Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Đạo Mộ Bút Ký
Quyển 4 - Chương 5: Khởi đầu đầy hoang mang


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Lúc này cả địa cung chìm trong bóng tối mịt mùng, nhìn lên theo quầng sáng đèn pin loang lổ chiếu ra chỉ thấy nơi nơi đều là những vị La Hán đang trông xuống, hàng trăm cặp mắt chằm chặp dõi theo Trần Bì A Tứ. Do nguồn sáng di động, tròng mắt La Hán thấp thoáng lộ ra vẻ dữ tợn, làm bầu không khí trong chốc lát đã trở nên hết sức quỷ dị.

Trần Bì A Tứ lại chửi thề vài câu “con lừa trọc”(1), bụng bảo dạ nhất định những gã hòa thượng kia cố ý lừa mình. Nhưng lúc này ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản được nhiều như vậy, bèn tìm thêm vài vòng nữa, nhưng tìm mãi vẫn không phát hiện ra khuyết mất một pho tượng chỗ nào.

Bỗng trong đầu lóe lên một ý nghĩ, Trần Bì A Tứ đã dần dần nắm được vấn đề nằm ở đâu, tay cầm đèn pin cũng dời về vị trí pho tượng La Hán mặt trắng ngước nhìn trời đã bị ông ta đập vỡ hai mắt. Chỉ có pho tượng La Hán này rõ ràng là không giống những pho khác, vấn đề hẳn phải nằm ở đây. Có khả năng kẻ nào đó đã đẩy vị La Hán này xuống từ trên kia, sau đó thế chỗ bằng vị La Hán mặt trắng ngước mặt nhìn trời này, cho nên chỉ có mình pho tượng La Hán này khác biệt với những pho tượng còn lại. Tiên sư cha, sao lại có đứa rỗi hơi tự dưng giở trò này làm cái quái gì không biết? Hơn nữa còn có thể đoán biết chính xác vị trí mình nhảy xuống để xoay đầu pho tượng hướng vào đó, không phải người trong cuộc thì làm sao có thể? Chẳng lẽ chuyến đi này của mình đã chậm chân hơn kẻ khác? Nơi đây đã có kẻ đến trước, lại còn bố trí sẵn những thứ này để chọc phá mình sao?

Trần Bì A Tứ rọi đèn pin lên thân hình phốp pháp của vị La Hán mặt trắng kia, rồi lại áng chừng Bát trùng bảo hàm nặng trịch trên tay. Nếu quả thực đã có kẻ đến trước thì làm gì có chuyện hắn không cuỗm cả thứ này theo chứ. Chưa khoắng sạch mà đã bỏ đi là điều không thể, nhất định mình đã lo bò trắng răng rồi. Đây chẳng qua là cái bẫy cho mấy con lừa trọc đó cài sẵn để đánh lạc hướng suy nghĩ của người ta thôi.

Trần Bì A Tứ thả lỏng tinh thần. Tuổi không còn trẻ, lại phải trải qua một phen quăng quật như vậy, ông ta đã sắp tới cực hạn rồi. Ông ta ho khan vài tiếng, định bụng rời ánh đèn pin khỏi pho tượng La Hán kia, rọi ra bốn phía để xem làm thế nào dùng ít sức nhất mà trở về được. Chính vào lúc đó, một cảnh tượng khiến người ta khiếp vía đã xảy ra.

Trong tích tắc ánh đèn pin rời khỏi pho tượng La Hán kia, Trần Bì A Tứ đột nhiên nhìn thấy cái mặt trắng bệch nọ bất thình lình vọt ra!

Đèn pin rời đi quá nhanh nên cảnh tượng này chỉ vụt qua rồi biến mất, nhưng Trần Bì A Tứ lại thấy rất rõ ràng. Ông ta không phải loại người không tin vào mắt mình, lập tức cảm thấy đầu óc muốn vỡ tung, xém chút nữa đã ngã ngồi trên mặt đất. Nhanh như chớp giật, Trần Bì A Tứ thét lớn một tiếng tiếp thêm can đảm cho chính mình rồi trở tay một cái, một loạt đạn sắt bắn ra như nã súng liên thanh.

Ông ta dựa vào vị trí mình đã ghi nhớ ban nãy mà liên tục búng ra mười mấy viên đạn. Những viên đạn đó bắn tới bắn lui tứ phía trên đỉnh đầu khiến Trần Bì A Tứ còn tưởng pho tượng La Hán mặt trắng tựa như yêu quái kia đã nhảy xuống đến nơi. Trong lúc bối rối làm loạn trận tuyến, ông ta rút khẩu Vương Bát Hạp Tử (2) cũ mèm thời trai tráng kia ra.

Ông ta hoảng sợ thật sự rồi. Khẩu súng này từ vài năm sau giải phóng đã không được đụng đến lần nào nữa, đúng hơn là ông ta không dám tùy tiện rút ra. Lúc này cầm lấy nó, dẫu biết là vô dụng nhưng chí ít cũng tăng thêm dũng khí, tức là ông ta thật sự là đã hoảng đến không còn tỉnh táo nữa rồi.

Thì anh nói xem, làm cái nghề đào cát có mấy thập niên thôi, cơ hội đụng phải các loại bánh tông đã ít lại càng thêm ít. Trường hợp thế này, cho dù có mặt ông nội tôi ở đó thì cũng khó mà ứng phó nổi. Trần Bì A Tứ tuy cũng là kẻ già đầu trong đám lão làng, thế nhưng kinh nghiệm chủ yếu chỉ gói gọn trong những cuộc đấu đá sinh tử với người sống, chứ hễ đụng phải những chuyện nằm ngoài khả năng tiếp nhận của mình thì vẫn hoảng sợ như thường thôi.

Đang lúc hoảng loạn, ông ta lại liếc thấy cánh cửa đá thấp khuất tầm nhìn kia. Lúc này mà leo lên theo đạo động để quay lạithì là chuyện không tưởng rồi, vẫn nên tìm đường khác mà chuồn thì hơn.

Trần Bì A Tứ khom lưng chui qua cánh cửa thấp tè thì thấy một gian phòng đá. Tổ ong địa hoàng bự như một cái sườn núi mọc ra từ trên tường, quy mô không hề nhỏ, khiến ông ta không thể nhìn rõ trong căn phòng đá này vốn bày biện những gì. Chạy được vài bước thì chân mắc phải tổ ong, lập tức ngã dập mặt xuống đất. Đèn pin văng ra rõ xa mà ông ta cũng chẳng buồn nhặt, chỉ ôm chặt khẩu súng vọt về phía trước.

Qua căn phòng đá là đến một con đường dài, thoạt nhìn phải dài đến mười mấy mét, phía cuối đường là cửa chính của địa cung đang phát ra một vầng ánh lửa thật mỏng manh, hẳn là có cái gì chặn ở lối ra. Ông ta cắn răng bước thấp bước cao, cũng không biết mình đã dẫm đạp lên thứ gì nữa. Địa thế cuối cùng cũng bắt đầu hướng lên, Trần Bì A Tứ lại chạy thêm mười mấy bước nữa, trong lúc đầu váng mắt hoa chỉ mong tới được chỗ ánh lửa kia thì đầu ông ta đột nhiên đụng phải thứ gì đó. Chỉ nghe một loạt những tiếng va chạm đổ vỡ vang lên, ông đã thoát ra ngoài, ngã lăn quay trên đất.

Bên ngoài hừng hực ánh lửa, Trần Bì A Tứ đứng lên liếc nhìn bốn phía, phát hiện mình chui từ một đoạn tường đổ ra đây. Ông ta còn chưa hết kinh ngạc vì phát hiện ra cửa vào bí mật của phù đồ địa cung thì ra lại nằm sau một bức tường thì đã bị mấy người Mèo kề dao vào cổ, đồng thời vật ông ta nắm trong tay cũng bị tước mất.

Trần Bì A Tứ cũng đã sức cùng lực kiệt không còn phản kháng nổi, vừa thấy bất ổn bèn lảo đảo chạy, mới được vài bước đã bị người ta đạp một phát vào khoeo chân, phải quỳ rạp trên mặt đất, ngẩng đầu lên thì thấy mấy tên trai tráng người Mèo bị mình lừa xuống dưới này đang giơ đuốc bao vây lấy mình. Vị thủ lĩnh cầm đầu có phần tức giận, nhìn hắn chằm chặp. Xem ra bọn họ tìm kiếm một vòng mà chẳng phát hiện được gì nên đã biết mình bị lừa rồi.

Vị thủ lĩnh người Mèo đưa mắt nhìn Bát trùng bảo hàm vừa lấy được từ tay hắn, rồi lại liếc sang cái động ngầm tối thui trong đoạn tường đổ, dĩ nhiên trong bụng đã hiểu được căn nguyên chuyện này, trên mặt bèn lộ ra vẻ chán ghét. Y quay sang một tên trong đám người Mèo, làm động tác che hai mắt lại, rồi dùng tiếng Mèo nói vài câu. Trần Bì A Tứ hổn hển thở gấp, đây cũng không phải giả vờ, nhưng để lừa kẻ khác nên ông ta có cường điệu thêm lên, còn không ngừng ho khan. Nhưng vừa nhìn đến động tác của người Mèo kia, trong lòng ông ta chợt lạnh buốt. Ông ta đã sinh sống ở Quảng Tây bao nhiêu năm trời nên thừa biết là họ muốn móc mắt mình ra.

Tên người Mèo vâng lệnh gật đầu, bẻ một loại lá cỏ sắc nhọn mọc bên đường rồi ngồi xổm xuống trước mặt ông ta, dùng tiếng Mèo hỏi ông ta một câu. Trần Bì A Tứ liên tục xua tay, ra vẻ như mình hụt hơi lắm. Người Mèo kia thấy ông ta mệt lử thì nhìn nhau, không biết làm sao cho phải. Mấy người Mèo khác lại tò mò về chỗ ông ta chui ra, bèn đốt đuốc thò đầu nghiêng ngó bên trong.

Trần Bì A Tứ cù cưa được vài phút rồi mà vẫn không thấy bức tượng La Hán mặt trắng trông như yêu quái kia đuổi ra đến nơi, không khỏi nảy sinh thắc mắc. Lúc này ông ta đã hồi phục được một phần thể lực, thấy hai người Mèo tiến đến muốn giữ lấy tay mình cũng đủ biết nếu còn không phản kháng thì coi như xong đời. Ông ta bèn nhếch mép một cái, bắn ra một loạt đạn sắt, một loạt tiếng đoành đoành đoành đoành vang lên, trong nháy mắt đã đánh rơi toàn bộ đuốc ở đó xuống đất.

Đám người Mèo phút chốc kinh hãi không biết phải làm thế nào. Trần Bì A Tứ cười lạnh một tiếng, sát ý nổi lên, một cước đá ngã lăn tên người Mèo đang đứng trước mặt, đồng thời xoay một tay rút khẩu Vương Bát Hạp Tử, những muốn giết người. Nhưng đúng lúc đó ông ta chợt nghe gió lạnh thổi vù một tiếng, bàn tay mình đã mát lạnh, sờ thử một cái thì thấy đầu ngón tay đặt lên cò súng đã không còn nữa.

Trần Bì A Tứ nào từng nếm qua thiệt hại như thế bao giờ, trong lòng hốt hoảng. Chẳng chờ ông ta kịp phản ứng, một luồng gió lạnh lại thổi tới, Trần Bì A Tứ chỉ kịp nhìn thấy con ngươi lãnh đạm của vị thủ lĩnh người Mèo kia cùng với hình xăm kỳ lân nhảy múa trên thân y. (hả hả hả :v Bình Tử thối anh làm gì ở đây :v) Đó là cảnh tượng cuối cùng mà ông ta chứng kiến, vì một giây sau đã bị một nhát dao chém mù. Con dao quắm của vị thủ lĩnh người Mèo từ con mắt trái của ông ta bổ ngang vào, vạch đứt đôi xương mũi, cắt ngang qua mắt phải rồi phá ra, hai con mắt ông ta lập tức mù hẳn.

Thôi xong, gặp phải đồng nghiệp rồi. Trần Bì A Tứ thầm thở dài, ngã nhào trên mặt đất, đau đớn ngất đi.

Lão Hải kể tiếp: “Mấy người Mèo kia cuối cùng cũng không giết ông ta, mà chỉ đem Trần Bì A Tứ cùng Bát trùng bảo hàm kia giao cho đội dân phòng địa phương. Vừa may ông ta có một người chiến hữu từ hồi khởi nghĩa ở đó mấy năm phụ trách dân phòng địa phương bảo lãnh cho, nhờ đó mới không bị xử bắn, có điều mắt vẫn cứ mù. Sau này chiếc hộp kia được đưa đến bảo tàng, người ở đó vừa nghe liền phái nhân viên đến hiện trường xem xét, cũng chẳng biết có kết quả hay không. Có điều khi chiếc hộp kia được mở ra thì thấy tầng cuối cùng chẳng phải xá lợi gì sất, mà là con cá đồng này.” Ông ta gõ gõ lên tờ báo, “Chẳng trách chuyện này trở thành một đòn trời giáng sấm sét. Trần Tứ gia sau khi biết chuyện thì chửi ầm lên, nói mình đã bị nguời ta giỡn mặt. Cái hộp đó có lẽ từ mấy đời trước đã bị người ta mở ra lấy mất thứ bên trong rồi. “

Trong lúc nghe lão Hải kể chuyện xưa, tôi bất tri bất giác đã uống thêm một chén rượu rồi nên có hơi chuếnh choáng, bèn hỏi: “Ông ta dựa vào đâu mà nói thế?”

Lão Hải vừa mút con ốc vặn vừa nói: “Tôi biết đâu được đấy. Trần Bì A Tứ sau đó lại đi tu ở một ngôi chùa Quảng Tây, chuyện này tôi phải nhờ đến mối quan hệ cũ mới hỏi thăm được đấy, anh bạn trẻ. Tin tức này không dễ moi ra đâu, cậu sau này có mối nào hời cũng đừng rẻ rúng lão già này đấy nhé.”

Tôi chửi thầm một tiếng, bụng bảo dạ biết ngay lão đốn mạt này chẳng đời nào tốt đến thế mà. Xem ra ông ta cũng chỉ muốn lôi kéo tôi, tạo thêm mối quan hệ mà thôi. Biết ông ta đã cạn thông tin, tôi lại hỏi lần này ông đến Hàng Châu tham dự buổi đấu giá kia để làm gì.

Lão Hải giải quyết nốt con ốc vặn cuối cùng rồi chép chép miệng nói: “Năm đó loạn lạc liên miên, con cá này không biết đã lưu lạc đến nơi nào. Giờ hòa bình rồi nên rốt cuộc cũng có người mang nó ra đấu giá. Tôi vẫn hay tham gia hội đấu giá như cơm bữa, trong nghề cũng có chút ít danh tiếng nên bọn họ chịu chi phong bao dày và phát thiệp mời cho tôi. Cậu nhìn mà xem, con cá này cũng nằm trong danh sách hàng đấu giá đấy, tôi thấy cậu có vẻ hứng thú với nó nên tiện thể chuẩn bị cho cậu tấm thiệp mời thôi. Chẳng cần biết có hữu dụng hay không, cứ đi xem ai muốn mua con cá này cũng là chuyện tốt mà.”

Tôi liếc một cái lên cột giá khởi điểm, 1000 vạn hả, có dở hơi mới bỏ tiền ra mua. Trên tay tôi cầm những hai con, nếu có người mua thì chẳng phải được đến 2000 vạn sao. Thời nay mấy ông tổ chức bán đấu giá cũng lăng xê món hàng quá đáng đi, chí ít cũng phải làm sao cho người ta tin tưởng chứ.

Tin tức của lão Hải mặc dù hay ho nhưng lại không phải chuyện tôi muốn biết, nhất thời không biết nói tiếp cái gì nữa. Hai người chúng tôi đều tự châm lấy một điều thuốc mà ngẫm nghĩ chuyện của mình. Nhân viên phục vụ thấy chúng tôi cứ ì ra không chịu đi, muốn chạy đến dọn bàn, tôi lại chuyển sang ân cần hỏi han lão Hải về mấy chuyện làm ăn linh tinh này nọ. Lão Hải cũng nói mấy câu muốn theo tôi xuống đấu mở mang kiến thức gì đó, cũng chẳng nhìn ra ông ta có thật lòng hay không. Tôi bảo hay là thôi đi, chính tôi đây còn chẳng định chui xuống lần nữa, ông đã già cả yếu đuối rồi thì đừng có dính dáng vào nghề này, miễn cho tự rước phiền toái vào thân, rồi lại liên lụy cả đến tôi.

Rượu tôi cũng đã uống được kha khá, bèn hỏi lão Hải lấy thiệp mời rồi bảo ông ta về nghỉ ngơi trước. Tối đến, Tần Hải Đình mè nheo đòi ra ngoài chơi, tôi là thổ địa ở đây nên từ chối cũng chẳng tiện, đành phải lái xe dẫn bọn họ đi loanh quanh mấy vòng, ăn vài món bình dân. Có điều thời tiết thật sự rất lạnh nên bọn họ cũng đòi về ngủ sớm.

Tôi lái xe về đến nhà, còn chưa lên gác đã đột ngột cảm thấy trong nhà chỉ có bốn bức tường thì thật lạnh lẽo vô cùng. Trước đây tôi chưa từng có loại cảm giác này bao giờ nên chỉ thấy kỳ lạ, không lẽ mấy lần trải nghiệm vừa qua đã khiến tôi thay đổi nhiều đến thế hay sao? Nghĩ lại thì chính mình cũng cảm thấy buồn cười, thế là tôi bèn lái xe đến thẳng quán chú Hai uống chén trà khuya.

Ngồi trong quán vừa uống trà vừa xem bút ký của ông nội, tôi vừa nghĩ đến những chuyện đã xảy ra, vẫn chỉ cảm thấy đầu óc mịt mờ. Cái chính là ba con cá này đâu có thuộc cùng một triều đại, hơn nữa vị trí địa lý cũng cách xa nhau. Tạm thời chưa tính đến công dụng của ba con cá này, chỉ riêng vị trí khai quật của chúng đã không để lại một chút manh mối nào cho người ta suy luận rồi.

Người xưa làm những chuyện này này tất phải có mục đích, bằng không thì trận địa này quá lớn, người thường sao có thể bày ra được. Tôi suy đi tính lại một hồi, cảm thấy mấu chốt chính là không biết mục đích thật sự của kẻ kia; chỉ cần biết được mục đích thì đã có vô số phương hướng để điều tra rồi.

Giá ông nội còn sống có phải tốt hơn không? Tôi thở dài. Không thì có chú Ba ở đây cũng được, ít nhất còn có người cùng bàn bạc. Hiện giờ tôi có mỗi một mình, chỉ biết nghĩ đi nghĩ lại mấy vấn đề này, đến mức bắt đầu phát ngấy lên.

Bỗng tôi ngửi thấy mùi gì khét lẹt, cúi đầu nhìn xuống thì thấy trong tờ tạp chí mình mượn đọc có in một trang bản đồ du lịch Trung Quốc. Ban nãy tôi vừa nghĩ vừa cầm điếu thuốc chỉ trỏ bên trên, vô ý châm thủng ba cái lỗ ở vị trí ba địa phương kia, đến khi tôi kịp phản ứng thì đã trễ. Tôi vội vàng dụi điếu thuốc, nhìn quanh quất bốn phía, thấy người phục vụ còn chưa chú ý đến trò phá hoại của mình thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Chú Hai tôi tuy là người thân trong nhà, nhưng tính tình rất gàn dở, làm hư đồ đạc của chú là chú sẽ trở mặt ngay. Đặc biệt là mấy cuốn tạp chí ở chỗ này, mỗi cuốn đều vô cùng quý giá, là đồ chú sưu tầm được, làm hư thì chú lại càng chửi cho đến mấy năm trời cũng chưa chịu tha ấy chứ.

Tôi giả vờ như chưa có chuyện gì, trả tạp chí lại. Vừa mới buông tay đã có một lão già cầm lên, đứng đó giở ra xem. Tôi lo ông ta sẽ phát hiện ra mình làm hỏng sách nên chẳng dám đi xa, đành ngồi phịch xuống ghế salon, nhìn ông già kia lật lật đến đúng cái trang bị tôi phá hỏng còn nóng hôi hổi, vừa nhìn thấy, không khỏi ừm một tiếng.

Nguy rồi! Tôi nghe vậy thì biết mình đã bị phát hiện, đang chuẩn bị đánh bài chuồn thì chợt thấy ông ta khẽ cười: “Ai lại châm ra thế phong thủy ở trong này vậy, thật thất đức mà.”
 
Quyển 4 - Chương 6: Đáp án đơn giản


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Giọng nói của ông lão này sang sảng, mang ngữ điệu Trường Sa, cộng thêm nội dung câu nói khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Tôi âm thầm đánh giá ông già này, tướng mạo trông rất lạ, tuổi chừng hơn bảy mươi, người hơi gầy, vóc dáng trung bình, giữa chân mày có điểm tối. Lão mặc một chiếc áo bông cũ đã hơi nhàu, mắt kính dày như đít chai, đoán chừng cũng mù dở, cách ăn mặc này không giống những khách hàng khác trong quán. Có điều trong quán trà của chú Hai không hiếm cao nhân nên người bán hàng cũng không thấy lạ, dạo gần đây kiểu người nào mà chẳng gặp.

Tôi im lặng theo dõi hành động của lão, chỉ thấy lão cầm lấy quyển sách kia, chắp tay sau lưng trở về chỗ ngồi. Sống lưng lão thẳng tắp, bước đi nhanh nhẹn, nếu không phải người luyện võ thì trước kia nhất định đã từng đi lính. Chỗ lão ngồi còn có vài người đều đã cao tuổi, họ đang nói chuyện phiếm với nhau, vừa thấy người này trở về đều lộ ra vẻ cung kính, rõ ràng lão ta là người đứng đầu. Tôi lén bưng tách trà đi qua chỗ đám người nọ, ngồi phía sau bọn họ, vểnh tai lên nghe ngóng xem ông già kia nói gì. Ban đầu mấy ông lão bàn luận gì đó về hội cổ phiếu, nghe chẳng có gì hay ho, nửa giờ sau ông già kia nghĩ đến cuốn tạo chí mình đang cầm trên tay mới mở miệng: “Phải rồi rồi, lại đây nào, tôi cho các ông xem một chuyện thú vị”.

Nói rồi lão trải tờ tạp chí ra bàn, giở đến đúng trang tôi đã làm cháy sém. Tôi thấy vậy lập tức hiểu ra người này hẳn phải biết chuyện gì đó, lập tức nín thở nghe ông già kia nói: “Các ông xem tấm bản đồ này có gì đặc biệt? Coi như đố các ông đó.” Mấy ông lão xúm lại xem, nhao nhao mỗi người một ý. Không biết cái bản đồ bị thuốc lá châm mấy lỗ này có nào đặc biệt mà mấy ông già kia được dịp chém gió, thậm chí có người còn nói cái gì mà tạo thế chân vạc nữa. Ông già kia chỉ khẽ lắc đầu, tất cả đều không đúng.

Tôi nghe thế thì ruột gan cũng bắt đầu ngứa ngáy, trong lòng chỉ thầm mong lão nói ra đáp án, chứ tôi cũng đầu hàng luôn rồi. Thấy không ai nói đúng, lão già cười lên ha hả rồi đột nhiên hạ giọng nói ra một câu mà tôi không sao nghe ra được. Mấy ông già kia lập tức trở nên kích động, rồi tranh nhau xem lại tờ tạp chí.

Tôi thoáng cảm thấy buồn bực trong lòng, sao không dưng lão lại dùng phương ngữ cơ chứ, chẳng lẽ tôi không có duyên được biết chuyện này sao? Đám người kia xem xét hồi lâu đều ồ lên một tiếng như chợt hiểu ra điều gì, ruột gan tôi nóng như lửa đốt, chỉ mong bọn họ bàn luận mấy câu để tôi nhìn ra manh mối. Dựa vào khả năng của tôi, chỉ cần biết chút manh mối là có thể hình dung đại khái rồi.

Ai mà ngờ, ngay sau đó cả đám người này đều dùng cái phương ngữ kì quái kia để nói chuyện với nhau. Tôi chăm chú nghe một hồi, chỉ có thể xác định đó không phải là tiếng Hán. Móa nó chứ, mấy lão già kia rốt cuộc là người từ đâu tới?

Tôi nghe một lúc rồi không theo nổi nữa, đầu óc bắt đầu ong ong, tự nhủ các người không muốn nói cho ta nghe chứ gì, mợ nó đã thế ta đích thân đến hỏi các người xem các người làm gì được ta nào. Nghĩ sao làm vậy, tôi đứng lên đi về phía họ, đóng vai một thiếu niên hiếu học, hỏi: “Xin hỏi các vị đây là người phương nào? Sao tôi chưa nghe thấy thứ ngôn ngữ lạ lùng này ở đâu nhỉ?”.

Hành động này ở Hàng Châu là cực kì đường đột, không giống như ở Bắc Kinh, người trong quán trà ít nhiều đều biết nhau. Tôi vừa nói xong, ngay lập tức đã cảm thấy hối hận, thầm nhủ không phải họ sẽ nhìn mình khinh khỉnh đấy chứ.

Không ngờ mấy lão già kia đều ngây người ra một lúc rồi phá lên cười, lão già cầm cuốn tạp chí nói: “Anh bạn trẻ, cậu nghe không hiểu cũng là bình thường, đây là tiếng người Mèo cổ, cả nước chưa tới ngàn người nói được thứ tiếng này.” Tôi ngỡ ngàng hỏi lại: “Các vị đây đều là người Mèo sao? Tôi thấy không giống lắm nha.”

Mấy ông lão lại cười rộ lên, cũng không buồn đáp lời, tôi thấy mấy người này đều ăn nói lưu loát, cũng không phải người vùng này, biết đâu mình có thể hỏi ra điều gì, bèn thuận miệng hỏi luôn: “Xin các vị đừng cười, vừa nãy tôi nghe lão thái gia đây nói cái gì mà bố cục phong thủy, bản đồ kia do tôi làm cháy, chẳng lẽ lại cháy thành hình dạng gì thú vị sao?” Lão già kia nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nói: “Anh bạn trẻ cũng có hứng thú với thuật phong thủy sao? Môn học này chưa chắc cậu đã hiểu nổi đâu.”

“Tôi có thể hiểu mà!” Tôi chỉ hận không thể quỳ xuống liếm chân lão cho lão mau mau khai ra. “Nếu không cũng mong ngài chỉ giáo cho tôi được mở mang tầm mắt!” Lão nhìn sang mấy người khác cười cười rồi đáp: “Thực ra cũng không có gì, cậu xem, cậu châm thủng ba chỗ, vị trí đều rất đặc biệt. Giờ hãy nối liền ba điểm này rồi xoay ngang nó ra rồi nói xem cậu nhìn thấy gì?” Tôi cầm lấy tờ tạp chí, vừa nhìn vào bỗng lạnh cả người, “Đây là!” Tôi há hốc miệng.

Bắt đầu từ lăng mộ trong núi Mông Sơn thời Tây Chu kéo qua địa cung phù đồ trên núi Phật Nằm ở Quảng Tây rồi đến ngôi mộ dưới đáy biển Tây Sa, tức là địa điểm phát hiện ra ba con Xà mi đồng ngư. Nối ba điểm này lại, cùng với đường ven biển Trung Quốc tạo thành một hình dạng vô cùng quen thuộc, nhìn kỹ thì thấy kia rõ ràng là một con rồng ẩn hiện! Tôi hận không thể tự vả mình một cái, thầm nhủ, Ngô Tà mày thật là ngu dốt! Sao không chịu đánh dấu trên bản đồ, chỉ chú tâm đến chuyện mấy di tích kia không cùng niên đại mà không thèm để ý đến mối liên hệ giữa vị trí của chúng chứ.

Ông già kia thấy tôi sửng sốt thì biết tôi đã nhìn ra manh mối, tỏ vẻ tán thưởng: “Là một thế ‘Xuất thủy long’ không được rõ ràng, nói cho dễ nghe là ‘Tiềm long xuất hải’, tuy nhiên thế cục này vẫn còn thiếu cái đầu rồng”. Nói rồi lão cầm điếu thuốc của mình, châm lên tờ tạp chí vào đúng vị trí núi Trường Bạch.

Tờ tạp chí xèo xèo bốc khói, tôi không kịp phản ứng, đờ người ra mất một lúc rồi vội hỏi lão: “Này~ này, sư phụ, thế cục này có ý nghĩa gì?” Ông già cười ha hả, “Cậu xem, cái này gọi là nhìn ngang là đỉnh núi, dựng dọc thành dãy núi’ cậu xem mấy điểm này, hợp với mạch của các dãy núi Trường Bạch, Tần Lĩnh, hệ thống núi Nghi Mông, núi Côn Lôn hướng thẳng xuống đất, được gọi là thiên long áp vĩ (nghìn con rồng chụm đuôi vào nhau). Một số long mạch dưới lòng đất của TQ liên kết với nhau, tất cả đều hợp thành phong thủy. Trên toàn chiều dài long mạch, những nơi linh khí hội tụ nhiều không kể xiết, những điểm cậu châm lên đều là những vị trí mấu chốt, hay còn gọi là bảo nhãn. Bởi lẽ những long mạch này một đầu nằm dưới nước, một đầu lộ ra trên bờ nên mới gọi là “xuất thủy long”.

Tuy nhiên cách xem Đại đầu phong thủy này có thực dụng hay không thì không rõ. Cách dùng phong thủy để nhìn ra long mạch khá là trừu tượng, gọi là Đại đầu long, thời xưa người ta dùng nó để bói toán, suy đoán vận thế thiên hạ, thành Bắc Kinh cũng xác định vị trí dựa vào cách này. Còn cách xem phong thủy để tìm nơi xây lăng mộ cho các hoàng đế thì lại là một mảng quá rộng, tôi cũng chỉ hiểu sơ sơ thôi. Nói đến bậc thầy trong nghề thì phải kể tên Uông Tàng Hải sống vào đầu thời Minh, đại đầu phong thủy chính là sở trường của ông ta”.

Tôi nghe đến đó thì sáng mắt ra, cảm thấy thất khiếu đều đã thông suốt. Tất cả những điều trước đây tôi không nghĩ ra lần lượt tái hiện trong đầu, vì sao chuông lục giác xuất hiện ở động xác trong núi Ngũ Phần Lĩnh bên ngoài Lỗ vương cung lại cũng tìm thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển, vì sao trong ngôi mộ thời Tây Chu lại có chiếc hộp mật mã tinh xảo đến thế, vì sao xá lợi Phật cốt trong Kính Nhi Cung ở Quảng Tây lại biến thành Xà mi đồng ngư, lí do rất đơn giản, bởi vì Uông Tàng Hải đều đã đi qua những nơi này.

Bảo nhãn trong thế ‘Xuất thủy long’ thông thường đều là vị trí tụ tập linh khí của toàn bộ long mạch, thường thì ở những nơi đó đều có xây dựng công trình kiến trúc hoặc lăng mộ. Tuy hiện giờ tôi chưa biết ông ta đặt Xà mi đồng ngư vào những bảo nhãn này nhằm dụng ý gì, nhưng theo lý thuyết phong thủy thông thường thì toàn bộ mạch phong thủy đại long đầu này đều được sắp đặt chỉ vì “đầu rồng” trên núi Trường Bạch. Bố trí tất cả những điều này đều là vì Vân Đỉnh thiên cung, khó trách ông ta say sưa đến thế, dành nhiều tâm huyết đến thế.

Cung điện dưới trùng trùng tuyết phủ kia rốt cuộc là nơi an táng của ai?

Ông già thấy tôi ngơ ngẩn cũng không biết tôi đang nghĩ gì, bèn kêu mấy người khác đứng dậy, nhét tạp chí tới vào trong tay tôi rồi vẫy phục vụ tới tính tiền. Trong lúc xuất thần tôi không kịp phản ứng, đến khi nhớ ra mình phải hỏi cách liên lạc thì lão đã rời khỏi quán trà. Tôi vội vã đuổi theo, vừa hay lại thấy hắn tháo kính xuống. Liếc qua ánh mắt và hình dạng ngũ quan của lão, tim tôi khẽ lạc một nhịp, đứng sững một chỗ.

Một vết thương cực kì đáng sợ bắt nguồn từ khóe mắt của lão, cắt ngang qua mũi rồi kéo dài đến tận khóe mắt bên kia. Sống mũi có một chỗ lõm xuống, tựa như bị vật gì đó bén sắc cắt qua. Tôi nhìn thấy ánh mắt của lão đã sợ đến nỗi quên cả đuổi theo, thành ra để đám người kia lên xe đi mất. Tôi nghĩ lại thấy lão già này từ cách nói chuyện đã không tầm thường, hơn nữa khí huyết tràn đầy, rất có thể lão chính là người lão Hải hôm nay nhắc tới – Trần Bì A Tứ!

Lúc nãy vào bữa cơm mới vừa nhắc tới hắn, vậy mà giờ đã đụng mặt ngay trong quán trà, kể cũng khéo quá đi. Tôi ngẫm nghĩ một lát, lão Hải không dưng lại đường đột tới Hàng Châu kể cho tôi mấy chuyện này, không lẽ lão già này có mối liên hệ ngầm với lão Hải? Bày ra mấy việc này mục đích cuối cùng là muốn dụ tôi vào cuộc? Lão già này xem ra có vẻ xảo trá, phải đề phòng mới được.

Tôi thầm rủa trong lòng, lại không biết trò diễn này sẽ dẫn tới đâu, lòng tràn đầy nghi hoặc. Nhớ lại câu chuyện lão Hải đã kể, không phải lão già này đã mù rồi sao? Làm sao còn nhìn được nữa, lại còn nói chuyện rất có khí thế, nhìn chẳng giống ông lão 90 tuổi chút nào. Có điều nghĩ thông suốt được thế cục Đại đầu tiềm long, trong lòng đã dễ chịu hơn nhiều, cảm giác u ám trước kia cũng bất giác tan biến. Tôi bèn đứng lên tính tiền rồi quay về nhà thoải mái đánh một giấc ngon.

Tỉnh dậy vào giữa trưa ngày hôm sau, tôi vừa nhìn thấy cái thiếp mời đã chửi mẹ kiếp, thế là xong. Tôi gọi điện ngay cho lão Hải, ông ta cũng không nói gì nhiều, chỉ nói con cá kia không có ai mua cả. Trong lòng tôi đắc chí, thầm nghĩ chỉ có kẻ ngốc mới đi mua thứ này. Lại chuyện phiếm thêm vài câu nữa, thấy lão Hải bên kia có vẻ rất bận, xem ra đang mua khá nhiều đồ, tôi cũng không nói dông dài nữa.

Buổi chiều tôi không muốn đến cửa hàng, chỉ muốn ra quán trà đợi người kia. Không ngờ cửa tiệm của chú Ba lại gọi điện tới, nói có người tìm tôi.

Trong lòng tôi thầm nghĩ không phải lão Dương đó chứ, vội tất tả lái xe tới. Vừa vào trong tiệm đã thấy một người ngồi trên ghế sô pha dành cho khách, tôi chợt thấy mắt mình cay cay, nước mắt thiếu điều rơi lã chã, lập tức gọi to: “Phan Tử!”
 
Quyển 4 - Chương 7: Phan Tử


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi với Phan Tử ngồi trong cửa hàng của chú Ba cả một buổi chiều, kể nhau nghe vài điều về tình hình bản thân.

Thì ra từ trước khi tôi đi Hải Nam, Phan Tử đã dần dần khôi phục ý thức, nhưng rồi tôi đi vội quá, chỉ để lại bệnh viện số điện thoại di động nên sau khi tôi rời bến thì đương nhiên không tìm được.

Thể chất Phan Tử rất tốt, hồi phục cực kì nhanh, dù vậy anh vẫn phải nằm trên giường cả tháng, đến khi có thể xuống giường tìm gặp bọn tôi thì chẳng liên hệ nổi với mống nào. Tính ra lúc đó chắc là tôi đang ở Thiểm Tây, còn chú Ba thì khỏi phải nói, cả thế giới đều đang tìm ổng.

Tôi thấy trên tay Phan Tử quấn một dải lụa đen, liền hỏi anh làm sao vậy? Anh nói Đại Khuê cũng từng là anh em, chết đi còn chưa nổi bảy ngày, mang nó dù sao cũng nhẹ lòng đôi chút. Anh nhắc đến chuyện cũ làm tôi nhớ lại khoảng thời gian đi Sơn Đông, trong lòng không khỏi nghẹn ngào, suy cho cùng chuyến đi đó cũng do tôi khơi mào mà ra, nếu lúc đó không nhiều chuyện đưa sách lụa cho chú Ba xem thì tình cảnh mọi người giờ đây đã khác nhiều rồi.

Phan Tử thấy sắc mặt tôi thay đổi cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì, liền vỗ vai tôi nói: “Cậu Ba, chúng ta đã làm cái nghề này thì có một số chuyện muốn tránh cũng không thoát, đâu thể trách ai được.”

Tôi thở dài, thầm nhủ anh nói thì dễ lắm, người hại chết Đại Khuê cũng đâu phải anh.

Xúc động một hồi, tôi lại kể cho Phan Tử nghe mấy chuyện xảy ra gần đây, anh càng nghe càng mặt nhăn mày nhíu, sau khi nghe suy đoán của chúng tôi liền biến sắc, lắc đầu bảo anh và chú Ba đã quen biết bao nhiêu năm, anh dám chắc chú Ba tuyệt đối không phải là loại người này, bảo tôi đừng có nghe người ta nói vớ vẩn.

Phan Tử đi theo chú Ba nhiều năm, cảm tình sâu đậm, có vài điều tất nhiên không thể tin nổi. Tôi bèn lảng sang chuyện khác, hỏi anh có dự tính gì không.

Phan Tử ngẫm nghĩ một hồi, nói mình vốn định quay về Trường Sa tiếp tục kiếm cơm, công việc làm ăn của chú Ba đều ở đó cả, người làm mình đều quen biết hết, trở về không sợ không có chuyện gì làm. Bây giờ nghe tôi nói vậy, anh cảm thấy chuyện này không hề đơn giản, e rằng phải tiếp tục điều tra cho rõ ràng mới có thể yên tâm.

Tôi gật đầu, tuy chuyện này về cơ bản tôi đều đã điều tra qua, nhưng Phan Tử với chú Ba có quan hệ không tầm thường, giữa họ có nhiều chuyện tôi không biết, nếu anh chịu đi điều tra thì không còn gì tốt hơn.

Phan Tử gọi mấy cuộc điện thoại, bên kia cũng bảo anh cứ ngồi chờ tin tức. Tôi nghĩ chắc phải chờ đến dăm bữa nửa tháng, không ngờ chỉ năm phút sau đã có người gọi lại. Phan Tử nghe xong, cau mày nói với tôi: “Cậu Ba, e rằng cậu phải đi với tôi một chuyến.”

Tôi ngẩn người, thầm hỏi thế này là sao, không phải là có chuyện gì xảy ra đấy chứ.

Phan Tử nói tiếp: “Ông Ba tìm một người ở Trường Sa, có để lại lời nhắn cho cậu, nhưng bên đó bảo tôi đưa cậu sang để họ trực tiếp nói chuyện.”

“Chú Ba nhắn lại với tôi?”, tôi gần như bật dậy, bên phía Trường Sa không phải tôi chưa từng liên lạc, nhưng sao đến bây giờ vẫn chưa có ai cho tôi biết chuyện này?

Phan Tử tỏ ra vô cùng nghiêm túc, không nói gì thêm, chỉ bảo tôi: “Bên đó gấp lắm, cậu thấy thế nào, bao giờ mới có thể xuất phát?”

Anh có vẻ rất sốt ruột, tôi mơ hồ cảm thấy sự tình không đơn giản nhưng cũng không ngờ anh lại vội tới mức này. Kết quả là ngay tối hôm đó chúng tôi nhanh chóng lên tàu hỏa sơn xanh (1) đi Trường Sa, không kịp nhắn lại câu nào.

Lên tàu rồi tôi mới hỏi Phan Tử, nếu đã vội sao không đi luôn máy bay mà còn ngồi tàu hỏa, có nực cười không cơ chứ?

Phan Tử có vẻ hoảng hốt, chỉ vỗ vỗ vai tôi nói chút nữa sẽ biết. Tôi thấy trán anh túa mồ hôi thì càng cảm thấy kỳ lạ, thầm hỏi rốt cuộc anh đang căng thẳng vì chuyện gì chứ.

Tàu hỏa xuất phát từ Hàng Châu, đầu tiên dừng lại một ga khác cũng thuộc Hàng Châu. Còn ba giờ nữa là đến ga Kim Hoa, tôi đã bắt đầu mất kiên nhẫn, muốn hỏi cho ra lẽ, nào ngờ đúng lúc ấy tàu hỏa bỗng đột ngột dừng bánh.

Tàu hỏa xanh tạm thời dừng bánh là chuyện rất bình thường, lúc mua vé tôi đã nghĩ khoảng cách xa như vậy, anh không đi máy bay thì chí ít cũng phải là tàu tốc hành, ai đời cứ khăng khăng đi tàu hỏa xanh đến cái ghế ngồi cũng ê mông, nhưng Phan Tử căn bản không quan tâm đến chuyện này. Bây giờ tàu bị dừng, trong lòng tôi có phần hả hê – anh vội chứ gì, giờ tàu tạm dừng, cho anh vội chết luôn!

Không ngờ tàu vừa dừng bánh, Phan Tử liền đập tôi một cái, ý bảo đi theo mình. Tôi đứng lên định hỏi hắn đi đâu, kết quả anh đột nhiên xoay người nhảy ra qua cửa sổ tàu.

Tôi nhìn sang, chết tiệt, anh làm cái trò gì thế? Người trên tàu thấy vậy cũng giật nảy mình, đều đứng lên ngó. Phan Tử ở bên ngoài kêu to: “Cậu Ba còn chần chừ gì nữa, mau xuống đây!”

Tôi nhìn quanh bốn phía, tất cả mọi người đều ngó mình chằm chặp, thầm nhủ kiểu này ngày mai mình lại được lên trang nhất báo thành phố chứ chả chơi, cắn răng một cái rồi cũng xoay người nhảy ra ngoài.

Tàu hỏa khá cao, lúc nhảy xuống tôi bị mất thăng bằng, ngã vào bên vệ đường, Phan Tử bèn đỡ tôi dậy rồi kéo tôi chạy đi.

Một hơi chạy băng qua đồng, leo lên bờ ruộng sau đó lại vòng ra đường lớn, ở đó đã có sẵn một chiếc Pica đứng chờ chúng tôi. Phan Tử kéo tôi vào trong, thế rồi xe lập tức nổ máy.

Tôi mệt đến đứt hơi, đến khi xe chạy ra tỉnh lộ mới bình ổn trở lại, bèn mắng: “Con mẹ nó anh làm gì mà hấp tấp vậy.”

Phan Tử cũng mệt hết hơi, nhìn bộ dạng của tôi, cười nói: “Cậu đừng nóng, đây cũng là lần đầu tiên tôi phải chật vật như vậy mà. Tổ sư, chả biết đã rút dây động rừng khi nào nữa, không biết có cắt đuôi nổi không.”

Nói rồi anh ngó về phía sau, chỉ thấy một vùng tối đen, hình như không có ai đuổi theo.

Tôi nghe không hiểu, xem chừng việc này anh đều đã lên kế hoạch, vội hỏi anh có chuyện gì xảy ra thế. Anh châm một điếu thuốc, dùng tiếng Trường Sa nói: “Trên tàu có chim bồ câu (*), ông Ba đi vắng, Trường Sa rối như canh hẹ, đám người hoạt động ngầm (*) chỉ chờ trời sáng (*) là lộ mặt.”

(Những chỗ (*) đều là tiếng lóng của Trường Sa, mình dịch thoáng, nghĩa cả đoạn thì tác giả đã giải thích bên dưới)

Lời này ý là trên tàu hỏa có cảnh sát, chú Ba tôi không có mặt ở Trường Sa, việc làm ăn bên đó cũng rối tung beng lên, chỉ e có người bên cảnh sát trà trộn vào đám người làm.

Khi nói chuyện, ánh mắt anh không ngừng liếc qua người lái xe. Tôi hiểu ra người này chỉ là quơ tạm trên đường, không nên để lộ nhiều tin tức thành ra cũng không hỏi gì thêm. Trong lòng lại ngổn ngang trăm mối, thầm nhủ bây giờ mình đã thành cái thể loại gì đây, không phải tù trốn trại à.

Ông nội con ơi, năm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy tháng trước tôi còn là một anh tiểu thương, bỗng chốc biến thành trộm mộ đi giao lưu văn hóa với bánh tông cũng không nói làm gì, bây giờ thì thành một tên đào tẩu, cuộc đời thật là kịch tính quá đi mà…

Xe đến một huyện thành nhỏ gần Kim Hoa, chúng tôi xuống xe trả tiền. Phan Tử đưa tôi đi mua mấy bộ đồ nhỏ hơn 1 size có phần lỗi mốt để thay, soi vào gương trông giản dị hơn trước. Sau đó lại chạy đến nhà ga, mua vé chuyến tàu chúng tôi vừa nhảy xuống lúc nãy, tàu bị tạm dừng nên đến bây giờ mới tới ga.

Chúng tôi lại lên tàu, lần này mua vé giường nằm. Phan Tử nhìn toa hành khách, rõ ràng đã nhẹ nhõm hơn, nói: “Lũ cớm vừa rồi hẳn là đã xuống ở ga Kim Hoa, giờ này hai đầu tỉnh lộ cao tốc đều có chốt chặn, bọn họ tuyệt đối sẽ không lường được chúng ta lại lên tàu một lần nữa.”

Lần đầu tiên trong đời tôi trở thành kẻ trốn chạy, tay chân cũng luýnh quýnh không biết phải làm sao, căng thẳng đến phát run. Tôi khẽ hỏi: “Rốt cuộc chuyện này là sao? Tại sao chúng ta đi lại bị cảnh sát theo dõi? Tôi cũng không làm gì… A, không phải, phải nói những chuyện tôi làm đáng lẽ ra người bình thường sẽ không thể phát hiện ra mới đúng chứ?”

“Tôi cũng không rõ”, Phan Tử nói, “Xế chiều tôi gọi điện cho quỹ tín dụng đen của chúng ta bên Trường Sa, kết quả ông chủ bên kia nghe ra giọng tôi bèn nói đúng hai câu. Một là bảo tôi lập tức mang cậu đến Trường Sa, ông Ba có chuyện nhắn lại; hai là Trường Sa xảy ra chuyện, bảo chúng ta cẩn thận với cảnh sát, sau đó dập máy luôn. Ông chủ này là bạn làm ăn ba mươi năm với ông Ba, tuyệt đối có thể tin tưởng. Tôi nghĩ mình không quen ở Hàng Châu, ở lâu tất sinh chuyện, gì thì gì cứ về Trường Sa trước rồi tính sau.”

Anh thấy tôi lo lắng, lại an ủi: “Tôi vừa lên xe đã phát hiện ngay ra mấy người mặc thường phục, liền liên hệ với một người bạn, nhờ hắn gọi một chiếc xe bám sát theo tàu. Vừa nãy tàu tạm dừng, tôi thấy lái xe đánh tín hiệu, biết có cơ hội mới kéo cậu xuống theo. Nhìn tên lái xe kia dọc đường không nói một lời, xem ra cũng là quơ đại trên đường, trước mặt loại người này cậu không thể nói quá nhiều.

Có điều lũ cớm đó không truy bắt chúng ta chứng tỏ chúng ta cũng không liên quan nhiều đến chuyện ở Trường Sa, bên phía Trường Sa hẳn đã có vài tên đầu sỏ bị tóm, còn chúng ta chỉ là hạng tôm tép. Những việc cậu làm không liên quan đến chuyện lần này đâu nên cậu cũng chẳng việc gì phải sợ, cùng lắm mình chỉ dính vào tội tiêu thụ hàng cấm thôi.”

Nghe thế tôi cũng nhẹ nhõm hơn chút ít, vừa định nói cám ơn trời đất, không ngờ anh lại tiếp: “Ở Trường Sa nếu xảy ra chuyện thì lần theo đống dây mơ rễ má, ông Ba nhất định không thoát khỏi liên can. Ông chủ bên kia lại không chịu nói cho rõ ràng, mẹ kiếp cũng không biết rốt cuộc là có chuyện gì nữa? Thật ra mấy năm nay chúng ta đã hạn chế hoạt động lắm rồi, hầu như chưa từng đích thân xuống đất, chuyện trước kia cũng không thể làm lớn tới mức này được, thật sự là không tài nào nghĩ ra.”

“Vậy bây giờ anh tính sao?”, tôi bèn dò hỏi, ai mà muốn bỏ mạng nơi đất khách chứ.

Phan Tử nói: “Chúng ta không thể đi thẳng một mạch đến Trường Sa được, ra khỏi Chiết Giang mình sẽ xuống xe rồi bắt xe buýt đường dài đến ngọn núi gần Trường Sa. Ông Ba có vài địa điểm thu mua đồ cổ ngoài đó, đến nơi sẽ có người đón, chờ một lúc ông chủ quỹ kia sẽ đến.”

Tôi gật đầu, lúc này tàu hỏa lại dừng, bắt đầu đón thêm khách. Gian giường nằm của chúng tôi có thêm một người mới đến, Phan Tử nháy mắt ra hiệu, tôi lập tức nói lảng sang chuyện khác.

Tán dóc một hồi, tôi vô tình đề cập tới chuyện Trần Bì A Tứ. Danh tiếng ông ta vang dội khắp Trường Sa, Phan Tử cũng đã từng nghe, liền nói: “Người này cũng có công việc làm ăn riêng của mình, nghe nói sau khi bị mù lão không tự mình ra tay nữa. Sau cách mạng văn hóa, lão có thu mấy đồ đệ để giúp việc buôn bán đồ cổ với người ngoại quốc. Kẻ này rất nham hiểm, mấy tên đồ đệ đầu tiên theo lão hầu như đã bị xử bắn cả rồi mà lão còn thong dong tại ngoại, tin đồn về lão vô số, tốt nhất cứ nên giữ khoảng cách thì hơn.”

Tôi nhớ đến dáng vẻ của Trần Bì A Tứ, rõ ràng trông không giống người mù, lại càng cảm thấy kỳ quái.

Chúng tôi dựa theo kế hoạch của Phan Tử, chật vật mấy lần cũng đến được vùng núi Phúc Thọ phụ cận Trường Sa, nơi đó quả nhiên tuyệt vời, phong cảnh dọc đường đẹp mê ly, Phan Tử sống ở đây mấy năm, nhìn mãi cũng thành quen. Chúng tôi vào chợ tạp hóa trên trấn, nhìn qua cứ như chỗ hội họp của mấy tay nằm vùng thời xưa, quẹo đông quẹo tây, cuối cùng đến một cửa hàng vừa nhìn là biết chả làm ăn gì được. Bề ngoài là một cửa hàng bán máy tính cũ, đẩy bức tường bên trong ra thì đến một gian nhỏ, vào sâu bên trong bắt đầu rộng rãi sáng sủa hơn, do hai gian mặt tiền của cửa hiệu dựa lưng vào nhau tạo nên một hành lang đủ rộng cho hai người đi song song, bên trên phủ vải che mưa, hai bên tường là hàng loạt giá trưng bày, trên giá đều là minh khí mới ra lò.

Có vài người đang đứng xem hàng, người quản lý nhận ra Phan Tử liền buông đồ trên tay chạy lại túm lấy anh mà hỏi: “Sao bây giờ mới đến? Mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, bao giờ các anh xuất phát?”

“Mọi thứ? Thứ gì cơ?”, Phan Tử ngẩn người, vẻ mặt mù mờ.

Người kia cũng ngây ra: “Anh không biết gì sao?”

Phan Tử quay lại nhìn tôi, tôi trừng mắt nhìn lại, thầm nói ở trên địa bàn của anh mà anh nhìn tôi làm khỉ gì? Anh liền quay lại hỏi: “Chuẩn bị cái gì?”

Người kia trả lời: “Ông Ba bảo thu xếp trang bị cho năm người, có việc phải làm. Anh không biết sao?”
 
Quyển 4 - Chương 8: Đội hình mới


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Phan Tử cau mày nói: “Sao tôi lại không biết gì hết? Ông Ba về rồi à? Ổng dặn lại lúc nào?”

Người nọ nhìn vẻ mặt của hai đứa chúng tôi, còn tưởng Phan Tử đang đùa với mình, nhún vai cười nói: “Bớt giả nai với tôi đi, đồ chuẩn bị cho anh hết mà anh không biết tí gì sao?”

Phan Tử phát cáu chửi một tiếng: “Tôi lừa cậu làm quái gì? Ông Ba nói sao, bảo thế từ lúc nào?”

Người kia ngắm nghía chúng tôi một lượt nữa mới hiểu ra chúng tôi thật sự không biết, cũng cảm thấy kỳ quặc, bèn nói: “Chi tiết chuyện này thế nào tôi không rõ, tôi cũng chỉ nghe ông Sở chủ quỹ tín dụng đen dặn lại thôi. Ông ấy đang ở ngay phía sau, các anh qua đó mà hỏi.”

Phan Tử rầu rĩ rên lên một tiếng, dẫn tôi đi xuyên qua cái ngách nọ. Cuối ngách có cánh cửa sắt không khóa, đẩy cửa ra là thấy ngay một văn phòng bày biện sơ sài. Trong phòng, trên chiếc salon dành cho khách kê ở một bên, tôi thấy một gã trung niên đầu trọc mặt mũi bóng nhẫy đang ngồi hút thuốc. Thấy chúng tôi tiến vào, gã quăng điếu thuốc xuống đất, lấy chân di di rồi đứng lên.

Phan Tử lên tiếng chào hỏi, “Anh Sở”, thái độ thoắt cái đã trở nên cung kính. Tôi lập tức ý thức được rằng đây nhất định là người được chú Ba tôi nhờ chuyển lời nhắn nhủ.

Gã quan sát Phan Tử rồi lại nhìn sang tôi, lên giọng: “Sao bây giờ mới đến, tôi đã chờ các chú hai ngày rồi đấy.”

Phan Tử kể lại một lượt những chuyện trên đường, rồi không đợi gã phản ứng đã vội vàng hỏi luôn: “Anh Sở, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, không lẽ chúng tôi lỡ tay chọc phải đám số má (*) rồi sao?”

(*) Tiếng lóng chỉ cảnh sát.

Gã họ Sở đáp lại không nhanh không chậm: “Tạm thời đừng hoảng, không có chuyện gì đâu. Đây là ý của ông Ba nhà chú, ông ấy bảo anh nhả ra một ít tin tức về hoạt động mua bán từ mấy năm trước, kích động bọn số má một tý, giờ này ở tổ nhà nó (*) đã lập đội điều tra chuyên án rồi. Anh cũng không biết ông ấy có dụng ý gì, nhưng xem ra ông ấy đang bố trí chướng ngại để ngáng chân một bọn người khác.”

(*) Ý chỉ sở cảnh sát.

“Một bọn người khác?”

“Đúng, chỉ vì một chiêu này mà giờ toàn bộ thị trường đồ cổ đều bị liên lụy. Phàm là người có quan hệ làm ăn với ông Ba nhà chú đều bị giám sát hết, vì thế kẻ nào không nhanh tay chuẩn bị từ trước thì bây giờ sẽ hoạt động cực kỳ khó khăn. Ông Ba nhà chú đang giúp các chú tranh thủ thời gian đó.”

Tôi nhìn nhìn Phan Tử, xem ra anh cũng không hiểu lắm những lời gã đầu trọc này nói: “Thời gian gì cơ?”

Đầu trọc nhún vai, ý muốn nói chính gã cũng chẳng biết. “Chú Ba cậu lão luyện giang hồ rồi, chiêu thức của ông ấy tôi làm sao đoán nổi.”

Phan Tử hỏi tiếp: “Vừa rồi tôi có nghe Cửu Tứ ở bên ngoài bảo cái gì mà trang bị đã sẵn sàng rồi, nói là do ngài bố trí, chuyện này là sao vậy?”

Gã họ Sở đáp: “Nãy anh nói rồi đấy, chỉ cần anh nhả tin tức ra một cái thì người làm nghề này muốn triển khai bất cứ hoạt động nào cũng cực kì khó khăn. Cho nên ông Ba nhà chú mới dặn anh trước khi tiết lộ thông tin phải làm xong xuôi mọi việc đã. Vì vậy anh phải mua sắm trang bị cho sớm, nếu giờ này mới đi thì dân chợ đen chẳng ai dám ra tay, đến một cái đầu xẻng cũng đừng hòng mua được.”

Tôi hỏi: “Nhưng mấy thứ trang bị đó mua để làm gì? Chúng em có định đánh quả gì đâu?”

Gã họ Sở đáp: “Đây chính là nguyên nhân ông Ba nhờ tôi nhắn lại với cậu,” ông ta bảo chúng tôi ngồi xuống, “Thật ra những trang bị này ban đầu không tính phần cậu đâu. Nói cách khác là ông ấy chuẩn bị năm phần trang bị, trong đó có một suất cho bản thân mình.”

Gã ngắt quãng một chút rồi tiếp: “Có điều lúc ông ấy gọi điện thoại cho tôi cũng từng bảo, chuyện ông ấy làm không phải chỉ có mình ông ấy nhắm đến mà còn có kẻ khác tranh giành. Đối phương cũng không phải loại hết xí quách, cho nên nếu ông ấy không về được thì phần trang bị này cứ để cậu dùng. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc của ông ấy cậu cũng phải tiếp tục làm, không thể để cho bọn người kia qua mặt được.”

Một nhóm người khác ư? Tôi đột nhiên nghĩ tới công ty của A Ninh. Lẽ nào những gì chú Ba sắp đặt cho bọn họ trong cái đấu dưới đáy biển đều vì nguyên nhân này?

Phan Tử cũng hỏi: “Ông Ba có nói bọn người khác kia là ai không?”

Đầu trọc lắc đầu, trả lời: “Không nói, nhưng anh nghĩ giờ này ông Ba dễ chừng đã lọt vào tay bọn chúng lắm, bằng không ông ấy đã sớm xuất hiện rồi. Chỉ tiếc hiện giờ chúng ta mù mờ không rõ chuyện gì cả, bằng không anh nghĩ dù đối phương có lai lịch hoành tráng hơn thì chúng ta cũng chưa đến nỗi rơi vào thế bí.”

Tôi thầm than một tiếng ‘ôi chao’, tay đầu trọc lại tiếp: “Nơi các chú phải đến là rặng Hoành Sơn thuộc dãy Trường Bạch ở Cát Lâm. Địa điểm cụ thể chỉ đánh dấu bằng tọa độ, nhưng anh đã chuẩn bị người dẫn đường bản xứ để đưa các chú đi rồi.”

Nói đến núi Trường Bạch, giai đoạn này toàn bộ ký ức liên quan đến núi Trường Bạch đối với chúng tôi chỉ có Vân Đỉnh Thiên Cung của Uông Tàng Hải. Không còn nghi ngờ gì nữa, đâu đó trong rặng núi Hoành Sơn hẳn phải là nơi đặt Vân Đỉnh Thiên Cung.

Nhưng tại sao tôi lại phải đến đó chứ? Vô duyên vô cớ mà tôi lại phải đến một nơi tôi không hề hiểu rõ, lại còn vào giữa mùa đông ư?

Gã đầu trọc thấy mặt mày tôi đã sắp xanh lét như tàu lá chuối thì đột nhiên thở dài: “Nói thật chính tôi cũng hoang mang lắm, nhưng tôi đã cân nhắc cẩn thận rồi. Con đường duy nhất các cậu có thể đi hiện giờ là bám theo kế hoạch ông Ba đã chuẩn bị sẵn, như thế mới có thể tìm được manh mối. Bằng không tôi e là chú Ba cậu không qua nổi ải này mất.”

Phan Tử vỗ vỗ tôi, ngoảnh lại hỏi tiếp: “Vậy theo kế hoạch của ông Ba, bước tiếp theo chúng tôi phải làm sao đây?”

Gã đầu trọc đáp: “Các chú có tổng cộng năm người, đầu tiên hãy lên tàu hỏa đi Cát Lâm, hành lý chúng tôi sẽ có cách gửi qua bên kia, cơ bản là đã đến nơi hết rồi đó.”

Tôi và Phan Tử đưa mắt nhìn nhau một cái. Cát Lâm, vậy xem ra không bò lên núi tuyết là không được rồi.

Gã đầu trọc nói mình sẽ phụ trách hết những vấn đề lặt vặt cho hành trình của chúng tôi, nên chúng tôi khỏi phải lo gì cả, chỉ cần vác xác đi thôi, trên đường nhớ chú ý đừng để bị cánh sát bám đuôi là được. Thời gian chuẩn bị sẽ rất gấp gáp, sau một đêm nghỉ lại ở Trường Sa, ngày mai sẽ đưa thẳng chúng tôi lên xe lửa, từ vé xe cho đến đồ dùng vệ sinh cá nhân đều được gói ghém chuẩn bị xong xuôi cả rồi. Kế hoạch chi tiết thế nào ba người kia đều biết rõ, có thắc mắc gì ngày mai cứ việc hỏi họ là được.

Năng lực tổ chức của gã đầu trọc này mạnh đến không ngờ. Chú Ba nhờ gã đến chuyển lời, kế hoạch đề ra lúc này e rằng đã được chuẩn bị trước một thời gian khá lâu rồi. Không biết rốt cuộc mục đích của gã là gì đây?

Chúng tôi lại hỏi thêm vài vấn đề, gã đầu trọc cũng chỉ biết một chứ chẳng biết hai. Có điều theo giọng điệu của gã có thể thấy sự sắp xếp của chú Ba thật sự là hoàn hảo không một kẽ hở, đây mới là lúc để người lão luyện thể hiện khả năng.

Theo đường cũ trở ra, tôi thấy cửa hàng bên ngoài có rất nhiều màn hình máy tính cũ được vận chuyển đến. Phan Tử nói cho tôi biết minh khí được giấu ở bên trong để vận chuyển đấy, đi qua các cửa khẩu cứ đóng vào như vậy là không tra ra nổi đâu. Chuyện vận chuyển trang bị của chúng tôi đến Cát Lâm mà tay đầu trọc kia nói, có lẽ cũng thông qua cách thức này.

Ở đây Phan Tử là dân anh chị địa phương, chập tối tôi cùng anh đi ăn món sủi cảo Trường Sa. Tôi đến Trường Sa không phải mới một hai lần, cũng không còn thấy lạ miệng ngon lành nữa. Chúng tôi vừa ăn vừa thảo luận tin tức hôm nay tay đầu trọc tuồn cho, Phan Tử ngẫm nghĩ nửa ngày rồi nói với tôi: “Cậu Ba, về chuyện cậu kể với tôi ấy, tôi đã nghĩ kĩ rồi. Cái công ty tài nguyên gì gì đó chuẩn bị cho các cậu đi Tây Sa kia có vẻ khả nghi lắm, mẹ kiếp cậu bảo cái bọn người khác mà ông Ba nói có khi nào chính là bọn họ không?”

Tôi đáp: “Tôi đã nghĩ thế từ đầu rồi, có điều tôi cảm thấy vấn đề không phải ở công ty đó, mà ở kẻ đứng sau lưng nó cơ. Chúng ta cũng đừng nghĩ nữa, dù sao đến bên kia rồi chúng ta không đi tìm bọn chúng, bọn chúng cũng sẽ tìm đến tận cửa. Mà cái gã họ Sở kia có thể tin được không đấy?”

Phan Tử bèn bảo: “Cậu Ba, cậu đừng xem Phan Tử tôi như thằng lính quèn, tôi nhìn người chuẩn lắm đấy, người này cậu cứ yên tâm tuyệt đối đi. Chẳng qua tôi vẫn còn lo, ông ta nói có năm người cùng đi, không biết ba người kia là hạng người gì.”

Tôi an ủi: “Chú Ba sắp xếp thì sẽ không sao đâu.”

Phan Tử lắc đầu: “Khó nói lắm, ông Ba thường nói nhìn người phải nhìn đủ 365 ngày, thiếu một ngày cũng không được. (Hả? Chú giống anh Điệp Y dữ vậy chú Ba :v :v :v ) Đã là người thì sẽ thay đổi, chỉ cần một tuần cậu không nhìn đến người ta, chưa biết chừng người ta đã tính kế hại cậu rồi đấy. Đặc biệt là mấy kẻ vô văn hóa trong đám đồng đạo của chúng ta, nói khó nghe một chút thì, mẹ kiếp mỗi tay lại chẳng nợ những mấy mạng người, tâm địa thì hung ác, đến mẹ ruột còn có thể đem chôn xuống đất. Ông Ba mất tích đã lâu, đám người làm ở đây đảm bảo đã thay lòng đổi dạ rồi.”

Tôi bèn bảo anh yêu cầu cao quá cũng không đáp ứng nổi, chúng ta cứ được đến đâu hay đến đó thôi.

Buổi tối ngoài đường trời trở lạnh, ăn xong chúng tôi nhất trí về ngủ trong căn phòng Phan Tử ở lúc trước. Sáng sớm thức dậy ăn điểm tâm xong thì xe của gã đầu trọc cũng tới đón chúng tôi. Tôi đứng xa xa xốc hành lý cá nhân lên lưng, nhìn vào trong xe, phát hiện ra trên ghế đã có người ngồi.

Nhìn kĩ hơn thì thấy đó là một ông già, người này mặt mũi trông rất quen, hình như tôi đã gặp ở đâu đó rồi, hơn nữa còn mới gặp gần đây thôi.

Tôi cũng không hề để ý, vừa cười cười nói nói với Phan Tử vừa bước lại gần, tới nơi mới nhìn một cái đã muốn lịm cả người đi.

Ông già kia, cứ xem hình thể và bộ trang phục quái gở thì chẳng phải ai khác, mà chính là người tôi đã gặp tại quán trà của chú Hai ở Hàng Châu – Trần Bì A Tứ!

Tôi há hốc miệng, cổ gần như cứng ngắc, thầm hỏi ông ta ngồi trong xe làm gì? Không lẽ lão già này cũng là một trong năm người? Sao có thể vô lý đùng đùng vậy chứ?

Phan Tử lúc này cũng đã nhìn thấy, lúng búng một tiếng, mặt cũng không giấu được vẻ kinh ngạc.

Gã đầu trọc gọi chúng tôi, bảo đi nhanh lên, chúng tôi ù ù cạc cạc bước lên xe. Phan Tử có quen Trần Bì A Tứ, đánh tiếng bắt chuyện với lão. Lão già kia đang nhắm mắt nghỉ ngơi, chỉ khẽ gật đầu. Phan Tử lập tức chuyển hướng sang tay đầu trọc đang lái xe, nhe răng dùng khẩu hình hỏi gã sao lại thành thế này?

Gã đầu trọc cười cười ra vẻ bất đắc dĩ, dùng khẩu hình trả lời mình cũng không biết, chính ông Ba đã sắp xếp như vậy đấy.

Không thể nào, tôi thầm nhủ. Lão già chết bầm này chẳng phải là một lão mù sao, hơn nữa số tuổi còn lớn hơn cả tôi lẫn Phan Tử cộng lại. Chú Ba đang chơi cái trò mèo gì đây?

Chúng tôi tiến vào nhà ga với tâm trạng thấp thỏm không yên. Trong lòng tôi âm thầm suy tính, người đầu tiên chú Ba an bài cho chúng tôi lại là một lão già đã ngót trăm tuổi, vậy người thứ hai là hạng người gì thật khó đoán quá, chẳng có gì chắc chắn đó không phải một phụ nữ bụng chửa vượt mặt, hoặc là một kẻ tàn phế ngồi xe lăn. (trí tưởng tượng phong phú quá =)))

Không lẽ chú Ba lại muốn thử thách tấm lòng thơm thảo của chúng tôi sao?

May thay Trần Bì A Tứ thân thể vẫn còn rất cường tráng, chắp tay sau lưng bước xuống xe. Gã đầu trọc cư xử cực kỳ cung kính với ông ta, giúp ông ta mang hành lý. Để dễ bề ứng biến, chúng tôi vẫn chọn loại giường nằm hạng bét, một phòng ngủ được tới sáu người, vừa vặn còn một giường để đặt hành lý.

Tới phòng mình, tôi thò đầu vào trong ngó nghiêng, chưa chi đã trông thấy một gã béo đang gặm mỳ tôm. Nhìn thấy tôi, hắn nhướng mày kinh ngạc hỏi: “Má nó chứ, lại là cậu à?”

Tôi lập tức thấy đầu phát nhức lên… ruột gan cũng muốn rụng ra, trong lòng tự hỏi không biết chú Ba làm thế nào mà tìm được hắn, chẳng lẽ ổng vẫn giữ nguyên đội hình trước kia sao? Tôi lập tức chuyển hướng đến cái giường phía trên Bàn Tử, quả nhiên bắt gặp một đôi mắt hững hờ không có lấy nửa điểm xao động cũng đang nhìn lại tôi.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Hũ Nút (*) nheo mắt ngó tôi một cái rồi lại quay đầu ngủ tiếp
 
Quyển 4 - Chương 9: Cửu Long Đài Thi


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

*Lời beta* ban đầu ham hố thuần Việt, Ctrl + R cả chương từ Muộn Du Bình thành Hũ Nút xong mới bắt đầu beta, nhưng chính mình đọc cũng thấy thốn thốn, đến chữ Hũ Nút thứ 4, 5 gì đấy thì hết chịu nổi. Không muốn tẩu hỏa nhập ma thêm nữa nên mình sẽ trả lại tên cho anh ~~~ Thật sự rất khâm phục định lực cao siêu của BTV BV khi đọc cả quyển truyện dài 700 trang với “Bình Kín Miệng” đập vào mắt liên tục “thắp nhang, vái*

Ê-đuyếch-tờ: Cô dở òm, đang vui mà cắt cái xoẹt, sao không để thêm mấy bữa nữa cho náo nhiệt =”)))))) Tui thấy cái tên Hũ Nút còn hot hơn cả H văn, bữa giờ câu được cả đống comm kìa =”)))))))

~0O0~

Tay đầu trọc bố trí cho chúng tôi đi theo tuyến đường du lịch, trước hết xuất phát từ Trường Sa đến Sơn Hải Quan, sau đó đổi tàu đi Đôn Hóa, cả hành trình đều ngồi tàu hỏa, tổng cộng mất khoảng hai ngày đường, vượt qua gần ba ngàn cây số. Trong khoảng thời gian này chúng tôi chẳng có việc gì để làm, chỉ biết giết thì giờ bằng một cái điện thoại di động và vài tờ tạp chí.

Tôi đưa chi phiếu bán viên Ngư nhãn thạch kia cho Bàn Tử, hắn liền nhìn tôi bằng con mắt hồ hởi. Thấy tâm trạng hắn khá tốt, tôi bèn vụng trộm hỏi xem vì sao hắn lại tới nơi này.

Bàn Tử bèn đáp, dấn thân vào cái nghiệp này rồi, có một số vụ không tụ tập nhau lại thì không thể làm được. Tỷ như có những đấu lớn nằm tít trong rừng xanh núi đỏ, một mình anh tuyệt đối xử lý không xong. Thứ nhất phải mang quá nhiều trang bị cần thiết, mỗi người có mỗi một cái lưng, cõng làm sao cho xuể. Thứ hai, hàng tốt nếu quá nhiều, anh một thân một mình cũng chẳng khuân hết được ra. Mà kết cấu trong những cổ mộ kiểu này thường cực kỳ hiểm ác, đổ một lần may mắn còn mạng trở ra là đã tốt lắm rồi, còn muốn mạo hiểm chui vào thêm hai ba lần nữa ư, chỉ e là không ai muốn. Cho nên nếu gặp những cái đấu như thế thì sẽ có một người đứng lên cầm đầu, thời xưa gọi là “Tróc đấu”, còn thời Dân Quốc tiếng lóng trong nghề gọi là “gắp Lạt Ma”.

Cái trò này giống với nghề làm thầu khoán bây giờ, nhận việc vào tay rồi tự mình tìm công nhân điện nước để làm. Hồi mới giải phóng các đội khảo cổ cũng dùng cách tương tự để chiêu mộ kỳ nhân dị sĩ.

Lần này người “gắp Lạt Ma” chính là đầu trọc. Gã đầu trọc kia quan hệ rất rộng, quen một người bạn của Bàn Tử làm cò đất(*) ở Bắc Kinh. Rất nhiều mối của Bàn Tử đều do người bạn làm cò đất này chắp nối cho, thế là dây mơ rễ má một hồi, Bàn Tử dính vào vụ này. Về phần tình hình cụ thể, theo như thông lệ, chưa đến nơi hành sự, người “gắp Lạt Ma” chưa cần phải lộ diện, bằng không lỡ để cho người ta biết sớm thì dễ dẫn tới đấu đá nội bộ. Vì thế nên khi tôi hỏi về tình hình của chú Ba, Bàn Tử lắc đầu quầy quậy, nói: “Con bà nó chứ, cậu còn hỏi tôi à? Bàn gia đây nếu biết vụ này có liên quan đến lão chú Ba chó má nhà cậu thì có chi đậm hơn nữa ông cũng éo làm đâu.”

(Gắp Lạt Ma cầm đầu một vụ đổ đấu lớn, nhưng ko quen biết rộng trong giới trộm mộ, hoặc quen biết rộng, nhưng vẫn cần chiêu mộ nhiều kỳ nhân dị sĩ hơn, thì tìm qua trung gian là thổ biều tử (aka cò đất). Cò đất lăn lộn lâu trong giới, quen biết rộng, một thằng cò quen được dăm chục thằng cò khác, thằng cò khác lại quen đến dăm chục thằng khác nữa, cứ thế, tạo thành mạng lưới rộng, có thể dễ dàng với được đến những kỳ nhân dị sĩ ở những hang cũng ngõ hẻm hơn, chiêu mộ về cho cuộc đổ đấu lớn đầy nguy hiểm : D Nói chung, muốn đi đổ đấu lớn mà ko biết chiêu mộ ai sành đổ đấu, hãy tìm đến cò đất =))~)

Tôi thầm thở dài, tự nhủ tên Muộn Du Bình kia dĩ nhiên cũng là do gã đầu trọc liên hệ, xem ra sẽ chẳng hỏi han được gì nốt. Ở đây người hiểu rõ tình hình nhất, ngoại trừ tôi và Phan Tử, chắc cũng chỉ còn Trần Bì A Tứ mà thôi.

Muộn Du Bình trước sau như một vẫn lầm lầm lì lì, chẳng thèm chào hỏi tôi lấy một tiếng, cứ ở nguyên một chỗ mà ngủ gà ngủ gật. Tôi muốn ra vẻ ân cần mà tâm sự hàn huyên với hắn, nói được vài câu lại phát hiện hắn căn bản chẳng để vào tai. Bàn Tử bảo tôi đừng phí hơi nữa, từ lúc lên tàu hắn vẫn ngủ suốt như thế đấy.

Sau khi tàu chuyển bánh, tôi cùng với Bàn Tử và Phan Tử tụ lại một chỗ chơi spades (*), đánh bài giết thời gian. Tôi vừa chơi vừa suy xét về Trần Bì A Tứ. Lão già này sau khi lên xe vẫn chưa hé răng câu nào, Phan Tử sáp tới làm thân lão cũng chỉ “ừ” một tiếng, tàu vừa chạy là cứ thế chuồn ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở lại. Bàn Tử còn hỏi nhỏ tôi: “Lão già này là ai đấy, làm gì cứ như đang úp bài chờ ù thế?”

(Là trò này nè: http://www.games.com/game/masque-publishing/spades, cơ mà ngộ không biết đánh á~ 囧)

Phan Tử hạ giọng kể cho Bàn Tử ít chuyện về Trần Bì A Tứ. Bàn Tử nghe nói lão đã hơn chín chục cái xuân xanh thì mặt mũi xám ngoét: “Anh đừng bảo tôi là lão già ôn dịch này cũng đòi theo chúng ta lên núi đấy nhé. Nếu đúng là như thế thì đợi đến chỗ vắng vẻ tôi đưa lão đi tiêu hủy trước cho nhân đạo, đừng hòng đứa nào cản nổi. Dù sao để lão đi vào thì cũng chỉ có đường chết thôi.”

Phan Tử vội vàng bịt miệng hắn lại, nói nhỏ: “Mẹ kiếp anh bơn bớt lời đi. Lão khọm kia tinh lắm đấy, để lão nghe thấy thì còn chưa đến nơi lão đã cho anh tiêu đời rồi.”

Tôi nhớ lại chút ít về Trần Bì A Tứ. Lúc trong quán trà lão tạo cho tôi cảm giác như một bậc thầy cao thâm khó lường về văn hóa quốc gia, có một đám người phải trái vây quanh. Với thế lực và tài nghệ của hạng người này, hơn nữa tuổi đã kề miệng hố, sao lại một thân một mình đi “gắp Lạt Ma”? Không sợ bị chúng tôi hại sao?

Tôi nhắc chuyện này với Phan Tử thì hắn cười nói: “Cậu lại không hiểu rồi. Chúng ta hiện tại đều là Lạt Ma do ông Ba gắp tới, cho dù là chú tiểu hay sư trụ trì thì cũng phải để ông Ba gắp hết, đây là luật giang hồ. Lão muốn húp chung chén canh này thì phải làm theo luật, với địa vị của lão đại để là không còn cách nào khác.” Anh ngẫm nghĩ rồi lại nói tiếp: “Có điều chúng ta vẫn phải cẩn thận với lão già này. Ngoài mặt thì lão chỉ có một mình, kỳ thật hạng người như lão đảm bảo là đã cài cắm bè đảng tứ phía rồi.”

Bàn Tử nghe xong liền chửi: “Bố đếch hiểu nổi nữa, ông Ba nhà các anh gọi loại người như thế ra làm cái gì? Chẳng phải không dưng rước lo vào người sao? Nếu kẻ này đã tai quái như vậy, tôi thấy chúng ta nên tiên hạ thủ vi cường, hoặc trói lại hoặc là xử phắt luôn.”

Phan Tử mắt nhìn cánh cửa, miệng nói: “Tôi cảnh cáo anh không được làm bậy đâu đấy. Ông Ba kéo người này đến nhất định là có dụng ý, chúng ta cũng phải nể mặt lão. Dù sao lão cũng kề miệng hố rồi, hồi trẻ có lợi hại mấy cũng chẳng ăn thua, đến lúc đó nếu thật sự muốn —- ui da!”

Anh còn chưa dứt lời, cánh tay của Muộn Du Bình đã bất thình lình thò xuống từ giường trên, tóm lấy bả vai Phan Tử. Hắn dùng sức rõ mạnh, bóp chặt đến nỗi anh ta suýt nữa đã kêu lên.

Phan Tử đau đến nghiến răng, nửa câu sau cùng chưa kịp nói ra. Chúng tôi đều sững lại một giây, Phan Tử vốn chẳng có cái thiện cảm chết tiệt gì với Muộn Du Bình, vừa định cự nự thì cửa đã kêu đánh kẹt một tiếng, Trần Bì A Tứ lừng lững bước vào.

Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau, vội cúi đầu tiếp tục chơi bài, cứ như hồi đi học bị bắt quả tang quay cóp trong phòng thi.

Lão già ngó qua chúng tôi, cũng chẳng buồn mở miệng, lẳng lặng leo lên giường mình, không biết có ngủ hay không.

Có lão ở đây, chúng tôi cũng không dám bàn bạc chuyện gì nữa, đành phải tập trung đánh bài. Thời gian cứ chầm chậm trôi, gần nửa đêm hôm sau tàu của chúng tôi cập ga Sơn Hải Quan.

Sơn Hải Quan là thiên hạ đệ nhất quan (*), có điều cũng chỉ là cảnh quan nhân tạo, phần lớn được trùng tu vào năm 1986. Chuyến tàu chúng tôi phải chuyển sang còn hai giờ nữa mới vào ga, Bàn Tử hỏi có muốn đi thăm quan không, tôi bèn bảo đã nửa đêm về sáng rồi, trời lại chẳng có trăng, xem cái con khỉ biển ấy. Vì vậy mấy người chúng tôi hòa vào đám đông người tứ xứ cũng đổi tàu như mình, đi về phía phòng chờ của nhà ga.

(Sơn Hải Quan ở đây là một cửa ải chính của Vạn Lý Trường Thành, đã được xếp hạng di tích lịch sử bậc nhất. Cửa ải này trước đây trấn giữa Trung Nguyên và vùng đất của các dân tộc du mục như Khiết Đan, Nữ Chân, Mãn Châu. Hiện nay nó là một thắng cảnh thuộc quận Sơn Hải Quan, tỉnh Hà Bắc – theo wikipedia )

Bữa nay lại đúng vào đêm trước ngày dân tình lũ lượt kéo về quê ăn Tết, người đã đông lắm rồi, bên trong nhà ga bốc mùi khó ngửi, đủ mọi loại người ở lại qua đêm, có kẻ còn cuốn chăn ngủ trên mặt đất. Chúng tôi nhón chân theo dòng người tiến vào, chỉ sợ dẫm phải người ta.

Người quá đông, đi lại lộn xộn, chẳng mấy chốc mấy người chúng tôi đã rã đám. Muộn Du Bình và Trần Bì A Tứ đứng cách chúng tôi khá xa, Bàn Tử bị mấy người dẫm chân, đứng tại chỗ chửi bới. Tôi đang định bảo bọn họ chớ để bị phân tán, giơ tay lên cho họ nhìn thấy vị trí của tôi thì đã bị Phan Tử níu lại, kéo tôi ngồi thụp xuống.

Tôi còn lơ ngơ chưa hiểu, chợt nghe anh nói: “Có cớm đấy, chú ý một chút.”

Nghe vậy tôi vội vàng ngồi bừa xuống đất, trái phải cơ man là người. Tôi liếc qua khóe mắt xem thử thì thấy ngoài cửa lớn có mấy tay cảnh sát mặc đồng phục đang tra xét giấy tờ cùng vài gã dân phòng.

Tôi cúi đầu nói nhỏ bằng tiếng Hàng Châu với Phan Tử: “Có sao đâu, ở Hàng Châu cũng thường xuyên như thế, kiểm tra giấy tờ thôi mà. Chúng ta chẳng mang vũ khí trên người, cũng không bị truy nã, có gì phải sợ?”

Phan Tử hất hàm về phía mấy gã đàn ông mặt mũi bình thường trong đám người, nói: “Đó mới chỉ là bọn gác cửa thôi, lũ mặc thường phục núp trong đám đông mới đang tìm người. Cúi đầu xuống, đừng để chúng nó nhận ra.”

Tôi lập tức ngẩng đầu lên nhanh như chớp, liếc qua một cái. Giữa mấy tên kia hình như còn kẹp một kẻ trông khá quen mặt. Kẻ đó nhìn quanh quất về phía chúng tôi. Tôi còn định quan sát cẩn thận hơn thì hắn đã giãy nảy lên, chỉ thẳng vào tôi hét lớn: “Kia kìa!”

Thấy trên tay người kia còn mang còng, ruột gan tôi bỗng rớt bộp xuống. Nhìn kỹ lại người nọ, cái đệt, chẳng phải là Sở đầu trọc sao? Mới có hai ngày không gặp, sao đã thành chỉ điểm cho cớm rồi?!

“Mẹ, dẫn dẫn cái kít!” Phan Tử chửi toáng lên, kéo tôi bật dậy bỏ chạy, một đám cớm chìm đằng sau dồn sức đuổi theo hô lớn: “Đứng lại!”

Chúng tôi bổ nháo bổ nhào trèo qua mấy hàng ghế, cố sức rẽ đám người mà chạy. Phan Tử xô đẩy tiến thẳng một đường, người ta đều nhốn nháo dạt sang hai bên, nhưng đến phiên tôi thì nhoáng cái đã bị những người đó bao vây lại. Tôi âm thầm gào thét trong lòng, cái khỉ biển gì thế này, bộ trông tôi dễ bắt nạt đến thế sao? (ớ hớ hớ hớ lại còn phải hỏi cơ đấy –3–)

Ngó thấy phía trước mình đã bị vây kín, đám cớm đằng sau cũng sắp đuổi tới nơi, bất thình lình tôi nghe đánh ‘rốp’ một cái, bóng đèn neon trên trần sảnh đợi đột nhiên vỡ vụn, mọi người hốt hoảng nhảy dựng lên, ngay sau đó lại ‘rốp’ một tiếng vỡ thêm chiếc nữa. Tôi thừa cơ khom lưng luồn qua giữa hai người, luồn tới lách lui trong đám đông, tính đường chen ra cửa lớn.

Bất thình lình, tôi bị một người giữ lại kéo sang bên, nhìn kĩ thì hóa ra là Phan Tử. Anh hất đầu một cái, ý bảo chúng tôi hãy chuồn ra phía đường ray.

Đèn neon trên đầu rốp rốp rốp liên tục vỡ nát, phòng chờ càng lúc càng tối, vụn thủy tinh rơi thẳng xuống đầu. Trong chốc lát tiếng người ồn ào, tiếng trẻ con gào khóc, tiếng kêu la sợ hãi xoắn vào nhau thành một mớ hỗn loạn. Rất nhiều người chen chúc ra cửa, chúng tôi cũng theo dòng người luồn ra.

Từ xa tôi đã trông thấy Bàn Tử vẫy tay ra hiệu với chúng tôi. Tôi lại gần hắn, vừa định hỏi Muộn Du Bình đâu rồi thì tên kia đã thình lình xuất hiện như oan hồn. Bàn Tử hỏi Phan Tử: “Cái đũa gắp Lạt Ma nhà anh bị cớm bẻ gẫy rồi, giờ phải tính sao?”

Phan Tử chửi một tiếng: “Đồ chó đẻ đốn mạt, chưa gì đã bán đứng chúng ta, người thời nay mẹ kiếp đúng là đéo tin được đứa nào, có dịp tôi phải đập chết gã mới được!”

Bàn Tử hỏi tiếp: “Giờ hăng máu cũng có ích gì? Anh nói xem, giờ ta tính sao đây?”

Phan Tử gãi đầu, anh cũng chẳng biết giờ phải làm sao mới ổn, lại nhìn về phía tôi. Tôi vừa định mở miệng oán thán thì Muộn Du Bình đã vỗ vai chúng tôi một cái rồi lên tiếng: “Đi theo lão già đó.”

Chúng tôi nhìn theo ánh mắt hắn, thấy Trần Bì A Tứ đang đứng cách đó không xa nhìn chúng tôi, bên cạnh lão còn có mấy gã trung niên chẳng biết chui từ đâu ra.

Muộn Du Bình lập tức tiến về phía lão. Bấy giờ chúng tôi cũng chẳng còn cách nào mà bàn bạc nữa, đành phải bấm bụng qua đó cùng hắn. Trần Bì A Tứ thấy chúng tôi đi tới, bèn ra dấu cho mấy người bên cạnh. Những người kia thoắt cái lại tản ra, trà trộn trong đám đông, bản thân lão cũng quay đầu lẩn vào giữa đoàn người.

Chúng tôi nhờ đám đông che chắn, rốt cuộc cũng trốn khỏi ga Sơn Hải Quan, mò mẫm đến được một xó trong công viên. Chúng tôi dừng lại, đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt ai nấy đều bất ổn. Trận này thật đúng là xuất quân bất lợi, cứ ngỡ dựa theo kế hoạch của tay đầu trọc là cả đám có thể đến đích mà khỏi phải động não. Chẳng ngờ còn chưa đến hai ngày, gã đầu trọc thế mà đã bị bắt, đã thế còn đích thân dẫn đường cho cớm đến tóm cả bọn. Tình nghĩa thì như thế, còn đi lại suốt ba mươi năm trời, xem ra con mắt nhìn người của chú Ba cũng chẳng có gì hơn người ta.

Chúng tôi ngồi xổm trong bụi cỏ nghỉ ngơi một lát. Trần Bì A Tứ nhìn chúng tôi chòng chọc, đột ngột cất lên một tiếng cười lạnh, nói bằng cái cổ họng khản đặc: “Dựa vào mấy đứa chúng bay mà muốn đi đào Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ ấy hả? Ngô Tam Tỉnh già quá hóa lú rồi sao?”
 
Quyển 4 - Chương 10: Thôn Doanh Sơn


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trong lòng chúng tôi vốn đã khó chịu, tự dưng bị mắng một câu như vậy lại càng thêm bực bội. Bàn Tử ‘Hừ!’ một tiếng, chửi ầm lên: “Lão già, ông nói thế là sai rồi, chuyện này liên quan quái gì đến chúng tôi, rõ ràng là mắt nhìn người của cái ông Ba gì gì kia có vấn đề, mẹ kiếp việc này sao có thể trách chúng tôi? Ông đây lăn lộn giang hồ bao lâu, đây là lần đầu tiên bị cớm đuổi cho cong mông lên chạy thế này, thật là tức chết đi được.”

Tôi thấy hắn nói có phần quá đáng bèn chạy tới can, nháy mắt ra hiệu. Phan Tử không thích người khác nói xấu chú Ba, một hai câu còn có thể nhẫn nhịn bỏ qua, tốt nhất không nên nói thêm nữa kẻo xảy ra đánh lộn.

Bàn Tử coi như cũng nể mặt tôi, bèn ngậm miệng lại, rít một điếu thuốc lá rồi hậm hực thổi phù một làn khói. Phan Tử quay sang hỏi Trần Bì A Tứ: “Cụ Trần à, chúng ta trước đây kể như đã từng qua lại, giờ cũng không phải lúc phê bình chúng tôi. Ở đây ngài là trưởng bối, bây giờ chiếc đũa gắp Lạt Ma đã gãy, ngài nói xem nên làm gì mới phải? Chúng tôi sẽ nghe theo ngài cả.”

Bàn Tử trừng mắt, xem chừng lại muốn gào lên: Tại sao phải nghe theo lão ta? Tôi biết Phan Tử hẳn đã có kế hoạch nên ra hiệu cho hắn đừng có nói gì cả, vội vàng kéo Bàn Tử lại, vỗ vỗ lưng kêu hắn bình tĩnh.

Trần Bì A Tứ nheo mắt quan sát Phan Tử một lượt, im lặng hồi lâu rồi cất tiếng: “Xem ra ngươi cũng biết chút phép tắc, thôi thì ta sẽ chỉ bảo cho tụi bay vài câu. Giờ không thể đi tàu hỏa được, ta đã sắp xếp một chiếc xe khác, nếu muốn tới nơi thì đợi lát nữa theo ta lên xe, còn nếu không chịu thì ai đến từ đâu tự động mà cút về chỗ đó! Nhưng ta nói trước với tụi bay, lần này đi tới nơi đó không phải chuyện đơn giản đâu. Trước kia Ngô Tam Tỉnh đến tìm ta, chính là muốn lão gia ta dạy dỗ tụi bay. Trên đời này, ngoại trừ ta, chỉ e không còn người thứ hai có thể đi vào vùng đất kia nữa.”

Bàn Tử cười khẩy, “Xí! Lão già kia đừng có dọa rồ nhau, trên đời này còn có thứ gì Bàn gia ta chưa từng thấy? Nói cho lão biết, mấy người bọn ta từng lên trời hái trăng, xuống biển bắt rùa, đến bô nước tiểu của Ngọc Hoàng đại đế chúng ta cũng từng đi đổ, không phải chỉ là một cỗ Cửu Long đài thi quan thôi sao, có gì ghê gớm chứ? Ông đây hồi trước chỉ cần vỗ một cái là bánh tông trong quan tài cũng phải nhảy ra. Còn người này, ông có biết cậu ta là ai không? Chính là cháu nội của Trường Sa Cẩu vương, nhớ hồi còn ở Sơn Đông…”

Tôi vội vã véo Bàn Tử một cái, cười xòa nói: “Ngài đừng nghe hắn nói linh tinh, người này nói một câu thì nửa câu đáng quẳng vào nhà xí rồi.”

Trần Bì A Tứ quay sang nhìn tôi rồi nói: “Ngươi không cần phủ nhận, ta đã biết ngươi là cháu nội Ngô Lão Cẩu rồi. Rượu mừng đầy tháng của cha ngươi ta đã từng uống rồi, tính ra ngươi cũng nên gọi ta một tiếng ông mới phải.”

Ngô Lão Cẩu là danh xưng thân mật mà người trong nghề gọi ông nội tôi, ông có kể với tôi mình từng qua lại với người này, quả nhiên là không sai.

Tôi vội vã gật đầu, ngàn vạn thứ có thể đâm thông, mỗi mông ngựa là vững như tường đồng (1), nghĩ thế bèn kêu một tiếng: “Ông Tư.”

Trần Bì A Tứ nghe thế bèn cười một tiếng cổ quái, cũng không biết có ẩn ý gì. Phan Tử hỏi: “Cụ Trần, bây giờ chúng ta làm gì đây? Tìm một chỗ nghỉ chân trước, hay là…”

Chưa dứt lời thì từ xa đã truyền đến hai tiếng còi ô tô một dài một ngắn, Trần Bì A Tứ nói: “Xe của ta đến rồi, muốn đi hay về các ngươi tự mình cân nhắc cho kĩ. Nếu muốn lên núi thì hãy theo ta lên xe.” Nói xong liền đứng thẳng dậy, bước về phía tiếng còi ô tô vang lên inh ỏi.

Chúng tôi cũng chưa vội đi theo ngay, chờ lão ta đi xa mới quay sang nhìn nhau. Phan Tử nhỏ giọng: “Lão khọm này đã sớm chuẩn bị sẵn cứ như biết trước chúng ta ở đây ắt gặp rắc rối, tôi dám khảng định chính lão bán đứng gã đầu trọc kia. Hiện giờ người tiếp ứng bên Đôn Hóa chắc chắn đã không còn nữa, cũng đừng trông mong trang bị sớm được mang đến, muốn nắm rõ tình hình bây giờ thì mẹ kiếp chúng ta kiểu gì cũng phải đi theo lão. Chiêu này của lão thật hiểm, nhưng bất luận thế nào, chuyện ông Ba dặn dò tôi nhất định phải làm cho xong. Các người có đi hay không thì tự mình quyết định.” Phan Tử nói rồi lập tức đứng lên, đuổi theo Trần Bì A Tứ.

Muộn Du Bình liếc tôi và Bàn Tử một cái, rồi cũng đứng lên đi theo Phan Tử.

Phút chốc chỉ còn lại tôi với Bàn Tử. Tôi nhìn Bàn Tử, Bàn Tử cũng nhìn lại tôi, cuối cùng Bàn Tử cất tiếng: “Phải rồi, Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ mà lão ta vừa nhắc đến là cái gì vậy?” Tôi lắc đầu, đáp: “Tôi cũng không biết.” Bàn Tử miết chặt điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói: ” Vậy chi bằng chúng ta đuổi theo rồi hỏi lão cho rõ nhỉ?” Tôi bật cười một tiếng, gật đầu, rồi hai người cùng đứng lên nối gót Phan Tử và Muộn Du Bình.

Đám người trung niên đi theo Trần Bì A Tứ mà chúng tôi gặp ở nhà ga quả nhiên là tay chân lão ta đã cài cắm sẵn từ trước, thu xếp xe cũng chính là bọn họ. Một chiếc xe tải Giải Phóng chạy tới đón chúng tôi, cả đám leo vào thùng xe, bên ngoài chồng hàng hóa lên ngụy trang. Xe đi một mạch đến Sơn Hải Quan, lên tỉnh lộ, thẳng hướng Nhị Đạo Bạch Hà. (2)

Trên đường đi tôi ngủ mê man không biết trời trăng gì, khi tỉnh lại đã là giữa trưa ngày hôm sau. Ô tô không tiện lợi như tàu hỏa, mới đi được hơn nửa ngày lộ trình mà nhiệt độ nơi này đã thấp hơn Hàng Châu rất nhiều. Mặc dù thùng xe có mui bằng vải buồm che chắn nhưng gió vẫn luồn vào trong, khiến tôi lạnh phát run. Trần Bì A Tứ quấn mình trong chiếc áo bành tô quân đội, có mấy lần vô ý lộ ra dáng vẻ của một cụ già, nhưng biểu cảm này chớp mắt đã biến mất. Trong lòng tôi thầm than, quả nhiên cũng đã có tuổi rồi, không biết một lão già đã ở tuổi tri thiên mệnh (*) như thế còn có mưu đồ gì nữa.

(Cái này chắc nhiều người biết nhưng cứ chú thích cho chắc. Luận Ngữ có câu “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, ổng đã chín mươi nhưng mà người xưa chết sớm, Luận Ngữ chỉ viết đến tuổi năm mươi nên tri thiên mệnh coi như là già lắm rồi.)

Chúng tôi cùng nhau bàn bạc cách leo núi, theo như tin tức mà Trần Bì A Tứ nhận được từ gã đầu trọc thì đến Đôn Hóa rồi chúng tôi sẽ đi ô tô hướng về Nhị Đạo Bạch Hà, ở đó sẽ có dân bản địa dẫn đường cùng với trang bị đã chuẩn bị sẵn. Sau đấy chúng tôi lại tìm đến một thôn nhỏ nằm kế bên Lật Tử Câu, đến đó gã sẽ nói cho chúng tôi biết mục đích chuyến đi rồi dẫn đường cho chúng tôi tìm tới mục tiêu, còn sau đó tìm kiếm thế nào, xuất nhập ra sao lại là việc của chúng tôi.

Hiện giờ chúng tôi chắc chắn không thể đến Lật Tử Câu bởi cớm rất có thể đã đặt chốt ở đó, hơn nữa nơi đó cũng rất gần Nhị Đạo Bạch Hà. Chúng tôi nhìn nhau, quyết định không ghé qua Lật Tử Câu nữa mà đi thẳng vào. Mé trong còn có mấy thôn, phải đi đến hết đường mới thôi.

Chúng tôi không rõ gã đầu trọc rốt cuộc biết được bao nhiêu thông tin về vị trí của thiên cung, giờ gã không có ở đây, mọi việc tự nhiên cũng khó khăn hơn nhiều. Dãy Trường Bạch rất đồ sộ, lại có một phần nằm trong lãnh thổ Triều Tiên, nếu phải lần mò từng tấc một e rằng không khả thi. Nhưng chúng tôi suy đoán, nếu kế hoạch cũ là tới Lật Tử Câu thì đích đến tất nhiên phải ở quanh đó. Chúng tôi trở ra theo con đường cũ, đầu tiên là tới mấy sơn thôn gần đó dò đường, tiện thể hỏi thăm tin tức, hẳn sẽ có thu hoạch.

Mọi chuyện cứ theo kế hoạch mà tiến hành. Cuối cùng khi tới Nhị Đạo Bạch Hà, người của Trần Bì A Tứ bắt đầu giở trang bị ra. Tôi nghĩ bây giờ trên khắp cả nước đều kiểm tra gắt gao, mấy người này sao lại thần thông quảng đại như vậy chứ. Nào ngờ mở ra thì xém ngất xỉu luôn, nghĩ bụng đây là trang bị cái khỉ biển gì chứ, không xẻng không súng ống, nhìn lại xem thứ gì chiếm chỗ nhất thì ra là mấy hộp băng vệ sinh Whisper, ngoài ra còn có dây thừng, mấy đồ linh tinh, sô cô la, một túi to toàn ớt, chậu rửa mặt… toàn là mấy vật dụng sinh hoạt hàng ngày.

Bàn Tử thắc mắc sao lại thế này, không lẽ chúng ta đang đi phát vật dụng bảo hộ lao động cho phụ nữ hay sao. Trần Bì A Tứ chỉ đáp khi nào cần dùng đến tự dưng ngươi sẽ biết những thứ này để làm gì.

Bốn ngày sau, chúng tôi tiến vào khu rừng trong núi Hoành Sơn để đến thôn Doanh Sơn. Xe tải đi được vào đây đúng là kì tích, có vài đoạn cách mép đường chừng ba mươi phân thôi là vực sâu vạn trượng, chỉ cần lái xe sơ sẩy một chút là cả đám chúng tôi thịt nát xương tan ngay. Đến nơi rồi, hỏi dân bản xứ mới biết nơi này ngày trước từng có một trạm gác của biên phòng, về sau mới bị bỏ. Vậy nên đường mới được làm tới chỗ này, bằng không chỉ có cách dùng xe trượt tuyết mới vào được đây. Cũng vì có con đường mòn nên nơi này thỉnh thoảng lại có vài du khách đi phượt, người dân trong thôn cũng quen với việc có người nơi khác thường xuyên lui tới.

Cùng theo chúng tôi tới đây có thêm ba người của Trần Bì A Tứ. Một người tên Lang Phong, chính là lái xe; một người cao to đeo kính gọi là Hoa hòa thượng(*), có điều trên người toàn sẹo từ những vết đao chém. Ngoài ra còn có một người hơn ba mươi, có vẻ nhỏ tuổi nhất, trên đường đi cứ huyên thuyên không ngừng, tên là Diệp Thành.

(Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm là một nhân vật trong truyện Thủy Hử. Người này hình xăm vẽ kín người nên có biệt danh là Hoa hòa thượng. Còn anh Hoa hòa thượng trong này người cũng chi chít hoa văn, nhưng là hoa văn từ sẹo đao chém =”)) )

Chúng tôi xuống xe, nhìn khắp bốn phương đều là núi tuyết. Tôi âm thầm tìm kiếm cảnh núi tương tự với bức tranh trong ngôi mộ dưới đáy biển mà tôi còn lưu trong trí nhớ, nhưng rõ ràng nơi tôi đứng không chuẩn, nhìn ngọn núi tuyết nào cũng thấy từa tựa nhau cả.

Trần Bì A Tứ nói tầm long thì dễ, điểm huyệt mới là khó. Trong “Táng kinh” cũng nói, ba năm tầm long mười năm điểm huyệt, xác định một long mạch phải mất tối thiểu ba năm nhưng muốn tìm bảo nhãn phải mất đến mười năm. Đây là một quá trình cực kì chặt chẽ, nếu chúng tôi đã biết đầu rồng ở Hoành Sơn thì chỉ cần đi vào trong núi là tự nhiên sẽ tìm ra vị trí của bảo nhãn. Vấn đề là làm sao vào được trong núi? Vùng này không giống như những nơi khác, núi tuyết rất cao, bình thường thợ săn sẽ không đặt chân tới nơi này, người đào sâm cũng không thể leo đến đỉnh núi tuyết, muốn tìm một người dẫn đường e rằng không dễ.

Trong thôn không có nhà khách, không tìm được chỗ nghỉ chân chúng tôi đành phải tới gõ cửa ủy ban thôn. Bí thư chi bộ của thôn rất nhiệt tình, cho chúng tôi ở tạm gian nhà của người gác rừng đang bỏ trống. Chúng tôi thu xếp trả tiền nong đầy đủ, ở lại trong thôn vài ngày, thuê mấy con ngựa tốt. Sau nhiều lần vất vả, cuối cùng cũng tìm được ở địa phương một người Triều Tiên là lính xuất ngũ tên Thuận Tử đồng ý dẫn đường.

Người này cho hay, người bình thường sẽ không bao giờ lên núi tuyết bởi vì gió tuyết khôn lường, đường đi mỗi ngày một khác, hơn nữa lên đó cũng chẳng có gì hay, chỉ có bọn họ từng ở trong quân ngũ, những lúc đi tuần tra bắt buộc phải lên. Vài ngọn núi quanh đây hắn đều biết đường lên, cho nên nếu chúng tôi thực sự muốn đi thì hắn có thể dẫn đường, nhưng khi tiến vào vùng đất phủ tuyết phải tuyệt đối nghe lời hắn.

Chúng tôi thương lượng giá cả hợp lí, cuối cùng cũng thỏa thuận xong. Sau đó cả đám chỉnh đốn lại trang bị, mua thêm một đống đồ theo như yêu cầu của Thuận Tử, thế rồi đoàn chúng tôi chín người cùng mười bốn con ngựa lũ lượt tiến sâu vào trong khu rừng.

Phong cảnh trên núi Trường Bạch rất đẹp, qua mỗi đoạn đưa mắt nhìn lại đều thấy cảnh quan biến đổi. Núi cao khiến lòng người lãnh đạm, chúng tôi cũng không để ý nhiều đến cảnh sắc rừng rậm bốn bề bởi tất cả tinh lực đều tập trung để giữ cho mình không ngã xuống khỏi lưng ngựa, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn khung cảnh hùng vĩ của vòm trời và ngọn núi vẫn khiến người ta trào dâng những cảm xúc khó tả.

Núi Trường Bạch đã từng là núi lửa nên có rất nhiều suối nước nóng và hồ núi lửa nhỏ. Từ thôn Doanh Sơn tiến vào rừng, dọc theo con đường núi của công nhân, đi lên bốn giờ sẽ đến hồ A Cái Tây, người Triều Tiên gọi nó là hồ “Cô Nương”. Mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng, soi bóng cả dãy núi Trường Bạch xuống làn nước trong như gương.

Để Thuận Tử nghĩ chúng tôi là khách du lịch, đoàn cũng dừng lại bên hồ chụp ảnh, sau đó mới tiếp tục xuất phát. Đoạn đường chúng tôi vừa đi là phần chân dãy núi, càng đi vào sâu núi càng thêm dốc. Cuối cùng chúng tôi phát hiện mình đang đi trên sườn núi dốc 60 độ, cây cối ở nơi này đều thẳng tắp nhưng mặt đất lại nghiêng, mỗi bước đi đều vô cùng mạo hiểm. Thuận Tử nói cho chúng tôi biết tít trên đó vẫn còn một thôn bỏ hoang, chính là nơi đặt trạm gác biên phòng. Thôn này bây giờ không có người ở, đêm đầu tiên chúng tôi sẽ nghỉ chân ở đó, đến ngày mai đoàn sẽ qua vùng đất tuyết phủ.

Lúc này, hồ A Cái Tây đã nằm dưới chân chúng tôi, đứng từ trên nhìn xuống, mặt hồ ban nãy mênh mang là thế mà giờ đây trông chỉ như một cái ao nhỏ. Đúng lúc này, chúng tôi phát hiện ra còn một đoàn ngựa thồ khác xuất hiện ở ven hồ, nhân số vượt xa đoàn mình rất nhiều.

Mọi người đều cảm thấy bất ngờ, Bàn Tử lấy ống nhòm ra, nhìn xuống phía dưới rồi đưa cho chúng tôi, nói: “Chúng ta gặp phiền phức rồi đây.”
 
Quyển 4 - Chương 11: Cảnh khốn đốn


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vừa thúc ngựa tiến lên, vừa nhìn theo hướng Bàn Tử chỉ. Xuyên qua đám cây cối lưa thưa tôi thấy ven hồ có khoảng ba mươi người và hơn năm mươi ngựa đang tụ tập rất đông vui, là một đoàn ngựa thồ rất lớn. Những người đó đang dựng trại ven hồ, có vẻ muốn nghỉ chân qua đêm ngay bên bờ hồ này. Trong đám người có một cô gái đang mở thứ gì đó giống như rada ra điều chỉnh thử. Tôi nhìn qua ống nhòm, nhận ra cô gái kia không phải ai khác, mà chính là A Ninh ở Hải Nam.

Tôi chửi thề một tiếng, cô ả cũng đến nơi này chứng tỏ những gì chúng tôi suy đoán đều đúng. Người dây dưa với chú Ba chỉ e đúng là họ, không biết công ty mò thuyền vét bùn này đi vào đất liền làm gì.

Hoa hòa thượng thấy đoàn ngựa thồ dưới núi, sắc mặt liền thay đổi, nhỏ giọng hỏi Trần Bì A Tứ phải làm sao bây giờ.

Trần Bì A Tứ liếc mắt một cái, cười khinh khỉnh: “Tới đúng lúc lắm, chứng tỏ chúng ta không đi nhầm đường. Cứ tiếp tục đi thôi, mặc xác bọn chúng.”

Tôi lấy ống nhòm nhìn kĩ từng người một nhưng không thấy chú Ba đâu cả. Có điều nếu chú Ba rơi vào tay bọn họ, e là sẽ không dược tự do đi lại, có khi nào đang bị nhốt trong mấy cái lều vải kia chăng? Điều khiến tôi cảm thấy không thoải mái chính là một nửa số người dưới kia hình như đều đeo súng trường K-56 (1) trên lưng, ngoài ra tôi còn thấy cả điện thoại vệ tinh và rất nhiều thiết bị hiện đại khác. Bàn Tử thấy súng phát thèm, đốp lại Trần Bì A Tứ: “Này lão già, ông cứ nói không mua súng, giờ hãy xem người ta vai vác súng, đạn lên nòng đuổi theo tới đây, nếu xảy ra va chạm thì đối phó kiểu gì? Hay là định lấy chậu rửa mặt làm khiên, dùng băng vệ sinh mà đánh bọn họ?”

Trần Bì A Tứ liếc Bàn Tử một cái, lắc lắc đầu rồi cười nói:”Làm nghề này xưa nay chúng ta chưa bao giờ dựa vào nhân số, đến vùng núi tuyết ngươi sẽ biết đi theo ta là lựa chọn chính xác.”

Khi trao đổi với nhau chúng tôi đều dùng phương ngữ, Thuận Tử không thạo tiếng Hán nên không nghe ra được. Tuy nhiên Thuận Tử dẫn đường đã nhiều năm, cũng biết khách nói chuyện thì đừng nghe, nghe nhiều quá không chừng người ta giết mình diệt khẩu.

Chúng tôi tiếp tục hướng lên phía trên, cho đến khi trước mắt xuất hiện mấy căn nhà gỗ tồi tàn có cửa sắt, bên trên còn viết khẩu hiệu: “Lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc là bất khả xâm phạm.”

Thuận Tử cho chúng tôi biết đây là trạm tiếp tế cho những trận đánh tiền tiêu. Sau cuộc hội đàm đa phương, mấy trạm gác ở đây đều chuyển đi cả, nơi này trở nên hoang phế. Mấy trạm gác trên vùng tuyết cũng không còn ai nữa, nếu chúng tôi cứ đi lên mãi thì sẽ có cơ hội được thấy.

Màn đêm buông xuống, chúng tôi ở tạm trong này một đêm, sáng sớm hôm sau thức dậy bèn gấp rút lên đường. Thuận Tử đã cảm thấy kỳ quặc, hiếm có khách du lịch nào lại bạt mạng như chúng tôi, nhưng dù gì cũng đã nhận tiền nên vẫn thuận theo.

Khi chúng tôi thức dậy thì tuyết cũng bắt đầu rơi, nhiệt độ không khí đột ngột hạ xuống. Người miền nam rất khó có thể thích ứng với thời tiết này, ngoại trừ Bàn Tử và Diệp Thành, những người khác không khỏi cảm thấy thân thể mình đông cứng.

Cứ đi mãi rồi cũng tiến vào vùng núi phủ tuyết, chúng tôi rốt cuộc đã thấy tuyết đọng trên mặt đất. Ban đầu lớp tuyết còn mỏng, càng lên cao càng dày, cây cối ngày càng ít, các loại đá tảng lại nhiều thêm, Trần Bì A Tứ nói đó là dấu vết của một công trình đã được xây dựng ở đây.

Đến giữa trưa thì bốn phía xung quanh chúng tôi bao phủ trong một màu trắng xóa, lớp tuyết trên mặt đất dày đến độ phủ kín cả lối đi, tất cả chỉ biết đi theo Thuận Tử cưỡi ngựa ở phía trước dẫn đường.

Đúng lúc này bỗng nổi lên một trận gió to, Thuận Tử quan sát đám mây rồi hỏi nhóm chúng tôi hay là hôm nay chỉ đi đến đây thôi? Xem chừng sẽ có gió to, núi tuyết đã hơi nghiêng ngả rồi, tiếp tục đi lên có thể sẽ gặp nguy hiểm.

Trần Bì A Tứ lập tức khoát tay, bảo hắn cứ từ từ. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi, ăn chút lương khô, vài người thì ngắm phong cảnh xung quanh.

Chúng tôi đang ở trên lưng chừng một ngọn núi thấp, có thể nhìn thấy cánh rừng nơi chúng tôi bắt đầu tiến vào. Lão dõi mắt nhìn ra xa rồi chỉ vào một dải đất trũng, nói với chúng tôi. “Thời cổ khi xây lăng mộ người ta thường lấy vật liệu tại chỗ, ngươi xem mảng rừng kia rõ ràng thưa thớt hơn những cánh rừng gần đó rất nhiều, trăm năm trước chắc chắn là có người phát quang cây mà thành. Vả lại dọc đường tới đây chúng ta đi đứng hơi vất vả nhưng không có chướng ngại gì đặc biệt khó qua, gần đây chắc chắn từng có một công trình cổ đại, thế núi ở đây từng có người tu sửa. Chúng ta đã đi đúng hướng rồi, phải tiếp tục hướng lên cao nữa.”

Diệp Thành hỏi: “Lão gia, dãy núi này có hơn mười ngọn đều bắt đầu từ đây đi lên, chúng ta tìm kiểu gì bây giờ?”

Trần Bì A Tứ nói: “Cứ vừa đi vừa quan sát, đầu rồng hẳn phải có điểm đặc biệt. Chỗ địa mạch ngắt quãng chính là long huyệt, nơi này nhiều núi nhưng địa mạch chỉ có một, chúng ta đang đi dọc địa mạch, không sợ không đến nơi, cùng lắm là mất nhiều thời gian thôi.”

Tôi nhìn theo hướng nhìn của Trần Bì A Tứ, chỉ thấy từng mảng từng mảng cây cối, trông chẳng có gì khác nhau, trong lòng không khỏi cảm thấy xấu hổ.

Quay đầu nhìn Muộn Du Bình, tôi đã thấy hắn chăm chú nhìn lên núi tuyết phía trước; đôi mày khẽ nhíu lại, tựa như đang lo lắng điều gì. Tôi biết chắc hỏi hắn bây giờ cũng như không, bèn xoay người tìm Bàn Tử nói chuyện phiếm.

Thuận Tử nghe chúng tôi nói muốn đi tiếp lên trên, bèn thở dài, lắc đầu nói nếu muốn lên cao hơn nữa sẽ không thể cưỡi ngựa, phải dùng đến xe trượt tuyết kéo bằng ngựa. Núi Trường Bạch vào mùa đông thật ra lại là nơi giao thông thuận lợi nhất, ngoại trừ những khi có bão tuyết, bình thường dùng ngựa kéo xe trượt tuyết là có thể đến bất kì nơi nào ngựa còn đi được. Nhưng một khi gió nổi lên thì chúng tôi tuyệt đối phải nghe lời hắn, hắn nói quay lại là quay lại, tuyệt đối không được có ý kiến.

Chúng tôi đều gật đầu đồng ý, lập tức dỡ hết hành lí xuống, đặt lên xe trượt tuyết. Chuẩn bị xong xuôi, Thuận Tử hô lớn rồi quất roi thúc con ngựa của mình đi trước dẫn đường, ngựa chúng tôi tự động theo sau, cả đoàn người lướt đi như bay trên đất tuyết .

Vừa mới ngồi vào xe trượt tuyết tôi cảm thấy rất thích thú, cái này cũng giống như đi bằng xe chó kéo vậy. Nhưng chỉ lát sau, không biết có phải vì gió lớn hay ngồi trên xe trượt không thể nhúc nhích mà tứ chi đều lạnh run lên, thân thể cứ như mất hết tri giác. Vì đây là đường núi nên ngựa chạy không được êm, cứ xóc nảy liên tục. Bàn Tử vì quá nặng nên mấy lần bị lật xe, ngã dúi vào đống tuyết làm chúng tôi cũng lại phải dừng lại chờ.

Chúng tôi cứ chạy mãi như thế cho đến khi màn đêm dần buông, gió càng lúc càng mạnh, ngựa chạy ngày càng chậm. Chúng tôi phải đeo kính chắn gió mới có thể nhìn rõ phía trước, khắp nơi đã trắng xóa một màu không biết là tuyết rơi trên trời xuống hay là tuyết lở trên núi xuống. Tiếng gió thổi vù vù bên tai, muốn nói một câu thôi mà mới mở miệng ra gió lạnh đã thốc thẳng vào vòm họng, nói theo cách của Bàn Tử là mấy câu chửi thề cũng muốn đông cứng lại trong cổ họng rồi.

Chạy một hồi lâu, cuối cùng con ngựa dẫn đầu của Thuận Tử cũng dừng lại. Tôi mơ hồ thấy có gì đó không ổn, bây giờ mới 2h chiều, sao trời đã xám xịt như tro rồi? Chúng tôi chạy ngược gió, nhanh chóng bắt kịp Thuận Tử, chỉ thấy hắn vừa xoa xoa cổ vừa quan sát bốn phía, mặt nhăn mày nhó.

Chúng tôi vây lấy Thuận Tử hỏi hắn xem có chuyện gì, hắn tặc lưỡi một cái: “Gió to quá, hơn nữa nơi này hình như đã xảy ra tuyết lở, nhìn không giống lần trước tôi đi qua. Còn nữa, mọi người nhìn xem, trước mặt toàn là tuyết từ trên núi lở xuống, vừa dày vừa xốp, tiến lên một bước là tuyết ngập đến tận bụng ngựa, lũ ngựa không chịu đi qua đâu. Loại tuyết này bên trong còn có bọt khí, rất dễ sụp xuống, cực kì nguy hiểm, nếu đi tiếp sẽ không thể tụ tập cùng nhau.”

“Vậy phải làm gì bây giờ?” Phan Tử nhìn trời, “Xem chừng thời tiết hôm nay không tốt, có nên quay về không?”

Thuận Tử hết nhìn bầu trời lại nhìn sang chúng tôi, nói: “Cũng chưa chắc, nhưng một khi gió nổi lên thì phải ít nhất hai ngày hai đêm mới tạm ngừng, nếu chúng ta cứ ở lì lại đây thì chỉ có con đường chết. Không xa về phía trước có một trạm gác biên phòng bỏ hoang, chúng ta có thể vào đó tránh gió tuyết. Tôi thấy bây giờ có muốn quay lại cũng không kịp nữa rồi, chỉ còn cách đi bộ qua đó thôi.”

Bàn Tử đè chặt cái mũ che tai trên đầu, nhón chân tiến thử một bước, kết quả bị lún vào tuyết đến đùi. Hắn chật vật nhích lên từng bước, chửi thề: “Con bà nó chứ, cứ như hành xác.”

Chúng tôi xỏ giày đi tuyết vào chân, ngược gió mà kéo xe trượt ngập sâu trong tuyết, chật vật tiến lên. Chỗ này là đầu ngọn gió, nằm chính giữa hai sườn núi, gió rất lớn chả trách sao có tuyết lở. Chúng tôi hướng về phía đầu ngọn gió, Thuận Tử nói cứ đi khoảng một tiếng nữa sẽ tới trạm gác, nhưng lại không tính tới chuyện chúng tôi đang ì ạch tiến lên như rùa. Mà hình như Thuận Tử đã nhầm đường, chúng tôi đi hơn 6 tiếng, đến khi trời chạng vạng vẫn không thấy bóng dáng cái trạm gác kia đâu.

Thuận Tử bối rối đi qua đi lại, bỗng “Ai da!” một tiếng: “Xong rồi, tôi biết trạm gác ở đâu rồi!”

Chúng tôi vây quanh, thấy sắc mặt hắn cực kì khó coi: “Sao tôi lại không nghĩ ra chứ, chỗ này vừa có tuyết lở, hẳn là trạm gác bị tuyết vùi mất rồi. Có khi nó nằm ngay dưới chân chúng ta cũng nên, bảo sao tìm nửa ngày trời mà không thấy!”

Phan Tử thở dài, nói một câu, dựa theo khẩu hình chính là: “Mẹ cái đất chết tiệt này!”

Bàn Tử gào lớn hỏi Thuận Tử: “Vậy bây giờ tính sao? Ngựa thì không có, lẽ nào chúng ta phải chết ở đây sao?”

Thuận Tử chỉ chỉ về phía trước: “Còn một hi vọng cuối cùng, tôi nhớ gần đây có một suối nước nóng nằm trong một sườn núi, nhiệt độ rất cao. Nếu có thể đến đó, chúng ta có thể ăn lương khô sống tạm vài ngày, suối nước nóng kia tương đối cao, chắc vẫn chưa bị tuyết vùi. Chẳng may tìm không được thì chỉ còn cách dựa vào ý chí sinh tồn, từng bước từng bước một mà quay về.

“Anh có dám chắc chắn không đó?” Bàn Tử bắt đầu không tin tưởng Thuận Tử.

Thuận Tử gật đầu: “Lần này tuyệt đối không sai, nếu không tìm được suối nước nóng thì anh cứ trừ tiền công của tôi.”

Tôi cười khổ trong lòng. Con mẹ nhà anh chứ, nếu thực sự phải trừ tiền công của anh thì chỉ e đến kiếp sau chúng tôi mới có cơ hội.

Mọi người đeo lên vẻ mặt như đưa đám, theo Thuận Tử tiến lên trên. Càng đi trời càng tối, Thuận Tử lấy dây thừng ra buộc vào từng người chúng tôi. Do tầm nhìn bị hạn chế, không thấy rõ người, gọi cũng không nghe tiếng nên chỉ còn cách dùng dây thừng mới có thể tập hợp chúng tôi lại một chỗ.

Tôi đi mãi đi mãi cho tới khi mắt hoa lên, không thể nhìn rõ được nữa. Người phía trước càng lúc càng xa, người đằng sau càng lúc càng tụt lại. Tôi nhìn trước nhìn sau đều không thấy bóng người, trong lòng trống rỗng, thầm nghĩ phải chăng lên núi vào lúc này là một sai lầm, không lẽ mình phải bỏ mạng ở đây? Không đâu, bước đi của Thuận Tử vẫn rất ổn định, tuy tôi không nhìn thấy hắn nhưng có thể cảm nhận được hướng đi của sợi dây thừng truyền lại rất kiên định, hẳn là đã quen đứng vững trong gió tuyết, chắc đi theo hắn sẽ không sao đâu.

Tôi vừa tự an ủi mình vừa tiếp tục tiến về phía trước, chợt thấy trong màn tuyết trước mặt xuất hiện một bóng đen mờ mờ ảo ảo, thoạt nhìn không thể nhận ra là ai. Đi được vài bước, bóng đen kia đột ngột nghiêng ngả rồi ngã nhào xuống tuyết. Tôi vội vàng chạy tới xem xét, thì ra người gục xuống tuyết đó chính là Thuận Tử.

Muộn Du Bình từ phía sau cũng vừa đuổi kịp, thấy đó là Thuận Tử bèn nhanh chóng đỡ hắn đứng lên. Chúng tôi khoác vai Thuận Tử rồi kéo mạnh dây thừng để những người khác nhanh chóng tập trung lại.

Bàn Tử vừa nhìn thấy Thuận Tử, nét mặt đã trở nên vô cùng cổ quái, hét lớn: “Con mẹ nhà hắn làm dẫn đường kiểu gì vậy? Không biết đường cũng chưa nói, đằng đây chúng ta còn chưa ngất hắn đã xỉu rồi. Chúng ta biết làm sao bây giờ?” Hắn còn định mắng tiếp nhưng nửa câu sau đã bị một cơn gió vừa thổi tới cuốn đi mất.

Tôi phóng mắt nhìn ra xung quanh, trời đất ơi, tình hình bây giờ đã không kiểm soát được nữa rồi. Gió dữ cuốn theo vô vàn bông tuyết đập vào nham thạch, vờn quanh chúng tôi, cách một mét đã không thấy gì, đến cả những dấu chân cũ của chúng tôi cũng bị gió thổi bay biến. Chúng tôi không thể phân biệt phương hướng, mỗi khi gió dữ thổi qua, đến đầu cũng không ngẩng lên nổi, bây giờ mà đứng lên sẽ bị gió thổi bay mất.

Mặt mũi ai nấy đều trắng tái, mắt Trần Bì A Tứ còn nổi cộm lên, xem ra lão già này gặp phải hoàn cảnh khắc nghiệt cực độ đã rơi vào trạng thái nửa hôn mê rồi. Nếu Thuận Tử không ngã xuống thì chắc lão cũng không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Phan Tử nói: “Chúng ta không thể đứng đây chờ chết, suối nước nóng có lẽ ở ngay gần đây thôi. Chúng ta sẽ nối thêm dây thừng, tản ra tìm kiếm, ai tìm được thì kéo dây thừng làm tín hiệu.”

Mọi người tản ra xung quanh, tôi cũng không biết mình đang đi về hướng nào, mới đi vài bước đã hoa mắt chóng mặt, cảm giác tê dại theo tứ chi truyền khắp thân thể. Trước đây tôi xem rất nhiều phim đều nói ở trên núi tuyết, người ta càng đi sẽ càng nguy khốn, lỡ ngủ quên thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại. Có người còn sinh ra vô vàn ảo giác, ví dụ như trước mặt hiện lên bát cơm nóng hổi chẳng hạn.

Tôi ra sức nhắc nhở bản thân phải tỉnh táo, nhưng lại không thể kiên trì cho nổi. Mỗi bước đi là mắt giống như đeo thêm một khối chì, nặng nề đến nỗi chỉ chực cụp xuống.

Đúng vào lúc ai nấy tưởng chừng mất hết hi vọng, đột nhiên lại nghe Bàn Tử kêu lên một tiếng, do gió quá mạnh nên không nghe rõ hắn kêu cái gì. Tôi nhìn lại, chỉ thấy bóng hắn thoắt cái đã biến mất. Muộn Du Bình lập tức quay đầu, phái hiện dây thừng trên mắt đất đột ngột bị kéo mạnh, mặt lập tức biến sắc, thét to: “Không xong rồi! Mau cởi dây thừng, có người thụt xuống hố tuyết!”

Lời còn chưa dứt, tuyết dưới chân hắn đã đột ngột sụp xuống, cả người hắn bị dây thừng kéo vào hố tuyết, kế đến là tôi – người đứng gần hắn nhất. Chúng tôi bị Bàn Tử kéo vào trong tuyết từng người một giống như một chùm nho, cứ lăn lông lốc không biết bao lâu mới dừng lại.

Mắt tôi bị tuyết bịt kín, không tài nào mở ra được, chỉ nghe tiếng Phan Tử bảo mọi người đừng nhúc nhích. Anh ở cuối dây thừng, đợi anh bò xuống rồi tính sau.

Đúng lúc này, đột nhiên nghe tiếng Diệp Thành kêu lên: “Khoan đã! Tiên sư nó, đừng ai đi xuống, trong đống tuyết kia có cái gì vậy?”
 
Quyển 4 - Chương 12: Bách túc long


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vuốt vội mấy hạt tuyết bám trên mí mắt xuống, nhất thời không biết mình đang ở đâu, chỉ cảm thấy lưng hình như va phải đá nhọn; Diệp Thành ở phía dưới đang kêu gào.

Tôi lấy lại bình tĩnh, theo bản năng nhìn xuống xem Diệp Thành đang sợ hãi cái gì. Nhìn kĩ thì phát hiện chúng tôi đang ở bên mặt của một sườn núi dốc đứng lởm chởm đá, cách chân dốc chừng năm, sáu mét, sợi dây thừng buộc ở thắt lưng mắc vào một khối đá giúp chúng tôi không tiếp tục lăn xuống. Đáy dốc toàn là đá tảng và tuyết lở theo khi chúng tôi ngã xuống đây, trong đống tuyết lộ ra mấy cái chân khẳng khiu đen đúa dài ngoằng.

Tôi suýt nghẹt thở, bất giác dán chặt lưng vào tảng đá phía sau. Dịch tầm mắt lên phía trên đống chân, lấp ló bên dưới lớp tuyết dày là một vật gì đó màu đen đang cuộn tròn, kích cỡ tương đương cái thùng đựng nước, trên thân thể nhiều đốt phủ kín vảy, một phần giấu trong tuyết, một phần lộ ra ngoài. Thoạt nhìn tôi còn tưởng đó là một con rắn đang ngủ đông, nhìn kĩ lại thì thấy từa tựa con rết. Thứ này kề sát tảng đá, không hề động đậy, chẳng biết còn sống hay đã chết, không thấy đầu đuôi, cũng chẳng rõ nó dài bao nhiêu nữa.

Trong lòng tôi cảm thấy kì lạ, nơi này đã là vùng núi phủ tuyết, bình thường rất hiếm gặp sinh vật sống, đây rốt cuộc là cái giống gì? Nhìn cái đầu cùng với đống chân trông như chân rết của nó, bản năng khiến tôi nảy sinh cảm giác không thoải mái.

Phan Tử khăng khăng đòi xuống xem, Diệp Thành thì luôn mồm la oai oái. Bàn Tử cũng thấy thứ nằm bên dưới, bèn vơ một nắm tuyết cạnh mình vo tròn thành khối cầu rồi ném bốp một cái vào gáy Diệp Thành, nhỏ giọng mắng: “Đệch mợ anh be bé cái mồm cho tôi nhờ, muốn đánh thức nó hả?”

Tôi xem xét bốn phía, nơi này hẳn là một khe núi nhỏ bị tuyết lở lấp kín, do thế đá quá lộn xộn nên tích tụ khá nhiều bọt khí. Vừa nãy Bàn Tử đã giẫm phải lớp tuyết mỏng manh, kích phát phản ứng dây chuyền khiến cả tầng tuyết sụp xuống, kết quả là cả đám đều bị hắn kéo ngã theo. Lớp tuyết bên trên vẫn không ngừng sạt lở, nhiều khi sụp xuống rồi mà tuyết xung quanh cứ tiếp tục chảy xuống giống như cát trên sa mạc, chẳng mấy chốc đã chôn vùi nơi bị sập một lần nữa, quá trình này chỉ xảy ra trong chớp mắt. Rất nhiều đoàn thám hiểm núi cao vì thế mà tổn thất quân số, trong vài giây ngắn ngủi cả nhóm đã hoàn toàn biến mất. May cho chúng tôi là tuyết xung quanh có vẻ rắn chắc, cũng có thể do chúng tôi dùng dây thừng buộc cả đám lại với nhau.

Nơi này khuất gió, cơn cuồng phong vào đây rõ ràng đã yếu đi nhiều, không còn lạnh buốt như vừa nãy. Tôi thoải mái hít thở vài hơi, cẩn thận ngồi xổm, nhích xuống dưới vài bước. Nơi này tuy dốc đứng nhưng mặt ngoài sườn núi đều là đá vụn gồ ghề, có tảng to bằng cái xe tải, có viên chỉ nhỏ như quả bóng bàn, leo trèo rất tiện, lên xuống đều không quá khó khăn.

Phan Tử và Muộn Du Bình đã tháo dây thừng, do đứng cách chân dốc không xa nên hai người bọn họ nhảy ào ào xuống, kéo theo cả tuyết. Rơi xuống rồi, họ lăn vài vòng đến tận chân dốc để giảm dư chấn. Hai người rón rén đứng lên, một trước một sau chạm vào vật màu đen kia, khiến tim chúng tôi tưởng chừng nhảy vọt lên cổ họng.

Đi được vài bước, Muộn Du Bình và Phan Tử đểu duỗi thẳng lưng, rõ ràng đã trấn tĩnh lại. Phan Tử liếc Muộn Du Bình một cái, nhún vai rồi ra hiệu cho chúng tôi xuống theo.

Trong khi mọi người còn đang nghi hoặc, Bàn Tử đã cởi dây thừng lăn xuống. Muộn Du Bình gạt lớp tuyết đọng lên thạch điêu trên mặt đất, thì ra đó là hình một con rồng nằm phủ phục trên đá được chạm lên một tảng đá đen. Thạch điêu này chạm khắc vô cùng sinh động, nếu vùi sâu trong tuyết thì quả là không thể nhìn ra.

Chúng tôi cũng lục tục kéo nhau xuống. Trần Bì A Tứ nhìn thấy thạch điêu, sắc mặt lập tức biến đổi. Lão không đứng nổi, phải nhờ Hoa hòa thượng đỡ mình đến trước thạch điêu mài từ đá núi, bắt đầu lần mò. Con rồng này có vài điểm khác biệt so những con rồng bình thường, dưới thân nó khắc vô số chân trông như chân rết, rõ ràng không phải là tác phẩm điêu khắc của trung nguyên, có lẽ là dị bản hình rồng của một dân tộc du mục nào đó quanh vùng này.

Bàn Tử hỏi tôi: “Sao con rồng này xấu như ma thế, trông giống côn trùng hơn là giống rồng. Nhìn qua là thấy tà khí ngút trời rồi, còn không đẹp bằng hình rồng khắc trên tường cố cung, hay đây là bản khắc hỏng?”

Hoa hòa thượng đáp: “Không biết thì đừng có nói bậy. Đây là Bách túc long (1), không phải Bàn long (2), những họa tiết hình rồng của nước Đông Hạ thời kì đầu đều có dạng này. Ngày xửa ngày xưa, vào thời viễn cổ, rồng Trung Quốc mang nhiều hình dạng khác xa bây giờ, thậm chí còn có hình rồng mũi heo, cỡ này vẫn chưa phải là quái đản đâu”. Rồng Trung Quốc đã trải qua một khoảng thời gian tiến hóa rất dài, ban đầu rồng vốn là loài bò sát dưới đất, tiện tay ghép một cái đầu thú với thân rắn là ta có con rồng. Lúc ấy mỗi bộ lạc đều có đồ đằng rồng của riêng mình, họ phát triển theo những chiều hướng khác biệt thành ra hình dạng rồng cũng không giống nhau. Sau này văn hóa của người Hán lưu truyền rộng rãi, văn hóa Di, Hạ (3) cũng hợp lại với nhau, hình dạng con rồng của người Hán mới dần hòa trộn với rồng của các dân tộc thiểu số. Đến cuối cùng, rồng từng bước thống nhất lại thành hình dạng Bàn long như bây giờ.

Con Bách túc long này chính là hợp thể của rồng và rết, không hiểu vì sao nhưng nhìn một cái thân rồng bình thường mọc ra một đống chân rết, chẳng những không thể hiện được sự uy vũ mà ngược lại còn khiến cho người ta nảy sinh cảm giác cực kì khó chịu, cảm thấy có phần quỷ dị.

Bàn Tử nghe Hoa hòa thượng giới thiệu xong liền cười nói: “Mặt Sẹo (4) à, thật không ngờ anh cũng đầy bụng chữ nghĩa nha. Tảng đá này hẳn là của cái nước Đông Hạ đó hả?”

Hoa hòa thượng ngắm nghía thạch điêu rồi lại ngẩng đầu nhìn sườn núi phía trên, ngờ vực nói: “Phải, có điều không biết khối đá khắc hình rồng này là từ đâu tới?”

Lúc này trời đã tối đen, chúng tôi đều bật đèn pin, một tay cầm đèn một tay gạt hết lớp tuyết phủ trên phiến đá kia xuống. Bấy giờ mới phát hiện ra đó là một khối đá bằng khổng lồ cao năm mét rộng ba mét, một mặt tựa vào sườn núi lởm chởm đá. Khối đá này cực kì bằng phẳng, lại còn đen tuyền một màu, không giống chất đá xung quanh chút nào.

Tôi xem xét chỗ nứt trên khối đá, nói: “Có thể khối đá này từ bên trên sụt xuống, ông Tư nói không sai, đích đến của chúng ta vẫn còn xa tít trên kia. Mọi người xem, con rồng này hình thể không cân đối, đây gọi là song long hí châu, vậy thạch điêu này có lẽ vẫn còn một phần nữa, thông thường sẽ khắc trên cửa đá, hai mặt như một.”

Trần Bì A Tứ ho khan một tiếng, cất giọng yếu ớt: “Nói láo! Hiểu biết nông cạn mà cũng đòi khua môi múa mép. Cửa đá cái đầu mi, khối đá này chính là phong thạch của mộ đạo.”

Nói rồi lão chỉ chỉ vào miệng rồng, Hoa hòa thượng lập tức đi tới, thò tay vào miệng rồng kéo mạnh một cái, nhưng chỉ kéo ra được một sợi xích sắt màu đen to cỡ cổ tay. Bàn Tử thấy thế liền nói: “Ai dà, thôi xong, ruột rồng cũng bị anh lôi ra cả rồi.”

Trần Bì A Tứ tiếp: “Lúc niêm phong mộ thất người ta dùng sợi mã liệm (5) này để kéo khối phong thạch kia, chứng tỏ đây là mặt quay vào trong.”

Tôi bị lão mắng đến đỏ mặt, giả bộ nhìn quanh: ” A, đúng là cháu nhầm rồi, nhưng tại sao phong thạch lại xuất hiện ở chỗ này chứ?”

Hoa hòa thượng dùng sức kéo mạnh sợi xích sắt nhưng tảng đá vẫn trơ ra không suy suyển. Nét mặt Trần Bì A Tứ cũng hiện lên tia nghi hoặc, lão lắc đầu, ngẩng cổ nhìn lên trên. Trong lòng tôi thầm than một tiếng, biết rõ lão đang lo lắng điều gì. Nếu khối phong thạch này từ trên kia rơi xuống, chẳng phải là minh chứng cho thấy mộ đạo phía trên đã bị phá hủy nghiêm trọng rồi sao? Chúng tôi dù có tìm ra nó thì chắc gì đã vào được?

Trên đầu bão tuyết vẫn đang thét gào, bầu trời đen kịt hẳn đã vào đêm. Tôi nhìn quanh quất, không biết trận bão tuyết này còn kéo dài bao lâu nữa.

Phát hiện ra khối thạch điêu này, mọi người càng thêm tin tưởng mình sẽ tìm ra thiên cung, nhưng tôi cũng không biết mình nên phấn chấn hay là chán nản. Hoa hòa thượng chụp lại thạch điêu, Trần Bì A Tứ đã khôi phục lại tinh thần, dặn chúng tôi trước tiên phải giữ gìn đồ đạc cá nhân cho kĩ, mệt mỏi thì nên nghỉ ngơi một lát. Nơi này vừa hay lại khuất gió, muốn làm gì thì cũng phải đợi gió ngừng rồi tính sau.

Chúng tôi bỏ trang bị ra kiểm tra lại, còn Hoa hòa thượng đi chăm sóc người bị thương kia. Tôi vừa lôi ra mấy thứ đồ thì hắn đã chạy tới bảo phiền phức rồi, Thuận Tử hình như không còn phản ứng.

Chúng tôi lay lay Thuận Tử, lắc thử đầu hắn. Hắn chỉ có thể trì trệ “A~” một tiếng, ý thức mơ hồ, vừa nhìn qua đã biết thân thể bị mất nhiệt.

“Chúng ta mau đốt lửa lên, bằng không hắn không chịu đựng nổi nữa đâu” Phan Tử lại gần, “Đã ngủ bấy lâu vẫn chưa chịu tỉnh lại.”

Tôi nhìn quanh quất bốn phía, căn bản không đào đâu ra củi, nếu muốn nhóm lửa có lẽ phải đốt xe trượt tuyết. Nhưng mà lên núi tuyết cần mang theo rất nhiều trang bị, không có xe trượt tuyết, chặng đường về sao chỉ e không thể đi tiếp.

Hoa hòa thượng nhìn Trần Bì A Tứ, rõ ràng không dám tự quyết. Trần Bì A Tứ sắc mặt cũng tái mét, không biết vì lạnh hay vì lý do nào khác, nhíu mày nói: “Tạm thời không thể để hắn chết, ta còn có chuyện phải hỏi.”

Tôi thở phào nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng bèn dỡ đồ đạc trên xe trượt tuyết xuống, chuẩn bị lấy gỗ nhóm lửa. Nhưng giờ này xe trượt tuyết cũng bị tuyết thấm ướt, không biết có còn bắt lửa nữa không.

Trong cơn lo lắng, tôi bất chợt ngửi thấy một mùi giống như lưu huỳnh, mùi này không biết từ nơi nào xộc tới khiến tôi giật nảy mình. Hoa hòa thượng ra hiệu đừng nhúc nhích, còn bản thân mình thì đứng lên, cẩn thận nghe ngóng. Những người khác cũng đồng thời ngửi thấy mùi này, ai nấy đều dừng hết những việc đang làm. Bàn Tử hít sâu một hơi, nói: “Các đồng chí, hình như có mùi của suối nước nóng!”

Trần Bì A Tứ đưa mắt ra hiệu cho Diệp Thành và Lang Phong, ý bảo bọn họ ra ngoài tìm kiếm. Bàn Tử đeo ba lô lên tỏ ý cũng muốn đi, kết quả là cả ba đều bị Phan Tử cản lại. Bàn Tử hỏi: “Chuyện gì?”, Phan Tử hất cằm về phía Muộn Du Bình: “Các anh vội cái gì chứ, đừng quên chúng ta có cao thủ.”

Lúc này Muộn Du Bình đã cúi người xuống, dùng hai ngón tay dài khác thường của mình lần mò tảng đá dưới chân, bỗng “A?” một tiếng rồi chuyển hướng sang khối phong thạch khắc hình Bách túc long.

Chúng tôi vòng ra mặt trước khối đá Bách túc long, trước đó chỗ này hoàn toàn không có mùi gì, bây giờ lại ngửi thấy mùi lưu huỳnh hết sức rõ ràng. Muộn Du Bình sờ lên đầu rồng, lại nhìn ra đằng sau khối đá, bàn tay đặt lên đầu rồng thả ra rồi lại ấn xuống, nói: “Lạ thật, phía sau cái đầu rồng này trống không.”

—————————————————

(1) Bách túc long: nghĩa đen là rồng trăm chân, đây không phải hình bách túc long trong truyện, chỉ là hình ảnh tương tự mình tìm trên mạng để cho dễ hình dung cái con quái này =)))
 
Quyển 4 - Chương 13: Khe nứt


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trường Bạch là một dãy núi lửa đã ngủ đông, căn cứ vào tài liệu lịch sử thì lần phun trào quy mô nhỏ gần đây nhất của nó hẳn đã kết thúc từ 1000 năm trước. Hiện giờ tuy núi lửa đã yên tĩnh trở lại nhưng những nguồn địa nhiệt quanh nó vẫn đặc biệt dồi dào, vô số khe nứt địa chất và miệng phun dung nham từ thời kỳ hoạt động vẫn còn duy trì nhiệt độ cực cao. Phía sau khối phong thạch Bàn long này không chừng còn đè lên một khe đất bốc hơi nóng, vì thế mới toát ra mùi lưu huỳnh.

Chuyện này đối với chúng tôi chắc chắn là một tin tốt lành. Trong hoàn cảnh này, có được nguồn nhiệt ổn định đương nhiên là tiết kiệm hơn hẳn so với đốt một đống lửa. Thế nhưng lại vướng tảng phong thạch Bàn long vĩ đại màu đen chèn chặt bên trên, liếc qua đủ biết phải nặng đến hơn mười tấn, chúng tôi lại không có bất kì thiết bị phá đá nào, muốn lật nó sang một bên quả là hơi khó.

Bàn Tử thuộc phái hành động, hăng hái vung tay kêu gọi chúng tôi cùng khuân tảng đá lên, có vài người cũng bước tới nhấc thử mấy cái. Nhưng cả đám ra sức khiêng tới nỗi đầu tóc nhễ nhại mồ hôi, mặt đỏ đến mang tai mà tảng đá vẫn không mảy may suy suyển.

Bàn Tử thở hổn hển, than vãn: “Không được rồi bố già ơi. Tôi đã bảo trang bị của chúng ta không dùng được rồi mà, bố xem giá lúc này có ít thuốc nổ thì tốt quá.”

Hoa hòa thượng đáp, anh không biết thì đừng có nói lung tung, ông cụ nhà này qua cầu còn nhiều hơn anh đi đường đấy. Không mang thuốc nổ là đúng rồi, anh nói coi giờ chúng ta đang ở dưới đáy khe, trên đỉnh đầu tuyết phủ trắng xóa, anh cứ thử đào bừa cái lỗ, chôn xuống quả mìn rồi cho nổ, chờ đám tuyết đọng bên trên chấn động sụt xuống xem có bị chôn sống ngay không.

Bàn Tử cứng họng, đúng lúc đó tôi lại thoáng thấy mép dưới của phiến đá Bàn long còn kẹp rất nhiều khối đá to nhỏ không đều, nảy ra một ý, bèn bảo bọn họ: “Có lẽ không cần dùng thuốc nổ đâu, để tôi thử xem.”

Nói rồi tôi lấy từ trong hành lý ra một chiếc búa đục đá, đến bên cạnh khối phong thạch Bàn long, cẩn thận kiểm tra mấy khối đá lớn bên dưới rồi nhắm chuẩn vào một tảng trong số đó mà khỏ một búa. Khối đá kia một mặt đã phải chịu sức nặng hơn mười tấn, nay lại phải nhận thêm nhát búa thốc từ bên sườn của tôi, tức khắc nứt ra một kẽ nhỏ. Tiếp đó là những tiếng đá nghiến vào nhau rào rạo liên hồi, tảng phong thạch Bàn long phía trên vì lực chống đột ngột biến đổi mà bắt đầu trượt xuống theo vách núi đá.

Chúng tôi gấp gáp lùi về phía sau, phiến phong thạch Bàn long trượt xuống vài tấc lại bắt đầu nghiêng ngả. Thế nhưng phiến đá kia thật sự quá nặng, chỉ trượt khỏi vị trí một chút đã ngừng lại. Nhưng như thế cũng đủ để chúng tôi nhìn thấy phía sau tảng phong thạch lộ ra một khe nứt nằm trên vách núi.

Khe đá này rộng vừa một đầu người, cố ép mình cũng có thể chui qua. Nhìn mép động thì thấy đường đứt gãy của nham thạch vẫn còn nguyên trạng, không có dấu vết đục đẽo của con người, mùi lưu huỳnh từ trong đó phả ra từng đợt.

Bàn Tử vặn đèn pin sáng lên, thò tay chiếu vào xem thử rồi quay đầu lại nói: “Trong này ấm lắm, mỗi tội góc độ thì quá khó đỡ, chẳng chiếu đến cái gì cả. Với lại, tường đá bên trong hình như còn viết chữ.”

“Viết cái gì vậy?” Tôi hỏi.

Bàn Tử nheo mắt nhìn cẩn thận một lát rồi đáp: “Đọc không nổi, mẹ kiếp chẳng biết nó viết cái của nợ gì.”

Nói rồi hắn lại định khom lưng chui vào, có điều Bàn Tử quả thực quá mập, hang động này hiển nhiên không vừa với hắn, cố nhét người vào mấy lần vẫn không được. Rốt cuộc hắn phải cởi tấm áo khoác bên ngoài ra mới miễn cưỡng chui lọt.

Trần Bì A Tứ lại bảo Diệp Thành, Lang Phong và Phan Tử ở lại bên ngoài, có gì còn tiếp ứng, còn chúng tôi theo sau Bàn Tử tiến vào trong khe hở.

Đây là một kẽ đá nứt ra do vận động tạo núi, đi vào rồi mới phát hiện nó đột ngột dốc thẳng xuống dưới, bên trong tối om om, xem ra khe này rất sâu, chỉ e nó thông thẳng vào trong lòng núi.

Không gian ngoài miệng khe nứt hơi chật, hai người không thể sóng vai cùng vào, hơn nữa trong khe rất khó đi, dưới chân toàn là những khối đá lớn góc cạnh lởm chởm. Mùi lưu huỳnh trong hang phải nói là nồng nặc, nhiệt độ ít nhất cũng tầm 30 độ C, đến cả đá cũng nóng rẫy lên.

Chúng tôi dùng cả chân lẫn tay nhích lên vài bước, Bàn Tử lấy đèn pin chiếu sáng một bên, bảo: “Các anh xem, đây là chữ gì?”

Tôi quay đầu sang, thấy đám chữ không được khắc lên vách khe nứt mà chạm trên một khối đá nằm ngang lẫn trong đống đá lộn xộn dưới đáy. Đây toàn là những chữ lạ lùng, có phần giống tiếng Trung, lại hơi na ná chữ Hàn, chạm khắc không theo thứ tự gì cả.

Hoa hòa thượng sáp lại gần nhìn thử rồi khẳng định: “Đây là chữ của người Nữ Chân(*).”

(Nữ Chân chính là dân tộc của hoàng thất nhà Thanh, vốn họ thuộc một nhóm các bộ tộc du mục sống tại vùng Mãn Châu – nay là đông nam Nga và đông bắc Trung Quốc – và miền bắc Triều Tiên, cũng tức là sát với dãy Trường Bạch Sơn trong truyện. Trong quá khứ họ từng thành lập nhà Kim, xung đột với triều Tống cho đến khi bị liên minh Tống và bộ tộc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn diệt quốc. Sau này họ lại nổi lên xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc của nhà Minh và lập ra triều Thanh, cũng chính là vương triều cuối cùng của giai cấp phong kiến Trung Hoa.)

“Nó viết cái gì thế?” Bàn Tử hỏi.

Hoa hòa thượng đáp: “Chờ chút, tôi đâu phải siêu nhân, phải xem kỹ mới biết được. Để tôi chép lại đã.”

Chúng tôi chờ một lát cho Hoa hòa thượng chép xong những chữ này vào sổ. Rồi Bàn Tử dẫn đầu, chúng tôi lại xếp thành hàng ngũ, tiếp tục đi sâu vào trong động.

Nói là đi, chứ thực ra dùng tay còn nhiều hơn chân. Toàn bộ khe nứt cơ hồ đều nghiêng 30 độ xuống dưới, lại không có bậc thang, gần như phải bò xuống. Bên trong khúc rộng khúc hẹp chỗ thấp chỗ cao, có nhiều nơi phải thụp người xuống mới luồn qua được.

Điểm duy nhất khiến người ta thoải mái là trong này ấm áp hơn rất nhiều, chúng tôi bò mãi cũng bắt đầu đổ mồ hôi, đành phải tháo bớt nút quần nút áo. Đúng lúc đó Bàn Tử lên tiếng: “Bố già ơi, phiến phong thạch chặn ngoài kẽ nứt kia hình như không phải ngẫu nhiên đúng không?”

Trần Bì A Tứ ậm ừ nói: “Phá núi xây lăng thường lấy vật liệu tại chỗ, bên ngoài nhiều đá vụn như thế, hẳn đây chính là công trường khai thác đá để xây lăng mộ. Khe nứt này dễ chừng bọn họ đã phát hiện ra trong khi lấy đá, không hiểu sao cuối cùng lại dùng phong thạch chặn lại.”

Còn chưa xuống đến 100 mét, mùi lưu huỳnh đã ngày càng nồng, nham thạch càng lúc càng đen, cũng bắt đầu phản chiếu ánh ngọc lóng lánh bảy màu, đó là dấu vết để lại sau khi đá mica bị nhiệt độ cao nung chảy. Tôi kêu úi cha một tiếng, trong lòng thầm nghĩ đây chắc là miệng phun dung nham của núi lửa rồi. Trường Bạch là ngọn núi lửa ngủ đông, lỡ như nó đột ngột tỉnh giấc, nham thạch nóng chảy từ trong lòng núi phun ra thì chúng tôi chết là cái chắc.

Tôi đang nghĩ ngợi lung tung, bỗng hai người đi đầu đoàn ngừng lại, chiếu đèn pin về phía trước. Thì ra khe nứt đằng trước đột ngột thu hẹp lại, đá vụn ngổn ngang, chỉ chừa ra một khe hở bé tý có thể chui xuống dưới.

Tôi ngồi thụp xuống, chiếu đèn pin vào bên trong. Nơi đây do khe nứt sụp xuống hình thành, không gian bên trong rất nhỏ, kiểu này chắc phải nằm hẳn xuống mới trườn vào được.

Trần Bì A Tứ nhìn thấy miệng cái khe, biết ngay với thể lực của mình thì đừng hòng bò vào nổi. Bàn bạc một lát, tôi bảo Hoa hòa thượng ở lại chờ chúng tôi với lão, còn tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình thì tiếp tục chui vào xem bên trong còn có thứ gì.

Chúng tôi cởi áo ngoài, cố giảm hết cỡ kích thước cơ thể mình. Lần này chúng tôi để Muộn Du Bình đi đầu, ba người lần lượt trườn xuống, từng tý từng tý một luồn dần vào cái khe kia.

Tôi cho rằng chỗ bị sụp xuống chỉ là một đoạn ngắn, cứ bò về phía trước vài bước khắc có lối ra. Nếu đúng là như thế thì chúng tôi có thể quay về kịp thời, ai dè cái khe này dài khiếp, bò mãi bò mãi vẫn chưa hết đường, quả là vượt quá dự liệu.

Những tảng đá trong khe đều sắc nhọn khác thường, mới bò được vài bước quần áo trên người tôi đã bị móc rách vài chỗ. Nham thạch đè ép phổi tôi, cộng thêm nhiệt độ ngày càng tăng khiến tôi dần dần cảm thấy khó thở.

Bàn Tử đi sau cũng có cảm giác giống tôi, bèn níu chân tôi lại, nói: “Không xong, thành phần không khí ở đây hình như có vấn đề, chúng ta chưa thăm dò đã tiến vào thế này là quá liều lĩnh.”

Tôi muốn ngoảnh lại nhìn nhưng không gian quá chật chội, thật sự không cách nào làm được. Nghĩ bụng nãy giờ đã trườn được một đoạn khá xa, quay lại thì cũng tiếc, hơn nữa tình hình hiện tại như vầy, chỉ e bò lại còn khốn khổ hơn bò đi, vì vậy tôi nói: “Tiến thêm vài bước nữa đi, nếu còn chưa đến đáy thì chúng ta lại lui ra ngoài.”

Bàn Tử ậm ừ. Đúng lúc này, Muộn Du Bình ở đằng trước bất chợt kêu lên một tiếng: “Hửm?”

Tôi quay đầu lại nhìn về phía trước thì thấy đằng đó trống trơn, Muộn Du Bình mới nãy còn chặn trước mặt tôi giờ đã không thấy đâu nữa, chỉ để lại cái khe nứt tối om om, chẳng biết thông đến tận đâu.

Từ lúc nghe thấy tiếng Muộn Du Bình cho đến khi phát hiện ra hắn biến mất ngay trước mắt tôi, tuyệt đối không quá năm giây. Cho dù có là một con chuột thì trong hoàn cảnh này cũng không thể nào biến mất trước mặt tôi nhanh đến thế, huống chi là một con người.

Tôi lập tức cảm thấy có gì không ổn, vô thức lùi lại một bước, định nhìn lại cho cẩn thận. Bỗng vụt một cái, lại thấy Muộn Du Bình hiện ra lù lù ngay trước mặt mình.

Bàn Tử bò sát phía sau, thấy tôi lùi một bước thì hốt hoảng khựng lại, lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

Nhất thời tôi cũng mù mờ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, bèn trả lời lấy lệ: “Không… không có gì đâu.”

Muộn Du Bình hình như cũng không biết chuyện kỳ dị vừa xảy ra với mình. Hắn dừng lại một lát, gọi chúng tôi một tiếng rồi bắt đầu tăng tốc trườn về phía trước.

Dù hắn thoắt ẩn thoắt hiện chỉ trong tích tắc nhưng tôi vẫn cảm nhận được hết sức rõ ràng. Tuy nhiên nhìn vào cảnh tượng trước mắt, bỗng dưng tôi lại không thể chắc chắn một trăm phần trăm. Trong lòng tôi cực kỳ hoang mang, lẽ nào là do không khí trong này khiến tôi sinh ảo giác?

Nhưng tình hình không cho phép tôi cân nhắc nhiều. Bàn Tử đằng sau kéo chân tôi thúc giục, tôi đành ôm cảm giác bực bội bò thêm một quãng. Lúc bò qua cái đoạn Muộn Du Bình vừa biến mất kia, tôi đặc biệt chú ý quan sát xung quanh nhưng không thấy bất kì chỗ lõm hay cái gì tương tự có thể khiến tôi sinh ra ảo giác, trong lòng mơ hồ dấy lên cảm giác bất an.

Qua khúc này lại đi thêm tầm mười phút nữa, Muộn Du Bình bất chợt thả lỏng, cả người rướn ra ngoài dò xét. Tôi thấy trước mặt trở nên rộng rãi, biết rằng đã đến lối ra.

Phần cuối của khe nứt là một đống lớn đá ngổn ngang. Sau khi leo ra, Muộn Du Bình bẻ vài khúc gậy huỳnh quang ném ra tứ phía, ánh sáng ấm áp màu vàng lan tỏa khắp không gian. Tôi quay đầu lại nhìn, nhận thấy đây hẳn là chỗ rộng rãi nhất của cả cái khe nứt trong lòng núi này, chiều rộng cỡ bốn năm chiếc xe bảy chỗ hiệu Kim Bôi, chiều dài đại khái bằng nửa sân bóng rổ, bên dưới lổn nhổn toàn đá vụn lớn có nhỏ có, đều là bị hoạt động địa chất xảy ra vào thời điểm hình thành cái khe này lắc cho vỡ xuống.

Bàn Tử điều chỉnh quầng sáng của đèn pin chiếu rộng ra, quan sát bốn phía rồi nói: “Quái lạ, chỗ này mà còn có bích họa. Xem ra chúng ta không phải những người đầu tiên tới đây rồi.”

Chúng tôi bước tới, phát hiện trên vách khe đúng là có bức bích họa lớn nhiều màu sắc. Nhưng tình trạng bảo tồn của bức bích họa này cực kỳ kém, màu sắc nhạt phai, đường nét bên trên phải cố gắng lắm mới nhìn ra nó na ná hình vẽ Thiên nữ phi thiên.

Những người tiến vào đây đã lấy một phiến đá vĩ đại bít cửa, bên trong lại còn có bích họa. Đây rốt cuộc là nơi nào? Một lần nữa, tôi lại cảm thấy hoang mang.

Quanh quẩn vài vòng, chúng tôi phát hiện ra vài miệng suối nước nóng giữa lớp đá vụn, tuy cái nào cũng rất nông, nhưng bốc lên hơi nóng hôi hổi hấp dẫn không sao tả xiết. Tuy nhiên, chúng tôi lại không phát hiện ra dấu vết cho thấy có những người khác đã từng hoạt động ở đây.

Từ sâu bên trong khe nứt thỉnh thoảng phả ra những luồng gió nóng bỏng. Tôi qua đó chiếu đèn vào trong, khe này sâu không thấy đáy, chẳng biết nó còn thông đến tận đâu.

Sau khi trao đổi ý kiến, chúng tôi thống nhất không phải vào sâu thêm nữa, đây đã là chỗ tránh bão tuyết lý tưởng rồi. Bàn Tử kiểm tra không khí, thấy không có vấn đề gì quá lớn, bèn thắp ngọn đèn bão lên duy trì ánh sáng. Muộn Du Bình lại bò qua cái khe nhỏ hẹp đã đưa chúng tôi tới đây, ra báo cho những người ở bên ngoài.

Lát sau Hoa hòa thượng và Diệp Thành đã lần lượt chui vào, Thuận Tử cũng được Phan Tử kéo đến nơi. Tôi lập tức kiểm tra bệnh tình của Thuận Tử, nhận ra nhờ hơi ấm trong này mà sắc mặt hắn đã bắt đầu hồng hào hơn, nhưng tay chân vẫn lạnh ngắt, không biết còn có thể cố gắng chống đỡ hay không.

Suốt quãng đường lên đây đều do Thuận Tử dẫn chúng tôi đi, nếu hắn chết thì cũng chưa đến nỗi không đi nổi nữa, nhưng tóm lại sẽ rất khó khăn. Hơn nữa tôi cũng rất quý mến người này nên thật sự không muốn một người vô tội như thế lại phải bỏ mạng vì chúng tôi.

Hoa hòa thượng kiểm tra nhịp tim và mạch đập của hắn, sau đó lại bảo tôi tránh ra, dấp nước nóng đẫm chiếc khăn mặt rồi đặt trên tảng đá cho nguội bớt, sau đó dùng nó lau người cho Thuận Tử, đợi đến khi toàn thân hắn được chà xát đến đỏ lựng lên rồi mới tưới lên người hắn chút nước nóng. Thuận Tử bắt đầu ho khan dữ dội, mí mắt co giật.

Chúng tôi thở dài nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng nói: “Xong rồi, hắn không chết được đâu.”

Bầu không khí dịu đi, Bàn Tử và Diệp Thành đều lấy thuốc lá ra hút. Lúc này Trần Bì A Tứ cũng được Phan Tử đỡ vào.

Trải qua lần biến cố liên tiếp này, chúng tôi lâm vào tình trạng kiệt sức, cũng chẳng còn hơi đâu mà nói chuyện nữa, ai nấy đều tự tìm một chỗ thoải mái mà ngả lưng xuống.

Tuyết trên người vì nhiệt độ thay đổi mà tan thành nước, quần áo giày dép bắt đầu thấm hơi ẩm, chúng tôi phải lột quần áo ra phơi lên mấy tảng đá khô. Diệp Thành lấy đồ hộp nén nhỏ ra, ném vào suối nước nóng ngâm một lát rồi phân phát cho mọi người.

Tôi vừa ăn vừa cùng Hoa hòa thượng ngắm bức bích họa vừa phát hiện ban nãy. Chỗ này rõ ràng là do thiên nhiên tạo thành, hơn nữa không gian lại hẹp, tại sao phải vẽ bích họa làm gì? Việc Muộn Du Bình đột nhiên biến mất ngay trước mắt tôi vừa rồi, cùng với tảng đá vĩ đại chắn ngang cửa động đã cho tôi một cảm giác rất bất thường.

Người làm việc với đồ cổ luôn cảm thấy cực kì hứng thú với những vật truyền lại một lượng thông tin lớn như bích họa và phù điêu. Những người khác thấy chúng tôi chăm chú nhìn, cũng dần dần bước tới.

Nhưng trên tấm bích họa này lại không chứa nhiều thông tin cho lắm. Hình Thiên Nữ Phi Thiên được vẽ lên tường ở nhiều nơi trong cung đình hoa lệ hay in lên đồ thờ cúng chỉ để thể hiện những màn ca múa tưng bừng mừng cảnh thái bình thịnh vượng, chứ thực tế chẳng có ý nghĩa gì. Tấm bích họa tàn tạ này nhiều khả năng cũng chỉ là vật tương tự, có mặt tại đây lại toàn những người thường xuyên ra vào cổ mộ, nhìn nhiều phát nhàm, liếc qua đã chẳng có hứng xem xét gì nữa.

Trên đoạn đường tới đây tôi đã đổ mồ hôi đầm đìa, đầu ngón chân tê cóng, đau đến dại đi. Đúng lúc tôi đang định về chỗ, ngồi xoa bóp mấy đầu ngón chân thì lại nghe Bàn Tử chắt lưỡi một tiếng, chìa ngón cái ra, bắt đầu cậy bức bích họa.

Tôi bèn hỏi hắn làm sao thế, thứ này tuy không có giá trị nhưng dù gì cũng là di vật của người xưa, anh không thế phá hoại nó chứ.

Bàn Tử trả lời: “Cậu lảm nhảm cái gì đấy, móng tay tôi mà không có giá à? Đồ đạc bình thường tôi có thèm bóc bao giờ đâu. Cậu tự qua đây mà xem, bích họa này có hai tầng đấy!”

“Hai tầng á?” Tôi hửm một tiếng, nhíu mày, trong lòng tự hỏi thế nghĩa là sao?

Mọi người bắt đầu chụm lại, tới xem rốt cuộc hắn đang nói gì. Hắn chìa đầu ngón tay cho chúng tôi xem, chỉ thấy trên đó dính lại chất chu sa màu đỏ bị cạo ra. Nhìn lại vị trí trước mặt hắn, quả nhiên trong góc bức bích họa có một khoảng đường nét không hề liên quan đến xung quanh, thứ được vẽ cũng không giống. Chẳng qua chỗ này nằm hơi khuất, nếu không nhờ Bàn Tử tinh mắt, chúng tôi tuyệt đối không thể nhìn ra.

Điều này chứng tỏ đã có người vẽ chồng một tầng lên trên tấm bích họa gốc, che khuất hình vẽ ban đầu bằng hình vẽ này.

Tầng phía trên do phơi ngoài không khí, lâu dần tróc ra, để lộ bích họa đằng sau, chuyện này cũng thường xảy ra đối với tranh sơn dầu.

Bàn Tử tiếp tục lấy ngón tay lần lần trên bức bích họa, phát hiện ra tầng ngoài cùng này hình như cũng chưa được thi công hoàn thiện, cho nên Bàn Tử vừa cạo đại một cái đã có thể cào rụng lớp màu bên ngoài một cách đơn giản. Bằng không nếu như làm đủ thao tác, bích họa từ thời Đường trở đi đều phủ lên một lớp vật liệu trong suốt đặc thù; tầng này giống như lớp sơn bảo vệ hình vẽ, khiến cho nó không dễ bay màu, cũng không dễ tróc ra.

Đôi mày Trần Bì A Tứ nhíu lại thật chặt. Rất nhanh chóng, một mảng bích họa lớn cỡ cái chậu rửa mặt đã bị lột xuống, trên bức họa đằng sau xuất hiện nửa cỗ xe ngựa được vẽ với năm màu. Chủ nhân cỗ xe ngựa này là một người đàn ông phốp pháp, phục sức trên người ông ta tôi chưa thấy bao giờ.

Đây là loại bích họa tự sự, tôi bỗng nhiên cảm thấy hồi hộp.

Rõ ràng đã có người vẽ lên đây một tấm bích họa tự sự trước, nhưng vì nguyên nhân nào đó lại dùng một bức họa khác thay thế hết sức vội vàng, hơn nữa có lẽ do thời gian cấp bách nên không thể làm nốt thao tác cuối cùng để hoàn thành tấm bích họa bên ngoài này.

Trần Bì A Tứ ngắm nghía tấm bích họa này, lại nhìn quanh quất một vòng rồi nói với chúng tôi: “Thứ này… có liên quan tới thiên cung. Bóc toàn bộ mặt tường ra đi, để xem bức họa bên trong kể lại chuyện gì.”

Tôi đã muốn ra tay từ khuya rồi, bèn từ một đầu khác chìa móng tay ra, cẩn thận làm việc, bóc đi lớp bích họa trên tường đá.

Bức họa bong ra từng mảng lớn, chỉ trong chốc lát, một cuộn tranh khí thế hào hùng, màu sắc tươi đẹp đã dần dần trải ra trước mắt chúng tôi…
 
Quyển 4 - Chương 14: Hai lớp bích họa


Editor: Biển, Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bốn phía yên tĩnh đến rợn người, ngọn đèn bão được treo lên vách đá để tăng cường độ sáng, ánh đèn nhợt nhạt chiếu lên tầng nham thạch cho người ta cảm giác thần bí cổ xưa.

Màu sắc tấm bích họa vô cùng rực rỡ, chủ yếu dùng sắc đỏ tươi như máu, dưới ánh sáng chập chờn lại trở nên lấp lánh, dường như cả khối nham thạch đang ứa máu tươi. Bích họa ẩn giấu bên dưới một lớp phẩm màu khác lại được bảo tồn tốt đến nhường này, thật là không sao tưởng tượng nổi.

Nhưng nội dung tấm bích họa mới khiến chúng tôi thực sự kinh ngạc, những gì được vẽ trên đó rất khó diễn tả bằng lời. Tấm bích họa được chia làm hai phần, ghi lại hai sự kiện khác nhau nhưng khi ghép chung một chỗ trông vẫn rất hoàn chỉnh, đẹp đến lung linh huyền ảo.

Hoa hòa thượng thấy hai mắt tôi sáng rực lên thì lẩm bẩm: “Đây là cảnh tượng cuộc chiến giữa hoàng đế Vạn Nô của Đông Hạ và người Mông Cổ, cậu nhìn người này đi, xem ra y chính là Vạn Nô vương, đây rất có thể là trận chiến diệt nước Đông Hạ trong truyền thuyết.”

Hiểu biết của tôi về Đông Hạ vô cùng hạn hẹp, những người khác hiển nhiên cũng không hơn gì, ai nấy đều yên lặng nghe ông ta nói tiếp.

Ông ta đi đi lại lại vừa trầm trồ thán phục, vừa ngắm nghía hình vẽ trước mặt rồi chỉ tay vào một vị trí trên bức bích họa, nơi có rất nhiều binh lính vai mang khôi giáp và da tê tê, nói: “Đây là quân Vạn Nô vương”, lại chỉ vào kỵ binh bên kia: “Còn đây là lính Mông Cổ, các cậu xem, nhân số hơn xa quân Đông Hạ đến mấy lần, rõ ràng là một cuộc chiến không hề cân sức.”

Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ, thấy tên bay tán loạn đá bắn tứ tung, Bàn Tử nhìn một hồi chẳng hiểu sao lại cảm thấy kỳ lạ, liền hỏi: “Vì sao quân Đông Hạ người nào người nấy mặt mũi trông như phụ nữ thế này?”

Tôi cũng thấy lạ, chẳng lẽ người Đông Hạ lại để phụ nữ ra trận đánh nhau sao? Nếu thế thì không mất nước cũng uổng. Hoa hòa thượng đáp: “Không phải, đây là một trong những đặc trưng của bích họa Đông Hạ, những người cậu nhìn thấy đều thanh tú mỹ miều, tôi cũng từng tra trong điển cố ra vài hiện tượng kỳ quái, hình như những ai đã từng tiếp xúc với người Đông Hạ đều nói ở Đông Hạ không thấy người già, dân nước này đều ở độ tuổi rất trẻ. Dân Triều Tiên thì kể rằng người Đông Hạ đến lúc chết vẫn giữ được dung mạo trẻ trung.” *Đây là lí do anh Bình không bị lão hóa đó hả…*

Bàn Tử cau mày, dường như không thể nghĩ ra tại sao lại có chuyện như thế, tôi cảm thấy điều này có thể liên quan đến tập tục của một vài dân tộc thiểu số, có những tộc người không cho phép người già gặp khách. Tôi không quan tâm lắm, lại cùng mọi người tiếp tục xem xét.

Hoa hòa thượng lại chỉ tới phần thứ hai của bích họa, nói: “Phần này mô tả lại diễn biến trận đánh. Các cậu xem, người Đông Hạ lấy một chọi ba, cuối cùng lần lượt bị người Mông Cổ bắn chết, trận chiến này rốt cuộc biến thành một trận thảm sát.”

Trên bích họa dùng rất nhiều mảng đỏ để diễn tả sự thảm khốc của chiến tranh, mang đến cảm giác rất thật, dường như như tôi đang được tận mắt chứng kiến từng nhóm từng nhóm quân Đông Hạ ngã vào vũng máu, kỵ binh Mông Cổ giẫm đạp lên thi thể của họ, bắt đầu thiêu hủy nhà cửa, tàn sát đàn ông.

Phần thứ ba của bích họa bị che khuất sau một tảng đá lớn, chúng tôi không thể dời đi nhưng có thể đoán biết nội dung của nó là phần kế tiếp hai bức kia.

Lúc này tôi bỗng cảm thấy ngờ vực, bèn nói chen vào: “Không đúng, cái nước Đông Hạ này chẳng phải đã bị người Mông Cổ tiêu diệt từ đời tám hoánh rồi sao? Tôi thấy trong tài liệu có nói bọn họ tồn tại được hơn bảy mươi năm, lại chinh chiến liên miên, nếu bảo Vân Đỉnh Thiên Cung là do bọn họ xây nên thì với điều kiện thời đó, một quốc gia nhỏ làm sao có thể xây dựng một lăng mộ quy mô hoành tráng nhường này?”

Tôi vừa dứt lời đã có nhiều người tỏ vẻ đồng tình, Đông Hạ là nhà nước xuất hiện trong thời gian rất ngắn ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang khi Nữ Chân diệt quốc, theo trí nhớ của tôi thì hoàng đế khai quốc Vạn Nô vương thậm chí còn không kịp truyền ngôi cho đời sau đã bị người Mông Cổ vòng qua Triều Tiên tiêu diệt. Đó chính là thời kỳ Mông Cổ hùng mạnh nhất, gặp thần giết thần gặp phật giết phật, cảnh tượng được mô tả trên bích họa nếu đúng là trận quyết chiến kia, với tính cách của người Mông Cổ, họ hẳn phải bị tàn sát sạch sẽ mới đúng.

Mà thời đó sức sản xuất của các bộ tộc Nữ Chân rất yếu kém, không thể huy động quá nhiều nhân công, dù không bị diệt quốc đi chăng nữa thì căn bản cũng không thể xây dựng nên một lăng mộ hoành tráng nhường này.

Theo lời Trần Bì A Tứ thì trong Vân Đỉnh Thiên Cung thật sự chôn cất hoàng đế Đông Hạ, chuyện này nghĩ sao cũng thấy thật hoang đường, bởi lẽ bọn họ không có đủ thời gian cũng như thực lực.

Càng vô lý hơn, nếu dựa theo những thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển mà suy đoán thì tòa lăng mộ trong truyền thuyết này hẳn là do Uông Tàng Hải xây dựng, như vậy thời gian thi công có lẽ vào cuối triều Nguyên, khi đó nước Đông Hạ đã bị tiêu diệt từ hàng trăm năm trước, đào đâu ra hoàng đế Đông Hạ để mà chôn cất chứ.

Chúng tôi đều đưa mắt về phía Trần Bì A Tứ, lão chính là người nói ra câu hoàng dế Đông Hạ được táng trong Vân Đỉnh Thiên Cung, nhưng bây giờ xem xét lại thì dường như giả thiết này hoàn toàn sụp đổ.

Trần Bì A Tứ biết chúng tôi đang nghĩ gì, mặt mũi lạnh tanh liếc qua bích họa, cười nhạt một tiếng rồi nhìn sang Hoa hòa thượng: “Nếu các người không tin, vậy thì hòa thượng, anh nói cho bọn họ biết đi.”

Hoa hòa thượng dạ một tiếng rồi quay sang chúng tôi cười nói: “Tôi biết các cậu đang hoài nghi điều gì, và tôi dám chắc các cậu đều nghĩ sai cả rồi. Những tài liệu viết về Đông Hạ mà các cậu đã xem hầu hết đều được suy ra từ mấy cuốn sách cổ không còn nguyên vẹn. Trên thực tế tài liệu về nước Đông Hạ còn lưu lại thật sự quá ít ỏi, ở nước ngoài người ta thậm chí còn không thừa nhận đã từng có một quốc gia như vậy tồn tại, cho nên thông tin các cậu thấy bây giờ thực ra cũng rất khó đánh giá độ chính xác.”

Bàn Tử nói: “Nếu đã thế thì ông dựa vào đâu mà khẳng định tài liệu của ông là đúng.”

Hoa hòa thượng trả lời: “Bởi vì tài liệu của chúng tôi trực quan hơn.” Ông ta móc một tấm lụa trắng từ trong túi áo lót, trải ra trước mắt chúng tôi. Tôi vừa nhìn thấy, ruột gan bỗng chốc rơi tuột xuống.

Không ngờ thứ đó chính là con Xà mi đồng ngư trong buổi bán đấu giá.

Tại sao nó lại nằm trong tay bọn họ, chẳng phải đã nói là không có người mua sao? Tôi nhíu mày, đột nhiên hiểu ra.

Đã không có người mua, mà cá lại nằm trong tay Trần Bì A Tứ, vậy lẽ nào Trần Bì A Tứ chính là người bán?

Toàn thân tôi run rẩy, cố gắng giữ thân thể ổn định, không để cho bản thân lộ ra vẻ mặt quá mức kinh ngạc. Thế nhưng lòng mề đã xoắn thành một cục, vô số câu hỏi bùng nổ trong đầu, nhất thời cũng không biết mình đang sợ hãi hay là hưng phấn, chỉ thấy tay chân đột ngột lạnh ngắt như bị rút máu.

Hoa hòa thượng không hề để ý đến nét mặt của tôi, tiếp lời: “Loại cá đồng này là một biến thể của rồng, cụ nhà chúng tôi nhờ cơ duyên xảo hợp mới lấy được, tôi tin chắc người chế tác ra nó phải biết rõ nội tình nước Đông Hạ. Lạ nhất là người này sử dụng thủ pháp vô cùng khéo léo để lưu lại một đoạn thông tin tuyệt mật trên thân cá, các cậu xem đi.”

Ông ta đưa con cá lại gần đèn bão, những mảnh vẩy cá mạ vàng phản chiếu ánh kim lấp lánh, in lên bức bích họa vô vàn điểm sáng li ti. Hoa hòa thượng dịch chuyển thân cá, những điểm sáng bắt đầu biến đổi, dần dần lại hóa thành những con chữ lốm đốm.

“Bí mật nằm ở đây, trên vẩy cá này tổng cộng ẩn giấu bốn mươi bảy chữ Nữ Chân.”

Trong lòng tôi a lên một tiếng, thầm nhủ hóa ra còn có thứ kỹ xảo này. Tôi nắm chặt hai con Xà mi đồng ngư trong túi, lắp bắp hỏi ông ta: “Nó…nó viết cái gì vậy?”

“Vì tư liệu trên con cá không hoàn chỉnh nên tôi còn chưa giải mã được hết. Nhưng tôi có thể khẳng định, người làm ra con cá này muốn ghi lại vài chuyện mà không muốn người ta phát hiện ra, lưu giữ lịch sử chân thực của Đông Hạ.” Hoa hòa thượng nói có phần đắc ý, “Thật ra trước khi nhìn thấy vật này, căn cứ vào rất nhiều dấu vết để lại, tôi đã suy đoán rằng nhà nước Đông Hạ chắc chắn từng tồn tại, có điều họ đã rút sâu vào núi lớn, vả lại không biết dựa vào điều gì mà một nhà nước nhỏ bé yếu ớt như thế vẫn đứng vững vàng giữa một bên là Mông Cổ hùng mạnh vô song, một bên là Triều Tiên như hổ đói rình mồi trong suốt mấy trăm năm. Tôi từng nghiên cứu ghi chép của Cao Ly (tên cũ của Triều Tiên), mãi cho đến trước khi nhà Minh thành lập, còn có người đào sâm bắt gặp những kẻ ăn mặc kỳ quái hoạt động ở chỗ này. Tôi nghĩ đó là một bộ phận dân cư còn sót lại của nước Đông Hạ.”

Ông ta lại chỉ vào con cá, nói tiếp: “Những mẩu ghi chép vụn vặt trong này đã chứng minh cách nghĩ của tôi là đúng. Nước Đông Hạ sau khi quyết chiến với Mông Cổ đã lui đến biên giới giữa Cát Lâm và Triều Tiên, vẫn náu mình tồn tại suốt mấy trăm năm, tổng cộng có mười bốn vị hoàng đế. Mông Cổ và Triều Tiên không dưới một lần muốn tiêu diệt đất nước bé nhỏ này, nhưng vì một lý do kỳ lạ mà tất cả đều thất bại.”

“Lý do gì?” Phan Tử hỏi: “Hòa thượng, anh nói chuyện thẳng thắn chút được không?”

Hoa hòa thượng nhún vai: “Tôi không biết. Tư liệu trên con cá kia không đầy đủ, đảm bảo còn có vật khác ghi lại phần còn thiếu. Nhưng căn cứ vào những chữ trong tay, tôi dám nói nước Đông Hạ đứng vững được hẳn là vì đã có những chuyện vô cùng ly kỳ xảy ra, còn nội dung phía sau thế nào thì chịu. Chúng tôi vẫn luôn muốn tìm, nhưng tiếc thay ông cụ nhà chúng tôi đã lùng sục bao nhiêu năm vẫn không thấy những phần khác đâu cả.” Ông ta ngừng một lát rồi lại nói: “Các cậu có biết câu cuối cùng trong đống chữ Nữ Chân này nói gì không?”

Tôi thầm nghĩ tụi này biết thế quái nào được, Diệp Thành đã tiếp lời: “Là gì?”

Hoa hòa thượng nhìn chúng tôi rồi bảo: “Trên này viết, Vạn Nô Vương của các triều đại đều không phải là người.”

“Không phải người thì là cái quái gì?” Bàn Tử thốt lên.

Hoa hòa thượng cất con cá đi: “Trên này viết, bọn họ đều là một loại quái vật từ dưới lòng đất bò ra!”

Không phải chứ, tôi nghĩ thầm. Mọi người nhìn nhau, xem chừng trong lòng đều đã hơi rờn rợn. Diệp Thành lại hỏi: “Cũng không thể nói như thế được, hay ý họ muốn ví hoàng đế với rồng, chứ không phải người phàm?”

“Tôi vốn cũng nghĩ người này chỉ muốn dùng lối ví von chân long thiên tử vậy thôi, nhưng sau này nghiên cứu thêm mới phát hiện người này khả năng chỉ muốn ghi lại một vài bí mật, khách quan hơn so với ghi chép lịch sử của Đông Hạ, nên hẳn là sẽ không dùng ngôn ngữ cung kính vậy đâu. Hơn nữa, nếu sự thực đúng như lời anh nói thì hãy tưởng tượng mà xem, giả sử anh chúc thọ hoàng đế mà vừa mào đầu đã nhả một câu: bệ hạ, ngài thật không phải người, chỉ e câu thứ hai chưa nói ra anh đã bị lôi đi lăng trì rồi. Làm gì có ai viết kì cục như vậy.” Ông ta cười khó hiểu: “Hơn nữa câu sau cùng viết cực kỳ rõ ràng, cực kỳ khiếm nhã, tôi vẫn canh cánh trong lòng. Nếu ta tìm được những phần khác thì hẳn là sẽ giải mã được rốt cuộc những lời này có ý nghĩa gì.”

Bàn Tử và Muộn Du Bình đều biết kỳ thật hai con cá đồng còn lại hiện giờ đang ở trong tay tôi, nhưng vì thận trọng nên bọn họ đều không lên tiếng. Tôi bóp chặt cá đồng trong túi áo, đột nhiên cảm thấy chúng trở nên nặng trĩu.

Nhất thời tôi cũng không biết mình có nên lấy hai con cá này ra không. Thực ra hai con cá này đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôi không đọc được chữ Nữ Chân, có xem cũng chẳng hiểu cóc khô gì sất. Nhhưng nếu giao cho bọn họ thì tôi lại thấy không ổn chút nào.

Phan Tử nhìn chằm chằm vào tấm bích họa, lẩm bẩm với chính mình rằng người được cho là Vạn Nô vương trên bích họa kia trông cũng giống người chứ nào có vẻ gì là quái vật. Bàn Tử vỗ vỗ anh, nói với Hoa hòa thượng: “Anh Mặt Sẹo, tôi bảo này, anh giải mã cái quái gì, chúng ta là người thực dụng, đừng ra vẻ phần tử trí thức, đến lúc quan tài mở ra thì là người hay chó khắc rõ ràng ngay thôi.”

Hoa hòa thượng cười cười lên tiếng: “Ý tôi là, biết người biết ta vẫn hơn.”

“Có điều, thằng vẽ bích họa không dưng lại vẽ mấy cái này ở đây làm quái gì nhỉ?” Bàn Tử hỏi: “Để nhắc mình khỏi quên nợ nước thù nhà à?”

Hoa hòa thượng lắc đầu, hiển nhiên cũng không hiểu rõ lắm. Tôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Có khi là muốn hoàn thành bích họa ở đây rồi dỡ cả khối đá xuống, còn không thì chắc là vẽ để giết thời gian thôi. Anh xem trong này ấm áp, có lẽ lúc đó thợ thuyền cũng vào đây nghỉ ngơi mà.”

Chẳng ai thèm tin tôi. Hoa hòa thượng bắt đầu chụp lại mấy thứ này để lưu lại làm tư liệu.

Chúng tôi nghỉ ngơi đã đủ, dần dần hồi phục tinh thần, bắt đầu cắt lượt nghỉ ngơi. Trần Bì A Tứ lại cử người của lão thay phiên ra canh bên ngoài, chừng nào tuyết ngừng rơi thì bò vào báo cho chúng tôi, còn chúng tôi bắt đầu thay phiên nhau ngủ.

Khi tôi tỉnh giấc thì Thuận Tử cũng vừa tỉnh lại, không ngừng xin lỗi chúng tôi. Bàn Tử không thèm quan tâm đến hắn, tôi lấy đồ cho hắn ăn, lại bảo anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, tôi còn phải nhờ anh tiếp tục dẫn lên mà.

Trong này không có mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng, cũng chẳng biết thời gian đã qua bao lâu, đại khái là chờ hai ba ngày thì tuyết rốt cuộc cũng ngừng rơi. Chúng tôi lục tục leo ra khỏi cái khe, bên ngoài đã trời quang mây tạnh, xung quanh là một thế giới bao la trắng xóa.

Sửa soạn lại trang bị mới phát hiện mấy ngày nay chúng tôi đã ăn quá nhiều, đoán chừng nếu không có tiếp tế thì chưa đi đến đích đã cạn sạch lương thực. Hỏi Thuận Tử xem có cách nào không, hắn nói đã lên vùng núi phủ tuyết thì bó tay rồi, bằng không phải quay trở về, hoặc là phân phối đồ ăn ra, chịu khó nhịn bớt một chút.

Lúc ở trong khe nứt, Trần Bì A Tứ đã dạy chúng tôi rất nhiều mánh lới sử dụng trên núi tuyết, ví dụ như dùng băng vệ sinh làm lót giày có thể hút mồ hôi, giữ cho bàn chân khô ráo, toàn thân ấm áp. Chúng tôi làm theo cách của lão, quả thật không tồi, có điều chính mình cũng thấy chướng, cứ nghĩ nếu vào cổ mộ rồi vứt lại mấy thứ này trong đó, vài năm sau có đội khảo cổ đào ra, nhìn thấy cái của nợ này nằm chình ình bên cạnh quan tài thì không biết sẽ có vẻ mặt gì. *Êm vái cả nón trí tưởng tượng phong cmn phú của bạn Tà =))*

Chúng tôi dùng dây thừng leo lên sườn dốc mà mình đã ngã xuống, thấy trên mặt đất chi chít những dấu chân ngựa mới tinh. Bàn Tử ngồi thụp xuống xem xét rồi nói: “Đám người A Ninh kia xem ra đã vượt qua chúng ta, giờ đang ở tít đằng trước rồi.”

Chúng tôi không nói thêm lời nào, đeo kính chắn gió rồi gấp rút lên đường. Hai giờ sau, trên một sườn núi, chúng tôi thấy đội của A Ninh. Bọn họ hiển nhiên cũng chịu tổn thất rất lớn, ba mươi người giờ chỉ còn có hai mươi, số ngựa cũng bị rút xuống một nửa, nhìn toét mắt cũng không thấy tăm hơi chú Ba tôi đâu.

Chúng tôi bắt đầu lẳng lặng ẩn nấp, quan sát bọn họ. Tôi thấy A Ninh nâng ống nhòm chăm chú nhìn về một phía, muốn trông theo hướng cô ả đang nhìn nên cũng nheo mắt lại.

Chỉ thấy ngoài xa, không biết là trong màn tuyết hay mây mù, đứng sừng sững một ngọn núi tuyết lớn, hợp thành một thể với những mạch núi khác, lại cao chót vót đên bất thường. Đó chính là ngọn núi tuyết tôi từng thấy trong ngôi mộ dưới đáy biến sâu, hình dáng của nó dường như không khác mấy so với trong hình vẽ.

“Đúng chỗ này rồi.” Tôi thầm nhủ trong lòng, chỉ vào ngọn núi kia, ngoảnh đầu lại hỏi Thuận Tử: “Kia là núi gì? Làm sao qua đó bây giờ?”

Thuận Tử đưa tay lên che nắng, vừa nhìn đã biến sắc: “Thì ra các anh muốn đến đấy à?! Chỗ kia không đi được đâu!”
 
Quyển 4 - Chương 15: Ngũ Thánh tuyết sơn


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Chờ cho trận bão tuyết tan đi, chúng tôi tiếp tục lên đường. Trên một sườn dốc, chúng tôi thấy đoàn ngựa thồ của A Ninh, đồng thời cũng cũng phát hiện ngọn núi tuyết thần bí trên bức tranh trong cổ mộ dưới đáy biển đột ngột hiện ra nơi cuối tầm mắt. Nhưng vừa mở miệng hỏi đi đường nào để tới nơi thì Thuận Tử đã lắc đầu, nói chúng tôi tuyệt đối không thể đến đó.

“Tại sao?” Tôi nghi hoặc hỏi, thầm nghĩ không phải anh đã nói tám trăm dặm núi tuyết này, ngọn núi nào anh cũng đều đặt chân lên cả rồi ư? Sao ngọn kia lại không thể lên?

Thuận Tử giải thích: “Ngọn núi kia tên là Tam Thánh, núi này chỉ có một phần nhỏ thuộc về chúng ta, từ ranh giới phủ tuyết đổ về bên kia đều thuộc lãnh thổ Triều Tiên, chúng ta không thể vào được.”

Bàn Tử đờ người một lúc, hỏi lại: “Mẹ kiếp! Không thể nào! Núi Tam Thánh, chẳng lẽ chính là ngọn núi tuyết năm xưa Bành tổng tư lệnh dẫn quân tiếp viện Triều Tiên kháng Mỹ, bộ phận hậu cần của quân tình nguyện đã xây dựng con đường huyết mạch vượt qua nó sao?”

(Bành tổng tư lệnh tức Bành Đức Hoài, người lãnh đạo Chí nguyện quân Trung quốc tham chiến ở Triều Tiên)

Thuận Tử gật đầu nói: “Phải, chính là ngọn núi kia. Độ cao so với mực nước biển của nó là hơn 3400 mét, vượt qua ngọn núi này chính là vùng núi non của Triều Tiên.”

Tôi nghe vậy, trong lòng thầm nghĩ thôi tiêu rồi.

Ngọn núi Tam Thánh này, nếu ai đã từng đi lính hoặc có hứng thú với lịch sử cận đại của Trung Quốc thì đều biết trên thế giới có ba vùng biên giới khó vượt qua nhất, một là biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan, hai là biên giới Isarel và Li Băng, nơi còn lại chính là đường biên giới Tam Thánh chỉ dài vẻn vẹn 14 km này đây.

Thật ra hai nước Trung Quốc và Triều Tiên vốn có quan hệ hữu hảo từ lâu, người từng trải đều biết ở sườn tây dãy Trường Bạch có thể vượt qua đường biên giới một cách cực kì thoải mái, cũng không có quá nhiều cửa khẩu. Khoảng chừng năm 1996, vùng núi Trường Bạch phía Trung Quốc kinh tế khó khăn, cho nên có rất nhiều người thường xuyên vượt biên sang Triều Tiên để đào một thứ thảo dược gọi là “Cao sơn hồng cảnh thiên” bán lấy tiền. Tuy bộ đội Triều Tiên cũng truy bắt nhưng người Trung Quốc chạy trốn còn nhanh hơn, cứ như đánh du kích. Hơn nữa rất nhiều người tới đào trộm thảo dược còn mang theo thuốc lá và rượu, chẳng may có bị tóm thì lại dùng rượu và thuốc đút lót mà thoát thân. Thế nên trong một khoảng thời gian, vùng biên giới phía sườn tây này chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa.

Duy chỉ có đoạn biên giới Tam Thánh này vẫn được canh giữ vô cùng nghiêm ngặt, lí do vì sao chẳng ai rõ, nghe nói là vì đây là đoạn biên giới cổ giữa hai nước, bên ngoài tuyết tuyến chính là lãnh thổ Triều Tiên. Giai đoạn kháng Mỹ viện Triều, để nhanh chóng vận chuyển vật tư chiến lược tới Triều Tiên, người ta đã tạo ra trên núi rất nhiều đường giao thông và công sự ngầm tạm thời. Hai bên đều có thể thông qua tuyến đường giao thông này mà nhanh chóng dẫn quân sang nước kia, cho nên không canh phòng nghiêm ngặt không được.

Hiện giờ lượng đồ ăn dự trữ không cho phép chúng tôi đi vòng qua đường biên cảnh đặc biệt cao so với mực nước biển này. Cách duy nhất để kịp tiến độ chính là đi thẳng hướng núi Tam Thánh, trực tiếp vượt qua vùng biên cảnh Trung – Triều, sau đó tiến lên đỉnh núi tuyết.

Phiền toái của chúng tôi lần này không phải là cạm bẫy tinh xảo huyền bí khó lường hay bánh tông mà là đạn bắn ra từ súng trường tự động số 81 (1) cùng với ít thì một bài, nhiều thì một liên (*) quân đội chuyên nghiệp.

(*) Bài là đơn vị quân đội bao gồm hai hoặc ba ban, liên lại cao hơn bài, còn ban thì tương đương tiểu đội, nói chung cứ hiểu bài là trung đội, liên là đại đội đi.

Những người khác cũng ít nhiều hiểu được tình hình hiện tại ở núi Tam Thánh, ai nấy đều tỏ vẻ buồn rầu. Chúng tôi nhìn nhau mất một lúc, bước tiếp theo biết phải làm sao bây giờ?

Phan Tử an ủi chúng tôi nói: “Mọi người đừng vội, vùng biên cảnh này kiểu gì chẳng có con đường lậu để vượt biên. Ở đây Thuận Tử đã từng đi lính, chắc chắn sẽ biết, chúng ta có thể thuyết phục hắn dẫn đoàn đi, đến lúc đó cho hắn thêm tiền là xong.”

Nói rồi quay sang hỏi Thuận Tử, không ngờ Thuận Tử lại kiên quyết lắc đầu, nói: “Không đi! Không có cách nào đâu! Đúng là bên kia có vài con đường qua biên giới nhưng toàn bộ đều được canh gác rất kĩ, cứ mười mét đặt một đèn pha. Đi từ chân núi lên đến đỉnh đến đâu cũng gặp cấm khu quân sự, tuy không đông người nhưng trạm gác lại dày đặc. Đừng nói quá cảnh, anh muốn đến gần huýt sáo một tiếng cũng không được. Lúc còn là lính tôi đã từng nhận lệnh nếu có người lạ đi vào tầm nhìn, lập tức phải bắn một phát súng chỉ thiên cảnh cáo. Nếu kẻ đó còn không lui, phát thứ hai sẽ bắn thẳng vào chân, không cần biết lí do.”

Bàn Tử hỏi: “Chúng ta mua chút hoa quả mang theo, giả dạng là dân thường đến thăm hỏi có được không?”

Thuận Tử bật cười. “Anh nói giỡn hay thiệt! Tất nhiên là không thể. Thứ nhất đây không phải nơi có thể đục nước béo cò, thứ hai trên này kiếm đâu ra hoa quả, giữa băng tuyết ngợp trời mà chúng ta tự dưng mang hoa quả tới tận ranh giới tuyết của núi Trường Bạch, thà đi tay không còn đỡ khả nghi hơn.”

Bàn Tử chặc lưỡi: “Vậy làm sao bây giờ? Cái biên giới cùi này mà đánh chết cũng không qua được? Tôi không tin, Macedonia (2) phòng thủ kiên cố vậy mà còn bị phá, nơi này có thể kiên cố hơn Macedonia được không? Tiên sư, có phải anh chê tiền ít hay không? Muốn bao nhiêu cứ việc nói thẳng.”

Thuận Tử khó xử vò đầu: “Ai dà, vấn đề không phải là chuyện tiền nong. Nếu thực sự có cách thì tôi còn gây khó dễ để vòi tiền làm gì. Nếu các người muốn sang Triều Tiên sao không nói sớm để tôi dẫn đi đường khác, giờ đã đến đây rồi tôi cũng chẳng biết làm thế nào.”

Thuận Tử ăn nói dứt khoát, tỏ ý không thể thương lượng như vậy khiến chúng tôi đều bất ngờ. Vùng này không phải trù phú gì, vượt biên cảnh cũng không phải tội lớn, nếu thực sự có cách thì hẳn là Thuận Tử sẽ không giấu chúng tôi.

Đám Hoa hòa thượng không có chủ kiến, đành tới chỗ Trần Bì A Tứ hỏi lão xem thế nào.

Thật ra vấn đề bây giờ là tiếp tục đi hay quay về. Nếu đi tiếp thì sẽ y như lời Thuận Tử nói, phải đi vòng qua đoạn biên giới khác, thời gian có thể dài gấp đôi, hơn nữa vài ngày cuối cùng sẽ phải ôm bụng đói mà leo núi. Còn nếu không đi tiếp tức là trở về nghỉ ngơi cho hồi phục sức khỏe rồi mới quay lại, nói cách khác mấy ngày nay đều leo núi không công, bao nhiêu công sức vất vả khổ cực đều uổng phí cả.

Tôi thì muốn tiếp tục đi. Không biết chú Ba sắp xếp hành động cấp bách như vậy là có mục đích gì, vả lại đám người của A Ninh cũng gây ra áp lực rất lớn, lòng tôi chỉ mong sớm có thể thấy chú Ba. Đương nhiên lúc đó tôi nghĩ thế là vì hoàn toàn không hiểu cảm giác khốn khổ khi leo lên núi tuyết trong cơn đói khát là như thế nào.

Trần Bì A Tứ thở dài, hiển nhiên chính bản thân lão cũng không đoán được chuyện này lại phiền phức như vậy. Những kẻ này lúc ở Trường Sa đều là hạng già đầu trong nghề, xưa nay vẫn quen một tay che trời, giết người phóng hỏa chuyện gì cũng dám làm, nhưng một khi chuyện có liên quan tới chính quyền thì cũng không dám chọc. Thế nên người ta mới nói “bần bất dữ phú đấu, phú bất dữ quan tranh” (người nghèo không dám đấu đá với kẻ giàu, kẻ giàu lại không dám đắc tội với quan lớn). Lão suy nghĩ nửa ngày trời vẫn không nói gì, đôi mày ngày càng nhíu chặt.

Tôi bắt đầu sốt ruột, liếc Muộn Du Bình một cái, muốn hỏi xem hắn nghĩ sao, nào ngờ hắn lại hoàn toàn không để ý đến cuộc thảo luận nãy giờ của chúng tôi, chỉ nhìn về ngọn núi tuyết xa xa, không biết trong lòng đang nghĩ gì, tựa như mọi chuyện đều không liên quan tới hắn.

Bàn tới bàn lui mà không ai nghĩ ra cách, đang lúc không biết phải làm gì thì Diệp Thành đứng cạnh gọi chúng tôi một tiếng.

Chúng tôi đều ngậm miệng, nhìn xuống chân núi thì phát hiện đoàn ngựa thồ của A Ninh lại bắt đầu di chuyển về phía trước. Nhìn hướng xuất phát của bọn họ thì mục tiêu không còn nghi ngờ gì nữa, chính là núi Tam Thánh.

Rất nhiều đồ đạc bị tháo xuống, vứt bừa bãi trên mặt tuyết, có lẽ là muốn giảm bớt trọng lượng để đi cho nhanh, nhìn xuống dưới chân núi tuyết chỉ thấy một đống lộn xộn.

Diệp Thành nghi hoặc nói: “Lạ thật, đám người kia không biết phía trước là đường biên cảnh sao? Người dẫn đường bên đó uống lộn thuốc rồi hả? Theo như lời Thuận Tử nói, bọn họ đeo nhiều vũ khí trên lưng như thế, không phải sẽ trở thành cái bia cho người ta tập bắn đạn thật hay sao?”

Tôi lắc đầu ý nói không thể có chuyện đó. Tôi biết cách làm việc của công ty bọn họ, chắc chắn phải có dân địa phương dẫn đường, hơn nữa không chỉ một người. Một công ty khảo sát tư nhân chuyên nghiệp như vậy chắc chắn rất am hiểu thế nào là điều tra nghiên cứu cũng như quan hệ với chính quyền. Hiểu biết của họ về nơi này chắc chắn hơn chúng tôi rất nhiều lần, hơn nữa lộ trình chắc chắn đã được cố định từ trước, sẽ không dễ dàng thay đổi.

Bàn Tử hoài nghi năng lực nghiệp vụ của Thuận Tử, liền hỏi hắn giải thích chuyện này thế nào. Phải chăng có người khác biết con đường mà hắn không biết?

Thuận Tử nheo mắt nhìn rồi đáp: “ Đi kiểu đó thì chỉ có một khả năng, chính là bọn họ muốn từ con đèo trước mặt, vòng lên một ngọn núi khác, sau đó bỏ qua đoạn có đường biên cảnh kia, sang đất Triều Tiên rồi mới quay lại núi Tam Thánh, cách này tuy cũng khá phiêu lưu nhưng còn đỡ hơn là đột nhập phòng tuyến biên giới. Đội ngũ của họ đông hơn chúng ta rất nhiều, nếu chuẩn bị đầy đủ lương thực, hoặc là đã thông đồng với bên Triều Tiên thì hoàn toàn có thể vượt qua đoạn đường dài này.”

“Thế mình phải làm sao đây? Hay là đuổi kịp bọn họ rồi tính sau?” Diệp Thành quay sang hỏi Trần Bì A Tứ.

Trần Bì A Tứ lắc lắc đầu, cũng không mở miệng. Đột nhiên, lão chỉ tay về hướng một ngọn núi phủ tuyết trắng xóa bên cạnh Tam Thánh rồi hỏi Thuận Tử: “Kia là núi gì?”

Thuận Tử nhìn qua ống nhò, đáp: “Đó là núi tuyết Tiểu Thánh, ngọn núi này nằm trong lãnh thổ nước ta. Tam Thánh cùng với Tiểu Thánh, cộng thêm núi Đại Thánh phía bên kia nữa, thường được gọi là Ngũ Thánh.”

Trần Bì A Tứ lại hỏi: “Từ đây có đường nào tới núi Tiểu Thánh kia không?”

Lời này vừa dứt, mọi người đều sửng sốt. Không biết lão già này muốn gì đây? Thuận Tử cũng thấy lạ, bèn đáp: “Không có vấn đề gì. Đi một ngày là đến nơi thôi, hơn nữa chỗ đó cũng xa trạm gác, phong cảnh không tồi. Chỉ có điều đường hơi khó đi.”

Trần Bì A Tứ phủi phủi tuyết bám trên quần, đứng lên nói với Thuận Tử: “Đi thôi. Dẫn chúng ta tới đó là được.”

Mọi người chẳng hiểu mô tê gì, Hoa hòa thượng lập tức nhắc nhở: “Tại sao vậy? Lão gia, đi tới đó chỉ tổ lãng phí thời gian, chúng ta không đủ lương thực để duy trì lâu như vậy…”

Trần Bì A Tứ khoát tay, chỉ sơn mạch kéo dài không dứt, nói: “Nơi này thế núi dài như sợi chỉ, quanh năm tuyết phủ, ba ngọn núi bao quát xung quanh, là một thế Tam đầu lão long rất hiếm gặp, Đại phong thủy gọi đây là thế “Quần long tọa”. Ba ngọn núi này đều là đầu rồng, cực kì thích hợp để quần táng. Nếu Thiên cung quả thực nằm sau những vách đá dựng đứng của ngọn núi trung tâm là Tam Thánh, thì trong hai cái đầu rồng nhỏ hai bên hẳn là còn có lăng bồi táng của hoàng hậu hoặc cận thần chi đó.”

Kết cấu của Tam đầu long hết sức kì lạ, ba đầu rồng phải nối liền với nhau, bằng không ba con rồng sẽ tự ý bay về trời, mất phương hướng và tụ thành một mớ hỗn loạn. Chôn cất ở đây sẽ khiến cho anh em con cháu tàn sát, cho nên nếu có lăng bồi táng thì phía dưới lăng mộ tất nhiên sẽ phải có con đường bí mật nối liền với lăng nằm chính giữa là thiên cung.

Trong lịch sử cũng có rất nhiều cổ mộ Tam đầu long. Ví như năm 1987 khai quật được một lăng mộ thời Chiến quốc trên núi Mang Sơn, là tam tử liên táng, chính là ba cổ mộ có liên hệ với nhau, chia ra ba đỉnh núi nằm trong cùng một sơn mạch. Hai cổ mộ hai bên lúc đầu cũng có thông đạo đường kính khoảng nửa mét nối với mộ chính ở giữa, đáng tiếc vào thời điểm khai quật thông đạo này đã sụp, thế nên đội khảo cổ cũng không biết những con đường này có thật sự thông với nhau hay chỉ là một cách bài trí tượng trưng.

Chúng tôi nhìn theo hướng tay lão chỉ, chỉ thấy ba ngọn núi tuyết vắt ngang nơi cùng trời cuối đất, trông chẳng khác gì những ngọn núi tuyết xung quanh, không biết Trần Bì A Tứ dựa vào đâu mà phán đoán như thế.

Trần Bì A Tứ nói rồi nhìn thoáng qua Muộn Du Bình, hỏi hắn: “Tiểu ca, ta nói đúng chứ?”

Đây là lần đầu tiên Muộn Du Bình có phản ứng với câu hỏi của người khác, hắn quay đầu lại nhìn lướt qua Trần Bì A Tứ, nhưng không nói gì cả, lại quay đầu tiếp tục ngắm núi tuyết phía xa.

Chúng tôi đều không hiểu Đại đầu phong thủy, nghe thế như lạc giữa sương mù, trong lòng cảm thấy mơ hồ. Nhưng nếu như lão già này đã nói thế, Muộn Du Bình tựa hồ cũng đồng ý, vậy thì tốt hơn hết đừng có nghi ngờ.

Xuống đến chân núi nơi mà đám người của A Ninh vừa dời đi, chúng tôi thấy hành lí bị bỏ lại nằm la liệt trên mặt tuyết, hầu hết đều đã bị lục tung lên, bên trong không hề có lương thực, hiển nhiên tất cả trang bị đều đã được sàng lọc một lần, những thứ vô dụng hoặc trùng lặp đều bị bỏ lại.

Bàn Tử thậm chí còn tìm được mấy cây súng, nhưng đạn bên trong đã bị mang đi sạch sẽ, chỉ còn cái vỏ không. Bàn Tử nhặt súng, đeo lên lưng tính mang theo nhưng bị Thuận Tử ngăn cản, nói lưng anh đeo súng, nếu chạm mặt bộ đội biên phòng ở đây thì khó mà giải thích, nếu không có súng thì tôi còn nói đỡ cho mọi người được. Bàn Tử chỉ đành chép miệng tiếc rẻ.

Đi hết sườn dốc bằng phẳng nằm dưới chân núi mà A Ninh đã bước qua là đến một khe núi, chúng tôi thấy dấu chân đoàn ngựa thồ của cô ả kéo dài, chui sâu vào khe núi đó.

Chúng tôi cũng dừng chân, chỉnh đốn một chút, rồi Thuận Tử dẫn chúng tôi đi ngoặt sang hướng núi Tiểu Thánh. Rất nhanh, chúng tôi đã tiến vào thế giới bao phủ trong một màu trắng xóa, phóng tầm mắt ra xa cũng chỉ thấy tuyết che kín chân trời cùng với những mỏm núi hay nhũ băng hiếm khi lộ ra.

Núi Trường Bạch có lẽ là ngọn núi tuyết duy nhất trên thế giới có thể leo lên. Cảnh vật nơi này còn đẹp hơn cả sông băng núi Côn Luân, lại không có những kẽ nứt lớn dưới lớp băng nên không cần lo dưới chân đột ngột sụp xuống. Nhưng sông băng trên núi Trường Bạch cũng là dạng sông băng cổ điển hình, núi liên kết không chắc chắn tạo ra những dạng địa hình băng hà phổ biến như động hình cối, hồ băng khổng lồ, giếng băng sâu không thấy đáy. Dù sao tôi cũng không rành địa hình núi tuyết cho lắm nên không biết giải thích gì cả, chỉ biết khi đi thường xuyên gặp đường cụt. Vách núi cao vạn trượng, dù là đi vòng qua bên cạnh hay nằm úp sấp mà bò qua thì vẫn hết sức nguy hiểm.

Dọc đường không ai nói câu nào, nếu gióng theo đường chim bay thì khoảng cách này chỉ cần đi mấy giờ mà chúng tôi phải mất gần một ngày mới đến, khi tới khe núi dưới chân núi Tiểu Thánh đã là chạng vạng tối ngày hôm đó.

Chúng tôi đào một cái hố rồi hạ trại trên sườn dốc phủ tuyết cao hơn khe núi chừng năm sáu trăm mét, ăn chút đồ nóng. Bầu trời sao trên núi cao trong sáng vô ngần, Trần Bì A Tứ lấy ra một cái kim chỉ nam, kết hợp với la bàn thiên văn trong đầu, xem vị trí các ngôi sao trên bầu trời để vạch ra lộ trình khái quát cho ngày mai.

Tuy dọc đường đi đã mệt lử cả người, nhưng trời vừa sáng, Bàn Tử đã quấn lấy Thuận Tử, hỏi xem quanh đây có suối nước nóng không.

Thuận Tử cũng nghĩ đến suối nước nóng, nhưng hắn nói nơi này rất cao so với mực nước biển, hắn cũng không hay lui tới, muốn tìm suối nước nóng có hơi khó. Nếu chán có thể đi dạo xung quanh để tìm thử xem sao, nhân tiện có thể tới thăm địa điểm băng táng của người cổ đại, cách nơi chúng tôi hạ trại có hơn 1 km thôi.

Dân đổ đấu luôn có cảm tình đặc biệt với thi thể, dù sao cũng rỗi rãi không có gì làm, nghe nói có người chết chúng tôi đều nảy sinh lòng hiếu kì.

Trần Bì A Tứ thể lực không tốt, Hoa hòa thượng ở lại chăm sóc lão, còn những người khác đều đi theo Thuận Tử hướng về sơn cốc phía bên trái. Đi không tới nửa giờ đã tiến vào một vách núi, bên dưới là hố băng tối đen một màu, chẳng nhìn thấy gì.

Thuận Tử tìm chỗ thuận tiện để dừng chân, nhóm lên một đống lửa nguội lạnh bị bỏ lại.

Chỉ thấy trong những tầng băng dưới đáy hố quả nhiên có rất nhiều cái bóng đen cuộn thành một đám, quấn quít vào nhau, có thể nhìn rõ hình dáng con người. Có nhiều cái chỉ còn lại một điểm đen, xung quanh hố băng thậm chí còn có vài dấu vết hiến tế.

Thuận Tử nói người dân trên núi này từ xa xưa đã phổ biến hình thức băng táng, thời kì đầu giải phóng vẫn có người được mai tang trong hố băng này, thế nên bây giờ thỉnh thoảng lại có người già đến đây bái tế. Sông băng nơi này mỗi năm lại thêm dày, cho nên anh hãy xem lớp thi thể tận cùng bên dưới kia đi, những chấm nhỏ nhìn không còn rõ nữa ấy, niên đại có khi đã được hơn ngàn năm rồi, mà lớp ngoài cùng dễ cũng phải vài chục năm.

Tôi đếm sơ sơ, chỉ tính những điểm đen có thể nhìn thấy cũng lên đến hàng ngàn hàng vạn rồi. Hiển nhiên ngôi mộ băng này trải qua mấy ngàn năm không biết đã tích tụ bao nhiêu thi thể, bên trong núi Tiểu Thánh kia hẳn là cũng có những hố băng như thế, tòa núi tuyết này chẳng phải chính là một nhà mồ vĩ đại hay sao.

“Trong những thi thể dưới kia, không biết có cả những nô lệ Đông Hạ xây dựng linh cung năm đó không nhỉ?” Bàn Tử đột nhiên cất giọng hỏi.

“Cũng chưa chắc.” Muộn Du Bình nhìn vào điểm sâu tận cùng bên trong hố băng, ánh mắt lạnh lùng dần dần trở nên u ám, không biết đang nghĩ gì.

Thi thể chôn trong băng, cũng không thể nào đào lên được. Chúng tôi đi một vòng, thấy nhàm chán vô vị, thế là lại đi tìm suối nước nóng, không ngờ cũng tìm được một lạch nước nóng cỡ nhỏ. Mấy người rửa sạch mặt mũi chân tay dưới suối, cả người thấy ấm áp dễ chịu rồi quay về trại kể lại chuyện vừa nãy, khiến Hoa hòa thượng không thôi tiếc rẻ.

Trên núi tuyết kể cũng kì quái, người ấm áp cũng mệt rã rời, người đông cứng tưởng sắp chết đến nơi cũng mệt rã rời. Cơm chiều của chúng tôi là mì sợi, ăn xong căng da bụng chùng da mắt, bên ngoài lại nổi gió, chúng tôi sớm chui vào túi ngủ nghỉ ngơi, để Thuận Tử canh gác ca đầu tiên. Chúng tôi nhiều người, không cần phải thay phiên nhau hết trong một ngày, tốp canh gác luân phiên hôm nay là ba người Thuận Tử, Lang Phong và Phan Tử.

Tôi mệt mỏi rã rời, rất nhanh chìm vào giấc ngủ. Cứ nghĩ có thể đánh một giấc ngon lành, không ngờ vừa mới chợp mắt được chừng một tiếng, Hoa hòa thượng, Bàn Tử, Lang Phong và Phan Tử đã bắt đầu ngáy pho pho, liên miên không dứt cứ như giàn nhạc giao hưởng đang hòa tấu, khiến tôi gặp ác mộng mà tỉnh giấc.

Lần này trằn trọc mãi vẫn không ngủ lại được, nằm lại khó chịu nên tôi chui ra ngoài lều, bảo Thuận Tử tôi với anh đổi ca, tôi thay cho anh, anh vào ngủ một giấc đi.

Thuận Tử đang ngồi an nhàn hút thuốc, ngây người nhìn một bóng núi lớn màu đen in dưới ánh trăng. Nghe tôi nói muốn thay ca, hắn bèn lắc đầu nói không cần, đã cầm tiền của chúng tôi rồi mà việc này cũng không làm nổi thì không hay cho lắm.

Lòng tôi nghĩ tùy anh, lấy ra một điếu thuốc, mượn hắn cái bật lửa, sau đó vừa đi cho thêm củi vào bếp lò vừa chuyện phiếm với hắn. *sao hông châm lửa từ bếp cho đỡ phí =))*

Nói chuyện phiếm với người dẫn đường là cách mở mang kiến thức rất tốt. Tôi kể cho hắn nghe rất nhiều về cổ mộ, hắn tỏ ra khá thích thú. Hắn cũng kể cho tôi rất nhiều câu chuyện phong thổ nhân tình trong vùng lẫn những chuyện kì thú trong rừng núi, tôi say sưa nghe không biết mệt, hai người chúng tôi càng nói càng sôi nổi.

Sau đó bắt đầu nói về cuộc thám hiểm của chúng tôi. Thuận Tử cho tôi biết hắn từng làm lính biên phòng bảy năm, nhưng có bốn năm làm quân dự bị, trước khi nhập ngũ hắn vốn làm nghề hái thảo dược cho nên rất quen thuộc với vùng núi tuyết này. Bạn bè đều gọi hắn là “A lang tài”, tức là đứa con của núi tuyết, cho nên chúng tôi đi theo hắn có thể tuyệt đối yên tâm. Núi non ở đây, người có thể dẫn đường không nhiều lắm, hắm cũng xem như là một trong số đó.

Trong lòng tôi bắt đầu nghi ngờ, thầm nghĩ đã vậy sao anh còn chưa lên núi đã bất tỉnh, cái này khẳng định là khoác lác rồi. Nhưng xem hắn nói trịnh trọng như vậy, cũng không cần thiết phải đập tan hứng thú của hắn, nên cũng ngồi yên mà nghe hắn nói.

Trò chuyện một hồi, chủ đề cũng ngày một đa dạng, khoảng cách giữa chúng tôi dần được thu hẹp. Đúng lúc này, Thuận Tử đột ngột hỏi tôi: “Cậu chủ Ngô … Thực ra các cậu vào trong núi rốt cuộc là để làm gì? Cậu có thể cho tôi biết không?”

Tôi nghe thế liền ngẩn người, không biết đáp sao cho phải, bầu không khí giữa hai người chúng tôi lại chìm vào thinh lặng.

Mục đích của chúng tôi sao, tôi biết nói thế nào đây. Nói là đi tìm Vân Đỉnh thiên cung, anh có tin không? Nói là đến trộm mộ cũng không được, bảo đi du lịch càng không đúng, quả là khó mở miệng. Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng đành thở dài: “Anh quan tâm chuyện này làm gì, tôi không thể nói được.”

Thuận Tử dường như cũng đoán trước câu trả lời của tôi, chỉ cười cười nói: “Không sao đâu, tôi chỉ thuận miệng hỏi thôi.”

Trong lòng tôi cảm thấy không thoải mái, bởi tôi không muốn lừa hắn, đành chuyển qua đề tài khác. Tôi hỏi hắn trước kia là người hái thảo dược, tại sao lại chuyển sang làm nghề dẫn đường lên núi?

Hái thảo dược trên núi Trường Bạch cũng kiếm được kha khá, so với cái nghề dẫn đường vất vả này thì thoải mái hơn nhiều, cũng bởi lí do này mà bây giờ rất hiếm người làm nghề dẫn đường lên núi tuyết.

Thuận Tử liếc tôi một cái, đột nhiên nói ra một câu khiến tôi muốn ói máu.

Hắn nói: “Tôi không phải dẫn đường chuyên nghiệp, sau khi xuất ngũ tôi vẫn thường đi hái thảo dược, chỉ dẫn người lên núi có vài lần nhưng chưa bao giờ vào sâu đến thế này. Bình thường cũng chỉ quanh quẩn bên hồ “Cô Nương” dưới kia thôi, đây là lần đầu tiên tôi dẫn người lên đến chỗ này.”

Tôi cười nói: “Đừng đùa chứ!”

“Thật đó cậu chủ Ngô. Tôi có sao nói vậy thôi, vào mùa này chẳng có người dẫn đường chuyên nghiệp nào chịu đưa các cậu vào núi tuyết đâu, nếu tôi không làm thì các cậu chỉ có nước tự mình mò mẫm đi vào.” Hắn lại nhìn tôi cười cười: “Như thế thật quá nguy hiểm. Nếu không nhờ bồ tát phù hộ thì chúng ta chết cả rồi, có thể vào được đến đây mà không thiếu một ai đã là kì tích. Nhưng các cậu cũng không cần lo lắng, tuy tôi chưa từng dẫn người tới đây nhưng bản thân đã vào rất nhiều lần, rất quen thuộc với nơi này nên sẽ không sao đâu.”

Vẻ mặt hắn khi nói chuyện cực kì nghiêm túc, không giống như đang nói giỡn. Trong lòng tôi chửi thầm, lại nghi hoặc hỏi: “Nơi đó nếu nguy hiểm thế sao anh còn dẫn chúng tôi đi? Anh vì chút tiền như vậy có đáng không?”

Thuận Tử nhìn tôi bằng ánh mắt sâu xa, nói: “Tiền là một phần, ngoài ra còn có nguyên nhân khác…. Là vì cha tôi, ông ấy… mất tích vào mười năm trước. Năm đó, ông ấy cũng dẫn một đám người lên núi tuyết, lộ trình so với các cậu bây giờ cũng không khác biệt lắm, nhưng cuối cùng cả đoàn người đều biến mất trên núi. Tôi chỉ nhớ loáng thoáng, trang phục của mấy người khách đến tìm cha tôi rất giống các cậu, cũng vào mùa đông, cũng là không thể không lên núi. Thế nên khi thấy các cậu, đột nhiên tôi có cảm giác mình nhất định phải theo các cậu vào trong núi. Thứ nhất tôi không muốn các cậu lại chết trong núi giống cha tôi, thứ hai, tôi có một ý nghĩ ngây thơ rằng có lẽ mục đích các cậu lên núi cũng giống nhóm người mười năm trước. Đi theo các cậu, có thể tôi sẽ biết cha tôi năm đó rốt cuộc đã gặp phải chuyện gì. Đương nhiên những điều này chỉ là suy đoán của tôi thôi.” Hắn tự cười giễu chính mình: “Có khi cha tôi chỉ đơn giản là gặp tuyết lở, bị chôn vùi dưới lớp tuyết dày ở đâu đó trên núi tuyết này mà thôi.”

Tôi đã hiểu ra, hỏi tiếp: “Vậy nên anh mới hỏi mục đích chúng tôi lên núi?”

Thuận Tử ngượng ngùng gật gật đầu: “Ài, cậu không biết đâu. Cái cảm giác khi biết cha mình đang an giấc nghìn thu dưới lớp tuyết này, nhưng lại không sao nhìn thấu.”

Tôi không ngờ nội tâm của Thuận Tử cũng có lúc tinh tế đến vậy, không khỏi nhìn hắn với cặp mắt khác. Trước đây tôi chỉ nghĩ hắn là một hướng dẫn viên du lịch bình thường, mồm miệng láu lỉnh chút thôi.

Nhưng đám người mười năm trước đi vào núi tuyết rồi mất tích ấy cũng trang bị giống chúng tôi, chẳng lẽ họ cũng tìm đến Vân Đỉnh thiên cung? Tim tôi thắt lại, nhưng ngay lập tức lại phủ định ý nghĩ của mình. Không, không thể có chuyện đó. Trên núi Trường Bạch này, những nơi có thể khiến một người mất tích rất nhiều, không thể nào trùng hợp đến thế được. Cha hắn có lẽ đã gặp phải điều gì đó bất trắc mà tử nạn trên núi thôi.

Thuận Tử thấy tôi không nói gì, nghĩ có lẽ vừa rồi mình hỏi câu kia có phần hơi quá phận, liền nói: “Cậu chủ Ngô, tôi thấy cậu không giống những người còn lại mới nói với cậu chuyện này, mong cậu đừng nói lại cho người khác, tôi sợ bọn họ sẽ lo lắng.”

Lòng tôi thầm nghĩ, tôi chắc chắn sẽ không nói ra đây là lần lầu tiên anh dẫn người tới nơi này. Chưa cần nói đám người Trần Bì A Tứ sẽ xâu xé anh như thế nào, chỉ riêng Bàn Tử có thể đã đánh chết anh luôn rồi.

Tôi gật đầu đồng ý. Lúc này, người gác ca hai là Lang Phong đã chui từ trong lều ra, ngáp dài một tiếng. Thấy hai người chúng tôi đang tán gẫu, hắn cũng hơi bất ngờ. Thuận Tử dọn dẹp lại đồ của mình, ra ngoài đi tiểu rồi vào lều ngủ. Tôi và Lang Phong không có chuyện gì để nói, bèn chào nhau một câu cho có rồi vào lều ngủ tiếp.

Giữa những tiếng ngáy o o như sấm, tôi nửa tỉnh nửa mê, mơ thấy cha của Thuận Tử mười năm về trước, chính là Thuận Tử mọc thêm râu ria, đang dẫn một đám người lên núi. Điều kì lạ chính là, trong mơ tôi cứ có cảm giác hình như mình đã gặp mấy người kia ở đâu rồi, lăn qua lăn lại, ngủ không ngon giấc.

Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, chúng tôi đã tiếp tục thuận theo sơn mạch mà leo lên.

Căn cứ vào câu hỏi của Thuận Tử hôm qua, hắn hẳn đã biết chúng tôi không phải khách leo núi ngắm cảnh bình thường. Tôi biết chúng tôi ngụy trang không khéo, ít nhất cũng chẳng có khách du lịch nào lại gấp rút lên đường như phát rồ thế. Nhưng chúng tôi cũng không cần để ý quá nhiều, dù sao hắn làm hướng dẫn viên du lịch ở núi Trường Bạch này, cũng sớm tiếp đón nhiều đám khách thần bí đủ loại. Nơi này hàng năm không một ngàn thì cũng tám trăm người lui tới, đủ loại người, từ đám săn trộm, người Triều Tiên hành hương, người hái thuốc nhập cư trái phép… Ai cũng có bí mật riêng. Chúng tôi đang làm gì, cứ để hắn tự đoán đi.

Đường trên núi càng lúc càng khó đi, nhiều đoạn đường còn bị nghiêng. Trên đỉnh đầu là núi tuyết cao vạn trượng, rất dễ sạt lở, đến lớn tiếng nói chuyện cũng không được. Tuyết trên đường đi lại quá dày, tầng tuyết này tích tụ đã mấy ngàn năm, bên dưới hầu như trống rỗng, thỉnh thoảng lại có người đột ngột sa xuống tuyết, ngập tới tận ngực, nếu không có ai giúp thì không thể tự mình bò lên. Chúng tôi chỉ còn cách cẩn thận dùng một cây nhũ băng dài, từng chút một dò từng bước chân giống như đi trong bãi mìn.

Bàn Tử bước đi nhanh nhất, cái này cũng do trước đây hắn từng có kinh nghiệm thám hiểm đất tuyết, cứ thế đi tít đằng trước. Vì chứng say núi nên đầu lưỡi chúng tôi bắt đầu ngứa ngáy, ngoại trừ Trần Bì A Tứ đột ngột đổi hướng đi, cuối cùng bốn bề chỉ còn lại tiếng thở gấp, cả thế giới lặng thinh tựa như không có sinh vật sống nào.

Qua con đường tuyết trên sườn núi, chúng tôi tới một nơi mà hai mặt đều là sườn núi lớn phủ đầy băng. Nơi này quanh năm không thấy ánh mặt trời, tuyết đóng cứng xuống mặt đất, núi càng lên lại càng dốc, không khí giá lạnh. Vào bên trong, chúng tôi rốt cuộc cũng thấy đầu rồng mà Trần Bì A Tứ nói. Đó là một vách đá dốc tạo với ngọn núi một góc nhọn sáu mươi độ, bên trên tuyết phủ trắng xóa.

Chúng tôi tiếp tục hướng lên trên, từng người từng người một, dốc hết sức lực, bắt đầu dùng đến dùi băng để leo lên con dốc đứng kia.

Ngọn Tiểu Thánh này không nằm trong hệ thống mười sáu ngọn núi của dãy Trường Bạch, cho nên khi mới tới đây chúng tôi cũng không chú ý nhiều lắm, nhưng nó cũng không phải một ngọn núi vô danh. Núi này đối diện với đỉnh Đại Thánh phía đằng xa, ở giữa tạo nên một cái khe nằm phía trước núi tuyết Tam Thánh, giống như hai vệ sĩ gác cửa vậy. Cảnh tượng này được gọi là thiên binh thủ tiên môn.

Theo Tiểu phong thủy, tiên môn là hai ngọn núi hổ cứ long bàn (thế cọp chầu rồng cuộn, ý nói địa thế hiểm trở), khí thôn vạn hướng, nếu không nằm ở vùng biên giới Trung Quốc – Triều Tiên xưa nay không ngừng phân tranh lãnh thổ thì nơi này đương nhiên sẽ trở thành khu tập trung mộ táng của dòng dõi quý tộc hoàng cung. Trên đường đi tới đây, ngay cả một đứa gà mờ như tôi cũng nhìn ra hướng sơn mạch nơi này khá kì lạ, tràn ngập một thứ long khí ngút trời, cho nên chúng tôi ngày càng tin tưởng vào giả thiết có lăng mộ nằm trên núi.

Đi đường dốc không như đi trên đất bằng, thể lực tiêu hao rất nhiều. Trần Bì A Tứ bò một lúc thể lực đã cạn kiệt, rốt cuộc không đi nổi nữa, Lang Phong đành phải cõng lão ta, vì thế mọi người đi càng chậm.

Chúng tôi đi thêm chừng ba giờ nữa, rốt cuộc cũng lên được sườn dốc tuyết phủ. Lúc này tôi đã gần như mất đi thần trí, hoàn toàn dựa vào phản xạ mà đi theo Bàn Tử.

Bàn Tử là người đầu tiên tới nơi, thể lực tốt như hắn mà cũng đã tới cực hạn. Đặt chân lên mặt tuyết bên trên rồi, có vẻ thần trí hắn cũng không còn tỉnh táo, giả bộ dùng sức dẫm thành mấy dấu chân, dang hai tay ra nói với chúng tôi: “Đối với cá nhân tôi thì đây chỉ là một bước tiến nhỏ, nhưng đối với Mô Kim hiệu úy lại là một bước nhảy vọt.” (Nhại câu nói của Neil Armstrong khi đi bước đầu tiên trên mặt trăng =))))) Sau đó nằm úp mặt xuống tuyết, không hề nhúc nhích.

Người tôi cứ lâng lâng, hai chân bất giác nhũn cả ra, người bắt đầu trượt xuống. Phan Tử định xốc cho tôi đứng lên nhưng lôi vài cái tôi vẫn không có sức mà đứng thẳng, chính anh cũng bị tôi kéo ngã xuống đất.

Tôi lấy cái đục băng, dùng sức bổ lên mặt tuyết, lúc này mới giữ vững được cơ thể. Những người khác cũng đều ngã xuống đất, miệng thở ra toàn khói trắng, nhìn bốn phía xung quanh.

Sườn dốc phủ tuyết này đúng là rất rộng, nhìn trái nhìn phải đều không thấy ranh giới, nếu không có Trần Bì A Tứ chỉ đường thì tuyệt đối không có cảm giác gì đặc biệt. Tuyết bao phủ mặt đất vô cùng bằng phẳng, chỉ có mấy khối đá màu đen đột ngột lộ ra trên tuyết.

Núi Tam Thánh lúc này nằm ngay bên trái chúng tôi, xem ra đã gần hơn rất nhiều so với ngày hôm qua. Trên đỉnh núi thánh là tuyết trắng bao trùm, cả khối núi đứng sừng sững giống như một con quái thú, đầu trắng xóa, thân đen tuyền, dốc hơn rất nhiều so với những ngọn núi xung quanh. Ánh nắng chiều chiếu xuống tạo nên một màu lam nhạt kì quái như sương mù bao phủ lên ngọn núi, tiên khí ẩn hiện, cảnh sắc quả thực rung động lòng người.

Diệp Thành vừa thở gấp, vừa bùi ngùi nói: “Đẹp ghê, hèn chi người ta nói chốn bồng lai tiên cảnh cũng không bằng ngắm núi Trường Bạch từ xa. Đi đường vất vả như vậy kể cũng đáng.”

Ở đây toàn là người thô kệch, nhưng ai nấy đều bị cảnh sắc bốn phương trong ánh nắng chiều mê hoặc. Nhất là trên dãy núi tuyết này, cái cảm giác đứng ngay dưới thiên đỉnh càng làm cho người ta cảm khái không thôi.

Tôi vừa định lôi máy ảnh ra để chụp lại cảnh sắc nơi này thì đột nhiên Bàn Tử đập tôi một cái, chỉ sang phía bên kia.

Tôi nhìn theo hướng tay hắn chỉ, thấy Muộn Du Bình đang quỳ xuống, hướng về phía ngọn Tam Thánh phía xa xa, cung kính cúi đầu. Gương mặt hắn vốn không có cảm xúc, giờ lại mơ hồ lộ ra nét bi thương vô hạn.
 
Quyển 4 - Chương 16: Hành vi tự sát


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trải qua hai ngày bôn ba, chúng tôi rốt cuộc đã tới sông băng nằm trong khe núi Tiểu Thánh. Trên đầu ai nấy đều bám đầy tuyết vụn, mệt nhừ tử. Nhưng vào lúc nắng chiều ngả về tây, đứng từ trên cao phóng mắt nhìn ra xa, phong cảnh xung quanh lại khiến chúng tôi say mê ngây ngất.

Nhưng hành động của Muộn Du Bình lúc này lại khiến chúng tôi kinh hãi. Chẳng ai hiểu vì sao hắn lại quỳ rạp trước núi tuyết mà hành đại lễ hết sức kính cẩn đến thế, tựa như hắn có một thứ cảm tình đặc biệt đối với ngọn núi kia vậy.

Bái lạy xong xuôi, hắn liền trở về với vẻ mặt “xong chuyện rồi cóc quan tâm gì nữa, chỉ ngủ phần tôi”, trèo lên một phiến đá trần mà nhắm mắt nghỉ ngơi. Tôi không khỏi nổi lòng hiếu kì, quả thật không thể nhìn thấu trong đôi mắt đen sâu không thấy đáy của hắn rốt cuộc còn ẩn giấu những gì?

Suốt hành trình đến đây, mọi người đều hiểu rõ tính hắn, đặc biệt là mấy người chúng tôi, nên cũng không ai hỏi han gì vì đoán trước hắn sẽ chẳng trả lời. Có điều, cứ xem ánh mắt của nhóm Trần Bì A Tứ thì rõ ràng họ cũng rất bực mình. Chỉ có Thuận Tử là không để bụng, có lẽ hắn tưởng Muộn Du Bình cũng là người Triều Tiên.

Mỗi người ôm một bầu tâm sự riêng, vừa ngắm phong cảnh vừa nghỉ ngơi, lát sau ai nấy đều khôi phục thể lực. Bàn Tử nhen lửa đốt lò không khói, chúng tôi quây lại đun trà sưởi ấm, đồng thời Thuận Tử cũng bắt đầu mở lớp giảng bài, hớp vài hơi rượu nóng cho lại sức rồi chỉ mấy ngọn núi tuyết xung quanh, giảng giải nguồn gốc của chúng cho chúng tôi nghe.

Đây là bổn phận làm hướng dẫn viên du lịch của hắn, thằng nhóc này cũng tận tâm với nghề dữ lắm.

Hắn kể rằng trong truyền thuyết về núi Trường Bạch, hai ngọn núi tuyết Tiểu Thánh và Đại Thánh cùng với núi Tam Thánh thần bí kia, vào thuở hồng hoang vốn chỉ là một ngọn núi tuyết. Năm ấy Đại Vũ (1) trị thủy, khi đi ngang qua nơi này ổng vung lưỡi đao thần bổ hai cái, mới khiến cho núi chẻ làm ba.

Chuyện là trước thời giải phóng, khi nơi đây còn chưa mở cửa, anh ta từng nghe ông nội kể lại rằng khi lần lượt leo lên ba ngọn núi tuyết này sẽ thấy phong cảnh xung quanh hoàn toàn khác nhau. Ví như, leo lên núi Tiểu Thánh sẽ nhìn thấy cả hai ngọn Tam Thánh lẫn Đại Thánh, nhưng lên núi Đại Thánh lại chỉ thấy Tam Thánh mà không thể nhìn ra núi Tiểu Thánh, kỳ lạ ghê gớm. Mà kỳ lạ nhất chính là đứng trên đỉnh Tam Thánh không những có thể nhìn rõ hai ngọn núi thánh lớn nhỏ, mà còn thấy xa xa về phía sau núi Tam Thánh có một ngọn núi tuyết còn đồ sộ hơn Tam Thánh nhiều, gọi là đỉnh Thiên Thê. Ngọn núi kia quanh năm bị mây mù che phủ, không thể nhìn rõ diện mạo thực. Tương truyền trên núi có một cái thang trời bắc thẳng lên Thiên cung, là con đường nối liền nhân gian và cõi bồng lai tiên cảnh. Vào lúc trời quang mây tạnh, có thể thấy giữa đỉnh Thiên Thê và hai tòa Đại Thánh Tiểu Thánh xuất hiện một dải hào quang y hệt cầu vồng, tựa như một nét bút thần tiên tô điểm, lộng lẫy tuyệt đẹp, cũng lạ lùng hết sức.

Bàn Tử nghe xong bèn bảo với chúng tôi: “Truyền thuyết này chắc chắn là sai bét rồi. Thiên cung rõ ràng nằm trên núi Tam Thánh, sao lại chạy đến đỉnh Thiên Thê được. Người kể lại cái truyền thuyết này đảm bảo có vấn đề về mắt.”

Hoa hòa thượng ngẫm nghĩ rồi lắc đầu giải thích: “Không đâu, trước khi đến đây tôi từng nghiên cứu truyền thuyết này rồi. Tôi ngờ rằng khi xây dựng Vân Đỉnh Thiên Cung, tuyết trắng trên ngọn Thiên Thê và những ngọn núi xung quanh khiến ánh sáng bị chiết xạ sinh ra ảo ảnh (2). Do ngọn Thiên Thê quanh năm mây mù, hơi nước lơ lửng tạo thành bức màn phản xạ, in lên hình ảnh Vân Đỉnh Thiên Cung lẩn khuất trong sương, trông cứ như thiên cung thật sự nằm trên trời vậy.”

Hiện tượng ảo ảnh này phần lớn phát sinh giữa những hồ nước nằm trong sa mạc, chứ rất hiếm khi xảy ra trên núi tuyết, chỉ e cũng không phải ngẫu nhiên mà có lẽ liên quan tới việc nơi đây là ngọn nguồn của long mạch. Hiện tượng này trong phong thủy gọi là “Ảnh cung”, tôi mới thấy trong sách cổ một lần, cũng không biết cụ thể có điểm gì cần lưu ý. Nơi đặt bảo huyệt thường phát sinh những chuyện kì quái, có xảy ra chuyện gì cũng không lạ.

Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng địa phương. Tôi nói tiếng Hàng Châu, đám Hoa hòa thượng nói tiếng Trường Sa, Thuận Tử nghe không hiểu gì, cũng chẳng thèm để ý. Giảng giải về phong cảnh xong, hắn đứng lên nói với chúng tôi: “Quý khách tạm thời nghỉ ngơi một lát, ăn chút gì đó, sau đấy tự do hành động, nhưng xin hãy nắm vững thời gian. Trời sắp tối rồi, ở đây cũng không có cách nào dựng lều, trời tối một cái là đường không dễ đi đâu. Chúng ta còn phải qua đêm, nên tìm chỗ tương đối bằng phẳng, tối đến dễ chừng sẽ có gió đấy.” Nói rồi hắn rót trà phân phát cho chúng tôi, còn bản thân thì giữ ý, ra xa xa mà nghỉ ngơi.

Tôi xem đồng hồ, thấy còn hơn một tiếng nữa mặt trời mới lặn xuống núi. Thời gian nói ngắn thì chẳng ngắn, bảo dài cũng không dài, nghỉ ngơi như vậy cũng đủ rồi, có lẽ nên làm việc nghiêm chỉnh thôi.

Nhưng mà bốn bề tuyết phủ trắng xóa, không có chút dấu tích đặc biệt nào. Nếu có lăng bồi táng ở đây thì nhất định cũng đã bị tuyết chôn vùi, cửa vào hẳn phải nằm trong lớp tuyết dưới chân chúng tôi. Môi trường trên núi tuyết khác xa so với nơi đất bằng, cả đám đều không có kinh nghiệm nên chẳng biết phải hành động thế nào.

Chúng tôi đứng cả lên, vây quanh Trần Bì A Tứ, định bàn xem bước tiếp theo phải làm sao mới ổn.

Trần Bì A Tứ trải qua một phen vật lộn vất vả như vậy, còn chưa hồi phục lại. Lang Phong cầm bầu rượu đưa cho lão, bảo lão uống hai ngụm. Hoa hòa thượng giúp lão xoa bóp sau lưng cho máu dễ lưu thông, sắc mặt lão mới dần dần trở lại bình thường, thế nhưng cả người thoạt nhìn vẫn có vẻ cực kỳ uể oải. Nghe chúng tôi hỏi, lão chỉ đưa mắt liếc qua loa thế núi xung quanh rồi bảo: “Vị trí bảo huyệt nằm ngay dưới chân chúng ta. Ta cũng chưa có kế nào hay, giờ cứ xúc thử vài xẻng xem dưới mặt tuyết có gì rồi hẵng tính tiếp.”

Mọi người gật đầu. Thật ra tôi cũng biết không có lựa chọn nào tốt hơn nữa, cái gọi là đổ đấu, chỉ khác những điểm râu ria chứ cơ bản cũng chỉ có thế: sau tầm long điểm huyệt chính là tham huyệt định vị. Điểm khác biệt giữa các thời đại chỉ là công cụ dùng để thăm dò huyệt, chứ quá trình gần như đều rập một khuôn. Cho nên mới nói nếu không có giây phút phấn khích khi mở quan tài thì trộm mộ thật ra là công việc buồn tẻ số một.

Tuyết mềm hơn bùn rất nhiều, xẻng thăm dò đào rất thuận lợi. Đám người Hoa hòa thượng tay chân cực kỳ lanh lợi, trên mặt tuyết rất nhanh đã có tới mười mấy hố thăm dò. Có điều, hình như bất cứ cái xẻng nào đào xuống độ sâu chừng 5, 6 mét trên sườn dốc tuyết phủ cũng đều không thể đào tiếp được nữa. Bàn Tử cứ đinh ninh vì Diệp Thành èo uột như con khỉ ốm mới thành ra thế, bèn chạy đến giúp một tay, dùng sức mạnh bạo cũng chỉ bập vào thêm một chút, mỗi lần rút ra nhìn thử đều thấy xẻng vẫn trống trơn.

Hoa hòa thượng xem xét lưỡi xẻng, phát hiện trên đầu nhọn của xẻng có bám ít tinh thể băng liền hiểu ra đầu đuôi sự việc. Bên dưới là một sông băng do mặt đất đông lạnh và băng giá tạo thành, cứng như bê tông, xẻng đâm không thủng nổi, cũng không lôi ra được thứ gì.

“Ở đây tuyết đã rơi mấy ngàn năm, tuyết đọng bị ép xuống lâu ngày hóa thành băng rồi. Anh nói xem, có khi nào lăng bồi táng cũng bị đóng cứng dưới băng rồi không?” Bàn Tử hỏi.

Chúng tôi đều gật đầu, khả năng này rất lớn. Thế nhưng xẻng Lạc Dương không thể đào vào trong băng, coi như chúng tôi biết có đồ ở bên dưới đi, cũng vẫn tìm không nổi.

Phan Tử bảo chúng tôi: “Trở ngại lớn nhất là lớp tuyết này, chúng ta có thuốc nổ không? Hồi tôi còn trong quân ngũ có nghe vài người anh em kể, lúc bọn họ ở núi Đại Hưng An, đại đội sản xuất ở nơi đó sẽ leo lên sườn núi tuyết để ‘lọc máu’ định kỳ. Chỉ cần đào một cái lỗ rồi đặt mìn là có thể cho nổ hết đống tuyết này, đỡ lo biết bao nhiêu. Cho nổ hết tuyết rồi thì tình hình bên dưới nhìn một cái biết ngay, việc tìm kiếm của chúng ta sẽ tiện hơn rất nhiều, cũng đỡ phải đào đạo động.”

Tôi hiểu rõ anh nói gì. Mỗi lần tuyết rơi sẽ tạo ra một tầng tuyết, giữa các tầng đều hở ra một khoảng, chỉ cần cho nổ một quả mìn nhỏ, cả ngọn núi sẽ rung chuyển, cả tầng tuyết dày sẽ trượt xuống, tạo thành phản ứng dây chuyền, rốt cuộc tầng này sẽ kéo theo tầng khác sập xuống.

Khu rừng trên núi Đại Hưng An có vài ngọn núi tuyết nhỏ. Để tránh tuyết đọng quá dày sinh ra tuyết lở làm tổn hại đến khu rừng, đội công binh địa phương phải thường xuyên dùng sức người xử lý sau mỗi trận tuyết lớn. Hồi đó điều kiện thiếu thốn, toàn do nhân viên tự mình trèo lên đào lỗ đặt bộc phá, ít nhiều đều có nguy hiểm, giờ thì họ toàn nã pháo cối cho tiện.

Hoa hòa thượng nắn nắn lớp tuyết: “Thuốc nổ chúng ta có, nhưng cậu nhìn lên đỉnh đầu mà xem, nổ mìn ở chỗ này có khác gì tự sát?”

Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên, phía trên là dốc tuyết vạn trượng cao ngất, trước sau kéo dài liên miên, nối liền với mạch núi Hoành Sơn như một con rồng tuyết. Chúng tôi ở dưới này, thấy mình chỉ như mấy con kiến, thật sự quá nhỏ bé. Phía trên chỉ cần rải xuống một nắm tuyết là mấy mạng chúng tôi yên giấc ngàn thu tại trận luôn.

Phan Tử nhìn xong cũng hơi choáng váng, có điều anh vẫn khăng khăng nói: “Núi Trường Bạch là thắng cảnh du lịch, ở đây thi thoảng cũng tiến hành “lọc tuyết”, tôi thấy vấn đề không quá lớn. Nếu anh không đồng ý với phương án lọc tuyết này, thì chúng ta nên tranh thủ cuốn gói đi cho sớm chợ. Trên núi tuyết mà anh muốn tìm đồ bị vùi trong tuyết thì còn khó hơn mò kim đáy biển, Tôi nói cho anh biết, trên núi tuyết xứ Tạng nếu muốn tìm đội leo núi gặp nạn cũng phải làm vậy thôi, không có cách nào tốt hơn đâu. Cụ nhà anh đã tỉnh, cho dù xác định đúng huyệt, anh vẫn phải dùng thuốc nổ, bằng không thì đạo động cũng không tài nào đào ra được. Trái pháo này, kiểu gì anh cũng phải cho nổ thôi.”

Tôi thấy không ổn, bèn phản đối: “Chuyện này quá mạo hiểm, tôi thà tốn thêm chút thời gian đào bằng xẻng còn hơn.”

Phan Tử lại nói: “Cậu Ba à, chính vì không có thời gian nên chúng ta mới phải dùng thuốc nổ, chứ nếu thời gian dư dả thì đã chờ đến mùa hè mới quay lại rồi. Dù thế nào cũng phải thử một lần, ông Ba còn đang chờ chúng ta.”

Hoa hòa thượng xua tay cản chúng tôi lại, chỉ chỉ Lang Phong: “Các anh đừng cãi lộn nữa. Lời của chúng ta thì tính là gì, nghe ý kiến chuyên gia cái nào.”

Tôi ngớ ra mất một lúc. Suốt cả hành trình, tôi vẫn không biết Lang Phong đóng vai trò gì trong nhóm bọn họ. Nghe Hoa hòa thượng nói vậy tôi thấy thật khó tin, không lẽ hắn là chuyên gia về mặt này sao? Mấy người đều nhìn về phía Lang Phong xem hắn phản ứng thế nào.

Lang Phong thấy mọi người nhìn mình chằm chằm thì có hơi ngại ngùng, nói: “Tôi cho rằng có thể làm theo lời anh Phan. Thật ra trước khi đến tôi đã đoán trước sẽ xảy ra tình huống này nên đã chuẩn bị sơ sơ rồi. Hơn nữa tôi là dân chuyên nghiệp, có thể khống chế sức nổ của bộc phá, tiếng nổ sẽ không lớn lắm, thật ra chỉ cần tạo một chấn động rất nhỏ dưới mặt tuyết là có thể đạt được mục đích, có khi chỉ cần một dây pháo nhỏ là xong xuôi.”

“Anh chắc chắn không?” Bàn Tử hỏi: “Chúng ta chỉ phá băng chứ không nổ mộ, chuyện chúng ta làm bây giờ tương đương với việc nổ pháo trong khối đậu phụ, bảo anh nổ ra một cái lỗ trong khối đậu phụ sao cho nhìn bề ngoài không thấy gì cả, đây là thao tác cực kỳ tinh vi đó.”

Lang Phong gật đầu: “Hồi tôi làm thợ mỏ đã đào không dưới một vạn lỗ pháo, huyện này chưa tính là khó.”

Hoa hòa thượng nhìn sang phía chúng tôi, chỉ chỉ vào Lang Phong: “Các cậu đừng thấy bình thường anh ta ít nói mà lầm, gã này là thợ mỏ thâm niên hai mươi năm đấy, mười bốn tuổi bắt đầu đào lỗ pháo, đã cho nổ san bằng không dưới hai mưoi ngọn núi mới khiến cụ nhà này để mắt đến, vào nghề chưa được một năm người ta đã phải xưng là Pháo thần. Nói đến thuốc nổ thì không ai so được với anh ta đâu.”

“Cậu chính là Pháo thần?” Phan Tử đứng một bên trợn tròn hai mắt, hiển nhiên là đã từng nghe danh hiệu này.

Lang Phong có vẻ ngượng nghịu, gãi đầu gãi tai, chẳng bù cho thái độ lạnh lùng mấy hôm trước: “Chỉ là một cái biệt danh bạn trong nghề nói quá lên cho vui thôi mà.”

Hoa hòa thượng bảo hắn: “Thôi đừng khiêm tốn nữa, đây chính là lúc phát huy sở trường của chú đấy.” Sau đó quay lại nói với chúng tôi: “Lang Phong đã ra tay, xưa nay chưa từng thất bại, thứ gì anh ta nói nổ thành bao nhiêu mảnh thì khắc nổ ra từng ấy mảnh, tôi tuyệt đối tin tưởng. Nếu anh ta đã nói thế thì tôi nghĩ có thể thử một lần. Các anh có ý kiến gì không?”

Bàn Tử liếc liếc tôi. Hắn có kinh nghiệm thám hiểm trên đất tuyết, từng nghe nói về rất nhiều vụ tuyết lở, dĩ nhiên cũng hơi dao động, có điều hắn ở phe tôi, nhìn sang tôi là muốn tôi tỏ thái độ.

Tôi ngẫm nghĩ, thấy đám người Trần Bì A Tứ đúng là tập đoàn trộm mộ chuyên nghiệp, không như chú Ba vẫn còn tương đối truyền thống, ưa dùng những biện pháp cũ để lọt vào mộ cổ. Sự ỷ lại vào thuốc nổ của những người này đã đến mức độ chúng tôi không thể tưởng tượng nổi. Hơn nữa Hoa hòa thượng đã nói thế thì hẳn tên Lang Phong này cũng phải có năng lực tương đối.

Vì thế tôi hạ quyết tâm, gật đầu với Bàn Tử. Cứ liều đi, thật ra lúc này làm gì còn đường lui nữa, tôi không đồng ý cho nổ liệu bọn họ có chịu nghe không?

Thấy chúng tôi đồng ý rồi, Lang Phong và Diệp Thành lôi ra một cái xẻng Lạc Dương đặc biệt, bắt đầu lắp lưỡi xẻng chuyên dụng, đào vài hố thăm dò trên mặt tuyết.

Sau đó Lang Phong dùng vài thứ bột trộn ra một loại thuốc nổ, chôn thật sâu vào bên trong một số kíp nổ có sức công phá thấp. Tôi biết loại thuốc nổ này vốn được điều chế một cách đặc biệt, sức nổ đại khái chỉ bằng khoảng mười viên pháo đùng, chuyên dùng để đục lỗ phá nát phong thạch trong mộ cổ. Được Lang Phong điều chỉnh lượng thuốc lại một lần nữa, sức nổ đảm bảo càng nhỏ đi.

Dân trộm mộ công nghệ cao phần lớn đều có kiến thức tương đối về khoa học kỹ thuật, cần bao nhiêu kíp mìn sức nổ nhỏ, có thể cho nổ ở chỗ nào để tạo ra một lỗ người chui lọt, những chuyện này tôi đã biết từ lâu, có điều được thấy tận mắt thì đây vẫn là lần đầu tiên.

Thuận Tử đang quanh quẩn uống trà, nhác thấy cảnh đó liền phát điên. Hắn đã từng thấy người hành hương cắm quốc kỳ, gặp đám săn trộm thừa lúc đêm tối lén mò ra, cũng từng gặp dân vượt biên trái phép, nhưng trải qua trăm đắng nghìn cay trèo lên đây, lấy thuốc pháo ra đốt cho nổ banh núi thì đảm bảo mới thấy lần đầu. Thoắt cái hắn đã chạy đến cản Hoa hòa thượng, hét lên: “Các vị làm gì thế? Quý khách, các vị điên rồi — !”

Nói chưa dứt lời, Lang Phong ở đằng sau đã phang cho hắn một nhát cuốc chim bất tỉnh nhân sự. Thuận Tử ngã sấp xuống tuyết, được kéo sang một bên.

Tôi nhìn mà thấy gáy phát đau, bụng bảo dạ làm hướng dẫn viên du lịch cho bọn này thật đến thảm, quãng đường đi dài lê thê không nói, còn phải chịu đựng cảnh này. Có điều, nghĩ đi nghĩ lại thì cũng không còn cách nào khác. Thuận Tử có thể bao dung nhẫn nhịn cái gì, chứ tuyệt đối sẽ không dễ dàng tha thứ chuyện chúng tôi phá núi, nói cho cùng hắn còn phải dựa vào nơi này để kiếm ăn, không đánh ngất đi thì không sao tiếp tục triển khai công việc được.

Bàn Tử hỏi Hoa hòa thượng: “Sau này chúng ta biết làm gì với thằng nhãi này đây?”

Hoa hòa thượng đáp: “Tạm thời cứ mặc xác nó, chúng ta còn cần nó dẫn đường để quay về. Cứ đưa nó vào địa cung, vứt sang một bên là được. Đến lúc về nhét thêm ít tiền cho nó thì nó còn đòi hỏi gì nữa?”

Lang Phong tỏ ra cực kỳ chuyên nghiệp, gần như không để chúng tôi nhúng tay vào. Hắn tự thao tác một mình, kíp nổ được sắp xếp chỉn chu theo một loại mô hình kết cấu chịu lực. Hắn phất tay ra hiệu cho mọi người leo lên một phiến đá lộ thiên, đề phòng lát nữa phản ứng dây chuyền lại kéo chúng tôi trượt xuống cả lũ.

Tôi cứ tưởng tiếng pháo nổ phải lớn lắm, ít nhất cũng phải gây nên một cơn sóng tuyết cơ. Ai dè lúc Lang Phong nhấn một phát vào bộ kích nổ, tôi gần như không nghe thấy âm thanh gì, chỉ thấy mặt tuyết bằng phẳng lập tức rạn ra, sau đó từng mảng từng mảng lớn tuyết đóng thành khối bắt đầu cuồn cuộn trút xuống dưới sườn dốc như thác đổ, sườn núi cũng đột ngột dốc hơn hẳn, dưới chân chúng tôi thoáng cái đã trống hoang hoác.

Có điều cảnh tuyết lở cũng không kéo dài. Khi những tảng tuyết dừng lại, dưới sườn dốc tuyết phủ lộ ra một tầng băng tuyết lẫn lộn gồ ghề màu trắng vẩn đục, đây chính là mặt ngoài của sông băng kỷ đệ tứ mà sách giáo khoa thường nói.

Bàn Tử bên cạnh đang nhắm nghiền mắt, vẫn tưởng mìn chưa nổ. Tôi lay lay mấy cái hắn mới mở mắt ra, thấy thế liền kinh ngạc kêu lên: “À há, đúng là không nghe tiếng gì thật, thánh quá.” Sau đó lập tức thấp thỏm lo lắng ngước nhìn trên đỉnh đầu.

Không biết là do may mắn hay do kỹ thuật của Lang Phong quá cứng tay, ngoại trừ một ít tuyết trên đầu chúng tôi trượt xuống do mất lực chống bên dưới thì hình như không vấn đề gì. Chờ thêm một lát cũng không thấy có chấn động gì lớn, chúng tôi dần dần bớt căng thẳng.

Tôi giơ ngón cái về phía Lang Phong, Phan Tử cũng vỗ vỗ vai hắn, ra dấu rằng cậu thật lợi hại.

Lang Phong ngượng nghịu mỉm cười. Nhưng khóe miệng của hắn còn chưa kịp nhếch hết lên thì bất thình lình một khối tuyết lớn đã nện trúng đầu.

Sắc mặt cả đám đều biến đổi. Bàn Tử vội vàng vẫy tay với chúng tôi, nhỏ giọng nói: “Suỵt!”

Chúng tôi vô thức im bặt, vài người lại ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy ở chỗ cao hơn đỉnh đầu chúng tôi chừng hơn một trăm mét, trên sườn dốc tuyết phủ dần dần xuất hiện một vết nứt đen không hề bắt mắt nhưng lại khiến cho tim người ta lạc nhịp, đang từ từ toác ra, vô số vết nứt nhỏ dài lan rộng trên tầng tuyết. Theo sự lan tỏa của các vết nứt kia, những khối tuyết nhỏ lăn xuống đánh vào bốn phía xung quanh chúng tôi.

Tôi lập tức lạnh toát cả người, hiểu ngay đã xảy ra chuyện gì.

Xem ra danh tiếng “Pháo thần” của Lang Phong, đến hôm nay là hết linh rồi.
 
Quyển 4 - Chương 17: Tuyết lở


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

“Mọi người chớ nói chuyện, rắm cũng không được thả” Bàn Tử thì thào rất khẽ với chúng tôi: “Mọi người tìm xem xung quanh có khối nham thạch nhô ra hoặc khe băng nào đó không, chúng ta gặp rắc rối to rồi.”

“Không thể nào” Lang Phong ngây người tại chỗ: “Tôi đã tính toán phân lượng rất chuẩn …”

Hoa hòa thượng bịt miệng Lang Phong lại, ý bảo chuyện đó nói sau. Mọi người đều ướt đẫm mồ hôi, vừa nhìn lên đỉnh đầu, vừa rón rén đeo đám trang bị của mình lên lưng, tìm kiếm khắp xung quanh xem có chỗ nào lánh nạn được không. Tầng tuyết phía trên cũng không dày lắm, cho dù tuyết lở cũng chỉ sụp xuống một khoảng nhỏ. Nhưng chỗ chúng tôi đang đứng quá “đắc địa”, cách vết nứt gãy một quãng không xa, nếu tuyết ào ào đổ xuống, chúng tôi rất dễ bị chôn vùi trong đó. Phía dưới lại là sườn dốc đứng cao chót vót, chẳng đào đâu ra chỗ để trốn.

Cách tốt nhất lúc này chính là như Bàn Tử nói, tìm một khối đá núi nổi lên mà trốn bên dưới hoặc là tìm một khe băng, nhưng những cách này đều học từ phim “Vertical limit”, chẳng biết trong thực tế nó có hữu dụng hay không.

( Phim Vertical Limit )

Nơi chúng tôi đang đứng là một khối đá trần trụi bằng phẳng, tránh ở bên dưới vẫn bị tuyết quất thẳng vào mặt. Bàn Tử chỉ chỉ sang tảng đã cực lớn, hình dạng tựa như quả hạch đào bên cạnh, mặt dưới của nó tạo với đá núi một cái hốc, khá phù hợp để tránh tuyết lở.

Sườn dốc phủ tuyết ngăn cách giữa chúng tôi và khối đá kia đã biến mất, chỉ để lại một mặt sông băng trơn muốn chết. Nhưng lúc này đã không còn thời gian đổi giày trượt băng nữa rồi, chỉ còn cách gắng gượng mà đi. Bàn Tử lấy một đầu dây thừng buộc vào thắt lưng mình, đầu kia đưa cho chúng tôi rồi cắn răng dẫm lên lớp băng trơn.

Một bước, hai bước, ba bước, mỗi bước chân đều thận trọng như giẫm lên trứng mỏng, tôi hồi hộp đợi một tiếng “răng rắc” rồi lòng đỏ trứng bắn vọt ra. Thế nhưng Bàn Tử luôn khiến người ta phải nhìn mình với cặp mắt khác, chỉ vài bước sau hắn đã vững vàng leo lên tảng đá trước mặt, kéo dây thừng trên lưng, ngó lên đỉnh đầu canh chừng rồi ngoắc tay kêu chúng tôi qua.

Mấy người chúng tôi cùng kéo dây thừng, đầu tiên là Phan Tử và Muộn Du Bình, kế đến là Lang Phong cõng Trần Bì A Tứ trên lưng, tiếp theo là Diệp Thành cõng theo Thuận Tử, cuối cùng là tôi. Thấy bọn họ đều đã yên ổn đến nơi, lòng tôi cũng an tâm hơn nhiều. Lúc này phía trên đã bắt đầu có những khối tuyết to bằng trái dưa hấu nện xuống, cái khe nứt kia có vẻ không còn trụ được lâu nữa, Bàn Tử phất tay ra hiệu cho tôi nhanh chân hơn.

Tôi vỗ vỗ mặt mình, buộc đầu kia dây thừng lên lưng, sau đó dợm bước một chân xuống, giữ cho thân thể đứng vững.

Từ nhỏ tôi đã cực kém khoản giữ thăng bằng, trượt băng tập xe đều té lên té xuống đến bầm dập mình mẩy mới học được. Lúc này tôi lại càng thêm luống cuống, chỉ cảm thấy mặt băng dưới chân dường như có thể biến mất bất cứ lúc nào, bắt đầu mất tự chủ, chân cũng bất giác phát run.

Bàn Tử thấy vậy thì hiểu ngay tôi là người gặp khó khăn nhất ở đây, bèn hạ giọng: “Cậu đừng nghĩ nhiều, chỉ còn hai bước chân thôi, nhảy bừa một cái cũng qua mà.”

Tôi áng chừng khoảng cách giữa tôi và Bàn Tử, quả nhiên nếu phát lực vừa đủ thì hoàn toàn có thể nhảy sang đó. Nghĩ rồi tôi nghiến răng, chùng chân xuống, vặn eo một cái rồi nhảy lên.

Thật không ngờ đúng vào lúc dồn sức để nhảy, dưới chân tôi đột nhiên thụt xuống, khối băng tôi đặt chân do vừa rồi đã bị rất nhiều người dẫm lên nên chớp mắt đã vỡ vụn. Chân tôi trượt dài trên sườn dốc, kế đó cả người cũng trượt xuống theo.

Tôi quơ quào tay chân loạn xạ nhưng trên băng không đào đâu ra chỗ mà bám víu, thoáng cái dây thừng buộc vào thắt lưng đã kéo căng, treo tôi lơ lửng trên vách băng, chợt nghe phía trên chỗ nút thắt kêu rắc một tiếng, cúi xuống nhìn thì thấy đầu nút đã lỏng dần, thân thể sắp rớt ra. Trong lòng tôi chửi thầm, con mẹ nó cái thứ hàng ngoại này chắc chắn là đồ dỏm!

Bàn Tử bị tôi kéo một phát, suýt nữa đã tuột xuống khỏi tảng đá. Cũng may Phan Tử kịp thời túm lấy lưng quần hắn, mấy người xúm lại giữ chặt nên hắn mới không bị tuột xuống. Bọn họ dùng sức giữ thật chặt dây thừng rồi kéo lên.

Nhưng mỗi lần kéo, dây thừng lại nới lỏng ra một chút. Lòng tôi nóng như lửa đốt, hai chân muốn tìm một chỗ đặt để buộc lại nút thắt nhưng băng đúng là rất trơn, mỗi lần thử đạp chân có vài giây đã tuột xuống, thân thể không làm cách nào mượn lực được.

Mắt thấy nút thắt sắp tuột, tôi đành vạn bất đắc dĩ lấy ra cái dùi băng, dùng sức bổ vào vách băng một cái rồi bám thật chắc. Sau đó chân trái dẫm mạnh, lúc này mới có chỗ để chống đỡ cơ thể, vội cúi xuống buộc lại nút thắt. Nhưng còn chưa kịp buộc xong, bỗng nghe một cơn chấn động truyền xuống từ phía trên đỉnh đầu.

Tôi ngẩng đầu lên, chỉ thấy mấy người phía trên đang nhìn tôi với ánh mắt như nhìn một đứa ngớ ngẩn. Tôi còn chưa kịp phản ứng thì nháy mắt sau, một mảng tuyết trắng xóa đã lở ra rồi rơi xuống giữa không trung, gần như che hết tầm nhìn của tôi.

Tuyết lở!

Không kêu lên sợ hãi cũng chẳng có thời gian mà kinh ngạc, trong nháy mắt ấy đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, chỉ nghe Bàn Tử ở bên cạnh hét to một tiếng: “Nắm lấy cái dùi băng! Ép sát người vào!” Sau đó bốn phía xung quanh trở nên tối đen, thân thể tôi bị níu xuống, tưởng như có mười mấy người đột ngột dồn sức bám vào quần áo tôi rồi kéo xuống thật lực, phần dây thừng buộc quanh eo đột ngột siết chặt lấy da thịt, sau đó là vô số mảnh tuyết vụn chui vào phế quản.

Sau đó tôi rơi vào một khoảng không hỗn độn, từng bộ phận trên người đều bị va đập dữ dội. Tôi không thể ngẩng đầu lên nổi, cổ họng bắt đầu bị đè nén, từ phổi truyền đến cảm giác hít thở cực kì khó khăn. Tôi cứ như bị ném vào một cái chảo rang hạt dẻ ngào đường, vô số vật thể lạnh giá bám kín lấy tôi, đập mạnh vào người tôi. Trong nháy mắt, cả mũi lẫn miệng đều cảm nhận được vị của bọt tuyết.

Lúc này tôi mới chợt nhớ ra băng là thứ vật chất lan truyền chấn động cực tốt, đặc biệt là băng dày thì tính cộng hưởng càng lớn, vừa rồi một cuốc của tôi đã nhanh chóng thúc đẩy quá trình tuyết lở.

Nghĩ đến đây tôi chỉ muốn cho mình một tát, nhưng lúc này hối hận cũng vô ích, thân thể giống như con quay, đụng vào đâu đó là lại quay tít mấy vòng. Tôi định nắm lấy cái cuốc băng nhưng cánh tay mình ở đâu tôi cũng không còn cảm giác được nữa.

Đúng vào lúc đầu óc mơ hồ, không biết phải làm sao, đột nhiên tôi cảm thấy hình như có ai đó đang kéo dây thừng lên, sau đó thân thể tôi cũng nhích dần lên từng chút một.

Trong lòng tôi cả kinh, thì ra là đám Bàn Tử ở đầu kia đang kéo mình lên. Tôi lại nhen nhóm một tia hi vọng, dây thừng còn có tác dụng chứng tỏ lượng tuyết lở xuống không quá dày, lực kéo của họ vẫn còn có thể truyền đến đây.

Tôi vội dùng sức gạt đám tuyết bám xung quanh ra, chủ động lách người lên. Sau vài lần xiêu xiêu vẹo vẹo mượn sức kéo của dây thừng, một tiếng động lớn đột ngột vang lên bên tai. Trước mắt tôi sáng bừng, thân thể đã nhoài ra khỏi tuyết.

Bàn Tử và mọi người đang tránh trong một cái hốc bên dưới tảng nham thạch, tuyết chảy xuống theo tảng đá tạo thành một dòng thác trước mặt họ. Tất cả đều bình an vô sự, Bàn Tử và Lang Phong đang kéo dây thừng, thấy tôi được kéo lên bèn hét to một tiếng: “Không sao chứ?”

Tôi há miệng thở hổn hển, gật gật đầu, lúc này dòng thác tuyết ngợp trời kín đất vẫn đổ thẳng xuống đầu tôi. Tôi gắng sức đội tuyết mà kéo dây thừng hướng về phía bọn họ, nhưng lực đẩy của dòng tuyết quá lớn, tôi căn bản không đứng lên nổi, dùng cả hai tay cũng không thể di chuyển. Bàn Tử đành phải kéo tôi, chờ cho tuyết chảy qua hết.

Tuyết lở nhanh mà dừng cũng nhanh, chưa đến nửa phút, dòng tuyết đã chảy qua người tôi, chỉ để lại vô số mảnh tuyết vụn. Nhìn xuống thì thấy khe núi dưới chân đã mù mịt sương trắng, nghĩ mà không khỏi rùng mình, giờ mà rơi xuống đó coi như đi tong cái mạng.

Tôi được kéo vào hốc dưới tảng đá, vài người ở đó còn chưa hết sợ hãi, giờ vẫn đang thở dốc. Bàn Tử vỗ vai tôi nói: “Nhóc này xem như lớn mạng, may mà đây chỉ là trận lở tuyết vớ vẩn, bằng không thì giờ này không chỉ mình cậu mà cả tôi chắc cũng bị kéo xuống theo.”

Tôi cũng không biết nét mặt mình trông như thế nào. Mũ leo núi đã rơi mất, hai lỗ tai đông cứng đỏ ửng, không nghe rõ hắn nói gì, đành phải vỗ vỗ hắn rồi quay đầu nhìn sông băng bên ngoài.

Tuyết trên khắp sườn núi gần như đã trút hết xuống khe sâu bên dưới, một con sông băng dốc đứng khổng lồ lộ ra trước mắt chúng tôi, thi thoảng còn có những mảng tuyết vụn từ trên lăn xuống, nhắc cho chúng tôi biết có nguy cơ vẫn còn đợt tuyết lở thứ hai.

Mặt trên sông băng đều là những tầng tuyết dày, qua hàng ngàn năm chịu áp lực nén cho tuyết dần dần biến thành băng, chính là thứ chúng ta thường gọi là “băng trọng lực”. Loại băng này hình thành tự nhiên trên những vùng núi cao, bao quanh cả một dãy núi lớn, trên núi tuyết thông thường đều có. Do bị vây giữa núi và tuyết nên băng không quá dày, phía trên tầng băng còn có một lượng lớn tuyết vụn.

Ngoại trừ Bàn Tử, những người còn lại trong đám chúng tôi đều chưa được nhìn thấy sông băng ngoài đời thật bao giờ. Trong khe núi tuyết, chứng kiến một khối băng lớn lộ ra dưới ánh nắng chiều trông như một bức tượng điêu khắc khổng lồ do thế lực siêu nhiên tạo ra quả thực khiến người ta rung động, làm chúng tôi đều ngắm đến ngây người.

Diệp Thành đứng một bên lẩm bẩm nói: “Quả pháo của anh Lang thật ra cũng không nổ vô ích.”

Ngắm nhìn một lát, mọi người dần dần quay về với thực tại. Hoa hòa thượng bật mấy cái đèn pin lên, chiếu vào trong băng để tìm kiếm dấu vết lăng bồi táng. Bên trong là một mớ hỗn độn, sâu không thấy đáy. Sông băng trên núi tuyết bình thường chỉ dày từ mười đến hai mươi mét, riêng sông băng này có vẻ lại dày đến khác thường.

Bàn Tử mắt tinh như cú, đúng lúc này lại đột ngột kêu một tiếng, hình như đã phát hiện ra thứ gì đó, bèn cầm đèn pin của Hoa hòa thượng chiếu xuống.

Chúng tôi căng mắt nhìn theo ánh đèn trên tay hắn, trong ánh sáng mỏng manh đó tôi thấy nơi Bàn Tử rọi đèn pin vào nằm sâu trong lòng sông băng, giữa một màu xanh nhờ nhờ u ám, tựa như có một cái bóng cực lớn thoắt ẩn thoắt hiện, chiếm gần một nửa khối băng, hình dạng giống như một đứa trẻ sơ sinh có cái đầu lớn đang cuộn mình
 
Quyển 4 - Chương 18: Thai Côn Luân


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tà tà bóng ngả về tây, chỉ còn chút nắng vương mây mỏng mềm. Khối băng dần chuyển màu đen, bên trong cái bóng càng thêm mơ hồ.

Hình dạng của cái bóng kia hết sức kỳ quái, chẳng biết xếp vào loại gì, giống như thai nhi động vật chết cóng, đầu to dị thường, thân lại còn mọc gai dài, nhìn ghê chết đi được.

Diệp Thành há hốc miệng hỏi tôi: “Chết tiệt, lúc đi không bái Bồ Tát, quả nhiên đụng ngay phải thứ tà ma này. Đây là thứ quái quỷ gì vậy?”

Tôi và Bàn Tử đều lắc đầu, chúng tôi cũng chưa thấy nó bao giờ cả. Xem kích thước thì thứ này lớn cỡ một cái lầu nhỏ năm tầng, vậy mà có thể đông cứng trong lòng sông băng, nếu là lăng bồi táng thì xây dựng kiểu gì? Không lẽ nó lại là sinh vật thời tiền sử?

Theo truyền thuyết, vùng núi Trường Bạch này mấy chục vạn năm về trước vẫn còn là đại dương mênh mông, nhờ núi lửa phun trào mới nổi lên từ giữa lòng biển, vật này lớn như vậy, không lẽ là xác một sinh vật biển khổng lồ thời đó?

Nghĩ lại cũng không phải, khi sông băng cổ hình thành thì núi đã ở đó rồi, nếu có thi thể thì đã sớm hóa thạch.

Tuy đã trải qua một trận tuyết lở kinh thiên động địa, nhưng thật ra tuyết lở như vậy chỉ có thể gọi là tuyết đọng lâu ngày sạt xuống, khí thế không quá hào hùng mà trôi qua cũng nhanh. Tuy lúc đó mọi người vẫn còn sợ hãi nhưng bây giờ đều đã khôi phục tinh thần, cho nên khi nhìn thấy cái bóng trong băng thì lòng hiếu kì lập tức nổi lên.

Chúng tôi chống nhũ băng làm điểm tựa để đứng vững, người buộc dây thừng, chân đeo giày trượt, leo xuống quan sát kĩ càng bóng đen quỷ dị đông cứng giữa lòng sông băng, nhưng nhìn đi nhìn lại cũng không thấy cửa vào đâu cả.

Lúc này Trần Bì A Tứ cũng đã khôi phục ý thức, Hoa hòa thượng và Diệp Thành dìu lão bước xuống lòng sông, chúng tôi cẩn thận đỡ lão tiến lại gần.

Trần Bì A Tứ phản ứng vẫn còn chậm chạp, khẽ dụi dụi mắt, ngồi xổm xuống nhìn chằm chằm vào cái bóng trong băng kia một hồi lâu rồi đột nhiên hừ một tiếng. “Cái bóng này … Chẳng lẽ là ‘Thai Côn Luân’?” nhưng rồi nhanh chóng lắc đầu.

“‘Thai Côn Luân’ là cái gì?” Chúng tôi chưa nghe nói đến bao giờ, thấy lão có vẻ phấn khích như thế thì không hiểu mô tê gì cả.

“’Thai Côn Luân’ là một hiện tượng tự nhiên kỳ lạ, chỉ có ở đầu nguồn long mạch, hay trong dân gian thường nói là nơi hội tụ linh khí của đất trời. Trong lòng nham thạch, sông băng hay cây cổ thụ thường tự sinh ra một vật kì quái mang hình dạng trẻ con, cái này trong sách cổ gọi là “địa sinh thai”. Theo truyền thuyết, qua hàng vạn năm biến hóa, một số “địa sinh thai” sẽ thành tinh, như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký là một ví dụ.” Hoa Hòa Thượng giải thích cho chúng tôi: “Tôi còn nhớ trong một quyển bút kí thời Đường có nói, vào những năm cuối thời Tây Hán có truyền thuyết rằng dưới đáy hồ băng lớn trên núi Côn Luân, người Tạng trong vùng đã phát hiện ra một băng thai khổng lồ, to như trái núi, là một bé gái sơ sinh đã có đầy đủ ngũ quan, trông rất sinh động, vì thế “địa sinh thai” còn được gọi là “Thai Côn Luân”. Sau này người ta còn xây một ngôi miếu trên rốn đứa bé gái kia, tên là Côn Luân đồng tử miếu. Trong phong thủy, “Thai Côn Luân” là bảo huyệt trời định, không giống những huyệt vị phong thủy mà con người tìm ra. Không ai có thể chủ động tìm được long mạch có thể sinh ra “Thai Côn Luân”, mà chỉ có cách chờ cho ‘Thai Côn Luân’ bắt đầu hình thành, được người nào đó tình cờ phát hiện, kế đến là đào thai ra rồi xây dựng lăng mộ trong đó. Thứ bảo huyệt như thế chỉ có thể gặp mà không thể cầu, truyền thuyết nói rằng chỉ có người liên hệ được với trời mới đủ tư cách. Trong lịch sử chỉ ghi lại duy nhất một người được táng tại ‘Thai Côn Luân’, đó chính là Hoàng Đế.”

(Hoàng Đế ở đây là Hiên Viên Hoàng Đế, được coi là thủy tổ của người Hán, là một người cụ thể chứ không phải một danh từ chỉ chung các ông vua. Chữ Hoàng trong Hoàng Đế là 黃 (màu vàng) không phải 皇 (vua))

“Còn có chuyện tà môn như vậy sao?” Bàn Tử ngồi xổm xuống, nhìn cái bóng dáng kia. “Có điều, “Thai Côn Luân” này trông không giống thai người.”

Trần Bì A Tứ hình như cũng không thể khẳng định, gật đầu nói: “Ta cũng đoán Thai Côn Luân là vị trí thần định, cũng là thần vật sinh ra từ đất. Nếu đây đúng là Thai Côn Luân thì lăng bồi táng kia đương nhiên sẽ được xây cất bên trong, nhưng nếu là thế …” Trần Bì A Tứ nhìn đỉnh Tam Thánh phía xa xa, ánh mắt hiện lên nét nghi hoặc tột cùng.

Tôi biết điều lão ta đang băn khoăn, bèn tiếp lời: “Nơi này là bảo huyệt trời sinh ‘Thai Côn Luân’, nhưng cũng chỉ có một lăng mộ bồi táng. Nếu vậy thì Vân Đỉnh thiên cung trên núi Tam Thánh kia là mộ chính, không biết phong thủy còn tốt đến độ nào? Dù sao đi chăng nữa cũng không thể thua kém ‘Thai Côn Luân’.”

“Phải, làm gì có nơi nào phong thủy tuyệt hơn ‘Thai Côn Luân’ nữa. ‘Thai Côn Luân’ là nơi linh khí của cả mặt đất hội tụ, nếu có nơi nào đó tốt hơn thì chỉ có một khả năng.” Trần Bì A Tứ nghi hoặc, rồi chuyển giọng giận dữ: “Thiên cung kia quả thực được xây ở trên trời!”

Nét mặt của Trần Bì A Tứ khi nói ra những lời này rất mực nghiêm túc, rõ ràng không phải nói đùa, tôi nghe chỉ thấy toàn thân phát lạnh. Bàn Tử kêu lên: “Làm gì có chuyện đó!”

“Đúng là không thể, cho nên nơi này xuất hiện ‘Thai Côn Luân’, chắc chắn là có vấn đề. Chẳng lẽ hướng sông thế núi đã bị hắn sửa lại? Nhưng Uông Tàng Hải sao có thể thần thông đến thế?” Trần Bì A Tứ lại nhìn thế núi bốn phía xung quanh.

“Không, không nên nghĩ như vậy.” Tôi đột nhiên nảy ra ý tưởng, bèn hỏi: “Có khi nào cái bào thai này là giả? Do con người tạo ra? Một loại thủ pháp tượng trưng, rất hay gặp trong kiến trúc các ngôi mộ cổ. Cũng như thành của Võ Tắc Thiên có hình dạng gần giống với âm hộ phụ nữ (1), nói không chừng cái bóng kia chỉ là bóng của lăng bồi táng thôi.”

Ý nghĩ này tự dưng nảy sinh trong đầu, bởi vì tôi làm nghề buôn đồ cổ, công việc hàng ngày chính là phân biệt thật giả. Lúc chọn mua đồ, cảm giác đầu tiên của tôi luôn là: đây chắc là đồ giả. Thế nên khi nghe Trần Bì A Tứ nói bằng giọng gay gắt như thế, suy nghĩ đầu tiên của tôi cũng là: hay nó là đồ giả? Cái này coi như là bệnh nghề nghiệp rồi.

Với lại, đông cứng cửa vào lăng mộ trong lòng đất, lại xây thành hình dạng trẻ con như vậy hoàn toàn giống với tính cách ưa đột phá (*) của Uông Tàng Hải.

(*) Nguyên văn: Bất kinh tử bất hưu (不惊死不休) xuất phát từ câu “Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu” nghĩa đen là “câu chữ không kinh người thì đến chết cũng không ngừng” là một danh ngôn của TQ nói lên thái độ trân trọng của những bậc trí thức thời xưa đối với việc sáng tác. Suy rộng ra thì bất kinh tử bất hưu nghĩa là không làm được chuyện kinh người thì đến chết vẫn không ngừng)

Trần Bì A Tứ tập trung tinh thần ngắm nghía sơn mạch xung quanh, căn bản không thèm nghe tôi nói. Tôi quay đầu nhìn sang Muộn Du Bình, vẻ mặt hắn cũng tràn đầy nghi hoặc, nhìn chằm chằm cái bóng kia bằng ánh mắt phức tạp nhưng cũng không lên tiếng. Được cái Hoa hòa thượng rất tán thành cách suy nghĩ của tôi (xem ra hắn cũng là dân buôn đồ cổ tuyến đầu nên mắc bệnh nghề nghiệp giống tôi). Hắn nói: “Cậu nói cũng có lý, tôi thấy ‘bóng thai’ kia còn mơ hồ phân chia thành các bộ phận, chắc chắn không phải là thứ đơn giản, dường như chiều cao cũng không đồng nhất, hơn nữa xung quanh còn có gai nhọn, không thể nói rõ là thứ gì, cũng có thể nó được con người xây dựng nên.”

Trong lòng tôi bỗng nổi lên một cảm giác kì lạ: Uông Tàng Hải xây lăng mộ thành hình dạng thai nhi, chẳng lẽ ổng hi vọng lăng mộ này cũng sẽ thành tinh giống ‘Thai Côn Luân’ hay sao?

Nếu đúng như thế thì quả là ngoài sức tưởng tượng.

Bàn Tử nói: “Suy đoán nhiều mà làm gì, nếu không đào nó lên thì đoán già đoán non cũng vô ích. Có thời gian rảnh rỗi ngồi đoán thà nghĩ cách xuống đó còn hơn.”

“Nếu đào xuống rồi mới phát hiện ra nó không phải lăng bồi táng, mà là thực sự là một khối băng khổng lồ thì ….” Diệp Thành đã hơi run, răng va lập cập :”…Thì biết làm sao?”

Bàn Tử vỗ về hắn: “Vậy anh cứ ở lại trên này, chúng tôi xuống kiểm tra, nếu an toàn sẽ gọi anh xuống.”

Tôi cũng nói: “Nếu kia thực sự là băng thai thì đúng là kì tích của tạo hóa, có thể tận mắt ngắm một lần cũng đáng giá.”

Hoa hòa thượng vỗ vai Diệp Thành: “Chú nhát gan quá, nên học hỏi thêm các đại ca đi… Vấn đề lúc này không phải là xuống hay không xuống mà là làm thế nào để xuống?” Hắn ước lượng độ dày của lớp băng, nói: “Nếu dùng cuốc chim thì có đào bạt mạng trong nửa tháng cũng chưa chắc đã xuống đến nơi.”

Chúng tôi là thổ phu tử chứ không phải băng phu tử, tác nghiệp trên băng hoàn toàn không giống với mặt đất bình thường, phải chú ý đến rất nhiều thứ, bình thường tài nghệ có tốt đến mấy cũng chưa chắc được việc.

Bàn Tử nhìn chằm chằm cái bóng khổng lồ dưới đáy sông băng kia, khoát tay nói với chúng tôi. “Chuyện này có gì khó chứ? Cứ để Bàn Tử ta ra tay.”

Tôi trông nét mặt hắn hình như đã phát hiện ra điều gì, trong lòng cũng sinh tò mò. Bàn Tử vẫn là kiểu người tích cực tiên phong trong đoàn, rất ít khi đưa ra ý kiến về mặt chuyên môn nhưng một khi đã phát biểu thì luôn nói trúng điểm then chốt, cho thấy tâm tư người này thực ra khá là tinh tế. Khi còn ở dưới đáy biển, tôi đã cảm nhận sâu sắc điều này, đây hẳn là lý do hắn cực kì hám của nhưng vẫn có thể biến nguy thành an hết lần này đến lần khác. Nhưng với kiểu người như Bàn Tử, khi nói chuyện phải có chiêu. Hắn thuộc dạng cứng đầu, bình thường khích hắn còn công hiệu hơn là nịnh nọt hắn. Vì thế tôi nói: “Anh thì có biện pháp quái gì?”

Quả nhiên hắn tỏ vẻ khó chịu, đáp: “Nói vớ vẩn, thế sinh viên như cậu thì có biện pháp chắc? Tôi đã từng lên núi Côn Luân, nhiều sông băng trên đó còn dày hơn chỗ này, tất nhiên kinh nghiệm phong phú hơn cậu gấp vạn.”

Tôi cười nói: “Vậy anh nói tôi nghe thử xem.”

Bàn Tử hầm hừ với chúng tôi rồi cũng chịu nói, người dẫn đường của hắn trước đây có kể cho hắn nghe khá nhiều câu chuyện về băng. Độ cao so với mực nước biển của núi Côn Luân hơn nơi này rất nhiều, là sông băng trên núi cao đích thực, nơi đó hình thành những khe băng cực lớn do nhiệt độ thấp và địa thế núi vận động thường xuyên tạo ra những vết rạn nứt. Đôi khi trong khe băng lại phát hiện những di hài kỳ quái thời xưa, thậm chí có người còn phát hiện có nhà cửa bị chôn vùi sâu dưới lòng sông băng, nhưng đã sụp xuống cả, chỉ còn lại ít tàn tích.

Bàn Tử lúc ấy có hỏi trong môi trường băng giá như thế, vì sao các di tích cổ đại này lại không thể bảo tồn? Người dẫn đường của hắn liền đáp, đưa một tòa kiến trúc hoàn chỉnh đông cứng trong băng là chuyện không khả thi, đặc biệt là phòng ốc bằng gỗ gặp phải băng vỡ hay tuyết lở thì chắc chắn sẽ sụp trước tiên.

Tòa kiến trúc trong lòng sông băng dưới chân chúng tôi đang đứng bây giờ hiển nhiên được xây dựng trên vách núi. Cái bóng đen dưới đó trông rất hoàn chỉnh, hình dáng cực kì giống một đứa bé, chứng tỏ nó không có dấu hiệu bị sụp xuống, bởi vì với kiểu kiến trúc lầu gác thế này, một khi sụp xuống sẽ không thể giữ được hình dạng đó. Cho nên trừ phi vùi trong sông băng không phải lăng bồi táng mà là một khối đá, bằng không lăng bồi táng đóng băng trong lòng sông này nhất định không phải do tuyết lở mà do con người tạo nên.

Giả thiết của Bàn Tử vô cùng hoàn chỉnh, tôi gật đầu đồng ý với hắn, nhưng những người kia lại chưa hiểu ra ý nghĩa của nó. Phan Tử hỏi lại hắn: “Vậy thì sao?”

Bàn Tử xua tay nói: “Nếu như không có tuyết lở, lăng mộ kia lại được xây dựng cách đây hơn 900 năm, thì theo lý thuyết lớp băng tích tụ trong 900 năm không thể dày đến vậy. Cho nên mới nói lớp băng này chắc chắn là do con người tạo ra, dưới chân chúng ta là một lớp tường băng nhân tạo cực dày. Tường băng này lại không thể đè trực tiếp lên công trình, mà chắc chắn phải có một cái vòm, hình thành nên một khung băng tự nhiên bắc trên sườn dốc để bảo vệ những kiến trúc bên dưới. Tương tự như những nấm mộ giả bằng băng khác, băng này cũng không dày như chúng ta tưởng. Cậu xem, băng chỗ này rất trong, đây cũng là một bằng chứng.”

Bàn Tử nói xong, mọi người cùng ồ lên, ai nấy đều nhìn hắn với cặp mắt ngưỡng mộ, đồng thời cũng tự nhiên có cảm giác dưới chân mình bất ổn hơn rất nhiều.

Bàn Tử còn thù tôi vừa rồi coi thường hắn, lại biết tôi học kiến trúc, liền hỏi tôi giả thiết của hắn có vững không.

Tôi gật gật đầu, về lý thuyết hắn giải thích thông suốt, hơn nữa còn có tính khả thi cao. Kĩ thuật dùng băng làm khung cho nhà cửa, trên thế giới đã xuất hiện từ rất sớm. Thời Tam quốc, Tào Tháo một đêm xây thành chính là dùng băng cộng thêm rơm rạ, người Eskimo cũng sớm biết dùng băng để xây nhà ở cho mình. Gần đây nhất ở Đan Mạch hình như còn xuất hiện kiến trúc bằng băng hiện đại, cho thấy trong kiến trúc học thì độ cứng của băng tuyệt đối không thành vấn đề.

Tuy nhiên Tào Tháo xây thành trong một đêm là ở đồng bằng, còn đây là xây dựng một khung băng lớn trên vách đá dựng đứng, thực sự khả thi sao? Tôi vẫn chưa hoàn toàn đồng tình, dù sao thời gian cũng cách đây hơn 1000 năm, Uông Tàng Hải dù có tài năng vượt trội hơn con người thời đó rất nhiều nhưng cũng không thể đạt đến trình độ này.

Bàn Tử thấy tôi đồng ý với hắn, lập tức đắc ý, hất tóc: “Chuyện, Bàn gia ta chính là nhân tài.”

Diệp Thành hỏi tôi: “Cậu chủ Ngô, liệu có thể dựa vào kiến trúc học để tính ra độ dày của khung băng không?”

Kiến thức thời đại học của tôi phần lớn là chữ thầy trả thầy cả rồi, cơ mà trọng lượng của một đơn vị thể tích băng thì vẫn nhớ. Tôi lẩm nhẩm trong bụng, dùng mấy công thức tính toán ra một con số, bèn trả lời: “Nếu những lời Bàn Tử nói là đúng, giả sử dùng cọc gỗ để chống đỡ kết cấu thì tầng băng dưới chân chúng ta không thể dày quá mười mét, bằng không trọng lượng bản thân khối băng quá lớn sẽ tự sụp xuống, có chống bằng giời.”

“Mười mét.” Mọi người nhìn nhau, Phan Tử bèn nói: “Bố khỉ, vậy cũng quá sức rồi. Mặt băng chỗ này không giống những nơi khác, cứng rắn hơn nhiều, chúng ta lại không có thiết bị chuyên dụng. Vừa nãy tôi với Lang Phong dùng xẻng ra sức gõ thử mấy cái nhũ băng, mới gõ vài cái tay đã tê rần mà chỉ gõ ra được mấy cái vệt trăng trắng. Muốn xuyên thủng mười mét băng này chỉ e phải tốn kha khá thời gian, có khi một tuần vẫn chưa xong.”

Băng trọng lực không giống như băng đóng trên mặt sông bình thường. Băng trên mặt sông hình thành từ nước sông, lẫn nhiều tạp chất, hơn nữa bên trong lại chứa bọt khí, mà nhiệt độ trong lòng sông cũng không quá thấp. Nhưng băng trọng lực là do tuyết tích tụ ngàn năm chồng chất hết tầng này đến tầng khác nén xuống, không những ít tạp chất mà nhiệt độ lớp băng bên dưới tầng tuyết có thể xuống dưới -50 độ. Dưới nhiệt độ và độ tinh khiết như thế, băng sẽ có mật độ và độ cứng vô cùng đáng sợ.

Bàn Tử nói: “Chẳng phải chúng ta có thuốc nổ sao? Chúng ta cứ trèo lên nấp dưới tảng đá kia rồi đào một cái lỗ pháo là được.”

Hoa hòa thượng và tôi lập tức lắc đầu. Tôi nhớ vừa mình rồi suýt nữa đã chết trong đống tuyết, nổi giận với hắn: “Anh đúng là đồ não cá vàng, vừa rồi còn chưa nếm đủ sao? Còn nữa, nếu sông băng này rỗng ruột, một vụ nổ dù nhỏ đến đâu cũng có thể khiến khung băng nứt toác ra – nếu giả thiết của anh là chính xác thì không thể cân nhắc phương án dùng lực phá hoại quá lớn để mở đường. Nếu đào đến nơi quan trọng có khi cả xẻng băng cũng không dùng được, làm không tốt sẽ gây ra phản ứng dây chuyền.”

Bàn Tử vốn cực kì ác cảm với những lý luận khoa học, nghe thế liền làu bàu: “Cậu là đồ mọt sách xa rời thực tế. Xẻng băng cũng không được dùng thì biết làm sao? Chẳng lẽ xúc bằng thìa? Cậu đừng ỷ mình là sinh viên mà đứng ở đây diễu võ giương oai, cố tình làm khó chúng tôi.”

Tôi nói tôi còn sốt ruột hơn anh, nhưng sự thật là sự thật, nếu ai không tin thì cứ đi mà thử.

Một vấn đề vừa nghĩ thông suốt lại phát sinh vấn đề khác, trong thoáng chốc bầu không khí đã trầm xuống, mọi người không ai nói lời nào, tập trung nghĩ cách giải quyết. Đang lúc do dự chưa quyết, đột nhiên Muộn Du Bình cầm cái lò không khói mà Thuận Tử dùng để pha trà bước lại gần chúng tôi, thả xuống bên cạnh. Bếp lò nóng bỏng lập tức phản ứng với mặt băng lạnh buốt, phát ra tiếng xèo xèo. Hắn quay sang hỏi tôi: “Như thế đã được chưa?”

Tôi thấy vậy, trong lòng thầm nghĩ thôi chuẩn rồi. Tiên sư nó, trời lạnh não cũng đóng băng, sao mình lại không nghĩ ra cách này chứ, dùng lửa có nhanh hơn không.

Nhiệt độ và độ cứng của băng có liên quan trực tiếp với nhau, nhiệt độ càng tăng thì độ cứng càng giảm. Một khi lớp tường băng mặt ngoài bắt đầu biến giòn, phản ứng dây chuyền khi xẻng xúc đập vào băng sẽ giảm bớt. Chúng tôi có thể bước từng bước một, đầu tiên hơ nóng bề mặt băng để giảm bớt độ cứng, sau đó phá vỡ cả khối, lộ ra tâm băng sâu hơn lạnh hơn ở bên dưới. Rồi lại tiếp tục dùng lò nung nóng, cứ lặp đi lặp lại như thế cho đến khi thông xuống đáy mới thôi.

Thực tiễn chính là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, chúng tôi lập tức thử nghiệm cách này. Mọi người đều lấy bếp lò của mình ra, đốt lên xong đặt xuống mặt băng, một phút sau dùng xẻng xúc băng lên. Quả nhiên đúng như trong sách nói, khối băng nóng lên sẽ hóa giòn và vỡ ra từng mảnh.

Nhưng do nhiệt độ không khí quá thấp, làm như vậy cũng rất chậm, chúng tôi thay phiên nhau làm thử suốt 3 tiếng đồng hồ, cho đến khi trời đã tối đen mới đào được một cái hố rộng chừng nửa mét, sâu cỡ bảy, tám mét trong băng. Màu sắc tầng băng bên dưới biến đổi rõ rệt, độ tinh khiết của băng tăng lên rất nhiều. Lúc này có thể khẳng định Bàn Tử đã nói đúng phân nửa, băng này chắc chắn không phải do tự nhiên hình thành.

Bàn Tử lưng buộc dây thừng, hai chân xoải ra chống vào thành giếng băng, cuối cùng dùng lò không khói hơ nóng mặt băng dưới đáy hố, sau đó lấy búa ngắn đập mạnh một cái, đang định nện thêm cái nữa thì không ngờ đã nghe “rắc” một tiếng, khung băng nứt ra một cái khe. Trong chốc lát chúng tôi cảm giác được không khí bên ngoài tràn vào khe nứt kia tạo ra một luồng gió, khiến nhiệt độ đột nhiên hạ xuống rõ rệt.

Bàn Tử lại đập thêm một búa, phá tan khối băng dưới đáy, vụn băng rơi xuống ào ào, quả nhiên xuất hiện một cái cửa động, bên dưới trống không!

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngay cả Bàn Tử cũng tự thấy kinh ngạc, kêu lên một tiếng: “Tôi đã đoán thì chỉ có chuẩn!”

Chúng tôi kéo hắn lên, mọi người xúm lại xung quanh cửa động, tranh nhau cầm đèn pin rọi vào bên trong.

Bên trong giếng băng này là một khoảng không rộng lớn tối tăm, cả khung băng giống như một cái bát trong suốt úp ngược trên vách đá, dọc theo vách đá là vô số cột gỗ chống băng dựng thẳng đứng lên, đan xen với nhau, hình thành một kết cấu giống như giàn giáo, chống đỡ ‘bát băng’ bên ngoài. Thứ này chính là gai mọc trên người cái ‘bóng thai’ mà Hoa hòa thượng đã nói. Bên dưới vách đá là một vực sâu tối đen như hũ nút, nhìn không thấy đáy.

Ở độ sâu hơn một trăm mét so với vách đá, chúng tôi đã thấy được chân tướng của cái bóng thai màu đen kia. Đó là một hang núi hình bào thai rất lớn, cũng không biết do con người tu tạo hay hình thành tự nhiên. Miệng hang ước chừng rộng cỡ một cái bể bơi tiêu chuẩn, thoạt nhìn rất giống một đứa trẻ sơ sinh khổng lồ màu đen.

Chúng tôi nhìn mà sợ đến ngây người, ai nấy gần như không thốt nên lời. Bàn Tử mắt tinh như cú, cầm đèn pin của tôi chiếu vào một chỗ, nói: “Xem này!”

Theo hướng hắn chỉ, chúng tôi nheo mắt lại cẩn thận quan sát, lúc này mới thấy trong hang núi kia vậy mà lại xây một tòa cung điện hoành diêm phi lương nguy nga tráng lệ, có một phần kiến trúc còn nhô ra khỏi miệng động, dùng cột gỗ chống vào vách đá, giống như tòa lâu đài treo lơ lửng giữa trời. Nhưng phần lớn kiến trúc được xây bên trong hang động, không thể nhìn rõ toàn cảnh.

Do nơi này quanh năm giá lạnh, nơi nơi đều tích tụ băng tuyết, phần kiến trúc lộ ra ở miệng hang kia nhìn từ bên trên trông cứ như phủ một lớp bụi dày, không quá nổi bật nên nhìn lướt qua cũng không dễ mà phát hiện.

Đây chắc là linh cung của lăng bồi táng, cũng chính là long lâu bảo điện mà Mô Kim hiệu úy thường nhắc đến, là phần ‘lăng’ trong ‘lăng mộ’, mà mộ của chủ nhân nó hẳn là nằm sâu trong lòng núi dưới linh cung kia.

Tôi không khỏi cảm khái, cứ ngỡ nơi này nhiều nhất cũng chỉ có một lối kín đáo dẫn vào địa cung, không ngờ Vạn Nô vương lại phô trương cỡ này, lăng bồi táng mà cũng thiết kế linh cung hoành tráng đến vậy. Nếu Vân Đỉnh thiên cung kia không bị bao phủ dưới lớp tuyết dày thì cảnh tượng sẽ còn nguy nga tráng lệ đến nhường nào? Thực sự không tài nào tưởng tượng nổi, trí tuệ của cổ nhân thật khiến cho người ta kinh sợ.

Bàn Tử là người đầu tiên có phản ứng, hắn phá lên cười, kế đó những người khác cũng đều mỉm cười, mọi người cùng nhau vỗ tay ăn mừng. Tôi huých mông với Bàn Tử, suýt chút nữa đã trượt xuống khỏi mặt băng.

Hoa hòa thượng vội vàng ngăn chúng tôi lại. Hắn chỉ chỉ sườn tuyết trên đầu, ý nói coi chừng tuyết lở thêm lần nữa. Mà chúng tôi lại đang đứng trên mặt băng, có mà trốn đằng giời.

Lúc này chúng tôi mới cố nén kích động trong lòng, cố giữ trật tự, nhưng trên mặt ai cũng lộ ra nét vui sướng đến phát cuồng, không sao kiềm chế nổi.

Bây giờ ngẫm lại, kẻ trộm mộ, cho dù là trộm mộ lâu năm đi chăng nữa thì cũng chẳng mấy ai đào được loại mộ cao cấp như hoàng lăng. Nếu có thể tiến vào hoàng lăng một lần mà an toàn trở ra thì chẳng cần quan tâm trong lăng có những vật báu gì, bản thân chuyện này đã đủ chứng minh anh vĩ đại thế nào. Chưa tính đến chuyện anh có thể khoác lác thổi phồng với người ta bao nhiêu năm sau, thì tâm thái của chính anh cũng không còn như xưa nữa, loại hấp dẫn này dẫu là ai cũng không thể kháng cự nổi. Mà ngay cả một kẻ vốn không coi mình là dân trộm mộ như tôi cũng dâng lên cảm giác kích thích mãnh liệt, quả thực đã sốt ruột đến mức không chờ thêm được nữa, chỉ muốn xuống đó ngay lập tức xem sao.

Hoa hòa thượng tự vỗ mặt mình cho trấn tĩnh lại, sau đó quay sang hỏi Trần Bì A Tứ xem chúng ta nên xuống đó ngay bây giờ hay để đến ngày mai.

Trần Bì A Tứ âm trầm liếc qua chúng tôi rồi hỏi: “Ngày mai mới xuống? Các ngươi liệu có nhịn nổi không?”

—————————————————

(1) Thành của Võ Tắc Thiên là một cách gọi khác của thành Lạc Dương, do Võ Tắc Thiên đặc biệt yêu thích đô thành này, sau khi lên ngôi đã cho dời đô từ Trường An sang Lạc Dương và sống gần hết đời mình ở đây. Bản đồ thành Lạc Dương (tự xem và cảm nhận…)
 
Quyển 4 - Chương 19: Thai động linh cung


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Chúng tôi chỉnh đốn lại trang bị, dập tắt lò không khói, xếp gọn cuốc xẻng lại. Mọi người hành động rất ăn ý, tốc độ cực nhanh, sau khi thu dọn ổn thỏa thì cả đám tập trung lại xung quanh miệng hố vừa đào.

Đây là biểu hiện điển hình của những người cùng chung chí hướng, thật ra nó cho thấy ban đầu ai nấy đều rất ấu trĩ. Dù thu xếp nhanh đến mấy cũng chưa chắc đã xuống sớm hơn, bởi vì chưa ai từng đặt chân vào hoàng lăng, dù thế nào cũng phải trải qua một quá trình tìm hiểu, chỉ là lúc ấy cảm thấy không thể để người khác vào trước.

Thế nên mới có một cảnh hết sức buồn cười, đó là sau khi vây kín quanh miệng hố băng, mọi người đều không biết phải làm gì nữa. Giống như có một đám bạn bàn bạc nửa ngày trời xem nên đi đâu chơi, quyết định rồi mới phát hiện ra cả lũ đều mù đường như nhau. Mọi người quay sang nhìn nhau, ai nấy đều ngơ ngác.

Tôi nhìn vào trong động, âm thầm phân tích. Mọi chuyện đều ổn, chỉ có một vấn đề chí mạng đó là cái hố băng chúng tôi phá ra nằm ngay trên miệng vực, cách thai động nơi đặt linh cung khoảng hơn một trăm mét bề dọc và hơn hai mươi mét bề ngang. Chúng tôi mặc dù có đủ dây thừng nhưng vẫn không tài nào vượt qua hai mươi mét bề ngang này – có đu dây cũng không đu nổi.

Ở phía sau, Trần Bì A Tứ nhìn bộ dạng chúng tôi, cười lạnh một tiếng: “Đúng là một đám không có tiền đồ.”, nói rồi đứng lên khiến chúng tôi đều tránh qua một bên.

Tôi cười thầm trong bụng, lão già Trần Bì A Tứ này vẫn không bỏ được tính kẻ cả bề trên. Từ trước đến giờ chúng tôi vẫn răm rắp làm theo lời lão, nhưng vừa rồi Bàn Tử lại trổ tài khiến lão không tránh khỏi khó chịu trong lòng, lúc này thấy chúng tôi lâm vào cảnh này mới không nhịn được mà nói ra mấy lời chê bai để vãn hồi vị thế của mình, đây cũng là tâm lý chung của rất nhiều người già.

Chúng tôi dẹp đường cho lão, Hoa hòa thượng tự cười giễu, nói: “Lão gia, cũng tại chúng tôi phấn khởi quá thôi, cả đời chưa ai gặp trận thế lớn như vậy. Ngài nói cái đấu này … phải đổ như thế nào đây?”

Trần Bì A Tứ nhờ Diệp Thành đỡ mình ngồi xổm xuống, nhìn vào trong lòng động, nói:” Trăm khoanh vẫn quanh một đốm (ý là dù bề ngoài thay đổi đến đâu thì bản chất vẫn giữ nguyên như cũ), trước hết vẫn phải cẩn thận. Đầu tiên chúng ta cần một người leo lên những cột trụ gỗ chống đỡ khung băng kia, rồi từ cột trụ đó leo lên phía trên sơn động, sau đó thả dây thừng xuống đỉnh mái ngói của tòa kiến trúc kia.”

Chúng tôi nhìn về phía những cột trụ gỗ chống đỡ hành lang bám đầy băng kia. Mỗi cây cột này dày chừng 100 mét, chắc chắn không thể chỉ là một thân cây gỗ thô, nhất định phải gồm nhiều cây gỗ được nối lại với nhau, như vậy kết cấu chịu lực không thành vấn đề, nhưng là không biết có chịu nổi sức kéo hay không, nếu không thì xong đời. Nếu một cây cột trụ đổ xuống, trong quá trình rơi tất nhiên sẽ động đến những cột trụ khác, đến lúc đó cả khung băng cũng có thể sụp xuống, phương pháp này vẫn là vô cùng mạo hiểm.

Nhưng lúc đó ai nấy đều nôn nóng nghĩ cách leo xuống nên cũng không cân nhắc nhiều đến chuyện này, vả lại cũng không còn cách nào tốt hơn.

Ở đây người thích hợp để xuống nhất chỉ có Phan Tử, những người khác thân thủ hay trọng lượng đều không phù hợp, cho nên Phan Tử đành xuống đầu tiên.

Chúng tôi buộc dây thừng lên lưng anh, thắt hình cánh bướm, trên người mang theo một ít trang bị gọn nhẹ. Phan Tử trông có vẻ hăng hái, Trần Bì A Tứ cho anh uống một ngụm rượu để trấn định tinh thần, nói: “Đừng có phấn khích quá, mục tiêu của chúng ta không phải nơi này, đi xuống thì đốt pháo hiệu báo cho ta.”

Phan Tử gật đầu, hít sâu một hơi rồi cẩn thận leo xuống hố băng, sau đó dùng công phu Phi hổ trảo tử bám vào một cây cột trụ, sau đó đu dây y như bộ đội đặc công, rồi bò lên thân một cây cột trụ khác.

Vừa giẫm lên một bước, cây cột gỗ đã phát ra tiếng răng rắc như tiếng băng nứt vỡ khiến người ta thót tim. Chúng tôi lập tức nín thở, Phan Tử cũng tái mặt, không dám nhúc nhích, chỉ sợ cây cột gãy vụn.

Nhưng may mắn thay, đợi khoảng mười phút thì tiếng gãy trên cột trụ gỗ chấm dứt, bốn bề lại trở về với tĩnh lặng, thế chịu lực lại một lần nữa cân bằng.

Tôi nghĩ lại thì thấy có lẽ là mình thần hồn nát thần tính thôi, khung băng nặng nề như vậy, những cột trụ này chắc chắn phải chịu áp lực cực kì lớn, chúng tôi so ra cũng chỉ như con kiến thôi, có nhằm nhò gì đâu.

Vài người thở phào, bị dọa một trận như vậy, chúng tôi đều tỉnh cả người. Cơn kích động ban nãy cũng dần lắng xuống.

Phan Tử tiếp tục tiến về phía trước, càng đi càng cẩn thận, giống như đang nhảy một điệu vũ khoan thai. Tim chúng tôi cũng hồi hộp đập theo từng bước chân của anh, vất vả hồi lâu cuối cùng anh cũng đi tới cây cột trụ cuối cùng chống vào vách núi đá, khoảng một trăm mét về phía dưới chính là hang núi.

Chúng tôi chiếu đèn pin xuống dưới cho anh, kế đó Phan Tử bẻ năm, sáu cây gậy huỳnh quanh, thả từng cái một xuống bên dưới.

Trong bóng đêm, mấy vệt sáng rơi thẳng xuống dưới, có vệt mất hút dưới vực sâu như sao băng, có vệt rơi được hơn mười mét thì đập vào mái ngói, nảy lên vài cái rồi dừng lại. Chất hóa học bên trong gậy huỳnh quang do va chạm mạnh mà sinh ra phản ứng, ánh sáng càng lúc càng lan rộng, mơ hồ chiếu sáng cảnh vật bên trong khung băng.

Tiếp đó, Phan Tử quăng một đầu dây thừng xuống mái ngói bên dưới, sau đó nhanh chóng trượt xuống.

Thấy Phan Tử vững vàng đứng trên mái ngói, chúng tôi mới thả lỏng được đôi chút. Phan Tử ra hiệu cho chúng tôi, ý là quy trình này an toàn.

Chúng tôi lại bắt đầu nổi cơn hưng phấn. Người thứ hai đi xuống chính là Hoa hòa thượng, thế rồi chúng tôi lần lượt bắt chước theo họ, từng người từng người một lần lượt an toàn hạ xuống mái ngói.

Một trăm mét đi cầu thăng bằng rồi lại thêm một trăm mét leo dây thừng chẳng phải chuyện chơi. Khi đến nơi tôi gần như đứng không vững, phải nhờ Phan Tử đỡ thì tôi mới trụ vững nổi trên mái ngói lưu ly. Cảm giác lạnh buốt khi bước đi trên cây cột gỗ khiến chân tôi mất tự chủ, bắt đầu nhũn ra.

Bảy chiếc đèn pin chiếu ra xung quanh, phát hiện vòm băng bên trong vách đá tạo thành một góc khoảng 30 độ so với phương thẳng đứng. Hang núi rất sâu, cung điện nằm trọn trong lòng núi, nhìn không thấy tận cùng bên trong, đỉnh núi và đỉnh linh cung tựa hồ khít lại với nhau. Mái ngói chúng tôi đang đứng chính là gác mái của “đại điện”, đầu mái cong lên đúng là triêu phượng long đầu, hai bên chái là mỏ diều hâu trấn trạch, ngói vàng cột son rất có khí khái hoàng tộc. Chúng tôi mấy người xiêu xiêu vẹo vẹo đứng phía trên, cảm giác giống như Châu Tinh Trì quyết đấu trên nóc Tử cấm thành.

Bàn Tử muốn dỡ một miếng ngói ra xem, nhưng phát hiện mái ngói với xà nhà đã đóng băng, dính chặt vào nhau, gỡ thế nào cũng không ra, đành phải bỏ cuộc. Chúng tôi bước từng bước thận trọng, bám vào mái cong hình đầu rồng, dùng dây thừng hạ xuống cửa hiên của linh cung nằm bên ngoài cửa chính.

Cửa hiên ở đây cũng giống như đài hiến tế, nền gác mái được rải đá phiến bằng phẳng, quanh năm lạnh giá khiến cho đá rất giòn, chân dẫm lên mặt băng cũng gây ra chấn động, bắt cứ lúc nào cũng có thể vỡ. Nơi này hẳn là điểm cuối cùng của sạn đạo dẫn sang vách núi, bây giờ sạn đạo đã bị phá hủy, một bên là vực thẳm sâu vạn trượng tối đen, hai bên trái phải lại là một dãy mấy cái đỉnh đồng phủ đầy băng, bên trong là thứ gì đó màu đen, có lẽ là tro tàn từ thời xưa.

Các khí cụ bằng đồng cùng với kiểu cách của cung điện thì rõ ràng là mang phong thái thời Hán, xem ra thời đó Uông Tàng Hải tới nhận thi công công trình này, về mặt thiết kế vẫn không thể vượt khỏi những hạn chế của thời đại và dân tộc của mình. Hoặc cũng có thể lúc đó sức mạnh quốc gia của Đông Hạ chỉ là đi cướp đoạt vài vùng đất sát biên giới của người Hán mà chắp vá thành.

Bên kia chính là cổng linh điện, trước cửa dựng một bia đá không chữ đặt trên mai rùa, đằng sau tấm bia đá là cổng bạch ngọc của cung điện. Cổng rất lớn, cao khoảng ba thân người, rộng bằng hai người. Trên cửa đá khắc hình rất nhiều người mặt chim đang nhảy múa giữa những đám mây, không biết nên gọi là gì, trên cửa gắn một cái đầu hổ bằng đồng thau. Trục và khe cửa đều đổ đầy nước, hai cánh cửa hiện giờ đã đóng băng lại thành một khối chắc chắn.

Đứng ở chỗ này nhìn lên khung băng chỉ thấy một tầng ánh sáng mong manh chiếu xuống, tầm mắt tôi như bị bao phủ trong sương mù, nhìn mọi thứ đều cổ xưa hơn rất nhiều, cảm giác này thật khó diễn tả thành lời.

Hoa hòa thượng chụp vài bức ảnh, chúng tôi nhân cơ hội nghỉ ngơi, ngắm nghía xung quanh. Diệp Thành dạo quanh một vòng, nhìn xuống vách núi bên dưới mà cảm khái nói: “Mẹ kiếp, tôi thật không hiểu vì sao Vạn Nô hoàng đế lại xây lăng tẩm ở cái chốn khỉ ho cò gáy này, xây dưới đồng bằng không tốt hơn sao? Cái này đúng là làm khổ người ta.”

Tôi nói: “Cách nghĩ của hoàng đế cơ bản đều không giống với dân thường, có lẽ điều này liên hệ mật thiết với tôn giáo của họ. Anh xem ở Tây Tạng có rất nhiều miếu thờ, tất cả đều được xây ở những nơi người bình thường không thể đặt chân đến mục đích chính là muốn gần hơn với thần linh, cái này người phàm tục chúng ta không hiểu được đâu.”

Bàn Tử lắc đầu tỏ ý không đồng tình: “Tôi cảm thấy nguyên nhân hắn xây lăng mộ trong này thực chất rất đơn giản, chính là không muốn người khác leo lên, bên trong hoàng lăng này khẳng định có đồ tốt. Lão khốn Vạn Nô hoàng đế này khi sống vơ vét của cải, chết rồi vẫn không muốn chia cho người khác, lần này chúng ta phải dạy bảo hắn cho nghiêm chỉnh mới được” Nói rồi cùng Lang Phong lấy xà beng ra nạy cửa điện.

Tôi nghe mà buồn cười, cái tên Bàn Tử này, nếu hắn mà làm hoàng đế, không biết sẽ xây lăng mộ của mình ở chỗ nào nữa.

Phía sau cửa ngọc thạch không phải là đá thông thường. Dùng xà beng nạy một lúc băng ở hai bên trục cửa mới hơi nứt ra, chúng tôi lấy cái đục đập nát mặt băng bên trên cánh cửa, cửa mới tạm nhích ra được một khe hở. Một luồng khí đen phun ra, chúng tôi liền nhanh chân né thoát. Hoa hòat nói không sao đâu, đây là nước sơn chống ẩm phết lên phía sau cánh cổng, bây giờ đều đã đông cứng lại thành dạng bụi phấn rồi.

Cửa điện xuất hiện một kẽ hở, không thấy động tĩnh gì, hình như trục bản lề của cánh cửa đã bị hỏng. Chiếu đèn pin vào bên trong, linh điện trống trải không nhìn thấy gì cả, bên trong tối tăm đến mức có thể hấp thụ hoàn toàn ánh sáng.

Diệp Thành sốt ruột muốn vào nhưng bị Bàn Tử ngăn lại, hắn quay đầu hỏi Muộn du bình: “Tiểu Ca, trước hết cậu hãy nhìn thử xem nơi này có thể có cơ quan kỳ xảo gì hay không?”

Muộn Du Bình sờ sờ cánh cửa, rồi lại nhìn phù điêu trên cửa, nhìn nửa ngày mới lắc đầu, tỏ ý không chắc chắn: “Các người đi theo tôi, đừng nói gì cả.”

Người này chỉ nói một câu là đầy đủ ý tứ, chúng tôi cũng ngay lập tức hiểu ra. Tôi và Bàn Tử mạnh mẽ gật đầu, mọi người đều lấy ra vật gì đó để phòng thân.

Muộn Du Bình nghiêng mình, sải bước tới trước cánh cửa, đi vào đầu tiên. Chúng tôi theo sát phía sau hắn, lướt qua cánh cửa. Trong khoảnh khắc thấp thỏm hòa mình vào bóng đêm, một cảm giác cực kì dị thường đột nhiên kéo tới, bủa vây lấy tôi.

Tôi đột nhiên thầm nghĩ, gần một ngàn năm qua, chúng tôi có thể là nhóm người đầu tiên đặt chân đến nơi này. Ngẫm lại thì suốt một ngàn năm ấy, ai mà biết trong cái cung điện lánh xa tầm mắt con người này đã xảy ra những chuyện gì?
 
Quyển 4 - Chương 20: Đại điện linh cung


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đại điện linh cung là phần chính của lăng mộ được xây dựng trên mặt đất, quy mô lớn nhất. Khi tiến vào, thứ đập vào mắt đầu tiên chính là hai hàng trụ đá lớn ở hai bên lối đi dẫn vào linh cung, mỗi cột trụ cách nhau khoảng năm mét. Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu tôi là bức tranh người ta dùng ‘phi lai tiễn’ để nâng quan quách, như thế hẳn là những đồ vật ở đây đều dùng cách này, từng chút từng chút một đưa từ vách núi sang đây, cách thức mà cho đến giờ chúng tôi vẫn nghĩ là không khả thi.

Cột đá khuất mình trong bóng tối, có thể mơ hồ nhìn thấy một đăng nô (1) to lớn màu đen, mặt phía sau tối như hũ nút, không hiểu vì sao chiếu đèn pin vào lại không thấy ánh sáng phản xạ, giống như nơi đó là một khoảng không trống rỗng, cũng chẳng nhìn thấy vật bồi táng nào.

Bàn Tử đốt hỏa chiết tử, muốn đi châm thử cái đăng nô kia. Tôi can hắn, nói tòa kiến trúc này còn đứng sừng sững ở đây mà chưa bị sập, một phần quan trọng là do nhiệt độ nơi này rất thấp. Nếu châm nhiều đăng nô sẽ kiến băng bám trên mái ngói này tan ra, có thể sẽ sụp xuống, tốt nhất không nên thắp đèn.

Chúng tôi chỉ có thể dựa vào ánh đèn pin mà lần mò trong bóng tối, có lẽ do bị hoàn cảnh tác động nên ai nấy lặng thinh không nói câu nào, cứ như sợ đánh thức thứ gì đó trong linh cung này vậy. Bốn phía tĩnh mịch đến rợn người, trong không khí chỉ còn lại tiếng bước chân của chúng tôi hòa với tiếng hít thở nặng nề.

Diệp Thành là người ít trải đời nhất trong cả đám, mới đi được vài bước đã nhịn không nổi, nói: “Cái không khí im lặng chết tiệt này làm người tôi phát run, càng im lặng tôi càng thấy sợ, mọi người nói gì đi, đừng có như lũ ăn trộm vậy chứ.”

Còn chưa nói dứt lời, Muộn Du Bình đã ra dấu im lặng, khiến hắn câm bặt. Bàn Tử thì thầm với Diệp Thành: “Con mẹ nó, anh đừng có ý kiến ý cò, chúng ta không phải đang đi ăn trộm thì là gì? Vị tiểu ca này tai thính lắm đấy, cậu cứ lảm nhảm như thế rồi chúng ta dẫm phải cơ quan lúc nào không biết, lúc đấy anh có chịu trách nhiệm nổi không?”

Diệp Thành nghe nói nơi này có thể có cơ quan, luống cuống bụm miệng lại, lo lắng ngó nghiêng xung quanh sợ có ám khí bay tới.

Hoa hòa thượng thấy vậy bèn nói: “Cũng đừng lo lắng thái quá, đây là nơi hiến tế, nước Đông Hạ xưa có lẽ dùng nơi này để tế lễ hàng năm, khả năng có cơ quan không lớn. Hơn nữa nơi này cũng đã có tuổi, không cần lo lắng.”

“Nói bậy.” Bàn Tử vừa nghe đã muốn đốp lại Hoa hòa thượng.

Tôi vỗ vỗ hắn, bảo hắn đừng nhiều chuyện, vừa rồi còn nhắc người khác đừng nói, bây giờ chính mình lại không định yên mồm.

Khung băng bên ngoài dày đến thế, một khi đóng chặt lại sẽ rất khó để mở ra, sạn đạo bên ngoài cũng đã sớm bị thiêu rụi, chứng tỏ sau khi phong bế linh cung đã không còn ai tính đến chuyện trở về. Hoa hòa thượng không phải không biết, chỉ là chuyện này nói ra chỉ khiến mọi người thêm hoang mang không cần thiết.

Chúng tôi tiếp tục tiến về phía trước, đi thêm chưa nổi năm phút đã tới chính giữa đại điện linh cung. Phía trước hiện ra một đài ngọc, xung quanh có mấy pho tượng đầu người mình chim rất lớn bằng đồng. Mấy pho tượng này, không ra người mà cũng chẳng ra phật, trông như một cây cột vặn vẹo mọc đầy địa y, không ai biết đó là thứ gì, nhìn qua chỉ thấy vô cùng quỷ dị.

Bàn Tử bèn hỏi Hoa Hòa Thượng: “Này! Đây là cái khỉ gì vậy? Linh điện chẳng phải là nơi đặt tượng ngồi của chủ mộ sao? Chẳng lẽ chủ nhân ngôi mộ là cái thứ quái đản này? Đây… không phải là một con vắt sao?”

Hoa hòa thượng nói: “Cái này có thể là một biến thể của ‘Trường sinh thiên’ trong tôn giáo nước Đông Hạ, là chủ thần của bọn họ.”

“Thần gì mà bựa thế.” Bàn Tử lầm bầm nói: “Nhìn chả khác cái chày gỗ giặt quần áo là mấy.”

Tôi lại đập cho Bàn Tử một cái, bảo hắn đừng có ăn nói thất đức thế. Chúng ta còn đang ở trong lãnh địa của nó, không sợ báo ứng nhãn tiền sao.

Nhưng tôi biết cái đồ đằng màu đen quái dị này không phải là ‘Trường sinh thiên’, tuy không biết nhiều về tôn giáo Tát Mãn nhưng tôi biết ‘Trường sinh thiên’ không có hình dạng. ‘Trường sinh thiên’ đại diện cho một thứ năng lực vô hạn, có mặt ở khắp nơi, một kiểu sùng bái vũ trụ. Hoa hòa thượng nói thế, hoặc là muốn trấn an Bàn Tử, hoặc là đang che dấu nỗi lo lắng của chính mình.

Cảnh vật nơi này khiến người ta nảy sinh cảm giác căng thẳng khó hiểu, ngoại trừ Trần Bì A Tứ và Muộn Du Bình kia là vẫn giữ cái bản mặt vô cảm đến phát ghét, còn lại những người khác ít nhiều đều có những biểu hiện khác thường.

Nhưng nếu như linh điện không phải là điện thờ thần thì bức tượng đó hẳn là chủ nhân ngôi mộ. Chẳng lẽ đúng như lời Bàn Tử nói, hoàng tộc Đông Hạ có hình dạng này sao? Không thể nào, đây căn bản không phải hình dạng con người, nhìn qua lại thấy giống tượng tà thần trong tôn giáo thờ vật ngoài biển. Tôi đã có lần xem một cuộc triển lãm ở Thượng Hải, thần tài ở đó có hình dạng của miếng cơm cháy, giống như một con động vật nhuyễn thể khổng lồ vậy.

Tôi đột nhiên nhớ ra bên trong con cá đồng kia có ghi: Hoàng tộc Đông Hạ đều là quái vật chui ra từ lòng đất, chẳng lẽ chính là thứ này? Không phải chứ, thứ này chỉ có thể gọi là yêu nghiệt, tôi tin người Đông Hạ không dở hơi đến mức tôn miếng cơm cháy này làm hoàng đế.

Nếu có thể xem hết những điều ghi lại trong hai con cá đồng kia thì tốt rồi. Tôi thầm nhủ, nếu thế sẽ không cần đoán mò vất vả nữa, không biết bao giờ mới có cơ hội này.

Đang lúc mải mê suy nghĩ, Phan Tử bên cạnh gọi chúng tôi: “Mọi người lại đây mà xem.”

Chúng tôi quay đầu lại, thấy Phan Tử đã leo lên một pho tượng đồng, cẩn thận lấy thứ gì đó từ trong miệng pho tượng nhân diện điểu kia.

Phan Tử cũng là thành phần chuyên gây rắc rối, tôi lo lắng nói: “Cẩn thận có bẫy.”

Phan Tử gật gật đầu, ra tay vô cùng cẩn thận, nhanh chóng lôi ra một con khỉ đồng mạ vàng mặt này hung tợn, trên người còn khắc vô số những hoa văn kì lạ, giống như tiểu quỷ xăm mình.

Chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên, trước giờ chưa từng gặp vật thờ được thiết kế như vậy. Phan Tử nhảy xuống, mang qua chỗ chúng tôi, vài người lập tức vây lại xem xét. Nhìn tới nhìn lui cũng chỉ phát hiện thứ này hóa ra là thanh đồng, nhưng mặt khác lại cảm thấy ngạc nhiên không sao giải thích được

Trong khảo cổ, chuyện như thế là bình thường, bởi vì trong mộ táng một mặt là lĩnh vực thần bí với những nguyên tắc chặt chẽ, một mặt lại thuộc sở hữu của cá nhân chủ mộ, trong rất nhiều ngôi mộ đã xuất hiện những vật bồi táng không thể lí giải. Những vật tuân theo quy tắc anh có thể tập hợp và sắp xếp lại, dần dần tiếp cận sự thật, nhưng những vật mang tính cá nhân thì chỉ có thể phỏng đoán. Có rất nhiều thứ trong lịch sử chỉ xuất hiện một lần, ngoại trừ chủ nhân ngôi mộ thì chẳng còn ai biết ý đồ của nó là gì.

Hoa hòa thượng kiểm tra một lượt bốn pho tượng đồng khác, cũng phát hiện những vật y như thế. Hắn đoán nếu như cái chày gỗ kia là chủ thần thật thì bốn pho tượng này chắc là thú canh gác của chủ thần. Cái này có thể liên quan chặt chẽ với truyện thần thoại của vùng này, chúng ta không sống ở triều đại kia nên không tài nào hiểu hết bối cảnh thực tế của nó. Nhưng điều khiến hắn khó hiểu nhất chính là tại sao lại có vật liệu thanh đồng ở đây, từ thời nhà Minh trở đi đồ sắt đã phát triển cực thịnh rồi mà.

Ngắm đi ngắm lại đồ đằng cũng không có phát hiện gì thêm, chúng tôi lại vòng ra phía sau, nhưng chỉ thấy bóng tối bao trùm, không biết sâu đến đâu nữa.

Lúc này, điều khiến tôi cảm thấy kì quái chính là bên trong đại điện linh cung, bình thường khi hiến tế đều dùng cự đỉnh, trường minh vãng sinh chúc, thiết noãn các, bảo sàng, bảo tọa và bài vị nhưng ở nơi này tuyệt đối không thấy, thật là kì lạ. Nhưng lí do to hơn hình thức, nước Đông Hạ vốn biệt lập trong chốn thâm sâu cùng cốc của núi Trường Bạch, cũng không biết họ sinh hoạt ra sao, không chừng trong tập tục của người Nữ Chân vốn không có mấy thứ này.

Bàn Tử đã bắt đầu phát cáu, mục đích hắn tới nơi này là tìm mấy món hời, vất vả trèo xuống đến đây mà lại không thấy món minh khí nào mang đi được, làm sao không bực bội chứ. Hắn liền hỏi mọi người có thể để hắn vòng ra phía sau đăng nô kia, nhìn xem trong bóng tối phía sau còn có thứ gì nữa không.

Muộn Du Bình khoát tay, ý nói không được. Hắn lấy một cây gậy huỳnh quang ném về phía bên kia, vẽ lên một vệt sáng xanh lục. Nhưng khi rơi vào khoảng tối phía sau đăng nô, vệt sáng nhoáng cái đã biến mất giống như rơi vào một bịch bông đen thui.

Bàn Tử thấy thế thì líu lưỡi, khẽ thì thào: “Sao lại thế này?”

Muộn Du Bình khẽ lắc đầu ý nói không biết.

Tôi bèn nói: “Lúc ở bên ngoài, chúng ta đều thấy đại điện này không lớn lắm, thế mà ánh đèn pin của chúng ta đều không phản chiếu lại, chứng tỏ tường của đại điện này được sơn chất hấp thụ ánh sáng. Anh cứ thử đi một mình xem, tôi dám cá là một đi không trở lại, thế nên tốt nhất anh đừng có manh động.”

Bàn Tử nói: “Vậy các cậu cứ buộc dây thừng lên lưng tôi, nếu tìm được đồ tốt sẽ chia cho các cậu một phần, theo lệ thường là khoảng mười phần trăm, sao hả?”

Tôi đến phát điên vì cái tính này của Bàn Tử, giận dữ nói: “Anh muốn lên cơn thì đợi chúng tôi ra ngoài hết đã, đừng có làm liên lụy đến mọi người.”

Phan Tử cũng góp lời: “Con mẹ nó, anh vội cái khỉ gì, bây giờ anh buộc dây thừng đi vào đó, đến lúc kéo ra chỉ còn mỗi cái chân, anh nói lúc đó chúng tôi nên vào tìm anh hay là mặc xác anh? Anh xem đội ngũ của Trần lão gia người ta đồng lòng thế nào, anh cũng nên yên phận chút đi, đừng có làm ông Ba nhà tôi mất mặt.”

Bàn Tử thở dài đánh thượt, thất vọng nói: “Được lắm, các người cậy đông, tôi cãi không lại, Bàn gia đây đành nghe theo sắp xếp của tổ chức là được chứ gì. Một khi chưa nắm rõ tình hình địch phía trước, tuyệt đối sẽ không phản bội tập thể.”

“Nắm rõ rồi cũng không được phản bội, con mẹ nó anh mới đi đến đây đã muốn chôm chỉa, tiến vào địa cung rồi thì tính sao đây? Sức anh liệu mang vác được bao nhiêu?” Tôi trợn mắt nói.

Bàn Tử đành cười trừ, giơ tay tỏ vẻ đầu hàng. Tôi biết rõ tính hắn, bây giờ có nói gì cũng vô dụng. Không biết làm sao để giữ chân hắn, tôi đành tự nhắc mình phải để mắt đến hắn, tránh cho hắn gặp rắc rối.

Tiếp tục hướng vào sâu bên trong, chúng tôi đã thấy điểm cuối đại điện, ở đó có một cánh cửa đá ghép lại từ bốn phiến cẩm thạch. Trục cửa đắp ngọc lưu li đốt thành hình bách túc bàn long, cạnh cửa là bức phù điêu Nhạc vũ bách hí đồ, trên cửa trạm trổ hình hai đứa trẻ đứng gác, phía sau lại không có phiến đá chặn, cửa chỉ dùng lính gác để trang trí. Sau khi cạy mở cánh cửa, chúng tôi phát hiện đằng sau nó là hành lang thông đến hậu điện linh cung, tối đen như mực.

Bàn Tử nhìn hai con rồng trên cửa, tinh thần lập tức hào hứng trở lại, hai mắt sáng bừng, nói với chúng tôi: “Tôi từng thấy loại cửa này ở một phiên đấu giá. Cái này gọi là Bàn long trục lưu ly xuyên, một phiến cửa mà giá lên tới 200 triệu đô la Hồng Kông rồi, ái chà, cánh cửa này xem ra cũng không nặng lắm nhỉ…”

Tôi biết trong đầu hắn nghĩ gì, bèn hắt cho một gáo nước lạnh: “Anh tỉnh lại đi, đó là người ta hét giá thôi. Bây giờ trong các giao dịch đồ cổ bằng tiền, thứ gì có giá vượt quá 2000 vạn đã là giá trên trời, cửa này nhiều lắm cũng chỉ có giá 40 vạn thôi.”

“Không thể nào.” Bàn Tử không tin được kêu lên, “40 vạn mà chém lên thành 200 triệu? Có chuyện quá đáng như vậy sao?”

Tôi thầm nghĩ hai con cá trong túi mình đều trị giá 2000 vạn đây, nhưng bán ra có ma nó thèm mua. Bây giờ mấy mánh khóe bán đấu giá ai mà chẳng biết, thằng nào cũng muốn ba năm không mở cửa, mở một cái là ăn cả đời, vớ được con gà chịu bỏ ra 200 triệu để mua một cánh cửa thì cả quãng đời còn lại chỉ lo ăn chơi nhảy múa cho hết số đó thôi.

Thế giới quan của Bàn Tử thế là đã bị tôi phá hủy phũ phàng, làm hắn chỉ còn biết đần mặt ra nhìn cánh cửa. Chúng tôi mặc kệ hắn, tiến sâu vào hành lang, hướng về phía hậu điện.

Hậu điện thông thường chính là cổng vào địa cung, bình thường đều đặt một cỗ quan quách mang tính trang trí, đốt nến trường sinh quanh năm không tắt, hoặc là đặt một lượng lớn tế phẩm, do người giữ lăng định kỳ thay đổi. Đông Hạ là một nước nhỏ nằm ẩn dật nơi biên cảnh, lúc bấy giờ luôn ở vào tình trạng chiến tranh nên đoán chừng cũng không có nhiều đồ tốt, có điều lối vào địa cung thường đặt trong đó nên chúng tôi nhất định phải vào xem.

Tiến sâu vào hành lang, hai bên trái phải và trên đỉnh đầu phủ kín những bức bích họa, trên mặt bích họa giăng lên một tầng băng, trông mờ mờ ảo ảo. Từ sau khi chứng kiến bức bích họa hai lớp trong khe nứt kia, tôi cảm thấy khá hứng thú đối với hình thức ghi chuyện này, bèn bật đèn pin lên ngắm nghía.

Vừa nhìn thoáng qua đã lạnh người, chỉ thấy trên những bức bích họa này hầu như đều vẽ hình Bách túc long vần vũ trong mây, cuộn mình có, bay lên cũng có, phủ kín cả bức tường, thoạt nhìn giống như một bầy rết.

Bích họa chia làm mấy phần, có bức vẽ rất nhiều binh sĩ mặc áo da cừu, hướng lên Bách túc long trên trời mà lễ bái.

Bức tranh đầu tiên còn vẽ hai con bách túc long đang quấn lấy nhau, không biết chúng nó đang mây mưa hay là đánh lộn nữa.

Trên mỗi bức bích họa, Bách túc long đương nhiên là chủ thể, những nhân vật xung quanh đều hết sức nhỏ bé, cũng hết sức nhún nhường, rõ ràng lòng sùng bái của người Đông Hạ đối với loại rồng lai rết này còn mãnh liệt hơn lòng sùng bái của người Hán đối với Bàn long.

Diệp Thành lấy máy ảnh ra, chụp lại toàn bộ bích họa. Những bức hình này có thể sẽ dùng đến khi bán minh khí, bởi vì Đông Hạ là đất nước còn chưa được công nhận, nếu có ảnh chụp lăng mộ thì có thể hét giá lên vài lần.

“Mọi người nói xem người được chôn trong lăng bồi táng này là ai? Là vợ của Vạn Nô vương hay là thủ hạ, sao lại vẽ loại bích họa này?” Diệp Thành vừa chụp tanh tách vừa hỏi.

Tôi cũng không biết, trong lòng cũng hiểu là có điểm bất thường.

Thông thường chủ nhân lăng bồi táng có hai loại, một là con nối dõi hoặc họ hàng thân thiết, hai là cận thần được sủng ái. Con nối dõi hay người thân vào bích họa sẽ được miêu tả bằng những cảnh tượng sinh hoạt bình thường, còn với cận thần thì là cảnh tượng trên triều đình, ví dụ như quan văn trị thủy, quan võ cầm quân. Bích họa này lại vẽ nhiều hình rồng thần như vậy, nếu đặt ở lăng chính cũng coi như bình thường, nhưng đặt ở chỗ này thật không thích hợp. Hơn nữa… Bên trong bích họa không tìm thấy hình ảnh chủ nhân lăng mộ đâu cả.

Cho dù lấy rồng làm chủ thể, những bức họa này đều chú trọng làm nổi bật sự uy nghiêm của rồng thì trong những kẻ đang thành kính dập đầu kia lẽ ra phải có một người đứng đầu. Do đây là lăng bồi táng nên người đứng đầu tất phải là Vạn Nô vương, mà chủ nhân lăng mộ này phải đứng hầu bên trái hoặc bên phải Vạn Nô vương mới đúng. Nhưng trong bích họa, theo cách ăn mặc thì người trong đó đều là nô lệ hoặc binh lính, không có người đứng đầu.

Bích họa này đặt trong hoàng lăng quả thực không hợp với lẽ thường, không tuân theo tam quy ngũ thường trong bích họa, nói cách khác bích họa này đặt ở đây có cũng như không.

Bàn Tử đột ngột hỏi: “Hay là bích họa này cũng có hai lớp?”

Tôi sờ thử một cái, thấy bích họa có vài chỗ đã tróc ra nhưng bên dưới cũng không phát hiện có gì đặc biệt, bèn lắc đầu nói không phải. Đằng sau bức bích họa bên trong khe núi lửa kia chắc chắn có một câu chuyện, bằng không ở một nơi như thế sao lại có hai lớp bích họa, thực sự không tài nào hiểu nổi.

Tôi vừa đi vừa suy nghĩ miên man, đi khoảng hơn hai trăm mét thì bích họa đột nhiên kết thúc, thì ra đã đến cuối hành lang, lối ra hậu điện đã ở ngay trước mắt.

Lối ra không có cửa chắn ngang, nhưng ở chính giữa lại bày một cái đế đèn chân hạc bằng thanh đồng, cao chừng nửa thân người, tạo hình kì lạ, mặt ngoài bao phủ một lớp băng mỏng màu trắng, khiến cho màu sắc thoạt nhìn hơi đen.

Chúng tôi ra khỏi hành lang, bước vào hậu điện. Bàn Tử châm một ngòi pháo lạnh để quan sát xung quanh, phát hiện kết cấu của hậu điện cơ bản là giống đại điện, nhưng nhỏ hơn nhiều. Chúng tôi có thể trực tiếp nhìn đến tường điện ở bốn phía, trên tường vẫn là những bích họa Bách túc long bay đầy trời, màu sắc trước đó chắc là đỏ tươi nhưng bây giờ đã đông lạnh thành màu xám tro.

Trong hậu điện trống rỗng, không có vật bồi táng nào, không cần phải tìm bởi vừa nhìn cái là biết. Giữa phòng là ba khối giường đá màu đen khắc hình Bàn long, bên trên chạm trổ kín hoa văn hình mây, đã bị đóng băng đến rạn nứt.

Cái này gọi là đình quan đài, quan quách sau khi đưa vào sẽ được đặt tạm lên đó. Ở đây có ba cái đình quan đài, hiển nhiên lúc nhập liệm không thể chỉ có một cỗ quan tài, vợ con của người bồi táng hẳn cũng được chôn cùng lúc với hắn.

Chôn cùng người bồi táng, nghe qua thì thấy vô cùng bất hạnh, nhưng vào thời ấy cũng không còn cách nào khác.

Mặt đất phía sau ba cái giường đá gồ lên một phiến đá hình chữ nhật cực lớn, trên phiến đá chạm khắc hai con quái điểu mặt người vờn quanh, chính giữa phiến đá chạm nổi Thái cực Bát quái đồ. Đây là tảng đá phong mộ, cửa vào địa cung hiển nhiên nằm dưới phiến đá này.

Trừ mấy thứ này ra, hậu điện chẳng gì nữa, trống trải quá mức.

Bàn Tử nhìn một vòng rồi nói: “Lão già Vạn Nô đúng là keo kiệt quá đáng, xây cho thuộc hạ cái nhà mà còn tiếc tiền mua đồ đạc, thế này ai mà chịu nổi. Chắc chắn đồ tốt lão ta đã độc chiếm hết rồi.”

Hoa hòa thượng gạt đi: “Đừng nói bậy, có thể xây một lăng mộ lớn chừng này mà lại đi tiếc mấy món tế phẩm sao? Tiên sư nó, chuyện này chắc chắn phải có nguyên nhân đặc biệt.”

Tôi cũng có cảm giác chuyện này không hề đơn giản. Tình hình bên trong hậu điện có cái gì đó không hợp lý, dù chỉ là một nước nhỏ nằm sát biên giới, như chúng tôi đã đoán từ trước là thực lực quốc gia không đủ, nhưng gì thì gì thuyền hỏng cũng còn ba phần đinh; không có vàng bạc thì chí ít cũng phải có vài món đồ đồng chứ.

Lại tìm một vòng, bốn phía đều không có đường thông đến nơi khác. Cho đến khi lại gần phiến đá phong mộ kia, Bàn Tử vung tay, dùng sức nhấc thử, thấy không chút xê dịch mới gọi người khác tới giúp.

Đề phòng bên dưới phiến đá có cạm bẫy cát độc nước độc gì đó, Muộn Du Bình cẩn thận kiểm tra mặt đất lát gạch xanh bên cạnh phiến đá phong mộ một lượt, thấy không có vấn đề gì, Lang Phong mới đặt Thuận Tử lên một cái đình quan đài bên cạnh rồi hợp sức với Hoa hòa thượng và Diệp Thành vần phiến đá qua một bên.

Mấy người vạm vỡ khí lực quả thực không đùa, chỉ nghe uỳnh một tiếng, phiến đá đã nhích được một đoạn. Bọn họ tiếp tục dùng sức, từ từ đẩy tảng đá dẹp qua một bên.

Chúng tôi nhìn xuống phía dưới phiến đá, ai nấy đều lắp bắp kinh hãi, nơi đó không có bất kì dấu vết nào của một đạo động bí mật (không có tảng đá lấp cửa mộ) mà chỉ thấy toàn là gạch xanh giống hệt nền đất cạnh đó. Chỉ có một điểm khác là phiến đá đặt ở chỗ này đã mấy trăm năm, in lên nền đất một vết hình chữ nhật, lấy chân rờ lên sẽ thấy hơi lõm vào, thì ra gạch xanh bên dưới phiến đá đã bị lún xuống mấy li.

“Sao lại thế này?” Phan Tử nghi hoặc hỏi: “Phiến đá phong mộ này là giả, đặt đó chỉ để trang trí thôi à?”

“Không phải, đây là bước cơ bản nhất trong mai táng, muốn đùa gì cũng không đùa cái này được, cửa vào nhất định ở ngay đây.” Hoa hòa thượng nói.

“Hay là nó nằm ngay phía dưới tầng gạch xanh này?” Diệp Thành hỏi

Tôi nhíu mày, gạch này không có nước thép lỏng lấp kín các khe, nhìn qua hình như có vấn đề, nhưng muốn đưa ra kết luận cụ thể thì tôi lại không biết phải nói thế nào.

Bàn Tử nói: “Mặc kệ nó. Dù sao ở đây cũng chẳng còn ai khác, khó khăn lắm mới đổ được một cái hoàng lăng, cứ phá gạch ra là biết ngay thôi.”

Diệp Thành lập tức phụ họa, mà thật ra tôi cũng nghĩ như vậy. Hiện giờ mấy người chúng tôi đã không còn gọi là trộm mộ nữa, mà rõ ràng là cướp mộ. Trộm mộ còn sợ kinh động dân cư xung quanh, sợ gặp phải cảnh sát tuần tra, nhưng bây giờ cục cảnh sát gần đây nhất cũng đã cách xa hơn tám trăm dặm, chúng tôi căn bản chẳng còn sợ quái gì nữa.

Chúng tôi đều cảm thấy adrenalin trong máu bắt đầu dâng cao. Thời điểm đào bới và mở cửa địa cung luôn khiến người ta hưng phấn, có đôi khi mở nắp quan tài cũng không hồi hộp đến thế, điều này dù là ai cũng không thể phủ nhận.

Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, dùng hai ngón tay dài dị thường của mình kẹp lấy một viên gạch, dùng sức rút mạnh, cứ thế rút dần đám gạch trên mặt đất lên. Diệp Thành với Hoa hòa thượng thấy thế thì há mồm trợn mắt, miệng không sao khép lại được.

Bàn Tử có vẻ rất đắc ý, bày ra vẻ mặt: Thấy chưa? Xem người anh em của ta có lợi hại không? Muộn Du Bình lại chẳng thèm nể mặt hắn, từ đầu đến cuối không liếc hắn lấy nửa cái. Có một cái lỗ hổng thì dễ rồi, chúng tôi đều tiến lên trợ giúp, dùng cuốc chim đào gạch lên.

Điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ nhất chính là những lớp gạch bên dưới vẫn không hề có vết tích được gắn bằng thép lỏng mà hoàn toàn là kết cấu đan xen lẫn nhau, thành ra cũng không khó đào.

Dự cảm mơ hồ của tôi lại nặng nề thêm một chút, bởi vì lối vào địa cung thường là bộ phận kiên cố nhất, năm đó lão Tôn mặt rỗ (*) đào mộ của Từ Hi, nếu không nhờ thuốc nổ thì ngay cả lớp gạch ngoài cùng của địa cung cũng chẳng phá nổi. Nơi này lại có thể thoải mái dỡ từng viên gạch ra thì thật bất thường, hay là bên dưới có thứ gì quái đản chăng?

(*) Tức Tôn Điện Anh, tướng dưới quyền Tưởng Giới Thạch, người ra lệnh đào lăng Từ Hi, ai đọc Lư Châu kí sự thì đều biết ông này rồi đó.

Nhưng không thấy Muộn Du Bình nói gì, bình thường nếu có vấn đề chắc chắn hắn sẽ phát hiện ra ngay. Nếu hắn không nói lời nào, tôi cũng không có tư cách gì mà ý kiến.

Không mất nhiều thời gian, chúng tôi đã đào ra được một cái hố to, khi lớp gạch cuối cùng bị dỡ ra thì chỉ đếm được có bảy lớp. Đại khái do độ cao của kiến trúc này là cố định, nếu không muốn mái điện chạm vào đỉnh động thì chỉ có cách xây nền móng mỏng đi. Bên dưới cái hố lộ ra một khối màu đen, hình như cùng loại với tảng đá phủ kín hoa văn mai rùa.

“Đây có phải tảng đá chắn cửa mộ không?” Diệp Thành phấn khởi kêu lên.

“Không phải.” Hoa hòa thượng gõ gõ mấy tiếng lên phiến đá, gạt hết mấy viên gạch xung quanh ra, dưới lớp gạch hiện ra một con rùa hai đầu bằng đá đen, to cỡ cái bàn bát tiên, hoa văn trên mai rùa nhìn kĩ thì ra là gương mặt một phụ nữ.

“Chuyện quái quỷ gì đây?” Mọi người đều cảm thấy khó hiểu, đây rõ ràng là lối vào địa cung, không hiểu sao lại chôn một con rùa đá.

“Tại sao không thấy cửa mộ?” Phan Tử ban nãy vừa gắng sức, giờ vẫn còn phì phò thở dốc.

“Dịch nó ra rồi tính sau! Xem bên dưới con rùa này có cái gì.” Hoa hòa thượng cũng bó tay, bắt đầu chỉ huy lộn xộn.

Thực ra không cần dịch chuyển cũng biết bên dưới con rùa chắc chắn chẳng có gì cả. Tôi đã thoáng thấy đá núi màu đen bên dưới con rùa, chúng tôi đã đào đến tận đáy động rồi.

Vài người lúng túng nhảy xuống hố, tính nâng con rùa đá lên. Nhưng mới khom lưng xuống, Bàn Tử bỗng kêu một tiếng, hình như đã phát hiện ra có gì không ổn.

Tôi ngó xuống thì thấy cái xẻng công binh Bàn Tử đang đeo trên lưng không hiểu vì sao lại dính chặt vào mai rùa, Bàn Tử ra sức kéo, nhưng vừa buông tay ra thì cái xẻng lại bị hút vào.

Tôi thấy ngờ ngợ, chẳng lẽ con rùa này khắc từ một khối nam châm sao?

Mấy người khác cũng vây lại xem, ai nấy đều thấy lạ. Bàn Tử lấy một đồng tiền xu thả lên lưng rùa, “keng” một tiếng, đồng xu dính chặt vào. Hắn lẩm bẩm: “Mẹ nó, đùa nhau đấy à. Sao lại có nam châm lớn như thế, chủ nhân cái mộ này làm nghề thu mua đồng nát chắc?”

Trần Bì A Tứ ngồi một bên nghỉ ngơi, thấy chúng tôi phát hiện ra thứ gì, cứ nghĩ đó là lối vào, bèn hỏi han tình hình, Hoa hòa thượng mới báo cáo lại mọi chuyện cho lão.

Còn chưa nói xong, sắc mặt Trần Bì A Tứ đã biến đổi, lão vội kêu Diệp Thành đỡ mình xuống, đến gần con rùa kia. Lão lấy từ trong túi ra một cái kim chỉ bắc, vừa liếc qua một cái đã xanh mặt, giận dữ đập cái kim chỉ bắc kia xuống, lạnh lùng nói: “Không xong, chúng ta đã bị lừa! Lăng bồi táng này chính là một cái bẫy, chúng ta trúng kế rồi!”

—————————————————–

(1) Đăng nô: là loại đèn có hình người đội bát dầu, tùy kiểu đăng nô mà hình người chỉ là tượng gốm hay là thi thể người thật bị nhúng sáp tránh hư thối rồi rót dầu vào châm lửa đốt như một cây nến thật. Đây là hình đăng nô thông thường:
 
Quyển 4 - Chương 21: Đánh cờ


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Nhìn sắc mặt Trần Bì A Tứ, tôi bất giác cảm thấy không ổn. Lão già này suốt đoạn đường tới đây vẫn giữ im lặng, gặp thời điểm mấu chốt mới nói mấy câu, cho tới bây giờ vẫn chưa một lần tỏ vẻ tức giận, nhưng lúc này, rõ ràng lão đang nổi trận lôi đình.

Hoa hòa thượng nhận ra điều này, cũng trở nên căng thẳng, hỏi: “Lão gia, sao lại thế này?”

Sắc mặt Trần Bì A Tứ cực kì khó coi, nói: “Long mạch nơi này đã bị người ta thay đổi, Tam đầu long này là giả, chúng ta phán đoán sai phương hướng của đầu rồng rồi.”

Bụng tôi quặn lên một cái, vội lấy la bàn của chính mình ra xem, quả nhiên dù quay hướng nào kim vẫn chỉ về phía con rùa đá đen kia, rõ ràng là thứ cổ quái này có từ tính rất mạnh.

Tôi lập tức hiểu ra ý của Trần Bì A Tứ: muốn xem phong thủy chính xác, phương hướng là yếu tố rất quan trọng. Suốt dọc đường tới đây, Trần Bì A Tứ đều dựa vào la bàn này cùng với la bàn tưởng tượng trong đầu mình mà xác định phương hướng và hướng đi tới long mạch. Nhưng nơi này lại chôn một vật điêu khắc bằng nam châm, kích cỡ lớn như vậy, lúc chúng tôi đến ngọn núi này, hướng của la bàn chắn chắn đã bị ảnh hưởng, Trần Bì A Tứ lúc đó căn cứ vào hướng la bàn để phán đoán hướng của long mạch là hoàn toàn sai lầm.

Kết cấu Tam đầu long được suy đoán dựa trên một tiền đề sai lầm, vậy nên chắc chắn nó cũng là giả.

Nói cách khác, nơi này căn bản chẳng phải là đầu rồng gì hết. Cái gì mà ‘Thai Côn Luân’, cái gì mà khung băng khổng lồ bên ngoài cũng không căn cứ trên lí luận nào cả. Tất cả đều là dối trá. Chính tâm lí ám thị đã dẫn đường cho chúng tôi đi vào cái bẫy này.

(Tâm lí ám thị: hướng những suy nghĩ, hành động của người khác theo ý muốn của mình bằng các thủ thuật tâm lí)

Uông Tàng Hải chắc chắn đã nghĩ tới chuyện người đời sau có thể tìm tới nơi này, tất nhiên với hiểu biết tương đối về thuật phong thủy cho nên đã sớm có chuẩn bị. Khi chúng tôi còn chưa tiến vào lăng mộ, còn chưa kịp đề cao cảnh giác thì đã sớm rơi vào bẫy của ông ta rồi.

Tôi đột nhiên cảm thấy hụt hẫng. ‘Thai Côn Luân’, khung băng, những thiết kế xảo diệu như vậy hóa ra chỉ là một cái bẫy, Uông Tàng Hải quả nhiên có hiểu biết sâu sắc về giới trộm mộ.

Trước giờ tôi luôn cười nhạo vị kiến trúc sư luôn sùng bái phong thủy này. Phong thủy chẳng những không mang lại phúc lành cho chủ mộ mà ngược lại, lại là thứ dẫn đường cho đám trộm mộ đến kiếm lợi. Nhưng chúng tôi lại phạm phải sai lầm y như thế, rơi vào cái bẫy của một người bày ra từ thời thiên cổ.

Hiện giờ chúng tôi đang đánh cờ với một người đã chết mấy trăm năm trước, kết quả là vừa vào ván chúng tôi đã bị chiếu tướng. Thật là khởi đầu đầy bất lợi.

Bàn Tử và Phan Tử vẫn chưa hiểu chuyện, tôi lại phải giải thích cho bọn họ một lượt. Bàn Tử bán tín bán nghi, nói: “Không thể nào. Thời đó làm sao chế ra cục nam châm to như vậy được?”

Tôi thở dài nói: “Con rùa đá này chắc được điêu khắc từ đá nhiễm từ tính. Thứ này có giá trị không hề tầm thường, thế mà Uông Tàng Hải lại dùng nó để áp mộ. Xem ra để bảo vệ Vân Đỉnh thiên cung, lão Uông kia quyết đem hết tài trí ra dùng.”

“Tôi đếch tin. Không thể nào!” Bàn Tử vẫn không chịu tin, “Nơi này xây dựng hoành tráng như vậy…”

Nói đến đây, hắn dường như cũng cảm thấy linh cung này được xây dựng theo kiểu cách rất chính thống, nhưng bên trong không hề thấy những vật phẩm bắt buộc phải có trong linh cung. Kỳ thật chúng tôi đã sớm nhận ra sự thiếu sót này, nhưng không ai ngờ rằng cả tòa linh cung này chỉ là một cái bẫy, cơ bản là Uông Tàng Hải chế tác quá xuất sắc.

Trần Bì A Tứ xanh mặt, không nói lời nào, chỉ trừng trừng nhìn vào con rùa đá kia, ánh mắt cực kì đáng sợ.

Tôi và đám người Hoa hòa thượng tụ tập lại bàn bạc, lần này coi như xong đời. Lương thực của chúng tôi chắc chắn không đủ để chuyển hướng đi về phía đỉnh Tam Thánh, bây giờ e là sẽ phải quay về sơn thôn tiếp tế lương thực. Đi một chuyến rồi quay về, xem như hoàn toàn uổng công, hơn nữa vài người trong đoàn bị thương khá nặng, có khi về thôn rồi còn phải mất thời gian nghỉ ngơi thêm nữa, trong khoảng thời gian chưa thể xuất phát này, đám người của A Ninh cho dù vừa đi vừa bò thì cũng tới nơi rồi.

Bây giờ còn không biết chú Ba sắp xếp như thế là có mục đích gì, nhưng đứng ở góc độ nào mà nói, chúng tôi đều đang ở thế bất lợi.

Nghĩ đến đây, mọi người không khỏi cáu kỉnh. Chuyện này thực ra không ai phải chịu trách nhiệm nhưng mọi người đều đang vào lúc suy sụp, có người đứng ra nhận trách nhiệm sẽ tốt hơn, bằng không bực tức không có chỗ xả, đành chỉ biết bực bội trong lòng. Những người khác sắc mặt cũng khó coi, nhưng bây giờ cũng chẳng có cách nào.

Bàn Tử thấy chúng tôi có vẻ đã nhụt chí, bèn nói: “Thôi đi. Chúng ta mau quay trở lại, chỉ là đi lầm đường thôi mà, cứ quay ra ngoài rồi lại tiếp tục lên đường. Nhóm của A Ninh chỉ có vài người, không thể nào khuân hết của cải ra được, chúng ta mau chân một chút, có khi vẫn kiếm được nhiều đồ tốt.”

Tôi thấy trong đầu hắn chỉ nghĩ đến tiền, bỗng nhiên lửa giận đùng đùng bốc lên, liền cười lạnh, lắc đầu nói anh thì biết cái quái gì, chú Ba tôi gần như hi sinh hết chuyện làm ăn của mình để níu chân đám người của A Ninh, thế mà chúng ta chậm một bước, nếu trở về rồi mới quay lại, không biết còn thua bọn họ bao nhiêu xa, mà chú Ba cũng lành ít dữ nhiều. Tiên sư nhà anh, đầu chỉ biết nghĩ đến minh khí, chẳng quan tâm đến cái gì khác, đừng có lắm lời nữa.

Bàn Tử nghe thế cũng không dễ chịu gì, mở miệng tính vặc lại tôi thì bị Diệp Thành can: “Bình tĩnh bình tĩnh, bây giờ không phải lúc cãi nhau.”

Không khí lập tức trở nên gượng gạo, Bàn Tử đẩy Diệp Thành ra, chửi thề một tiếng, đi qua một bên hút thuốc. Hoa hòa thượng khoát tay áo nói: “Chuyến này đi thật uổng công, mọi người đều vất vả. Bây giờ phải nghĩ ra biện pháp cứu vãn tình hình, chúng ta cùng bình tĩnh lại, nghĩ cách giải quyết được không?”

Bàn Tử nói: “Cái gì mà cứu vãn tình hình? Tôi thấy chẳng sao cả. Ở đây có cục nam châm lớn cỡ này, ai mà chẳng xui xẻo. Các người có dám chắc đám người A Ninh kia không bị lừa không? Nói không chừng bọn họ phán đoán phương hướng cũng sai hết cả, giờ có khi đã bị lính biên phòng găm đạn chi chít như tổ ong. Chúng ta cứ thử tìm kiếm quanh đây thêm một lần, cái gì mang được thì cứ mang hết đi, sau đó trở ra thật nhanh, xuống dưới chân núi sắp xếp trang bị rồi quay lại, đừng lãng phí thời gian ngồi đây nữa. Nếu đã trúng bẫy rồi thì cũng đành đối mặt với sự thật thôi.”

Tôi biết thực ra Bàn Tử nói rất đúng. Có thể cho đến cuối cùng chúng tôi vẫn phải quay về rồi mới đi tiếp được như lời hắn nói, nhưng vào lúc này giọng điệu của hắn có hơi khó nghe.

Phan Tử lập tức lắc đầu: “Nói dễ nghe nhỉ? Anh bảo quay về theo đường cũ, thế anh có nắm chắc đường về không? Dù anh có nhận ra đường cũ nhưng chúng ta đã đi suốt từ sáng đến tối, anh khỏe như vâm không biết mệt nhưng chúng tôi thì không chịu được, dù có muốn quay lại thì cũng phải đợi đến sáng mai. Điều cậu Ba lo lắng là có lý, nếu cứ kéo dài thời gian như vậy, những sắp xếp của ông Ba toàn bộ đều uổng phí.”

Bàn Tử nghe xong lập tức nổi điên: “Ông Ba, ông Ba, ông Ba cái shit. Mẹ kiếp, mấy người ngay đến lão ất ơ kia nghĩ gì cũng không biết, còn nói cái khỉ gì. Bàn gia ta sao lại phải quan tâm đến việc nhà các người chứ, ông đến đây là để kiếm đồ minh khí cơ mà. Mặc xác mấy người, ông tự mình đi tìm, các người cứ bám theo lão già kia sớm muộn cũng chết cho mà xem.”

Bàn Tử nói xong liền tóm lấy cái túi của mình, bật đèn pin lên, quay ra phía hành lang. Nhưng mới đi được hai ba bước, Muộn Du Bình đã chặn trước mặt, không cho hắn đi tiếp.

Bàn Tử đối với Muộn Du Bình cũng có vài phần kiêng dè, không dám nổi điên với hắn, nhưng vẫn đanh giọng hất hàm nói: “Cậu muốn gì, con mẹ nó đừng có ngăn cản Bàn gia ta phát tài.”

Muộn Du Bình nói: “Anh không thấy kì lạ sao? Từ khi chúng ta đến đây, dường như tâm tính ai cũng trở nên nóng nảy, ngay cả Ngô Tà cũng nổi giận.”

Muộn Du Bình vừa nói một câu, Bàn Tử liền ngẩn người. Hắn lập tức quay lại nhìn tôi, tất cả mọi người mặt đều biến sắc, bụng dạ tôi cũng thấy chộn rộn.

Phải rồi, tiên sư nó chứ, vừa rồi đúng là lửa giận đột nhiên bột phát, không có lý do gì cả. Đang yên đang lành, tôi không hiểu vì sao trong lòng lại nảy sinh cảm giác cáu kỉnh i. Bàn Tử vốn là kiểu người như thế, cái giọng điệu này của hắn tôi vốn đã nghe quen rồi, không hiểu sao tự dưng lại nổi giận, đây đâu phải tính cách của tôi chứ.

Nếu là tôi lúc bình thường, dù có người nói không lọt tai cũng không độp lại hắn ở chỗ này, hơn nữa, vừa nãy Bàn Tử phản ứng cũng hơi quá.

Không lẽ mình thực sự đã bị không khí xung quanh ảnh hưởng? Tôi ngoảnh đầu nhìn khắp bốn phía cũng chỉ thấy một màu tối đen, đèn pin chiếu vào, cả không gian tối tăm chỉ có đèn pin của chúng tôi là sáng, những chỗ khác đen đặc một màu giống như một màn sương mù vây lấy chúng tôi ở bên trong, cực kì bí bách. Nhưng áp lực thì áp lực. tôi cảm thấy đây không phải nguyên nhân của cơn giận dữ không rõ ngọn nguồn này.

“Sao lại thế này? Hình như vừa nãy đúng hơi bất thường, tự nhiên lại phát hỏa.” Bàn Tử dường như cũng ngộ ra, quay ra hỏi lại Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình nhìn chúng tôi nói: “Tôi cũng không rõ nữa. Nhưng tôi thấy ở đây không đơn giản chỉ có một khối nam châm này đâu. Bây giờ nhất định phải bình tĩnh, các người vừa rồi cãi nhau thật vô bổ, nếu nơi này là cái bẫy…” Hắn dừng lại một chút: “Uông Tàng Hải bỏ ra bao nhiêu tinh lực để bài trí nơi này, nếu là để dụ chúng ta đi vào, tôi nghĩ chúng ta chưa chắc đã trở ra được.”

Cơn bực bội lại một lần nữa trào lên trong bụng tôi, vừa nghĩ tới lời Muộn Du Bình nói, tôi cố kiềm lửa giận xuống, hỏi: “Vậy bây giờ phải làm sao?”

Muộn Du Bình không nói lời nào, chỉ nhìn thoáng qua Trần Bì A Tứ, lão cũng nhìn hắn một cái, nói: ” Nếu đã vào đây rồi, chúng ta chỉ còn cách dò dẫm từng bước. Bây giờ kết luận có thể hay không thể thoát ra ngoài vẫn còn quá sớm, nhưng dù gì chúng ta cũng phải phá hủy con rùa này đi, sau đó tìm kiếm trong này xem còn thứ nào tương tự nữa không, bằng không chúng ta quay lại mấy lần thì kết quả cũng giống nhau.”

Mọi người đều trợn mắt nhìn về phía con rùa đá kia, hiển nhiên xưa nay chưa bao giờ căm ghét loài rùa như lúc này.

Nhưng nam châm to có đập nát thì cũng chỉ biến thành nam châm nhỏ mà thôi, vẫn ảnh hưởng đến hướng của la bàn. Muốn loại bỏ hoàn toàn từ tính, chỉ có cách dùng lửa đốt.

Chúng tôi lấy ra ít nhiên liệu trong lò không khói, tưới lên mình rùa đá, sau đó Bàn Tử đốt một điếu thuốc, rít mạnh một hơi rồi quẳng vào đó, lửa liền bốc lên. Nhiên liệu trong lò không khói tỏa ra nhiệt lượng cực lớn, chúng tôi lập tức cảm thấy một luồng khí nóng hầm hập xông tới.

Hoa hòa thượng lấy la bàn ra, xem cây kim bên trong chuyển động.

Rùa đá bị đốt đã nhanh chóng đỏ rực lên, ngay cả gạch bốn xung quanh cũng bị nung thành màu đỏ, chúng tôi cũng nhân cơ hội mà túm lại gần đám lửa sưởi ấm.

Nơi này không có một mẩu gỗ để mà cháy, dùng nhiên liệu với độ tinh khiết cao để đốt nên chẳng mấy chốc đã xong. Cơ bản chỉ mất thời gian đốt nửa điếu thuốc, bên dưới chỉ còn lại gạch bị nung nóng bỏng cùng con rùa đá đỏ rực.

“Thế nào rồi?” Tôi hỏi Hoa hòa thượng, vừa ngó vào thì thấy kim la bàn đã không còn chỉ vào con rùa kia nữa, từ tính đã bị triệt tiêu. Hắn lại cầm la bàn đi xung quanh vài vòng, tìm xem có còn nam châm nào khác trong lòng đất, một lát sau mới gật đầu xác nhận.

Nơi này không nên nán lại lâu. Nếu đúng là cái bẫy, chúng tôi chẳng có gì mà phải lưu luyến. Vài người thu dọn trang bị, tôi ngẫm lại lời nói của Muộn Du Bình: có thể thả cho chúng ta đi vào, chưa chắc đã có thể trở ra, trong lòng nảy sinh dự cảm mơ hồ. Phải chăng sau khi chúng tôi đi vào hậu điện này, bên ngoài đã có thứ gì biến đổi? Có biến cố bất ngờ nào đó đang chờ chúng tôi chăng?

Trong đầu tôi hiện lên mấy hình ảnh không hay ho cho lắm nhưng ngay lập tức bị gạt đi. Bây giờ cũng chỉ là phỏng đoán, không cần phải tự dọa mình, cứ đi đến đâu hay đến đó.

Tuy nhiên linh cảm của tôi trong những hoàn cảnh xui xẻo lại vô cùng chuẩn xác. Đúng vào lúc chúng tôi chuẩn bị tiến vào hành lang một lần nữa, đột nhiên không biết từ xó xỉnh nào trong hậu điện liên tục truyền đến âm thanh “rắc rắc” “rắc rắc” rất giòn, hết sức chói tai. Mọi người đều nghe thấy, lập tức dừng chân, quay đầu lại nhìn.

Âm thanh vẫn không ngừng lại mà cứ tiếp tục kéo dài. Tôi nghe một lát, phát hiện nguồn âm là từ cái hố vừa bị đốt cháy truyền tới.

Trong lòng chúng tôi đều thắc mắc không hiểu thứ âm thanh kì quái này là gì, cẩn thận quay trở về. Nhìn qua chỉ thấy con rùa dưới đáy hố đã nứt ra theo vô số những vết rạn nhỏ, đồng thời một làn khói đen kì quái men theo khe nứt nhẹ nhàng lan ra, tốc độ rất nhanh, nháy mắt đã lan rộng một khoảng không, giống như một động vật nhuyễn thể thật lớn chui ra từ trong cơ thể con rùa.

Sau đó, làn khói đen cùng với bóng tối phía trên hòa trộn với nhau, không ngừng chuyển động, hình dạng giống như đồ đằng màu đen chúng tôi đã thấy bên ngoài đại điện.

“Đây là … Trường sinh thiên!” Bàn Tử tái mặt hét lớn.

“Đừng có dọa người.” Hoa hòa thượng nạt. “Có thể con rùa này rỗng ruột, nóng nở ra, lạnh thì co vào, vừa nãy bị đốt nên nứt tung ra, thiêu cháy khét thứ gì đó bên trong thôi.”

Bàn Tử biến sắc: “Rỗng ruột à? Thế khói đen kia có độc hay không?”

“Chắc là không đâu. Cái này trước tiên…….” Hoa hòa thượng còn chưa nói hết thì Muộn Du Bình đã làm dấu im lặng, bảo chúng tôi không được lên tiếng.

Tôi nhìn động tác của hắn mà rớt mồ hôi lạnh, vội bịt miệng lại chờ đợi, mọi người cũng đều im lặng, nín thở nhìn bốn phía, muốn biết chuyện gì đã xảy ra.

Tôi quay đầu ngó xung quanh, nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch vì hồi hộp nhưng bốn bề lại chẳng có gì khác thường. Tuy nhiên để ý nghe kĩ mới phát hiện, trong hậu điện hết sức yên tĩnh này, ngoại trừ tiếng nứt toác của rùa đá ra, còn có một âm thanh lao xao rất nhỏ, không biết là từ đâu truyền tới.

Tôi nghe nửa ngày cũng không biết đó là tiếng gì, ngay cả hướng phát ra âm thanh đó cũng không xác định được,cứ như âm thanh này trực tiếp đi thẳng tới đại não của tôi vậy. Linh cung này nằm trong khung băng, không thể có gió thổi tới, cho nên đây chắc chắn không phải tiếng gió.

Khói đen bên trên mỗi lúc càng thêm dày đặc, cái âm thanh lao xao này cũng dần trở nên dày hơn, rất nhanh, từ bốn phương tám hướng đều truyền tới âm thanh này, khiến toàn thân ngứa ngáy khó chịu.

Muộn Du Bình sắc mặt càng lúc càng khó coi, căng tai ra nghe, nhìn đám khói đen tích trên đỉnh đầu lẩm bẩm: “Trong khói có thứ gì đó!”

Hoa Hòa Thượng nghe âm thanh lao xao kia, rồi lại nhìn con rùa đá, hình như cũng nhận ra được điều gì. Sắc mặt hắn lập tức thay đổi. “Khói này là trùng hương ngọc? Bên trong con rùa này có trùng hương ngọc! Uông Tàng Hải muốn lấy mạng chúng ta.”

“Trùng hương ngọc là cái gì vậy?” Tôi thắc mắc.

Không ai thèm trả lời nhưng tôi hiểu mình sẽ nhanh chóng biết được nó là cái gì. Muộn Du Bình chỉ vào Thuận Tử đang nằm trên quan sàng bên cạnh, ý bảo Lang Phong cõng hắn lên, sau đó chỉ tay về phía hành lang: “Chạy! Không cần quay đầu lại! Mặc kệ cái gì rớt vào người cũng không được ngừng, cứ chạy cho tới khi thoát ra ngoài. Nhanh lên!”
 
Quyển 4 - Chương 22: Bạo động


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vừa nhìn sắc mặt Muộn Du Bình đã biết hắn tuyệt đối không nói chơi. Khi đụng phải huyết thi trong Lỗ vương cung hắn cũng chưa lộ ra vẻ mặt ấy, chuyện lần này chắc chắc cực kì nghiêm trọng.

Nhưng lúc này tôi không tiện hỏi hắn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chỉ ừm một tiếng rồi co cẳng chạy trốn cùng những người khác.

Tôi cứ ngỡ mình đã quán triệt chỉ thị của Muộn Du Bình rất rất triệt để rồi, nào ngờ vừa quay đầu lại đã thấy đám Diệp Thành và Bàn Tử chạy tót vào hành lang từ đời nào. Tôi thầm rủa một tiếng đồ vô lương tâm, rồi cũng tức tốc đuổi theo.

Chạy dọc hành lang, đâm đầu qua cửa ngọc thạch vào đến đại điện rồi nhưng cái âm thanh “lao xao” kia không những không ngớt đi mà trái lại còn rõ ràng hơn. Lúc này đã có thể cảm giác rõ ràng âm thanh vọng đến từ bốn phương tám hướng trên nóc điện, giống như tiếng vô số bước chân cọ xát vào xà ngang nơi đỉnh đầu, nghe mà nổi hết da gà.

Nhưng ngẩng đầu nhìn về phía trước, tôi chỉ thấy bóng đen trải dài vô tận như một cái chăn kín mít, chẳng nhìn thấy gì, càng không biết âm thanh kia là do thứ gì phát ra. Chúng tôi bị bóng tối cùng với nỗi bất an bao phủ cứ như ngồi trên bàn chông, hận không thể thoát khỏi chỗ này ngay lập tức, cho nên mới bắt đầu đã chạy bạt mạng.

Chắc mọi người đều hiểu cảm giác gặp phải thứ mình sợ hãi trong bóng tối, nếu chỉ chạy trốn một mình thì chạy được một đoạn không xa sẽ dừng lại. Nhưng nếu cả một đám người cùng chạy thì càng chạy sẽ càng hăng, trí tưởng tượng cùng với nỗi sợ bị bỏ rơi sẽ không cho phép anh dừng lại.

Tuy nhiên tốc độ chạy của mỗi người chung quy vẫn không giống nhau. Diệp Thành đã bị dọa cho sợ mất mật, chạy còn nhanh hơn cả thỏ. Bàn Tử cũng nhanh không kém, hai người đó chuồn lẹ nhất, thoáng cái đã lao ra ngoài, chúng tôi đuổi theo muốn hụt hơi. Vả lại trong bóng đêm chỉ nhìn bóng lưng rất khó nhận ra ai với ai, vậy nên khoảng cách rất nhanh đã bị kéo giãn. Tôi ở phía sau gắng gượng đuổi theo, chỉ biết dựa vào điểm sáng nhỏ nhoi của đèn pin mà xác định phương hướng.

Cũng không biết chạy được bao lâu, sức lực gần như đã cạn, chân bất giác chậm lại. Tôi nhìn mấy điểm sáng đèn pin phía trước thấy cũng từ từ chậm lại, xem chừng đã sắp đến đích nên tôi cũng thả lỏng ít nhiều. Trong lòng chợt cảm thấy may mắn vì thể lực của tôi bây giờ đã khá hơn nhiều so với trước kia, bằng không chắc chắn đã lạc khỏi đoàn rồi.

Chạy tới nơi xem xét thì thấy mấy người phía trước đều đã dừng chân, tay chống gối, miệng há ra thở hổn hển, nhưng không thấy tăm hơi cửa đá đâu cả, trước mắt vẫn là một mảng đen thui.

Tôi hỏi đã xảy ra chuyện gì vậy, sao không chạy tiếp?

Diệp Thành thở không ra hơi, mặt nổi đầy gân xanh, bắt đầu rủa xả: “Không ổn….. Không ổn tí nào. Vừa nãy tôi có để ý đại điện rộng khoảng năm trăm bước, mà một bước chạy của tôi dài một mét, dùng tốc độ chạy đua 100m như vừa rồi chỉ mất hai phút là ra. Nhưng tôi khẳng định đã chạy hơn hai phút rất rất nhiều rồi, ít nhất cũng phải đến cái cửa ngọc kia chứ. Nhưng trước mắt lại hoàn toàn trống trải, chắc chắn là có vấn đề!”

Bàn Tử nói: “Hay là cậu đếm nhầm? Có người nào mỗi bước đều dài chính xác một mét đâu.”

Diệp Thành đắc ý cười thành tiếng: “Tuyệt đối không thể sai. Mỗi bước của tôi dài đúng một mét, sai số dưới một phân, nếu cậu không tin chúng ta có thể đánh cược. Trên đường trở ra tôi nghĩ mình đã chạy đến nghìn mét rồi, chắc chắn có vấn đề.”

Mấy người phía sau cũng dồn lên, thấy chúng tôi không chạy nữa thì đều giảm tốc độ, đến gần chúng tôi thì ngừng lại. Mấy người đó lưng đều đeo trang bị nặng và quần áo dày, chạy tới nơi đều mệt lử, thở hổn hển, gần như sắp khuỵu. Hoa hòa thượng há miệng thở dốc, vừa thở vừa nói: “Sao lại dừng ở đây, chạy nhanh lên, chạy một mạch ra ngoài rồi nghỉ sau.”

Diệp Thành nói một lượt về tình hình hiện tại, Hoa hòa thượng cũng biến sắc, lau mồ hôi trên đầu: “Chuyện quái quỷ gì đây, lúc đi vào chúng ta đâu có rẽ ngang rẽ dọc, sao lại không thấy đường ra chứ?”

Tôi nhớ lại đường vào đây, thầm nghĩ chắc chắn mình đã trúng kế rồi, tất nhiên đó là một loại thủ đoạn chúng tôi không hiểu rõ. Tôi liền nói: “Tiểu ca nói không sai tí nào, Uông Tàng Hải quả nhiên không muốn thả chúng ta ra ngoài.”

“Vậy biết làm sao bây giờ?” Bàn Tử hỏi. “Hay chúng ta đổi hướng, chạy về phía bên trái đi.”

Tôi ngoảnh đầu ngó bốn vòng quanh: “Đừng, nếu đường cũ đã không về được thì chắc chắn có chạy về bất cứ hướng nào cũng vĩnh viễn không chạm đến bờ. Khỏi cần uổng phí sức lực.”

Diệp Thành hoảng sợ nói: “Khốn nạn, chẳng lẽ chúng ta sẽ bị vây ở đây đến chết hay sao?”

Ngày trước ở trong ngôi mộ dưới đáy biển tôi đã lĩnh giáo sự lợi hại của mấy thứ cơ quan này, nhưng cũng mò ra được chút mánh, không đến nỗi bị nhốt đến chết như lời Diệp Thành nói. Chúng tôi có đông người, chắc chắn sẽ tìm được cách thoát thân, chỉ cần tập trung trí tuệ tập thể lại thì không thành vấn đề. Suy cho cùng Uông Tàng Hải cũng chỉ có thể tác động trong phạm vi năng lực của bản thân ông ta, mà cơ quan dù tinh vi đến đâu chắc chắn cũng sẽ có sơ hở. Chỉ e Uông Tàng Hải vốn không có ý vây hãm chúng tôi ở đây, âm thanh quái dị trên đỉnh đầu mới là thứ chúng tôi phải lo lắng.

Vừa ngẩng đầu nhìn lên, tiếng ‘lao xao’ lại dồn dập vang lên khiến người ta nổi da gà, sợ đến mất mật. Diệp Thành lấy đèn pin quét tới quét lui, phía trên vẫn một mảnh mịt mùng, chỉ mơ hồ nhìn thấy hoa văn rực rỡ trên xà nhà, thật là muốn bức con người ta phát điên.

Hoa hòa thượng nói: “Đứng nguyên một chỗ cũng không phải cách hay, chúng ta nên chia làm bốn nhóm chạy theo hai hướng, như vậy chung quy vẫn có một nhóm thoát ra ngoài, không đến mức ôm nhau chết chùm.”

Bàn Tử hét to: “Anh nhìn cho kĩ đi, người còn chưa tới đủ. Chúng ta chỉ có vài người thế này làm sao chia thành bốn nhóm được?”

Mọi người nghe vậy vội ngó sang xung quanh đếm số đèn pin, đếm xong cả đám muốn đờ ra. Muộn Du Bình, Trần Bì A Tứ, Lang Phong cõng theo Thuận Tử và cả Phan Tử nữa cũng chưa tới. Mẹ kiếp! Một nửa quân số đã mất dạng, tôi cứ nghĩ họ đều ở ngay gần chúng tôi chứ!

Vừa rồi cả đám chạy lung tung cả, không ai để ý bọn họ tụt lại phía sau lúc nào, bây giờ quay lại nhìn bốn phía không bói ra một đốm sáng, căn bản không thể lần theo vết tích bọn họ để lại. Chẳng lẽ trong khi chạy chúng tôi đã gặp một ngã rẽ rồi chạy vào giữa cái vùng tối tăm này? Vậy thì nguy rồi, ở vào tình cảnh này mà phân tán nhau ra thì không khác chi tự sát.

Tôi vuốt vuốt hai hàng lông mày, cẩn thận nhớ lại chi tiết tình cảnh vừa rồi. Chúng tôi không phải là những người chạy cuối cùng, Phan Tử xưa nay luôn đi sau tất cả để giám sát hành động của mọi người, đây là thói quen hình thành trong thời gian đi lính. Trần Bì A Tứ tuổi tác đã cao, sớm bị tụt lại phía sau. Lang Phong lưng phải cõng thêm người, hành động bất tiện, cũng không chạy nhanh được. Mà Muộn Du Bình đúng là chuyên gia mất tích bất thình lình, khi gặp chuyện bất ngờ hắn vẫn quen bọc hậu, sau đó đột ngột mất tích là chuyện hết sức bình thường.

Những người này đều ở phía sau chúng tôi, lúc họ mất tích chắc chắn cũng không cách chúng tôi bao xa, vừa rồi cả đám chạy như phát cuồng cho nên mới không hề phát giác.

Đám người Hoa Hòa Thượng lập tức như rắn mất đầu, không biết phải làm sao. Bàn Tử hắng giọng rống to một tiếng: “Lão Phan! Các người đâu cả rồi?”

Hắn vừa cất giọng, đột nhiên từ đâu truyền đến một âm thanh hết sức rõ ràng. Âm thanh này không thể xác định phương hướng nhưng vang vọng như sấm, chỉ nghe tiếng Lang Phong hét lớn: “Chết tiệt! Hòa thượng, mau tắt đèn pin đi! Nhìn lên đỉnh đầu kìa.”
 
Quyển 4 - Chương 23: Tường xuyến tử


Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

“Tắt đèn pin?” Tôi nghe đã thấy mù mờ. Đã mất nhiều người như vậy còn tắt đèn pin, nếu lại mất thêm thì biết làm sao? Đây chẳng phải là tự đâm đầu đi tìm xui xẻo à. Tôi vội nhìn sang Hoa hòa thượng, dầu sao cũng là người từng trải nhất, để xem hắn phản ứng thế nào.

Hoa hòa thượng cũng căng thẳng muốn chết, thấy tôi nhìn về phía hắn bèn hỏi lại tôi: “Có tắt hay không đây?”

Bàn Tử tắt đèn pin nói: “Cứ nghe lời hắn, tắt thử xem sao.”

Tôi lập tức tắt đèn pin, mấy người Hoa hòa thượng cũng lục tục tắt đi, trong nháy mắt bốn bề lại chìm vào màn đêm đen đặc. Chúng tôi vội vàng ngẩng đầu lên nhìn nóc điện nhưng nơi đó vẫn bao phủ trong một màu tối đen như cũ, chẳng thấy gì cả. Bàn Tử đang định chửi thề thì phía trên bất chợt sáng lên, chúng tôi lập tức nhìn thấy vô số đốm sáng nhỏ màu xanh lục tụ tập chi chít trên đỉnh đầu, thoạt nhìn tựa như một bầu trời đầy sao.

“Là Ngũ thập tinh đồ.”

Tôi nghe giọng nói của Hoa hòa thượng cất lên bên cạnh, lại ngẩng đầu lên nhìn thì quả nhiên thấy những đốm sáng xanh lục kia sắp xếp thành hình dáng tựa như một bức Ngũ thập tinh đồ, nhưng cũng không được chính xác cho lắm bởi vì những đốm sáng màu xanh kia lại đang di động không ngừng.

“Chuyến này ta phát tài to rồi, bao nhiêu dạ minh châu thế kia.” Bàn Tử kinh ngạc thốt lên.

“Không phải, dạ minh châu đâu có nhỏ cỡ đó.” Tôi bắt đầu đổ mồ hôi lạnh. “Tụi nó di động, hẳn là côn trùng!”

“Côn trùng? Côn trùng gì?” Bàn Tử bắt đầu lo lắng, đại khái là nhớ đến đám bọ ăn xác: “Đom đóm à?”

“Không phải, đom đóm sáng nhấp nháy cơ. Tôi cũng không…..” còn chưa nói hết câu, tôi đột nhiên cảm thấy trong cổ ngứa ngáy giống như có vật gì chui vào làm lọan. Vội vàng đưa tay lên sờ thì đụng phải con gì đó, tôi thuận tay bóp cho một phát nát bét.

Lúc đó cảm giác ở bàn tay cho tôi biết có gì không ổn: Đây là côn trùng chân khớp, hơn nữa hình như còn mọc rất nhiều chi. Tôi vội nhón tay vào trong cổ áo nhặt thứ kia ra, vừa bật đèn pin lên xem đã hết hồn, vội quẳng nó xuống đất.

Đó là một con trùng dài cỡ một bàn tay, trông cực kì giống rết. Đầu và đuôi nó mọc râu rất dài, thân dài và mảnh, chia làm chín đốt, trên lưng mỗi đốt đều có một chấm màu lục. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất của con trùng này so với rết là chân nó siêu dài, dài ngang ngửa với thân luôn, đã thế lại nhiều vô số kể, trông cứ như một đám lông rậm mọc hai bên thân vậy.

Tôi biết loại trùng này tên là ‘Du diên’, có nơi gọi là ‘Tường xuyến tử’ hay là ‘Hà tiêu’, cực kì tà môn. Thuở nhỏ cái gì tôi cũng dám nghịch, riêng nó là không dám đụng đến, cứ có cảm giác thứ này làm cho người ta chỉ cần nhìn thôi đã đủ khó chịu. Quê tôi người ta truyền miệng nhau rằng thứ này chỉ cần bò lên người là da thịt những nơi nó bò qua sẽ thối rữa hết. Đáng sợ nhất chính là thứ này thích chui vào lỗ tai người, giờ vừa nhìn thấy nó cả người tôi đã ngứa ran.

‘Tường xuyến tử’ này cũng được nhắc đến trong Liêu trai, con lớn nhất có thể dài đến ba mét, hơn nữa cũng như loài nhện loài rết, con vật này có yêu tính rất nặng.

Tôi nhìn con trùng mà toàn thân phát ớn, đột nhiên lại thấy trên đầu ngưa ngứa, sờ thử thì ra lại thêm một con nữa mới nhảy dù từ trên trần xuống.

Tôi gào ầm lên, luống cuống phủi nó đi rồi trùm cái mũ liền với bộ đồ leo núi đang mặc lên đầu. Thử chiếu đèn pin xuống mặt đất, tổ sư nó, không biết từ lúc nào trên mặt đất đã có vài con đang bò lổm ngổm, thế mà đám trùng bám trên trần vẫn không ngớt nhảy dù xuống.

Người đứng bên dưới không ai không dính trấu, Hoa hòa thượng phản ứng không được nhanh nhẹn như tôi, hắn nhảy dựng lên, không ngừng phủi thứ gì đó trong cổ áo ra nhưng vô ích. Vật kia cứ thấy khe hở là chui, nhanh chóng lách vào bên trong quần áo hắn. Thêm vào đó, không hiểu vì sao đám trùng trên mặt đất cũng thi nhau đâm đầu về phía chúng tôi, nương theo giày mà leo lên.

Bàn Tử lôi chậu rửa mặt ra úp lên đầu, tay kia cầm xẻng công binh không ngừng đập đập. Tôi thấy Diệp Thành hai tay ôm đầu bèn vội vàng chạy đến giúp, vừa giật tay hắn ra đã thấy trong lỗ tai hắn có vài con chui vào rồi.

Một số con ‘Tường xuyến tử’ cũng có kịch độc như loài rết, thậm chí còn độc hơn rết, thà bị bọ cạp dạo chơi đầy người còn hơn bị cái thứ này xâu xé. Tôi nghiêng đầu hắn qua một bên, vỗ vỗ vài cái để đập cho đám trùng rơi ra.

Chúng tôi cứ vừa phủi vừa chạy nhưng đâu đâu cũng là ‘Tường xuyến tử’ rơi rụng như mưa, đúng lúc cả đám sắp phát điên đến nơi thì bỗng nghe ‘bùng’ một tiếng, xa xa một ngọn đăng nô sáng rực lên, không biết là do ai châm.

Tôi chưa hết bực mình vì không biết giờ này ai còn nhã hứng mà đi đốt đèn, không ngờ ‘Tường xuyến tử’ trên mặt đất đã rục rịch phản ứng, chúng bắt đầu bò về phía cái đăng nô kia.

Xa xa truyền đến tiếng của Thuận Tử: “Mấy vị mau đốt lửa lên! Thứ trùng này chuyên môn tìm chỗ ấm áp mà đẻ trứng, đừng để các vị trở thành vật thể ấm nhất ở đây.”

Hóa ra là tên nhóc Thuận Tử , tôi thầm nghĩ, xem ra hắn đã tỉnh lại rồi.

Tôi và Bàn Tử nghe thế bèn bò ngay đến cái đăng nô bên cạnh, thứ này khắc từ đá tảng, tạo hình một người đang cõng một cái chậu trên lưng, trong chậu có bấc đèn. Đăng nô này cao hơn đầu người, tôi leo lên xem thì thấy dầu trong chậu trải qua hàng vạn năm đã đông cứng thành xà phòng, bên trong nhung nhúc những trùng.

Tôi cầm lấy bật lửa, châm vào bấc đèn. Ngọn lửa ban đầu rất nhỏ, nhưng chờ cho dầu vạn năm bên trong từ từ nóng chảy thì ngọn lửa cũng dần bùng lên. ‘Tường xuyến tử’ bên trong chậu vừa thấy ngọn lửa đã không chút do dự mà vây kín lấy nó. Mấy con ‘tường xuyến tử’ luẩn quẩn trong chậu, chẳng mấy chốc mà bị đốt cho tơi bời hoa lá.

Tôi bật đèn pin, chiếu lên trần kiểm tra. Bức tranh rực rỡ trên xà nhà đã biến đổi, có lẽ hoa văn vừa rồi là do đám trùng kia xếp hình mà ra. Lúc này lại thêm một ngọn đăng nô nữa được châm lên, ánh lửa xuyên qua màn đêm, trở nên đặc biệt u ám. Tuy tôi vẫn không nhìn rõ người đứng cạnh nó là ai nhưng cũng lờ mờ nhận ra họ đang ở đâu, xem ra nơi này cũng không tối tăm đến độ ánh sáng không xuyên qua nổi, chẳng qua ánh sáng của chúng tôi không đủ mạnh mà thôi.

Trên đầu tôi vẫn còn vài con trùng lạc đàn rơi xuống, nhưng hầu hết tụi nó đã tập trung về phía đăng nô. Mấy người chúng tôi lấy tay che đầu, chạy về phía ánh đèn, chạy được vài bước thì gặp Lang Phong và Thuận Tử. Lang Phong ngã sóng xoài trên mặt đất, thân thể không ngừng run rẩy, Thuận Tử bên cạnh vừa xoa gáy, vừa phủi phủi đám trùng trên người hắn xuống.

Tôi chạy lại, hỏi Lang Phong làm sao vậy. Thuận Tử đáp: “Xong rồi, ‘Tường xuyến tử’ đã chui vào đầu, chui quá sâu nên không lấy ra được.”

Bàn Tử a một tiếng, bất giác đưa tay lên móc móc lỗ tai, lẩm bẩm: “May mà ráy tai mình nhiều.”

Tôi hỏi Thuận Tử: “Còn cứu được không?”

Thuận Tử lắc đầu nói: “Không biết. Trong thôn chúng tôi, một khi đã dính vào con tuyết mao tử này thì sống chết phó mặc số trời rồi.”

(Tuyết mao tử là tên khác của con rết đó thôi)

Tôi vạch mi mắt Lang Phong ra xem, thấy tròng mắt hắn đã không còn tri giác, thật là quá sức chịu đựng. Nhưng thật ra đây lại là chuyện tốt, bởi kẻ này là thủ hạ của Trần Bì A Tứ, đến khi trở mặt – mà cái này chỉ là chuyện sớm muộn – chắc chắc sẽ rất khó đối phó. Bây giờ hắn mắc nạn, xem ra chúng tôi sẽ nắm chắc thêm một phần thắng. *khóc 1 dòng sông cho 4 chữ Thiên chân vô tà…*

Phan Tử đứng đằng xa gọi lớn, chờ cho cả đám tập hợp lại, tôi liên nói với Thuận Tử: “Mọi chuyện cứ gác lại đó, chờ mọi người tập hợp đông đủ rồi tính sau, đầu anh không sao chứ.”

Thuận Tử gật đầu, buồn bực nói: “Sao tự dưng tôi lại bất tỉnh nhỉ? Tôi vẫn còn nhớ – mấy người muốn phá núi mà. Đây là chỗ nào vậy?”

Tôi còn chưa kịp phản ứng, Bàn Tử đã cướp lời: “Cậu hồ đồ thật rồi, ban đầu chúng tôi chỉ muốn đốt pháo ăn mừng, không ngờ gặp tuyết lở, cậu bị một tảng đá rơi xuống đập trúng đầu nên hôn mê liền. Còn chúng tôi bị tuyết vùi rồi cuốn tới nơi này, hình như là một tòa miếu, cũng không rõ chuyện gì đang xảy ra nữa.”

Thuận Tử ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Đầu óc tôi trống trơn chẳng nhớ gì nữa, nhưng sao các anh lại dám nổ pháo trên đỉnh núi tuyết chứ, làm bậy quá đáng… Không được, các người trở về phải thanh toán thêm tiền cho tôi, vụ giao dịch này quá bất lợi.”

Bàn Tử còn muốn nói tiếp, nhưng tôi sợ hắn lại huyên thuyên đến tận đâu đâu cũng không biết chừng, liền vỗ vai hắn: “Đừng cà kê nữa ông tướng, chuyện để đó nói sau, bây giờ thì nhanh chân lên.”

Nói rồi tôi và Bàn Tử hợp sức đỡ Lang Phong dậy, muốn đỡ hắn đến chỗ Phan Tử. Thế nhưng Lang Phong khá đô con, hai người chúng tôi phải dùng hết sức lực mới đỡ hắn ngồi thẳng lên được.

Lang Phong run rẩy, không thể giữ thẳng cổ nữa, đầu ngoẹo qua một bên. Đúng lúc tôi đang tìm cách dìu hắn đứng lên thì Bàn Tử đột nhiên nhíu mày. Tôi nhìn theo ánh mắt hắn, phát hiện sau gáy Lang Phong có một vết bầm tím, rõ ràng là bị ai đánh, tuy vết bầm này không nổi bật lắm nhưng nhìn kỹ là phát hiện ra ngay.

Bụng tôi khẽ thót một cái, dấu vết này chứng tỏ Lang Phong không trúng độc mà bị người ta đánh cho hôn mê. Tôi liếc mắt thấy ba lô của Lang Phong đang đeo trên lưng Thuận Tử, vừa định hỏi hắn đã xảy ra chuyện gì thì Bàn Tử thở dài một tiếng, ý bảo tôi đừng có hỏi. *Thuận Tử trông hiền lành vậy mà cũng nguy hiểm quá, đúng là chả tin được bố con thằng nào x.x*

Tôi nhìn vào mắt Bàn Tử, không hiểu hắn đang mưu tính chuyện gì, đành phải liếc trả một cái rồi đỡ Lang Phong lên, gắng sức giữ chặt hắn trên vai rồi dìu hắn về phía Phan Tử.

Đi qua một quãng tối om, chúng tôi cũng đến chỗ Phan Tử ở ngay trước mặt một cây đăng nô. Trần Bì A Tứ và Phan Tử đều đứng đợi ở đó, riêng Muộn Du Bình vẫn không thấy mặt mũi đâu. Tôi hỏi Phan Tử: “Tiểu ca đâu rồi?”

Phan Tử nói: “Tưởng hắn ở chỗ các cậu chứ? Tôi không thấy hắn đâu cả.”

Tôi nhìn quanh bốn phía, ngoại trừ ánh sáng từ hai ngọn đăng nô do chúng tôi, Phan Tử và Thuận Tử đốt lên thì không còn ngọn đăng nô thứ tư nữa. Nhìn ra phía xa chỉ thấy hai đốm sáng mông lung đứng đó, ánh lửa âm u không hề có sức sống.

Theo lí mà nói, trong hoàn cảnh này khi nghe tiếng kêu của Thuận Tử thì ai cũng sẽ thắp sáng đăng nô phía trên, bằng không chắc chắn sẽ bị Tường xuyến tử xâu xé. Hắn không đốt đèn lên, lẽ nào trước khi nghe tiếng Thuận Tử đã trúng độc mà mất đi tri giác giống Lang Phong rồi?

Không thể nào, người hắn cứ như cây nhang muỗi, côn trùng thấy hắn là tránh xa mới phải.

Bàn Tử hét to một tiếng giữa màn đêm bao phủ bốn bề, tiếng kêu vọng đi vọng lại, quanh quẩn trong linh cung trống trải này một hồi lâu nhưng vẫn không nghe tiếng ai trả lời, tựa như Muộn Du Bình chưa hề đặt chân vào đây vậy. Đợi đến khi yên ắng trở lại cũng không nghe thấy bất kì tiếng hít thở hay bước chân nào.

Trong lòng tôi hiểu rõ, với thân thủ của Muộn Du Bình, không thứ gì có thể khống chế hắn mà không gây ra tiếng động. Nếu hắn lặng lẽ biến mất thì chắc chắn phải có lí do đặc biệt, hoặc là đã phát hiện ra điều gì nên tự mình tách nhóm. Bây giờ dù chúng tôi có quỳ xuống dập đầu thì hắn cũng sẽ không xuất hiện.

Phan Tử và Bàn Tử lại gọi thêm vài tiếng, đến khi chắc chắn không có tiếng đáp lại mớibật đèn pin chuẩn bị đi tìm. Tôi bèn ngăn bọn họ lại: “Lúc này nhất thiết không thể phân tán, chúng ta trước hết phải xử lí tốt người bị thương, sau đó đi cùng nhau.”

Mọi người thấy cũng đúng, bèn vây lấy Lang Phong. Trần Bì A Tứ kiểm tra sơ qua tình trạng thương tích của Lang Phong, dựa vào tính cách cáo già của lão, tôi thấy lão gần như ngay lập tức phát hiện vết thương sau gáy Lang Phong. Thế nhưng lão không hề tỏ ra kinh ngạc mà chỉ liếc tôi một cái, không biết là có ý gì.

Tôi bỗng nhiên cảm thấy có gì đó không ổn. Vừa rồi người dìu Lang Phong trở về là tôi và Bàn Tử. Dựa theo logic thông thường thì Trần Bì A Tứ sẽ không nghi ngờ người dẫn đường tạm thời tìm được trong thôn là Thuận Tử, mà sẽ rất dễ đi đến kết luận kẻ đánh bị thương Lang Phong là một trong hai người tôi hoặc Bàn Tử, cũng có thể là cả hai.

Sau này lão sẽ dùng kế sách gì đối phó với chúng tôi thì thật khó mà nói trước, đây đúng là tự dí nòng súng vào đầu mình mà.

Lại nói, Thuận Tử là lính xuất ngũ, dù gì cũng là quân biên phòng tuyến đầu chính quy, nếu muốn đánh bất tỉnh Lang Phong cũng không phải chuyện khó khăn gì. Có thể hắn còn e dè chúng tôi – suy cho cùng thì chúng tôi thân phận bất minh, lại rõ ràng không phải người tốt – thế nên hắn tạm thời giả ngu để qua mặt chúng tôi. Nhưng tôi cũng không thể vạch trần hắn được, hoàn cảnh lúc này rất phức tạp, thêm bạn bớt thù vẫn hơn.

Lúc ấy đáng ra không nên thuê một tay lính xuất ngũ làm dẫn đường, tôi thầm nhủ. Trong lòng cảm thấy mọi chuyện cứ rối tinh lên như mớ bòng bong, không biết nên xử lí sao cho phải.

Thuận Tử đứng bên cạnh lật ngược Lang Phong lại, sau đó lấy từ trong túi ra hai cây tăm, vạch lỗ tai Lang Phong lên rồi gảy ‘Tường xuyến tử’ trong tai hắn ra ngoài. Tường xuyến tử vừa rơi xuống đất, Bàn Tử lập tức dẫm cho một cú nát bét.

Thuận Tử nói với chúng tôi, loại trùng này bọn họ gọi là ‘tuyết mao’, là vị thuốc Đông y cực kì hiếm gặp. Loại trùng này bình thường chỉ xuất hiện bên dưới ranh giới tuyết, phía trên ranh giới tuyết thì chưa gặp phải bao giờ, không hiểu vì sao chỗ này lại tập trung nhiều như vậy, trong đầu Lang Phong đã có mầm mống trùng, e rằng sẽ không duy trì được lâu.

Nói vậy là chúng thông qua lỗ tai để chui vào đại não đẻ trứng. Tôi nắn nắm hàm dưới của Lang Phong, phát hiện nó đã sưng tấy, chắc chắn Tường xuyến tử đã cắn một cái bên trong lỗ tai khiến hắn trúng độc. Tuy không nghiêm trọng như lời Thuận Tử nói, nhưng đám sâu này rốt cuộc từ đâu mà đến, thực sự khiến người ta cảm thấy khó hiểu.

Bàn Tử nhìn lên đỉnh đầu, nói: “Chắc chắn chúng nó trốn trong lớp mái ngói trên nóc nhà rồi, chỉ chờ Trùng hương ngọc bị đốt là thức tỉnh, con mẹ nó chiêu này thật đúng là độc địa. Nhưng lão già họ Uông kia chẳng lẽ đã đoán trước cả chuyện chúng ta sẽ đốt con rùa từ tính sao?”

Tôi thầm nhủ trong bụng, cái đó là đương nhiên. Nếu đã đem chôn rùa từ tính bên dưới tảng đá phong mộ, tất nhiên là muốn đám trộm mộ phát hiện ra, sau đó phá hủy nó. Dù đốt hay là đập nát có lẽ đều làm cho Trùng hương ngọc bốc hơi, đánh thức đám du diên ngủ đông trong mái ngói cung điện. Nhưng nếu có kẻ vẫn giữ sự tôn kính đối với linh cung này mà không phá hủy nó thì con rùa từ tính ở đây có thể vĩnh viễn bảo vệ Vân Đỉnh thiên cung được an toàn.

Hoa hòa thượng có mang theo ít thuốc men, liền lấy ra tiêm vào chân Lang Phong một mũi, nói là tạm thời có thể giữ được mạng hắn. Tiêm xong chúng tôi cởi áo khoác ngoài của Lang Phong ra, giũ sạch đám trùng đang cuộn tròn trên đó, tiêu diệt sạch sẽ. Phan Tử nói với Trần Bì A Tứ: “Tứ gia, độc tính của loài trùng này rất lợi hại. Tốt nhất chúng ta nên nhanh chóng rời khỏi đây, nếu không lát có thêm người bị cắn thì e rằng thuốc này không đủ.”

Trần Bì A Tứ nhìn quanh bốn phía, nhíu mày. Diệp Thành thở dài, kể cho Phan Tử nghe đầu đuôi chuyện chúng tôi phát hiện ra mình bị vây khốn. Phan Tử nghe xong cũng cảm thấy vô cùng nghi hoặc: “Anh dám chắc chúng ta không rẽ nhầm vào đâu chứ?”

Diệp Thành đang định mở miệng thì Thuận Tử bỗng ‘Hử?’ một tiếng, nói “Thật kì quái!” Tôi quay sang nhìn, thì ra ánh lửa từ chiếc đăng nô hắn đốt lên lúc nãy đã biến mất trong bóng tối phía xa.

Dầu thắp trong đăng nô đã mấy trăm năm không dùng, đến giờ vẫn còn đốt được đã phải cảm tạ trời đất rồi. Tôi nói chuyện này không có gì là bất thường cả, nhưng hắn vẫn cau mày, lại đập tôi mấy cái rồi chỉ cho tôi xem.

Tôi bắt đầu bực bội, đúng lúc này lại chứng kiến ngọn lửa trong đăng nô thứ hai do tôi châm lên bắt đầu lay động, tựa như có người nào đó đi qua bên cạnh kéo theo một luồng gió khiến lửa chập chờn vậy.

Trong đại điện vốn kín gió, nếu không có thứ gì đó lướt qua bên cạnh, tuyệt đối sẽ không xảy ra chuyện này.

Tôi còn tưởng Muộn Du Bình trở về, muốn gọi hắn một tiếng nhưng Bàn Tử lại bịt kín miệng tôi. Tôi thấy ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa mơ hồ in bóng một người, chắc chắn không phải Muộn Du Bình bởi vì cái bóng này rất cao lớn.

Tôi cảm thấy không ổn, nhưng cái bóng kia quá sức mơ hồ, ngay cả đường nét cũng nhìn không rõ lắm. Trần Bì A Tứ nhìn đăm đăm một hồi, đột nhiên đưa tay len bắn ra một viên đạn sắt bay xẹt qua vị trí phía trên ngọn lửa của đăng nô đầu tiên. Luồng gió mạnh lướt qua làm lửa bùng cháy, không gian chớp mắt sáng bừng, chúng tôi lập tức nhìn thấy một bóng người có cái cổ dài khác thường đang đứng cạnh đăng nô
 
Quyển 4 - Chương 24: Bách túc long thần


Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Viên đạn sắt của Trần Bì A Tứ vừa bay qua, ngọn lửa chập chờn trong nháy mắt lại trở nên u ám. Bóng người kia mơ hồ trở lại, loáng cái đã không còn thấy rõ. Viên đạn sắt không biết rốt cuộc đập phải chỗ nào, phát ra một tiếng giòn giã rồi lăn xuống mặt đất, tiếng va đập vang vọng giữa linh cung trống trải làm người ta nghe mà gai ốc nổi đầy mình.

Trong tích tắc ánh lửa bùng lên kia, mọi người đều bị cái bóng kia dọa cho nhảy dựng. Thuận Tử lại càng hoảng sợ, khẽ kêu lên kinh hãi: “Cái thứ quái quỷ gì thế này?!”

Hoa hòa thượng lập tức bưng miệng cậu ta lại không cho nói tiếp, vài người đã vô thức chạm tay lên chuôi dao.

Trần Bì A Tứ khoát tay bảo chúng tôi đừng căng thẳng như thế, sau đó liếc mắt sai phái Hoa hòa thượng. Người kia lập tức nhảy lên đăng nô kế bên, đưa một tay đập cho lửa tắt ngóm.

Tôi không thể không bội phục sự tỉnh táo của Trần Bì A Tứ. Trong hoàn cảnh quái gở thế này, người ta thường không nghĩ đến chuyện tắt nguồn sáng cạnh mình mà đều mong nơi mình đứng càng sáng càng tốt; nhưng thật ra trong tình huống này, giấu mình vào bóng tối mới là an toàn nhất.

Đăng nô vừa tắt, trong nháy mắt bốn bề lại chìm vào bóng đêm. Màn đêm dày đặc như sương mù thoáng cái đã bủa vây lấy chúng tôi, đăng nô phía bên kia dường như càng thêm sáng tỏ.

Chúng tôi cũng lần lượt tắt hết đèn pin của mình đi, ai nấy đều nín thở theo dõi cái bóng phía bên kia. Bóng tối vây quanh lập tức kích thích thần kinh của tôi, khiến tôi nhanh chóng cảm nhận được trái tim mình đang đập vô cùng dữ dội.

Cái bóng kia rõ ràng là của một người, thân hình phần lớn hòa vào bóng đêm. Thứ gây cho người ta cảm giác dị dạng là cái cổ dài đến kì quái của hắn, kèm thêm thứ gì đó mà người ta không thể nói rõ là gai hay là xúc tu, thoạt nhìn không giống con người, mà cứ như… cứ như loài chim.

Tôi vô thức rùng mình ớn lạnh, tim đập thình thịch. Ngoại trừ Muộn Du Bình, những người khác đều ở quanh đây. Cái bóng này nhìn qua cũng biết nhất định không phải Muộn Du Bình, lẽ nào trong đây còn có ai khác?

Vậy hắn là hạng người gì? Vì sao lại xuất hiện trong linh cung trên đỉnh núi tuyết này? Chẳng lẽ trận tuyết lở ban nãy đã làm lính biên phòng chú ý, còn người nọ là quân giải phóng đi tiền trạm?

Cũng không phải. Chưa nói trận tuyết lở xảy ra tít trong khe núi, nếu thật sự bị phát hiện, muốn chạy tới nơi bét nhất cũng mất một ngày, làm gì mà nhanh dữ thế.

Tôi đột nhiên lại nghĩ, linh cung này là cái bẫy do Uông Tàng Hải sắp đặt. Đã là bẫy, dĩ nhiên phải hiểm ác vạn phần. Kẻ đạp trúng bẫy tuyệt đối không thể tưởng tượng được chờ đợi hắn trong cạm bẫy là thứ gì, mà cái bóng này, phải chăng chính là quái vật Uông Tàng Hải bố trí sẵn từ khi đặt bẫy?

Chúng tôi không dám thở mạnh, nhìn chòng chọc vào cái bóng kia, hòng suy luận ra điều gì từ hình dạng và động tác của nó. Ít nhất cũng phải để cho chúng tôi biết thứ này rốt cuộc là người hay là ‘thứ gì đó’ chứ.

Nhưng thật kỳ lạ, cái bóng kia vẫn cứ đứng trân trân ra đó y như một bức tượng đất, đến lắc cũng không thèm lắc lấy một cái, dường như không phải vật sống.

Đợi được một lát, thấy hai bên vẫn chẳng có động tĩnh gì, Bàn Tử bắt đầu sốt ruột, bèn nói nhỏ: “Không phải chứ, là vật sống ắt phải cử động. Thứ này vẫn không hề nhúc nhích, hay là chúng ta hoa mắt rồi, thực ra nó chỉ là bóng của mấy cái đăng nô khắc trên cột thôi?”

Diệp Thành đáp: “Nói nhảm, đăng nô không phải đều đứng một bên sao? Làm sao nó mọc chân chạy sang bên này được?”

Bàn Tử thì thào: “Chẳng phải có linh khí đất trời thì đàn tỳ bà cũng thành tinh sao (*)? Không chừng mấy cái đăng nô bằng đá trong này đã thành tinh cả rồi, có thể tự do đi lại.”

(*) Trong Tây du ký có “tỳ bà tinh” nhưng thực chất nó không phải cây tỳ bà thành tinh, mà là con bọ cạp tinh ở trong động Tỳ Bà nên gọi tỳ bà tinh. Chi tiết này không rõ là tác giả cố tình, hay nhầm lẫn thật.

Cơm Nướng Chảo: Tui nghĩ nó hẳn là con tỳ bà tinh chị em của Đát Kỷ đó =3=

Tôi nghe hắn nói mà cả người phát ớn, lúc này cũng không dư hơi đi đánh giá lời Bàn Tử nói là đúng hay sai nữa. Mới vài tháng trước đây đến cả bánh tông tôi còn không tin là thật, mà đến giờ số bánh tông tôi nhìn thấy đã ngồi kín hai sới mạt chược được rồi, giờ hỏi có yêu quái hay không, tôi thật chẳng dám đoán. Nhưng Bàn Tử nói đăng nô bằng đá kia thành tinh, tôi phần nhiều vẫn cảm thấy đây là một câu nói đùa. Bàn Tử càng vào lúc nguy hiểm thì lời nói lại càng không đáng tin, điều này cũng liên quan mật thiết với tính cách của hắn.

Nhưng có một điều Bàn Tử nói không sai: chỉ cần là vật sống thì nhất định sẽ phải cử động. Cứ coi như nó chỉ là một cái bánh tông đi thì cũng không thể đứng trơ ra đó như tảng đá, vậy mà cái bóng này vẫn đứng im không nhúc nhích, thật là quái gở.

Bất kể nó là thứ gì, chúng tôi cũng không thể giằng dai ở chỗ này mãi. Tuy nhìn không thấy nhưng tôi biết rõ bốn phía trong này lổm ngổm bò đầy “Tường xuyến tử”, nếu lại có người bị cắn, tuy không nguy đến tính mạng nhưng trên núi tuyết thiếu thốn y phục thuốc men, đây cũng là chuyện nguy hiểm chết người.

Chúng tôi thì thào chụm lại bàn tính, mấy người kia cơ bản cũng nghĩ giống tôi. Bàn Tử hạ giọng cực kỳ thấp, nói: “Vậy ta cũng đừng đứng đực ra đây ngắm nghía thân hình của nó nữa, cứ lén lút lại gần mò thử xem. Nếu là người thật thì đè mọe nó ra mà tẩn!”

Vài người lên tiếng tán đồng, tôi cảm thấy bên người có trận gió nổi lên, nóng ruột muốn chạy qua ngay. Bốn bề tối đen thế này thì cũng chẳng sắp xếp đội hình cho nổi, tôi cứ kiên trì nhắm hướng ánh lửa duy nhất mà đi thôi.

Cái đăng nô kia cũng không xa chúng tôi lắm, tiến lên vài bước, cái bóng kia càng lúc càng hiện rõ, tôi càng nhìn càng thấy nó quái đản. Bất tri bất giác, một thứ dự cảm nổi lên ngày một rõ rệt. Khi sắp đến gần khu vực ngọn đèn kia có thể soi sáng, tôi vô thức bước chậm lại, náu mình trong bóng tối, nhẹ nhàng từ tốn mà áp sát.

Cho đến khi cái bóng đen kia chỉ còn cách hơn mười bước, tôi mới nheo mắt nhìn nó cho kĩ, soi từng ngóc ngách một, tim đập càng lúc càng nhanh, mồ hôi lạnh bắt đầu tuôn ra như tắm. Tôi đành phải cầu khấn ông trời đừng để tôi gặp phải thứ mình không muốn thấy.

Nhưng theo tầm nhìn ngày càng gần, tôi dần dần ý thức được ông trời chắc chả thèm phù hộ cho cái hạng người trộm mồ quật mả chúng tôi đâu. Thứ trước mắt càng lúc càng hiện rõ, trong nháy mắt tôi không nhấc nổi bước chân nào nữa, chỉ thấy người nhũn cả ra, cuối cùng toàn thân vậy mà cứng đờ tại chỗ không nhúc nhích nổi nữa.

Tôi hoàn toàn không thể dùng lời diễn tả được những gì mình thấy. Con quái kia có thể nói là một con vật khổng lồ hình dạng giống du diên, nhưng có đúng là du diên không thì tôi cũng chịu, bởi vì nó quá bự. Tôi biết con du diên bự nhất có thể dài hơn một mét, nhưng con này rõ ràng còn lớn hơn nhiền. Con du diên ngóc nửa người lên như rắn, cuốn lấy một ngọn đăng nô. Cần cổ mà chúng tôi thấy thật ra chỉ là cái bóng do cặp ngạnh độc to tướng và xúc tu dài ngoằng của nó tạo thành. Vô số cái chân dài ngoằng rủ xuống, con trùng bự vẫn không hề nhúc nhích, tựa như đang hít lấy chất khí tỏa ra từ dầu đèn.

Trong phân ngành động vật nhiều chân, loài rết Scolopendra galapagoensis vùng biển Caribe có thể dài từ 40 đến 60 cm, tuy nhiên loại dài hơn một mét thì đến nay chưa từng phát hiện. Với hình thể khổng lồ như vậy, e rằng tuổi thọ của con trùng này phải đến hơn một ngàn năm rồi.

Tiếng người rên rẩm vọng đến từ bốn phía, tôi thậm chí còn nghe thấy Bàn Tử thì thào chửi một câu: “Tổ sư nó!” Hiển nhiên mấy người khác mò đến đây cũng đã nhìn thấy nó, bắt đầu không tin vào mắt mình. Tôi nhớ tới khối phong thạch khổng lồ có khắc hình rồng lai rết mình đã gặp giữa đường, bỗng vỡ lẽ ra vì sao con rồng của người Đông Hạ lại mọc ngàn chân như rết.

Xem ra sau khi rút vào núi sâu, bọn họ bắt gặp con du diên khổng lồ đã tôn nó thành hóa thân của rồng rồi.

Trong lúc đầu óc rối loạn, tôi nghe có người hô lên vài tiếng, ý là: “Rút lui!” Lúc đó cũng chẳng biết câu này do ai nói, tôi bất giác lùi về phía sau, cứ lùi mãi lùi mãi, cũng chẳng biết đã lùi đến chỗ nào, nhìn bốn phía chỉ thấy một màu đen kịt. Thì ra sau khi Hoa hòa thượng dập tắt đăng nô của chúng tôi ở đằng kia thì chúng tôi đã không còn mục tiêu để rút về nữa, vừa lùi lại đã rã đám hết.

Tôi lại bật đèn pin lên, muốn thắp một cây đăng nô để thu hút sự chú ý của bọn họ, lại thấy cách đó không xa cái bóng của con du diên chớp lên một cái, đăng nô cạnh nó nháy mắt đã bị dập tắt, một tích tắc sau con du diên khổng lồ đã hòa lẫn vào bóng tối.

Đột nhiên tôi nhớ ra Thuận Tử đã nói du diên có tập tính lao vào hơi nóng, chợt có cảm giác không ổn. Đúng lúc này, ở một chỗ rất xa, Hoa hòa thượng đốt một cây pháo lạnh rồi hô: “Mọi người tuyệt đối không được thắp đèn trên đăng nô, hãy nhìn pháo lạnh mà tập hợp lại chỗ tôi này.”

Trong bóng tối tôi nghe thấy tiếng vô số cẳng chân cào đi cào lại trên mặt sàn, tần suất cực nhanh, tôi nghe cũng không xác định được nó ở chỗ nào. Dù sao tiếng động cũng ngày càng lớn, mau mau ba chân bốn cẳng mà chạy thôi.

Trong lúc hỗn loạn, tôi nghe tiếng Bàn Tử gọi với lại từ một hướng khác: “Tại sao lại không thắp? Thắp cái này lên tạm thời sẽ dụ được con trùng bự kia một lát, không thắp để nó lao thẳng vào chúng ta hở? Nó rõ lắm chân, chúng ta đua không lại với nó đâu.”

Hoa hòa thượng đáp: “Không được! Tôi vừa ngửi thứ dầu thắp đèn kia, trong dầu có Trùng hương ngọc. Mùi đó mà phát tán đi, càng nhiều…. cái loại này leo ra, đến lúc đó càng phiền toái.” Hắn thoáng dừng lại một chốc, hiển nhiên không biết phải gọi loại du diên khổng lồ này là gì.

Tôi nghe hắn nói khả năng không chỉ có một con, trong lòng lập tức kinh hoảng, vừa nhằm hướng pháo lạnh của Hoa hòa thượng mà chạy trối chết, vừa gào lên: “Chúng ta xử lí sao với con này đây?”

Hoa hòa thượng đáp: “Cứ chạy đến nơi rồi tôi khắc có cách. Coi chừng đằng sau đó, giống trùng này bò nhanh lắm đấy.”

Tôi nhanh chóng nương theo ánh pháo lạnh chạy bổ tới bên cạnh Hoa hòa thượng. Thoáng cái bốn phía xuất hiện nhiều vệt đèn pin loang loáng, có mấy người từ trong bóng tối vọt ra. Chúng tôi chạy hụt cả hơi, chẳng thốt ra nổi lời nào. Bàn Tử đè tay lên ngực, vừa nhìn nhìn bóng tối vây quanh, vừa hỏi Hoa hòa thượng: “Được rồi, đã tới nơi, có cách gì thì nói mau đi! Thứ kia đuổi đến đít rồi.”

Nói xong liền nghe thấy tiếng chân bò khiến người ta co rúm kia vang lên từ một hướng, nhưng rồi thứ tiếng kia nhanh chóng biến mất, hình như con trùng bự này cũng không đuổi tới, mà đã ngừng lại rồi.

Hoa hòa thượng cũng thở hồng hộc, vừa ho khan vừa vỗ vỗ vào ba lô, trình bày: “Thực ra cũng không phải cách gì đặc biệt. Chúng ta còn thuốc nổ, cho nó nổ chết luôn.”

Bàn Tử nghe xong cười lạc cả giọng, nói: “Vậy cũng tốt, nhiệm vụ vẻ vang này phải nhờ cậy anh thôi. Anh cứ đi đi, tôi sẽ chăm sóc giùm ông cụ ở nhà.”

Hoa hòa thượng đáp: “Tôi không cần phải đi, đã sắp xếp xong rồi, tự nhiên sẽ có người làm.”

Tôi bỗng nhiên cảm giác trên mặt anh ta thấp thoáng một tia lạnh lẽo, đồng thời cũng hiểu ra điều gì đó, bèn ngoảnh lại, biến sắc hỏi: “Lang Phong đâu?”

Hoa hòa thượng không nói câu nào, chỉ nhìn về bóng tối phía bên kia, nói: “Chuẩn bị cho tốt. Sắp tới lúc rồi.”

Lời còn chưa dứt, một tiếng “Ầm” thật lớn thình lình vang lên, bóng tối bên kia bỗng bùng lên một quầng lửa chói mắt. Theo phản xạ, cả đám chúng tôi bổ nhào xuống nằm rạp trên đất, lập tức có vô số vụn gỗ trút xuống như mưa trên đầu, cả mặt sàn rung lắc dữ đội, ván gỗ bắn lên suýt nữa đập vào mũi tôi. Sức ép của vụ nổ không lớn, nhưng tiếng nổ rất rền, chấn động đến nỗi màng nhĩ tôi ong ong cả lên, nhất thời không nghe rõ gì cả.

Tôi ngẩng đầu nhìn về hướng vụ nổ, chỉ thấy sàn đã bị phá ra một cái hố to, miệng hố cháy xém. Con “rồng du diên nghìn chân” đã nát bét phần đầu, thân vẫn không ngừng quằn quại, mà chỗ bị nổ tung, dĩ nhiên là nơi ban nãy chúng tôi đặt Lang Phong.

Tôi lập tức hiểu ra Hoa hòa thượng đã làm gì. Chẳng trách hồi nãy con “rồng du diên nghìn chân” kia không đuổi tới chỗ chúng tôi, thì ra nó đã bị Lang Phong đang bất tỉnh ở đằng kia hấp dẫn, mà Hoa hòa thượng lại cài thuốc nổ lên người hắn…

Tôi thực sự không dám tin vào mắt mình, ngoảnh đầu lại nhìn Hoa hòa thượng và Trần Bì A Tứ. Mấy người này đều không tỏ thái độ gì, cứ như chuyện này không hề liên quan đến mình.

Trần Bì A Tứ nhận thấy vẻ mặt của tôi, bèn vỗ vỗ tôi, nhẹ giọng bảo ban: “Trước ba sau bốn, ông nội ngươi không dạy ngươi sao? Nếu đổi lại là ta, bọn họ cũng sẽ làm vậy với ta thôi. Đã làm cái nghề này, tự nhiên phải giác ngộ được điều này.”

Trước ba sau bốn là tiếng lóng trong giới thổ phu tử. Ý là đụng chuyện gì, trước khi làm phải cân nhắc ba bước, sau khi làm phải cân nhắc bốn bước. Thổ phu tử trong lòng đất, mỗi hành động đều liên quan đến tính mạng, cho nên trước khi làm bất cứ chuyện gì anh đều phải cân nhắc đến chuyện sẽ phát sinh sau ba bước và cách xử lý cần thiết. Nếu cảm thấy mình không có cách giải quyết thì chuyện này anh không thể làm, hơn nữa những suy tính như vậy phải được tập thành thói quen.

Mục đích của Trần Bì A Tứ khi nói những lời này, tôi cũng hiểu rõ. Kỳ thực tình trạng của Lang Phong đã như vậy, cơ hội theo chúng tôi sống sót ra ngoài đã là cực kỳ xa vời rồi. Ý ông ta muốn nói là sớm muộn gì cũng chết, chi bằng cho hắn chết thoải mái một chút.

Ông nội tôi đã từng nói trong quyển bút ký của mình, ở dưới lòng đất có những khi chờ anh ý thức được nguy hiểm thì đã muộn, cho nên khi nguy hiểm còn chưa phát sinh anh đã phải nghĩ đến nó. Trộm mộ là công việc tỉ mẩn, lại cần có gan, xưa nay không biết đã có bao nhiêu kẻ đầu óc nửa vời nóng máu xông xuống cổ mộ, trực tiếp biến mình thành đồ bồi táng rồi.

Nói thì nói thế, nhưng cái chết của Lang Phong thật sự là quá oan uổng, bỗng chốc làm tôi nảy sinh cảm giác ngay cả đứng bên Trần Bì A Tứ cũng không hết sợ hãi.

Chỉ tiếc lúc này tôi cũng không có cách nào bày tỏ nỗi lòng mình, đành hít sâu một hơi, cố gắng giả bộ như chưa có chuyện gì xảy ra.

Ánh lửa phía trước dần dần lụi đi. Cọc gỗ ván sàn ở đây đều đã đóng băng nhiều năm, trong khe kẽ toàn là những hòn băng do hơi nước trong không khí kết thành, càng đốt càng chảy nhiều, càng chảy nhiều lại càng khó bắt lửa.

Mấy người chúng tôi bước về phía cái hố bị phá ra trên sàn. Bước chân tôi nặng trĩu như đeo đá, rất sợ mình đột ngột nhìn thấy mảnh chân tay gì đó của Lang Phong. Bàn Tử và Phan Tử lại không có phản ứng gì lớn, hình như đã quá quen với những chuyện thế này rồi, hoặc cũng có thể bọn họ cho rằng biểu lộ sự buồn bực ra ngoài chỉ là vô ích. Bàn Tử thấy tôi có vẻ không cách nào nguôi ngoai, còn vỗ vỗ tôi, bảo khẽ: “Thôi được rồi, dù sao cũng là người của bọn họ, không chừng trên tay còn mang nợ máu, làm chuyện ác sớm muộn cũng phải trả giá.”

Thuận Tử vẫn không rõ đã xảy ra chuyện gì, gần như đã bị dọa cho ngây người ra, ngơ ngác đi theo chúng tôi.

Đến chỗ cái lỗ bị phá ra trên sàn, chiếu đèn pin xuống mặt dưới một cái, gạch đá dưới mặt sàn bằng gỗ bị nổ tung thành một cái hố to, dưới đất dùng đá tảng màu đen làm hành lang gia cố, cũng bị thổi bay mất lộ ra một khe hở, bên dưới trống không.

Tôi biết rõ bên dưới là nơi nào, vì tòa linh cung này được xây dựng một phần trên sườn dốc nhưng sàn lại nằm ngang, phía dưới đảm bảo sẽ phải có một khoảng không gian hình tam giác dùng xà chống đỡ; tất cả các công trình xây dựng trên sườn dốc hay trên vách núi, ví dụ như cung điện Potala (nơi Đạt Lai Lạt Ma vốn phải ở, nằm tại thủ đô Lhasa của Tây Tạng), đều có kết cấu này.

Trong khe có gió lạnh thổi ra, hiển nhiên nó thông ra bên ngoài. Tôi ngẫm nghĩ một lát, khoảng không hình tam giác phía dưới bốn phía cũng dùng tường vữa trắng vây quanh, không biết tình hình dưới đó thế nào, nhưng đã có gió thổi thì chỗ này hẳn là thoát ra ngoài được.

Trong này rõ ràng có vấn đề, trên mặt đất lại rải đầy du diên. Nếu cứ cố đấm ăn xôi đi ra từ cửa chính, chỉ e càng đi sẽ càng thêm nguy hiểm. Đúng lúc này lại phá ra một cái hố, vừa hay có thể giúp chúng tôi thoát thân.

Bàn Tử nhảy vào cái hố vừa bị phá ra, không gian dưới mặt đất vẫn không đủ cho một người lách qua, phải đào rộng ra mới được. Hoa hòa thượng cũng nhảy vào giúp, Bàn Tử bèn hỏi tôi đào xuống dưới thế này có sao không?

Tôi bảo bọn họ không được làm ẩu. Hành lang đá mùa đông vốn đông cứng đến giòn ra, ban nãy nổ tanh bành như thế đảm bảo đã phá hủy hoàn toàn kết cấu chịu lực bên dưới. Bên dưới cũng không biết cao bao nhiêu, ngộ nhỡ nó thình lình sụp xuống thì không phải chỉ một hai người dính trấu, mà rất có thể sẽ khiến toàn bộ mặt đất quanh đây lõm xuống, đến lúc đó linh cung sẽ trở thành mồ mả vùi lấp chúng tôi.

Vì vậy Bàn Tử và Hoa hòa thượng buộc dây thừng vào eo, đầu kia thắt vào một cái cột cực lớn. Cả đám chúng tôi đều buộc người vào sợi dây thừng đó, như vậy lỡ sụp xuống còn có thể tiếp cứu lẫn nhau.

Chuẩn bị xong xuôi, Bàn Tử bắt đầu lấy búa nện xuống mặt đá, không ngờ mới đập một cái đã nghe tiếng “răng rắc” đột ngột vọng lên từ dưới chân, một cây xà nhà to bằng miệng bát ăn cơm bên dưới bị hắn dẫm gãy, nháy mắt đã kẹp chân hắn lại, thẳng tới gần đùi.

Tôi lại càng hoảng, còn tưởng rằng nói sập là sập luôn, may sao chỉ bị chôn một chân bên dưới. Bàn Tử chửi thề một câu cực kỳ khó nghe, định kéo chân ra, nhưng giật cả buổi mà cái chân bị kẹp đến đầu gối kéo thế nào cũng không ra. Bản thân Bàn Tử cũng thấy hơi quái, đột nhiên mặt mũi biến sắc, hét lớn: “Không xong, có cái gì đang kéo chân tôi!” Nói rồi người liền tụt xuống dưới.

Hoa hòa thượng vội vàng giữ chặt hai cánh tay hắn, ra sức kéo lên trên. Những người khác cũng đồng loạt tới hỗ trợ, kéo chân hắn ra, nhưng lại không sao kéo được hắn lên khỏi miệng hố, hình như phía dưới có thứ gì đó thật sự đang níu lấy hắn.

Diệp Thành bật đèn pin chiếu xuống dưới, mọi người lập tức rùng mình. Chỉ thấy từ cái động do Bàn Tử giẫm sập trên hành lang đá có một cái tay bầm tím thò ra, bấu chặt lấy cổ chân hắn.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top