Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
665,842
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Đất Ma

Đất Ma
Tác giả: Nghịch Tử
Tình trạng: Đang cập nhật




Tác giả: Nghịch Tử

Thể loại: Linh Dị

Giới thiệu:

Phượng Ngân bị hứa gả cho người ta.

Thế nhưng, lại có hai vấn đề lớn.

Thứ nhất, đến tên chồng chưa cưới là gì cô cũng không được cho biết.

Thứ hai, anh ta đã chết từ lâu rồi.

Hiển việc đầu tiên mà Phượng Ngân muốn làm là quật tung mồ của vị hôn phu hờ này lên để hỏi cho ra nhẽ. Thế nhưng, cô nàng sớm nhận ra muốn đi lại giữa cõi siêu linh vô hình ma mị thì không thể chỉ dựa vào sức mạnh hai nắm đấm được.

Và Điền Quý - một thầy địa lý tự phong trẻ tuổi cô vô tình gặp trên chuyến tàu ra Bắc - có thể là hy vọng duy nhất của Ngân.

Để tránh tuyên truyền mê tín dị đoan, truyện được đặt trong bối cảnh là thế giới song song, với một số tình tiết thay đổi khác đi so với quan niệm dân gian.
 
Sửa lần cuối:
Chương 1: 1: Âm Hôn





Hà Nội, Việt Nam, 199x...
Vùng ngoại thành thành phố, đang có một đám ăn hỏi quái lạ diễn ra.
Không thấy pháo nổ, không thấy chăng đèn, nhà cửa bên đàng gái cũng chẳng thèm trang trí gì hết.
Thậm chí cô dâu chú rể cũng chẳng thấy bóng dáng đâu cả.
Chỗ cặp vợ chồng son đáng nhẽ phải đứng thì bây giờ kê hai cái ghế con, trên đặt hai bức ảnh thờ.
Cha mẹ hai bên tuy ngoài mặt cười gượng gạo, nhưng chỉ cần không bị mù thì đều thấy lửa giận âm ỉ cháy trong mắt.

Người đến tham gia chẳng ai nói với ai câu nào.
Bên bàn đặt đồ thách cưới có đủ cả cau trầu, rượu thịt, cả vàng...
Nhưng nơi đặt của hồi môn thì lại rặt toàn là tiền giấy vàng mã cả.
Lời con hầu gái nói ban sáng vẫn còn văng vẳng bên tai ông Mạnh – cha của cô dâu.
“Bẩm ông, cô bỏ đi quật mộ chồng chưa cưới rồi ạ!”
Điền Quý bổ người nhảy lên cửa toa tầu đang dần đóng lại, vừa kịp lúc tàu chuyển bánh.

Anh chàng vừa cười xin lỗi nhân viên an ninh, vừa đưa vé tàu ra, người nọ làu bàu một hồi rồi bỏ đi mất.
Tàu xóc nảy khiến anh chàng loạng choạng mất một lúc mới vào được nhà vệ sinh.

Cái mùi khó ngửi xộc ra khiến Quý nhăn mặt lại, mà tàu thời đấy đi lại xóc quá, thành ra anh chàng chẳng dám bén mảng lại gần chỗ hố xí.

Không cẩn thận nó nảy lên một cái, nước trong cái hố đen ngòm ấy bắn lên, thì chả còn dám vào khoang ngồi với con người mất.
Trong ánh đèn mờ mờ của nhà vệ sinh, hiện lên trong gương là khuôn mặt của một thanh niên gầy gò, tóc tai rối như tổ quạ, râu ria lún phún như cỏ dại sau mưa.

Quý là một thanh niên tầm thước, đoán chừng tuổi gần ba mươi, mặc áo sơ mi trắng để dựng cả hai cổ lên, trông chẳng ra làm sao cả.

Anh chàng gõ gõ vào tấm gương mấy cái, miệng lẩm nhẩm khấn niệm, bỗng hình ảnh phản chiếu của anh thò tay ra ngoài, dúi vào mặt Quý một xấp tiền dày cộp.

Anh chàng nhìn ngang ngó dọc, rồi mới đút xấp tiền vào túi áo.
Trên mặt gương phẳng lì bỗng hiện ra một dòng chữ đỏ lòm:
“Dùng ít thôi, tổn thọ đấy.”
Anh chàng khoát tay, cười:
“Bác cứ quá lo, mà lần này cháu đánh bài chuồn cũng là vì không nỡ xa bác, bác xem nên bồi dưỡng thêm chút đỉnh chứ??”
Dòng chữ trên cái gương thay đổi, từng ký tự trườn qua cuộn lại như một đống giun đất còn sống.

Chẳng mất bao lâu, dòng chữ đã trở thành:
“Mơ đi nhóc.”
Điền Quý nhún vai một cái, coi như không thấy gì.
Tàu hôm nay có vẻ vắng hơn bình thường, ghế trống phải tính bằng dãy bằng băng, mà lại không có bọn trẻ con quỷ sứ chạy khắp nơi hò hét.

Điền Quý vươn vai hít một hơi, thiếu điều kêu lên một tiếng là “sướng”.


Đến bây giờ anh chàng vẫn chẳng hiểu tại sao thầy u cứ bắt phải lấy vợ.

Đang thoải mái tự do bỗng dưng lại phải chạy theo hốt phân đóng bỉm cho bọn nít ranh thì ai mà chịu được?
Mình chơi còn chưa đã cái thân, có phải trâu đâu mà tự buộc dây vào cổ?
Điền Quý nghĩ thế, nên anh chàng bỏ nhà ra đi luôn.
Thế nhưng cả toa tàu rộng thênh thang mà có mỗi một mình thì cũng trống trải, chưa kể chẳng có ai tán phét cùng thì nửa ngày đi tàu biết bao giờ mới hết?? Anh chàng ngáp dài một cái, định bụng chắc lại kiếm một xó nào đánh một giấc cho xong chuyện.

Bất ngờ, Điền Quý tia được ở băng ghế sát cửa sổ, gần lối sang khoang tiếp theo nhất có cô nàng độ hơn hai mươi đang ngồi, tay chống cằm, khuỷu tay tì lên bậu cửa.

Trên đùi còn đặt một quyển sách đang mở ra, hình như đang đọc dở nửa chừng.

Đôi mắt trong veo nhìn cảnh vật đang lao vùn vụt bên ngoài một cách lơ đãng.

Nắng rọi xuống làm gương mặt cô nàng sáng bừng lên, đẹp như một bức tranh sơn dầu vậy.
Điền Quý thò tay định vuốt tóc, nhưng nửa đường thấy lười quá, nên lại thôi.

Anh chàng lóc cóc đến gần, bảo:
“Này cô, tôi ngồi đây được không??”
Cô nàng bị đánh động, quay mặt lại, nói một câu với vẻ dửng dưng, không nhiệt tình chẳng lạnh nhạt:
“Anh thích ngồi đâu thì ngồi, tôi đâu có bao cái khoang này?”
Điền Quý nhún vai, đoạn tung mình ngả xuống cái ghế bên cạnh, dường như không để cái nhìn khác lạ của cô gái kia vào mắt.
Được một lúc, anh chàng đã gạ chuyện:
“Tôi là Quý, đằng ấy tên gì thế, đi đâu có một mình thế này?”
“Hủy diệt thế giới.”
Cô gái nhìn sang, đáp gọn lỏn.
Điền Quý thoáng ngạc nhiên vì câu đáp quái dị, đoạn đảo mắt một cái, vỗ tay đánh đét, nói:
“Hay lắm, thế là mình cùng đường rồi.”
Lần này thì đến lượt cô gái kia ngỡ ngàng trước câu trả lời của anh ta.

Cô nàng nuốt nước bọt, nghiêng đầu sang, hỏi:
“Anh là tội phạm hả?”
Điền Quý nhún vai, đáp với vẻ mặt tỉnh bơ:
“Không.

Tôi thất nghiệp.”
Cô nàng kia rốt cuộc bật cười khúc khích, hỏi:
“Anh nóng ruột đến thế cơ à?”
“Tầm này thì ai giao việc gì tôi cũng làm tất!”
Cô nàng bật cười, đoạn hỏi bằng giọng khác hẳn:
“Thế sao, anh thất nghiệp.


Có muốn làm một chuyến với tôi không? Lời lãi bao nhiêu chúng ta chia đôi?”
Điền Quý nhìn sang, đoạn cười:
“Nay lên tàu hóa ra lại gặp người trong nghề đây.”
“Không hẳn.

Thực ra tôi không phải người làm chính thức.”
“Tập sự hả?”
Điền Quý ngả đầu ra ghế, hỏi.
“Không.

Nói cho đúng thì tôi không có giấy phép, mặc dù tôi biết cõi âm có tồn tại.”
Cô gái nọ hạ giọng, vừa nói vừa nhìn khắp cả toa tàu rỗng không một lượt.
Nghe thế, anh chàng Điền Quý bèn vươn vai, vừa ngáp vừa bảo:
“Này này, mồ mả là nơi âm khí tụ hội, quỷ ma hiện hình, người sống như chúng ta chớ có lại gần.

Những chuyện khuất tất như phá mộ không phải trò đùa đâu, mất mạng như chơi đấy.”
“Sao anh biết tôi định đi phá mộ?”
“Tại sao à?”
Điền Quý đáp bằng một câu hỏi, đoạn quay sang chỗ cô nàng, dùng một ánh nhìn bí ẩn nhìn cô nàng.

Mất một lúc thì cô này mới “à” một cái, ra chiều đã hiểu, đoạn lấy trong túi ra một chai nước nhỏ mắt, dúi vào tay Điền Quý.

Cô nàng nhoẻn cười, nói:
“Tôi vô ý quá, anh bị bụi bay vào mắt đúng không? Đến tội...”
Hai người nói chuyện một lúc, bắt đầu bớt lạ lẫm.

Điền Quý tự giới thiệu mình là thầy địa lí, lần này ra ngoài phiêu bạt lang thang tìm kiếm kích thích chứ không có mục đích cụ thể nào cả.

Cô nàng nghe xong thì không nói gì cả, chẳng rõ có tin lời anh ta hay không nữa.
Đến lượt cô gái thì tự xưng là Trịnh Phượng Ngân, là giáo viên dạy trường tiểu học, lần này nhân được nghỉ phép nên lên mấy tỉnh miền núi phía bắc giải khuây, đồng thời tìm kiếm một ngôi mộ được nhắc đến trong gia phả của dòng họ.
Cô nàng bảo:
“Tôi nghe trong nhà bảo mồ tổ đấy nhiều của lắm, nên mới tranh thủ đi tìm, hi vọng có thể xây cho mấy em cái trường mới khang trang hơn.

Nếu anh đang rảnh rỗi không có gì làm, chi bằng ta đánh bạn cùng phá mộ, sau đó phần anh anh giữ, phần tôi chia cho đám trẻ?”
Điền Quý đáp:
“Chuyện thành quả khoan hãy bàn đến, bây giờ đằng ấy còn tìm được manh mối nào về mộ tổ nhà cô không? Chứ cứ thế này phăm phăm xuống mộ thì dễ nằm luôn lắm.”
Phượng Ngân nói:
“Tôi cũng không hiểu lắm, nhưng biết được mười sáu chữ hướng dẫn, ấy là: ‘Người câm mở miệng, xác chết mỉm cười.


Ao tròn.

Giếng méo.

Cây khế còng queo.’ Ngoài ra, thì còn một địa điểm là thị trấn A.

Theo như trên vé thì còn bốn năm tiếng đi tàu nữa.”
“Vậy hả?”
Điền Quý cười cười, đoạn nói:
“Tốt.

Nếu thế thì lát nữa đến thị trấn A tôi sẽ xuống cùng cô, để xem mộ tổ nhà cô nó ghê gớm cỡ nào.”
Phượng Ngân cũng cười đáp lại, làm như không nhìn thấy vẻ mất tự nhiên trong thoáng chốc của anh chàng.
Cô nàng nhoẻn miệng cười, lại hỏi:
“Thế vé tàu thì sao?? Chắc là không trùng hợp đến mức anh cũng xuống thị trấn A đâu nhỉ? Nếu cần thì để tôi làm việc với anh soát vé cho.”
Điền Quý nghĩ bụng:
“Cô nàng này đang thử mình đây mà.”
Kế bèn hắng giọng, bảo:
“Đúng là tôi không xuống ở thị trấn A, mà đi quá chỗ đấy thêm một tiếng cơ.

Thành ra xuống sớm cũng không sao, thiệt tôi thôi.”
Phượng Ngân như chỉ chờ có vậy, bèn tủm tỉm cười, hỏi:
“Thế anh cho tôi xem vé tàu được không?”
Anh chàng nghe thế, giật nảy người lên, mặt lấm la lấm lét:
“Cái vé tàu thôi, có gì mà phải xem?”
“Tôi tò mò thôi mà.

Một cái vé tàu cũng chẳng có thông tin gì bí mật, anh thích thì tôi đưa cái của tôi cho anh xem cũng được.

Hay anh chột dạ?”
Phượng Ngân nghiêng đầu, ánh nhìn của cô nàng như một ngọn thương muốn xuyên thủng tất cả những lời dối trá.
Điền Quý biết cô nàng hỏi bẫy để thử mình, lúc này mới mó tay vào túi quần, lấy tấm vé đã được bấm lỗ ra, đưa cho cô nàng xem.
Phần điểm đến đúng thật ghi “tỉnh D”, là bến thứ ba sau thị trấn A, hai nơi cách nhau đến mấy trăm cây số.
Phượng Ngân càng nhìn càng không hiểu...
Phản ứng của Điền Quý lúc trước và sau không hề ăn khớp nhau.
Cô nàng luyện võ từ bé, rất tự tin vào cặp mắt mình, có thể dám chắc là đã không nhìn nhầm.

Ban nãy lúc nhắc đến “tỉnh A” anh chàng chắc chắn đã mất tự nhiên, giống như không ngờ đó chính là điểm đến của Phượng Ngân vậy.
Vé tàu có thể làm giả.

Tuy cô nàng không rõ Điền Quý làm cách nào để tráo đổi được nội dung trên vé trước bao nhiêu cặp mắt nhìn soi mói trong toa tàu này, nhưng không lấy gì đảm bảo anh chàng không thể cả.

Nhưng...!điều đó không quan trọng.

Nội dung trên vé có thể làm giả, thái độ lúc bị hỏi đến có thể là diễn kịch, chỉ có phản ứng một cách vô thức là chân thật nhất.
Trong bụng đầy nghi vấn, nhưng ngoài mặt Phượng Ngân vẫn không tỏ vẻ gì, chỉ đưa trả tờ vé tàu cho Điền Quý, đoạn nói:

“Thế thì chắc không cần ai giúp rồi.”
Anh chàng cười cười, bảo:
“Thế thì tôi ghi nợ lần này.

Sau này nếu như gặp chuyện, mong cô ra tay giúp cho.”
Phượng Ngân nhún vai, đáp:
“Mặt anh dày thế này mà râu vẫn mọc ra được nhỉ.”
“Ra ngoài lang bạt, mặt dày tí cho phúc hậu.”
Đoàn tàu đi đến tỉnh A, cách thị trấn hai người cần đến năm mươi mấy cây số thì phải dừng lại vì trục trặc kỹ thuật.

Bác lái nói loa bảo mọi người xuống ga đi lại ăn uống chừng hai ba tiếng gì đó là xong, Điền Quý thấy cũng sắp đến giờ cơm, bèn rủ Phượng Ngân xuống tàu vào đại một quán cơm nào đấy, vừa lấp đầy cái bụng vừa nói chuyện giết thì giờ.

Cô nàng thấy đây là cơ hội tốt để dò la thêm tin tức, cũng như thử Điền Quý thêm, bèn nhận lời ngay.
Tỉnh A cũng không sầm uất gì, người lại qua ít, hàng quán cũng chẳng có mấy.

Nếu không phải tàu của hai người dừng lại vì trục trặc thì khéo người ta tưởng đây là nhà ga bỏ không.

Hai người vừa xuống tàu đã thấy có hai lão trung niên ngồi ghế ở hàng thứ bảy, giở chân gà mở bia ra nhậu với nhau ngay tại chỗ.

Điền Quý thấy vậy bèn chạy đến, cười hề hề:
“Chào hai bác.

Hai bác đi đâu mà có cả bia cả đồ nhắm thế này?”
Hai người kia nhìn nhau, rồi hỏi:
“Mới đi tàu này một lần đầu tiên đúng không?”
Anh chàng gật đầu.
Lão ngồi bên trái bèn bảo:
“Chả trách chú bỡ ngỡ, chứ cái loại đi thường xuyên như bọn tôi đây thì quen rồi.

Do chuyên nghiệp cả đấy chú ạ.”
“Thế tức là cái tàu này hay gặp vấn đề ở ga này lắm hả hai bác??”
“Lần nào cũng bị cậu ạ...”
Một lão nói xong, đưa lon bia lên cụng với lão còn lại, rồi tiếp:
“Chả biết tàu bị làm sao, chỉ thấy mấy cậu nhân viên bên nhà ga cứ xuống bến này là lại loay hoa loay hoay với nhau.

Hễ ông nào mặt tái mét như đít nhái thì đích thị là người mới.”
“Ông xem lại mình đi.

Mấy lần ớn người lạnh sống lưng, hơn đếch gì bọn nó??”
Nói đến đây, hai người đều cười vang, ra chiều khoái trá ghê lắm.
Phượng Ngân đứng ngoài nghe, bỗng dưng muốn nói đùa, bèn bảo:
“Thế sao hai bác không hỏi thẳng nhân viên? Biết đâu nhà ga này lại có ma.”
Hai người đàn ông bèn bật cười lên, nói:
“Ma thì ở đâu mà chả có hả cô?”
“Như chúng tôi đây chẳng hạn.”
Một cơn gió thoảng qua, và đôi chân của hai người đàn ông trung niên bắt đầu tan biến.

 
Chương 2: 2: Gà Mổ Xác





Biết mình bị ma trêu, Phượng Ngân mới nổi nóng toan cho cả hai một trận thì Điền Quý vội vàng can lại, bảo:
“Họ đùa thôi mà, không có ác ý gì đâu.

Người trong nghề với nhau cả.”
Anh chàng lấy một ít tiền vàng mã ra, lại hỏi:
“Hai bác là thổ địa ở đây, cho cháu hỏi thăm nhà anh Bắc ở đâu với.”
“Bắc bán gà chứ gì?? Ra cửa ga rẽ trái đi độ hai trăm mét, vào ngõ số sáu, tìm nhà thứ chín là đến.”
Hai ông lão ma đáp xong, bèn giơ tay chỏ chỏ vào mớ tiền giấy Điền Quý đang cầm.

Anh chàng trao tiền âm phủ sang, vừa chạm vào tay họ là cả xấp đã hóa thành tro rơi lả tả xuống đất.

Bấy giờ Điền Quý mới ra hiệu cho Phượng Ngân đi theo mình đến nhà của Bắc.
Đi được một chốc, xa khỏi hai ông bác ma, cô nàng mới hỏi:
“Này! Anh nói người trong nghề là sao??”
“Người trong nghề thì là người trong nghề thôi...”
Anh chàng nói xong, đi thêm vài bước thì bỗng đứng khựng lại như thể vừa nhận ra chuyện gì đó.
“Chẳng nhẽ...!cô không biết gì hết hả?”
Điền Quý quay lại, hỏi mà mặt méo xẹo.
“Làm...!làm gì có...” – Phượng Ngân nhìn sang chỗ khác, có vẻ bối rối trước câu hỏi bất ngờ của anh chàng.
Thấy thế, Điền Quý bèn thở dài, đoạn nói:
“Chỗ này không tiện nói, tìm quán của anh Bắc rồi tôi kể cho.”
Cô nàng Phượng Ngân ngó dòng người tất tả mưu sinh ngược xuôi trên hè phố một thoáng, rồi cũng gật đầu đồng ý.


Bây giờ là lúc cả nước cùng hướng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữa ban ngày ban mặt nói chuyện ma quỷ thế này, nhẹ thì bị coi là người hâm, nặng thì khéo còn phải lên đồn giải trình việc truyền bá mê tín dị đoan ấy chứ.
Điền Quý dẫn cô nàng mới quen đi theo chỉ dẫn của hai ông lão ma, loanh quanh hơn nửa tiếng mới tìm được cửa hàng bán gà của Bắc.

Quán cách ga không xa, nhưng vì ngày xưa thị trấn này là nơi kháng chiến, đường xá sắp xếp như trận đồ, ngõ nọ xiên vào hẻm kia, ngách này lại gối lên đường khác.

Tuy không đến mức trận đồ như phố cổ Hà Nội, song người từ nơi khác đến như Điền Quý và Phượng Ngân thì chẳng biết đâu mà lần thật.
Quán của Bắc là một cái nhà mái tôn xập xệ, tối om và ẩm thấp.

Từ ngoài cửa đã nghe inh ỏi tiếng gà vỗ cánh, đứng từ xa đã ngửi thấy mùi cứt gà hôi rình.
Trước cửa nhà có một người gầy đét như cái que ngồi cởi trần, quạt trên tay phẩy lia lịa mà vẫn mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

Phượng Ngân đoán chắc là cái người tên Bắc – chủ quán.

Những người Điền Quý từng tiếp xúc kể từ lúc xuống tàu, không phải ma thì cũng là quỷ, chẳng ai là con người cả.
Điền Quý bước lên mấy bước, chào lớn tiếng:
“Anh Bắc.”
“Ô.

Thằng Quý đấy à? Sao hôm nay rồng lại đến nhà tôm thế này?”
Anh Bắc ngóc đầu dậy, mắt gà gà như người say, rồi lại ngó Phượng Ngân đang đứng phía sau Điền Quý một cái.

Đôi môi mỏng dích nhếch lên, anh ta bèn bá cổ Quý, nói:

“Kinh thật.

Nghe đâu cậu mới lấy vợ, mà bận quá không xuống được, trùng hợp thế nào hai vợ chồng lại lên cái nơi khỉ ho cò gáy này trăng mật à?”
Phượng Ngân bèn nói, giọng không thân thiện cũng chẳng lạnh nhạt:
“Bọn tôi không phải quan hệ đấy, mong anh đừng hiểu nhầm.”
Anh Bắc gà “à” lên một cái, rồi cười trộm, nói:
“Ra là đào hôn cùng tình nhân à? Chết chết.

Tình tiết như phim truyện thế này mà không báo cho anh biế...”
Ánh mắt lạnh và sắc như lưỡi kiếm của Phượng Ngân khiến anh hàng gà vội vàng nuốt nốt mấy câu định nói vào bụng.
Điền Quý bèn bảo:
“Tình cờ gặp trên đường thôi, nói cho đúng thì đây là khách hàng của em.”
“Ra là chuyện làm ăn.

Sư bố nhà ông, chả nói sớm, làm người ta dọa tớ tí thì đái ra quần.”
Anh Bắc phủi quần đứng dậy, rồi dẫn hai người bước vào cửa hàng.
Quán của anh Bắc là một căn nhà kiểu cũ, ba gian, hai chái.

Sân trước đã được cải tạo lại thành nơi nuôi nhốt gà, chỉ để lại một lối đi bé tẹo, tối mù sát tường trái.

Mới bước vào, mùi hôi thối khăm khẳm bốc lên, gián bò loạn xạ dưới đất khiến Phượng Ngân nhăn mặt lại, nhưng thấy anh Bắc bán gà và Điền Quý chẳng tỏ vẻ gì khác lạ, nên cô nàng cũng cố nhịn chứ không chịu kém.

Song kể cũng lạ, đi chưa được bao lâu, cô nàng đã cảm thấy trong bóng tối có những ánh mắt nhìn mình chằm chằm.

Lối đi chật hẹp chỉ đủ đi hàng một, Phượng Ngân lại là người đi cuối cùng, thế nên những cái nhìn đó tuyệt đối không thể là của Điền Quý và anh Bắc được.
Càng đi sâu vào, nhiệt độ càng hạ xuống.

Ban đầu chỉ thấy man mát dìu dịu, còn bây giờ chẳng khác nào bước đi trong hầm băng vậy.

Điền Quý đi trước bỗng dừng phắt lại, móc trong túi quần ra một lá bùa nhàu nát, bảo:
“Nếu cô lạnh thì dán cái này lên người đi.”
Phượng Ngân thì vốn không tin một mảnh giấy có thể thay đổi được nhiệt độ trong phòng, nhưng anh chàng đã có lòng, cô nàng cũng chẳng tiện từ chối.

Nào ngờ bùa vừa chạm vào áo, Phượng Ngân đã thấy ấm sực cả người, cái lạnh ban nãy chẳng còn chút tăm hơi nào.
Cô nàng nhìn Điền Quý một cái, bóng lưng với tấm áo sơ mi xộc xệch bỗng chốc trở nên bí hiểm dưới ánh đèn leo lét.
Bây giờ Phượng Ngân mới sực nhận ra một việc: nếu Điền Quý đã quen với anh Bắc bán gà từ trước thì tại sao hồi nãy lại hỏi hai con ma đường đến đây?
Cô nàng đang định đi tiếp, thì bỗng nghe cộc một cái.
Âm thanh rất khẽ, nếu là người khác thì chưa chắc đã nghe thấy.

Nhưng Phượng Ngân vốn không phải một cô gái bình thường, từ lúc đặt chân bước vào con ngõ này đã hết mực cảnh giác đề phòng có trá, nên nhận ra ngay.
Chỗ tiếng động phát ra chính là mấy cái lồng gà bên tay phải.
Dưới ánh đèn nhờ nhờ, nằm lăn lóc dưới nền gạch hoa, nổi bật lên như vết mực trên tờ giấy trắng là một ngón tay người.

Khẳng khiu, xanh lét và cứng đờ.

Nhìn chiều dài và hình dáng thì có thể đoán ấy không phải ngón tay của người trưởng thành, mà của một đứa trẻ dưới mười tuổi.
Còn chưa hết bất ngờ, thì từ một cái lồng sát đất, một cái đầu gà bỗng lách qua song sắt.


Cái đầu với bộ lông nham nhở lừ lừ chuyển động, con mắt mở trừng, thao láo nhìn về phía Phượng Ngân với vẻ cảnh giác.

Nói đoạn, nó vội vàng lấy mỏ ngậm lấy ngón tay người rồi rụt lại vào trong lồng sắt.
Phượng Ngân có thể chắc chắn mình không nhìn nhầm.
Con gà vừa thò đầu ra có một cặp mắt không hề giống gà bình thường, mà trông hệt như mắt người.
Sân sau nhà Bắc là một khoảng sân gạch, mé tường đông là giếng nước, trên đặt cái lược bằng ngọc lục bảo, mé tường tây có một cái am thờ.
Muốn đến chỗ này ắt phải vòng qua khu nhà ở nơi gia đình anh Bắc sinh hoạt, thế nên khách khứa đến mua thịt cũng ít khi lai vãng.
Bắc với lấy cái lược ngọc, đoạn băng qua sân, bước đúng bảy bước rồi xoay tượng quan âm lại, đưa lược chải vào lưng tượng ba lần.

Lập tức, bên dưới lớp gạch lát có tiếng gõ cốc cốc vang lên, sau đó là một giọng khàn khàn:
“Mấy”
Bắc quay lại nhìn Điền Quý, sau khi anh chàng gật đầu mới lên tiếng đáp:
“Hai.”
“Xuống đi.”
Nói xong, tiếng nói quái dị bên dưới lớp sân gạch cũng im bặt đi.
Điền Quý nhún vai, trỏ cái giếng, nói:
“Cô hay tôi nhảy trước?”
“Hả...!Chuyện này...”
Anh chàng thấy Phượng Ngân do dự, thì không nói thêm câu nào nữa.

Điền Quý bước nhanh tới, rồi cứ thế nhảy xuống cái giếng ở góc sân phía đông.
Chứng kiến con gà có cặp mắt như người, mổ xác mà sống ban nãy khiến Phượng Ngân chần chừ trong giây lát.

Ai mà biết nhảy xuống cái giếng bé tẹo, tối mò và sâu hoắm ấy thì sẽ có chuyện gì xảy ra?? Nhưng rồi, thu hết can đảm, cũng như tự tin vào năng lực của bản thân, Phượng Ngân cũng nhảy xuống theo.
Bóng tối nuốt trọn cả hai người.

 
Chương 3: 3: Quán Ba Thước





Giếng xây bằng gạch, cũng không sâu gì cho cam.

Nếu muốn, Phượng Ngân chỉ khẽ nhảy một cái là có thể bắt được thành giếng mà leo lên, thành ra cũng đỡ sợ hơn.
Chỗ thành giếng hướng về cái am thờ có một cái đường hầm vừa đủ cho một người bước đi, cứ mười mét lại thắp một ngọn đèn.

Đứng chờ sẵn trong hầm là một bà lão nhỏ thó, lưng còng, tóc bạc lòa xòa thành từng lọn rủ xuống trước trán hệt như một cây dương liễu già.

Thấy Phượng Ngân đến, bà ta bèn móm mém:
“Cô theo tôi vào đây, cậu Quý đang chờ đấy.”
Bà còng cố ra vẻ thân thiện, nhưng phía sau giọng nói của bà ta lại như ẩn giấu một loại ma lực khiến người nghe lạnh run cả người.
Câu bà ta nói lại càng khiến Phượng Ngân cảnh giác hơn...
Điền Quý chỉ xuống giếng trước cô nàng vài giây, mà nay đã không thấy bóng dáng đâu cả, cũng không nghe thấy tiếng chân luôn.

Cho dù anh ta vừa đáp xuống đã chạy ngay thì cũng không thể có chuyện này xảy ra được.
Trừ phi...
Anh ta là ma.
Bản thân toa tàu mà hai người ngồi khi trước thực ra không hề trống trải.

Ghế nào cũng có ma ngồi, những linh hồn xấu số bỏ mạng nơi đất khách quê người lên chuyến tàu âm để về quê cũ.

Cái ghế bên cạnh Phượng Ngân thực ra cũng đã có một bóng ma ngồi sẵn.

Ấy vậy mà vừa thấy Điền Quý bước vào, các hồn ma đều cuống cuồng hoảng loạn cả lên, vội vàng nép mình tránh vào một xó.
Ấy là lí do Phượng Ngân đoán anh chàng này không hề đơn giản như vẻ bề ngoài.
Lại nói, tuy những chuyện quái dị liên tiếp xảy ra kể từ lúc xuống tàu, nhưng nếu nói là cô nàng sợ thì không phải.

Có cảnh giác hơn, nhưng Phượng Ngân không cho rằng ma quỷ bình thường có thể làm gì nổi mình.

Cho dù Điền Quý và tay Bắc bán gà có cấu kết với nhau, cô nàng cũng có thừa tự tin rằng có thể an toàn thoát ra.
Bà còng đã mời, thì cô nàng bèn dấn bước vào trong căn hầm, thử xem quán của bà ta rốt cuộc bán thứ gì.

Bà lão đã già, thành ra đi rất chậm, mà vừa đi lại vừa run lẩy bẩy phải dựa tường lần từng bước.
Phượng Ngân nhân lúc chẳng có chuyện gì, bèn giả đò hỏi vu vơ thử xem có lấy thêm được thông tin gì hữu ích không:
“Hầm này xây làm gì hả bác?”
“Tránh bom cô ạ.

Nay hòa bình rồi, nên già bảo thằng con gỡ quách cái cửa ở giếng đi lại cho tiện.”
Bà già đáp, chẳng có vẻ gì là giấu diếm.
“Bác bán gì dưới này thế??”
“Hàng nước cô ạ.

Dưới này ăn nên làm ra lắm.”
Câu trả lời của bà còng khiến Phượng Ngân hơi lạnh sống lưng.
Quán nước nào lại nằm dưới ba tấc đất? Trừ phi là bán cho người chết.
Không ngờ...
Cô nàng chỉ nghĩ vu vơ mà lại đã đoán đúng.
Quán của bà còng đúng là bán hàng cho người chết.
Bên dưới cái am là một hầm đất bài trí đơn sơ, kê mấy cái bàn thấp và ghế nhựa.

Nền nhà có treo một tấm biển tên quán, gọi là quán “Ba Thước”.
Khách đến quán cũng uống nước chè, ăn kẹo lạc, hút thuốc lào rồi đưa chuyện vu vơ chẳng khác nào quán nước vỉa hè cả.
“Dù vỉa hè này nằm hơi sâu.”
Phượng Ngân đế thêm một câu trong lòng trong khi cố không nhìn vào các vị khách và tình trạng thảm khốc của họ.

Khách của quán Ba Thước phần lớn là liệt sĩ, có người chết vì đạn, người vì bom, người vì na pan.v.v...! Vẻ ngoài thê thảm của họ lúc trút hơi thở cuối cùng vẫn còn y nguyên, khiến cô nàng chẳng nỡ nhìn.
Điền Quý bấy giờ đang ngồi ở một xó quán, trên bàn đã có sẵn một ấm chè tươi và mấy thanh kẹo lạc.

Anh chàng vừa ngáp vừa ra dấu cho Phượng Ngân lại gần.
Y hệt trên tàu, những hồn ma ở đây đều né tránh chỗ Điền Quý ngồi.
Phượng Ngân ngồi vào ghế đối diện với anh chàng, đoạn hỏi:
“Ở đây thì nói được rồi chứ?”

Điền Quý gật đầu, rồi bắt đầu giải thích đầu đuôi.
Hai người đàn ông mà họ gặp ở ga tàu không phải ma bình thường mà là quỷ đói.

Chính vì họ hỗ trợ các hành giả trong việc giữ cân bằng hai cõi âm dương nên bọn họ mới được hưởng đồ ăn thức uống như cô nàng đã trông thấy.
Ban đầu bọn họ tưởng Phượng Ngân là người thường, nên mới dùng tiếng lóng nói chuyện với Điền Quý cho khỏi lộ.

Nhưng tiếp xúc một chốc, hai người này phát hiện cô nàng cũng không phải người bình thường, nên mới cố tình trêu chọc một chút.
Dù sao cũng là quỷ.
Còn hành giả...!bọn họ là những người đi lại giữa hai nẻo âm dương.

Nói nôm na thì đấy là một từ chung chỉ tất cả những người biết đến sự tồn tại của cõi âm và những thứ nằm ngoài thế giới vật chất.

Điền Quý thấy Phượng Ngân muốn vào mộ cổ, nên đoán cô nàng cũng là một hành giả, vậy mới hỏi có phải người “trong nghề” hay không.
Phượng Ngân nghe xong, tuy không vội tin hoàn toàn nhưng cũng không tỏ vẻ hoài nghi gì.

Cô nàng lại đem chuyện ngón tay người và con gà có mắt người ra hỏi Điền Quý.
Anh chàng vừa uống chè, vừa nói:
“Cái giống ấy gọi là gà đồng.”
“Như trong câu ‘mèo mả gà đồng’ ấy hả?”
Phượng Ngân vừa hỏi, lại vừa lấy làm tò mò.

Câu này vốn chỉ hạng người lăng loàn, vô lại theo quan điểm phong kiến.

Thế thì liên quan gì tới gà mổ xác người?
Điền Quý như đọc được nghi vấn của cô nàng, đáp:
“Câu này người thường hiểu theo một nghĩa, mà hành giả chúng ta lại hiểu theo nghĩa khác.

Xưa nay đất nước thường gặp họa chiến tranh, có nói xác chất đầy đồng, thây cao như núi cũng chẳng sai.


Gà là con vật thuộc dương giống như chó, máu gà có thể tị tà, nên gà mổ xác có thể phần nào hóa giải âm khí, tránh để hồn ma hóa thành ác quỷ hại đến nhân gian.

Máu và phân của giống gà này có công dụng trừ ma quỷ, phá yêu thuật mạnh nhất trong các loại gà, nên anh Bắc mới nuôi để lấy máu bán cho hành giả.”
“Thế thì xác nuôi gà anh ta lấy đâu ra? Chẳng nhẽ...”
“Xì tốp! Không đáng sợ như cô nghĩ đâu.

Phần lớn là thi thể của hành giả hoặc người hiến xác.

Thế kỷ hai mươi mốt đến nơi rồi, anh Bắc mà phạm tội giết người có mà mọt gông à? Huống hồ nếu anh ta thực sự giết người nuôi gà thì quy mô đâu chỉ vẻn vẹn mấy lồng sắt như thế?”
Điền Quý vội vàng giải thích.
Anh chàng vẫn biết cô gái ngồi đối diện không phải dạng vừa, nhất là ánh mắt sắc lẻm kia tuyệt không phải người bình thường có thể có.

Chẳng may cô nàng hiểm nhầm khéo lại phá tung cả cái quán này lên mất.
“Mà anh nói ‘chúng ta’ tức là sao?”
“Trong giới hành giả, có một nhóm người gọi là thức giả.

Ấy là những người có thể nhìn thấy những vật thuộc về cõi siêu hình nhưng lại không xử lý những vấn đề của hai nẻo âm dương.

Bọn họ có thể là hành giả về hưu, cũng có thể là người thường.

Bọn họ có thể làm việc hậu cần hỗ trợ, hoặc sống cuộc đời bình dị.

Nói chung chỉ cần nhìn thấy là qua cửa.

Cô thiếu kiến thức về hành giả trầm trọng như thế, đoán chắc chỉ có thể là thức giả mà thôi.”
Phượng Ngân lại hỏi mục đích Điền Quý đến hàng nước này để làm gì.
Nếu như đi phá mộ thì cứ thế mà đến thẳng ngôi làng cần đến, việc gì phải rẽ vào đây?
Điền Quý nhún vai, nói:
“Tôi cũng chỉ ước sao đời như trong phim hành động, chẳng cần biết đầu đuôi gì cứ thế xông vào, trong mộ tự có người nói rõ đầu đuôi sự thể với nhiệm vụ cần làm cho, đến là tiện.

Tiếc là đời chẳng phải mơ.

Tôi không như anh hùng trong phim, trên răng dưới rế có mỗi cái mạng này thôi, không dám tiêu hoang.”
“Nên anh đến đây là để tìm hiểu thêm?”

“Đến hàng gà tất nhiên là để mua gà rồi.”
Điền Quý né ánh mắt chất vấn của Phượng Ngân.
Cô nàng Phượng Ngân này tuy nhìn thấy được những thứ không thuộc về dương gian, nhưng chỉ là một tay mơ, kiến thức căn bản của nghề này cũng chẳng biết.
“Tay mơ mà lại khiến anh Bắc giật mình được ư?”
Điền Quý nghĩ thầm.
Phượng Ngân thăm dò mình, tự nhiên anh chàng cũng sẽ không ngồi yên.
Mẹ Bắc bỏ đi vắt quất, pha thêm ấm chè xanh mới, rồi lại bảo:
“Hai đứa chịu khó chờ một lát.

Bà ấy dạo này hơi nghễnh ngãng.”
Điền Quý cười, hỏi:
“Cháu tưởng cụ phải ngày càng khỏe ra chứ ạ?”
“Sư bố anh.

Anh cứ đến hỏi mấy câu tày trời thế này thêm mấy lần thì cụ thăng sớm.”
Bà hàng nước vừa cười, vừa nhận cái điếu cày từ tay của một bóng ma.
Quán nằm dưới ba thước đất, bán nước cho người cõi âm.
Phượng Ngân yên lặng quan sát cái quán xây lại từ hầm tránh bom này, ánh nhìn không giấu nổi vẻ thích thú và háo hức.
Những hồn ma trông thê thảm như vừa mới mất thì túm tụm lại một góc quán.

Chỗ đấy có kê một bát hương, điếu đóm và ấm chè.

Mỗi lần nhang tàn, bà hàng nước lại lật đật chạy đến chỗ những bóng ma ấy, lấy hương mới ra thắp.
Lại có những hồn ma mạnh hơn, nên không cần phải giữ lại hình dáng lúc vừa lìa trần nữa.

Bọn họ trông không khác gì người bình thường, già có trẻ có, đi lại sinh hoạt như thể còn sống.

Họ cũng ngồi vào bàn uống chè, hút thuốc, ăn kẹo hệt như hai người Điền Quý, Phượng Ngân.

Có chăng là thi thoảng trên người bọn họ lại lóe lên một ánh sáng màu lục mà thôi.
Bỗng từ dưới lòng đất vang lên tiếng chân người loẹt xoẹt.
Đồng thời, sống lưng cô nàng bỗng nhiên lạnh run lên một cái.
Ngoái đầu nhìn, thì một bà già hom hem đã ngồi bên cạnh từ bao giờ, đôi mắt trắng dã và bàn tay gầy gò của bà ta vỗ lên vai Phượng Ngân một cái.

 
Chương 4: 4: Vì Cô Họ Trịnh





Điền Quý như đã cảm nhận được bà cụ này sắp xuất hiện, nên đã ngồi ngay ngắn lại từ bao giờ.

Anh chàng lấy trong áo ra một gói thuốc lào, một cái lược đồng, nói:
“Có ít quà quê, con biếu cụ lấy thảo.”
Bà lão mặc áo nâu xồng, đầu đóng khăn, tóc buộc đuôi gà theo kiểu phụ nữ nông thôn miền bắc của thế kỷ trước.

Bà cụ cầm gói thuốc hết nâng lên lại hạ xuống, đưa lên mũi hít hít ngửi ngửi, mất một lúc mới gật gù:
“Đúng thuốc lào Tiên Lãng.”
Kế lại đưa tay vơ lấy cây lược, dùng một ngón búng lên thân lược một cái.

Cây lược đồng tức thì ngân lên một tiếng trầm, khỏe như tiếng cồng.

Phượng Ngân ngồi ngay cạnh cũng phải vội vàng bịt tay, chỉ thấy váng đầu hoa mắt, không thể tưởng tượng nổi cái lược con bằng một mẩu mà lại kêu to được đến thế.
Bà cụ lên tiếng:
“Đúng đồng Ngũ Xã.

Cậu đã có lòng, thì già cũng xin có dạ.

Không biết lần này cậu muốn biết điều chi?”
Điền Quý nhún vai, nói:
“Cũng không dám giấu, lần này cháu được cô này thuê, muốn phá một ngôi huyệt cổ.”
“Mộ thường thường thì chắc người như cậu chẳng đến đây tìm bà hàng nước như già đâu nhỉ? Lần này lại muốn chọc ra cái họa gì?”
“Thưa cụ, có mười sáu chữ này thôi, nào có phải họa hoằn gì? Người câm mở miệng, xác chết mỉm cười, ao tròn, giếng méo, cây khế còng queo.

Mong cụ cứ thế mà giải đáp cho.”
Điền Quý nói xong, lập tức đưa tay bịt chặt tai.
Tai còn chưa ấm, bà già đã quát to lên rằng:
“Vậy mà còn không phải họa??”
Bà cụ hét xong, mới sững người nhận ra trong quán hãy còn khách, mới nhỏ giọng lại:

“Mộ huyệt trên đời chẳng cái nào đơn giản, không động thổ linh tinh được đâu.

Hai đứa nghe lời già, giàu sang gì cũng phải có mạng mới hưởng được.”
Điền Quý chưa kịp nói thêm, thì Phượng Ngân đã khẩn khoản:
“Chuyện này đối với con mà nói rất quan trọng, mong bà hãy giúp cho.”
Bà cụ cau mày, đoạn nói, giọng đanh thép không cho ai được ý kiến ý cò gì hết:
“Ai muốn chết cũng xuống mộ đó mà chết được, chỉ riêng cô thì không!”
Thấy bà ta đột nhiên thay đổi thái độ, lại nhắm thẳng vào mình, Phượng Ngân cũng đâm bực, bèn nói:
“Cháu với bà không quen biết gì nhau, sao lại cố tình làm khó nhau thế?”
“Vì sao à? Vì cô họ Trịnh.”
Bà cụ nói xong, đang định đứng dậy thì mới phát hiện cả người dính chặt lấy băng ghế không nhúc nhích gì nổi.

Bà ta quay sang Điền Quý, vội vàng hạ giọng:
“Có gì từ từ nói, cậu cần gì phải nặng tay với già?”
Anh chàng ngáp một cái, nói:
“Những gì bà e ngại cháu cũng đã cân nhắc rồi.

Có chuyện gì cháu xin chịu cả, bà cứ nói rõ ra cho bọn cháu là ơn bà lắm rồi.”
“Thôi được rồi.”
Bà cụ lấm lét nhìn Phượng Ngân một cái, nhưng nay bị anh chàng đe dọa chẳng khác nào dao kề ngay cổ, muốn thoái thác cũng chẳng được.

Trong bụng thì chửi xéo Điền Quý, nhưng ngoài mặt thì vẫn phải cố nặn ra một nụ cười gượng gạo.
Bà cụ còm nhom nhìn khắp quán một lượt, rồi nói nhỏ:
“Chuyện này càng ít người biết càng tốt, mong cô cậu giữ kín giúp cho.”
Phượng Ngân thấy câu này bà nói hơi thừa, chẳng rõ tại sao bà cụ lại phải yêu cầu một chuyện hiển nhiên như thế.

Song, cô nàng cũng gật đầu lấy lệ, bụng bảo dạ ắt hẳn bà ta lại nói tiếng lóng gì với Điền Quý đây.
Anh chàng gõ ngón tay lên bàn một cái, cười:
“Bác cứ yên tâm, chuyện hôm nay bác nói với bọn cháu một chữ cũng sẽ không lọt vào tai người thứ ba.”
Bà cụ nói:

“Hồi sinh thời bà từng nghe người ta đồn ngày trước lúc phong trào Cần Vương chống Pháp đang hăng, có một tay phù thủy cao tay ấn đến đầu quân cho cụ Đinh Công Tráng.

Cụ thể sự tình ra sao thì già không rõ, nhưng hắn thuyết phục nghĩa quân là khí số nước ta sắp hết, muốn kéo dài thì phải dùng đến thuật phong thủy mới xong.

Cái mả hai đứa đang đi tìm gọi là Lăng Vua Ma, chính là do tay thầy pháp kia bố trí.

Ngày mộ xây xong, cũng là lúc mà bọn thợ xây đều bị chết thảm khốc, những người bỏ giữa chừng cũng không ngoại lệ.

Xác chất đầy cả ao.”
Bà ngừng lại một chốc, nhìn Điền Quý, rồi lại ngó sang cô nàng Phượng Ngân một cái.

Thấy không dọa được hai người, bà cụ mới thở dài, lại hỏi:
“Mày nhất quyết dẫn con bé xuống đấy à?”
Quý cười, nói:
“Có những chuyện nó là cái số rồi, có muốn tránh cũng chả được đâu cụ.

Thế còn mười sáu chữ kia thì sao? Con đoán nếu thợ xây lăng đã chết hết, thì bây giờ cửa vào lăng ở đâu chắc chẳng còn ai biết nữa...”
Bà già đáp:
“Mười sáu chữ này là do một thợ xây lăng ngày đó khắc vào viên gạch dưới hiên nhà, bảo con trai bao giờ mình chết thì đào lên mà nhớ kỹ.”
Phượng Ngân bèn nói:
“Thế tại sao chúng ta không thử đi hỏi hồn ma của những thợ xây kia?”
“Hơn trăm năm rồi, cô nghĩ chưa ai nghĩ đến cách này à?”
“Ý cụ là, không ai tìm thấy hồn ma của những thợ xây kia?”
Trước câu hỏi của Phượng Ngân, bà cụ chỉ gật đầu một cái, coi như xác nhận.
Điền Quý nói:
“Mười sáu chữ kia thì sao hả bà? Phải bắt đầu từ đâu?”
“Già nhớ độ hai chục năm trước, lúc mà miền bắc bị đánh bom ác liệt ấy, hậu duệ của anh thợ xây định dựa vào mười sáu chữ cổ của tổ tiên để phá mộ kiếm tiền, nhưng cuối cùng cả họ hơn trăm người đều chết bất đắc kỳ tử.


Duy có cậu con trai độc đinh là còn sống do lúc ấy đi công tác trên huyện.

Ngặt nỗi lúc hay tin thì cậu ta cũng hóa thành điên điên dại dại, lầm lầm lì lì.

Hai đứa có thể bắt đầu điều tra từ hướng đó.”
Sau khi mua thêm một chai máu gà, hai người bọn Điền Quý rời khỏi quán Ba Thước, bỏ lại cửa hàng thịt gà của Bắc sau lưng.

Lúc này mặt trời đã ngả dần về phía tây, ráng chiều nhuộm vàng mặt đường bụi bặm.

Điền Quý ngó đồng hồ đeo tay, rồi nói:
“Thế này chắc lỡ tàu luôn rồi, hay tìm chỗ nào nghỉ trọ cái đã?”
Phượng Ngân im lặng, mặt cúi gằm.
Bà cụ hàng nước đã chỉ rõ ngôi mộ có mười sáu chữ hướng dẫn hai người sắp xuống là Lăng Vua Ma, có liên quan đến Đinh Công Tráng chứ chả can hệ gì tới họ Trịnh cả.

Điều đó nghĩa là lí do cô nàng bịa ra trên tàu đã bị lật tẩy.
Cô nàng lại nhớ đến câu trả lời của Điền Quý trước sự can gián của bà hàng nước.
“Có những chuyện muốn tránh cũng không tránh được.”
Rất rõ ràng, anh ta biết điều gì đó liên quan đến chuyện “người họ Trịnh không thể xuống Lăng Vua Ma”.
“Nếu đã biết rõ...!tại sao hắn ta còn chưa lật tẩy mình? Có khi nào ngay từ đầu hắn đã muốn đưa mình xuống ngôi mộ đó?”
Phượng Ngân đứng sững, lần đầu tiên thấy chùn chân không dám bước tiếp.

Càng lúc, cô nàng càng không nhìn thấu được người thanh niên ăn bận lôi thôi lếch thếch phía trước.
Nhưng cuối cùng, cô nàng vẫn hạ quyết tâm và dấn bước đuổi theo.
“Mặc xác hắn muốn gì, mình thề phải quật cái mả đó lên, bằng không không bao giờ thoát được cái đám cưới ma này.”
Phượng Ngân xiết chặt bàn tay, âm thầm thề.
Điền Quý đề nghị để cô nàng lựa chọn nhà trọ nghỉ lại hôm nay...
“Tôi nghĩ chắc cô cũng phát ngán những chuyện ma quỷ linh dị rồi đúng không?”
Anh chàng vừa ngáp vừa đế thêm:
“Nhưng nhanh lên nhé.

Tôi ngái ngủ lắm rồi...”
Phượng Ngân thở dài, rồi cũng ghé vào một tiệm sách cũ hỏi thăm địa chỉ của một quán trọ từng được họ hàng chỉ cho, tên là Hương Rừng.
Dù không muốn, nhưng cô nàng cũng không thể không thừa nhận Điền Quý nói đúng y phóc tâm trạng của mình.


Ngày hôm nay hết gặp quỷ đói, gà mổ xác lại đến quán nước của ma, tuy không sợ, nhưng Phượng Ngân đã ngán tới tận cổ rồi.
Hai người tìm đến nhà trọ Hương Rừng mới biết đây là một nhà khách giá rẻ, bèn thuê phòng để nghỉ lại, định bụng sáng mai sẽ bắt đầu điều tra con trai của dòng họ thợ xây lăng năm xưa.
Phượng Ngân kéo ghế ngồi đếm tiền.
Lần này cô nàng bỏ trốn, không kịp lên kế hoạch kỹ càng, nên cũng không dư dật gì.

Tàu xe đã mất hơn một nửa số tiền lộ phí, chỗ còn lại thì chỉ đủ trả tiền phòng ba ngày, còn chưa tính ăn uống tắm giặt.
Phượng Ngân thở dài.
“Mình bây giờ phải tìm được người con trai sống sót kia, thuyết phục anh ta giải cho mười sáu chữ manh mối.

Nếu được, thì lại phải lội bộ thêm một trăm cây số về thị trấn A, rồi tìm đường vào Lăng Vua Ma.

Nghe cứ bất khả thi thế nào ấy...”
Người ta nói “cái khó bó cái khôn” đúng là không sai.

Vấn đề tiền nong còn chưa giải quyết được, thành ra Phượng Ngân chẳng có chút lòng tin nào vào việc tìm được Lăng Vua Ma cả.
Bỗng chốc bên ngoài có tiếng gõ cửa.
Rồi một giọng đàn ông cất lên, nghe có vẻ na ná giọng Điền Quý:
“Ngân...!Ngân à? Mở cửa, cho xin ngụm nước với...”
Phượng Ngân ngó cái đồng hồ treo tường, thấy đã mười giờ tối.

Cô nàng đứng dậy, đi đến bên vách tường bên trái rồi áp tai vào.

Nhà trọ này là loại bình dân, tiền thuê rẻ bèo, thành ra cũng chẳng tốt lắm.

Tường ngăn giữa các phòng mỏng dính, cách âm lại không tốt, thế nên dù không đặt chân khỏi cửa nửa bước, Phượng Ngân vẫn nghe rõ mồn một tiếng Điền Quý ngáy như kéo gỗ ở phòng bên cạnh.
Lúc này, bên ngoài trời mưa tầm tã.
Cô nàng kéo ghế ra ngồi đối diện cửa ra vào, một tay rút thỏi son to bằng ngón tay trong túi áo ra, giộng mấy cái lên tay ghế.
Chẳng biết vỏ son làm bằng gì, nhưng mỗi lần cô nàng gõ xuống, nó lại cất lên một tiếng “oong” vừa thanh vừa rõ, hệt như tiếng ngân của kiếm tốt sắp ra khỏi vỏ.
Nói đoạn, cô nàng nói thẳng về phía cánh cửa:
“Biết khôn thì cút xéo! Đừng để đến lúc tao phải mở cửa ra mà hối!”
Mưa vẫn rơi tí tách, nhưng đã không còn tiếng người nữa.

Căn phòng trọ canh khuya lại im phăng phắc, cứ như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra

 
Chương 5: 5: Mái Nhà Ba Giờ Đêm





Phượng Ngân từng nghe kể miền núi có một thứ ma gọi là ma rừng, chính là những oan hồn vất vưởng.

Thường trong những đêm mưa gió, ma này sẽ đến nhà dân, giả giọng người xin nước uống.

Hễ ai mà đáp lời thì sẽ bị nó dùng phép câu hồn đi, bị nó dẫn vào rừng sâu rồi lạc mất lối về, cuối cùng chết đói mất xác trên rừng.

Nhưng ma này cũng chỉ hại được người yếu bóng, ai cứng vía thì không làm gì được.
Cái làm Phượng Ngân bực mình nhất đó là cô nàng đã cố tìm một nhà trọ bình thường để thả lỏng, quên hết những cái chuyện tâm linh ma quỷ này rồi, ấy thế mà đến tối lại vẫn có một con tìm đến tận cửa.

Nếu không phải không muốn làm to chuyện, ảnh hưởng đến việc làm ăn của quán trọ chắc cô nàng đã xông ra đánh cho nó một trận rồi, chứ chẳng cảnh cáo khơi khơi vậy thôi đâu.
Đang định quay vào ngủ, thì cô nàng bỗng nghe thấy tiếng khóc chói tai của trẻ sơ sinh, đồng thời cánh cửa phòng bên cạnh bỗng mở “kẹtttt” một cái nặng nề.
“Lẽ nào con ma không hại được mình nên chuyển sang giết người khác?”
Nếu lúc trước chỉ là bực mình khó chịu, thì bây giờ Phượng Ngân chỉ thấy đầy một bụng lửa giận.
Cô nàng đã lên tiếng cảnh cáo, con ma lại còn không biết điều mà cút đi, có khác gì không để cô nàng vào mắt?
Phượng Ngân gỡ nắp son, xoay chốt một cái, nhưng thứ trượt ra chẳng phải mỹ phẩm mà là một lưỡi kiếm dài.

Chỉ kịp nghe “soạt” một cái, thỏi son trong tay cô nàng đã chẳng thấy đâu, thay vào đó là một thanh kiếm dài, lưỡi rộng độ ba ngón tay, làm bằng một thứ kim khí đen kịt, không phải sắt chẳng phải vàng.
Kiếm lăm lăm trong tay, Phượng Ngân đạp cửa phòng, chạy ra ngoài hành lang.
Chỉ thấy Điền Quý đã ngồi ngay trước cửa phòng của anh ta từ bao giờ, Trước mặt anh này bày một cái bát đổ đầy nước, miệng bát gác hai cái đũa đặt so le nhau.

Điền Quý lấy chai máu gà mới mua hồi chiều, nhỏ một giọt vào bát, tức thì nước trong bát đều biến thành màu đỏ ngòm, bọt sủi lên sùng sục như đặt trên bếp nóng già.

Nói đoạn anh chàng lấy một cái tăm tre thả vào trong bát nước.

Que tăm bỗng ngóc đầu đứng thẳng dậy, một đầu chấm mặt nước, đầu kia khua loạn trong không trung, nhưng đã bị hai cây đũa kẹp chặt lại.


Tiếng mưa dội lên mái nhà rả rích bỗng vút clene thành tiếng chân người chạy huỳnh huỵch, cùng những tiếng xì xào như có ai đang nói thầm.
Điền Quý thấy que tăm bé tẹo bắt đầu đẩy được hai cây đũa nhích dần về phía vành bát, mới buột miệng chửi:
“@&*!??!.”
“Có chuyện gì à?”
Thấy Điền Quý mải làm phép không chú ý đến mình, Phượng Ngân bèn bước tới gần, lên tiếng đánh động cho anh chàng là còn có người giúp sức một tay.
“Chỗ này có người đẻ.”
Điền Quý vẫn chăm chú vào bát nước, mặt nhăn như khỉ ăn ớt.
“Thế thì?”
“Ma rừng kéo đàn về bắt trở sơ sinh chứ sao? Tiếng mưa huỳnh huỵch trên mái nhà là chúng nó đấy.”
Phượng Ngân nghe xong, không hỏi thêm câu nào bèn tung người đạp chân lên thành lan can, tay bám lấy mái nhà mà đu người lên.

Trong màn mưa tầm tã, loáng thoáng mấy chục bóng đen hình người đứng lố nhố trên mái nhà.

Có kẻ chân cao lêu đêu, có đứa cổ dài lòng thòng, rồi thì tay to như cái quạt, rồi thì đầu nhỏ như quả quất.

Bọn chúng cứ phồng lên rồi lại xẹp xuống, tay chân co rút lại rồi dài ra, thỉnh thoảng trên đầu lại nổi lên hai cục gì tròn vo như là đôi mắt, hoặc toét ra một cái lỗ như là cái miệng.

Những con ma như một đống bột bánh đang cố tự nặn mình thành hình người, nhưng lại quên mất con người trông ra sao.
Giữa tiếng gió giật ào ào, tiếng hú của những bóng ma rừng cất lên gai người.
Phượng Ngân tuốt kiếm nhào tới, bổ vào đầu bóng ma gần nhất, dễ dàng xả đôi bóng người đen thui đó.

Một tia chớp xẹt ngang qua bầu trời, rọi sáng thanh kiếm sắc lẻm, và một gương mặt thiếu nữ với ánh mắt còn bén nhọn hơn cả mũi kiếm.
Đám ma rừng bắt đầu bò về phía kẻ vừa khiêu khích bọn chúng.


Mỗi lần nhấc tay, bước chân, một phần cơ thể chúng vẫn dính lại trên mái nhà, kéo ra thành những sợi dài như phô mai chảy.
Phượng Ngân vung kiếm, vạch ra một vầng trăng giữa màn mưa.

Mũi kiếm đen kịt dễ dàng xả đứt người, gãy chi của đám ma rừng.

Bọn này bây giờ mới biết thanh kiếm đen kia đáng sợ, vội vội vàng vàng ôm đầu bỏ chạy.

Phượng Ngân nghiến răng, quát:
“Còn muốn chạy??Hôm nay bà phải chém chết hết bọn mày.”
Đoạn đội mưa đuổi theo những bóng ma rừng mà vung kiếm chém tới tấp.

Bọn chúng rú lên từng hồi, nghe rõ sự đau đớn và sợ hãi.

Nhoáng một cái đã có hơn mười bóng đen dị dạng trúng kiếm quằn quại trên nóc nhà.
Thế rồi, dưới ánh chớp lóa lên, một cái bóng cao tới mấy tầng nhà đội cây rừng mà đứng dậy, bước phăm phăm về phía nhà trọ.

Phượng Ngân thấy thế, xoay trở chuôi kiếm trong tay mấy lần cho dẻo khớp, thầm nghĩ:
“Xem ra đánh bọn lâu la mãi thằng trùm cũng phải mò ra đây rồi.”
Cái bóng đen đưa cánh tay dài ngoằng về phía Phượng Ngân, lòng bàn tay bỗng mở ra một con mắt lồi đỏ lòm, to tướng và hằn đầy gân máu.

Nó nhìn chằm chằm vào cô thiếu nữ đứng dưới màn mưa với vẻ thăm dò.

Lúc này, khi cái bóng đến ngay bên ngoài tường rào của quán trọ, Phượng Ngân mới có dịp nhìn cho rõ hình thù của nó.
Cái bóng người cao lớn có bụng phệ, tay chân thì khẳng khiu như người mắc bệnh chướng bụng, ở hai vai có hai bàn chân thò ra.


Thay vì năm ngón tay, nó có năm cái lưỡi khổng lồ bao quanh một con mắt ở giữa.

Cái mặt nó nhẵn thín như gương, trừ một cái lỗ rốn mọc ở ngay trán ra thì không có bất cứ một ngũ quan nào cả.

Nơi đáng nhẽ là rốn thì lại mọc ra một cái miệng rộng ngoác đầy răng lởm chởm ố vàng, hai bên nách là những lỗ tai người, đếm sơ cũng phải vài chục cái.

Nếu như con người là một sản phẩm trong nhà máy, thì cái bóng đen đang đứng trước cổng quán trọ Hương Rừng lúc này chẳng khác nào có ai đem tất cả nguyên liệu thừa dồn vào nặn thành một thứ sản phẩm biến dạng.
Con quái vật ngó lom lom vào mặt Phượng Ngân, sau đó cất tiếng gầm, vung bàn tay có năm cái lưỡi lên muốn đập xuống mái nhà.
Cô nàng đang muốn nhảy tránh, rồi nhè lúc tay nó chưa kịp thu về vung kiếm chặt phăng luôn, thì đã có một bóng người bò lên từ hành lang bên dưới, đưa tay ra can:
“Ngừng!!!”
Người bỗng dưng can gián một người một ma ăn thua đủ với nhau đúng là Điền Quý!
Chẳng rõ anh này nói gì với con ma rừng, vì âm thanh mà Điền Quý phát ra cứ chít chít méo méo như tiếng thú kêu, nhưng được một lúc thì cái bóng ma to đùng cũng kéo đàn em quay lưng bỏ vào rừng mất dạng.
Trên nóc nhà trọ Hương Rừng, bây giờ chỉ còn lại hai người.
Phượng Ngân rút gọn thanh kiếm đồng thành thỏi son rồi cất vào túi, đoạn bảo:
“Nếu có gì muốn nói thì đợi xuống cho đỡ ướt đã.”
Cô nàng thấy sau khi nói chuyện với con ma khổng lồ xong Điền Quý vẻ bực dọc, nên đoán chừng anh này đang khó chịu về chuyện gì đây.

Song, Phượng Ngân nghĩ mãi cũng chẳng thấy mình sai ở chỗ nào, nên cũng không ngại ngần gì cả.

Cây ngay nào có sợ chết đứng bao giờ?
Điền Quý không đáp, chỉ lừ lừ trèo xuống khỏi mái nhà.
Quán trọ Hương Rừng lại yên tĩnh như cũ.
Phượng Ngân trở về phòng, thầm nghĩ hẳn là Điền Quý sẽ sang cãi cọ một hồi với mình, nhưng mãi vẫn không thấy gì nên cô nàng cũng tranh thủ chợp mắt một lát.
Sáng hôm sau...
Hai ông bác trung niên – hai con quỷ đói mà Phượng Ngân gặp ở nhà ga tìm đến tận quán trọ Hương Rừng.

Điền Quý mời hai người vào phòng mình rồi khép cửa cẩn thận.
Thấy lạ, cô nàng bèn thử áp tai vào vách tường nghe xem ba người nói chuyện gì với nhau.
Một ông trung niên nói:

“Lần này mày gây vạ lớn rồi con ạ.

Mày cũng không phải không biết ma rừng có tên trong sách đỏ, được bên trên bảo vệ?? Huống hồ, mình đang muốn hợp tác với toàn diện với họ.

Ai dè mày lỗ mãng như thế, phen nào khéo xôi hỏng bỏng không cả.”
“Đã thế đêm qua mày lại còn thả âm binh đi khắp cả cái thị trấn, thành ra lại càng phức tạp, khéo lại chuyện bé xé ra to.”
Điền Quý đáp:
“Thôi thì sự cũng đã rồi, bây giờ nói thì có ích gì đâu?”
Hai con quỷ cùng thở dài, một ông nói:
“Sớm biết thế này lúc ở nhà ga bọn tao đã kiên quyết hơn, mày đỡ phải bị con bé đó liên lụy.”
Ông kia cũng đồng tình, vừa gật gù vừa bá vai Điền Quý, bảo:
“Người ta bảo anh hùng khó qua ải mỹ nhân đúng là chẳng sai thật.

Con bé đấy xinh thì xinh thật, cơ mà mày phải tỉnh táo lên đi Quý ạ.

Trên đầu chữ sắc có con dao đấy.”
Phượng Ngân càng nghe càng thấy nóng mặt, lúc này không nhịn được, chạy sang đạp cửa phòng của bên cạnh, nói:
“Chuyện tôi gây ra, hậu quả gì tôi sẽ gánh cả, chắc chắn sẽ không liên lụy đến anh Quý.

Nhưng hai người coi tôi là loại con gái hư hỏng trắc nết, dám làm không dám nhận thì không được! Hôm nay, nếu hai ông không xin lỗi tôi tử tế thì tôi cũng không nói mồm chi nữa cho phí nước bọt.”
Hai con quỷ đói vừa thấy thanh kiếm Phượng Ngân cầm trong tay thì tá hỏa, vội vội vàng vàng biến thành hai đám khói toan chạy ra cửa sổ, nhưng cô nàng đã nhanh hơn chắn kiếm chặn ngay lại.

Bí nước, hai người chỉ có cách biến ra lại thành hai ông trung niên, quay sang cầu cứu Điền Quý.
Anh chàng ngáp một cái, rồi tủm tỉm cười:
“Họa từ miệng ra, hai ông xúc phạm cô ấy sau lưng người ta, sao bây giờ lại xin cháu??”
Hai lão tặc lưỡi, xin lỗi rối rít rồi bỏ chạy thẳng một mạch.
Bấy giờ, Điền Quý mới bảo:
“Nói gì thì nói, bọn họ ác khẩu thì có ác khẩu thật, nhưng họa hôm qua cô chọc ra không nhỏ đâu.”

 
Chương 6: 6: Bộ Bài Tam Cúc





Phượng Ngân chống thanh kiếm đen xuống, lưng đẩy thẳng, cằm hơi hướng lên, hỏi ngược:
“Anh cũng cho tôi là hạng con gái chân yếu tay mềm?”
“Không.

Không.

Tôi nào phải hạng có mắt không tròng?”
Anh chàng cười cười, đoạn tiếp:
“Nhưng lắm khi nắm đấm không giải quyết được tất cả mọi việc đâu.

Cô khoan hãy lên tiếng, có gì từ từ ngồi xuống uống miếng nước rồi tôi từ từ giải thích cho.”
Điền Quý nói xong, bèn kéo ghế mời Phượng Ngân ngồi, rồi chỏ ấm trà trên bàn.

Chờ cô nàng tự rót cho mình một chén, Điền Quý mới kể:
“Thực ra bây giờ người ta có định vị, có la bàn, đường xá cũng quy hoạch tốt hơn, công nghệ vẽ bản đồ cũng hơn hẳn ngày trước.

Số người chết trên rừng trên núi rất ít, mà số người không tìm được xác mang về chôn càng ít hơn.

Thành ra ma rừng cũng dần trở thành loài quý hiếm, có tên trong sách đỏ bảo tồn.”
“Dù có là loài quý hiếm đi nữa thì hành động đêm qua của tôi cũng là tự vệ chính đáng.”
Phượng Ngân cãi.
Điền Quý bèn bảo:
“Chuyện ấy thì tôi không phủ nhận, nhưng thực ra giới hành giả đang cố thuyết phục loài ma rừng hợp tác toàn diện với ta.

Nếu như có họ giúp đỡ thì mảng tình báo của hành giả sẽ mạnh lên một bước dài, công tác hậu cần cũng sẽ tốt hơn.

Nói chung là chuyện hôm qua không đơn giản là đấu đá khơi khơi, mà còn có nguyên nhân chính trị đằng sau nữa.”
“Thế nên anh mới bảo chuyện này chẳng liên quan tới việc tôi mạnh hay không.”
“Thậm chí, cô mạnh quá mới đáng lo ấy.


Người ta hiểu nhầm là khiêu chiến thì chết dở.”
Điền Quý tự rót một chén trà, tự uống một ngụm.
Phượng Ngân cắn răng, hỏi:
“Chẳng nhẽ phải trơ mắt ra nhìn chúng bắt trẻ sơ sinh hay sao?”
“Không.

Sao lại có chuyện đó được?? Mạng ma rừng quý, chả nhẽ mạng người lại không à? Nhưng những chuyện phức tạp thế này làm gì cũng phải có trình tự của nó, không thể vì cảm tính mà đốt cháy giai đoạn hay đảo lộn đầu đuôi được đâu.”
Điền Quý khoát tay, đoạn gõ lên mặt bàn một cái.
“Ý anh là?”
“Nói cho dễ hiểu, thì trước khi ra tay, chúng ta cần phải thuyết phục họ đã.

Nếu họ vẫn không nghe, thì mới đến bước trấn áp bắt giữ.

Nếu lúc đấy vẫn ngoan cố phản kháng thì có triệt hạ mấy tên cũng dễ ăn nói với vua của ma rừng hơn.

Nhưng tối qua tôi vừa mới làm phép khuyên can, còn chưa đến bước hai cô đã xông lên chém người ta lấy được rồi, thế nó mới nên chuyện.”
Điền Quý nhún vai, lại nói:
“Tôi cũng chả thích rườm rà như thế, nhưng đâu còn cách nào khác? Sang thế kỷ mới đến nơi rồi, giờ có lí lẽ dễ nói chuyện hơn...”
“Thế...!hôm qua...!là tôi làm liên lụy đến anh?”
“Cũng không nói thế được.

Dù sao, lúc đó tôi cố tình không can cô lại kịp thời, nên tính ra cũng là tòng phạm rồi.”
Anh chàng vừa cười, vừa vươn vai đứng dậy, hất đầu về phía cửa ra vào:
“Tạm không nói những chuyện vĩ mô đấy nữa, tự sẽ có người giải quyết cái mớ này.

Tôi tìm được người cần tìm rồi, có đi cùng nữa không hay thôi??”
Điền Quý và Phượng Ngân khóa cửa phòng trọ cẩn thận, rồi ra phố.

Bấy giờ vừa đến giờ trưa, cái nắng oi ả đầu hè hong khô cả con đường, chẳng còn vết tích nào của trận mưa dông đêm qua nữa.

Quý nhìn đồng hồ đeo tay, nói:

“Còn hơi sớm, anh kia phải cuối giờ chiều mới mở cửa cơ.”
“Tôi và anh tách ra ai làm việc nấy, khoảng bốn giờ thì tập trung ở đây.”
Phượng Ngân chỏ vào một cái cổng làng cổ xưa, đề nghị.
Anh chàng khịt mũi một cái, rồi vừa ngáp vừa đi về phía nhà ga, coi như là đã đồng tình với ý kiến của cô nàng.
Ngân thở phào một hơi, nói đoạn rảo chân bước qua cổng làng.

Từ đây nhìn thẳng vào, đi thêm độ đăm bước chân thì đến một khoảng sân có cây si già, dưới bóng cây kê một cái bàn đá dùng hóng mát.

Bấy giờ đang mấy cụ già cởi trần đang vừa uống chè vừa đánh tam cúc ăn tiền, trong cơn sát phạt nhau, tiếng cười nói reo hò inh ỏi của mấy ông cụ át cả tiếng nhạc phát ra từ cái đài radio đặt trong bọng cây.
Phượng Ngân chờ mấy ông đánh xong ván đầu tiên, bèn nghiêng đầu, nói giọng đon đả ngọt lịm:
“Các cụ đánh vui thế, không biết cho con chơi cùng có được không??”
Mấy ông lão cười phá lên, một ông cụ vừa nhích sang nhường chỗ cho cô nàng ngồi vào bàn, vừa dặn:
“Lát có thua thì đừng bảo bọn tao ỷ già khi trẻ, bắt nạt người ngoài đấy nhé?”
Cô nàng vẫn giữ giọng khiêm nhường:
“Các cụ yên tâm, dám chơi dám chịu chứ.”
“Cháu nó còn trẻ người, hay ta chấp nó một tí các cụ nhỉ?”
“Thế thì cho nó cầm cái, chia bài.”
Mấy ông cụ cùng cười phá lên, bụng bảo dạ sắp ăn được của cô nàng một mớ.

Không ai biết rằng, đây đều là điều Phượng Ngân dự tính kể từ lúc nhác thấy bóng họ từ bên ngoài cổng làng.
“Mình ăn gian thế này có quá đáng không nhỉ?”
Trong lúc sắp bài, chia bài, Phượng Ngân đã cố tình giở một vài tiểu xảo.

Động tác cô nàng vừa nhanh vừa kín, mấy ông lão tuổi cao tất nhiên là không phát hiện được.

Thành ra Phượng Ngân cứ thắng hết ván này đến ván khác, giữ chặt quyền làm cái, chia bài không nhả ra cho ai.

Kết quả là chỉ sau vài ba tiếng, mấy ông lão đánh bài thua còn đúng bộ quần áo trên người.
Chuyện lộ phí coi như giải quyết xong...
Nhìn mấy ông cụ thất thểu về nhà, bỏ cả cái đài lại bọng cây, Phượng Ngân quả thật có phần áy náy.


Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cũng chỉ có cách này mới dễ làm thân với người ta mà dò la tin tức.
Lúc Ngân nhắc tới chàng trai mà người cả họ bị chết, một ông cụ mới run giọng bảo:
“Hồi ấy nghe đâu dòng họ nhà thằng này định động thổ miếng đất phong thủy ở thị trấn A, nhưng chưa hoàn công thì cả họ đã chết bất đắc kỳ tử.

Thằng ấy từ đấy cũng lầm lầm lì lì, chả nói năng gì hết.

Giờ đang đạp xe bán tào phớ dạo mưu sinh.”
Hiện tại, Phượng Ngân dám chắc tám chín phần “người câm” mà mười sáu chữ hướng dẫn đề cập tới chắc chắn là cậu con trai sống sót, hiện đang bán tào phớ này.

Điều khiến cô nàng thấy tò mò hơn cả đó là tại sao người để lại hướng dẫn lại tiên liệu được dòng họ người thợ xây chỉ có một người con sống sót, hơn nữa lại hóa câm để ứng với câu đầu tiên.
Phượng Ngân vừa đứng dậy định bỏ đi, thì bỗng cái đài phát thanh bắt đầu phát ra những tiếng “rè”, “rè” như bị nhiễu sóng.

Đáng nói ở chỗ, ban nãy mấy ông cụ trên đà thua đã rút phắt phích cắm ra, bảo do tiếng nhạc làm phân tâm không tập trung đánh được.
Được một lúc, âm thanh từ cái đài bỗng méo đi, cuối cùng trở thành một tiếng cười the thé:
“Sinh mạng chỉ có một, cần phải biết quý trọng.”
Phượng Ngân cười khẩy, hiên ngang nhìn lên chạc cây, hỏi:
“Chỉ biết hù dọa suông thế thôi à? Có giỏi thì xuống đây xem ai sợ ai?”
Không có câu trả lời, vì cái đài phát thanh đã chết lặng như cũ.
Cô nàng phủi áo, quay phắt lưng lại, cuối cùng để lại một câu:
“Bà đây tống nguyên đai nguyên kiện mấy câu vừa rồi trả cho mày, cứ cẩn thận cái mạng đấy.”
Lúc này, bóng cây si đổ xuống dường như trở nên âm trầm hơn mấy phần.
Phượng Ngân vừa ra khỏi cổng làng thì Điền Quý đã ngồi chờ sẵn trên một cái xích lô, tay đập vào ghế nệm giục cho cô nàng lên ngồi cùng.

Ngân vừa bước lên xe, anh chàng đã dặn:
“Lát cứ kệ anh xích lô, đừng bắt chuyện gì cả.

Cũng đừng có nói chuyện với anh tào phớ kẻo xôi hỏng bỏng không đấy.”
Lúc nói câu này, gương mặt Điền Quý lộ vẻ nghiêm túc hiếm hoi, cô nàng cũng nghe lời mà không hỏi gì nữa.
Hai người kéo mái che xuống, đợi thêm mấy phút, thì ở khúc quanh đã có một anh chàng tóc tai rũ rượi lầm lũi dắt một cái xe đạp xuất hiện.

Giỏ xe đặt một cái ấm, yên sau buộc một cái sọt to để nồi tào phớ và đủ thứ thìa bát linh tinh.

Anh chàng cứ dắt một đoạn là lại đưa tay nhấn chuông xe “riinh” một cái, chắc là thay cho tiếng rao bán.
Người trong thị trấn cũng quen mặt anh này, thỉnh thoảng lại gọi anh tấp vào tận thềm ủng hộ.


Mỗi lần như thế, anh chàng lại thuần thục mở nắp nồi, lấy cái thìa inox to hớt từng lát đậu phụ trắng phau để vào bát, đoạn với cái ấm ở giỏ xe, đổ thứ nước đường thoảng hương hoa bưởi ra.

Ai tự dùng bát nhà mình thì thôi, còn ai ăn luôn bằng thìa bát anh mang theo thì anh chàng lại chống chân chống đứng chờ trước cửa.

Anh ta cứ im ru như phỗng, như con robot hết điện, chờ mãi đến tận khi họ dùng xong mới chịu nhúc nhích.
Người ta chắc cũng quen rồi, chứ khách mới bị anh bán hàng nhìn chằm chằm như vậy chắc không nuốt nổi một thìa.
Nhưng lần nào cũng vậy.

Khách trả bát, trả tiền xong là anh ta lại lầm lũi dắt xe đi về một hướng vô định, thỉnh thoảng lại rung chuông xe đạp lên, suốt cả quá trình không hé miệng nói lấy một chữ.

Như người ta không nói được, thì thỉnh thoảng cũng sẽ ú ớ mấy tiếng, hoặc cười bật lên.

Duy có anh này là im thin thít, cứ lặng lẽ vật vờ như một cái bóng.
Chiếc xích lô của Điền Quý và Phượng Ngân nhè nhẹ bám theo anh chàng bán tào dọc trên con đường hành nghề, hết đi đường lớn lại rẽ ngõ nhỏ.

Cũng may xe bán tào cũng lỉnh kỉnh đủ thứ, nên thường những ngõ hẹp xích lô không đi được thì cái xe cũng khó mà lách vào.
Anh lái xích lô của hai người cũng thế, dọc đường tuyệt không phát ra một âm thanh nào hết.

Phượng Ngân cứ có cảm giác anh này đang thi với anh tào phớ xem ai mở miệng cất tiếng trước thì thua.
Vòng vèo một hồi, từ chập choạng đến tận khuya lơ khuya lắc, anh tào vẫn lầm lũi bước, cái xích lô cũng lừ lừ theo sau.

Phượng Ngân thấy mãi mà chưa hỏi được anh tào phớ đầu đuôi sự thể, không khỏi lấy làm sốt ruột.

Còn Điền Quý thì trái hẳn.

Anh này coi buổi chiều như đi ngắm cảnh hóng mát, được một lúc thì lăn quay ra ngủ khì, quả thật là vô tư lự.
Anh tào phớ cứ đi mãi, đi mãi, đến tận gần một giờ sáng thì rẽ vào con đường ven bờ sông, đến trước một cái cầu cho tàu hỏa chạy thì dừng lại.

Khu này vốn nằm rất xa trung tâm thị trấn, không quán xá chẳng nhà dân, thành ra cũng hiếm khi có người lui tới.

Dưới gầm cầu không một ngọn đèn, thành ra chỉ thấy bóng tối đặc quánh rỉ ra dưới bóng trăng nhờ nhờ trên bầu không.
Tiếng lốp xe bén đường, tiếng bộ xích cũ kỹ chuyển động hòa cùng âm thanh của cái chuông nhỏ cất lên như một bản hòa tấu quái đản.

Bóng lưng xiêu xiêu vẹo vẹo của anh tào phớ từ từ biến mất trong bóng đêm của căn hầm.

 
Chương 7: 7: Linh Miêu Chó Trắng





Anh chàng bán tào chui vào gầm cầu rồi, Điền Quý mới ra hiệu cho Phượng Ngân cùng xuống xe.

Anh chàng lấy trong túi quần ra một cái bọc lá chuối trông như đứa trẻ, to bằng cái đầu người, đặt lên chỗ ngồi.

Người đạp xích lô cười toe toét, da trên trán nhăn thành nếp.

Dưới ánh trăng tà tà, hai bên má anh này mọc thêm hai đôi tai, dái tai trễ lòng thòng xuống tận cổ.

Mấy nếp nhăn trên trán cũng mọc ra những con mắt, đếm cả cặp mắt bình thường thì vừa đủ mười hai cái.
“Hiện nguyên hình rồi kìa, cẩn thận kẻo bị nhìn thấy đấy.”
Điền Quý vội vàng nhắc.
Người lái xích lô hốt hoảng hít vào một hơi thật sâu, rồi nín thở, mặt nhăn như quả táo tàu.

Sau đó, những con mắt và lỗ tai thừa mới từ từ chui lại vào da thịt hắn.
Đợi chiếc xích lô đi khỏi, Phượng Ngân mới hỏi:
“Đấy là loài gì vậy?”
“Ba bị đấy.

Sáu quai, mười hai con mắt.”
(Chú thích: "ba bị" trong quan niệm dân gian là "chín quai, muời hai con mắt." Ở đây đã có thay đổi do là thế giới song song, cũng là để tránh tuyên truyền mê tín dị đoan.)
“Tôi tưởng ba bị chỉ đám cướp biển ngày xưa? Sáu người, hai người một cái bị, vị chi là sáu quai và mười hai con mắt.”
“Thì đúng rồi.”
“Vậy người vừa nãy...”
“Cũng là ba bị luôn.”
Điền Quý đáp gọn lỏn.
“Anh không thấy câu mình nói cứ mâu thuẫn thế nào à?”
“Trước đây thì ba bị đúng là nói cướp biển, nhưng do người ta tin vào một yêu quái ba bị quá, nên loài ba bị xuất hiện thật luôn.


Có gì mà mâu thuẫn?”
Điền Quý vừa nói, vừa che miệng ngáp.
Ngân nhìn sang, cười:
“Anh ngủ cả buổi rồi mà giờ vẫn chưa đủ à?”
“Đành chịu.

Đẻ ra đã thế rồi.”
Vì một nguyên nhân nào đó, có lẽ là trực giác mà Phượng Ngân biết câu trả lời cụt lủn của Điền Quý không phải sự thật.
Phượng Ngân lấy thỏi son ra nắm chắc trong tay, tai mắt đều căng ra, chú ý khắp bốn phương tám hướng.

Lúc này cô nàng đã thủ thế sẵn, chỉ chờ kẻ trong bóng tối xông ra đánh lén là sẽ hạ gục ngay.
Không thể sai được...
Cô nàng có thể cảm thấy rõ mồn một một ánh mắt trong xó tối đang không ngừng săm soi, tìm kiếm sơ hở của cả hai.
Điền Quý gom một đống củi, đánh lửa, đoạn lấy một con cá khô ra hơ trên lửa cho vàng.

Mùi cá thơm nức mũi từ từ bốc lên, đủ khiến người ta thèm chảy nước miếng.

Phượng Ngân nhịn đói từ chiều đến giờ, tuy không ăn một ngày với cô nàng mà nói không phải chuyện gì to tát, nhưng bị mùi cá kích thích, cái bụng lại cồn cào lên.
Cá chín vừa đúng độ, thì có một con mèo đen từ trong gầm cầu chậm rãi bước ra, đến gần đống lửa.

Ánh lửa soi rõ những vệt vằn vện như da rắn chạy từ trán xuống tận chót đuôi.

Đôi mắt con mèo đen nhìn ngọn lửa như phát ra ánh sáng màu xanh lục ma quái.
Con mèo giơ một vuốt lên, vừa xỉa răng vừa nhìn chằm chằm vào con cá nướng của Điền Quý.
Anh chàng ném con cá cho nó, lại bảo:
“Yên tâm, cô ấy không lạ gì cõi âm.”
Con mèo làm lơ Điền Quý, chỉ cắm cúi ăn Đến lúc con cá chỉ còn trơ mỗi xương, liếm mép liếm móng cũng xong xuôi cả rồi, con mèo mới nói:
“Đi theo ta.”

Hai người theo gót con mèo đen, vừa đặt bước chân đầu tiên vào con đường len dưới cây cầu, một mùi thối đến ngạt thở đã ập vào mặt khiến cả Điền Quý lẫn Phượng Ngân đều chảy cả nước mắt.

Đó là cái mùi phân hủy thối rữa không thể lẫn vào đâu được.

Mùi nồng nặc là thế, nhưng ban nãy Phượng Ngân có đứng sát chân cầu cũng không ngửi thấy gì, đủ biết là cây cầu này đã được yểm phép.
Những đốm lửa ma trơi tỏa ánh sáng màu xanh lơ thi nhau đội nước trồi lên, rọi sáng con đường ven bờ sông.

Dọc theo bên bờ sông dốc thoai thoải, mỗi ô gạch lại thò lên một cánh tay người, đung đưa trong cơn gió đêm cứ như ngọn cỏ.
Một cảnh tượng kinh dị và quái đản.
Con mèo dẫn hai người đến một cái xe buýt hỏng bị vứt xó ở đấy, cào mấy cái vào cái đèn pha, chẳng rõ thế nào mà cửa vào lại bật mở.

Bấy giờ trên ghế tài xế có một con chó trắng ngồi chồm hỗm, chân sau gác lên vô lăng, chân trước thì lấy cái nón lá quạt lấy quạt để.

Cái mũi nó sáng lên trong bóng tối, đỏ rực như hòn lửa.
Điền Quý ngáp một cái, hỏi:
“Dạo này ông anh làm ăn vẫn ổn chứ??”
Con chó nhướn người lên, bảo:
“Đói mốc mồm đây, chú có mối nào giới thiệu cho anh làm không?”
Điền Quý cười, bảo:
“Mối thì có, nhưng làm theo mùa vụ, một năm có một chuyến thôi.

Anh đồng ý thì để em liên lạc với lão béo, hai tư tháng chạp sẽ gọi anh.”
“Tiên sư bố mày! Bố %$^ phải tuần lộc!”
Con chó sủa một tiếng inh ỏi, đoạn vơ ngay cái nón ném vào mặt Điền Quý.
Anh chàng hụp người tránh.
Lúc này, con chó trắng mũi đỏ mới chú ý đến Phượng Ngân đứng ngay đằng sau.


Vừa thấy cô nàng, con chó trắng bèn lườm Điền Quý một cái ra chiều trách cứ, nói đoạn nó thè lưỡi liếm chân trước, vuốt lại lông trên đầu, cất giọng:
“Chết thật, mải đùa với anh em trong nhà, không biết là còn có một quý cô đi cùng.

Chuyện thất lễ vừa rồi xin cô đừng chấp.”
Phượng Ngân đáp:
“Không sao cả, xin anh cũng đừng vì tôi là con gái mà cư xử khác với bình thường.”
Con chó hơi nâng cằm, nói:
“Thế thì cô có điều không biết rồi, đây mới là cách cư xử lúc bình thường của tôi đấy chứ.”
Nói đoạn nó lại hắng giọng, nói:
“Thằng Quý đưa cô đến đây hẳn là có chuyện quan trọng, không thể phí phạm thì giờ của cô được.

Đã vậy thì ta hãy bàn chuyện công trước, còn chuyện tư...!nếu quý cô không chê, không biết có thể để tôi mời khách một bữa hay không?”
Điền Quý nói:
“Anh giai, em thành tâm nhắc nhở anh lại một lần nữa, con người không thích ăn đồ của chó.”
“Còn cần mày nhắc à??”
Con chó trắng mũi đỏ gào lên, nhưng nửa câu sau giọng lại nghẹt đi như sắp khóc:
“Chẳng qua hôm đó tao quên không nhìn ngày, đi nhầm vào đúng đêm trăng tròn mới không khống chế được bản năng.”
Phượng Ngân lên tiếng:
“Anh đây đã là bạn Quý, có lòng mời thì lẽ nào em từ chối cho được? Chọn ngày không bằng gặp ngày, ta cứ ăn ở đây luôn, thuận tiện cũng có mấy chuyện em muốn hỏi.”
Con chó trắng nghe thế thì mừng húm, vội vàng đứng dậy, bẻ lại ghế trên xe làm bàn, rồi hất đầu bảo Điền Quý:
“Chú lấy đồ nghề ra đây, đừng bắt mọi người chờ lâu nữa.”
Điền Quý bảo:
“Ô hay? Không phải nói phét chứ khôn như ông anh quê em nó xích hết rồi.”
“Sư cha nhà mày!”
Con chó chửi ầm lên, lại ngó Phượng Ngân một cái, nghĩ thầm bây giờ mình đang có việc nhờ Điền Quý, bèn hạ giọng:
“Giờ tối muộn rồi, đi đâu mà mua, thôi coi như chú cho anh vay, chả mấy khi có cánh chị em ở đây.”
Anh chàng nghe xong, lại moi từ trong túi quần ra nào là bánh trái, thịt hộp, rượu gạo đủ cả.

Phượng Ngân thấy thế, không khỏi lấy làm tò mò rốt cuộc túi quần của Điền Quý có sức chứa bao nhiêu.

Nhưng từ chiều đến giờ theo giấu anh tào phớ, không kịp ăn uống gì hết, ban nãy lại bị mùi cá nướng trêu chọc, nên bây giờ có đồ ăn bày ra trước mặt, không nghĩ ngợi gì được nhiều nữa.
Con chó trắng đội cái nón lá lên, lập tức biến thành một gã đàn ông độ đầu ba mươi, tóc trắng như cước, gương mặt rắn rỏi điển trai.
Ba người ăn được một lúc, Phượng Ngân mới hỏi:

“Chuyện về anh tào phớ kia là thật?”
“Là thật.

Cũng phải gần hai mươi năm rồi đấy.

Hồi đấy nó mới mười mấy, giờ nếu tính tuổi ra đã là ông chú trung niên rồi.”
Con chó trắng đáp.
“Cũng tức là anh ta không chịu chung số phận của cả họ là do được các anh bảo vệ?”
“Bọn tôi làm quái gì có cái tài đấy?? Giải thích sao cho dễ hiểu nhỉ?? Nôm na thì vì nguyên nhân công việc, nên hai hồn sáu vía của nó dính chặt vào xác thân, không ai nhiếp đi được, thế nên mới thoát được cái họa bị rút hồn.”
Phượng Ngân “à” một cái, thầm nhớ kỹ kẻ thù có thuật bắt hồn của người sống, lại hỏi:
“Làm nghề bán tào phớ mà cũng có đãi ngộ tốt thế à?”
Con chó trắng ngó cô nàng một cái, lại nhìn Điền Quý, rồi mới cười phá lên:
“Ma quỷ có nhiều đứa thích đậu phụ trắng thật, nhưng cái nghề này cũng như bao công việc khác thôi.

Lí do mà thằng nhóc kia còn sống nằm ở công việc thứ hai của nó.”
Y nói đến đây, chợt búng tay đánh “chóc” một cái.

Con mèo đen ngồi vắt vẻo chỗ đầu xe dường như thở dài, đoạn hắng giọng, ngâm nga một giai điệu kịch tính.
“Anh ta làm người vớt xác thì cứ nói huỵch toẹt ra đi, còn bày đặt chơi hiệu ứng âm thanh nữa.”
Điền Quý nhăn nhở.
“Sư cha mày, khoảnh khắc của tao!! Nói, tao đã làm gì nên tội mà đến nỗi bị mày ghi thù, suốt ngày chọc gậy bánh xe như thế hả??”
Con chó trắng gào lên.
“Không biết là ai đánh tiếng cho bố mẹ em để em lấy vợ sớm đâu, anh nhỉ??”
Điền Quý lần này không chịu kém, cũng nhướn người lên, lườm lại.
Chó trắng rụt cổ lại, hắng giọng:
“Các cụ vẫn bảo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

An bề gia thất sớm để chú khỏi chạy nhảy tứ tung, gây họa khắp nơi là chuyện nên làm thôi.

Chú còn phải cảm ơn anh, khó lắm mới kiếm được một mối tốt thế đấy.”
“Thôi, cưới xin cái kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì cho em kiếu.”

 
Chương 8: 8: Người Vớt Xác





Phượng Ngân hắng giọng một cái, nói:
“Thế tôi xin phép về trước, đợi hai người chành chọe chán rồi quay lại nhé??”
Chó trắng cười trừ, nói giọng làm hòa:
“Xin lỗi, đến khổ, ai bảo cái thằng Quý này nói chuyện lại gợi đòn thế cơ chứ.”
Ngân nhún vai, không khẳng định cũng không phủ nhận ý kiến của gã.
Tay này mới tiếp:
“Người vớt xác tức là đi mò thi thể người chết dưới sông, dưới suối về giao lại cho người nhà chôn cất đó thôi.”
Phượng Ngân bảo:
“Giờ có tàu bè hiện đại, người chết xác nổi lên, sao lại cần phải mò thủ công như thế??”
“Có câu đất có thổ công, sông có hà bá.

Ở đâu chẳng có ma, có quỷ.

Có lắm khi ma quỷ dưới nước giữ thi thể người chết đuối lại đặng luyện tà thuật, khi đó phải có người vớt xác đến mới đòi lại được.”
Con chó ngừng một chốc, thở dài:
“Mấy năm nay lũ cuốn, người chết mất xác cũng đâu phải là ít? Cứ nhìn hai bên bờ sông, đều là tay của ma da, xác ở mãi dưới nước không ai tìm được cả đấy.”
Phượng Ngân cố ép bản thân không nhìn vào hai bờ sông lúc nhúc những cánh tay đang thò ra chới với.
Điền Quý bèn hỏi:
“Hồi đó cậu ta đến xin làm người vớt xác có nói ai giới thiệu không?”
Sự tồn tại của người vớt xác tuy không phải bí mật gì tày trời, nhưng muốn làm nghề này cũng có quy trình.

Thí dụ như ở đây, bình thường con chó trắng sẽ cử linh miêu đi chiêu mộ người mới, hoặc nếu một người vớt xác làm lâu năm muốn về hưu thì có thể tiến cử người làm thay.

Thế nhưng nghe giọng điệu của con chó trắng thì dường như anh bán tào phớ không phải được chiêu mộ, cũng không có người tiến cử, mà là xin vào làm để lánh nạn.
Con chó cười gằn, bảo:

“Sau này bớt hỏi mấy câu thăm dò đấy đi, anh em với nhau chục năm nay, chú muốn biết thì anh sẽ nói cho mà nghe.”
Đoạn đưa chai rượu sang, đánh ý là phạt Điền Quý uống.
Đợi anh chàng uống xong một ngụm rượu gạo rõ to, con chó mới cười phá lên, kể:
“Đúng là hồi đấy thằng đó chẳng hiểu sao lại tìm được đến đây, quỳ xuống xin anh cho làm người vớt xác.

Nó bảo anh mà không nhận thì hai hôm sau nó sẽ chết bất đắc kì tử.

Mẹ kiếp, lúc đầu tao cũng có tin đâu?? Tao bảo nó trốn trong này, để tao xem xem là yêu ma phương nào mà hống hách đến vậy.”
Kể đến đây, có lẽ vì nhớ lại chuyện hồi đó, con chó trắng bèn giật chai rượu của Quý, tu một ngụm cho đỡ bực.

Nó “khà” một cái, men say lâng lâng, mới nói tiếp:
“Sư cha nhà nó, sư bố nhà nó, hóa ra nó bị một con thần trùng truy sát.

Tao cứ tưởng cái giống ấy chết sạch rồi cơ, nên mới không đề phòng.

Lúc phát hiện có chuyện thì thằng cu đã bị cướp mất một hồn một vía, phải vội vàng cho nó thành người vớt xác, con quỷ sứ kia mới không làm gì nổi.

Nhưng nó chưa bỏ cuộc đâu.

Tao vẫn đánh hơi được nó lởn vởn gần đây, mà cũng từ đấy hồn vía nó bị thiếu mất, không nói năng gì được nữa.”
Nghe là “thần trùng”, mặt Điền Quý lập tức nhăn hí lại như đớp phải bồ hòn, nói:
“Thế mà lại là thần trùng, xem ra chuyến này lành ít dữ nhiều rồi.”
Dùng xong bữa cơm, cả con chó và Điền Quý hợp sức cũng không uống lại Phượng Ngân, bị cô nàng chuốc cho say chuếnh choáng.

Cô nàng chào con chó, hẹn hôm khác sẽ quay lại, đoạn dìu Điền Quý ra khỏi gầm cầu.

Con linh miêu đi trước dẫn đường, hai người bước dọc theo bờ sông, đến lúc mùi tanh hôi tan mất thì đã thấy cửa quán trọ Hương Rừng.

Phượng Ngân quay đầu nhìn, con sông với hai bên bờ mọc đầy những cánh tay đã chẳng thấy đâu nữa, mà con linh miêu dẫn đường cũng đã không còn tăm hơi.

Mắt thấy trời đã muộn, Điền Quý thì say quên cả trời đất, cô nàng có hỏi thì anh ta cũng chẳng biết đâu mà trả lời, nên rốt cuộc cũng đành ai về phòng người nấy.
“Người câm mở miệng? Ý bảo là mình phải tìm lại một hồn một vía của anh tào phớ thì mới biết tiếp theo phải làm gì, hay còn có ý gì khác??”
Ánh nhìn của Ngân như đóng đinh vào trần nhà.

Thấy chỗ góc tường có mấy con đom đóm mắc vào mạng nhện, cô nàng bèn vo lấy một cục giấy, ném đứt lưới nhện cho chúng nó bay thoát.
Có lẽ do bản thân Phượng Ngân thấy trong chuyến hành trình đi tìm Lăng Vua Ma này, cô nàng cũng chẳng khác gì mấy con đom đóm bị mắc trong lưới nhện, nên sinh lòng đồng cảm.
Sáng hôm sau...
Điền Quý đến phòng cô nàng, hỏi:
“Tối qua say quá, làm phiền đến cô.”
Phượng Ngân bấy giờ đang ngồi chải tóc, nghe anh ta nói bèn bảo:
“Xem lần sau hai anh còn dám xem thường tửu lượng của chị em chúng tôi không?”
Anh chàng thở dài, nói:
“Được rồi, hôm nay tìm cô là có việc muốn thông báo.”
“Liên quan tới việc đánh ma rừng lần trước?”
“Đúng vậy.

Tuy vẫn nói lí được với vua của ma rừng, nhưng bên trên yêu cầu cử một người đến ‘hỗ trợ’ tôi.”
Điền Quý nói đến đây bèn nhún vai:
“Thế nên nếu cô không muốn bị người ta giám sát thì bây giờ chạy ngay còn kịp đấy.”
Phượng Ngân im lặng một chốc.
Cô nàng tự thấy với thực lực của bản thân thì tự bảo vệ mình không phải chuyện khó, nhưng thế giới tâm linh trơn như con cá trạch, không có phương pháp thì cả đời này cũng đừng mong đánh hơi thấy điều gì.

Nhưng nghĩ cũng phải.

Nếu quả thật chỉ cần sức mạnh là có thể vén bức màn bí mật, thì với kỹ thuật tân tiến, giới khoa học sớm đã phải phát hiện sự tồn tại của cõi siêu hình.
Cũng có nghĩa, muốn tìm được Lăng Vua Ma thì con đường ngắn nhất là đi cùng Điền Quý.
Nghĩ thông suốt, cô nàng bèn nói:
“Được, vậy thì trước khi người giám sát đến, chúng ta xác định cùng tiến cùng lui phen này.”
“Ý của cô là?”
“Tranh thủ lúc này chưa có người ngoài, tôi thấy hai ta cứ nói toạc hết ra tất tần tật.

Thứ nhất, như thế dễ tin tưởng nhau hơn.

Thứ hai, nếu có chuyện xảy ra, còn dễ bề ứng biến.
Đừng có mà ‘có những chuyện cô không biết thì tốt hơn’ với tôi.

Tôi chúa ghét cái tình tiết đến lúc phát sinh vấn đề mới chịu giải thích rõ ràng trong tiểu thuyết.

Ngoài đời như thế thì có mà ứng biến vào mắt, chết lúc nào chẳng hay đâu...”
Điền Quý nghe cô nàng nói xong, bèn bật cười:
“Cũng đành chịu, tác giả cũng cần có cơm ăn, cái gì cũng nói từ đầu thì còn giữ chân người đọc thế nào được nữa? Nhưng nói thật...!tôi cũng rất ghét cái tình tiết đó.”
Thế là hai người cùng ngồi xuống, kể rõ tất cả mọi chuyện liên quan đến Lăng Vua Ma.
Phượng Ngân nói:
“Tôi đúng là giáo viên, nhưng cất công tìm đến lăng mộ đó không phải vì tiền bạc vật chất.

Chẳng là bố mẹ tôi không hiểu trúng tà thuật gì, đang yên đang lành lại đính ước tôi với một người chết, tên tuổi quê quán của hắn cũng giấu nhẹm đi.
Phải đến hôm trước tôi đang dạy ở trường thì có ông chú họ lâu rồi mới về nhà, chạy đến nói cho tôi biết phải đến thị trấn mộ của tên khốn đó.

Nên tôi mới lên tàu quyết phải quật mồ hắn lên hỏi cho ra nhẽ, đòi hắn hủy cuộc hôn nhân này.”
Điền Quý bỗng hỏi:
“Mười sáu chữ hướng dẫn cũng là do ông ta kể cho cô?”

“Đúng vậy.

Có vấn đề gì à??”
“Tôi nghi ngờ...!chỉ là nghi ngờ thôi...!cái thứ gặp cô hôm đó không phải con người đâu.”
Phượng Ngân đáp:
“Sau khi gặp hai con quỷ ở nhà ga và chuyến đi đến quán Ba Thước thì tôi cũng đoán được nhiêu đó rồi.

Vì một nguyên do nào đấy, người họ Trịnh không được phép xuống Lăng Vua Ma, còn cái thứ đến gặp tôi ở trường lại muốn phá hỏng quy tắc này.”
“Biết vậy cô vẫn muốn tiếp tục?”
“Bỏ cuộc giữa chừng thì tôi không làm được.”
Phượng Ngân nhún vai, chợt phát hiện chẳng rõ từ lúc nào mình đã nhiễm cái thói quen này của Điền Quý.

Điều này khiến cô nàng hơi mất tự nhiên trong thoáng chốc.
Ho khan một cái, cô nàng mới nói tiếp:
“Nhưng anh thử nghĩ xem, ngoại trừ Vua Ma thần bí ra, còn có ai trên đời đi cưới vợ mà còn giấu giấu diếm diếm thế không??”
Điền Quý đã hiểu được phần nào.
Anh chàng thở dài, nói:
“Tôi thừa nhận là cô mạnh hơn rất nhiều người tôi từng gặp, nhưng so với cha cô thì sao?? Nếu quả thật ông ta bị người nào đó uy hiếp phải gả cô cho hắn, cô đi đến tìm hắn một cách lỗ mãng như thế này thì có ích gì?”
“Đâu phải tôi không hiểu...”
Phượng Ngân hơi cúi đầu xuống, giọng đã hơi có phần chán nản.
Sau đó, cô nàng ngẩng đầu, nhìn chằm chằm vào mặt Điền Quý, vẻ kiên định cương nghị hiện rõ:
“Nhưng anh bảo tôi phải làm gì? Ngoan ngoãn ở nhà chờ ngày bị bưng xuống mộ? Ít nhất như bây giờ nếu chẳng may có biến thì còn có thể nói chỉ mình tôi là đứa lỗ mãng tay nhanh hơn não, không liên lụy đến bố mẹ.”
Thực ra so với bị đưa đến nơi, tìm đến tận cửa còn thắng ở vị thế nữa, nhưng Phượng Ngân nghĩ chuyện này không nói ra Điền Quý cũng hiểu được, nên không phí thì giờ giải thích nữa.
Anh chàng ngồi nhổm dậy, ánh mắt nhìn cô nàng đã có thái độ khác.
Vốn là, Điền Quý cho rằng cô nàng làm vậy để tỏ thái độ với bố mẹ đó thôi, nhưng không ngờ cô nàng này nhìn như xốc nổi, lại suy nghĩ cẩn thận như vậy.
Té ra là anh chàng đánh giá thấp Phượng Ngân.
Điền Quý nhún vai, nói:
“Bây giờ đến lượt tôi rồi, nhỉ? Xem nào, chắc phải bắt đầu từ việc tại sao tôi lại nhiệt tình giúp đỡ cô như vậy.”

 
Chương 9: 9: Trên Dòng Sông Âm





Điền Quý hắng giọng, kể:
“Nói ra thì sợ cô không tin, nhưng thực ra lần này tôi cũng bỏ nhà ra đi vì bị ép cưới ép gả.

Sở dĩ đi tỉnh A là do cấp trên ủy thác.

Họ nói cả họ nhà anh Nam, tức cái anh bán tào phớ ấy, chết bất đắc kỳ tử, mà nguyên nhân rất có thể là một vật của cõi âm, phái tôi đi điều tra.”
Phượng Ngân trố mắt nhìn, đoạn bảo:
“Tôi vẫn biết có cái vụ ‘anh hùng luôn đến muộn’, nhưng chả sư tô nhà các anh, muộn tận hai mươi năm thì quá đáng lắm rồi đấy nhé! Sao không chờ cho nó giết thêm vài trăm mạng, đẻ vài lứa nữa rồi hành giả các anh mới xuất phát một thể?”
Anh chàng đáp:
“Không thể nói như vậy được.

Đất nước vừa chiến tranh xong, có biết bao nhiêu chuyện cần giải quyết.

Hồn ma lính chết trận không cần lo à? Mà lính chết trận biết bao nhiêu người bị bom, bị pháo còn không có cả xác, đều phải xử lí.

Hoặc như người nước ngoài, họ chết ở đây, nhưng lại thuộc biên chế thần nước họ.

Giả tỉ như họ chết trên rừng, không kịp tìm xác về, hóa thành ma rừng thì biết giải quyết thế nào? Hoặc bom rơi đạn lạc, rủi nó trúng cái mộ cổ nào đấy, rồi cái thứ của nợ trong đấy bò ra ngoài thì cũng không cần xử lý à??”
Điền Quý tuôn luôn một tràng mới bình tĩnh lại.
Thấy mình hơi thất lễ, anh chàng mới hạ giọng:
“Thôi, cô không phải người trong nghề, không biết những chuyện này cũng dễ hiểu.

Nói chuyện cái mộ đó trước.”
Mộ Vua Ma là từ thời Nguyễn mạt, mà các vua Nguyễn về sâu xa xuất thân từ các chúa Nguyễn, vốn giao chiến nhiều năm với họ Trịnh.
Danh sách các thợ thi công tuyệt nhiên không có ai là họ Trịnh, hoặc là con cháu họ Trịnh đổi họ.

Lăng mộ xây xong, chính người thợ cả cũng căn dặn hết mực là tuyệt không được để người họ Trịnh vào mộ.

Ngay cả khi địa điểm chính xác của Lăng Vua Ma đã không còn ai biết, quy định cấm người họ Trịnh vẫn được tuân thủ nghiêm ngặt.


Những năm nay số người đi tìm tung tích ngôi mộ kì quái này không hề ít, nhưng tuyệt đối không có ai họ Trịnh cả.”
Điền Quý nhận nhiệm vụ đến điều tra, tất nhiên sẽ điểm đến trên vé tàu phải trùng khớp với Phượng Ngân.

Mười sáu chữ hướng dẫn kia anh ta cũng biết từ đầu.
“Anh được lắm! Anh dẫn tôi đến quán Ba Thước thì ra là để cảnh cáo! Tàu dừng lại ở tỉnh A này cũng là do anh can thiệp?”
Bấy giờ Phượng Ngân mới hiểu tại sao tên Điền Quý này vừa xuống tàu cái là như cá gặp nước, hóa ra là cái gì y cũng biết cả rồi.

Dẫn cô nàng đến quán Ba Thước chẳng qua là muốn gõ đầu cô nàng một cái thôi.
Điền Quý nói:
“Cũng không nhờ bà chủ quán Ba Thước cũng không biết rõ tình hình Lăng Vua Ma, thành ra phải ở lại tỉnh A để nghe ngóng thêm.

Thật ra tối qua bà ấy nhờ một hồn ma đến chuyển lời cho tôi, rằng anh Nam đã đi làm người vớt xác để giữ mạng, tôi mới biết đấy chứ.”
“Nhưng tại sao anh còn dẫn tôi vào ngay cả khi bà chủ quán Ba Thước đã can ngăn?”
“Hai lí do.

Thứ nhất, sau khi tiếp xúc sơ qua thì tôi thấy cô không phải người xấu.

Thứ hai, thử nghĩ ngược lại, liệu nguyên nhân những người đi trước không tìm thấy Lăng Vua Ma có phải là vì họ không phải người họ Trịnh không??”
“Kể cũng lạ, tại sao bà chủ quán lại biết tôi họ Trịnh được nhỉ?”
“Bên nhà ga nói đấy.

Lúc mua vé cô kiểu gì chẳng phải điền thông tin cá nhân?”
Hai người nói hết những gì còn giấu diếm ra, thấy không khí thoải mái hơn trước.

Phượng Ngân từ khi biết Điền Quý cũng bỏ nhà vì bị gán ghép nhân duyên thì cũng sinh lòng đồng cảm.
Điền Quý lại nói:
“Độ mấy ngày nữa người giám sát sẽ đến, chi bằng ta tranh thủ giải quyết con thần trùng trước.

Chỉ có đòi lại một hồn một vía cho cho Nam, lúc ấy thì người câm mới mở miệng được.”
Phượng Ngân đáp:
“Chuyện ấy thì tôi sẵn sàng thôi, nhưng thần trùng là gì? Có phải quỷ trùng tang không?”

“Chính nó.”
Anh chàng gật đầu, đoạn giải thích:
“Thần trùng là một loại quỷ, hình dáng như con chim có mặt người, mỏ và lông đỏ như máu.

Nó chuyên bắt hồn người mới mất, đánh đập tra tấn bắt họ khai ra tên tuổi bát tự của người nhà để nó bắt, như một dây chuyền vậy.

Người ta nói nhà nào mà có tang liên tục nội trong một tháng thì là bị chết trùng.”
Đây đều là những chuyện truyền miệng, ngay cả người ngoài nghề như Phượng Ngân chỉ cần để tâm tìm hiểu một chút là có thể biết được.

Dẫu vậy, cô nàng vẫn không nói xen vào một chữ, bởi Phượng Ngân biết Điền Quý sở dĩ nói từ những cái cơ bản này cũng là vì mình.
Anh chàng chờ một thoáng, thấy cô nàng không hỏi gì, mới kể tiếp:
“Về nguồn gốc của quái vật này, bản thân các học giả của bọn tôi cũng có tranh cãi.

Có phái thì bảo là yêu quái từ Trung Quốc, trôi đến nước ta trong một cái hộp bị phong ấn.

Có phe lại giả thuyết nó là hậu duệ của tướng địa phủ - Quận Cú, cụ thể là cái lưỡi âm bị chém đứt biến thành.

Nhưng bất luận thế nào đi nữa, thần trùng cũng là một loại yêu ma không dễ đối phó.
Thứ nhất, mắt âm dương bình thường không thể phát hiện sự tồn tại của nó, thế nên cũng không biết loài này còn bao nhiêu cá thể, thậm chí còn tồn tại hay đã tuyệt chủng.

Sỡ dĩ cái anh chó trắng hôm qua bị bất ngờ cũng là bởi nguyên nhân này.
Thứ hai, thần trùng càng hại nhiều người thì thuật bắt hồn của nó càng mạnh.

Con chúng ta muốn tóm cổ có thể giết cả họ nhà anh Nam, tổng cộng gần một trăm người một lúc, có thể thấy nó mạnh đến mức nào.”
Nghe Điền Quý nói mà Phượng Ngân cũng thấy đau đầu.
Một đối thủ vô hình, lại biết bắt hồn người khác thì phải đối phó thế nào?
Cô nàng hít sâu một hơi, lại nói:
“Khoan nói đến việc đánh nó ra sao, nhưng sao anh dám chắc con thần trùng kia vẫn còn ở thị trấn này?”
“Thần trùng là loài vật rất cố chấp.


Nó đã coi anh Nam là con mồi của mình thì phải bắt cho bằng được mới thôi.

Huống hồ, thuật bắt hồn của nó cũng không phải là hoàn hảo.

Nếu thần trùng giữ hồn phách không hoàn chỉnh trong người thì sẽ như nuốt phải than vậy, là cô thì cô chịu nổi không?”
Phượng Ngân “à” một cái, rồi chợt nghĩ đến hôm qua lúc chơi tam cúc, cái đài radio bị rút điện bỗng dưng cất tiếng đe dọa, nhưng cô nàng dùng mắt âm dương tìm khắp chung quanh cũng không thấy bóng dáng kẻ địch đâu, không khỏi lấy làm lạ.

Nay nghe Điền Quý nói, thì rất có thể thứ nói chuyện qua đài phát thanh hôm ấy chính là con thần trùng.
Cũng có nghĩa, có thể nó đã nghe được chuyện Phượng Ngân đang điều tra về cái chết của dòng họ nhà anh Nam.
Cô nàng lập tức nói khả năng này với Điền Quý.
Tối đó, Điền Quý lại dẫn Phượng Ngân đến chỗ cái cầu tìm con chó trắng mũi đỏ.

Song lần này không phải chỉ để hỏi chuyện khơi khơi mà muốn đi một chuyến đò.

Người vớt xác là nghề đặc thù, tất nhiên cũng phải có thuyền bè chuyên dụng.

Trong hai cõi âm dương, có những nơi không dùng thuyền của người vớt xác thì không thể đến được.
Phượng Ngân cũng hỏi con chó trắng rằng tại sao không báo việc thần trùng lên để cấp trên của Điền Quý sớm phái người đến giải quyết.

Con chó ngơ người ra một lúc, rồi cười:
“Thế thì Quý nó lại chưa giải thích kỹ càng cho cô rồi.

Người vớt xác là nghề đặc thù, không nằm dưới sự quản lí của ai cả.

Thế nên, muốn người ta giải quyết theo diện ưu tiên thì Nam nó phải đứng ra làm nhân chứng, không thì cứ đợi có đủ bằng chứng họ mới phái người.”
“Nhưng...!anh Nam làm sao nói được?”
“Thế nó mới thành chuyện.

Thằng Quý là anh em, tôi mới nhiệt tình thế, chứ phải người khác thì đừng hòng ra lệnh cho thằng này.

Mà cô chuẩn bị lên đường cho sớm sủa, hiếm lắm mới có chuyến đến chốn khỉ ho cò gáy đó đấy.”
Thuyền của người vớt xác đóng bằng gỗ làm quan tài, ngâm dưới nước mấy năm trời, trông ngoài thì mủn mọt hết cả nhưng đứng lên lại thấy vững vàng lạ thường.

Hôm nay, người vớt xác chở hai người Điền Quý đến nơi cần đến là một tay nửa người, nửa gọng vó.

Y chờ hai người họ ngồi chắc chắn rồi mới thò những cái chân dài lêu nghêu sau lưng xuống nước làm sào, đẩy con thuyền xuôi theo dòng nước.

Hai bên bờ sông âm mọc lên đầy những cánh tay, với Phượng Ngân mà nói cảnh vật như vậy sớm đã không phải chuyện gì quái lạ.

Ngặt nỗi, đấy vẫn chưa phải tất cả.

Thỉnh thoảng trên sông sẽ sủi lên những bọt nước, trong có mặt người, vừa kêu la vừa khóc lóc.

Hoặc thỉnh thoảng giữa sông nổi lên một ghềnh đá, một bãi bồi.

Người trên đó như bị nhập vào đá một nửa, hoặc tay chân chới với ra muốn bám vào mạn thuyền, hoặc nửa thân trên nhoài ra giữa dòng, nước sông tanh tưởi táp vào mặt.

Anh gọng vó coi như không thấy những người này, tiếp tục chống chân đẩy thuyền, lại sợ hai người khách chưa nhìn quen cảnh thê thảm này, bèn giải thích:
“Đấy không phải người thật đâu, là hồn vía bị nhốt dưới sông không siêu thoát được, phản chiếu lên mặt nước thành ảo ảnh.

Muốn cứu giúp họ chỉ có cách tìm vớt cho được xác thôi.”
“Anh vớt được không?”
Phượng Ngân bèn hỏi.

Quả thật, nhìn những người già có trẻ có, gái có trai có này kêu gào khóc lóc khiến cô làng chẳng cầm được lòng.
“Tôi thì dân mới vào nghề, phải chở khách cho quen đường trước rồi mới được đi tìm vớt xác.”
Anh gọng vó đáp, vẻ áy náy.
Qua cơn bỡ ngỡ ban đầu, Phượng Ngân mới phát hiện cái anh gọng vó này hơi ngại người lạ, hướng nội, trái hẳn với ngoại hình đáng sợ.
Cô nàng thấy anh gọng vó này dễ nói chuyện, nên tranh thủ gợi chuyện tán dóc, vừa để đỡ nhàm chán, mà vừa trau dồi thêm kiến thức về cõi âm.

Chỉ riêng Điền Quý là đã tranh thủ lăn kềnh ra, chân vắt chữ ngũ ngủ ngon lành.
Anh gọng vó nói:
“Chỗ anh chị sắp tới em cũng từng tạt qua mấy lần.

Chị phải cẩn thận giữ mình đấy.”
Phượng Ngân hồi tưởng lại chuyện ban nãy...
Lúc anh chó trắng hỏi điểm đến, Điền Quý chỉ đáp gọn là muốn đưa cô nàng đi ăn bánh trôi.

Tức thì, cái người bình thường hùng hùng hổ hổ, đại ca của người vớt xác tỉnh A lại lộ vẻ dè chừng và e ngại.
Một bát bánh trôi thì có gì đặc biệt?
Đây là tiếng lóng, hay còn huyền cơ gì khác?

 
Chương 10: 10: Bánh Trôi Nước





“Sắp tới cô phải cẩn thận, ăn bánh trôi xong thì phải về ngay.

Thứ nhất, cấm tuyệt đối không được chê bánh này, khó ăn kinh tởm cách mấy cũng phải ăn ngon lành cho tôi.

Cho dù có muốn nôn cũng phải cố mà nuốt vào bụng.

Thứ hai: nuốt tuột vào bụng, không nhìn nhân bánh là gì sẽ dễ ăn hơn đấy.

Tôi chỉ nói được thế thôi, quy định ở đây là thế.

Nếu cô biết trong bánh có gì thì không được phép bước vào, chuyện xôi hỏng bỏng không cả.”
Sau khi thuyền đến một bán đảo trên sông thì cập bến.

Điền Quý dặn dò cẩn thận xong, lại hẹn cô nàng sau một tiếng sẽ cùng anh gọng vó quay lại đón.
“Anh không vào à?”
“Muốn cũng không được.

Nhìn cái biển kìa: cấm người họ Điền.

Cô không tin tôi thì cứ hỏi anh lái đò.”
Anh gọng vó nói:
“Đúng là có quy định này.”
Con thuyền quan tài đi khỏi, cô nàng cũng không muốn lãng phí thì giờ, bèn rảo bước đi vào.
Bán đảo không lớn, chính giữa có một quả đồi con cao độ hai mươi mét, dáng thoải dễ leo.

Đỉnh đồn đặt một cái miếu nhỏ, không biết thờ ai, nhưng từ xa đã có thể thấy khói hương nghi ngút.

Cảnh trí như vậy, dương gian đâu cũng có, không lấy gì làm đặc biệt.

Nhưng giữa con sông âm đầy thứ quái gở, bán đảo và ngôi miếu này lại nổi lên bần bật.
Từ bến sông có một con đường lát đá dẫn lên tận ngôi miếu, hai bên đường chồng chuối và dứa xen kẽ nhau, thành hàng thẳng tắp, cây nào cây nấy sai trĩu quả.
Vừa đặt chân lên con đường này, Phượng Ngân đã thấy có gì đó không đúng.

Dù đi một mình trên đường lớn, nhưng cô nàng lại cứ có cảm giác như đang bước vào võ đài, bốn bề có hàng vạn hàng ngàn con mắt đang nhìn chòng chọc lấy mình.

Bước chân cô nàng cũng vì thế mà nhanh hơn mấy phần.
Con đường này không dài, đi nhoáng một cái đã đến trước cửa đền.

Phượng Ngân không vội vào, mà nhìn quanh một hồi.
“Không khắc câu đối, không bày tượng trấn giữ, xem ra đền này chưa chắc đã thờ thứ gì tốt lành.

Kể cũng lạ, tại sao lại đến một ngôi đền để ăn bánh trôi?”
Đúng lúc này, trong đền chợt có một giọng khàn khàn vọng ra:
“Khách đến mua bánh phải không? Sao chưa vào đi?”
“Vào ngay.”
Phượng Ngân thấy đối phương đã biết mình đến, có tránh né cũng không được gì, cứ lấy bất biến ứng vạn biến xem đối phương giở trò gì là được.

Hà huống, Điền Quý nếu muốn hại cô nàng thì không cần bày nhiều trò như thế.
Trong đền bài trí cũng đơn giản, sân lát gạch đỏ, đầu và cuối sân trồng hai hàng tre, chính điện xây thành hình cung tròn, ôm lấy một giếng nước ở chính giữa.

Đền điện đều đóng cửa im ỉm, dán bùa niêm phong lại cẩn thận.

Giếng nước có một nắp đồng, cố định chặt vào đất bằng xích sắt, trên khắc họa tiết thời Phùng Nguyên.
Có một bà lão lưng gù ngồi trên thành giếng, trên bàn bày một cái nồi to, một chồng thìa bát dùng để ăn chè.

Bà cụ ngẩng đầu, đôi mắt trắng dã đằng sau mớ tóc lòa xòa và điệu cười toe toét quái dị khiến Phượng Ngân hơi giật mình.
“Đến mua bánh hở?”
“Dạ.”
“Chờ đấy, bà múc cho mà ăn.

Gớm, chả mấy khi chỗ này có khách.”
Bà cụ tỏ vẻ nhiệt tình, mở vung lấy muôi múc cho Phượng Ngân một bát bánh trôi nước.

Cô nàng nhìn vào bát, mém chút là không chịu nổi.

Phần nước thì dính dính nhớt nhớt, có mấy chục hạt đen thui, to hơn hạt vừng, đang bơi tới bơi lui.

Phần bánh vừa tanh vừa thối, vỏ có màu ngai ngái xanh, thỉnh thoảng lại ngọ nguậy.


Trông bát bánh trôi của bà già lưng còng mà cứ tưởng mấy cục đờm bơi trong một đống trứng cóc.
Phượng Ngân định đón bát nước chè, thì thấy nóng như lò lửa, vội vàng rụt tay lại nhưng da ở đầu ngón tay đã đỏ tấy lên.
Không ngờ bát bánh trôi trông lạnh ngắt lại nóng bỏng tay như thế.
Bà già bảo:
“Ở đời lắm khi như bát bánh trôi vậy, gấp quá hại thân.

Con cứ để xuống, nếu không chê thì nói chuyện với bà già sắp xuống lỗ này một lúc.

Lâu lắm rồi mới có người đến chốn khỉ ho cò gáy này.”
Phượng Ngân thấy bà ta không có ác ý, bèn nói:
“Bà ơi, cho con hỏi một câu, nếu có xúc phạm thì bà bỏ quá cho.”
“Muốn hỏi bà có phải người sống không mà xuống lỗ chứ gì? Phải.

Bà là người, bằng xương bằng thịt.”
Bà già dừng một chốc, lơ đãng nhìn ra xa như hoài niệm về một quãng thời gian đã qua, trong đôi mắt như phản chiếu vật đổi sao dời, bãi bể nương dâu.
Một lát sau, bà ta lại vỗ lên cái bướu trên lưng một cái, bảo:
“Nếu không phải năm đó cõng nhầm cái của nợ này, già đã về với cát bụi từ lâu rồi.”
“Bà là...”
“Tên tuổi của già già đã quên lâu rồi.

Mấy trăm mùa hoa nở hoa tàn, người ta cứ đến rồi đi, ai cũng chỉ cốt xong việc mình thật nhanh rồi chuồn thẳng.

Đã không người nào để tâm đến, chẳng người nào buồn hỏi han, già còn giữ tên tuổi làm gì? Cái tên mà, có ai tự dùng bao giờ đâu?”
Một bà cụ người phàm, lại sống ở dòng sông âm này mấy trăm năm?
Phượng Ngân nghe mà chẳng thể nào tin nổi, tự hỏi làm thế nào mà bà ta chịu được sự cô đơn gặm nhấm suốt những năm tháng dày đằng đẵng đó.
Bà cụ cười xòa, nói:
“Chết.

Lâu rồi không có người đến nói chuyện cùng nên già hơi lan man, thôi chè nguội rồi, cô ăn ngay còn đi cho sớm.”
“Bà, thật ra con cũng không vội lắm.

Bà kể cho con nghe chuyện của bà đi.


Đền này là đền gì.

Sao bà không bỏ đi nơi khác??”
“Cô muốn biết những chuyện này để làm gì??”
“Nếu như có ai dám giữ chân bà ở đây, để con thay bà hỏi tội nó.

Bà đừng thấy con phận gái mà coi thường, thật ra con mạnh lắm đấy.”
Phượng Ngân vừa cười, vừa đặt tay lên ngực trái như một lời tuyên thệ.
Bà già cười:
“Không, chẳng ai giam bà ở đây cả, nhiệm vụ canh giữ ngôi đền này già tự nguyện làm con ạ.”
“Bà đã nói thế thì con cũng không gặng hỏi nữa vậy.

Nhưng đền này thờ ai hả bà?”
“Cô nhìn cái đền này xem nó giống cái gì? Hai hàng cây, chính điện xây quây tròn, có cái giếng ở giữa...”
“Giống cái gì ạ??”
“Một con mắt.

Đền này gọi là Linh Thị miếu, gọi nôm là đền con mắt con ạ.”
Bà già cười, bảo.
Phượng Ngân lại tiếp:
“Con thấy ở bến sông có cái biển đề ‘cấm người họ Điền’, con có người bạn cũng họ này, bà nói cho con biết lí do được không??”
Bà già nghe thấy thế thì mặt biến sắc, hỏi:
“Bạn cô họ Điền? Nó có vào đây không??”
“Không ạ.

Anh này biết luật cấm tiệt, nên không dám đặt chân lên đảo này nửa bước.”
“Thế thì tốt.”
Bà già lưng còng thở phào, ra chiều nhẹ nhõm.
Nói đoạn, bà lại kể:
“Chuyện cấm người họ Điền là ý trời, bà cũng không rõ nguyên do cụ thể.

Lúc nhậm chức thì có người bảo, lệnh cấm là bởi nhà họ Điền này xấc láo, trong mắt chẳng có quỷ thần, tuyệt đối không để cho chúng vào đây nửa bước.”
Hai người chuyện trò thêm một lúc, Phượng Ngân kể những gì xảy ra ở dương gian gần đây cho bà già lưng còng.

Nghe đến chiến tranh loạn lạc, nạn đói hoành hành suốt nửa thế kỷ, bà già mới than:
“Hèn chi sông âm dạo này lắm ma da thôi, ôi.”
Phượng Ngân lại kể những chuyện vui hơn cho bà cụ nghe, làm bà cứ tủm tỉm cười mãi.
Cô nàng ngó đồng hồ, thấy hơi lố giờ, vội vàng đưa bát bánh trôi nguội ngắt lên húp một cái, ai dè hai cái bánh to đùng trôi tọt thẳng xuống họng trơn như bôi mỡ, chẳng có cảm giác gì hết.

Phượng Ngân chào tạm biệt bà cụ, hẹn thỉnh thoảng sẽ lại đến chơi, rồi chạy ra khỏi đền con mắt.

Cô nàng rảo chân chạy nhanh như gió, nhoáng một cái bến đò đã thu vào tầm mắt.

Con thuyền quan tài đã neo sẵn bên dòng nước từ lúc nào, anh gọng vó đứng mà mấy cái chân đằng sau lưng cứ đan vào nhau, hình như lo lắng ghê lắm.

Chả bù cho Điền Quý, đến giờ vẫn đang nằm khểnh, mặt vùi vào tờ báo, giả vờ chăm chú.

Nếu không phải anh ta cầm ngược tờ báo, có khi nhìn từ xa chẳng ai biết tên này đang chơi bài lưu manh giả danh tri thức.
Nhác thấy Phượng Ngân xuất hiện, anh gọng vó bèn nói:
“Cô không sao à? Thật là may quá.”
Cô nàng ngó sang Điền Quý một cái, thở dài.
Cái tên này cứ bình chân như vại, cứ như thể chẳng quan tâm gì đến sống chết của Phượng Ngân.

Người nào không biết khéo lại nghĩ Điền Quý mới là người dưng, còn anh gọng vó mới là bạn đồng hành của cô nàng.
Phượng Ngân đáp:
“Có gì đâu, bà ấy cũng dễ tính mà?”
Cô nàng ngồi xuống, tạm thời không để tâm đến ánh mắt kinh sợ của anh gọng vó mà quay sang hỏi Điền Quý:
“Bát bánh trôi có gì đâu mà anh làm quá lên ghê thế??”
Anh chàng nhổm dậy, hỏi:
“Cô thích cái vị đó thật hả??”
“Ngoại trừ trông hơi kinh và mùi khó ngửi ra, tôi thấy để nguội ăn vào chẳng có vị gì cả.”
Phượng Ngân đáp, giọng tỉnh bơ như không.
Anh chàng giơ ngón cái ra, khen:
“Bát bánh trôi đó là thứ kinh tởm nhất con người có thể ăn trong đời đấy.”
“Nhưng...”
“Cô không hiểu rồi.

Nồi bánh được phù phép, bất kể cô là người hay ma quỷ thần thánh, ăn vào miệng tự khắc vị của nó sẽ đổi thành thứ cô thấy khó nuốt tởm lợm nhất trên đời.”
“Nhưng đúng là tôi thấy nó bình thường.

Nếu những gì anh nói là thật thì chẳng phải thế càng vô lý sao?”
Phượng Ngân nói.
Điền Quý lắc đầu, nói:
“Không hề, chắc cô được bà già ấy thích nên mới chiều cho đấy.”
Anh gọng vó nghe mà tá hỏa, miệng banh ra hết cỡ, lắp bắp:
“Ý anh là có người lọt được vào mắt xanh của cái mụ già trăm mắt tính khí nóng lạnh thất thường ấy á?”
“Này! Hai anh nói xấu sau lưng bà ấy thế không thấy xấu hổ à? Khoan! Từ từ...!trăm mắt?”

 
Chương 11: 11: Khoảng Lặng Trước Cơn Bão





Điền Quý đùa:
“Ai chứ riêng bà ta thì nói xấu trước mặt còn dễ hơn.”
Anh gọng vó gật đầu như hái sao, lại vái về phía ngôi đền mấy vái:
“Con lạy bà con nhỡ mồm.”
Nói đoạn chống chân xuống đẩy thuyền đi thật nhanh, không dám ngoái đầu lại lấy một giây nào cả.

Đợi thuyền đi xa khỏi bán đảo có đền con mắt rồi, Điền Quý mới đưa bình chè cho Phượng Ngân, bảo cô nàng uống một hơi cho trôi họng, rồi giải thích:
“Bà này từ gần năm trăm năm trước đã ký giao kèo với sông âm, trở thành người giám sát của nó, ngự ở Linh Thị miếu.

Văn vẻ thì gọi là Bách Nhãn nương nương, gọi nôm là bà trăm mắt.
Kể ra cũng khổ, bà ấy có đứa con vừa lười vừa vụng.

Lúc đau ốm, cô này chẳng được cái gì, hở chút là hỏi cái này ở đâu, cái kia thế nào, được chưa.

Bà ấy bực mình, mới buột miệng ước sao con gái mình có trăm mắt, lại bảo không cần con nữa.

Run rủi thế nào lại bị một tên ác thần nghe thấy, thế là ước sao được vậy.

Quả cây mà bây giờ ta gọi là quả dứa có xuất xứ như thế...”
“Ý...!ý anh là??”
“Ừ, Đúng rồi.

Bà mẹ trong truyện cổ tích là người mà cô vừa mới gặp ban nãy đấy.

Cái bướu sau lưng bà ấy, nói ra thì hơi kinh dị chút, chính là đứa con gái bà ấy hóa thành, gọi trại đi là Phượng Lê Thú hoặc con quả dứa, có trăm mắt, nhìn được khắp mọi nơi.

Đợi đến khi hết kỳ hạn làm giám hộ cho sông Âm, con của bà ấy mới hóa được thành người trở lại.”
Anh chàng đứng dậy, chắp tay, vái một vái về phía ngôi đền ở xa xa, thở dài:
“Phượng Lê Thú dùng trăm con mắt nhìn khắp sông âm, mấy năm nay giúp đỡ người vớt xác rất nhiều, thật là công đức vô lượng, đáng để người ta kính trọng.

Thiết nghĩ kỳ hạn của Bách Nhãn nương nương cũng vì thế mà rút ngắn đi phần nào.”
Phượng Ngân nheo mắt, đoạn nói xen vào:

“Đúng vậy, chả bù cho ai đó mồm nói thì nghiêm trang, nhưng lại mang tạp chí cấp ba vào sông âm để xem lén.”
Vừa nói mỉa, cô nàng vừa rút quyển tạp chí nóng bỏng giấu bên dưới tờ báo giấy ra, huơ trước mặt Điền Quý.
Anh chàng ho khan một tiếng, ngoảnh mặt sang chỗ khác.
Trong dạ thì lại cười thầm, nghĩ bụng:
“Không mang cái này vào pha trò, cô mà đi hỏi nhân bánh là gì chắc chắn sẽ ám ảnh ba năm cho xem.”
Nhân bánh trôi nước chính là mắt của Phượng Lê Thú.
Cô con gái bị tà thần nguyền rủa, ngày nào cũng mọc ra mắt mới, rất đau khổ.

Bà mẹ mới dùng đến đây, nhờ cậy sông âm dạy cho pháp thuật gỡ mắt con gái ra, để con mình dễ chịu một chút.
Còn việc nấu thành trôi nước là ý của dòng sông âm.
Bánh trôi lấy nhân là mắt của Phượng Lê Thú, sau khi ăn vào, mắt Âm dương của người ta sẽ mạnh lên, lúc này mới có thể phát hiện được tung tích của thần trùng.
Phượng Lê, Phượng Ngân.

Có lẽ Bách Nhãn nương nương dịu dàng với cô nàng như vậy là do tên của Phượng Ngân na ná con gái của bà.
Nhưng lý do thực sự có lẽ chỉ mình bà ấy biết.
Anh gọng vó chở hai người về gầm cầu, giao ban cẩn thận, rồi mới hóa thành một con nhện nước bé tí, bò ra khỏi gầm cầu.
Anh chó trắng đón quyển tạp chí của Điền Quý, nói:
“Cho anh mày thật hả??”
“Anh cứ lấy đi, đến khổ.”
“Cấm không được nuốt lời đấy nhé.”
“Yên tâm.

Đúng rồi, đây là phí qua sông, anh đưa cho gọng vó giúp em.”
Điền Quý vừa đặt xấp tiền vào tủ đựng, vừa lắc đầu.

Trông cái vẻ hí hửng của con chó trắng thì e là không chữ nào sau “yên tâm” lọt được vào tai nó.
Sau đó, anh chàng lại dẫn Phượng Ngân đến nhà anh Bắc, nói là tranh thủ chuẩn bị, tối nay đến bãi tha ma đánh con thần trùng luôn.
Vừa nhác thấy hai người, anh hàng gà đã nói bô bô:
“Hai người cũng to gan thật đấy, mắt trước mắt sau đã đánh chết mấy con ma rừng liền.”
“Không sợ hàng xóm nghe thấy à?”
Điền Quý hất đều về phía nhà bên cạnh, hỏi.
Bắc cười hơ hớ, đáp:

“Có sao? Ai chả nghĩ thằng này bị điên? Lo gì?”
Điền Quý bỏ ra một món tiền to, thu mua hết cứt gà của Bắc, đem trộn với vôi sống, bột tỏi, lúc này mới đỡ mùi khắm.

Anh chàng buộc hỗn hợp cứt gà thành từng bao nhỏ, tổng cộng có mười tám túi, đoạn bảo Phượng Ngân đem hết những thứ này ra bãi tha ma, dặn:
“Cô gặp người trông nghĩa địa, dặn là đồ của Điền Quý gửi, ông ấy tự sẽ biết phải làm gì.

Làm xong thì ở đấy chờ tôi.”
“Sao? Vẫn chưa tin tưởng tôi à?”
Phượng Ngân hỏi, giọng hơi có ý trách móc.
“Không phải là tin hay không, chẳng qua tôi mà dẫn cô đến chỗ này thể nào cũng có chuyện đau đầu cho xem.

Phiền phức lắm bà cô của tôi ơi...”
“Ồ.

Thế thì tôi càng phải đi theo một chuyến mới được.”
Điền Quý nhún vai, đoạn chẳng rõ anh ta làm cách nào, anh ba bị đạp xích lô hồi hôm đã vòng tới đón.

Hai người lên xe, đi lòng vòng một lúc mới đến một ngôi chùa cũ, nằm sát cạnh bên chợ, biển đề Trấn Long tự.

Cửa thiền thanh tịnh lại ở ngay bên chốn chợ búa xô bồ, ngẫm lại cũng thấy có phần quái lạ.
Ở cửa chùa có một trú tiểu ngồi canh, trên bàn để sẵn một sấp cà sa cho các anh, các chị ăn mặc cởi mở theo lối bên tây thay trước khi vào chùa.
Phượng Ngân từ trước đến giờ vẫn ăn mặc khá kín cổng cao tường, còn Điền Quý thì hôm nào cũng đóng đúng bộ phong cách sơ mi xộc xệch, quần bò sờn mép, thành ra cả hai vào cửa chùa không phí chút công sức nào.
Hai người đi thắp hương một lượt, rồi anh chàng mới tìm gặp sư trụ trì.
Ông sư già dáng khắc khổ, mắt sáng, mặc một cái cà sa nâu.

Vừa thấy Điền Quý, ông đã đến chào hỏi hết sức thân mật, đủ biết anh chàng nhìn như lập dị này giao thiệp rộng tới mức nào.

Sư cụ bảo:
“Hôm nay sao cậu rảnh rỗi mà đến đây thế?”
Điền Quý không đáp ngay, mà hỏi:
“Đám trẻ con sao rồi cụ? Có phá phách gì không??”

“Chúng nó ngoan lắm, nhiều đứa lớn rồi vẫn còn nhớ chú Quý đấy.

Hôm nay cháu đến thăm, chúng nó mà biết thì chắc vui lắm.”
“Hôm nay con đến nhờ vả các em nó mà thầy ơi.”
Điền Quý cười.
“Thế mà không nói sớm, để thầy vào gọi chúng nó ra.”
Đợi sư thầy đi khuất, anh chàng mới quay sang phía cô bạn đi cùng, giải thích:
“Chùa này có thu nhận những đứa trẻ mồ côi, cơ nhỡ.

Trong lúc đi làm nhiệm vụ tôi cũng có gửi một hai cháu đến nhờ thầy chăm giúp, với cũng cúng giường ủng hộ cho chúng.”
Phượng Ngân gật gù, bảo:
“Chuyến này đánh thần trùng nguy hiểm trùng trùng, anh tranh thủ đến thăm chúng đúng là chuyện nên làm.”
“Cả nhà cả cửa được con bạn đi cùng mà nó lại trù mình chết, ông giời không có mắt mà...”
Điền Quý thở dài, ngửa đầu lên, giả ra cái vẻ bi thương.
Phượng Ngân còn đang định đùa lại, thì từ phía sau vườn đã có tiếng trẻ con nhao nhao gọi:
“Chú Quý! Chú Quý!”
Chỉ thấy sư trụ trì dẫn ra một nhóm hơn chục đứa trẻ con, lớn thì mười một mười hai, nhỏ thì mới năm sáu tuổi, cả trai cả gái.

Vừa nhác thấy Điền Quý, cả lũ đã hớn ha hớn hở, chạy ùa tới.

Đứa thì chào hỏi, đứa thì vòi quà, huyên náo cả một góc chùa.
Điền Quý nghiêm mặt, nói:
“Này, mấy đứa, đây là chỗ trang nghiêm, đừng có làm ồn.”
Sư trụ trì thì xua tay, bảo:
“Trẻ con hiếu động thôi mà, không sao cả.”
Lúc này, trong bọn lại có một đứa bé độ năm sáu tuổi, trong lúc đám trẻ chen lấn xô nó ngã oạch xuống sàn nhà.

Phượng Ngân đang định chạy đến dỗ nó đứng dậy, thì đã thấy đứa bé hiện nguyên hình là một con đỉa to như con lợn, vừa giãy lên đành đạch vừa khóc lóc thảm thiết.
Sư trụ trì vỗ lên đầu con đỉa một cái, nói:
“Kìa con, dọa cô bây giờ.”
Một đứa khác bỗng dưng hùa vào:
“Đúng rồi.

Cậu dọa cô, cô không lấy chú Quý nữa thì chú Quý ghét cậu cho xem.”
Con đỉa có vẻ hoảng, bèn hóa lại thành đứa trẻ con, chạy đến kéo áo Phượng Ngân:
“Cô ơi, cô đừng bỏ chú Quý.”
Cô nàng đang định giải thích, nhưng thấy hai mắt thằng bé rưng rưng, mặt méo xệch như chực khóc, bèn đáp:

“Ừ.

Ừ.

Cô không bỏ chú ấy đâu.”
Mình chỉ làm thế để thằng bé không biến thành con đỉa thôi.
Phượng Ngân tự thuyết phục bản thân như vậy.
“Thì ra đám trẻ này không phải người.”
Phượng Ngân ngồi xuống bên cạnh Điền Quý – người đang ngồi mềm oặt như mớ giẻ lau trên băng ghế nhựa.

Cô nàng đẩy chai nước suối lạnh về phía anh chàng, hỏi:
“Uống không?”
Điền Quý vơ đại chai nước, uống một hơi cạn hết một nửa, rồi “khà” một tiếng.

Anh chàng nói tiếp:
“Bọn nó đều mồ côi.

Có đứa cha mẹ chết trong chiến tranh, có đứa thì mất người thân vì con người lạm sát.

Tôi đi làm nhiệm vụ, tình cờ gặp được đứa nào thì đưa chúng vào chùa, vào cô nhi viện đứa đấy, coi như cũng có người chăm sóc, đỡ phải lang bạt kì hồ.”
Ngừng một chốc, Quý lại tiếp:
“Nhưng cô thấy đau đầu chưa? Bọn trẻ con đúng là quỷ sứ đầu thai, loài nào cũng như loài nào.

Hết phải chạy theo nhặt đầu cho bé ma lai, lại phải dỗ dành bọn quỷ nhỏ.

Chúng nó còn bé, không kiểm soát được sức mình, nhỡ mà có đánh nhau thì can đến phát mệt.

Nhưng sợ nhất là chúng nó nói linh tinh ấy.”
Phượng Ngân cười khẽ một cái, lại hỏi:
“Anh có vẻ ghét trẻ con nhỉ?”
“Ghét á? Sợ thì đúng hơn bà cô của tôi ơi.

Chẳng bỗng dưng tôi chuồn khỏi nhà.”
“Nhưng anh rất quan tâm tới bọn nó, đúng không? Bé đỉa cần máu nè, bé ma lai cần ruột cá này, đứa nào cần thứ gì anh đều mang theo đủ cả, còn cả đống quà vặt nữa.”
“Trùng hợp thôi.”
Điền Quý quay ngoắt mặt sang hướng khác, nhưng lời nói đã không còn kiên quyết như trước.

 
Chương 12: 12: Tứ Tượng Trấn Âm Trận





Đám trẻ con ở chùa Trấn Long lần đầu được giúp chú Quý một tay, đứa nào đứa nấy đều hớn hở.

Bọn nó bảo nhau ra sau vườn, chỉ nhoáng một cái đã quay lại, cẩn thận đưa cho Điền Quý hai cái bình đã đậy chặt nắp.

Thầy trụ trì lại đào viên gạch thứ ba ở dưới tấm bồ đoàn lên, lấy ra một thanh kiếm gỗ bám đầy bụi, cũng trao cho Điền Quý.

Anh chàng chào sư thầy, dặn dò bọn trẻ phải nghe lời trụ trì, rồi đi khỏi chùa.
Xích lô của ba bị chở hai người vòng qua các con hẻm, rời khỏi thị trấn, đi chừng nửa tiếng thì đến một vùng vắng vẻ, được xây tường rào kỹ, mồ mả mọc san sát.

Điền Quý lấy gói lá chuối bọc như hình trẻ con trả cho ba bị rồi dẫn Phượng Ngân vào tìm người trông mộ.
Nghĩa trang này thấp hơn lòng đường độ một mét, từ con dốc thoải đi qua cánh cổng sắt, nhìn sang bên tay trái sẽ thấy một gian nhà nhỏ, trước cửa buộc một đôi chó mực đang nằm ngửa bụng ngủ khì.

Phượng Ngân xem tướng hai con chó, thấy toàn bộ lông trên người chúng đều mọc hướng về đuôi, đều tăm tắp thì không khỏi kinh ngạc.
Trong thú chơi chó, giống là một chuyện, tướng chó cũng quan trọng không kém.

Tướng của đôi chó mực này gọi là Bối Kiếm Cẩu, hay chó lưng cõng kiếm, nói về sát phạt thì không tướng chó nào bằng cả.

Đôi chó này lại còn đẻ cùng một mẹ, cùng một lứa thì càng quý hiếm hơn.
Điền Quý đến gõ cửa, cứ gõ hai cái lại đập một cái lên cửa.

Một lúc sau có một người trung niên mù chống gậy đi ra, hỏi:
“Bạn bè từ đâu tới đây? Không biết thằng này rửa tay gác kiếm rồi sao?”
“Anh Hùng, mới nghỉ hai năm đã quên thằng em rồi à??”
Điền Quý lập tức lên tiếng.
“À! Thằng Quý đấy hả? Với một người nữa? Nghe đâu chú cưới vợ, anh còn đang định gửi phong bì đây, sao lại dẫn vợ đến đây rồi??”
“Chuyện kể ra thì dài dòng, đợi xử lí xong công chuyện đêm nay, anh em ta uống một bữa rồi em kể đầu đuôi cho.

Mà cô ấy không phải vợ em đâu, khách hàng thôi.”
Điền Quý cười, mắt híp tịt.

Phượng Ngân nghe ngữ khí, phỏng đoán rằng cái bữa rượu thằng cha này nói đến sẽ không bao giờ xảy ra cả.
Hùng mù có một cô vợ tên Lan, cả hai đều là hành giả đã về hưu, ở đây trông coi nghĩa địa, chăm sóc mồ mả.
Nghe anh Hùng kể thì hồi mắt anh còn sáng cũng thuộc dạng số má trong giới, đi nam vào bắc thường xuyên, yêu ma quỷ quái có danh tiếng bị anh ta bắt lại nhiều vô số kể.

Cô Lan tuy tài phép không lấy gì làm cao cường, nhưng lại được chân truyền, có thể nghe hiểu tiếng của chim sẻ, nên nhờ vả được bọn chúng.

Có đàn chim sẻ hỗ trợ, như thể có mấy trăm cặp mắt bay trên trời, khó lòng phòng bị.

Nói không ngoa, thì cô Lan chính là một phần tạo nên hậu phương vững chắc cho hành giả.
Tiếc là trong một lần bắt yêu, anh này bị nó phun độc vào mặt.

Sau khám ra mới biết là chất độc hóa học sót lại từ chiến tranh, tuy giữ được mạng nhưng sức khỏe cũng bị ảnh hưởng, hai mắt mù hẳn.

Những năm qua vào nam ra bắc cũng kiếm được một món tiền lận lưng, hai vợ chồng bèn lựa chọn giải nghệ, về làm Thức Giả.
Hùng bảo lúc đi ngang qua bãi tha ma này, thấy chim chết nhiều, bèn đoán là có quỷ quái hoành hành, nên quyết định ở lại trấn giữ.
"Chớ nhìn bãi tha ma này đến nay vẫn còn yên ổn mà nhầm.

Không có tôi chôn bùa ở những vị trí âm khí tích tụ, lại thỉnh cặp Bối Kiếm Cẩu về tọa trấn, e là chốn này từ vài năm trước đã thành nơi ma quỷ hoành hành."
Hùng nói.
Điền Quý đem chuyện thần trùng ra nói với anh Hùng, anh này nghĩ một hồi, bèn nói:
“Thế thì chắc chắn là cái cây gạo kia rồi.”
Chẳng là trong nghĩa trang, gần chỗ hóa vàng có một cây gạo quái lạ.

Nghe dân bản địa nói, mười năm trước vẫn chưa có cây này, thế nhưng một hôm nọ có con chim bay qua thả xuống một hạt giống.

Chỉ sau một đêm cây mọc lên mười mấy mét, nhanh hơn cả tre, Cây mười năm tuổi mà như cổ thụ trăm năm, kể cũng là một chuyện quái lạ.
Anh Hùng bảo:
“Nói về phong thủy địa lí thì anh kém xa chú, chú đến đây thì vào xem qua giúp anh một lượt, sau này làm gì cũng dễ.”
Điền Quý thấy sắc trời vẫn còn sớm, muốn bắt thần trùng chí ít còn phải đợi năm sáu tiếng nữa, bèn nhận lời.


Phượng Ngân cũng xung phong đi theo, ngoài miệng nói là để mở mang tầm mắt, nhưng kỳ thực cũng muốn xem thử xem bản lĩnh của Điền Quý cao thấp thế nào.
Hùng dẫn hai người dạo một vòng quanh nghĩa trang, thăm thú những nơi có chôn bùa để trấn áp, không cho hồn ma còn oán hận hấp thụ âm khí rồi hóa thành quỷ dữ.

Phàm là những mộ như thế, bình thường anh Hùng đều cho trồng tre, mà phải là thứ tre ngà thân ố vàng mới được.
Tre là biểu tượng của Phù Đổng Thiên Vương – Thánh Gióng, cây tre ngà ngả vàng do lửa từ ngựa sắt của thần hun cháy, nên phàm là những thứ âm tà đều rất sợ thứ này.
Nhưng bãi tha ma mà, ngoài mồ mả san sát thì chẳng có thứ gì khác, nên đi một lúc là hào hứng ban đầu cũng chẳng còn mấy nữa.

Phượng Ngân không hiểu phong thủy, Điền Quý lại chỉ vừa đi vừa gật gù chứ chả thèm giải thích câu nào, tất nhiên là thấy chán gần chết.

Nhưng vì cô nàng là người chủ động xin đi cùng, bây giờ mà đòi về trước thì mất mặt quá, nên cố gắng nhịn.
Ba người vòng một vòng, lại về gian nhà nhỏ có hai con chó mực.

Bấy giờ, vợ anh Hùng là chị Lan cũng đã về đến nhà, nhác thấy bóng Điền Quý, lập tức đon đả chào:
“Cậu Quý sao lại đến đây? Cậu không báo chị một tiếng, để chị còn chuẩn bị cơm nước.”
Anh chàng cười:
“Không dám phiền chị.

Thằng Quý này là thứ sao chổi, chị không đuổi cổ đã phúc đức lắm rồi.”
Anh Hùng bảo vợ ngồi xuống, nghe Điền Quý giảng giải.

Chờ mọi người ai nấy đều yên vị, lại giới thiệu lẫn nhau xong xuôi rồi, anh chàng mới lên tiếng:
“Có người cố tình phá hoại đấy, may có anh Hùng đi ngang qua, không thì mưu gian của hắn đã thành công rồi.”
Anh Hùng, chị Lan và Phượng Ngân đều tỏ vẻ kinh ngạc.

Anh Hùng lên tiếng:
“Xin cậu giải thích rõ.”

Phượng Ngân cũng lấy làm tò mò, không rõ bãi tha ma trông bình thường như bao nơi khác này còn có huyền cơ gì.
Điền Quý nói:
“Người xây cái nghĩa trang này là tay thầy địa lí có hạng đấy.

Anh hãy nhìn bốn góc tường của nghĩa trang, có đúng là khớp hoàn toàn với bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc hay không?”
Anh Hùng không thấy đường thì không hay, nhưng chị Lan nghe xong lập tức gật đầu xác nhận.
Điền Quý mới giải thích:
“Góc phía nam để cái lò hóa vàng, góc phía bắc là một cái giếng nước, phía tây đặt quả chuông, phía đông trồng một cây nhãn, đây là thế tứ tượng.

Lò lửa phía nam là chu tước thuộc hỏa, giếng nước phía bắc là huyền vũ thuộc thủy, quả chuông phía tây là bạch hổ thuộc kim, còn cây long nhãn là thanh long thuộc mộc.
Người xây nghĩa trang này biết là chiến tranh loạn lạc khiến người chết oan rất nhiều, nên mượn uy của tứ tượng, những mong trấn an được oan hồn, giải tỏa được oán niệm, trục được khí âm.

Đáng tiếc là gặp phải kẻ cao tay ấn hơn, công sức bỏ ra đều bị lợi dụng cả.”
Anh chàng nói liến thoắng, thấy hơi khô họng, bèn xin một chén nước chè uống cho mát ruột, rồi mới hỏi:
“Anh Hùng có để ý rằng chỗ mình chôn bùa vừa vặn là hai mươi tám chỗ không?”
“Đúng rồi.

Cũng chỉ thấy chỗ ấy âm khí nặng quá, đặt bùa ở đấy những mong trấn áp được tí nào hay tí ấy đó mà.”
“Tứ tượng là nhị thập bát tú trên trời hợp thành, tức là hai mươi tám ngôi sao.

Những chỗ anh chôn bùa trấn áp khí âm thực ra vốn là nơi để tiêu trừ oán khí.

Tất nhiên, đấy là với điều kiện không có cây gạo kia.”
“Ý cậu là cây gạo mọc ở sau lò hóa vàng?”
Anh Hùng làm người trông nghĩa địa ở đây, đương nhiên cũng có người bản xứ nói về cái cây gạo lạ này cho anh ta rồi.

Anh này nói mình cũng từng nảy sinh ý muốn chặt quách cái cây đi, nhưng lại sợ có huyền cơ phong thủy gì mình không hiểu, làm ơn hóa hại thì hỏng, nên vẫn lần lữa.
Điền Quý mới giảng tiếp:
“Đúng.

Cây gạo của ta thực ra gần giống với cây hòe của bên Tàu, đều là cây âm, rất dễ có ma.

Chẳng thế mà nói thần cây đa, ma cây gạo à?
Cây này mọc ở vị trí của Chu Tước, nó là cái thế ‘dưới đĩa đèn thì tối’, ý là nơi dương cực thì tất có âm sinh.


Có cây gạo ở đó, thế phong thủy ở nghĩa trang bị đảo ngược, tụ mà không tán, thành chỗ tích tụ âm khí.

May mà có anh Hùng trấn áp, không có lẽ vong linh nơi này đều thành quỷ dữ hại người cả rồi.”
Anh Hùng nghe mà giận điếng người, dậm chân mắng:
“Mẹ kiếp, thằng nào khốn nạn đến thế? Ở đây phải hơn nghìn cái mả.

Chẳng may đều biến thành quỷ dữ thì chắc cả tỉnh đều là cảnh chết chóc tang thương, gà bay chó sủa mất.”
Phượng Ngân lại lên tiếng:
“Này, anh có nghĩ sở dĩ có người phá hoại trận tứ tượng trấn âm là do con thần trùng kia không??”
“Khả năng này không phải không thể xảy ra.”
Điền Quý gật gù.
Anh Hùng bèn hỏi:
“Vậy muốn phá thế trận này có phải cứ chặt quách cái cây gạo kia đi không?”
Anh chàng vội can:
“Vạn lần không được.

Cái cây đấy bây giờ nó như cái nút chai, còn âm khí như ga đựng trong chai vậy.

Anh mà lỗ mãng chặt cây, âm khí tràn ra ngoài thì còn hỏng bét hơn.

Muốn phá trận này cũng không khó, đợi em bắt con thần trùng rồi sẽ xử lý chuyện này dứt điểm.”
“Thế để vợ chồng chị giúp hai đứa một tay, còn có hai thằng nhóc kia nữa.

Chúng là giống Bối Kiếm Cẩu, tà ma bình thường gặp chúng là sợ kinh hồn bạt vía rồi.”
Chị Lan vừa nói, vừa ngó hai con chó con.
Điền Quý nói:
“Vậy thì quý hóa quá.”
“Chú cứ khách sáo cái gì?? Việc nên làm thôi mà.

Anh có thằng bạn người Tàu, nó hay bảo tổ chim mà vỡ thì lấy đâu ra trứng lành?? Anh chị sống ở cái đất này, chẳng may nơi đây mà vỡ trận thì làm sao mà yên ổn nổi?”
Anh Hùng cười phá lên.

 
Chương 13: 13: Đêm Ở Bãi Tha Ma





“Nhưng thôi đi, anh chị chưa ăn bánh trôi ở Linh Thị miếu, có đến cũng không nhìn thấy con thần trùng.

Chi bằng thế này, hai người dẫn theo cặp Bối Kiếm Cẩu, phong tỏa khu nghĩa trang này lại, để nó hết đường chạy.”
“Mọi thứ đều nghe cậu.”
Anh Hùng đáp.
Điền Quý lại lấy trong túi ra một thanh kiếm gỗ, chính là thanh mà trụ trì chùa Trấn Long đưa cho hồi nãy.

Anh chàng lại lấy cái bình mà bọn trẻ con ở chùa Trấn Long đưa cho, đổ vào một bao hỗn hợp phân gà đồng, vôi bột và bột tổi, trộn đều thành một thứ nước màu trắng nhờ.
Liền đó, anh chàng bảo:
“Mọi người đặt hết vũ khí lên bàn đi.”
Anh Hùng lấy trong tủ ra một khẩu súng hơi, mấy viên đạn đồng, lại nói:
“Đây là chiến hữu vào nam ra bắc, tung hoành một dải Trường Sơn với anh suốt hơn chục năm, bắn chết bao nhiêu là yêu quái rồi đấy.

Cô Ngân thấy sao hả?”
Phượng Ngân nói:
“Súng này làm bằng bạc, lại có phù phép gia cố, đúng là một món lợi khí.”
Chị Lan cũng đặt vũ khí tùy thân - một cây nỏ gỗ và một ống tên lên bàn.

Đến lượt Phượng Ngân, cô nàng lấy thỏi son ra, vặn cho lưỡi kiếm đen bật ra ngoài, rồi để ngay cạnh súng hơi của anh Hùng.
Chị Lan thấy lưỡi kiếm, kêu lên:
“Trời! Đồng đen!”
“Cái gì?? Cha mẹ ơi, hóa ra ở đây có bà phú hộ giả nghèo, làm mình khoe hớ rồi.”
Anh Hùng cũng hét lên.
Đồng đen là thứ kim khí trong truyền thuyết, vô cùng quái dị, được xưng là “mẹ của vàng”, “kim loại của thần”, nhưng cách để luyện ra nó đã thất truyền thì hơn nghìn năm trước.v.v...!Nghe nói, một cục đồng đen bằng bao thuốc lá đã nặng hơn trăm cân.

Bình thường, thả vào nước nó sẽ chìm xuống đáy, nhưng nếu vật chứa nước làm bằng sắt thì đồng đen sẽ nổi lên.


Đồng đen một khi bị gõ vang, sẽ khiến vàng ròng chung quanh rung lên bần bật, thậm chí bị hấp dẫn đến, có thể xưng là vật tụ bảo.
Nhưng kinh khủng nhất, đó là tin đồn đồng đen có thể giết được thần.

Nhiều người cũng đồn đoán sở dĩ cách tạo ra thứ kim thiết này bị thất truyền là do thần phật sợ hãi, không dám để người phàm biết cách tạo ra nó.
Những lời đồn thổi ấy thật giả lẫn lộn, nhưng nói không ngoa, đồng đen là báu vật chỉ có giới hành giả đi lại giữa hai cõi mới tìm nổi, hơn nữa có tiền cũng chưa chắc mua được.
Điền Quý thì không phản ứng quá bất ngờ như hai người kia.

Anh chàng lấy hỗn hợp nước, bôi lên vũ khí của mọi người.

Đoạn, anh chàng lại ngó Phượng Ngân, bảo:
“Đổi.”
“Anh...!anh nói gì tôi không hiểu?”
Phượng Ngân hốt hoảng, cố gắng lảng tránh ánh mắt của Điền Quý.
“Không cần giả vờ làm gì, người khác có thể không biết, chứ tôi không lạ gì thứ cô đang dùng đâu.”
Điền Quý nói xong, lại lấy ngón tay gõ mặt đồng hồ, nói:
“Có nhanh lên không thì bảo đây, sắp đến giờ rồi.”
Phượng Ngân thở dài.
Cô nàng chẳng muốn tưởng tượng phản ứng sắp tới của hai vợ chồng anh Hùng một tẹo nào cả.
“Nước chảy chỗ trũng.

Mẹ nó.

Cuộc đời sao bất công thế?”
Anh Hùng vừa nói, vừa nghệt mặt ra như ngỗng ỉa.
Thỏi son của Phượng Ngân nhìn thì bình thường, vậy mà lại có đến sáu hình dạng là đao, kiếm, thương, cung, roi, quyền sáo.

Hơn nữa, cả sáu đều đúc bằng đồng đen.

Anh chàng hắng giọng, đột nhiên nói:
“Này, em Ngân, nhà em còn cần thuê giúp việc không? Chú Quý tiến cử anh với chị Lan vào với.”
Phượng Ngân ngượng chín cả mặt, nhưng không biết phải nói sao mới ổn, nên cứ ấp úng mãi.
Chị Lan bèn huých chồng, bảo:
“Anh! Đùa thế em nó cười cho.”
Hiển nhiên, tuy có kinh ngạc vì đống đồng đen thật, nhưng không đến mức đáng để quỵ lụy thế.

Phản ứng của anh Hùng ban nãy chẳng qua là diễn kịch cho vui mà thôi.
Rồi chị ta ôn tồn nhìn Phượng Ngân, nói:
“Chị thấy em hình như không phải hành giả từng trải, có thể không biết gì.

Thứ em cầm trên tay quý giá lắm đấy, sau này đừng dễ dàng cho người khác xem.

Anh chị thì không sao, nhưng trên đời này không thiếu kẻ muốn giết em cướp thứ này đâu.”
“Đâu chỉ quý giá? Mẹ cha ơi.

Bán một món đi thôi là đủ sống mấy đời rồi, đây còn cả sáu? Em...!Em đỡ anh...!anh sắp ngất rồi.”
Anh Hùng lại bắt đầu pha trò.
Phượng Ngân trừng Điền Quý, giơ nắm đấm:
“Còn không phải tại thằng cha này à??”
Anh chàng bị chỉ mặt gọi tên thì ngó sang chỗ khác, coi như không thấy ánh mắt như hai viên đạn của Phượng Ngân.
Đồng hồ điểm hai giờ sáng.
Cây gạo bắt đầu lung lay, những tán cây cong vặn, cành cây vươn dài như ngón tay, hết rờ xuống đất lại chạm vào bờ tường rào của nghĩa trang.
Gió đang lặng.
Thành thử, tiếng những thớ gỗ mài vào nhau kèn kẹt càng rõ hơn.
Điền Quý ngồi ngay trước lò hóa vàng, trước mặt đặt một bàn cờ tướng.


Bên xanh hướng về cái cây, nhưng tất cả các quân của bên đỏ đều úp xuống mặt bàn.
Ai biết chơi cờ tướng sẽ biết, cách sắp đặt này không phải cờ úp, chẳng phải cờ mù, càng không phải cách chơi cờ tướng bình thường.

Điền Quý ngồi khoanh chân, mắt nhắm lại như đang ngủ nhưng lưng vẫn thẳng tắp, người vẫn vững vàng.
Anh chàng đang đợi...
Cây gạo xoay mình, rồi bỗng nhiên từ trong tán lá truyền đến tiếng con gái cười khanh khách.

Bàn tay thon thả rẽ lá cây sang một bên, rồi có một cô thiếu nữ mặc váy đỏ bồng bềnh, đạp chân vào không khí mà bước xuống.
Cô nàng này kéo tay áo lên che nụ cười duyên dáng, đôi mắt long lanh khẽ chớp một cái như nước hồ phản chiếu ánh trăng.

Nàng chuyển thân, mái tóc như suối nguồn nhẹ nhàng ôm lấy vóc người yểu điệu, quả thực là vẻ đẹp chuẩn mực trong tiềm thức của người Việt ngày xưa.
Đến cả người như Điền Quý mà tai cũng ửng lên, mặt hơi đỏ, giống như cũng say mê sắc đẹp của cô gái này.
Cô gái váy đỏ e ấp cúi đầu, vừa khéo giấu đi vẻ đắc ý trong cặp mắt.

Ả lại dùng giọng ngọt như mía lùi, hỏi:
“Công tử đây nửa đêm canh ba, trăng tỏ sao mờ, sao lại bày bàn cờ ở nơi này? Chẳng hay là chằn chọc không ngủ được, hay đang phiền muộn vì ai? Nếu không chê tiện thiếp xấu xí quê mùa, chẳng hay có thể cùng nhau uống chén rượu nhạt, đi một nước cờ, đặng canh khuya bớt phần cô quạnh, chàng thiếp đỡ mối tịch liêu.

Còn như chán ghét phấn thừa son cặn, thì xin được cáo biệt.”
Điền Quý à ờ một hồi, như mê say sắc đẹp, bỗng anh chàng vớ từ đâu ra một quyển sách, quăng vào mặt cô gái áo đỏ đánh “bép” một cái, làm gương mặt phấn của ả đỏ tấy lên.

Anh chàng vừa ngoáy mũi vừa nói:
“Sư bố cái thứ quỷ ma nhà mày, hát cải lương đấy à? Thời đại nào rồi còn nói năng cái kiểu này? Tặng bay quyển sách giáo khoa tiếng Việt để mà học vỡ lòng, sau này đi quyến rũ đàn ông thì người ta đỡ nổi da gà da vịt.”
Con ma nữ bất ngờ bị đòn đau, lại thấy phép ma chẳng có tác dụng gì, bèn nghiến răng trèo trẹo.

Móng tay ả mọc dài ra, cong lên nhọn hoắt.

Mười móng vuốt đỏ lòm như ngâm trong máu, ẩn ẩn phát ra một thứ mùi khó ngửi.
Điền Quý ngáp một cái, xua tay như đuổi ruồi:
“Sao chưa gì đã biến hình rồi?? Ta nói này, muốn làm trùm thì phải biết giữ phong độ, điềm nhiên, điềm tĩnh, hiểu không? Mới có tẹo thế này đã nổi nóng thì chỉ làm được tay sai cả đời thôi.”
“Mày...!Được.


Được lắm.

Để xem lúc mày sắp chết dưới tay tao rồi còn dám nói cái giọng đấy không.”
Con ma nữ quát lên, đoạn bổ nhào về phía Điền Quý.
Anh chàng lại ngáp một cái, nằm ườn ra, chẳng coi nó vào đâu.

Con ma càng lao nhanh hơn, nhưng lúc còn cách Điền Quý chừng mười bước chân thì nó bỗng cảm thấy nguy hiểm, vội vàng bay lùi lại.

Đáng tiếc là vẫn chậm một chút...
Chỉ thấy một con cờ trên bàn cờ tướng của Điền Quý bỗng sáng lên lập lòe, bay vọt ra, đánh nổ luôn cả bả vai của con ma nữ.

Nó rú lên một tiếng đau đớn, âm thanh chói tai truyền ra khắp cả nghĩa trang, anh Hùng đứng mãi tận đầu phía bắc cũng nghe thấy được.
Con ma nữ nhìn cánh tay rơi còng queo dưới đất, nghiến răng nhịn đau, nhảy ngược lên cành cây gạo.
Lúc này, nó chỉ hận không thể lập tức xé xác Điền Quý.
Anh chàng ngáp thêm một cái, lại bảo:
“Đấy, thấy chưa? Đã bảo phải bình tĩnh, giận quá thì mất khôn đấy mà không nghe.

Cứ nhìn đạo hạnh thì cô làm ma cũng phải hơn trăm mùa hoa rồi, đã thấy thằng nào ngu đến nỗi vào nghĩa trang khiêu khích một con ma mà không có chuẩn bị chưa? Đây không phải chuyện kinh dị ba xu mà có thằng nào ngu đến mức chui vào hang cọp cho cô nương đánh đâu cô nương ơi, động não đi!”
Điền Quý tranh thủ lúc con ma thất thủ, chửi nó một hồi cho sướng mồm, từ ngữ ô uế nhục mạ chẳng thiếu thứ gì, lôi cả gia phả mấy đời nhà nó ra hỏi thăm.

Con ma nữ bị chửi cho xói cả máu đầu, tức muốn lồng lộn, nhưng cánh tay cụt còn nằm dưới đất như nhắc nhở nó, thằng cha này đang cố tích khiêu khích.
Con ma mọc lại cánh tay khác, mắt nheo lại nhìn bàn cờ.
Điền Quý gõ ngón tay lên bàn cờ một cái, nhăn nhở cười.
Tất nhiên, anh chàng biết thừa trước khi hiện thân, con ma nữ đã ở trên cây gạo dò xét phạm vi mấy chục ngôi mộ xung quanh Điền Quý đến mấy lượt.

Mãi đến khi nó chắc chắn anh chàng không gài bẫy, hay giở trò trên bàn cờ nó mới thò cái mặt ra định giở trò.
Thế nên, nó mới bị bất ngờ lúc quân cờ đánh tới.
Điền Quý tất nhiên không giở thủ đoạn gì với bàn cờ, cũng không đặt bẫy chung quanh từ trước.
Nhưng nếu con ma nữ mà cho rằng chỗ này an toàn, nó thích làm gì thì làm thì sai lầm lắm.

 
Chương 14: 14: Cây Gạo





Điền Quý vươn vai, mắt gà gà vì ngái ngủ, gọi to về phía chạc cây:
“Cô gì ơi, cô mà còn không ra tay thì cẩn thận hồn bay phách tán đấy nhé.”
“Nhà ngươi cho rằng ta mắc bẫy hai lần sao??”
Trên cao vọng xuống tiếng nói oán độc của con ma nữ.

Bóng váy đỏ của nó thoắt ẩn thoắt hiện giữa những tán cây, lúc cao lúc thấp, khi trái khi phải, khó mà nắm bắt nổi hành tung của nó.
Điền Quý nhún vai, cười:
“Cô không đánh xuống thì tôi đánh lên vậy.”
Vừa nói dứt câu, hai quân cờ xanh trên bàn đã phát sáng lên, trong nháy mắt hóa thành hai viên tướng giáp trụ chỉnh tề, cưỡi trên lưng ngựa.

Điền Quý chỉ tay về phía cái cây, quát một tiếng, hai tướng như nhận được lệnh của chủ công, vung đao tế ngựa mà xông lại.
Khí thế hai tướng rất hung hãn, không thua kém gì người thật từng trải trăm trận.

Ma nữ áo đỏ cũng biết khôn, không đấu cứng mà lựa chọn tránh né, ỷ vào cành lá rậm rạp, né hết đao này đến đao khác.

Mà trong quá trình này, hai vị tướng quân cũng bắt đầu yếu đi thấy rõ.

Cả người lẫn ngựa thỉnh thoảng đều trở nên trong suốt trong thoáng chốc, đao cầm trên tay cũng run lên, mờ mờ ảo ảo.

Ấy là dấu hiệu linh lực của hai con cờ đang bị thứ gì đó xói mòn.
Con ma nữ nhằm chuẩn thời cơ, nhân lúc hai tướng loạng choạng, bèn phóng tay áo ra.

Dải lụa đỏ len lỏi trườn giữa những kẽ lá hệt như con rắn, tốc độ nhanh đến khó mà tin tưởng.

Chỉ trong nháy mắt, cổ của hai vị tướng quân cờ đã bị dải lụa đỏ cuốn quanh.

Sau một tiếng cười như xé vải của ma nữ, dải lụa đỏ xiết chặt, hai vị tướng ma nổ tung thành vô vàn điểm sáng.
Cộc.
Hai quân cờ tướng rơi xuống gốc gạo rồi vỡ đôi.
Con ma nữ thắng được một trận, đắc ý cười khanh khách, mỉa mai:

“Còn tưởng thế nào mà dám dọa đánh tao hồn bay phách tán, té ra chỉ giỏi võ mồm.”
Điền Quý ngáp một cái, nói:
“Sao?? Mồm của ta, ta nói gì ngươi quản được à?? Ta cứ thích chém gió đấy, ai dại mà tin thì người đấy ngu.”
“...”
Hồi lâu, cũng không thấy ma nữ lên tiếng đáp trả.
Bóng áo đỏ nãy giờ xuyên qua xuyên lại giữa những tán cây cũng không thấy tăm hơi đâu cả, cây gạo cũng ngừng chuyển mình.

Không còn tiếng cười lanh lảnh và giọng nói the thé của con ma nữ, cũng chẳng còn tiếng thân gỗ vặn răng rắc, góc tường phía nam bãi tha ma bỗng chốc trở nên im ắng dị thường.
Lúc này, Điền Quý rốt cuộc cũng ngồi thẳng lưng dậy, vẻ ngái ngủ trên mặt cũng thu lại.

Ánh mắt anh chàng xuất hiện vẻ nghiêm túc khó có, hai cánh tay vung lên một cái, hai quân tượng xanh lập tức hóa thành một đôi voi lớn đứng chầu trái, phải.

Bốn chiếc ngà dài, cong vút đan chéo nhau, cẩn thận bảo vệ Điền Quý.
Cây gạo nở hoa...
Hoa gạo đỏ rực như ngọn lửa bỗng chốc mọc lên đầy cả tán cây, cành lá xum xuê không nơi nào không có một chùm hoa lửa.

Dưới ánh trăng đêm, cây gạo bỗng chốc như một ngọn đuốc bị điểm hỏa, cháy hừng hực.
Cây gạo bỗng lắc một cái, rũ xuống cơ man không biết bao nhiêu là lá, là hoa.

Mỗi chiếc lá như một viên đạn, bắn tới xuyên vào người voi lớn.

Mỗi đóa hoa như một quả lựu đạn, vừa chạm vào người là voi là nổ đánh ầm một cái, phá da xé thịt.
Những quân cờ úp ngược trên bàn đồng thời bay thẳng lên không, bắn về phía trận mưa hoa, bão lá đang tới tấp đổ ập xuống đầu Điền Quý.
Anh chàng chặc lưỡi, đập mạnh cả hai tay xuống bàn cờ.

Đôi sĩ, đôi pháo, đôi xe, năm quân tốt xanh nhất tề hóa thành hình người thật, xe thật.

Hai quan văn ngồi trên bành voi, một tay cầm sách, tay kia bắt quyết, tạo thêm một màn chắn hợp lực thủ chặt chỗ Điền Quý đang ngồi với đôi tượng.

Hai quân xe là hai cỗ chiến xa (chariot) bốc cháy, lao ầm ầm về phía cây gạo như muốn đốt trụi từ lá đến rễ.


Đôi pháo nhả đạn như sấm rung, bắn hết viên này đến viên phát vào tán cây hòng đánh con ma nữ rơi xuống đất.

Năm quân tốt dàn một hàng ngang, bước chân rầm rập, dấn đều từng bước.
Điền Quý lại đưa tay gạt một cái, khiến tất cả các quân cờ đỏ bật tung lên không trung.

Những quân cờ bọc trong linh lực, trong đêm tối ánh lấp lánh như những ngọn đèn.

Bọn chúng như các hành tinh, lấy Điền Quý làm trung tâm, bay vờn quanh anh chàng.
Tiếng cười lanh lảnh của ma nữ áo đỏ lại cất lên:
“Để tao xem đến lúc những quân cờ kia hao hết linh lực thì ai cứu nổi mày.”
Sau lời tuyên chiến của ả, cây gạo cũng chuyển mình, những cái rễ cây dài cắm sâu dưới đất bắt đầu đâm về phía Điền Quý hệt như những mũi lao.

Hoa gạo, lá gạo cũng rơi dày hơi, tựa như muốn nhấn chìm chỗ anh chàng đang ngồi trong một biển hoa lá.

Những quân cờ đỏ lao tới, đánh chặn phần lớn công kích của con ma nữ.

Phần lọt lưới thì bị cặp sĩ, tượng chặn lại.
Điền Quý vỗ tay bành bạc, nói:
“Oa...!Con ma này cuối cùng cũng biết động não kìa, bà con ra mà xem.”
Mồm thì chọc tức, nhưng quân cờ của Điền Quý cũng không ngồi chơi, thi nhau tấn công ồ ạt.

Tiếc là đều bị mưa hoa, bão lá của cây gạo ma hóa giải hết.
Hai bên cứ thế giằng co nhau hơn mười phút đồng hồ, vậy mà không thấy ai yếu thế.
Đúng lúc này, tiếng cười xé vải của con ma nữ lại cất lên:
“Ha ha ha, tao thắng rồi.”
Điền Quý giật mình ngoái đầu, chỉ thấy những cái rễ gạo không rõ từ lúc nào đã bò ngầm dưới đất, lan quá chỗ anh chàng đang ngồi.

Lúc này rễ gạo trồi lên sau lưng, hai bên trái phải, mọc thành một bức tường giam, hổ duy nhất một hướng chỗ cái lò hóa vàng.


Con ma nữ hiện lên trên ngọn cây, hai tay áo cùng hoa lên, múa một điệu kiểu cung đình ngày xưa.

Nhìn động tác nó tuy uyển chuyển, thanh nhã, nhưng các khớp trên tay, ở chân thỉnh thoảng lại giật đánh khực một cái rất nhanh, khiến điệu múa tăng thêm mấy phần ma mị quán đản.
Cây gạo lắc mình, hoa trên cây bắt đầu kết quả.

Quả của cây ma nhỏ, dẹt, vừa rời cành lập tức nở toác ra, tơ trắng bên trong bung ra, trói nghiến năm quân tốt, bó chặt bánh của đôi xe, lấp đầy họng đôi pháo.

Những quân cờ đỏ bay múa trên không cũng bị tơ này dính lấy, như đám ruồi mắc trong mạng nhện, không sao cựa được.

Ánh sáng của những quân cờ cũng dần dà ảm đạm xuống.
Con ma nữ ngừng nhảy múa, chỏ vào mặt Điền Quý, cười phe phé:
“Rễ của tao có thể xói mòn được linh khí của hành giả bọn bay, chẳng mấy chốc hai con tượng, hai con sĩ của mày sẽ mất phép.

Để xem đến lúc đó mày còn chống đỡ kiểu gì.”
Đã thấy anh chàng đứng phắt dậy, móc trong áo ra một tấm bùa màu vàng.

Điền Quý tay bắt quyết, chân đạp theo vị trí thất tinh bắc đẩu, xuống trung bình tấn, sau đó dán ngay lá bùa vào bụng, quát lên:
“Xem Trung Đẳng Phá Thiên Pháo đây!!”
Con ma nữ nghiêm hẳn sắc mặt, vội vàng thu cành lá về thủ, lại cẩn thận quan sát Điền Quý.

Tuy ả không biết cái thứ gọi là Trung Đẳng Phá Thiên Pháo này là gì, nhưng trông dáng vẻ lúc thi thuật của anh chàng, đoán hẳn phải là phép thuật gì ghê gớm lắm.
Mặt Điền Quý đỏ gay, môi mắm lại, mắt trợn lên, đoạn...
Bẻmmmm...
Một âm thanh không phù hợp với chiến trận, kèm theo một mùi thum thủm gây mũi lãng đãng phả vào không khí.

Điền Quý gỡ lá bùa ờ bụng, gãi gáy ra chiều xấu hổ, nói to:
“Ngại quá.

Mấy hôm nay ăn ngủ không điều độ, hơi bị đầy hơi...”
“Đấy là...!Trung Đẳng Phá Thiên Pháo??”
“Thì đúng rồi.

Nghe cũng oách đấy chứ?”
“Thằng dị hợm nào lại đặt cho thuật chữa đầy hơi cái tên bá khí như vậy?? Hả?”

Giọng con ma nữ như thể muốn đòi lại những cảm xúc cẩn trọng, hồi hộp, lo âu đã hoang phí trên một thuật dùng để đánh rắm.
Điền Quý thò tay gãi mông, nói:
“Nhà ngươi nói thế là không đúng rồi.

Thứ gì càng ô uế, càng bất lịch sự thì mình càng phải đặt cho nó một cái tên thật kêu, thật oách, gọi thế nó mới sang mồm, hiểu chưa? Chả thế mà có nào là tiên ông trồng củ cải, nào là thượng đế bế quan âm, la hán đẩy xe bò à? Toàn thần với tiên cả đấy...”
Thấy con ma nữ hồi lâu vẫn không nói gì, anh chàng mới ho khan một tiếng, nói:
“Nhà ngươi đã không thích mấy cái tên sang mồm, thì ta chơi tên dân dã vậy.

Thằng này tuy là văn dốt võ nát, nhưng khoản từ vựng về đánh rắm ta xưng thứ hai trên đời thằng dám nhận thứ nhất còn chưa đẻ ra.

Bắc trung nam, Kinh Thái Mường, tây Tàu đủ cả, tha hồ lựa chọn.”
“Để đến lúc tao phá được thế sĩ tượng bền của mày xem mày còn giả vờ thế nào??”
Con ma nữ rống lên, có vẻ tức giận vì cái thái độ lờn mặt của Điền Quý.
Cũng có thể, chính vì anh chàng càng tỏ vẻ quái đản, nó lại càng không biết Điền Quý sẽ ra chiêu kế tiếp đường nào mà đề phòng, từ ấy mà sinh ra lo sợ.
Điền Quý vỗ tay, nói:
“Không thích trung tiện, thì ta hạ xuống một nấc vậy.

Không biết quý cô đã nghe đến Thính Vũ Lâu chưa?”
Đoạn, anh chàng vừa cười khanh khách vừa thò tay tóm cạp quần, giống như sắp sửa vạch xuống thật.
Con ma nữ rú lên, ba thứ hoa, lá, quả gạo thi nhau trút xuống đầu Điền Quý.

Lá xanh, hoa đỏ, quả đen, nhìn từ xa trông như một dòng lũ ba màu vậy.
Bỗng...
Điền Quý thu lại vẻ cười nhăn nhở, bàn tay đang giữ cạp quần chợt lật một cái, nhặt tấm bùa vàng ban nãy dùng để đánh rắm lên.

Anh chàng gấp nhoằng một cái, tấm bùa đã thành một con hạc giấy xinh xắn.
“Ê.

Nhà ngươi có biết cây gạo làm được bao nhiêu món ăn không?”
Điền Quý vừa nói đểu, vừa đưa con hạc gấp lên miệng thổi phù một cái.

Hạc giấy như sống dậy, nhẹ nhàng vỗ cánh, lách qua màn mưa đạn cây gạo ma đang trút xuống đầu, hạ cánh trong lò hóa vàng.
Tức thì, một ngọn lửa đỏ rực cháy lên trong lò.

 
Chương 15: 15: Giương Đông Kích Tây





Lò hóa vàng sáng rực lên, lưỡi lửa đỏ ngầu ban đầu còn yếu, về sau hút gió lớn phổng chiếm đầy cả thân lò.

Lò lửa được đốt nóng, như con thú ngủ say bừng tỉnh, miệng lò bỗng phát ra lực hút lớn hút nào lá, nào hoa, nào quả gạo vào làm nhiên liệu.
Lửa càng cháy càng đượm, thế rồi một ngọn lửa trào ra từ miệng lò, từ ống khói.

Lưỡi lửa bốc lên tận trời, tỏa ra hơi nóng hừng hực.

Cây gạo ma đứng sau lưng lò cũng phải run lên bần bật vì sợ hãi.

Lại nghe giọng ma nữ kêu lên thảm thiết:
“Ngươi...!ngươi đã làm gì??”
Điền Quý thò tay móc mũi, nói với vẻ khinh thường:
“Bố con dở hơi.

Tao giải thích ra để mày phá à?? Em xin chị.

Đây không phải kinh kịch mà khi không người tốt lại bô bô cái mồm ra.

Tao có khán giả quái đâu mà phải giải thích cho họ, hiểu chửa??”
Con ma nữ đến nước này rồi còn bị chửi, càng cáu tiết hơn.

Nhưng ngọn lửa từ lò hóa vàng đã bốc lên tận ngọn cây, mà đã là cây thì trốn đi đâu cho nổi? Chỉ thấy lưỡi lửa cuộn xoáy vào, rồi hóa thành hình một con chim sẻ khổng lồ.

Chim lửa ngóc đầu, mỏ há ra như muốn hót, bung đôi cánh lửa đang bốc cháy phừng phừng ra thật rộng.

Cây ma bị thiêu đốt, không bị đốt thành tro như cây gỗ bình thường mà lại tan chảy ra như viên nước đá, thật là quái dị.
“Chu Tước.

Là Chu Tước!”
Ma nữ bị thiêu đốt, kêu khóc thảm thiết.
Đến lúc này, nó mới nhớ ra phương vị cây ma chiếm giữ vốn là vị trí phương nam của trận Tứ Tượng, thuộc về Chu Tước.

Mà điều Điền Quý làm, chính là điều mà kẻ đứng sau lưng ả làm mười năm trước, lợi dụng trận phong thủy có sẵn.
Cũng có thể nói là chiêu Gậy Ông Đập Lưng Ông.
Anh chàng giơ ngón cái về phía cây gạo, cười nham nhở:
“Ping pong.

Đoán đúng rồi.

Cám ơn bạn đã đồng hành cùng chương trình hỏi đáp của chúng tôi, hẹn gặp lại bạn ở chương trình lần...!từ từ.

Kịch bản này không dùng được.”
Điền Quý vứt quách quyển sổ vừa lôi ra xuống, nhún vai.
Con ma nữ bị lửa của Chu Tước đốt bản thể, không còn nói được tiếng nào, chỉ biết kêu thét trong đau đớn.

Mà cái cây gạo cũng dần dần teo tóp đi, chảy thành bãi nước nhão nhoẹt như ngọn nến sáp.
Ma nữ áo đỏ bị đốt cho thân tàn ma dại, đầu tóc cháy rụi, da dẻ cũng bị hun cho khét lẹt.

Lúc này, chỉ cần bản thể là cái cây gạo ma bị đốt trụi là nó hồn bay phách tán, ba hồn bảy vía tan tành, hết đường siêu sinh ngay.
Điền Quý bấy giờ mới rút ra hai lá bùa, quăng về phía cây gạo.

Một lá bùa đỏ thu lại ngọn lửa Chu Tước, còn một lá bùa vàng làm vật cho hồn phách ma nữ bám lấy.

Cây gạo ma này không đốt đi không được, bằng không trận pháp phong thủy ở nghĩa trang này vĩnh viễn cũng không được sửa lại, nhưng ma nữ này thì chưa thể hồn bay phách tán ở đây được.
Về phần lửa Chu Tước...!của chùa mà, tội gì không giữ lại một ít phòng thân?
Ma nữ thấy cây gạo đã sắp chết, không nghĩ ngợi được nhiều, vội gom hết tàn hồn còn lại gá vào lá bùa của Điền Quý.
Giải quyết xong cây gạo ma, anh chàng bèn trải tấm bùa ra trước mặt, nói:
“Ê, hiện thân mau, đừng quên bùa này tao đốt lúc nào cũng được.”
Con ma nữ bị dọa mất mật, vội vội vàng vàng tụ lại thành hình người nhỏ như ngón cái, đứng trên tấm bùa vàng.

Nó lườm Điền Quý, nói:
“Nhà người là người bắt ma, không chịu mở mắt Âm dương mà nhìn đi?? Ta bị ngươi đánh thành thế này rồi còn bị ép phải hiện hình, chẳng mấy mà hồn bay phách tán mất.”
Điền Quý nhún vai, huơ lá bùa phong ấn lửa Chu Tước trước mặt nó, nạt:
“Nếu đằng nào cũng bay, thôi cho bay luôn?”

“Khoan!!”
“Cát bụi về lại với cát bụi vốn là thiên kinh địa nghĩa, ngươi đừng quá đau buồn...”
“Đừng.

Coi như em van anh.”
Điền Quý trông mặt con ma nữ bỏ túi này như sắp khóc thì bò lăn ra ôm bụng cười nghặt nghẽo.
Ma nữ tuy bị đánh gần chết, lúc này cực kì suy yếu, nhưng ánh mắt nó nhìn Điền Quý vẫn không có vẻ gì là lo lắng cả.

Trái lại, cái nhìn của ma nữ có một chút như chờ mong...
Bất thình lình, anh chàng nhỏm người dậy, trầm giọng:
“Có phải đang cố tình kéo dài thời gian, chờ con thần trùng kia từ cái giếng phía nam bay tới cứu viện, đánh lén tao có phải không?”
“Ngươi...!ngươi...”
Ma nữ không ngờ toan tính của mình đã bị Điền Quý đọc vị, bắt đầu ú ớ không biết nói câu nào.
Trong lúc đánh nhau, cũng có mấy lần anh chàng làm nó á khẩu, nhưng hầu hết là vì hành động gàn dở chẳng giống ai khiến nó cạn lời, chứ không phải như hiện giờ.
Con ma nữ sợ...
Anh chàng cười gằn, đôi mắt lộ vẻ hung ác, nói:
“Thần trùng bắt được hồn phách không hoàn chỉnh, như nuốt phải than.

Chu Tước lại là tứ tượng về hành hỏa.

Nó mà náu mình vào đây thì có khác gì thần kinh rung rinh? Nhà ngươi tưởng chuyện đơn giản này ta không nhìn ra hả? À...!trừ khi con thần trùng này khổ dâm ra.”
“Ngươi đã biết rồi còn bắt ta??”
“Thứ nhất, ta không biết, ta đoán, nên còn cần xác nhận.

Được cái ma nữ như ngươi dế nói chuyện, trong lòng nghĩ gì đều lộ hết ra mặt, chứ không như người nào đó.

Thứ hai, dù sao, hôm nay Điền Quý ta đây làm con săn sắt, tự thả mình ra xem có câu được cá rô không.
Chị nói xem em nói có chuẩn không chị Lan??”
Từ sau một nấm mộ cách đó không xa, chị Lan từ từ bước ra, trên tay còn cầm sẵn cái nỏ, một trong hai con Bối Kiếm Cẩu lon ton chạy bên cạnh.
“Chú Quý thử nói xem.”

“Nói gì bây giờ? Em nên bắt đầu từ việc chị trồng cây gạo, hay từ chuyện hai anh chị ngăn chặn tin tức trình lên cấp trên??”
Điền Quý nhún vai, vừa đứng dậy vừa ngáp.
Chị Lan rút một mũi tên ra, quay tròn giữa hai ngón tay, cười nhạt:
“Cậu phát hiện từ bao giờ??”
“Ài...!Con ma nữ này nó ngơ thì cũng thôi, sao giờ chị Lan cũng suy nghĩ chậm thế?? Em không phát hiện ra, mà chỉ đoán thôi.”
Điền Quý gõ ngón tay vào thái dương, cười nhạt.
“Vậy sao? Bọn chị vẫn cho rằng chuyện này làm không có tí sơ hở nào, vậy mà vẫn bị chú đánh hơi được.

Xem ra chú Quý đúng là không chỉ có hư danh.”
“Không có tí sơ hở? Em xin đấy.

Hai người là hành giả kinh nghiệm, chả nhẽ trấn thủ ở đây lâu như thế mà không phát hiện được trong nghĩa trang này có vấn đề? Còn nữa, thần trùng đúng là con chim, nhưng có con thần trùng nào lại để người dân nhìn thấy nó không? Riêng nói về chim...!chị Lan cũng là tay chơi chim có hạng, nhỉ?”
Điền Quý vừa nói, vừa chắp tay sau đầu, nhởn nhơ đi vòng vòng.
Lúc này, nỏ của chị Lan đã lên dây, con Bối Kiếm Cẩu cũng nghiến răng nghiến lợi chuẩn bị nhảy vào cắn cổ anh chàng, vậy mà Điền Quý vẫn còn nhởn nhơ đi lại như không được.
“Em chỉ không hiểu lý do gì người như hai anh chị lại phản bội.”
Chị Lan cười phá lên, nói:
“Phản bội?? Chồng tao cống hiến cả thanh xuân trừ ma diệt quái, nhưng cái đám bảo thủ chó chết kia đền đáp anh ấy thế nào?? Đúng thế, họ vứt anh ấy sang một xó rồi chẳng thèm ngó ngàng đến nữa.

Chỉ vì mắt chồng tao mù rồi, nên hết chim bẻ ná hết cá bẻ nơm.”
Điền Quý thở dài, nói:
“Thế nên, kẻ đứng sau lưng con thần trùng mới tiếp cận hai người, hứa làm cho mắt anh Hùng sáng trở lại?”
“Mày quan tâm làm gì?? Ai giúp tao thì giúp, chỉ không có lũ hành giả như mày.”
“Vậy là ngoại giao vô tác dụng??”
“Ngoại giao? Ồ.

Mày có hơi lạc quan quá không hả Quý? Mày đánh với cây gạo xong, chắc chắn cả thể lực lẫn tinh thần đều phải có tiêu hao ít nhiều.

Bây giờ tao muốn giết mày thì dễ dàng khác gì giết một con kiến? Mày lấy tư cách đâu để đàm phán với tao?”
Điền Quý nghe ả Lan trở mặt, bỗng cười phá lên, nói:
“Này này, mấy năm không gặp mà chị đây tự tin quá nhỉ? Nhưng chỉ dựa vào một con Bối Kiếm Cẩu mà muốn hạ thằng Quý này thì có phải quá ngây thơ rồi không?”
“Không cần giả vờ giả vịt trước mặt tao.

Thằng nhóc này là khắc tinh của phong thủy thuật, cũng khắc chế mày gắt gao.

Huống hồ, mũi tên và nỏ của tao đề đã bôi thứ gì lên mày không phải không biết.”
“Phân gà đồng và nước tiểu trẻ con, hai thứ này đúng là có công dụng phá phép.”
“Nói đi nói lại thì cũng phải cảm ơn mày rồi.


Cho mày toàn thây, mồ yên mả đẹp, thế đủ để báo đáp rồi chứ?”
Ả Lan nhếch mép, cười gằn.
Điên Quý vẫn thản nhiên như không, từ từ đưa tay phải lên, búng chóc một cái.
Ầm!
Cây nỏ ả Lan đang cầm lập tức nổ tung, khiến đôi tay ả trấn thương, chảy máu ròng ròng.

Vụn gỗ thi nhau cắm vào vết thương hở, lại thêm những thứ bẩn thỉu rắc lên hồi nãy khiến thương thế của ả Lan càng nặng thêm, gần như đã mấ hẳn sức chiến đấu.
“A...!Không thể nào.

Mày giở trò lúc nào được?”
Ả Lan kinh hô, vội vàng kéo đôi tay bê bết máu lùi lại phía sau một bước, để con Bối Kiếm Cẩu đứng chắn giữa ả và Điền Quý.
Anh chàng lập tức giở giọng trêu ngươi:
“Không ngờ phải không? Không ngờ là thằng này lại giở trò được đúng không? Nhưng bằng cách nào nhỉ? Vũ khí của con bé đi cùng thằng em cũng được rắc bột cơ mà? Lạ ghê ta? Chị đoán được không chị Lan?”
“Mày...! Không.

Cái nước bột đó chắc chắn không có vấn đề.

Trừ phi...!Chẳng nhẽ mày lấy nước bột làm mực, vẽ bùa phát nổ lên vũ khí của vợ chồng tao??”
“Chính xác.

Đấy.

Thấy không? Nói chuyện với người thông minh nhẹ não hẳn.”
Điền Quý vừa cười khanh khách, vừa không quên đá đểu con ma nữ cây gạo.
Ả Lan bỗng cười nhạt, nói:
“Chẳng hề gì.

Dù sao nhiệm vụ của tao cũng chỉ là ngăn mày lại.

Này Quý, mày không lo cho con bé đi cùng mày sao? Không nóng vội muốn cứu nó à? Hiện tại chắc nó đã bị chồng tao và thần trùng vây đánh rồi đấy.”
“Cứu? Cứu ai?? Hùng hay con thần trùng?”
Điền Quý nhún vai, đầu lắc như trống bỏi.
Nói đoạn, anh chàng ngồi xổm xuống, vừa nhăn mặt lè lưỡi với con Bối Kiếm Cẩu, vừa nói:
“Thật ra chuyến này hai ta không hẹn mà hợp, thằng Quý này cũng chỉ là nghi binh mà thôi.”

 
Chương 16: 16: Lục Thần Quyết





“Nghi binh? Định nói phét đến lúc nào??”
Ả Lan nghiến răng, hỏi.
Điền Quý đáp:
“Chị Lan hỏi câu này, thằng em đánh giá là giận quá hóa ngu.

Chị không thử nghĩ ngược lại xem, nếu thằng Quý này đã nghi ngờ hai người từ lúc rắc bột, tại sao còn cố tình để cô bạn đi cùng lộ ra sáu loại vũ khí bằng đồng đen?? Giao trứng cho ác à? Chị này, đến cái nước này rồi, chị sẽ không cho rằng thằng em đây là thằng ngu đấy chứ?”
“Không ổn!”
Ả Lan kêu lên, định điều mấy con chim sẻ bay đi báo cho chồng.
Chỉ tiếc là, đám sẻ vẫn rúc đầu vào cánh, ngủ khì trên cành cây như thể không nghe thấy tiếng gọi.
Điền Quý chỏ xuống chân, nói:
“Trận pháp cách âm này bày đơn giản lắm, em làm nhoằng cái là xong ấy mà.”
Quả thật, chỗ anh chàng đang đạp lên, có thể loáng thoáng thấy một vòng tròn ánh sáng nhỏ bằng quả cam.
Ả Lan nghiến răng, hất đầu về phía Điền Quý, huýt sáo ra lệnh cho Bối Kiếm Cẩu.

Con chó nhỏ bỗng lớn bổng lên một vòng, răng chìa ra khỏi mồm, lởm chởm sắc lẹm, lông toàn thân dựng đứng, tua tủa như gai nhím.

Lại thấy trên lưng nó hiện lên đồ văn một thanh kiếm dài, mũi kiếm hướng về đuôi, sáng lên lập lòe trong đêm tối.
Bối Kiếm Cẩu có thể phá tà, nhưng trên đời có câu vật cực tất phản.

Kiếm trên lưng chó có thể chém yêu tà, tự nhiên cũng có thể cắt bỏ thế đất tốt đẹp, phá hoại phong thủy, thậm chí hại ngược cho chủ.

Sở dĩ ở Á Đông không phải ai cũng bày sư tử đá cũng vì duyên cớ tương tự.

Không đủ uy quyền trấn áp được sư tử, tám chín phần sẽ bị nó hại.
Hai vợ chồng Lan – Hùng tất nhiên không đủ uy quyền trấn áp Bối Kiếm Cẩu, nên bình thường cũng không tùy tiện mượn sức nó quá lâu là vậy.
Con chó ngửa cổ tru lên, sau đó tung mình, nhảy xồ vào muốn vồ chết Điền Quý.

Anh chàng lập tức nghiêm túc lại, lấy ra lá bùa ban nãy phong ấn lửa Chu Tước, quăng về phía con chó.

Bối Kiếm Cẩu xồ tới quá nhanh, giữa không trung không thể chuyển hướng, cứ thế bị ngọn lửa Chu Tước nuốt chửng.
Điền Quý phủi áo, nói:
“Này chó con, để anh dạy cho một bài vỡ lòng về ngũ hành nhé.

Kiếm trên lưng chú mày là hành kim, mà hỏa thì khắc cái gì nhỉ?”
Bối Kiếm Cẩu bị lửa Chu Tước vây chặt, không sao thoát nổi, chỉ biết cuộn lại thành một đống, cắn răng chống đổ lửa thiêu.
Anh chàng lại gõ một ngón tay xuống đất, nói:
“Ê.

Anh cho nhóc một lựa chọn.

Hoặc là nhóc đi theo anh, hoặc anh nung chảy kiếm trên lưng nhóc rồi thả đi.

Nhưng anh mày cũng muốn xem xem thằng nhóc như mày mất kiếm rồi, người ta còn để ý tới chú mày không.”
Điền Quý biết Bối Kiếm Cẩu là tướng chó thần, lại được hai người Hùng – Lan huấn luyện, khả năng rất cao là nó hiểu tiếng người.

Nhưng ngặt nỗi, giống chó rất trung thành.

Nếu như Bối Kiếm Cẩu không chịu buông mà nhất quyết nghe lời chủ, đòi giết anh chàng bằng được, Điền Quý cũng chỉ có cách nung chảy kiếm trên lưng nó, cho nó thành con chó thường.
Phượng Ngân vẩy mạnh thanh kiếm đồng đen trên tay, máu nhiễm trên lưỡi kiếm toàn bộ đều bị hất xuống đất.

Trước mặt cô nàng, một con chim to như con cò nằm vật ra trên một nấm mồ, người đầy vết chém, không tài nào nhận ra đâu là máu đâu là màu lông tự nhiên của nó.
Con thần trùng nhếch cái mỏ đỏ lên, nhưng gắng gượng mãi cũng không đào đâu ra sức lực, nên chỉ được một lúc là đầu lại gục xuống.
Phượng Ngân lấy chân đạp lên người nó một cái, cúi đầu nhìn xuống, mặt lạnh như tiền, ánh mắt hàm chứa sát ý áp đảo, đủ khiến người bình thường cứng đờ tại chỗ.
“Có thế thôi à? Còn chiêu gì nữa thì giở nốt ra đây xem nào.”

Cô nàng sẵng giọng, hỏi.

Thanh kiếm đồng trên tay kéo trên mặt đá đến tóe lửa.
Con thần trùng rên lên một cái, nhưng không dám dương dương tự đắc trước mặt Phượng Ngân như hồi chiều hôm trước nữa.
Cô nàng đưa ngón tay, búng lên lưỡi kiếm đồng nghe “tinhhh” một cái, lại lườm con thần trùng, hỏi:
“Ai là người đứng sau lưng ra lệnh cho mày giết cả nhà anh Nam, khôn hồn thì nôn ra đây.

Sự kiên nhẫn của tao có hạn thôi.”
Con thần trùng ngậm chặt mỏ, đôi mắt người với con ngươi đỏ lòm của nó nhìn chằm chằm vào cô nàng với vẻ oán độc và không cam lòng.
Phượng Ngân thấy con thần trùng có vẻ không phục, bèn nhíu mày, nói:
“Sao?? Muốn đánh thêm lần nữa không?”
Con thần trùng rốt cuộc cũng không nhịn được nữa, sẵng giọng quát:
“Mẹ kiếp, hôm nay là cái ngày quái gì mà xui thế, gặp phải đúng thứ khắc tinh nhà mày!”
Phượng Ngân thản nhiên đáp:
“Ở đời này một vật trị một vật, cái gì cũng có khắc tinh của nó, loại như mày đâu phải ngoại lệ? Mày thua rồi, giờ khai ra không hay để tao từ từ tra khảo?”
Con thần trùng hứ một cái, rồi không thèm nói thêm chữ nào nữa.
Thấy nó nhất quyết không hé răng, bèn lấy ra một lá bùa Điền Quý đưa cho hồi nãy, dán lên trán con chim.

Con chim quỷ không kịp kêu tiếng nào, đã hóa thành một làn khói rồi bị hút vào trong lá bùa.

Tấm bùa lúc trước còn trống rỗng bỗng hiện ra hình một con chim mỏ đỏ, mặt người, mặc một cái váy xòe, đội mũ bảo hiểm và đi giày cao gót,
“Tiên sư thằng khốn nạn nào làm cái bùa chết tiệt này?!”
Tiếng thét đầy oán hận của con thần trùng văng vẳng vọng ra từ lá bùa.
Phượng Ngân thở ra một hơi, cất lá bùa phong ấn con thần trùng lại vào túi.
Trận đánh này dễ hơn cô nàng tưởng nhiều...
Còn nhớ, Điền Quý từng nói, hai điểm đáng sợ nhất của thần trùng là mắt âm dương không nhìn thấy nó và thuật bắt hồn của nó.


Cái trước thì Phượng Ngân đã ăn bánh trôi ở đền Con Mắt, coi như bỏ qua.

Nhưng điều khiến cô nàng thấy khó hiểu là tại sao con thần trùng không dám dùng thuật bắt hồn với mình.
Hay nói đúng hơn, nó vừa dùng thuật bắt hồn với Phượng Ngân là đã kinh hồn táng đảm, chả còn tâm trí đâu mà chiến đấu nữa.
Phượng Ngân ngó thanh kiếm đồng, tự hỏi:
“Lẽ nào liên quan đến Lục Thần quyết của nhà mình??”
Nhà họ Trịnh là dân võ nhiều đời, trong dòng họ có một bộ bí pháp chỉ truyền cho con cháu dòng chính, tuyệt nhiên không truyền cho người ngoài, gọi là Lục Thần quyết.
Cái gọi là lục thần, thực ra không nổi tiếng như tứ tượng, hay ngũ hành, nhưng trong một vài trường phái phong thủy địa lý, bấm độn kinh dịch mà nói thì ba khái niệm này liên quan mật thiết đến nhau.
Lục thần gồm: tứ tượng, Đằng Xà, Câu Trần; lần lượt ứng với ngũ hành mộc, kim, hỏa, thủy, thổ.

Một hành thổ khuyết thiếu trong tứ tượng được gán cho hai thần Đằng Xà, Câu Trần.

Lục Thần quyết của nhà họ Trịnh lấy sáu mạch khí ở tay làm căn bản, mỗi mạch luyện theo một thần, vừa vặn tương ứng với sáu loại binh khí đồng đen của Phượng Ngân mang theo.
Dựa vào môn công phu này, cô nàng tin tưởng dù có phải đánh một trận với vua của loài ma rừng thì mình cũng không thể thua được.

Thế nhưng, nếu nói liệu Lục Thần quyết có công dụng khắc chế thuật câu hồn của thần trùng hay không, và nếu có thì nguyên lý ra sao, thì cô nàng không hiểu cho lắm.
“Có lẽ nếu chị mà còn, chị sẽ giải thích cho mình ngay.”
Phượng Ngân vừa nghĩ đến đây, vô thức thò tay vào túi, lấy ra một xâu chìa khóa.

Móc khóa là một con phượng hoàng Á Đông nhồi bông, thêu theo kiểu hoạt hình, mắt to chân ngắn, béo ục béo ịch.
Ký ức về cái móc khóa vẫn còn mới nguyên trong hồi tưởng của cô nàng, như thể mọi chuyện chỉ vừa xảy ra vào hôm qua vậy.
Phượng Ngân lắc đầu, tự ép mình nghĩ sang chuyện khác:
“Nhắc mới nhớ, mình mang chùm chìa khóa duy nhất mở được tủ bàn thờ đi thế này, ông già ở nhà chắc tức đến nỗi mồm phun lửa, tai xì khói mất.”
Chẳng là, trước buổi đính ước mấy hôm, cái chìa khóa dùng để mở tủ ban thờ đã bị gãy mất.

Ông Mạnh đã mời anh thợ khóa trong làng đến nhà sau buổi âm hôn để đánh thêm một bộ chìa sơ cua.

Thế nhưng, lúc bỏ trốn, vì không muốn bỏ lại di vật duy nhất của chị gái nên Phượng Ngân cuỗm cả chùm chìa khóa theo.
Cô nàng ngẩng lên bầu trời, đổi kiếm sang tay trái, chĩa vào vầng trăng, nói:
“Đêm cũng muộn rồi, có vài chuyện nên giải quyết cho xong đi.”

Vừa dứt lời, lưỡi kiếm rụt vào, chuôi kiếm mở ra, nháy mắt chuyển thành một cái quyền sáo đen kịt, trang trí họa tiết mai rùa, che kín từ đầu ngón tay cho đến tận khuỷu tay.

Cô nàng giơ quyền sáo lên chắn trước người, các đường vân mai rùa bắt đầu phát sáng.
Không khí phía trước Phượng Ngân bắt đầu gợn sóng, như một mặt hồ đang đón lấy những giọt mưa đầu tiên.

Sáu viên đạn bắn lén từ chỗ tối dễ dàng bị khóa lại trong không trung, không tài nào tiến thêm nổi dù là một phân.

Đạn bay hết đà, cũng không rơi xuống mà tiếp tục lơ lửng trong không khí.

Nhìn từ xa, những tưởng thời gian chỗ đó đã đông cứng lại.

Phượng Ngân hất tay một cái, mấy viên đạn lập tức quay ngược đầu lại, lao về phía chúng được bắn ra, tốc độ và uy lực còn hơn bắn ra bằng súng mấy phần.
Một tiếng chó tru cất lên, sáu viên đạn đánh vào người của con Bối Kiếm Cẩu đều vỡ tan tành cả.
Hùng từ từ bước ra từ phía sau con chó, súng lăm lăm ở tay, nói:
“Xem ra lần này tính sai rồi.”
“Không ngờ con thần trùng thua nhanh như thế?”
“Không sai.

Đánh giá cô em quá thấp đúng là sai lầm của vợ chồng tao.”
Phượng Ngân gật đầu, không phản đối.
Cô nàng cũng biết, nếu ban nãy mình đánh nhau mà bị Hùng và con Bối Kiếm Cẩu quấy rầy thì chưa chắc con thần trùng đã bị bắt dễ dàng đến thế.

Sở dĩ, đối phương không vội xuất hiện ngay vì sợ bị lộ tẩy, lại không tin con chim quỷ với thuật bắt hồn lại thua chóng vánh đến vậy, thế nên mới đến muộn đó thôi.
“Vậy sao??”
Hùng nhếch mép, đoạn vỗ đầu con chó một cái, ra vẻ tự hào lắm.
“Muốn nói gì thì nói thẳng đi, vòng vo tam quốc làm gì?”
“Chúng ta đánh cược một ván nhé?”
“Cược gì?”
Tay Hùng cười lạnh:
“Nếu tao nói mày sẽ phải thả con thần trùng ra thì mày có tin không?”

 
Chương 17: 17: Oai Như Cóc Cụ





“Ăn nói luyên thuyên.”
Phượng Ngân nói.
“Vậy sao?”
Hùng bỗng cười phá lên, bàn tay vỗ vào đầu con Bối Kiếm Cẩu một cái, đoạn nói:
“Có thể mày không biết, thằng nhóc con này chuyên phá trận pháp, phong thủy đấy.

Mày thử đoán xem một tay thầy địa lí như thằng Quý, thể lực không hơn người thường bao nhiêu sẽ chống đỡ được bao lâu trước khi bị cắn chết??”
“Nhà ngươi muốn trao đổi tù binh?”
Phượng Ngân hơi nhíu mày.
Cô nàng mới quen Điền Quý được ít bữa, thành ra cũng không biết thực lực của anh chàng được đến mức nào.

Hà huống, nếu những gì gã Hùng nói là thật, thì Bối Kiếm Cẩu còn chuyên trị khắc chế Điền Quý.
Nghĩ vậy, đâm ra cô nàng cũng hơi chột dạ.
Phượng Ngân cắn răng, phóng người lao về phía Hùng, vung tay tống ra một đấm, Lúc này cô nàng không nghĩ được quá nhiều, chỉ biết phải bắt cho kỳ được gã mù này làm con tin, có thế mới không bị động.
Con Bối Kiếm Cẩu tất nhiên không trơ mắt đứng nhìn chủ bị đánh.

Nó vội vàng chạy tới, vòng sang một bên, há mồm định cắn vào bắp vai của Phượng Ngân.

Cô nàng bèn mở nắm đấm ra, vỗ một cái vào mạng sườn con chó đánh bốp một cái.
Con Bối Kiếm Cẩu bị đẩy văng đi, tấm thân cứng như sắt đụng nát mấy ngôi mộ bê tông liền.

Con chó đứng dậy, lắc mình cho bụi rơi hết khỏi bộ lông, rồi lại nhe nanh muốn xồ vào đánh tiếp với đối thủ.

Phượng Ngân vẩy cánh tay một cái cho đỡ tê, gần như líu lưỡi vì con chó này.
Ban nãy có đeo quyền sáo, đánh một đòn vào lưng nó mà còn như vỗ vào tảng đá, người tay trần thì có khi gãy xương, bàn tay cũng bị đám lông cứng như sắt của nó đâm thủng.
Hùng nhảy lui ra sao, giương súng lên nã đạn về phía Phượng Ngân.
Cô nàng lại dùng quyền sáo, dựng màn chắn giữ chặt mấy viên đạn do gã mù bắn tới.

Con Bối Kiếm Cẩu thấy cô nàng đứng sơ hở, bèn chạy hùng hục tới, muốn tranh thủ tấn công.


Phượng Ngân quăng đống đạn tóm được của Hùng về phía con chó, đoạn nhanh chóng bước lùi lại.
“Cô em, sao bỗng dưng lại gấp thế? Lo cho thằng Quý đúng không? Tưởng thằng Hùng này không biết à?”
Hùng vừa nạp đạn, vừa cười.
Phượng Ngân hít sâu một hơi, lại nói:
“Tưởng mỗi mình mày đánh được từ xa à?”
Cô nàng giơ thẳng quyền sáo ra trước, lần này nó lại xếp thành một cây cung phức, chỉ là không có dây cung.

Phượng Ngân cầm cung bằng tay trái, ngón tay cái giơ thẳng ra trước.

Tư thế này mà để bất kỳ ai học một khóa bắn cung cơ bản nhìn thấy, đảm bảo có người chửi đến méo miệng, song chỉ có cô nàng hiểu, muốn bắn được cây cung không dây này thì phải làm thế mới được.
Phượng Ngân tập trung khí vào mạch ở tay trái, dồn vào huyệt Thiếu Thương ở đầu ngón cái tay trái.

Cung đen rung lên một cái, lập tức một ngọn lửa phụt ra từ hư vô, không tản mà quyện thành một mũi tên đỏ rực.
Cô nàng vừa nghĩ một cái, mũi tên bằng lửa đã phóng ra, hóa thành một vệt sáng đỏ xẹt qua không khí, tốc độ nhanh còn hơn cả đạn bắn.
Con Bối Kiếm Cẩu tru lên, vội vàng nhảy ra, chắn trước mặt chủ.

Mũi tên lửa đốt trụi một đám lông, đâm xuyên qua lưng nó.

Lửa ăn vào vết thương, cháy lên phừng phừng.

Có thể nghe được cả tiếng máu thịt kêu xèo xèo.
Con chó rên lên một hồi, đoạn đổ gục xuống.
Phượng Ngân vung cây cung, dập tắt lửa trong vết thương của nó, chặc lưỡi.
Con vật trung thành như thế, dám vì chủ hứng một đòn khắc chế mình, xứng đáng nhận được sự tôn trọng của người khác.

Chỉ tiếc hiện giờ hai bên ở hai đầu chiến tuyến, nó lại muốn giết người, Phượng Ngân cũng không thể đứng yên được.

Để tên Hùng dây dưa lâu, đến khi Điền Quý bị bắt thì bị động vô cùng.

Cô nàng giương cung, mũi tên lửa lại lần nữa xuất hiện.
Ánh mắt Phượng Ngân quắc lên, nhìn chòng chọc vào Hùng không bỏ qua bất cứ một cử động nào dù là nhỏ nhất.

Cô nàng lạnh giọng:
“Đầu hàng? Hay muốn nếm thử một mũi?”
“Mũi tên đến Bối Kiếm Cẩu còn không chống nổi, sao thằng Hùng này chịu được?”
Hùng thở dài, làm như muốn bỏ súng xuống hàng.
Bùm!!
Khẩu súng bỗng phát nổ.
Hùng ngã bịch ra đất, bàn tay chới với đưa về phía một ngôi mộ xây theo hình ngôi đình.
Lúc hắn còn đang ngơ ngác không biết ai ra tay, thì trên đầu đã vang lên tiếng cười khanh khách của Điền Quý:
“Ê, ngạc nhiên chưa??”
Phượng Ngân nhìn sang, phát hiện anh chàng đang ngồi vắt vẻo trên nóc ngôi mộ hình cái đình, Ả Lan bị trói bằng dây tẩm máu gà đồng, hai bàn tay bị thương nặng, đang dùng hai cánh tay đỡ lấy con Bối Kiếm Cẩu nay đã hiện nguyên hình là con cún con.
“Anh / Mày thắng?”
Cả Hùng và Phượng Ngân đều không tài nào tin nổi vào điều đang xảy ra.
Điền Quý nhảy xuống khỏi ngôi mộ, nói:
“Khinh thường nhau đến thế cơ à?”
Phượng Ngân thở phào, rút lại cây cung thành thỏi son, nói:
“Không lo sao được? Nghe đâu Bối Kiếm Cẩu là khắc tinh của anh.”
“Nước trị được lửa, cơ mà lửa đủ mạnh thì làm bốc hơi nước đó thôi?? Dăm ba con chó này dọa được mấy thằng tay mơ, chứ tuổi gì đòi khắc chế thằng Quý này?”
Cả Hùng và Phượng Ngân đều bỏ ngoài tai câu tự sướng và giọng cười hô hố của Điền Quý.
Anh chàng tung dây máu gà, trói nghiến cả con Bối Kiếm Cẩu còn lại và gã Hùng lại.

Nói đoạn, anh chàng đá vào ngôi mộ hình cái đình, nói:
“Kinh thật đấy, lại còn học cả thuật nuôi xác của người Tàu.

May mà tôi đến kịp.”
Phượng Ngân cũng tò mò, chạy đến xem thử, bấy giờ mới phát hiện bên thành mộ có thò ra một cái lỗ tròn, to cỡ đầu ngón tay.


Điền Quý bảo:
“Góc dưới chân mộ này có cơ quan, đá vào sẽ làm lộ ổ khóa.

Còn cái chìa...”
“Là nòng súng của Hùng.”
Phượng Ngân hoàn thành câu nói của anh chàng.
Té ra, ban nãy Hùng giả vờ buông súng, nhưng mục đích thật sự là tra khẩu súng vào mộ mở cửa cho cái thây bên dưới, thả ra đánh Phượng Ngân.
Điền Quý nói:
“Cứ nhìn thi khí bốc lên thì cái thây này cũng thành cương thi được một thời gian rồi.

Chà chà, anh này cũng kinh đấy.”
“Cương thi thôi, tôi giải quyết được.”
Phượng Ngân nói, vẻ tự tin.
“Đương nhiên một hai con thì cô giải quyết được, nhưng hai mươi tám con cương thi lập thành thế trận thì sao?”
Điền Quý vừa ngáp, vừa hỏi.
Kỳ thực, từ lúc Hùng chỉ cho xem, anh chàng đã phát hiện hai mươi tám chỗ chôn bùa đều có vấn đề cả.
Ngoài mặt, thì dùng bùa để trấn áp âm khí, nhưng âm khí dồn lâu cũng phải có chỗ xả, chứ làm sau cứ nén mãi lại được? Hùng ngụy trang bằng mấy cây tre ngà, ai không biết còn tưởng âm khí thoát ra từ đường đó.

Thế nhưng, tre ngà mà hút âm khí lâu ngày ắt có chỗ quái dị, không thể tươi tốt như mấy cây tre trồng ở nghĩa trang được.
Điền Quý búng tay đánh chóc một cái, tức thì từ bốn phương tám hướng, có một đàn chuột đông hàng trăm con thi nhau chạy lại, vây quanh mọi người, vừa vuốt râu vừa chải lông.

Sau đó, một con chuột đầu đàn mình mặc áo trấn thủ, đầu đội mũ cối lóc cóc chạy ra, giơ cái que bé tẹo lên, nói tiếng người:
“Báo cáo...!đã xử đẹp hết mấy sợi dây dẫn âm!”
“Vất vả cho mọi người.

Ngày mai đến địa chỉ này lấy gạo nhé.”
Điền Quý nói địa chỉ nhà trọ Hương Rừng cho bọn chuột, con đầu đàn bèn đưa lên một sợi dây màu đen đã bị cắn đứt lìa, rồi kéo cả đàn chạy mất.
Anh chàng giơ nửa đoạn dây lên, cắt đôi, từ vết cắt có chất lỏng đỏ lòm như máu rỉ ra.
Phượng Ngân thấy đoạn dây không phải bông không phải lụa, mà lại như có vân gỗ, bèn hiếu kì:
“Đây là cái gì?”
“Dây dẫn âm.

Người ta lấy rễ của một cây si thành tinh đập dập, bện lại thành sợi rồi phơi khô.


Dây dẫn âm này có thể hút âm khí, chuyển từ nơi này sang chỗ khác.

Dưới mặt đất ở mấy chỗ chôn bùa đều có cái dây này, dẫn khí âm hút được vào nuôi xác cho biến thành cương thi.”
Điền Quý nhún vai.
Đúng lúc này, Hùng cười phá lên, nói:
“Khà khà.

Quý ơi là Quý, mày khôn quá hóa dại rồi.”
Điền Quý à một cái, nhìn về phía Phượng Ngân, cười:
“À, tớ quên bẵng đi mất không nhắc đằng ấy.

Dây âm bị cắt, khí âm đoạn tuyệt thì chẳng khác nào cắt đường ống dinh dưỡng của người bệnh.

Mấy cái xác nếu đã thành cương thi, thể nào cũng cảm nhận được, sẽ đội mồ dậy hàng loạt vì bị chọc tức đấy.”
“Cái...!chuyện tày trời thế này mà anh cứ bình chân như vại thế?”
“Khà khà, muộn rồi.”
Hùng cười gằn.
“Mấy con cương thi này đều do vợ chồng chúng nó chọn kỹ càng, lúc còn sống oán khí rất nặng, khó chơi lắm đấy.”
Điền Quý vẫn tiếp tục bô bô, mặt tỉnh bơ.
Lúc này, ngôi mộ hình cái đình gần hai người bắt đầu rung lên bần bật, dưới đất truyền ra tiếng gầm gừ, cào cấu vào gỗ nghe rất hãi người.
Phượng Ngân cắn răng, mở thỏi soi rút cây cung đen ra, bảo:
“Lát nữa tôi đánh lăn xả, anh bày trận hỗ trợ.”
Điền Quý “hả” một tiếng, ra chiều bất ngờ lắm.

Anh chàng ngừng một chốc, chờ hai vợ chồng Hùng – Lan lộ rõ vẻ đắc ý, anh này mới nói:
“Cần gì phải đánh?? Mình có gọi dịch vụ chùi đít tận nhà mà? Ê ông gì ơi, chúng nó sắp đánh bọn tôi lòi ruột ra đây này, mau ra giải quyết đi.”
Chẳng rõ từ đâu, một đồng tiền vàng bay vút lại, đánh vào đầu Điền Quý đánh bốp một cái.
Sau đó, một con cóc to bằng bàn tay, mặc một bộ áo dài nam màu xanh lục nhảy phốc lên ngôi mộ, tay cầm một đồng tiền chinh bằng vàng ròng.

Con cóc nhướn mắt nhìn Điền Quý, quát:
“Tao đến giám sát mày, không phải đi làm bảo mẫu, hiểu cho rõ đi thằng mất nết?”

 
Chương 18: 18: Ám Khí Vô Địch





Điền Quý cười, bảo:
“Giám sát với bảo mẫu khác gì nhau?? Bây giờ tôi đi gây họa, tự tìm cái chết, không tin ông không cứu.”
“Hết nói nổi nhà ngươi.”
Con cóc thở dài, đoạn chân đạp một cái lên quan tài hình cái đình, nói:
“Rung chán chưa? Yên lặng!”
Ngôi mộ lập tức im lìm, những tiếng gầm gừ, cào xé vào gỗ cũng im bặt cả lại.
Con cóc lại ngó hai vợ chồng Hùng – Lan, quắc mắt:
“Giỏi.

Giỏi lắm.

Lập được chút công lao mà đã tưởng thích làm gì thì làm đúng không??”
Lan cắn răng, nói:
“Chuyện hôm nay vợ chồng con chịu cả, nhưng xin cụ tha cho hai con chó.”
“Bối Kiếm Cẩu ngu trung, tiếp tay cho chúng mày làm điều xằng bậy, tha là tha thế nào?”
Ông cóc vừa nói, vừa tung đồng tiền lên.

Đồng tiền vàng đón gió hóa to, chớp mắt đã rộng bằng cả gian phòng, ánh vàng rọi ra bốn phía lóa cả mắt.

Vợ chồng Lan – Hùng và đôi chó muốn chạy, nhưng ánh sáng vàng khóa cứng toàn thân, muốn nhích lông mày cũng khó chứ đừng nói là đi lại.

Lão cóc gạt tay xuống một cái, đồng tiền khổng lồ áp xuống đầu hai người, hai chó.
Bành.
Vợ chồng Lan và hai con Bối Kiếm Cẩu bị bắt gọn vào lỗ chinh ở giữa đồng tiền.

Lão cóc chắp hai chân trước, lầm bầm đọc một câu chú, đoạn quát một cái.

Hai người hai chó lập tức bị ánh sáng vàng bao phủ, rồi bỗng nghe một tiếng như thủy tinh vỡ, ánh sáng ở giữa đồng tiền tan thành vô vàn điểm sáng, bay lên trời đêm như một bầy đom đóm.

Nhìn lại, thì hai vợ chồng và cặp chó đều đã không còn tăm hơi đâu nữa.
Điền Quý giơ ngón cái, nói:
“Có cụ cóc ở đây dẫn người vào tù nó dễ hơn hẳn.”
“Tù?? Có cái con khỉ.

Chúng nó gây chuyện lớn như vậy, tao đày ra đảo rồi.


Sống sót được không thì phải tùy vào vợ chồng nó, dù sao dân cái đảo đấy cũng chả lương thiện gì.”
Lão cóc thu đồng tiền vàng nhỏ lại, bay về tay, lại lấy vạt áo lau đi lau lại mãi.
Sau đó, lão mới lườm Điền Quý một cái, bảo:
“Còn mày thì cứ cẩn thận, không thì lần sau ngay cả mày tao cũng đá ra đảo chơi với quỷ.”
“Vậy à?? Lão chắc là lão muốn ỷ già đánh trẻ không??”
Điền Quý cười hềnh hệch, nói với vẻ thách thức.
“Sao lại...”
Lão cóc đang định nói cứng, bỗng dưng sống lưng phát lạnh, bèn ho hắng một tiếng, vội vàng đổi giọng:
“Em nói đùa thế, chứ mấy lão già sống mấy trăm năm như mình ai lại đi bắt nạt lũ trẻ, bác nhỉ?”
Bấy giờ áp lực vô hình mới biến mất.
Lão cóc túa mồ hôi hột, nuốt nước bọt đánh “ực” một cái.
Nói đoạn, tránh để hai người Phượng Ngân, Điền Quý để ý đến vẻ thất thố vừa rồi, lão bèn đổi chủ đè:
“Đám cương thi sắp đội mồ rồi, chúng mày tìm một chỗ cố thủ, tao sẽ hỗ trợ.”
“Hay là bác đánh chính, hai bọn con đứng cổ vũ là được rồi.”
Điền Quý nói.
“Mơ đi.

Tao là ai mà hạ mình đánh mấy con cương thi này?”
Lão cóc khoanh tay trước ngực, đầu quay ngoắt sang hướng khác, ra vẻ ta đây thanh cao.
Phượng Ngân thấy thế, bèn nói:
“Thôi được rồi, đánh thêm một trận coi như là luyện tay.”
Bấy giờ Điền Quý mới thôi trêu tức lão cóc.
Anh chàng lấy chai máu gà, chấm một lá bùa ra vẽ vòng tròn chung quanh mọi người, lấy cái giếng làm trung tâm.

Kế, Điền Quý lại lôi mấy túi bột phân gà còn thừa ra, rắc theo vết máu dưới đất.

Làm xong xuôi đâu đấy, anh chàng mới lấy ra hai cái bát tô.

Một bát là gạo nếp, một bát đựng mực tàu, đặt so le nhau.

Lão cóc ngồi chồm hỗm trên miệng giếng, gật gù, nói:
“Lấy Huyền Vũ làm mắt trận, thủ vững như bàn thạch, không tệ.”
Phượng Ngân không hiểu những thủ thuật rườm rà này, nên chẳng giúp gì được.


Cô nàng bèn lấy cung đen ra, chuẩn bị bắn hạ được con nào thì bắn.
Lão cóc thấy cây cung, hô lên:
“Ố! Chu Tước cung.

Cô nàng này cũng không đơn giản nghen.”
“Ông biết lai lịch của thứ này?”
Phượng Ngân kinh ngạc, hỏi.
Vật này cô nàng trộm trong nhà thờ họ đem đi, đến nay vẫn chưa tìm hiểu được hết công dụng của sáu loại binh khí, cũng như lai lịch của món đồ cổ quái này.

Phượng Ngân từng nghe mẹ kể, rằng hồi còn sinh tiền, chị gái cô nàng cũng từng dùng vật này phòng thân, nhưng gạn hỏi mãi bà cũng không trả lời thêm nữa.

Lần này ra khỏi nhà, còn thiếu một món binh khí cầm tay, nên Phượng Ngân lấy đi luôn.
Lão cóc nhếch mép:
“Đâu chỉ lão biết? Thằng Quý cũng biết.

Huyền Vũ Quyền Sáo, Bạch Hổ Kiếm, Thanh Long Thương, Chu Tước Cung, Câu Trần Đao, Đằng Xà Tiên, hợp lại gọi là Lục Chuyển.
Trong giới hành giả có một bảng gọi là Thần Binh Phổ, xếp hạng bảo vật của hai cõi âm dương.

Lục Chuyển của nhóc đứng thứ sáu, còn cao hơn Lưu Kim của lão đến ba bậc.”
“Ý lão là đồng tiền ban nãy??”
“Đúng vậy.

Tiền này tên Lưu Kim, nếu cô từng nghe sự tích tiền lì xì, chắc hẳn biết việc bảy vị tiên hóa thành tiền vàng để đuổi con Quỳ.

Bảy đồng tiền vàng đấy sau này được nung chảy ra, dồn thành một, chính là món Lưu Kim này đây.”
(Chú thích: Trong sự tích tiền lì xì, cũng như quan niệm dân gian, có tám đồng tiền tương ứng với bát tiên, tuy nhiên, có sự thay đổi nhỏ do là thế giới song song.)
Hai người nói chuyện một lát, Điền Quý bận bịu bày trận.

Đến khoảng bốn giờ sáng, thì có tiếng nổ ầm ầm, hai mươi bảy ngôi mộ bê tông bị đập tan tành thành muôn mảnh.

Những cái thây người ở dưới huyệt lừ lừ đứng dậy, mồm thở ra khí xanh, mười móng tay có móng vuốt dài đến ba mươi phân, sắc như dao cạo.
Điền Quý hô lên:
“Ôi chà, hóa ra không phải cương thi, mà là thi binh.”

“Có gì khác nhau??”
“Cương thi tức là xác cứng, tay chân đơ như gỗ, tuy thân thể rắn chắc nhưng động tác lại đơn điệu.

Còn thi binh là tà thuật phát triển từ thuật nuôi xác, kết hợp với phép phù thủy nước ta mà thành.

Chẳng những lấy âm khí dưỡng thi, còn dùng máu gà trống, chó mực để ôn dưỡng tay chân cho mấy cái xác.
Âm dương cân bằng, thế nên thi binh hành động không khác gì người sống, lại càng không ngại gì những vật mang dương khí.

Điểm yếu duy nhất là không tu luyện mạnh lên từ từ như cương thi được, nhưng lúc mới hình thành thì đáng sợ hơn nhiều.”
“Nôm na thì thi binh là biện pháp ăn xổi?”
“Đại loại thế.”
Phượng Ngân còn chưa tin lắm, rút cung Chu Tước ra bắn một mũi tên lửa vào một con thi binh gần nhất.

Chỉ nghe ầm một cái, thi binh rú lên đau đớn, nhưng cơ thể hầu như không hư hao gì.

Mũi tên của Chu Tước Cung chỉ chọc cho nó điên tiết lên hơn mà thôi.
Đám thi binh này không có ai cầm đầu, thành thử cứ loạng choạng chẳng biết phải làm gì, cũng chưa tấn công bọn người Điền Quý.

Đột nhiên, cả đám ngửa cổ lên trời, rú lên một tiếng.

Khí xanh từ miệng chúng thoát ra, tụ lại thành một khối, lơ lững giữa không trung.

Nói đoạn, một con thi binh ngoạc mồm ra, hút sạch cả đám thi khí đấy vào bụng.

Những con khác bèn hơi cúi đầu, quỳ một gối, thần phục con thi binh này.
Thi binh giật mũi, ngửi ra hơi người sống, bèn hò nhau chạy đến chỗ Điền Quý và Phượng Ngân đang đứng.

Bọn này đứa thì chạy hai chân, đừa thì phóng bằng bốn chân.

Bọn chúng nhảy lên cây, nhảy lên mộ cứ thoăn thoắt như một bầy sói hoang.

Ánh mắt hau háu của đám thi binh nhìn xoáy vào ba người bọn họ, không khác gì mèo thấy mỡ.
Phượng Ngân đạp lên thành giếng, lấy Chu Tước cung, phóng liên tiếp mấy mũi tên lửa.

Lần này cô nàng đã rút kinh nghiệm, những mũi tên được tạo thành dài hơn, bén nhọn hơn.

Lửa cũng từ đỏ, chuyển dần sang màu xanh ngọc bích.
Lửa không thuộc cõi người có dăm bảy loại, đều có chia đẳng cấp cao thấp khác biệt.

Lửa màu xanh mắt mèo này gọi là Minh Hỏa, nhưng thường người ta gọi tránh đi thành Ngọc Hỏa cho đỡ phải nhắc đến chốn cửu tuyền vì màu xanh biếc như phỉ thúy, lục bảo.


Có câu vật cực tất phản, khi dương đến cùng cực rồi, sẽ chuyẻn hóa thành cực âm.

Minh Hỏa này cũng thế.

Lửa này là lửa dưới địa phủ, lạnh như gió âm thổi vào xương.
Phượng Ngân để tên bay vút đi, ba mũi tên bằng Ngọc Hỏa nhẹ nhàng đâm thủng trán bọn thi binh, thiêu chúng thành tro cặn ngay tại chỗ.

Con đầu đàn thấy lửa này lợi hại, bèn hú lên ra lệnh.

Bọn xác sống nghe lời, bắt đầu chạy chéo ngang, luồn trên cúi dưới liên tục, không chạy thẳng tắp như trước nữa.
Bọn này chạy đã nhanh, phản xạ lại nhạy, bây giờ chúng cẩn thận chạy theo lộ trình phức tạp như vậy, muốn bắn trúng bọn này càng khó hơn.
Phượng Ngân chặc lưỡi, hạ cây cung xuống.
Sức cô nàng có hạn, mà muốn tụ được Minh Hỏa thì cần rất nhiều linh lực.

Cứ như Phượng Ngân ước tính thì nhiều nhất cô nàng chỉ còn mười phát bắn, trượt một mũi thôi cũng đủ là sai lầm chết người rồi.
Chính cái lúc cô nàng còn đang lo sốt vó, thì bỗng dưng Điền Quý quay sang, cười:
“Ê.

Cô có biết món báu vật đệ nhất của Thần Binh Phổ là cái gì không?”
“Dễ ợt, là kiếm Thuận Thiên chứ còn gì nữa.”
Lão cóc nói xen vào, vẻ hào hứng.
Nhưng anh chàng lại lắc đầu, nói:
“Kiếm Thuận Thiên thì cũng kinh đấy, nhưng giờ chỉ còn là hạng hai thôi.”
“Không thể nào!! Thần Binh phổ thay đổi từ bao giờ, sao tao không hay??”
Lão cóc đứng bật dậy, nói.
“Vừa mới đây thôi.

Con nghe nói là bị thay thế bởi một món ám khí đệ nhất thiên hạ.”
“Ám khí?? Ám khí gì?”
“Phi Thiên Thiềm Thừ.”
Điền Quý vừa dứt lời, tay đã tóm được chân của lão cóc.

Trước sự kinh ngạc của Phượng Ngân và lão ta, anh chàng dồn hết sức bình sinh, ném lão cóc về phía con đầu đàn của bọn thi binh như cách người ta quăng quả lựu đạn sắp nổ.
“Trăm sự nhờ bác nhé!!! Cố lên bác.

Bọn cháu luôn sát cánh bên bác về mặt tinh thần.”
Điền Quý vừa gọi với theo, vừa dõi mắt nhìn con cóc nhỏ văng vào giữa đám thi binh.
“Thằng mất dạyyyyyyy!”
Cụ cóc kêu la inh ỏi, vang khắp cả nghĩa địa.

 
Chương 19: 19: Cóc Đánh Thi





Lão cóc bị quăng vào giữa đám thi binh, mồm thì bận chửi Điền Quý báng bổ mất nết, nhưng thân thì chẳng ngồi yên.

Lão chuyển mình lấy lại thăng bằng, tiền Lưu Kim phóng ra ngoài, xoay tròn tít mù như một lưỡi cưa.

Ánh vàng phóng ra lóa mắt, đồng tiền lia đến đâu, tiện đứt cả bê tông, cắt đôi cả cây cối.

Đám thi binh thân xác cứng chắc vô tỉ là thế, bị Lưu Kim chém qua người cũng phải đứt làm đôi, máu đen ngòm đổ ra đầy đất.
Đám thi binh biết cóc đáng sợ, vội vàng hò nhau vào bắt.

Thế nhưng lão cóc như quả bóng có ý thức, cực kì linh hoạt, cứ nhảy trên đầu, trên vuốt của đám xác mà chúng chẳng tài nào động vào nổi chéo áo lão.

Tay lão cũng không chịu yên lúc nào, liên tục điều khiển Lưu Kim chém ngang cắt dọc.
“Mạnh thật!”
Phượng Ngân kinh hô.
Còn nhớ ban nãy, cô nàng phải giở cả Ngọc Hỏa ra mới giết nổi bọn thi binh, cực kì hao tâm phí sức.

Lão cóc thì lại thong dong nhẹ nhàng, chém những xác ma này như chặt chuối vậy.
Mà Lưu Kim thậm chí còn xếp dưới Lục Chuyển trong tay cô nàng trong Thần Binh Phổ.
Điền Quý cười, nói:
“Tất nhiên phải mạnh rồi, lão này là thú thần mà.”
“Thú thần??”
“Nhà cô không buôn bán, chắc không bày tượng lão này.

Biết tượng con cóc ngậm đồng tiền không?? Tổ tiên của lão này chứ ai.”
“Nhưng Thiềm Thừ chẳng phải chỉ có ba chân thôi sao??”
“Lão này có một chân giả.”
Điền Quý ngó ngang liếc dọc một chốc, rồi mới hạ giọng rỉ tai:
“Thực ra với tiền Lưu Kim, lão này ngồi một chỗ đánh nhau cũng được, một hay hai chân thực ra chẳng ảnh hưởng gì đến sức mạnh của lão ấy cả.

Chẳng qua là lão ấy thích có cả hai chân để diện mấy đôi giày lão ấy mua được thôi.


Lão già này mấy trăm tuổi đầu rồi, nhưng thích làm đỏm lắm.

Giày lão ấy sưu tập có mấy đôi của vua chúa phong kiến cơ.”
“Còn gì nữa??”
“Từ từ.

Còn chưa hết.

Lão này cứ cầm theo đồng tiền đi khắp nơi vậy thôi, chứ thực ra kẹt xỉ lắm, nổi tiếng là vắt cổ chày ra nước.

Thỉnh thoảng còn đi ép giá mấy đôi giày, mặc cả không khác gì mấy mẹ ngoài chợ...! Khoan.

Câu vừa rồi có phải cô nói không?”
Phượng Ngân lắc đầu, bảo:
“Không.”
“Ông giả giọng lừa trẻ con, sao xứng làm tiền bối cao nhân hả?”
“Thằng khốn nạn nhà mày, tao chưa tính sổ với mày thì thôi.

Mày quăng tao vào giữa lòng địch rồi ngồi đây nói xấu tao, thoải mái quá nhỉ??”
Lão cóc lấy đồng tiền cốc vào dầu Điền Quý một cái.
Hai bên chí chóe một hồi, lão mới nói:
“Đám thi binh tao xử mười đứa rồi, chỗ còn lại là phần của chúng mày.”
“Cụ à, có câu làm ơn làm ơn cho trót, tiễn Phật tiễn đến Tây Thiên, bác đánh nốt đi cho được việc.”
“Mỡ đấy mà húp.”
Lão cóc phình cổ, gắt.
Điền Quý nhún vai, bảo:
“Thế chắc là tôi bảy con, cô bảy con? Ê, thi xem ai xử lý được con đầu đàn trước không?”
“Chơi thì chơi.

Để xem ai thua ai thắng.”
Phượng Ngân đáp, Chu Tước cung chuyển thành Thanh Long thương, bước ra khỏi vòng bảo vệ của Điền Quý.


Cô nàng hít một hơi thật sâu, không khí lành lạnh ban đêm khiến Phượng Ngân càng thêm tỉnh táo, thần trí sắc sảo, như ngọn trường thương trong tay mình.
Linh lực cuộn trào, chạy dọc theo kinh mạch tay phải, đến huyệt Trung Xung thì xuất ra, chuyển vào ngọn thương.

Mũi thương lập tức nhả ra ánh chớp, tia điện sáng lòe chạy dọc thân thương, len vào các đường vân vảy giáp.

Ngọn thương truyền ra tiếng sấm nổ ì ầm, nghe mà tưởng như tiếng rú của thanh long.
Phượng Ngân vung ngọn thương, lao xả vào bầy thi binh hung hãn.

Thanh Long thương trong tay cô nàng vừa phạt vừa đâm, đánh đến đâu thi binh bị thương đến đó.

Điện trên thương nhập vào người, khiến đám xác ma tê bại cả ra, động tác vì thế càng thiếu phần dứt khoát.
Đương nhiên, thi binh cũng không phải kém cỏi, móng tay đánh ra, cào trúng Phượng Ngân vài lần.

Thế nhưng vết thương trên người cô nàng vừa xuất hiện thì đã có ánh sáng xanh hiện lên, lại lành lặn như cũ, độc xác của thi binh khiến người chết bất đắc kỳ tử cũng không làm gì nổi.

Phượng Ngân được thế đánh càng hăng, không ngại lấy thương đổi thương, chẳng mấy mà dễ dàng áp đảo được ba bốn con thi binh một lúc.
“Hô hô, Thanh Long thương hóa ra còn khống chế được hành lôi, công được thủ được, xứng là hình dáng cân bằng nhất của Lục Chuyển.”
Lão cóc thò tay vào cằm định vuốt râu, mới té ngửa là cằm lão nhắn thín, bèn đổi sang gãi cằm cho đỡ quê.
Điền Quý bèn hỏi:
“Cái chuyện sấm sét có thể là ngũ hành chi mộc biến dị mà ra cháu cũng từng nghe, lí do là cùng bị kim loại khắc chế, nhưng lão nói công thủ toàn diện là sao?”
Lão cóc thấy anh chàng hiếm khi phải hỏi chuyện gì này rốt cuộc cũng có thứ thắc mắc, bèn ngồi nghiêm chỉnh, ra cái bộ dạng cao nhân, nói:
“Lôi tượng trưng cho trời phạt, công dụng tị tà rất mạnh.

Bên Tàu họ dùng phép thuật dẫn sét đánh vào gỗ, rồi lấy gỗ đó làm kiếm trừ tà cũng vì nguyên nhân này.

Mộc thì đại diện cho sinh cơ, cho sức sống, nở rộ.

Công dụng trị thương cũng từ đây mà ra.


Thế chẳng phải công thủ kiêm toàn thì là gì?”
Anh chàng mới ‘à’ một cái, thầm nghĩ:
“Thỉnh thoảng để ông ta ra vẻ tiền bối thế này, sau nhờ vả gì cũng dễ.”
Vừa nghĩ, Điền Quý vừa lấy ra một lá bùa, cắn ngón tay lấy máu ấn lên, đoạn quát:
“Đến!”
Lá bùa bốc cháy, ánh lửa hóa thành một cánh cổng bằng sắt.
Một tiếng thú gầm kinh khủng cất lên, khiến mấy ngôi mộ đều rung chuyển, đám thi binh cũng nơm nớp lo sợ.

Phượng Ngân cầm Thanh Long thương, đang đánh hăng cũng phải giật mình ngoái đầu lại.
Chỉ thấy từ trong cánh cổng, một con chó trông như chỉ mới hơn tháng tuổi liêu xiêu bước ra, lon ton chạy đến chỗ Điền Quý, đuôi vẫy loạn cả lên.
Anh chàng quệt máu ở tay vào giữa trán nó, nói:
“Đám xác kia cho mày ăn hết.”
Con chó con sủa một tiếng vui vẻ, nói đoạn ngoái đầu, chạy về phía đám thi binh đang đứng túm năm tụm ba.

Mỗi vết chân con chó nhỏ để lại trên mặt đất đều sáng rực lên.
Chó con càng chạy càng nhanh, dần dần, bốn chân của nó dần dần xuất hiện ảo ảnh tám con rồng nhỏ, tuy chỉ to bằng con rắn mối nhưng sừng móng râu bờm đều đầy đủ, thần vận không thua gì vật thật.

Lão cóc ngồi nhỏm dậy, vỗ đùi đánh đét, nói:
“Mẹ kiếp, mày giỏi thật đấy Quý ạ.

Bát Long Cẩu mà cũng tìm được.”
Nói về tướng chó, thì tướng quý nhất là Bát Long Cẩu, so với Bối Kiếm Cẩu thì còn hơn mấy bậc.
Sở dĩ gọi là Bát Long, là vì ở chân loại chó này có hai nốt thịt thừa, dân gian gọi là huyền đề.

Câu “chó khôn tứ túc huyền đề” cũng từ đây mà ra, ý là chó nào mà cả bốn chân đều có huyền đề thì khôn lắm.

Bát Long Cẩu này sở dĩ quý giá, là vì ở mỗi chân nó đều không chỉ có một, mà có tận hai huyền đề, nên mới gọi là Bát Long.

Sát tính có thể không nặng bằng Bối Kiếm Cẩu, nhưng uy nghiêm mười phần, đến mức nhiều người nói tướng chó này là bá vương trong cái họ gâu gâu này vậy.
Điền Quý nói:
“Hồi trước nhóc này dạt vào đảo, được cháu cứu nên mới đi theo.

Hình như chuyện cũng ba năm trước rồi.”
Con chó ít nhất cũng hơn ba tuổi mà trông vẫn như mới đẻ đầy tháng, quả đúng là quái dị.
“Mày chưa hiểu à? Ý tao là mẹ kiếp, có Bát Long Cẩu mà không gọi ra từ đầu, còn vẽ chuyện ném tao vào giữa đám thi binh?? Thằng ôn con này, hiểu thế nào là ‘kính già già để tuổi cho’ không hả cái đồ mất dạy?”
Lão cóc nhảy phốc lên, đầu húc vào mặt anh chàng đến bốp một cái.

Có Bát Long Cẩu, Phượng Ngân, lại thêm lão cóc hỗ trợ, đám thi binh cũng không phải vấn đề gì quá lớn, nhoáng một cái đã giải quyết xong đâu vào đấy.
Đợi Bát Long Cẩu ăn xong đống xác ma, nằm ngửa cái bụng tròn vo lên thỏa mãn, Điền Quý mới gọi cổng sắt đưa nó về.

Anh chàng lại lấy dây máu, trấn yểm nốt ngôi mộ có con thi binh sau cùng, rồi cả ba cùng về nhà trọ Hương Rừng.
Phượng Ngân hỏi:
“Bãi tha ma thành ra thế kia có khi nào lên báo không?”
“Kiểu gì cũng lên thôi, nhưng quan trọng là lên báo ra sao.”
Điền Quý đáp, cười tủm tỉm.
Hai người, thêm một lão cóc nghỉ ngơi đến chiều thì trở dậy.

Điền Quý gọi ba bị đạp xích lô đến, lão cóc thì chui vào ngồi trong túi xách của Phượng Ngân, ba người đến một tòa nhà trong thị trấn.
Chỗ đó là tòa soạn của một tờ báo lớn ở tỉnh A.
Điền Quý quen chân, dẫn Phượng Ngân đi thẳng vào khu văn phòng, lên tầng cao nhất.

Hai người đi loanh quanh một chốc thì đến một phòng không treo biển, nhìn từ bên ngoài chẳng khác nào cái nhà kho.
Anh chàng gõ cửa, nói:
“Chị Hà ơi, Quý đây, vào được không?”
“Quý hả em? Chờ chút.”
Hai người kiên nhẫn đợi cái chị Hà kia gọi, mới đẩy cửa văn phòng.
Ngồi sau bàn làm việc là một người mặc áo công sở, dáng vẻ mặn mà đằm thắm.

Chỉ có điều sau cái ghế ngồi thò ra chín cái đuôi màu nâu, đầu của chị Hà này cũng là cái đầu cáo luôn.
Chị Hà chớp mắt, nói:
“Con tưởng cậu cưới vợ rồi, chị khóc mấy ngày đấy.

Á?? Có người.”
Chị này vừa thấy Phượng Ngân, ho khan một cái ra vẻ bối rối, rồi thu lại đuôi, đầu cũng hóa thành khuôn mặt của một phụ nữ, đẹp theo kiểu gợi cảm, đầu mày cuối mắt đều ẩn hàm vẻ vũ mị.
Điền Quý nói:
“Chị bảo chờ chị chuẩn bị mà sao vẫn hiện hình cáo thế?”
“Đâu có? Bình thường chị hóa hình người, có chú đến chị mới chịu làm đỏm thế đấy chứ? Mà chị nói này, gu thẩm mĩ của con người các chú cứ kiểu gì.

Mõm ngắn có một mẩu, tai thì cứ như cái bầu dục, chẳng đẹp như loài cáo các chị gì cả.”
Chị Hà nói, vẻ kiêu ngạo.
Anh chàng ho một cái, giới thiệu:
“Đây là chị Hà, yêu tinh cáo ngàn năm, còn gọi là Hộ Quốc Hồ Phu Nhân, từng cứu Lê Lợi đấy.”

 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom