Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Đạo Mộ Bút Ký
Quyển 3 - Chương 25: Lễ hiến tế


Editor: Earl Panda

Beta: Tiểu Điệp

********

Tôi với lão Dương nghe hắn nói thế, liền đồng thanh hỏi xem hắn nghĩra gì rồi. Hắn gãi đầu gãi tai, bảo: “Tôi chỉ đoán đại khái vậy thôi. Có khả năng ngọn đồng thụ này không phải là điểm mấu chốt, những khe rãnh trên mặt cây này có thể là dùng để tập trung nước lại, ví như nước mưa, máu hoặc sương đêm gì đó.”

Lão Dương liền hỏi hắn: “Có phải là giống như ngày xưa người ta gom sương đêm lại để pha trà dâng lên vua không? Thế thì nói làm gì? Toàn là nước không nguồn gốc(*) cả.”

(*) nguyên là “vô căn thủy”: hay còn gọi là thiên thủy, ám chỉ những loại nước rơi từ trên trời xuống như mưa, tuyết, sương, vân vân.

Trợ lý Lương lấy cây bút máy cạo ra một ít vết cặn màu đen trong rãnh. Đã trải qua hàng nghìn năm, không biết liệu những vết cặn này có phải chính là máu của tổ tiên đã khô cứng lại không, hay chỉ là nước mưa lắng đọng. Hắn nhìn mấy nhánh cây, nói: “Cậu trông, phía dưới những cành cây này có cái gì đó trông như lưỡi lê lấy máu, thông với giữa con rắn hai thân, hẳn là nhánh cây này có công dụng gì đó với đàn tế thờ. Khả năng là nó có liên quan đến huyết tế.”

Tôi không hiểu lắm, nên trợ lý Lương đành nói rõ hơn về những khe rãnh này vì sao lại có liên quan đến huyết tế, và cách thức tiến hành huyết tế.

Trợ lý Lương nói, thời Tây Chu, lễ hiến tế tuy không tàn bạo bằng thời nhà Thương, nhưng việc hiến tế người sống là khó tránh khỏi, cái gọi là điểm khác nhau giữa hai thời chỉ là ở cách giết người mà thôi. Ví dụ như, hiến tế cho thần thổ địa thì đem người chôn sống, hiến tế cho thần lửa thì thiêu sống, còn hiến tế cho hà bá thì quẳng xuống sông.

Ở đây, một cây thanh đồng đại thụ cao ngút trời như thế này có khả năng là loại thần thụ Phù Tang nhược mộc hoặc cây thần thờ Phục Hy(**), những loại thần thường phải dùng huyết tế.

(*) Nguyên văn là “câu mang”. Mình tra trên baike thấy bảo nó là mộc thần Phục Hy trong thần thoại Trung Quốc. Còn Phù tang nhược mộc thì là cái cây dâu lớn mọc ở đông hải, là nơi mặt trời mọc lên trong thần thoại.

Vừa rồi, máu của lão Thái chảy dọc theo cành cây thanh đồng, rồi vào giữa con rắn hai thân trên cây, rồi chảy thẳng xuống dưới. Nếu không phải vì đã có thiết kế sẵn thì máu không thể chảy một cách trơn tru như vậy được. Hơn nữa, trên bề mặt cành cây thanh đồng này có các dấu vết rất giống như lưỡi lê, như vậy là đã rõ, nơi này chắc chắn chỉ dùng để chuẩn bị tiến hành huyết tế.

Gọi là huyết tế, vì đại đa số lượng máu đều thấm hết vào đất. Lúc tế lễ, vật tế bị những nhánh cây thanh đồng đâm xuyên qua người mà chết, máu từ thi thể bị rút hết ra, chảy xuống rãnh giữa hai thân xà. Nếu máu không nửa đường đông lại thì sẽ chảy xuống tận rễ cây thanh đồng chôn sâu dưới lớp nham thạch, tượng trưng cho việc lấy máu kính dâng lên thánh thần.

Nói ví von lên, thì các rãnh hoa văn trên cây tựa như các ống dẫn máu trong phòng giải phẫu, thi thể là bệnh nhân, máu chảy ra từ xác đọng lại dù là nhiều hay ít thì cuối cùng vẫn theo ống dẫn máu chảy xuống các ống nước ngầm bên dưới. Chỉ khác cái, ở đây các ống dẫn máu được làm hoa văn nhìn cứ như đồ để trang trí. Hẳn đó là lý do vì sao ở trên các con rắn hai thân đều có các rãnh được khắc rất sâu, không hợp với chuẩn mực thường thấy.

Những lễ hiến tế có quy mô lớn và tàn nhẫn như vậy, cho dù có là đất nước cường thịnh giàu có đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không dám tiến hành thường xuyên. Vì vậy, các ghi chép trong những sách cổ về điều này cũng chỉ toàn những thứ lẻ tẻ vụn vặt, chứ còn cụ thể quá trình ra sao, cần bao nhiều vật tế, không một ai có thể biết được.

Tôi nghe trợ lý Lương nói mà không khỏi nể phục trước trí tuệ của người xưa, đồng thời cũng cảm thấy có phần thất vọng. Một công trình vĩ đại như vậy lại chỉ là một công cụ giết người hàng loạt, thật là ngu xuẩn hết mức. Cứ nghĩ đến việc trên cành cây kia có biết bao nhiêu nô lệ đã bị đóng đinh treo lên đó, máu đổ xuống theo những khe rãnh, biến cả thân cây thành một cái cột đẫm máu, tôi lại thấy rùng mình như thể có khí lạnh đến thấu xương tỏa ra từ các rãnh trên thân cây thanh đồng.

Hơi chột dạ, tôi bèn nói với lão Dương: “Chúng ta đi nhanh lên tí đi, không chờ chốc nữa máu của lão Thái chảy xuống dưới, cái cây thần kia lại tưởng có người đến hiến tế, các cụ thánh thần trồi lên biến bọn mình thành vật tế thì tiêu.”

Lão Dương vốn không thèm để tâm đến lời của trợ lý Lương, liền nói với tôi: “Cậu đừng có tin lời hắn làm gì. Trung Hoa dân quốc thời đó móc đâu ra lắm dân số đến thế cho cậu đồ sát cơ chứ. Tôi thấy, số máu bị nghẽn ở đây là máu heo máu dê thì có, mà nói không chừng, mình bò lên trên chút nữa là thấy đặc sản thịt heo khô nghìn năm cắm ở trển á. Huống hồ, cho dù vật tế đó có là người đi chăng nữa, khi người đã chết thì máu sẽ đông rất nhanh, cậu yên tâm đi, ở trên này cao như vậy, máu làm sao mà trôi xuống tận dưới được? Hơn nữa, máu cậu á, có mà khiến các cụ phát tởm chứ ai thèm vào. Ngày xưa người ta sống gần gũi với thiên nhiên, toàn ăn rau cỏ tươi tốt không thuốc trừ sâu, toàn uống nước trong lành mát lạnh không ô nhiễm, thế nên máu người ta còn có chút vị ngọt. Chứ còn cậu, máu chảy ra, khẳng định các cụ uống vào là ngộ độc thực phẩm, tiêu chảy với táo bón ngay lập tức, thế nên mới nói đây toàn trò bịp cả.”

Tôi nghe xong gân trên trán trồi lên ầm ầm, không khỏi mở miệng mắng: “Tôi nhổ vào, cái gì mà máu tôi có độc hả? Mẹ nó cứ phải vả vào mồm thì cậu mới yên được à?”

Trợ lý Lương trông tôi nổi cáu liền giảng hòa: “Hai vị, cần phải biết xem xét thời thế nha, với tình hình hiện giờ mà còn nói đùa được. Mấy người có cảm thấy những cái cành cây này càng ngày càng xen dày đặc không? Nếu cứ thế này thì hẳn sẽ khó leo lên trên.”

Lão Dương nói: “Ở đây vốn cành cây lỉa chỉa chỗ dày chỗ thưa, phải là càng dày càng tốt chứ, ông anh tính bảo càng thưa càng tốt, tốt nhất là mỗi cành cây cách nhau hai mét đi, thế thì có mà chúng ta xếp đè lên nhau mà leo lên à?”

Tôi bảo lão Dương: “Cậu đừng có mà kết luận vội. Tôi thấy nó cũng không ổn lắm đâu, cậu bật đèn pin lên xem thử xem.”

Lúc mới leo lên trên, chúng tôi vẫn dùng đuốc để chiếu sáng, vì cái đèn trong túi của lão Thái không còn dư dả pin gì cho cam nên chúng tôi không muốn lãng phí. Thế nhưng, giờ muốn soi rõ vật ở xa thì không dùng đuốc được.

Lão Dương bật đèn pin, chiếu ánh sáng lên trên. Chỉ thấy trên đỉnh đầu chúng tôi là những nhánh cây thanh đồng càng ngày càng đan xen dày đặc, mới chỉ lên có bảy, tám mét mà trông đã um tùm kín mít như bụi gai, nếu muốn tiếp tục leo lên nữa thì chỉ còn cách đổi hướng, đi ngược ra phía ngoài, sau đó dẫm lên đầu nhọn của các nhánh cây mà bò lên. Tuy nhiên, làm như vậy còn nguy hiểm hơn cả việc bám sát thân cây thanh đồng mà trèo lên rất nhiều.

Chuyện đã đến nước này, thì phía trước có là hang hùm hang gấu tôi cũng muốn xông pha. Lão Dương bảo chúng tôi đứng yên tại chỗ, rồi hắn bò ra các nhánh cây bên ngoài trước, sau đó ném một đầu sợi dây thừng kiếm được từ chỗ lão Thái xuống dưới. Tôi với trợ lý Lương nắm lấy sợi dây, theo đó trèo lên.

Nhìn qua nhìn lại, tình hình đã không còn giống như lúc ở phía dưới trông lên nữa. Các nhánh cây thanh đồng xen nhau dày đặc đến mức không còn chỗ để chen tay vào. Tôi leo được một đoạn, bụng thầm nhủ, thảo nào lão Thái lại dễ ngã xuống đến vậy, trông chiều hướng này đây, càng đi lên nữa càng ít chỗ để đặt chân, chỉ cần không cẩn thận, hoặc bị gió lùa mạnh một cái, là được xuống dưới kia nhắm rượu với lão Thái ngay.

Lúc này lão Dương leo rất nhanh, tôi chẳng còn hơi sức đâu mà đi gọi hắn nữa, chỉ có thể vừa lấy lại tinh thần, vừa gắng không để bị tụt lại phía sau, đồng thời luôn luôn tự nhắc nhở bản thân cẩn thận kẻo trượt chân ngã. Cây đuốc lúc này không được sử dụng nữa, vì căn bản chẳng ai còn rảnh tay để mà vừa cầm vừa leo. Tôi đành dập tắt đuốc rồi đeo ở bên hông mình.

Địa hình đoạn đường này vô cùng nguy hiểm nên hầu như không một ai dám mở mồm nói năng gì. Rất nhanh, dưới ánh sáng đèn pin, tôi chợt phát hiện vách tường đá xung quanh cây thanh đồng bắt đầu thay đổi. Những thạch nhũ thiên nhiên xuất hiện cùng với muối mỏ hòa tan, hiển nhiên quy mô nơi này đã vượt quá khả năng kiến tạo của con người, quãng hang động trên này hẳn là hình thành hoàn toàn tự nhiên.

Càng đi, vách tường đá càng thu hẹp lại. Tôi nhìn thấy trên hai bên vách đá bắt đầu xuất hiện nhiều hang, hốc lớn nhỏ khác nhau, cũng không sâu lắm, vừa đủ nhìn thấy đáy. Bên trong các hang, hốc có chứa mấy cái gì đó, khi chiếu đèn pin lên sẽ có những phản ứng nhất định. Điều này khiến tôi thấy bất an, nhưng vách đá cách chúng tôi những hơn mười mét, kể cả cho dù có chuyện gì xấu, tôi cũng không tin là nó có thể gây ảnh hưởng được đến chúng tôi.

Tôi mải chú ý đến mấy cái hang hốc trên vách đá, không để ý lão Dương với trợ lý Lương ở phía trên đã dừng lại tự lúc nào. Mãi cho đến khi va đúng vào mông trợ lý Lương tôi mới giật mình ngẩng lên nhìn, chỉ thấy trên đó xuất hiện rất nhiều con khỉ đeo mặt nạ, giống bọn khỉ mà chúng tôi lúc trước gặp ở dưới kia.

Nhìn kỹ lần nữa, tôi mới phát hiện ra những con khỉ này đều đã chết. Xác khỉ bị gió nóng sấy cho khô quắt, méo mó kì dị. Tay chân mắc cả vào các cành cây đan xen dày đặc nên xác mới không bị rơi xuống. Cả thảy có hơn mười xác khỉ – mà kỳ quái thay, xác đã khô quắt rồi nhưng mặt nạ vẫn không bị rớt ra – yên lặng đứng đó nhìn chúng tôi chằm chằm, tựa như chúng có thể bất thình lình sống lại bất cứ lúc nào.

Chúng tôi chầm chậm tiến lại gần, chú ý quan sát những thứ kỳ quái này.

Cơ thể bọn khỉ dường như bị mắc một loại bệnh ngoài da nào đó, lông tóc phần lớn bị bóc ra, để lộ lớp da màu xám trắng trông khá giống với da người, thế nhưng khi nhìn kĩ lại thấy các vết lốm đốm rất rõ ràng. Vóc dáng những con khỉ này khoảng cỡ bằng một đứa trẻ mười lăm, mười sáu tuổi (đương nhiên là không tính Diêu Minh (Yao Ming =]]) rồi ), hoặc có thể lớn hơn một chút, tôi không chắc lắm. Trong cái tình huống như thế này, tôi còn hơi đâu mà nhìn người đoán chiều cao.

Mặt nạ của bọn khỉ nhìn qua thì là làm bằng đá, được mài một cách vô cùng hoàn hảo, hoàn hảo đến mức tôi còn nghi là nó được làm bằng gốm sứ. Đến xem chỗ mặt nạ gắn vào mặt bọn khỉ mới thấy, cái mặt nạ này dường như đã được in hẳn vào thịt, hẳn là dùng một phương pháp đẫm máu nào đó, khiến mặt nạ lẫn da thịt dính lẫn lộn cả vào nhau.

Xác khỉ phần lớn đều còn nguyên vẹn, còn lại một số ít chỉ có tay với chân. Đại khái là do thời gian đã quá lâu năm, xác khô quắt đến mức tự nhiên vỡ vụn.

Trợ lý Lương ngăn chúng tôi leo lên trước. Hắn chỉ vào một cái xác khô, nói: “Chờ một chút, tôi thấy tư thế mấy con khỉ này có hơi kỳ dị, hình như đã thấy ở đâu rồi thì phải, đợi tôi đến nhìn kỹ xem sao.”

Lão Dương nói với hắn: “Ông anh lắm chuyện nó vừa vừa thôi, cái gì cũng hết xem rồi ngắm. Làm ơn cẩn thận chút cho tôi nhờ, coi chừng lát nữa mấy con khỉ kia nó ngứa mắt ông thì bỏ xừ!”

Trợ lý Lương không để ý đến lời của lão Dương, rón rén đến gần một cái xác khỉ gần nhất, cầm lấy cái mặt nạ của nó. Da mặt khô quắt lập tức rạn nứt, trợ lý Lương nhẹ nhõm kéo cả cái mặt nạ xuống. Hắn dí lại gần bộ mặt của cái xác khô nhìn ngó một lúc, rồi quay đầu nói với chúng tôi: “Hai…vị, cái này… hình như không phải là khỉ, đây là… mặt người a.”
 
Quyển 3 - Chương 26: Li cổ


Editor: Earl Panda

Beta: Tiểu Điệp

********

Hai con mắt của cái xác đã bị phân hủy tiêu đi mất, chỉ còn lại hai hốc mắt tối om. Miệng xác mở lớn đến mức khó tin, lộ ra hàm răng thiếu lỗ chỗ. Bộ mặt vì khô quắt nên biến dạng méo mó, trông rất dữ tợn, khiến không ai dám nhìn thẳng vào. Mà dựa vào hàm răng là có thể thấy, cái xác khô này không phải là xác khỉ, mà chính là xác người không chệch đi đâu được!

Lão Dương ngây người một lúc, nói: “Thế này là sao? Lão Ngô, cậu vừa mới nói nó là khỉ cơ mà? Này… cái này… là người nha.”

Tôi cũng lắp bắp: “Tôi… tôi cũng chẳng biết. Vừa nãy tôi đánh rớt cái mặt nạ, rõ ràng là khỉ mà, một con khỉ lông vàng hẳn hoi cơ. Này… này… Giời ạ, đúng là điên cái đầu.” Tôi vò đầu bứt tóc cố gắng nhớ lại xem có phải lúc ấy vì sáng tối mập mờ quá nên mắt mình nhìn lộn hay không.

Bỗng nhiên, trợ lý Lương khoát tay, ý bảo tôi đừng chạm vào thi thể. Sau đó, hắn cẩn thận đứng thẳng người lên, lật mặt sau của cái mặt nạ ra nhìn. Tôi thấy đằng sau chiếc mặt nạ, ở vị trí miệng có gồ lên những hình xoắn ốc to bằng nắm tay, trông như vỏ ốc sên, bên trên lại có một lỗ nhỏ. Trợ lý Lương cầm chiếc mặt nạ ướm thử vào mặt mình, sau đó quay đầu nói với chúng tôi: “Cái mặt nạ này hình như phải há miệng ra mới đeo lên được.”

Lão Dương ngạc nhiên nói: “Gắn vào miệng á? Tức là nhét cả một cái cục vô miệng cho tắc thở á? Vầy khó chịu chết.”

Tôi trông mấy cái xác khô mồm ngoác ra rất rộng, bèn nói với trợ lý Lương: “Lẽ nào mấy cái vỏ ốc sên này có gì kỳ lạ chăng, anh thử đập vỡ nó ra xem. Cái mặt nạ này độ dài vừa đủ cho mặt một con khỉ, nếu gắn vào miệng thì chỗ mắt lại bị che khuất mất. Chắc chắn là có cách gì đó khác đấy.”

Trợ lý Lương nghe vậy bèn chọc chiếc bút máy vào bên trong cái lỗ nhỏ, cố sức cạy ra. Cái “vỏ ốc sên” tức thì vỡ vụn, để lộ bên trong có một khúc gì đó dài dài trông như cái càng cua. Trợ lý Lương liền cạy nó ra thì phát hiện đó là một loại sâu bọ kỳ lạ chưa thấy ở đâu bao giờ, đã bị hóa thạch, chỉ cần dùng lực mạnh một chút là đứt thành nhiều đoạn ngay.

“Xem ra, cái mặt nạ này không phải là do tự nguyện đeo lên đâu.” Trợ lý Lương cau mày nói. “Cơ mà thứ này chắc chắn là đồ nhân tạo. Hai người nhìn hoa văn ở mặt trong cái mặt nạ mà xem, hoa văn này khá giống với hoa văn trên con rắn hai thân trên cây, rõ ràng là người đúc cái mặt nạ này với người đúc ra cây thanh đồng có liên quan mật thiết với nhau.”

Lão Dương cầm lấy cái mặt nạ, hứng chí nhìn ngắm đến nửa ngày, nói: “Này hay đây là con sâu cụ từ thời Tây Chu, không chừng đến giờ đã tuyệt chủng rồi, chẳng trách chúng ta không nhận ra là phải. Ai da, mấy người nhìn coi nè, con sâu này chỉ còn có một nửa.”

Nói xong, hắn nhìn chúng tôi, hỏi: “Thế nửa còn lại ở chỗ nào nhỉ?”

Con sâu nằm cuộn tròn trên phần gồ lên để gắn vào miệng của cái mặt nạ. Như vậy, nửa còn lại của con sâu chỉ nằm ở một nơi. Tôi nghĩ vậy, rồi vô thức nhìn vào cái miệng đang há to của cái xác khô, quả nhiên thấy trong khoang miệng tối om có một nửa con sâu đang bám trên đầu lưỡi. Con sâu khô quắt cắm vào yết hầu cái xác, dường như đang chui vào trong. Vì thi thể bị rữa hết thịt trông rất giống với con sâu hóa thạch, nên nếu không để ý kỹ thì sẽ nhầm tưởng con sâu này là phần lưỡi của thi thể.

Trợ lý Lương thấy thế, chợt biến sắc, kêu lên: “Mau ném đi, ném đi! Ôi ông giời của tôi ơi, nhanh ném nó đi! Cái mặt nạ đó có khi là vật thể sống đấy!” Nói xong hắn vung tay hất văng cái mặt nạ trong tay lão Dương ra. Chiếc mặt nạ nhanh chóng rơi vào trong bóng tối, đập vào các nhánh cây, bốp một tiếng, vỡ nát.

Lão Dương giật mình kinh hoảng, thiếu chút nữa trượt chân rơi tòm xuống luôn, liền gào lên hỏi hắn có phải bị thần kinh hay không, cái quái gì mà mặt nạ là vật thể sống cơ chứ?

Trợ lý Lương khụ một tiếng, hình như là đang hối hận. Hắn vò đầu bứt tai, nhíu mày nói: “Thật hổ thẹn, sao tôi lại ngu đến thế kia chứ, thế mà trước đây không nghĩ ra… Cây đồng thụ này, cách hiến tế này, nói rõ chúng nhất định không phải là tác phẩm của người Hán chúng ta, ôi chao, tôi đúng là ngu ngốc mà, ngu đến hết nói nổi luôn!”

“Ông đang lảm nhảm cái mẹ gì thế?”, lão Dương phát cáu, “Cái gì mà ngu ngốc, liên quan chó gì đến cái mặt nạ? Có gì cứ nói thẳng toẹt ra đi xem nào!”

Trợ lý Lương khoát tay áo, nói: “Không phải, anh kiên nhẫn nghe tôi nói hết cái nào, chuyện này phải kể từ đầu cơ, à mà, biết nói thế nào nhỉ? Kia phải bắt đầu từ chuyện huyết tế chúng ta vừa mới nói…”

Hóa ra, loại cúng tế bằng máu này chủ yếu phổ biến ở các dân tộc thiểu số thời Tây Chu, tất nhiên là khác với các dân tộc thiểu số thời hiện đại bây giờ. Người dân của các dân tộc thiểu số này hầu hết đều đã biến mất, có lẽ là đã nhập với người Hán. Một lễ huyết tế với quy mô lớn như vậy, trong chính sử của người Hán không có ghi chép lại, nhưng trong vài di chỉ còn sót lại của một số dân tộc ít người thì có lẻ tẻ nhắc đến. Đáng tiếc, bởi vì ngôn ngữ chữ viết thất truyền đã lâu, nên tư liệu tỉ mỉ về loại huyết tế này lại càng coi như không có.

Mà, các thánh địa để thờ cúng của các dân tộc thiểu số này đều rất linh thiêng, không chỉ có người canh gác cẩn mật mà đồng thời còn có thể được tế sư nào đó phù phép, bảo vệ thần linh không bị người ngoài quấy rầy. Tương truyền, quá trình phù phép cực kỳ thần bí, loại dị thuật này lưu truyền cho đến tận bây giờ, được thần thánh hóa lên thành một thứ cổ thuật vạn năng không gì không làm được y như trong tiểu thuyết.

Trợ lý Lương còn nói, cổ thuật bắt đầu phân chia từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, đến thời tống lại chia ra một lần nữa. Cổ thuật thời trước Tần cực kỳ lợi hại, lợi hại đến mức cũng giống như mấy cái siêu năng lực trong truyện tranh thời bây giờ vậy. Tuy nhiên, cổ thuật này chủ yếu dựa vào sâu bọ, nên có một thời kỳ, nó được gọi là mãnh trùng thuật. Những chiếc mặt nạ mà bọn khỉ và xác khô đeo này rất bí hiểm, có khả năng đó là kết quả của loại cổ thuật từ thời xa xưa này.

Hắn bảo, hắn từng nghe nói đến một loại cổ thuật, gọi là Li cổ, có thể khiến người ta trở nên hiếu chiến. Mà hóa thạch con sâu đang cắm vào yết hầu ở mặt sau chiếc mặt nạ kia có thể chính là nguyên hình của Li cổ từ thời xưa. Có khả năng loại sâu này gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh của động vật, khiến động vật trở nên hiếu chiến, tấn công người lạ. Thế nên, khi bị tôi đánh cho rớt vỡ mặt nạ, mấy con khỉ liền khôi phục bản tính, theo bản năng bỏ chạy khỏi chúng tôi.

Li cổ có thể sinh sôi nảy nở trong cơ thể của vật chủ, đợi khi vật chủ chết đi, chúng liền bám vào một chỗ nào đó, ví dụ như là mặt sau cái mặt nạ này chẳng hạn, chờ vật chủ kế tiếp tới gần, rồi bằng cách nào đó kí sinh trên người vật chủ.

Cái xác khô này, không chừng là một người thợ săn đến đây săn bắn, vô tình đụng phải Li cổ đang trong trạng thái ngủ đông, kết quả là bị cái tà thuật cổ xưa này cho lãnh đủ.

Tất nhiên, chưa ai tìm ra được bất cứ một tài liệu nào ghi chép về cái của Li cổ gì gì đó đó này, cũng chẳng biết có đúng sự thực hay không, chỉ có điều, trong mặt nạ này có hóa thạch con sâu đang thâm nhập vào yết hầu người, thôi thì chả biết thực hay hư, nhưng chắc chắn đây không phải chuyện bình thường, cứ phòng bị cẩn thận là tốt nhất.

Nghe trợ lý Lương nói vậy, toàn thân tôi nổi da gà da vịt. Thực ra, trong mấy tư liệu mà ông Tề ổng có đưa cho tôi cũng có nhắc đến những chuyện tương tự, thế nhưng lúc đó tôi chỉ xem qua loa, bụng bảo dạ rằng này đây có phải phim truyện chiều thứ bảy của điện ảnh nước nhà đâu, nào ngờ, bây giờ mới ngộ ra, phim khoa học viễn tưởng của Mỹ cũng còn phải học hỏi kĩ thuật của tổ tông nhà ta chán, thật không biết nên khóc hay nên cười nữa.

Quay đầu nhìn lại, cái thây khô quắt quỷ dị vẫn đứng im không nhúc nhích như cũ, chiếc mặt nạ trắng bệch tự tiếu phi tiếu, tựa hồ đang liếm môi chờ chúng tôi xáp đến gần.

Lão Dương sắc mặt có chút khó coi, nói thầm hỏi trợ lý Lương: “Nghe ông anh nói cũng kinh khủng quá đi à, vậy giả sử bị cái con Li cổ này nó dính vô người, lập tức lôi nó ra thì vẫn sống phải không? Không tai họa ngầm phải không?”

Trợ lý Lương nói: “Tôi cũng chẳng biết. Li cổ rất khó giải, tôi nghĩ, nếu một khi đi bị nó dính vào người thì chắc chắn không chỉ đơn giản là lôi nó ra là xong đâu. Loại chuyện này, chúng ta vẫn cứ đề phòng thì tốt hơn, cứ cố gắng tránh xa những cái xác khô này là được. Lão Thái trước cũng là trượt chân ngã từ nơi này xuống, lão là người từng trải như vậy, có khi lại không phải là do trượt chân đâu. Phải cẩn thận một chút.”

Lão Dương nhíu màu, cứ như là muốn nói cái gì, nhưng lại không nói thành lời được. Tôi liền hỏi hắn, với tình hình này thì còn phải trèo đến lúc nào nữa đây, nhỡ chẳng may phía trên các nhánh cây cũng dày đặc thế này thì có mà leo cho đến khi chết vì mệt cũng không lên được tới đỉnh. Lão Dương bảo tôi rằng, may ra thì phía trên nó có thể sẽ thưa bớt. Lúc hắn leo tay chỉ có một cái đèn pin bé xiu xiu, chiếu sáng rất kém, nên không để ý thấy những xác khô này, cũng không có con khỉ nào bất ngờ đánh úp hắn. Với lại, giờ hắn cũng chả biết mình đang ở cái chỗ quái nào, nhưng dù sao thì, các cụ dạy “tự cổ Hoa Sơn nhất căn trụ”(*), xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một cái rễ cột to oành, cứ leo lên riết cũng không bắn sang nơi khác được đâu.

(*) Nguyên gốc là “tự cổ Hoa Sơn nhất điều lộ”, tức là: xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một con đường, chẻ Dương đã tùy cơ ứng biến mà chém câu của cổ nhân người ta cho hợp hoàn cảnh (lên Hoa Sơn chỉ có một cái cột để mà bám mà leo) =))))))

Tôi cảm thấy nơi này không thích hợp để ở lâu, liền bảo bọn họ trước tiên cứ qua một đoạn này đã rồi hẵng tính tiếp. Đứng cùng chỗ với trợ lý Lương còn có một ông chủ béo nữa, ông này rất có khả năng sẽ leo lên trước chúng tôi. Nếu mà ông ta lên tới trên đỉnh trước thì sẽ hơi bị phiền phức. Nhỡ đâu có phục kích, ba chúng tôi không chừng sẽ chết không rõ ràng.

Lão Dương nói: “Nói có lý, cậu chờ một chút, tôi đi đốt ít pháo sáng, để xem trên ấy nó có phục kích gì không.” Nói xong hắn lôi ra khẩu súng báo hiệu, chỉa lên phía trên, bắn một đường thẳng tắp.

Đạn tín hiệu bay lên, không nghe tiếng chạm tới đỉnh, lòng tôi nôn nao một trận hồi hộp. Loại đạn này tối thiểu phải lên đến được hai trăm mét, vầy tức là còn phải leo ít nhất hai trăm mét nữa, ha hả, này thật là nản muốn chết quá đi.

Đạn tín hiệu cháy bùng, nhìn lên trước, quả nhiên là phía trên một đoạn không xa nữa các cành cây cũng càng thưa thớt lỏng lẻo dần, không hiểu vì sao lại thiết kế như vậy. Hơn nữa, nhìn cao lên nữa, phạm vi hai trăm mét không phải là giới hạn, tôi còn có thể thấy một vài thứ nữa, tuy là không sao nói được nó là cái gì.

Đạn tín hiệu rơi xuống, lão Dương nhìn kỹ một lúc, rồi nói: “Xem ra ông chủ mập Quảng Đông kia không có phục kích ở phía trên, nói không chừng chỉ có mình lão Thái còn sống nhăn răng mà chạy đến đây, dù sao thì cái đám quan tài trận bên ngoài kia nom chẳng khả quan gì mấy… A, này, cái gì thế kia?”

Khi đạn tín hiệu rơi xuống cách khoảng hơn sáu mươi mét, chúng tôi chợt nhìn thấy cái gì đó gồ ghề nổi lên trên một đoạn thân cây thanh đồng. Nhìn kỹ, tôi tức thì cảm thấy sau ót tê rần rần, mồ hôi lạnh ứa ra tận lòng bàn chân: cách cả bọn chừng mười mét, trên thân cây thanh đồng trồi lên một bộ mặt. Không, phải nói đó là một chiếc mặt nạ hình dạng rất quỷ dị.
 
Quyển 3 - Chương 27: Lăng không


Editor: Dứa

Beta: Tiểu Điệp Nhi

♥♥♥

Pháo hiệu tiếp tục rơi xuống, lướt qua khu vực này, chợt thấy cả một vùng xung quanh chuyển động tránh đường cho quả cầu nóng sáng, nhìn qua giống hệt một rừng côn trùng mặt người lúc nhúc.

Đây hẳn là li cổ mà trợ lý Lương đã nhắc đến, người xưa nuôi dưỡng chúng trong những chiếc mặt nạ đặc biệt, không ngờ đã sinh sôi nảy nở tới mức này. Lúc đầu tôi còn bán tín bán nghi, ai ngờ nhanh như vậy đã đụng phải nguyên một đoàn thế này.

Chúng bám chi chít vào những khe nứt trên cây Thanh Đồng, khi ánh sáng lướt qua thì bày ra vô vàn biểu tình khác nhau, có đau đớn, có u buồn, có dữ tợn, có cả cười âm hiểm… Tôi chưa bao giờ thấy qua cảnh tượng nào quỷ dị như thế, lông tơ trên người dựng đứng cả lên.

Trợ lý Lương lúc nãy giải thích hùng hồn lắm, giờ tận mắt thấy thứ này rồi cũng lắp bắp, run rẩy nói với tôi: “Hai… hai vị tiểu ca, mấy thứ đó đều còn sống cả, li cổ còn bám ngay phía dưới đó, chúng ta làm sao bây giờ, sao mà đi qua được?”

“Đừng hoảng hốt,” lão Dương nói, “Anh xem, bọn chúng có phản ứng với pháo hiệu, chứng tỏ chúng là loài sợ ánh sáng và nhiệt độ, chúng ta đốt đuốc rồi từ từ tiến tới, bọn chúng chắc không dám đụng vào chúng ta đâu.”

Tôi lắc đầu: “Không thể chắc chắn như vậy được, pháo hiệu có độ sáng và độ nóng rất cao, tất nhiên bọn chúng sẽ sợ, còn cây đuốc thì không được như thế. Cậu đừng quên đám khỉ lúc nãy, thấy pháo hiệu thì bỏ chạy, còn khi cậu dùng đuốc dọa thì bọn chúng lại chỉ lùi ra sau một chút mà thôi. Tôi chỉ sợ cậu đốt đuốc trèo lên chẳng những không qua được mà còn dẫn bọn chúng đến bao vây chúng ta, lúc đó muốn thoát cũng khó.”

“Vậy cậu nói giờ phải làm sao?” Lão Dương hỏi tôi, “Cậu nghĩ ra phương án gì rồi?”

Tôi đáp: “Phương án thực sự thì tôi không có, chỉ là có một cách mới nghĩ ra, không biết có thực hiện được không.”

Lão Dương sốt ruột: “Tôi biết cậu nhiều mưu ma chước quỷ, có gì cứ nói luôn đi.”

Tôi chỉ vách núi đá cách đó hơn hai chục thước: “Trực tiếp tiến lên như vậy rất nguy hiểm, nếu như lời trợ lý Lương nói là đúng, lũ bọ kia chắc chắn có cách leo lên mặt chúng ta. Trực tiếp xông vào đó chẳng khác nào ôm bom cảm tử, chi bằng đi đường vòng. Cậu có cách nào giúp chúng ta tới được chỗ vách đá đó không, trên đó có nhiều hõm đá nên không khó đi lắm, chúng ta cũng có thể nghỉ ngơi đôi chút.”

Lão Dương nhìn hướng tay tôi chỉ, kêu lên: “Này… Xa thế? Tới đó sao?”

Tôi gật đầu, ra hiệu: “Tôi mới nghĩ ra cách này thôi, không phải chúng ta có dây thừng sao? Cậu xem thử đủ dài hay không, nếu không đủ thì chỉ còn cách leo xuống thôi, lần sau xách súng phun lửa tới.”

Lão Dương tháo cuộn dây thừng bên hông ra, thứ này vốn là hàng chôm được trên người lão Thái, bên trên có nhãn U.aa. Đây là loại dây thừng leo núi tốt nhất thế giới, là thứ bộ đội đặc chủng thường sử dụng, xem ra bọn họ cũng đầu tư bộn tiền vào trang bị chứ chơi à.

Lần trước đi Lỗ Vương cung tôi có giúp chú Ba chuẩn bị tư trang hành lý, tìm hiểu qua không ít thông tin, thế nên tôi biết, loại dây thừng này nếu đường kính thân trên 10 mm có thể chịu được sức nặng lên đến ba tấn (dù là lực tác động đột ngột), thừa sức chịu được trọng lượng của ba người chúng tôi.

Sức chịu đựng thì đủ, chỉ không biết độ dài có đủ không thôi. Lão Dương bung dây ra xem xét, không khỏi than một tiếng, độ dài sợi dây chỉ hơn mười thước, còn thiếu một đoạn khá dài mới tới được bên kia.

“Làm sao đây?”, lão Dương hỏi tôi, “Có nối thêm thắt lưng của chúng ta cũng không đủ.”

Tôi vân vê sợi thừng, chợt phát hiện đây là loại thừng bện đôi 16 mm, nhanh trí nói: “Không cần lo. Chúng ta tước đôi sợi thừng này ra, nối vào làm một là được.”

“Tiểu Ngô ca, được thật chứ? Dây thừng mỏng như vậy không sợ đứt sao?” Trợ lý Lương nói: “Cậu xem, sợi thừng này còn mỏng hơn cọng bún, dù có vội mấy thì cũng đừng kích động nha.”

“Tạp chí nước ngoài đều nói thế cả, chắc cũng không đến nỗi lừa chúng ta đâu.”

Tôi tước lớp lưới bảo vệ bên ngoài dây thừng, lôi ra một sợi dây nilon mỏng tang, tự mình nuốt một ngụm nước bọt. Con mẹ nó, thực sự mỏng đến phát sợ, theo lẽ thường sợi dây mỏng cỡ đó không tài nào chịu nổi trọng lượng của ba người chúng tôi. Nhưng mà tài liệu nước ngoài quả thực có nói, dây nilon chịu lực đường kính 8 mm có thể dùng làm thang dây leo núi, chỉ cần không tác động lên đó lực kéo quá mạnh thì dây không dễ đứt. Tuy nhiên, sử dụng loại thừng này có độ nguy hiểm nhất định, do đó bình thường vẫn dùng hai sợi bện vào nhau. Chúng tôi giờ chỉ dùng một, chắc phải cầu Trời khấn Phật thương tình cho.

Thôi thì cứ tin tưởng công nghệ cao đi, tôi nghĩ, dù sao cũng không đến nỗi xui xẻo vậy chứ?

Tôi đưa sợi thừng đã được nối chặt cho lão Dương, hắn lôi từ ba lô ra một cái ấm nước, thắt một nút thủy thủ thật chắc vào đó làm quả nặng, dùng sức ném về hướng đối diện, sau vài lần thất bại cũng quấn được vào một măng đá phía bên kia. Chúng tôi kéo thử, sợi thừng căng như dây đàn, vô cùng chắc chắn.

“Được rồi,” Lão Dương nói, “Mẹ kiếp, cuối cũng cùng được. Này lão Ngô, dây thừng thì không nói, nhưng lỡ măng đá bên kia không chắc chắn thì sao?”

“Tôi không biết.” Tôi nói, thầm nghĩ nếu tảng đá kia không chắc chắn, tôi đại khái sẽ văng trở lại chỗ Thanh Đồng thụ này, tốt số chút thìđâm thẳng vào thân cây, nửa sống nửa chết, còn xui xẻo thì trực tiếp rớt vào chỗ mấy chạc cây, bị đâm chi chít như cái sàng.

Đầu dây bên này được buộc vào một nhánh cây Thanh Đồng, lão Dương thắt một nút rất đặc biệt, khi chúng tôi đi qua rồi có thể từ bên đó tháo nút buộc bên này. Tôi nhìn cái nút phức tạp đó đến hoa cả mắt, hỏi hắn học được ở đâu, hắn nói là trong tù.

Chuẩn bị đâu ra đấy rồi tôi kéo kéo sợi thừng, xác định cả hai đầu đều chắc chắn mới bảo họ đi trước đi. Đáp lại tôi là sự bất động của cả hai, tôi quay lại nhìn, thấy bọn họ dùng ánh mắt có-chết-ông-đây-cũng-không-làm-người-đầu-tiên nhìn lại tôi. Đương nhiên, người dám đi đầu tiên trên sợi dây mỏng manh như thế cần một lá gan vô cùng lớn. Tôi nói hai lần nữa, hai người kia vẫn lắc đầu, tôi thầm mắng một tiếng, bất chấp khó khăn xông pha đầu tiên.

Trước khi đi, tôi lần lượt đưa phách tử liêu và ba lô cho lão Dương và trợ lý Lương, cố gắng giảm trọng lượng trên người hết mức có thể, mấy thứ này có thể buộc vào đầu dây bên này, đợi lát nữa lão Dương biểu diễn màn cách không cởinút thì lôi luôn chúng nó qua, kéo lên là được. Lão Dương ở lại bên này cũng không an tâm, lén lấy súng của hắn đưa cho tôi, giữa đường lỡ có phát sinh chuyện gì cũng còn có cái mà xoay xở.

Tôi cảm thán một tiếng, rất có cảm giác của chiến sĩ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, vỗ vỗ vai hai người, quay đầu lại bước lên sợi dây.

Chân vừa đặt lên sợi thừng,trong chốc lát thần kinh tôi cũng căng ra như sợi dây bên dưới, nhắm mắt nghiến răng chờ đợi tiếng đứt thật ngọt. Không ngờ sợi dây này thực sự không hề bị đứt, chỉ phát ra thanh âm kẽo kẹt vô cùng khó chịu từ hai đầu dây bị buộc chặt.

Lòng tôi kêu gào đừng nhìn xuống, nhưng mắt vẫn không tự chủ được liếc một cái, ông trời ơi! Tôi rên một tiếng, lập tức quay đầu, nhắm mắt niệm A di đà Phật!

Lão Dương kêu lên: “Ê lão Ngô, cậu còn dùng dằng ở đó làm gì? Đi mau đi, càng đợi lâu càng nguy hiểm!”

Tôi ân cần hỏi thăm tổ tông tám đời nhà hắn, hít sâu một hơi, động tay chân bắt đầu di chuyển. Loại thừng này có độ co dãn nhất định, sau mỗi bước đi đều rung lắc vô cùng dữ dội, tôi trèo kiểu này vô cùng nguy hiểm, hơn nữa sợi dây lại quá nhỏ, nắm đau tay kinh khủng, chỉ lát sau đã thấy có chút lực bất tòng tâm. Càng về sau đầu óc tôi lại càng trống rỗng, chẳng biết mình làm sao mà đến được bên kia nữa, chân nhũn cả ra, vừa chạm tới măng đá đã ôm chặt lấy, thở hồng hộc.

Tôi mang theo cây đuốc sang bên này, đốt lên rồi cắm nó qua một bên, lại nhìn về chỗ bọn lão Dương, thấy trợ lý Lương đang leo lên sợi dây, răng đánh cầm cập vào nhau. Lão Dương ở phía sau giữ chặt anh ta, bảo đừng đi vội, rồi nói tôi trước hết xem xét tình hình bên đó đã, nếu leo lên không được hay có gì nguy hiểm thì có thể tiết kiệm chút sức lực.

Tôi xem xét mấy cái hang chung quanh, tất cả chỉ cao cỡ nửa thân người, chắc là nhân tạo, có điều trải qua mấy ngàn năm xâm thực, bên trên xuất hiện không ít thạch nhũ vừa thành hình, không khí trong hang rất ẩm ướt. Những cái hang ở đây có lẽ có liên quan tới công trình đúc cây đại thụ khổng lồ năm đó.

Tôi nhìn lên trên, mấy hang này cách nhau khoảng ba bốn thước, tuy trèo lên khá cách quãng nhưng cũng không quá khó khăn. Phía trong nham động trống không, chẳng có gì nguy hiểm, vừa rồi ở trên cây nhìn qua còn thấy bên trong có thứ gì đó, giờ mới biết chỉ là ảo giác. Nơi này quá thiếu sáng, thành ra thần kinh không tránh khỏi có hơi mẫn cảm.

Tôi vừa an ủi chính mình vừa xác nhận, sau đó hất đầu ra dấu cho lão Dương.

Lão Dương vỗ vỗ trợ lý Lương bảo đi trước, anh ta lấy tay xoa mặt mình, bò lên dây đi về phía tôi.

Xem trợ lý Lương đi dây thừng quả là khảo nghiệm thần kinh con người, quá trình thế nào tôi vẫn là không nên nói ra thì hơn, mười phút sau tôi nói chung cũng giơ tay ra kéo được vị sư phụ mồ hôi ướt đẫm kia qua hẳn chỗ mình.

Lão Dương đi sau cùng. Hắn hít một hơi sâu, buộc đèn pin vào tay, kiểm tra lại nút buộc bên kia một lần nữa rồi mới bò lên sợi thừng. Hắn bò rất nhanh, mới đó mà đã đi được một nửa đoạn đường, chợt đầu dây buộc vào măng đá bên này phát ra một âm thanh kì quái. Cả ba chúng tôi đều bất động, lão Dương mặt tái mét liếc nhìn tôi, tôi quay đầu lại nhìn, tim nhảy lên tận họng – trên măng đá xuất hiện một vết nứt!

Xúi quẩy thật! Tôi quay đầu lại: “Nhanh lên! Nơi này không ở lâu được!”

Tôi gọi vài tiếng, lão Dương lại chẳng hề nhúc nhích, ngoắc ngoắc tôi rồi lui về phía sau, vừa lùi vừa ra dấu với tôi, ý bảo tôi cũng quay về ngay.

Làm gì đó? Tôi nghĩ một chút, lòng tự nhiên dâng lên dự cảm không lành…

Lão Dương liều mạng chỉ lên trên đầu chúng tôi, lí nhí nói: “Chạy mau…”

Trợ lý Lương và tôi khó hiểu ngẩng đầu lên, lập tức sợ đến ngây dại.

Vách nham thạch lúc nãy còn trống không giờ đã nhung nhúc toàn mặt nạ người, cả đám chuyển động loạn xạ, vừa kêu rít vừa tràn đến chỗ chúng tôi như thủy triều dâng. Từ dưới nhìn lên cứ như có hàng ngàn người đang vây quanh chúng tôi vậy.

Tôi lúc này thực sự muốn tự tát mình một cái, mẹ ơi ngu quá đi mất, trên cây có li cổ thì vì quái gì trên vách đá lại không có? Lần này chết chắc rồi, chẳng lẽ kết cục của tôi chính là trở thành thể loại giống như lũ khỉ kia, biến thành thây khô ở chỗ này? Chẳng bằng bây giờ nhảy xuống quách, chết cho thoải mái.

Lão Dương nhìn chúng tôi đứng đực ra, kêu to: “Còn ngẩn ngơ cái gì! Quay lại bên này ngay, cắt dây thừng!”

Tôi nghe thấy liền phản ứng ngay, chạy lại chỗ măng đá, dùng sức nhảy lên sợi dây, lực tác động quá mạnh khiến sợi dây chùng hẳn xuống, măng đá liên tiếp phát ra những âm thanh rạn nứt khiến người ta sởn gai ốc. Chưa đợi tôi nắm chắc, trợ lý Lương đã nhảy lên theo, sợi dây dãn ra tới hơn mười centimet, căng tới cực hạn. Tôi lập tức nghe được thứ thanh âm vô cùng không may, rồi roẹt một tiếng, loại dây thừng tốt nhất thế giới cuối cùng cũng không chịu được nữa, đứt đôi.

Dây thừng 8 mm quả nhiên không chịu được trọng lượng của ba người, sau một tiếng giòn vang, nhánh cây Thanh Đồng buộc dây bị đứt đoạn, chúng tôi cứ như đang đu dây, vẽ trong không trung một đường cong thật lớn rồi đâm sầm vào một vách đá, bị tông đến thất điên bát đảo, chút nữa hộc máu.

Lão Dương ở dưới cùng bị va chạm mạnh nhất, trong chốc lát không nắm chặt sợi dây liền trượt thẳng xuống, phải cuống quít bám vào một khe hở giữa mấy tảng đá bên cạnh mới dừng lại được. Tôi với trợ lý Lương cũng chẳng khá khẩm hơn, đầu tôi sượt qua một mỏm đá, rách một mảng lớn, máu tươi đầm đìa. Trợ lý Lương ở ngay dưới tôi, chịu đựng không nổi, sợi dây trong tay tuột ra, thế là rơi thẳng xuống. May mà ở dưới có lão Dương túm lại, chứ không thì toi rồi.

Măng đá phía trên liên tục phát ra âm thanh rạn nứt, có thể gãy bất cứ lúc nào, tôi nhanh tay bám vào nhũ đá bên cạnh, nhảy qua kéo trợ lý Lương lên. Trợ lý Lương sợ đến mất hồn, vừa lên tới nơi đã mở miệng nói cảm ơn,có điều lời còn chưa dứt, một chiếc mặt nạ từ phía trên rớt xuống, chụp lấy mặt anh ta.

Trong nháy mắt, tôi như nhìn thấy dưới lớp mặt nạ kia nhung nhúc những con bọ đang giơ móng vuốt. Trợ lý Lương kêu lên một tiếng thảm thiết, muốn dùng tay che lại nhưng đã muộn, mặt nạ đã dính lên rồi. Trợ lý Lương liều mạng muốn kéo ra, có điều thứ kia hệt như được dán lên mặt anh ta vậy, cứ kéo ra được một chút lại dính trở lại ngay. Tôi định giúp một tay, khổ nỗi anh ta cứ như nổi điên mà khua khoắng chân tay loạn xạ cả lên, chưa kịp lại gần đã bị hất ra mất. Tôi phải nắm lấy sợi dây, đu lại gần chỗ lão Dương mới miễn cưỡng đứng vững được.

Tôi nhìn vực sâu thăm thẳm dưới chân, thầm chửi một tiếng, định trở lên giúp trợ lý Lương. Ai dè vừa ngẩng đầu, một vật gì đen đen to bằng bàn tay bất thình lình giáng từ trên trời xuống, ụp thẳng vào mặt tôi. Trước mắt tôi tối sầm lại, không nhìn được gì, chỉ cảm thấy có vài con bọ lông lá đang chui thẳng vào miệng. (*câm nín* Anhơighêquáđi~~~)

Trong lúc bối rối, tôi đưa một tay nắm lấy kẽ hở trên vách đá, một tay bóc cái mặt nạ trên mặt ra, cố ngậm miệng cho chặt để lũ gớm ghiếc kia không chui vào. Ai ngờ mới kéo một chút mặt nạ đã tự bong ra, tôi nhanh tay ném đi, chẳng dè lại vừa khéo trúng ngay mông lão Dương. Hắn chửi to một tiếng, cuống quít dùng chuôi súng gạt phăng thứ gớm ghiếc ấy.

Tôi chậm rãi thở ra, vừa quay đầu đã thấy bốn năm con li cổ nhảy tới sát sàn sạt. Tôi sợ đến phát run, nâng súng bắn bốn phát nhưng căn bản vẫn không có tác dụng, lập tức lại có hơn mười con hùng dũng lao lên. Tôi với lão Dương đang lui xuống dưới chợt nghe tiếng kêu thảm thiết, ngẩng lên nhìn thì thấy trợ lý Lương đã gặp họa tới nơi, trên người bám đầy li cổ. Anh ta la hét giãy dụa muốn thoát khỏi đám bọ trên người, có điều vừa phủi đi được con này thì lại một đám khác nhảy bổ tới ngay.

Tôi vừa lui về phía sau vừa xả súng, hết đạn rồi mà tình hình chẳng khá lên được bao nhiêu. Li cổ vẫn ùn ùn tràn tới như thủy triều, vây lấy chúng tôi từ hai phía, quay đầu nhìn thì vách đá bốn phía đã bám kín mấy thứ buồn nôn kì dị kia. Chúng va chạm vào nhau, trong chốc lát không gian chung quanh tràn ngập thứ tiếng động quỷ quái khiến đầu người ta muốn nứt tung ra, mới phân tâm một chút thôi đã thấy mấy con bọ nhảy thẳng vào mặt, không cẩn thận là dính chưởng như chơi.

Chúng tôi vẫn tiếp tục lùi xuống, có điều không nhanh bằng lũ bọ ấy, chẳng mấy chốc xung quanh đã bị bao vây chật cứng. Trong lúc tưởng như đã tuyệt vọng, lão Dương nổ súng. Phách tử liêu nổ giòn một tiếng tan quét sạch một mảng li cổ trên đỉnh đầu chúng tôi, mấy chiếc mặt nạ gần đấy vỡ nát, vụn trắng lả tả rơi xuống như tuyết.

Nhưng chưa đến một giây sau, chỗ trống vừa tạo ra trên vách đá đã nhanh chóng được lấp đầy bằng một đám li cổ khác. Lão Dương thấy cách này vô dụng, nhanh chóng lấy áo trùm kín đầu, hét với tôi: “Lão Ngô! Tôi yểm trợ cậu, mau mau bịt miệng lại rồi đi lấy cây đuốc đi!”

Tôi ngẩng lên nhìn, cây đuốc vẫn còn ở nguyên vị trí lúc nãy tôi thuận tay gắn vào, khu vực xung quanh không thấy li cổ, hẳn là bọn chúng sợ lửa. Chỉ có điều giữa tôi và cây đuốc lúc này là trùng trùng điệp điệp li cổ, cơ bản không tài nào qua nổi. Tôi hét lại với lão Dương: “Để tôi bọc lót cho, cậu đi đi!”

“Tôi không được! Cậu chịu khó một chút đi!” Lão Dương vừa kêu lớn vừa dùng phách tử liêu đập loạn xạ. “Mẹ kiếp, thực là cóc có gì hay ho!”

Tôi nhìn lũ bọ, lòng thoáng run rẩy. Đám li cổ này thực ra không phải lợi hại gì lắm, có điều số lượng quá đông, lại có lớp mặt nạ cứng bảo vệ, thành ra khó mà giết hết, hơn nữa bọn chúng là thứ còn tồn tại sinh trưởng được sau tận mấy nghìn năm. Thật khó mà tưởng tượng ra được, thời ấy vì bảo vệ cây đồng này mà cổ nhân nghĩ ra biết bao thứ kì dị đến thế.

Lão Dương lại thoát khỏi một đám li cổ nữa, định trèo lại gần chỗ tôi, nhưng vừa ngẩng lên nhìn tôi một phát, hắn đã ngây người ra: “Lão Ngô, sao cậu lại thế này?”

Tôi nhìn hắn đứng đực ra, mấy con li cổ trên vai đang nhăm nhe chui vào trong lớp áo, hét lên: “Cái gì mà ‘sao lại thế này’? Cẩn thận!”

Lão Dương lúc này mới phản ứng, cuống quít phủi đám li cổ trên vai đi, sau đó nói với tôi: “Lão Ngô, tôi nói cậu… cậu không phát hiện ra sao? Không bình thường chút nào!”

“Cái gì không bình thường?” Tôi kéo hắn qua, sốt ruột gào lên: “Đợi cái gì nữa, nói toẹt ra xem nào!” (;_______;)

“Cậu xem, trên người cậu không có con li cổ nào! Sao chúng lại không leo lên người cậu? Sao lại có chuyện đó được!”

Tôi cúi đầu nhìn, a lên một tiếng, nhìn qua trợ lý Lương và lão Dương, trên người cả hai bám đầy li cổ, phủi mãi không hết, tôi thì lại chẳng dính lấy một con.

Tôi chợt thấy hơi hồi hộp, nghĩ lại thì trừ lúc nãy bị một con rơi vào mặt ra, chẳng có con quái nào bò lên người tôi nữa cả. Vừa rồi tôi loạn hết cả lên thành ra không phát hiện, lại còn nghĩ mình vận khí không tồi, giờ xem ra có chỗ không thích hợp. Tôi nhìn xung quanh mới thấy bọn li cổ kia đúng là có bò tới chỗ tôi thật, nhưng gần tới nơi rồi thì lại đột ngột chuyển sang hướng khác, tránh tôi như tránh cây đuốc vậy.

“Sao lại thế này?” Tôi tự thấy kì quái, bèn chạy tới quơ lấy một chiếc mặt nạ gần đó, tay còn chưa chạm tới nơi, một mảng li cổ vội vàng lùi răm rắp ra sau.

Tôi nhìn lão Dương, lão Dương nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau trân trối. Hắn kêu lên: “Ông nội tôi ơi, một chiêu này thật lợi hại! Tay cậu không dính cái gì đấy chứ, nhìn thử xem!”

Tôi đưa tay lên ngó. Ngoài từng mảng máu đọng lại từ vết thương lúc nãy cộng với lớp đất bẩn ra, tay tôi cũng chẳng có gì bất thường cả.

Thật là lạ, bọn chúng vì sao lại sợ tôi? Không lẽ loài ký sinh trùng cũng biết lựa chọn?

Tôi nhìn bọn li cổ lùi ra sau, nhớ lại màn Muộn Du Bình đẩy lùi lũ bọ ăn xác, trong đầu hiện ra dấu hỏi to đùng.

Từ từ, không lẽ là… máu?

Làm sao có thể, chẳng lẽ đám bọ hung hãn tàn bạo này lại sợ máu của người thường là tôi?

Tôi nghi nghi hoặc hoặc nhìn tay mình, đầu óc rối cả lên, chuyện gì cũng không hiểu.

Lão Dương bên kia sắp không chống đỡ được, tôi như phản xạ duỗi tay về phía hắn thử xem sao. Chuyện xảy ra tiếp theo khiến tôi chỉ biết nghẹn họng mà trố mắt ra nhìn: đám li cổ đang bám trên người lão Dương cứ như gián gặp phải thuốc diệt côn trùng, từng con từng con lùi lại phía sau, hệt như lần nọ đám bọ ăn xác kia thấy máu của Muộn Du Bình vậy.

“Không phải chứ!” Cằm tôi đã rớt xuống đất, lòng thầm nghĩ không cần phải nể mặt tôi đến vậy chứ.

Lão Dương không hiểu mô tê gì, cứ kêu gào phải trèo lên lấy cây đuốc, tôi vỗ vỗ vai hắn nói: “Từ từ đã, cậu xem, hình như có chút không thích hợp.”

Nói xong tôi đưa tay ra, đi vài bước về phía trợ lý Lương đang run lẩy bẩy bên kia, chỉ vài bước thôi, đám li cổ quanh đó đồng loạt lùi ra hệt như triều xuống. Tiếng động do mấy chiếc mặt nạ răm rắp chạm vào nhau phát ra đột nhiên nhiễu loạn, thay vào đó là thứ thanh âm chi chi hoảng hốt.

Lão Dương trợn mắt há mồm nhìn tôi như thể thấy quái vật, tôi không để ý tới hắn, trèo lên trên, tiến lên giơ tay trước mặt trợ lý Lương. Chiếc mặt nạ đột ngột co rúm lại, tôi nhanh tay bắt lấy, dùng sức giật nó ra khỏi mặt anh ta, tiện thể giật ra một thứ gì nhầy nhụa trông giống “đầu lưỡi”. Trợ lý Lương lúc này đã rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, “đầu lưỡi” kia mới rời khỏi yết hầu một phát, anh ta liền bật người nôn mửa, nôn đến một thân dơ hầy.

Li cổ trong tay kịch liệt giãy dụa làm tôi gần như tuột tay tới nơi, hơn nữa cái thứ “đầu lưỡi” kia thực sự rất tởm, tôi đành đập mạnh nó lên tảng đá gần đó, nước xanh lè dính đầy lên tay.

Đám li cổ bên cạnh đã lùi ra nhưng không lùi xa, chúng tạo thành một vòng vây thật lớn quanh chúng tôi, lại còn không ngừng thu hẹp lại. Lão Dương nhanh chân đi lấy cây đuốc về quét một vòng, đẩy bọn chúng ra xa một chút. Lúc này trợ lý Lương ho lên hai tiếng, xem ra sắp tỉnh, lão Dương thì đã đi lấy cái ấm nước để thu phần dây thừng còn thừa. Tiếc là thực phẩm và những trang bị khác của chúng tôi vẫn còn ở trong hai cái ba lô treo trên cây bên kia, không biết có cách lấy lại được không nữa.

Tôi đổ chút nước vào lòng bàn tay, đang dấp dấp môi cho trợ lý Lương thì lão Dương trở lại. Vừa nhìn thấy tôi, hai hàng nước mắt của hắn tuôn ra ròng ròng, tôi vừa trông qua đã trợn tròn hai mắt, vội vàng chạy tới lôi hắn sang một bên. Thần kinh lão Dương đã căng thẳng trong một thời gian dài, rất dễ bị kích động, tôi phải ra sức trấn an hắn là chúng ta có cây đuốc đây, bọn chúng không dám tới đâu, để hắn thả lỏng một chút, chứ không hắn phát khùng lên mất. Lão Dương nhìn đám li cổ không dám tới gần mới thở dài nhẹ nhõm, kéo cây đuốc lại giữa chúng tôi, hỏi: “Lão Ngô, chuyện này là sao, từ lúc nào mà cậu trở nên “trâu bò” như vậy hả? Cũng không chịu thể hiện sớm nữa, bắt cả bọn chật vật như thế này.”

Tôi nhìn tay mình, lắc lắc đầu: “Mẹ nó, tôi còn không biết nữa là, cứ tưởng nằm mơ chứ.”

Lão Dương nhìn máu dính trên tay tôi, quệt quệt vài đường, cũng không tin lắm chuyện tôi siêu nhân như thế, hỏi tôi: “Lúc nãy trên đường đi cậu có dính phải thứ gì không? Cậu cẩn thận ngẫm lại xem… Không chừng là đụng phải thứ gì khắc tinh của bọn mặt nạ này mà không biết đó.”

Tôi ngồi nghĩ lại, cái gì tôi chạm qua thì họ cũng chạm qua rồi, chỉ có máu của tôi là họ chưa đụng vào thôi, nhưng mà chuyện này không có khả năng… Nếu máu tôi thực sự lợi hại như vậy, hồi ở Lỗ Vương cung tôi đã phát uy rồi, đâu có chuyện lãng phí cả đống máu như thế… Chẳng lẽ lúc đó dính phải máu người ta nên giờ còn công dụng, không phải đâu – tôi lắc đầu, gạt phắt ý nghĩ đó đi.

Trợ lý Lương tỉnh lại, nghe chúng tôi nói chuyện mới hỏi xảy ra việc gì, anh ta bị mặt nạ che mắt, chẳng thấy được gì cả. Lão Dương lại có ý bắt chẹt tôi, mới nói với trợ lý Lương: “Anh biết không, lúc nãy lão Ngô của chúng ta uy phong như thế này này…”

Trợ lý Lương nghe hắn nói, kêu lên một tiếng, hỏi tôi: “Tiểu Ngô ca, cậu nghĩ lại xem, có phải cậu từng nếm qua một thứ màu đen, to khoảng chừng này…”
 
Quyển 3 - Chương 28: Kỳ Lân Kiệt


Editor: Cassie Woonie

Beta: Tiểu Điệp ♥ω♥

Tôi vốn đang kinh ngạc, hắn lại đột ngột hỏi như thế, nhất thời không nghĩ ra được gì, lắc lắc đầu nói: “Lớn như vậy á? Hình như là chưa ăn bao giờ thì phải, nói thế nào nhỉ? Trợ lý Lương, anh rốt cuộc muốn nói đến cái gì vậy?”

Trợ lý Lương quệt lấy một ít máu của tôi, chăm chú quan sát rồi nói: “Vừa rồi nghe kể lại tình hình, tôi chợt nhớ ra một chuyện. Trước kia tôi từng nghe một vị tiên sinh nói rằng trên đời này có một thứ trông như mảnh giáp màu đen, người nào ăn nó máu có thể trừ tà, cả côn trùng cũng không dám đến gần, là một loại thuốc bắc vô cùng hiếm thấy. Cậu thử nghĩ kỹ lại xem đã từng ăn cái gì tương tự chưa?”

Tôi à lên một tiếng, mảnh giáp màu đen ? Thuốc bắc? Đúng thật là làm khó tôi rồi, dạo gần đây có quá nhiều chuyện xảy ra, ăn uống lúc nào cũng vội vội vàng vàng, cũng chưa từng mắc bệnh gì, nên tôi cũng chẳng để ý tới việc bản thân đã ăn thứ gì cho lắm, bây giờ đột nhiên hỏi thật sự chẳng nhớ được cái gì hết.

Lão Dương cười giễu tôi: “Ông đây chỉ nghe nói rằng máu chó đen, máu gà trống có thể trừ tà, quả thật không nghĩ đến là lão Ngô nhà chúng ta cũng có bản lĩnh này. Chuyện này tốt nhất là cậu đừng có để lộ ra ngoài nghe chưa, nếu không khắp nơi người người tìm cậu xin máu, chẳng mấy chốc mà cậu thành cái xác khô đấy nhá.” Nói xong lại phá lên cười lớn.

Tôi mắng: “Con mẹ nó cậu có thể tích chút công đức cho cái miệng cậu không vậy? Cái gì mà chó với gà! Tôi cho cậu biết, máu người từ xưa đã là thứ có thể trừ tà rất tốt, đặc biệt là máu của tử tù, trên pháp trường còn có người nhờ pháp y trám máu vào vải trắng rồi buộc lên xà nhà. Không hiểu đừng có ăn nói lung tung.”

Lão Dương thấy tôi có vẻ giận, đắc ý cười to hơn, mới cười được hai tiếng, đột nhiên kêu lên “Ôi… ”, đứng dậy vuốt vuốt lưng, khóe miệng run run. Đại khái là do vết thương lúc trước, bây giờ vừa cười cho đã đời khiến cho cơn đau lại nhói lên.

Tôi rủa thầm rõ đáng đời, không thèm để ý tới hắn nữa, quay sang trợ lý Lương: “Anh phải nói cho rõ ràng để tôi còn hình dung được cụ thể một chút chứ. Màu đen, hình mảnh giáp, thứ như thế nhiều lắm. Nó có đặc điểm gì nổi bật không?”

Trợ lý Lương nhăn mày suy nghĩ rồi ngượng ngùng nói: “Bản thân tôi cũng chưa từng nhìn thấy tận mắt, chỉ là nghe người khác nói đến từ khá lâu rồi, mấy thứ đặc thù gì đó thực sự không nghĩ ra.”

Tôi nghe thế không khỏi thất vọng thở dài.

Trợ lý Lương cười cười: “Tiểu ca, cậu đừng để ý quá như thế, cũng không phải chuyện gì xấu cả. Vừa rồi nếu không có cậu chẳng phải tất cả chúng ta đã xong đời rồi sao. Tôi thấy đây là số mệnh đã được định trước rồi. Cậu nghĩ mà xem sau này mà đi đổ đấu, có khả năng này đụng thứ gì cũng không lo không hạ được nha.”

Tôi nghe xong cũng chẳng thấy có hứng thú gì, chỉ mới đi được một đoạn đường mà đã thành như thế này, phải nói số tôi quá xui. Sau này mà còn muốn đi đổ đấu, chắc là lúc đó chết chắc. Tôi ngẩng đầu lên nói với bọn họ: “Mà nói đi cũng phải nói lại, bây giờ không thể làm xét nghiệm, không thể biết có đúng là máu tôi có tác dụng thật hay không, nếu không phải thì phiền lắm. Nhân cơ hội này tốt nhất chúng ta nên đi nhanh lên một chút, qua ải này rồi hãy nói.”

Trợ lý Lương vốn định tiếp tục nghỉ ngơi, nhưng lại nhìn thấy đám cổ trùng vẫn đanmớig rục rịch ẩn núp tứ phía, đành đồng ý với ý kiến của tôi. Chúng tôi lại nhích người bò được mấy bước, lão Dương đột nhiên túm lấy tay tôi khiến tôi dừng lại, giọng khàn khàn: “Chờ… Chờ một chút!”

Tôi quay đầu lại nhìn, thấy sắc mặt hắn trắng bệch, trán lấm tấm mồ hôi, vẻ mặt rõ ràng không ổn chút nào. Tim tôi đập thịch một cái, vội vã hỏi hắn làm sao vậy?

Lão Dương một tay bám vào nham thạch, một tay vuốt vuốt sau lưng, nghiến răng nói: “Tôi cũng không biết làm sao, vừa rồi mới cười một tiếng, lưng liền đau muốn chết, có thể vừa rồi lúc sợi dây đứt bị va đập mạnh làm tổn thương gân rồi, cậu xem thử coi, sao mà đau khiếp thế này, chẳng còn chút sức lực nào hết.”

Vừa rồi sau khi dây thừng đứt lìa thực sự lực va chạm không nhẹ, tôi đã sớm cảm thấy đau nhức khắp mình mẩy, nhưng vừa rồi tình huống nguy cấp, không có thời gian lo lắng nọ kia, bây giờ căng thẳng tạm trùng xuống, những vết thương này lại bắt đầu phát tác. Lão Dương ở đoạn dây dưới cùng, bị va đập mạnh hơn chúng tôi nhiều, không biết có bị gãy xương chỗ nào không.

Tôi bảo hắn đừng có cử động, vén áo hắn lên, thấy phía sau lưng ở vị trí xương sườn thứ ba chỉ có một vệt máu đọng, nhưng mà bị lõm xuống một chút, tôi thuận tay ấn xuống một cái, hắn đột nhiên rống lên như lợn bị chọc tiết, oằn lưng ra sau, tưởng chừng như muốn đụng ngã chết tôi.

Tôi thầm rủa không hay rồi, bị thương thế này xem ra không nhẹ, động một chút mà đã đau như vậy chẳng lẽ gãy xương thật?

Lão Dương mặt nhăn mày nhó gượng dậy, khó khăn quay đầu lại hỏi tôi tình hình thế nào. Tôi cau mày, không biết nói sao với hắn cho phải, đành bảo: “Nội thương thế này không biết chắc được, mà cậu lại đau như vậy, chúng ta không thể đi tiếp được. Xương cốt đã suýt gãy lại còn vận động quá mức, không thể nói đùa được đâu. Phải tìm chỗ nào bằng phẳng một chút để kiểm tra cẩn thận xem sao.”

Lão Dương một lòng muốn đi tiếp, nhăn mặt cố gắng đứng dậy, cắn răng nói: “Kiểm tra cẩn thận thì miễn đi, đèn pin và đuốc của chúng ta cũng không thể duy trì trong thời gian dài được, lên được trên kia rồi nói sau.”

Trợ lý Lương nhìn lưng của hắn, lắc đầu nói: “Không được, Dương ca, tiểu Ngô ca nói đúng đấy, lưng anh bị biến dạng rồi, nhất định phải xem xét kỹ, nếu gãy xương thật thì phải xử lý ngay, nếu không thì đoạn xương gãy sẽ đâm vào lồng ngực, lúc đó thì xong đời, vấn đề này tôi cũng có biết qua loa một chút, hiện tại chúng ta cũng không còn cách đích bao xa nữa, dừng lại một chút cũng không sao đâu.”

Lão Dương còn muốn đôi co với hắn một hai câu, nhưng hình như thật sự là quá đau, khóe miệng nhếch lên lại biến thành rên rỉ, tôi thấy bên cạnh có cái động nhỏ tương đối bằng phẳng, nháy mắt với trợ lý Lương, hai người không nói thêm nữa mà lẳng lặng dìu lão Dương đặt xuống chỗ tốt nhất trong động. Tôi cầm cây đuốc cắm ở cửa động để tránh cho lũ cổ trùng bò vào.

Cái động này ước chừng sâu khoảng bảy, tám mét, cao không đến một mét, bởi vì quanh năm ánh mặt trời không rọi tới được, không khí lại vô cùng ẩm ướt, có một tầng nham trên vách đá bị nấm mốc ăn mòn lấm tấm. Dường như có một chút dấu vết sinh hoạt của con người, nhưng mà cũng không rõ ràng cho lắm. Đi sâu vào độ năm, sáu mét có thể nhìn thấy đáy huyệt động là một khối nham thạch thô ráp. Còn lại chẳng có gì nữa.

Tôi xem xét một chút, thấy không có gì nguy hiểm, mới thu cây súng lại. Trợ lý Lương dùng phách tử liêu làm vật cố định, dùng sợi dây buộc vào lưng lão Dương, sắc mặt lão mới dịu lại một chút. Tôi chợt nghĩ, người này không giống chỉ làm trợ lý, cái gì cũng biết. Xem ra lần sau nếu có đổ đấu, nhất định cũng phải tìm nhân tài như vậy.

Trợ lý Lương vừa xong việc tôi liền sà vào hỏi hắn tình hình thế nào rồi, hắn hạ giọng nói với tôi: “Xương chắc là không gãy, nhưng khẳng định bị rạn rồi, tôi mới cố định tạm thời cho cậu ta, chắc là không đau nữa, nhưng mà tiểu Ngô ca, cậu tốt nhất phải khuyên bạn của cậu, đã bị như vậy rồi tuyệt đối không thể tiếp tục trèo lên trên được đâu.”

Tôi thấy trợ lý Lương liếc mắt một cái, biết hắn có ẩn ý gì đó, đại khái là khuyên chúng tôi nên đi xuống. Dọc đường đi hắn ám chỉ cho tôi cũng không phải một hai lần, hơn nữa, mạo hiểm như vậy đối với hắn mà nói quả thật vô cùng miễn cưỡng, tôi thấy hắn đã sớm có ý định thoái lui rồi, nhưng bởi lão Dương quá kiên trì mà không nói ra được. Nay hắn đã tìm được một cái cớ, đương nhiên phải tranh thủ cơ hội nói ra rồi.

Nhưng nếu vậy thì tôi cũng không biết có nên tin tưởng vào lời nói của hắn về thương thế của lão Dương hay không đây.

Trợ lý Lương thấy tôi còn hoài nghi, lập tức nói: “Tiểu Ngô ca, mặc dù tôi không chung đường với các cậu, nhưng tất cả đều là người trên giang hồ, có một số việc tôi không đời nào giả bộ ngớ ngẩn để lừa gạt. Tự cậu cũng biết, nói thật, cậu nhìn xem hiện tại bộ dạng chúng ta như vậy, nếu vẫn tiếp tục đi lên, chỉ sợ ngay lúc này sẽ chết ở đây mất.”

Tôi nhìn thoáng qua lão Dương, thấy hắn còn đang cố gắng chịu đau, không để ý đến chúng tôi đang nói gì, vì thế tôi vỗ vỗ bả vai trợ lý Lương, nhẹ giọng nói với hắn: “Chuyện này tôi còn muốn xem tình hình thế nào đã, anh cũng đi nghỉ ngơi, bây giờ nói cũng không phải lúc. Cho dù là muốn đi xuống, cũng phải nghỉ ngơi đủ rồi mới đi được.”

Trợ lý Lương thở dài một tiếng, dựa vào một bên, xoa xoa bắp đùi của mình, không lên tiếng nữa. Tôi cũng ngồi xuống kiểm tra mấy thứ đồ còn lại, day day huyệt thái dương, bắt đầu suy nghĩ những lời của trợ lý Lương.

Tôi vốn cũng chẳng có hứng thú lắm với Lý Tỳ Bà. Trước kia nếu muốn tôi bỏ cuộc, tôi cũng sẽ không có ý kiến gì. Nhưng bây giờ đã thiên tân vạn khổ trèo lên tới đây, đến lúc này mới nói bỏ cuộc, quả thật có chút không cam lòng, có cảm giác lâm trận rồi lại lùi bước. Nhưng tôi cũng hiểu rõ, trợ lý Lương nói không phải không có lý, hiện tại chúng tôi một người gãy xương, một người thể trạng vốn không ổn định, mà ngay cả bản thân tôi cũng đã đến cực hạn, nếu như còn cố chấp muốn trèo lên, thật sự là hành động không sáng suốt.

Nhưng nếu cứ như vậy, để thuyết phục lão Dương vẫn là rất khó. Dù sao tôi và hắn mới là người cùng hội cùng thuyền, bây giờ lại hợp tác với người ngoài để đối phó hắn, không chừng sau này đến bạn bè cũng không được nữa. Hơn nữa trợ lý Lương này nhìn qua có vẻ rất vô dụng nhưng vẫn là người từng trải trên giang hồ, không chừng hắn đang muốn tách chúng tôi ra, nếu cứ theo ý kiến của hắn mà đi có thể sẽ rơi vào bẫy của hắn, quả thật là tiến thoái lưỡng nan.

Nghĩ đi nghĩ lại vẫn không nghĩ ra được gì, tôi quyết định không nghĩ nữa, đến đâu hay tới đó vậy.

Tôi quay đầu lại xem hai người, trợ lý Lương đã ngủ rồi, hắn đã quá mệt mỏi, ngủ còn ngáy khò khè nữa. Lão Dương cũng lim dim, nhưng mà ngủ không sâu, đại khái là do vết thương trên lưng. Cái hang nhỏ này tuy rằng ẩm ướt lạnh lẽo, nhưng so với treo ngược ở bên ngoài vẫn thoải mái hơn nhiều, tôi thấy bọn họ ngủ ngon như vậy, tự nhiên mệt mỏi cũng kéo tới, mặc dù tự nhủ trong lòng rằng bản thân không được ngủ, nhưng lại ngủ mất tiêu lúc nào không biết.

Giấc ngủ này quả là cực kỳ sảng khoái, nhưng khi tỉnh lại chỉ thấy toàn thân mềm nhũn, một loại cảm giác đau nhức khắp người. Lúc này cây đuốc đã vô cùng yếu ớt, chắc chắn tôi đã ngủ rất lâu. Ló đầu ra ngoài nhìn thử, cổ trùng đã không thấy đâu nữa, chỉ có vài con vẫn còn thập thò ngoài đó.

Tôi nhẹ nhàng thở ra, bật đèn pin soi về phía trước, từ nơi này nhìn lên, tôi đoán chúng tôi chỉ còn cách đỉnh cây đồng khoảng ba bốn giờ mà thôi, đồ đạc ở trên đó, có thể nói là lấy được khá dễ dàng, bây giờ mà đi xuống thật sự có chút đáng tiếc.

Lão Dương còn chưa tỉnh dậy, nhưng sắc mặt bình ổn, chắc đã khá lên nhiều. Tôi quay đầu sang trợ lý Lương muốn đánh thức hắn, bàn bạc bước kế tiếp nên làm sao bây giờ, vừa nhìn, chợt phát hiện mới vừa rồi hắn còn nằm ở cái chỗ kia, bây giờ đã không thấy đâu nữa.

“Uhm?” Tôi hơi sửng sốt một chút, lấy đèn pin chiếu sâu vào trong sơn động cũng không thấy tung tích của hắn, tự nhủ người đi đâu mất rồi? Lúc này, tôi bỗng không thấy cây phách tử liêu vốn làm cố định vết thương cho lão Dương đâu cả, lập tức toàn thân đổ mồ hôi lạnh, một chuỗi dự cảm không lành ồ ạt kéo tới, vội sờ sờ bên hông mình, quả nhiên súng của tôi cũng mất rồi.

“Khốn kiếp!” Tôi mắng to một tiếng, thật sự không nghĩ tới hắn lại là loại người như vậy, lén trộm súng của tôi trong lúc tôi đang ngủ! Nhưng mà, tại sao hắn không lấy luôn cả đèn pin, không có công cụ chiếu sáng, hắn hành động thế nào được? Tôi lòng như lửa đốt, cũng không suy nghĩ cẩn thận, vớ lấy cây đuốc muốn đi ra ngoài đuổi theo hắn, người này khá chậm chạp, nếu như đi chưa lâu, tuyệt đối có thể đuổi kịp.

Vừa mới bước tới cửa động, tôi còn chưa biết là hắn đi lên hay đi xuống, trước mắt đột nhiên lại lóa lên một tia ánh sáng. Một tốp bóng đen từ phía trên đáp xuống, đạp một cước vào ngực tôi. Tôi chỉ cảm thấy một luồng khí dâng lên, cả người ngã vào trong động. Sau khi ngã xuống đất, tôi cắn răng muốn đứng lên, nhưng cằm lại bị giáng cho một cú, lần này vô cùng đau, tôi cơ hồ muốn ngất xỉu, đang mơ mơ màng màng, chợt thấy một gã béo miệng ngậm điếu thuốc tiến vào động, tay cầm một khẩu súng ngắn, trợ lý Lương mặt mày tái mét theo sau hắn.

Tôi nhìn thoáng qua liền nhận ra kẻ mập mạp kia, chính là một trong hai ông chủ tiệm đồ cổ Quảng Đông, hình như là họ Vương thì phải. Hắn chĩa súng về phía tôi, để tôi bước sang một bên, quay đầu lại nói với trợ lý Lương: “Lão Lương, đó chính là người đã ăn Kỳ Lân Kiệt sao?”
 
Quyển 3 - Chương 29: Tiếp cận


Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Earl Panda

.

********

.

Trợ lý Lương hất hất hàm về phía tôi, vẻ mặt đầy khinh bỉ. Tôi rủa thầm trong miệng, đúng là loại ăn cây táo rào cây sung. Trên đường đi ông đây cũng coi như có ơn với ngươi, không ngờ ngươi lại trở mặt như trở bàn tay thế này. Sớm biết có ngày hôm nay ông đây đã đá ngươi lại, tránh di họa về sau rồi.

Lão béo lôi từ trong ba lô ra một ít chất đốt rắn, nhóm lửa lên. Nhiên liệu này thường dùng khi leo núi tuyết, vừa có thể thắp sáng, vừa có thể sưởi ấm. Cả sơn động lập tức sáng bừng lên. Xong xuôi đâu đấy, gã lại ném cho tôi mấy thanh lương khô trong khi họng súng trường đen ngòm vẫn lăm lăm chĩa về phía tôi.

Cầm lương khô trong tay mà tôi ngẩn cả mặt, trong lòng chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra liền thảy trả lương khô cho lão: “Giờ mạng bọn tôi nằm trong tay các người, muốn giết thì giết quách đi, nhiều lời vô ích!”

Trợ lý Lương nhếch mép cười, quay sang lão béo: “Đấy, tôi đã nói rồi mà, đúng là thanh niên trẻ tuổi có khác, vẫn còn chưa rõ được tình cảnh của mình là gì đâu.”

Ông chủ Vương lắc đầu, lại ném lương khô cho tôi: “Này chú em, tuổi còn trẻ mà đã phiêu bạt giang hồ, đáng ra đầu óc mày phải nhanh nhạy một chút chứ. Tao đã cho mày đồ ăn tức là sẽ không hại đến mấy thằng ranh chúng mày. Thái độ này mà gặp phải mấy thằng cha nóng tính, coi như chú mày đút đầu vào chỗ chết rồi.”

Người này nếu so với lão Thái thì phong cách khác hẳn nhau, lão kia chỉ nhìn qua cũng đủ nhận ra chính là loại giết người không ghê tay. Lão béo đây có vẻ hiền hòa thân thiết, khiến người ta cảm thấy thư thái hơn. Có điều cú đá lúc nãy của lão ta rất có lực, chắc chắn một người buôn đồ cổ bình thường không thể làm được. Tôi nghĩ mãi không ra rốt cuộc thân phận thực sự của lão ta là gì.

Ông chủ Vương dường như nhận ra sự nghi ngờ trong ánh mắt tôi liền rít mạnh một hơi thuốc, đoạn nói tiếp :”Tao tất nhiên không giống bọn lão Thái, tao là người làm ăn. Nơi thương trường không có bằng hữu vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn.”

Trợ lý Lương ngắt lời: “Ông chủ Vương, tốt nhất ông nên nói toạc ra đi, đầu óc hai đứa nhóc này không thông minh lắm đâu. Thằng họ Ngô còn dễ nói, chứ chờ thằng nhãi đang ngủ kia tỉnh dậy sẽ vất vả hơn đấy.”

Ông chủ Vương bật cười, bảo tôi: “Được, người ngay không dối trá, tao lật bài ra luôn. Tao chỉ kinh doanh, không thích động đao động kiếm. Tình huống hiện giờ bọn mày đều rõ cả, cho dù không rơi vào tay tao, chúng mày cũng khó lòng trở ra. Lão Thái đã chết rồi, đối phó với chúng mày cũng chẳng còn gì thú vị nữa. Mày nghĩ cho kỹ xem, có muốn hợp tác cùng tao không. Tao đảm bảo mấy thằng bây vừa nhàn thân, vừa trúng quả lớn.”

Đây chẳng phải mấy lời tôi từng nói với trợ lý Lương sao? Mẹ nó chứ, chỉ qua mấy tiếng đồng hồ mà tôi đã thành kẻ thất thế, đúng là trời đất đảo điên hết rồi.

Thấy mặt tôi cứng đơ, lão ta vẩy vẩy điếu thuốc: “Chú mày không đồng ý cũng không sao, tao sẽ cung cấp thêm trang bị, chúng mày cứ thoải mái tự nhiên mà đi xuống dưới. Nhưng xem ra đầu óc chú mày cũng hạn hẹp thật, vác theo một thằng thương binh dặt dẹo thế này, đi thế nào được?”

Lão ta nói không phải không đúng, tôi cũng thấy lòng rúng động. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, lão có trang bị vũ khí đầy người, sao còn muốn hợp tác với tôi làm gì? Hệt như phô của cải ra mời người ta bâu vào kiếm lời vậy. Chắc chắn là có âm mưu rồi. Bọn họ rặt một đám dân giang hồ gian trá xảo quyệt, mọi người đều thấy trợ lý Lương đi cùng chúng tôi cả một chặng đường dài lúc nào cũng treo bộ mặt ton hót ra sao, đến khi có cơ hội, thấy chúng tôi không hề đề phòng tức thì đảo khách thành chủ. So với bọn họ chúng tôi quả nhiên còn quá non nớt, bọn họ có muốn hợp tác chắc chắn có mục đích.

Ý nghĩ xẹt qua trong đầu, tôi đã nung nấu một kế hoạch trong lòng. Điều kiện bọn họ đưa ra trước mắt tôi cứ đáp ứng giống như khi trợ lý Lương ngoan ngoãn đi theo chúng tôi vậy, sau này mới tính đường đào tẩu. Huống hồ lời lão ta nói cũng không sai, muốn đưa lão Dương xuống bình an cần thêm ít nhất một người trợ giúp, tôi đây chỉ có một thân một mình, sẽ vô cùng khó khăn. Hai người kia khinh thường tôi ra mặt thế kia đúng là giẫm vào vết xe đổ của tôi lúc trước, chắc chắn tôi sẽ tìm được cơ hội đảo khách thành chủ, chí ít cũng cướp được một khẩu súng.

Nghĩ tới đây, sắc mặt tôi dịu xuống, giả bộ do dự hỏi lão ta: “Được, xem ra các ông nói cũng có tình có lý, có thể tôi sẽ hợp tác cùng các ông. Nhưng trước hết hãy giải thích cho tôi, các ông cần đến tôi làm gì?”

Ông chủ Vương thở phào nhẹ nhõm, nháy mắt với trợ lý Lương một cái. Rồi lão ta vỗ vai tôi bảo: “Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, anh bạn trẻ họ Ngô ạ, cậu đã gật đầu thì chúng ta xem như người một nhà. Tôi cũng sẽ không giấu diếm cậu điều gì nữa mà sẽ nói tuốt ra luôn, có điều hơi dài dòng văn tự một chút, chúng ta vừa ăn vừa từ từ trò chuyện, thế nào?”

Nhìn điệu bộ xán lại gần của lão ta mà máu tôi sôi lên ùng ục, chỉ muốn bóp chết tươi lão già này ngay lập tức, nhưng ngoảnh lại thấy nòng súng trong tay ông chủ Vương vẫn hằm hè chĩa vào phía mình thì đành nén giận, nở nụ cười gượng gạo: “Cứ nói.”

Trợ lý Lương ngắm nghía vỏ cây Thanh Đồng: “Nói đến thứ này thì vô cùng khó lường. Căn cứ theo những thông tin trong “Hà Mộc Tập” thì lần đầu tiên phát hiện ra cây đồng này là thời Bắc Ngụy, năm Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười ba.”

Sau khi Lý Tỳ Bà chết, chỉ trong một thời gian ngắn, trợ lý Lương đã cẩn thận nghiên cứu toàn bộ các phần của “Hà Mộc Tập” qua một lượt. “Hà Mộc Tập” là một loại ghi chép rất tùy ý, có chỗ dùng ngôn ngữ của người câm, có chỗ lại dùng chữ Hán, lại còn có một vài phần ngắn sử dụng thứ kí tự không ai hiểu nổi. Đoạn liên quan đến vật này đa phần viết bằng ngôn ngữ của người câm. Hiện tại trong cả đại lục, chỉ có chưa đầy hai mươi người có thể đọc được loại ngôn ngữ này. Trợ lý Lương chính là một trong số đó.

Những chuyện ghi chép bằng chữ của người câm, tổng cộng có ba sự kiện chính:

Sự kiện thứ nhất là vào thời Bắc Ngụy, năm Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười ba, tại khu vực mỏ quặng ở núi Thái Bạch có một viên giám sát báo rằng, có một thợ mỏ phát hiện ra một cây cột Thanh Đồng cổ, gốc dường như chôn sâu vào trong núi. Không có bất cứ dấu hiệu nào, cũng như không thể hiểu nổi phần trong đất của cây cột đó dài bao nhiêu.

Vụ này cũng gây nên một đợt sóng gió ở địa phương. Có người nói đây là cây cột có linh tính, anh càng đào xuống càng thấy nó dài, vĩnh viễn cũng không thấy đầu. Có người bảo đây là chuôi rìu của ông Bàn Cổ thời khai thiên lập địa, kiên trì có thể đào được cả cái rìu ra. Thậm chí có ông thầy phong thủy còn khăng khăng đây là đinh của Ngọc Hoàng đại đế đóng xuống, ghim chặt long mạch của Tần Lĩnh lại, nếu không con địa long này sẽ bay lên trời. Cây trụ này cắm sâu tám trăm dặm, nhất định không được đào lên. Nếu đào lên, toàn cõi Trung Quốc sẽ gặp điều xúi quẩy.

Ít lâu sau, một đạo quân câm điếc nhận được mật lệnh liền lên núi Thái Bạch xác định xem truyền thuyết là thực hay hư, nhưng chính đạo quân này lại mất tích một cách li kỳ (có khi bị chính những người dân địa phương giữ lăng giết sạch cũng nên). Bốn tháng sau, một đạo quân khác lại nhận được mật lệnh, chính họ đã tìm ra cây Thanh Đồng rồi dẫn theo ba nghìn tử tù, cho chúng tiếp quản núi Thái Bạch. Bọn họ niêm phong cả tòa núi, hạ trại rồi tiếp tục đào bới.

Sự kiện thứ hai là vào mùa xuân năm Bắc Ngụy Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười tám đã đào liên tục trong vòng bốn năm ba tháng. Ba nghìn tử tù đã thông đến tận hang đá vôi hiện tại chúng tôi đang đứng, nhưng đào đến sát chân núi vẫn không thể tìm ra rễ của cây đồng, trái lại tìm được một chiếc tráp đá vân rồng rỗng bên trong. Hình như bên trong có chứa một vật, nhưng hoàn toàn không có kẽ hở, loay hoay mãi cũng không tài nào mở được. Bọn họ không dám làm liều, đành dâng chiếc tráp vào cung.

Sự kiện thứ ba khá ngắn gọn. Cuối năm Bắc Ngụy Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười tám, trong “Hà Mộc Tập” có ghi, hoàng đế ban thưởng, phong tước nhị phẩm, mỗi người được thưởng hai trăm kim, toàn bộ quân đoàn mở tiệc khao quân. Đến lúc say xỉn, chủ nhân “Hà Mộc Tập” cùng mấy binh sĩ tinh anh đầu óc đã nửa mê nửa tỉnh, đánh cược với nhau xem ai dám trèo lên cây Thanh Đồng cổ thụ kia.

(chép tới đây thì bên dưới sử dụng một thứ ngôn ngữ hoàn toàn kỳ quái, không biết có dụng ý đặc biệt gì không. Trợ lý Lương không thể hiểu được, thật đáng tiếc.)

Trợ lý Lương bảo chúng tôi chỉ có ông chủ Lý Tỳ Bà có thể hiểu loại ngôn ngữ này, nhưng khi hắn hỏi thì lão ta khóa chặt miệng không hé một lời, bí ẩn vô cùng. Không biết là có nguyên do gì.

Phần cuối “Hà Mộc Tập” có một đoạn chữ Hán ghi lại quá trình trèo. Nếu tính từ vị trí hiện tại của chúng tôi hướng lên trên thì sẽ có một sạn đạo vây bởi vách núi đá. Đó là sạn đạo xây dựng dành cho hoàng đế đến kiểm tra, đáng tiếc gần lên đỉnh không hiểu sao không thể xây lên thêm được nữa, hơn nữa, trong quá trình xây lại còn có người ngã xuống vực một cách bí hiểm.

Chúng tôi ra khỏi hang động thấp đó. Ông chủ Vương đưa cho tôi một cái ống nhòm, tự tay bật đèn pin chiếu sáng cho tôi. Sau khi điều chỉnh tiêu cự, quả nhiên tôi nhìn thấy trên mặt đất cách mình một khoảng không xa có một đoạn sạn đạo bằng gỗ dựng trên vách đá, lượn vài vòng hướng về phía trước. Đèn pin của chúng tôi nguồn hơi yếu, không thể chiếu xa nên lúc nãy không hề phát hiện ra.

Ông chủ Vương có ý rằng, nếu leo thẳng bằng sạn đạo kia sẽ có thể tiết kiệm rất nhiều công sức. Có điều, trên sạn đạo chắc chắn tồn tại những điều kỳ quái. Trợ lý Lương là thư sinh trói gà không chặt, đánh đấm đương nhiên mù tịt. Tốt nhất là để cho hắn ở lại nghiên cứu, hai người chúng tôi đi là đủ.

Tôi thì không lạc quan đến thế. Dí mắt vào ống nhòm mãi tôi vẫn không thể nào nhận ra hình thù của sạn đạo. Ánh sáng nơi này mù mịt vô cùng, hơn nữa bên cạnh sạn đạo còn có những sợi rễ cây chằng chịt quấn vào, hoàn toàn không hề giống với những sạn đạo dựng bằng thép trong những khu du lịch tôi đã từng đi qua. “Hà Mộc Tập” viết vào thời Nam Bắc triều, tới nay đã trải qua hàng ngàn năm, sạn đạo này không biết đã hoàn thành hay chưa, có chắc chắn hay không lại càng không biết.

Ông chủ Vương nói công trình xây dựng năm đó là để hoàng đế ngự lãm, hoàn toàn không phải thứ làm tạm bợ nên sẽ được thiết kế và thi công rất kỹ lưỡng. Hiện nay còn tồn tại rất nhiều công trình kiến trúc cổ thời Hán, tất cả đều trong tình trạng bền vững nên lão ta cho rằng vấn đề không mấy to tát. Nếu thực sự không xong, chúng tôi còn có một cơ số dây thừng, cộng thêm sạn đạo kia thì việc leo lên chỉ là chuyện nhỏ.

Lão nói vô cùng dứt khoát, không để người khác xen miệng vào được câu nào. Tôi chửi thầm trong bụng, đành nén lòng mà ngậm tăm. Quay sang bàn bạc với trợ lý Lương, quyết định cho tôi nghỉ ngơi thêm chừng mười lăm phút, sau đó lão béo dẫn tôi đi lên, trợ lý Lương và lão Dương ở lại.

Chợp mắt được một lúc tôi cũng thấy khỏe lên nhiều, lại ăn thêm chút thức ăn. Ông chủ Vương cũng ngồi xuống, dùng tiếng Quảng Đông tán dóc với trợ lý Lương. Tôi không hiểu được hoàn toàn, nhưng đại khái cũng biết họ đang nói chuyện có liên quan đến Kỳ Lân Kiệt mà lão béo kia từng nhắc tới. Đối với việc này, trong lòng tôi cũng hơi thắc mắc, liền tự nhủ giờ quan hệ giữa tôi và bọn họ cũng đã dịu đi ít nhiều, đây lại là thời cơ để hỏi cho rõ ràng. Tôi liền hỏi trợ lý Lương xem Kỳ Lân kiệt rốt cuộc là thứ gì, có nguy hại hay không.

Trợ lý Lương đáp: “Cậu không cần lo lắng. Khi đó tôi không kể hết sự tình cho các cậu chẳng qua là để nắm đằng chuôi, đề phòng khi các cậu chuồn mất thì còn có cơ hội lật ngược tình thế. Giờ chúng ta đã chính thức liên minh, tôi sẽ nói cho tâm tư cậu khỏi khó chịu.”

Kỳ Lân kiệt chính là máu kỳ lân đông kết thành cục, là một vị thuốc Đông y vô cùng quý giá. Nhưng nó hoàn toàn không phải máu kỳ lân thật mà là nhựa của một loại thực vật. Thứ cây này có tên là Kỳ Lân Huyết Đằng, còn có cách gọi khác là Huyết Xà Đằng, chủ yếu mọc ở phía Nam.

Kỳ Lân kiệt lưu giữ càng lâu càng có công hiệu. Ban đầu nó chỉ có công dụng bình thường là dùng làm thuốc, nhưng trong Đông y còn có một cách sử dụng không mấy phổ biến, đó là để xông lên thi thể. Thời cổ đại, một số dân tộc thiểu số hoặc trong một vài sơn thôn có tập tục đặt một khối Kỳ Lân kiệt trên rốn của thi thể rồi nhập liệm. Cách làm này có thể loại bỏ âm khí của thi thể, dù thối rữa nhưng cũng không sinh ra giòi bọ.

Kỳ Lân kiệt lâu dần sẽ từ màu đỏ sậm biến thành màu đen. Tuổi càng lớn màu đen càng trầm. Đến một thời điểm nhất định, tính chất sẽ biến đổi, nuốt vào sẽ tan ra. Sau khi người sử dụng, côn trùng không thể lại gần, mùa hè ngay cả muỗi cũng không dám đốt.

Tất nhiên là truyền thuyết này trợ lý Lương cũng chỉ nghe người khác kể lại, hôm nay lần đầu tận mắt nhìn thấy mới bắt đầu tin có chuyện như vậy thật. Về phần có tác dụng phụ hay không thì chẳng hề có ghi chép gì cả. Nhưng thông thường độc tính của thuốc Đông y rất thấp, hắn cũng khiến tôi bớt lo: “Nhân nói đến chuyện này, tôi thấy rắc rối nhất vẫn là đám cổ trùng. Thời điểm ghi chép trong “Hà Mộc Tập” không hề tồn tại thứ mặt nạ như thế này, không thể khẳng định được là người xưa bày nghi trận hay không, chỉ biết rằng họ đã động thủ giết chết hàng ngàn mạng người bên ngoài. Khi hai người đi lên hãy cố gắng cẩn thận, không được phép sơ suất.”

Chúng tôi nghỉ một lúc, lão Dương vẫn chưa tỉnh, lão béo bèn tháo trang bị xuống cho tôi. Tôi đầu đeo đèn pin, lưng mang dây thừng, hướng về phía sạn đạo mà xuất phát.

Nhìn qua thì quãng đường đến sạn đạo không hề xa, nhưng trên thực tế thì luôn khác hẳn, khoảng cách thật sự xa hơn rất nhiều. Chúng tôi dự định khoảng một giờ sẽ lên đến đỉnh, kết quả là nửa giờ sau mới lết được tới phía dưới sạn đạo.

Lúc này tôi phát hiện ra, lão béo nói không sai chút nào. Sạn đạo được bảo tồn cực kỳ tốt, không hẳn vì xây dựng cho hoàng đế nên chắc chắn đến thế mà là do đang trong giai đoạn sửa chữa, bên ngoài được bao quanh bằng một lớp hành lang bằng trúc phủ sơn. Chất liệu này chống ẩm rất tốt, trải qua xâm thực mấy trăm năm mà vẫn rắn chắc vô cùng. Khi bước lên, tôi còn có thể nghe thấy những tiếng cót két dẻo dai.

Nơi này có vẻ gần sát với bề mặt trái đất, bên vách đá dựng đứng rủ xuống vô số rễ cây, giống hệt như những cây leo cuốn vào lan can. Có cả những đoạn rễ khổng lồ, thoạt nhìn y hệt bộ xúc tu của bạch tuộc che kín cả sạn đạo. Càng lên cao những thứ này càng lắm, khiến đường trở nên rất khó đi. Vài đoạn bị cả bộ rễ bao bọc bên trong không còn chỗ đặt chân lên, đành phải rút dao ra chặt bớt mở đường hoặc lồm cồm trèo qua.

Rễ cây ăn xuống rất sâu khiến các tầng nham thạch đều đã rạn vỡ hết. Chốc chốc đất đá lại rào rào rơi xuống, chúng tôi tay thì ôm đầu, chân thì rón rén bước trên sạn đạo, đi thì đi được đấy nhưng trong lòng thấy khổ sở không để đâu cho hết.

Chúng tôi đi rất chăm chú, không để ý tới đã lên cao được bao nhiêu vòng thì phía trước sạn đạo bỗng xuất hiện một cái hố khổng lồ, chắc đường kính phải đến mười mét. Có lẽ cái hố đó là do nham thạch bị phá vỡ sụp xuống mà thành. Tôi căn thử khoảng cách rồi quay đầu lại nói với ông chủ Vương: “Bó tay rồi. Muốn vượt qua phải dùng dây thừng.”

Từ lúc xuất phát chúng tôi đã đi liên tục gần một tiếng đồng hồ, nhưng nhìn xuống mới thấy quãng đường đi được chẳng đáng là bao. Xem ra còn khuya mới lên được đến ngọn cây, đừng nói là trong vòng một giờ ngắn ngủi. Đi nhanh nên tốn sức vô cùng, chúng tôi đành nghỉ ngơi một lúc. Hang động vừa rộng vừa trơn tru này bên trong lại vừa âm u vừa ẩm ướt, đi được có quãng ngắn ngắn đó thôi mà quần áo tôi đã đầm đìa mồ hôi, dính chặt vào người khó chịu muốn chết. Khoảng nửa tiếng nữa mà không thoát khỏi cái đống ướt sũng này chắc tôi lăn ra ốm mất, phải nghĩ cách sưởi ấm mới được.

Chúng tôi tìm một chùm rễ cây phủ bên trên sạn đạo, ông chủ Vương lấy nhiên liệu ra rồi lại lấy dao găm cắm vào cây. Tôi cởi quần áo, đầu tiên hong khô đồ lót sau đó mới ăn qua quýt một chút. Ông chủ Vương mặt mũi rất nghiêm trọng, vừa nói chuyện với tôi vừa rọi đèn mỏ vào cây đồng ở phía đối diện. Săm soi một hồi, lão ta nói: “Cậu xem kìa, từ đây đã có thể nhìn thấy ngọn. Trên đó là cái gì vậy?”

Tôi cầm ống nhòm lên ngắm. Trên cao cách khoảng mười mét là ngọn của cây đồng, những rễ cây rủ xuống theo vách động gần như che kín hết một vùng, cố gắng lắm mới có thể nhìn thấy được. Bộ rễ chùm cực kỳ lớn, một lượng lớn rễ con quấn chặt vào cây đồng. Nếu bên trong thực sự có thứ gì đó thì cũng không thể rõ được.

Sạn đạo bao quanh vách động hướng lên trên còn xa hơn nhiều so với ngọn cây đồng. Về điểm này có vẻ không giống nội dung trong “Hà Mộc Tập” cho lắm. Trải qua biết bao thời gian đào bới, cây đồng nặng nề này càng lúc càng có xu hướng chìm sâu xuống tầng nham thạch, sau hàng trăm năm đã gần chạm tới sạn đạo.

Bộ rễ trùm xuống ngọn cây rất có thể là của cây đa mà chúng tôi nhìn thấy từ đỉnh núi Kim Ngư khi mới đặt chân đến đây. Cây đa đó rất lớn, hơn chục người vòng tay ôm không xuể, đám rễ cây kia xem ra còn đồ sộ hơn cành lá rậm rạp. Chúng giống như những móng vuốt quỷ trắng bệch, cũng từa tựa một đám vải vóc tả tơi vắt bừa ra đó. Có lúc tôi lại cảm giác chúng như một bàn tay khổng lồ đang tóm lấy thân cây đồng lôi ra khỏi chốn âm ty địa ngục, có lúc giống như tô-tem khổng lồ hình một con cự mãng hóa thạch ngàn năm, khiến người ta nổi cả da gà da vịt.

Tôi đang nhìn say sưa, bỗng nghe thấy giọng lão béo vang lên bên tai: “Rễ cây um tùm như vậy, chắc chắn tầng đá này chính là lớp đất bề mặt. Hang động này là hang tự nhiên, người xưa khi hiến tế không thể đục xuyên núi được. Phía trên nhất định có một hệ thống hang động thông ra bên ngoài. Nếu việc bất thành, chúng ta cũng không cần theo đường cũ để về đâu.”

Tôi thấy lão ta nói cũng có lý mà như mở cờ trong bụng, không đi đường cũ đúng là phúc đức ba đời. Nhưng hang động này quá rộng, chắc chắn không phải nơi tốt lành gì. Muốn thoát ra khỏi đây phải phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nữa. Ông chủ Vương đẩy tôi: “Ngọn cây thì là như vậy, nhưng cậu nhìn đi, trong mớ rễ kia hình như có một bức tượng đồng. Có điều xa quá, tầm nhìn hạn chế, chúng ta kiếm chỗ nào nhìn cho rõ xem.”

Tôi nhìn theo hướng lão ta chỉ tới ngọn cây, phát hiện ra trong đám rễ chằng chịt hình như có hai cánh tay đúc bằng thanh đồng. Ở Giáp Tử Câu chúng tôi đã từng nhìn thấy một pho tượng cổ hoa lá cành rất giống pho này, nhưng khuôn mặt tượng đã bị mấy tên trộm mộ cho nổ nát bét. Lúc đó tôi bỗng có linh cảm khuôn mặt đó chắc chắn không bình thường, giờ nhìn kỹ mới thấy rõ hình dạng của cái thứ này.
 
Quyển 3 - Chương 30: Lối cũ


Edit: Dứa

Beta: Earl Panda

**********

Theo lý mà nói, muốn xem mặt bức tượng kia không khó, có điều chúng tôi đang từ dưới nhìn lên, ở góc độ này dù có đứng chỗ nào đi nữa cũng không thể thấy rõ được. Chuyện này khiến tôi thất vọng, cảm giác bất an đối với pho tượng lại càng tăng lên.

Ông chủ Vương hình như cũng có chung cảm giác với tôi, càng muốn nhìn càng nhìn không rõ, sốt ruột tới độ mặt mũi xanh mét cả ra. Chúng tôi đổi chỗ nhìn mấy lần đều không được, cuối cùng quyết định trước hết cứ đi qua chỗ sạn đạo(*) sập xuống này đã. Vách đá nơi này toàn là rễ cây, đứng trên đó không có mấy khó khăn, bên dưới còn có mấy lớp sạn đạo nữa, có rơi xuống cũng không chết được, chẳng việc gì phải sợ.

Chúng tôi quay lại rìa đoạn sạn đạo đã bị sập cạnh đó, ông chủ Vương kiểm tra độ chắc của sợi rễ buông xuống gần đó, dùng cuốc đa năng móc vào, nhanh nhẹn leo lên trên vách đá. Tôi một bên dùng đèn pin chiếu sáng cho lão ta, một bên thầm nguyền rủa cho ổng lộn cổ xuống, có điều nhìn lão ta thế mà thân thủ không xoàng chút nào, loáng cái đã sang đến bên kia, bước lên sạn đạo.

Lão quay lại ném cuốc đa năng cho tôi, sau đó lật đật chạy tới trước, chắc là sốt ruột muốn xem thử bức tượng kia rốt cuộc là thứ gì. Tôi bật ngọn đèn gắn trên đầu, bắt chước ổng leo lên vách đá, một tay dùng cuốc đa năng làm điểm tựa, tay kia bám theo những sợi rễ mà tiến tới. Mấy sợi rễ này không biết đã bao nhiêu năm tuổi, sờ lên cứng hệt như đá, không giống thứ còn sống. Những đường vân bên trên giống như lớp vảy trên thân động vật, nếu không nhìn kĩ rất dễ nhầm là hóa thạch sinh vật cổ.

Tôi cẩn thận di chuyển từng chút một, mới được nửa đường đã nghe lão già Vương bên kia kêu lên: “Nhanh sang đây mà xem, ở chỗ này nhìn rất rõ, phía trong lớp rễ cây kia có một… một pho tượng! Không biết là tạc thành hình thù gì nữa.”

Tôi nghe lão ta nói, cắn răng dùng cả tay lẫn chân bám vào một sợi rễ, đu sang phía bên kia, sau đó bật đèn pin đuổi theo. Lão ta đã leo đến tầng sạn đạo thứ ba, dùng ống nhòm xem xét đám rễ cây Thanh Đồng. Tôi nhìn theo hướng ngắm của ổng, vì góc độ khác nhau nên mặc dù thấy được bên trong đám rễ có thứ gì đó, nhưng cụ thể là gì thì không nhìn rõ.

Tôi thở hồng hộc đuổi theo sau, nhận ống nhòm từ tay lão ta, lúc đó mới quan sát rõ, bên trong đám rễ uốn éo như mãng xà kia lộ ra những cánh tay bằng đồng đã rỉ sét. Xét số lượng, xem ra trong đó có ít nhất bốn pho tượng quay về bốn hướng. Dựa vào phần lộ ra ngoài cũng không cách nào phán đoán chuẩn xác được cái này có phải cùng một khuôn mẫu khắc ra hay không, những bộ phận khác đều bị vùi sâu bên trong rễ cây, nhìn sơ qua thì thấy kích thước của nó khá lớn, đại khái không hơn kém mấy so với khối đá chúng tôi đã thấy trên sườn núi.

“Chỗ tốt” mà lão Dương nói hẳn không phải là mớ rễ cây khủng bố kia rồi, vậy hẳn phải là thứ được đám rễ ấy bao quanh. Nhưng dù cho mấy pho tượng đó có giá trị tới mấy thì chúng tôi cũng không tài nào mang đi nổi, hẳn là bên kia phải có chuyện gì kì lạ mà chúng tôi không biết, có đứng ở bên này tới Tết cũng không tài nào hiểu ra được, nhất định phải sang đó xem sao.

Chúng tôi tiếp tục đi trên sạn đạo, càng đến cuối hang động càng rộng ra, khoảng cách giữa cây Thanh Đồng và vách đá ngày một thu hẹp, chúng tôi cũng mỗi lúc một quan sát được rõ hơn. Hóa ra trên đỉnh cây có một đài hiến tế hình tròn, bốn phía có bốn bức tượng đồng kia trấn giữ. Chúng tôi vốn nghĩ đổi hướng nhìn là có thể thấy mặt của mấy pho tượng đó, có điều càng lên cao càng thất vọng, tất cả đều bị giấu kín trong lớp rễ kia, muốn thấy rõ ràng sợ là chỉ có một cách: chặt đám rễ đó đi.

Chúng tôi đi tới đoạn sạn đạo song song với đài hiến tế kia, ông chủ Vương đứng lại quan sát một lát, nói với tôi: “Bốn pho tương đặt ở bốn góc, chứng tỏ ở giữa phải còn thứ gì nữa. Nếu chúng ta có trang bị ở đây có thể leo lên trên, dùng đèn pha chiếu sang cho rõ ràng, tiếc là tất cả đều rơi xuống thác nước hết rồi. Không còn cách nào nữa, cậu thanh niên à, chúng ta buộc phải sang đó thôi.” Nói rồi lão ta tháo lấy phần lưỡi của cuốc đa năng uốn thành hình móc câu, buộc vào dây thừng làm thành một sợi dây neo, sau đó xoay sợi dây vài vòng như cao bồi rồi ném sang bờ bên kia.

Lưỡi cuốc vạch một đường parabol trên không trung, móc vào một rễ cây ở đài hiến tế đối diện, quấn vài vòng dây thừng lên đó. Ông chủ Vương kéo căng sợi dây làm phần rễ bên kia hơi chuyển động, một đám sâu xám quái gở theo chỗ hở giữa những sợi rễ tràn ra, nhanh chóng tỏa ra bốn phía.

Ông chủ Vương nhíu mày nói: “Cậu thanh niên, lần này cậu đi trước đi!”

Tôi biết tỏng là lão ta kiêng kị đám sâu nọ, đành chửi thầm một câu trong bụng, quan sát một lúc thì thấy khoảng cách từ bên này sang bên kia gần hơn khoảng cách chúng tôi vừa mới leo qua lúc nãy, chắc chẳng có việc gì đâu. Tôi bèn gật đầu, bám vào sợi dây.

Bò được một đoạn, tôi không khỏi khâm phục ông chủ Vương. Dây thừng này được giăng rất tốt, tạo thành một đường chếch xuống dưới sáu mươi độ, chỉ cần dùng hai chân kẹp lấy sợi dây là sẽ tự nhiên tiến tới, chẳng tốn mấy công sức. Tôi thuận lợi trượt thẳng về phía trước, tới gần phần rễ cây trên đài hiến tế thì chụp lấy, dừng lại.

Ông chủ Vương bên kia ra hiệu với tôi, ý bảo tôi xem xét tình hình bên đó trước. Tôi nhìn thấy một đám sâu xám, chúng không phải li cổ mà trông giống ấu trùng của loài ve, nhiều thì có nhiều nhưng xem ra chẳng nguy hại gì. Tôi đuổi bọn chúng đi, quay lại ra hiệu cho ông chủ Vương, lão ta dùng đèn pin chiếu quanh quất một lúc, thấy rõ là không có sâu mới bò lên sợi dây.

Rễ cây nơi này lớn gấp hai ba lần bắp đùi tôi, quấn loạn thành một khối, chỗ nào mấy sợi rễ tiếp xúc với nhau thì gần như đã dính liền thành một, chỗ nào không tiếp xúc thì tạo thành một khoảng trống lớn bằng một thân người. Năm tháng trôi qua, cả một vùng cây mọc lẫn vào nhau, những khoang trống bên trong thông với nhau tỏa ra bốn phía. Hiện tượng này là bình thường ở những cây đa rừng, có nơi cả vạt rừng, thậm chí cả cánh rừng đa mọc dính vào nhau, những động cây nối liền liên tu bất tận, có lối vào mà không có lối ra, ma quái hơn cả những khu rừng quỷ.

Chúng tôi quan sát một vòng quanh đám rễ, nhận ra những cái cây này tuổi đã lớn lắm rồi, quây kín lấy nơi đây, hoàn toàn không thể nhìn thấy bên dưới. Đám rễ cây thì có làm thế nào cũng không suy suyển, thực là bó tay. Im lặng một lát, ông chủ Vương nói có thể theo những khoang rỗng bên trong cây để xuống dưới quan sát, chúng tôi cứ chia nhau ra, lần lượt xem xét từng khoang một, ắt sẽ thấy được.

Tôi thấy chuyện này cũng không phải không khả thi, có điều lão ta chẳng hề bàn bạc thảo luận gì với tôi cả, chỉ khoát tay bảo tôi tiến hành đi.

Tôi có cảm giác người này vô cùng thô lỗ, hơi giống Vương Bàn Tử tôi đã gặp trước đây, nghĩ thầm chẳng lẽ hai người là họ hàng? Có điều Bàn Tử mà tôi biết là người rất đáng mến, tính tình dễ chịu, còn lão già này thì trái ngược hoàn toàn.

Rễ cây mọc chồng chéo lên nhau như một nấm mồ, dùng đèn pin chiếu vào bên trong khoang rỗng cũng không thấy gì cả. Chúng tôi mất nửa ngày, làm đến mướt mồ hôi cũng chẳng quan sát được gì sất. Thắt lưng tôi nhức nhối vì hoạt động mạnh, đau đến toát mồ hôi lạnh toàn thân.

Cả hai không còn cách nào nữa, ông chủ Vương nhìn tôi, đột nhiên chửi ầm lên: “Tổ sư nó, chẳng lẽ Lý Tỳ Bà dám giỡn mặt ta!”

Tôi cũng thầm nghi hoặc, nếu nơi này quả thực không có gì cả, tại sao lão Dương lại cường điệu lên như thế? Hắn hẳn sẽ không giỡn nhảm như thế này, vậy thì vấn đề là ở chỗ chúng tôi, rốt cuộc là chúng tôi đã bỏ sót chỗ nào?

Hai chúng tôi không nói câu nào, chỉ lặng im suy nghĩ. Tôi nghĩ lão Dương đã nói dối tôi suốt dọc đường đi, mặc kệ là có tính toán bí ẩn gì, chủ đích vẫn là muốn dụ tôi đến nơi này, vậy mà khi đến đây rồi thì lại chẳng thấy gì hết. Mà cái việc gọi là không thể cho tôi biết, hoặc là có cho tôi biết cũng chẳng làm được gì kia, rốt cuộc là việc gì? Giờ thì chẳng nhìn ra một tí gì cả.

Tôi đang thần người ra thì ông chủ Vương đột nhiên đẩy đẩy vai tôi, tôi quay lại định hỏi, lão ta lại ra hiệu im lặng.

Tôi thấy khó hiểu, còn lão ta thì khoát tay, cẩn thận kéo tôi ngồi xuống, chăm chú lắng nghe tiếng động bên trong lớp rễ…

Tôi lập tức nín thở, nghiêng tai lắng nghe. Nơi này không có tiếng gió thổi, giữa không gian rộng lớn tịch mịch, áp tai vào rễ cây có thể nghe thấy âm thanh “Híc… Híc… Híc…” rất nhỏ truyền ra từ bên trong, nghe giống tiếng răng va lập cập của người bị lạnh cóng.

Âm thanh này không lớn, phải chú ý mới có thể nghe được, lại rất có âm luật, không giống tiếng huyết thi, bọn sâu bò trong đám rễ đương nhiên cũng không thể phát ra âm thanh như thế được.

Ông chủ Vương nhỏ giọng nói: “Những âm thanh này vang lên rất đều đặn, cứ như tiếng hòa thượng gõ mõ ấy, xem ra là âm thanh hoạt động của cơ quan nào đấy. Dưới này chắc chắn phải có một thứ gì đó, nhưng không biết là còn sống hay đã chết thôi.“

Mồ hôi mẹ mồ hôi con túa ra đầy đầu tôi, trong rễ cây mấy ngàn năm tuổi này có người đang rên rỉ, có thể nào là gặp thụ yêu rồi không? Tôi vừa định mở miệng thì ông chủ Vương dùng tay ngăn lại, lão ta lắc lắc đầu, giơ súng lên, mở chốt an toàn, ra dấu bảo tôi đi theo rồi rón rén đi về phía phát ra tiếng động. Chúng tôi đi đến động rễ bên cạnh, phát hiện âm thanh là từ đây truyền ra, ông chủ Vương mở đèn pin chiếu vào bên trong, âm thanh im bặt.

Lão ta liếc nhìn tôi: “Phải rồi, hẳn là nơi này, trong ‘Hà mộc tập’ có nói từ đây có thể đi vào bên trong. “

Tôi nhíu mày nói: “Động rễ nơi này phức tạp quá, phức tạp hơn hẳn so với hệ thống động đá vôi rộng rãi ngoài kia, hơn nữa chúng ta không biết những ống đồng này có rỗng ruột hay không, tùy tiện vào đó quá nguy hiểm.”

Lão ta gật gật đầu: “Đúng vậy, cho nên hai chúng ta không thể cùng vào một lúc được, phải có người đi trước dò đường.”

Tôi thầm giật mình, đừng nói là lão ta sẽ bắt tôi đi trước nữa đó chứ.

Thấy tôi do dự, lão nhấc khẩu súng, nhẹ giọng nói: “Tôi béo lắm, cậu đi trước, tôi đi sau chiếu đèn cho cậu, đừng lo, không xảy ra chuyện gì đâu.” Nói rồi lão ta đẩy tôi tiến về phía trong động.

Tôi cúi đầu nhìn xuống phía dưới đen đặc, quay lại thì bắt gặp ánh mắt gay gắt của ổng, khuôn mặt âm u đầy tử khí. Tôi cắn chặt răng, không thể làm gì khác ngoài mang ngọn đèn gắn trên đầu, một lần nữa đóng vai vật thí mạng. Đang định đi vào thì lão ta kéo tôi lại, đưa cho tôi một cái bộ đàm nho nhỏ, nói: “Nếu bên trong quá sâu thì dùng thứ này. Thôi đi đi, cậu là thanh niên trẻ tuổi tài cao tương lai xán lạn mà~.”

Tôi chửi thầm trong lòng, cầm lấy bộ đàm nghiên cứu cách sử dụng, sau đó bỏ vào túi: “Ông chủ Vương, người ngay thẳng không ăn nói vòng vo, tôi đây là đi liều mạng cho ông, không lẽ ông không cho tôi thứ vũ khí phòng thân nào sao? Vạn nhất tôi bị mắc kẹt ở bên trong, ai đảm bảo ông sẽ không giở trò? Không đưa súng cũng được, ít ra cũng phải có đao kiếm gì chứ?”

Ông chủ Vương đề phòng liếc tôi một cái, đại khái cảm thấy lời tôi nói cũng có lý, mới miễn cưỡng cúi xuống rút từ trong giày của mình ra một thanh dao găm nhỏ quăng cho tôi, nhìn tôi cười xòa: “Cậu xem, tôi già cả lú lẫn, quên trước quên sau thôi.”

Tôi chụp lấy con dao, phát hiện đây là loại dao cán dài chuyên dùng để bào da. Tự nhủ méo mó có còn hơn không, tôi chửi một tiếng, cúi đầu tiến vào trong động. Mùi ẩm mốc từ bên trong xộc ra, tôi mang mặt nạ phòng độc, tiếp tục tiến vào bên trong.

Trong động rất ẩm ướt, vỏ rễ không cứng như bên ngoài mà lại rất mềm, còn có rất nhiều loại nấm không biết tên mọc tràn lan, hàng đàn ấu trùng ve bị tôi làm cho hoảng sợ, chạy trốn tứ tung. Tôi đi được một đoạn thì khựng lại, phía trước xuất hiện đến mấy lối rẽ, nên đi hướng nào?

Nhìn kỹ thì một trong mấy ngã rẽ đó có dấu hiệu, chắc là do người đi trước vẽ lên, mặc kệ, tôi cứ đi theo con đường đã được đánh dấu đó, được mấy mét nữa, phía trước đột nhiên biến mất, nửa thân trên đã nhô ra bên ngoài.

Nửa thân trên của tôi vướng ở cửa động, tôi bật ngọn đèn trên đầu, quan sát một vòng xung quanh. Nơi này là một không động thấp bé, bên trong có một cái bàn được bện bằng rễ cây. Kỳ thực nơi này được bao bọc bên trong đám rễ kia, lại ở chốn heo hút, tôi không hiểu nổi vì sao lại xuất hiện thứ này, bỗng nhiên phát hiện bên trong đám rễ có một phiến đá lộ ra.

Nhìn kỹ, đó là một thạch quách (quan quách làm bằng đá) thật lớn, phía dưới là quan sàng cũng bị đám rễ cây quấn chặt. Dựa vào khoảng cách tôi đã đi mà đoán, nơi này có lẽ chính là trung tâm của đài hiến tế, là nơi có thứ chúng tôi muốn tìm.

Tôi bò đến bên cạnh chỗ thạch quách lộ ra, lúc này mới thấy rõ, thứ này không phải lớn bình thường mà phải gần bằng một cái container di động, trên nắp quan quách và lớp đồng trên cây có khắc một vòng song thân xà (hình con rắn hai thân). Những nơi khác gần như đã dính liền vào lớp rễ, hoàn toàn không thấy được có gì trên đó.

Ông chủ Vương ở bên ngoài hét to hai tiếng, tôi đi là đi mất dạng, chẳng thấy động tĩnh gì, lão ta cho là tôi đã vào được bên trong cây đồng, hỏi qua bộ đàm: “Cậu thanh niên, bên trong có gì?”

“Có một cái quan quách!” Tôi trả lời, chật vật tìm một chỗ ngồi xuống, nằm úp sấp mãi thật là oải.

“Quan quách? Có nhận ra là của ai không?”

Tôi mắng: “Tôi biết thế quái nào được, có điều muốn đưa nó vào đây không phải chuyện dễ, có thể huy động nhiều nhân lực như vậy, nhiều khả năng nằm trong này chính là chủ nhân của cây thanh đồng.” Đặt quan quách của mình ở đây, phải chăng người này cho rằng lúc ra đi có thể an nghỉ gần thiên cung một chút? Không biết là ai mà lại bạo tay như thế.

Tôi xem đến phía sau, nắp và thân của quách dường như không được đóng chặt, có một sợi rễ len vào bên trong, nâng nắp quách lên một chút. Tôi thấy kì lạ, a lên một tiếng.

Ông chủ Vương nghe thấy, sốt ruột hỏi: “Có chuyện gì thế?”

“Quan quách này… nắp đóng không chặt.” Tôi nói, nhìn khe hở kia. Chẳng lẽ lúc nhập liệm không chu đáo, để cho rễ cây len vào?

Tôi nghĩ một hồi, cho rằng cũng có thể, ban đầu là rễ nhỏ len vào, sau không ngừng sinh trưởng mới nâng nắp quách lên. Rễ cây chung quanh đây mọc lổn ngổn, nói không chừng đã bọc kín quan quách này, từng lớp từng lớp cứng như thế, chúng tôi hay bọn người kia dù có thể chém đứt, cũng không biết tới ngày nào tháng nào mới moi ra được.

Tôi đến bên kẽ hở chiếu đèn vào dò xét, bên trong dường như trống không, tối âm u, ánh sáng chiếu vào như bị màn đêm nuốt chửng lấy, không thấy gì hết.

Xưa nay giới khảo cổ vẫn cho rằng loại quan quách đặt ở giữa quách là phiền toái nhất. Quan quách chính quy đều là vách quan kê sát với vách quách, nhiều nhất cũng chỉ cách nhau độ một li. Quan quách này lại không như thế, không gian bên trong tương đối lớn, vô cùng quái lạ, không biết là vì điều gì. Theo tập tục mộ táng thời Tây Chu, cho dù là hoàng thân quốc thích cũng không sử dụng hình thức khoa trương như thế này. Xem ra trợ lý Lương nói đúng, đây hẳn là mộ của một vị phiên vương, hơn nữa thế lực quốc gia này không hề yếu, ít ra cũng phải ngang bằng với Tây Chu thời đó.

Tôi cầm bộ đàm, nói: “Quan quách này trống không, bên trong không rõ có thứ gì, đèn quan sát của tôi quá mờ so với đèn pin của ông, ông có thể vào được, nơi này an toàn.” Tôi nói xong liền di chuyển tới cửa động lúc nãy, tự nhủ chỉ cần nhà ngươi thò đầu ra, ông đây sẽ khóa chặt lấy luôn cái đầu của ngươi, xem ngươi xoay sở ra sao.

Bộ đàm phát ra vài tiếng nhiễu sóng, lẫn trong đó có vài tiếng nói, tôi nghe không rõ.

“Cái gì?” Tôi hỏi lại.

Xen lẫn giữa những tiếng nhiễu sóng rè rè là những âm thanh gì đó rất kỳ quái, rất ồn ào, hoàn toàn không thể nghe rõ.

————-

(*) Sạn đạo: là con đường nhỏ dùng bắc qua những nơi hiểm trở như vách núi, khe núi…, có thể làm bằng gỗ hoặc chỉ là đường đất.
 
Quyển 3 - Chương 31: Màn sương ma quái


Edit: Dứa

Beta: Earl Panda

~0O0~

Trong không gian chật hẹp u ám, bên cạnh có một cái quan quách nằm sờ sờ, đột nhiên từ trong bộ đàm lại truyền tới âm thanh quỷ mị, lúc thì như tiếng ai kêu khóc, lúc thì như tiếng ai run rẩy tụng niệm gì đó, thực sự khiến cho tôi dựng cả tóc gáy. Tôi vội vàng giảm âm lượng, vỗ vỗ mấy cái xem có chuyện gì không.

Đây là bộ đàm chuyên sản xuất để phục vụ cho quân đội, vỏ ngoài bằng plastic, có thể sử dụng trong những môi trường khắc nghiệt nhất, theo lý sẽ không dễ bị trục trặc như thế. Tôi bật tắt vài lần, âm thanh kia biến mất, từ loa phát ra tiếng rè đứt quãng, giống như có tiếng ai đó gọi, nhưng lại không thể nghe rõ câu chữ. Tôi thử gọi to vài tiếng nhưng không thấy trả lời, chỉnh tại tần số cũng chẳng khá hơn.

Tôi từng vọc qua mấy thứ đồ điện nên biết, âm thanh này không phải do hỏng hóc vật lý mà là do bị nhiễu sóng. Nguyên nhân thì có cả tá, từ lớn như điểm đen trên Mặt trời phát nổ (*) cho đến nhỏ như bị ảnh hưởng bởi thiết bị điện gia dụng, kiểu nào thì cũng gây ra hậu quả như nhau. Tôi bây giờ ở sâu bên trong lòng đất, mấy thứ điểm đen gì đó hẳn không tác động tới được, mà ở trong hang động mênh mông giữa nơi rừng già bạt ngàn này cũng chẳng đào đâu ra thiết bị điện, vậy rốt cuộc là bị thứ gì ảnh hưởng?

Tôi cầm bộ đàm đi lòng vòng xung quanh tìm nguồn gây nhiễu, cuối cùng phát hiện, càng mang bộ đàm đến gần quan quách ở giữa thì tiếng ồn càng lớn, nếu đi xa ra thì tiếng ồn sẽ nhỏ lại bớt, thật là quái lạ. Chẳng lẽ nguyên nhân gây nhiễu nằm bên trong sao? Tôi cẩn thận đưa bộ đàm vào khe hở giữa vách quan và vách quách, trong giây lát, tiếng ồn ào đột nhiên bùng lên dữ dội, hệt như có ai bên trong gào lên thảm thiết. Tôi sợ tới mức suýt nữa buông tay làm rơi bộ đàm trong đấy luôn.

Tôi nghĩ thầm không hay rồi, hẳn là bên trong quan quách có thứ gì đó đang phát ra một luồng sóng điện từ quái dị, chuyện này đúng là không tưởng tượng nổi, là hiện tượng tự nhiên, hay là có điều gì khác thường?

Tôi biết thực vật có thể phát ra sóng tín hiệu yếu, hơn nữa tùy vào điều kiện môi trường mà các loại sóng phát ra không giống nhau. Lấy ví dụ như khi phát nhạc êm dịu trong vườn cây và khi dùng dao cắt thực vật chẳng hạn, sóng tín hiệu chúng phát ra ở hai trường hợp này là hai loại hoàn toàn tương phản, đó được gọi là ngôn ngữ của thực vật. Tuy nhiên các sóng này rất yếu, nếu không có thiết bị chuyên dụng thì còn không thể phát hiện ra chứ đừng nói là có thể dùng bộ đàm thu được.

Hoặc ở một số tình huống đặc biệt, trong điều kiện tự nhiên đặc thù có thể sinh ra một loại sóng nhiễu rất mạnh, ví dụ như đêm trước động đất hay thời điểm núi lửa phun trào, có điều loại sóng này có tính gây hại chứ không ôn hòa như thế này.

Tôi nhìn quan quách rất lớn kia, nghĩ tới một lý do hiếm gặp nhưng không phải không có khả năng: gần hiện trường những vụ thảm sát hoặc những nghĩa địa lớn thường xuyên có sóng điện lạ quấy nhiễu không dứt. Có người cho rằng đó là năng lượng sinh ra trong quá trình phân hủy thi thể, có người lại nói đó là tín hiệu do một lượng lớn âm hồn phát ra. Sóng điện từ mạnh như thế này, phải chăng là do thi thể bên trong quan quách gây ra?

Nơi này vô cùng u ám, những rễ đa già cỗi trắng bợt dưới ánh đèn trông giống hệt những bộ xương rắn kì dị, khiến cho người ta chợt thấy nhộn nhạo, hệt như có thứ gì bên trong chiếc quan quách kia đang điên cuồng giục tôi bước vào. Tôi rợn hết cả người, vội vội vàng vàng tắt bộ đàm đi.

Xung quanh im lặng rồi, tôi liền thấy choáng váng, có lẽ vì không khí nơi này quá ẩm thấp, lại còn có những mùi khó chịu nên tôi bắt đầu thiếu dưỡng khí. Nhận ra tình cảnh hiện tại, tôi chợt thấy lạnh cả người, trong suốt quãng đường vào đây tôi không hề cảm giác được việc này.

Ông chủ Vương bên ngoài cứ gào liên hồi, chắc là không nghe được câu trả lời của tôi, tới lúc cấp bách thì tiếng kêu của lão đã bị ba vòng cây cối ngoài kia chặn lại gần hết, đến chỗ tôi chỉ còn là những âm thanh xa xăm, cứ như người đang vùi dưới mười lớp chăn nghe tiếng ai đó nói chuyện bên ngoài vậy, hầu như không nghe được gì cả.

Vừa rồi tôi còn tính việc lừa ông chủ Vương vào đây để khống chế lão, giờ thì nghĩ khác đi rồi, trước tiên là phải thoát được ra ngoài đã. Nơi này tà khí quá nặng, ở lại lâu khiến người ta không thoải mái chút nào. Phần lớn là do chỉ đi một mình, nếu có hai ba người ở bên cạnh lúc này, tôi hẳn đã bình tĩnh hơn.

Nghĩ tới rồi lại nghĩ lui, bệnh do dự tái phát, mãi mà tôi chưa quyết định được phải làm thế nào. Ông chủ Vương bên ngoài chắc gọi mãi mà không thấy tôi đáp trả, tôi chỉ nghe thấy lão ta chửi vài câu rồi không nói gì nữa, chắc là lão ta cũng không biết lúc này phải làm thế nào. Xem tình hình của ổng lúc này hẳn là không dám vào đây xem thử đâu. Loại người giang hồ thế này đối với mọi người lúc nào cũng thích cậy mạnh, nhưng đến những nơi quỷ quái như thế này, lại nghe nói bên trong có quan quách, theo bản năng vẫn thấy sợ hãi. Quan tài, quan quách là biểu tượng cho cái chết, không tiền bạc hay sức mạnh nào khống chế nổi, là quyền uy không một ai có khả năng lay động, điều này nếu không phải là dân đổ đấu thực sự thì không thể lĩnh hội được.

Mải mê đuổi theo dòng suy nghĩ, chợt tôi lại nghe thấy âm thanh thều thào “Híc… Híc… Híc…” vang lên từ nơi nào không rõ, so với lúc còn ở bên ngoài thì nghe rõ hơn nhiều.

Bây giờ nghe kĩ mới thấy, âm thanh ấy giống như tiếng bước chân người mang guốc gỗ đi trên nền đá, nhưng tiếng động cứ đều đều không đổi, nghe không giống đang đi qua đi lại, mà giống… đang đứng một chỗ nhảy lên nhảy xuống.

Thanh âm này cứ cách một khoảng ngắn lại đều đặn vang lên, trong khung cảnh im ắng nơi này, quả thực là dọa người ta sợ đến mất hồn mất vía. Lúc nãy tôi đã hoảng lắm rồi, bây giờ lại nghe thấy lần nữa, âm thanh ấy cứ như một loại bùa đòi mạng, trái tim tôi cứ run lên từng hồi theo tiết tấu của nó.

Chợt tôi cảm thấy có điều kì dị, cớ sao tôi lại sợ hãi đến vậy nhỉ, tôi đã không còn chết nhát như thế này từ lâu rồi. Trấn định lại một chút, tôi tháo mặt nạ phòng độc của mình ra, hít thở không khí chung quanh. Theo lý thuyết, mặt nạ phòng độc có thể lọc bỏ những loại quái khí có hại cho cơ thể con người, nghĩa là không khí chúng ta hít thở qua lớp mặt nạ này đã được xử lý rồi. Bình thường khí độc được lọc bỏ hoàn toàn, nhưng trong những trường hợp đặc biệt vẫn có những loại khí độc len qua được lớp mặt nạ phòng độc và gây trúng độc cho cơ thể.

Không khí ở nơi này rất kích thích đối với niêm mạc mũi, tôi vừa hít một hơi đã hắt xì, cả người đổ mồ hôi lạnh, vội vã mang lại mặt nạ vào.

Tôi lắng nghe một lát nữa, xác định được âm thanh kia không phải từ nơi khác vọng tới, theo tôi phán đoán phương hướng thì có vẻ tiếng động phát ra từ chính bên trong chiếc quan quách bằng đá kia.

Tôi đổ mồ hôi đầm đìa, một tay để sẵn tại chuôi dao găm, trườn lại gần khe hở kia để nghe cho rõ. Hiềm nỗi tiếng tim tôi đập cứ mỗi lúc một lớn hơn (=.=), chắc đợi tới lúc tôi lại gần chỗ hé ra ở nắp quan quách thì tim cũng vọt ra ngoài mất rồi.

Tôi biết bản thân bị không gian nơi này gây sức ép, lúc trước cứ ngỡ đã hết rồi, bây giờ xem ra vẫn còn. Một trong những điều tối kị lúc này là tưởng tượng vớ vẩn, tôi vừa tự nhắc nhở mình vừa tập trung tinh thần mường tượng cảnh bốn phía đột nhiên sáng bừng lên, không còn tối tăm như trước nữa, lại hít sâu mấy cái, ngăn trái tim tiếp tục đánh lô tô trong lồng ngực. Tôi thở dài, tập trung lắng nghe xem rốt cuộc đây là âm thanh gì.

Ngay lúc đó âm thanh đột nhiên dừng hẳn, bốn phía lại lặng ngắt như tờ. Tôi cứng ngắc cả người, thình lình cảm thấy thứ gì vừa chạm vào vai mình!

Đầu tôi tê dại, mắt tối cả đi, điên cuồng quay lại quơ dao một phát, đèn pin lập tức đụng vào một rễ cây, tắt ngóm, xung quanh tối đen như mực. Ngay sau đó tay tôi bị thứ gì nắm lấy kéo mạnh về phía sau, tôi sợ đến mức không còn tự chủ được nữa, gào to một tiếng, dùng hết sức bình sinh vùng vẫy để quay người lại. Nhánh rễ phía dưới tôi chưa hoàn toàn sừng hóa hết liền gãy đánh rắc, cả người tôi đột nhiên lún xuống, tôi và thứ đằng sau cùng rơi vào một hố nông.

Tôi vừa ngã xuống đã nghe phía sau có tiếng mắng: “Con mẹ mày!” Sau đó đèn pin sáng lên, ông chủ Vương vừa đè nghiến tôi xuống (O__O) vừa chiếu đèn thẳng vào mắt tôi, chói đến độ tôi tưởng mình sắp mù. Tôi giơ tay lên định che mắt thì lão ta giáng cho tôi một tát không nể nang gì, mũi tôi lành lạnh, rồi một dòng máu chầm chậm chảy ra. (Tà của em…)

Đánh tôi xong lão ta còn hung hãn chửi: “Thằng mất nết, dám giở trò với tao à,cho mày chết!”

Tôi liền hiểu ra mọi chuyện, lão già mập Quảng Đông chó chết này thế mà cũng có gan lén mò vào đây Có lẽ thấy tôi không có phản ứng gì, cộng thêm việc trước đó tôi từng giở trò với lão ta, nên lão ta trong bụng có chút kiêng dè tôi, sợ bị tôi giở quẻ lần nữa. Vì thế dĩ nhiên lão ta không dám bật đèn pin mà chỉ len lén tiến đến gần, gặp đúng lúc tôi đang tập trung nghe ngóng thử âm thanh quái quỷ kia, kết quả suýt chút nữa ăn một dao của tôi, thế là lão ta nhầm tưởng tôi có ý định giết lão.

Tôi muốn giải thích, nhưng lão ta lại đang đè ngay cổ tôi, thành thử tôi chẳng nói được tiếng nào. Lão có vẻ giận quá hóa rồ, tát tôi thêm một phát đến ù cả tai. Tôi bực lắm rồi, thầm chửi mẹ cha nhà mày, cứ đùng đùng nhào vào đánh người như thế, cơ bản là đâu xem tao ra gì đâu hả. Chúng tôi lại lăn đi, cứ đấm đá qua lại cho tới khi lăn tới gần khe hở nơi quan quách. Lão ta khỏe hơn tôi nên chiếm được thế thượng phong, đè tôi xuống định bóp cổ tôi, nào ngờ nơi này thấp bé, lão vừa ngẩng đầu đã va ngay vào một rễ cây, đau đến sửng sốt. Tôi thừa cơ đạp mạnh vào háng lão ta, hất lão lăn qua một bên, rồi giật lấy đèn trên tay lão, lại đánh vào đầu lão một phát nữa cho hôn mê bất tỉnh.

Tôi ngồi đè trên người lão khiến lão không nhúc nhích gì được. Sau đó lấy đèn pin soi xem thì phát hiện lão ta không mang theo súng, có thể là sợ bên trong chật hẹp, súng cướp cò tự bắn phải chính mình thì toi. Tôi lần mò trên người lão định tìm dao găm thì đột nhiên lão dùng đầu đập mạnh vào đầu tôi, mạnh đến nỗi tôi nổ cả đom đóm mắt, vội vội vàng vàng lăn qua một bên, đề phòng lại bị tấn công lần nữa. Óc não tôi chắc phải phọt qua lỗ mũi mất rồi.

Ông chủ Vương đứng lên, người dính toàn vụn rễ và nấm mốc, tức giận đến mức mặt mũi méo mó cả đi, hơi thở hổn hển, mắt long sòng sọc. Tôi biết lão ta động sát khí, những kẻ lăn lộn lập nghiệp trên giang hồ như thế này, để có được ngày hôm nay hẳn phải có sát tâm rất nặng, hở một chút là đã nghĩ ngay cách dồn đối phương vào chỗ chết. Xem ra hôm nay thực sự phải một mất một còn với lão ta rồi.

Lão ta hít thở vài cái, rút dao găm từ bên hông ra, một tay chắp sau lưng lao thẳng về phía tôi. Dao của tôi chỉ dài một nửa so với của lão, dù có đâm được lão cũng chẳng trúng phải chỗ nguy hiểm nào, đành phải dùng đèn pin làm vũ khí chiếu thẳng vào mắt lão. Có điều lão mập này quá hung hãn, cơ bản không thèm để ý đến tôi, một bên né khỏi luồng ánh sáng, một bên vọt lại gần tôi nhanh như chảo chớp, vung dao hướng về phía cổ tôi, tôi nghiêng đầu né được, tay trái chộp lấy tay lão, tay phải tắt đèn pin đi.

Mắt lão ta vốn đang quen với ánh sáng mạnh, đột nhiên ánh sáng vụt tắt, theo bản năng liền khựng lại một chút. Tôi nhớ lại vị trí đầu của lão ta, liền cầm đèn pin vung tay đánh một cú thật lực. Chỉ nghe một tiếng rên phát ra, đèn pin lập tức sáng lên. Tôi rọi sang xem thì thấy lão ta bị tôi đánh cho một miệng đầy máu, nằm sóng xoài, hình như đã ngất đi.

Tôi không biết lão ta là giả vờ hay là ngất đi thật, bèn lấy chân đá ổng lại gần khe hở kia, nếu là giả vờ nhất định lão phải có phản ứng, nếu không sẽ rơi vào bên trong quan quách. Tôi lại đạp tiếp vài cái nữa, hai chân lão ta trượt vào bên trong, nhưng đến giữa ngực thì vướng lại. Tôi lại tới gần đạp thêm phát nữa, cho lão ta vào hẳn bên trong luôn đi.

Ông chủ Vương mềm oặt như con cá chết trượt vào bên trong quan quách, tôi vừa thở phào, nghĩ thầm quả nhiên lão ta hôn mê thật thì đột nhiên một cánh tay mập ú thò ra từ bên trong khe hở, nắm lấy chân tôi lôi tuột vào trong.

Lần này quả thực là bất ngờ đến độ không kịp trở tay, tôi vừa thả lỏng một chút đã thấy trước mắt hoa lên, cả người đã lọt vào bên trong quan quách. Tôi thầm kêu thôi toi rồi, chuyện này quả thực trước nay chưa từng gặp, tôi hoảng loạn quờ tay ra xung quanh muốn nắm lấy thứ gì đó, kết quả là chẳng túm được gì, cứ thế rơi thẳng vào trong bóng tối!

Ông chủ Vương lôi thẳng tôi vào, lúc đầu tôi cứ tưởng quan quách này cao cỡ một thân người, giờ vào trong rồi mới biết không phải thế, nơi này có một đường lõm, xem ra là đường vào bên trong thân cây đồng. Tôi trượt thêm vài ba mét mông mới yên vị trên một thứ gì đó, đau ê cả răng. Ông chủ Vương kia cũng thả lỏng tay, hình như muốn bò lên.

Tôi dùng đèn pin rọi bốn phía xem thử lão có ở gần mình hay không, phát hiện xung quanh toàn sương mù trắng đục dày đặc, ngoài bán kính nửa mét chẳng thấy được gì nữa.

Tôi đứng lên, dùng đèn pin huơ huơ xung quanh nhưng đều không chạm phải bất cứ vật gì. Nơi này sương dày như vậy ông chủ Vương rơi vào bên trong hẳn cũng không thấy được gì, có lẽ là đang nấp bên trong đám sương này đi.

Tôi lấy làm lạ, ở nơi này sao lại có nhiều sương mù như thế, nói là huân hương ngàn năm không tan cũng khó mà tin được. Tôi dùng tay quạt vài cái, lớp sương này giống hệt như nước, theo động tác quạt của tôi có thể quan sát được luồng chuyển động của không khí.

Tôi không nhìn thấy ở giữa quan quách có cái gì, cũng không có gan vào xem, trước hết chỉ có thể đứng nhìn, nhìn về phía trước cũng không thấy gì hết. Rễ cây men theo khe hở chui vào bên trong cũng không phát triển lộn xộn mà chỉ bò sát theo đáy và vách tường bên trong quan quách, bên trên mọc đầy những sợi li ti, động vào là rớt lả tả, xem ra là một loại nấm mốc nào đó.

Phần vách bên trong quan quách không bị rễ cây che phủ lộ ra một ít hoa văn chạm nổi, tôi nhìn qua đã nhận ra đây là một phần đồ án, phong cách giống như bốn pho tượng bên ngoài kia , tuy nhiên phần lớn bức phù điêu đã bị rễ cây che khuất. Lưỡi dao săn của tôi lại quá mỏng, dùng để cắt lớp rễ cây này e là không được, tôi chỉ cắt được một phần rễ mới sau này, còn lớp rễ lâu năm đã cứng lại như đá kia thì không tài nào suy suyển nổi, cắt rễ cây mà như cắt đá, cuối cùng chỉ lóc được một miếng vỏ trắng toát.

Tuy vậy tôi vẫn hiểu được một phần nội dung, đây hẳn là tình cảnh lúc cây thanh đồng được xây dựng, trên đó có khắc hình người mặc y phục kiểu vạt chéo. Tôi còn bất ngờ phát hiện ra ở trên đó mô tả Thanh Đồng thụ là từng đoạn, xem ra công trình đồ sộ này không phải được xây dựng liền mạch, có thể là trải qua nhiều thế hệ, mỗi thế hệ xây dựng một phần, cuối cùng mới hình thành tác phẩm nghệ thuật vĩ đại này.

Phù điêu rất nhiều, nhưng tôi không dám tùy tiện đi lại, xem xong một khúc bên này, tôi đột nhiên quay lại nhìn vào lớp sương mù, chỉ cảm thấy có một nỗi sợ hãi khó hiểu ập tới, bèn men theo lớp rễ cây định quay về chỗ cũ.

Kì quái ở chỗ lớp rễ trông có vẻ rất dễ để trèo lên, nhưng tôi thử hai lần đều trượt lại xuống dưới, hệt như trên băng. Tôi sờ vào sợi rễ, phát hiện lớp nấm mốc phía trên vô cùng trắng mịn, hệt như dầu bôi trơn, xem ra nếu muốn một mình leo lên không dễ chút nào.

Tôi lấy lại bình tĩnh, suy nghĩ xem nên làm thế nào, xem ra phải dọn sạch lớp nấm phía trên mới leo lên nổi, hoặc dùng dao cắm vào leo lên, mà cũng không biết có được không nữa.

Giữa lúc tôi đang phân vân như thế, “Híc… Híc… Híc…” , âm thanh quái dị ấy đột nhiên lại vang lên, lúc này là ở sau lưng tôi, rất gần.

——————

(*) Những điểm đen trên mặt trời nom như bóng của các lỗ sâu trên đĩa mặt trời màu trắng, có nhiều kích cỡ khác nhau, từ to cho đến nhỏ. Người ta có thể nhìn thấy những điểm đen này vào bất cứ ngày nào lúc trời sáng. Các nhà khoa học dường như tin rằng các vết đen đó có bản chất điện vì một vài hiệu ứng của nó tạo ra. Một nhà thiên văn đã chứng tỏ rằng đó là những “cơn bão xoáy” của các chất điện từ đã nổ bùng ra bề mặt Mặt Trời. Từng cặp có dạng những hình ống hình chữ U. Các vết đen hay sự phóng các năng lượng điện từ đã phóng ra nhưng “tia âm điện tử” ra ngoài không gian. Một số electron này lọt vào khí quyển Trái Đất đã gây ra nhiều hiệu ứng điện trên Trái Đất.
 
Quyển 3 - Chương 32: Đánh lén


Editor: Earl Panda

Beta: Bánh Ú đại nhân.

*******

Thứ âm thanh quỷ dị đã dẫn dắt bọn tôi vào đây đột nhiên vang lên ngay sau lưng tôi, tuy không lớn, nhưng trong quan quách yên ắng vô cùng nên âm thanh đó nghe không khác gì sét đánh ngang tai. Tôi nghe mà toàn thân run lẩy bẩy, căng thẳng đến toát mồ hôi lạnh.

Quan quách này chiều dài khoảng sáu, bảy mét, bảo dài cũng không hẳn, bảo ngắn cũng không đúng. Nghe âm thanh kia mà đoán thì có lẽ nơi phát ra tiếng động cách tôi không quá một mét, gần như là dán sát sau lưng, khoảng cách vừa đủ để với đến bả vai tôi. Cứ từng tiếng từng tiếng “Híc…híc…” vang lên theo quy luật, nghe như tiếng mu bàn tay gõ lên cửa gỗ. Một cơn ớn lạnh chạy dọc từ gáy thẳng xuống đến gót chân tôi.

Tức khắc toàn thân tôi cứng đờ không nhúc nhích nổi. Tôi thoáng phân vân xem có nên quay đầu lại nhìn không, hay là cứ giả vờ như không nghe thấy gì, không để ý đến nữa. Nhưng ngay sau đó tôi nghĩ lại, dở khóc dở cười cắn lưỡi tự nhủ: phải ráng bình tĩnh, lúc này không còn cách nào khác, chỉ có thể đối mặt, sợ hãi và kiếm cớ bây giờ thì chỉ có đường chết.

Đương lúc tôi còn đấu tranh tinh thần, thứ âm thanh ma quái kia vẫn vang lên đều đều không nhanh không chậm, không vọng lại gần, cũng không dãn ra xa. Tôi hít sâu một hơi, cắn răng nắm chặt con dao, từ từ quay đầu lại, nhìn xem rốt cuộc nó là cái gì.

Nhưng tôi vừa quay đầu thì âm thanh kỳ quái kia cũng đột nhiên ngừng lại. Tôi nhìn chăm chú, nhưng giữa màn sương màu xám tro ở đằng sau lưng tôi lại chẳng có gì khác. Nhìn về hướng âm thanh ban nãy vừa phát ra cũng chỉ thấy một khoảng không tăm tối mịt mù, chẳng qua bị hành động của tôi làm nhiễu loạn nên xuất hiện vài luồng khí quỷ dị, nhưng rồi lại tan biến rất nhanh, trở về bình thường như lúc ban đầu.

Tôi nuốt nước bọt, bỗng thấy hơi bất ngờ, liền lấy đèn pin rọi khắp bốn phía, nhưng cũng không thấy có gì khác thường, cứ như âm thanh đó chưa từng cất lên vậy.

Vừa nãy âm thanh đó ở gần tôi đến vậy, tôi nghe vô cùng rõ ràng, chắc chắn không phải ảo giác, lúc tôi quay người cũng mất không đến một giây, cho dù âm thanh đó có là do vật gì di chuyển được phát ra thì cũng không thể biến mất nhanh đến vậy. Lẽ nào, âm thanh đó phát ra từ nơi khác? Hay do tôi đoán nhầm?

Tôi vô thức dò dẫm bước từng bước lên phía trước, định đi tìm nơi phát ra âm thanh kia. Đột nhiên, từ lớp sương bên cạnh tôi có một bóng người bổ nhào ra. Tôi mắt tinh như ranh, vừa lúc nhắm thấy cái bóng xuất hiện, tôi vội vàng cúi xuống. Người nọ không bắt được tôi, nhưng lại xô tôi ngã nhào xuống đất. Tôi lăn một vòng trên đất. Ngoảnh lại, thấy người vừa xô tôi có vóc dáng mập mạp, chính là người đã đẩy tôi vào đây – ông chủ Vương.

Tôi chửi bậy một tiếng, rút con dao săn ra, tính duyên này dứt tình với lão luôn, không ngờ, chớp mắt cái mà lão ta đã trốn vào trong đám sương, ngay cả cái bóng cũng không thấy nữa.

Tôi không khỏi khinh thường mà nhổ mấy bãi nước bọt. Vừa nãy trong lúc vật lộn, hẳn là lão đã làm rớt dao của mình rồi nên mới e ngại con dao săn nhỏ trong tay tôi, không dám chính diện ra mặt tấn công mà trốn trong đám sương, chờ tôi tới gần mới đánh lén bất ngờ. Thật không giống cái bộ dạng kiêu ngạo lúc đầu chút nào. Tay này đích thị là một tên tiểu nhân con mẹ nó rồi.

Cơ mà, nói đi cũng phải nói lại, tình hình ở trong này kì quái như thế, lá gan của lão ta cũng không phải to bình thường đâu. Phải là tôi, tay không đèn pin, tay không vũ khí, chắc tôi đã rúc vào góc nào đó mà run lập cập rồi, chứ đâu dám đi đánh lén người khác. Hơn nữa, chỗ này sương mù dày đặc như nước, rất dễ nhận biết được những thứ di chuyển được. Vì vậy, lão ta biết không dễ dành đánh lén tôi thành công được, nên mới cẩn trọng hơn, chứ không vừa nãy tôi đã có thể đánh ngã được lão ta rồi.

Tôi nghĩ đến đây lại thấy kỳ lạ. Nếu vậy, cái nguồn gốc của âm than quái dị kia nếu ở trong quan quách mà chuyển động thì sẽ phải có động tĩnh gì đó chớ, ấy thế mà, khi tôi quay đầu lại, đám sương vẫn chẳng có gì khác thường, không có vẻ như là có vật gì di chuyển trong đó. Lẽ nào nó lại không có hình dạng gì? Lẽ nào nó là ma chăng?

Tôi vừa cảnh giác phòng ngừa ông chủ Vương đánh lén lần hai, vừa lồm cồm bò dậy. Không gian trong quan quách này không quá rộng, ban nãy vừa bị ngã chẳng biết lăn đến đâu rồi, phải nhanh nhanh lùi đến mép, nghĩ cách bò lên trên thôi.

Toàn bộ chỗ này không lớn lắm. Nhìn xung quanh bốn phía tôi có thể thấy mình đang ở gần trung tâm quan quách. Xuyên qua lớp sương mù, tôi nhìn thấy ở phần trung tâm có một cái gì đó, chỉ thấy bóng mờ mờ nhạt nhạt, hình như là rất nhiều sợi dây nối từ trên đỉnh quan quách xuống tận tới đáy. Tôi còn tưởng đó là mấy nhánh rễ khí của các cành cây mọc trên đỉnh buông rủ xuống, nên đi đến phía trước, lấy đèn pin chiếu vào mới vỡ lẽ ra là không phải. Những thứ đó đều là những sợi xích thanh đồng to cỡ bằng cổ tay người, mọc đầy những nấm và bị quấn chặt bởi những sợi rễ chùm của cây đa, thẳng suốt từ trên đỉnh xuống dưới. Tuy nhiên, sợi xích sắt trông có vẻ như chỉ gắn cố định ở trên đỉnh quan quách cho đến giữa quách, còn phía dưới thì không có bất cứ một thứ gì buộc vào vậy.

Cái quan quách bằng đá này nói là lớn, nhưng thực ra là nhỏ, khi khai quật nóc mộ của các quý tộc thời Tây Hán và thời Ngũ Đại đều có. Thứ này gọi là quan quách, nhưng thực chất phải gọi là phòng quách (cái quách to bằng cả căn phòng nhỏ) mới hợp lý. Nếu căn cứ vào mộ thổ táng thì quan tài hẳn là phải đặt ở giữa phòng quách này cùng với những của cải bồi táng, bên trong lớp phòng quách bằng đá còn phải lèn chặt đến mười mấy lớp quách gỗ, suốt từ tít trong cho đến mép quách.

Tôi bước đi vài bước, dựa theo kích thước quan quách, chí ít cũng có thể thấy hình dáng cơ bản của quan tài trong. Thế nhưng, giờ thấy những rễ cây và xích đồng, trên mặt đất lại không có đồ vật gì cả, lẽ nào bên trong cái quan quách này rỗng tuếch? Vậy tiếng động kỳ lạ kia là từ đâu tới? Cái thứ quỷ dị làm nhiễu sóng bộ đàm là ở đâu ra?

Tôi sửng sốt hồi lâu, lại bước lên phía trước từng bước một, muốn đến xem liệu có phải sợi xích thanh đồng khóa chặt chiếc quan tài để giữ cái gì đó còn sống không. Tôi vừa bước ra, bỗng nhiên dưới chân hẫng một cái, cả người ngã chúi xuống dưới. Tôi vội nhanh tay túm lấy sợi xích đồng, trượt dài xuống mấy mét mới dừng lại được, sợ đến toát mồ hôi lạnh.

Chuyện gì xảy ra thế? Thế mẹ nào mà phía dưới lại không có gì vậy? Tôi sợ hãi, soi đèn pin chiếu xuống dưới, nhìn không thấy mặt đất đâu cả mà chỉ thấy sương dày đặc. Chân giẫm xuống, giẫm vào sương chứ không có cái gì cả, hình như là có cái hố lõm xuống rất sâu.

Đúng là kỳ quặc, tôi nghĩ. Bên trong cái phòng quách này có gắn với đài tế tự trên đỉnh cây thanh đồng, ở chính giữa quách thì không có gì, có lẽ là giống với phương pháp quách đa tầng đa lớp ở thời Chiến quốc. Ở giữa phòng quách này còn có một cái hố lõm xuống, gọi là giếng quan, ở phía dưới mới là quan vị (vị trí đặt quan tài) thật. Không biết cái giếng quan này nó sâu bao nhiêu, thật là nguy hiểm, nếu như vừa nãy mà ngã xuống, không chừng gãy đầu gãy cổ chết như chơi.

Còn những sợi xích thanh đồng này, có lẽ là một thiết bị quan trọng dùng để đưa quan tài xuống dưới cái giếng quan này, quan tài chứa thi thể hẳn là ở ngay phía dưới chân tôi đây.

Đang nghĩ ngợi, bỗng nhiên đám sương bên cạnh náo động, ông chủ Vương vọt ra từ trong đó, cầm trong tay thứ vũ khí nào đó, đánh thẳng về phía tôi. Ở đây sương dày như thế, có lẽ lão ta nhìn thấy ánh đèn pin nên mới đoán được vị trí của tôi. Tôi vừa nhìn thấy không ổn, liền theo bản năng hét to: “Đừng! Mau dừng lại!”

Nhưng đã muộn. Chỉ nghe ông chủ Vương kêu “A!” một tiếng, chân giẫm vào khoảng không, thoáng cái lão ta đã ngã tụt xuống dưới. Tôi cảm thấy sợi xích đồng chấn động mạnh, hẳn là do lão ta đã túm được, cùng lúc đó, chỗ tay bám lấy sợi xích của tôi phát ra tiếng lục cục, cơ thể bắt đầu trượt xuống dưới.

Tôi quay lại nhìn, hóa ra là đám nấm mốc rêu xanh trên xích đồng bị tay của tôi đè ép thành chất lỏng sền sệt màu trắng, khiến cho sợi xích đồng trơn như được bôi một lớp dầu mỡ. Tôi thầm kêu than không ổn, vội vàng dùng con dao săn định cắm chặt vào lỗ hổng trên dây xích, thế nhưng lưỡi dao lại chen vào không lọt mà mắc vào những rễ cây ở trong. Tôi cố sức vặn xoắn con dao vào đám rễ cây, bấy giờ cơ thể mới ngừng trượt xuống. Lúc này, tôi đã trượt xuống dưới ít nhất là mười mét, tiến vào bên trong giếng quan trong cột cây thanh đồng.

Ông chủ Vương đầu đầy máu, vắt vẻo trên sợi xích thanh đồng ngay phía dưới tôi, cách tôi chừng một bàn chân. Lão ta cũng giữ không được sợi dây xích, đành dùng chiếc dây lưng bằng da xỏ qua lỗ hổng trên sợi xích để bám vào mới miễn cường không bị tụt xuống được. Tôi lấy đèn pin rọi vào lão ta, lão quay đầu vừa chửi vừa né ánh sáng chói mắt.

Tôi thấy tạm thời lão ta không uy hiếp gì đến tôi, nên phải đi xem xét tình hình cái giếng quan trước đã. Thân cây thanh đồng trong ngoài đều như nhau, có khắc sâu những khe rãnh con rắn hai thân, những đường hoa văn chạy dọc theo rễ cây từ trên trườn xuống dưới. Sương ở đây loãng hơn phía trên rất nhiều, tôi nhìn xung quanh một vòng, xem xem cái giếng quan ở trung tâm phòng quanh này rộng bao nhiêu. Nếu nó quá lớn, tôi chỉ e leo ra ngoài sẽ là một vấn đề lớn.

Giếng quan có hình chữ nhật, dài khoảng bốn mét, rộng hai mét, đặt vừa đủ một chiếc quan tài rộng. Tôi với tay ra, sờ lấy vách tường giếng quan, không biết có phải do đám sương kia không mà ở đây không có nhiều nấm ký sinh, chỉ thấy rễ cây vốn có. Không khí bên trong giếng quan cứ lửng lơ một mùi vị khác thường, có thể là do bên ngoài sương dày đặc khiến bên trong mặt nạ phòng độc bắt đầu bị ẩm, hiệu quả giảm xuống. Tôi có thể ngửi thấy cái mùi kỳ lạ đó càng ngày càng nồng, bay thẳng vào mũi tôi. Bởi vậy, xem ra, ông chủ Vương nhất định cũng không chịu nổi.

Nhìn xuống dưới, tôi lấy làm kinh hãi. Sợi xích vẫn cứ buông xuống cho đến khi chìm hẳn vào bóng tối, đèn pin còn không chiếu đến được, vô cùng sâu. Từ nơi này nhìn xuống dưới, toàn bộ giếng quan sâu vô cùng, có cảm giác như nó cứ sâu xuống mãi mãi, không có đáy.

Không thể nào? Tôi nghĩ, trong bụng có một loại cảm giác, lẽ nào cả cái cây thanh đồng này đều rỗng ruột hết, chúng tôi đã bò lên trên phải hơn ba trăm mét là ít, rễ cây thanh đồng này còn đi vào lòng đất sâu đến đâu không biết, nếu như là rỗng ruột thật, thì dưới đáy tận cùng rút cục là cái gì? Tâm trái đất? Địa ngục? Rễ cây to lớn hình trụ rỗng ruột, cắm ở đây liệu có ý nghĩa gì không?

Ông chủ Vương thấy thế cũng vô cùng ngạc nhiên, hai người đều không nói lời nào, ngoắc nhau nhìn xuống dưới. Bỗng nhiên, “Híc…híc…”, hai tiếng vang lên, cái âm thanh âm u kỳ quặc này đột nhiên vang lên khắp bốn phía xung quanh chúng tôi!

Tôi với ông chủ Vương nhìn nhau, ánh mắt cả hai đều đổ dồn với phía bóng tối đen đặc ở dưới. Tiếng động này, đương nhiên là phát ra từ dưới vực sâu thăm thẳm này truyền lại.
 
Quyển 3 - Chương 33: Hòa giải


Edit: Earl Panda Beta: Thanh Du

*****

Đứng từ chỗ này nghe ra, thấy tiếng động này có chút khác thường, lại có tiếng vang vọng lại, dường như là từ một nơi rất sâu phía dưới truyền lên. Theo nhịp điệu của nó, tôi có thể cảm nhận rõ ràng sợi xích thanh đồng đang hơi hơi rung động, giống như đầu kia sợi xích được đính vào động mạch của một người khổng lồ vậy.

Cảnh này khiến tôi không kìm được mà rùng mình ớn lạnh một cái. Tôi không cảm nhận được tí gió nào từ dưới thổi lên, mà hai người chúng tôi bám vào cũng không đủ để khiến sợi xích đồng nặng nề kia rung lắc dữ dội đến thế. Vậy thì, dưới bóng đêm sâu thẳm kia có thứ gì đã lay động sợi xích thanh đồng?

Ông chủ Vương trầm tư lẳng lặng lắng nghe. Lão ta chưa bao giờ trải qua mấy loại chuyện này, đáng ra phải sợ hãi hơn tôi mới đúng, ấy thế mà trông vẻ mặt lão ta lại bình tĩnh khác thường, hình như đang suy đoán chuyện gì đó.

Căng thẳng một hồi lâu, cuối cùng tiếng động cũng dừng, sợi xích đồng không còn rung lắc nữa. Tôi bất giác thở phào một hơi nhẹ nhõm, người cũng suýt nữa lả xuống theo sợi xích luôn.

Ông chủ Vương vẫn không hề có phản ứng, chỉ im lặng suy nghĩ hồi lâu rồi rút ra một điếu thuốc, châm lửa, hút mạnh một hơi. Sau đó lão ta móc từ trong túi ra một cây gậy huỳnh quang nhỏ, lắc lắc hai cái khiến cây gậy dần dần phát sáng.

Tôi không hiểu lão ta định giở trò gì, nên chỉ lạnh lùng liếc nhìn. Cho đến khi cây gậy huỳnh quang sáng hẳn lên, lão ta đột nhiên ném nó xuôi theo sợi xích thanh đồng, ánh sáng xanh lục phát ra từ cây gậy xoay tròn rồi rơi xuống phía dưới.

Chùm sáng màu xanh càng lúc càng nhỏ dần, rồi nhanh chóng biến mất khỏi tầm nhìn. Tôi nghĩ nó sẽ rơi mãi rơi mãi cho đến khi tan biến vào bóng tối thì đột nhiên, ở chính ranh giới giữa nhìn-thấy-được và không-nhìn-thấy-được, cây gậy huỳnh quang đập phải một vật gì đó đánh “bốp” một tiếng, văng ra một bên vách tường thanh đồng rồi lại rớt xuống, trong nháy mắt đã biến mất dạng.

Cách sợi xích thanh đồng khoảng khoảng năm mươi, sáu mươi mét về phía dưới quả thực có treo thứ gì đó. Ánh sáng từ cây gậy huỳnh quang quá yếu nên tôi chỉ kịp nhìn ra vài đường nét mơ hồ, hình như là một cỗ quan tài thủy tinh lấp loáng ánh vàng, cũng có thể là loại quan tài bằng thương thạch thông thường. (một loại đá có màu vàng, nửa trong suốt).

Ông chủ Vương ngẩng đầu nhìn tôi thách thức, rồi bất ngờ buông tay khỏi chiếc dây lưng, vừa bật lửa, vừa trượt xuống phía dưới. Rất nhanh sau đó, lão ta chìm hẳn vào trong bóng tối, chỉ còn thấy một đốm lửa leo lắt càng ngày càng thu nhỏ.

Tôi thoáng cân nhắc, không hiểu vì sao bỗng dưng cảm thấy bất an. Ông chủ Vương dường như đã tính toán hết mọi chuyện từ trước, lão ta biết nhiều loại vật phẩm kỳ dị, phải chăng đã đoán ra vật bên dưới là gì nên mới nhanh chân chạy đi thủ luôn? Tôi chợt nhớ lại chuyện lão Dương đã kể lúc trước nên nhịn không nổi, vả lại, tôi cũng không cam lòng cứ thế rơi vào tay lão ta, liền vội vàng rút con dao săn rồi bám theo lão ta, trượt xuống phía dưới.

Càng xuống sâu tốc độ trượt càng nhanh, những rễ cây quấn chằng chịt cũng không còn nữa. Đến quãng sau, tốc độ của chúng tôi bắt đầu chậm lại. Chỉ trong khoảng mười giây mà tôi đã tụt xuống độ sâu vừa ước lượng ban nãy. Tôi thấy đốm lửa phía dưới chợt dừng lại, vội kẹp chặt hai chân vào sợi xích để dừng theo.

Cúi đầu nhìn xuống, tôi thấy ông chủ Vương đã đến đoạn cuối cùng của sợi xích, dưới đó vài mét chính là nơi cây gậy huỳnh quang va đập vào. Lão ta nằm sấp, dùng bật lửa chiếu sáng, nhưng ánh sáng quá yếu ớt nên không thể nhìn rõ hình dạng tổng thể của thứ này, chỉ thấy một khối thủy tinh màu vàng treo lơ lửng giữa không trung.

Tôi bật đèn pin, rọi xuống. Dưới ánh sáng cường độ mạnh từ chiếc đèn pin, vật này mới bắt đầu hiện ra rõ ràng.

Ngoài dự đoán của tôi, vật treo phía dưới sợi xích thanh đồng không phải thương thạch quan, cũng không phải chỉ là một cỗ quan tài con con, mà là một khối đá hổ phách trong suốt cực lớn có hình quan tài, xem ra được hình thành từ tự nhiên. Ánh sáng đèn pin từ trên rọi xuống khiến ánh vàng tỏa ra khắp bốn phía như ánh ngọc lưu ly, chỉ cần hơi dịch chuyển góc độ đèn pin một chút là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo ấy sẽ phản chiếu khắp không gian, thực là một cảnh tượng lộng lẫy huy hoàng đến mức khó tưởng tượng.

Từ trên vòm hang rủ xuống bốn sợi xích thanh đồng được đúc chìm vào trong khối hổ phách. Nhìn xuyên qua lớp hổ phách có thể thấy một bóng người mơ hồ màu đen, căng mắt ra mới miễn cưỡng phân biệt được đầu với vai, mà hai bờ vai lại nhô cao như hai cái bướu lạc đà. Cái bóng cuộn cả người lại, tư thế nằm giống như thai nhi trong bụng mẹ.

Tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa từng nhìn thấy thứ gì tương tự nên chỉ biết ngẩn tò te mà nhìn, nói không nên lời. Ngược lại ông chủ Vương có vẻ bình tĩnh khác thường, lão ta quan sát thoáng qua rồi trượt xuống dưới, tính giẫm lên khối hổ phách để thăm dò. Tôi thấy thế bèn cuống quýt kêu lên: “Đừng!”

Ông chủ Vương quay đầu lại, nhìn tôi một cách khó hiểu.

Tôi bèn nói: “Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy một khối hổ phách lớn đến vậy, có khi là cặn nhựa thông cũng nên. Ông mà giẫm lên, coi chừng nó vỡ ra đấy.”

Ông chủ Vương nhìn tôi cười khinh bỉ, nói: “Chú mày thì biết gì? Hổ phách cái con khỉ, đây là thi kiển (1), là bào thai hóa thạch đấy.” Dứt lời lão ta đã nhảy lên luôn. Cái gọi là thi kiển này cũng thật chắc chắn, chỉ thoáng lay động rồi nhanh chóng ổn định như cũ.

Tôi thấy lão ta vẫn không sao, bèn không cam tâm bị bỏ lại đằng sau, liền thả chân nhảy xuống bề mặt khối hổ phách chứa bào thai hóa thạch, đồng thời giơ con dao săn lên tính tra vào vỏ sau lưng, miễn khỏi cảnh tay dao tay đèn lỉnh kỉnh khó hoạt động.

Không ngờ ông chủ Vương lại hiểu nhầm, thấy tôi nhảy xuống lại cảnh giác khom lưng, rút sợi dây thắt lưng ngoắc trước ngực ra, làm bộ chuẩn bị đánh nhau. Mà tôi thấy thế lại càng sợ, con dao săn vốn định tra ra sau lưng nay lại quơ lên.

Trong chốc lát, bầu không khí trở nên căng thẳng cực độ, không một ai dám nhúc nhích, vì cả hai đều biết, ở cái nơi quỷ quái này, chỉ cần hơi sơ suất một chút thôi, bị người ta đạp cho một cước là xong đời. Bên dưới là vực sâu vạn trượng, cho dù anh có khỏe đến đâu, có hung hãn cỡ nào, thì rớt xuống cũng đi đời nhà ma chỉ trong tích tắc.

Ông chủ Vương dù sao vẫn là người chốn giang hồ, cầm được thì buông cũng được, nên chỉ giằng co một chốc lão ta đã khoát tay áo, nói với tôi: “Này chàng trai, đã đến nước này thì tôi đành lui một bước vậy, chúng ta tội gì phải đồng quy vu tận chứ. Lỡ có một người chết, người còn lại cũng chẳng được lợi gì, nơi này không thể một mình leo lên được.”

Tôi nhìn lên đỉnh đầu, thấy lão nói cũng không sai. Ở đây, muốn leo lên trên, chí ít cũng cần hai người hỗ trợ lẫn nhau. Vậy là chừng nào vẫn còn ở lại dưới này, có lẽ lão ta sẽ không dám đụng đến tôi, bằng không lão ta sẽ còn chết thảm hơn nhiều. Nhưng người này cực kì xảo quyệt, tốt nhất không nên quá tin tưởng.

Tôi từ từ đặt con dao săn xuống, thủ thế làm bộ hòa giải, đồng thời tóm tắt sơ lược lại chuyện cái bộ đàm nhiễu sóng, tạo một cái cớ cho cho hai bên cùng xuống thang. Dẫu sao vừa rồi tôi cũng đã hạ sát tâm, lão ta không thể dễ dàng nới lỏng cảnh giác được.

Ông chủ Vương lôi bộ đàm của mình ra, bán tin bán nghi bật lên, quả nhiên từ bên trong phát ra một loạt tiếng ồn với âm lượng cao vút, nghe cực kỳ chói tai, giống như tiếng người gào thét đến xé họng vậy. Ông chủ Vương hết hồn, vội vàng tắt bộ đàm đi, mở miệng chửi: “Mẹ kiếp.”

Tôi cũng sợ chết khiếp đi được, ở đây nhất định đã gần với nguồn gây nhiễu lắm rồi nên âm thanh mới chói tai đến vậy. Tôi không ngờ trên đời này lại có thứ âm thanh đáng sợ đến thế, nếu nghe thêm vài giây nữa, có khi tôi mất trí mà nhảy luôn xuống vực cũng không biết chừng.

Ông chủ Vương cầm lấy thắt lưng buộc lại lên người, nói: “Lần này tôi tính toán sai rồi. Cậu cũng biết, chúng ta lăn lộn chốn giang hồ, không để tâm một chút thì không xong đâu.” Lão ta chỉa chỉa vào cái cục sưng vù trên mặt, “Chàng trai, cậu ra tay cũng không nhẹ đâu. Chúng ta lần này coi như huề, thù oán cá nhân cứ để sau khi ra ngoài hẵng tính, sao nào?”

Tôi âm thầm cười khẩy, vừa rồi ông chủ Vương bộc lộ bản tính, tôi đoán lão ta đã sớm dự định sau khi ra ngoài sẽ giết chúng tôi diệt khẩu, giờ nói mấy câu này chẳng qua là kế hoãn binh. Có điều bây giờ hai bên vẫn cần lợi dụng lẫn nhau, nên tôi gật đầu, ném cái đèn pin về phía lão ta cho cân bằng.

Tôi với lão ta tạm thời hòa giải, nhưng tôi cũng không dám tiếp cận lão ta quá gần như trước, để khỏi có người “lỡ tay” đẩy tôi một phát rơi tòm xuống dưới. Lão ta hiển nhiên cũng lo chung một mối như tôi, hai người ngầm hiểu trong lòng nhưng miệng không nói, lẳng lặng vừa đề phòng đối phương, vừa cẩn thận ngồi xổm xuống xem xét kĩ càng cái bào thai hóa thạch dưới chân.

Trên bào thai hóa thạch có rất nhiều hoa văn hình thành tự nhiên, độ trong cũng không cao, nên từ bên ngoài không thể nhìn thấy cái xác bên trong được. Muốn nhìn, phải quét bằng tia X-quang hoặc đập vỡ lớp hóa thạch bên ngoài. Nhưng kỳ quái nhất phải nói đến bóng người bên trong lớp hóa thạch. Đây chắc chắn là một thi thể, có điều cái thi thể này hình dạng rất quái dị, nhìn thế nào cũng không giống người.
 
Quyển 3 - Chương 34: Giả thiết lớn mật, cẩn thận tìm chứng cứ


Edit: Namichan

Beta: Earl Panda

*****

Cách đây mấy năm, ở vùng Xuyên Nam và Nội Mông cũng đào được thi kiển, nhưng đều là loại lớn như chậu rửa mặt, có chút giống ngọc, lại có chút giống hổ phách, bên trong có bọc xác động vật nhỏ hoặc xác trẻ con khô quắt, hiếm khi có người trưởng thành. Mấy thứ này đều là vật bồi táng khai quật được, chẳng ai biết đã được làm ra bằng cách nào.

Căn cứ theo sách cổ ghi lại, có thể là vào thời Tiên Tần, các phương sĩ (thời xưa dùng để gọi những người cầu tiên học đạo) đã dùng vật này làm nguyên liệu để luyện đan. Họ đem phụ nữ mang thai thiếu tháng ngâm vào nước thuốc cho đến chết, cho vào một các vạc rồi chôn xuống đất tròn mười bảy năm mới đào lên, khi đó thai nhi trong bụng sẽ biến thành thi kiển. Lớp bên ngoài là nhau thai hóa thạch, người ta nhìn thấy có màu hổ phách, kỳ thật đó chính là nước ối bên trong đông lại mà thành. Cũng có người nói, đây là một loại kỹ thuật chống thi thể phân hủy, dùng hỗn hợp thuốc đông y và nhựa cây đặc biệt bao lấy thi thể, giữ cho thi thể không bị mất nước.

Tôi đã từng nghe nói qua về sự tồn tại của thứ này, nhưng giá trị của nó quá lớn nên tới tận bây giờ vẫn chưa có mối nào qua tay. Tuy hôm nay được nhìn thấy tận mắt nhưng cũng chẳng biết nên xử lý nó như thế nào, hơn nữa vì không khí giữa tôi và ông chủ Vương đã dịu đi đôi chút nên tôi liền thử dò hỏi lão vài vấn đề.

Ông chủ Vương kể cho tôi, năm xưa ông cố của lão ta từng một thời giàu có hiển hách ở Hồng Kông, đã thấy qua một ít bảo vật của đám nhà giàu Nhật Bản di cư sang vì chiến tranh loạn lạc, trong đó có thi kiển hổ phách.

Thi kiển có lớn có nhỏ, thứ bên trong cũng chẳng cái nào giống cái nào, có cái nhìn như xác côn trùng bọc trong hổ phách bình thường, nhưng lại có cái bên trong chứa xác người.

Ông cố lão từng gặp một cái thi kiển khiến ông ta nhớ mãi không quên. Bên trong cái thi kiển đó là một cô bé chừng mười sáu mười bảy tuổi mặc váy đỏ, đôi mắt nhắm lại như đang ngủ thiếp đi, trông rất sống động.

Ông nhìn mà cảm thấy cô bé đó thật đáng thương, thừa dịp chủ nhân của nó không chú ý bèn lén mang đi đốt. Khi đó đang chiến tranh loạn lạc nên người chủ cũng chẳng phát hiện ra. Không ngờ, buổi tối hôm đó ông nằm mộng, mộng thấy cô bé váy đỏ đến tìm mình dập đầu nói cảm ơn.

Sau này ông chủ Vương làm nghề buôn đồ cổ cũng từng gặp qua thi kiển, nhưng mà loại lớn như thứ trước mắt đây, thậm chí còn chẳng nhìn rõ bên trong là vật gì thì vẫn là lần đầu tiên trông thấy.

Tôi cảm thấy có hơi bất ngờ, không lẽ thứ mà Lý Tỳ Bà nói “Hoàn hảo hơn cả lăng mộ Tần Thủy Hoàng” chính là chỉ thứ này? Không phải chứ? Cho dù đây cũng là vật hết sức hiếm thấy nhưng làm gì khoa trương đến mức “Hoàn hảo hơn cả lăng mộ Tần Thủy Hoàng” được.

Ngay cả ông chủ Vương cũng cảm thấy kỳ quái, nhưng lão ta tin tưởng những gì ghi trong “Hà Mộc Tập” là không sai, bèn ngồi xổm xuống, cẩn thận dán mắt lên lớp ngoài hổ phách. Muốn nhìn rõ bên trong có chứa thứ minh khí gì không phải là không thể, chỉ cần đun chảy lớp hổ phách bên ngoài là xong.

Nơi này được cố định chỉ bằng một sợi xích thanh đồng, tôi với lão không thể đồng thời đứng cùng một bên được, nếu không sẽ mất thăng bằng khiến cả hai thằng toi mạng như chơi. Bởi vậy tôi chỉ có thể đợi ngay tại chỗ, vịn vào sợi xích, nhìn xem có thu hoạch được gì không.

Ông chủ Vương nhìn kỹ từ trên xuống dưới mấy lần nhưng vẫn không phát hiện được gì, chỉ nói bên trong hổ phách tựa hồ có một tầng chất lỏng lưu động, ảnh hưởng tới độ trong suốt. Bên trong trừ bỏ cái bóng đen, không nhìn ra được thứ gì khác.

Lại nhìn bốn bề xung quanh, phía dưới là vực thẳm đem ngòm như mực, không có bất cứ dấu vết nào cho thấy có thể bò xuống. Đây là đỉnh cây thanh đồng, thứ thần bí trong quan tài chính là một khối hổ phách.

Hai người chúng tôi đều rơi vào im lặng, một câu cũng chẳng nói. Tuy khối hổ phách này rất đáng giá, nhưng nó nặng chết khiếp, chỉ dựa vào sức hai người chúng tôi làm sao mang đi nổi. Mọi thứ thuộc về nơi này chẳng có chút ý nghĩa nào đối với chúng tôi. Tôi thì thây kệ, nhưng đám người đi cùng ông chủ Vương trên đường tới đây đã chết gần hết rồi, đương nhiên ông ta vô cùng buồn bực.

Im lặng hồi lâu, tôi cảm thấy vấn đề mấu chốt vẫn nằm trong lời nói của Lý Tỳ Bà, bèn hỏi ông chủ Vương, trên đường đi tới đây Lý Tỳ Bà có tiết lộ điều gì không? Xem tính cách Lý Tỳ Bà thì cũng chẳng phải là loại người giỏi giữ mồm giữ miệng gì, chắc là có đôi lúc vô tình buột miệng nói hớ gì đó cũng nên.

Vẻ mặt ông chủ Vương hơi biến đổi, nói: “Mắt nhìn người của cậu chuẩn không cần chỉnh, đúng là Lý Tỳ Bà không phải người giỏi giữ mồm, có điều lần này đúng là quái lạ, một đường tới đây hắn giữ mồm miệng kín như bưng. Tôi chỉ nhớ hắn cứ nói với chúng tôi rằng đến đây rồi thì muốn gì cũng có, bảo là không cần lo lắng quá, còn lại chẳng nói gì thêm. Hắn là người thích chơi trò chủ nghĩa thần bí, thường xuyên chỉ nói qua loa đại khái như vậy với chúng tôi.”

Chỉ cần đến nơi đây, muốn cái gì cũng có.

Tôi lẩm nhẩm vài lần, trong lòng cảm thấy kỳ quái. Câu nói đó rất lạ lùng, dường như có hàm chứa ý gì đó.

Nghĩ đi nghĩ lại, trong đầu tôi bỗng nhiên nảy lên vài ý nghĩ, ai nha một tiếng, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ là thế?”

Ông chủ Vương trông thấy nét mặt tôi nhất thời trở nên cổ quái, khó hiểu nhìn tôi, không biết tôi đang nghĩ cái gì.

Tôi hưng phấn cào cào tóc, luồng suy nghĩ trong đầu nhanh chóng xoay chuyển: Lý Tỳ Bà nói là đến nơi đây, những lời này có nghĩa khác, có lẽ bọn họ đều hiểu lầm ý của hắn rồi. Mấu chốt là ở chữ “đến” kia, nói đúng hơn, mấu chốt không phải là các anh sẽ lấy được thứ gì, mà trước tiên phải đến chỗ kia. Đến được rồi, các anh muốn cái gì thì sẽ có cái đó!!

Còn nhớ trong mớ tư liệu lão Tề đưa cho tôi có một tấm ảnh chụp bức bích họa được vẽ trên vách động. Trong ảnh là một cây thanh đồng, có rất nhiều hoa văn nom giống hình người đang quỳ lạy dưới tàng cây. Rất nhiều người cho rằng đó là cảnh cổ nhân cầu cúng cho vụ mùa bội thu, bên trong tấm ảnh cũng chụp một số chữ tượng hình, nội dung đúng là bọn họ đang cầu nguyện. Phần ghi chép phía trên nói chỉ cần cổ nhân hiến máu tươi và cầu nguyện với cây thanh đồng, nguyện vọng của họ ắt sẽ thành hiện thực.

Nói vầy có vẻ mê tín, nhưng mà vừa nghĩ tới câu nói của Lý Tỳ Bà thì tôi không khỏi liên tưởng hai chuyện đó với nhau.

Lẽ nào mục đích của Lý Tỳ Bà khi tới nơi đây chính là vì tin tưởng cây thanh đồng này thực sự có năng lực biến ước mơ thành hiện thực?

Tôi đột nhiên muốn cười nhưng lại cười không nổi. Nếu đúng như thế thì đây quả món hời cực lớn, trong thiên hạ dù là lợi ích gì đi chăng nữa cũng không đáng giá bằng một phần tỷ của món hời này. Nhưng chuyện này căn bản không thể nào xảy ra, nếu mục đích của hắn đúng là như thế thì thật ngoài sức tưởng tượng. Với lại, hắn đương nhiên không thể nói rõ ràng, nếu nói toẹt ra thì ai mà dám theo hắn mò tới đây chứ.

Tôi nói suy nghĩ của mình cho ông chủ Vương, nhưng thật ngạc nhiên, sau khi nghe xong, lão ta chẳng những không cảm thấy nực cười mà dường như còn nhớ ra điều gì đó, nói: “Không đúng, cũng không thể nói như vậy được, hình như thật sự có khả năng đó á.”

Tôi a một tiếng, trong lòng tự nhủ đúng thế quái nào được, bèn hỏi lão làm sao có thể?

Lão ta nói: “Chính là ban nãy, lúc hai người chúng ta té từ trên xuống, tôi vừa rơi xuống đất, sợ bị cậu đánh lén nên lập tức chạy vào giữa đám sương mù. Khi đó tôi cũng nhìn thấy mấy sợi xích thanh đồng này, nhưng lúc tôi băng qua sợi xích ở giữa lại không rơi xuống, đất dưới chân là thật. Nhưng tới lần thứ hai tôi đánh lén cậu, không ngờ chân dẫm vào khoảng không, bên dưới đã có một cái động. Lúc đó tôi cứ đinh ninh mình bị sương mù che mắt mới nhìn nhầm nên cũng chẳng để ý, bây giờ ngẫm lại thật giống như động này xuất hiện từ trong hư vô.”

“Ý ông là sao?” Tôi hỏi.

Lão nói: “Ý tôi là, lần đầu tiên dẫm lên chỗ đó, tôi cứ nghĩ phía dưới hẳn phải có một hầm mộ, nhưng đương nhiên khi dẫm lên thì không có. Mà tới lần thứ hai, không biết cái hầm mộ này từ đâu chui ra. Đó có tính là nguyện vọng của tôi được thực hiện không?”

Tôi hoài nghi nhìn lão, trong lòng tự nhủ chuyện vô lý đùng đùng như thế làm sao mà xảy ra được? Không lẽ lúc đó lão ta bị tôi đánh đến hôn mê, giờ chập mất cái dây thần kinh nào rồi?

Ông chủ Vương thấy tôi không tin, bèn nói: “Thật mà, hèn chi tôi cứ thấy quái quái, “Hà Mộc Tập” chưa từng sai chỗ nào, nếu như chỗ tốt mà Lý Tỳ Bà nói chính là nơi đây, xem hắn tự tin cỡ đó, nói không chừng khả năng này là thật.”

Tôi cau mày, vẫn không tin. Xét theo tâm lý học, câu nói kia của Lý Tỳ Bà có ý là —— chỉ cần tới chỗ này, tiềm thức của các anh có thể bị ảnh hưởng bởi cảnh vật xung quanh, khiến cho tất cả tưởng tượng trong tiềm thức đều biến thành thực thể.

Cứ cho là như thế, nhưng nếu cây thanh đồng thật sự có năng lực ấy, không lẽ tất cả những gì chúng tôi đang thấy chỉ là sản phẩm do chúng tôi tưởng tượng ra hay sao. Vậy thì cây thanh đồng này không phải như thế, sơn động này không phải như thế, và cả đống thi thể nơi này hóa ra cũng không phải như thế.

Nếu chủ nhân của “Hà Mộc Tập” năm xưa lúc leo lên, hoặc nhờ tra hỏi người dân Xá quốc trước kia mà biết được cây thanh đồng này có sức mạnh “vật chất hóa” như thần tiên, chắc hẳn Lý Tỳ Bà cũng biết loại sức mạnh đó nên mới kích động đám người kia mò tới đây.

Nếu như lấy đó làm nền tảng suy luận thì có thể giải thích lời của Lý Tỳ Bà, nhưng những thứ khác lại loạn như mớ bòng bong. Nếu trong đây là thế giới mà tiềm thức lẫn thực tế đan xen vào nhau, vậy rốt cuộc nguyên hình của cây thanh đồng là cái dạng khỉ gì?

Chuyện như vầy phải chăng quá mức cổ quái? Rốt cuộc có thể xảy ra được không?

Lúc chúng tôi bò lên, rất nhiều thứ, tỷ như đám khỉ mang mặt nạ Ly cổ, khoảng trống trên vách đá, nói không chừng đều là tự chúng tôi thực thể hóa mà ra.

Loại năng lực này mới nhìn qua ai mà chẳng chết mê, nhưng khi tôi cẩn thận suy nghĩ lại cảm thấy quá mức khủng khiếp. Trí tưởng tượng của con người là vô hạn, ví như anh có thứ năng lực này, sau khi xem xong một bộ phim kinh dị, nói không chừng lại thấy cái thây trong phim đang treo lủng lẳng trên quạt trần ngay sau lưng, máu tươi chảy ròng ròng. Hoặc khi anh đi qua nghĩa địa, nói không chừng…

May ra có người đã học qua tâm lý học, ở một trình độ nhất định mới khống chế nổi loại năng lực này, như thế chẳng phải có thể khống chế được cả thế giới hay sao. Chờ một chút —— không đúng, tôi chợt nghĩ tới điều gì đó.

Bọn lão Dương đã đào ra một nhánh cây thanh đồng, chiếu theo tấm ảnh thì cũng là một nhánh của cây ước nguyện này. Ông anh họ hắn lén mang nhánh cây kia ra ngoài, biết đâu đã nhìn ra sức mạnh của cây này? Nhưng tại sao ổng lại dở điên dở dại? Mà bây giờ nhánh cây đang ở trong tay lão Dương, có khi nào hắn cũng biết nội tình trong mớ bòng bong này không?

Tôi dòm cái cây bên cạnh, chợt nghĩ, nếu suy đoán này đúng, chẳng phải bây giờ tôi có thể xin cây này ban cho một điều ước sao, ước tôi có thể biết hết mọi chuyện đã xảy ra. Nhưng ngay sau đó tôi liền cười xòa, sao có thể chứ, tôi vẫn tin thứ trước mặt mình chẳng qua chỉ là một khối đồng xanh thiệt bự mà thôi ——

Nghĩ tới đây, tôi bất chợt cảm thấy có gì đó khác thường, những suy nghĩ liên tiếp ùa vào trong đầu. Dưới bụng chợt thót lên một cái, tôi vội quay phắt đầu lại, nhìn ông chủ Vương chằm chằm.
 
Quyển 3 - Chương 35: Không thể khống chế


Edit: Cốc Vũ

Beta: Earl Panda

~0O0~

Nhớ lúc trước trợ lý Lương có nói với chúng tôi ông chủ Vương là một kẻ thô kệch, từ nhỏ đã sống trên giang hồ, trình độ văn hóa rất kém. Thứ duy nhất lão có thể khoe với thiên hạ chính là thứ mà tổ tiên lão đã truyền lại: “Kiếp Dư Lục”. Một người như vậy mà lúc nãy khi tôi giải thích cho lão nghe về tiềm thức, lão lại có thể hiểu ngay được, còn đưa ra ví dụ minh họa, chứng tỏ lão dù ít dù nhiều cũng có hiểu biết về tâm lý học.

Vừa rồi tôi cảm thấy có gì đó kỳ lạ nhưng rồi không để ý nữa, cứ đinh ninh chắc đây chỉ là chuyện trùng hợp mà thôi.

Có lẽ ông chủ Vương cũng là một người tao nhã, dù sống giữa muôn trùng hãm hại lừa lọc mà vẫn dành thời gian nghiên cứu tâm lý, muốn làm xã hội đen thì cũng phải là xã hội đen có trình độ văn hóa. Nhưng trông lão đích thị cái dạng thô lỗ bặm trợn, giả thiết này là không hợp lý.

Nghĩ đến đây tôi lại bất giác liếc về phía ông chủ Vương, bỗng dưng có một dự cảm kỳ lạ dấy lên trong lòng —— người trước mặt tôi đây có thật là ông chủ Vương không?

Lão ta đang nhăn trán suy nghĩ về cái ý tưởng ban nãy tôi đưa ra, nghĩ đến xuất thần, nhất thời không nhận ra tôi đang nhìn lão với ánh mắt khác lạ. Tôi nhân cơ hội đánh giá dáng vẻ, quần áo của lão và cả rất nhiều chi tiết trên người lão nữa.

Cho đến giờ tôi vẫn chưa có ấn tượng gì nhiều với ông chủ Vương này. Đầu tiên là lão ta rất ít nói chuyện phiếm, thứ hai, hành động của lão cũng không có gì đặc biệt. Lúc trước khi trèo lên cây thanh đồng tôi cũng chỉ thấy lão một hai lần, bây giờ không nhớ nổi để mà phán đoán thật giả.

Nhưng vừa nghĩ lại, tôi cảm thấy bản thân đã phát hiện ra một vấn đề, chỉ là không dám khẳng định.

Để xác thực suy nghĩ của mình, tôi đột nhiên giả vờ nhìn thấy gì đó, phất phất tay trước mặt lão, khẽ gọi: “Ông chủ Vương!”

Lão lập tức quay đầu sang, hỏi: “Gì thế?”

“Đừng nhúc nhích!” Tôi thủ thế, lão không dám động đậy thật, còn bản thân tôi cẩn thận từng bước chầm chậm đi tới.

Lão ta rất căng thẳng, lo lắng nhìn tôi, tưởng trên vai mình dính cái gì, nghiêng mắt nhìn nhìn. Tôi bước đến ấn ấn vào ngực lão, thầm “Ai da~” một tiếng, lập tức thu tay lại.

Lão ta không hiểu nổi tôi làm cái quỷ gì, khẽ hỏi: “Làm cái gì vậy? Xảy ra chuyện gì à?”

Trong lòng tôi lúc này đã nắm chắc mấy phần, nhìn lão một cái rồi nói: “Tôi cảm thấy quần áo của ông rất lạ, ông mua ở đâu thế?”

Ông chủ Vương nhìn tôi như nhìn thằng thần kinh, bật cười: “Cậu có nhầm lẫn gì không, sao tự nhiên lại hỏi tôi câu này.”

Tôi nói: “Không nhầm chút nào đâu, ông chủ Vương. Mấy tháng trước, lần đầu tiên tôi đi đổ đấu, chú tôi bảo tôi đi mua đồ. Khi đó tôi cũng muốn mua bộ quần áo leo núi này của ông, nhưng sau đó lại thôi không mua nữa, ông biết tại sao không? Tại vì… loại quần áo này có hai cái túi ở trước ngực thoáng nhìn thì rất lớn, nhưng thật ra lại là giả, nó chỉ dùng để trang trí. Lúc đó tôi nghĩ quần áo đi thám hiểm đương nhiên càng nhiều túi càng tốt nên đã mua một cái loại khác.”

Ông chủ Vương sờ sờ hai cái túi trước ngực, mặt hơi hơi biến sắc.

Tôi phủi tay, khẽ nói: “Cho nên tôi mới cảm thấy kỳ quái, vừa rồi cái gậy huỳnh quang của ông, còn cả thuốc lá nữa, rốt cuộc là móc từ đâu ra vậy, hả ông chủ Vương?” Một tia sáng chợt lóe lên trong đầu tôi, tôi cơ hồ bật ra tiếng: “Hay là —— hay tôi phải gọi ông là lão Dương mới đúng đây?”

Ông chủ Vương ngơ ngác nhìn tôi, một lúc lâu sau lão chợt phì cười, cơ thể mập mạp kia bắt đầu co rút lại, cứ như một quả khinh khí đột nhiên bị chọc thủng mà xẹp xuống vậy.

Tôi thấy vẻ ngoài của ông chủ Vương biến đổi từng chút một, dần dần biến thành khuôn mặt của lão Dương, thầm khẳng định mình đã đoán đúng rồi.

Cuối cùng thân hình hắn cũng thả lỏng, thở dài nói: “Ngô Tà không hổ là Ngô Tà, đệch mợ từ nhỏ cũng chỉ có cậu chơi xỏ tôi, tôi khó mà lừa được cậu một lần, đều bị cậu vạch trần hết cả.”

Tôi lạnh lùng nhìn hắn, hỏi: “Bớt nói nhảm đi, cậu đang chơi trò gì ở đây thế?”

Hắn cười khổ một cái, khoát tay: “Nghe tôi giải thích, nghe tôi giải thích đã, ai da! Tôi cũng biết chuyện này không thể dễ dàng lừa cậu được.”

Thấy tôi không tiếp lời hắn mới lên tiếng: “Mục đích của tôi không phải lừa cậu, nhưng không còn cách nào khác. Đợi lát nữa nghe tôi giải thích xong, cậu sẽ biết tôi bất đắc dĩ mới phải làm thế.”

Tôi thấy hắn tùy ý kiểm soát ngoại hình của mình, thậm chí có thể sử dụng khả năng này ngoài sức tưởng tượng của tôi, suy ra hắn đã biết một số chuyện ở đây. Mục đích cả bọn mò đến cái chỗ này chắc chắn không phải là vì tiền, bởi vì một khi đã có năng lực này rồi thì tiền không còn là vấn đề nữa.

Nhưng với khả năng có thể nói là vô địch này rồi, hắn còn có chuyện gì cầu mà không được nữa, sao phải mò đến cái nơi quỷ quái này? Chẳng lẽ có năng lực này rồi vẫn chưa đủ?

Dẫu sao thì giờ đây tôi đã có thể khẳng định, lúc trước hắn một mực nhờ cậy tôi chính là một cái bẫy có chủ đích mà tôi cứ thế ung dung rơi vào. Nói cách khác bây giờ hắn lại sắp bắt đầu nói láo, tưởng tôi còn tin tưởng hắn như trước nữa sao? Cái con rùa chết tiệt này, nếu tôi khống chế được năng lực kia, tôi nhất định sẽ biến hắn thành con heo.

Lão Dương thấy nét mặt tôi biến đổi, biết rõ dù bên ngoài tôi vẫn tỏ ra bình thản nhưng kỳ thực trong lòng đã phát hỏa đến cực độ, nhất thời chẳng biết làm gì để dập tắt lửa giận của tôi, chỉ đành im lặng đứng nhìn.

Ngây người một hồi, hắn đột nhiên thở dài, cứ như đã suy nghĩ thông suốt điều gì đó, liền móc từ cái túi trước ngực ra một tấm hình, nói: “Cậu xem cái này đi rồi tôi sẽ giải thích cho cậu.”

Tôi cầm lấy tấm hình: người trong hình là mẹ hắn, mái đầu đã điểm hoa râm vì một đời vất vả. Xem ra chuyện lão Dương phải ngồi tù mấy năm đã giáng cho bà một cú sốc lớn. Mẹ hắn lúc còn trẻ rất đẹp, đối xử với chúng tôi cũng rất tốt. Chúng tôi đều gọi bà là dì Xinh Đẹp. Cha tôi và tôi mỗi năm đều đến thăm bà mấy lần.

Tôi không biết hắn cầm theo tấm hình này ra ngoài làm gì, nói: “Cậu có ý gì vậy?”

Hắn thở dài, chán nản cười khẩy: “Tôi không phải đã nói tôi cần tiền sao? Thật ra tôi lừa cậu đấy, mục đích tôi tới chỗ này là vì mẹ tôi. Mẹ tôi trong lúc tôi ngồi tù… đã đi rồi.”

Tôi à lên một tiếng, dùng ánh mắt vô cùng hoài nghi nhìn hắn, nhíu mày hỏi: “Mẹ cậu… qua đời rồi?”

Hắn im lặng gật gật đầu, nói: “Ngay sau ngày ra tù, tôi vội vàng về nhà, muốn cho mẹ tôi một sự bất ngờ. Nhưng đúng lúc tôi đẩy cửa phòng ra thì ngửi thấy một mùi hôi thối nồng nặc. Mẹ tôi gục trên máy may không nhúc nhích. Tôi cho là bệnh tim của bà ấy tái phát, lập tức chạy đến đỡ bà. Lúc tôi đỡ bà dậy, cậu biết con mẹ nó tôi nhìn thấy gì không?!”

Lão Dương nhắm mắt lại, thống khổ rên rỉ: “Mặt của bà… bị dính luôn trên máy may, kéo một cái mà toàn bộ bị rách ra hết, ôi trời ơi —— “

Tôi không biết mẹ hắn đã qua đời, nhất thời không biết phản ứng thế nào mới phải, chỉ biết đứng trân trân nhìn hắn. Lão Dương là người vô cùng hiếu thuận, hắn tuyệt đối sẽ không lôi chuyện mẹ hắn ra mà nói chơi.

Hắn xoa xoa trán, lại nói: “Sau khi làm lễ khâm liệm cho mẹ tôi xong, một mình tôi ở trong căn phòng trống không, nhất thời không biết nên làm gì. Tôi cũng không dám ngủ, vừa nằm xuống là lại thấy hình ảnh mặt mẹ tôi bị dính vào máy may. Cứ như vậy chín ngày liền, tôi đã đói bụng muốn chết, nghĩ thầm không bằng chết đói luôn cho rồi. Nhưng đúng lúc này, đột nhiên tôi liền ngửi thấy mùi thơm từ trong phòng bếp bay ra, thật giống như có người ở đó nấu thức ăn. Tôi qua đó xem, thấy mẹ tôi tự nhiên lại xuất hiện, thấy tôi đến còn nói: chờ một chút, xong ngay đây.”

Tôi nghe đến đó liền ý thức được chuyện gì đang xảy ra.

Lão Dương tiếp tục nói: “Lúc đầu tôi còn tưởng do mình nhớ mẹ muốn điên lên rồi nên mới xuất hiện ảo giác. Sau đó, tôi dần dần phát hiện có cái gì đó không đúng. Đây không phải là ảo giác. Không chỉ có tôi, ngay cả người bán thức ăn cũng nhìn thấy mẹ tôi. Lúc đó tôi biết rằng mẹ tôi đã thật sự trở lại, bà quả thật giống hệt với trước kia, ngay cả mùi vị thức ăn bà nấu cũng không khác xưa.

“Nếu là người khác có thể sẽ nghĩ mình gặp quỷ, nhưng tôi thì không. Tôi bắt đầu suy nghĩ chuyện này là sao đây? Dần dần tôi bắt đầu phát hiện, tình cảnh này có cái gì đó không ổn mà tôi không sao diễn tả bằng lời, nhưng lại không tìm được điểm mấu chốt. Cho đến một hôm, tôi ngồi xem TV suốt đêm, kết quả là gì cậu có đoán được không? Đêm hôm đó đột ngột bị cắt điện, cả khu chỉ nhà tôi là có điện, tất cả thiết bị điện dù không có điện vẫn mở được như thường, thậm chí không cần cắm phích.

“Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nữa. Lúc này, anh họ tôi gửi cho tôi một phong thư, trong thư anh nói anh cũng gặp phải chuyện tương tự. Lúc đó tôi hiểu được một phần, rằng chuyện này và cái cây thanh đồng kia chắc liên quan đến nhau.

“Tôi xem rất nhiều sách, biết được cái cây này có thể chính là Hứa Nguyện Xà Thần Thụ mà cổ nhân nhắc đến. Năng lực này của tôi có thể chính là từ cây thanh đồng mà ra. Lúc đầu tôi rất phấn khởi, tưởng mình sẽ phát tài. Nhưng đến khi tôi nghiên cứu kỹ hơn năng lực này, đồng thời sau khi bắt đầu có thể khống chế được nó, đã xuất hiện vấn đề.

“Một khi cậu dùng ý nghĩ để điều khiển năng lực này, nếu như cậu không thể gạt bỏ tạp niệm, rất nhiều thứ sẽ trở nên hỗn loạn, sẽ hỏng bét hết. Cho nên có một ngày, lúc tôi thức dậy, nhìn thấy mẹ tôi ngồi quay lưng lại ở bàn may, vừa nhìn thấy bà ngồi trước máy may, tôi đã sợ run, rón ra rón rén đi tới, cậu biết tôi nhìn thấy gì không, ôi trời ơi, mẹ tôi… mặt của bà…”

Tay lão Dương khua khoắng nhiều động tác, nhưng rồi thật sự không nói thêm được câu nào nữa, lén thở dài vài tiếng.

Tôi nghe xong trong lòng thầm cảm thấy lạnh cả người, thật sự không cách nào tưởng tượng tình cảnh khi đó đáng sợ đến mức nào.

Lão Dương thất thần từ trong người lần ra được một điếu thuốc lá bỏ vào miệng, không cần đến bật lửa đầu điếu thuốc đã đỏ rực. Hắn hít một hơi thật mạnh, nói tiếp: “Bắt đầu từ lúc đó, tôi ý thức được loại năng lực này kinh khủng đến thế nào. Nhưng tôi không cam lòng, tôi rất muốn mẹ tôi quay về. Cho nên tôi phải tìm một người nữa tới đây, tìm một người biết mẹ tôi, lại là người có tâm hồn vô cùng trong sạch, chính là cậu, lão Ngô. Đồng thời, tôi còn phải tiêu trừ hết năng lực này của mình.”

Tôi không nghĩ lão Dương vì chuyện này mà đến đây, nói: “Nhưng mà, lão Dương, chuyện này hình như là đi ngược lại ý trời, người chết không thể sống lại.”

Hắn nói: “Lão Ngô, tôi cũng không phải kẻ quá tham lam. Tôi chỉ muốn ba năm, chỉ cần được sống bình an cùng mẹ tôi ba năm nữa thôi. Cậu đã nhiều lần đến nhà tôi, lẽ nào cậu đành lòng nhìn mẹ tôi chết trong cô đơn như vậy sao?”

Tôi thở dài, nghĩ nếu như mẹ của hắn thật sự sống lại, liệu tôi có còn dám đến nhà hắn nữa hay không. Cây thanh đồng này không biết kẻ nào đã dựng lên thẳng đứng ở nơi đây, thậm chí còn có năng lực ma quái. Cái người này, rốt cuộc có được tính là người không đây.

Nghĩ nửa ngày, tôi lắc lắc đầu: “Chuyện này tôi không làm được đâu. Lão Dương, mẹ cậu đã chết, bà đã về với đất rồi, cậu… cậu hãy để cho bà đi đi, không nên cứ giữ bà như vậy.”

Lão Dương cười cười: “Từ từ đã, lão Ngô, cậu không hiểu. Chuyện này chẳng liên quan gì đến chuyện cậu có muốn giúp tôi hay không, cũng là lý do tại sao tôi không nói với cậu mục đích chúng ta đến đây. Bây giờ tôi nghĩ mục đích của mình đã đạt được rồi.”

Tôi không hiểu hắn nói gì, hỏi: “Ý cậu là sao?”

Hắn giơ giơ tay, nói: “Thì cậu cứ thử một lần xem cậu có thể cụ thể hóa ra được thứ gì đó không.”

Tôi không biết hắn muốn làm gì, nhìn xuống hai tay mình, trong lòng thầm tưởng tượng ra hình dạng một tảng đá, cố gắng dùng ý niệm của mình thực thể hóa nó. Nhưng mà dùng sức hồi lâu, trên tay vẫn trống không. Không nghi ngờ chút nào, năng lực này rất khó sử dụng. Người bình thường rất khó khống chế tiềm thức của bản thân.

Lão Dương có chút đắc ý nói với tôi: “Cậu xem, loại năng lực này, khi cậu cố gắng làm gì đó thì nhất định không hữu dụng. Nếu không thì vừa rồi lúc đói bụng hẳn là sẽ có vịt nướng bay tới rồi. Chỉ có một số tình huống nhất định nó mới xuất hiện, khó khăn vô cùng. Lão Ngô, năng lực này chỉ có thể hướng dẫn mà không cách nào sử dụng, cho dù có qua huấn luyện đi chăng nữa cũng vô cùng khó khăn. Ví như nếu cậu muốn biến ra thứ phức tạp như cái TV ở chỗ này thì có tưởng tượng cỡ nào cũng không ra.”

Tôi nhìn hắn, “Ý cậu muốn nói khả năng này thụ động? Cần một người hướng dẫn tâm lý?”

Hắn gật đầu, “Đúng, ví như tôi vừa rồi nói với cậu những lời đó là để hướng dẫn những suy nghĩ trong não cậu hiện thực hóa ra một người ngồi trong nhà tôi cách đây cả trăm dặm.”

Tôi ngây người nhìn hắn, nói: “Vô lý, con mẹ nó cậu cho là tôi thực sự cái gì cũng tin sao?”

Lão Dương lắc lắc đầu, đúng lúc đó đột nhiên cây thanh đồng và khối hổ phách chấn động mạnh một cái. Hai người chúng tôi bị trượt chân, thiếu chút nữa đã ngã xuống. Vội vàng túm lấy dây xích bên cạnh cây đồng, cúi đầu xuống nhìn chỉ thấy dưới chân chúng tôi là vực thẳm, giống như có thứ gì đó đang quằn quại. Mỗi lần nó ngọ nguậy, cây thanh đồng lại bị rung lắc dữ dội tựa như động đất, đứng cũng không vững.

Tôi túm chặt dây xích trên cây thanh đồng, cảm thấy kỳ lạ, trong đầu nghĩ ra một chuyện, quay đầu lại hỏi lão Dương: “Đúng rồi, lúc nãy có những âm thanh kỳ quái “Híc híc híc” ấy, có phải cũng do cậu hiện thực hóa ra không vậy?”

Lão Dương cũng nghi ngờ nhìn nhìn phía dưới, gật đầu nói: “Đúng vậy, tôi dùng âm thanh này để dụ cậu vào bên trong, sau đó tôi đứng bên ngoài đánh ngất ông chủ Vương. Cái vô tuyến điện kia quấy nhiễu, chẳng qua là không muốn để cho cậu nghe thấy tiếng tôi và ông chủ Vương đánh nhau thôi.”

Tôi nhíu mày, kêu lên: “Nếu thế không biết chấn động này là do cái gì gây ra?”

Lão Dương cũng đổi sắc mặt, nói: “Tôi cũng không biết, nhưng mà lão Ngô này, khi nhìn thấy cây thanh đồng ấn tượng đầu tiên của cậu là gì?”

Tôi vừa nghe hắn nói như vậy, đột nhiên sợ run cả người, “Tôi nghĩ… là nó thông đến Địa ngục…” Vừa nói vừa nhìn xuống phía dưới, “Không thể nào, cậu không định nói… cái thứ này… là…”

Lão Dương đá mạnh tôi một cước, kêu to: “Đồ ngốc, đừng có hoang tưởng!”

Vừa dứt lời, một con mắt khổng lồ hiện ra trong bóng đêm đen như mực bên dưới, con ngươi màu tím híp lại thành một đường ti hí quái quỷ, trông như mắt mèo.
 
Quyển 3 - Chương 36: Sụp đổ


Edit: Thương Lang

Beta: Thanh Du

~0O0~

Con mắt lớn bên dưới nhanh chóng tiếp cận, tình hình hỗn loạn, toàn thân cây thanh đồng càng thêm rung lắc dữ dội. Tôi cũng không nhìn rõ nó leo lên bằng cách nào, chỉ biết ấn theo tốc độ này thì không đến mười phút nữa chúng tôi chắc chắn sẽ phải đối mặt với một trận đại chiến.

Lão Dương tái xanh mặt, quay sang oán trách tôi, “Rốt cuộc cậu tưởng tượng ra cái quỷ gì vậy hả?”

Tôi vội kêu oan, “Thề có trời chứng giám, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy thứ này, nếu có nửa lời dối trá sẽ bị thiên lôi đánh chết.””

Hắn thấy tôi quả quyết như vậy thì ngẩn người, “Vô lý, không phải cậu thì là ai?”

Lúc này cũng không thể phỏng đoán gì hơn, tôi bảo hắn bớt nói nhảm đi, mau mau nghĩ cách, bị trừng đi trừng lại như vậy cũng chẳng dễ chịu gì.

Hắn nói, “Không cần lo lắng thái quá, chỉ là một con mắt chứ có gì ghê gớm đâu, chẳng lẽ cậu sợ nó dùng mí mắt kẹp chết chúng ta? Chờ nó leo lên đây ông đá phát mù luôn.”

Lời còn chưa dứt, thình lình một xúc tu khổng lồ trông như xúc tu bạch tuộc cuốn lên, trong nháy mắt đã quét qua khối hổ phách. Hai chúng tôi xoay một vòng trên không trung, cuối cùng đập vào vách thanh đồng. Khối hổ phách lập tức vỡ toang thành trăm mảnh, thi thể bên trong cũng nứt toác, rơi xuống theo những mảnh vụn hổ phách như thiên nữ tán hoa.

Hai người chúng tôi chớp lấy thời cơ cuối cùng, túm chặt dây xích thanh đồng mới may mắn thoát khỏi hiểm nguy không sứt mẻ gì, nhưng đầu óc cũng quay cuồng choáng váng. Tôi gào lên với lão Dương: “Trò đùa này quá đáng lắm rồi, không phải cậu có năng lực biến đổi sao? Mau biến ra một khẩu đại pháo, bắn nát cái thứ quái quỷ kia đi.”

Lão Dương quát to: “Má nó, cậu còn lảm nhảm cái gì vậy! Làm gì có chuyện dễ dàng như thế? Chạy mau!”

Chúng tôi không nhiều lời nữa, nhanh chóng men theo dây xích thanh đồng mà trèo lên. Mới được vài bước, đột nhiên cảm giác trên tay trơn tuột, sức lực cũng bắt đầu cạn kiệt. Tôi lập tức nghĩ đến loại thực vật trơn nhẵn mọc trên rễ cây trước đó, trong lòng hoảng hốt. Thôi hỏng rồi, chẳng lẽ mình phải chết ở đây?

Chợt lão Dương nhấc tay một cái, cảm giác trơn tuột trong lòng bàn tay tôi nháy mắt đã biến mất. Hắn leo trèo nhanh nhẹn như khỉ, còn kéo tôi theo. Tôi nhất thời không nắm vững, suýt nữa đã tuột tay, bèn mở miệng trách cứ, “Cậu có bản lĩnh như vậy, sao không biến hẳn ra cái thang có hơn không?”

Hắn gắt: “Lạy bố, bố đừng có lắm lời nữa cho con nhờ!!!”

Hai chúng tôi cắn răng trèo vào quan thất. Sương mù phía trên đã tan đi hết, tôi tính nhân cơ hội này xem qua mấy tấm phù điêu khác. Lão Dương nói cậu đừng có nhìn nữa, giờ là lúc nào rồi, nói đoạn vội vàng kéo tôi trèo lên tường quách. Đột nhiên, xúc tua kia nhanh như chớp cuộn lên từ dưới thông đạo, chớp mắt đã bật tung tảng đá lớn chặn trên đỉnh quách thất. Lực va chạm cực lớn, đến cả những rễ cây cứng như sắt cũng bị đập cho nát bấy, nhất thời cả cây thanh đồng chấn động mạnh, nhìn đâu cũng thấy những rễ cây, vỏ cây mục nát hòa cùng tro bụi bay mù mịt. Cả tảng lớn rễ cây đột nhiên vỡ tung thành nhiều mảnh nhỏ như những viên đạn bắn ra khắp bốn phía, đập vào sạn đạo, phá sụp một mảng lớn. Chúng tôi đang nằm sấp trên một rễ cây trơn trượt, lần này cả hai đều bị quăng ra khỏi quách thất, ngã sấp trên đài hiến tế.

Xúc tua kia sau khi lao ra khỏi cây thanh đồng thì không rút vào nữa mà cứ quét loạn xạ khắp bốn phía, đập cho mấy pho tượng thanh đồng xung quanh biến thành dị dạng. Tôi và lão Dương chật vật cúi đầu né tránh, lão Dương chỉ chỉ sạn đạo nói mau xuống thôi, cứ ở trên này thì chết chắc rồi. Tôi chợt nhớ đến ông chủ Vương bị lão Dương đánh ngất bên ngoài, thầm nghĩ mặc dù lão là loại khốn nạn nhưng cũng chưa đến mức tội ác tày trời, không thể cứ bỏ mặc lão như thế được, bèn vội vã quay đầu tìm kiếm. Nhưng nhìn quanh quất mãi mà không thấy, chẳng lẽ lão ta đã bị những mảnh rễ cây bắn ra từ vụ nổ vừa nãy đẩy đi đâu mất rồi?

Rễ cây bốn phía đã bị bật tận gốc, chỉ còn sót lại vài mảnh vụn trên đài hiến tế . Lão Dương thấy tôi quay qua quay lại nhìn xung quanh bèn đá tôi một cái, bảo tôi mau nhìn lên trên. Tôi vừa ngẩng đầu lên đã thấy một phiến đá bự chảng xé toạc không trung rơi xuống, vội cuống cuồng chạy. Lão Dương lộn một vòng, khoác lên lưng cái ba lô đang vướng trên một gốc cây đổ, sau đó hai người chúng tôi nhảy vọt lên bám vào dây thừng dùng làm cầu dây trước đó.

Chúng tôi vừa nắm lấy dây thừng, phiến đá phía sau đã rơi xuống đập mạnh lên đài hiến tế, vỡ thành trăm mảnh, tạo ra thanh âm đinh tai nhức óc. Dây thừng chúng tôi đang nắm cũng theo đó mà rung lên giống như dây đàn dương cầm, cơ hồ khó có thể chống đỡ được sức nặng này.

Quay đầu nhìn lại cái rễ cây chúng tôi đã quăng móc câu để trèo lên khi nãy thì thấy phần đầu của nó đã nối gót theo những rễ đa quấn quanh quan tài bay mất, chỉ còn lại một phần con con ít đến thảm hại. Bị thể trọng của chúng tôi níu xuống, móc câu cứ trực trượt ra ngoài, có vẻ như sẽ không còn chống đỡ được bao lâu nữa.

Tôi ngày càng cảm thấy bất an, bèn quay đầu gọi lão Dương mau leo lên, bằng không chúng ta sẽ theo chân lão Thái luôn đó! Lão Dương nghe thế liền giáng cho tôi một cái tát thật mạnh, mạnh đến mức khiến lỗ tai tôi ong ong.

Tôi mắng to: “Mẹ kiếp, cậu nghiện đánh người hả?”

Lão Dương gào lên: “Không đánh cậu sao được, cậu làm chủ đầu óc mình đi, tuyệt đối đừng nghĩ bậy nghĩ bạ gì nữa.”

Tôi cũng gào lại: “ Tôi nghĩ bậy hồi nào?”

Lời còn chưa dứt, chợt nghe một tiếng “Uỳnh” thật lớn vang lên. Chúng tôi quay lại nhìn, chỉ thấy toàn bộ quách thất đột nhiên gồ lên, các vết nứt dần dần xuất hiện. Một con rắn lớn màu đen nhô đầu ra, xúc tua kia chính là đuôi rắn. Đó là một con cự xà có một mắt, vảy rắn rất nhỏ, nhìn lướt qua lại thấy giống một con giun cỡ bự hơn.

Độc nhãn cự xà vừa chui ra, con mắt lớn đã ngay lập tức đảo về phía chúng tôi. Lão Dương thấy tình thế không ổn, đột nhiên rút từ sau lưng tôi ra một thanh liệp đao (đao dùng để đi săn) dài, vung lên chém đứt dây thừng. Chúng tôi chao qua khoảng không thành một đường cong như Tarzan, cuối cùng va vào một bên sạn đạo. Lần này tôi đã có chút kinh nghiệm, lập tức lộn một vòng, lực va đập đã giảm đi đáng kể.

Lão Dương vừa rơi xuống đất đã nhanh nhẹn rút ra từ bên cạnh ba lô một khẩu súng ngắn, bắn một phát vào mắt cự xà. Viên đạn khoét một lỗ hổng lớn trên thân cự xà khiến nó xà đau đớn cuộn mình, cái đuôi quét qua phá hủy toàn bộ dải sạn đạo trên đầu chúng tôi.

Lão Dương né một mảnh gỗ nhỏ rơi xuống đầu, đứng lên đối mặt với con rắn kia, vừa nổ súng vừa kéo tôi chạy đi. Tôi biết loại súng này chỉ nạp được năm viên đạn, nhưng cầm trong tay lão Dương thì đạn cứ liên tiếp bắn ra như nước chảy, căn bản không cần nạp.

Đáng tiếc kích cỡ của súng này vẫn còn quá nhỏ, con rắn sau khi bị bắn phát đầu tiên, đến giờ đã có kinh nghiệm, bắt đầu quấn tròn lại, dùng thân thể bảo vệ lấy mắt mình. Đạn bắn ra đều trúng đuôi nó cả, vảy của nó giống như một loại thiết giáp, làm gì cũng vô dụng.

Tôi thấy dùng súng không ăn thua với nó liền hô hào lão Dương mau chạy, hai người cứ thế chạy thẳng tới chỗ sạn đạo bị đứt quãng. Tôi vừa định trèo lên vách đá, lão Dương đã giữ chặt lấy tôi, nói: “Đã đến nước này rồi còn muốn trèo lên?” Nói đoạn kéo tôi nhảy xuống. Chúng tôi trượt theo mặt vỡ của sạn đạo nhảy xuống tầng sạn đạo kế tiếp, chợt nghe những tấm ván gỗ kêu răng rắc liên hồi. Ván gỗ mỏng manh làm sao có thể chịu được va đập mạnh như vậy, lập tức vỡ thành nhiều mảnh. Chúng tôi rơi xuyên xuống, lại phá vỡ một tầng sạn đạo nữa, rốt cuộc ngã lăn trên tầng sạn đạo cuối cùng.

Lần rơi này va đập rất mạnh, lúc tôi ngồi dậy được thì máu tươi đã trào đầy miệng mũi. Lão Dương kéo tôi đứng dậy, hỏi: “Xem ra dự đoán ban đầu của chúng ta đã quá lạc quan rồi, cậu không sao chứ?”

Tôi chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, cũng không biết đã trả lời hắn những gì. Chợt thấy cự xà màu đen chớp mắt đã bò xuống theo cây thanh đồng, lão Dương nói: “Đánh thì không lại, trốn cũng không thoát, thôi thì cứ tìm một cái hang mà chui tạm vào đã.”

Tôi nhìn xuống dưới, sâu thêm chút nữa đã không còn sạn đạo, chỉ còn chi chít những hang nhỏ giống cái hang chúng tôi từng nghỉ ngơi trước đó. Con rắn kia bự quá khổ, chúng tôi cứ chui bừa vào một trong số đó cũng có thể tránh tạm một lát rồi từ từ nghĩ đối sách.

Lão Dương sốt ruột lôi kéo tôi trèo xuống, rồi chui vào một cái hang rộng chưa đến một thước. Còn chưa kịp đi sâu vào bên trong, bất thình lình con mắt lớn của cự xà đã xuất hiện ngay trước cửa động, chăm chú ngắm nghía chúng tôi, sau đó lao bổ tới, định nhào vào trong.

Lão Dương bắn mấy phát súng, muốn ép nó lui xuống, nhưng viên đạn bắn vào đầu rắn chỉ làm tróc vài cái vảy, chẳng có tí hiệu quả thiết thực nào.

Cái đầu của hắc xà trông giống một chiếc xe tải cồng kềnh, thử vài lần cũng không chui vào được. Đột nhiên nó vung đầu, đập mạnh vào cửa hang khiến cho đất đá rơi tán loạn. Chúng tôi nhanh chóng chạy vào sâu bên trong, chỉ mong những tảng đá rơi xuống sẽ chặn mất đường vào.

Cự xà thấy chúng tôi lui vào trong hang thì nổi cơn thịnh nộ, tiếp tục đập đầu vào cửa hang. Toàn hang chấn động, chỉ nghe tiếng nham thạch rạn nứt từ ngoài cửa truyền tới ngay trên đỉnh đầu.

Đá ở đây là đá basalt (1), bị khai phá quá mức để tạo thông đạo nên không còn kiên cố như trước, trải qua va đập đã phá vỡ thế cân bằng mong manh bên trong nham thạch. Lúc này giữa các khe hở đã xảy ra phản ứng dây chuyền, một cái khe đột nhiên xuất hiện ngay trên đầu chúng tôi. Lão Dương thấy tình thế không ổn, vội kéo tôi lui vào tận đáy động. Tôi chưa hết kinh hoàng, mới lui vài bước vào trong đã nghe một chuỗi tiếng nổ vang lên liên tiếp, cát bụi bay mờ mắt, đá vụn văng khắp nơi, không sao giữ được bình tĩnh.

Theo bản năng, tôi cuộn người, hai tay đưa lên bảo vệ đầu. Những tảng đá từ bên trên trút xuống như mưa, trút lên người, lên lưng, không sót chỗ nào. Đang lúc hoảng loạn, lão Dương bỗng nhiên giữ chặt lấy tôi, kéo tôi về phía hắn; cùng lúc ấy tôi nghe một tiếng vang thật lớn, một tảng đá to như cái bàn làm việc cỡ lớn sụp xuống, bịt kín cửa động.

Con rắn đen chết tiệt đó chẳng những không chui được vào hang mà bóng dáng chúng tôi nó cũng chẳng nhìn thấy, nhưng vẫn cứng đầu chưa muốn từ bỏ ý định, lại tiếp tục đập hơn mười lần. Đất đá không ngừng rơi xuống, vách tường bốn phía cũng bắt đầu xuất hiện các vết nứt.

Lão Dương nói: “Cứ tiếp tục như thế cũng không phải cách hay, e rằng con quái này không giết được chúng ta sẽ không chịu buông tha đâu. Đợi nó đụng thêm vài cái nữa thì núi cũng phải sụp.”

Tôi quay đầu lại, chúng tôi đã lui đến điểm tận cùng của hang, không thể lui thêm được nữa. Nếu hang này sụp thêm chút nữa, e là thần tiên cũng không cứu được chúng tôi.

Giờ đã tới đường cùng, dù có thuốc nổ đi nữa thì trong không gian nhỏ hẹp này cũng không thể sử dụng. Nhìn vết nứt bốn phía từng chút từng chút một kéo dài rộng ra, lòng tôi nóng như lửa đốt.

Đúng lúc này, một cái khe toác ra, một đoạn tường đá không chịu nổi chấn động, ào ào sụp xuống. Chúng tôi ép sát người vào vách tường, khó khăn lắm mới giữ được toàn thân nguyên lành, lại thấy phía sau đoạn tường đá sụp xuống xuất hiện một cái hang.

Tôi mừng rỡ trong lòng, thầm nghĩ trời không tiệt đường người, nhất định là nham thạch ở giữa hai cái hang vỡ nát, tạo thành một thạch đạo. Nghĩ đoạn vội quay đầu gọi lão Dương, định bò vào trong.

Nào ngờ, lão Dương lập tức chặn ngay trước mặt tôi, “Không thể vào đó.”

__________

(1) Đá basalt: hay còn gọi là đá bazan là loại đá macma màu xám hay màu đen, hình thành do macma phun trào ra từ miệng núi lửa rồi nguội đi.
 
Quyển 3 - Chương 37: Nhật ký


Edit: Đậu Hũ

~0O0~

Hang động sắp sụp xuống, bất kể đá lớn đá nhỏ đều nhè đầu tôi mà đáp, chậm chân một giây là có nguy cơ chôn thây dưới hàng đống đá. Lâm vào tình cảnh này, trước mắt có đường thoát đã tốt lắm rồi, làm gì còn sức mà quan tâm đến chuyện khác. Tôi bèn kéo tay hắn mà gào tướng lên: “Không thể cái con khỉ, không vào đó chẳng lẽ ở ngoài này chờ chết?”

Lão Dương nói: “Tình hình trong đó thế nào chưa rõ, cậu xem xét kĩ rồi tính sau!”

Tôi bảo hắn: “Thời gian đâu mà suy tính nhiều, cậu xem tình hình bây giờ, dù bên trong có là đầm rồng hang hổ cũng phải đâm đầu vào.” Dứt lời liền lôi hắn chui vào trong động.

Lão Dương kiên quyết giằng tay lại, không cho tôi kéo hắn vào, nói: “Cậu làm ơn nghe tôi một lần được không, động này thực sự không thể vào được!”

Nói xong còn muốn lôi tôi ra ngoài, tôi nổi cáu, vừa định hỏi hắn bộ muốn ở ngoài chờ chết à, bỗng một tảng đá đột ngột sụp xuống, tôi vội vã buông tay, cả hai đều ngã ngửa. Tảng đá “rầm” một tiếng chắn ngang giữa chúng tôi, trong chớp mắt đã lấp kín cửa hang.

Tôi sợ mất mật, vội kêu to hỏi hắn có sao không, hồi lâu mới nghe tiếng hắn rên rỉ trả lời: “Không sao hết, mẹ kiếp đầu bị đập một cú thôi. Bên này vẫn chưa sụp, bên cậu thế nào?”

Tôi báo cho hắn biết tôi cũng không việc gì, rồi thuận tay đẩy tảng đá thật mạnh, nhưng tảng đá chẳng thèm nhúc nhích tí gì. Biết là đường về đã bị chặn, tôi bèn quan sát khắp bốn phía chung quanh. Ban đầu tôi còn tưởng đây là một cái hang trên vách đá, đầu kia ắt là cửa ra, nhưng bây giờ nhìn lại thì thấy đây là một không gian kín mít, chật như hũ nút. Có lẽ nó là một khe nứt tự nhiên trong núi, mà trông còn có vẻ quen quen.

Đạp lên đống đá vụn đi lại vài bước, tôi chợt ngộ ra, nơi này vốn dĩ cũng là một hang động hình thành sau vụ sạt lở, có điều vụ sạt lở này đã xảy ra được vài năm nên những thứ đáng phải sập cũng đã sập cả, trên mặt đất toàn là đá vụn.

Lúc nãy tôi còn ngạc nhiên vì sao con cự xà kia lại mạnh đến thế, quẫy đập có mấy cái đã khiến cả tầng đá cứng rắn vỡ nát tan hoang. Bây giờ nghĩ lại mới vỡ lẽ, thì ra nơi này trước kia đã từng sạt lở một lần, sự cố vừa rồi tất nhiên sẽ gây ra tác động rất lớn tới các tầng đá xung quanh. Cho nên những khối nham thạch đó bề ngoài nhìn qua có vẻ chắc chắn nhưng thực ra bên trong đã rạn nứt từ lâu, chỉ cần bị con cự xà đập vài cú là bung bét cả, sập xuống tạo thành một thông đạo thế này.

Tôi quan sát phía trên đỉnh đầu, phát hiện nơi này là khe hở giữa hai khối đá lớn bị đổ xuống, xếp vừa khít với nhau, trông chắc chắn vô cùng, dù cho bên ngoài vẫn bị đập phá ầm ầm thì trong này cũng chỉ có bụi đất rơi xuống.

Con cự xà kia đã dần dần đuối sức, vùng vẫy mỗi lúc một yếu hơn, cuối cùng cũng chịu nằm yên.

Hồn vía còn chưa tìm lại hết, tôi chợt nhớ ban nãy lão Dương còn kéo tay tôi, nếu tôi không buông ra đúng lúc thì giờ này chắc đã thành một cái bánh thịt rồi. Bực bội mà không có chỗ xả, tôi từ đằng sau tảng đá nổi sùng mắng ra: “Vừa nãy cậu uống lộn cái thuốc quái quỷ gì thế? Suýt nữa đã hại chết người ta rồi.”

Lão Dương bị tảng đá chặn bên ngoài, không sao vào được, cũng nói vọng vào: “Tôi uống lộn thuốc cái gì chứ, sao cậu không nói bản thân mình trái tính trái nết đi, bây giờ thì hay rồi, phải làm sao đây?”

Tôi bới bới mấy tảng đá, nhìn thấy ánh đèn pin của lão Dương chiếu vào qua khe hở của mấy tảng đá. Có điều khối đá lớn nhất ít ra cũng to bằng cả cái bàn bát tiên, trong khi khe hở lại có hạn, tôi có thể vươn tay ra ngoài, nhưng chắc chắn không thể chui lọt cả người ra được.

Tôi lấy cục đá gõ gõ vài cái, cũng rơi ra vài mảnh vụn. Hai loại đá có độ cứng giống nhau, phải vất vả lắm mới đập vỡ được. Lão Dương thấy mớ đá dăm trên đầu lại bắt đầu rơi xuống, vội kêu tôi ngừng tay, nói: “Cậu nhẹ tay một chút, còn gõ nữa không khéo nơi này sập xuống mất.”

Tôi bảo: “Vươn cổ ăn một đao, rụt cổ cũng dính một đao, không bị đè chết thì cũng đói chết, còn cân nhắc cái gì nữa.”

Lão Dương nói: “Khoan đã, chúng ta còn chưa tới đường cùng, cậu nhìn quanh bốn phía xem, nếu phát hiện ra thứ gì đặc biệt thì nói với tôi ngay.”

Tôi ngó quanh quất một vòng, nơi này tối như hũ nút, trong tầm nhìn chỉ thấy đá vụn, bèn bảo hắn trong này chẳng có gì cả.

Nghe xong hắn im lặng một lúc, hỏi: “Không có gì thật chứ? Cậu cứ tìm kỹ lại đi.”

Tôi bảo: “Tôi lừa cậu làm gì, trong này chật như lỗ mũi, có thứ gì đã đập vào mắt ngay rồi.”

Lão Dương nói: “Được rồi, cậu xem lại cẩn thận lần nữa, tôi cũng ra đằng trước tìm thử xem có phải cái khe này bị lấp kín thật không. Biết đâu lại tìm được khe hở nào đó đủ để thoát ra ngoài.”

Nói rồi ánh đèn trên tay hắn cũng dời đi. Tôi tựa vào tảng đá nghỉ ngơi một chút rồi bò vào phía trong khe nứt, nhìn quanh quất lần nữa. Chỉ thấy trong này quả thực không có lối ra, khối đá trên đầu chí ít cũng nặng vài tấn, bị nhốt ở nơi này e là trong vòng một năm sẽ không cách nào ra được.

Lại tiến vào sâu hơn, vẫn không có đường. Đang định quay lại, chợt thấy trên vách đá dường như có hình vẽ gì đó, tôi vội tiến lại gần nhìn xem.

Thoạt đầu, tôi còn tưởng đó là mấy bức bích họa hang động nguệch ngoạc, trông rất nguyên sơ, có thể là do những người đúc ra cây thanh đồng ngày trước lưu lại. Nhìn kỹ hơn mới thấy không phải, trên bức vẽ nguệch ngoạc đó là một chiếc máy bay cùng vài chữ cái tiếng Anh, đây là tác phẩm của người hiện đại.

Ai lại đi làm mấy chuyện này ở trong đây chứ? Tôi cảm thấy vô cùng nghi hoặc.

Phân nửa bức họa đã bị chôn vùi trong đống đá lổn nhổn dưới chân, tôi dọn dẹp mấy tảng đá, muốn xem thử rốt cuộc là hình vẽ những thứ gì. Sau khi dời một tảng đá lớn, chợt xuất hiện một đống vải đen kịt rách nát, trông như là mảnh vụn của quần áo.

Tôi kéo mớ vải xuống, một cái xác khô quắt đã rữa nát đến tận xương cốt lù lù hiện ra. Nhìn bản tay chới với xòe ra của người chết thì có lẽ anh ta muốn bò ra khỏi đống đá vụn, cuối cùng kiệt sức mà chết.

Tôi giật thót tim, suýt nữa đã la ầm lên, trong bụng thầm nhủ nơi này sao lại chôn người chết? Không lẽ người này bị chôn sống khi động sụp xuống? Mà người này là ai?

Tôi tiếp tục dỡ đống đá, trong chốc lát một khối thi thể đã hiện ra. Xác chết đã hoàn toàn thối rữa, xem ra chôn ở đây cũng đã được một thời gian. Quần áo trên người đã mục nát, quan sát chất liệu cũng không thể đoán được màu sắc ban đầu, nhưng nhìn lá bùa hộ mệnh đeo trên cổ anh ta có thể suy đoán người này ắt hẳn cũng giống như chúng tôi, đều là đến đây đổ đấu.

Nhớ tới khối thi thể tôi nhìn thấy lúc ở dưới đáy thác nước kia, tình trạng phân hủy cũng không khác lắm so với người này, có lẽ cả hai cùng chung một đoàn, quả đúng là người chết vì tiền, chim chết vì mồi, kết cục của hai người này biết đâu lại chính là kết cục của tôi.

Tôi tiếp tục đào bới, đào cả thi thể hoàn chỉnh ra, lại tìm được một cái ba lô nát đến không thể nát hơn, bên trong hầu như trống rỗng, chỉ còn một dúm cặn bã màu đen, chẳng biết là thứ gì phân hủy thành. Lộn trái túi ra, từ trong lớp vải lót rơi ra một quyển sổ ghi chép.

Quyển sổ nát đến mức sắp rời ra từng tờ, may mà chất giấy tốt, chữ viết bằng bút bi xanh trên mặt vẫn còn nhìn rõ. Tôi nhặt lên xem xét, trang đầu cuốn sổ có ghi vài địa chỉ và số điện thoại. Lật đến mấy trang sau, tôi chợt sửng sốt, ở đây có mấy dòng nhật ký, xem ngày đầu tiên thì hình như là ghi chép từ ba năm trước.

Nét chữ trong quyển nhật ký có vẻ khá non nớt, hẳn đây không phải là người đọc thông viết thạo, mỗi phần nhật ký chỉ dài chừng trăm chữ. Tôi lật vội vài tờ, thấy lạnh cả sống lưng.

Theo như nhật ký ghi lại, người này hẳn là đã đến đây từ ba năm trước. Trong nhật ký không miêu tả hành trình của anh ta, mà chỉ bắt đầu từ khi anh ta bị kẹt trong hang động này, tuy nội dung phía sau thỉnh thoảng có nhắc đến những việc anh ta từng trải qua khi trước.

Đoàn của bọn họ có lẽ tổng cộng khoảng mười tám người, bởi vì một đoạn trong đó có nói “mười tám người chỉ còn lại một mình tôi”. Bên trong còn kể, bọn họ không đến bằng lối chúng tôi đã đi qua mà đến từ rừng đa trên đỉnh núi, qua một cái hốc rất lớn bị rễ cây bao bọc chằng chịt.

Đó chính là khu rừng đa mà lão Dương đã nhắc đến, chúng tôi không có cơ hội vào đó, nào ngờ bên trong còn có thứ kỳ lạ như vậy, nếu sớm biết đã không cần phí công chịu nhiều trắc trở như thế.

Nhưng xem đến phần sau, tôi lại thấy mình thật may mắn mới không đi con đường kia. Bởi theo như trong này ghi lại, con đường bọn họ đi xuống vô cùng nguy hiểm, mười tám người đi vào đến lúc ra chỉ còn lại sáu, toàn bộ những người khác đều tử nạn trên đường.

Phỏng chừng cái hốc cây kia hẳn là nằm ở giữa rừng, chính là cây đa đại thụ mười mấy người ôm không hết mà lão Dương đã kể, một cây đa đã rậm như cả cụm rừng, mảnh rừng kia rốt cuộc là do nhiều gốc đa hợp thành hay chỉ là một gốc, hiện giờ cũng không rõ nữa. Hành trình của những người này sau khi xuống hẳn là trái ngược với chúng tôi: chúng tôi trực tiếp leo lên từ gốc cây thanh đồng, còn bọn họ là rơi thẳng xuống ngọn cây.

Ngoài dự liệu của tôi chính là, người này còn kể bọn họ không phát hiện được gì trên đài hiến tế, bèn theo sạn đạo từ bốn phía đi xuống. Dưới chân sạn đạo chìm trong làn nước giống như một cái đầm sâu, màu nước xanh biếc, hoàn toàn không nhìn thấy đáy.

Bọn họ nhảy vào trong đầm, phát hiện ra nước rất sâu, không có thiết bị thì không thể lặn xuống. Mà thiết bị lặn bọn họ mang theo lại quá nhỏ, sau khi thử lặn xuống không được thì đành phải bỏ cuộc. Sáu người nổi lên mặt nước, vừa nhìn đã giật mình.

Thì ra trong lúc bọn họ lặn xuống, mực nước rút đi rất nhanh, đến khi trồi lên, chỗ sạn đạo mà họ để vật dụng trang bị đã cách xa tới sáu, bảy mét. Bọn họ không nghĩ tới tình huống này, tất cả dây thừng đều để trong túi, không mang theo bên người, cả đám ai nấy đều hoảng sợ.

Mực nước nhanh chóng hạ xuống, bọn họ chia hai nhóm, một leo lên cây thanh đồng, một chạy vào những cái hang lộ ra trên vách động. Chủ nhân quyển nhật ký, lúc ấy đã chui vào cái hang nơi tôi đang đứng, nhưng thật không may, hắn vào hang chưa bao lâu, từ trong nước bỗng chui ra một con mãng xà lớn trông như con rồng đen bò lên cây thanh đồng đuổi theo nhóm kia. Hắn chỉ nghe tiếng đồng bọn gào thét thảm thiết cùng với tiếng súng nổ, sợ hãi trốn riết trong động không dám ra ngoài.

Trong tai nạn bất ngờ không kịp đề phòng này, tất cả đồng bọn của hắn đều bỏ mạng. Có một người trong lúc giằng co với con đại mãng xà, trước khi chết đã kịp kích hoạt thuốc nổ. Bọn họ vốn chuẩn bị phá núi đào mộ nên mang theo rất nhiều thuốc nổ, nháy mắt đã nổ đến long trời lở đất, ngay cái hang hắn ẩn thân cũng bị sóng xung kích đánh sụp.

Chủ nhân cuốn nhật ký bị chấn động tạm thời hôn mê bất tỉnh, khi mở mắt ra liền phát hiện mình đã bị nhốt kín. Hắn đoán rằng vụ nổ này dữ dội như thế, người ở bên ngoài nhất định chẳng còn ai sống sót. Mục đích trộm mộ ban đầu hỏng bét không nói làm gì , ngay cả hy vọng nhỏ nhoi có người đến cứu viện cũng không thể trở thành sự thực, nhất thời cảm thấy nản lòng thoái chí.

Nội dung tiếp theo bắt đầu nhàm chán dần.

Hắn bị vây khốn trong khe núi ròng rã bảy ngày, đồ ăn mang theo bên người không nhiều lắm, thoáng cái đã hết. Hắn vừa đói vừa khát, đèn cũng hết pin, chìm trong bóng tối vô tận hắn biết mình đã sắp tới số. Nhớ tới mẹ già không ai chăm sóc, hắn không khỏi đau lòng muốn chết.

Lại thêm vài ngày trôi qua, cơn đói khát khiến thần trí hắn trở nên bất ổn. Một hôm hắn tỉnh lại, cũng không biết khi ấy là khi nào, chỉ cảm thấy khát khô cổ họng. Trong cơn bấn loạn, hắn cầm lấy bình nước đã cạn từ lâu ra sức hút mạnh mấy cái, chính lúc đó kỳ tích đã xảy ra, trong bình đột nhiên tuôn ra dòng nước trong mát ngọt lành. Hắn cũng không biết tại sao lại thế, cứ tham lam uống ừng ực đến mười mấy phút đồng hồ, nước cũng không thấy vơi đi chút nào.

Hắn cho là mình đang nằm mơ, thầm nhủ mình nhất định sắp chết mới thấy ảo giác, vậy cứ dứt khoát chết đi là xong. Lại nghĩ nếu đây thật sự là mơ, trong túi biết đâu vẫn còn thức ăn, sờ sờ thử, quả nhiên túi thức ăn đã đầy ắp. Hắn mừng rỡ, dốc sức ăn uống bạt mạng, suýt nữa đã nghẹn chết.

Dần dần hắn phát hiện đây không phải là mơ, thoạt đầu hắn còn tưởng Thượng Đế hiển linh đến cứu giúp mình, nhưng càng về sau càng thấy không đúng. Cuối cùng hắn phát hiện, tất cả những thứ được sản sinh ra có liên hệ nhất định với suy nghĩ của hắn, nhưng cũng không phải là thử trăm lần trúng cả trăm. Ví dụ như khi hắn thực lòng thèm ăn món nào đó, món ấy cũng sẽ không xuất hiện, nhưng khi hắn tiện tay sờ đến bao thức ăn lại thường chạm phải món mình thích, tuy rằng trong bao chẳng có thứ gì cả.

Hắn bắt đầu có kế hoạch phân tích, làm thực nghiệm với suy nghĩ của mình, dần dần hắn phát hiện bản thân có năng lực hiện thực hóa. Đoạn này hắn viết rất nhiều, quá trình thực nghiệm vô cùng phức tạp, cuối cùng hắn cũng không rút ra kết luận rằng mình có năng lực hiện thực hóa, mà cho rằng mình đã trở thành một “Thượng Đế hồ đồ”.

Bức họa trên tảng đá cũng được vẽ trong khoảng thời gian này, hẳn là vào thời điểm hắn chán đời muốn giải khuây.

Cuối cuốn nhật ký, hắn nói muốn dùng thứ năng lực này để thoát khỏi đây, nếu thành công, hắn có thể ra ngoài làm một kẻ siêu phàm, nếu thất bại, hắn sẽ chết ở chỗ này. Tôi không biết rốt cuộc hắn đã tiến hành thực nghiệm gì, dù sao xem ra hắn cũng đã thất bại.

Có điều nếu để một kẻ mang năng lực này đến xã hội hiện tại thì không biết là chuyện tốt hay xấu.

Nhìn thi thể này, lại nghĩ đến tình cảnh của mình, tôi không khỏi cảm thấy lạnh người. Xung quanh tôi chẳng có gì để ăn, e rằng không thể chống đỡ đến bảy ngày; mà cho dù có thức ăn, bị nhốt trong này mãi thì thà rằng chết đi còn sướng hơn.

Tôi buông nhật ký, lại lục lọi trong túi của thi thể, tìm được một cái điện thoại di động đã hết pin từ lâu, tôi liền vứt sang một bên. Ngoài ra còn thấy một cái ví, bên trong có một ít tiền, lòng thầm nghĩ thứ gì cũng đã phân hủy hết, chỉ có tiền là không, kể cũng nực cười.

Trong ví tiền còn có chứng minh thư của người này, tôi giở ra, định xem thử gã quỷ xui xẻo này tên là gì. Bật đèn pin lên liếc qua một cái, ảnh chụp đã phai mờ gần hết, nhưng tên vẫn còn rõ ràng, gọi là “Giải Tử Dương”.

Cái họ này rất hiếm thấy, người chết trong ngôi mộ dưới đáy biển Giải Liên Hoàn cũng mang họ này. Tôi xem ngày sinh mới biết anh ta còn khá trẻ, cảm thấy thật đáng tiếc.

Đột nhiên sau lưng tôi lóe lên ánh đèn pin, lão Dương đã quay lại, từ phía sau tảng đá hỏi vọng vào: “Lão Ngô! Cậu đang xem gì đó?”
 
Quyển 3 - Chương 38: Chân tướng


Edit: Cốc Vũ

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi đang xem chứng minh thư của thi thể, lão Dương đột nhiên hỏi tôi một câu làm tôi giật nảy mình, chỉ trả lời qua loa một tiếng rồi tiếp tục xem xét những thứ trong tay.

Nhìn thoáng qua cuốn nhật kí vắn tắt này, có thể thấy người đàn ông kia đã đến đây từ ba năm trước. Ba năm trước cũng là thời điểm nhóm của lão Dương lần đầu tiên đến đây, có khi nào anh ta cũng thuộc nhóm ấy? Tôi nghĩ kĩ một chút lại thấy không đúng, mặc dù những chuyện ghi trong nhật kí và những gì lão Dương kể có chỗ ăn khớp, nhưng phần lớn lại không giống, chắc hẳn họ thuộc hai nhóm khác nhau.

Nhưng không hiểu vì sao, tôi luôn cảm thấy cái tên Giải Tử Dương này rất quen. Họ Giải tương đối ít gặp, lại cùng tên nữa thì càng hiếm, tôi đã nghe thấy ở đâu mới được chứ?

Tôi cẩn thận nhớ lại, nhưng gần đây xảy ra rất nhiều chuyện kỳ quái, đầu óc tự nhiên kém minh mẫn, nghĩ tới nghĩ lui cũng chẳng hiểu rõ thêm chút nào.

Tiếp tuc lục lọi đồ đạc của thi thể mà chẳng phát hiện thêm thứ gì, tôi bèn gấp cuốn nhật kí lại, đợi khi nào có dịp thì mở ra xem lại.

Lão Dương thấy tôi ngồi một chỗ không nói tiếng nào, sợ tôi xảy ra chuyện gì, bèn đằng hắng gọi tôi một tiếng. Tôi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy nửa khuôn mặt hắn đang dán vào khe hở, con mắt cứ nhìn đăm đăm vào thứ nằm trong tay tôi. Có điều vị trí của tảng đá và nơi tôi đứng tạo thành một góc chết, chỉ tôi mới nhìn thấy hắn còn hắn không thấy được tôi; bất chơt tôi cảm thấy bộ dạng hắn rất ư kì quái, cứ như hận không thể chui vào trong này vậy.

Tôi thầm rủa một tiếng, thầm nghĩ tên tiểu tử nhà ngươi vừa rồi thà chết chứ không chịu chui vào, giờ lại hối hận sao? Tôi nói: “Đừng có lộn xộn, tôi tìm được thứ này thú vị lắm, đang xem.”

Lão Dương nhíu nhíu chân mày, vội hỏi: “Tìm thấy cái gì thế?”

Tôi kể cho hắn nghe chuyện phát hiện ra thi thể, thở dài nói với hắn: “Kết cục của người này có lẽ cũng chính là kết cục của chúng ta, nếu không tìm được đường thoát, chỉ e chúng ta còn chết nhanh hơn hắn ta nữa. Nhưng tôi cảm thấy tên hắn quen tai lắm nha, cậu có nhớ trong số bạn học của chúng ta có ai mang tên này không?”

Nói rồi tôi lùi lại gần một khối cự thạch bên cạnh, tính nhét giấy tờ của người kia qua khe hở cho lão Dương xem. Nhưng khi tôi ngẩng đầu lên lại đột nhiên phát hiện gương mặt hắn trắng nhợt không còn giọt máu, cứ thế nhìn chằm chằm vào tôi.

Trong lòng tôi bỗng xuất hiện cảm giác khác thường, nên nói sao đây? Sao bỗng dưng hắn lại có nét mặt đó, lẽ nào hồi nhỏ chúng tôi thực sự có một bạn học tên Giải Tử Dương?

Nhắm mắt lại suy nghĩ thật kĩ, nhưng nghĩ mãi cũng không ra. Thời buổi này tình người bạc bẽo, bạn học đại học chưa chắc đã nhận ra nhau, chuyện hồi nhỏ lại càng khó nhớ nổi. Tôi thấy lão Dương lặng thinh, lại cúi đầu xuống xem dãy số trong chứng minh thư, nói: “Thực sự tôi không thể nhớ ra, nhưng người này bằng tuổi chúng ta mà…”

Mới nói đến đây, dường như có một tia chớp xẹt qua đầu óc tôi, khiến tôi ngẩn người.

Giải Tử Dương, Giải Tử Dương, Giải Tử Dương, Giải Tử Dương!

Cái tên này vốn chẳng xa lạ gì, chính là tên cúng cơm của lão Dương!

Da đầu tôi bất giác co giật, cẩn thận nhìn lại ngày sinh của người kia trong chứng minh thư, vừa nhìn đã choáng váng. Trời ơi, đây đúng là sinh nhật lão Dương, nhưng mà… Làm sao có thể chứ. Chứng minh thư này… chẳng lẽ là của lão Dương?

Cũng có nghĩa là, cái khối thi thể đã thối rữa đến tận xương kia chính là lão Dương…

Nhưng mà không đúng, nếu ba năm trước lão Dương đã chết ở trong này, vậy thì kẻ đang đứng nhìn tôi sau tảng đá kia là ai?

Cổ tôi cứng đờ, chầm chậm ngoái đầu y như một cái máy, nhìn nửa khuôn mặt lộ ra sau khe hở của tảng đá, bỗng dưng có cảm giác sợ hãi mơ hồ. Khuôn mặt lão Dương dưới ánh đèn pin lấp lóe mang đầy nét quỷ dị, xem ra còn có vài phần giống con cự xà đen thui ngoài kia.

Tôi bất giác lùi dần vào trong động, không dám lại gần tảng đá kia nữa. Lão Dương vẫn không hề nhúc nhích, chỉ trừng trừng nhìn tôi, còn tôi cũng lặng thinh như một pho tượng đá.

Với tính tình của hắn, nhìn thấy bộ dạng này của tôi, nhất định sẽ mắng tôi như mắng con mắng cháu. Nhưng cái vẻ mặt kia của hắn… chẳng lẽ là vì thân phận bại lộ nên không biết phản ứng ra sao?

Lúc này trong lòng tôi càng thêm hoài nghi cái người bên ngoài kia, tuy rằng diện mạo tính tình đúng là giống lão Dương, nhưng có thể không phải lão Dương thật. Những chuyện xảy ra từ khi tôi rời Hàng Châu đến đây bất giác tái hiện trong đầu như một luồng điện xẹt: tôi thấy rõ mồn một những lời nói dối, những câu mập mờ, nhất là những gì hắn nói với tôi trên đỉnh cây thanh đồng; giờ đây những điểm nghi ngờ đã bắt đầu sáng tỏ từng chút từng chút một.

Tôi luôn luôn cho rằng lòng dạ của lão Dương không thể thâm sâu như vậy. Thứ nhất với quan hệ giữa tôi với hắn, hắn căn bản không cần lừa gạt tôi; thứ hai khi hắn nói những lời dối trá, lúc nào cũng tỏ ra hết sức chân thành, nếu không phải tính tôi quá cẩn thận thì căn bản không thể phát hiện ra. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, người này thực sự quá giống lão Dương, tôi không thể tìm ra điểm nào sơ hở. Trong lòng tôi đã trăm mối hoài nghi nhưng vẫn cứ cho là vì tính cách của hắn thay đổi, không ngờ hắn căn bản không phải lão Dương.

Đúng lúc này, “lão Dương” rốt cuộc đã chịu mở miệng, hắn lùi lại phía sau một chút, nói với tôi: “Lão Ngô, vừa rồi tôi không muốn để cậu vào đó nhưng cậu một mực không nghe, chỉ có thể trách bản thân cậu quá cố chấp. Cậu không nghe người ta nói sao? Có một số chuyện, hiểu quá rõ chưa chắc đã tốt.”

Lòng tôi trùng xuống, thầm nghĩ hắn ta quả nhiên có vấn đề, nhưng ngoài mặt vẫn cố giữ cho giọng nói không run rẩy, hỏi hắn: “Ngươi không phải lão Dương… Vậy ngươi rốt cuộc là ai?”

Lão Dương bỗng nhiên nở một nụ cười cổ quái: “Ta là ai ư? Ta chính là lão Dương, là Giải Tử Dương từ nhỏ đã lớn lên bên ngươi, sau lại ngồi tù ba năm. Nếu ngươi không tin, có thể đi điều tra lý lịch của ta.”

Tôi cười lạnh một tiếng: “Nói láo, thi thể của lão Dương ở ngay bên cạnh ta, hắn đã chết ba năm rồi, làm sao ra ngoài mà ngồi tù được? Mẹ kiếp, rốt cuộc ngươi là ai?”

Nửa khuôn mặt của “lão Dương” lại vô thanh vô tức xuất hiện nơi khe hở của nham thạch, nở nụ cười đáng sợ: “ Không sai, hắn quả thực đã chết ba năm, nhưng ta còn đang sống, có gì khác nhau đâu?”

Tôi thấy vẻ mặt của hắn, đột nhiên mơ hồ nhận ra điều gì, nhíu mày suy nghĩ, miệng bỗng nhiên há hốc, lắp bắp nói: “Chết tiệt, ngươi không phải người! Ngươi… chẳng lẽ là do hắn hiện thực hóa mà thành…?”

“Lão Dương” lạnh lùng hừ một tiếng, nói: “Sao ngươi không nói là chính ta đã hiện thực hóa ra hắn chứ? Ai mà biết được? Ta và hắn giống nhau như đúc, sao ngươi biết người nào có trước người nào có sau?”

Tôi cơ hồ không khống chế nổi chính mình, nhặt một hòn đá nhằm thẳng vào hắn mà ném. Hắn nhanh nhẹn né được, còn nói thêm: “Lão Ngô, quả thật ta và hắn giống nhau như đúc, ngươi không cần để ý đâu.” Tôi hét lớn: “Đương nhiên là khác nhau chứ, ai mà biết dùng cái năng lực hiện thực hóa kia sẽ tạo ra thứ gì.”

“Lão Dương” đột nhiên trầm lặng, sắc mặt trở nên rất khó coi, cứ thế nhìn tôi chằm chằm một hồi, bỗng dữ tợn gằn từng tiếng: “Mẹ kiếp chó má nhà ngươi! Ông đây chính là lão Dương, ngươi và hắn chẳng qua chỉ là một thứ hàng hóa, đừng có trách ta.”

Trong lòng tôi có dự cảm không lành, bỗng thấy một nòng súng lách qua khe hở chĩa thẳng vào mình. Tôi vội vàng xoay người nấp vào góc chết, “lão Dương” bắn một phát trúng vào phiến đá, tạo thành một vệt cắt lớn, rồi tiếp tục quay súng vào góc chết nơi tôi đứng mà bóp cò, viên đạn cơ hồ sượt qua cổ tôi.

Không gian trong khe núi này thực sự quá nhỏ, cho dù có góc chết cũng không thể che chắn toàn bộ cơ thể. Tôi thấy tình thế này có gì đó không ổn, vội tắt đèn pin đang cầm trong tay, khiến hắn không thấy được mình. Hắn cuống cuồng bắn mấy phát đều trượt, tôi bèn xoay người vọt tới bên cạnh tảng nham thạch, nhặt một khối đá nện cật lực vào nòng súng, mới nện vài cái nòng súng của hắn đã bị bẻ cong đến 90 độ.

“Lão Dương” không thể rút súng ra khỏi khe hở được, tức giận chửi rủa, tôi cười lạnh nói: “Giống nhau như đúc cái nỗi gì, lão Dương mà ta biết không đời nào nổ súng về phía ta, mẹ kiếp ngươi chỉ là hàng rởm thôi!” Từ khi “lão Dương” nói với tôi về chuyện hiện thực hóa ra người sống, trong lòng vẫn tôi vẫn có chút khúc mắc, luôn luôn cảm thấy cây thanh đồng ngàn năm được đặt ở nơi này không thể không có mục đích gì được. thứ sinh vật do loại năng lực khủng khiếp này tạo ra liệu có phải là người bình thường? Có đúng là giống chúng tôi như đúc không? Hay là một loài yêu quái nào đó?

Hiện giờ tuy không biết “người” này có giống chúng tôi hay không, nhưng rõ ràng hắn biết bản thân mình là do hiện thực hóa mà thành; không hiểu vì sao tôi bắt đầu cảm thấy mọi chuyện đang chuyển biến xấu đi.

“Lão Dương” chửi nhau với tôi một hồi, bỗng nhớ đến điều gì, đột nhiên im lặng. Tiếp đó hắn tắt đèn pin, trong khoảnh khắc toàn bộ không gian tối sầm lại, bóng đêm vô tận đổ xuống, ở trong khe núi nhỏ hẹp không một tia sáng này tôi lại càng cảm thấy nặng nề khác thường.

Tôi đề phòng hắn giở trò quỷ, bèn lùi vào góc chết trốn thật kỹ, chợt nghe hắn nói: “Lão Ngô, tôi nhớ trước đây cậu rất sợ chỗ tối tăm, bây giờ có còn sợ nữa không? Nhưng sợ đến đâu thì cậu cũng tuyệt đối không được nghĩ linh tinh, phải nhớ cho kỹ những lời tôi nói với cậu ban nãy. Ở đây nếu cậu cứ nghĩ lung tung, không chừng vừa bật đèn lên trước mắt đã lù lù một khuôn mặt người chết đó nha.”

Tôi thầm mắng chết tiệt, hắn ta rõ ràng muốn lợi dụng nỗi sợ bóng tối của tôi để hiện thực hóa ra thứ quái vật gì đó đây mà.

Trong lòng tôi tự nhủ mình tuyệt đối không thể để hắn đắc ý, nhưng nỗi sợ hãi trong lòng lại dần dần lớn lên. Vừa rồi hắn nói chỉ cần bật đèn pin sẽ thấy một khuôn mặt người chết hiện lên ngay trước mắt, khiến dây thần kinh của tôi lập tức căng như dây đàn. Tôi bỗng cảm thấy ngay trước mắt mình, chỉ cách có vài li, dường như xuất hiện thứ gì đó: hơi thở nóng hổi của tôi phả vào vật kia rồi tản trở lại mặt tôi mang theo mùi tanh hôi khó chịu.

Không linh nghiệm đến thế chứ? Tôi nghĩ, theo như biểu hiện lúc trước của “lão Dương” thì năng lực hiện thực hóa rất khó kiểm soát, nếu không vừa rồi chúng tôi đã không phải chật vật đối phó với con cự xà kia; theo lẽ đó một con quái vật không thể dễ dàng mà biến ra được.

Đây chỉ là ảo giác, tôi tự trấn an bản thân. Mình tuyệt đối không được mắc mưu hắn ta, trong một cái hầm tối om lại kín mít như thế này thì sợ hãi là chuyện đương nhiên.

Tôi hít sâu một hơi, bỗng nhiên cảm thấy mặt mình hơi hơi ẩm ướt giống như có thứ gì đó lạnh như băng trườn qua. Toàn thân tôi đổ mồ hôi lạnh, cơ hồ són tiểu ra quần, cẩn thận sờ lên ngực cũng thấy trái tim đập loạn, thân thể mềm nhũn ra. Con mẹ nó, xem ra hắn nói không sai, trong bóng tối quả nhiên vừa có thứ gì đó xuất hiện.

Tôi không dám bật đèn pin, người từ từ lui về phía sau, dựa lưng vào vách tường đá. Nhưng vừa mới dựa lưng, tôi lập tức phát hiện ra đây không phải bức tường đá ban đầu, mà hình như là vảy xếp từng mảng… Tôi thậm chí còn có thể cảm nhận được cơ thịt dưới lớp vảy đang nhấp nhô chuyển động.

Trời ạ, tôi đang nghĩ ngợi lung tung cái gì đây, sao tự nhiên sau lưng lại có vảy? Tôi vội vàng nhắm tịt hai mắt, nắm thật chắc đèn pin trong tay, vừa định bật lên thì đột nhiên nghe “lão Dương” ra vẻ sợ hãi kêu lên: “Lão Ngô, sao không bật đèn pin lên? Để tôi soi giùm cậu nhé!”

Khi đèn pin của hắn bật sáng, đập vào mắt tôi là thứ đang kề sát chóp mũi. Một cái đầu mãng xà bự chảng đang ngóc lên, thân thể lớn bằng cái thùng nước của nó cuộn tròn quanh huyệt động, lớp nham thạch sau lưng và trên đỉnh đầu tôi nhanh chóng biến thành lớp tường vảy, đen như bảo thạch. Bị đèn pin của lão Dương chiếu đến, lớp vảy bốn phía giần giật, thân thể nó chậm rãi ma sát, phát ra tiếng rào rào khiến người ta dựng tóc gáy
 
Quyển 3 - Chương 39: Nến Cửu Âm


Editor: Bảo Di

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đầu lưỡi to lớn đang dán chặt vào mũi tôi, in đầy trong mắt là những vảy màu nhu động. Tôi không biết diễn tả sự chấn động này với người khác như thế nào, trong thoáng chốc trái tim dường như ngừng đập, toàn thân cứng đờ như đá.

Lần đầu tiên nhận thức được sức mạnh to lớn của loại năng lực này trong thực tế đã khiến cho nỗi hoài nghi trong lòng tôi bị xóa sạch một cách triệt để. Nhưng con mãng xà đen khổng lồ này lại quá mức chân thật, từ những phiến vảy cho đến mùi vị trong không khí, và cả tiếng cọ sát vang vọng khắp nơi, tất cả đều không chút khả nghi. Tôi quả thực không tưởng tượng nổi con vật này làm sao có thể xuất hiện đột ngột như thế, nếu vừa nãy đèn còn sáng, chẳng lẽ nó lại “ầm” một tiếng biến ra từ hư vô?

“Lão Dương” còn đứng bên ngoài la hét gì đó, tôi cũng không hơi đâu để ý đến hắn, chỉ cảm thấy ánh mắt của loài bò sát này đang quẩn quanh trên thân thể mình không chút thiện cảm. Khe nứt giữa vách đá này đã nhỏ thì chớ, giờ lại đột nhiên xuất hiện một con mãng xà khổng lồ trông y như một con hắc long, chút không gian để tập thể dục cũng không còn nữa. Giờ chỉ cần con mãng xà kia tùy tiện quay đầu sang đây há miệng một cái là tôi đi đời nhà ma.

Trong lòng tôi nhanh như chớp nảy ra toan tính: khứu giác và thị giác của con mãng xà kia rất nhanh nhạy, không lý nào không nhìn thấy tôi, giờ chỉ còn hy vọng nó không cảm thấy hứng thú với người có hình thể như tôi. Mãng xà sẽ không săn những con mồi quá nhỏ, tôi chỉ cần ngồi bất động, không làm nó hoang mang thì nhiều khả năng nó sẽ bỏ mặc tôi, nhưng lỡ như chiêu này cũng vô dụng thì thật sự là bó tay rồi.

Tôi nuốt một ngụm nước bọt, cố gắng ngăn chính mình phát run. Cái lưỡi khổng lồ của mãng xà liếm sượt qua bên tai tôi, lưu lại một vệt nước bọt cực kỳ khó ngửi, nhưng may mắn thay nó chỉ ngẩng đầu chăm chú nhìn tôi một lát, sau đó quay đầu hướng về nguồn sáng tỏa ra từ đèn pin của lão Dương phía sau tảng đá.

“Lão Dương” vốn đang ẩn náu sau tảng cự thạch chặn ngay miệng hang, thấy con mãng xà không tấn công tôi mà ngược lại quay đầu ngó về phía mình tỏ ý thăm dò, ngay lập tức cảm thấy tình hình không ổn. Chắn giữ miệng hang là một tảng cự thạch nhưng cũng chỉ lớn bằng cái đầu của con mãng xà khổng lồ này, căn bản không ngăn được nó. Tôi nghe tiếng lão Dương chửi thề rồi luống cuống lui về phía sau tảng đá, “cạch” một tiếng đèn pin đã tắt ngóm.

Bốn bề phút chốc chìm vào đêm đen, hai con mắt vàng khè của mãng xà phát ra ánh huỳnh quang trong bóng tối. Tôi vẫn không dám thở mạnh, mơ hồ thấy con mãng xà nhẹ nhàng húc hai cái, thấy tảng đá không có động tĩnh gì, đột nhiên rụt cái cổ lại, bày ra tư thế tấn công.

Tôi nhớ lại động tác mãng xà vồ mồi trên tivi, lập tức hiểu ra tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì. Trong phút chốc, cổ con mãng xà rụt lại rồi bắn ra ngoài như một viên đạn, chỉ nghe một âm thanh trầm thấp vang lên, cả khe núi chấn động dữ dội, tảng cự thạch chắn ngang cửa bị hất bay lên như một con diều giấy. Tôi nghe tiếng “Lão Dương” hét thảm, tiếp theo đó là tiếng va đập liên hồi của những tảng đá vọng lại.

Tuy biết rằng người bên ngoài không phải lão Dương thật sự, nhưng tiếng hét bi thảm đó cũng khiến cho lòng tôi bất giác hoảng hốt. Con mãng xà phát hiện phía sau tảng đá trống rỗng, nhưng do đầu nó quá lớn, không làm sao chui ra được. Thân thể cuộn tròn của nó cứ không ngừng vùng vẫy, tôi phải vất vả tránh trái né phải mới không bị nó cuốn đi theo, bằng không nếu để lớp vảy của nó kẹp lại từ hai phía thì xương cốt trăm phần trăm sẽ đứt rời từng đoạn.

Sau mấy lần thử nghiệm không thành, con mãng xà bắt đầu bực bội, bèn ngóc đầu lên húc vào lớp tường đá gần cửa động. Thân hình con mãng xà cuốn lại trông đã vô cùng đáng sợ, giờ đây nó lại còn múa may như một con rồng, nhìn vào càng thấy đồ sộ khác thường. Lát sau lớp tường đá đã bị nó húc thủng, cửa hang được nới rộng, mãng xà ra sức xoay một cái chui đầu ra ngoài, vảy của nó cọ sát lên vách động khiến cho cả khối đá bị dồn ép đến nứt toác.

Mãng xà sau nhiều lần cố gắng đã đẩy được tảng đá chắn trước mặt ra ngoài, tôi cũng theo đó thoát ra, thấy “lão Dương” đang nằm trong đống đá vụn, cơ hồ toàn bộ thân thể đều bị đá đè lên, hơi thở hết sức mong manh. Nhìn thấy tôi, hắn ho khan vài tiếng như muốn nói điều gì, nhưng miệng vừa mở máu đã theo khóe môi chảy xuống.

Tôi kiểm tra thương tích của hắn, thử di chuyển mấy tảng đá, nhưng vừa liếc mắt đã thấy nửa thân dưới của hắn bị nghiền đến nát vụn, thật sự không nỡ nhìn. Tôi thở dài, hỏi hắn: “Ngươi…… Ngươi còn gì muốn nhắn lại nữa không?”

Hắn liếc qua tôi một cái, nghiến răng kéo từ trong khe đá ra cái ba lô hắn lấy được của ông chủ Vương rồi ném cho tôi.

Tôi nhận lấy ba lô, trong lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Hắn ho khan mấy cái, phun ra rất nhiều máu, sau đó cũng không nói thêm gì nữa, nhắm nghiền hai mắt.

Tôi dừng một chút, muốn hỏi xem ngày hôm nay hắn rốt cuộc đã trải qua những chuyện gì. Chợt nghe một tiếng nổ “Uỳnh”, toàn sơn động rung chuyển mãnh liệt. Tôi ngồi còn không vững, lảo đảo ngã vào vách đá, trên đỉnh đầu lại nghe liên tiếp những tiếng đá bị nứt vỡ kéo dài.

Tôi giật mình kinh hãi, trong lòng thầm nhủ chẳng lẽ con cự xà bên ngoài lại bắt đầu đập phá tanh banh rồi sao, liền vội vã khom lưng bò ra khỏi động. Đúng lúc này “lão Dương” đột nhiên khàn khàn kêu một tiếng:“Lão Ngô!”

Tôi thoáng ngây người, không biết hắn còn muốn nhắn nhủ gì nữa. Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy hắn há miệng, còn chưa kịp nói lời nào thì bỗng nhiên khoảng đất chỗ hắn đang nằm sụp xuống, những tảng đá đè bên trên bỗng rơi xuống ào ào như thác, trong tích tắc hắn biến mất dưới đống đá vụn giống như lún vào một vũng bùn sâu.

Lòng tôi bàng hoàng kinh hãi, mơ hồ cảm thấy tim mình đau như xé. Nhưng trong tình thế này cũng không còn thời gian mà điều hòa cảm xúc, tôi lăn vài vòng tránh những tảng đá rơi xuống, lựa thời cơ vọt ra khỏi động, nào ngờ sắp thoát ra rồi lại có một bóng đen đâm sầm tới. Tôi vội vã lăn sang bên cạnh, cái bóng đen đụng vào vách đá làm rung chuyển cả khối núi, đá vụn bay tán loạn. Bỗng trên thân núi nứt ra một cái khe, bắt nguồn từ chỗ tôi đang đứng kéo dài xuống dưới.

Cú va chạm quá mức mãnh liệt khiến tôi không khỏi cảm thấy quái lạ, chẳng lẽ con mãng xà này chán sống rồi? Quay đầu nhìn lại mới biết không phải như thế, chỉ thấy con mãng xà đen khổng lồ kia và con cự xà vảy nhỏ bò ra từ thân cây thanh đồng đang quấn chặt lấy nhau, giao chiến đến khó phân thắng bại. Con cự xà vảy nhỏ này lớn hơn rất nhiều so với con mãng xà kia, nhưng đánh nhau nãy giờ vẫn không hề chiếm được thế thượng phong, hơn nữa cả hai con đều màu đen, nhất thời cũng không phân biệt nổi con này với con kia, chỉ thấy hai luồng lốc xoáy màu đen không ngừng quấn lấy nhau trên cây thanh đồng, cái đuôi quất loạn xạ khiến măng đá thạch nhũ bốn phía bay tán loạn lên như đạn pháo.

Tôi chưa từng chứng kiến cảnh tượng nào đáng sợ đến vậy, chỉ biết ngây người ra mà nhìn. Bỗng một cái cái đuôi quất thẳng xuống ngay sát chân tôi, cả tảng đá nơi tôi đang đứng bị quất vỡ tan thành từng mảnh nhỏ. Dưới tình thế cấp bách tôi gấp gáp với tay ra khắp xung quanh, lại không ngờ mấy tảng đá bên cạnh đều đã bị đập cho lung lay, trong thoáng chốc tôi không kịp bấu víu, thân thể liền ngã xuống vực sâu hun hút bên dưới.

Trong vài phút đồng hồ mà đã mấy lần trải qua ranh giới sinh tử, lần này tôi không kịp phản ứng, chỉ biết hét to một tiếng. Chợt nghe bên tai có tiếng nước ào ào, tiếp theo toàn thân mát lạnh, xung quanh bỗng chìm trong tĩnh lặng, thân thể cứ thế ngã vào trong nước.

Mẹ kiếp, nước ở đâu ra mới được chứ?

Tôi cứ thế chìm xuống mặt nước sâu đến sáu bảy mét mới ngừng lại được, tư thế khi nhảy xuống nước căn bản không thể điều chỉnh. Chợt nghe tiếng răng rắc ở cổ, không biết đã gãy gập chưa. Cả người không còn chút khí lực nào, thân thể cứ thế chìm sâu trong nước.

Đúng lúc tưởng chừng mình đã chết chắc, bỗng có một bóng người bơi tới từ phía sau lưng, nâng đỡ tôi, ôm tôi trồi lên mặt nước.

Tôi quay đầu nhìn lại, thì ra là trợ lý Lương vẫn trốn trong hang động bên dưới. Chắc hẳn anh ta thấy mực nước không ngừng dâng lên nên buộc phải chui ra, thấy có người rơi xuống nước bèn bơi tới kéo lên.

Lên đến mặt nước, tôi quét mắt một vòng, chỉ thấy vực sâu chúng tôi bò lên khi nãy không biết từ bao giờ đã biến thành đầm nước. Trong đầm nước chảy thành dòng, không rõ là từ chỗ nào tuôn vào, mực nước vẫn đang dâng lên rất nhanh.

Tôi nhìn quanh bốn phía, thầm nhủ trong lòng có lẽ ba năm trước khi bọn họ tới đây thì nơi này là một đầm nước, chính vì thế mà họ đã không thể trở về.

Tôi bơi còn giỏi hơn trợ lý Lương, sau khi kéo tôi lên thì chính anh ta cũng mất hết khí lực, cứ chìm thẳng xuống nước. Tôi kéo anh ta đến bên cạnh cây thanh đồng, cũng không muốn so đo chuyện trước kia với anh ta nữa, chỉ hỏi: “Ở đây đã xảy ra chuyện gì?”

Trợ lý Lương ho khan vài tiếng rồi mới đáp: “Ngoài kia chắc chắn vừa có một trận mưa tạo thành cơn lũ quét, đây là hiện tượng thường thấy vào mùa này. Dòng lũ sẽ chảy xuống con sông ngầm mà chúng ta đã nương theo khi tiến vào đây, con sông kia chắc chắn phải thông với mấy cái hang động trong này. Cơn lũ khiến mực nước sông dâng lên, đẩy nước sông chảy ngược vào trong động! Chỉ cần cơn lũ quét qua đi, mực nước sẽ hạ xuống ngay thôi.”

Trong lòng tôi thầm mắng một tiếng, giờ chưa biết phải thoát ra bằng đường nào mà còn nói mấy chuyện tào lao vô bổ. Lại ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy bóng dáng một cuộn màu đen khổng lồ vẫn còn quấn nhau đánh nhau hăng say, trong lòng thầm nghĩ ai da, giờ hai con rắn đã ẩu đả đến mức này, đợi lát nữa chúng nó rơi xuống nước chẳng phải nơi đây sẽ biến thành đầm rồng hang hổ chân chính hay sao, chúng tôi còn không bị giày vò đến chết à?

Còn chưa nghĩ xong, bên tai chợt nghe một tiếng rít dài. Mãng xà đen khổng lồ đã gục ngã, rơi thẳng xuống nước, trong chốc lát bọt nước đã văng tứ tán, đầm nước không quá rộng dâng trào mãnh liệt giống như một nồi nước sôi.

Ngay sau đó con cự xà cũng bò xuống theo cây thanh đồng, trợ lý Lương nhìn thấy đôi mắt màu tím cỡ bự của nó thì hoảng sợ tới mức cả người chìm hẳn xuống nước. Tôi kéo anh ta lên, anh ta vẫn còn run run: “Trời ạ! Thứ này sao lại xuất hiện ở đây? Nó…… Nó là Nến Cửu Âm (1) đó!”

Tôi cảm thấy cái tên này sao mà quen quen, bèn kéo anh ta núp sau cây thanh đồng, hỏi cặn kẽ sự tình.

Trợ lý Lương cắn đầu lưỡi thì thầm: “Nến Cửu Âm chính là rồng, thời xưa còn gọi là Nến Rồng, thực chất là một loài rắn độc cực lớn sống ở thời cổ đại. Đời vua Thuấn người ta bắt thứ này để lấy mỡ làm nến chiếu sáng, mấy ngàn năm trước đã tuyệt chủng, tại sao trong này vẫn còn một con sống sót chứ?”

Tôi chưa bao giờ nghe câu chuyện này, lập tức cảm thấy quái lạ. Nếu đã là loài vật tôi không biết thì làm sao có thể tưởng tượng ra được, không lẽ trong cái cây thanh đồng cổ thụ này thật sự có một con rắn độc khổng lồ còn sống sót từ thời viễn cổ?

Trợ lý Lương tiếp lời: “Con Nến Cửu Âm này lớn đến thế, không biết đã sống bao nhiêu năm. Anh có để ý không, nhìn từ chỗ này chỉ có thể thấy một con mắt của nó, mắt của Nến Cửu Âm từ khi sinh ra đã nằm ngang như vậy rồi. Con mắt mà anh đang nhìn thấy hẳn là bản nhãn (mắt chính), ngoài ra còn có một con mắt khác mọc phía trên tên là âm nhãn. Truyền thuyết ngàn năm nói rằng âm nhãn của Nến Cửu Âm nối liền với địa ngục, chỉ cần bị nó liếc một cái người đó lập tức bị ác quỷ nhập tràng, lâu ngày sẽ biến thành quái vật đầu người mình rắn.”

Tôi chợt nhớ tới nét biểu cảm giống y như rắn độc của lão Dương, trong lòng bất giác ớn lạnh, bèn quay đầu len lén nhìn trộm, may mà Nến Cửu Âm hoàn toàn không chú ý đến chúng tôi. Tôi có cảm giác dòng chảy dưới đầm nước trở nên cực kỳ hỗn loạn, biết con mãng xà đen khổng lồ vẫn còn dưới đó, Nến Cửu Âm nhìn chằm chằm xuống nước, có lẽ do sợ mãng xà kia đột ngột tập kích.

Mực nước cứ không ngừng dâng lên, chúng tôi càng ngày càng tới gần Nến Cửu Âm. Trợ lý Lương cực kỳ căng thẳng, tôi thì tranh thủ quan sát phía trên đầu. Trên đỉnh cái hang này hẳn là có một lối thoát, chỉ cần mực nước dâng lên đủ cao, chúng tôi có thể theo lối đó mà thoát ra ngoài. Có điều không biết mực nước còn dâng cao đến đâu, dù sao nơi này cũng rất gần đỉnh núi, khi đi qua trận địa thiên quan tôi để ý thấy quan tài không có dấu vết bị thấm nước, điều đó chứng tỏ mực nước không thể dâng cao hơn nơi đặt quan tài. Tôi không thể biết chính xác nước sẽ dừng ở đâu, đành phải chờ xem nó dâng cao bao nhiêu thì hay bấy nhiêu.

Tôi khẽ khàng nói lại suy nghĩ của mình với trợ lý Lương nhưng anh ta hoàn toàn không để ý. Đúng lúc này chợt thấy mấy cái mặt nạ màu trắng nổi lên khỏi mặt nước, đó là xác của loài li cổ. Lòng tôi đột nhiên cảm thấy bất an, bèn cầm lên một cái xem xét, chỉ thấy khoang miệng của nó trống rỗng, con sâu bên trong đã không thấy đâu nữa.

“Mẹ kiếp!” Tôi chửi thề một tiếng, đột nhiên hiểu ra vì sao con mãng xà kia cứ trốn riết trong nước mãi không chịu nổi lên. Tôi bật đèn pin chiếu thử xuống nước, chỉ thấy vô số con sâu trông giống như chân cua, một số đeo mặt nạ, số còn lại chỉ có xác trần. Đám sâu này đồng loạt bám vào thân thể con mãng xà đen kia như những con đỉa, phủ trắng cả một mảng đáy nước. Con mãng xà đen ngửa bụng lên trời, thân thể vẫn không ngừng lăn lộn, nhưng rõ ràng nó không sao đuổi những con sâu này đi được. Nó đập người vào tảng đá, mặt nạ của mấy con sâu bị cọ sát mà rơi xuống nhưng thân sâu vẫn bám chặt trên người nó, trông cổ quái dị thường.

Có mấy con sâu không có chỗ bám chân, đành bơi bơi vòng quanh thân rắn, động tác vô cùng nhanh nhẹn. Thật không may, vừa nhìn thấy ánh đèn pin trong tay tôi, đám sâu đột nhiên bảo nhau ngừng lại hết, sau đó nhanh chóng dứt ra khỏi con mãng xà. Tôi còn chưa kịp phản ứng thì trước mắt đã hoa lên, cả đám sâu nhào tới toan bao vây lấy tôi, trông như một đàn cá biển khổng lồ.

Đám sâu này bơi cực nhanh, tôi vừa thấy tình hình bất ổn thì đã không kịp phản ứng nữa. Dưới tình thế cấp bách, tôi lui về phía sau, cắn mạnh lên lòng bàn tay mình một cái. Chính bản thân tôi cũng không hiểu vì sao mình lại tự cắn một cách dứt khoát như vậy, chỉ thấy máu tươi tuôn ra ào ào, tôi vẫy vẫy tay mình trong nước để máu tan đều.

Hình như đám sâu sợ máu của tôi, vừa nhào tới trước mặt tôi đã tản ra xa, không dám lại gần. Đàn sâu màu trắng vây trước mặt tôi thành một bức tường kín, tôi thậm chí còn mơ hồ cảm thấy chúng nó xếp thành hình giống như mặt người.

Trợ lý Lương sợ khiếp vía, không nói nên lời, một mực tìm cách trèo lên cây thanh đồng. Tôi biết ở lì trong nước cũng không phải kế lâu dài, bèn thò đầu lên mặt nước. Ngoảnh đầu nhìn lại, Nến Cửu Âm đã phát hiện ra chúng tôi, cái đầu rắn khổng lồ đang quay về phía này. Con mắt màu tím của nó đã nhắm lại, thay vào đó là một con mắt đỏ ngầu như máu không biết đã mở ra từ khi nào, nhìn chằm chằm vào chúng tôi đầy vẻ oán độc.
 
Quyển 3 - Chương 40: Thoát ra


Editor: Biển Bạc

Beta: Earl Panda

~0O0~

Con mắt đỏ ngầu ấy giăng đầy tơ máu phập phồng, trông ma quái dị thường. Tôi vừa nhìn vào lập tức cảm thấy linh hồn mình như bị hút ra, đầu óc quay cuồng choáng váng và buồn nôn khủng khiếp, vội xoay mặt đi chỗ khác.

Trợ lý Lương thì cứ như bị trúng tà, mắt nhìn chằm chằm vào huyết nhãn kia, không hề nhúc nhích, tôi gọi anh ta hai tiếng mà chẳng hề có phản ứng gì.

Trợ lý Lương từng nói “Nến Cửu Âm” là con mắt quỷ dẫn lối đến địa ngục, tôi dám chắc có gì đó bất thường, vội lấy tay vốc nước dội về phía anh ta.

Không biết có phải do Nến Cửu Âm đột ngột tiến về phía trước để thăm dò hay không, vốc nước kia xui xẻo thế nào lại chẳng tạt lên người trợ lý Lương mà ập xuống đầu nó.

Nến Cửu Âm bị vốc nước làm cho hoảng hồn, liền nhắm mắt lại, đầu rắn rụt về phía sau, chuẩn bị phát động tấn công. Tôi nhanh chóng nấp sau cây thanh đồng, đầu rắn liền đập vào thân cây, khiến mấy cành cây cong oằn cả lại. Lúc này, tôi chợt nhớ tới cái ba lô đã lấy ở chỗ “lão Dương”, bên trong có thể có vũ khí gì đó, vội vàng lật ba lô ra trước mặt.

Trong ba lô của hắn chắc chắn không có súng, nhưng tôi nhớ có vài cái ngòi nổ mà bọn hắn vốn dùng để phá tường mộ, lúc này tôi tay không tấc sắt, có thứ gì đó đủ sức gây uy hiếp cũng tốt.

Nến Cửu Âm trườn mình vòng qua cây thanh đồng rồi quay ngược trở lại, tôi vừa di chuyển để tránh khỏi tầm mắt nó, vừa bò lên trên, tay cầm ba lô bắt đầu lục lọi.

Trong ba lô có đủ thứ đồ linh tinh, tôi lôi hết thức ăn ra ném xuống nước, đến khi lấy ra được thứ mà tôi nghĩ là ngòi nổ mới ngớ người ra. Mẹ nó chứ, lúc nãy chỉ xem qua loa, giờ mới biết cái bó đó hóa ra lại là một mớ nến màu đen.

Lúc này con rắn đã bò đến gần, thấy tôi, nó lại ngẩng cổ lên bày ra tư thế tấn công.

Tốc độ tấn công trung bình của rắn chỉ chừng một phần tư giây, con này dù có hơi to xác một tẹo nhưng xem ra cũng chẳng chậm hơn là mấy. Tôi vừa thấy chỉ cần chần chờ thêm một giây nữa thôi là xong đời, vội xách ba lô nhảy thẳng vào trong nước.

Nhưng tôi rơi xuống vẫn quá chậm, một bóng đen chợt nháng lên, con rắn phóng ra đớp lấy tôi ngay trên không, sau đó thân rắn cuộn lại định quấn lấy tôi.

Tôi sờ soạng lung tung trong túi, đột nhiên mò được khẩu súng báo hiệu của mấy người kia, nhất thời tay chân luống cuống, liền bóp cò theo bản năng, ba lô bị bắn thủng một lỗ lớn. Trong lúc hỗn loạn tôi cũng không biết có phải đạn tín hiệu đã phát nổ trong miệng rắn hay không, chỉ cảm thấy gan bàn tay nóng lên, sau đó trời đất quay cuồng.

Tôi rơi tòm xuống nước, lúc trồi lên đã thấy đạn tín hiệu đang cháy sáng chói lòa trong miệng con Nến Cửu Âm. Không khí tràn ngập mùi sáp, hơn nữa, không hiểu vì sao toàn thân nó cũng bắt đầu bốc khói.

Mỡ trong cơ thể loài rắn này cực kì dễ cháy, nếu không người xưa đã chẳng đi săn chúng về để làm nến, nhưng không ngờ lại dễ cháy đến mức này, rốt cuộc thứ đang chảy trong cơ thể nó là chất gì đây?

Nến Cửu Âm đau đớn điên cuồng, không còn chú ý đến bọn tôi nữa. Nó quằn quại không ngừng, cái đuôi khổng lồ đập vào vách đá, trên đó liền xuất hiện một khe nứt lớn. Nó lại quật thêm vài cú, từ khe nứt lớn bắt đầu xuất hiện nhiều khe nứt nhỏ hơn lan rộng ra, cả ngọn núi không ngừng rạn nứt, dường như hang động có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Tôi không biết Nến Cửu Âm có chết dễ dàng như vậy hay không nên vẫn tiếp tục lục lọi trong ba lô, thấy không còn gì hữu dụng mới ném nó xuống nước. Đột nhiên dòng nước bắt đầu chảy xiết, nước đầm ồ ạt tuôn qua cái khe bị Nến Cửu Âm phá vỡ.

Hệ thống hang động trong lòng núi này chằng chịt dễ sợ, xem tình hình này thì khối núi đằng sau khe nứt cũng đã bị xuyên thủng mất rồi, không biết nước sẽ thoát ra ở nơi nào. Cuối cùng, tôi thoáng nhìn một lượt xung quanh cây cổ thụ thanh đồng tìm trợ lý Lương, nhưng chẳng thấy anh ta đâu cả, chỉ thấy trên mấy tảng đá bắt đầu xuất hiện những dòng nước phun ra ầm ầm rồi đổ sụp xuống từng khối đá lớn. Nến Cửu Âm càng nổi điên mà vùng vẫy loạn xạ, tôi vội vàng lùi về phía sau một đoạn, ngay lập tức bị dòng nước cuốn vào trong khe nứt.

Khe nứt rất sâu, bên trong tối đen như mực, vì đây là khe nứt do sụt lở mà thành nên vách đá bên trong rất lộn xộn lắt léo, tạo nên không ít xoáy nước. Tôi quay cuồng va chạm tung tung beng cũng miễn cưỡng cảm thấy mình đang bơi về phía trước.

Lòng vòng khoảng mười mấy phút, tôi bỗng có cảm giác rơi tự do, sau đó thân thể rơi vào trong nước, vội vùng vẫy ngoi lên. Lúc này mới phát hiện mình đã bị dòng nước đẩy đến chỗ con sông ngầm ban đầu. Dòng nước ở đây chảy xiết hơn rất nhiều so với lúc đầu chúng tôi nhìn thấy, hẳn là giống như trợ lý Lương từng nói, bên ngoài đã có một trận mưa lớn.

Tuy dòng nước chỗ này chảy rất xiết nhưng không có nhiều xoáy nước như trong khe đá ban nãy, hơn nữa nhiệt độ nước cũng khá ấm, tôi gắng gượng cũng có thể điều khiển được tay chân mình, trong bụng bắt đầu nhẩm tính đến tình huống tiếp theo.

Mạch nước ngầm này chảy từ trên cao xuống, không biết chảy đến tận đâu, nếu dẫn sâu xuống mấy chục mét thì tôi cũng hết ý kiến. Nhưng dựa theo phương hướng ban đầu, nếu không có nhiều thay đổi, tôi đoán là mình sẽ bị đẩy đến nhánh sông chúng tôi đã vượt qua khi mới đến đây .

Tất nhiên điều kiện tiên quyết là đường đi phải thẳng tắp suôn sẻ. Tôi căng thẳng nhìn về phía trước, chỉ e sẽ xuất hiện một nhánh rẽ nào đó. Bất chợt, tôi thấy trên vách đá của con sông ngầm thấp thoáng có hình khắc gì đó.

Nhìn tình trạng bào mòn của vách đá, có thể thấy con sông ngầm ở đây có tuổi đời tương đương với ngọn núi này, những hình vẽ trên đó chắc hẳn đã được khắc lên từ rất lâu rồi. Tôi tranh thủ ôm lấy một nhũ đá mọc xuống từ trên đỉnh để dừng lại. Vừa dùng đèn pin rọi lên, tôi lập tức sợ đến ngây người.

Tất cả hình khắc trên vách đá hai bên sông ngầm đều giống hệt những thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong quan tài trên ngọn cây thanh đồng. Những hình khắc nối tiếp tạo thành một bức tranh dài, có vài chỗ đã phai mờ nhưng phần lớn vẫn còn nguyên vẹn, đường nét điêu khắc tinh xảo, hoa văn thanh thoát, mỗi bức mỗi vẻ đều sống động như thật.

Tôi thoáng nhìn qua, chỉ biết rằng những hình khắc này miêu tả quá trình tế lễ cây thanh đồng của dân tộc thiểu số thời cổ đại, cảnh tượng trong đó vô cùng sinh động. Có một tấm phù điêu khắc họa hình ảnh cái cây thanh đồng khổng lồ kia treo đầy thi thể nô lệ, máu của họ xuôi theo nhưng đường rãnh trên thân cây rồi hợp thành dòng mà chảy xuống dưới. Có một tấm lại là hình ảnh người ta ném xác nô lệ vào trong cây thanh đồng.

Phần lớn phù điêu ngập trong nước, phần chân hầu như đã bị nước xói mòn, xem ra lúc chạm khắc những bức vẽ này nơi đây không hề ngập nước.

Theo như những hình khắc nơi đây, lễ tế cây thanh đồng có quy mô rất lớn. Tôi ngắm nghía hết một lượt, càng xem càng cảm thấy kỳ lạ, có vài cảnh được miêu tả trên phù điêu lại không hề giống cảnh cúng tế khiến tôi không tài nào hiểu nổi.

Trong đó có một bức phù điêu mô tả cảnh người xưa đem rót một ít chất lỏng gì đó vào thân cây thanh đồng. Trong những bức tiếp theo, có một thứ nhìn giống hệt như con “Nến Cửu Âm” vừa nãy trườn ra từ trong cây thanh đồng, sau đó, rất nhiều người ăn mặc như những chiến binh mang cung tên giáo mác bao vây xung quanh nó, rõ ràng đây là một cuộc đi săn.

Dựa theo những gì tôi biết thì cây thanh đồng này hẳn là một loại biểu tượng thần quyền đặc biệt vào thời cổ xưa, còn “Nến Cửu Âm” trong cây thanh đồng kia được coi là một loại Rồng vào thời xưa. Trong một vài bản ghi chép, “Nến Cửu Âm” thậm chí còn được sáng ngang với Bàn Cổ (nhân vật khai thiên lập địa trong truyện thần thoại Trung Quốc), nên được người ta xem như thần thú mà cúng bái, nhưng nếu là thế tại sao những người ở đây lại săn nó chứ?

Tôi lại tiếp tục quan sát, hy vọng có thể tìm ra câu trả lời. Tiếp đó là một vài bức hình mô tả những nghi thức, tôi thấy tất cả những người cổ đại ấy đều mang mặt nạ, khuôn mặt đờ đẫn, nhưng giữa mỗi một tấm phù điêu luôn có một người được điêu khắc cực kỳ vạm vỡ. Nhìn dáng vẻ và phục sức của người này, tôi có thể khẳng định anh ta chính là thủ lĩnh của bọn họ, hơn nữa người này còn là nguyên bản của pho tượng mà tôi đã nhìn thấy ở vách núi giữa Giáp Tử Câu.

Phần đầu của pho tượng đã bị phá vỡ, lúc ấy tôi cảm thấy có gì đó không hợp lý, nhưng đi một mạch đến tận đây vẫn không thấy phần đầu của người này đâu cả, bây giờ đã có thể quan sát kỹ lưỡng.

Tôi ôm chặt phần chóp nhũ đá, tiến gần đến phần nham thạch phía trên, phủi sạch những vết bẩn trên đó rồi quan sát.

Hình ảnh người thủ lĩnh trong bức phù điêu gần như lớn gấp đôi những người khác, giống như một người khổng lồ. Nếu suy nghĩ vừa rồi của tôi là đúng, những hình khắc ở đây đều dựa theo tỉ lệ thực thì vị thủ lĩnh kia có lẽ thực sự rất cao lớn.

Nhưng thật kì lạ, trong toàn bộ những tấm phù điêu này, trên cổ người thủ lĩnh đều mọc một cái đầu rắn, trông không giống như mang mặt nạ hay gì đó tương tự.

Mặc dù tôi có kiến thức căn bản về khảo cổ, nhưng để đánh giá vấn đề này cần có kinh nghiệm và hiểu biết sâu rộng. Mà tôi thì chẳng có manh mối gì cả, chỉ biết là xét theo ý nghĩa của bề mặt những tấm phù điêu này, tôi cảm thấy suy đoán lúc đó của trợ lý Lương dường như có chút sai sót. Cây thanh đồng này không đơn giản chỉ dùng để tế lễ, mà còn là nơi tiến hành một nghi thức săn bắn nào đó, những nô lệ bị hy sinh kia có thể chính là mồi nhử để dẫn dụ “Nến Cửu Âm” chui lên khỏi lòng đất.

Không rõ thân cây thanh đồng mọc sâu đến đâu, con “Nếu Cửu Âm” hẳn là sống tít dưới lòng đất, làm sao nó có thể tồn tại dưới độ sâu như vậy không phải là chuyện tôi có thể nghiên cứu được. Tôi chỉ tò mò không biết vì sao những người thời cổ đó lại tổ chức một cuộc săn “Nến Cửu Âm” rầm rộ đến như thế?

Những hình khắc trên vách đá không cho tôi câu trả lời. Hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy chỉ là quang cảnh một buổi lễ long trọng, còn “Nến Cửu Âm” sau khi bị bắt được xử lý như thế nào cũng không thấy khắc ra.

Đã nắm được điểm then chốt, tôi thấy mực nước vẫn có chiều hướng dâng cao lên, đành phải buông tay tiếp tục trôi xuôi theo dòng chảy.

Chiếu sáng một hồi lâu, ánh đèn pin đã dần dần yếu đi, cuối cùng yếu đến mức hoàn toàn không thấy gì nữa. Tôi đành dứt khoát tắt đi, thuận theo dòng chảy mà di chuyển trong bóng tối.

Khoảng thời gian này trải qua vô cùng khó khăn, đã mấy lần tôi rơi xuống vài thác nước nhỏ, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng khó tránh va đập đến bầm tím mặt mũi. Khoảng hơn một giờ sau, tôi không còn biết xung quanh mình là gì nữa, cũng không biết mình muốn đi đến đâu.

Tôi bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, cũng không biết vừa rồi mình có đổi hướng hay lọt vào chỗ rẽ nào hay không, nếu như phán đoán sai lầm, nói không chừng bây giờ tôi đang bị cuốn vào con sông ngầm sâu vô tận, cũng không biết con sông này thông đến tận đâu, chẳng lẽ nó dẫn tới tầng đất sâu thẳm nơi “Nến Cửu Âm” sinh sống?

Đó rốt cuộc là nơi nào, suy cho cùng, không chừng lại là một lăng mộ đế vương nào đó nằm sâu bên dưới con sông ngầm, đó cũng là một ý kiến hay.

Ngay vào lúc tôi còn đang miên man suy nghĩ, đột nhiên nhìn thấy phía trước lóe lên một tia sáng. Toàn thân tôi chấn động, liền đó bên tai nghe tiếng nước chảy ầm ầm, tôi âm thầm mừng rỡ, biết phía trước nhất định có lối thoát. Đã mười mấy tiếng đồng hồ không được nhìn thấy ánh sáng tự nhiên, tôi quẳng đèn pin đi rồi bơi về phía trước.

Tôi bơi rất nhanh, chỉ vài phút sau trước mắt đã lóe sáng, sau đó là một mảng chói lòa, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Trong lòng tôi gào thét, đấy là do thị giác không kịp thích nghi sau một thời gian dài không nhìn thấy ánh sáng. Nhưng ngay trong khoảnh khắc ấy, một cảm giác quen thuộc truyền đến từ bên dưới.

Lại là rơi tự do! Lại là một thác nước!

Hơn nữa, dựa vào sức nước chảy cùng với âm thanh từ bên dưới truyền lên, thác nước này chắn chắn không hề nhỏ. Không biết chờ tôi bên dưới là gì, nếu tôi cụng đầu chết vì nước quá nông thì thật quá oan uổng.

Bên tai tôi hàng trăm thứ âm thanh gào thét, trong chớp mắt, thị lực vẫn chưa kịp hồi phục, tôi đã ngã cắm đầu vào trong nước.

Trong khoảnh khắc tôi vừa duỗi tay ra, bàn tay đã chạm phải một tảng đá. Không xong rồi, nước quá nông! Tôi vừa mới nhận ra điều này thì đầu đã đập vào thứ gì đó, trước mắt tối sầm, không còn biết trời trăng gì nữa.
 
Quyển 4 - Chương 1: Tin tức mới


Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi hôn mê suốt ba ngày ròng rã, đến khi tỉnh lại đã thấy mình nằm trong bệnh viện. Khi vừa mở mắt ra tôi chẳng nhớ được gì, chỉ cảm thấy đất trời cứ xoay mòng mòng, không ngừng nôn mửa, đầu óc choáng váng.

Hai ngày sau, bệnh tình của tôi mới dần dần khá lên một chút, thế nhưng khả năng phát âm đã hoàn toàn biến mất. Dù tôi cố gắng nói cái gì đi chăng nữa, âm thanh phát ra cũng chỉ là những tiếng kêu quái gở. Tôi còn tưởng đầu óc mình bị va đập quá mạnh gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh ngôn ngữ nên cực kỳ lo lắng, nhưng bác sĩ lại nói đây chỉ là di chứng do não bị chấn động mạnh mà thôi. Mãi cho đến ngày thứ tư, tôi mới có thể miễn cưỡng mở miệng hỏi bác sĩ xem tôi đang ở nơi nào. Bác sĩ nói đây là bệnh viện hội Chữ Thập Đỏ ở Bi Lâm, Tây An. Tôi được mấy người cảnh sát khiêng về, cụ thể tình trạng lúc họ phát hiện ra tôi thế nào thì bác sĩ cũng không rõ, chỉ nói đại khái là tôi bị gãy những mười hai cái xương, hẳn là do ngã từ trên cao xuống.

Ngực và tay trái của tôi bọc đầy thạch cao cho nên tôi cũng chẳng biết mình bị thương nặng đến mức nào. Nghe bác sĩ kể, tôi mới hay mạng mình vẫn còn lớn lắm. Tôi hỏi, lúc nào mới có thể xuất viện, bác sĩ chỉ nhìn tôi cười cười, nói trong vòng mười ngày nửa tháng tôi đừng hòng xuống giường.

Đến tối, người cảnh sát đã mang tôi về đây đến thăm tôi, mang theo cả một giỏ hoa quả. Tôi lại hỏi câu cũ. Giống như bác sĩ, anh ta cũng không biết trả lời ra sao, chỉ nói có mấy người thôn dân ở Lam Điền tìm thấy tôi bên bờ một con suối. Khi ấy tôi được đặt nằm trên một cái bè trúc, những vết thương trên người đã được sơ cứu. Bác sĩ còn bảo, nếu lúc ấy không được sơ cứu, tôi đã chết từ đời thuở nào rồi.

Tôi lấy làm lạ. Những ký ức cuối cùng của tôi là khi chìm vào đáy nước, theo logic thì cùng lắm cũng chỉ nằm vật ra bên bờ sông thôi, sao lại nằm trên bè trúc được cơ chứ? Thứ hai, Lam Điền là vùng cách Giáp Tử Câu phải đến bảy mươi tám mươi dặm đường, chẳng nhẽ, bọn tôi đi men theo con đường dưới lòng sông, bất giác đã đi cả một quãng dài như vậy rồi sao?

Tôi ậm ừ chém bừa cái lý do một mình lên núi chơi sảy chân rơi xuống vực, nói ngàn vạn lần tạ ơn người cảnh sát đã cứu tôi về, sau đó lôi điện thoại ra gọi Vương Minh ngay lập tức. Nhắn cậu ta đến Tây An một chuyến, mang theo ít tiền với quần áo cho tôi. Ngày hôm sau Vương Minh đến nơi, tôi lấy tiền thanh toán viện phí với thuốc men, sau đó mua một chiếc di động và một cái laptop.

Tôi hỏi Vương Minh mấy chuyện làm ăn gần đây thế nào. Cậu ta nói, không có gì quan trọng, chỉ có cha tôi đang ráo riết tìm tôi. Tôi nghĩ chắc là lâu lắm rồi không liên lạc gì nên ông cụ lo lắng. Vì thế tôi báo về nhà một cái tin bình an, nhưng lúc đó cha tôi lại không có nhà. Tôi nói chuyện với mẹ vài câu, tiện hỏi về chú Ba, nhưng lại chẳng có tin tức gì.

Xem ra mọi thứ vẫn y nguyên như trước khi tôi tới đây. Tôi cảm thán một tiếng.

Vài ngày tiếp theo, trong khi đang buồn chán muốn chết, tôi chợt nhớ đến lão Dương. Trong lòng lại chua xót, tôi bèn ngồi trên giường bệnh, lấy bộ trang phục leo núi đã nát tươm mà tôi mặc lúc rơi xuống núi ra, tìm cuốn sổ nhật ký của lão Dương. Cuốn nhật ký vẫn còn đó nhưng đã bị thấm nước nên chẳng còn nhìn rõ chữ gì. Tôi ráng căng mắt ra đọc một hồi. Vẫn chẳng đọc được gì, tôi đành lấy điện thoại, lên mạng giết thời gian.

Tôi tìm kiếm rất nhiều tư liệu, nhưng thông tin về đồ cổ ở trên mạng không nhiều. Tôi miêu tả sơ lược lại hình dáng cây thanh đồng trong đầu, gửi cho vài người bạn xem, một lát sau nhận được hồi âm, đa số đều không biết đó là thứ gì. Hơn nữa, bọn họ nghe miêu tả của tôi cũng không tin, chỉ có vài email là thu hút tôi nhất.

Trong số đó có một email từ Mỹ gửi tới, là một người bạn của cha tôi. Trò chuyện với tôi một hồi, ông ta viết trong mail rằng có một loại cây thanh đồng gọi là “Sáo trụ” bởi hình dạng nó trông như một cây sáo – loại sáo thời cổ. Năm 1984, người ta đã phát hiện ra một cây như thế ở một khu mỏ tại Phàn Chi Hoa, nhưng không lớn như tôi miêu tả, chỉ dài có một đoạn, phần cắm sâu dưới lòng đất cũng đã hoàn toàn rỉ sét.

Cho đến giờ vẫn chưa có một tài liệu lịch sử nào cho biết thứ này dùng để làm gì, tuy nhiên căn cứ vào Sơn Hải kinh và những tài liệu chép lại từ truyện thơ của một số dân tộc thiểu số, thứ này với “Địa long (rắn)” thời cổ có liên quan đến nhau.

“Nến Cửu Âm” hẳn là một loại rắn sinh sống dưới lòng đất sâu, do quá nhiều năm chui rúc trong khe đá chật hẹp sâu hoắm, không có cơ hội nhìn thẳng cho nên con mắt bị biến đổi giống như cá thờn bơn vậy. Người xưa lấy máu tươi để dụ nó chui lên từ dưới lòng đất, sau đó bắn chết, làm thành đèn nến. Nghe thì thật đáng trách, nhưng vào thời đó nguồn sáng lâu dài là một thứ cực kỳ quý giá, đặc biệt với những người sinh sống về đêm hoặc phải sống trong những hang động quanh năm tối đen như hũ nút.

Tôi thấy ông ta phân tích cũng có vẻ hợp lý, có điều tôi không hiểu nổi vì sao hễ động đến cái “trụ” kia là lập tức xuất hiện loại năng lực vừa kỳ diệu lại vừa khủng khiếp ấy. Tôi gửi hồi âm, hỏi xem trong lịch sử đã từng xảy ra những chuyện kỳ lạ tương tự hay chưa?

Ông ta gửi hồi âm nói vẫn còn một quyển sách đã hư hại nhiều, đó là quyển bút ký dạng tiểu thuyết, bên trong ghi chép lại một sự việc đã xảy ra vào năm Càn Long thời nhà Thanh. Năm đó ở một khu mỏ vùng Tây An đã đào được một cái hộp có hoa văn hình rồng bằng đá xanh trắng. Hoàng đế Càn Long mở ra xem, ngay tối hôm đó đã bí mật triệu mấy vị đại thần vào cung, luận bàn đến khuya. Sau đó, cung Càn Thanh cháy. Mấy vị đại thần kia, ngoại trừ một người rất nổi danh ra, còn đâu toàn bộ đều không được chết già mà đều bị giết một cách thần bí.

Tôi xem khoảng thời gian, đại khái cũng trùng với thời gian sự việc được ghi lại trong “Hà mộc tập” của Lý Tỳ Bà, hẳn là hai chuyện này có liên quan với nhau. Xem chừng người cuối cùng đào ra hộp hoa văn hình rồng đá trắng xanh và những người biết chuyện này đều đã bị diệt khẩu, hoàng đế hạ quyết tâm lớn đến thế chỉ để bảo vệ một bí mật, cái hộp hoa văn hình rồng đá trắng kia rốt cuộc là thứ gì? Liệu có liên quan đến lai lịch của cây cổ thụ thanh đồng không?

Tôi lại gửi mail hỏi ý kiến ông ta lần nữa, ông ta chỉ hồi âm đúng một câu: muốn biết phải đào sâu thêm nữa mới được.

Tôi cười khổ một tiếng, biết đây là việc khó khả thi. Ai mà biết cái cây kia còn mọc sâu đến đâu chứ, biết đâu năm đó người đúc ra thứ này phải mất đến mấy thế kỷ, cho dù muốn đào cũng chẳng biết đào đến bao giờ mới xong.

Còn một email khác là của chú Hai gửi tôi. Chú bảo, khi dân tộc thiểu số kia bị ảnh hưởng bởi văn hóa và phong cách trang trí thời Tây Chu thì giao lưu giữa các dân tộc rất hạn hẹp. Hơn nữa, cách thức liên lạc và chuyển phát thông tin thời đó rất kém phát triển, nên hẳn là có một thời kì bị trì trệ. Nói cách khác, thời gian tôi phỏng đoán dễ chừng là quá sớm, dựa theo quy luật chung, khi dân tộc thiểu số kia phát triển thì ở Trung nguyên hẳn đã sang cuối thời Tần rồi.

Vào thời gian đó, hầu như mọi hoạt động của dân tộc thiểu số này đều na ná việc thi công lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Bọn họ đi săn Nến Cửu Âm có thể là để tinh luyện “Mỡ rồng”, mục đích hẳn cũng tương tự với việc luyện đan tiến cống hoàng đế. Hơn nữa, khi thăm dò cả khu, giống như lăng Tần Thủy Hoàng, tầng dưới cùng có vị thế đứng đầu và cũng có vật thể kim loại khổng lồ. Theo lý mà nói, kỹ thuật luyện kim thời đó chưa đủ để hoàn thành một công trình vĩ đại như thế. Người thi công hẳn phải là người ngoại lai, đến từ một dân tộc có trình độ kỹ thuật luyện kim đặc biệt phát triển.

Chú Hai là fan trung thành của Tần Thủy Hoàng, cái gì chú cũng chém thành chuyện được, tôi không cho suy đoán của chú là đúng.

Một tháng sau, tôi xuất viện. Về đến nhà, dọn dẹp một chút, tôi mới bắt đầu điều chỉnh lại tâm tình của mình. Trở về sinh hoạt bình thường một lần nữa. Tôi dọn lại cái hòm thư đầy ứ đến mức suýt bung ra, xếp riêng một số tạp chí và báo giấy, thế rồi tôi tìm được một phong thư chuyển phát nhanh không kí tên.

“Lão Ngô,

Có đoán ra tôi là ai không?

Phải, tôi chưa chết. Hay cũng có thể nói, tôi vẫn còn sống.

Rất xin lỗi vì đã lôi cậu vào mớ rắc rối này, nhưng dù sao cậu cũng là người tôi tin tưởng nhất, tôi không còn lựa chọn nào khác.

Bây giờ mọi chuyện đều đã xong xuôi cả rồi. Quan hệ của chúng ta, chắc cũng phải kết thúc ở đó thôi. Tôi rất vui vì được làm bạn với cậu, nhưng bây giờ đã chẳng còn gì là quan trọng nữa.

Cậu rất muốn biết ba năm trước đã xảy ra chuyện gì phải không?

Ba năm trước, tôi với mấy thằng bạn đến Tần Lĩnh làm ăn. Chúng tôi đã căn cứ vào truyền thuyết của dân bản xứ, tìm ra hang động dưới gốc cây đa trên đỉnh núi. Bọn tôi bàn tính với nhau, chuẩn bị mạo hiểm chui xuống thăm dò bên dưới. Toàn bộ quá trình cậu đã biết rồi, cho đến khi tôi bị nhốt trong hốc đá.

Lúc ấy, tôi đã vô cùng tuyệt vọng. Tuy tôi không chết ngay lập tức, nhưng sự sống đối với tôi là một điều hết sức đáng sợ. Vĩnh viễn sống trong một xó chật hẹp, trong một hốc đá tối đen nằm sâu trong núi lớn, vĩnh viễn không có ngày thoát ra. Nỗi đau đớn khổ sở này, chắc cậu cũng đã nếm thử rồi.

Tôi nằm trong bóng tối suốt bốn tháng, bốn tháng ấy trôi qua không khác gì địa ngục. Nhưng trong khoảng thời gian này, tôi đã suy nghĩ không ngừng và rồi nhận ra loại năng lực này có liên hệ với tiềm thức. Ví dụ như, tôi muốn mở một cánh cửa trên tảng đá, tôi phải thuyết phục được bản thân mình tin rằng trên tảng đá có một cánh cửa, bằng không dù có nghĩ đến nát óc thì cửa cũng không xuất hiện.

Con người sao có thể lừa dối được tiềm thức của mình. Cho nên, muốn sử dụng năng lực này thì nhất định phải có sự dẫn dắt, cái này rất khó. Tôi đã nói với cậu rồi, nếu quá trình dẫn dắt thất bại hoặc xuất hiện sai sót thì sẽ chẳng thể tưởng tượng nổi thứ cậu đã hiện thực hóa ra là gì, cực kỳ đáng sợ.

Tôi không ngừng cố gắng, dần dần cũng nắm được một vài bí quyết. Thế nhưng trong lúc đó, tôi lại phát hiện loại năng lực này sẽ dần dần suy giảm theo thời gian, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Cảm giác này rất rõ ràng, giống như thân thể dần dần cảm thấy rã rời vậy. Tôi hiểu rằng nếu không mau mau tìm được cách thoát ra ngoài, rất có thể mình sẽ bỏ mạng nơi đây.

Tôi rơi vào đường cùng, quyết định thử dùng năng lực này phục chế một bản sao của chính mình. Không ngờ thử nghiệm lại thành công, chính tôi cũng thấy hoảng sợ, thoáng cái tôi bỗng phát hiện ra mình đã ở bên ngoài sơn động.

Khi ấy, tôi không hề ý thức được tôi chỉ là bản phục chế, bởi lẽ tôi và bản thể đều sở hữu những ký ức giống hệt nhau. Cho nên khi hắn ta gọi tôi, tôi hoàn toàn không thừa nhận tôi chỉ là bản phục chế. Hắn bắt đầu chửi tôi, nói tôi muốn thay thế hắn tồn tại trên thế giới này, nói muốn tôi biến mất. Tôi rất sợ hãi, tôi đã nghĩ người trong động kia hẳn là quái vật, nên mặc cho bản thể của mình kêu khóc trong ấy, tôi đã tìm thuốc nổ, khiến hang động này hoàn toàn sụp xuống.

Trên thực tế, tôi đích xác biết mình chỉ là bản phục chế, nhưng sâu trong tiềm thức tôi lại không muốn tin vào chuyện này. Cho nên tôi đã rơi vào tình trạng tổn hại nặng nề, tôi tự tay giết chính bản thể của mình, sau đó lại tự ám thị mình rằng tôi chỉ giết đi một kẻ thay thế.

Năng lực mà cây thanh đồng tạo ra có thời gian rất ngắn. Bởi vậy tôi đã bẻ một cành cây thanh đồng, dùng năng lực để thoát ra từ dưới chân cây thanh đồng. Tôi đã mang theo một bộ phận của cây thanh đồng để có thể sử dụng năng lực đó lâu hơn một chút, như vậy tôi mới có thể trốn ra đến thế giới bên ngoài. Về sau thực tế đã chứng minh suy nghĩ của tôi là chính xác, tôi ra đến bên ngoài, nơi chúng tôi đã đào đường vào trước đây. Tôi lại sợ mấy cành cây Thanh đồng chỉa ra dễ bắt mắt nên đem chôn nó vào lòng đất, sau đó trở lại Tây An tìm nơi bán cành thanh đồng đã bẻ.

Đáng tiếc khi đang trao đổi, tôi lại bị cảnh sát chìm bắt tại một hàng đồ cổ. Chuyện sau đó cậu đã biết rồi, khi về đến nhà thì mẹ tôi đã mất. Việc này, tôi không lừa cậu.

Còn một việc nữa tôi phải nói cho cậu biết, sử dụng loại năng lực này không phải không có cái giá của nó. Trí nhớ của tôi sau đó rất kém, có nhiều việc phải ghi lại thì mới nhớ nổi, đó chính là di chứng của việc sử dụng năng lực này. Trên đường đi tôi vốn dàn xếp cho cậu rất tốt, khiến cậu vô tình giúp tôi hoàn thành chuyến thám hiểm này, nhưng tiếc là chuyện ba năm gần đây tôi đã quên rất nhiều, thậm chí ngày đó thoát ra bằng cách nào tôi cũng không còn nhớ rõ ràng, cho nên sơ hở chồng chất. Tôi đoán nếu sử dụng nó thêm hai ba năm nữa, tôi sẽ mất đi toàn bộ ký ức.

Trên người cậu cũng có loại năng lực kỳ lạ này. Tôi không rõ cậu có bị ảnh hưởng hay không, nhưng cậu phải chú ý cẩn thận. Theo tính toán của tôi, loại năng lực này có lẽ sẽ lưu lại trên người cậu rất nhiều năm, nhưng cực kì yếu, hầu như không gây cảm giác gì.

Lão Dương.”

Tôi xem hết phong thư rồi thở phào một cái, không biết nói gì cho phải. Trong thư còn có một tấm ảnh chụp, đó là hình của hắn và mẹ đang ngồi bên bàn, phía sau là biển rộng, có lẽ là đi ra nước ngoài. Mẹ hắn vẫn còn rất đẹp, tuổi còn trẻ, đứng chung với hắn trái lại trông giống một đôi tình lữ hơn. Tôi nhìn đi nhìn lại vẫn thấy trên gương mặt người mẹ có một luồng yêu khí, một vẻ dữ tợn không sao tả rõ được, chắc là do ảnh hưởng tâm lý.

Thời gian cứ thế trôi qua, không biết mùa đông đã đến tự bao giờ. Tôi rúc trong phòng điều hòa, lười biếng ngủ gà gật suốt cả buổi chiều. Nằm trên ghế dựa trong nội đường “Tây linh ấn xã”, hai chân lạnh như băng, tôi chẳng biết làm gì, đang nửa tỉnh nửa mơ bỗng Vương Minh bước vào báo: “Lão đại, có người tìm.”

Bấy giờ tôi mới miễn cưỡng phản ứng, ngáp một cái, bụng bảo dạ đã vào tiết Tam cửu thiên[1] rồi mà cũng có kẻ đến tiệm đồ cổ, sao mà nhiệt tình dữ. Mà thôi, dù gì cũng là chuyện làm ăn, tôi đứng lên, xoa nắn mặt mày, chấn chỉnh tinh thần rồi đi ra ngoài.

([1] tiết Tam Cửu Thiên: thời điểm lạnh nhất trong mùa đông.)

Điều hòa của phòng ngoài công suất khá nhỏ, một cơn gió lạnh thổi qua khiến tôi bất giác rùng mình. Người tới thì ra là cô bé thủ hạ của chú Hải ở Tế Nam, đang run bần bật giữa tiết trời đông lạnh. Tôi thầm nghĩ chắc con bé mang chi phiếu đến cho mình đây, trong lòng ấm lên một tí, liền gọi Vương Minh pha ấm trà. Tôi hỏi han: “Sao rồi nhóc, chú Hải kêu nhóc tới hả?”

Cô nhóc tên Tần Hải Đình, là thân thích của chú Hải, mới mười bảy tuổi đã là một tay sành sỏi trong giới đồ cổ. Nó gật gật đầu, đáp: “Ôi mẹ ơi, sao Hàng Châu còn lạnh hơn cả phương bắc bọn em nữa hả giời.”

Vương Minh cười bảo: “Phía nam tiết trời khô ráo nên đã rét là rét buốt, hơn nữa Tế Nam cũng không được tính là phương Bắc nha.”

Tôi nhìn Tần Hải Đình răng đánh lộp cộp, liền kéo cô bé vào nhà trong. Bên trong có điều hòa ấm áp, lại đưa thêm cho nó một túi giữ nhiệt, rồi hỏi: “Nhóc mày cũng sợ lạnh ghê, sao rồi, ấm lên tí nào chưa?”

Cô bé uống liền mấy hớp trà nóng, rồi ngồi trong phòng duỗi tay duỗi chân, “Khá hơn chút rồi. Người ta bảo Hàng Châu đẹp thế này đẹp thế kia, chú em chẳng cho tới mà em còn cố giành đi, nào ngờ lại lạnh cắt da thế này. Ai da, từ giờ về sau đừng hòng bảo em tới đây lần nữa.”

Tôi hỏi: “Thế chú nhà mày sai mày đến đây làm gì? Sao không gọi điện báo trước một tiếng.”

Tần Hải Đình cởi khăn quàng cổ xuống, móc một cái phong bì từ trong cái ví da, nói: “Đương nhiên là có chính sự, nè, tiền mặt, chi phiếu đủ cả. Tiền bán miếng Ngư nhãn thạch đó.”

Quả nhiên đúng như tôi dự đoán. Lúc nhận tiền tôi đếm lại một lần, không thừa không thiếu đồng nào mới bỏ vào túi áo, nói: “Thay anh cám ơn chú nha.”

Cô bé lại lấy ra một tấm thiếp mời, đưa cho tôi: “Mai mốt chú Hải nhà em sẽ đến Hàng Châu tham gia một hội giám định đồ cổ. Chú bảo anh cũng đi theo luôn, có chuyện quan trọng cần bàn với anh.”

Tôi hỏi: “Mai mốt? Anh không chắc là lúc ấy sẽ rảnh đâu. Sao không nói chuyện trên điện thoại luôn mà phải thần bí thế?” Thực ra là vì tôi không muốn đi. Giám định đồ cổ là công việc rất ngán ngẩm, đối với người trong nghề chẳng qua chỉ là mấy lão già tán chuyện phiếm với nhau thôi, chứ thực chất làm quái gì có lắm điển cố điển tích đến thế. Đồ thật hay giả chỉ cần liếc mắt một cái là biết ngay rồi.

Tần Hải Đình xáp lại gần, hạ giọng thì thầm vào tai tôi: “Chú em bảo, chuyện này có liên quan đến con xà mi đồng ngư kia, không đi là hối hận đó.”
 
Quyển 4 - Chương 2: Pháo hoa năm mới 2007


Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Quan hệ của tôi với lão Hải chẳng tốt đẹp đến mức không giấu nhau điều gì. Bình thường thỉnh thoảng cũng cùng nhau làm ăn vài mối, khi mới quen biết sơ sơ tôi gọi ông ta một tiếng “chú” cho ông ta chút thể diện. Thế mà bây giờ tự dưng ông ta muốn tiếp cận tôi thì quả là có vấn đề. Nghĩ thì thế, nhưng tôi không biểu lộ ra ngoài trước mặt cô nhóc kia. Thuận miệng đáp, tôi hỏi: “Sao thế? Ổng tra được tin tức gì à?”

Tần Hải Đình cười xấu xa: “Chú em bảo, đến lúc đó hẵng nói anh nghe, em cũng chẳng biết là chuyện gì xảy ra đâu, xin đừng dò hỏi nữa.”

Tôi chửi thầmmột tiếng trong bụng, cái lão già gian thương này hẳn là muốn lợi dụng kiếm chác gì đó đây.

Sang ngày thứ ba, quả nhiên lão Hải đến nơi. Tôi đón ông ta từ bến tàu hỏa, dẫn ông ta ra đường lớn tìm quán rượu. Lúc ở trên xe, tôi hỏi ông ta rốt cục đã nghe ngóng được tin tức gì, ổng mà dám lừa gạt tôi, nhất định tôi sẽ không tha cho ổng.

Lão Hải lạnh đến run lập cập cả người, nói: “Phép vua còn thua lệ làng, trên địa bàn của cậu tui sao dám lừa cậu cái gì. Cơ mà chúng ta đừng nói chuyện ở chỗ này, tui sắp chết cóng rồi đây.”

Tôi đưa ông ta đến một quán rượu, cất hành lý, tìm một bàn ngồi xuống. Sau đó gọi bình rượu nóng, uống mấy chén lót dạ, cuối cùng cũng ấm người lên được một chút.

Tôi nhìn ông ta nốc rượu ừng ực, biết ông ta no nê rồi, mới hỏi: “Được rồi, đã ăn uống no say, bây giờ thì nói đi, rốt cục ông đã tra ra chuyện gì rồi?”

Ông ta chép chép miệng, cười hì hì, rồi lấy từ trong túi hành lý ra một xấp giấy, vỗ vỗ lên bàn: “Xem cái này đi.”

Tôi cầm lên xem. Đó là một tờ báo cũ đã ố vàng, xem ngày tháng mới biết nó xuất bản năm 1974. Trên đó có dấu khoanh tròn một mẩu tin, là một bức ảnh đen trắng. Tuy nhìn không rõ cho lắm, nhưng tôi vẫn nhận ra trên ảnh chụp là một con xà mi đồng ngư, xung quanh còn có nhiều văn vật lẻ tẻ khác, hình như là một loại Phật châu tràng hạt gì đó.

Tuy nhiên hình dáng con cá này không giống với cái tôi có và cái của chú Ba. Đường vào ngôi mộ dưới đáy biển đặt một pho tượng, trên trán tượng chạm khắc một phù điêu hình ba con cá, con này hẳn là con nằm trên cùng của bức phù điêu. Nói vậy, tức là cả ba con cá này đều có thật. Tôi hỏi lão Hải: “Sao ông tìm được tờ báo này vậy? Đằng sau có bí ẩn gì chăng?”

Lão Hải nói: “Trong nhóm tui gần đây có một ông chủ lớn chuyên mua bán báo chí cũ, cậu biết đấy, kẻ có tiền muốn gì mà chả được. Cậu xem, đây là báo văn hóa Quảng Tây năm 74. Hắn muốn tui tìm đủ số báo từ tháng giêng đến tháng mười hai, tui phải lặn lội suốt hai tháng trời mới gom góp đủ đấy. Mấy hôm gần đây cần phải giao hàng, lúc kiểm tra lại, vừa nhìn lướt qua lại thấy ngay bản tin này. Cậu nói xem có khéo không cơ chứ? Tờ báo này ra năm 74, sang năm 75 là ngừng rồi, rất hiếm trên thị trường nha. Số cậu may thật đấy, tui mà không để ý chút nữa là xong hết luôn đó.”

Tôi liếc xuống nhìn chăm chú, phía dưới ảnh chụp là một mẩu tin ngắn dài khoảng ba trăm chữ, đại ý cá này tìm được ở Quảng Tây, trong một tòa tháp của một ngôi chùa Phật. Trải qua năm tháng mài mòn, đến một ngày ngọn tháp kia tự nhiên sụp xuống, lúc thu dọn đống phế tích người ta phát hiện ra một địa cung bên dưới. Trong địa cung có mấy quyển kinh thư đã ngấm nước nát rữa gần hết cùng một rương báu vật, trong rương lại chỉ có duy nhất con cá này. Các chuyên gia suy đoán rằng nó là di vật của tăng nhân nửa cuối thời Bắc Tống.

Bắc Tống? Tôi châm một điếu thuốc, dựa người vào ghế, trong lòng âm thầm suy tính. Giống xà mi đồng ngư này, con thứ nhất xuất hiện trong hầm mộ chư hầu cuối thời Chiến quốc, con thứ hai tìm thấy ở ngôi mộ dưới đáy biển thời cuối Nguyên đầu Minh, con thứ ba lại xuất hiện trong địa cung một ngôi Phật tháp thời Bắc Tống. Thế quái nào mà không gian thời gian lại chẳng liên quan gì đến nhau thế này.

Tôi lật giở mấy trang khác của tờ báo mới biết chỉ có mỗi mẩu tin về con xà mi đồng ngư thôi, nội dung còn lại cũng chẳng có gì mới mẻ. Tôi vẫn không biết gì về con cá này cả, nghĩ cũng thấy phiền muộn, bèn đứng lên.

Lão Hải nhìn vẻ mặt của tôi, mở lời: “Cậu đừng nhụt chí, tui còn nói chưa xong. Câu chuyện phía sau mới là đặc sắc nè.”

Tôi nhíu mày: “Là sao? Lẽ nào tờ báo này còn có thể moi móc biến hóa ra thêm thông tin gì nữa à?”

Lão Hải gật đầu, nói: “Ây dà, nếu có mỗi chuyện tờ báo thôi thì tui cần gì một thân một mình lết xác đến Hàng Châu tìm cậu, đúng không? Chuyện này ấy, còn phải kể từ lúc bắt đầu. Được rồi, cậu cũng đã qua lại quen biết nhiều, vậy có biết một người gọi là Trần Bì A Tứ không?”

Tôi nghe xong khẽ giật mình. Trần Bì A Tứ là một thổ phu tử nổi danh ở Trường Sa năm xưa, một tay sành sỏi, nhân vật tầm cỡ trong giới cùng với ông nội tôi. Nghe nói hiện giờ đã hơn chín mươi tuổi, kể từ khi mắt bị mù mười năm về trước đã không còn xuất hiện nữa, không rõ sống chết ra sao, chỉ biết ông nội tôi vẫn hay nhắc đến tên người này, có lẽ danh tiếng vẫn còn rất oách.

Có điều người này lại không giống với ông nội tôi. Ông ta là kẻ sống dựa vào lưỡi đao, không chỉ đơn giản trộm mộ thôi, mà bất cứ chuyện phóng hỏa giết người gì, miễn là có tiền, ông ta đều nhúng tay vào. Vì vậy thời trước giải phóng, người ta vẫn thường gọi ông ta là Thế Đầu A Tứ, ý nói ông ta giết người dễ như cạo đầu cắt tóc vậy, không hề do dự chút nào.

Nghe lão Hải nhắc tên người này, tôi có hơi bất ngờ. Bởi lẽ người này không phải nhân vật lớn cùng thời với bọn tôi, cho đến bây giờ tôi còn chưa gặp ông ta lần nào, chẳng nhẽ con cá này lại có liên quan đến ông ta? Câu chuyện phía sau xà mi đồng ngư, cho dù không liên quan đến tôi, nhưng chắc chắn cũng đáng để nghe kể một lần.

Lão Hải thấy tôi im lặng không nói câu nào, tưởng tôi không biết, bèn tiếp: “Chuyện của Trần Tứ gia cậu không biết cũng phải, ông ta vốn không phải người cùng thế hệ với chúng ta. Nhưng tui phải nói cậu hay, con xà mi đồng ngư trong tờ báo này là do chính tay ông ta lấy từ trong địa cung Phật tháp ra đấy. Sự tình không hề đơn giản như trong tờ báo nói đâu.” Nói đoạn ông ta liền kể lại chuyện năm xưa, có giản lược đi đôi chút.

Hóa ra năm 1974, Trần Bì A Tứ cũng đã gần sáu mươi tuổi. Khi ấy mắt của ông ta còn chưa bị mù, mà đó lại là thời kỳ mười năm loạn lạc. Do năm xưa, trước giải phóng, ông ta đã từng làm trung đội trưởng trong quân của Quốc Dân Đảng, sau lại có mấy năm làm thổ phỉ, cho nên thân phận ông ta là bất hợp pháp, chỉ cần bắt được là có quyền giết ngay tại chỗ. Vì vậy, ông ta chỉ có thể hoạt động tại vùng dân tộc thiểu số ở Quảng Tây, ngay cả thị trấn cũng không dám tiến vào nửa bước.

Vào đầu những năm Tứ cựu[1], rất nhiều di tích cổ đã bị đập phá gần hết. Trần Bì A Tứ đi qua rất nhiều địa phương ở Quảng Tây, bởi vì Quảng Tây thời cổ không được coi là thuộc Trung Nguyên, cũng không có mấy cổ mộ, cho nên trong suốt những năm đó, ông ta có thể nói là sống cũng hiền lành, trung thực. Nào ngờ năm ấy khi ông ta vừa kéo xe đòn chở hàng qua chốt kiểm kê lại tình cờ nói chuyện phiếm với mấy người dân tộc Mèo. Mấy người đó uống rất nhiều, có nhắc đến chuyện tòa tháp của ngôi chùa trong núi Con Mèo đã sụp, gây ra tiếng động rất lớn, cả nền đất cũng sụt xuống, lún thành một cái hố sâu hút. Đêm tòa tháp bị sụp, nhiều người còn nghe được tiếng kêu thảm thiết rất kỳ dị.

Trần Bì A Tứ nghe vậy thì lấy làm lạ, ông ta đã đến núi Con Mèo rất nhiều lần, ngôi chùa ở đó được tu sửa vô cùng kiên cố, sao lại có chuyện tòa tháp chùa bị sụp được? Hỏi ra tỉ mỉ mới hay, tòa tháp này cũng không hẳn là ở trên núi Con Mèo, mà nằm ngay ở rìa trung tâm của một ngọn núi gọi là “Núi Phật nằm”. Nơi này rất kỳ quái, bốn phía xung quanh đều là xóm làng, nhưng chính giữa lại là một vùng lòng chảo diện tích chừng hơn mười km vuông, độ cao so với mực nước biển rất thấp, bên trong cây cối rậm rạp, tán cây che phủ toàn bộ bầu trời. Thôn xóm nằm trên vách núi, rừng cây ở dưới vách núi, khoảng cách chênh lệch chỉ hơn một trăm mét nhưng lại là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa cũng không có đường từ thôn xóm xuống phía dưới, muốn xuống vùng trũng này chỉ có cách dùng dây thừng đu xuống.

Dân bản xứ nói chắc chắn là có đường vào vùng lòng chảo này, nhưng vì cây cối ở đây quá rậm rạp, đi lại khó khăn. Trước đây người Mèo thường xuống đó để săn thú và hái thuốc, nhưng thường những người vào trong đều biến mất một cách kỳ lạ, cho nên nếu không có việc quan trọng thì chẳng ai muốn xuống dưới đó làm gì.

Tháp cổ kia được xây dựng đúng ở nơi này. Gần như nằm ở ngay trung tâm của vùng lòng chảo, bình thường mọi người đứng từ trên vách núi trông xuống chỉ có thể nhìn thấy xa xa mái nhọn của ngọn tháp nhô lên giữa các tán cây rậm rạp. Hơn nữa, ngọn tháp bị cây cối dây leo bám đầy, phần bên dưới không thể nhìn rõ được. Người Mèo nói hơn mười đời trước đã biết nơi này có một ngọn tháp, thế nhưng không ai nghĩ đến việc trèo xuống dưới đó xem, cho đến giờ đã thành thông lệ rồi. Một ngày gần đây bỗng dưng có tiếng nổ lớn, chạy ra nhìn đã không còn thấy mái nhọn của ngọn tháp nữa, bấy giờ mới biết nó bị sụp. Về phần ngôi tháp cổ này, dân bản xứ có rất nhiều giai thoại. Theo lời một người già kể lại, ngôi tháp cổ này trước đây do một cao tăng xây nên, dùng để trấn yêu, giờ tháp sụp, yêu quái sẽ tràn ra ngoài làm điều ác. Tiếng gào thét thảm thiết quái lạ kia chính là tiếng yêu quái giãy giụa thoát khỏi kết giới.

Trần Bì A Tứ nghe xong cảm thấy cực kì hào hứng. Ông ta mơ hồ có cảm giác vị trí của ngọn tháp và tiếng kêu mà người Mèo nghe thấy lúc nửa đêm kia có vẻ không hợp lý. Hễ là kiểu người như ông ta đều có trực giác rất lạ, có thể suy ra được thông tin từ lời kể của người khác, cộng thêm một chút bản năng nữa. Về điểm này, ở thế hệ chúng tôi khó mà tìm được một người như thế.

Trần Bì A Tứ suy nghĩ một lúc, rồi quyết định đi xem xét thêm.

Quảng Tây núi non trùng điệp, có thể nói là đứng đầu cả nước. Trong đó, núi Con Mèo có địa thế quan trọng: dãy núi vắt ngang qua ba huyện Hưng An, Tư Nguyên, Long Thắng; là đầu nguồn của ba nhánh sông Ly Giang, Tư Giang, Tầm Giang, và kế tiếp đó là hai hệ sông lớn Trường Giang, Châu Giang. Nơi này có rừng nhiệt đới nguyên sơ rất rộng lớn, trong đó có ngọn núi lớn nhất chính là cao điểm Lão Sơn, là nơi năm xưa Hồng quân Trung Quốc từng trường chinh đánh địch (Việt :’

Trần Bì A Tứ đi qua nhiều con đường vòng vèo trắc trở mới đến được một ngôi làng trong núi Phật Nằm. Đứng trên một mô đất cao, nhìn xuống vùng đất trũng ở giữa với núi non bao bọc xung quanh, mẹ kiếp, ngọn tháp kia còn lớn hơn cả những gì ông ta đã tưởng tượng. Tháp sụp đè lên làm đổ gãy nhiều cây cối, cho nên giữa cả một vùng rừng rậm xanh mướt tự dưng xuất hiện một khoảnh trống trơn. Đứng trên núi Phật Nằm không thể nhìn thấy vùng đất trống đó có gì, thế nhưng Trần Bì A Tứ vừa nhìn đã gần như phát hiện ngay ở vùng tháp bị sụp đó cây cối đều bị lún xuống đất, trông rất lộn xộn. Xem ra bên dưới ngọn tháp quả nhiên còn có thứ gì đó, hơn nữa, nó còn lớn hơn cả ngọn tháp.

Tôi nghe đến đây đã biết đó chính là “Kính Nhi Cung”. Kính Nhi Cung là tiếng địa phương của người Trường Sa trước giải phóng gọi những kiến trúc nằm dưới lòng đất với quy mô và cấu trúc giống hệt như trên mặt đất, trông giống một cái bóng phản chiếu của tòa nhà xuống mặt hồ vậy, trên dưới hai đầu đều đối xứng nhau chằn chặn.

Kính Nhi Cung, Bắc phái còn gọi là Thoi Âm Dương, ý chỉ tổng thể kiến trúc giống như một con thoi cắm trên mặt đất, một đầu là cõi âm, một đầu là dương gian. Có điều, ngôi cổ mộ hoặc công trình cổ này cực kỳ hiếm, bởi vì đa phần các di tích trên mặt đất đều đã bị phá hủy cả. Do vậy, cách nói này từ mười năm trước Giải Phóng đã không còn được ai sử dụng.

Trần Bì A Tứ chỉ cần nhìn cây cối thay đổi dần theo thứ tự là biết ngay thứ được chôn phía dưới chính là Kính Nhi Cung. Khả năng phán đoán bậc này, nếu không phải là một người có bề dày kinh nghiệm thì không thể nào làm được. Tôi không khỏi thầm than một tiếng, rồi định thần lại, tiếp tục nghe lão Hải kể chuyện.

Lòng tham nổi lên, Trần Bì A Tứ đã hạ quyết tâm. Địa cung bên dưới Phật tháp chỉ có thể có ba loại: xá lợi, kim thân của cao tăng nào đó, hoặc là kinh Phật với số lượng khổng lồ. Cái gì cũng đều vô giá cả.

Tuy nhiên, ông ta lại không phải người địa phương, hoạt động ở vùng này không thuận tiện. Thứ nhất, ông ta thân phận đặc biệt, xuất thân không tốt, thứ hai, thời đó hai tộc người Mèo và người Hán vẫn còn đang tranh chấp không ngừng, mấy ngôi làng ở đây đều là của người Mèo, nếu đi bậy vào có thể sẽ khiến người khác nghi ngờ.

Cân nhắc hết lần này đến lần khác, cuối cùng ông ta nghĩ ra được một kế sách. Ông ta bỏ nhiều tiền thuê một người Mèo địa phương dẫn đường, tự xưng mình là cán bộ trí thức lão thành từ bên ngoài về đây chi viện cho vùng biên giới[2], cách đây không lâu có một học trò của mình bị ngã xuống vách núi này. Người Mèo tính tình chất phác, không rành sự đời, nào có biết đây chỉ là quỷ kế. Anh ta vừa nghe có người bị ngã xuống núi, đã lập tức thông báo cho cả làng. Những thanh niên trai tráng người Mèo hò nhau buộc dây thừng vào một cái gùi, thả Trần Bì A Tứ cùng vài người thanh niên đi theo hỗ trợ lần lượt xuống vách núi.

Theo trí nhớ của Trần Bì A Tứ, lúc đi xuống hơn trăm mét vực này giống như là đang bước chân xuống âm tào địa phủ. Vách núi vô cùng hiểm trở, thể trọng của người khiến mấy sợi thừng căng sít, đặt mông ngồi trong gùi, chỉ cần một ngọn gió thổi qua là cả người lại bồng bềnh xoay tròn như con quay, cực kỳ chông chênh. Cho đến khi ông ta đi qua tầng tầng tán cây dày đặc, xuống tận đáy rừng sâu, thì cũng chỉ còn lại nửa cái mạng.

Dưới tán rừng rậm u ám tối tăm hầu như không thấy ánh mặt trời, trong không khí lại lởn vởn mùi khí metan. Ở đây cây cối có rất nhiều loại, nhưng xuất hiện nhiều nhất vẫn là rêu xanh. Bùn đất rất xốp, gần như không thể đứng thẳng được.

Sau khi xuống đến nơi, Trần Bì A Tứ giả bộ mình bị kiệt sức (thực ra là sợ quá nên giấu thôi), ra một chỗ mà ngồi thở dốc. Thủ lĩnh người Mèo trông ông ta không còn trẻ nữa, có thể nói là sắp thành lão già đến nơi rồi, nên cứ để ông ta ngồi đó chờ, còn mình thì đốt đuốc cùng những người khác lùng sục, tìm kiếm theo phương hướng mà ông ta đã chỉ.

Khi đám người vừa đi khỏi, Trần Bì A Tứ lập tức móc ra một cái la bàn, dựa theo vị trí đã ghi nhớ trước đó, chui vào sâu trong khu rừng thẳm. Ông ta ước lượng, khu rừng này tương đối rộng, người Mèo muốn đi hết cũng mất cả buổi tối, với bản lĩnh cả ông ta, hẳn chừng đó thời gian cũng đủ để tìm được lối vào Kính Nhi Cung rồi quay về chỗ cũ. Chỉ có một điều đáng tiếc là lúc này ông ta lại không có đầy đủ trang bị cần thiết, có thể vào đến nơi hay không còn phải xem phúc phận ông ta thế nào đã.

Lơ ngơ đi trong rừng suốt bốn tiếng đồng hồ, dựa vào la bàn cộng với tính quyết đoán có được từ bao nhiêu năm lăn lộn vào nam ra bắc, Trần Bì A Tứ cuối cùng cũng đến được vùng núi Phật Nằm trong kế hoạch, hay cũng chính là một tòa tháp bốn cạnh – di tích của ngôi chùa xưa.

Càng bước sâu vào trong, Trần Bì A Tứ càng thấy nhiều những mái hiên trơ trọi hay các bức tường đổ nát, hiển nhiên kiến trúc cổ ở đây đã chẳng còn sót lại chút gì, chỉ còn lại một ít nền với tường vỡ, hòa lẫn cùng với thảm thực vật dày đặc ở nơi đây, không thể nhìn rõ kiến trúc ban đầu là gì. Tuy nhiên xem quy mô thì ngôi chùa này phải có diện tích vô cùng rộng, ngọn tháp kia bị đổ ắt phải chiếm một khoảng đất rất lớn, nhưng đứng từ nơi đây vẫn khó lòng thấy rõ được vị trí cụ thể của nó ở đâu.

Trần Bì A Tứ đã không còn trẻ, đi loanh quanh hồi lâu cũng bắt đầu nhụt chí. Đang định ngồi xuống nghỉ ngơi, bỗng trước mắt lóe lên một cái, ông ta thấy trong bụi cỏ bên cạnh một mặt tường vẫn còn nguyên vẹn đặt một cái bao. Cái bao ấy bỗng dưng khe khẽ động đậy, bên trong bao hình như còn bọc thứ gì đó. Trần Bì A Tứ giật mình hoảng sợ, nhảy bật ra ngoài, đồng thời bắn một viên đạn sắt về phía cái bao. Đến khi nhìn lại, chỉ thấy trong cái bao nơi vách tường đầy dây leo có một thi thể người Mèo đã khô quắt. Thế nhưng, phần bụng thi thể không biết vì sao lại hơi hơi động đậy, như thể bên trong có thứ gì đó đang quẫy đạp.
 
Quyển 4 - Chương 3: Kính Nhi Cung


Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đối với Trần Bì A Tứ, gặp người chết là chuyện hết sức bình thường. Không phải xác ướp bánh tông mò ra từ cổ mộ thì cũng là kẻ xấu số do chính ông ta giết hại, đếm sơ sơ cũng không hết. Ông ta quay ra nhìn thấy cái xác, tinh thần liền thả lỏng, bụng nhủ thầm chả biết thằng quỷ xui xẻo nào lại lăn ra chết ở chỗ này, đã thành con mực khô rồi mà còn đi hù dọa người ta.

Tuy nghĩ vậy nhưng Trần Bì A Tứ tay vẫn kẹp một viên đạn sắt. Tuyệt chiêu tay không bắn đạn sắt ông ta đã khổ luyện từ bé, đến giờ có thể nói là bách phát bách trúng, hơn nữa, viên đạn ông ta búng ra bay đi với tốc độ cực nhanh, người thường có lẽ còn chưa kịp nhìn thấy động tác của ông ta thì đã bị bắn cho mù mắt luôn rồi.

Nhìn trang phục của thi thể người Mèo này, có thể chắc chắn anh ta đã chết không mười năm thì cũng phải đôi ba năm rồi. Về cơ bản, quần áo đều đã mục nát hết, chẳng qua phần lớn thi thể bị mấy loại cây họ dương xỉ, ba địa[1] và rong rêu mục bao phủ nên phục sức đặc trưng của người Mèo vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhưng trải qua bao nhiêu năm dầm mưa dãi nắng như thế, không hiểu sao thi thể này vẫn chưa bị phân hủy hết, mà trông chỉ như bị hao đi chút nước thôi?

Phần bụng thi thể vẫn còn hơi cử động, Trần Bì A Tứ càng nhìn càng thấy quái lạ. Ông ta là người có cách hành sự đặc biệt. Ví như nếu là tôi lúc ấy thì chắc chắn đã quay đầu bỏ chạy từ lâu rồi, nhưng Trần Bì A Tứ từ nhỏ đã tôn thờ câu “tiên hạ thủ vi cường”, ông ta trong đầu vừa nghĩ, tay đã “Bụp bụp bụp” búng ra ba viên đạn, cả ba viên đều nhắm vào trúng vùng bụng của thi thể, trong lòng nghĩ, mặc kệ mày là cái quái gì, cứ đánh chết đã rồi tính.

Lực bắn của viên đạn sắt cực mạnh, hầu như khiến thi thể bị đánh nát làm hai nửa. Nửa người dưới vừa tách ra, Trần Bì A Tứ tức thì nhìn thấy bên trong trào ra một loại chất nhầy màu vàng không biết tên, bọc bên ngoài một lượng trứng rất lớn. Không ít trứng đã được ấp nở, biến thành một đống sâu màu trắng giãy dụa trong chất nhầy. Nhìn thoáng qua, trông nó có vẻ giống một thứ mà ông ta vô cùng quen thuộc: tổ ong. Ngay sau đó, từ vết thủng trên thi thể người túa ra một đàn ong địa hoàng[2].

Trần Bì A Tứ chửi một tiếng, trong bụng thầm than thật xui xẻo, hóa ra là ong địa hoàng làm tổ trong thi thể này. Nọc của ong địa hoàng có độc tính rất mạnh, lại cực kỳ hung dữ, đúng là số ông ta quá đen.

Mắt trông thấy ong địa hoàng bắt đầu túa ra thành cả một màn sương đen đặc, Trần Bì A Tứ bỗng cái khó ló cái khôn, lôi từ trong ba lô đồ tùy thân ra một cái xẻng gấp của quân giải phóng, xúc một xẻng đầy đất bùn ẩm, hất mạnh lên vết thủng của thi thể hòng lấp hết đám ong địa hoàng đang ào ào túa ra, sau đó xoay người bỏ chạy.

Đám ong địa hoàng đã ở bên ngoài liền ùa lên, ông ta vừa dùng quần áo đập liên tục, lại vừa chạy loạn không cần nhìn phương hướng. May mà ban nãy nhanh tay xúc một xẻng đất bùn nên mới chỉ mất có mấy cái túi. Chờ đến khi ông ta dừng lại để thở gấp, phủi phủi mấy con ong địa hoàng còn bám lại trên người, nhìn quanh quất thì không biết mình đã chạy đến nơi nào rồi.

Trần Bì A Tứ rút mấy con ong đã kịp đâm vào người mình, cơn đau buốt ập đến khiến ông ta phải nghiến răng. Trong bụng vẫn thấy quái lạ, tại sao trong xác chết lại có ong địa hoàng làm tổ nhỉ? Loài ong độc này thường sống dưới lòng đất, giống như loài kiến vậy. Vào sâu trong rừng mưa Quảng Tây, đôi khi còn có thể nhìn thấy hàng đống tổ ong nhấp nhô như những ngọn đồi con con. Người đi đường không biết, lại tưởng tổ kiến, đào lên tìm kiến, thế là trong khi anh ta còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị đàn ong xâu xé đến mức biến thành một quả bóng gai.

Ở mảnh đất Vân Nam, Quảng Tây này, đối với kiến thức về côn trùng sâu bọ thì người thường cũng không hiểu biết nhiều, Trần Bì A Tứ chỉ có thể tự trách số mình quá xui. Ông ta vừa tự xử lý vết thương, vừa quan sát xung quanh. Sau khi leo lên một gò núi, ông ta bỗng ngây ngẩn cả người.

Chỉ thấy một ngọn tháp bằng đá rất lớn sụp xuống ngay trước mặt, dưới chân gò núi mà ông ta đang đứng. Có vẻ như thân tháp vốn có sáu cạnh đều nhau (không thể thấy rõ được), đồ sộ hùng vĩ, xà rộng, mái xen mái[3]. Dùng dao gạt hết lớp rêu xanh và cây leo quấn trên bề mặt ra, ông ta mới thấy trên thân tháp có khắc những bức phù điêu bằng đá vô cùng tinh tế. Tuy nhiên, tòa tháp này rõ ràng đã từng bị thiêu hủy, cho nên tất cả các bộ phận còn lại của tòa tháp đều có những vết cháy sém màu đen, có thể vụ cháy chỉ là do tai nạn.

Toàn bộ thân tháp, nóc tháp và chóp tháp[4] đều rạn nứt cả, sau cơn sụt lún đã đổ vỡ thành nhiều khối đá lớn. Thân tháp quá nặng, một phần của tháp lún hẳn xuống lớp bùn đất của khu rừng mưa. Từ dưới chân tháp, cây cối chen nhau mọc lên nhiều không kể xiết.

Trần Bì A Tứ mình đầy kinh nghiệm, biết loại tháp này gồm có địa cung, chân tháp, thân tháp, đỉnh tháp và chóp tháp cấu tạo nên. Chóp tháp nằm ở nơi cao nhất của ngọn tháp, trên chóp có tu di tọa, ngưỡng liên, phúc bát, tương luân và bảo châu[5]. Phía trên tương luân còn có bảo lọng, viên quang, ngưỡng nguyệt[6] và bảo châu. Nói chung, trên đỉnh tháp này hẳn là có một thứ gì đó như châu ngọc, cực kì có giá trị.

Ông ta đi dọc theo thân tháp, đến bên cạnh chóp tháp. Có lẽ khi bị đổ, chóp tháp đã đụng trúng phải một cây Vân sam cao lớn, kết quả là chưa rơi xuống đất đã gãy, đầu chóp cắm ngập vào đất, tu di tọa thì vỡ vụn. Trần Bì A Tứ xem xét mức độ hư hại, xác định bảo châu chắc chắn giờ đã biến thành “bảo bánh” rồi, chả còn giá trị gì nữa.

Ông ta lại đi xuống phía chân tháp, ở đây có một phần của đoạn tháp vẫn còn nguyên vẹn. Bò vào thì chỉ thấy bên trong toàn đá vụn, phía dưới chắc chắn có địa cung. Đáng tiếc, đường xuống địa cung đã bị phong kín ngay từ khi bảo tháp được dựng nên, hơn nữa, tháp sụp xuống khiến cả tấn gạch đá vùi lấp mất đường xuống, chỉ với một cái xẻng, muốn đào đến địa cung có khi phải mất nửa năm là ít.

Trần Bì A Tứ nhìn la bàn, lúc xuống dưới này đã là chạng vạng, sắc trời u ám, còn giờ đây trăng đã treo đỉnh đầu. Mình không mang đuốc, mà giờ đã đi xa như vậy, chẳng biết phải về đường nào, xem ra phải giả vờ bị lạc đường rồi chờ người Mèo đến cứu thôi. Nghĩ đoạn, ông ta kiếm một cành cây gãy và ít lá khô, nhóm một đống lửa trại nhằm thu hút sự chú ý của người khác, còn mình thì lại chui vào chân tháp, bò lên nơi cao nhất để trông ra bốn phía xem mình đang ở nơi nào.

Căn cứ vào hình ảnh núi Phật Nằm khi nhìn từ trên cao xuống, cộng với phán đoán của riêng mình, vị trí lúc này của ông ta hẳn là nơi cây cối mọc lộn xộn nhất. Mặt đất ở đây hình như hơi trũng hơn so với bốn phía xung quanh một chút, đó là vì cửa địa cung bị đất tạp (đất bụi từ kiến trúc, đất bụi theo thời gian) vùi lấp mất, cũng là vì khí hậu đặc trưng của Quảng Tây khiến các tầng đất chứa nhiều nước, không rắn chắc. Hơi nước càng thấm vào sâu, bùn đất ở dưới càng hình thành nhiều bọt khí, có một lực lớn tác động lên là cả tầng bùn đất đó sụp lún xuống như đập bẹp một cái bánh bao không nhân.

Như vậy, Trần Bì A Tứ lập tức rút ra hai kết luận. Thứ nhất, địa cung này lớn, nhưng không sâu, giờ chỉ cần không quá hai mươi phút là đào xuống đến nơi. Thứ hai, bùn đất này tương đối xốp, sẽ không làm tiêu hao quá nhiều sức lực.

Lúc này, ông ta liền lâm vào do dự, rốt cuộc có nên vào địa cung này rồi hẵng trở ra hay không. Thực ra, để sau này hẵng quay lại đây cũng không phải chuyện khó khăn. Nhưng Trần Bì A Tứ, cũng như tất cả những tên trộm mộ khác, một khi đã biết rõ dưới đó có gì thì tuyệt đối không thể kìm được lòng hiếu kỳ.

Cuối cùng, ông ta cắn răng một cái, nghĩ bụng thôi kệ mẹ nó, nghĩ nhiều làm gì, thứ dưới lòng đất này ông đây đã thèm muốn rồi, lát nữa đám người Mèo mọi rợ kia mà tìm được đến đây, ông giết hết rồi ném vào địa cung thì có mà trời biết đất biết không ai biết.

Trần Bì A Tứ lấy cái xẻng gấp ra. Ông ta không mang theo xẻng Lạc Dương, cũng không có cách nào để định vị, với lại Phật tháp này suy cho cũng cũng là của hiếm. Bên trong không có quan tài, cũng không có thứ của nợ gì nhảy xổ ra, cho nên ông ta dựa vào trực giác, bắt đầu đào một lối vào ngay sát chân tháp.

Rất nhanh, ông ta đã chạm đến nóc địa cung. Nóc địa cung lại không dùng đá tảng xây nên, mà dùng cả thân cây cắt thành những khối vuông đều chằn chặn, đắp lên làm nóc. Ông ta mừng quýnh, dùng cưa khoét một góc khúc gỗ, tức thì khúc gỗ mục nát liền rơi vào bên trong địa cung, không lâu sau vọng lên tiếng vang. Ông ta liền cuống quít lấy đèn pin ra, soi vào bên trong.

Kính Nhi Cung quả đúng như tên, mặt trên có bao nhiêu tầng tháp, mặt dưới có từng ấy tầng địa cung, cho nên địa cung này cực kỳ sâu. Từ trên cao nhìn xuống, ở giữa mỗi tầng không có sàn gác, chỉ thấy phía dưới đen kịt, tối như hũ nút.

Đèn pin chiếu xuống chỉ thấy những làn sương trăng trắng, chẳng biết bên dưới là cái gì.

Trần Bì A Tứ nhớ đến lời của mấy người Mèo nói, phần dưới tháp để trấn giữ yêu quái, cũng không khỏi có chút lo lắng. Tuy nhiên, lo lắng qua mau, hiện tại chỉ có nhiệt huyết dâng tràn. Ngay lập tức, ông ta liền cảm thấy không khí trong địa cung không thành vấn đề. Ông ta móc hai chân vào khúc gỗ trên nóc đỉnh, xoay người treo ngược thân mình như một cái lưỡi câu, đầu hướng xuống lòng địa cung, sức nặng toàn thân đều dồn cả vào hai chân.

Sau khi treo người xuống, trước tiên, ông ta chỉnh lại tư thế một chút, rồi chiếu đèn pin lên vòm trần bằng gỗ của địa cung. Loại địa cung kiểu này bố trí rất nhiều cơ quan, cách thức có phần giống cổ mộ, có lẽ chứa rất nhiều trang sức. Trần Bì A Tứ chiếu đèn pin một vòng, chợt phát hiện trên trần gỗ của địa cung có khắc một lượng kinh văn đồ sộ.

Kinh văn khắc vào gỗ, quét lên một lớp sơn son, chính là chữ Phạn. Trần Bì A Tứ chữ Hán còn chả biết nhiều, kinh văn gì gì đó đương nhiên là xem không hiểu.

Thế nhưng, bản năng cho ông ta biết đây quả thực là thứ để trấn ma hay hàng yêu gì đó, trong lòng không khỏi thầm than, không biết cái địa cung này để phong ấn thứ gì đây?

Nhìn xuống dưới nữa, ông ta mới thấy rõ hơn. Mỗi một tầng đều có một vòng tường bao quanh nhô lên cao, từ trên nhìn xuống, từng tầng từng tầng xếp đều nhau trông như một cái bậc thang khổng lồ. Mỗi tầng đều có những bức tượng La Hán mặc tăng bào màu đen kích cỡ như nhau, màu sắc sặc sỡ, vô cùng tinh xảo. Tất cả các pho tượng đều cúi đầu, nhìn xuống dưới đáy địa cung tối mịt. Toàn bộ địa cung tổng cộng có hơn mười tầng, mỗi tầng đặt đầy các bức tượng La Hán với đủ loại động tác, tư thế, phỏng chừng phải hơn trăm pho.

Trần Bì A Tứ nhìn những bức tượng La Hán này, trong lòng cực kì căng thẳng, nhưng lại không rõ mình đang sợ hãi cái gì, trong đầu không khỏi nảy lên ý định lùi bước.

Chiếc đèn pin trong tay lại tiếp tục di chuyển, ông ta muốn nhìn xem ngoài mấy bức tượng La Hán thì còn gì nữa không. Lúc này, đột nhiên tay ông ta cứng đờ, ánh sáng từ đèn pin dừng lại, chiếu thẳng vào một vị trí.

Cách ông ta chừng sáu bảy tầng, ở một vòng tường nhô lên cao, có một bức tượng La Hán vô cùng quái gở. Bức tượng La Hán này hoàn toàn không giống mấy bức tượng khác, khuôn mặt không nhìn xuống dưới địa cung mà lại ngẩng đầu lên, mặt đối mặt thẳng với Trần Bì A Tứ, chòng chọc theo dõi ánh mắt đang nhìn khắp xung quanh của ông ta. Ánh đèn pin vừa chiếu tới, khuôn mặt trắng bệch dữ tợn lập tức hiện ra, nếu không phải bức tượng đứng im không nhúc nhích gì thì xém chút nữa ông ta còn tưởng mình gặp ma quỷ rồi.

Trần Bì A Tứ sợ đến lạnh cả xương sống, trong phút chốc không dám động đậy gì nữa, hai chân cũng như nhũn ra, người bắt đầu trượt xuống.

Nói đến ma quỷ, Trần Bì A Tứ thật ra không sợ gì cả. Ông ta đã giết quá nhiều người, có thể nói là tội ác tày trời, sao vẫn chưa thấy con ma nào hiện về báo thù? Tuy nhiên, ở cái thời của ông ta, ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng mê tín dị đoan. Trần Bì A Tứ cho rằng, mình có thể hồ đồ suốt nhiều năm như vậy, âu cũng là do tổ tiên phù hộ.

(Con người, chung quy cũng đều có một phần tín ngưỡng, người hành nghề bất chính[7] thì bái Quan Công. Trong giới trộm mộ, người Bắc phái bái thần Chung Quỳ, Nam phái thì không, nhưng ở Trường Sa có người giải thích rằng, người Nam phái đã từng có thời bái lạy Hoàng Vương.

Hoàng Vương là gì? Hoàng Vương, hay Hoàng Sào, “Mãn thành tận đái hoàng kim giáp”, chính vị này. Vì sao lại bái người này? Nghe các bậc trưởng bối nói, có nhiều lý do. Thứ nhất, người này có thể nói là kẻ giết người hạng nhất. Dân gian lưu truyền: Hoàng Sào giết tám trăm vạn (8 triệu) người, đều là những người tai kiếp mệnh khó thoát. Tức là ý gì? Chính là ý, ông ta giết người là giết có chỉ tiêu, có mức độ, không giết hết tám trăm vạn thì không hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, không biết là tiểu thuyết nào viết, hay chính là truyền thuyết dân gian Trung Quốc nói quá lên, rằng Hoàng Sào chính là La Hán Mục-kiền-liên (không phải Dịch Kiến Liên) chuyển thế, vị này đã vì cứu mẹ mình khỏi địa ngục mà giải phóng mất tám trăm vạn ngạ quỷ, vì vậy, Phật Tổ để ngài chuyển thế, giết tám trăm vạn người đền bù cho địa ngục. Nói cách khác, ngài trở về là thay Phật Tổ tuyển dụng nhân công lao động =]])

Một pho tượng ngẩng mặt ông ta cũng không sợ gì, thế nhưng, khuôn mặt ấy khéo làm sao lại đối diện ngay với mặt ông ta, ông ta cảm thấy có nét gì đó quái lạ. Lẽ nào ngay lúc xây địa cung, người thiết kế đã đoán được vị trí ông ta đào xuống, bèn sắp xếp bức tượng như thế để dọa ông ta sợ mất mật chơi?

.

.

Chú thích.

[1] ba địa: một loại thực vật họ bách, tên khoa học là Sabina procumbens.

[2] ong địa hoàng: một loại ong thuộc tỉnh Quảng Đông, loại này chủ yếu chia ra làm hai giống. Một giống gọi là “ong quỷ đầu” vì phần bụng eo có màu đen, hung dữ, độc tính rất mạnh. Loại còn lại là “ong hoàng yêu” vì phần bụng eo màu vàng, không chỉ hung dữ và độc tính rất mạnh mà còn có thể làm tổ ở trên mặt đất nữa. Loại trong truyện nhắc đến chính là loại ong hoàng yêu này.

[3] nguyên là “mật diêm”: một loại tháp Phật với các mái hiên xếp lớp, đa số thường xây với kết cấu bằng đá.
 
Quyển 4 - Chương 4: Hơn một người


Editor: Phoebe Irene

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trần Bì A Tứ càng nghĩ càng thấy sợ, nhưng ông ta đã ở tuổi năm mươi gần sáu, kinh nghiệm sành sỏi chừng ấy năm đương nhiên tôi không thể so sánh. Sau sợ hãi chắc chắn sẽ là yếu đuối, ông ta tự nhủ đồ con lừa, nhìn cái gì mà nhìn, thế rồi tay nhanh như chớp lấy ra mấy viên đạn sắt, hai chân dùng lực cố định cơ thể, bắn đoàng đoàng hai phát đánh thẳng vào bức tượng La Hán mặt trắng ngước lên nhìn trời kia.

Tôi đã nói rồi đó, phương châm sống của Trần Bì A Tứ chính là tiên hạ thủ vi cường, những lời này ông nội tôi đã nhắc đi nhắc lại không dưới một lần. Có thể nói trên giang hồ vốn là như thế, đạo lý này tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng hữu dụng. Hai viên đạn sắt bắn ra không hề nương tay, bỗng nghe hai tiếng trầm đục, thì ra đã bắn trúng mắt pho tượng La Hán mặt trắng kia, vừa bắn trúng hai hốc mắt đã vỡ toác, còn viên đạn thì bật ra ngoài, rơi xuống đáy Kính Nhi Cung.

Nếu đó là người thật đảm bảo đã bị đánh mù, qua đó đủ thấy chiêu thức này tàn độc cỡ nào. Pho tượng La Hán kia tuy làm bằng đất nung cũng không chịu được va đập mạnh như thế, sau va chạm hai con mắt của La Hán đã thành hai cái hố sâu, thoạt nhìn thì thấy trống rỗng quái đản, nhưng cảm giác so với vừa rồi đã đỡ hơn rất nhiều.

Trần Bì A Tứ thở phào một hơi, trong lòng cười khẩy, thầm nghĩ mấy cha hoà thượng thối này, cái gì mà tứ đại giai không chứ, chẳng phải cũng chỉ suốt ngày ru rú trong đây bày trò quỷ để hù người sao. Nghĩ rồi lấy ra một cái vuốt thằn lằn, một đầu móc lên khung gỗ của trần cung, một đầu nối liền với sợi dây thừng đơn bằng da hải tượng buộc trên mắt cá chân rồi thả mình xuống, sợi dây đàn hồi cứ thế giãn dần ra. Dùng dây da hải tượng là kinh niệm mà Trần Bì A Tứ đúc kết ra được sau nhiều năm trộm mộ, khả năng chịu lực của nó chỉ đứng sau dây thép, hơn nữa còn có thể kéo giãn. Vả lại Trần Bì A Tứ có vóc dáng thấp bé gầy gò, cuốn dây này quanh eo cũng chỉ mất hơn mười vòng, mặc quần áo lên rồi chẳng ai nhìn ra được nữa, có khả năng đối phó với độ sâu trên dưới mười mét.

Có điều Kính Nhi Cung này đâu chỉ sâu hơn mười mét, Trần Bì A Tứ thả hết cuộn dây thì vẫn còn cách đáy cung một khoảng rất xa.

Nhưng theo những gì ông ta thấy khi hạ xuống, đã có thể nhìn được hình dạng những thứ bên dưới. Nền đáy cung hình như làm bằng cẩm thạch, trải qua nhiều năm địa chấn cộng với bong tróc tự nhiên nên bên trên rải rác vô số mảnh vụn, chính giữa đáy cung là một toà bảo tháp nhỏ xíu màu trắng không biết làm từ ngọc thạch hay là ngà voi, phía trên che một tấm “Bảo trướng” bằng sa mỏng gần như trong suốt cho nên không thể nhìn rõ bảo tháp mà chỉ thấy một màu trăng trắng mơ hồ.

Trần Bì A Tứ không hiểu biết nhiều lắm về những thứ như Phật tháp hay phù đồ, cái này liên quan tới thế hệ dân không biết chữ thời trước giải phóng. Thổ phu tử ở Trường Sa có một câu châm ngôn: Vạn hộ hầu (1) không sánh bằng phù đồ, chính là ám chỉ của báu trong mấy cái địa cung dưới tháp Phật thường thường còn xa xỉ hơn lăng mộ của vạn hộ hầu. Trần Bì A Tứ tuy đã nghe qua câu này nhưng tiếp thu không đủ sâu sắc, nếu đổi lại là tôi thì lúc đó đã đoán ra thứ trước mặt mình là gì.

Bảo tháp nhỏ xíu dưới đó chắc chắn là bát trùng bảo hàm chứa xá lợi Phật, chính là một bộ tám hộp chiếc này chứa chiếc kia, đây là đồ chuyên dụng của nhà Phật. Hơn nữa xá lợi trong đó chính là ba nghìn thế giới cùng lục đạo luân hồi, tạm thời chưa cần biết nằm trong đó có thật sự là Phật cốt không hay chỉ là cốt mô phỏng từ ngọc thạch, chỉ cần biết nó là bát trùng bảo hàm thì trời ơi… Giá trị của món này nhất định không thể tính toán.

Tôi nghe đến đó thì cảm thấy có điểm đáng ngờ, nếu quả thực Trần Bì A Tứ đã trộm Bát trùng bảo hàm ra từ trong địa cung, vậy thì tại sao những thứ này lại xuất hiện trên mặt báo? Chẳng lẽ lúc ấy ông ta chỉ cách bảo vật trong gang tấc, lại vì lý do nào khác mà buông tha? Dựa vào tính cách của hạng người này thì chuyện như thế không thể xảy ra được.

Lão Hải không thấy tôi đang thất thần, cứ thế thao thao bất tuyệt, có điều cách ông ta kể rất dài dòng. Tôi cũng không chen vào nổi, đành phải tiếp tục nghe ông ta chém gió.

Sau khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy bảo tháp, tuy còn chưa rõ dưới đó là thứ gì, nhưng chắc chắn cũng không quá tệ. Bây giờ chỉ cần xuống được dưới đó hiển nhiên sẽ bội thu, nhưng vấn đề là làm sao mà xuống.

Chỉ tiếc ông ta không mang theo đầy đủ dây thừng, sớm biết thế này chi bằng vừa rồi cứ lui về đã, chuẩn bị chu đáo hẵng quan lại, cũng không đến nỗi rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan thế này.

Ông ta lại chiếu đèn pin khắp xung quanh, trong lòng kinh hãi, không khỏi thầm kêu thôi chết mịa nó rồi.

Hoá ra đáy cung không phải đất vàng mà là một ụ đất rất lớn, vừa nhìn qua đã biết đó vốn là một cái tổ ong địa hoàng.

Nhìn theo hướng ụ đất, có thể thấy trên vách địa cung có một cửa đá cao khoảng nửa thân người, trổ ra ở vị khí rất khuất, ụ đất chính là từ nơi này tiến vào “sinh trưởng”.

Xem ra bốn phía của Kính Nhi Cung này còn phải phụ thuộc vào kiến trúc trên mặt đất, hơn nữa rất có thể cũng không hề bị phong kín, kết quả là khiến nơi này trở thành một sơn trang nghỉ dưỡng đông ấm hè mát cho lũ côn trùng. Từ nơi này nhìn xuống, tổ ong cũng không lớn lắm, chỉ e phần nấp sau cánh cửa kia mới thật sự kinh khủng. Cũng khó trách tổ ong này xây được lớn như thế, nơi đây là một công trình nhân tạo ngầm dưới lòng đất, mưa gió không lọt, quả là một “địa bàn tốt”, xem ra mấy lão ong trong tổ ong này cũng biết xem phong thuỷ.

May mà vừa rồi khi cưa thanh xà gỗ lấy đường xuống, thanh xà rơi vào khoảng giữa mấy bức tượng La Hán chứ không đụng trúng tổ côn trùng, nếu không lúc đó trông ông ta có khác gì xâu lạp xường treo lủng lẳng, có muốn trốn cũng không kịp, bị lũ ong này bu kín, chỉ e sẽ bị người đời sau đem ra làm trò cười thiên cổ.

Nhưng cứ thế này thì cũng phiền toái, chỉ cần chân vừa chạm đất, dù anh rón rén đến thế nào thì di chuyển một toà tiểu tháp trong không gian nhỏ như thế cũng không thể không kinh động đến bọn ong đất kia.

Trần Bì A Tứ cân nhắc sơ qua cũng hiểu rõ không thể đi xuống, nếu muốn lấy đồ ra thì chỉ còn một cách.

Đến đây không thể không nhắc tới lai lịch của Trần Bì A Tứ, người này thuở nhỏ lớn lên trong một làng chài ở vùng duyên hải Chiết Giang, khi người Nhật đánh đến nơi mới chạy nạn tới Trường Sa, thế nên ông ta dùng phương ngữ Trường Sa không trôi chảy chút nào. Nhưng Trần Bì A Tứ lại cực kì thông minh, từ thời xưa thổ phu tử có tục không truyền nghề cho người tỉnh khác, ông ta là một trường hợp rất hiếm hoi.

Thời gian Trần Bì A Tứ ở Hải Diêm đã luyện được một tuyệt chiêu, chính là bắt cua trên bãi bùn. Dĩ nhiên không phải dùng tay bắt, vật Trần Bì A Tứ dùng để bắt cua có tên là “Cửu trảo câu”.

Thứ này cũng giống như phi hổ trảo trong phim võ hiệp hay tam câu trảo thường được bộ đội đặc chủng dùng để leo vách núi. Nhưng loại móng vuốt này lại có tới chín móc, sắp xếp rất khít thành một vòng tròn khép kín, khi bắt cua thường sẽ lấy dây thừng cột vào phần chuôi móc, khi thấy cua ló đầu lên khỏi bãi bùn thì vung ra, một lần móc được một con cua. Sau đó kéo thêm một cái, con cua sẽ bay ngược về chui tọt vào giỏ.

Theo ghi chép trong bản bút ký của ông nội tôi, công phu này có thể chính xác tới mức người sử dụng nó khi vung ra có thể câu về một quả trứng gà cách mình 20m mà không hề làm nó rơi vỡ, quả thực rất thần kỳ. Nếu xa hơn có thể dùng gậy để vung ra, cũng sẽ vô cùng chính xác.

Trần Bì A Tứ lúc này không nghĩ ra cách nào khả thi, đành phải cắn răng quyết định thể hiện bản lĩnh nhà nghề. Đầu tiên ông ta đu vào chỗ mấy bức tượng La Hán, men theo đó mà từ từ leo xuống dưới. Đến khoảng cách hợp lý, Tràn Bì A Tứ lấy cửu trảo câu ra, vung đầu móc xuống dưới, vẽ lên một vòng cung nhỏ. Móc câu đã móc vào bảo trướng, cũng may vật này rất nhẹ, không giống với đá xanh thường thấy. Trần Bì A Tứ vung tay một cái hất bảo trướng lên, đáp xuống đầu một bức tượng La Hán. Lại thay đổi lực đạo trên tay một chút, móc câu lập tức thoát ra quay về chính chủ.

Kế tiếp là phải gỡ bỏ tháp ngọc thạch hay ngà voi gì đó đi. Có điều không biết nó là vật liệu gì nhưng dùng cửu trảo câu không tài nào kéo lên được, Trần Bì A Tứ vung cửu trảo câu móc lấy tháp báu, giật vài cái cũng không hề thấy nó xê dịch chút nào.

Kiểu này không nửa tấn thì cũng tới năm trăm cân, Trần Bì A Tứ chửi thầm một tiếng.

Ông ta đưa đèn pin quét qua thân tháp, nhìn đến chân tháp thì thấy có bốn cây cột nhỏ. Tháp này tất nhiên là một bản mô phỏng của cái tháp trên đỉnh đã sập, cấu trúc cũng không khác biệt cho lắm, bốn cây cột chống đỡ toàn bộ trọng lượng thân tháp. Bảo hàm nằm chính giữa mấy cây cột, chẳng qua là do góc độ chưa chính xác, nếu câu cẩn thận hơn thì vẫn có thể kéo lên được.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã rất sốt ruột, ông ta đoán chừng từ lúc xuống đây cũng đã được bốn giờ. Vừa rồi loáng thoáng còn nghe thấy tiếng cười, không chừng mấy người Mèo kia đã đến gần chỗ này, không còn nhiều thời gian nghĩ cách nữa rồi.

Trần Bì A Tứ định thần lại, máu dồn lên não, ác tâm cũng bắt đầu trỗi dậy, lại vung tay “đoàng, đoàng” bắn ra hai viên đạn sắt. Viên đạn bắn trúng cây cột nhỏ dưới đáy tháp, cây cột tức khắc vỡ ra. Sau đó ông ta thả người nhảy một cái, hạ xuống một bên mép tháp, vừa yên vị lập tức mượn lực rơi của mình khiến cho tháp nghiêng sang một hướng. Hai cây cột hai bên đột nhiên phải chịu thêm lực, tức khắc gãy gập. Tháp cứ thế sụp xuống, thân tháp và nền tháp nứt bung ra.

Trần Bì A Tứ bám trên đỉnh tháp nên khống chế được lực độ, tháp nặng nên tốc độ nghiêng cũng chậm. Cho đến khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy một góc của bảo hàm đã lộ ra dưới đáy tháp, bèn vung cửu trảo câu, thoáng cái đã kéo nó lên dễ dàng. Sau đó thu lại móc câu rồi vung ra lần nữa, móc vào một bức tượng La Hán, định giữ thăng bằng cho mình.

Những động tác này chỉ diễn ra trong ba giây, nhưng ông ta không ngờ bức tượng La Hán kia không chịu nổi sức nặng của mình và thân tháp, mới kéo một cái, tượng La Hán bắt đầu lung lay, liền đó rơi từ trên tường xuống.

Phía dưới chân hầu như chỗ nào cũng có tổ ong, nếu cứ thế này mà ngã xuống chẳng khác nào ngã thẳng vào giữa đàn ong, chỉ e khó lòng thoát chết.

Trong chớp mắt Trần Bì A Tứ dùng hết khí lực kéo tượng La Hán về phía mình, một tay ném bát trùng bảo hàm vào không trung, sau đó đổi tay nhanh như chớp, dễ dàng đỡ được tượng La Hán. Nhưng rốt cuộc ông ta lẫn không thoát, đỉnh bảo tháp đã đập mạnh vào vách tường địa cung, xô thêm nhiều tượng La Hán rơi xuống.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã không còn kỹ xảo gì để thi triển nữa, ông ta chỉ còn biết trơ mắt nhìn một đống tượng La Hán rơi trúng tổ ong địa hoàng, tức khắc bụi đất nổi lên bốn phía, tổ ong hầu hết đều bị đập cho vỡ nát tan tành.

Trong lúc hỗn loạn ông ta đành quẳng bức tượng La Hán trong tay đi, đỡ lấy bảo hàm. Theo phản xạ ông ta chiếu đèn pin vào cái tổ ong kia theo phản xạ, trong lòng thầm nhủ thôi số mình đen, coi như đi tong cái mạng già này rồi. Thân nam nhi không chết trên chiến trường lại chết dưới địa cung, thật là ứng với lời dạy của tổ tông mà.

Đèn pin vừa chiếu qua, cái khe kia lại không có một bầy ong vàng túa ra ào ào như ông ta từng tưởng tượng, ngược lại tổ ong bên trong lại khô ráo không đọng chút hơi nước, có vẻ đây là một tổ ong đã bị bỏ hoang.

Nhưng điều khiến cho ông ta lạnh người là bên trong khe có một khối gì đó tối đen, trông như một cái tổ được xây khi đám ong tiến vào, không biết là xác người chết hay là xác động vật.

Ông ta nhảy xuống đó xem xét thì thấy đó là một pho tượng La Hán kiểu dáng tương tự những bức tượng La Hán ở đây, đã rơi vỡ thành vài mảnh, xem ra nó đã rơi xuống đây từ khi tổ ong chưa hình thành, kết quả là để cái ụ đó tiến vào.

Trần Bì A Tứ ngẩng đầu nhìn lên, vừa rồi khi nhảy xuống tuy không mấy để ý, nhưng ông ta cảm thấy hình như không có chỗ nào khuyết đi một bức tượng La Hán ngồi, vậy bức tượng này rơi xuống từ đâu mới được chứ?

———————————————————————

(1) Thời xưa phong hầu sẽ kèm theo “thực ấp”, tức là một số hộ dân giao hẳn cho người này cai quản và thu thuế. Vạn hộ hầu = tước hầu thu thuế của 1 vạn hộ, đây là con số rất lớn, trong lịch sử số người được phong hầu lên đến 1 vạn hộ rất hiếm nên vạn hộ hầu là người cực kì giàu có.

—————————————————————–

Không liên quan: Thơ của bạn tặng BV nhân dịp xuất bản Bút ký khoét đất ~~~

Mở trang Bút ký khoét đất ra

Đập ngay vào mắt: tiên cô Tà

Anh Bình Kín Miệng như hũ nút

Tên mập thường quen thói ba hoa

Ma nước ai ngờ trang tuyệt sắc

Cổ đao lấp loáng tựa sao sa

Cũng may ông nội còn nguyên vẹn

Hậu bối khỏi kêu lão cún già
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top