Cập nhật mới

Dịch Full Cáo Sa Mạc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Cáo Sa Mạc

Cáo Sa Mạc
Tác giả: Mary Higgins Clark
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tác giả: Mary Higgins Clark

Thể loại: Kinh Dị, Ngôn Tình, Phương Tây, Trinh Thám

Giới thiệu:

Cậu bé Ronald Thompson bị tình nghi là thủ phạm gϊếŧ chết 3 người phụ nữ, trong đó có Nina – vợ của Peterson, tổng biên tập một tờ báo.
Việc Thompson có phải chịu tử hình bằng ghế điện hay không trở thành vấn đề tranh cãi giữa Peterson và Sharon Martin, người yêu mới của anh – cũng là một nhà báo. Mọi chuyện đang căng thẳng thì Sharon và Neil, con trai của Peterson và người vợ cũ, bị bắt cóc. Kẻ bắt cóc đòi 82 ngàn đô la, và sẽ thả hai con tin vào đúng giờ Thompson bị tử hình. 11h30 ngày thứ tư, nghĩa là còn 2 ngày kể từ khi hắn bắt cóc họ.
Một cuộc chạy đua giữa cái thiện và cái ác, vừa nghĩ cách cứu 2 con tin, vừa giải quyết một vấn đề mới: Thompson có thể vô tội, nhưng làm sao để ngừng lại án tử hình?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Hắn ngồi bất động trước máy truyền hình trong phòng 932 của khách sạn Biltmore. Chiếc đồng hồ báo thức reo vang lúc 6 giờ, nhưng hắn đã dậy từ lâu rồi. Chính làn gió thổi mạnh làm lay động các tấm cửa kính đã đánh thức hắn, lôi hắn ra khỏi giấc ngủ chập chờn.

Đã bắt đầu bản tin thời sự buổi sáng, nhưng hắn không vặn to âm thanh. Hắn không quan tâm đến tin tức, mà cũng chẳng để ý đến chương trình quan trọng khác. Hắn chỉ cần xem phần phỏng vấn thôi.

Hắn ngồi trên chiếc ghế cứng, bồn chồn hết tréo chân lại với nhau rồi lại duỗi ra. Hắn đã tắm rửa, cạo râu và mặc bộ áo quần bằng vải téc gan màu xanh, bộ áo quần mà hắn mặc khi đến khách sạn vào tối qua. Cứ nghĩ đến ngày trọng đại đang bắt đầu, tay hắn run run khi cạo râu, khiến lưỡi dao đã làm rách môi hắn. Chỗ rách vẫn còn rỉ máu, mùi máu mằn mặn trong miệng làm cho hắn buồn nôn.

Hắn rất ghê tởm máu.

Tối hôm qua, khi bước vào phòng tiếp khách của khách sạn, hắn cảm thấy người tiếp tân liếc mắt nhìn vào áo quần của hắn. Hắn đã cố tình đặt chiếc áo khoác trên tay để trông có vẻ bảnh bao hơn. Bộ quần áo hắn mặc còn mới, hắn phải dành dụm khá lâu mới may được. Thế nhưng anh chàng tiếp viên khách sạn vẫn xem hắn là loại dân nghèo anh ta hỏi hắn đã giữ phòng trước ở khách sạn chưa.

Hắn chưa bao giờ ở khách sạn, nhưng hắn biết rõ cách thức khi vào thuê phòng, hắn trả lời bằng giọng cộc lốc:

- Rồi, tôi đã báo giữ phòng rồi. - Anh chàng tiếp viên có vẻ ngần ngừ, sau khi nghe hắn cho biết hắn không có thẻ tín dụng và trả bằng tiền mặt, nụ cười châm biếm trên môi anh ta mới biến mất. Hắn nói:

- Tôi sẽ trả phòng vào sáng thứ Tư.

Giá phòng trong ba đêm mất hết một trăm bốn mươi đô-la, hắn chỉ còn lại ba mươi đô-la. Cũng vừa đủ chi tiêu trong mấy ngày, vì chắc chắn đến thứ tư hắn sẽ có tám mươi hai ngàn đô-la.

Khuôn mặt người thiếu phụ hiện ra chập chờn trước mắt hắn. Hắn nháy mắt để xua đuổi hình ảnh ấy đi, hình ảnh đôi mắt mở to sáng quắc cứ theo dõi hắn khắp nơi, dòm ngó hắn mãi không thôi.

Hắn thích uống thêm một tách cà phê nữa, mới sáng tinh mơ, hắn đã gọi bồi phòng, yêu cầu anh ta làm theo lời dặn dò của hắn. Người ta đã mang cà phê đến cho hắn. Cà phê còn một ít, nhưng hắn đã rửa tách đĩa, ly nước cam và súc bình cà phê, để khay trên nền nhà ngoài hành lang.

Mục quảng cáo trên tivi đã hết, hắn bỗng chồm người tới gần máy chú ý nhìn. Mục phỏng vấn bắt đầu, hắn quay nút âm thanh về phía phải.

Khuôn mặt quen thuộc của người thực hiện mục phỏng vấn Tom Brokaw hiện ra trên màn hình, bằng giọng trầm, rõ ràng, anh ta nói:

- Việc phục hồi án tử hình đã trở thành vấn đề nóng bỏng, gây nhiều tranh luận cho cả nước kể từ khi xảy ra chiến tranh ở Việt Nam. Đúng 52 giờ nữa, vào lúc 11 giờ 30 ngày 24 tháng Ba, sẽ diễn ra vụ hành quyết thứ 6 trong năm nay, tội nhân là Ronald Thompson, 19 tuổi, sẽ lên ghế điện. - Và đây là khách mời của chúng tôi...

Máy Camera quay qua hai nhân vật ngồi hai bên Tom Brokaw. Người đàn ông ngồi bên phải khoảng ngoài 30 tuổi, mái tóc màu xám tro đậm, hơi lòa xòa trước trán. Hai bàn tay đâu lại với nhau, mấy ngón tay xòe ra chỉa lên trên. Anh tựa cằm lên đầu mấy ngón tay, cặp lông mày rậm uốn cong trên đôi mắt xanh, khiến người ta nghĩ anh đang cầu nguyện.

Phía bên kia là một thiếu nữ, cô ngồi thẳng người trên ghế, búi tóc màu vàng mật sau gáy. Cô bặm chặt hai bàn tay để trên đầu gối, liếm ướt môi, và đưa tay hất mấy sợi tóc rơi trước trán.

Tom Brokaw nói:

- Vào lần xuất hiện trên màn hình trước đây, hai vị khách được mời của chúng ta đã trình bày rõ ràng quan điểm của họ về án tử hình rồi. Nhà báo Sharon Martin đồng thời cũng là tác giả cuốn sách bán chạy nhất: Trọng án tử hình. Còn Steve Peterson - chủ bút tạp chí Biến cố, là nhân vật được giới truyền thông đại chúng mến chuộng, ủng hộ việc thiết lập lại án tử hình trong nước.

Giọng anh rất sinh động, anh quay qua phía Steve:

- Thưa ông Peterson, xin phép được biết ý kiến ông trước. Sau khi đã thăm dò dư luận quần chúng về những vụ hành quyết vừa qua, ông có nghĩ rằng quan điểm của ông được mọi người ủng hộ không?

Steve nghiêng người tới trước, anh đáp, giọng rất bình tĩnh:

- Tôi hoàn toàn nghĩ thế.

Người dẫn chương trình quay qua vị khách kia:

- Còn cô, thưa cô Sharon Martin, ý kiến của cô ra sao?

Sharon từ từ quay mặt qua nhìn người hỏi, trông cô có vẻ mệt mỏi, suốt tháng vừa qua, cô làm việc mỗi ngày 20 giờ liền. Cô tiếp xúc với những nhân vật quan trọng - thượng nghị sĩ, dân biểu quốc hội, quan tòa, các nhân vật chủ chốt của các tổ chức từ thiện. Tổ chức nhữnng buổi hội thảo tại các trường đại học, ở các hội phụ nữ, thúc đẩy họ viết thư hay gởi điện tin đến chính quyền bang Connecticut để phản đối việc hành quyết Ronald Thompson. Cô đã gặt gái được nhiều kết quả khả quan, cô tin rằng thế nào chính quyền cũng xét lại quyết định của mình. Cô đang lựa lời để nói.

- Tôi nghĩ và tin rằng đất nước chúng ta đã đi thụt lùi vào thời trung cổ. - Cô cầm chồng báo bên cạnh đưa lên cao - Xin quý vị xem các hàng tít lớn trên báo chí sáng nay thì biết. Xin quý vị cứ phân tích cho kỹ thì biết! Rất khát máu! - Cô lật nhanh chồng báo vừa nói - Tờ này... cho rằng "Chính quyền Connecticut quyết dùng ghế điện", tờ kia thì "Mười tám tuổi phải chết vào thứ Tư", còn tờ này thì "Tên sát nhân không ngớt kêu oan". Tất cả các bài báo đều giống nhau, đều giật gân, bạo động. - Cô bặm môi lại.

Steve liếc mắt nhìn cô, hai người vừa được tin chính quyền từ chối không cho hoãn thi hành án tử hình của Thompson. Tin này làm cho Sharon đau đớn vô cùng. Nghe tin này mà cô không ngã bệnh thì cũng lạ thật. Đáng ra họ không nên đến dự buổi phát sóng hôm nay mới phải, quyết định của chính quyền đã làm cho sự hiện diện của Sharon trở thành vô ích, và chỉ có Chúa mới biết Steve có thích đến dự hay không. Thế nhưng chắc anh phải có ý kiến gì đấy.

- Tôi nghĩ rằng tất cả những người thành thật đều xót xa trước quyết định cương quyết phải áp dụng mức án tử hình - Anh nói - Nhưng xin quý vị đừng quên rằng không bao giờ người ta ra quyết định mà không xem xét kỹ lưỡng các trường hợp giảm khinh. Không có bản án tử hình nào "hoàn toàn vô cớ".

Brokaw bình tĩnh hỏi:

- Cô phải ông tin rằng trường hợp của Ronald Thompson đã được xem xét kỹ lưỡng vì hắn đã 17 tuổi khi phạm tội gϊếŧ người, nên không thể giao cho các tòa án trẻ con chứ gì?

Steve đáp:

- Đó là theo ý nghĩ của ông, còn tôi thì tôi không bàn gì về trường hợp của Thompson nữa, trường hợp này đã hoàn toàn dứt điểm rồi.

- Tôi hiểu nỗi khổ đau của ông, ông Peterson à, - Người dẫn chương trình nói - nhưng ông đã có quan điểm này nhiều năm... - Anh ta dừng lại một lát mới nói tiếp bằng giọng rất thản nhiên - Trước khi Ronald Thompson gϊếŧ vợ ông.

"Trước khi Ronald Thompson gϊếŧ vợ ông", câu nói ấy vẫn còn làm cho Steve khϊếp hãi. Sau hai năm rưỡi, mỗi khi nhắc đến cái chết của Nina là anh vẫn còn cảm thấy kinh hoàng, vì cái chết của vợ anh quá tàn nhẫn, chị đã bị một kẻ lạ mặt vào nhà, choàng chiếc khăn quàng quanh cổ dùng tay xiết mạnh làm cho chị ngộp thở đến chết.

Cố xua đuổi hình ảnh rùng rợn ấy ra khỏi tâm trí, anh nhìn thẳng phía trước, nói:

- Trước đây có một thời gian tôi hy vọng sẽ xóa bỏ hoàn toàn án tử hình trên đất nước chúng ta. Nhưng, như quý vị đã thấy đấy, ngay trước khi gia đình tôi gặp cảnh bi thảm, tôi đã chủ trương rằng nếu chúng ta muốn bảo vệ được quyền cơ bản nhất của con người... quyền tự do đi lại mà không lo sợ gì, quyền được sống tự do yên ổn trong nhà mình, thì chúng ta phải chặn đứng những kẻ bạo hành. Khốn thay, chúng ta chỉ có một cách duy nhất để chặn đứng hữu hiệu những kẻ sát nhân thôi: đó là phải mạnh tay đối xử với chúng như chúng đã đối xử với các nạn nhân. Nhờ vụ hành quyết đầu tiên cách nay hai năm mà số trường hợp gϊếŧ người đã giảm đáng kể trong các thành phố lớn trên đất nước chúng ta.

Sharon nghiêng người tới trước, thốt lên:

- Anh nói thế là quá máy móc. Anh có biết hầu hết 45% những vụ gϊếŧ người đều do các thanh niên chưa đầy 25 tuổi gây nên, mà phần lớn đã sống trong những gia đình tệ hại, đau khổ trước cảnh bố mẹ chia tay nhau không?

Vị khán giả cô đơn trong phòng 932 ở khách sạn Biltmore rời mắt khỏi Steve Peterson để nhìn sang người thiếu nữ. Chính cô ta đấy, là nhà văn mà người ta thấy cặp kè với Steve khắp nơi. Cô ta không giống vợ anh ấy, cô ta cao lớn hơn, thân hình mảnh khảnh, rắn rỏi như một vận động viên. Còn vợ của Steve thì lại nhỏ con, chị có bộ n9ực tròn trịa, mái tóc đen huyền uốn cong xõa xuống trán rất gợi cảm.

Cặp mắt của Sharon Martin nhắc hắn nhớ đến màu xanh của nước biển vào hôm hắn đi chơi biển mùa hè năm ngoái. Hắn nghe người ta nói đến bãi Jones Beach, nơi lý tưởng để gặp gỡ con gái, nhưng đối với hắn, chuyện này chẳng đi đến đâu. Cô gái hắn định ve vãn dưới nước ở đấy đã gọi "Bob", và thế là chỉ một phút sau, hắn thấy xuất hiện một anh chàng tiến đến hỏi hắn muốn làm trò gì. Hắn đành lên bãi, trải khăn lên cát, nằm nhìn ra đại dương. Màu nước biển xanh ngắt, màu xanh lung linh óng ánh. Hắn thích những đôi mắt có màu xanh nước biển như thế này.

Steve đã nói gì nhỉ? A! phải rồi, anh xót thương nạn nhân chứ không thương bọn gϊếŧ người, anh thương "những người không có phương tiện để tự vệ".

- Tôi cũng rất thương xót cho họ, - Cô đáp - nhưng không phân biệt người này hay người nọ. Anh nghĩ rằng những kẻ như Ronald Thompson lãnh bản án tù chung thân là đủ rồi hay sao? - Cô quên Tom Brokaw, quên máy quay phim đang chĩa vào mình, một lần nữa cô cố để thắng Steve - Tại sao anh có thể... anh là người rất nhân đức... là người đóng góp cho đời nhiều thành quả giá trị... lại muốn đóng vai Thượng đế? Tại sao có người cứ muốn đóng vai Thượng đế nhỉ?

Họ trở lại vấn đề tranh cãi như lần trước cách nay đã sáu tháng, lần ấy hai người đã gặp nhau ở đây, cũng để tham dự một buổi phát sóng như thế này. Cuối cùng, Tom Brokaw lên tiếng.

- Thời gian phát sóng của chúng ta đã hết, chúng ta có thể kết luận rằng, mặc dù các tội nhân đã nổi loạn phản đối trong các nhà tù, mặc dù sinh viên ở khắp nước đã biểu tình chống đối, nhưng, thưa ông Peterson, ông vẫn cương quyết giữ nguyên lập trường cho rằng những kẻ gϊếŧ người thì phải mang án tử hình?

- Tôi tin rằng vì nhiệm vụ cao cả đối với xã hội mà chính quyền có bổn phận phải che chở cho mọi người, bảo vệ quyền tự do thiêng liêng của cư dân trong xã hội. - Steve đáp.

- Còn cô, thưa cô Sharon Martin? - Brokaw quay qua hỏi cô.

- Tôi tin án tử hình là điều vô lý, không xứng đáng cho người trong xã hội văn minh. Tôi nghĩ là chúng ta nên có biện pháp ngăn ngừa xảy ra tội phạm, để bảo vệ an ninh cho gia đình và xã hội thì hơn. Chúng ta chỉ dùng hình phạt buộc họ lao động, lập ra những trung tâm lao động dành cho những kẻ phạm pháp, trả lương cho nhân viên canh giữ là được. Tôi tin là chúng ta nên làm thế để tôn trọng giá trị của cuộc sống đối với cá nhân như đối với xã hội.

Tom Brokaw vội vã kết luận:

- Thưa cô Sharon Martin, thưa ông Steve Peterson, xin cám ơn quý vị đã tham dự buổi truyền hình này. Hy vọng chúng ta sẽ có buổi phát sóng nữa trong những kỳ tới.

Máy truyền hình trong phòng 932 của khách sạn Biltmore tắt. Gã đàn ông vạm vỡ mặc áo quần kẻ ô vuông màu xanh ngồi yên trên ghế một hồi, mắt vẫn nhìn vào màn hình tối đen. Một lần nữa, hắn nghĩ đến kế hoạch hành động của hắn: trước hết là phải đem những tấm ảnh và cái va-li vào trong căn phòng bí mật ở Nhà Ga lớn Trung tâm 1, rồi sau đó sẽ dẫn Neil - đứa con trai của Steve Peterson - đến đó vào tối nay. Nhưng trước hết có một việc phải quyết định dứt khoát. Chiều nay, Sharon Martin sẽ có mặt ở nhà Steve. Cô có nhiệm vụ canh chừng Neil cho đến khi bố nó về nhà.

Hắn đã tính đến chuyện gϊếŧ cô ấy.

Nhưng có nên gϊếŧ cô ta không? Cô ta đẹp đấy.

Hắn nhớ lại đôi mắt của cô, đôi mắt màu xanh nước biển, bối rối, dịu dàng.

Hắn cảm thấy khi cô nhìn thẳng vào máy Camera, trông như cô đang nhìn hắn.

Trông như cô mời gọi hắn.

Có thể cô ta sẽ yêu hắn lắm chứ?

Nếu cô ta không yêu hắn, thì việc thanh toán cô ta cũng dễ thôi.

Hắn cứ nhốt cô ta vào căn phòng bí mật ở Nhà ga với thằng bé cho đến sáng thứ Tư là hay hơn hết.

Đến mười một giờ ba mươi hôm ấy khi quả bom nổ tung, Sharon Martin sẽ biến mất luôn, hắn sẽ khỏi lo sợ cái gì nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Hai người ra khỏi phòng quay, đi cách nhau vài bước. Chiếc áo khoác bằng tuýt của Sharon đè nặng lên hai vai cô. Chân tay cô lạnh buốt, cô đã tháo găng tay ra và nhận thấy chiếc nhẫn cũ có mặt đá quý mà Steve đã tặng cô vào dịp Nôen làm bẩn ngón tay cô. Da của cô thuộc loại có nồng độ a-xít cao, không chịu được khi đeo vàng.

Steve bước nhanh đến mở cửa, họ đi ra ngoài trời sáng sớm ảm đạm. Trời rất lạnh, tuyết rơi dày đặc, từng lọn tuyết lạnh ngắt bay vào mặt họ, anh nói:

- Để anh gọi tắc-xi cho em.

- Thôi, em thích đi bộ.

- Em điên à, em có vẻ mệt rồi đấy.

- Đi bộ ngoài trời lạnh làm cho em minh mẫn trí óc hơn. Ôi! Steve, sao anh có thể chủ quan quá... tự tin quá... quyết đoán quá như thế.

- Thôi em yêu, đừng nói đến chuyện này nữa.

- Chúng ta phải nói đến chứ! - Sharon lạnh lùng đáp lại.

- Bây giờ thì không nên. - Steve nhìn cô, vừa nhẫn nại vừa bình tĩnh. Cặp mắt của Sharon sáng long lanh, ửng lên những tia đỏ, son phấn hóa trang để lên truyền hình không che được vẻ nhợt nhạt vì băng giá trên hai má và trên trán cô.

- Em cần về nhà để nghỉ ngơi.

- Em phải giao bài vở đã.

- Nhưng em phải cố nghỉ ngơi đi vài giờ, em ghé nhà anh khoảng 6 giờ kém 15 được chứ?

- Steve, em không biết.

- Em à, đã ba tuần nay chúng ta không gặp nhau. Vợ chồng Lufts sẽ đi ăn lễ, cho nên anh muốn tối nay anh sẽ ở nhà với em và Neil.

Bất chấp mọi người đang chen chúc nhau trong khu Trung tâm Rockefeller, Steve ôm chầm lấy Sharon, cô có vẻ buồn và bối rối. Anh nghiêm trang nói:

- Sharon, anh yêu em, em có biết mấy tuần vừa qua, anh nhớ em kinh khủng lắm không? Bây giờ phải nói chuyện về chúng ta mới được.

- Steve, chúng ta không đồng quan điểm. Chúng ta...

Anh cúi hôn cô, đôi môi cô lạnh ngắt. Anh cảm thấy cơ thể cô căng lên, anh thả cô ra và gọi tắc-xi. Khi chiếc tắc-xi đến đậu bên lề đường, anh mở cửa xe, đưa cho tài xế địa chỉ của tờ báo New Dispatch. Trước khi đóng cửa, anh hỏi:

- Tối nay em đến nhé?

Cô gật đầu không nói, Steve đợi cho chiếc xe rẽ vào Đại lộ 5 mới vội vàng bước đi theo hướng đông. Đêm qua, anh đã ngủ lại ở khách sạn Gothan vì anh phải có mặt ở phòng quay lúc 6 giờ 30, và anh muốn điện thoại nói chuyện với Neil trước khi cậu bé đi học. Mỗi lần anh vắng nhà là anh cảm thấy lo buồn. Neil vẫn còn nằm mơ thấy ác mộng, những cơn hen suyễn thường làm cậu bé thức giấc. Vợ chồng Lufts thường gọi mời bác sĩ đến, thế nhưng...

Mùa đông trôi qua thật khắc nghiệt và ẩm ướt, có lẽ đến mùa xuân, khi đi ra ngoài được, Neil mới có thể lấy lại sức khỏe. Lúc nào trông cậu bé cũng xanh xao, gầy gò.

Mùa xuân! Lạy Chúa, mùa xuân rồi đấy! Đêm nay là vào tiết xuân, mùa đông chính thức chấm dứt. Người phụ trách phần dự báo thời tiết có nêu điểm này lên không nhỉ?

Đến đầu đường, Steve quay sang hướng Bắc, anh bỗng nhớ đến lần gặp Sharon lần đầu cách đây 6 tháng. Khi anh đến tìm cô tại nhà vào tối đầu tiên, cô đã muốn đi qua công viên trung tâm để đến nhà hàng ăn uống "Tavern On The Green". Anh đã báo cho cô biết trời hơi lạnh, bắt đầu vào thu rồi.

- Tuyệt quá! - Cô thốt lên - Em đã bắt đầu ngán mùa hè rồi. - Trong những bước đầu tiên, hai người im lặng. Anh ngắm dáng đi của cô, cố đi cho hợp với bước đi, dáng dấp mảnh mai thon thả trong bộ đồng phục ôm lấy eo, màu vải cùng với màu tóc. Anh nhớ khi ấy trời có gió se lạnh làm rơi những chiếc lá đầu tiên trên cây và mặt trời lặn chiếu ánh sáng yếu ớt làm tăng thêm màu xanh thẩm của trời thu.

Cô đã nói với anh:

- Vào một đêm như thế này, em thường nghĩ đến vở nhạc kịch Camelot. Chắc anh biết vở này rồi, Giá mà anh chẳng bao giờ xa em - Cô ngân nga hát nho nhỏ: "Em không biết sao lại đi dưới trời thu. Ngay khi mùa thu chớm nở là em thấy rực rỡ. Quen anh vào mùa thu, em đi không dứt...". Giọng cô trầm trầm thật hay.

Giá mà anh chẳng bao giờ xa em...

Phải chăng anh đã yêu cô ngay từ giờ phút ấy?

Buổi tối thật tuyệt, sau khi ăn xong, họ nán lại để nói chuyện trong khi mọi người vào ra tấp nập chung quanh.

Họ nói chuyện gì nhỉ? Họ đã hỏi thăm nhau đủ thứ. Cha cô là kỹ sư làm việc trong một công ty dầu hỏa. Hai chị gái sinh ở nước ngoài, bây giờ họ đã có chồng.

Đáng lẽ anh phải hỏi cô:

- Tại sao cô thoát ra ngoài vòng phu thê ấy, sao cô không lấy chồng như hai chị của cô? - Điều đó có nghĩa là: Đã có ai trong đời cô chưa?

Nhưng chưa có một người nào bởi cô đã dành hết thời gian để nghiên cứu báo chí, rồi cuối cùng trở thành nhà viết xã luận. Cuộc sống này thật thú vị và vui sướng, thoắt một cái, bảy năm sau ngày ra trường đại học đã trôi qua khi nào không biết.

Họ đi bộ về nhà, đến ngã tư thứ hai, họ nắm tay nhau. Cô mời anh vào nhà uống ly cuối cùng, giọng cô hơi nhấn mạnh vào từ "ly cuối cùng".

Trong khi anh chuẩn bị đồ uống, cô đốt lửa trong lò sưởi, rồi hai người ngồi bên nhau cùng nhìn lửa cháy.

Steve nhớ mãi buổi tối hôm ấy, nhớ cảnh ánh lửa chiếu lên mái tóc vàng của cô, nhớ phần mặt bên phải nằm khuất trong bóng tối, nhớ nụ cười hiếm hoi xinh đẹp rạng rỡ. Anh muốn ôm cô vào lòng, nhưng mãi đến khi ra về, anh mới hôn nhẹ cô và hỏi:

- Thứ Bảy, nếu em rảnh...

- Thế thì anh sẽ gọi em vào buổi sáng.

Trên đường về nhà, anh nghĩ có lẽ nỗi cô độc trong mấy năm qua sắp biến mất. Giá mà em đừng bao giờ xa anh... Sharon, đừng xa anh.

Khi anh đi vào tòa nhà số 1347 ở Đại lộ Người Mỹ thì đã 8 giờ kém 15. Nhân viên của tờ Biến Cố không có thói quen đến sớm, các hành lang vắng hoe. Anh chào người gác tháng máy rồi đi vào văn phòng làm việc ở tầng 36 và gọi điện thoại về nhà.

Bà Lufts trả lời máy:

- Ô, Neil khỏe mạnh, cậu cấy đang ăn sáng, nói cho đúng thì đang gậm nhấm. Neil, ba cháu gọi đây.

Neil cầm máy.

- Chào ba, khi nào ba về nhà?

- Tám giờ rưỡi, chiều nay ba bận họp lúc 5 giờ. Vợ chồng bác Lufts sẽ đi xem xi nê như mọi khi phải không?

- Dạ, chắc thế.

- Cô Sharon sẽ đến nhà lúc 6 giờ để chăm nom con.

- Con biết, ba đã nói rồi. Giọng Neil thản nhiên.

- Tốt. Hãy ngoan cả ngày con nhé, và nhớ mặc cho ấm, trời lạnh lắm. Ở nhà đã có tuyết chưa?

- Chỉ mới lất phất thôi.

- Thôi nhé, hẹn gặp con tối nay.

- Chào ba.

Steve nhíu mày, anh nhớ lúc Neil còn bé, nó rất nhanh nhẩu và vui vẻ. Từ khi Nina qua đời, nó thay đổi hẳn, anh muốn Neil và Sharon thân thiện với nhau. Sharon đã cố gắng hết sức để phá tan bầu không khí lạnh nhạt giữa cô với Neil, nhưng nó không thay đổi chút nào, chắc là chưa đấy thôi.

Cứ đợi, sẽ đến lúc hai người thân thiện với nhau, Steve mỉm cười, quay ra cái bàn nhỏ sau bàn giầy của mình, lấy bài xã luận anh đã viết vào đêm trước.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Người khách trong căn phòng 932 rời khách sạn Biltmore lúc 9 giờ 30. Hắn ra Đường 44, rồi đi theo hướng Đông đến Đại lộ. Gió thổi mạnh hất tuyết vào khách bộ hành, họ co rúm người, kéo cao áo che kín cổ.

Thời tiết như thế này rất thích hợp cho hắn, vì sẽ không có ai quan tâm chú ý đến công việc của hắn.

Nơi đầu tiên hắn dừng lại là cửa hàng bán quần áo cũ nằm trên Đại lộ, sau Đường 34. Hắn đã đi bộ qua 14 khu phố, không thèm đi xe đò cứ cách vài phút là có một chuyến. Đi bộ là môn thể dục rất tốt, giúp người ta có cơ thể cân đối.

Cửa hàng trống vắng, chỉ một mình bà già bán hàng đang đọc tờ báo buổi sáng, dáng điệu bà ta trông rất thảm não. Thấy hắn đi vào, bà hỏi:

- Ông cần mua áo quần đẹp, phải không?

- Không, tôi vào xem thử ra sao? - Hắn nhìn thấy dãy áo khoác phụ nữ rồi bước đến gần. Hắn lục tìm trong số áo cũ, chọn lấy một chiếc áo khoác bằng len màu xám đậm, rất rộng, và hắn thấy khá dài. Hắn nghĩ thầm: trông Sharon Martin khá cao lớn đấy. Bên cạnh dãy áo cũ, là kệ bày bán khăn quàng. Hắn lấy chiếc khăn rất lớn có hình chữ nhật, đã phai màu bạc thếch.

Bà già lục trong cái ví bằng nhựa dẻo để tìm tiền lẻ thối cho hắn.

Bên cạnh cửa hàng áo quần cũ này là cửa hàng bán đồ thặng dư nhà binh. Hắn bước sang bên, đến kệ bán đồ dùng đi cắm trại, mua một cái túi hải quân thật lớn bằng vải dày. Hắn lựa thật kỹ để cái túi lớn có thể đựng gọn thằng bé ở trong, và vải dày để người ta không thể đoán được hắn đựng gì bên trong, đồng thời cái túi cũng phải đủ rộng để có đủ không khí khi hắn thắt sợi dây buộc miệng lại.

Hắn vào siêu thị ở Đại lộ, mua sáu vuông vải rộng và hai cuộn dây. Hắn mang tất cả các thứ vừa mua về khách sạn Biltmore. Giường ngủ đã được dọn dẹp ngay ngắn, trong phòng tắm có hai chiếc khăn tắm sạch sẽ và thơm phức.

Hắn đưa mắt nhìn vào cái tủ trong tường, hắn biết chắc người nữ bồi phòng không đụng đến các đồ đạc của hắn ở đây: đôi giày vẫn giữ nguyên vị trí, chiếc này nằm quá chiếc kia một chút, cách chiếc va-li cũ màu đen để trong góc tủ khoảng hai ngón tay, chiếc va-li có khóa kép.

Hắn đóng cửa phòng khóa lại, rồi để các gói hàng lên giường. Với thái độ hết sức cẩn thận, hắn đem cái va-li trong tủ ra để trên giường, lấy chìa khóa trong ví, mở va-li ra.

Hắn kiểm tra tỉ mỉ các thứ đựng trong va-li: những tấm ảnh, bột thuốc nổ, dây điện, ngòi nổ, con dao săn và khẩu súng lục. Vẻ hài lòng, hắn đóng va-li lại.

Hắn mang va-li và cái túi nhựa ra khỏi phòng, lần này, hắn đi ra tiền sảnh ở tầng trệt khách sạn Biltmore, theo dãy thương xá dưới gầm để đến bậc trên của Ga lớn Trung tâm. Các chuyến tàu từ các vùng ngoại ô đến đã hết, nhưng trong ga vẫn còn nhiều người. Họ chen lấn nhau ở các chỗ tàu đến và đi, băng qua nhà ga để ra Đường 42 hay Đại lộ Park, nấn ná ở các nhà hàng trong dãy thương xá, tại các quầy bán vé đánh cá ngựa, tại các gian hàng ăn uống tự phục vụ và ở các sạp báo.

Hắn nhanh nhẹn đi xuống bậc dưới của nhà ga, đến ke tàu số 112, nơi đi và đến của các chuyện tàu từ Mount Vemon. Mười tám phút nữa mới có tin tàu đến, nên ke tàu vắng vẻ. Hắn liếc mắt nhìn quanh, không có người bảo vệ nào nhìn về phía hắn, hắn bước nhanh xuống các bậc tam cấp dẫn xuống ke tàu.

Ở cuối đường sắt, ke tàu quanh vòng có hình chữ u. Bên kia ke tàu, bờ dốc nghiêng dẫn đường xuống tận phần hầm sâu nằm dưới ga. Hắn đi quanh theo đường sắt, xuống bờ dốc nghiêng. Hắn đi nhanh nhẹn, lén lút. Tiếng ồn từ trên vọng xuống. Trên kia, hàng triệu người đi lại gây nên tiếng ì ầm, còn dưới này, máy phát điện nổ rầm rầm, quạt máy chạy ù ù, nước chảy róc rách trên mặt đất ẩm ướt. Những chú mèo hoang ốm nhom lặng lẽ lén lút đi trong đường hầm gần đấy, nằm dưới Đại lộ Park. Tiếng ầm ầm ở khu dường sắt tránh tàu và trở tàu vang lên liên tục, mỗi lần chạy là còi tàu lại rít lên.

Hắn đi xuống mãi cho đến tận chân một cầu thang bằng sắt, rồi cẩn thận bước lên. Thỉnh thoảng có người bảo vệ đến kiểm soát ở đây. Ánh sáng yếu ớt, nhưng người ta không thấy hắn.

Lên đến mặt phẳng hẹp ở đầu cầu thang, có cánh cửa sắt nặng. Hắn thận trọng để va-li và cái túi xách xuống mặt đất, mở ví lấy chìa khóa ra. Hắn nôn nóng tra chìa vào ổ khóa. Móc ổ khóa từ từ chạy, cánh cửa mở ra.

Bên trong tối đen, hắn mò mẫm tìm công tắc bật đèn, nhưng không để mất một giây, hắn cúi xuống kéo va-li và cái túi vào phòng. Cánh cửa đóng lại thật êm.

Căn phòng tối như bưng, nhưng hắn đoán được các thứ trong phòng nằm ở đâu, mùi ẩm mốc bốc lên khắp phòng. Hắn thở dài khoan khoái, thế là đã vào đây yên ổn, hắn lắng tai nghe, cố gắng lắm mới nghe được tiếng động nho nhỏ ở sân ga.

Tất cả hoàn toàn tốt đẹp.

Hắn bật điện, ánh sáng lờ mờ rọi khắp phòng. Ngọn đèn nê-ông đầy bụi chiếu sáng trần nhà và các bức tường lở lói, ánh sáng chiếu vào các góc phòng đầy bóng tối. Phòng có hình chữ L, tráng xi măng, các bức tường treo những bức tranh đã tróc sơn, xám xịt. Phía bên trái căn phòng có hai cái thùng rửa chén bát lớn cũ kỹ. Nước ở các vòi nước làm cho vách thùng rỉ sét thành những đường rãnh trông thật dơ bẩn. Ở giữa phòng, nhiều tấm ván không đều nhau, đâu lại thành hình một cái ống khói dùng làm máy chuyển bát đĩa. Ở cuối phòng, chỗ có hình chữ L, một cánh cửa mở he hé ở phía bên phải, đây là cửa mở vào nhà vệ sinh, rất dơ dáy.

Hắn biết đồ đạc trong phòng này còn xài được. Tuần trước hắn đã đến đây rồi, đến lần đầu tiên từ sau 20 năm. Hắn đã sửa sang lại đèn đuốc và ống dẫn nước. Khi hắn vạch kế hoạch này, có cái gì đó đã thúc đẩy hắn tìm đến đây và cũng có cái gì đó đã nhắc hắn nghĩ đến căn phòng này.

Một cái giường lính cũ ọp ẹp kê sát vào bức tường ở cuối phòng, và bên cạnh có cái giỏ đựng rau quả lật úp xuống nền nhà. Cái giường và cái giỏ làm cho hắn lo ngại. Chắc đã có người nào tìm ra căn phòng này và đã vào ở đây. Nhưng nhìn bụi bám đầy giường và mùi ẩm mốc hôi hám, hắn nghĩ nơi này hẳn không có ai ở, cửa đóng đã từ nhiều tháng rồi, có thể nhiều năm rồi cũng nên.

Hắn không đến đây từ khi lên 16 tuổi, thời gian đã quá nửa đời người của hắn. Căn phòng này trước được dùng cho quán Oyster Bar. Nó nằm ngay dưới nhà bếp của quán, cái máy chuyển bát đĩa cũ kỹ đã từng chuyển hàng đống bát đĩa dơ xuống đây để rửa trong hai cái thùng lớn này, rồi lau khô, và chuyển lên.

Nhà bếp của quán Oyster Bar đã được sửa chữa tại lâu rồi, đã trang bị máy rửa bát đĩa, cho nên họ không dùng căn phòng này nữa. Thế mà tốt. Còn ai muốn làm việc ở cái chỗ dơ dáy bẩn thỉu này?

Nhưng mà nó vẫn còn có ích.

Khi hắn tìm nơi sẽ giấu đứa con của Peterson để đòi tiền chuộc, hắn sực nhớ đến căn phòng này. Đến xem, hắn thấy căn phòng rất thích hợp cho kế hoạch của hắn. Vào thời hắn đang còn làm việc ở đây, hai bàn tay hắn phồng lên vì bột giặt, vì nước bẩn, và vì những nùi giẻ ẩm ướt. Trong khi đó, ở trong nhà ga, người đông đúc nhộn nhịp ăn mặc sang trọng đi xe hơi về những ngôi nhà lộng lẫy, hay ghé vào quán ăn tôm, sò, ba ba, cá nướng, chẳng ma nào thèm để ý đến hắn đang lau chùi mệt nhọc ở căn phòng chật chội, hôi hám này.

Hắn sẽ làm cho mọi người ở Ga lớn Trung tâm tại New York này biết mặt hắn, và cho "cả thế giới" này cũng phải biết tay hắn. Sau ngày thứ Tư, người ta sẽ không quên hắn được.

Đối với hắn, việc đi vào trong phòng này rất dễ, dùng sáp dẻo cho vào ổ khóa sét rỉ làm dấu, rồi dựa vào đấy, hắn rèn một cái chìa. Thế là bây giờ hắn vào ra như chơi.

Đêm nay, Sharon Martin và thằng bé sẽ ở đây với hắn, tại Ga lớn Trung tâm, nhà ga náo nhiệt nhất thế giới, nơi tuyệt nhất trên thế giới để giấu con tin.

Hắn phá ra cười, bây giờ hắn cười được rồi. Hắn cảm thấy minh mẫn, khỏe mạnh, sung sức. Những bức tường lở lói, cái giường ọp ẹp, nước rỉ róc rách và những tấm ván nứt nẻ đã kíƈɦ ŧɦíƈɦ hắn.

Ở đây, hắn là chủ, là người tổ chức, hắn đã tính toán tìm cách để có tiền. Hắn sẽ làm cho cặp mắt nhân chứng kia nhắm lại mãi mãi. Hắn không thể cứ tiếp tục nghĩ đến cặp mắt ấy, hắn không chịu đựng được. Cặp mắt thằng bé ấy đã trở thành mối nguy hiểm thực sự cho hắn.

Thứ Tư, sáng thứ Tư lúc 11 giờ 30, tính cho chính xác thì còn 48 giờ nữa. Hắn sẽ bay đi Arizona, ở đây không ai biết hắn hết. Hắn không còn được an toàn ở Carley nữa. Ở đây nhiều người hỏi han dòm ngó hắn quá rồi.

Còn ở bên đó, với số tiền ấy... cặp mắt thằng nhóc ấy không còn nữa... Và nếu Sharon yêu hắn, hắn sẽ mang cô ta đi theo luôn.

Hắn mang cái va-li đến trước chiếc giường lính ọp ẹp, cẩn thận đặt xuống nền nhà. Hắn mở va-li ra, lấy cái máy ghi âm và máy ảnh, rồi bỏ vào túi bên trái của chiếc áo khoác cũ màu nâu bạc thếch. Hắn bỏ con dao và khẩu súng vào túi bên phải. Lớp vải áo khoác dày cộm, khiến không ai thấy được hai cái túi phồng ra.

Hắn lấy cái túi xách nhựa, tuần tự lấy các thứ bên trong ra để lên giường. Cái áo măng-tô, khăn quàng, dây, băng keo và các dung vải. Hắn tộng hết vào túi xách hải quân. Rồi hắn lấy ra xấp ảnh khổng lồ được cuộn tròn lại rất cẩn thận, hắn tháo ra, trải rộng và vuốt thẳng từng tấm một. Hắn dừng lại nhìn vào các tấm ảnh. Hắn mỉm cười, vẻ mơ mộng, hai môi mỏng căng ra.

Hắn căng ba tấm ảnh lên tường phía trên chiếc giường, lấy băng keo dán bốn góc cho dính vào tường. Hắn ngắm nghía bức thứ tư rồi từ từ cuốn lại.

Chưa treo, hắn nghĩ.

Thời gian trôi qua chậm chạp, hắn thận trọng tắt đèn trước khi mở hé cánh cửa. Hắn lắng tai nghe, không có tiếng bước chân ai ở bên ngoài cả.

Hắn lách người ra ngoài, nhẹ nhàng đi xuống thang sắt, vội vã đi qua cái máy phát điện nổ ầm ầm, qua những chiếc quạt máy chạy vù vù, qua trước miệng đường hầm rộng hoác, đi lên bờ dốc nghiêng, vòng quanh con đường sắt đi Mount Vernon, lên bậc dưới của Ga lớn Trung tâm. Đến đây, hắn hòa vào đám đông, trông hắn có vẻ rắn rỏi của người đang độ tuổi cường tráng, thân trên khum khum, bước đi cứng cỏi. Khuôn mặt hắn lạnh lùng, hai gò má nhô ra, đôi môi mỏng mím chặt, cặp lông mày nhíu xuống che khuất một nửa đôi mắt nhợt nhạt lấm lét nhìn quanh.

Hắn cầm cái vé tàu trên tay, chen chúc trong đám đông đi lên bậc trên, nơi đây hắn sẽ đáp chuyến tàu đi Carley, bang Connecticut.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Neil đợi xe của nhà trường ở góc đường, cậu biết bà Lufts đang đứng ở cửa sổ nhìn cậu. Cậu ghét cảnh tượng như thế này. Không có thằng bạn nào của cậu bị mẹ canh chừng gắt gao như bà Lufts canh chừng cậu. Làm như cậu đang còn học mẫu giáo chứ không phải đã vào học trường lớp lớn.

Giá mà trời cứ mưa mãi thì hay biết mấy, vì khi ấy cậu phải ở trong nhà để đợi xe. Mà cậu cũng không thích cảnh trời mưa. Trời mưa, trông cậu như con gà mái bị ướt. Cậu đã nói với bố cậu như thế, nhưng bố cậu không chịu nghe. Ông chỉ trả lời là cậu phải được chăm sóc kỹ lưỡng, vì cậu bị hen suyễn.

Sandy Parker đang học lớp năm, cậu ta ở khá xa, nhưng lại đón xe ở trạm dừng này. Cậu ta luôn luôn muốn ngồi bên cạnh Neil, nhưng Neil thì ngược lại, nó thích ngồi chỗ khác xa cậu ta. Sandy thường nói đến những chuyện mà Neil không muốn nghe.

Khi xe đến, Sandy cũng vừa xuất hiện, cậu ta thở hổn hển, sách vở như muốn tuột khỏi tay. Neil cố chen đến ngồi một chỗ ở phía cuối xe, nhưng Sandy đã gọi cậu:

- Neil, ngồi đây, có hai chỗ ở đây. - Xe ồn ào. Tất cả các chú bé đều nói chuyện thật to. Sandy nói không lớn, nhưng Neil không bỏ sót lời nào của cậu.

Cậu ta quá bị kíƈɦ ŧɦíƈɦ, vừa ngồi xuống, cậu liền nói:

- Người ta thấy ba cậu trên mục thời sự tivi vào giờ ăn sáng.

- Ba mình à? - Neil lắc đầu - Cậu đùa sao?

- Không, thật mà. Cái bà mình đã gặp ở nhà cậu cũng có ở đó, bà Sharon Martin. - Hai người tranh luận.

- Tại sao? - Neil không muốn hỏi. Cậu không biết có nên tin lời Sandy không.

- Vì bà ấy cho rằng không nên gϊếŧ tội nhân, còn ba cậu thì chống lại. Bố mình nói rằng ba cậu nói thế là đúng. Ông nói cái thằng đã gϊếŧ mẹ cậu phải bị nướng mới đúng. - Sandy lại nhắn mạnh từ Nướng.

Neil quay nhìn ra cửa sổ, cậu tựa trán lên lánh cửa, mặt kính lạnh ngắt. Cậu thích không khí gia đình tối nay. Cậu không thích ở nhà một mình với vợ chồng ông Lufts. Họ đối xử với cậu quá dễ thương, nhưng họ cứ cãi cọ nhau mãi. Ông Lufts thường đi nhậu, và bà Lufts thì không thích như thế, nên nổi giận với ông, ngay cả khi có mặt Neil ở đấy bà cũng không chừa.

Sandy cứ bắt chuyện với Neil:

- Thế cậu không thích người ta gϊếŧ Ronald Thompson à?

- Ừ... mà... mình không nghĩ đến chuyện này. - Neil trả lời nho nhỏ.

Không đúng như thế, cậu ta có nghĩ đến chứ, cậu ta cứ nghĩ đến việc này mãi. Cậu ta đang chơi tàu hỏa ở trên phòng mình, mẹ cậu bận nấu nướng dưới bếp. Trời bắt đầu tối, một toa tàu của cậu bị trật đường rầy, cậu ngắt dòng điện.

Ngay khi ấy cậu nghe có tiếng kỳ lạ vang lên, như là tiếng la, nhưng tiếng la không lớn lắm. Cậu chạy xuống thang lầu, trong phòng khách tối om, nhưng cậu vẫn thấy mẹ cậu. Bà đang cố đưa tay đẩy người nào đấy ra. Bà kêu lên the thé, giọng hoảng sợ ngột ngạt trong họng. Gã đàn ông thắt cái gì đấy quanh cổ bà.

Neil dừng lại trên ngưỡng cửa, cậu muốn đến giúp mẹ, nhưng cậu không nhúc nhích chân được. Cậu muốn gọi kêu cứu, nhưng cậu không mở miệng ra được. Cậu cảm thấy ngột thở như mẹ, như có cái gì chặn vào họng khiến cậu khó thở, rồi hai đầu gối cậu mềm nhũn. Gã đàn ông nghe tiếng sột soạt bèn quay lại, hắn thả mẹ cậu ngã xuống.

Neil cũng ngã xuống, cậu cảm thấy cậu té xuống. Rồi sau đó, căn phòng sáng lên, mẹ cậu nằm dài trên mặt đất, lưỡi bà thè ra, mặt xanh lét, hai mắt mở thao láo. Gã đàn ông bây giờ quỳ xuống bên bà, hắn sờ tay lên cổ bà. Hắn ngước mắt nhìn Neil rồi đâm đầu chạy, nhưng Neil đã nhận ra được mặt hắn. Mặt hắn đầm đìa mồ hôi, hoảng sợ.

Neil phải kể lại tất cả sự việc cho cảnh sát nghe khi người ta đến làm biên bản. Sau đó, ba cậu nói: "Cố quên đi Neil, con hãy nhớ đến những ngày hạnh phúc bên mẹ con thôi". Nhưng làm sao cậu quên được, cậu cứ nằm mơ thấy chuyện này mãi, và khi tỉnh dậy, cậu lại thấy khó thở vô cùng.

Bây giờ, ba cậu có lẽ sắp lấy Sharon, Sandy đã kể cho cậu nghe rằng tất cả mọi người đều nói ba cậu sắp lấy vợ. Sandy nói không người đàn bà nào thương yêu con riêng của chồng hết, nhất là khi những đứa bé này bệnh h0ạn luôn.

Ông bà Lufts thường nói họ sẽ đi Florida. Neil phân vân không biết khi ba cậu cưới Sharon rồi, ông có để cho cậu ở với vợ chồng ông Lufts không, cậu nghĩ chắc là không. Khổ thay, cậu mãi miết nhìn ra cửa xe, suy nghĩ mông lung đến nỗi Sandy phải thúc cùi chỏ vào người cậu khi xe dừng lại trước trường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Chiếc tắc-xi rít mạnh, dừng lại trước tòa báo New Dispatch nằm trên Đường 42 Đông. Sharon lấy trong ví hai đô-la trả cho người tài xế.

Tuyết đã ngừng rơi, nhưng trời càng lạnh hơn và vỉa hè trơn trợt.

Cô đi đến phòng biên tập, người ta đã bắt đầu chuẩn bị in số báo buổi chiều. Trong hộc tủ của cô, có tờ giấy nhắn tin. Ông phụ tá Tổng biên tập muốn gặp cô gấp.

Cô ngạc nhiên trước lời nhắn khẩn cấp này, vội vã đi qua phòng làm việc ồn ào đến phòng Tổng biên tập. Ông phó đang ngồi một mình nơi chiếc bàn nhỏ ngổn ngang giấy tờ. Ông nói:

- Mời vào và đóng cửa lại. - Ông đưa tay mời cô ngồi rồi hỏi tiếp - Cô đã viết bài cho hôm nay rồi à?

- Rồi.

- Cô vẫn nỗ lực kêu gọi mọi người thỉnh cầu Thống đốc Greene giảm nhẹ bản án của Thompson phải không?

- Thì đương nhiên là thế, tôi nghĩ là phải thế. Tôi sẽ thay đổi chiến thuật. Việc bà Greene không nhất trí hoãn thi hành án có thể giúp chúng tôi được việc. Vì hành động này của bà ta sẽ đẩy thêm nhiều người ủng hộ chúng tôi, chúng tôi còn 48 giờ nữa mà.

- Cô hãy bỏ chuyện này di.

Sharon nhìn ông ta, bàng hoàng kinh ngạc. Cô hỏi:

- Tại sao thế, tại sao lại "bỏ chuyện này đi"? Ông luôn luôn ủng hộ việc này mà.

- Tôi bảo: bỏ đi là bỏ đi, sau khi bà Greene quyết định không đồng ý cho hoãn thi hành bản án, bà đã gọi điện thoại đến nói chuyện với Tổng biên tập. Bà ta trách cứ ông sếp, nói rằng chúng ta tạo ra chuyện giật gân để bán báo chạy. Bà ta nói rằng bà không đồng ý duy trì bản án tử hình, nhưng bà không có quyền xen vào phán quyết của tòa án khi không có bằng chứng cụ thể. Bà còn nói rằng, nếu chúng ta muốn đề nghị tu chỉnh Hiến pháp thì đấy là quyền của chúng ta, và bà sẽ ủng hộ chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đẩy bà vào một công việc có tính xen vào công việc của tòa án, thì bà không được làm. Kết quả là ông sếp chấp nhận lý lẽ của bà ta.

Sharon cảm thấy bụng thắt lại như bị ai đấm mạnh vào. Bỗng cô sợ nôn mửa, cô nghiến chặt hai hàm răng, cô chống lại cơn co giật trong họng, ông trợ lý Tổng biên tập nhìn cô, ái ngại. Ông hỏi:

- Không sao chứ, Sharon? Trông cô xanh quá!

Cô cố hết sức chế ngự cơn buồn nôn trong người.

- Không sao. - Cô đáp.

- Tôi có thể tìm người thay cô tường thuật phiên họp vào ngày mai, cô phải nghỉ ngơi vài hôm mới được.

- Không được - Ngày mai Ủy ban lập pháp ban Massachusetts sẽ họp đề bàn cãi về việc hủy bỏ án tử hình, tôi phải đến dự.

- Vậy tùy cô, cô lấy lại bài vở và về nhà đi. - Giọng ông tha thiết thương cảm - Tôi rất ân hận, Sharon à. Việc sửa đổi Hiến pháp phải mất nhiều năm trời mới hy vọng làm được, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta được bà Greene nhất trí bằng lòng việc xin giảm án tử hình, thì chắc sẽ có nhiều người noi gương bà ấy. Nhưng tôi thông cảm cho địa vị của bà ta.

Sharon gay gắt đáp:

- Còn tôi, tôi tin rằng việc gϊếŧ người hợp pháp còn lâu mới được đem ra bàn thảo, nếu không muốn nói là sẽ không bao giờ.

Không để cho ông ta kịp nói năng gì, cô đứng dậy, bước ra khỏi phòng. Quay lại bàn làm việc của mình, cô mở túi xách ra, lấy xấp bài đánh máy cô đã viết đêm qua. Cô xé hai xấp giấy, rồi xé tư, xé tám. Cô ném mớ giấy loại vào cái sọt rác đựng giấy cũ kỹ.

Cô gắn vào máy chữ tờ giấy trắng bắt đầu đánh: "Một lần nữa, xã hội duy trì được chiến thắng cũ, đó là quyền gϊếŧ người. Cách đây gần hai trăm năm, triết gia Voltaire đã viết: Có lẽ tôi không đề nghị việc khuyến khích gϊếŧ người, nhưng tôi chỉ đề nghị phương pháp trừng phạt tội nhân mà không nên gϊếŧ họ".

"Nếu quý vị nghĩ rằng án tử hình sẽ được Hiến pháp xóa bỏ..."

Cô viết liên tục suốt hai giờ liền, sửa chữa, cắt bỏ, thêm thắt. Bài viết xong, cô đánh lại cho sạch sẽ, giao cho tòa soạn rồi ra về. Cô gọi tắc-xi, nói với tài xế:

- Vui lòng cho tôi đến Đường 95, ngay sau phía Công viên Trung tâm.

Chiếc tắc-xi rẽ vào Đại lộ Người Mỹ, vào Nam công viên Trung tâm. Sharon buồn bã nhìn những bông tuyết mới rơi trên mặt cỏ. Nếu trời tiếp tục đổ tuyết, ngày mai bọn trẻ chỉ còn nước đi xe trượt tuyết thôi.

Tháng trước, Steve mang theo những đôi giày trượt băng, họ đã đi trượt trên bãi trượt băng Wollmari. Neil phải đi theo bố cậu. Sau khi trượt xong, Sharon đề nghị đi thảo cầm viên, rồi đi ăn ở nhà hàng Tevern On The Green. Nhưng vào phút chót, Neil lấy cớ vì không được khỏe, cậu ở nhà, cậu không thích cô, rõ ràng là như vậy.

- Đến rồi, thưa cô.

- Hả? Ồ, xin lỗi! - Xe đã đến Đường 95 - Nhà thứ ba bên trái. - Cô ở tầng dưới nhìn ra vườn thuộc một tòa nhà ba tầng xây bằng gạch nâu, ngôi nhà đã đươc tu sửa lại.

Chiếc tắc-xi đậu trước cửa, người tài xế, mảnh khảnh và tóc hoa râm, quay đầu nhìn lui, ánh mắt lo lắng, ông ta hỏi:

- Cô có sao không? Cô có vẻ mệt mỏi.

Cô cố mỉm cười, đáp:

- Có lẽ vì thời tiết. - Cô nhìn máy tính tiền, mở ví lấy tiền trả, biếu thêm cho ông tài xế một số tiền puốc-boa hậu hĩ.

Người tài xế với tay ra sau mở cửa xe cho cô.

- Với thời tiết như thế này, người có sức khỏe tốt cũng phải ngán. Nếu trời cứ tiếp tục đổ tuyết, thì... theo ý tôi, cô nên ở nhà là hơn hết.

- Tối nay tôi phải đi Connecticut.

- Tôi thích được như cô quá, xin cám ơn cô.

Chị Angie đến giúp việc cho cô mỗi tuần hai lần vào buổi sáng. Khi vào nhà, cô đưa mắt nhìn quanh, cô biết chị vừa mới ra về. Ngôi nhà thoang thoảng mùi sáp thơm lò sưởi được lau chùi sạch sẽ, cây cối được tưới bón chăm sóc. Như mọi khi, Sharon cảm thấy bình yên, hạnh phúc. Cô rất thích tấm thảm Đông phương của bà nội có màu xanh và đỏ. Cô bọc lại cái ghế nệm dài và cái ghế bành mua ở hàng đồ cũ bằng vải màu xanh. Cô đã bỏ ra bốn đợt nghỉ cuối tuần để làm công việc này, không đi đâu hết. Còn tranh ảnh treo trên tường, cô mua dần ở các tay bán đồ cũ, ở các phòng buôn tranh, hay mua khi đi du lịch sang Âu châu.

Steve rất thích căn phòng này. Anh đã ngắm nghía căn phòng rồi nói:

- Em thật có khiếu trang hoàng nhà cửa.

Cô vào phòng, cởϊ áσ quần ra. Cô sẽ đi tắm, uống một tách trà, rồi ngủ một chút. Cô không còn đầu óc tỉnh táo để suy nghĩ mạch lạc được.

Khi cô vào giường ngủ thì đã 12 giờ trưa, cô để đồng hồ báo thức lúc 15 giờ 30. Cô nằm lâu mới ngủ được. Ronald Thompson, cô tin chắc chính quyền sẽ giảm án nhẹ cho cậu ta. Rõ ràng cậu ta không phạm tội, nhưng thật tai hại cho cậu ta là có nhiều người không tin thế. Hồ sơ lý lịch của cậu ta tốt, ngoại trừ khi lên 15 tuổi, cậu ta có gây một chuyện không hay. Mà khi ấy cậu ta còn quá nhỏ.

Steve - Chính những người như Steve đã gây ảnh hưởng lớn đến ý kiến của quần chúng. Chính tiếng tăm của Steve, chính lòng trung thực của anh, đã làm cho quần chúng đứng về phía anh.

Cô yêu Steve phải không?

Phải.

Yêu nhiều không?

Nhiều, nhiều lắm.

Cô muốn lấy anh ấy không? Tối nay hai người phải nói chuyện này mới được. Cô biết Steve muốn cô ở lại nhà anh tối nay là vì chuyện này. Và anh rất muốn Neil thân thiện với cô. Nhưng chuyện này không phải dễ, người ta không ép buộc tình thương được. Neil rất lạnh nhạt với cô, ít thổ lộ tâm tình với cô. Có phải vì cậu ta không ưa cô, hay cậu ta hành động như thế với tất cả phụ nữ muốn lôi ba cậu ra khỏi tay cậu? Cô không biết nói sao.

Cô muốn sống ở Carley không? Cô thích New York, rất thích. Nhưng Steve không chịu đem Neil vào sống ở thành phố.

Cô đã phấn đấu khó khăn mới thành nhà văn được. Sách của cô đã tái bản lần thứ sáu. Khi không được các nhà xuất bản lớn nhận xuất bản, cô đã cho in sách của mình bằng loại ấn phẩm nhỏ. Nhưng những nhà phê bình đã đánh giá cao và số sách bán ra thật đáng kể.

Phải chăng đã đến lúc họ lấy nhau? Lấy người đàn ông có con trai không chấp nhận mình?

Steve - Bỗng nhiên cô đưa tay sờ mặt, nhớ lại hơi ấm của hai bàn tay to lớn dịu dàng khi anh chia tay cô vào sáng nay. Hai người yêu nhau rất tha thiết...

Nhưng làm sao cô chịu đựng tính tình bướng bỉnh, khó lay chuyển của anh?

Cuối cùng cô thiu thiu ngủ, vừa chợp mắt là cô nằm mơ ngay. Cô nằm mơ thấy mình đang viết bài xã luận, cô sắp kết thúc bài xã luận. Phần kết thúc là phần quan trọng nhất. Nhưng cô ráng hết sức gõ vào máy chữ mà vẫn không thấy chữ in lên giấy. Khi ấy thì bỗng Steve đi vào anh nắm tay một thanh niên, lôi anh ta đi vào. Cô vẫn tiếp tục cố đánh lên máy chữ. Steve buộc chàng trai ngồi xuống. Anh nói với cậu ta: - "Tôi rất đau khổ, nhưng cần thiết phải làm thế. Anh phải hiểu cho, đây là việc cần thiết" - Rồi trong khi Sharon cố hét lên mà không được, thì Steve xích hai tay hai chân chàng thanh niên lại, rồi đưa tay về phía cầu dao nối dòng điện...

Tiếng la chói tai vang lên làm cô thức dậy, tiếng la của cô, cô đã la lên:

- Không... không... không...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Lúc 6 giờ kém năm, trên các đường phố ở Carley, Connecticut, một vài người vào trong các cửa hàng, chỉ để tránh cái lạnh như cắt ở ngoài trời đêm băng giá.

Gã đàn ông đứng lên trong bóng tối ở một góc bãi đỗ xe của nhà hàng ăn uống Cabin, hoàn toàn không có ai thấy hắn hết. Gió thổi hất tuyết vào mặt hắn, hắn vẫn đứng bất động, chăm chú nhìn quanh khắp nơi. Hắn đã đứng ở đây 20 phút rồi, chân hắn tê cóng.

Khó chịu, hắn đổi thế đứng, mũi giày chạm phải cái túi vải dày để dưới chân. Hắn sờ các vũ khí trong túi áo khoác. Vũ khí nằm yên trong túi, hắn gật đầu, hài lòng.

Vợ chồng lão Lufts sẽ đến ngay trong vài phút nữa. Lão ta đã điện thoại đến cửa hàng ăn uống để nhắc lại việc lão đặt bàn trước vào lúc 6 giờ. Hai vợ chồng định đến ăn rồi mới đi xem phim Cuốn theo chiều gió của Selznick. Phim được chiếu ở rạp Carley Square, nằm ở phía bên kia đường. Xuất bốn giờ đang chiếu, họ sẽ xem xuất 7 giờ 30.

Hắn đứng yên bất động, một chiếc xe hơi chạy vào bãi đậu. Hắn thụt lùi sau dãy cây vân sam. Đúng là chiếc xe có thùng chở hàng phía sau của họ. Hắn nhìn họ đậu xe gần cửa vào nhà hàng. Người lái xe bước ra, đi quanh qua bên kia xe để giúp vợ bước xuống lớp nhựa đường trơn trợt. Cong người để tránh gió, vợ chồng Lufts níu vào nhau, loạng choạng đi nhanh vào cửa nhà hàng.

Hắn đợi cho hai người đã vào bên trong, mới lấy cái túi xách lên. Hắn bước nhanh theo mép bãi đỗ xe, thận trọng đi nép theo sau các đám cây rậm rạp. Rồi hắn chạy băng qua đường, ra sau rạp xi-nê.

Có khoảng 50 chiếc xe đang đậu ở đấy. Hắn đi đến chiếc Chevrolet màu nâu đỏ, chiếc xe cũ đã tám năm rồi, đậu khuất ở một góc xa.

Hắn chỉ cần một phút là mở xong cửa xe. Hắn ngồi vào tay lái, chuồi chìa khóa vào ổ công-tắc và mở máy. Tiếng động cơ nổ lên đều đều. Hắn mỉm cười trong bóng tối và sau khi nhìn quanh một lượt, tất cả đều vắng vẻ, hắn cho xe chạy đi. Đường sá rộng rãi, hắn lái xe qua trước một rạp xi nê mà không bật đèn lên. Bốn phút sau, chiếc xe hơi cũ kỹ bốn cửa màu nâu đỏ chạy vào con đường vòng tròn trong sân nhà của Peterson ở Driftwood Lane, rồi đến đậu ở phía sau chiếc Vega nhỏ màu đỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Đoạn đường từ Manhattan đến Carley thường khi chỉ đi chưa đầy một giờ là đến, nhưng dự báo thời tiết cho biết trời xấu, nên những người sống ở ngoại ô làm việc ở New York đều đua nhau về cho nhanh. Với một lưu lượng xe cộ quá lớn và trên mặt đường có nhiều váng băng trơn trợt, thành ra Sharon phải mất một giờ hai mươi phút mới đến nhà Steve được. Nhưng cô ít lo về việc chậm trễ này. Cô chỉ nghĩ đến điều cô sẽ nói với Steve: "Chuyện giữa chúng ta không ổn đâu... Chúng ta không đồng quan điểm... Neil chắc sẽ không bằng lòng em đâu... Tốt nhất là chúng ta đừng gặp nhau nữa".

Ngôi nhà của Steve xây theo kiểu thời thuộc địa, bằng gỗ, sơn trắng, các ô cửa sơn đen. Ngôi nhà gây ấn tượng mạnh cho Sharon. Đèn trước hành lang sáng choang. Hàng cây dọc theo vách nhà cao vút lên. Sharon đã biết Steve và Nina vừa dọn đến ở tại ngôi nhà này mấy tuần thì Nina chết. Và từ khi mua nhà đến nay, anh chưa sửa sang thay đổi gì.

Cô cho xe đậu ngay dưới chân thềm nhà và chuẩn bị tư thế để chịu đựng cảnh nghe bà Lufts nói tía lia và cảnh lạnh lùng của Neil đối với cô. Nhưng thôi, đây là lần cuối, chắc là lần cuối. Nghĩ thế, cô lại cảm thấy buồn thêm.

Rõ ràng là bà Lufts đang chờ cô đến. Khi Sharon vừa xuống xe là cánh cửa trước nhà mở ra liền.

- Chào cô Martin, lạy Chúa, gặp cô tôi mừng quá. - Bà ta hiện ra trên ngưỡng cửa, với dáng vẻ mập lùn. Trên mặt có nhiều nếp nhăn nhỏ, cặp mắt sáng, tinh anh, trông bà ta có vẻ như con sóc. Bà mặc chiếc măng-tô nặng trịch bằng vải dày màu đỏ và mang đôi giày ống bằng cao su.

- Chào bà Lufts. - Sharon bước qua bà để vào nhà. Bà Lufts có thói quen đứng sát vào người ta, đến nỗi họ cảm thấy phải ngộp thở. Bà chỉ nhích người ra một tí vừa đủ chỗ cho Sharon bước qua cửa.

- Cô đến đây thật quý hóa - Bà ta nói - Nào, cô đưa áo choàng 1 cho tôi. Tôi rất thích áo choàng, áo choàng làm cho mình có vẻ duyên dáng, xinh đẹp, cô có thấy thế không?

Sharon để xách tay và vật dụng cần thiết xuống cánh cửa. Cô tháo găng tay và đáp:

- Có lẽ thế, tôi chưa hề nghĩ như bà. - Cô đưa mắt nhìn vào phòng khách, bỗng cô thốt lên - Ô!...

Neil đang ngồi ở đấy, hai chân xếp lại trên thảm, những tờ tạp chí nằm rải rác quanh cậu, trên tay cậu cầm cái kéo. Mái tóc màu vàng tro như tóc bố cậu, xõa xuống trước trán để thòi cái cổ mảnh khảnh yếu đuối. Đôi vai gầy nhô lên dưới chiếc áo nỉ màu nâu đỏ và trắng. Cậu xanh xao, ngoại trừ những đường đỏ chạy quanh đôi mắt nâu thật to đầy ngấn lệ.

- Neil, chào cô Sharon đi chứ. - Bà Lufts ra lệnh.

Cậu bé ngước mắt, thờ ơ nhìn:

- Chào cô Sharon. - Giọng cậu ta nho nhỏ, run run.

Trông cậu bé bỏng quá, buồn quá, hốc hác quá. Sharon muốn ôm cậu vào lòng, nhưng cô nghĩ chắc cậu ta sẽ đẩy cô ra.

Bà Lufts húng hắng ho rồi nói:

- Tôi chịu, không làm sao hiểu nổi. Cậu ấy vừa khóc cách đây mấy phút. Cậu ta không nói lý do tại sao lại khóc. Không ai biết cậu ta nghĩ gì. Thôi, có lẽ chỉ có cô hay bố cậu mới hiểu được dôi chút về cậu ấy thôi. - Bỗng, bà ta cất cao giọng:

- Bill!...

Sharon giật mình vì giọng bà như muốn làm rách cả màng nhĩ. Cô vội vàng đi vào phòng khách, đến bên Neil, cô hỏi:

- Cháu đang cắt gì vậy?

- Ồ, chẳng có gì, mấy cái ảnh thú vật! - Neil đáp, không nhìn lên, chắc cậu ta sợ cô thấy cậu đã khóc.

- Cô đi kiếm một ly rượu ngọt, rồi nếu cháu muốn, cô sẽ giúp cháu. Cháu muốn uống cô-ca hay uống gì không?

- Không. - Neil ngần ngừ, rồi có vẻ như bị bó buộc, cậu nói thêm - Cám ơn.

- Cô cứ tự nhiên đi nhé - Bà Lufts nói - Cô cứ xem như nhà mình. Cô biết rõ các nơi trong nhà rồi. Tôi đã chuẩn bị đầy dủ các thứ mà ông Peterson đã kê lên giấy, bò bít tết, nước sốt dầu giấm, măng và nước đá. Tất cả đều trong tủ lạnh. Tôi xin lỗi phải đi gấp, chúng tôi đi ăn nhà hàng rồi đi xem xi-nê. Bill ơi...!

- Có anh đây, Dora. - Giọng đáp có vẻ bực bội. Bill Lufts từ dưới tầng hầm đi lên - Tôi đi kiểm tra lại các cửa sổ - Ông ta nói - Tôi muốn xem lại chúng đã đóng chưa. Chào cô Martin.

- Chào ông Lufts, ông khỏe chứ?

Ông ta khoảng 60 tuổi, nhỏ con, mập mạp, mắt màu xanh nhạt. Chứng xung huyết giãn mạch làm cho hai má và cánh mũi của lão ửng đỏ. Sharon nhớ Steve đã cho cô biết anh rất buồn vì Bill Lufts rất thích uống rượu.

- Này Bill, anh có nhanh lên một tí được không? - Bà vợ nôn nóng hỏi - Anh biết tôi rất ghét cảnh ăn uống nhanh như chớp, chúng ta sẽ trễ hết việc đây. Sở dĩ anh cho tôi đi chơi là vì hôm nay kỷ niệm ngày thành hôn của chúng ta. Ít ra thì anh cũng nên nhanh nhẹn cho tôi nhờ với chứ.

- Được rồi! Được rồi! - Bill thở ra, lắc đầu làm dấu với Sharon - Hẹn lát nữa sẽ gặp cô, cô Martin.

Sharon đi theo ông ta ra cửa:

- Chúc ông bà vui vẻ. À, chúc ngày lễ hạnh phúc.

- Bill lấy mũ ra đội. Anh sẽ cảm lạnh... Sao? Ồ, cám ơn, cám ơn cô Martin! Khi tôi ngồi vào bàn ăn, tôi mới biết hôm nay là ngày kỷ niệm lễ thành hôn. Nhưng còn bây giờ, đủ thứ chuyện thúc bách như thế này...

- Dora, chính em muốn xem phim này đấy nhé.

- Được rồi, em đi đây. Hai người ở nhà vui vẻ nhé. Neil này, cháu đưa sổ điểm cho cô Sharon xem đi. Cháu học khá lắm, cháu rất ngoan, phải không Neil? Tôi đã cho cháu ăn lót dạ để đợi đến giờ ăn tối, nhưng hầu như cháu không đụng đến thức ăn. Cháu ăn uống như mèo. Được rồi, Bill, được rồi, em ra đây.

Cuối cùng hai vợ chồng ra đi. Sharon rùng mình vì gió lạnh luồn vào cửa khi họ chưa kịp đóng cửa lại. Cô quay vào nhà bếp, mở tủ lạnh, lấy chai rượu ngọt. Cô ngần ngừ một lát rồi lấy ra hộp sữa. Neil đã cho biết nó không muốn uống gì hết, nhưng cô sẽ pha cho cậu ta một ly sô-cô-la sữa nóng.

Trong lúc đợi hâm cho sữa nóng, cô uống từng ngụm nhỏ rượu ngọt và đưa mắt nhìn quanh. Bà Lufts đã cố gắng làm việc, nhưng bà ta không biết cách thu dọn nhà cửa, nhà bếp không được sạch sẽ lắm. Quanh vỉ lò nướng bánh mì và trên tủ đựng đồ ăn còn vương vãi nhiều mẩu bánh mì vụn. Cần phải lau chùi thật kỹ hơn nữa phía trên bếp. Tóm lại, tất cả nhà cửa đều phải được chỉnh trang lại.

Nhà xây lưng về phía biển, biển Long Island Sound. Cô tính sẽ cắt bớt cây cho thoáng, có thể nhìn ra ngoài dễ dàng, ngăn hành lang lại bằng những cửa sổ lồi bằng kính để nới rộng phòng khách, hạ bớt vách ngăn và lấy một góc phòng dùng làm chỗ điểm tâm... Bỗng cô lại nghĩ: Không phải việc của mình, mình nghĩ thế là vì ngôi nhà hoang vắng quá, và Neil cũng như Steve, không ai chăm sóc chu đáo.

Nhưng không phải cô là người có bổn phận làm thay đổi tình trạng này. Ý nghĩ không muốn gặp Steve, không chờ đợi anh gọi điện thoại, không nên để anh siết đôi cánh tay mạnh khỏe trìu mến quanh người cô, không muốn thấy lại vẻ mặt hân hoan của anh khi cô vui đùa với anh, làm cho cô cảm thấy cô độc vô cùng. Có lẽ khi phải từ giã người thân yêu, mọi người đều có cảm giác như thế, cô nghĩ. Cảm giác của bà Thompson ra sao khi nghĩ đến đứa con trai duy nhất của bà sẽ chết vào ngày mốt?

Trong đợt điều tra tìm hiểu gần đây, đã nhiêu lần cô cố tìm gặp bà ta để báo cho bà biết có nhiều nhân vật quan trọng đã hứa sẽ can thiệp với Thống đốc. Nhưng không lần nào cô gặp được bà ở nhà. Có lẽ vì bà Thompson đang bận làm đơn xin xét lại cùng với các cư dân ở Fairfield County.

Tội nghiệp bà già, bà đã hy vọng rất nhiều khi cô đến thăm bà, nhưng bà có vẻ bối rối khi thấy cô nữ phóng viên nhà báo nghi ngại, không cho Ron vô tội.

Nhưng có người mẹ nào lại tin con trai mình có thể gϊếŧ người cho được? Hôm nay có lẽ Thompson có mặt ở nhà. Có lẽ bà ấy vui mừng khi được nói chuyện với người cố cứu con mình?

Sharon hạ bớt ngọn lửa dưới cái soong, cô đi đến máy điện thoại móc trên tường nhà bếp, bấm số máy. Máy mới reo một hồi chuông, cô đã nghe bên kia có người nhấc máy. Giọng bà Thompson rất bình tĩnh:

- Alô!

- Thưa bà Thompson, tôi là Sharon Martin đây. Tôi xin thú thực với bà tôi rất chán nản, tôi muốn hỏi bà tôi có thể làm gì giúp bà...

- Cô đã làm nhiều rồi, thưa cô Martin. - Giọng bà chua cay khiến Sharon quá kinh ngạc - Nếu con tôi chết vào hôm thứ Tư, thì cô nhớ cho rằng tôi sẽ qui hết trách nhiệm cho cô đấy. Tôi đã yêu cầu cô đừng xen vào việc này.

- Thưa bà Thompson, tôi không hiểu...

- Có nghĩa là trong tất cả các bài cô viết, cô đều nói mãi rằng tội trạng của Ronald không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng đấy không phải là vấn đề. Nhưng theo tôi thì đấy là vấn đề, cô Martin à! - Bà ta cất cao giọng - Đây mới là vấn đề! Rất nhiều người biết rõ con tôi, họ biết con tôi không thể nào phạm tội, không hề làm điều gì xấu cho bất kỳ ai, nó luôn luôn cố làm điều tốt. Nhưng cô... cô đã giúp Thống đốc xem trường hợp của nó là hoàn toàn có tội... Chúng tôi không bỏ cuộc, tôi tin rằng Chúa sẽ cứu rỗi cho con tôi, nhưng nếu con tôi chết, thì chắc không đời nào tôi tha thứ cho cô đâu.

Đường dây cúp. Sharon sững sờ nhìn đăm đăm máy điện thoại trên tay. Bà Thompson có thể tin như thế sao?... Cô bỏ ống nghe xuống. Nồi sữa sôi, cô lấy hộp sô-cô-la hiệu Nesquick trong tủ, múc một muỗng nhỏ đổ vào tách. Cô rót sữa vào, khuấy đều rồi đặt cái nồi lên bồn rửa. Cô đi ra phòng khách, lòng vẫn còn nặng trĩu vì lời buộc tội của bà Thompson.

Có người bấm chuông cửa.

Neil chạy ra cửa, cô không kịp ngăn cậu ta lại, cậu hớn hở nói:

- Có lẽ ba cháu về.

Sharon nghĩ: nó không muốn ngồi gần mình. Cô nghe cậu bé mở khóa, bỗng cô cảm thấy lo sợ, bèn nói:

- Neil, khoan đã. Cháu hỏi ai ngoài ấy, vì cô biết ba cháu có chìa khóa kia mà.

Cô để nhanh tách sô-cô-la và ly rượu ngọt lên bàn gần lò sưởi, rồi chạy ra cửa.

Neil nghe lời cô, cậu ta để một tay lên nắm cửa, ngần ngừ một lát rồi hỏi lớn:

- Ai đấy?

- Có ông Bill Lufts ở nhà không? - Bên ngoài có tiếng hỏi - Tôi mang máy điện đến cho ông ấy, ông ấy nhờ tôi sửa máy điện ở thuyền của ông Peterson.

- Ồ, tuyệt quá! - Neil nói với Sharon - Ông Lufts đang đợi cái máy điện ấy.

Cậu ta xoay núm cửa, cánh cửa vừa mở, cậu ta liền bị xô thật mạnh, văng vào tường. Sharon quá chưng hửng, cô nhìn gã đàn ông bước vào nhà và đóng cửa nhanh như gió. Neil nhào xuống đất, hụt hơi. Sharon nhanh chân chạy đến bên cậu. Cô giúp cậu đứng lên, quàng tay quanh cậu, cô nhìn vào mặt kẻ đột nhập vào nhà.

Hai hình ảnh trước mắt cô gây cho cô ấn tượng rất mạnh. Hình ảnh thứ nhất là ánh mắt nảy lửa, đăm đăm của kẻ lạ. Hình ảnh thứ hai là khẩu súng lục có nòng dài và nhỏ trên tay hắn đang chĩa vào đầu cô.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Buổi họp phòng hội nghị của tờ Biến Cố kéo dài cho đến 19 giờ 30. Vấn đề chính đưa ra thảo luận là bản báo cáo của Nielson vừa mới trình bày. Bản báo cáo rất thuận lợi, hai phần ba độc giả tuổi từ 25 đến 40, có học vấn cao, thích tờ Biến Cố hơn tờ Time hay tờ Newsweek. Ngoài ra, việc bán báo đã tăng 15 phần trăm so với năm ngoái và việc quảng bá tin tức địa phương tiến hành rất tốt.

Cuối buổi họp, ông Bradley, giám đốc tờ báo, đứng dậy nói:

- Tôi nghĩ là chúng ta có thể hài lòng về các mặt thống kê này. Chúng ta đã làm việc cật lực suốt ba năm trời, chúng ta đã thành công. Trong thời buổi bây giờ mà điều hành thành công một tờ tạp chí như thế này không phải là chuyện dễ, tôi muốn nói là theo ý kiến của tôi thì chính tài điều hành đầy sáng tạo của Steve Peterson là yếu tố quyết định sự thành công này.

Sau buổi họp, Steve đi xuống thang máy với Bradley, anh nói:

- Cám ơn ông, lời phát biểu của ông thật quý báu.

Người đàn ông lớn tuổi hơn anh nhún vai, đáp:

- Sự thật là thế mà, Steve, chúng ta đã thành công chúng ta sẽ kiếm sống một cách đàng hoàng. Không quá sớm đâu, tôi biết anh đã làm việc một cách khó khăn.

Steve cười, nụ cười chua chát.

- Phải, đúng thế!

Cửa thang máy mở ra ở tiền sảnh, Steve chào:

- Xin chào, Brad. Tôi phải về. Tôi muốn đáp chuyến tàu 19 giờ 30...

- Khoan đã, Steve, sáng nay tôi có xem anh tranh luận trên mục thời sự truyền hình.

- Vâng.

- Tôi thấy anh có lý, nhưng Sharon cũng có lý. Cá nhân tôi, xin thú thực với anh, tôi thấy các ý kiến của cô ấy hay đây.

- Nhiều người cũng có ý kiến như anh.

- Tôi thích cô ấy, Steve à, cô ta thật khéo léo... và đẹp nữa. Một cô gái tuyệt vời.

- Đúng thế.

- Steve, tôi biết chuyện của anh trong hai năm nay. Tôi không muốn xen vào những chuyện không liên quan đến tôi, nhưng Sharon sẽ rất tuyệt cho anh... và cho Neil nữa. Đừng để những xung khắc, cho dù những xung khắc có lớn đến đâu đi nữa, làm ngăn cách hai người.

- Tôi rất mong được như thế - Steve bình tĩnh đáp - Bây giờ thì ít ra tôi cũng phải đề nghị với Sharon một việc việc của kẻ thiếu trách nhiệm gia đình.

- Tốt, tiến hành đi, cô ấy đang đến thăm bố con anh! Này, có sẵn xe của tôi đấy. Tôi chở anh đến Ga lớn Trung tâm cho.

- Tuyệt vời! Sharon đang ở nhà tôi, mà tôi thì không muốn trễ tàu.

Chiếc xe hòm của Bradley đậu trước cửa, tài xế lái xe len lỏi qua dòng xe cộ đông nghẹt ở trung tâm thành phố, Steve ngồi dựa người ra ghế, thở dài.

- Steve, anh có vẻ mệt mỏi, chuyện của anh chàng Thompson này đã làm cho anh quá đau khổ.

Steve nhún vai.

- Đúng thế, chuyện cũ lại trỗi dậy, tất cả báo chí ở Connecticut lại nêu cái chết của Nina ra. Tôi nghĩ chắc bọn trẻ lại bàn tán ở trường, tôi lo sợ rằng Neil sẽ nghe chúng nói. Tôi cũng rất chán chuyện của bà mẹ thằng Thompson.

- Tại sao anh không dẫn Neil đi chơi đâu đó vài ngày cho đến khi chuyện này chấm dứt?

Steve ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Chắc tôi phải làm thế, có lẽ giải pháp này hay đấy.

Xe dừng trên Đại lộ Vanderbilt, trước Ga lớn Trung tâm. Bradley Robertson lắc đầu nói:

- Anh còn trẻ quá nên không nhớ được thời gian những năm vào thập niên 30, lúc ấy Ga lớn Trung tâm là cái nôi của ngành giao thông vận tải trong nước. Nhà ga có cả một chương trình phát thanh ở đài truyền thanh... - Ông ta nhắm mắt lại - Ga lớn Trung tâm, ngã tư thế giới, khẩu hiệu thế đấy.

Steve cười:

- Rồi sau đó là tiếp đến thời đại máy bay phản lực. - Anh mở cửa - Xin cám ơn ông đã cho tôi đến đây.

Lấy thẻ thuê bao đi tàu ra, anh băng nhanh qua nhà ga. Còn 5 phút nữa tàu chạy, anh muốn điện thoại về nhà báo cho Sharon biết anh sẽ đáp chuyến tàu 19 giờ 30.

Anh có vẻ mệt mỏi, anh nghĩ: "Mình không nên lắm chuyện, chỉ cần nói chuyện với cô ấy thôi, cô ấy không đổi ý đâu, cô ấy đang ở tại nhà mình".

Anh đi vào phòng điện thoại, nhờ nhân viên bưu điện gọi giúp. Chuông điện thoại reo, một... hai... ba hồi, cô giữ điện thoại nói:

- Tôi đã quay số mà không ai trả lời cả.

- Chắc phải có ai đấy chứ, xin cô vui lòng thử cho một lần nữa đi.

- Được rồi, thưa ông.

Chuông reo liên tục đến hồi thứ năm, cô điện thoại viên cắt máy rồi nói:

- Thưa ông vẫn không có ai trả lời, lát nữa ông gọi lại được không?

- Xin cô vui lòng xem lại cho có đúng số không. Có chắc cô gọi số 2035651313 không?

- Tôi gọi lại số này một lần nữa nhé?

Steve nhìn máy điện thoại trên tay cô ta. Họ đi đâu nhỉ? Nếu Sharon không đến, chắc vợ chồng ông Lufts nhờ ông bà Perry coi giùm Neil chứ?

Không, nếu Sharon không đến thì chắc thế nào cô cũng gọi điện thoại báo cho anh biết. Trừ phi Neil lên cơn suyễn nặng... phải đưa đi bệnh viện.

Nếu nó nghe bọn học trò ở trường nói về chuyện hành quyết Thompson, thì chắc việc cậu bé lên cơn suyễn cũng không đáng ngạc nhiên.

Thời gian gần đây, Neil nằm mơ thấy ác mộng càng lúc càng nhiều hơn.

Đã 19 giờ 29 rồi, còn một phút nữa thì tàu chạy. Nếu anh gọi điện thoại cho bác sĩ ở bệnh viện hay gọi cho gia đình Perry, thì chắc anh sẽ trễ tàu, và phải đợi 45 phút nữa mới có chuyện sau.

Có lẽ vì thời tiết xấu nên đường dây bị nhiễu sóng, thỉnh thoảng cũng không bắt được sóng như thế.

Steve bấm số của nhà Perry, bỗng anh đổi ý, chạy nhanh qua nhà ga. Anh nhảy từng hai cấp một trên dãy tầng cấp dẫn đến ke tàu. Anh vừa nhảy được lên tàu, thì cửa tàu đóng lại.

Cũng ngay khi đó, một người đàn ông và một người đàn bà đi ngang trước buồng điện thoại, nơi anh vừa đi khỏi. Người đàn bà mặc chiếc măng-tô dài màu xám đã bạc thếch. Trên đầu chị ta trùm chiếc khăn màu xanh bẩn thỉu. Người đàn ông quàng một tay quanh người chị, tay kia, gã ôm một cái túi xách lớn bằng vải ka ki.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Sharon nhìn đăm đăm vào hai bàn tay mạnh mẽ nắm chặt khẩu súng, cặp mắt hắn nhìn lướt khắp phòng khách, nhìn thang lầu rồi nhìn lên người cô.

- Ông muốn gì? - Cô hỏi nho nhỏ. Cô cảm thấy cơ thể của Neil run cầm cập trong vòng tay mình. Cô ôm mạnh cậu ta, siết vào người mình.

- Cô là Sharon Martin chứ gì? - Hắn nói, giọng đều đều, bình tĩnh, chắc nịch, như thể hắn đã biết cô trước rồi.

Sharon cảm thấy nghẹn họng, cô cố nuốt nước bọt trong cổ xuống, lặp lại câu hỏi:

- Ông muốn gì? - Cô cảm thấy hơi thở của Neil khò khè... phải chăng vì quá sợ nên cậu bé đã lên cơn suyễn? Cô cố tỏ ra biết điều với hắn, cô nói tiếp - Tôi có 90 đô-la trong ví...

- Im mồm đi.

Giọng đều đều của hắn làm cho cô lo sợ, kẻ lạ thả cái túi xách xuống nền nhà. Đây là cái xách vải ka ki thật hắn lấy trong túi ra một cuộn dây và một cuốn băng vải lớn. Hắn ném tất cả xuống chân cô rồi ra lệnh:

- Bịt hai mắt thằng bé và trói nó lại.

- Không, tôi không thể làm thế được!

- Tốt hơn là cô nên làm.

Sharon nhìn xuống Neil, cậu đang nhìn đăm đăm kẻ lạ mặt, cặp mắt cậu trong veo, hai tròng mắt giương to. Cô nhớ sau ngày mẹ cậu mất cậu lâm vào tình trạng kinh hãi.

- Mày ngồi xuống. - Hắn ra lệnh cho Neil, giọng sắc như dao. Cậu bé ngước cặp mắt van lơn nhìn Sharon, rồi ngoan ngoãn ngồi xuống trên bậc thang lần cuối cùng.

Sharon quỳ xuống bên cậu.

- Neil đừng sợ, cô sẽ ở với cháu. - Hai tay run run, cô lấy tấm vải quấn quanh hai mắt cậu bé, buộc lai phía sau đầu.

Cô ngước mắt lên, kẻ lạ nhìn Neil chăm chăm, chĩa khẩu súng vào thằng bé. Cô nghe một tiếng cách, bèn kéo Neil sát vào người, lấy thân che chắn cho cậu ta.

- Không... không... đừng làm thế.

Kẻ lạ nhìn cô, từ từ hạ khẩu súng xuống, để tựa lên một đầu cánh tay. Cô nghĩ: suýt tí nữa thì hắn đã gϊếŧ Neil rồi. Hắn định gϊếŧ cậu bé.

- Trói nó lại, Sharon. - Hắn ra lệnh, nhưng giọng có vẻ thân mật.

Cô vâng lời hắn, hai tay run run. Cô trói hai cổ tay cậu bé, cố siết nhè nhẹ để khỏi làm cản trở máu lưu thông. Và khi trói xong hai tay cậu bé, cô ép hai bàn tay cậu trong tay mình.

Gã đàn ông đi qua phía sau cô, lấy dao cắt sợi dây rồi nói tiếp:

- Trói hai chân nó lại... mau lên!

Giọng hắn bỗng trở nên gay gắt, cô vội vàng vâng lời. Hai đầu gối của Neil run mạnh đến nỗi cậu ta không làm sao cho hai chân sát vào nhau. Cô quấn dây quanh mắt cá chân cậu rồi buộc lại.

- Nhét giẻ vào miệng nó!

- Cậu bé sẽ ngộp thở mất, cậu ấy bị bệnh hen. - Lời chống đối tắt trên môi cô, vì khuôn mặt của hắn bỗng thay đổi. Mặt hắn trở nên tái mét, căng thẳng. Cặp gò má cao càng nhô lên, hắn có vẻ sắp mất bình tĩnh. Thất vọng, cô nhét vải vào miệng Neil, nới miếng vải long lỏng cho cậu ta khỏi nghẹt thở...

Hắn lôi mạnh cô ra khỏi cậu bé, cô ngã ra sau. Hắn cúi người đưa đầu gối đè vào lưng cô, rồi kéo ngoặc hai tay cô ra sau, lấy dây trói lại. Sợi dây cứa vào hai cổ tay cô. Cô mở miệng để nói, bỗng hắn tọng miếng giẻ vào mồm cô làm cô nghẹt thở. Hắn thắt một dải băng vải quanh miệng và hai má cô, rồi buộc lại phía sau đầu.

Cô thở một cách khó khăn, "Xin ông... đừng...". Hai tay hắn lướt trên hai đùi chân cô, dừng lại một lát, rồi hắn kéo hai chân cô sát vào nhau. Sợi dây thắt quanh đôi giày da mềm mại.

Hắn nâng cô lên, đầu cô quay ra sau, hắn làm gì cô nhỉ?

Cánh cửa mở ra, không khí ẩm lạnh đập vào mặt, cô nặng 60 ký lô, thế mà thằng bắt cóc mang cô đi nhanh xuống tầng cấp trơn trợt như mang một cái lông. Trời tối thui tối mò, có lẽ hắn đã tắt đèn phía ngoài. Cô cảm thấy vai mình va phải cái gì lạnh ngắt, như kim loại. Một chiếc xe. Cô phải cố dùng mũi để cảm nhận mọi vật chung quanh phải cố giương mắt để nhìn trong bóng tối. Phải cố giữ cho tinh thần minh mẫn, không hốt hoảng, phải suy nghĩ.

Có tiếng cửa mở ra ken két, Sharon cảm thấy mình nhào xuống, đầu va vào cái gạt tàn thuốc mở nắp. Hai đầu gối và mắt cá va xuống sàn xe đau nhói, mùi ẩm mốc xông lên. Cô nằm phía sau xe hơi.

Cô nghe tiếng chân hắn bước lao xao xa dần. Hắn quay vào nhà. Neil! Hắn sẽ làm gì Neil nhỉ? Sharon cố hết sức để tháo dây ở hai tay ra. Hai cánh tay cô đau nhừ, sợi dây khía vào hai cổ tay. Cô nhớ lại ánh mắt kẻ đột nhập nhìn Neil, nhớ cách hắn mở chốt an toàn trên khẩu súng.

Mấy phút trôi qua, lạy Chúa, xin Chúa phù hộ. Có tiếng cửa mở, tiếng chân lào xào bước đến gần xe. Cánh cửa trước bên phải mở ra, mắt cô đã quen với bóng tối, cô thấy trong bóng tối lờ mờ có bóng người, bóng của hắn. Hắn mang cái gì đấy... cái xách vải dày. Ôi, lạy Chúa, Neil ở trong xách! Cô chắc thế.

Hắn nghiêng người vào trong xe, ném cái xách lên chỗ ngồi, rồi đẩy xuống sàn xe. Sharon nghe tiếng bịch. Chắc Neil bị thương mất, thế nào cậu bé cũng đau đớn. Cánh cửa đóng lại. Tiếng bước chân đi quanh xe, cửa xe phía tay lái mở ra rồi đóng lại, phát ra tiếng kêu khô khan. Bóng tối đi động, cô nghe có hơi thở hổn hển. Hắn đang cúi người xuống nhìn cô.

Sharon cảm thấy có cái gì rơi trên người cô, cái gì cà vào má cô... tấm chăn hay cái măng-tô. Cô nhúc nhích mặt, tìm cách hất cái vật có mùi hôi hăng hắc ngột ngạt ấy ra để cho dễ thở.

Máy xe nổ, chiếc xe chạy đi.

Cô cố tập trung tư tưởng để nhận ra phương hướng, cố nhớ hết các chi tiết để sau này sẽ nói cho cảnh sát biết. Chiếc xe quay trái ra đường. Trời lạnh, quá lạnh, Sharon run cầm cập, và càng run, sợi dây trói lại càng thắt mạnh vào chân, vào tay. Tứ chi cô giữ yên, đừng động đậy nữa! Hãy bình tĩnh! Đừng hốt hoảng. Tuyết rơi, rơi mãi có lẽ còn để lại dấu vết trong một thời gian. Mà không đâu. Có nhiều tuyết tan hòa lẫn với những cụm bông tuyết, cô nghe tiếng tuyết rơi đập vào cửa kính. Họ đi đâu nhỉ?

Cái nùi giẻ, nó làm cô nghẹt thở. Phải thở từ từ qua mũi thôi. Neil nằm trong túi xách làm sao nó thở được? Chắc nó ngộp thở mất.

Chiếc xe tăng tốc. Hắn dẫn họ đi đâu?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Roger Perry lơ đãng nhìn qua cửa sổ phòng khách ra Driftwood Lane. Thời tiết khắc nghiệt như thế này mà ngồi ở nhà là tuyệt. Ông đã về nhà cách đây 15 phút và bây giờ tuyết rơi càng lúc càng nhiều.

Lạ thay suốt ngày hôm nay, ông cảm thấy trong lòng bồi hồi lo sợ. Từ hai tuần nay, bà Glenda không được khỏe. Nguyên nhân là thế đấy, ông thường vui mừng nói với bà rằng chính bà là người thuộc nhóm phụ nữ làm cho đời sống vợ chồng của họ tươi vui. Bây giờ tóc bà đã nhuốm bạc, nhưng nhờ thế mà cặp mắt xanh lơ của bà trông lại càng đẹp hơn. Khi mấy đứa con trai của bà còn nhỏ, eo của bà là 44, nhưng sau mười năm, bà chỉ còn lại 38. Bà nói đùa: "Eo nhỏ để cho đẹp như ngày xưa". Nhưng sáng nay khi bưng cà phê vào giường cho bà, ông nhận thấy bà xanh xao, mặt gầy gò. Ông gọi điện đến cho bác sĩ của bà để hỏi ý kiến. Hai người đều nhất trí với nhau rằng chính vụ hành quyết vào hôm thứ Tư sắp đến, dày vò bà. Việc làm chứng của bà đã góp phần vào bản án kết tội tử hình Ronald Thompson.

Ông Roger lắc đầu, chuyện này thật ghê gớm, ghê gớm cho chàng trai tội nghiệp kia rồi, mà còn ghê gớm cho những ai có liên lụy đến nữa. Steve, bé Neil... bà mẹ của Thompson... Glenda. Bà Glenda không chịu đựng được sự thử thách này. Ngay sau khi ra làm chứng trước tòa bà mắc phải chứng nhồi máu cơ tim. Ông Roger bác bỏ quan điểm cho rằng chứng bệnh này tái phát có thể gây tử vong cho người ta. Bà Glenda chỉ mới 58 tuổi thôi. Bây giờ con cái của bà đã đi rồi. Ông muốn sống những ngày còn lại với bà. Ông không thể nào sống được nếu không có bà.

Ông suиɠ sướиɠ khi cuối cùng bà bằng lòng thuê một người giúp việc nhà. Sáng mai bà Vogler bắt đầu đến làm, bà ta sẽ đến làm mỗi ngày từ 9 giờ cho đến 13 giờ. Cho nên, bà Glenda có thể nghỉ ngơi khỏi lo gì đến việc nhà cửa nữa.

Nghe có tiếng bước chân, ông quay lại. Bà Glenda đang bưng cái khay nhỏ vào phòng.

- Bà cứ để tôi làm cho. - Ông phật ý nói.

- Không sao, trông anh có vẻ bận rộn. - Bà đưa cho ông ly uých-ky rồi đứng bên ông trước cửa sổ một cách tình tứ.

- Quả anh bận thật, cám ơn em. - Ông thấy bà uống cô-ca. Nếu bà không uống uých-ky với ông hôm nay, tất là có vấn đề gì đây - Hôm nay em không khỏe phải không? - Ông chỉ hỏi cho có chuyện.

- Vâng, em hơi mệt.

- Em uống bao nhiêu viên Trinitrine rồi? (Thuốc chống suy mạch vành).

- Mới hai viên, anh đừng lo, em sẽ khỏe thôi. Ô, nhìn kìa! Kỳ lạ chưa kìa!

- Cái gì? - Ông Roger nghĩ: đừng đánh trống lảng chứ.

- Nhìn nhà Steve kìa, đèn đuốc ở ngoài tắt hết.

- Thảo nào mà anh thấy tối om cả vùng - Ông Roger đáp. Ông dừng lại một lát rồi nói tiếp - Nhưng anh cam đoan với em là hồi nãy mới về nhà anh đã thấy đèn đuốc sáng trưng.

- Em phân vân không biết ai tắt đèn. - Bà Glenda có vẻ bối rối - Cái chị Dora Lufts này nôn nóng quá. Có lẽ anh phải qua bên ấy xem...

- Ồ, anh không sang được đâu, em yêu ơi! Anh đoán chắc có chuyện gì trục trặc chút đỉnh thôi.

Bà thở dài.

- Chắc thế, chỉ vì... mà thôi, những chuyện xảy ra thời gian gần đây... cứ ám ảnh em mãi.

- Anh biết. - Ông quàng tay quanh vai bà, cảm thấy có thể bà bị căng thẳng - Em ngồi xuống đi cho khỏe.

- Mà này, Roger, anh nhìn kìa! - Bà nghiêng người tới trước - Có chiếc xe vừa chạy ra khỏi nhà Steve, xe không bật đèn pha. Em phân vân không biết ai...

- Thôi em, đừng phân vân nữa, hãy ngồi nghĩ một tí - Giọng của Roger kiên quyết - Để anh đi lấy phó mát cho em.

- Phó mát để trên bàn. - Không để ý đến bàn tay âu yếm của ông Roger đang ấn mạnh bên khuỷu tay mình, bà Glenda tìm cặp kính trong túi chiếc váy dài lót bông. Bà đeo kính lên sống mũi, lại nghiêng người ra ngoài cửa sổ, chăm chú nhìn sang phía nhà của Steve, bà nhìn khắp mặt tiền tối om, yên lặng như tờ. Nhưng chiếc xe hơi đã chạy quá cửa sổ, biến mất ngoài đường, khuất trong làn tuyết quay cuồng trong bầu trời đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Scarlett O"Hara ngồi bệt trên bậc thềm ở dưới, miệng lẩm bẩm nói những lời cuối cùng: "Thế là ngày mai sẽ có một cuộc sống mới" - giọng nàng đượm chút hy vọng, rồi âm nhạc trỗi lên trong khi hình ảnh cuối cùng của bộ phim mờ dần trong cảnh bao la bát ngát của đồn điền Tara.

Marian Vogler thở dài, âm nhạc dần dần tắt, ánh sáng trong phòng bật lên. Chị nghĩ: Không có phim nào hay hơn phim này được, xem phim Cuốn theo chiều gió này rồi, chị không muốn xem phim nào nữa. Xem phim khác, thế nào chị cũng thấy dở.

Chị miễn cưỡng đứng lên, đã đến lúc phải trở về với thực tế. Chị bước lên lối ra cửa, khuôn mặt duyên dáng lốm đốm tàn nhang của chị từ từ lấy lại vẻ bình thường.

Mấy đứa con của chị cần áo quần mới, thật nhờ ơn Chúa, Jim cuối cùng đã bằng lòng để cho chị nhận làm giúp việc nhà cho người ta.

Anh ấy thu xếp tìm cách đi đến xưởng làm để chiếc xe cho chị đi, chị sẽ chở con đến trường, về làm việc nhà rồi đến giúp việc cho gia đình ông bà Perry. Ngày mai chị sẽ bắt đầu đi làm, nghĩ đến chuyện đi làm, chị thấy nôn nóng. Đã 12 năm nay chị không làm việc gì hết... từ ngày chị sinh thằng Jim đến giờ. Nhưng chị biết chị sẽ làm rất tốt công việc chị sắp làm, đó là đánh bóng nhà cửa.

Chị rời khỏi rạp chiếu bóng ấm áp, bước ra ngoài trời lạnh giá của đêm tháng ba. Chị rùng mình, quay về bên phải và vội vã đi nhanh. Những giọt mưa bụi hòa với tuyết phả vào mặt chị, chị kéo cao cổ áo măng-tô lót lông đã sờn lên che lạnh.

Lúc nãy chị để chiếc xe hơi ở bãi đậu sau rạp xi-nê. Nhờ ơn Chúa, hai vợ chồng đã quyết định bỏ tiền ra tu sửa chiếc xe. Chiếc xe đã tám năm rồi, nhưng thùng xe vẫn còn tốt, và như Jim đã nói, thà bỏ ra bốn trăm đô-la để tu sửa lại, còn hơn đi mua một chiếc xe cũ khác cùng giá tiền như thế.

Marian đi nhanh, vượt lên trước khá xa đám đông từ rạp xi nê tuôn ra. Chị cố đi nhanh đến bãi đỗ xe, Jim hứa sẽ chuẩn bị ăn tối rồi, bây giờ thì đã thấy đói.

Nhưng chị đi xem xi-nê như thế này cũng tốn kém đấy. Anh biết chị ái ngại, nên đã nói với chị:

- Ba đô-la chẳng nhằm nhò gì đâu, để anh giữ con cho, cứ vui chơi giải trí đi, em yêu, đừng nghĩ đến chuyện tiền bạc làm gì.

Những lời anh nói vẫn còn văng vẳng bên tai chị khi chị bất ngờ dừng chân lại, nhíu mày ngạc nhiên. Rõ ràng chị đỗ xe ở đây kia mà, ở bên phải bãi đỗ xe. Chị nhớ chị trông thấy biển quảng cáo trên cửa kính nhà ngân hàng, biển quảng cáo viết: "Chúng tôi sẵn sàng cho quý vị vay tiền". Chị đã nghĩ: Các người nói hay, nhưng vỗ tay thì dở.

Chị nhớ chị đã đỗ xe ở đây kia mà. Qua màn tuyết, chị thấy tấm biển quảng cáo của nhà ngân hàng ở cửa kính kia kìa.

Mười phút sau, Marian gọi điện thoại cho Jim ở đồn cảnh sát. Cố nén những giọt nước mắt tức giận và thất vọng đang chực trào ra trên mắt, chị nghẹn ngào nói với chồng:

- Không... em khỏe... nhưng Jim này, có thằng... khốn nạn nào đã lấy trộm chiếc xe rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Tuyết rơi càng lúc càng dày, vừa lái xe, hắn vừa xem xét một lần nữa kế hoạch của hắn. Vào giờ này, chắc người ta đã biết chuyện mất xe. Có lẽ chị ta chạy quanh khu bãi đậu xe để tìm. Chắc chị ta đã báo cảnh sát hay gọi về nhà rồi. Thời gian người ta gọi điện báo cho các xe cảnh sát tuần tra thì chắc hắn đã ở ngoài khu vực lùng sục của cảnh sát bang Connecticut.

Vả lại, ai thèm quan tâm để ý đến đống sắt vụn này? Khi cảnh sát nghe thông báo có chiếc xe chỉ đáng giá hai trăm đô-la bị mất, thì chắc họ cũng không ra sức tìm kiếm làm gì.

Cô Sharon Martin một mình với hắn đây rồi! Nhìn da mặt của cô ta là hắn thấy kíƈɦ ŧɦíƈɦ rồi. Hắn nhớ khi hắn trói cô, hơi ấm trong người cô phả vào hắn thật dễ chịu. Cô ta mảnh mai, những đường cong ở đùi và ở mông thật êm ái. Hắn nhận ra thế qua lớp vải len dày trên váy cô. Khi hắn mang cô ra xe, cô có vẻ hằn học, hoảng hốt, nhưng hắn tin chắc cô ta đã có ý gục đầu vào người hắn.

Hắn cho xe chạy theo xa lộ Connecticut, rồi Nam River Parkway và sau đó theo xa lộ Cross County chạy về xa lộ Henry Hudson. Chạy trên những đường có xe cộ đông đúc hắn cảm thấy an toàn. Nhưng, càng đến gần con đường Vồng ở West Side chạy vào trung tâm Manhattan, hắn càng chạy chậm. Cứ nghĩ đến chuyện họ đang tìm chiếc xe hơi, hắn lại sốt ruột!

Những chiếc xe chạy như rùa bò. Bọn khốn nạn! Chúng sợ đường trơn, chúng sợ tai nạn. Chúng gây trở ngại cho hắn, làm cho hắn chậm việc. Hai gò má hắn giật giật. Hắn cảm thấy mạch máu ở đó nhảy mạnh, hắn đưa ngón tay đè lên. Hắn hy vọng sẽ đến nhà ga chậm lắm là 19 giờ 30, lúc đó hành khách từ ngoại ô đáp tàu rất đông đúc. Có thể mới không ai để ý đến hắn.

Khi hắn ra khỏi đường Vồng West Side để vào Đường 46, thì đã 19 giờ 10 phút. Hắn lái xe dọc nửa khu phố về phía Đông, rồi rẽ nhanh vào một ngõ cụt, tận cùng ngõ là một nhà kho. Ở đây, không có bảo vệ, và hắn cần chuẩn bị một lát.

Hắn dừng xe, tắt đèn. Khi hắn mở cửa xe, một lớp bụi tuyết bay vào mắt và vào mặt hắn. Trời lạnh, lạnh kinh khủng.

Hắn đưa mắt nhìn quanh chỗ đậu xe, tất cả đều tối om. Hắn yên tâm, đưa tay ra sau xe, lôi cái áo măng-tô đã đắp cho cô khi nãy. Hắn cảm thấy cặp mắt long lanh nhìn vào hắn. Hắn mỉm cười rồi lấy ra cái máy ảnh chớp lấy liền. Ánh sáng lóe lên làm cho cô gái lóa mắt. Tiếp theo, hắn lấy trong túi ra cây đèn pin, với tay ra tận sau xe, bật đèn.

Hắn chiếu luồng ánh sáng nhỏ vào mắt Sharon, di chuyển chùm sáng lên xuống trên mặt cô cho đến khi cô nhắm mắt lại và quay mặt đi.

Hắn khoái chí khi đùa nghịch cô. Hắn cười khẩy, không nói năng gì, nắm vai cô lôi lên và để cô nằm sấp xuống. Hắn lấy dao cắt dây trói ở cổ tay và cổ chân cô. Hơi thở yếu ớt vì mồm bị nhét đầy giẻ, người run cầm cập...

- Không sao chứ, Sharon? - Hắn nói nho nhỏ - Bây giờ tôi sẽ lôi giẻ ra cho cô nhé. Chỉ la lên một tiếng thôi là thằng bé đi đời. Nghe chưa?

Hắn không đợi cô trả lời, đã lấy dao cắt dung vải buộc sau đầu. Sharon nhổ miếng giẻ nhét trong miệng ra. Cô rên lên nho nhỏ:

- Neil... Tôi van ông... - Giọng cô nhỏ khó nghe. - Thằng bé sẽ ngộp thở...

- Tùy thuộc vào cô thôi. - Hắn lôi cô ra khỏi xe, giữ cô đứng gần bên xe. Sharon thấy một lớp tuyết mỏng dính trên mặt hắn. Cô choáng váng cả người. Tứ chi rã rời, cô lảo đảo, cảm thấy hắn nắm cô một cách thô bạo.

- Mặc cái này vào. - Giọng hắn bây giờ khác đi... có vẻ thúc bách.

Cô đưa tay nắm đống vải xù xì, dơ bẩn. Cái măng-tô hắn đắp cho cô hồi nãy. Cô đưa lên một cánh tay. Hắn lồng áo vào tay cô, rồi lồng tay khác.

- Trùm cái khăn này vào.

Cái khăn quá bẩn, cô xếp cái khăn lại. Cái khăn bằng len quá dày. Dù muốn dù không, cô cũng phải trùm lên đầu, buộc múi ở dưới cằm.

- Bước lại vào xe. Cô đi càng nhanh thì thằng bé càng sớm được tháo vải nhét trong mồm nó ra. - Hắn thô bạo đẩy cô vào chỗ ngồi trước xe. Cái túi xách ka ki nằm dưới sàn xe. Cô vấp phải cái bao, cố tránh chân để khỏi làm đau cậu bé. Cúi người, cô đưa tay sờ quanh cái bao, sờ đúng cái đầu của Neil.

Sợi dây ở miệng bao không buộc. Ít ra, Neil cũng thở được.

- Neil, Neil, có cô đây, không sao đâu, Neil à...

Cô cảm thấy nó nhúc nhích. Ôi lạy Chúa, xin Chúa đừng để nó ngộp thở.

Hắn đi vòng qua xe thật nhanh, leo lên chỗ lái xe mở khóa công tắc. Chiếc xe từ từ chạy đi.

"Chúng ta đang ở tại trung tâm thành phố"! Shaion kinh ngạc reo lên trong lòng, cô cảm thấy bình tĩnh trở lại. Cô phải bình tĩnh mới được. Cô phải làm theo tất cả những điều hắn ra lệnh. Xe chạy đến gần Broadway, cô thấy đồng hồ trên tháp Time Square, mười chín giờ hai mươi... Chỉ mới 19 giờ 20 phút.

Đêm qua vào giờ này cô mới từ Washington trở về. Cô tắm vòi sen, nướng sườn cừu và mở chai rượu vang trắng. Cô mệt mỏi, căng thẳng, muốn nghỉ ngơi cho khỏe rồi viết bài.

Và cô đã nghĩ đến Steve, trong ba tuần xa cách, cô đã đau khổ biết bao vì không thấy được mặt anh.

Anh đã gọi điện đến cho cô, giọng anh vừa vui mừng vừa lo âu, nhưng anh chỉ nói vắn tắt, ngắn gọn:

- Chào em... anh gọi để biết em đã về chưa, thời tiết ở Washington nghe nói xấu lắm, nó đã tràn sang đây. Hẹn gặp em ở phòng thu hình. - Anh im lặng một lát rồi nói tiếp - Anh rất nhớ em, đừng quên tối mai đến nhà anh đấy nhé.

Cô gác máy, lòng nôn nóng muốn gặp lại anh sau khi đã nói chuyện với anh. Thế nhưng, cô buồn chán và lo âu. Thực rạ thì cô muốn cái gì? Anh sẽ nghĩ gì khi về nhà không thấy hai người? Ôi, Steve!

Xe dừng lại ở ngã tư đèn đỏ trên Đại lộ 6. Một chiếc xe tuần tra của cảnh sát đến đậu ngang tầm xe họ. Sharot nhìn vào mặt chàng thanh niên lái xe, anh ta kéo chụp cái mũ cát két xuống trên trán. Anh ta nhìn qua cửa xe, và bốn mắt gặp nhau. Xe rồ máy, cô vẫn nhìn người cảnh sát, muốn anh ta nhìn lại cô cho kỹ để nhận ra có điều không ổn.

Cô cảm thấy có một vật nhọn chích vào bên hông, cô quay mặt nhìn qua, kẻ lạ đang cầm con dao trong tay.

- Nếu có người theo dõi, tôi sẽ cho cô đi đời trước. Tôi còn đủ thời gian để gϊếŧ thằng bé sau.

Giọng hắn bình tĩnh, lạnh lùng. Chiếc xe tuần tra chạy ngay ở phía sau. Đèn chớp báo hiệu chớp liên hồi. Còi thổi ồn ào. - Không, xin ông... - Hắn nhắn mạnh ga, xe vọt lên vượt qua những chiếc khác rồi biến mất ở khu phố khác.

Họ vào Đại lộ 5, có rất ít người đi bộ. Thời tiết rất xấu, rất lạnh, đi bộ ở New York rất bất tiện.

Xe rẽ qua trái vào Đường 44, hắn dẫn họ đi đâu nhỉ? Đường 44 là đường cụt mà. Đường dừng lại trước nhà Ga lớn Trung tâm, hắn không để ý à?

Hắn lái xe qua hai khu phố, cho đến Đại lộ Vanderbilt rồi rẽ phải. Hắn đậu xe gần cổng vào khách sạn Biltmore, y ngay trước mặt nhà ga.

- Đến rồi - Hắn nói nhỏ - Chúng ta sẽ vào ga. Lạnh, hai gò má giật giật. Nghe chưa?

Cô gật đầu, không biết Neil có nghe hắn nói không?

- Đợi một lát. - Hắn nói rồi nhìn cô, hắn chuồi tay vào hộp đựng găng tay, lấy ra cặp kính râm, hắn nói với cô - Đeo kính vào.

Hắn mở cửa xe, lướt mắt nhìn quanh rồi bước nhanh ra. Đường sá vắng hoe, chỉ có vài chiếc tắc-xi đậu trước mặt nhà ga, chẳng có ai thấy họ hay chú ý đến họ.

Sharon nghĩ: Chắc hắn sẽ lấy trộm xe khác. Trước khi người ta bắt đầu tìm mình, thì chắc hắn đã đem mình đi thật xa rồi.

Cô cảm thấy bàn tay trái đau nhức. Chiếc nhẫn! Chiếc nhẫn gắn đá quý mà Steve đã tặng cô vào hôm Giáng sinh... Mặt đá quay về một bên khi hắn trói hai tay cô. Đế nhẫn bằng vàng đã khía rách ngón tay cô. Không suy nghĩ đắn đo gì hết, cô tháo chiếc nhẫn ra, cô vừa có đủ thời gian để thả chiếc nhẫn xuống nệm xe thì cánh cửa đã mở ra.

Cô run lẩy bẩy trên lề đường trơn trợt, gã đàn ông một tay nắm cổ tay cô, cúi người kiểm soát trong xe. Hắn lấy miếng vải bịt miệng cô và sợi dây bị cắt. Sharon nín thở, nhưng may thay hắn không thấy chiếc nhẫn.

Hắn cúi thấp người, bê cái túi xách lên, thắt hai đầu sợi dây buộc miệng cái túi lại. Chắc Neil ngộp thở mất.

- Cô hãy nhìn đây. - Hắn nói. Cô nhìn lưỡi dao giấu dưới cổ tay áo khoác rộng của hắn. - Con dao nằm ngay trái tim thằng bé. Chỉ có một hành động khả nghi là con dao sẽ đâm vào nó ngay.

Hắn đưa tay kia nắm khuỷu tay cô, nói:

- Ta đi thôi. - Hắn dẫn cô đi qua đường, hai người đi bên nhau. Trông họ giống như một cặp vợ chồng đi vào ga, vì lạnh nên đi sát vào nhau, mặc áo quần cũ nghèo nàn giống nhau, cái túi xách trên tay người chồng là hành lý của họ.

Dù đã mang kính râm, nhưng ánh sáng trong nhà ga cũng làm cho Sharon chói mắt. Họ đi vào dãy hành lang bán hàng ở trên, nằm dôi ra chênh vênh trên tiền sảnh nhà ga. Cách bên trái họ vài bước, có một sạp bán báo. Người bán báo nhìn họ với cặp mắt thờ ơ lạnh nhạt. Họ đi xuống bậc thứ nhất. Tấm quảng cáo máy ảnh Kodak khổng lồ đập vào mắt cô, hàng chữ quảng cáo viết: "Bạn gặp cái đẹp ở đâu là hãy bắt lấy nó".

Cô cố nín cười. Hãy bắt lấy ư? Hãy bắt lấy ư?! Chiếc đồng hồ - Chiếc đồng hồ danh tiếng nằm trên phòng hướng dẫn ở giữa sân ga. Bây giờ người ta xem đồng hồ khó khăn hơn vì họ xây nhiều quầy Quỹ tiết kiệm choán bớt chỗ trống. Sharon đã đọc đâu đó nói rằng khi sáu ngọn đèn đỏ ở dưới cái đồng hồ cùng nhấp nháy, tức là người ta báo động khẩn cấp cho cảnh sát chuyện trách ở Ga lớn Trung tâm. Nếu bây giờ họ biết có chuyện kỳ lạ đang xảy ra ở đây thì họ nghĩ sao?

Đã 19 giờ 29 phút, Steve sẽ đáp tàu lúc 19 giờ 30, giờ này chắc anh đang ở... trong một toa tàu, tại nhà ga, chuyến tàu sẽ mang anh đi trong một phút nữa. Steve! Cô muốn hét thật to lên... Steve...

Những ngón tay cứng như thép bóp mạnh cánh tay cô.

- Đi ngã này. - Hắn đẩy cô đi xuống tầng cấp dẫn xuống bậc dưới. Thời điểm thuận lợi qua rồi. Ở bậc dưới không có nhiều người... Ở tầng cấp lại còn ít hơn nữa. Cô thử giả vờ té xuống... để mọi người chú ý đến họ xem sao? Không được... cô không được liều lĩnh như thế, vì hai cánh tay như sắt đang ôm quanh cái túi xách, vì con dao sẵn sàng phóng vào người Neil.

Họ đã xuống đến bậc dưới, cô nhìn thấy cửa vào quán Oyster Bar ở phía bên phải. Vào tháng trước, cô đã hẹn gặp Steve ở đấy để ăn sáng. Ngồi trong quán ăn, họ đã ăn hai tô canh hàu nóng thật ngon... Steve, hãy đi tìm chúng tôi, hãy đến cứu chúng tôi.

Cô cảm thấy bị hắn đẩy đi về phía bên trái.

- Bây giờ đi ngã này... đừng đi nhanh quá... - Đường sắt số 112. Biển thông báo giờ tàu chạy ghi: "Tàu đi Moimt Vemon 20 giờ 10 phút". Tàu vừa chạy rồi kia mà. Tại sao hắn đến đây?

Phía bên trái là một dốc nghiêng dẫn xuống đường sắt, Sharon trông thấy một bà già khốn khổ. Bà ta xách một cái túi đựng đồ nhật dụng trên tay, và diện một cái áo vét đàn ông ra ngoài chiếc váy vải len rách tả tơi. Đôi bít tất dài bằng vải dày chùng xuống trên hai chân. Bà ta nhìn chằm chằm vào cô. Bà ta nhận ra có cái gì bất thường phải không?

- Bước tới...

Hắn dẫn cô đi xuống bờ dốc đến ke tàu số 112. Bước chân họ vang lên trên bậc cấp thềm bằng sắt nghe leng keng. Tiếng rì rầm của người trên sân ga biến mất, gió lạnh ẩm ướt thổi vào mặt cô.

Ke tàu vắng hoe.

- Đi ngã này. - Hắn dẫn cô đi vòng quanh ke tàu, nơi tận cùng con đường sắt để xuống mặt dốc nghiêng thứ hai. Cô nghe nước chảy róc rách đâu đó. Hắn dẫn cô đi đâu nhỉ? Đôi kính râm khiến cô không thấy rõ. Cô nghe có tiếng rung đều đều... tiếng máy bơm... máy ép.. hắn dẫn cô xuống sân dưới tầng hầm nhà ga... rất sâu dưới mặt đất. Hắn sẽ làm gì cô và thằng bé? Cô nghe có tiếng tàu chạy ầm ầm... Chắc là có đường hầm tàu chạy rất gần đâu đây.

Hắn dẫn cô xuống sâu mãi dưới mặt đất, đường đi rộng ra. Rồi cô thấy đến một chỗ rộng bằng một nửa sân bóng đá, một chỗ chất đầy những đường ống khổng lồ, những ống dẫn nước, những động cơ nổ rầm rầm. Về phía bên trái cách cô khoảng năm hay sáu mét, cô thấy một chiếc cầu thang hẹp đi lên.

- Bước nhanh lên!... - Bây giờ cô nghe hắn thở hồng hộc phía sau. Cô leo lên cầu thang, tự nhiên cô đếm nhẩm trong miệng các bậc tháng... mười... mười một... mười hai... Cô đến mặt phẳng nhỏ ở đầu cầu thang và thấy trước mặt một cánh cửa sắt lớn.

- Xích ra. - Hắn ra lệnh, cô cảm thấy thân hình nặng trịch của hắn đè lên người cô, cô nhích người lui. Hắn để cái túi xách xuống nền nhà, liếc mắt nhìn cô. Trong ánh sáng lờ mờ, cô thấy trán hắn rịn mồ hôi. Hắn lấy chìa khóa, tra vào ổ. Một tiếng rắc vang lên, hắn xoay nắm tay. Cửa mở, hắn đẩy cô tới trước. Cô nghe hắn càu nhàu, vừa cúi xuống ôm cái túi xách lên. Cánh cửa đóng lại, trong bóng tối lạnh lẽo và ẩm ướt, cô nghe tiếng cách của cái nút bật đèn.

Trong nháy mắt, ánh sáng trên ngọn nê-ông bám đầy bụi nhấp nháy rồi bật sáng trên đầu họ.

Sharon đưa mắt nhìn quanh căn phòng dơ bẩn, những cái thùng rửa chén bốn bề đóng ván ghép lại như cái lồng, chiếc giường lính ọp ẹp, cái giỏ đi chợ lật úp lại, chiếc va-li cũ màu đen trên nền nhà.

Cô hỏi:

- Chúng tôi ở đâu đây? Ông muốn làm gì chúng tôi? - Giọng cô nho nhỏ nhưng cũng vang to trong cái phòng chật hẹp kín đáo này.

Tên bắt cóc không đáp, hắn hất cô ra, đi đến chiếc giường, để cái túi xách hải quân lên giường, rồi co hai cánh tay lại. Sharon quỳ xuống bên giường, tháo sợi dây ở miệng túi xách ra.

Đưa tay sờ cậu bé nằm chèo queo bên trong. Cô nâng đầu cậu bé lên, lấy hai tay tháo miếng vải bịt mồm ra.

Neil nghẹt thở, cậu vội hít không khí vào lồng ngực vừa thở hổn hển, người run cầm cập. Cô nghe cậu thở sò sè, ngực phập phồng. Cô ôm đầu cậu bé giữa cánh tay, cố tìm cách tháo cuộn vải bịt mắt cậu ta ra.

- Để yên thế. - Hắn ra lệnh, giọng dữ dằn, sắc như dao.

- Xin ông làm ơn, - Cô thốt lên - thằng bé bị bệnh... nó sẽ lên cơn hen mất... xin ông thương hại nó.

Cô ngước mắt lên và bỗng cô cắn lấy môi để khỏi hét lớn.

Phía trên chiếc giường, có ba tấm hình thật lớn gắn ở tường.

Một thiếu nữ đang chạy, hai tay giang ra phía trước, chị ta quay mặt nhìn lui, vẻ hoảng sợ... miệng méo như đang la lớn.

Một người phụ nữ tóc vàng, nằm dài bên cạnh một chiếc xe hơi, hai chân quặp lại dưới chân.

Một cô gái còn rất trẻ, tóc đen, một bàn tay áp lên cổ, hai mắt mở to, đứng tròng, trông có vẻ kinh hoàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Trước đây, bà Lally làm giáo viên ở bang Nebraska. Hôm bà về hưu, thấy mình cô độc, bà muốn đi thăm New York. Bà chưa muốn về lại nhà.

Buổi tối bà đến Ga lớn Trung tâm, đây là bước ngoặc của đời bà. Bà thấy lạ lùng, lo sợ khi đi qua đại sảnh của nhà ga rộng mênh mông, chiếc va-li độc nhất trên tay. Bà ngước mắt nhìn và bỗng dừng lại. Có lẽ bà là người duy nhất bỗng nhiên nhận thấy bầu trời đảo ngược. Sao ở phương Đông chạy sang phương Tây.

Bà phá ra cười, môi hé mở để lộ hai chiếc răng cửa khổng lồ. Nhiều người quay lại nhìn bà rồi quày quả bước đi. Phản ứng của họ làm bà thấy vui. Tại quê nhà nếu có người thấy bà Lally ngước mắt nhìn trời và cười một mình như thế, chắc thế nào ngày mai cả thành phố đều kháo nhau rùm beng.

Bà gởi va-li ở phòng giữ đồ, rồi vào phòng toa-lét nữ để rửa ráy. Sau khi đã vuốt lại chiếc váy cũ bằng len màu nâu đỏ cho khỏi nhàu, cài nút chiếc áo vét bằng len rộng thùng thình, bà chải lại mái tóc, thấm nước lên tóc, ép mái tóc cắt ngắn cho sát xuống, mái tóc bao ôm quanh khuôn mặt to bè và chiếc cằm nhọn.

Suốt 6 giờ tiếp theo đó, bà Lally đi xem khắp nhà ga bà thích thú như trẻ con khi nhìn cảnh người vào ra tấp nập, vội vàng. Bà ăn trong một quán ăn nhỏ bình dân rẻ tiền, đi xem các cửa hàng trong dãy hành lang ở nhà ga chạy dài đến tận các khách sạn, rồi cuối cùng đến ngồi nghỉ ở phòng đợi tại tầng trung tâm.

Bà mê mẩn nhìn một thiếu nữ đang cho con bú, ngắm một đôi tình nhân say đắm ôm nhau hôn, theo dõi một sòng bài gồm bốn con bạc đang sát phạt nhau.

Mãi cho đến nữa khuya bà mới chú ý nhận thấy có một nhóm người ngồi gần đấy, mới một lát đây thôi. Họ gồm có 6 người đàn ông và một người đàn bà nhỏ nhắn nói năng thân mật với người bạn già kia.

Người đàn bà thấy bà già nhìn mình, bèn đến bên bà và hỏi:

- Bà mới đến đây phải không? - Giọng chị ồ ồ nhưng dễ thương. Mới cách đây một lát, bà Lally đã thấy chị ta lượm tờ báo trong thùng rác.

- Phải. - Bà đáp.

- Bà có chỗ ở rồi chứ?

Bà Lally có giữ một phòng trong quán trọ thanh niên, nhưng với bản chất láu cá của bà, khiến bà đáp:

- Không.

- Bà mới đến à?

- Phải.

- Bà có tiền không?

- Chỉ có mấy đồng thôi. Lại nói láo nữa.

- Tốt, bà đừng lo, họ sẽ chỉ chỗ của bà, họ là dân thường trú ở đây. Chị ta đưa tay chỉ nhóm người phía sau chị.

- Thế chị ở gần đây sao? - Lally hỏi.

Người đàn bà mỉm cười, ánh mắt lạ lùng, nụ cười của chị để lộ hai hàm răng sâu.

- Không, chúng tôi ở đây. Tôi tên là Rosie Bidwell.

Suốt cuộc đời 62 năm buồn tẻ của mình, bà Lally chưa bao giờ có một người bạn thân. Chính Rosie Bidwell là người đã thay đổi cuộc sống của bà. Bà được họ chấp nhận vào nhóm. Cũng như Rosie, bà lấy hết đồ đạc trong va-li ra, cho vào cái túi đựng đồ nhật dụng. Bà học theo nếp sống của mọi người trong nhóm. - Ăn uống đạm bạc trong các quán ăn tự phục vụ, thỉnh thoảng tắm vòi sen trong các phòng tắm công cộng ở Greenwich Village, ngủ trong các nhà trọ rẻ tiền hay trong khách sạn bình dân giá một đô-la mỗi đêm, thậm chí còn ngủ ngay giữa phòng tiếp tân nữa.

Hay... ngủ trong phòng của bà ở Ga lớn Trung tâm.

Đây là điều bí mật duy nhất bà Lally không nói cho Rosie nghe. Bà luôn luôn đi thám hiểm khắp nhà ga, cho nên bà thuộc lòng các ngóc ngách ở nhà ga. Bà leo lên các cầu thang ở phía sau những cánh cửa sơn màu vàng cam của các ke tàu, rồi đi ngao du trong khu vực tối tăm kín đáo nằm giữa nền của bậc trên và trần của bậc dưới. Bà đã khám phá ra cầu thang khuất tịch nối hai nhà toa- lét nữ, và khi nhà toa-lét ở dưới đóng cửa để sửa chữa, bà thường lẻn vào trong cầu thang này và ngủ đêm ở đấy, không ai trông thấy hết.

Bà còn khoái đi dọc theo đường sắt ở trong đường hầm, dưới Đại lộ Park. Mỗi khi gặp con tàu đi ngang rú ầm ầm, bà dán người vào vách hầm đúc bằng bê-tông chia nhau từng miếng thức ăn với các con mèo đói đi lang thang trong hầm.

Nhưng có một chỗ nằm sâu dưới nhà ga bà thích nhất, những người bảo vệ gọi nơi nầy là phòng ca nhạc. Ở giữa những máy ép hơi, máy thông khí, máy quạt, máy phát điện chạy rầm rầm, kêu lách cách, rít ken két, người ta có cảm giác nơi này đang dự phần vào nhịp đập trái tim của nhà ga. Cánh cửa ở trên chiếc cầu thang hẹp ở phòng nhạc này không có chữ ghi chú gì hết, làm cho bà thích thú. Bà thận trọng chỉ cho một người bảo vệ đã thân quen với bà thấy. Anh chàng Rusty này nói cho bà biết đây chỉ là cái xó dơ bẩn mà ngày xưa người ta dùng làm nơi rửa bát đĩa của quán Oyster Bar, và bây giờ trong đó chẳng có quái gì hết. Nhưng bà cứ làm phiền anh ta mãi, khiến cuối cùng anh phải mở cửa chỉ cho bà xem.

Nơi này làm cho bà mê mẩn, tường và trần nhà lở lói, nồng nặc mùi ẩm mốc, nhưng bà không ngán. Căn phòng rộng, ánh sáng và nơi rửa chén bát còn hoạt động được. Thậm chí còn có cả cái tủ khoét sâu trong tường và một phòng toa-lét. Bà thấy ngay căn phòng này rất thuận tiện cho bà, nhu cầu của bà chỉ cần có thế là đủ.

Bà nói với Rusty:

- Này Rusty, đây có phòng ngủ và phòng tắm, anh cho tôi vào ngủ ở đây nhé.

Anh ta nghe bà nói, hoảng hồn, đáp:

- Không được đâu! Họ đuổi cổ tôi mất.

Nhưng bà ta cứ nói lui nói tới mãi, khiến cho anh phải cho phép bà vào ngủ một đêm. Rồi một hôm, bà tìm cách lấy cắp chìa khóa, đi thuê người ta rèn một cái chìa. Khi Rusty nghỉ việc, bà ta lấy căn phòng đó làm của riêng mình.

Lần lần bà ta chuyển một số đồ đạc của bà vào đấy, cái giường ọp ẹp, tấm nệm cũ kỹ, cái giỏ đựng rau quả.

Bà vào đấy nghỉ ngơi đều đặn. Đây là nơi bà thích nhất trần đời, nằm ngủ ngay trong lòng sâu của Ga lớn Trung tâm, co mình trong lòng nhà ga để nghe tiếng tàu gầm rú, về khuya giảm dần rồi sáng sớm lại bắt đầu rộn rã vang lên.

Nằm ở trong phòng, thỉnh thoảng bà nhớ đến bài "Con ma của Nhà Hát Lớn" mà bà đã dạy cho học sinh của bà. Bà đã kể cho học sinh nghe: "Dưới Nhà Hát Lớn màu vàng mỹ miều ấy, có một thế giới khác, một thế giới tối tăm bí ẩn, thế giới dưới đất, trong ống cống, ẩm ướt, ở đấy có một gã đàn ông lẩn tránh khỏi thế giới loài người".

Chỉ có đám mây đen xuất hiện ở chân trời làm cho bà lo sợ thôi, đó là nỗi lo sợ của bà khi một ngày nào đấy người ta phá hủy nhà ga đi. Khi ủy ban bảo vệ Ga lớn Trung tâm tổ chức cuộc biểu tình, bà Lally ép mình trốn trong một góc, nhưng bà đã hoan hô hết mình khi nghe những nhân vật tiếng tăm như bà Jackie Onassis tuyên bố rằng Ga lớn Trung tâm đã đóng góp công lao vào việc duy trì truyền thống hào hùng của dân New York, nên không thể phá hủy nó đi được.

Mặc dù người ta đã xếp nhà ga vào di tích lịch sử, nhưng bà Lally vẫn biết rằng có nhiều người đang còn tìm cách để triệt hạ nó xuống. Không, lạy Chúa, xin đừng triệt hạ nhà ga của con đi!

Bà không dùng phòng này vào mùa đông, vì ở đây rất lạnh và ẩm ướt. Nhưng từ tháng 5 cho đến tháng 9, bà thường nghỉ ngơi ở đây chừng hai lần một tuần, phải ít thôi, để khỏi làm cho những người bảo vệ chú ý, cũng như khỏi làm cho Rosie nghi ngại.

Sáu năm đã trôi qua, những năm tháng tuyệt vời nhất của đời bà Lally. Bà đã quen biết hết những người bảo vệ những người bán báo, những người bán vé tàu. Bà biết mặt hết những người thường lui tới, những người đi tàu nào vào giờ nào. Bà cũng còn nhận diện được những bợm nhậu thường xuyên về nhà trên chuyến tàu cuối cùng, bước chân xiêu vẹo trên ke tàu.

Tối thứ Hai này, Lally có hẹn gặp Rosie ở phòng đợi trung tâm. Bà đã khổ sở vì chứng thấp khớp suốt mùa đông. Đây là lý do khiến bà không đến căn phòng của mình. Nhưng đã sáu tháng trôi qua rồi, bỗng nhiên bà thấy không thể đợi lâu hơn nữa. Bà nghĩ: ta chỉ xuống xem lại căn phòng ra sao thôi. Nếu ở đấy không lạnh quá, đêm nay bà có thể ngủ ở đấy. Nhưng chắc ít có khả năng như thế.

Bà mệt nhọc đi xuống dãy tầng cấp dẫn xuống bậc phía dưới. Có ít người ở đây. Bà đi chậm rãi, canh chừng cảnh sát. Bà phải cẩn thận để không ai trông thấy bà đi đến căn phòng ấy. Chắc họ sẽ không bao giờ để cho bà vào đấy, ngay cả những người dễ thương nhất.

Bà chú ý nhìn một gia đình có ba đứa con. Thật dễ thương, bà thương trẻ con và đã từng là một nhà giáo tốt. Bà thường bỏ qua chuyện chúng chế nhạo bà xấu xí, bà hoàn toàn nhất trí với chúng về mặt này. Bà không muốn trở lại những ngày ấy nữa, mà cũng không muốn tham gia vào cảnh giàu sang của người đời.

Bà định đi xuống bờ dốc đến đường sắt 112 thì bỗng bà trông thấy những mảnh vải lót màu đỏ lòi ra ngoài chiếc măng-tô cũ màu xám.

Bà Lally nhận ra cái áo măng-tô, vì tuần trước bà đã mặc thử cái áo này trong tiệm bán áo quần cũ ở Đại lộ 2. Không thể nào có hai cái áo giống nhau như thế được, nhất là vải lót ở trong như thế. Bà lấy làm ngạc nhiên, bèn ngước mắt nhìn người đang mặc cái áo, bà quá kinh ngạc khi thấy người mặc là một cô gái còn trẻ và đẹp như thế, cô ta trùm khăn trên đầu và đeo kính râm.

Gã đàn ông đi với cô ta... Lally đã thấy hắn ở trong ga rồi. Bà nhìn đôi ủng bằng da đắt tiền của cô gái, loại ủng mà những người đi tuyến đường ở Connecticut thường mang.

Ăn mặc thật tréo cẳng ngỗng, bà ta nghĩ. Cái áo măng-tô cũ mua ở tiệm bán đồ cũ với đôi ủng đắt tiền như thế. Càng lấy làm lạ, chăm chú nhìn hai người đi qua. Cái túi xách mà gã đàn ông mang bên nách có vẻ nặng. Bà cau mày khi thấy họ đi xuống tuyến đường sắt 112. Phải 45 phút nữa mới có tàu mà. Lạ thật, bà nghĩ, tại sao lại phải đợi ở ke tàu? Trời lạnh như cắt mà.

Bà nhún vai, biết trả lời sao đây. Nếu họ đứng đợi ở ke tàu, họ sẽ thấy bà, bà không thể vào căn phòng ấy. Bà phải đợi ngày mai thôi.

Cố nén thất vọng, bà đành quay lại phòng đợi chính của nhà ga để tìm Rosie.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Nói đi, Ron. Trời ơi, nói đi!

Người luật sư có mái tóc đen bấm vào nút "ghi âm", chiếc máy cát-sét để trên giường, giữa hai người.

- Không. - Ron Thompson đáp rồi đứng dậy, bực bội đi đến cánh cửa sổ có chấn song trong phòng giam chật chội, cậu ta quay mặt nhìn ra ngoài, nói tiếp:

- Ở đây ngay cả tuyết cũng dơ bẩn, xám xịt và lạnh lùng. Ông muốn thu băng cái ấy không?

- Không - Bob Kurner đứng lên, đến quàng tay lên vai cậu - Ron, tôi van cậu.

- Để làm gì? - Đôi môi cậu run run, sắc mặt cậu biến đổi, trông có vẻ già nua. Cậu mím môi, dụi mắt - Ông Bob này, ông đã làm hết sức của ông rồi... Bây giờ không có gì có thể làm được nữa.

- Có chứ, nếu chúng ta không xin được giảm án tử hình, thì chúng ta cũng có thể xin hoãn lại việc thi hành án. Ron... Chúng ta cần xin hoãn lại.

- Nhưng quý vị đã cố làm rồi... Cô nhà báo Sharon Martin kia... Cô ta đã gởi biết bao nhiêu đơn từ, thế mà cô có nhận được gì...

- Dẹp cái cô Sharon Martin chết tiệt ấy đi! - Bob Kumer bóp mạnh hai cổ tay cậu - Dẹp tất cả đám người đạo đức giả ấy đi! Ron này, cô ấy đã làm hỏng việc. Bây giờ chúng ta sắp có một lá đơn khiếu nại của những người biết rõ cậu không thể nào gây án được. Lá đơn sẽ trình bày cho tất cả mọi người thấy rằng cho dù cậu có tội đi nữa thì cũng không đáng lãnh án tử hình. Chúng ta hy vọng Thống đốc sẽ chấp nhận ý kiến, và sẽ không áp dụng bản án tử hình nữa.

- Vậy thì tại sao ta mất thời gian như thế? Nếu không được việc gì, không hy vọng gì, bây giờ tôi có nói thì chuyện cũng không đi đến đâu.

- Cậu phải nói! - Giọng Bob Kurner dịu lại, ông ta nhìn thẳng vào cặp mắt của chàng thanh niên, cặp mắt biểu lộ lòng ngay thẳng, chân thật. Bob nhớ lại năm anh 19 tuổi, đã mười năm rồi, năm ấy anh là sinh viên ở Villanova. Còn Ron, cậu ấy ước ao vào đại học... thế mà bây giờ cậu ta sắp chết trên ghế điện. Hai năm trong tù, cậu ta vẫn không mất vẻ rắn rỏi vốn có của mình. Cậu thường tập thể dục trong phòng giam, tập rất đều, nhưng cậu đã sụt mất 10 ký, khuôn mặt cậu trắng như phấn.

- Này, cậu - Bob nói - Cậu còn giấu tôi cái gì đấy?

- Tôi không có gì để giấu ông cả.

- Ron này, cậu "không gϊếŧ" bà Nina mà cậu lại bị kết án gϊếŧ người... Tôi đã biện hộ cho cậu, nếu chúng tôi có chứng cứ gì đó để thuyết phục quan tòa... một chứng cứ có giá trị để xin tòa bằng lòng cho hoãn lại vụ hành quyết. Chúng ta còn 48 giờ... chỉ còn 48 giờ nữa thôi.

- Ông vừa nói tòa không bằng lòng cho giảm án kia mà.

Bob Kumer cúi người tắt máy ghi âm. Ông nói:

- Ron, có lẽ tôi không nên tranh luận gì với cậu nữa, vẫn biết đây chỉ là một cố gắng thôi, một việc làm cầu may nhưng cậu hãy nghe tôi nói đây. Khi cậu bị kết tội gϊếŧ bà Nina Peterson, rất nhiều người nghĩ rằng có thể cậu là thủ phạm gϊếŧ hai người nữa trước đó, hai vụ gϊếŧ người này đang còn nằm trọng vòng bí mật. Cậu có nhớ không?

- Họ đã tra hỏi tôi việc này.

- Khi ấy cậu đi học với cô con gái nhà Carfolli, cậu xúc tuyết trước nhà bà Weiss, người ta tra hỏi cậu cũng là chuyện thường tình thôi. Phương pháp điều tra xưa nay đều thế, sau khi cậu bị bắt cho đến thời gian này thì không xảy ra vụ gϊếŧ người nào nữa. Ron này, tháng trước ở Fairfield County đã có hai cô gái bị gϊếŧ, nếu chúng ta thiết lập được một giả thiết trình tòa có chi tiết gợi lại cho họ thấy có mối liên hệ giữa cách gϊếŧ bà Nina Peterson và cách gϊếŧ những người khác...

Ông ta quàng tay ôm cậu bé.

- Ron, tôi biết việc này làm cho cậu bực bội, tôi không thể hiểu được cái gì đã làm cho cậu phải dè dặt. Cậu đã nói với tôi rằng cậu nhớ mãi cái ngày hôm đó. Có cái gì đó... cái gì đó rất quan trọng đối với cậu, có thể là một chi tiết nào đấy, cậu hãy nói ra đi.

Ron nhích người ra, bước đến ngồi lên giường, cậu ta bấm nút "ghi âm" và quay mặt vào phía máy để giọng cậu có thể ghi vào máy được rõ. Cậu nhíu mày, cất tiếng nói, giọng đứt đoạn:

- Chiều hôm ấy sau khi đi học về, tôi đến làm việc ở cửa hàng của ông Timberly, bà Peterson đang mua hàng ở đó. Ông Timberly vừa mới báo cho tôi biết ông buộc lòng phải cho tôi thôi việc vì tôi cần phải có thời gian rảnh rỗi để luyện tập bóng đá. Bà ấy đã nghe ông ta nói thế, khi tôi giúp bà chất các thứ gia dụng lên xe cho bà, bà nói với tôi rằng...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Tàu vào ga Carley lúc 21 giờ. Trong thời gian ngồi trên tàu, Steve hết sức ân hận, anh buồn bực đến độ mất hết kiên nhẫn. Đáng ra anh phải điện thoại đến hỏi bác sĩ mới đúng. Nếu Neil bệnh, thế nào Sharon cũng đưa cậu bé đến bác sĩ, có lẽ vì thế mà không có ai ở nhà trả lời điện thoại cho anh.

Chắc chắn là Sharon có đến nhà anh, cô ấy không bao giờ đổi ý mà lại không báo cho anh hay.

Có thể đường dây điện thoại bị gián đoạn, nhưng nếu anh trễ tàu thì Chúa mới biết có chuyến sau nữa không. Người tài xế đã nói có khả năng xe lửa không chạy được vì đường sắt bị đóng băng.

Chắc có chuyện gì xảy ra rồi, linh tính báo cho anh biết như thế.

Có lẽ vì chuyện hành hình sắp xảy ra đã tác động đến anh, làm anh quá lo buồn, dao động. Lạy Chúa, báo buổi chiều đã in lại tất cả biến cố xảy ra. Hình của Nina được in lên trang đầu với nhan đề: "Chàng trai gϊếŧ chết thiếu phụ ở Connecticut một cách tàn bạo sẽ bị hành hình".

Ảnh của Thompson in bên cạnh ảnh Nina, cậu bé dễ thương quá, khó mà tin cậu ta lại có thể gϊếŧ người một cách kinh khủng như thế.

Cứ mỗi lần nhìn vào hình Nina là anh lại cảm thấy kinh ngạc, các phóng viên lấy ảnh của chị trước khi xảy ra vụ án mà đăng, nhưng anh không muốn họ đăng như thế. Đây là bức ảnh mà anh thích nhất, bức ảnh chụp lấy liền anh đã chụp cho chị, trong ảnh gió thổi tóc chị lòa xòa quanh mặt, những búp tóc đen uốn cong, và chiếc mũi nhỏ hếch lên một tí khi chị cười. Chiếc khăn quàng mềm mại quấn quanh cổ, sau này anh mới nhận ra chính cái khăn này Thompson đã dùng để thắt cổ chị cho đến chết.

Ôi lạy Chúa!

Khi chuyến tàu dừng bánh ở ga Carley, chính Steve là người đầu tiên bước xuống ke tàu. Chạy nhanh xuống các tầng cấp trơn trợt ở ke tàu, anh vào bãi đổ xe, ra sức chùi lớp tuyết bám trên kính chắn gió. Lớp băng mỏng cứng ngắt, anh không lau đi được. Anh kiên nhẫn đến mở thùng xe lấy dụng cụ ra để nạy lớp băng đi.

Lần cuối cùng khi Nina còn sống, chị lái xe đưa anh đến ga xe lửa. Khi ấy anh thấy bánh xe xơ cua thay vào bánh xe trước bên phải. Anh hỏi, chị đành thú thực là tối hôm trước bánh xe bên phải phía trước bị vỡ, cho nên chị phải thay bánh xơ cua.

Nghe thế, anh nổi giận, cự nự chị:

- Đáng ra em không nên dùng cái bánh xe đã hỏng ấy làm gì, bất cẩn sẽ có ngày chết đấy em ạ!

Sẽ có ngày chết đấy!

Chị hứa sẽ đi lấy bánh xe khác thay vào ngay, đến trước ga, anh định bước ra xe mà không hôn chị, nhưng chị đã vội nghiêng người qua hôn lên má anh, rồi vừa nói vừa cười như thường lệ:

- Chúc anh một ngày may mắn, "Ông hay càu nhàu" của em! Em yêu anh.

Anh không trả lời, thậm chí không quay lại chào chị mà cứ cắm cổ chạy vào ga cho kịp tàu. Anh đã định điện thoại cho chị từ phòng làm việc, nhưng rồi anh tự nhủ nên để cho chị biết anh đang giận chị. Anh lo sợ chuyện này thật, chị là người quá vô tâm. Trước tối ấy hai hôm, khi đi làm về trễ, anh thấy chị và Neil đã ngủ mà cứ để cửa trước không đóng.

Vì thế mà anh không điện thoại về nhà, anh vẫn còn giận chị lắm. Và tối hôm ấy khi anh ra khỏi sân ga lúc 17 giờ 30, chính ông Roger Perry đã đến đón anh ở ga để chở anh về, ông ta báo cho biết Nina đã chết.

Ngày ấy đến nay đã gần hai năm, hai năm cô đơn buồn khổ, cho đến buổi sáng cách nay sáu tháng, anh được người ta giới thiệu một khách mời khác đến ra mắt với anh trên mục thời sự truyền hình, đó là Sharon Martin.

Tấm kính chắn gió đã được lau chùi sạch sẽ, Steve leo lên xe, bật khóa, đợi một lát xe mới nổ máy, anh nhấn ga cho xe chạy.

Bây giờ anh chỉ còn mong mỏi một điều là về nhà thấy Neil khỏe mạnh. Anh mong muốn Neil được hạnh phúc trở lại, anh muốn ôm Sharon hôn thật lâu và giữ chặt cô vào lòng. Đêm nay, anh muốn nghe bên phòng ngủ dành cho khách có tiếng động đậy để biết cô đang ở gần cạnh anh. Tất cả mọi việc rồi sẽ thu xếp yên ổn, không để một trở ngại nào xen giữa hai người.

Steve mất đến 15 phút để đi đoạn đường mà thường khi anh chỉ cần 5 phút, đường đi chỉ là một lớp băng trơn trợt. Tại một điểm dừng, anh đạp thắng, chiếc xe trượt trên băng chạy ra đến giữa ngã tư, may thay không có xe ở chiều kia chạy tới.

Cuối cùng anh rẽ vào khu Drifwood Lane, con đường tối tăm khác thường quá. Bóng tối đến từ phía sau nhà anh, đèn đuốc đều tắt ngúm! Anh cảm thấy lo sợ điếng cả người. Bất cần đường đóng váng băng, anh nhấn ga cho xe phóng tới, chiếc xe trượt quanh. Anh cố cho xe chạy vào đường và dừng ngay ở phía sau xe của Sharon. Nhảy vội lên tầng cấp, tra chìa khóa vào ổ, mở ra. Anh gọi:

- Sharon... Neil. Sharon... Neil.

Sự im lặng rợn người tương phản với cảnh ấm cúng trong phòng. Anh lại gọi:

- Sharon... Neil.

Anh nhìn quanh phòng khách, chồng báo nằm trên nền nhà, chắc Neil đã cắt hình. Trang báo còn mở, có cái kéo và tấm hình cắt lở dở. Một tách sô-cô-la và ly rượu ngọt còn đầy để trên cái bàn xa lông bên cạnh lò sưởi, Steve bước đến, sờ vào cái tách. Sô-cô-la đã nguội. Anh chạy xuống nhà bếp, thấy cái soong nằm trên bồn rửa, anh nhảy ra ngoài rồi vào phòng làm việc. Hoàn toàn trống vắng, chỉ còn chút lửa trong lò sưởi. Anh đã dặn Bill đốt lò sưởi trước khi đi.

Không thấy gì đáng chú ý, anh chạy ra khỏi phòng làm việc, đến tiền sảnh, anh thấy đồ đạc của Sharon và cái xách tay ở đấy. Anh mở cửa tủ âm tường, áo khoác của cô vẫn còn đó, tại sao cô đi mà không kịp mặc áo khoác? Có lẽ Neil lên cơn suyễn, những cơn suyễn thường làm cho cậu ngộp thở.

Steve chạy vào nhà bếp, đến máy điện thoại, những số máy khẩn cấp - Bệnh viện, cảnh sát, cứu hỏa, bác sĩ tư - đã được anh ghi rõ ràng. Trước hết anh gọi phòng bác sĩ, cô y tá vẫn còn đấy:

- Dạ không, thưa ông Peterson, chúng tôi không nghe ai gọi nói chuyện gì về Neil hết. Có gì không ạ?...

Anh gác máy, không nói gì nữa.

Anh gọi phòng cấp cứu ở bệnh viện, phòng này đáp:

- Chúng tôi không nghe ai gọi hết...

- Thế hai người đi đâu? Có chuyện gì xảy ra cho họ phải không? Anh thở hổn hển, anh nhìn đồng hồ trên tường: 21 giờ 20. Từ khi anh gọi về nhà đến nay đã gần hai giờ rồi. Ít ra họ đi từ khi ấy. Hỏi xem nhà Perry! Có thể họ ở bên nhà Perry. Nếu Neil không khỏe, chắc có lẽ Sharon sang trú bên nhà họ rồi.

Steve lại đưa tay về phía điện thoại, lạy Chúa, xin Chúa để cho họ sang bên nhà Perry, xin Chúa cho họ bình an vô sự.

Bỗng anh trông thấy - Anh thấy lời nhắn ghi trên tấm bảng đen dùng ghi hàng hóa cần mua. Lời nhắn viết bằng phấn, nét chữ to, không đều:

- Nếu anh muốn gặp lại con và người bạn gái còn sống, thì anh hãy theo lời dặn sau đây. - Những chữ viết tiếp theo được gạch dưới chân một đường thật đậm - "Đừng báo cảnh sát" chữ ký dưới lời nhắn: "CÁO".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Trong văn phòng của cơ quan FBI nằm tại trung tâm thành phố Manhattan, ông Hugh Taylor thở dài vừa đóng ngăn hộc bàn làm việc lại. Trời, giờ này về nhà là quá tuyệt, ông ta nghĩ. Đã 21 giờ rưỡi, chắc xe cộ ít rồi. Nhưng thời tiết xấu có lẽ đã làm cản trở con đường vồng ở West Side, và giờ này chắc cũng còn khó qua lại trên cầu.

Ông ta đứng dậy, vươn vai, hai vai và cổ tay đau nhừ: chưa đầy 50 mà mình có cảm giác như đã 80, hôm nay là một ngày quá mệt. Lại một vụ âm mưu đánh cướp ngân hàng nữa, lần này là ngân hàng Chase nằm ngay trên khu Madison và Đường 48. Nhờ người phát ngôn đã báo động kịp thời mà cả bọn cướp đều bị tóm gọn, nhưng người báo đã bị trọng thương. Tội nghiệp, anh ta đang ở trong tình trạng nguy kịch, ít có cơ may sống được.

Mặt của ông đanh lại, những tội phạm như thế này cần phải cho chúng ở tù mục xương.

Nhưng không được tử hình, Hugh mặc áo măng-tô vào, vẻ mặt không được vui. Chính đấy là lý do khiến hôm nay ông cảm thấy rất bực tức. Chuyện của anh chàng Thompson làm cho ông chán nản. Ông không thể nào quên được trường hợp của Peterson, chuyện đã xảy ra hai năm rồi. Ông phụ trách công việc điều tra lập biên bản. Cùng với nhân viên trong nhóm, ông đã theo dõi Thompson đến ở một khách sạn tại Virginia, và họ đã bắt cậu ta ở đó.

Thompson luôn mồm không nhận mình đã gϊếŧ Nina Peterson. Ngay cả khi biết mình không có hy vọng gì thoát được cái chết, không cách nào xin tòa ân xá, thế mà cậu ta vẫn luôn luôn không nhận tội.

Ông Hugh rùng mình, ông không thể làm gì được. Rõ ràng ông không thể làm gì được, và ngày mốt, Ronald Thompson sẽ bị hành quyết.

Hugh ra ngoài hành lang, bấm tháng máy.

Thất vọng, ông hoàn toàn thất vọng.

Nửa phút sau, tháng máy dừng lại ở tầng ông làm việc, cửa thang máy mở ra, ông bước vào, bấm vào nút "M".

Bỗng ông nghe có tiếng gọi tên ông, ông liền đưa tay chận cánh cửa lại không cho nó đóng vào. Có tiếng chân chạy thình thịch đến thang máy. Hank Lamont, người nhân viên còn trẻ của ông, nắm lấy cánh tay ông.

Anh ta thở hổn hển nói:

- Ông Hugh, ông Steve Peterson gọi điện thoại đến cho ông... ông biết... chồng của bà Nina Peterson...

- Tôi biết ông ấy rồi - Hugh nạt lớn - Ông ta muốn gì?

- Ông ấy nói con trai ông và cô phóng viên, Sharon Martin, đã bị bắt cóc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Ai chụp những tấm ảnh này? - Sharon hỏi, giọng cô lộ vẻ sợ hãi, cô nhận thấy cô đã sai lầm khi cô cho hắn thấy vẻ sợ hãi của mình. Cô nhìn thẳng vào ánh mắt của hắn và cô thấy chính cô cũng đã làm cho hắn lo lắng. Hắn mím chặt môi lại, hai gò má giật giật liên tục. Bỗng dưng, cô nói thêm:

- Tôi muốn nói những bức hình rất hiện thực.

Một lúc sau, dường như đã bớt căng thẳng, hắn đáp:

- Có lẽ tôi cũng thấy thế.

Cô nhớ lại ánh sáng làm cô chóa mắt ở trong xe.

- Ông đã chụp những bức hình ấy phải không? - Cô nói tiếp.

- Có lẽ. - Hắn đáp.

Cô cảm thấy tay hắn sờ lên tóc cô, dừng lại trên má cô. Cô tự nhủ: đừng làm ra vẻ sợ hãi. Cô vẫn còn ôm đầu của Neil trong cánh tay. Cậu bé bắt đầu run. Tiếng khóc xen kẽ với hơi thở sò sè. Cô van xin:

- Neil, đừng khóc. Khóc sẽ làm cho cháu mệt thêm. - Cô ngước mắt nhìn kẻ bắt cóc - Cậu bé quá khϊếp sợ, ông hãy cởi trói cho nó.

- Nếu tôi cởi trói, cô có yêu tôi không? - Hắn cà chân vào mông cô khi cô ngồi xổm bên cạnh cái giường.

- Đương nhiên rồi, tôi sẽ yêu ông, nhưng tôi van ông. - Cô hất nhẹ chùm tóc vàng ẩm ướt trên trán cậu bé.

- Để yên thế! - Bàn tay cứng như sắt của hắn nắm tay cô, không cho cô tháo cái khăn bịt mắt của Neil ra.

- Tôi không định tháo ra. - Giọng cô dịu dàng, nhu hòa với hắn.

- Tốt. Tôi sẽ tháo cho một lát, nhưng chỉ tháo hai tay thôi, mà trước hết, cô hãy nằm xuống.

Cô điếng cả người.

- Tại sao thế?

- Tôi không muốn tháo dây cho cả hai. Thả thằng bé ra và nằm xuống nhanh!

Cô chỉ còn cách vâng lời hắn thôi, lần này hắn trói hai ống chân cô từ đầu gối cho đến mắt cá, rồi để cô ngồi lên giường.

- Tôi sẽ trói hai tay cô trước khi tôi ra ngoài, Sharon à, ấy là tôi đã có nhượng bộ rồi. - Giọng hắn dịu dàng khi gọi tên cô.

Trước khi đi ra ngoài à, hắn cúi xuống, cắt dây trói ở hai cổ tay của Neil. Neil giang hai tay ra huơ huơ trong không khí. Cậu thở mạnh, tiếng sò sè càng to hơn, nghe rõ hơn.

Sharon kéo cậu vào lòng, quàng chiếc măng tô cũ màu xám còn trên người cô quanh cậu. Thân hình bé bỏng run rẩy vùng vằng, cố tránh xa.

- Đừng làm thế, Neil! Cháu bình tĩnh đi! - Cô nói nghiêm nghị - Cháu hãy nhớ lời ba cháu dặn cháu mỗi lần cháu lên cơn hen. Hãy giữ bình tĩnh và thở rất chậm. - Cô ngước mắt nhìn hắn - Xin ông làm ơn cho nó ly nước được không?

Dưới ánh sáng mập mờ vì ngọn đèn bám đầy bụi, bóng của hắn in lên tường xi-măng đậm nhạt không đều, trông như một bức tranh bị tróc sơn. Hắn gật đầu, đi đến bồn rửa cũ kỹ rỉ sét. Vòi nước lạch phạch phun nước ra, lợi dụng lúc hắn đang quay lưng về phía cô, Sharon nhìn các bức hình. Hai người phụ nữ đã chết hay sắp chết, còn người kia đang cố thoát thân trước một vật gì hay một người nào đấy. Có phải hắn đã gây ra cho họ không? Hắn là tên điên cuồng phải không? Tại sao hắn bắt cóc cô và Neil? Dẫn cô và Neil đi qua nhà ga quả là hết sức liều lĩnh. Thằng cha này đã chuẩn bị chương trình rất chu đáo. Tại sao hắn làm thế?

Neil khó thở, cậu ta ho, tiếng ho khàn khàn gây ra tiếng vang nghe thật chói tai.

Tên bắt cóc quay đầu lại, tay hắn đang cầm cái ly giấy. Hình như tiếng ho làm cho hắn lo sợ, hoang mang. Khi hắn đem ly nước đến cho Sharon tay hắn run run, hắn nói:

- Biểu nó chấm dứt cái trò ma giáo ấy đi.

Sharon lấy ly nước đưa vào miệng cậu bé, cô nói:

- Uống đi, Neil.

Cậu bé uống ừng.

- Uống từ từ thôi, bây giờ cố giữ bình tĩnh đi nhé.

Neil uống hết ly nước, cậu thở phào, cô cảm thấy thân bình bé bỏng từ từ bớt căng thẳng - Thế được rồi.

Hắn cúi người xuống cô, nói:

- Sharon, cô dễ thương lắm, chính vì thế mà tôi đã yêu cô. Có lẽ cô không sợ tôi, phải không?

- Phải, tôi hoàn toàn không sợ, tôi nghĩ là ông không làm hại chúng tôi. - Cô nói bằng giọng tỉnh táo như thể đang nói một câu chuyện bình thường - Nhưng tại sao ông dẫn chúng tôi đến đây?

Không trả lời, hắn bước đến chiếc va-li đen, cẩn thận mang đến để trên nền nhà, chỉ cách cánh cửa một khoảng ngắn. Hắn ngồi chồm hổm bên cạnh, mở va-li ra.

- Có gì trong ấy thế? - Sharon hỏi.

- Có thứ tôi phải chuẩn bị trước khi đi ra ngoài.

- Ông đi đâu?

- Đừng hỏi nhiều, Sharon.

- Tôi chỉ quan tâm đến kế hoạch của ông thôi. - Cô nhìn hắn lục tìm trong va-li. Hai bàn tay hắn có vẻ sành sỏi, tài tình khi sử dụng dây điện và thuốc nổ.

- Khi tôi làm công việc này, tôi không thể nói chuyện được. Người ta phải hết sức thận trọng khi đụng đến chất nitrô-glycêrin, ngay cả tôi cũng vậy.

Sharon siết mạnh Neil vào người, thằng điên này đang chơi chất nổ chỉ cách họ vài mét. Nếu hắn phạm phải một tí sai lầm thôi, nếu hắn đụng mạnh đến... cô nhớ tòa nhà bằng đá nâu ở Greenwich Village đã bị nổ tung như thế nào rồi. Hôm ấy cô không có giờ học, cô đang đi mua sắm ở New York cách đó mấy khu phố khi vụ nổ xảy ra. Cô nhớ từng đống đổ nát, đá gạch và gỗ vỡ, nằm ngổn ngang. Những người gây nổ cũng tự cho mình biết cách sử dụng chất nổ đấy.

Lạy Chúa, cô nhìn hắn làm, cô nhìn hắn tập trung vào công việc, hai chân cô bị tê cứng, hơi ấm ngấm vào da thịt và tai cô đã dần dần quen với tiếng rầm rú ì ầm của tàu hỏa. Tiếng sò sè trong ngực Neil phát ra đều đều, nhanh hổn hển, nhưng bớt gay gắt hơn.

Cuối cùng hắn đứng dậy:

- Tốt rồi. - Hắn nói, giọng hài lòng.

- Ông làm thế để làm gì?

- Để làm kẻ canh gác cô.

- Ông muốn nói cái gì?

- Tôi phải giam cô ở đây cho đến mai, tôi không muốn để sổng cô, cô hiểu chứ?

- Nếu chúng tôi bị trói như thế này thì làm sao ông để sổng chúng tôi được.

- Có thể có một kẻ nào đột nhập vào phòng này trong lúc tôi vắng mặt.

- Ông giữ tôi lại đây bao lâu?

- Cho đến thứ Tư. Sharon, đừng hỏi nhiều như thế, tôi sẽ chỉ nói cho cô biết những, gì cô cần biết thôi.

- Xin lỗi ông, chỉ vì tôi không hiểu nên mới hỏi.

- Tôi không thể để cho ai tìm ra được cô, nhưng tôi phải đi ra ngoài có việc. Nếu có người rình rập ở ngoài cửa và muốn tìm cách để vào, thì...

Không! Đấy là ác mộng. Cô không tin. Không thể được..

- Đừng lo, Sharon, đêm mai, Steve Peterson sẽ đưa cho tôi 82 ngàn đô-la, và mọi việc sẽ yên ổn.

- Tám mươi hai ngàn đô-la à?

- Phải. Sáng thứ Tư, cô và tôi sẽ ra đi, tôi sẽ để lại lời nhắn chỉ chỗ cho họ tìm thằng bé. - Cô nghe xa xa đâu đó văng vẳng vang lên tiếng gầm rú, tiếng rú im lặng một lát rồi lại vang lên.

Hắn đi đến gần chỗ hai người. Hắn nói:

- Sharon, tôi buộc lòng phải làm thế. - Bỗng hắn xô Neil ra khỏi tay cô, cậu ta nhào xuống giường, cô chưa kịp phản ứng, hắn đã lôi quắp hai tay cô ra sau lưng. Hắn hất cái áo măng-tô rồi trói hai cổ tay cô lại.

Hắn quay qua phía Neil, cô năn nỉ hắn:

- Xin ông đừng bịt miệng cậu bé, nếu cậu ấy chết, thì ông sẽ không có tiền... Ông phải chứng minh cậu bé còn sống chứ. Tôi van ông... tôi... tôi... yêu ông, ông rất thông minh.

Hắn nhìn cô, ngần ngừ, cô nói tiếp:

- Ông... Ông đã biết tên tôi, nhưng ông không cho tôi biết quý danh, tôi muốn nghĩ đến ông.

Hắn ôm mặt cô trong hai bàn tay chai sần sùi, thô ráp. Không thể nào tưởng tượng ra được hai bàn tay như thế này lại có thể sử dụng dây điện một cách khéo léo. Hắn cúi xuống cô, hơi thở hắn âm ấm, có mùi chua. Cô đành để cho hắn hôn, hắn hôn tàn bạo lên môi, đôi môi ẩm ướt, rồi hắn để môi lên má cô, lên tai cô, hắn thì thào nói, giọng khàn khàn.

- Anh tên Cáo, hãy lặp lại tên anh cho nhớ, Sharon.

- Cáo!

Hắn trói hai cổ tay của Neil rồi kéo cậu ta đến bên cạnh cô, chiếc giường đủ chỗ cho hai người. Hai bàn tay Sharon chạm vào tường, hắn đắp cái áo măng tô cũ dơ bẩn lên hai người, đứng yên nhìn họ. Mắt hắn rời chiếc giường, nhìn sang cái máy chuyển bát đĩa.

- Không được! - Hắn có vẻ ngần ngừ, không hài lòng. Tôi không thể để cho ai nghe tiếng các người được.

Hắn lại tống giẻ vào mồm họ, bịt mồm họ lại, nhưng lần này có phần nới lỏng hơn. Cô không dám chống cự, hắn bắt đầu dữ tợn trở lại.

Bỗng cô hiểu ra lý do tại sao hắn sợ như thế, hắn hết sức cẩn thận, chậm rãi buộc sợi dây điện nhỏ vào nơi nào đấy trong va-li, rồi kéo sợi dây đến cửa. Nếu có ai đi vào, ngòi nổ sẽ phát hỏa.

Cô nghe tiếng công tắc điện kêu cách, ánh sáng trong phòng lung linh một thoáng rồi tắt ngúm. Cửa mở ra và đóng lại không một tiếng động, vài giây sau, hắn lẫn vào trong bóng tối, biến mất.

Căn phòng tối đen, im phăng phắc, chỉ còn tiếng thở sò sè khó nhọc của Neil và chốc chốc cô nghe tiếng gầm rú ì ầm của một chuyến tàu chạy trong đường hầm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Ông Roger và Glenda Perry quyết định xem tin tức 23 giờ ở trên giường. Bà đã tắm xong, bà đề nghị sẽ pha cho ông một ly rượu rum chanh trong lúc ông tắm.

- Ý kiến thật hay, nhưng anh van em, em đừng dọn dẹp nữa. - Ông kiểm tra các cửa ở nhà bếp đã khóa chốt chưa, rồi lên tầng một. Nước vòi sen ấm áp, dễ chịu, làm ông khoan khoái, khỏe người. Ông mặc áo pi-ja-ma có sọc xanh, gấp tấm chăn phủ giường lại, bật ngọn đèn ở đầu giường lên.

Trước khi lên giường nằm, ông ra đứng ở cửa sổ. Ngay cả những đêm thời tiết như thế này, hai vợ chồng vẫn thích hít thở không khí trong lành của ban đêm ở trong phòng. Ông lơ đãng đưa mắt nhìn qua phía nhà của Peterson. Đèn đuốc sáng trưng, trong nhà cũng như ở ngoài nhà. Qua màn tuyết, ông thấy có xe hơi đậu trên lối đi vào nhà.

Bà Glenda vào phòng, tách rum pha chanh nóng trên tay. Bà hỏi:

- Roger, anh nhìn cái gì thế?

Ông giật mình quay lại.

- Không có gì, nhưng em đừng lo chuyện đèn tắt bên nhà Steve nữa, nhà anh ấy sáng như đêm Nô-en rồi.

- Chắc bên nhà anh ta có người rồi, mà thôi, lạy Chúa đêm nay ta không khỏi ra nhà là tốt. - Bà để tách rượu lên cái bàn đầu giường, kéo áo ngủ lên rồi chui vào chăn - Mệt quá! - Mặt bà thất sắc, trông bà có vẻ kiệt sức bà nằm yên trên giường.

- Em bệnh à?

- Ừ.

- Cứ nằm yên thế, để anh đi lấy thuốc cho. - Cố gắng hết sức nhưng mấy ngón tay ông vẫn run run, khi lấy lọ thuốc trinitrin đưa cho bà một viên, nhìn bà uống thuốc. Bà uống xong, nhắm mắt lại. Một phút sau, bà thở dài:

- Ôi! Lần này mệt quá! Nhưng bây giờ thì đỡ rồi.

Chuông điện thoại reo, Roger uể oải đưa tay nhấc máy. Ông càu nhàu:

- Nếu ai gọi em, anh sẽ nói em ngủ rồi. Có nhiều người cứ... - Ông đưa ống nghe lên tai, giọng "a lô" của ông có vẻ gay gắt.

Bỗng giọng ông thay đổi, có vẻ lo lắng.

- Steve... Nó sao? Không. Không. Không sao. Đương nhiên rồi. Ôi! Trời đất! Tôi đến ngay.

Bà Glenda nhìn ông với ánh mắt ngạc nhiên, ông gác máy rồi nắm tay bà. Ông thận trọng nói:

- Có chuyện xảy đến cho Steve, Neil và Sharon đã mất tích. Anh sang bên ấy xem sao, anh sẽ về ngay.

- Roger!

- Anh van em, Glenda, em hãy nằm yên cho anh vui lòng. Mấy hôm nay em không được khỏe, anh van em.

Ông mặc chiếc áo len tay dài thật dày và mặc quần ra ngoài quần pi-ja-ma, mang đôi ủng bằng da vào.

Ông vừa đóng cửa nhà xong thì chuông điện thoại lại reo. Ông nghĩ: để Glenda nghe, rồi ông đi nhanh dưới trời tuyết quay cuồng. Ông đi băng qua bãi cỏ, qua đường rồi đi vào con đường vào nhà Peterson. Ông quên cả trời lạnh như cắt vào hai bàn chân không mang vớ và hơi thở đứt đoạn của mình.

Tim đập thình thịch, vừa thở hổn hển, ông bước lên tầng cấp, cửa mở ra và ông thấy một người đàn ông có vẻ chải chuốt, nét mặt sắc sảo và tóc hoa râm. Ông ta lên tiếng:

- Chào ông Perry, tôi là Hugh Taylor, làm việc ở cơ quan FBI, cách đây hai năm chúng ta đã gặp nhau rồi.

Ông Roger nhớ lại cái ngày Ronald Thompson chạy trốn khỏi nhà này đã va phải bà Glenda làm cho bà té ngửa, cái ngày bà ấy vào đây để phát hiện ra thi hài bà Nina.

- Quả thế thật. - Ông vừa đáp vừa lắc đầu, ông đi vào phòng khách. Steve đứng bên lò sưởi, hai tay bụm chặt vào nhau. Dora Lufts ngồi trên ghế trường kỷ, khóc nức nở, đôi mắt đỏ kè. Bill Lufts ngồi bên cạnh vợ, hai vai rủ xuống vẻ đau khổ.

Ông Roger đi đến bên Steve, nắm hai vai anh, ông nói:

- Lạy Chúa, Steve, tôi không biết nói gì.

- Ông Roger, xin cám ơn ông đã đến nhanh như thế.

- Họ mất tích từ khi nào?

- Chúng tôi không biết chính xác, có lẽ xảy ra vào khoảng từ 18 giờ đến 19 giờ 30.

- Chỉ có Sharon và Neil ở đây thôi sao?

- Phải, hai người... - Giọng Steve nghẹn ngào, anh im lặng một lát rồi nói nhanh - Chỉ có hai người thôi.

- Thưa ông Perry - Hugh Taylor nói xen vào - Ông có thể cho chúng tôi biết một vài chi tiết chứ? Ông có để ý thấy có kẻ nào lạ quanh đây, có xe hơi lạ, xe tải, xe cam nhông lảng vảng ở đây? Ông nhớ có thấy chi tiết nào bất thường không?

Roger ngồi phịch xuống chiếc ghế dựa, ông suy nghĩ, có chi tiết gì lạ không, chi tiết gì nhỉ? À, đúng rồi. Ông nói:

- Đèn ở ngoài tắt hết.

Steve quay qua ông căng thẳng:

- Bill cả quyết khi ông ấy và Dora ra đi, đèn ngoài sáng mà, khi tôi về thì đèn tắt hết. Ông thấy sao?

Ông Roger nhớ lại thời gian biểu buổi tối rất chính xác. Ông rời khỏi phòng làm việc lúc 17 giờ 10, ông vào Gara ở nhà lúc 17 giờ 40. Ông đáp:

- Khi tôi về nhà lúc 17 giờ 40 thì tôi thấy đèn ngoài còn sáng. Nếu không thì tôi đã chú ý rồi, bà Glenda đi pha cho tôi ly rượu. Khoảng 15 phút sau, chúng tôi ra đứng ở cửa sổ nhìn ra, Glenda thấy nhà anh tối mò.

Ông chau mày:

- Đúng thế, đồng hồ mới đánh trước đó một chút, lúc ấy khoảng 18 giờ 5. - Ông ta dừng lại một lát rồi nói tiếp - Glenda nói có chiếc xe hơi từ nhà anh chạy ra.

- Chiếc xe hơi à! Loại xe gì? - Hugh Taylor xen vào.

- Tôi chẳng biết, Glenda nói cho tôi -hay, khi ấy tôi đứng quay lưng ra cửa sổ.

- Ông có chắc là giờ ấy không?

Ông Roger nhìn thẳng vào mắt Hugh.

- Chắc. - Ông nhận ra mình đã sơ ý không chịu theo dõi diễn biến xảy ra lúc ấy. Có thật Glenda đã thấy chiếc xe chở Sharon và Neil đi không nhỉ? Neil và Sharon bị bắt! Phải chăng hai vợ chồng ông đã có linh cảm báo cho biết có điều không hay đang xảy ra? Đúng là có đấy! Ông nhớ thái độ của Glenda khi ấy có vẻ lo lắng, và chính bà đã biểu ông qua đây xem sao, nhưng ông đã không chịu nghe lời bà.

Ông có kể cho bà Glenda nghe chuyện này không? Ông quay qua Hugh Taylor:

- Vợ tôi chắc sẽ lo buồn ghê lắm.

Hugh gật đầu:

- Tôi hiểu, ông Peterson nghĩ là chúng ta cứ nói thật cho bà ấy biết. Nhưng tuyệt đối đừng cho mọi người và báo chí biết việc này. Chúng tôi không muốn báo động kẻ bắt cóc hay những người bị bắt cóc.

- Tôi nhất trí.

- Chúng ta phải hành động khẩn cấp ngay, hai sinh mạng như chỉ mành treo chuông.

- Hai sinh mạng... - Dora Lufts bật khóc nức nở, đau đớn - Cháu Neil của tôi... và cô gái xinh đẹp kia nữa, tôi không thể tin được, không thể tin được sau vụ bà Peterson.

- Bình tĩnh đi, Dora. - Bill Lufts dỗ dành vợ, giọng ông ta rền rền, ta thán.

Roger thấy Steve nhăn mặt.

- Ông Perry này, ông có biết cô Martin không? - Hugh Taylor hỏi.

- Biết chứ, tôi đã gặp cô Sharon nhiều lần rồi, ở đây và tại nhà tôi. Bây giờ tôi xin phép về xem chừng vợ tôi được không?

- Được. Chúng tôi muốn hỏi bà ấy về chuyện chiếc xe hơi. Tôi có một nhân viên đi theo, tôi sẽ nhờ anh ấy qua bên ông.

- Không, tôi muốn đích thân hỏi bà ấy, bởi vì bà ấy không được khỏe và bà rất thương mến Neil.

Ông Roger ngẫm nghĩ: Mình không thể tin được câu chuyện này, không thể có được. Không thể. Steve - Làm sao Steve chịu đựng được chuyện này nhỉ? Ông nhìn thương hại anh ta, Steve có vẻ bình tĩnh, những nét đau khổ trên mặt anh ta biến dần từ mấy tháng nay, bây giờ thấy xuất hiên trên mặt anh, khuôn mặt có nước da tai tái, những đường nhăn trên trán bỗng hằn sâu xuống, ông đề nghị với anh:

- Steve, anh phải uống một ly rượu hoặc một tách cà phê, anh có vẻ kiệt sức quá rồi.

- Cho tôi một tách cà phê thì hơn.

Dora đứng dậy.

- Để tôi đi pha cà phê cho anh, và mang lên cho anh bánh Sandwiches nữa. Ôi lạy Chúa, tại sao tối nay tôi lại đi xem xi nê chứ? Nếu có gì không hay xảy đến cho thằng bé, chắc tôi không chịu đựng nổi. Không, tôi không làm sao chiu đựng nổi.

Bill Lufts lấy tay bịt miệng vợ lại, ông ta la lên:

- Câm mồm lại, câm lại cho tôi nhờ. - Giọng nói của ông ta có vẻ giận dữ, lo lắng. Ông Roger nhận thấy ông Hugh Taylor quan sát cặp vợ chồng này rất kỹ.

Vợ chồng Lufts à? Ông ta nghi ngờ họ phải không. Không. Không bao giờ. Không thể nghi ngờ họ được.

Ông ta ra đến tiền sảnh thì chuông cửa reo vang. Tất cả mọi người vùng đứng dậy, người nhân viên mật vụ đang kiểm tra nhà bếp vội chạy ra cửa, chen lấn ông Roger để đến mở cửa.

Bà Glenda hiện ra trước ngưỡng cửa, tóc và mặt đầy cả tuyết. Hai chân không mang vớ, đi đôi giày vải xa-tanh, chỉ có chiếc áo dài ngủ bằng len hồng là có thể che chở cho bà chống lại gió lạnh như dao cắt. Mặt bà tái mét, hai tròng mắt giương to, đứng yên không động đậy, bà nắm chặt trong tay tờ giấy xé trong cuốn sổ. Bà run cầm cập.

Ông Roger chạy đến, ôm lấy bà, nếu không, chắc bà đã té xuống nền nhà. Ông siết chặt bà vào lòng, bà khóc nức nở:

- Roger, điện thoại... nó bảo em viết. Nó bảo em lặp lại lời nó nói. Nó nói đừng làm sai lời nó, không thì... không thì... Neil...

Hugh lấy tờ giấy trên tay bà ta và đọc to lên: "Nói với Steve Peterson, nếu hắn muốn gặp lại con trai và cô bạn gái còn sống, thì hãy đến buồng điện thoại ở trạm xăng Esso, chỗ có lối ra xa lộ Merritt số 22 vào lúc 8 giờ sáng mai. Tôi sẽ chỉ dẫn cụ thể về số tiền chuộc".

Hugh cau mày, chữ cuối cùng đọc không ra. Ông hỏi:

- Chữ gì thế này, bà Perry?

- Nó bảo tôi đọc lại... Tôi viết không rõ... Nó rất nôn nóng... Chữ ấy là "Cáo" đấy. Nó đã lặp lại lần hai. - Giọng bà Glenda cất cao, mặt bà nhăn nhó, bà đứng xích ra khỏi chỗ ông Roger, hai tay ôm lấy ngực và nói tiếp - Nó... nó cố giả giọng... nhưng khi nó lặp lại các từ ấy... Roger này, em đã nghe giọng nói này rồi. Đây là người mà em đã biết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Trước khi rời khỏi nhà tù Somers, Bob Kumer điện thoại cho Kathy Moore để báo anh sẽ đến gặp cô tại phòng làm việc của cô.

Kathy là trợ lý chánh án ở tòa án thiếu nhi tại Bridgport, hai người quen nhau khi anh đảm nhận nhiệm vụ luật sư biện hộ ở đây. Hai người đã đi chơi với nhau từ ba tháng nay và Kathy tham gia nhiệt tình vào công việc đấu tranh để cứu sống tính mạng của Ronald Thompson.

Cô đợi anh ở phòng tiếp khách với cô thư ký đánh máy, anh đã yêu cầu gặp cô ta luôn. Cô nói với anh:

- Marge cho biết chị ấy sẵn sàng ở lại cả đêm nếu cần. Anh có thu thập được gì về hắn nữa không?

- Nhiều - Bob đáp - Anh đã mất hai tiếng đồng hồ để làm cho nó lặp lại chuyện của nó bốn lần.

Marge Evans đưa tay ra, bằng giọng cả quyết, chị nói:

- Anh đưa tài liệu cho tôi. - Chị ta để cuộn băng cát-sét lên bàn làm việc, ngồi vào chiếc ghế quay. Chị nhét cuộn băng có ghi chữ I vào máy rồi cho máy chạy ngược lại từ dầu. Giọng của Ron Thompson vang lên, trầm ngâm, hổn hển: "Chiều hôm đó, sau khi đi học về, tôi làm việc tại cửa hàng Timberly..."

Marge bấm vào nút: "Tắt" và nói:

- Được rồi! Anh cứ làm việc khác, để tôi lo việc này.

- Cám ơn, Marge! - Bob quay qua Kathy - Cô có giữ hồ sơ đây chứ?

- Có, hồ sơ trong phòng làm việc của em. - Anh theo cô vào văn phòng nhỏ bề bộn hồ sơ giấy tờ. Trên bàn làm việc của cô chẳng có gì ngoài bốn chồng hồ sơ có đề tên: Carfolli, Weiss, Ambross, Callahan - Báo cáo của cảnh sát để ở trên hồ sơ. Bob à, nếu ông Ken Brooks biết chuyện này, thế nào ông ta cũng tức giận lắm, thế nào ông ta cũng trả em lại...

Ken Brooks là chánh án, Bob ngồi vào bàn, anh lấy tập hồ sơ đầu tiên. Trước khi mở ra xem, anh nhìn Kathy. Cô mặc chiếc quần có dây đai và chiếc áo tròng cổ thật dày. Dải vải buộc mái tóc đen phủ xuống gáy, trông cô có vẻ là một sinh viên mới 18, chứ không phải luật sư 25 tuổi. Nhưng ngay buổi đầu tiên chạm trán với cô tại một phiên tòa, Bob không bao giờ dám đánh giá thấp Kathy. Cô là luật sư giỏi, có tính thần phân tích sáng suốt, vững vàng, và rất yêu chuộng công lý.

- Kathy, anh biết hành động của em liều lĩnh, nhưng chúng ta phải tìm ra cho được mối liên hệ giữa những vụ gϊếŧ người này với vụ của bà Nina Peterson... Có bằng chứng, chúng ta mới hy vọng có cơ may cứu sống được Ron.

Kathy ngồi xuống bàn, đối diện với anh, rồi lấy hai chồng hồ sơ. Cô đáp:

- Đúng, vả lại nếu chúng ta tìm ra được mối liên hệ giữa các trường hợp này, thì chắc ông Ken Brooks sẽ bỏ qua chuyện em đưa hồ sơ cho anh nghiên cứu. Hiện giờ báo chí đang công kích ông ta, sáng nay, họ gọi hai vụ gϊếŧ người vừa xảy ra mới đây là "Những vụ gϊếŧ người vì máy vô tuyến điện thoại".

- Tại sao thế?

- Cả cô Callahan và bà Ambrose đều có máy vô tuyến điện thoại, hai người đều gọi người đến giúp họ. Bà Ambrose thì lạc đường, hết xăng. Còn Barbara Callahan thì bánh xe bị bể.

- Cách đây hai năm bà Weiss và Jean Carfolli đã bị sát hại vào ban đêm ở những đoạn đường rất vắng vẻ, không có người.

- Nhưng như thế cũng không chứng minh được có sự liên hệ nào hết. Khi Jean và bà Weiss bị gϊếŧ chết, báo chí đăng tải đây là "Những vụ gϊếŧ người do hung thủ trên xa lộ" gây ra. Cách lấy nhan đề nghe khá hấp dẫn.

- Còn em, em nghĩ sao?

- Em không biết nghĩ sao. Sau khi Ron Thompson bị bắt về tội gϊếŧ bà Peterson, ở Fairfield County không còn phụ nữ bị gϊếŧ chết nữa, mãi cho đến tháng trước đây mới xảy ra lại. Bây giờ chúng ta lại có thêm hai vụ gϊếŧ người không tìm ra được nguyên do. Nhưng những vụ gϊếŧ người theo kiểu này, tính ra cũng rất đáng kể. Máy vô tuyến điện thoại này kỳ diệu thật đấy, nhưng khi các cô các bà dùng nó để phát sóng kêu gọi người đến giúp khi họ ở một mình hay xe bị hỏng trên xa lộ vắng vẻ, thì đó là một hành động điên cuồng. Vì đây là dấu hiệu mời mọc bọn lưu manh ở trong vùng khi chúng bắt được sóng. Lạy Chúa, năm ngoái đã có một vụ ở Long Island. Một thằng bé 15 tuổi có thói quen bắt các tầng số của cảnh sát để đi đến chỗ xảy ra tai nạn. Cuối cùng người ta tóm được hắn khi hắn đâm một người phụ nữ nhờ hắn giúp đỡ.

- Anh nhất quyết tin rằng đã có một mối liên quan giữa bốn vụ gϊếŧ người này, và không nhiều thì ít có liên quan đến vụ Nina Peterson - Bob nói - Em cho đó linh cảm của em cũng được, em cứ cho là có nhiều mấu chốt liên hệ nhau, hay là cho như thế nào tùy ý em, nhưng xin em hãy giúp anh.

- Chính em rất muốn giúp anh mà, bây giờ ta bắt đầu tiến hành như thế nào?

- Trước hết phải thiết lập một danh sách ghi rõ nơi chốn, thời gian, nguyên nhân của vụ gϊếŧ người, vũ khí chúng dùng, điều kiện thời tiết, loại xe, liên hệ với gia đình nhân chứng, những nơi các nạn nhân đi, nơi họ đến. Trong hai vụ mới đây, chúng ta sẽ tính thời gian, từ khi họ gọi người đến giúp qua máy vô tuyến trên xe, đến khi người ta tìm thấy thi hài họ. Khi chúng ta làm xong việc này rồi, chúng ta sẽ so sánh từng chi tiết này với các trường hợp đã xảy ra cho bà Nina. Nếu chúng ta không tìm ra được gì, chúng ta sẽ nghiên cứu dưới một góc độ khác.

Họ bắt đầu làm việc lúc 20 giờ 10, đến 12 giờ đêm. Marge đem vào bốn xấp giấy đánh máy. Chị nói:

- Xong rồi, tôi đánh chừa khoảng cách rất rộng để dễ dàng sửa chữa một vài nơi cần sửa. Nghe cậu bé này nói thật đau lòng. Tôi đánh máy cho tòa án đã 20 năm nay, đã nghe nhiều lời khai, tôi biết cậu ta nói thật, giọng của cậu rất thành thật.

Bob cười uể oải. Anh đáp:

- Ước gì cô là Thống đốc, Marge. Cám ơn nhiều.

- Hai người đã tìm thấy gì chưa?

Kathy lắc đầu.

- Chưa thấy gì, không có gì cả.

- Những trang này có lẽ sẽ giúp anh chị thấy dấu hiệu của vấn đề. Tôi mang cà phê đến cho anh chị nhé? Chắc hai người chưa ăn uống gì.

Mười phút sau, khi chị trở lại, Bob và Kathy đều đang gò người trên hai xấp giấy. Bob đọc to lên, hai người đọc dò lại từng hàng một.

Marge để cà phê lên bàn rồi đi ra, không nói năng gì. Người bảo vệ để cho chị đi ra khỏi cơ quan. Mặc chiếc áo măng tô mùa đông kếch sù ấm áp, chị bước đại ra ngoài trời băng giá để đi đến bãi đậu xe. Chị vừa đi vừa cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin ngài giúp họ tìm ra được trong những tờ giấy kia có cái gì đó để giúp cậu bé ấy, xin ngài giúp hai người ấy tìm ra.

Bob và Kathy làm việc cho đến rạng sáng ngày sau. Kathy nói:

- Bây giờ chúng ta chia tay, em phải về nhà, tắm rửa thay áo quần. Người ta đợi em ở tòa lúc 8 giờ. Và dù sao thì em cũng không muốn người ta thấy anh ở đây.

Bob đồng ý, những từ ngữ trong bản khai nhảy múa loạn xạ trong óc anh như mớ bòng bong. Họ đã đối chiếu nhiều lần bốn bản đánh máy lời khai của Ron về những hoạt động của cậu ta vào hôm xảy ra án mạng. Họ đã tập trung vào thời gian từ khi bà Nina Peterson nói chuyện với cậu ở hãng buôn Timberly cho đến lúc cậu ta trốn chạy khỏi nhà bà. Chẳng có điều nào tương phản đáng chú ý hết. Nhưng Bob vẫn cứng đầu, anh nói:

- Chắc phải có cái gì đấy. Em mang theo số giấy tờ này, và đưa cho anh các danh sách mà chúng ta vừa thiết lập xong về bốn trường hợp gϊếŧ người kia.

- Anh không thể mang theo hồ sơ được.

- Anh biết, nhưng có thể chúng ta đã bỏ sót một chi tiết nào đó trong khi đối chiếu.

- Chúng ta không bỏ sót đâu, Bob à. - Kathy đáp, giọng nhỏ nhẹ.

Anh đứng dậy.

- Anh sẽ bắt đầu lại tại văn phòng làm việc của anh. Anh muốn đối chiếu bốn trường hợp này với bản sao tờ biên bản án mạng này.

Kathy giúp anh sắp xếp giấy tờ vào kẹp đựng hồ sơ.

- Anh đừng quên cái máy ghi âm, và các cuộn băng cát-sét. - Cô nói.

- Không quên đâu. - Anh quàng tay ôm cô. Một lát, cô áp người sát vào anh - Anh yêu em, Kathy.

- Em yêu anh.

- Ước gì chúng ta có nhiều thì giờ hơn, cái án tử hình mắc dịch này đã làm cho chúng ta mất hết thời gian. Lạy Chúa, tại sao nhiều người cứ đến đây tuyên bố là thằng bé phải chết nhỉ? Khi người ta tìm ra được tên sát nhân thật, thì chắc đã quá muộn cho Ron rồi.

Kathy dùng tay chùi trán, cô đáp:

- Mới đầu, em đồng ý việc tái lập án tử hình bởi vì em thương xót các nạn nhân, lên án bọn tội phạm. Hôm qua, tòa án thiếu nhi đã đưa ra xét xử một cậu bé. Cậu ta 14 tuổi mà có vẻ như mới 11; thân hình da bọc xương, cha mẹ đều nghiện rượu. Khi cậu ta mới 7 tuổi, bố mẹ cậu nộp đơn tố cáo cậu. "Bảy tuổi" - Cậu ta trải qua nhiều trung tâm thiếu nhi phạm pháp kể từ ngày ấy. Và cậu ta cứ tiếp tục bỏ trốn. Lần này, bà mẹ thì gởi đơn tố cáo, còn người cha thì phản bác. Hai người đã ly thân và người cha muốn giữ đứa con

- Chuyện xảy ra như thế nào?

- Em đã thắng. Em nhất quyết phải trả cậu bé về một trung tâm giáo hóa thiếu niên phạm pháp và ông chánh án đồng ý với em. Người cha nghiện ngập không dạy dỗ con cái được. Cậu bé cố tìm cách trốn thoát ra khỏi phòng xử, nhưng người sĩ quan cảnh sát đã kịp thời bắt cậu ta lại. Cậu ta nổi điên lên, la hét ầm ĩ:

- Tôi ghét tất cả mọi người, tại sao tôi không có được một gia đình như "bao đứa trẻ khác"?

- Xét về mặt tâm lý có lẽ cậu ta đã đến giai đoạn quá trễ, không cứu vãn được. Nếu năm sáu năm nữa cậu ta gϊếŧ người thì chúng ta có đưa nó lên ghế điện không? Chúng ta có quyền ấy không? - Những giọt nước mắt đau khổ trào ra trên mắt cô.

- Anh biết, Kathy. Thế nhưng, tại sao chúng ta lại chọn nghề này? Có lẽ chúng ta cần phải khôn ngoan hơn, như thế em mới thành công được. - Anh cúi người hôn lên trán cô - Anh sẽ gọi điện thoại cho em.

Về đến văn phòng, Bob bắc ấm nước lên bếp điện. Uống tách cà phê đậm làm cho anh tỉnh táo. Anh đắp nước lạnh lên mặt rồi ngồi vào chiếc bàn lớn. Anh sắp các xấp giấy theo thứ tự, liếc mắt nhìn đồng hồ, đã bảy giờ ba mươi. Chỉ còn lại 28 giờ nữa là đến giờ hành quyết, tim anh đập mạnh, cuống họng anh nghẹn ngào.

Không. Đấy chỉ là cảm giác do bị thời gian cấp bách thôi thúc mà ra. Có cái gì đó đã ám ảnh anh, anh nghĩ, phải rồi: "Chúng ta đã bỏ sót cái gì đấy".

Lần nầy anh không còn nghi ngờ gì nữa, mà chắc chắn là như thế rồi, có điều đã bị bỏ sót rồi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom