Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Quyển 2 - Chương 31: Hai mươi năm trước


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Muộn Du Bình, không, phải gọi là Trương Khởi Linh mới đúng, giọng hắn cứ đều đều không mang theo chút cảm xúc nào. Từ những lời tự thuật của hắn, tôi dần dần hiểu được một phần trong vô số những nghi vấn mơ hồ,nhưng vẫn chẳng thể nào hiểu nổi hắn đã nghĩ gì và nghe thấy gì trong suốt diễn biến câu chuyện, cũng không sao biết được thân thế thực sự của hắn; thôi đành tưởng tượng ra hắn trong bộ dạng một một thanh niên trầm lặng và cơ trí vậy.

Dưới đáy biển sâu không nghe tiếng cuồng phong gào thét trên mặt biển, nhưng vẫn cảm nhận được bầu không khí ngột ngạt trước khi cơn bão kéo đến.

Trương Khởi Linh lẳng lặng ngồi trong góc phòng nhìn bạn bè mình tranh nhau nghiên cứu mấy món đồ sứ men xanh trên mặt đất. Những thứ đồ sứ đó với hắn chẳng có chút hấp dẫn nào, trái lại mấy người bạn học nhìn qua có vẻ lớn tuổi hơn hắn lại bị thu hút hoàn toàn.

Bọn họ truyền tay nhau xem, còn muốn sao chép lại hoa văn trên đó, rồi thảo luận ý nghĩa của những hình vẽ trên mặt sứ. Lúc này đột nhiên có người kêu lên: “Mọi người mau đến xem! Dưới mấy món đồ sứ này có gì lạ lắm!”

Người vừa lên tiếng là Hoắc Linh, cô gái nhỏ tuổi nhất trong ba thành viên nữ của đội khảo cổ, cha mẹ là cán bộ cao cấp, vốn được nuông chiều từ bé, rất thích tỏ vẻ ngạc nhiên để thu hút sự chú ý của người khác. Trương Khởi Linh nghe tiếng cô nàng chỉ thấy nhức đầu, thế nhưng kiểu nữ sinh như cô ta ở trong đoàn lại được yêu thích, một câu nũng nịu là kéo được vài người sang bên đó.

Mấy nam sinh tranh nhau thể hiện, hy vọng có thể chứng tỏ được học vấn của mình trước mặt Hoắc Linh, nhao nhao nói: “Có gì kỳ lạ? Đưa tôi xem nào.”

Hoắc Linh đưa món đồ sứ ra cho bọn họ xem, một người nhìn thoáng qua, nói: “Cái này tôi biết, đây gọi là diêu hào, ký hiệu của lò gốm nơi sản xuất ra món đồ này.”

Một người khác lập tức phản bác: “Không đúng, diêu hào của lò gốm vào thời Minh không giống thế này, đây có thể là phủ hào được khắc trên đồ vật, cho biết thân phận của chủ nhân!”

Người kia muốn giữ thể diện, nóng mặt cãi: “Phủ hào khắc trên đồ vật thường có đến bốn chữ, ở đây chỉ có một, còn nhìn lạ hoắc, điều cậu nói lại càng vô lý.”

Hai người đã quen ăn nói văn hoa, nói qua nói lại một hồi là thành đấu khẩu, còn có xu thế chuyển sang động thủ động cước. Hoắc Linh đã quá quen với cảnh này, chỉ biết thở dài. Bỗng cô nàng thấy Trương Khởi Linh lãnh đạm ngồi trong góc, hình như chẳng thèm để ý tới mình, trong lòng bực bội, lập tức bước lại gần đưa cái bình sứ Thanh Hoa cổ dài trong tay ra trước mặt hắn, khẽ cười, nói: “Tiểu Trương, anh xem giúp tôi đây là cái gì?”

Trương Khởi Linh căn bản không thèm để ý tới cô nàng, thản nhiên liếc qua một cái, còn chưa nhìn rõ đó là thứ gì đã quay đi, đáp: “Không biết.”

Hoắc Linh biến sắc. Cô nàng xưa nay hiếm khi ở trước mặt con trai mà bị dội cho gáo nước lạnh như vầy, trong lòng không khỏi cảm thấy khó chịu: “Tiểu Trương, anh đừng có mà qua quít cho xong chuyện, xem cho kỹ rồi hãy trả lời tôi!”, nói rồi đem cái bình đó nhét vào tay Trương Khởi Linh.

Trương Khởi Linh thở dài, không còn cách nào khác đành phải cầm lấy. Hoắc Linh đắc ý chỉ cho hắn xem, thì ra mặt dưới cái bình sứ Thanh Hoa cổ dài ấy có khắc một văn tự rất đặc biệt.

Trương Khởi Linh chưa từng thấy văn tự này bao giờ, bất giác ngây người. Thông thường bên dưới đồ sứ đều là diêu hào của nơi làm ra nó, nhưng ký hiệu này sờ lên lại có cảm giác sần sùi, hình như không phải của bất kỳ lò gốm nào, mà là một con số.

Hắn tiện tay lấy một món khác, quả nhiên cũng có ký hiệu nhưng không giống với cái hắn vừa xem. Đến đây hắn bỗng mơ hồ cảm thấy đồ sứ ở đây không phải chỉ là đồ tùy táng đơn thuần.

Hoắc Linh thấy sắc mặt hắn biến đổi, thầm nghĩ tên đầu gỗ này rốt cuộc cũng biết được gì đó, liền hỏi: “Tiểu Trương, thế nào, đây rốt cuộc là cái gì?”

Trương Khởi Linh phớt lờ cô nàng, hắn cầm mấy món đồ sứ khác lên xem, liên tiếp hơn mười cái, phát hiện bên dưới mỗi cái đều có ký hiệu khác nhau, hơn nữa những ký hiệu này đều biến đổi theo quy luật, hình như chúng được sắp xếp theo một trật tự nào đó.

Tại sao phải đánh số thứ tự cho mấy món đồ sứ này, chẳng lẽ trật tự sắp xếp của chúng nghiêm ngặt đến vậy sao? Hay là, nếu không sắp xếp theo đúng thứ tự này sẽ không đạt được mục đích gì đó? Vô vàn suy nghĩ lóe lên trong đầu Trương Khởi Linh khiến hắn không khỏi cẩn thận xem xét tỉ mỉ từng cái một.

Hắn xem một cái khác, lại càng ngạc nhiên, bởi vì hoa văn vẽ trên đó không tả cảnh xuân canh, không phải đình viện, mà là hình ảnh thợ thủ công đang chạm khắc một bức tượng đá khổng lồ, vào thời đó hình ảnh này bị cho là dung tục, vậy tại sao người ta lại đem vẽ nó lên đồ sứ?

Hắn xem xét một lượt, dần phát hiện ra một vài manh mối. Những bức tranh trên sứ này nếu nằm đơn lẻ thì không có gì đặc biệt, nhưng một khi quan sát theo đúng trật tự, anh sẽ thấy ngay những hình ảnh đó có liên quan mật thiết, hình như là miêu tả quá trình xây dựng một công trình khổng lồ.

Lúc này tất cả mọi người đều bị hành động kỳ lạ của hắn thu hút, đám nam sinh không biết hắn đang bày trò gì, chỉ biết ngơ ngác đứng xem.

Trương Khởi Linh chẳng thèm để ý tới mấy người đó, hắn không xem hết một lượt như tôi mà đi thẳng đến chỗ bình hoa xinh xắn có hai quai ở cuối dãy, cầm lên nhìn kỹ, trong lòng khẽ động. Chỉ thấy trên cái bình hai quai cuối cùng này là quang cảnh cả công trình khi đã hoàn thành.

Đó là một công trình không thể dùng ngôn từ để mô tả, cung điện lơ lửng giữa trời, bên dưới là mây mù che phủ; những người xây cung điện đứng trên mặt đất ngước nhìn lên trời; trên một ngọn núi cạnh đó, có một đạo giả đang dương dương tự đắc mỉm cười.

Hình vẽ trên cái bình hai quai nho nhỏ này không thể diễn tả hết sự hùng vĩ đồ sộ của công trình, nhưng Trương Khởi Linh vẫn cảm nhận được một cơn kích động không cách nào kìm nén, bởi hắn đã biết thứ mà hắn tìm được là gì.

Hắn gần như có thể kết luận, nội dung miêu tả trên đó chính là quá trình Quỷ thủ thần tượng Uông Tàng Hải đầu thời Minh thiết kế và xây dựng nên Vân Đỉnh thiên cung!

Truyền thuyết về cung điện lửng lơ giữa trời này đã sớm xuất hiện trong dân gian thời Minh, khi đó người ta giải thích là Uông Tàng Hải đã sử dụng một con diều thật lớn cùng với vô số tơ vàng để tạo thành cung điện giả lộng lẫy huyền ảo giữa không trung nhằm lấy lòng Chu Nguyên Chương.

Nhưng nếu truyền thuyết là thật thì những hình ảnh này miêu tả cái gì? Còn nếu truyền thuyết không có thật, vậy phải chăng những bức tranh trên sứ muốn chứng minh Uông Tàng Hải đã thật sự xây dựng được một tòa cung điện lơ lửng giữa không trung? Truyền thuyết và sự thật, đâu là thực đâu là giả, Trương Khởi Linh bắt đầu cảm thấy mờ mịt.

Hắn suy nghĩ một hồi cũng không tìm ra được manh mối gì, mới đem việc này nói với nhóm bạn vẫn còn đang đứng lơ ngơ nãy giờ. Những người này dĩ nhiên không tin, vội bắt chước hắn xem xét từng món đồ sứ một, cả đám không khỏi trợn mắt há mồm. Đây không những là chuyện có một không hai trong lịch sử Trung Quốc mà còn là một bước đột phá không tưởng. Cô nàng Hoắc Linh kia vừa thấy phát hiện của mình lại dẫn đến một khám phá trọng đại như thế, không khỏi mừng rỡ, lập tức hôn chụt một phát lên mặt Trương Khởi Linh, khiến cho mấy nam sinh kia nổi cơn ganh tị.

Trương Khởi Linh lờ tít cô nàng, hình như hắn không biết mà cũng không muốn biết ai đã hôn mình, đi thẳng một mạch đến chỗ Văn Cẩm, đề nghị lập tức vào tìm kiếm bên trong hậu điện. Hắn cho rằng muốn có nhiều manh mối hơn, tất phải tìm trong quan tài. (vãi anh, anh thấu triệt tinh thần chỉ có đàn ông quá đấy =))

Văn Cẩm vốn là người phụ trách của cả đoàn, cô thấy làm như vậy quá nguy hiểm, vội can: “Không được, tuyệt đối không được, không có người tiên phong dẫn dắt, chúng ta không thể tự mình đi vào cổ mộ!”

Trương Khởi Linh thấy cô không đồng ý, cũng không nói nhiều, lẳng lặng thu thập trang bị cá nhân rồi đi về phía hành lang. Văn Cẩm khá là cứng rắn, thấy hắn coi mình như không khí thì không hài lòng chút nào, muốn ra tay dạy dỗ hắn một phen. Dù sao ở sở nghiên cứu cô cũng hay giở ra vài chiêu công phu để nắn gân mấy tên nhóc cứng đầu không biết nghe lời.

Nghĩ đến đây cô bất ngờ ra tay, định bắt lấy khớp cổ tay mảnh mai của Trương Khởi Linh, thế này gọi là khóa mạch môn, nếu khống chế được mạch môn thì có thể lấy bốn lạng chống nghìn cân. Sức lực một cô gái tuy không lớn, nhưng chỉ cần hơi mạnh tay một chút cũng đủ làm cho một anh chàng như Trương Khởi Linh đau đến mức phải lên tiếng cầu xin.

Mấy anh chàng kia đều đã nếm qua chiêu này của Văn Cẩm, không khỏi cười thầm, chờ xem Trương Khởi Linh bị đem ra làm trò cười.

Chiêu này của Văn Cẩm trăm lần như một đều thành công, người không học võ khó mà đề phòng, nhưng lần này cô lại chụp không trúng, trong lòng không khỏi kinh hãi. Bỗng Trương Khởi Linh quay lại, thản nhiên nói: “Cô yên tâm, tôi có thể tự lo cho mình!”

Văn Cẩm cười nhạt: “Anh muốn tự lo cho mình? Tiểu Trương, trong viện nghiên cứu anh nổi tiếng vô tổ chức vô kỷ luật, nhưng đây là cổ mộ, dù anh không lo cho bản thân mình thì cũng phải lo cho sự an toàn của mọi người chứ.”

Trương Khởi Linh gật đầu, nhưng lại nói: “Tôi xem xét một chút rồi sẽ trở về ngay.”

Văn Cẩm giận đỏ mặt, thầm than sao mà đau đầu thế này chứ. Giọng điệu hắn không nóng cũng không lạnh khiến cô không sao nổi nóng được, đành bước tới giữ chặt lấy hắn, nói: “Không được, dù thế nào đi nữa anh cũng không được đi, nhóm chúng ta đã mất một người rồi, anh bảo khi về tôi biết phải ăn nói thế nào với mọi người trong viện?”

Trương Khởi Linh dường như bắt đầu sốt ruột, quay lại, lạnh lùng nhìn cô, nói: “Buông tay ra.”

Văn Cẩm vô cùng kiên quyết nhìn hắn, tôi nghĩ bất cứ tên con trai nào thấy một cô gái đáng yêu nhìn mình bằng ánh mắt như vậy thì cũng đều thỏa hiệp. Nào ngờ Trương Khởi Linh lại đột nhiên trừng mắt, trong tích tắc như biến thành ác quỷ, Văn Cẩm bị dọa cho bủn rủn tay chân, bị hắn gạt tay ra. (thôi thôi đúng là anh bị lãnh cảm với gái dzồi, thôi quay về chính đạo với em Tà đi anh, em thương ~~~)

Khi cô nhìn lại, ánh mắt Trương Khởi Linh đã trở về với vẻ bình thản đến nỗi không tài nào nhìn ra cảm xúc trong đó. Hắn gật đầu một cái với cô, còn nói: “Cám ơn!”

Những người còn lại nhìn thấy cảnh này lại tưởng Văn Cẩm đã đồng ý yêu cầu của hắn, đều tỏ ra không phục. Con người vốn là như vậy, chỉ cần một người phá luật, những người còn lại sẽ hùa nhau làm theo. Mấy người kia thấy Trương Khởi Linh bước vào hành lang, phần thì sợ hắn giành hết công trạng, phần lại nổi lên tính hiếu kỳ, nhao nhao lên chạy theo sau hắn.

Văn Cẩm dù sao cũng chỉ là một cô gái, cô biết ngay khi bàn tay mình bị gạt xuống, cô cũng đã mất đi khả năng khống chế đối với mọi người trong nhóm. Chuyện đến nước này, trừ khi trong tay có khẩu súng, không thì chẳng có cách nào ngăn cản nổi mấy gã choai choai này.

Tính tình chú Ba lại không tốt, nếu lúc này mà gọi chú Ba dậy, với tính khí của ông ấy hẳn sẽ vì sĩ diện mà gây gổ với Trương Khởi Linh một trận tưng bừng, tình hình có lẽ sẽ càng khó cứu vãn. Sau khi đã cân nhắc lợi hại, cô quyết định tự mình dẫn cả nhóm vào hậu điện xem xét rồi nhanh chóng trở lại. Với kinh nghiệm đổ đấu nhiều năm của cô, nếu đây chỉ là một ngôi mộ bình thường thì tất nhiên là không có vấn đề gì.

Chuyện tiếp theo sau đó cũng gần giống như những chuyện chúng tôi đã trải qua, về phần bọn họ vượt qua được hành lang trùng điệp cơ quan như thế nào, rồi phát hiện được bậc thang trong ao ra sao, sau đó xuống đến đáy ao vân vân gì đó dù cũng rất ư là khúc chiết ly kỳ nhưng không phải là chuyện quan trọng đáng nhắc lại. Thời điểm Trương Khởi Linh kể lại cũng chính là câu đầu tiên vừa nãy hắn nói, những sự việc quan trọng chỉ bắt đầu từ khi cả nhóm bọn họ xuống được đến đáy ao ngập nước và nhìn thấy tấm bia đá không có chữ nào kia.

Cảnh tượng dưới đáy ao quả thực vô cùng kỳ dị, ánh đèn pin chiếu vào lớp sương mù dày đặc thỉnh thoảng lại biến thành đủ mọi vẻ mặt khiến cho người ta sinh ra cảm giác sợ hãi. Đến khi xuống được bậc thang đá cuối cùng, cả nhóm lại trở nên đoàn kết, không dám thở mạnh, dẫn dắt nhau đi trong sương mù, trong lòng thấp thỏm lo sợ có thứ gì đó đột nhiên xông tới.

Hoắc Linh thấy Trương Khởi Linh không sợ hãi chút nào, trong khi mấy đàn anh trong viện ngày thường oai phong lẫm liệt mà bây giờ đều thập thập thò thò rúc hết ra sau lưng hắn, không khỏi nảy sinh chút cảm tình, liền nói với mấy nam sinh kia: “Nhìn mấy người các anh xem, so ra đều lớn hơn Tiểu Trương đến mấy tuổi, vậy mà đến một góc của người ta cũng không bằng, có xấu hổ không chứ!”

Mấy người kia tuổi còn khá trẻ, mà lẽ thường ngựa non háu đá, bị Hoắc Linh nói khích như thế đều hăng tiết lên chẳng thèm quan tâm sống chết nữa, tranh nhau vượt lên phía trước Trương Khởi Linh. Không gian trong ao không rộng, mấy tên đó đi được mấy bước thấy không có chuyện gì, cũng vững dạ hơn, lại càng dấn sâu vào trong màn sương. Mới đi được vài bước, đột nhiên người dẫn đầu hét to: “Trong này có quái vật!”, vừa hét vừa chạy ngược về.

Tiếng hét này thiếu điều hù cả đám sợ đến tè ra quần, mấy người đi sau chưa thấy gì mà da đầu đã tê rần, cũng chạy ngược trở về. Trương Khởi Linh không thèm quan tâm đến bọn họ, dẫn vài người tiếp tục tiến vào mới thấy thứ được gọi là quái vật kia chính là Định hải thạch hầu.

Đồng thời họ cũng thấy được mấy con Định hải thạch hầu còn lại cùng tấm bia đá không có chữ kia.

Trong nháy mắt, mọi người đều cảm thấy chấn động mãnh liệt, tuy những thứ ở đây không hề đồ sộ, nhưng trong mắt họ lại vô cùng ý nghĩa. Tất cả những thứ có trong cổ mộ này đã đánh đổ quan niệm ngàn năm không đổi trong sách giáo khoa Trung Quốc về mồ mả, có giá trị khảo cổ vô cùng lớn.

Ngay cả Văn Cẩm cũng kinh ngạc không thốt nên lời, cô lẩm bẩm: “Trời ạ, những thứ này thật không thể tin nổi, nói không chừng nơi đây sẽ trở thành cột mốc quan trọng trong ngành khảo cổ Trung Quốc.”

Sau nỗi khiếp sợ chính là niềm vui vô hạn, với niên đại của những thứ này, đây sẽ là một phát hiện trọng đại đồng thời cũng là cơ hội vô cùng ý nghĩa. Nếu công bố rộng rãi phát hiện này, ai ai cũng sẽ phải biết đến tên tuổi bọn họ, nghĩ đến đây, người thì cười ngây ngô hệt như tên ngốc, người thì phấn khởi vô cùng, tất cả đều không kiềm chế nổi mà bắt đầu nhảy cẫng lên.

Lúc đó, kẻ khởi xướng chuyện này là Trương Khởi Linh lại nhíu mày, hắn vốn cẩn thận hơn những người khác, đã sớm thấy được cổ văn khắc trên tấm bia đá.

“Thử bi vu hữu duyến giả, tức hiện thiên cung môn, nhập chi, khả đắc tiên cảnh dã.”

(Tấm bia này nếu gặp người có duyên, sẽ hiện ra Thiên cung môn, vào đó có thể đến được cõi tiên)

Câu này khiến hắn chấn động, gợi ra những suy tưởng sâu xa. Do vậy hắn không hề bị ảnh hưởng bởi sự ồn ào của những người xung quanh, chìm sâu vào trầm tư.

Theo như hắn nghĩ, văn tự thế này không thể vô duyên vô cớ được khắc ở đây. Có câu vật tất có chỗ dùng, chủ nhân ngôi mộ này đem mấy thứ này bày ra ở đây hẳn phải có dụng ý.

Trong tấm bia này có lối thông với Thiên cung môn, rốt cuộc là ở đâu? Như thế nào mới được xem là hữu duyên đây? Hắn đứng trước tấm bia đá dò xét từng tấc một, nhưng bia đá chỉ là bia đá, không bất kỳ cơ quan hay dấu vết nào của văn tự in chìm.

Mấy người kia sau một hồi náo loạn cũng dần tỉnh táo lại, Văn Cẩm thấy cũng đã khá trễ, cứ tiếp tục nán lại ở đây thì không hay lắm liền đề nghị cả nhóm quay về. Mấy người kia vui vẻ cũng đủ rồi, học hỏi cũng đã xong, bắt đầu ổn định lại, cười cười nói nói đi về phía bậc thang. Văn Cẩm điểm danh từng người một trong đoàn, cuối cùng phát hiện ra Trương Khởi Linh vẫn chưa quay lại.

Trương Khởi Linh đầu tiên thì không chịu phục tùng, cứ khăng khăng muốn đến hậu điện, bây giờ lại không chịu quay về cùng mọi người, nghĩ đến đây Văn Cẩm cực kỳ tức giận, nhưng là người phụ trách, cô không thể mặc kệ hắn. Cô đành thông báo với cả nhóm, sau đó tất cả lại quay trở vào trong đám sương mù.

Bọn họ đi được mấy bước, thấy Trương Khởi Linh còn đang ngồi trước tấm bia đá nghiên cứu gì đó, Văn Cẩm không khỏi tức giận kêu lên: “Anh còn không đi! Rốt cuộc là định gây rối đến…?”, nói chưa dứt lời, Hoắc Linh bỗng níu chặt tay cô bảo cô đừng nói nữa. Văn Cẩm bực mình, nhìn sang những người khác thì thấy nét mặt bọn họ có vẻ sợ hãi, thật khó hiểu.

Hoắc Linh thấy cô không có phản ứng gì, vội chỉ vào trong đám sương mù, Văn Cẩm nhìn theo tay cô nàng thì thấy sâu trong đó, cách Trương Khởi Linh không đến hai mét, xuất hiện một bóng người cực lớn.
 
Quyển 2 - Chương 32: Kỳ môn độn giáp


Editor: Thanh Du *****

Bóng người khổng lồ kia hình như phải cao ngang ngửa tấm bia đá, cũng mơ hồ thấy có đầu có cổ, không khác người thường. Có điều tư thế cong cong lưng của kẻ kia quái dị không tả, khiến người ta không rét mà run.

Văn Cẩm toát mồ hôi lạnh, nhóm bọn họ hiện đang đứng ở chỗ nối tiếp giữa thang đá và đáy ao, chỉ cách bóng người khổng lồ kia có năm bước chân, nói dài không dài mà nói ngắn cũng chẳng ngắn, tình thế khó xử vô cùng. Đáy ao mờ mịt sương, ánh sáng chỉ dựa vào mấy cái đèn pin công suất không lớn lắm, nhất thời không sao thấy rõ thứ đó là người hay quỷ. Mà vừa rồi nơi này có nhiều người như thế, chỗ nào cũng lục soát qua cả rồi, dưới đáy ao sâu hơn mười mét này ngoại trừ bốn con Định hải thạch hầu và một tấm bia đá trống trơn thì chẳng còn gì khác. Vậy cái “người” khổng lồ này, rốt cuộc đã xuất hiện ở đó từ lúc nào? Không ai biết cả.

Mà cái tên Trương Khởi Linh chết tiệt kia hình như chẳng hề phát hiện ra, cứ nhìn tấm bia đá đến nhập thần, không biết rốt cuộc hắn đang nghiên cứu cái gì. Văn Cẩm quả thực đã hận hắn thấu xương, có điều cô là người phụ trách, không thể bỏ mặc hắn được. Nhất thời cô cũng không biết phải làm thế nào, đành dặn những người đứng sau không được lộn xộn.

Qua năm sáu phút liền, “người” khổng lồ kia vẫn ẩn ẩn hiện hiện sau màn sương, hình như không hề có ý cử động.

Lúc này Hoắc Linh đã chịu hết nổi, khẽ khàng gọi: “Tiểu Trương, anh còn ngồi ngây ra đó làm gì ~ mau lại đây với chúng tôi.”

Văn Cẩm vội vàng “hừ” khẽ ra hiệu yên lặng. Trương Khởi Linh ngồi cách thứ kia chỉ hai ba bước chân, nếu manh động, e rằng với khoảng cách quá gần như thế sẽ rất khó toàn mạng trở ra; biện pháp tốt nhất lúc này chính là tạm thời duy trì hiện trạng.

Trong lúc đó, Văn Cẩm nhanh chóng phân tích tình hình hiện tại. Trong cổ mộ tuy không thiếu chuyện hung hiểm, nhưng chỉ cần anh biết mình đang đối đầu với cái gì, tự nhiên sẽ có cách ứng phó. Đáng sợ nhất là thân lâm hiểm cảnh lại ngơ ngơ không biết gì, thường thường sẽ chết không minh không bạch.

Văn Cẩm phân tích sơ bộ, cảm thấy nơi này không thể có bánh tông được. Bởi lẽ cổ mộ này chọn được vị trí cực tốt, quần đảo Tây Sa trong mấy trăm năm nay rất hiếm người lui tới, trên mặt biển vô số dải đá ngầm nhô lên tạo thành những cánh cung lớn, dưới mặt nước cũng liền mạch với nhau, hợp thành một dải núi ngầm dài miên man không dứt. Núi ngầm ẩn dưới đáy biển, tụ phong dưỡng khí, đông thấy đầu rồng tây thấy đuôi, là loại long mạch dưới đáy biển vô cùng hiến gặp. Mà rồng vốn sống dưới nước rồi sau mới bay lên trời, cho nên trong phong thủy thì thủy long còn được đánh giá cao hơn sơn long.

Một nơi như vậy nếu có quan tài thì ắt phải có cả quan lẫn tài (*) Đặc biệt nếu người táng trong cổ mộ thực sự là Uông Tàng Hải, xem danh tự có thể thấy ngũ hành khuyết thủy (**), như vậy làm mộ dưới biển lại càng phù hợp, quả thực có thể nói là đã chiếm hết thiên địa nhân trong phong thủy.

(*) Chỗ này chơi chữ, quan trong quan tài đồng âm với quan trong quan chức, tài trong quan tài đồng âm với tài trong tiền tài. Ý là đã có quan tài thì phải chôn người quyền cao chức trọng, tùy táng thêm nhiều đồ quý.

(**) Đại loại là thời xưa khi đứa trẻ mới sinh sẽ có trò lấy ngày giờ sinh đi xem bói để đoán mệnh. Ngày, giờ, tháng, năm sinh gọi là sinh thần bát tự, cứ 2 chữ thì có một can một chi, trong đó 10 can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) chia làm ngũ hành => trong sinh thần bát tự sẽ có tối đa 4 hành. Nhưng ngũ hành có 5 hành tất cả, nên kiểu gì cũng phải khuyết ít nhất 1 hành, nên khuyết hành nào thì khi đặt tên phải có bộ đó để bổ sung. Uông Tàng Hải = vũng nước, đầm nước chi đó, túm lại là rất nhiều nước => ông này khuyết thủy, ý Văn Cẩm là thế :-” *đúng là Bắc phái, sợ dzồi :-ss*

Cho nên trừ khi sách viết về phong thủy đều đáng vứt đi hết, bằng không nơi này tuyệt đối không thể có bánh tông. Văn Cẩm nghĩ thế, trong lòng đã nhẹ đi nhiều. Nếu không phải cương thi, thứ kia ắt phải là người hoặc động vật, chỉ cần là vật sống thì nơi này có chừng ấy người, đừng nói là thân cao hai thước, dù ngươi thân cao ba thước chúng ta cũng bắt sống dông về.

Lúc này chợt nghe một nam sinh nói: “Văn Cẩm, tôi thấy có gì đó không ổn. Tôi nhớ chỗ đó vốn đặt con khỉ đá cơ mà, không lẽ có thứ gì trèo lên đứng trên khỉ đá?”

Văn Cẩm trong lòng chấn động, cô đột nhiên nghĩ ra, chẳng lẽ là chú Ba tỉnh lại, thấy mọi người đã không còn ở đó mới mò đến đây tìm họ? Tên này thường làm những chuyện không đứng đắn, có khi nào hắn giận mọi người không nghe lời mình, nên mới trốn sau đám sương mù rồi bò lên trên con khỉ đá để hù bọn họ chơi?

Nếu đúng là như thế thì tên kia thật đáng giận, Văn Cẩm nghĩ vậy, cảm thấy đây là cách giải thích hợp lý nhất, nghĩ rồi cô hướng về phía cái bóng kia gọi to: “Ngô Tam Tỉnh! Đừng có giở trò nhát ma vớ vẩn nữa, mau lăn xuống đây cho tôi!”

Nếu người kia đúng là chú Ba, nghe cô gọi thế chắc chắn phải biết trò đùa của mình đã lộ tẩy, có cù nhây thêm nữa cũng vô ích. Chú Ba là người rộng lượng, chuyện vặt vãnh thế này chú cười xòa một cái là cho qua ngay, tuyệt không để bụng.

Nào ngờ lời còn chưa dứt, cái bóng kia đã đưa tay ra vẫy vẫy, hình như đang ra hiệu cho bọn họ yên lặng.

Văn Cẩm thấy chiều dài cánh tay kia kém xa so với chiều dài thân, cho thấy quả nhiên có người trèo lên khỉ đá. Cô không thèm nghĩ ngợi đã kết luận ngay đó là chú Ba, bực tức giậm chân bình bịch rồi chạy lại gần, nhảy lên khỉ đá định nhéo tai chú một cái.

Đây là chiêu cuối cùng cô dùng để đối phó với chú Ba, bởi vì họ từng giao hẹn sẽ không bao giờ cãi lộn; một khi Văn Cẩm giận đến cực điểm thì có thể nhéo tai chú Ba, cho chú biết mình đã điên lắm rồi đây. Thông thường ở vào tình huống này, cho dù chú Ba có ăn gan hùm mật gấu cũng không dám làm càn.

Nói thì chậm mà chuyện chỉ xảy ra trong chớp mắt, cô vừa nhảy lên con khỉ đá, còn chưa kịp động thủ, người kia đã ôm ngay lấy cô, một tay bịt miệng cô lại, khẽ nói: “Tôi là Tiểu Trương đây! Cô đừng nói gì cả, thử nhìn xuống dưới kia đi.”

Văn Cẩm vốn đang tức điên lên, nhưng vừa nghe giọng nói này cũng không khỏi sửng sốt, đây đúng là giọng Trương Khởi Linh! Sao hắn lại ở trên con khỉ đá?

Cô lại nghĩ nghĩ một lát, đột nhiên toát mồ hôi lạnh. Không ổn! Nếu Trương Khởi Linh đã ở đây rồi, vậy người ngồi trước tấm bia đá là ai?

Cô nhớ lại tình huống vừa rồi, lúc ấy cô chỉ thấy trước tấm bia đá có một người đang ngồi, trên tay lại có đèn pin; hơn nữa cả đoàn chỉ còn thiếu mỗi Trương Khởi Linh, cho nên mới hấp tấp phán đoán. Chẳng lẽ sai lầm của cô chính là do ấn tượng chủ quan?

Nghĩ đoạn cô cũng ló đầu ra nhìn, vừa thấy liền ngây người. Kẻ ngồi trước tấm bia kia dù cũng mặc đồ lặn giống họ, nhưng nhìn dáng người thì không phải ai khác, mà chính là chú Ba!

Vả lại chú Ba còn có điểm gì đó bất thường, ban đầu Văn Cẩm không hiểu nổi chú đang làm gì, nhìn kỹ mới phát hiện ra chú đang soi vào tấm bia đá bóng loáng như gương kia mà chải đầu. Nhưng chuyện làm người ta rợn tóc gáy hơn là động tác ưỡn ẹo này của chú rõ ràng chỉ có con gái mới làm.

Chú Ba chải chải một lúc, lại, chăm chú ngắm nhìn hình bóng mình trong tấm gương đá, hệt như một thiếu nữ khuê các trang điểm vừa xong, đang ngắm nghía thành quả của mình lần cuối. *ọe :-ss*

Gương mặt chú Ba in trên gương đá khẽ mỉm cười, thoáng nhìn chỉ thấy vô cùng quỷ dị. Hình ảnh này nếu là ngày thường hẳn trông rất nực cười, nhưng ở vào tình thế này, Văn Cẩm chỉ thấy tay chân lạnh ngắt, thở cũng không dám thở mạnh.

Những người bên dưới thấy trên con khỉ đá có hai người ôm nhau, không hề nhúc nhích, ai nấy đều cho là chú Ba giả thần giả quỷ dọa người, mới thở phào một hơi nhẹ nhõm. Hoắc Linh lo lắng cho Trương Khởi Linh, đột ngột chạy lại sau lưng người ngồi trước bia đá, vỗ vỗ vai hắn nói: “Tiểu Trương, anh ngây ra ở đây làm gì thế?”

Chuyện này đúng là vượt ngoài dự liệu, Trương Khởi Linh thầm kêu một tiếng không ổn, muốn đứng ra ngăn cản cũng không kịp nữa. Chỉ thấy người ngồi trước bia đá đứng bật dậy, dọa cho Hoắc Linh thét lên một tiếng chói tai; nhưng cô cũng nhanh chóng nhận ra người đứng trước mặt mình là chú Ba, từ sợ chuyển thành giận, quát lớn: “Ngô Tam Tỉnh, thì ra là anh! Anh không ngủ đi còn ngồi chỗ này ưỡn ẹo làm cái gì?”

Chú Ba nhìn Hoắc Linh, đột nhiên lấy tay che mặt, thét lên một tiếng quái dị, ra sức đẩy cô một cái khiến cô ngã bệt xuống đất, sau đó cắm đầu bỏ chạy. Trương Khởi Linh thấy chuyện không ổn, lập tức nhảy xuống khỏi con khỉ đá mà đuổi theo. Hắn chạy rất nhanh, nhưng chạy qua Hoắc Linh hắn còn dừng lại một lát để xem cô có bị thương không. Nào ngờ hành động ấy lại phá hỏng đại sự, Hoắc Linh vừa thấy Trương Khởi Linh chạy lại liền nghĩ hắn quan tâm đến mình, trong lòng không khỏi cảm động, mới ôm chầm lấy hắn.

Trương Khởi Linh thở dài, trì hoãn vài giây thế này cũng đủ khiến hắt mất hết tiên cơ. Hắn lăn một vòng thoát ra khỏi cánh tay Hoắc Linh, nhưng vừa thấy chú Ba thì chú đã chạy vào màn sương dày đặc, trông theo bóng dáng ẩn hiện thì hình như đã chạy đến vách ao.

Trương Khởi Linh hét lớn: “Coi chừng thang đá! Đừng để hắn chạy lên!” Nói rồi lập tức đuổi theo. Đúng lúc này hắn mơ hồ thấy chú Ba chạy phía trước bỗng xoay người một cái, trong nháy mắt gần như đi xuyên qua vách ao. Nhưng màn sương quá dày, toàn bộ quá trình diễn ra như thế nào thì hắn không sao nhìn rõ.

Trương Khởi Linh đuổi đến vách ao thì đã chẳng thấy người đâu nữa, đành phải dừng lại. Hắn không tin chú Ba có thể đi xuyên tường, tuy hắn không phải dạng người cứng nhắc nói gì cũng lôi chủ nghĩa duy vật vào, nhưng chuyện diễn ra quá mức khó tin, ắt bên trong phải có điều gì bí ẩn.

Hắn ngây người trong chốc lát, lấy tay sờ lên vách tường đá. Nhưng rõ ràng bức tường đá này là thật, Trương Khởi Linh không tin trên đời lại có thuật đi xuyên tường. Hắn đưa hai ngón tay dài khác thường của mình chạm vào tường đá, trong nháy mắt hai ngón tay cực kỳ mẫn cảm kia bỗng cảm nhận được bức tường đá này đang chuyển động rất chậm.

Tâm trí hắn rối bời, thầm nghĩ thôi xong! Vừa rồi vậy mà lại không phát hiện ra, thực chất bản thân cái ao này chính là một cơ quan khổng lồ!

Hắn đột nhiên cảm khái vô cùng, có thể nói đây chính là một kỳ tích kiến trúc thời cổ. Lấy kinh nghiệm của mình mà đem so với chủ mộ thì chẳng khác nào một đứa trẻ ấu trĩ.

Nhưng rốt cuộc cơ quan này dùng làm gì cơ chứ! Cả đám xuống đáy ao cũng được vài phút rồi mà hình như đáy ao không có gì biến đổi. Lão Uông Tàng Hải chết tiệt kia, lẽ nào lão làm tất cả những chuyện này chỉ nhằm mục đích tạo ra một phòng ăn xoay tròn trong mộ mình?

Nguyên lý hoạt động của cơ quan này, Trương Khởi Linh cũng không lạ lẫm gì. Theo lời hắn nói thì hiểu biết của hắn về cơ quan cạm bẫy trong cổ mộ Trung Quốc sâu sắc hơn bất cứ kẻ nào (nguyên văn) những thứ đại loại như nguyên lý hoạt động, nguồn gốc, khuyết điểm, thậm chí tên người sáng chế đều vô cùng thông thạo.

Dựa theo kinh nghiệm của hắn, cơ quan này chỉ sử dụng nguyên lý cực kỳ đơn giản để vận hành. Bởi lẽ hắn biết thường thì những cơ quan như lò xo tinh xảo, cung gỗ nỏ ngầm, dù sử dụng chất liệu tốt đến chừng nào thì trải qua từ vài trăm năm đến hơn ngàn ngăm, ngòi kích phát đều đã mục nát đến không thể hoạt động được. Cơ quan dùng để ngăn kẻ trộm mộ, thông thường chỉ đơn giản là một tầng cát bên ngoài tường mộ (kẻ trộm mộ khi đào đến tầng cát này, một lượng cát lớn trên mặt sẽ sụt xuống, chôn sống kẻ liều lĩnh. Nhưng đây cũng là cách làm cực kỳ bị động, bây giờ thậm chí kẻ trộm mộ còn căn cứ vào vết cát trên xẻng Lạc Dương để xác định vị trí thực sự của cổ mộ, rồi trực tiếp đục qua mười hai tầng gạch trên đỉnh mộ mà vào)

Nếu muốn có một cơ quan vận hành thông suốt trong vài trăm đến vài ngàn năm, dĩ nhiên phải dùng vật liệu ngàn năm không hư hỏng, ví như đá tảng hay dòng nước chảy mãi không cạn. Những thứ này ở đây đều có cả, không những thế nước ở đây còn lên xuống theo thủy triều, cung cấp động lực không nhỏ, nếu muốn lợi dụng thì càng thuận tiện hơn.

Nếu chủ nhân ngôi mộ này đúng là Uông Tàng Hải, có thể nói sự say mê và năng lực vận dụng kì công xảo thuật của ông ta đã đạt đến độ phi phàm, e rằng trên thế gian này chẳng ai có thể vượt qua được.

Trương Khởi Linh vừa nghĩ vừa sờ thử những đoạn tường đá khác, trong lòng đã có một liên tưởng mơ hồ. Trên bức tường này chắc chắn phải có cửa vào, vừa rồi hắn chỉ lưỡng lự trong giây lát mà cửa vào đã dời đi. Hắn vừa đi vừa mò mẫm, mới tiến lên được vài bước, quả nhiên đã phát hiện ra một cánh cửa ngầm.

Làm gì có chuyện tìm được cửa vào dễ dàng như thế, hắc lắc lắc đầu, không dám đi vào, tiếp tục tiến lên phía trước. Lần này hắn càng đi càng nghi hoặc, đi hết một vòng, một nơi chật hẹp thế này mà có tổng cộng những tám cửa ngầm. Hắn âm thầm tính toán, hình như đã hiểu ra vấn đề. Chết tiệt, đây chẳng phải là kì môn độn giáp hay sao?
 
Quyển 2 - Chương 33: Cửa sinh


Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Kỳ môn độn giáp xuất hiện từ hơn bốn ngàn sáu trăm năm trước, gần như cùng thời điểm với văn tự Trung Quốc cổ, người đầu tiên dùng thuật này chính là Hoàng Đế lão tổ, về sau truyền cho hậu thế, hầu như mỗi nhà quân sự lúc bấy giờ đều biết một chút. Tuy nhiên từ sau thời nhà Hán thuật kỳ môn độn giáp không còn giữ được nguyên bản, bởi lẽ khi tên khốn Trương Lương được Hoàng Thạch lão nhân truyền cho thuật này liền tìm cách giản lược nó đi, kết quả là người đời sau căn bản không thể hiểu được nữa. (1)

Những kiến thức của tôi về kỳ môn độn giáp đều học từ chú Hai, không phải chú Ba, tuy hiểu biết không nhiều, nhưng ít nhất khi nghe Trương Khởi Linh nhắc đến nó tôi cũng không đến nỗi mù mờ như Bàn Tử, ngồi nghe cứ như vịt nghe sấm. Ban đầu kỳ môn độn giáp có bốn ngàn ba trăm hai mươi thế cục, đến thời Hoàng Đế chỉ thông hiểu được một ngàn không trăm tám mươi thế, truyền tới Trương Lương còn lại bảy mươi hai, hiện tại chú Hai tôi rút gọn xuống còn bốn mươi hai thế cục. Nhưng như thế đã là quý lắm rồi, bên ngoài bây giờ chỉ lưu truyền có mười tám thế mà thôi, các thế cục còn lại đều là do chú Ba tôi ngẫu nhiên tìm ra trong một ngôi mộ thời nhà Hán.

Kỳ môn độn giáp tuy rất huyền diệu, nhưng thực ra chính là lý luận về binh pháp và số mệnh, dùng nó để bày binh bố trận chẳng qua chỉ là ứng dụng một phần rất nhỏ trong đó mà thôi. Trận địa của kỳ môn độn giáp gồm tám trận, chia ra tám cửa Khai, Hưu, Sinh, Tử, Kinh, Thương , Đỗ, Cảnh, vào cửa sinh thì sống, vào cửa tử thì chết, nếu vào các cửa khác lại thấy xuất hiện tám cửa như cũ, cứ thế lặp đi lặp lại.

Trương Khởi Linh tìm được tám cửa ngầm này, tự nhiên nghĩ ngay đến kỳ môn độn giáp. Những cửa ấy vô cùng hẹp, chỉ có thể cho từng người lách mình đi qua. Nơi này sương mù dày đặc, bên ngoài lại có một cánh cửa di động một chiều, chỉ cần đẩy một phát có thể mở ra, sau khi đi vào sẽ có van tự động đóng lại, nếu không tự mình khám phá đương nhiên sẽ không phát hiện ra ở đây còn có chuyện kì lạ như thế.

Trương Khởi Linh vẫn có điều canh cánh trong lòng, hắn vốn không phải người thô thiển, thế nhưng vừa rồi lại quá chủ quan, cho rằng mọi kỳ môn xảo thuật đều lấy cái nhỏ, cái tinh vi làm trọng. Nhưng lần này mọi chuyện lại đảo ngược hoàn toàn, chủ mộ trọng quy mô lớn khiến hắn không lường trước được.

Hắn trở về chỗ tấm bia đá, đem những điều vừa tìm thấy kể lại. Mọi người đều ồ lên, cánh cửa này chứa đựng rất nhiều triết lý thâm sâu, bọn họ lại vừa trải qua cách mạng văn hóa, làm sao mà hiểu được? Văn Cẩm trầm tư một lát, đột nhiên lên tiếng: “Vừa rồi hành vi của Tam Tỉnh kì lạ như vậy, hệt như bị một nữ quỷ ám vào, liệu đó có phải chủ nhân ngôi mộ này hay không, nếu thế thì cánh cửa anh ấy vừa tiến vào có thể là cửa sinh chăng?”

Trương Khởi Linh nhìn thần thái rạng rỡ của cô giống như vừa phát hiện điều gì, hỏi: “Cô nghĩ ra gì vậy?”

Văn Cẩm bảo bọn họ đi theo mình đến chỗ tấm bia đá, cô bắt chước chú Ba nửa quỳ xuống, đầu hơi ngẩng lên, bắt đầu chải tóc. Cơ thể cô ấy rất đẹp, tư thế bày ra vô cùng mị hoặc, mấy anh chàng kia đều nhìn đến ngây người. Văn Cẩm chải mấy cái rồi rụt rè quay đầu lại, vừa mới cử động, đột nhiên cô run lên, hét lớn: “Tìm được rồi!”

Mọi người vội vã chạy tới đó, xem tới xem lui trên tấm bia đến nửa ngày cũng không thấy gì, Văn Cẩm nói: “Không phải, mọi người nhất định phải quỳ ở chỗ này như tôi mới thấy được!” Trương Khởi Linh như hiểu được điều gì, bắt đầu quỳ xuống, Văn Cẩm đè lên vai hắn: “Anh cao quá, cúi xuống thấp chút nữa, mắt đừng nhìn thẳng, phải nhìn nghiêng về phía thái dương ấy.”

Trương Khởi Linh thấy hơi buồn cười, cũng học theo điệu bộ của cô khi nãy, chải đầu vài phát, sau đó liếc mắt một cái vô cùng nữ tính, chợt hắn thấy nơi bóng mình phản chiếu trên tấm bia đá, ở thái dương có hình bóng mờ mờ ảo ảo của ba con cá nối đuôi nhau thành vòng tròn. Hắn giật mình, đầu hơi cử động, phát hiện chỉ cần góc nhìn lệch đi một chút, dấu hiệu đó liền biến mất.

Hắn à lên một tiếng, cuối cùng cũng hiểu được cái gì gọi là hữu duyên, lòng tức tối chửi thầm, xem ra chỉ có mấy cô nàng nghiệp dư, vô tình quỳ trước bia đá chải tóc mới có thể phát hiện ra dấu hiệu này, hơn nữa cao hơn hay thấp hơn đều không được. May mà Văn Cẩm quan sát cẩn thận, bằng không một gã đàn ông như hắn có nghĩ đến nát óc cũng không ra. (Tôi nghe xong cũng chợt bừng tỉnh, mà nói đi cũng phải nói lại, chẳng lẽ lúc sinh thời chủ mộ này chính là một tên đại sắc lang?)

Hắn tỉ mỉ quan sát hình con cá, phát hiện ấn ký đó di chuyển rất chậm, xem ra bên trong phiến đá này là một cơ quan quay cùng vận tốc với bờ ao, vị trí ấn ký này chỉ vào chính là Thiên môn. Hắn nghĩ tới đây liền bảo Văn Cẩm quan sát, còn mình thì cầm đèn pin chạy tới bên thành ao, lần lượt đứng ở vị trí các cửa ngầm, tới cửa số ba, Văn Cẩm thấy vị trí của ấn ký trùng với luồng sáng của đèn pin, hô lớn: “Là cửa này!”

Mọi người hoan hô mừng rỡ, đến cả Trương Khởi Linh cũng không kiềm được mà siết chặt nắm tay. Hắn đẩy cửa ngầm ra, nghiêng người đi vào, lối đi này cực hẹp, hướng thẳng vào bên trong. Lần này Trương Khởi Linh cực kì cẩn thận, đầu tiên hắn kiểm tra vách tường bốn phía, khẳng định không còn cơ quan nào nữa mới cho mọi người tiến vào.

Đường đi này cũng được xây bằng đá Thanh cương, chiều rộng chỉ đủ cho một người, cho nên đã có hai người hơi mập không thể chui lọt. Trương Khởi Linh bật đèn đi trước xem xét, thấy không gian trước mặt tối đen, hòa với màu vốn có của đá Thanh cương tạo nên cảm giác âm u tựa như màu của cõi âm phủ. Hắn tập trung chú ý, từng bước đi đều vô cùng cẩn thận, chỉ cần một tiếng động nhỏ vang lên cũng sẽ đứng lại nghe ngóng thật lâu. Nhưng lúc này hắn đã trở thành thủ lĩnh tinh thần của cả đoàn, hắn nói gì mọi người nghe theo đó, không ai nói nửa câu thừa thãi.

Bọn họ đi được nửa giờ, xung quanh tuyệt nhiên vẫn tối mịt, Trương Khởi Linh có cảm giác cả vũ trụ lúc này chỉ còn mình họ, trong lòng cũng bắt đầu thấy bức bối khó chịu. Đúng lúc này, đường đi trước mặt bắt đầu dốc lên, hắn ngẩng đầu, bất chợt phát hiện ở tít đằng xa le lói chút ánh sáng, tuy chỉ mờ nhạt như ráng chiều nhưng lại vô cùng ấm áp. Trương Khởi Linh biết đó chính là đích đến, kêu một tiếng, bước chân gấp gáp tiến lên. Điểm sáng càng lúc càng gần, đột nhiên mặt đất dưới chân trở nên bằng phẳng, bốn phía chung quanh bỗng bừng sáng lên như bị ánh vàng bao phủ. Hắn nheo mắt lại trước ánh sáng đột ngột, vừa nhìn sơ qua đã kêu lên kinh hãi, thiếu chút nữa quỵ xuống.

Trước mắt bọn họ xuất hiện một gian phòng lớn hình vuông, không đơn thuần là rộng mà còn ẩn chứa một thứ khí phách mãnh liệt, không gian bên trong chỉ có thể hình dung bằng hai chữ choáng ngợp, khiến người ta cảm thấy xúc động đến mức muốn quỳ sụp xuống.

Mỗi cạnh của gian phòng này đều có mười cây cột gỗ lim vàng đứng ngay ngắn, ba người ôm không xuể, hệt như những cây cột chống trời nơi chân trời góc biển. Cả căn phòng tuyền một màu vàng, mỗi bên trái phải dài mười trượng, xà nhà chạm khắc tỉ mỉ, còn có mười con kim long ngũ trảo (rồng vàng năm móng), vô cùng nguy nga lộng lẫy. Trần căn phòng cao hơn mười thước, khảm năm mươi bức tinh đồ (bản đồ các ngôi sao), mỗi ngôi sao là một viên dạ minh châu, kích thước áng chừng bằng một quả trứng ngỗng, phát ra ánh sáng yếu ớt. Bốn góc phòng lại đặt bốn tấm gương lớn, ánh sáng phản xạ qua lại, tuy không sáng đến chói mắt nhưng cũng đủ chiếu sáng không gian. Nhưng thứ khiến cho bọn họ kinh ngạc nhất là một chiếc bàn đá cực lớn được đặt ở chính giữa căn phòng, Trương Khởi Linh vừa nhìn đã nhận ra, bên trên bàn đá là mô hình một cung điện nguy nga. Dù chỉ là mô hình nhưng lầu rồng điện ngọc, núi non sông nước không thiếu thứ gì, cực kì đồ sộ.

Trương Khởi Linh hưng phấn chạy tới, xem xét vài vòng xung quanh, nhận ra đây chính là mô hình Vân Đỉnh thiên cung. Hắn không nghĩ bên trong cổ mộ này lại có một cung điện lớn như vậy, thế nên không thấy có gì thất vọng, chỉ là tâm trí càng thêm rối bời. Xem ra Uông Tàng Hải thực sự xây nên một thiên cung, vậy thiên cung nằm ở nơi nào? Không lẽ thực sự ở trên trời?

Phát hiện này quả thực chấn động, mọi người háo hức dồn tới quan sát, mấy nam sinh còn cao hứng đỡ cả Hoắc Linh lên bàn đá. Hoắc Linh cười cười mãi mới đứng vững được, bỗng nhiên thét lên, nhảy xuống, run run nói: “Bên trên có người chết!”

Trương Khởi Linh kinh ngạc, vội vàng nhảy lên, thấy ở chính giữa mô hình là một hoa viên hình tròn bằng ngọc thạch, trên một tảng đá bên trong đó có một thây khô đã hoàn toàn co rút, quần áo trên người rách nát hết lộ ra thân thể màu đen. Đây là một tọa hóa kim thân* được gió tự nhiên sấy khô, vô cùng hiếm có, chỉ cần đánh thêm chút phấn vàng là có thể đưa lên chùa làm tượng cúng bái. Thi thể này một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tóc và móng tay cũng giống những kim thân khác, sau khi chết đi vẫn không ngừng sinh trưởng, đặc biệt móng tay đã dài gần bằng ngón tay, nhìn vào có điểm không hợp lý.

Tọa hóa kim thân: Chỉ thi thể các hòa thượng viên tịch khi đang trong tư thế ngồi thiền.

Hắn nhảy tới trước mặt thi thể không chút ngại ngần, trước tiên nhìn vào miệng người chết, xác định không ngậm vật gì, sau đó sờ vào nách rồi vừa xoa vừa ấn thi thể từ trên xuống. Văn Cẩm cũng nhảy lên, thấy thế mới đến sau lưng hắn, nhẹ giọng hỏi: “Trương Khởi Linh, rốt cục lai lịch của anh như thế nào, sao lại thông thuộc chuyện đổ đấu như vậy?”

Trương Khởi Linh nhìn cô, không hề mở miệng, Văn Cẩm nổi giận, nắm lấy tay hắn nói: “Anh rõ ràng là một tay chuyên đổ đấu, nếu không khi vào trong mộ sẽ chẳng thể bình tĩnh như vậy. Anh đi theo chúng tôi, rốt cuộc có dụng ý gì?”

Trương Khởi Linh ra hiệu im lặng, đưa tay chỉ vào thi thể, nói: “Chuyện đó không quan trọng, cô xem đây!” Nói xong, hắn cởi số quần áo còn sót lại trên thi thể xuống, lộ ra một vết sẹo lớn trên bụng, kéo dài từ xương sườn cuối cùng bên trái tới tận đan điền, hắn nắn bóp bụng thi thể một lúc, rồi cầm tay Văn Cẩm đặt lên đó xoa xoa. Cô run lên, quả nhiên bên trong bụng thi thể này có giấu thứ gì đó.

Trương Khởi Linh ngẩng đầu, bây giờ hắn không chắc mình có muốn mang thứ trong bụng thi thể ra hay không. Nếu người này trước khi chết đã mang thứ đó giấu vào bụng thì chứng tỏ vật này đối với hắn vô cùng quan trọng, hoặc đây là cách khảo nghiệm của người đã chết đối với bọn họ. Nguyên tắc của Trương Khởi Linh là tuyệt đối không vì bất cứ thứ gì mà hủy hoại thi thể trong cổ mộ, hắn đấu tranh tâm lý thật lâu, lại nhìn sang Văn Cẩm. Cô là người thuộc Bắc phái, đương nhiên trọng đạo nghĩa, lắc đầu nói: “Hạ thủ bất nhân, ắt bị trời phạt.”

Trương Khởi Linh thở dài, quyết định thôi đi vậy. Hắn chầm chậm lùi về phía sau, lạy thi thể kia một lạy, đến khi ngẩng đầu lên bỗng phát hiện có chỗ không hợp lý. Nhìn trái nhìn phải một hồi, hắn chợt hít vào một ngụm khí lạnh, thì ra thi thể khô héo kia vậy mà lại đang nở một nụ cười quỷ dị.
 
Quyển 2 - Chương 34: Liên hoàn


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Chuyện này thật sự là vô cùng hy hữu, dù là bánh tông đi nữa hắn cũng chỉ mới gặp qua loại biết chạy biết nhảy chứ chưa từng được thấy loại bánh tông biết cười. Trương Khởi Linh cảm thấy hơi căng thẳng, vội lui lại một bước, cả người căng lên chuẩn bị ứng phó với hành động tiếp theo của nó. Thật không ngờ bàn tay đang chỉ lên trên của cái xác khô kia bất ngờ cử động, chuyển hướng sang chỉ về phía đông, đồng thời cả gian phòng bỗng chốc tối sầm lại, mấy viên dạ minh châu trên trần không hiểu vì sao tắt ngúm trong nháy mắt.

Lúc cả bọn vào đây, vì tiết kiệm pin nên đã tắt hết đèn đi, lúc này tất cả đều sợ hãi hét lên. Trương Khởi Linh phát hiện căn phòng dù tối lại nhưng vẫn chưa đến nỗi tối đen như mực, vội ngẩng nhìn lên mới thấy bốn viên Dạ minh châu gần các góc tường nhất vẫn chưa tắt, trông như ánh đèn hiu hắt ở ngã tư đường trong đêm tối mịt mùng, chỉ chiếu sáng được một vùng nhỏ xung quanh. Lúc này lại nghe giọng nói run run của Lý Tứ Địa truyền lại từ bên cạnh: “Trên tường có… có … khuôn mặt!”

Trương Khởi Linh giật bắn người, quay nhìn sang mới thấy bức tường gạch vàng phía đông được viên dạ minh châu chiếu sáng mờ mờ tạo nên những đường nét kỳ lạ, bỗng dưng hiện ra một khuôn mặt người thật lớn trắng bệch.

Trương Khởi Linh biết đây lại là một trò lừa bịp khác, chán nản nhảy xuống đài đá, tiến đến đứng trước bức tường gạch phía đông xem xét, hóa ra trên tường quả thực có hình vẽ. Loại hình vẽ này hình thành khi có ánh sáng chiếu tới từ một hướng cố định, bóng của những khe rãnh trên tường sẽ tạo thành hình ảnh, nếu ánh sáng chiếu tới không đúng góc độ, hình ảnh sẽ không xuất hiện. Cũng vì đường nét của bức tranh này rất quỷ dị, trong tình huống căng thẳng rất dễ bị người ta tưởng tượng thành một khuôn mặt người đáng sợ.

Hắn quan sát thật kỹ, không khỏi giật mình. Hình ảnh trước mắt hắn dường như là một bức tranh tự sự, nội dung trên đó hẳn là miêu tả lại thời điểm Vân Đỉnh thiên cung vừa mới xây xong. Hắn thấy cái gọi là Thiên cung thật ra là một tòa kiến trúc được xây dựng trên một ngọn núi cao chót vót, trên đỉnh núi mây mù bao phủ hầu như che khuất cả cung điện, gây cho người ta cảm giác nó đang lơ lửng trên mây. Trương Khởi Linh thấy trên đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, hẳn là rất cao so với mặt nước biển, không biết là ngọn núi nào.

Hắn ngoảnh đầu nhìn lại, phát hiện trên bốn bức tường đều có hình vẽ hiện ra, vội bước tới bức tường phía nam tiếp tục xem xét. Chỉ thấy trên đó vẽ vách núi dưới thiên cung bị tạc thành rất nhiều sạn đạo (*) và hang đá nối tiếp nhau, một nhóm nhân công đang dùng ròng rọc kéo một cỗ quan tài rất lớn lên dọc theo từng hang đá. Đội ngũ đưa tang xếp thành hàng bám víu vào sạn đạo, khó nhọc leo lên trên. Trương Khởi Linh a lên một tiếng, Thiên cung này hóa ra lại là một lăng mộ, vậy người trong quan tài là ai đây?

(*) đường núi làm bằng cọc gỗ lát ván, dựng ở những nơi hiểm trở như hẻm núi hoặc bờ vực.

Hắn tiếp tục xem đến hình vẽ trên tường phía tây, càng cảm thấy kỳ quái hơn. Trên đó là hình ảnh sạn đạo nơi vách núi chìm trong ngọn lửa hừng hực. Những binh sĩ giữ lăng vì muốn đảm bảo an toàn cho lăng mộ nên đã thiêu hủy con đường duy nhất dẫn lên Thiên cung sau khi nghi thức nhập liệm kết thúc. Làm như vậy về cơ bản có thể ngăn chặn hoàn toàn nguy cơ bị trộm mộ, dù là người Nam phái hay Bắc phái, không ai có thể đến một nơi cao như thế, vượt qua vách núi hàng trăm mét chỉ để đổ một cái đấu, chuyện này là không thể và cũng không cần thiết…

Trong trí nhớ hắn chưa bao giờ gặp loại mộ táng như thế này, không khỏi cảm thấy kinh ngạc, vội chạy đến trước hình vẽ cuối cùng. Vừa nhìn thấy hắn đã ngây người, vì hình vẽ này đơn giản lạ lùng: Thiên cung trên đỉnh núi bỗng dưng biến mất, chỉ thấy một vùng ngập trong tuyết trắng, không những thế, ngay cả vách núi cũng bị phủ lên một tầng trắng xóa. Tuy hình vẽ không mấy sống động nhưng Trương Khởi Linh vẫn nhìn ra được đây là một trận tuyết lở.

Hắn đoán có thể là do lửa lớn làm hơi nóng bốc lên khiến cho lớp tuyết đọng trên Thiên cung tan ra rồi lở xuống mới tạo thành một trận tuyết lở kinh hoàng như vậy, không chỉ chôn vùi Thiên cung mà còn che phủ cả đỉnh núi dưới lớp tuyết trắng, biến Thiên cung thực sự trở thành một mộ phần.

Hắn xem đến đây không khỏi thở dài một hơi, thật không ngờ vận mệnh của Vân Đỉnh thiên cung cuối cùng lại là như vậy. Xem ra Uông Tàng Hải vẫn luôn canh cánh trong lòng chuyện này, tác phẩm kiệt xuất của bản thân vừa mới hoàn thành không bao lâu đã bị băng tuyết chôn vùi, bấy nhiêu là đủ để ông ta buồn phiền đến chết rồi, chẳng trách ông ta muốn dùng phương pháp bí mật ghi chép lại chuyện này. Đây là lăng mộ của một nhân vật địa vị hiển hách, ông ta chắc chắn không thể đem tác phẩm này ra để lưu danh hậu thế, nhưng với tính cách thích khoe khoang của mình, ông ta nhất định sẽ tìm cách thức nào đó để cho hậu thế biết rằng trong số tác phẩm của mình còn có một tòa Vân Đỉnh thiên cung huy hoàng tráng lệ đến thế.

Hiện tại điều duy nhất hắn không biết chính là người được chôn trong phần mộ này là ai. Trương Khởi Linh hít sâu một hơi, chợt thấy Văn Cẩm cùng hai người nữa đang cố gắng di chuyển tấm gương lớn ở góc ĐôngNam. Hắn cảm thấy cực kỳ khó hiểu, vội hỏi cô làm gì vậy, Văn Cẩm lo lắng nói: “Tôi vừa thấy Tam Tỉnh núp sau tấm gương này, vừa chớp mắt đã chẳng thấy đâu nữa.”

Trương Khởi Linh lúc này mới nhớ tới chuyện của chú Ba, vội đến giúp một tay. Tấm gương đồng khắc chữ Phúc mạ vàng cao gần 2 mét này nặng khủng khiếp, cả bọn dốc hết sức ra mới dịch chuyển được nửa mét, mọi người ngó vào xem thử, chỉ thấy trên vách đá chỗ góc tường đằng sau tấm gương có một cửa động hình vuông cao hơn nửa người. Trương Khởi Linh soi đèn vào, chỉ thấy bên trong tối đen như mực, không biết nó dẫn đến đâu.

Mấy ngày trước, khi chú Ba dự tính quy mô lăng mộ đã không hề phát hiện ra ở đây còn có một căn phòng lớn như vậy, nhưng Trương Khởi Linh đã sớm biết lăng mộ này không chỉ đơn giản như dự đoán của chú. Mộ thuyền táng không giống như lăng mộ trên đất liền, trong quá trình thuyền đắm, cả con thuyền phải giữ được cân bằng tuyệt đối, vì vậy mà kết cấu lăng mộ cần phải có tính đối xứng vô cùng cao. Chú Ba tính ra quy mô lăng mộ mặc dù không sai về nguyên tắc, nhưng rõ ràng là trên nặng dưới nhẹ, nếu kết cấu ngôi mộ đúng như chú dự đoán thì nói không chừng trong quá trình chìm xuống cả ngôi mộ đã lật nhào giữa biển rồi.

Khi đó hắn không muốn gây sự chú ý nên cũng lười tranh luận với chú Ba, bây giờ nhớ lại, ở đây có một thông đạo để cân bằng cũng chẳng có gì lạ.

Hắn giải thích với mọi người rồi mở đèn pin dẫn đầu đi vào. Từ lúc vào đạo động, đèn pin mở liên tục nên ánh sáng đã bắt đầu yếu đi. Văn Cẩm bảo bọn họ mở đèn đằng trước và đằng sau, còn nhừng người khác thì tắt hết. Bên trong thạch đạo tương đối rộng, đủ để bốn người có thể đi song song. Hoắc Linh thấy Trương Khởi Linh với Văn Cẩm đi gần nhau như thế, cảm thấy có chút khó chịu bèn lách lên chen vào giữa hai người. Lúc này Trương Khởi Linh bắt đầu cảm thấy tình hình có vẻ không ổn, hắn thấy thấp thoáng trong khoảng tối phía trước có thứ gì đó đang chuyển động.

Đồng thời mùi hương càng ngày càng đậm kia cũng khiến hắn chú ý, cảm giác này giống như họ đang tiến đến gần nơi mùi hương phát ra. Đi thêm vài bước nữa, mùi hương đã nồng đến mức hắn không thể nào tập trung được tinh thần. Hắn quay lại định hỏi Văn Cẩm thì thấy mấy người phía sau hầu như đã ngã hết trên mặt đất, Văn Cẩm xoa trán, mơ màng nhìn hắn một cái rồi ngã vào trong ngực hắn.

Trương Khởi Linh thầm than không ổn, lập tức nín thở nhưng đã không còn kịp nữa. Hắn chỉ cảm thấy cơn mệt mỏi kéo tới không cách nào chống cự, thân thể ngã vào vách tường, dần dần mất đi ý thức. Giữa cơn mông lung, hắn thấy chú Ba ngồi xuống nhìn mình, nét mặt không chút biểu cảm.

Muộn Du Bình nói tới đây thì hít sâu một hơi, trở nên trầm mặc: “Lúc tỉnh lại tôi đã thấy mình nằm trên giường bệnh, cái gì cũng không nhớ, cái gì cũng không biết, đến mấy tháng sau mới dần dần nhớ lại một vài chi tiết vụn vặt, lại thêm vài năm nữa, tôi bắt đầu phát hiện cơ thể của mình có vấn đề.”

Tôi sốt ruột muốn xen vào hỏi, phải chăng hắn đã phát hiện ra mình không hề già đi? Nhưng hắn không cho tôi một cơ hội nào, lập tức tiếp lời: “Bây giờ tôi vẫn chưa thể nói cho cậu biết đó là chuyện gì, nhưng mà ba tháng trước tôi gặp chú Ba cậu, thấy ông ấy nhìn rất quen, cũng nhớ thêm vài chuyện nên mới cùng mấy người các cậu đi Lỗ Vương cung.”, nói đến đây, hắn bỗng dưng quay sang nhìn tôi: “Trong Lỗ Vương cung, tôi phát hiện chú Ba cậu thực sự có vấn đề!”

Tôi ngẩn người không biết hắn có ý gì, hắn lại tiếp tục: “Sách lụa tơ vàng các cậu lấy ra từ quan quách đồng đen kia thật ra là giả, nó đã bị chú Ba cậu đánh tráo từ trước rồi.”

Tôi kinh hoàng quát lớn: “Nói bậy! Mẹ nó chứ không phải anh mới là người đánh tráo sao?”

Muộn Du Bình thản nhiên liếc tôi một cái, nói: “Không phải, là chú Ba của cậu làm, ông ấy với Đại Khuê đào động từ phía sau cái cây thẳng tới đáy quan tài. Đại khái đó cũng chính là nguyên nhân vì sao Đại Khuê nhất định phải chết.”

Nghe xong cả người tôi phát run, cảm thấy căng thẳng hơn bao giờ hết. Tuy vẫn còn muốn đứng về phía chú Ba, nhưng trong đầu tôi như có tia chớp xẹt qua, vô số cảnh tượng thi nhau tái hiện. Tôi nhớ Đại Khuê vì sao mà trúng độc, nhớ Phan Tử trước khi leo lên cây còn rất tỉnh táo nhưng khi chúng tôi lên đến mặt đất anh ta đã chìm vào hôn mê sâu, nhớ lại lúc tôi với Bàn Tử còn chưa kịp leo lên khỏi khe hở kia, chú đã khiêng thùng xăng chạy đến.

Tôi không thể nào nghĩ tiếp được nữa, chỉ cảm thấy mọi thứ trên đời đều đảo lộn, không biết đâu là thật đâu là giả, rốt cuộc tôi nên tin tưởng ai. Tôi cảm thấy đầu óc rối bời, không thể kiềm chế được mà lẩm bẩm: “Không đúng, không đúng, chuyện không đơn giản như vậy, không có động cơ, rốt cuộc chú Ba tại sao phải làm như thế?”

Muộn Du Bình thản nhiên đáp: “Nếu kẻ đó thực sự là chú Ba của cậu thì đúng là không hề có động cơ. Nhưng mà…”, nói tới đây, hắn thở dài.

Tôi không hiểu ý hắn, có điều trong lòng đã bắt đầu tin tưởng hắn, không khỏi cười gượng. Trước kia tôi luôn muốn biết rốt cuộc chú Ba đang gạt tôi những chuyện gì, còn bây giờ tôi lại muốn biết rốt cuộc những chuyện nào chú mới không dối gạt tôi.

Sự việc biến đổi chóng vánh như vậy tôi cũng không thể nào ngờ đến, nhưng nghĩ lại thì lúc này chuyện đó không quan trọng. Bất kể ai thật ai giả đều phải chờ cho chúng tôi thoát ra rồi mới có ý nghĩa, chứ nếu chết cả ở đây thì biết được chân tướng cũng chẳng để làm gì.

Nghĩ vậy tôi vội lấy lại bình tĩnh, để bản thân thả lỏng một chút. Lúc này tôi thấy Bàn Tử chạy tới trước tấm bia đá, lóng ngóng ngồi phịch xuống, nhấc đầu ngón tay, ngồi ở đó lắc lư nghiêng ngó. Tôi nhíu mày kêu lên: “Tên mập chết tiệt, mẹ nó, anh lại bày ra trò gì nữa đây? Anh không thể ở yên một chỗ giùm tôi được sao?”

Hắn khẽ xoay đầu, giả giọng nữ trả lời: “Con mẹ nó, ai gia đang chải đầu, chỉ chải đầu mà không cần cái mạng của ngươi, ngươi nhiều chuyện cái gì?”. Tôi hết cách, mới hỏi hắn: “Chải đầu? Chẳng lẽ anh cũng muốn đi vào Thiên môn xem thử sao?”

Bàn Tử nói: “Đương nhiên, khung cảnh huy hoàng tráng lệ như vậy Bàn gia tôi làm sao có thể bỏ qua. Với lại cậu xem, chúng ta xuống được đến đây cũng chẳng dễ dàng gì, cô nàng kia lại chạy đâu mất, xem ra chúng ta cũng chẳng trông chờ gì được vào tiền thù lao rồi. Dù thế nào đi nữa cũng phải lấy cho bằng được mấy viên dạ minh châu, cái này gọi là có tiền thì không đi đổ đấu, mà đổ đấu thì không tay trắng ra về.”

Tôi mắng: “Nãy giờ anh nghe bao lâu, hóa ra là chỉ nhớ được mỗi Dạ minh châu thôi à?”

Hắn nghe xong, ấm ức nói: “Ai, đúng ra cậu không nên nói tôi như vậy, Bàn gia tôi đây muốn đi vào Thiên môn còn có một nguyên nhân quan trọng khác, các cậu có biết là gì không?”
 
Quyển 2 - Chương 35: Dòng chữ bằng máu


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Bàn Tử nghe xong không giận trái lại còn cười, dường như đã sớm có sự chuẩn bị: “Đương nhiên không phải, Bàn gia tôi đây muốn đi vào Thiên môn còn vì một nguyên nhân quan trọng khác, các cậu có biết là gì không?”

Tôi nói với hắn: “Ai biết được trong đầu anh nghĩ gì chứ, thích nói hay không thì tùy anh. Đừng quên lúc này chúng ta vẫn còn đang mắc kẹt, nếu định nói chuyện không đâu thì miễn giùm đi.”

Bàn Tử nói với tôi: “Cậu đừng nóng, chuyện tôi muốn nói có liên quan mật thiết với hoàn cảnh của chúng ta lúc này. Vừa rồi cậu không nghe Tiểu Ca nói sao, hành lang đằng sau Thiên môn dốc lên trên, mà căn phòng lớn nơi đặt mô hình Thiên cung lại vô cùng cao, đã cao còn lên cao nữa, ít nhất cũng phải hơn 10 mét. Cậu nghĩ thử xem cả cổ mộ này sâu bao nhiêu? Tôi đoán trần căn phòng đó chính là nơi cao nhất cổ mộ, cậu nói xem chúng ta muốn thoát ra ngoài thì nên bắt đầu từ đâu?”

Tôi nghe xong chợt bừng tỉnh, vội vàng nhẩm tính. Lúc vừa xuống đến mộ đạo dưới đáy nước, tôi có xem qua đồng hồ lặn, khi đó đã xuống sâu hơn mười ba mét. Bây giờ chúng tôi đang ở dưới đáy ao, từ nền căn phòng xuống đến đây khoảng hơn mười mét, có nghĩa là chúng tôi đang ở độ sâu khoảng hai mươi đến ba mươi mét dưới đáy nước. Tính ra trần của căn phòng nơi đặt mô hình Vân Đỉnh thiên cung kia cách đáy biển chưa đến mười mét, hoàn toàn đúng như lời Bàn Tử đã nói.

Vừa rồi mải lo nghe kể chuyện, không hề chú ý đến chi tiết nhỏ này, tôi không khỏi nhìn Bàn Tử bằng ánh mắt khác hẳn. Người này nhìn qua thì có vẻ lỗ mãng, thật ra lại nhạy bén vô cùng, xem ra sau này có xảy ra chuyện gì thì cũng khó mà gạt được hắn. Nghĩ đến đây, tôi quay ra nói với bọn họ: “Bàn Tử nói rất đúng, nhưng bây giờ có biết cũng vô dụng. Trong tay chúng ta chẳng có thứ gì, chưa nói đến chuyện không leo lên được trần phòng cao mười mét, mà dù có leo lên được đi nữa, trên đó còn mấy tầng gạch, trong tay lại không có công cụ thì cũng chẳng làm gì được. Tôi thấy tốt hơn hết là chúng ta đi tìm vài món minh khí bằng kim loại trước đã rồi mới quay lại thực hiện tiếp kế hoạch đào đạo động ngược lên, chứ còn dây dưa ở đây mãi thì sẽ lỡ thời điểm thủy triều rút mất.”

Dù nói vậy nhưng thực ra trong lòng tôi cũng không hy vọng gì nhiều, bởi lẽ những nơi chúng tôi đi qua từ đầu đến giờ, đồ tùy táng nếu không phải bằng sứ thì là đồ đá, đến một món đồ bằng kim loại cũng không có, điều này có hơi bất thường. Tôi mơ hồ cảm thấy đây hình như là sự sắp xếp có chủ ý của chủ nhân ngôi mộ này; bây giờ chỉ còn cách vào hậu điện xem xét thử, nếu vẫn không có gì thì đúng là ý trời muốn chúng tôi bỏ mạng lại dưới này rồi.

Bàn Tử nghe tôi nói xong, cười ha hả: “Tôi cũng nghĩ kỹ rồi, bốn phía trong căn phòng lớn kia không phải đều có gương đồng khắc chữ Phúc mạ vàng hay sao? Cậu làm nghề buôn bán đồ cổ thì cũng phải biết loại gương này có hình dạng như thế nào chứ? Chúng ta dỡ phần chân đế của tấm gương ra, thứ đó khá nặng, hẳn có thể dùng thay cho búa được.”

Lúc nãy tôi nghe cái tên này thấy cũng quen quen, giờ hắn nói vậy mới nhớ ra mình đã từng sang tay thứ này, nhưng hình dạng của nó ra sao thì tôi quên béng mất rồi. Thấy Bàn Tử khẳng định chắc nịch như vậy, không giống như đang nói chơi, tôi cũng có chút yên lòng bèn nói với hắn: “Được rồi, chuyện này chúng ta cứ quyết định như vậy. Thời gian không còn nhiều, chúng ta bắt đầu hành động luôn đi. Nhưng vào trong đó rồi anh tuyệt đối không được đụng tới bất cứ thứ gì đâu đấy, dưới này đâu đâu cũng là cơ quan, năm tháng sau này của chúng ta còn dài, đừng vì ham hố mấy món đồ của người chết mà hại mình chết dí dưới cái xó này!”

Bàn Tử nghe xong thì gật gật đầu, cam đoan rằng ngoài gạch ra thì hắn kiên quyết không đụng đến những thứ khác. Tôi sợ hắn vẫn còn lưu luyến mấy viên Dạ minh châu, lại nhấn mạnh thêm mấy lần đến khi hắn phát bực mới thôi. Tôi hỏi cho rõ ràng kết cấu của căn phòng đó, cùng hai người kia thống nhất biện pháp giải quyết các tình huống có khả năng gặp phải. Sau đó ba người chúng tôi y theo kế hoạch đã đề ra, đầu tiên là tìm Thiên môn, tiếp đó Bàn Tử dẫn đầu, sau đấy đến tôi, Muộn Du Bình đi cuối cùng, chúng tôi bắt đầu tiến vào trong Thiên đạo chật hẹp.

Từ lời kể của Muộn Du Bình, tôi cũng đã hình dung được cảnh tượng bên trong Thiên đạo, nhưng khi tự mình đi vào lại có cảm giác khác hẳn. Ban đầu cũng không có cảm giác gì, chỉ thấy giống như đi trong con hẻm lát đá ở Tây Đường, Gia Hưng vào buổi tối, có điều hơi chật hẹp hơn một chút mà thôi. Nhưng đi được một quãng, thấy trước không bờ sau không bến, tôi bắt đầu hoảng lên. Tôi đi ở giữa, có tối mấy cũng không phải sợ, nhưng bốn phía lại tĩnh lặng vô cùng. Chúng tôi đều mang theo chân nhái, tiếng bước chân cứ lạch bạch lạch bạch vang dội trong hành lang chật hẹp nghe cực kỳ quái dị, cứ như có một con quái vật đang đi theo đằng sau vậy. Bàn Tử vốn vững thần kinh, đối với chuyện này chẳng hề có cảm giác, chẳng qua chỗ này quá chật chội, hắn đi đứng không được thoải mái nên rất khó chịu: “Mẹ nó, không biết thằng cha nào tạo ra cái thạch đạo này, rõ ràng hắn muốn phân biệt đối xử với người béo như tôi mà. Cậu nói xem Thiên đạo dẫn lên Thiên môn sao lại khó coi như thế, nếu đường đi lối lại trên trời đều giống cái Thiên đạo này thì phật Di Lặc khỏi đi đâu được luôn!”

Tôi nói với hắn: “Không thể nói như vậy được, ông ta thiết kế như vậy hẳn là có lý do riêng. Đây là thuyền táng, thuyền có lớn mấy cũng có giới hạn, có lẽ ông ta vì muốn phô trương Thiên cung của mình nên đành phải tiết kiệm bớt không gian của những nơi khác. Hơn nữa trước giờ người đi đổ đấu toàn dạng vừa thấp vừa gầy, ai ngờ được người mập như anh cũng đi làm nghề này.”

Bàn Tử nghe xong có phần đắc ý, nói: “Ây, nói đến phái Mô Kim từ xưa đến nay, những cái khác không bàn, nhưng luận về sức khỏe Bàn gia tôi thế nào cũng đứng đầu. Tuy hơi béo một tí nhưng là béo khỏe béo đẹp, không ảnh hường gì đến thân thủ của tôi cả, cái này gọi là… ối!”

Bàn Tử đang nói, cả người đột nhiên khựng lại không đi tiếp nữa, tôi nhìn qua thì thấy hai vai hắn dính sát vào vách tường hai bên, bị kẹt cứng ở đó, được thể cười to: “Ai bảo anh khoe khoang rồi tự mình làm xấu mặt mình chứ.”

Bàn Tử thử nhúc nhích vài cái, nhưng không sao qua được, buồn bực nói: “Tiểu Ngô, cậu khoan cười đã, chuyện này có gì lạ lắm. Vừa rồi tôi còn đi qua được mà, sao giờ lại bị mắc kẹt.”

Tôi quan sát bốn phía, trả lời hắn: “Xem ra bề rộng của thạch đạo này không đồng nhất, có thể đoạn chúng ta đi qua lúc nãy rộng rãi hơn một chút, đến đây dần thu hẹp lại. Anh lui lại mấy bước thử xem có lách người ra được không.”

Bàn Tử lắc lắc cái mông căng tròn, cố gắng lui lại mấy bước nhưng vẫn như cũ, hắn nói: “Không đúng, không đúng, không phải nguyên nhân này. Hành lang này rõ ràng là chật hơn lúc đầu, tôi thấy mấy bức tường này lạ lắm, Tiểu Ngô, tôi chỉ sợ có chuyện bất thường.”

Nãy giờ cứ cắm đầu đi thẳng một mạch về phía trước mà không chú ý đến vách tường, nghe hắn nói vậy tôi cũng cảm thấy vách tường có hẹp lại một chút, bèn thử chống tay sang hai bên, bỗng cảm có cảm giác kỳ quái, tôi a lên một tiếng: “Toi rồi, hai bên vách tường hình như đang khép lại!”

Muộn Du Bình cũng sờ sờ vách tường, gật đầu nói: “Xem ra có biến rồi, không còn thời gian, chúng ta lui ra ngoài trước rồi tính sau!”

Tôi nghe vậy, thầm nhủ thôi cả đám gặp họa lớn rồi. Bị hai vách tường này ép lại, ba chúng tôi sẽ thành ba cái bánh nướng áp chảo mất, vội vã quay đầu co giò chạy thẳng. Bàn Tử thấy chúng tôi chạy nhanh như vậy, chỉ biết cố sức nghiêng người lách đi, miệng gào to: “Chờ tôi với, mẹ nó, hai người đừng có khôn lỏi thế chứ!”

Tôi chưa bao giờ chạy nhanh đến thế này, mấy lần suýt vấp ngã, bao nhiêu sức lực đều dùng bằng hết. Lúc tôi chạy gần đến cửa ra, hai bên vách tường rõ ràng đã hẹp lại rất nhiều, đến tôi còn phải nghiêng người mới có thể lách qua, Bàn Tử thì càng khổ sở hơn, chỉ có thể bò ngang như một con cua. Muộn Du Bình đưa tay phải định mở cánh cửa ngầm, đẩy hai cái, bỗng hắn chửi thề một tiếng, quay lại nói với tôi: “Bên ngoài có người chặn cửa xoay rồi!”

Bàn tử vừa nghe liền tái mặt, mắng to: “Cái Thiên môn chết tiệt, lần này coi như xong rồi, hai cậu mau mau nghĩ cách gì đi, không thì mấy gã trai trẻ chúng ta quy thiên tại đây hết bây giờ!”

Tôi nóng lòng đến cuống cả lên, cứ nhìn thấy bức tường từng chút từng chút thu hẹp lại, mẹ nó chứ cảm giác còn khó chịu hơn là chết nữa, nhưng tình thế quá cấp bách, thật chẳng biết làm sao cho phải. Ở vào hoàn cảnh này trừ khi xảy ra biến cố bất ngờ, không thì có là thần tiên cũng hết cách. Tôi bèn nói: “Còn có cách gì nữa, đành phải chạy ngược lại chứ biết sao. Nếu nhanh chân không chừng còn có một con đường sống!”

Muộn Du Bình kéo tôi lại, lắc đầu: “Nãy giờ cũng đã hơn mười phút, không kịp nữa rồi, chúng ta leo lên trên thử xem!”, nói xong hai chân đạp vào hai bên vách tường rồi leo lên phía trên. Tôi ngẩng nhìn lên, chỉ thấy bên trên cũng tối đen như mực, không có vẻ gì là rộng rãi hơn cả, không biết leo lên đó thì ích gì. Nhưng chuyện đã đến nước này, so với đứng đây chờ chết thì leo lên có lẽ vẫn hơn, nghĩ vậy tôi liền gọi Bàn Tử cùng nhau leo lên.

Hành lang hẹp lại, leo lên cũng dễ như đi trên đường vậy, chúng tôi cứ hướng thẳng lên trên, chỉ vài phút đã leo được hơn mười mét, Bàn Tử không khỏi líu lưỡi, nói: “Tiểu Ca quả nhiên nhanh trí, thế này tốt hơn nhiều, có gì trước khi bị ép thành bánh nướng chúng ra cứ nhảy xuống tự sát quách cho xong! Còn hơn bị ép chết, khổ sở không tả được.”

Tôi cũng không biết Bàn Tử đang nói đùa hay thật, nhưng nghĩ tới chuyện bị ép thành bánh thịt lập tức cảm thấy ghê tởm. Chết như thế thực chẳng dễ chịu gì, nói không chừng còn nghe được tiếng xương đầu mình bị ép vỡ, tôi thà ngã chết chứ không bao giờ muốn mình bị ép chết tươi kiểu này. Lúc này Muộn Du Bình từ bên trên nói vọng xuống: “Đừng có nghĩ lung tung nữa, chúng ta vẫn còn thời gian. Hai người có nhớ đến đạo động dưới cái quan tài kia không?”

Bàn Tử trả lời: “Đương nhiên là nhớ, nhưng liên quan gì tới chúng ta?”, lời vừa ra khỏi miệng, hắn liền ồ một tiếng: “Tôi hiểu rồi, ý cậu là, chúng ta nên học tập theo tinh thần của người đó, một khi vẫn còn hi vọng thì quyết không buông tay phải không?”

Muộn Du Bình nói: “Không phải, trên đời này làm gì có ai đi đổ đấu mà địa cung có đường không chịu đi, lại đào động trên vách tường chui tới chui lui? Như vậy chỉ có thể có một khả năng, người đó đã bị vây khốn, không còn cách nào khác mới phải đào động trên tường để thoát thân.”

Tôi nghe thế lập tức hiểu ra, không khỏi giật mình, vội nói: “Ý anh là người đào ra cái động đó cũng giống như chúng ta, lâm vào tình thế cấp bách mới phải đào ra đạo động đó?”

Tôi không thể không khâm phục lối tư duy nhạy bén của Muộn Du Bình, đồng thời cũng hiểu vì sao hắn phải leo lên trên. Nền và hai mặt vách tường hành lang đều làm từ đá Thanh cương, trừ khi có thuốc nổ, không thì không tài nào đào nổi một cái động, nơi có thể ra tay được ngoài trần nhà ra không còn chỗ nào khác.

Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đã leo được đến đỉnh, trên này chỉ có một lớp gạch mỏng, tôi gõ thử vài cái, không khỏi mừng rỡ. Chúng tôi đoán không sai, quả nhiên những viên gạch này đều rỗng ruột, loại gạch này có thể chịu được áp lực nhưng lại rất dễ vỡ, chỉ cần có công cụ thích hợp, đục ra một cái lỗ cũng không quá khó khăn. Nhưng nhìn ra bốn phía chỉ thấy một màu tối đen chứ chẳng thấy đạo động đâu cả, Bàn Tử nói: “Không xong rồi, Tiểu Ca, thạch đạo này dài như vậy, cậu nói xem nếu người đó mở đạo động ở tuốt đầu bên kia hành lang thì phải làm sao bây giờ?”

Muộn Du Bình nói: “Bất cứ ai gặp phải trường hợp này chắc chắn đều chạy đến cửa ra, phát hiện cửa ra bị chặn mới bất đắc dĩ phải dùng tới cách đào đạo động thôi, cho nên cửa vào đạo động chắc chắn phải ở gần đây, còn nếu người đó đào ở chỗ khác, chúng ta cũng đành chịu thôi.”

Lời hắn nói rất thuyết phục, tôi cùng Bàn Tử gật đầu, xốc lại tinh thần bắt đầu tìm kiếm xung quanh đó, lúc này tôi với Muộn Du Bình còn dễ thở, nghiêng qua ngoảnh lại vẫn còn rộng ra được một nắm tay, còn Bàn Tử thì đã gần đến cực hạn, phải thót bụng lại mới có thể di chuyển được. Tôi thấy hắn phải chịu áp lực khá lớn bèn an ủi hắn, rằng thì là mỡ có bị nén đến mấy cũng không sao, chỉ cần hai vách tường không ép tới xương cốt anh thì không vấn đề gì đâu. Hắn nghe xong tái cả mặt, khoát tay bảo tôi đừng có nói nhảm nữa.

Chúng tôi bắt đầu từ ngoài cùng, tiếp tục bò vào bên trong hơn mười mét mà vẫn chưa phát hiện được gì. Thật ra thì bò ngang còn mệt hơn nhiều so với leo lên, chân tôi đã bắt đầu muốn nhũn ra, mấy lần suýt trượt xuống. Tôi biết nếu hai vách tường còn tiếp tục thu hẹp lại nữa, đầu gối cũng không thể gập lại được, di chuyển sẽ càng thêm khó khăn. Phía trước lại tối đen như mực, không biết cái đạo động kia rốt cuộc là ở nơi nào, nếu đúng như Muộn Du Bình nói, lỡ như nó được đào ra ở chỗ khác của hành lang này, tôi thật chẳng biết đối mặt với kiểu chết kinh dị này như thế nào nữa.

Nếu sớm biết sẽ lâm vào tình cảnh này, có lẽ cứ để cho Hải hầu tử cắn chết còn dễ chịu hơn. Nhiều người nói bánh tông quỷ quái gì gì đó đáng sợ thế này thế nọ, nhưng lúc này đây tôi thà gặp phải chục cái bánh tông còn hơn là bó tay chờ bị ép chết tươi ở trong này.

Bỗng Muộn Du Bình lấy đèn pin rọi về phía tôi, ý bảo chúng tôi qua đó. Tôi và Bàn Tử nghĩ rốt cuộc đã tìm được đạo động rồi, vui mừng khôn xiết, vội liều mạng chen đến bên cạnh hắn. Nhưng vừa ngẩng đầu nhìn lên đã ngẩn người, chỉ thấy trên lớp gạch trên đỉnh có một dòng chữ được viết bằng máu: “Ngô Tam Tỉnh hại tôi đến bước đường cùng, ngậm oan mà chết, có trời đất chứng giám… Giải Liên Hoàn.”

Tôi xem mà hoảng hồn, thầm nhủ đây cũng đâu phải là tiểu thuyết võ hiệp, bèn hỏi: “Đây… đây là ý gì? Người này là ai? Sao lại nói chú Ba hại hắn?”

Muộn Du Bình nói: “Giải Liên Hoàn cũng là người trong đội khảo cổ, chính là người nắm giữ Xà mi đồng ngư đã chết ở bãi đá ngầm.”

Tôi hả một tiếng, đầu óc rối bời, Muộn Du Bình đẩy tôi một cái, nói: “Người này để lại lời nhắn ở đây, lại không bị kẹp chết, chứng tỏ đạo động chắc chắn ở gần đây. Bây giờ không có thời gian để giải thích lời hắn nói có ý gì, chúng ta mau đi tiếp thôi.”

Tôi tiếp tục bò thêm vài bước, đột nhiên nhớ ra, Giải Liên Hoàn, cái tên này sao nghe quen quen, hình như ông nội tôi đã có lần nhắc tới.
 
Quyển 2 - Chương 36: Thoát vòng vây


Edit: Namichan

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi ngẫm nghĩ một chút, chợt nhớ ra Giải Liên Hoàn là ai. Kể ra nhà họ Giải và nhà họ Ngô chúng tôi cũng có gốc gác với nhau, hình như là quan hệ bà con thân thích xa lắc xa lơ gì đó, nhưng trải qua nhiều đời, cho đến thế hệ tôi cũng chẳng còn thân thiết gì cho cam. Có điều, dù sao bọn họ cũng là một gia tộc trộm mộ danh giá có lịch sử lâu đời, mà hình như Giải Liên Hoàn với chú Ba là hai cậu ấm khá thân với nhau. Tôi cũng chỉ mới gặp ông ta mấy lần, cơ mà những lúc quở mắng chú Ba, ông nội tôi vẫn thường xuyên nhắc tới chuyện nhà họ Giải, còn nói vì chú Ba mà cả đời này nhà họ Ngô chẳng thể ngẩng cao đầu trước mặt nhà họ Giải, tiếc cho đứa nhỏ Giải Liên Hoàn này, đi theo mày nên mới gặp phải chuyện đau lòng!

Bây giờ nghĩ lại, Giải Liên Hoàn đã chết như thế, chẳng trách ông già nhà tôi không cho tôi theo chú Ba, nguyên nhân hóa ra vì trước kia chú Ba đã từng có vết nhơ như vậy.

Bàn Tử ở phía sau đẩy đẩy, tôi không còn hơi sức đâu mà nghĩ tiếp, bèn cắn răng dịch lên phía trước mấy bước, quả nhiên trên nóc tường gạch xuất hiện một cửa động tối đen như mực. Bàn Tử vui vẻ kêu to, quả thật nói đại nạn đã ập đến cũng chẳng ngoa chút nào, cả người hắn trước sau đều chằng chịt những vết xước rớm máu do bị đá thanh cương cứa vào, giống như vừa mới tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ vậy (*). Tôi cũng chẳng khá khẩm hơn hắn là bao, chân đã mỏi rã rời, gần như kiệt sức. Có điều bây giờ gấp lắm rồi, Muộn Du Bình lên trước để quan sát, chui vào đá đá hai vách tường của đạo động vài cái, cảm thấy đủ chắc chắn mới lôi tôi theo vào. Bàn Tử thì có chút phiền phức, một mình tôi không lôi được hắn, đành để hắn tự lo. Hắn gào to một tiếng rồi ra sức chui vào, da lưng cũng tróc một mảng lớn mới thoát thân.

(*) Ở Thổ Nhĩ Kỳ có phong tục tắm hơi ở nhà tắm công cộng, khi tắm có người phục vụ massage; tắm nước nóng kết hợp với massage làm huyết mạch lưu thông, khiến làn da ửng đỏ.

Sau khi đứng vững, chúng tôi ngó xuống dưới, bất giác rùng mình, bởi lẽ hai bức tường đã khép sát vào nhau chỉ còn một kẽ hở nhỏ. Tôi không dám nghĩ nếu mình còn chưa thoát ra được thì bây giờ đã bị ép nát bét thành cái dạng gì. Lần này thật đúng là trời không tuyệt đường người, chỉ cần chậm ít phút nữa thôi, cho dù phát hiện ra đạo động thì ba chúng tôi cũng chẳng còn sống mà chui vào.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy cái đạo động hướng thẳng lên trên, đến độ cao tầm một đầu người thì đổi hướng, nghiêng theo hướng đông xuôi đi, có lẽ là nối với đạo động ở phía trên. Chân tôi gần như nhũn ra, có lẽ cũng chẳng kiên trì được bao lâu nữa, vội vàng thúc giục Muộn Du Bình đi nhanh lên một chút. Ba chúng tôi bò đến một khúc nghiêng, thì sức lực cũng tiêu tan hết, đành dựa vào vách động thở hổn hà hổn hển.

Chợt nghe bên dưới truyền đến âm thanh hai vách tường đá khớp vào nhau, tôi thở dài một hơi, xoa hai chân đã mỏi nhừ, cố gắng trấn tĩnh lại. Mới vừa rồi thực sự quá căng thẳng, bây giờ toàn thân được thả lỏng chợt cảm thấy buồn ngủ, tôi che miệng ngáp vài cái. Bàn Tử dựa vào vách động, mặt tái ngắt, trên người đầy những vết trầy trụa rớm máu, vừa thở hổn hển vừa nói: “Chuyến đi này đúng là nhớ đời, đến khi về thế nào tôi cũng tụt mấy cân cho mà xem, bằng không tôi đem chữ Vương viết ngược lại.”

Vừa rồi tôi có nghe bọn họ nói gạch trong đạo động này rất dễ đánh vỡ, xem ra gã Giải Liên Hoàn này cũng chẳng phải hạng tầm thường. Tôi chiếu đèn pin về phía trước, phát hiện ra đạo động này có hình chữ chi (之) hướng lên trên. Theo kiến trúc học, với cách này, cho dù có chỗ nào đó sụp xuống thì cũng không tạo thành mối nguy hiểm lớn. Nếu vì tiết kiệm chút sức lực mà đào thẳng một mạch lên trên, lỡ gạch phía trên sập xuống thì kết quả chẳng khác gì bị máy đóng cọc táng cho một cú.

Bàn Tử nghỉ ngơi trong chốc lát, rồi quay sang chất vấn Muộn Du Bình: “Tiểu Ca này, rốt cuộc có chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế? Tại sao hai mươi năm trước cái thạch đạo này còn đi đứng bình thường, mà lần này thiếu chút nữa là bị ép thành bánh? Cậu có đi nhầm đường không đấy?”

Muộn Du Bình nhắm mắt dưỡng thần, suy nghĩ một chút rồi đáp: “Khả năng này không lớn, trừ phi những ký hiệu trên tấm bia đá bị người khác động vào. Anh xem tình huống vừa rồi nguy hiểm như thế, có lẽ kẻ đó muốn dồn chúng ta vào cửa tử.”

Bàn Tử có chút buồn bực, hỏi: “Có khi nào cô ả kia biết chúng ta chưa chết, nên mới giở trò hãm hại chúng ta không?”

Tôi lắc đầu, nếu nói cô ta độc ác thì tôi đồng ý cả hai chân hai tay, nhưng tôi không cho rằng cô ta có bản lĩnh thay đổi cơ quan của một ngôi mộ cổ mấy trăm năm trước, chuyện này quá vô lý. Nhưng nơi đây cũng chẳng đào đâu ra người thứ năm, tôi ngẫm nghĩ một chút, bỗng cảm thấy hoài nghi, chẳng lẽ lại là chú Ba?

Muộn Du Bình nhận ra tôi đang lo lắng, nhẹ nhàng vỗ vỗ tôi rồi nói: “Thật ra thì đối với chuyện này tôi cũng có một giả thiết. Nếu cậu quan tâm thì có thể nghe tôi phân tích một chút.”

Đối với chuyện này, Muộn Du Bình là người trong cuộc, hơn nữa có thể nói hắn đã trải qua những tình tiết mấu chốt. Hắn đã có lòng nêu ý kiến, đương nhiên tôi cũng không dại gì mà từ chối, bèn gật đầu ý bảo hắn nói tiếp. Muộn Du Bình tiếp: “Giả thiết đầu tiên: hai mươi năm trước, chú Ba và Giải Liên Hoàn có quen biết nhau, thậm chí quan hệ rất tốt, nhưng bọn họ không biểu hiện ra ngoài. Lần đầu tiên thăm dò tìm kiếm, có thể Giải Liên Hoàn đã phát hiện ra sự tồn tại của cổ mộ dưới đáy biển, nhưng hắn không nói cho bất kỳ ai biết, ngoại trừ Ngô Tam Tỉnh.”

Hai người bọn họ đều xuất thân trong gia tộc đổ đấu, hiển nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội tốt như thế. Bọn họ thừa dịp người khác không chú ý, chọn thời điểm thích hợp rồi lén lút lẻn vào cổ mộ. Dù sao cả hai cũng đều là cao thủ, nên chuyện đó nhất định là chẳng khó khăn gì. Có điều sau khi bọn họ lẻn vào cổ mộ, có lẽ đã xảy ra chuyện gì đó ngoài sức tưởng tượng khiến chú Ba nổi sát tâm, tính chuyện giết Giải Liên Hoàn.

Quá trình cụ thể thì chúng tôi khó mà biết được, nhưng có thể khẳng định lúc Giải Liên Hoàn bị dồn tới bước đường cùng, hắn đã để lại huyết thư trên lớp gạch này, rồi chợt phát hiện ra những viên gạch ở đây đều rỗng ruột. Đương nhiên trên người hắn còn một số công cụ chuyên dụng, liền nhanh chóng đào một cái đạo động để thoát thân.

Tôi gật đầu, phân tích tới đây có thể nói là không có sơ hở. Muộn Du Bình tiếp tục nói.

Sau khi Giải Liên Hoàn thoát chết, hắn muốn dùng cái đạo động này để thoát ra ngoài. Dựa vào kinh nghiệm của mình, sau mấy lần thất bại, rốt cuộc hắn cũng thoát ra khỏi cổ mộ, đương nhiên việc tiếp theo là lập tức tìm Ngô Tam Tỉnh tính sổ, không ngờ lúc đụng phải Ngô Tam Tỉnh thì trái lại bị ông ta giết chết. Sau đó, thi thể của hắn được ngụy trang giống như mắc kẹt vào bãi san hô, thành một tai nạn ngoài ý muốn.

Tôi nghe hắn phân tích như vậy, trong lòng có chút khó chịu nhưng lại không thể tìm được lý do để phản bác. Hơn nữa hắn cũng chỉ nói là giả thiết, nên tôi đành bình tĩnh nghe tiếp.

Sau đó, Ngô Tam Tỉnh vì mục đích riêng, hoặc là thật sự muốn tránh bão nên mang tất cả chúng tôi xuống huyệt mộ dưới đáy biển, rồi giả vờ ngủ say. Lúc này, tôi phát hiện ra bí mật của mấy món đồ sứ, nên dẫn mọi người xuống phía dưới hồ nước. Có lẽ đó là chuyện mà Ngô Tam Tỉnh không ngờ tới, hắn không còn cách nào khác đành phải giả bộ như bị nữ quỷ nhập thân, dẫn dụ chúng tôi vào gian phòng có đặt mô hình. Sau đó, trong thông đạo phía sau tấm gương, hắn chuốc mê tất cả mọi người.

Sau khi tất cả hôn mê, hắn giở trò gì đó với chúng tôi. Rồi làm sao mà tôi thoát khỏi đó, những người khác đã đi đâu thì tôi không thể biết được. Nhưng tôi dám chắc những người khác có lẽ cũng giống như tôi, mất đi trí nhớ, trong suốt hai mươi năm cho dù có gặp lại nhau cũng chỉ cảm thấy hơi quen quen mà thôi.

Tôi nghe đến đó, mới hỏi ngược lại: “Tại sao lúc ấy chú Ba không dứt khoát giết tất cả đi, làm thế chẳng phải là toi công vô ích sao?”

Muộn Du Bình nói: “Tôi cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa, nhưng có lẽ lúc ấy hắn cho rằng không cần phải giết chúng tôi, vì dù sao chúng tôi cũng chẳng biết gì.”

Hắn giả thiết như vậy, gần như đã biến chú Ba thành một đại ma đầu mưu sâu chước hiểm, tôi thật sự không thể tiếp nhận. Trong tâm trí tôi, chú Ba tuyệt đối không phải là người như thế.

Bàn Tử nghe đến đó, hình như chợt ngộ ra điều gì, quay sang nói với tôi: “Tiểu Ngô, bỗng dưng tôi nhớ đến một chuyện, không chừng có thể giải thích được chuyện này. Có điều tôi nói ra hai người không được cười đâu đấy.”

Tôi nghe vậy, thầm nghĩ giờ đang là lúc cần tiếp thu ý kiến tập thể, Bàn Tử đầu óc khá nhanh nhạy, biết đâu lại có thể nghĩ ra chuyện gì đó mà tôi bỏ sót. Vội vàng giục hắn mau kể đi, hắn còn bày đặt làm ra vẻ thần bí, khẽ khàng nói: “Theo thôi thấy, thật ra chuyện này rất đơn giản. Sau khi chú Ba cậu tới chỗ này, có lẽ đụng phải thứ gì đó không sạch sẽ, liền trúng tà. Không phải mới vừa rồi Tiểu Ca nói chú Ba cậu chải tóc như đàn bà sao? Cậu nghĩ xem, như thế không phải đang gợi ý cách tìm Thiên Môn thì là gì? Chuyện này ai hiểu rõ nhất? Chính là lão quỷ trong mộ này chứ ai nữa! Tôi thấy, chắc chắn chú Ba cậu bị oan hồn của chủ nhân ngôi mộ này khống chế rồi. Nếu tìm được chú Ba cậu, cậu cứ thẳng tay dội một chậu máu chó lên đầu ông ấy, ép con quỷ kia ra là xong.”

Tôi thấy hắn càng nói càng ba hoa, bèn trả lời: “Con mẹ nó giải thích kiểu như anh cũng quá liêu trai rồi. Tôi sống hai mươi mấy năm với chú Ba, cho tới bây giờ cũng chẳng cảm thấy chú có điểm nào giống đàn bà. Đúng là vớ vẩn.”

Bàn Tử nói: “Tôi chưa nói con quỷ đó là nữ nha, đến bệnh thần kinh có có thời điểm phát tác với không phát tác nữa là. Nói không chừng chú Ba cậu ở trước mặt người khác thì bình thường, sau lưng thì lén lút trát phấn làm đẹp với thêu thùa nữa đó.” Bàn Tử vừa nói vừa điệu đà phất tay theo kiểu lan hoa chỉ (*), tôi bật cười, nói: “Anh nghĩ chú Ba tôi là Đông Phương Bất Bại hả, lại còn thêu thùa nữa. Thế mà cũng nói cho được.”

(*) Lan hoa chỉ: tư thế ngón trỏ chụm với ngón cái, những ngón còn lại cong lên như búp hoa lan, thường dùng cho nhân vật nữ trên sân khấu kịch ~

Muộn Du Bình nghe Bàn Tử nói, chợt xen vào: “Không, tôi thấy chuyện anh ta nói rất có thể xảy ra. Trước kia, trong cổ mộ cũng từng có chuyện như vậy.”

Bàn Tử thấy có người đồng ý với ý kiến của mình, lập tức vênh mặt: “Cậu thấy chưa, Bàn Tử tôi không nói vớ vẩn mà, thứ ấy nhất định có liên quan gì đó với cổ mộ dưới đáy biển. Phong thủy phong thủy, nếu nói phong sinh thủy khởi, ngộ thủy nhi chỉ (*), cậu biết vì sao quỷ nước phải tìm thế thân không? Đó là vì hồn phách của nó không thoát ra được. Cổ mộ này xây trong nước, mặc dù phong thủy rất đẹp nhưng lại bất lợi với chủ nhân của nó.”

(*) Đây là lý thuyết phong thủy học, phong sinh thủy khởi có nghĩa gió đi đến đâu thì vạn vật sinh sôi, nước chảy đến đâu thì vạn vật đâm chồi nảy lộc; còn ngộ thủy nhi chỉ xuất phát từ quan niệm “khí” gặp gió thì tan, gặp nước thì ngưng kết lại, do vậy mảnh đất đẹp phải có nước để khí không tan đi mất.

Tôi nghe hắn thao thao bất tuyệt một hồi cũng bắt đầu lung lay, bèn nói: “Vậy chúng ta quyết định thế này đi, nếu tìm được chú Ba, ta cứ lấy phật ấn đóng xuống gáy ông ấy, xem có hiệu quả không.”

Mỗi người chúng tôi đều lần lượt nói ra suy nghĩ của mình, tính ra cũng dây dưa mất một lúc lâu. Bàn Tử nhìn đồng hồ rồi nói: “Chúng ta chấm dứt đại hội đại biểu ở đây được rồi. Như tôi đã nói lúc nãy, nếu chúng ta chết đói trong này thì chắc chắn hồn phách cũng chẳng thoát ra được. Đến lúc đó muốn đầu thai cũng chịu, đúng là lỗ to.”

Bàn Tử nói tới đây, gãi gãi lưng, lại hỏi tôi: “Tiểu Ngô, cậu có cảm thấy từ lúc vào cổ mộ này, không hiểu sao trên người rất ngứa ngáy không?”
 
Quyển 2 - Chương 37: Đạo động


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi đang định đi tiếp thì nghe hắn hỏi vậy, không khỏi rụt cổ lại. Vừa rồi vội quá nên không để ý, thật ra lúc ở trong hành lang tôi đã cảm thấy vết thương do Liên hoa tiễn gây ra có hơi sưng, còn thêm ngưa ngứa, nhưng sau đó thì có vẻ đỡ hơn một chút. Tôi xắn quần áo lên xem thử thì thấy miệng vết thương sưng đỏ đã xẹp xuống, cũng không có cảm giác gì khác thường, bèn đáp: “Tôi cũng thấy thế, nhưng bây giờ thì không còn ngứa nữa. Dưới này không khí ẩm thấp, chắc là bị dị ứng thôi.”

Bàn Tử ngứa ngáy thê thảm, ảo não nói: “Có cách nào để trị dị ứng tạm thời không, vừa rồi tôi đổ mồ hôi lạnh khắp người, giờ thì ngứa không chịu nổi.”, vừa nói vừa không ngừng cọ cọ người lên tường, tôi thấy mấy vết máu trên tường đều là do hắn chà xát lưng lên, thấy có gì đó kỳ lạ, vội bảo hắn để tôi xem thử. Hắn vừa đi vừa xoay tới xoay lui, tay gãi liên tục. Tôi đẩy tay hắn ra, rọi đèn pin vào thì thấy từ mấy vết thương do Liên hoa tiễn cào rách trên lưng hắn mọc ra rất nhiều lông trắng, nhìn ghê muốn chết, buột miệng hỏi: “Bàn Tử, anh không tắm mấy ngày rồi?”

Bàn Tử hả một tiếng: “Tắm? Cậu hỏi chuyện này làm quái gì, đây là vấn đề bí mật cá nhân, tôi không tiện trả lời.”

Tôi nói: “Mẹ nó chứ, mấy ngày rồi anh không chịu tắm rửa hả? Tôi nói cho anh biết, anh đừng có mà phát hoảng, lưng anh hình như mốc meo luôn rồi, là mốc trắng nhá (白霉 – bạch môi), kỳ quan thế giới đó nha. Coi bộ anh mà cố gắng kiên trì thêm vài tháng nữa thì đến cỏ linh chi cũng phải mọc ra.”

Bàn Tử nghe xong không hiểu gì ráo, ngơ ngác hỏi: “Cái gì? Than trắng (白煤 – bạch môi)? Than mà trắng á? Nói chuyện với cậu mệt óc quá, rốt cuộc là có chuyện gì?”

Tôi thấy Muộn Du Bình nhíu mày, dường như tình hình có gì đó không ổn, cũng không dám tiếp tục đùa nữa. Muộn Du Bình bước đến thử ấn tay một cái, tức khắc có máu đen chảy ra. Hắn khẽ nói với tôi: “Phiền phức rồi, đám Liên hoa tiễn lúc nãy có vấn đề.”

Tôi cảm thấy kỳ quái, vừa nãy tôi cũng trúng tên, theo lý mà nói thì cũng phải bị như Bàn Tử mới đúng, chẳng lẽ ông nội đã di truyền cho tôi tính năng gì đặc biệt? Tôi vội cho hai người thấy miệng vết thương của mình rồi nói ra thắc mắc.

Muộn Du Bình nhìn vết thương của tôi, hừ một tiếng, cũng chẳng chịu nói rõ là có chuyện gì xảy ra. Đến đây Bàn Tử bắt đầu thấy sợ, quay lại hỏi tôi: “Lông gì? Mẹ nó hai người đừng có không đầu không đuôi như vậy chứ! Lông ở đâu mà dài?”, nói rồi huơ huơ tay sờ thử, tôi vội chụp lại, nói: “Đừng nhúc nhích, nhìn anh giống như bị bệnh da liễu, để chúng tôi xem kỹ đã. Anh tuyệt đối không được cào, cào nữa thành sẹo bây giờ.”

Bàn Tử bị ngứa thê thảm, làm sao mà nhịn được, tôi bèn nói với Muộn Du Bình; “Không thể cứ để như vậy được, phải tìm cách gì giải quyết thôi. Tôi từng nghe ai đó nói, có người bị bệnh ngứa không trị được, chịu không nổi nên đã tự sát!”

Bàn Tử kêu lên: “Con mẹ nó, bây giờ tôi muốn tự sát lắm rồi! Ngứa muốn chết, không thì cậu cứ giúp tôi cạo xương trị thương như Quan Công đi, khoét hai khối thịt đó ra cho rồi.”

Hồi nhỏ tôi cũng đã từng bị bệnh ngoài da, cũng biết một cách “xử lý” thô, nhưng mà có hơi ghê tởm một chút. Tôi nói với hắn: “Không cần khoét thịt, anh nghĩ anh nhiều thịt lắm chắc, vả lại tôi cũng đâu phải là Hoa Đà. Nhưng tôi có mang theo kem dưỡng da, để tôi bôi cho anh, có thể hơi đau một chút, anh cố chịu đựng.”

Muộn Du Bình ngớ ra mất một lúc, Bàn Tử cũng hả to một tiếng: “Vậy mới nói người thành phố mấy cậu đúng là được nuông chiều quá rồi, mẹ nó chứ đi đổ đấu còn mang theo kem dưỡng da, lần tới cậu nhớ mang theo bộ bài Poker, lỡ bị vây khốn thì chúng ta đem ra lập sòng.”

Tất nhiên tôi không thể nào mang theo kem dưỡng da được, mới đeo bao tay vào rồi nhổ hai bãi nước bọt, xoa lên lưng Bàn Tử. Không ngờ Bàn Tử lại không chịu được đau, vừa bôi nước bọt lên hắn đã gào lên một tiếng thảm thiết, cắm đầu chạy thẳng, còn mắng ầm lên: “Con mẹ nó cậu bôi cái gì vậy! Bà ngoại con ơi, đau thế này thì thà cậu khoét thịt tôi đi cho rồi, kiểu này xem như Bàn Tử tôi thật sự quy thiên rồi.”

Tôi thấy cơn đau này thật có hiệu quả, nói: “Nhìn anh kìa, đau vẫn tốt hơn ngứa chứ, giờ anh có còn ngứa nữa không?”

Bàn Tử đứng đó hoa chân múa tay một trận rồi chầm chậm bước trở lại, ngạc nhiên hỏi: “Này Tiểu Ngô, được lắm đó, đồ của cậu linh thật đó, đúng là thoải mái hơn nhiều rồi. Thứ kem dưỡng da kia nhãn hiệu là gì vậy?”

Tôi thầm nhủ, hắn mà biết đó là nước bọt của tôi, không chừng sẽ xé xác tôi cũng nên, vội nói: “Đừng có dằng dai như mấy bà mấy cô nữa, chúng mau đi thôi.”

Muộn Du Bình thấy cảnh này buồn cười, lắc lắc đầu. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nụ cười của hắn không chút gượng gạo, chợt nhận ra hắn hình như cũng có chút tình người, xem ra con người này không khó giao lưu như vẻ bề ngoài.

Nhưng hắn cười xong lại bày ra vẻ mặt đơ như bài Poker đuổi theo chúng tôi. Ba người cứ tiến về phía trước trong đạo động quanh co, đi khoảng nửa tiếng, chợt nghe Muộn Du Bình đi phía trước nói: “Có ngã rẽ.”

Tôi chen lên, quả nhiên có hai lối đi ở hai bên trái phải. Tôi rọi đèn quan sát thử nhánh bên trái thì thấy vào sâu bên trong một chút có đống gạch vụn, là ngõ cụt, xem lớp gạch vỡ thì có lẽ đó chính là con đường dẫn từ phòng phụ bên phải đến xứng thất bên trái mà Muộn Du Bình với Bàn Tử đã đi. Không biết vì sao con đường bị chặn lại, chẳng lẽ là sợ con hạn bạt kia từ trong quan tài đuổi qua đây?

Nhưng nếu hắn đã chặn lại thì lối thoát cuối cùng chính là cửa động bên phải, Muộn Du Bình cũng thống nhất với tôi, hắn chỉ chỉ vào tôi, cả ba không nói thêm tiếng nào, tiếp tục tiến về phía trước.

Nói thật, tôi lớn bằng này rồi mà chưa từng phải bò lâu đến thế, toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi. Đi thẳng lưng trong hang đất bình thường không mệt đến thế này, chủ yếu là đầu gối không phải nghiến lên nền đất thì sẽ không đau. Bây giờ dưới nền toàn là gạch vụn, đè lên đó giống như phải chịu cực hình, tôi bắt đầu cảm thấy hai đầu gối bỏng rát, xem ra làm người vẫn tốt hơn, kiếp sau cố mà tranh thủ làm người.

Trong lúc tôi còn đang suy nghĩ vẩn vơ, Muộn Du Bình bỗng dừng lại, ra hiệu cho tôi im lặng, Bàn Tử bò sau không thấy gì, khẽ hỏi tôi: “Sao vậy?”

Tôi bảo hắn im lặng, sau đó Muộn Du Bình tắt đèn pin, tôi với Bàn Tử cũng hiểu ý mà làm theo, chúng tôi tức khắc chìm vào bóng tối mịt mùng. Lúc này tôi lại cảm thấy vô cùng bình tĩnh, tim cũng không đập nhanh hơn. (Sau này nhớ lại mới thấy, cái lần suýt bị hai vách tường kẹp chết đã ảnh hưởng rất lớn đến tôi, khiến tôi gần như khắc phục hoàn toàn nỗi sợ hãi vốn có đối với cổ mộ). Tôi không biết Muộn Du Bình có ý gì, nhưng ở trong cổ mộ vẫn nên nghe lời hắn thì hơn.

Chúng tôi im lặng một hồi, nhịp thở dần dịu lại, mồ hôi trên người cũng đã khô, bỗng tôi nghe thấy tiếng bước chân truyền lại từ lớp gạch trên đỉnh đầu, giống như tiếng chân người. Tôi thoáng giật mình, xem ra phía trên chúng tôi hẳn là hậu điện hoặc hành lang, vậy người kia là ai? Có phải là A Ninh hoặc chú Ba không?

Đang suy nghĩ, đột nhiên tôi cảm thấy phần da từ lưng đến gáy bắt đầu ngứa lên, thoáng rùng mình, thầm nhủ chẳng lẽ lông trên người tôi cũng bắt đầu dài ra? Vội đưa tay ra sau lưng sờ thử, bỗng chạm phải một mớ ẩm ướt bê bết ngay trên cổ. Tôi nghĩ Bàn Tử chen lên, thầm rủa một tiếng, đẩy mạnh thứ kia trở lại, lúc rút tay về thì phát hiện bàn tay dính nhớp nháp, còn có mùi thoang thoảng là lạ.

Tôi ghê tởm chà mạnh bàn tay lên tường gạch bên cạnh, thầm nhủ tên mập này hẳn đã bôi lên cái đầu đinh của hắn không ít dầu dưỡng tóc, nếu tìm được chỗ có nước phải lo rửa cho sạch, dầu dưỡng tóc trên đầu hắn không chừng là của mấy tháng trước cũng nên.

Đang nghĩ, trên cổ lại bắt đầu ngứa ngáy, không biết tên mập chết bầm này lại bày trò quỷ gì nữa đây. Tôi không khỏi nổi sùng lên, liền đưa tay túm lấy, kéo hắn đến sát vách tường. Đột nhiên cảm thấy có gì đó là lạ, mặt hắn sao lại nhỏ xíu thế này? Tôi cẩn thận nhổm người dậy mò mẫm từng chút một, tim đập như nổi trống, nhận ra mớ ẩm ướt bê bết đó hình như đều là tóc. Thử kiểm tra thêm lần nữa, tôi phát hiện toàn bộ đám tóc này đều quấn lại một chỗ, tay vừa chạm vào lập tức bị quấn chặt lấy. Tôi nuốt nước bọt, bắt đầu toát mồ hôi lạnh, Bàn Tử không thể có chừng này tóc, vậy mớ tóc này là của ai!

Tôi chợt nhớ đên đám tóc ăn thịt người gặp phải trên đường vào mộ, hơi thở bắt đầu nghẹn lại, không dám mở đèn pin. Thứ kia hình như chỉ cách tôi có mấy centimet, nếu mở đèn pin thì chắc chắn tôi sẽ phải mặt đối mặt với nó, cảnh tượng kinh dị cỡ đó làm sao tôi chịu được. Đang mông lung suy nghĩ, chợt cảm thấy có bàn tay mảnh khảnh ẩm ướt mò lên trên mặt tôi, lạnh ngắt, móng tay rất sắc. Da đầu tôi bắt đầu tê dại, cơ mặt không thể kiềm chế mà run rẩy.

Những ngón tay đó chạm đến cổ tôi, sau đó thu lại, lát sau tôi chở có cảm giác cái đầu kia tiến lại gần, mớ tóc ướt sũng cũng dán lên mặt tôi. Tôi cực kỳ ghê tởm, chỉ biết cắn chặt răng, đã sắp chịu hết nổi. Đột nhiên, trong mớ tóc vang lên một giọng nữ rất khẽ, giọng nói ấy thì thầm bên tai tôi: “Anh là ai?”

Thanh âm kia thật sự rất nhẹ, nhưng tôi lại nghe rất rõ, không khỏi hoảng sợ. Đồng thời thân thể nữ giới nhích lại gần hơn, gần như chui hẳn vào lòng tôi, bàn tay mảnh mai đặt lên vai tôi, rồi đến ôm cổ. Tôi run lẩy bẩy, chỉ thấy “cô gái” này rất nhỏ nhắn, môi cô ta kề bên tai tôi, hơi thở phả ra lạnh ngắt. Tôi chính thức ngu người, chỉ nghe cô ta nói tiếp: “Hãy ôm em đi!”

Tôi vừa nghe lời này, thần trí bỗng trở nên mê muội. Tuy thân thể vẫn không ngừng chống cự, nhưng đã bắt đầu thoát khỏi sự khống chế của đại não, thoáng cái đã vòng tay ôm lấy eo cô ta. Lần này lại càng kinh khủng, tôi nhanh chóng nhận ra cô ta chẳng mặc gì cả, làn da lạnh ngắt mà lại nhẵn bóng khác thường khiến tâm trí tôi bắt đầu rối loạn, mặt đỏ rần lên. Tiếp đó, miệng cô ta đã cọ cọ lên cằm tôi, giống như đang gợi ý cho tôi hôn lên đó. Tôi hoàn toàn mất tự chủ, vừa định cúi đầu hôn xuống, đột nhiên đèn pin trong tay Muộn Du Bình sáng lên. Tôi nhìn xuống, giật mình nhận ra thứ mình ôm vào lòng là gì, dây thần kinh rủ nhau đứt phừn phựt, lông tơ trên người đều dựng thẳng lên.
 
Quyển 2 - Chương 38: Cấm bà


Editor: Thanh Du

*****

Phía trước, cách mặt tôi chưa đầy một gang tay rõ ràng là một gương mặt người trắng bệch, da mặt không biết đã ngâm trong nước biển bao nhiêu năm mà bị gột đến trong suốt. Càng ghê rợn hơn là cặp mắt ma quái không tròng, màu đen trên đồng tử gần như lấp đầy cả hố mắt, thoạt nhìn trông không khác gì một cái xác đã rữa bị móc đi đôi mắt.

Tôi sợ đến gần như phát điên, hét lớn một tiếng, vội đẩy nó ra, cắm đầu chạy trối chết, trong đầu chỉ còn hiện lên duy nhất một chữ: trốn. Có điều hành lang chật hẹp kia rất khó cho hai người cùng đi, tôi bị kẹt lại ở chỗ Muộn Du Bình, không tài nào nhúc nhích. Tôi thấy chen không nổi, mới túm lấy tay hắn, hét to: “Quỷ! Có quỷ nước!” Hắn liền bịt miệng tôi lại, khẽ hỏi: “Yên nào! Quỷ nước ở đâu?”

Tôi quay lại chỉ loạn xạ về phía sau: “Ngay đằng sau ấy, kia kìa…

Nói chưa hết câu tôi đã khựng lại, “a” một tiếng, chỉ thấy sau lưng tôi chẳng có gì cả. Không có mặt người, không có tóc, thậm chí một vệt nước đọng cũng không có. Tay tôi gần như chỉ thẳng vào mặt Bàn Tử, khiến hắn ngơ ra chẳng hiểu gì, liền đó gào lên: “Tiên sư nó, cậu mới là quỷ nước ấy.”

Tôi ngớ người, vội ngoảnh đầu lại, ngó đông ngó tây một hồi vẫn chẳng thấy gì. Chuyện này thật vô lý, cảm giác ban nãy rất chân thật, không thể là ảo giác được, chẳng lẽ tâm lý tôi có vấn đề với cái cổ mộ này? Tim tôi vẫn còn đập dữ dội, trong đầu lại mông lung như sương mù, cũng không biết nên làm gì cho phải.

Bàn Tử thấy mặt mũi tôi tái mét, bèn an ủi: “Xảy ra chuyện gì vậy, cậu đừng vội, cứ từ từ mà nói!”

Tôi lắp bắp: “Vừa rồi tôi thấy rất nhiều tóc, một cô gái lõa thể, còn có quỷ nước! Còn định hôn tôi!”

Suy nghĩ của tôi đã vô cùng hỗn loạn, lắp bắp nửa ngày cũng không biết mình đang nói cái gì. Bàn Tử mất hết kiên nhẫn, cắt ngang: “Tiểu Ngô, cậu nằm mơ đấy à? Nếu có quỷ nước thật thì cũng phải đi qua chỗ tôi trước đã.” Hắn vỗ vỗ vai tôi, lại nói: “Chẳng qua cậu mới hai mấy tuổi đầu, mơ thấy con gái thoát y cũng là chuyện thường. Khi Bàn gia tôi còn trẻ cũng từng mơ thấy những thứ tương tự, không sao cả.” Tôi gắt: “Mẹ nó anh đừng có nói lung tung, vừa rồi tôi dám chắc mình không nằm mơ! Anh xem cổ tôi vẫn còn ướt đây, là do bị nó cọ lên đấy!” Nói rồi tôi cổ cho bọn họ xem. Muộn Du Bình và Bàn Tử đưa tay sờ thử (*đá văng Bàn Tử* Aaaaa, hai trẻ tình tứ kìa ~) đều hơi nhíu nhíu mày. Bàn Tử còn ngẩng đầu nhìn lớp gạch trên đỉnh, chắc hắn nghĩ là do nước bên trên nhỏ giọt xuống. Tôi nói làm gì có chuyện đó, kẽ gạch đều trát đất sét trắng, tuyệt đối không thể thấm nước.

Bàn Tử khó hiểu hỏi: “Chuyện này thật là quái gở, ở đây chỉ có một con đường thông suốt, đúng ra nếu có thứ gì đến gần cậu thì tôi nhất định phải biết chứ.”

Tôi được thể vặc lại: “Không chừng là anh ngủ gật cũng nên, bị người ta bước qua xác cũng không biết.”

Bàn Tử nổi cáu, nói: “Cậu đi chết đi, Bàn Tử tôi dù có ngủ thật thì bị người khác đạp lên người cũng phải biết chứ? Huống hồ đang ở cái chỗ quái quỷ này thì ngủ làm sao được? Nếu cậu không tin thì nhìn xem lưng tôi có dấu chân nào không!” Nói rồi hắn quay lưng lại cho chúng tôi xem.

Lúc ấy tôi đã hoàn hồn, không ngờ thứ kia lại leo lên lưng hắn thật. Bàn Tử vừa quay lưng, thứ kia đã quay thẳng mặt về phía tôi, miệng ghé sát vào chóp mũi tôi. Tôi sợ hết hồn, yết hầu cũng bắt đầu co giật, hét lên một tiếng rồi liều mạng lùi lại. Nhưng mới lùi được hai bước đã cảm thấy chân mình căng căng, cúi đầu nhìn xuống, chợt phát hiện ra chân mình không biết từ khi nào đã quấn đầy tóc. Tôi ra sức vùng vẫy nhưng chân vẫn không sao thoát ra được, lại thêm một mớ tóc nữa bắt đầu quấn lên người tôi, nhắm thẳng miệng tôi mà chui vào. Bình sinh tôi sợ nhất là mấy thứ lông tóc này tràn vào trong miệng, vội lấy tay che chắn loạn xạ. Trong lúc hoảng loạn, Muộn Du Bình đã túm được cổ áo tôi, kéo tôi về phía hắn.

Hắn mới kéo được vài bước thì chính tay hắn cũng bị đám tóc túm lấy, không tài nào nhúc nhích. Tôi quay đầu nhìn lại, thấy Bàn Tử đã bị bọc kín như cái kén tằm, không ngừng giãy dụa bên trong. Nhưng thứ kia lại không thấy đâu cả, cả đạo động tràn ngập những tóc là tóc, tựa như một cái động bàn tơ màu đen.

Muộn Du Bình cố gắng rút tay ra, vội hỏi tôi: “Cậu có mang mồi lửa không? Thứ này sợ lửa”

Tôi mò mò trong cái bao đeo trên thắt lưng, lấy ra một cái bật lửa chắn gió, không khỏi mừng rỡ. Cái bật lửa này nguyên là khi ăn canh đầu cá trên thuyền, tôi có hỏi xin ông lái thuyền ít lửa để nhóm lò, nhóm xong tiện tay nhét luôn vào túi, không ngờ lúc này lại trở thành vật cứu mạng. Nghĩ đoạn tôi đánh bật lửa đốt mớ tóc quấn trên người, đám tóc này dù ẩm ướt nhưng chỉ một mồi lửa cũng có thể cắt đứt một bó lớn. Tôi đốt vài cái đã thoát khỏi mớ tóc, vội lao đến cứu Bàn Tử. Vừa định kéo hắn ra, đột nhiên đống tóc ngay bên cạnh lộ ra một khuôn mặt cỡ bự, gần như áp sát vào lưng tôi.

Tôi thấy thế, biết muốn trốn cũng không kịp, bèn cúi đầu, đấm một quyền về phía đó. Quyền này hoàn toàn là phản xạ tự nhiên của một người bị dồn đến tột cùng sợ hãi, nên tôi cũng không rõ mình đã dùng đến bao nhiêu sức lực, chỉ nghe một tiếng bụp, cái mũi của nó đã bị tôi đấm lõm vào, bắn ra mấy vệt nước đen ngòm. Cũng may trong tay tôi còn cầm cái bật lửa, đến giờ vẫn chưa tắt; tôi bèn nghiến răng tính cho nó một mồi lửa, chợt phát hiện ra nó bỗng run run rồi rụt lại một chút.

Thấy thế, trong đầu tôi chợt lóe lên một tia sáng. Có cách rồi, mẹ nó, quả nhiên là thần quỷ sợ ác nhân, hóa ra con quỷ này cũng còn biết sợ nắm đấm.Thần trí tưởng chừng đã hồ đồ bỗng trở nên hưng phấn, tôi nhấc chân đá cho mặt nó vẹo luôn sang một bên, bay trở lại giữa đám tóc. Tôi sợ đá thêm cú nữa sẽ bị nó quấn lấy, vội vã lùi lại vài bước, giơ cái bật lửa lên, bắt đầu giằng co với nó.

Gương mặt kia lấp ló giữa đám tóc, nét mặt vô cùng oán hận, nhưng nó vốn sợ lửa nên không dám tùy tiện xông lên. Lúc này Muộn Du Bình không biết lấy từ đâu ra mấy ống đánh lửa còn hơi âm ẩm, mới đem cọ lên bật lửa trong tay tôi. Ống đánh lửa tức khắc bốc cháy, ngọn lửa lần này lớn hơn rất nhiều khiến cho con quái vật thét lên một tiếng kinh hoàng rồi vội vàng chạy trốn. Tôi thấy chỉ trong phút chốc nó đã lùi rất xa, lộ ra thân thể béo tròn của Bàn tử, vội thừa dịp này đốt sạch đám tóc quấn trên người hắn.

Muộn Du Bình dồn cho con quái vật kia biến mất trong bóng tối mới chịu thả tay, lúc này ống đánh lửa đã cháy đến tay hắn. Tôi cúi đầu nhìn Bàn Tử, chỉ thấy mũi hắn miệng hắn bịt kín những mẩu tóc vụn, gương mặt vì ngộp thở đã chuyển màu xanh tái. Vội vàng xoa bóp ngực cho hắn đến khi hắn hô hấp bình thường trở lại, từ lỗ mũi hắn phun ra một đống bầy nhầy màu đen.

Tôi thở phào một hơi, cũng may phổi Bàn Tử là phổi trâu phổi bò, mới ép một chút khí quản đã thông, bằng không tôi thà chết chứ không đời nào chịu làm vật hi sinh đi hô hấp nhân tạo cho hắn. *xin lỗi nhưng đến đây bạn editor bấn quá không chịu nổi nữa ~ Đề nghị tác giả cũng cho bạn Bình nghẹt thở để xem lúc ấy bạn Tà có còn do dự nữa ko =))*

Bàn Tử thở dốc một hồi, ho ra hết những thứ còn vướng trong khí quản, rồi mới ngắc ngoải hỏi chúng tôi: “Mẹ ôi, thứ kia rốt cuộc là cái quỷ gì thế?”

Tôi tắt cái bật lửa nãy giờ vẫn giữ khư khư, cảm thấy nó đã nóng đến bỏng tay, tưởng như da tay tôi cũng muốn tuột ra luôn. Muộn Du Bình cũng chẳng khá hơn tôi là bao, hắn xoa xoa tay, nói với Bàn Tử: “Đây hẳn là Cấm bà.”

Tôi từng nghe lão Hải ở Anh Hùng sơn nhắc đến nó nhưng chỉ nửa tin nửa ngờ, lúc này mới “a” một tiếng, hỏi: “Thật sự có sinh vật gọi là Cấm bà sao?”

Muộn Du Bình gật gật đầu, đáp: “Tôi cũng không biết thứ này sinh ra như thế nào, nhưng truyền thuyết về nó rất nhiều, hẳn là không sai đâu.”

Tôi cảm thấy kỳ quái, bảo hắn kể lại tỉ mỉ cho tôi nghe, nhưng hắn một mực lắc đầu, đáp: “Cấm bà sinh ra từ nước, tôi chỉ biết chắc chắn nó rất sợ lửa, còn những chuyện khác thì không rõ ràng cho lắm. Cũng như bánh tông, từ xưa đến nay người ta chỉ biết nó sợ móng lừa đen, nhưng vì sao nó lại sợ thì chẳng ai biết. Tôi chỉ không ngờ thứ này cũng biết suy nghĩ, chúng ta nhất định phải cẩn thận, nó chắc chắn vẫn còn đi theo chúng ta.”

Bàn Tử vẫn chưa hết sợ, mới hơi nhích lại gần chúng tôi, hỏi: “Quái lạ, mộ này phong thủy rất đẹp, tại sao bên trong lại có lắm thứ quái gở thế?”

Phong thủy ngôi mộ này có đẹp không thì tôi không dám chắc, nhưng tư liệu về Cấm bà thì tôi có đọc qua một ít. Thực ra thứ gọi là Cấm bà này ở vùng núi nơi có các dân tộc thiểu số sinh sống là đại diện cho thầy mo và pháp sư, có điều trong truyền thuyết cổ xưa ở vùng biển lại là ác quỷ bậc nhất thiên hạ. Chẳng hiểu vì sao lại có sự khác biệt một trời một vực đó, chỉ biết kết cục của cấm bà thường là vô cùng thê thảm; nếu bị người bắt được, thông thường đều bị chặt hết tay chân sau đó chôn sống. Lại nói nguồn gốc của Cấm bà hầu hết đều liên quan đến phụ nữ có thai, xem ra căn phòng đặt quan tài dưỡng xác kia nhất định có can hệ với thứ này. Chú Ba từng nói về những bức bích họa hình người có cái bụng căng tròn, Cấm bà có mặt trong đây hẳn cũng không phải chuyện ngẫu nhiên, không chừng là do chủ mộ cố ý an bài.

Trong lúc tôi còn miên man suy nghĩ, Muộn Du Bình ngoắc tay ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp, có lẽ hắn lo nếu cứ dây dưa ở đây thì thứ kia sẽ xán lại gần. Tôi nghe ngóng một lát, thấy phía trên đạo động đã hoàn toàn yên ắng; không biết người vừa nãy đi qua là ai, chúng tôi ầm ĩ một trận ở bên dưới, không chừng hắn đã nghe thấy. Nơi này chẳng nên ở lâu, tốt hơn hết là mau mau thoát ra.

Tôi nhìn sang Bàn Tử, hắn ra hiệu mình đã ổn. Tôi thấy hắn cũng không muốn ở lại đây thêm một phút nào nữa, bèn bật đèn pin lên rồi đeo vào thắt lưng, như thế có thể chủ động quan sát phía sau. Tiếp đó tôi giữ chặt bật lửa trong tay, tiếp tục tiến về phía trước

Chúng tôi đi thêm một đoạn nữa, đạo động lại có hình chữ chi hướng lên trên. Tôi nhìn sang bên cạnh, phát hiện ra hắn đào một mạch đến đây thì gặp tường mộ, xem ra bên ngoài chính là nước biển. Hắn chỉ còn cách đổi hướng, tiếp tục đào lên trên; có lẽ Giải Liên Hoàn cũng nghĩ như chúng tôi, muốn thoát ra từ vị trí cao nhất trong mộ.

Thời gian từ khi chúng tôi bắt đầu đi vào cửa động cho đến lúc này đại để cũng được khoảng nửa tiếng đồng hồ, xem ra ngôi mộ dưới đáy biển này cũng không lớn lắm. Trong suốt chặng đường này, tôi luôn có cảm giác mơ hồ, đó là thực ra ngôi mộ này không quá dài cũng không quá rộng, mấu chốt nằm ở độ cao của nó. Hiện giờ tôi ước chừng độ cao của nó khoảng ba mươi mét, nếu dựa theo tiêu chuẩn ba mét một tầng ở thời hiện đại này thì ngôi mộ chìm sâu dưới đáy biển khoảng mười tầng lầu; tuy quy mô hùng vĩ, nhưng tính ra cũng không phải kì tích gì.

Hiện chúng tôi không thể quay về đường cũ, đành tiếp tục hướng lên phía trên. Lại đi thêm một lúc nữa, bỗng Muộn Du Bình đứng khựng lại. Tôi đẩy hắn một cái, hắn liền quay đầu lại, nói khẽ: “Đường cụt”

Tôi ngẩn người, sao lại cụt được chứ, vội chen lên xem thế nào. Chỉ thấy phía cuối con đường quả nhiên bị mấy khối đá Thanh cương chẹn lại, tôi lấy tay đẩy thử vài cái, cảm thấy mấy phiến đá này tuy nặng nề nhưng cũng không phải không đẩy ra được. Tôi và Muộn Du Bình thử hợp sức đẩy lên, đến khi lộ ra một khe hẹp thì phát hiện mộ thất phía trên có ánh sáng hắt xuống. Đang lúc buồn bực, hai tay hơi buông lỏng, phiến đá chắn trên đỉnh đầu chúng tôi bỗng đột ngột biến mất.
 
Quyển 2 - Chương 39: Hỗn chiến


Tôi có hơi ngạc nhiên, lập tức hiểu ra có ai đó đã dịch chuyển phiến đá bên trên, trong tích tắc ấy tôi còn nghĩ rằng đó là chú Ba hoặc A Ninh, bởi lẽ trong cổ mộ này ngoài hai người họ ra thì đâu còn ai nữa. Nhưng khi tôi ngẩng đầu lên lại thấy một con Hải hầu tử cao to người phủ đầy vảy đang khom lưng nhìn xuống tôi lom lom. Tôi thoáng thấy trên vai nó máu me be bét, còn cắm một mũi lao, trong lòng chỉ còn biết thở dài. Mẹ nó chứ, đúng là oan gia ngõ hẹp, con quái này cứ theo ám tôi mãi không tha.

Tôi không sao ngờ được lại xảy ra chuyện kịch tính đến thế, quýnh lên chẳng biết làm thế nào. Lúc này đột nhiên có người kéo kéo quần tôi, tôi cúi xuống nhìn, thì ra là Muộn Du Bình, hắn ra hiệu cho tôi mau trở xuống. Tôi nhìn lại con Hải hầu tử với cơ thể bự chảng, lập tức hiểu được dụng ý của hắn, vội vã bò xuống dưới. Đạo động ngay bên dưới là một quãng khá dốc, tôi lại đang chen chúc cùng một chỗ với Muộn Du Bình, hành động hết sức khó khăn, lại thêm tay chân luống cuống làm chậm mất nửa nhịp, mới xuống được vài bước đã nghe con Hải hầu tử gầm gừ một tiếng rồi cố sức nhoài người xuống dưới. Tôi thấy khuôn mặt khỉ dữ tợn lao thẳng về phía mình, hoảng quá trượt chân, mông ngã bệt vào vách đạo động.

Cú ngã này thật là ê cả mông, nhưng tôi thuận theo đó mà trượt xuống dưới, thầm nhủ coi như trời giúp một phen vậy. Như thế có thể nhanh chóng quay trở vào trong đạo động, con Hải hầu tử kia to xác cỡ này, có đánh chết cũng chui không lọt được, xem ra đã có thể an tâm ít nhiều rồi. Tôi vốn cứ nghĩ vậy là ổn, ai ngờ trời phụ lòng người, mới trượt xuống được nửa mét đã thấy Bàn Tử chắn ngay trước mặt, còn đang cố sức leo ngược lên. Hắn luống cuống kêu to: “Lên mau lên mau, mụ gà mái kia đã đuổi đến nơi rồi!”. Tôi nghe thế, trong lòng chấn động, vội nhìn ra đằng sau hắn thì thấy một luồng tóc vượt qua khúc ngoặt cuối cùng, trong lòng âm thầm rủa xả. Thật đúng là phước bất trùng lai họa vô đơn chí, đúng là ghét của nào trời trao của nấy mà. Tôi vội ném bật lửa cho Bàn Tử để hắn chặn chúng lại trước, còn mình thì ngẩng lên quan sát tình hình phía trên. Vừa mới xoay đầu, bả vai chợt đau buốt, tôi nhìn lại mới biết con Hải hầu tử này dù vai bị kẹt nhưng cổ lại vô cùng linh hoạt, tôi vừa lơ là một chút đã bị nó đớp trúng vai phải.

Thật là phiền phức, tôi bị nó đớp trúng chỗ nhược, răng nanh đâm sâu vào da thịt, đau muốn ngất đi được, may mà không thương tổn gì đến gân cốt. Tôi chưa kịp vùng vẫy thì đã bị nó giằng mạnh một cú, kéo cả người ra khỏi đạo động.

Con Hải hầu tử xách tôi lơ lửng giữa không trung, hình như nó vẫn chưa muốn kết liễu tôi ngay bây giờ, nhưng tôi biết chỉ cần nó vung vẩy mạnh một chút là có thể cắn đứt rời cánh tay tôi. Lúc này dù sợ mấy đi nữa cũng phải cố mà phản kháng, chợt tôi thoáng thấy mũi lao bắn ra khi nãy vẫn găm trên vai nó, trong lúc cấp bách liền đạp một cú vào đó. Một đạp này làm khiến mũi lao cắm sâu vào thêm bốn năm phân, nó rống lên một tiếng, lập tức quẳng tôi ra xa.

Tôi vận hết sức lực toàn thân, lăn bảy tám vòng trên mặt đất, cuối cùng cũng giảm bớt được chấn động sau va chạm, nhưng vừa định đứng dậy mới phát hiện ra tay phải đã không còn cử động được nữa. Con Hải hầu tử kia đau quá hóa giận, nổi điên gầm lên mấy tiếng rồi lại xông tới, lần này là nhắm đến cổ, xem ra nó muốn một phát cắn đứt đôi yết hầu tôi rồi.

Nó lao đến rất nhanh, tôi muốn tránh cũng không xong, đành phải lấy tay ra đỡ. Vẫn biết chỉ là châu chấu đá xe, nhưng nếu không làm vậy chỉ sợ đến cái đầu tôi cũng không giữ lại được. Bất ngờ Bàn Tử từ phía sau nhào tới ôm lấy chân nó, khiến nó bị mất đà, cả hai cùng ngã nhào xuống đất, lăn thành một đống. Bàn Tử vô cùng nhanh nhẹn, còn muốn học theo Võ Tòng đánh hổ, định leo lên lưng nó. Nhưng con Hải hầu tử kia quá mạnh, hắn không đè nổi nó, còn bị nó đá văng ra.

Tôi thấy Bàn Tử không khống chế được nó, thầm than không ổn. Quả nhiên con Hải hầu tử nhe răng đe dọa Bàn Tử rồi quay đầu xông về phía tôi, tôi nghĩ bụng, mẹ nó chứ mày nhắm vào tao thật đấy à! Tôi vội lần tìm khẩu súng đeo bên hông, vừa sờ đến chợt nhớ ra, vừa rồi lúc bò lên vách tường, để dễ dàng thoát thân tôi đã ném khẩu súng dài ngoằng như cây giáo ấy đi, bây giờ chắc hẳn nó đã bị ép thành đồng nát rồi.

Bây giờ có hối cũng đã muộn, Hải hầu tử nháy mắt đã ở ngay trước mặt. Tôi cứ ngỡ nó sẽ ngoạm vào cổ rồi bẻ đầu tôi xuống, bèn dứt khoát nhắm mắt chờ chết. Ai ngờ đâu nó vẫn chưa hết cơn điên, co chân giẫm mạnh lên bụng tôi. Một đạp này của nó thiếu điều bẻ gãy cả xương sống, khiến tôi phun ra một ngụm máu, đau muốn ngất xỉu. Nó còn chưa chịu bỏ qua, lại co chân muốn đạp lên ngực tôi, nhưng nó vừa nhấc chân lên thì đột nhiên nghe thấy một tiếng “Rầm” rất lớn, cũng không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chỉ thấy nó rống lên một tiếng đã bị đánh văng ra, ngã lộn nhào mấy vòng.

Tôi quay đầu nhìn lại thì thấy Bàn Tử trong bộ dạng thiên thần đang đi tới, tấm gương đồng lớn trong tay vẫn còn rung rung. Tôi thấy mà líu lưỡi, xem ra thứ gây nên âm thanh vang dội vừa nãy chính là thứ này; tên mập ra tay cũng ác thật, nếu đó là người sống thì chắc chắn đã bị đập chết tươi rồi. Tôi vội vàng âm thầm tự nhắc bản thân, sau này tuyệt đối không được đắc tội với hắn.

Bàn Tử hiện đang nổi nóng, không chờ con Hải hầu tử kia kịp đứng lên đã xông tới bồi thêm cú nữa, lại một tiếng “Rầm” vang lên, mặt con Hải hầu tử bị đập đến biến dạng, lại lăn xa thêm mấy mét nữa. Có điều con Hải hầu tử này rất sung, mấy cú đánh vừa rồi không khiến nó bị thương quá nặng, nhưng ít ra nó cũng biết được sự lợi hại của Bàn Tử, không dám xông bừa vào nữa mà vội vàng nhảy lên bám lấy một cây cột, rồi từ trên đó nhìn xuống Bàn Tử mà gầm gừ. (Em Hải hầu tử cute quá =)) trong mắt mình cảnh tượng này đúng ra phải là “Hải hầu tử nhìn Bàn Tử với cặp mắt hình trái tym, bước những bước duyên dáng đến bên một cây cột rồi bắt đầu biểu diễn múa cột” mới đúng =))

Lúc này tôi mới phát hiện ra nơi đây chính là căn phòng đặt mô hình Thiên cung Muộn Du Bình đã từng nhắc tới, bằng chứng rõ ràng nhất chính là bốn bức hình lớn trên bốn mặt tường. Hiện giờ tôi không thể xem xét tỉ mỉ mấy bức tranh để biết nó có giống với miêu tả của hắn không, nhưng vẫn có thể khẳng định hiện trạng nơi này so với lúc cả nhóm bọn họ rời đi hai mươi năm trước không hề có chút thay đổi. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc chính là, căn phòng này không được hoành tráng như hắn đã kể. Thứ duy nhất cho tôi cảm giác nguy nga tráng lệ là bốn cây cột bằng gỗ lim vàng ở bốn góc, thực sự lớn đến ba người ôm, còn những thứ khác cùng lắm chỉ có thể xem là xa hoa mà thôi.

Bàn Tử ra tay thắng lợi, liền hăng máu lên xổ một tràng: “Móa mày, ông đây không biết đã đập chết bao nhiêu cái bánh tông rồi, một con Hải hầu tử tép riu như mày mà dám tự tung tự tác trước mặt ông, đúng là không xem ông nội Bàn gia mày ra gì cả.”, nói rồi còn định ném luôn cái gương đồng vào mặt nó, thế nhưng cái gương này thật sự rất nặng, vừa rồi Bàn Tử phang ra hai cú cật lực, thành ra bây giờ tay chân rã rời, chỉ đứng tại chỗ nhúc nhích được mấy cái.

Con Hải hầu tử kia cực kỳ xảo trá, thấy Bàn Tử đã thấm mệt, bèn nhảy từ trên cây cột xuống, xô hắn ngã lên mặt đất. Hắn chưa kịp phản ứng đã bị nó đè lên, nhất thời không cách nào thoát ra được, kết quả là bị móng vuốt của nó cào cho một vệt bay mất một mảng da. Bàn Tử đời nào chịu yếu thế như vậy, mắt lập tức đỏ vằn lên, điên cuồng hét lớn, cắn mạnh vào mặt con Hải hầu tử khiến nó rống lên đau đớn, bật dậy nhảy xa ra mấy bước.

Tôi thấy trên mặt nó tróc ra một mảng vảy lớn, máu chảy đầm đìa, trông lại càng thêm dữ tợn. Nhưng nó cũng đã bị Bàn Tử dọa cho một phen hoảng hồn, trở nên cảnh giác hơn, bắt đầu đứng từ xa quan sát chúng tôi, hình như nó muốn tìm ra sơ hở của Bàn Tử. Lúc này Bàn Tử gắng gượng đứng dậy, tôi thấy hắn đã gần hết hơi, thể lực tiêu hao khá nhiều.

Hai bên giằng co mấy phút, con Hải hầu tử này dù sao cũng là động vật, không thể bằng con người được, cho nên bắt đầu mất tập trung. Nó ngáp một cái, xoay đầu nhìn ra xung quanh, lập tức thấy Muộn Du Bình đang nghiến răng cố gắng đậy phiến đá trên cửa đạo động lại. Phiến đá đó cực nặng, một người thật sự rất khó di chuyển, hắn chỉ có thể kéo nó đi từng đoạn ngắn. Con Hải hầu tử thấy Muộn Du Bình chỉ có một mình, lại nổi lên sát tâm, rống lên một tiếng rồi vọt tới.

Trong lòng tôi phát hoảng, không ngờ nó cũng có đầu óc tính toán, biết tránh khó chọn dễ, vội hô to: “Coi chừng!!!”

Muộn Du Bình dĩ nhiên đã phát hiện ra đằng sau nổi lên kình phong, không còn cách nào khác đành phải buông phiến đá, lăn một vòng tránh được cú tấn công này. Hải hầu tử thấy mình vồ hụt, lại tiếp tục nhào tới. Tôi biết Muộn Du Bình thừa sức đối phó với nó nên cũng không quá lo lắng, chỉ thấy hắn chạy về phía trước vài bước, dụ nó đuổi gần đến một trụ gỗ lim rồi bất ngờ nhảy lên, đầu tiên là lao lên cây cột, sau đó đạp mạnh chân, xoay người trên không một vòng nhẹ nhàng như đang khiêu vũ rồi hạ xuống, hai đầu gối nện mạnh lên vai con Hải hầu tử, đè chặt lên người nó khiến nó phải quỵ xuống. Tôi không biết đây là công phu gì, chỉ biết tròn mắt ngắm nhìn. Con Hải hầu tử này to lừng lững, đòn vừa rồi không ảnh hưởng gì đến nó, nhưng Muộn Du Bình không hề có ý ngừng tay. Hắn không nhảy xuống mà ngược lại kẹp chặt hai chân, dùng đầu gối ghì đầu nó lại, sau đó xoay người mạnh tay vặn một phát. Chợt nghe tiếng xương gãy đanh gọn vang lên, đầu con Hải hầu tử đã bị xoay ngược lại, phần cổ cũng bị vặn đứt rời.

Chuỗi động tác liền mạch này gần như chỉ diễn ra trong vòng một giây, đây đúng là chết không kịp ngáp. Tôi với Bàn Tử thấy mà rớt cả cằm, đều cảm thấy cần cổ tê rần giống như bị rút gân. Tôi chợt nhớ cái đầu của huyết thi kia, thầm nhủ chắc chắn cũng là bị hắn vặn xuống kiểu này, không khỏi hít một hơi khí lạnh. Ra tay kiểu này quá tàn nhẫn, tự dưng tôi lại cảm thấy tội nghiệp thay cho con Hải hầu tử kia.

Muộn Du Bình vừa nhảy xuống đã vội chạy lại đẩy nốt phiến đá kia. Tôi thấy một đám tóc đã chui ra khỏi cửa đạo động, vội gọi Bàn Tử đến giúp một tay. Bàn Tử vẫn làm theo cách cũ, đầu tiên dùng bật lửa đẩy lùi đám tóc đó, sau đó cùng Muộn Du Bình đẩy phiến đá Thanh cương trở về chỗ cũ. Cấm bà kia rất không cam lòng, từ bên dưới húc lên mấy cái như muốn húc vỡ cả phiến đá. Bàn Tử sợ phiến đá bị nó húc vỡ thật, bèn dứt khoát đặt mông ngồi lên, đè chặt lấy cửa động.

Tiếng va đập kéo dài gần mười phút, tiếc cho nó là trên phiến đá còn có một tên mập, không phải nó cứ muốn đẩy là đẩy được. Còn Bàn Tử thì bị chấn động đến kiệt sức, bên dưới vừa mới yên ổn, hắn liền chửi thề một tiếng rồi mệt mỏi nằm lăn ra bất động trên mặt đất.

Tôi thấy nguy hiểm đã qua, nhẹ nhõm thở phào một hơi; hiện giờ tay phải cũng dần khôi phục được cảm giác, có thể cử động được một chút. Tôi thấy Muộn Du Bình đi tới góc đông nam, vội bám theo hắn. Tấm gương ở đó đã bị dời đi, trên tường quả nhiên có một cửa động tối đen, chỉ cao có nửa người, bên trong nhìn sâu hun hút, không biết thông đến tận đâu.
 
Quyển 2 - Chương 40: Tường động


Edit: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Cửa động này ắt hẳn là mấu chốt của cả câu chuyện, kí ức của Muộn Du Bình đến đây là đứt đoạn, những chuyện từ đó trở về sau đều mù mờ. Trong động có thứ gì, hắn làm thế nào thoát ra được, những người khác có bị mất trí nhớ giống hắn hay không, tất cả đều không có chút manh mối nào.

Tôi cẩn thận quan sát cửa động, nhìn thoáng qua có thể nói đây là một cái cổng tò vò nhân tạo khá lạc lõng (ngoài địa đạo chiến hào ra, tôi chưa từng thấy ai lại làm cổng ở một nơi như thế này cả), những vị trí bên trong cánh cổng có thể nhìn thấy từ đây đều lát một thứ gạch vàng giống hệt bên ngoài. Kết cấu này vốn rất bình thường, giống hệt những cái giếng trời tôi đã thấy đến mòn mắt trong mấy xưởng đốt than ở Sơn Tây. Nhưng cánh cửa ấy được trổ ở đây lại chẳng ăn khớp gì với bố cục tổng thể của cả mộ huyệt, không biết nó dùng để làm gì nữa.

Theo trí nhớ của tôi, hầu hết các mộ thất đều có kết cấu đối xứng, hiếm khi vô duyên vô cớ làm một thông đạo hay xây dư thêm phòng, trừ phi chiều theo sở thích của chủ mộ. Nếu không phải thế thì chỉ có hai khả năng:

Thứ nhất là, bên trong có giấu vật bồi táng bí ẩn nào đó. Chuyện này cũng không có gì lạ, theo như bút ký của ông nội, việc chủ mộ thiết kế phòng kín trong mộ của mình thì đâu đâu cũng có. Nhưng những phòng kín này đều được ngụy trang rất kĩ, vậy mà động này không có cửa cũng không ngụy trang gì hết, chỉ lắp một tấm gương bên ngoài, có vẻ trẻ con quá đi.

Thứ hai là, chuyện này có liên quan tới phong thủy. Theo như tôi suy đoán, gương là một vật dụng rất quan trọng trong thuật phong thủy, đặt tại nơi này hẳn phải có dụng ý nào đó. Nói như vậy, trổ một cánh cửa trong căn phòng này chính là biểu hiện của chữ “Thông” trong phong thủy, tức là muốn mời thứ gì đến, hoặc là tiễn thứ gì đi.

Đây là tiểu phong thủy, so với đại phong thủy thời cổ có những khác biệt rất lớn, đại khái cũng giống như hai phái Đại thừa và Tiểu thừa của Phật giáo vậy. Tiểu phong thủy chú ý đến “cải”, tức là bằng một số phương pháp nhất định, trong phạm vi hẹp có thể biến xấu thành tốt. Tôi rất thích thú với những kiến thức của tiểu phong thủy, do đó hiểu biết của tôi về nó so với đại phong thủy cũng nhiều hơn đôi chút.

Tôi lần theo mặt gương xem xét những nơi khác, hi vọng tìm ra được một vài gợi ý. Cách bố trí trong gian phòng này giống hệt những gì Muộn Du Bình đã kể; nhưng cũng vì nó còn duy trì hiện trạng của hai mươi năm trước cho nên bốn phía chỉ có bốn viên dạ minh châu chiếu sáng; mô hình Thiên cung ở giữa căn phòng chìm trong bóng đêm, chỉ có thể bật đèn pin lên xem xét. Tôi quét mắt vài vòng, nhanh chóng bị mấy bức tranh trên tường hấp dẫn.

Nội dung bốn bức tranh này tôi đã nghe kể một lần, nhưng qua sự miêu tả mơ mơ hồ hồ của Muộn Du Bình quả thực tôi không hình dung ra nổi. Bây giờ tận mắt nhìn thấy mới biết những bức tranh này miêu tả vô cùng chân thực, chỉ cần để tâm quan sát một chút sẽ phát hiện ra rất nhiều chi tiết nhỏ.

Đầu tiên, tôi vừa liếc mắt đã thấy, dãy núi phủ tuyết trắng nằm chính giữa bức tranh rất có thể là sườn bắc của dãy Trường Bạch tại Cát Lâm. Trí nhớ của tôi cũng không đến mức siêu phàm, chẳng qua mỗi ngọn núi cao của dãy Trường Bạch đều có những đặc điểm riêng biệt, phàm là người đã từng đi qua đều có thể nhận ra.

Trường Bạch là một dãy núi lửa, nằm trên đường biên giới của Trung Quốc với Triều Tiên. Sườn bắc của dãy núi này thuộc lãnh thổ Trung Quốc trải dài qua địa phận ba tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang; sườn nam thuộc lãnh thổ Triều Tiên.

Tiếp theo tôi quan sát bức tranh thứ hai thì thấy đoàn người đưa tang trong tranh đều mặc trang phục thời nhà Nguyên, như vậy người nằm trong quan tài này hẳn phải là một quý tộc địa vị hiển hách triều Nguyên. Xem ra thời gian xây dựng Vân Đỉnh thiên cung kia rất có thể là vào thời mạt Nguyên; ở vào thời điểm loạn lạc như thế mà đủ khả năng xây dựng một lăng mộ hoành tráng cỡ này chứng tỏ chủ nhân ngôi mộ hoàn toàn không đơn giản.

Điểm thứ ba khiến tôi giật mình chính là đoàn người đưa tang toàn bộ đều là phụ nữ, điều này vô cùng bất hợp lý. Tôi không biết nghi thức mộ táng của người Mông Cổ, nhưng cả đoàn đưa tang đều là phụ nữ thì quả thực chưa từng nghe qua.

Hơn nữa, trên bức tranh có quá nhiều chi tiết nhỏ nhặt như thế này, không biết là do người điêu khắc cố ý lưu lại manh mối hay là phong cách làm việc của người đó vốn là như vậy.

Tôi xem đến đây, trong lòng đã hiểu rất rõ. Dựa vào những manh mối này, chỉ cần tìm một người dân bản địa quen thuộc địa hình vùng núi ấy là hoàn toàn có thể tìm ra vị trí của cung điện. Chẳng qua nó đã bị chôn vùi dưới tuyết mấy trăm năm trời, đất lạnh vốn rất xốp, chỉ cần hơi bất cẩn trong quá trình đào xới, một trận tuyết lở nho nhỏ cũng đủ khiến anh vĩnh viễn vùi thây trong tuyết.

Có điều những gợi ý này hoàn toàn không liên quan gì tới cửa động trong góc tường, tôi đi một vòng kiểm tra vách tường phía sau những tấm gương khác cũng không phát hiện ra điều gì đặc biệt, xem ra chỉ còn cách đi vào cái động kia mới tìm được đáp án. Tôi trở lại cửa động, thấy Muộn Du Bình vẫn còn đứng đó, ánh mắt lộ vẻ do dự như đang lo lắng điều gì. Hắn thấy tôi đi tới, đột nhiên nói: “Có lẽ tôi phải vào đó một lần.”

“Không được!” Tôi nghe xong hoảng hốt nói, “Tuyệt đối không thể chui đầu vào chỗ chết! Nếu anh mất trí nhớ thêm hai mươi năm nữa, chẳng phải mọi chuyện chúng ta làm sẽ thành công cốc hết sao?”

Hắn thản nhiên nói: “Tôi không giống các cậu. Đối với hai người, chuyến đi tới đây chỉ là một trải nghiệm ly kỳ, còn với tôi nơi này lại chứa đựng một khúc mắc lớn, nếu không hiểu rõ được, chỉ e đời này dù tôi có nhớ ra tất cả mọi chuyện cũng khó mà sống thanh thản.”

Tôi nghe xong, trong lòng bỗng có cảm giác nôn nóng khó tả. Kỳ thực không phải tôi không hiểu những lời hắn nói, nhưng hoàn cảnh chúng tôi bây giờ không cho phép xuất hiện thêm phiền toái nào nữa. Chuyện cần lo lắng lúc này là làm sao thoát ra khỏi đây; bằng không dù chúng tôi có tìm được tất cả bí mật trên thế giới này thì đợi đến khi dưỡng khí cạn kiệt, cả đám chết ngạt trong này, những bí mật đó cũng hoàn toàn vô giá trị.

Tôi nói với hắn những lo ngại của mình, Muộn Du Bình cũng có vẻ lưỡng lự, hỏi lại tôi: “Chuyện thoát ra khỏi đây, cậu nắm chắc được mấy phần?”

Nghe hắn hỏi tôi mới chợt nhớ ra mình chưa quan sát trần căn phòng, liền ngẩng lên xem xét.

Trong tất cả bút ký tôi từng đọc, mọi trần mộ dạng hình chóp đều được miêu tả là rất vững chắc, theo tôi cái gọi là “thất hoành bát tung” dùng để chịu lực ở trần mộ chính là chỉ kết cấu hình vòm, ở giữa cao, hai bên thấp. Có điều ở đây lại áp dụng kiểu làm trần bằng giống trên đất liền, như thế đào động ở đâu cũng không quan trọng.

Trần căn phòng cao hơn mười mét, nơi này lại không có gì để chồng lên làm điểm tựa, trước tiên đành phải lấy kính đẽo thành từng bậc trên cây cột bên cạnh, sau đó leo lên cạo lớp đất sét trắng bên ngoài, tiếp đó xử lý nốt lớp gạch xanh, không cần quá cẩn thận, chỉ cần tính thời gian cho chuẩn. Phá hỏng kết cấu phía trên rồi, phần trên tự nhiên sẽ vỡ ra thành một cái động, đợi nước biển lấp đầy ngôi mộ này là có thể thoát ra ngoài.

Mấu chốt của kế hoạch này là phải tính thời gian thật chuẩn, nếu không căn đúng lúc thủy triều xuống để phá vỡ kết cấu trần mộ, không chừng cả cái động này sẽ bị nước biển tràn vào phá sụp, chúng tôi cũng bị đè chết trong đống đổ nát.

Tôi bàn qua việc này với Muộn Du Bình, cả hai đều tự an ủi mình rằng khả năng thoát ra là rất lớn, có điều chúng tôi vừa thoát ra thì ngôi mộ này cũng đi tong. Nhưng nó cũng không chạy đi đâu được, cái gì vốn có thì vẫn còn nguyên chỗ cũ, đợi cả đám quay về chuẩn bị vài hôm rồi quay lại cũng chưa muộn, bây giờ không nên nôn nóng.

Hắn gật gật đầu, cuối cùng cũng bị tôi thuyết phục. Bàn Tử đợi không nổi, lên tiếng: “Vậy còn chờ cái qué gì nữa, giờ chúng ta cứ xử lý cái cột này trước đi, không khéo lát nữa chân tay lại luống cuống.”

Tôi nhìn đồng hồ, còn sáu tiếng nữa mới tới giờ thủy triều xuống, thời gian vẫn còn dư dả, lắc đầu nói: “Chúng ta vừa rồi tốn sức quá nhiều, cơm lại chẳng có đến một hột trong bụng, khí lực suy giảm nghiêm trọng. Bây giờ nên nghỉ ngơi cho tốt, lát nữa ra ngoài chưa biết phải đối mặt với những thứ gì đâu, nói không chừng con thuyền phía trên đã đi rồi, nếu không đủ sức khỏe, thoát ra rồi lại chết đuối thì khổ.”

Bàn Tử vốn là người tích cực, nghe tôi nói có lý như thế đành buồn bực gãi đầu: “Con mẹ nó, còn phải chờ nữa sao? Vậy tôi đi ngủ một lát đây, khi nào bắt đầu thì gọi tôi.”

Tôi cũng tìm một chỗ ngồi xuống nghỉ ngơi, có điều đầu óc vẫn không ngừng hoạt động. Tôi nhẩm tính, khi nước biển bắt đầu tràn vào thì tiếp theo sẽ chảy theo hướng nào, thông đạo dưới đáy ao đã bị tấm bia đá chặn lại, tuy không kín hoàn toàn nhưng nước thoát ra bao giờ cũng chậm hơn chảy vào, vậy chắc chắn sẽ có một lượng lớn nước tràn vào cái động kia. Vấn đề là tôi không biết cái động này thông đến đâu, giả sử thông đến một căn phòng khác thì phiền to, chỗ đó sẽ hình thành một xoáy nước khổng lồ hút hết cả ba người chúng tôi vào.

Nghĩ tới đây, tôi vô thức liếc nhìn vào bên trong động, nghĩ xem có cách nào chặn cửa động này lại được không. Tôi lập tức nghĩ ngay đến mô hình trên bàn kia, xét chiều cao và bề rộng cửa động thì có vẻ lắp vào vừa khít.

Nhưng trong khoảnh khắc tôi chăm chú nhìn vào cửa động, trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác kỳ lạ.

Trong bóng tối phía sau cổng tò vò, có một thứ ma lực hấp dẫn ánh mắt tôi. Thứ ma lực ấy không những mãnh liệt mà còn rất bức bách, tôi muốn quay đầu nhưng chợt phát hiện ra cổ mình đã cứng đờ, ánh mắt cũng không sao dời đi được.

Đồng thời tôi còn cảm nhận được một thứ cảm giác nôn nóng khó giải thích, giống như một người đói khát tới cực điểm vớ được gói thức ăn mà không làm cách nào xé được giấy bao. Cảm giác nôn nóng này rất nhanh chuyển thành sự thôi thúc, dẫn dụ tôi tiến vào bên trong.

Mọi chuyện chỉ diễn ra trong nháy mắt, không có dấu hiệu gì báo trước. Đến khi bọn họ phát hiện ra thì đã muộn, tôi nhanh chóng đẩy Muộn Du Bình trước mắt ra, chạy thẳng vào trong. Từ chỗ tôi đến cửa động chỉ cách một quãng ngắn, chạy vài bước tôi đã chìm vào bóng đêm, hắn có muốn kéo lại cũng không kịp. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết mình đang làm gì, trong lòng chỉ một mực muốn chạy đến nơi sâu nhất trong động, đèn pin cũng không thèm bật, cứ điên cuồng chạy trong bóng tối. Không cần biết dưới chân có gì, cũng không để ý đằng sau có ai đuổi theo hay không.

Nhưng tôi vừa chạy được vài bước đã cảm thấy một luồng kình phong từ phía sau ập tới, đầu gối trái nhói đau, hai chân mềm nhũn, ngã vật xuống đất.

Tôi ngã rất đau, trán đập thẳng xuống nền, đầu ong ong lên, mũi lấm tấm máu tươi. Nhưng cũng nhờ cú ngã này mà cảm nôn nóng trong lòng tôi nhanh chóng biến mất, thần trí lại tỉnh táo như bình thường.

Tôi hơi hồi hộp, trong lòng trào dâng một cảm giác khó nói nên lời. Huyệt động này quả thực nguy hiểm, chỉ cần nhìn vào bóng đêm thăm thẳm ấy là người ta dễ dàng mất trí, tôi vừa nhìn chăm chú trong giây lát đã trúng bẫy ngay.

Quay đầu nhìn lại đã thấy Bàn Tử và Muộn Du Bình đuổi tới nơi, bên cạnh còn lăn lóc một cái đèn pin, xem ra nó chính là thứ đập trúng đầu gối tôi.

Bọn họ dạt sang hai bên, không nói lời nào lập tức lôi tôi ra ngoài. Nhưng một chân tôi đã bị thương, đứng còn không vững, bọn họ kéo thế nào cũng không đi được, vả lại ánh sáng trong đây cũng mờ mờ ảo ảo, tình thế trở nên hỗn loạn vô cùng.

Bản Tử thấy một tay khiêng không nổi liền kẹp đèn pin vào nách, dùng cả hai tay lôi tôi lên, động tác hết sức thô bạo, tôi bị hắn kéo mạnh đến mức muốn xỉu luôn cho rảnh.

Đúng lúc này, ánh đèn vô tình quét qua một góc, mắt tôi chợt lóe lên, trong bóng tối kia hình như có ai đang ngồi.

Ánh sáng quét qua quá nhanh, tôi không sao nhìn rõ, nhưng dám chắc là hình người. Tôi chợt nhớ tới chú Ba, kêu lên: “Chờ đã, bên kia có người!”

Bàn Tử nghe xong quay đầu lại dùng đèn rọi một vòng, nhưng bóng người kia đã đứng dậy chạy biến vào trong động.

Lần này cả ba người đều thấy rõ ràng, chúng tôi ngẩn người, tiếc nỗi không nhìn rõ đó là ai. Muộn Du Bình phản ứng nhanh nhất, hô to: “Mau đuổi theo!”, lời vừa dứt đã chạy biến đi, Bàn Tử chửi một tiếng, đành phải đuổi theo.

Tôi chật vật một lúc mới đứng lên được, khập khiễng lê theo sau. Lúc này Muộn Du Bình đã đuổi kịp người kia, lại thêm Bàn Tử vừa chạy tới, hai người đè kẻ đó xuống đất. Bàn Tử dùng đèn pin rọi vào, a lên một tiếng kinh ngạc: “Là A Ninh!”

Tôi lết tới nơi, vừa thấy liền kinh hãi. Cô ta đầu bù tóc rối, mặt mũi lem nhem, bộ đồ lặn trên người rách nát tơi tả, toàn thân toát ra một thứ mùi khó ngửi, mũi và miệng đều có vết máu, không biết cô ta đã gặp phải chuyện gì mà thành ra thế này. Lúc này tôi mới phát hiện ra ba chúng tôi tới được đây cũng chẳng dễ dàng gì, nhất là Bàn Tử, cả người chi chít vết thương, vô cùng thê thảm.

Bàn Tử nhìn thấy cô ả liền nổi nóng, chỉ tay vào mặt bắt đầu chửi, nhưng mới được vài câu Muộn Du Bình đã đột ngột ngăn hắn lại, nói: “Chờ đã, cô ta có điểm bất thường!”
 
Quyển 2 - Chương 41: Cây san hô


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Nghe Muộn Du Bình nói tôi mới để ý thấy nét mặt A Ninh đờ đẫn bất thường, thậm chí có thể nói là dại ra, khác một trời một vực so với bộ dạng hoạt bát trước đây. Giờ cô ta đang bị Muộn Du Bình đè trên mặt đất nhưng lại không giãy dụa hay la hét gì, thậm chí còn chẳng thèm nhìn chúng tôi lấy một cái, giống như chuyện này không liên quan gì đến cô ta vậy.

Bàn Tử cảm thấy kỳ quái, nói: “Mẹ nó đúng là lạ thật, tôi chửi bới nặng lời như thế mà cô ta cũng không thèm phản ứng, nếu là ngày thường, tôi chỉ cần nặng nhẹ vài câu đã bị cô nàng cho ăn đạp rồi.”

Tôi biết hắn thường ra tay rất ác, bèn hỏi: “Vừa rồi anh có nặng tay lắm không? Anh coi cô ấy nói không nổi nữa kìa, tôi thấy hết tám chín phần là do anh mạnh tay quá, đánh cô ấy ngớ người luôn.”

Bàn Tử giận dữ nói: “Mẹ nó, cậu bớt nói lung tung đi, người như tôi mà lại nặng tay với con gái sao? Vừa rồi tôi đè chân cô ta cũng rất nhẹ nhàng, đến dấu vết lưu lại còn không có, cậu không tin thì hỏi Tiểu Ca đi.”

Muộn Du Bình bảo chúng tôi đừng tranh cãi nữa, hắn nói: “Hai người yên tâm, trên người cô ấy không có chỗ nào đáng ngại cả, chỉ là tinh thần không được tỉnh táo, có thể là do gặp phải chuyện kích động nào đó.”, nói rồi hắn lại huơ huơ tay trước mặt A Ninh, còn búng tay đánh tách một cái, nhưng cô ta hoàn toàn không có phản ứng.

Bàn Tử gãi gãi đầu, nghĩ mãi không ra: “Hay bà cô này đã gặp phải thứ gì đó, sợ đến choáng váng?”

Tôi nói: “Cô ta dữ dằn thấy ớn, thân thủ lại tốt, vừa rồi cô ta đối xử với tôi như thế nào anh cũng tận mắt chứng kiến rồi đó, người như thế thì làm sao bị dọa đến mất hồn được. Anh đừng có để vẻ ngoài của cô ta đánh lừa, nói không chừng bộ dạng này là cô ta đang giả vờ cũng nên.”

Bàn Tử nghe vậy cũng thấy hoài nghi: “Cậu nói không sai, tối độc phụ nhân tâm (độc nhất là lòng dạ đàn bà), chúng ta vẫn nên cẩn thận một chút. Không thì mỗi người chúng ta đánh cho cô ả mấy bạt tai, thử xem cô ta phản ứng thế nào? Bà cô này hiếu thắng cực kỳ, chúng ta cứ đánh cho mấy cái, cho dù có là trinh khiết liệt nữ hay mình đồng da sắt gì thì cũng…”

Tôi thấy hắn bắt đầu nhảm, liền mắng: “Ngừng lại giùm tôi, mẹ nó, anh xem nhiều phim cách mạng quá rồi muốn bắt chước theo đặc vụ Quốc Dân đảng ấy hả? Nhìn bộ dạng cô ta như vậy, anh xuống tay được sao?”

Bàn Tử giơ cao bàn tay to bè, nhằm xuống khuôn mặt nhỏ nhắn của A Ninh vả nhẹ hai cái, cảm thấy đúng là không thể nào ra tay được, chán nản nói: “Tiếc là Bàn gia cậu chưa bao giờ ra tay với phụ nữ, mẹ nó chứ, cậu bảo phải làm sao bây giờ?”

Thời gian tôi tiếp xúc với A Ninh không dài, bảo tôi nhìn phản ứng của cô ta rồi đoán xem cô ta có phải đang đóng kịch hay không là chuyện bất khả thi, tôi nói: “Chuyện này trong chốc lát thì không đoán ra nổi đâu, tôi thấy hay là cứ trói cô ta lại, mang ra ngoài rồi tính sau. Đến lúc đó chúng ta báo cảnh sát để họ xử lý chuyện này là xong.”

Bàn Tử lập tức nổi sùng: “Mẹ nó, cậu ngu thiệt hay giả ngu thế, ba người chúng ta đang đi đổ đấu đấy, cậu có biết vì sao lại phải gọi là đổ đấu không? Giao cho cảnh sát, đầu óc cậu có bị lùng bùng không đó?”

Tôi bị Bàn Tử xổ cho một tràng, ngớ cả người ra, thật muốn tát cho mình một cái, thầm rủa mẹ nó tư tưởng sao vẫn chưa chịu quen với chuyện này chứ, cứ tự cho mình là anh chủ tiệm đồ cổ. Vội nói với Bàn Tử: “Mấy lần trước tôi xuống đạo động đều là bất đắc dĩ, chứ trong lòng vẫn coi mình là dân thành phố lương thiện chính hiệu, có chuyện gì đều tìm đến cảnh sát nên mới buột miệng nói ra. Anh cứ xem như tôi vừa bốc phét đi, cho tôi nói lại lần nữa vậy.”

Bàn Tử khoát tay: “Thôi khỏi, tôi thấy cậu cũng chả nghĩ ra được cách gì hay ho, tốt nhất chúng ta nên xem Tiểu Ca quyết định thế nào, chứ trông chờ vào cậu thì lỡ hết việc.”

Tôi bị Bàn Tử nói cho cứng họng, đành quay sang Muộn Du Bình. Hắn đang chiếu đèn pin vào mắt A Ninh, sau đó quay lại nói với chúng tôi: “Đừng cãi nhau nữa, đồng tử cô ấy đờ đẫn, phản ứng rất chậm, xem ra nói “sợ đến choáng váng” vẫn còn quá nhẹ, không thể là đóng kịch được.”

Tôi thấy hình như hắn rất chắc chắn, không có lý do gì phải nghi ngờ, bèn hỏi: “Anh có nhìn ra được nguyên nhân cô ta trở thành như vậy không?”

Muôn Du Bình lắc đầu: “Chuyện này tôi chỉ biết được chút chút, cũng là nghe được lúc chính mình bị kiểm tra, còn về phần đánh giá nhận định, tôi không đủ khả năng, việc này cần đến bác sĩ chuyên nghiệp.”

Tôi thở dài, nhớ đến cô gái hoạt bát mình gặp lúc đầu, không khỏi cảm thán: “Được rồi, tôi thấy trong chốc lát không thể tìm ra nguyên nhân là gì đâu, chúng ta đừng ở đây nghĩ ngợi lung tung nữa, cứ đem cô ấy ra ngoài hẵng tính.”

Không ai ý kiến gì về đề nghị này, coi như đã nhất trí. Bàn Tử quay sang nói với Muộn Du Bình: “Thôi đừng nghĩ nhiều nữa, chỗ này ma quái như vậy, chúng ta kiểm tra một vòng xung quanh xem, nếu không có gì thì mau ra ngoài thôi.”

Tôi vốn đã quên mình đang ở đâu, vừa nghe Bàn Tử nhắc tới lập tức cảm thấy rùng mình, chỉ muốn rời khỏi đây ngay lập tức. Nhưng xem ra hai người kia đều có mục đích riêng khó nói, đành phải gắng gượng gật gật đầu.

Bàn Tử lập tức xoay người chiếu đèn vào sâu trong động, tôi nhìn theo ánh sáng từ tay hắn thì thấy động này cũng không quá dài, cách chỗ chúng tôi mấy chục bước chân hình như đã là đáy động, nhưng ánh sáng đèn pin không đủ mạnh nên chỉ có thể thấy được hình dáng mơ hồ của thứ đó.

Thị lực của tôi không tốt như Bàn Tử, không thể nhìn ra bên trong có gì. Lúc này tôi chỉ mong hắn đừng nhìn thấy gì cả, dẹp luôn hy vọng tìm được “thứ gì đó” đi! Thật không muốn ở trong này thêm một phút nào nữa.

Bàn Tử cẩn thận rọi đèn xem xét, chợt nhíu mày, giống như đã nhìn ra thứ đó là gì. Tôi nhìn theo hướng ấy lại chẳng thấy gì cả, chỉ nghe hắn nhỏ giọng hỏi chúng tôi: “Này, hai người xem thử bên trong có phải là có một cái cây không?”

Tôi “A” lên một tiếng, nói: “Trong cổ mộ làm sao mà có cây được, dưới này không có ánh sáng mặt trời, cũng không ai tưới nước, dù thực sự có đi nữa thì cũng chết yểu từ lâu rồi.”

Bàn Tử nhìn thật lâu, hình như cũng không dám khẳng định chắc chắn nên mới chỉ cho tôi xem. Tôi không còn cách nào đành phải thuận theo ý hắn, nhưng thực sự là nhìn không rõ, mắt trợn muốn lọt tròng cũng chỉ lờ mờ thấy một thứ giống như chạc cây, hình dạng trông rất quen nhưng không thể nhớ ra nó là gì. Tôi đáp: “Tôi nhìn không được rõ, nhưng chắc chắn đó không phải là cây.”

Bàn Tử rọi đèn pin lần nữa, ngoan cố nói: “Tôi thấy giống một cái cây thật mà, cậu xem, còn lóe lên ánh kim nữa. Nếu cậu không tin thì chúng ta cứ qua đó xem thử.”

Tôi thấy hắn còn có dụng ý khác, bực bội nói: “Anh đừng tưởng tôi không biết anh đang tính toán cái gì. Cứ coi như trong đó có một cái cây bằng vàng thật đi, anh vác ra được sao.”

Bàn Tử bị tôi vạch trần, vội chống chế: “Có vác ra được hay không thì cũng phải đến tận nơi xem mới biết, không chừng bên cạnh còn có món khác thì sao? Cậu nói xem, chúng ta không vào thì thôi, chứ đã vào rồi, phát hiện ra đồ tốt thì thế nào cũng phải qua xem thử một chút! Huống hồ chúng ta đã vào đến tận đây, không sâu cũng chẳng nông, nếu có chuyện gì thì cũng đã sớm xảy ra rồi. Rõ ràng trong này chẳng có gì đáng sợ, phải không?”

Trong lòng tôi chán chẳng buồn nói, lại không có cách nào phản bác. Lời lẽ của Bàn Tử rất logic, ờ thì xem thử, xem xong rồi thì dọn dẹp sạch sẽ chứ gì. Tên này đúng là ác ma chuyển thế, đụng đến hắn chỉ có xúi quẩy.

Tôi định đâm chọt hắn thêm câu nữa, chợt thấy Muộn Du Bình ra hiệu đừng làm ồn, khẽ nói: “Hai người theo tôi, đừng để tụt lại phía sau.” Nói rồi cũng không quay đầu lại, vội vã bước vào bóng tối.

Bàn Tử mừng rỡ, lập tức cõng A Ninh chạy theo. Tôi cảm thấy kỳ lạ, nhưng Muộn Du Bình đi rất gấp, tôi không kịp suy xét gì thêm, đành khập khiễng lê chân đuổi theo, có gì tính sau.

Muộn Du Bình bước nhanh về phía trước, cái động này từ đầu đến cuối đều có cùng độ rộng, từ chỗ chúng tôi đến đáy động không xa lắm, chỉ đi một lát đã đến trước cái mà Bàn Tử gọi là “cây”. Chỗ này đã là tận cùng của động, Muộn Du Bình rọi đèn vào thứ đó, chúng tôi lập tức nhìn rõ hình dạng thực sự của nó.

Đó là một cây san hô màu trắng rất lớn, cao hơn đầu người, phân thành 12 nhánh xòe rộng, nhìn qua thực sự rất giống một cái cây. Cây san hô được chạm khắc cắt gọt rất đẹp, nhưng phẩm chất quá bình thường, không phải là thứ quý giá gì.

Cây san hô được đặt trong một cái chậu sứ cực lớn, dùng sỏi đè chặt, trên chạc cây còn treo rất nhiều chuông nhỏ màu vàng. Ánh kim mà Bàn Tử nhìn thấy lúc nãy hẳn là phản chiếu lại từ mấy cái chuông này. Nhưng chắc chắn chúng không làm bằng vàng, bởi vì trong khe hở trên thân chuông đã xuất hiện màu xanh của gỉ đồng; xem ra lớp cốt bên trong làm bằng đồng thau, rồi mạ vàng bên ngoài nên mới giữ được độ sáng bóng.

Bàn Tử không thấy cây vàng như hắn tưởng nên chán nản vô cùng. Nhưng hắn vẫn còn nuôi chút hy vọng, bèn rọi đèn xem xét hết xung quanh, còn hỏi tôi: “Tiểu Ngô, cậu nói cây san hô này có đáng tiền không?”

Tôi xem xét kiểm tra hết một lượt, nhớ tới thái độ của hắn vừa rồi, bèn này ra ý muốn chế nhạo hắn, nói: “Không phải là tôi muốn làm anh thất vọng, nhưng xem chất lượng của thứ này, bán ra 16 đồng 1 cân đã được giá lắm rồi.”

Bàn Tử nghe xong nửa tin nửa ngờ, lại chạy đến hỏi Muộn Du Bình. Muộn Du Bình cũng gật gật đầu, hắn thấy thế buồn bực mắng: “Khỉ thật, tôi còn tưởng lần này sắp phát tài rồi chứ, mẹ nó, cuối cùng vẫn là công dã tràng.”

Tôi cười ha hả: “Bàn Tử, anh cũng đừng có nản, tôi nói cho anh biết, san hô tuy không đáng giá nhưng mấy cái chuông treo trên đó chính là đồ tốt.”

Bàn Tử tỏ vẻ không tin: “Nhìn cái mặt cười nhăn nhở của cậu kìa! Cậu đừng có mà bịa chuyện, mấy cái chuông vớ vẩn này tôi đã đổ ra không ít rồi, giá chỉ khoảng một nghìn đồng, cậu bảo đáng giá chỗ nào?”

Tôi nói: “Với đầu óc làm ăn cỡ như anh tất nhiên là không nhìn ra được rồi. Nói thật với anh, giá trị chính xác tôi cũng không đoán được, nhưng chắc chắn còn đáng giá hơn khối vàng cùng thể tích đó. Anh xem hoa văn bên trên chúng đi, niên đại trước thời Minh, thời đó thứ này đã được xem là đồ cổ rồi, anh hiểu ý tôi không?”

Bàn Tử nghe mà nghệch mặt ra, cũng không hiểu tôi nói thật hay là nói giỡn. Tôi thấy vậy khoái chí cực kỳ, cũng không thèm nói thẳng ra. Thực sự thì tôi cũng nhìn không ra nguồn gốc của mấy cái chuông này, bởi lẽ giới đồ cổ thường ít chú ý đến nó; bình thường đi đổ đấu chủ yếu là nhắm vào đồ sứ với đồ gốm, còn đồ kim loại dễ bị rỉ sét, cần có phương pháp bảo quản đặc biệt, mà kĩ thuật đó thì chỉ có mấy bảo tàng lớn mới dùng nổi, còn nhà dân bình thường, cho dù có là đại gia lắm tiền nhiều của chăng nữa cũng chịu không nổi. Huống hồ mấy cái chuông này còn phức tạp hơn đồ kim loại bình thường, nó có rất nhiều linh kiện nhỏ, nếu bảo tồn nguyên vẹn được toàn bộ thì sẽ là món đồ cực kỳ quý giá.

Bàn Tử cân nhắc một hồi vẫn không tin lời tôi, định lấy một cái xuống xem thử. Muộn Du Bình chụp hắn lại, nói: “Đứng yên.”

Một chân Bàn Tử đã đặt lên chậu đá cuội, lại bị Muộn Du Bình kéo xuống. Bàn Tử thấy lạ, hỏi có chuyện gì, Muộn Du Bình không thèm để ý tới hắn mà quay sang hỏi tôi: “Cậu có nhớ đã từng gặp loại chuông này ở đâu không?”
 
Quyển 2 - Chương 42: Tình cảnh khốn đốn


Editor: Thanh Du

*****

Vừa nghe hắn nói thế, tôi lập tức hồi tưởng lại chuyện của mấy tuần về trước.

Lúc ấy chúng tôi đang chuẩn bị tiến vào Lỗ vương cung, khi vượt qua động xác có bắt được một con bọ ăn xác cỡ bự. Trên đuôi con bọ đeo một cái chuông giống y như thế này, bên trong còn có một con rết xanh to tướng; khi con rết bò qua bò lại, chuông rung lên sẽ phát ra thanh âm nghe như có tiếng người thì thào khe khẽ, ẩn chứa trong đó một thứ sức mạnh huyền bí. Khi ấy chúng tôi bị âm thanh này mê hoặc gần hết, may nhờ Muộn Du Bình nhanh trí, đá bay cả đám xuống nước nên mới tỉnh táo trở lại.

Chú Ba sau khi xem qua cái chuông ấy từng nói niên đại của nó còn trước cả thời Chiến quốc, mà cụ thể là triều đại nào thì chú cũng chịu. Nhưng khi đó tình thế nguy cấp, tôi cũng không quá chú tâm đến nó; vả lại sau đó những chuyện xảy ra trong Lỗ vương cung quả thực giống y như ác mộng, tôi chưa điên lên là còn may, làm sao nhớ được mấy chi tiết lặt vặt này.

Nhưng hiện giờ bảo tôi xác nhận thì tôi cũng không dám chắc, bởi lẽ khi ở trong cái động xác kia cả đám chúng tôi chỉ có vài ngọn đèn mỏ chiếu sáng, tình cảnh cũng tương tự như lúc này. Vả lại cái chuông kia phát hiện ra chưa được bao lâu đã bị Phan Tử đạp bẹp dí, bảo tôi đem so hai cái chuông với nhau thì tôi cũng đành bó tay, cùng lắm chỉ có thể so sánh qua loa mà thôi.

Nếu cái chuông này cùng loại với cái trong động xác, vừa rồi Bàn Tử mà lỡ chạm vào nó thì nguy to rồi. Trước kia chỉ cần một cái chuông đã mê hoặc chúng tôi đến độ không thể khống chế bản thân, chỗ này ít nhất phải có đến bốn mươi cái, chỉ cần một chấn động nhẹ thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Muộn Du Bình thấy tôi suy tư, mới nói: “Cái động xác kia lạ lắm, nơi tích xác trong đó vốn là một mộ thất, chẳng hiểu vì sao lại có liên quan đến Uông Tàng Hải.”

Bàn Tử nghe chúng tôi kể lại mọi chuyện, biết được lai lịch mấy cái chuông, ủ rũ nói : “Các cậu có nhìn lầm không đó, một vật có niên đại trước thời Chiến quốc làm sao mà xuất hiện ở chỗ này được, làm gì có chuyện trùng hợp đến thế chứ. Không lẽ… lão già Uông Tàng Hải này cũng là một tay trộm mộ?”

Lời hắn vừa dứt, tôi và Muộn Du Bình đều ngây người.

“Kể ra thì cũng có khả năng này”, Muộn Du Bình nghĩ ngợi một lát rồi tiếp: “Thời trẻ hắn làm gì, chẳng ai biết cả; hơn nữa hắn còn thông thuộc phong thủy, nếu đi trộm mộ thì hẳn là cực kỳ thành thạo. Có điều tôi nhớ gia thế hắn tương đối hiển hách, mấy đời đều là chuyên gia trong lĩnh vực phong thủy, chẳng phải lo cơm áo, chắc không đời nào đi làm công việc thấp hèn này đâu.”

Muộn Du Bình thản nhiên nói ra hai chữ “thấp hèn” mà mặt không hề đổi sắc, hình như cũng không ý thức được mình vừa mắng một loạt cả ba người. Tôi hỏi: “Tôi cảm thấy giả thiết này không ổn, người làm nghề đổ đấu nhất định sẽ lưu lại dấu hiệu trong mộ mình, để sau này nếu có kẻ hậu sinh nào vào chôm chỉa thì cũng biết đường mà kiêng nể phần nào. Anh có nhận ra dấu hiệu nào trong đây không?”

Muộn Du Bình lắc đầu: “Vừa rồi tôi cũng thử tìm qua, nhưng quả thực không có.”

Trình độ của hắn trong lĩnh vực này thâm sâu khó lường, hắn bảo không có thì nhất định là không có. Tôi lại hỏi: “Vậy thì tại sao trong đây lại có vật này chứ, lẽ nào hắn cũng là người mê đồ cổ, cho nên mới đem món đồ mình yêu thích đi bồi táng?”

“Cậu nói vậy cũng không phải, trên đường tới đây chúng ta đâu tìm được món đồ cổ nào nữa. Tôi thấy còn một khả năng khác”, Bàn Tử tựa hồ đã nghĩ ra điều gì, dương dương đắc ý: “Thực ra nếu không tính dân đổ đấu thì còn một hạng người cũng thường xuyên tiếp xúc với cổ mộ, hai người có biết là hạng nào không?”

Tôi nghe thế lập tức bừng tỉnh: “Ý anh là, hắn đào được mấy thứ này khi thi công những công trình khác?”

Bàn Tử gật đầu: “Kẻ này có thể nói là một tay chủ thầu lớn nhất thời ấy, nhiều khả năng gặp phải chuyện đó. Giờ chúng ta chỉ cần về nhà tra tư liệu là biết ngay sinh thời hắn đã từng đi qua miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông chưa.”

Kiến giải của Bàn Tử hợp tình hợp lý, khiến tôi không khỏi bội phục. Có điều thứ này nhất định không thể đụng vào, tôi đoán có thể A Ninh đã vô tình chạm phải cây san hô này, chừng ấy cái chuông đồng loạt rung lên nên tâm trí mới bị thương tổn nặng nề; không biết tiếng chuông gây ra ảo giác gì trong đầu cô ấy mà để lại hậu quả nghiêm trọng thế này.

Con người ta vốn rất dễ bị ám thị, hiện giờ lại ở trong cổ mộ thần bí, chỉ cần thần kinh không vững thì sẽ dễ dàng phát điên. Tôi có cảm giác Muộn Du Bình mất trí cũng có thể là do thứ này gây ra, bởi lẽ tôi mới phát hiện đám chuông đó đều dùng dây tơ đồng buộc vào thân cây một cách chuẩn xác. Mà san hô vốn rỗng ruột, truyền âm rất tốt, cây san hô đặt ở đây giống như một thứ nhạc cụ, thanh âm phát ra có trăm nghìn loại, chắc hẳn trong đó có một loại khiến người ta quên đi toàn bộ kí ức.

Nhưng ý nghĩ đó của tôi có phần viển vông nên cũng ngại nói ra. Ba người đứng ngây ra mất một lúc, Bàn Tử mới nói: “Xem ra cái động này chẳng qua chỉ là trò lừa vớ vẩn, những chuyện kì bí đều do đám chuông kia gây ra, còn gì nữa không?”

Tôi thấy cái động này chẳng có yêu ma quỷ quái gì, trong lòng cũng nhẹ nhõm đi nhiều. Bây giờ đi hay ở không khác gì nhau, có điều xem đồng hồ thì thời khắc thủy triều rút sắp tới rồi, cứ đứng ngây ra trong này cũng chẳng được tích sự gì, nghĩ vậy bốn người liền quay trở ra.

Tôi vừa đi vừa miên man suy nghĩ, trong đầu vẫn còn hai dấu hỏi lớn. Một là, hai mươi năm trước Muộn Du Bình bị chú Ba dụ vào cái động này, vậy những người trong đoàn ngất xỉu cùng lúc với hắn giờ này đang ở đâu? Có phải chú Ba đã đưa bọn họ ra ngoài không?

Hai là, hai mươi năm trước khi Muộn Du Bình tiến vào đây có ngửi thấy một mùi hương lạ lùng, vậy mà bây giờ lại không có, lẽ nào hai mươi năm trước trong cái động này từng đặt một vật khác?

Những thắc mắc ấy, phải đợi đến khi gặp lại chú Ba mới có thể giải đáp.

Mà chú Ba thì đã mất dạng, chẳng biết đến đời nào mới tìm được. Nếu từ giờ trở đi chú Ba không xuất hiện nữa, những nghi vấn này sẽ trở thành bí ẩn ngàn năm không lời giải.

Nếu đúng như lời Bàn Tử nói, chú Ba bị oan hồn trong mộ nhập vào, vậy giờ này chú đang ở đâu? Khi nhìn thấy tấm ảnh chụp Muộn Du Bình, chú đã nói “Ta hiểu rồi”, rốt cuộc là hiểu ra điều gì?

Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy chuyện này còn thiếu tình tiết nào đó, chỉ cần cho tôi thêm chút manh mối là có thể kết nối tất cả những chi tiết này lại. Mà trực giác lại cho tôi biết, tình tiết này nhất định có liên quan đến Lỗ vương cung.

Trong lúc miên man suy nghĩ, bốn người đã ra khỏi cái động kia. Bàn Tử đặt A Ninh lên mặt đất, nói: “Đã sắp đến giờ, chúng ta cũng nên động thủ đi thôi.”

Tôi nghĩ bây giờ chuyện quan trọng nhất vẫn là thoát ra khỏi đây, bèn dẹp những suy nghĩ vẩn vơ ấy qua một bên, bắt tay vào việc chính. Xưa nay tôi chưa từng phá vỡ đỉnh mộ thời Minh, cho nên cũng không vững tâm lắm, chỉ biết làm đến đâu thì tính đến đó thôi.

Bàn bạc xong xuôi, ba người y kế hành sự. Bàn Tử đã ngứa ngáy tay chân từ lâu, nhanh chóng lấy đồ nghề ra đục đục khoét khoét cây cột. Nhưng hắn đã quá coi thường chất gỗ lim vàng, mới đục được vài cái đã thở hổn hà hổn hển, vậy mà cây cột chỉ bị hắn đập lõm vào một chút.

Hắn bắt đầu sốt ruột, nói: “Tiểu Ngô, cây cột này cứng đơ đơ, nếu ta cứ tiếp tục thế này thì có mất cả tuần cũng không dựng nổi một cái thang.”

Tôi a ủi: “Anh đừng nóng, chỉ cần anh phá vỡ lớp ngoài cùng là coi như xong, vào đến lớp ruột sẽ mềm hơn.”

Bàn Tử nửa tin nửa ngờ, lại cầm đồ nghề lên, dùng hết sức bình sinh thì tình hình mới khá hơn một chút. Đập thêm vài cái, Bàn Tử đã phá vỡ lớp gỗ ngoài cùng cứng như thép, khoét ra một cái hốc đặt vừa bàn chân.

Bây giờ tôi đã biết cái động kia là ngõ cụt, dù nước biển có tràn vào thì cũng chỉ thấm qua kẽ gạch là cùng, không lo sẽ hình thành xoáy nước, bèn qua giúp Bàn Tử một tay. Mới khoét được hai cái hốc đã phát hiện tên mập này đúng là trâu bò ngoại hạng, không chỉ có khí lực mạnh mẽ mà sức chịu đựng cũng tốt. Nãy giờ vận động liên tục mà hắn vẫn khỏe như vâm, không hề tỏ ra mệt nhọc; cùng thời gian ấy tôi cũng làm tương tự như hắn mà đã mệt rã rời, tay chân uể oải gần như không nhấc lên nổi nữa.

Chúng tôi làm đến tối tăm mặt mũi, rốt cuộc sau ba giờ đã leo lên lưng chừng cây cột. Lúc ở dưới còn đục khoét cẩn thận, nhưng khi đã treo lơ lửng giữa không trung thì không thể vận hết khí lực như trước nữa, có chỗ đặt chân đã là may lắm rồi, cuối cùng chỉ đục ra một vệt nông đủ để ghé mũi chân vào mà thôi. Nói chung quá trình thế nào không quan trọng, chỉ cần leo lên được là tốt rồi.

Đến đây chúng tôi đã cởi hết quần áo ra, bởi lẽ trang phục trên người toàn là đồ lặn, đàn hồi rất tốt. Kế đó chúng tôi cắt nhỏ bộ đồ lặn ra từng đoạn một, nối với nhau thành một sợi dây dài rồi bắt chước kiểu leo cây của người Mexico, nối hai đầu dây thành một vòng tròn vây quanh cây cột. Ba người đi theo ba hướng, giữ cho sợi dây căng ra, cứ thế hướng thẳng lên trên.

Quãng đường gian nan này tôi không hiểu mình leo lên bằng cách nào nữa, mỗi bước chân tựa như chết đi một lần. Bàn Tử mệt quá mới nổi cáu, gào lên: “Các cậu theo tôi lên đây làm gì, một mình tôi leo lên phá trần là đủ rồi, tí nữa nước tràn vào thì các cậu nổi lên vẫn kịp cơ mà. Giờ cái sợi dây chết toi này đã sắp xắt tôi ra thành thịt kho tàu rồi, Tiểu Ngô, mẹ kiếp cậu mau xuống cho tôi, bằng không tôi không chịu nổi nữa đâu.”

Tôi đáp: “Anh chỉ nghĩ tôi muốn leo lên mà không quan tâm đến tình hình thực tế, anh đâu biết mình đang tự đâm đầu vào đất chết. Chúng ta còn chưa biết bên trên có tường kép hay không, lỡ như có thì một khi anh phá tường, lớp cát lún bên trên sẽ tràn xuống chôn sống tất cả mọi người trong phòng.”

Những điều tôi nói hoàn toàn là sự thật, bố trí một tầng cát lún bên trong tường mộ là biện pháp phòng trộm cực kỳ phổ biến. Phần trước cũng từng đề cập đến, đây là phương pháp khá hiệu quả. Một ngôi mộ lớn có tầng cát lún, nếu muốn đi vào một cách thuận lợi thì khi đào đạo động phải tạo một cái giếng chứa cát, cho cát lún chảy hết vào trong đó. Có khi để giải phóng hết một mặt tường phải mất mấy ngày đêm, cho thấy lượng cát lún lớn kinh người. Hiện giờ chúng tôi không đủ điều kiện mà làm như thế, nếu thực sự đụng phải loại huyệt này thì cũng chỉ có thể tính cách khác. Nếu bên trên không phải cát lún mà là axit hay dầu hỏa thì lại càng chết.

Bàn Tử từng đổ rất nhiều đấu, dĩ nhiên biết lời tôi nói là thật, phẩy tay ý bảo thôi cứ đi tiếp đi.

Chúng tôi cắn răng trèo thêm nửa giờ nữa mới đến vị trí cao nhất. Bàn Tử sau khi đứng vững thì gần như kiệt sức, cựa quậy hết nổi, chỉ biết ôm chặt cây cột, nói: “Mẹ nó, nếu còn đục đục khoét khoét thêm một lúc nữa, không khéo tôi đây về chầu ông bà mất.”

Lát nữa còn phải nhờ hắn phá gạch, nên tôi để yên cho hắn thở, còn mình thì cẩn thận gõ gõ lên trần phòng thăm dò. Muộn Du Bình ra hiệu cho tôi tiếp tục rồi đặt ngón tay lên mặt gạch, cảm nhận chấn động, nói: “Gạch này đặc ruột.”

Bàn Tử nghe thế thì không dám nghỉ ngơi nữa, không nói lời nào liền bắt đầu đục từ lớp đất sét trắng trên đỉnh. Hắn không dám dùng sức quá mạnh, bởi lẽ sợi dây này dù sao cũng không được chắc chắn cho lắm, vạn nhất đứt phựt một cái thì cả đám sẽ ngã vỡ đầu chảy máu chứ chẳng chơi.

Chúng tôi đều với tay ra túm lấy vai hắn, đề phòng sợi dây này có đứt thì vẫn kịp giữ hắn lại, không đến nỗi rơi tự do từ độ cao mười mét xuống mặt đất. Có điều người hắn nhễ nhại mồ hôi, trơn như bôi mỡ, xem ra lỡ như hắn có ngã xuống thật thì chúng tôi cũng không giữ lại được.

Đất sét trắng rất giòn, hắn mới đục vài cái đã bóc được một mảng lớn, lộ ra lớp gạch xanh bên trong. Bàn Tử nhìn thoáng qua, chợt kêu không ổn, bảo tôi sờ thử xem. Tôi cố vươn tay qua bên đó, vừa sờ đã choáng váng.

Giữa các viên gạch, không ngờ lại gắn với nhau bằng sắt nung.
 
Quyển 2 - Chương 43: Bom


Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Thanh Du

*****

Ba người chúng tôi thoáng đưa mắt nhìn nhau, thần sắc đều lộ vẻ bất ổn.

Gạch sau khi xây dùng sắt nung chảy đổ vào cứng chẳng khác gì bê tông cốt thép ngày nay, trên mặt đất bằng phẳng dù có đập bằng búa tạ cũng không hề suy suyển, nói chi đến tình huống hiện tại.

Phía trên tối thiểu cũng có đến bảy tầng kết cấu y hệt thế này, hơn nữa còn đan xen chằng chịt. Không có trang thiết bị hiện đại mà đòi phá mở trần mộ, xem ra bắc thang lên trời còn dễ hơn.

Lòng tôi ân hận vô cùng, chỉ biết tự trách mình ngu ngốc không đoán trước được tình huống này. Mái bằng chịu áp lực không tốt bằng mái vòm, tầng gạch trên kia chắc chắn phải có vật liệu gia cố thêm. Lăng mộ thời Minh vốn chẳng có bài gì mới, cứ diễn đi diễn lại mỗi một màn dùng sắt nung chảy đúc vào kẽ gạch. Bản thân vốn chẳng có gì ngoài một quyển bút ký và mớ kiến thức kiến trúc mèo quào, xưa nay chỉ quen lý luận suông, ba hoa khoác lác không biết ngượng, đến giờ mới được nếm mùi đau khổ.

Bàn Tử nhìn tôi: “Đồng chí kiến trúc sư, giờ phải làm gì đây? Cho ý kiến đi chứ?”

“Còn phải hỏi nữa sao, còn nước còn tát thôi, trước hết cứ xử lý cái thứ phía trên đi đã.” Tôi vẫn muốn thử chút vận may, nói: “Đã qua hơn hai trăm năm, tôi không tin nó còn vững chãi như lúc đầu.”

Bàn Tử thấy tôi vẫn giữ vẻ bình tĩnh cũng tin tưởng vấn đề không quá nghiêm trọng liền bắt tay vào phá gạch. Gạch rỗng ruột phá vỡ rất dễ dàng, nhưng lớp gạch dù có bị phá vỡ thì vẫn còn khung sắt trơ trơ ra đó, Bàn Tử vận hết sức lực cũng chỉ làm xước mấy đường. Hắn biết cách này không ổn liền bảo: “Không xong rồi, những sợi sắt này phía trên rất chắc, cậu có điều xe tải đến cũng chẳng ăn thua gì đâu!”

Tôi gõ thử vài cái, gan bàn tay đã tê đi, biết chắc đây là thứ không thể cậy sức mà đối phó, không khỏi chán ngán: “Xem ra anh em ta đã quá coi nhẹ công nghệ kiến trúc thời cổ đại rồi. Độ tinh khiết của sợi sắt rất cao, căn bản không thể táng vỡ.”

Bàn Tử nói: “Chi bằng cứ mài thử xem, cổ nhân có câu, chỉ cần kiên nhẫn, có công mài sắt ắt có ngày nên kim.”

“Dẹp đi, sợi sắt dày như vậy, anh định mài đến kiếp nào?!” Tôi nói “Còn có hai mươi phút nữa là thủy triều xuống, chờ anh mài xong thì chúng ta đã đi chầu Diêm Vương rồi!”

Bàn Tử nổi khùng: “Vậy thì làm cái khỉ gì bây giờ?! Cậu không nghe cô ả kia nói sao, vùng này chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào mùa bão, bét nhất cũng kéo dài suốt một tuần. Giờ chúng ta mà không ra được thì cũng chỉ còn cách ngồi không dưới đây liên tiếp bảy ngày!” Hắn dài giọng ra nhấn mạnh “Những bảy ngày! Mẹ nó, chúng ta không chết vì chán cũng chết vì đói!”

Tôi biết chuyện này thực sự nghiêm trọng, liền hỏi: “Kinh nghiệm của hai người ở lĩnh vực này nhất định là ăn đứt tôi, vậy thử nói tôi nghe xem bình thường đụng phải loại tường mộ này hai người sẽ dùng biện pháp gì?”

Bàn Tử và Muộn Du Bình không hẹn mà cùng đồng thanh: “Thuốc nổ!”

Bàn Tử thấy tôi ngây ra bèn hảo tâm giải thích: “Đừng lấy làm lạ, độ bền vững của loại tường này cậu không tưởng tượng được đâu. Ngày trước ông đây cũng từng đổ loại đấu này, thông thường động đều được đào vào từ mặt đáy, nếu muốn xâm nhập từ lớp tường phía trên thì chỉ có nước dùng thuốc nổ.”

Nghe đến đây ruột gan tôi như đông thành đá, chuyện hắn đề cập đến không phải tôi không biết, nhưng đây là một ngôi mộ cổ mấy trăm năm tuổi, bảo tôi xuống đó cho nổ bùm một phát? Nghĩ đến đây lại thấy hối hận, còn nhớ trước khi xuống nước, A Ninh từng hỏi tôi có nên mang theo một ít thuốc nổ hay không. Có điều trong Lỗ Vương Cung tôi từng bị nổ đến tối tăm mặt mũi, cho nên chẳng muốn động đến thứ này chút nào, lập tức quẳng lại kho chứa; nếu là chú Ba thì thế nào chú cũng vác theo.

Giờ ngẫm lại mới thấy lúc ấy mình thật ngu xuẩn, từ nay trở đi tuyệt đối không được chủ quan như thế nữa.

Tôi nhận thấy chuyện thoát ra từ trần căn phòng này là hoàn toàn viển vông, đành thở dài: “Xem chừng cách này không xài được rồi, chúng ta phải tính kế khác thôi.”

“Mẹ kiếp còn tính cái gì nữa?! Chúng ta chỉ còn chưa đầy hai mươi phút cậu biết không?!” Bàn Tử hục hặc: “Tôi thấy nếu thực sự bó tay thì cứ lần theo đường cũ mà quay lại cho rồi, không chừng còn có thể tìm được căn mộ thất mà chúng ta đã đặt đồ lặn.”

Tôi gật đầu, tuy chẳng muốn quay lại cái đạo động kia chút nào nhưng bây giờ cũng chỉ còn cách đó; cứ nghĩ đến chuyện sẽ phải đụng độ với con quái vật trong đạo động cũng đủ đau đầu lắm rồi.

Đúng lúc này, Muộn Du Bình đột ngột lên tiếng: “Khoan đã! Hai người cứ đứng yên ở đây đừng đi đâu cả, tôi đã nghĩ ra một chỗ có thể tìm được thuốc nổ.”

Chúng tôi còn chưa kịp phản ứng, hắn đã buông sợi dây thừng, thả người trượt xuống khỏi cây cột.

Bàn Tử ngơ ngác nhìn tôi, tôi lắc đầu nhìn lại hắn, ra ý cũng chẳng hiểu hơn là bao.

Muộn Du Bình tính tình nghiêm túc, không phải loại người hay nói chơi, nhưng tôi vẫn đinh ninh nơi này đào đâu ra thuốc nổ. Hiện giờ hắn cũng giống như chúng tôi, quần áo đã lần lượt ra đi gần hết, chỉ còn đúng một cái quần xà lỏn, chắc chắn không thể giấu thuốc nổ trên người. Tôi nhìn theo hắn, chỉ thấy hắn phi thân nhảy vọt lên bàn đá đặt mô hình Thiên cung nằm chính giữa căn phòng. Dõi theo ánh đèn pin, tôi thấy hắn ngồi xổm xuống trước một thi thể khô đét ngồi chính giữa bàn đá, liên tục vuốt vuốt bụng nó.

Xác khô này theo như hắn nói chính là Tọa hóa kim thân, nhưng không hiểu hắn đang tìm kiếm thứ gì. Ngẫm nghĩ một hồi bỗng sực tỉnh, tim tôi thình lình lạc mất một nhịp. A, hóa ra là như vậy.

Muộn Du Bình lúc này mới thật cẩn thận nâng thi thể lên; xác khô có lẽ chỉ còn lại trọng lượng của xương cốt, chẳng tốn nhiều sức lực. Bàn Tử hỏi tôi: “Rốt cuộc hắn ta đang làm cái trò gì thế?”

Tôi nói: “Đoán thôi nhé, có lẽ trong xác khô kia có một cơ quan dùng trục Bát Bảo làm ngòi kích phát, bên trong có thể đặt thuốc nổ. Nếu gặp kẻ nào bất kính với người đã khuất, muốn chôm chỉa bảo vật trong thi thể thì nó sẽ nổ ngay.”

Bàn Tử nghe xong líu cả lưỡi: “Làm sao hắn ta biết được chuyện này?”

“Hai mươi năm trước khi hắn động vào thi thể này đã mơ hồ hiểu ra điều gì đó, anh có nghe khi nãy hắn bảo “có thể” không, nói cách khác là hắn cũng không chắc chắn.” Tôi đáp: “Nhưng không hiểu thuốc nổ để mốc meo mấy trăm năm liệu có còn dùng được không.”

Trong lúc tôi còn đang dông dài, Muộn Du Bình đã mang cái xác đến dưới chân cây cột, gọi với lên: “Mau xuống giúp tôi một tay.”

Bàn Tử mà xuống thì phiền phức phải biết, tôi đành để hắn chờ ở trên, đích thân bò xuống. Muộn Du Bình lấy dây thừng cột chặt xác chết vào lưng tôi, không quên căn dặn: “Tuyệt đối không được đụng vào, nếu cơ quan bên trong còn dùng được thì động vào là nổ ngay.”

Tôi vừa nhìn thoáng qua khối Tọa hóa kim thân ở cự ly gần, chỉ cảm thấy rõ ràng miêu tả của Muộn Du Bình khi nãy không sống động bằng một phần vạn thực tế. Thi thể này toàn thân đã chuyển màu đen, một sắc đen bóng cho người ta cảm giác nó đang phát sáng, tựa như không phải thân thể người chết mà do một khối gỗ bóng loáng tạc thành. Xác chết đã teo tóp cả, nhất là khóe miệng trông vừa giống cười vừa giống mếu, nhìn thẳng vào nó một lát thôi cũng đủ nổi cả da gà. Tóm lại một câu, thi thể này chẳng mảy may giống với một cao tăng đắc đạo nơi cửa Phật mà trái lại chỉ khiến người ta cảm thấy điềm xấu đang lởn vởn xung quanh.

Tôi ngao ngán không muốn đụng vào, quay sang hỏi hắn: “Anh chắc thi thể này không có vấn đề gì chứ? Tôi cứ cảm thấy lão ta hình như đang mưu tính quỷ kế gì đó, anh nhìn nét mặt lão xem, thế quái nào mà lại…mà lại…”

“…Quái dị như vậy.” Muộn Du Bình tiếp lời tôi: “Tôi cũng không biết nữa…Xác chết này đúng là khiến cho người ta phải dè chừng, nhưng dù sao nó cũng khô lại rồi, không thể thi biến được nữa.”

Tôi gật đầu nhưng mồ hôi lạnh đã ướt đẫm lưng: “Vậy thì được. Anh khẳng định số thuốc nổ này vẫn còn dùng được?”

Hắn đáp: “Chỉ cần trục Bát Bảo còn hoạt động được thì thuốc nổ vẫn dùng tốt. Chỉ e cơ quan lâu ngày đã thoái hóa mất thôi.”

Cõng một cái xác khô quắt queo, cả người tôi từ trên xuống dưới chẳng có lấy một phân thoải mái, nhất là móng tay dài thượt của lão cứ vắt qua vắt lại trước mặt tôi, nhìn ma quái đến mức nhũn cả chân. Tôi nghĩ đến dân cản thi (*) ở Tương Tây, chắc cũng vác thi thể trên lưng thế này, nhưng người ta bọc trong bọc ngoài tầng tầng lớp lớp rồi mới dám vác. Còn tôi thì ngược lại, thi thể trần trụi, người tôi cũng không một mảnh vải; thịt dán vào thịt, cái cảm giác thô ráp này, mẹ kiếp, lạnh sống lưng miễn bàn.

(*) Cản thi: là loại pháp thuật của Miêu tộc cổ đại, tương truyền nó có thể dẫn dắt các thi thể di chuyển như người sống. Trên thực tế cái gọi là “cản thi” chỉ là “bối thi”, tức là cho người đóng giả thi thể cõng thi thể trên lưng, người kia đóng vai thuật sĩ đi trước dẫn đường cho “thi thể”, một mánh của dân trộm mộ để di chuyển xác chết mà không bị người ta tiếp cận.

Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, may thay ánh sáng tuy mờ nhưng vẫn đủ để nhìn rõ mọi thứ nên tôi cũng chưa đến mức nghĩ quàng nghĩ xiên, đành cắn răng tặc lưỡi coi như đang vác cái bao tải trên lưng, bắt đầu dò dẫm từng bước hướng lên trên. Muộn Du Bình đi ngay phía sau, đề phòng tôi bị trơn mà trượt chân ngã xuống.

Mới đi được khoảng năm sáu bước, tôi chợt thấy thi thể có điểm là lạ. Lưng tôi dính chặt lấy lớp da khô của xác chết nên có thể cảm nhận rõ ràng dường như xác chết hơi phình ra một chút. Tôi dừng lại, tập trung tâm trí, lại không nhận ra có gì khác thường.

Tôi ngoái lại nhìn Muộn Du Bình, hắn leo ngay bên dưới, nếu thi thể có biến hóa dị thường thì hắn sẽ biết ngay. Nhưng cho đến giờ hắn vẫn chưa phát hiện ra chuyện gì, phải chăng tôi đã quá đa nghi?

Không trách được, cõng một xác chết cổ quái trên lưng, không đa nghi mới là lạ.

Còn đang suy nghĩ, bên tai đã nghe thấy Bàn Tử hô hào thúc giục, tôi chỉ còn biết tiếp tục hướng lên trên đó. Vì quá vội vã nên chân tôi bắt đầu phát run, chỉ muốn chấm dứt cái công việc đau khổ này càng sớm càng tốt, sải liền mấy bước, vất vả một hồi cuối cùng cũng đi tới đích.

Có thể nói, Bàn Tử đã chạm trán vô số thi thể, thế nhưng nhìn thấy xác khô này cũng lộ ra vẻ mặt căng thẳng. Dù sao thì khi lấy thừng buộc xác chết còn cách được hai ba nắm tay, giờ vai kề vai mặt kề mặt, khó chịu là phải.

Tôi thu hết kiên nhẫn nói với hắn: “Anh cố định thi thể trên trần rồi xuống đây ngay, chúng tôi sẽ kích nổ từ bên dưới. Nếu chất nổ bên trong còn xài được, hẳn là không vấn đề gì.”

Bàn Tử liếc nhìn trần mộ, cau mày: “Cậu thách đố tôi đấy à? Cố định thế mẹ nào bây giờ? Cậu muốn tôi học theo Đổng Tồn Thụy chắc?”(*)

(*) Đổng Tồn Thụy là một chiến sĩ giải phóng quân TQ, trong một trận đánh đã ôm thuốc nổ lao vào lô cốt địch, hi sinh anh dũng. Học theo Đổng Tồn Thụy = ôm bom cảm tử = đánh bom liều chết= …

Tôi ngẩng đầu, quả nhiên thấy trên trần hoàn toàn không có bất kì điểm tựa hay điểm móc nào, nếu muốn phát huy sức nổ tối đa thì phải tìm cách gắn chặt thi thể lên trần phòng, chuyện này cũng thật gay go.

Tôi ngẫm nghĩ rồi giục: “Nếu không thì buộc đại vào cái cột này cũng được, mau lên đi, thời gian sắp hết rồi.”

Bàn Tử đón lấy thi thể, đưa qua đưa lại tìm vị trí thích hợp, đột ngột hỏi một câu: “Ây, lạ thật, sao thi thể lại mọc đuôi thế này?”
 
Quyển 2 - Chương 44: Tróc da


Editor: Triêu Nhan

Beta: Thanh Du

*****

“Cái đuôi ở đâu, sao vừa rồi tôi không thấy?” Tôi vẫn đinh ninh anh ta đang đùa, nói tiếp: “Anh đừng có chọc tôi nữa.”

“Thế đây là cái gì?” Bàn Tử nghiêm túc chỉ cho tôi: “Thị lực của cậu cũng quá “thần”, thứ đó nhô cao như vậy mà không thấy sao?”

Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của Bàn Tử, thấy ở chỗ xương cụt của toạ hoá kim thân quả thực có một cái que đen thui thủi nhô lên, dài chừng ba tấc, to bằng hai ngón tay, nhìn qua thấy độ khô ngang bằng với thi thể, trông khá giống một cái đuôi bò khô cứng cong queo hướng thẳng lên trên.

Tôi thấy chuyện này thật quái lạ, vừa rồi lúc di chuyển cái xác hình như tôi còn chưa thấy thứ này, chẳng lẽ nó vừa mới mọc ra?

Ngẫm lại một hồi cũng không thấy gì khả nghi, vả lại vừa rồi do quá mức căng thẳng, rốt cuộc có thấy đuôi hay không thì tôi cũng không dám chắc. Tôi chợt cảm thấy lạnh cả xương sống, đột nhiên có một thứ linh cảm cực xấu.

Tôi vội vàng tự nhủ, giờ không phải là lúc mê tín dị đoan, chẳng qua chỉ là một cái que vớ vẩn gì đó mà thôi, chắc gì đã là đuôi chứ, bèn quay qua nói với Bàn Tử: “Anh đừng kết luận vội, thân người thì làm sao mọc đuôi được, biết đâu là cái đó thì sao? Anh nhìn kỹ lại xem.”

“Xem cái mẹ gì” Bàn Tử cười to: “Cái đó có thể mọc ở đằng mông hay sao? Lại nói, ai đời chết rồi còn – còn -”

Tôi biết tỏng hắn định nói gì, lập tức cắt lời: “Được rồi được rồi, ai biết nó là cái khỉ gì, chỉ biết cứ dây dưa mãi thế này rồi cả đám sẽ nổ tung đến một mảnh vụn cũng không còn mất. Anh cứ vùi đầu vào mà nghiên cứu cái đó đi, đợi thêm vài năm nữa sẽ có người khác đến nghiên cứu chúng ta.”

Bàn Tử bị tôi nhắc nhở, lập tức bừng tỉnh, cũng không để ý đến cái thứ kỳ lạ kia nữa, vội vàng bắt tay vào việc chính.

Tôi giúp hắn xoay cái xác, gỡ dây thừng vốn dùng để hỗ trợ cho việc leo cột xuống, khó khăn lắm mới buộc được cái xác khô lên cây cột. Hiện giờ còn chưa đoán trước được vụ nổ sẽ dữ dội đến mức nào, nhưng tôi từng nghe ai nói thời Tam hiệp ngũ nghĩa, pháo Cửu tử liên hoàn đã có thể bắn vỡ mười tầng nham thạch kim cương, cứ theo lý đó mà suy ra thì thứ này cũng không kém là bao.

Cột xong rồi, tôi mới kéo thử một cái. Lúc này cả đám vẫn chưa hết hoang mang, cột cũng không thật chắc chắn, nhưng chỉ chịu lực một lúc thì hẳn là không vấn đề gì. Tôi không muốn tiếp tục ở lại trên này nữa, kiểm tra lại một lần, thấy mọi thứ đều ổn thoả thì lập tức chuẩn bị leo xuống.

Nghĩ tới thời gian nổ đã gần kề, đầu óc tôi không khỏi căng thẳng. Giờ thì mọi việc có trót lọt hay không chỉ còn trông chờ vào đám thuốc nổ này, mong sao thượng đế sẽ phù hộ, còn những chuyện khác thì thoát ra khỏi đây sẽ tính sau. Tôi cũng không dám mong mọi thứ đều thuận lợi, chỉ cần giữ được cái mạng nhỏ này là đủ rồi.

Đang suy nghĩ miên man, bỗng Bàn Tử kéo tôi, nói: “Đợi một chút, tôi còn chưa chuẩn bị xong.”

Tôi vừa mới kiểm tra qua một lượt, nghe vậy liền sửng sốt: “Còn thiếu chỗ nào nữa, không phải đã ổn hết rồi sao?”

Bàn Tử bảo tôi khoan hãy xuống dưới, sau đó quay đầu lại, kính cẩn nói với cái xác khô: “Vị tiền bối có đuôi, không cần biết ngài là người hay là khỉ, dù sao ngài cũng về Tây phương rồi, thân xác tầm thường này đối với ngài đã không còn công dụng gì nữa. Tuy chúng tôi lấy ngài làm bao thuốc nổ là có phần quá đáng, nhưng thực sự là vì tình thế bức bách, ngài đại nhân đại lượng cũng đừng tính toán với chúng tôi làm gì. Lát nữa ngài cứ coi như tắm sauna (*) thôi, không tranh với đời, không có gì phải kiêng kỵ.” Nói xong ra lạy cái xác kim thân mấy cái có lệ.

(*) Là kiểu tắm hơi xuất phát từ Phần Lan, có lịch sử hơn 2000 năm. Đặc trưng của kiểu tắm này là dùng nhiệt độ rất cao để kích thích các phản ứng của cơ thể như khiến cho mạch máu co giãn, giúp máu lưu thông, chữa được phần nào các chứng viêm khớp, đau lưng, viêm khí quản, suy nhược thần kinh…

Tôi nổi nóng, túm quần xà lỏn của hắn kéo xuống, mắng: “Con mẹ nó, giờ là lúc nào rồi mà anh còn bày vẽ!”

Hắn tuột thẳng xuống cạnh tôi, nói: “Cậu không hiểu à, cái thứ đó trông tà môn lắm, lỡ nó theo ám chúng ta thì sao? Hơn nữa người ta đang yên lành ngồi trên đó, không dưng lại bị chúng ta đem làm bao thuốc nổ; chúng ta đã sai ngay từ đầu, cũng nên nói vài câu hoa mỹ cho người ta vừa lòng.”

Tôi vừa bò vừa mắng: “Thôi đi bố, lúc bố khuân cái xác mười hai tay thì thế nào? Có thấy bố lạy người ta đâu? Chẳng qua cái xác này mọc thêm đuôi thôi, có gì phải sợ chứ.”

Mâu thuẫn giữa hai phái bắc nam nảy sinh chính vì nguyên nhân này, có thể nói là do ý thức hệ bất đồng. Bàn Tử nghe tôi nói vậy thì khó chịu ra mặt, hừ một tiếng, quay đầu qua chỗ khác không thèm nhìn tôi nữa.

Khi chúng tôi xuống đến đất, Muộn Du Bình đã cõng A Ninh lên, gọi bọn tôi vào góc phòng mộ. Chúng tôi đẩy mấy mặt gương đồng che trước mặt mình, coi như tấm khiên, lỡ đâu sức nổ quá mạnh thì cũng không đến nỗi bị đá vụn sát thương. Mọi thứ sắp xếp ổn thoả rồi, chỉ còn đợi đúng lúc thủy triều rút, Muộn Du Bình sẽ dùng kỹ thuật chính xác của mình, lấy một khối chân kính ném trúng ngòi nổ ở bụng cái xác kim thân. Trong Lỗ Vương cung, kỹ thuật ném đao của hắn đã suýt giết chết Bàn Tử, lần này chắc hẳn không thành vấn đề. Vả lại bây giờ có muốn nghĩ cách khác cũng không được, tôi vừa thầm cầu nguyện, vừa chăm chú nhìn ra.

Quy luật của thuỷ triều là: mỗi ngày có hai lần con nước lên, cách nhau mười hai tiếng đồng hồ. Bình thường triều cường phải kéo dài vài tiếng nước mới bắt đầu rút, còn thời điểm triều thoái cực hạn thì nằm vào khoảng giữa hai lần triều cường. Lúc đó mực nước biển rút xuống thấp nhất, thậm chí có khi còn lộ ra đáy biển.

Có điều đáy biển ở đây hẳn sẽ không cạn như thế, nếu không lượng thuyền bị mắc cạn sẽ lớn hơn rất nhiều. Tôi nhẩm tính, nước biển có thể hạ xuống tầm hai mét là lý tưởng nhất.

Tôi không biết thời gian thuỷ triều rút có thể kéo dài bao lâu, theo trí nhớ của tôi thì hình như rất ngắn; vả lại chúng tôi còn phải đợi nước khoét rộng lỗ thủng phía trên, dự tính phải mất thêm một khoảng thời gian nữa, cho nên một khi đã bắt đầu là không thể trì hoãn dù chỉ một phút.

Tính toán như vậy cũng đã là lạc quan, ngoài ra còn có thể có tình huống đột ngột phát sinh, đến lúc đó đành phải tuỳ cơ ứng biến thôi. Tôi càng nghĩ càng miên man, rốt cuộc cũng tại tôi nói linh tinh, nếu như lát nữa mọi chuyện xảy ra không giống như tôi tính toán, mà là cả cái trần này sập xuống, như vậy thật có lỗi với mấy người bọn họ. Vừa nghĩ đến đây, toàn thân cũng bất giác trở nên căng thẳng. Bàn Tử nhìn nét mặt của tôi, đại khái cũng biết tôi có hơi lo lắng, bất an hỏi: “Hai người nói thật cho tôi biết đi, chúng ta có chắc chắn thành công không?”

Tôi không biết trả lời hắn thế nào, đành đáp lấy lệ: “Ở vào tình cảnh này, tôi cũng không dám nói trước điều gì. Dù sao đạn đã lên nòng, anh cứ đợi thêm một lát là biết ngay.”

Bàn Tử thở dài: “Thật là, cậu càng nói tôi càng thấy lo, cậu bảo nếu đợi lát nữa mà nếu cái thứ đó không nổ thì sao? Các cậu còn đường nào xoay sở nữa không? Nói ra trước đi, để tôi yên tâm một chút.”

Tôi nói: “Cách khác thì cũng có, lúc nãy anh đã nói rồi còn gì, đấy là quay lại đường cũ, chờ xem cái mộ thất chúng ta đi vào có hiện ra lần nữa không. Bằng không còn một cách nữa, kể ra cũng không tính là cách, đó là cứ ngồi yên dưới này, đợi đoàn cứu hộ thứ ba tiến vào cứu chúng ta.”

Bàn Tử nhăn mặt: “Biết đợi đến chừng nào, nếu không ai đến cứu chúng ta thì sao? Không lẽ phải đợi đến mãn kiếp? Như vậy chẳng phải sẽ thành người sống trong mộ, dưới đáy Tây Sa, Mô Kim hiệu uý, tuyệt tích giang hồ hay sao.”

(Giải thích một chút cho ai còn ngờ ngợ: 4 câu thơ này anh béo chế từ bài “Chung Nam sơn hậu, hoạt tử nhân mộ, thần điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ” của cô gái áo vàng trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, aka anh tự ví mình với TDDH :)))

Tôi an ủi Bàn Tử: “Ý tôi là, nơi này tuy hiểm ác vô cùng, nhưng chúng ta cứ tạm thời chôn chân ở đây thì cũng không chết ngay được; chỉ cần có thời gian suy nghĩ cho kỹ càng, hẳn sẽ tìm ra cách khác. Anh xem nơi này rộng rãi thoáng mát, không khí còn đủ đến mấy ngày, tôi nghĩ có đợi một tuần cũng không thành vấn đề. Chúng ta ngủ nhiều một chút, vận động ít đi một chút, cố gắng tiết kiệm sức lực là được.”

Bàn Tử không đồng tình, vặc lại: “Không khí thì đủ, nhưng chúng ta cũng phải ăn chứ. Nơi này không phải chốn rừng sâu núi thẳm, chẳng có cái cóc khô gì hết; đến gió tây bắc cũng không có mà hít, tôi thà ngộp chết còn hơn đói chết.”

Tôi bật cười, nói: “Cách giải quyết thì thiếu gì, trông anh béo tốt thế kia, có nhịn đói cả tuần cũng không chết được. Nếu anh đói quá chịu không nổi thì còn con Hải hầu tử đó thôi, mà giả như chén hết Hải hầu tử vẫn chưa no thì ta bắt cấm bà dưới kia lên xẻ thịt cũng đủ ăn vài bữa.”

Bàn Tử nghe vậy cũng khoái chí, tên này chỉ cần có người tranh cãi với mình là hăng lên ngay. Hắn vỗ vai tôi nói: “Được đó, mấy câu này của cậu rất có phong cách của Bàn Tử tôi, làm cách mạng là phải có tinh thần không sợ trời không sợ đất, xem ra lần này cậu đúng là tiến bộ không ít.”

Những lời này khiến tôi cũng phải giật mình, từ lúc nào tôi bắt đầu nói những chuyện tào lao vớ vẩn thế này? Xem ra là lây từ Bàn Tử rồi, không được, tuyệt đối không thể giống như Bàn Tử được. Nghĩ rồi tôi không tán gẫu nữa, tiếp tục chăm chú nhìn đồng hồ đeo tay. Còn có năm phút thôi, nếu kích nổ ngay lúc này, hẳn là cũng không chênh lệch nhiều lắm. Nghĩ thế tôi liền quay sang nhắc Muộn Du Bình để hắn có thời gian chuẩn bị trước, tránh cho lát nữa sẩy tay. Cái xác kim thân đó vốn buộc không được chắc, lát nữa mà nó rớt khỏi cây cột, nổ ngay dưới chân thì cũng chẳng phải chuyện hay ho gì.

Muộn Du Bình nhắc nhắc thứ trong tay, gật đầu đồng ý. Đúng lúc này, Bàn Tử đột nhiên kêu lên: “A? Cái xác khô kia đâu rồi?” Chúng tôi vừa nghe tin xấu vội vã quay đầu lại, phát hiện thi thể trên cây cột đã biến đi đâu mất. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là vừa rồi không buộc không được chắc, hẳn là nó rơi xuống đất rồi. Lại nhìn xuống chân cột, móa, mặt đất cũng không có! Chuyện này đúng là quái lạ không sao tả nổi.

Thời khắc sống còn này lại xảy ra sự cố, tôi quả thật nghĩ không ra. Mới rồi còn tính chuyện tuỳ cơ ứng biến, chẳng qua là tự an ủi mình, không ngờ lại ứng nghiệm nhanh thế này.

“Cậu xem đi xem đi, tôi đã nói rồi mà, tiên sư nó, thứ gì có đuôi thì nhất định không bình thường mà.” Bàn Tử kêu lên: “Mau tìm xem nó chạy đâu rồi.”

Chúng tôi đồng loạt xông ra, liếc qua đã thấy vật chúng tôi muốn tìm đang bấu vào trần phòng khuất sau cây cột, lấy móng tay bám chặt những hình khắc nổi. Lớp da đen bóng trên người nó đã bắt đầu nứt nẻ, rớt xuống từng mảng từng mảng một, máu chảy đầm đìa, thật không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra nữa.

Tôi thấy sợi dây vẫn còn buộc chắc vào lưng nó, vì dây làm từ chất liệu đồ lặn khá bền, buộc một người thì dư sức cho nên nó chưa thể giãy ra, nhưng xem tình hình này thì cũng không cầm cự được bao lâu nữa.

Bàn Tử thấy thế vội gào toáng lên: “Mau lên, nhân lúc nó còn chưa kịp chạy thoát thì mau kích nổ rồi nói gì thì nói sau!”

Muộn Du Bình đâu cần hắn phải nhắc, Bàn Tử mới ngẩng đầu lên, tôi đã nghe một tiếng rít dài xé gió, cùng lúc đó một tia sáng xanh xẹt qua, cắm thẳng vào bụng cái xác khô kia.
 
Quyển 2 - Chương 45: Thoát ra


Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Tôi kêu lên thất thanh, động tác của Muộn Du Bình quá nhanh mà chúng tôi vẫn chưa tránh kịp, hành động bất ngờ như thế, lỡ nổ một cái thì chết cả nút.

Nhưng đợi tôi nghĩ đến đó thì làm gì còn kịp nữa, chỉ thấy trước mắt chợt bừng lên một quầng sáng trắng lóa, Bàn Tử nhào tới đè tôi xuống đất, sau đó là một tiếng nổ khiến cả mộ thất ầm ầm rung chuyển. Một luồng hơi nóng rát hất tung chúng tôi lên, tôi lộn nhào trên không khoảng sáu bảy vòng gì đó, bắn ra xa hơn ba trượng, đầu đập thẳng vào tường.

Lần này thực sự là xong rồi, cũng may trước đó Bàn Tử kịp đẩy tôi ngã xuống, chứ không cầm chắc đã gãy cổ. Tôi va vào tường rồi chẳng còn biết gì nữa, mắt không nhìn được, hai tai ong ong, còn tưởng mình đã đi chầu ông vải mất rồi. Nhưng chờ thêm một lát, bỗng cảm giác trước mắt có ánh sáng, tôi chầm chậm mở ra, chỉ thấy trời đất quay cuồng, bụi vàng bay mù mịt, đầu óc choáng váng đến buồn nôn.

Tôi chật vật đứng lên, bên tai văng vẳng đủ thứ thanh âm hỗn tạp, nhưng lúc này tôi làm gì còn sức phân biệt ai là ai nữa, chỉ thấy ồn ào chết đi được, đầu thì đau muốn nứt ra. Trong lúc hỗn loạn, Muộn Du Bình vừa ho khan vừa chạy ra từ đám bụi mù, hỏi: “Cậu không sao chứ?”

Tôi vừa mở miệng định nói thì cắn ngay vào lưỡi, đành xua xua tay ra hiệu đi tiếp. Hai chúng tôi vừa bụm miệng vừa đi lòng vòng tìm Bàn Tử, đi được mấy bước thì thấy hắn đang ngồi một góc, bả vai bị mảnh gạch vỡ va trúng, tượt mất một mảng da. Hắn vừa thấy Muộn Du Bình đã chửi ầm lên: “Chết tiệt, con mẹ nó sao cậu ra tay nhanh vậy, ít ra cũng phải đợi chúng tôi lui vài bước đã chứ. Ông đây chỉ cần nhích sang bên cạnh hai phân thôi thì cánh tay này coi như đi tong rồi!”

Muộn Du Bình xòe tay ra cho chúng tôi thấy miếng kính: “Cậu nhầm rồi, vừa rồi không phải tôi làm.”

“Á, không phải anh?” Chúng tôi đều kinh hãi.

Luồng lực đạo mạnh mẽ và chuẩn xác như vừa rồi nhất định phải do một người cực kỳ lợi hại phát ra, không phải hắn thì là ai? Vừa rồi Bàn Tử không rời tôi nửa bước, vả lại hắn cũng không thể ra tay chuẩn xác như vậy được. Người đó càng không thể là tôi, suy ra ở đây chỉ còn lại một người – tôi đột ngột hiểu ra, vội vàng chạy đi tìm A Ninh.

Bàn Tử cũng nghĩ như tôi, cả hai chạy đến góc phòng thì làm gì còn bóng dáng cô ta nữa. Bàn Tử mắng: “Quả đúng là bà cô kia! Mẹ nó, quả nhiên là ả giở trò!”

Muộn Du Bình hình như hơi sốc, xem ra hắn rất tin tưởng vào phán đoán của mình, không ngờ lại xảy ra sai sót. Tôi càng thêm dè chừng cô ả, nói: “Cô ả quả thật cao tay, xem ra cũng là kẻ sành sỏi trên giang hồ, xưa nay tôi chưa thấy ai giả dại giống đến thế.”

Bàn Tử lầm bầm: “Tôi thấy không phải là sành sỏi bình thường đâu, bèo nhất cũng phải là diễn viên nghiệp dư, lần sau ả có nói gì cũng đừng hòng lừa được tôi!” Vừa dứt lời liền dợm bước định đi tìm cô ta thật, Muộn Du Bình vội kéo tay hắn lại, nói: “Giờ không kịp đâu, thôi quên đi.”

Tôi cũng khuyên: “Đừng gây rối thêm nữa, bây giờ quan trọng nhất là phải xem xem trần mộ có nứt ra không. Anh ráng nhịn một chút, thoát ra rồi hẵng tính.” Lời còn chưa dứt, trên đỉnh đầu đã truyền xuống một chuỗi những tiếng ầm ầm như có vật gì đang chầm chậm đứt gãy. Tiếng động không lớn nhưng cũng đủ làm tim tôi vọt lên tận cổ, trong lòng tự nhủ thôi toi rồi, mới nổ một phát mà mi đã sập xuống luôn sao, thật khiến ta mất hết mặt mũi!

Bàn Tử đang không cam tâm, nghe thấy âm thanh đó mặt cũng tái đi, hỏi: “Con mẹ nó, tiếng động này là sao? Tiểu Ngô, kiểu này lỗ hổng phải bự lắm, đâu có nhỏ như cậu nói!”

Tôi ngẩng đầu nhìn lỗ hổng trên trần, lưỡi líu cả lại, uy lực của trái bom giấu trong bụng thây khô kia quả là kinh khủng, vượt xa dự đoán của tôi. Phần khung sắt phía trên đã vỡ tung gần hết, tạo thành một cửa động đường kính gần nửa mét; lớp gạch không thấm nước trên trần cũng vỡ ra, nước biển ào ào xộc vào giống như một thác nước nhỏ, xem ra thanh âm lúc nãy chính là tiếng nước đổ xuống. Cứ tiếp tục thế này, chẳng mấy chốc trần mộ sẽ sập thôi.

Cây cột gỗ lim vàng bên cạnh cũng đã toác ra, khe nứt trên thân cột vẫn tiếp tục rộng thêm, kéo dài lên trên, hơn nữa còn có dấu hiệu nghiêng ngả. Cây cột quý giá đến thế, xem ra đã hỏng hoàn toàn. (Du: còn thời gian nghĩ đến cây cột cơ đấy =.= Dứa: Có tố chất người phụ nữ của gia đình =)))

Xem ra vì cây cột gãy mà một xà ngang bên trên đã bị ảnh hưởng, có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Căn cứ vào âm thanh tôi nghe được, có thể kết luận trên cây xà đã xuất hiện vết nứt, dù đến giờ vẫn cầm cự được nhưng việc sập xuống chỉ còn là vấn đề thời gian nữa thôi.

Tôi trấn an Bàn Tử: “Không sao đâu, anh đừng lo. Mộ này chắc chắn hơn những mộ khác nhiều, chỉ cần không xảy ra động đất thì làm sao dễ dàng sập xuống như thế được.”

Lời còn chưa dứt, mặt đất dưới chân đã bắt đầu chấn động. Tôi sớm đoán biết kết cấu kín khí của ngôi mộ đã hỏng, nước biển phía dưới đang không ngừng dâng lên, nhưng không ngờ lại rung chuyển mạnh đến vậy, chợt thấy căng thẳng muốn ngất đi.

Chấn động càng ngày càng mạnh, vô cùng đáng sợ. Mà đáng sợ hơn nữa chính là nếu cứ tiếp tục cường độ rung lắc thế này, chỉ e trần mộ chưa sập thì nền nhà đã sụp xuống trước rồi. Bàn Tử bị dọa đến hoảng hốt, kêu lên: “Lạ thật, sao mặt đất lại rung chuyển vào đúng lúc này chứ, chẳng lẽ có động đất thật à? Tiểu Ngô, rốt cuộc vừa rồi cậu cho nổ ở vị trí nào trong mộ thế?”

Tôi giải thích cho hắn nghe rồi nói: “Đừng hoảng, đây là hiện tượng bình thường thôi. Chúng ta nên chuẩn bị sẵn sàng, không chừng lát nữa sẽ có nước phun ra từ các khe trong phòng, cẩn thận bị nước phun trúng đó. Lực phun nước lúc ấy sẽ mạnh như nắm đấm, xô ngã người như chơi.” Vừa dứt lời đã nghe một âm thanh kì quái, khối đá Thanh cương chặn cửa đạo động bị một vòi nước xiết hất tung lên, nước biển bắn cao tới bảy tám thước như suối phun vậy. Tôi còn chưa kịp phản ứng đã thấy một vật gì đó bay ra từ trong đạo động, đập vào trần mộ rồi rơi xuống cái bàn đá ở giữa. Tốc độ nhanh quá nên tôi không sao nhìn rõ được đó là thứ gì, mà trong mộ này thì còn là gì được nữa, chắc là Cấm bà thôi.

Thứ này xuất hiện thật rắc rối, thậm chí có thể nói là rắc rối to. Trong nước đâu thể đốt lửa, lỡ bị nó quấn lấy thì hết cách.

Đáng tiếc lúc này tôi đâu còn tâm trí để ý đến nó, nền đất bên cạnh cửa đạo động kia cũng đã nứt ra, nước cuồn cuộn phun trào không dứt hệt như núi lửa. Đã thế mực nước dâng lên cũng rất nhanh, chỉ trong nháy mắt chúng tôi đã nổi lên cách mặt đất năm sáu mét.

Tôi liếc một vòng tìm A Ninh, lúc này đám khói sinh ra trong vụ nổ đã tản mác hết nhưng vẫn không thấy cô ta, có lẽ đã khuất sau cây cột nào đó rồi. Bàn Tử bơi không giỏi lắm, phải cố gắng lắm mới bơi được, không có hơi sức để ý đến cô ta, có điều nơi này chỉ có một cửa ra, lát nữa thế nào cũng phải gặp nhau. Bàn Tử nháy mắt với tôi, đại khái muốn đợi xem vẻ chật vật của cô nàng, còn tôi vốn không nỡ ra tay với phụ nữ, đành lờ hắn đi vậy.

Chúng tôi nổi lên trên thêm chút nữa, đầu sắp chạm đến trần mộ, bỗng Bàn Tử tự nhiên nổi hứng bơi sang bên cạnh. Tôi không biết hắn muốn làm gì, kêu to: “Đã đến đây rồi sao còn tách ra, anh làm gì thế, không thiết sống nữa à?”

Hắn bơi tới chỗ một viên dạ minh châu, mắm môi mắm lợi gỡ xuống nhét vào quần (;))) rồi bơi trở về, nhăn nhở nói: “Thuận tay lấy một viên về bồi thường tổn thất tinh thần cho tôi, bán được giá lắm đấy.” (=))))))))))

Tôi chợt có ý nghĩ muốn bóp chết tên này, trước đó còn phải mắng cho một trận, nhưng lúc này tôi chẳng biết mắng cái gì nữa, mà cũng không đủ thời gian mắng vì nước đã dâng tới gần mí mắt dưới rồi. Tôi vội vàng nghển cổ hít thật sâu một hơi cuối cùng, vài giây sau đã thấy tai mình lành lạnh, toàn thân chìm hẳn vào trong nước.

Tôi ra hiệu với Bàn Tử, hắn bơi kém nhất thì nên lên trước. Hắn lắc đầu ý bảo mình béo quá, lỡ mắc kẹt lại đó thì sẽ hại cả ba cùng chết. Tôi gật đầu, bơi vào động đầu tiên. Động này mới đầu rộng, sau hẹp dần, tôi vừa nhô đầu ra đã thấy bên trên có một tầng cát dày chừng mười bảy mười tám gang tay, cát không ngừng rơi xuống trắng cả mắt. Tôi không nhìn thấy gì, đành phải cố sức đạp vài cái mới trồi lên được.

Chúng tôi tính thời gian rất chuẩn, lúc này nước biển đang rất nông. Có điều tôi không nhịn thở thêm được nữa, chỉ cố quơ quào tay chân nổi lên, ra khỏi mặt nước là đã muốn ngất. Tôi vội vàng hít sâu một hơi, bắt đầu ho sặc sụa.

Vài giây sau Bàn Tử và Muộn Du Bình nổi lên cùng lúc, Bàn Tử vừa ra khỏi mặt nước đã hắt hơi vài cái, vừa ho khan vừa cười rộ: “Khỉ thật! Thực sự không nghĩ lại có thể thành công, Vương mập ta cuối cùng cũng thoát ra! Ha ha!”

Tôi lấy lại bình tĩnh, nhìn quanh bốn phía. Trời đã về chiều, nơi chân trời có ráng mây đỏ ối phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng, trông vô cùng lộng lẫy. Mặt trời đỏ thẫm tỏa ra hào quang nhàn nhạt, tất thảy quyện với nhau thật hài hòa, tạo thành một khung cảnh ấm áp yên bình hiếm thấy.

Xưa nay tôi đã từng ngắm cảnh hoàng hôn không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa bao giờ thấy một cảnh tượng tuyệt mĩ đến vậy, trong lòng trào dâng vô vàn cảm xúc. Có điều chân tôi đã có dấu hiệu chuột rút, tôi vội quay đầu tìm thuyền của mình, phát hiện nó đang đậu gần một mỏm đá cách nơi này không xa, lập tức cảm thấy yên lòng. Có thuyền, chúng tôi có thể rời khỏi vùng biển khổ sở này ngay lập tức, ngủ một giấc thật ngon.

Bàn Tử sau khi lấy lại tinh thần, chợt nhớ tới điều gì, đột ngột lại lặn vào trong nước. Tôi cũng lặn theo hắn, thấy A Ninh đang kẹt lại trong động, liều mạng giãy dụa nhưng không ra được.

Chuyện này thật khó hiểu, cô ta rõ ràng là thon thả hơn Bàn Tử rất nhiều, không lý nào hắn ra được mà cô ta lại bị kẹt lại thế kia.

Có vẻ A Ninh không nhịn thở thêm được nữa, miệng bắt đầu nổi bọt khí, mắt trợn trừng. Tôi và Bàn Tử bèn lặn xuống, mỗi người nắm một bên tay cô ta kéo lên.

Tôi phát hiện bên trong có lực kéo giữ cô ta lại, nhưng chúng tôi có hai người đương nhiên mạnh hơn, hợp lực một phát đã lôi được A Ninh lên. Tôi nhìn mớ tóc đen trên chân cô ta, biết ngay chuyện gì vừa xảy ra.

Bên trong động đã ngập đầy tóc đen, có lẽ chờ thêm lát nữa Cấm bà có thể cũng theo ra, tốt nhất nên lên bờ ngay. Tôi cùng Bàn Tử nổi lên, hắn xem xét hô hấp của cô ta, phát hiện toàn thân cô ta đã mềm nhũn, hình như đã mất hết sức lực, may mà vẫn còn thoi thóp thở. Bọn tôi bơi lại gần con thuyền, kéo cô ta lên. Miệng A Ninh không ngừng trào nước, mắt trắng dã, tình thế rất nguy kịch.

Tôi không biết gì về cấp cứu người chết đuối, gọi to: “Bác lái đò, có người bị sặc nước! Mau ra cứu người!”

Hô hai tiếng mà không thấy ai trả lời, tôi nghi hoặc bảo Bàn Tử ở lại rồi vào thuyền tìm một vòng, không khỏi bực bội, sao lại chẳng có lấy một ai? Tôi chợt có cảm giác khác thường, không đúng, nơi đây là ngoài khơi, làm sao lại không có ai trên thuyền, dù có đi bơi chăng nữa cũng phải có người ở lại trông thuyền chứ?

Tôi lại gào to thêm mấy tiếng, vẫn không ai trả lời. Bàn Tử nghe thế bèn chạy vào hỏi xem có chuyện gì, tôi khoát tay một vòng, nói: “Anh thấy đó, trên thuyền không có ai!”

Bàn Tử ngẩn người, cũng tìm quanh một vòng, gãi đầu: “Không có ai thật, nhưng đám cá mới bắt lên trong kho vẫn còn sống, chứng tỏ nửa tiếng trước họ vẫn còn đánh cá. Không hiểu trong khoảng thời gian ấy họ đã đi đâu?”
 
Quyển 2 - Chương 46: Tổng kết


Editor: Tiểu Điệp *****

Tôi kiểm tra mấy thứ máy móc gần bánh lái, nhìn qua trông cũng rất bình thường, liền nói: “Con thuyền này vẫn bình thường mà, trông không giống xảy ra sự cố… Anh nói xem, liệu có phải đội tuần tra biển tới bắt hết người về rồi không?” Bàn Tử lắc đầu phản đối: “Nếu người đi thì thuyền nhất định cũng bị kéo về theo, làm gì có chuyện còn dừng lại ở đây? Chuyện này tuyệt đối không liên quan đến đội tuần tra biển. Vùng này vốn loạn, có đủ loại thuyền qua lại, thôi thì chúng ta ra kho hàng nhìn xem, nếu mất đồ thì chắc chắn là gặp hải tặc rồi.”

Lúc mới tới đây tôi có trò chuyện với ông lái thuyền, nên cũng biết chuyện có hải tặc hoạt động ở vùng này, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy chuyện này hình như có gì không đúng. Khi Bàn Tử nhắc đến, tôi có chút kinh ngạc, hỏi lại: “Chỗ này nói gần biển cũng không gần, nói xa lại chẳng phải xa, chẳng lẽ hải tặc ở đây hoành hành ngang ngược đến thế sao?”

Bàn Tử cười nhạo: “Ngây thơ quá đi, cậu thực sự coi quân đội nhân dân là vạn năng sao? Hổ cũng có khi ngủ gật, tôi nói cho cậu biết, vùng biển này người Việt có, người Nhật có, Malaysia cũng có, nhìn bề ngoài thì yên ổn thế thôi nhưng thực ra sóng ngầm vẫn đang tuôn trào nha. Chẳng biết có bao nhiêu thuyền buôn ma túy, buôn lậu, thăm dò, rồi hải tặc nữa; vả lại đám người đó ai ai cũng có súng, ở đây xuất hiện một con thuyền không người, cũng chẳng phải điều đáng ngạc nhiên.”

Chúng tôi vừa bước vào khoang hàng đã ngửi thấy hương trà thoang thoảng, Bàn Tử đi trước, tôi theo sau, nhìn khắp từ trong ra ngoài. Vật tư vẫn còn đủ cả, bày bừa y chang như lúc tôi mới xuống thuyền, thậm chí trên tấm ván bọn tôi nằm còn đặt một ly trà. Tôi sờ sờ, ngạc nhiên: “Quái lạ, trà vẫn còn ấm.”

Bàn Tử bất đắc dĩ cười nói: “Mấy chuyện kì quái này ngày nào cũng có, nhưng hôm nay lại nhiều đến khó hiểu, lẽ nào toàn bộ người trên thuyền đều bị quỷ bắt đi rồi?”

Tôi nói: “Anh xem, chén trà này mới uống có vài ngụm, nhưng nắp chén lại được đậy cẩn thận, điều này cho thấy họ đi rất vội vàng nhưng không hốt hoảng. Trong trường hợp nào thì anh vội vàng rời đi, nhưng lại tuyệt không hoảng loạn?”

Bàn Tử nhún vai ý bảo không biết. Tôi ngẫm nghĩ một hồi, cũng không đoán nổi chuyện gì đã xảy ra ở đây. Nghĩ rồi chúng tôi lại quay về phòng điều khiển. Bàn Tử kéo vô tuyến điện, kêu vài tiếng cứu mạng, nhưng không ai để ý đến hắn cả. Chợt tôi thấy một cái đài đặt cạnh đó, liền bật lên, thì ra đài đang phát cảnh báo bão cho dân đánh cá Đài Loan.

Từ nãy chúng tôi đã cảm thấy gió bắt đầu mạnh lên, có điều giờ đang là lúc chiều tà, không nhìn được quá xa, nhà đài nói thêm một ít thuật ngữ, tôi nghe cũng không hiểu lắm, nhưng câu cuối cùng: “Mời các đội thuyền đang ở trên biển đến cảng tị nạn” được cường điệu vài lần.

Sắc mặt của Bàn Tử với tôi đều đen lại, lẽ ra hiện giờ chúng tôi chẳng phải làm gì cả, ông lái thuyền tất nhiên sẽ phải lo mấy chuyện này. Vậy mà bây giờ lại cho chúng tôi một con thuyền trống không, ông trời cũng thật biết trêu người.

Bàn Tử nhìn đồng hồ, nói: “Xem ra đứng ngây ra ở đây cũng không phải cách hay, với cái con thuyền rách nát con con này, chờ thêm lát nữa chắc cả lũ đều thăng thiên hết. Trước tiên cứ nổ máy đi đã, gặp bão chỗ biển sâu cùng lắm chỉ chịu ít xóc nảy, nhưng ở đây đều là đá ngầm, bị sóng đánh trúng nhất định sẽ va phải. Cậu mau kéo neo lên đi.”

Nói rồi hắn đốt một điếu thuốc, khà ra vài hơi, động tác còn ra vẻ kiểu cách. Tôi thấy kỳ quái liền hỏi: “Con mẹ nó, anh biết lái thuyền không đó? Chuyện này không nói giỡn được đâu, bốn người bọn ta vất vả lắm mới ra nổi, nhỡ lát nữa anh lại lái va phải đá ngầm, cả đám làm mồi cho cá hết thì sao.”

Bàn Tử cười ha ha với tôi, nói cái này là thiên phú của hắn, đừng nói tàu thuyền, ngay cả có là máy bay, để hắn nghịch vài cái cũng có thể bay lên trời được.

Tôi nghe xong, cũng chẳng biết hắn nghiêm túc thật không, vẫn rất lo. Bàn Tử thành thạo khởi động động cơ, nói với tôi ngày trước khi hắn tới vùng nông thôn, còn làm cái gì mà tổ trưởng tổ chăn nuôi cá, mấy thứ cơ bản này hắn vẫn biết, hơn nữa lúc học lái xe, mấy thứ khoa học kỹ thuật mới này hắn đều xem qua hết, tin rằng nếu không gặp phải gió to sóng lớn gì đó, lái thuyền tuyệt đối không thành vấn đề.

Thực ra cái hắn gọi là tổ trưởng chăn nuôi, chính là cầm chông săn cá ở dưới suối, có điều khi đó tôi thấy hắn nói rất chắc chắn, không như đang khoác lác, liền tin luôn, còn vui vẻ vội vàng chạy đi nhổ neo.

Lúc thuyền bắt đầu chạy, Bàn Tử liền bảo tôi đừng làm phiền hắn, thuyền còn đang ở trong vùng đá ngầm, hắn phải tập trung tinh thần. Tôi thấy trán hắn chảy đầy mồ hôi, vẻ mặt nghiêm túc, biết hắn đang nói thật, liền quay về boong tàu.

Muộn Du Bình đang xoa bóp tay cho A Ninh, thúc đẩy tuần hoàn máu của cô nàng. Cô ta trông có vẻ khá hơn lúc ban đầu một chút, nhưng sắc mặt vẫn rất xấu, hơi thở lúc nhanh lúc chậm, không ổn định chút nào. Tôi hỏi Muộn Du Bình tình hình sao rồi, anh ta gật đầu, phỏng chừng không phải vấn đề lớn.

Tôi lấy ra ít lương khô, cho mọi người ăn một chút. Trải qua nhiều chuyện như vậy, tuy hiện giờ còn chưa thoát khỏi nguy hiểm, nhưng cuối cùng cũng tính là đã trở về nơi quen thuộc rồi. Tôi bình tĩnh lại, liền cảm thấy mệt mỏi rã rời, nên thay vào bộ thường phục của mình, cuộn một tấm thảm lông quanh người dựa vào cạnh phòng điều khiển ngủ gật.

Vốn tôi chỉ định ngủ vài tiếng, sau đó thì đi xem Bàn Tử có muốn đổi ca không, nhưng thân thể mệt nhọc không chịu nổi, khi tỉnh lại đã qua ngày hôm sau, không biết là sáng hay chiều nữa.

Tôi nhìn mặt biển bên cạnh. Sóng vẫn rất lớn, rải rác có thể thấy vài chú hải âu, bay là là mặt nước. Bầu trời âm u, những đám mây tụ lại thành từng mảng, cứ như thể sắp đổ mưa. Trên biển vốn không có những tòa nhà cao tầng chống đỡ, mây đen phủ hết tầm hình của bạn, dưới cảnh tượng này, ai cũng sẽ nghĩ bản thân mình vô cùng nhỏ bé, loại cảm giác bị áp bức này không thể so sánh với những thứ trong thành thị.

Tôi liếc qua phòng điều khiển, Bàn Tử đang rúc vào một góc ngủ gật, ngáy to như sấm. Muộn Du Bình đang cầm bánh lái. Tôi vừa tỉnh ngủ, tuy cảm thấy tình cảnh này không hợp lý lắm, nhưng cũng không để ý nhiều, lại trở mình ngủ tiếp, mãi cho đến giữa trưa mới bị Bàn Tử đánh thức.

“Đồng chí Thiên Chân Vô Tà, ăn thôi, cầm đũa đi nè.”

Tôi mở mắt, liền thấy Bàn Tử đang ngồi nấu lẩu cá, còn dùng đũa khuấy khuấy. Canh đã biến thành màu trắng, lửa cũng hợp độ. Tôi nhìn con cá này rất quen, hình như là con cá mú của lão thuyền trưởng, thoáng cười thầm. Con cá này Bàn Tử đã thèm thuồng lâu rồi, có điều ông thuyền trưởng sống chết không cho ăn, nói là muốn bán cho tiệm rượu, không ngờ vẫn không trốn được độc thủ của Bàn Tử.

Bàn Tử bận rộn cắt hành, cho thêm ớt, đập cá, xem ra cũng là tay lão luyện, tôi cười nói: “Bàn Tử, được đó, rất có tài, học được chiêu này ở đâu vậy?”

Bàn Tử đáp: “Lúc ông đây lên núi vào rừng, không mẹ không vợ, cái gì cũng phải tự thân vận động, lúc đó săn thú bắt cá rình tổ ong ở trên núi, chuyện gì cũng làm hết rồi, đây chỉ là một nồi canh cá, chút lòng thành thôi.”

Tôi giơ ngón cái lên, “Bàn gia, Bàn gia, tôi rất ít bội phục người khác, nhưng con mẹ nó, anh lợi hại quá, tôi phải học tập anh nhiều.”

Hắn không nhận lời khen, mắng: “Con mẹ nó nịnh vừa thôi, muốn ăn thì ăn nhanh, không ăn thì cút, đừng có phun nước miếng nữa!”

Tôi đương nhiên sẽ không bỏ đồ ăn ngon, lập tức cầm đũa giành thịt, chưa đầy hai mươi phút sau, một con cá mú hơn cân rưỡi đã bị chúng tôi chén sạch, tôi ăn đến mức ợ chua cả lên.

Ăn no rồi, Bàn Tử liền đi thay ca cho Muộn Du Bình. Trên thuyền tuy có trang bị dẫn đường, nhưng chúng tôi lại không biết dùng, không thì con thuyền này tự chạy cũng được. Bàn Tử ăn uống no say, một tay cầm bánh lại, một tay móc viên dạ minh châu của hắn ra ngắm nghía, miệng còn ngâm nga: “Hảo cô nương trong Trúc lâu, rực rỡ lóa mắt như Dạ minh châu a.”

Ngâm ngâm nga nga một hồi, hắn thấy tôi đang ngồi ngẩn người một chỗ, liền đưa hạt châu cho tôi, nói: “Cậu nhàn rỗi chẳng có việc gì thì ước chừng định giá cái này cho tôi, đại khái kiếm được bao nhiêu?”

Tôi đón lấy, lại suy nghĩ một hồi, mới bảo: “Đồ giả, đây không phải dạ minh châu.”

Bàn Tử suýt nghẹn, trừng mắt nhìn tôi, tôi vội vàng an ủi hắn: “Đừng kích động, dù là đồ giả nhưng cũng đáng tiền. Đây là Ngư Nhãn Thạch, anh biết tại sao gọi là Ngư mục hỗn châu không? Chính là chỉ cái này đó. Thứ này rất hiếm gặp, nhưng phải xem có người mua không đã. Lúc tôi vừa thấy nó đã biết rồi, anh nghĩ thử xem, một cái Bảo đỉnh mà chứa nhiều Dạ minh châu như thế, anh nghĩ Uông Tàng Hải là ai chứ, làm sao có khả năng đó được? Tính hết mộ hoàng thất ở Trung Quốc, tích lũy qua mấy trăm năm, cũng không thể tìm được nhiều viên như thế.”

Bàn Tử nghe xong thoải mái hơn một chút, mắng: “Con mẹ nó, sau này cậu đừng nói năng lấp lửng kiểu đó có được không, suýt chút nữa bị cậu dọa nghẹt thở. Vậy cậu đoán thử xem, món này đáng giá bao nhiêu tiền?”

Tôi chưa từng buôn bán thứ này, chỉ có thể đoán đại khái từ chỗ mấy người khách hàng của mình. Tôi báo vài giá, Bàn Tử đều không hài lòng, nói đây là thứ phải đổi cả mạng mới lấy được, nếu giá không cao, thà để nhà làm đèn bàn còn hơn. Tôi thở dài, bảo: “Vậy được rồi, lần trước tôi đi Tế Nam gặp một ông khách quý, khi nào về tôi thử hỏi cho anh xem, có lẽ đổi được một biệt thự cũng không thành vấn đề, anh cũng đừng bận tâm quá.” Bàn Tử nói: “Vậy nhờ cậu hết, biệt thự này của tôi chỉ trông cậy vào cậu thôi. Mà cũng phải nói lại, con mẹ nó, sớm biết thế ráng nín thở thêm vài giây bứt thêm một viên ra, như vậy cũng có thể đổi được thuyền chiến, máy bay cỡ nhỏ, tôi cũng thử học tập mấy vị đại gia nước Mỹ, đúng không?”

Tôi thấy hắn mộng tưởng bay đến tận trời rồi, không thèm để ý đến hắn nữa. Hắn bỏ hạt châu vào túi, hỏi tôi: “Lần này không tìm thấy chú Ba của cậu rồi, cậu còn có dự định gì không? Tôi thấy chuyện này vẫn chưa kết thúc đâu, cậu còn phải tìm kiếm vất vả nhiều.”

Tôi vốn định về nhà, lục tung cả căn nhà của chú lên, xem chú rốt cuộc đang làm trò quỷ gì. Nhưng Bàn Tử hỏi tới, tôi cũng không thể nói thẳng ra thế được, đành cười cười: “Tôi còn tính toán gì nữa, trở về tiếp tục mở cửa hàng thôi. Mấy cái đấu này tôi tuyệt đối không dám xuống nữa, tuy là có kiếm được tiền, nhưng đổi lại là cái mạng này, không đáng.”

Bàn Tử cười to, cũng không nói thêm gì nữa.

Mấy tiếng sau, chúng tôi cũng tới được đảo Vĩnh hưng. Trên đảo đang chuẩn bị phòng thiên tai, thuyền đánh cá tới tị nạn rất nhiều. Chúng tôi sắp xếp hành lý của mình, thừa dịp loạn lạc bỏ chạy, thuyền cũng vứt luôn. Bàn Tử cõng A Ninh đi đến viện dịch tễ quân y, sau đó chúng tôi tìm một nhà khách ở trọ. Ngư dân đều lưu lại trên thuyền của mình, có chuyện gì cũng có thể lập tức chi viện. Bão to gió lớn thế này, du khách tới đây không nhiều, nhà khách này cơ bản cũng trống trơn.

Chúng tôi trú lại đảo chờ đến khi lịch bay bắt đầu khôi phục, đại khái phải đến gần bảy ngày. Trong thời gian đó cả ba đều không ngừng thảo luận về ngôi mộ dưới đáy biển này, rút ra được một số kết luận.

Đầu tiên, chúng tôi đều thừa nhận đây là mộ của Uông Tàng Hải, nhưng cái xác ngồi thiền trên bàn đá kia có phải hắn không, cũng không thể khẳng định được. Bởi vì cái xác khô đó rõ ràng đã bị người ta đụng tay đụng chân, tuy Uông Tàng Hải tính tình cổ quái, nhưng cũng không tới mức phát rồ như thế.

Thứ hai, Vân Đỉnh thiên cung ở ngay trên đỉnh núi Trường Bạch, còn về chuyện nó chôn cất ai, cũng không thể nói trước, chỉ có thể suy đoán bên trong có lẽ là một người Mông Cổ, hơn nữa khả năng lớn còn là một nữ nhân có thân phận vô cùng đặc biệt.

Thứ ba, Xà mi đồng ngư xuất hiện ở Lỗ Vương cung và ngôi mộ dưới đáy biển, chuông đồng lục giác cũng xuất hiện ở hai nơi này, chỉ rõ, chuông đồng lục giác và xà mi đồng ngư, có thể có mối liên hệ nào đó. Lỗ Thương Vương là dân trộm mộ, Uông Tàng Hải là người xây dựng, điểm chung duy nhất của hai người họ chính là thường phải đào đất. Liệu bọn họ có phải là đào được thứ gì đó ở cùng một chỗ hay không, cũng chưa thể nào biết được.

Thứ tư là do Muộn Du Bình đưa ra. Anh ta phác ra sơ đồ cho chúng tôi, rồi vẽ thêm đường đi của chúng tôi trong cổ mộ, rồi phác thêm kết cấu của cổ mộ. Sau đó, anh ta chỉ vào mấy chỗ, những khu vực này giáp với phòng đỉnh mộ (nơi chúng tôi phá động thoát ra) cùng với không gian dưới đáy mộ, ở đó hẳn là còn vài gian phòng nữa. Muộn Du Bình đoán, kết cấu của ngôi mộ này có hơi giống với Hoàng lăng thời Chiến quốc, trong mấy thứ treo lơ lửng trên gian phòng kia, hẳn có một thứ là trân cầm dị thú, những thứ kỳ quái hiếm gặp này, nói không chừng chính là từ đây mà ra.

Tôi nghe xong dựng hết cả tóc gáy, hỏi anh ta: “Anh nói Uông Tàng Hải nuôi hạn bạt với Cấm bà làm thú cưng? Con mẹ nó, khoe khoang quá rồi đi?”

Muộn Du Bình gật đầu, nói: “Hắn không phải là người đầu tiên. Mấy hoàng lăng của nhà Thương, nhà Chu, cả lăng Tần Thủy Hoàng đều có. Hơn nữa Uông Tàng Hải lại giỏi về mặt này, hắn làm vậy cũng không có gì đáng trách.”

Lúc nhàn hạ, thỉnh thoảng tôi cũng rút máy tính xách tay ra, dùng đường dây điện thoại cố định lên mạng, muốn tra thử những tư liệu về Uông Tàng Hải, nhưng trên mạng ít đến đáng thương. Chỉ biết Úc Môn là do hắn thiết kế, sao chép theo hình dạng của một tòa thành khác. Vài ngày sau buồn chán muốn chết, bão lớn căn bản còn chưa đến cửa. Ngày thứ tư, đường dây điện thoại đứt, chúng tôi không thể làm gì khác, đành chơi Sừ đại D với Bàn Tử. Muộn Du Bình không giỏi cái này, cả ngày tựa vào giường nhìn trần nhà, nhìn nhìn suốt một ngày trời, tôi cũng chẳng có cách nào với anh ta.

Còn đám lông trắng trên lưng Bàn Tử, sau cũng không để ý tới nữa, vậy mà cuối cùng lại khỏi luôn, kỳ quái. Tôi thật hoài nghi có lẽ nước bọt của mình cũng có chỗ xài được, cảm giác có hơi là lạ, nhưng việc này tôi cũng không muốn truy tận gốc lắm, sau đó cũng quên luôn. Kỳ thực lúc này tôi đã cảm thấy có chút bất hợp lý, nhưng biết làm sao, tính tôi sinh ra đã thế, được đến đâu hay tới đó, phải trải qua kiếp số này cũng đáng đời.

Mấy ngày nay tôi cũng thử dò hỏi thân thế của Muộn Du Bình, nhưng anh ta toàn làm như không nghe thấy. Bản lĩnh giả ngu của người này có lẽ còn trên cơ A Ninh nữa.

Đến ngày thứ năm, dây điện thoại rút cuộc cũng thông, tôi lại tiếp tục lên mạng. Lúc này, tôi nghĩ tới thân thế của Trương Khởi Linh, đột nhiên linh cảm, nếu Trương Khởi Linh có thể khôi phục ký ức, vậy những người đã trải qua sự việc này như hắn không chừng cũng có người khôi phục ký ức rồi. Ma xui quỷ khiến thế nào, tôi liền gõ tên hắn vào ô tìm tòi, rồi click search. Tất cả đều là ghi chép của người trùng tên trùng họ, tôi tùy tiện mở vài mục, phát hiện ra cũng chẳng có tin tức gì có ích.

Cứ tìm như vậy cũng không phải cách, tôi liền thêm tên chú Ba vào, lần này chỉ có lại một tin. Xem tiêu đề, là tin tức tìm người.

Phát hiện này quả thực ngoài dự tính của tôi, thoáng chốc có cảm giác khó thở. Vừa mở ra nhìn thì thấy đó là bức ảnh chụp chung của họ tại bến tàu trước khi xuất phát, được người ta quét lên mạng, phía dưới còn liệt kê ra tên của từng người. Tôi đọc từ trên xuống dưới, phát hiện ra cuối cùng còn viết thêm một câu.

Câu nói này rất ngắn, nhưng lại thu hút toàn bộ suy nghĩ của tôi.

“Cá đang ở chỗ ta.”
 
Quyển 3 - Chương 1: Lão Dương ra tù


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Chỉ vài chữ ngắn gọn lại thu hút toàn bộ sự chú ý của tôi.

“Cá ở chỗ tôi…”

Cá gì? Chẳng lẽ là Xà mi đồng ngư?

Theo hình vẽ khắc trên đá trong cổ mộ, ba con Đồng ngư kỳ lạ này có đầu đuôi nối liền với nhau, hiện giờ trong tay tôi đã có hai con, hẳn là còn một con Đồng ngư nữa đồng bộ với hai con này. Ý nghĩa của câu nói khó hiểu trên là gì? Không phải là muốn ám chỉ con cá cuối cùng đang nằm trong tay hắn đấy chứ?

Người đưa ra thông tin đã có tấm hình này, lại biết cả chuyện về Đồng ngư, liệu có phải là một trong số những người mất tích vào năm đó hay không?

Tôi cẩn thận xem qua trang web một lượt, thời gian đăng tin là hai năm trước. May mà trang web này chưa bị đóng cửa, không thì thông tin này chắc chắn đã sớm biến mất trên mạng rồi. Nhưng thông tin này ngoài một câu đó ra thì không có bất cứ chữ ký hay phương thức liên lạc nào khác.

Tôi cảm thấy có phần khó hiểu, nếu là tìm người sao lại không để lại cách thức liên lạc, thế này chẳng phải là phí công sao?

Tôi chuyển sang lục lọi trên Google, hy vọng có thể tìm được nhiều thông tin hơn, nhưng lục đi lục lại một hồi cũng chỉ tìm được duy nhất một tin ấy.

Tôi không khỏi chán nản, song đây đã là phát hiện lớn lắm rồi, ít ra có thể chứng tỏ vẫn có người biết đến chuyện của 20 năm trước, vậy thì người này rốt cuộc là ai?

Không lâu sau, cơn bão chết tiệt kia cuối cùng cũng chịu tan. Ngày hôm sau, có tàu Quỳnh Sa xuất phát từ Thanh Lan thuộc Văn Xương ghé qua, chúng tôi thấy không thể chờ mãi ở đây, bèn thu dọn hành lý chuẩn bị trở về.

Trước lúc rời đi chúng tôi có đến quân y viện tìm A Ninh nhưng không thấy, hỏi bác sĩ mới biết mấy ngày trước, lúc cơn bão vẫn chưa dứt, có một người nước ngoài đội mưa bão đột ngột xuất hiện đón cô ấy đi rồi, ông ấy còn tưởng người đó đi cùng chúng tôi. Hơn nữa gió lớn làm đứt dây điện thoại, mà chỗ bọn họ thì không ai rảnh rỗi đi làm việc tốt nên cũng không thông báo cho chúng tôi.

Trong lòng tôi hiểu rõ, hẳn là người tiếp ứng của A Ninh trên đảo đã đưa cô ấy đi. Mấy ngày qua hòn đảo nhỏ này bị bão cô lập, dù chúng tôi có muốn ngăn cản cũng đành chịu.

Bàn Tử bực tức mắng mỏ, nói thế là quá dễ dàng cho cô ả rồi. Tôi thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vì tôi vốn không biết nên xử trí cô ấy như thế nào cho phải, giết thì dĩ nhiên không được, cũng không thể nghiêm hình bức cung. Chuyện xảy ra thế này chính ra lại hợp ý tôi, đi thì đi đi, dù sao cô ta cũng đâu có làm gì được chúng tôi.

Có điều, hình như công ty của họ vào hải đấu không chỉ đơn giản là đi cứu người, rốt cuộc bọn họ có mục đích gì? Giữa chú Ba và bọn họ đã xảy ra chuyện gì? Những người còn lại hiện giờ ở đâu? Những bí mật còn bị che giấu không biết đến khi nào mới lộ ra khỏi mặt biển Tây Sa tĩnh mịch xanh thẳm.

Nói tóm lại, chúng tôi theo tàu Quỳnh Sa vòng về đại lục. Hai ngày sau, tại sân bay ở hải cảng, tôi chia tay với Muộn Du Bình và Bàn Tử, lên máy bay đi Hàng Châu. Cuộc sống hiện đại thật là thuận tiện, bốn tiếng đồng hồ sau tôi đã về đến nhà.

Hoạt động mạnh liên tục trong thời gian dài đã khiến tôi kiệt sức, mấy ngày sau đó tôi ngủ mê man, mỗi ngày chỉ thức dậy có một lần, đều là bị cơn đói đánh thức, sau đó vớ đại thứ gì đó trong tủ lạnh để bỏ bụng, ăn xong lại lăn ra ngủ, thấm thoắt đã qua hai tuần. Có người bạn còn tưởng tôi đã chết dí trong nhà bèn tìm đến, tôi mới chợt nhận ra mình đã nghỉ ngơi đủ rồi.

Ngủ quá nhiều nên cả người tôi đều khó chịu. Đầu tiên tôi gọi điện thoại cho Vương Minh hỏi về tình hình làm ăn của cửa hàng, ngoại trừ buôn bán ế ẩm ra thì tất cả bình thường. Thật ra thì buôn bán ế ẩm cũng là chuyện dễ hiểu, ông chủ đi vắng mà buôn may bán đắt mới là lạ. Sau đó tôi lại gọi cho cô Ba, bà Sáu, dượng Bảy, hễ là người thân thích có lui tới với chú Ba tôi đều hỏi qua một lượt, xem thử họ có biết hiện giờ chú Ba đang ở đâu không, nhưng đều không có kết quả. Cuối cùng tôi gọi đến cửa hàng của chú Ba, một cậu nhân viên của chú nhận điện thoại, tôi hỏi: “Chú Ba tôi đã trở lại chưa?”

Cậu ta chần chừ một chút mới đáp lời: “Ông Ba vẫn chưa trở lại, nhưng có một quái nhân tự xưng là anh em với cậu, hỏi chúng tôi cậu đang sống ở đâu. Tôi không biết lai lịch hắn như thế nào, nhưng trông hắn có vẻ gian gian, không giống người tốt nên tôi đã thay cậu đuổi hắn đi rồi. Trước khi hắn đi có để lại một số điện thoại, hay là cậu cứ gọi thử xem sao?”

Tôi ngẩn ra một chút, trong lòng cảm thấy kỳ lạ, tôi có rất nhiều bạn bè sơ giao ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng biết tìm đến chỗ chú Ba để hỏi tin tôi thì cũng không được mấy người, suy nghĩ một chút bèn hỏi hắn: “Người đó bao nhiêu tuổi?”

“Tôi không nói chính xác được, đại khái chắc cũng tầm tầm tuổi cậu, nhìn qua có vẻ từng trải hơn cậu một chút, đầu tóc húi cua, mắt tam giác, mũi rất cao, có đeo kính, còn đeo một chiếc hoa tai, nhìn qua chẳng biết là Trung hay Tây, chẳng ra làm sao cả.”

“Chẳng ra làm sao cả?”, tôi lặp lại câu nói của cậu ta, thầm hỏi rốt cuộc đó là ai mới được chứ. Đang ngẫm nghĩ trong lòng bỗng dưng giật thót, bèn hỏi cậu nhân viên kia: “Người đó nói chuyện không được lưu loát lắm phải không?”

“Đúng, đúng, đúng…, chỉ mỗi một câu mà tên kia cà lăm đến mấy chục lần mới nói cho xong.”

Tôi đã biết đó là ai, trong lòng không khỏi vui sướng, vội ghi lại số điện thoại rồi gọi sang. Chỉ chốc lát sau đã nối máy được, từ đầu dây bên kia truyền lại một giọng nói nửa thân quen nửa xa lạ: “Ai… ai… ai đó?”

Tôi cười ha ha: “Tôi đập chết cậu bây giờ! Đến cả giọng tôi mà cũng không nhận ra là sao?”

Hắn lặng đi mất một lúc, sau đó phấn chấn hú lên vài tiếng, kêu to: “Ba… ba… ba năm không nghe cậu nói chuyện, tất nhiên là nghe… nghe không ra, cậu xem giọng của cậu đi, đúng là trưởng thành cả rồi.”

Sống mũi tôi cay cay, thật muốn rơi nước mắt, liền mắng: “Cậu còn mặt mũi nào mà nói tôi, mấy năm qua không thèm liên lạc thư từ với tôi lấy một lần, tôi còn tưởng cậu đã chết mất xác ở đâu rồi chứ!”

Ở đầu dây bên kia chính là lão Dương, tên thật của hắn là gì tôi đã quên mất rồi. Tôi với hắn là bạn nối khố cùng nhau lớn lên, chuyện gì cũng cùng nhau trải qua, có một thời gian còn thân thiết gắn bó với nhau như với chính bản thân mình vậy. Nhà hắn tương đối khó khăn, sau khi tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm thì đến làm công trong cửa hàng của tôi. Đừng nghĩ hắn nói năng không lưu loát, thực ra miệng lưỡi lừa tình ngoại hạng, hai người ngưu tầm ngưu mã tầm mã, kinh doanh bát nháo cũng tự do tự tại sống qua ngày.

Không ngờ ba năm trước, tên nhóc này lại học thói xấu, theo một người anh họ ở Giang Tây đi Tần Lĩnh đổ đấu cho biết, kết quả là bị bắt. Ông anh họ trực tiếp lãnh án chung thân, còn hắn dựa vào miệng lưỡi dẻo quẹo của mình, tự biến mình thành một anh thanh niên lương thiện bị đám bất lương trong xã hội lừa bịp dụ dỗ, cuối cùng vớt vát chỉ phải ở tù có ba năm. Thời gian đầu tôi còn đi thăm hắn, nhưng tên nhóc này sĩ diện ngất trời, không thèm ra gặp tôi. Sau này tôi lại dọn nhà, cứ thế mà mất luôn liên lạc, không ngờ giờ hắn đã được ra tù.

Lại nói đến chuyện hắn đi đổ đấu, tôi cũng có trách nhiệm rất lớn. Từ nhỏ tôi vẫn luôn khoác lác trước mặt hắn rằng ông nội tôi lợi hại như thế nào, còn đem bảo bối của ông nội ra khoe với hắn, xem ra từ lúc đó hắn đã có ấn tượng rất sâu sắc về nghề này. Tên nhóc này gan to cùng mình, hồi còn nhỏ luôn là tôi gợi ý cho hắn gây chuyện rồi gặp rắc rối, nhưng tôi hoàn toàn không ngờ chuyện nguy hiểm chết người như thế mà hắn cũng dám đâm đầu vào làm.

Những điều tôi muốn nói với hắn suốt ba năm qua, đã bắt đầu thì không thể dừng lại được! Tôi nói cực kỳ khí thế, nói đến mỏi miệng, di động cũng đã nóng lên mà vẫn chưa thỏa lòng, mãi mới bảo hắn: “Mẹ nó, buổi tối cậu rảnh không, thằng bạn chí cốt này muốn mời cậu dùng cơm, chúng ta đi ra ngoài nhậu một trận cho thoải mái.”

Lão Dương cũng đang hào hứng, liền đáp: “Đương… đương nhiên rồi, ba năm qua ông đây chưa được đụng tới miếng thịt nào, lần này phải ăn cho thỏa thích!”

Chuyện này quyết định như vậy, tôi cũng hưng phấn đến ngủ không yên giấc, tắm rửa qua loa rồi dọn dẹp một vòng trong nhà, sau đó đến quán ăn trước chờ tên nhóc kia. Tôi nhìn một lượt thực đơn, món thịt nào cũng gọi lên một phần. Trời chưa kịp tối tên nhóc đó đã đến, tôi vừa nhìn, ơ hay, tên nhóc này cũng giỏi thật, ngồi tù ba năm mà còn mập ra cho được.

Hai người bạn cũ chúng tôi gặp lại, không nói hai lời đã thủ tiêu cả nửa bình rượu ngũ lương. Nhớ lại cuộc sống trước kia, lại nghĩ đến tình cảnh bây giờ đều không khỏi sụt sùi. Cứ uống đến lúc cơm no rượu say, chén dĩa trên bàn chất thành chồng cao ngất mới phát hiện những điều cần nói cũng đã nói hết cả rồi.

Khi đó tôi đã ngà ngà say, đầu óc trở nên lộn xộn, nghĩ đến chuyện hắn phạm tội năm đó, tôi ợ một tiếng, hỏi hắn: “Cậu nói thật cho tôi biết, mẹ nó chứ năm đó mấy người các cậu đổ được cái quái gì vậy? Ông anh họ ở Giang Tây của cậu sao lại phải lãnh án chung thân?”

Lời vừa thốt ra tôi lập tức hối hận, thầm nhủ sao lại hỏi chuyện này làm gì, lỡ như gợi lại chuyện buồn của hắn thì thật chẳng biết phải xử lý thế nào.

Không ngờ vừa nghe tôi hỏi vậy, mặt hắn đã lộ ra vẻ đắc ý, nghiến răng mà nói: “Thứ tớ đổ ra, hà hà, rất là ma quái, không… không phải là tôi không muốn nói cho cậu biết, mà cho dù tôi có nói thì cậu cũng không biết được.”

Tôi thấy hắn khinh thường mình liền nổi giận: “Cậu có thôi đi không, ông đây cũng không còn là thằng nhóc chẳng biết gì của ba năm trước nữa. Đường Tống Nguyên Minh Thanh, chỉ cần cậu nói ra hình dạng thì tôi sẽ biết ngay nó là thứ gì.”

Lão Dương thấy tôi nghiêm túc như thế, chỉ cười nói: “Nhìn… nhìn bộ dạng cậu kìa, còn nói cái gì mà Đường Tống Nguyên Minh Thanh nữa chứ!”, nói rồi hắn nhúng đầu đũa vào rượu, vẽ lên bàn một thứ có hình dạng kỳ lạ, “Cậu… cậu đã từng thấy thứ này chưa?”

Tôi say đến mắt mũi lờ đờ, nhìn mấy lần cũng không rõ, chỉ cảm thấy nó giống một thân cây, lại giống như một cây cột, liền mắng: “Cậu là con lừa chết tiệt, ngồi ba năm trong kỹ viện mà vẽ vời không đỡ hơn được tí nào, hình cậu vẽ nên gọi là gì cho phải? Là một cái chày gỗ á!”

Lão Dương nói: “Cậu… cậu… cậu nhìn lại cho kỹ đi! Mắt… mắt mũi như cậu cũng chỉ xứng xem loại hình vẽ cỡ này thôi!”

Tôi cẩn thận xem lại, thật sự là không nhìn ra nổi hình này vẽ cái quái gì, bèn vặc lại: “Có quỷ mới biết cậu vẽ thứ gì! Cậu nhìn mấy cái nhánh này đi, ý cậu là hoa văn ấy hả? Tôi trông cứ như cái chạc cây ấy, tóm lại cái hình vẽ cùi bắp này tôi nhìn không nhìn ra được!”

Lão Dương đắc ý cười, hạ giọng ra vẻ thần bí nói với tôi: “Cậu dám…dám nói, đây là một cái chạc cây, chạc cây bằng thanh đồng to cỡ cổ tay?”

Tôi vừa nghe liền ớ ra, hóa ra tên này dám đổ ra một một món đồ bằng thanh đồng, đúng là chán sống rồi mà, cho hắn lãnh án 3 năm đã là quá hời cho hắn rồi, tôi bèn nói: “Thứ này nặng lắm đó nha, những món nhỏ nhỏ cậu không đổ, lại đi đổ một món vừa to vừa quý như vậy, không phải là tự gọi người ta đến bắt mình sao?”

Hắn vỗ vỗ vai tôi, lột một củ khoai sọ nướng bỏ vào miệng, nói: “Cậu không ở đó nên không biết, chỗ kia không giống như tưởng tượng của cậu đâu, chuyện dài lắm.”

Tôi cũng có nghiên cứu chút ít về đồ đồng, cân nhắc hình vẽ thứ kia của hắn, chợt nhớ trước đó không lâu ở gò Tam Tinh có đào ra rất nhiều cây thanh đồng, cũng khá giống món này.

Gò Tam Tinh là di tích của nước Thục cổ, nghiêm túc mà nói đó không phải là phạm vi mà giới mua bán đồ cổ chúng tôi có thể rớ tới, vì niên đại quá xa, giá trị quá lớn, có hét giá bao nhiêu cũng không bị xem là đắt. Nếu chỗ lão Dương từng đến có thứ này cũng không biết đối với hắn là may hay rủi nữa.

Tôi liền nổi lên hứng thú với thứ đó, bèn hỏi hắn chuyện lúc ấy diễn ra như thế nào. Hắn uống cũng nhiều nên không thèm giấu diếm gì cả, kể hết từ đầu tới cuối cho tôi nghe.

Khi đó, bọn họ đi vào Tần Lĩnh đã hơn mười ngày, ngoại trừ rừng rậm ngút tầm mắt ra thì chẳng có thứ gì khác, coi như sắp rơi vào hoàn cảnh hết đạn cạn lương.

Lão Dương và anh họ hắn thật ra đều không có kiến thức cơ bản về trộm mộ, chỉ có nhiệt huyết tràn đầy. Lúc đó anh họ hắn đã nản chí ngã lòng muốn thoái lui, còn lão Dương thì vẫn kiên trì không chịu quay về.

Một ngày nọ, bọn họ lặn lội vào một khe núi khuất giữa núi non trùng điệp. Mấy ngày vừa qua họ không biết đã gặp được bao nhiêu khe núi như vậy, nhưng lúc ấy lão Dương lại phát hiện khe núi này có điểm khác biệt.

Nơi này không cao lắm so với mặt nước biển, nhiệt độ lại khá cao, cảnh vật lại vô cùng kỳ lạ. Ở trung tâm khe núi có một rừng đa già cỗi rộng kênh mông, chà, trong khu rừng đó không biết có đến bao nhiêu cây đa lớn hơn mười người ôm che khuất mặt trời, rễ đa bò đầy trên mặt đất, hầu như không còn chỗ trống để bước đi.

Anh họ lão Dương vừa nhìn cảnh đó liền cảm thấy có điểm không hợp lý, rừng đa quy mô lớn đến thế này không giống như được hình thành tự nhiên.

Nói về đất có câu châm ngôn, gọi là: “Hàm địa bất trường cao, nhật thượng cửu bát kiều, ngốc sơn bất mạo lâm, tất hữu sa nê đào”, tức là, cỏ cây sinh trưởng ở nơi không bình thường, dưới lòng đất hoặc bốn phía xung quanh ắt có vấn đề, thường là có cổ mộ.

Bộ rễ đa như rắn quấn vào nhau, cánh rừng này rậm rạp hơn rất nhiều so với rừng cây bình thường, chỉ sợ muốn vào cũng không dễ dàng gì. Nhưng ngẫm lại, đã đến được đây, chịu biết bao nhiêu khổ sở mà may mắn vẫn chưa thấy đâu anh họ lão Dương cũng không cam tâm, liền hạ quyết tâm dẫn lão Dương cùng tiến vào.

Bọn họ cứ đi thẳng vào bên trong, đi mãi đến khi trời ngả về chiều mới đến gần khoảng giữa khu rừng. Ở đó bốn phía văng vẳng tiếng cú đêm kêu liên tiếp không ngừng, bốn bề tối tăm u ám. Cả đám bật đèn pin, giảm tốc độ di chuyển để khỏi lạc đường.

Đúng lúc đó, anh họ lão Dương vấp phải cái gì đó, suýt nữa ngã nhào. Lão Dương vội đỡ lấy anh, xoay người nhìn lại mới thấy dưới gốc cây đa có thứ gì đó bị đám rễ quấn lấy thành một khối lồi lên khỏi mặt đất.

Bọn họ dùng rìu nhỏ gạt sạch mớ rễ đa bao phủ làm lộ ra thứ bên trong, rọi đèn pin thì thấy đó là một tượng người đá phủ đầy rêu xanh, nhìn quần áo và trang sức thì dường như là phong cách trước thời Lưỡng Hán, hoa văn Totem chạm nổi cực kỳ sắc nét.

Tượng người đá này xuất hiện khiến bọn họ lập tức hiểu ra, trong cánh rừng này thực sự có thứ gì đó tồn tại, lời cổ nhân nói quả không sai…

Bọn họ kiểm tra xung quanh tượng người đá, rất nhanh liền phát hiện dưới tầng lá đa rụng dày trên mặt đất là rất nhiều phiến đá lớn, dường như ẩn giấu di tích một con đường cổ. Tượng người đá được đặt ở bên rìa di tích thạch đạo cổ, giống như những kẻ canh giữ cho thạch đạo này.

Kết cấu như vậy có phải là thần đạo của hoàng lăng hay không? Lão Dương nhớ lại: lúc còn ở thôn nhỏ cách đây mấy chục dặm, có một ông già nói trong ngọn núi này chôn cất rất nhiều nhân vật thời Tây Tấn, lẽ nào sau bao nhiêu ngày khổ cực bọn họ đã thực sự gặp được?

Nếu đúng là như vậy, mấy ngày khổ sở vừa qua cũng thật đáng giá.

Hai anh em bàn bạc với nhau một chút, quyết định trước tiên cứ thử tìm kiếm dọc theo cổ đạo, nếu có cổ mộ gần đây, tất nhiên sẽ để lại dấu vết gì đó.

Bọn họ lặn lội theo cổ đạo thêm mấy giờ nữa, đi vào giải đất trung tâm khu rừng. Hai bên thạch đạo, bọn họ lại phát hiện được không ít di tích tượng người đá, cái thì nằm ngang trên thạch đạo, cái thì bị rễ cây quấn lấy, tất cả đều phủ đầy rêu xanh, dấu vết của thần đạo càng lúc càng rõ ràng.

Bọn lão Dương mừng thầm trong dạ, chân bước nhanh hơn. Chỉ kỳ lạ một nỗi, càng đi sâu vào cổ đạo, đám rễ cây lại càng dày đặc; cuối cùng bọn họ buộc phải chặt đứt rễ cây mới có thể vượt qua được, cứ như đám cây cối ở đây không muốn có người lạ vượt qua con đường này vậy.

Họ cứ miệt mài đi như thế đến quá nửa đêm, sức cùng lực kiệt mới thấy ánh trăng xuyên qua khe hở mấy tán cây trước mặt, dựa vào đó lão Dương ước chừng họ đã sắp đến cuối thạch đạo. Bọn họ leo qua một đống đá lớn, lại chặt đứt đám rễ cây cuối cùng, cuối cùng đã vượt qua khỏi rừng đa.

Dưới ánh trăng lấp loáng, một hố đá trông như kim tự tháp lật ngược xuất hiện ngay trước tầm mắt họ, rộng cỡ một sân bóng lớn, hình dạng giống như một cái đấu khổng lồ. Hố nằm chính giữa rừng rậm, bốn phía thành hố được tạo hình bậc thang, chừng một trăm bậc, hướng thẳng xuống đáy.

Lão Dương nhìn cảnh ấy mà choáng váng, hắn không sao tưởng tượng nổi nơi cuối thạch đạo lại là một di tích kiến trúc đồ sộ đến thế, chỉ cảm thấy tim đập rộn ràng, hai chân nhũn ra như muốn quỳ phục xuống lạy cái hố.

Nhưng tất nhiên đây không phải là cổ mộ, vậy rốt cuộc đây là đâu? Từ thời đại nào lưu lại?

Anh họ lão Dương dù có chút bản lĩnh thì nhìn thấy cảnh này cũng vô cùng khiếp sợ, nói với lão Dương: “Chỗ này chắc chắn có liên quan đến một loại nghi thứ cúng tế nào đó, nhìn qua giống như là một đàn tế, chúng ta mau xuống xem thử trong hố cúng tế có món minh khí nào không.”

Lúc này trăng đã lên, ánh trăng u ám lạ kỳ. Bọn họ mở đèn pin để khỏi bị vấp vào đám rễ ngổn ngang như rắn bò, mang theo tâm trạng lo lắng bất an bước xuống bậc thềm đá, tiến vào đáy hố.

Bốn phía xung quanh hố đều có rễ đa che phủ, nếu không lần theo cổ đạo thì dù có đi ngang qua ngay bên cạnh cũng không thể phát hiện ra nơi này. Những phiến đá ở mặt trong của hố đã nứt vỡ gần hết như những mảnh rời của bộ đồ chơi ghép hình, rất nhiều rễ cây chen ra từ trong đá rồi lại biến mất trong khe hở bên cạnh, cả di tích gần như đã bị phá hỏng thành một bộ mặt hoàn toàn khác hẳn.

Đáy hố cũng bị che phủ bởi một tầng cỏ dại thật dày, chỉ một vài chỗ mới lộ ra dấu vết của những phiến đá xanh.

Cỏ dại cao đến cả nửa thân người, bọn họ vừa dùng dao phát vừa tiến tới, không bao lâu đã đến trung tâm của tế đàn.

Giữa tế đàn là một giếng đất có vòng đá xếp xung quanh, giếng sâu chừng hơn mười mét, soi đèn xuống dưới cũng chỉ thấy toàn cỏ là cỏ. Bọn họ hạ dây thừng xuống đáy giếng, trước tiên là tìm kiếm xung quanh, không tìm được gì liền trực tiếp hạ xẻng Lạc Dương.

Xẻng thứ nhất hạ sâu đến mười lăm mét vẫn không chạm được gì, lão Dương rút ra, kiểm tra bùn đất trên xẻng thì thấy trong đó còn hòa lẫn tro than, giống như có một lượng lớn vật chất bị thiêu hủy, hơn nữa bên trong tro than còn có mảnh vụn của gốm sứ và ngọc.

Than đất trong bùn nhão là những gì còn sót lại sau khi thiêu hủy tế phẩm, trong những thứ bị thiêu hủy còn có đồ gốm và ngọc. Xem ra giếng đất này là nơi thiêu hủy tế phẩm cúng bái dành cho người chết vào thời đó, và không chỉ được sử dụng một hai lần.

Lão Dương đã bắt đầu không kiềm chế nổi sự hưng phấn của mình. Trong lịch sử, khi cúng bái người ta thường thiêu hủy một lượng lớn đồ đồng tinh xảo cùng với đồ ngọc; nếu có thể đào ra được một hai cái thì bọn họ sẽ thật sự phát tài.

Bọn họ bắt đầu dùng xẻng thay phiên nhau đào không biết mệt mỏi, chỉ chốc lát sau, ở độ sâu bảy mét so với đáy giếng, họ đào được một lượng lớn mảnh vỡ của đồ ngọc và đồ gốm, không sao đếm hết. Nào là ngọc miếng, ngọc viên, bình gốm, hũ gốm, hầu như thứ gì cũng có, nhanh chóng chất thành một đống.

Đáng tiếc là đa số đồ ngọc và đồ gốm đều đã bị hư hại, giá trị không cao, điều này khiến cho anh em lão Dương vô cùng thất vọng, mà thất vọng nhất là không tìm được đồ thanh đồng như họ nghĩ.

Họ vẫn chưa từ bỏ ý định, lại tiếp tục đào, rất nhanh đã đào sâu đến mười mét nhưng vẫn không tìm được thứ gì tốt. Mà hố đất đào thẳng xuống hơn mười mét là đã đến giới hạn, nếu còn đào xuống tiếp nữa, có nguy cơ cả đạo động sẽ sụp xuống, bọn họ không thể không ngừng lại.

Anh họ hắn khá là thận trọng, mới nói ta đào mãi vẫn không tìm được gì, chỉ sợ thời có cái đàn tế này người ta không dùng tế phẩm bằng thanh đồng, đừng đào nữa, hốt mớ đổ nát này về bán đi cũng đủ gỡ vốn, coi như chúng ta đi chuyến này xui xẻo vậy.

Nhưng lão Dương không cam lòng, mặc kệ ông anh họ nói gì, hắn vẫn muốn tiếp tục đào. Lão Dương để cho anh họ leo lên, còn mình thì đào thêm gần hai giờ nữa, sâu đến khoảng mười bốn mét, bỗng nhiên nghe keng một tiếng, xẻng của hắn đụng phải một khối kim loại.

Hai anh em liếc mắt nhìn nhau rồi đồng loạt nhìn xuống, phát hiện ngay giữa hố đất lộ ra một khối màu xanh thẫm.

Quả nhiên là có đồ thanh đồng. Lão Dương bỗng thấy hồi hộp, đến tay cũng run rẩy. Anh họ hắn reo lên vui sướng, vội quẳng xẻng đi rồi nhảy vào trong hố, hai người bắt đầu dùng tay đào thứ đó lên.

Rất nhanh, một thứ kỳ lạ xuất hiện ngay trước mắt hai người. Trông nó giống như một cây gậy bằng đồng, nhưng không biết cụ thể là gì. Bọn họ phải phủi sạch lớp than và đất bám bên ngoài mới nhìn ra nó là một nhánh cây tinh xảo được đúc bằng thanh đồng.

Hai anh em vui mừng khôn xiết, họ chưa từng được thấy qua thứ này, chắc chắn là rất đáng tiền. Hai người vội dùng tay đào vòng xung quanh để lấy thứ đó lên, nhưng đào xuống mấy mét vẫn không rút nó ra nổi. Tiếp đó họ đành dùng xẻng để đào, đào tiếp sáu bảy mét nữa vẫn chưa thấy được phần gốc của nhánh cây.

Lão Dương bắt đầu cảm thấy kỳ quái, hắn từng buôn bán đồ cổ một thời gian nên cũng biết rất hiếm có món đồ thanh đồng nào dài quá ba mét. Nhưng thứ ngay trước mắt hắn thì thật dị thường, ước chừng phải cao đến hai mươi mét, không biết còn chôn bao sâu dưới lớp bùn đất này.

Đạo động đã sâu gần hai mươi mét, còn cố đào sâu nữa chắc chắn sẽ sập, nhưng tay không trở về thật sự chẳng phải là chuyện dễ chịu gì. Hai người mờ mịt đứng ngây ra đó, không biết nên làm gì cho phải.

Cuối cùng, anh họ hắn nghĩ ra được một cách. Tại phần đất cách gốc của cây đồng khoảng hơn một mét, anh ta hạ xẻng Lạc Dương hướng xiên về phía cây đồng, sau đó tiếp tục nối thêm ống thép hạ xiên xuống, hạ một hơi đến gần mười mét, tiếng gõ ống bắt đầu trở nên nặng nề rồi không gõ thêm được nữa.

Lão Dương nói đến đó, nét mặt trở nên khó xử, bèn châm điếu thuốc hít vào một hơi dài, nói: “Vậy có nghĩa là phần chôn dưới đất của nhánh cây kia còn sâu trên mười mét, suy ra cả cây ít nhất phải cao đến ba mươi mét; một vật lớn như vậy, dù có đào ra được thì cũng không vác về nổi.”

Tôi nghe xong líu cả lưỡi, cảm thấy tên này cũng có khoa trương thêm ít nhiều. Ti Mẫu Mậu Đỉnh (1) khai quật được ở Hầu gia trang thôn Võ Quan, An Dương, Hà Nam là món đồ đồng lớn nhất cả nước, cũng chỉ cao hơn một mét. Thời đó muốn đúc một thứ lớn như vậy đã cần đến sức lực của gần hai ba trăm người, vậy cần đúc một cây thanh đồng cao hơn ba mươi mét chẳng phải là cần huy động đến hàng vạn người sao?

Nhưng thấy hắn nói nhiều như vậy tôi cũng không nỡ bẻ lại, bèn hỏi: “Vậy sau đó thì sao? Có tiếp tục đào xuống nữa không?”

Lão Dương nói: “Không, tôi còn định đào nữa, nhưng anh họ tôi lại đột nhiên nói thứ này có thể là thần vật, không chừng là mọc ra từ trong lòng đất, không thể đào được. Sau đó tôi lại nghĩ có tiếp tục đào nữa cũng không an toàn nên thôi… cậu thấy có lạ không? Tôi đoán gốc cây đó chỉ là phần trên của một món đồ thanh đồng cực lớn, phần bên dưới có lẽ còn lớn hơn nữa; nếu đào hết ra, có lẽ sẽ chấn động cả thế giới.”

Tôi cảm thấy khó hiểu: “Vậy là cậu không mang được cây thanh đồng kia ra, thế sao lại bị tóm?”

Hắn đáp: “Chuyện này nói tiếp lại thấy kỳ lạ, khi ấy chúng tôi không cam lòng, đào tiếp mấy hố nữa ở chỗ khác, cuối cùng đào ra được một mớ bát gáo nồi chậu nguyên vẹn, sau khi ra khỏi Tần Lĩnh thì kiếm chỗ để tẩu tán. Nhưng anh họ tôi sau khi thấy vật kia thì thần kinh bắt đầu có vấn đề, vừa vào nội thành anh ấy đã nói oang oang cho người ta biết chuyện về nhánh cây thanh đồng. Dân vùng Tần Lĩnh xưa nay vốn có ác cảm đối với đám đào trộm mộ, tin đồn cũng lan truyền rất nhanh. Lúc chúng tôi vừa ra khỏi một tiệm đồ cổ, có mấy người nghe anh họ tôi nói lung tung, nhìn ra thân phận của hai anh em liền chạy đi tố giác! May mà anh công an đi bắt người là đồng hương của chúng tôi, thấy tôi còn trẻ nên bày vẽ cho tôi nói là “bị người ta lừa” mới gỡ được thành án ba năm. Còn anh họ tớ vốn cũng chỉ chịu án bốn năm năm thôi, ai ngờ ổng tự dưng nổi cơn điên, bao nhiêu chuyện đổ đấu từ trước đến giờ đều phun ra hết, cuối cùng lãnh án chung thân, thiếu chút nữa là dựa cột rồi.”

Tôi “Ồ” một tiếng: “Cậu làm nghề này bao lâu sao chẳng có tí kinh nghiệm nào, thế mà tôi còn tưởng cậu đem mấy món đồ đó về đến tận nhà chứ. Tôi đã nói với cậu không biết bao nhiêu lần rồi, đừng có tẩu tán minh khí ngay gần đó. Đã làm nghề không đàng hoàng rồi, lại còn nhằm ngay vào dân bản xứ, cái này gọi là quả báo nhãn tiền đó.”

Lão Dương thần bí cười: “Cũng… cũng không thể nói là tôi không vớ được… được gì, cậu xem thứ này đi… thế nào?”, nói rồi chỉ vào khuyên tai mình đang đeo!
 
Quyển 3 - Chương 2: Chuông lục giác


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Tôi chồm qua nhìn cho rõ, ánh mắt lập tức bị vật đó cuốn hút. Tôi còn kéo vành tai hắn đến trước mặt để xem cho kỹ, vừa nhìn rõ, không khỏi hít vào một hơi khí lạnh. Chiếc khuyên tai kia lớn bằng ngón tay út, hình dạng vuông vức nhìn sơ qua có lẽ ai cũng tưởng đó chỉ là loại khuyên tai rẻ tiền một đồng hai đôi mua ở quán ven đường; tôi phải nhìn kỹ mới phát hiện ra đây thực chất là một cái chuông lục giác.

Dù là hình dạng hay màu sắc, ngoại trừ chuyện cái này hơi nhỏ một chút ra thì khá giống với loại chuông tôi đã nhìn thấy trong động xác và trong ngôi mộ dưới đáy biển, có điều hoa văn trên đó hình như có hơi khác một chút.

Tôi lập tức tỉnh rượu đến quá nửa, hỏi hắn: “Cậu tìm đâu ra thứ đồ chơi này vậy?”

Hắn bị tôi kéo đến méo miệng, nổi sùng: “Mẹ nó, cậu… cậu… cậu uống nhiều quá rồi! Cậu có biết tôi… ghét nhất bị người khác kéo tai không, cậu còn… còn kéo nữa tôi sẽ xử cậu luôn đó!”

Tôi thấy mình có chút men rượu vào người thì ra tay cũng hơi thô bạo thật, vội thả tai hắn ra.

Hắn xoa xoa cái tai bị tôi kéo đến đỏ hồng, khóe miệng co giật: “Khỉ thật, cậu đúng là đồ thô lỗ, nhìn thấy đồ tốt cũng đâu cần phải mạnh tay như vậy, ôi cái lỗ tai đáng thương của tôi.”

Tôi không hơi đâu tranh luận với hắn, chỉ hỏi: “Nói mau, thứ này là sao, kiếm được từ đâu?”

Hắn cười hì hì, đắc ý nói: “Chưa từng thấy chứ gì, tôi nói cho cậu biết mà tức chết, thứ này tôi tìm được trong hố hiến tế đó, lấy từ trên người một cái bánh tông, sao nào? Cậu nhìn đi, sắc xanh lại pha đen, chính là đồ thanh đồng cổ thượng hạng, đảng cấp cao hơn hẳn mấy món đồ giả mà cậu đang bán.”

Tôi càng nghe càng rối: “Bánh tông cái gì? Chẳng phải cậu nói là chỉ đào ra được mấy cái nồi bát gáo chậu gì đó thôi sao? Sao lại lòi đâu ra một cái bánh tông nữa?”

Lão Dương còn tưởng tôi đang nghen tị với hắn, lại càng đắc ý: “Cái bánh tông kia quấn kín trong dây thừng, trông như cái kén tằm. Tôi đào ra được ở một hố đất khác, đại khái là người này lúc còn sống thân phận cũng khá cao, thứ này đeo… đeo trên tai cái bánh tông đó, tôi thấy vừa mắt bèn tháo xuống. Sao hả, cậu mắc chứng gì mà căng thẳng dữ vậy? Thứ này có lai… lai lịch thế nào? Có đáng tiền không?”

Đầu tôi rối tung, trăm ngàn ý nghĩ cùng nảy sinh một lượt. Tôi cau mày, thầm hỏi đó rốt cuộc là nơi nào? Loại chuông này xuất hiện ở đó, chẳng lẽ cái hố đá mà hắn kể có mối liên hệ với những chuyện mà tôi từng trải qua?

Lúc này lão Dương mới phát hiện ra điểm bất thường, kỳ quái hỏi: “Sao mặt mũi cậu nhăn nhó khó coi vậy? Dù thấy tôi có đồ tốt cũng đâu cần tỏ thái độ đó, nếu cậu thực sự thích thứ này thì để tôi tặng cậu luôn.”

Tôi nói: “Không phải, mẹ nó chứ, chẳng giấu gì cậu, cái khuyên tai của cậu không phải vật tầm thường. Tuy tôi không rõ lai lịch của nó nhưng đã từng thấy nó ở chỗ khác, chuyện là thế này…”

Tôi đem chuyện Lỗ Vương cung và chuyện trong hải đấu ra kể tóm tắt lại cho hắn nghe, đặc biệt nhấn mạnh đến mấy cái chuông kia, chỉ thấy sắc mặt hắn lúc trắng lúc xanh, tóm lại là mờ mịt.

Một lúc lâu sau hắn mới than: “Bà ngoại con ơi, tôi còn tưởng ba năm ngồi tù của tôi cũng đủ ớn cả đời rồi, ai ngờ đem ra so với chuyện của cậu thì chẳng là cái đinh gì hết. Cậu mà bị bắt thì chỉ có nước xử bắn thôi nha.”

Tôi thật không ngờ lại hắn lại hâm mộ mình đến thế, bèn nói: “Chuyện này thì có gì mà hay ho, nếu sớm biết đổ đấu phải khổ sở đến thế thì có đánh chết tôi cũng không bao giờ chui xuống đó.”, rồi chỉ vào tai hắn: “Cái chuông của cậu mới quái gở, chỉ cần rung lên lập tức khiến cho người nghe trở nên mê muội. Tôi không hiểu sao cậu đeo nó ngay bên tai mà đến giờ vẫn không việc gì?”

“Không đến nỗi quái gở như cậu nói chứ, để tôi lấy xuống cho cậu xem thử!”, nói đoạn liền tháo khuyên tai xuống.

Tôi soi chiếc khuyên tai dưới đèn, lại đưa lên mũi ngửi ngửi, lập tức hiểu rõ nguyên nhân, thì ra bên trong cái chuông này có rót nhựa thông nên không thể rung lên thành tiếng. Tôi lại cẩn thận xem xét cả hai mặt, càng xem càng thấy nó giống y hệt với cái tôi đã gặp trong cổ mộ.

Lão Dương thấy tôi lật qua lật lại xem tới xem lui, tưởng tôi thích thứ này bèn đeo lại vào tai rồi nói với tôi: “Nếu cậu thật sự thích nó thì ở chỗ đó vẫn còn vô khối, toàn là bánh tông vẫn còn nguyên đai nguyên kiện chưa bị ai phát hiện. Tôi đã đánh dấu đường đi, tụi mình có thể tìm đến lần nữa, nói không chừng còn có thứ bảo bối khác.”, nói rồi nhìn quanh bốn phía, hạ giọng, ra vẻ thần bí: “Nói thật, thằng bạn nối khố của cậu đang ở vào hoàn cảnh cực kì tệ hại, mấy ngày nay tôi tính quay lại đó làm thêm chuyến nữa.”

Tôi tưởng hắn đang nói đùa, liền đáp: “Thôi dẹp đi, tôi không muốn ăn cơm tù chung với cậu đâu. Mà cậu cũng đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, cứ sống yên ổn là tốt rồi!”

Lão Dương nhích lại gần tôi, trịnh trọng nói khẽ: “Đừng…đừng nói thế, cậu nghĩ lại đi, cậu còn được gia đình lo… lo cho, muốn thế nào cũng được, còn tôi đã lãng phí mất ba năm rồi, giờ chỉ có hai bàn tay trắng, không thể không… không tính toán cho tương lai!”

Tôi nhìn vẻ mặt nghiêm túc của hắn không giống như nói đùa, liền mắng: “Cậu mơ à, mẹ nó chứ phí mất ba năm đi đóng gạch, tôi nói cho cậu biết, ra tù còn bị bắt lại coi như cố tình tái phạm, mà như thế là bị phạt nặng. Lỡ cậu sơ ý bị bắt lần nữa, không chừng người ta còn cho đi dựa cột luôn ấy chứ.”

“Nếu xui xẻo đến thế thì cũng đành chịu thôi.” lão Dương nói, “Tôi cũng đâu còn lựa chọn nào khác, túng quá hóa liều mới phải tính đến nước này. Tôi nghĩ kỹ rồi, đầu tiên ta đến Hàng Châu ở vài ngày, sau đó đi Tần Lĩnh,thế nào cũng phải đổ cho được mười mấy vạn. Hôm nay tôi tìm cậu cũng chính vì chuyện này, cậu là anh em tốt của tôi, mong cậu có thể đi cùng, đổ được thứ gì thì chúng ta chia nhau.”

Tôi nhìn vẻ mặt rầy rĩ của hắn mà nổi sùng: “Cái gì mà không còn lựa chọn nào khác, không phải cậu đang thiếu tiền đấy chứ? Thiếu bao nhiêu cứ nói, nể tình anh em tôi tính lãi cho cậu bằng 95% lãi suất cố định của ngân hàng trung ương thôi.” (đồ gian thương =))))) tưởng ẻm bảo thiếu đâu tôi giúp phần nào, hóa ra là thiếu đâu tôi cho vay tính lãi =)))))))

Lão Dương đẩy tôi một cái, khinh khỉnh nói: “Cậu dẹp đi, cậu có bao nhiêu tài sản tôi còn không rõ sao. Hỏi vay cậu tám hay mười vạn cậu còn kham được, chứ nhiều hơn nữa cậu lấy đâu ra? Rõ thật là, còn làm bộ hào phóng.”

Tôi mắng: “Tám vạn mười vạn cậu còn chê ít, mẹ nó chứ cậu định làm gì? Phải lòng siêu sao à? Mẹ kiếp cậu ăn no rửng mỡ rồi vẽ thêm chuyện đấy hả, làm ơn chín chắn giùm một chút đi.”

Lão Dương nghe không lọt tai, chửi thề một tiếng, khoát tay nói: “Tôi muốn làm gì đâu liên quan đến cậu, cậu không có tiền thì thôi, đừng có lên mặt dạy đời tôi… thôi quên đi, anh em bọn mình lâu ngày gặp lại, có giúp hay không cũng chẳng vấn đề gì, đừng nhắc đến chuyện bực mình nữa.”, nói rồi rót rượu cho tôi.

Tôi thấy hắn khinh thường mình, men rượu bốc lên, nổi giận đùng đùng: “Tôi nói cậu nghe nè lão Dương, con mẹ nó, cậu đừng có khinh người quá đáng. Mấy năm nay tôi cũng có chút tiền dư dả, cậu nói thật cho tôi biết cậu cần bao nhiêu tiền, tôi lập tức đưa cho cậu!”

Hắn nhìn tôi, hơi rượu cũng bốc lên, nghiêm túc đứng dậy xòe bốn ngón tay huơ huơ trước mặt tôi: “Chừng này, cậu mà có thì tôi làm trâu cho cậu cưỡi cũng được.”

“Bốn mươi vạn?”, tôi hỏi, vậy cũng không nhiều lắm, hiện giờ bốn mươi vạn tưởng lớn chứ thực ra chẳng thấm vào đâu, “Không thành vấn đề, tôi đi lấy ngay, nhà tôi có đủ!”

Không ngờ hắn lại lắc lắc đầu: “Thêm một con số 0 nữa!”

“Bốn trăm vạn?”, tôi há hốc mồm, cả người lạnh toát, “Má ơi, tôi nể cậu rồi đó, con mẹ nó cậu cần từng ấy tiền làm cái khỉ gì?”

Lão Dương than một tiếng, đáp: “Cậu đừng hỏi nhiều, tóm lại là tôi đang thiếu chừng ấy tiền, cậu nói xem cậu có đào ra được nhiêu đó không?”

Bốn trăm vạn không phải là số tiền nhỏ, mặc dù trong buổi đấu giá thì một món đồ sứ vỡ bất kỳ cũng có thể chém tới hơn một ngàn vạn, nhưng phần nhiều là những thứ được mua đi bán lại nhiều lần. Sức mua trên thị trường có hạn, những thứ văn vật lấy lên từ đấu lần sang tay đầu tiên lợi nhuận thường không cao, thu về khoảng mười vạn là mừng lắm rồi, bốn trăm vạn này tôi thật sự không có.

Lão Dương thấy vẻ mặt hoang mang của tôi, biết tôi đang hoảng, bèn rót đầy cho tôi một chén rượu, còn nói: “Tôi biết ngay cậu không có mà. Nếu chỉ cần bốn mươi vạn thì tôi tìm tới cậu làm gì?”

Tôi nói: “Đừng quyết định sớm thế, để tôi giúp cậu đi hỏi vay mấy chỗ xem thế nào, người làm nghề này phất lên nhanh lắm, không chừng có thể lo liệu được. Nhưng cậu phải cho tôi biết cậu cần nhiều tiền như vậy làm gì?”

Lão Dương xoay đầu đi, hừ một tiếng: “Xoay sở cái quái gì chứ, cậu tính hỏi ai mà xoay sở, bạn bè cậu có ai là tôi không biết đâu, làm gì có ai kham nổi món tiền lớn như thế. Hơn nữa chuyện này tôi vẫn chưa thể nói cho cậu biết được, dù sao có bốn trăm vạn này là có thể giải quyết một việc lớn liên quan đến tính mạng tôi.”

Tôi thấy cũng phải, phần lớn bạn bè tôi đều là do lão Dương giới thiệu, thật sự không có mấy người dư dả để cho mượn. Còn hỏi ông già tôi ấy à, không chừng lão quỷ keo kiệt ấy còn bóp chết tôi ấy chứ, chuyện này đúng là không đơn giản chút nào.

Lão Dương vỗ vai tôi, dùng một giọng điệu vờ vịt mà nói: “Lão Ngô, vậy mới nói chúng ta đừng có vay tiền, bàn cách khác đi, tốt nhất là cậu chịu khó chịu khổ một chuyến, cùng tôi vượt qua trận gian nan này. Dù sao với cậu thì đây cũng không phải lần đầu tiên, cậu cũng đừng ngại. Suy cho cùng thì như thế chưa thể gọi là đổ đấu, chúng ta đến cái hố tuẫn táng kia, cậu giúp tôi kiểm tra cái nào đáng giá cái nào không, vậy chỉ gọi là nhặt của rơi thôi, đâu có phạm pháp. Cậu cứ coi như là đi du lịch một chuyến đi, bên đó non xanh nước biếc sơn nữ mỹ miều, cậu vẫn còn cô đơn chứ gì, cứ vào đó xem thử, không chừng còn lấy được một cô người Thái về làm vợ.” (Chém chết lão Dương, dám xúi tiểu thụ nhà người ta đi lăng nhăng à =)))))))

Tôi không hơi đâu nghe hắn nói nhảm, lắc đầu: “Cậu nói đơn giản quá, chỗ tồi tàn cậu nói có thể kiếm được bốn trăm vạn sao? Nếu muốn làm một vụ lớn thì cậu phải tìm đến mộ thời Lưỡng Hán kìa, mà loại mộ đó thì người ta đã đổ hết lâu rồi, cậu có đi cũng chỉ phí công thôi.”

Lão Dương kiên nhẫn nói: “Trời đất, cậu nghĩ tôi là đồ ngốc à, chuyện này cậu chưa nghĩ thấu đâu. Tôi cho cậu biết, lần này tôi không quay lại chỗ cái hố cúng tế kia nữa. Lần trước đến đó với ông anh họ, ông ấy nói gần hố cúng tế chắc chắn có lăng mộ hoàng tộc cỡ lớn. Bây giờ tôi lấy đó làm mục tiêu, cậu cũng biết chút phong thủy, cứ đến đó xem thử, tôi nghĩ nhất định có thể tìm được!”

Tôi phớt lờ hắn: “Cổ mộ tôi lại càng không muốn, cậu đi mà tìm người khác.”

Lão Dương đẩy tôi một cái: “Lão Ngô, cậu không phải là anh em của tôi sao, nghĩ lại mà xem, nếu đi cùng tôi thứ nhất cậu có thể giúp tôi, thứ hai, cậu còn có dịp điều tra về chuyện của chú Ba cậu. Chuyện này ít nhiều liên quan đến chú Ba, coi như cậu không vì tôi thì cũng vì chính cậu, sao không đi thử một chuyến cho biết chứ?”

Hắn nhắc tới chuyện chiếc khuyên tai, tôi lại cảm thấy khó chịu. Hắn nói thế quả không sai, chuyện của chú Ba cứ mơ mơ hồ hồ, manh mối ít đến thảm thương, mà loại chuông này đã từng xuất hiện trong động xác gần Miếu Hạt Dưa lẫn hải đấu, hẳn là có liên quan rất mật thiết, nếu không nắm lấy cơ hội này chỉ sợ về sau muốn điều tra lại càng thêm khó khăn.

Nhưng nhớ lại hai chuyến đi vừa rồi, chân tôi lại bắt đầu muốn nhũn ra, giờ nhớ lại vẫn chưa hết sợ, hơn nữa leo núi còn vất vả đủ đường, tôi thật sự không muốn thử.

Tôi do dự mất vài phút, nghĩ đi nghĩ lại, nếu tôi không đi chuyến này thì chỉ sợ từ rày về sau không cách nào sống thanh thản được. Lão Dương hiếm khi năn nỉ tôi đến mức này, nếu còn tiếp tục từ chối, sau này cũng khó nhìn mặt nhau. Hay là cứ đồng ý trước rồi đến đó xem tình hình thế nào, nếu quả thật không kham nổi thì đến lúc đó đổi ý cũng được.

Chúng tôi vốn là hạng người mệnh phạm Thái Cực, rất hiếu kỳ đối với những chuyện bản thân không biết rõ. Tìm được cái cớ hợp lý rồi, tôi cũng vững tâm hơn hẳn.

Nghĩ thế tôi liền hạ quyết định, nói với lão Dương: “Được rồi, nếu cậu đã nói thế thì tôi sẽ đi cùng cậu một chuyến, nhưng trước hết cậu phải đưa khuyên tai cho tôi xem thử xem nó thuộc triều đại nào, có đáng tiền không. Nếu nó là đồ rẻ tiền, tức là chỗ kia không đáng để ta phí công, cậu còn phải tính kế khác.”

Lão Dương vừa nghe tôi đồng ý giúp hắn thì vui mừng khôn xiết, vội gật đầu lia lịa: “Được, cậu nói gì tôi nghe đó, tặng luôn cho cậu cũng được!”

Tôi nói: “Nhưng tôi đã cảnh báo trước rồi đó, nếu đã đi thì bất cứ chuyện gì cũng phải nghe lời tôi, muốn đánh rắm cũng phải báo trước với tôi một tiếng, đồng ý không?”

Tên nhóc này đã sớm bỏ lời tôi ngoài tai, hồn đã bay tuốt đến Tần Lĩnh luôn rồi, vừa rót rượu cho tôi vừa nịnh nọt: “Được rồi được rồi, chỉ cần đổ được bốn trăm vạn thì cậu chính là cha mẹ tái sinh của tôi. Đừng nói là không được đánh rắm, cậu muốn tôi hít rắm cũng không thành vấn đề!”

Hai chúng tôi sẵn men rượu liền thỏa thuận luôn chuyện này. Sau lại tán dóc đủ chuyện trên trời dưới đất, uống đến tận nửa đêm, say khướt nằm gục luôn xuống mặt bàn.

Một tháng sau đó, mỗi người chúng tôi đều có chuyện riêng cần xử lý. Những trang thiết bị chúng tôi mua trong chuyến đi Sơn Đông lần trước đã bị chôn vùi tại chỗ, phải mua mới toàn bộ. Tôi dựa vào kinh nghiệm từ hai chuyến đi vừa rồi liệt kê một số thứ ra giấy, để lão Dương chuẩn bị cho chu đáo.

Sau đó tôi dựa vào vài mối quan hệ chuẩn bị một ít thuốc men trong quân đội. Lúc đi Sơn Đông, bình nước mang theo thật sự quá nặng, tiêu hao thể lực khủng khiếp. Khe núi bên trong Tần Lĩnh có nhiều mạch suối ngầm, không cần mang theo quá nhiều nước, nhưng lại cần mang theo một ít thuốc tiêu chảy. Dạ dày đám dân thành thị chúng tôi chắc chắn không thích ứng nổi với nước suối thiên nhiên trong núi rồi.

Dặn dò xong tôi bay đi Tế Nam, đến chợ Anh Hùng sơn gặp lão Hải, đưa viên Ngư Nhãn Thạch của Bàn Tử cho ông ta xem thử.

Lão Hải thấy nó thì vui đến mức cười toe toét không ngậm miệng lại nổi: “Đại gia à, tôi đây buôn bán đồ cổ, thứ này hẳn là nên đem đến tiệm châu báu bảo bọn họ định giá thì hơn.”

Tôi nói: “Viên Ngư Nhãn Thạch này cũng là đồ cổ đó nha, ít nhất phải đến bốn trăm năm tuổi.”

Lão cười cười: “Tôi cũng biết vậy, thứ ngài lấy ra chắc chắn là đồ tốt. Có điều viên ngọc này nếu đính trên trâm cài tóc hay trên mũ thì quả là bảo bối, nhưng cậu lại chỉ có một viên ngọc không như vậy thì tôi biết làm thế nào? Cậu nói đây là đồ cổ người ta cũng không tin tưởng lắm đâu. Hay là thế này đi, tôi giúp cậu làm một cây trâm ngọc khảm viên Ngư Nhãn Thạch này lên, xem thử có bán được hay không? Tôi đưa cho cậu ít tiền đặt cọc, cậu cứ để đồ lại đây, người có con mắt tinh tường tự nhiên sẽ trả giá cao thôi.”

Lão chân thành nói vậy, tôi cũng không thừa thời gian mà đôi co qua lại với lão về chuyện này, đành cầm hai mươi lăm vạn tiền cọc ỉu xìu quay về Hàng Châu. Sau đó tôi đem chiếc khuyên tai lão Dương cho đi tìm một người bạn của ông nội, nhờ ông ấy xem thử lai lịch của chiếc chuông này thế nào, rốt cuộc có đáng giá để tôi lặn lội đường xa đi Thiểm Tây hành xác một chuyến hay không.

Ông cụ đó họ Tề, là một trong những người buôn đồ cổ sớm nhất ở Hàng Châu, hiện giờ có thể đứng ngang hàng với giáo sư cấp quốc gia, có chỗ ngồi danh dự trong nhiều trường đại học, đặc biệt ông ấy còn nghiên cứu khá nhiều về dân tộc thiểu số. Lúc đưa cái chuông kia ra, tôi phát hiện ông ấy nhìn nó chăm chăm, bàn tay nhận lấy chuông cũng run lên.

Ông Tề cầm lấy chuông đồng, xem xét nó suốt ba tiếng đồng hồ, lật ra sáu bảy cuốn sách dày cộm mới chịu ngẩng đầu lên. Tôi ngồi chờ bên cạnh đến gật gà gật gù, ông nhìn tôi, thờ dài: “Thật hổ thẹn, lão già này đã nghiên cứu về dân tộc thiểu số bao nhiêu năm mà vẫn chưa từng thấy qua vật này, Tiểu Tà, cháu nói rõ ràng cho ông biết, thứ này lấy từ đâu ra?”

Trước mặt người lớn tôi cũng không dám đáp lấy lệ, liền thêm mắm dặm muối lung tung kể thành một câu chuyện. Nhìn ông ấy nghe mà hai mắt sáng lên, tôi cảm thấy chuyện này có vẻ không đơn giản, bèn hỏi: “Ông à, thứ này có vấn đề gì sao?”

Ông lại thở dài, nói là dựa theo phân tích của mình, kỹ thuật làm nên chiếc chuông này nằm trong giai đoạn từ triều Hạ đến triều Tây Chu, hoa văn trên đó tên là song thân nhân diện văn xà (hoa văn rắn mặt người hai thân), rất có khả năng thứ này có nguồn gốc từ một quốc gia thời cổ ở khu vực từ Thiểm Tây đến Hồ Bắc có tên gọi là “Xá Quốc”; mà quốc gia này đã đột nhiên biến mất từ hai ngàn năm trước.

Lịch sử của quốc gia này có khi rõ khi không, chỉ còn lại một ít thông tin được ghi chép vụn vặt trên thẻ tre cổ, vào khoảng đầu thời Tây Chu đột nhiên phát triển thịnh vượng, đến giữa thời Tây Chu lại bất ngờ mất tích không để lại dấu vết, cứ như đã biến mất trong rừng núi hoang sơ chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi chưa đến hai mươi năm.

Rất nhiều câu chuyện thần thoại đều có nhắc đến sự tồn tại của họ, trong Sơn Hải kinh cũng có một đoạn ghi chép rất dài, trong đó nhắc đến “Xà Quốc” nằm phía ngoài Tứ Xuyên, có lẽ chính là quốc gia này. Chữ Xá đọc chệch từ chữ Xà, dân tộc này thờ cúng một loại rắn mặt người hai thân như thần linh, nên trên rất nhiều thứ trang sức đều có hoa văn rắn hai thân.

Bây giờ hầu hết những người nghiên cứu lịch sử của quốc gia này cho rằng, “Xá Quốc” là hậu duệ của một nhóm người tách ra từ “Hoa Tư cổ quốc”, nhóm người này muốn đưa xã hội lúc ấy trở về chế độ mẫu hệ. Xá Quốc lấy hình vẽ rắn mặt người hai thân làm biểu tượng chủ yếu là vì “Hoa Tư cổ quốc” có truyền thuyết về “Phục Hy mặt người thân rắn”.

Bởi lẽ những tư liệu này đều lấy từ sách cổ và tài liệu khai quật được, cho nên quốc gia này có thực sự tồn tại hay không luôn là vấn đề gây tranh cãi trong giới học thức. Cái chuông này nếu đưa tới chợ đồ cổ, có lẽ sẽ không ai nhận ra giá trị của nó, nhưng đối với một số người có chút ít nghiên cứu chuyên môn thì lại là báu vật vô giá.

Tôi nghe nói thứ này ít được biết đến, trong lòng không khỏi hồi hộp. Nếu quả thật như vậy, cho dù chúng tôi có thể tìm đường vào cổ mộ đem đồ ra, chỉ sợ cũng không bán được giá cao, chuyến đi này e rằng chỉ phí công thôi.

Ông Tề thấy vẻ mặt của tôi liền hỏi có phải tôi gặp rắc rối gì không? Tôi biết ông là một thương nhân già dặn kinh nghiệm, bèn kể cho ông về tình cảnh của mình.

Ông suy nghĩ một lát, đầu tiên là mắng tôi một chặp, sau lại vỗ vỗ vai tôi, nói rằng nếu tôi muốn bán thứ này, ông có thể giúp tôi tìm được người mua giá cao, bốn trăm vạn hoàn toàn không thành vấn đề; có điều chuyện này tuyệt đối không được tiết lộ ra ngoài.

Nghe xong, tôi cũng ngầm hiểu được đại khái. Mẹ nó, ông già này xem ra cũng là dạng trùm trong đường dây ngầm, có lẽ đã hoạt động bí mật từ trước giải phóng. Nhưng đã có ông ấy nhận làm môi giới thì tôi cũng hoàn toàn yên tâm, vội gật đầu cảm ơn.

Trước khi rời khỏi chỗ ông Tề, tôi còn mang theo không ít tư liệu về Xá Quốc. Tôi tranh thủ giở ra xem trên taxi, thấy có rất nhiều hình chụp bích họa, trong số đó có một bức rất kỳ lạ, đó là hình ảnh nhiều người quỳ lạy trước một thân cây, xem chú giải bên cạnh thì hình như đây là hoạt động cúng tế vô cùng quan trọng của Xá Quốc, cúng tế một loại “cây Xà Thần”, truyền thuyết nói rằng chỉ cần hiến máu tươi cho loại cây này là có thể cầu được ước thấy, là một loại cây ước nguyện.

Cái cây này nhìn rất giống với hình lão Dương đã vẽ cho tôi xem, chẳng lẽ cây thanh đồng hắn đào thấy kia chính là biểu tượng của loại cây Xà Thần này?

Trong rất nhiều bức bích họa đều có hoa văn rắn mặt người, rõ ràng chính là nét đặc thù của Xá Quốc. Tôi không nhớ nổi loại chuông trong động xác gần Miếu Hạt Dưa và loại gặp trong huyệt mộ dưới đáy biển có hoa văn rắn mặt người hai thân trên đó không, nhưng xem hình dạng thì những cái chuông ở ba nơi này chắc hẳn có cùng một nguồn gốc, mà Xá Quốc thần bí này có thể là điểm mấu chốt.

Hai ngày sau, trên chuyến xe giường nằm đi Tây An, tôi và lão Dương nằm hai gường song song, vừa cắn hạt dưa vừa nói chuyện phiếm.

Tôi vốn định đi máy bay đến Tây An rồi tính tiếp, nhưng khổ nỗi tôi không được nể mặt như chú Ba, một bao lớn hàng cấm bị giữ lại ở cửa an ninh, cuối cùng đành phải ngồi ô tô, hơn nữa cũng chỉ có thể ngồi xe hãng tư nhân.

Để tiết kiệm chi phí vận chuyển, xe chạy lúc nhanh lúc chậm, ngoặt trái quẹo phải trên đường đèo, cứ lặp đi lặp lại đến phát chán. Tôi với lão Dương tán dóc đủ chuyện, nào là chỗ kia có thể có một ngôi mộ thời Hán, nơi nọ có thể có một cái lăng thời Đường, khiến cho lão Dương hận không thể nhảy luôn khỏi xe mà đào.

Nói chuyện với nhau một hồi, lão Dương hỏi tôi, sau khi vào xem cái hố ba năm trước hắn đã đến, có còn muốn đi chỗ nào khác nữa không. Suy cho cùng vào núi đâu phải chuyện chơi, nếu mang được nhiều đồ thì không nên lãng phí, nếu có thể tìm được lăng mộ khác quanh đó lại càng tốt hơn.

Thực ra từ sớm tôi đã có tính toán, khu vực phụ cận có khả năng nằm trong phạm vi Xà Quốc cổ đại, ngoài cổ mộ gần hố tuẫn táng hẳn là còn có những di tích khác, nếu có thể tìm được một hai cái, lấy vài món đồ đem về sẽ có ích rất nhiều đối với chuyện tôi muốn điều tra. Tôi âm thầm tính toán, không nói ra miệng, còn hay đùa với hắn: “Đừng có ham hố, mẹ nó chứ chưa chắc cậu còn nhớ đường, nếu không tìm thấy cái hố tuẫn táng kia, để xem cậu lo liệu thế nào.”

Lão Dương nhìn tôi cười mờ ám, nói hắn đã sớm để lại ký hiệu, tôi liền cười lớn: “Ba năm, ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này thì ký hiệu nào lưu lại được ba năm chứ?”

Hắn cười ha hả đáp lời: “Cậu nhìn là biết ngay thôi, ký hiệu của tôi đừng nói là ba năm, có là ba mươi năm cũng vẫn còn nguyên.”

Tôi không biết hắn đánh dấu kiểu gì, cứ mặc kệ hắn, lại tán dóc một hồi rồi dần dần ngủ thiếp đi.

Sau khi đến Tây An, chúng tôi tìm một nhà khách nhỏ nghỉ qua đêm, dùng thử món cơm rang dưa chua ăn với canh phù dung đặc sản của địa phương, nhân tiện đi dạo chợ đêm, đi đến tận mười hai giờ, lão Dương lại thèm món cơm rang, gào rú đòi đến quầy bán hàng ăn đêm. Chúng tôi tùy tiện tìm một quán nhỏ ven đường ngồi xuống, gọi hai chai bia, vừa uống vừa ăn. Lúc này tôi cũng chẳng còn kiêng kỵ gì, thầm nhủ chúng tôi dùng khẩu âm phương Nam, người ở đây có nghe cũng không hiểu, mới vô tư bàn về chuyện đổ đấu ngày mai. Trò chuyện hăng say một hồi, chợt nghe ông già ngồi bên cạnh hỏi: “Hai cậu, muốn theo a đáp (*) đi buôn bán thổ sản không?”
 
Quyển 3 - Chương 3: Theo dõi


Editor: Nhôm

Beta: Thanh Du

*****

Chúng tôi đang tán gẫu hăng say, hắn nói những câu không đầu không đuôi, giọng địa phương đặc sệt, mọi người nghe đều không hiểu. Lão Dương nghe vậy mới “A” một tiếng, hỏi: “A Đáp là nơi nào?”

Lão nhân kia thấy chúng tôi có vẻ không hiểu, liền thay đổi giọng từ tiếng địa phương sang tiếng phổ thông hỏi: “Ý của tôi là hai vị muốn đến nơi nào để buôn bán? Có phải đến lấy hàng thổ sản hay không?”

Tôi còn chẳng biết cái gì gọi là hàng thổ sản, hơn nữa người ở phía Nam tính tình lãnh đạm, ngoại trừ mấy thằng cha chào hàng thì không có mấy người lại tùy tiện bắt chuyện với khách qua đường. Nhất thời không biết đáp thế nào, cũng may có lão Dương nhanh trí, học theo điệu bộ của lão già kia, nói: “Tôi, chúng tôi tới đây du lịch, không có hứng thú với thổ sản. Ông là người bán hàng thổ sản phải không?”

Lão già kia cười ha hả, khoát tay với chúng tôi, trở về chỗ ngồi của mình. Hai người chúng tôi ù ù cạc cạc, chẳng hiểu chuyện gì, chợt nghe lão già ấy nhẹ giọng nói với mấy người ngồi cùng bàn: “Không sao đâu, hai đứa ngồi kia là thanh đầu thượng cương, ha ha, ta mắng chúng nó cũng không hiểu, không cần ra tay.”

Lão Dương nghe xong mặt liền biến sắc, hạ giọng bảo tôi mau đi. Tôi thấy khó hiểu, nhưng lại thấy vẻ mặt lão rất căng thẳng, đành bỏ lại mười đồng rồi bỏ đi với hắn. Tới một ngã rẽ, tôi vội hỏi lão Dương: “Sao lại phải đi? Rượu còn chưa uống hết một nửa.”

Lão lén lút nhìn trước ngó sau, đáp: “Ban…ban nãy lão già kia nói với tên ngồi cùng chúng ta là thanh…thanh đầu. Hồi tôi ngồi tù có nghe mấy người trước đây phiêu bạt giang hồ nói qua, ‘thượng cương’ chính là tiếng lóng vùng này ám chỉ việc trộm mộ, còn ‘thanh đầu’ ý bảo chúng ta không phải người qua đường. Bọn người này toàn thân tanh mùi bùn đất, chỉ sợ cũng là dân trong nghề, vừa rồi nghe chúng ta nói đến chuyện đổ đấu mới chạy qua nghe ngóng.”

Tôi cười, nói: “Vậy cũng đâu tới nỗi phải bỏ đi, binh đến tướng đỡ, nước dâng thì đất chặn. Giữa nơi đông người như vậy, bọn họ làm gì được chúng ta?”

Lão Dương vỗ vai tôi, bảo tôi không hiểu chuyện, chuyện trong hắc đạo khó mà nói cho rõ ràng được. Những lời chúng ta nói ra khi nãy, không chừng đã bị nghe thấy hết, cũng không rõ người nghe hiểu được mấy phần. Hiện giờ mộ tốt chỉ có thể gặp chứ không thể cầu, nếu bị bọn chúng theo dõi, coi chừng đêm dài lắm mộng.

Tôi biết lão Dương đã từng ở tù, chỉ sợ lại nghe bạn tù thêm mắm thêm muối kể đủ chuyện trên trời dưới bể, không buồn cãi nhau với hắn, chỉ gật đầu rồi cùng hắn quay về nhà trọ.

Hôm sau, chúng tôi đi bộ suốt bảy giờ đồng hồ, mỗi người mang 15kg cả trang bị lẫn lương khô, hướng về phía long mạch lớn nhất Trung Quốc.

Trước đây tôi đã từng tới Tần Lĩnh một vài lần, mỗi lần tới đều có hướng dẫn viên dẫn đi, chẳng biết đường này nên đi thế nào. Lần này còn đi theo lão Dương, ba năm trước hắn cũng chỉ đi theo đoàn. Đoàn đi như thế nào lần này hắn cũng phải đi đúng như thế, bằng không sẽ lạc đường.

Chúng tôi đi dọc theo đường cao tốc Tây Bảo, theo lộ trình thì ước chừng ba giờ nữa sẽ đến núi Thường Dương thuộc thành phố Bảo Kê, Thiểm Tây, sau đó lại chuyển hướng đến đầu nguồn sông Gia Lăng.

Đường tôi đi hàng ngày thường thường đều là đi thẳng về thẳng. Đường quốc lộ lên Bàn Sơn này thì khác, cứ năm giây có một khúc cua nhỏ, mười giây có một khúc cua lớn, đầu tôi dán chặt vào lưng ghế trước, chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo hết cả lên. Lão Dương lại càng tệ, đã ba năm hắn không đi xe, dọc đường đi đã muốn ngất xỉu, giờ tình hình lại càng nghiêm trọng, nôn ra mật xanh mật vàng, than thở: “Già rồi, già rồi, người già là giống vô dụng. Ba…..ba năm trước cũng đi con đường này, tôi còn đủ sức ngồi cãi nhau với đám đàn bà con gái, ai ngờ lần này mắt còn chả mở được.”

Tôi nói: “Con mẹ nó, cậu đừng có nhiều lời, còn bày đặt đường cao tốc thì không chịu đi, đòi đi đường Bàn Sơn (1) xoắn như cái ruột dê này, bây giờ hối hận cái rắm.”

Lão liền quay sang tôi khoát khoát tay, ý bảo đừng nói nữa, lão khó chịu lắm rồi.

Đúng lúc này bỗng có tiếng nổ lớn từ xa truyền tới, mạnh tới nỗi khiến cửa kính xe cũng phải rung chuyển, người trong xe bắt đầu hoảng hốt. Thò đầu ra khỏi cửa xe, tôi chỉ thấy ngọn núi đối diện bị phủ kín trong khói bụi. Lão Dương bị dọa cho nhảy dựng, vội hỏi: “Động….lại động đất sao?”

Người ngồi đằng trước dáng dấp trung niên quay lại cười, nói: “Hai vị từ nơi khác tới nên không biết, đấy là do có người nổ mộ, mùa này, suốt từ sáng đến tối luôn có hai đến ba vụ.”

Tôi ngạc nhiên: “Giữa ban ngày ban mặt ai lại có gan đi trộm mộ chứ?”

Hắn nhếch mép cười, lộ ra một miệng toàn răng vàng: “Ngọn núi đằng kia không giống bên này, cậu đừng nghĩ chẳng qua chỉ cách nhau một con sông Gia Lăng. Bên này chúng ta còn có đường Bàn Sơn, bên kia đến một con đường mòn còn chẳng có. Bây giờ mà báo cảnh sát thì họ cũng phải mất một ngày một đêm mới đuổi tới nơi, trừ phi mọc cánh bay qua, bằng không cũng đành phải trơ mắt mà nhìn.”

Tôi gật gật đầu, lưỡi líu hết lại: “Còn có chuyện này nữa sao?”

Người nọ nhìn tôi một lúc rồi cười nói: “Đây cũng coi như là điểm đặc sắc của chỗ chúng tôi, đặc biệt là vào mùa này, hai ngày trước còn bắt được một nhóm trộm. Mấy năm nay cổ mộ bị khai phá cạn kiệt nên ngày càng ít đi, trong núi sâu có thể vẫn còn, có điều đường quá khó đi, chính quyền cũng chỉ biết đứng nhìn. Vừa nãy có động lớn, e là dùng rất nhiều thuốc nổ.”

Tôi “à” một tiếng, quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Đây hẳn là một trong vô vàn nhánh núi Tần Lĩnh, nhìn về phía trước chỉ thấy một mảng rậm rạp um tùm, dưới tán cây rậm rạp đã xảy ra chuyện gì, căn bản không sao nhìn rõ.

Trước khi đến đây tôi đã từng tra qua tư liệu, núi Tần Lĩnh thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây, địa hình cao chót vót, hai phía đông – tây phân ra vô số nhánh núi. Núi non trùng điệp cùng thung lũng giao nhau thành từng hàng, vô số con sông chảy vòng quanh các nhánh núi. Tám trăm dặm Tần Xuyên xưa nay nổi tiếng là nơi tập trung nhiều văn vật cổ, đặc biệt là nơi sườn núi phía Bắc vẫn còn khá nhiều lăng mộ của vua chúa; những quan lại, quý nhân, phú hào được táng ở đây lại càng nhiều, cho nên nơi này từ lâu đã trở thành chốn để kẻ trộm mộ chen chân. Nào ngờ còn chưa đi sâu vào dãy Tần Lĩnh, đã có kẻ trắng trợn cho nổ mộ ngay bên ngoài, xem ra bây giờ tìm được một hai ngôi mộ đáng để ra tay cũng không phải là chuyện dễ.

Người địa phương kia thật nhiệt tình, chuyện vừa khơi ra đã thao thao không dứt. Hắn đưa chúng tôi một điếu thuốc, hỏi: “Hai người tới đây du lịch phải không? Muốn đi chỗ nào?”

Tôi đáp: “Tôi muốn đến núi Thái Bạch ngắm cảnh.” Hắn liền gật gật đầu, nói: “Hai người không đi du lịch theo đoàn thì không nên vào quá sâu. Đường đi trong núi này khúc khuỷu quanh co, không cẩn thận sẽ lạc đường, có cần tôi đi cùng một đoạn không? Nhà tôi ở trong một thôn nằm ngoài rìa khu bảo hộ, vòng qua hai ngọn núi là đến nơi. Cậu xem, bây giờ ra ngoài du lịch, tìm người hướng dẫn cũng là điều tất yếu phải không?”

Tôi vừa nghe đã đoán ra kẻ này ắt là một tay hướng dẫn hắc ám, dân trong núi toàn hạng to cao lực lưỡng, không chừng tụi nó kéo tôi đến bên khe núi lụi cho một dao thì đi đời. Nghĩ đến đây tôi vội lắc đầu nói: “Không cần, không cần, chúng tôi đã chuẩn bị cả rồi.”

Người nọ nói: “Cậu đừng vội từ chối, nơi này không giống những nơi khác, nơi đây rừng núi rậm rạp, hai người muốn tiến bừa vào trong núi sâu thì rất dễ gặp nguy hiểm, cậu cũng nên lo lắng đi. Tôi cũng có chút danh tiếng trong nghề dẫn đường ở vùng này, tuyệt đối không hù dọa hai người.”

Tôi nghe hắn nói cũng có chút thành khẩn, không tiện từ chối, đành nói lần này chúng tôi đến đây chủ yếu là muốn vào thôn của người dân tộc thiểu số trong núi. Theo kế hoạch thì trước tiên cứ ở tạm dưới chân núi vài ngày, cho nên cũng không vội tìm người dẫn đường, chờ khi nào muốn vào trong núi thì sẽ gọi hắn.

Hắn vội nói: “Ấy, đến sớm không bằng đến đúng lúc, đường này tôi đi nhiều rồi. Cậu muốn tới thôn người Dao gần nhất thì chí ít cũng phải vượt qua ngọn núi này.” Nói rồi hắn chỉ về rặng núi phía xa: “Kia là núi Xà Đầu, nơi cao nhất có độ cao hơn một nghìn mét so với mực nước biển, cả ngọn núi trông giống đầu con rắn nên mới gọi là núi Xà Đầu. Khách du lịch từ bốn phương tám hướng, nếu muốn đến được làng của người dân tộc, thì chỉ có cách đi bộ từng bước. Núi này đã vùi xác nhiều người, năm ngoái có mấy học viên trường nghệ thuật đi vào vẽ cây cối phong cảnh, đến giờ vẫn chưa thấy trở ra. Cậu nói xem, có cần người dẫn đường không?”

Tôi nhìn theo hướng hắn chỉ thì thấy núi Xà Đầu vắt ngang tầm mắt, xanh biếc một màu, đỉnh núi cao ngất khuất sau tầng mây. Cũng bởi điều kiện khí hậu mà ngọn núi quanh năm phủ trong sương mù, không thể nhìn rõ diện mạo, chỉ có thể miễn cưỡng nhìn thấy mặt quay về sông Gia Lăng. Đáng tiếc là quanh sông đều là vách đá dựng, thế núi dốc đứng, đến khỉ cũng chẳng leo lên nổi.

Đây đúng là “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.” (Mây che Tần Lĩnh nhà chẳng thấy, tuyết phủ Lam Quan vó ngựa chùn). Đầu lưỡi tôi líu hết lại, thầm nghĩ vượt qua núi này có còn cơ hội sống sót không?

Xe đi thêm một giờ nữa, cuối cùng cũng tới chân núi Thái Bạch, tôi và lão Dương lảo đảo xuống xe. Đằng nào tên hướng dẫn kia cũng sẽ giới thiệu khách sạn cho chúng tôi, tôi nghĩ dù sao cũng đã đến địa bàn của hắn, không uống rượu mời tất phải uống rượu phạt, đành phải đi theo. Hắn dẫn chúng tôi tới quán trọ nhỏ của một gia đình nông dân, tôi thấy giá cả cũng vừa phải, xem ra người này thực sự nhiệt tình.

Đợi chúng tôi sắp xếp ổn thỏa chỗ nghỉ ngơi, hắn mới chắp tay cáo từ, trước khi đi còn để lại số điện thoại, nói khi lúc nào vào núi thì gọi cho hắn, hắn sẽ dẫn đường cho chúng tôi.

Chủ nhà trọ cũng rất nhiệt tình, họ làm cơm chiều rồi mời chúng tôi cùng ăn. Không tiện ăn chung với chủ nhà, tôi cáo lỗi rồi cùng lão Dương trở về phòng, tựa vào bệ cửa sổ, vừa ăn vừa xem bản đồ vùng này.

Tên hướng dẫn kia nói cũng không sai, muốn đi vào Tần Lĩnh từ hướng này thì phải vượt qua ngọn núi cao một nghìn thước so với mực nước biển, đây là điều hoàn toàn không ngờ tới. Với kinh nghiệm của chúng tôi, muốn tự mình đi vào núi chẳng khác nào tìm lấy cái chết. Nhưng nếu tìm tên hướng dẫn nọ để đưa chúng tôi vào thì đến lúc ra ắt cũng phải nhờ đến hắn. Bảo hắn chờ ở ngoài một hai ngày còn được, nhưng chúng tôi đi vào trong núi có thể phải mất cả tuần, khó mà khiến hắn không nghi ngờ.

Lần trước lão Dương đến đây, anh họ hắn có tìm một tay dẫn đường già dặn; nhưng bây giờ anh họ hắn đang ăn cơm tù, tay dẫn đường kia đương nhiên không thể tìm được nữa. Hắn cũng không ngờ mình sẽ đến đây lần thứ hai nên chẳng còn nhớ tí gì về sơn đạo, không thể dựa vào hắn được. Hỏi bà chủ nhà vẫn chẳng tìm được cách nào khác, bởi vì người sống trong thôn thường thường chỉ khi nào có phiên chợ mới ra khỏi cửa. Mà bọn họ muốn ra ngoài thì đều leo qua núi, xưa nay chưa từng nghe ai nhắc tới con đường tắt; xem ra muốn vượt ngọn núi này không phải chuyện đơn giản.

Đang cân nhắc xem nên làm thế nào, lão Dương bỗng vỗ tôi một cái, khẽ nói: “Lão Ngô, nhìn… nhìn kìa, người dưới đó là ai?”

Tôi liếc mắt qua cửa sổ, chỉ thấy dưới sân nhà trọ có năm người. Nhìn kĩ hơn thì bất ngờ nhận ra một trong năm người đó chính là lão già chúng tôi đã gặp ở quán nước ven đường ở Tây An.

Tôi thầm nhủ, thế quái nào mà nhóm này cũng tới đây, lẽ nào lão Dương nói đúng, bọn họ cũng đến đây để kiếm đường làm ăn?

Lão Dương vội kéo rèm che, chỉ chừa lại một khe hở nhỏ, khẽ khàng bảo tôi: “Mấy tên này cũng mang theo túi lớn túi nhỏ hệt như chúng ta, không phải chúng nghe được những chuyện bọn mình nói ở Tây An hôm trước rồi muốn đi theo chờ thời cơ ăn chặn đấy chứ?”

Tôi thấy bà chủ trọ vui vẻ ra đón bọn họ vào, lắc lắc đầu, nói: “Chắc không phải đâu, cậu xem họ thân thiết như vậy, có lẽ những người này là khách quen thường trọ lại ở đây. Nhà trọ ở vùng này không nhiều, chắc là chúng ta tình cờ chọn cùng chỗ với bọn họ thôi.” Nếu lão Dương nói đúng, họ cũng là dân đổ đấu thì chỗ này hẳn là điểm dừng chân cố định, e rằng mỗi lần đến đây làm ăn họ đều ở trọ lại chỗ này.

Lão Dương lo lắng nói: “Toi rồi, ở Tây An bọn họ đã nghe chúng ta nói chuyện, nếu để họ bắt gặp ở đây thì dễ bị chú ý lắm, hay là ta rời khỏi đây ngay trong đêm đi?”

Tôi suy nghĩ một chút, cảm thấy chuyện này không có gì phiền toái, ngược lại còn là một cơ hội tốt, lắc đầu nói: “Không. Đám người này chỉ là ruồi nhặng, trứng không ung thì chẳng đậu lại làm gì (*), họ tới đây chắc chắn có mục đích. Chúng ta đều không có kinh nghiệm, thay vì mò mẫm đi lung tung, chi bằng cứ theo bọn họ, không chừng lại thu được thứ gì hay ho, sau đó còn có thể theo họ vượt núi.”

(*) Lấy ý từ câu tục ngữ “Thương dăng bất trành vô phùng đích đản” tức là quả trứng nguyên lành không nứt vỡ thì ruồi nhặng chẳng thèm liếc mắt tới.

Lão Dương nói: “Đám người này toàn kẻ liều mạng, giết người không ghê tay. Đi theo bọn chúng lỡ bị phát hiện, không chừng còn bị thủ tiêu, như vậy có quá mạo hiểm không?”

Tôi bật cười, chế giễu hắn: “Cậu biến thành bà mụ từ khi nào vậy? Nơi này rừng sâu núi thẳm, sao có thể dễ dàng bị phát hiện? Vả lại chúng ta đâu phải lũ ngốc, bị phát hiện chẳng lẽ không biết đường chạy? Nếu cậu thật sự lo lắng, vậy trước hết ta cứ đi theo xem chúng có cảnh giác không đã. Nếu không theo được thì thôi, chúng ta cũng đâu có mất gì, phải không?”

Lão Dương nghe tôi nói vậy, nhất thời không phản bác được gì, đành phải gật đầu. Chúng tôi liền đi chuẩn bị đồ đạc thật kĩ càng, tránh cho ngày mai lại cuống. Tôi nhẩm tính mấy ngày nữa có thể sẽ tương đối vất vả, bèn đi đặt báo thức sớm, bảo lão Dương đừng làm chuyện gì nữa, lo mà nghỉ ngơi đi.

Do đi đường quá mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống là ngủ một mạch tới giữa trưa, hoàn toàn không nghe thấy tiếng chuông đồng hồ báo thức. Lúc tôi mở mắt thì mặt trời đã đứng bóng, liền giật mình tỉnh giấc, dựng lão Dương dậy. Xuống hỏi bà chủ trọ mới biết mấy người kia vừa xuất phát đi về hướng núi Xà Đầu, cũng may thời gian chưa quá lâu.

Hai người chúng tôi vội vàng chạy đi mua mấy cái bánh nướng làm lương khô rồi một đường hướng về phía ngọn núi, gấp rút đuổi theo bọn họ. Chạy ước chừng mười lăm phút, cuối cùng khi đến chân núi chúng tôi cũng đuổi kịp bọn họ.
 
Quyển 3 - Chương 4: Tiếp tục theo dõi


Edit: Hằng

Beta: Thanh Du

*****

Đám người kia sau khi mua vé thì đi thẳng vào khu sinh thái, chúng tôi cẩn thận bám theo, cách chúng một khoảng khá xa.

Khu sinh thái này không có lấy một bóng người, chúng tôi sợ bị phát hiện, đành phải bảo nhau chui vào bụi cỏ, da thịt bị tra tấn, bị hết lá cỏ sắc lại đến bụi cây thi nhau cứa vào, vừa ngứa lại vừa đau. Chỉ trong chốc lát, tôi đã cảm thấy khốn khổ vô cùng.

Vượt qua chân núi là coi như đã tiến vào phạm vi núi Xà Đầu. Nơi này có mấy điểm du lịch, đường đi đều lát đá, vì vậy đi lại không mấy khó khăn. Sơn đạo men theo thế núi, quanh co khúc khuỷu, dọc hai bên đường có khe suối róc rách cùng với rất nhiều khối đá khắc hình danh nhân, phong cảnh tuyệt đẹp, hiềm nỗi nhóm người này một mạch đi thẳng, không thèm ngừng chân lại ngắm cảnh, dường như không hề có chút hứng thú đối với cảnh sắc núi Tần Lĩnh.

Thể lực của tôi dạo gần đây không tệ, đi một mạch tới tận đây cũng không có cảm giác gì. Nhưng lão Dương kia vừa trải qua thời gian cải tạo trong tù, không mấy khi vận động, tim gan phèo phổi hoạt động không năng suất bằng tôi, chỉ chốc lát đã chịu hết nổi, bắt đầu phì phò thở dốc.

Đường lên núi càng lúc càng yên tĩnh, chúng tôi không dám nói một lời, ngậm miệng im re bám theo sau đoàn người nọ. Cho đến khi trời sập tối, trăng lên ngang trời, đám người kia mới dừng lại.

Chúng tôi tìm một bụi cây xa xa ngồi xuống, dõi theo bọn họ. Bỗng lão Dương đưa tay kéo kéo tôi, tôi quay đầu lại nhìn, thấy hắn tái mặt, vầng trán đẫm mồ hôi, mới biết hắn chịu không nổi nữa rồi, liền lấy cho hắn miếng nước rồi để hắn nghỉ ngơi cho thoải mái.

Lão Dương vừa thở vừa nói với tôi: “Lão… lão Ngô, tôi thấy ta theo họ đến đây được. . . được rồi, họ đổ được cái gì thì là của họ, ta đổ được là của ta, cứ đi nữa rồi lại thành ra tranh giành miếng ăn với nhau.”

Tôi cũng không khá khẩm hơn hắn là bao, nghe hắn nói vậy, trong lòng cực kỳ khó chịu, khẽ mắng: “Con mẹ nó, cậu mới chỉ ngồi tù có ba năm, sao đã thành một thằng vô dụng rồi? Đã theo đến đây còn bỏ, bao nhiêu khổ sở chúng ta phải chịu trên đường chẳng thành công cốc hết hay sao? Tốt nhất là cậu ngậm miệng lại cho tôi.”

Lão Dương lại nói: “Vậy cậu đoán xem còn phải bám theo chúng bao lâu nữa. . . bọn chúng dừng lại, có phải đã đến nơi rồi không?”

Tôi lại nhìn về phía đám ngưới kia, đáp: “Chưa, nơi này vẫn còn cách núi một khoảng khá xa, có thể chúng mệt mỏi muốn dừng chân nghỉ ngơi thôi. Cậu xem, họ nhóm lửa lên rồi, chắc hẳn là muốn qua đêm ở đây. Chúng ta cũng đừng lãng phí thời gian nữa, trước tiên cần lấp đầy cái bụng rồi đánh một giấc, xong xuôi có gì thì tính sau.”

Chúng tôi rốt cuộc cũng tìm được một chỗ khuất, kiếm rơm rạ trải qua loa. Tiếc rằng lúc này đã là nửa đêm, chúng tôi không thể nhóm lửa vì ánh sáng sẽ dễ dàng khiến kẻ khác phát hiện ra, đành để mặc quần áo ướt nhẹp mồ hôi dính chặt lên người, muốn hong cho khô cũng không được. Chỗ lương khô mang đáng lẽ phải nướng lại, mà giờ chỉ có thể ngồi nhai một đống nguội ngắt. Lão Dương than thở, luôn miệng oán trách tôi vì cái chủ ý ẩm ương này.

Tôi cũng hối hận không ngớt, trong lòng bắt đầu thấy khó chịu, nhưng những lời lão Dương cũng không lọt tai chút nào. Tôi thầm nghĩ, ta tới giúp mi mà mi còn ở đó nói nhảm, liền mắng lại: nếu có chút khổ sở thế này cũng không chịu nổi thì tốt nhất là quay về đi, bằng không có vào trong núi thì cũng trốn về thôi.

Lão Dương buồn bực hồi lâu, đột nhiên thốt lên: “Không xong rồi, lão Ngô, chúng ta bị động theo. . . theo dõi như vậy cũng đâu phải cách hay, không biết bọn họ có muốn vượt qua núi hay không. Nếu theo bọn họ hướng thẳng lên đỉnh núi, chui vào rừng rậm thì chúng ta tiêu đời.”

Ta nghe vậy cũng ngẩn ra, tự nhủ hắn nói cũng đúng, mình cứ đinh ninh đám người này muốn vượt núi, nhưng lỡ như họ không vượt núi, mà đi dạo lòng vòng xung quanh thì chẳng phải hai thằng tự nộp mạng cho chúng nó rồi sao?

Chuyện này thật khó xử, cũng không thể chui ra hỏi đám người đó được. Tôi nhìn về phía ánh lửa phía trước, đần người ra.

Lão Dương thấy tôi không đưa ra được phương án nào hữu dụng, thở dài một hơi, nghĩ ngợi ít lâu rồi nói trông cậy vào tôi chỉ tổ tiêu đời, dựa vào hắn vẫn hơn. Hắn định qua đó nghe lén mấy người kia nói chuyện, bọn họ sắp tiến vào núi, không thể không bàn bạc công chuyện được.

Tôi bị hắn huyên thuyên một hồi, rốt cuộc không không còn cách nào khác, đành phải đồng ý. Có điều để một mình hắn đi tôi không yên tâm, vì vậy cũng mò đi cùng hắn.

Rón ra rón rén đi tới, quả thật núi này yên tĩnh kinh khủng, chúng tôi đi chưa xa đã có thể nghe thấy tiếng nói truyền về. Lão Dương kéo tay tôi, ý bảo trốn ở đây được rồi, không cần phải tiến thêm nữa.

Tôi gật đầu, cả hai cùng ngồi xuống, ngưng thở, nghe tiếng bọn họ đang cười rất to. Có một chuyện nằm ngoài dự tính của chúng tôi, đó là lẫn trong đám đông ồn ào vẫn nghe ra được tiếng nói của hai người đậm chất Quảng Đông.

Chuyện này thật quái lạ, xưa nay tôi chưa từng nói người Quảng Đông cũng có hứng thú với mấy vụ này.

Bọn họ ở đó cười cười nói nói, chợt nghe một người thanh niên lên tiếng: “Thái thúc à, chú nhẩm tính xem nhóm ta còn phải đi bao lâu mữa mới tới nơi? Chân tôi hôm nay đã mỏi muốn rụng rời rồi.”

Một giọng nói khàn khàn đáp lời: “Ngày thường tao đã bảo mày chịu khó tu tâm dưỡng tính, ai mà ngờ con bà mày chỉ biết ăn chơi gái gú cờ bạc rượu chè, cắm mặt vào đôi gò mấy ả đàn bà, giờ đã biết thân chưa? Tao nói cho mày biết, muốn qua núi Xà Đầu này, đoạn có đường phải đi hết hai ngày, đến khi hết đường thì tao không dám chắc. Nếu mày chịu không nổi thì cút xuống núi ngay bây giờ cũng chưa muộn, đừng quẩn chân ông nữa.”

Người thanh niên kia hiển nhiên có chút e dè với Thái thúc, nói: “Gần đây tôi có hơi đổ đốn thật, nhưng chú yên tâm, vụ mua bán này nếu thành công thì bọn tôi không cần phải tới mấy hẻm núi kiểu này làm ăn nữa. Bọn tôi sẽ đi theo ông chủ Vương cùng ông chủ Lý tới Hồng Kông mở mang tầm mắt, cũng có thể thưởng thức cuộc sống của giới thượng lưu.”

Một người giọng Quảng Đông lên tiếng: “Được rồi được rồi, không sao cả, mọi người đừng cãi nhau. Chỉ cần mấy người tìm được đồ tốt, muốn bao nhiêu chúng ta sẽ có bấy nhiêu. Vụ làm ăn này coi như đổi đời, chỉ cần làm tốt thì tất cả mọi người có thể nghỉ ngơi thoải mái được rồi. Đến lúc đó hãy tới Hồng Kông rực rỡ xa hoa bậc nhất vung tay tiêu tiền từng xấp từng xấp, như thế dù có cực khổ chút xíu cũng đáng giá.”

Thái thúc lại nói: “Ông chủ Lý, ông đừng có ba hoa đắc chí như thế. Cái đấu này có nằm quanh đây không, chúng tôi chỉ biết dựa vào mấy lời đầu môi chót lưỡi của ông. Ông mà đưa tin giả, để chúng tôi toi công thì coi chừng.”

Ông chủ Lý đáp: “Ôi dào, tôi bảo này, ông đa nghi quá rồi. Chúng ta hợp tác với nhau bao lâu rồi, tôi chẳng qua chỉ hỏng việc có một lần, đâu cần để bụng đến tận bây giờ chứ. Thật lòng mà nói, lần này chỉ cần mọi người đặt chân đến được nơi đó thì sau này dù có là lăng mộ Tần Thủy Hoàng mọi người cũng không coi vào đâu.”

Thái thúc không thích nghe những lời khách sáo kiểu này, cười nhạt nói: “Lời này tất nhiên tôi không tin được rồi, ông cũng đừng chơi kiểu phóng ngựa trước pháo (*). Tuy chúng ta đúng là đã hợp tác lâu năm, nhưng tôi còn chưa được biết ông có được mớ tin tức này từ đâu. Dù sao thì đây cũng là lần cuối cùng, nếu ông không ngại, sao không nói ra cho các anh em tôi nghe chơi, coi như mở mang kiến thức.”

(*) Thành ngữ gốc “phóng mã hậu pháo” mang nghĩa chuyện qua rồi mới biết mà tìm cách phòng chống, gần nghĩa với “mất bò mới lo làm chuồng”. Tác giả đổi lại là “phóng mã tiền pháo” tức chuyện chưa xảy ra đã nói như đúng rồi, aka ăn bánh vẽ :))

“Đúng vậy đó, nói nghe coi!” Tên thanh niên kia lập tức chen miệng vào: “Ít ra sau này tôi còn có cái đem ba hoa với đám đàn bà.”

Ông chủ Lý cười dài một tiếng mới tiếp lời: “Haiz, hai người thật là. . . nếu hai người thật sự muốn biết thì tôi kể lại cũng được, chỉ sợ nói ra không ai tin thôi.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom