Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Đạo Mộ Bút Ký
Quyển 4 - Chương 25: Tường kép


Editor: Mammon + Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đây đúng là tình huống tuyệt không thể lường trước, khiến ai nấy đều hoảng hốt. Phan Tử tay nắm xẻng gấp đeo trên thắt lưng, nhảy xuống hố, vung tay chém lia lịa. Nhưng chân của Bàn Tử cứ lắc qua lắc lại làm anh không thể chém trúng mà phang vào tảng đá kế bên, tia lửa tóe ra. Bàn Tử thấy Phan Tử dùng hết sức bèn la to: “Con mẹ nó anh chém cho chuẩn vào, đừng có chém vào chân Bàn gia ta!”

Phan Tử cũng lớn tiếng: “Tổ sư, anh cũng đừng có nhúc nhích, bằng không ông chém luôn từ đùi anh xuống bây giờ!” vừa nói vừa vung tay thêm nhát nữa, không ngờ nhát này vẫn trượt.

Bàn Tử hét lên: “Thay người thay người, rõ ràng tên nhóc này gai mắt ta, mượn việc công trả thù riêng đây mà.”

Diệp Thành và Hoa hòa thượng đứng bên kia cũng nhảy vào giúp đỡ, tính giữ lấy chân của Bàn Tử. Ai ngờ Diệp Thành nhảy xuống còn chưa đứng vững thì dưới chân đã đột ngột lún xuống, nguyên đoạn hành lang đá phía dưới sụp xuống cả, thân thể hắn cũng bị cuốn xuống theo.

Con mẹ nó, đúng là mua thêm phiền phức. Hoa hòa thượng nhanh tay nắm lấy hắn, nhưng bản thân mình cũng chưa đứng vững, lảo đảo ngã trúng cánh tay tôi đang kéo Bàn Tử. Góc độ tôi đứng vốn không tiện dùng sức, vừa va chạm tay đã tuột ra, tiếp đó cả người Bàn Tử bị lôi xuống dưới.

Sự việc xảy ra quá nhanh, với lại ánh sáng quá tù mù nên mới hoảng loạn như thế. Mấy người cuộn thành một đống, Bàn Tử giống như một viên thịt lớn, chưa gì đã lăn xuống đáy hố, cả tôi và Phan Tử cũng bị hắn kéo theo, ngã vào sườn dốc trên hố gạch. Lúc đó tôi chợt cảm thấy không ổn, nhưng còn chưa kịp đứng lên đã nghe tiếng “canh cách’ nối tiếp nhau truyền lên từ tầng gạch phía dưới.

Tôi vừa nghe mặt đã tái đi, tiếng này tôi hiểu rõ quá rồi, đây chính là âm thanh phát ra khi chúng tôi làm thí nghiệm về sức chịu lực của kiến trúc, những vật thể làm từ đá bị đông lạnh hầu hết sẽ nứt theo chiều dọc và tạo ra âm thanh này.

Không đợi tôi hiểu hết mọi chuyện, bốn phía bất chợt chấn động, đáy hố đã sập xuống, khúc hành lang đá bên dưới hố cũng sụp theo. Chẳng ai kịp phản ứng gì cả, đột ngột mất đi thăng bằng, trượt xuống theo sườn dốc như chơi cầu tuột vậy, vùi người trong đống gạch đá dưới đáy hố.

Tôi còn chưa kịp mừng thầm vì mình đoán trước được chuyện này thì đã thấy cái mông ê ẩm, thì ra sau khi ngã trúng sườn dốc, cả người tôi tiếp tục trượt xuống. May nhờ dây thừng giữ lại nên tôi mới không trượt dài xuống đến đáy, nhưng kế đó gạch đá từ khắp các hướng cứ thi nhau đổ ào ào lên đầu.

Mông tôi đau điếng, ôm đầu muốn ngồi lên, nhưng sườn dốc dưới mông quá đứng, chân không mượn được lực. Tôi lấy tay gạt đống gạch ra, hỏi những người khác có sao không. Không ai trả lời cả, chỉ nghe tiếng chửi rủa liên hồi lẫn với tiếng gạch đá va đập không dứt.

Khó khắn lắm gạch mới ngừng rơi, tôi ngước đầu lên, nhìn quanh quất chỉ thấy một khung cảnh tan hoang, mấy chiếc đèn pin bị vùi trong đống gạch đá, mấy chiếc khác lại lăn theo sườn dốc, rơi vào bóng tối mịt mù bên dưới. May là đèn leo núi của Đức khá bền, không chiếc nào bị vỡ hết. Nhưng vài ánh đèn le lói rọi ra từ khe hở giữa đống gạch đá vẫn không thể soi rõ mọi thứ. Bốn bề bao phủ trong một bức màn tối đen, trên đầu cũng mơ hồ thấy một cái lỗ lớn, chính là miệng hố trên hành lang nơi chúng tôi rớt xuống.

Đây chắc là không gian phía trên sườn núi, bên dưới đại điện linh cung. Chúng tôi đang chơi vơi trên sườn dốc, nếu không có dây thừng, chắc cả bọn đã lăn thẳng xuống dưới rồi.

Diệp Thành treo lủng lẳng cạnh tôi, bị gạch nện trúng khá nặng. Tôi kéo hắn lại hỏi có sao không, hắn bảo mình chưa ăn cơm nên có hơi choáng váng thôi.

Hoa hòa thượng kêu to trong bóng tối: “Coi chừng chỗ này có bánh tông, mọi người vũ khí sẵn sàng, có móng lừa đen thì lấy ra ngay! Bàn Tử, anh ở đâu? Cái thứ nắm chân anh có còn đó không?”

Bàn Tử ở dưới cùng, bị cả đống gạch đá cộng thêm chúng tôi đè lên, thật cũng quá sức chịu đựng. Chỉ nghe tiếng rên rỉ của hắn truyền ra từ đống gạch: “Còn đây nè, sắp mò tới đùi rồi. Ông đã kẹp lấy nó, con mẹ nó mau kéo ông ra, bằng không thằng em của ông không giữ nổi nữa rồi!”

“Là tay của tôi!” Phan Tử ở kế bên mắng.

“Đệt!” Bàn Tử nổi cáu: “Mẹ kiếp giờ này anh còn giở trò lưu manh??” *Bạn béo hoang tưởng cmnr =))*

Không có đèn pin, những ai không bị gạch đá chôn vùi chỉ còn nước mò mẫm từng cục gạch rồi quẳng cho lăn xuống theo sườn dốc. Phan Tử được tôi kéo ra nhưng một tay bị Bàn Tử kẹp chặt, không rút ra được. Chúng tôi tiếp tục đào, không lâu sau lôi cả Bàn Tử ra luôn. Như thoát như gánh nặng, Bàn Tử vừa thở vừa thều thào: “Lũ chết tiệt đáng chém ngàn đao tụi bây nỡ đè ông, may là ông được thần mỡ phù hộ, bằng không giờ này đã về chầu trời rồi.”

Phan Tử không rảnh đấu khẩu với hắn: “Cái thứ trên chân anh đâu?”

Trong bóng tối, Bàn Tử thử co co chân để cảm nhận, đáp: “Rút rồi! Ngã xuống như vậy chắc không nắm được đâu, có lẽ đã bị chúng ta đẩy xuống chân dốc rồi. Con mẹ nó chứ ở chỗ này cũng có bánh tông hả?”

Hoa hòa thượng nói: “Chắc chắn nó còn quanh quẩn gần đây, tất cả cẩn thận, cầm chắc móng lừa đen, trước hết tìm cho ra đèn pin đã!”

Tôi vội đi mò tìm đèn pin dưới đống gạch, mò tới mò lui không thấy, may là Diệp Thành bên cạnh đã tìm thấy, kéo ra khỏi đống đá, xung quanh lập tức sáng lên. Hắn cầm đèn pin rọi ngay xuống phía dưới.

Tôi ở ngay dưới hắn, khó chịu dùng tay đỡ ánh sáng, còn chưa kịp bảo hắn chỉnh đèn tối đi một chút, nào ngờ đã thấy mặt hắn tái xanh.

Thấy vẻ mặt của hắn, tôi bắt đầu đổ mồ hôi hột, thầm nghĩ lẽ nào thứ đó ở ngay bên cạnh mình? Cắn răng quay đầu nhìn, liền thấy kế bên vai tôi, cách mũi tôi chừng một thước, thình lình lộ ra một khuôn mặt hốc hác quái dị bầm tím.

Tôi hét lên một tiếng kinh hoàng, cả người co rụt về phía sau, tay trái vớ được cục gạch xanh bèn quăng vào mặt nó, cũng chẳng biết có trúng hay không, lập tức quay người trèo lên.

Lúc này mấy cái đèn pin đều đã được đào lên, không gian xung quanh sáng bừng lên. Tôi trèo lên vài bước, nhưng Diệp Thành bên không né ra được nên lại tuột xuống lần nữa. Vừa quay đầu nhìn sang bên cạnh, bất giác hít vào một hơi buốt giá.

Chỉ thấy cái dốc núi bên dưới đại điện linh cung này được xây thành từng bậc từng bậc như một thửa ruộng bậc thang, trên mỗi bậc thang, những cái xác cổ đông lạnh bầm tím được xếp ngồi ngay ngắn, từng hàng từng bậc trông như La Hán đường trong chùa vậy. Chúng nhiều như kiến cỏ, co quắp lại với nhau, tư thế như hòa thượng đang ngồi thiền, vẻ mặt dữ tợn, xem ra là chết cóng. Những bóng đen cứ thế nối tiếp nhau nhìn không thấy giới hạn, cũng không biết rốt cuộc có bao nhiêu cái xác nữa.

Diệp Thành là người nhát gan nhất, run rẩy nói: “Mẹ ơi, đây là phòng giấu xác kim thân của hòa thượng à?” Nói xong cả người gần như nhũn ra.

Trần Bì A Tứ ấn vai hắn, khoát tay, nói: “Đừng sợ, chỉ là xác chết thôi mà.” Nói rồi chỉ xuống dưới chân tôi. Tôi cúi đầu nhìn, chỉ thấy trong những viên gạch dưới chân chúng tôi có một xác ướp đã bị dẫm đạp thành tro.

“Những người chết ở đây đều lạnh cứng như đá, đạp phải là vỡ vụn ra.” Trần Bì A Tứ tiếp: “Những thứ này đã không thể thi biến nữa rồi, ở đây chắc không có bánh tông đâu.”

“Vậy cái thứ nắm chân tôi lúc nãy là gì??” Bàn Tử hỏi.

Trần Bì A Tứ nói: “Lúc nãy có thể chân ngươi tình cờ bị tay của cái xác nào đó móc trúng thôi, chứ nếu là bánh tông thật thì chân ngươi còn xài được chắc? Không tin nhìn lại ống quần mình đi.”

Bàn Tử cúi đầu nhìn ống quần lúc nãy bị nắm, quả nhiên có cái lỗ, ngay dưới đống gạch cách đó không xa lại thấy một cái tay khô cong thành hình móc. Tôi nhặt lên nhìn thấy nó rất cứng, không thể co dãn đi nắm chân ai cả.

Mọi người ai nấy đều thở phào. Phan Tử còn khoa trương “Haizz” một tiếng: “Gan chuột nhắt, vậy cũng nhìn nhầm cho được.”

Bàn Tử nổi cáu, muốn cãi lại nhưng không có cớ, chỉ còn nước ngồi dỗi, rủa: “Cái tay lúc nãy nắm chân ta thật chứ bộ, bị móc phải hay bị nắm chẳng lẽ ta không phân biệt được. Con mẹ nó không tin thì thôi.”

Chúng tôi rọi đèn pin khắp xung quanh, nơi đây nắm dưới đại điện, không gian rất lớn. Vì xác khô xếp khá dày, chúng tôi không thể nhìn thấy điểm tận cùng, nhưng ngoài xác khô ra cũng không còn thứ gì khả nghi nữa.

Phan Tử hỏi Hoa hòa thượng; “Sao ở đây nhiều xác chết thế? Tôi chưa bao giờ nghe nói có chỗ như thế này.”

“Xem chừng là ngăn tuẫn táng, cái này….tôi hoàn toàn không hiểu được, làm gì có hoàng lăng của triều đại nào như thế đâu, mấy cái xác này rốt cuộc là ai nhỉ?” Hoa hòa thượng lẩm bẩm.

Tôi cố đè nén nỗi sợ, rọi đèn pin rọi qua một cái xác, phát hiện ngũ quan của nó được bảo quản khá tốt. Mắt nhắm lại, nếp nhăn trên mặt dày đặc nhưng lại không có râu, toàn thân phủ lên một màng băng mỏng, điều đáng sợ là làn da của mấy cái xác này đều là màu tím xanh, miệng há lớn, lạ là bên trong lại có răng nanh.

“Thứ này có thể không phải con người.” Bàn Tử nhìn nói: “Các anh xem hàm răng này, táp một cái là nát mặt người ta rồi.”

“Không phải con người?” Diệp Thành lại tái mặt: “Vậy là cái giống gì chứ? Yêu quái hả??”

“Có thể là người tuyết trong truyền thuyết, chỉ là mấy con này không có lông.” Bàn tử bắt đầu nói bậy.

“Nhảm ruồi!” Hoa hòa thượng bảo: “Cái gì mà yêu quái với chả người tuyết, răng nanh của mấy cái xác này là do tự họ mài nhọn ra, đây là một phong tục của giáo phái Tát Mãn cổ xưa, về sau do quá phiền phức nên người ta mới dùng mặt nạ thay thế. Bọn này chắc chắn không phải là người Nữ Chân thời Minh, anh xem quần áo của bọn họ đều thuộc dạng nguyên thủy, đâu có giống kiểu dáng của Nữ Chân hay Mông Cổ. Còn nữa, một số còn được bọc trong vải bố, đây là mấy cái xác ướp được băng táng đó.”

Tôi nhớ lại cái đêm dựng trại trong khe núi Tiểu Thánh mình đã đi xem hang băng táng, nói: “Lẽ nào mấy cái xác này là hài cốt được băng táng của người xưa bị đào lên lúc Uông Tàng Hải mở núi xây lăng?”

Hoa hòa thượng gật đầu: “Chắc chắn không sai, cái động hình thai này ngày xưa có lẽ là mộ địa mà người cổ đại ở địa phương này dùng để băng táng, về sau bị Uông Tàng Hải quy hoạch thành lăng bồi táng giả, mấy cái xác này bị đào lên lúc bọn họ mở núi.”

Bàn Tử hỏi: “Nếu đúng như anh nói thì sao không đốt quách cho xong, đem trưng mấy cái xác này ở đây mà làm gì?”

“Bố ai biết được, anh xem mấy cái xác này nhìn rõ gớm, giáo phái Tát Mãn có rất nhiều lời nguyền và nghi thức hành vu nguyên thủy quái dị, nghe đồn đều phải mượn sức mạnh của xác chết. Xem bố trí ở đây, chắc có liên quan tới vu thuật của Tát Mãn, có thể sẽ xảy ra chuyện quái gở, nói không chừng lúc ở bên trên chúng ta chạy mãi mà không thoát chính là vì đám xác chết này, chúng ta nên cẩn trọng một chút thì hơn.”

Tôi nghĩ đến thi trận ở núi Tần Lĩnh, xem ra nơi nào có nhiều xác chết thì thế nào cũng có chuyện quỷ dựng tường, lẽ nào là do tà thuật quấy nhiễu?

Tát Mãn cũng không hoàn toàn là một tôn giáo mà thật ra là một loại vu thuật nguyên thủy, nói cách khác nó có giá trị thực tế, có mối liên hệ với dược lý và tinh thần sùng bái. Sự hiểu biết của tôi đối với giáo phái Tát Mãn chỉ giới hạn ở những pháp sư Tát Mãn nhảy múa trong phim về đời nhà Thanh. Nhưng nghe nói vu thuật Tát Mãn rất giống với kỳ môn độn giáp của Trung Quốc, đã bị thất truyền theo thời gian; bộ phận tốt đẹp nhập vào Phật Giáo Tây Tạng, còn bộ phận tà ác thì đột ngột biến mất. Qua sách cổ ta có thể thấy vu thuật Tát Mãn thời xa xưa có rất nhiều nghi thức cực kì âm tà quái đản, phần lớn liên quan đến nguyền rủa hay xác chết, có liên hệ chặt chẽ với cổ thuật. Mà người Khố lại thờ phụng cổ thuật, giữa hai tộc người này liệu có điểm nào chung không?

Bàn Tử nghe Hoa hòa thượng nói xong, dường như hiểu ra mọi chuyện: “Hèn gì, từ lúc bước vào linh cung này tôi cứ thấy nóng rát dưới chân, toàn thân khó chịu, thì ra có quá trời bánh tông chôn bên dưới, lão già Vạn Nô thật là xấu xa quá quá đi.”

Hoa hòa thượng nói: “Tôi cũng chỉ suy đoán thôi, bây giờ quan trọng nhất là tìm đường thoát thân, chúng ta chia nhau tìm kiếm xung quanh xem có lối ra không?”

Nói xong gã lại bảo: “Nhưng vẫn phải cẩn thận, dù sao nơi này cũng quá tà môn, sẽ xảy ra hiểm họa khó lường. Mà vực núi này lại quá dốc, lỡ có chuyện gì muốn chạy cũng khó.”

Tất cả đều đồng ý. Bàn Tử đã không thể chờ đợi thêm nữa, cả đám gỡ móc leo núi ra, cầm đèn pin rồi mỗi người một hướng, bắt đầu cẩn thận tìm kiếm trên dốc tường đứng.

Đi lại giữa cái chốn la liệt xác chết dĩ nhiên chẳng phải chuyện vui vẻ gì, nhưng lạ một nỗi nơi nào càng có nhiều xác chết, tôi lại càng thấy tĩnh tâm. Có thể khi sợ hãi đạt tới mức độ nào đó sẽ sinh ra một dạng cảm xúc trái ngược chăng.

Các thi thể được xếp rất sát nhau, giữa các hàng cũng không có chỗ trống mà chen chân vào, chúng tôi gần như phải luồn lách vào khe hở giữa các thi thể mà di chuyển. Xác chết có già có trẻ, toàn bộ đều đã đóng băng tựa như những khối nham thạch màu xanh tím tái. Tôi thấy có vài cái xác còn mang theo pháp khí (nhạc cụ tế lễ của thầy tu hay đạo sĩ) bằng đồng, gần như đã gỉ xanh hoàn toàn. Dường như nửa thân dưới của tất cả các thi thể ở đây đều gắn liền vào nham thạch bên dưới, muốn dịch chuyển chúng chỉ có cách đập cho nát ra.

Tìm kiếm nửa ngày trời, hướng của tôi vẫn không thu được kết quả gì. Thấy mình đang tách khỏi những người khác mỗi lúc một xa, trong lòng tôi bỗng cảm thấy bất an, định giả bộ tìm xong rồi để quay về chỗ cái hố thủng kia hỏi kết quả của những người khác thì bỗng nghe tiếng Phan Tử: “Bàn Tử chết toi, anh đang làm cái khỉ gì thế?”

Chúng tôi nghe Phan Tử nói thế, quay sang hướng Bàn Tử tìm kiếm thì thấy hắn đã ngưng công việc từ lúc nào, trái lại đang ngồi giữa đống thi thể, quay mặt về phía chúng tôi, miệng há to vô cảm. Nhìn thoáng qua cũng thấy thấy trên mặt hắn nổi lên một mảng màu xanh tím y như những xác chết bên cạnh, không biết đang giở trò quỷ quái gì.
 
Quyển 4 - Chương 26: Tàng thi các


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bao phủ khắp tàng thi các là bóng đêm mịt mùng, quầng sáng từ mấy ngọn đèn pin giao nhau tại một điểm, ánh sáng hỗn loạn. Bàn Tử đang ngồi trong một xó cách chúng tôi rất xa, ánh sáng từ đèn pin chiếu vào đều bị các thi thể xung quanh che khuất, những cái bóng cứ chồng chất lên nhau hết tầng này đến tầng khác, cho dù có chiếu đến nơi thì chúng tôi cũng không thể nhìn rõ.

Nhưng màu xanh tím trên mặt Bàn Tử chắc chắn không phải do nhìn lầm. Nét mặt quỷ dị, đờ đẫn đến mức u ám này của hắn đúng là rất giống những xác chết bên cạnh, khiến người ta phải dựng tóc gáy.

Phan Tử ban đầu vẫn nghĩ Bàn Tử lại đùa dai, bèn gọi thêm một tiếng, nhưng Bàn Tử vẫn không hề phản ứng, cứ đờ ra như khúc gỗ. Phan Tử cũng thấy có gì đó không ổn bèn nói với chúng tôi: “Hình như có chuyện rồi?”

Tôi nhíu mày, cũng không biết nói sao cho phải. Nét mặt và động tác của Bàn Tử tương tự như những thi thể dưới này, nếu không phải hắn đang đùa chúng tôi thì chắc chắn đã có chuyện không hay xảy ra. Nhưng những người khác đều không việc gì, sao hắn lần nào cũng mắc nạn? Nhìn cái dáng vẻ này của hắn, lẽ nào đã bị quỷ nhập rồi sao? Hay là đã trúng lời nguyền của Tát Mãn?

Chúng tôi trượt xuống dần theo con dốc, tới gần chỗ Bàn Tử đang ngồi. Không thấy xung quanh hắn có gì khác với những nơi khác, bốn phía vẫn là những thi thể xanh tím nhe răng nanh sắc nhọn. Lúc chúng tôi còn cách Bàn Tử khoảng bốn năm mét, Phan Tử bèn khoát tay bảo chúng tôi đứng yên, rồi dùng tay ra hiệu với Hoa hòa thượng.

Trong nhóm của Trần Bì A Tứ, Lang Phong tương đương với Bàn Tử của nhóm chúng tôi, đều là kiểu người đi tiên phong; Hoa hòa thượng là trợ lý, Diệp Thành thì chuyên làm việc vặt. Mỗi người đều có năng lực đặc biệt của riêng mình, bây giờ Lang Phong đã chết, thế nhưng bản lĩnh của Hoa hòa thượng cũng không tồi, thế nên Phan Tử mới ra hiệu cho gã.

Tôi thực cảm thấy có chỗ thua kém. Nếu chúng tôi là một đội, người sẵn sàng đi tiên phong rất nhiều, nhưng tôi – kẻ miễn cưỡng có thể trở thành trợ lý – lại quá yếu kém. Ngẫm lại thì từ lúc thiếu mất Muộn Du Bình, nếu đối phương không có Hoa hòa thượng thì mỗi khi có chuyện tôi chính là người phải lên trước, thế nhưng bản lĩnh của tôi so với Hoa Hòa Thượng rõ ràng là kém xa.

Hoa hòa thượng nhìn dấu tay của Phan Tử bèn gật đầu, sau đó bọn họ rút con dao săn ra thủ sẵn trên tay, mò mẫm tiến về phía Bàn Tử.

Hai người rất nhanh đã tới gần Bàn Tử, nhưng Bàn Tử lại không thèm quay đầu nhìn bọn họ, cứ bắt chước mấy người trình diễn nghệ thuật hành vi để mãi nghệ ngoài phố, hóa trang thành pho tượng đồ sộ bất động.

(Nghệ thuật hành vi nói nôm na là nghệ thuật trình diễn thân thể, lấy thân thể và các động tác của người nghệ sĩ làm chủ đạo để biểu đạt ý tưởng của mình. Giả làm tượng là loại nghệ thuật hành vi khá phổ biến ở châu Âu)

Lòng bàn tay tôi túa đầy mồ hôi, không hiểu vì sao lại có cảm giác bất thường. Lúc này hai người đi trước đã dừng lại, Phan Tử đã tới rất gần Bàn Tử, dường như chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm vào hắn. Nhưng đúng vào lúc đó hai người kia lại đột nhiên xua tay về phía sau ý bảo chúng tôi chớ lại gần, rồi bản thân mình cũng bắt đầu lùi lại.

Tim tôi bắt đầu nhảy loi choi, không biết bọn họ đã thấy cảnh tượng gì, chỉ thấy Phan Tử lùi đến bên cạnh tôi rồi quay đầu lại nói với mọi người: “Phiền phức rồi, khối thi thể phía sau hắn có vấn đề.”

“Cái gì phiền phức?” Tôi vội hỏi: ” Là bánh tông bự sao?”

Phan Tử bảo chúng tôi đừng hỏi rồi ra dấu cho mọi người đi theo anh.

Chúng tôi nối đuôi anh băng qua mấy khối thi thể, leo xuống mấy tầng bậc thang tới bên cạnh Bàn Tử. Phan Tử giơ một ngón tay ra chỉ, tôi nhìn theo hướng đó thì thấy sau lưng Bàn Tử có vài khối thi thể xanh đen đang ngồi xếp bằng, trong đó lại có một khối khác biệt hẳn so với số còn lại.

Khối thi thể này có cái đầu cực lớn, có lẽ phải lớn gấp ba lần đầu người bình thường, ngũ quan không rõ ràng, giống như một đứa trẻ sơ sinh đầu to còn chưa phát dục hết. Một cái lưỡi kì quái từ trong miệng thi thể kia thò ra, quấn quanh cổ Bàn Tử.

Tôi tức khắc cảm thấy da đầu tê rần, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cổ đã muốn cứng đờ ra, phải che miệng lại mới ngăn không cho mình hét ầm lên. Tôi thì thầm: “Cái quái gì thế?”

“Đây có thể là một thi thai. Vị trí đặt thi thể kia nhất định là dưỡng thi huyệt của cả linh cung. Khối thi thể này vừa hay lại đặt ở đó, trải qua một khoảng thời gian nhất định đã thi hóa, biến thành cái dạng này. Từ đó đến giờ đã mấy trăm năm, chỉ e nó thành tinh rồi.” Trần Bì A Tứ đứng bên cạnh nhỏ giọng nói. Vừa dứt lời, nét mặt đột nhiên trở nên kỳ quái, dường như vừa nghĩ tới chuyện gì, liền tiếp: “Không đúng! Cái long mạch này không phải chỉ là đồ giả thôi sao? Sao lại có dưỡng thi huyệt chứ, chuyện này…”

Hoa hòa thượng thấy nét mặt kì lạ của Trần Bì A Tứ, hình như đã hiểu ra, sắc mặt cũng lập tức biến đổi (Tôi cứ có cảm giác Hoa hòa thượng thực ra đã nghĩ ra từ lâu, chẳng qua muốn giữ thể diện cho Trần Bì A Tứ nên thường xuyên đợi cho Trần Bì A Tứ nghĩ ra rồi mới giả bộ phản ứng). Gã bèn hỏi Trần Bì A Tứ: “Lão gia, chẳng lẽ đó là ‘Liên hoàn khấu’?”

‘Liên hoàn khấu’ là một loại mánh lừa người, chính là thủ đoạn chữ “tước” trong thiên môn của ngoại bát hành (*). Nói cho dễ hiểu chính là đem hàng thật biến thành đồ giả rồi lại biến thứ đồ giả đó thành hàng thật, trong quá trình đó sẽ cố ý để lại một chút sơ hở. Khi có người phát hiện ra sơ hở này, lật tẩy được cái mác ‘đồ thật’ ngoài cùng tất sẽ nghĩ đó là ‘đồ giả’, nhưng thực chất nó lại chính là ‘đồ thật’, cái này bản chất cũng giống như ‘không thành kế’.

(*) Cái này hình như đã chú thích từ phần 1 nhưng mình cũng không nhớ chú thích chỗ nào nên nhắc lại. Ngoại bát hành chỉ 8 nghề nghiệp không lương thiện, vượt ra ngoài những nghề nghiệp chính như sĩ nông công thương, đó là: đạo môn (ăn trộm), cổ môn (nuôi trùng độc), cơ quan môn (chế cơ quan máy móc, thường là những cơ quan tinh xảo dùng để phòng vệ), thiên môn (hơi khó giải thích, nôm na là giải nghĩa bát quái và dùng nó để lừa gạt người khác), lan hoa môn (làm kỹ nữ), thần điều môn (lên đồng nhập hồn), hồng thủ quyên (làm ảo thuật), tác mệnh môn (ám sát). Không thành kế chắc khỏi giải thích :))

Trần Bì A Tứ cười lạnh một tiếng: “Đúng vậy, nếu là long mạch giả thì đào đâu ra ‘dưỡng thi huyệt’ cơ chứ?” Lão già Uông Tàng Hải này dùng ‘liên hoàn khấu’ quả thực cao tay, đáng tiếc lão có tính toán chu toàn đến đâu thì vẫn có sai sót, rốt cuộc vẫn để lộ sơ hở.”

Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả, bèn hỏi lại Hoa hòa thượng xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Hoa hòa thượng giải thích: “Thực sự quá huyền ảo, chúng ta suýt chút nữa đã bị lừa rồi, may mà lại rơi xuống đây. Cậu có còn nhớ lúc chúng ta phát hiện ra mình đã xác định sai phương hướng, liền nghĩ ngay long mạch này là giả không? Thế mà chỗ này lại xuất hiện thi thai, long mạch giả tất không có bảo huyệt, cũng không thể nào xuất hiện thi thai, rõ ràng là có sơ hở. Xem ra con rùa từ tính kia cũng là một phần trong cái bẫy mà Uông Tàng Hải giăng sẵn, mục đích là để chúng ta lầm tưởng mình đã bị lừa, lầm tưởng cả cái long mạch này đều là giả. Nhưng thực ra long mạch là thật, chẳng qua kết cấu không phải Tam đầu long. Con rùa kia đã biến một kết cấu long mạch bình thường thành đại cục ‘Bàn long tọa’ thượng thừa, chuyện này thực ra rất dễ dàng.”

Tôi ‘à’ lên một tiếng, tức khắc hiểu ra mọi chuyện. Phương vị phong thủy chính là yếu tố then chốt quyết định một long mạch là tốt hay xấu, ví dụ như có một thế Độc nhãn long, nếu hướng từ tây sang đông gọi là Đằng long, từ đông sang tây lại là Phục long. Nếu anh chôn xuống một con rùa từ tính sẽ khiến phương vị phong thủy nơi này thay đổi, con Phục long kia có thể ngụy trang thành Đằng long.

(Về sau tôi có tìm hiểu một chút về thế Quần long tọa, thì ra ba cái đầu rồng đều quay về hướng đông mới gọi là Quần long tọa. Nhưng sơn mạch của ba ngọn núi thánh trên dãy Trường Bạch đều quay về hướng Bắc, cho nên chỉ có núi Tam Thánh ở giữa mới thực sự là đầu rồng, còn hai ngọn núi bên cạnh gọi là song xà bàn hộ (hai con rắn quấn lấy bảo vệ), cũng là một huyệt phong thủy rất tốt, nhưng không nên mai táng người ở đây mà dùng để xây miếu thờ thì hợp hơn. Một khi rùa từ tính được đặt ở chỗ đó, hướng Bắc liền biến thành hướng Đông, vậy nên Trần Bì A Tứ mới phán đoán sai lầm.)

Tôi không khỏi cảm khái, thiết lập bố cục phức tạp như vậy, trình độ đấu trí cỡ này đúng là khó tưởng tượng nổi. Ngẫm lại thì vừa rồi chúng tôi đã bị lừa ngon ơ, nếu không phát hiện ra thi thai ở chỗ này, chúng tôi chắc chắn đã phải lầm lũi ra về.

Chúng tôi với Uông Tàng Hải sống cách nhau cả ngàn năm, nhưng tôi lại có cảm giác mạch suy nghĩ của ông ta như dòng nước chảy xuôi trước mắt mình. Ông ta đã nghĩ ra kế sách này từ hàng ngàn năm trước, ấy vậy mà vẫn có thể đem chúng tôi ra đùa bỡn, mà xoay mòng mòng. Rốt cuộc lai lịch của người này là như thế nào?

Phan Tử đứng bên cạnh chợt thì thào: “Các người còn lòng dạ mà nói mấy chuyện này, vậy tên Bàn Tử chết toi kia thì tính sao bây giờ? Đối phó với thứ này, dùng móng lừa đen có được việc không?”

Trần Bì A Tứ lắc lắc đầu, ý nói mình không biết. Hoa hòa thượng cũng nhíu mày, rõ ràng không biết phải đối phó thế nào.

Tôi ghét nhất những lúc như thế này. Chúng tôi không biết cái đầu lưỡi quấn quanh Bàn Tử có gây nguy hiểm gì không, chỉ sợ hấp tấp đi cứu sẽ làm tình hình thêm xấu, tiến thoái lưỡng nan. Phan Tử và tôi đổ mồ hôi đầy đầu, không biết phải làm gì mới đúng.

Nào ngờ bên này chúng tôi còn chưa động tĩnh gì thì bên kia Bàn Tử trái lại đã có phản ứng. Trong nháy mắt hắn đột nhiên ngã lăn ra đất, sau đó người bị lôi đi. Cái thi thai đầu to kia cuộn mình lại di chuyển, dùng đầu lưỡi nhanh chóng kéo Bàn Tử xuống sườn dốc. Bàn Tử người cứng đờ ra như tảng đá, không hề phản kháng.

Nếu để nó kéo xuống dưới đáy, Bàn Tử chắc chắn phải chết. Tình thế mỗi lúc một nguy cấp, Phan Tử bèn hô một tiếng “Đuổi theo!” chúng tôi lập tức vọt xuống.

Cái thi thai đầu bự kia thấy chúng tôi lao xuống, tức thì tăng tốc, Bàn Tử cũng lăn tròn theo nó xuống sườn dốc, lăn đến đâu xô ngã mấy khối thi thể xấu số trên đường đến đấy. Vì chúng tôi đang ở trên sườn dốc nên không thể chạy mà phải trượt xuống giống như ngồi cầu trượt.

Nhanh chóng đuổi xuống hơn mười mét, đột nhiên chúng tôi thấy Bàn Tử biến mất ngay trên sườn dốc, nháy mắt đã biệt tăm. Quá hoảng sợ, chúng tôi vội vọt xuống đến nơi thì thấy trên sườn dốc có một cái hang, Bàn Tử đã bị kéo vào trong đó, chỉ còn lại hai chân thò ra ngoài.

Phan Tử nhảy dựng lên, bổ nhào về phía trước như mãnh hổ vồ mồi, lập tức tóm lấy hai chân Bàn Tử rồi dùng sức kéo ra. Tôi cũng ào qua giúp Phan Tử một tay bất chấp hai chân đạp bừa lên những thứ gì, tiếp đó là Diệp Thành, Thuận Tử và Hoa hòa thượng cũng vọt tới. Hoa hòa thượng buộc một đầu dây thừng vào đùi Bàn Tử, như thế trừ phi kéo đứt đôi người Bàn Tử, bằng không cái thi thai kia không thể nào kéo lại chúng tôi.

Chúng tôi đông người nên chỉ một lát sau đã lôi được Bàn Tử ra ngoài. Cái đầu lưỡi kia vẫn cuốn chặt lấy cổ họng Bàn Tử, gần như móc sâu vào da thịt. Bàn Tử nổi đầy gân xanh, hai mắt trắng dã, gần như ngạt thở. Phan Tử bèn rút mã tấu chém một nhát, tức thì trong động truyền đến tiếng thét chói tai của phụ nữ. Đầu lưỡi kia đứt ra, Bàn Tử được giải thoát, chúng tôi vội kéo hắn ra ngoài.

Chúng tôi tranh thủ thời gian giật đoạn lưỡi kia ra, quẳng vào trong động rồi ấn ngực cho Bàn Tử. Thân thể hắn nhanh chóng cựa quậy, bắt đầu đưa tay sờ sờ lên cổ rồi vừa thở hồng hộc vừa ho sặc sụa. Phan Tử sợ thứ kia lại nhào ra, bèn rút xẻng công binh hùng hổ lại gần cửa động, chiếu đèn pin vào bên trong, nhưng vừa chiếu một vòng đã buông vũ khí xuống, có lẽ thi thai kia đã lủi sâu xuống dưới.

Chúng tôi thở phào, vội đấm lưng cho Bàn Tử. Đấm đến nửa ngày hắn mới chậm chạp tỉnh dậy, nhìn cái động kia mà còn chưa hết hoảng, nói: “Đa tạ, đa tạ các vị hảo hán.” Tôi hỏi Bàn Tử rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, sao bỗng dưng lại ngồi bất động như tượng phật Di Lặc thế.

Chính Bàn Tử cũng không hiểu vì sao, nói đang tìm kiếm bỗng dưng thấy cổ lạnh buốt, tự nhiên không động đậy được. Mặc dù vẫn nhìn thấy nghe thấy bình thường nhưng thân thể không tài nào nhúc nhích nổi, tựa như bị đông cứng trong băng. Hắn đã dùng hết sức lực nhưng đến tròng mắt cũng không thể đảo, đành để mặc cho nó cuốn lấy.

Phan Tử cười lớn: “Nghe tiếng thét chói tai vừa rồi đủ biết kia đích thị là một con nữ thi thai. Có lẽ ở nơi này quá cô quạnh, nàng thấy hình thể cậu giống mình nên muốn tha cậu xuống bầu bạn. Cái này gọi là tình yêu đến từ địa ngục đó.”

Bàn Tử cười khổ, đẩy anh một cái nói: “Bố khỉ, cái đồ nhà anh mới giống ả ta.”

Phan Tử vừa cười vừa né cú thúc cùi chỏ của Bàn Tử, ngửa người ra đằng sau. Không ai có thể ngờ, chính vào lúc đó, cái đầu bự chảng của con thi thai lại lấp ló thò ra từ trong động, miệng nhoe nhoét máu, nháy mắt đã cắn một nhát vào chân Phan Tử. Phan Tử còn chưa kịp phản ứng đã bị kéo tuột vào cái động kia.
 
Quyển 4 - Chương 27: Bài đạo


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Chúng tôi lập tức ào lên nhưng vẫn không kịp, chỗ Phan Tử ngã xuống đến cái bóng cũng không còn. Bên trong hang động khá lắt léo, đèn pin không thể chiếu đến đáy để xem tình hình bên trong thế nào, cũng không rõ Phan Tử còn sống hay đã chết.

Đầu tôi nóng lên, định nhảy xuống theo nhưng Bàn Tử đã nhanh hơn tôi một bước. Hắn kéo dây thừng buộc vào chân mình, rút mã tấu nhảy vào trong động, trượt vèo xuống dưới, nháy mắt đã không thấy bóng dáng đâu. Tôi vẫn muốn xông vào nhưng Hoa hòa thượng đã kéo lại, nói hang quá nhỏ, giờ cậu nhảy xuống chỉ tổ vướng víu tay chân, hại hắn không đánh nhau được. Nếu may mắn thì một mình Bàn Tử cũng có thể cứu người lên, bằng không cậu nhảy xuống cũng là đâm đầu tự sát.

Tôi ho một tiếng, thò đầu ngó vào trong động nhưng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe tiếng Bàn Tử không ngừng trượt xuống, sợi dây thừng bên ngoài cũng nhanh chóng bị kéo sâu vào trong động, khiến lòng tôi nóng như lửa đốt.

Sau khoảng một phút đồng hồ, dây thừng bỗng dừng lại, tiếp đó từ đầu dây bên kia truyền đến chấn động, rồi đột nhiên có tiếng Bàn Tử vọng lên từ chỗ nào đó rất sâu trong hang: “Kéo dây mau!”

Chúng tôi vội vàng liều mạng kéo dây thừng lên, chẳng mấy chốc đã thấy Bàn Tử và Phan Tử xuất hiện. Phan Tử vẫn không ngừng đá đá chân, rõ ràng cái thi thai kia vẫn chưa chịu nhả ra.

Trần Bì A Tứ bảo chúng tôi mau tránh ra, nhíu mày một cái, móc một viên đạn sắt, nhắm thẳng mắt cá chân Phan Tử, đập mạnh vào cái đầu bự chảng của thi thai. Thi thai rít lên một tiếng rồi nhả Phan Tử ra, nhưng vừa nới lỏng một chút đã tính đường xông lên luôn.

Trần Bì A Tứ không cho nó cơ hội, lại bắn thêm một viên đạn sắt đánh nó ngã nhào. Thi thai xoay người định nhào lên lần nữa, lại lãnh thêm một viên đạn, viên này chính thức đánh cho nó lăn thẳng xuống động.

Chúng tôi thừa cơ kéo hai người kia ra khỏi động rồi lập tức tránh xa cửa vào. Hoa hòa thượng lăm lăm xẻng công binh đứng chờ một bên, quả nhiên chỉ vài giây sau cái thi thai lại phóng vọt ra toan tháo chạy. Hoa hòa thượng “binh” một oánh cho nó rớt tuột xuống, kế đó chúng tôi nghe được một tiếng rít thảm thiết mất hút dần nơi đáy động.

Bàn Tử tái mặt, vừa thở dốc vừa nói với Phan Tử: “Thấy chưa, xem ra cô vợ của anh vẫn thích anh hơn.”

Phan Tử bị dọa cho hết hồn, khoát tay: “Thôi khỏi nói, chúng ta huề nhau.” Rồi lại hỏi Hoa hòa thượng: “Tổ sư nó, cái động này có phải hang ổ của thi thai không vậy? Nếu đúng là thế thì ông đây nổ tanh bành luôn cho nó sớm ngày đầu thai.”

Hoa hòa thượng xua tay: “Không không, thi thai không phải động vật, làm gì có hang ổ. Cái động này thực là quái gở, lúc nãy các cậu ngã xuống có thấy gì trong đó không?”

Bàn Tử nói: “Nãy không mang đèn pin nên không nhìn thấy gì cả, nhưng tôi có đụng phải mấy khối đá, cái động này hẳn là do con người đào ra.”

Do người đào sao? Hoa hòa thượng có vẻ lưu ý điểm này, tôi cũng liếc mắt về phía cái động thêm lần nữa.

Cửa động thoạt nhìn giống miệng giếng, lại sâu chết bỏ. Tôi đoán nó là một cái giếng hầm bỏ hoang, nhưng nhìn kĩ thì không phải, bởi vì miệng giếng hơi to, những cái giếng hầm xây vào thời ấy không thể to đến mức này. Bên mép giếng có dấu đục, chắc chắn không phải là lỗ phun dung nham hình thành tự nhiên. Chiếu đèn vào bên trong thì không thấy dấu vết thi thai đâu nữa, xem ra đã rơi xuống tới đáy rồi, không biết đã bị Hoa hòa thượng đập chết chưa. Thứ này tuy vẻ ngoài hơi đáng sợ nhưng thực ra cũng không quá lợi hại.

Trong vách cái giếng đoạn đầu có khảm một ít đá phiến, nhưng vào sâu chút nữa lại không có, hơn nữa cũng không thẳng đuột mà nhìn hơi giống thành tá tràng của người. Có gió từ trong lòng giếng thổi ra mang theo mùi ẩm ướt, ló đầu vào sâu thêm mấy mét vẫn chỉ thấy bên trong tối đen một màu, không biết nó thông đến tận đâu nữa.

Bàn Tử nhìn qua, cảm thấy kì quái : “Trông khá giống địa đạo ở vùng Đông Bắc, không lẽ trong lúc xây dựng linh cung, mấy tay thợ dùng chỗ này để muối cải trắng?”

Hoa hòa thượng không thèm để ý đến hắn, đưa tay sờ sờ cửa động rồi nói: “Gió là từ chỗ này thổi ra, đây không phải giếng cụt mà chắc chắn phải thông đến nơi khác.”

Bàn Tử hỏi: “Hay đây là cửa sau thông đến địa cung của thiên cung? Chính là con đường bí mật nối liền Tam đầu long mà mấy người nói đó?”

Tôi nhỏ giọng nói: “Bố cục Tam đầu long kia đã xác định là giả rồi, hơn nữa nếu có là thật thì con đường bí mật cũng phải mở trong địa cung chứ, sao lại chạy sang đây được?”

Bàn Tử nói: “Cậu chả hiểu cái khỉ gì cả, đây người ta gọi là dương đông kích tây. Cậu chưa nghe Mao chủ tịch nói sao? Nơi nguy hiểm nhất cũng là nơi an toàn nhất. Nói không chừng đây chính là kế của cái tên “Uông Uông Khiếu” kia đấy.”

Bàn Tử nhất thời không nhớ ra tên của Uông Tàng Hải liền thuận miệng đặt cho ông ta một cái biệt danh, tôi nghe xong suýt nữa thì phá ra cười. Tôi bấm bụng nín cười, giả bộ tức giận nói: “Anh làm ơn tôn trọng người ta một chút đi, nói thế nào thì Uông Tàng Hải vẫn là bậc thầy của một phái, anh có gặp cũng phải gọi là ông tổ. Mà câu nói kia đâu phải của Mao chủ tịch, là Sở Lưu Hương đấy chứ.”

Bàn Tử cãi lại: “Cậu đừng có thay tôi nhận tổ tông, ông tổ cái quái gì chứ, lão có nhận tôi tôi cũng đếch thèm nhận lão. Chúng ta khoan đứng đây tán dóc, cái động này phải làm gì bây giờ? Có muốn vào xem không? Nói không chừng sự thật lại đúng như lời tôi nói lúc nãy. Tha cho cái thi thai kia cũng là lưu họa ngầm, cứ để mặc nó làm tổ trong ấy có thể sẽ lại hại người, chúng ta hãy xuống xử lí một thể.”

Hoa hòa thượng lắc đầu ý nói chuyện đó là không thể: “Nếu Quần long tọa là giả thì không cần phải đào động nối liền ba ngọn núi làm gì. Như vậy cũng là hợp tình hợp lí, bọn họ căn bản không đủ nhân lực lẫn tinh lực để kiến tạo một công trình lớn đến thế, xây dựng một tòa Vân Đỉnh thiên cung đã là quá sức rồi. Chỉ sợ trong động này còn có ẩn tình khác.”

Tôi thấy ánh mắt gã sáng lên, hẳn là đã nghĩ ra điều gì đó, bèn chờ hắn nói ra rồi mọi người cùng nhau bàn bạc.

Hoa hòa thượng nói: “Đây chỉ là suy luận bước đầu của tôi thôi, nói ra sợ mọi người không tin.”

Bàn Tử nói: “Không sao, cứ nói đi mà, nếu có sai sót gì các đồng đội trong nhóm sẽ giúp đồng chí sửa lại.”

Hoa hòa thượng bật cười, gật đầu nói: “Được, vậy thì tôi sẽ nói. Những cái khác tạm thời chưa bàn, hãy hỏi vì sao cửa động mở ra ở vị trí ngay bên dưới linh điện, cái này có dụng ý rất sâu xa. Mọi người nghĩ mà xem, cửa động mở ra ở đây nhất định là để che giấu nó khỏi tầm mắt người khác. Bên trong lại có gió thổi ra, chứng tỏ cái động này là lối đi thông đến một nơi nào đó. Lại nhìn tiếp, trên vách động có dấu đục đẽo, tất cả đều là vết đục ngược ra ngoài, có thể nói cái động này là từ trong đục ra chứ không phải từ ngoài đây đục vào. Từ ba điểm quan trọng trên, cộng thêm kinh nghiệm của mình, chúng ta có thể suy đoán đây phỏng chừng là một bài đạo, có thể là đường thoát thân do những người thợ xây mộ tạo ra, nếu cổ mộ bị phong kín thì có thể chạy trốn theo đường này.”

Tôi nghi hoặc hỏi: “Bài đạo ư? Không thể nào. Nói như anh thì bên dưới vẫn có địa cung sao? Đây không phải thế Tam đầu long mà vẫn xây lăng bồi táng?”

Hoa hòa thượng lại lắc đầu: “Khả năng này không lớn. Bởi vì nếu có lối vào địa cung thì chỉ có thể mở ra bên dưới tảng đá phong mộ, mà chúng ta lại không hề phát hiện lối vào nào ở đó. Có địa cung tất phải có đường vào, không có đường vào khẳng định không có địa cung, đây là chân lý muôn đời không đổi. Xây cửa vào bên ngoài huyệt vị phong thủy sẽ mang đến bất lợi lớn cho chủ ngôi mộ.”

Bàn Tử nói: “Cái tên Uông Uông Khiếu này hành sự thật quái đản, có khi hắn lại xây cửa vào ở một chỗ khác.”

Hoa hòa thượng xua tay: “Đừng phức tạp hóa vấn đề như vậy. Uông Tàng Hải dù sao vẫn phải chịu một số giới hạn của thời đại mình sống, nếu lão cứ làm xằng làm bậy, ngay cả Táng kinh cũng không thèm tuân thủ thì chúng ta đã mất mạng từ đời nào rồi.”

Tôi cũng nghĩ vậy, nếu ngay cả Táng kinh cũng không tuân thủ thì còn xem phong thủy làm quái gì nữa. Giống như Thành Cát Tư Hãn đó, cứ chọn bừa một thửa đất, đào hố chôn mình xuống rồi cho vạn ngựa giày xéo lên, đến bây giờ đã có ai tìm được mộ ổng đâu. Bèn hỏi gã: ” Nếu bên dưới đã không có địa cung, mà anh lại nói đây là bài đạo, vậy nó thông đến nơi nào?”

Hoa hòa thượng đáp: “Theo phương pháp loại trừ, thứ nhất bài đạo này xuất hiện bên dưới lăng bồi táng giả nên chắc chắn có liên quan đến những công nhân xây dựng Vân Đỉnh thiên cung. Thứ hai, gần đây có công trình kiến trúc nào cần xây một bài đạo như thế? Không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ có thể là địa cung của Vân Đỉnh thiên cung! Cho nên kết luận của tôi là – bài đạo này đến chín mười phần là đào từ địa cung của thiên cung trong lòng núi Tam Thánh sang đây.”

Tôi lập tức kêu lên: “Sao có thể chứ, vậy cũng quá xa rồi, nếu bọn họ thực sự muốn đào một bài đạo làm đường thoát thân thì cũng không ngu mà mở miệng động ở chỗ này. Sao không mở miệng động ngay trên núi Tam Thánh, có phải đỡ tốn bao nhiêu công sức không? Hơn nữa đào một cái bài đạo dài ngoằng như thế trong lòng núi cần bao nhiêu thời gian chứ, bét nhất cũng phải hai, ba mươi năm. Một công trình như thế, con người có thể làm được sao?”

Hoa hòa thượng bèn giải thích: “Vân Đỉnh thiên cung là công trình rất lớn, thời xưa chắc chắn phải xây mất sáu, bảy mươi năm, thậm chí phải qua vài thế hệ mới có thể hoàn thành. Tôi nghĩ những công nhân xây dựng cũng lường trước được chuyện mình sẽ phải bỏ mạng nơi này, cho nên mới lén đào một cái bài đạo thông ra ngoài, chuyện này hoàn toàn có thể xảy ra. Còn vì sao bọn họ lại phải mở cửa động ở một tòa núi xa tít tắp thì chắc chắn phải có một nguyên nhân bất khả kháng nào đó. Chúng ta cứ xuống đó xem thử, tất sẽ biết ngay thôi.”

Diệp Thành nãy giờ vẫn chăm chú lắng nghe, bỗng lên tiếng hỏi: “Hòa thượng, giả thiết này của anh, bản thân anh có chắc chắn không đó?”

Hoa hòa thượng dừng một chút rồi tiếp: “Thật sự tôi cũng không dám chắc, nhưng tôi cảm thấy cũng đáng để chúng ta thử một lần, dù sao vẫn còn hơn chúng ta thoát ra ngoài rồi lại tìm một lối khác đi vào. Hiện giờ mọi dấu vết đều chứng tỏ đây là một bài đạo, nếu tôi phán đoán sai lầm, đầu bên kia không phải Vân Đỉnh thiên cung thì đi vào chắc cũng không gặp chuyện gì xấu. Đây không phải lần đầu tiên tôi gặp loại bài đạo này, chắc chắn không có nguy hiểm gì đâu. Chẳng ai lại đi bố trí cơ quan cạm bẫy trên con đường thoát thân của mình cả.”

Tôi thoáng cân nhắc, giả thiết của Hoa hòa thượng đúng là rất hấp dẫn. Thứ nhất, các giả thiết về phong thủy nơi này cực kì lộn xộn, tôi nghe đám người Trần Bì A Tứ nói một thôi một hồi vẫn lơ mơ chả hiểu gì, mà phong thủy nơi này có tốt hay xấu tôi cũng cóc quan tâm. Thứ hai, đám người A Ninh bên kia không biết tiến triển đến đâu rồi, chúng tôi đã lãng phí rất nhiều thời gian. Đến bây giờ chúng tôi vẫn không hiểu mục đích của chú Ba khi sắp xếp chuyến đi xuống đất này là gì, nếu vì một lần đi đi về về mà mục đích đó thất bại hoàn toàn thì tôi thực sự không còn mặt mũi nào nhìn chú nữa.

Một vấn đề khác cần cân nhắc chính là Thuận Tử căn bản đã biết chúng tôi đang làm gì, hiện giờ vẫn lẳng lặng đứng một bên. Tuy hắn không nói gì nhưng kẻ này không phải hạng ngu ngốc, tôi để ý thấy tay hắn từ trước tới giờ vẫn cách con dao trên người không quá hai thước, rõ ràng là đang đề phòng chúng tôi. Người này một khi quay về thôn thì ai biết hắn sẽ làm gì, không chừng sẽ bán đứng chúng tôi ngay, Trần Bì A Tứ hẳn cũng đã nghĩ đến điều này. Nếu chúng tôi buộc phải rời núi rồi mới quay lại, thì việc đầu tiên cần làm trước khi vào thôn nhất định là giết người diệt khẩu hoặc là vung tiền mua chuộc, bởi vì đến lúc đó chưa chắc đã tìm được người dẫn đường khác. Chúng tôi đã một lần đi vào núi tuyết, cả đoàn trở về mà người dẫn đường lại mất tích thì còn ai dám dẫn chúng tôi đi lần nữa chứ. Vả lại, chỉ e cũng không nhiều người trong thôn có thể dẫn đường cho chúng tôi.

Mọi người bàn bạc một lúc, cân nhắc nhiều lần, ý kiến vẫn không thống nhất. Diệp Thành sợ thi thai kia nên kiên quyết không chịu đi vào, Phan Tử cũng cảm thấy nơi đó quá mức tà dị, còn tôi và Bàn Tử thì lại nghĩ cũng nên thử một lần. Hoa hòa thượng đành đi xin chỉ giáo của Trần Bì A Tứ, hỏi lão xem chúng tôi có nên đi không?

Trần Bì A Tứ nãy giờ vẫn ngồi một chỗ, nhắm mắt nghe chúng tôi nói chuyện. Hoa hòa thượng hỏi mấy lần, không hiểu vì sao lão vẫn không hề phản ứng, hình như đã ngủ mất tiêu.

Bàn Tử phát sốt ruột, lại gần đập đập lão: “Ê lão già, nói gì đi chứ, đừng có im ỉm giả vờ cool nữa.” Nói rồi đẩy một cái, Trần Bì A Tứ khẽ đung đưa nhưng vẫn không mở mắt ra.

Hoa hòa thượng thấy thế thì biến sắc, vội vã bắt lấy cổ tay Trần Bì A Tứ, sắc mặt bỗng chốc tái đi. Bàn Tử thấy thế bèn chạy lại, sờ cổ lão, mặt cũng biến sắc: “Mẹ kiếp! Lão chết rồi!”

Mọi người nghe thế thì ngây cả ra. Cái gì cơ? Chết rồi? Vô lý, vài phút trước không phải vẫn khỏe mạnh bình thường sao?

Nhưng vừa thấy Bàn Tử biến sắc, Hoa hòa thượng đổ đầy mồ hôi cộng thêm Trần Bì A Tứ ngồi im không hề phản ứng, mọi người đều cảm thấy không ổn, lập tức vây lại xung quanh.

Lão già ngồi đó đã cứng ngắc như đá, hai mắt nhắm nghiền, ngồi yên không nhúc nhích giống như một pho tượng điêu khắc từ băng.

Tôi sờ cổ tay Trần Bì A Tứ cũng không thấy mạch đập, chỉ có cảm giác da lão vừa khô vừa sần sùi, lại lạnh đến rùng mình, mà thịt bên trong hình như cũng đã đông cứng lại.

Lẽ nào đã chết thật rồi? Trong lòng tôi hoảng sợ, đúng vào lúc chúng tôi nghiên cứu cái hầm kia, Trần Bì A Tứ ngồi yên ở chỗ này, trái tim cứ từ từ ngưng đập sao?

Tuy những biểu hiện này rất giống chứng tử vong do thân nhiệt hạ thấp, nhưng chứng hạ thân nhiệt này có phát tác cũng phải mất hai mươi phút mới hoàn toàn tắt thở. Chúng tôi mới ngồi chưa đến năm phút đồng hồ, sao lão đã đột ngột thăng thiên rồi? Cái này giải thích thế nào cũng không ổn.

Trong lòng tôi vẫn nuôi một tia hi vọng mong manh, Bàn Tử nói chuyện rất tùy tiện, hắn mới chỉ sờ vào cổ Trần Bì A Tứ mà đã phán lão tử vong là rất võ đoán. Có thể đó chỉ là một cơn sốc thôi, vừa rồi phải chạy quá nhanh, một lão già chín mươi tuổi làm sao mà chịu được?

Hoa hòa thượng cau mày, vạch mi mắt Trần Bì A Tứ lên, lấy đèn pin soi vào. Sắc mặt gã càng lúc càng khó coi, cuối cùng gã quay đầu lại nhìn Diệp Thành một cái, khẽ lắc đầu.

Hoa hòa thượng có chút kiến thức về y học, thấy gã đã lắc đầu, chúng tôi nhất thời đều hít vào một hơi khí lạnh, biết là không thể nhầm được nữa rồi, vậy là người thực sự đã chết.

Phan Tử khẽ hỏi: “Sao lại thế này? Chết như thế nào?”

Hoa hòa thượng thở dài, không rõ gã không biết thực sự hay là không muốn nói chuyện, chỉ tối mặt lại, ngồi phịch xuống đất. Bàn Tử bèn kéo Phan Tử một cái: “Ổng đã già khú rồi, chết thế nào chả được.”

Tôi cũng không nén nổi tiếng thở dài, đúng là đối với một ông già chín mươi tuổi, vào đến đây cũng là quá gắng sức. Xảy ra chuyện này tuy nói là ngoài ý muốn, nhưng cũng hợp lý hợp tình. Trần Bì A Tứ căn bản cũng không ngờ mình sẽ chết như thế, đây coi như là báo ứng của lão.

Ông nội tôi cuối đời cũng đột ngột ra đi như vậy. Lúc ấy tôi đang ăn cơm, phút trước ông còn sai tôi lấy cho ông ít rượu, thế mà phút sau ông đã đi rồi. Cha tôi nói rất nhiều người làm nghề trộm mộ, do năm này qua năm khác tiếp xúc với không khí trong mộ nên trái tim đều đã tổn hại ở mức độ nhất định, rồi về già đa số đều chết đi như thế. Vậy cũng tốt, đây là cái chết thoải mái nhất rồi.

Chúng tôi ai nấy đều lúng túng, thứ nhất, Trần Bì A Tứ là ông chủ của Diệp Thành và Hoa hòa thượng, bây giờ lão đã chết, họ có ở lì lại đây cũng chẳng để gì. Thứ hai, chúng tôi tuy chiếm được nhiều lợi thế, có thể thuận lợi vào tới đây, nhưng giờ Trần Bì A Tứ đã chết, Muộn Du Bình lại không có mặt, cả đám chúng tôi chỉ dựa dẫm vào Bàn Tử và Phan Tử thì e rằng hơi quá sức.

Đúng lúc tôi đang nhanh chóng cân nhắc tình hình thì Trần Bì A Tứ bỗng run lên một cái. Tôi kinh hoảng, tưởng đó là phản xạ di chuyển của xác chết, ai ngờ “pặp” một tiếng, cổ tôi đã bị lão thít chặt, người vẫn ngồi thẳng, hai mắt từ từ mở ra.

Đám chúng tôi bị hù cho chết khiếp, Diệp Thành ngã phịch xuống đất trượt đi đến năm, sáu mét, Bàn Tử và Phan Tử cũng vội vã lùi về phía sau, Bàn Tử hoảng hốt kêu lên: “Xác chết vùng dậy!”

Tôi hấp tấp cạy tay lão ra, ai ngờ cánh tay héo quắt như nhánh cây khô của lão già này lại khỏe đến thế, không khác cái kìm nhổ đinh là mấy. Tôi cạy mãi mà tay lão vẫn không nhúc nhích, vội ho khan mấy tiếng rồi kêu lớn: “Lấy…móng…đến… Mau lên!”

Còn chưa dứt lời, Trần Bì A Tứ đột ngột buông cổ tôi ra, đẩy tôi một cái rồi mắng: “Ngươi nói vớ vẩn cái gì vậy?”

Đầu tôi ong ong cả lên, vội chạy đến nấp sau lưng Bàn Tử nhưng Bàn Tử lại cản đường tôi. Chợt nghĩ lại, không thể nào, xác chết vùng dậy làm sao nói chuyện được? Lại nhìn sang Trần Bì A Tứ, rõ ràng thần sắc đã khôi phục, hô hấp cũng bình thường trở lại.

Chúng tôi nhìn Trần Bì A Tứ bằng vẻ mặt đầy nghi hoặc, cũng không hiểu vừa nãy đã xảy ra chuyện gì. Bàn Tử lại càng nhìn lão chằm chằm, ánh mắt đầy ngờ vực. Nhưng lần này Trần Bì A Tứ đã khôi phục lại như bình thường, không thể nhìn ra chỉ vài phút trước thôi mạch còn ngừng đập. Cứ như trong nháy mắt vừa rồi, những gì chúng tôi chứng kiến đều là ảo giác vậy.

Hoa hòa thượng ngây người mất một lúc mới bắt đầu phản ứng, hắn hỏi: “Lão gia, người không sao chứ? Vừa rồi người…”

Trần Bì A Tứ hình như không hề biết vừa rồi hồn mình đã thoát xác, khó hiểu nhìn Hoa hòa thượng, châm một điếu thuốc, nói: “Cái gì?”

Hoa hòa thượng nhìn nét mặt của Trần Bì A Tứ thì cũng hơi lúng túng, không biết nói sao cho phải.

Trần Bì A Tứ lạnh lùng liếc hắn một cái, nói: “Ngươi yên tâm, lão già này không dễ chết thế đâu.”

Tôi nhìn dáng vẻ và ngữ khí của Trần Bì A Tứ, thấy không giống vừa nãy chút nào, cũng không giống như bị quỷ nhập hồn, chợt có cảm giác hình như mình vừa bị lão ta đùa giỡn. Nhưng lão việc gì phải diễn cái trò hề này chứ, cũng đâu còn trẻ trung gì nữa.

Trần Bì A Tứ nháy mắt đã ‘sống lại’, làm mọi người đều không kịp phản ứng. Nhưng nhìn dáng vẻ của lão, chúng tôi cũng không thể đè lão ra giải phẫu xem vừa nãy đã xảy ra chuyện gì được. Lòng tôi lại bắt đầu hoài nghi, phải chăng vừa rồi Hoa hòa thượng và Bàn Tử đã phán đoán sai? Mạch đập của người già vốn rất khó sờ, hai gã lang băm kia có thể đã sờ không đúng chỗ. Mà suy cho cùng Trần Bì A Tứ đã lớn tuổi, bỗng dưng đờ người ra một lúc cũng là chuyện bình thường.

Mọi người vẫn còn nghi hoặc, nhưng cũng không biết biểu lộ thế nào.

Hoa hòa thượng tuy vẫn còn hoài nghi, nhưng thấy Trần Bì A Tứ không sao thì tạm yên lòng. Tiếp đó gã nhắc lại chuyện chúng tôi vừa thảo luận, Trần Bì A Tứ liền nhìn vào động băng kia, cân nhắc một lát rồi nói: “Cũng có lý, đáng để thử một phen.”
 
Quyển 4 - Chương 28: Tiến vào bài đạo


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Chúng tôi dừng lại trước cửa động rất lâu, dự tính tất cả mọi khả năng về cái động này, trong lúc đó Trần Bì A Tứ bỗng dưng chết cứng mất một lúc, rồi lại hồi phục như bình thường, cứ như phép lạ. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng Trần Bì A Tứ hình như không hề muốn nhắc tới chuyện vừa rồi, thế nên cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải dời sự chú ý lên cái động băng kì quái này.

Chúng tôi vây quanh động, bàn bạc cụ thể xem phải xuống động thế nào. Mấy người chúng tôi tuy đều trải qua không ít lần thám hiểm huyệt động, nhưng đều ở đồng bằng hoặc vùng núi, khác xa nơi này nên cần bàn bạc kĩ hơn.

Quãng đầu của cái động này dốc xuống bốn mươi độ, dưới đáy rất sâu, đi lại cũng không dễ dàng. Vừa nãy Bàn Tử và Phan Tử ngã xuống, nếu không kiểm soát tư thế tốt thì cũng hết sức nguy hiểm, có thể đã lăn tròn xuống dưới, gặp khúc hẹp sẽ bị va cho bẹp đầu.

Phan Tử thả xuống một cây gậy huỳnh quang, vầng sáng vàng lạnh lẽo nhanh chóng lăn xuống, nảy lên vài cái từ chỗ nào đó rất xa rồi biến mất không dấu vết.

Nếu Hoa hòa thượng nói đúng, nhớ lại hướng đi của chúng tôi giữa hai tòa thánh tuyết sơn, thì khẳng định cái huyệt động này chạy thẳng một đường xuống dưới, sau đó lại ngoặt lên trên theo hình g V. Hai tòa núi tuyết nằm trong cùng một sơn mạch nên cái khe ở giữa cũng khá cao, con đường hình chữ V này chắc không dài quá 5km.

Đương nhiên nếu mấy người công nhân kia lại nổi hứng đào động hình chữ Z cho nó độc đáo thì chúng tôi cũng đành chịu, nhưng những chuyện vượt ra ngoài quy tắc thông thường này chắc khỏi cần tính đến làm gì.

Nếu là thông đạo do con người đào để thoát thân, vậy thì khỏi lo thiếu dưỡng khí. Chúng tôi bàn bạc xong xuôi, quyết định Phan Tử sẽ là người vào động thăm dò trước tiên. Lần này đã chuẩn bị vũ khí cẩn thận, chẳng may cái con thi thai kia vẫn nấp bên trong thì có thể xử lý nó tại chỗ.

Vừa rồi Phan Tử bị thi thai tha vào động, cũng thấy hơi mất mặt. Anh nhổ một bãi nước miếng lên tay rồi rút sợi dây thừng, một đầu buộc vào lưng Bàn Tử, một đầu ném xuống miệng động, làm đầu tàu gương mẫu leo xuống trước. Tàn một điếu thuốc mới nghe tiếng kêu của anh ra hiệu cho chúng tôi cùng xuống.

Chúng tôi lục tục kéo nhau xuống miệng động, đường hầm được đục đẽo rất gồ ghề, qua đoạn vách đá là cứ vậy trượt xuống đến ê cả mông. Tôi đi vừa bò vừa quan sát nham thạch bên cạnh, đây đều là đá basalt sinh ra vào thời điểm núi lửa phun trào, trên bề mặt có rất nhiều bọt khí. Khối đá này có mật độ không đồng đều, có chỗ cứng như thép, có chỗ lại mềm như đậu phụ, không biết năm đó khi đào đạo động đến đoạn này thì nó đang là cái dạng gì.

Chúng tôi từng người, từng người một leo xuống, Bàn Tử đi sau chót, chẳng mấy chốc đã có một đống người chen chúc phía cuối con dốc trong lòng hang, há miệng thở phì phò. Ở đây chúng tôi thấy từng vũng chất lỏng màu đen, chắc chắn là dịch của thi thai nhưng lại không thấy bóng dáng thi thai đâu, hẳn nó đã chui tít vào sâu bên trong huyệt động rồi.

Cái hang băng chật hẹp này chạy xuống được một đoạn, đến khúc ngoặt dưới đáy thì đột ngột biến thành dựng đứng, vừa dài vừa hẹp. Càng đi sâu vào trong chiều cao của huyệt động càng tăng, không gian hình như đã trở nên rất rộng rãi thoáng đãng, nhưng vẫn tuyền một màu tối đen, chiếu đèn pin vào cũng chẳng thấy gì.

Ban đầu tôi còn tưởng đây là đoạn đường hầm bọn họ cố ý đào cho rộng ra, cái này khi chúng tôi đào đạo động cũng có tìm hiểu, gọi là cáp tử gian (lồng chim câu), thường dùng để tích trữ không khí hoặc để chôn thuốc phiện. Đương nhiên cách thức tạo ra cái lồng chim câu này khá phức tạp, anh đào ra trong lòng đất một không gian đủ lớn cho hai người xoay qua xoay lại, thế mà không hất ra ngoài cửa động chút xíu đất nào, đúng là phải có bí quyết cực kì xảo diệu.

Nhưng khi đèn pin vừa chiếu tới, chúng tôi lập khắc ngẩn người. Hóa ra bài đạo chạy tới chỗ này thì đột nhiên co hẹp, cuối cùng phía trước còn lại một cái khe chỉ vừa một người nghiêng mình lách vào, trông như một nhát kiếm chém bừa đâm sâu vào trong đá núi.

Phan Tử hỏi: “Không phải đây là con đường bí mật để công nhân trốn thoát hay sao? Sao lại biến thành cái khe hở bé tí teo này vậy? Có tiếp tục đi nữa hay thôi đây?”

Hoa Hòa Thượng ngẫm nghĩ một hồi, bỗng dưng nét mặt biến đổi, cứ như vừa ngộ ra điều gì, vội nói: “Tôi nghĩ bài đạo này có thể là lợi dụng những động núi lửa có sẵn. Những động như thế này bên trong tầng nham thạch của núi lửa có rất nhiều, bốn phía thông nhau, động núi lửa dài nhất có thể lên tới mấy ngàn km, đan vào nhau dày đặc dưới lòng đất giống như mạng nhện. Có thể cái khe núi lửa này thông thẳng đến núi Tam Thánh ở phía đối diện, chính vì vậy bọn họ mới có thể đào được một con đường dài đến thế, thì ra là lợi dụng cái thông đạo thiên nhiên sẵn có này.”

Bàn Tử nói: “Không lẽ chúng ta cũng phải chui vào cái khe kia sao? Các người còn có thể chứ tôi to xác thế này thì bó tay rồi.” Ngày trước trong ngôi mộ dưới đáy biển, Bàn Tử đã nói phải giảm cân, nhưng đến bây giờ vẫn chưa bớt được tí mỡ nào, nhìn dáng người của hắn thì quả là chịu chết.

Hoa hòa thượng nói: “Cái này khỏi lo, hầu hết các động núi lửa đều có kết cấu như nhánh cây, những lỗ hổng thế này hẳn đều thông đến khe hở lớn hơn, cái này trong địa chất học gọi là hành lang ngầm. Có hành lang ngầm quy mô rất lớn, bên trong thậm chí còn hình thành nên hệ sinh thái độc đáo của riêng mình, tôi tin đi vào khe hở kia một đoạn sẽ rộng ra thôi, bởi vì dạng ăn mòn địa chất này đều bắt nguồn từ trong lòng đất.”

Hoa hòa thượng đã nói là chỉ có chuẩn, nhưng tôi lại không tin tưởng gã cho lắm. Chẳng qua lúc này cũng không có lí do gì mà phản bác lại lời gã, vì thế mọi người nghỉ ngơi một lát, chỉnh đốn lại trang bị. Lần này Bàn Tử dẫn đầu đoàn chúng tôi tiếp tục bò vào khe hở kia.

Bên trong khe hở tối om om, hơn nữa đèn pin cũng không có tác dụng, bởi vì màu đen này bao trùm lên mọi phương hướng. Ở châu Âu người ta quan niệm mọi khe hở kiểu này đều dẫn đến địa ngục, người Tây Tạng cũng cho rằng huyệt động là địa bàn của ác ma, không nên đi vào. Tôi mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm, nhưng khoảnh khắc chui vào khe hở kia, trái tim tôi vẫn đập thình thịch đầy bất an.

Sau khi từng người một hóp bụng lại để chui vào khe hở, chúng tôi phải bò nghiêng người giống như con cua. Vách động chỗ này đã không còn dấu vết con người đục đẽo, bên trong gần như không thể xoay đầu, nhìn trước mặt đâu đâu cũng là dấu tích hoa văn lưu ly, một lượng lớm nham dung đủ màu tích tụ lại, phủ lên bề mặt nham thạch, bên trên là băng sương kết tinh, như những cột nước ngưng tụ sắp xếp đều đặn.

Hồi còn ở trường kiến trúc, tôi cũng có học về địa chất. Theo trí nhớ mơ hồ của tôi, vách đá trước mặt hẳn là do núi lửa phun trào tạo thành, cũng giống như cái khe núi lửa mà chúng tôi chui vào tránh cơn bão tuyết. Quá trình hình thành của loại địa mạo này không giống những hang núi lửa thông thường: Những khe hở này do núi lửa phun trào trong tích tắc mà thành, sau đó những mảnh vụn núi lửa chảy với tốc độ cực cao sẽ theo đó mà phun ra. Đặc điểm của những cái khe này là rất dài nhưng chỉ có một đường duy nhất, không thể hình thành một hệ thống hang núi lửa giống như mê cung được.

Đoạn đầu khe hở rất hẹp, chúng tôi đành phải học theo những động tác Break Dance (1) mà di chuyển, chưa nổi mười lăm phút người đã đau nhức rã rời. Thầm nghĩ những công nhân bỏ trốn năm đó, lúc đi ra cũng không dễ dàng gì. Tuy nhiên đi thêm một lúc thì khe hở quả nhiên đã nới rộng ra như lời Hoa hòa thượng nói, cuối cùng cũng có thể xoay thẳng người mà đi.

Bên trong khe hở chỉ thuần một màu tối đen nhưng bốn phía đều có ngọc lưu ly cùng với đá vân mẫu hòa tan phản xạ lại ánh đèn pin của chúng tôi, sinh ra một thứ hiệu ứng ánh sáng huyền ảo, thêm vào đó là phần lớn diện tích khe núi lửa bao phủ một lớp nhũ đá, măng đá, dung nham đông lạnh hình thừng, đẹp đẽ vô cùng, làm chúng tôi hoa cả mắt.

Đi sâu vào trong, chúng tôi dần dần phát hiện vài dấu vết cho thấy từng có người hoạt động, ví dụ như những dụng cụ sắt rỉ sét bị vứt lại, tàn tích của đống lửa, tất cả đều rất xa xưa.

Dọc đường đi, chúng tôi không đụng phải thứ quái đản nào. Bên trong khe hở cực kì sạch sẽ, đi khoảng sáu tiếng đồng hồ, chúng tôi đã tới hành lang ngầm đúng như lời Hoa hòa thượng nói, đến đây khe hở đã trở nên vô cùng rộng rãi.

Đến đoạn này của khe hở, tôi lại phát hiện rất nhiếu dấu vết tu tạo của con người. Một bên vách đá của cái khe được đục đẽo thành nhiều bậc thang đơn giản, hướng thẳng lên trên. Tuy gọi là bậc thang nhưng thật ra chỉ là mấy mỏm đá hơi nhô ra ngoài, chân to cỡ như Bàn Tử mà bước lên chỉ sợ được vài bước đã chóng mặt.

Mọi người dừng lại nghỉ ngơi một chốc, tôi nhẩm tính quãng đường chúng tôi đi được và độ dốc của khe, từ đó phát hiện ra vị trí mình đang đứng đã thấp hơn cả ranh giới tuyết, có lẽ là ngay bên dưới cái khe giữa hai ngọn núi. Nếu di chuyển trên mặt đất, dù chỉ đi đường thẳng cũng phải mất ít nhất tám giờ mới vượt qua khoảng cách giữa hai ngọn núi. Hiện giờ chúng tôi di chuyển dưới lòng đất nên tiết kiệm được kha khá thời gian, đồn biên phòng ở trên kia mà biết có một cái hành lang như thế chạy dưới lòng đất hẳn sẽ phải ngạc nhiên lắm.

Đã đi đến đây rồi, nếu cứ đi mãi đi mãi tới tận cuối cái khe nứt này, có thể chúng tôi sẽ vào đến tâm trái đất. Những bậc thang thô sơ kia xem ra đã nói rõ đường hầm này đã đến đoạn thứ hai, sau bậc thang cuối cùng có lẽ chính là địa cung thần bí của Vân Đỉnh thiên cung kia.

Mới nghỉ ngơi một lát, mấy người đã kiềm lòng không nổi, vì thế lại lập tức lên đường, tuy nhiên từ giờ trở đi con đường sẽ không còn thuận lợi như trước nữa.

Chúng tôi lấy dây thừng buộc mọi người lại với nhau, sau đó ra sức bám chặt vào vách đá, giẫm lên cái “thang đá” rồi cứ leo lên từng chút một. Ban đầu còn thấy ổn, nhưng leo đến một độ cao nhất định, bỗng có cảm giác mình giống như một vận động viên leo núi nhưng lại không hề có kinh nghiệm leo núi. Tình huống này, khỏi nói cũng biết chật vật đến thế nào.

Chân Bàn Tử hơi quá khổ, hắn giẫm lên bậc thang mà cứ như đi cà kheo, vừa đi được vài bước chân đã bắt đầu phát run, tôi còn thấy hắn ra sức niệm “A di đà Phật” nữa.

May mà chúng tôi đi rất cẩn thận, giống như cô gái ngồi thêu thùa may vá, cứ nhích lên phía trên từng chút một. Chẳng mấy chốc bên dưới đã là vực sâu đen ngòm, không thể ước lượng được khoảng cách bởi nhìn xuống sẽ choáng váng mặt mày. Nếu không phải vừa rồi chúng tôi từ dưới đó leo lên, tôi nhất định đã nghĩ nó thông xuống địa ngục.

Đi thêm mấy giờ, chúng tôi leo càng lúc càng cao, cuối cùng đã không thể phán đoán xem mình đang ở chỗ nào, cũng không thể ước lượng được thời gian, mọi người đều rơi vào trạng thái mù mịt. Nhưng không ai nói muốn nghỉ ngơi cả, không biết là do bản tính tham lam trời sinh của dân trộm mộ hay là vì ở vào hoàn cảnh này không thể nghỉ ngơi được. Anh hãy thử tưởng tượng một chân anh giẫm lên miếng đá to bằng bàn tay, một chân lơ lửng giữa không trung, bên dưới là vách đá cao vạn trượng, thế thì nghỉ ngơi sao nổi?

Leo thêm một lúc, bỗng xung quanh truyền đến tiếng nước chảy. Soi đèn pin sang thì hóa ra là có vài lạch suối chảy xuôi theo vách đá, lớn nhỏ không đều. Nhìn hơi nước bốc lên, tôi biết đó là suối nước nóng. Con suối không biết bắt nguồn từ đâu mà tiếng nước chảy khá lớn, hình như gần đây có mạch nước ngầm hoạt động.

Bàn Tử nói hắn muốn đi rửa mặt một cái cho tỉnh người, suối nước nóng gần nhất chỉ cách hắn có một cánh tay. Kỳ thực chúng tôi lên đến đây cũng đã mệt mỏi rã rời, hơn nữa lần trước cũng từng nghỉ lại bên suối nước nóng, cho nên ai nấy đều muốn dừng chân nghỉ ngơi một lát. Nhưng Thuận Tử lại lắc đầu nói: “Không được!” rồi chỉ vào nham thạch bên cạnh suối nước nóng. chúng tôi nhìn theo hướng tay hắn chỉ, mới đầu không phát hiện gì cả, nhưng nhìn kỹ lại thì phát rùng mình.

Chỉ thấy trên vách nham thạch kế bên suối nước nóng có rất nhiều những đường vân kỳ quái, ban đầu cứ ngỡ là vân núi lửa, nhưng nhìn kỹ lại thì lông tơ dựng đứng cả lên. Hóa ra đó không phải vân đá, mà là một con du diên to cỡ cánh tay đang bám bên trên. Con du diên này có màu sắc giống hệt đá lưu ly núi lửa xung quanh, không nhìn kĩ thì không tài nào nhận ra được. Chúng tôi nhìn quanh quất mới phát hiện trên mặt đá bò đầy thứ này, nhưng chúng không hề nhúc nhích, hình như đã chết cả.

Chúng tôi chết lặng cả đi, Bàn Tử khẽ hỏi: “Sao lại thế này? Sao chúng ta lại đi vào tổ sâu?”

Thuận Tử thì thào đáp lại: “Sinh vật sống rên núi tuyết thông thường đều tập trung bên suối nước nóng, cho nên nhìn thấy suối nước nóng thì đừng vội nghĩ đến chuyện lội xuống thư giãn, có suối nước nóng bên trong toàn là đỉa nữa cơ. Nhưng nhiệt độ bây giờ vẫn còn rất lạnh, mấy thứ này đang ở trong trạng thái chết giả, nếu không có kích thích quá mạnh thì chúng không tỉnh lại đâu. Chúng ta phải đi mau, qua đoạn này là an toàn.”

Mọi người lập tức đẩy nhanh tốc độ. Bàn Tử nhón chân, vừa đi vừa hỏi: “Kích thích quá mạnh là cái gì?”

Lời nói còn chưa dứt, Thuận Tử đột nhiên khoát tay, bảo chúng tôi đừng ai nhúc nhích.

Chúng tôi không biết lại xảy ra chuyện gì, lập tức đứng bất động như tượng gỗ. Cả đám nhìn chằm chằm vào Thuận Tử, nhưng Thuận Tử lại nhìn xuống vực sâu đen ngòm bên dưới.

Im lặng một hồi, chúng tôi dần dần nghe thấy những âm thanh lao xao khiến người ta sợ hãi, tựa như có vô số bàn chân đang ma sát vào vách nham thạch, nhắm thẳng về phía chúng tôi.

“Tắt đèn pin.” Thuận Tử khẽ thì thào.

Chúng tôi lập tức làm theo, quay đầu nhìn lại. Bỏ mợ, gần như toàn bộ vách đá xung quanh, nhìn hút tầm mắt đều là những đốm sáng xanh lục âm u lớn có nhỏ có, chi chít như một biển sao. Trong bóng tối nơi này, giữa ngàn vạn đốm sáng huyền ảo như ma thuật, chúng tôi có cảm giác như mình đang đứng giữa vô vàn tinh tú trong vũ trụ, cảnh tượng hoành tráng không lời nào tả xiết.

Nhưng cúi đầu nhìn xuống mới thấy cảnh tượng xung quanh mình vẫn chưa là gì cả. Giữa màu đen hư ảo dưới đáy vực sâu thăm thẳm kia là một dải ngân hà xanh biếc uốn lượn, giống như những viên phỉ thúy lộng lẫy đính trên tấm màn sân khấu đen tuyền, xuyên qua màn đêm vô tận, trải dài từ nơi bắt đầu cho đến điểm cuối của bầu trời.

*Ngờ là bạn Tà học văn bằng 2 sư phạm văn hoặc báo chí, không thì đào đâu ra lắm văn vẻ thế này…*

Tôi há hốc miệng, không tin nổi vào cảnh tượng trước mắt mình: Số lượng du diên dưới kia dễ phải đến hàng tỉ con.

Đúng vào lúc chúng tôi bị cảnh tượng tráng lệ này làm cho choáng váng, cứ ngỡ mình lạc vào cõi tiên thì bỗng dưng giữa những đốm sáng kia lóe ra vài điểm sáng huỳnh quang màu đỏ cực lớn. Những điểm sáng đỏ kia vặn vẹo di chuyển giữa biển sao, một loáng sau lại biến mất trong bóng đêm. Hiển nhiên trong đám du diên dưới kia, có một số con kích thước không hề nhỏ.
 
Quyển 4 - Chương 29: Miệng núi lửa


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trong bóng tối truyền đến tiếng của Thuận Tử: “Giống trùng này ở chỗ chúng tôi được tôn làm thần để cúng bái, bởi vì chúng có thể sống rất lâu. Hơn nữa khi một con du diên chết đi, xác của nó sẽ hấp dẫn vô số con khác tìm đến, vậy nên khi di chuyển chúng ta phải đặc biệt cẩn thận, tuyệt đối không được giẫm lên chúng.”

Nói rồi hắn bật đèn pin lên. Đèn vừa sáng, biển sao xanh biếc xung quanh lập tức biến mất, không gian lại trở về với một màu đen vô tận.

Màu sắc ngụy trang của mấy con du diên này đúng là quá lợi hại, nếu chúng tôi không tắt đèn pin đi thì không tài nào phát hiện ra. Tôi bất giác rùng mình sợ hãi, nếu lúc nãy bò qua chỗ kia mình không may dẫm chết một con thì e là đã chết ở đây rồi, đấy là còn chưa kể đến chuyện mắc ói.

Chúng tôi ổn định lại tinh thần, tiếp tục lần theo từng bậc thang đá, chầm chậm tiến lên. Cẩn thận bò qua khu vực suối nước nóng một đoạn, du diên giả làm vân đá đã giảm bớt, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Đúng như lời Thuận Tử nói, những hệ sinh thái ở vùng núi tuyết đều tụ tập xung quanh suối nước nóng.

Có điều cảnh tượng vừa rồi quả thực vô cùng tráng lệ, nếu có cơ hội, tôi rất muốn xem lại thêm vài lần. Thật khó mà tưởng tượng những con trùng xấu xấu bẩn bẩn thế kia lại có thể tạo nên một cảnh tượng tuyệt đẹp đến vậy, thế giới này đúng là hết sức kì lạ.

Đã không còn du diên giả làm vân đá nữa, tốc độ của chúng tôi cũng được đẩy nhanh hơn. Nhưng màn đêm phía trên dường như là vô cùng vô tận, không biết đến đời nào chúng tôi mới tới cửa ra, thoát khỏi cái bài đạo tự nhiên này.

Bàn Tử vừa bò vừa hỏi: “Phải rồi, lão gia, tôi có chuyện này muốn hỏi ông. Lúc ở nhà ga kia ông có nói vài lời với chúng tôi, còn nói cái gì mà Cửu Long đài thi nữa là sao ta? Từ đó đến giờ tôi vẫn để ý nghe nhưng không thấy ông nhắc gì đến nữa?”

Trần Bì A Tứ dừng lại ngó hắn một cái, đoạn lại liếc sang Hoa hòa thượng ý bảo gã nói. Hoa hòa thượng liền giải thích: “Chúng tôi cũng không biết gì cả, tất cả tin tức chúng tôi có được đều lấy từ con cá đồng kia. Cửu Long đài thi có thể là một nghi thức mai táng đã thất truyền, theo văn tự kia ghi lại, có lẽ ý nó muốn nói quan tài của Vạn Nô hoàng đế do chín con rồng khiêng. Chín con rồng này ngày đêm canh gác thi thể của lão, dẫu là ai cũng không thể tới gần. Nhưng ngôn ngữ của tộc Nữ Chân đã thất truyền, những chữ tôi dịch ra, cũng không rõ có mang ý nghĩa như thế hay không.”

Tiếp đó gã tụng nguyên văn cho chúng tôi nghe một lần. Tiếng của người Nữ Chân đúng là rất lạ, tôi căng tai lên nghe mà vẫn chẳng hiểu gì.

“Ể, nếu những chữ khắc trên con cá này là thật, chẳng phải chúng ta muốn mở quan tài của Vạn Nô hoàng đế thì trước hết sẽ phải học theo Na Tra đại chiến Tam thái tử Long vương?” Diệp Thành bắt đầu nói giỡn.

“Anh đừng có nói nhảm. Tôi thấy Cửu Long đài thi quan này, đại khái chỉ là một cỗ quan tài dưới đáy khắc hình chín con rồng thôi.” Bàn Tử tiếp. “Nếu là rồng thật thì chúng ta đã giàu to rồi. Cứ tóm đại một con mang về, thả vào trong cố cung, đảm bảo người ta sẽ đua nhau kéo đến coi, lúc ấy chỉ việc ngồi chơi thu vé vào cửa cũng được vài vạn.”

Tôi cũng góp lời: “Cậu đúng là không khá lên được, chưa gì đã nghĩ đến tiền. Nếu cậu bắt được rồng thật thì chính là Tôn đại thánh rồi, nhưng xưa nay tôi chưa thấy Tôn đại thánh nào có dáng người như cậu cả.”

Bàn Tử nghe thế thì giận dữ mắng: “Béo thì đã làm sao? Bàn gia ta lên trời xuống biển đều nhờ vào thân hình mập mạp thần thánh này đây. Lay một cái phong vân đổi sắc, lắc một hồi núi chuyển đất rung..- Á!”

Bàn Tử còn chưa nói hết câu, chợt một trận gió lớn từ bên kia vách đá thổi tới. Gió mạnh suýt nữa đã xô hắn ngã xuống, may mà tôi nhanh tay tóm được, đẩy hắn áp sát vào vách đá. (vừa chém gió phát là gió từ đây thổi đến ào ào luôn =)))) Quay đầu lại thì thấy hóa ra mình đã đi hết khe hở, bậc thang đá đã đến điểm tận cùng. Lại vòng trở về, bên ngoài dường như là một không gian rất rộng nhưng vẫn tối đen một màu, chẳng nhìn rõ được gì.

Tới rồi! Trong lòng tôi trào lên một cơn kích động.

Mọi người không ai nói gì, che đầu dựa sát người vào vách núi. Nơi ấy có một mỏm đá nhô ra, chúng tôi đều leo lên đó. Hoa hòa thượng đi trước đốt một cây pháo lạnh, soi bốn vùng quanh, nhưng ngoại trừ vách đá chúng tôi đang đứng thì không chiếu được thứ gì ở đằng trước nữa.

Tiếp đó gã ném cây pháo lạnh xuống dưới vách đá, cây pháo rơi thẳng xuống, loáng cái đã chỉ còn một đốm sáng le lói, càng rơi càng nhỏ dần nhỏ dần, đến khi tiếp đất đã không thấy tăm hơi đâu nữa.

Chúng tôi không khỏi líu lưỡi, phía trước rốt cuộc là nơi nào? Sao lại giống một cái lòng chảo cực lớn bị vách núi bốn phía bao quanh thế này?

“Pháo sáng” Trần Bì A Tứ nói ngắn gọn.

“Đùng!” một tiếng, lập tức pháo sáng kéo thành một đường cong dài xuyên qua bóng tối trước mặt, tựa như một vệt sao băng. Bay được khoảng160, 170 mét nó mới bắt đầu rơi xuống, sau đó một quả cầu trắng lóa mắt chợt bùng lên, ánh sáng tức thì soi tỏ cả không gian tối đen trước mặt.

Tôi đang định giơ ống nhòm lên xem nhưng mới đưa tay lên nửa chừng đã ngây người. Trong khoảnh khắc ấy mọi thanh âm dường như câm lặng, thời gian dường như cũng ngưng đọng lại.

Dưới luồng ánh sáng trắng từ trên cao rọi xuống, một miệng núi lửa vĩ đại đường kính ít nhất 3 km hiện ra trước mắt chúng tôi. Những khối đá basalt xám cỡ bự hình thành nên một bồn địa thật lớn, giống như một cái bát bằng đá khổng lồ, so ra đoàn chúng tôi chỉ như những con kiến nhỏ bé đậu trên miệng bát, lạc lõng vô cùng.

“Không thể tưởng được cái khe kia lại dẫn vào trong lòng núi lửa.” Tiếng người nào đó vang lên bên tai, nhưng tôi đã không thể nhận ra người này là ai nữa, trong đầu chỉ còn lại cảnh tượng hùng vĩ trước mắt.

Nếu như Cửu đầu xà bách hay cây Thanh đồng chỉ cho tôi cảm giác giống như kì tích thì cái miệng núi lửa hình lòng chảo ẩn trong lòng đất kia quả thực chính là thần tích.

Bên trong bồn địa được bao phủ bởi vô vàn cây cối đã chết, hiển nhiên miệng núi lửa này đã từng lộ ra ngoài không khí. Nơi này ban đầu vốn là một “rừng rậm trong lòng đất”, về sau có thể là do núi lửa phun trào hoặc núi lửa đột nhiên hoạt động nên cây cối nơi này đều lưu hóa mà chết cả, đến giờ chỉ còn lại dấu vết của khu rừng vẫn đứng sừng sững giữa bồn địa này.

“Nhìn chỗ đó kìa!” Lại tiếp tục có người kêu lên mà tôi vẫn không nhận ra là ai. Tiếp đó là hai phát đạn tín hiệu bắn ra, bay về phía miệng núi lửa.

Dưới cường độ ánh sáng đã được gia tăng thêm, chúng tôi thấy một quần thể kiến trúc rộng lớn nằm sâu trong trung tâm rừng cây ngầm giữa bồn địa núi lửa. Quần thể kiến trúc này khuất sau một bức tường đá màu đen cực lớn, không sao nhìn rõ được toàn cảnh.

Chẳng lẽ kia chính là đích đến chuyến đi này của chúng tôi, lăng tẩm muôn đời của Vạn Nô hoàng đế? Địa cung của Vân Đỉnh thiên cung lại nằm trong miệng núi lửa sao?

Quần thể kiến trúc này có quy mô cực kì lớn, vượt xa tưởng tượng của tôi. Nếu bên dưới những kiến trúc này thực sự là địa cung thì có lẽ quy mô của nó có thể so sánh với lăng mộ Tần Thủy Hoàng.

Dựa theo cảnh tượng vẽ trong bức tranh dưới hải mộ, Vân Đỉnh thiên cung thực sự lẽ ra phải ở trên đầu chúng tôi. Về sau qua trận tuyết lở đó, linh cung phía trên nhiều khả năng đã bị đè sụp hoàn toàn, không biết trên đỉnh đầu chúng tôi rốt cuộc có bao nhiêu tầng tuyết đọng mới có thể lấp kín địa cung này?

Đạn tín hiệu bắn ra lại một lần nữa vụt tắt trong bóng tối, bóng đêm lại bao trùm lên tất cả, chỉ còn mấy ngọn đèn pin sắp hết điện trên tay chúng tôi là phát ra ánh sáng.

Ngoại trừ Thuận Tử, trên mặt những người còn lại đều mang một vẻ hưng phấn cuồng loạn. Trộm mộ thể hiện một loại dục vọng nguyên thủy bậc nhất của con người, đó là liều cả mạng sống mong phát tài. Loại kích thích này, e là ai cũng không thể cưỡng lại được.

Ước chừng phải mất mười phút, chúng tôi mới trở về trạng thái bình thường, ngay lập tức chuẩn bị leo xuống. Trần Bì A Tứ nói với Hoa hòa thượng: “Vứt lại những thứ vô dụng, chuẩn bị dây thừng, chúng ta trang bị gọn nhẹ xuất trận.”

Hoa hòa thượng lập tức bắt tay vào làm. Chúng tôi chỉnh đốn lại trang bị, vứt lại hết những thứ vướng víu thiết trên mỏm đá này cho đỡ nặng kẻo mang theo lại sinh ra nguy hiểm không cần thiết.

Tiếp theo chúng tôi đều đeo mặt nạ phòng độc, sau đó xếp thành đội hình leo úi chuẩn, dùng dây thừng tử từ leo xuống theo vách núi.

Bên dưới là hàng loạt cây cối đã chết, không khí tràn ngập thứ mùi kì quái, dù đã đeo mặt nạ phòng độc vẫn không sao ngăn được hết. Mọi người leo xuống đến nơi thì chợt nghe Phan Tử nói: “Nơi này là cái hố tử vong, chúng ta phải nhanh chân lên, chần chừ lâu có thể thiếu dưỡng khí mà chết. Hồi tôi còn trong quân ngũ từng nghe nói những nơi thế này chim bay qua cũng không thoát.”

Đó là do núi lửa hoạt động sinh ra chất khí chứa lưu huỳnh, độc tính cực mạnh, khó mà tưởng tượng nổi.

Hoa hòa thượng lại châm một cây pháo lạnh có cường độ ánh sáng lớn, chiếu sáng cảnh vật bốn phía. Chúng tôi nhìn quanh một vòng, thấy dưới chân là con đường lát đá phiến rộng cỡ hai xe đi vừa, gần như hướng thẳng về phía trước. Đây là thần đạo dẫn thẳng tới cửa chính của lăng mộ, từ chỗ này có thể thấy loáng thoáng một cái bóng màu đen thật lớn nơi cuối con đường.

Hoa hòa thượng hỏi Trần Bì A Tứ: “Chúng ta đi thế nào bây giờ?”

“Cứ theo thần đạo, tiến thẳng tới hoàng lăng rồi tính sau.” Trần Bì A Tứ trả lời.

Chúng tôi đều không có kinh nghiệm đối phó với hoàng lăng, lúc này cũng không có cách nào khác, vì thế không nói lời thừa, nhất nhất theo sau, chậm chạp tiến thẳng vào.

Leo qua rất nhiều cây chết nằm vắt ngang thần đạo, chúng tôi nhanh chóng đến trước một cánh cửa đá. Tảng đá này rất cao, trông khá giống với miếu thờ trong mấy ngôi làng cổ. Đây là cánh cửa đá đầu tiên của hoàng lăng, gọi là Thiên môn. Qua cánh cửa này rồi, hai bên thần đạo sẽ xuất hiện rất nhiều tảng đá điêu khắc.

Khi đi qua cửa đá, Trần Bì A Tứ nói: “Lúc ra nhớ phải đi giật lùi, chớ có đi nhầm vào Đoạn đầu môn (cửa đoạt mạng).

Trong bút kí của ông nội tôi cũng lưu ý đến điều này: Cánh cửa đá đầu tiên này có nguồn gốc rất quỷ dị. Mặt trước cánh cửa này chính là nơi tàn sát đội ngũ khiêng quan tài và hộ tống linh cữu, sau khi hoàn thành lễ nhập liệm, những người này đi ra cửa sẽ phải chịu một nhát đao đoạt mạng, thế nên cánh cửa này cũng giống như Âm dương môn. Kẻ trộm mộ nếu vào theo thần đạo hoặc là tiến vào địa cung theo cánh cửa lớn đầu tiên thì đến khi trở ra nhất định phải đi giật lùi, bằng không sẽ rất phiền toái.

Đương nhiên cũng không nhiều thổ phu tử có cơ hội theo thần đạo tiến vào hoàng lăng, chúng tôi có thể coi là một trong số rất ít những kẻ may mắn đó. Xưa nay những kẻ có thể đào được hoàng lăng không phải quân phiệt thì cũng là kiêu hùng, bọn họ đương nhiên không sợ cái gọi là Đoạn đầu môn rồi.

Qua được Thiên môn, hai bên thần đạo cứ cách năm mét lại đặt một tượng người hoặc ngựa bằng đá trắng. Chúng tôi không phải dân khảo cổ, vả lại mấy thứ này cũng không mang theo được nên cứ một mạch tiến thẳng phía trước, chẳng thèm liếc mắt lấy một cái.

Đang đi, bỗng Bàn Tử đi trước tôi dừng lại. Tôi bám theo ngay sau lưng hắn, bị đụng một cái tóe lửa, ngã lăn ra đất.

Lần này thật sự bất ngờ, Bàn Tử bị tôi đụng phải cũng suýt nữa ngã bổ nhào. Tôi vội hỏi hắn làm sao thế?

Bàn Tử quay đầu nhìn lại, mặt tái đi, thì thào: “Hình như bên đường có người đang đứng.”

Mấy người phía trước phát hiện chúng tôi dừng lại thì cũng vòng trở về, Phan Tử hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Bàn Tử kể lại thứ hắn vừa nhìn thấy, mấy người kia đều có vẻ ngờ vực, Phan Tử nói: “Là tảng đá hình người thôi, chắc cậu nhìn lầm rồi.”

Bàn Tử lắc đầu: “Nhoáng cái đã biến mất rồi, tôi còn chưa kịp phản ứng. Anh xem cả người tôi mướt mồ hôi lạnh, hẳn là không nhìn lầm.”

“Có nhìn rõ không đấy?”

“Hình như là một phụ nữ, tôi cũng không dám chắc.” Bàn Tử nói: “Nó chạy nhanh quá, tôi không nhìn rõ.”

Chúng tôi cầm đèn pin chiếu vào mấy tảng đá hình người phía sau. Cứ cách năm mét lại có một tảng, vừa nãy loáng cái đã đi qua sáu bảy tảng, trong phạm vi đèn pin có thể chiếu đến không phát hiện người phụ nữ mà Bàn Tử nói, có lẽ là ở xa hơn.

Hoa Hòa Thượng hỏi: “Lão gia, mình có quay lại xem sao không? Nói không chừng chính là cô ả trong nhóm người kia ?”

Người Hoa hòa thượng nói đến chính là A Ninh, tôi thầm nhủ làm sao có thể. Bọn họ đi từ cửa chính Vân Đỉnh thiên cung, cho dù có vượt qua các tuyến biên phòng thành công thì bây giờ cũng đang mải miết đào đạo động trên đỉnh đầu, tuyệt không thể nhanh bằng chúng tôi được.

Bàn Tử cũng nói: “Chắc chắn không phải, nếu là ả đàn bà kia thì chắc chắn ông liếc mắt một cái là nhận ra.”

Trần Bì A Tứ do dự một hồi rồi quay sang Hoa hòa thượng: “Ngươi hãy đi trước cùng mấy người khác.” sau đó quay sang vỗ vai Thuận Tử: “Ngươi theo ta đi kiểm tra xem sao.”
 
Quyển 4 - Chương 30: Môn điện


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Thuận Tử nghe vậy thì ngẩn người, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Không chỉ có hắn, những người khác cũng ngây ra mất một lúc, không biết Trần Bì A Tứ tính sao.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi thậm chí còn nghĩ Trần Bì A Tứ muốn chia rẽ chúng tôi rồi giết Thuận Tử diệt khẩu, nhưng ngẫm lại thì thấy không đúng. Thứ nhất lão đã hơn chín mươi, muốn giết một quân nhân xuất ngũ tuổi tráng niên, cho dù đánh lén cũng chưa chắc thuận lợi. Thứ nữa, trên đường về chúng tôi vẫn phải dựa vào Thuận Tử, cho nên lão sẽ không vội mượn cơ hội này giết hắn diệt khẩu.

Tôi không hiểu hành động này của Trần Bì A Tứ cho lắm, vì thế vỗ Thuận Tử một cái ý bảo hắn đề phòng. Không biết Thuận Tử có nhận ra hay không, cũng liếc tôi một cái rồi đi theo Trần Bì A Tứ.

Chúng tôi lập tức quay đầu, men theo thần đạo tiếp tục tiến về phía trước. May mà trang bị trên người đã bỏ lại khá nhiều, bằng không vận động với cường độ này, chỉ e không ai có thể trụ nổi.

Thần đạo này dẫn tới tất cả sáu cánh cửa đá, đây chính là lục đạo luân hồi (*) trong Phật giáo của người Hán. Nhưng người Nữ Chân lại thờ phụng Tát Mãn, có thể thấy khắp nơi đều lưu lại dấu vết chứng tỏ công trình này là do người Hán thiết kế.

(*) Phật giáo quan niệm rằng các kiếp sống của chúng sinh luôn xoay vần trong 6 con đường Thiên (tiên), Atula (thần), Nhân, Địa ngục, Ngạ quỷ (quỷ đói), Súc sinh (loài vật), gọi là lục đạo luân hồi. Chúng sinh phàm tục sinh ra từ một trong sáu đạo, chết đi lại quay về với sáu đạo, tùy công quả tích trong kiếp trước mà chọn đạo chuyển thế cho kiếp sau, nhưng vĩnh viễn cũng không thoát khỏi vòng luân hồi này. Chỉ có một con đường duy nhất giúp chúng sinh thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó là tu hành và giác ngộ.

Tôi chạy như bay, đã bắt đầu có cảm giác chóng mặt, những chỗ da trần bắt đầu ngứa ngáy, có thể thấy không khí xung quanh thực sự có vấn đề.

Bất tri bất giác, quầng sáng của đèn pin đã chiếu tới những mái hiên mục nát và tường đổ màu đen. Chúng tôi nhanh chóng đi tới tế đàn ở cuối thần đạo; vượt qua tế đàn, đi hết sáu mươi bậc thang đổ nát là đến cửa chính hoàng lăng.

Trong quan niệm về mộ táng truyền thống, lăng và mộ thường được gộp làm một, thật ra lăng và mộ là hai loại hoàn toàn khác nhau. Lăng chính là công trình trên mặt đất dùng làm nơi thờ cúng và tiến hành nghi thức nhập liệm, còn mộ mới chính là địa cung dưới lòng đất.

Lăng và mộ cũng không nhất định phải ở cùng một chỗ, có rất nhiều lăng và mộ cách nhau cả vạn dặm. Ví dụ như lăng của Thành Cát Tư Hãn được đặt ở chính giữa thảo nguyên Ordos của Mông Cổ, nhưng quan tài trong lăng chỉ có cọng lông lạc đà chứa linh hồn của Thành Cát Tư Hãn, còn thi thể và đồ bồi táng của ổng được giấu nơi nào trong thảo nguyên thì không ai biết được.

Vân Đỉnh thiên cung này cũng dùng kết cấu ba tầng. Cung điện chúng tôi nhìn thấy trong bức tranh dưới hải mộ lần trước chỉ là linh cung mang tính tượng trưng, cùng với hoàng lăng ngầm và vương mộ sâu trong lòng đất, tạo thành ba nghìn thế giới, tượng trưng cho thân phận biến hóa thần nhân quỷ của Vạn Nô vương.

Phong cách kiến trúc của hoàng lăng rất giống cung điện thời Minh, lúc ở trên vách đá nhìn xuống đã thấy quy mô thật hùng vĩ, hoàng khí bức người. Do công trình sử dụng rất nhiều loại vật liệu đá màu đen này cho nên không những đồ sộ mà còn có vẻ thần bí quỷ dị. Nhưng khi tiến vào lăng cung thì cảm giác này biến mất, trước mắt đâu đâu cũng là cảnh tượng tàn phá tiêu điều, nếu không nhờ một số lâu điện lớn bằng miếu thờ còn đứng vững ở đó thì nhất định chúng tôi sẽ cảm thấy thất vọng.

Không khí trong này không lưu thông, cũng không có gió lớn hay ánh sáng mặt trời, kiến trúc trong này đáng ra phải được bảo tồn rất tốt mới đúng, làm sao lại tàn tạ thành cái dạng này?

Chúng tôi bước lên bậc thềm rộng thênh thang đủ cho mười cỗ xe ngựa phi vào cùng lúc, tiến vào cửa chính của hoàng lăng. Cánh cửa cực lớn dẫn vào lăng đã sớm sụp xuống, ván cửa đóng đầy đinh nằm ngang trên nền đất, chúng tôi bước qua cánh cửa mà cảm giác như nơi này chưa từng có người đặt chân đến.

Đi qua cửa chính là đến môn điện lăng cung. Trong thiên “hoàng lăng” của cuốn Táng thư thời cổ đại, hoàng lăng có bốn đạo long lâu vây quanh bảo điện, xe tiên chín đuôi dẫn đến hoàng tuyền, đây chính là điện thờ thứ nhất bên trong bốn đạo long lâu. Lúc này tôi đã cảm thấy miệng mũi bỏng rát khó chịu, bèn giục mấy người kia đi nhanh lên.

Môn điện rộng chừng hai sân bóng rổ, hai bên là xe ngựa bằng đồng nghênh giá. Ở bức tường phía sau, hai bên đặt hai pho tượng màu đen đã bám bụi. Mặt mũi pho tượng rất dữ tợn, mặt lạnh lùng mắt trợn ngược, có lẽ là đồ đằng Tát Mãn. Cây xà chống phía trên đã sập xuống, mái ngói rơi vỡ la liệt, cũng may nơi này không có mưa, bằng không đã sớm ngập rồi.

Chúng tôi không gặp thứ gì đặc biệt thu hút, đang định băng qua môn điện hướng vào trung tâm hoàng lăng. Mới đi được vài bước, không biết dẫm phải thứ gì mà Bàn Tử đột nhiên trượt chân, kêu “ối” một tiếng rồi ngã chổng vó. Sàn môn điện toàn là ngói vỡ, hắn ngã cú này đúng là dập mông luôn rồi

Tôi lập tức cảm thấy kì quái, mặt sàn thế này nếu vấp ngã còn hiểu được, làm sao có thể trượt ngã? Bản thân Bàn Tử cũng thấy lạ, vừa ôm mông, vừa quay về xem chỗ mình vừa giẫm chân lên.

Chỗ kia chỉ còn lại một vết trượt dài, thứ hắn giẫm phải đã mất tăm. Hắn lần theo dấu vết, lật mấy miếng ngói lên vẫn không thấy gì.

“Không lẽ cậu bị quỷ ngáng chân?” Phan Tử hỏi. Bàn Tử lắc lắc đầu, bỗng ngộ ra điều gì, bèn ngoắc tay ra hiệu cho chúng tôi dừng lại, còn mình thì ngồi xổm xuống, lật ngược một bên giày. Chúng tôi xúm đến xem, thì ra giữa đám đinh dưới đáy chiếc giày leo núi còn mắc kẹt một vỏ đạn.

Mọi người đều biến sắc. Phan Tử cầm lấy vỏ đạn, đưa lên ngửi nhưng nhận ra mình đang đeo mặt nạ phòng độc bèn dùng tay miết miết, nói: “Vẫn còn ấm. Con mẹ nó, mới từ nòng súng bắn ra chưa lâu.”

“Có người đã tới đây trước chúng ta sao?” Tôi sửng sốt, chẳng lẽ đám người A Ninh lại thần thông quảng đại đến thế? Còn nhanh chân hơn cả chúng tôi?

Nhưng vì sao lại nổ súng trong này?

“Châm lửa lên, nhìn xung quanh xem còn có gì nữa?” Phan Tử nói.

Hoa hòa thượng lập tức đốt một cây pháo lạnh, ánh sáng được tăng cường. Chúng tôi xem xét chung quanh, bên trong môn điện là một đống hỗn loạn. Chúng tôi tản nhau ra, rất nhanh đã phát hiện một một chuỗi những lỗ đạn nối nhau chạy từ trên xuống dưới trên một cây cột trụ.

“Xem ra có thứ gì đó bò xuống theo cây cột này, sau đó bọn họ bắn đuổi theo nó từ trên xuống dưới.”

Phan Tử bước tới, nhìn những lỗ đạn, sờ sờ một chút rồi lắc đầu nói: “Không phải, mà ngược lại mới đúng. Xem độ chếch của những lỗ đạn này đi, nòng súng phải hướng lên trên theo cây cột.”

Bàn Tử chiếu đèn pin dọc theo mấy lỗ đạn, dần dần hướng lên trên, cuối cùng đã thấy một cái bóng màu đen treo lủng lẳng trên thanh xà ngang tít trên cao.

Xem tư thế của cái bóng kia thì hẳn là một người đã chết, có lẽ là một người trong đội của A Ninh bởi tôi nhìn thấy một khẩu súng trường K56 treo trên bả vai anh ta, cả người mềm oặt rũ xuống dưới.

Ai nấy đều hoảng hồn, không hiểu người này vì sao lại chết trên xà ngang. Chúng tôi chiếu đèn pin lên, thấy rõ mặt mũi người nọ. Người chết là đàn ông, trên mặt đeo mặt nạ phòng độc cỡ nhỏ (loại này rất hiện đại, vừa nhẹ mà lại vừa hiệu quả hơn so với loại chúng tôi đang dùng. Tôi cũng chỉ nghe nói là có loại mặt nạ phòng độc như vậy, không ngờ hôm nay có dịp nhìn thấy), từ gương mặt mà phán đoán thì anh ta có vẻ là người Slave, không hiểu vì sao lại chết. Đôi mắt anh ta trợn trừng, vì đeo mặt nạ nên tôi không thể nhìn thấy nét mặt.

Thi thể bị một sợi dây gì đó treo lên xà nhà, do khoảng cách khá xa nên không thể nhìn rõ đó có phải dây thừng hay không.

Mấy người định trèo lên xem thế nào thì Phan Tử ngăn lại. Cái chết của người thật kì quái, chắc chắn là có vấn đề. Lúc này Bàn Tử bỗng đập đập tôi, chỉ lên một đoạn xà ngang khác: “Các vị, không phải chỉ có một người.”

Chúng tôi nhìn sang thì thấy trên mặt xà ngang còn có sáu, bảy khối thi thể nữa treo lơ lửng trên xà ngang, giống như quỷ thắt cổ vậy.

Những người này đều mặc trang phục leo núi giống nhau, trên người đều đeo súng trường K56 sản xuất trong nước. Trong lòng tôi không khỏi trào lên cảm giác quái lạ: súng trường K56 có lực sát thương rất mạnh, có thứ này trong tay, bánh tông cũng chịu không nổi mười phát. Vậy thứ gì đã giết chết bọn họ? Hơn nữa, cứ cho là chỗ này đã xảy ra một cuộc đọ súng thì tại sao mấy thi thể này lại đua nhau trèo lên xà ngang mà treo lủng lẳng như vậy?

Càng nghĩ càng thấy quái, nơi này đúng là không nên ở lâu. Tôi gọi mấy người kia, bảo nhanh chóng vượt qua môn điện, nơi này thực tà ma.

Nào ngờ vừa quay đầu đã không thấy Bàn Tử đâu, tôi rọi đèn pin một vòng xung quanh mới phát hiện Bàn Tử không biết từ lúc nào đã trèo lên pho tượng đặt bên cạnh để leo lên xà ngang.

“Anh làm cái quái gì vậy? Xuống mau!” Tôi vội gọi to. Trong tình thế này mà hắn vẫn còn tâm trí leo xà ngang, không biết đầu óc hắn phát triển có bình thường không nữa.

Bàn Tử không thèm đếm xỉa đến lời tôi, vẫn cứ mải miết leo, chỉ vài bước đã lên đến xà ngang rồi quay đầu xuống nói: “Sợ cái gì? Bàn gia đây cũng không phải trẻ lên ba, nếu thấy có gì nguy hiểm tôi khắc biết đường leo xuống.” Nói rồi tiếp tục lần theo xà ngang leo đến bên khối thi thể gần hắn nhất.

Tôi bỗng chốc bừng tỉnh, hiểu ra Bàn Tử hẳn là muốn lấy khẩu súng trường K56 kia. Trong tay hắn không có súng, trên đường đi đã không được thoải mái, giờ nhìn thấy khẩu súng ngon lành thế kia hỏi sao không phấn khởi cho được. Tôi cũng quen với cái thói vô tổ chức, vô kỉ luật của hắn, giờ có cáu lên cũng không làm gì được.

Bàn Tử cẩn thận nhích từng bước, thân thể hắn rất nặng khiến tầng mái ngói trên trần môn điện chấn động theo từng bước chân, phát ra thứ âm thanh khiến người ta phải lo lắng, đồng thời kéo theo một đống gỗ vụn từ trên đầu rớt xuống như mưa. Chúng tôi theo phản xạ đều lui lại phía sau, sợ cả Bàn Tử giẫm sụp toàn bộ mái ngói trên đỉnh đầu.

Phan Tử tát tét một cái lên người, mắng: “Tổ sư, anh kiềm chế một chút cho tôi nhờ, đợi thêm lát nữa không chừng chúng tôi đều bị anh vạ lây.”

Bàn Tử làm một động tác ý là “Thật có lỗi”, rồi lại sải bước tiến lại gần khối thi thể. Việc đầu tiên hắn làm là lấy khẩu súng trường K56 trên cái xác, cầm vững rồi lập tức mở ra kiểm tra hộp đạn, sau đó từ trên cao ném xuống cho Phan Tử. Sau đó lại lấy hết đạn trên người cái xác, đeo lên người mình, cuối cùng mới nhìn đến cái xác.

Tôi thấy Bàn Tử cẩn thận gỡ cái mặt nạ phòng độc ra khỏi cái xác. Bên dưới mặt nạ lộ ra khuôn mặt của một người nước ngoài ở độ tuổi trung niên, ngũ quan vặn vẹo xanh lét, miệng há to lạ thường, dường như lúc chết còn đang kêu to. Hẳn là cái chết đã đến trong nháy mắt, cho nên biểu cảm khi chết của anh ta mới đọng lại rõ ràng đến thế.

Tôi thấy cái xác xanh lét mặt mày, vội vã kêu to: “Đừng chạm vào hắn, nhìn sắc mặt hắn chắc là chết vì trúng độc.”

Bàn Tử gật đầu, đeo bao tay vào, sau đó nhìn sợi “dây thừng” treo khối thi thể. Những người này chắc chắn không tự treo mình lơ lửng trên này, những sợi dây thừng kia là sao? Chúng tôi đều háo hức muốn biết.

Nhưng Bàn Tử vừa nhìn thoáng qua, sắc mặt đã tràn đầy vẻ nghi hoặc.

Tôi hỏi: “Có phát hiện gì không?”

Bàn Tử nói: “Đây,… cái đệt… hình như là tóc…”

“Tóc á?” Tôi nghi hoặc hỏi lại.

Bàn Tử gật đầu, nói tiếp: “Lại còn dài ngoằng nữa, chẳng lẽ mấy người này đều là đàn bà?” Bàn Tử nâng thi thể lên một chút. “Không phải… Thứ này chui ra từ trong cổ hắn, không phải là tóc. Mẹ kiếp, chẳng lẽ là lông nách? Gã tây này cũng thật lợi hại, lông nách mà dài cỡ này.”

Nói rồi hắn rút con dao găm, định cắt ‘tóc’ của người chết kia, thả cái xác xuống cho tôi xem. Nhưng hắn đã cắt đến hai nhát mà ‘tóc’ kia vẫn chưa thèm đứt, có vẻ rất chắc chắn. Bàn Tử lại lôi bật lửa ra, định đốt ‘tóc’.

Tôi nghĩ bụng cái thi thể này có quái gì mà xem, liền gọi với lên: “Thôi lạy bố, con không có hứng ngắm thi thể. Bố mau mau xuống đây cho con nhờ, đừng táy máy nữa, nhỡ ra có độc lại phiền.”

Bàn Tử nghĩ cũng chột dạ, cất cái bật lửa rồi trả lời: “Đợi chút nữa, tôi xuống ngay đây, xuống ngay đây.” Nói rồi lại bò về phía một khối thi thể khác, xem ra hắn không định buông tha khẩu súng nào.

Tôi thấy mấy khối thi thể này cũng không có gì nguy hiểm nên không cản hắn nữa. Hắn vẫn làm như cũ, tới gần thi thể đầu tiên là lấy súng rồi ném xuống cho tôi, sau đó lấy hết băng đạn trên người nó. Đúng lúc đó, tôi tình cờ liếc qua cánh tay của thi thể kia, bỗng giật nảy cả mình.

Đầu óc căng ra, tôi bất chợt cảm thấy có gì không phải. Bàn Tử đang định gỡ mặt nạ phòng độc xuống, tôi vội kêu to: “Từ từ đã, người này hình như còn sống! Đừng gỡ mặt nạ ra!”

Bàn Tử “Hả?” một tiếng. “Thật à?” Nói rồi đưa tay thăm dò mạch đập của thi thể. Sắc mặt hắn biến đổi, luống cuống lôi bật lửa đốt một đoạn ‘tóc’ phía trên, thi thể lập tức rơi từ xà ngang xuống đất. Tôi và Hoa hòa thượng tiếp được, đặt anh ta nằm trên mặt đất. Hoa hòa thượng đeo bao tay, lật cổ anh ta ra xem, chỉ thấy thứ ‘tóc’ treo thi thể đúng là mọc ra từ lưng người này.

Hoa hòa thượng lật mí mắt anh ta, lắc lắc đầu: “Chưa chết, nhưng cũng hấp hối rồi. Đồng tử đã bắt đầu giãn nở.”

Tôi thấy anh ta có vẻ là người Trung Quốc, quen miệng hỏi: “Có còn cứu được không?”

Hoa hòa thượng lắc đầu: “Chúng ta không việc gì phải cứu hắn, thứ nhất có cố lắm cũng chỉ giúp hắn cầm cự thêm ít phút, đến khi chết đi lại càng đau đớn, thứ hai mang hắn theo phiền phức lắm.”

Tôi nói: “Hắn còn chưa chết mà, để hắn lại chỗ này thì không hay lắm?”

Hoa hòa thượng cười, lại lắc đầu, có lẽ là thấy tôi thật nực cười. Gã rút mã tấu trên lưng ra, kéo cổ người nọ lên. Tôi cảm thấy tình hình không ổn, vội níu chặt tay gã, nói: “Anh định làm gì?”

“Hắn đã trúng độc, lúc chết hẳn sẽ rất đau đớn, tôi định chích tí máu cho hắn ra đi thanh thản.”

Tôi nghe vậy thì choáng váng, đây là thứ logic quái quỷ gì vậy? Vừa định lắc đầu nói không được thì ‘thi thể’ kia đột nhiên co giật, cánh tay ‘thi thể’ chộp mạnh vào tay Hoa Hòa Thượng, hai mắt mở bừng, người vẫn chưa hết run rẩy.

Hoa hòa thượng hoảng hồn, vội gạt tay hắn ra, lùi lại vài bước.

Người nọ nhìn tôi, lại nhìn sang Hoa Hòa Thượng, rõ ràng ý thức đã dần khôi phục. Đột nhiên anh ta gắng sức đứng dậy, kêu lên một tiếng thống khổ. Tôi không nghe rõ hắn đang kêu gì, vội đè hắn xuống, nhưng người này cực khỏe, tôi và Hoa hòa thượng đều bị anh ta gạt văng đi. Người nọ nằm vật ra trên mặt đất, không ngừng lăn lộn, kêu gào đến tê tâm liệt phế. Miệng càng lúc càng há to, to tới mức người bình thường tuyệt đối không thể làm được. Hơn nữa cổ cũng phình lên, dường như sắp nổ tung đến nơi, một thứ chất lỏng tanh hôi phun ra từ miệng.

Phan Tử không đành lòng đứng nhìn, bèn mở chốt an toàn, “đoàng” một tiếng, tiễn người nọ xuống suối vàng.

Tiếng súng nổ nằm ngoài dự đoán của tôi, lỗ tai tôi tức khắc tê rần, chỉ thấy Phan Tử nâng súng bắn thẳng vào tim anh ta. Máu từ thi thể tuôn ra như suối, thi thể vặn vẹo hai cái rồi ngừng lại, bất động.

“Vừa rồi hắn kêu gì thế?” Hoa hòa thượng đầm đìa mồ hôi, hỏi: “Có ai hiểu gì không?”

“Có vẻ là tiếng người Hẹ. Hắn nói hơi khó nghe nên tôi cũng không rõ lắm, nhưng hình như là kêu “trên lưng, trên lưng” thì phải.” Diệp Thành nói.

(Người Hẹ: là những người Hán sống ở lưu vực sông Hoàng Hà từ thế kỉ thứ IV, hiện nay phân bố ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Nam, Đài Loan…)

“Trên lưng? Chẳng lẽ trên lưng hắn có thứ gì kì quặc?” Hoa hòa thượng lật ngược thi thể, định xé quần áo ra xem trên lưng rốt cuộc có thứ gì.

Tôi thấy đâu đâu cũng là máu, bắt đầu có cảm giác choáng váng, bèn quay mặt đi không nhìn, kêu Bàn Tử mau mau leo xuống.

Bàn Tử vẫn còn ngồi trên xà nhà nhìn xuống chúng tôi, lúc này đang châm thuốc hút. Thấy tôi gọi hắn bèn nói: “Đừng thúc giục, mẹ kiếp, cậu giống hệt bà già nhà tôi. Tôi thề có Mao chủ tịch chứng giám, hút hết điếu thuốc này tôi sẽ xuống.”

Tôi thầm nghĩ anh đeo mặt nạ phòng độc thì hút thuốc thế quái nào được. Vừa liếc nhìn hắn, tôi lập tức đờ người, da đầu co giật, hét to một tiếng rồi ngã lăn ra đất.

Chỉ thấy phía sau bả vai Bàn Tử nổi lên một khuôn mặt trắng xa lạ, con mắt trợn trừng ngó xuống. Nhìn kĩ thì là một kẻ quái đản nào đó đang bám trên lưng Bàn Tử, mà Bàn Tử hình như không hề nhận ra.

Vài người bị tiếng kêu của tôi gây chú ý, cũng ngẩng đầu lên nhìn. Diệp Thành cũng hét lên một tiếng, không hẹn mà cùng lùi lại thật nhanh. Phan Tử phản xạ cực nhanh, “rắc” một tiếng đã lên đạn, nâng súng lên nhưng lại không nổ súng.

(Kể cũng lạ, không hiểu vì sao tôi chưa từng nghe nói có người dùng súng bắn bánh tông trong mộ. Không biết đây là quy tắc của các cụ ngày xưa, hay là nếu làm như vậy sẽ dẫn tới hậu quả nào đó mà chúng tôi không lường trước được. Sau này tôi có hỏi lại Hoa hòa thượng, gã nói nguyên nhân bề ngoài là rất nhiều thi thể có chất độc, nếu gặp phải bánh tông mốc, nổ một phát súng dịch từ thi thể sẽ bắn tung tóe ra ngoài; hơn nữa tiếng súng có thể trêu chọc đến những thứ phiền toái khác trong cổ mộ. Nhưng về thực tế tại sao lại như vậy, hắn cũng không rõ lắm.)

Bàn Tử đang suy nghĩ làm thế nào để nhét thuốc lá vào trong mặt nạ phòng độc, thoáng cái bị phản ứng của chúng tôi dọa cho hết hồn, không hiểu có chuyện gì. Thế nhưng khi nhìn hướng nòng súng của Phan Tử chĩa tới là ngay cạnh đầu mình, biết đích ngắm không phải là mình, hắn lập tức ý thức được chuyện gì đang xảy ra, liền quay đầu nhìn ra phía sau bả vai mình.

Vừa quay lại, mặt hắn đã đối diện với cái mặt kia. Bàn Tử suýt nữa ngất xỉu, điếu thuốc trên tay rớt xuống đất, toàn thân cứng đờ ra.

Kẻ đang bám trên lưng Bàn Tử kia quỷ khí dày đặc, trước đó vẫn nấp sau bả vai hắn, thấy hắn quay đầu lại vẫn không có phản ứng gì. Hai người cứ thế bốn mắt nhìn nhau đắm đuối.

Kẻ này từ chỗ nào chui ra? Đầu tôi muốn nổ tung, vừa rồi khi bước vào đây chúng tôi đều lấy đèn pin soi qua một lần, tuy cũng không xem xét quá cẩn thận nhưng một người lớn bằng chừng ấy, chắc chắn không thể nấp được. Nói cách khác là lúc chúng tôi bước vào, cái ‘người’ này không có trong đây, sao bây giờ hắn có thể đột ngột xuất hiện trên lưng Bàn Tử được?

Chẳng lẽ là người trong đoàn A Ninh gặp nạn trong này? Hay là…con mẹ nó, chính là oan hồn của những kẻ chết trong hoàng lăng này?

Tôi đã gặp nhiều chuyện cổ quái, nhưng đứng trong hoàng lăng âm u dưới lòng đất này, tóc tai tôi cũng dựng đứng lên cả, tự nhiên có cảm giác trên vai mình cũng có thứ gì đó bám vào, da gà da vịt nổi đầy người.

Bàn Tử tái mặt, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng. Tuy nhiên hắn cũng không phải loại tầm thường, lúc này đã có phản ứng lại. Người vẫn không nhúc nhích nhưng tôi thấy tay hắn đang chầm chậm tạo dáng một khẩu súng lục, ý muốn ra hiệu cho Phan Tử nổ súng.

Phan Tử khoát tay ý bảo Bàn Tử nghiêng đầu qua một bên, còn mình thì đưa súng lên ngắm bắn. Đúng lúc này, Hoa hòa thượng lại giơ hai tay lên, nhỏ giọng nói: “Từ từ, nhìn kĩ lại đã, có khi là người sống.”

“Cái thứ kia cũng được coi là người sống?’ Phan Tử lại thì thào nói.

Hoa hòa thượng xua tay, bảo anh yên lặng, rồi tự tay rút đèn pin soi ra phía sau bả vai Bàn Tử. Đèn pin chiếu tới, người nọ bị ánh sáng chiếu vào, lập tức quay đầu về phía chúng tôi.

Tôi thấy một gương mặt không biết phải tả thế nào: Cả khuôn mặt lõm xuống, nơi lẽ ra là mũi thì chỉ có một cái hốc lớn. Hố mắt sâu dị thường, hai con mắt giống như hai cái đèn pha phản chiếu lại ánh đèn pin, nhìn đến cái miệng nữa…nhìn qua thì thấy có vẻ giống một con cú mèo.

Phan Tử lưỡng lự, hạ súng xuống nhìn về phía chúng tôi: “Con mẹ nó, thì ra là con cú?”

Bụng tôi thầm nhủ làm sao có thể chứ. Chất lượng không khí nơi này quá tệ, căn bàn không thể có sinh vật sống, cú cũng không sống nổi. Hơn nữa nếu đây là con cú thì cũng quá lớn rồi.

Thực ra chỉ nhìn mỗi khuôn mặt này thì đúng là rất giống con cú. Khi bay lượn cú không phát ra âm thanh, chẳng lẽ chuyện là thế này, nó lẳng lặng bay xuống từ trên mái ngói rồi đậu lên người Bàn Tử? Nhưng sao Bàn Tử lại không hề có cảm giác?

Trên mặt Bàn Tử mồ hôi đã tuôn như suối. Một tay vừa làm dấu bảo Phan Tử nổ súng, một tay đã bắt đầu rờ đến thắt lưng, định rút con dao găm ra. Có lẽ thấy chúng tôi không có phản ứng gì, hắn không nhịn được mà định ra tay trước. Tôi vội vàng khoát tay ra hiệu cho Bàn Tử đừng nhúc nhích, chưa hiểu rõ mọi chuyện thì tuyệt đối chớ có dùng bạo lực.

Bàn Tử nhe răng nhìn tôi, tỏ vẻ chống đối.

Không ngờ hắn vừa nhe răng, thứ trên lưng dường như đã bị kích thích. Trong nháy mắt cái mặt lõm kia bắt đầu vặn vẹo, ngửa đầu ra sau, miệng đột ngột mở lớn. Chết tiệt! Hai cái răng nanh chìa ra phải dài đến hai tấc, con kia chắc chắn không phải chim rồi. Hơn nữa cái miệng cứ mở mỗi lúc một lớn, nhanh chóng mở to tới mức con người không thể làm được.

Tôi thấy tình hình không ổn, Bàn Tử gặp nguy hiểm rồi! Phan Tử đè mạnh súng lên bả vai, ngắm bắn cái miệng kia, vừa định nổ súng thì ‘vút’ một tiếng, một cơn gió mạnh lướt qua mặt tôi, có thứ gì đó từ bên ngoài môn điện lướt vào, đập lên nòng súng của Phan Tử khiến nòng súng lệch đi, những viên đạn liên tiếp sượt qua tai Bàn Tử. Bàn Tử bị dọa cho hết hồn bèn chửi to: “Đệch, anh bắn đi đâu thế hả?”

Tôi quay đầu nhìn lại thì thấy Trần Bì A Tứ và Thuận Tử vọt vào, Trần Bì A Tứ hét to với Phan Tử: “Buông súng!”

Phía trên, cái thứ quái dị nọ đang hướng về phía cổ Bàn Tử mà cắn một nhát. Bàn Tử đập mạnh đầu mình vào đầu con quái kia, đẩy nó ra, sau đó vặn người, huých mạnh cùi chỏ vào miệng thứ nọ, định hất văng nó ra. Nhưng cái thứ kia không biết làm thế nào mà cứ bám chặt lấy lưng hắn, giãy kiểu gì cũng không ra. Bàn Tử hét to: “Con mẹ nó! Ai lên đây giúp tôi mau”

Diệp Thành rút dao ra định trèo lên. Tôi vội hét to: “Không được! Xà nhà sập mất. Bàn Tử, anh nhảy xuống đây mau!”

Bàn Tử hình như không nghe thấy, cứ đứng trên đó kêu to: “Các người mất hết lương tâm rồi à, mau lên!”

Trần Bì A Tứ vung tay, một viên đạn sắt bắn vào chân Bàn Tử, Bàn Tử kêu ‘Á!’ một tiếng đau đớn, chân khuỵu xuống. Cái xà nhà cũng theo động tác này của hắn mà kêu ‘răng rắc’ một tiếng, nghiêng hẳn xuống. Bàn Tử lập tức mất thăng bằng, cả người té nhào xuống dưới.

Xà ngang cách mặt đất cũng khá cao, nếu nói ngã xuống không việc gì thì cũng không đúng. May mà bên dưới có treo một khối thi thể, lúc Bàn Tử ngã xuống đã cố níu lấy nó, lơ lửng trên không một chút rồi mới nặng nề ngã xuống đống ngói vụn trên mặt đất. Chúng tôi chạy nhanh lại xem xét, tới nơi thì ai nấy đều sửng sốt: cái thứ bám trên lưng Bàn Tử đã biến mất, không thấy đâu cả…

Tôi lập tức nhớ lại mấy vết đạn trên cây cột, chợt nhận ra có điều bất thường, bèn vung tay nói: “Thứ kia chưa rơi xuống, mau nhìn lên đỉnh đầu” Lời còn chưa dứt, trên đầu đã có một cái bóng xẹt qua nhanh như điện, vừa vặn thấy Thuận Tử ngã xuống lăn lộn, trên vai trái hắn đã có ba vệt máu.

Tôi lập tức nâng súng lên, nhưng khẩu K56 đúng là nặng hơn tôi tưởng, cầm không chắc tí nào, nâng hai lần mà họng súng vẫn không ngẩng lên được. Bàn Tử đứng lên, giật lấy khẩu súng trên tay tôi, lia một vòng lên đỉnh đầu theo cảm tính, khiến ngói lợp bên trên lộp bộp rơi xuống đất. Chúng tôi bật hết đèn pin lên chiếu sáng cho hắn, nhưng chờ cho khói súng tan hết, nhìn lên đỉnh đầu vẫn không thấy gì cả, không biết cái thứ vừa rồi đã nấp vào đâu.

“Chết tiệt, cái thứ kia rốt cuộc là gì?” Bàn Tử vẫn chưa hết sợ hãi.

“Anh còn hỏi à? Bị nó bám vào người mà vẫn chẳng biết gì, anh làm ăn cái kiểu gì đấy?” Phan Tử mắng to.

Bàn Tử nổi cáu, vừa định mắng trả thì người bỗng nhiên khựng lại. Chúng tôi quay lại thì thấy cái khuôn mặt chết tiệt kia không biết từ lúc nào đã ló ra từ phía sau vai Phan Tử, len lén nhìn chúng tôi, mà Phan Tử cũng không hề hay biết.

Chúng tôi lập tức lùi ra xa Phan Tử. Phan Tử thấy chúng tôi bỗng dưng phản ứng như vậy thì mặt cũng tái xanh, kêu lớn: “Các người sao thế?” Không đợi hắn quay đầu lại, cái thứ chết tiệt bám sau bả vai kia liền há to miệng, nháy mắt đã nhe nanh ra cắn.

Bàn Tử nâng súng lên bắn, “Đoàng” một tiếng, thứ kia đã bay mất nửa đầu, tức thì một thứ nước xanh lè văng tứ tung, vấy đầy lên người chúng tôi, trong không trung bốc lên thứ mùi cực kì khó ngửi.

Tôi thoáng nghĩ thế là ổn rồi, nhưng nghĩ lại thấy không ổn. Trong cái miệng cực lớn của con quái giờ chỉ còn nửa đầu kia, không ngờ lại mơ hồ xuất hiện một khuôn mặt!

“Chết tiệt!” Tôi nghe Thuận Tử ở bên cạnh nói nhỏ một tiếng. Có thứ gì lao vút về phía Phan Tử, đụng Phan Tử một cái rồi bay ra ngoài. Anh ngã xuống đất nhưng lập tức xoay người ngồi dậy, mã tấu đã nằm gọn tron tay từ lúc nào, kế đó xoay tay đâm về phía sau một cái.

Nhưng cái thứ bám sau lưng anh đã biến mất, ngồi sau chính là Thuận Tử, kẻ vừa xô ngã anh. Một đao của Phan Tử chém thẳng tới, may mà Thuận Tử phản ứng cực nhanh, chặn được đao này rồi bẻ quặt tay Phan Tử lại, đồng thời kêu lớn: “Vừa rồi ai nổ súng?”

Bàn Tử lập tức giơ tay: “Tôi!”

“Còn có tôi!” Phan Tử cũng giơ tay còn lại lên.

Không hiểu vì sao, đột nhiên trong mắt Thuận Tử lóe lên tia ngờ vực, vung tay nói: “Ai nổ súng thì ở lại, còn những người khác mau chạy! Cứ chạy thẳng phía trước, tuyệt đối không được ngoái đầu.”

Tôi ngó quanh một lượt rồi đếm thầm, ầy, người trong nhóm tôi đều bị giữ lại, tôi phải làm sao đây? Đi theo Trần Bì A Tứ chẳng phải là chờ bị làm thịt sao? Thế nên cũng vội giơ tay: “Tôi… Tôi quên mất. Tôi cũng nổ súng!”

Đám người Diệp Thành cũng không biết phản ứng thế nào, ssúng lúc này, chúng tôi chợt nghe từ trên đỉnh môn điện truyền đến âm thanh mái ngói đang vỡ vụn, tựa hồ như có rất nhiều thứ quái gở đang bò trên nóc điện thờ, số lượng rất đông, khó mà tưởng tượng nổi. Mọi người đều hoảng sợ, không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

“Không kịp mất rồi, còn không nhanh lên!” Thuận Tử hét lớn.

Trần Bì A Tứ liếc chúng tôi một cái, vung tay ra hiệu với đám Hoa hòa thượng: “Đi!” Nói rồi, ba người bọn họ nhanh chóng chạy ra khỏi điện.

Lòng tôi trào dâng cảm giác kì quái, nhưng tình thế gấp gáp cũng không có thời gian mà suy nghĩ nhiều. Tiếng ngói vỡ trên đình đầu càng lúc càng dày đặc, Bàn Tử tháo băng đạn trên người mình ra, ném cho Phan Tử. Hai cây súng đều đã lên đạn, chúng tôi quây thành một vòng tròn, hỏi Thuận Tử: “Trên kia là thứ gì vậy? Chúng ta làm sao bây giờ?”

Thuận Tử hạ giọng nói: “Không biết!”

“Vậy ngươi bảo bọn họ chạy đi là có ý gì?” Phan Tử liếc mắt.

Thuận Tử nói: “Tôi chỉ muốn tách các cậu khỏi lão già kia. Đây không phải chủ ý của tôi, mà do chú Ba các người phân phó.”

Chúng tôi nghe vậy thì tất cả đều quay lại nhìn hắn, thầm nghĩ cái gì? Là chú Ba tôi phân phó sao? Phan Tử hỏi lại: “Vậy anh là ai?”

“Đừng hỏi nhiều thế.” Thuận Tử trả lời. “Bây giờ tôi dẫn các cậu đi gặp ông Ba, đến lúc đó các cậu tự hỏi ông ấy.”

Tôi căng thẳng toàn thân, vừa định hỏi: Chú Ba tôi cũng đang ở trong hoàng lăng này ư? Thì đột nhiên trên đỉnh đầu phát ra những âm thanh đổ vỡ liên miên, mái ngói rơi xuống như mưa. Chúng tôi lấy tay ôm đầu, ngước nhìn lên trên, chỉ thấy trong quầng sáng từ đèn pin có vô số những cái bóng đang di chuyển, dường như đều cùng một loại với con quái vừa rồi.

Thuận Tử vung tay nói: “Tiếng súng vừa rồi của các anh đã đánh thức những thứ sống trong rừng rậm kia, giờ chúng đang bủa vây nơi này đấy.”

“Tại sao chúng ta không chạy?” Phan Tử lo lắng hỏi. Xung quanh đã dày đặc những âm thanh di chuyển tới mức không thể ước tính được số lượng, “Ở trong này không phải là chờ chết sao?”

“Chờ bọn họ đi xa một chút đã.” Thuận Tử nhìn về phía sau. Thấy Trần Bì A Tứ có lẽ đã chạy xa, hắn bèn quay đầu lại nói: “Đi thôi!” Nói rồi vỗ vai chúng tôi, chạy trước dẫn đường về phía cửa vào tiền điện, chúng tôi bám sát theo sau hắn.

Đứng bên ngoài môn điện có thể nhìn thấy diễn sinh điện nằm trên thần đạo. Phía trước xuất hiện một một cây cầu bằng đá cẩm thạch dài hai mươi nhịp, trên cầu treo hai con Bàn long không biết làm bằng chất liệu gì, quấn quanh lan can hai bên. Chất đá cẩm thạch rất đẹp, không có lấy một khe nứt, giống như cả cây cầu là một khối điêu khắc hoàn chỉnh. Dưới cây cầu chính là con sông đào bao quanh bảo vệ hoàng lăng bên trong, bên dưới không rõ có nước hay không.

Chúng tôi mới chạy được vài bước thì đằng sau bỗng có tiếng gió nổi lên. Cả đám vội vã thụp người xuống lăn một vòng, Bàn Tử xoay tay lia một băng đạn không cần nhắm bắn. Trong bóng đêm nghe được một tiếng kêu rất nhỏ, không biết đã bắn trúng thứ gì, chỉ thấy có thứ gì đó hình tròn rớt xuống vực sâu bên dưới cây cầu.

Trong bóng tối vang lên những tiếng xao động, tôi mơ hồ cảm giác thứ này có thể bay nhưng đèn pin quét qua lại không nhìn thấy gì cả.

Chúng tôi đứng lên tiếp tục chạy về phía trước. Trên đỉnh đầu cứ lao xao từng trận, tựa như có thứ gì kề sát đầu chúng tôi mà lượn vòng. Bàn Tử lại chĩa nòng súng lên trời, vừa chạy vừa bắn, rất nhanh chúng tôi đã chạy lên cầu. Đột nhiên tôi cảm thấy lưng mình có thứ gì bám vào, thoáng cái đã ngã lăn xuống. Tôi xoay người đứng lên, còn chưa kịp làm gì thì Bàn Tử đã giơ báng súng lên đập mạnh vào thứ gì đó bên tai tôi, hình như có thứ gì đó từ trên lưng tôi ngã văng ra ngoài.

Nhìn xuống chỉ thấy một cái bóng màu đen đang giãy giụa, chuẩn bị đứng lên. Phan Tử nâng súng bắn một phát cắt đôi người nó, Bàn Tử lại chĩa súng lên trời lia một loạt đạn. Tia lửa từ viên đạn lóe lên, tôi thấy được hằng hà sa số những cái bóng đang lượn vòng trên đầu chúng tôi.

“Thứ này rốt cuộc là gì?” Tôi líu lưỡi hỏi.

“Nhiều quá, không giết hết được. Chúng ta làm gì đây?” Phan Tử hét lớn hỏi Thuận Tử: “Ông Ba rốt cuộc ở đâu? Chúng ta làm sao tới đó?”

Trước mặt chính là điện thờ thứ hai trong bốn đạo long lâu, vào trong đó khó tránh khỏi trạm mặt Trần Bì A Tứ. Nói thật ở cùng với bọn họ, tôi bị áp lực tâm lý rất lớn, hơn nữa bây giờ đã biết tung tích của chú Ba, tôi chỉ hận không thể lập tức tìm được chú ấy, hỏi chú ấy xem rốt cuộc tất cả những chuyện này thực ra là vì cái gì.

“Ông Ba của các cậu chắc là đang ở dưới huyền cung ngầm rồi.” Thuận Tử nói.

“Địa cung?” Bàn Tử lại đập một phát báng súng, cũng không biết vừa đập cái gì. “Tốt quá, mẹ nó thế là đỡ rách việc rồi. Cửa vào địa cung ở đâu thế?”

Thuận Tử nói: “Tôi không biết.”

Chúng tôi lập tức ngây người nhìn Thuận Tử. Xem nét mặt của hắn thì cũng hiểu hắn không nói đùa, Bàn Tử liền mắng: “Anh không biết? Anh nói dẫn chúng tôi đi gặp ổng, mà cái hoàng lăng này to tổ bố, chúng tôi tìm thế quái nào được?”

Nói vậy thì cửa vào chính thức của địa cung chính là theo thần đạo tiến vào đạo long lâu thứ ba – tức bên trong Thiên điện, tất nhiên bên dưới đỉnh đồng có hơn bảy mươi lớp gạch xanh gia cố thêm nước thép pha chì đang chờ chúng tôi, có huy động một một đoàn công binh hiện đại đào dăm bữa nửa tháng cũng không xong. Nhưng địa cung chắc chắn phải có cửa vào bí mật, hơn nữa phải ở ngay bên trong kiến trúc hoàng lăng, nằm trên trục đối xứng ở chính giữa. Cửa vào địa cung của lăng Từ Hy thái hậu nằm trong ảnh bích của lăng cung, nhưng tình hình bây giờ lấy đâu ra thời gian mà đào động.

(Anh bích: Bức tường xây không có tác dụng bảo vệ mà dùng để trang trí ở cổng, thường được trang trí đẹp mắt hoặc khắc phù điêu)

Thuận Tử vô cùng bình tĩnh, cúi người quay về phía tôi nói: “Chú Ba cậu nói, nơi này là ‘Huyền Vũ cự thi’. Ông ấy bảo chỉ cần tôi nói với cậu lời này, cậu sẽ tự hiểu ra là ở chỗ nào. Cậu nhớ lại xem có ấn tượng gì không?”

Tôi nghe hắn nói, cảm thấy vô cùng nghi hoặc. ‘Huyền Vũ cự thi’ là một cách nói vui, cũng chính là lý thuyết trong phong thủy, chỉ những nơi có phong thủy kém nhất trên trần đời. Nơi này cũng giống như bảo huyệt cực phẩm ‘Cửu Long bàn hoa’, chỉ có trong lý thuyết, trên thực tế vốn không tồn tại. Tôi hỏi: “Chú ấy nói vậy thật sao? Còn nói thêm gì không?”

Trong Táng thư có nói: “Đất có bốn phương, trời có tám hướng. Cho nên lấy Thanh Long đặt bên trái, Bạch Hổ đặt bên phải, phía trước là Chu Tước, đằng sau là Huyền Vũ. Huyền Vũ cúi đầu, Chu Tước bay lượn, Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ nằm phục. Các hình thế này mà đảo ngược lại, mọi quy tắc đều bị phá vỡ, thì hổ không nằm thi thể bị ngậm, rồng không lượn ghen ghét chủ nhà, Huyền Vũ không cúi xác chết sống lại, Chu Tước không bay người thân ly tán….”

Thuận Tử cúi đầu nhìn xung quanh, gấp rút nói: “Chỉ có vậy thôi, lúc ấy chú Ba cậu hình như đang trốn tránh ai đó, thế nên rất vội. Chú Ba cậu đã sắp xếp tôi ở trong thôn để giúp đỡ các cậu, đưa các cậu vào trong núi, sau đó thì đem mấy lời này nói lại với các cậu.”

Tôi nghe thế, chợt bình tĩnh lại, trong lòng cười thầm. Nếu nơi này đúng là ‘Huyền Vũ cự thi’, vậy ai chôn cất trong này con cháu sẽ chết sạch, vợ đi vụng trộm, có xảy ra chuyện gì cũng không lạ thường. Uông Tàng Hải có thù hận thâm sâu đến vậy với Vạn Nô hoàng đế sao?

Mà theo lời Trần Bì A Tứ, phong thủy nơi này hẳn là cực tốt mới đúng. Sao lại là ‘Huyền Vũ cự thi’ cho được?

Tôi lập tức hối hận vì ngày trước không nghiên cứu cẩn thận mấy thứ này. Nếu dọc đường tới đây có thể quan sát và vận dụng vốn hiểu biết một chút, có lẽ bây giờ đã lĩnh ngộ được điều gì.

Bàn Tử cũng hiểu sơ sơ về mấy thứ này, thậm chí có mặt còn biết nhiều hơn tôi. Lúc này hắn cũng có vẻ ngờ vực, kêu lên: “Nói láo! Không thể nào, huyền cung của hoàng lăng sao có thể là thế ‘Huyền Vũ cự thi’ được?”

Phan Tử bên cạnh lại xả một tràng đạn, đuổi mấy con quái ra xa, rồi quay đầu lại nói: “Cũng không phải là không thể. Phong thủy chỉ dùng cho con người, mà cậu không nghe Hoa hòa thượng kia nói sao? Kẻ được mai táng trong hoàng lăng này không phải là người nha, không chừng có liên quan đến cái kết cấu kì quặc này.”

Tôi biết Phan Tử toàn nói lung tung. Với thực lực của một nước nhỏ như Đông Hạ, xây dựng một công trình lớn thế này hẳn đã phải dốc toàn bộ tài nguyên và nhân lực. Có thể khởi công một công trình lớn đến thế, chỉ có thể là một người, đó là Vạn Nô vương. Hơn nữa tôi không tin những thế hệ Vạn Nô vương về cuối còn có uy tín lớn đến thế, xây dựng hoàng lăng này tất nhiên cũng có pha trộn vài phần tôn giáo. Vào thời kì đó, rất có thể Vạn Nô vương chính là hình tượng tôn giáo hợp thể giữa người và thần.

Trên con cá đồng có nói Vạn Nô vương các triều đại đều là yêu nghiệt chui ra từ lòng đất. Tôi cho rằng không thể giải thích trắng ra như thế được, hẳn thông tin trên con cá đồng còn ẩn giấu điều gì khác. Nhưng cụ thể nó ám chỉ cái gì, có lẽ phải giải mã cả hai con cá trên tay tôi mới hiểu hết được.

Thế nhưng Bàn Tử lại không chịu thua, nghe Phan Tử nói thế thì bực tức đáp trả: “Con mẹ nó, anh không biết thì đừng có tinh tướng. Không phải người chẳng lẽ lại là chó? Không cần biết trong lăng mộ chôn cất thứ gì, dựa theo thuyết phong thủy đều không thể chọn ‘bại huyệt’ được. Anh tưởng trong quan tài là yêu quái nên chôn cất nó sẽ ngược với phong thủy của người sao? Không có chuyện đó đâu! Hơn nữa anh xem quy mô nơi này đi, ít nhất cũng phải tầm cỡ thành bang, cớ gì lại xây dựng cái lăng tẩm lớn bằng chừng này cho một con yêu quái chứ?”

Kiến thức nhà nghề của Phan Tử không phong phú bằng Bàn Tử, lập tức nghẹn lời, không biết phải phản bác ra sao.

Thuận Tử nhìn chúng tôi nói: “Các vị, tôi không hiểu mấy người nói gì. Đừng có lan man nữa, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Ai hiểu thì nói nhanh lên.”

Bàn Tử nói: “Cái này không đơn giản, anh đã xem qua Táng kinh chưa? Anh có biết cái gì gọi là ‘đất có bốn phương, trời có tám hướng. Cho nên lấy Thanh Long đặt bên trái, Bạch Hổ đặt bên phải, phía trước là Chu Tước, đằng sau là Huyền Vũ.’ Không? Huyền Vũ ám chỉ phía sau, cự thi chính là cự tuyệt thi thể, cự tuyệt ý là không có thi thể, ghép lại chính là phía sau không có thi thể. Chẳng phải đã rõ rồi sao? Thi thể ở phía trước!”

Tôi nghe hắn nói thế thì chửi thầm trong bụng, những lời này có ý như vậy sao? Quách Phác (tác giả của Táng kinh) mà nghe được, còn không bật nắp quan tài leo ra bóp chết anh.

Thuận Tử không hiểu gì về mấy thứ này nên cũng tin là thật, nói: “Phạm vi như thế cũng quá rộng, nếu nói phía trước thì là phía trước của cái gì? Chỉ bằng câu này cũng không tìm nổi cửa vào.”

Tôi bảo hắn đừng có mà nghe Bàn Tử nói bậy bạ, Táng kinh làm gì có cách giải thích nào như vậy, rồi lại hỏi hắn: “Chú Ba không nói thẳng ra vị trí cửa vào huyền cung chắc chắn là vì có nói thẳng ra thì anh cũng không thể truyền đạt được. Vậy không thể đơn thuần lí giải từng chữ trong lời nói của chú ấy, đoán theo hướng của Bàn Tử là vô dụng.”

Bàn Tử không phục, cự lại: “Thế cậu thì có cao kiến gì?”

Tôi lắc đầu, ý nói tạm thời cũng chưa có manh mối, cần nghĩ lại thật kĩ. Chú Ba tinh thông mật văn, mật mã cổ đại, lời nói kia hẳn cũng dùng đến những kiến thức này. Hơn nữa nếu ổng cho rằng tôi có thể hiểu được thì chắc chắn phải có lí do riêng của ổng, nhưng hiện giờ rõ ràng không phải lúc để suy xét cái này.

Trong khi nói chuyện, chúng tôi đã lùi đến cuối cây cầu đá. Nếu đi tiếp sẽ đến quảng trường phía trước hoàng lăng, trong bóng đêm có thể nhìn thấy phía cuối cầu đá dựng thẳng hai tấm bia đá song song, mỗi khối phải cao đến mười mét, một khối đã bị chặt đôi, dưới chân bia đá là một con bị hí (1) cỡ bự màu đen. Đằng sau tấm bia đá, cách đó không xa là một cái bóng đen khổng lồ cao ngất.

Tôi biết nơi này là “Hoàng lăng giới bi”, phía sau tấm bia đá hẳn là thông đến thềm Trường Sinh của điện Vãng Sinh, cũng chính là thông tới cửa lớn của cõi u minh. ‘Hoàng lăng giới bi’ có thể nói chính là ranh giới giữa âm phủ và dương gian. Vùng đất phía sau ‘Hoàng lăng giới bi’ đến người giữ lăng cũng không thể tiến vào. Mấy trăm năm trước, vào thời khắc hoàng lăng bị phong bế, sẽ không còn ai có thể đặt chân lên vùng đất phía bên kia giới bi nữa.

Vừa nhìn thấy tấm bia đá kia, tôi đột nhiên có một linh cảm cực kì xấu, tựa như trong cái bóng đen khổng lồ phía trước, trong một góc nội thành của cái hoàng lăng im ắng đến rợn người này, có thứ gì đó đang chờ đợi chúng tôi.

Đúng lúc đó, Bàn Tử đang chạy phía trước đột nhiên dừng lại, giang hai tay ra, ngăn chúng tôi lại phía sau. Tôi bước lên xem thì thấy hóa ra đoạn cuối cầu đá đã sụp xuống. Giữa cầu đá và ‘hoàng lăng giới bi’ xuất hiện một vực sâu rộng chừng ba mét, chiếu đèn pin xuống chỉ thấy một màu đen thăm thẳm, hình như có nước bên dưới nhưng không biết nông sâu thế nào.

‘Làm sao bây giờ?” Tôi nhìn Phan Tử. Phan Tử không thèm suy nghĩ, nhấc súng lên nói: “Còn làm sao nữa? Nhảy sang đó, mau lên.”

Tôi nhìn khoảng cách này, vô thức nuốt nước miếng. Những vận động viên nhảy xa ở thế vận hội Olympic cũng chỉ nhảy được xấp xỉ tám mét thôi, so ra thì hơn ba mét không tính là xa, nhưng với cái thằng quanh năm lười vận động như tôi, muốn ung dung nhảy qua cũng là rất khó.

Lúc này Bàn Tử đã thao súng giao cho Thuận Tử, sau đó lùi lại vài bước, chạy lấy đà một đoạn rồi bật mạnh một cái, bay qua không trung sang bờ bên kia rồi lăn người ngã lên nền đá phía đối diện. (Bạn béo trông to xác vậy mà thân thủ cũng không đến nỗi nào nhỉ…) Thuận Tử ném khẩu súng trả lại cho hắn, sau đó cũng ném trang bị trên người chúng tôi sang bờ bên kia. Tiếp đó, Thuận Tử cũng nhảy qua, Phan Tử muốn bọc hậu, bảo tôi nhảy trước. Tôi nhìn vực sâu trước mặt, trong lòng thầm nhủ ‘cùng lắm thì chết’, bèn hét to một tiếng ‘đỡ lấy tôi’ với Bàn Tử phía đối diện.

Bàn Tử luôn mồm đáp ứng, tôi lùi lại vài bước, giữ bình tĩnh rồi tăng tốc lấy đà. Nhưng thật xui xẻo, đúng lúc tôi sắp nhảy thì Phan Tử ở phía sau bỗng nhiên hét to: “Khoan ———–!”

Lúc này tôi đã không thể dừng lại được nữa, lập tức bật cao người lên nhảy sang bờ bên kia, còn vô thức quay đầu lại nhìn Phan Tử thắc mắc sao lại bảo tôi dừng lại.

Vừa mới quay đầu, tôi đã thấy một bóng đen cực lớn lao xuống từ phía bên trái, quặp lấy cổ tôi nhanh như chớp, móng vuốt đâm sâu vào quần áo, định tha tôi đi. Đang ở giữa không trung nên tôi không thể kiểm soát được tư thế, ngay sau đó móng vuốt liền buông lỏng, tôi chới với ngã nhào, người cứ thế rơi thẳng xuống vực sâu.

Trong nháy mắt, đầu tôi trở nên trống rỗng, cũng không biết phải làm gì mới đúng. Cảnh vật trước mắt trôi qua giống như một thước phim quay chậm, tôi thấy Bàn Tử đang nhào về phía mình, nhảy chồm lên định giữ tôi lại, nhưng tay hắn chỉ sượt qua cổ áo. Tiếp đó Phan Tử giơ súng lên, bắn “đoàng đoàng đoàng” ba phát lên phía đỉnh đầu. Viên đạn rít gió bay qua, sau đó thân thể tôi chìm vào bóng tối, ánh đèn pin của bọn họ trong nháy mắt đã biến mất hoàn toàn.

Quá trình rơi xuống thực ra rất nhanh, tôi xoay mấy vòng trên không trung, trong đầu liên tiếp nảy ra vô vàn ý niệm. Bên dưới là gì? Bên dưới là sông đào quanh thành. Bình thường sông này nông sâu thế nào? Có nước hay không? Tôi sẽ ngã chết hay là tan ra thành một đống xương trắng trong dòng sông lưu hóa này?

Còn chưa kịp tìm ra đáp án cho những câu hỏi này, lưng tôi đã đụng vào thứ gì đó giống như xích sắt, cả người thiếu chút nữa đã gãy làm đôi. Tôi đau đến hoa mắt, tiếp theo người xoay một vòng quanh sợi xích, tiếp tục rơi xuống, chưa kịp hoàn hồn đã đụng vào một sợi xích sắt khác. Mấy cú va chạm sau đều không mạnh vì đã được cú đầu tiên giảm xóc, tôi đưa tay muốn bám lấy một sợi xích nhưng lại với vào khoảng không, tiếp tục rơi xuống.

Những cú va chạm liên tiếp này làm đầu óc tôi choáng váng, không thể làm tư thế cuộn mình lại khi rơi xuống. Tiếp theo tôi đập người xuống mặt đất, bên tai còn nghe rõ tiếng xương cốt mình kêu lên răng rắc. Sau đó lỗ tai tôi ong ong lên, không còn nghe được âm thanh gì nữa.
 
Quyển 4 - Chương 31: Sông đào quanh thành


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Rơi xuống đất được vài phút, tôi chìm vào cơn hôn mê, đầu óc không thể nhận biết đã xảy ra chuyện gì, cũng không rõ mình còn sống hay đã chết. Sau đó một thứ chất lỏng cay nồng từ yết hầu phun ra, chảy ngược vào khí quản khiến tôi ho khù khụ, máu từ lỗ mũi tuôn ra như suối, chảy xuống tận cằm.

Ước chừng phải mất thời gian tàn nửa điếu thuốc, tôi mới dần dần tỉnh lại, tri giác lần lượt quay về với cơ thể. Tôi run rẩy ngồi dậy, xung quanh tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì cả. Sờ lên mặt đất chỉ thấy đá tảng và cát khô, dưới đáy con sông đào này thì ra đã cạn nước, cũng may mấy tảng đá dưới đây khá bằng phẳng, gồ ghề thêm tí nữa thì tôi không ngã chết cũng dập người mà chết.

Mặt nạ phòng độc gần như đã nứt ra, mắt kính vỡ nát. Tôi sờ sờ một chút, phát hiện mặt nạ đã móp méo, lại sờ ra đằng trước, phát hiện trước mặt mình là một tảng đá rất sắc nhọn. May nhờ mặt nạ này bảo vệ, mặt tôi mới không bị cày nát, có điều lần này mặt nạ coi như vứt đi rồi.

Tôi vất vả giật cái móc sau đầu, cẩn thận cởi mặt nạ ra. Mới cầm lên tay mà mặt nạ đã nứt ra làm bốn mảnh, thế là hỏng hoàn toàn rồi.

Không còn mặt nạ, mùi lưu huỳnh trong không khí càng trở nên nồng nặc, nhưng hít vào mấy hơi cũng không quá khó chịu, xem ra Phan Tử nói khí độc nơi này rất ghê gớm cũng không đúng lắm. Hoặc cũng có thể dưới đáy con sông đào này, không khí vẫn chưa nhiễm độc quá nặng. Tôi chửi thầm trong bụng, ném mặt nạ xuống đất, nhổ máu trong miệng ra rồi ngẩng đầu nhìn lên.

Con sông đào này sâu dễ đến mười thước, bên trên là một khoảng mịt mờ, chỉ thấy ánh đèn pin của đám Bàn Tử từ trên cao chiếu xuống, lia khắp xung quanh, hình như đang tìm kiếm tôi. Tôi còn nghe một vài tiếng kêu, nhưng không biết có phải vì ngã xuống đây hay không mà tai vẫn còn ong ong, không nghe ra bọn họ đang nói gì.

Tôi thử ra sức kêu lên vài tiếng, nhưng vừa vận khí, cơn đau đến tê liệt đã lan từ lồng ngực ra xung quanh, âm thanh phát ra lập tức biến thành tiếng rên rỉ. Đến chính tôi cũng không hiểu mình đang nói gì, thậm chí còn không biết mình rốt cuộc có phát ra âm thanh hay không.

Để báo cho đám người Bàn Tử biết mình còn sống, tôi nhặt cái mặt nạ phòng độc vứt lăn lóc dưới đất lên, ra sức đập mạnh xuống mặt đất, phát ra âm thanh ‘ bịch bịch bịch’. Âm thanh không lớn nhưng vang lên dưới lòng sông yên ắng lại dội ngược trở về, nghe cực kì rõ ràng.

Gõ được một lát thì đột nhiên có cây pháo lạnh từ trên ném xuống, rơi ngay sát sườn. Tôi chửi một tiếng, nghiêng người né tránh, sau đó nhìn thấy phía trên có một mặt người ló ra khỏi đoạn cầu gãy thăm dò, xem kích cỡ cái đầu thì có vẻ là Bàn Tử.

Tôi bò đến gần cây pháo lạnh, nhặt nó lên lên khua khua trước mặt hắn. Bàn Tử lập tức trông thấy, bèn hét to một tiếng. Nhưng tôi vẫn chẳng nghe ra hắn nói gì, đành phát ra vài âm thanh vô nghĩa. Bàn Tử rụt đầu trở về, lát sau đã có sợi dây thừng được ném ra, đung đưa buông xuống tận đáy sông, Bàn Tử lưng đeo súng trường bắt đầu leo xuống.

Độ cao hơn mười thước ngang ngang tòa nhà bốn, năm tầng, bảo cao không cao, bảo thấp cũng chẳng phải thấp. Bàn Tử thoáng cái đã trượt xuống tới đáy, vừa buông dây thừng đã nâng súng xoay bốn phía, thấy không có động tĩnh gì mới chạy tới chỗ tôi, ngồi xổm xuống hỏi: “Mẹ kiếp, cậu không sao chứ?”

Tôi dùng giọng khàn khàn, uể oải nói: “Không sao hả? Anh thử ngã một lần xem?”

Bàn Tử thấy tôi vẫn còn sức để nói đùa thì thở phảo nhẹ nhõm, quay mặt lên trên huýt gió một tiếng, tức thì Thuận Tử và Phan Tử lưng đeo trang bị cũng leo xuống.

Bọn họ nâng tôi dậy, đầu tiên dìu tôi đến dựa vào một tảng đá, sau đó Thuận Tử đè chặt tôi, lấy túi thuốc, kiểm tra thân thể tôi một lượt.

Tôi nhìn thấy túi thuốc, trong lòng cũng an tâm đôi chút, thầm nghĩ may mà chuẩn bị đầy đủ. Phan Tử kiểm tra thấy tôi không bị gãy xương, bèn lấy ra một ít băng vài, giúp tôi băng bó miệng vết thương khá lớn, sau đó mắng: “Bảo cậu dừng mà cậu vẫn cố nhảy. May mà mạng cậu lớn, bằng không lỡ cậu chết thì tôi biết ăn nói thế nào với ông Ba đây?”

Tôi nghe vậy thì giận dữ mắng: “Anh còn nói à? Lúc ấy tôi đã lơ lửng giữa không trung anh mới kêu dừng lại. Bà nội nó chứ đây có phải cái băng ghi hình đâu mà đòi tua ngược lại được…….” còn chưa nói xong thì ngực đã nhói một trận, người đau đến vặn vẹo cả lên.

Phan Tử thấy thế lại càng hoảng sợ, luống cuống đè tôi lại, khiến tôi không thể nhúc nhích. Tôi nghiến răng nghiến lợi, còn muốn mắng anh thêm vài câu nhưng thực sự là đau muốn chết, muốn mở miệng cũng không nổi, chỉ đành ngồi yên thở dốc.

Bàn Tử đứng cạnh đưa cho tôi bình nước, nói: “Cậu cũng lớn mạng đấy, rơi từ tít trên kia xuống, bên dưới lại toàn đá tảng, người thường rơi xuống chắc chắn không chết cũng tàn phế.”

Tôi nhận bình nước, thầm nhủ đây gọi là số con rệp mới đúng. Vừa rồi chắc chắn là nhờ đụng vào hai sợi xích kia mới khỏi chết, cũng không biết là may mắn hay xui xẻo nữa. Gần đây tôi luôn gặp chuyện rơi từ trên cao xuống như thế này, nhưng đều không chết, thật đúng là mạng lớn.

Uống vào mấy ngụm nước, máu trong miệng đã trôi xuống, yết hầu cũng dễ chịu hơn một chút, tôi liền hỏi Phan Tử thứ vừa rồi rốt cuộc là cái giống gì. Anh nói lần này bọn họ đã nhìn rõ ràng, đó nhất định là một con quái điểu với cái đầu rất lớn, cao bằng đầu người. Tiếc là bắn không trúng, bằng không có thể xem nó rốt cuộc là cái giống gì rồi.

Bàn Tử nói: “Con mẹ nó, đúng là tà dị. Cái mặt người tôi nhìn thấy ở thần đạo có thể chính là thứ này. Đầu người mình chim, mà cũng có thể là cú mèo.”

Thuận Tử nhìn lên trên, nói: “Quái lạ, đám quái điểu kia hình như không bay xuống đây.”

Tôi cũng nhìn lên đỉnh đầu, quả thật cái áp lực vô hình vừa nãy đã biến mất, cũng không có thứ gì lao xuống đây nữa.

“Hay là dưới này có gì kỳ quặc nên chúng không dám xuống?”

Phan Tử cũng hơi hơi do dự, Bàn Tử nói: “Thế này đi, giờ chúng tôi đi vòng quanh xem xét trước đã, nếu chỗ này có vẻ có vấn đề thì chúng ta sẽ lập tức leo lên. Mọi người cứ đứng ở đây, còn Tiểu Ngô hãy nghỉ ngơi một lát đi.”

Tôi gật đầu. Phan Tử nói với Bàn Tử, tôi với cậu đi, rồi hai người đi về hai hướng.

Chẳng mấy chốc, từ hướng Bàn Tử đang tìm kiếm bỗng có tiếng hô, hình như đã phát hiện ra thứ gì.

Phan Tử giương súng, nhìn theo hướng Bàn Tử, chỉ thấy Bàn Tử đã đi một đoạn rất xa qua chiếc cầu, ánh đèn pin cũng trở nên mơ hồ. Trong quầng sáng đèn pin của hắn, chúng tôi thấy sau lưng hắn có một mảng bóng đen rất lớn, tựa như có vô số người đứng trong bóng tối đằng xa. Những cái bóng kia trộn lẫn vào nhau thành một mảng, không đếm nổi rốt cuộc là có bao nhiêu.

Chúng tôi đều bắt đầu cảnh giác. ‘Rắc” một tiếng, Phan Tử đã mở chốt an toàn khẩu súng, Thuận Tử cũng rút dao săn. Phan Tử hỏi Bàn Tử: “Có chuyện gì thế? Kia là cái gì?”

Bàn Tử ở bên kia cũng kêu to: “Các người lại đây nhìn thì biết.”

Theo ước tính của chúng tôi khi đứng trên cầu thì con sông đào này phải rộng đến sáu mươi mét, cả chiều rộng lẫn chiều dài đều rất lớn. Nếu xét theo chiều rộng lòng sông, chỗ Bàn Tử đang đứng cũng không xa chúng tôi lắm, nhưng vì bốn phía là một màu đen đặc nên chúng tôi cơ bản không nhìn rõ vật thể mà đèn pin của hắn chiếu đến. Nhưng nghe giọng điệu của Bàn Tử thì có vẻ chỗ đó cũng không nguy hiểm.

Thuận Tử liếc nhìn tôi, hỏi tôi có đi nổi không, có muốn qua đó xem không? Tôi gật đầu, hắn liền dìu tôi đứng lên, đi khập khiễng tới chỗ Bàn Tử.

Dưới đáy con sông đào này toàn là những tảng đá đen gồ ghề, một vài tảng có kích thước khiến người ta phải phát hoảng, nhìn qua đủ biết vào thời điểm xây dựng, đây nhất định là một công trình vĩ đại. Mảng bóng đen to lớn dưới ánh đèn pin của Bàn Tử nằm ngay bên dưới trụ cầu.

Đánh vật một hồi để đến chỗ Bàn Tử, những cái bóng kia cũng rõ ràng hơn. Tôi lại gần, lấy đèn pin trong tay Bàn Tử chiếu tới, mới nhìn rõ thứ đó là gì.

Nơi Bàn Tử đang đứng, giữa lòng sông xuất hiện một vết đứt gãy lớn, bên dưới vết nứt này là một con rạch sâu chừng một mét. Rạch này rộng khoảng hai mươi mét, trong rạch là vô số tượng người, ngựa cổ đại màu đen, xen lẫn với mảnh vỡ xe ngựa thanh đồng sắp xếp ngay ngắn, liên miên không dứt. Nhìn kĩ vài pho tượng sẽ phát hiện bề ngoài đã bị ăn mòn nghiêm trọng, đường nét gương mặt không rõ, ngũ quan đã không thể phân biệt. Rất nhiều tượng còn cầm đồ đồng đã lốm đốm những vết hoen gỉ màu xanh.

Những bức tượng người này đa phần là đứng thẳng, sắp xếp rất dày, nhiều tượng đã vỡ vụn, ngã xiêu ngã vẹo thành một đống. Đứng ở chỗ tôi nhìn xuống, trong phạm vi quầng sáng, nhìn hút mắt cũng chỉ thấy những vật như thế này. Một mảng bóng đen rộng lớn âm trầm nằm bên dưới hoàng lăng, nhìn thoáng qua khiến người ta không khỏi rợn tóc gáy.

“Những thứ này là gì vậy?” Thuận Tử lần đầu tiên nhìn thấy, trợn mắt há mồm vì kinh ngạc.

“Cái này hình như là tượng tuẫn táng, còn kia là tượng xe ngựa, biểu trưng cho đội ngũ đón khách hoặc tống tiễn đế vương xuất hành……..” Tôi lắp bắp nói “Quái, ở đây sao lại có mấy thứ này? Đáng ra phải đặt dưới huyền cung hoặc trong hố bồi táng mới đúng chứ?”

Bàn Tử biết mấy thứ này, cũng nhận ra điểm kì quái. Đây là hoàng lăng, không phải nơi để đùa giỡn. Số lượng vật phẩm đặt trong huyền cung và cách bài trí đồ tuẫn táng trong hố tuẫn táng đều tuân theo quy tắc nhất định, không thể tùy tiện như lăng mộ của quý tộc hoàng gia bình thường. Hoàng lăng coi trọng thứ nhất là khí, thứ hai là thế, đem đồ tuẫn táng chất đống ngoài trời có khác nào trên một khối bạch ngọc thượng đẳng lại lỗ chỗ mấy vết răng chuột, là điều tối kị trong tối kị, vào thời đó nếu để hoàng đế biết được chắc chắn sẽ bị tịch thu gia sản. Tuy lúc ấy Đông Hạ chỉ là một tiểu quốc bí ẩn nằm ven biên giới, nhưng nếu người xây lăng mộ là Uông Tàng Hải danh tiếng lẫy lừng thì chắc chắn không thể phạm phải một sai lầm ngớ ngẩn như vậy được.

Bàn Tử leo xuống con rạch, một tay giương súng đề phòng, một tay cầm đèn pin chiếu vào một bức tượng không đầu, nói với tôi: “Nhìn phục sức thì hình như là thời Nguyên, là trang phục của dân tộc thiểu số.” Nói rồi định với tay chạm vào.

Tôi nhắc nhở hắn: “Đừng có sờ lung tung, thứ này có vẻ thần bí, đặt ở đây không chừng có gì kì quặc.”

Bàn Tử cãi lại: “Sợ quái gì, chẳng lẽ mấy thứ này có thể sống lại?” Nhưng lời tôi nói vẫn có tác dụng, hắn rụt tay về, đeo súng lên vai. Một tay cầm chắc đèn pin, một tay rút con dao săn trên thắt lưng, dùng sức chọc chọc vài cái vào bức tượng. Bức tượng hình người không hề có phản ứng, hắn bèn quay đầu lại nói: “Hàng thật đúng giá, là tượng đá hình người.”

Phan Tử thấy vậy bắt đầu tò mò, cũng leo xuống con lạch, lại gần Bàn Tử. Tôi vẫn cảm thấy lo lắng, nói: “Các anh cẩn thận một chút.”

Bàn Tử khoát tay, tỏ ý biết rồi khổ lắm nói mãi. Hắn nhét dao săn trở vào bao da, thử nâng bức tượng gần nhất, hỏi: “Tiểu Ngô, cậu là dân nhà nghề, thử nói xem thứ này có đáng tiền không?”

Tôi gật đầu, cho hắn biết: “Thứ này trông cũng khá, không cần phải hoàn chỉnh, chỉ có một phần cũng đầy người muốn mua. Tôi biết đầu một tượng binh mã có giá đến 200 vạn, nữa là còn nguyên vẹn. Mà tượng ngựa còn hiếm hơn tượng người nên càng quý, giá cả chắc chắn không tệ.”

Bàn Tử tiếc rẻ nhìn quanh bốn phía, tỏ vẻ vô cùng đau xót, nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc, thứ này lại khó mang theo.”

Trong lòng tôi vẫn thấy kì quặc, mấy thứ này thực sự không nên xuất hiện ở đây. Người ta thường nói, đằng sau mỗi món đồ trong cổ mộ đều là cả một câu chuyện. Mấy thứ này đặt ở đây hẳn phải có ý nghĩa gì, hoặc để kể lại một câu chuyện, vậy rốt cuộc người thiết kế lúc ấy có dụng ý gì đây?

Chiếu theo khoảng cách hai bên bờ sông, con rạch chứa những bức tượng này nằm chính giữa và cũng là nơi sâu nhất của con sông đào. Vào thời điểm hoàng lăng mới xây xong, mấy thứ này hẳn là đều chìm dưới mặt nước, mà gương mặt nhạt nhòa của những bức tượng người cũng là bằng chứng cho thấy chúng bị ngâm trong nước một thời gian dài. Nói cách khác, khi hoàng lăng đã xây dựng xong, người đứng bên trên không thể biết đến sự tồn tại của những vật này.

Đặt những bức tượng này ở đây là có ý gì? Chẳng lẽ đây là những phế liệu xây dựng, những bức tượng thứ phẩm, thợ xây lười vác ra nên mới nhấn chìm những thứ rác rưởi này dưới lòng sông đào? Cũng không phải, sắp xếp ngay ngắn như vậy, không giống với cách chất đống phế liệu.

Đúng là không thể phỏng đoán tâm tư của cổ nhân, trong lòng tôi thầm than thở. Nếu tôi không ngã xuống đây thì đứng trên cầu không thể nhìn thấy những vật bên dưới, cũng coi như là có duyên. Phải chăng ông trời muốn chỉ cho tôi thấy điều gì chăng?

Đúng lúc này, Bàn Tử kêu lên một tiếng, nói: “Các người có phát hiện ra không, tất cả những bức tượng ở đây đều hướng mặt về một phía, động tác như đang đi, nhìn rất khác những bức tượng được rao bán trên chợ đồ cổ.”

Tôi vốn không để ý, nhưng nghe Bàn Tử nói, tôi cũng nhìn lại một lần theo hướng hắn nghĩ thì thấy quả đúng là như thế.

Xưa nay tượng bồi táng được xếp quay về một phía vốn là chuyện thường tình, tôi cũng chưa thấy ở đâu sắp đặt mỗi tượng quay một phương loạn xà ngầu lên. Nhưng Bàn Tử nói đến động tác như đang đi lại rất kì, quả thực tôi chưa từng thấy. Tôi cầm đèn pin cẩn thận chiếu xuống chân mấy bức tượng, đột nhiên trào lên cảm giác kì quái.

“Những người này….” Tôi nhíu mày nói: “Hình như đang hành quân.”

“Hành quân?” Phan Tử nhìn tôi hỏi lại.

Tôi gật gật đầu: “Nhìn cách ăn mặc của người ngồi trên xe ngựa kia xem, đây là đội ngũ hộ tống cho đế vương xuất hành. Cậu xem mấy con ngựa này, mấy cỗ xe này, động tác của những người này nữa, bọn họ đều đi về cùng một hướng. Những bức tượng được sắp xếp như vậy, động tác của bọn họ dường như muốn biểu thị một tình huống nào đó.”

Chúng tôi đều nhìn về hướng đội quân tượng tiến đến, chỉ thấy những bức tượng quỷ dị này xếp thành một hàng dài, mất hút vào bóng đêm sâu thẳm trong lòng con sông đào, không thể nhìn thấy đích đến của chúng ở đâu.
 
Quyển 4 - Chương 32: Rạch tuẫn táng


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Nếu không bị thương, có thể tôi đã đề nghị mọi người đi xem thử; nhưng nhìn phía xa chìm trong bóng tối đặc quánh, mấy lời này lập tức nuốt xuống bụng. Bàn Tử không cảm nhận được nỗi sợ của tôi, vẫn hỏi: “Cậu nói có lý, vậy mấy thứ này dẫn tới nơi nào? Hay chúng ta cứ đi xem thử, dù sao con sông này cũng không dài lắm.”

Phan Tử lập tức lắc đầu phản đối: “Chúng ta không thể trì hoãn thêm nữa. Cậu Ba đang bị thương, nếu xảy ra chuyện gì thì chạy cũng không nổi. Chúng ta đừng có tốn thời gian ở đây nữa, ông Ba phái người chuyển lời, chúng ta còn chưa hiểu nó có ý gì kìa. Mua rắc rối vào người, không bằng nhân dịp này suy ngẫm thật kĩ xem ông Ba muốn nói cửa vào địa cung rốt cuộc ở đâu, vừa hay lũ quái điểu kia không bay được xuống dưới này.”

Lời này nói trúng ý tôi, tôi lập tức gật gật đầu, sau đó ho khan vài tiếng, ra vẻ mình bị thương nặng lắm. Thuận Tử không tỏ thái độ gì, còn Bàn Tử thấy chúng tôi như vậy thì không khỏi hậm hực, nhún vai nói “Thôi được rồi.”

Thuận Tử kéo bọn họ lên khỏi con rạch, mọi người cùng quay trở về chỗ tôi vừa ngã xuống. Phan Tử lấy trong ba lô ra một cái đèn bão, châm lên cho chúng tôi sưởi ấm. Tôi nhẩm tính, từ lúc đi đến đây chúng tôi đã một ngày chưa có gì bỏ bụng, dạ dày đã bắt đầu réo lên ùng ục. Vì thế, bốn người chúng tôi ngồi xuống cùng ăn chút lương khô.

Đến khi mở hành lý ra, chúng tôi mới phát hiện phần lớn lương khô của mình đều để lại trong ba lô của đám người Trần Bì A Tứ. Số lương thực chúng tôi mang trên người rõ ràng là không đủ, nhất là Bàn Tử, từ khi xuống đây hắn vẫn chưa có gì bỏ bụng. Nhưng gần như tất cả trang bị đều nằm trong tay chúng tôi: dây thừng, móc câu, ngòi nổ,… và rất nhiều vật dụng thám hiểm khác.

Phan Tử xem xét một hồi rồi nói với chúng tôi: “Xem ra Trần Bì A Tứ lúc phân phối trang bị cho chúng ta đã có ý sắp đặt trước. Toàn bộ trang bị đều nằm trên lưng chúng ta, lương thực thì ở chỗ bọn họ, như thế hai bên phải phụ thuộc lẫn nhau, không ai có thể chạy trốn một mình. Cái chiêu này tôi thực không chú ý tới.”

Bàn Tử cười nhạo: “Anh thì chú ý đến cái qué gì. May là tôi cũng chẳng trông cậy vào anh với ông Ba nhà các anh. Mỗi lần đụng vào mấy người là tôi lại mua đắt bán lỗ, lúc ở trên xe lửa tôi đã đoán trước sẽ có ngày này mà.”

Phan Tử cũng phun ra một tràng: “Mẹ kiếp anh cũng bơn bớt nói móc đi nhá, nhìn lại mình xem có tốt đẹp hơn ai, anh không kéo chúng tôi vào rắc rối tôi đã phải cảm tạ Phật tổ rồi.”

Thuận Tử sợ bọn họ lại gây gổ cãi nhau, bèn vội vàng nói: “Các vị, thừa hơi thừa sức cãi nhau chi bằng mau ngẫm xem lời nhắn của ông Ba là có ý gì?”

Tôi cũng vỗ vỗ Phan Tử một cái để hắn đừng nổi cáu, rồi quay sang hỏi Thuận Tử: “Hoàn cảnh chú Ba tôi tới tìm anh là như thế nào? Nếu anh không kể chi tiết lại cho chúng tôi thì câu nói kia quả là quá mơ hồ. Chúng ta còn chưa đặt chân vào hoàng lăng, thật không biết nên nghĩ theo hướng nào.”

Nghe tôi hỏi thế, Bàn Tử và Phan Tử cũng đã bình tĩnh lại, đồng loạt nhìn về phía Thuận Tử.

Thuận Tử ngồi xuống, khẽ nhíu mày: “Khoảng một tháng trước, tôi cũng dẫn khách lên núi như thường lệ, đương nhiên đoàn khách này không lợi hại như nhóm các vị, chỉ đi lòng vòng ngắm nhìn núi tuyết một chút thôi. Chú Ba các cậu trà trộn vào giữa đoàn khách ấy, lúc qua đêm trên núi, ông ấy bỗng dưng gọi tôi ra ngoài, thần thần bí bí, nói bây giờ ông ấy phải đi lên núi tuyết một mình, bảo tôi đừng nói với bất kì ai. Sau đó ổng cho tôi ít tiền, bảo tôi đại khái là trong thời gian này hãy ở dưới chân núi chờ một người tên Ngô Tà, sau đó lại dẫn các vị lên núi, chỉ cần đưa nhóm các vị đến trước mặt ông thì sẽ cho tôi một số tiền lớn. Sau đó ông ta bảo tôi nhắn lại cho cậu mấy lời vừa rồi, còn nhấn mạnh rằng chỉ cần là ‘cậu’ thì nghe xong lập tức sẽ hiểu.”

“Chú ấy thật sự đã nói như vậy sao?” Tôi hỏi.

Thuận Tử gật gật đầu, vẻ mặt chắc như đinh đóng cột.

Tôi cảm thấy có điều kỳ quái, lời này có vẻ nhấn mạnh vào người nghe mà không phải nội dung câu nói. Chỉ cần là ‘tôi’ nghe xong lập tức sẽ hiểu, chẳng lẽ trên người tôi có phẩm chất đặc biệt nào đó khác hẳn với những người còn lại?

“Vậy làm sao anh biết tách Trần Bì A Tứ ra trước rồi mới nói cho chúng tôi mấy thứ này?” Bàn Tử hỏi.

Thuận Tử cười hì hì, lộ ra nét mặt hoàn toàn khác trước, nói: “Tôi cũng đâu phải thằng ngốc. Chú Ba đã cho tôi biết số người các cậu, còn nói nếu số người không khớp thì chỉ có thể nói lại cho một mình cậu nghe. Tôi vừa thấy nhóm các cậu đã có cảm giác bầu không khí trong nhóm hơi bất thường, cứ như có hai nhóm người đi chung với nhau. Lúc ấy tôi lại không biết các cậu muốn làm gì, đành phải giả ngu mà quan sát. Dù sao tôi cũng đã nhận tiền của người ta rồi, nếu làm không tốt khiến các cậu lỡ việc cũng không hay.”

Tôi nhìn nét mặt của Thuận Tử, cảm thấy có gì đó xảo trá, trong lòng nổi lên cảm giác khó chịu. Thầm nghĩ thì ra từ lúc bắt đầu lên núi, cái vẻ ngoài thật thà phúc hậu của hắn đều là giả bộ? Ai da, đúng là không thể xem mặt mà bắt hình dong. Bảo sao càng đi hắn ta lại càng điềm tĩnh, thì ra đây mới là bộ mặt thật của hắn.

Phan Tử là người từng trải, lúc này mới trầm ngâm nói: “Không thể đơn giản như vậy, tôi thấy hình như anh còn biết chuyện gì khác nữa?”

Thuận Tử cười đầy ẩn ý: “Trước khi xuất ngũ, đơn vị của tôi đã đóng quân ở chính nơi này. Tôi đã leo lên không biết bao nhiêu ngọn núi tuyết, cha mẹ tôi là người Triều Tiên sinh sống lâu đời ở vùng này. Vào năm 718 loạn lạc, tổ tiên tôi từ Bắc Triều Tiên chạy đến đây, trốn sâu trong núi đã nhiều năm. Trong núi này, thời xưa có vô số truyền thuyết, chúng tôi cũng từng gặp nhiều chuyện lạ. Hàng năm có không biết bao nhiêu người mang đủ thứ mục đích lạ lùng lên núi, anh cứ nói tôi chẳng biết gì chứ thực ra tôi vẫn hiểu được lờ mờ, cho nên vừa thấy các người nhắm đến ngọn núi này, tôi đã đoán ngay ra các người muốn làm gì.” Hắn dừng lại một chặp, liếc tôi một cái, ý vị sâu xa: “Nếu không có chú Ba các người dặn dò, lúc ở sườn núi tuyết lở kia, tôi đã cương quyết không cho các người đi tiếp nữa.”

Phan Tử nhìn tôi, lại nhìn Bàn Tử, không biết phải nói gì.

Ngây người một lúc, Phan Tử rút một điếu thuốc, đưa cho Thuận Tử: “Thuận ca, chúng tôi có mắt như mù. Chúng ta bây giờ đã là người một nhà, mời anh một điếu.”

Thuận Tử không nhận điếu thuốc, ngẩng đầu nói: “Tôi là người thực tế, đừng nói mấy lời vô nghĩa. Tôi giúp các người không phải vì yêu quý gì các người, mà chỉ vì tiền thôi. Chú Ba các người đã đồng ý trả cho tôi một số tiền lớn, đủ cho tôi dùng đến hai đời, cho nên tôi nhất định phải đưa được nhóm các người tới trước mặt ông ấy. Các người mau nghĩ ra ẩn ý trong câu nói kia đi.”

Phan Tử bẽ mặt, đành đưa điếu thuốc lên miệng mình, nhìn tôi cười khổ.

Tôi hỏi Thuận Tử: “Vậy anh hãy nhắc lại nguyên văn lời của chú Ba lúc đó cho tôi nghe đi.”

Thuận Tử hồi tưởng, nói: “Lúc ấy hình như ông ta nói thế này: ‘Chờ Ngô Tà tới rồi, anh hãy nói cho nó biết cửa vào của địa cung nằm ở ‘Huyền Vũ cự thi’. Sau đó tôi hỏi ông ta câu này có ý gì, ông ta bảo chỉ cần nhắc lại y như vậy, nếu là cậu thì chắc chắn sẽ hiểu.”

“Vẫn như cũ” Tôi thở dài một tiếng, nghĩ bụng nghe cả câu thì mấu chốt vẫn là ‘tôi’, nhưng mấy lời rõ ràng là tôi cóc hiểu gì cả. Mẹ kiếp, chú Ba sao tự nhiên lại tin tưởng tôi thế này? Đây không phải là hại tôi sao?

Mấy người kia đều nhìn chằm chằm vào tôi, trong mắt lộ ra vẻ tha thiết. Tôi lắc lắc đầu, thở dài một tiếng.

Bàn Tử thấy tôi không nghĩ ra, bèn hỏi: “Hay gợi ý này có liên quan tới chuyện nào đó từng xảy ra trong nhà cậu? Chuyện gì mà chỉ có người Ngô gia các cậu mới biết ấy?”

“Không có chuyện đó đâu.” Tôi nói: “Tôi hiểu tính chú Ba, ổng sẽ không dùng một ám hiệu quá mức phức tạp như thế, rồi để cho chúng ta phải suy đoán. Nếu ổng để cho Thuận Tử truyền lời, thì ý tứ trong những lời đó chắc chắn sẽ cực kì rõ ràng. Nhất định là có lối rẽ trong tư duy, chúng ta đã suy đoán nhầm hướng mất rồi.”

“Nhưng ông Ba chỉ nói ‘cậu’ vừa nghe là hiểu liền, chứ không nói ‘chúng ta’ vừa nghe đã hiểu, vậy đó chắc chắn phải là một ám hiệu liên quan đến những điểm chung giữa hai người.” Phan Tử nói: “Chi bằng thử nghĩ lại xem cậu và ông Ba có những điểm nào giống nhau.”

Tôi cảm thấy cách này không có tác dụng là mấy, nhưng giờ đã cùng đường rồi, đành xòe ngón tay ra đếm. Điểm giống nhau giữa tôi và chú Ba sao? Thực ra cũng không nhiều lắm. Nhưng chỉ có tôi và chú Ba nên phải loại trừ đám người Phan Tử ra, ví dụ nếu nói tất cả mọi người đều là đàn ông thì Phan Tử cũng là đàn ông, vậy không tính. Nếu nói chúng tôi đều họ Ngô thì cũng tính là một điểm chung nhưng cái đó và ám hiệu kia chắc không liên quan gì.

Còn một điểm nữa là tôi và ổng thấy gái đều tớn mắt lên *cái đồ khẩu thị tâm phi =~=*, tuy nhiên cái này cũng hơi mơ hồ, bởi có đánh chết ổng cũng không chịu thừa nhận. Ngoại trừ mấy điểm này, tính ra chỉ còn một điểm giống nhau là tôi và ổng đều ở Hàng Châu, hiện giờ địa bàn sinh sống chủ yếu cũng là Hàng Châu.

Khoan đã! Tôi vừa nghĩ đến điểm này, tự dưng giật mình, giống như trong đầu vừa nảy sinh thứ gì đó. Một mối dây liên tưởng đột nhiên hiện ra trong đầu tôi –

‘Huyền Vũ cự thi’ – ám hiệu của chú Ba – Hàng Châu – ‘tôi’ nhất định có thể hiểu được –

Tôi đột nhiên bừng tỉnh. Bốn chữ kia, thì ra là có ý này!
 
Quyển 4 - Chương 33: Ám hiệu nhàm chán


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

‘Huyền Vũ cự thi’. ‘Huyền Vũ cự thi’ chó chết!

Nghĩ thông rồi, tôi thấy tất cả mọi thứ đều sáng tỏ, không kìm được mà cười phá lên. Đây hoàn toàn là hiểu lầm, bốn chữ mà chú Ba nói căn bản không phải bốn chữ này, chẳng qua những quan niệm trong Táng kinh đã ăn sâu bám rễ trong đầu chúng tôi nên vừa nghe phát âm bốn chữ gần giống thế đã đinh ninh chính là nó. Hơn nữa đúng như tôi đã đoán từ trước, ám hiệu này thực chất không phải là ám hiệu. Chú Ba đã dùng một cách vô cùng tài tình, khiến cho câu này của ổng gần như nói trắng ra luôn. Có thể nhắc lại ngay trước mặt người khác, nhưng ý tứ thực sự thì chỉ có tôi mới hiểu.

Xem ra chú Ba đã sớm đoán biết, có thể những người đi cùng tôi vào trong hoàng lăng này chưa chắc đã là những người mà ổng an bài từ trước.

Mấy người kia nhìn sắc mặt tôi biến đổi rõ rệt thì biết ngay tôi đã ngộ ra điều gì, vội hỏi tôi đã nghĩ thông chưa.

Tôi bèn giải thích: “Đúng là chúng ta đã nghĩ sai hướng rồi. Chú Ba nói những lời này ‘tôi’ có thể hiểu. nguyên nhân chủ yếu không phải vì tôi với ổng có điểm gì giống nhau, mà do tôi đã lớn lên ở Hàng Châu từ nhỏ.”

Mọi người vẫn chưa hiểu, Bàn Tử hỏi lại: “Vậy có nghĩa là mấy lời này có liên quan đến phong cảnh ở Hàng Châu hả? Không phải chứ, Bàn gia tôi đã đi qua Hàng Châu nhiều lần nhưng chưa từng nghe Hàng Châu có nơi nào tên là ‘Huyền Vũ cự thi’ mà?

Phan Tử lắc đầu: “Anh liên thiên cái gì vậy, tôi dám chắc nó không liên quan gì đến phong cảnh, người lớn lên tử nhỏ ở Hàng Châu cũng chưa dám chắc đã quen thuộc hết những danh thắng di tích ở đó nữa là. Anh xem ông Ba nhà chúng tôi sống ở Hàng Châu đã hơn mười năm mà chỉ biết mỗi cái Tây Hồ. Lần trước ông ấy dẫn chúng tôi lên núi Bảo Thạch uống trà mà rồi lại lạc đến tận đâu đâu, cuối cùng đi mãi đến tối mới thấy Ngọc Tuyền.”

Tôi gật đầu, quả thực tôi cũng là người như vậy. Ai nói dân buôn đồ cổ phải thích mấy di tích cổ chứ, tôi mới đến thăm có vài nơi thôi.

Bàn Tử nhíu mày, nói với tôi: “Không liên quan gì đến phong cảnh à? Thế con mẹ nó là cái gì? Sao cậu không nói toẹt ra đi, tôi sốt ruột muốn chết rồi đây.” Nói rồi lau lau mồ hôi.

Tôi cũng không úp úp mở mở nữa, nói với hắn: “Cái này rất đơn giản, người lớn lên ở Hàng Châu tuy không nhất thiết phải quen thuộc phong cảnh, nhưng chắc chắn có thể nghe hiểu thổ ngữ Hàng Châu. Đây mới là điểm mấu chốt.”

Tất cả mọi người đều sửng sốt, ngây người ra một lúc, hiển nhiên cũng đã mơ hồ hiểu ra vấn đề, nhưng vẫn chưa rõ ràng lắm. Bàn Tử hỏi: “Là cách phát âm?”

Tôi gật đầu. Trong số những người ở đây, chỉ có tôi là thông thạo thổ ngữ Hàng Châu. Phan Tử quanh năm ở Trường Sa, cũng có thể nghe hiểu tiếng Hàng Châu nhưng hiểu biết sâu sắc về thổ ngữ thì không có. Bàn Tử là người bắc, nghe giọng nói đủ biết cả năm quanh quẩn trong thành Bắc Kinh. Thuận Tử lại càng khỏi phải bàn, đến tiếng phổ thông còn nói chưa lưu loát. Nếu chú Ba dùng tiếng Hàng Châu nói một câu, quả thực chỉ có tôi mới hiểu nổi.

Đáng tiếc là Thuận Tử không giỏi tiếng Hán nên chỉ nhớ được cách phát âm, không nghe ra được ngữ điệu biến hóa ở nửa đầu và nửa sau câu nói, cho nên lời nói từ miệng hắn đi ra chỉ là một câu hoàn toàn không có ngữ điệu.

Phan Tử vỗ vỗ đầu, nói: “Mẹ kiếp, đúng là tôi không nghĩ đến cái này. Vậy ‘Huyền Vũ cự thi’ kia, nếu nói bằng thổ ngữ Hàng Châu thì có ý gì? Cái này cũng có vẻ khó đọc nha.”

Tôi cười nói: “Để yên nghe tôi phân tích hết đã. Thật ra mật ngữ của chú Ba không phải bốn chữ, mà là sáu chữ ‘Huyền Vũ cự thi chi địa’. Chữ ‘Huyền” thứ nhất, tiếng Hàng Châu phát âm là “Viên” lại gần giống với ‘Duyên’. Chữ ‘Vũ’ phát âm cũng na ná chữ ‘hồ’. Nhưng ở Hàng Châu, từ ‘hồ’ này có thể đọc là hồ cũng có thể đọc là hà. “cự” đồng âm với ‘cừ’, ‘thi’ đồng âm với ‘thủy’, ‘địa’ đồng âm với ‘để’ —- Vậy gộp lại chính là ‘duyên hà cừ thủy chi để’ (dưới đáy rạch nước chạy dọc sông)

Tôi vừa giải thích xong, mọi người ‘A” lên một tiếng, đều tỏ vẻ tỉnh ngộ. Bàn Tử gật gù, đương nhiên tôi dịch ra như vậy là hoàn toàn hợp lý, không có sơ hở nào cả.

Phan Tử ‘hừ’ một tiếng, lầm bẩm nói ông Ba đúng là ông Ba, nếu Trần Bì A Tứ mà nghe được mấy lời kia thì có đánh chết lão cũng không thể suy ra theo hướng này, chắc chắn sẽ tìm ý nghĩa của ‘Huyền Vũ cự thi’ đến nổ tung đầu luôn.

“Rạch nước dưới lòng sông?” Bàn Tử đã chuẩn bị lên đường “Nhưng nơi này làm gì có sông? Hay sông nằm trong hoàng lăng?”

Tôi nói: “Trong lăng chắc chắn không có sông, cùng lắm chỉ có suối thôi, bởi vì mực nước sông không thể khống chế, nước quá cao sẽ bị ngập, nước quá thấp thì lại phá thế, hơn nữa nước sông sẽ làm bại lộ vị trí của cổ mộ. Sông ở đây chỉ có thể là con sông đào này thôi.”

Cơ mặt của Phan Tử đều co giật cả lên: “Chúng ta đi bậy đi bạ, hóa ra lại đi đúng đường sao?”

“Cũng chưa chắc chắn hoàn toàn.” Tôi lắc đầu, dù sao còn chưa bước vào hoàng lăng, không biết tình hình bên trong thế nào, nhưng dựa theo dấu hiệu hiện tại cùng với những tư liệu đã từng xem qua thì phân tích của tôi vẫn có cơ sở.

“Nếu nói sông chính là con sông đào này, vậy rạch kia… con mẹ nó… không lẽ chính là cái chỗ chúng ta vừa xem qua kia…” Bàn Tử đứng dậy, nhìn về phía con rạch tuẫn táng chứa đầy tượng đá kia, quả thực trùng khớp với ám hiệu chú Ba để lại. Chúng tôi quay đầu lại nhìn, tim đập rộn ràng.

“Nhưng…” Phan Tử vẫn thấy không ổn, “Con ‘rạch’ kia không có ‘nước’.”

Tôi lắc đầu nói: “Lúc ấy chú Ba cũng chưa tiến vào hoàng lăng này. Ổng nói những lời này có lẽ cũng chỉ dựa theo những gợi ý tìm được ở bên ngoài, có thể dựa theo sách cổ hoặc địa đồ. Mà người vẽ ra địa đồ hoặc viết ra sách cổ đương thời cũng không lường trước sẽ có một ngày con sông đào kia bỗng dưng cạn khô.”

Trên những tảng đá kè quanh sông này có dấu vết bị ăn mòn, chắc chắn sông này trước kia từng có nước. Nhưng trải qua hàng ngàn năm, nguồn nước dẫn vào sông, có thể là mạch nước ngầm hoặc là suối nước nóng, đã khô cạn. Nước sông không được bổ sung nên dần dần ngấm vào lòng đất, cuối cùng cũng khô cạn theo.

Bàn Tử đã mất hết kiên nhẫn, “rắc” một tiếng kéo chốt an toàn khẩu súng, nhìn chúng tôi hất đầu ra hiệu: “Các đồng chí, khó khăn lắm lợi ích cá nhân của chúng ta mới thống nhất làm một với lợi ích cách mạng, còn chờ cái gì nữa, con mẹ nó cùng lên đi.”

Chúng tôi không tìm ra lí do gì để phản bác lời đề nghị của Bàn Tử lúc này, nhưng lập tức xuất phát thì đúng là quá nóng vội. Phan Tử kéo hắn xuống, nói: “Đã có manh mối rồi, tình thế trái lại không gấp. Anh xem cậu Ba bị thương nặng như vậy, còn chưa được nghỉ ngơi kia kìa. Anh muốn đi một mình hay muốn bảo chúng tôi vứt cậu ấy lại đây chờ chết?”

Bàn Tử ngẩn người, ngẫm lại thấy cũng có lý, nhưng hắn thực sự bị dục hỏa đốt người, bèn vỗ vai Thuận Tử: “Này, hay tôi với anh đi trước thám thính, tóm mấy con chim làm đồ ăn. Cứ để hai người họ ở đây nghỉ ngơi, đảm bảo thu hoạch không kém số tiền ông Ba kia trả cho anh.”

Không ngờ Thuận Tử cũng lắc đầu, nói: “Nhiệm vụ của tôi là đưa cậu ta” chỉ vào tôi, “đến trước mặt ông Ba kia. Về sau các người sống chết thế nào tôi không quản, nhưng hiện giờ tôi phải trông chừng cậu ta.”

Tôi nghe thế thì cười đắc chí, quay sang Bàn Tử: “Giờ đã rõ ai mới là VIP ở đây chưa?”

*Đù, vậy là lại thêm một mạng gia nhập đoàn kị sĩ hộ giá công trúa =)) Và Tà nó có vẻ rất khoái chí với địa vị này =))*

Bàn Tử xì một tiếng khinh miệt, khó chịu nói: “Được! Các người cứ ở đây nghỉ ngơi đi, Bàn gia ta tự đi một mình. Chờ đến khi ông kiếm được mấy món bảo bối mang về, xem các người có tiếc nhỏ dãi ra không. Ông nói trước cho mà biết, thứ gì ông tìm được là của ông, tuyệt đối không chia cho các người đâu!” Nói rồi vác súng lên hùng dũng bước đi.

Mới đi được vài bước, hắn đột ngột dừng lại rồi quay đầu trở về. Chúng tôi thấy thế thì phá ra cười, hỏi hắn sao thế, sợ rồi hả?

Bàn Tử hừ một tiếng, tung cước đá văng cái ba lô của mình, ngồi đối diện với cái đèn bão, nói: “Sợ cái con khỉ biển, các người đúng là muốn đuổi ông đi, Bàn gia ta đâu có ngu. Chờ lát nữa ông lấy được mấy món béo bở, ba người lại hè nhau xông vào cướp, dù ông có là mãnh hổ cũng khó địch lại bầy lang sói, để các người chiếm lợi, không khéo còn bị các người giết người cướp của nữa, ông không dại mà đâm đầu vào vụ làm ăn mù quáng này.”

Phan Tử thấy Bàn Tử vẫn còn bực bội, mới thừa cơ chế nhạo: “Cái này gọi là lòng dạ tiểu nhân, anh nghĩ rằng tụi này ai cũng giống anh sao.”

Tôi sợ hắn lại nổi điên lên, bèn ngắt lời cả hai: “Được rồi, đừng ai nói gì nữa. Giờ tính ra cũng là nửa đêm rồi, tuy ở dưới này không thấy sắc trời nhưng chúng ta cũng phải nắm bắt được thời gian mà nghỉ ngơi.”

Phan Tử nhìn đồng hồ, cũng gật đầu, vặn đèn bão cho sáng thêm, xung quanh lập tức ấm áp hơn hẳn. Sau đó anh lấy túi ngủ ra bơm căng, mọi người đều chui vào làm một giấc.

Bàn Tử châm một điếu thuốc, nói hắn không buồn ngủ, để hắn gác ca thứ nhất. Tôi liếc hắn một cái, nói đến nửa đêm anh tuyệt đối không được tự ý đi chôm đồ. Vào huyền cung rồi anh muốn lấy gì thì lấy, còn bây giờ thì yên phận chút đi, con mẹ nó anh đừng để tôi coi thường.

Bàn Tử giận dữ nói hắn đâu phải hạng người đó? Hắn gác đêm, đảm bảo chúng tôi đều an toàn.

Đi đường mệt mỏi, lên đến đỉnh núi tuyết đã là chạng vạng tối, từ khi tiến vào cung điện dưới lớp băng cho tới bây giờ đã hơn mười tiếng. Hơn nữa chúng tôi hoạt động với cường độ tương đương với lao động chân tay một ngày một đêm, hết leo núi, chạy như điên lại nhảy xa, cùng với cú ngã lúc nhảy xa thất bại, tôi đã mệt rã rời, vừa chui vào túi ngủ lập tức thiếp đi.

Tôi có cảm giác mình ngủ rất say. Là người bệnh nên tôi không phải gác đêm, khi tỉnh lại thì xung quanh vẫn một màu tối đen, đèn bão đã tối đi rất nhiều, người gác đêm cũng chuyển sang Phan Tử. Anh đang tựa vào một tảng đá hút thuốc, cạnh đó là Bàn Tử ngáy pho pho như sấm.

Tôi nhìn đồng hồ, biết mình mới ngủ có 5 giờ, có điều những lúc bị thương nặng tôi đều ngủ rất ngon. Do cơ thể tái tạo mạnh mẽ nên người gần như rơi vào trạng thái nửa hôn mê, khi tỉnh dậy đầu óc nhẹ nhàng khoan khoái nhưng thân thể lại càng mệt mỏi, xương sống ở thắt lưng bắt đầu đau tệ hại.

Tôi xoa xoa mặt, chui ra khỏi túi ngủ, vặn vẹo mấy khớp tay chân rồi bảo Phan Tử đi ngủ đi, tôi sẽ canh gác một lát. Nhưng Phan Tử nói không cần, hồi ở Việt Nam đã có thói quen ít khi ở trên giường, mỗi ngày đều ngủ không quá ba tiếng.

Tôi cũng đành mặc anh, ngồi vào tảng đá bên cạnh, cũng muốn hút một điếu thuốc cho tỉnh táo đầu óc.

Hai người rơi vào im lặng trong chốc lát, bỗng Phan Tử bảo tôi thử đoán xem chú Ba hiện giờ ra sao? Có gặp chuyện gì bất trắc không?

Tôi thấy nét mặt anh chất chứa sự quan tâm và lo lắng thật lòng, trong lòng cũng cảm thấy xúc động. Theo lý mà nói, Phan Tử từng ra chiến trường, đã quen với mưa bom bão đạn, sinh tử ly biệt, đáng ra sẽ không có loại tình cảm sâu sắc như vậy. Nhưng ngược lại, lòng trung thành và tin tưởng của Phan Tử đối với chú Ba khiến cho cháu trai như tôi cũng thấy hổ thẹn. Không biết trước đây giữa Phan Tử và chú Ba đã xảy ra chuyện gì, nếu có cơ hội tôi thực sự cũng muốn hỏi.

Tôi an ủi anh: “Anh yên tâm đi, lão cáo già kia tuyệt đối sẽ không bạc đãi bản thân đâu. Ổng lớn mạng lắm, nếu có gặp chuyện không hay thì cũng chẳng đợi đến bây giờ mới xảy ra chuyện. Bây giờ chúng ta chỉ cần chiếu cố bản thân mình là được rồi, lúc này người cần phải lo lắng chính là chúng ta, bởi chúng ta chẳng biết gì cả.”

Phan Tử gật đầu, thở dài một tiếng thiểu não nói: “Tiếc là đầu óc tôi không được nhanh nhẹn, những việc ông Ba làm tôi không tài nào hiểu nổi. Bằng không những chuyện nguy hiểm như thế này ông Ba không cần phải đích thân làm, cứ giao cho tôi là được.”

Tôi cười khổ trong lòng, nghĩ bụng việc chú Ba đang làm cũng không đến nỗi quá mức nguy hiểm, mà ngược lại, tôi có cảm giác người gặp nguy hiểm nhất chính là chúng tôi. Chúng tôi luôn đi sau chú Ba, phán đoán ý tứ của ổng, sau đó bị ổng nắm mũi dắt đi. Cứ tiếp tục như thế, vận khí dù tốt đến đâu thì cũng có ngày gặp họa.

Ví dụ như lúc này đây, chú Ba có thể để lại manh mối về cửa vào huyền cung cho chúng tôi từ rất sớm, chứng tỏ trên người ổng có thứ gì đó giúp ổng biết trước kết cấu của địa cung này. ‘Duyên hà cừ thủy chi để” đây là một câu thể văn ngôn, giọng điệu của chú Ba không giống vậy, câu này chắc chắn lấy từ trong sách cổ. Mà theo lời Thuận Tử thì chú Ba một mình đi vào núi tuyết xem xét, hiển nhiên ổng cũng không rơi vào tay đám người A Ninh. Nếu ổng thuận lợi đi vào miệng núi lửa này, rất có thể bây giờ đã ở trong huyền cung dưới hoàng lăng.

Có thể đoán sơ sơ thế này, vật đã giúp chú Ba biết trước kết cấu địa cung có lẽ chính là mục đích đi Tây Sa mấy tháng trước của ổng, cũng có thể giải thích vì sao công ty của A Ninh lại xuất hiện ở đây. Mục tiêu của bọn họ hẳn cũng không phải ngôi mộ dưới đáy biển lần trước, mà là Vân Đỉnh thiên cung trên này. Bọn họ hợp tác với chú Ba đi Tây Sa, chẳng qua là muốn vào mộ huyệt dưới đáy biển để tìm manh mối về hoàng lăng bí mật trong lòng dãy Trường Bạch mà thôi.

Mà khi ở trong hải mộ kia, A Ninh cũng tách khỏi chúng tôi một lúc rất lâu. Trong khi chúng tôi bị những bẫy rập và cơ quan trong hải mộ chọc cho suýt phát điên, mệt mỏi muốn chết, cô ả này đã làm những gì trong hậu điện? Có phải cũng giống như chú Ba, tìm được điểm mấu chốt để đi xuống hoàng lăng trong lòng đất này? Chúng tôi không thể biết được. Nhưng vừa rồi ở tiền điện nhóm đã gặp mấy thi thể trang bị kĩ càng đến tận chân răng, chứng tỏ đội ngũ của A Ninh đã xuống nơi này trước chúng tôi rồi. Căn cứ theo lời Thuận Tử, đội ngũ bọn họ quá lớn, chắc chắn không thể nào vượt qua được tuyến biên phòng. Thế mà họ lại có thể vào đến tận đây mà không mất một cọng tóc nào, chứng tỏ bọn họ biết một con đường bí mật mà không ai khác biết.

Điều này ít nhất cũng có thể chứng minh đám người A Ninh biết những chuyện mà chúng tôi không biết.

Chúng tôi và bọn họ ở hai thế hoàn toàn khác biệt nhau. Chúng tôi hoàn toàn ‘không biết gì’, không thể đoán trước trong huyền cung có thứ gì đang chờ đợi mình. Tình cảnh này đúng là cực kì gay go, nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục tiến lên, không thể lùi bước được nữa, lùi lại mới là hỏng bét.

Những lời này tôi không thể nói ra với họ, bởi vì đối với Phan Tử, chú Ba là tất cả. Chú Ba muốn anh làm chuyện gì thì anh nhất định phải làm, không cần biết đến mục đích. Đối với Thuận Tử, hắn hoàn toàn là người ngoài cuộc, đối với hắn đây chỉ là một phi vụ mua bán, hắn chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng. Mà Bàn Tử lại càng đơn giản, hắn do người ‘gắp Lạt Ma’ mời đến, trong lăng mộ có những gì mới là quan trọng, chú Ba của tôi, đối với hắn chỉ là một cái tên đầy phiền phức mà thôi. Những phân tích nảy sinh trong đầu tôi lúc này, xem ra chỉ hữu dụng với một mình tôi, cũng chỉ có mình tôi quanh quẩn giữa những bí ẩn mơ hồ mà thôi.

Đây là lần đầu tiên tôi nảy sinh cảm giác hâm mộ đối với cuộc sống đơn giản của những người kia.

Lại nói lái sang chuyện khác, Phan Tử liền hỏi thân thể tôi thế nào rồi, tôi nói cũng đỡ một chút, được ngủ một giấc, cơ thể tôi đã khá hơn nhiều. Bây giờ không cần người đỡ cũng có thể gắng gượng đi lại, nhưng đương nhiên vẫn chưa thể đánh nhau được. Phan Tử nói hay là cậu nghỉ ngơi thêm một lát đi, khó tìm được nơi nào yên tĩnh như ở đây, mà cũng rất an toàn, chỉ sợ vào địa cung rồi sẽ không có cơ hội nghỉ ngơi nữa.

Tôi thấy cũng đúng, đã định chui vào túi ngủ tiếp, nhưng vẫn không sao ngủ lại được. Bàn Tử bên cạnh đang liên tục nói mớ bằng thứ tiếng mà tôi nghe không hiểu nổi, có vẻ như đang cò kè mặc cả với ai đó. Lúc hắn nói mớ ác liệt nhất, Phan Tử nhặt một viên đá nhỏ ném trúng đầu hắn, ăn đá xong Bàn Tử lập tức yên lặng trở lại. Nhưng chỉ được một lát lại bắt đầu lảm nhảm, càng ngày càng điếc tai. Lúc trước còn mệt mỏi nên tôi không nghe thấy gì, nhưng bây giờ muốn ngủ lại cũng thực khó khăn.

Nhắm mắt lại, cố gắng chịu đựng hai tiếng đồng hồ, Phan Tử lấy một hòn đá lớn hơn chọi cho Bàn Tử tỉnh hẳn. Lần này ai cũng đừng mong ngủ thêm, cả Thuận Tử cũng bị dựng dậy.

Sửa sang lại trang bị thật cẩn thận, ăn thêm một chút lương khô, chúng tôi lại đi về hướng con rạch bồi táng. Những pho tượng đá hình người màu đen đã hư hỏng vẫn đứng sừng sững, im lìm ở đó, đội ngũ kéo dài rồi biến mất trong bóng đêm vô tận hai đầu.

Tôi được đỡ xuống rạch tuẫn táng, thoáng cái đã đi vào giữa đám tượng đá. Đứng trên cao nhìn xuống những bức tượng này cũng không có cảm giác gì mãnh liệt, nhưng xuống rồi mới thấy chúng cao ngang ngửa tôi, nhìn quanh chỉ thấy vô vàn cái bóng xen kẽ nhau, khiến lòng tôi sinh ra một cảm giác vô cùng bất an.

Bàn Tử chiếu đèn pin về hai phía, nhìn tôi hỏi: “Ông Ba nhà các cậu bảo chúng ta đi theo hướng nước chảy, nhưng giờ chỗ này đã cạn nước, chúng ta nên đi thế nào đây?”

Tôi nhìn sang Phan Tử. Trong cuộc chiến tranh tự vệ phản kích với Việt Nam, Phan Tử có tham gia giai đoạn chiến tranh đặc biệt, có lẽ đã từng nghiên cứu những vật như thế này.

Phan Tử lại gần một bức tượng đá, sờ sờ vết nứt trên mặt, rồi chỉ về hướng mà các bức tượng quay mặt về, nói: “Xem vết nước chảy trên những tượng đá này, đầu bên kia hẳn là hạ lưu.”

Bàn Tử cũng tiến lại, nhưng không nhìn ra nguyên cớ vì đâu mà Phan Tử khẳng định được như vậy, bán tin bán nghi nói: “Mạng người quan trọng, anh đừng có đoán bừa đó.”

Phan Tử không thèm để ý đến hắn, nói chúng tôi cẩn thận một chút. Mọi người bắt đầu lần theo con lạch, tiến vào bóng đêm sâu thẳm trong lòng con sông đào.

Tôi không có chút ý niệm nào về chiều dài của con sông đào này. Lúc ở trên vách đá đốt pháo sáng quan sát, cả hoàng thành đều ở tít đằng xa, chúng tôi đại khái chỉ nhìn thấy đỉnh của khối kiến trúc, con sông đào này bị khu rừng chết xung quanh che khuất. Lúc đứng trên cây cầu, ánh sáng đèn pin lại không đủ để chiếu sáng toàn bộ bóng đêm, vậy nên chúng tôi cứ đi dọc theo rạch tuẫn táng đến nửa giờ vẫn chưa thấy điểm kết thúc của cái đáy sông vô cùng tĩnh mịch này.

Độ cao của rạch tuẫn táng không đồng đều, có vài đoạn tượng người bị vỡ vụn rất nghiêm trọng, giống như bị thứ gì cực lớn dẫm lên. Loại đá vô danh để tạc tượng này rất cứng, vậy mà cũng vỡ nát. Tôi thậm chí còn phát hiện dưới đáy con rạch thi thoảng lại bắt gặp đầu hoặc tay chân của tượng đá, hình như bên dưới rạch tuẫn táng còn chôn một tầng những bức tượng như thế này nữa.

Hoặc có thể con rạch này ban đầu cũng bị chôn vùi dưới lòng đất, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà công trình bị tạm dừng, thành ra có rất nhiều tượng đá không bị vùi lấp.

Càng đi càng thêm tối, ban đầu đèn pin chiếu vào bờ sông còn có một tia phản quang, ít nhất còn có vật tham chiếu. Cứ đi mãi đi mãi, đến cả bờ sông cũng không chiếu tới nữa, tứ phía đều là bóng tối vây hãm, chúng tôi cũng tự động giảm tốc độ. Phan Tử nhắc nhở chúng tôi tỉnh táo một chút, tuyệt đối không được phân tâm.

Lúc này, Bàn Tử đang đi tuốt đằng trước bỗng dừng lại. Chúng tôi định tiến lên xem sao thì thấy hắn giơ tay ra dấu cho mọi người dừng lại.

Tôi lại gần hắn, nhìn theo ánh đèn pin thì hóa ra đã đi tới cuối rạch tuẫn táng rồi. Những hàng tượng đá đã biến mất, trước mặt là một khối đá cực lớn dùng để kè bờ sông, chắc là đã tới đầu kia của sông đào. Trên kè đá bên bờ sông hình như trạm trổ thứ gì đó cực lớn trông giống tượng Phật khổng lồ ở núi Nhạc Sơn (1). Do đèn pin không thể chiếu sáng được toàn cảnh nên không biết là cái gì. Chỉ thấy dưới đáy bờ kè có một cái động vuông vắn bị đá vụn che lấp, hiện giờ phần lớn số đá vụn đó đã bị dịch sang một bên, lộ ra một cái miệng hang tối đen như mực.

Giống như bài đạo lúc trước chúng tôi chui vào, cái động này cũng là một trong những thông đạo do nhóm thợ xây lăng năm đó lén đào ra, đây là lối thoát duy nhất của bọn họ nếu có ngày địa cung bị phong bế.

“Lại có một đường hầm đào ngược ra à?” Phan Tử kinh ngạc nói: “Cửa ra sao lại ở đây? Chuyện này không thể xảy ra được.”

“Sao lại không thể?” Bàn Tử hỏi: “Động đâu phải do anh đào.”

Phan Tử nói: “Nơi này lúc đó còn ngập trong nước, anh cho những công nhân này đều là cá à?”

Tôi khoát tay bảo bọn họ đừng cãi nhau nữa, lúc này Thuận Tử kêu lên một tiếng, gọi chúng tôi lại: “Lại đây xem, có thứ gì lạ lắm.”

Nói đoạn chiếu đèn pin vào, chúng tôi nhìn vào chỉ thấy trên tảng đá cạnh cái động có người khắc lại mấy chữ.
 
Quyển 4 - Chương 34: Bài đạo dưới nước


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Động vuông cao tầm nửa thân người, đào rất cẩu thả. Cạnh đó đều là đá vụn lổn nhổn to cỡ quả dưa hấu, bên trong cũng rất nhiều, rõ ràng có người từng lấp kín cửa động này. Trong động tối đen như mực, không biết dẫn tới tận đâu, có vẻ giống cửa xả nước của đập thủy điện mà tôi thường thấy ở miền nam.

Trong đống đá vụn bên cạnh miệng động, có một khối đá tương đối bằng phẳng, bên trên nguệch ngoạc khắc mấy chữ, rõ ràng được khắc hết sức vội vàng, hơn nữa còn rất nông. Nếu đó không phải là chữ cái tiếng Anh, đặt vào khung cảnh hoàng lăng trông cực kì chướng mắt thì Thuận Tử chưa chắc đã phát hiện ra. Đáng tiếc không thể ghép nối mấy chữ kia lại để biết ý nghĩa của nó là gì.

Đây là chữ do chú Ba khắc lên để đánh dấu đường cho chúng tôi sao? Lúc ấy tôi đã nghĩ ngay theo hướng này, nhưng chú Ba tôi không thạo chữ Tây, đầu óc ổng làm sao mà nghĩ ra cách khắc chữ Tây làm ám hiệu được? Đây không phải tác phong của ổng.

Bàn Tử tò mò đến gần ngó một cái, bỗng ‘ồ’ lên một tiếng, ngoắc tay với tôi: “Tiểu Ngô à, mấy chữ nước ngoài vặn vẹo này hình như chúng ta đã gặp ở nơi nào đó rồi.”

Tôi cũng lại gần, mới liếc qua một cái, bỗng dưng giật nảy mình.

Không phải hình như, mà mấy kí hiệu này chúng tôi đích xác đã từng gặp. Khi tôi và Bàn Tử ở trong huyệt mộ dưới đáy biển, leo xuống đáy cái ao đặt tấm bia đá, Bàn Tử đã trông thấy những kí hiệu như thế này được khắc trên thành ao. Vừa thấy mấy kí hiệu này, Muộn Du Bình đột ngột lao xuống ao, sau đó hắn bắt đầu nhớ lại những chuyện đã xảy ra dưới ngôi mộ đó. Tại sao chúng lại bất ngờ xuất hiện ở đây?

Lúc ấy, tôi vẫn nghĩ kí hiệu này là do năm đó khi chú Ba đưa đám người Văn Cẩm xuống hải mộ, một trong số họ đã khắc nó lên. Nhưng mấy chữ cái này lại đột ngột xuất hiện ở đây, chắc chắn có gì đó không ổn.

Xem vết khắc thì có vẻ là dùng cuốc chim bổ lung tung lên, hơn nữa dấu vết còn khá mới, nếu không phải do chú Ba để lại thì cũng là của Muộn Du Bình hoặc A Ninh, bởi vì ở đây cũng chỉ có mấy người này là mang cuốc chim thôi. Kẻ để lại kí hiệu này, chắc chắn đã đi vào trong động kia.

Bỗng một ý niệm lóe lên trong đầu tôi, thầm nghĩ có khi nào mấy chữ cái tiếng Anh trong mộ huyệt dưới đáy biển kia cũng do Muộn Du Bình khắc xuống, cho nên khi hắn nhìn thấy mấy kí hiệu đó mới nói: “Tôi đã từng đến đây.”

Khả năng này cũng khá lớn, khi nào hắn lại thò mặt ra, tôi phải hỏi lại mới được.

Phan Tử thấy tôi ngẩn người, bèn hỏi tôi có chuyện gì. Tôi kể cho bọn họ nghe chuyện tôi và Bàn Tử đã từng gặp mấy kí hiệu này dưới đáy biển, Phan Tử cũng cảm thấy ngạc nhiên. Nhưng rồi anh nói: “Tôi đi theo ông Ba đã mười năm, nói khiêm tốn cũng đổ không dưới năm mươi cái đấu, trong đó đấu lớn cũng có vài cái nhưng chưa thấy ông Ba để lại kí hiệu bao giờ. Hơn nữa ông Ba đến mấy chữ cái ABCD còn không nhớ được, mấy kí hiệu này chắc chắn không phải do ông ấy để lại.”

Tôi thầm nghĩ vậy thì chỉ còn A Ninh hoặc Muộn Du Bình, đoạn quay sang nói với bọn họ: “Nói gì thì nói, xem ra chúng ta đã đi đúng đường. Động này đã có người đi vào, cửa vào địa cung hẳn là ngay bên dưới cái động này, chúng ta có nên tiến vào ngay bây giờ không?”

“Đi luôn!” Bàn Tử lập tức tán thành: “Còn chờ cái gì nữa? Cả đội quân đã đi trước chúng ta rồi kìa. Bàn gia ta xưa nay vẫn đi tiên phong, lần này đi chung với mấy đứa xui xẻo các người nên mới chậm chân hơi người ta một bước. Chúng ta đừng lề mề nữa, đợi lát nữa người ta xong việc đi ra, chúng ta chỉ có nước muối mặt đi cướp đồ của họ.”

Phan Tử nhìn tôi nói: “Cậu đừng hỏi bọn tôi, thân thể cậu thế nào rồi?”

Tôi gật đầu, ý nói không thành vấn đề: “Bàn Tử nói rất đúng, chúng ta không thể dây dưa thêm nữa. Dù sao nếu đụng phải bánh tông thì tôi không bị thương cũng đi đời, giờ bị thương thế này cùng lắm là chết mau hơn một chút thôi, không sợ.”

Bàn Tử bên cạnh đã tháo ba lô của mình xuống, nghe tôi nói vậy thì ‘xì’ một tiếng: “Hừ, sao cậu không nói chuyện gì may mắn một tí? Cũng không chịu nhìn xem chúng ta sắp đến chỗ nào?”

Tôi trừng mắt liếc hắn một cái, đốp lại: “Đi với anh có dán hai môn thần sau ót cũng vô dụng, anh hãy quản hai cái tay anh cho tốt đi đã.”

Chúng tôi đều tự sắp xếp trang bị cho mình. Vừa rồi đóng gói trang bị theo kiểu hành quân, bây giờ chúng tôi nhét hết đèn bão và toàn bộ nhiên liệu vào trong bao, sau đó lấy hết pháo lạnh, gậy huỳnh quang và thuốc nổ ra, buộc ở thắt lưng. Bàn Tử và Phan Tử đều tháo chốt an toàn của súng, rút hộp đạn, gỡ hết đạn trong băng ra nạp đầy vào súng; dao săn, chủy thủ cũng đã sẵn sàng.

Súng trường K56 quá dài, đeo vào động không thể xoay người được. Vì thế Bàn Tử đưa súng cho Thuận Tử giữ, còn mình thì cầm cái cuốc chim. Mọi người kiểm tra lại độ sáng của đèn pin, Bàn Tử rút bùa Mô Kim, cầm trên tay ngẩng mặt lên trời bái lạy.

Thuận Tử cũng là người dùng súng thành thạo, vừa nâng súng lên ‘răng rắc’ vài cái đã quen tay, đầy cảm giác hoài niệm, sau đó quay sang nói với chúng tôi: “Các vị, tôi không hiểu lắm về nghề của các vị, nhưng vẫn phải nhắc nhở một câu. Trong những cái động được đào trên núi Trường Bạch này, phải coi chừng bọn tuyết mao tử. Nếu thấy có gì không ổn thì trước hết phải lấy bông bịt lỗ tai lại. Mùa này đầu chúng còn mềm nên chỉ chui được vào lỗ tai, đợi đến mùa hè, lớp vỏ ngoài đã cứng cáp rồi thì còn có thể xuyên qua da người, chỉ thò ra hai sợi râu. Các người có kéo thì cũng chỉ có sợi râu đứt ra, còn con trùng vẫn ở bên trong, phải khoét sâu vào miệng vết thương mới lấy ra được. Còn nữa, thứ này cũng hay chui vào hậu môn, lúc ngồi phải cực kì cẩn thận.”

Bàn Tử chán nản liếc nhìn Thuận Tử, vô thức giữ chặt dây lưng, nói: “Bây giờ côn trùng cũng có sở thích này sao?”

*Phụt, lão béo liên tưởng sâu xa quá =))*

Thuận Tử nói: “Tôi không đùa với các người đâu, lỡ dính trấu thì tự nghĩ cách mà lôi ra, đừng có hỏi tôi.”

Chúng tôi cảm thấy nửa người dưới phát rét, ai nấy đều gật gật đầu. Bàn Tử lại tiếp tục làm đầu tàu gương mẫu, chui người vào động, chúng tôi cũng nối đuôi nhau chui vào, bắt đầu tiến vào thế giới mới mẻ chưa ai khám phá trong lòng đất sâu.

Cái động vuông vắn này phải uốn người mới vào được, động được đào song song, chúng tôi vừa đi vừa nhìn xung quanh xem xét, do trần động thấp lè tè nên đi rất chậm. Đá ở nơi này cực kì rắn chắc, nhìn những dấu vết đục đẽo thì đường hầm này rõ ràng được đào bằng phương pháp nguyên thủy nhất. Tôi nghĩ, để xây được một hoàng lăng quy mô lớn thế này phải mất bao nhiêu thời gian? Kiểu gì cũng phải trên hai mươi năm, rất nhiều hoàng đế vừa đăng cơ đã bắt tay vào xây lăng mộ rồi. Hơn hai mươi năm, đào đường hầm này cũng là hết sức miễn cưỡng, xem ra năm đó nhóm người bỏ trốn phải có số lượng rất lớn.

Càng đi vào sâu, càng phát hiện nhiều dấu vết của những người đã từng đi qua đây. Dấu giày leo núi vẫn nối tiếp không dừng, cũng không thấy tuyết mao tử đâu cả, nhưng tôi lại phát hiện trên nóc đường hầm có những ngã rẽ kì quái.

Những cái động này cũng không lớn lắm, chỉ đủ chứa một người, hơn nữa còn ngoằn ngoèo uốn khúc 180 độ, sau một đoạn hướng thẳng lên trên sẽ đổi hướng chúc ngược xuống dưới, giống như một đường ống uốn lượn hình số 9. Những cái động như thế, đại khái cứ cách mười mét lại có một cái.

Từ khi bước chân vào nghề này, tôi đã bò qua không biết bao nhiêu cái động nhưng chưa từng thấy cái nào kết cấu như vậy. Nhìn dưới góc độ kiến trúc, khối lượng công việc khi đào những chuỗi động này tương đương với đào một đường hầm hoàn chỉnh. Những cái động này tất nhiên phải có lí do tồn tại tất yếu, bằng không thì quá lãng phí sức lực, nhưng hiện giờ quả thực tôi không tài nào nhìn ra công dụng của chúng là gì.

Phan Tử ở đằng sau tôi hỏi: “Cậu Ba, cậu có thấy đường hầm này trông quen quen không?”

“Quen sao?” Tôi dừng lại một lát, quay đầu hỏi anh sao lại hỏi vậy.

Phan Tử nói: “Hồi chúng ta đến miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông có đi qua động xác, đường hầm dẫn vào động chẳng phải cũng giống thế này sao? Lão già dẫn đường chẳng phải đã nấp vào một cái động trên trần để hại chúng ta sao?”

Nghe anh nói vậy, tôi cũng nhìn kĩ lại những cái động con trên đỉnh đầu. Hồi ở Sơn Đông tôi sợ chết khiếp đi được, làm gì còn tâm trí mà để ý nhìn lên trần cái động xác ngập nước kia, nên bây giờ cũng chịu không so sánh được. Nhưng Phan Tử đã nói thế thì chắc không sai nên tôi cũng sinh lòng nghi hoặc, bèn hỏi anh: “Anh chắc chắn chứ?”

Phan Tử cũng không dám chắc chắn, đáp: “Chúng ta nghe lão già kia nói mới biết trên trần động còn có động nữa, chứ lúc mình đi vào trong động tối đen như mực, nào có phát hiện ra.”

Tôi dừng lại, nhìn kĩ những cái động rẽ nhánh trên đầu, lập tức hiểu ra tác dụng của nó, bèn nói: “Lúc ấy, cái động xác kia cũng ngập nước nhỉ?”

Phan Tử gật đầu, nói đúng rồi. Tôi lại tiếp tục: “Những động rẽ nhánh phía trên này thật ra chỉ để hít thở. Anh xem, khi nước tràn vào bài đạo này, do kết cấu gấp khúc nên động nhánh sẽ chứa đầy không khí. Vậy cứ bơi một đoạn lại ngoi lên chui đầu vào động nhánh hớp một ngụm dưỡng khí là có thể bơi tiếp.”

Phan Tử tỏ vẻ kinh ngạc, nói: “Đúng là một biện pháp tài tình. Nói vậy năm đó cái bài đạo này quả thực chìm trong nước sao?”

Tôi nói: “Gần như thế. Xem ra, cái đạo động ngập nước ở miếu Hạt Dưa kia, không chừng cũng do người của Uông Tàng Hải đào ra.” Ngẫm lại thì thấy không đúng lắm, cái đạo động kia đã có từ lâu lắm rồi, chú Ba tôi đoán là từ thời Chiến quốc, có thể Lỗ thương vương đã đào nó lúc vào núi xây lăng. Không lẽ sau khi nhìn thấy động xác kia, Uông Tàng Hải đã học hỏi kĩ thuật của cổ nhân? Khả năng này cũng khá lớn.

Đi một lúc khá lâu, cũng không biết đã được bao xa, bài đạo dần dần rộng mở, rốt cuộc cũng thấy được lối ra. Chúng tôi bò ra ngoài, trước mặt tất nhiên là một con sông, sâu chừng mười mét, rộng năm, sáu mét, lòng sông đã cạn khô.

Tôi xem xét tình hình con sông này một chút, nói: “Đây là kênh dẫn nước, nước trong sông đào kia chắc chắn được dẫn từ đây ra. Giữ cho nước lưu thông sẽ không bốc mùi hôi thối, hơn nữa cũng có thể đề phòng nước chảy ngược lại.”

Hai bên sông đều có bờ đất rộng đủ cho một người đi, đoạn trên còn dựng một cây cầu đá. Chúng tôi cẩn thận nhích lại gần, đi sang bờ bên kia, Bàn Tử lại hỏi phải đi tiếp thế nào?

Tôi nói: “Sông này thông với sông ngoài kia, có lẽ chỉ tính là một con sông, chúng ta cứ đi theo hướng nước chảy thôi.”

Phan Tử ngồi thụp xuống, nhìn vết nước chảy, chỉ về một hướng, nói: “Chỗ đó.”

Chúng tôi tiếp tục hướng về phía trước, không bao lâu sau, trên vách đá cạnh bờ sông xuất hiện một cái động vuông vắn.

Bàn Tử châm một cây pháo lạnh ném ra, chiếu sáng nền đá màu đen phía ngoài cửa động, hiển nhiên đây là tường đá phong cửa địa cung. Bàn Tử chui vào, liên tục châm những cây lạnh ném ra xung quanh, sau đó gọi chúng tôi, chúng tôi mới chui ra khỏi đường hầm.

Bên ngoài cửa động là một gian mộ thất xây bằng nham thạch đen, không cao lắm, người có thể miễn cưỡng đứng thẳng nhưng rất rộng. Bốn phía mộ thất đều bày vô số vại sành sắp xếp cực kì ngay ngắn, có thể đây là những bình rượu bồi táng. Mỗi vại cao cỡ nửa người, ước tính số lượng lên đến hàng ngàn, xem ra Vạn Nô hoàng đế đúng là một con sâu rượu.

Trên vách tường màu đen bốn phía có khắc mấy phù điêu đơn giản tả cảnh hoàng đế đang thiết yến. Phù điêu này bảo quản cũng không được tốt, có thể là vì nó thông ra bên ngoài. Khí núi lửa ở nơi này tuy không đến nỗi chết người như Phan Tử nói, nhưng khả năng ăn mòn chắc chắn mạnh hơn không khí bình thường, bích họa ở đây có thể bảo tồn đến thế này đã là cả một kỳ tích. Đáng tiếc là những hình ảnh hiếm hoi sót lại giờ chỉ còn nhìn được mang máng.

Trên hai bức tường nằm ở hai phía trái, phải của mộ thất có một tảng đá chẹn cửa, đằng sau là hành lang tối om om. Một cơn gió lạnh buốt từ trong đó thổi ra, Bàn Tử bèn nhặt hai cây pháo lạnh, ném một cây vào trong đó nhưng vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng.
 
Quyển 4 - Chương 35: Hầu đầu thiêu


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Phan Tử thấy sắc mặt tôi không ổn, bèn bảo tôi nghỉ ngơi một lát. Tôi quả cũng hơi quá sức, liền ngồi lên một vò rượu lớn mà thở dốc, còn những người khác sắp xếp lại trang bị. Thuận Tử chưa từng đến những nơi như thế này, bèn nhặt lên một cây pháo lạnh, tò mò ngắm nghía xung quanh, nói: “Đúng là trăm nghe không bằng một thấy, không ngờ trong lòng núi Trường Bạch lại chôn vùi một nơi như thế này. Lần này xem như tôi được mở rộng tầm mắt.”

“Xuống sâu thêm, sẽ còn gặp nhiều thứ anh chưa từng thấy.” Phan Tử nói: “Tôi đoán những vật phẩm năm đó Đại Kim cướp đoạt từ Nam Bắc Tống, cộng thêm những bảo bối Nam Tống tiến cống hàng năm, nếu không rơi vào tay Thành Cát Tư Hãn thì chắc chắn phải ở chỗ này.”

“Đừng có tưởng bở.” Bàn Tử nói: “Năm đó phần lớn đồ tiến cống của Nam Tống là vải vóc lụa là, những thứ này không dễ bán, mà cũng khó ra tay, tôi thấy dù có lấy ra được thì cũng mục nát cả rồi. Chúng ta đừng một mực tơ tưởng ngọc ngà châu báu trong địa cung, nên cân nhắc lợi ích trước mắt vẫn hơn.” Nói rồi đi săm soi mấy bình rượu, định di chuyển thử một bình xem dưới đáy có khắc chữ gì không.

Tôi nói với hắn: “Anh đừng táy máy, loại bình này rất thô ráp, có đem cho người bán lòng dê để chẹn dưa người ta cũng không thèm.”

Bàn Tử cãi: “Ai bảo tôi nghĩ đến mấy cái bình này? Đừng tưởng Bàn gia đây chỉ khoái minh khí nhé.” Hắn lấy dao găm rạch lớp giấy dán kín miệng bình, tức thì một mùi hương kì lạ nhẹ nhàng bay ra, nói thơm không thơm, nói hôi cũng không hôi, ngửi nhiều còn thấy nghiền, không biết là thứ rượu gì.

Trong cổ mộ cất giấu rượu, tôi xem sách cổ đã thấy nhắc đến rất nhiều, nhưng đây mới là lần đầu được thấy tận mắt. Cho nên tôi cũng nổi tính hiếu kì, lại gần xem thử.

Rượu màu đen, vô cùng tinh khiết, phần nước bên trong gần như không đã bay hơi hết nên chỉ còn lại có nửa bình. Người sành rượu đều biết đây là đặc trưng của rượu ủ lâu năm, nửa bình này chính là phần rượu tinh túy nhất, thực là mê người. Nhưng nói thế nào thì rượu này cũng để quá lâu rồi, không biết đã quá đát chưa.

Tôi nhớ rõ thứ rượu cổ nhất ở Trung Quốc là rượu khai quật được ở Hà Nam năm 1980 trong một ngôi mộ cổ cuối thời nhà Thương (từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XI TCN). Hiện tại đã được đưa vào viện bảo tàng cố cung, sơ sơ cũng được hơn 3000 năm tuổi. Nghe nói khi bật nắp vò rượu ra mùi hương đã quật ngã vài người, cũng không rõ mấy người này có uống thử hay không nữa, nếu không thì đã có cái mà tham khảo.

Bàn Tử dùng dao chấm một cái, định thử một ngụm thì bị tôi giữ chặt lại: “Anh chán sống rồi hả? Đồ quá đát cẩn thận ăn vào đau bụng đó.”

Bàn Tử nói: “Cậu chả hiểu cái khỉ biển gì cả, rượu ủ trong hầm có để mấy ngàn năm cũng không lo hỏng. Nghe nói ăn bã rượu nghìn năm dưới đáy bình còn có thể trường sinh bất lão, nghe đâu tổ tông chúng ta có người còn đi đổ đấu chỉ vì mấy bình rượu này. Mình chỉ nếm thử một tí chắc không sao đâu, cùng lắm thì đau bụng một trận.”

Còn chưa nói hết câu, Phan Tử đã bước tới tung một cước đá cho vò rượu kia ngã chổng kềnh, chất rượu màu đen cùng với bã rượu dưới đáy chảy tràn ra đất. Một mùi hương nồng đậm lập tức xông thẳng vào mũi, bàn Tử vừa định nổi giận thì Phan Tử đã nói: “Đừng nóng, anh xem trong đống bã rượu kia có cái gì?

Tôi và Bàn Tử ngoảnh lại thì thấy giữa đống bã rượu màu đen trông như bùn lầy có rất nhiều sợi màu đỏ sậm, giống như sợi bông xổ ra từ những cái chăn cũ, thứ này chúng tôi rất hay gặp trong những quan tài bị ngâm nước.

Bàn Tử lấy dao găm gảy gảy mấy cái, sắc mặt biến đổi. Tôi qua ngó một cái thôi cũng thấy da đầu tê rần, cảm giác cực kì ghê tởm, chỉ muốn nôn ra một trận.

Những sợi màu đỏ này là một khối thi thể trẻ con còn chưa rữa nát, thịt gần như đã tan vào với rượu nhưng da và xương vẫn ở dưới đáy nên mới hình thành một mớ trông như sợi bông rách nát.

Phan Tử thấy chúng tôi trợn mắt há mồm, bèn ngồi xuống, nói: “Đây là một loại rượu ở Quảng Tây có tên ‘Hầu đầu thiêu’, thứ này không phải người mà là khỉ con chưa đầy tháng. Có thể là rượu do triều đình Nam Tống tiến cống khi nước Đại Kim của người Nữ Chân còn cường thịnh, ủ trong hầm đến giờ.” Nói rồi vỗ vai Bàn Tử, dùng dao găm khêu một ít ‘sợi bông’, làm một động tác cung kính mời: “Có trường sinh bất lão hay không thì tôi chịu, nhưng nghe nói công hiệu tráng dương cũng không tồi. Anh thử xem, đừng khách khí.”

Bàn Tử ghê tởm hất con dao ra, mắng vốn mấy câu, rồi hỏi Phan Tử: “Thằng oắt này sao mà hiểu rõ thế? Con mẹ nó, hay anh đã từng uống cái thứ rượu này rồi hả?”

“Lúc vào núi Nam Cung ở Thiểm Tây tôi đã gặp những hũ rượu như thế này, khi đó Đại Khuê cùng với một người khác lấy thử một hũ đem ra. Từ đầu tôi đã thấy có gì đó không ổn nên không dám chạm vào, nhưng hai người kia không nghe. Kết quả uống đến cạn bình mới phát hiện thứ ở dưới đáy, sau đó vì chuyện này mà Đại Khuê phải nằm viện hai tháng.”

Nói đến Đại Khuê, Phan Tử lại có vẻ bồi hồi: “Tôi cũng chẳng ghét bỏ gì anh, nếu có ý hại anh tôi đã chờ anh uống một ngụm rồi mới đá ngã cái bình cho anh mất mặt chơi.”

Bàn Tử mặt mày nhăn nhó, muốn nổi cáu cũng không tìm ra cớ gì, trông rõ buồn cười.

Lúc này pháo lạnh đã lần lượt tắt, bóng tối lại bao phủ. Chúng tôi bật đèn pin, không khí xung quanh thoáng cái như nén chặt lại.

Nghỉ ngơi một lát, lại một lần nữa xung phong mở đường, Bàn Tử đòi lại cây súng trường bảo bối của hắn, lại kéo chốt an toàn ra, đây thực chất là một động tác quen tay của mấy người mang súng nhằm lấy thêm cho mình ít can đảm. Hắn nhìn hai mộ đạo hai bên, khẽ hỏi: “Đi hướng nào?”

Chúng tôi đều định thần lại, đúng lúc này Thuận Tử chỉ sang bên trái, nói: “Bên này có vẻ ổn hơn.”

Bình thường, khi gặp những tình huống thế này thì đều là Phan Tử hoặc tôi trả lời. Bây giờ Thuận Tử vốn nhu thuận lại liều lĩnh nêu ý kiến, khiến Bàn Tử không hiểu ra sao, bèn hỏi lại: “Vì sao?”

Thuận Tử chiếu đèn pin xuống mặt đất trước con đường bên trái, chúng tôi nhìn lên thì thấy ở một chỗ khuất tầm mắt cạnh hành lang có khắc vài kí tự tiếng Anh.

“Vừa rồi tôi tình cờ trông thấy, tôi nghĩ có người muốn chỉ đường cho các vị.” Hắn nói với chúng tôi.
 
Quyển 4 - Chương 36: Kí hiệu


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi ngồi thụp xuống, cố gắng đọc mấy kí tự tiếng Anh này thêm lần nữa, nhưng vẫn không có kết quả. Những đường nét này quá mức lộn xộn, tuy có thể nhận ra nó chính là từ chúng tôi đã thấy ở cửa động vuông ban nãy, nhưng rốt cuộc hợp thành chữ gì thì không thể dịch ra nổi, khiến tôi thậm chí bắt đầu hoài nghi đây không phải chữ cái tiếng Anh.

Bàn Tử cũng tỏ ra hiếu kì, hỏi: “Anh chắc chắn cái này không phải do ông Ba nhà anh lưu lại chứ?”

Phan Tử gật đầu, tỏ ý khẳng định tuyệt đối: “Ông Ba không màu mè như thế, nếu phải lưu lại kí hiệu, bình thường chỉ cần nhìn một cái là đoán ra. Đây chắc chắn không phải ký hiệu do ông Ba để lại, tôi thấy nên cẩn thận một chút. Kí hiệu chưa chắc đã dùng để chỉ đường đâu.”

Tôi hiểu ý của Phan Tử, nếu kí hiệu này không dùng để chỉ đường thì có thể là một loại cảnh báo nguy hiểm. Nhưng lúc ở ngôi mộ dưới đáy biển kia, sau khi trông thấy mấy kí hiệu này cũng không xảy ra chuyện gì nguy hiểm. Hơn nữa hành lang có hai nhánh, không rẽ vào nhánh này thì cũng vào nhánh kia, cả hai đều không chắc chắn, chọn nhánh nào cũng như nhau cả, lúc này do dự cũng vô ích.

Vậy là Bàn Tử vẫn xung phong đi đầu, tôi bám theo sau, tiến vào hành lang. Bên trong rất rộng, đủ cho hai con xe cam nhông sánh vai tiến vào. Bàn Tử chui vào, nói đây là la đạo, chính là đường dành cho xe la kéo lúc xây dựng công trình. Khả năng này rất lớn, bởi vì tôi chưa bao giờ thấy mộ đạo nào rộng đến thế. Trên mặt đất còn có thể nhìn thấy lờ mờ những vết bánh xe từ thời đó, nhưng lạ thay bên trong hành lang này rất lạnh, nhiệt độ không biết đã giảm bao nhiêu nhưng lại có gió lạnh từ bên trong thổi ra, hình như nó thông ra ngoài trời. Chúng tôi đều biết cổ mộ nào cũng chú trọng sự kín đáo, vậy gió này từ đâu thổi tới?

“Đây là tự lai phong” Phan Tử cũng bị bầu không khí ở đây ảnh hưởng, hạ giọng nói với tôi: “Các cụ chúng ta ngày xưa gọi cái này là quỷ thở, trong những ngôi mộ lớn thường xuyên gặp chuyện này, không có gì nguy hiểm đâu.”

“Có căn nguyên gì không? Nó sinh ra như thế nào?” Tôi hỏi.

Phan Tử lắc đầu: “Từ xưa truyền lại chỉ có thuyết pháp, cũng chẳng ai nghiên cứu làm gì, hơn nữa mấy cái chuyện thế này tốt nhất đừng có nghiên cứu.”

Tôi thầm nghĩ cũng phải thôi, vào thời đó dân trộm mộ đều là vì miếng cơm manh áo, chỉ cần biết có nguy hiểm hay không, chứ còn các hiện tượng kì quái sinh ra như thế nào thì cũng không hơi đâu mà bận tâm.

Hành lang đoạn đầu còn bằng phẳng, một lúc sau đã bắt đầu phát hiện tình trạng sụt lún, mặt đá vỡ vụn. Vô số phiến đá đen lộ ra trên mặt đất, khiến con đường trở nên cao thấp nhấp nhô, đây là thiệt hại tự nhiên gây ra do sự vận động của vỏ trái đất. Hai bên hành lang cách một đoạn lại có một cái xà hình vòm gia cố, bên trên đều khắc hình rồng uốn quanh, rất nhiều cây xà đã bị rạn nứt. Tôi nghĩ nếu không có mấy cái trụ này gia cố thì hành lang đã sụp từ đời tám hoánh nào rồi.

Dọc đường không ai mở miệng, mọi người đều lặng lẽ đi hết bảy, tám mươi mét. Bỗng Bàn Tử đột ngột dừng lại, nói: “Cửa à?”

Chúng tôi dừng lại, chiếu đèn pin về phía trước, chỉ thấy cuối hành lang xuất hiện một cánh cửa mộ bằng đá đen. Mái cong và ngói úp bên trên cánh cửa đều trạm trổ hoa văn vân long, thảo long và song sư hí cầu. Bản lề cửa hình như làm từ kim loại, trên cánh cửa bên trái khắc hình một con dê, bên phải khắc hình một thứ gì đó không rõ tên. Đến gần ngắm nghía mới biết cửa đá đóng rất chặt, khe cửa lẫn chốt cửa đều dùng đồng lỏng bịt kín, nhưng trên bụng con dê ở cánh cửa bên trái đã bị người ta nổ ra một cái lỗ to bằng miệng chậu, gió lạnh chính là từ đây thổi ra.

“Đây không phải cửa.” Tôi đẩy thử: “Không mở ra được thì không phải cửa. Đây là phong thạch, chỉ là một khối đá lớn chồng lên chỗ này, sau đó dùng đồng nóng chảy bịt kín lại thành một khối hoàn chỉnh, tạo hình cánh cửa. Bàn Tử nói đúng, hành lang này là la đạo, xây rộng như thế để la dễ dàng vận chuyển những khối đá này.”

Bàn Tử ngồi thụp xuống, ngắm nghĩa cái lỗ bị phá ra trên cánh cửa. “Trong mộ đạo có phong thạch, xem ra mộ đạo này rất quan trọng, có thể thông đến trung tâm địa cung. Coi như chúng ta đã đi đúng đường, dấu hiệu kia có lẽ thật sự muốn chỉ đường cho chúng ta. Hơn nữa nổ ra một cái lỗ to tổ chảng thế này chứng tỏ bọn họ đã vào rồi.” Nói rồi thò nửa cái đầu vào, cầm đèn pin chiếu khắp xung quanh.

Chúng tôi hỏi hắn thế nào, bên trong có gì không?

Hắn nói: “Vẫn là đường đi thôi, bên trong còn một tảng phong thạch nữa, xem ra Vạn Nô hoàng đế từ nhỏ đã có cảm giác thiếu an toàn.”

Tôi nói: “Nhảm ruồi. Đến cửa nhà anh còn có ba lần khóa, phong thạch ít nhất cũng có ba khối, đó là ba nghìn thế giới, anh hiểu không?”

Bàn Tử không nghe thấy tôi nói gì, hắn ném cái đèn pin vào bên trong, co người chui qua cái lỗ, bước về phía tảng phong thạch trước mặt. Tôi nghe tiếng hắn lắp bắp một mình: “Đệch, lạnh sun người.”

Phan Tử đưa khẩu súng cho hắn cầm rồi cũng chui sang theo hắn. Tôi bám ngay sau Phan Tử, còn Thuận Tử đi sau cùng, cả đám chui hết vào động. Quả nhiên đằng sau vẫn là mộ đạo, nhiệt độ hạ thấp, người tức khắc có cảm giác run rẩy. Phía trước vẫn còn một khối phong thạch, nhưng khối đá này có vẻ đơn giản, không thấy mái cong trang trí bên ngoài. Trên mặt tảng phong thạch này cũng bị nổ ra một cái lỗ còn to hơn cái lỗ đầu tiên.

Chúng tôi không dừng lại, tiếp tục tiến tới, phía sau vẫn như thế, mộ đạo cứ thế kéo dài, trước mặt lại là một tảng phong thạch, bên trên có một cái lỗ lớn.

“Khốn kiếp. Con mẹ nó, vẫn chưa hết à.” Bàn Tử rủa xả.

Tôi đáp: “Chuyện thường thôi, phong thạch thông thường đều nặng bảy tám tấn, mộ đạo hơi dài một chút sẽ có sáu, bảy tầng phong thạch. Tình hình xem ra khá thuận lợi, độ dày phong thạch cũng chỉ có một nửa. Tổ tiên chúng ta ngày xưa không có thuốc nổ, gặp những cổ mộ có phong thạch chắn đường thế này thì chỉ có nước bó tay.”

Trong khi chuyện phiến, chúng tôi đã chui qua khối phong thạch cuối cùng. Trước mắt chúng tôi xuất hiện một ngã tư đường. Một mộ đạo khác cắt qua trước mặt, giao vuông góc với hành lang chúng tôi đang đứng, mà cái mộ đạo này rộng gấp rưỡi hành lang, chiều cao còn lớn hơn rất nhiều.

Chúng tôi lục tục đi đến giữa ngã tư đường, phát hiện mộ đạo này có màu đỏ hồng chứ không đen thui như vừa nãy, phía trên vẽ những bức bích họa rất đẹp, dường như nối liền với nhau, kéo dài đến những nơi mà ánh sáng đèn pin không chiếu tới được. Thậm chí trên đỉnh mộ đạo cũng là những bích họa màu sắc rực rỡ.

Tôi xuýt xoa tán thưởng: “Đây nhất định là mộ đạo chính thông thẳng đến quách điện rồi, cũng chính là trục đối xứng của cả tòa huyền cung dưới lòng đất, nếu không sẽ không trang trí hoa lệ cỡ này.”

“Đừng có vỗ tay tán thưởng. Chúng ta là trộm, vấn đề muôn thuở vẫn là đi hướng nào?” Bàn Tử hỏi: “Mau tìm xem quanh đây có dấu hiệu chỉ đường nào không?”

Sau mấy lần đi xuyên qua những đường hầm chật chội, chúng tôi đã sớm mất đi cảm giác về phương hướng. Muốn phân biệt mộ đạo chính này đầu nào thông đến trung tâm địa cung, đầu nào thông đến cửa mộ thì buộc phải dựa vào dấu hiệu của người đi trước, bằng không chỉ có nước tung tiền xu mà đoán hướng.

Chúng tôi chiếu đèn pin xẹt qua xẹt lại tìm kiếm kí hiệu, những bức bích họa màu đỏ phản chiếu lại một thứ ánh sáng khiến người ta có cảm giác hết sức bất an. Bích họa nơi này cùng một kiểu với tấm bích họa chúng tôi thấy trong khe suối nước nóng khi mới lên núi, tất cả đều là mỹ nữ cùng với xe tiên cưỡi trên mây, hình như không có ý nghĩa gì đặc biệt. Đương nhiên nếu mời nhà khảo cổ đến đây chắc chắn sẽ nói ra vài điều hay ho, nhưng dưới con mắt của chúng tôi, bích họa không có tính chất tự thuật thì đơn thuần chỉ để trang trí, cái ý nghĩa tượng trưng gì gì đó chúng tôi không nhìn ra nổi.

Mới tìm được một lúc, Phan Tử bên cạnh đột nhiên “ồ” lên một tiếng, gọi chúng tôi lại.

Chúng tôi vây quanh xem xét, quả nhiên phát hiện một kí hiệu khắc ở một góc tường mộ đạo.

“Con mẹ nó, chúng ta gặp đồng chí Lôi Phong sống (*) của giới đổ đấu rồi, thế là đỡ rách việc.” Bàn Tử nói: “Chúng ta cứ lần theo đường này là đến nơi.”

Tôi lắc đầu, bởi vì kí hiệu này trông không giống mấy kí hiệu chúng tôi đã tìm được trước đó
 
Quyển 4 - Chương 37: Kí hiệu mới


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi đã không còn nhớ rõ hình dạng kí hiệu trong mộ huyệt dưới đáy biển, nhưng hai kí hiệu khắc trên thành con sông đào và trên cửa vào hành lang thì vẫn còn nhớ như in, chắc chắn kí hiệu mới này hoàn toàn khác với hai cái đó. *nghi vấn hack – phải chăng cả 3 cái kí hiệu mới gặp này đều là chữ Nữ Chân và không phải của anh Bình để lại :v*

Bàn Tử và Phan Tử nhắc đến chữ cái tiếng Anh đều ù ù cạc cạc, chỉ cần là tiếng Anh thì bọn họ coi chữ nào cũng như chữ nào, cho nên vừa rồi mới không để ý. Nhưng tôi đã học xong đại học, từng thi bằng CET (*), thành tích có cùi mía đến đâu thì ít ra cũng biết đây là hai từ khác nhau.

(*) Nguyên văn là “tứ lục cấp” (四六级), tức cuộc thi tiếng Anh cấp quốc gia lớn nhất của Trung Quốc, tên tiếng Anh là Colledge English Test, viết tắt là CET. Kết quả thi chia làm 2 mức chuẩn là 4 và 6, 4 là mức cơ sở, 6 là mức nâng cao, do đó nó còn có tên gọi là tứ lục cấp.

Tôi vẫn nghĩ đây chỉ đơn thuần là một kí hiệu chỉ đường, cùng loại với những hình vẽ đơn giản, chỉ có ý nghĩa ‘đi theo hướng này’ mà thôi. Nhưng nếu chỉ đơn thuần dùng để chỉ đường thì kí hiệu không nên thay đổi mới phải. Dựa vào tâm lý thông thường của con người thì sau khi tiến vào mộ đạo, sự chú ý sẽ hoàn toàn đặt vào cảnh vật xung quanh, lúc khắc kí hiệu không thể có chuyện cố ý thay đổi cho đa dạng. Hơn nữa kí hiệu được khắc rất vội vàng chứng tỏ người để lại kí hiệu cũng không nhàn nhã thong thả gì, khả năng hắn có hứng muốn thay đổi kí hiệu lại càng nhỏ.

Vậy chỉ còn một lí do nữa, đó là những kí hiệu này không mang cùng ý nghĩa. Người này vừa dẫn đường, mà hình như cũng vừa muốn báo cho chúng tôi tin tức gì đó.

Vấn đề ở chỗ tin tức kia rốt cuộc là gì? Những chữ này không phải tiếng Tây, nhưng lại là từ đơn do chữ cái tiếng Anh ghép thành, thực sự không nhìn ra là thứ tiếng gì, chỉ biết chắc chắn không phải những thứ tiếng thường gặp như Pháp hay Đức, bởi vì thứ tự sắp xếp chữ cái rất vô tổ chức.

Vả lại khi chúng tôi nhìn thấy kí hiệu dưới đáy sông và trước cửa vào hành lang, lúc tiến vào cũng không gặp nguy hiểm gì, vậy nếu đặt giả thiết kí hiệu đó mang ý nghĩa: có thể an toàn đi vào, thì cái kí hiệu lạ lùng khắc ở đây chắc chắn sẽ mang ý nghĩa khác hẳn. Chắc gì đây không phải một loại cảnh báo, ý nói hướng mộ đạo này có nguy hiểm đáng sợ gì đó?

Đám Bàn Tử nghe tôi thao thao một tràng cũng hiểu kí hiệu này có vấn đề. Chúng tôi đứng yên tại chỗ, tạm thời không dám manh động.

Nhưng đến được nơi này cũng coi như một bước đột phá không tồi, có thể nói đã thành công một nửa. Bây giờ đi về hướng nào của mộ đạo cũng không còn quan trọng, cho dù không có kí hiệu chỉ đường, chúng tôi vẫn không hề lo lắng.

Chẳng qua sau khi tiến vào địa cung, đặc biệt là mộ đạo chính thì mọi việc nhất định phải cẩn thận hết sức thôi. Bởi lẽ nếu trong cổ mộ có cơ quan bẫy rập thì chắc chắn sẽ đặt ngay khúc này, tốn chút thời gian ở đây cũng là phải đạo.

Phan Tử nói với tôi: “Cậu Ba, trong số chúng ta chỉ có cậu là biết tiếng Tây, nếu đến cả cậu cũng không đọc được thì cả lũ bó tay rồi. Hay là cậu phiên dịch mấy chữ tiếng Anh này ra tiếng Trung cho chúng tôi nghe, dù không hiểu ý cả câu nhưng chúng ta cũng có thể đoán mò mà?”

Phan Tử đến một chữ tiếng Anh bẻ đôi cũng không biết, có lẽ anh ấy tưởng tiếng Anh thực ra cũng giống tiếng Trung, mỗi chữ cái mang một ý nghĩa *=))))* Tôi cũng lười xóa mù chữ cho anh, bèn nói: “Muốn đoán chi bằng đoán xem kí hiệu này do ai để lại, mục đích để lại là gì, như thế xác suất đoán trúng ý nghĩa còn lớn hơn.”

Bàn Tử nghi hoặc nói: “Ai để lại thì chịu chết rồi, nhưng mục đích còn phải đoán nữa sao? Cái này không phải để dẫn đường cho chúng ta à?”

Tôi lắc đầu: “Ban đầu tôi cũng nghĩ vậy, nhưng giờ xem ra không phải. Nếu thực sự viết cho chúng ta thì ít nhất cũng nên dùng kí hiệu mà chúng ta đọc được chứ. Người khắc mấy kí hiệu này dùng hình thức cực kì tối nghĩa, xem ra mục đích không phải là giúp chúng ta. Chúng ta có thể đã ăn may, kí hiệu này rõ ràng là để lại cho người khác.”

Phan Tử ngẫm nghĩ một lúc, cảm thấy có vẻ hợp lý, lại hỏi: “Vậy người khác là ai?”

“Đám người của A Ninh đông như kiến, có thể họ chia ra vài nhóm để hành động. Kí hiệu này có thể là ám hiệu giữa mấy tiểu đội của bọn họ.” Bàn Tử đáp.

Tôi gật đầu, tỏ ý khả năng này có thể xảy ra, nhưng không có căn cứ, tình huống thực tế không thể phán đoán. Tôi nói: “Cũng có thể còn nguyên nhân khác nữa, bây giờ có đoán cũng vô ích.”

Điều tôi quan tâm nhất chính là tin tức ẩn chứa trong kí hiệu, kí hiệu này hẳn là cùng loại với kí hiệu trong bản đồ thám hiểm quốc tế. Có những con đường mòn xuyên qua rừng rậm nguyên sinh, trên bản đồ luôn phân chia thành nhiều cấp bậc nguy hiểm. Một kí hiệu ngoài việc cho anh biết chỗ này có thể đi được thì còn nói rõ trên con đường này có thể gặp phải thứ gì, ví dụ như trên đoạn sông có hà mã sẽ có ám hiệu mang ý nghĩa ‘hà mã’ chẳng hạn.

Đi đến đây kí hiệu đột ngột thay đổi, khiến người ta không thể không thắc mắc ý nghĩa đặc biệt của kí hiệu kia. Phải chăng đây là cảnh báo trong mộ đạo này có bánh tông? Cái này thực sự làm cho người ta buồn bực.

Tôi chợt nghĩ tới dòng chữ cảnh báo trên xe Jeep ‘Có gấu xuất hiện, chú ý!’ Có lẽ người lưu lại kí hiệu cũng có cách thức làm việc giống khi thám hiểm. Kí hiệu này có lẽ muốn nói ‘Có bánh tông xuất hiện, chú ý!’. Tôi lập tức tưởng tượng nếu như có thể sống sót trở ra, mình có nên dán cái kí hiệu này lên con xe Jinbei ở nhà (1) cho nó cá tính không.

Phan Tử không biết tôi đang nghĩ nhăng nghĩ cuội, đột ngột mở lời: “Cũng không đúng, tôi cảm thấy ý nghĩa của kí hiệu này không phải là nhắc nhở có gì đó nguy hiểm. Cậu nghĩ mà xem, trong mộ đạo có nguy hiểm hay không thì phải vào mới biết chứ, không lý gì bọn họ đi vào rồi lại quay trở về mà khắc mấy kí hiệu này. Nói cách khác, kí hiệu này khắc vào thời điểm người đó chuẩn bị tiến vào mộ đạo, ý nói mình đã đi về hướng này, cho người đến sau biết hành trình của mình, còn bên trong có thứ gì thì lúc khắc người đó chắc chắn không biết. Cái này kể cũng đáng chú ý, gọi là ‘truy tung ngôn ngữ’.

Tôi chưa từng nghe qua thứ này. Bàn Tử hỏi lại: “Truy tung ngôn ngữ là cái gì?”

Phan Tử nói: “Hồi tôi tham chiến ở Việt Nam, khi còn trong quân ngũ có học một khóa văn hóa. Do hoạt động trong rừng nên phải học rất nhiều về cứu hiểm, ‘truy tung’ ngôn ngữ chính là một khi lạc giữa rừng rậm, trong lúc tìm đường anh đồng thời phải đánh dấu lại lộ trình của mình. Phương pháp đánh dấu này cũng có những quy luật đặc biệt, sau này đội cứu viện nhìn thấy dấu hiệu của anh có thể biết anh đã gặp phải chuyện gì ở đây. Ví dụ như đồ ăn đầy đủ đánh dấu một kiểu, đồ ăn hết trơn đánh dấu một kiểu, trong đội có người gặp nạn lại đánh dấu một kiểu khác. Đội cứu viện đi theo những dấu hiệu này, dọc đường có thể biết được tình hình gần đây của anh. Nếu sự tình chuyển biến cực xấu, họ có thể dùng kí hiệu này làm căn cứ nghĩ sách lược cứu viện. Nghe nói thứ ngôn ngữ này là do người Mỹ phát minh ra khi đánh Việt Nam.”

Bàn Tử hỏi hắn: “Anh đã được học rồi, vậy có hiểu gì không?”

Phan Tử lắc đầu nói: “Tôi nói là có lẽ thôi. Những ám hiệu này hoàn toàn không giống những cái tôi được học lúc ấy, tôi chịu không nhận ra nổi, nhưng dám cá đây là một loại truy tung ngôn ngữ. Chúng ta không cần phải cố gắng giải mã nó, kí hiệu thay đổi có lẽ chỉ cho thấy hắn bị mắc kẹt trong này.”

Bàn Tử thở dài, nói: “Tình hình không ổn nha. Nếu thực sự là ‘truy tung ngôn ngữ’, chứng tỏ kẻ để lại kí hiệu này, con mẹ nó, cũng không chắc chắn vào lựa chọn của mình. Hắn chỉ chuẩn bị cho đội thứ hai thôi, nói cách khác, hắn không dám tin mình đi vào đây còn có thể sống sót trở ra.”

Phan Tử nói: “Phải! Cho nên có nói nữa cũng chẳng để làm gì. Tôi thấy nếu kí hiệu này đã không dành cho chúng ta thì chúng ta cứ coi như không thấy nó là xong. Nhiệm vụ chính của chúng ta bây giờ là tìm được ông Ba, kí hiệu không phải do ông Ba khắc, nói cách khác ông Ba không nhất thiết đi hướng này, chúng ta đi theo cho dù thuận lợi đến mấy cũng không gặp được ông Ba. Chúng ta cứ đi con đường của riêng mình, trước kia tôi đã từng đổ không ít đấu, nào phải chưa từng gặp tình huống như thế này, tôi không tin chúng ta không thể tự mình dò được mộ đạo.”

Luận điệu này đúng là hợp ý Bàn Tử, hắn gật đầu lia lịa, nói với chúng tôi: “Lão Phan, câu này bắt đầu giống tiếng người rồi. Chi bằng chúng ta chia làm hai ngả, anh với Tiểu Ngô đi bên kia, tôi với Thuận Tử đi bên này, chúng ta xem xem ai may mắn hơn. Dù sao cũng là đường thẳng, nếu đi đến cùng mới phát hiện sai hướng thì cứ lộn ngược lại là xong, nhóm còn lại đi đúng hướng sẽ chờ bên ngoài quách điện. Chứ cứ đứng chôn chân ở chỗ này mà do dự cũng không phải cách hay.”

Tôi cảm thấy làm thế không ổn, bèn nói: “Nói vậy không sai, chỉ e mộ đạo chính này không dễ đi thôi. Anh nhìn mấy phiến đá bốn thước dưới chân mà xem, loại mộ đạo này rất dễ chứa tên lạc hoặc cơ quan dạng bản xoay. Lỡ đâu hai nhóm đi đến tận cùng đều chết trong mộ đạo thì chúng ta vừa chia tay coi như vĩnh biệt luôn.”

Bàn Tử cười nhạo tôi: “Nói vậy thì cậu không nên đến đây mới phải, cậu ăn no rửng mỡ còn xuống đây làm gì. Một khi đã xuống địa cung thì không nên sợ mấy chuyện này.”

Tôi tự nhủ đó là ông phòng xa thôi, chứ nguyện vọng đời ông vẫn là làm một thị dân quèn hầu bao bạc triệu. Không biết năm nay gặp phải cái vận chó má gì mà toàn đụng bánh tông, đến nỗi bây giờ trơ ra cóc sợ nữa, nhưng muốn cẩn thận một tí cũng không được, đây là chuyện gì chứ.

Phan Tử cũng nghĩ giống tôi, bèn nói với Bàn Tử: “Không, cậu Ba nói rất đúng. Còn một lý do nữa là đoàn của A Ninh chắc chắn ở quanh đây thôi, chúng ta không phòng bánh tông thì cũng phải phòng người chứ. Hai đánh một không chột cũng què, hơn nữa chẳng may một nhóm biến mất không trở về, nhóm còn lại biết phải làm sao? Chúng ta đi cùng nhau vẫn tốt hơn, còn có đèn chiếu sáng.”

Thuận Tử từ đầu vẫn ngậm hột thị giờ cũng tỏ thái độ: “Dù thế nào tôi cũng phải đưa cậu chủ Ngô tới nơi, tôi chắc chắn sẽ đi theo cậu ta.”

Bàn Tử giơ tay đầu hàng ba người chúng tôi: “Hai người theo chủ nghĩa sùng bái cá nhân đấy à. Con mẹ nó, tôi bị cô lập à. Thôi coi như tôi xui xẻo, các người nói gì thì tôi nghe đó, cùng lắm là chết chung chứ gì.”

Phan Tử nói: “Trước hết chúng ta cứ đi theo kí hiệu này, sai đường thì quay lại, hành sự cẩn thận là được.”

Chúng tôi gật đầu ưng thuận. Lòng tôi cũng hiểu rõ, dù sao chuyện đã đến nước này, chúng tôi cứ chôn chân ở đây tranh cãi đến mùa quýt cũng không xong, bây giờ đi hướng nào, đi như thế nào hoàn toàn dựa vào vậnmay.

Mọi người đứng dậy, Phan Tử liền lôi ra một cây gậy gấp dò đường giống như gậy của người mù, dò dò trên mặt đất, chúng tôi liền đi theo hướng có khắc kí hiệu kia.

Mỗi bước đi đều vô cùng cẩn trọng, trong lòng tôi thực ra đã ngán đến tận cổ cái nơi vừa đi vừa nớp nớp lo sợ thế này, nhưng đâu còn cách nào khác. Đã vào đến đây thì không thể tránh khỏi bước này, bằng không bao nhiêu khổ cực phía trước chẳng phải là phí hoài sao.

Cứ ngỡ sẽ phải mất ít nhất nửa giờ dò dẫm trong mộ đạo, ai ngờ đoạn mộ đạo này ngắn ngủn, đi chưa nổi hai trăm mét đã đột ngột mở rộng, cuối mộ đạo xuất hiện một ngọc môn cực lớn.

Tôi liếc mắt một cái đã nhận ra đây chính là đại môn của minh điện, bởi vì cửa mộ sẽ không dùng loại đá đẹp cỡ này. Phần dưới cánh cửa đã bị nổ bay, lộ ra một cái động trống không. Rõ ràng đã có người vào đây, không biết đó là đám người A Ninh hay là ai khác.

Tôi mừng thầm trong bụng, nói vậy chúng tôi đã đi đúng đường rồi, phía sau cánh cửa này chính là phần trung tâm của địa cung. Trong đầu tôi lập tức hiện ra rất nhiều kết cấu lăng mộ kinh điển. Tuy đây là hoàng lăng Đông Hạ nhưng lại do người Hán làm chủ thầu xây dựng, hẳn là cũng không khác nhiều so với mộ táng ở Trung Nguyên, khi tiến vào sẽ trông thấy những gì? Tôi bất giác hồi hộp, không biết quan tài của Vạn Nô vương trông như thế nào nhỉ? Xung quanh có quan tài bồi táng hay không?

Ngọc môn của mộ thất tám chín phần sẽ có cơ quan, tường đá hai bên rất có thể rỗng ruột, bên trong chứa bột đá độc. Hơn nữa loại cơ quan này thường là không thể phá giải, bởi vì mộ thất một khi đóng lại sẽ không tính đến chuyện mở ra, cho dù có là công nhân xây dựng cánh cửa cửa này thì sau khi cửa đóng cũng không thể vào được.

Nhưng cửa này đã bị nổ tung, nếu có cơ quan thì cũng bị phá hủy tan tành rồi, cái này chắc khỏi cần lo lắng. Mấy người chúng tôi khom lưng, nối đuôi nhau chui vào, tiến nhập mộ thất đằng sau cánh cửa. Bàn Tử cẩn thận châm một cây pháo lạnh để chiếu cho sáng hơn, ngay lập tức chúng tôi có thể nhìn rõ bố trí bên trong mộ thất.

Trong khoảnh khắc pháo lạnh bùng lên, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng khiến ai nấy đều nín thở. Mọi người không ai ngờ mình sẽ chứng kiến cảnh tượng như thế, gần như đều đông cứng tại chỗ không thể nhúc nhích.
 
Quyển 4 - Chương 38: Người chết trên đống vàng


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Mộ thất này so với hầm rượu ban nãy, cả về chiều cao lẫn chiều rộng đều gấp mười lần. Bốn cây cột trụ khổng lồ đặt ở bốn góc mộ thất điêu khắc đầy phù điêu, trên nền mộ thất ngồn ngộn của cải, khi pháo lạnh bùng cháy, chúng tôi mới phát hiện ra đó là những núi dụng cụ bằng vàng bạc, đá quý, lưu ly, trân châu mỹ ngọc. Đèn pin của chúng tôi chiếu lên khiến chúng tỏa sáng lấp lánh, quả thực khiến người ta lóa mắt.

“Ôi má ơi………” Mắt Bàn Tử trợn trừng, lớn hơn mắt bò, gương mặt vặn vẹo.

Tôi cũng quá đỗi kinh ngạc, gần như không thể đứng vững. Phan Tử lẩm bẩm: “Tôi bảo rồi mà, quốc khố của người Nữ Chân lẫn vật phẩm tiến cống hàng năm của Nam Tống đều ở đây. Con mẹ nó, đây đã nói là chỉ có chuẩn.”

Bước chân vào cái nghề này bao lâu, những thứ tôi nhìn thấy trước đây so với nơi này đúng là đồng nát sắt vụn. Tôi nghĩ bây giờ mình cũng không trốn được số mệnh, không ngờ trong hoàng lăng của một quốc gia nhỏ bé nơi biên giới hoang vu lại có chừng này bảo bối. Chẳng lẽ đúng như lời Phan Tử nói, sau khi Đại Kim diệt vong, toàn bộ bảo bối của nó đều được cất giấu ở nơi này. Vấn đề bây giờ không phải là phát tài nữa, mà chỉ cần nhặt bừa vài món trong đống kia mang ra cũng đủ sống sung sướng cả đời.

Bàn Tử chỉ muốn lăn xả vào đống vàng bạc kia. Lòng tôi cũng đang gào thét muốn xông lên nhưng vẫn còn một tia lí trí, bèn giữ chặt Bàn Tử, không để hắn vì mờ mắt mà làm liều. Rất nhiều kim khí trong các mộ táng trên bề mặt đều phủ một lớp kịch độc, lăn vào giữa đống vàng rồi trúng độc mà chết thì cũng quá nhảm, mấy thứ này tốt nhất là không nên đụng vào.

Nhưng tôi mải giữ Bàn Tử mà quên béng mất Phan Tử, chưa gì ảnh đã lao vào đống vàng, vốc lên một nắm to kim khí, ngây ra mà nhìn. Ánh sáng phản xạ từ đống vàng chiếu lên khiến mặt anh vàng chóe, cả người phát run. Sau đó anh buông tay, mấy món đồ kia theo kẽ tay anh rơi xuống đất, kim loại va chạm phát ra tiếng leng keng.

Tôi thấy Phan Tử động vào kim khí mà không việc gì, biết kim khí kia không có độc, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng chốc biến mất. Tôi không nhịn được nữa, cũng nhảy vào sờ loạn một phen, cái cảm giác nặng trịch này khiến tôi không tự chủ được mà cười lên ha hả. Tôi không nhớ có ai đó đã nói: Sự ham mê vàng của con người đã ăn sâu vào gen, biến thành bản năng bẩm sinh không thể kháng cự. Con mẹ nó, hắn nói không sai tí nào.

Cho dù là người như tôi, tuy bề ngoài vẫn ra vẻ đạo mạo nhưng mỗi khi nhìn thấy vàng bạc châu báu thì sâu trong tâm khảm vẫn rung động mãnh liệt, tôi nghĩ dù có tự lừa dối mình cũng chẳng được. Tôi thích đống của cải này.

Mấy người chúng tôi lập tức quên sạch sẽ mọi chuyện, vội vàng chạy ào đến đống của cải này vơ vét một mớ, lại chạy đến đống kia nhặt lên một cái phát quan khảm đầy đá quý ngắm nghía thật lâu. Mấy thứ này thực sự đều là cực phẩm, chỉ cần lấy được một cái cho vào viện bảo tàng cũng thành bảo vật trấn viện. Giờ ở trong đây lại có cả một đống, cứ mặc sức sờ mó, mặc sức dẫm lên cũng không cảm thấy đáng tiếc.

Bàn Tử bên cạnh đã bắt đầu vơ vét của cải. Hắn đổ hết trang bị trong túi ra ngoài, không để lại thứ gì, rồi ra sức nhồi nhét vàng bạc vào. Nhét đầy rồi lại cảm thấy không ổn, liền dốc ra bằng sạch rồi nhặt mấy món khác nhét vào, nhồi nhồi nhét nhét lại còn hú lên mấy tiếng vô nghĩa.

Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra, bất kể có nhồi nhét kĩ đến đâu cũng không thể mang đi một phần vạn của đống bảo vật này. Vừa nhét thứ này vào túi xong lại phát hiện có thứ khác quý giá hơn ở bên dưới, nhét thứ quý giá hơn ấy vào rồi lại phát hiện ra thứ khác nữa mới là cực phẩm chưa thấy bao giờ, vì thế cứ phân vân, không biết chọn thứ nào.

Điên cuồng một lúc lâu, cho đến khi cả đám đều kiệt sức, sự hưng phấn cực độ đã nhường chỗ cho óc tỉnh táo, tôi mới cảm thấy có gì đó không ổn. Tại sao sau khi vào đây tôi không nghe thấy tiếng của Thuận Tử nữa chứ?

Tôi lau mồ hôi trên đầu, đứng lên khỏi đống châu báu, chiếu đèn pin khắp bốn vùng quanh thì thấy Thuận Tử đứng lặng đi trên một đống kim khí, không biết đang nhìn cái gì.

Tôi lại gần hắn, hỏi hắn làm sao vậy, thấy nhiều vàng bạc thế này mà không vui à?

Hắn lặng lẽ chỉ xuống bên dưới, tôi chiếu đèn pin theo hướng hắn chỉ, phát hiện giữa những đống kim khí, vây quanh là vô vàn châu báu có mấy người nằm co quắp, không hề nhúc nhích, hình như đã chết cả.

Tôi giật mình hoảng sợ, bao nhiêu hưng phấn hồi nãy phút chốc tan biến, da gà nổi đầy người.

Bàn Tử và Phan Tử thấy tôi và Thuận Tử đứng ngây ra tại chỗ, lại tưởng chúng tôi phát hiện ra bảo bối gì bèn vội vã chạy lại, thấy mấy cái bánh tông cũng không khỏi giật mình.

Chúng tôi leo xuống khoảng trũng giữa những đống kim khí, cầm chặt đèn pin chiếu thật cản thận, phát hiện kia quả thực là người chết, hơn nữa chết cũng đã lâu. Da thi thể mất nước, quắt queo đông cứng lại như vỏ quất. Lạ một nỗi, mấy người này đều mặc áo khoác nỉ đã mục nát, rõ ràng là trang phục của người hiện đại, bên cạnh còn có mấy ba lô hành quân kiểu cũ cũng đã mục nát đến độ không nhìn rõ hình dạng.

Bàn Tử nghi hoặc hỏi: “Chuyện quái quỷ gì đây? Mấy người này là ai? Đồng nghiệp với chúng ta chăng?”

Tôi lắc đầu, đeo găng tay vào rồi lục lọi quần áo và ba lô của mấy thi thể kia. Những bộ đồ này hẳn là kiểu y phục thịnh hành vào những năm 80, 90, đến bây giờ những người già tầm bốn mươi năm mươi tuổi ở vùng nông thôn Đông Bắc vẫn còn mặc. Lúc ở thôn Doanh Sơn chúng tôi cũng gặp khá nhiều người trung niên mặc thứ này, nhưng xem độ phân hủy thì những người này phải chết từ năm đến hai mươi năm rồi.

Phan Tử hỏi: “Hay họ là người hái thuốc hoặc thợ săn trên núi Trường Bạch đi lạc vào chỗ này, không ra được nên chết ở đây?”

“Không phải đâu.” Tôi kéo quần áo của một khối nữ thi, nhìn vào lỗ tai thì thấy nữ thi này đeo một cái khuyên kiểu cũ, trên tay còn đeo đồng hồ đã rỉ sét từ lâu. “Anh xem, đây là đồng hồ Titoni kiểu cổ (1) của Thụy Sĩ, lúc đó dù là thị trưởng cũng chưa chắc đã mua được. Lai lịch của cô gái này không tầm thường đâu, trông chẳng giống người nông thôn tí nào.”

“Hay đây là mấy du khách lạc đường trước năm 80?” Phan Tử lại hỏi: “Những kí hiệu chúng ta đi theo lẽ nào là do họ khắc lên?”

Tôi lắc đầu, không thể có chuyện họ khắc mấy kí hiệu này, bởi vì kí hiệu kia tôi đã từng trông thấy trong huyệt mộ dưới đáy biển, nhất định là do một người có liên quan khắc, không phải đám người A Ninh thì chỉ còn có Muộn Du Bình. Nói là du khách lạc đường thì cũng có thể, nhưng ai lại lạc đường đến tận đây cơ chứ? Mộ đạo địa cung, nếu gan không đủ lớn thì người thường chẳng ai dám xuống.

Nhưng nếu cô gái này có chút địa vị, ví dụ như là con gái của một vị lãnh đạo, hoặc là có quen biết giới quan chức địa phương thì một khi mất tích hẳn sẽ rất ồn ào, Thuận Tử tuổi cũng không còn trẻ, có thể sẽ biết. Nghĩ thế tôi bèn quay sang, tính hỏi hắn xem trong khoảng thời gian từ năm đến hai mươi năm trở về trước, vùng này có xảy ra vụ mất tích ầm ĩ nào không. Nhưng quay sang lại thấy Thuận Tử không chạy xuống theo chúng tôi mà vẫn đứng chôn chân trên đống vàng, nét mặt đã cứng đờ.

Tôi nghĩ bụng, quái, chẳng lẽ Thuận Tử cũng bị lưỡi thi thai quấn lấy giống Bàn Tử rồi hả? Nhìn kĩ thì cổ hắn trống không, nhưng người hắn lại run lên từng chặp, cũng cảm thấy có gì đó không ổn.

Bàn Tử hỏi hắn: “Làm sao vậy? Sợ người chết à? Vừa nãy có thấy anh sợ sệt gì đâu?”

Thuận Tử phớt lờ Bàn Tử, lê từng bước chân nặng nề tới bên một khối thi thể rồi ngồi thụp xuống, trông hắn căng thẳng như muốn ngã sấp.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt hiểu ra mọi chuyện.

Bàn Tử định chạy đi đập hắn mấy cái nhưng bị tôi khoát tay cản lại. Hắn thì thầm hỏi: “Hắn làm sao vậy? Trúng tà à?”

Tôi lắc đầu. Mấy khối thi thể này, nếu tôi đoán không nhầm thì có thể là nhóm người được cha Thuận Tử dẫn vào núi Trường Bạch mười năm về trước mà hắn đã từng kể cho tôi nghe. Mà khối thi thể Thuận Tử đang nhìn chăm chăm kia có lẽ chính là cha hắn, cho nên hành động của hắn mới căng thẳng đến thế.

Không ngờ hắn đã đoán đúng, đi theo chúng tôi thật sự có thể tìm thấy di thể của cha…

Nhưng đây chỉ là trùng hợp thôi sao? Nhóm người mười năm trước có thật là đi lạc vào chỗ này? Hay là còn có ẩn tình gì khác mà chúng tôi chưa biết?
 
Quyển 4 - Chương 39: Đội thám hiểm mười năm trước


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Thuận Tử rốt cuộc cũng không khóc. Hắn chỉ bị kích động trong chốc lát, sau đó cũng bình tĩnh trở lại, cung kính sửa sang lại tóc tai cho cha. Thi thể đã mất nước nghiêm trọng, tóc vừa chạm vào đã rụng xuống lả tả. Chật vật sửa sang mất một lúc, cha hắn trông đã gần giống Cát Ưu (*). Tôi biết trong lòng hắn chắc chắn rất khổ sở, mười năm qua có lẽ hắn vẫn nuôi một tia hi vọng cha mình còn sống, nhưng bây giờ hi vọng đã tan biến, có thể nói hắn vừa nhẹ nhõm lại vừa tuyệt vọng.

(*) Cát Ưu: Diễn viên của Trung Quốc, có quả đầu trọc nổi tiếng. Ý Tà là cha Thuận Tử tuy rụng hết tóc nhưng cũng đẹp trai gần bằng diễn viên rồi.

Bàn Tử và Phan Tử không hiểu chuyện gì xảy ra, ngớ ra mà nhìn, mồ hôi lạnh tuôn trào. Tôi kể lại sơ sơ chuyện mình phỏng đoán với hai người bọn họ, hẳn là cũng không đoán sai.

Bàn Tử nghe vậy cũng rớt nước mắt, nói: “Ông già nhà tôi cũng đi sớm, cả đời làm cách mạng vì quốc gia, cuối cùng lại bị chụp cho cái mũ phần tử phản động. Tâm tình của Thuận Tử tôi có thể hiểu được, nhưng thôi cứ nghĩ theo hướng tích cực đi. Sau mười năm cha con còn có thể gặp lại nhau, vậy là ông trời coi như cũng chiếu cố anh rồi, hãy nghĩ thoáng ra một chút.”

Bàn Tử vừa khóc, Phan Tử khóe mắt cũng rưng rưng, nói vậy là tốt lắm rồi. Các người đều có cha, chứ tôi đây còn chưa được nhìn mặt ổng lần nào. Tôi luôn coi ông Ba như cha mình, vậy mà giờ có biết ông ấy sống hay chết ra sao đâu.

Tôi thấy thế vội hỏi: “Hai người mắc chứng gì thế? Thuận Tử còn chưa khóc mà hai người đã bù lu bù loa lên rồi, mau nhìn xem tại sao bọn họ lại chết ở chỗ này đi.”

Đã vào được đến đây thì không lý nào không ra được, bọn họ chết ở chỗ này chắc chắn là vì đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Giờ chúng tôi cũng đang đứng trong mộ thất, tôi không muốn cả đám nối gót bọn họ chút nào. Đồng thời tôi cũng cảm thấy mấy khối thi thể xuất hiện trong này có hơi kì quặc: không tính cha của Thuận Tử vì ông ấy chỉ là người dẫn đường, thì những người khác, theo như lời Thuận Tử, đều khăng khăng lên núi vào cái mùa không thích hợp để lên núi, chắc chắn không phải du khách bình thường. Phải chăng họ cũng có mục đích không thể cho ai biết? Vào đến đây không lẽ chỉ là trùng hợp? Tôi nhất định phải tìm hiểu rõ.

Chúng tôi lục lọi ba lô của những người này, trong đó vẫn còn đầy đủ vật phẩm. Từ cuốn tiểu thuyết đã mục nát đến long cả gáy, bút ký, bút chì, dây thừng gân bò, lều vải hành quân, đèn pin kiểu cũ, dao đa năng cũng cũ nốt (cái này vẫn còn dùng được), từ điển Hàn-Trung năm 1986, kẹo cao su, bật lửa kiểu cũ, bầu rượu, son môi, băng vệ sinh. Hòm thuốc vẫn còn băng gạc, cồn, bông và vài loại rượu thuốc, la bàn quân dụng, vân vân.

Tên cuốn tiểu thuyết là “Thép đã tôi thế đấy”, sách đã cũ nên tôi cũng không dám lật bừa, lật một tờ đảm bảo long ra cả quyển. Bút ký cũng là những bản bút ký công tác cũ kĩ, hồi tiểu học tôi từng thấy cha dùng. Tổng cộng có ba quyển, mở ra thì thấy chúng đều ghi số điện thoại và vài khoản thu chi, thì ra thời đó người ta dùng bút ký vào những việc này. Ngoài ra không còn thứ gì cho biết thân phận của họ, và nhất là không ai mang theo chứng minh thư.

Chúng tôi bày la liệt mấy thứ này thành hàng, gần như các thiết bị đều đủ hết, tuy không tiên tiến được như chúng tôi nhưng để thoát ra ngoài thì không thành vấn đề, dù gặp phải hoàn cảnh hiểm ác hơn nữa thì những trang bị này cũng thừa sức ứng phó.

Vậy thì quái thật. Lòng tôi âm thầm suy xét, bất kể thế nào, dựa vào điều kiện tiên quyết là họ có đủ khả năng rời đi, những người này nếu chết cũng nên chết trên đường ra mới đúng, chứ không phải ngồi chết ở đây, trông như chủ động chờ chết vậy. Chẳng lẽ họ không nỡ xa rời những bảo bối ở đây? Cái này càng vô lý.

Nếu vậy, chẳng lẽ họ chết ở đây là do nguyên nhân kì quặc nào khác? Trong lòng tôi đột nhiên trào dâng cảm giác hoang mang, cứ như trong mộ thất này có thứ gì đó đang theo dõi chúng tôi, không khỏi rùng mình một cái.

Bàn Tử xem xét những thứ đồ đạc chúng tôi bày ra, đột nhiên ‘A!” lên một tiếng, nói: “Này các đồng chí, có phát hiện trong đống vật phẩm này thiếu đi thứ gì không?”

Chúng tôi đang đuổi theo những suy nghĩ riêng, nghe Bàn Tử hỏi vậy cũng cẩn thận nhìn lại mấy thứ kia một lượt, nhưng tôi cảm thấy mọi đồ vật quan trọng đều đủ cả, thực sự không nghĩ ra là thiếu thứ gì, đành phải hỏi hắn: “Thiếu cái gì?”

Bàn Tử đáp: “Lương thực! Không có lương thực! Trong túi tất cả mọi người đều không có!”

Hắn vừa nói ra, chúng tôi đều giật mình, lại liếc qua đống đồ đạc một lượt. Quả nhiên tất cả đều là trang bị, không một vật gì có thể bỏ bụng.

Tôi nghi hoặc nói: “Đúng là không có lương thực, chứng tỏ cái chết của những người này không phải là điều ngoài ý muốn, bởi vì nếu gặp chuyện bất trắc thì không thể trùng hợp đến nỗi tất cả mọi người đều cạn lương thực được. Không đúng, vậy chẳng lẽ bọn họ đã…. ăn hết lương thực, sau đó chết đói trong đây?”

Nói thế cũng không đúng, từ khi hết lương cho đến lúc chết đói, chỉ cần uống đủ nước, một người bình thường cũng có thể cầm cự được một tháng (không nói những người cao hơn hai mét mà nặng có 45kg đâu nhá). Chỉ cần bọn họ có ý muốn thoát ra ngoài thì cũng không đến nỗi chết chùm. Những người này chết đói ở đây thì chỉ còn một cách giải thích, đó là họ không thể thoát ra được.

Nghĩ đến đây tôi chợt nhớ đến cánh cửa mộ đạo biến mất trong mộ huyệt dưới đáy biển, vội nhảy dựng lên, chạy qua đống châu báu rồi chiếu đèn pin về phía cửa mộ. Thấy cửa mộ kia vẫn còn nguyên đấy, không hề biến mất, tôi mới thờ phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn sợ nó đột ngột biến mất nên không biết tiếp theo phải làm gì.

Bàn Tử cũng biết rõ điều tôi lo lắng, bèn an ủi tôi nếu thực sự gặp phải chuyện đó thì trên người chúng ta vẫn còn thuốc nổ, đừng lo. Tôi nghe hắn nói vậy mới cảm thấy an tâm ít nhiều.

“Hay là thế này nhỉ,” Nghĩ tới nghĩ lui vẫn không hiểu thì Phan Tử đột nhiên hỏi Thuận Tử: “Anh có biết đội thám hiểm mà cha anh dẫn đường gồm bao nhiêu người không?”

“Theo lời mẹ tôi thì hình như chỉ có bảy người. Nhưng đây chỉ là con số bà ấy thấy tận mắt, còn thực tế có bao nhiêu người thì chịu. Dù sao lúc xuất phát cha tôi cũng đi với bảy người.”

“Ở đây có ……….. 1 2 3 4 5 6, sáu khối thi thể, vậy có ít nhất hai người đã biến mất.” Phan Tử nói: “Những người này chết ở đây, phải chăng là do hai người kia bị lòng tham che mờ mắt, giết sạch đồng đội còn mình thì chạy thoát.”

Tôi lắc đầu tỏ ý phủ định, những người này không hề có dấu vết đánh nhau, xem tư thế lúc chết là cuộn mình nằm cùng một chỗ thì cũng không giống bị trúng độc, càng không giống chết do ngoại lực tác động. Điều khiến tôi có cảm giác bất thường và quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân chết của bọn họ nhất chính là nét mặt của các thi thể như đúc từ một khuôn, đó là một vẻ tuyệt vọng sâu sắc, tựa như lâm vào hoàn cảnh không còn lấy một tia hi vọng.

Đây là lần đầu tôi trông thấy những thi thể như thế, trong lòng cứ vướng bận mãi không tan. Tôi có một dự cảm rằng chuyện xảy ra ở đây vào năm đó nhất định không đơn giản, mà càng đi sâu vào phỏng đoán, tôi càng cảm thấy xung quanh bắt đầu bao phủ một màn sương lạnh buốt và bất an không sao diễn tả bằng lời. Cứ như trong đống châu báu này có thứ gì đó đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi vậy, cái cảm giác sởn tóc gáy này càng ngày càng rõ rệt.

Ngẫm nghĩ nửa ngày cũng không thông, Bàn Tử và Phan Tử bắt đầu mất kiểm soát, muốn đi mó máy đống châu báu kia. Lúc này tôi bỗng dưng trở nên tỉnh táo lạ lùng, ngăn bọn họ lại, nói tôi thực sự không thể lờ đi mấy người chết giữa đống châu báu kia. Chúng ta trước hết đừng manh động, chớ quên mục đích mình vào đây là gì.

Nghe tôi nói thế bọn họ mới tỉnh ngộ, thoáng cái Bàn Tử đã nghĩ ra điều gì, bèn nói: “Tôi đúng là mê muội, đã quên mục đích mình xuống đây làm gì. Kí hiệu kia dẫn chúng ta tới đây, cửa cũng đã bị nổ tung, nhưng bên trong chỉ là một kho báu? Quan quách thì chẳng thấy đâu. Tôi nghĩ mình hiểu ý nghĩa của kí hiệu kia, chính là ở đây có minh khí, nó chắc chắn do đám người A Ninh lưu lại để nhóm thứ hai của họ tiến vào vận chuyển bảo bối.”

Tôi nói: “Cửa rất có thể do mấy thi thể này phá, nhưng đây chỉ là một mộ thất chứa đồ bồi táng, quan tài chắc chắn không ở chỗ này, chúng ta phải đi về hướng ngược lại.”

Tuy không hợp lí cho lắm nhưng tôi vẫn nghĩ đây là mộ đạo chính, một hướng dẫn ra cửa mộ, hướng còn lại tất nhiên dẫn vào trung tâm địa cung, nhưng giờ xem ra không đúng. Chẳng lẽ mộ đạo kia không phải là mộ đạo chính? Địa cung này rốt cuộc còn rộng đến chừng nào? Hay là giống như một mê cung? Nhớ lại mấy kí hiệu kia, chẳng lẽ đúng là do địa cung quá phức tạp nên bọn họ mới phải lưu kí hiệu?

“Mấy thứ kia xử lý sao đây?” Bàn Tử vẫn còn luyến tiếc.

Tôi nói: “Anh cứ nhặt bừa vài món đem về cũng đủ sống sung túc hết nửa phần đời còn lại. Đừng tham quá làm gì, đằng nào sau này vẫn có thể quay lại đây mà.”

Bàn Tử nhìn mấy khối thi thể kia, hiển nhiên trong lòng cũng thầm nói ‘đã mạo phạm’, nhưng không thể tay trắng trở ra, vì thế hắn chọn mấy món kim khí nho nhỏ nhét vào túi. Thuận Tử khăng khăng muốn đưa thi thể cha ra ngoài, dùng ba lô gói thi thể lại rồi đeo lên lưng. Thi thể đã khô nên không còn nặng lắm, vác theo không quá khó khăn.

Cuối cùng, chúng tôi nhìn lướt qua từng đống từng đống kim khí mã não lóng lánh ánh vàng một lượt, hạ quyết tâm dứt khoát quay đầu, nối đuôi nhau chui qua cái lỗ dưới cửa mộ.

Vừa mới ra khỏi cửa, tôi đã nghe Bàn Tử “Hả?” một tiếng. Trong lòng sớm có dự cảm, tôi vội vàng bật đèn pin chiếu khắp xung quanh, toàn thân không ngừng toát mồ hôi lạnh.

Bích họa trên tường mộ đạo lúc này trông khác hẳn lúc mới đi vào. Không biết từ bao giờ, bích họa đỏ rực đã biến thành vô số bóng người màu đen có cái đầu bự chảng.
 
Quyển 4 - Chương 40: Con đường ngợp bóng


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Thuận Tử và Phan Tử thấy thế đều trố mắt ra nhìn, lẩm bẩm: “Mẹ kiếp! Chuyện quái quỷ gì thế này? Đi nhầm cửa à?”

“Không phải!” Tôi và Bàn Tử đều có kinh nghiệm, lập tức hiểu ra bản chất vấn đề: “Mộ đạo này đã di chuyển. Lúc chúng ta ở trong mộ thất kia, mộ đạo cũ đã dịch chuyển sang vị trí khác, một mộ đạo mới lại dịch chuyển đến chỗ này.”

“Vậy cũng làm được hả?” Phan Tử há hốc miệng.

“Được chứ!” Tôi và Bàn Tử lại ra sức gật đầu, thầm nghĩ đâu chỉ có nơi này, trong mộ huyệt do Uông Tàng Hải thiết kế có phát sinh bất cứ chuyện gì cũng không lạ.

Trong lòng tôi mơ hồ sợ hãi, nhưng cũng có phần an tâm, bởi vì khi mộ đạo thay đổi, tôi đột nhiên hiểu ra vì sao cha của Thuận Tử và mấy cái thây khô kia lại bị vây khốn mà chết giữa đống vàng bạc như thế. Nếu không thông hiểu mưu kế của Uông Tàng Hải, chỉ cần cái mộ đạo mộ thất quỷ dị nơi này biến đổi một chút cũng đủ bức người ta phát điên. Chúng tôi lúc ở dưới hải mộ cũng bị lừa cho suýt mất đi lý trí, nhưng một khi đã biết nguyên nhân mộ đạo nơi này đột ngột biến hóa thì cũng không còn gì đáng sợ nữa.

Mộ đạo biến hóa thế này, ngã tư đường lúc trước chúng tôi đã từng đặt chân tới tất nhiên sẽ biến mất, muốn quay lại cũng không thể. Tuy không biết cuối mộ đạo mới này là gì nhưng nếu chúng tôi cứ đứng chôn chân ở chỗ này không đi thì kết cục tất nhiên cũng giống mấy thi thể kia thôi.

Tôi lúc ấy tôi đã nghĩ cuối mộ đạo không có gì cả, là đường cùng, vậy thì không đáng lo. Mấy thi thể kia bị vây hãm ở đây cùng lắm là vì nguyên nhân này, không có thuốc nổ mà con đường dẫn đến đây lại đột ngột biến mất, không biết phải làm sao nên mới lộ ra nét mặt tuyệt vọng cùng cực thế này.

Sau này nghĩ lại mới thấy tôi rốt cuộc vẫn còn quá non nớt, nét mặt tuyệt vọng sâu sắc đến độ này cho thấy bọn họ đã gặp phải chuyện khó bề tưởng tượng hơn suy nghĩ của tôi rất nhiều lần. Tôi lúc ấy đúng là suy nghĩ quá đơn giản.

Tôi nói ra suy nghĩ này với những người khác, lại giải thích cho Phan Tử và Thuận Tử nguyên tắc biến đổi của mộ đạo một lần, bọn họ mới ồ lên, lộ ra vẻ mặt ‘thì ra là thế’. Nhưng Phan Tử lại nghĩ xa hơn một chút: “Nếu là như thế thì theo lý thuyết cái huyền cung này phải có kết cấu vô cùng phức tạp, phải chăng chúng ta giống như lạc trong một khối rubik, đã vào là không thể thoát ra?”

Tôi an ủi anh: “Chắc không phải đâu. Mánh khóe của Uông Tàng Hải thật ra cũng chỉ là gây áp lực tâm lý cho kẻ trộm mộ, chứ muốn vây khốn người ta đến chết cũng không dễ đâu. Tôi đoán rất nhiều người bị tra tấn tinh thần cho đến khi hoàn toàn suy sụp nên mới chết.”

Tóm lại cái mộ đạo mới xuất hiện này chúng tôi nhất định phải tiến vào, sau đó vừa đi vừa nghĩ cách. Nếu quả thực không ra được thì cứ theo lời Bàn Tử nói, có thể đầu tiên sẽ xác định một hướng, sau đó dùng thuốc nổ kiên trì phá tường thoát ra. Chúng tôi đã có thuốc nổ trong tay, sống lưng cũng cứng cáp hơn nhiều.

Nói rồi tôi lập tức dẫn đầu đi vào mộ đạo, Bàn Tử và hai người kia theo sát phía sau. Trong một thoáng tôi cảm thấy có gì đó không ổn, bích họa xung quanh đều rất ghê người, vô số cái bóng đầu to quả thực giống như bốn phía đứng đầy những vật như thế, khiến người ta khó chịu cực kì. Bất chợt tôi nghĩ lẽ nào cuối bí đạo này có thứ gì đó, cái bóng của nó chiếu lên tường lẫn vào bích họa khiến chúng tôi không thể phát hiện ra.

Dù sao cũng đã đi vào rồi, bây giờ mà rút lui thì thật mất mặt. Tôi chỉ còn cách kiên trì dẫn đầu, cố gắng không nghĩ đến mấy thứ này nữa. Chẳng mấy chốc cửa mộ đã mất hút sau lưng, chúng tôi đã đi tới vị trí không thể nhìn rõ cả hai đầu.

Sau lưng tôi, Phan Tử vừa đi vừa hỏi chuyện về cha Thuận Tử và đội thám hiểm nọ, Thuận Tử kể sơ sơ cho anh nghe, Phan Tử bèn nói với chúng tôi: “Trên đường chúng ta tới đây, tất cả phong thạch đều dùng phương pháp nổ định hướng để phá ra một cái lỗ. Đây là kỹ thuật tối tân, chứng tỏ bọn họ vào đây bằng đường khác, không phải con đường chúng ta tiến vào. Xem ra nơi này chắc chắn có hơn một đường thoát ra ngoài.”

Tôi nói: “Chắc chắn là vậy rồi. Anh xem đám người A Ninh đi rõ nhanh, bọn họ lần theo đường chính mà lại đến trước, chứng tỏ chúng ta vẫn thua vì thiếu thông tin.”

Chẳng qua không biết nhóm A Ninh hiện đang ở nơi nào, có lẽ bọn họ đã đi qua kho báu ban nãy, chẳng biết lúc ra có gặp mộ đạo di chuyển hay không, có đi vào mộ đạo này như chúng tôi hay không, thêm nữa, chú Ba có phải cũng gặp những chuyện như thế?

Lòng tôi bắt đầu hoang mang, chúng tôi dựa theo ám hiệu của chú Ba mà đi vào địa cung, ông ấy nhưng vào rồi thì ổng không để lại ám hiệu nào khác nữa, xem ra sau khi đi vào địa cung ổng cũng đi lung tung rồi.

Vừa đi vừa nói đại khái hơn hai mươi phút, ánh đèn pin chiếu về phía trước đã xuất hiện phản quang, chứng tỏ đã đến cuối mộ đạo. Chúng tôi bất giác trở nên căng thẳng nhưng rồi nhanh chóng trấn tĩnh, giảm tốc độ, nhích dần từng bước. Rất nhanh, phía cuối mộ đạo lại xuất hiện một ngọc môn.

Lúc ngọc môn mới hiện ra, tôi đã giật nảy mình, bởi vì ngọc môn này giống cái ngọc môn kia như đúc. Nhưng nghĩ lại thì những cánh cửa trong cổ mộ phần lớn đều là do một người thợ phụ trách, đương nhiên sẽ rất giống nhau. Vật liệu làm cánh cửa vẫn còn rất tốt, bên dưới cũng có một lỗ hổng lớn do người ta phá bằng thuốc nổ.

Xem ra quả thực đã có người đi trước, vậy cũng tốt, dẫu là ai thì đối với chúng tôi đều là chuyện may mắn, ít nhất cũng chứng tỏ bên trong không có cơ quan hố bẫy.

Chúng tôi lại một lần nữa nối đuôi nhau chui vào. Do không còn nhiều pháo lạnh nên lần này Bàn Tử không đốt pháo mà chỉ châm mấy cái hỏa chiết tử. Chúng tôi nhìn ra xung quanh, không khỏi sửng sốt.

Phía sau cửa mộ là một gian phòng giống cái kho báu vừa rồi như đúc. Bên trong mộ thất cũng ngồn ngộn đống lớn đống nhỏ vàng bạc châu báu, bốn góc mộ thất cũng chống bằng bốn cây cột trụ cực lớn, kết cấu cơ bản giống hệt nhau.

Tôi thầm nghĩ thì ra trong địa cung này không chỉ có một kho báu, rốt cuộc cái đống của cải kia đến chừng nào mới hết? Hèn chi vương triều Đông Hạ yếu nhược lại có thể xây dựng một lăng mộ địa cung hùng vĩ đến thế, thì ra tích trữ ngút ngàn bảo bối là lề thói chung của những chính quyền độc tài. Thành Cát Tư Hãn chôn dưới thảo nguyên Mông Cổ, vàng bạc của đảng Đức Quốc xã do Hitler cầm đầu nghe đồn chôn ở Tây Tạng, còn của cải của anh em Gia Luật tộc Nữ Chân nước Đại Kim thì ở ngay chỗ này rồi.

Đang mải miết suy nghĩ, đột nhiên Bàn Tử bên cạnh hét lên một tiếng chói lói khiến tôi giật nảy mình.

Tôi cứ tưởng xảy ra chuyện gì bất ngờ, vội nhìn về phía hắn, chỉ thấy hắn há hốc miệng, đứng trên một đống châu ngọc không ngừng lắp bắp, nhưng mãi không thốt nên lời. Tôi vội vàng chạy đến nhìn thử, không khỏi giật mình kinh hãi, chỉ thấy giữa đống châu báu cũng có mấy khối thi thể nằm cuộn mình.

Tôi nghi hoặc hỏi: “Thuận Tử, anh có mấy người cha *=))))))*…… à không, nhóm người cha anh dẫn đi rốt cuộc có bao nhiêu người?” Còn chưa hỏi xong, tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng khiến tóc tai dựng ngược cả lên. Chỉ thấy giữa đống kim khí, cạnh mấy thi thể có một dãy đồ đạc được người ta bày biện rất chỉnh tề. Tôi chiếu đèn pin vào thì thấy đây chính là những thứ chúng tôi vừa sắp xếp trong kho báu ban nãy, từ trình tự cho đến chủng loại đều giống y đúc.

Bàn Tử cũng chịu không thấu, châm lên một cây pháo lạnh, mộ thất thoáng chốc sáng bừng lên. Chúng tôi tản ra xung quanh nhìn kĩ, mấy thứ này rõ ràng chính là những món đồ chúng tôi vừa lấy ra ban nãy.

Bàn Tử hoảng sợ nói: “Chuyện quái quỷ gì vậy? Đây là… có người bắt chước hành động của chúng ta…?”

Tôi nhíu mày, đứng lên, nhìn một vòng xung quanh, cảm giác quen thuộc ùn ùn kéo tới. Tôi cảm thấy tức cười: “Không phải đâu….. mà là chúng ta đã quay trở về chỗ cũ. Đây chính là nơi chúng ta vừa mới rời đi!”
 
Quyển 4 - Chương 41: Vòng tử vong lặp vô hạn


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Ai nấy đều tái xanh mặt mày, chúng tôi nhìn xung quanh, càng nhìn lại càng chắc chắn. Trên mặt đất chỗ nào cũng có dấu chân của chúng tôi, đây chính xác là gian mộ thất chúng tôi đã phát hiện ra thi thể cha Thuận Tử vừa rồi. Quái lại, sao chúng tôi lại quay về chỗ cũ cơ chứ?

Mộ đạo là một đường thẳng tắp, khi đi chúng tôi đi cũng không gặp ngã rẽ nào, có bốn người với một cái xác làm chứng. Theo lý mà nói, tuyệt đối không thể đi mất hai mươi phút lại quay về nơi xuất phát được. Chuyện này đúng là ngoài sức tưởng tượng, cứ như có quỷ dựng tường vậy.

Bàn Tử chột dạ ngó nghiêng cửa mộ đạo dẫn vào đây, nói: “Chẳng lẽ trong khi đi, chúng ta đã vô thức quay về đường cũ? Con mẹ nó, chỗ này rõ tà môn.”

Phan Tử nói: “Vớ vẩn. Nếu quay về đường cũ thì không thể không nhận ra, chúng ta có bốn người cơ mà. Tôi dám chắc chúng ta chỉ đi một đường thẳng tắp, mộ đạo này không dài cũng không có lối rẽ, chẳng lý gì lại nhầm.”

Bàn Tử tiếp: “Mẹ kiếp, vậy đúng là quỷ dựng tường rồi. Thuận Tử, có phải cha anh đang đùa giỡn chúng tôi không? Anh nên dạy bảo lại ổng, chúng ta đang làm ăn nghiêm túc, hổng đùa đâu.”

Thuận Tử giận giữ mắng lại: “Tôi cảnh cáo anh, đừng có nói bậy.”

Tôi can bọn họ, lúc này thật sự không hợp để gây gổ. Toàn thân tôi vã mồ hôi như tắm, bởi tôi cảm thấy chuyện không nên xảy ra nhất có thể đã xảy ra, nhưng lòng tôi vẫn không dám hoàn toàn khẳng định, bèn nói: “Các anh đừng ầm ĩ. Muốn xem có phải chúng ta quay về đường cũ hay không chỉ còn một cách, chúng ta đi lại một lần nữa xem sao.”

Mấy người bọn họ đưa mắt nhìn nhau, thấy nét mặt của tôi, bọn họ đại để cũng nhận ra có gì không ổn.

Lúc ấy tôi chợt nghĩ tới vẻ tuyệt vọng đến cùng cực của mấy cái thây khô kia, lẽ nào bọn họ cũng bị vây hãm ở trong này bằng cùng một kiểu mà chết? Đã không còn lương thực mà đi mãi đi mãi vẫn quay về chỗ cũ, chuyện này quả thực vượt quá sức tưởng tượng. Trực giác của tôi mách bảo rằng tôi đã đoán đúng, hơn nữa chuyện bọn họ bị vây hãm đến chết giờ lại xảy ra với chính chúng tôi.

Điều tôi nhất định phải làm lúc này là kiểm chứng dự cảm của mình, nói cho đúng là tôi muốn phủ định cái dự cảm khủng khiếp này, vậy nên tôi hấp tấp quay trở ra mộ đạo, những người khác phải vội vã đuổi theo cho kịp.

Vì đã đi qua một lần, biết chắc không có cơ quan bẫy rập gì cả nên lần này chúng tôi đi rất nhanh. Tôi bước như bay về phía trước, mắt săm soi thật kĩ hai bên mộ đạo. Cho đến khi chắc chắn không có lối rẽ nào, tôi mới bất giác quay đầu nhìn lại.

Lần này chỉ cần chưa đến mười phút, chúng tôi đã đi hết đoạn đường. Khi đi gần tới cuối mộ đạo, tôi đã không ngừng cầu nguyện, hi vọng dự cảm của mình đừng biến thành sự thực. Nhưng cuối cùng tôi vẫn cứ nhìn thấy cánh cửa ngọc thạch giống y xì lúc nãy, lòng chợt tê tái, mồ hôi cứ thế túa ra.

Đi qua cánh cửa, Bàn Tử xông ngay vào giữa đống châu báu, rồi quỳ xuống ôm mặt. Tôi lao vào xem xét cũng thấy sáu khối thi thể, những món đồ mình bày la liệt ra đất vẫn còn nguyên đó ……….. Chúng tôi đã quay về chỗ cũ.

Dự cảm của tôi đã ứng nghiệm. Tôi đã hết sức chú tâm để chắc chắn 100% rằng không có lối rẽ nào cả, chúng tôi chỉ đi trên một đường thẳng, nhưng vẫn trở về điểm xuất phát.

Bàn Tử chạy một lúc cũng mệt, thở phì phò nói: “Đây là quỷ dựng tường, chắc chắn là quỷ dựng tường rồi, chúng ta có đi thế nào vẫn kẹt trong một vòng luẩn quẩn. Hai đầu mộ đạo này đều là mộ thất, giờ chúng ta cũng sắp đi gặp ông già của Thuận Tử rồi. Thuận Tử, anh trò chuyện với ông già nhà anh chút đi, bảo ổng đừng đùa với chúng ta nữa, bằng không chúng ta quẳng ổng lại đây mà đi một mình.”

Thuận Tử đã quá mức kinh ngạc, không rảnh mà cãi nhau với hắn. Lòng tôi cũng đang hoảng loạn, không ngừng xoay người nhìn vách tường bốn xung quanh nhưng không biết mình đang nhìn cái gì nữa.

“Bình tĩnh! Bình tĩnh nào!” Phan Tử vừa hét lớn, vừa thở phì phò. “Tuyệt đối không được hoảng loạn, cậu Ba, chẳng phải cậu đã nói chiêu trò của Uông Tàng Hải cùng lắm chỉ gây ra áp lực tâm lí sao? Chúng ta không cần biết có bị trúng kế hay không, giờ nhất định phải bình tĩnh, chắc chắn có chỗ nào đó không ổn.”

Phan Tử vừa nói, tôi đột nhiên như được xối một ca nước lạnh vào cái đầu đang bốc lửa, người lập tức tỉnh táo. Cảm giác tuyệt vọng kia cũng nhạt dần, tôi vội gật lấy gật để: “Anh nói đúng, đây chắc chắn là cơ quan, hồi chúng tôi ở dưới hải mộ đã xác nhận không có chuyện quỷ dựng tường gì hết. Uông Tàng Hải là bậc thầy về chế tạo cơ quan xảo diệu, tạo ra không khí quỷ dị. Nếu không hiểu rõ, rất dễ bị hắn xỏ mũi dắt đi.” Nói rồi ra sức véo mặt mình để xua đi cái cảm giác nghẹt thở này.

Những lời này thực ra là tôi tự nói cho bản thân mình nghe, nói xong cũng chẳng còn nhớ mình đã nói gì.

Sau này nghĩ lại chuyện cũ, tôi có cảm giác lúc ấy mình đã thấm thía thế nào là mọi việc vượt quá tầm kiểm soát của mình, nên mới muốn dùng những lời này để ám thị mình không được bỏ cuộc.

Bởi vì lúc đi vào mộ đạo kia, cảm giác của tôi hết sức rõ ràng, căn bản không thể tưởng tượng nổi Uông Tàng Hải đã dùng cơ quan như thế nào để tạo nên hiện tượng này. Đầu tiên tôi đã nghĩ ngay đến chuyện mộ thất hoặc mộ đạo đã dịch chuyển, nhưng điều đó là không thể, tôi lập tức phủ định. Chúng tôi đi đã nhanh, lắm rồi, nếu mộ thất có di động thì nó còn phải nhanh đến chừng nào? Mộ đạo lại càng không thể, chúng tôi đứng trong đó, chỉ cần nó hơi hơi chấn động là chúng tôi chắc chắn sẽ nhận ra. Nhưng nếu không phải mộ đạo hay mộ thất dịch chuyển thì chuyện này không sao giải thích cho nổi.

Tuy tôi không ngừng tự nhủ chắc chắn có cơ quan, nhưng thật ra trong lòng đã biết không phải như thế, nếu nó là cơ quan thì không thể giải thích nổi. Nhưng nói vậy vẫn có ích cho những người khác, ít ra cũng có thể đẩy lùi cơn hoang mang.

Nhưng tôi đã quá coi thường khả năng chấp nhận của đám Bàn Tử, Phan Tử xem ra còn trấn định hơn tôi nhiều. Anh lau mồ hôi, nhìn tôi hỏi: “Mặc kệ là quỷ dựng tường hay là cơ quan, đều phải giải quyết. Bây giờ phải làm gì? Có muốn đi thêm lần nữa không?”

Tôi cắn răng nói: “Đi! Con mẹ nó, lần này chúng ta đi chậm thôi, cảm nhận cho kĩ động tĩnh phía dưới chân hoặc bốn phía xung quanh, tôi không tin không có sơ hở.”

Vậy là chúng tôi lại đi vào mộ đạo, lần này đi bốn mươi phút. Còn chưa đến đích chúng tôi đã biết mình sẽ thất bại, bởi vì cửa mộ giống nhau như đúc, dọc đường đi chẳng cảm nhận được gì.

Sau đó chúng tôi không biết đã đi thêm bao nhiêu lần, kết quả đều thất bại. Tôi đã dần dần cảm nhận được nỗi tuyệt vọng của mấy thi thể này, sắc mặt ai nấy cũng ngày càng xấu.

Tôi cảm thấy tự giày vò bản thân thế này cũng không phải cách hay. Khi quay trở lại mộ thất, tôi bảo mọi người dừng lại. Đã thử đi biết bao nhiêu lần rồi, cơ bản chúng tôi đã loại trừ mọi khả năng. Cơ quan này chắc chắn đã dùng một phương pháp bố trí mà chúng tôi không tài nào tưởng tượng nổi.

Bàn Tử mệt đến độ muốn hạ đường huyết, nhưng vẫn kiên trì muốn đi tiếp. Hắn cứ nghĩ rồi sẽ có một khắc nào đó, cái mộ đạo ban đầu lại quay trở về, lúc đó chúng tôi có thể thoát ra.

Phan Tử nghe hắn nói vậy, chỉ nói một câu: “Anh đừng mơ hão nữa, cái mộ đạo kia tuyệt đối không thể quay về.” Nói rồi nhìn sang mấy cái thây khô bên cạnh, ý tứ hết sức rõ ràng. Số lần mấy cái thây khô kia đi vào mộ đạo chắc chắn nhiều hơn chúng tôi gấp mấy, nhưng bọn họ vẫn bị vây khốn ở đây đến chết, cho nên cứ đi đi lại lại trong mộ đạo cũng vô ích, có đi đến hàng vạn lần cũng như nhau cả, chúng ta không cần xét đến chuyện may mắn hi hữu như thế.

Bàn Tử liền phát tiết, ngồi xuống nói: “Nhà anh nói thế chẳng hóa chúng ta chết chắc rồi? Mấy người này chắc chắn đã thử hết cách, chúng ta làm lại một lần cũng vô ích thôi.”

Phan Tử nói: “Anh đừng có nghĩ quẩn, giờ cứ nghĩ vậy thì thà đập đầu vào tường mà chết cho khỏe. Đợi đến lúc chúng ta đã thử hết mọi cách rồi hẵng tuyệt vọng, bây giờ vẫn còn hơi sức thì ngồi nghĩ cách đi.”

Tôi nghĩ đến số lương thực của mấy thi thể, bèn hỏi: “Có nên định lượng khẩu phần ăn từ bây giờ không? Chúng ta phải chuẩn bị một cuộc trường kì tác chiến, cầm cự được càng lâu thì cơ hội thoát ra cũng lớn hơn.”

Phan Tử thở dài, lắc đầu nói: “Cậu Ba, tôi cũng không giấu cậu. Hoàn cảnh của chúng ta thực ra còn không bằng bọn họ, lương thực không có nhiều, tôi xem giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn hai bữa, đó là chưa kể còn không được no. Tôi thấy không cần chia khẩu phần làm gì, có thế nào thì ăn thế nấy, cố giữ tinh lực dồi dào, quá hai ngày mà còn không ra được thì sẽ dùng thuốc nổ. Nếu thuốc nổ cũng vô dụng thì đành chờ người ta đến nhặt xác thôi.”

Hai ngày. Lòng tôi run rẩy, mấy cái thây khô đã ở đây được bao lâu rồi, liệu chúng tôi có thể thoát ra trong vòng hai ngày không? Thật không dám chắc chút nào.

Bàn Tử đã sôi bụng, liền hỏi Phan Tử: “Đồng chí anh nuôi, chúng ta có thể ăn cơm trước kẻng không? Tôi trước hết phải phân tán sự chú ý sang chuyện khác rồi mới có sức mà nghĩ tiếp được.” *à vâng mình cố ý đó =))*

Nghi Bàn Tử nói vậy, chúng tôi cũng bắt đầu cảm thấy đói bụng. Phan Tử không còn cách nào đành phải châm lò nấu cơm. Lương thực của chúng tôi thực ra chỉ còn mì sợi, mới ăn xong còn tạm no nhưng không kéo dài được bao lâu. Bàn Tử cứ hậm hực vì cơm không có thịt, tôi nói có món hài cốt đông lạnh kia, anh cứ dùng tự nhiên. Thuận Tử không ngại đâu, chúng tôi cũng không thèm để ý.

Ăn xong rồi người ấm hẳn ra, tinh thần cũng trở nên tỉnh táo, mọi người lại bắt đầu cân nhắc. Tôi nhớ lại cả quá trình xuống địa cung, mạo hiểm vạn phần, có ai mà ngờ vào được địa cung rồi vẫn không được yên thân. Cái địa cung này chắc chắn Uông Tàng Hải phải thiết kế với dụng ý nào đấy, nhưng rốt cuộc nó là cái con khỉ gì mới được chớ?

Địa cung xưa nay đều có hình chữ ‘hồi’ (回). Linh điện ở chính giữa, là nơi phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt nhất, Uông Tàng Hải tất nhiên không dám động chân động tay vào. Còn đâu thì bốn bề địa cung hình chữ ‘hồi’ vây quanh bởi hố tuẫn táng, hệ thống thoát nước cộng thêm những hành lang, mộ đạo rắc rối phức tạp. Vậy hẳn là giờ này chúng tôi vẫn còn ở ngoài rìa trung tâm của địa cung

Tôi thử phán đoán vị trí của mình theo chiều thẳng đứng lẫn chiều ngang, dựa vào suy đoán của tôi về kích thước địa cung mà tính xem mình đang ở đâu. Nhưng chuyện này hết sức khó khăn, khi chui vào bài đạo chúng tôi đã loạn đầu, giờ thì chịu chết không xác định nổi phương hướng, có quỷ mới biết cái cửa hang cuối cùng chúng tôi đi ra nó ở hướng nào.

Đúng lúc đầu óc đang xoay mòng mòng, Bàn Tử đang làm bộ suy nghĩ đột nhiên tỏ ra bừng tỉnh, nói với chúng tôi: “Tôi nghĩ ra rồi!”
 
Quyển 4 - Chương 42: Càng thêm khốn cùng


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bàn Tử đột ngột kêu đã nghĩ ra làm chúng tôi sợ hết cả hồn, nhưng rồi cũng nhanh chóng chuẩn bị tinh thần để nghe Bàn Tử lảm nhảm. Chúng tôi đã quen thói ba hoa khoác lác của gã Bàn Tử này rồi, thay vì mỗi lần đều gạt đi, chi bằng cứ mặc kệ hắn lảm nhảm cho rồi! Hơn nữa nhiều khi cách nghĩ của hắn không giống với chúng tôi, nghe mấy câu cũng không hại gì.

Thật ra lúc ấy tôi cũng chẳng sợ lắm, vì còn chưa đến lúc hết đạn cạn lương, mỗi tội nhìn mấy khối thi thể ở đây, trong lòng khó tránh khỏi nghĩ đến những chuyện chẳng hay ho gì. Kể ra hạng người như tôi gặp hình thức khiêu chiến trí tuệ thế này còn mừng thầm trong bụng ấy chứ, so với gặp phải một đống bánh tông thì chuyện này còn thoải mái hơn nhiều.

Phan Tử cũng nghĩ như tôi, không coi đây là chuyện lớn, thuận miệng hỏi Bàn Tử: “Cái gì thế? Anh đừng có lảm nhảm nữa, giờ tụi này không còn hơi sức mà nghe đâu.”

Bàn Tử lại gần chúng tôi, nói với Phan Tử: “Mẹ kiếp, anh kỳ thị tôi quá đấy! Ông chỉ trót nói bậy một lần thôi, lần này chuyện tôi nghĩ ra nhất định là mấu chốt!”

Phan Tử bật cười ha hả, nói: “Bộ óc quả nho của anh thì nghĩ ra cái khỉ gì chứ.”

Bàn Tử lần này lại cực kỳ chăm chú, nghiêm mặt nói: “Thực ra cũng không phải mấu chốt gì, vừa rồi tôi thông minh đột xuất, chợt nhớ đến cơ quan trong ngôi mộ dưới đáy biển. Nghĩ mà xem, lúc ấy chúng ta cũng phức tạp hóa vấn đề, nhưng thực chất sự tình đơn giản biết bao nhiêu? Tôi nghĩ lúc này đây có phải chúng ta đã suy nghĩ quá nhiều, hơn nữa lại thêm ấn tượng sâu sắc với cơ quan trong huyệt mộ dưới đáy biển, vừa gặp những chuyện kiểu này đã nghĩ ngay theo hướng gian phòng dịch chuyển. Có lẽ vấn đề ở đây căn bản không liên quan tới mộ thất, chỗ này chỉ là một mộ thất bình thường thôi.”

Phan Tử cười khẩy: “Nhảm nhí. Nếu là mộ thất bình thường, sao bố lại éo thoát ra được …”

Tôi thấy Bàn Tử chưa nói hết, biết còn vế sau, liền khoát tay ngăn Phan Tử lại, ra hiệu hãy để Bàn Tử nói tiếp.

Bàn Tử trình bày: “Thật ra chuyện hết sức đơn giản, thử nghĩ mà xem, nếu hành lang và mộ thất đều không có vấn đề mà chúng ta đi hoài vẫn không ra được, vậy vấn đề ở đâu? Nhất định là nằm ở chính chúng ta rồi.”

Lần này tôi và Phan Tử đều sửng sốt. Tôi bảo: “Anh nói cái vòng tử vong này xuất hiện là do chính chúng ta?”

Bàn Tử gật đầu: “Tuy còn chưa rõ vấn đề cụ thể nằm ở đâu, nhưng cũng không sai lệch lắm. Tôi nghĩ liệu có phải chúng ta đã bị những tấm bích họa kia thôi miên ám thị rồi không? Hay đơn giản là chỗ này có cái gì sinh ra khí gây ảo giác, chúng ta đã trúng độc cả rồi. Tôi biết có một loài nấm lỡ ăn phải sẽ bị rối loạn khả năng định vị, cứ tự quay vòng một chỗ mà không biết.”

Trước kia Bàn Tử đã kể với tôi, hồi nhỏ hắn từng gặp thứ bẫy bắt gấu dùng loại nấm độc này trong rừng, trúng độc rồi con gấu cứ xoay vòng vòng tại chỗ cho đến chết.

Tôi thoáng trầm tư, Phan Tử cũng không nói năng gì, nhíu mày bắt đầu cân nhắc lời của Bàn Tử.

Vấn đề nằm ở bản thân chúng tôi sao? Nếu là vậy thì chuyện này càng khó giải quyết hơn. Có điều tôi cân nhắc một lúc thì có cảm giác không đúng lắm.

Thực ra cách giải thích của Bàn Tử rất gợi mở, có lẽ sự thật rất gần với những gì hắn nói, nhưng lại có một điểm mâu thuẫn trí mạng, chính là cảm giác của chúng tôi. Chúng tôi trông đâu có giống người trúng độc? Tôi nào phải chưa từng trúng độc, người trúng độc nhất định phải có phản ứng khó chịu mãnh liệt cơ.

Mà thôi miên thì tôi vẫn không tin tưởng cho lắm. Vì tính định hướng đối tượng của nó quá mạnh, nếu nói Bàn Tử dễ bị thôi miên thì có khi tôi còn tin đấy, nhưng tôi với Phan Tử thì không bao giờ.

Nhưng nếu quay về với phạm trù cơ quan xảo thuật thì thực khó mà nghĩ ra cái gì. Thật ra vừa nãy tôi đã nghĩ ra khoảng mười phương pháp, trong đó có hai ba loại kết cấu kiến trúc hoàn toàn có thể tạo ra bố cục như vậy, song mấy phương pháp này yêu cầu quá cao, nói cách khác là nhất định phải có tiền đề tuyệt đối, ví dụ như ba người phải tụm lại một chỗ, tốc độ phải cố định, vân vân… Uông Tàng Hải tuyệt đối sẽ không sắp xếp những cái bẫy mang tính ăn may như thế.

Tôi bỗng dưng chột dạ, phải chăng mình đã bị át vía quá mức rồi? Cứ nghĩ Uông Tàng Hải đã là người từ thời nảo thời nao rồi, thế quái nào mà đến tận bây giờ chúng tôi vẫn không chiếm nổi một chút lợi thế cơ chứ?

Chúng tôi nhanh chóng bắt đầu suy xét vấn đề, ai nấy đều yên lặng tập trung. Bàn Tử thấy chúng tôi nghe mình trình bày xong xuôi vẫn chẳng ừ hữ gì, nhất thời không biết phải làm sao, đành tiếp tục ra vẻ trầm tư suy nghĩ như mọi người. Tính nát óc mà không ra, tôi càng nghĩ càng quẫn, càng ngày càng mệt mỏi, sau đó không hiểu sao lại ngủ mất tiêu.

Có điều đại khái cũng chỉ chợp mắt ba bốn phát gì đấy, đầu óc mơ mơ màng màng thôi chứ không thiếp hẳn đi. Chợt nghe tiếng Phan Tử và Bàn Tử nói chuyện, vừa tỉnh giấc tôi liền phát hiện bọn họ lại đang đi vào mộ đạo kia. Thuận Tử rõ ràng là vừa chạy về đến nơi, phì phò thở dốc, mà nhìn sắc mặt Bàn Tử thì rõ ràng kết quả vẫn vậy, chẳng có tiến triển gì.

Tôi dụi dụi mắt, hỏi bọn họ đang làm gì vậy, Bàn Tử nói có nghĩ cả buổi cũng chẳng ra manh mối, chi bằng cứ thử nghiệm còn hơn. Vừa rồi bọn họ cho một người nhắm mắt lại đi đằng trước, một người khác theo dõi từ phía sau, hai người buộc lại với nhau bằng dây thừng, để xem có chuyện đi được nửa đường thì người mở mắt bỗng dưng ngoặt lại không.

Tôi nghe xong cũng phải run rẩy, đây đúng là phương pháp thí nghiệm khiến người ta suy sụp. Cũng may mà mấy người này thần kinh tưng tửng, chứ nếu là tôi thì có quỷ mới biết đi được nửa đường rồi cái kẻ buộc vào đầu dây bên kia có còn là người ban đầu hay không.

Nhưng rốt cuộc kết quả vẫn vậy, dù là che mắt hay nhắm tịt mắt đều có cảm giác mình vẫn đi thẳng một đường, nhưng cả hai rốt cuộc vẫn quay trở lại mộ thất này. Vì người phải nhắm mắt là Thuận Tử nên hắn ta đi lại đặc biệt vất vả, sắc mặt trắng bệch ra.

Mấy người lại ngồi vào chỗ cũ, cùng thở ngắn than dài. Tôi khuyên họ nên tiết kiệm sức lực, thực ra kiểu thử nghiệm mù quáng như vậy chỉ tổ khiến cho tư duy đứt quãng mà thôi. Chuyện kế tiếp lại giồng như trước khi tôi ngủ, chúng tôi bắt đầu bàn luận mấy vấn đề không đâu vào đâu.

Trong lúc bàn bạc luôn có người ngủ gật, nhưng cũng may là một người ngủ thì vài người khác vẫn có thể nghĩ tiếp. Cứ thế, chúng tôi mỗi người góp một ý, lần lượt nói ra rồi lại bác bỏ. Lúc đầu lý luận còn nhiều, về sau những người lên tiếng càng ngày càng ít. Thời gian đã trôi qua sáu bảy tiếng đồng hồ từ lúc nào chẳng hay, dạ dày chúng tôi lại bắt đầu kêu réo.

Sau cùng Bàn Tử đốt một điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói với chúng tôi: “Không được, bọn mình mạnh ai nấy nghĩ thế này thật lãng phí thời gian. Chi bằng chúng ta viết hết mọi khả năng có thể ra, sau đó tổng hợp thành vài giả thiết rồi trực tiếp kiểm chứng, được không?”

Tôi bèn gật gù. Nói cho cùng thì rất nhiều vấn đề chúng tôi bàn bạc là trùng lặp, mọi người đều rơi vào trạng thái hỗn loạn rồi.

Bàn Tử dọn dẹp bề mặt một tảng đá trên mặt đất phủ kín kim khí, rồi viết xuống một dãy số: 1-2-3-4, nói: “Hãy thử nhớ lại xem chúng ta đã có mấy giả thiết rồi? Mọi người đều nghĩ, không cần phải cụ thể, chỉ cần khái quát là được rồi.”

Phan Tử nói trước: “Khả năng cao nhất là có cơ quan.”

Bàn Tử viết vào chỗ số 1 chữ “cơ quan”. Sau đó Thuận Tử lại lên tiếng: “Theo tôi thì có thứ gì đó ảnh hưởng đến cảm giác của chúng ta, ví dụ như ám thị tâm lý hoặc thôi miên, khiến chúng ta tự quay về chỗ cũ mà không biết.”

Bàn Tử bảo hắn ta: “Không cần phải nói chi tiết như thế.” rồi viết chữ “ảo giác” đằng sau số 2, sau đó nhìn về phía tôi.

Tôi góp ý: “Trên lý thuyết thì cũng có thể là nếp gấp không gian.” (*)

(*) Nguyên văn: 空间折叠. Là một lý thuyết trong thiên văn học dựa trên thuyết tương đối rộng của Einstein, nói đơn giản là lực hút quá mạnh sẽ làm không gian trở nên méo mó, hai điểm vốn cách xa nhau được kéo lại trùng khít lên nhau. Lý thuyết này cho rằng những lỗ đen rải rác trong vũ trụ, nơi lực hút lớn đến nỗi ánh sáng cũng không thể thoát ra được chính là những cánh cửa không gian như thế.

“Không có chuyện đó đâu, giả thiết này quá siêu thực rồi.” Phan Tử kêu lên.

Bàn Tử lại nói: “Kệ đi, xác suất có là một phần vạn thì chúng ta cũng thừa nhận. Giờ ta mới chỉ liệt kê ra thôi mà.” Nói đoạn cũng viết lên đằng sau số 3 chữ “nếp gấp không gian”. Sau đó hắn tiếp: “Còn một khả năng nữa là có quỷ.” rồi viết ra khả năng thứ tư: có quỷ.

“Anh viết ra như thế để làm gì cơ chứ?” Phan Tử mù mờ hỏi.

Bàn Tử đáp: “Các anh học nhiều, không hiểu được đâu. Bố đây ít học, mẹ kiếp mọi thứ cứ phải giấy trắng mực đen viết ra mới được. Nhưng làm thế cũng có cái tốt, ví như có những chuyện có thể làm cùng một lúc, nếu anh biết trước thì có thể tiết kiệm được ối thời gian rồi, chẳng phải chúng ta chỉ còn hai ngày thôi sao? Tốt nhất vẫn nên giản lược đi. Phải rồi, còn giả thiết thứ năm nữa không? Ai có giả thiết thứ năm?”

Tôi nhìn bốn luận điểm kia, trong đó quả thật đã bao quát từ cơ học lượng tử đến lý thuyết siêu hình, từ tâm lý học đến kiến trúc học, bốn ngành học lớn đều góp mặt hết, luận điểm thứ năm thực sự không thể nghĩ ra trong một chốc một lát được. Cuộc thảo luận ban nãy của chúng tôi thực chất cũng chỉ quanh đi quẩn lại điểm một và hai, chứ còn điểm ba và bốn coi như không thể xảy ra.

Bàn Tử thấy chúng tôi đều không có phản ứng gì, bèn nói: “Được, giờ chúng ta kiểm chứng điểm một và điểm hai trước. Hai điểm này vừa hay có thể giải quyết cùng một lúc.”

“Anh định kiểm chứng bằng cách nào?” Tôi vẫn còn nghi hoặc.

Trên thực tế thí nghiệm gì có thể tiến hành chúng tôi đều đã thử cả rồi, nhưng vì mộ đạo quá dài, rất nhiều thí nghiệm thật ra đều vô dụng.

Bàn Tử bất chợt cười cười: “Thật ra ban nãy tôi đã nghĩ được một cách hay, muốn chứng minh rốt cuộc chúng ta bị ảnh hưởng bởi điểm 1 hay điểm 2 có lẽ là không thể, nhưng muốn chứng minh bằng phản biện thì hoàn toàn khả thi, cậu xem có được không này.”

Tôi nhìn Bàn Tử dương dương đắc ý cứ như mọi chuyện đã nằm trong lòng bàn tay, lập tức cảm thấy không ổn, hay là cha nội này đã có tính toán gì rồi? Chỉ thấy hắn nhặt khẩu súng trường trên mặt đất lên rồi bảo chúng tôi: “Cái mộ đạo này dài khoảng 1000m đến 2000m, tầm sát thương của khẩu K56 này là 400m nhưng viên đạn có thể bay hơn 3000m lận. Tôi sẽ đứng đây bắn một phát, để xem kết quả thế nào.”

Tôi nghe xong như mặt trời chân lý chói qua tim, thâm tâm kêu trời một tiếng: Đúng là thiên tài!

Nếu cảm giác của chúng tôi có vấn đề, thì viên đạn kia là thứ vô tri vô giác. Mộ đạo có thể gây ảnh hưởng lên chúng tôi, nhưng không thể ảnh hưởng đến một viên đạn được. Nếu như tình hình ở đây còn có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích thì viên đạn kia chắc chắn sẽ biến mất nơi cuối mộ đạo, không thể quay về.

Chỗ hoàn hảo của thí nghiệm này nằm ở tốc độ của viên đạn: Với mộ đạo dài chừng này, viên đạn chỉ mất 2 đến 3 giây là có thể hoàn toàn đi hết, bất kì cơ quan cạm bẫy nào cũng không thể phát huy tác dụng trong thời gian ngắn ngủi này được.

Nhưng nếu tình hình ở đây thật sự vượt ra ngoài phạm vi giải thích của lý lẽ thông thường, tiến vào phạm vi siêu hình, thì viên đạn sẽ giống hệt chúng tôi, chuyển hướng 180 độ ngay trong không gian siêu việt của mộ đạo thẳng tắp.

Đơn giản mà hoàn mỹ, cực kỳ phù hợp với tinh thần khoa học, tôi thật sự hổ thẹn vì mình là sinh viên mà không nghĩ ra nổi biện pháp nào như vậy.

Có điều nghĩ kĩ thì một chiêu thế này cũng chỉ có người như hắn là nghĩ ra nổi, đây là tư duy logic đơn giản nhất.

Muốn phán đoán xem có bị ảnh hưởng của ảo giác hay không, thì phải tìm một vật không bị ảo giác ảnh hưởng, muốn tìm vật như thế phải nhìn đến những thứ ngay bên cạnh mình, theo phương pháp bắc cầu sẽ nghĩ ra cách này ngay, không hề phức tạp. Tôi đột nhiên cảm thấy Uông Tàng Hải đã gặp phải đối thủ rồi. Loại người tính toán kĩ lưỡng như ông ta có lẽ chỉ sợ gặp phải lối tư duy đơn giản như của Bàn Tử, cho dù là quỷ kế gì cũng bị đưa về mức đơn giản nhất.

Bàn Tử nói làm liền làm ngay, chúng tôi chỉ còn biết theo sau. Hắn bước vào mộ đạo, kéo chốt an toàn, muốn nổ súng bắn vào mộ đạo.

Tôi vội vàng kêu to: “Đợi đã!”

“Sao vậy?” Hắn hỏi.

“Đừng làm thế.” Tôi kêu lên, “Nếu mà, tôi nói nếu thôi nhé, chỗ này thật sự tà đạo đến mức đó, thì sau khi nổ súng có thể chính bản thân anh sẽ trúng đạn trong tích tắc.”

Bàn Tử biến sắc, hiển nhiên vừa rồi hắn vẫn đinh ninh điểm thứ nhất và thứ hai mới có khả năng lớn, căn bản không hề cân nhắc xem điểm thứ ba thứ tư có thể xảy ra không. Có điều nghe tôi nói xong hắn cũng gật đầu, dịch súng sang bên cạnh một chút. Đạn luôn bay theo đường parabol, nếu viên đạn bị bắn ngược trở về thì có lẽ sẽ găm vào vị trí hơi chênh chếch phía dưới họng súng.

Cả đám chúng tôi đều nấp ở lối vào, còn chưa kịp chuẩn bị tâm lý kỹ càng thì Bàn Tử đã đột ngột nổ súng. Một tiếng nổ ‘đoàng’ dữ dội vang lên trong mộ đạo, tiếp đó tiếng vọng liên tiếp dội lại, nhưng gần như cùng lúc, chúng tôi thấy cửa mộ chấn động mạnh, tro bụi bay mù mịt.

Đầu tôi nổ đánh đùng một cái, thầm nhủ không xong rồi. Vội vàng thò đầu ra ngó, tôi thấy Bàn Tử đứng im như tượng, vẫn giữ tư thế nổ súng, nhưng trên cánh cửa, cách khoảng 5, 6cm về phía dưới họng súng của hắn xuất hiện một vết đạn, vệt khói khi đạn găm vào còn chưa tan hết.
 
Quyển 4 - Chương 43: Đổ đấu và vật lý lượng tử


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Một lần nữa chúng tôi lại trở về mộ thất chứa báu vật, không khí đã khác hẳn so với hồi nãy. Mọi người đều không nói năng gì, sắc mặt cũng không rõ là tái trắng hay tái xanh nữa. Chiếc lò không khói chiếu lên đống kim khí, ánh sáng vàng rực rỡ hắt ra giờ đây lại khiến người ta cảm thấy cực kỳ đáng ghét.

Không ai đưa ra ý kiến nữa. Mọi người đều tỏ vẻ trầm tư, nhưng tôi biết bọn họ cũng giống tôi thôi, đầu óc chỉ còn một khoảng trống rỗng.

Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng tôi, thậm chí tôi còn cho rằng giả thuyết có cơ quan hiện giờ cũng chẳng đứng vững nổi. Chúng tôi đã rơi vào một trạng thái không thể diễn tả bằng lời, bất kì lý lẽ khoa học nào trải qua thực nghiệm đơn giản này đều đổ vỡ hoàn toàn.

Bởi vì không một ai đủ sức khiến cho một viên đạn, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, ngoặt được một vòng lớn khủng khiếp như thế.

Muốn dùng khoa học để giải thích hiện tượng này, e rằng có vét cả lý thuyết vật lý lượng tử ra cũng chưa chắc đã cắt nghĩa nổi.

“Đây đúng là quỷ dựng tường thật rồi!” Sắc mặt Thuận Tử khó coi hết biết. Hắn nhìn sang dòng chữ người cha để lại phía bên kia, lộ ra vẻ mặt bi thương đan xen với sợ hãi.

Tôi biết giờ này hắn đang nghĩ tới điều gì. Hắn đã hiểu vì sao đám thây khô nằm giữa đống châu báu kia lại mang vẻ mặt tuyệt vọng đến thế. Lâm vào hoàn cảnh này, đã thử đi thử lại vô số lần nhưng cuối cùng vẫn quay về khởi điểm cho đến khi hết đạn cạn lương, hỏi sao không tuyệt vọng cho được. E rằng đến tận lúc chết, tâm tư đã hóa tro tàn, bọn họ vẫn chẳng tìm ra lấy một manh mối.

Mà chúng tôi rất có thể sẽ trở thành lớp tiếp theo. Chẳng bao lâu nữa nơi đây sẽ mọc thêm ra bốn cái thây khô quắt, gương mặt cũng khắc sâu nỗi tuyệt vọng tột cùng, để những kẻ hi sinh đến sau tha hồ suy đoán tâm tư trước khi chết của chúng tôi.

Sở dĩ trước đây tôi không tuyệt vọng, cũng chẳng thể ngờ mình sẽ đi đến bước đường này, là vì tôi cứ đinh ninh chỉ cần gặp phải mấy thứ xoắn não như cơ quan cạm bẫy, thì bằng vào trí tuệ của tôi, nhất định sẽ không thể bị vây khốn. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Rõ ràng tình huống chúng tôi gặp phải quỷ dị hơn nhiều lắm.

“Có muốn tiếp tục không?” Yên tĩnh được khoảng 10 phút thì Phan Tử hỏi bằng giọng khô khốc.

Không ai đáp lại, nhưng ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía Bàn Tử.

Trên mặt đất phía trước Bàn Tử còn sót lại hai giả thiết. Giả thiết thứ ba là ý kiến do tôi thuận miệng bịa ra: nếp gấp không gian.

Sở dĩ vừa rồi tôi đột ngột đưa ra luận điểm này là vì bỗng dưng nhớ lại lúc bò trong khe núi lửa kia, Muộn Du Bình đã biến mất ngay trước mắt tôi trong vòng vài giây đồng hồ. Lúc ấy tôi nghĩ nát óc không ra, giờ ngẫm lại thì hẳn phải liên quan đến nếp gấp không gian thật. Do cái thí nghiệm ban nãy quá mức đáng sợ, quả thực là một thí nghiệm phản khoa học, bỗng dưng giả thiết nếp gấp không gian huyền diệu của tôi lại trở thành cách giải thích hợp lý nhất.

Nếu không nhờ Bàn Tử liệt kê ra những giả thiết đó, thì chỉ e sau khi chứng kiến cái thực nghiệm kia, tôi nhất định sẽ khiếp hãi đến quên sạch mọi thứ.

Im lặng hồi lâu, Bàn Tử mới nói: “Được rồi, ai cũng đã được thấy tận mắt, đừng nhiều lời thêm nữa. Chúng ta phải làm gì để chứng minh điểm thứ ba đây.”

“Không! Không cần chứng minh đâu.” Phan Tử ở đằng kia đột nhiên lên tiếng.

Phan Tử thường nhìn nhận vấn đề cực kỳ thấu đáo, luôn luôn xoáy thẳng vào bản chất sự việc, ví dụ như vừa rồi khi Bàn Tử vẫn còn vọng tưởng mộ đạo sẽ xuất hiện thì Phan Tử đã lập tức phủ nhận hoàn toàn. Điều này liên quan tới việc Phan Tử là người trở về từ chiến trường, khi cân nhắc một vấn đề anh sẽ không mang chút tâm lý trông chờ vận may nào hết. Vậy nên khi nghe anh nói tôi cũng hết sức sợ hãi, chỉ e nhiều sự thật anh nói ra lại không nên được nhắc đến vào lúc này.

Nhưng anh lại bảo: “Ở đây có sáu khối thi thể. Chúng ta đặt giả thiết có cả thảy tám người đi vào, vậy hai người còn lại đương nhiên đã thoát ra. Tuy vẫn chưa biết họ ra bằng cách nào, nhưng nếu giả thiết thứ ba của cậu Ba là đúng thì không ai có thể thoát ra nổi, cho nên chúng ta không cần cân nhắc làm gì nữa. Cân nhắc giả thiết thứ ba có khác nào thừa nhận mình đã chết chắc rồi.”

Lời vừa nói ra, ai nấy đều lạnh toát cả người. Bàn Tử lên tiếng phản đối: “Sao anh dám chắc có tám người đi vào? Mẹ kiếp, nói không chừng lúc vào cũng chỉ có sáu người thôi.”

Phan Tử thở dài một hơi: “Bàn Tử chết toi, anh còn chưa hiểu à? Thật ra họ vào mấy người không quan trọng.”

Chuyện này không cách nào chứng minh được, làm ầm lên cũng vô ích, tôi thầm nhủ: “Bọn họ rốt cuộc đi vào mấy người cũng chẳng ảnh hưởng gì tới tình cảnh của chúng tôi, nhưng đối với ý chí chiến đấu của mọi người lại đặc biệt quan trọng. Nếu đã có hai người đào thoát thành công thì tinh thần của chúng tôi sẽ hoàn toàn đổi khác. Chúng tôi còn có thể nghĩ xem họ đã thoát thân thế nào, ít ra vẫn còn một tia hy vọng.”

Nghĩ đoạn, tôi chẳng thèm quan tâm bọn họ làm cái trò khỉ biển gì nữa, chạy đến bên mấy thi thể lục sổ sách của bọn họ xem có manh mối gì không, may ra thì có người viết nhật ký. Nếu có người ghi lại những ý kiến của họ vào lúc ấy, hoặc viết về chuyện có người thoát ra thì chí ít chúng tôi vẫn còn một tia hy vọng.

Có điều ban nãy xem bút ký tôi chỉ lật qua loa chứ không đọc hết những đoạn văn dài, còn mấy đoạn ngăn ngắn lại chỉ ghi số liệu hoặc những mẩu thông tin vụn vặt chứ không có nội dung gì cả.

Tôi nghĩ vào thời điểm cận kề cái chết, có lẽ những người này cũng chẳng ghi chép gì đâu. Khi đứng trước ngưỡng cửa tử vong, chỉ e đến cả đèn chiếu sáng họ cũng chẳng còn nữa. Pin thì đã cạn từ lâu, cũng không có gì để sưởi ấm, cho nên họ mới phải cuộn chặt lấy nhau, rúc vào một xó trong bóng tối mịt mùng. Vậy nếu có tám người tiến vào thì hai người kia rốt cuộc đã thoát ra lúc nào? Chắc chắn không phải khi bọn họ còn tỉnh táo, vì nếu thế những người khác cũng phải thoát được rồi mới đúng. Vậy không lẽ là lúc bọn họ đã đói đến hoa mắt, lại không có đèn, bốn bề chìm vào tối tăm? Cho nên những người khác mới không biết đã có hai người rời đi sao?

Vậy điểm mấu chốt để chạy thoát, lẽ nào lại là mò mẫm trong bóng tối không một ánh đèn?

Vừa nghĩ đến đây tôi đã ớn lạnh sống lưng. Nơi đây dầu sao cũng là cổ mộ, nếu phải lần mò trong bóng đêm giữa mộ đạo dài hun hút này thì đúng là muốn lấy mạng người ta rồi còn gì.

Những người khác thấy tôi lục lọi tài liệu thì cùng quây lại giúp tôi tìm kiếm. Cứ đứng chôn chân ở đó mà nghĩ vớ nghĩ vẩn cũng chẳng giải quyết được gì, có đôi khi phải xem cái này cái kia để lấy lại tinh thần một chút.

Nghĩ đến chuyện cuối cùng ánh sáng sẽ lụi tàn, tôi bèn bảo bọn họ đừng lãng phí điện nữa. Đèn pin đều phải tắt, chỉ mở lò sưởi thôi cũng đủ sáng rồi. Chúng tôi quây lại trước bếp lò, ba quyển bút ký và một cuốn tiểu thuyết phân cho bốn người giở ra xem, cố lần tìm manh mối trong từng câu từng chữ.

Tôi lật một cuốn bút ký với những hàng chữ thanh thoát, người viết hẳn phải là phụ nữ. Giở thử vài trang thì thấy ghi toàn tên người và số điện thoại, phía sau còn có danh sách khách mời ăn cơm, có số điện thoại của khách sạn ở núi Trường Bạch, đôi chỗ vẽ mấy cái bản đồ đơn giản kèm thêm vài địa chỉ và ghi chú nữa. Tôi đọc thấy hồi năm 1994 hình như người phụ nữ này còn bị bệnh phải nằm viện, trong này có ghi là cần tái khám. (có phải sổ của dì Hoắc Linh không á >A

Giở thêm vài tờ thì chỉ thấy giấy trắng, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn lật từng trang, hi vọng cô ấy có thể viết lại thêm chút gì, đang lật thì Bàn Tử mở miệng: “Có manh mối chỗ này này.” Nói rồi hắn đọc lầm rầm: “Hôm nay bán món đồ cuối cùng mang từ biển về, được 3000 đồng, 1500 trả lão Lý, dứt hết nợ nần, đi với cha này có ngày bể mánh.”

Tôi lắc đầu cười khổ, lại nhìn sang Phan Tử ngồi bên kia. Quyển bút ký của anh mỏng nhất, gần như chẳng có gì nên đã kiểm tra xong rồi. Nhìn đến Thuận Tử thì thấy hắn đang say sưa đọc tiểu thuyết, rõ ràng là đã nhảy cóc đến đoạn tình cảm mùi mẫn nhất của vai chính trước lúc đi xa.

Bàn Tử nhìn chướng mắt, bèn giật phắt lấy quyển sách, lên giọng chửi bới: “Bảo cậu tìm manh mối cậu lại đi xem văn hóa phẩm đổi trụy, lương tâm của cậu mục ruỗng quá rồi! Tịch thu!”

Vừa giật một cái, quyển truyện đã rã rời ra từng mành, giấy bay lả tả trên mặt đất.

Tôi rủa một tiếng, vừa sạc cho Bàn Tử một trận vừa bật đèn pin đi nhặt. Bất thình lình Phan Tử kêu lên: “A, có tấm ảnh kìa.” Nói đoạn anh bới từ mớ giấy lộn ra một bức ảnh đen trắng đã ố vàng.

Tôi cầm lấy ngắm nghía, đột nhiên cảm thấy nó trông rất quen, nhìn kĩ hơn một chút, đầu óc liền kêu lên ong óc, suýt chút nữa phát sặc — Thì ra nó chẳng xa lạ gì, mà chính là tấm ảnh nhóm chú Ba đã chụp chung ở bến tàu trước chuyến đi Tây Sa.
 
Quyển 4 - Chương 44: Những người đến từ đáy biển


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trên người tôi vẫn còn nội thương, nhìn thấy tấm ảnh xém chút nữa đã hộc máu, làm mấy người khác sợ hãi la hét ầm ĩ. Đám Phan Tử chưa từng thấy tấm ảnh này, tuy có nghe tôi kể lại nhưng nhìn lướt vẫn không nhận ra, nên đều cảm thấy khó hiểu. Bàn Tử vội vàng giúp tôi thuận huyết, hỏi tôi có sao không.

Tôi run lẩy bẩy cầm lấy tấm ảnh, chỉ hình Muộn Du Bình và chú Ba trên ảnh cho bọn họ xem. Xem xong nét mặt mấy người kia lập tức biến đổi, trông còn khó coi hơn cả tôi, chẳng ai thốt nên lời.

Tôi không thể nào tin đó là sự thật, ngoảnh đầu lại nhìn mấy cái thây khô phía bên kia mà lòng dạ rối như tơ vò.

Tấm ảnh này không thể nằm trên người kẻ vô can, lẽ nào nhóm người thần bí mười năm trước leo lên Trường Bạch Sơn rồi bị vây khốn đến chến ở trong này lại chính là đám người dưới đáy biển kia? Mấy cái thây khô này, không lẽ lại là đám người Văn Cẩm, Lý Tứ?

Tôi run rẩy lật tấm ảnh lại, thấy mặt sau còn có một dòng chữ nhạt nhòa: Đội khảo cổ Tây Sa, kỷ niệm của Lý Tứ. (đuýt tờ ôm mặt khóc rưng rức (/□\*)・゜ )

Xem ra đúng là vậy rồi, nếu nói tấm ảnh này do những người khác mang vào đây thì quả thực hết sức vô lý. Mang theo ảnh lưu niệm tùy thân, chắc chắn phải là người trong cuộc… Hèn chi chú Ba làm đủ mọi cách vẫn không tìm nổi bọn họ, hóa ra đã chết rũ ở đây từ lâu rồi.

Nhìn trang phục thì thấy hoàn toàn trùng khớp, lại thêm tấm ảnh này… Nhưng vì sao những người này lại muốn đến đây cơ chứ? Lẽ nào trong huyệt mộ dưới đáy biển họ đã phát hiện ra thứ gì đó nên mới tìm đến núi Trường Bạch?

Đợi đã, không phải chứ. Tôi đột nhiên nghĩ đến chú Ba, nghĩ đến Muộn Du Bình. Trời ạ, gần như tất cả những người từng vào ngôi mộ dưới đáy biển giờ đều có mặt tại Vân Đỉnh thiên cung. Đám người này đã tới từ mười năm trước, gần đây lại đến lượt chú Ba và Muộn Du Bình. Rốt cuộc vì sao bọn họ cứ phải khăng khăng đâm đầu vào chỗ này cơ chứ?

Những bí ẩn đã vùi vào quên lãng phút chốc sống dậy trong lòng, hằng hà sa số vấn đề cũng ào ào xộc thẳng vào đầu tôi.

Nhóm người Phan Tử không biết chuyện cũ của chú Ba nên lúc nhìn thấy tấm ảnh còn khiếp sợ hơn tôi nhiều, tôi đành phải kiên nhẫn giải thích một lần, mấy người kia nghe đến đâu là trợn mắt há mồm đến đấy. Bàn Tử nói: “Vô lý, mà khoan, để tôi nghĩ thêm đã… Hầu như tất cả những người đã từng đến ngôi mộ dưới đáy biển, kể cả A Ninh và chúng ta, đều đã tới nơi này rồi. Không lẽ huyệt mộ kia có một lời nguyền, chỉ cần đặt chân vào đó thì nhất định phải leo lên núi Trường Bạch … Không đúng, nói thế hình như không chuẩn?”

Bàn Tử đương nhiên chỉ nói nhảm nhưng cũng đủ làm tôi ớn lạnh, có điều gì đó trong lòng bắt đầu sáng tỏ. Xem ra ngôi mộ dưới đáy biển cũng không phải là mấu chốt, mà mấu chốt là ở đây cơ. Huyệt mộ dưới đáy biển chẳng qua chỉ là tấm ván bắc cầu mà thôi…

Tôi lục lọi bằng sạch tất cả những gì có thể lấy từ thi thể, nhưng vẫn chẳng kiếm ra thêm bất kì manh mối nào. Thậm chí những người này là ai, tôi cũng không hoàn toàn nắm rõ. Lòng tôi rối như canh hẹ, mụ mị xoay người chuyển hướng bước vào mộ đạo, đến đèn pin cũng chẳng buồn đem theo.

Bàn Tử vội vàng níu lại nên tôi mới tỉnh ra, hắn bảo cậu có cuống lên cũng chả ích gì, những người này chẳng phải đã bị giam đến chết ở đây sao. Cậu chết đi có thể hỏi oan hồn bọn họ xem đã xảy ra chuyện gì thật, nhưng có biết thì cũng quá muộn rồi.

Tôi thuận đà ngồi xuống thở hổn hển, dần dần bình tĩnh lại, trong đầu chỉ còn một ý niệm: “Mình nhất định phải thoát ra, nhất định phải tìm chú Ba để hỏi rõ ngọn ngành, bằng không có chết cũng không nhắm nổi mắt.”

Bàn Tử nói: “Nhưng đến giờ đã tìm được manh mối nào chứng minh trong số họ đã có người thành công thoát ra đâu. Không chừng chỗ này là một không gian khép kín, căn bản không thể thoát ra, cậu có nhắm tịt hai mắt cũng vô ích.”

Bàn Tử vừa thốt ra lời này, những người khác đồng loạt câm nín. Chúng tôi đang định tìm kiếm chút manh mối trên mấy khối thi thể này, thoáng cái lại phát hiện ra một bí mật lớn kinh người, thật sự là sóng trước còn chưa yên, sóng sau đã xô tới.

Mọi người đều theo đuổi những ý nghĩ riêng, bầu không khí trầm xuống đến cực điểm. Đầu óc tôi hỗn loạn, căn bản không dám nhìn lại bức ảnh, chỉ sợ trong đó sẽ xuất hiện quái vật hút tôi vào. Cổ họng cũng bắt đầu ngứa ngáy, hình như bị cảm lạnh rồi, tôi bắt đầu ho khan ra máu.

Phan Tử thấy vậy bèn bảo với cả bọn: “Hôm nay cứ nghỉ ngơi đi đã, dù sao một chốc một lát cũng không ra được, chi bằng cứ đánh một giấc thật đẫy cho đầu óc tỉnh táo đã. Cậu Ba đừng nghĩ ngợi nhiều quá, tôi biết cậu ôm rất nhiều khúc mắc trong lòng, nhưng muốn làm rõ cũng không phải chuyện một sớm một chiều đâu.”

Tôi khoát tay. Làm sao mà ngủ được chứ, chẳng thà ngồi đây nghĩ tiếp cho rồi. Nghĩ đến khi chịu hết nổi mới thiếp đi được, bằng không càng ngủ càng mệt thêm thôi.

Bàn Tử chẳng biết đã rít đến điếu thuốc thứ mấy rồi, vừa rít vừa làu bàu: “Giờ tôi lại nghĩ, nếu sớm biết thế này hồi nãy đã không đi theo cái ký hiệu kia. Giá nghe lời tôi có phải tốt hơn không, một nhóm bị nhốt rồi nhóm kia còn có đường nghĩ cách… (Bàn Tử từng đề nghị chia làm 2 nhóm) Cái ký hiệu đó, giờ ngẫm lại có khi là do mấy cỗ thi thể kia để lại cũng nên. Cậu xem, mọi chuyện đều trùng khớp. Có lẽ bọn họ cũng nghĩ như chúng ta, chia ra thành hai nhóm, hai người kia đi vào mộ đạo đối diện.”

Tôi lắc đầu bảo không đâu, một nhóm bị nhốt rồi, nhóm kia quay lại tìm chẳng phải cũng dính trấu như nhau sao, đến lúc đó mới gọi là thảm. Hơn nữa không chừng đi bên không có ký hiệu kia còn nguy hiểm hơn, vì đâu ai biết chờ chúng ta là cái quái gì.

Có điều đào sâu suy nghĩ lại thấy vô lý, vì nếu một nhóm bị nhốt thì khi nhóm kia quay lại mộ đạo đã biến đổi, bọn họ sẽ không tài nào tìm ra cái mộ thất này. Ký hiệu kia liệu có phải do người may mắn sống sót ghi lại, là ký hiệu “đội này đã mất tích”?

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi đột nhiên run bắn toàn thân… Một tia điện xẹt qua óc tôi… Ký hiệu…

Tôi dồn sức ngồi bật dậy, nói với bọn họ: “Tôi bỗng nhớ ra một sơ hở rất quái dị. Về cái mộ đạo này, có một lập luận bác bỏ.”

“Cái gì cơ?”

Tôi nhíu mày nghĩ xem mình phải diễn đạt thế nào, “Tôi sợ các anh nghe không hiểu. Thí dụ nhé, nếu chúng ta đi ra ngoài trong bóng tối, bất kể là vì nguyên nhân gì, chúng ta đều phải qua một quá trình thay đổi phương hướng, cho dù quá trình này bản thân chúng ta không hề hay biết, có đúng không?”

Mấy người kia khẽ gật đầu, tôi nói tiếp: “Ví dụ như, tôi cầm một cây bút vừa đi vừa vẽ lên tường thì nhất định sẽ để lại một vạch thật dài trên tường lối ra. Vậy trong tích tắc tôi bị đổi hướng mà không biết, các anh đoán xem tôi sẽ phát hiện điều gì?”

Bàn Tử gần như nhảy dựng lên: “Cậu sẽ thấy trên vách tường mộ đạo phía trước đã có dấu vết cậu vạch ra từ trước rồi!”

“Không chỉ có vậy!” Tôi nói: “Điểm mấu chốt nhất là gì? Chính là sau khi tôi quay người, trái phải sẽ đổi chỗ cho nhau, tay cầm bút của tôi sẽ bắt đầu vạch lên vách tường bên kia.”

“Cái này!” Phan Tử cũng nhíu mày nói.

“Đây là suy luận logic.” Tôi giải thích: “Nói cách khác, nếu như dùng logic học để giải thích, đặt giả thiết ở chính giữa mộ đạo có một điểm ngoặt! Ở điểm ngoặt này chúng ta sẽ giống như bước vào một tấm gương, sau đó đi thẳng về hướng ngược lại với mình, các anh có công nhận không nào?”

Ai nấy đều gật đầu, theo logic thì nhất định phải như tôi nói.

Tôi nói: “Tốt, vậy các anh nghĩ thử coi, nếu trong lúc đi chúng ta thực sự đụng phải một ‘mặt phản xạ’ như lời tôi nói, vậy cái mặt phản xạ này phải dày cỡ nào?”

“Dày cỡ nào á?” Mấy người này còn chưa tiêu hóa xong những lời tôi vừa nói, ù ù cạc cạc.

“Đúng, nhất định phải có độ dày. Nếu không có độ dày thì lúc cơ thể anh xuyên qua một nửa trước, nửa người phía sau sẽ…”

Phan Tử lập tức hiểu ý của tôi, thoáng cái đã đầm đìa mồ hôi lạnh, vô thức tiếp lời: “Chồng lẫn lên nhau!”

“Chính xác! Bởi vì ở vị trí đó, nửa người trước của anh đã bị phản xạ trở về, nhưng nửa phía sau lại chưa đi qua ‘mặt gương’, cho nên nếu lập luận của tôi là chính xác, thì đúng vào lúc xuyên qua ‘gương’ phản xạ, chúng ta ắt hẳn phải chết! Sẽ biến thành một nùi quái thai! Mặt anh sẽ đâm ra đằng gáy!”

“Nhưng chúng ta đã đi qua đi lại bao nhiêu bận mà có chết đâu?” Bàn Tử nghi hoặc hỏi.

“Đó chính là điều tôi muốn nói. Mặt gương này đảm bảo phải có độ dày lớn hơn cơ thể người. Quá trình phản xạ sẽ thế này, sau khi tiến vào vùng phản xạ, trước tiên chúng ta vào từ đầu bên này, đi một đoạn bên trong xong lại đi ra ở đầu kia, hoàn thành nếp gấp không gian.”

Mọi người lại gật đầu tỏ vẻ đồng tình, lối suy luận này quả là không một kẽ hở.

“Vấn đề là chúng ta không biết cái đoạn đó dài bao nhiêu. Giả như nó chỉ dài hai ba bước, tôi lấy một ví dụ thế này, nếu chúng ta đi vào một đoạn ‘gương không gian’, nhưng Bàn Tử lại không vào, mà đứng ở chỗ bắt đầu có tấm gương không gian. Tấm gương không gian chỉ dài có vài ba bước, anh lại có thể quan sát cả hai phía trước sau, anh đoán xem sẽ có chuyện gì xảy ra nào?”

Phan Tử hiểu nhanh nhất, cổ họng gần như đông cứng: “Sẽ… thấy trước sau xuất hiện hai Bàn Tử giống hệt nhau.”

“Đúng, ở đây xuất hiện một lập luận bác bỏ: Bàn Tử đứng phía sau anh, khi nhìn vào khoảng không trước mặt anh, có thể thấy Bàn Tử phía trước anh không? Hoặc là anh nắm lấy tay của một trong hai Bàn Tử đó, thì sẽ có chuyện gì xảy ra?”

Phan Tử vội vàng ra hiệu cho tôi ngừng lại: “Đừng… đừng nói nữa!”

“Làm vậy để chứng minh cái gì mới được chứ?” Bàn Tử bên cạnh cũng đã tái mặt.

“Chúng ta không cần tiếp tục thí nghiệm cũng có thể xác định, thứ gọi là ‘gương không gian’ này không thể tồn tại được! Hơn nữa cái mộ đạo phản xạ này đi thế nào cũng không thoát ra nổi, cơ sở logic của nó cũng không tồn tại, nói cách khác sự tồn tại của mộ đạo này là không hợp logic.” Tôi hạ giọng: “Uông Tàng Hải không phải thánh thần, ông ta không thể tự mình tạo ra định luật vật lý. Cơ quan ở chỗ này không liên quan gì đến Uông Tàng Hải hết, những người này cũng không phải vì vậy mà bị vây khốn đến chết. Tình huống chúng ta hiện đang gặp phải là một trường hợp đặc biệt, là một tình huống mới! Chúng ta đã bị những cái xác này đánh lạc hướng rồi, giờ đây khả năng lớn nhất tạo ra tình huống này, chỉ có một mà thôi…”

Tôi cẩn thận chỉ ngón tay vào giả thiết thứ tư mà Bàn Tử đã viết xuống, cử động môi, dùng khẩu hình nói: “Bên người chúng ta có quỷ!”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top