Edit, Beta: BullTruyện chỉ được đăng tải tại WordPress và Wattpad Tuế Nguyệt An Nhiên.
MỌI NƠI KHÁC ĐỀU LÀ REUP!-----------------------------------------
Chương 44: Bốn mươi bốn vạn dặm – Chiếu Ngục
Tạ Trác ngủ được một giấc trọn vẹn, không hề nằm mơ, cũng không giật mình.
Khi y mở mắt ra thì vô thức nhìn về phía cửa...
Nơi đó đã không còn bóng dáng của Lục Kiêu nữa, thậm chí việc hắn đột nhiên xuất hiện vào đêm qua chỉ như ảo giác.Chỉ là hắn nói mình ngắm trăng, nhưng bầu trời đêm rõ ràng chẳng có sao trăng gì, vậy mà người ta vẫn không nỡ vạch trần cái cớ vô lý của hắn.Cát thúc mang thức ăn sáng lên, vui mừng nói: "Quầng thâm dưới mắt công tử cuối cùng cũng nhạt bớt."
Tạ Trác cầm muỗng sứ, nghe vậy thì quay mặt lại: "Thấy rõ lắm ạ?"
Cát thúc cười nói: "Chắc là lúc vấn tóc công tử không soi gương cẩn thận rồi.
Mấy ngày nay trông sắc mặt công tử kém lắm, vậy nên chỉ cần nhìn công tử từ đằng xa đúng một lần thôi là Lục tiểu hầu đã đến đây hỏi ta xem có phải mấy đêm nay công tử ngủ không ngon không."
Lông mi Tạ Trác rung rung: "Huynh ấy có tới?"
"Ừm, chiều hôm qua có đến một lần.
Ta bèn tìm một cái cớ, nói rằng cuối tháng Chạp là lúc trời lạnh nhất, ngày tết náo nhiệt, ban đêm cũng không yên tĩnh nên hầu như mấy ngày nay công tử đều không yên giấc."
Cát thúc quan sát vẻ mặt của Tạ Trác, chợt nhận ra y không hề mất vui vì bị người khác hỏi chuyện riêng tư nên trong lòng cũng tính toán sẵn cả rồi.
Ông bèn nói thêm vài câu: "Lúc ấy Lục tiểu hầu gia sốt ruột lắm, ở chưa được bao lâu thì đi mất, bảo là muốn đi tìm thử xem có cách nào giúp công tử yên giấc không."
Tạ Trác không hề nhắc đến chuyện đêm qua Lục Kiêu đã đến một lần.
Nhưng dù y không đề cập thì cũng có người nói thay.Cát Võ đánh xe ngựa ra khỏi con hẻm nhỏ, bỗng cất lời với vẻ hơi chần chừ: "Công tử, đệ vừa nhìn thấy Lục tiểu hầu gia."
Tạ Trác vén rèm xe lên: "Ở đâu?"
Nhưng chẳng mấy chốc y đã ý thức được có lẽ Lục Kiêu đã đi rồi, bèn ho nhẹ vài tiếng: "Sao đến giờ mới nói ta biết?"
"Lúc công tử ra khỏi cổng, đệ thấy Lục tiểu hầu gia đưa tay ra hiệu cho đệ im lặng.
Đệ cứ tưởng rằng ngài ấy muốn giấu để nhân lúc công tử không chú ý thì bất ngờ xuất hiện nên mới không nói với công tử."
Cát Võ rầu rĩ lắm.
Cậu ta không ngờ rằng Lục Kiêu cứ lấp ló như thế rồi bỏ đi luôn: "Đúng rồi, Lục tiểu hầu gia còn lấy tay vẽ một đường dưới mắt, nhưng mà đệ không hiểu gì."
Song Tạ Trác lại hiểu.Lần này Lục Kiêu đến chỉ vì muốn xem quầng thâm dưới mắt y đã nhạt bớt chưa, đêm qua ngủ có ngon không mà thôi.Bàn tay nắm rèm xe từ từ siết chặt.
Đáy lòng y bỗng trào dâng rất nhiều cảm xúc.
Cho dù từ nhỏ Tạ Trác đã được khen rằng thông tuệ, nhưng y vẫn chẳng biết phải làm thế nào với lòng tốt của Lục Kiêu.Thật ra Lục Kiêu đã nấp rồi.
Sau khi đến xem để xác định đêm qua Tạ Trác ngủ có ngon không, hắn lại đi theo sau xe ngựa một khoảng xa, hộ tống người ta đến tận cửa cung.Đến khi thấy Tạ Trác mặc quan phục đỏ thẫm đối chiếu lệnh bài để vào cửa, Lục Kiêu không nhịn được phải oán thầm một câu: Mai là giao thừa rồi nhưng vẫn không cho người ta nghỉ ngơi!Lục Kiêu thu cảm xúc lại, không đứng đó thêm nữa, mà chuyển hướng đến Chiếu Ngục.Trời còn chưa sáng hẳn, xung quanh không ai lui tới, yên tĩnh vô cùng.
Ở cửa Chiếu Ngục có một quan viên nhỏ thó khoác chiếc áo bông sờn cũ đang giậm chân giữa cái lạnh.
Thấy Lục Kiêu mặc bộ trang phục màu đen thêu hình Quỳ từ xa bước đến, ông ta vội chạy đến đón: "Chào Tiểu hầu gia!"
Lục Kiêu tiện tay vỗ vai ông ta: "Con gái ông dạo này vẫn khỏe chứ?"
Quan cai ngục nhỏ thó vừa nghe Lục Kiêu nhắc đến con gái mình, nụ cười trên mặt đã tươi hơn rất nhiều: "Mấy ngày trước mắc phong hàn nhẹ, uống hết hai thang thuốc thì khỏe rồi ạ.
Đến giờ mẹ con bé vẫn còn sợ nên cứ bắt ở trong nhà suốt ngày, không cho chạy nhảy nữa."
Trước đây con gái ông ta bị lạc đường, được Lục Kiêu và Trương Triệu đi tìm giúp rồi đưa về nhà."
Cứ giữ trong nhà cũng đâu phải cách lâu dài.
Tiểu cô nương mà, vẫn còn nhỏ nên phải cho chạy nhảy nhiều một chút.
Tâm trạng tốt thì sức khỏe mới tốt, không dễ mắc bệnh nữa."
Quan cai ngục suy nghĩ một lúc, rồi lấy làm lạ: "Chẳng phải Tiểu hầu gia vẫn chưa lập gia đình ạ?
Sao ngài biết rõ thế?"
Lục Kiêu không hề chột dạ chút nào, nghĩ: Khi còn nhỏ hắn cũng từng chăm A Từ...
Chắc là chăm sóc cô bạn thời thơ ấu với chăm con gái cũng gần giống nhau nhỉ?Chào hỏi hết các thủ vệ canh giữ Chiếu Ngục xong, Lục Kiêu đi thẳng vào trong.
Đa phần những người đó đều vờ như không nhìn thấy hắn.Trời lạnh, trong Chiếu Ngục càng tối tăm ẩm thấp hơn.
Sự lạnh lẽo như thấm vào tận xương cốt, còn có một thứ mùi âm ẩm khó tả.Quan cai ngục đi trước dẫn đường.
Thấy Lục Kiêu không hề biến sắc, ông ta buột miệng nói: "Tiểu hầu gia không hề chê nhà ngục ngột ngạt, khác hẳn với người bên Hình bộ và Đại Lý Tự đến đây thẩm vấn.
Họ vừa vào là mày đã nhíu đến mức kẹp chết được cả con ruồi, nhưng lại không nghĩ đến chuyện chúng ti chức phải ở trong này quanh năm suốt tháng."
Tuy Lục Kiêu cảm thấy mùi này không dễ ngửi lắm, nhưng cũng chẳng đến mức chịu không nổi.
Trước đây khi hắn còn ở biên quan Lăng Bắc thì luôn phải giành giật mạng sống từ trong núi thây biển máu.
Có khi ra khỏi chiến trường rồi mà mùi máu tanh vẫn bám trên người suốt mấy ngày không phai."
Bổn hầu không mong manh như thế."
Lục Kiêu không quan tâm đến ánh mắt và tiếng rên rỉ đau đớn từ hai bên lao ngục.
Đến khi quan cai ngục dừng lại, hắn mới nhìn vào trong: "Là chỗ này à?"
Quan cai ngục nép sang một bên: "Đúng ạ.
Hai người mà Tiểu hầu gia muốn thăm bị nhốt ở hai gian liền kề.
Gian này là của họ Từ.
Nơi này vắng vẻ không người, ti chức ở ngay bên ngoài cánh cửa sắt kia canh chừng cho Tiểu hầu gia."
"Ừ.
Ta sẽ không nán lại quá lâu.
Làm phiền rồi."
Cánh cửa sắt mở ra rồi lại đóng vào.
Nhà ngục không hề có một ngọn gió nào, ngay cả không khí cũng như đông cứng lại.
Khi Lục Kiêu đã quen với sự tối tăm trong ngục thì mới nhận ra được tướng mạo của người đầu tóc bù xù đang mặc áo tù kia.Hắn cứ như đang xem trò hay, nhìn kỹ từ đầu đến chân Từ Bá Minh một cách trắng trợn.Đến tận lúc Từ Bá Minh không chịu nổi nữa, phải dựa lưng vào vách đá ẩm ướt lạnh lẽo, tức giận quát: "Ngươi đến đây làm gì?"
Rống xong lại nặng nề ho vài tiếng, có vẻ như bệnh cũng không nhẹ.Mặt Lục Kiêu rất kiêu ngạo, hắn ngước cằm lên: "Còn để làm gì nữa?
Tất nhiên là tranh thủ thời gian để nhìn cảnh sa cơ thất thế rồi."
Hắn còn cố tình nói với vẻ mỉa mai: "Hóa ra tù nhân có bộ dạng thế này."
Chỉ trong ba ngày ngắn ngủi, sau khi Từ Bá Minh bị tước quan phục tím, lấy mất ngư đại*, lại bị xóa danh hiệu "Nội Các Đại học sĩ", lão đã giống hệt như một lão già bình thường.
Sắc mặt mỏi mệt, mắt sụp xuống, trông như thể đã ngoài mạnh trong yếu.Từ Bá Minh lạnh lùng khịt mũi: "Ta thấy Lục tiểu hầu gia chớ nên đắc ý quá.
Biết đâu Từ mỗ của hôm nay chính là Lục gia ngươi ngày mai!"
Lục Kiêu cứ như đang nghe gió thoảng bên tai, chẳng thèm quan tâm đến lão: "Lục gia ta một không gian lận trong khoa cử, hai không tự ý nắm quyền, ba không làm việc trái lương tâm.
Thiết nghĩ cảnh ngộ hiện tại của Các lão là thứ mà không phải ai cũng có cơ hội trải nghiệm."
Không rõ Lục Kiêu đến vì mục đích gì, Từ Bá Minh từ từ nhắm mắt lại, chẳng nói thêm nữa."
Hôm nay đã là hai mươi chín tháng Chạp, ba mươi tháng Chạp chắc chắn sẽ gác ngự bút, hay là Các lão đoán thử xem khi nào thì chiếu thư định tội ông được ban xuống?"
Lục Kiêu mặc kệ sự thờ ơ của Từ Bá Minh, tự nói tiếp: "Các lão từng định tội không ít người, tất nhiên là nắm rất rõ luật pháp Đại Sở.
Dù sao bây giờ Các lão cũng bị nhốt trong Chiếu Ngục rồi, không có gì làm, chi bằng đoán xem mình sẽ bị định tội danh gì?
Hoặc là trong chiếu thư sẽ dùng những từ ngữ thế nào để định tội?"
"À đúng rồi.
Chắc là Các lão vẫn chưa biết.
Mới đầu hai người con rể kia của Các lão còn có lòng dạ đi cầu cứu Dương thủ phụ, nhưng sau đó cũng bị bắt, rồi sẽ bị định tội, hành hình cùng với ông thôi.
Còn Dương thủ phụ ấy hả?
Dương thủ phủ không hề nhắc một chữ nào đến ông cả, nhất quyết thấy chết không cứu.Ngoài ra, Nhị hoàng tử, Đức phi và đích trưởng nữ của ông đều đã bị cấm túc, nhưng bệ hạ không nói khi nào được thả.
Phu nhân của Các lão cũng lâm bệnh nặng, chỉ có thể nằm thoi thóp trên giường.
Chẳng biết bọn họ có kịp đốt đầu thất cho Các lão không nữa."
Từ Bá Minh lại mở mắt ra.Đôi mắt lão đục ngầu, nhìn chằm chằm Lục Kiêu bằng ánh mắt săm soi: "Rốt cuộc là ngươi muốn nói gì?"
Lục Kiêu thu lại vẻ ngả ngớn đùa cợt trên mặt.
Hắn ngồi xổm xuống nhìn thẳng vào mắt Từ Bá Minh qua song gỗ, rồi hạ giọng: "Ta đang muốn nói là ba trăm học sinh Thái Học đã quỳ trước cửa Tuyên Đức dâng thư, hô to Từ tặc đáng giết.
Chẳng hay Các lão có thấy khung cảnh này hơi quen không?"
Từ Bá Minh nheo mắt, xích sắt trên tay phát ra tiếng vang, nhưng ông ta lại cẩn thận không nói gì.Lục Kiêu vẫn rất kiên nhẫn, hỏi tiếp: "Vậy vào ngày này của mười một năm trước, Các lão có từng nghĩ rằng mười một năm sau, mình và con rể sẽ bị nhốt trong Chiếu Ngục, máu chảy ba thước, cửa nát nhà tan không?"
Lục Kiêu vừa dứt lời, xích sắt trên người Từ Bá Minh lại phát ra tiếng vang.
Đồng tử lão co rụt, dường như lão đang nhận diện lại người trước mặt mình.
Giọng nói như bị ép ra từ cổ họng: "Ngươi có ý gì?"
"Ta có ý gì?"
Trông Lục Kiêu cứ như đang nghe thấy chuyện gì nực cười lắm.
Hắn cười lạnh.
Đôi mắt thường có vẻ tùy tiện giờ lại sắc bén như lưỡi đao.
Hắn nói với vẻ trào phúng: "Xem ra mạng người trong tay Các lão đã quá nhiều nên cũng quên sạch chuyện xưa từ lâu rồi."
"Ông có thể quên, nhưng ta thì không."
Lần này hắn giấu Tạ Trác việc mình đến Chiếu Ngục.Tuy đã bị giam vào nhà lao, nhưng biết đâu Từ Bá Minh lại nghi ngờ Tạ Trác, nên Lục Kiêu đã cố ý đến đây một chuyến để mọi chuyện được ổn thỏa.Khi hắn nói những lời này thì luôn bất giác nghĩ về A Từ.Nghĩ đến A Từ còn nhỏ đã mất nhà, bị nhốt trong lao ngục.
Bên ngoài pháo trúc nổ rợp trời, khắp nơi vui tươi nhộn nhịp, thế mà phụ thân y đang phải chịu sự tra tấn vô nhân tính.
Y biết, nhưng lại chẳng thể làm gì được, chỉ càng ngày càng tuyệt vọng hơn.Cát thúc nói dịp cuối năm chính là lúc A Từ ngủ không yên nhất.Lục Kiêu nghĩ: Khi đối mặt với những cơn ác mộng trong quá khứ ấy, người ta nào dám nhắm mắt lại một cách dễ dàng?"
Ngươi đang nói đến Tạ tặc?
Năm ấy Tạ tặc phạm trọng tội đáng chết, khắp thiên hạ đều biết!
Có liên quan gì đến Từ mỗ đâu?
Tốt nhất là Lục tiểu hầu gia đừng vu khống như thế."
Từ Bá Minh thấy chuyện xưa đột nhiên bị đào lại nên nội tâm đã không còn bình tĩnh được như ngoài mặt nữa.Mười một năm trước, khi lão đang là Lễ bộ Thượng thư thì từng sai Thịnh Hạo Nguyên vẫn còn đang ở Thái Học tìm đến hai học sinh nghèo hèn nhút nhát.
Kỳ thi Hội năm ấy, lão đã thành công đưa cả hai học sinh này vào nhị giáp*.(*nhị giáp: xếp hạng thứ 2 của các ứng cử viên đã vượt qua kỳ thi của triều đình - tức là hạng 4 trở lên)Và rồi nửa năm sau khoa cử, chẳng biết lão đã để lộ sơ hở ở đâu mà Tạ Hành lại phát hiện ra điều bất thường.Khi đó, Tạ Hành vừa mới đảm nhiệm chức Nội Các Thủ phụ, lại có công phò tá vua lên ngôi và tình nghĩa ở tiềm để*, vậy nên vẫn luôn là người được Hàm Ninh Đế tín nhiệm nhất.(*tiềm để: nơi vua ở trước khi lên làm vua)Lão phủ nhận hết.
Thế nên tuy Tạ Hành nghi ngờ, nhưng lại không lấy được chứng cứ, chỉ đành nghiêm khắc cảnh cáo lão, nếu sau này còn dám ra tay nữa, ông ắt sẽ vạch trần ngón trò vụng về này của lão.Lúc ấy lão đã kiềm chế, nhưng đang trong quan trường, lão làm sao dám chắc rằng ngày mai Tạ Hành không tìm được bằng chứng lão tiết lộ đề?
Càng không dám khẳng định lần lộ đề tiếp theo sẽ không bị Tạ Hành đang theo dõi mình bắt thóp.Lão tuyệt đối không để tính mạng mình rơi vào tay kẻ khác.Cuối năm Hàm Ninh thứ chín, lão nhạy bén nhận ra trong triều sắp có chuyện lớn.Quả nhiên, không quá hai ngày sau, Văn Viễn hầu La Thường bỗng đến tìm lão, nói có kẻ giống như tảng đá ngáng đường không ít người, mà bây giờ chính là lúc đá văng tảng đá này đi.Khi đó chuyện tranh ngôi Thái tử còn chưa nổi lên, nên lão cũng không ngại bắt tay với Văn Viễn hầu một lần.
Thế là lão đã đáp rằng đá văng tảng đá này thôi thì chưa đủ, phải vứt xuống vực sâu cho vỡ tan nát mới không còn nỗi lo về sau.Cuối tháng Chạp năm Hàm Ninh thứ chín, Nội Các Đại học sĩ đương nhiệm – Dương Kính Nghiêu đã đứng ra vạch trần bộ mặt thật "mưu nghịch phản quốc" của Tạ Hành, khiến triều đình rúng động.
Lão cứ nghĩ tuy Tạ Hành còn trẻ nhưng lại được bệ hạ tin tưởng, muốn lật đổ cũng chẳng phải chuyện dễ dàng.Nhưng thời định, mệnh định.
Hoặc cũng có thể nói là do vị Thủ phụ Tạ Hành mới ba mươi bảy tuổi này vẫn còn trẻ quá, cũng ngáng đường quá nhiều người, nên chẳng ai muốn để ông bá chiếm vị trí ấy suốt ba mươi năm sau.Sau khi ba trăm học sinh Thái Học quỳ trước cửa cung dâng thư, Hàm Ninh Đế vẫn do dự, nhưng cuối cùng cũng phải hạ chiếu thư định tội.
Dương Kính Nghiêu tiếp nhận vị trí Nội Các Thủ phụ của Tạ Hành, còn lão cũng được vào Nội Các ở năm Hàm Ninh thứ mười.Trước đây khi mọi chuyện xảy ra, lão đã từng nghĩ liệu đây có phải là do dư nghiệt của Tạ gia quay về báo thù không.
Nhưng khi nhìn thấy sát khí và sự tàn bạo trong mắt Lục Kiêu, lão ta mới kinh ngạc nhận ra rằng "con thú trong lồng" mà mình chưa từng để vào mắt lại âm thầm bày ra một sát cục thế này đây!"
Từ mỗ biết năm đó hai nhà Lục, Tạ thân thiết, thậm chí còn có ý định liên hôn.
Nhưng Lục tiểu hầu gia à, thực tế là ta và ngươi không thù không oán.
Người xưa, chuyện cũ của mười một năm trước cũng đã tan thành tro bụi.
Cớ sao ngươi cứ phải cố chấp không buông với một câu chuyện xưa?
Hơn nữa, nếu bệ hạ biết được thì sẽ rất bất lợi với Lục gia các ngươi."
Lục Kiêu nói với vẻ khinh thường: "Người tiết lộ đề là ông, người sắp xếp tốt thí ở khắp nơi, kết bè kết phái là ông, kẻ bị sĩ tử dự thi vạch trần trước mặt bệ hạ cũng chính là ông."
Hắn cười nhạt, giấu đi ánh mắt sắc bén, rồi quay về với dáng vẻ bất cần đời lúc bình thường: "Lục Kiêu ta chẳng qua chỉ là một kẻ chỉ biết chơi bời lêu lổng, ăn chơi trác táng ở Lạc Kinh thôi, ông có chứng cứ gì để nói ta nhúng tay vào?"
Lục Kiêu đứng dậy nhìn xuống Từ Bá Minh.
Hắn thấy biểu hiện của Từ Bá Minh điềm tĩnh vô cùng, nhưng thực tế thì bàn tay khô quắt như móng ưng của lão đã nắm chặt xích sắt, run bần bật."
Nợ của mười một năm trước cũng nên trả rồi.
Các lão cứ yên tâm chờ chết đi."
Chẳng biết có phải do bị chữ "chết" này đả kích hay không, mà ngay khi Lục Kiêu xoay người bỏ đi, Từ Bá Minh bỗng đứng bật dậy.
Cả người lão bổ nhào vào song gỗ, xiềng xích nặng trịch phát ra tiếng leng keng giữa nhà lao.Bàn tay lão nắm chặt lấy song gỗ, ngay cả dằm đâm vào tay cũng chẳng quan tâm.
Mắt lão trợn to, hạ giọng nói: "Lục tiểu hầu gia, Lục nhị công tử, ngươi đã nhúng tay, đã tìm được Ôn Minh...
Vậy chắc chắn là ngươi có thể làm được!
Chỉ cần ngươi bảo Ôn Minh đổi khẩu cung, nói rằng hắn ta bị phe phái của Đại hoàng tử mua chuộc thì ngươi muốn gì ta cũng có thể đồng ý hết!
Ta sẽ đồng ý tất cả!"
Bước chân Lục Kiêu chợt khựng lại, đối mặt với Từ Bá Minh.Yết hầu hơi động đậy, đáy mắt Từ Bá Minh đỏ như máu, nôn nóng nói: "Bây giờ một thanh kiếm khổng lồ đang treo trên đầu Lục gia, nhưng chỉ cần ngươi chịu giúp thì ta sẽ có cách giải quyết mối nguy cho Lục gia ngay!
Ngươi xem, có phải là hời lắm không?
Dù gì Tạ Hành cũng chết rồi...
Ông ta chết rồi!
Bị đâm hơn ba ngàn đao, ngay cả quỷ cũng chẳng làm được nữa!"
Cổ họng của lão giống như một cái ống bị thủng lỗ chỗ.
Lão ho một trận rồi lại hét lên: "Làm nhiều thứ như vậy vì một kẻ đã chết thì có lợi ích gì?
Lẽ nào người chết còn có thể sống lại ư?
Chỉ cần ngươi chịu giúp ta, giúp ta..."
Lục Kiêu bỗng hơi giật mình: "Ông nói đúng.
Người đã chết rồi thì sẽ không sống lại được nữa."
Vậy nên hắn mới càng xót xa cho A Từ.May mà A Từ không đến, nếu không lại bị đâm vào vết thương thêm lần nữa.Ngay khi Từ Bá Minh cho rằng đã lung lạc được Lục Kiêu, trong lòng bắt đầu có hy vọng, cánh tay thon dài rắn chắc của Lục Kiêu bỗng luồn qua song gỗ, nắm chặt lấy vạt áo của Từ Bá Minh, rồi đột ngột kéo mạnh về phía mình...Một tiếng "rầm" nặng nề vang lên, cả người Từ Bá Minh đập vào song gỗ.
Lão đau đến mức tái cả mặt.
Máu lập tức tuôn ra từ chỗ xương gò má.Lục Kiêu vẫn không buông tay.
Ánh mắt hắn hệt như lưỡi đao lạnh lẽo, cũng không thèm che giấu vẻ hung hãn của mình nữa.
Hắn cứ vậy mà nhìn tay Từ Bá Minh vùng vẫy không ngừng, xích sắt kêu vang.
Vì không thở được mà mặt của lão chuyển tử đỏ gay sang tím tái, gân xanh nổi hết lên.Đến khi lão sắp không chịu nổi nữa, Lục Kiêu mới thong thả buông tay ra, lạnh lùng nhìn Từ Bá Minh đang quỳ dưới nền đất ẩm ướt bẩn thỉu.
Lão lấy tay che yết hầu lại, mặt đầy vẻ sợ hãi.Sáng ngày ba mươi tháng Chạp, Hàm Ninh Đế hạ chỉ tổ chức lại chế cử, ngay sau đó thì gác ngự bút.
Về chuyện xử lý thủ phạm của án gian lận trong khoa cử thế nào thì để sang năm mới tính tiếp.Cùng lúc đó, Ôn Minh cũng được thả ra khỏi Chiếu Ngục.
Dược đồng đã chờ sẵn ở bên ngoài suốt mấy ngày lập tức đến đỡ lấy cơ thể mỏng manh lảo đảo của hắn, đưa về Thiên Thu quán.Hoàng đế gác bút đình tỉ, nên chưa tới giờ trưa thì Thiên Chương các đã tán nha.
Sau khi chúc tết đồng liêu xong, Tạ Trác mới lên xe về nhà.Bước xuống xe ngựa, Tạ Trác kéo chiếc áo choàng xanh biển lại rồi ho vài tiếng.
Hình như y phát hiện gì đó nên bèn ngẩng đầu lên, bỗng thấy Ôn Minh đã đứng chờ sẵn từ lâu trong con hẻm nhỏ không người qua lại.Sắc mặt hắn nhợt nhạt, mặc một bộ quần áo văn sĩ rộng thùng thình, đã gầy đến mức không còn nhìn ra hình dạng nữa.Thấy Tạ Trác nhìn sang, Ôn Minh bèn lùi về sau nửa bước, chắp tay ngang mặt, khom người thi lễ thật sâu.Tạ Trác đứng yên, rồi cũng nâng tay lên cúi người đáp lễ từ phía xa.Sau khi đứng thẳng lại, Ôn Minh xoay người, cất bước đi xa.
Bóng lưng hắn tựa như tùng trúc không tài nào bẻ gãy.Suốt cả cuộc đời, Ôn Minh không kết hôn thêm lần nào nữa.
Hắn không vợ không con, vẫn luôn thức khuya dậy sớm, khơi thông đường sông, bảo vệ vạn khoảnh ruộng dân không bị lũ lụt nhấn chìm.---------Hết chương 44--------
*Ngư đại:
Trong lịch sử y quan Á Đông, bên cạnh các loại áo quần, đai, mũ,... ngư đại cũng là một trong số những phụ kiện từng được sử dụng bởi bốn nước Việt- Trung- Nhật- Hàn.1.
LỊCH SỬ CỦA NGƯ ĐẠIa.
Tại Trung Quốc:Trung Quốc chính là nơi khởi phát của ngư đại, với tiền thân là "ngư phù" (魚符).
Giống như các loại "phù" khác (hổ phù, quy phù,...), ngư phù vốn là một dạng tín vật làm bằng kim loại hình con cá, gồm hai mảnh giống nhau, mặt trong của phù thường có chữ "Đồng" (同).
Theo "Cựu Đường thư", ngư phù chính thức được áp dụng làm tín vật tùy thân của các quan viên dưới thời Cao Tổ Lý Uyên và được làm từ bạc (ngân ngư - 銀魚), gồm một chiếc phải và một chiếc trái, chiếc bên trái dùng để vào cung, chiếc còn lại đeo bên mình, trên phù khắc họ tên và chức vụ của chủ sở hữu.
Thời Võ hậu nắm quyền, ngư phù từng được đổi thành quy phù, tuy nhiên sau đó lại phục hồi quy chế như cũ.
Ngư phù của các vị thân vương, tự vương và quan lại thời Đường có ba loại là kim ngư (phù làm bằng vàng), ngân ngư (phù làm từ bạc) và đồng ngư (phù làm bằng đồng), được phân cấp theo phẩm trật của chủ sở hữu (quy chế ngư phù trong giai đoạn này đều được liệt kê chi tiết trong phần "Dư phục chí" của cả "Cựu Đường thư" lẫn "Tân Đường thư").
Ví dụ, vào năm 2008, tại thành phố Lạc Dương đã khai quật được một cặp ngư phù bằng đồng, trên phù khắc dòng chữ "Tư Ngự thiếu khanh Thôi Vạn Thạch" (司馭少卿崔萬石), trong đó "Thôi Vạn Thạch" là tên của vị quan sở hữu phù, "Tư ngự thiếu khanh" là chức vụ, theo quy chế những năm Long Sóc đời Đường Cao Tông là quan Tòng tam phẩm.
Do ngư phù thường được đựng trong một chiếc túi (đại-袋), hoặc được gắn lên bề mặt túi, nên từ đây xuất hiện khái niệm "ngư đại" (魚袋).Sang tới thời Tống, tuy vẫn giữ nguyên chức năng và tên gọi nhưng ngư đại đã có hình dáng, cấu tạo khác với ngư đại Đường triều, và là một trong những vật phẩm được sử dụng trong quy chế Công phục.
Theo Tống sử, Thái Tông quy định khi lên triều thì văn võ bá quan đều đeo ngư, bào phục màu tía thì dùng kim ngư đại, bào phục màu đỏ thì dùng ngân ngư; quan lại tại kinh thành và các châu, huyện đều đeo ngư đại, tuy nhiên thân vương, võ quan giữ chức tướng hiệu thì không được đeo.
Năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 (1013), vua Chân Tông xuống chiếu ban cho các "kỹ thuật quan" (伎術官, thường là các quan có nghiệp vụ chuyên môn đặc thù như y quan, thái sử quan) bào phục màu tía và đỏ nhưng không được đeo ngư đại.b.
Tại Nhật Bản:Ngư đại được cho là du nhập từ Đại Đường vào Nhật Bản vào cuối thời Nại Lương (奈良時代- Nara jidai), đầu thời Bình An (平安時代- Heian jidai) và được áp dụng cho quy chế Triều phục: Thân vương, chư vương, Công khanh (Tam phẩm trở lên) dùng kim ngư đại, Điện thượng nhân (Tứ và Ngũ phẩm) dùng ngân ngư đại (thông tin được đăng tải trên trang Bách khoa toàn thư của Nhật, cần tham khảo thêm sử liệu).
Tương tự như nhiều giá trị văn hóa Đại Đường khác được giới thiệu tới xứ Phù Tang, ngư đại Đại Hòa bảo lưu được một số đặc điểm của ngư đại Trung Châu từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10 tuy nhiên được phát triển theo một hướng riêng.
Ngoài ra, ở Nhật còn tồn tại cả "ngọc ngư" (mảnh ngư phù làm từ ngọc).c.
Tại Bán đảo Triều Tiên:Một số nhà nghiên cứu cho rằng ngư phù và ngư đại đã được sử dụng bởi triều đình Cao Câu Ly và Tân La, tuy nhiên, ghi chép cụ thể nhất về quy chế ngư đại được thuật lại trong "Cao Ly sử- Dư phục chí", theo đó, vua Nhân Tông là vị quân chủ khởi xướng lệ đeo ngư đại và các quy định được hoàn thiện dưới thời Nghị Tông.
Chế độ Công phục này bao gồm quan văn từ Tứ phẩm trở lên đeo kim ngư đại, từ Lục phẩm trở lên khi triều kiến nhà vua thì đeo ngân ngư đại, các chức Đô hộ mục, Phán quan, Tri châu đều đeo ngư đại, tùy theo phẩm trật mà quy định chất liệu.Nhà Triều Tiên trong giai đoạn đầu sau khi giành được vương vị từ tay gia tộc họ Vương vẫn sử dụng chế độ y quan của tiền triều, trang phục của các vị quan viên vẫn có ngư đại đi kèm, phải tới khi Thế Tông (quân chủ thứ 4 của Triều Tiên Lý thị) trị vì mới bãi bỏ.d.
Tại Việt Nam:Ở nước ta, "Đại Việt sử ký toàn thư" chép rằng năm Ứng Thiên thứ hai (1006), vua Lê Long Đĩnh cho áp dụng quy chế Triều phục của nhà Tống, và tới năm Thiên Thánh Gia Khánh thứ nhất (1059), Lý Thánh Tông bắt đầu áp dụng quy chế Công phục của nhà Tống, lệ dùng ngư đại đối với quan viên Đại Việt lúc này có lẽ phần nào giống với các quy định của Thái Tông và Chân Tông đã nêu ở trên.
Lê Quý Đôn trong "Đại Việt thông sử" cũng đề cập đến việc ban thưởng ngư đại cho công thần vào năm Quang Thuận thứ nhất (1460), như vậy, chúng ta biết được rằng quy chế ngư đại được áp dụng tới ít nhất là thời Lê sơ.Loại phục sức này cũng được nhắc đến nhiều lần trên các văn bia thời Lý- Trần, cụ thể, thời Lý (1009-1225) có bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (1107), bài minh trên bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (1118) và tháp bia Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Long Đọi (1121), cùng với bài ký khắc trên quả chuông ở quán Thông Thánh, hương Bạch Hạc thuộc niên hiệu Đại Khánh (1314-1324) và bài minh khắc trên bia chùa Từ Ân thuộc niên hiệu Xương Phù thứ 6 (1382) thời Trần (1225-1400).Bên cạnh các tài liệu thành văn trong nước, ngư đại của quan viên Đại Việt còn được nhắc đến trong "Lĩnh ngoại đại đáp" (嶺外代答) của Chu Khứ Phi (周去非).
Tác giả thời Nam Tống này mô tả quan lại nước ta ban đầu mặc các loại bào phục màu tía và đỏ, đeo đai gắn trang sức làm từ sừng tê nhưng không đeo ngư đại, tuy nhiên kể từ sau khi Lý Bang Chính (chánh sứ của phái đoàn Đại Việt thời Lý Anh Tông) sang cống voi thì thấy quan An Nam đeo ngư đại rất to và dài (Nguyên văn:使者之來文武官皆紫袍紅鞓通犀帶無魚自貢象之後李邦正再使來欽乃加金魚甚長大).
"An Nam Chí lược"- Quyển 14 của Lê Tắc thời Trần trong phần mô tả quy chế trang phục cũng ghi nhận quan văn đeo kim ngư đại (Nguyên văn: 文班加金魚).2.
HÌNH DÁNG, CẤU TẠO CỦA NGƯ ĐẠINhư đã nêu ở trên, ngư phù thời Đường được làm từ kim loại (vàng, bạc, đồng), có hình con cá, gồm hai mảnh trái-phải, mặt trong có chữ "Đồng" và thông tin cá nhân của chủ sở hữu.
Giai đoạn này ngư phù có thể được đeo trực tiếp vào đai, hoặc là đựng trong túi hay gắn bên ngoài, tức dạng túi cá- ngư đại.Sang tới thời Tống, ngư đại không còn là chiếc túi nữa mà là một phụ kiến có cấu tạo bao gồm phần cốt cứng dạng thẻ dài, làm từ tre hoặc gỗ, trên miếng cốt này sẽ gắn cố định các mảnh kim loại dày và khum tròn (xem hình minh họa), trên bề mặt chạm khắc hình cá, dọc theo miếng cốt có thể gắn các mảnh ngư phù rất nhỏ.Ngư đại Nhật Bản vừa có phần cốt cứng giống ngư đại Tống nhưng nhỏ hơn, bên ngoài được bọc da (thường là da cá đuối trắng), với hai hàng ngư phù nhỏ đính dọc theo miếng cốt.
Đây có lẽ là loại ngư phù vừa bảo lưu được các phong cách cổ của Trung Châu nhưng cũng tạo nên một dấu ấn rất Nhật Bản, thậm chí ngay cả khi ba nước Việt-Trung-Hàn đã bỏ lệ đeo ngư thì quan viên nhà Yamato tiếp tục sử dụng.
Gần đây, trong quá trình phỏng dựng lại Đại Đường thời vua Huyền Tông, bộ phim "Trường An 12 canh giờ" đã điềm nhiên sao chép hiện vật ngư đại thế kỷ 17 của Nhật Bản, gây ra một hiểu lầm lớn và thật tai hại khi phiên bản "ngư đại Đường" lỗi này lại được các cửa hàng kinh doanh Hán phục bày bán một cách rộng rãi.Việc nghiên cứu và phỏng dựng ngư đại ở Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở, tuy nhiên, cần hiểu và phân biệt rõ hai khái niệm ngư phù- ngư đại cũng như hết sức lưu ý trong tiến hành khảo cứu, tham khảo các loại ngư đại của các nước đồng văn, đặc biệt là khi đưa loại phụ kiện này vào các sản phẩm văn hóa đại chúng như tranh, truyện, phim ảnh,... với bối cảnh là nước Việt từ giai đoạn cuối thuộc Đường cho tới Lê sơ, tránh lặp lại sai lầm tai họa mà bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Mã Bá Dung đã phạm phải, bởi trong các bộ chính sử của nước ta chưa hề ghi nhận một triều đại quân chủ nào áp dụng quy chế trang phục của Nhật Bản.
Nguồn: Đại Việt Phong Hoa - 大越豐華