Lãng Mạn [BH] [EDIT] BỨC LƯƠNG VI PHI - LÂM THÁC

[BOT] Wattpad

Ban Quản Trị
25/9/25
89,780
0
0
398884060-256-k32249.jpg

[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
Tác giả: KimDan-ssi
Thể loại: Lãng mạn
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Tác phẩm: Bức Lương Vi Phi

Tác giả: Lâm Thác

Thể loại: Cổ ngôn, chính kịch, khí khái cổ nhân, quân thần chi luyến, cung đấu - triều đấu, niên hạ, chuyên nhất.

Trạng thái: Kim bài tác phẩm tiêu biểu Tấn Giang Văn Học Thành
Nhân vật: Nguyên Gia x Cố Uyên
Độ dài: Trường thiên
Editor: KimDan-ssi Tags: bachhopbhbhttcungđìnhcungđấucổđại​
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
VĂN ÁN & GIỚI THIỆU


Quân thượng trên ngôi cửu ngũ, nhất ngôn cửu đỉnh.

Tuy là nữ Đế, cũng vẫn quân vô hí ngôn[1].[1] Vua không bao giờ nói chơi.Quân thượng không vừa mắt với văn chương của Cố Uyên, nàng chỉ còn cách lưu lạc đầu đường.Quân thượng muốn Cố Uyên nhập cung hầu hạ, nàng chỉ còn cách pha trà rót nước.Quân thượng muốn Cố Uyên dọn giường, trải chăn, chung loan trướng - Nàng đấu tranh mãi, cuối cùng, đành chấp nhận.———

Lời Editor:

'Bức Lương Vi Phi' - bức lương thần thành phi tần, có thể hiểu đã là phi tần thì không bao giờ lương thiện.

Đây là tác phẩm không mới, đã 10 năm rồi.

'Bức Lương Vi Phi' có nhân vật liên quan đến tiểu thuyết 'Tung Hoành' của cùng tác giả Lâm Thác - đại thần tiểu thuyết bách hợp thời kỳ đầu (10-15 năm trước).

'Tung Hoành' là tựa truyện trường thiên nữ tần, bách hợp quyền mưu bối cảnh lớn tiểu biểu trong thời kỳ đầu của văn học mạng, thời đó thường được ví như 'Lang Nha Bảng' của giới bách hợp.

'Tung Hoành' quá đồ sộ và tác giả chưa thật sự kết thúc phần sau của nó, nên nhà đài thầu 'Bức Lương Vi Phi' - cùng tác giả, cùng phong cách, nhưng ngắn hơn, nhẹ nhàng dễ xem hơn nhưng cũng đã nhận được Kim bài Tác phẩm tiêu biểu Tấn Giang Văn Học Thành.

Hi vọng các bạn yêu thích.
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 1


"Đặt chân lên đường mây, ai nỡ lòng lùi bước?"

Giữa tiết Tam Phục[1], trời nắng như đổ lửa, chẳng có chút gió lùa vào quán trà nhỏ, trong này so với ngoài trời chỉ mát mẻ hơn đôi phần.

Hứa Hoan ngồi đã lâu, áo gấm ướt đẫm mồ hôi sau lưng, hắn nâng chén trà, uống hai ngụm, chỉ thấy thứ trà rẻ tiền này chẳng đáng cho vào miệng.

Bỗng lại thấy càng thêm bực mình với mấy thư sinh bần hàn đang lảm nhảm ở bàn đối diện.

[1] Tiết khí nắng nóng nhất trong năm, đỉnh của mùa hè.

"Thế này không ổn chút nào."

Bên cạnh là Thôi Thành Tú, vốn đã quen sống trong nhung lụa, sức chịu nóng kém, áo vải ướt mồ hôi, mặt mập mạp nhễ nhại, nhận từ tay tiểu nhị chiếc khăn mặt nhúng nước giếng mát để vội vàng lau qua loa.

Dễ chịu hơn đôi chút, hắn hạ chất giọng khàn khàn, nói với Hứa Hoan:

"Hôm nay nắng đẹp, kinh thành lại nhiều chỗ vui, sợ gì mấy bần sĩ Giang Nam này không động lòng.

Hay chúng ta tìm chỗ nào mát mẻ rộng rãi, để bọn họ vừa ngắm cảnh vừa đàm luận văn chương, Quan gia[2] cũng chẳng trách."

[2] Tôn xưng Hoàng đế, đồng nghĩa với Bệ hạ và Hoàng thượng, thời Tống gọi Quan gia.

Ở Việt Nam, thời Trần cũng gọi Quan gia.

"Báo Quốc tự, Thừa Ân tự, hôm nay đều mở đạo tràng phơi kinh."

Hứa Hoan nghĩ ngợi rồi lắc đầu, "Nhưng mấy mọt sách này chẳng sùng Phật pháp, chỉ e khó dụ thôi."

"Kìa, không nhẽ Hứa đại nhân đã quên...," Thôi Thành Tú chớp chớp đôi mắt ti hí, "Đi về hướng Bắc tính từ con sông đào hộ thành, chẳng phải Tượng phường và Ngự Mã giám đều đang chuẩn bị lễ luyện voi đó sao!

Nơi ấy có Phúc Khánh lâu ngay đối diện sông, phòng trang nhã lại rộng rãi thoáng mát, rượu nồng và thức nhắm thơm ngon, lại là tửu lâu duy nhất ở kinh thành có nước đá lạnh.

Chỗ ấy hợp lắm!"

Hứa Hoan đảo mắt, chưa kịp đáp, Thôi Thành Tú thấy hắn do dự đã hơi sốt ruột, hạ giọng nói tiếp: "Chúng ta chịu nổi thì không nói, chứ Quan gia mà bị nóng nực mệt mỏi, về khó bẩm báo lắm.

Ta biết đại nhân lo lắng, ta có ý này.

Ngự Mã giám có một cặp voi mẹ con, đợi tới lầu Phúc Khánh, mình sẽ cho cho tượng nô lén dắt voi con tới, voi mẹ tất sẽ dẫn đàn đi theo, chừng nửa giờ sau là cả đàn vào hết Tượng phường.

Lại nói, còn có các huynh đệ Thượng Trực vệ hộ tống bảo vệ, thì còn sợ xảy ra chuyện gì?"

"Đại tổng quản nói phải."

Hứa Hoan liếc mắt ra cửa, ra hiệu cho người ôm kiếm ngoài ấy đi báo tin trước, còn mình thì đứng dậy đi tới bàn đối diện, thầm thì bẩm báo mấy câu bên tai Tùy Vương.

Quả nhiên, Tùy Vương vừa nghe, suy nghĩ chốc lát rồi đứng dậy, ôm quyền hành lễ với tất cả những người ngồi xung quanh: "Tương phùng là hữu duyên, ta đã mạo muội đặt một bàn tiệc ở Phúc Khánh lâu rồi, chắc mấy vị ở đây cũng nể mặt, chẳng nỡ từ chối chứ?"

Nói rồi cười mấy tiếng, quay lại nói với thiếu nữ trẻ tuổi ngồi phía sau: "Tỷ muội chúng ta hiếm khi gặp được tri kỷ, tất phải tận tình đối đã."

Mấy chuyện này, Hoàng đế xưa nay vốn vẫn nghe Tùy Vương, lúc này liền đứng dậy gật, gật đầu đĩnh đạc, rất có phong phạm: "A tỉ nói phải, hôm nay chúng ta đã phiền nhiễu các vị nhiều, vậy bây giờ để ta đáp lễ."

Mấy nữ tử dự thi Nữ khoa hết sức khiêm cung từ chối đôi lần, cuối cùng cũng không từ chối nổi trước hậu đãi, đành vừa cảm kích vừa thu xếp bút nghiên, cùng bước lên những cỗ xe ngựa mà Hứa Hoan gọi tới.

"Sư phụ ơi."

đệ tử của Thôi Thành Tú trả tiền cho quán trà xong đâu đấy mới chạy ra, thấy đoàn người đã đi xa, vội dắt con lừa xám, "Mấy cô nương này keo kiệt quá, ngồi nửa canh giờ mà chỉ uống thứ trà nhạt toẹt, chẳng chịu bỏ tiền gọi trà ngon.

Gặp được Quan gia chúng ta hào phóng như vậy, bữa tiệc này ở Phúc Khánh lâu, họ ăn một bữa rồi trả mười bữa cũng chẳng đủ!"

Thôi Thành Tú chỉnh lại chiếc nón rộng vành, lên lưng lừa, chỉ hừ một tiếng: "Đừng có nói tới bữa tiệc, chuyến này có Thượng Trực vệ đích thân đánh xe bảo vệ, có Ngự tiền Tổng quản thân chinh hộ tống - mấy người này dù có thi trượt thì cuộc đời này coi như cũng đáng sống rồi!"

Nói vậy, nhưng trên mặt hắn không có chút nào là ghét bỏ hay khinh thường.

Hoàng đế Đại Tề vị nào vị nấy đều thích vi hành, từ đời Thái Tổ đến nay chưa có vị nào chịu an phận ngồi trong cung cho an yên nhàn tản.

Tiên đế sùng Phật, mỗi năm đều cải thành khách hành xương vãng lai đến chùa Báo Quốc để dâng hương, ngồi thiền, ngắm hoa quế.

Tân đế mới chín tuổi đã lên ngôi cửu ngũ, ngoan ngoãn ngồi trong cung được năm năm, tới năm nay cuối cùng cũng noi theo cái lệ bạch long ngư phục, cải trang vi hành, trà trộn vào với hội nữ tử đi thi.

Những người này được lại gần Quân thượng, chắc có lẽ cũng dính được mấy phần phúc khí trăm năm, nói chẳng ngoa đường công danh đã định.

Hắn bật cười, roi quất nhẹ vào mông lừa, lại thì thầm với đệ tử: "Ngươi ngồi hầu bên bàn, thấy Quan gia gần gũi với cô nương nào nhất?"

"A, cô nương mặc bộ váy màu xanh, chính là Cố thị đấy!"

Thôi Tam Thuận đáp ngay, "Tùy Vương gia khen văn chương cô ấy mấy lần, nói là có thể đậu đầu bảng Nữ khoa.

Còn Quan gia cũng không nói gì nhiều nhưng cũng gật gù tán thưởng, còn hỏi gia cảnh Cố cô nương!

Mà tiểu nương tử này xem ra cũng tốt bụng, chu đáo lắm, thấy con đứng hầu mới nói nom con cực khổ quá, bèn tự bỏ tiền túi ra gọi cho con bát nước mơ..."

"Một bát nước mơ mà mua chuộc được ngươi, cái lưỡi ngươi rẻ đến thế à?"

Thôi Thành Tú mắng một tiếng, nghe không thấy giận, trong lòng tự có suy nghĩ.

Quân thượng là người cẩn thận kín kẽ, tính tình tuy không nóng không lạnh nhưng đối với người dưới trướng xưa nay vẫn luôn rộng lượng không hà khắc.

Cố cô nương trẻ tuổi, học thuật uyên thâm, văn hay chữ tốt, tính cách hợp ý Quân thượng, dung mạo lại đẹp.

"Thôi được."

Hắn suy nghĩ một lát, nói, "Trong những người này, gia cảnh Cố tiểu thư là kém nhất.

Tan tiệc ngươi hãy đưa họ về khách điếm, rồi mời cô ấy dọn sang lâu viện bên cạnh chỗ chúng ta, cứ bảo là...

để cho tiện đàm luận văn chương với Quan gia."

Thôi Tam Thuận ngần ngại: "Nhưng mà... chẳng phải Hứa đại nhân đã nói viện ấy để trống, không cho người ngoài vào ở sao?"

"Người ngoài gì nữa?"

Thôi Thành Tú tức giận quát khẽ, rồi hạ giọng giải thích, "Ngươi quên Nữ khoa sinh ra để làm gì rồi sao?

Cố tiểu thư văn hay, chữ tốt, dung mạo đẹp đẽ, tính tình tử tế, rõ ràng đủ tiêu chuẩn để vào Loan Nghi cục.

Nếu mà được Trịnh Tố để mắt tới tạo điều kiện cho hầu cận Quan gia thì ắt là một bước lên mây!

Đến chúng ta tới lúc đó cũng phải khéo léo với người ta đấy, giờ còn đứng đây chê người ngoài sao?"

Thôi Tam Thuận ngộ đạo.

Chẳng rõ duyên cơ do đâu mà Đại Tề, từ thời Thái Tổ đã bắt đầu cục diện âm thịnh dương suy, Đế vị truyền tám đời mà chỉ có hai vị nam Đế, lại có tận sáu vị nữ Đế.

Để tránh bất tiện, sau khi Minh Tông đế đăng cơ liền tuyển nữ văn quan tâm phúc chưởng quản Tư Lễ giám, xưng là Loan Nghi ty; lại chọn nữ võ quan trấn giữ Trấn Phủ ty, Thận Hình ty và Cấm vệ, xưng là Loan Nghi cục.

Về sau lại càng rực rỡ chuyện thi cử chiêu hiền, ngoài khoa nam còn cho phép khoa nữ tồn tại, nếu đỗ đạt thì vào Trấn Phủ ty học tập, sau ba năm người thường được ban tước về quê, người đặc biệt giỏi sẽ xuất sĩ tới Loan Nghi ty làm việc.

Tuy phần nhiều cũng chỉ là việc văn thư, nhưng cũng tính là cận thần ngự tiền, nếu có vinh dự được Quân thượng sủng ái thì sẽ thành tâm phúc của thiên tử.

Đây cũng chính là con đường tắt lên đến tầng mây cao mà những con đường khác không thể so bì.

Chỉ có điều một, đường vào cấm cung sâu tựa biển, đã là nữ quan hầu trước ngự tiền, việc có liên hệ với ngoại triều cũng thành điều cấm kỵ - thế nên, đã có nhiều người bỏ lỡ tuổi xuân, cả đời ở giá.

"Chà..."

Thôi Tam Thuận xoa xoa gáy, giọng nghe ái ngại, "Con nghe giọng của Cố tiểu thư thì thấy nàng ta chỉ muốn được đỗ đạt rồi về quê dạy học, chẳng có tham vọng gì khác.

Lại nghe nói nàng đã có hôn ước ở quê nhà từ lâu rồi, nếu chẳng phải vì gia cảnh khó khăn trên có mẹ góa dưới có em nhỏ thì đã thảnh thơi thành hôn từ sớm.

Coi như cũng yên bề gia thất, đã thành thân rồi, sao còn có thể ở lâu trong cung?"

"Đã bước lên đường mây thì ai nỡ bước xuống?"

Thôi Thành Tú lại cười một tiếng, "Hiện giờ nàng ta chưa hiểu ra thôi, khi đã hiểu ra thì há không muốn nhập cung?

Trong cung có hàng ngàn người, có mấy ai được nói chuyện thoái mái, tiếp xúc gần gũi như thế với Quan gia?

Bỏ phúc không hưởng, trời cũng chẳng tha."

Phúc Khánh lâu, người của Ngự Mã giám đã chuẩn bị đón tiếp sẵn.

Thôi Thành Tú không vội vào hầu - ý tưởng Phúc Khánh lâu này là của hắn, Hứa Hoan tự khắc sẽ giải thích rõ ràng trước mặt Tùy Vương.

Thân là Ngự tiền tổng quản phải có năng lực nhìn xa trông rộng, kiểm soát đại cục, không thể lúc nào cũng tranh hầu hạ xun xoe trước mặt chủ tử, chèn ép người khác không cho lập công.

Vậy là, thấy trời còn sớm, thầy trò bèn cưỡi lừa, thong thả rong ruổi tới trước lầu Phúc Khánh.

Hai người đương đứng dưới lầu vừa khoanh tay nói chuyện, đang bàn tán sôi nổi thì không ngờ tên tiểu đồng thân tín của Hứa Hoan, là Hứa Quý, cùng một tiểu thái giám đã nâng tà áo chạy vội xuống lầu.

Tiểu thái giám phi tới trước mặt Thôi Thành Tú, mặt mày hoảng hốt, quỳ xuống tâu bẩm:

"Đại tổng quản, sinh chuyện rồi!"

"Chuyện gì?!"

Thôi Thành Tú giật nảy mình, túm ngực áo Hứa Quý đứng bên, "Ta đứng xa nhưng cũng tận mắt thấy Quan gia vào lầu cơ mà!"

"Quan gia vạn phúc, bình an không sao."

Hứa Quý đáp, rồi cùng Thôi Tam Thuận xốc tiểu thái giám dậy, đè giọng: "Đây là chỗ nào hả!

Quỳ lạy cái gì thế?"

"Nếu để lộ đại sự ra ngoài, ta lấy mạng ngươi!"

Thôi Thành Tú gằn giọng, nhổ nước bọt vào mặt tiểu thái giám, "Nói mau, sinh chuyện gì?

Ngươi là người của ai?

Ai mà dạy ra loại tâm phúc như ngươi?"

"Tiểu... tiểu nhân là đệ tử của Từ Triều ở Ngự Thiện phòng, vừa rồi hoảng loạn, xin Đại tổng quản nể tình sư phụ, chỉ giáo cho tiểu nhân."

Tiểu thái giám hoảng, mặt như đổ chàm, "Quan gia lên tới trên lầu Phúc Khánh chừng một nén hương là đã khai tiệc, nhưng chẳng hiểu vì sao canh rau, món thịt đều dọn ra đủ rồi, tự nhiên lại truyền món củ cải trắng luộc.

Củ cải trắng đem lên là loại ngon ở Diên Khánh, tiểu nhân đã dùng thẻ bạc thử rồi mới dâng lên.

Nhưng sau lại muốn thêm nữa, nói có bao nhiêu củ cải trong nhà bếp thì nấu rồi dọn hết lên đây - mấy cô nương kia không hiểu chuyện, có vẻ cũng bàn tán xôn xao.

Tình hình này... nếu lỡ lời ra nói cái gì, người của Ngự Thiện phòng còn sống nổi không đây?"

"Ôi dào, ầm ĩ tưởng chuyện gì, hóa ra cũng chỉ thế."

Thôi Thành Tú là kẻ giỏi dằn mặt dạy dỗ người ta, xưa vốn có hiềm khích với Từ Triều, nay nén sự hoan hỉ trong lòng, ngửa mặt lên trời giả vờ suy nghĩ rồi cúi đầu thở dài:

"Ta nói khí không phải, sư phụ ngươi cũng quá tính toán rồi!

Tính Quan gia tiết kiệm ghét hoang phí, phàm là trân tu ư mỹ vị ư, của hiếm lạ thì sẽ ít truyền, hễ nghe Châu nào báo thiên tai là sẽ không ngại bỏ cả món thịt, cùng dân chịu khổ mới hiểu cái khổ của dân."

Hắn nói, mặt nhăn lại như thể gắng ép ra hai giọt nước mắt, "Chúng ta phận nô tài, dù không thể phân ưu cho chủ tử thì cũng phải hiểu nỗi lòng chủ tử.

Thế mà tên Từ Triều sư phụ ngươi, nấu rau luộc thì nhét rau vào bụng ngỗng, củ cải hầm thì hầm bằng nước hải sản, một mặt phung phí thực phẩm, một mặt kê khai xin bạc Nội Vụ phủ.

Đấy, nghiệp của hắn nay ứng nghiệm rồi chứ?

Đây là tội khi quân, Quan gia biết tỏng, ta giúp thế nào được?"

——— Hết chương 1 ———
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 2


Gần Vua như gần cọp

Thường nói gần Vua như gần cọp, chính Tùy Vương cũng cảm thấy việc hầu cận bên cạnh Quân thượng chẳng phải là chuyện dễ dàng, lại thêm cảnh bạch long ngư phục hiện tại thì lại càng khó khăn gấp bội.

Hoàng đế từ nhỏ được nuôi dưỡng trong cung của Tiên đế, đăng cơ năm chín tuổi, dần dà thấm nhuần và rèn ra được bản lĩnh hỉ nộ ái ố không trưng lên trên mặt.

Hoàng đế yên lặng nghe lão chủ tiệm Phúc Khánh lâu kể lại tỉ mỉ quy trình dùng nước hầm hải sản nấu củ cải, gương mặt không có vẻ gì nổi giận, chỉ bình thản nói: "Cách này quả là hay, nhìn vào thì tưởng như dùng nước lã luộc củ cải, nhưng ăn lại thấy vị ngọt đậm.

Có điều, đây là cách ngươi tự nghĩ ra sao?"

Chủ tiệm Phúc Khánh lâu không dám huênh hoang trước mặt vị khách quý, hơn nữa, đây cũng là bí quyết bếp núc mà quý tộc trong kinh đều biết, liền đáp rất thật thà: "Làm sao mà tiểu nhân nghĩ ra được cách này chứ?

Đây là bí quyết chế biến củ cải trong Ngự Thiện phòng, tiểu nhân may mắn học được bí quyết rồi làm theo thôi.

Mấy vị quan khách này tiểu nhân nghĩ đều sắp đỗ đạt khoa bảng rồi, giờ được ở đây nếm thử trước hồng phúc của Thánh thượng, chẳng phải là điềm lành sao?"

"Đúng là điềm lành."

Hoàng đế gật đầu ôn hòa, nhả từng chữ rất chậm, "Phúc lớn của xã tắc."

Năm ngoái, Bố chính sứ Lăng Châu bị khép tội tham ô, toàn gia xử trảm, bình của Hoàng đế cũng chỉ có mấy chữ này.

Nhớ lại tích cũ, rượu trong người Tùy Vương hóa thành mồ hôi lạnh, đưa mắt nhìn chủ tiệm Phúc Khánh lâu lúc này đang vô tri nhận bạc thưởng mà chỉ muốn nhét khuôn mặt nịnh nọt xun xoe kia của hắn xuống gầm bàn.

Lại đúng lúc đó, một cô nương bên cạnh không hiểu chuyện gì cả, thêm dầu vào lửa: "Một đĩa củ cải thôi mà tận hai mươi lạng bạc, như vậy...

đồ ăn trong cung, chẳng phải là một bữa đáng ngàn vàng?"

Tính tình Quân thượng dù ôn hoà đến đâu cũng khó chịu nổi việc bị người ta chọc đúng chỗ đau.

Thấy môi Hoàng đế khẽ mím lại thành một đường thẳng, Tùy Vương ho khan một tiếng, đang định mở miệng cứu vãn tình hình thì đã có một giọng nói mát lạnh, trong trẻo chen vào: "Cũng chưa chắc.

Nghĩa mẫu của tiểu nữ từng làm ở Ngự Thiện phòng, tiểu nữ luôn nghe bà nói Tiên đế rất tiết kiệm, mỗi bữa ăn không quá mười hai món.

Thánh thượng có lẽ cũng như vậy."

"Cố cô nương nói đúng lắm!"

Tùy Vương vội hắt nước theo mưa, minh oan cho Quân thượng:"Ta ở kinh thành, nghe nói Quan gia mỗi bữa chỉ năm món, còn tiết kiệm hơn cả Tiên đế kia!

Hơn nữa, trong cung có quy củ, đồ Ngự thiện khi dọn xuống đều ban cho các nội thị hầu cận, cũng không tính là phung phí."

"Nếu vậy, có lẽ các nội thị còn có phúc khí hơn cả các đại thần trong triều?"

Cố Uyên lần đầu nghe thấy loại quy củ như vậy, tùy hứng nói đùa, nhưng mắt thấy người trẻ măng tự xưng Lâm Thập Nhất kia liếc mình một cái, bèn nghiêm túc lắc đầu: "Cũng không hẳn đâu nhỉ.

Thánh thượng lo lắng dân chúng bị hạch sách, ngoài vật cung tiến cho Thái hậu và các Thái phi ra thì các châu đều được miễn tiến cống.

Tiểu nữ đoán, trong cung muốn ăn hải sản tươi ngon của Giang Nam, e còn không dễ dàng bằng ở ngoài dân gian đây."

Nàng nói thế, thấy người trẻ trung kia mới không nhìn nàng nữa.

Người đó có dung mạo rất đẹp, mày thanh mắt sáng, mũi thẳng môi hồng, da trắng như ngọc, ngũ quan như được chạm khắc, dù cử chỉ và thần sắc già dặn mà cũng không khiến người ta thấy khó chịu.

Cố Uyên chỉ cảm thấy Thập Nhất này nghiêm túc mà vẫn đáng yêu, không nhịn được nụ cười mỉm: "Mà những món ở kinh thành cũng ngon không kém đặc sản Giang Nam đâu.

Nghĩa mẫu của tiểu nữ từng làm món thịt kho tàu, nói rằng ấy đúng khẩu vị kinh kỳ.

Món đó, lúc nhỏ tiểu nữ thích ăn nhất, mỗi năm hễ tới sinh nhật là đòi bà làm cho ăn, thà không ăn mì trường thọ cũng được."

Hoàng đế suy tư một chút, gật đầu: "Thịt kho tàu đúng là ngon lắm."

Người khác không hiểu ý, nhưng Tùy Vương thì thở phào nhẹ nhõm, trong lòng thầm cảm kích Cố Uyên nhạy bén hiểu chuyện.

Mới cười nói với nàng: "Thập Nhất muội vừa nói đúng đấy, thịt kho tàu nhà ta làm cũng ngon lắm, ngày nào đó mời cô nương đến thưởng thức xem có hợp khẩu vị không?"

Một trận phong ba như vậy là được xoa dịu, Tùy Vương cảm thấy mình suýt mất mấy năm tuổi thọ.

Tối đến, khi hồi cung, chuyện vẫn chưa kết thúc.

Tùy Vương nói với Hoàng đế: "Quan gia đã vạch trần rồi, rõ ràng Ngự thiện phòng có tội khi quân.

Nhưng chuyện này ắt cũng đã được Thái hậu ngầm cho phép, Thái hậu nói rằng Quan gia ăn uống quá khổ hạnh, cứ bắt hạ nhân phải tìm cách bồi bổ long thể.

Quan gia muốn phạt thì phạt, chỉ là... không nên phạt quá nặng, liên lụy quá rộng."

"Điện hạ nói chí phải."

Từ Triều quỳ trước mặt Hoàng đế, mặt mày nhăn nhó đau khổ: "Quan gia, chúng nô tài tìm mọi cách để chế biến bồi bổ cho chủ tử, vốn là lòng thành lo lắng đấy ạ!

Nương nương luôn căn dặn vạn sự phải nghĩ đến long thể Quan gia trước, Quan gia ăn thứ bổ dưỡng, chúng nô tài còn cầu gì nữa?"

Hoàng đế im lặng lắng nghe, đợi lời ong tiếng ve yên hết mới lên tiếng: "Lệ cũ thời Tiên đế cũng như vậy sao?"

Một câu khiến Tùy Vương nghẹn lời, Từ Triều im bặt, một lúc sau mới run rẩy thưa: "Bẩm...

Ngự thiện thời Tiên đế cũng có món này, chỉ là... thấy thẻ bạc chép nguyên liệu tốn kém, nên ít khi truyền."

Thôi Thành Tú đang khom lưng đứng sau Hoàng đế, nghe vậy bèn liếc Từ Triều một cái, nghĩ thầm - gã này dựa vào Thái hậu, mồm loa mép giải, gan chó thật to!

Theo lệ cũ trong cung, mỗi món ăn đều có thẻ bạc ghi tên món và nguyên liệu, khi dùng bữa mới do thái giám dâng lên, một để thử độc, hai để phòng khi chủ tử hỏi đến.

Có vị Hoàng đế thích phô trương, thẻ bạc xếp từ trong điện ra tận ngoài cửa.

Quân thượng không câu nệ việc ăn uống, năm mười hai tuổi đã giảm món ngự thiện, thuận tiện bỏ luôn lệ dâng thẻ bạc, giờ Từ Triều lại đem chuyện này ra nói thì chẳng phải đổ lỗi cho hoàng đế hay sao?Từ Triều cúi đầu, trong lòng lạnh toát.

Lẽ ra hắn không nên nói thế, nhưng không nói thì Hoàng đế cũng không tha.

Kỳ thực, hắn với cái món củ cải này cũng chỉ đơn giản sợ dâng lên không hợp miệng hoàng đế thì mình khó bề gánh vác — Hắn quản Ngự thiện gần hai mươi năm, vơ vét tiền bạc cũng đẫy túi, lại được Thái hậu coi trọng, đi đâu cũng chẳng thiệt, cần gì so đo lo lắng!Hít một hơi quyết tử, hắn liều mạng, cúi đầu dập trán: "Nô tài đại bất kính, che mắt Quan gia, làm trái thánh chỉ.

Nhưng dù nô tài có nói một câu bất kính, nô tài tuyệt đối không có lòng bất trung!

Ngay đến cả chi phí của Ngự thiện phòng, Nội vụ phủ cũng có sổ sách ghi chép, Quan gia minh xét!"

"Nói như vậy, khanh cũng không có lỗi gì."

Hoàng đế giọng vẫn bình thản, mặt không lộ cảm xúc, "Vậy đi, từ nay theo lệ cũ, dâng thẻ bạc vào điện.

Chỉ là chữ trên thẻ phải sửa lại, ghi rõ nguyên liệu, ghi rõ giá cả ngoài chợ dân thêm vào đấy."

Câu trước khiến Từ Triều thở phào, câu sau lại khiến hắn run chân — thực phẩm ngoài dân gian một giá, đương nhiên thực phẩm trong cung phải một giá khác rồi!

Lời Hoàng đế nói khiến người ta sởn gáy, chẳng khác nào dồn vào tử lộ.

Hắn liếc nhìn Quân thượng, thiếu nữ mười ba mười bốn tuổi ngồi thẳng lưng trên long sàng, ánh mắt điềm tĩnh nhìn xuống, khí chất quý tộc toát ra từ cốt tuỷ khiến hắn không dám hé răng, đành cắn răng mà tạ ân điển.

"Giá ngoài chợ dân là sao?"

Tùy Vương tính tình trung hậu, khó hiểu thăm dò: "Nếu Quan gia đã nghi ngờ tên tiểu tử này dám tham ô ngân lượng Ngự thiện phòng thì cứ giao điều tra, Thận Hình ty sẽ tra từ gốc rễ!"

"Không phải vì chuyện đó."

Hoàng đế lắc đầu: "Trong cung vốn có tật kiếm chác, chỉ cần không quá đáng, trẫm cũng sẽ coi như không.

Chỉ là trẫm lâu nay trong cung, hôm nay nghĩ kỹ lại chẳng khác gì bạo chúa chỉ biết ăn thịt mỡ mà đời trước vẫn răn.

Bắt hắn ngày ngày dâng giá cả nguyên liệu ngoài dân gian lên, sau này ra ngoài cũng biết giá gạo giá muối, không đến nỗi bị người đời mỉa mai."

Giọng nàng nhẹ nhàng, nhưng không ai trong điện dám thở mạnh.

Từ Triều, Thôi Thành Tú, hai tên vội vàng vén áo khấu đầu, tranh nhau lạy lục: "Nô tài hồ đồ!

Nô tài vô dụng!

Nô tài làm Quan gia mất mặt!"

"Không phải lỗi của các ngươi.

Thôi, ai đi lo việc người đấy đi."

Hoàng đế có chút phiền, sau đó lại trở về vẻ bình thản: "Hoàng tỷ, hôm nay trẫm mệt rồi."

Miệng vàng lời ngọc đã hạ lệnh tiễn khách, Tùy Vương lập tức cáo lui.

Hai vị điển thiết[1] vào điện hầu hạ, không lâu sau, đèn nến đều tắt. [1] Chức nội thị cấp thấp chuyên chỉ hầu đèn đuốc, việc vặt trong cung phòng.Tùy Vương thở dài.

Tông thất, trong bảy vị trưởng bối của hoàng đế, ngoại trừ Tuỳ Vương là nàng ra, sáu vị thân vương còn lại đều không ai thực lòng coi vị đường muội nhỏ tuổi còn chưa tự chấp chính này ra gì cả.

Duy có nàng phụng chỉ phụ đạo Thượng thư phòng, đứng bên Quân thượng nghe xử lý chính vụ, lại cùng với Quân thượng trò chuyện đọc sách - càng ngày mới càng kinh hãi.

Đứa trẻ mười ba mười bốn tuổi thôi mà tâm tư sâu kín khiến người ta rợn người.

Người như thế, sau này phúc họa khó lường.

Tùy Vương nghĩ lại, cuối cùng cắn răng — nàng vẫn không đoán ra được Quân thượng hài lòng với ai, nhưng hôm nay có vẻ đã hài lòng với nữ tử họ Cố kia.

Lại tự nhủ, đây chẳng phải cơ hội để thăm dò tâm ý Đế vương sao?

"Cho người tác động chủ nhà, đuổi người đi đi."

Tùy Vương ra lệnh: "Rồi nói, nghe xảy ra chuyện nên tới mời Cố cô nương về viện của ta, sắp xếp cho ở phòng phía tây — đối diện phòng Quan gia thế cũng tiện đàm luận văn chương chứ nhỉ?"

—— Hết chương 2 ——

Nhà đài bình: Quan gia đang tuổi ăn tuổi lớn, ăn uống tiết kiệm như dân văn phòng thời hiện đại vậy có cao to nổi không ớ 🙂)))
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 3


Thà rằng chính trực mà thiếu thốn, chứ không khuất tất để dư thừa

Phúc Khánh lâu cách Chu Gia không xa lắm, khi Cố Uyên và mọi người về tới, đèn đuốc vẫn chưa lên.

Nhân lúc trời còn sáng, Cố Uyên trải giấy bút ra trên chiếc bàn nhỏ, lấy từ trong hộp sách ra tập văn Bát cổ[1] mà nàng mượn được, bắt đầu lật giở, chép từng trang một. [1] Văn chương Bát cổ là một thể văn biền ngẫu tám vế dùng trong khoa cử bắt đầu từ triều Tống và kéo dài hết triều Minh."

Lại chép tiếp?"

Lý Thanh, cô nương cùng phòng với nàng, khi ấy khệ nệ xách chậu nước nóng từ dưới bếp lên, xem chừng đã tắm rửa xong xuôi và thay một bộ quần áo vải tinh tươm.

Lý Thanh vừa dùng chiếc khăn khô xổ vải lau mái tóc dài vừa nhìn người đang nghiêm nghị cầm bút lông ngồi bên bàn, nói với ngữ điệu trách móc:"Từ khi vào kinh đến giờ, ta thấy cô đã chép đến bảy tám tập văn Bát cổ, chắc có lẽ bình chú của các các lão đại nhân trong Nội các cô cũng đã chép hết sạch rồi.

Ta nhẩm tính thay cô này, một tập Bát cổ giá ba trăm đồng, một tháng tám cuốn là hai lượng tư bạc, phí khách trạm là một lạng rưỡi, ăn uống thì... bánh màn thầu ở đầu phố kia, năm đồng hai cái, mỗi ngày mười lăm đồng, cộng lại là bốn trăm năm mươi đồng, cũng phải thêm chút rau dưa, coi như mỗi tháng nửa lạng, cuối cùng còn dư được bao nhiêu chứ?

Người ta vẫn nói kinh thành gạo châu củi quế[2], cô nhập kinh một chuyến mà vẫn còn kiếm được tiền mà về, ta bội phục!" [2] Ý nói đắt đỏ, gạo như trân châu, củi như cành quế.Lý Thanh và Cố Uyên từ nhỏ theo học cùng thầy, gắn bó lâu năm, nói năng vốn không kiêng dè.

Cố Uyên nghe mà không đáp, dồn tâm trí vào múa bút thành văn, miệt mài như thế đến khi trời tối mới dừng bút, mấy ngón tay mỏi xoa xoa đôi mắt đẹp.

"A Uyên," Trên giường tre, Lý Thanh đã ngủ một giấc ngắn, nghe tiếng nước liền nói vọng sang, mắt vẫn nhắm lại: "Cái váy mới mua của ta còn trong chậu, cô cẩn thận đừng để nước bắn vào đấy!"

Cố Uyên đáp một tiếng, coi như lưu ý.

Lát sau, nàng đỡ mái tóc ướt đi ra, treo chiếc váy vải xanh ngọc đã giặt sạch của mình lên một trong sân.

Thế rồi nàng lại tìm đâu đấy mấy cây sào tre, dựng sơ sài thành một cái giá bên cửa sổ, cẩn thận treo chiếc váy lụa màu xanh nhạt của Lý Thanh lên trên ấy.

"Mặc chiếc váy lụa, ngày đêm sợ trộm."

Tay chân Cố Uyên bận rộn, hành động cẩn thận chu đáo mà thần sắc tỏ vẻ không tán thành, "Chúng ta nhập kinh ứng thí, mọi việc giải quyết bằng năng lực, năng lực thì nói bằng văn chương, cần phải màu mè ăn diện như vậy cho tự chuốc thêm phiền phức?"

"Người có năng lực tới đâu đi chăng nữa cũng đều cần phải mặc đẹp."

Lý Thanh không phục, nói lại.

"Nếu không có chiếc váy lụa này thì e là nhiều nơi đàm luận văn chương cũng sẽ chẳng cho chúng ta vào đấy.

Cô nhìn xem tất cả những người ở người Kinh thành có mà không nhìn người qua y phục, nói chuyện bằng vẻ ngoài chứ?"

"Hai vị cô nương Lâm gia hôm nay chúng ta gặp hôm nay không giống như vậy."

Tấm mành tre cũ kĩ sột soạt, một tiểu nương tử mặc xiêm y đỏ nhạt và gương mặt trẻ măng khoảng mười sáu mười bảy tuổi bước vào.

Một tay nàng cầm gói lá sen, một tay bốc củ ấu đưa cho hai người.

"Tên đó nói ấu mới hái hôm nay, giá năm mươi đồng cơ đấy, hai người nếm thử xem thế nào?"

"Cũng không tệ."

Lý Thanh bóc một củ, chầm chậm nhai trong miệng, "Chỉ là vẫn không bằng Phúc Khánh lâu.

Bát nước đá đó một lạng bạc một bát, giữa buổi trưa nắng gắt, ngồi trong phòng trang nhã, gọi một bát nước đá, cái cảm giác ấy thật không gì sánh bằng!"

Nàng đó vừa nói vừa diễn một bộ dáng đảo mắt láo liên, bắt chước y hệt vẻ mặt của chủ nhà thuê.

Còn chưa nói xong, Cố Uyên và Hứa Tịch đã che miệng muốn cười lăn.

"Thật là!"

Hứa Tịch cười một hồi lâu, xoa mắt, nói, "Cẩn thận lão Chu kia nghe được thì lại đến đuổi người, không đuổi thì cũng tăng tiền nhà chúng ta cho mà xem!"

Tài tử khắp thiên hạ tề tựu ở kinh sư, hễ đến những năm khoa cử, người dân có nhà trong kinh thành sẽ dọn ra ngoại ô ở ít lâu, để nhà cho các sĩ tử thuê lại, ôn thi.

Đó gọi là biết nắm bắt thời cơ.Mấy người hội Cố Uyên vận khí không tốt, xuất phát từ Hải Châu, theo thuyền chở lương xuôi dòng vào kinh, rủi thay dọc đường lại bị liên đới trong một vụ án, vô cớ bị liên lụy.

Vậy là bị kẹt trên thuyền gạo gần một tháng, đến khi vào kinh thì sĩ tử ứng thí đã lo được nơi ăn chốn ở gần hết rồi, nhóm mấy người họ nhìn quanh thấy không còn chỗ nào để tá túc.

Vẫn còn chút vận may, có nhà này tình cờ phải về quê một chuyến, Cố Uyên hết sức hết lòng thuyết phục gia chủ mới có thể có phòng cho cả hội ở đến ngày yết bảng hai mươi tháng tám.

Có điều, tiền nhà cũng đắt nhất nhì, một gian phòng chia hai vách chắp vá mà một tháng phải trả tới lạng rưỡi bạc, đắt hơn những nơi khác phải gấp ba.

Nhưng cũng đành chịu, học trò khó khăn, nhà nghèo đi xa, có mái che đầu là đủ, còn đòi hỏi thêm gì nữa?

Cố Uyên cười cười, chỉnh lại ngọn đèn dầu, rồi lại cầm bút lên.

Hứa Tịch ngồi đối diện Lý Thanh, chia đôi phần củ ấu đùm trong lá sen, một nửa gói lại để bên gối Cố Uyên: "Thật lòng mà nói, ta cũng chẳng sợ bị đuổi.

Hai vị cô nương Lâm gia kia, xem ra không phải người thường, có mệnh hệ gì, chỉ cần họ chịu ra mặt thì chúng ta có lẽ sẽ được yên.

Chỉ có điều mặc dù Cửu cô nương kia hoà nhã lịch sử, có vẻ dễ nói chuyện, nhưng sau cùng thì cũng chỉ là tình cờ gặp gỡ, quan hệ xã giao khó mở lời."

"Cô thì khó mở lời là đúng rồi."

Lý Thanh cười ý nhị, "Còn A Uyên mà mở miệng thì lại khác ngay!"

Thấy Cố Uyên quay đầu lại liếc mình một cái, cô nàng càng cười đầy ẩn ý, "Tôi nhớ, Lâm Cửu nương khen văn chương của Cố tiểu nương tử như ngọc thêu trên gấm, nét bút ấy một chữ đáng ngàn vàng, như vậy... chỉ cần Cố tiểu nương tử đem bán vài cuốn Bát cổ mà nàng chép, chớ nói đến ngàn vàng, chỉ cần trăm lạng bạc cũng đủ mua lại cả cái sân này rồi.

Ở đến năm sau cũng không lo!"

Hứa Tịch cười khúc khích, đáp: "Chỉ sợ A Uyên đi một chuyến, đi xong thấy bạc về mà người lại không về nữa!"

Lý Thanh càng vui: "Như vậy chẳng phải còn hay hơn à?

Hai chúng ta cũng không cần thi nữa, chia bạc về quê, để tôi tính nhé - ruộng dâu ở nhà năm lạng một mẫu, chúng ta mua mười lăm mẫu, chỉ bán lá dâu cho các nhà dệt, được tiền lãi mình mở một xưởng tằm, lúc rảnh dựng thêm vài khung cửi, gia nghiệp như thế là khá quá rồi!"

Ba người đều là người Ngô Châu, tuy không cùng phủ, nhưng cũng coi như đồng hương, cùng đi thuyền chở lương từ Hải Châu xuôi vào kinh.

Ba cô nương, trên đường cùng ăn màn thầu cùng ngủ ván gỗ, quan hệ đã thân thiết không câu nệ gì.

Trong ba người, Cố Uyên lớn tuổi nhất, thường bị hai người kia dựa dẫm ỷ lại như là đại tỷ, đành liếc hai người một cái, nhắc nhở: "Nói nhỏ thôi, bị người ta nghe thấy thì không hay.

Người ta bảo trong kinh thành miệng từ hoạ ra, hai vị cô nương kia coi khí chất không phải người thường, nếu phạm phải quý nhân, coi chừng họa sát thân."

"Chính vì thấy hai vị ấy không phải người thường, nên bọn ta mới khuyên cô để tâm."

Lý Thanh thu nụ cười, nghiêm túc nói, "A Uyên, cô có tài, nhân phẩm tốt, dung mạo tốt, chỉ có vì cái tính cách cứ thờ ơ lãnh đạm không lạnh không nóng này mà đã làm lỡ bao nhiêu việc tốt!

Năm đó nếu cô biết nịnh bợ lấy lòng nữ phó một chút thì với tài năng đó chắc đã học thật nhanh rồi thi đậu đầu bảng, chắc đã vào Loan Nghi ti làm Nữ quan ngự tiền mài mực trải giấy dâng tấu chương cho Thánh thượng.

Ở gần thiên tử là một bước lên trời, đáng lẽ cô đã có thể như thế, đâu đến nỗi vẫn phải vật lộn với nghèo khó, lăn lộn với chúng tôi thế này?

Nay may mắn gặp được một hai vị quý nhân, cô chớ có dễ dàng bỏ lỡ!"

"Công danh phú quý tự có thiên ý."

Cố Uyên lắc đầu, "Thà rằng chính trực mà thiếu thốn, chứ không khuất tất để dư thừa."

Giọng nàng tuy vẫn chỉ ôn hòa như nước chảy mây trôi, hai người kia đều nghe ra ý từ chối, bèn liếc nhau một cái, không nói gì thêm nữa.

Nghe tiếng mõ canh hai ngoài đường đã vang lên, Hứa Tịch thu dọn mấy củ ấu, trở về vách của minh.

Lý Thanh trằn trọc một lát rồi cũng liền thiếp đi, trước khi ngủ còn lẩm bẩm nhắc Cố Uyên: "Ừ thì chính trực không khuất tất, nhưng cô cũng đừng quá hao tâm tổn sức, mùi đèn dầu xông mũi mà cũng dễ hại mắt."

Cố Uyên đáp một tiếng, quay đầu thấy Lý Thanh đã ngủ say lập tức, thấy buồn cười trong bụng.

Nàng đặt bút xuống tới gần giường đắp chăn cho Lý Thanh, rồi lại ngồi xuống cầm bút chép sách.

Nét chữ vẫn ngay ngắn như đúc khuôn, nhưng tay nàng đưa bút càng lúc càng chậm.

Nếu năm đó nàng đỗ đạt — không nói đến phúc phần được xuất sĩ vào Loan Nghi ti, nàng chỉ cần cái danh Cử nhân mà thôi - thế cũng đã đủ miễn thuế cho cả nhà rồi.

Và nàng còn có thể đến học đường dạy học, thù lao đó đã có thể chia sẻ gánh vác cả gia đình, phụ thân nàng đã không phải lao lực mà mất sớm, mẫu thân nàng cũng không khổ cực lao lực như vậy, ngay cả đệ đệ Cố Dương cũng có thể sớm được học hành tu dưỡng.

Mỗi đêm khuya, nghĩ đến đây, lòng Cố Uyên lại đau âm ỉ.

Chỉ tiếc người đời không biết lúc rằng năm đó nữ phó coi trọng nàng không phải vì văn chương hay tài học của nàng, mà là vì khuôn mặt này của nàng — Cố Uyên cắn môi, tự giễu cười thầm cay đắng.

Nàng vẫn nhớ nỗi chấn động và cảm giác bị vũ nhục sục sôi lên trong lòng khi nghe những lời đó.

Cố Uyên, năm ấy mới mười lăm mười sáu tuổi, chưa từng nghĩ rằng nữ nhân có quyền thế cũng có thể ỷ thế hiếp đáp nữ nhân khác yếu thế hơn mình.

Nàng gần như tháo chạy khỏi căn phòng đó, từ ngày đó không dám bước chân đến học đường, ngay cả đến khi vị nữ phó đó rời vị trí.

Thời gian thoi đưa, cho đến khi phụ thân nàng qua đời, nàng thay cha gánh vác gia đình, chăm mẹ nuôi em.

Trải qua chuyện ấy, nàng vốn đã sắc sảo lại càng nhạy cảm với ánh mắt và động cơ của người khác đối với mình.

Vị Lâm Cửu nương kia tuy cử chỉ hào phóng và thái độ cởi mở, nhưng sự tán thưởng chỉ là ở khóe miệng, và giọng điệu tuy thân thiết nhưng nghe nghĩ kỹ lại chỉ là hời hợt.

Cố Uyên nhìn ra, Lâm Cửu nương tuy là trông như chị cả, nhưng tất cả sự chú ý thì lại đều dồn vào vị xưng Thập Nhất kia, dường như chỉ có Thập Nhất mới có thể đưa ra quyết định một cách chân chính.

Ngay cả hạ nhân đi theo, tuy là vâng mệnh của Lâm Cửu nương, nhưng thực chất luôn nhìn về phía người tên Thập Nhất.

Mà cái vị Lâm Thập Nhất này...

Cái tên này nổi lên trong lòng nàng, ngòi bút của Cố Uyên dừng lại một chút: thiếu nữ đó còn trẻ, thế mà đã có bản lĩnh giấu kín tâm tư.

Thế nhưng, mỗi khi Cố Uyên như có như không đưa mắt nhìn sang, đều sẽ chạm phải một đôi mắt đang lặng lẽ nhìn mình.

Chưa từng có ai nhìn Cố Uyên với ánh mắt như vậy.

Hàng mi dài khẽ rủ, che giấu tâm tư chủ nhân của đôi mắt, một ánh nhìn vừa bình thản đạm nhiên lại vừa như tìm tòi dò xét; để đến khi Cố Uyên không nhịn được mà nhìn kỹ lại, mới phát hiện đôi mắt đen láy trong veo cỡ nào chăm chú, như thể trong ấy chỉ có hình bóng của mình.

Rõ ràng đó chỉ là một thiếu nữ mười ba mười bốn tuổi thôi mà, nhưng đôi mắt đó khiến bài văn nhẩm trong lòng mà Cố Uyên vốn định viết một mạch - cũng như chữ nàng lúc này - có nét loạn rồi.

Dù sao đi nữa, rốt cuộc cũng chỉ là duyên uống một chén trà, ăn một bữa cơm, luận một bài văn với một người xa lạ tình cờ gặp gỡ.

Cố Uyên ngẩn người một lúc, nhìn tờ giấy viết hỏng của mình, bật cười.

Nàng xé đi trang đó, bỏ sang một bên, nhúng bút vào mực, lại viết liên tục hơn một canh giờ nữa, đến gần canh ba mới dừng tay vì mỏi mệt, lên giường ngả lưng.

Sự mỏi mệt còn kỳ diệu hơn cả thuốc an thần, Cố Uyên ngủ một mạch đến sáng, khi tỉnh dậy đã thấy Lý Thanh một thân xiêm y chỉnh tề, đứng trước tấm gương đồng cũ rích trên bàn.

Lý Thanh nhìn qua nhìn lại, thấy Cố Uyên đã dậy, vừa chải tóc vừa nói: "Trong nồi còn nước nóng cho cô đấy, mau mau rửa mặt rồi theo bản cô nương ra phố tìm quý nhân thôi?"

Cố Uyên ừ hữ đáp một tiếng, vừa buộc xong vạt áo đã nghe thấy tiếng ồn ào ngoài cửa.

Nghe thấy tiếng Hứa Tịch tranh luận vài câu, hình như tức giận lắm, giọng nói cao vút lên: "Cái gì mà trước giờ Ngọ hôm nay phải dọn đi?!

Dù cho ông không lấy tiền nhà, nhưng đường đột thế này thì chúng tôi biết đi đâu?

Trên đời nào có chủ nhà ức hiếp người khác quá đáng như vậy, thật là vô lý!"

—— Hết chương 3 ——

Nhà đài bình: Cố Uyên là chị Hậu đặc biệt nhất trong mấy bộ cổ ngẫu cung đình đài chiếu tới giờ.

Vì chị Uyên chỉ nghèo, chỉ khổ, chỉ là người thường không có thế tộc quan bái cửu khanh chống lưng nhưng khí chất và cốt cách của chỉ thì sang xịn mịn không thua ai và là nữ cường hàng riêu (chỉ cường xém ngang chồng chỉ) :v
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 4


Loạn đầu thô phục bất yểm quốc sắc

Hứa Tịch bề ngoài cởi mở mạnh dạn, nhưng thực ra tâm tính mềm yếu, không phải là loại người có thể ra đường để tranh luận hơn thua phân cao thấp với người khác.

Cố Uyên vội vã búi mái tóc mình lên thành một kiểu nhất oa ty đơn giản, búi tóc đen không hề có trang sức, rồi khoác ngoại sam lên người bước nhanh ra ngoài.

Nàng đi thẳng đến trước cổng, quả nhiên khi ấy Hứa Tịch đã thất thế, chỉ còn giọng khàn khàn đầy bức xúc:"Tóm lại chúng tôi vẫn còn có văn thư trong tay, giấy trắng mực đen còn ghi rõ ràng, cùng lắm thì chúng ta lên công đường để cho người đời phán xử thật công bằng!"

"Lên công đường thì làm gì?

Đi khắp thiên hạ cũng không thấy ở đâu có cái lý chủ nhà mà lại không được ở nhà mình!"

Người đó đã nhìn thấu sự yếu thế của cô nàng, giọng điệu càng trở nên ngang ngược: "Ban đầu ta đã không muốn cho mấy người thuê rồi, là do mấy người khẩn khoản chèo kéo nên ta mới thấy thương tình cho ở.

Kết quả thế nào?

Nuôi ong tay áo!

Giờ còn muốn lên công đường?

Được, được, chúng ta gặp nhau ở cửa quan, dù sao ta cũng chẳng có công danh gì để mất, Ngũ Gia ta sẽ cùng ngươi theo kiện đến cùng!

Kỳ thi sắp tới của ngươi có mệnh hệ gì thì cũng đừng quay ra trách ta!"

Người xưa nói lưu manh Kinh thành là khó đối phó nhất, quả nhiên, chỉ một câu hù dọa mà làm cho người ta không nói nên lời.

Cố Uyên nhanh chóng bước lên trên, đứng che chắn trước Hứa Tịch, cúi đầu chào : "Ngũ Gia, không phải chúng tôi không chịu dọn đi, chỉ là đường đột quá, gây ra khó xử, trở tay không kịp."

Nàng nhíu mày cắn môi giả vờ suy nghĩ một lúc, "Ta thấy ngài là người ngay thẳng có sao nói vậy, liệu có thể nào cho chúng tôi biết vì việc gấp gáp gì mà phải lấy lại nhà ngay lập tức hay không?

Nếu có thể cùng nhau bàn bạc, biết đâu sẽ có cách giải quyết ổn thỏa cho cả đôi bên?"

Chiêu lùi một bước để tiến hai bước này không phải là quá tinh vi, nhưng nhờ giọng điệu chân thành mà khiến người nghe thoải mái.

Ngũ Gia liếc nhìn mấy gã lực lưỡng đứng phía sau, bề ngoài tỏ ra ngang ngược nhưng trong lòng cũng là khó xử.

Thật lòng mà nói, hắn không muốn làm mất lòng mấy vị khách thuê này, một là mấy tiểu thư này biết điều không gây chuyện, tiền thuê nhà lại trả đúng hẹn đều đặn; hai là dù sao cũng là người nhập Kinh ứng thí, biết đâu sớm thôi một bước lên mây.

Hắn cũng hiểu muốn sống ở Kinh thành thì phải biết giữ đường lui, chớ có tự rước họa vào thân."

Không giấu gì tiểu thư."

Hắn lùi lại một bước, để mấy gã lực lưỡng ra mặt, "vị Tần nhị gia này là huynh đệ kết nghĩa của ta, hắn bây giờ muốn thuê nhà, lại thích chỗ này, mấy chục năm tình nghĩa ta không nỡ từ chối.

Hay là, hai người tự thương lượng với nhau?"

Tần Nhị là Kinh vệ bách hộ mới được điều về phủ Tuỳ Vương, nếu so võ công thì có mười Ngũ Gia cũng không địch nổi, nhưng nếu so độ ngang ngược thì mười Tần Nhị cũng không được một Ngũ Gia.

Đối mặt với một tiểu thư xinh đẹp nhẹ nhàng, hắn cũng chỉ biết trợn mắt làm dữ: "Chỗ lão tử thích, ai dám không chịu nhường?"

"Chao, lời của vị huynh đài này thú vị quá!"

Một giọng the thé vọng tới từ đám đông bên ngoài, giọng điệu không nóng không lạnh, "Trong Kinh thành này nơi đẹp nhất là Cấm thành, nếu huynh đài thích nơi ấy, chẳng lẽ Quân thượng cũng phải dọn đi?"

Tần Nhị nghe thấy giọng nói này trong lòng liền thở phào nhẹ nhõm, miệng vẫn cứng rắn: "Cả Kinh thành này ai chẳng biết ta là Tần Nhị?

Ta cũng không ngại nói thẳng, có quý nhân cần dùng nơi này, hôm nay các ngươi dọn phải dọn, không dọn cũng phải dọn, nếu không lỡ thời cơ, đắc tội với quý nhân - thiên hạ này không có thuốc hối hận đâu!"

Hắn ưỡn ngực lên, ra vẻ hung dữ như cáo mượn oai hùm.

Tôn Đắc Tú bĩu môi, thấy đã đến lúc rồi, không tiếp lời Tần Nhị nữa, chỉnh lại mũ rồi bước đến trước mặt Cố Uyên, cung kính hành lễ, hai tay dâng danh thiếp lên: "Hai vị tiểu thư đây có phải là Cố tiểu thư và Hứa tiểu thư không?

Tiểu nhân tên Tôn Đắc Tú, phụng mệnh chủ nhân, Lâm Cửu nương tử, đến mời hai vị tới luận văn."

Hắn ngẩng đầu cười với Cố Uyên, "Tiểu thư là người văn nhã, nói chuyện với bọn du đãng này cũng chỉ mất thể diện.

Xin mời hai vị về phòng nghỉ ngơi, để tiểu nhân thương lượng với vị Tần Nhị gia này."

Hứa Tịch lập tức thở phào, kéo áo Cố Uyên.

Cố Uyên do dự một chút, rồi cúi chào Tôn Đắc Tú, nói nhỏ với hắn: "Vậy xin phiền Tôn quản gia."

"Không dám, không dám."

Tôn Đắc Tú vừa tránh lễ, vừa liếc nhìn Cố Uyên.

Hắn là Nội quản phủ Tuỳ Vương, không phụng mệnh chủ tử thì không ra khỏi phủ, nay mới gặp Cố Uyên là lần đầu.

Nhìn Cố Uyên từ đầu đến chân, hắn thầm nghĩ: Người xưa nói loạn đầu thô phục bất yểm quốc sắc[1], quả nhiên mỹ nhân thật sự thì dù ăn mặc thế nào cũng không che giấu được sắc đẹp.

Hắn từng gặp qua nhiều mỹ nhân, nhưng người đẹp tới thế này không quá năm đầu ngón tay.

Hôm nay gặp được một người, chẳng trách Tùy Vương điện hạ cứ nhớ mãi.[1] Tóc rối, áo thô không giấu được quốc sắc thiên hương.Nghĩ ngợi thoáng qua, hắn làm bộ tranh cãi với Tần Nhị một lúc, rồi quay vào viện, đến trước cửa phòng, cúi chào Hứa Tịch và Lý Thanh đang sốt ruột chờ: "Làm mấy vị tiểu thư kinh sợ rồi."

"Không sao, không sao," Hứa Tịch thấy Tần Nhị vẫn đứng ở cổng viện bèn sốt ruột hỏi, "Tôn quản gia, Tần Nhị đã đồng ý chưa?"

Tôn Đắc Tú giả vờ do dự: "Không giấu gì tiểu thư, hắn dựa uy của chủ nhân, thực ra cũng chỉ là một tên du đãng không đáng để ý.

Nhưng Tần Nhị lại quen biết người nhà phủ Dụ Vương, ta ném chuột sợ vỡ bình, thật khó để trừng trị.

Hơn nữa loại tiểu nhân này xảo trá, nếu sau này hắn trả thù, tiểu thư không phòng bị mà bị thiệt hại thì lại càng không đáng.

Theo tiểu nhân...," ánh mắt hắn liếc quanh phòng, "chỗ này thật sự không xứng với tiểu thư đâu, chủ nhân tối qua về phủ còn than thở không có nhiều thời gian gần gũi với mấy vị tiểu thư, chi bằng nhân cơ hội này chuyển ra khỏi đây, đó chẳng phải tốt sao?"

Hứa Tịch và Lý Thanh nhìn nhau, đều thất vọng.

Lời Tôn Đắc Tú nói khéo, nhưng thực ra là chịu thua.

Rõ ràng Tần Nhị có phủ Dụ Vương chống lưng, không ai dám đụng vào.

Ba người cũng đành cảm ơn Tôn Đắc Tú, và cũng không để ý đến nửa sau trong lời hắn, chỉ coi đó là lời xã giao, khiêm tốn đáp vài câu rồi tiễn hắn ra cửa.Nhưng Tôn Đắc Tú không đi, vẫn cười niềm nở: "Tiểu nhân bất tài quá, còn phải thuê xe dẫn đường cho mấy vị tiểu thư thuê nữa chứ, sao có thể đi ngay được?

Chủ nhân hiện đang ở chùa Báo Quốc, còn vài gian phòng trống, mấy vị tiểu thư thấy sao?"

Mấy người tuy trẻ tuổi chưa hiểu quá nhiều về thế sự nhưng ít nhiều cũng đã được mở mang tầm mắt trên hành trình nhập Kinh, vả lại linh tính đều cảm thấy có chút không ổn, đồng thanh từ chối: "Như vậy phiền quá, chúng tôi thật không dám nhận.

Ân tình của Cửu nương tử, ngày khác chúng tôi sẽ đến chùa Báo Quốc tạ ơn."

Hoạn quan giỏi nhất món nịnh hót giả vờ tội nghiệp, Tôn Đắc Tú vẫn cười như hoa: "Hay là thế này đi, mấy hôm trước ta đi qua am Từ Thọ, nghe nói có khách về quê chịu tang, hiện đang để trống một cái viện, vừa yên tĩnh vừa rộng rãi, lại gần chùa Báo Quốc, chỉ sợ phong thuỷ không tốt.

Nhưng nếu tiểu thư phúc lớn, không kiêng kỵ gì thì cứ tạm ở đó, đợi tìm được nhà sẽ dọn đi.

Thế nào?

Tiểu thư cũng biết chủ nhân ta rất trượng nghĩa, nếu tiểu nhân bỏ mặc tiểu thư mà về, e chủ nhân sẽ đánh gãy chân tiểu nhân mất, tiểu thư nhân từ, mong thương xót."

Hứa Tịch và Lý Thanh còn do dự, đều thấy chiếc bánh từ trời rơi xuống này sao mà quá trùng hợp, nhưng Cố Uyên đã nhận lời.

Thấy Tôn Đắc Tú cười hớn hở ra cửa thuê xe, Hứa Tịch và Lý Thanh kéo tay áo Cố Uyên: "Uyên muội, chuyện hôm nay có chút kỳ dị.

Bỗng nhiên những chuyện này xảy ra, không phải bọn ta đa nghi, nhưng thật sự quá trùng hợp!"

"Cũng chưa chắc."

Trong lòng Cố Uyên còn bất an hơn hai người cộng lại, nhưng bề ngoài vẫn điềm đạm an ủi: "Nhà giàu có khác với người như chúng ta, thỉnh thoảng có vài gian phòng trống cũng là chuyện thường, chúng ta lại không ở trong nhà Cửu nương tử, chỉ gần một chút mà thôi.

Am cũng lại không giống như chùa, khách vãng lai qua lại đa phần là nữ, hơn nữa chúng ta chỉ nghỉ tạm vài ngày, tìm được nhà sẽ dọn đi, có gì phải lo?

Ở Kinh thành xa hoa này, có lẽ những chuyện chúng ta cho là chuyện lớn, người ta còn chẳng để ý tới!"

"Cũng phải."

Hứa Tịch vui vẻ yên tâm trở lại, "Không nói đâu xa, chỉ một bữa tiệc ở Phúc Khánh lâu cũng đáng giá mấy tháng tiền nhà của chúng ta rồi.

Nghe nói nhà giàu có sẵn viện, ai hảo tâm sẽ cho người nghèo đến ở, chúng ta nay coi như cũng mượn gió đi."

Tâm tư Lý Thanh sâu hơn Hứa Tịch, nàng kín đáo liếc nhìn Cố Uyên, nhưng cũng không nói gì, chỉ thúc giục Hứa Tịch thu dọn đồ đạc.

Hành lý ba người đều đơn giản, chẳng mấy chốc đã thu xếp xong.

Tôn Đắc Tú dẫn tiểu đồng vào, khiêng hành lý lên xe, rồi ba người nhanh chóng giải quyết tiền nhà với Ngũ Gia, và do Ngũ Gia phá ước, theo như văn thư phải hoàn lại tiền thuê tháng đó.

Xong xuôi, lên xe ngựa, đi vào am Từ Thọ trong mông lung.Tiểu viện trong am Từ Thọ quả nhiên rộng rãi yên tĩnh, chính phòng ba gian quay về hướng nam, mỗi bên một gian sương phòng, một góc còn có gian nhỏ để pha trà, đều được dọn dẹp sạch sẽ cả.

Lý Thanh thấy chính phòng rộng rãi, bảo tiểu đồng khiêng một cái sập từ gian tây vào, đặt hành lý ba người ở gian đông, lại nói với Cố Uyên: "Uyên muội, ba chúng ta đã quen ngủ cùng nhau, nay vẫn nên ở cùng phòng thôi, sau này dọn đi cũng tiện."

Tôn Đắc Tú không nói gì nhiều, vờ cười rồi cúi chào từ biệt, ra khỏi cửa am mới cáu kỉnh: "Toàn đồ nhà quê không biết phải trái!

Mắt cứ như mắt tôm!

Trong Kinh thành này Tuỳ Vương điện hạ để mắt đến ai?

Được phúc lớn từ trên trời rơi xuống lại còn sợ bị lừa, cân nhắc đong đếm.

Nếu là người khôn ngoan thì tranh nhau cảm tạ còn không kịp!"

"Sư phụ, con thấy Cố tiểu thư cũng có lễ lắm."

Đệ tử hắn, người giả làm tiểu đồng, tên Tôn Lễ nói, "Chuyến này cũng là nhờ cô ấy đồng ý nên mới thuận lợi, cũng gửi tiền cảm tạ chúng ta, không giống một kẻ không biết điều."

"Cô ta thì được."

Tôn Đắc Tú nguôi giận, "Chỉ là hai người kia thật là kém cỏi, lại không hiểu chuyện."

Hắn suy nghĩ một lúc, lại cười lạnh, "Muốn dọn đi đâu nữa?

Ngươi đi nói với Tần Nhị canh chừng kỹ vào cho ta, nếu bên ngoài có kẻ không biết điều dám cho bọn họ thuê nhà, làm hỏng việc của chủ nhân thì ta sẽ đập vỡ đầu chó của hắn!"

Nhờ hồng phúc của Tôn Đắc Tú, mấy ngày Cố Uyên chạy khắp Kinh thành, quả nhiên, không thuê được nhà."

Hiện tại sắp đến kỳ thi rồi, cũng khó kiếm nhà trống cho người thuê."

Bất an trong lòng Cố Uyên ngày một tăng, nhưng bề ngoài vẫn an ủi hai người kia: "Chúng ta ở đây mấy ngày, Cửu nương tử chỉ sai người tới hỏi một lần, có lẽ sợ chúng ta ngại nên không đến.

Nay sắp đến ngày thi, chi bằng cứ ở đây yên tâm chuẩn bị cho tốt, nếu đỗ đạt cũng có thể báo đáp."

Hứa Tịch và Lý Thanh cùng đi tìm, tìm mấy ngày vẫn không có kết quả, lại thấy gia chủ nhà họ Lý quả nhiên không có ai đến am, vậy là cũng biến bất an thành cảm kích, yên tâm chăm chỉ ôn luyện.

Họ chăm, Cố Uyên còn càng chăm hơn, mỗi ngày ngoài đọc sách, luyện chữ thì còn chép sách để đem đến hiệu sách bán.

Nàng chỉ nói với hai người kia rằng đó là nắm bắt thời cơ để kiếm tiền, nhưng trong lòng lại có tính toán khác: Tiểu viện am Từ Thọ không phải nơi dễ ở, không nói đâu xa, tiền hương khói một tháng đã là mười lượng, hai tháng là hai mươi lượng, giờ nàng chỉ còn mười ba lượng, ngày đêm chép sách đem đi bán, qua kỳ thi chắc cũng đủ trả tiền nhà cho gia chủ nhà họ Lý chứ?—— Hết chương 4 ——

Nhà đài bình: Độc lạ Hoàng hậu chạy khắp kinh thành bán sách và săn nhà thuê.......
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 5


Thường nói quý nhân bận rộn, câu này dùng để miêu tả Hoàng đế thì không sai chút nào.

Không cần nói đâu xa, chỉ cần nói cái bận rộn đầu tiên là Hoàng đế thì sẽ không có cái phước được dậy trễ.

Từ nhỏ tới giờ, ngày nào Hoàng đế cũng thức giấc từ canh năm, chỉnh tề y phục rồi đến thỉnh an bề trên.

Chỉ khác một chỗ, trước khi lên ngôi là đến Thanh Hòa điện yết kiến Tiên đế, sau khi đăng cơ thì là đến Nhân Thọ cung thỉnh an thái hậu.

Tiên đế trường mệnh, nhưng phúc phần của tôn tử thì lại không được tốt, lập hai vị Thái tử nhưng cả hai đều giá hạc về Tây trước Tiên đế, lại đều không có con nối dõi.

Ngày Tân đế lấy thân phận dưỡng nữ của Thời hoàng đế để kế thừa đại thống, Điệu điện hạ và Thời điện hạ đoản mệnh đều được truy phong Đế hiệu theo di chiếu của Tiên đế, đối xử với gia quyến cũng không thể chê bai chỗ nào.

Thái tử phi của Điệu điện hạ qua đời sớm, còn đích thê Trương thị của Thời điện hạ cũng được theo đó sắc phong Thái hậu, an dưỡng trong cung.

Hoàng đế cung kính, mỗi ngày đều đến thỉnh an sớm tối, Thái hậu nhân từ cũng ân cần hỏi han, nhưng một người trầm ổn, một người kiệm lời, giữa hai người luôn có một tầng khoảng cách, gọi là khách sáo, không có sự thân thiết như người nhà thật sự.Hôm đó, như thường lệ, sau khi Thái hậu thăm hỏi hết mọi chuyện vặt thường ngày của Hoàng đế, không khí hơi chùng xuống.

Suy nghĩ một lát, Trương thị hỏi: "Nghe nói gần đây tên Từ Triều ở Ngự Thiện Phòng gây chuyện?"

"Không hẳn là gây chuyện."

Hoàng đế lắc đầu, "Là nhi thần tự biến mình thành trò cười thôi, ra ngoài cung đi dạo một vòng mới thấy mình chẳng biết gì cả."

"Thế là ý gì?"

Thái hậu nhíu mày, Thôi Thành Tú vội bước lên, kể lại đầu đuôi một cách sinh động.

Từ Triều xuất thân từ cung của Thái hậu, mà Hoàng đế đã phán miễn hết truy cứu, nên hắn cố ý dồn hết trách nhiệm lên người không liên quan: "Nói rõ ra thì... người ở Ngự Thiện Phòng cũng là xuất phát từ ý tốt, chỉ là làm việc không chu toàn.

Còn những kẻ miệng lưỡi ngoài kia thật đáng ghét, tính tình Quan gia tiết kiệm, mỗi bữa ăn chỉ có năm món, đừng nói đại thần trong triều mà ngay cả những nhà giàu có trong kinh thành cũng không có ai tiết kiệm đến vậy!

Thỉnh thoảng có dùng một món củ cải hầm hải sản thì có gì đáng nói chứ?

Mấy kẻ thư sinh kia nghèo hèn, nghe vài câu đồn đại là đã làm ầm lên, chúng nô tài nghe mà thấy oan uổng cho Quan gia!"

Thái hậu thở phào nhẹ nhõm, nói với Hoàng đế: "Tuy thiên hạ nhiều chuyện, nhưng rốt cuộc vẫn là do Từ Triều làm việc không chu toàn mới để người ta dị nghị.

Dù có bỏ lệ trình thẻ bài ngự thiện, chẳng lẽ không có cách nào khác để báo cho chủ tử biết hay sao?

Hoàng đế nhân từ không truy cứu, nhưng ai gia phạt vẫn phải phạt."

Nói rồi quay sang cung nữ bên cạnh: "Ngọc Thúy, lát nữa bảo Hứa ma ma thông báo cho Thận Hình ty, rằng người ở Ngự Thiện Phòng làm việc bất cẩn, phạt bỏ nửa năm bổng lộc.

Quản sự Từ Triều và Phó quản sự Từ Lộc bất tuân ý chỉ của Quan gia, đánh hai mươi trượng, giáng xuống một cấp, tạm thời cho giữ chức vụ, nếu lần sau còn làm không tốt sẽ cách chức cả thảy."

Tính tình Thái hậu vốn ôn hòa, lần này cho hình phạt nghiêm khắc như vậy là rất hiếm thấy, rõ ràng thực sự tức giận.

Thôi Thành Tú vừa lạy tạ lòng vừa thầm hoan hỉ, rốt cuộc Thái hậu và Hoàng đế vẫn người nhà đấy, người ngoài không thể xen vào.

Từ Triều tiểu tử kia dám mượn danh Thái hậu, chẳng phải là không muốn sống nữa hay sao!

Hoàng đế đứng dậy tạ tội: "Lúc đó bỏ thẻ bài ngự thiện là do nhi thần nhất thời nóng giận, cũng không suy nghĩ chu toàn.

Giờ nghĩ lại, những sự việc thế này thực ra cũng vì thế mà nảy sinh, nhi thần sai lầm lại để mẫu hậu xử lý hậu quả, thực sự đáng xấu hổ."

Thái hậu thở dài, đỡ Hoàng đế dậy: "Quan gia ngày nào cũng phải nghe chuyện triều chính, còn phải nghe giảng, bao nhiêu đại sự trong thiên hạ xử lý không xuể, chỉ có những việc vặt vãnh trong hậu cung này, ta mới có thể giúp một tay.

Hôm nay ta xử lý Từ Triều không chỉ vì một mình hắn.

Những năm nay trong cung này ít chủ tử, ta quan sát thấy có một số kẻ nhàn rỗi sinh thói hư, ngấm ngầm giữ những ý đồ xấu.

Ban đầu cũng muốn tích phúc cho Thời hoàng đế, không động thủ, nhưng giờ đây những kẻ này càng ngày càng lộng hành, không thể mặc kệ.

Tới đây phải trừng trị những kẻ đó, nghiêm túc chỉnh đốn lại phong khí và quy củ trong cung, dù sao sang năm cũng tới lúc Quan gia bắt đầu chuẩn bị chấp chính và lo liệu cho đại hôn rồi."

Những lời này hợp tình hợp lý, Hoàng đế có chút xúc động, cúi đầu suy nghĩ một lát: "Mẫu hậu nhắc đến Thời hoàng đế, nhi thần lại nhớ một chuyện.

Trước kia, khi nghe giảng, Từ học sĩ có nói rằng Tiên đế thường vi hành đến Báo Quốc Tự tham thiền, Thời hoàng đế thường theo hầu, cũng đã rất sùng đạo và thấm nhuần các triết lý Phật giáo, còn ban tặng kinh sách cho Báo Quốc tự.

Gần đây nhi thần xuất cung vi hành cũng đã đến Báo Quốc tự chiêm bái, cũng dâng tiền mở đạo tràng bảy bảy bốn mươi chín ngày cho Thời hoàng đế.

Ngày 16 tháng 6 tới là ngày giỗ của Thời hoàng đế, nhi thần muốn mời Mẫu hậu cùng vi hành đi thắp nén nhang, một là để tránh việc mấy Ngự sử ồn ào, hai là được yên tĩnh không bị quấy rầy.

Có điều, chỉ e chỉ là có chút đường đột, không biết mẫu hậu thấy sao?"

"Quan gia suy nghĩ còn chu toàn hơn ta, ta còn gì để nói nữa?"

Thái hậu nở một nụ cười thoải mái, "Năm xưa ta cũng đã theo Ai hoàng đế đến Báo Quốc tự, cũng chỉ mang theo vài người, đi thầm lặng, về thầm.

Phật vốn luận tâm không luận tích, Quan gia có tấm lòng hiếu thảo này, Thời hoàng đế dưới suối vàng cũng vui lòng.

Khua chiêng gióng trống cũng chỉ là để người khác nhìn vào rồi bàn tán mà thôi, chúng ta là người một nhà, không cần làm những chuyện hình thức đó."

"Vâng."

Vì sắp đến giờ nghe giảng ở Văn Hoa điện, Hoàng đế không thể ở lại lâu, kiên nhẫn nghe Thái hậu kể thêm vài chuyện cũ năm xưa rồi liền cáo lui di giá. ——— "Quan gia có tấm lòng hiếu thảo như vậy, thật không gì bằng!

Thái hậu nương nương cũng thật sáng suốt!"

Thôi Thành Tú thấy kẻ thù gặp nạn, trên đường theo kiệu đi vẫn còn phấn khích lải nhải, "Lại nói, mấy hôm trước nô tài nghe nói trong nhà Ngô đại nhân ở Hình Bộ có xảy ra một chuyện.

Ngô thái phu nhân nói Ngô đại nhân được thăng quan là do Phật tổ phù hộ, muốn phát nguyện đúc tượng Phật để cung tiến.

Ngô đại nhân nghe thế lại nói quân tử không bàn chuyện quỷ thần, không tin điều mê tín, thế là hai mẹ con tranh luận một hồi, kết quả Ngô đại nhân chọc giận mẫu thân, phải quỳ cả đêm ngoài sân, đầu gối sưng hết cả!

Ngô đại nhân là người ngay thẳng, tài năng cũng thuộc hàng nhất, chỉ tiếc là đọc sách thánh hiền một cách quá cứng nhắc, không biết áp dụng linh hoạt gì cả, chứ nếu noi theo gương Quan gia thì đâu đến nỗi..."

"Chớ có bao giờ bình phẩm về việc đọc sách của người khác."

Hoàng đế liếc hắn một cái, "Ngươi chọc giận các đại thần, trẫm cũng không bảo vệ ngươi đâu."

"Chuyện này cả kinh thành đều biết, nô tài sao dám nói bậy?"

Hoàng đế bình thường không ngại nghe những chuyện tầm phào trong kinh thành, Thôi Thành Tú lướt qua những lời mình vừa nói, bỗng chốc có linh cảm, "Thực ra nghĩ lại, người đọc sách cũng có người hiểu chuyện, ví như vị Cố cô nương đó, Hứa cô nương nói Quan gia ăn một bữa đáng giá ngàn vàng, Cố cô nương còn biết đứng ra minh oan cho Quan gia.

Đây chẳng phải là ích lợi của việc đọc sách, hiểu lý hay sao?"

Hoàng đế nheo mày rồi lại thả lỏng, không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, bước xuống kiệu, còn dặn dò: "Những lời này, tìm cơ hội nói khéo lại cho mẫu hậu nghe.

Và phải nhớ, báo cáo lại chuyện gì thì cũng phải nói cho công bằng, đừng che đi ưu điểm của người khác."

Thôi Thành Tú cúi người, đứng sững, nhìn các giảng quan dẫn thái giám nghênh đón hoàng đế vào Văn Hoa điện, mãi sau mới khép được miệng lại.

Không cần biết Thái hậu nghe xong có để ý đến Cố Uyên hay không, trong ba người, hoàng đế chỉ đặc biệt dặn dò mình phải "công bằng" với Cố Uyên, bản thân điều này thôi đã là thiên vị rồi!

Hoàng đế không biết những lời trong bụng này của hắn, lúc này đang ngồi ngay ngắn nghe học sĩ Hàn Lâm viện Từ Chương giảng sách.

Giảng sách trong cung khác với ngoài dân gian, vì không cần ứng thí nên thời gian dành cho Tứ Thư không nhiều, mà chú trọng hơn vào các loại sách sử và luật lệ, chính sách tiền triều.Hôm đó, giảng về điển cố Hoàng đế tiền triều tăng sưu thuế khiến dân chúng lầm than.

Từ Chương giảng xong, theo lệ là học trò đặt câu hỏi, lúc này quân thần thân thiết, nói chuyện không kiêng kỵ, mấy thị đồng cũng thi nhau hỏi nhiều điều, Từ Chương cũng kiên nhẫn giải đáp từng câu.

Cuối cùng, mỉm cười hỏi Hoàng đế: "Quan gia có chỗ nào không hiểu hay không?"

Hoàng đế suy nghĩ một lát: "Trẫm chỉ thấy lạ là dân chúng ở địa phương khác nhau thì sẽ có phản ứng khác nhau.

Hải Châu tăng thuế ba phần mười đã có loạn do chúng dân nổi dậy; Ngô Châu tăng thuế đến năm phần mười, sao không thấy ai có chí khí đứng lên?"

Câu hỏi này rất nhạy và trúng điểm then chốt.

Từ Chương vui mừng: "Bản tính của dân chúng ở mỗi nơi quả thật là có khác.

Hải Châu giáp biển, giao thương nhiều, cũng hải tặc, chúng dân bạo gan, tính tình thẳng thắn; Ngô Châu đất học, cực thịnh văn chương, nhiều cử nhân tú tài xuất sĩ làm quan là từ đất ấy, khi tăng thuế dân thường sẽ tìm đến nương nhờ các sĩ thần, quan lại.

Như thế, chỉ làm lợi cho các thế gia giàu có, vì dù tăng thuế đến năm phần mười mà diện tích đất nộp thuế giảm bảy tám phần mười, thì tổng số thuế thu vào thậm chí còn thấp hơn lúc trước.

Hiện nay triều ta thuế má công bằng, mà đất học Ngô Châu vẫn giữ vững phong độ, mỗi lần có khảo thí đều đứng đầu bảng vàng.

Thị đồng Lý Thụy Nương bên cạnh Quan gia, cũng là người Ngô Châu."

"Khanh là người Ngô Châu?"

Hoàng đế quay sang hỏi Lý Thụy Nương, "Chỗ nào ở Ngô Châu?"

Lý Thụy Nương không dám lơ là, đứng dậy bẩm báo: "Bẩm, thần là người huyện Bình Giang, phủ Tùng Giang, Ngô Châu."

"Phủ Tùng Giang, huyện Bình Giang..."

Hoàng đế hơi nhíu mày, "Nơi đó quả nhiên là cái nôi của văn chương, truyền thống xuất sĩ lâu đời.

Thế, lúc khanh đi học, ở Bình Giang học phủ có ai cùng thời sánh ngang với khanh không?"

Hoàng đế bình thường chuyên tâm vào triều chính và học tập, rất ít nói chuyện phiếm, Lý Thụy Nương gần như run lên vì căng thẳng, lấy lại bình tĩnh liền nói: "Thần không dám lừa dối Quan gia, năm đó mỗi năm thần đi thi đều thua một người, chỉ đứng sau duy nhất một người ấy, chưa từng được đứng đầu."

"Ôi, xét về văn chương ai còn có thể áp đảo Thụy Nương?"

Ngay cả Từ học sĩ cũng tò mò hứng thú, "Như ta biết, khoa thi Hội năm ấy, huyện Bình Giang có ngươi là đầu bảng, chẳng lẽ người đứng trên ngươi không đi thi?

Chẳng lẽ trong dân gian còn có nhân tài ẩn dật?"

"Người đó... luận văn chương, luận khí phách, luận nhân phẩm, đều hơn thần một bậc, chỉ là số phận hẩm hiu."

Lý Thụy Nương có chút buồn bã, "Không hiểu sao, trước kỳ thi Hội người ấy bị bệnh nặng rất lâu, lỡ mất kỳ thi, sau đó việc học cũng bỏ bê hẳn.

Năm ngoái người nhà của thần gửi thư tới còn nhắc đến giờ người đó vẫn chỉ là tú tài, thực sự đáng tiếc vô cùng."

Từ Chương là người trọng sĩ tử, đồng cảm lắm, thở dài hỏi: "Tên người đó là gì?

Ta sẽ viết thư nhắc Học chính ở Ngô Châu lưu ý, nếu quả thật có tài mà sức khỏe không tốt thì sẽ cho bổ sung hiền tài ngoài khoa cử, đến Học viện Ngô Châu dạy học cũng được."

"Bẩm, người đó họ Cố, tên Uyên."

Lý Thụy Nương rút một tờ giấy trắng trên bàn, viết hai chữ 'Cố Uyên' rất đẹp, rồi trình lên cho Hoàng đế và Từ Chương xem.

"Cố Uyên."

Hoàng đế lẩm nhẩm đọc tên này hai lần, khóe miệng vẽ lên một nụ cười, "Thụy Nương tiến cử hiền tài thẳng thắn như thế, quả nhiên có tấm lòng nhân hậu, có phong độ đại thần.

Người này văn chương nhân phẩm đều hơn ngươi, hẳn là một anh tài hiếm có, sau này Từ sư phó và Trịnh tiên sinh cùng chủ trì khoa Loan Nghi, cũng hãy lưu ý một chút đến cái tên này, nếu người đó khỏi bệnh có đến ứng thí thì nhớ chiếu cố đôi chút."

Từ Chương vui vẻ nhận lời, Lý Thụy Nương được hoàng đế khen ngợi cũng vô cùng vui mừng, chỉ có Thôi Thành Tú bấy giờ dẫn tiểu thái giám bưng khay trà vào đã nghe rõ từng lời của Hoàng đế - trong lòng bèn thở dài, nghĩ thầm tâm tư Quan gia thật là quá ư thiên vị rồi!

—— Hết chương 5 ——

Nhà đài bình: Yên tâm hành trình vào được trái tim chị Uyên của Quan gia còn dài dằng dặc lắm, trước hết Quan gia cứ lớn đi đã 🥹
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 6


Dù chưa chính chức thân chính, lại cũng có Loan Nghi ti và Nội Các giúp việc, nhưng Hoàng đế rốt cuộc vẫn là Hoàng đế.

Theo lệ cũ, mỗi ngày, những tấu chương đã được Loan Nghi ti và Nội Các đưa dự thảo và điểm son đều được trình lên Ngụ án.

Sau khi ngự lãm, khi ấy mới gửi lại Nội Các, cho các Trung Thư xá nhân sao chép chỉ dụ vào sổ lưu trữ, rồi chuyển cho Thượng Bảo cục để xin đóng ấn Ngự bảo, bấy giờ mới ban bố xuống cho thiên hạ.Ngồi trên ngai vàng cai quản vạn phương, dù thiên hạ thái bình thịnh trị thì công cán cũng không bao giờ hết.

Lại sắp đến mùa lũ mùa thu, chỉ cần Hoàng đế vắng mặt một ngày là tấu chương trên án đã chất thành đống cao mấy thước.

Ngồi trước án từ giờ Ngọ đến giờ Tuất mới chịu dừng bút dùng bữa, buông đũa rửa tay rồi lại ngồi trước bàn Ngự án bất động như tượng.

Thôi Thành Tú đổi trà mang vào, thấy Quân thượng nhíu mày trước chồng tấu chương cũng không dám nói to, chỉ cẩn thận nhắc nhỏ: "Bẩm, Thái hậu căn dặn, Quan gia dùng bữa xong nhất định phải nghỉ ngơi chốc lát, vừa để dưỡng thần, vừa để thư giãn giải tỏa mệt mỏi, ngồi lâu sẽ hại thân thể."

Hoàng đế không để ý tới, chỉ chau mày tập trung suy nghĩ.

Một một lúc, bỗng nhiên hỏi: "Hôm nay tới phiên vị nào trực?

Ai đang trực ở Loan Nghi ti?"

Lồng ngực Thôi Thành Tú vang tiếng "thình thịch", liếc nhìn nữ quan chưởng án bên cạnh Quân thượng.

Nữ quan trả lời trôi chảy, âm thanh tuôn ra như châu ngọc: "Bẩm, hiện giờ ở Loan Nghi ti có Trịnh đại nhân, ở Nội Các có Ngô đại nhân bộ Hình và Tần đại nhân Ngự Sử đài."

"Đúng người trẫm đang tìm."

Hoàng đế gộp hai bản tấu lại đặt vào hộp tấu sự, ra hiệu cho nữ quan đóng hộp mang đi.

"Đưa hai bản tấu này cho mấy vị đại nhân xem, đồng thời tra lại biểu ghi chép xem mưa nắng hai bờ Trường giang mấy năm qua thế nào, bảo họ bàn luận một chút, trẫm sẽ đợi ở điện Thanh Hòa."

Vì những năm qua các vị đại thần có nhiệm vụ dìu dắt Tân đế quản việc triều chính, những tấu chương Hoàng đế có chỗ chưa tỏ tường hoặc không hài lòng, trước đến nay đều được các nữ quan Loan Nghi ti và các đại thần Nội Các giải thích rõ ràng.

Hoàng đế rất cẩn thận trong việc triều chính, hễ có chỗ nào nghi vấn bất minh, lập tức triệu người đến hỏi.

Vì vậy hai nơi này ngày nào cũng đều cắt cử quan lại trực đêm, phòng khi Hoàng đế truyền triệu.Chính vụ hôm nay dường như rất phức tạp.

Mấy vị đại nhân vừa giải thích vừa tranh luận với Hoàng đế đến tận canh ba.

Khi luận chính, nội thị không được phép nghe, không được phép thấy.

Thôi Thành Tú đứng ngoài cửa điện chờ đến sáng, nguyên một đêm đổi trà mấy lần, một lần đưa điểm tâm, chỉ nghe được một chút ít.

Ngự tiền tuyệt mật, không ai dám nhìn nhiều nghe nhiều hỏi nhiều, nhưng qua nhiều năm nhiều tháng tích lũy công phu, con cáo già chốn nội cung như Thôi Thành Tú cũng mang máng được chút ít.

Cũng một chút ít đó, đủ để Thôi Thành Tú hiểu rằng Tổng đốc Thuỷ vận Trịnh Đình Cơ sắp gặp đại hoạ rồi.Mấy năm nay, thời tiết đúng là không tốt, nhưng nhờ quốc khố dồi dào và cũng vì thương dân, ba năm trước triều đình hạ chỉ miễn thuế ba năm cho chúng dân hai bên bờ Trường giang, lại bỏ ra rất nhiều ngân lượng từ Quốc khố, lệnh cho nha môn Thuỷ vận chỉnh đốn đê điều sông ngòi.

Không ngờ lại giao trứng cho ác, vị Tổng đốc này không những bất tài mà còn tham nhũng.

Hành vi thiếu trách nhiệm của hắn bị Ngự sử cải trang đi tuần phát hiện ra và hạch tội không nói, lại còn dám to gan lớn mật nảy sinh âm mưu giết người diệt khẩu, sai người mai phục bên sông giả làm thuỷ phỉ, chặn giết Ngự sử trên đường hồi kinh.

Việc này tuy đã đến tai Quân thượng, chứng cứ rõ ràng, nhưng nội tình lại liên đới rất rộng.

Cách xử trí mà Loan Nghi ti và Nội Các đề cử lên Hoàng đế cũng có chỗ bất đồng.

Những năm gần đây Hoàng đế càng lúc càng có chủ kiến hơn, rất quyết đoán, bèn truyền cả lên ngự lãm một lượt.Sau khi cả hai bên đều đã tỏ tường giải thích rõ đầu đuôi, Hoàng đế nói: "Làm càn tới như vậy, thật hiếm thấy.

Trẫm thấy không cần đợi đến tháng tám, hãy tra xét khẩn trương từ ngay bây giờ đi.

Ban đầu trẫm cũng nghĩ không nên bứt dây động rừng mà cứ đợi sau mùa lũ thu mới hành động, nhưng giờ xem ra nha môn thuỷ vận và thuỷ doanh quả thật đã cấu kết với nhau!

Ra tay tàn độc như vậy, cũng không mảy may để tâm đến sinh tử của chúng dân.

Bây giờ lập tức cho người đi kiểm tra đê điều, may ra còn có thể tránh được cảnh mất bò mới lo làm chuồng."

Hoàng đế vốn cẩn trọng trong câu chữ, tính tình kiệm lời lại chưa thân chính, bình thường của rất ít khi nói dài dòng với bề tôi.

Hôm nay nói đến như vậy, rõ ràng là vô cùng tức giận.

Loan Nghi ti và Ngự Sử đài cũng đều theo chủ trương nghiêm tra ngay, đều rất vui mừng.

Tả Đô Ngự sử Tần Hưởng nói: "Bẩm, Ngự Sử đài đã lệnh cho Tuần án Ngự sử của các châu phối hợp với các huyện lệnh dọc sông để lập tức kiểm tra các đoạn đê điều.

Nay Trịnh Đình Cơ bị bắt, bớt đi một tầng cản trở, chắc tra xét sẽ dễ hơn."

"Vụ án này liên đới sâu rất, phải tách từng việc ra mới xử trí được."

Chưởng ấn Loan Nghi ti Trịnh Gia nói.

"Nghiêm tra dấu hiệu tham ô ở Thuỷ vận, chỉnh đốn thủy doanh, kiểm tra đê điều, mỗi việc chỉ định riêng ra người chịu trách nhiệm cuối cùng, kết quả thế nào sau cùng mới tổng hợp lại.

Cần phải khẩn trương, kẻo mùa lũ thu sắp tới""Còn một việc nữa."

Thượng thư Bộ Hình Ngô Giang lên tiếng.

"Lệ thường, các kỳ thi lớn đều có tú tài, cử nhân đi thuyền chở hàng xuôi dòng vào kinh, không ngoại trừ khả năng cũng có những người vốn dĩ dính líu đến việc kinh doanh thủy vận, có thể cũng sẽ có người có liên quan đến quá trình điều tra.

Dù thực sự chỉ là đi thuyền quá giang chứ không dính líu, nhưng chứng cứ trình lên để xác nhận ngoại phạm cũng tốn nhiều thời gian.

Vậy những người nhập kinh ứng thí này có được áp dụng lệ cũ, miễn truyền không?"

"Không miễn."

Hoàng đế lạnh lùng.

"Trẫm biết tật xấu của đám cử nhân hiện nay, nhiều kẻ tìm đường nhập kinh thật sớm thực ra không phải để yên tâm sôi kinh nấu sử, mà là để tìm cửa hối lộ chạy chọt.

Nghe mật báo, cũng có những kẻ người để tránh thuế mà đã thuê thuyền chở hàng công vụ của phủ nha để chở đồ tư vào kinh buôn bán.

Đương nhiên, trẫm không trách những người xuôi thuyền quá giang để cho tiết kiệm, sĩ tử vốn nghèo.

Những người lợi dụng điều đó để trục tư lợi, dù có tài hoa đến đâu thì sau này cũng có ích gì cho triều đình đây?

Những người nhập kinh ứng thí khoa cử năm nay, bất kỳ ai có liên quan cũng đều không được phép bỏ qua — sớm ngày phát giác, may ra triều đình còn đỡ tốn bổng lộc."

"Đúng thực là vậy."

Tả Đô Ngự sử Tần Hưởng vuốt râu cười.

"Nếu cứ như Quan gia nói, ngày sau chúng thần cũng đỡ vất vả."

"Còn một việc nữa."

Khi mọi người hành lễ định lui, Hoàng đế bỗng nhiên ngăn lại.

"Trẫm biết trong vụ án này còn có một điều kiêng kỵ mà các khanh không tiện nói ra.

Trẫm cần Nội Các các bộ truyền dụ cho trên dưới quần thần: Nếu tông thất có liên quan, tội càng nặng thêm một bậc.

Nên nhớ, dù quốc pháp tha, gia pháp tổ tông cũng không tha!"

Câu này quả thật đúng trọng tâm.

Hoàng đế vốn dĩ là Trưởng nữ của Cung vương, từ khi sinh ra đã được chọn làm Hoàng nữ, nhập cung được Tiên đế nuôi dưỡng chăm sóc trong cung, năm tuổi được lập làm Trữ quân kế vị.

Cung vương dâng tấu xin lui về đất phong, cả nhà dời đến Vân Châu ẩn cư, quan viên bình thường không được gặp bao giờ, lại chỉ để lại trưởng tử ở kinh thành, các ngày lễ tết vào triều hành lễ cho đúng đạo nhà Đế vương.

Người con trai này của Cung Vương, bình thường không bước ra khỏi phủ một bước.

Bởi thế, không có chủ nhân áp chế, tiểu nhân mới lộng hành.

Cung vương phi Trịnh thị là trưởng tỷ của Trịnh Đình Cơ, trước đây được Thái hậu và Hoàng đế quý mến, bởi thế mới được tin tưởng cho cái chức Tổng đốc Thuỷ vận.

Hoàng đế lại sắp thân chính, nghĩ đến đó, bề tôi cũng phải có chút kiêng dè.

Giờ Hoàng đế đã cho chỉ dụ, ai nấy đều yên tâm mà thẳng tay làm việc.Bề tôi yên tâm, Hoàng đế lại có chút u uất, về tẩm cung cũng mãi không ngủ được, bèn lại ngồi dậy đọc sách.

Thấy canh năm sắp hết, Quân thượng lại thức trắng cả đêm, Thôi Thành Tú bèn đích thân tới Ngự thiện phòng, khi trở về thấy dẫn một tiểu thái giám bưng canh an thần đến trước bàn sách: "Bẩm, nương nương có chỉ sáng nay người phải lễ Phật, Quan gia không cần di giá thỉnh an.

Hôm nay là ngày nghỉ, các đại nhân chắc chắn sẽ không đến, Quan gia đã thức cả đêm rồi, xin người uống canh an thần rồi nghỉ ngơi."

Hoàng đế đang phiền muộn thì chớ, bỏ sách xuống cho hắn ánh mắt lạnh: "Ngươi lại nhiều chuyện với Thái hậu?"

"Làm sao nô dài dám!"

Thôi Thành Tú vội quỳ xuống biện bạch.

"Nô tài xuống Ngự thiện phòng sai nấu canh cho Quan gia, trùng hợp gặp được Thôi Hỉ ở Nhân Thọ cung qua lấy canh sâm của lão nương nương mà thôi, sau đó mới được nghe lão nương nương truyền chỉ đến!

Quan gia minh giám!"

Thấy hoàng đế gật đầu rồi lại cầm sách lên,

trước hết hắn ra hiệu cho thái giám cung nữ hầu cận lui ra hết, mới bước lên nói nhỏ: "Quan gia, nô tài nghe được một chuyện nữa.

Tùy Vương điện hạ và Dụ Vương điện hạ... dường như có chút bất hòa."

"Dụ Vương lại gây chuyện?"

Dụ vương là vị tôn tử chơi bời trác táng có tiếng của tông thất, tuy không tạo sóng gió gì to tát nhưng luôn luôn gây chuyện vặt vãnh, Hoàng đế vốn không ưa.

Quả nhiên, nghe xong liền nhíu mày, "Lần này là chuyện gì?"

"Không phải đối đầu trực tiếp."

Thôi Thành Tú nói.

"Gần đây Dụ Vương điện hạ tin theo đạo sĩ ở Xung Vân quán giảng phong thủy, muốn xây một biệt viện để làm chỗ phụng thờ, thành thử ra tìm mua nhà khắp kinh thành.

Vốn là nhìn trúng một nhà dân, cũng thương lượng xong giá cả rồi, không ngờ nhà đó trước ấy vừa mới cho tú tài nhập kinh ứng thí đến thuê.

Người đó tham tiền, Dụ Vương phủ trả cao hơn giá cho thuê là cái chắc, bèn hủy ước rồi bắt mấy người kia dọn ra.

Mà cũng thật trùng hợp, mấy người đó chính là hội của cô nương họ Cố ngày đó.

Tôn Đắc Tú phụng mệnh Tùy Vương điện hạ tới đưa thiếp, vừa lúc gặp nhau ở đó, thế là tranh cãi vài câu."

"Chỉ cần không phải hại dân lành hay cưỡng đoạt đất, còn lại thuận mua vừa bán thôi."

Hoàng đế nói.

"Chỗ đó phong thủy tốt tới vậy sao?

Ban đầu mấy người họ tới đó thuê, sau đó Dụ Vương lại nhìn trúng?"

"Nô tài nghe Tôn Đắc Tú nói nơi đó cũng không phải tốt lành gì, đối diện Tuyên Vũ môn, lại gần Xung Vân quán.

Trong tay Dự Vương điện hạ bây giờ không còn có nhiều ngân lượng lắm, Dụ vương phi là người tay hòm chìa khoá thì rõ không thể để tên đạo sĩ có lừa phỉnh rồi, thế là hạ nhân Dụ Vương phủ phụng mệnh chủ tử cũng chỉ tìm một nơi cho có mà thôi.

Mang tiếng là tìm đất mà chẳng thèm tìm trong nội đô kinh thành, lại đi tìm ở nơi hẻo lánh như thế, đã vậy chủ đất lại còn là một tay bất hảo có tiếng.

Đã tính như thế rồi, ai mà ngờ chỗ đó mà lại cũng có sĩ tử dừng chân?"

Thấy ánh mắt Hoàng đế vẫn đang dán vào sách nhưng cũng không quở trách mình lắm lời, hắn liều mạng tiếp tục lải nhải.

"Nô tài còn nghe Tôn Đắc Tú nói mấy cô nương đó học hành giỏi giang như vậy mà nơi ở thật quá đỗi tồi tàn.

Trong phòng chỉ có hai cái giường cũ, một cái bàn nát, một cái ghế tróc, không có lấy một món đồ nào khác.

Còn hành lý cũng đơn sơ, tổng cộng chỉ có một rương tre đựng sách, cầm lên thấy nhẹ tênh.

Tên chủ nhà cũng rất hung dữ, ban đầu Tôn Đắc Tú muốn ra mặt trừng trị, nhưng sau nghĩ lại, nghĩ chủ nhà tham tiền ác độc như vậy, sau này nếu hắn sinh lòng trả thù thì chẳng phải là hại cho mấy cô nương hay sao?

Thế là Tôn Đắc Tú định mời mấy cô nương ấy đến trú tạm trong chùa Báo Quốc, cũng tiện bàn luận văn chương với Tuỳ Vương điện hạ, nhưng mấy cô nương khách sáo từ chối.

Cuối cùng họ quyết định tạm trú ở am Từ Thọ, đợi tới khi tìm được chỗ rồi mới dọn đi.

Hiện giờ khắp kinh thành đâu đâu cũng có sĩ tử nhập kinh ứng thí, đương nhiên không dễ tìm chỗ ở, nghe nói họ chạy vạy khắp nơi mà không tìm được chỗ nào.Hoàng đế mím môi, bỗng bỏ sách xuống, nói: "Ngươi lắm lời quá thể, làm trẫm đọc sách cũng không yên."

Nói xong, uống hết chén canh an thần trong một hơi, lại nói.

"Chuẩn bị đi, chiều tới sẽ xuất cung một chuyến."

Thôi Thành Tú mừng rỡ, vâng dạ lạy một cái mới đi ra.

Ra khỏi cửa điện hắn vỗ tay nhẹ một cái, mấy nội thị điển thiếp ngoài cửa lần lượt đi vào hầu hạ Hoàng đế thay áo nghỉ ngơi.

Qua chừng một nén hương, bọn họ lại lui ra, tay ra hiệu với Thôi Thành Tú, ý báo Quân thượng đã ngủ.Thôi Thành Tú không dám đi xa, bèn vào Nội quan phòng dặn dò Thôi Tam Thuận vài câu, rồi ngả lưng trên giường mà chợp mắt.

Thoáng chốc, đã ngủ gần hai canh giờ.

Hắn vội bật dậy chỉnh đốn y phục, lại thấy Tư y nữ quan tư bưng từng hộp gỗ đi ngang qua , liền hiểu vừa kịp lúc Hoàng đế đã rửa mặt xong.

Thôi Thành Tú tức khắc truyền điểm tâm, quả nhiên Hoàng đế dùng bữa xong liền truyền gọi hắn vào điện."

Đã chuẩn bị xong chưa?"

"Bẩm, đã xong."

Thôi Thành Tú thấy Quân thượng đã đã thay thường phục, vui vẻ trả lời.

"Quan gia xuất cung, có cần báo với Tuỳ Vương điện hạ một tiếng không?

Hay là... sai người đến am Từ Thọ sắp xếp trước?"

Không ngờ Hoàng đế lại lắc đầu: "Không cần.

Chỉ cần truyền Hứa Hoan cùng trẫm đi chùa Báo Quốc.

Hai người các ngươi cùng nhau xem xét một chút xem chùa ngoài chùa có gì không ổn hay không.

Mấy ngày nữa trẫm đưa Thái hậu xuất cung, nhất định phải khiến Thái hậu hài lòng."

Vừa nghe, Thôi Thành Tú thấy thật ngạc nhiên, tới khi bước chân ra khỏi cửa son rồi bỗng mới hiểu ra: Am Từ Thọ và chùa Báo Quốc chỉ cách nhau có một bức tường, Hoàng đế làm xong chính sự ắt sẽ tới gặp Cố cô nương!Chỉ là, không ngờ tới Hoàng đế dường như thật sự không hề nghĩ tới am Từ Thọ.Hoàng đế vào chùa Báo Quốc thắp hương, thắp hương xong lại thong thả ngồi ôn chuyện cũ năm xưa về Tiên đế cùng với cùng phương trượng Liễu Nhàn.

Thấy hai người trò chuyện vui vẻ liên miên không ngớt, Hứa Hoan cũng sinh sốt ruột.

Thôi Thành Tú đứng đợi thêm một chút, lại thêm một chút, đợi mà chẳng thấy Hoàng đế có ý đứng dậy, bấy giờ mới bực bội lẳng lặng đi theo Hứa Hoan đi ra cửa, vừa đi vừa nghi hoặc: Lẽ nào mình đã đoán sai?Hoàng đế và phương trượng đàm luận thật lâu về trà đạo, nói đủ thứ trên trời dưới biển xong mới chịu đứng dậy ra khỏi phòng khách.

Thôi Tam Thuận vội chạy tới theo sát gót Hoàng đế, lại thấy Hoàng đế đi thẳng một đường bước nhanh về phía hậu viện.

Vào tới hậu viện mới dừng bước đứng lại nhìn quanh, nhìn quanh đâu đấy rồi lại bước về phía dãy tường thấp phía tây của viện.

Thấy chủ tử đứng nhìn bức tường, Thôi Tam Thuận run rẩy cả tay chân, lập tức chạy lên chắn trước mặt chủ tử, quỳ sụp: "Thập Nhất tiểu thư, người muốn ra am Từ Thọ thì cứ đi từ cửa Tây ra là được, hà tất phải mạo hiểm thế này?"

Nhưng Hoàng đế không để ý đến hắn, tránh sang một bước, nhìn bức tường thấp trước mặt một lúc, rồi không nói không rằng mà dúi cái quạt vào tay Thôi Tam Thuận, còn mình thì xách vạt áo cài vào đai lưng."

Quan... quan...

Thập Nhất tiểu thư!"

Thôi Tam Thuận hoảng sắp khóc.

"Lão phu nhân ở nhà mà biết được sẽ lột da nô tài!"

"Nhỏ cái miệng!

Ta với ngươi lẳng lặng đi qua bên ấy ngồi với họ một lúc rồi về, sẽ không ai biết được."

Hoàng đế quay lại liếc hắn, mắt sắc lẹm.

"Ngươi mà còn lắm lời nhiều chuyện thì không cần đợi người khác lột da đâu, ta sẽ lấy đầu ngươi trước!"

Đây rõ ràng là đe doạ trắng trợn.

Thôi Tam Thuận mếu máo, gần như nằm rạp xuống đất lí nhí khẩn cầu: "Quan gia ơi quan gia, nô tài có mười cái đầu cũng không chịu nổi!

Xin Quan gia thương xót, kia có cửa tây..."

Hoàng đế cười cười: "Ta mà đi từ cửa tây ra thì chưa tới lượt ngươi nhiều chuyện, người nào cần biết đều đã biết hết cả rồi."

Thấy Thôi Tam Thuận phát hoảng, Hoàng đế lạt mềm buộc chặt, lại dịu giọng nói: "Đây cũng không phải chuyện gì lớn, chỉ là chiều ý ta cho ta vui chơi một lát mà thôi.

Thế ngươi đợi ở đây, hay là cùng ta đi?"

Thôi Tam Thuận ngẩng đầu với một vẻ mặt quyết tâm tới khôi hài, ước lượng độ cao của bức tường một chút rồi đứng dậy nói với Hoàng đế: "Để nô tài trèo trước dò đường:" Nói xong, khệ nệ khiêng một tảng đá lớn từ góc viện ra kê sát chân tường, trèo lên, hai tay đu lên còn hai chân đạp đạp, thế là bổng lên rồi nhảy 'phịch' một cái.

Trong am rất yên tĩnh, tiếng kim rơi cũng rõ, mà tiếng chân hắn chạm đất thì hỡi ôi là vang và truyền rất xa!

Thôi Tam Thuận liền nhìn quanh bốn phía, thấy không ai đến, thầm kêu may mắn, thế là đè giọng nói với phía bên kia tường: "Bên này không có ai cả, nô tài đợi ở đây!"

Lời vừa dứt, Hoàng đế đã trèo lên đu người lên tường, động tác nhanh nhẹn nhảy xuống một cái - chỉ là chân vừa chạm đất còn chưa kịp đứng vững thì ba vị cô nương đã như cơn gió cuốn từ đâu tới, đứng sừng sững trước mặt hai người, mỗi người lăm lăm một cây sào trong tay."

Ôi, mấy vị cô nương vẫn khoẻ chứ?

Chuyện này..."

Thấy Hứa Tịch trợn tròn đôi mắt mà nhìn, Thôi Tam Thuận cười mấy tiếng khô khốc, còn đang ấp úng đã thấy Hoàng đế rất ư tự nhiên quay phắt sang quở trách mình: "Đã tìm thấy cây quạt của ta chưa?

Lâu như vậy còn không thấy mặt mũi ngươi đâu, thì ra là ở đây trốn việc!"

"Nô tài làm sao lại dám trốn việc!

Chỉ tại nô tài đầu óc ngu xuẩn, mắt mũi mù mờ, tìm dưới đất rất lâu mà chẳng thấy đâu, thì ra quạt của tiểu thư mắc trên ngọn cây."

Thôi Tam Thuận bừng tỉnh, vội vàng đưa cái quạt lại cho Hoàng đế.

Trong lòng lại tự nhủ, chẳng trách sư phụ vẫn thường nói Quan gia anh minh, còn trẻ mà tâm tư biết tính toán hơn người ta phải ba bảy phần.

Chao ôi, ngay cả tới trèo tường cũng chuẩn bị sẵn cớ!

——— Hết chương 6 ———

Nhà đài bình: Quan gia là một cá thể tâm cơ vượt trội 🙂)))
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 7


Người có nhan sắc sẽ có một đặc quyền thế này: bất kể là nói lời gì thì nghe cũng dễ lọt tai hơn người thường.

Hoàng đế sinh ra đã được trời ban gương mặt đẹp đẽ, lại thêm từ nhỏ được các nhũ mẫu chăm sóc, được cái Thái phó dạy dỗ, thành ra phong phạm đĩnh đạc, cử chỉ chuẩn mực, nên dù có nói láo cũng mang một vẻ nói láo đàng hoàng và đáng tin hơn người thường nhiều lắm.

Quân thượng nói láo mà lẽ thẳng khí hùng.Hoàng đế và Thôi Tam Thuận diễn xuất ăn ý quá, chẳng có chỗ nào khó xử mất tự nhiên, thế là, bên ngượng ngùng mất tự nhiên lại là bên Cố Uyên và mấy cô nương trẻ tuổi.

Bèn dựng cây sào bên tường, hỏi: "Thập Nhất tiểu thư dạo này vẫn khỏe chứ?

Cớ sao mà lại đến nơi này?"

Hoàng đế phủi phủi vạt áo, điềm nhiên chỉ tay về phía Tàng Kinh lâu phía sau bức tường: "Ta đang đọc kinh trên lầu, bỗng hứng chí cầm quạt khua chim sẻ ngoài cửa sổ, lỡ tay đánh rơi quạt xuống hậu viện này mà tìm mãi không thấy.

Hoá ra là gió thổi quạt bay tới đây.

Mà mấy cô nương ở đây đã quen chưa?"

"Cũng nhờ hai vị tiểu thư Lâm gia nhiệt tình giúp đỡ, chúng tôi cảm kích vô cùng."

Cố Uyên và mọi người đều chân thành cảm ơn, rồi mời Hoàng đế vào trong phòng nói chuyện.Nghe tiếng động bất thường nên mấy người vội vơ sào chạy vội ra, đương nhiên chưa kịp dọn dẹp gì.

Trên chiếc bàn lớn giữa gian chính, bút nghiên giấy sách vương vãi trải ra khắp nơi.

Hứa Tịch đưa mắt thấy cô nương trẻ tuổi đang nhìn bàn mà chau mày, cũng thấy ngại ngùng, vội chạy tới thu dọn: "Ta với A Thanh đang cùng bình một bộ sách cũ, thật là ngại quá, xin cô nương thứ lỗi!"

"Không sao.

Những khi các tiên sinh tới nhà cùng ta bình sách, bàn ghế của ta cũng thường giống như vậy."

Đoạn, tiện tay cầm lên một tập văn Bát cổ dang dở chưa chép xong, thoáng nhìn rồi nói với Cố Uyên: "Với tài năng của cô nương, đáng lẽ ra nên tự ra câu đề rồi tự viết lời bình, cớ sao lại học theo thói tầm chương trích cú?

Chẳng lẽ đợi nước đến chân mới nhảy?"

"Đây không phải sách để học."

Cố Uyên lắc đầu, "Đây là bản chép thuê cho tiệm sách."

Không như những kẻ rao giảng đạo lý thánh hiền thường khuyên răn phải chuyên tâm khoa cử chứ chớ mà vì việc nhỏ mất việc lớn, Hoàng đế chỉ gật đầu, đặt tập sách xuống.

Lại quay vào phòng Đông ngắm nghía một lượt, bấy giờ mới đứng trước giường, hỏi Cố Uyên: "Cô nương ngủ ở đây à?"

Gia cảnh cả ba người đều không khá giả, hành lý cả ba đều đơn sơ.

Trên giường, nơi Cố Uyên nằm, chỉ có một chiếc chăn mỏng đã giặt đến bạc màu, gấp gọn gàng đặt ở đầu giường, vuông vức tới nổi bật.

Thấy nơi đầu mày của cô nương trẻ tuổi càng chau chặt lại khi nhìn vào giường, Cố Uyên tưởng nàng đang thầm chê bai.

Vốn cũng biết nhiều công tử tiểu thư thế gia không bao giờ có thể hiểu được cái khổ của dân nghèo, Cố Uyên cũng chẳng thấy mất mặt hay phật ý, chỉ cười nói thản nhiên: "Nhà nghèo thô thiển, để Thập Nhất cô nương chê cười rồi."

Hoàng đế vẫn chỉ im lặng, ra ngồi trước bàn, cầm một tập văn chép lên lật giở, xem mà không nói gì.

Việc tự tiện vào phòng nhìn quanh thực ra đã là một hành động thất lễ, giờ lại ngồi đó im lặng như tờ, thật khiến người khác tưởng đang tỏ ý khinh thường, cũng khiến người xung quanh bỗng thấy khó xử một cách lạ lùng.

Trong phòng bỗng im bặt.

Hứa Tịch cắn môi, nói nhỏ với Cố Uyên: "Ta đi giúp Lý tỷ pha trà nhé."

Rồi nói mấy câu khách sáo cáo lỗi với người đang ngồi đó nhìn sách, thấy người đó vẫn im lặng làm thinh, mặt cô nàng đỏ bừng, liếc nhìn Cố Uyên một cái, rồi nén giận bước ra.Cố Uyên âm thầm lắc đầu, mà mặt không lộ vẻ gì.

Thấy người đó dường như không muốn nói chuyện, nàng liền mỉm cười, ngồi xuống cầm bút, tiếp tục chép sách.

Bỗng, bên tai nghe tiếng hỏi: "Ta vừa tự tiện vào phòng ngủ của cô nương, như thế có thất lễ không?"

Cố Uyên ngạc nhiên, ngẩng đầu lên thấy khuôn mặt trẻ măng đang nhìn mình rất nghiêm túc, không hề có chút vẻ mỉa mai, liền đáp: "Thập Nhất tiểu thư là ân nhân của chúng tôi, như thế cũng không tính mạo phạm."

Hoàng đế nghe lời Thôi Thành Tú kể lể, trước khi bước chân vào đây đã tự có tưởng tượng trong đầu, vừa vào cửa đã thấy bàn cũ ghế sờn thật cay mắt, vào tới phòng ngủ thấy chăn đệm của Cố Uyên cũ kĩ sờn phai thì trong lòng còn càng thấy khó chịu gấp bội.

Ra đây, ngồi xuống, mới thấy hành động này nếu như là của Quân thượng thăm nhà thần tử thì sẽ là ân điển, nhưng người thường đối với người thường thì chính là thất lễ.

Nghe Cố Uyên ý tại ngôn ngoại, phê bình kín đáo, trong lòng lại càng là hối hận.Nhưng ngoài mặt mặt vẫn bình thản, lại hỏi: "Mỗi một tập cô nương chép thế này bán được bao nhiêu tiền?"

Cố Uyên thở dài trong lòng, mặt vẫn thản nhiên: "Được ba trăm đồng."

Hoàng đế lại nhíu mày, nghĩ một lát rồi nói: "Gia mẫu thích đọc kinh Phật, ta muốn nhờ cô nương chép một bộ kinh để dâng lên trước Phật, không biết khi nào thì cô rảnh?"

Cố Uyên cười khổ trong lòng, cúi đầu ngẫm nghĩ một chút rồi nói: "Tiểu thư có ơn với chúng tôi, sao lại khách khí như vậy?

Không biết lệnh đường thường đọc kinh nào, thích giấy mực gì, khi nào dâng cúng?

Nơi đây là am đường, rất tiện tra cứu kinh thư, tiểu thư cần gì, cứ nói - chỉ có điều," Nàng mỉm cười, nhìn người trước mắt, "Nếu tiểu thư muốn trả tiền công, Cố Uyên sẽ không nhận lời."

Miệng vàng lời ngọc của Quân thượng, hễ Quân ban thưởng, thì thần dù sợ hãi, hay cảm kích, hay lãnh đạm, cũng đều phải nhận.

Lần đầu tiên trong đời bị từ chối, Hoàng đế vừa bực, vừa buồn, vừa lúng túng.

May thay, rèn từ nhỏ đã ra được cái công phu trong lòng càng loạn ngoài mặt càng tĩnh, bèn ngẫm nghĩ rồi lựa lời: "Người có tài như cô nương, sau này ắt sẽ hiển đạt, quan lộ rộng mở.

Nay ta có thiện ý kết một mối lương duyên, không có ý coi thường thương hại, cô nương hà tất phải chuốc khổ như vậy?"

"Tiểu thư là nhân trung long phượng, lại có ơn với chúng tôi, theo lý, lẽ ra không nên từ chối."

Cố Uyên lắc đầu, "Nhưng kẻ sĩ chúng tôi đây chỉ cầu an mà thôi, sống yên phận không thẹn với lương tâm, cần no ấm là đủ, thẹn thay không có phận nhận phúc."

"Không có phận nhận phúc?"

Hoàng đế không đồng tình, "Trong kinh thành này có bao kẻ chẳng tài cán gì, không so được với cô nương mà vẫn ngày qua ngày ăn ngon ngủ yên, lẽ nào bọn họ đều tự thấy thẹn mà chết?"

"Do kiệm nhập xa dịch, do xa nhập kiệm nan."

Cố Uyên nói, "Nhờ hảo ý của tiểu thư mà chúng tôi mới được ở nơi khang trang rộng rãi thế này, so ra, đã hơn nhà mình nhiều lắm.

Nếu giờ quen được chiều chuộng, chỉ e một mai thi trượt về quê..."

"Sao cô lại trượt?"

Hoàng đế thấy người này tưởng nhu hoà thì ra ngoan cố, mà mình lại không thể nán lại lâu, giọng cũng gấp lên rõ, "Khoa này nhất định sẽ thi đỗ!"

"Tiểu thư biết xem tướng đoán mệnh sao?"

Cố Uyên thấy khuôn mặt trẻ trung đó nghiêm nghị quá thể, như rõ là thật lòng lo cho mình, bỗng cảm thấy thiếu nữ trước mặt đáng yêu vô cùng.

Vốn quen làm chị cả, nhất thời nàng quên cả khách sáo và mực thước, đưa tay xoa xoa cánh tay Hoàng đế.

"Thánh nhân nói: Quân tử, ăn uống không cầu no đủ, ở không cầu dễ chịu, đối với công việc cần lao mẫn tiệp, nói lời cẩn thận thận trọng, đến gần người có đạo đức mà tự sửa bản thân, như thế có thể nói là hiếu học vậy.

Ta không siêng năng, không thận trọng, vẫnq khờ dại, nhưng tự vấn bản thân thì thấy hai câu đầu ta còn làm được.

Thập Nhất tiểu thư cũng không phải hạng người đánh giá người khác qua miếng cơm manh áo, lương duyên của chúng ta vốn dĩ bắt đầu từ văn chương, vậy cớ gì phải học thói tầm thường?"

Hoàng đế rũ mi, không nói.Thân phụ của Tuỳ Vương năm xưa ưa văn chương phong lưu, trong phủ thường xuyên đãi nhiều học giả uyên bác, nên Tùy Vương nay mới có vốn liếng thơ ca, nền tảng gia học, văn chương phong lưu.

Mà Hoàng đế từ nhỏ đã được Tiên đế ra sức bồi dưỡng kiến thức chính trị quân sự, trị quốc an dân, các Thái phó trong trong cung sợ Trữ quân ham phong hoa tuyết nguyệt, lâu ngày sinh mê muội đầu óc, nên cũng chỉ dạy thơ văn hội họa cho qua loa, tập trung cả vào quốc kế dân sinh.

Hoàng đế cũng chuyên tâm học thuật trị quốc, rành rẽ tấu chương, nhưng vốn văn chương hạn chế.Ngày hôm đó, vốn dĩ vào quán trà nhỏ không phải là để nói chuyện với Cố Uyên.

Ban đầu, tình cờ nghe được Lý Thanh bàn luận về mấy vị đại thần trong triều, thấy tò mò và cũng thú vị, nên mới ngồi xuống hòng tận tai nghe thiên hạ bình phẩm về triều đình.

Không ngờ, lại gặp Cố Uyên.

Hoàng đế chăm chú để ý, chỉ thầm thấy trong lòng - rằng người này thật là một người tốt đẹp không để đâu cho hết, không lời nào tả xiết, tướng mạo đẹp, cử chỉ đẹp, tư duy đẹp, văn chương đẹp, lại biết quan tâm săn sóc người trên người dưới, đủ thấy tâm địa cũng đẹp.

Chỉ gặp một lần thôi đã thấy quý mến chưa từng có, vậy là trong nội tâm non trẻ ấy bỗng có một loại xúc động mạnh mẽ, mạnh đến mức muốn đem những gì tốt đẹp ban cho người xứng đáng này.

Thiên tử sở hữu tứ hải, việc cho một người cơm ngon áo đẹp, vinh hoa phú quý, chẳng phải dễ hơn trở bàn tay?

Ai ngờ, Cố Uyên không màng, chỉ trọng thứ mà Hoàng đế không giỏi: văn chương.Lần này Hoàng đế thật sự thất bại rồi, cắn môi do dự mãi mới nói: "Trong nhà ta..."

Bỗng thấy giải thích thế nào nghe cũng như đang đổ lỗi, bèn nói thẳng: "Thực ra ta không bằng a tỷ, không giỏi văn chương."

Cố Uyên ngạc nhiên.

Triều Tề trọng khoa cử, ngoài thi văn võ còn có kỳ Tước khảo, là thi để xét có phong tước cho tông thất công thần hay không.

Phàm chưa thi đạt thì không được kế thừa tước vị, nếu có tước mà thi không đạt thì sẽ bị giáng bậc, chỉ ai giữ chức quan trong triều mới được miễn.

Hai vị tiểu thư Lâm gia có cử chỉ không hề tầm thường, càng không phải hạng trọc phú, lại rõ ràng hiểu biết sâu sắc về triều chính.

Lý Cửu Nương bình văn rất tinh tế, Cố Uyên vẫn đinh ninh là hai thiên kim nhà quý tộc nào.

Có ai ngờ Thập Nhất tiểu thư trông thông minh linh lợi như thế mà lại kém văn chương?Hoàng đế thấy nàng ngạc nhiên ra mặt thì thần sắc càng thêm bối rối.

Vì e sợ buổi thái bình thịnh trị sẽ khiến các tôn tử tông thất lơ là tu dưỡng mà chỉ lo ăn chơi hưởng lộc, các đời đều cực kỳ nghiêm khắc với kỳ Tước khảo.

Chính Hoàng đế cũng đã nhiều lần hạ chỉ răn dạy, không ngờ hôm nay lại tự vả mặt mình.

Không biết được liệu Cố Uyên có nghĩ mình là kẻ bất tài hay không, chỉ nói: "Các tiên sinh dạy ta quản gia nghiệp, ít dạy ta văn chương."

Cố Uyên thấy vẻ mặt ủ rũ của người trẻ có phần đáng thương, nghĩ đến có lẽ quý tộc thì cũng phải gò mình trong thâm cung sâu như biển, thâm trạch tranh đấu, liền nhẹ giọng: "Thập Nhất tiểu thư nay đã mười bốn mười lăm tuổi, tới tháng mười năm sau hẳn cũng phải ứng thí như chúng tôi.

Dù hơi trễ, nhưng cũng nên tranh thủ thời gian ôn lại văn chương.

Nếu không chê, ta sẽ ra vài câu đề, tiểu thư mang về viết rồi ta sẽ bình giải giúp nhé?"

Thoạt nghĩ có lí do này thì sau này cũng có lý do gặp nhau thường xuyên, Hoàng đế không cả nghĩ ngợi liền đáp ngay: "Cầu còn chẳng được!"

Giọng nói đó sang sảng và có một sức nặng kỳ lạ, khiến Cố Uyên cũng nhất thời giật mình.

Vừa lúc Thôi Tam Thuận bưng trà Dương Tiễn vừa pha bước vào, nghe thấy lời ấy mà run tay suýt đánh rơi khay trà - trong cung ai ai cũng thuộc giai thoại của Hoàng đế hồi nhỏ: Năm xưa, Tiên đế dò chí Quân vương của các hoàng tôn bằng cách cho chọn vật phẩm, đưa ngọc tỷ cho các Hoàng tôn để thử ý.

Các tôn tử đều hoặc can gián hoặc từ chối, chỉ Hoàng đế lúc đó nhỏ tuổi nhất, mới năm tuổi mà đã lễ phép dâng hai tay nhận hộp ngọc tỷ, nghiêm túc quỳ trước Tiên đế, nói: "Hoàng tổ mẫu tuổi cao, các huynh lại có nỗi khổ riêng.

Giúp đỡ tổ mẫu phân ưu chính là điều Nguyên Gia cầu còn không được!"

Tiên đế nghe, cảm động sâu sắc với lòng này, ôm đứa trẻ vào lòng, chẳng lâu sau liền lập làm Hoàng thái tôn.

Chuyện chọn Trữ quân đã trở thành giai thoại, một câu định đoạt giang sơn.Câu nói thể hiện rõ ý đồ của mình như thế, với tính cẩn trọng của Hoàng đế thì sẽ không bao giờ tùy tiện nhắc lại.

Vậy mà giờ lại buột miệng đáp lời Cố Uyên.

Thôi Tam Thuận bưng khay trà, thấy Hoàng đế vui mừng ra mặt, trong lòng thầm than: với tính cách quyết đoán của Quan gia, giờ mà thân thiết với Cố cô nương như thế, lỡ sau này noi Thái Tổ hay Bắc Vương gây chuyện, đầu mình còn giữ được hay chăng?

—— Hết chương 7 ——

Nhà đài bình: nội tâm chị Uyên — "em ơi em đừng cờ rớt chị, chị không có não iêu đương, nhà chị nghèo, chị chỉ muốn học để kiếm tiền, em để chị yên 😞"
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 8


Liếc nhìn bóng nắng đổ dưới cửa sổ, Thôi Tam Thuận khom người dâng khay trà lên Hoàng đế: "Nô tài đã ra ngoài hỏi rồi, ở đây chỉ có loại trà này là tạm được thôi, Cố cô nương và Thập Nhất tiểu thư uống tạm cho đỡ khát."

Hoàng đế uống trà này quen rồi, không mảy may để ý.

Nhưng Cố Uyên lại thấy hương trà không tầm thường, ghé mắt thấy nước trà trong chén trong xanh mà màu đậm, lá trà xếp đều đặn ngay ngắn, dù cho có không rành trà đạo cũng nhận ra đây là trà loại quý hiếm, bèn đặt sang một bên, nói với thiếu nữ: "Lúc nào thì Thập Nhất tiểu thư phải về?"

Câu hỏi này đúng ý Thôi Tam Thuận, hắn nhân cơ hội này khuyên nhủ Hoàng đế: "Tiểu thư, từ khi rời chùa Báo Quốc đến giờ cũng đã gần nửa canh giờ rồi, nếu mấy người bên kia không tìm thấy chúng ta..."

Đã có lý do để quang minh chính đại thăm hỏi thì việc giấu giếm lét lút cũng trở thành thừa thãi, như vẽ rắn thêm chân.

Hoàng đế liếc Thôi Tam Thuận một cái, chỉ nói: "Vậy để họ tới đây.

Ngươi đi thông báo một tiếng, nói ta đang ở am Từ Thọ."

Rồi quay lại, tiếp tục nghe Cố Uyên giảng giải về quy cách văn chương.

Nhưng lời này lại khiến Thôi Tam Thuận nghi hoặc, do dự một lúc rồi cúi đầu lui ra, vừa đi vừa nghĩ cách nói.

Chẳng hay vừa bước khỏi cửa sau của am thì đã đụng phải một người đang hối hả bước vào.

Người đó suýt đụng phải hắn, tức giận mắng nhiếc: "Ngươi mù hay sao mà..."

Giọng nói bỗng dừng bặt, Thôi Tam Thuận cũng giật mình, quỳ sụp xuống: "Sư phụ, con..."

"Tên tiểu tử này!"

Thôi Thành Tú kéo hắn ra một bên, nhưng không hề nổi giận mà khuôn mặt mập mạp còn hớn hở lên, cằm hếch hếch về phía trong am: "Thập Nhất tiểu thư đang ở trong đó đúng không?"

"Vâng ạ."

Hoàng đế đã phán, Thôi Tam Thuận không giấu giếm gì là thuật lại lời Hoàng đế với Thôi Thành Tú, rồi còn do dự nói thêm: "Sư phụ, con thấy tiểu thư nhà ta đối xử với Cố cô nương không giống bình thường chút nào, nếu như, nếu như vị kia mà biết được, theo tính tình ấy thì chúng ta chỉ có nước chết...

Sư phụ hầu tiểu thư đã lâu, sư phụ thấy thế nào?"

Thôi Thành Tú liếm môi: "Nói một câu thế này, nếu Cố cô nương mà là nam tử thì ẩn tình trong chuyện này đã chắc đến tám chín phần mười, còn Cố cô nương là nữ tử..."

Hắn cười bất đắc dĩ, "Người ta tử tế, hợp tính với tiểu thư thì sẽ thân thiết thôi mà, đoán già đoán non làm gì.

Mà dù có cái gì đi chăng nữa thì cũng chưa chắc đã thành chuyện lớn."

Rồi hạ thấp giọng: "Ngươi không nghe Tôn Đắc Tú nói đấy à?

Xưa kia Tùy Vương điện hạ vì một Nữ quan mà cũng căng thẳng kháng cự với lão Tùy Vương bao nhiêu lâu?Mà cũng ở cái tuổi này thôi, tâm đầu ý hợp tới độ không thèm để mắt tới mấy thị quân, nhưng cứ đợi thêm vài tuổi nữa, cưới thì cưới, gả thì gả, chán rồi thì buông không chút do dự.

Nói trắng ra, lòng nữ nhi như biển sâu, dù Quan gia có anh minh đến đâu thì trong chuyện tình cảm cũng sẽ không khác.

Ngươi đừng lo làm gì, chúng ta làm nô tài thì chỉ cần hầu hạ chủ tử cho tốt, còn lại không cần quan tâm.

Tính khí Quan gia ngươi không biết sao?

Lòng Quan gia ấm, chỉ cần chúng ta trung thành thì tuyệt đối không thiệt thòi."

Nói rồi hắn nhìn Thôi Tam Thuận một cái bén ngót, "Nếu cái miệng này của ngươi mà không kín, làm hỏng việc của Quan gia..."

Thôi Tam Thuận bị hắn nhìn mà lạnh cả lưng, vội vã gật đầu: "Con nghe lời sư phụ, đánh chết cũng không nói!"

Thôi Thành Tú dạy dỗ đồ đệ xong, một tay che mắt nhìn mặt trời, một tay bấm đốt tính thời gian, sai Thôi Tam Thuận về báo tin cho Hứa Hoan, lại dặn dò vài câu rồi mới đi vào chùa.

Bề ngoài bình tĩnh nhưng trong lòng vui như mở hội, nghĩ thầm, cơ hội của mình cuối cùng đã đến rồi đây!

Muốn được nổi trội hơn người thì bản lĩnh phải có một hai điểm hơn người.

Với bề tôi, bản lĩnh đó tốt nhất nên là tài năng và thực lực, hai thứ đó mà kém thì chí ít cũng nhờ hồng phúc tổ tiên, mà nếu hoạn quan không nó tài văn chương thi phú mà cũng thiếu hụt hồng phúc tổ tiên thì đương nhiên không dựa vào ai được nữa rồi, chỉ biết nịnh hót lấy lòng mà thôi.

Lẽ đó, chủ nhân tuổi nhỏ sẽ dễ đoán ý mà lấy lòng, có điều Hoàng đế trẻ tuổi này lại có tính cách điềm tĩnh vượt tuổi, từ nhỏ chỉ một lòng học văn luyện võ trị quốc, khiến cho Thôi Thành Tú muốn xu nịnh cũng không biết phải làm sao.

Nhưng bây giờ khác rồi, hắn sờ cằm, cười một tiếng: Quan rõ ràng đã để Cố Uyên trong lòng, dù có ý gì sâu xa hay không, cũng không quan trọng.

Nếu chỉ là mến mộ tài năng quý trọng hiền tài, sau này Cố Uyên đỗ đạt khoa cử, có Hoàng đế chiếu cố, tự nhiên sẽ nhanh chóng thăng tiến, hắn cũng kết được thiện duyên với Loan Nghi ty; còn nếu thực sự có ý gì đó khác, tương lai việc tốt nếu thành thì hắn sẽ là đệ nhất công thần, há không tốt sao?

Càng nghĩ càng đắc ý, bước chân càng nhẹ tênh.

Trước tiên hắn vào điện Phật thành kính thắp hương, quỳ trước Phật tổ chắp tay dập đầu, thành tâm khấn vái: "Phật tổ ơi, tiểu nhân với nơi này của ngài quả là có duyên!

Ngài từ bi, phù hộ cho Cố cô nương khoa này đỗ đạt thật cao, đừng để cô ấy thi trượt phải khăn gói về quê..."

Khấn vái xong, Thôi Thành Tú đứng dậy, tìm ni cô trụ trì Huệ Tĩnh cung tiến chút tiền đèn nến dầu thơm, lại dặn dò kỹ càng.

Kinh thành là nơi quý nhân qua lại nhiều, từ khi Thôi Tam Thuận đến xin trà, Huệ Tĩnh sư cô đã biết hôm nay gặp thí chủ có điều kiện, lúc này vui mừng khôn xiết.

Sắp xếp xong xuôi, Thôi Thành Tú theo sư cô vào sân viện nơi Cố Uyên ở.

Rèm trúc trong gian chính đang mở, hắn ngó vào nhìn thấy Cố Uyên ngồi bên án thư, cúi đầu viết chữ, còn Hoàng đế đang đứng bên cạnh chăm chú mài mực.

Hắn giật thót cả mình, thầm nghĩ quả nhiên Cố cô nương này đúng là người có phúc lớn to bằng cái đình!

Cố Uyên không ngẩng đầu lên, vẫn tập trung vào nét chữ, mà Hoàng đế nghe tiếng bước chân liền quay đầu lại nhìn, thấy Thôi Thành Tú, mới bảo: "Pha thêm hai chén trà."

Rồi nhíu mày nhìn chén trà trên bàn.

Thôi Thành Tú lại gần, thấy hai chén trà trên bàn một không một đầy, mắt chớp chớp liền hiểu ý, lẳng lặng cúi đầu lui ra.

Hắn đến chỗ Huệ Tĩnh lựa tới lựa lui cuối cùng mới tìm được gói trà bình dân rẻ tiền, đợi tiểu ni cô pha xong lại bưng vào.

Nhưng hắn không dâng Hoàng đế trước mà nói với Cố Uyên: "Cố cô nương hao tâm tổn sức, dừng tay nghỉ uống trà một lát rồi viết tiếp cũng không muộn!"

Cố Uyên vốn đang rất khát, tâm trí lại dồn hết vào bài văn, thấy trà đưa tới tay cũng theo bản năng tiếp lấy.

Cầm lên rồi nàng mới nhận ra ngay là không ổn, nhưng đã cầm lên thì chẳng thể bỏ xuống nữa.

Thoáng nhìn vào chén trà mới thấy trà này không giống lúc trước, bấy giờ trong lòng mới nhẹ nhõm, uống một hơi cạn, nói với Thôi Thành Tú: "Phiền Thôi quản gia."

Thôi Thành Tú liếc thấy Hoàng đế đang nhìn Cố Uyên với ánh mắt chất chứa sự tán thưởng, trong lòng hắn cũng càng thêm thiện cảm với Cố Uyên, vậy là mặt cười như hoa:

"Cố cô nương là bạn của tiểu chủ nhân, cũng như tiểu chủ nhân vậy, nô tài đâu dám nhận lời như thế?"

Rồi lại nhỏ giọng khuyên Hoàng đế, "Thập Nhất tiểu thư, giờ đã không còn sớm nữa, phu nhân ở nhà nhớ lắm, chúng ta nên về thôi!"

Thực sự đã trễ, không thể trì hoãn thêm nữa.

Hoàng đế gật đầu, gấp đề bài Cố Uyên soạn cho cất vào, cáo từ rồi ra về.

Cố Uyên vẫn ngồi đó chép thêm một lúc sách.

Nhìn ra thấy trời sắp tối, bụng bảo dạ tự hỏi hai người Hứa, Lý kia đã biến đi đâu, thì bỗng nghe tiếng cười nói vang vọng vào từ ngoài cổng.

Hứa Tịch và Lý Thanh ôm bọc đồ gì đó bước vào, vừa thấy Cố Uyên liền nói: "A Uyên là quý nhân của Lâm phủ, sao vẫn còn ở đây?"

Cố Uyên ngạc nhiên, còn chưa kịp hỏi, Hứa Hy đã chất đống đồ lên bàn, vừa lau mồ hôi vừa cười thành tiếng.

Nhìn thấy chén trà còn đầy trên bàn, cầm lên uống cạn, kinh ngạc reo lên: "Trà gì đây?

Ta chưa từng uống bao giờ!"

"Là trà Dương Tiễn của Hoài Châu."

Lý Thanh tiếp lấy chén trà, xem xét.

"Khi còn nhỏ ta từng giúp việc ở tiệm trà của a cữu, đã từng được thấy loại trà này rồi.

Loại này, chất lượng hàng trung bình cũng phải bảy tám lượng bạc một cân, mà loại thượng hạng thế này, chỉ e chắc trả giá gấp đôi còn không mua nổi.

Trà này nhà thường dân đừng nói tới uống, ngửi thôi cũng không dám."

"Chao ôi!

Nhờ phúc A Uyên, ta được thoả cái miệng!"

Hứa Tịch chỉ vào gói đồ trên bàn mà cười.

"A Uyên, bọn ta vừa vào cổng đã bị sư cô gọi lạ đưa rất nhiều thứ, nói hôm nay có vị quý khách tới đây dâng quà cho sư phụ của người ấy.

Tặng nhiều đồ lắm, chia cho cả người hữu duyên, ta và A Thanh thấy kỳ lạ mới mở xem sổ cung tiến, trên đó ghi rõ tên cô!

Cô thu nhận đệ tử hào phóng như vậy từ bao giờ thế?

Nếu còn ai nữa thì giới thiệu cho ta và A Thanh, chúng ta cùng chuyên tâm dạy học, cả đời không lo!"

Cố Uyên thấy gói đồ rất lớn, mở ra thấy ba chiếc chăn bông mới, không khỏi ngẩn người, sững sờ.

Chất liệu chỉ là loại vải hết sức bình dân mà thôi, hoa văn cũng thật là giản dị, nhưng lại khiến nàng bất an hơn cả lúc nhận chén trà Dương Tiễn.

Thấy sắc mặt Lý Thanh cũng trở nên nghiêm trọng, Cố Uyên thở dài: "Ta chỉ giảng cho Thập Nhất nương một số điều cơ bản về văn Bát cổ mà thôi.

Cô nương ấy trước kia thực sự chưa được giảng nhiều về mấy thứ ấy, nhưng thái độ rất nghiêm túc, rất chăm học, gợi ý thoáng qua là đã hiểu ngay."

Lại nghĩ tới người ấy phản đề của mình, không khỏi mỉm cười, "Nét chữ lão luyện, văn phong sắc bén, chỉ là quy cách chưa hợp với Bát cổ, lại luôn quên kiêng kỵ húy.

Ta nghĩ, chắc không phải nhà giàu hay quý tộc, mà khả năng là tông thất."

"E rằng thực sự là tông thất rồi."

Mặt Lý Thanh mặt không vui vẻ chút nào, "A Uyên, chúng ta xa lạ nơi đất khách, lại từ hương thôn Ngô Châu đến đây, không thể so với nơi đế kinh phồn hoa nhiều người lắm của.

Ta tính thế này, nếu thi được đỗ đạt, được bổng lộc gì đó ta sẽ lập tức dùng để mua lễ vật tới cảm tạ hai tiểu thư Lâm gia, coi là trả ơn.

Nhưng bây giờ... không giấu gì cô, hôm nay mắt ta giật liên tục, không biết có phải có chuyện gì không?"

"Thập Nhất tiểu thư tuy đúng là kỳ lạ nhưng vẫn luôn rất lễ độ."

Cố Uyên nói, "Ta thấy hành động của tiểu thư nếu có gì sai sót thì cũng chỉ là do còn trẻ tuổi, chưa hiểu thế sự mà thôi, không phải cố ý khinh người.

Chẳng phải..."

Chưa dứt lời, Hứa Tịch đã bật cười.

Thấy Lý Thanh trừng mắt với mình, cô nàng vội xua tay: "Ta cười không có ý gì đâu!

Có điều cô vừa nói một câu mà A Uyên đã liền tuôn một tràng bào chữa cho tiểu cô nương Lâm gia rồi!

Người ta có ý gì hay không cũng kệ đi, mà Lâm tiểu thư trẻ trung, xinh đẹp, giàu có, cũng xứng với A Uyên, cớ gì cô phải làm kẻ ác chia rẽ người ta?"

"Ta làm gì có ý đó, chỉ đang nói sự thật mà thôi."

Cố Uyên nghe lời ấy cũng thấy có chút mất tự nhiên, cười khổ.

"Suy cho cùng, chúng ta và Lâm tiểu thư cũng chỉ tiếp xúc hai lần, tất cả những điều này đều là khen ngợi công tâm, quý mến bình thường mà thôi.

Cô lấy đâu ra lắm ý tưởng như vậy?"

"Bình thường hay bất thường còn khó nói."

Lý Thanh đáp, "Chúng ta xa lạ đất khách, phòng lòng người không thể không cẩn thận.

Vừa rồi ta và A Tịch ra phố mua mực mới thấy Học chính nha môn dán bố cáo.

Đợt lũ mùa thu sắp đến, các châu gấp gáp tu sửa gia cố đê điều, Công bộ sẽ dùng cả thuyền hàng để chở gỗ chở đất, sau kỳ thi sĩ tử nào muốn xuôi thuyền về quê thì phải đến Học chính nha môn nhận tiền hỗ trợ để tự thuê thuyền về.

Ta với A Thanh đã ghi tên giùm cô rồi, nếu sau này có chuyện gì thì cũng luôn có bằng chứng ở đấy, nhờ Học chính giúp đỡ một phen.

Chỉ là... quy trình đăng ký này rất kỳ lạ, không những phải ghi tên mà còn phải ghi rõ ngày lên thuyền, ngày xuống thuyền."

Cố Uyên nói: "Có lẽ là để đề phòng người giả mạo, hoặc người dùng tiền của nha môn để la cà ngao du tới nơi khác, nên phải khớp với hộ tịch mới được."

"Chắc là vậy."

Lý Thanh gật đầu, lại trừng mắt với Hứa Tịch.

"Tính tình của A Uyên, cô không hiểu sao?

Nếu ham giàu sang thì A Uyên về quê thành thân không phải là xong chuyện rồi sao?

Gia cảnh Lã sư huynh khá giả nhất nhì một vùng, tướng mạo tuấn tú, lại hiểu con người A Uyên.

A Uyên ở bên huynh ấy chẳng phải là yên tâm hơn nhiều so với mấy vị tiểu thư giàu sang kiêu ngạo sao?"

"Vậy chắc chúng ta lo xa quá rồi."

Hứa Tịch ôm xấp chăn trên bàn lên, cười.

"Tâm A Uyên vững như bàn thạch, tâm không động thì dù Lâm tiểu thư có mến mộ thật sự đi chăng nữa cũng có thể làm gì chứ?

Công khai cướp người sao?

Chúng ta đỗ đạt xong sẽ đều có công danh, sẽ đăng ký xuất sĩ ở Học chính, giả mà có chuyện bị người ta ức hiếp thì cũng sẽ có Học chính nha môn đứng ra bảo vệ.

Mà nếu Học chính không bảo vệ nổi thì còn Thánh thượng anh minh, cùng lắm ta đến Ngọ Môn đánh trống kêu oan.

Cứ nghĩ thế đi, có gì đáng sợ chứ?

Trời cho mà không lấy ắt mang họa, chăn này ta nhận, ta không ngại các cô chê cười đâu.

Trước khi lên đường nhập kinh a mẫu ta phải đổi cái chăn mới cho ta mang theo, nếu khoa này ta không đỗ, ít nhất cũng có quà mang về cho bà."

Nói rồi liền ôm chăn mang vào gian Đông, Lý Thanh trừng mắt nhìn rèm một lúc, cuối cùng bất lực, cười: "Đồ ngốc!

Thôi, của đã đến tay thì đành an phận, biết đâu là do chúng ta suy nghĩ quá nhiều, lo sợ không đâu?

Nói thế thôi, chăn này vẫn là không nên dùng, có điều hòm sách của cô sợ là không chứa nổi, để ta giữ tạm một chiếc."

Nói rồi cũng ôm chăn vào gian Đông.

"Lo sợ không đâu?"

Cố Uyên đứng bên án thư, ngón tay lướt nhẹ trên mặt chăn.

Nàng ngẩn người, hồi lâu sau mới chớp đôi mắt đẹp, thở dài cười khổ.

Thập Nhất tiểu thư kia đứng nghiêm mài mực cho mình, đó chính là một cái lễ của trò đối với thầy đấy.

Học trò này thái độ nghiêm cẩn, ánh mắt trầm tĩnh, hành vi không có chút gì vượt lễ, nhưng ánh mắt ấy đặt lên người Cố Uyên lại khiến nàng bất giác có cái cảm giác không thể ngồi yên.

Chẳng hiểu là do nàng quá nhạy cảm hay là do giữa nàng và người kia có một mối nghiệt duyên từ kiếp nào đó mà nàng còn không nhớ - khi sư đồ đối mắt nhìn nhau, đáy lòng Cố Uyên gần như trào ra một linh cảm hối hận vì đã dẫn sói vào nhà.

Nàng còn đang ngẫm nghĩ và cảm thán, Huệ Tĩnh sư cô đã dẫn tiểu ni cô vào viện, nhìn vào phòng, khách khí chắp tay: "Mấy vị cô nương ở đây ổn chứ?

Hôm nay có mấy vị khách tới cung tiến bàn ghế, trong chùa chật chội quá rồi, xin phiền cô nương để tạm nơi đây!"

Nhìn bàn mới, ghế mới, giường mới lần lượt được khiêng vào, lúc này, Cố Uyên hối hận sâu sắc!

Chỉ có điều, nàng không biết rằng lúc ấy, bên ngoài am Từ Thọ, Thôi Thành Tú và đồ đệ của hắn cũng đang bàn tán to nhỏ.

Thôi Tam Thuận nói, mặt lo lắng: "Sư phụ, Quan gia chỉ bảo đưa chăn thôi, chúng ta lại đưa nhiều thứ như vậy... sẽ không phá hỏng việc của Quan gia chứ?"

"Ngươi thì biết cái gì?"

Thôi Thành Tú liếc xéo hắn, "

Sau này Quan gia sẽ thường xuyên qua lại nơi ấy, ngày nào cũng ngồi chỗ đồ đạc tồi tàn rách nát, dù người không để ý, chúng ta làm nô tài nhìn mà cũng đau lòng thay!"

"Nhưng nếu Cố cô nương không nhận..."

"Không nhận?

Đồ đưa tới rồi không trả lại được, nàng ta làm sao mà không nhận?"

Thôi Thành Tú hừ một tiếng, mặt không để ý, trong lòng vui như mở cờ: Quan gia quan tâm đến sinh hoạt hàng ngày của Cố cô nương như thế là đủ thấy đã bảy tám phần chắc chắn.

Chỉ là Cố cô nương có vẻ lạnh nhạt không mặn mà, hắn còn không mau mau bắt đầu làm ấm tảng đá này đi thôi, tương lai vậy là đã có người để dựa vào rồi!

——— Hết chương 8 ———

Nhà đài bình: Quan gia tài năng, đám nô tài của quan gia thì tài lanh...

Chị Uyên bắt đầu thấy phiền. 🙂)
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 9


Bước chân Thôi Thành Tú vừa vào tới tiền viện Nội đình, đã thấy Thôi Hỉ, Tổng quản của Nhân Thọ cung, đứng dưới mái ngói tí tách nước mưa rơi.

Thôi Hỉ xưa kia là người cũ của Chiêu Càn điện, trước từng hầu hạ Tiên đế, sau này hầu hạ Thái hậu, dù luận vai vế hay luận tư lịch, trong Nội đình này đều đứng hàng đầu.

Thôi Thành Tú không dám chậm trễ, vội bước tới tươi cười: "Đáng lẽ ta phải tới thỉnh an ma ma mới phải, sao hôm nay ma ma lại tới đây?"

Rồi quay sang quắc mắt mắng mấy tiểu thái giám trực trong Nội đình: "Thôi Hỉ sư phụ đứng đây đợi mà các ngươi cứ đứng nhìn chằm chằm như thế à?"

"Họ vừa hết ca trực, ta bảo cứ nghỉ ngơi, đừng ra hầu hạ."

Thôi Hỷ hầu cận Tiên đế nhiều năm, tính tình cũng ít nhiều trở nên bình thản ổn trọng, ít nói ít cười.

"Ngươi theo hầu Quan gia xuất cung, mọi việc thuận lợi chứ?

Hôm nay nương nương vui vẻ, cho truyền mấy vị phu nhân Quốc công vào cung trò chuyện, đang truyền ngươi tới hỏi chuyện đấy, mau thay y phục, đi cùng ta thôi."

Trong cung có quy tắc, phàm là Thái giám hầu trước mặt Ngự tiền, khi hết phiên túc trực rồi cũng vẫn phải chuẩn bị sẵn một bộ y phục sạch sẽ tinh tươm treo trên giá gỗ bên giường, phòng khi bất ngờ được triệu kiến hoặc có việc khẩn cấp.

Thôi Thành Tú vào phòng, lập tức thay quần áo, dặn dò Thôi Tam Thuận vài câu rồi vội vã theo Thôi Hỉ đi.Nhân Thọ cung quả nhiên rất náo nhiệt.

Thôi Thành Tú vào điện, phủ phục dập dầu, con mắt liếc nhìn một vòng thấy mấy vị phu nhân đều ngồi đó, khi trả lời những câu hỏi của Thái hậu lại càng nhân cơ hội tâng lòng hiếu thảo của Hoàng đế lên đến tận mây xanh.

Các vị phu nhân cũng đua nhau nịnh hót, Thái hậu vui vẻ ra mặt: "Hoàng đế hiếu thuận là chuyện mười mươi, không thể chê điều gì.

Chúng ta đều là người nhà, cũng không cần phải nói lời khách sáo, dịp ấy các ngươi cũng tới đi, chúng ta cùng sum họp."

Rồi lại sai Thôi Hỉ thay mình đích thân tiễn mấy vị phu nhân ra ngoài.Giờ đây trong điện chỉ còn lại mấy tâm phúc của Thái hậu, Thôi Thành Tú dần thấy yên tâm.

Quả nhiên Thái hậu do dự một chút, mở miệng hỏi: "Ngày này ngươi đi theo hầu bên Hoàng đế, có để ý thấy người nào lọt vào mắt xanh của chủ tử không?"

Thôi Thành Tú đã chuẩn bị sẵn rồi, câu trả lời cũng kín kẽ không lộ sơ hở: "Nương nương biết tính tình của Quan gia đấy ạ, vốn là ổn trọng điềm đạm, tâm tư của ngài thế nào chẳng bao giờ mang ra làm chuyện phiếm với ai.

Thỉnh thoảng chỉ nhắc tới mấy cái tên, cũng là đều liên quan đến việc quân quốc đại sự mà thôi.

Gần đây Quan gia xuất cung vi hành, khi về có nhắc tới mấy cô nương nhập kinh ứng thí tình cờ gặp được ở trên đường.

Nô tài thấy Quan gia thích bàn luận văn chương sách vở với họ, còn ngoài ra, xin thứ cho nô tài mắt mờ, không nhìn ra điều gì đặc biệt hơn thế."

Thái hậu quả nhiên không để ý, chỉ thở dài: "Hoàng đế lần đầu xuất cung lại đúng lúc đại khoa sắp tới, quen biết mấy người này cũng là lẽ đương nhiên.

Mấy vị Thế tử, Công hầu hầu vẫn luôn học bài, đọc sách ở Văn Hoa điện, họ đều là bạn học cùng Hoàng đế từ nhỏ, ngươi theo sau quan sát, thấy Hoàng đế có đặc biệt yêu thích ai không?"

Thôi Thành Tú nhăn mặt: "Nô tài ngu dốt, chỉ thấy Quan gia đối xử với các Thế tử điện hạ bình đẳng bác ái, chẳng ai hơn ai."

"A Trịnh cũng nói vậy."

Thái hậu quay sang thở dài với Hứa ma ma đứng sau lưng: "Trước kia ai gia đã nói Hoàng đế còn trẻ mà tính tình đã quá ổn trọng, nên tìm mấy người tính tình hài hước vui vẻ để trò chuyện, mà mấy nhà trong hoàng tộc đều cẩn trọng quá đáng, sợ rách việc, đưa vào cung toàn là những đứa ngoan ngoãn ít nói chỉ biết hầu đọc sách, ngoài đọc sách với luyện võ ra không dám nói thêm lời nào.

Giờ mắt thấy Hoàng đế sắp tới lúc phải tính đến đại hôn lại đua nhau dâng biểu xin tiến cung.

Thế mấy năm trước làm gì mà không lo sớm đi?"

"Mấy tiên sinh ở Văn Hoa điện cũng quá là nghiêm khắc, dạy toàn những đứa trẻ đơn thuần."

Hứa ma ma an ủi Thái hậu: "Mấy vị Thế tử điện hạ kỳ thực cũng đều giống Quan gia, trong đầu chỉ có chí tiến thủ mà thôi - biết đâu nhầm lại thành đúng, hợp với tính khí của Quan gia thì sao?"

"Tiên đế băng hà sớm, ai gia không hiểu chính sự, lại không trực tiếp nuôi dạy con, các đại thần ngày ngày dâng sớ nhắc tới tích xưa Hoàng đế tiền triều mê muội chơi bời bỏ bê việc nước, mà ai gia cũng sợ phụ lòng Tiên đế, cho nên quản Hoàng đế có chút quá nghiêm khắc..."

Khuôn mặt Thái hậu hiện lên chút hối hận: "Biết thế ai gia đã nghe lời A Trịnh, không để Hàn Lâm viện đưa người tới giảng dạy nhiều như vậy, để nó được thoải mái một chút, có lẽ cũng đã thân thiết hơn với các thị đồng."

"Tiên đế đích thân định khóa trình cho Quan gia, nương nương sao có thể thay đổi được?"

Hứa ma ma nói: "Giờ Quan gia sắp gánh vác giang sơn, đủ thấy Tiên đế nhìn xa trông rộng.

Mấy thị đồng kia cũng là do Tiên đế tự tay chọn, biết đâu sau này sẽ tự có kết quả?"

Thái hậu lại lắc đầu: "Gần đây ta đã âm thầm quan sát rồi, thị đồng đều là những người chăm chỉ tốt lành cả, nhưng xét tư chất, nhìn thế nào cũng chỉ là tư chất của bề tôi, đứng cạnh Nguyên Gia không thấy xứng chút nào cả, cứ như thiếu mất một sợi dây.

Ôi!

Ta thật rất sợ sẽ để Nguyên Gia thiệt thòi!"

Rồi quay sang Thôi Thành Tú: "Tháng chín tới đây Hoàng đế làm lễ kết tóc, tháng giêng sang năm sẽ là đại điển thân chính.

Tuy lệ thường những năm trở lại đây nữ tử đều để đến mười bảy mười tám mới thành hôn, nhưng từ giờ cũng nên xem xét mà chọn lựa.

Ai gia thấy trong cung quy củ rườm rà, không tự nhiên thoải mái, sắp tới mười sáu tháng sáu ai gia sẽ cùng Hoàng đế tới báo Quốc tự dâng hương, nhân tiện tổ chức gặp mặt luôn cũng tốt.

Nếu Hoàng đế có người mình yêu thích, lại thêm được Phật tổ tác thành, ấy ắt là nhân duyên tốt đẹp.

Nếu không có thì cứ để tất cả tự mà giải tán, cũng tránh được đàm tiếu.

Tạm thời cứ như vậy đi."

Thái hậu nghĩ ngợi, lại quay sang Hứa ma ma: "Ta thấy mấy tên nô tài này cũng vẫn chưa hiểu được mấu chốt đâu.

Vẫn là ngươi hãy đích thân chuyển lời tới Hoàng đế, bảo rằng khẩu dụ của ta, nếu nó có ai vừa mắt hay là yêu thích, bất luận là phẩm cấp là gì hay xuất thân thế nào, cứ mở lời nói với ta.

Dù sao cũng phải xem mặt, dù không thành nhưng chúng ta cũng biết được Hoàng đế ưa loại người nào, là văn hay là võ?

Trầm tĩnh hay hoạt bát?

Chúng ta còn thời gian, có thể từ từ lựa chọn.

Bảo Hoàng đế đừng ngại, đây là việc lớn cả đời, không có gì kiêng kỵ, nếu thật sự không nói ra được thì viết giấy gửi ta cũng được."

Hứa ma ma khom người vâng dạ, đi cùng Thôi Thành Tú tới Thanh Hòa điện gặp Hoàng đế.

Hoàng đế vốn là người làm việc theo phong cách việc hôm nay chớ để ngày mai, sau khi dùng bữa tối liền truyền công văn khẩn tấu và tấu chương còn tồn trong ngày tới.

Đọc say sưa, biết Thôi Thành Tú đã vào cũng không thèm ngẩng đầu."

Đồ đạc đã đưa tới xong xuôi chưa?"

Thôi Thành Tú liếc nhìn Hứa ma ma đang đứng sau lưng, thành thật trả lời: "Bẩm, xong xuôi rồi ạ.

Nô tài thấy giường cũng xập xệ cũ kĩ, đã tự chủ trương bảo mấy tiểu ni cô đưa giường mới tới.

Phải sắp xếp nên lỡ mất chút thời gian, xin Quan gia tha tội."

"Nói xằng."

Hoàng đế dừng bút, liếc mắt lên nhìn hắn: "Một chén trà Dương Tiễn thôi mà nàng ta thà khát khô cổ cũng không chịu uống, đời nào chịu nhận những thứ đó?"

Rồi liền nhìn thấy Hứa ma ma đang mỉm cười sau lưng Thôi Thành Tú, vội đứng dậy: "Hứa ma ma tới rồi, có phải mẫu hậu có chỉ dụ gì không?

Đám người càng ngày càng không biết phép tắc, người từ cung mẫu hậu tới, sao lại không báo trước?"

"Là nô tì không cho báo."

Hứa ma ma cúi người hành lễ: "Ý là của Thái hậu nương nương, người sai nô tì lặng lẽ đi một chuyến.

Đang mải nghe Thôi tổng quản báo cáo với Quan gia, nhất thời chưa kịp hành lễ, xin Quan gia tha tội."

Hoàng đế vốn rất lễ độ với tâm phúc của Thái hậu, liền sai tiểu thái giám mang ghế nhỏ tới, lại ban trà, rồi mới nói: "Gần đây trẫm xuất cung, tình cờ gặp một nữ tú tài đi thi Nữ khoa, nói ra cũng thật trùng hợp, nàng ta là đồng hương của Lý Thụy Nương.

Trẫm nghe Thụy Nương nhắc qua, nói văn chương của người đó còn hơn Thuỵ Nương một bậc, chỉ tiếc năm đó vì bệnh nặng nên bỏ Thần đồng khoa, trẫm nghe xong cũng lưu tâm.

Qua tiếp xúc thấy quả thực là nhân tài thực học, nhân phẩm ngay thẳng, vừa đọc sách thánh hiền vừa chép văn Bát cổ để bán lại cho tiệm sách kiếm thêm tiền trang trải.

Trẫm sinh lòng yêu tài muốn giúp đỡ một chút, vậy mà dẫu chỉ một chút nàng ta cũng kiên quyết không nhận.

Chỉ điểm này thôi, đã là hơn hẳn nhiều quan triều đình rồi.

Hành trang của nàng ta quá đơn sơ, trẫm mới bảo Thôi Thành Tú tìm cách quan tâm cho tinh tế, kẻo người ta khổ cực phạm bệnh cũ lỡ đại khoa, triều đình mất đi một hiền tài là vô cùng đáng tiếc."

Lời này khớp với lời Thôi Thành Tú như một, Hứa ma ma không nghĩ nhiều gì nữa.

Đợi những nội thị xung quanh lui xuống, Hứa ma ma mới thuật lại nguyên văn lời Thái hậu, lại nói: "Nương nương suy tính chọn lựa lại chỉ sợ chọn phải người không hợp ý Quan gia.

Nếu Quan gia có một người tâm đầu ý hợp, nương nương cũng sẽ rất vui lòng."

Việc này thực sự ngoài dự tính của Nguyên Gia.

Nguyên Gia bên ngoài thì ôn hòa, bên trong thì mạnh mẽ, nhìn thì bình đẳng bác ái, thực tế vẫn có cái tự cao của Thiên tử đấy.

Nàng vẫn luôn nghĩ rằng một ai đó phải hơn những kẻ tầm thường thì mới xứng với mình.

Tuy nhiều năm học cùng các thị đồng đều là tôn tử nhà vương công hầu tước, thế nhưng trước sau cũng chỉ xem là bề tôi tâm phúc sau này mà thôi, chưa từng nghĩ tới chuyện tình cảm nam nữ.

Từ nhỏ Nguyên Gia đã không thích gần gũi người khác, nay chỉ cần nghĩ đến việc thành hôn với một trong số mấy người này, phải kề cận thân mật với nhau thôi đã liền thấy chán ghét khó chịu, chỉ muốn đuổi hết đi cho rảnh mắt.

Trong lòng thầm tính toán sang năm thân chính sẽ lập tức có thể phân chức tước, giao công việc để bọn họ ly kinh, lại sợ Hứa ma ma nhìn ra manh mối gì, bèn giữ cho ánh mắt chăm chú nhìn tấu chương: "Thực sự không có ai để đề cử.

Lòng trẫm chỉ lo việc thân chính, sợ xử lý chính sự không tốt, làm Tiên đế thất vọng, chưa nghĩ tới chuyện gì khác."

Hứa ma ma thấy Hoàng đế không nhìn mình, cũng tự cho rằng có lẽ Hoàng đế có chút thẹn thùng, trong lòng thầm cười vị Quân thượng nghiêm túc này dù sao cũng có tính khí của thiếu nữ, lại nói: "Vậy Quan gia thử suy nghĩ một chút, xem có ý tưởng gì cho chuyện này không?

Dù kỳ quái cũng không sao."

"Thực sự, trẫm không có ý tưởng gì."

Dù sao cũng là việc lớn cả đời, Hoàng đế cũng bị làm cho ý loạn tâm phiền rồi, tấu chương cũng không đọc nổi nữa.

Thấy Hứa ma ma vẫn chỉ đang ngồi ghế nhỏ mỉm cười nhìn mình, liền bình tâm suy nghĩ một chút.

Bất ngờ thay, có một ý nghĩ vụt sáng lóe lên, ánh mắt nàng cũng lay động, mà vẫn giữ bình tĩnh, giọng điềm đạm: "Chỉ là, nhắc tới chuyện này, từ nhỏ trẫm nghe một tích cũ, bây giờ cũng vẫn không hiểu, có lúc muốn hỏi các tiên sinh lại sợ bị chê là không chuyên tâm học hành, nên chưa từng hỏi.

Trẫm từng thắc mắc, từ thời Minh Tông trở đi, các Nữ đế đều tuyển thị quân, lập Hoàng phu để nối dõi tôn tự.

Chỉ có Thái Tổ hoàng đế, năm xưa nhất thống thiên hạ, vốn là vô cùng anh minh, tại sao lại lập Hậu?"

Giọng Nguyên Gia rất bình thản, rất tự nhiên, Hứa ma ma cũng coi như chuyện phiếm, cười nói: "Thái Tổ hoàng đế anh minh thiên bẩm, cao ý của ngài, nô tỳ không dám phỏng đoán.

Nhưng khi còn trẻ nô tỳ có được nghe người già trong cung kể chuyện xưa, kể rằng Thái Tổ hoàng đế từng nói Thánh Văn hoàng hậu là cao nhân mà trời cao giáng xuống phò tá ngài, không giống người thường.

Bởi thế nên sau khi Thánh Văn hoàng hậu qua đời, Thái Tổ hoàng đế cũng bỏ trống Hậu vị, không lập Hậu nữa, cũng không nạp thêm ai khác, cứ thế cô độc một đời.

Thái Tổ hoàng đế vốn là phiên Vương, Ý Tông hoàng đế đoản mệnh, trước khi băng hà đã giao giang sơn cho ngài, ngài lên ngôi bình định tứ hải là thuận theo thiên ý.

Đời sau, Minh Tông hoàng đế là thời thái bình thịnh trị, để nối dõi tông đường đã tuyển mấy thị quân, sau sinh hạ Nhân Tông hoàng đế, lại cũng là một vị minh quân.

Như vậy, mọi sự trên đời phải hợp với ý trời, Quan gia thấy phải không?"

"Trẫm cũng nghĩ vậy."

Hoàng đế nhíu mày rồi đầu mày nhanh chóng giãn ra: "Nói tới chuyện này, đây là nghi vấn duy nhất của trẫm.

Còn lại, trẫm thực sự không có suy nghĩ gì."

Đây cũng là lẽ thường tình.

Còn lâu mới tới mười sáu tháng sáu, Quan gia cứ từ từ suy nghĩ, có ý tưởng gì xin hãy nói với lão nương nương, hoặc nếu ngại thì cứ để nô tỳ truyền lời cũng được."

Hứa ma ma ngồi đợi thêm một lúc, thấy Hoàng đế thật sự không có gì để nói, liền đứng dậy cáo lui: "Đã muộn rồi, Quan gia nghỉ sớm."

Hoàng đế cười hiền, thản nhiên tiễn Hứa ma ma ra ngoài.

Ngoài mặt không chút biểu lộ, trong lòng gần như biển xô sóng cuộn.

Nguyên Gia là thiên tử thời thái bình thịnh trị, từ khi kế vị đã nghe không ít chuyện về Thời hoàng đế, Điệu hoàng đế, cũng biết việc khai chi tán diệp là trọng trách của tông miếu, trước giờ chưa từng nghi ngờ hay suy nghĩ khác đi.Nhưng giờ, đại hôn sắp tới, nàng lại chợt nảy sinh ra một ý nghĩ về Thái Tổ hoàng đế năm xưa."

Giờ này Quan gia chưa nghỉ đâu, ngươi xuống Ngự thiện phòng một chuyến lấy trà, lúc dâng trà lên nhớ khéo léo nhắc tới Cố cô nương một câu."

Hoàng đế và Hứa ma ma chưa trò chuyện xong, Thôi Thành Tú buồn ngủ díp mắt, đương nhiên cũng không dám rời chủ tử, chỉ có thể đứng bên cửa sổ mong ngóng.

Vừa nói dứt lời đã thấy Hứa ma ma đi ra, rồi các nội thị lặng lẽ vào điện cắt bấc tắt đèn, liền bảo Thôi Tam Thuận tới Ngự thiện phòng lấy canh an thần."

Sư phụ."

Thôi Tam Thuận có chút do dự: "Chúng ta dốc sức tác hợp như vậy, vạn nhất sang năm Quan gia đại hôn mà Cố cô nương không phải người được chọn thì sao?"

"Gì mà không được chọn?

Nói chuyện không biết giữ miệng gì cả!"

Thôi Thành Tú trừng mắt, quát thầm: "Trong cung có bao nhiêu người mong được ban ơn mưa móc, bao nhiêu người dập đầu trước Phật tổ đến nứt cả trán ra cũng không với được tới, thế mà Cố cô nương đây là tổ tiên tích đức, mồ mả phát lộc đấy!

Quan gia chúng ta trọng tình, sau này dù tình cảm có phai nhạt nhưng cũng sẽ thỉnh thoảng chiếu cố, thế thôi cũng đủ đưa nàng ta lên mây xanh rồi, lại còn muốn chiếm đoạt Quân thượng làm của riêng vĩnh cửu sao?

Ở đời có tỷ muội kết nghĩa, huynh đệ kết nghĩa, nhưng Quan gia là ai chứ?

Ngoài Hoàng phu tương lai..."

Hắn giơ một ngón tay lên: "Đó mới là phu thê chân chính, ai dám ngang hàng với Hoàng phu?

Mà, dù là hoàng phu đi chăng nữa, cũng không thể một mình độc chiếm Quân thượng được!

Bất luận là nam hay nữ, đã là Hoàng đế thì không thể không có tam cung lục viện.

Ơ, thế ngươi nói xem, trong cung nhiều phòng như thế là để làm gì?

Nghĩ xem năm xưa Tiên đế có bao nhiêu thị quân?"

Hắn nhếch môi, nhìn về phía Tây: "Được sủng, không được sủng, sao nữa?

Có người không muốn nhập cung, bị cha mẹ tham phú quý ép phải nhập cung, mà người ta còn là tiểu Hầu gia đấy!

Cuối cùng thì thế nào?

Chẳng phải vẫn phải ngoan ngoãn ở đây nguyên cả một đời, ở đến lúc chết!

Trong cung này, rốt cuộc chỉ có một chủ thôi, Quân thượng đã phán thì rồng cũng phải cuộn, hổ cũng phải nằm, như các đại nhân thường nói thiên tử nổi giận xác trải ngàn dặm, ai mà dám cứng cổ chống lại tiền đồ sinh tử của mình?"

Hắn đang giảng giải dài dòng một thôi một hồi đến ù cả tai, chợt thấy Thái giám trong điện bước ra, đứng trước thềm, từ xa ra hiệu truyền triệu, thế là vội chỉnh đốn y phục, nở nụ cười tươi bước vào điện.Hoàng đế quả nhiên còn nhớ chuyện ấy, hỏi ngay: "Nàng ta nhận rồi?"

"Quan gia anh minh, đúng là Cố cô nương mãi không chịu nhận."

Thôi Thành Tú đã chuẩn bị sẵn lời, giờ thao thao bất tuyệt: "Sau nô tài nhớ tới Quan gia thường hay nói câu "Ước được nhà rộng muôn ngàn gian, khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan," thế là liền nói giường tre này đã mục ruỗng rồi, mấy tiểu ni cô trong am chắc cũng không để ý, cô nương bây giờ vẫn nằm tạm được, nhưng khách sau này tới nằm xuống lại sập giường thì sao?

Cứ coi như Quan gia bố thí cho khách sau, tích phúc ấy mà, cô nương chỉ là tình cờ dùng tạm mấy ngày thôi.

Cứ phải diễn giải phân tích nửa canh giờ, cuối cùng Cố cô nương mới miễn cưỡng chịu nhận."

Nguyên Gia mỉm cười, gật gật đầu: "Quả đúng là tính khí của nàng."

"Ôi, tấm lòng Quan gia, khiến người ta không thể không cảm động!"

Thôi Thành Tú phấn chấn tinh thần, càng nói càng thấy linh tinh: "Hứa cô nương và Lý cô nương ai nấy đều khen Quan gia tinh tế chu đáo, còn Cố cô nương... tuy rằng không nói, nhưng cũng gật đầu.

Lúc nô tài sắp đi, Cố cô nương còn hỏi tình hình bài vở của Quan gia, ấy chẳng phải người ta cũng nhớ tới Quan gia sao?"

Câu này chạm đúng nơi mềm mại trong lòng Nguyên Gia, nàng gật đầu, khóe miệng bất giác vẽ nụ cười: "Thế là cũng có nhắc tới trẫm rồi?"

"Ngàn lần là thật, tai nô tài nghe rõ ràng!"

Thôi Thành Tú trả lời dứt khoát, thấy hoàng đế vui vẻ ra mặt, bản thân cũng hớn hở thầm nghĩ: Chuyện này phải tranh thủ rèn lúc sắt nóng, nhìn biểu hiện thế này là đã chắc tám chín phần mười, dù Cố cô nương không muốn chút nào thì cũng không chống lại được miệng vàng lời ngọc của thiên tử!

Thế còn...

được sủng bao lâu phải tùy thuộc vào bản lĩnh quyến rũ, sau này ta truyền cho Cố cô nương vài chiêu, vận may của ta không phải tới rồi đó sao?

—— Hết chương 9 ——
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 10


Theo lệ cũ từ thời Minh Tông hoàng đế truyền lại, tuyển thị quân không cần xét đến xuất thân, nhưng người được chọn làm hoàng phu thì nhất định phải xuất từ con cháu nhà công hầu quyền quý.

Nay Hoàng đế đã gần đến tuổi cài trâm, từ trong triều ra ngoài nội, nào quý phủ nào công hầu, tất cả đều căng mắt dõi theo nhất cử nhất động trong cung.

Dù lần xem mặt này Thái hậu đã sắp xếp hết sức kín đáo, ấy thế vẫn bị vài nhà công hầu có mật thám trong cung nghe được phong thanh.

Người ngoài không dám nhiều lời, nhưng Xương quốc công, thân đệ của Thái hậu, người này tính tình nóng nảy dứt khoát, hôm trước vừa nghe tin là sáng hôm sau đã giục phu nhân xin nhập cung.Tính nết vị phu nhân Xương quốc công này thật là giống hệt phu quân, mới hàn huyên với Thái hậu được vài câu đã bắt đầu lựa lời:"Bẩm nương nương, thằng bé Vĩnh Thành nhà chúng thần, xét tuổi tác thì rất xứng với Quan gia đấy ạ!"

Thái hậu nghe ý thoảng mà hiểu lời sâu, tay đỡ lấy trán, giọng nói mang mấy phần tiếc nuối:"Trừ tuổi tác xứng ra, nó còn có gì xứng với Quan gia nữa?"

"Vĩnh Thành khôi ngô tuấn tú, xét diện mạo cũng chẳng kém Quan gia là bao!"

Phu nhân như không hiểu ý, nói tiếp, "Thứ tội thần thiếp nói thẳng, người là Thái hậu nương nương cao cao tại thượng, Quan gia là cháu ruột bên ngoại của họ Hàn chúng thần.

Dân gian thường nói họ hàng dễ kết thân, Vĩnh Thành và Quan gia đã lớn lên bên nhau từ nhỏ tới giờ, hiểu rõ tính khí của nhau.

Thái hậu ngài cũng sẽ không nhường phú quý cho kẻ ngoài, để họ bỗng dưng lại được hưởng lợi từ trên trời rơi xuống chứ."

Lời nói lý lẽ đường hoàng nhưng Thái hậu nghe mà suýt nữa tức đến ngất đi.

Cố Xương quốc công mất sớm, chỉ để lại một đôi trưởng tỷ ấu đệ nương tựa nhau, chính là Thái hậu và Xương quốc công.

Tiên đế nhân hậu, không chỉ gả Thái hậu cho Thời hoàng đế mà còn an bài cho thân đệ của Thái hậu vào Đông Cung làm thị đồng của tỷ phu, danh nghĩa là bạn học, thực chất Thời hoàng đế hơn Xương quốc công những mười mấy tuổi, vậy là coi em vợ như con mà chăm sóc.Người xưa có câu 'cây xà nào nhô ra trước thì bị mục trước', Thái hậu sợ thân đệ của mình tài năng nổi bật sẽ bị người ganh ghét, mỗi lần hắn vào triều đều nhẫn nại dạy dỗ cái đạo lý 'thôi quang'.

Khi hắn tới tuổi thành gia lập thất, Thái hậu cũng chọn những tiểu thư quy củ, đoan chính, tâm tư đơn giản, tránh những người túc trí đa mưu.

Nào ngờ, phu thê một đôi đều quen thói ỷ lại dựa dẫm, bo bo giữ mình, trong phủ từ con trưởng xuống con thứ chẳng ai có chí tiến thủ, nổi danh tông thất là những kẻ yếu đuối lười nhác, tiếng xấu vang tới tận trong cung.

Người mà phu nhân nhắc đến hôm nay là Vĩnh Thành, đứa con trai thứ ba của Quốc công, do gương tày liếp của hai huynh trưởng nên cũng được dạy dỗ nghiêm khắc hơn, tuy có chút tiến bộ, nhưng so với mấy thị đồng được chọn kỹ bên cạnh Hoàng đế, thì tài trí vẫn là không có gì nổi bật.Thái hậu biết rõ tính tình phu thê nhà này, hiểu giận cũng chẳng ích gì, đành kiên nhẫn giải thích:"Hoàng phu đâu thể nào chỉ cần có cái mặt?

Vĩnh Thành tuy có khá hơn hai huynh trưởng nhưng so với mấy công tử nhà các vương hầu, từ cưỡi ngựa bắn cung đến văn chương thi phú, có thứ gì sánh kịp?

Hoàng đế là người có đạo đức, tốt nhất Vĩnh Thành cứ an phận như thế đi, cuộc đời sau này không thiếu gì ân điển.

Cần gì phải nôn nóng mà tự biến mình thành trò cười?"

"Cớ sao lại là trò cười được?"

Đêm trước Xương quốc công và phu nhân đã bàn bạc kỹ càng, đúc rút ra được mấy lý lẽ, nay phu nhân liền đem ra nói lại:"Phu quân mỗi lần thượng triều về đều không ngớt lời tán dương Quan gia tuổi trẻ tài cao, anh minh sâu sắc, tương lai nhất định chẳng thua kém Tiên đế.

Phu thê thần thiếp trộm nghĩ Quan gia đã quyết đoán có chủ kiến như thế ắt chẳng cần Hoàng phu tham gia vào chính sự, chỉ cần cứ an phận nối dõi tông đường là đủ.

Mấy công tử nhà vương hầu kia tuy giỏi giang xuất chúng nhưng ai mà biết lòng dạ họ thế nào, chẳng phải người nhà, nhập cung liệu có thật lòng an phận hay không?

Còn Vĩnh Thành là đứa có đạo đức, diện mạo đoan chính, tính tình trung hậu, từ nhỏ đã ra vào trong cung nên quen thuộc quy củ, lại quen biết Quan gia từ lâu, chẳng phải là nhân duyên trời định hay sao?"

Một hồi lý lẽ ngụy biện khiến Thái hậu thấy đầu óc choáng váng, chỉ đành nói thẳng:"Chính mắt này của ta nhìn Hoàng đế lớn lên như ngày hôm nay, tâm trí nó thật sự đều đã đặt vào việc trị quốc an dân, Vĩnh Thành nhụt chí như thế, e rằng Quan gia chẳng thèm để vào mắt đâu!"

Trong lòng phu nhân thật sự chẳng để lời Thái hậu vào tai, nhưng ngoài mặt vẫn mềm mỏng nài nỉ:"Chúng thần cũng chỉ xin cho Vĩnh Thành được tham dự gặp mặt cùng mấy công tử kia một lần.

Nếu Quan gia ưng thuận, ấy là phúc phần của Vĩnh Thành; nếu không thì nhà chúng thần cũng sẽ tự an phận rút lui, chẳng tổn hại thể diện của hoàng thất.

Ngài xem, vậy chẳng phải ổn thỏa lắm sao?"

Đã xin xỏ đến mức này, nếu từ chối thẳng thừng thì cũng quá phũ phàng.

Thái hậu đang bối rối chưa biết đáp ra sao, bỗng nghe ngoài điện có tiếng thông truyền: Hoàng đế vừa bãi triều, đến thỉnh an.

Thái hậu vội nói:"Việc này phải cứ phải được Hoàng đế đồng ý thì mới được.

Mấy vị công tử kia, ta đã nói trước với Hoàng đế rồi.

Nay muốn thêm cả Vĩnh Thành tham gia thì cũng phải được Hoàng đế cho phép, bằng không tới lúc đó Hoàng đế không thấy thoải mái, thiệt thòi vẫn là Vĩnh Thành thôi."

"Thái hậu nương nương xử trí hợp lý hợp tình!"

Phu nhân không nhận ra đó là lời từ chối khéo, vui vẻ gật đầu ngay, hớn hở chờ Hoàng đế vào điện.Ngày mười lăm tháng sáu là ngày đại triều, Hoàng đế mặc triều phục như thường lệ, khi đến thỉnh an Thái hậu cũng chưa thay y phục.

Vừa vào cửa đã cười nói:"Hôm nay Tần Hưởng dâng tấu, hôm mùng mười Trịnh Đình Cơ và Chỉ huy sứ Thủy doanh Hứa Triển đã bị bắt tại chỗ ở Hải Châu ngày, giờ đang áp giải về kinh.

Hai tên này ban đầu còn ngoan cố, may có biểu ca Hàn Vĩnh Tiết nhạy bén, báo với phủ Bố chính sứ trước một bước, nếu không e là lại có chuyện lớn.

Hai kẻ phản nghịch thì không nói làm gì, có điều biểu ca Vĩnh Tiết vốn không nổi bật trong giới tông học, chẳng ngờ lại có tài nắm bắt thời cơ như thế.

Xem ra sau này trẫm phải lưu tâm hơn đến các học trò trong tông thất mới được."

Hàn Vĩnh Tiết là cháu họ của Xương quốc công, cha mẹ đoản mệnh mất sớm nên được gửi nuôi trong phủ, tình cảm gần gũi chẳng khác con ruột.

Từ nhỏ hắn đã ưa võ nghệ, nay đã thăng đến chức Kinh vệ Thiên hộ, là nhân tài nổi bật trong của Hàn thị.

Hoàng đế khen ngợi như thế, chính là có ý đề bạt.

Thái hậu nghe thế rất vui, mà còn chưa kịp mở miệng, phu nhân đã tranh lời, vội quỳ xuống:"Tạ ơn Quan gia ban ân.

Có lời vàng của Quan gia, thần thiếp về nhà nhất định sẽ thúc giục Vĩnh Thành chăm chỉ mài giũa, không phụ kỳ vọng."

Hoàng đế muốn Thái hậu vui lòng, cũng định nhân cơ hội mở miệng nói chuyện đổi thị đồng, chẳng ngờ lại bị chen ngang.

Nhận ra người đó là phu nhân của Xương quốc công liền hòa nhã gật đầu, bảo đứng dậy:"Cữu mẫu đến à?

Dạo trước Thôi Thành Tú đến phủ ban thưởng, hồi cung nói cữu phụ không được khoẻ, trẫm vẫn lo lắng nhưng vì bận rộn nên chưa kịp thăm hỏi.

Hôm nay đại triều có cơ hội nhìn kỹ mới thấy người gầy đi nhiều, nhưng tinh thần vẫn tốt lắm.

Nếu có cần thuốc thang gì thì cứ đến Thái y viện mà nhận, hay nếu có điều gì khó khăn cứ nói thẳng với trẫm, người một nhà không cần khách sáo."

Lời hỏi han ân cần khiến phu nhân mừng thầm trong lòng, thấy được Hoàng đế ưu ái càng chẳng xem lời Thái hậu ra gì, vội nói ngay:"Không giấu gì Quan gia, thần thiếp có chuyện muốn thỉnh cầu: về Vĩnh Thành..."

Thái hậu không nhịn được nữa, khẽ ho một tiếng, nói:"Vĩnh Tiết có năng lực như vậy, ta thân là cô mẫu cũng thấy vui mừng.

Dạo trước Tuỳ vương dâng tặng mấy cây như ý đẹp, người đâu, ngươi dẫn phu nhân đi chọn một cây đi."

Rõ ràng là đuổi khách.

Phu nhân đành ngượng ngùng lui xuống, mà nét giận trên mặt Thái hậu vẫn còn, Hoàng đế lấy làm lạ, hỏi:"Biểu ca Vĩnh Thành gây chuyện gì bất hảo sao?

Cữu phụ cữu mẫu tính tình thẳng thắn, nhi thần hiểu được, nếu không phải chuyện gì to tát, nhi thần chỉ cần nói với sư phó một câu là xong."

Thái hậu khó xử, trong lòng mắng nhiếc phu thê Xương quận công cả ngàn lần, đành nghiến răng thở dài:"Không có chuyện gì cả, chỉ là phu thê hai người hồ đồ nghĩ quẩn, nảy ra một ý nghĩ ngớ ngẩn.

Hoàng đế cứ coi như trò cười đi, đừng để trong lòng."

Rồi kể lại đầu đuôi chuyện phu nhân vào cung, lại nói: "Con cũng biết tính tình hai người ấy, ỷ lại quen thói, chẳng biết điều gì cả.

Nhưng cả đời dựa vào ai gia để no ấm thì không nói, chứ làm gì có phúc phần làm Hoàng phu?

Con coi như không biết gì cả, lát nữa để ai gia mắng cho một trận, coi như xong chuyện."

"Nhưng nhi thần lại thấy lời cữu mẫu có lý đấy chứ."

Nguyên Gia thầm nhẩm những lời phu nhân vừa nói, đột nhiên cảm thấy từng câu đều hợp lý: tất cả đám thị đồng kia nàng đều không thấy hợp, chi bằng chọn một nhi tử công hầu mờ nhạt không nổi bật để đặt vào vị trí Hoàng phu, vừa không gây sóng gió lại chắn được nhiều chuyện, đây chẳng phải là một kế sách che mắt nhân thế hay sao?Nguyên Gia âm thầm ghi nhớ công lao của phu nhân, thấy Thái hậu áy náy thì vội an ủi:"Đó chẳng phải lời khách sáo.

Thực lòng mà nói, nhi thần xưa nay chưa nghĩ đến việc này, đêm qua suy nghĩ cả đêm cũng không tìm được ai thích hợp.

Nay nghĩ lại, nếu giữ mấy thị đồng kia ở lại trong cung thì uổng phí tài năng, đưa ra tiền triều làm tâm phúc còn hơn.

Vả lại, e là họ không cam tâm ở mãi trong cung, đến lúc làm loạn thì mất thể diện cho cả đôi bên.

Thà chọn vài đứa ngốc nghếch thật thà, không có tham vọng, cũng yên ổn hơn."

"Lời ấy cũng có lý."

Thái hậu suy nghĩ rồi nắm tay Hoàng đế mà than thở: "Xã tắc giang sơn này, rồi cũng đến ngày phải một mình con gánh lấy.

Tuy không trông mong gì ở một đứa ngốc nghếch an phận, nhưng ít ra cũng không lo nó gây chuyện mưu quyền loạn chính, thế cũng yên lòng.

Có điều không nhất thiết phải là Vĩnh Thành, trước tiên phải xem hai bên có ưa thích nhau hay không, có hợp tính khí hay không, sau này mới dễ chung sống.

Thôi thì ngày mười sáu tháng sáu ta sẽ nói rõ với mấy nhà kia hãy lẳng lặng mà quan sát, sau này gặp được ai vừa ý quyết cũng không muộn."

Nguyên Gia thấy kế này hiệu quả, càng thuận nước đẩy thuyền:"Nếu cữu mẫu đã muốn Vĩnh Thành biểu ca đi cùng, vậy cứ cho đi cùng đi.

Lúc Thời hoàng đế còn sống cũng thân thiết với nhà cữu phụ, nay đến dâng hương là hợp lẽ, chẳng ai dám lời ra tiếng vào."

Phu nhân Xương quận công theo cung nữ nâng khay vàng đựng cây như ý đi ra, vừa hay nghe thấy lời Hoàng đế trong lòng mừng vui như mở hội, nghĩ thầm: quả là tình thân trên hết, Hoàng đế đối đãi với người nhà thật quá có lòng, việc này chẳng phải là thành rồi đấy sao?Nhưng phu nhân đâu biết rằng trong lòng Hoàng đế lại tính toán khác: ngày mười sáu tháng sáu, thế nào nàng cũng phải tìm cách rút đến am Từ Thọ.

Mà Hàn Vĩnh Thành là người nhà Thái hậu, có thân phận, có địa vị, lại thân cận, tính tình ngốc nghếch thật thà biết nghe lời, chịu làm một con cờ kín miệng cho nàng, chẳng phải là cái cớ hoàn hảo được dâng đến tận tay hay sao!

—— Hết chương 10 ——

Nhà đài bình: Quan gia mà không tâm cơ thì ai tâm cơ 🥹
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 11


Ngày mười sáu tháng sáu, tiết trời oi bức khác thường.

Chùa Báo Quốc mở đạo tràng thủy lục, càng náo nhiệt vô cùng.

Am Từ Thọ chỉ cách chùa Báo Quốc một bức tường, cũng bị lây cái không khí ấy.

Lý Thanh và Hứa Tịch bị sự huyên náo quấy rầy, không thể tập trung viết văn, đành buông bút đi xem cảnh nhộn nhịp, nơi đây chỉ còn lại một mình Cố Uyên.Cả một ngày hôm nay nàng đang miệt mài chép lại văn tập của Đại Học sĩ Cẩn Thân điện Tiết Hiếu Thông, một bậc đại nho nổi danh thiên hạ với nét văn chương đặc biệt cao siêu sâu sắc.

Cố Uyên đang còn định tâm tĩnh thần, bỗng nghe có tiếng hô ngoài cổng: "Ở đây có thùng nước nào không?"

Cố Uyên giật mình ngẩng đầu lên, nhìn ra thấy một nam tử trẻ tuổi lạ mặt đang đứng ngoài sân, một thân áo gấm đai da, tay phải giơ cao một con khỉ nhỏ xích vàng, tay trái cầm chiếc roi ngựa khảm ngọc, nhìn nàng một cái rồi thân thiện hỏi: "Ta đi ngang qua đây, con vật quý của ta đang khát nước."

Hắn giơ con khỉ lên, "Có thể mượn thùng nước của cô nương một chút được không?"

Tuy am Từ Thọ không có nhiều sân vườn nhưng tiểu viện của Cố Uyên lại nằm sâu trong cùng, phía trước có sơn môn và mấy tòa đại điện.

Cố Uyên suýt bật cười, bỗng lại nghe ngoài sân văng vẳng tiếng 'huỵch' một cái, liền tự hiểu ra, vừa gật đầu đồng ý vừa đi ra múc nước từ cái giếng ở góc sân, trong lòng lại dở khóc dở cười: "Tại làm sao mà những công tử tiểu thư nhà vương tôn quý tộc kinh thành này lại thích trèo tường đến am Từ Thọ thế không biết?"

Con khỉ nhỏ rất khôn ngoan, biết dùng chân bưng nước uống mấy lần, rồi còn nhăn nhó làm mặt quỷ với Cố Uyên.

Nam tử kia mỉm cười: "Tiểu Hồ nhi biết nhìn người lắm, nó thích cô như vậy, hẳn là con người cô không tệ."

Rồi hắn quay sang góc phía tây hô lớn: "Lão Tam!

Lề mề cái gì thế?"

Có tiếng đáp lại miễn cưỡng, lát sau, một thiếu niên áo gấm từ góc ấy bước ra, vừa chỉnh y trang vừa lẩm bẩm: "Thế cho nên quân tử giữ gìn, e dè cái mắt không nhìn.

Tai nghe không nổi cho nên hãi hùng.

Càng ẩn áo lại càng hiện rõ, càng siêu vi càng tỏ sáng nhiều.

Nên dù chiếc bóng tịch liêu, đã là quân tử chẳng xiêu lòng vàng..."[1][1] Gốc: "Thị cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn.

Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi.

Cố quân tử thận kỳ độc dã." — Chương 1, Trung Dung."

Còn dông dài làm gì?

Nếu mà làm lỡ việc, về nhà ta sẽ tâu phụ thân dùng gia pháp trị đệ!"

Nam tử trừng mắt với người kia, rồi lại cười hiền với Cố Uyên: "Ta không thích khách sáo, chỉ ưa nghĩ thẳng nói thẳng.

Cô nương đã trú ngụ được ở nơi này, hẳn gia thế cũng không tầm thường.

Hai người chúng ta không phải kẻ xấu, ở kinh thành này cũng có chút danh tiếng, chỉ là hôm nay gặp chuyện khó nói nên không tiện xưng danh.

Cô nương yên tâm, chúng ta không làm gì phạm quốc pháp cả."

Rồi hắn chỉ về phía chùa Báo Quốc, "Chỉ là vị hôn thê của thân đệ ta đang ở trong đó, hôm nay có một buổi gặp mặt mà cổng chính đông đúc tắc nghẽn quá, đành mượn đường từ nơi đây.

Cô nương cứ coi như không thấy không nghe không biết, đảm bảo sẽ không liên lụy gì, được chứ?"

Cố Uyên thấy hai nam tử trước mặt y trang sang trọng, phong thái phóng khoáng, lại thấy thiếu niên trẻ trung kia đã đỏ mặt, hẵng còn do dự, vừa định gật đầu, bỗng thấy một tiểu đồng dẫn theo một người mập mạp hớt hải chạy đến từ phía đông của viện, từ xa đã hét lên: "Ôi!

Đại gia của ta!

Sao ngài lại ở bên này?

Còn Tam gia đâu?

Người bên kia đã hỏi ba lần rồi..."

Hắn chưa dứt lời, thấy Cố Uyên đang đứng ở cổng, hắn cũng biến sắc, bèn lau sạch mồ hôi rồi mới hành lễ: "Tiểu nhân có thấy Lý cô nương và Hứa cô nương ở tiền điện, tưởng Cố cô nương cũng đi, định lát nữa mấy vị về rồi sẽ đến chào, không ngờ cô nương vẫn còn ở đây.

Trời nóng thế này, cô nương quả nhiên là 'hàn thử bất phạm' như lời thánh nhân nói, chăm chỉ chịu khó như vậy ắt sẽ bảng vàng sẽ đề tên..."

Hắn vừa nói luyên thuyên vừa lùi dần, không ngờ thiếu niên kia thấy hắn mặt đã đỏ như gấc, liền hỏi dồn: "Thôi...

Thôi tổng quản!

Thập...

Thập Nhất tiểu thư có sốt ruột không?

Có giục giã gì không?"

Chỉ cần nhìn cảnh này thì dù không hiểu cũng đoán ra một hai, huống chi là Cố Uyên vốn nhạy cảm, tinh ý.

Thôi Thành Tú thấy nàng đã hiểu ra rồi, trong lòng hắn liền bực bội.

Tính toán giờ giấc, biết Thôi Tam Thuận đã dẫn Hoàng đế vào am Từ Thọ từ cửa tây, liền quyết đoán hẳn, cười nói giả lả: "Lại nói duyên phận, duyên phận thật là trùng hợp!

Hai vị này là công tử nhà Cữu cữu của bọn ta, hôm nay đến chùa Báo Quốc dâng hương mà không ngờ đến muộn lại không vào được, làm phiền cô nương rồi.

Thập Nhất tiểu thư nhà ta với hai công tử đây thân như huynh muội, lát nữa sẽ đến tạ lỗi, cô nương đừng trách nhé?"

Cố Uyên thấy hắn cười tươi roi rói nhưng cả người cứ có xu hướng ngóng về phía đông, cũng liền đưa mắt nhìn về hướng đó.

Mắt nàng tinh tường, vừa nhìn đã thấy Thập Nhất tiểu thư đang đi sau Thôi Tam Thuận, hai người vội vã bước đi trên con đường đá xanh.

Hôm nay Thập Nhất tiểu thư mặc một thường y màu xanh ngọc, bước chân gấp gáp khiến gò má ửng hồng, đứng cùng với thiếu niên đỏ mặt trông thật là giống một đôi thanh mai trúc mã."

Thì ra nàng cũng đã có hôn ước rồi..."

Cố Uyên thấy trước mắt mình là một đôi uyên ương như ngọc cũng cảm thấy mình ở đây thật không phải lẽ, vốn dĩ nàng cũng không có liên quan gì, bèn mỉm cười nói: "Hai vị tiểu lang không làm gì phiền phức cả, nói tạ lỗi ta thực không dám nhận.

Ta còn việc, xin phép cáo lui."

Lúc này Hoàng đế đã đến gần với Cố Uyên, nghe được rõ lời nàng nói.

Mấy ngày nay bận rộn, chưa có dịp gặp lại, lại vừa mới sinh tình, thiếu nữ lần đầu tiên hiểu thế nào là tương tư.

Thấy Cố Uyên định nhanh chóng đóng cửa bèn vội vàng đưa tay mình ra chặn lại: "Đề văn lần trước giao ta đã làm xong rồi, ta muốn nhờ A Uyên bình phẩm giúp."

Nói rồi là hành động, cũng không để hai huynh đệ Hàn gia vào trong mắt, Hoàng đế đẩy cửa lách vào, một tay nắm lấy cổ tay Cố Uyên, một tay lấy tập giấy ra từ tay áo, cùng nàng đi thẳng vào viện."

Khoan đã."

Thôi Tam Thuận theo Hoàng đế vào viện, mà Thôi Thành Tú đã bị Hàn Doãn Trực chặn lại.

Hắn vuốt con khỉ nhỏ trên tay, cười một nụ cười lạnh căm căm: "Hôm trước ngươi đến phủ ta truyền chỉ, nói Quan gia triệu hai huynh đệ chúng ta đến chùa Báo Quốc yết kiến, lại bảo là đi tuần thú.

Thú thật, đệ đệ ta thật thà, nhận thánh chỉ mà vui đến mất ngủ cả đêm, sáng dậy uể oải suýt lỡ việc.

Hai huynh đệ ta vội vã chạy đến đây, rốt cuộc tình hình trước mắt này là thế nào đây?

Chuyện này, nếu lão Thôi không nói rõ, đừng trách ta không khách khí!"

Thế tử Xương Quốc công là kẻ liều lĩnh bạo gan nổi tiếng trong đám tôn tử thế tộc kinh thành, Thôi Thành Tú khinh bỉ trong lòng, ngoài mặt vẫn tươi cười giải thích: "Thế tử điện hạ chẳng lẽ còn không tính Quan gia?

Gặp chính sự là lãng quên hết tất cả mọi chuyện khác.

Hôm trước Quan gia cải trang vi hành với Tùy Vương, tình cờ gặp mấy cô nương nhập kinh ứng thí, ở ngay nơi đây."

Hắn chỉ vào viện, nói tiếp.

"Quan gia đang học văn chương thơ phú từ vị Cố tiểu thư này, ngài còn định thử thi một khoa nữa kia!

Hôm qua Quan gia thức làm bài đến tận nửa đêm, hôm nay vẫn nhớ mang bài đến để nhờ tiên sinh bình phẩm giúp, thế nên mới lỡ việc của hai điện hạ thôi.

Bây giờ không tiện làm phiền đâu."

Rồi hắn liếc nhìn Hàn Doãn Thành, "Hai vị điện hạ đợi chút nhé?

Phía trước Phật đường mát mẻ yên tĩnh, trà Dương Tiên trong am cũng không tệ, tiểu nhân sẽ pha hai chén, hai vị tạm nghỉ trong Phật đường một chút, chứ trời nắng thế này lỡ phỏng da hai vị, Quan gia sẽ lột da tiểu nhân mất!"

Nói rồi hắn bước gần hơn, hạ giọng: "Tiểu nhân nói thêm lời không nên nói, mấy vị Thế tử phủ khác ấy à, Quan gia còn chẳng nhắc đến, đang chen chúc ở hành lang đại điện kia kìa!"

Sắc mặt Hàn Doãn Trực dịu lại, gọi Hàn Doãn Thành cùng đi vào Phật đường.

Thôi Thành Tú cũng nhếch mép quay vào viện, sai Thôi Tam Thuận đi lấy trà, còn mình đến hầu Hoàng đế.Vừa vén rèm bước vào, hắn nghe Cố Uyên đang nói bằng thứ ngữ điệu nhẹ nhàng: "Với bút lực của tiểu thư, hãy thử làm hai đề này xem.

Cũng không cần vội vàng đâu, hôm nay trời đẹp, am Từ Thọ tuy nhỏ nhưng cũng có mấy chỗ núi đá rất đẹp, Thập Nhất tiểu thư không đi thưởng ngoạn một chút sao?"

Giọng nàng ôn hoà mà pha chút hài hước, chất chứa ngữ điệu của trưởng bối khuyên bảo hậu bối, trưởng tỷ nhắc nhở em nhỏ.

Thôi Thành Tú ngó vào thấy mặt Hoàng đế từ đỏ ửng chuyển sang trắng bệch, trong lòng hắn âm thầm tiếc hận: "Cô nương này, cái gì cũng tốt, sao riêng chuyện này lại không hiểu?"

Hoàng đế chỉ ngồi với Thái hậu chừng nửa canh giờ trong chùa Báo Quốc rồi liền mượn cớ sang gặp hai huynh đệ Hàn gia ở am Từ Thọ, sau đó cho Thái giám báo lại là xong, chỉ không ngờ lại gặp Cố Uyên trước mặt hai người bọn họ.

Dù chỉ thoáng nhìn cũng thấy được sự tồn tại của Hàn Doãn Thành dễ gây hiểu lầm, lại sợ Cố Uyên nghi ngờ, đành mượn cớ bình văn để cắt đuôi hai người ấy ở ngoài.

Giờ đây lời Cố Uyên như mũi dao nho nhỏ chọc vào lồng ngực, ánh mắt Nguyên Gia trầm xuống, nén bực dọc, nói: "Ta không thường qua lại với hai biểu ca, gặp hay không cũng không quan trọng, chỉ có văn chương là quan trọng nhất."

"Ta biết ngươi hiếu học, nhưng 'văn võ chi đạo, nhất trương nhất thỉ'[2], thư giãn chốc lát cũng không sao."

Cố Uyên thấy Nguyên Gia càng giấu càng lộ, thấy buồn cười, chỉ nói: "Ta cũng từng trải qua tuổi này rồi, hiểu tâm tư của Thập Nhất tiểu thư."[2] Đạo văn võ, lúc căng lúc chùng.Một nỗi chua xót khó tả và mới mẻ trào lên, Nguyên Gia cảm thấy muốn nói mà lời nghẹn lại, chỉ lặng lẽ nắm chặt tay.

Thấy Cố Uyên vẫn bình thản nhẹ nhàng khuyên bảo, nàng quyết đoán hỏi một câu: "Tâm tư của ta, cô thực sự hiểu được ư?"

Giọng điệu kiên quyết, toát lên vẻ cao ngạo như thể quyết định sinh tử của người ta.

Cố Uyên kinh ngạc ngẩng đầu, thấy người đối diện đang nhìn thẳng vào mắt mình, ý tứ rõ ràng trong đôi mắt khiến cho nàng giật mình.Một khi đã quyết, đột nhiên lại cảm thấy không còn do dự bất an nữa.

Hoàng đế nhớ lại khi xưa mình nâng hoàng phục nặng trịch quỳ trước Tiên đế, lúc ấy rõ ràng run sợ, nhưng một khi mở miệng tâm trí bỗng ràng mạch và tỉnh táo lạ thường, tựa như đó chỉ đơn thuần là một việc phải làm.Nàng suy tư thêm chút, hạ quyết tâm, không e dè mà vào thẳng vấn đề: "Ta biết chuyện này đường đột và khó xử.

Tuy ta không phải nam nhi, nhưng gia đình cũng là có thanh có thế, đủ để gánh vác.

Ta có quyền, có tiền, tiền đồ quan lộ của cô, thân đệ thân mẫu của cô nữa, tất cả đều có thể giao phó cho ta.

Chỉ có điều, ta có sự bất đắc dĩ riêng của ta, không thể cho cô một danh phận quang minh chính đại."

Thấy Cố Uyên thanh sắc bất động, lẳng lặng nhìn mình, Nguyên Gia thấy như lời nghẹn trong họng, phải dừng một chút mới nói được tiếp.

"Dù... dù vậy, ta nhất định toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ, cả đời này sẽ đối tốt với cô.

A...

A Uyên, cô... cô có nguyện ý theo ta không?"

Lời đã nói đến thế, đã là rõ ràng không thể rõ ràng hơn nổi nữa.

Cố Uyên lặng lẽ, thấy người đối diện vẫn cứ nhìn mình bằng ánh mắt tha thiết mong chờ, bèn trầm giọng, nói: "Thập Nhất tiểu thư, 'dụng sắc sự nhân giả, sắc suy ân tuyệt'[3], thì tốt đẹp được mấy chốc?"[3] Yêu người vì sắc, sắc tàn tình tan.Mặt Hoàng đế lúc này tái mét, giọng run lên: "Cô, cô nghĩ ta là người như vậy sao?"

Cố Uyên vẫn bình thản, mặt không gợn sóng: "Lần đầu gặp mặt, Thập Nhất tiểu thư đã đối xử đặc biệt với ta, ta vẫn luôn tưởng là tri kỷ tương ngộ, không ngờ..."

Nàng cười khổ một tiếng.

"Giờ đây thế này, ngươi muốn ta nghĩ sao?"

Nguyên Gia thấy uất ức nghẹn trong cổ mà không thể phản bác được.

Lời Cố Uyên nói không sai, đúng là nàng đã thích Cố Uyên ngay từ ánh nhìn đầu tiên, khi ấy còn chưa biết tên biết họ, làm sao biết được tài năng phẩm hạnh của người ta?Phải chăng thực sự chỉ vì nhất thời mê muội dung mạo ấy?

Hoàng đế xưa nay vốn giỏi lý lẽ phân phải trái đúng sai, giờ đây lại không thể phản bác nổi một chữ.

Ấy thế nhưng trong lòng vẫn tự huyễn tranh luận: Không phải vậy đâu, đây là thiên duyên kiếp trước, hẳn là cả hai cùng quên mất chén canh Mạnh Bà, phải tìm kiếm khắp tứ hải bát hoang mới có thể gặp lại...Khuôn mặt luôn nhu hoà dịu dàng kia giờ đây quá mức thanh minh lãnh tĩnh, khiến cho Hoàng đế hổ thẹn chán nản vô cùng, cảm thấy tương tư nhung nhớ của mình thật nực cười vô cùng, đáng để chê cười.

Cuối cùng, nhìn Cố Uyên để miễn cưỡng cười một cái, rồi quay gót mà đi.Tâm tư rối bời, bước chân loạng choạng, suýt đâm cả vào cửa, Thôi Thành Tú hoảng hốt đỡ lấy, thì thầm dưới kẽ răng: "Ôi, Quan gia, ngài... ngài..."

Hoàng đế phẩy tay: "Phiền phức, tránh ra!"

Thôi Thành Tú lùi ngay lại, không dám nói gì, chỉ nheo nheo mắt liếc nhìn bóng lưng ngay thẳng vẫn đang tĩnh toạ sau rèm trúc: "Làm Quan gia thương tâm thất vọng, như vậy, Cố cô nương này thật là... tội ác tày trời!"

—— Hết chương 11 ——

Ác quá ác, mối tình đầu của Quan gia đã SE ngay từ khi chưa bắt đầu như thế đó 😌
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 12


Hoàng đế rảo nhanh bước chân dọc con đường đá rêu phong thẳng đến cửa Tây am Từ Thọ mới dừng chân.

Thôi Thành Tú vội vàng bưng khăn tay chạy theo phía sau, thấy Hoàng đế đang chăm chú nhìn chiếc vòng đồng trên cửa, cứ câm nín đợi một lúc rồi mới dè dặt hỏi: "Quan gia, nơi này nắng gắt, e sẽ làm Quan gia khó chịu đấy ạ.

Hay là chúng ta về chùa nghỉ ngơi một lát?"

Hoàng đế thở dài, lấy khăn tay từ tay Thôi Thành Tú để thấm lau gương mặt, cảm giác mát lạnh khiến nàng dần lấy lại lý trí, mới lắc đầu: "Đi gặp mấy người nhà họ Hàn trước đã, cứ để bọn họ đợi ở đây cũng không phải."

Vẫn nói thiên tử toạ trấn bốn phương, nhất cử nhất động đều có người theo dõi sát sao, dù đáy lòng rối bời hay tâm tư đại loạn thì cũng không thể để lộ ra ngoài.

Hoàng đế sâu kín thở dài, dồn nén mọi loại cảm xúc thất vọng, sợ hãi, tức giận và chua xót vào đáy lòng hết cả.

Lau mặt xong mới đưa khăn tay lại cho Thôi Thành Tú, ép mình trở lại vẻ bình thản như thường ngày: "Đi thôi."

Lúc này, Thôi Tam Thuận vừa pha xong trà Dương Tiễn để dâng lên.

Hàn Doãn Trực uống hai ngụm, khen một tiếng "Không tệ", rồi cầm chén trà đưa cho chú khỉ nhỏ lông vàng uống nốt nửa chén còn lại.

Hàn Doãn Thành thấy Thôi Tam Thuận đang nhìn chằm chằm hành động đó, mặt vốn đỏ sẵn còn càng đỏ hơn: "Đại ca!"

"Chưa thấy bao giờ à?"

Hàn Doãn Trực cười nhếch mép với Thôi Tam Thuận, đặt chén trà không xuống: "Chớ coi thường nó, năm ngoái khi thư phòng của ta bị cháy, nếu không phải là nhờ nó kêu la đánh thức ta, có lẽ năm nay mộ phần của ta đã mọc cỏ xanh rì rồi!

Ân nhân cứu mạng đích thực đấy, ở phủ ta cũng đối xử với nó như vậy, ngay cả phụ thân cũng không nói gì.

Thời buổi này lòng người xấu xa giả dối, có kẻ còn không bằng loài vật chân thành trung thành đâu.

Tiểu tổng quản nói xem có phải không?"

Thôi Tam Thuận cảm thấy câu này thật khó trả lời, chỉ đành cười gượng: "Tiểu nhân không kham nổi danh xưng đó, Đại lang đừng trêu chọc tiểu nhân."

"Thập Nhất tiểu thư trọng tình nghĩa mà, ngươi sớm muộn cũng có ngày bay cao thôi."

Hàn Doãn Trực lại cười, thấy Hàn Doãn Thành ngồi một bên im lìm không nói gì, thở dài trong lòng rồi tháo chiếc ngọc bội đeo bên hông đưa cho Thôi Tam Thuận.Thấy Thôi Tam Thuận xua xua tay từ chối, hắn chỉ cười nhạt: "Người ngay thẳng không nói lời quanh co, đệ đệ ta bị phụ thân quản chặt quá, tính tình thật thà trầm mặc, chỉ biết đọc sách, sau này vào cung, ắt phải nhờ các ngươi chiếu cố.

Ngươi cũng đừng từ chối, quy củ ta hiểu, ta cũng không mong Tam đệ được Quan gia yêu thích, chỉ hy vọng nó bình an vô sự không bị người khác hãm hại.

Nếu có khi nào gió thổi cỏ lay, mong tiểu tổng quản có thể mật báo, được vậy Hàn gia chúng ta đã cảm kích lắm vô vàn."

Thôi Tam Thuận thở phào nhẹ nhõm, cất ngọc bội vào ngực, lại nghe Hàn Doãn Trực hỏi: "Tiểu tổng quản, cô tiểu thư sắc nước hương trời trong viện kia có xuất thân lai lịch thế nào?

Chuyện này chắc không phải điều cấm kỵ không được nói chứ?"

"Cũng không có gì cấm kỵ."

Thôi Tam Thuận sợ nói nhiều sai nhiều, không dám mở miệng bừa bãi, bèn tránh nặng tìm nhẹ qua loa đối phó: "Trong viện có ba vị cô nương nhập kinh ứng thí dự thi Nữ khoa, trước đây từng bàn văn chương bình thi phú với Tùy Vương điện hạ và Quan gia, sau đó xui rủi lại không tìm được chỗ ở, cuối cùng gặp người của Tùy Vương phủ rồi được được an trí ở đây.

Quan gia muốn học văn Bát cổ, trước đã đến đây thỉnh giáo một lần rồi, còn những chuyện khác của Tùy Vương điện hạ thì tiểu nhân không rõ."

"Người của Tùy Vương?"

Câu này khớp với lời của ni cô, Hàn Doãn Trực cũng không hỏi thêm, chỉ tặc lưỡi: "Tiếc cho một dung nhan tuyệt sắc như vậy."

Câu này thì Thôi Tam Thuận càng không dám đáp, chỉ đứng im một bên, nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài vọng lại vội vàng ra cửa đón.

Thấy sắc mặt Hoàng đế vẫn như thường ngày, nhưng Thôi Thành Tú theo sau lại lén ra hiệu "cẩn thận", thế là hắn liền im bặt đi theo sau Hoàng đế.Hoàng đế vẫn giữ một giọng điệu bình thản, an ủi huynh đệ nhà họ Hàn vài câu, lại cười nói: "Hôm nay ở chùa Báo Quốc, mấy nhà công hầu nhà nào cũng có người đến, thật ồn ào.

Ta thấy phiền phức quá, bèn mượn danh biểu ca trốn ra am bên ngoài tránh ồn, không ngờ lại thật sự gặp ở đây, qua chuyện này mới thấy, nơi này đúng thật có chút linh khí."

"Nơi này yên tĩnh hơn."

Hàn Doãn Thành gắng hết can đảm nói: "Thập Nhất tiểu thư có thể nghỉ ngơi thêm ở đây, cũng có thể... cùng vị tiểu thư kia bàn luận văn chương."

"Cũng không nghỉ ngơi được lâu," Câu này chạm đúng vào chỗ khó chịu trong lòng Nguyên Gia, nàng chau mày, rồi lại làm ra vẻ không có chuyện gì: "Trưa nay sẽ về ngay.

Còn văn Bát cổ, văn Bát cổ..."

Nàng gần như không nói được nữa bèn, cầm chén trà lên che giấu.

Hàn Doãn Thành lại tưởng nàng xấu hổ vì thua kém trước Cố Uyên, vội tìm lời an ủi: "Học văn Bát cổ không thể vội được đâu, ta đã viết ba năm rồi mà đến giờ vẫn bị tiên sinh sửa bài thành một mớ hỗn độn đấy!"

Hoàng đế mím chặt môi không nói, chỉ siết chặt chén trà trong tay, trong đầu chỉ tràn ngập hình ảnh Cố Uyên thanh sắc bất động lẳng lặng nhìn mình.

Tới khi hoàn hồn tỉnh lại mới thấy Hàn Doãn Trực đã lui ra không biết từ lúc nào, chỉ còn mình và Hàn Doãn Thành ngồi đối diện nhau.

Nguyên Gia hơi nhíu mày, dùng giọng điệu quân thần tấu đối mà nói:"Năm nay Doãn Thành biểu ca cũng phải thi Tước khảo.

Sau này xuất sĩ, biểu ca có nguyện vọng muốn nhận chức vụ gì?"

"Ta... không có năng lực gì, cũng không có nguyện vọng gì."

Hàn Doãn Thành thành thật.

"Nhà ta bàn bạc rồi, năm sau đại ca và nhị ca đều sẽ ly kinh nhậm chức, ta sẽ ở lại kinh thành để chăm sóc phụ mẫu."

"Cũng nên lập chút công nghiệp chứ nhỉ."

Hoàng đế trầm ngâm, ngón tay trắng như ngọc khẽ gõ lên bàn: "Thế này đi, sau kỳ Tước khảo, huynh hãy đến Lễ bộ học việc, tạm thời giữ chức Chủ sự, đến ty Thanh Lại nghiên cứu kĩ về lễ nghi và học vụ, năm sau tổ chức lễ thành hôn và thân chính của ta, lại còn phải mở khoa thi nữa, lúc đó huynh sẽ được trọng dụng."

"Vâng."

Dù chỉ là nói chuyện phiếm khi cải trang vi hành mà thôi, thế mà tiền đồ tương lai của mình đã bị Hoàng đế dùng một câu mà định đoạt mất rồi.

Hàn Doãn Thành liếc nhìn hoàng đế, gương mặt thiếu nữ trước mặt đẹp như tranh sáng như ngọc, thế mà khó gần như trăng treo tầng không, lạnh lùng như ngọc điêu tuyết đắp.

Cậu ta nén nỗi thất vọng trong lòng, cúi đầu tạ ơn, mà cứ thấy Hoàng đế nhìn mình rồi bỗng cười nhẹ: "Doãn Thành biểu ca, huynh có biết hôm nay ta triệu huynh đến để làm gì không?"

Tim Hàn Doãn Thành đập mạnh: "Thập...

Thập Nhất tiểu thư muốn ta làm gì?"

"Kỳ thực cũng không có gì to tát."

Nụ cười của Nguyên Gia càng thêm mơ hồ, nhưng giọng điệu lại toát ra một sự ngoan cố và tàn nhẫn khó tả: "Huynh đến Lễ bộ rồi, phải rất chú ý đến các điển lễ nghi chú thời Thái Tổ, để ngày sau khi cần dùng tới thì phải có ngay lập tức, miễn vào tình thế không kịp trở tay."

Rồi Nguyên Gia trầm giọng.

"Những lời này trẫm chỉ nói với duy nhất một mình ngươi, nếu có người thứ hai biết, ngươi liệu mà tự giải quyết, không còn cơ hội đến nhìn mặt trẫm thêm một lần nữa đâu."

Hàn Doãn Thành sợ đến run cả người, mà Hoàng đế cũng không liếc nhìn cậu ta thêm cái nào nữa, vén rèm bước thẳng ra ngoài.

Địa thế ở am Từ Thọ là trước thấp sau cao, Nguyên Gia quay đầu nhìn qua mái nhà, thấy rõ lớp mái ngói cũ kĩ màu xám xanh của chính phòng trong hậu viện nơi Cố Uyên ở, bỗng thấy nơi đáy lòng khó chịu như bị xát muối chà chanh, đồng thời lại ẩn ẩn cái cảm giác khoái trá và bất lực của một kẻ liều mạng ngoan cố.

Nguyên Gia biết nàng không thích mình còn buộc tội mình là một kẻ háo sắc, giờ lại muốn hạ một cái quyết tâm hoang đường là cho nàng một danh phận, hòng chứng minh lời buộc tội ấy là sai.

Có lẽ chuyện này căn bản là vô ích, Hoàng đế thở dài, trong lòng lại tràn ngập cảm giác buồn rầu và tủi thân bây giờ mới được trải nghiệm.

Muốn tự mình chọn người cho đại hôn sắp tới, ít nhất cũng phải đợi đến năm sau, sau Đại điển thân chính.

Mà Cố Uyên thi khoa năm nay, đỗ đạt xong ắt sẽ lập tức hồi hương gả chồng sinh con, dù mình có xoay trời chuyển đất cũng không liên quan gì đến nàng nữa.

Hoặc, cũng có thể ép nàng ở lại kinh thành - ý nghĩ này mới chỉ thoáng qua trong lòng Nguyên Gia rồi tan biến không dấu vết, những kẻ tính toán khúm núm, từ khi còn nhỏ nàng đã thấy đầy rẫy rồi.

Chỉ cần nàng mở miệng, dù là không cho danh phận, cũng không thiếu kẻ muốn vin vào cành vàng.

Mà Nguyên Gia tuyệt đối không muốn nhìn người mình thích phải khom lưng quỳ gối trước mặt mình, thế nên, hoặc là lưỡng tình tương duyệt, hoặc là đoạn tuyệt đời này.Chỉ là... hy vọng về lưỡng tình tương duyệt giờ đây mong manh đến mức chính Hoàng đế cũng không dám tin.

Bề ngoài vẫn bình thản, trong lòng lại mơ màng như mất hồn, gần như không nhớ mình đã từ biệt huynh đệ Hàn gia thế nào, về chùa Báo Quốc hầu Thái hậu thế nào, từ biệt các vị tôn tử để về cung thế nào.

Khi hoàn hồn lại, trời đã tối."

Hôm nay Quan gia mệt mỏi, dùng bữa trưa không ngon miệng gì cả."

Hoàng đế chiều nay đọc sách mà cứ ngẩn ngơ, Thôi Thành Tú nhận ra có điều không ổn nhưng không dám khuyên nhủ, cũng không dám tùy tiện mời Thái y.

Giờ thấy đôi mắt Hoàng đế mắt có thần hơn rồi mới thở phào nhẹ nhõm, bưng khay trà gỗ hoàng dương khắc rồng cuộn lên: "Đây là trà Dương Tiễn mới tiến cống, Quan gia nhấp môi đi ạ, nô tài đi truyền bữa."

"Khoan đã."

Hoàng đế nâng chén trà, suy nghĩ: "Trà này tiến cống được bao nhiêu?"

"Đây là loại thượng hạng, tổng cộng chỉ có hơn ba cân.

Theo lệnh của Quan gia, lưu lại một cân cho Thái hậu, mỗi vị Thái phi được ban hai lạng, ban cho Bắc Vương và Tùy Vương mỗi người hai lạng, còn lại ban cho các đại học sĩ mỗi người nửa cân, ban cho mấy vị lão cô ở Loan Nghi ti nửa cân, giờ chỉ còn hơn ba lạng thôi ạ, nô tài biết Quan gia ưa thích, đã dặn người ở Ngự Hầu phòng bảo quản tốt rồi."

"Việc truyền bữa để Thôi Tam Thuận lo liệu đi, ngươi xuất cung đến am Từ Thọ một chuyến, tặng cho cô ấy hai lạng."

Hoàng đế nhấp từng ngụm trà, chậm rãi nói từng chữ: "Hãy nói với nàng: cứ yên tâm ở lại am Từ Thọ mà học cho tốt, cũng không cần nói lời tạ ơn hay báo đáp, nếu thật sự thấy cảm kích thì sau này hãy phục vụ triều đình toàn tâm toàn ý.

Ban sớm ta thất lễ với cô ấy, chút trà này coi như trà tạ lỗi, mà nếu nàng nhất quyết không nhận, hãy nói rằng ta chỉ thấy rằng trà này là trà quân tử, rất giống với nàng, không có ý gì khác.

Hãy nói ta và nàng không có duyên phận, sau này cũng không còn cơ hội gặp lại, chớ lăn tăn suy nghĩ nhiều."

"Vâng."

Dù Hoàng đế không nêu tên, nhưng 'cô ta' là ai thì cả hai đều hiểu.

Thấy tâm tình Hoàng đế rất tệ, Thôi Thành Tú cũng không dám nói nhiều, dặn dò Thôi Tam Thuận vài câu rồi vội vàng đeo lệnh bài mà xuất cung.Lúc này, sự náo nhiệt ở chùa Báo Quốc cũng vừa mới tan.

Lý Thanh và Hứa Tịch hứng khởi dắt tay nhau trở về, thấy chính phòng tối om om bèn mượn cái đèn lồng của tiểu ni cô để soi đường, vừa vào cửa đã thấy Cố Uyên đang ngồi bất động bên bàn như một bức tượng đá.

Sợ đến điếng hồn, Hứa Tịch suýt làm rơi đèn khỏi tay: "Sao A Uyên lại ngồi ở đây?

Tối như mực thế này, cô đang thiền đấy à?"

Cố Uyên lắc đầu.

Lý Thanh thấy sắc mặt nàng u ám, bèn tới quẹt diêm đốt một ngọn nến, nhìn mặt nàng, hỏi: "Có chuyện gì thế?"

"Không có gì."

Cố Uyên cười gượng gạo: "Chỉ là hơi khó chịu trong người thôi."

"Đây không phải chữ của Thập Nhất tiểu thư sao?

Hay là học trò ngốc quá, làm cho Cố tiên sinh của chúng ta tức giận?"

Hứa Tịch cầm tờ giấy trên bàn lên nheo mắt đọc, cười nói: "Viết không kém ta chút nào, dường như dùng rất nhiều tâm huyết để làm bài mà Cố tiên sinh vẫn không hài lòng sao?"

Cố Uyên thấy trong lòng như thắt lại, nụ cười càng miễn cưỡng thấy rõ.

Hứa Tịch còn định nói tiếp, bỗng nghe thấy ở cửa viện có giọng nói rõ ràng rành mạch, vang vọng không gian: "Cố Uyên, hai mươi mốt tuổi, Hứa Tịch, mười tám tuổi, Lý Thanh, hai mươi tuổi, đều là người huyện Bình Giang, phủ Tùng Giang, Ngô Châu, từ bến Hải Châu đã lên thuyền tải lương đến bến Bình Giang để vào kinh, hiện đang trú tại viện Thanh Tâm, am Từ Thọ, có phải ở đây không?"

Ba người cùng quay đầu nhìn ra, chỉ thấy mấy người lính phủ nha và hai nữ tử mặc quân trang đang đứng ở cửa viện, người đứng đầu khoảng ba mươi tuổi, lấy thẻ bài Loan Nghi ty trong người ra, giơ lên: "Các cô nương dự thi Nữ khoa phải không?

Nếu không có việc gì gấp, hãy đi theo ta một chuyến."

—— Hết chương 12 ——

Nhà đài lảm nhảm: Drama bây giờ mới chính thức bắt đầu!
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 13


Dù sao đây cũng là lần đầu tiên dính vào nha môn, ba người ngồi trong chiếc xe ngựa kín như bưng mà nhìn nhau đầy lo lắng.

Người tới đọc lệnh bắt người tên Tô Thuyên, có vẻ là một người ôn hoà dễ gần, ngồi trên thành xe bên ngoài rèm vừa cười vừa nói qua tấm màn che: "Yên tâm đi, đây chỉ là thủ tục theo nguyên tắc thôi, nhìn mấy cô nương đây là biết không phải loại người dính dáng đến pháp luật!"

Trấn Phủ ti nằm trên phường Chiêu Nghĩa, nơi đây và am Từ Thọ am một đông một tây, đi xe ngựa cũng phải mất gần nửa canh giờ.

Đại môn màu son của Trấn Phủ ti mở rộng, bên trong đèn đuốc thắp sáng trưng.

Tô Thuyên xuất trình lệnh bài cho thủ vệ khoác đao canh bên ngoài rồi dẫn mọi người đi qua con đường hẻm, nhưng không vào đại đường mà vào bước qua cửa nhỏ bên phải.

Cuối con đường đá xanh là một gian phòng lớn, bên trong đông đúc người với người.

Có một nữ quan mặt tròn trịa đứng trước cửa, lật giấy kiểm tra tên tuổi Cố Uyên và mấy người khác nữa, rồi chỉ tay vào trong, nói: "Mời mấy cô nương vào, xin hãy yên tâm chờ một lát."

Bên trong phòng toàn là sĩ tử Nữ khoa đang tụm năm tụm ba nói chuyện phiếm, không hề có cảnh giương cung bạt kiếm tra hỏi gì, ba người mới thở phào nhẹ nhõm, cảm tạ Tô Thuyên rồi đi vào.Thấy mấy người đã vào cửa, Tô Thuyên kéo tay áo nữ quan, hỏi: "Thuỵ Nương vẫn chưa xuống à?"

"Thuỵ Nương vừa mới tình cờ gặp lại một tiên sinh cùng quê cũ, đang nói chuyện đôi câu, lát nữa sẽ đến ngay."

Nữ quan liếc nhìn Tô Thuyên, ghé tai nói nhỏ: "Không phải là Điện hạ nhận lệnh đi đón mỹ nhân sao?

Mỹ nhân đã đón về rồi, sao không theo mỹ nhân vào luôn đi?"

"Chỉ có hạng phàm phu tục tử mới làm cái chuyện hái hoa bẻ liễu."

Tô Thuyên lắc đầu, không đồng tình: "Ta chỉ muốn thử xem lần này Tiểu Cửu thích loại người nào, kiểm tra một chút thôi.

Quả đúng như Hàn đại nhân đã nói, mắt Tiểu Cửu không tệ, vị kia mỹ mạo xuất sắc như vậy, e rằng nếu có nhập cung thì cũng sẽ leo cành vàng."

"Leo cành vàng thì sao?"

Nữ quan nói: "Vấn đề là Quan gia của chúng ta không giống như Điện hạ, Quan gia rất nghiêm chỉnh đoan chính, rất là chính phái..."

Chưa nói hết câu, thấy hai bóng người mặc quan phục xanh đi tới, vội chỉnh đốn y trang, đứng nghiêm một bên.Lý Thuỵ Nương đến trước cửa hoa viện, định hành lễ với Tô Thuyên, nhưng Tô Thuyên đã nhanh tay đỡ lấy, đẩy người vào trong: "Vào đi, đừng để mấy tiểu thư trong đó đợi lâu!"

Lý Thuỵ Nương đột nhiên bị đẩy cho loạng choạng bước vào, thấy bao nhiêu con mắt đều dồn về phía mình mà Tô Thuyên chỉ cứ khoanh tay đứng ngoài cửa không có ý định vào, đành cười khổ, chỉnh lại áo, bước lên trước án lớn rồi chắp tay với đám đông phía dưới, nói lớn: "Hạ quan, Lý Thuỵ Nương của Loan Nghi ty, hôm nay phụng lệnh trên mời các tiểu thư đến đây để minh tra một việc."

Giọng Lý Thuỵ Nương vẫn tiếp tục bên trong: "Ngày nào lên thuyền, ngày nào xuống thuyền, hành lý những gì, mấy người cùng đi, tất cả đều phải tự tay viết ra và ký tên..."

Bên ngoài, Tô Thuyên đã sắp hết kiên nhẫn, nói với nữ quan: "Sao Thuỵ Nương lắm lời thế?

Theo ta ấy à, ký tên làm gì, cũng đâu phải phạm pháp, cứ công khai hỏi thẳng trước mặt mọi người một tiếng là xong!"

Mọi người trong cung đều biết tính khí thất thường của vị Bắc Vương này, nữ quan bèn mím môi liếc nhìn người phụ nữ chạc tuổi tứ tuần đang mặc quan phục xanh bên cạnh, rồi lại thấy Lý Thuỵ Nương nhìn ra đây.

Nữ quan vội vào cửa, nhanh chóng bày văn phòng tứ bảo ra trên án lớn cho các sĩ tử lần lượt viết ra.

Trong lúc ấy, người phụ nữ mặc quan phục kia hành lễ với Tô Thuyên, nói: "Theo lệ, hỏi cung nhân chứng phải yêu cầu tự khai khẩu cung và ký tên điểm chỉ, quy trình đó là để phòng khuất tất trong thẩm tra, xin Điện hạ chờ một lát."

"Ngươi nói giống hệt Thuỵ Nương."

Tô Thuyên nhìn người phụ nữ, tuổi ngoài bốn mươi, ăn mặc chỉnh tề, trán rộng mày dài, dáng vẻ đoan trang.

Người đó hơi cúi đầu, mắt nhìn mũi mũi nhìn miệng miệng nhìn tim, rất mực trang nghiêm trầm ổn, dung mạo không phải quá xinh đẹp nhưng khiến người ta nhìn thấy rất vừa mắt dễ chịu.

Vốn là ưa thích nhìn người qua ngoại hình, Tô Thuyên hứng thủ hỏi: "Ngươi là người của Hình bộ?"

"Hình bộ, Hữu chủ sự Tư Ngục ty Trình Tố, phụng lệnh đến đây phụ trách việc lấy khẩu cung của các sĩ tử Nữ khoa, nếu ai có dấu hiệu phạm pháp sẽ tạm giam vào nữ ngục Hình bộ."

Người phụ nữ vẫn giữ giọng điệu bình thản: "Thần từng dạy học ở Ngô Châu mấy năm, đến năm Thiên Thọ nguyên niên mới được điều về kinh, hôm nay may mắn, được diện kiến Bắc Vương điện hạ."

"Bảo sao!"

Tô Thuyên cười: "Ở đây không có Bắc Vương, ngươi cứ gọi ta là Tô Thuyên là được."

Bắc Vương bao đời nay giữ trọng trách trấn thủ Định Châu, thế nên coi trọng vũ dũng, riêng thế tử Bắc Vương ngoài thi Tước khảo còn phải sung ba năm quân hộ ở Định Châu.

Khi vi hành, Bắc Vương dùng tên Tô Thuyên, vào kinh còn tự mình đến Loan Nghi ty xin cấp thẻ bài, khiến cho Đề đốc Loan Nghi ty Lâm Viễn vừa khóc vừa cười một phen.Thấy bên trong mọi người viết đã gần xong, nữ quan ôm một xấp khẩu cung đi ra, Tô Thuyên chỉ Trình Tố mà nói: "Việc của Hình bộ ta chưa làm bao giờ, nhưng ở đây có một người thạo việc, lại từng làm tiên sinh, quen thuộc với mấy sĩ tử này lắm, để cô ấy cùng làm với Thuỵ Nương đi!

Mỗi người một nửa, làm nhanh cho xong, kẻo nửa đêm còn giam người ta ở đây."

Trình Tố cáo lỗi, nhận khẩu cung rồi xem từng tờ, đột nhiên dừng lại ở một tờ, hơi trầm ngâm.

Tô Thuyên đã hỏi ngay: "Sao vậy?

Người này có vấn đề?"

"Không phải."

Trình Tố cười: "Chỉ là chữ người này đặc biệt đẹp, đẹp quá, thần xem đến mải mê."

Bắc Vương không giỏi thư pháp, nhưng thấy chữ ký ghi 'Cố Uyên', cũng cười: "À, đây là người Tùy Vương để ý, chữ sao có thể không đẹp?"

Ngón tay Trình Tố cầm tờ giấy hơi siết chặt: "Người Tùy Vương để ý?"

Tô Thuyên thấy thần sắc Trình Tố rất kỳ lạ, chỉ nghĩ cô ta giống với mấy lão thần cổ hủ trong Nội các, không ưa phong khí phóng khoáng hiện tại, liền cười nói: "Ta nghe người khác nói thôi, không biết thực hư.

Nhưng vị tiểu thư này dung mạo đến cử chỉ đều không hề tầm thường, nếu văn tài chữ nghĩa cũng tốt thì ắt là giống như những người mà Tiểu Cửu vẫn thường thích, bị người ta đồn thế cũng không có gì là lạ."

"Điện hạ nói phải."

Trình Tố đáp, xem xong phần khẩu cung còn lại, thu lại dâng lên Tô Thuyên: "Bên thần không có gì đáng ngờ."

"Bên thần cũng vậy."

Lý Thuỵ Nương nói."

Vậy thì thế này."

Tô Thuyên ngẩng lên nhìn trăng tròn trên cao, ra lệnh: "Trình chủ sự mang khẩu cung về, Thuỵ Nương hồi cung bẩm báo, thay ta nói với Trịnh cô cô rằng giờ đã gần canh ba, ta sẽ sắp xếp người đưa mấy tiểu thư này về kẻo dọc đường xảy ra chuyện, lát nữa ta sẽ đến."

Khi Cố Uyên và hai người kia về đến am Từ Thọ, đã là canh tư.

Thôi Thành Tú đang ngủ gật dưới bệ thờ, được tiểu ni cô báo tin, vội vàng chạy từ trong Phật đường ra nghênh đón: "Mấy cô nương vất vả quá, tiểu nhân đã chuẩn bị bếp lửa, lại xin nước sạch trước Phật, trừ uế khí là linh nghiệm nhất!

Trong am các sư phụ đã chuẩn bị mì chay, mấy vị thay quần áo xong hãy ăn chút lót dạ, thức đêm hao tổn tinh thần lắm!"

Hoạn quan luôn rất ân cần, luôn tươi cười xun xoe, Lý Thanh và Hứa Tịch vô cùng cảm kích, không ngừng cảm tạ.

Duy chỉ có Cố Uyên nhớ tới lời người trẻ kia nói hồi sớm, bèn nói với Thôi Thành Tú: "Thôi quản gia, những thứ này, chúng tôi thực không dám phiền..."

"Cố tiểu thư nói lời khách sáo làm gì?"

Thôi Thành Tú đã có chủ ý, cười tươi mời Cố Uyên vào trong: "Cố tiểu thư cứ đi thu dọn đi, tiểu nhân còn có mấy lời của Thập Nhất tiểu thư nhờ chuyển nữa!"

Cố Uyên không từ chối nổi, bèn cùng Hứa Tịch và Lý Thanh bước qua bếp lửa, trong lòng vẫn cứ nhớ tới lời Thập Nhất.

Nàng vội vàng tắm rửa thay y phục, rồi đi ra tìm Thôi Thành Tú, thấy hắn đang đợi trong Phật đường.Thôi Thành Tú thấy nàng liền ân cần đưa nén hương: "Am này rất linh nghiệm, Cố cô nương cũng thắp một nén đi, cô nương phúc phận lớn, có nén hương này, Phật tổ tất bảo hộ cô nương phú quý dài lâu."

Cố Uyên nghe lời nói của hắn mà thấy có chút khó chịu, nhíu mày: "Kẻ đọc sách thánh hiền chúng tôi chỉ biết quân tử mưu đạo bất mưu thực, ưu đạo bất ưu bần, giàu sang hay cùng khốn đều là thiên ý, chứ không dám mong cầu cao xa."

Thôi Thành Tú một phen ân cần đối đãi mà đổi lấy câu trả lời không mềm không cứng, sắc mặt lập tức không vui, trong lòng giận Cố Uyên cứng cỏi không biết điều.

Con đường thông thiên dẫn thẳng lên trời tốt đẹp trước mắt thế này, thật là kỳ lạ, sao cô nương này cứ không chịu bước lên?

Vị Hoàng đế kia cũng thật là kỳ lạ, trong cung biết bao người khóc lóc ăn chay niệm Phật cầu được Hoàng đế để mắt tới, cuối cùng Hoàng để lại chỉ để mắt tới một người ngoài cung cứng đầu cứng cổ thích nói lý thế này.

Cả hai người này đều thật là quái lạ!Nén giận, tự mình thắp một nén hương, bụng bảo dạ trách móc Phật tổ se duyên trái khoáy một hồi, hắn bình tâm lại, mở mắt ra lại nở nụ cười, với lên bàn thờ lấy gói trà xuống: "Thập Nhất tiểu thư nhờ tiểu nhân mang chút trà mới năm nay cho Cố cô nương thưởng thức - cô nương đừng vội từ chối, Thập Nhất tiểu thư còn có gửi lời nhắn nữa!"

Truyền đạt nguyên văn lời Hoàng đế cho Cố Uyên xong, hắn thấy nàng cầm gói trà ngẩn người.

Hắn suy nghĩ một chút, nghiêm túc mở lời, trước tiên mạnh dạn thay Cố Uyên trách móc Hoàng đế: "To gan nói một câu vượt phận, tiểu nhân tuy không biết nội tình, nhưng cũng đã hầu hạ mấy tiểu thư từ nhỏ, Thập Nhất tiểu thư nhà ta từ nhỏ đến lớn chỉ biết đọc sách vở lo việc nhà, ngoài ra không để ý đến cái gì khác.

Nếu có lỡ nói điều gì không phải mạo phạm đến cô nương, thì có lẽ là đúng, nhưng nếu nói có tính toán ác ý hay hư tình giả ý với cô nương thì tiểu nhân dám đảm bảo, tuyệt đối không có!

Trưa nay Thập Nhất tiểu thư về, bữa trưa bữa tối đều không ăn, vội vàng tìm được thứ này rồi bảo tiểu nhân mang tới.

Lời nói tuy không êm tai nhưng trong lòng vẫn quan tâm cô nương lắm, chỉ là tính khí cao ngạo không chịu hạ mình thôi.

Hay là, tiểu nhân thay Thập Nhất tiểu thư xin lỗi cô nương?"

Hắn vừa nói vừa cúi người tạ lỗi, Cố Uyên lập tức hoảng hốt ngăn lại: "Nhà ngài đối với bọn ta săn sóc chiếu cố nhiều như vậy, sao ta dám nhận?

Huống chi..."

Nàng gắng gượng nở nụ cười, đưa gói trà lại cho Thôi Thành Tú, "Nếu nói mạo phạm thì cũng là ta mạo phạm Thập Nhất tiểu thư.

Nàng không trách ta đã là khoan dung lắm rồi, sao ta dám nhận lễ?"

Thôi Thành Tú thấy Cố Uyên dùng giọng điệu nhạt nhẽo xa cách nhưng thần sắc kiên định, nghĩ một chút lại đặt gói trà lên bàn thờ, làm bộ nghiêm túc: "Nói thật lòng không giấu gì, Thập Nhất tiểu thư nhà ta thực sự một lòng chân thành với cô nương.

Theo quy củ, việc này Thập Nhất tiểu thư phải tự đến tặng lễ kết duyên mới phải, nhưng tổ tiên lại kiêng kỵ, không thể cho cô nương một danh phận đường hoàng, chuyện này đúng là chỉ có thể để cho cô nương chịu thiệt thòi.

Nói đến kết duyên, đó là việc hai bên phải tự nguyện, không thể miễn cưỡng chút nào.

Nếu cô nương thấy Thập Nhất tiểu thư là người tốt, muốn cùng nhau gắn bó, thì đương nhiên là tốt nhất, còn nếu không muốn thì cũng coi như chưa từng nhắc đến là xong.

Gói trà này là bằng chứng, cho thấy việc này đã xảy ra và cũng đã khép lại, cô nương thấy thế nào, có được không?"

Cố Uyên đành đưa tay lấy gói trà từ trên bàn xuống, khẽ gật đầu.

Thôi Thành Tú không ngờ Cố Uyên kiên quyết đến như vậy, lập tức cảm thấy dạ dày đau quặn, nụ cười suýt sụp đổ, không nhịn được mà than: "Cô nương thật là, thật là đúng như câu mặt như ngọc mà tâm như sắt.

Cho ta nói câu không nên nói, Thập Nhất tiểu thư nhà ta thật sự rất tốt, rốt cuộc chỗ nào chưa đủ tốt mà không vừa ý cô nương?

Cô nương có thể cho một câu không, để tiểu nhân cũng biết đường bảo Thập Nhất tiểu thư buông tay?"

"Nàng cái gì cũng tốt, là ta không xứng."

Cố Uyên nói khẽ, hành lễ chào Thôi Thành Tú: "Cho ta xin phép lui trước."

Thôi Thành Tú còn muốn ngăn lại mà thấy Cố Uyên đã đỏ mắt, nhất thời không mở miệng được, tới khi hoàn hồn thấy chỉ còn mình đứng trong Phật đường trống vắng.

Hắn than thở, lẩm bẩm thắp hương cho Phật tổ: "Rõ ràng là một đôi tốt đẹp xứng đào xứng kép, tại sao lại không có duyên phận?

Phật tổ từ bi ơi, ngài chỉ cho tiểu nhân một con đường phú quý khác đi!"

Hắn lẩm bẩm một hồi, thấy trời đã bắt đầu sáng tỏ, xin hai chén trà uống rồi thu xếp rời đi, vừa đi vừa nghĩ cách bẩm báo với Hoàng đế.

Vừa ra đến cổng liền đụng phải một người, Thôi Thành Tú choáng váng tức giận, định lớn tiếng quở mắng, đưa mắt nhìn lên đã thấy đối phương là một phụ nữ trung niên, y phục tuy bình thường nhưng cực chỉnh tề, tựa như có chút phong thái người của Loan Nghi ty.

Hắn liền không dám khinh thường, vội xin lỗi: "Tiểu nhân sơ ý, xin phu nhân thứ lỗi."

"Cũng là do ta không cẩn thận."

Người phụ nữ chỉnh lại vạt áo, giọng điệu không nhanh không chậm, ung dung khiến người ta sinh hảo cảm.

Thôi Thành Tú chỉ thấy phong thái ấy quen thuộc, lại thấy cô ta bước vào cổng, chợt lóe lên ý nghĩ: Trông tác phong khí chất cũng từa tựa Cố cô nương?

Hắn leo lên lưng lừa, vẫn ngồi trên lưng lừa nghĩ ngợi: Cố cô nương kia coi như hết hi vọng rồi, lúc rảnh phải hỏi mấy ni cô xem vị phu nhân kia là ai, nếu có con gái hoặc học trò tuổi tương đương, biết đâu lại hợp mắt Quan gia?—— Hết chương 13 ——
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 14


Thôi Thành Tú vội vã chạy về, khi vào tới trong cung thì đã quá giờ Thìn.

Theo lệ, buổi giảng của Hoàng đế thường kéo dài đến giờ Ngọ, hắn bèn ở trong phòng của mình nghỉ ngơi hoàn hồn một phen, đợi sau khi Hoàng đế dùng bữa trưa xong mới vào điện bẩm báo: "Bẩm Quan gia, việc hôm qua người dặn dò đã xong rồi ạ."

Hoàng đế ngồi bên ngự án, không ngẩng đầu lên, chỉ xem tấu chương: "Nàng đã nhận rồi à?

Có lời gì nhắn lại không?"

Giọng điệu nhàn nhạt, như thể không có chút mong đợi nào.

Thôi Thành Tú hơi chần chừ, rồi lại cung kính đáp lời: "Đã nhận rồi, cũng không có lời gì nhắn lại, chỉ là..."

"Chuyện này đến đây là kết thúc."

Hoàng đế nhàn nhạt nói, liếc nhìn hắn một cái, "Chớ nhắc lại nữa."

Thôi Thành Tú sững sờ.

Phó tổng quản Ngụy Phùng Xuân đứng bên cạnh cúi đầu, âm thầm đắc ý bĩu môi.

Cùng hầu ở Ngự tiền, lẽ nào hắn không hiểu tâm tư của Thôi Thành Tú?

Tên này chẳng có chí tiến thủ, chỉ một lòng muốn lôi kéo Quan gia xuất cung, lần này thì sáng mắt rồi chứ gì!Việc Ngự tiền tổng quản và Phó tổng quản minh tranh ám đấu là một bí mật công khai trong cấm thành.

Thấy Thôi Thành Tú ủ rũ mặt mày đành lui xuống, Ngụy Phùng Xuân âm thầm phấn khởi trong lòng, hớn hở tâu chuyện với Hoàng đế: "Việc gì mà làm cả đêm, chẳng phải là mượn cớ xuất cung dạo chơi thành ngoại sao?

Làm đêm qua Quan gia cứ phải ngóng trông mãi, chúng nô tài nhìn thấy, thực sự là..."

Hoàng đế đặt tấu chương xuống, lạnh mắt liếc hắn một cái: "Lắm lời!"

Hoàng đế vốn là thường không biểu lộ hỉ nộ ái ố ra mặt, ánh mắt lạnh và ngữ điệu sẵng như vậy là rất hiếm thấy.

Ngụy Phùng Xuân rùng mình, im bặt không dám nói gì nữa, cúi đầu cung kính hầu hạ quân thượng đọc tấu chương một lát, áng chừng đã gần tới giờ, hắn mới e dè tâu: "Đêm qua Quan gia ngủ không ngon, bây giờ có muốn nghỉ ngơi một chút không ạ?"

Hoàng đế suy nghĩ một chút rồi gật đầu.

Ngụy Phùng Xuân đi vài bước ra cửa điện, khẽ vỗ hai tay.

Mấy vị nữ quan của ty thiết đang đợi sẵn ở hành lang liền tuần tự vào điện, chốc lát sau tất cả lại đều lui ra, một chủ sự nhẹ giọng báo với Ngụy Phùng Xuân:"Có ý chỉ, Quan gia muốn tĩnh tâm nghỉ ngơi một chút, không cần người ở lại hầu trong điện."

Ngụy Phùng Xuân không dám chậm trễ, khom lưng cúi đầu vái vọng một cái về phía gian trong, nhẹ giọng nói: "Chúng nô tài xin lui."

Rồi phất tay, dẫn tất cả mọi người ra khỏi điện.

Bên ngoài đã hoàn toàn tĩnh lặng, Hoàng đế nằm thẳng thắn ngay ngắn trong màn trướng xanh biếc mà lòng rối như tơ vò, không muốn nghĩ tới, nhưng lại cũng không ngừng hồi tưởng.

Trên đời này, thứ khó tìm nhất chính là thuốc hối hận.

Từ lúc đó đến bây giờ, Nguyên Gia đã vô số lần hối hận: Sao mình lại có thể hành động lỗ mãng như vậy chứ?Trước, tuy người ấy khách sáo với mình, nhưng nhìn chung cũng vẫn là hợp chuyện, mỗi khi tán ngẫu luôn hòa hợp vui vẻ, lại ăn ý gần gũi.

Nhưng giờ Thôi Thành Tú phải mất cả đêm mới có thể thuyết phục nàng đồng ý nhận một gói trà của mình.

Nghĩ đến đây thôi, Nguyên Gia đã cảm thấy trái tim mình như bị ai cứa một nhát dao: Người đó đã thực sự, hoàn toàn, triệt để muốn tránh mặt mình, xa lánh mình rồi; nhưng nàng sinh ác cảm và có ý nghĩ như thế âu cũng là vừa hợp lý vừa hợp lễ, vốn dĩ nàng đã có hôn ước, đã có hôn phu, ngày thành thân đường đường chính chính sẽ không còn xa nữa.

Con người nàng lại tự trọng ngay thẳng không ham phú quý giàu sang, vậy thì có cớ gì mà lại để ý đến một tiểu cô nương mà ngoài phú quý ra chắc chắn chẳng thể cho nàng được cái gì cơ chứ?Nguyên Gia lại nghĩ, nếu mình có thể noi gương Thái Tổ thì có lẽ còn có cách cứu vãn.

Nhưng nếu nàng đã sinh lòng chán ghét và xem mình như rắn rết mà tránh cho xa, vậy thì lúc đó ngay cả một tia hy vọng cứu vãn cũng chẳng còn lại chút nào.

Nàng giơ tay lên, đầu ngón tay như đầu bút, phác từng nét vào trong hư không.

Từng nét, từng nét như thể sẽ khắc sâu vào trong tim.

Rõ ràng trong lòng bây giờ tràn ngập hai chữ này, nhưng giờ đây nàng lại không muốn nghe bất cứ một ai nhắc đến.

Cố Uyên, hai chữ này, Nguyên Gia sợ rồi.Và, kể từ đó, Thôi Thành Tú không bao giờ xuất hiện ở am Từ Thọ thêm lần nào nữa.

Cố Uyên và hai người bạn của mình cứ bình lặng, an ổn ở trong am cho đến tháng Bảy.

Rằm tháng Bảy là tiết Trung Nguyên, các chùa trong thành đều tổ chức lễ Vu Lan.

Đương nhiên, lễ lạt lại làm cho mấy sĩ tử ở trong am sát vách không thể tập trung sôi kinh nấu sử được.

Hứa Tịch đi thưởng ngoạn chùa Báo Quốc suốt cả một ngày mới về, bấm đốt ngón tay kể cho Cố Uyên nghe một lượt về những nhà quyền quý đến chùa để dâng hương nghe kinh.Đột nhiên như nhớ ra điều gì, Hứa Tịch nói: "Nghe nói tôn trưởng nhà Lâm cô nương có quan hệ rất sâu sắc với ngôi chùa này, thế mà lần này lại không đích thân đến."

"Kinh thành này có biết bao nhiêu chùa chiền, chẳng nhẽ mỗi nhà chỉ được chăm hương khói cho một chùa?

Lẽ nào lại không cho người ta đi dâng hương ở chỗ khác?"

Lý Thanh thấy Cố Uyên dù vẫn đang cúi đầu chép sách rất tập trung, nhưng ở góc trang giấy đã dính một giọt mực.

Lý Thanh lườm Hứa Tịch một cái, kiếm cớ kéo nàng ra ngoài sân, nói nhỏ: "Đang yên đang lành tự nhiên nhắc đến chuyện này làm gì?"

"Chẳng phải là vì A Uyên hay sao?"

Hứa Tịch bĩu môi, "Cô ấy không nói ra nhưng chẳng lẽ ta không có mắt nhìn?

Từng tập văn Bát cổ mà cô ấy đang miệt mài chép đó là rút từ cả khoa Loan Nghi lẫn khoa Tước Khảo, chép xong còn tự thêm ghi chú, tự thêm bình giải, khoanh tròn gạch chân đủ kiểu, công chép một tập cũng phải bằng công chép ba tập bình thường rồi.

Cố ấy hao tâm tốn sức như vậy, ai biết liệu có phải tiểu cô nương nhà họ Lâm kia đã nói gì đó khiến cô ấy phải sống chết báo đáp ân huệ cho bằng được hay không?

Bây giờ kỳ thi đã cận kề rồi, dù cho có muốn báo ân thì cũng không thể đánh đổi tiền đồ của mình chứ.

Ta định đi đòi công đạo cho cô ấy, ai ngờ mấy hòa thượng ở chùa Báo Quốc vị nào vị đều trơn như cá chạch, không thể nào hỏi được gì!"

"A Uyên không phải là người không biết cân nhắc."

Lý Thanh nói, "Ta cũng đã hỏi cô ấy rồi, nghe giọng điệu không giống như đang bị ai ép buộc gì cả, mà còn giống như đây là mong muốn xuất phát từ tâm, là sở nguyện.

Cô ấy có nền tảng văn chương vững chắc, mà với bản lĩnh của Cố Uyên thì cũng không cần phải lâm trận mới mài gươm như chúng ta.

Dù sao cũng không có gì đáng ngại, cứ để cho cô ấy ấy chép đi."

Hai người đang bàn bạc thì nghe thấy một trận ồn ào vang lên nơi xa xa, từ phía cổng chùa.

Không lâu sau, trụ trì Tuệ Tĩnh mang một vẻ mặt hoảng sợ chạy vào đây, còn dẫn theo vài nha dịch mình đồng da sắt mặc y phục tay chẽn màu xanh đen đến, run rẩy chỉ tay về phía hai người, nói: "Hai vị thí chủ này chính là người ở cùng với Cố thí chủ."

Hai người nghe giọng trụ trì run rẩy khác hẳn thường ngày liền hoang mang, chưa kịp định hình thì tên đội trưởng đã giơ thẻ bài ra, cười nói với hai người: "Tại hạ Lý Thần, người của Hình bộ, phụng mệnh bắt một mình Cố Uyên.

Hai vị tiểu nương tử nếu không có việc gì gấp thì cũng hãy đi cùng ta?"

Miệng hắn cười, lời hắn khách khí, nhưng đám quan binh phía sau đã đồng loạt rút nửa thanh đao ra khỏi vỏ.

Lý Thanh và Hứa Tịch nhìn nhau một cái, rồi đồng ý.

Đám quan binh này đều là những kẻ có kinh nghiệm, đã làm việc lâu năm rồi, một mặt thì dùng lời lẽ ôn hoà để trấn an, mặt khác thì đã hùng hổ xộc thẳng vào trong sân.

Chỉ một lúc sau thôi đã nghe thấy tiếng đồ đạc va vào nhau, sau đó một tên nha dịch dẫn Cố Uyên ra, hai tên khác theo phía sau tay xách rương sách và các thứ đồ dùng khác, đưa một tờ giấy cho Lý Thần và nói: "Tiểu nương tử này rất thật thà, cũng không có hành lý gì cả, chỉ có mấy thứ này thôi.

Hạ quan đã ghi lại hết vào danh sách rồi, đến lúc đó sẽ giao nộp cả một thể."

Hứa Tịch bất bình vô cùng, đang định lên tiếng lại thấy Cố Uyên phóng tới cho mình một ánh mắt, vậy là liền im bặt, nóng lòng chờ đến nha môn rồi sẽ đòi công đạo cho Cố Uyên.

Nào ngờ, thủ tục ở nha môn Hình bộ lại quá đơn giản, chỉ phái một viên nha dịch tới ghi lại lời khai của hai người, xong rồi liền dùng giọng ôn hòa khách sáo mời hai người đi ra ngoài.

Hai người vốn cứ nghĩ Cố Uyên cũng sẽ dễ dàng thoát thân như vậy, bèn nán lại ở cổng phụ một hồi lâu.

Tới khi trời đã khuya mà vẫn không thấy bóng dáng Cố Uyên đâu, trong lòng đang bồn chồn lo lắng nóng như lửa đốt thì chợt thấy ở nơi cổng phụ có một vị nữ quan bước ra.

Nữ quan ấy khoảng bốn mươi tuổi, mặc quan phục màu xanh lục, đi qua được vài bước lại quay đầu lại, giơ lồng đèn lên nhìn Lý Thanh và Hứa Tịch một lúc, đột nhiên cao giọng nói như thể ngạc nhiên: "Hai người các cô, tại sao lại ở đây?"

Lý Thanh nghe giọng nói ấy thấy có chút quen tai bèn nheo mắt nhìn kỹ khuôn mặt nữ quan ấy một lúc, đột nhiên đôi mắt sáng lên vì vui mừng khôn xiết, vội vàng tiến đến hành lễ, nói: "Có Trình tiên sinh ở đây, A Uyên được cứu rồi!"

"Cố Uyên cũng dự kỳ thi năm nay sao?"

Trình Tố cũng ngạc nhiên vô cùng, hỏi ngay: "Đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Nghe Lý Thanh và Hứa Tịch kể lại toàn bộ sự việc, Trình Tố cũng nhíu đôi mày: "Ta có nghe nói bọn cướp biển đó đã khai ra có một nữ sĩ tử tàng trữ tang vật, đã bị tra ra và bắt đến đây rồi, không ngờ nữ sĩ tử đó lại là Cố Uyên.

Ta nghĩ nàng ấy chắc chắn sẽ không làm chuyện như vậy đâu, nhưng hành tung của hai vị tiểu nương tử mà các cô nhắc đến lại rất kỳ lạ.

Thời buổi hiện nay thói đời bất hảo, cũng có nhiều người giả dạng quý tộc để lừa đảo, mà nếu đúng là như vậy, e rằng nàng ấy không thể thoát khỏi liên quan.

Ta sẽ vào trong nha môn hỏi cho kỹ hơn, còn hai cô hãy về ôn bài vở đi, đừng để lỡ tiền đồ."

Trình Tố nói xong thấy hai người vẫn không chịu về, lại nghiêm mặt nói: "Cố Uyên ở đây đã có ta lo liệu, cơm ăn áo mặc các cô không cần phải bận tâm.

Nếu nàng ấy trong sạch, chắc chắn sẽ được thả sớm thôi, vẫn có thể tham gia thi cử bình thường.

Hai cô vốn đã không bằng nàng ấy lại còn bị phân tâm như vậy, nếu thi trượt, chẳng phải sẽ khiến Cố Uyên áy náy suốt đời hay sao?"

Thật là ra dáng vẻ của một tiên sinh, hai người cũng không còn cách nào khác, đành phải cáo từ.

Trình Tố đợi hai người đi xa, suy nghĩ một lát rồi quay vào cổng phụ, đi theo lối đi nhỏ đến phòng Ký lục, lấy bản kê khai vật phẩm tịch thu ra xem thật kỹ rồi giấu vào trong tay áo.Trình Tố đến đại sảnh cầu kiến Thị lang Hình bộ, Hứa Chí Huyền."

Vị tiểu nương tử đó ấy à, ta vừa mới gặp rồi, không hề giống như người phạm pháp."

Sau khi Hứa Chí Huyền nghe Trình Tố tâu thì rất không đồng tình, vuốt mấy sợi râu, nói chậm rãi: "Cùng lắm là tuổi trẻ không hiểu chuyện thôi, kết giao bằng hữu lầm với bọn kẻ gian.

Cứ để cô ấy ở trong ngục một ngày coi như là bài học, ngày mai răn dạy vài câu rồi cho về cũng được, sao lại phải huỷ hoại danh dự, tuyệt đường công danh của cô ấy làm gì?

Như vậy chẳng phải quá khắc nghiệt sao?"

"Hôm qua đại nhân đã nhắc với ta rằng hai ngày trước Thánh thượng đã hạ chỉ muốn Nội các nghiên cứu bàn bạc về nghi lễ sách phong Hoàng hậu của Thái Tổ.

Nhưng Nội các đã trả lại chỉ dụ, khước từ lĩnh chỉ, hiện trong triều đang tranh cãi gay gắt, chẳng hay chuyện ấy có phải thật không ạ?"

"Chuyện như vậy ai dám nói bừa?"

Hứa Chí Huyền nói, "Thánh thượng tuổi trẻ mà ra dáng minh quân, vốn thông tuệ hiểu lễ nghĩa, không biết đã gặp phải kẻ tiểu nhân nào đầu độc mê hoặc mà đột nhiên lại nảy ra ý nghĩ như vậy.

Chỉ hận những kẻ hầu trước Ngự tiền quá đỗi trung thành, miệng kín như bưng, ta và mấy vị đại nhân có hỏi thế nào cũng không thể tra ra được.

Nếu không, nhất định sẽ cùng nhau dâng tấu can gian, mời Thái hậu nương nương đứng ra làm chủ, nhất định phải trừ khử kẻ gian này."

Trình Tố mỉm cười, lấy từ trong tay áo ra bản kê khai vật phẩm tịch thu và cả gói trà Dương Tiễn, cùng đưa cả cho Hứa Chí Huyền: "Mấy ngày trước hạ quan đến am Từ Thọ dâng hương, tình cờ lại thấy có một người trông có vẻ là trung sử từ trong đi ra, thấy rất kỳ lạ, vì vậy để ý.

Hôm nay nghĩ lại, đi tra hỏi một chút, biết được người tên Cố Uyên đó dung mạo xinh đẹp khác thường, y trang giản dị mà trong hành lý lại có trà cống năm nay vừa mới được đưa vào kinh.

Lại có người dùng danh nghĩa Lâm Thập Nhất ủng hộ tiền hương hỏa cho cô ta, để cho cô ta ở trong am Từ Thọ.

Chẳng phải là đã trùng khớp rồi sao?"

Trình Tố ngừng một chút, lại nói.

"Không giấu gì đại nhân, năm xưa khi ta còn dạy học ở Ngô Châu, quả thực cũng đã từng dạy dỗ cô gái này.

Quả là một tài năng thiên bẩm, thông minh đáng bồi dưỡng, chỉ tiếc là tuổi còn trẻ mà tâm địa đã bất chính, có chút nhan sắc mà vô đạo.

Cô ta để vào được khoa Thần Đồng mà cả gan bày mưu kế quyến rũ ta, bị ta xua đuổi đi, nghe nói xấu hổ đến mức mấy năm không dám ra khỏi nhà, nay lại tìm đường vào kinh.

Bấy lâu ta cứ tưởng cô gái này đã thay đổi tâm tính, ai ngờ nay lại gây ra chuyện tày đình như vậy.

Một người tâm địa xấu xa như vậy mà để đến trước thánh nhan thì sẽ ra sao đây?"

—— Hết chương 14 ——
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 15


"Hỉ sinh thần, sầu thương thân" - câu nói của người xưa quả không sai một chút nào.

Từ ngày 14 tháng 7 đến 29 tháng 7, chỉ nửa tháng mà Thôi Thành Tú đã sụt mất bảy cân.

Quan viên đến nô tài hầu trước Ngự tiền đương nhiên đều nhận ra sự thay đổi của hắn, nhưng chẳng ai buồn sinh lòng thương cảm hay mỉa mai - ở đây toàn những kẻ như Bồ Tát bằng đất mà qua sông[1], ai còn tâm trí đâu mà xót xa hay chê cười người khác nữa?[1] An nguy của bản thân mình còn không lo được.Hoạn quan không thông hiểu triều chính, không nhìn ra tình thế sấm nổ chớp giật mưa to gió lớn đang ùn ùn kéo đến khắp triều đình, cũng không hiểu được những tờ tấu chương dài dòng rặt ngôn từ hoa mỹ của chư vị đại thần trong Nội các.

Nhưng, những kẻ già đời trong trước Ngự tiền đều hiểu được ý nghĩa của việc Nội các phản đối sắc chỉ là gì.

Hoàng đế chủ chính, các đại thần phải phụ tá, Hoàng đế truyền chỉ, các đại thần phải soạn chiếu thư, phát đến các Bộ hoặc địa phương để thi hành.

Thế mà giờ đây quân thần căng thẳng, người chủ chính và kẻ phụ tá sắp đối đầu, chẳng phải là thiên hạ đại loạn rồi đó sao?Lần này, Hoàng đế khư khư cố chấp, dường như đã quyết tâm hành động theo ý mình.

Sau tiết Trung Nguyên, Thánh thượng lại hạ chỉ cho Nội các.

Theo lệ cũ, nếu như bị Nội các phản đối ba lần, sắc chỉ sẽ được chuyển xuống Lục bộ, Cửu khanh để đồng nghị.

Thời Thái Tổ, khi các chư vị đại thần trong Nội các phản đối, không chịu phụng chiếu, trong một ngày Thái Tổ đã ban liền ba chiếu chỉ, ngay ngày hôm đó truyền xuống cho Lục bộ, Cửu khanh cùng nghị sự, Thượng thư Lễ bộ và Quang Lộc ty phụng theo khẩu dụ của Hoàng đế chuẩn bị lễ sách phong Hoàng hậu lập tức, Ngự sử không kịp can gián, Nội các không kịp trở tay.

Vì quá khứ đã có bài học xương máu này, các đại thần trong Nội các lo sợ sẽ có kẻ tiểu nhân xuất hiện phá hỏng đại sự, nên cũng không vội vàng phản đối, chỉ dâng tấu chương liên tục khuyên can mà thôi.Việc đại thần Nội các vào cung liên tục như con thoi không thể giấu được những kẻ có tâm nhãn.

Trước cơn phong ba sắp ập đến, Thôi Thành Tú gần như là muốn khóc mà khóc không ra nước mắt: Chỉ là chút thủ đoạn nịnh hót để kiếm đường tiến thân mà thôi, ai ngờ được con đường thông thiên này lại có thể biến thành sợi dây thắt cổ?

Trong lòng hắn, chuyện của Cố Uyên vốn là cơ hội ngàn vàng.

Hoàng đế ngự trên chín tầng mây, cất nhắc cho một người tiến cung thì có khó gì?

Trong cung còn biết bao cung phòng trống trải, tùy tiện sắp xếp một chỗ, ban cho một cái danh vị, vẫn nói thiên tử tam cung lục viện thất thập nhị phi, ai dám đàm tiếu cái gì?

Thế nhưng, ai có thể ngờ được Quân thượng này lại khăng khăng muốn đặt người ta lên ngôi Phượng tọa cơ chứ?!Các đại thần ngày ngày vào cung khuyên bảo can gián, lại dâng tấu nửa răn nửa khuyên Hoàng đế hãy 'xa tiểu nhân, gần quân tử', rõ ràng là ám chỉ trong cung đang có kẻ tiểu nhân bày trò quấy phá.

Hoàng đế bỏ ngoài tai tất cả, khóa chặt các tấu chương trong tủ lớn ở trong Chiêu Càn điện để cho chúng bị phủ bụi.

Quân thần có qua có lại, tuy chưa đến mức giương cung bạt kiếm, đối đầu trực diện, nhưng rõ ràng là sắp hình thành bất mãn, sắp trở nên xa cách, Thái hậu cũng không thể ngồi yên.Mồng một tháng tám là ngày đại triều, trước mặt các đại thần, nếu Hoàng đế và Nội các công khai xé rách thể diện của nhau, vậy thì tình thế chắc chắn là không thể cứu vãn.Ngày 30 tháng 7, Thôi Hỉ truyền chỉ dụ của Thái hậu, triệu Ngự tiền Tổng quản và Phó tổng quản đến Nhân Thọ cung.

Thôi Thành Tú và Ngụy Phùng Xuân bước vào điện, nơm nớp lo sợ, thấy Thái hậu ngồi nơi cao, hai bên là hai người phụ nữ.

Bên trái là một người mặc trang phục cung đình, Chưởng ấn Loan Nghi ty Trịnh Giả, bên phải là một người mặc trang phục võ quan, Đề đốc Loan Nghi vệ Lâm Viễn.

Hai người bước vào, thấy thế, lập tức mềm nhũn cả chân.Loan Nghi vệ bên ngoài quản Trấn Phủ ty, bên trong quản Thận Hình ty, chuyên xử lý những phạm nhân trọng án và cung nhân tội nặng.

Thôi Thành Tú cảm thấy mình đã mất nửa mạng rồi, gượng gạo nở nụ cười để cùng Ngụy Phùng Xuân quỳ lạy Thái hậu: "Tiểu nhân Thôi Thành Tú, Ngụy Phùng Xuân, nương nương cát tường vạn an."

"Gọi các ngươi đến cũng không có chuyện gì ngoài chuyện kia."

Thái hậu đi thẳng vào vấn đề, "Hiện nay vì chuyện đại hôn sách phong mà Hoàng đế và Nội các bất hoà xa cách.

Vốn ta không can thiệp vào chính sự, nhưng quân thần mà như thế này thì không phải chuyện nhỏ.

Mọi việc đều là trước có nhân, sau có quả, Hoàng đế kiên quyết như vậy, hẳn là trong lòng đã có người nào đó.

Hai ngươi là những kẻ gần Hoàng đế nhất, có biết chuyện gì không?"

Bà dừng ánh mắt trên người Thôi Thành Tú, sắc mặt bỗng nghiêm khắc: "Thôi Thành Tú, mỗi khi Hoàng đế xuất cung là do ngươi theo hầu, bây giờ xảy ra chuyện như thế này, có phải ngươi đã nảy sinh ý đồ dẫn Hoàng đế đến những nơi không nên đến hay không?"

Gương mặt đang gượng cười của Thôi Thành Tú giờ gần như muốn khóc: "Nương nương tại thượng, đúng là Thánh thượng xuất cung có nô tài theo từng bước, sự thật là ngoài việc đàm luận văn chương và thời thế với mấy sĩ tử thì tuyệt đối không có chuyện gì khác!

Không phải nô tài dối trá, tất cả những chuyện này không chỉ có mắt nô tài nhìn thấy, còn có Hứa đại nhân của Thượng Trực vệ nhìn thấy nữa, nếu không tin, nương nương có thể triệu hắn đến, nô tài sẽ đối chất trực tiếp!"

Bên cạnh, Lâm Viễn cũng gật đầu: "Thần cũng đã hỏi Hứa đại nhân rồi, Thánh thượng quả thực chăm lo chính sự, khi cải trang vi hành quan sát chúng dân cũng chuyên tâm nghe người ta bàn luận quốc sự dân sinh, những chuyện khác hầu như là không để ý.

Thân thế của mấy sĩ tử kia, thần cũng đã sai người đến Học chính Nha môn tra xét rồi, đều là những nho sinh chính phái, tuổi tác cũng lớn hơn Thánh thượng nhiều."

"Không phải những kẻ tà đạo đường ngang ngõ tắt là tốt rồi."

Thái hậu thở dài một hơi, "Nếu không phải người ngoài cung thì ắt là người trong cung.

Ta biết Hoàng đế cẩn thận, nếu có chuyện gì đi chăng nữa thì cũng đã bịt miệng các ngươi rồi, đó cũng là lẽ đương nhiên.

Hôm nay ta nói rõ ở đây: Được Hoàng đế sủng ái là chuyện tốt đẹp, tuyệt đối không phải là gian nịnh.

Chỉ là có những việc vượt quá phận sự thì không thể làm, còn có các đại thần ngăn cản, ngôi Hoàng hậu chắc chắn là không thể được, nhưng có ta làm chủ đây, ban cho tước Phi, nếu quả thật tốt, sau này tấn phong làm Quý phi thì cũng không phải là không được."

Thấy Thái hậu chuyển hướng nghi ngờ vào người trong cung, Thôi Thành Tú thở phào, vẫn một mực phủ nhận: "Bẩm nương nương, những ngày nô tài trực trước Ngự tiền, phần lớn thời gian Thánh thượng đều dùng cho chính sự, buổi sáng đọc sách, buổi chiều đọc tấu chương, tiếp kiến đại thần, không gì khác ngoài mấy việc này.

Còn những ngày được nghỉ triều, thỉnh thoảng Thánh thượng cũng đi dạo trong cung để giải khuây, nhưng những ngày ấy không phải phiên trực của nô tà, nên không biết."

Thấy cục bột nóng bỏng tay bị quăng tới cho mình, Ngụy Phùng Xuân trong lòng căm Thôi Thành Tú đến nghiến răng.

Hoàng đế đi dạo giải khuây cũng là lúc ngài khoanh tay suy nghĩ, có bao giờ nói chuyện với cung nữ các cung bao giờ đâu?

Nguỵ Phùng Xuân khẳng định là chuyện xảy ra ngoài cung, trong đó Thôi Thành Tú chắc chắn cũng góp sức không ít, trong lòng dĩ nhiên không muốn nói đỡ cho kẻ gây họa này, nhưng hai người hiện giờ như con châu chấu trên một ngọn cỏ, một mất vong cả đôi, không còn lựa chọn nào khác, bèn đành đau khổ mà nói: "Nương nương minh giám, Quan gia của chúng ta... như những vị đại nhân kia nói, thánh giám uyên thâm, thánh minh chúc chiếu, thánh học uyên bác, nô tài thực sự... không thể nhìn ra!"

Hắn dùng thành ngữ không đâu vào đâu cả, những người biết chữ ở trong điện đều muốn bụm miệng cười, đến Thái hậu mà cũng không nhịn, phải được mỉm cười.Thấy hai người kiên quyết không hé răng, Lâm Viễn và Trịnh Giả liếc nhau, hơi cúi người trước Thái hậu, nói: "Xưa nay tâm tính nam nữ khác nhau, những nô tài này không nhìn ra cũng là lẽ thường."

Thái hậu thở dài.

Đúng vậy, tâm nữ nhi như kim đáy biển, hoạn quan thì cũng vẫn là đàn ông, pha trà dâng nước chạy việc đều được, nhưng tâm tư nữ nhi thì làm sao đoán được?"

Mà cũng chưa chắc là người này thực sự tồn tại."

Câu nói này thực sự khó hiểu, mọi người trong điện đều ngẩn ra, chỉ Trịnh Giả vẫn bình tĩnh: "Thái Tổ Hoàng đế hạ chỉ lập Sở thị làm Hoàng hậu; Quan gia lại không đề cập đến lập ai làm Hoàng hậu, chỉ đề nghị nghị lễ, khi đó thần đã có chút nghi ngờ, nhưng các quan Nội các phản đối chỉ dụ, nên thần cũng không đề cập.

Thần đã tra xét xem lại tấu chương mấy ngày trước rồi, quả nhiên Lễ bộ dâng sớ xin tuyển thị quân để lập hoàng phu, mà nghe nói Quan gia rất không hài lòng với tôn tử quý tộc hiện nay.

Có điều, xưa nay đều là lập hậu cung rồi mới tự chấp chính, thần trộm nghĩ... liệu có phải Quan gia không có ý định gì cho đại hôn, muốn trì hoãn lại không tìm được cớ thích hợp?"

Những lời này khớp với những gì Hoàng đế nói mấy ngày trước, Thái hậu như được khai sáng, nhất thời vui mừng hẳn: "Hóa ra là vì chuyện này!

Thật là, tâm tư này thì có gì mà không nói ra được?

Hoàng đế còn trẻ quá, chưa từng tiếp xúc với chuyện tình cảm bao giờ, e ngại vốn là bản tính nữ nhi, do ta đã sơ suất."

"Nếu quả thật là như vậy, chuyện cũng dễ giải quyết."

Trịnh Giả nói, "Nữ đế vốn khác nam đế, lập hoàng phu quá sớm cũng không tốt cho việc khai chi tán diệp.

Chi bằng nương nương hãy hạ chỉ, việc chọn người cho đại hôn tạm thời hoãn lại ba năm nữa rồi tính.

Đợi sau này Quan gia lớn tuổi hơn, hiểu được tình cảm nam nữ, tự nhiên sẽ thuận buồm xuôi gió."

"Có gì khó khăn đâu?"

Thái hậu nhớ lại những hành động thường ngày của Hoàng đế ở trong cung, càng nghĩ càng tin tưởng vào suy đoán ấy, "Ta vốn cũng muốn dời ngày đại hôn lại, đợi Hoàng đế thực sự trưởng thành rồi mới cử hành đại lễ.

Giờ cứ thẳng thắn hỏi Hoàng đế đi, nếu quả thật vì lý do này thì làm như vậy là được.

Hôn nhân đại sự là mệnh lệnh phụ mẫu mẹ, ta sẽ thay Hoàng đế quyết định, Nội các cũng không nên nói gì nữa mới phải."

Thế là, sau giờ Ngọ, Thái hậu đích thân đến Thanh Hòa điện.

Hôm nay là ngày nghỉ, Hoàng đế sai người lọc tấu chương can gián của Nội các ra, đang ngồi xem từng tờ, nghe người bẩm báo vội đứng dậy nghênh đón: "Mẫu hậu, sao người lại đích thân đến đây?"

Tấu chương chất đầy trên bàn, Thái hậu nhìn mà thở dài: "Nghe các vị đại thần Nội các nói Hoàng đế muốn học theo Thái Tổ Hoàng đế?"

"Con làm sao so được với Thái Tổ Hoàng đế?"

Hoàng đế nói, "Thái Tổ Hoàng đế lập Hậu, một ngày đã nhận được nửa tủ tấu chương can gián, con không nhận được nhiều đến thế, điểm này con không bằng; Thái Tổ Hoàng đế hạ chỉ, Nội các kháng chỉ, nhưng Lễ bộ lại có người dám tuân chỉ thi hành, điểm này, con cũng không bằng."

Lời nói tuy bình thản và tưởng chừng là hài hước, nhưng hàm ý bên trong ấy lại khiến người ta càng nghĩ càng kinh hãi.

Thái hậu suy nghĩ kỹ, tâm tư lại càng kiên định: "Người ta nói thiên tử kim khẩu ngọc ngôn[3], nhưng có lúc kim khẩu ngọc ngôn cũng không được.

Hôn nhân đại sự, mệnh lệnh phụ mẫu, lời của mối lái, nếu Hoàng đế đã có người mình thích thì cứ đưa đến cho ta xem, nếu quả thật là người tốt, ta sẽ làm chủ cho Hoàng đế."

Hoàng đế suy nghĩ một lát: "Con không có người mình thích, con chỉ lấy làm lạ mà thôi.

Tại sao Thái Tổ có thể lập Hoàng hậu, mà con chỉ nghị lễ thôi cũng không được?"

Lời nói có chút gì oán giận, nhưng Thái hậu đã hoàn toàn yên tâm.

Quân thượng nào thì thần tử ấy, Hoàng đế thân chính thu quyền về tay là chuyện hợp lý, giờ Hoàng đế đột nhiên nảy ra ý định, lấy việc này làm bước đệm để thử lòng quan lại thì cũng là lẽ đương nhiên.

Tuy nhiên, việc này liên quan đến cục diện chính trị, bà thân tại hậu cung không tiện khuyên giải, bèn lại tìm Trịnh Giả đến khuyên nhủ riêng Hoàng đế.Trong triều nghị, Trịnh Giả không đưa ra phát ngôn nào, dường như là hoàn toàn đứng ngoài cuộc.

Hoàng đế vốn tưởng rằng Loan Nghi ty và Nội các là một giuộc, lại nhìn kỹ Trịnh Giả mà rằng: "Là khanh đề nghị với Thái hậu hoãn đại hôn lại, đợi ba năm nữa?"

"Thần quả thật đã đề nghị như vậy."

Trịnh Giả vẫn bình tĩnh, "Chỉ là, lý do thực sự bên trong không hoàn toàn là như vậy.

Thần phụng sự Quan gia xử lý chính sự, biết thánh lự chu toàn sâu xa, không phải việc người thường có thể hiểu được.

Đối với việc đại hôn, hẳn Quan gia cũng đã có chủ kiến riêng, những lời kia thần nói, chỉ có thể nói với nương nương mà thôi."

"Vậy với trẫm thì ngươi muốn nói gì?"

"Thỉnh cầu Quan gia trước tiên hãy giải đáp cho thần một thắc mắc."

Trịnh Giả khẽ mỉm cười, "Thái Tổ Hoàng đế anh tài vĩ lược, vì trận cửu long đoạt đích, chư tử tranh giành, lập Hậu là thiên mệnh.

Còn Quan gia... là nhất thời vui thích nữ sắc, hay thực sự muốn noi Thái Tổ Hoàng đế?"

—— Hết chương 15 ——
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 16


Lời này cũng giống như tấu chương can gián của các đại thần, Hoàng đế nhíu mày, không trả lời ngay."

Ham vui nhất thời thì thế nào, học theo Thái Tổ thì thế nào?"

"Hoàng phu của Nhân Tông hoàng đế mất sớm, sau lại bị Thị quân Tiết thị mê hoặc, quen biết ba tháng đã phong làm Hoàng phu.

Thị quân Tiết thị tính tình nông nổi thiếu chín chắn, chưa đầy một năm mà Nhân Tông hoàng đế đã chán ghét, lại chỉ vì lo sợ thanh danh nên mới không phế truất, lúc tuổi cao mới âm thầm hối hận, thường nói với các thị thần rằng: 'Đây là sai lầm tuổi trẻ của trẫm, thực sự đã làm khổ trẫm cả đời'.

Phu thê là một thể, không thể so sánh với việc sắc phong phi tần được, niềm vui nhất thời như mây khói thoảng qua, đại hôn dời lại đợi ba năm nữa cũng không có gì trở ngại.

Thế nên Quan gia hà tất vội vàng, vì niềm vui nhất thời mà chuốc lấy hận cả đời?"

"Còn nếu trẫm muốn noi Thái Tổ hoàng đế thì sao?"

"Thái Tổ hoàng đế lập Hậu, khi ấy mọi người đều cho rằng Thái Tổ sinh tình nên tuỳ hứng, thỏa mãn cái nhất thời, nhưng kỳ thực không phải là vậy.

Năm xưa, trên danh nghĩa Thái Tổ hoàng đế ban ba chỉ dụ trong một ngày, nhưng kỳ thực từ lâu đã sắp xếp ổn thỏa với Lễ bộ và Quang Lộc tự thì mới có thể hoàn thành đại lễ trong ba ngày, khiến Ngự sử và Nội các không kịp trở tay.

Từ khi Thái Tổ hoàng đế còn ở phủ đệ thì Thánh Văn hoàng hậu đã chấp chưởng tiềm để, quản lý nội trạch, các thần tử cũng đều biết rõ, vì vậy trong tấu chương đều không ai can gián chuyện Thánh Văn hoàng hậu quản lý hậu cung, nếu có thì lời lẽ cũng rất chừng mực.

Sau này có nhiều người nói năm đó Ngự sử dâng tấu cáo buộc Thánh Văn hoàng hậu mê hoặc quân chủ để loạn chính, nhưng thực ra đó đều chỉ là những lời đồn thổi lưu truyền sai lệch, không phải sự thật."

"Trẫm cũng nghĩ như vậy."

Hoàng đế gật đầu, "Nữ đế lập hậu, danh phận nghe có vẻ kinh động đến thế tục mà thôi, kỳ thực không có gì gây trở ngại.

Các đại thần ai nấy đều lo lắng về hoàng tự, nhưng không nghĩ đến việc Tiên đế cũng có Hoàng phu có thị quân, nhưng cuối cùng người kế thừa đại thống lại là trẫm."

"Minh Tông và Tiên đế đều có hoàng phu thị quân, nhưng đều có nỗi lo lắng khôn nguôi về Hoàng tự, có thể thấy con cái là số mệnh, là cái phước trời cho, không phải chuyện con người có thể sắp xếp hay quyết định."

Trịnh Giả khẽ mỉm cười, "Quan gia lập hậu hay lập phu, vốn chỉ là chuyện danh phận, nhưng trong đó ẩn chứa nhiều mối họa, điểm này thần không thể không tâu.

Năm đó, ban đầu Thành Tông nhận nuôi dưỡng Tấn Uy vương trong cung, sau lại phong Minh Tông làm thân vương, đều mở phủ phụ chính, vì ngôi Thái tử mà trong triều minh tranh ám đấu hơn mười năm, mãi đến khi kế hoạch mưu sát Thành Tông của Tấn Uy vương bị bại lộ thì mới kết thúc.

Trong hơn mười năm đó triều chính đình trệ, nhân tài đảng tranh, gần như hao tổn nguyên khí.

Nếu năm đó Thái Tổ sớm ngày lập Thành Tông làm Thái tử để định rõ danh phận quân thần thì về sau hà tất phải đau lòng xử trảm Tấn Uy vương, khiến cho chư vương kinh sợ, dẫn đến nguy cơ khôn lường?

Ngay cả Tiên đế cũng vậy, tuổi già cũng bị ngôi Thái tử gây nhiều phiền não, trải qua nhiều thử thách cũng mới có thể truyền ngôi cho Quan gia.

Hiện nay tông thất phồn thịnh, nếu Quan gia lập Hậu, sau này Hoàng tự ắt là xuất thân từ tông thất, các vị thân vương hiện giờ đều đang tuổi tráng niên, há không nổi tham vọng giành lấy một chỗ cho con cháu sau này?

Quan gia vừa thân chính, đứng chưa vững chân đã dấy lên tranh chấp, làm sao có thể tập trung trị quốc bình thiên hạ?

Loan Nghi ty vốn không nên lắm lời về việc Đế vương gia, chỉ là các đại thần nhao nhao mà nói về vấn đề danh phận nhưng không nhắc đến điểm then chốt này, thần mới bất đắc dĩ phải nói ra."

Rồi nàng ung dung trải áo bái lạy: "Nay đại hôn sẽ hoãn tới ba năm nữa, giờ Quan gia không cần vội vàng tranh chấp với các đại thần; sau này dù lập hậu hay lập phu, Loan Nghi ty đều tuân theo thánh mệnh.

Chỉ xin Quan gia hãy lấy xã tắc sinh linh làm trọng, cẩn thận suy nghĩ, không thể mở ra cánh cửa dẫn vào thời loạn, không thể dấy lên mầm mống đảng phái tranh đấu, được như vậy, thiên hạ may mắn biết bao!"

Lời nói rất rõ ràng, cũng rất có lý: lập nam hay nữ vốn là việc riêng của Hoàng đế, nhưng liên quan đến ngôi Thái tử, Hoàng đế lại vừa mới thân chính, vì việc này mà xung đột với đại thần, khiến các thân vương dòm ngó, đó chính là hôn quân rồi.

Hoàng đế mím môi, lâu sau mới nói: "Nếu trẫm không đồng ý thì sao?"

Trịnh Giả trong lòng thở phào nhẹ nhõm, nở nụ cười tươi: "Người khiến Quan gia chung tình há lại là kẻ bất chấp an nguy của xã tắc sinh linh?

Thần tin vào sự sáng suốt của Quan gia, cũng tin vào tuệ nhãn của Quan gia."

Hoàng đế im lặng.

Theo chế độ, khoa Loan Nghi mùa thu sẽ vào các ngày mồng 9, 12, 15 tháng 8, thi về thời văn, sách luận, thi từ, vào ngày 20 tháng 8 thì yết bảng.

Hoàng đế vốn mong muốn rằng trước khi yết bảng thì sẽ học theo Thái Tổ hoàng đế mà hành động quyết đoán, lập Hậu cho mình - Nguyên Gia nghĩ mình đã không thể cho người ta con cái, nếu ngay cả danh phận phu thê đường hoàng mà cũng không thể cho thì còn có thể lấy gì để so với với vị hôn phu tương lai của Cố Uyên, lấy cái gì để bày tỏ tấm lòng trân trọng thực sự của mình với Cố Uyên đây?Nàng lớn lên trong cung, hiểu rõ lời của Trịnh Giả, chỉ là biết thì vẫn biết, nhưng vẫn sinh hy vọng le lói, nay hy vọng đó bị nước lạnh dập tắt thì hiện thực sẽ càng rõ ràng hơn trước mắt: xưa nay các sĩ tử và Hàn Lâm viện đều cùng chung khí khái, nếu Nguyên Gia kiên quyết yêu cầu Lục bộ Cửu khanh công khai nghị sự về chuyện lập Hậu, Hàn Lâm viện và Quốc Tử giám tất sẽ xúi giục các sĩ tử thanh lưu dâng sớ, đến lúc đó trò hề điên khùng này của nàng truyền đến tai Cố Uyên, rồi nàng sẽ nghĩ gì?

Sẽ cho rằng Hoàng đế này việc bé xé ra to, đang yên lành sinh sự, hay cũng giống như các đại thần kia, cho rằng nàng tuổi trẻ hoang đường, không màng thanh danh?Hoàng đế thấy trong lòng đau như cắt nhưng đầu óc lại càng tỉnh ra hẳn, nhẹ nhàng gật đầu với Trịnh Giả: "Trịnh tiên sinh nói rất có lý, trẫm phụng theo ý chỉ của Thái hậu, đại hôn dời lại ba năm, hoàng phu thị quân cũng đợi ba năm sau rồi quyết định.

Cứ làm như vậy đi."

Hoàng đế đã nhượng bộ, các đại thần cũng không còn gì để tranh cãi.

Ngày đại triều mồng 1 tháng 8, quân thần bàn luận chính vụ, quân thần hòa hợp, không còn đối đầu.

Hoàng đế ngồi trên ngai vàng, bề ngoài bình thản nghe các đại thần trình bày, trong lòng lại âm thầm trào lên vị đắng: quan lại và thường dân đều có gia đình, đều có huynh đệ tỉ muội, thái giám cung nữ cũng còn có tri kỷ, bất luận là ai trên thế gian này thì cũng đều có thể tìm được một người đặc biệt để đặt vào lòng thương mà yêu trân trọng, cả đời đối xử bình đẳng tương kính như tân.

Mà thân là Hoàng đế, vẫn nói là kẻ tôn quý nhất thiên hạ, toạ trấn giang sơn, quyết định sinh tử, ấy thế mà định mệnh đã là chỉ có thể lẻ loi trôi nổi trên chín tầng mây, không thể dựa dẫm vào gia quyến thân thích.

Ý nghĩa của 'cùng long hữu hối', Nguyên Gia biết, nhưng đây là lần đầu tự mình nếm trải.Hoàng đế đang đau lòng, không biết rằng phía dưới kia có Thị lang Hình bộ Hứa Chí Huyền cũng giống như nàng, bề ngoài bình tĩnh mà trong lòng chất chứa nỗi buồn: hắn nghe theo lời xúi giục của Trịnh Tố giam Cố Uyên trong ngục, định đợi khi quân thần tranh cãi kịch liệt không thể phân giải sẽ liền dâng sớ lên Nội các, đề nghị tước bỏ con đường công danh của Cố Uyên rồi đuổi ra khỏi kinh, lúc đó sẽ không còn người mê hoặc thánh tâm, Hoàng đế tự nhiên tỉnh ngộ, mà công lao xoay chuyển tình thế sẽ nằm chắc trong tay hắn.

Chỉ không ngờ đột nhiên Hoàng đế lại nghe lời can gián của Loan Nghi ty, kế hoạch hoàn hảo của hắn lập tức biến thành cục than hồng: Sĩ tử Đại Tề đâu phải loại dễ ăn, không có tội mà lại vô cớ giam người trong ngục, chỉ sợ hắn rồi sẽ phải cúi đầu xin Cố Uyên tha thứ.Hứa Chí Huyền nặng nề tâm sự trở về Nha môn Hình bộ, việc đầu tiên là tìm Trình Tố bàn bạc.

Trình Tố nhẹ nhàng cười một tiếng: "Hứa đại nhân còn nhớ chuyện năm ngoái không?

Nhi tử của Bố chính sứ Lăng Châu đi du ngoạn rồi quấy nhiễu ở địa phương, tống tiền cả quan viên, đi đến Hồ Châu mới bị tri huyện Tống Dương chặn lại, khép tội giả mạo quý nhân làm ô uế thanh danh rồi đánh cho một trận, đưa thẳng đến Bố chính ty Lăng Châu.

Vì dư luận mà Bố chính sứ Lăng Châu không thể phản bác được, lại có thanh lưu trong triều bảo vệ, vị tri huyện Tống Dương kia cuối cùng vẫn bình yên vô sự.

Nay, với chuyện này, sao đại nhân sao không học theo một lần?"

Thấy Hứa Chí Huyền nghe mà vẫn không hiểu ý, Trình Tố thẳng thắn nói rõ: "Sĩ tử bình thường há lại có trà cống?

Đã có điểm khả nghi thì đại nhân cũng nên hỏi cho rõ mới phải."

"Đúng vậy!"

Hứa Chí Huyền chợt hiểu ra, lập tức chuẩn bị xong xuôi, ngày hôm sau mở phiên tra hỏi.

Thấy phạm nhân đã đưa được đến, hắn giả vờ quát hỏi: "Kẻ nào ở dưới kia?"

Cố Uyên rũ mắt, thi lễ: "Cố Uyên kính lễ đại nhân."

Hứa Chí Huyền liếc nhìn Cố Uyên vài cái.

Thiên lao hình bộ quản lý cực kỳ nghiêm ngặt, giàu nghèo đều đối xử như nhau, không hành hạ, cũng không cung phụng.

Hứa Chí Huyền thấy nhiều phạm nhân lắm rồi, dù mỹ nhân có đẹp đến thế nào mà vào tới trong ngục thì cũng đều như ngọc bị bụi che hết, có chút xộc xệch lộn xộn là chuyện đương nhiên.

Nay, duy chỉ có Cố Uyên này, dù người cũng mảnh mai tiều tụy, nhưng có thể thấy dung mạo y phục vẫn chỉnh tề sạch sẽ, áo phạm nhân rộng thùng thình mặc trên người lại chẳng có vẻ thô kệch mà lại càng thêm vẻ liễu yếu đào tơ khiến người ta động lòng, chẳng trách mê hoặc Hoàng đế thần hồn điên đảo.

Hứa Chí Huyền trong lòng đã quyết, trước tiên hỏi mấy câu theo quy củ, sau đó thẳng vào vấn đề: "Ngươi tự xưng là sĩ tử bình thường, không qua lại với giới quyền quý, nhưng trong hành lý lại có vật này."

Hắn chỉ vào chén trà do nha dịch dâng lên, "Ta chỉ hỏi ngươi một câu, trà này ngươi khai là do Lâm Thập Nhất tiểu thư tặng, vậy Lâm Thập Nhất rốt cuộc là ai?"

Cố Uyên có chút sững sờ, lần trước nàng khai với Hứa Chí Huyền, Hứa Chí Huyền vẫn vui vẻ hòa nhã, dường như không để tâm, nay lại nghiêm nghị lạnh lùng, lẽ nào thân phận Thập Nhất kia thật sự có vấn đề?

Nàng cắn môi, nói: "Ta quen biết cô ấy không lâu, chỉ là cùng chí hướng nên bàn luận văn chương mà thôi, thực sự không biết thân phận hay nơi ở của cô ấy."

Thấy Cố Uyên do dự, Hứa Chí Huyền thầm mừng, lập tức quyết định, nếu Cố Uyên nói rõ, đó chính là tội mê hoặc Hoàng đế rõ ràng; nếu nàng không nói rõ, thì Lâm Thập Nhất chính là giặc cướp!

Hắn ho một tiếng, nghiêm mặt quát hỏi: "Vô lý!

Trà cống đáng giá ngàn vàng, nếu cô ta chỉ là quen biết ngươi qua loa, há lại lấy trà này để tặng?

Đủ thấy là nói bừa, lừa gạt bản quan.

Ta cũng đã sai người đến nội phủ tra xét rồi: trà này trong cung chỉ ban cho hai vị tông thất, một là Bắc Vương điện hạ, tuổi đã ba mươi, không hợp phải tuổi tác của Lâm Thập Nhất; một là Tuỳ Vương điện hạ, hiện đang có thai, đóng cửa dưỡng thân, sao có thể cùng ngươi ở am Từ Thọ đàm luận văn chương, tặng ngươi cống trà?

Còn lại, công thần đại thần, càng khác xa hình dáng mà ngươi nói.

Chỉ có Trịnh Đình Cơ ngạo mạn phạm thượng, từng vì tư lợi mà tự tiện giữ lại trà cống để dùng, lại chia cho tâm phúc, nếu người ngươi nói không phải bịa đặt thì chính là người của họ Trịnh.

Ngươi có quan hệ mật thiết với cô ta - thế nào, còn chối cãi nữa không?"

Hắn không cho Cố Uyên giải thích gì cả, rút mấy cái thẻ tre từ trên án ném xuống, "Nhân chứng vật chứng rõ ràng, nếu ngươi còn chối tội, chỉ là thêm khổ thân - ngươi suy nghĩ kỹ chưa?"

Cố Uyên không phải kẻ ngu đần, dù lần đầu dính vào công đường thì cũng biết trước mắt không nên tính toán thiệt hơn.

Thấy Hứa Chí Huyền không cho phân bua đã bày ra trò doạ nạt bức cung, đánh lận con đen, bản thân lại thực sự không nói rõ được lai lịch của Thập Nhất đó, suy nghĩ một chút, liền che theo chiều gió: "Ta thực không biết lai lịch Lâm Thập Nhất, nay nghĩ lại, quả nhiên là cử chỉ khả nghi, có lẽ đúng chính là giặc đảng Trịnh, đây là sự thực, xin đại nhân minh xét!"

Hứa Chí Huyền nghe nàng thuận theo ý mình, vuốt râu cười một tiếng: "Đã như vậy rồi, ngươi cứ viết khẩu cung ra."

Hắn nhìn Cố Uyên trải giấy lên nền đá thanh, cầm bút viết ngay, trong lòng hoàn toàn nhẹ nhõm thở phào.

Có tờ giấy này trong tay, dù là Hoàng đế thì cũng không bắt bẻ được hắn!Nhân chứng vật chứng đầy đủ rõ ràng, phạm nhân ký tên vào tờ khai, quy trình thẩm vấn coi như hoàn tất.

Hứa Chí Huyền viết một mạch ra bản án: Cố thị kết giao với giặc, hành vi bất chính, nay cách bỏ tư cách thi, đoạn tuyệt đường công danh, vĩnh viễn không bổ dụng.

Viết xong lại vui vẻ mỉm cười với Cố Uyên: "Thánh thượng có chỉ, phàm sĩ tử nào xác bị tuyên án thì đều phải gửi trả về địa phương để quản thúc nghiêm ngặt.

Theo lệ ngươi phải lập tức rời kinh, bản quan thương ngươi trẻ tuổi nhà nghèo, lại bị người ta lừa, cho ngươi thêm thời gian chuẩn bị, trước ngày 20 tháng 8 yết bảng hãy cố kiếm chút lộ phí rồi về quê đi!"

Câu này vừa nói ra, hắn tự cảm thấy rất đắc ý, cho rằng mình liệu sự như thần: bản thân xét án không có sai sót, lại có lòng nhân hậu, cho Cố Uyên chút đường lui, dù cho nếu sau này hoạ hoằn nàng có được thế lực, thì Hoàng đế cũng không trách cứ được.

Thiên tử kim khẩu ngọc ngôn, bề tôi làm theo chỉ dụ, có gì đáng trách?

Nghĩ thêm một chút, hắn lại giả vờ ngốc nghếch, nghiêm mặt thêm một câu giáo huấn: "Bản quan cũng đã tra xét rồi, ngươi ở trong ngục nhiều ngày mà không có một Lâm Thập Nhất nào đến đầu thú.

Ta xem ngươi cũng không giống như đang nói dối, có lẽ người đó cố tình bẫy ngươi.

Ngươi còn trẻ, đường đời còn dài, sau này không được khinh suất tin người, sinh ra chuyện nữa!"

—— Hết chương 16 ——
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 17


Cố Uyên không phân bua, lặng lẽ thi lễ với Hứa Chí Huyền một cái rồi theo nha dịch, đi ra khỏi Nha môn Hình bộ từ cổng phụ.

Vừa bước ra ngoài đã một tên cai ngục chạy lên, đưa cho Cố Uyên một gói đồ: "Đây là hành lý của cô nương, hãy ký vào giấy nhận đi."

Gói đồ trong tay nhẹ tựa không, rõ ràng ngoài vài bộ y phục ra chẳng có gì khác.

Cố Uyên khẽ cười một nụ cười đắng chát, cũng không tranh cãi gì, mượn bút mực từ phòng gác cổng, ký tên mình vào giấy nhận.

Tên cai ngục nhận lấy, thổi phù một cái rồi giơ ngón tay cái khen: "Cô nương hiểu lễ, biết thời thế, tương lai ắt sẽ phát đạt!"

Hứa Tịch và Lý Thanh đã nhận được tin tức từ sớm, từ sáng sớm đã đợi ở cổng Nha môn, giờ thấy Cố Uyên bước ra liền vội kéo nàng vào một quán trà nhỏ, gọi mấy món điểm tâm cho nàng lót dạ rồi hỏi han tình hình.Cố Uyên không giấu giếm gì, kể lại hết sự tình.

Hứa Tịch nghe xong, phẫn nộ ngập trời, đập bàn: "Thật nực cười!

Vị quan kia sao có thể hồ đồ như vậy?

Bây giờ còn sớm, ta và A Thanh sẽ đi đánh trống Đăng Văn với cô!"

"Đánh trống Đăng Văn thì cũng vô ích thôi."

Lý Thanh kéo nàng lại, "Thập Nhất kia lai lịch bất minh, chỉ cần vị Hứa đại nhân kia một mực khẳng định là giặc thì khó mà minh oan."

Nàng nhìn Cố Uyên, "A Uyên, mấy ngày nay chúng tôi cũng đã đến chùa Báo Quốc dò hỏi, mấy sư sãi kia phủi sạch trách nhiệm, vị Thôi quản gia lại biến mất không thấy bóng dáng.

Cô tiếp xúc với họ nhiều hơn chúng tôi, có biết thêm gì không?"

"Theo lời vị Hứa đại nhân kia thì loại trà đó cực kỳ quý giá, người thường không thể chạm tới."

Cố Uyên nói, "Thập Nhất tiểu thư rất quen thuộc với kỳ Tước khảo, lại rất chuyên tâm vào văn Bát cổ, nếu như họ là thật, thì hẳn là tông thất.

Còn tỷ tỷ của cô ấy luận đàm văn chương rất tinh tế chuẩn xác, tuổi tác khí chất cũng tương tự với Tùy Vương điện hạ trong lời đồn...

Nhưng ta lại cảm thấy Thập Nhất dường như còn cao quý hơn nữa, điều này rất kỳ quái."

Hứa Tịch như có điều suy nghĩ, bỗng mắt sáng lên: "Hay...

Thập Nhất kia chính là đương kim Thánh thượng?"

Cố Uyên cười khổ rồi chỉ lắc đầu.

Lý Thanh thấy nàng chưa động đến điểm tâm, đẩy một đĩa bánh hoa quế đến trước mặt Cố Uyên, rồi giải thích: "Nghe nói Thánh thượng chuyên tâm học hành lắm, thánh học cực uyên thâm, các đế sư đều xuất thân từ Hàn Lâm viện, Thánh thượng không thể nào lại không biết viết văn Bát Cổ.

Huống chi tông thất trong kinh ít nhất cũng cả ngàn người, ai cũng đều phải thi Tước khảo, không lẽ chỉ có mỗi Tùy Vương điện hạ thích văn chương?"

"Vậy thì nan giải rồi..."

Hứa Tịch nhíu mày, "Như mò kim đáy bể, biết tìm từ đâu?"

"Thử dán tờ tìm người trước, rồi đến các phủ đệ dâng danh thiếp, dù không vào được cũng có thể sẽ gặp may."

Lý Thanh nói, "Nhưng ta lo một chuyện khác.

Vị Hứa đại nhân kia tuy đáng ghét nhưng có một câu hắn nói đúng.

Những vị quý nhân này không dễ đối phó, ta thấy Thập Nhất kia tính tình cũng rất kiêu ngạo, không biết có phải do A Uyên nói sai một câu mà đắc tội với nàng, nàng mới nghĩ ra cách này để trả thù?

Bằng không trên đường nhập kinh chúng ta chưa từng nói chuyện với bọn lính tải lương một câu nào, sao giờ lại vô cớ vu oan cho cô?"

Đây chính là điều nhiều ngày nay Cố Uyên không thể giải thích được, nàng nhớ lại hôm đó Thập Nhất ngồi trước mặt mình nói năng dõng dạc trôi chảy đầy tự tin rồi lại hoảng hốt bỏ đi, lúc ấy ấp úng như lời bị nghẹn trong cổ họng.

Nàng đặt miếng bánh hoa quế vừa cắn một miếng xuống, cười nhạt: "Nếu nói là đắc tội thì quả thật ta đã đắc tội với Thập Nhất."

"Vậy càng khó hơn."

Hứa Tịch nói, "Chỉ cần cô ta trốn biệt trong phủ đến ngày 20 tháng 8, đợi cô bị đuổi khỏi kinh thành rồi thì sợ rằng chúng ta càng khó tìm hơn."

"Dù tìm được hay không cũng phải thử."

Lý Thanh nói, "Chúng ta cứ làm đi."

Thấy Cố Uyên định nói, nàng trừng mắt ngay: "Ta biết cô muốn nói gì, nhưng trong kinh thành chỉ có ba chúng ta nương tựa nhau, chúng ta không giúp thì còn ai giúp?

Thôi, đừng nói nữa, giữ sức đi!"

"Đúng vậy."

Hứa Tịch rót trà cho Cố Uyên, thúc giục, "Mau ăn đi, phải no bụng đã, nơi này nhiều phủ đệ Vương gia, lát nữa chúng ta viết tờ giấy tìm người rồi đi các phủ đệ thử vận may.

Biết đâu gặp được một hai người biết chuyện?"

Ba người bàn bạc xong, mua mấy tờ danh thiếp trống ngoài phố, điền vào rồi đến các phủ vương gia thử vận may.

Vận may quả thật khó gặp, mấy ngày liền bôn ba, đi hơn mười phủ đệ tông thất nhưng không dâng được một tờ thiếp.

Hôm nay ba người đến phủ Dụ Vương, người này nổi danh bá đạo, ngay cả tôi tớ gác ở cổng cũng tỏ thái độ hung dữ, không giống lương dân.

Cố Uyên đứng bên kia đường, do dự một chút, rồi nói: "Hai người đừng đi cùng, để ta đi một mình."

"Sao mà được?"

Hứa và Lý đồng thanh, "Chính những nơi như thế này mới phải đi cùng nhau!"

Mấy người còn đang phân bua co thì từ trong cổng đã có một nam tử thanh y bước ra, nhìn ba người rồi quát: "Đây là nơi nào mà các ngươi dám...

Cố cô nương?"

Cố Uyên nghe giọng nói quen thuộc, nhìn kỹ lại cũng giật mình, chỉnh lại tay áo rồi thi lễ: "Sao Chu Ngũ gia lại ở nơi đây?"

"Một lời khó nói hết!"

Chu Ngũ liếc nhìn xung quanh, thở dài, "Sao mấy cô nương lại đến đây?

Có việc gì quan trọng?"

Lý Thanh liếc mắt nhìn Cố Uyên, thấy nàng khẽ lắc đầu như không muốn phiền hà đến hắn, vội nhanh miệng: "Cũng không có việc gì, Chu Ngũ gia vào được đến phủ vương gia rồi, xem ra tính tình cũng tốt hơn nhiều."

"Suýt thành chó săn ấy chứ!"

Chu Ngũ chỉ về phía quán trà đối diện, "Bây giờ ta ở trong phủ này cũng có chút sức nặng, việc đơn giản thì cũng nói được vài câu, nếu mấy cô nương không chê thì hãy cùng đến đó ngồi nói chuyện.

Trong phủ này chẳng có ai để nói chuyện thoải mái, buồn chết đi được!"

Cố Uyên thấy giọng điệu hắn cứng rắn nhưng thần sắc lại u uất, cũng động lòng, bèn thi lễ: "Vậy làm phiền Chu Ngũ gia rồi."

Quả nhiên, nghe Cố Uyên kể sự việc và nói ý định, Chu Ngũ vỗ bàn than thở: "Đời người là như thế đấy!

Ngày trước lão Chu ta ở Chu Gia Hương, tuy không làm được việc tốt đẹp ân nghĩa gì nhưng cũng chưa từng giết người đốt nhà.

Ấy là còn chưa kể khi bán căn nhà của ta cho Dụ Vương điện hạ, ta cũng không đòi thêm một đồng, chỉ tại tên đạo sĩ đáng ghét kia cứ bảo ta mệnh cách gì đó toàn hỏa sẽ không làm ăn được gì nên hồn đâu, xui ta xin vào Vương phủ làm cho hắn ngày sau mới yên thân.

Tiên sư lão!

A mẫu ta là kỹ nữ Chu Gia Hương, mất sớm, ngay cả cha là ai cũng không biết, ai biết mặt mũi cái bát tự trông thế nào?

Ở Chu Gia Hương ta cũng không thiếu rượu thịt, không phải là vui hơn ở đây sao?

Nhưng ở đây ấy à, dù lòng đầy oán hận nhưng ngày nào cũng phải nở nụ cười nịnh bợ thế thôi!"

"Thật là oan ức cho Chu Ngũ gia quá."

Lý Thanh nghe hắn nói dài dòng văn tự, vội ngắt lời, "Giờ Chu Ngũ gia đã theo quý nhân rồi, hiểu biết hơn chúng tôi nhiều.

Thế... có thấy tông thất nào như chúng tôi tả không?"

"Ta theo tên đạo sĩ kia một thời gian thì chỉ gặp toàn những kẻ thích đan dược, chưa thấy tông thất nào."

Chu Ngũ suy nghĩ, bỗng nảy ra ý, nói với Cố Uyên, "Nhưng tên đạo sĩ kia đúng là giỏi xem mệnh thật, hay mấy cô nương theo ta gặp hắn thử xem, biết đâu có tin tức."

Hắn dẫn Cố Uyên và mấy người vào cổng đạo quán, rẽ vào con đường nhỏ lát đá xanh, đi qua mấy khoảnh sân, đến một gian đan phòng mới dừng lại, vào báo cáo rồi mời mọi người vào.Trong tĩnh thất, một lão đạo sĩ râu tóc bạc phơ ngồi trên bồ đoàn, đầu đội khăn Lữ Dương, khoác hạc trường, mở mắt nhìn Cố Uyên và mọi người một cái rồi lại nhắm mắt, nói: "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng.

Thuyền quyên sánh với anh hùng, nhân duyên tiền định xe trùng đôi ta.

Duyên phận giữa tiểu thư và người đó không nhạt đâu, ắt sẽ gặp lại."

Cố Uyên vốn chỉ thử hỏi xem sao, giờ nghe lời nói kỳ quái, liền hỏi: "Vẫn hiểu duyên sâu duyên cạn tự trời định, nhưng hiện giờ ta muốn tìm người đó thì tìm ở đâu?"

"Không cần tìm, không cần tìm."

Lão đạo sĩ xua tay, "Ba năm đèn lửa hội Nguyên Tiêu, mọi điều tự nhiên sẽ rõ."

Nghe câu này, Cố Uyên biết đạo sĩ chỉ lừa người thôi, suy nghĩ rồi nói: "Đạo trưởng, ý trời đã vậy, không thể thay đổi.

Nhưng sức người kiên trì có lẽ cũng có cách, không biết đạo trưởng có thể chỉ điểm chút ít không?"

"Nếu cô đã muốn nghịch thiên ý thì ta cũng đành bó tay."

Lão đạo sĩ thấy nàng nói năng rất hợp ý, không làm khó mình, trong lòng mừng lại giả vờ vuốt râu cười, "Người đó không phải hạng tầm thường, muốn mặt đối mặt thì cũng khó.

Nhưng giờ có cơ hội này: Thái hậu và Thái phi đều sùng Phật, nhưng tăng ni xưa nay nếu không có chiếu chỉ thì không được vào nội cung, có việc gì cần đều chọn tuyển thái giám cung nữ mà thôi.

Ta quen biết một viên quản sự, hôm trước đánh cờ nghe hắn nói Thái hậu đang phát nguyện in một vạn bản kinh tặng chúng dân để cầu phúc cho Tiên đế, giờ trong Kinh xưởng thiếu người hiệu đính chỉnh sửa, đang tìm con cái nhà lương thiện để tuyển vào phụ việc.

Tiểu thư giờ đã mất đường sự nghiệp công danh, dù sao cũng là con nhà lành, thế là đủ tiêu chuẩn rồi, sao không thử?"

Cố Uyên chưa kịp trả lời, Hứa Tịch đã nói: "Vào cung như vậy... chẳng phải là sẽ không còn đường ra sao?"

Lão đạo sĩ cười lớn: "Không phải, không phải.

Theo lệ tuyển chọn cung nữ, tuổi không được quá 13, lớn nhất cũng không được quá 16.

Tiểu thư đã ngoài 20, sao mà vào cung được?

Nhưng chỉ cần qua sơ tuyển thì sẽ được ở lại Thượng Nghi ti chờ vòng phúc khảo.

Ngoại Trị phòng của Thượng Nghi ti nằm ở ngay Tây Hoa môn, ngày 16 tháng 8 sẽ tổ chức yến tiệc tông thất, nhiều người qua lại, tiểu thư có thể nhân lúc đó tìm người, còn nếu không có người thì tới vòng phúc khảo tự nhiên cũng sẽ ra khỏi cung thôi, không sao, không sao."

Thấy mọi người do dự, hắn lại cười hết sức tiên phong đạo cốt, "Tiểu thư cứ về suy nghĩ, nếu muốn đi, ngày mai đến Xung Vân quán cũng được."

"A Uyên."

Hứa Tịch im lặng suốt đường đi, đến khi về am Từ Thọ mới kéo tay áo Cố Uyên, "Ta nghĩ đi nghĩ lại, thấy lời đạo sĩ không đáng tin đâu, thôi bỏ qua đi."

"Ta hỏi sư chùa Báo Quốc rồi, họ cũng nói chuyện Thái hậu in kinh là thật, hai ngàn bản sẽ được gửi đến chùa."

Lý Thanh vội vàng vào cửa, uống một hơi hết chén trà, "Nhưng lời đạo sĩ có đáng tin không thì còn chưa biết."

"Họ đã tặng kinh, ắt biết viên quản sự của Kinh xưởng."

Cố Uyên khẽ cắn môi, ngẩng đầu, "Hôm nay đã mồng 7 tháng 8, người đó vẫn biệt tăm không manh mối, hãy thử vận may vậy."

Nàng cười nhẹ, "Đạo sĩ nói một câu rất đúng, tuổi tác của ta như vậy, sao có thể bị tuyển vào cung được chứ?

Chỉ là vào cung xem một chút thôi."

"Đúng vậy."

Hứa Tịch vỗ tay, "Nghe nói điểm tâm trong cung tuyệt hảo, A Uyên xem một vòng xong nhớ mang về cho chúng ta mấy miếng.

Nếu không được thì kể lại cũng được."

"Nhảm nhí.

A Uyên còn có việc chính phải làm, đâu rảnh lo chuyện này?"

Lý Thanh trừng mắt, nói với Cố Uyên, "A Uyên vào cung phải rất cẩn thận.

Nghe nói quy củ trong cung nghiêm khắc lắm, chớ đi quá một bước, hãy cứ đứng ngoài Tây Hoa môn mà đợi thôi, đừng vào cửa.

Mà bức tường thành ngoài Tây Hoa môn có chạm khắc 108 con sư tử, đợi chán thì có thể đếm thử."

"Đây không phải nhảm nhí sao?"

Hứa Tịch kéo tay Cố Uyên, "A Uyên nói xem!"

Cố Uyên biết hai người cố ý bông đùa để không khí bớt căng thẳng, cũng mỉm cười: "Nghe nói bia lễ nghi trong Thượng Nghi ti là ngự bút của Minh Tông hoàng đế, nếu không bị ai phát hiện, ta sẽ lén chép lại một bản, dù không dọa được người ta thì cũng sẽ bán được giá cao."

"Vậy thì..."

Lý Thanh cúi đầu trước Cố Uyên, "Lộ phí hồi hương nhờ cả vào A Uyên rồi!"

Ba cô gái nhìn nhau, cùng cười.

Cố Uyên mỉm cười, nhưng trong lòng đã quyết định: Kỳ thi đang đến rất gần rồi, không thể làm phiền Hứa Tịch và Lý Thanh nữa, và cũng không thể về quê trong oan ức nhục nhã cực độ như vậy được, dù cấm thành kia có là hang hùm miệng sói, nàng cũng nhất định phải xông vào!

—— Hết chương 17 ——
 
[Bh] [Edit] Bức Lương Vi Phi - Lâm Thác
CHƯƠNG 18


Nhờ phúc đức của Đạo trưởng Huyền Vân Tử ở Xung Vân quán, Cố Uyên cùng nhóm cung nữ được phủ Nội Vụ tuyển chọn ra đã thuận lợi bước được vào cung môn.

Việc tuyển chọn cung nữ vốn rất khắt khe, bao đời nay số người bị loại bỏ nhiều vô kể, chỉ khoảng hai ba phần mười là vượt qua được, bởi vậy dù chỉ có chưa đầy hai mươi vị trí còn trống, nhưng phủ Nội Vụ đã sơ tuyển loại ra hơn trăm người.Các quan phủ Nội Vụ đã quá quen việc rồi, sắp xếp thứ tự dựa theo hình dong tướng mạo ghi trong sổ sách.

Danh sách chia thành từng đội năm người, Cố Uyên tuổi đã cao lại có dáng người cũng cao, bèn được xếp ở phía sau, theo thứ tự Thiên Địa Huyền Hoàng thì rơi vào đội Thử, số Giáp.

Dù đã vào tháng tám, cái nắng cuối mùa thu vẫn vô cùng hanh khô gay gắt, ánh mặt trời thiêu đốt chiếu thẳng xuống đỉnh đầu và tấm lưng.

Sân đá xanh trước phòng làm việc của Thượng Nghi cục không có bóng râm che, đứng nghiêm trong thời gian một nén hương đã khiến người ta hoa mắt chóng mặt.

Phàm là sĩ tử ứng thí thì đều đã học lễ nghi cung đình để tránh thất lễ trong điện thi hoặc sau này khi xuất sĩ làm quan cũng chu toàn lễ tiết, thế nên Cố Uyên chịu đựng được, nhưng thiếu nữ váy xanh đứng bên phải nàng thì xem ra đã không chịu nổi nữa rồi, lén liếc nhìn Cố Uyên rồi lại cúi đầu xuống nhìn mặt đất, chẳng mấy chốc đã liêu xiêu lảo đảo muốn ngã.Hàng năm, ở các buổi diễn tập lễ nghi cung đình, vẫn luôn có vài tân tú tài ngã lăn ra đất vì chịu không thấu.

Thấy thiếu nữ kia gục xuống, Cố Uyên dùng phản xạ cực tốt bước sang đỡ lấy tức thì, tay nhanh nhẹn nới hai vạt cổ áo của nàng ra, thấy miệng mũi cô gái khô ráo không bọt không dãi mới thở phào nhẹ nhõm.

Thiếu nữ áo hồng bên phải của cô nương vừa ngã xuống cũng kịp phản ứng, thấy Cố Uyên đã kịp đỡ liền chạy đến đỡ phía bên kia, hướng về phía cửa sổ gọi to: "Các cô cô ơi, có người bị trúng nắng rồi ạ!"

Mấy nữ quan trung niên đứng dưới cửa sổ liếc nhau, một người lên tiếng: "Hai cô, đỡ người ấy lại đây!"

Đặt cô gái nằm thẳng dưới hiên cửa sổ, theo lời các nữ quan, Cố Uyên lấy nước và khăn đắp lên trán của thiếu nữ.

Lúc đó người váy hồng đã bưng bát thuốc đến, thấy cô nương váy xanh lờ đờ mở mắt liền đưa bát thuốc lên miệng, hạ giọng trách mắng: "Mau uống nhanh đi.

Sáng sớm bảo ăn nhiều vào, cứ không nghe!"

Giọng cô nàng rất nhỏ, chỉ Cố Uyên nghe rõ.

Cố Uyên không nói gì, thấy các nữ quan lại nhìn sang thì cũng không nán lại nữa, đợi cô nương uống xong thuốc thì liền trở về hàng.Sau một thời gian đứng nghiêm dưới nắng, những người thể chất yếu đuối, tư thế không vững, quá cao quá thấp quá gầy quá béo đều bị loại, chỉ trong chớp mắt số người đứng đó đã giảm đi một nửa.

Những người được chọn vẫn chia thành đội năm người, lần này Cố Uyên được phân vào đội Hoàng, vô tình lại cùng với cô nương váy xanh.Chạng vạng hôm đó, khi đã vào phòng nghỉ được chỉ định sẵn an, có cô nương tiến đến cảm ơn Cố Uyên: "Biểu muội của ta có thể chất không được tốt, may mà hôm nay có tỷ giúp đỡ."

Cố Uyên mỉm cười ôn hoà: "Chỉ là việc nhỏ, không đáng gì cả."

Thiếu nữ ngẩn ngơ: "Vừa nãy ta đã thấy tỷ tỷ rất xinh đẹp rồi, giờ cười lên lại còn càng đẹp hơn!

Tỷ tỷ cũng là người kinh thành à?

Ta thấy có lẽ tuổi tỷ tỷ cũng không nhỏ nữa, đợt cung tuyển lớn năm ngoái sao tỷ tỷ không đi?

A cha ta nói năm ngoái đó là tuyển tuỳ thị cho các quý nhân trong cung, nếu được tuyển, vào được là thăng chức nhanh như diều gặp gió!

Tiếc là lúc đó ta vẫn còn nhỏ, chỉ kịp đợt này."

Dáng người cô nàng cũng cao ráo không kém Cố Uyên nhưng gương mặt trái xoan vẫn còn vẻ ngây thơ, rõ ràng tuổi còn nhỏ.

Nói giọng quan thoại chuẩn chỉ đúng kinh thành, cô nàng liên tục hỏi tên họ quê quán của Cố Uyên, rồi tự giới thiệu gia thế: "Ta họ Vệ, tên An, người nhà gọi là An nương.

Gốc gác nhà ta ở kinh thành, tiệm lâu năm Vệ gia ở phường An Lạc chính là hiệu buôn của gia đình.

A mẫu của ta năm xưa cũng từng làm việc ở trong cung, thấy ta đã mười ba tuổi, bảo không thể cứ ngốc nghếch lo chơi bời mãi, bèn muốn ta vào cung vài năm để mở mang tầm mắt, may ra còn tích lũy được chút của hồi môn, thế là đưa ta vào đây!"

Theo quy định trong cung, cứ năm năm một lần khảo sát, những thái giám cung nữ không đạt yêu cầu sẽ bị giáng chức hoặc loại bỏ.

Người làm việc trong cung đủ năm năm hoặc quá năm mươi tuổi đều có thể xin xuất cung về quê.

Dù một số chức vụ quan trọng không cho phép, nhưng những vị trí thông thường đều được chấp thuận.

Nghe Vệ An khẳng định chắc nịch, rõ ràng ở kinh xưởng này không có chức vụ quan trọng, trong lòng Cố Uyên cũng yên tâm phần nào.Vì trong cung đang tất bật chuẩn bị yến Trung Thu ngày 15 tháng 8, vòng phúc tuyển được định vào ngày 29.

Ngày Trung Thu, các quản sự trong cung đều bận rộn, Thượng Nghi cục điều hết nhân lực vào lo việc nội cung, chỉ để lại hai nữ quan trực ở Ngoại trị phòng để trông coi các cung nữ ứng tuyển mà thôi.Vệ An và Cố Uyên đứng cạnh nhau bên ô cửa sổ, có thể nhìn rõ tình hình bên ngoài.

Mắt thấy cảnh đèn đuốc sáng trưng, ngựa xe cờ lọng như mây, Vệ An mê mẩn tấm tắc khen ngợi, còn Cố Uyên thì chỉ thấy sốt ruột: Nàng mạo hiểm tiến cung chính là vì ngày hôm nay, không ngờ bây giờ chỉ thấy xe như nước ngựa như rồng, mà lại chẳng thể thấy được mặt người trong xe!Đang sốt ruột, bỗng có người ló đầu vào ngưỡng cửa, hỏi: "Từ cô cô có ở đây không?

Sư phụ sai ta đến đưa quà ngày lễ!"

Người nữ quan cao hơn trong hai vị cô cô đang ngồi nói chuyện dưới cửa sổ đứng dậy, giọng điệu thân mật: "Sao mà sư phụ cậu vẫn khách sáo như vậy!

Sức khỏe ông ấy vẫn tốt chứ?"

"Vẫn tốt, vẫn tốt."

Viên thái giám khoảng ba mươi tuổi vẫy tay ra hiệu cho hai tiểu thái giám bên ngoài khiêng một giỏ đầy ắp vào, rồi bước lên thềm, chắp tay chào nữ quan.Mấy cung nữ trong này đều không hiểu chuyện gì, chỉ có Vệ An trộm bĩu môi, còn Cố Uyên thì dù ngoài mặt không biểu cảm nhưng trong lòng đã dậy sóng, lặng lẽ lùi lại một bước, kéo Vệ An.

Vệ An lùi theo Cố Uyên vào sau đám đông, thì thầm: "Đó là đôi 'đối thực', cũng gọi là 'thái hộ'.

A nương ta nói những người ở trong cung cả đời, hầu như đều..."

"Không phải chuyện này."

Cố Uyên ngắt lời, nét mặt hơi tái đi, "Giọng nói của vị nội quan kia... giọng của nội quan đều như vậy sao?"

"Giọng của nội quan đương nhiên đều là như vậy."

Vệ An trả lời nhanh nhảu, "Thái giám ở tuổi trẻ như thế kia giọng vẫn còn có chút khàn khàn, nghe nói già đi sẽ còn khó nghe hơn!"

"Ở phủ đệ của hoàng thất... cũng có nội quan như vậy ư?"

"Vậy thì như ở trong cung rồi còn gì?"

Vệ An chớp mắt, "A nương ta nói thái giám cung nữ, mấy người đó, ngoài trong cung ra thì chỉ có ở phủ tước Vương mới có thôi!"

Lẽ nào thật sự là Tùy Vương?

Cố Uyên suy đoán không ngừng, nghĩ đến lần trước dâng thiếp đã bị từ chối trước cổng phủ Tùy Vương, lại thầm cười đắng - thân phận của Lâm Thập Nhất này, càng ngày nàng càng không dám nghĩ tới.Khoa Loan Nghi và Văn khoa đều có quy tắc giống nhau, đó là các quan chủ khảo sẽ chọn ra mười bài thi xuất sắc để trình lên Hoàng đế ngự lãm, rồi khâm định tam giáp.

Ngày 19 tháng 8, nữ quan tấu sự dâng danh sách cùng mười bài thi lên Ngự án, Hoàng đế một tay cầm bút chấm chu sa, một tay cầm danh sách của sĩ tử xuất sắc, thế nhưng trong lòng lại ẩn hiện hoang mang không rõ nguyên do.Ngụy Phùng Xuân thấy Hoàng đế mơ màng, tưởng là mệt, liền khẽ nói: "Quan gia nghỉ ngơi chút đi ạ, những việc này để lát nữa xử lý cũng được?"

Hoàng đế gật đầu, đứng dậy, chắp tay sau lưng đi loanh quanh trong điện, tay vẫn nắm chặt tờ danh sách.

Đi vòng quanh điện mấy chục vòng mà mặt không biểu cảm, bỗng nhiên lại ném danh sách vào hộp tấu chương: "Trẫm tin tưởng Từ tiên sinh và Trịnh tiên sinh.

Cứ theo như xếp hạng hai người đã chấm trong này mà định tam giáp, yết bảng đi!

Chép lại một bản để lưu trữ là được."

Hoàng đế vốn siêng năng chính sự, hành động như vậy thật là hiếm thấy.

Thấy sắc mặt Hoàng đế không tốt, Ngụy Phùng Xuân đợi nữ quan lui ra, liền khuyên nhủ: "Gần đây Quan gia ngủ không ngon, hay là giờ nghỉ ngơi chút đi ạ?"

Hoàng đế nhíu mày, vẫn không nói, chỉ giữ một vẻ mặt đầy tâm sự, một lúc sau bỗng mở miệng: "Thi Đình đã định vào ngày hai mươi chín?"

"Vâng.

Khâm Thiên giám chọn ngày, nói đó là đại cát."

Ngụy Phùng Xuân thấy Hoàng đế liếc nhìn Ngự án, vội dâng chén trà sứ trắng lên.

Hoàng đế nhận, uống vài ngụm, giọng như có chút cảm khái: "Lần này trẫm sẽ đích thân đi xem.

Triều phục đã chuẩn bị xong chưa?"

Khoa thi năm Thiên Thọ nguyên niên và khoa thi năm Thiên Thọ thứ hai, do Hoàng đế còn nhỏ tuổi nên Nội Các cùng với Loan Nghi ty chủ trì.

Khoa năm nay, tuy Hoàng đế chưa thân chính nhưng đã đủ tuổi đảm đương, dù không tự thân khảo thí nhưng sẽ thân lâm, tính ra, đây là lần đầu tiên kể từ khi đăng cơ và đại triều Hoàng đế chủ trì một sự kiện lớn như vậy.

Nghe Hoàng đế hỏi đến triều phục, Ngụy Phùng Xuân vội cười nói: "Đương nhiên là đã chuẩn bị xong rồi!

Hôm qua người ở Tứ Chấp khố còn tới dâng mẫu, đẹp đẽ uy nghi lắm ạ, đường kim mũi chỉ đều là thượng phẩm.

Bậc ấy khí phách chỉ có uy đức của Quan gia mới đảm đương nổi thôi!"

Nhưng Hoàng đế nghe nịnh bợ vẫn chỉ nhàn nhạt: "Nhưng trông có vẻ quá là quá nghiêm."

Hoàng đế có thể tùy ý bàn luận kiểu dáng long bào, nhưng Ngụy Phùng Xuân thì không thể, đành ngậm miệng.

May mà Hoàng đế trầm ngâm một lúc rồi lại trở lại bình thường, cầm bút lên phê tấu chương đọc chính vụ, không có chút dị thường nào.Ngụy Phùng Xuân thở phào, không ngờ buổi chiều hôm ấy Nội Các và Loan Nghi ty đưa danh sách bảng vàng Nữ khoa đến, Hoàng đế nhíu mày nhìn chằm chằm một lúc rồi đột nhiên sắc mặt tái hẳn đi, lại còn sai người đến Lễ bộ tra xét lại danh sách bài thi.Ngụy Phùng Xuân theo hầu Hoàng đế ở trong điện đợi đến quá nửa đêm, khi ấy mấy nữ quan mới đối chiếu xong bản gốc và bản chép của danh sách sĩ tử Nữ khoa, quả nhiên là có mấy bản sai sót.

Ngụy Phùng Xuân vừa nghe vừa thầm khâm phục: Không trách nói thiên tử thánh minh như ngọn đèn soi tỏ, Quan gia mới nhìn qua danh sách thôi đã biết có sai sót!Hắn liếc mắt nhìn thấy Hoàng đế ngồi chống cằm sau án, dung mạo trang nghiêm tĩnh như nước trầm như núi, trong lòng càng thêm khâm phục.

Nhưng hắn không biết rằng lúc này những lời tấu trình đều như những hạt châu lăn qua tai Hoàng đế mà không lọt vào nổi một chữ.

Bởi vì, trong lòng Nguyên Gia lúc này chỉ nơm nớp điên đảo một nỗi lo - tên của Lý Thanh, Hứa Tịch không có trên bảng vàng nhưng có trong danh sách đánh trượt; tên Cố Uyên không có trên bảng vàng, trong danh sách đánh trượt cũng không có!

Cố Uyên của Quan gia biến mất rồi.

—— Hết chương 18 ——

Quan gia mất vợ rồi, vợ thì đang tìm Quan gia 🙁(
 
Back
Top Bottom