thể đen tối khác xuất hiện từ bên dưới chiếc đài phun nước và tôi nhận ra gã đàn ông có đội nón mà tôi đã thấy khi gã nhìn tôi chòng chọc từ ô cửa sổ trên lầu. Joseph. Tiếng gào rú lại nổi lên, nhưng lần này tôi biết rằng nó không phải là tiếng gió. Hình hài dị dạng ấy dường như đang thẩm thấu vào Joseph, trông giống như hai đám mây đang sáp nhập lại làm một. Ánh chớp lóe lên thật gần, đi xuyên qua lớp đất nền và lên hai chân tôi khiến xương tủy tôi nhói lên. Toàn bộ khu vườn được chiếu sáng rực trong chốc lát, đủ lâu cho chúng tôi kịp nhìn thấy cái lỗ đen ấy tự động khép lại, chỉ còn cái đài phun nước đã vỡ và cây sồi già ở lại canh giữ cho những bí mật của khu vườn.

Ngôi nhà thở dài, và tôi tựa vào người Jack. “Mọi việc đã qua rồi,” tôi nói và bắt đầu quẹt nước mắt. Không phải là cho tôi, mà là cho một người mẹ chưa bao giờ hết yêu thương con trai mình, và cho người con, cuối cùng đã tìm ra sự thật.

Ðêm ấy, Jack và tôi ngủ trên sàn nhà cạnh chiếc đồng hồ cổ, những viên kim cương bị đè bẹp giữa hai chúng tôi, vốn cuối cùng cũng thức giấc sau một giấc ngủ không mộng mị cho đến khi bình minh ló dạng ở chân trời và ánh nắng vùng Charleston chảy vào những ô cửa sổ của ngôi nhà trên phố Tradd.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Khi Sophie và Chad cùng với Ðại tướng Lee xuất hiện vào buổi sáng hôm ấy, cả bọn được chào đón bởi những dải băng vàng của cảnh sát bao bọc lấy khu vườn cùng với một chiếc xe cứu thương đang chờ ở góc đường.

“A, kiều nữ,” Chad nói khi tôi gặp cả bọn tại cổng vườn. “Có phải nàng đã làm gì Jack rồi phải không?”

“Không,” tôi trả lời với nụ cười nửa miệng. “Nhưng mà giờ đây khi tôi đã biết cách che giấu xác chết trong gần tám mươi năm trời, thì tôi có thể sẽ xem xét việc ấy đấy.”

Sophie chạm vào cánh tay tôi. “Vậy là cậu đã tìm ra bà ấy à?”

Mũi của nó đỏ lựng và sưng vù, và tôi cố không nhìn vào đó khi trả lời nó. “Phải. Ðó là một câu chuyện dài, nhưng cả Louisa và Joseph đều được chôn trong khu vườn. Mình sẽ kể cho cậu nghe chi tiết cụ thể sau nhé - mọi việc hiện giờ cứ rối beng lên đây này.”

Sophie chớp mắt với tôi qua cặp mắt kính kiểu John Lennon chẳng chút duyên dáng nào hết. “Mình nghĩ rằng cậu đã thành công tốt đẹp trong chuyến đi Vermont vừa rồi thì phải.”

“Rất nhiều thành công nữa là khác. Bọn mình cũng đã tìm thấy những viên kim cương nữa đấy.”

Sophie cột lại chiếc khăn quàng cổ bảy sắc cầu vồng của nó - vốn đồng bộ với dây đeo quần cùng màu đang mắc vào cái quần kiểu thợ sơn rộng thùng thình mà nó đang mặc. “Tuyệt quá phải không? Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ có thể hoàn tất công việc trùng tu cho ngôi nhà này.”

Ba tôi đang hướng dẫn đội đào đất của cảnh sát để tránh đào xới quá nhiều khu vườn yêu của ông. Từ vị trí quan sát thuận lợi của tôi, có vẻ như những cái xẻng đào đất của cảnh sát đang chiếm ưu thế trong sự giằng co này. “Mình cũng hy vọng thế. Mình sẽ thuê luật sư để đảm bảo rằng mình sẽ giữ được những viên kim cương ấy, nhưng với những gì Jack đã nói với mình, khi mình sở hữu ngôi nhà này thì đương nhiên chúng cũng thuộc về mình. Mình đang nghĩ sẽ làm từ thiện, mình sẽ đóng góp thật nhiều vào quỹ bảo trợ Hội Phụ nữ Cựu Liên bang miền Nam, bởi vì cựu tổng thống liên bang miền Nam Jefferson Davis đã muốn gửi gắm số tiền này đến những góa phụ và trẻ mồ côi của các binh sĩ. Nhưng đừng lo. Bọn mình sẽ còn lại rất nhiều tiền để phục vụ cho công tác trùng tu ngôi nhà này.”

Chad giơ tay lên và vỗ vào tay Sophie. “Tuyệt,” nó nói và gỡ sợi dây xích cổ Ðại tướng Lee ra khỏi cổ tay nó rồi đưa cho tôi. “Giờ đây cậu đã đủ tiền thuê người trông chó rồi.”

Tôi nhìn Chad đầy bối rối và anh chàng nhún vai. “Soph đây bị dị ứng nên cu cậu Lee không thể theo tôi khi tôi dọn vào ở nhà Sophie.”

“Anh dọn vào ở chung với Sophie à?”

Sophie lại vỗ nhẹ vào cánh tay tôi. “Chỉ là tạm thời- và bọn mình chỉ ở chung để chia tiền nhà thôi. Mình cố giúp anh ấy vì hợp đồng thuê nhà của anh ấy sẽ hết hạn vào cuối tháng này, và cậu vẫn chưa tìm ra được ngôi nhà ưng ý cho anh ấy.”

Tôi muốn chỉ ra rằng lý do mà tôi vẫn chưa tìm được nhà ưng ý cho anh ta là bởi vì anh ta cứ hủy các cuộc hẹn đi xem nhà với tôi, nhưng vì tôi vẫn đang nhìn thấy khả năng mình sẽ trở thành mẹ đỡ đầu cho con đầu lòng của hai người này nên tôi chẳng màng đề cập đến. Thay vào đấy, tôi lại hỏi, “Nhưng mình sẽ làm gì với con chó này bây giờ?”

“Dễ thôi,” Chad nói, và thảy một bịch đồ ăn của chó cho tôi. “Nó sẽ cho cậu biết nó cần những gì.”

“Tuyệt quá,” tôi nói và nhìn xuống đôi mắt nâu có hồn và cái đuôi vẫy vẫy của nó. “Có lẽ Jack sẽ cần một con chó cũng nên.”

Ðại tướng Lee nhìn lên tôi, và tôi thề là nó vừa chau mày trước khi sủa nhẹ.

Sophie lại nhảy mũi. “Bọn mình sắp bị trễ lớp yoga mất thôi - mình sẽ gọi cho cậu sau nhé. Hay là bọn mình thử đi ăn sáng ở tiệm ăn mới mở City Lights xem sao, rồi cậu kể cho mình nghe mọi việc, và mình cũng sẽ cho cậu biết về các dự án sắp tới của mình cho ngôi nhà.”

“Ðược thôi,” tôi nói. “Nhưng việc đầu tiên bọn mình phải làm là sửa chữa cái đài phun nước và khu vườn. Mình nghĩ ba mình sẽ khóc mất thôi nếu phải chứng kiến hiện trạng của khu vườn như thế này quá lâu.”

“Thế cũng được,” Sophie nói. “Vậy mình sẽ gọi cho cậu sau nhé.”

Tôi nhìn hai người đi ra, cứ cách vài bước thì Sophie phải kéo quần lên còn Chad thì dắt tay nó để tránh những vết nứt trên vỉa hè cùng những chướng ngại vật khác.

Nụ cười của tôi nhạt đi khi tôi nhận ra chiếc xe của Marc vừa tạt vào góc đường. Tôi muốn quay người lại và co chân chạy ngược hướng anh vừa đến, nhưng rồi tôi nhớ lại rằng Louisa đã hiên ngang đối mặt với cả một khẩu súng, thế là tôi lại hội đủ can đảm để ở lại mà chống trả.

Gương mặt của Marc có vẻ nghiêm trang khi anh bước đến gần. Chắc chắn anh ta đã nhìn ra được rằng tôi không vui khi nhìn thấy anh ta. Marc liếc nhìn cảnh tượng các cảnh sát đang làm nhiệm vụ trong khu vườn. “Em có sao không? Việc gì thế này?”

“Bọn tôi đang đào tìm xác ông nội của anh và của Louisa Vanderhorst đấy. Cảnh sát sẽ cho anh biết thêm chi tiết. Giờ thì, tôi phải đưa chó đi dạo.” Tôi đặt gói thức ăn cho chó trên vỉa hè sát bên cạnh cái cổng và quấn lấy sợi dây xích quanh bàn tay.

Ðại tướng Lee bắt đầu gầm gừ với Marc, cố hết sức để trông có vẻ dữ tợn nhưng cuối cùng, nhìn cu cậu chỉ giống như một quả bóng đầy lông và có răng.

Marc lần tìm cánh tay tôi để giữ tôi lại, và tôi giật tay ra. “Có chuyện gì thế, Melanie?”

Tôi cố trát một nụ cười lên mặt mình. “Chuyến đi Vermont thế nào, Marc? Anh có đi ngắm cảnh trong khi anh ở đó không, hay là anh chỉ cố công tìm hiểu xem Susannah Barnsley có giữ những viên kim cương hay không?”

Anh buông thõng tay xuống. “Ồ. Vậy ra em đã biết.”

“Phải, Marc ạ. Tôi biết đấy. Tôi biết rằng anh đã và đang lừa dối tôi kể từ lần đầu chúng ta gặp mặt. Ít ra thì Jack cũng khảng khái mà thừa nhận việc ấy khi tôi chất vấn anh ấy. Còn anh thì vẫn tiếp tục lừa dối tôi.” Giọng tôi vẫn mạnh mẽ một cách đáng ngạc nhiên, và tôi đã ngăn được những giọt nước mắt vốn chỉ chực chờ tuôn ra ngoài.

Trông anh có vẻ rất ăn năn và thành khẩn. “Anh xin lỗi. Em không thể tưởng tượng nổi là anh thật lòng hối hận đến mức nào.” Anh tiến đến một bước, rồi dừng lại. “Anh thật lòng rất quan tâm đến em, Mellanie à. Anh quan tâm lo lắng cho em rất sâu sắc. Xin em... em có thể cho anh giải thích được không?”

Ðại tướng Lee tiếp tục gầm gừ, nên tôi phải bế nó lên. “Tôi cho anh hai phút, nhưng rồi anh phải đi ngay.”

Có vẻ như anh định kèo nài để xin thêm chút thời gian nhưng lại thôi. “Ðược thôi. Cách đây chừng một năm, anh có nhìn thấy một cái két sắt của ông nội anh, trong đó có một bài báo cũ về những viên kim cương của phe miền Nam và một thông cáo báo chí về lễ rửa tội của Nevin Vanderhorst. Trong thông cáo ấy có đăng hình mẹ của Nevin và bà ấy đang đeo một chiếc vòng cổ kim cương. Anh tìm cách liên kết hai sự kiện ấy và thấy rằng chắc chắn Robert Vanderhorst đã từng sở hữu những viên kim cương ấy.” Anh gãi sau gáy. “Gần đây anh gặp phải vài khó khăn về tài chính, và anh nghĩ nếu mình có thể tìm được những viên kim cương này thì anh sẽ có thể trả được một số nợ và tự chủ lại mọi việc.”

“Và đó là khi anh mua đồn điền Magnolia Ridge bởi vì ngôi nhà này vẫn còn thuộc quyền sở hữu tư nhân. Không may cho anh, tất cả những gì còn sót lại của Magnolia Ridge chỉ là những tàn dư của một cái lò nấu rượu cũ. Rồi Vanderhorst qua đời và để lại ngôi nhà cho anh, cũng là lúc anh nhìn thấy cơ hội cho mình.”

Một nét đau khổ thoảng qua trên gương mặt anh, và điều đó làm cho tôi cảm thấy đỡ hơn. “Nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện, Melanie à. Phải, lúc đầu thì anh chỉ vì mấy viên kim cương ấy. Nhưng rồi khi anh hiểu em nhiều hơn thì mọi việc đã thay đổi.”

Tôi chợt hiểu ra thêm một điều khác nữa. “Và cả vụ phá hoại và đột nhập vào nhà - tất cả cũng là do anh, đúng không?”

Anh nhắm mắt lại. “Những việc ấy không nhằm làm hại bất cứ ai cả. Và lẽ ra em đã không nên có mặt ở nhà khi em gây ngạc nhiên cho kẻ đột nhập ấy. Em thấy đấy, anh thật ngu ngốc nhưng vì anh đã ở bước đường cùng. Nhưng anh không còn là kẻ ấy nữa. Em đã thay đổi con người anh.”

Từ góc mắt mình, tôi nhận ra Jack đang lừng lững bước đến từ cửa trước và thấy Marc và tôi đang đứng trên vỉa hè. Với một chút biểu cảm trên mặt, anh băng qua khu vườn và tiến đến chúng tôi, cố tránh các hoạt động của cảnh sát ở nơi ấy.”

“Matt này, rất vui được gặp lại anh. Ði Vermont thế nào rồi ông bạn?”

Marc nhíu mày. “Nếu ông không phiền, Melanie và tôi đây đang nói chuyện riêng với nhau.”

“Thật ra,” tôi nói, “Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc tại đây.” Tôi đặt Ðại tướng Lee xuống đất và bắt đầu băng qua đường.

“Chờ đã, Melanie, làm ơn đi mà. Cho anh cơ hội để cho em tự phán xét và quyết định.” Marc nắm lấy cánh tay tôi, và khi tôi cố giằng ra, anh vẫn không buông.

“Nếu ông biết cái gì sẽ tốt cho ông, Matt, thì ông nên thả cánh tay của cô ấy ra.” Giọng của Jack mang một âm hưởng cứng rắn mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ.

Marc tiếp tục kéo tôi lại. “Anh xin em, Melanie, hãy cho anh thêm một cơ hội.”

Jack kiên nhẫn nhìn chòng chọc lên trời. “Tôi cảnh cáo ông đó. Tôi sẽ không yêu cầu ông thêm một lần nữa. Nào, bây giờ hãy thả cánh tay cô ấy ra.”

Marc vẫn không buông. “Melanie?” anh van nài.

“Ðừng nói là tôi đã không cảnh cáo ông nhé.” Jack kéo cánh tay ra sau, và với một chuyển động nhanh, anh đấm nắm tay vào quai hàm của Marc. Marc mất thăng bằng và ngã xuống đất. Anh ta ngồi yên đấy, xoa tay lên hàm nhưng vẫn không đứng lên.

Ðại tướng Lee bắt đầu sủa vang một cách nghiêm chỉnh, và tôi thấy có một cảnh sát viên đang cố nhìn xem điều gì đã gây ra vụ chấn động này. Jack cầm lấy dây xích cổ Ðại tướng Lee. “Ði nào, Melanie. Tôi nghĩ cô cần xem cái này.”

Không liếc nhìn lại sau lưng, tôi đi theo Jack vào trong nhà. Ðã rồi, không khí trong nhà dường như sáng sủa hơn, ánh nắng tràn vào những ô cửa sổ cũng sáng hơn, như thể một bức màn đen tối đã được gỡ bỏ. Tiếng thì thầm cũng đã chấm dứt, và tôi chào đón sự yên ắng trong nhà. Tôi đi theo Jack vào phòng khách, và anh dừng lại trước bức tường cạnh chiếc đồng hồ quả lắc.

“Ðêm qua, khi bọn mình đang ngủ, tôi nghe thêm nhiều tiếng cào sột soạt trên tường. Nó chỉ kéo dài chưa đến một phút, và có lẽ tôi đã thiếp đi lúc ấy, và khi bọn mình thức giấc sáng nay thì tôi quên bẵng đi việc ấy. Cách đây chừng một tiếng, tôi chợt nhớ ra nên quay lại để xem.”

Anh bước lùi lại cho tôi nhìn. Tôi ngồi xổm xuống để mắt mình ngang tầm với cái biểu đồ đằng sau tấm kính nhựa. Khi tôi vừa định hỏi Jack rằng anh định chỉ cho tôi xem gì thì tôi chợt nhận ra những chữ được viết nguệch ngoạc trên cùng, bên trên những chữ viết tắt MBG bằng nét chữ của một đứa trẻ. Cám ơn.

Mắt tôi bỗng cay xè. Tôi đưa tay lên chạm vào những chữ này, và nhìn chúng một cách kinh ngạc. “Nhưng chúng nằm dưới lớp kính nhựa?”

Jack gật đầu. “Ðây lại là một trong những khoảnh khắc ‘chào mừng đến với thế giới ngầm của cô’, có phải thế không?”

Tôi hít mũi và dùng tay quẹt ngang mắt rồi đứng dậy. “À, nếu anh còn muốn làm việc với tôi để phá một vụ án xưa nào nữa thì anh sẽ phải tập quen dần với những thứ như thế này đấy.”

“Ồ, vậy ra cô đã thay đổi ý định rồi sao?” Một bên mày vừa nhướn lên.

“Không hề. Chỉ là cho anh thêm một lý do để làm anh chùn bước thôi.”

Jack lại nở nụ cười sành điệu trên trang bìa sách lần nữa, và tôi phải quay mặt đi. “Biết đâu tôi còn cho rằng khả năng có thể nói chuyện với người chết thật là quyến rũ nữa đấy.”

Ðến lượt tôi nhướn một bên mày lên. Một cái bóng vừa lướt qua khung cửa sổ trông ra khu vườn khiến tôi phải bước về hướng ấy. Jack đi theo, bàn tay anh chạm nhẹ vào lưng tôi. Mắt tôi đảo nhìn về hướng cây sồi già gần cái đài phun nước đã hỏng, những tán lá của nó đung đưa trong gió tựa như tiếng cười của một đứa trẻ. Chiếc xích đu bằng gỗ treo bằng dây thừng trống không, nhẹ nhàng lắc lư như thể có ai đó đã ngồi trên ấy và vừa đứng dậy. Ðằng sau chiếc xích đu là Louisa và Nevin, họ đứng đấy và nhìn chúng tôi thật chăm chú.

“Anh có nhìn thấy họ không?” tôi thì thầm.

Jack gật đầu. “Cô có biết tại sao họ ở đây không?”

“Họ đang nói lời tạm biệt.” Không gian trong tim tôi tràn ngập buồn vui lẫn lộn khi tôi lặng lẽ nói lời chia tay. “Hiện không còn gì giữ họ ở lại đây nữa.”

Chúng tôi nhìn họ quay mặt và bắt đầu bước đi về hướng cổng, nơi lần đầu tôi nhìn thấy họ, rồi bóng họ mờ dịu dần như những sắc màu của đất trời vào lúc hoàng hôn, cho đến khi gió cuốn họ đi và tất cả hòa quyện vào không khí. Không còn gì sót lại ngoài hương hoa hồng thoảng nhẹ.

Tôi và Jack im lặng trong một lúc lâu, nhìn chằm chặp vào tâm điểm nơi mẹ con nhà Vanderhorst vừa tan biến đi. Cuối cùng, Jack quay lại nhìn tôi, mặt anh rất gần. “Thế thì, sắp tới sẽ là gì nào?”

Tôi nhún vai, giả vờ hờ hững. “Có lẽ tôi sẽ phải dọn vào đây ở dài hạn rồi. Thật là điên khi phải đóng tiền thuê căn hộ mà mình không ở. Với lại ban quản lý tòa nhà không cho phép nuôi chó.”

Cả hai cùng liếc nhìn Ðại tướng Lee, lúc này đã nằm bẹp dưới chân chúng tôi và đang nhìn lên một cách ngây thơ.

Jack cúi người xuống và gãi dưới tai của nó. “Ờ, con chó này cũng là lý do chính đáng để mình phải dọn nhà đấy.”

“Còn anh thì sao? Anh dự định sẽ làm gì?”

“À, giờ đây tôi đã hoàn tất việc tìm tòi về những viên kim cương của phe miền Nam thì tôi cũng cần hoàn tất quyển sách đang viết. Có lẽ tôi cần quay lại ngôi nhà và có thể là gặp cô thêm vài lần nữa để lấy thêm tư liệu chi tiết. Dĩ nhiên, nếu cô đồng ý với việc này.”

Tôi cố che giấu sự nhẹ nhõm trong lòng khi nghe anh nói điều ấy. Jack đã trở thành một phần rất lớn trong cuộc sống của tôi đến nỗi thật khó mà tưởng tượng cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có anh. Thậm chí khi anh là kẻ ngạo mạn và hầu như lúc nào cũng làm tôi bực bội. “Tất nhiên rồi, tôi không phiền đâu.”

Anh mỉm cười. “Có lẽ cô sẽ không muốn tìm thêm một vài con ma với những bí mật của nó nữa hả? Chỉ là vì tôi thì cứ luôn nghĩ đến đề tài mới cho quyển sách tiếp theo của mình đấy mà.”

“Chạy rông và trần như nhộng còn thích hơn. Tôi nghĩ như thế này đã là quá đủ cho tôi rồi, tôi còn cả một đời để phá án và nói chuyện với những con ma đấy. Sắp tới anh sẽ phải tự tìm tòi nghiên cứu theo cách truyền thống thôi. Ðây là nghề không bền, tôi về hưu đây.”

Jack cười phá lên. “Trời ơi, Mellie, hãy cho tôi biết cô thật sự cảm thấy như thế nào về vụ này nhé.” Rồi mặt anh nghiêm lại. “Nhưng tôi hiểu mà. Toàn bộ vụ này thật không dễ dàng cho cô chút nào.” Anh nhìn những người đang làm việc trong khu vườn. “Ðể tôi đi ra ngoài ấy xem họ đã đào xới được đến đâu rồi. Tôi sẽ báo cáo tình hình cho cô nhé.”

“Cám ơn anh,” tôi nói, mặt anh lúc này đang vờn rất gần tôi. “Và cám ơn vì đã bảo vệ danh dự cho tôi khi nãy.”

Anh nháy mắt. “Ðó là điều nhỏ nhặt mà tôi có thể làm thôi, xem ra hành vi của tôi cũng không được gương mẫu cho lắm so với một quý ông lịch lãm nhỉ.” Anh vẫn nhìn chằm chằm vào mắt tôi không rời, và không bước lùi lại.

“Không, chẳng hề gương mẫu chút nào.” Tôi đồng ý, mắt tôi khép hờ khi anh bắt đầu thu nhỏ khoảng cách giữa hai người.

Khi chúng tôi chưa kịp chạm môi nhau thì điện thoại tôi reo lên, và anh bước lùi lại. Tôi chọc tay vào túi sau của quần jeans và lôi điện thoại ra nhìn, không rõ mã vùng của số gọi đến.

“A lô?” tôi nói.

“Chào con, Mellie.”

Tôi sững người. Chỉ có một người khác gọi tôi bằng cái tên ấy ngoài Jack. “Chào mẹ.”

“Mẹ thấy rằng nếu mẹ cứ chờ con gọi lại thì mẹ sẽ không bao giờ có cơ hội nói chuyện với con. Cho nên mẹ đã hỏi ba con để xin số của con.”

Tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói.

“Mẹ nghe nói rằng ngôi nhà của bà ngoại con trên đường Legare đang được đăng bán, và mẹ muốn con làm người môi giới và giúp mẹ mua lại ngôi nhà ấy.” Có một khoảng lặng ngắn. “Mẹ sẽ về nhà, Mellie ạ. Mẹ sẽ dọn về lại Charleston.”

Tôi áp chặt điện thoại bên tai, nghe huyết quản mình đang sôi ùng ục trong đầu. “Ðừng, mẹ à. Xin đừng. Con sống ổn đã lâu mà không có mẹ. Xin đừng quay lại.”

Bà vội vã nói, như thể bà biết rằng tôi sẽ không cho bà đủ thời gian để nói tất cả những gì bà muốn nói với tôi. “Mẹ không trách khi con nói như thế. Nhưng Mellie à, có những điều con cần biết trước khi quá trễ, đó là về bà ngoại của con. Về ngôi nhà của bà ấy và vì sao mẹ phải buông xuôi tất cả. Trong gia tộc mình có những bí mật mà con cần biết...”

Tôi cắt ngang lời bà, vì tôi đã nghe quá đủ những bí mật gia đình trong vòng bốn tháng qua, nó như đã kéo dài cả đời tôi vậy. Khi nghĩ đến những trải nghiệm gần đây của mình, trong đó có việc bị một con ma bóp cổ đến suýt chết ngạt, tôi thấy ngạc nhiên về sự sợ hãi lẫn tức giận mà tôi cảm thấy khi chỉ cần nghe tiếng nói của mẹ mình. Nhưng rồi, tôi tự viện dẫn, rõ ràng là những con ma này đã không thể làm hại tôi bởi vì tôi mạnh hơn chúng nó. Tôi đã chứng minh điều ấy. Nhưng những người mẹ thì lại có khả năng làm đau con mình mà những con ma ấy thì không.

“Ðừng, mẹ ơi. Con xin lỗi. Con không thể.” Trước khi bà kịp trả lời, tôi đã đóng máy điện thoại và tắt máy.

Jack nhướn cả hai bên mày. “Chắc không phải là tin tốt?”

Tôi cố kéo dài thời gian nhét điện thoại trở lại vào túi. “Bà ta muốn dọn nhà trở về Charleston và mua lại nhà của bà ngoại tôi. Bà ấy còn nói trong gia tộc của tôi có vài điều bí mật mà tôi nên biết. Vụ gì đấy về bà ngoại của tôi.”

“Và?” anh ngắt lời.

“Tôi bảo bà ấy tôi không quan tâm.”

“À ha,” anh nói. “Có lẽ quyển sách sắp tới của tôi tự nó đã có đề tài cho tôi rồi.”

“Ðừng hy vọng hão huyền quá,” tôi cười khìn khịt, cố che giấu sự thật là người tôi đã run rẩy thế nào khi nhận được cú điện thoại của mẹ tôi.

Jack nhặt sợi dây xích của Ðại tướng Lee lên rồi đưa nó ra ngoài, và tôi đi theo sát từ phía sau.

Rồi không quay lại nhìn tôi, Jack nói, “Tôi cho rằng vừa rồi là lần thứ ba chúng ta suýt hôn nhau đấy. Nếu mình cứ tiếp tục thế này, có lẽ bọn mình sẽ lập được kỷ lục thế giới cũng nên.”

Anh hướng xuống khu vườn trước khi tôi kịp nghĩ ra một câu trả miếng thật khôn ngoan. Tôi vẫn đứng trên bậc thang trên cùng, nhìn bao quát cả khu vườn đã tơi tả của Louisa và lại tự hỏi mình liệu nó có bao giờ được hồi phục hay không. Tôi khoanh hai tay, nhớ lại cuộc nói chuyện với mẹ tôi khi nãy với cùng tâm trạng không chắc chắn như khi tôi nghĩ đến khu vườn này. Cỏ dại thì ta có thể nhổ đi và gieo hạt mới, đất cứng thì sẽ được cào xới và tưới nước để làm nền màu mỡ cho cây trồng sau này. Nước có thể được dẫn vào đài phun qua hệ thống ống và sẽ phun xối xả như thác lần đầu tiên trong đời. Có lẽ mối quan hệ với mẹ tôi cũng có thể được chăm sóc theo cách tương tự, với sự kiên trì và chăm nom cần có để tái tạo nền tảng tình mẫu tử vốn đã bị phá vỡ cách đây đã gần ba mươi ba năm.

Hoặc không thể, tôi thầm nghĩ khi nhìn thấy chiếc xe ủi đất vừa xúc đi một đống gạch vừa được lát bao quanh chiếc đài phun nước. Tượng tiểu thiên sứ như vừa nháy mắt với tôi, và tôi nheo mắt, tự hỏi không biết đó có phải là do tác động của ánh sáng hay không.

Tôi quay người lại và đi về phía cửa chính qua hành lang có mái vòm. Mình đã về nhà. Ý nghĩ này ập đến trong tôi từ đâu chẳng biết, chỉ biết rằng khi nghĩ đến nó, tôi nhận ra rằng nó rất thật. Tôi vặn cái nắm của cánh cửa hoành tráng, với những ô cửa Tiffany diễm lệ và đẩy cửa vào, để ý rằng lần này thì chẳng có gì cố ngăn cản tôi nữa. Tôi hít hà mùi sáp ong và nước sơn bóng gỗ, và tự mỉm cười một mình trong khi nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại sau lưng.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom