Cập nhật mới

Dịch Full Cáo Sa Mạc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Gia đình Perry về nhà, vợ chồng Lufts đã lên phòng. Chỉ còn Steve với Hugh Taylor vẫn còn ngồi tại bàn ở phòng ăn.

Những nhân viên mật vụ lặng lẽ, kỹ càng đi lấy dấu vân tay trong nhà và tìm khắp nơi dấu vết của tên bắt cóc, cả ở trong lẫn bên ngoài nhà. Nhưng họ chỉ thấy dấu vết duy nhất là lời nhắn viết cẩu thả trên tấm bảng đen. Ông Hugh nói với Steve:

- Dấu tay trên ly và tách có lẽ giống dấu tay trên cái xách của Sharon Martin.

Steve gật đầu, miệng anh chua và khô khốc. Bốn tách cà phê với nhiều điếu thuốc hút liên tục. Anh đã bỏ thuốc lá năm 30 tuổi, nhưng sau khi Nina chết, anh hút lại. Chính ông Hugh Taylor đã mời anh hút lại điếu thuốc đầu tiên. Anh nhếch mép như cười, vẻ chua chát và buồn bã. Khi anh đốt điếu khác, anh nói với ông:

- Chính ông đã cho tôi mùi vị của thuốc lá.

Ông Hugh đồng ý. Nếu hôm ấy có ai cần hút thuốc, người ấy chính là Steve. Còn hôm nay thì vì con anh! Ông Hugh nhớ hôm ấy ông cũng ngồi với Steve ở cái bàn này, khi cú điện nào đấy điện thoại đến báo cho ông một lời nhắn của Nina vợ Steve: "Ông hãy nói cho chồng tôi hay rằng phải coi chừng, con trai của tôi đang lâm nguy". Hôm ấy là buổi sáng ngày chôn cất Nina.

Khi nhớ lại chuyện này, ông Hugh rùng mình, mong sao Steve đừng nghĩ đến. Ông đã đọc kỹ lời lẽ trong tờ giấy. Ông nói với Steve:

- Ở trạm xăng Esso có một buồng điện thoại công cộng. Chúng tôi sẽ đặt một máy nghe lén ở đó, cũng như sẽ mắc ở máy điện thoại của ông và của ông bà Perry. Khi ông nói chuyện với thằng cáo này, ông cứ đôi co với nó để giữ nó lâu trên đường dây. Nhờ thế chúng tôi mới có thể xác định được vị trí của hắn và ghi âm giọng nói của hắn. Nếu bà Perry nghe lại giọng nói hắn lần nữa, biết đâu có cơ may bà ta nhận ra thằng này.

- Nếu bà ta quá tưởng tượng mà nhớ bậy thì sao? Chắc ông đã nhận thấy bà ấy quá rối trí rồi.

- Thì cũng hy vọng thôi, nhưng tôi thấy bà ấy vẫn còn tỉnh táo và rất tự tin. Dù sao đi nữa, thì ông cũng phải hợp tác với chúng tôi thôi. Ông hãy nói với Cáo rằng ông muốn có bằng chứng cho thấy Sharon và Steve còn bình an vô sự, ông phải có lời nhắn của cả hai người, trên băng cát-sét hay ghi âm. Dù nó yêu cầu bao nhiêu, ông cũng hứa sẽ đưa cho nó, nhưng nhất quyết ông đòi hỏi phải có bằng chứng cụ thể mới giao tiền.

- Ta không nên trái lệnh hắn phải không? - Steve ngạc nhiên thấy mình có thái độ quá dửng dưng như thế.

- Phải. Làm thế nó mới khỏi hốt hoảng mà...

Ông Hugh mím chặt môi, ông nghĩ nói thế là Steve hiểu rồi, ông lấy tập giấy ghi chép lên.

- Bây giờ chúng ta bắt đầu công việc thôi, có bao nhiêu người biết rõ chương trình hoạt động tối nay ở trong nhà anh, ai biết vợ chồng ông Lufts sẽ đi chơi, biết Sharon Martin sẽ đến đây?

- Tôi không biết có ai hết.

- Vợ chồng Perry biết không?

- Cũng không. Từ một tuần nay tôi không gặp họ, không hề thấy mặt họ.

- Như vậy là chỉ có vợ chồng Lufts, Sharon Martin và ông thôi phải không?

- Và Neil nữa.

- Tất nhiên rồi. Có khả năng Neil đã nói với bạn bè hay với thầy cô giáo về việc Sharon đến đây chứ?

- Có thể lắm.

- Mối liên hệ giữa ông với Sharon Martin ra sao? Xin lỗi ông, tôi phải hỏi ông điều này.

- Quan hệ của chúng tôi rất nghiêm túc, tôi dự định xin hỏi cưới cô ấy.

- Tôi biết hai người là khách mời đến tham gia chương trình thời sự truyền hình sáng nay, tôi thấy hai người bất đồng quan điểm về án tử hình. Người ta còn cho tôi biết cô ấy rất thất vọng về việc sắp hành hình Thompson.

- Ông thu thập tin tức nhanh lắm.

- Nghề của tôi mà, ông Peterson. Mối bất đồng này giữa hai người có ảnh hưởng gì đến vấn đề tình cảm không?

- Ông hỏi thế nghĩa là sao?

- Thế này nhé, chắc ông biết cô Sharon Martin đã cố hết sức để cứu sống Ronald Thompson. Cô ta đã đến nhà ông bà Perry và có lẽ cô ấy đã lấy số điện thoại của họ. Ông đừng quên số điện thoại của họ không có trong danh bạ. Như vậy có thể vụ bắt cóc này chỉ là một trò dàn cảnh, một trò Sharon muốn chơi sát ván để hoãn lại ngày hành quyết không?

- Không... không... không! Ông Hugh này, tôi biết ông buộc lòng phải xét đến khả năng này, nhưng tôi van ông, xin ông đừng phí thời gian về chuyện này. Kẻ nhắn tin chắc đã biết số điện thoại của ông bà Perry, vì số điện thoại đã ghi trên bảng đen với số của ông bác sĩ. Sharon không có thể làm một việc như thế. Không thể đâu!

Hugh vẫn chưa chịu thua:

- Thưa ông Peterson, từ mười năm nay chúng ta không thiếu những người đã làm sai luật pháp vì mục đích riêng tư, đó là những người mà chúng ta hoàn toàn không ngờ đến. Ý tôi muốn nói rằng: Phải chăng cô Sharon tạo ra những việc như thế này để thay đổi tính nết con trai ông, để cứu rỗi cậu ấy?

Một thoáng hy vọng hiện ra trên mặt Steve. Sáng nay Sharon đã nói với anh: - "Tại sao anh tin chắc, quyết đoán, nghiêm khắc như thế?". - Nếu cô ấy đã nghĩ về anh như thế thì cô ta có thể làm việc này lắm chứ?... Nét hy vọng biến mất, Steve cương quyết nói:

- Không, không thể như thế được.

- Thôi, tốt. Bây giờ ông hãy quên chuyện này đi, ông đã nhận thư, có cái nào hăm dọa, chửi rủa, hay có gì đại loại như thế không?

- Có vài lá thư lăng nhục bài viết của tôi về bản án tử hình, nhất là khi ngày hành quyết Thompson đang đến gần. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

- Không có gì hăm dọa trực tiếp chứ?

- Không. - Steve đáp nhưng bỗng anh chau mày.

- Ông đang nghĩ gì đấy? - Hugh đột nhiên hỏi.

- Ồ! Nghĩ đến mẹ của Ronald Thompson, vào tuần trước, bà ấy đã chận tôi lại ngoài đường. Sáng thứ Bảy nào, tôi cũng dẫn Neil đi bệnh viện để chích thuốc kháng histamin. Khi chúng tôi đi ra khỏi bệnh viện thì bà ta đang đứng trong bãi đậu xe. Bà ta đến yêu cầu tôi xin Thống đốc tha tội chết cho con bà.

- Ông trả lời sao?

- Tôi nói tôi không thể làm gì được, tôi phải dẫn Neil đi. Thật vậy, tôi không muốn nó biết chuyện sẽ xảy ra vào ngày thứ Tư. Tôi muốn đưa nó lên xe ngay để nó khỏi nghe chuyện của chúng tôi, cho nên tôi quày quả bỏ đi. Nhưng bà ta tưởng tôi lảng tránh không muốn nói chuyện với bà. Bà đã nói đại loại là: "Nếu đây là trường hợp của đứa con trai độc nhất" của ông thì ông tính sao? Nói xong, bà ta bỏ đi.

Ông Hugh ghi vào sổ: Hỏi bà Thompson.

Ông ta đứng lên, nhớ lại rằng ông đã định đi ngủ từ lâu. Ông nói:

- Ông Peterson này, xin ông hãy tin tưởng rằng tỷ lệ thành công trong việc gian lao này rất cao, chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc tìm kiếm Neil và Sharon. Bây giờ tôi xin khuyên ông nên đi ngủ đi.

- Ngủ à? - Steve nhìn ông ta, ánh mắt khó tin.

- Ít ra cũng phải nghỉ ngơi, ông lên phòng nằm nghỉ một chút, chúng tôi sẽ ở đây và nếu cần, chúng tôi sẽ gọi ông. Nếu điện thoại reo, cứ nhấc máy mà nghe. Bây giờ đường dây của ông đã được chúng tôi theo dõi rồi. Nhưng tôi tin rằng đêm nay thằng bắt cóc ấy sẽ không gọi nữa đâu.

- Thôi được. - Steve rời khỏi phòng ăn, bước đi nặng nề. Anh dừng lại ở nhà bếp để uống ly nước, nhưng bỗng anh quên phức chuyện uống nước. Trước mặt anh là tách sô-cô-la và ly rượu ngọt, lớp bụi than dùng để lấy dấu tay.

Sharon, mới cách đây mấy giờ, cô ta còn ở đây, trong nhà này, bên cạnh Neil. Trước đây ba tuần anh không làm sao thực hiện được mơ ước của mình là Neil con trai anh chịu thân thiện với Sharon.

Anh nhẹ bước đi ra khỏi nhà bếp, vào tiền sảnh rồi lên thang lầu. Anh đi theo hành lang qua trước phòng của Neil và phòng dành cho khách, rồi vào phòng mình. Anh nghe trên đầu có tiếng bước chân, vợ chồng Lufts đang đi ở trên tầng ba, họ cũng không thể ngủ được.

Anh bật đèn sáng và đứng yên trước ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn căn phòng. Sau khi Nina chết, anh đã sắp xếp lại căn phòng. Anh không muốn thấy đồ đạc lộng lẫy do vợ sắm sửa trước đây. Anh đã thay chiếc giường đôi bằng chiếc giường nhỏ có song bằng đồng và chọn vải dệt màu nâu và trắng lẫn lộn. Phải trang hoàng sắm sửa cho ra vẻ phòng đàn ông.

Anh cảm thấy hài lòng với căn phòng như thế này. Quả là một căn phòng trơ trọi, không màu mè, loại phòng của khách sạn hạng xoàng. Cả ngôi nhà cũng được trang hoàng giản dị như thế. Họ mua ngôi nhà này vì họ muốn có một ngôi nhà trên bờ biển. Nina đã tuyên bố: "Chúng ta phải tạo nên ngôi nhà tuyệt diệu. Anh đợi mà xem. Cứ chờ em sáu tháng thì biết". - nhưng chị chỉ làm trong hai tuần là xong.

Lần anh mới đến nhà Sharon gần đây, anh đã nghĩ đến chuyện làm lại căn phòng, sửa lại ngôi nhà để ở với cô. Cô biết cách làm cho một ngôi nhà trở nên duyên dáng, thổi sinh khí vào trong nhà. Được thế là nhờ cô biết dùng màu sắc hài hòa, biết cách bố trí hợp lý đồ đạc, và đặc biệt là nhờ có bóng dáng của cô nữa.

Anh tháo giày, nằm xuống giường. Trời lạnh, anh kéo tấm chăn đắp lên người, anh tắt ngọn đèn trên trần.

Trời tối đen bên ngoài, gió thổi đung đưa cành cây thù du chạm vào tường nhà nghe xào xạc. Tuyết rơi rào rào trên khung cửa sổ ô vuông.

Steve thiu thiu ngủ, giấc ngủ cứ chập chờn. Anh nằm mớ thấy Sharon và Neil, hai người đang kêu cứu, anh chạy qua một lớp sương mù dày đặc... chạy dọc theo một hành lang dài bất tận. Cuối hành lang có một căn phòng, anh cố tìm cách đi vào. Anh "phải" vào cho được trong căn phòng, anh chạy đến căn phòng, mở cửa ra, sương tan dần rồi biến mất. Anh thấy Sharon và Neil nằm trên nền nhà, cuống họng bị một chiếc khăn quàng quấn quanh, một đường phấn màu vẽ chung quanh thi thể của hai người.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Thật nguy hiểm nếu có ai trông thấy hắn bước lên xe đi Mount Vemon vào lúc khuya khoắc như thế này. Những người bảo vệ ở bậc dưới chú ý canh chừng loại người như hắn, vì thế hắn phải rời Sharon và Neil lúc 23 giờ kém hai phút. Thật vậy, đúng 23 giờ sẽ có một chuyến tàu vào ga, hắn có thể đi lẫn vào đám đông khoảng tám hay mười hành khách để cùng họ đi lên bờ dốc nghiêng và lên tầng hầm.

Làm ra vẻ tự nhiên, hắn hòa nhập vào ba người trong số đám đông đi về phía cổng ra Đại lộ Yanderbilt, mấy người kia rẽ sang trái, hắn đi về bên phải. Hắn nhìn kỹ để dò đường, bỗng hắn dừng lại, trước mặt hắn có một chiếc xe chuyên bắt đồ buôn bán trái phép của sở cảnh sát. Họ móc dây xích vào một chiếc xe hơi cũ màu nâu đỏ và kéo chiếc xe đi.

Hắn đi về phía Bắc của thành phố, lòng vui như mở cờ. Hắn dự định đến gọi điện ở phòng điện thoại trước nhà hàng Bloomingdale. Đi bộ trên Đại lộ Lexington làm cho hắn khỏe khoắn và bình tĩnh trở lại. Hắn thấy lâng lâng vì hồi nãy hắn đã ôm hôn Sharon, hắn cảm thấy du͙ƈ vọиɠ trong người bốc lên như lửa đốt. Và chính nàng cũng muốn hắn. Hắn cảm thấy như thế.

Nếu không có thằng bé thì chắc hắn đã làʍ ŧìиɦ với Sharon rồi. Có thể hai con mắt dưới tấm vải sẽ thấy lờ mờ được, bỗng dưng hắn rùng mình lo sợ khi nghĩ đến thằng bé đã nhìn thấy.

Tuyết đã bớt rơi nhưng bầu trời vẫn còn mây đen xám xịt. Hắn cau mày, suy nghĩ đến lúc lấy tiền, đây là giây phút quan trọng, phải đợi cho đến lúc đường sá đã vắng hết xe.

Hắn dự tính sẽ gọi điện đến nhà Perry, nếu không có hai vợ chồng ông ta ở nhà, hắn sẽ gọi thẳng đến nhà Peterson, nhưng làm thế thì thật là liều lĩnh.

Hắn đã gặp may. Bà Perry nhấc máy liền, nghe giọng bà, hắn đoán bà rất căng thẳng. Có lẽ khi Peterson biết Sharon và Neil mất tích, thế nào anh ta cũng báo cho cặp vợ chồng này biết. Hắn đã nói lời nhắn với bà bằng giọng trầm trầm, khàn khàn, giọng mà hắn thường dùng khi làm việc bất chính. Chỉ đến khi bà ta không nghe rõ tên hắn, hắn mới nổi nóng và nói to lên. Thật bất cẩn! Ngốc thật! Nhưng có lẽ bà ta quá rối trí mà không nhận ra.

Hắn cười, gác ống nghe vào, hắn thầm nghĩ rằng: nếu cơ quan FBI được báo tin, thế nào họ cũng mắc máy nghe lén vào buồng điện thoại ở trạm xăng Esso. Vì thế, sáng mai gọi Peterson ở buồng điện thoại ấy, hắn biểu anh chuyển ngay sang buồng điện thoại ở trạm xăng tiếp theo. Họ sẽ không có thời gian để mắc máy nghe lén.

Khi ra khỏi buồng điện thoại, hắn cảm thấy sung sức, khoan khoái. Một cô gái đứng trước cửa một tiệm nhỏ bán áo quần, dù trời lạnh, cô ta vẫn mặc chiếc váy ngắn cũn cỡn. Chân đi ủng, mình khoác chiếc áo lông trắng. Hắn thấy cách phục sức của cô ta rất khêu gợi, cô ta cươi với hắn, mái tóc dài uốn cong xõa quanh mặt. Cô ta còn trẻ, chứa quá 18 hay 19 tuổi, hắn thấy khoái cô ta. Hắn muốn nhìn cô ta cho rõ, hắn bước tới.

Nhưng bỗng hắn dừng lại, đứng yên, có lẽ cô ta là gái điếm, và cho dù cô ta thật sự có cảm tình với hắn đi chăng nữa, thì chắc cảnh sát cũng để ý theo dõi hai người và sẽ bắt cả hai. Hắn đã đọc được nhiều chuyện nói rằng vì một sai lầm nhỏ mà hỏng cả đại sự.

Hắn nghiêm nghị đi qua mặt cô, nhếch mép cười rồi bước ra ngoài trời giá lạnh, đi về hướng khách sạn Biltmore.

Cũng người tiếp tân khách sạn hôm qua nhìn hắn, cười khẩy, rồi đưa chìa khóa cho hắn. Hắn chưa ăn uống gì, nên đói meo, hắn sẽ gọi vài chai bia, từ lâu nay, hắn có thói quen thích uống bia.

Trong lúc chờ đợi người ta đem hai ổ mì kẹp thịt băm, khoai chiên và mứt táo lên, hắn duỗi người trong bồn tắm. Hắn đã nếm mùi ẩm mốc, lạnh lẽo và dơ bẩn trong căn phòng kia. Bây giờ hắn cảm thấy suиɠ sướиɠ. Sau khi lau khô người rồi, hắn mặc vào bộ pi-ja-ma mang theo để dùng trong chuyến hành trình này. Hắn nhìn khắp các đường may trên cái va-li, không có dấu vết gì khả nghi.

Hắn cho cậu bồi phòng tiền bo khá nhiều, hắn thấy trên xi nê người ta đều làm như thế. Hắn uống một hơi hết chai bia thứ nhất, lấy chai thứ hai để uống khi ăn bánh mì kẹp thịt băm, rồi uống chai thứ ba, nhấm nháp từng ngụm nhỏ, vừa xem tin tức buổi khuya. Lại có tin về Thompson: "Hy vọng cuối cùng có lệnh giảm án cho Ronald Thompson đã chấm dứt vào ngày hôm qua. Người ta đang chuẩn bị cho việc hành quyết sẽ diễn ra vào lúc 11 giờ 30 ngày mai như đã dự định..." Nhưng tin tức không nói gì về Neil và Sharon hết. Hắn rất sợ các cơ quan truyền thông quảng bá tin này, vì sẽ có kẻ ghép hai sự kiện này lại với nhau.

Vụ gϊếŧ hai cô gái vào tháng trước là một sai lầm, giá mà hắn kềm chế lòng mình được thì hay biết mấy. Hắn đã không muốn đi vì rất nguy hiểm. Nhưng khi hắn nghe tiếng họ kêu gọi trên máy vô tuyến điện thoại, thì có cái gì đó thúc đẩy hắn ra đi..

Nhớ đến hai cô gái, hắn cảm thấy bối rối và xao xuyến trong lòng, hắn tắt máy ra-đi-ô.

Đáng ra không nên thế... Hắn nóng nảy quá.

"Phải thế thôi".

Hắn lấy trong túi áo khoác cái máy ghi âm và mấy cuốn băng, hắn luôn luôn mang theo những thứ này bên mình. Hắn lắp một cuộn băng vào máy, nằm xuống, tắt đèn. Nằm co người dưới chăn ấm thật tuyệt, hắn đánh giá cao những tấm khăn trải giường sạch sẽ và ủi thẳng, hắn mơ ước hắn sẽ cùng Sharon thường xuyên đến ở khách sạn.

Hắn nhét ống nghe (Headphones) vào lỗ tai phải, rồi bấm nút "play" trên máy. Hắn chỉ nghe tiếng động của chiếc xe hơi một hồi lâu rồi mới nghe tiếng thắng kêu ken két, tiếng cánh cửa mở ra, và tiếng nói của hắn, giọng hắn nghe thật dễ thương, sẵn sàng giúp đỡ.

Hắn để máy chạy đến lúc hấp dẫn nhất, rồi hắn cho chạy lui chạy tới nhiều lần. Cuối cùng hắn tắt máy, lấy ống nghe ra ngủ. Bên tai văng vẳng tiếng khóc nức nở của Jean Carfolli. - "Đừng... tôi van ông... đừng".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Marian và Jim Vogler nói chuyện với nhau thật khuya, mặc dù Jim đã cố gắng hết sức để khuyên giải vợ nhưng bà ấy vẫn thất vọng não nề.

- Nếu chúng ta không mất số tiền ấy thì em buồn khổ làm gì, bốn trăm đô-la đối với chúng ta đâu phải dễ kiếm. Tại sao thằng ăn trộm xe không lấy vào tuần trước cho chúng ta khỏi tốn tiền sửa chữa? Chiếc xe chạy thật tốt, Arty đã sửa chiếc xe thật tuyệt vời. Rồi bây giờ em làm sao đến làm tại nhà ông bà Perry được? Chắc em mất việc thôi.

- Này em yêu, em sẽ không mất việc ấy đâu, anh sẽ tìm người để mượn hai trăm, và ngày mai anh sẽ mua cho em chiếc xe cũ khác.

- Ôi, anh nói thật sao? - Marian biết Jim rất ghét mượn tiền của bạn bè, nhưng nếu anh ấy bằng lòng đi mượn, chỉ dùng cho lần này thôi.

Trời quá tối, Jim khó mà thấy rõ mặt vợ, nhưng anh cảm thấy chị thư giãn ra. Anh trấn an chị:

- Em yêu à, rồi có ngày vợ chồng ta sẽ coi thường vấn đề tiền bạc. Qua những giây phút gian nan, ta sẽ có đầy đủ tiền bạc cho mà xem.

- Em hy vọng thế. - Marian đáp. Bỗng chị cảm thấy quá mệt mỏi, chán nản, chị nhắm nghiền hai mắt lại.

Họ vừa mới thiu thỉu ngủ thì chuông điện thoại reo, tiếng chuông làm họ giật mình thức dậy. Marian chống cùi tay nhổm người lên, còn Jim mò mẫm tìm ngọn đèn ngủ và nhấc máy lên nghe.

- Alô! Vâng, Jim đây - Jim Vogles đáp - Đêm nay. Đúng thế. Ô, tuyệt quá! Ở đâu? Khi nào thì tôi có thể nhận lại được? Ông có đùa không đây? Ông đùa rồi. Thế thì nhiều quá! Được rồi... ở Đường 36 và Đại lộ 12. Tôi biết. Tốt. Cám ơn. - Anh ta gác máy.

Marian reo lên:

- Chiếc xe! Đã tìm được chiếc xe!

- Phải. Ở New York. Chiếc xe đã đậu ở chỗ cấm tại Manhattan, cảnh sát đã lôi về đồn. Sáng mai họ sẽ giao trả, cảnh sát nói rằng có lẽ các chú nhóc đã tạm mượn đi chơi một vòng.

- Ôi, Jim, kỳ diệu quá!

- Có vấn đề khó khăn đấy.

- Vấn đề gì?

Jim lim dim đôi mắt, anh cười miệng méo xệch.

- Em có thể tin được không, em yêu? Họ buộc mình phải trả 15 đô-la tiền phạt vì đậu xe ẩu và 60 đô trả công cho xe cảnh sát đã lôi về đồn.

Marian nghẹn họng, chị than:

- Thế là mất tiêu tiền lương tuần đầu đi làm của em rồi. - Hai vợ chồng cùng cười đau khổ.

Sáng hôm sau, Jim đáp xe lửa lúc 6 giờ 15 đi New York và lái xe về lúc 9 giờ kém 5. Marian đã chuẩn bị đi làm xong. Đúng 9 giờ, chị đến khu Driftwood Lane. Chiếc xe tự nhiên phải đi ngao du đến New York một cách thật vô tội vạ, nhưng đã không hề hấn gì, chị cảm thấy mừng rỡ vì xe đã được thay những bánh mới, bây giờ bám đầy tuyết. Nhờ những bánh xe mới, nên xe mới được an toàn khi gặp thời tiết khắc nghiệt như thế này.

Trên đường vào nhà Perry có chiếc Mercury đang đậu trông giống chiếc chị đã thấy trước nhà bên kia đường vào hôm chị đến để gia đình Perry phỏng vấn vào tuần trước. Có lẽ nhà Perry đang có khách.

Sau khi ngần ngừ một lát, Marian cho xe dừng lại bên cạnh chiếc Mercury, cẩn thận để khỏi choán đường vào ga ra.

Chị cảm thấy hơi bực bội... vì chuyện chiếc xe, chuyện ấy xảy ra ngay khi chị bắt đầu đi làm lại. Mà thôi, chị tự nhủ, dù sao hãy bình tĩnh, dù sao vẫn còn may mắn. Chị đưa bàn tay đeo găng vỗ vỗ lên ghế ngồi bên cạnh.

Bỗng chị dừng tay lại, tay chị vừa chạm phải cái gì cưng cứng, Marian nhìn xuống, chị lấy lên một vật sáng nằm kẹt giữa chiếc nệm ngồi và lưng ghế.

- Ra thế! - Cầm chiếc nhẫn trên tay, chị quan sát. Rất đẹp: mặt đá quý màu trắng bạc gắn trên cái khung cổ tinh vi, chắc tên trộm chiếc xe đã để mất chiếc nhẫn.

Hay quá, không có chuyện người mất của đến đòi lại được, cho nên, chiếc nhẫn là của chị, dư sức bù vào số tiền 75 đô-la mà Jim đã chi ra để trả tiền để xe trái phép và tiền công lôi xe đi. Chị tháo găng ra, đeo chiếc nhẫn vào ngón tay, chiếc nhẫn vừa khít với ngón tay của chị.

Chắc chị có điềm lành rồi đây, phải báo cho Jim biết ngay mới được. Bỗng chị cảm thấy vững tâm, chị mở cửa xe, bước ra ngoài tuyết, rồi đi nhanh về phía cửa nhà bếp của nhà vợ chồng Perry.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Đúng 8 giờ, chuông điện thoại công cộng trước mặt trạm Esso reo lên. Cổ nghẹn ngào, miệng khô khốc, Steve nhấc ống nghe, anh lên tiếng:

- Alô!

- Có phải Peterson đây không? - Giọng nói ù ù, rất trầm đến nỗi anh phải gắng hết sức mới nghe được.

- Phải.

- Anh hãy đến buồng điện thoại ở trạm xăng kế cận trong vòng 10 phút, nằm ngay phía sau lối ra xa lộ 21.

Đường dây cắt.

- Alô!... Alô!... - Bên tai anh chỉ còn tiếng ù ù.

Anh thất vọng nhìn về phía máy bơm xăng, ông Hugh đã đến trước anh mấy phút. Nắp xe của ông chống lên, ông chỉ cho anh thấy mệt bánh xe của ông đang được một nhân viên trạm xăng bơm. Steve biết ông ta đang canh chừng anh. Anh lắc đầu, lên xe, cho chạy vọt ra hướng xa lộ, trước khi rẽ xe, anh thấy Hugh cũng cho xe vọt theo.

Sự lưu thông xe cộ phải chạy chậm vì đường đóng váng băng. Steve nắm tay lái thật chặt, chưa bao giờ anh đi từ trạm xăng này đến trạm xăng khác chỉ trong vòng 10 phút. Anh cho xe quẹo phải, chạy lên lề đường, ngẫm nghĩ: Giọng nói đó, anh thật khó nghe cho rõ, vậy là không hy vọng gì cơ quan FBI xác định được nơi gọi.

Lần này, anh phải cố giữ cho Cáo nói chuyện lâu mới được. Có lẽ anh cũng có thể nhận ra được giọng nói của hắn. Anh sờ cuốn sổ trong túi, anh phải ghi đầy đủ những lời Cáo nói. Nhìn vào kính chiếu hậu, anh thấy chiếc xe hơi lớn màu xanh chạy theo sau, đấy là xe của Hugh.

Steve đậu xe trước buồng điện thoại ở trạm xăng vào lúc 8 giờ 11 phút. Chuông điện thoại reo dai dẳng nãy giờ, anh lẻn nhanh vào phòng, nhấc ống nghe.

- Peterson phải không?

Giọng hắn quá nhỏ đến nỗi anh phải bít lỗ tai bên kia để ngăn tiếng động xe cộ chạy ngoài đường mới có thể nghe được. Anh đáp:

- Phải.

- Tôi muốn số tiền 82 ngàn đô-la bằng giấy bạc 10 đồng, 20 đồng và 50 đồng, không lấy bạc mới. Ngày mai vào lúc 2 giờ sáng, anh hãy đến buồng điện thoại ở góc Đường 59 với Đại lộ Lexington, ở Manhattan. Đến bằng xe của anh, đến một mình, lúc ấy anh sẽ biết chỗ giao tiền.

- Tám mươi hai ngàn đô-la... - Steve lặp lại lời hắn, anh cố nhớ lại giọng hắn, anh suy nghĩ nát óc, phải ghi nhớ cho được ngữ điệu của hắn, bắt chước cho được.

- Nhanh lên, Peterson.

- Tôi đang viết lời dặn của ông mà, tôi sẽ mang tiền đến, tôi sẽ đến chỗ ông hẹn. Nhưng làm sao tôi biết chắc con tôi và Sharon còn sống? Làm sao tôi biết ông đang giữ họ? Tôi cần có bằng chứng?

- Bằng chứng à? Bằng chứng gì? - Qua giọng nói nho nhỏ, anh thấy hắn có vẻ giận dữ.

- Một băng, ghi... ghi âm... hoặc cái gì ghi lại giọng nói của họ.

- Băng ghi âm à!

Anh nghe có tiếng cười rúc rích. Hắn cười ư? Steve khăng khăng nói:

- Tôi phải có bằng chứng. - Lạy Chúa, anh cầu nguyện - Xin ngài giúp con tránh được sai lầm.

- Anh sẽ có băng ghi âm, Peterson à. - Anh nghe bên kia đường dây phát ra tiếng cách.

- Alô - Steve thốt lên - Alô!

Không nghe gì nữa, chỉ có tiếng ù ù, anh từ từ gác máy.

Như đã thỏa thuận trước, anh đi thẳng về nhà ông bà Perry để đợi Hugh. Ngồi trong xe quá bị dao động, anh bước ra. Gió lạnh, ẩm, làm anh rùng mình. Ôi, lạy Chúa, việc này sẽ đi đến đâu? Cơn ác mộng này có thật không?

Xe hơi của Hugh hiện ra ở đầu đường, dừng lại. Ông ta hỏi:

- Nó nói gì?

Steve lấy xấp giấy ra đọc cho ông ra nghe lời hắn ra lệnh, cảm giác phi thực gia tăng. Hugh hỏi:

- Giọng nói của nó ra sao?

- Tôi nghĩ là hắn giả giọng, rất trầm, tôi không tin là sẽ có người nhận được giọng nói đó là của ai ngay cả khi ông mắc máy nghe lén. - Anh đưa mắt nhìn ra đường cố tìm chút giải khuây, cố bám vào đâu đó chút hy vọng mong manh - Nó hứa gởi cho tôi cuốn băng ghi âm, như thế có nghĩa là hai người còn sống.

- Tôi tin chắc như thế. - Hugh không nói ra nỗi lo của mình, ông không hiểu nó sẽ gởi cuốn băng cho Steve như thế nào trước khi anh đưa tiền chuộc cho nó. Tên bắt cóc không có thời gian để gởi, ngay cả khi gởi cấp tốc. Cho người mang đi thì chắc nhanh hơn, nhưng đương nhiên là anh chàng này không muốn để lộ hành động này, vì nếu lộ, thế nào cũng lọt vào tay báo chí và giới truyền thông. Ông ta hỏi Steve - Làm sao có tiền chuộc? Hôm nay ông có kiếm ra đủ số tiền 82 ngàn đô-la không?

- Tôi không có đến năm trăm nữa - Steve đáp - Tiền bạc tôi đã đầu tư hết vào tờ báo, nhưng tôi có thể có được số tiền ấy, nhờ mẹ của Neil.

- Mẹ của Neil à?

- Phải, vì vợ tôi đã thừa hưởng gia sản bà nội để lại được 75 ngàn đô-la ngay trước khi chết. Tôi đã gởi vào ngân hàng ở New York, cộng với tiền lời, tất cả có được đúng 82 ngàn đô-la.

- Đúng 82 ngàn đô-la! Thưa ông Peterson, có ai biết việc gởi ngân hàng này không?

- Tôi không rõ, có lẽ không có ai ngoài luật sư và kế toán viên của tôi, chắc những người này không nói cho ai biết đâu.

- Còn Sharon Martin?

- Tôi nhớ là không nói cho cô ấy biết.

- Nhưng có thể ông đã nói không?

- Không. Tôi tin là tôi đã không nói.

Ông Hugh bước lên tầng cấp cửa.

- Ông Peterson này, - Ông ta nói, thái độ rất thận trọng - ông phải cố nhớ cho ra ai biết được số tiền này. Việc này cộng với khả năng bà Perry nhận ra giọng nói của kẻ bắt cóc, là hai yếu tố quan trọng giúp ta đấy.

Khi họ bấm chuông cửa, ông Roger lập tức mở cửa ra ngay, ông ta để một ngón tay lên môi khi mời họ vào. Mặt ông tái mét, căng thẳng, hai vai còng xuống.

- Bác sĩ vừa mới về, ông ấy cho bà uống thuốc an thần, bà không chịu đi bệnh viện, ông sợ bà đang bị chứng nhồi máu cơ tim.

- Thưa ông Perry, tôi thật làm phiền ông, nhưng chúng tôi phải yêu cầu bà nghe giúp lời gọi đầu tiên của tên bắt cóc đã được ghi âm vào sáng nay.

- Không thể được, làm thế rất nguy hiểm cho bà ấy, bà ấy chết mất! - Nắm chặt hai nắm tay, ông cố giữ bình tĩnh - Steve, xin lỗi... Chuyện xảy ra như thế nào?

Steve vừa kể lại câu chuyện như một cái máy, càng lúc anh càng có cảm giác ảo tưởng, cảm thấy mình như một quan sát viên đang nhìn tấn thảm kịch diễn ra trước mắt mà không thể xen vào được.

Sau một hồi im lặng, Roger chậm rãi nói:

- Glenda không chịu đi bệnh viện vì bà ấy biết thế nào anh cũng cần bà ấy để nhận giọng kẻ bắt cóc. Bác sĩ đã cho bà ấy uống thuốc ngủ loại mạnh, nếu bà có thể ngủ được một chút... thì lát nữa các anh trở lại được không? Không nên đánh thức bà ấy dậy ngay lúc này.

- Được thôi. - Hugh trả lời.

Có tiếng chuông vang lên làm họ dừng lại. Ông Roger nói:

- Chuông ở cửa sau, ai thế nhỉ?... Ôi, trời ơi, người giúp việc mới! Tôi đã quên mất cô ta.

- Chị ta sẽ làm việc bao lâu? - Ông Hugh hỏi nhanh.

- Đến bốn giờ.

- Không thể như thế này được, chị ta sẽ biết hết chuyện. Ông hãy giới thiệu với chị ta tôi là bác sĩ, khi chúng tôi đi rồi, ông hãy cho chị ta nghỉ việc, ông bảo chị ta một hai hôm nữa ông sẽ gọi lại. Chị ta ở đâu?

- Ở Carley.

Chuông lại reo.

- Chị ấy đã đến đây rồi à?

- Vào tuần trước.

- Có lẽ chúng ta cần phải giải thích cho chị ta rõ.

- Được rồi. - Ông Roger vội vã đi ra cửa sau rồi cùng trở lại với Marian. Ông Hugh nhìn chăm chú vào khuôn mặt dễ thương của thiếu phụ.

- Tôi đã báo cho bà Vogler biết vợ tôi đang bệnh - Ông Roger nói - Bà Vogler, đây là người hàng xóm của tôi, ông Peterson, và đây là... bác sĩ Taylor.

- Xin chào quý ông. - Giọng chị người làm niềm nở, nhưng hơi rụt rè một chút - Ồ, ông Peterson, chiếc Mercury là của ông à?

- Vâng.

- Thế thì cậu bé hôm ấy chắc là con ông rồi, đứa bé trông dễ thương quá! Tuần trước khi tôi đến đây, cậu bé ở bên kia đường, cậu đã chỉ nhà cho tôi, cậu bé thật lễ phép, ông thật đang hãnh diện khi có đứa con như thế. - Marian tháo găng ra chìa tay để bắt tay Steve.

- Tôi rất... rất hãnh diện về Neil. - Đột nhiên Steve quay lưng, nắm lấy núm cửa trước, nước mắt rơm rớm trên mắt anh - Lạy Chúa, con cầu xin ngài...

Hugh bước đến bắt bàn tay của Marian đang chìa ra, cẩn thận không siết mạnh vì chiếc nhẫn trên ngón tay chị. Ông nghĩ: Thế này mà đi giúp việc nhà thì quả là kỳ cục. Không ai để ý nét mặt của ông đang thay đổi. Ông ta nói:

- Ông Perry, bà Vogler đến nhà ông giúp việc là hay đây, vợ ông rất lo lắng về việc nhà cửa. Tôi nghĩ là chị ấy nên bắt đầu công việc hôm nay như ông đã dự trù trước là tiện nhất.

- Ồ... tôi thấy... rất tiện. - Ông Roger quan sát Hugh, ông hiểu ngầm câu nói của ông ta. Phải chăng ông ta nghi ngại người đàn bà này có liên hệ gì đến việc bé Neil mất tích?

Marian cảm thấy bối rối, chị rời mắt khỏi hai người đàn ông đứng gần chị, nhìn Steve mở cửa trước. Chị nghĩ: phải chăng anh ta cho việc chị đưa tay ra bắt là một cử chỉ quá thân mật? Chị có cần phải xin lỗi không? Chị đừng quên rằng ở đây chị chỉ là người giúp việc nhà. Chị toan đến vỗ nhẹ lên vai anh, nhưng liền đổi ý, chỉ đứng giữ cửa cho ông Hugh đi ra mà không nói lời nào. Khi ông ta đã ra khỏi nhà, chị nhẹ nhàng đóng cửa lại, viên đá quý chạm vào nắm cửa phát ra tiếng kêu lạnh canh nho nhỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Cậu không muốn mình là một đứa bé dễ khóc, cậu đã cố gắng hết sức để khỏi khóc, nhưng vì những cơn hen suyễn làm cậu khó thở. Cậu không thể nào ngăn cản được những cơn hen này, nó làm nghẹt cổ họng cậu, làm nước mũi chảy ra và nước mắt đầm đìa cả mặt. Ở trường, cậu đã khóc nhiều, bạn học xem cậu là đồ con nít, và cô giáo cũng thế, thậm chí cô còn không để ý đến việc cậu hay khóc nữa.

Nguyên nhân làm cho cậu lo sợ, đau đớn, tất cả đều bắt đầu từ hôm mẹ cậu gặp nạn. Chuyện xảy ra vào tối cậu chơi trò xe lửa, từ đó trở đi cậu không bao giờ chơi nữa và nỗi đau cứ dày vò cậu mãi.

Nhớ đến chuyện ấy, hơi thở của Neil dồn dập hơn. - Miếng vải nhét trong mồm làm cho cậu không thở bằng miệng được. Ngực cậu phập phồng, cậu cố nuốt không khí vào người, miếng vải lại tụt sâu vào họng cậu, miêng vải to đè mạnh lên lưỡi cậu. Cậu muốn nói:

- Tôi không thở được. - Miếng vải càng tụt sâu vào miệng làm cậu nghẹt thở - Cậu sẽ khóc mất.

- Neil, bình tĩnh đi cháu... - Giọng của Sharon nghe thật kỳ, rất trầm và ú ớ, như là nó phát ra từ trong họng. Mặt cô ở gần bên mặt cậu, cậu cảm thấy mặt cô nhúc nhích khi cô nói với cậu, chắc trong miệng cô cũng có miếng vải.

Chúng ta đang ở đâu đây? Trời lạnh quá, ở đây quá tệ. Cậu nghĩ: trên người cậu có cái gì đấy, như là cái chăn dơ bẩn, hai mắt cậu bị bịt cứng, tối thui.

Gã đàn ông mở cửa, xô cậu nhào xuống đất, hắn trói hai người lại rồi mang Sharon đi. Sau đó, hắn trở lại và Neil cảm thấy hắn nâng cậu lên và bỏ vào cái túi xách lớn. Có lần ở nhà Sandy, các cậu đã chơi trò cút bắt, cậu đã trốn trong cái bao đựng lá khô lớn mà cậu thấy trong nhà xe. Cậu đã có cảm giác như bây giờ. Sau khi gã đàn ông bỏ cậu vào bao, cậu không còn nhớ gì hết, không nhớ gì cho đến khi Sharon lôi cậu ra. Y như cái ngày mẹ cậu nhào xuống đất.

Cậu không muốn nghĩ đến chuyện này. Sharon nói:

- Neil, thở từ từ, đừng khóc, Neil, cháu can đảm mà.

Có lẽ cô cũng cho cậu chỉ là đứa mau khóc. Khi tối cô đến, cậu đã khóc. Cũng như khi bà Lufts dọn trà và bánh mì nướng, cậu không ăn và khóc. Bà ấy đã nói: - "Chắc chúng tôi phải mang cậu đến Florida với chúng tôi mới được, Neil à. Phải làm cho cậu có da có thịt lại mới được".

Cậu suy nghĩ: Nếu ba cưới cô Sharon thì tình thế chắc sẽ như thằng Sandy đã nói với cậu. Không ai dại gì nuôi nấng một đứa bé bệnh h0ạn, chắc cậu phải đi với vợ chồng ông Lufts thôi.

Cậu lại khóc.

Thế nhưng cô Sharon không có vẻ tức giận vì cậu bệnh h0ạn, thật kỳ lạ, cô dịu dàng nói với cậu:

- Hít vào... thở ra... từ từ, thở bằng mũi... - Cậu cố gắng làm theo lời cô, hít vào... thở ra... - Cháu can đảm đấy, Neil à. Cháu sẽ kể cho bạn bè nghe chuyện này để chúng biết mặt.

Thỉnh thoảng thằng Sandy yêu cầu cậu kể lại chuyện hôm mẹ cậu gặp tai nạn. Sandy nói: - "Nếu có kẻ nào dám đụng đến mẹ mình, mình sẽ ngăn cản nó ngay".

Có lẽ hôm ấy cậu nên nhảy vào ngăn cản thằng cha ấy mới phải. Cậu muốn hỏi ba cậu có nên làm như thế không nhưng rồi không bao giờ cậu hỏi. Ba cậu cứ mãi mãi nói với cậu là đừng nghĩ đến ngày hôm ấy nữa.

Nhưng cậu không thể ngăn cản được việc này.

Hít vào... thở ra... tóc của Sharon dính vào má cậu, hình như cô không ngạc nhiên về việc cậu bị tóm đi với cô như thế này. Tại sao thằng cha này dẫn họ đến đây? Cậu biết hắn là ai rồi, cách đây mấy tuần cậu đã gặp hắn khi ông Lufts dẫn cậu đến nơi hắn làm việc.

Từ hôm ấy cậu nằm mơ thấy nhiều ác mộng hơn nữa, có lần, cậu định nói cho ba cậu biết, nhưng bà Lufts đi vào và cậu cảm thấy mình ngốc nghếch. Từ đó cậu không nói gì hết. Bà Lufts cứ lo lắng hỏi cậu luôn mồm. - "Cháu đã đánh răng chưa? Cháu có quấn khăn quàng cổ khi ăn không? Cháu cảm thấy người như thế nào? - Cháu có ngủ ngon không? - Cháu ăn xong chưa?" - Và bà ta không bao giờ để cho cậu trả lời. Bà cứ lục lọi phần ăn của cậu để xem cậu có ăn không, hay biểu cậu hả miệng ra cho bà xem cuống họng.

Có mẹ, tất là phải khác như thế này. Trước đây bà Lufts chỉ một tuần đến một ngày để làm giúp việc nhà, nhưng sau khi mẹ không còn nữa thì bà ta cùng ông Lufts dọn đến ở trên lầu, và từ khi ấy, mọi người đều thay đổi hết.

Vì mãi nghĩ đến các chuyện ấy nên cậu nhận thấy nước mắt khô hết. Cậu vẫn còn sợ, nhưng không như hôm mẹ cậu ngã nhào xuống và khi cậu ở một mình. Không như...

Gã đàn ông...

Hơi thở cậu dồn dập, cậu nghẹt thở.

- Neil - Sharon lấy má cà vào má cậu - Cháu hãy nghĩ đến lúc chúng ta ra khỏi đây. Ba cháu sẽ rất suиɠ sướиɠ khi gặp lại chúng ta, cô tin là ba cháu sẽ dẫn chúng ta đi chơi. Cháu biết không, cô rất thích đi trượt pa-tanh với cháu. Hôm ba cháu đến New York, cháu không đi theo ba cháu. Và sau khi ba cháu và cô dự định dẫn cháu đi chơi thảo cầm viên nằm gần bãi trượt pa-tanh thì...

Bây giờ thì cậu hiểu cô Sharon có vẻ nghĩ đến những điều cô nói thật. Hôm ấy cậu cũng muốn đi chơi, nhưng khi cậu nói cho Sandy biết chuyện này, thằng ấy đã nói rằng cô Sharon không thực lòng muốn cậu đến với họ đâu, nhưng cô nói cô muốn có Neil đi với họ là để cho được lòng ba cậu thôi.

Cô ấy nói tiếp:

- Ba cháu đã nói với cô là đến mùa thu sắp tới, ba cháu sẽ dẫn cháu đi xem bóng đá ở Princeton. Khi cô còn sinh viên, cô đã đi xem bóng đá ở Darmouth. Năm nào trường này cũng thi đấu với trường Princeton, nhưng lúc này thì ba cháu đã hết học ở đây rồi. Cô học trường đại học nữ, trường Mount Olyoke. Từ Darmouth đến đây mất hai giờ, và vào dịp cuối tuần, bọn cô thường rủ nhau đi từng nhóm, nhất là vào mùa bóng đá... Giọng cô thật kỳ, nghe như tiếng lầm bầm.

- Nhiều người dẫn theo gia đình đi xem bóng đá, ba cháu chắc rất tự hào về cháu. Ba cháu nói cháu rất can đảm khi mắc phải chứng hen. Ba cháu nói ít có trẻ nào chịu đựng nỗi mỗi tuần một ống thuốc tiêm mà không nói gì, còn cháu, cháu không hề than van, cháu không bao giờ khóc.

Bây giờ để nói được là cả một cực hình, cô nuốt nước bọt một cách rất khó nhọc.

- Neil này, phải chăng chúng ta ai cũng có kế hoạch sống cả phải không? Khi cô lo sợ hay cô bị bệnh, cô thường vạch ra kế hoạch sống cho mình. Cô thường nghĩ đến những điều thiện, đến điều mà cô thích làm. Năm ngoái cô đã đến Li Băng - nước ấy cách chúng ta khoảng tám ngàn cây số - Cô viết về chuyện chiến tranh ở đấy. Cô ở một nơi có rất nhiều chuột truyền nhiễm, một đêm cô mắc bệnh nặng. Cô bị cảm cúm và sốt, cô chỉ có một mình, mình mấy đau nhừ, tay chân bải hoải, y như bây giờ vậy. Và thế là cô nghĩ đến điều cô thích làm khi trở về nhà. Cô nhớ đến một bức tranh cô rất thích, bức tranh vẽ một hải cảng có những chiếc thuyền buồm. Ngay khi về lại New York, cô thề sẽ làm bằng được để có bức tranh ấy, và cô đã thực hiện được.

Giọng cô càng lúc càng nhỏ, khó nghe cho rõ những lời cô nói ra.

- Ba cháu và cô nghĩ đến cách làm cho cháu vui, vui thật sự. Cháu biết không, ba cháu đã nói gia đình Lufts sắp dọn đi Florida.

Neil cảm thấy có nắm tay khổng lồ đang đè nát ngực cậu:

- Hãy bình tĩnh, Neil! Cháu hãy nhớ làm thế. Hít vào... thở ra... thở từ từ. Tốt. Khi ba cháu dẫn cô xem nhà cháu, lúc vào phòng hai vợ chồng ông Lufts ở, cô nhìn qua cửa sổ, cô thấy cảnh tượng giống như trong bức tranh của cô. Cô trông thấy cả cái hải cảng, cả thuyền bè, cả eo biển và hòn đảo. Nếu cô là cháu, khi gia đình ông Lufts đi Florida rồi, cô sẽ dọn lên ở tại phòng ấy. Cô sẽ thiết lập ở đây một thư viện, những kệ để đồ chơi và bàn học. Chỗ hốc tường rất rộng đủ cho cháu để đồ chơi xe lửa của cháu. Ba cháu nói cháu rất thích đồ chơi xe lửa, khi còn bé, cô cũng thích chơi đồ chơi ấy. Thật vậy, cô có bộ đồ chơi xe lửa Lionel, đồ này trước đây của ba cô cho, nên bây giờ đã xưa rồi. Cô muốn cho cháu đồ chơi này.

Khi gia đình ông Lufts đi Florida khỉ gia đình Lufts đi... Sharon không muốn cậu đi với họ, cô Sharon muốn cậu dọn vào phòng họ mà ở.

- Và bây giờ cô sợ, cô không được khỏe, cô muốn ra khỏi đây. Nhưng cô suиɠ sướиɠ khi có cháu bên cạnh, cô sẽ nói với ba cháu rằng cháu rất can đảm, cũng như cháu đã cố thở từ từ để khỏi bị ngộp thở.

Tảng đá đen nặng trịch đè lên ngực Neil nhúc nhích một chút. Giọng của Sharon làm cho nó chuyển dịch từ trước ra sau, y như nó làm cho cái răng sửa nhúc nhích khi sắp rụng. Bỗng Neil cảm thấy buồn ngủ, mặc dù hai tay đã bị trói, cậu vẫn chuyển động được mấy ngón tay, di chuyển dọc theo cánh tay của Sharon cho đến khi cậu tìm được cái cậu tìm: một đầu cánh tay áo của Sharon, cậu nắm chặt miếng vải áo trong tay, thả hồn vào giấc ngủ.

Hơi thở khò khè đều đặn, Sharon nghe tiếng rít nặng nề, nhọc mệt, cô đâm lo, cảm thấy bộ n9ực của cậu bé hoạt động liên hồi. Căn phòng lạnh giá ẩm ướt, Neil đã cảm lạnh. Nhưng nhờ hai người nằm bên nhau, hơi ấm phả vào nhau cũng đỡ.

Mấy giờ rồi nhỉ? Họ đến căn phòng này sau 19 giờ 30, gã đàn ông... Cáo... ở lại đây với họ một thời gian khá lâu. Hắn đi cách đây bao lâu rồi? Chắc đã quá nửa đêm, bây giờ đã sang ngày thứ Ba rồi. Cáo đã nói họ ở lại đây cho đến thứ Tư. Làm sao Steve kiếm cho ra 82 ngàn đô-la trong một ngày để chuộc họ nhỉ? Mà tại sao số tiền lại kỳ quặc thế? Có phải Steve đang cố tiếp xúc với cha mẹ anh không? Chuyện này khó đấy, vì cô biết hiện giờ hai ông bà đang ở tại Iran. Khi Neil dậy, cô cũng sẽ kể cho cậu nghe cha cô làm kỹ sư ở Iran.

Cô nhớ lại lời hứa của thằng bắt cóc: "Cả hai chúng ta sẽ đi vào sáng thứ Tư, tôi sẽ để lại lời nhắn cho biết tìm thằng bé ở đâu". Cô sẽ giả vờ muốn đi với hắn. Ngay khi Neil đã được cứu thoát, trên sân ga chỉ còn lại cô với thằng bắt cóc, cô sẽ la lên. Tới đâu thì tới, thế nào cô cũng phải liều thôi.

Nhưng trời ơi, làm sao họ cứu hai người được? Hắn đã nhìn Neil với ánh mắt kỳ lạ lắm. Hắn có vẻ như ghét cay ghét đắng cậu bé, hay phải chăng hắn... phải chăng hắn sợ cậu. Hừ, không thể thế được.

Có phải hắn cứ bịt mắt Neil vì sợ thằng bé sẽ nhận ra hắn chứ gì? Có lẽ hắn ở Carley phải không? Nếu đúng thế thì tại sao hắn còn để cho Neil sống? Neil đã thấy hắn khi hắn đột nhập vào nhà, Neil đã nhận ra mặt hắn. Cậu bé sẽ nhận ra hắn nếu cậu thấy hắn lại lần nữa, cô tin chắc như thế, và chắc là thằng cha này cũng biết thế. Có phải hắn dự tính sẽ gϊếŧ Neil khi hắn đã có tiền?

Phải, chắc hắn sẽ gϊếŧ cậu bé.

Ngay cả khi hắn cho cô ra khỏi phòng này, thì tình thế đã bất lợi cho Neil.

Quá tức giận và lo sợ khiến cô nhích người sát vào Neil lần nữa, cô quắp hai chân quanh người cậu như muốn che chở cho cậu.

Ngày mai. Thứ Tư.

Hẳn bây giờ bà Thompson cũng đang nghĩ đến chuyện sẽ xảy ra vào ngày mai. Chắc bà ta đang tức giận, lo sợ và thất vọng, bản năng làm mẹ đang thôi thúc bà tìm cách che chở cho con bà. Neil là con của Steve, chắc anh cũng đang rất đau khổ, đang hốt hoảng lo âu. Cả anh và bà Thompson đều cùng đau buồn như nhau.

Cô không trách bà Thompson vì bà đã lăng nhục cô, thật tội nghiệp cho bà, bà đã bất lực trước hoàn cảnh. Ron có tội, không ai còn nghi ngờ gì nữa. Bà Thompson không hiểu được tình cảnh, bây giờ chỉ còn một cách là phải có đơn của đa số quần chúng gởi lên chính quyền chống lại án tử hình mới có thể hy vọng cứu được mạng sống của con bà thôi.

Ít ra thì Sharon cũng đã làm đủ cách để giúp bà. Ôi Steve, - cô thầm thốt lên - bây giờ anh hiểu rồi chứ? Bây giờ anh thấy rõ vấn đề rồi chứ?

Cô cà mạnh hai cổ tay vào giường, gạch ở tường cứng và xù xì, nhưng dây trói buộc chặt quá khiến cô chỉ làm cho mấy ngón tay và mép hai bàn tay trầy da mà thôi.

Khi Cáo trở lại, cô sẽ nói với hắn cô muốn vào toa-lét, thế nào nó cũng phải tháo dây cho cô đi. Cho nên có thể...

Những người phụ nữ này chính hắn đã gϊếŧ, chỉ có đồ điên mới chụp ảnh nạn nhân khi bị hắn gϊếŧ và thích phóng to lên như thế này.

Hắn đã chụp ảnh của cô.

Quả bom - Không biết có ai đi qua gần cánh cửa không? Nếu quả bom nổ, số phận của cô, của Neil và của biết bao nhiêu người khác nữa sẽ ra sao?

Cô bèn cầu nguyện, cô lặp đi lặp lại không ngừng câu: "Lạy Chúa, cầu Chúa giúp Steve tìm ra chúng con kịp thời, lạy Chúa, xin Ngài tha cho con anh ấy".

Có lẽ bà Thompson cũng cầu nguyện luôn mồm câu:

- Xin ngài tha tội cho con của con.

Chính là do lỗi của cô, cô Martin...

Thời gian trôi qua, lòng cô không làm sao nguôi ngoai được, tay chân cô đau nhừ. Kỳ diệu thay là Neil ngủ say, thỉnh thoảng cậu rên lên, hơi thở dồn dập, ngột ngạt, nhưng rồi sau đó cậu ngủ lại, ngủ liên miên.

Chắc trời đã gần sáng rồi, cô nghe tiếng gầm rú của xe lửa chạy đều hơn. Nhà ga mở cửa lúc mấy giờ? Lúc 5 giờ ư? Hẳn bây giờ đã 5 giờ rồi.

Đến tám giờ, nhà ga sẽ đông người, nếu khi ấy mà bom nổ thì sao nhỉ?

Neil nhúc nhích, cậu lẩm bẩm nói cái gì đó mà cô không hiểu. Cậu thức dậy.

Neil muốn mở mắt mà mở không được, cậu muốn đi toa-lét, tay chân cậu đau đớn. Cậu thở nặng nề mệt nhọc. Bỗng, cậu dường như thấy lại những gì đã xảy ra. Cậu chạy đến cửa thốt lên: - "Ôi, tuyệt vời quá!" - Và cậu mở mắt ra. Tại sao cậu nói như thế nhỉ?

Cậu đã nhớ!

Tảng đá di chuyển từ trước ra sau ở trong ngực cậu, cậu cảm thấy hơi thở của Sharon phả vào mặt cậu, cậu nghe xa xa có tiếng tàu chạy.

Tiếng tàu hỏa.

Và mẹ. Cậu chạy xuống thang lầu.

Gã đàn ông thả mẹ cậu rơi xuống, hắn quay về phía cậu.

Rồi sau đó, gã đàn ông cúi người xuống mẹ cậu, người đẫm mồ hôi, vẻ hoảng sợ.

Không.

Gã đàn ông đêm qua đẩy cửa nhà cậu xông vào, gã đàn ông đứng trước mặt cậu, nhìn cậu, chính hắn đã làm việc ấy.

Hắn đã bước đến phía cậu, hắn thả mẹ cậu ra và xông tới phía cậu, hắn đưa hai tay ra và cậu nhìn hắn.

Rồi có ai đang đến ở bên ngoài.

Tiếng chuông reo, chuông ở cửa trước reo.

Gã đàn ông trốn thoát, chính Neil đã thấy hắn chạy trốn.

Vì thế mà từ hôm ấy, cậu nằm mơ mãi. Vì cậu đã quên mất một phần của việc này... phần khủng khϊếp nhất, phần gã đàn ông đến gần cậu, hai tay đưa ra, cúi xuống cậu...

Gã đàn ông...

Gã đàn ông đã nói chuyện với ông Lufts.

Đêm qua ai vào nhà cậu, xô lấn cậu, và ai cúi người trên cậu.

- Cô Sharon. - Giọng Neil nghẹt nghẹt, nặng trịch, như thể cậu đã hết sức cố gắng để nói mà nói không rõ.

- Có cô đây, Neil.

- Cô Sharon, người này, kẻ tàn ác đang trói chúng ta...

- Ừ, cháu đừng sợ. Có cô bên cháu đây.

- Cô Sharon, chính người này đã gϊếŧ mẹ cháu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Căn phòng - Bà Lally phải đến căn phòng của mình mới được, trời lạnh cũng mặc! Với những tờ báσ ɭóŧ giữa hai tấm chăn, bà cũng đủ ấm rồi. Bà rất muốn đến ngủ ở căn phòng này, bởi vì trong khu nhà trọ ở Đại lộ 10 quá đông người, bà đã ngủ ở đây gần suốt cả mùa đông với Rosie và những người khác. Bà cần căn phòng của mình để mơ mộng.

Những năm về trước khi còn trẻ, bà Lally rất say mê những bộ phim truyền hình nhiều tập của Louella Parsons và của Hedda Hopper. Bà thích nằm ngủ mơ thấy mình không phải là cô giáo viên nghèo nàn cô độc mà là minh tinh điện ảnh, các nhà nhϊếp ảnh và các phóng viên đua nhau đến chào đón bà ở Nhà Ga lớn Trung tâm.

Khi thì bà mơ thấy mình từ trong hãng phim Twentieth Century Limited bước ra, trên người mặc áo lông chồn trắng, hay là mặc đồ lụa lộng lẫy quàng khăn lông chồn đen, có cô thư ký mang hộp nữ trang đi theo.

Khi thì bà mơ thấy mình đi thẳng từ phim trường đến Trung tâm Kịch nghệ Broadway trong chiếc áo dạ hội như Ginger Rogers trong phim Top Hat đã mặc.

Thời gian trôi qua, những giấc mơ ấy cũng tiêu tan theo mây khói, bà quen dần với cuộc sống như bà đang sống, buồn bã, cô đơn, nhàm chán. Nhưng khi đến New York, được sống ở nhà Ga lớn Trung tâm, bà cảm thấy bà được sống lại những ngày tươi đẹp của thời làm minh tinh điện ảnh, không cần phải giả vờ.

Khi anh chàng Rusty cho bà chìa khóa cái phòng này, bà có thể nằm ngủ ở đây, được thu mình dưới lòng nhà ga, được nghe tiếng tàu chạy rầm rầm ru ngủ, bà cảm thấy cuộc đời của bà như vậy quá đầy đủ rồi.

Vào lúc 8 giờ 30 sáng thứ Ba, bà mang cái xách đựng đồ nhật dụng đi xuống bậc dưới, về hướng bến tàu đi Mount Vemon. Bà định lẫn vào đám hành khách đi xuống bờ dốc nghiêng để đáp chuyến tàu 8 giờ 50, rồi sau đó sẽ lẻn về phòng mình. Trên đường đi, bà ghé lại tiệm bán hàng ăn trên hành lang buôn bán thuộc khách sạn Biltmore để mua cà phê và bánh rán. Bà đã đọc xong hai tờ báo Time và News Week, bà lượm hai tờ này trong thùng rác.

Người đàn ông đứng trước mặt bà ở quầy tính tiền của tiệm bán hàng trông quen quá. Đúng rồi, chính là anh chàng đã làm hỏng kế hoạch của bà. Vào tối hôm qua, hắn là người đã đi xuống ke tàu đi Mount Vemon với cô gái mặc áo măng tô xám. Bà nghe hắn gọi hai phần cà phê sữa và mấy khúc bánh mì nhỏ, bà ghét cay ghét đắng hắn. Bà hậm hực nhìn hắn trả tiền rồi lấy đồ mang đi. Bà phân vân không biết có phải hắn làm việc ở gần đây không. Bà chắc chắn là không.

Bước ra khỏi tiệm bán hàng, bà đi thủng thỉnh trong nhà ga như mọi khi để khỏi làm cho cảnh sát chú ý, họ đều biết mặt bà, và làm như tình cờ, bà đi đến bờ dốc nghiêng dẫn xuống con đường sắt đi Mount Vernon. Chuyến tàu đã đông người, họ chen chúc nhau. Lòng phấn khởi, bà trà trộn vào đám đông, đi về phía ke tàu. Khi đám đông lên tàu thì bà đi vòng toa cuối, rẽ về bên phải chỉ trong nháy mắt, bà đã khuất dạng.

Thế rồi bà lại trông thấy hắn, gã đàn ông vừa mua cà phê sữa và bánh mì, chính hắn là người đã đến đây đêm qua. Hắn đi quay lưng lại phía bà, bây giờ hắn đang đi vội vã, biến mất trong bóng tối ở dưới lòng nhà ga.

Hắn chỉ có thể đến một nơi duy nhất mà thôi.

Đó là căn phòng của bà.

Hắn đã tìm thấy căn phòng! Vì thế mà đêm qua hắn đã đi xuống ke tàu, hắn không đợi tàu, hắn đã dẫn cô gái đến phòng này.

Bây giờ hắn mua hai phần cà phê sữa, bốn khúc bánh mì. Vậy là cô gái đang ở với hắn.

Những giọt nước mắt thất vọng trào ra trên mặt bà. Họ đã chiếm phòng của bà! Bà muốn ra tay cho chúng biết mặt, bà sẽ tống khứ chúng ra khỏi căn phòng, bà sẽ canh chừng thật kỹ. Khi thấy hắn đi ra khỏi phòng, bà sẽ vào đấy, báo cho cô gái biết cảnh sát đã biết chúng ở đây, họ sắp đến bắt đấy. Phải dọa cho chúng sợ. Thằng ấy thì có vẻ bất hảo, nhưng cô gái không phải loại lang thang trong nhà ga. Có lẽ đây là trò tiêu khiển của cô ta. Thế nào cô ta cũng biến đi thật nhanh, và hắn nữa.

Nghĩ đến kế hoạch quấy phá này, bà Lally thấy hả dạ, bà bèn quay lại, đi lên phòng đợi. Bà tưởng tượng ra cảnh cô gái đang nằm trên giường chờ đợi ông bạn mang thức ăn sáng về. Bà nghĩ: - "Đừng nôn cô ơi, cứ đợi đấy mà xem".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Steve, Hugh, vợ chồng Lufts và nhân viên mật vụ Hank Lamont đang ngồi ở phòng ăn. Dora Lufts vừa mang lên bình cà phê và bánh bằng bột bắp mới làm. Steve thờ ơ nhìn mọi người, anh chống cằm lên lòng bàn tay. Đêm kia, Neil đã nói với anh:

- Ba thường dặn con đừng chống cùi tay lên bàn, vậy mà ba lúc nào cũng làm thế.

Anh xua đuổi kỷ niệm đi, nhớ đến chẳng ích gì, chẳng ích gì hết. Anh cần phải tập trung vào công việc trước mắt, anh quan sát ông Lufts. Rõ ràng ông ta đã uống rượu giải sầu suốt đêm. Cặp mắt ông ta đỏ ngầu, hai bàn tay run run.

Họ vừa nghe xong từ thứ 19 trong băng ghi âm lời hắn qua máy điện thoại lần đầu tiên. Giọng hắn trịt trịt, không rõ nét, không ai nhận ra được giọng của kẻ nào. Ông Hugh đã nghe ba lần mới dừng lại. Ông nói:

- Thôi, chúng ta sẽ nhờ bà Perry nghe khi nào ông chồng gọi điện thoại cho chúng ta, để xem thử bà có nhận ra ai không. Bây giờ, việc quan trọng nhất là chúng ta bắt tay vào một số công việc.

Ông nhìn chương trình trước mặt rồi nói:

- Trước hết, phải có một nhân viên ở tại nhà 24 trên 24 giờ, cho đến khi có lệnh mới. Tôi tin thằng cha lấy tên Cáo này rất khôn lanh, không chắc nó gọi điện thoại về đây hay đến nhà Perry. Chắc nó biết thế nào mình cũng mắc máy nghe lén. Nhưng vẫn có khả năng nó... Ông Peterson phải đi New York, nếu điện thoại reo, bà Lufts hãy trả lời ngay, điệp viên Lamont giữ máy mắc lén sẽ cùng nghe. Trường hợp tên bắt cóc gọi đến, xin bà đừng mất bình tĩnh. Bà phải giữ hắn nói chuyện lâu chừng nào hay chừng ấy. Bà có thể làm được không?

- Tôi sẽ cố hết sức để làm thế. - Dora ấp úng đáp.

- Bà đã báo đến trường nói Neil bệnh chưa?

- Dạ rồi. Báo lúc 8 giờ 30, như lời ông dặn.

- Tốt. - Hugh quay qua Steve - Ông đã báo cho văn phòng ông biết chưa ông Peterson?

- Rồi. Ông giám đốc khuyên tôi đem Neil đi xa vài ngày để cho qua vụ hành quyết Thompson vào ngày mai. Tôi đã nhờ báo cho ông ta hay là tôi đã đi rồi.

Ông Hugh quay mặt nhìn Bill Lufts:

- Còn ông Lufts, tôi muốn ông phải ở nhà, ít ra là hôm nay. Có ai trông đợi ông không?

Bà vợ cười khẩy chua chát. Bà nói:

- Chỉ có khách quen ở quán rượu Mill Tavern đợi thôi.

- Rất tốt. Tôi xin cám ơn hai ông bà. - Giọng ông Hugh có vẻ mời hai vợ chồng Lufts rút lui. Họ đứng dậy, đi xuống nhà bếp, chỉ đóng cửa để hở một nửa.

Ông Hugh nghiêng người đóng cửa, thái độ dứt khoát, ông chau mày nhìn Steve, nói với anh:

- Ông Peterson à, theo tôi thì chúng ta không nên để cho vợ chồng ông Lufts nghe những chuyện chúng ta nói trong nhà này.

Steve nhún vai.

- Tôi biết, nhưng khi ông Bin nghỉ hưu từ ngày một tháng Giêng họ đã nán lại ở đây cho tôi vui. Họ rất muốn đi Florida.

- Ông đã nói họ ở nhà ông từ hai năm nay?

- Trước đó nữa, Dora giúp việc nhà cho chúng tôi trước khi Neil ra đời, bà ấy đến làm một ngày một tuần. Chúng tôi khi ấy ở cách đây vài con đường. Gia đình Lufts dành dụm để khi về hưu. Khi Nina bị gϊếŧ chết, chúng tôi mới dọn đến đây một thời gian ngắn thôi. Tôi cần người chăm sóc Neil. Tôi đề nghị họ ở trên phòng lớn ở lầu ba. Họ tiết kiệm được tiền thuê nhà và tôi trả cho Dora tiền công làm việc vẫn như trước.

- Công việc tiến hành ra sao?

- Trôi chảy, cả hai đều thương mến Neil. Bà ấy chăm sóc Neil rất tốt, bà ấy luôn luôn chăm sóc nó, nhưng từ khi Bill không có việc gì để làm, ông ta đâm ra uống rượu. Thú thật tôi cũng muốn họ đi cho rồi.

- Cái gì đã giữ họ lại? - Ông Hugh hỏi, giọng khô khan.

- Có phải vì tiền không?

- Không, tôi không nghĩ thế, chắc Dora muốn tôi lấy vợ, muốn Neil có mẹ. Cô ấy thật tuyệt.

- Chắc ông sắp cưới Sharon Martin phải không?

Steve cười lạnh lùng:

- Tôi định thế. - Anh bực bội đứng dậy, đi đến cửa sổ. Tuyết rơi nhẹ nhàng êm ái. Anh cảm thấy cuộc đời của anh cũng bấp bênh chẳng hơn gì những lọn tuyết kia không biết mình rơi về đâu... lọn thì rơi xuống đất, lọn thì xuống bụi cây, xuống cỏ hay xuống vệ đường, tan ra hay đóng băng, bị quét đi, hất đi, bị xe cộ nghiến lên trên, bị chân người chà đạp.

Anh suy nghĩ mông lung, đầu óc quay cuồng. Anh cố trở về với thực tại, anh không thể đứng yên bất động, bất lực như thế này. Anh phải làm cái gì chứ, anh bèn nói với ông Hugh:

- Tôi đi ngân hàng ở New York.

- Đợi cho một phút, ông Peterson, còn một vài việc cần phải bàn cho kỹ.

Steve đợi.

- Nếu ông không nhận được băng ghi âm của con ông và Sharon thì ông sẽ làm gì?

- Hắn đã hứa.

- Có khả năng hắn không thể chuyển giao cuốn băng đến được, giả dụ hắn muốn chuyển thì hắn sẽ chuyển như thế nào? Vấn đề là: ông có chịu trả tiền cho hắn nếu ông không có bằng chứng gì cho biết Neil và Sharon còn sống không?

Steve suy nghĩ một hồi rồi đáp:

- Trả, tôi không muốn làm trái lời hắn, có lẽ hắn sẽ để băng ghi âm đâu đó, và nếu tôi không thực hiện đúng giao ước thì...

- Được rồi, chúng ta sẽ xem xét vấn đề này sau. Nếu từ bây giờ đến hai giờ nữa trong sáng nay mà ông không nhận được gì, thì khi nó gọi cho ông ở buồng điện thoại tại Đường 59, ông cố tranh thủ thời gian để hỏi nó. Ông nói với nó là ông chưa có được bằng chứng mà ông đã yêu cầu. Nếu hắn cho biết hắn đã để ở đâu đó, chúng ta dễ dàng đi tìm thôi. Bây giờ ta bàn qua việc khác. Ông muốn trả tiền thật phải không? Ông có thể lấy tiền giả để giao cho nó, sau đó ta dễ theo dõi.

- Không, tôi không muốn phiêu lưu như thế. Tiền này để dành cho Neil học, nếu có chuyện gì xảy đến...

- Thôi được, vậy ông cứ rút tiền ra, lấy quỹ phiếu rồi đến ngân hàng dự trữ liên bang để rút tiền. Tôi sẽ cho người chụp ảnh số tiền chuộc, bằng cách này, ít ra chúng tôi cũng có được tư liệu.

Steve cắt ngang lời ông ta, anh nói:

- Tôi không muốn làm dấu trên tiền bạc.

- Không có vấn đề làm dấu, thằng bắt cóc không có cách nào biết được chúng ta đã chụp ảnh số tiền ấy. Nhưng làm thế mất khá nhiều thời gian. Tám mươi hai ngàn đô-la bằng giấy bạc 10, 20 và 50, sẽ có rất nhiều tiền, mất nhiều thời gian mới chụp hết.

- Đúng thế.

- Ông Peterson này, tôi yêu cầu ông thực hiện một số phương pháp để đề phòng. Thứ nhất, ông để chúng tôi gài máy Camera trong xe của ông. Nhờ thế chúng tôi sẽ dễ dàng nắm được dấu vết của thằng bắt cóc khi hắn tiếp xúc với ông. Có thể chúng ta sẽ chụp được hình hắn hay là xác định được số xe hắn đang lái. Chúng tôi cũng muốn lắp vào trong xe ông một máy phát tin, để chúng tôi có thể theo dõi ông ở một đoạn xa. Tôi cam đoan với ông hắn không thể nào phát hiện được. Cuối cùng, việc này hoàn toàn tùy thuộc vào ông, ta nên gắn vào trong va-li đựng tiền một máy phát tin nữa.

- Ông hãy nghĩ đến chuyện nó bị phát hiện đi, tên bắt cóc này chắc biết tôi đã báo cho ông rồi.

- Ông hãy nghĩ đến chuyện nếu ông không gắn máy vào xe và không nghe lời khuyên của tôi thì ông sẽ lâm vào cảnh tiền mất tật mang, không có con mà cũng không có Sharon. Ông Peterson à, việc đầu tiên chúng tôi lo lắng là phải tìm ra họ bình an vô sự. Sau đó, chúng tôi sẽ nỗ lực tìm ra hắn hay bọn hắn, nhưng chuyện này tùy ông thôi.

- Nếu chuyện này là của con ông và... vợ ông thì ông sẽ làm gì?

- Ông Peterson, chúng tôi không phải là người giàu có, cho nên chúng tôi sẽ không gặp cảnh đem tiền để chuộc con tin, có lẽ tự bọn chúng sẽ thả họ ra.

Nhưng có lẽ nó giam họ ở một nơi mà họ không tự mình ra được. Cho nên phải xem xét trường hợp này, nếu chúng ta theo dõi được dấu vết của tên bắt cóc, ta sẽ phát hiện ra được nơi nó giam họ.

Steve có vẻ chán nản. Anh nói:

- Ông hãy làm những gì ông cần làm đi, tôi sẽ mượn xe của Bill để đi New York.

- Không. Tôi muốn ông đi xe của ông, và ông phải để xe ở chỗ đậu xe như mọi khi. Rất có thể mọi hành động của ông phải được canh chừng, chúng tôi sẽ theo dõi ông, một nhân viên mật vụ sẽ theo sau ông một đoạn. Ông hãy để chìa khóa ở dưới sàn xe, chúng tôi sẽ đem xe ông đi để gắn thiết bị vào, rồi đem về để ở chỗ cũ cho ông. Bây giờ thì ông đi lấy tiền đi.

Steve đáp chuyến tàu 10 giờ 40 đến nhà Ga lớn Trung tâm. Anh đến ga lúc 11 giờ 50, tàu đến trễ mất 10 phút, và anh thích đi bộ đến Đại lộ Park, trên tay xách chiếc va-li lớn trống rỗng.

Anh lê bước chân nhọc nhằn trên các khu phố từ nhà ga cho đến Đường 51, lòng cảm thấy chán nản trước công việc phù phiếm viễn vông. Hôm nay là ngày thứ hai hoạn nạn của anh, nhưng người dân New York vẫn đi lại tấp nập trên đường, vẫn vội vã như mọi khi. Họ có vẻ suиɠ sướиɠ, hạnh phúc, ngay cả khi sải chân bước qua những vũng nước giá lạnh hay đi tránh những đống tuyết trên mặt đường. Mới sáng hôm qua, anh và Sharon đang còn đi trên đường phố ở đây. Trước khi chia tay, anh đã ôm cô trong tay để hôn, đôi môi cô ướt lạnh như môi Nina khi chị hôn anh vào lần cuối.

Anh đến ngân hàng, khi nghe anh muốn rút tiền của Neil ra, chỉ để lại hai trăm đô-la, người thu ngân cau mày. Anh ta rời ghi sê để hỏi ý kiến Giám đốc, ông này vội đến gặp Steve. Ông ta hỏi:

- Ông Peterson, có vấn đề khó khăn à?

- Không, thưa ông Strauss, tôi chỉ muốn rút tiền thôi.

- Tôi phải mời ông điền vào những tờ mẫu rút tiền của bang Connecticut và của chính quyền liên bang. Đây là điều cần thiết phải làm khi khách hàng muốn rút một số tiền lớn. Tôi hy vọng ông không phản đối cách thức chúng tôi quản lý số tiền của con ông.

- Tôi không phản đối gì hết.

- Rất tốt. - Giọng của ông Giám đốc lạnh lùng - Ông vào văn phòng của tôi để điền vào các mẫu rút tiền. Mời ông theo tôi.

Steve vội điền vào những mẫu đơn ngân hàng yêu cầu. Khi điền vừa xong, người thu ngân để tấm ngân phiếu lên bàn làm việc của ông Giám đốc.

Ông Strauss ký ngân phiếu, đưa cho ông Steve rồi đứng lên, ông ta có vẻ trầm tư, ông nói:

- Thưa ông Peterson, tôi xin tọc mạch hỏi ông, phải chăng ông có điều gì buồn phiền? Có thể chúng tôi giúp ích gì ông được không?

Steve cũng đứng dậy:

- Không, cám ơn ông Strauss. - Giọng anh vang lên nghe căng thẳng, ít thuyết phục.

- Tôi mong ông không gặp khó khăn gì, chúng tôi rất cám ơn ông với tư cách vừa là khách hàng vừa là thân hữu của ngân hàng chúng tôi. Nếu ông có vấn đề gì khó khăn cần chúng tôi giúp đỡ, xin ông cứ tự nhiên cho biết chúng tôi sẵn sàng. - Ông đưa tay bắt tay anh.

Steve nắm tay ông ta, nói:

- Ông thật quý hóa, nhưng tôi không gặp chuyện gì rắc rối hết, tất cả đều hoàn toàn tốt đẹp.

Anh xách va-li đi ra, gọi tắc-xi, bảo tài xế lái đến ngân hàng dự trữ liên bang. Khi đến đây, người ta đưa anh vào một căn phòng đã có nhân viên mật vụ FBI đợi sẵn, họ vội vã bắt tay vào việc, đếm tiền, chụp ảnh số tiền theo ngân phiếu anh mang đến. Steve đứng nhìn, ánh mắt sầu thảm.

Bỗng anh nhớ đến câu hát ru mà Nina thường hát để Neil ngủ: - "Tiền bạc là vua là chúa, vua chúa giỏi cách đếm tiền".

Anh trở lại Ga lớn Trung tâm, trễ mất chuyến tàu 15 giờ 5 phút. Chuyến tiếp theo phải một giờ sau nữa mới chạy, anh gọi về nhà. Dora nghe máy và nhân viên mật vụ Lamont nói chuyện với anh qua máy phụ. Không có tin tức gì mới lạ, không có dấu hiệu gì cho thấy tên bắt cóc gởi cuốn băng ghi âm đến. Khi nào anh về, ông Hugh Taylor sẽ đến.

Nghĩ đến chuyện gϊếŧ thì giờ để đợi đi chuyến tàu sau, khiến Steve hốt hoảng. Anh thấy đầu đau nhức, giữa trán đau ran, nóng hổi, còn hai bên thái dương thì cứng như bị kềm bóp vào. Anh nhớ ra từ trưa hôm qua đến giờ anh không ăn uổng gì. Quán Oyster Bar, anh đinh đến ngồi đấy, gọi ly rượu khai vị và tô cháo hàu. Anh đi qua trước buồng điện thoại anh đã gọi cho Sharon vào tối hôm qua. Thế là cơn ác mộng ào đến, anh lo ngại có chuyện gì đã xảy ra, đã hai mươi giờ trôi qua, thời gian dài bất tận.

Hai mươi giờ! Sharon và Neil ở đâu nhỉ? Nó có cho họ ăn không? Ngoài trời lạnh như cắt, hai người có được ở trong chỗ ấm áp không? Thế nào Sharon cũng chăm sóc Neil. Anh biết cô sẽ làm thế. Giá mà đêm qua khi anh gọi về nhà, Sharon trả lời anh? Giá mà cả ba được sum họp, vui vẻ với nhau suốt buổi tối như họ đã dự kiến? Khi Neil ngủ rồi, chắc thế nào anh cũng nói với cô: "Sharon, anh không làm được gì cho em nhiều đâu, nếu em đợi, có lẽ em sẽ gặp được chồng sang, nhưng em đừng đợi nữa, hãy lấy anh, chúng ta rất tâm đầu ý hợp".

Có lẽ cô sẽ không từ chối, mặc dù cô không nhất trí với anh về án tử hình. Đúng thế, quả anh đã tỏ ra mình quá tự tin, cương quyết, cứ cho mình là có lý.

Ngay giờ phút này bà mẹ của Thompson cũng nghĩ như thế, khi đứa con bị xử tử rồi, chắc bà sẽ đau đớn suốt đời.

Cũng như bà ta, nếu có gì xảy ra cho Sharon và cho Neil, chắc anh cũng đau khổ suốt đời.

Cảnh nhà ga bắt đầu nhộn nhịp trở lại, nhân viên công sở muốn tránh cảnh chen chúc của đám dân ở ngoại ô, họ vội vàng rời văn phòng, hối hả cho kịp các chuyến tàu đi New Havett chạy về hướng Westchester và Connecticut. Các bà đến mua sắm, đi qua nhà ga, dừng lại xem giờ tàu chạy, lo lắng về nhà cho kịp giờ chuẩn bị bữa ăn tối.

Steve đi xuống bậc dưới, anh vào quán Oyster Bar. Quán vắng khách, đám người đến ăn trưa đã đi hết từ lâu, chỉ còn đợi đến giờ ăn tối mới có khách lại. Anh ngồi vào quầy rượu, gọi thức ăn, mắt không rời chiếc va-li để dưới chân.

Tháng trước, anh đã đến đây ăn trưa với Sharon, cô hí hửng nói đến nhiều người đáp ứng chiến dịch vận động của cô để xin đổi án tử hình của Ronald Thompson thành án tù chung thân. Cô đã tâm sự với anh: - "Steve, chúng ta sẽ đạt được nguyên vọng ấy" - Cô suиɠ sướиɠ, mong ước có được kết quả như ý muốn. Cô nói đến đợt vận động sắp đến, cô sẽ có thêm nhiều người ủng hộ nữa.

- Em sẽ thiếu anh. - Anh đã nói thế.

- Anh cũng thế.

Sharon, anh yêu em. Anh yêu em, Sharon. Anh yêu em, Sharon. Anh đã nói với cô như thế phải không?

Khi người bán rượu để ly Martini trước mặt Steve, anh uống một hơi hết sạch.

Anh ngồi ở quán Oyster Bar, không động đến tô cháo hàu bốc khói nóng hổi ở trước mặt. Đến 15 giờ 35, anh trả tiền, đi lên bậc trên, vào tàu đi Carley. Trong khi anh đi về phía toa hút thuốc, anh không để ý đến người đàn ông ngồi ở toa đầu, hắn che mặt sau tờ báo. Hắn đợi cho đến khi anh đã đi khỏi, hắn mới hạ tờ báo xuống giương cặp mắt tĩnh quái nhìn theo Steve đang xách cái va-li nặng nề bước đến toa tàu.

Gã hành khách này cũng xuống ở Carley, nhưng hắn đứng lại ở bến tàu đợi cho Steve vào bãi đỗ xe, lấy xe lái đi, chiếc xe bây giờ đã được gắn máy Camera giấu trong đèn pha và sau kính chiếu hậu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Bà Glenda Perry ngủ một giấc đến 13 giờ, chính tiếng xe hơi của Marian Vogler nổ dưới nhà đã đánh thức bà dậy, bà vẫn nhắm hai mắt nằm yên lặng xem tình hình. Mỗi lần thức dậy, bà thường hay bị đau ê ẩm cả người, nhưng lần này bà không thấy đau. Bà đã trải qua một đêm rất tệ, tệ đến nỗi bà không dám nói cho ông Roger biết. Thế nhưng chắc ông ta cũng nhận thấy bà đau đớn, và bà biết ông bác sĩ rất lo về tình trạng tim của bà.

Bà không muốn nhập viện lại, vào bệnh viện, họ cũng cho bà uống thuốc an thần mà thôi, mà thuốc này thì cũng chẳng giúp ích gì cho bà sau đó. Bà biết lý do tại sao thời gian gần đây bà thường mắc chứng đau đớn như thế này. Đó là vì chuyện cậu bé Thompson, cậu ta còn nhỏ quá và việc bà làm chứng đã góp phần vào việc kết án nặng cho cậu ta.

- Thưa bà Perry, hắn đã xô bà nhào ngửa...

- Vâng, hắn chạy trốn khỏi nhà.

- Thưa bà Perry, khi ấy trời tối, bà không nghĩ có kẻ khác nào đấy chạy trốn à?

- Tôi cam đoan chính hắn, hắn ngần ngừ trước cửa một lát, rồi lấn vào tôi để chạy ra, đèn ở nhà bếp đang sáng mà.

Rồi hôm nay lại chuyện của Neil và Sharon. Ôi lạy Chúa, xin ngài giúp con nhớ được. Bà cắn chặt môi... đau đau... Không, đừng đau khổ nữa, không ích gì đâu. Vì tình thương của Thượng đế, hãy ráng suy nghĩ, bà chuồi một viên Trinitrine dưới lưỡi để đề phòng cơn đau đến thình lình. Cáo. Cách nó nói từ "Cáo" khiến cho bà nhớ - nhớ gì nhỉ? Chuyện ấy xảy ra mới đây thôi.

Cửa mở, bà thấy ông Roger đang nhìn bà. Bà lên tiếng:

- Vào đi, anh yêu, em dậy rồi.

- Em cảm thấy ra sao? - Ông cúi người nắm tay bà.

- Đỡ nhiều. Em đã ngủ lâu mau rồi hả anh?

- Hơn bốn giờ.

- Xe ai vừa chạy khỏi nhà thế?

- Xe của bà Vogler.

- Ôi, em quên mất! Chị ấy làm gì?

- Anh nghĩ chị ta làm việc ở nhà bếp, chị ta đứng trên ghế đẩu để lau chùi các thứ trên cao ở kệ.

- Thế là tốt, em rất sợ leo lên cao để lau bụi đồ đạc. Roger, đã có tin gì chưa? Steve đã nói chuyện vớỉ... Cáo chưa?

Roger đáp:

- Rồi. Chỉ nói với nhau vài lời, em có cảm thấy khỏe trong người để nghe được không?

- Khỏe.

Mười lăm phút sau, ngồi dựa bên chồng gối, tay bưng tách trà, bà Glenda nhìn ông Hugh đi vào phòng.

- Thưa bà Perry, bà thật tốt, tôi nghĩ bà đã hết sức cố gắng để giúp chúng tôi.

Bà huơ tay để ông ta khỏi ái ngại và nói:

- Thưa ông Taylor, tôi rất buồn là đã để mất cả buổi sáng. Bây giờ xin ông cho máy chạy đi.

Ông Hugh cho máy cát-sét chạy, bà ta lắng nghe.

- Ôi! Giọng nói trầm quá! Không thể nhận ra được...

Nét hy vọng biến mất trên khuôn mặt ông Hugh, ông cất giọng năn nỉ nói:

- Thôi được, thưa bà Perry, cám ơn bà đã chịu khó nghe. Chúng tôi sẽ xúc tiến phân tích giọng nói bằng phương pháp đối chiếu. Phương pháp này không được chính xác lắm, nhưng khi nào chúng ta tóm được thằng bắt cóc rồi, chúng tôi sẽ dùng nó để xác nhận hắn. - Ông nói xong đưa tay lấy cái máy ghi âm.

- Khoan đã!... - Bà Glenda để tay lên máy - Trong cuộc nói chuyện qua điện thoại này, ông chỉ có cuộn băng ghi âm này thôi à?

- Không. Chúng tôi vừa có cuộn băng ghi âm của máy điện thoại, vừa có cuộn băng cát-sét trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi này.

- Ông có thể để lại cho tôi cuộn này được không?

- Tại sao?

- Vì tôi biết kẻ nói với tôi tối hôm kia, tôi biết hắn, tôi sẽ cố nhớ lại tôi đã gặp hắn ở đâu trong mấy tuần vừa qua. Có lẽ tôi sẽ nghĩ ra. Tôi muốn nghe lại cuốn băng ghi âm này.

- Thưa bà Perry, nếu bà nhớ lại được... - Ông Hugh cắn môi. Ông Roger Perry nhìn ông ta, ánh mắt cảnh giác. Ông ta vội đi ra khỏi phòng, ông Roger đi theo.

Khi hai người xuống nhà dưới, ông Roger hỏi:

- Tại sao ông yêu cầu tôi canh chừng bà Vogler hôm nay? Ông không nghi ngờ gì chị ta chứ?...

- Chúng ta phải xem xét hết mọi khả năng có thể. Nhưng chị ta có vẻ đàng hoàng, dễ thương, gia đình hòa thuận, có tình cảm. Sự kiện chị ta nói chuyện với Neil sáng hôm nọ có lẽ chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Và dù sao thì chị ấy có bằng cớ ngoại phạm vào đêm ấy, cũng như chồng chị ta.

- Bằng cớ gì?

- Người thu ngân ở rạp xi nê thấy chị ta vào xem rồi đi ra. Xóm giềng chị đã thấy chồng chị ở nhà giữ con. Và sau 19 giờ một tí, họ có mặt ở đồn cảnh sát báo cáo mất xe.

- À, đúng rồi! Chị ta có nói với tôi, may mắn là họ đã tìm được chiếc xe.

- Phải, người ta tìm ra chiếc xe cà tàng, còn chúng tôi thì không tìm ra dấu vết nào của hai nạn nhân bị bắt cóc. Ông Perry này, ông nghĩ sao về Sharon Martin? Ông có tin cô ta có thể bày mưu lập kế ra chuyện này không?

Ông Roger suy nghĩ một lát rồi tiếp:

- Tự thâm tâm, tôi thì tôi nghĩ là không, chắc chắn không.

- Theo ý kiến của ông, mối liên hệ giữa cô ta với ông Peterson như thế nào?

Ông Roger nhớ lại lần Sharon và Steve đến nhà ông chơi vừa qua. Cô ấy không được vui, bà Glenda đã hỏi cô ta có chuyện gì khiến cô buồn bực. Trong khi ấy Steve xuống bếp lấy nước đá và Sharon đã đáp:

- "Ồ! Chỉ vì chuyện Neil không chấp nhận tôi!" - Sau đó, Steve trở lên nhà khi đi ngang qua cô, anh đã dùng tay vò đầu cô làm cho tóc cô bù xù lên. Khi ấy ông Roger nhìn thấy mặt của cả hai người. Ông đáp:

- Theo tôi thì họ... họ rất yêu nhau, yêu nhau rất say đắm. Tôi nghĩ Sharon buồn bực vì thái độ của Neil đối với cô ta, và đương nhiên là Steve cũng thế. Mặt khác, anh ta đang gặp cảnh tài chính ngặt nghèo. Anh đã bỏ hết vốn liếng vào tờ báo Biến Cố. Tôi tin thế nào anh ta cũng lấy lại được vốn. Tuy nhiên lúc nào anh ta cũng lo, anh ta đã nói với tôi nhiều lần như thế.

- Lại còn chuyện hành quyết Thompson nữa.

- Đúng. Glenda và cả tôi nữa, chúng tôi hy vọng Sharon sẽ cứu được nó. Glenda cứ ân hận mãi về chuyện này.

- Cô Sharon muốn Steve can thiệp với Thống đốc, phải không?

- Theo tôi thì cô ấy biết anh ta không làm thế. Chuyện xin giảm án vì lý do tình cảm sẽ làm cho Thống đốc bực mình mà thôi. Chắc ông còn nhớ chuyện bà Greene bị công kích vì đã hai lần tỏ ra bằng lòng xin giảm án cho Thompson.

- Ông Perry, ông nghĩ gì về vợ chồng ông Lufts? Ông có nghĩ đến chuyện họ có thể đã tham gia vào vụ bắt cóc này không? Họ tìm cách để có tiền dành dụm thêm, họ biết số điện thoại của ông. Có thể họ biết việc gởi tiền ở ngân hàng.

Ông Roger lắc đầu.

- Họ không dám đâu, khi Dora đi mua hàng gì đó cho Glenda, bà ấy bỏ ra 20 phút để tính toán cho vợ tôi biết bà ta đã mua đúng số tiền, và ông chồng cũng thế. Thỉnh thoảng ông ta chỉnh lại xe cho tôi, ông luôn mồm khuyên bảo tôi làm cái này cái nọ để tiết kiệm tiền bạc. Cả hai vợ chồng đều rất chân thật, họ chẳng làm việc này đâu.

- Tuyệt. Nếu bà Perry có gì muốn nói với chúng tôi, xin ông gọi đến nhà ông Peterson giúp.

Hank Laxnont đợi Hugh, thái độ của anh ta có vẻ như đã biết tin gì mới. Để tranh thủ thời gian, ông Hugh không chào hỏi dông dài, mà hỏi ngay:

- Anh có nhận được gì không?

- Có bà Thompson.

- Hả?

- Chuyện xảy ra đêm qua. Bà ấy có nói chuyện với cô Martin.

- Bà ta nói sao?

- Con bà ta nói chuyện cho chúng tôi biết. Don và Stan hỏi anh ta trong nhà lao. Họ kể cho hắn nghe về chuyện cậu bé Peterson đang lâm vào cảnh bị hăm dọa, họ báo cho hắn biết nếu bạn bè hắn định bày trò, thì tốt hơn là nên nói tên tuổi của chúng ra kẻo hối tiếc không kịp.

- Tôi chắc họ chưa nói cho họ biết chuyện Neil và Sharon đã bị bắt cóc?

- Đương nhiên là chưa.

- Thằng ấy nói gì?

- Nó thành thật nói rằng, trong năm nay chỉ có mẹ nó, luật sư của nó và ông linh mục ở giáo khu đến thăm nó mà thôi. Những đứa bạn thân nhất của nó bây giờ đã vào đại học rồi. Nó đưa tên những đứa ấy cho chúng tôi, chúng đều vắng mặt hết. Nhưng nó nói cô Sharon có gọi điện thoại đến cho mẹ nó.

- Các anh ấy có tiếp xúc với mẹ nó rồi chứ?

- Dạ rồi. Bà ấy ở trong khách sạn gần nhà lao, họ đã tìm gặp bà ấy.

- Gặp trong khách sạn à?

- Không, trong nhà thờ. Ông Hugh, bà ta chỉ còn biết nhờ Chúa giúp nữa mà thôi. Bà ta quỳ và cầu nguyện, bà không chịu tin rằng ngày mai con bà sẽ bị hành quyết. Bà ta không chịu tin, bà ta nói rằng Sharon đã gọi đến cho bà trước 18 giờ mấy phút. Cô ấy muốn biết cô có thể giúp gì được cho bà không. Bà Thompson thú nhận rằng khi ấy bà không được bình tĩnh, cho nên bà lên án cô ta đã rêu rao khắp nơi rằng con bà có tội. Bà ta đã hăm dọa cô ấy, tuyên bố vớỉ cô ấy rằng nếu con bà chết thì cô đừng trách bà. Chúng ta phải làm gì bây giờ?

- Ta hãy đưa ra một giả thuyết. Ví dụ cú điện thoại ấy đã làm cho Sharon bối rối, cô phân vân không biết bà Thompson nói có lý không. Cô ta thất vọng, rồi nhờ ai đấy đến bắt cô và đưa cậu bé đi. Cô đã chơi sát ván để mong có chiến thắng, cô đã dựng lên trò bắt cóc này, rồi dùng Neil làm con tin để đổi lấy sinh mạng của Thompson.

- Có thể như thế lắm. - Hank nói.

Mặt ông Hugh đanh lại:

- Chắc chắn như thế. Tôi nghĩ anh chàng Peterson khốn khổ này đã quá đau đớn, còn bà Perry thì bị nhồi máu, chỉ còn chờ Sharon nghĩ ra cách để có thể tác động đến luật pháp cho hợp theo ý muốn của mình.

- Bây giờ chúng ta làm gì?

- Tiếp tục theo dõi chương trình này thật kỹ lưỡng. Các anh báo cho tôi biết ngay số bạn bè quen biết của Sharon, nhất là những người ở khu vực này. Ước gì bà Perry nhớ được bà đã nghe giọng thằng ấy ở đâu, chúng ta sẽ thấy được vấn đề này rõ ràng biết bao.

o O o

Bà Glenda ngồi trong phòng nghe tới nghe lui đoạn ghi băng trong máy cát-sét: "Peterson phải không? Anh hãy đến buồng điện thoại ở trạm xăng kế cận trong vòng 10 phút, nằm ngay sau lối ra xa lộ 21". - Bà lắc đầu chán nản, bấm tắt máy. Không được, bà phải tìm cách mới được, phải nhớ lại những gì xảy ra trong hai tuần qua mới được. Nhưng có gì trên cuốn băng này đâu?

Hôm qua bà không đi đâu hết, bà điện thoại đến nhà thuốc, đến Agnès và đến Julie để hỏi về vấn đề thuốc men do bệnh viện cung cấp. Chip và Maria từ California cho gọi bà, rồi đưa máy cho đứa bé nói. Cuộc điện thoại của Cáo là cuộc nói chuyện cuối cùng trong ngày.

Hôm Chủ nhật, bà đi New York với ông Roger sau giờ bãi sở. Hai người đi ăn ở nhà hàng Pierre, rồi đi nghe Serkin hát ở Camegie Hall. Không có ai gọi điện thoại đến cho bà hết.

Ngày thứ Bảy bà đi chọn mua vải màn trong một cửa hàng bán đồ trang trí nội thất, rồi bà đi đến tiệm làm tóc. Còn hôm thứ Sáu thì sao nhỉ? Bà lắc đầu ngán ngẩm, bước xuống giường, từ từ đi đến bàn làm việc để lấy cuốn sổ ghi những buổi hẹn. Bà cũng nhờ ông Roger lấy cuốn lịch trong nhà bếp đem lên cho bà luôn. Thỉnh thoảng bà ghi vào cuốn lịch những điều cần thiết, về biên lai chi tiêu, bà cất tất cả cẩn thận, tất cả đều có ghi ngày tháng, nhờ thế mà bà luôn luôn biết bà đã làm gì ở đâu. Rồi còn số chi phiếu nữa. Bà lấy cuốn sổ trong tủ ra, lấy các tờ biên lai trong một ngăn kéo.

Nắm tất cả giấy tờ trong tay, bà Glenda trở lại giường, miệng rên hừ hừ, ngực bà thắt lại, cơn đau dâng lên. Bà lấy một viên trinitrine, vừa bấm nút máy ghi âm cho cuộn băng chạy. Một lần nữa, giọng trịt trịt, khàn khàn cất lên bên tai bà: "Peterson phải không? Anh hãy đến buồng điện thoại ở trạm xăng kế cận trong vòng 10 phút, nằm ngay sau lối ra xa lộ 21".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Từ buồng điện thoại trở về, hắn nghĩ đến cuộn băng cát-sét. Sau khi thu âm Sharon và thằng bé xong, hắn sẽ làm việc ấy chứ? Sẽ yêu cầu cô ấy chứ?

Tại sao không?

Hắn đi thẳng đến Ga lớn Trung tâm, trong lúc nhà ga đông người thì nên đến với chúng nó là tốt nhất. Bọn bảo vệ đáng ghét này có giác quan thứ sáu, chúng đánh hơi biết những ai vô công rỗi nghề lảng vảng quanh đây.

Có lẽ Sharon và thằng bé đã không ăn uống gì từ tối hôm qua đến giờ. Hắn không muốn cô đói, nhưng chắc cô sẽ không ăn nếu hắn không cho thằng bé ăn. Cứ nghĩ đến thằng bé là hắn thấy khó chịu trong lòng. Hai tuần trước, suýt nữa thì hắn đã hốt hoảng khi thấy thằng bé nhìn hắn qua cửa kính xe hơi. Y như trong giấc mơ vậy, cặp mắt nâu to, hai tròng mắt mở rộng, nhìn hắn lên án, lên án mãi.

Ngày mai là chấm dứt, hắn sẽ mua cho Sharon một vé máy bay, hiện giờ hắn không có đủ tiền, nhưng tối nay hắn sẽ có. Hắn có thể đặt vé trước, nhưng với tên gì nhỉ? Phải tạo cho Sharon cái tên giả thôi.

Hôm qua, trên mục thời sự truyền hình, người ta đã giới thiệu cô là nhà văn, nhà báo, cô rất nổi tiếng, nhiều người biết đến. Vì thế, hắn thấy việc được cô ta yêu quả là điều rất kỳ diệu.

Bỗng hắn dừng lại, tức giận, vì bị một người đàn bà đi phía sau hấp tấp va phải hắn. Hắn phản ứng giận dữ, chị ta bèn nói nho nhỏ:

- Ô, xin lỗi! - Chị vừa nói vừa tiếp tục đi. Hắn bớt giận, chị không cố ý và đã xin lỗi, chị cũng đã cười với hắn, cười thật. Nếu tất cả đàn bà biết hắn giàu đến mức như thế này, thì chắc ai cũng cười với hắn hết.

Hắn lại chậm rãi bước dọc theo Đại lộ Lexington. Những chiếc xe đò đã biến lớp tuyết thành bùn đen dơ bẩn, lớp bùn này đóng băng cứng lại khắp nơi, ngoại trừ những nơi có bánh xe lăn qua. Hắn thích về lại khách sạn Biltmore, vì ở đây phòng ngủ quá êm ái dễ chịu, chưa bao giờ hắn được ở trong một nơi ấm áp tuyệt vời như thế.

Bây giờ hắn phải đến chỗ của Sharon và đứa bé cho đến chiều nay. Sau đó, hắn sẽ đáp tàu đi Carley, hắn sẽ về nhà để xem có tin tức gì không. Đừng để cho mọi người ngạc nhiên thấy hắn đâu hết. Hắn đã nghĩ ra chỗ để cuộn băng cát-sét rồi. Nếu Peterson không có cuộn băng, chắc anh ta không giao tiền cho hắn đâu.

Hắn cần có món tiền này. Ở lại lâu tại Feirfield County sẽ rất nguy hiểm cho hắn. Mà hắn có lý do ra đi rất chính đáng. Bởi vì mọi người đều mong hắn đi cho rồi.

Thế nào cảnh sát cũng đặt câu hỏi: "Không có chỗ nào ở quanh đây đáng ngờ sao?".

"Nghi ngờ có hắn ư? Không có. Hắn đã nổi điên vì bị mất việc, hắn đã van nài ông chủ ký kết hợp đồng mới cho hắn làm việc nữa".

Nhưng đấy là chuyện trước khi xảy ra vụ hai cô gái, vụ này giới báo chí gọi là: "Vụ sát nhân bằng vô tuyến điện thoại". Giá mà họ biết...

Thế mà hắn vẫn đến dự đám tang của Callahan đấy.

Hắn có chỗ để cuộn băng cát-sét rồi! Để ở một nơi hắn biết chắc thế nào tối nay cũng có người trông thấy và sẽ chuyển giao cho người nhận.

Lòng hân hoan, hắn đi mua cà phê, sữa và bánh mì cho Sharon và Neil. Hắn tính chuyện sẽ ở lại với họ một hồi khá lâu, cho họ ăn uống, làm việc với họ rồi ra ngoài. Hắn không muốn Sharon có ác cảm với hắn.

Khi vừa rời khỏi khu đường sắt đi Mount Vemon, hắn có cảm giác kỳ lạ là hắn đang bị theo dõi. Linh tính hắn rất nhạy, ít khi hắn lầm lẫn về những chuyện như thế này. Hắn dừng lại lắng nghe, hắn nghe có tiếng động, hắn quay lại. Nhưng đấy chỉ là một kẻ vô gia cư nghèo khổ đang đi lên bờ dốc nghiêng về phía phòng đợi, có lẽ mụ ta ngủ ở bến tàu.

Hắn hết sức cẩn thận lột băng keo trên cửa, tháo sợi dây diện ra. Hắn thận trọng lấy chìa khóa trong túi, tra vào ổ khóa. Hắn từ từ mở cánh cửa ra để khỏi giật mạnh sợi dây điện, hắn lẻn vào phòng và đóng cửa lại ngay.

Hắn bật ngọn nê-ông lên, thở phào nhẹ nhõm. Sharon và thằng bé vẫn y nguyên như khi hắn ra đi. Đứa bé không thấy hắn được vì mắt đã bị bịt kín, nhưng Sharon nằm phía sau cậu bé ngóc đầu lên. Để mấy gói thức ăn xuống nền nhà, hắn đi nhanh đến lôi miếng giẻ bịt miệng cô ra.

- Lần này không quá chặt. - Hắn nói, hắn cảm thấy ánh mắt của cô có vẻ trách móc hắn.

- Phải, không chặt lắm. - Cô đáp, giọng bực bội, nhưng đã có khác. Ánh mắt cô không tỏ ra sợ sệt. Hắn muốn cô đừng sợ hắn nữa.

- Sharon, cô không sợ tôi, phải không? - Giọng hắn nghe dịu dàng kinh khủng.

- Ô, không... không sợ gì hết!

- Tôi mang đồ ăn về cho hai người.

- Ồ! Thế thì hay quá... nhưng xin ông tháo băng bịt miệng cho Neil với, được không? Và tôi van ông, xin ông cởi dây trói cho chúng tôi, cởi tay cũng được, như hồi nãy.

Hai mắt hắn nheo lại, hắn thấy cô đã thay đổi thái độ phần nào rồi. Hắn đáp:

- Được rồi, Sharon. - Hắn cúi mũi chạm vào mặt cô, tay hắn khỏe kinh khủng. Chỉ trong nháy mắt là hắn tháo xong mấy nút buộc, khi hai tay cô được tháo ra xong, hắn quay qua mở trói cho Neil.

Cậu bé nhích lui, nép người vào Sharon. Cô nói:

- Đừng sợ Neil, cháu hãy nhớ những điều chúng ta đã nói với nhau.

- Cô nói gì đấy, Sharon?

- Chỉ nói ba của Neil sẽ giao tiền cho anh, số tiền anh đã yêu cầu, và ngày mai anh sẽ báo cho ba nó biết anh giam giữ chúng tôi ở đâu. Tôi đã nói với cháu tôi sẽ đi với anh, nhưng ba nó sẽ đến tìm nó ngay sau khi chúng ta đi rồi. Có đúng như thế không?

Hắn đáp, giọng có vẻ bán tin bán nghi, cặp mắt long lạnh dè dặt:

- Sharon, cô có chắc sẽ đi với tôi không?

- Chắc chứ, chắc chắn đi với anh. Anh... tôi khoái anh, Cáo!

- Tôi có mua cà phê và bánh mì, có sữa cho thằng bé.

- Anh dễ thương quá. - Cô duỗi mấy ngón tay ra. Hắn nhìn cô xoa bóp hai cổ tay cho Neil, vuốt mái tóc ra sau cho nó. Bằng cách bóp hai bàn tay của cậu bé, cô như muốn nói với cậu bé một mật khẩu.

Hắn lôi cái giỏ đựng đồ tới, để thức ăn vào đấy, đưa bịch cà phê cho Sharon.

- Cám ơn. - Cô để bịch cà phê sang một bên, chưa uống. Cô hỏi - Sữa của Neil đâu?

Hắn đưa bịch sữa cho cô, nhìn cô để bịch sữa vào giữa hai bàn tay của Neil.

- Này, Neil, cầm cho ngay ngắn, uống đi, uống từ từ. - Cậu bé thở dồn dập, hồi hộp, lo sự, thật quá nhiều chuyện đã xảy ra cho cậu.

Hắn lấy ra mấy khúc bánh mì nhỏ, hắn đã bảo tiệm bánh phết bơ nhiều vào, vì chính hắn, hắn thích thế. Sharon bẻ một miếng, đưa cho cậu bé.

- Này Neil, ăn bánh mì đi. - Giọng cô dịu dàng. Như thể hai người đã âm mưu để phản lại hắn. Hắn nhăn mặt khó chịu, nhìn hai người ăn bánh, uống cà phê và sữa. Hắn cũng uống cà phê, nhưng có vẻ bất bình ra mặt.

Hắn không cởϊ áσ khoác ra, trong phòng quá lạnh, hơn nữa, hắn không muốn làm dơ bộ đồ vía mặc ở trong. Hắn để cái bị giấy đựng bánh mì xuống nền nhà, lau sạch cái giỏ rồi ngồi lên, hai mắt nhìn vào cô và cậu bé.

Khi họ đã ăn xong, Sharon kéo Neil ngồi lên đầu gối mình. Đứa bé thở một cách nặng nhọc, tiếng thở làm cho Cáo khó chịu, bực bội. Sharon không mảy may chú ý đến hắn, cô chà xát lưng cho cậu bé, dịu dàng nói với cậu, khuyên cậu nên cố ngủ đi. Cáo nhìn cô hôn lên trán Neil rồi áp đầu cậu bé lên vai mình.

Thật là một người đàn bà nhân ái, hắn nghĩ, hành động của cô chứng tỏ cô rất thương mến đứa bé. Nếu hắn tống khứ thằng nhóc này đi, thế nào cô cũng đối xử dịu dàng với hắn. Mặt hắn bỗng chan chứa tình cảm, hắn mỉm cười, mơ tưởng đến cảnh cô biểu lộ tình cảm trìu mến với hắn, rồi cô ôm quàng hai tay quanh cậu bé. Hắn muốn cô sẽ ôm hắn như thế.

Hắn dậm chân bước đến bên giường, nhưng bỗng chân hắn đá phải cái máy thu âm. Hắn phải gởi cho Peterson cuốn băng ghi âm, hắn phải tống khứ thằng nhóc này gấp. Thất vọng, chán nản, hắn ngồi xuống lại, nói với cô:

- Bây giờ các người phải ghi âm vào băng để gởi cho Peterson.

- Ghi âm à? - Sharon vội vã hỏi, cô quên hết mọi sự lo lắng. Mới vừa rồi, cô nghĩ hắn sắp làm hại hai người, cứ nhìn ánh mắt thay đổi của hắn, nhìn nét mặt của hắn thì biết. Cô định tâm lại không biết có cơ may gì, có cách nào thoát được không? Từ lúc nghe Neil cho biết chính hắn đã gϊếŧ mẹ cậu, cô cố sức tìm cách để thoát ra khỏi nơi này. Ngày mai thì đã quá trễ cho Ronald rồi, cũng như cho Neil. Cô không biết Cáo định đến tìm cô vào giờ nào, thế nào hắn cũng đến. Hắn rất khôn ngoan, hắn biết trước sau gì người ta cũng nhận biết cô mất tích. Cứ nhớ đến những nỗ lực muốn cứu sống Ronald là cô đau đớn. Thật quá mỉa mai, mẹ cậu ta có lý, vì cô cứ nhất quyết cho cậu ta có tội, nên người ta lấy cớ để buộc tội cậu. Bây giờ không có gì quan trọng nữa nếu không cứu được Neil và Ronald. Bất cứ cái gì xảy đến cho cô, cô cũng bằng lòng miễn cứu sống được hai cậu bé. Chính cô đã nói với Steve rằng anh đã xem mình như Thượng đế!

Cáo có khẩu súng, hắn để trong túi áo khoác, nếu cô cố gắng khêu gợi hắn đến hôn cô, cô có thể đoạt lấy.

Nếu cô đoạt được khẩu súng, liệu cô có dám gϊếŧ hắn không?

Cô nhìn xuống Neil, nghĩ đến chàng trai bị tù. Gϊếŧ, cô có thể gϊếŧ chết thằng cha này.

Cô nhìn hắn sử dụng máy ghi âm một cách thành thạo, hắn lắp vào máy một cuộn băng ghi âm loại tốt. Chắc cuộn băng chưa dùng bao giờ. Hắn đẩy cái giỏ đựng đồ đến gần giường, nói:

- Nào, Sharon, đọc đi. - Hắn đã viết sẵn đoạn tin nhắn. "Steve, nếu anh muốn gặp lại chúng tôi, anh hãy trả tiền chuộc đi. Tiền trả phải bằng giấy bạc, 10, 20 và 50 đô-la. Tám mươi hai ngàn đô-la. Anh hãy lo cho đầy đủ, và nhất là đừng làm dấu vết gì hết. Hãy mang đến buồng điện thoại ở góc Đường 59 và Đại lộ Lexington, vào lúc hai giờ sáng. Để tiền trong xe anh. Chỉ đi một mình, đừng gọi cảnh sát".

Cô ngước mắt nhìn hắn:

- Tôi có thể nói thêm vài điều nữa được không? Chắc anh đã biết, chúng tôi đã cãi nhau, chúng tôi bất đồng ý kiến. Nếu tôi không xin lỗi anh ta vài lời, chắc anh ta không muốn trả tiền chuộc tôi. Anh biết, anh ta rất bướng có thể anh ta chỉ trả một nữa để chuộc Neil thôi, vì anh ta biết tôi không yêu anh ta. Nhưng chúng ta cần có đủ số tiền ấy, phải không?

- Em muốn nói gì với hắn, Sharon? - Hắn đùa ư? Hắn có tin cô không?

- Chỉ xin lỗi thôi, chỉ nói thế thôi. - Cô cố cười với hắn, đẩy Neil ra khỏi đầu gối, đưa tay sờ tay Cáo.

- Không nói bậy chứ, hả?

- Tại sao tôi lừa anh? Anh muốn Neil nói gì?

- Chỉ nói hắn muốn về nhà, chứ không nói gì nữa hết. Hắn để ngón tay lên nút "ghi âm". - Khi nào tôi ấn xuống, thì bắt đầu nói, máy micrô gắn trong máy rồi.

Cô nuốt nước bọt, đợi cho cát-sét chạy.

- Steve... - Cô đọc chậm rãi lời nhắn, để tranh thủ thời gian suy nghĩ những lời lẽ sẽ nói tiếp sau đoạn nhắn hắn đã viết sẵn. Cô đọc xong -... Đừng gọi cảnh sát. - Cô ngần ngừ.

Hắn nhìn trừng vào mặt cô.

- Steve... - Phải nói tiếp thôi. - Steve, bây giờ anh hãy nghe Neil nói. Nhưng trước khi nó nói, tôi thú thật tôi đã có lỗi, tôi mong anh tha lỗi... - Một tiếng cách vang lên. Cô đã định nói thêm: - "Tôi đã mắc phải sai lầm khủng khϊếp..."

- Thôi, đủ rồi, Sharon. Xin lỗi thế đủ rồi. - Hắn ra dấu cho Neil, cô quàng tay quanh Neil, nói:

- Nào, Neil, bây giờ cháu nói cho ba cháu đi.

Sự gắng sức để nói làm cho hơi thở của cậu sò sè thêm:

- Ba ơi, con khỏe, cô Sharon chăm sóc con, nhưng có lẽ mẹ con không thích con ở đây, ba à.

Máy ghi âm ngưng chạy, Neil đã cố báo cho Steve biết một tin mới; cậu muốn nối kết việc cậu bị bắt cóc với cái chết của mẹ cậu.

Hắn cuốn ngược cuộn băng, cho chạy lại. Hắn cười với Sharon:

- Thế là rất tuyệt, nếu tôi là Peterson, tôi sẽ trả tiền để chuộc em về.

- Tốt, anh hài lòng là tôi suиɠ sướиɠ rồi. - Có phải hắn đang vuốt v3 cô không nhỉ?

- Cô Sharon - Neil kéo tay áo cô - Cháu muốn...

- Mày muốn đi toa-lét phải không, thằng kia? - Cáo hỏi, giọng hắn rất bình tĩnh - Cũng phải thôi, lâu rồi. - Hắn bước tới Neil, nắm tay cậu, dẫn vào phòng vệ sinh, đóng cửa lại. Sharon sững người, nhưng hắn đi ra rất nhanh, kẹp thằng bé dưới nách. Cô thấy hắn quay đầu thằng bé về phía khác như thể hắn sợ cậu ta có thể thấy hắn qua lớp vải bịt mắt. Hắn thả cậu xuống giường. Cậu bé run rẩy, gọi:

- Cô Sharon!

- Có cô đây. - Cô vuốt v3 lưng cậu bé.

- Sharon, đến phiên cô, đi không? - Tên bắt cóc bắt đầu làm dấu về phía toa-lét.

- Đi chứ.

Hắn nắm cánh tay cô, dìu cô vào bên trong căn phòng nhỏ xíu dơ dáy hôi hám. Dây trói cứa rách chân và hai mắt cá, Sharon nhăn mặt đau đớn. Hắn nói:

- Bên trong có móc cửa, nếu cô muốn thì gài móc lại nếu không, cứ để thế, nhưng cô hãy nhanh lên. - Hắn vuốt má cô - Vì nếu cô lâu quá, tôi nổi giận thì phiền cho thằng bé đấy. - Hắn bước lui, kéo cánh cửa lại.

Cô vội vàng cài then cửa, nhìn quanh phòng, căn phòng tối tăm, cô đưa tay mò quanh mép chân. Có thể có cái gì chứ, một đoạn ống nước, một vật gì nhọn, cô bắt đầu mò dưới đất.

- Mau lên, Sharon.

- Vâng.

Khi mở cửa, bỗng cô cảm thấy tay nắm của cánh cửa xoay tròn trong tay mình, cô liền cố quay một vòng tròn nữa. Nếu tháo được nắm cửa này ra, cô sẽ cất vào túi váy. Biết đâu đầu mút của tay nắm này sắc bén cũng nên... nhưng cô không tháo ra được.

- Bước ra thôi. - Giọng hắn gay gắt. Cô vội vàng mở cửa, bước ra, giả vờ đi khập khiễng, cà nhắc, níu vào khung cửa bằng sắt. Hắn bước đến gần cô, cô quàng hai tay quanh cổ hắn. Cố quên sự ghê tởm, cô hôn lên má, lên môi hắn. Hắn ôm cô siết mạnh cô vào người, tim hắn đập thình thịch. Ôi Chúa, con xin cầu Chúa!

Cô lần hai tay xuống vai hắn, vuốt dọc xuống lưng hắn. Mấy ngón tay dịu dàng, mơn trớn trên cổ hắn. Cô lần bàn tay phải xuống túi áo khoác của hắn, cô cảm thấy tay chạm vào chất thép.

Hắn đẩy mạnh cô ra một cách thô bạo. Cô lăn vòng xuống nền nhà, hai chân bị trói vặn vào nhau, mắt cá bên phải đau nhói lên.

- Mày cũng như bọn khác thôi sao? - Hắn thốt lên. Hắn đứng nhìn cô nằm dưới nền nhà, cô nhìn lên hắn, mình mấy đau đớn khiến cô buồn nôn. Khuôn mặt cúi xuống trên cô trông như ma quỷ, mạch máu dưới mắt hắn nhảy loạn xạ, hai má hắn đỏ rần thành những đường vân chằng chịt. Cặp mắt hắn biến thành hai đường khe đen thui, nẩy lửa vì tức giận.

- Đồ đi~. - Hắn nói - Đồ đi~ dơ bẩn.

Hắn kéo cô đứng lên, đẩy cô xuống giường, trói quặp hai tay cô ra sau lưng, cô đau đớn đến mờ mắt.

- Mắt cá chân tôi. - Có phải giọng cô không nhỉ?

- Cô Sharon, cô Sharon, chuyện gì thế? - Neil hốt hoảng hỏi.

Cố hết sức mình để nén tiếng rên, cô đáp:

- Cô bị té.

- Cũng như tất cả những đứa khác... mày giả vờ... tệ mạt hơn nữa... mày cố chinh phục tao. Tao biết mày nói láo, tao biết mày lập mưu... tao biết... - Hai tay hắn bóp lấy cổ cô. Ôi Chúa ôi! Mấy ngón tay cứng cáp ấn mạnh vào gáy cô... Lạy Ngài... Cứu...!

- Đừng! - Hai bàn tay nới ra, đầu cô ngã ra phía sau. - Cô Sharon, cô Sharon. - Neil khóc, kinh hoàng, cậu ngộp thở.

Lấy lại hơi thở, cô nhích mặt gần cậu, hai mí mắt nặng trịch, cô cố mở mắt ra. Cáo đang cúi người trên bồn rửa, hắn rảy nước vào mặt, nước chắc lạnh lắm. Cô nhìn hắn, hoảng sợ, hắn cố lấy lại bình tĩnh. Hắn đã suýt gϊếŧ chết cô. Tại sao hắn dừng lại? Có lẽ hắn đang còn cần đến cô.

Cô cắn môi đến đau đớn, không còn cách gì để thoát được nữa. Ngày mai, khi hắn đã lấy tiền rồi, hắn sẽ gϊếŧ cô và Neil. Đồng thời Ronald Thompson sẽ chết về tội mà cậu ta không phạm phải. Chỉ có cô và Neil là hai người duy nhất có thể chứng minh cậu ta vô tội. Mắt cá chân cô sưng vù, vì da giày cứa vào, dây trói nghiến rách thịt, ôi lạy Chúa, con xin cầu ngài! Vì quá đau, cô run lẩy bẩy mặt ướt đẫm mồ hôi.

Cô thấy hắn lấy khăn tay lau mặt, hắn đến chỗ hai người, trói hai tay Neil lại, bịt miệng hai người thật chặt. Hắn xem lại sợi dây điện nối từ va-li đến cửa. Hắn nói:

- Sharon, tao đi. Ngày mai tao sẽ trở lại, và là lần cuối cùng...

Hắn không có ý định đi sớm như thế, nhưng hắn biết nếu hắn ở lại lâu hơn, thế nào hắn cũng gϊếŧ cô. Mà có lẽ hắn còn cần đến cô, họ có thể yêu cầu hắn đưa ra bằng chứng khác để chứng minh cô và đứa bé còn sống. Hắn phải có tiền, bây giờ hắn không thể gϊếŧ cô ta được.

Có một chuyến tàu từ Mount Vemon đến vào lúc 11 giờ, hắn chỉ còn đợi vài phút nữa thôi, hắn đứng yên bên cạnh cửa đường hầm, ở chỗ này trời rất tối.

Có tiếng chân người, hắn đứng áp sát người vào tường, đưa mắt nhìn. Một người bảo vệ! Anh ta kiểm soát các nơi chung quanh, đi đến nhìn vào hệ thống ống dẫn nước, nhìn vào các vòi nước, ngước mắt nhìn tầng cấp dẫn đến căn phòng, rồi quay ra để lên ke tàu đi Mount Vemon.

Hắn toát mồ hôi lạnh ướt cả đầu và hai bàn chân. Dịp may đã quay lưng với hắn, hắn cảm thấy thế. Phải chấm dứt và biến cho rồi. Có tiếng gầm rú rồi tiếng thắng vang lên. Hắn thận trọng đi len lỏi giữa các ống thông gió, các ống thoát nước, đến bờ mặt nghiêng, rồi thở phào nhẹ nhõm chen lẫn vào đám hành khách vừa xuống tàu.

Đúng 11 giờ, hắn không về phòng khách sạn, hắn quá căng thẳng. Hắn băng qua đường số 42 rồi đi vào rạp xi-nê. Suốt 4 giờ rưỡi đồng hồ, hắn say sưa theo dõi liên tiếp ba phim khiêu dâʍ, phim đã làm cho hắn bị kíƈɦ ŧɦíƈɦ tột độ. Đến 15 giờ 5, hắn đi tàu hỏa đến Carley.

Khi đã ngồi vào toa tàu, hắn mới thấy Steve Peterson. Tình cờ hắn ngước mắt lên đúng lúc anh đi trên hành lang, may cho hắn là hắn ngồi khuất sau tờ báo, hắn cố ý như thế để khỏi ai thấy hắn và khỏi ai ngồi bên hắn.

Steve xách một va-li lớn.

Va-li tiền! Hắn tin chắc như thế! Và đêm nay, tiền ấy là của hắn. Nỗi lo sợ gặp điều xấu đã tiêu tan. Sau khi đã biết chắc Steve lái xe đi rồi, hắn mới yên tâm ra khỏi nhà ga, lòng hân hoan suиɠ sướиɠ. Hắn đi hăng hái trong tuyết qua tám khu phố để đến chỗ ở của hắn, một ga ra tồi tàn nằm tận trong một ngõ cụt. Một tấm biển ghi: "A.R. Taggert - Sửa chữa xe hơi".

Hắn bước nhanh vào trong, dưới cửa không có lời nhắn nào hết. Tuyệt! Không ai hỏi hắn hết, vả lại, nếu có ai đến hỏi, người ta cũng không lấy làm lạ về việc hắn đi vắng. Hắn thường sửa xe tại chỗ cho người ta, ở nhà của chủ xe.

Ga ra lạnh và dơ bẩn, chẳng hơn gì căn phòng ở Ga lớn Trung tâm, quả hắn đã quen làm việc ở những nơi tồi tàn rồi.

Chiếc xe của hắn đã sẵn sàng đợi hắn lên đường. Hắn đã đổ đầy xăng vào xe, nhờ máy bơm xăng được thiết lập trong góc ga ra. Chính hắn đã có sáng kiến thiết lập máy bơm xăng này, sáng kiến thật tuyệt diệu. Tuyệt diệu cho khách hàng, họ thích lúc nào bình xăng cũng đầy ắp. Cũng tuyệt diệu cho hắn nữa, để hắn dùng vào những chuyến đi chơi đêm xa xôi. - Xe bà hết xăng à, thưa bà? Được rồi, tôi có sẵn thùng xăng trong xe đây, xe cộ là nghề của tôi mà...

Hắn đã gắn lên xe bảng số cũ của một khách hàng để đề phòng trường hợp đêm nay có kẻ nào hiếu kỳ ghi số xe của hắn.

Hắn đã tháo máy vô tuyến điện thoại ra, để trong hộp nằm trên chỗ ngồi phía trước.

Hắn tống khứ tất cả những bảng số khác mà hắn đã dùng trong sáu năm qua, và vứt bỏ những cặp chìa khóa xe do hắn tạo ra, hắn vứt tất cả vào bãi rác.

Chỉ còn lại một số dụng cụ và những thứ phụ tùng nằm trên kệ, những bánh xe chất một đống trong góc. Ông chủ Montgomery sẽ biết cách xử trí những thứ này. Đằng nào thì ông ta cũng sẽ hủy hết, lão sẽ có vô số đồ rác rưởi cần vứt đi.

Sẽ không bao giờ hắn về lại chỗ dơ dáy này, càng hay. Hai tháng vừa qua, hắn chả có việc gì để làm. Hắn đã quá bực mình, may thay, có việc sửa chữa chiếc xe cho gia đình Vogler mà hắn kiếm được bộn tiền.

Thế là yên.

Hắn đi vào căn phòng nhỏ bẩn thỉu ở phía trong cùng ga ra, lôi dưới chiếc giường nhỏ chật chội ra một cái va-li cũ rích. Hắn moi trong cái tủ bằng gỗ thích cũ ọp ẹp một ít áo qυầи ɭóŧ, giày dép, rồi xếp vào va-li.

Hắn lấy cái áo vét thể thao màu đỏ đã sờn cũ, cắt may vụng về, và cái quần kẻ ô vuông ở phía sau cánh cửa, xếp bỏ vào va-li. Hắn ném bộ đồ xanh dùng làm việc bám đầy dầu mỡ lên giường. Mang theo chúng chả ích gì, với số tiền này, hắn chẳng cần phải làm việc.

Hắn lấy máy ghi âm nhỏ trong túi áo khoác ra, nghe lời ghi âm của Sharon và của Neil thêm lần nữa. Cái máy ghi âm khác, hiệu Sony, nằm trên tủ, hắn lấy để xuống giường, lục tìm trong đống băng cát-sét lấy một cuốn, lắp vào máy. Hắn chỉ cần cuốn đầu tiên trong sự nghiệp của mình thôi.

Hắn đã có cuốn ấy trong máy.

Hắn lại mở cuốn băng ghi âm của Sharon và Neil, để cho máy chạy đến hết giọng nói của Neil, hắn bấm nút "thu". Rồi hắn bấm lên nút "play" trên máy ghi âm kia.

Công việc này hắn chỉ làm mất một phút, sau đó, hắn nghe lại lần cuối cuốn băng cát-sét sẽ gởi cho Peterson. Tuyệt! Tuyệt diệu! Hắn gói cuốn băng trong giấy, lấy băng keo dán lại, dùng bút to nét viết lời nhắn lên.

Hắn bỏ hết những cuốn băng khác và hai máy ghi âm vào va-li đựng áo quần, hắn khóa va-li, xách ra xe. Hắn tính sẽ xách va-li đựng tiền chuộc để lên máy bay. Còn va-li này và cái hộp đựng máy vô tuyến điện thoại thì gởi cho hãng hàng không vận chuyển.

Hắn mở cửa ga ra, lên xe, cho máy nổ. Trong khi máy xe nổ từ từ thì trên môi hắn nở một nụ cười, nụ cười bồi hồi, bí mật. Hắn thì thầm nói:

- Bây giờ, ta đi một vòng đến nhà thờ, rồi sau đó đi thưởng thức một chầu bia.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Steve nói thẳng với Hugh:

- Tôi không tin như thế, nếu ông xem đây là trò dàn cảnh, thì ông đã đẩy sinh mạng của Neil và Sharon đến chỗ nguy hiểm.

Từ New York trở về, anh cứ mãi đi lui đi tới trong phòng khách, hai tay thọc vào túi quần. Ông Hugh nhìn anh, ánh mắt vừa thương xót vừa tức tối. Anh chàng là người có nghị lực, thế mà chỉ trong vòng 10 tiếng đồng hồ trông anh già đi đến 10 tuổi. Thậm chí sáng nay, ông Hugh còn thấy xuất hiện trên mặt nhiều nếp nhăn mới, những nếp nhăn lo lắng chạy quanh hai mắt và hai khóe môi của anh.

- Ông Peterson này, - Ông ta đáp, giọng gay gắt - tôi công nhận đây là một vụ bắt cóc thật sự, nhưng chúng tôi phải tin rằng việc... mất tích của Neil và Sharon có liên hệ mật thiết đến mưu toan nhằm tác động đến lòng nhân từ của Thống đốc để xin giảm án cho Thompson.

- Còn tôi, tôi xác nhận là ông lầm! Không có tin gì mới của bà Glenda à?

- Rất tiếc là không.

- Và cũng không có băng ghi âm hay cát-sét của Cáo ư?

- Cũng không.

- Vậy chỉ còn nước chờ thôi.

- Phải, chắc ông phải đi New York vào lúc nửa đêm.

- Hắn điện thoại hẹn lúc hai giờ phải không?

- Điều kiện lưu thông rất xấu, ông Peterson à.

- Ông có tin thằng Cáo này sợ gặp tôi, sợ không chạy thoát được không?

Ông Hugh lắc đầu:

- Tôi không biết gì hơn ông, nhưng chúng ta đã gài máy nghe lén ở máy điện thoại tại Đường 59 rồi. Tuy nhiên, theo tôi thì hắn sẽ ra lệnh cho ông đến buồng điện thoại khác như lần trước. Chúng tôi không dám gài máy micrô trong xe ông, vì hắn có thể lên xe với ông. Các nhân viên mật vụ ở tại các nơi canh gác gần đây sẽ canh chừng việc chuyển dịch của ông. Tất cả khu vực đều có xe gắn máy vô tuyến luôn luôn theo dõi và sẽ ra lệnh cho xe khác biết hướng ông đi. Ông đừng lo, không có dấu hiệu gì để lộ cho hắn thấy chúng tôi theo dõi ông. Máy phát âm trong va-li giúp chúng tôi giữ cách xa chỗ ông một khoảng.

Bà Dora thò dầu vào phòng khách.

- Xin thứ lỗi. - Giọng bà ta đã thay đổi. Vẻ mặt lạnh lùng của ông Hugh làm cho bà sợ, bà không thích cách ông ta nhìn thẳng vào mặt hai vợ chồng bà như thế. Không phải vì Bill thích uống rượu mà trở thành người xấu, chính sự căng thẳng trong 24 giờ qua đã làm cho bà chán nản. Chắc chắn thế nào ông Peterson cũng nhận lại được Neil và Sharon bình an sức khỏe. Phải tin như thế. Anh đã chịu đựng cảnh đau khổ hai năm, bây giờ chuyện như thế này nữa thì thật quá phũ phàng cho anh.

Rồi sau đó, vợ chồng bà sẽ ra đi, đã đến lúc bà nên đi Florida. Bà đã già, đã quá mệt mỏi, không thể giữ nổi thằng bé và ngôi nhà này. Neil cần một người nào còn trẻ, cần người nào để nó nói chuyện được. Bà biết bà đã nuông chiều cậu ta quá, điều đó dễ sinh ra nhiều chuyện phiền toái cho cậu ta khi có dịp.

Ôi, Neil! Cậu ta thật suиɠ sướиɠ khi mẹ còn sống. Lúc ấy cậu ta có bao giờ bị hen suyễn đâu, quá lắm là bị cảm cúm một hai lần rồi thôi. Cặp mắt nâu to sáng sủa, chứ đâu buồn bã, âu sầu như bây giờ.

Thế nào ông Peterson cũng lấy vợ lại, nếu không cưới cô Sharon thì cũng lấy người nào khác để tạo cho ngôi nhà này thành tổ ấm.

Bà Dora thấy Steve nhìn bà, ánh mắt muốn hỏi bà cần gì, bà buộc lòng phải nói. Nhưng bà không biết vị trí của mình ở đâu trong cảnh lo buồn khủng khϊếp này. Suốt đêm bà không chợp được mắt, bà sẽ nói gì cho hợp nhỉ. À, phải rồi!

- Tôi biết ông không thấy đói, nhưng ông có muốn tôi làm cho ông và ông Taylor miếng thịt bò rán không?

- Tôi không ăn, cám ơn bà Dora. Có lẽ ông Taylor...

- Bà Lufts, xin bà vui lòng làm cho hai chúng tôi mỗi người một miếng - Ông Hugh nói rồi để tay lên cánh tay Steve, nói với anh - Từ hôm qua đến giờ, anh không ăn gì cả, anh sẽ còn đứng cả đêm, anh cần phải giữ sức khỏe, để lái xe và theo dõi kế hoạch.

- Có lẽ ông có lý.

Họ vừa ngồi vào bàn ăn thì chuông cửa reo, ông Hugh vùng đứng dậy.

- Để tôi ra xem.

Steve bóp mạnh cái khăn ăn, phải chăng người ta đem bằng chứng anh yêu cầu đến? Có phải anh sắp được nghe giọng của Neil và giọng của Sharon?

Ông Hugh trở vào, theo sau là một thanh niên tóc đen, anh biết rõ người nầy - đó là luật sư của Ronald Thompson, tên là Kumer - Robert Kumer. Tóc tai anh ta bờm xờm, anh ta có vẻ bị dao động, cái áo măng tô không cài nút, áo quần nhàu nát. Mặt ông Hugh tỉnh bơ, không đoán được ông nghĩ gì.

Bob không xin lỗi về việc anh làm gián đoạn bữa ăn của hai người, anh ta vào đề ngay:

- Ông Peterson, tôi muốn nói chuyện với ông về việc đứa con của ông.

- Chuyện con tôi à? - Steve cảm thấy ông Hugh đang nhìn anh với cặp mắt cảnh giác. Anh bặm chặt hai tay dưới bàn - Con tôi có chuyện gì thế?

- Thưa ông Peterson, tôi đã biện hộ cho Ronald Thompson, tôi đã biện hộ sai.

- Nếu Ronald Thompson bị kết án thì anh cũng không có lỗi gì. - Steve nói. Anh không nhìn anh ta, mắt anh nhìn đăm đăm miếng thịt bò rán, nhìn lớp mỡ chung quanh bắt đầu đông lại, anh lấy tay đẩy đĩa thịt đi. Phải chăng ông Hugh có lý? Phải chăng vụ bắt cóc này chỉ là vụ dàn cảnh?

- Ông Peterson này, Ron không gϊếŧ vợ ông, cậu ta bị kết án là vì đa số các vị quan tòa, vô tình hay cố ý, đều cho rằng cậu ta cũng đã gϊếŧ cô Carfolli và bà Weiss...

- Hắn có tư pháp lý lịch mà.

- Chuyện nhỏ nhặt, thường tình.

- Trước đây hắn đã từng tấn công một cô gái, hắn định bóp cổ cô ta mà.

- Thưa ông Peterson, lúc ấy cậu ta mới 15 tuổi, đang tham gia tiệc khiêu vũ với bạn bè. Cậu ấy tham gia thi đua uống bia, ông nghĩ đi có học sinh nào không làm thế ở trường? Khi cậu ấy say, có kẻ đã đưa cô-ca-in cho cậu ta. Cậu ta không biết mình làm gì hết, cậu ta không nhớ tí nào về việc cậu ta để tay lên cô gái ấy. Chúng ta đều biết rượu và m@ túy đã tác động lên bộ não của con người ra sao rồi. Ron chỉ thiếu may mắn là đã gây nên lắm chuyện rắc rối nghiêm trọng trong lần say đầu tiên của mình. Trong suốt hai năm sau đó, cậu ta không uống nữa, dù chỉ một ly bia. Và cậu ta quá xui xẻo khi đi vào nhà ông ngay sau khi vợ ông bị gϊếŧ chết.

Giọng của Bob run run, lời lẽ thiếu mạch lạc.

- Ông Peterson à, tôi đã xem biên bản điều tra, hôm qua, tôi đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần với Ron mỗi lời nói mỗi hành động mà cậu ta đã nói hay làm trong khoảng thời gian từ khi cậu ta nói với bà Peterson ở thương xá Timberly cho đến lúc cậu ta phát hiện ra thi thể của vợ ông. Và tôi đã nhận thấy tôi mắc phải sai lầm. Ông Peterson - con trai ông nói rằng cậu ta đi xuống cầu thang lầu khi cậu nghe tiếng mẹ, rồi cậu trông thấy một gã đàn ông bóp cổ mẹ cậu và sau đó cậu ta thấy mặt của gã này.

- Mặt của Ron Thompson.

- Không, không! Ông không hiểu! Ông hãy nhìn biên bản thì biết. - Bob ném cái cặp lên bàn, lấy ra một xấp giấy tờ của tòa án, lật nhanh rồi dừng lại một trang ở giữa. - Đây. Ông chưởng lý hỏi Neil tại sao cậu bé quả quyết người ấy là Ron. Neil đáp: Nhờ có đèn sáng, cho nên tôi thấy rõ.

Tôi đã bỏ sót chi tiết này, thế đấy. Hôm qua Ron đã lặp lui lặp tới lời khai của cậu ta rằng cậu đã bấm chuông ở cửa vào. Và cậu đợi thêm hai phút nữa mới bấm chuông lần hai. Vậy mà Neil không nói gì về việc có tiếng chuông reo cả.

- Việc này chẳng chứng minh được gì - Ông Hugh cắt ngang lời anh ta - Neil đang chơi tàu hỏa ở trên lầu, có lẽ cậu ta chơi say sưa và tiếng tàu chạy ồn khiến cậu ta không nghe.

- Không, không phải, cậu ta có nói: nhờ có đèn sáng kia mà. Thưa ông Peterson, đây là quan điểm của tôi. Ron đã bấm chuông ở cửa trước, cậu ta đợi, sau đó bấm chuông lần hai, đi quanh nhà một vòng. Cậu ta đã để cho tên gϊếŧ người có thời gian tẩu thoát, vì thế mà cửa sau nhà mở.

- Ron bật đèn dưới nhà bếp, vì thế Neil mới thấy rõ mặt của Ron, nhờ ánh sáng từ bếp chiếu lên. Ông Peterson này, chú bé từ trên lầu chạy xuống, thấy có kẻ đang thắt cổ mẹ nó, phòng khách thì tối om. Ông hãy nhớ điều này, chỉ có ánh sáng ở ngoài cửa trước chiếu vào nên cảnh tượng mới làm cho cậu bị kích động và cậu ngất xỉu, người lớn cũng bị ngất xỉu nữa mà. Sau đó cậu ta tỉnh lại và cậu thấy có người cúi xuống trên mẹ nó, có người nắm cổ bà ấy, vì lúc ấy đèn ở nhà bếp chiếu sáng lên phòng khách. Chính Ron đã cố tháo cái khăn thắt cổ bà ấy, nhưng cậu ta không tháo được vì khăn thắt quá chặt. Và cậu ta thấy bà ấy chết rồi, cậu ta sợ liên lụy, thế là cậu ấy hoảng hốt, bỏ chạy trốn. Có kẻ sát nhân nào lại để yên nhân chứng như Neil lại đâu? Nó dại gì để cho bà Perry còn sống, vì thế nào bà ta cũng khai hắn ra? Bà ta là khách hàng ở thương xá Timberly. Kẻ sát nhân không đời nào để yên cho các nhân chứng đâu, ông Peterson à.

Ông Hugh lắc đầu:

- Điều này không chứng minh được gì cả, đây chỉ là những điều phỏng đoán không có chứng cụ thể.

- Neil sẽ cho chúng ta chứng cứ cụ thể - Bob tha thiết nói - Ông Peterson, ông có bằng lòng để cho người ta thôi miên cậu ấy không? Hôm nay tôi đã hỏi ý kiến của nhiều bác sĩ, họ xác nhận rằng nếu có cái gì gợi lại trí nhớ của cậu ấy, thì cậu ấy sẽ nhớ lại sự thực. Phép thôi miên sẽ giúp cậu ấy nhớ lại.

- Không thể được! - Steve cắn môi, suýt nữa thì anh đã thốt ra câu "người ta không thể thôi miên một chú bé bị bắt cóc". Anh nói tiếp - Anh đi đi! Đi khỏi đây ngay!

- Không, tôi không đi! - Robert Kumer ngần ngừ một lát, rồi lục tìm lại trong cặp - Tôi rất đau lòng phải cho ông xem những cái này, ông Peterson à. Việc này nằm ngoài dự định của tôi, tôi đã xem kỹ những thứ này rồi, đây là những tấm hình chụp vợ ông sau khi bà ấy bị gϊếŧ.

- Anh có điên không? - Ông Hugh chụp lấy mấy bức hình - Anh moi ở đâu ra các thứ này? Đây là tài liệu của tòa án mà!

- Chẳng cần biết tôi moi ở đâu ra, các ông hãy nhìn xem. Các ông thấy chưa? Nhà bếp đây, ngọn đèn không thấy rõ, điều này chứng tỏ ánh sáng cực mạnh.

Thình lình Bob mở cánh cửa bếp, anh lấn hai vợ chồng Lufts mà đi, hai người này đang đứng ngay sau cửa. Không để ý đến họ, anh kéo chiếc ghế đến ngay dưới ngọn đèn gắn trên trần, leo lên ghế, vặn tháo cái chụp hình cầu ở ngọn đèn ra, căn phòng sáng thêm rất nhiều. Anh trở lại phòng ăn, tắt đèn, bật đèn ở lối vào, rồi cuối cùng, tắt đèn ở phòng khách.

- Các ông hãy nhìn vào phòng khách đi, người ta vẫn thấy rõ ràng. Hãy đợi một chút. - Anh quay vào nhà bếp, tắt đèn luôn. Steve và Hugh nhìn anh ta, sững rờ, Steve để tay lên bức hình chụp thi thể Nina.

- Các ông hãy nhìn - Bob nói - Khi đèn ở nhà bếp tắt, trong phòng khách tối om. Các ông hãy đứng ở vị trí cậu bé xuống thang lầu. Xin quý ông vui lòng đến đứng ở chân cầu thang tại tiền sảnh đi. Các ông hãy nhìn vào phòng khách. Neil thấy được gì không? Chỉ là cái bóng lờ mờ, có kẻ nào đấy tấn công mẹ cậu, cậu ngất xỉu, cậu không hề nghe chuông reo. Các ông hãy nhớ điều này: Cậu bé không hề nghe chuông reo. Thời gian Ron bấm chuông, đứng đợi, rồi bấm chuông lần hai, đi quanh nhà một vòng, kẻ sát nhân biến mất. Và chính Ron là người đã cứu sống con ông vào ngày hôm ấy, khi cậu ta đến nhà ông.

Có thể như thế không? Steve tự hỏi. Có thể chàng trai ấy vô tội không? Anh đứng ở tiền sảnh, đưa mắt nhìn vào phòng khách, Neil thấy gì nhỉ? Có lẽ nào chú bé bất tỉnh trong một lát không?

Ông Hugh sải bước vào phòng khách, bật đèn lên. Ông bình tĩnh lên tiếng nói:

- Thế vẫn không đầy đủ, đó chỉ là phỏng đoán, một sự phỏng đoán đơn thuần, không có bằng chứng nào cụ thể trong lối dự đoán này.

- Neil là người duy nhất có thể cho chứng ta bằng chứng, cậu ấy là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta. Ông Peterson, tôi van ông, hãy để cho chúng tôi hỏi cậu bé. Tôi đã gặp bác sĩ rồi, bác sĩ Michael Lane. Ông ta sẽ đến đây tối nay để hỏi Neil. Ông ta là bác sĩ của bênh viện Mont-Sinai. Ông Peterson, tôi van ông, xin ông hãy cho Ron dịp may này.

Steve nhìn Hugh, anh thấy ông khẽ lắc dầu từ chối. Nếu anh thú thực Neil đã bị bắt cóc, anh chàng luật sư này sẽ nắm ngay cớ này để tuyên bố vụ bắt cóc này có liên hệ đến cái chết của Nina. Như thế có nghĩa là mọi người đều biết, có nghĩa là mọi hy vọng tìm ra Neil và Sharon còn sống đều tiêu tan hết.

- Con tôi đi vắng rồi - Anh nói - Tôi đã nhận được nhiều lời hăm dọa vì lập trường của tôi về án tử hình. Tôi không muốn tiết lộ cho ai biết chỗ ở của con tôi.

- Ông không tiết lộ cho ai biết chỗ ở của con ông à? Ông Peterson, một người vô tội mới 19 tuổi ngày mai sẽ chết vì một hành động mà anh ta không phạm phải.

- Tôi không thể làm gì được cho ông - Steve cương quyết nói - Mời ông ra khỏi đây, hãy ra khỏi đây và mang theo những bức ảnh khốn kiếp này đi.

Bob cảm thấy hết hy vọng, anh bước đến bàn ăn, lượm mấy tấm ảnh và những bản gốc biên bản án mạng, bỏ hết vào cặp. Anh định đóng cặp lại, bỗng anh đổi ý, anh lấy ra bản ghi lời khai mà Ron đã khai ngày hôm qua, anh ném tập giấy lên bàn:

- Ông Peterson, ông hãy đọc lời khai này đi, ông hãy đọc và cho tôi biết phải chăng đây là lời khai của một tên gϊếŧ người. Ron bị đưa lên ghế điện vì dân ở Fairfield County kinh hoàng trước vụ gϊếŧ chết cô Carfolli và bà Weiss, hơn là cái chết của vợ ông. Cách đây mấy tuần đã xảy ra hai vụ gϊếŧ chết phụ nữ đi một mình trong xe hơi trên những đoạn đường vắng vẻ. Ông không thèm để ý đến sự kiện này, nhưng tôi hoàn toàn tin rằng bốn vụ gϊếŧ người này đều có liên hệ với nhau, và tôi tin rằng bằng cách này hay cách khác, cái chết của vợ ông có liên hệ với bốn vụ này. Tất cả đều bị thắt khăn quàng quanh cổ, hay là bằng dây thắt lưng cho đến chết. Chỉ có điều khác biệt là, chắc vì có một lý do gì đấy, tên sát nhân đã chọn cách tìm đến nhà ông. Nhưng cả năm người phụ nữ đều chết theo cùng một cách.

Anh ta đi ra, đóng mạnh cửa lại, Steve nhìn ông Hugh, anh mỉa mai hỏi:

- Giả thuyết của ông cho rằng vụ bắt cóc này có liên hệ đến vụ hành quyết vào ngày mai là đúng phải không?

Ông Hugh có vẻ trầm ngâm một lát rồi đáp:

- Chúng tôi biết anh ta không tham gia vào âm mưu này, nhưng chưa bao giờ chúng tôi tuyên bố anh ta có tham gia.

- Anh ta có một tí cơ may nào, có lý về cái chết của Nina không?

- Anh ta bám vào những gì anh ta tìm ra, tất cả chỉ là giả thuyết và phỏng đoán. Đó là phương pháp của luật sư để bào chữa cho khách hàng.

- Nếu có Neil ở đây, tôi sẽ cho phép người bác sĩ ấy nói chuyện với nó, và nếu cần, tôi sẽ cho phép ông ta dùng thuật thôi miên. Từ cái đêm ấy, Neil thường nằm thấy ác mộng, mới tuần vừa rồi, thằng bé cũng lại nói về vấn đề ấy.

- Cậu bé nói gì?

- Nó kể lúc ấy nó rất sợ, nó không quên được. Tôi đã tìm gặp bác sĩ tâm thần ở New York, ông ta cho rằng có lẽ thằng bé lâm vào tình trạng bị ức chế. Ông Hugh này, bây giờ xin ông thành thật cho tôi biết có phải ông đã chấp nhận ý kiến cho rằng Ronald Thompson không gϊếŧ vợ tôi?

Ông Hugh nhún vai.

- Ông Peterson, vụ này đã có những bằng cớ hiển nhiên rồi, ta không thể rút ra một kết luận khác được.

- Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.

- Tôi chỉ trả lời theo cách phải trả lời thôi, mà xin ông, miếng thịt chắc hết ngon rồi, ông phải ăn cái gì chứ.

Họ đi vào phòng ăn, Neil uể oải ăn lát bánh mì và uống tách cà phê, tờ khai của Ron nằm dưới cùi tay của anh, anh lấy tờ đầu tiên ra đọc:

"Tôi sắp mất việc, nhưng tôi thông cảm cho ông Timberly, ông ấy cần có người giúp làm việc nhiều giờ. Tôi nghĩ nếu tôi tham gia chơi bóng đá, tôi sẽ dễ vào đại học và có thể có học bổng. Cho nên tôi không thể tiếp tục làm việc cho ông ấy được. Bà Peterson đã nghe ông Timberly nói, bà rất ái ngại cho tôi. Khi tôi mang giúp hàng hóa của bà ra xe, bà hỏi tôi rằng tôi tính sẽ làm việc gì. Tôi trả lời tôi có thể đi quét vôi nhà cửa vào mùa hè. Chúng tôi cùng đi ra xe bà. Bà ấy cho tôi biết gia đình bà vừa dọn nhà, thế nào bà cũng cần sơn quét lại nhà cửa, ở trong lẫn bên ngoài, và bà yêu cầu tôi đến xem. Tôi sắp xếp hàng hóa vào thùng xe cho bà. Tôi đã nói hôm ấy là ngày may mắn cho tôi, tôi nói đúng như lời mẹ tôi đã nói: cái rủi thường hóa ra may. Rồi chúng tôi nói chuyện vui với nhau vì khi ấy bà nói: "Hôm nay cũng là ngày may của tôi, vì nhờ cậu tôi mới để hết các thứ hàng hóa mắc dịch này vào thùng xe được". - Rồi bà nói thêm rằng bà không thích đi mua hàng, vì mới dọn nhà nên bà phải đi mua sắm một lần thôi. Khi ấy là bốn giờ, sau đó..."

Steve không đọc tiếp nữa, ngày may mắn của Nina. Ngày may mắn của cô ấy! Anh đẩy những tờ giấy đi.

Chuông điện thoại reo, Steve và Hugh đều đứng lên, Steve chạy đến điện thoại ở bếp, ông Hugh đến máy ở phòng làm việc. - Có phải Peterson đấy không? - Giọng nói trong máy có vẻ thận trọng. Lạy Chúa. Xin ngài giúp cho có tin vui đến!

- Ông Peterson, tôi là cha Kennedy ở nhà thờ St.Monica đây. Tôi nghĩ có điều rất kỳ lạ đang xảy đến.

Steve cảm thấy cuống họng thắt lại, anh cố cất tiếng để trả lời:

- Chuyện gì đây, thưa cha?

- Mới cách đây 20 phút, tôi đến bàn thờ để chuẩn bị buổi lễ tối, tôi tìm thấy một gói nhỏ móc ở cánh cửa tủ cất bánh thánh. Tôi đọc cho ông nghe hàng chữ viết trên giấy gói nhỏ: "Nhờ chuyển gấp đến Steve Peterson - Vấn đề sinh tử", và số điện thoại của ông. Ông có cho đây là chuyện đùa giỡn không.

Steve nghe giọng mình trả lời nhừa nhựa, bàn tay thì ướt đẫm mồ hôi.

- Không, không phải đùa đâu, có lẽ chuyện nghiêm trọng đấy. Con sẽ đến nhận liền bây giờ, thưa cha, và xin cha vui lòng đừng nói cho ai biết hết.

- Đương nhiên rồi, ông Peterson, tôi sẽ đợi ông ở nhà cha xứ.

Nửa giờ sau, khi Steve trở về, ông Hugh đang chờ anh với cái máy ghi âm trên tay. Bầu không khí ảm đạm trong khi hai người cúi mình trên máy chờ nghe, cuốn băng đang bắt đầu chạy.

Họ chỉ nghe tiếng trịt trịt, như tiếng rít, một hồi mới nghe giọng của Sharon cất lên. Steve tái mặt, còn Hugh thì nắm cánh tay của anh. Cô lập lại lời nhắn mà tên bắt cóc đã nói với Steve. Cô ấy muốn nói gì khi nói rằng cô đã mắc phải sai lầm nhỉ? Cô có cái gì xin anh tha lỗi? Cô ngừng lại rất đột ngột như thể có người cắt ngang không cho cô nói nữa, Neil. Đúng là tiếng thở sò sè, cơn suyễn đang làm cho Neil ngộp thở. Steve lắng nghe tiếng nói hổn hển của con. Sharon chăm sóc cho cậu bé. Tại sao nó nhắc đến mẹ nó? Tại sao bây giờ nó lại nhắc nhỉ?

Anh bặm chặt hai nắm tay, các khớp ngón tay trắng bệch ra. Anh đưa hai nắm tay lên miệng để nén tiếng khóc khỏi bùng ra, tiếng khóc đang làm cho ngực anh co thắt mạnh.

- Thôi - Ông Hugh lên tiếng, ông huơ tay - Chúng ta hãy nghe lần nữa.

Nhưng, trước khi ông ta bấm vào nút "dừng" Steve nghe có giọng nói ấm áp, du dương, niềm nở cất lên:

- Ôi! Anh dễ thương quá! Vào đi.

Steve giật mình, thốt ra tiếng la hoảng hốt.

- Cái gì thế? - Ông Hugh hét lên - Ai đấy?

- Ôi, Chúa ôi... Ôi, lạy Chúa!... Steve thốt lên. - Chính là giọng nói của vợ tôi, chính là giọng của Nina.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Hank Lamont dừng xe trước quán rượu Mill Tavern trên Đại lộ Fairfield ở Carley. Tuyết lại rơi dày đặc, và gió lạnh từng cơn thổi tuyết vào kính chắn gió. Cặp mắt lớn màu xanh có vẻ thơ ngây nheo lại nhìn vào trong quán, ánh sáng trong quán lờ mờ. Thời tiết xấu khiến nhiều người phải ở nhà. Thế càng tốt, anh có thể nói chuyện với chủ quán dễ dàng, nếu ông ta thuộc loại thích tán gẫu.

Anh xuống xe, lạy Chúa, trời lạnh quá sức! Đêm gì mà khắc nghiệt thế này! Lát nữa phải theo dõi xe của Peterson để canh chừng anh ta không phải là chuyện dễ, có lẽ khi ấy trên đường rất ít xe, người ta sẽ thấy họ rất rõ.

Anh mở cửa xe, bước vào quán, trong quán ấm áp, mùi bia và mùi thức ăn thơm ngon dễ chịu xông vào mũi anh. Vừa nhấp nháy mắt cho tuyết rơi xuống, anh vừa nhìn quanh phòng. Chỉ có bốn người, anh nhẹ nhàng bước đến quầy, ngồi tót lên ghế đẩu và gọi bia Michelob.

Vừa nhấm nháp, anh vừa đưa mắt nhìn qua phải rồi qua trái. Hai người khách đang xem trận khúc côn cầu trên tivi. Ở giữa quầy, một người nhỏ con ăn mặc lịch sự, cặp mắt trong veo và tóc bạc lưa thưa, đang nhâm nhi ly Martini, ông ta bắt gặp ánh mắt của Hank.

- Chắc ông nhất trí với tôi là thời tiết như thế này mà lái xe đi 15 cây số thì thật là điên, phải không thưa ông? Có lẽ ông cho là nên đi tắc-xi thì hơn chứ gì? - Ông ta suy nghĩ một lát rồi nói tiếp một cách lãng nhách - Nhất là khi bị cảm cúm.

- Ông hoàn toàn có lý - Hank đáp - Tôi từ Peterboro tới, và ông biết không, đường sá thật khủng khϊếp. - Anh nốc một ngụm bia.

Người bán rượu đang lau ly, ông ta hỏi:

- Anh từ Peterboro đến à? Anh chưa bao giờ đến cái nơi xó xỉnh này phải không?

- Đúng, tôi mới đến lần đầu. Tôi muốn dừng lại một lát vì ông bạn già Bill Lufts có nói với tôi ông ta thường đến đây vào giờ nầy.

- Phải, hầu như đêm nào Bill cũng đến đây - Người bán rượu đáp - Nhưng ông không may rồi. Đêm qua ông ta không đến vì bận dẫn vợ đi ăn lễ kỷ niệm mừng ngày thành hôn. Họ đi ăn tối rồi đi xem xi nê. Người ta nghĩ thế nào ông ta dẫn vợ về nhà xong cũng đến đây để uống ly cuối cùng, nhưng không thấy ông ta đến. Lạ lùng thay là đêm nay ông ta cũng không đến, chỉ có trường hợp bị vợ làʍ ŧìиɦ làm tội ông ta mới thế thôi, phải không, Arty?

Anh chàng ngồi uống một mình ngước mắt lên khỏi ly bia, hắn càu nhàu:

- Chuyện nghe đâu bỏ đấy, ai mà để ý đến những chuyện tầm phào như thế?

Hank cười.

- Vậy thì quán rượu dùng làm gì nếu không phải là nơi cho ta tán gẫu vui chơi?

Hai người xem trận khúc côn cầu tắt tivi, một người nói:

- Đấu đá chẳng ra gì!

- Thật là tệ mạt! - Người kia nói thêm.

- Anh này là bạn của Bill Lufts. - Chủ quán hất đầu về phía Hank.

Người to con giới thiệu:

- Tôi là Les Watkins.

- Tôi là Pete Lemer. - Hank nói láo.

Người đàn ông mập tròn quay, vội tự giới thiệu:

- Tôi là Joe Reynolds. Anh làm ở đâu, Pete?

- Trong nhà máy chế tạo dụng cụ vệ sinh, ở New Hampshire. Tôi đến New York để mua vật liệu. Nào, tôi xin được mời quý vị một chầu nhé?

Một giờ trôi qua nhanh. Qua cuộc tán gẫu, Hank biết Joe và Les thì đứng bán hàng ở cửa hàng bán đồ hạ giá trên đường 7, Arty làm nghề sửa xe hơi, ông đầu hói, Allan Kroeger, làm việc trong một công ty quảng cáo lớn.

Một số khách quen tối nay không đến vì tiết xấu, chẳng hạn như Bill Pinelli, Don Braimingan. Riêng Charley Pincher, thường đến trễ nhưng hôm nay anh ta cùng vợ tháp tùng theo nhóm ở tiểu hí viện, và giờ này có lẽ họ đang diễn một vở mới.

Chiếc tắc-xi đón Kroeger đã đến, Les Watkins sẽ đưa Joe về tận nhà, hai người kêu chủ quán tính tiền. Arty chuẩn bị đi, chủ quán đẩy tiền của hắn lại. Ông ta nói:

- Để tôi, anh sắp xa chúng tôi rồi.

- Đúng thế, Les nói chen vào. - Chúc may mắn, Arty. Nhớ cho biết tin tức nhé.

- Cám ơn. Nếu công việc không trôi chảy, tôi sẽ trở về và làm việc ở xưởng Shaw.

- Chuyện thường thôi - Les nói - Lão ta biết anh là thợ máy giỏi mà.

- Ông sẽ đi đâu? - Hank hỏi.

- Rhode Island - trong thành phố Providence.

- Tiếc thay là anh không chia tay được với Bill. - Joe nói.

Arty bật ra tiếng cười khả ố. Hắn đáp:

- Rhode Island, đâu phải Arizona. Mà tôi sẽ về. Thôi, chúng ta về ngủ thôi, tôi không muốn sáng mai uể oải cả người.

Allan Kroeger lảo đảo đi về phía cửa, ông ta nói:

- Arizona, xứ sa mạc khô cằn! - Bốn người đàn ông cùng đi ra, để lọt vào nhà hơi lạnh như cắt.

Hank đặc biệt chú ý đến việc ra đi của Arty. Anh hỏi:

- Anh chàng Arty này là bạn của Bill Lufts à?

Chủ quán lắc đầu.

- Ờ, cũng đúng đấy. Nếu ai muốn biết chuyện gì, thì đều là bạn của Bill khi mời ông ta một ly. Chắc anh rõ chuyện này, những chuyện do các người này tung ra đều moi ở Bill. Vợ Bill nhắc đi nhắc lại mãi bên tai ông ta những chuyện xảy ra trong ngày, rồi tối lại, ông ta nhắc đi nhắc lại bên tai mọi người.

- Ra thế. - Hank đẩy cái ly trên quầy - Xin mời ông một ly.

- Không dám từ chối. Khi bận việc, tôi thường không nhậu, nhưng bây giờ chẳng có ma nào. Đêm chết tiệt như thế này chẳng ai dám đi ra ngoài cả. A, anh biết thằng Thompson chứ, mẹ nó ở cách đây hai con đường.

Hank nheo mắt nhìn ông ta, anh mạnh dạn nói:

- Vì xảy ra nhiều vụ gϊếŧ người quá mà, thế thôi.

Người bán rượu gật đầu.

- Không ai tưởng tượng thằng bé ấy gϊếŧ người bừa bãi được. Dĩ nhiên đã có lần hắn mất trí, cho nên cũng có thể hắn gϊếŧ người lắm. Người ta nói rằng có những kẻ gϊếŧ người rất dã man nhưng bề ngoài trông có vẻ rất bình thường.

- Tôi cũng có nghe nhiều người nói thế.

- Anh biết không, Bill và vợ ở trong ngôi nhà của người phụ nữ đã bị gϊếŧ chết. - Bà Nina Peterson.

- Vâng, tôi biết.

- Hai vợ chồng bị dao động kinh khủng. Dora Lufts làm việc cho nhà Peterson khá lâu. Bill nói rằng thằng bé không nguôi được, nó khóc mãi, thấy ác mộng luôn.

- Tội nghiệp quá! - Hank đáp.

- Bill và bà vợ muốn đi Florida, họ đợi mãi, chờ cho bố thằng bé lấy vợ lại. Anh ta cặp kè với một cô nhà báo, cô gái rất đẹp. Đêm qua chắc cô ta đến nhà ông Peterson.

- A, thế à?

- Phải, thằng bé không ưa cô ta, có lẽ hắn sợ cô ta thay chỗ mẹ hắn. Trẻ con thường đều như thế cả.

- Đúng thế.

- Bố thằng bé là Tổng biên tập tờ Biến Cố, một tạp chí mới, đã ra đời hai năm rồi. Nghe nói anh ta có cổ phần rất lớn ở đây, người ta nói vốn đầu tư của anh ta đứng hạng nhì đấy. Thôi, chắc tôi phải đóng cửa vì đêm nay chẳng có ai đến nữa đâu. Uống ly sữa nhé?

Hank suy nghĩ, anh cần thu thập thêm tin tức, anh không nên bỏ lỡ cơ hội. Anh để ly xuống, móc ví ra, lấy huy hiệu. Anh nói:

- Cơ quan FBI.

Một giờ sau, anh trở về nhà Peterson. Sau khi đã bàn luận với ông Hugh, anh gọi cơ quan FBI ở Manhattan. Anh biết bây giờ văn phòng cơ quan đã đóng cửa, nên anh hạ thấp giọng nói:

- Hugh có lý, Bill là một kẻ ngồi lê đôi mách. Mọi người ở quán Mill Tavern cách đây hai tuần đều biết đêm qua lão ta với vợ đi ăn mừng ngày thành hôn, biết ông Peterson bận họp trễ và biết cô Sharon đến nhà ông Peterson. Người chủ quán cho tôi biết danh sách gồm mười khách hàng thường xuyên đến quán nói chuyện với Bill. Tối nay có một số đến đây, bọn họ có vẻ đứng đắn. Tuy nhiên, anh nên kiểm tra Charly Pincher xem, anh chàng và vợ làm việc trong ngành kịch nghệ, một người sẽ bắt chước giọng một ca sĩ họ đã nghe cách đây hai năm. Có một gã tên Arty Taggert ngày mai sẽ đi Rhode Island, hắn có vẻ vô hại, còn hai người bán hàng, Les Watkins và Joe Raynolds - chẳng cần mất thời gian với hai người này làm gì. Đó là tất cả những tên...

Sau khi kể hết danh sách, anh nói thêm:

- Ngoài ra, Bill Lufts đã kể cho mọi người ở quán rượu nghe chuyện gởi tiền đã cách đây gần một tháng, lão ta đã nghe ông Peterson nói chuyện với cô kế toán về việc này. Vì vậy mọi người ở quán Mill Tavern đều biết hết mọi việc. Thôi, tôi sẽ đem cuộn cát-sét đến, anh đã tiếp xúc với John Owens rồi chứ?

Anh ta gác máy, trầm ngâm, đi vào phòng khách. Ông Hugh Taylor và Steve nói chuyện nho nhỏ với nhau. Steve khoác áo măng tô vào, đã 12 giờ khuya, đến lúc anh phải đến chỗ hẹn gặp với Cáo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Bà Lally rất tức giận những kẻ đột nhập chiếm phòng bà, đến nỗi bà nói toạc ra hết cho Rosie nghe khi bà gặp chị ở phòng đợi. Kể xong bà liền hối hận ngay.

- Chỗ ấy là của tôi mà. - Bà kết luận một cách vụng về như thế. Bây giờ nếu Rosie muốn đến ngủ với bà ở đấy thì bà lấy cớ gì mà từ chối? Bà không thể để cho chị ta ngủ chung được, chị ta không thể ngủ ở đây được.

Nhưng bà khỏi cần phải lo, chị ta đã la toáng lên:

- Bà muốn ngủ ở dưới phòng nhạc ấy à? Bà đừng rủ tôi đến ngủ ở thiên đường của bà dưới ấy nhé. Bà biết tôi rất ghê tởm bọn mèo.

Rất tốt, bà không lo đến nữa, Rosie sợ mèo, chị thà chạy băng qua bên kia đường còn hơn để gặp một con mèo. Bà Lally đáp:

- Ờ, còn tôi, tôi lại thương chúng, những con vật khốn khổ đói khát. Ở dưới đường hầm có nhiều mèo vô kể.

Nghe nói, chị Rosie phát run. Bà Laliy nói tiếp:

- Vậy là hai tên đó ở trong phòng dưới ấy. Khi thằng cha ấy đi rồi, tôi sẽ dọa cô gái cho cô ta sợ mới được..

Rosie trầm ngâm suy nghĩ, chị đáp:

- Có thể bà lầm đấy, tôi sợ hắn cứ ở miết dưới ấy, bà nói hắn có vẻ bất hảo mà.

- Quá bất hảo, có lẽ chị phải giúp tôi ngó chừng hắn mới được.

Chị Rosie có tính hiếu kỳ, thích những chuyện hấp dẫn, nên chị cười toe toét để lộ hàm răng sâu vàng khè. Chị nói:

- Được rồi.

Hai người uống hết cà phê, cẩn thận lượm hết những mẩu vụn bánh mì trong cái xách đựng đồ nhật dụng, rồi cùng đi xuống bậc dưới. Bà Lally lo lắng nói:

- Việc này phải mất khá nhiều thời gian mới được.

- Không quan trọng, miễn là hôm nay không có Olendorf.

Olendorf là người bảo vệ nghiêm ngặt nhất, anh ta không bao giờ để cho những người thường kiếm sống ở nhà ga đi thơ thẩn lang thang trong sân ga. Anh ta thường đuổi họ đi, canh chừng không cho họ ăn xin hay để cho họ xả rác.

Họ đứng khép nép trước mặt kính của một tiệm sách. Thời gian trôi qua, họ đứng yên chờ đợi. Bà Lally đã có sẵn chuyện để nói nếu bị Olendorf phát hiện. Bà sẽ nói với anh ta rằng bà có người bạn đến New York, bà đã hứa đứng chờ đón bạn ở đây.

Nhưng những bảo vệ không biết có hai người ở đây, bà Lally bắt đầu cảm thấy hai chân đau nhức. Khi hành khách dưới ke tàu Mount Vemon đi lên tầng cấp, bà đề nghị Rosie khỏi cần canh chừng anh chàng bảo vệ nữa. Một người trong đám hành khách có mái tóc đen, bước đi đều đặn.

Bà nắm cánh tay của Rosie, thốt lên:

- Hắn đấy, nhìn kìa, hắn đang đi đến tầng cấp, hắn mặc áo khoác màu nâu đỏ, quần xanh.

Rosie nheo mắt, đáp:

- Rồi, rồi, tôi thấy rồi.

- Bây giờ, tôi đi xuống được rồi. - Lally hí hửng nói. Rosie can.

- Khoan đã, Olendorf đứng trong góc kia kìa, hắn đang nhìn đến đây đây.

Nhưng chẳng có gì can ngăn được bà Lally, bà đợi cho Olendorf đi ăn trưa, liền đi xuống bến tàu. Chuyến tàu 12 giờ 10 đã đông khách, bà nghĩ chắc không ai để ý đến bà. Bà lẻn ra phía bên kia đường sắt, đi nhanh xuống bờ dốc dù chân bị thấp khớp, nhưng bà cũng ráng hết sức để đi. Bà không được khỏe, vì mùa đông quá khắc nghiệt. Bệnh thấp khớp bây giờ lan lên tận lưng bà và tràn xuống cả hai bàn chân. Bà đau đớn khắp nơi, bà chỉ còn một mơ ước thôi, là được nằm nghỉ ngơi trên giường của mình. Bà sẽ làm cho cô gái dọn đi ngay tức khắc. Bà sẽ nói với cô gái: "Này cô ơi, cảnh sát biết hết rồi, họ sắp đến bắt cô đấy, chạy mau đi báo cho bạn cô biết".

Thế là yên thôi.

Bà lê chân qua những máy phát điện, những ống cống. Đường hầm tối tăm lặng lẽ đã hiện ra.

Bà ngước mắt nhìn cánh cửa văn phòng, mỉm cười khoan khoái. Chỉ còn tám bước nữa là đến chân cầu thang, bà móc hai quai xách vào cánh tay, lục tìm trong xách lấy chìa khóa. Dùng một tay vịn vào tay vịn ở cầu thang, bà gắng bước lên tầng cấp cầu thang.

- Bà đi đâu thế, bà Lally? - Một giọng nói khô khan cất lên, Lally kêu lên một tiếng và suýt nữa là ngã ngửa xuống đất. Bà cố gượng để giữ cân bằng và để tranh thủ thời gian. Bà từ từ quay lại, trước mặt bà, anh chàng Olendorf đang nhìn bà, vẻ mặt hăm dọa. Thì ra anh ta đã canh chừng bà sát nút, y như Rosie lo sợ. Hắn ta giả vờ đi ăn trưa để rình bắt cho được bà. Bà lén thả cái chìa khóa vào túi xách, không biết anh ta có thấy không.

- Bà Lally, tôi hỏi bà đi đâu ở đây?

Bên cạnh bà, máy điện đang nổ ầm ầm, phía trên đầu, có chuyến tàu đang chạy rầm rầm ở một bến ga nào đây. Bà đứng yên không nói được lời nào.

Bỗng bà nghe từ trong một góc tối phát ra tiếng mèo kêu rùng rợn, tiếng gừ gừ gay gắt. Trong óc bà nảy ra một ý kiến. Bọn mèo! Bà đưa tay run run chỉ những cái bóng gầy trơ xương, sợ sệt, trốn tránh.

- Anh nhìn kìa, chúng đói trơ xương! Tôi đến để cho chúng ăn cái gì. Tôi định cho chúng ăn đây! - Bà lôi nhanh trong túi xách ra cái khăn rách gói những mẩu vụn bánh mì bà ăn còn lại.

Người bảo vệ nhìn cái khăn cũ dơ bẩn, ánh mắt ghê tởm, nhưng khi anh ta cất tiếng nói, giọng anh bớt gay gắt:

- Tôi cũng thương chúng, nhưng bà không có việc gì để làm ở đây hết. Hãy ném các thứ ấy cho chúng rồi cút khỏi mắt tôi ngay. - Anh ta đưa mắt nhìn lên cầu thang, nhìn cánh cửa phòng một lát, ánh mắt phân vân. Tim bà Lally đập thình thịch, và lấy cái xách, đi bước thấp bước cao đến phía các con mèo, ném những mẩu vụn bánh mì cho chúng, nhìn chúng chen nhau đến vồ lấy.

- Ông thấy chưa, chúng đói meo. - Bà cố gây cảm tình với anh ta - Chắc ông có nuôi mèo ở nhà chứ, phải không ông Olendorf?

Bà giả vờ bước đi, hy vọng anh ta đi theo bà, nếu anh ta có chìa khóa riêng để vào được phòng này thì sao nhỉ? Nếu anh ta tìm thấy cô gái, thế nào họ cũng thay ổ khóa khác, có thể họ còn trừng phạt cô ta nữa.

Anh ta ngần ngừ một lát, rồi nhún vai, bước theo bà. Anh ta đáp:

- Tôi có nuôi chứ, nhưng vợ tôi không thích mèo, từ khi bà ấy mất con mèo quý thì không muốn nuôi nữa.

Trở lại phòng đợi, bà Lally nhận thấy tim mình vẫn còn đập thình thịch. Thế đấy, một lần nữa, bà không vào được căn phòng của mình. Phải đợi đêm nay hết phiên gác của anh chàng Olendorf kia mới họa may. Nhờ bọn mèo làm huyên náo mà bà đã lục trong thùng rác lượm được mấy số tạp chí cũ và mấy tờ báo nhàu nát.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Neil biết cô Sharon bị đau, cô không sợ xấu hổ khi phải nói mình té. Hẳn là thằng cha ấy đã xô cô nhào xuống. Cậu muốn nói, nhưng miếng vải bịt miệng cậu chặt quá khiến cậu không nói được. Miếng vải bịt chặt hơn trước nhiều. Cậu muốn nói với Sharon rằng cậu thấy cô rất can đảm khi dám tấn công thằng cha ấy. Khi hắn hại mẹ cậu, cậu đã quá sợ không dám chống lại hắn. Nhưng ngay cả cô Sharon, to lớn gần bằng đàn ông như thế, mà cũng không đủ sức để chống lại hắn nữa mà.

Cô Sharon nói cô sẽ tìm cách lấy khẩu súng của hắn. Cô đã nói: "Cháu đừng sợ khi nghe cô nói cô sẽ bỏ cháu, không bao giờ cô bỏ cháu đâu. Nhưng nếu cô đoạt được khẩu súng ấy, có lẽ chúng ta sẽ buộc hắn phải để cho chúng ta ra. Chúng ta đều lầm lẫn cả, chỉ có hai chúng ta mới có thể cứu sống được Ronald Thompson thôi".

Khi cô Sharon nói, giọng cô nghe nặng trịt, y như giọng cậu, nhưng cậu cũng đã kể được cho cô nhe... chuyện thằng Sandy đã nói nó sẽ bảo vệ mẹ nó, cậu nhớ mãi ngày hôm ấy, nhớ lúc thằng Sandy nói rằng vợ chồng ông Lufts có lẽ sẽ mang cậu đi Florida, nhớ bọn bạn hỏi cậu có muốn Ronald Thompson bị nướng không.

Cho dù cậu khó chịu khi phải nói qua miếng vải bịt mồm, nhưng sau đó cậu đã thở dễ chịu hơn. Cậu hiểu điều cô Sharon muốn nói. Người ta sẽ gϊếŧ Ronald Thompson vì tội gϊếŧ mẹ cậu, mà thực ra không phải anh ấy phạm tội. Nhưng Neil đã nói chính anh ấy. Neil không muốn nói láo, đó là điều cậu cố nói cho ba cậu biết trong lời nhắn.

Bây giờ cậu phải cố thở từ từ bằng mũi, không được khóc hay sợ sệt gì hết, vì làm thế cậu càng khó thở hơn.

Trời quá lạnh, hai tay hai chân cậu đau nhừ, thế nhưng có cái gì đấy đã khiến cậu bớt đau. Sharon sẽ tìm cách để ra khỏi đây, thoát khỏi thằng cha nầy, rồi họ sẽ nói rõ chuyện của Ronald Thompson ra. Hoặc là ba cậu sẽ đến tìm cậu, Neil tin chắc như thế.

Cậu cảm thấy hơi thở của cô Sharon phả vào má cậu, cậu đã gục đầu vào cổ cô. Thỉnh thoảng, cô ú ớ những tiếng nghe thật kỳ, như thể có cái gì đấy làm cho cô đau đớn. Nhưng cậu nằm chèo queo trong lòng cô, cậu cảm thấy đỡ hơn, y như khi cậu còn bé, thức dậy lúc nửa đêm vì mơ thấy ác mộng. Khi ấy cậu chạy đến giường của ba mẹ cậu, mẹ ôm cậu vào lòng, rồi nói với cậu: - "Đừng nhúc nhích" và thế là cậu ngủ lại trong lòng mẹ.

Cô Sharon và ba sẽ chăm sóc cậu, Neil vặn mình nhích vào cho sát cô Sharon thêm tí nữa. Cậu muốn nói với cô đừng buồn vì cậu, cậu sẽ thở từng hơi thật dài và thật chậm. Hai cánh tay cậu đau nhói, cậu cố không nghĩ đến, phải nghĩ đến cái gì dễ chịu, vui hơn.. nghĩ đến căn phòng ở tầng ba và đến chiếc tàu hỏa Lionel mà cô Sharon sẽ cho cậu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Ông Roger nhìn vợ, vừa lắc đầu thất vọng vừa nói:

- Trời đất ơi, em yêu, khuya rồi mà, dẹp chuyện ấy đi. - Lọ thuốc Trinitrine trên bàn ngủ đã hết sạch, mới hồi sáng vẫn còn đầy.

- Không, em phải nhớ cho ra chuyện này. Em phải nhớ cho ra. Roger, này anh... Chúng ta hãy cố gắng đi. Em sẽ nói cho anh nghe những việc em đã làm trong tháng qua, em kể tuần tự từng ngày, nhưng có thể em còn quên cái gì đấy, nếu em kể cho anh nghe, có thể...

Ông biết khó mà cãi lời bà được, nên ông kéo cái ghế đến bên giường, ông chú ý lắng nghe. Ông đau đầu như búa bổ. Ông bác sĩ đã đến, ông nổi giận khi thấy bà Glenda ở trong tình trạng dao động như thế này. Đương nhiên là họ không thể giải thích cho ông hay nguyên nhân tại sao khiến cho bà căng thẳng như thế.

Ông bác sĩ muốn chích cho bà mũi thuốc an thần, nhưng ông Roger biết nếu ông để cho bác sĩ chích thuốc, thế nào bà cũng không tha thứ cho ông. Bây giờ, trước nét mặt nhợt nhạt và đôi môi tím xanh của bà, ông lại nhớ cái ngày bà bị chứng nhồi máu hành hạ... - "Ông Perry à, chúng tôi thấy khó quá... bà đang ở trong tình trạng sống dở chết dở... tốt hơn là ông nên báo cho con ông...".

Nhưng rồi bà đã qua khỏi, ôi lạy Chúa. - Ông Roger cầu nguyện, xin ngài giúp cho bà ấy nhớ ra. Nếu Neil và Sharon chết, và Glenda nhớ ra quá trễ, không cứu sống được hai người ấy, thì chắc bà cũng chết luôn mất.

Giờ phút này Steve đang nghĩ gì nhỉ? Chắc sắp đến giờ anh ta đem tiền chuộc đi New York rồi.

Còn bà mẹ của Ronald Thompson nữa, bà ta đang nghĩ gì? Bà có đau khổ khi con mình sắp bị hành quyết không? Đương nhiên là bà ấy rất đau đớn.

Còn Sharon và Neil? Họ có sợ không? Hắn có hành hạ hai người không? Họ còn sống không hay đã chết rồi?

Và Ronald Thompson nữa? Trong thời gian điều tra lập biên bản, ông Roger không thể nào không nghĩ đến hai con trai của mình, Chip và Dong, cậu ta giống hai con của ông lúc chúng bằng tuổi ấy. Khi hai con ông lên 19 tuổi, chúng đều là sinh viên. Chip học ở Harvard, Dong học đại học ở Michigan. Thanh niên 19 tuổi là phải ở trường đại học, chứ không phải ở trong phòng giam của kẻ bị tử hình.

- Roger. - Bà Glenda gọi, giọng bà bình tĩnh lạ lùng - Nếu anh lập một sơ đồ từng ngày, chín giờ, mười giờ... ghi công việc trong ngày, như vậy mới có thể giúp em nhớ lại những điều em quên. Có xấp giấy trên bàn làm việc của em kia kìa.

Ông với lấy tập giấy, bà nói tiếp:

- Tốt, em còn nhớ rất rõ ngày hôm qua và hôm chủ nhật, đừng mất thì giờ kể lại chuyện xảy ra trong hai hôm này, ta bắt đầu vào hôm thứ Bảy đi...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Không hỏi gì nữa chứ, ông Peterson? Ông có tin mọi việc đều diễn ra tốt đẹp không? - Ông Hugh và Steve đang đứng ở tiền sảnh, Steve xách cái va-li đựng tiền chuộc nặng nề.

- Tôi tin thế. - Steve đáp, giọng anh bình tĩnh, đều đều. Trong mấy giờ vừa qua, anh thấy trong người hết mệt, có lẽ vì quá đau đớn nên sự buồn khổ đã trở nên chai lì, tê liệt. Anh cảm thấy có thể suy nghĩ minh bạch, thậm chí có thể hình dung ra sự việc được nữa. Anh như người đứng trên đỉnh đồi, nhìn thảm kịch đang xảy ra ở dưới, làm khán giả chứ không phải diễn viên.

- Tốt, bây giờ ông hãy lặp lại công việc lần nữa đi. - Ông Hugh nói. Ông đã khám phá ra hiện tượng thay đổi này ở Steve. Peterson đã kiệt sức, anh đã hoàn toàn rối trí. Nhưng chuyện nhại giọng vợ anh trong cuốn băng cát-sét đã làm cho anh minh mẫn hơn. Anh chàng tội nghiệp tin tưởng rằng đấy chính là giọng vợ anh. Cho việc bắt cóc này có liên hệ đến cái chết của bà Nina, thật quả là quan điểm lệch lạc đáng tởm. Ông Hugh rút ra được hai chi tiết quan trọng. Sharon yêu cầu Steve tha lỗi cho cô ta. Và Neil đã nói: "Sharon chăm sóc con". Thế không phải là tình trạng này đã được dàn cảnh lên đây hay sao?

Có phải là một cuộc dàn cảnh không nhỉ?

Có thể John Owens sẽ giúp họ được. Đã bắt được liên lạc với ông ta và Hugh phải đến gặp ông ta tại trụ sở cơ quan FBI ở New York.

Steve lặp lại:

- Tôi đi thẳng đến buồng điện thoại ở Đại lộ 59, nếu tôi đến sớm, tôi cứ ngồi đợi trong xe. Trước hai giờ một chút, tôi bước ra và đi vào trong buồng điện thoại. Tôi cứ đến đấy, sau đó, hy vọng tôi sẽ trực tiếp tiếp xúc với tên bắt cóc, rồi giao va-li tiền cho nó. Sau khi đã rời nó, tôi đến cơ quan FBI, nằm trên Đường 69 và Đại lộ 3. Ông đợi tôi ở đấy để lắp máy Camera trên xe và khai triển các cuốn phim.

- Thế đấy. Chúng tôi sẽ chạy cách ông một đoạn, máy phát tin trong xe ông sẽ cho chúng tôi biết hết các hoạt động của ông. Một nhân viên của tôi đợi ông, anh ta sẽ theo ông trên xa lộ để bảo đảm việc ông khỏi bị hư xe, khỏi bị chậm trễ. Ông Peterson...- Ông Hugh đưa tay ra bắt - Chúc may mắn.

- May mắn à? - Steve hỏi, anh kinh ngạc khi nghe giọng anh, như thể anh nghe từ này lần đầu - Tôi chỉ nhớ đến lời nguyền rủa trong tác phẩm cổ điển Wexford thì có. Có lẽ ông còn nhớ chứ?

- Tôi không tin như thế.

- Tôi không nhớ hết các chi tiết, nhưng đại khái là như thế này: "Con Cáo đã đào hang trong nhà của ngươi, mắt ngươi đã mờ không thấy được ánh sáng, không bao giờ ngươi thấy được những gì ngươi thương yêu. Ly rượu ngọt chắc sẽ biến thành ly rượu đắng phiền muộn...". Còn nữa, nhưng chừng ấy cũng quá đủ cho tình hình hiện tại quá rồi, phải không?

Không đợi trả lời, Steve bước đi, ông Hugh nhìn chiếc Mercury ra khỏi nhà, rẽ trái về hướng xa lộ. "Con Cáo đã đào hang trong nhà của ngươi". Lạy Chúa, xin ngài đến giúp đỡ anh ta. Lắc đầu để xua đuổi cảm giác lo sợ, ông Hugh mặc măng tô vào. Không có chiếc xe nào của cơ quan FBI đậu trước nhà hết. Tất cả nhân viên đều đi cửa sau, băng qua cánh rừng hoang vắng chạy bao quanh ngôi nhà của Steve. Họ đậu xe trên con đường chạy băng qua rừng khi đường ống cống đã thiết lập xong, đi ngoài đường lớn, không ai thấy xe họ cả.

Có thể John Owens rút ra được điều gì đó trong cuốn băng cát-sét do tên bắt cóc gởi đến. John là cựu nhân viên cơ quan FBI, ông ta đã bị mù cách đây 20 năm. Nhưng ông ta đã luyện lỗ tai rất tinh, có thể nghe giọng nói ghi âm và phát hiện ra giọng của ai rất chính xác. Mỗi khi cần có bằng chứng về giọng nói, cơ quan mật vụ lại nhờ đến ông. Rồi sau đó như thường lệ, cuộn băng được đem vào phòng thí nghiệm phân tích, nhưng công việc ở đây phải mất mấy ngày mới xong.

Làm ra vẻ tình cờ, ông Hugh đã hỏi Steve về Nina, ông biết: bà ta sinh trưởng trong một gia đình tư sản ở Phila-delphia, giàu có từ bốn thế hệ nay. Nina học nội trú ở Thụy Sĩ, theo học đại học ở Bryn Mawr. Bố mẹ bà ta thường sống trong một dinh cơ tại Monte-Carlo. Ông Hugh nhớ có gặp hai ông bà này lúc đám tang con gái của họ. Họ đến bằng máy bay để kịp dự lễ ở nhà thờ và chôn cất luôn, họ rất ít nói chuyện với Steve. Phải nói đây là cặp vợ chồng khó gần gũi.

Những thông tin này có lẽ cũng đủ cho Owens xác định đây là giọng của Nina thật hay là giọng bắt chước, ông Hugh tuyệt đối tin tưởng vào kết quả.

o O o

Xa lộ Merritt đã được phủ cát, và mặc dù tuyết vẫn còn rơi nhưng Steve lái xe một cách dễ dàng. Thật anh không ngờ được như thế này, anh cứ sợ nếu đường đi nguy hiểm, tên bắt cóc sẽ hủy bỏ buổi hẹn mất. Bây giờ chắc chắn anh sẽ gặp được hắn, bằng cách này hoặc cách khác.

Anh tự hỏi tại sao ông Hugh lại nói về đời tư của Nina. Ông ta toàn hỏi những điều chủ yếu.

- Ông Peterson, vợ ông học trường đại học nào? Bà ấy sống ở đâu?

- Học đại học ở Bryn Mawr. - Hai người gặp nhau khi còn sinh viên, anh học ở Princeton, tiếng sét ái tình đến với họ từ khi ấy.

- Gia đình bà ấy là thế hệ thứ tư của một đại gia đình giàu có ở Philadelphia - Steve rất tức bố mẹ vợ, họ muốn Nina lấy người cùng giai cấp, họ đã nói thẳng ra như thế. Lấy người nào trong một gia đình tốt, giàu có, xuất thân ở đại học tư. Chứ không phải lấy một anh chàng sinh viên nghèo phải làm bồi bàn cho quán Nassau để có tiền ăn học, xuất thân từ trường công Christopher Columbus ở vùng Bronx.

Lạy Chúa, khi Nina và anh vào đời, quả hai người đáng sợ thật. Anh đã từng nói với Nina: "Tại sao em lại làm con họ được nhỉ?" - Cô rất tếu, rất thông minh, rất giản dị. Họ lấy nhau ngay sau khi tốt nghiệp. Rồi anh đi thi hành nghĩa vụ quân sự, hai người không gặp nhau suốt hai năm. Cuối cùng anh được về phép, cô đến gặp anh ở Hawaii. Khi nàng bước xuống tháng máy bay, trông nàng đẹp biết bao, nàng chạy nhào đến vòng tay đang giang ra của anh.

Khi giải ngũ, anh học lấy bằng tiến sĩ về báo chí ở Columbia. Rồi anh vào làm cho tờ Time, hai người sống ở Connecticut, nàng chuẩn bị sinh Neil.

Sau khi sinh Neil, anh mua cho chị chiếc Karman Ghia, và người ta kháo nhau rằng anh đã tặng chị chiếc Rolls, thực ra, chiếc Rolls là của bố chị.

Sau đám ma một tuần, anh bán chiếc xe của Nina. Anh không chịu đựng được khi nhìn xe của chị nằm bên cạnh chiếc Mercury của anh trong nhà xe. Vào đêm chị chết, anh đã muốn xem xét chiếc xe, mặc dù chẳng có hy vọng gì cứu vãn - Bất cẩn là chết đấy em à! - Nhưng cái bánh xe đã sửa chữa và đã ráp lại vào bánh trước, bánh xơ cua nằm trong thùng xe. Nếu chị không bỏ công thay bánh xe vào hôm ấy, thì chắc chị không làm cho anh phải giận.

Nina, Nina; tha lỗi cho anh.

Sharon - Chính cô đã cho anh lại nguồn sống, nhờ cô mà nỗi chán nản đau đớn trong lòng tiêu tan hết, như băng tuyết tan trong mùa xuân. Sáu tháng qua là thời gian êm ái nhất. Anh đã tin dịp may được hạnh phúc lần thứ hai đang đến với anh.

Người ta ít ai mới gặp nhau lần đầu mà đã yêu nhau liền, anh đã 34 tuổi chứ đâu còn 22!

Thế nhưng!

Cuộc hội ngộ lần đầu ở buổi phát sóng truyền hình hôm ấy, anh cảm thấy yêu cô ngay. Cuối buổi phỏng vấn, hai người cùng ra khỏi phòng quay rồi nán lại nói chuyện với nhau trước cơ quan. Từ ngày Nina mất, anh không hề quan tâm đến phụ nữ, ngay cả từ xa anh cũng không nhìn đến họ, thế mà sáng hôm ấy, anh lại muốn giữ Sharon lại. Anh còn bận đi tham dự một buổi họp, nên không thể đề nghị cô cùng đi ăn trưa với anh. Anh đành hẹn: - "Sáng nay tôi bận việc, nhưng tối nay, chúng ta đi ăn tối với nhau nhé?".

Sharon nhận lời rất nhanh, như thể là cô đang đợi anh mời. Ngày hôm ấy cô thấy sao mà dài quá, cho đến khi cô nghe có tiếng chuông cửa reo. Việc thảo luận về án tử hình lúc ấy có tính chung hơn là riêng, chỉ đến khi Sharon nhận thấy cô không thể cứu được Ronald Thompson, cô mới quay qua chống lại anh.

Anh đang trên xa lộ Cross County, hai bàn tay anh tự động lái xe, tự tìm ra đường đi, còn trí óc anh thì vẫn để đâu đâu.

Sharon - Thật hết sức tuyệt diệu khi có người để nói chuyện lại trong lúc ăn tối, rồi uống một ly tạm biệt ở nhà cô. Cô thông cảm những nỗi khó khăn của anh khi phải đương đầu với công việc xuất bản một tờ tạp chí, phải chiến đấu để tìm người ủng hộ, để gia tăng số báo xuất bản. Đây là chuyện tâm sự ở chốn buồng the, anh nói đùa như thế.

Anh thôi làm cho tờ Time, và nhảy vào làm tờ Biến cố được mấy tháng thì Nina chết. Lập ra tờ tạp chí này là cả một công việc liều lĩnh, anh kiếm sống ở tờ Time rất thoải mái. Vì vấn đề tự ái mà anh phải hợp tác lập ra tờ báo tuyệt nhất trong vùng. Anh sẽ giàu có, sẽ thành một tổng biên tập, và để cho bố của Nina phải mở mắt ra. Anh phải làm cho ông ta rút lui lời tuyên bố ban đầu mới được.

Bố mẹ Nina đã trách anh về cái chết của chị, họ đã nói: - "Nếu nó ở trong một ngôi nhà như trước đây, một ngôi nhà có người canh gác đầy đủ, thì làm gì có chuyện xảy ra như thế này". - Họ đã muốn đem Neil đi u Châu. Neil mà đi với hai người ấy à!

Neil - tội nghiệp thằng bé, thật cha nào con nấy. Khi Steve mới được ba tuổi thì mẹ anh mất, anh không nhớ gì được về mẹ cả. Cha anh không lấy vợ lại, đó là một sai lầm. Steve lớn lên không có mẹ. Anh nhớ năm anh lên 7 tuổi, một cô giáo dạy thay trong lớp đã cho học sinh vẽ thiệp chúc lễ các bà mẹ.

Cuối buổi học, cô giáo nhận thấy Steve không nộp bài, cô hỏi: - "Em không nộp bài vẽ phải không? Mẹ em chắc sẽ rất suиɠ sướиɠ khi nhận được thiệp vào chủ nhật".

Anh đã xé tấm thiệp mình vẽ và trốn ra khỏi lớp.

Anh không muốn Neil cũng như thế. Anh muốn Neil lớn lên trong một ngôi nhà hạnh phúc, một ngôi nhà có anh chị em. Anh không muốn sống như cha anh, một mình với Steve, khoe khoang với bạn bè ở sở bưu điện mình có đứa con học ở Princeton. Một mình đơn điệu trong ngôi nhà cô liêu, một buổi sáng, ông không thức dậy, không thấy ông đến làm việc, người ta đến nhà xem ông ra sao. Rồi người ta đến trường tìm Steve.

Có lẽ vì thế mà anh cho những năm cuối cùng của cha anh như bị mang án tử hình vào thân. Vì anh biết cuộc sống của người già và người nghèo ra sao rồi, họ bị thua thiệt biết bao. Vì anh cứ lo nghĩ rằng thế nào có ngày bọn cướp cũng gϊếŧ một trong hai người một cách rất dã man.

Chiếc va-li để ở ghế ngồi phía trước bên cạnh anh. Ông Hugh đã cam đoan với anh là hắn không thể phát hiện ra thiết bị điện tử ở trong được. Tự thâm tâm, anh hài lòng vì đã để cho họ gắn vào xe những máy móc dò thám ấy.

Lúc 1 giờ 30, Steve ra khỏi cầu vồng ở West Side chạy vào Đường 57. Lúc 2 giờ kém 20, anh đậu xe trước một buồng điện thoại đối diện nhà hàng Bloomingdale. Đến 2 giờ kém 10, anh ra khỏi xe, bất cần trời ẩm ướt và gió lạnh, anh đợi trước buồng điện thoại.

Đúng hai giờ, chuông điện thoại reo, cũng cái giọng khàn khàn nho nhỏ ấy ra lệnh cho anh đến ngay buồng diện thoại công cộng trên Đường 96 ở góc Đại lộ Lexington.

Lúc 2 giờ 15, điện thoại ở đây reo, Steve nhận lệnh qua cầu Triborough, theo xa lộ Đại Trung tâm, chạy đến đầu cầu vồng xuống khu Brooklyn Queens. Sau đó anh chạy theo cầu vồng xuống khu Brooklyn Queens cho đến Đại lộ Roosevelt, quẹo trái đến khu phố đầu tiên và dừng lại ở đó, anh phải tắt đèn và đợi ở đấy. - "Đừng quên điều này nhé. Một mình thôi nhé".

Steve run run ghi quệt quạc lời hắn dặn và đọc lại cho hắn nghe. Tên bắt cóc liền cúp máy.

Đến 2 giờ 35, anh ra khỏi cầu vồng Brooklyn Queens đến đại lộ Roosevelt. Một chiếc xe hòm khổng lồ đậu ngay giữa dãy nhà ở phía bên kia đường. Khi đi qua xe đó, anh nhẹ quay tay lái, hy vọng những máy Camera dấu trên xe quay được dấu vết và số xe. Rồi anh cho xe dừng lại bên lề đường và đợi.

Con đường thật tối tăm. Cửa lớn và cửa sổ của những nhà cũ kỹ tiều tụy đều đóng kín mít, hệ thống dây cáp đường tàu điện đã che bớt ánh sáng rọi xuống đường, tuyết rơi làm cho đường sá tối tăm thêm.

Máy phát tin có báo cho nhân viên FBI để họ theo dõi không? Không biết máy có hoạt động không? Anh không thấy có chiếc xe nào ở phía sau hết. Có thật như lời họ nói là họ không muốn đến gần?

Có tiếng gõ vào cửa xe, Steve quay đầu qua, miệng khô đắng. Một bàn tay đeo găng ra dấu cho anh hạ kính xuống. Anh quay chìa khóa công tắc, bấm vào nút tự động cho kính hạ xuống.

- Đừng nhìn tao, Peterson.

Nhưng anh cũng có thì giờ kịp nhìn thấy chiếc áo khoác màu nâu đỏ, cái đầu bịt kín bằng một chiếc vớ dài. Một cái túi xách bằng vải dài đến tận đầu gối, loại túi xách của hải quân. Anh cảm thấy đau nhói ở trong bụng, thằng này không có ý định lấy cái va-li có gắn máy phát tin, chắc chắn là thế rồi.

- Mở va-li và bỏ hết tiền bạc vào túi xách cho tao. Mau lên.

Steve cố tranh thủ thời gian. Anh nói:

- Làm sao tôi tin được là ông sẽ giao lại Neil và Steve cho tôi bình an vô sự.

- Bỏ vào túi xách cho tao! - Giọng hắn nghe rất gay gắt. Hắn có vẻ căng thẳng kinh khủng. Nếu hắn hoảng sợ và chạy trốn với số tiền này, có thể hắn gϊếŧ Neil và Sharon. Steve mò mẫm lấy những gói tiền trong va-li ra và bỏ vào túi xách của hắn.

- Buộc miệng túi xách lại.

Anh kéo dây buộc, thắt gút miệng túi xách.

- Đưa dây cho tao, đừng nhìn tao.

Anh nhìn thẳng ra phía trước.

- Thế con tôi và Sharon thì sao?

Hai bàn tay đeo găng thò qua cửa xe, lấy cái túi xách. Nhìn đôi găng tay, anh quan sát thật kỹ, trông thật thô tháp, làm bằng đồ giả da rẻ tiền, màu xám thẫm hay nâu đỏ sậm, cỡ lớn. Mép áo khoác sờn mòn, sợi chỉ lòi ra ngoài.

Tên bắt cóc cất tiếng nói nhanh, giọng run run:

- Nhớ đấy, Peterson. Mười lăm phút nữa mới được đi khỏi đây, hãy nhớ đấy, mười lăm phút nữa. Nếu tao đi mà không có ai theo dõi và tiền bạc đầy đủ, thì mày sẽ biết chỗ tìm con mày và Sharon vào lúc 11 giờ 30 sáng nay.

Mười một giờ rưỡi, đúng giờ hành quyết Ronald Thompson, Steve không kềm chế được nữa. Anh hỏi:

- Anh đã chứng kiến cảnh vợ tôi chết phải không?

Hắn không đáp. Anh đợi, thận trọng quay đầu về phía hắn. Hắn đã bỏ đi, từ bên kia đường, chiếc xe rồ máy chạy.

Đồng hồ anh chỉ 2 giờ 35 phút, cuộc hẹn chỉ kéo dài ba phút. Anh có bị canh chừng không? Có một kẻ nào đứng trên mái nhà quan sát anh, nếu anh nhúc nhích là báo liền không? Bây giờ cơ quan FBI không thể xác định được chiếc va-li của anh ở đâu được nữa. Nếu anh đi sớm hơn giờ hắn ra lệnh thì sao?

Không nên.

Đúng 2 giờ 53 phút, Steve cho xe quay lại, chạy về hướng Manhattan. Lúc 3 giờ 10, anh đến tổng hành dinh của cơ quan FBI nằm ở góc Đường 69 và Đại lộ 3. Nhân viên mật vụ mặt mày nghiêm trọng đổ xô đến xe anh, tháo đèn ra. Ông Hugh ánh mắt u sầu lắng nghe Steve kể lại hết sự việc trong khi họ đang đi đến tầng thứ 12. Ở đây người ta giới thiệu với anh một người đàn ông tóc bạc phơ, cặp kính đen trên mắt ông ta không làm mất vẻ nhẫn nại và thông minh trên mặt. Ông Hugh nói:

- Ông John đã nghiên cứu cuốn cát-sét. Sau khi nghe xong giọng nói và một số tiếng vang, ông kết luận rằng Neil và Sharon ở trong một căn phòng lạnh lẽo và trống vắng, rộng khoảng mỗi bề 3 mét bề 7 mét. Có thể phòng này nằm dưới một nhà ga chở hàng, có tiếng xe lửa chạy liên tục vào ra ga rất gần đấy.

Steve sững sờ. Lão mù nói:

- Tôi phải nghe lại nhiều lần nữa mới chính xác hơn được, chẳng có gì bí mật ở trong vấn đề này cả. Cần phải lắng nghe thật kỹ như người ta nhìn một mẫu vật dưới ống kính hiển vi vậy thôi.

Một căn phòng lạnh lẽo, trống không, nhà ga hàng hóa. Steve nhìn ông Hugh, ánh mắt trách cứ:

- Giả thuyết ông cho Sharon âm mưu việc này còn đứng vững không?

- Tôi không biết gì hết. - Ông Hugh thú nhận một cách gọn lỏn.

- Ông Peterson này, về giọng nói sau cùng trong cuốn băng, - Ông Owens có vẻ ngần ngừ một lát mới nói tiếp - xin hỏi ông có phải tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ của vợ ông, chứ không phải tiếng Anh, có phải thế không?

- Không, tất nhiên là không, cô ấy lớn lên ở Philadelphia cho đến lúc 10 tuổi mới vào nội trú. Mà tại sao ông hỏi vậy?

- Trong lời nói có ngữ điệu khiến cho ai chuyện về ngôn ngữ đều nghĩ rằng tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ.

- À, tôi nhớ rồi! Nina có nói cho tôi biết cô ấy có người gia sư là người Pháp, lúc còn nhỏ, cô ấy thường nói bằng tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Anh.

- Quả tôi nói không sai, cho nên, đây không có chuyện lừa bịp hay nhại giọng, ông nhận ra giọng của vợ ông là đúng.

- Đúng rồi. Tôi đã lầm lẫn về việc này - Ông Hugh nói - Nhưng ông John nói rằng giọng nói sau cùng trong cuốn băng đã được thêm vào sau khi đã ghi âm giọng của Nen và Sharon. Ông Peterson, ông suy nghĩ xem, kẻ nào làm việc này chắc đã biết rõ cuộc sống riêng tư của ông. Có lẽ buổi tối nào đó ông đã đến gặp những người làm việc chiếu bóng nghiệp dư, và ở đây đã có ai ghi âm được giọng nói của vợ ông rồi họ rút ra những lời này, phải không?

Steve không nhớ nổi... anh nhíu mày suy nghĩ:

- Câu lạc bộ đánh gôn, cách đây bốn năm, khi người ta tu sửa và trang hoàng lại trụ sở câu lạc bộ, họ đã làm một bộ phim cho lễ từ thiện. Nina đóng vai người tường thuật, cô ấy đã đi từ phòng này qua phòng khác, trình bày các nơi đã được thực hiện.

- Vậy là chúng ta đã nắm được mấu chốt. - Ông Hugh nói - Có thể bà ấy đã dùng những lời này trong phần minh họa cho bộ phim không?

- Có thể lắm.

Chuông điện thoại reo, ông Hugh chụp lấy máy, xưng danh, rồi lắng nghe:

- Tất cả các anh hãy theo dõi ngay đi. - Ông đột ngột gác máy, mắt ông lóe lên như người đi săn tìm được dấu vết mới của con thú. Ông nói:

- Ông Peterson, mọi việc bắt đầu sáng tỏ. Ông đã chụp được một bức ảnh rất rõ về chiếc xe và số xe của hắn. Chúng ta sẽ tìm ra chiếc xe ấy.

Họ đã cho anh chút hy vọng đầu tiên! Vậy thì tại sao anh cứ nghẹn ngào đau đớn mãi như thế này? Dễ hiểu thôi, anh đã có linh cảm công việc này không đi đến đâu cả.

Ông John Owens đưa bàn tay về hướng phát ra giọng nói của Steve. Ông ta nói:

- Ông Peterson, cho tôi hỏi một câu, nếu quả thật giọng nói trong cuốn băng là giọng của vợ ông, thì tôi có cảm giác bà ấy nói khi vừa mở cánh cửa ra. Ông có nhận ra cánh cửa khi mở có tiếng rít nho nhỏ nghe "k é e c" là ở đâu không? - Hỏi xong, ông ta nhại lại tiếng cánh cửa có bản lề bị sét, tiếng nhại rất giống.

Ông Hugh và Steve nhìn nhau. Ông ta đùa ư, Steve chưng hửng thầm nghĩ, thật là trớ trêu, khi mọi người hiểu được thì quá muộn rồi...

Hugh trả lời thay cho anh:

- Phải, ông John, đó đúng là tiếng kêu ở cánh cửa nhà bếp của ông Peterson khi mở ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Arty rời quán rượu Mill Tavern. Hắn cảm thấy hồi hộp lo sợ, nên phải cẩn thận đề phòng, cảm giác an toàn tuyệt đối bây giờ không còn nữa.

Hắn hy vọng gặp Bill Lufts ở quán rượu, hắn nghĩ chuyện moi tin tức ở lão này chẳng khó khăn gì. Ô, thằng bé đi rồi à? Hắn đi đâu thế? Ông Peterson ra sao? Ông ta ở một mình hay sao?

Hắn đã nghĩ thế nào Peterson cũng không nói cho vợ chồng Lufts biết về chuyện Neil và Sharon bị bắt cóc. Hắn nghĩ ông Peterson thừa biết vợ chồng Lufts không thể nào giữ mồm giữ miệng được.

Cho nên, nếu Bill không đến đây, tức là Peterson đã báo cho cảnh sát hay - không, không phải cảnh sát, mà là cho cơ quan FBI.

Anh chàng giới thiệu là Pete Lemer hỏi nhiều chuyện quá, hắn là nhân viên mật vụ FBI, Arty tin chắc như thế.

Hắn cho chiếc Coccinelle màu xanh đậm chạy ra xa lộ Merritt Nam. Sự lo sợ làm hắn toát mồ hôi trán, ướt đẫm hai nách và hai bàn tay.

Mười hai năm trôi qua, người ta đã điều tra hắn ở Tổng hành dinh của cơ quan FBI tại Manhattan.

- Này Arty, người bán báo đã thấy anh đi với một cô gái, anh dẫn cô ta đi đâu vậy?

- Tôi đưa cô ta đi tìm tắc-xi, cô ấy nói cô có hẹn với người bạn.

- Bạn nào?

- Làm sao tôi biết? Tôi chỉ mang giùm cái xách cho cô ta, thế thôi.

Họ không có bằng chứng gì hết, nhưng họ vẫn cứ đi tìm. Lạy Chúa, đúng thế, họ đi tìm.

- Còn những cô khác nữa, Arty? Hãy nhìn những bức ảnh này xem, anh thường đi khắp đường sá ở thành phố quanh nhà ga. Vậy anh đã mang túi xách cho bao nhiêu cô rồi?

- Tôi không hiểu các ông muốn nói gì.

Thế nào chúng cũng tìm ra sự thật. Tình thế rất nguy hiểm, cho nên hắn đã rời New York, đến ở tại Connecti-cut, đã xin làm ở một trạm xăng. Rồi cách đây sáu năm, hắn chuyển sang làm việc trong ga ra ở Carley, bang Arizona. Thật quá vụng về, tại sao lại nói: Rhode Island mà không phải Arizona? Cái thằng xưng danh Pete Lemer có lẽ không để ý, nhưng nói thế thật quá vụng về, dễ làm cho người ta chú ý.

Họ không có gì để buộc tội hắn được, trừ phi họ lục tìm quá khứ của hắn, trường hợp họ trở lại thẩm vấn hắn về cô gái ở Texas. Hắn đã đề nghị với cô ta: "Đi đến nhà tôi ở Village, tôi có rất nhiều bạn bè sẵn sàng thu nhận cô làm người mẫu".

Nhưng họ sẽ không tìm ra bằng chứng cụ thể được cũng như bây giờ họ không làm sao có bằng chứng. Không có gì hết, không có gì sai trái hết, hắn hoàn toàn tin chắc như thế.

Hắn nhớ cô ta đã hỏi hắn: Anh ở trong cái xó này à?

Đường tiếp theo xa lộ Merritt là Hutchinson River, hắn lái xe chạy theo những tấm biển chỉ đường đến cầu Throgs Neck. Hắn đã có sẵn chương trình kỳ diệu trong óc rồi. Việc đánh cắp xe hơi quả thật nguy hiểm, luôn luôn có thể xảy ra việc chủ nhân thình lình quay về trong vòng 10 phút: khi ấy cảnh sát sẽ được báo động và tên trộm chưa đi quá 20 cây số. Nên ăn trộm những chiếc xe mà chủ nhân đi đâu lâu, như đi xem xi nê chẳng hạn, xem những bộ phim xưa từ thời thập niên 40, hay là chủ nhân đáp máy bay đi đâu đó.

Đèn báo nguy hiểm nhấp nháy trên cầu Throgs Neck - Váng băng - Gió, nhưng sẽ ổn hết bởi hắn là tay lái xe cừ khôi, và đêm nay bọn nhát gan đều ở nhà hết, thế càng dễ dàng cho công việc của hắn.

Lúc 11 giờ 20, hắn lái xe vào bãi đỗ số 5 ở phi trường La Guardia, bãi này rất an toàn và có giá đặc biệt cho những xe gởi lâu.

Hắn đến lấy thẻ gởi xe, thanh chắn cất lên, hắn lái xe từ từ chạy vào bãi, cẩn thận tránh tầm mắt của nhân viên thu ngân ngồi ở cổng ra, gần bên trạm thuế tự động. Hắn chọn chỗ để xe ở lối số 9, nằm giữa chiếc Chrysler và chiếc Cadillac sau chiếc Oldsmobile. Chiếc Coccinelle của hắn nằm lọt ở giữa trông bé tí, khuất dạng.

Hắn tựa lưng ra ghế, chờ đợi. Bốn mươi phút trôi qua, hai chiếc xe chạy vào bãi đỗ xe, một chiếc có màu đỏ chói, chiếc kia là một xe tải nhỏ màu vàng. Cả hai chiếc này rất dễ bị người ta chú ý. Hắn vui mừng khi thấy hai chiếc xe không để ý đến những chỗ còn trống ở gần xe hắn, mà chạy đến tận cuối bãi ở phía bên trái.

Một chiếc nữa từ từ chạy vào, đây là chiếc Pontiac màu xanh thẫm, chiếc xe chạy đến đậu trước mặt hắn ba hàng. Đèn tắt hết, hắn nhìn người lái xe bước ra, đi vòng ra sau, lấy trong thùng xe ra một cái va-li lớn. Anh chàng này có vẻ đi lâu mới về.

Hắn cúi người xuống, đầu vừa cao khỏi kính chắn gió, nhìn người đàn ông đóng thùng xe rồi xách va-li đi đến bến xe đưa khách tới ga sân bay.

Mấy phút sau, xe đưa khách ra ga chạy đến, hắn quan sát bóng người chủ Pontiac leo lên chiếc xe đón khách. Chiếc xe chạy đi.

Hắn bình tĩnh, chậm rãi bước ra khỏi chiếc Coccinelle, đưa mắt nhìn quanh, không có ánh đèn pha của xe hơi nào hết. Chỉ sải vài bước là hắn đến bên chiếc Pontiac, thử chiếc chìa khóa thứ hai là hắn mở được cửa xe, hắn bước lên.

Trong xe âm áp thật dễ chịu, hắn mở công-tắc. Máy nổ êm ru, bình xăng còn đầy ba phần tư.

Tuyệt diệu.

Hắn phải đợi. Người bảo vệ sẽ thắc mắc không biết hắn trả tiền vé gởi xe gần hai giờ để làm gì. Nhưng hắn còn quá nhiều thì giờ và hắn muốn suy nghĩ tính toán cho thật kỹ. Hắn ngồi yên trong ghế đệm êm ái, nhắm mắt lại, và hình ảnh Nina bỗng chập chờn trước mắt hắn: hắn thấy lại bà ta như đêm đầu tiên hắn gặp.

Hắn lên xe đi vòng vòng ngoài đường, lòng nhủ lòng đáng ra không nên đi như thế này làm gì. Hai vụ gϊếŧ người, cô Jean Carfolli và bà Weiss đang còn mới quá nhưng hắn không thể ở nhà được. Và hắn đã gặp chiếc Kerman Ghia đang đậu bên lề đường số 7, nơi vắng vẻ cô quạnh. Hắn chiếu đèn sáng vào tấm thân mảnh mai nhỏ bé, mái tóc đen, hai bàn tay nhỏ lúng túng trong cái kích đội xe. Cặp mắt to màu hạt dẻ hoảng hốt khi nhìn hắn lái xe đến gần rồi dừng lại. Có lẽ cô nhớ lại tất cả chuyện người ta kể về gã đàn ông gϊếŧ người trên xa lộ.

- Tôi có thể giúp gì cho bà được không, thưa bà? Đối với bà thì khó, nhưng tôi làm nghề này, tôi sửa xe trong ga ra.

Ánh mắt lo âu biến mất trên mặt chị. Chị đáp:

- Ồ tuyệt quá! Thú thật với anh tôi quá lo sợ... xe bể bánh ở một nơi thật bất tiện.

Hắn không thèm nhìn đến chị, hắn chăm chú lo sửa xe, như thể chị không có mặt trên đời, như thể chị đã chín trăm tuổi.

- Xe bà bị một mảnh chai đâm phải, không nghiêm trọng đâu. - Hắn nhanh nhẹn thay lốp xe, chưa đầy ba phút, hắn dứng lên.

- Anh cho trả bao nhiêu? - Chị mở ví, đầu cúi xuống. Ngực chị phập phồng dưới chiếc áo măng tô bằng lông thú giai cấp tư sản. Hắn thấy con người chị toát ra như thế. Không hung hăng như cô bé Jean Carfolli, mà cũng không to mồm phách lối như mụ phù thủy già Weiss, đúng là một thiếu nữ duyên dáng đang tỏ lòng biết ơn hắn. Hắn đưa tay lên định sờ ngực chị.

Bỗng có đèn chiếu sáng hàng cây bên kia đường, ánh sáng chao đảo rồi chiếu thẳng vào hai người. Xe cảnh sát đến, hắn thấy ngọn đèn quay trên nóc xe. Hắn nói nhanh:

- Tiền công thay bánh xe ba đô-la, và nếu bà muốn vá lốp xe, tôi có thể vá cho bà. - Hắn thọc tay vào túi - Tôi tên là Arty Taggert tôi có ga ra ở Carley, đường Monroe, cách quán rượu Mill Tavern chừng hai cây số.

Xe cảnh sát trờ tới, đến gần họ. Người sĩ quan cảnh sát bước tới:

- Yên ổn chứ, thưa bà? - Ông ta đưa mắt nhìn Arty, ánh mắt thật kỳ lạ nghi ngờ.

- Ổn cả, thưa ông! Thật may, ông Taggert ở gần nhà tôi. Ông ấy đi ngang qua đây nhằm lúc tôi bị nổ bánh xe.

Chị làm như thể chị quen biết hắn, nét mặt ông cảnh sát thay đổi:

- Thật may cho bà đã gặp được người bạn ở đây. Giờ nầy mà một phụ nữ ở một mình với xe bị hỏng như thế này thì thật nguy hiểm...

Người cảnh sát lên xe tuần tra, nhưng ông ta vẫn nhìn hai người. Chị hỏi hắn:

- Anh sửa bánh xe cho tôi được à? Tôi là Nina Peterson, nhà tôi ở tại khu Drifwood Lane.

- Được chứ, rất hân hạnh được biết bà - Hắn leo lên xe, thái độ tự nhiên bình thản, như thể việc sửa chữa vừa rồi là nhỏ nhặt, không quan trọng, hắn không để lộ vẻ là hắn cần phải gặp lại chị. Hắn thấy trong ánh mắt của chị có vẻ bực bội vì cảnh sát đã đến không đúng lúc. Nhưng hắn phải chạy nhanh kẻo anh chàng cảnh sát lại nghĩ đến Jeart Carfolli và bà Weiss, lại hỏi hắn:

- Thưa ông, ông thường đến giúp các phụ nữ đơn độc một mình như thế này phải không?

Cho nên hắn đã bỏ đi nhanh, và sáng hôm sau, lúc hắn có ý định gọi chị, thì chị lại gọi hắn. Chị nói:

- Chồng tôi vừa cằn nhằn tôi vì tôi đã dùng bánh xơ cua mà chạy. - Giọng chị ấm áp, dễ thương, vui vẻ, như thể hai người quen đang nói chuyện với nhau. - Khi nào tôi lấy lại bánh xe?

Hắn nghĩ rất nhanh, khu Driftwood Lane là nơi yên tĩnh, nhà cửa lại nằm cách xa nhau. Nếu chị đến chỗ hắn thì hắn sẽ không có phương tiện gì để tỏ tình với chị được, tỏ tình ở chỗ hắn rất nguy hiểm.

- Bây giờ tôi phải đi làm việc, - Hắn nói láo - chiều nay tôi sẽ mang đến cho bà, khoảng mười bảy giờ.

Khoảng năm giờ trời đã tối rồi.

- Quá tuyệt! - Chị đã reo lên - Phải ráp cái bánh mắc dịch này vào xe để tôi kịp đi đón chồng tôi về tàu hỏa lúc 18 giờ 30.

Ngày hôm ấy, hắn ở trong tình trạng hưng phấn không thể nào tả nổi. Hắn đi hớt tóc, mua một cái áo sơ-mi ca rô mới. Về nhà, hắn chẳng thèm làm việc gì cả, hắn tắm rửa, thay áo quần, nghe cát-sét để gϊếŧ thời gian. Sau đó, hắn lắp vào máy ghi âm một cuộn băng mới, hắn dán nhãn trên cuốn băng này có ghi chữ "Nina". Hắn xem lại máy ảnh đã có phim chưa, nghĩ đến nỗi suиɠ sướиɠ khi chụp ảnh, khi nhìn hình ảnh in ra trên giấy.

Đến 17 giờ 5, hắn lên đường đi Driftwood Lane. Hắn chạy trước đường một lát mới quyết định cho xe vào đậu trong cánh rừng gần nhà, đề phòng khi...

Hắn đi bộ trong rừng, gần bờ biển, hắn nhớ tiếng sóng vỗ vào bãi, tiếng sóng nghe rất êm tai, gây cho hắn cảm xúc bồi hồi, mặc dù đêm ấy rất lạnh.

Chiếc xe của Nina đậu ở lối đi sau nhà, chùm chìa khóa xe nằm ở ổ khóa công tắc. Hắn thấy thiếu phụ qua cửa sổ nhà bếp, chị đi lui đi tới, tháo những gói thực phẩm ra. Căn phòng rất sáng và Nina rất đẹp, chị mặc áo len tay dài màu xanh nhạt phủ ra ngoài quần, quanh cổ vấn khăn quàng. Hắn thay cái bánh xe rất nhanh, liếc mắt nhìn thử có ai trong nhà nữa không. Hắn sẽ làʍ ŧìиɦ với chị, và chắc chị cũng muốn lắm. Nội chuyện chị đã nói chồng chị tức giận chị, cũng đủ cho hắn thấy chị cần có người đàn ông hiểu biết. Hắn mở cho máy ghi âm chạy, và nói thì thầm vào máy những lời trìu mến để làm cho Nina suиɠ sướиɠ khi hắn muốn thổ lộ tâm tình với chị.

Hắn đến cửa nhà bếp, gõ cửa nhè nhẹ, chị bước nhanh đến, có vẻ ngạc nhiên khi thấy hắn, nhưng hắn đưa chùm chìa khóa xe cho chị, miệng tươi cười. Chị liền mở cửa cho hắn vào, thái độ niềm nở, dễ mến, giọng cởi mở, nói rằng hắn dễ thương biết bao.

Sau đó, chị hỏi hắn, chị phải trả công cho hắn bao nhiêu. Hắn đưa tay - tay hắn đeo găng - tắt ngọn đèn ở nhà bếp. Hắn để hai tay lên mặt chị và hôn chị, hắn thì thào nói:

- Trả cho anh cái này được rồi.

Chị tát vào mặt hắn, hắn không ngờ bàn tay nhỏ bé như thế lại giáng cho hắn một cái tát như trời giáng đến vậy. Chị la lên:

- Cút ra ngay! - Giọng chị thốt lên như xua đuổi một con chó, như thể hắn không cư xử tốt với chị. Chị làm như thế đã không khêu gợi hắn lại gây cho hắn bực mình. Hắn đưa tay ra, hắn muốn trừng trị chị, muốn chị đừng hung hăng dữ tợn như thế nữa. Hắn muốn nắm cái khăn quàng nơi cổ chị, nhưng chị đã vùng ra, chạy lên phòng khách. Chị không la một tiếng, cũng không kêu cứu. Sau này hắn mới biết lý do tại sao chị không la tiếng nào. Chị không muốn hắn biết có con chị ở trong nhà, nhưng chị lại cố chạy đến lấy cái que sắt ở lò sưởi.

Thấy thế, hắn cười, hắn nói nho nhỏ với chị chuyện hắn sắp làm, hắn nắm hai bàn tay chị, lấy que sắt để vào chỗ cũ. Rồi hắn nắm chiếc khăn quàng, thắt mạnh vào cổ chị... cho đến khi chị ngộp thở, hai bàn tay như búp bê vùng vằng, xuôi xuống, mềm nhũn ra, còn hai con mắt lớn màu hạt dẻ mở rộng, lờ đờ trợn trừng, da mặt xanh lét.

Tiếng ùng ục ngộp thở đã hết, hắn nắm chị một tay, một tay lấy máy ảnh chụp một tấm, mong sao hai mắt chị nhắm lại. Ngay khi ấy hắn nghe phía sau lưng hắn có tiếng khò khè của ai đấy vang lên.

Hắn quay người lại, thằng bé đang đứng ở tiền sảnh, giương mắt nhìn hắn, cặp mắt to màu hạt dẻ. Thằng bé cũng ngộp thở y như chị.

Như thể hắn không gϊếŧ chị, như thể chị đang cười nhạo hắn, nói với hắn chị sẽ trả thù.

Hắn bước đến cậu bé, hắn phải làm chấm dứt cái tiếng khò khè ấy, phải làm cho cặp mắt ấy khép lại. Hắn đưa tay ra, cúi người xuống...

Có người bấm chuông ở cửa.

Phải chạy trốn thôi, hắn băng qua tiền sảnh chạy vào nhà bếp, lẻn ra cửa sau. Tiếng chuông reo lên lần thứ hai, hắn chạy qua cánh rừng, nhảy lên xe, lái về ga ra của hắn chỉ mấy phút. Bình tĩnh - Hãy bình tĩnh, hắn đến quán rượu Mill Tevem ăn ổ bánh mì kẹp thịt băm và uống chai bia. Ở đây thế nào hắn cũng được nghe những tin về vụ gϊếŧ người trong thành phố.

Nhưng hắn sợ, nếu người cảnh sát nhận ra mặt của Nina trên báo, nếu anh ta khai với cấp chỉ huy đồn: - "Lạ thật, đêm qua tôi đã gặp bà này ở ngoài đường, khi ấy có thằng cha tên Taggert sửa xe cho bà ta...".

Hắn định rời thành phố, nhưng khi chuẩn bị va-li thì hắn nghe tin thông báo có một nhân chứng, một bà hàng xóm, cho biết bà đã bị một chàng trai từ trong nhà Peterson chạy ra tông phải bà, khiến bà nhào ngửa ra. Bà nói là bà biết chàng trai này, đấy là Ronald Thompson, một thanh niên ở trong khu vực mới 17 tuổi, và người ta đã thấy Thompson nói chuyện với bà Peterson mới mấy giờ trước khi xảy ra án mạng.

Arty để máy ảnh, máy ghi âm, các âm bản, phim và các cuộn băng cát-sét vào một hộp sắt, hắn chôn cái hộp dưới một bụi cây ở sau ga ra, hắn nghĩ cứ đợi xem sao.

Cuối cùng, người ta bắt Thompson trong một khách sạn rẻ tiền ở Virginia, người ta buộc tội cậu bé là hung thủ.

Thật may mắn cho hắn, quả thật là may mắn không ngờ được. Phòng khách tối om, có lẽ vì thế mà thằng bé không thấy mặt hắn và ngay sau đó thì Thompson vào nhà.

Thế nhưng hắn muốn gϊếŧ luôn thằng bé. Hắn đã đến gần thằng bé, chắc Neil đã bất tỉnh. Và biết đâu có ngày thằng bé nhớ lại.

Ý nghĩ ấy cứ ám ảnh Arty mãi, hắn thường nằm mơ thấy cặp mắt ấy theo dõi hắn. Thỉnh thoảng hắn thức giấc vào nửa đêm, mồ hôi ướt đẫm cả người, run rẩy, cứ tưởng tượng cặp mắt ấy nhìn hắn qua cửa sổ, hay nghe tiếng gió rì rào hắn lại nghĩ đấy là tiếng ục ục trong cuống họng vì bị ngộp thở.

Sau đó hắn không săn lùng con gái nữa, tuyệt đối không. Hắn chỉ đến quán rượu Mill Tavern, hầu như đêm nào cũng đến. Hắn chơi thân với những khách thường xuyên đến đó, nhất là Bill Lufts. Bill thường kể về Neil.

Mãi cho đến tháng vừa rồi, hắn cảm thấy không thể nào không đào cái hộp đựng băng cát-sét lên để nghe lại được.

Đêm ấy, trên máy vô tuyến điện thoại, hắn nghe cô Callahan cho biết xe cô ta bị nổ bánh, thế là hắn đến gặp cô ta. Hai tuần sau, hắn lại nghe bà Ambrose báo cho biết bà bị lạc đường và xe hết xăng, hắn liền đi tìm bà ta.

Cảnh sát ở Fairfiels County một lần nữa phải điên đầu. Họ đi tìm một kẻ gọi là "tên gϊếŧ người bằng vô tuyến điện thoại". Hắn yên tâm tự nhủ: Mày chẳng để lộ dấu vết gì hết.

Nhưng sau hai vụ này, đêm nào hắn cũng mơ thấy Nina, chị lên án hắn. Rồi cách đây hai tuần, Bill đến chỗ hắn ở vào giờ giải lao, lão ta có dắt Neil đi theo. Neil nhìn thẳng vào mặt Arty.

Chính ngày hôm ấy, hắn quyết phải gϊếŧ Neil trước khi rời khỏi Carley. Và khi lão Lufts kể chuyện Steve gởi tiền của thằng bé ở ngân hàng - Vợ lão đã thấy bảng kê khai số tiền ngân hàng nằm trên bàn làm việc của Peterson, hắn quyết đoạt số tiền ấy cho bằng được.

Càng nghĩ đến Nina, hắn càng ghét Peterson. Peterson có thể ôm hôn chị mà không bị bợp tai. Peterson có danh tiếng trong báo giới, Peterson có người để ra lệnh, Peterson có bạn gái mới. Hắn sẽ làm cho anh ta biết thế nào là lễ độ.

Căn phòng dưới Ga lớn Trung tâm luôn luôn nằm trong tâm khảm của hắn, một nơi để ẩn náu khi cần đến, hay là để dẫn gái tới nơi không ai có thể tìm ra được cô ta nữa.

Hắn thường tưởng tượng ra cảnh hắn làm cho Ga lớn Trung tâm nổ tung từ căn phòng ấy. Hắn tưởng tượng ra cảnh mọi người nhốn nháo hoảng hốt khi quả bom nổ, khi họ thấy mặt đất mở ra dưới chân họ, thấy trần nhà sập xuống: tất cả những người không thèm để ý đến hắn khi hắn cố gây cảm tình với họ, tất cả những người không bao giờ cười với hắn, chen lấn xô đẩy hắn, không thèm chú ý đến hắn, những kẻ ăn xong ném đĩa cho hắn rửa, những chiếc đĩa đầy mỡ, bơ, thật là dơ bẩn.

Tất cả sẽ cho xảy ra một lần theo kế hoạch - Kế hoạch của August Rommel Taggert - Kế hoạch của Cáo.

Giá mà Sharon đừng phải chết! Giá mà cô ta yêu hắn! Nhưng ở Arizona chán gì con gái đáng yêu, hắn chỉ cần có tiền là được.

Sáng kiến để cho Sharon và Neil chết cùng một giờ với chàng trai Thompson bị hành quyết, quả là một sáng kiến tuyệt vời. Vì hắn sẽ gϊếŧ họ, còn Thompson thì đáng chết vì đêm ấy đã xía vào chuyện người ta.

Và tất cả những ai có mặt tại Ga lớn Trung tâm, sẽ bị hàng tấn gạch đá sụp đổ đè lên người, chúng sẽ bị nếm mùi bị mắc bẫy là như thế nào.

Còn hắn thì được tự do.

Sắp đến rồi. Giờ kết liễu sắp đến rồi.

Arty nhăn mặt khi nhận thấy thời gian chờ đợi đã trôi qua. Khi nào hắn nghĩ đến Nina là thời gian trôi qua vùn vụt như thế, hắn thấy đã đến lúc phải đi.

Hắn cho chiếc Pontiac chạy đi, lúc đó là hai giờ kém 15 hắn dừng lại trước trạm kiểm soát đưa vé mà hắn đã lấy để cho chiếc Volkswagen của hắn vào bãi. Người nhận vé có vẻ ngái ngủ, anh ta nói với hắn:

- Hai giờ hai mươi phút, cả thảy hai đô-la, thưa ông.

Hắn ra khỏi phi trường rồi dừng lại ở buồng điện thoại trên Đại lộ Queens. Đúng hai giờ, hắn gọi đến buồng điện thoại trước mặt nhà hàng Bloomingdale. Ngay khi Peterson nhận ống nghe, hắn ra lệnh cho anh đến buồng điện thoại công cộng trên đường 96.

Hắn đói bụng mà chỉ còn 15 phút nữa thôi.

Hắn vào một quán ăn uống mở cửa suốt ngày đêm, ăn vội mấy lát bánh mì và uống ly cà phê, mắt luôn luôn nhìn vào đồng hồ.

Đúng 2 giờ 15, hắn gọi buồng điện thoại trên Đường 96, nói vắn tắt cho Steve biết chỗ hẹn.

Đến đây là bắt đầu giây phút nguy hiểm.

Hai giờ 15 phút, hắn lái xe về phía Đại lộ Rosevelt. Đường sá vắng vẻ, không có bóng dáng xe cảnh sát chìm. Nếu có, hắn rất dễ bị phát hiện, hắn có tài lái xe mà không bị cảnh sát nghi ngờ.

Tuần trước, hắn quyết định chọn Đại lộ Rosevelt để làm điểm hẹn. Hắn tính thời gian để hắn quay về phi trường La Guardia chỉ mất có 6 phút. Trường hợp cảnh sát theo Peterson, thì hắn sẽ có cơ may đánh lạc hướng họ.

Những cột tháp để móc hệ thống dây cáp tàu điện chạy dọc theo Đại lộ Rosevelt đã che khuất bớt tầm mắt của mọi người, khiến họ khó mà phân biệt được những chuyện xảy ra ở bên kia đường hay ở khu nhà nằm bên đường. Đây là chỗ lý tưởng để hẹn gặp.

Đúng hai giờ 35, hắn đậu xe trên Đại lộ Rosevelt, đối diện với cầu vồng ở Brooklyn, cách chân cầu chưa đầy nửa khu phố.

Đến hai giờ 36, hắn thấy đèn pha xe hơi từ cầu vồng Brooklyn Queens chạy tới, ở phía đối diện. Hắn trùm chiếc vớ dài trên mặt.

Chính là chiếc Mercury của Peterson. Bỗng trong nháy mắt, hắn tưởng chừng Peterson đâm thẳng vào hắn, vì chiếc xe rẽ về phía hắn. Anh ta chụp ảnh chiếc Pontiac phải không? Nếu thế thì chúng lại càng bỏ công hơn nữa.

Xe của Peterson đứng ngay trước mặt hắn, phía bên kia đường. Hắn nuốt nướt bọt, căng thẳng. Nhưng không có ánh đèn pha nào từ phía cầu vồng đến hết, hắn phải ra tay nhanh thôi. Hắn lấy cái xách hải quân. Hắn đã đọc trong các tạp chí điện tử, hắn biết thường khi người ta trả tiền chuộc, họ thường gài trong va-li máy phát tin. Hắn phải cảnh giác cho an toàn.

Hắn phải dùng cái xách của hắn cho an tâm, cái xách vải nhẹ nhàng, trống không, sắp sửa được tộng đầy bạc vào. Hắn mở cửa xe, nhẹ nhàng băng qua đường. Hắn đi chưa đầy 60 giây đã đến, hắn gõ vào cửa xe của Peterson ra dấu cho anh mở cửa kính. Trong khi anh hạ kính xuống, hắn nhìn nhanh vào trong xe, Peterson chỉ có một mình, hắn đưa cái xách cho anh.

Ánh sáng yếu ớt trên đường chiếu bóng những trụ chống đỡ hệ thống dây cáp tàu điện lên xe Mercury. Hắn ra lệnh Peterson không được nhìn hắn và sang tiền vào xách cho hắn, giọng khàn khàn nho nhỏ như hắn đã giả giọng mấy lần trước.

Peterson không trái lời, sau chiếc vớ trùm đầu, Cáo đưa mắt nhìn quanh, tai lắng nghe. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ có người đang đến gần. Cảnh sát có theo Peterson, nhưng có lẽ họ để cho cuộc hẹn này diễn ra êm thấm.

Hắn nhìn Peterson bỏ gói bạc cuối cùng vào xách. Hắn ra lệnh cho anh buộc lại rồi đưa ra cửa sổ cho hắn, hắn dợm thử cái xách có nặng không. Hắn cẩn thận nói rất nhỏ ra lệnh cho Peterson đợi 15 phút mới được đi, và nói anh có thể nhận lại Neil và Sharon vào lúc 11 giờ 30.

- Anh đã chứng kiến cảnh vợ tôi chết phải không?

Câu hỏi làm cho Cáo giật mình. Vậy là người ta đã bắt đầu nghi ngờ hắn, hắn phải đi gấp thôi. Hắn toát mồ hôi hột, chiếc sơ mi trong áo khoác ướt nhèm, hai bàn chân ấm lên mặc dù gió thổi lạnh buốt mắt cá chân của hắn.

Hắn băng qua đường, leo lên chiếc Pontiac. Peterson có dám theo dõi hắn không?

Không. Anh ta vẫn ngồi yên trong xe.

Cáo nhấn ga, phóng lên chân cầu vồng ở Brooklyn Queens. Chỉ chạy hai phút là hắn đến xa lộ Đại trung tâm, hắn hòa vào dòng xe cộ chạy về hướng Đông, rồi ba phút sau hắn rẽ vào đường đến phi trường La Guardia.

Đến hai giờ 46, hắn lấy vé vào bãi đậu xe số 5.

Chín mươi giây sau, chiếc Pontiac đậu lại đúng chỗ hắn đã lấy xe hồi nãy. Nếu ai chú ý thì sẽ thấy có sự khác biệt duy nhất là xăng đã bớt đi một tí và ở đồng hồ tốc độ có tăng thêm 24 cây số.

Hắn bước ra khỏi xe, cẩn thận đóng cửa lại, mang cái xách đến để lên chiếc Coccinelle. Khi đã ngồi vào trong xe và bắt đầu tháo sợi dây ở miệng túi xách, hắn mới thở dài nhẹ nhõm.

Hắn mở miệng túi xách ra, chiếu đèn pin vào trong, miệng hắn nở nụ cười khoái trá. Hắn lấy gói bạc đầu tiên để đếm.

Tiền bạc đầy đủ, tám mươi hai ngàn đô-la. Hắn lấy cái va-li trống ở chỗ ngồi sau xe rồi sắp từng gói bạc vào trong. Hắn sẽ xách tay cái va-li này lên máy bay.

Lúc 7 giờ, hắn ra khỏi bãi đỗ xe, hòa vào dòng xe cộ buổi sáng từ ngoại ô đi vào Manhattan. Cho chiếc Volkswagen đậu vào ga ra khách sạn Biltmore và vội vã đi lên phòng. Hắn tắm, cạo râu rồi gọi thức ăn sáng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Đến 4 giờ sáng, khi đã biết số xe của tên bắc cóc đã dùng, rõ ràng hướng điều tra duy nhất của cơ quan mật vụ đành bỏ ngang.

Việc đầu tiên làm cho họ thất vọng là khi tìm ra chủ nhân của chiếc xe tên Henry A. White, phó giám đốc công ty thực phẩm quốc tế White Plains.

Nhân viên FBI tìm đến nhà của White ở Scarsdale, họ canh chừng nghiêm ngặt quanh nhà. Nhưng không có chiếc Pontiac trong nhà xe và ngôi nhà có vẻ vắng vẻ. Cả ngôi nhà rộng mênh mông không có cánh cửa sổ nào mở hết. Qua lớp màn che cửa, chỉ lọt ra ngoài ánh sáng lờ mờ có lẽ từ một rờ-le ở đồng hồ điện.

Họ liên lạc với người bảo vệ công ty thực phẩm quốc tế, người này gọi đến trưởng phòng nhân viên. Ông này lại gọi đến trưởng phòng sản xuất hàng hóa White. Bằng giọng ngái ngủ, trưởng phòng sản xuất cho biết ông White vừa mới đi công du ở Thụy Sĩ ba tuần trở về, ở lại tại phòng lãnh đạo công ty, dùng cơm với hai cộng tác viên ở nhà hàng Pastor ở White Plains, rồi đi thẳng đến gặp vợ để nghỉ ngơi vài hôm chơi thể thao mùa đông. Bà ta đang ở chơi với bạn tại Aspen hay Sun Valley gì đấy.

Lúc 5 giờ, ông Hugh và Steve đi Carley, ông Hugh lái xe, Steve nhìn vào con đường băng ngang qua vùng Winchester, đến gần Cormecticut, trên đường rất ít xe cộ. Đa số người ta đang ngủ, có thể họ đang đưa tay qua sờ vợ, kiểm tra xem con có đắp chăn kín không, xem các cửa sổ có để gió lạnh luồn vào không. Bây giờ có phải Sharon và Neil đang ở trong một nơi lạnh lẽo, gió luồn vào tự do không?

Tại sao mình lại nghĩ đến chuyện này nhỉ? Anh ngạc nhiên tự hỏi mình, anh nhớ mài mại đã đọc đâu đó rằng những người không làm chủ được tình hình thường hay nghĩ vẩn vơ đến những chuyện không hay. Sharon và Neil còn sống không? Chính anh đang lo nghĩ đến chuyện đó. Lạy Chúa, xin ngài giải cứu họ, xin ngài cứu thoát họ...

Anh hỏi ông Hugh:

- Ông nghĩ sao về chiếc Pontiac?

- Có lẽ phải kết luận chiếc xe đã bị đánh cắp ở nơi ông White đỗ xe. - Ông Hugh đáp.

- Bây giờ chúng ta làm gì?

- Đợi thôi.

- Đợi gì?

- Đợi hắn thả họ ra, hắn đã hứa, hắn có tiền rồi.

- Hắn không để lộ chút tông tích nào hết, hắn tính toán rất kỹ việc này. Ông không tin hắn sẽ thả hai người có khả năng nhận diện được hắn chứ? Phải không?

- Phải. - Ông Hugh xác nhận.

- Vậy không còn cách gì nữa hay sao?

- Nếu hắn không giữ lời hứa, chúng ta sẽ tính đến chuyện công bố việc này cho giới truyền thông đại chúng biết. Có thể có người trông thấy hay nghe cái gì đấy.

- Còn Ronald Thompson thì sao?

- Sao cái gì?

- Giả dụ hắn nói thật thì sao, giả dụ chúng ta biết rõ sư thật sau 11 giờ 30 thì sao?

- Ông muốn nói gì?

- Tôi muốn nói chúng ta có quyền che giấu việc Neil và Sharon bị bắt cóc hay không?

- Tôi không tin việc này có ảnh hưởng gì đến quyết định của Thống đốc liên bang đến Thompson. Hoàn toàn không có gì chứng tỏ rằng đây là chuyện cầm giữ con tin. Nhưng nếu bà Green có cho đây là chuyện giữ con tin để đòi yêu sách đi nữa, thì bà ta cũng không muốn can thiệp vào vụ hành quyết này. Đã hai lần bà bị công kích vì việc xin hoãn ngày hành quyết Thompson rồi. Ở Georgie, mấy thằng nhóc đều bị đưa lên ghế điện đúng giờ dự kiến. Còn một việc rất dễ hiểu nữa để chứng tỏ việc bắt cóc này không phải là việc giữ con tin có liên quan đến Thompson, đó là giọng nói của vợ anh trên cuốn ghi âm. Có lẽ Cáo đã thu xếp cách nào đó để ghi âm giọng bà ấy... chứng tỏ hắn không liên quan gì đến cái chết của vợ ông.

Steve nhìn thẳng ra đằng trước, họ chạy qua Greerwich. Vào dịp nghỉ hè, có một buổi chiều Sharon theo anh đến chơi nhà ông Brad Robertson ở Greenwich. Cô mặc cái váy nhung đen và áo vét bằng gấm, trông cô rất hấp dẫn. Ông Brad đã nói với anh: - "Steve, nếu anh có một tí lương tri thôi, thì chắc anh đã thành hôn với cô gái này rồi".

- Có phải dư luận quần chúng sẽ làm cho thằng bắt cóc hoảng hốt? - Anh hỏi, anh biết câu trả lời của ông ta, nhưng anh cũng hỏi.

- Tôi nghĩ đúng thế. - Giọng ông Hugh nghe khác thường, gay gắt - Ông nghĩ sao, ông Peterson?

Nghĩ sao ư? Steve cảm thấy môi khô khốc. Chỉ là linh cảm thôi, anh nghĩ. Có lẽ không nên nói ra, nếu đã nói ra thì mình không thể dừng được. Và làm thể có hại đến tính mạng của Neil và Sharon.

Mặt tái mét trông thảm hại, anh ngần ngừ như người nhào lộn trước khi nhảy xuống dòng nước cuồn cuộn. Anh nhớ lại cảnh Ronald Thompson khi bị thẩm vấn, khuôn mặt non choẹt hoảng sợ, nhưng rất cương quyết: - "Không phải tôi. Khi tôi vào nhà thì bà ấy chết rồi. Các ông cứ hỏi cậu bé..."

- Nếu đây là đứa con duy nhất của ông thì ông cảm thấy như thế nào?

Con trai duy nhất của tôi đây, bà Thompson à, anh nghĩ.

Anh cất tiếng hỏi:

- Ông Hugh này, chắc ông còn nhớ lời của Bob Kumer phải không? Anh ta cho rằng vụ bốn người phụ nữ bị gϊếŧ chết có liên quan đến cái chết của Nina, ông nghĩ sao?

- Tôi đã nghe anh ta nói và tôi đã có ý kiến với anh rồi. Anh ta tin tưởng vào những gì anh ta tìm ra.

- Nếu tôi nói với ông rằng Kumer có lý và có mối liên hệ giữa cái chết của Nina với bốn người kia, thì ông nghĩ sao?

- Cái gì làm cho ông có ý kiến ấy?

- Ông chắc còn nhớ Kumer có nói điều duy nhất anh ta không hiểu là bốn người đàn bà kia đều chết trong xe, còn Nina thì không; cô ấy bị thắt cổ đến chết ở nhà, chứ không ở ngoài đường.

- Ông cứ nói tiếp đi.

- Đêm trước khi xảy ra án mạng, một vỏ bánh xe của Nina bị xẹp, hôm ấy tôi bận họp trễ ở New York và về đến nhà đã quá khuya. Cô ấy đã ngủ. Nhưng sáng hôm sau, khi cô ấy dẫn tôi ra nhà xe, tôi thấy xe cô ấy đang dùng bánh xơ cua...

- Ông cứ nói tiếp đi.

- Ông chắc còn nhớ tờ khai của Thompson mà Kumer đã để lại. Tờ khai nói rằng Thompson đã nói đùa với Nina rằng cái rủi lại hóa ra là cái may, và cô ấy cũng đùa như thế, vì nhờ gặp cậu ấy mà hàng hóa cô đã mua sắm được sắp xếp gọn gàng trong thùng xe.

- Ông muốn nói gì?

- Thùng xe nhỏ lắm, nếu có chỗ để chất hàng hóa như thế được, tức là trong thùng không có bánh xơ cua. Khi ấy đã quá 11 giờ rồi, và cô ấy phải về thẳng nhà. Hôm ấy Dora đến làm việc, bà ta nói Nina về nhà trước 17 giờ một chút.

- Vậy là vợ ông về thẳng nhà với Neil?

- Đúng, và thằng bé lên lầu chơi tàu hỏa, Nina chuyển hàng trong xe ra. Chắc ông còn nhớ những gói hàng nằm trên bàn chứ? Chúng ta biết cô ấy chết sau đó vài phút. Đêm ấy tôi có xem xe vợ tôi, bánh xơ cua nằm trong thùng xe, bánh xe tốt nằm ở bánh trước.

- Anh muốn nói có người đã đem bánh xe đến, thay vào bánh trước, rồi sau đó gϊếŧ Nina?

- Nếu bánh xe không thay lúc ấy thì thay khi nào? Mà nếu thay khi ấy thì Thompson vô tội. Chính cậu ấy đã bấm chuông khiến cho tên sát nhân trốn chạy. Lạy Đức Mẹ Chúa Trời, ta thử hỏi xem cậu ấy khi chất hàng vào xe, cậu ấy có thấy bánh xơ cua ở đấy không. Đáng ra tối hôm ấy khi đi xem chiếc xe, tôi phải để ý đến cái bánh xơ cua mới phải. Nhưng tôi ăn năn mãi về việc tôi giận Nina vào giây phút cuối cùng tôi gặp nàng.

Ông Hugh nhấn mạnh ga, đồng hồ chỉ tốc độ tăng lên 100, 110, 130 cây số, chiếc xe lại rít lên trên mặt đường. Khi bình minh đang ló dạng trên bầu trời đen, ông Hugh chạy đến máy điện thoại. Không kịp cởϊ áσ măng tô, ông gọi đến nhà lao Somers, yêu cầu nói chuyện với quản dốc nhà lao:

- ... không, tôi xin chờ... - Ông quay sang Steve, nói với anh - Ông quản đốc ở lại văn phòng cả đêm vào trường hợp Thống đốc gọi đến. Người ta đã cạo tóc thằng ấy rồi.

- Trời đất!

- Ngay cả khi cậu ấy xác nhận thùng xe không có bánh xơ cua đi nữa, thì cũng chưa hẳn là bằng chứng. Tất cả chỉ mới dự đoán thôi, rất có thể có người đem bánh xe đến, ráp xong rồi ra về chứ. Cho nên không thể chạy tội cho Thompson được.

- Cả hai chúng ta đều tin Thompson vô tội - Steve đáp. Anh chán nản nghĩ bụng - Mình luôn luôn cho hắn vô tội. Tự thâm tâm, mình biết hắn vô tội mà không nói ra.

- Vâng, tôi nghe đây... - Ông Hugh lắng nghe - Xin cám ơn nhiều. - Ông ta gác máy - Thompson xác nhận khi anh ta chất hàng, không có bánh xơ cua trong thùng xe.

- Xin ông gọi ngay cho bà Green - Steve tha thiết nói - Xin ông nói cho bà ấy rõ, yêu cầu bà ta cho hoãn giờ hành quyết, nếu cần, ông cho tôi nói với bà ta.

Ông Hugh bấm máy gọi văn phòng Thống đốc. Ông ta vẫn lặp lại:

- Không phải là bằng chứng, đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tôi không tin bà ấy sẽ cho hoãn hành quyết vì lý do này. Khi bà ấy biết Sharon và Neil bị bắt cóc - chúng ta phải nói cho bà ấy biết - thế nào bà cũng tin rằng đây là một mưu mô tối hậu.

Người ta không thể nối đường dây với bà Green được. Bà ta đã bàn giao tất cả những lời yêu cầu về việc hoãn hành quyết cho ông chánh án. Ông này tám giờ mới có mặt ở văn phòng. Không, người ta không thể gọi số điện thoại ở nhà của ông được.

Chỉ còn nước chờ nữa mà thôi, Steve và ông Hugh ngồi yên lặng trong phòng làm việc, ánh bình minh le lói bắt đầu luồn qua cửa sổ. Steve cố cầu nguyện, không suy nghĩ đến cái gì được nữa.

- Lạy Chúa, họ còn trẻ quá, cả ba đều còn trẻ quá, con xin Ngài...

Đến 6 giờ, bà Dora bước xuống thang lầu, bước chân nặng nề, e dè. Bà đi pha cà phê, dáng điệu già nua, mệt mỏi.

Đến 6 giờ 30, ông Hugh gọi cơ quan FBI ở New York, họ không có manh mối nào khác. Henry White đã đáp máy bay đi Sun Valley lúc một giờ. Họ đến phi trường quá trễ nên không gặp được ông ta. Họ điều tra ra ông ta đi xe thuê. Họ kiểm soát danh sách khách ở các khách sạn, các phòng trọ. Tất cả mọi tìm kiếm chiếc Pontiac đều không có kết quả. Họ còn kiểm soát luôn cả khách thường lui tới quán Mill Tavern nữa.

Đến 7 giờ 35, xe của Bob Kumer phóng nhanh từ ngoài đường vào, đậu trước nhà. Anh ta bấm chuông như điên, lấn bà Dora để vào nhà, anh hỏi tại sao người ta hỏi Ronald Thompson về chuyện bánh xơ cua.

Ông Hugh đưa mắt nhìn Steve, anh gật đầu, ông Hugh giải thích một cách ngắn gọn cho anh ta nghe.

Bob xanh mặt.

- Sao! Ông nói con ông và Sharon bị bắt cóc à, ông Peterson, và ông không nói gì hết à? Khi bà Greene biết chuyện này, chắc bà buộc lòng phải cho hoãn việc hành quyết ngay, bà không còn cách gì khác nữa.

- Anh đừng quá tin. - Ông Hugh đáp.

- Ông Peterson, tôi rất buồn cho ông, nhưng ông không có quyền giấu tôi việc này vào đêm qua - Bob rầu rĩ nói - Lạy Chúa, người ta không nói chuyện được với chánh án trước 8 giờ sao?

- Đợi gần 20 phút nữa.

- Thưa ông Taylor, hai mươi phút là quá nhiều trong khi sinh mạng con người chỉ còn ba giờ năm mươi phút nữa để sống thôi.

Đúng 8 giờ, ông Hugh gọi điện, ông chánh án. Ông nói chuyện với ông ta suốt 35 phút, với giọng vừa cương quyết vừa thuyết phục lại vừa van xin.

- Vâng thưa ngài, tôi biết bà Thống đốc đã chấp nhận cho hai lần hoãn hành quyết rồi... tôi biết Tòa án Tối cao đã y án... Dạ không, thưa ngài chúng tôi không có bằng cớ... nhưng đấy là dự phỏng... cuốn băng cát-sét... Vâng, thưa ngài, nếu ngài gọi giúp bà Thống đốc, thì tôi sẽ rất cám ơn ngài...

- Tôi có thể để ông Peterson nói chuyện với bà Thống đốc... được không?... Tốt, tôi xin đợi.

Ông Hugh đưa tay bịt ống nghe rồi nói với hai người:

- Ông ta sẽ gọi bà Thống đốc, nhưng tôi e rằng ông ta sẽ không xin Thống đốc cho hoãn lần nữa đâu.

Ba phút dài dằng dặc trôi qua, Steve và Bob không nhìn nhau. Rồi ông Hugh nói:

- Vâng, tôi nghe đây... nhưng...

Khi Steve đã nghe tiếng ù ù trên máy điện thoại, ông Hugh vẫn còn cố nói, cuối cùng ông ta thả máy xuống và nói:

- Sẽ tiến hành vụ hành quyết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Cô đau nhức cả người như thế này khó mà suy nghĩ cho được, giá mà cô có thể mở được dây kéo ở chiếc giày cao cổ, thì đỡ biết mấy. Mắt cá sưng vù nhức nhối, cà vào da giày, vào dây trói.

Đáng ra cô phải la lên khi hắn dẫn đi qua sân ga mới đúng, lẽ ra cô phải liều. Nhưng mấy giờ rồi nhỉ? Thời gian không còn nữa rồi, tối thứ Hai -thứ Ba - Còn thứ Ba không? Đã sang thứ Tư chưa?

Làm sao họ thoát ra được đây?

Neil - Cô nghe hơi thở khò khè gần bên cô, cậu bé đã thở từ từ, đã biết vâng lời cô. Sharon nghe tiếng rên buột ra khỏi miệng, cô liền cố nín lại.

Cô cảm thấy Neil nhích sát vào cô, cố an ủi cô. Khi Neil lớn, chắc cậu cũng giống Steve. Nếu cậu lớn...

Steve - Nếu mình sống với Steve thì sẽ ra sao? Còn Neil nữa? Có lẽ Steve đã quá nhiều đau khổ rồi.

Đối với cô, cuộc đời quá êm thấm. Ba cô đã nói: - "Sharon sinh ra ở Rome, Pat ở Ai Cập, Tina ở Hồng Kông" - Mẹ cô nói: - "Chúng ta có bạn bè khắp thế giới". - Ngay cả khi họ nghe cô chết, họ cũng không cô độc, còn khi Steve mất Neil, anh ấy không còn ai hết, anh ấy sẽ đau đớn biết bao.

Steve đã hỏi: "Tại sao cô còn ở độc thân?" - Vì cô không chịu yêu ai hết.

Neil - Neil rất sợ vợ chồng Lufts không dẫn cậu theo, rất sợ cô giành Steve đi.

Cô phải làm cho cậu bé yên tâm mới được.

Cô cà hai cổ tay vào tường đá vôi thêm lần nữa, nhưng dây buộc quá chặt, nó khía vào da thịt đau nhói, cô không dám đụng vào tường nữa.

Cô cố suy nghĩ, hy vọng duy nhất của cô là cứu thoát cho người Neil, cố làm cho nó ra khỏi phòng này, nếu cô mở được cánh cửa, quả bom có nổ không?

Cái nắm cửa ở phòng vệ sinh, nếu Cáo trở về, nếu hắn để cho cô vào phòng vệ sinh, có lẽ cô sẽ bẻ gãy cái nắm cửa được.

Khi hắn có tiền rồi, hắn sẽ làm gì hai người? Cô cảm thấy nản chí. Thời gian... bao lâu rồi... thời gian trôi qua... ngày hay đêm?... Tiếng tàu chạy ầm ầm... đến tìm chúng tôi với, Steve... lỗi tại cô, cô Martin à... Vấn đề là ở chỗ ấy, cô Martin à... mù quáng, còn tệ hơn cả mù nữa... anh yêu em, Sharon, anh hết sức nhớ em... hai bàn tay khổng lồ dịu dàng vuốt má cô.

Hai bàn tay dịu dàng vuốt má cô, bỗng Sharon mở mắt. Cáo cúi người xuống. Hai bàn tay hắn dịu dàng kinh khủng trên mặt cô, trên cổ cô. Hắn lôi vải bịt miệng cô ra, hôn cô. Môi hắn nóng bỏng, miệng hắn thô ráp, thật kinh tởm, cô muốn quay mặt đi, cố gắng lắm cô mới cưỡng lại ý định ấy.

Hắn thì thầm bên tai cô:

- Xong rồi, Sharon. Tao đã có tiền, tao dông được rồi.

Cô cố nhìn vào mặt hắn, nét mặt hắn hiện ra lờ mờ, cặp mắt bối rối, gò má giật giật, đôi môi mỏng.

- Anh sẽ làm gì chúng tôi? - Khó khăn lắm cô mới cất tiếng.

- Tao để bọn bay ở đây, tao sẽ nói cho Peterson biết chỗ để hắn tìm bọn bay.

Hắn nói láo, như lần trước, khi hắn dìu cô đi, khi hắn ôm hôn cô. Không, chính cô dùng mỹ nhân kế, và đã bị hắn xô nhào xuống đất.

- Anh sẽ gϊếŧ chúng tôi.

- Đúng, Sharon à.

- Anh cũng đã gϊếŧ mẹ của Neil.

- Đúng. Ôi! Tao quên mất! - Hắn rời cô, cúi xuống, vuốt thẳng cái gì đấy - Tao sẽ treo bức hình này với những bức kia. - Có cái gì đấy lướt qua trên đầu cô. Một cặp mắt giống Neil nhìn cô, cặp mắt của cơ thể đã khuỵu xuống, cơ thể đã bị chiếc khăn quàng thắt quanh cổ. Cô hét to đến rách cả họng, chính tiếng hét ấy đã đẩy lùi đau khổ, đẩy lùi sự choáng váng. Bỗng cô cảm thấy hoàn toàn tỉnh táo, cô nhìn bức ảnh, nhìn cặp mắt nẩy lửa, điên loạn của gã đàn ông đang cầm bức hình.

Hắn gắn tấm hình gần những tấm khác trên tường, hắn làm rất cẩn thận, với điệu bộ chín chắn mẫu mực.

Cô nhìn hắn, khϊếp hãi, hắn sẽ gϊếŧ họ bây giờ à? Hắn sẽ thắt cổ hai người như đã thắt cổ mấy người đàn bà kia sao?

- Tao sẽ chỉnh đồng hồ định giờ cho tụi bây. - Hắn nói.

- Đồng hồ định giờ à?

- Ừ. Đồng hồ định giờ để cho bom nổ vào lúc 11 giờ 30. Sharon, mày sẽ không cảm thấy đau đớn gì đâu, mày sẽ biến mất một cách nhanh chóng, cả Neil và cả Ronald Thompson cũng vậy.

Hắn cẩn thận, nhẹ nhàng mở va-li ra, cô thấy hắn lấy đồng hồ và chỉnh giờ. Bây giờ là sáng thứ Tư, 8 giờ 30 - hắn chỉnh chuông reo vào lúc 11 giờ 30, rồi hắn buộc dây kẽm vào đồng hồ.

Ba giờ nữa.

Hết sức cẩn thận, hắn bê cái va-li lên, để trên bồn rửa gần cửa. Mặt đồng hồ nằm ngay trước mặt cô, ở đằng kia phòng, hai cái kim và những con số trên mặt đồng hồ sáng long lạnh.

- Sharon, mày muốn gì trước khi tao đi? Một ly nước nhé? Mày có thích tao hôn giã biệt không?

- Tôi có thể... anh cho phép tôi đi vào phòng vệ sinh được không?

- Được chứ, Sharon. - Hắn đến gần cô, tháo hai tay cô, đỡ cô đứng dậy, hai chân cô không đứng nổi, cô run lẩy bẩy vì đau đớn. Mắt cô mờ mịt không thấy gì cả. Không... không... không... Cô không thể ngất xỉu được.

Hắn để cô trong căn phòng nhỏ tối tăm, cô níu vào nắm cửa. Cô vặn nắm cửa, một, hai, ba lần, cô cầu trời sao đừng phát ra tiếng động to quá. Rắc một tiếng nho nhỏ, cái nắm tay đã gãy.

Sharon đưa ngón tay sờ lên đầu bị gãy, cô cảm thấy mép kim loại xù xì nham nhám. Cô bỏ cái nắm cửa vào túi váy. Khi ra mở cửa, một tay cô để trong túi. Khi hắn dẫn cô về giường lại, nếu hắn có thấy cái gì cồm cộm trong túi cô, chắc hắn sẽ nghĩ đấy là cổ tay của cô.

Chuyện xảy ra yên ổn, hắn hấp tấp chuẩn bị để đi. Hắn đẩy cô nằm xuống giường, trói hai tay cô lại. Cố để hai tay hở một tí, dây trói ít chặt hơn trước, hắn vội bịt miệng cô lại.

Hắn cúi người xuống cô.

- Đáng lẽ tao yêu mày Sharon à, vì tao cứ ngỡ mày yêu tao.

Bỗng nhanh như chớp, hắn lôi dung vải bịt mắt Neil ra, chú bé nhấp nháy mắt, hai mí mắt sưng vù, con ngươi giãn lớn.

Hắn nhìn thẳng vào mặt cậu bé, hắn nhìn lên bức hình trên tường rồi nhìn xuống mặt Neil.

Bỗng hắn xoa đầu chú bé, quay đi và tắt đèn, y như lần đầu tiên hắn rời khỏi phòng.

Sharon nhìn mặt đồng hồ sáng loáng. 8 giờ 36 phút.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Trên giường bà Glenda ngổn ngang giấy tờ, bà xé ra, sửa lui sửa tới rồi xé tờ khác làm tiếp.

- Không phải, ngày 14 em không đi thẳng đến bác sĩ, mà em có dừng lại ở tiệm sách... Roger, anh ghi chi tiết này đi, em có nói chuyện với hai người...

- Để anh lấy tờ giấy khác, tờ này viết hết rồi. Thế em nói chuyện với ai trong phòng đợi của bác sĩ?

Họ ghi lại tỉ mỉ từng chi tiết xảy ra trong tháng trước, không có chi tiết nào gợi cho bà Glenda nhớ lại người nào có tên là Cáo hết. Lúc 4 giờ sáng, bà năn nỉ ông Roger gọi cơ quan FBI để xin được nói chuyện với ông Hugh. Ông Hugh kể lại cho ông nghe cuộc gặp gỡ xảy ra như thế nào.

- Anh ấy cho biết thằng bắt cóc hứa sẽ thả Sharon và Neil lúc 11 giờ 30. - Ông Roger kể lại cho bà vợ rõ.

- Chắc họ không tin lắm phải không?

- Phải, anh cũng không tin.

- Đúng thế, có lẽ em biết thằng này. Có lẽ hắn ở tại khu vực này và chắc Neil đã gặp hắn. Hắn sẽ không thả Neil đâu.

- Glenda, hai chúng ta không thể làm gì được nữa, chúng ta không thể suy nghĩ gì được đâu. Hãy cố nghỉ ngơi một lát, có lẽ em sẽ nghĩ ra. Trong lúc ngủ, tiềm thức của em làm việc, có lẽ em biết rõ điều này rồi.

- Được thôi. - Bà uể oải sắp xếp lại hồ sơ giấy tờ đã ghi chép theo thứ tự thời gian từng ngày.

Ông để đồng hồ báo thức lúc 7 giờ. Quá mệt mỏi, hai vợ chồng chập chờn ngủ được một giấc 3 giờ liền.

Đúng 7 giờ, ông Roger xuống bếp pha trà, bà Glenda bỏ một viên Trinitrine dưới lưỡi, vào phòng tắm rửa mặt, trở lại giường và lấy tập giấy lên.

Đến 9 giờ, Marian đến. Chín giờ 15, chị lên thăm bà Glenda.

- Tôi rất buồn khi biết bà không được khỏe, thưa bà Perry.

- Cám ơn chị.

- Tôi không muốn làm bà gián đoạn công việc. Nếu bà thấy tiện, tôi xin phép dọn dẹp ở các phòng dưới.

- Thế thì tuyệt.

- Như thế, vào cuối tuần, tất cả tầng dưới sẽ hoàn tất. Tôi biết bà rất thích ngôi nhà sạch sẽ ngăn nắp.

- Vâng, đúng thế, cám ơn chị.

- Tôi xin thưa thiệt với bà, tôi rất suиɠ sướиɠ được làm việc ở nhà bà, cho nên mặc dù gặp chuyện rắc rối về xe cộ, nhưng tôi vẫn không để thất hứa với bà.

- Chồng tôi có nói với tôi như thế. - Bà Glenda cố tình cầm bút lên, chuẩn bị để viết.

- Thật quá xui xẻo! Vừa bỏ ra bốn trăm đô-la để đại tu chiếc xe. Dĩ nhiên là chúng tôi không nên tiêu phí quá nhiều về một chiếc xe cũ như thế, nhưng Arty là một thợ máy giỏi, cho nên chồng tôi cho như thế cũng xứng đồng tiền bát gạo. Mà thôi chắc bà đang bận, tôi không nên nói huyên thuyên nữa. Bà dùng điểm tâm nhé?

- Chưa, cám ơn bà Vogler.

Cánh cửa đóng lại. Mấy phút sau, ông Roger đi vào.

- Anh có hai người khách đang chờ ở văn phòng, anh đã nói là anh bị cúm.

- Roger, đợi em chút. - Bà Glenda bấm nút máy ghi âm, câu nói quen thuộc với bà vang lên "Hãy đến trạm xăng Esso" thì bà tắt máy. - Roger, xe của em đã được xiết lại vít khi nào?

- Hơn một tháng rồi, ông Bill Lufts đã giới thiệu anh đem xe đến ga ra mà ông ta quen biết.

- Đúng, và khi xe đã xong, anh để em ở lại đấy rồi đi đến văn phòng làm việc. Arty, đúng là tên ấy phải không?

- Chắc thế, phải đấy. Mà sao?

- Mặc dù xe đã xong nhưng hắn đang bơm xăng cho đầy xe, em nói chuyện với hắn, đứng gần bên máy bơm. Em để ý đến huy hiệu của hắn, A.R. Taggert, và em hỏi hắn có phải chữ A có nghĩa là Arthur không, vì em đã nghe lão Bill gọi hắn là Arty.

- Anh Roger này, - Bà Glenda cất cao giọng, bà đứng dậy, nắm tay ông - Roger, hắn nói với em rằng dân ở đây thường gọi hắn là Arty khi nhìn vào huy hiệu, nhưng tên thật của hắn là August Rommel Taggert.

- Rommel, có phải tên tướng Đức nổi tiếng không?

Hắn trả lời:

- Phải, Rommel là con Cáo của "sa mạc", cách phát âm từ Cáo... và cách hắn nói trên điện thoại vào tối kia nghe giống nhau. Roger, em cam đoan với anh thằng thợ máy ở ga ra ấy là Cáo, chính hắn đã bắt cóc Neil và Sharon.

Lúc ấy là 9 giờ 31 phút.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Bà Lally đang muốn đến phòng bà, hôm nay Olendorf nghỉ, còn người bảo vệ trực này không bao giờ làm khó khăn bà. Bà ngủ không được cả đêm, bà sẽ bệnh mất. Chứng thấp khớp là một cơn ác mộng, nhưng với bà còn tệ hơn thế nữa. Có cái gì đấy đã thôi thúc bà, bà muốn đến căn phòng của mình, nằm dài lên giường, nhắm mắt lại.

Phải đến đó mới được.

Bà chen lấn vào đám hành khách đi tàu từ Mount Vemon đến lúc 8 giờ 40, rồi lẻn đến bờ dốc. Bà đã mang theo trong túi xách rất nhiều báo để chống lạnh và không dừng lại để uống cà phê nữa. Bà chỉ ao ước được sớm đến căn phòng của mình thôi.

Nếu thằng cha ấy có mặt ở đấy cũng mặc kệ, bà quyết liều rồi. Tiếng máy nổ và tiếng quạt chạy kêu ầm ầm làm cho bà thấy dễ chịu. Ở đây tối tăm như mọi khi, nhưng bà thấy thế lại càng tiện cho bà. Đôi giày vải to tướng không gây tiêng động khi bà đi nhẹ nhàng đến cầu thang căn phòng.

Khi gần đến cầu thang, bỗng bà nghe có tiếng cửa mở, cánh cửa mở ra từ từ, bà Lally thu mình lại trong bóng tối, sau cái máy phát điện.

Bà nghe những bước chân nhẹ nhàng, chậm rãi, hắn đi xuống cầu thang sắt, chính thằng ấy. Bà cố gồng mình đứng nép vào tường. Bà có nên đối mặt với hắn không? Không... không... Bản năng đã khiến bà cảm thấy phải tránh mặt. Bà thấy hắn đứng bất động, lắng nghe, rồi vội vã đi đến bờ dốc. Trong một phút nữa, hắn sẽ biến mất và bà sẽ vào phòng của bà. Nếu cô gái còn đấy, bà sẽ biểu cô ta trốn đi.

Mấy ngón tay lạnh cóng vụng về lấy chìa khóa trong túi, chiếc chìa rơi xuống chân bà, vang lên một tiếng động nhỏ.

Bà Lally nín thở. Hắn có nghe không? Bà không dám quay đầu lại, nhưng bà nghe tiếng chân xa dần. Bà không nghe có tiếng chân trở lại, bà đợi 10 phút, 10 phút dài dăng dẳng. Cố lấy lại bình tĩnh, bà từ từ cúi xuống đau đớn cả người, mò mẫm tìm chìa khóa ở dưới đất. Trời tối đen, mắt bà lại rất kém, bà tìm ra được chìa khóa, thở dài nhẹ nhõm.

Bà Lally chưa đứng lên thẳng người thì đã có cái gì đâm vào lưng bà, cái gì lạnh ngắt. Khi vật ấy đụng vào da thịt bà, bà cảm thấy nghẹt thở, vật ấy đâm sâu vào thịt, vật rất nhọn, lún sâu rất nhanh đến nỗi khi bà chưa kịp thấy thì máu nóng đã tuôn ra rồi, thế rồi bà khuỵu xuống và ngã nhào người tới trước. Trán bà va xuống đất, cánh tay trái huơ quanh một vòng, bà bất tỉnh, bàn tay phải nắm chặt chiếc chìa khóa.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom