Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 70


Thác Bạt Tam Nương tuổi đã gần trung niên, xưa kia thích giết chóc thành tính, nay tuy phần nào thu liễm, nhưng vẫn giữ thói ra tay khi thấy vàng thật bạc trắng. Dẫu không còn hung hăng như trước, nhưng chuyện như cắt da đầu, chặt búi tóc người khác, nàng vẫn làm nhẹ như không.

Vi Huấn không rõ nàng đến huyện Linh Bảo rốt cuộc là vì việc gì, cả đêm ngồi xếp bằng trước cửa phòng Bảo Châu nhập định, phòng khi Tam Nương quay lại gây họa.

Sáng hôm sau, hắn gọi Bàng Lương Ký tới, lạnh giọng hỏi:

“Ngoài ta và Lão Thất, ngươi còn mời ai trong sư môn đến nữa?”

Bàng Lương Ký mặt tái mét, hốt hoảng nói:

“Sao có thể chứ! Đây là hôn lễ, chẳng phải chuyện tang ma! Đại sư huynh nói vậy là có ý gì?”

Vi Huấn khoanh tay, nói thẳng:

“Hôm qua ta thấy Lão Tam và Lão Ngũ trong thành.”

Bàng Lương Ký nghe đến chữ “Tam” thì toàn thân run rẩy, sắc mặt tái xanh như tàu lá chuối.

Hoắc Thất Lang cũng thất sắc, vội nói:

“Ngũ sư huynh tuy phá phách nhưng không động đến thì còn đỡ. Chứ Tam sư tỷ mà đến thì… hôn lễ còn đổi được không?”

Bàng Lương Ký lắc đầu mạnh:

“Ngày lành đã xem kỹ càng, đổi thì phải đợi sang năm mới rước được A Nhiễm về. Huống hồ ta đã phát thiếp mời anh hùng khắp nơi, giờ không chỉ là cưới thê, mà còn là lễ rửa tay gác kiếm, từ biệt giang hồ.”

Ngọc Thành Bàng gia vốn là nhà giàu đất cát, chẳng thuộc võ lâm chính tông. Tục ngữ rằng, kẻ nghèo học văn, người giàu luyện võ Bàng Lương Ký từ nhỏ mê thích thương côn, lại có khiếu võ, nên được gia đình mời thầy giỏi về dạy. Nhờ thế mà kết giao rộng rãi, danh tiếng vang khắp Trung Nguyên, dần dà cũng có dáng dấp một môn phái.

Sau này vì muốn tiến xa trong võ học, y mới rời Quan Trung, bái Trần môn làm thầy, không ngờ gặp phải biến cố, suýt mất nửa đời người. Việc này ai nghe cũng lắc đầu.

Trần Sư Cổ tính tình kỳ quái, cả đời chuyên đào mộ cổ, không hề để tâm thanh danh, cũng chẳng màng chuyện giang hồ. Tuy không lập môn mở phái, nhưng về võ học thì xuất thần nhập hóa, cả đời chưa từng bại trận, từng được xem là người mạnh nhất thiên hạ lúc ba mươi tuổi. Chỉ vì đi theo đường tà nên không ai dám công khai ca ngợi.

Người đã mất, để lại một lũ đồ đệ võ công cao nhưng tính nết cổ quái. Người đến dự hôn lễ Bàng Lương Ký, một phần vì giao tình với Bàng gia, một phần là vì tò mò muốn xem mặt đám đệ tử tà môn kia.

Giờ ngày cưới cận kề, thiếp mời đã phát khắp nơi, quanh vùng đâu đâu cũng thấy giang hồ nhân sĩ lảng vảng.

Bàng Lương Ký sốt ruột nói:

“Tam Nương chẳng lẽ nhận tiền giết cả nhà ta?”

Hoắc Thất Lang nói:

“Từ ngày bị đại sư huynh đánh trọng thương, Tam sư tỷ gần đây rất ít rời khỏi nhà, nghe nói đang ở suối nước nóng núi Ly dưỡng bệnh. Có ai thuê cũng chỉ sai người dưới ra tay.”

Bàng Lương Ký ngạc nhiên:

“Thật sao? Vì cớ gì vậy?”

Hoắc Thất Lang đang định khoe khoang nội tình, thì bị Vi Huấn liếc mắt cảnh cáo, bèn lập tức sửa lời:

“Có đại sư huynh ở đây, thì còn sợ gì nữa?”

Vi Huấn gật đầu, giọng điềm đạm:

“Ngươi đã mời ta đến, ta sẽ giúp ngươi thành hôn suôn sẻ. Nhưng ta chỉ có hai tay, bảo vệ ngươi thì khó mà bảo vệ được Cửu Nương. Ngươi nên tìm bốn người thật đáng tin, theo sát nàng suốt lễ.”

Bàng Lương Ký lập tức hiểu ý. Thác Bạt Tam Nương vốn giỏi ám sát, bốn người kia không hẳn là để hộ vệ, mà chính là để cản đòn bất ngờ chỉ cần tranh thủ được một nhịp, đã đủ cho Vi Huấn ứng cứu kịp thời.

Y vỗ ngực cam đoan:

“Sư huynh yên tâm! Cửu Nương là khách quý, Bàng gia nhất định sẽ chăm lo chu đáo. Hơn nữa, nếu Tam sư tỷ tới, cũng là vì ta, chẳng liên can gì đến nàng ấy.”

Vi Huấn không đáp. Trong lòng nghĩ, hôm qua Tam Nương quả thực đã vào khách đ**m động thủ. Là vì trả thù một chưởng năm xưa, hay là có ý đồ với Bảo Châu, thì khó mà đoán chắc.

Từ ngày hộ tống nàng rời khỏi Trường An, trên đường phần lớn chỉ gặp bọn đạo tặc vặt vãnh, chẳng đáng nhắc tới. Nhưng nếu có kẻ biết được thân phận thật sự của nàng, mời đến cả tay thích khách số một Trường An cũng không phải không có lý.

Chỉ là… Lão Tam giết người chưa từng chậm trễ. Nếu thật muốn hạ sát thủ, lúc hắn trở về khách đ**m chỉ thấy xác người, không thể còn sống. Hơn nữa, phi đao nàng ném ra khi rút lui cũng không nhằm vào yếu huyệt suy nghĩ kỹ lại, quả thật có nhiều điểm lạ.

Ban đầu hắn không muốn cho Bảo Châu dự tiệc cưới, xem như một cách tránh né rối ren xưa cũ. Nhưng với sự xuất hiện bất ngờ của Thác Bạt Tam Nương, e rằng chỉ khi nàng ở trong tầm mắt, hắn mới có thể yên tâm.

Bảo Châu sắc mặt u ám từ phòng bước ra, cúi đầu nhìn thấy ba sư huynh đệ Vi Huấn đang tụ lại bàn chuyện nơi đại sảnh. Quay lại, lại thấy Dương Hành Giản đứng ngẩn ngơ ở cửa, chống một gậy gỗ đào, dáng vẻ ngơ ngác lẩm bẩm:

“Sao mấy chuyện quỷ quái này cứ liên tiếp xảy ra? Lại thêm một người nữa…”

Bảo Châu nghĩ bụng: Kẻ đáng sợ đêm qua, ông còn chưa thấy kia mà. Nàng mộng thấy ác quỷ suốt đêm, may thay lần nào cũng bị tiếng cành đào gõ cửa sổ đánh thức. Trước kia nghe cung nhân nói gỗ đào trừ tà nàng không tin, nay ngẫm lại, có lẽ đúng là hữu ích.

Dương Hành Giản vừa trông thấy nàng, liền nở nụ cười cung kính mơ hồ:

“Công chúa, lão thần đã khỏi bệnh rồi…”

Ông bước tới định hành lễ, ai ngờ vừa nhấc chân đã loạng choạng, ngã nhào xuống đất.

Bảo Châu thở dài, bước lại đỡ ông dậy, dìu về phòng nằm nghỉ.

Bàng Lương Ký nghe tiếng trò chuyện trên lầu, tuy chân què nhưng tai vẫn rất thính, liếc mắt nhìn lên, thắc mắc hỏi:

“Vừa rồi lão già kia gọi ai là công chúa?”

Vi Huấn không ngẩng đầu, thản nhiên đáp:

“Ngươi nghe nhầm rồi, ông ấy chúc ‘tân nhân trăm năm hòa hợp’. Ngồi trong nhà lâu quá, tai ngươi kém rồi.”

Công phu của Bàng Lục và Hoắc Thất Lang chẳng thể so với Vi Huấn, lời tuy không mấy trôi chảy, nhưng hai người không thể không tin.

Quản gia Bàng quả nhiên giữ lời, cho hai người trang điểm có kinh nghiệm đến giúp Bảo Châu chọn kiểu tóc và y phục. Phụ nữ Linh Bảo huyện vốn ưa chuộng trang sức hình hoa đào, áo quần thêu trái chín, kiểu dáng mềm mại, xinh tươi. Bảo Châu thử qua vài bộ, tuy không sặc sỡ lấp lánh, nhưng lại dịu dàng nền nã, nàng vừa ý, liền chọn lấy một bộ.

Hai ngày trôi qua trong chớp mắt, ngày lành đã tới. Trời quang mây tạnh sau cơn mưa.

Lễ cưới bắt đầu từ buổi chiều, nhưng nhà trai đã chuẩn bị từ sáng sớm. Khắp nơi tràn ngập không khí náo nức và hồi hộp. Bàng Lương Ký từ sớm đã sai người đến đón những vị khách quan trọng ở khách đ**m, chuẩn bị rước về Bàng phủ nơi Ngọc Thành.

Nắng sớm còn mờ nhạt, Vi Huấn cùng Hoắc Thất Lang đảm đương việc tiếp khách, mỗi người đều tự thu xếp chỉnh tề: tắm gội, chải chuốt, thay y phục. Từng lớp tơ lụa lần lượt khoác lên người, áo lễ rực rỡ phấp phới.

Bảo Châu được trâm nương giúp búi tóc thành dáng “Vọng Tiên”, cắm một chuỗi hoa đào bằng nhung mềm nhẹ, giữa trán dán một cánh ti hoa hình cánh đào bằng lụa, đứng trước gương soi lại, trong lòng vui vẻ vô cùng.

Nàng bước ra khỏi phòng, thấy Vi Huấn cũng đã ăn vận xong. Y phục tiếp khách là áo dài màu đỏ thắm, sắc màu rực rỡ khiến khuôn mặt vốn trắng nhợt của hắn như có thêm huyết sắc. Eo thắt đai khảm hoa văn mạ vàng, chân mang giày ô da thêu mây, phong thái giang hồ tạm lùi, thay vào đó là vẻ thanh tú trầm tĩnh lan tỏa quanh thân, thần khí trong trẻo như ánh sớm mai.

Hoàng gia xưa nay chuộng sự lộng lẫy quý giá trong y phục, bộ đồ hắn mặc hôm nay thật hợp với gu thẩm mỹ của Bảo Châu. Nàng ngắm một lượt rồi vui vẻ khen:

“Không phải rất đẹp đó sao? Ngươi nên mặc những màu tươi tắn như vậy thường xuyên, trông khí sắc khá hẳn lên.”

Dứt lời, nàng xách vạt váy, dẫm bước trên nền đá chạm cánh đào, lướt nhanh xuống lầu như cánh bướm. Búi tóc cài hoa nhung, chuông bạc leng keng ngân vang theo mỗi bước chân.

Vi Huấn vốn không quen mặc thứ quần áo bằng tơ lụa màu mè ấy, cả người có phần gò bó. Nhưng được nàng khen một câu, hắn đứng ngây ra như tượng, trên mặt thoắt đỏ ửng, không rõ là do ánh sáng hồng bào phản chiếu hay vì máu nóng dồn lên đầy ngực.

Tin Bàng công tử tổ chức đại hôn lan rộng khắp thành, không lâu sau đã có rất nhiều trẻ nhỏ vây quanh đội tiếp rước, đòi phát bánh trái lấy may. Khách trọ cũng rộn ràng kéo ra trước cửa xem náo nhiệt. Người Bàng gia đã chuẩn bị sẵn: đại táo, hạt dẻ, hạt sen, chia tay từng nắm cho đám trẻ con lấy lộc.

Bảo Châu tươi cười đứng bên cửa một lúc, thấy Thập Tam Lang sáng sớm ra ngoài chưa thấy quay về, nàng chọn lấy vài quả táo để dành cho hắn, xoay người lại liền trông thấy một người khác mặc lễ phục đỏ chậm rãi bước xuống từ lầu khách đ**m. Nụ cười trên mặt nàng lập tức tắt ngấm, những quả táo trong tay lăn lóc rơi xuống đất.

Hoắc Thất Lang lần đầu tham dự hôn lễ người ta, lại còn đảm nhiệm vai trò người tiếp giá của sư huynh, nên rất chăm chút. Hôm nay, nàng cũng đặc biệt chỉnh trang: ngực quấn phẳng, khoác lên áo dài đỏ, dáng vẻ y hệt một trang tuấn tú phong nhã. Lạ kỳ là, vết sẹo dữ tợn thường hằn trên má nay biến mất tăm, khuôn mặt trở nên trơn láng như ngọc, thần thái thanh thoát lạ thường.

Bảo Châu chỉ liếc một cái đã thấy vóc dáng, vai rộng và phong độ kia rất giống huynh trưởng Thiều Vương của mình, khiến lòng nàng chấn động, hồn vía như tan biến.

Khác với muội muội, Lý Nguyên Anh hoàn toàn thừa hưởng vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của mẫu thân Tiết Quý Phi. Được phong tước “Thiều”, chỉ riêng cái tên cũng đã mang hàm nghĩa về vẻ tuấn tú trẻ trung. Khi mới mười bốn tuổi làm lễ vấn tóc, mặc áo tím, đội ngọc quan bước lên triều, dung mạo khiến triều thần sửng sốt. Khi ấy, tể tướng Bùi thường dùng một câu để ngợi ca: “Xuân sơn sáng trong, đoan nghiêm tựa thần linh.”

Nhưng vẻ đẹp ấy chẳng mang đến lợi lộc gì cho bản thân hắn, ngược lại là tai họa. Có kẻ gièm pha gọi hắn là “gái giả làm tướng”, là “họa mạo làm loạn quốc”. Vẻ ngoài quá mỹ miều, mỗi lần cưỡi ngựa ra phố đều khiến Trường An chật kín người xem, đến nỗi không thể di chuyển, còn phải cho lính Vệ Giới đi dẹp đường. Vì thế, từ đó về sau, hắn chỉ có thể đi xe thay vì cưỡi ngựa.

Mà ở đất Thịnh Đường tôn sùng võ nghệ, cưỡi ngựa là điều quen thuộc với cả văn quan võ tướng, quý nữ lẫn thường dân. Người phải ngồi xe chỉ có hai loại: hoặc yếu ớt b*nh h**n, hoặc bất tài. Cũng vì thế, người ta dần xì xào rằng Thiều Vương không đủ tư cách kế thừa ngai vàng.

Bảo Châu nhìn Hoắc Thất Lang trong bộ áo đỏ rực, lòng lại nhớ đến ngày huynh trưởng đại hôn năm ấy. Khi đó huynh nàng đã trưởng thành, càng lớn càng giống mẫu thân. Mặc áo cưới đỏ, dung nhan phong lưu, đứng bên tân nương Thôi thị lại khiến nàng trông mờ nhạt như chim câu xám.

Phụ hoàng vì thương nhớ Tiết Quý Phi nên lâu nay đã cấm hậu cung mặc đồ đỏ. Vậy mà ngày hôm đó, khi thấy nhi tử mặc hồng bào, dung mạo phảng phất như Quý phi trở lại trần gian, liền rơi lệ giữa điện, đến lúc nói lời chúc phúc cũng nghẹn ngào, khóc không ngừng, tựa ông già gả con gái.

Từ đó về sau, vì sầu bi mà lạnh nhạt dần, hoàng đế bắt đầu xa cách Thiều Vương. Lý Nguyên Anh từ được sủng ái trở thành bị gạt bỏ, dù sống giữa Trường An nhưng nhiều năm không được gặp cha ruột. Chính khoảng thời gian ấy, gian thần thừa cơ ly gián, khiến tình cha con thêm lạnh nhạt. Khi bị đày đến U Châu, huynh ấy thậm chí không có cơ hội tự mình biện giải.

Những tháng năm đau đớn ấy, Bảo Châu đã vô số lần nghĩ thầm: nếu có thể hoán đổi dung mạo với huynh thì tốt biết bao. Nàng sẵn sàng gánh vẻ đẹp tuyệt thế kia để huynh mình khỏi chịu oán thán chỉ vì chiếc mặt nạ trời ban ấy, để hắn được tin tưởng, xứng đáng làm người kế vị.

Thật ra, xét riêng ngũ quan, Hoắc Thất Lang chẳng giống Thiều Vương là bao, lại còn mang thân nữ, vóc dáng nữ tính rõ rệt. Một người là con nhà vương giả, một người là khách giang hồ, nàng chưa từng đặt hai người lên cùng một bàn cân.

Nhưng hôm nay, khi nàng ấy buộc ngực, khoác lên hồng bào, xóa bỏ vẻ ngang tàng thường ngày, vết sẹo cũng biến mất phong thái toát ra lại như có gì đó quá giống, khiến người ta không thể rời mắt. Một người là nữ giả làm nam, một là nam bị xem như nữ, như hai đầu gặp nhau giữa lằn ranh giới mờ ảo.

Đắm mình trong hồi ức chẳng mấy vui vẻ, lòng lại ngập tràn thương nhớ người thân cách biệt, Bảo Châu đã quên cả dè chừng, cứ thế sững sờ nhìn chằm chằm Hoắc Thất Lang như bị hút hồn.

Hai người đứng bên đều cảm thấy có gì bất thường.

Hoắc Thất Lang biết bản thân dung mạo tuấn tú, từng khiến không ít người chỉ vì một ánh nhìn mà si mê. Nếu không thế, nàng đã chẳng bị Động Chân Tử nhị sư huynh ra tay phá mặt. Nay nghe tiếng răng rắc vọng xuống từ hành lang tầng hai, lạnh lẽo như từ âm phủ truyền đến, nàng biết không ổn.

Lặng lẽ xoay người, cố làm mình mờ nhạt đi, rồi nhẹ bước tìm góc khuất bên tường, lặng lẽ ngồi xuống, mong tránh khỏi ánh nhìn khiến người ta động lòng nhưng cũng dễ chuốc họa.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 71


Vi Huấn thầm thấy mình thật nực cười.

Đôi mắt vốn sinh ra để nhìn, nàng muốn ngó ai thì nhìn, ai quản được? Lão Thất vẫn luôn là Lão Thất, đâu có bỗng dưng mọc thêm cái mũi hay đôi môi gì đặc biệt.

Vậy mà cái cảm giác nôn nóng bất an đang kìm nén trong lòng, lại cứ dâng lên không dứt, còn phải cố làm ra vẻ thản nhiên. Ngọn lửa âm ỉ ấy, rốt cuộc từ đâu mà bốc lên?

Nhất là khi nàng thuận miệng khen một câu, hắn liền cứng đờ không nói nổi một lời, quay người bỏ đi, mà ánh mắt lại không rời khỏi người kia. Trong lòng hắn chợt dấy lên một nỗi hụt hẫng khó tả, như vừa từ đỉnh Nhạn Phong trên núi Hoa Sơn rơi thẳng xuống vực sâu, không nơi bấu víu.

Trước đây, hắn từng khinh thường những chuyện rối ren lòng người, chẳng hiểu vì sao có kẻ lại phí hoài thời gian và sức lực vào những điều vặt vãnh ấy. Vậy mà giờ đây, chỉ một ánh mắt, một câu nói cũng đủ khiến tâm trí hắn chao đảo, nghĩ tới nghĩ lui, không thể gạt đi được.

Lần đầu nếm trải cảm giác lạ lẫm ấy, Vi Huấn thấy môi đắng ngắt, cổ khô khốc, lồng ng.ực phập phồng không yên, trên mặt không còn lấy một chút huyết sắc.

Suy cho cùng, hắn chỉ vì nghĩa khí mà đưa nàng đi U Châu tìm người thân. Viên ngọc Bảo Châu kia vốn không thuộc về ai, cũng không ai có quyền trói buộc nàng. Hắn nắm chặt lan can, ngón tay siết đến phát run, rồi lại buông lỏng, từng mảnh vụn gỗ theo kẽ tay rơi lả tả xuống sàn. Ấy vậy mà vẫn chẳng thể thốt nên lời.

Lầu hai có ai đó như vừa đánh vỡ ngũ vị hương, mãi sau mới thấy Bảo Châu dần thoát khỏi hồi ức về huynh trưởng, tò mò bước tới hỏi Hoắc Thất Lang:

“Sao trên mặt ngươi không còn vết sẹo nữa?”

Hoắc Thất nghe vậy, trong lòng chấn động, thầm kêu nguy to. Thường ngày nàng vẫn hay nói cợt, nay lại chẳng dám nói bừa nửa lời. Đang định quay đi tránh né, thì Bảo Châu đã kề sát lại gần, nghiêng đầu quan sát, tóc rũ xuống khẽ lay động cánh hoa đào đính trên trán, xem ra chỉ cần không cẩn thận là sẽ đưa tay sờ thử.

Hoắc Thất vội lùi một bước, mắt nhìn sang nơi khác, lúng túng đáp:

“Không phải vì tham gia hôn lễ của Lão Lục sao? Ta chỉ muốn giữ thể diện cho hắn, nên dùng ít phấn che lại thôi.”

Bảo Châu kinh ngạc. Trong cung, những ai có sẹo hay mụn đều quen dùng hoa điền hoặc giấy dán mặt để giấu đi khuyết điểm. Nhưng vết sẹo của Hoắc Thất kia đâu phải chút vết nhỏ, mà là một đường kéo dài nửa gương mặt, gập ghềnh dữ tợn sao chỉ dùng phấn mà có thể che giấu hoàn toàn, trông cứ như da thịt thật?

Nàng trầm trồ khen:

“Ngươi hóa trang giỏi thật, đến mức không phân biệt nổi thật giả.”

Hoắc Thất Lang cười đáp:

“Không phải hóa trang đâu, là thuật dịch dung.”

Đôi mắt hạnh mở to, Bảo Châu càng ngạc nhiên. Không ngờ trong sư môn kia còn có nhiều thuật kỳ lạ đến thế. Nàng hỏi:

“Nếu ngươi biết dịch dung, sao ngày thường không dùng luôn đi? Để cái sẹo dọa người kia làm gì?”

Hoắc Thất Lang lắc đầu, hỏi lại:

“Ngươi mỗi lần trang điểm tốn bao nhiêu thời gian?”

Bảo Châu đáp:

“Nếu làm kỹ thì mất gần một canh giờ.”

Hoắc Thất Lang nói:

“Ta cũng vậy. Nhưng người trong giang hồ đâu cần tranh sắc, chỉ so võ công ai cao ai thấp. Ta lại xui xẻo học vào một sư môn toàn lũ quái nhân, mỗi ngày còn không đủ ngủ để dưỡng thương, làm gì rảnh mà ngồi dịch dung mỗi sáng?”

Trong lời nói thoáng chút chua xót, bất đắc dĩ.

Vi Huấn từ trên lầu bước xuống, đi ngang qua hai người họ, lạnh nhạt buông một câu:

“Nếu ngươi chịu dành chút công sức ấy luyện thêm vài chiêu, thì đã không kém đến vậy, chẳng phải phải trông chờ vào gương mặt để nổi danh.”

Hoắc Thất Lang cười khổ, nói:

“Sư huynh lại đâm thọc rồi. Chúng ta ai chẳng là hữu danh vô thực? Ta là Khỉ La Lang Quân mặt nát, Bàng Lương Ký là con ngựa què, còn huynh, tên là Huấn mà chẳng thấy chút gì giống lời dạy.”

Rồi nàng quay sang Bảo Châu cười:

“Hắn chính là quái nhân trong đám quái nhân. Người đâu mà không cần ngủ, cả đêm chiếm chỗ trước cửa phòng người ta ngồi nhập định, coi như nghỉ.”

Bảo Châu nghe mà ngơ ngác, ngẩng đầu nhìn Vi Huấn, rồi ngạc nhiên hỏi:

“Sao ngươi lại ngồi trước cửa phòng người ta?”

Vi Huấn cứng người, giả vờ không nghe thấy gì, lập tức quay lưng ra khỏi khách đ**m, làm bộ kiểm tra yên cương cho ngựa.

Bảo Châu thấy hắn lại làm ngơ mình, trong lòng bực bội, liền nói với Hoắc Thất Lang:

“Ta không biết quái sư huynh các ngươi mạnh đến cỡ nào, nhưng ta biết hắn có một điểm yếu rất rõ.”

Hoắc Thất Lang mắt sáng như sao, hớn hở hỏi:

“Thật sao?! Vi đại lại cũng có cửa yếu?”

Bảo Châu hừ một tiếng:

“Chỉ cần ai hỏi đến chuyện hắn không muốn trả lời, hắn lập tức… giả điếc. Gọi thế nào cũng chẳng thèm ứng tiếng.”

Đứng ở cửa khách đ**m, Vi Huấn tay đang buộc cương ngựa chợt khựng lại. Hoắc Thất biết với khoảng cách này thì chắc chắn hắn đã nghe rõ ràng, không nhịn được phá lên cười sảng khoái.

Bảo Châu lại tiếp:

“Còn nữa, ta dám chắc hắn chẳng biết chút gì về thuật dịch dung.”

Hoắc Thất Lang cười hỏi:

“Sao ngươi chắc vậy?”

Bảo Châu đắc ý:

“Hôm nọ ta bôi chút phấn đỏ lên mặt, vẽ thành vết thương trông như thật, hắn nhìn xong mặt tái mét, sợ chết khiếp, chẳng phân nổi giả thật.”

Hoắc Thất Lang vỗ bàn cười nghiêng ngả.

Vi Huấn lúc này lỡ tay kéo mạnh quá, đứt cả dây yên, đành lẳng lặng buộc lại. Dù bị đem ra làm trò cười, nhưng ít ra cũng là tiếng cười vì hắn, lòng khẽ dịu lại đôi chút.

Lúc ấy, Thập Tam Lang người đã ra khỏi nhà từ sáng sớm cuối cùng cũng trở về. Trong tay ôm theo một cây cột cao tám thước, phía trên không treo cờ lụa mà lại buộc một cành đào còn xanh trái.

Mọi người ai nấy đã chỉnh trang sẵn sàng, cùng nhau cưỡi ngựa lên đường đến phủ Bàng gia ở Ngọc Thành.

Bảo Châu lấy làm lạ, hỏi:

“Đệ mang cái cột này để làm gì?”

Thập Tam Lang đáp:

“Đại sư huynh chuẩn bị đó. Nói là cành đào trừ tà.”

Bảo Châu ngẫm nghĩ, có lẽ là một tập tục dân gian nào đó, thấy thú vị nên cũng không hỏi thêm. Quanh đường đi có nhiều đứa trẻ la hét đòi tiền lẻ hoặc quả đào lấy may, nhưng Thập Tam Lang xưa nay vốn ham ăn vặt, hôm nay lại chẳng màng để ý. Chỉ lặng lẽ ôm lấy cây cột treo cành đào ấy, đi sát bên nàng, không rời nửa bước.

Ngọc Thành, phủ Bàng gia cử sáu gia đinh theo sát hộ vệ Cửu nương, vây nàng ở chính giữa. Bảo Châu từ nhỏ đã quen ra ngoài có hàng trăm cung nhân và nghi trượng vây quanh, nên cũng chẳng thấy có gì bất ổn. Chỉ là Thập Tam Lang đi sát bên, Bảo Châu chợt nhận ra hắn dường như cao lên không ít so với lần gặp ở chùa Thúy Vi. Với đà này, chẳng bao lâu nữa là kịp bằng nàng, khiến nàng cảm thấy vừa lạ lẫm vừa kỳ diệu. Trong lòng không khỏi nghĩ: liệu đệ đệ Lý Nguyên Ức còn ở lại trong cung có phải cũng đã lớn hơn rồi chăng?

Phủ Bàng gia ở Ngọc Thành quả là nhà hào phú, trong khu phố sầm uất mà chiếm cứ một mảng lớn đất đai, tráng lệ rực rỡ. Từ xa trông tới, mái ngói nối nhau, hồ ao dày đặc như răng lược. Quy mô ấy không thua gì các trang viên ở phía Nam Trường An. Mà phía Nam Trường An từ lâu vốn tụ hội những nhà vọng tộc, nhất là hai họ Đỗ và Vi ở Phàn Xuyên và phía Bắc khúc sông Vi, được ca ngợi là: “Thành Nam Đỗ Vi, đi mười dặm toàn đất quý.”

Bảo Châu ngẫm nghĩ, Thập Tam Lang mang họ Đỗ, Vi Huấn thì họ Vi hai họ lớn là vậy, mà người mang họ ấy bên nàng lại chỉ là những kẻ áo vải không một đồng dính túi rong ruổi giang hồ. Đối chiếu với danh môn thế tộc kia lại càng thêm thú vị.

Vì hôn sự của công tử Bàng gia, trong ngoài phủ tất bật không ngơi tay. Khi đoàn người Bảo Châu đến nơi, Bàng Lương Ký đang đứng trước cổng lớn, đôn đốc người hầu dựng nghi trượng. Trên khay là ba mũi tên, có lẽ cũng thuộc tục trừ tà trong lễ cưới.

Thấy khách tới, Bàng Lương Ký hớn hở nói:
“Tính ra vừa kịp lúc!”

Hắn dẫn mọi người vào nghỉ ngơi. Trên người đã đổi sang bộ trang phục đỏ rực dành cho tân lang, người gặp chuyện vui thần sắc cũng rạng rỡ hẳn, bước đi nhẹ nhàng, thoáng nhìn đã chẳng còn giống kẻ què hôm nào.

Bảo Châu ngắm cảnh trong viện, thấy cây giả đều bị dọn sạch, cỏ bị cắt phẳng, người hầu bận rộn dựng rạp tre giữa sân để cử hành đại lễ ngoài trời. Người qua người lại, tiếng gọi không dứt, cả sân toàn là dấu bùn giẫm lên, chẳng còn gì gọi là phong cảnh.

Bàng Lương Ký nói:
“Mấy hôm nay mưa liên tục, rạp tre lẽ ra phải dựng từ sớm, nay gấp gáp làm e khó tránh sai sót.”

Gia nhân liền dọn ghế cho khách ngồi nghỉ, còn hắn vì quá phấn khởi mà chẳng yên nổi. Bàng tổng quản khuyên nhủ:
“Tiểu lang, lễ nghi còn phải chờ đến rạng sáng mai, ta nên giữ sức thì hơn.”

Hoắc Thất Lang bật cười trêu:
“Giữ sức để đêm động phòng còn dùng chân chứ…”

Chưa dứt lời, nàng chợt khựng lại, nghĩ hôm nay là ngày vui, không nên buông lời tục tằn, huống chi bên cạnh còn có một cô nương nhỏ tuổi.

Bảo Châu thấy trên miệng giếng phủ chiếu trúc, cối đá để giữa sân đổ đầy bắp vàng, lấy làm lạ, liền hỏi người hầu đang dọn hoa:
“Đây là định giã gạo tại chỗ sao? Mà vì sao lại phủ chiếu trúc lên giếng?”

Tôi tớ vội đặt vật đang cầm xuống, lau tay trên áo rồi đáp:
“Thưa tiểu nương tử, đây là phong tục cát tường trong lễ cưới, nhà nào cũng làm thế, nô cũng chẳng rõ nguyên do. Nhà không có chiếu hay cối đá thì phải đi mượn về dùng.”

Bảo Châu thấy tấm chiếu ấy viền gấm, thêu hoa chim sặc sỡ, trông rất xinh, liền bước tới cầm thử một góc, nhưng thấy dường như đã được cố định chắc chắn.

Theo tục lệ trăm năm, lễ cưới tổ chức ngoài trời. Mọi người tụ tập trong sân trò chuyện, gia nhân mang ghế đến, Bảo Châu ngồi xuống, lập tức có tỳ nữ dâng chậu bạc rửa tay, rồi bưng sữa, quả khô, bánh trái lên. Nàng vốn quen được cung phụng, thiên kim nhà trời, càng đông người hầu hạ càng tôn quý. Dù chẳng ai biết nàng là vị khách nào, nhưng thấy khí độ ấy, chẳng ai dám chậm trễ, đều tự giác đứng quanh hầu hạ.

Bàng Lương Ký nhìn cảnh ấy, thấy họ còn cung kính hơn cả với mình, không khỏi lấy làm lạ:
“Cửu Nương thật sự giàu đến vậy sao?”

Vi Huấn cười đáp:
“Ngươi còn chưa tưởng tượng tới được nàng có bao nhiêu tiền đâu.”

Bàng Lương Ký lại chỉ Thập Tam Lang, hỏi:
“Tiểu đầu trọc ôm cột cờ làm gì?”

Vi Huấn đáp:
“Lá cờ ấy là tín vật. Người ở đâu, cờ ở đó. Cờ đổ là ta phải chạy đến liền.”

Bàng Lương Ký bừng tỉnh, định gọi tổng quản mang thêm vàng bạc tạ ơn Hoắc Thất Lang, mong nàng giúp mình lo liệu, nhưng quay ra đã thấy tổng quản đứng bên Cửu Nương từ lâu.

Bảo Châu vừa lột long nhãn bỏ miệng, liền nghe tổng quản cung kính nói:
“Trong nhà bận hôn sự, tiếp đãi không chu đáo, mong tiểu nương tử thông cảm. Có điều gì chưa ổn, xin cứ dạy bảo.”

Nàng thầm nghĩ những việc nhỏ thì không đáng nói, chỉ có một chuyện đáng lo, tốt nhất để người có trách nhiệm biết. Nàng lên tiếng:
“Hình như chuồng ngựa trong phủ có vấn đề?”

Tổng quản sắc mặt hơi đổi, lập tức phẩy tay bảo tỳ nữ lui ra, rồi ghé gần nói nhỏ:
“Tiểu nương mắt sáng như sao, quả nhiên không gì lọt qua được. Đêm qua, có kẻ lén rải bã đậu vào chuồng ngựa, khiến lũ ngựa bị tiêu chảy, giờ đều đuối sức.”

Bảo Châu ngẩn ra:
“Thảo nào trông chúng ủ rũ thấy rõ.”

Tổng quản nói tiếp:
“May mà tân lang và người đón dâu cưỡi ngựa riêng, được chăm kỹ, không ăn phải đồ bẩn. Chúng nô sợ ảnh hưởng hôn lễ nên không dám nói ra.”

Bảo Châu gật đầu:
“Ngựa nên đưa về nghỉ ngơi, giờ còn đứng được nhưng tới chiều là không trụ nổi. Nếu không sớm cho ăn cỏ khô uống nước, đêm xuống sẽ ngã quỵ hết.”

Tổng quản hốt hoảng:
“Sao có thể để khách quý phải đi bộ? Tôi lập tức cho người ra chợ mua thêm ngựa.”

Bảo Châu nhẹ nhàng:
“Không sao, chẳng phải chỉ mười dặm thôi sao? Ta đi bộ được. Ngựa mới mua chưa thuần, dễ hoảng, cưỡi không khéo lại hỏng việc.”

Nàng nghĩ bụng: Lễ cưới này xem ra có người cố tình phá rối. Trước là gửi thơ giấu lời đe dọa, giờ lại rải độc vào chuồng ngựa. Không biết là ai oán hận đến mức muốn phá cho bằng được. Hôm nay lễ chính, e khó tránh sóng gió.

Chẳng mấy chốc, giờ lành hoàng hôn đã tới. Bàng Lương Ký trong phủ bái lạy tổ tiên và cha mẹ, rồi lên ngựa, mang theo hai sư huynh đệ, hơn trăm người hầu và một cỗ kiệu hoa lộng lẫy, đi đón tân nương Tiêu thị.

Đúng như thơ rằng:
Nơi đâu xuân thắm nở, nơi đó cưới về nhà;
Hai hàng đuốc lửa đỏ, một cỗ kiệu hoa xa.
Tân nương bước lên kiệu, hương chướng rợp đường qua;
Thơ đưa chưa viết xong, trời sao đã nghiêng tà.

Dẫn đầu đoàn rước là tân lang Bàng Lương Ký cưỡi ngựa cao, dáng dấp hiên ngang. Hai bên trái phải là Vi Huấn và Hoắc Thất Lang. Phía sau là hàng trăm người cầm đuốc và đèn lồng, đi theo ba người áo đỏ dẫn đầu, dọc đường dân Ngọc Thành đổ ra xem đông như hội, tiếng trống tiếng kèn vang dậy.

Bảo Châu cũng theo trong đoàn đón dâu, bên cạnh có Thập Tam Lang ôm cột cờ cùng sáu gia đinh đi sát.

Khi đến phủ nhà gái, so với phủ Bàng gia nguy nga rực rỡ, nơi đây chỉ là hai dãy nhà nhỏ tĩnh lặng, sân vườn hoang vắng, không một ánh đèn, cửa lớn đóng chặt.

Người dẫn lễ tiến lên gõ cửa, cao giọng xướng:
“Trộm đến thì đánh ~ khách đến thì xem ~ đem tin đến ~ chị dâu em chồng, mau mau ra đón!”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 72


Nghe tiếng tư lễ cao giọng đọc bài đón dâu, bên trong Tiêu phủ vẫn lặng như tờ. Cửa không mở, người không ra, chỉ có tiếng hô hấp khe khẽ như gió thoảng trong màn đêm rõ ràng bên trong có người, nhưng không ai chịu lên tiếng.

Tư lễ biết đây là lễ thức của nhà gái, gọi là “ra oai tế thủ”, liền chẳng giận mà vẫn tươi cười, tiếp tục cao giọng xướng:

“Trộm đến thì đánh, khách đến thì xem, người mỏi ngựa mệt, mong tẩu tẩu, phu rủ lòng thương, mở cửa tiếp đãi!”

Đợi một hồi lâu, trong phủ mới vọng ra một giọng phụ nữ trung niên, sang sảng như chuông đồng:

“Đêm càng sâu, trăng càng sáng, sao trời đầy trời, chẳng rõ phương nào khách quý, lại canh ba gõ cửa?”

Nghe được cuối cùng cũng có hồi âm, Bàng Lương Ký liền nâng tay giơ hốt bản bằng ngà, đọc vang lời đối đáp đã chuẩn bị từ trước:

“Là nhà danh giá đất Ngọc Thành, là quân tử tài danh, đến cầu người hiền đức, yểu điệu thục nữ, nguyện kết uyên ương!”

Hai bên cứ vậy mà xướng đối một hồi, mới thấy cửa lớn khẽ mở, hé ra một khe nhỏ. Bàng Lương Ký mừng rỡ, vừa định xuống ngựa tiến vào, lại thấy từ bên trong bước ra một phụ nhân trạc tứ tuần, tay bưng khay bạc, trên đặt một thùng rượu to.

Người phụ nữ cất cao giọng:

“Rượu nho ngàn tiền một đấu, mong cùng tân khách uống cạn ly này, kết nghĩa uyên ương, trăm năm gắn bó.”

Bàng Lương Ký vốn biết lễ cưới nhà giàu thường chuộng rượu lễ, không ngờ từ ngoài cửa đã bắt đầu rót rượu. Hắn tiến lên cảm tạ, nâng thùng rượu định uống. Nhưng vừa mới nhấp một ngụm, sắc mặt liền biến, mắt sáng lập tức trở nên mơ hồ.

Rượu trong thùng có vị tê tê lạ lùng chính là loại người giang hồ gọi là “lang đãng tử”, một thứ rượu pha dược, uống vào là hôn mê không biết trời đất, tỉnh lại đã là mấy hôm sau.

Phụ nhân thấy hắn ngập ngừng, liền cười đắc ý:

“Rượu nho ngàn tiền một đấu, uống cạn đáy ly mới được qua cửa.”

Bàng Lương Ký do dự không biết làm sao, đám đông xung quanh lại hò hét:

“Uống đi! Chỉ là ly đầu mà đã ngã gục thì làm rể sao nổi?”

Vi Huấn thấy thế, chau mày hỏi:

“Sao thế? Có vấn đề gì sao?”

Bàng Lương Ký hạ giọng lẩm bẩm: “Trong rượu có thuốc.”

Ánh đèn đuốc sáng rực, tiếng người ồn ã, mà ngay nơi cửa phủ, phụ nhân vẫn bưng khay, khăng khăng không nhường đường.

Ba người liếc nhau, Vi Huấn liền đón lấy thùng rượu, ngửa cổ uống cạn từng ngụm lớn, không chừa giọt nào. Rượu mạnh vào bụng, sắc mặt hắn vẫn không đổi, tay vững vàng đặt lại thùng lên khay.

Người phụ nữ sững người, không ngờ hắn uống hết mà không hề gì, chỉ đành im lặng lui vào.

Nhờ vào nội lực thâm hậu, Vi Huấn đã áp chế độc tính trong rượu, giữ cho Bàng Lương Ký được bình an. Nhưng chuyện bên trong, kẻ ngoài không biết, chỉ thấy chàng thiếu niên áo đỏ ngửa đầu cạn rượu, ai nấy đều vỗ tay tán thưởng.

Qua cửa rồi, trong sân phủ sáng rực đuốc. Mấy chục phụ nhân tay cầm gậy gộc, đứng thành hàng hai bên lối vào, ánh mắt hăm hở, ý tứ dọa nạt hiện rõ trên từng nếp mặt. Đó là lễ “hạ tế”, nơi tẩu tẩu, muội phu nhà gái ra sức làm khó tân lang.

Hoắc Thất Lang rùng mình, nhỏ giọng: “Quả nhiên câu đầu gọi cửa nói ‘trộm tới thì đánh’ là không sai, hôm nay chúng ta đúng là ba tên trộm bị đánh rồi!”

Bàng Lương Ký gượng cười, mồ hôi rịn trán, không quên dặn hai sư huynh:

“Dù bị đánh thế nào cũng không được đánh lại!”

Ba người vai kề vai, bước chậm rãi vào trận địa như thể xông vào nơi hiểm địa. Ngoài cổng, người xem reo hò vang trời:

“Lễ tế là phải đánh, đánh đến sưng mặt mới tính là thành thân! Mau đánh, đánh mạnh lên!”

Dù thân kinh bách chiến, cả ba cũng không khỏi biến sắc. Trận côn này không thể chống lại, vì không chỉ tay không tấc sắt, mà đòn đến từ những người tuyệt đối không thể trả đũa các bà chị bà cô. Ăn đánh còn phải cười tươi, tiếp đón ân cần.

Gậy gộc như mưa, bủa vây ba người. Họ đành đưa tay che mặt, để mặc thân thể hứng trọn trận đòn. Có tẩu tẩu còn cười cợt, buông lời bỡn cợt khiến ai nghe cũng nóng mặt:

“Giai nhân lên kiệu hoa, nhi lang xuống ngựa tới, đêm nay ai dám ngủ sớm đâu nha!”

Giữa loạn đòn, Vi Huấn ghé sát Bàng Lương Ký, thở dài:

“Ta rút lại lời hôm qua rằng đón dâu không tính là chuyện hệ trọng. Làm đám ma còn dễ hơn, hôn sự thế này, đánh xong có khi nằm liệt cả tháng!”

Hoắc Thất Lang vừa bị đập trúng vai, vừa lẩm bẩm: “Nhà khác cưới vợ cũng thế này à? Chẳng trách người ta sợ kết hôn!”

Bàng Lương Ký cắn răng chịu đựng, mặt vẫn cố nở nụ cười: “Ta cũng là lần đầu làm rể, đâu ngờ gặp phải động rồng hang hổ!”

May mà nhóm tỷ muội nhà gái không ai luyện võ, còn ba người thân thể cứng cáp, nên tuy bị đánh rát da thịt nhưng không thương tổn lớn. Chỉ có điều, mấy lời bỡn cợt ngả ngớn kia thì còn ám ảnh hơn mọi chưởng pháp.

Bàng Lương Ký không thể bỏ chạy, hai người còn lại thì phải lo bảo vệ tân lang, đành nhẫn nhịn chịu trận. Cả ba chen vai nhau, từ từ tiến vào trung môn.

Giữa mưa gậy, Vi Huấn chợt cảm thấy phía sau có luồng sát khí ập đến. Một bóng người lao tới sau lưng Bàng Lương Ký, gậy sắt giáng thẳng vào đầu. Lực đạo tuyệt đối không phải của những người phụ nữ bình thường.

Vi Huấn xoay người, đưa tay bắt lấy, phát hiện kẻ vừa ra tay cầm trong tay không phải gậy gỗ, mà là một thanh côn thép lạnh ngắt…

Vi Huấn vỗ tay đoạt lấy cây gậy, đang định quay đầu xem là kẻ nào ra tay tàn độc như vậy, chợt một luồng gió mạnh quét ngang thốc tới, nhằm thẳng cổ chân Bàng Lương Ký mà giáng xuống. Lương Ký vốn đã thương gãy chân, thân trên còn gắng gượng được, nhưng đánh vào chân thì hoàn toàn không còn sức chống đỡ. Một gậy ấy nếu trúng chắc chắn sẽ khiến chàng quỳ rạp giữa sân, không sao đứng dậy nổi.

Vi Huấn liền đạp chân vững vàng chắn ngang, gạt lấy gậy sắt đang đánh tới rồi lại một cây gậy sắt khắc đánh xuống, lực đạo nặng nề, rõ ràng có ý đả thương. Quay sang nhìn người vừa ra tay, lại chỉ thấy một cô gái áo váy màu phấn, mặt mày nhàn nhạt, cười cợt như không có gì. Cô ta mất vũ khí cũng không hoảng, chỉ lùi lại, lẩn vào đám người hầu kề bên tân nương mà biến mất.

Hai chiêu vừa rồi, ra tay đều hiểm độc, với sức lực như vậy thì có thể khiến người ta tàn phế. Vi Huấn trong lòng sinh nghi, nhưng trong lễ thành hôn không thể đánh trả, đành đem cây gậy nặng nề ấy ném thẳng lên mái ngói, rồi quay đầu tiếp tục chen vào đoàn người.

Mỗi lần vượt qua một ngạch cửa lại phải ứng đối một câu thơ, mỗi bước trên lối đi đều là trò vặt: khi thì bị đánh, khi thì bị chuốc rượu, chẳng khác gì trận địa khảo nghiệm ý chí lẫn tửu lượng. Tựa như vượt ải, như tướng quân qua cửa ải, như sĩ tử ứng thí văn đàn. Cuối cùng cũng đến được chính sảnh.

Tại đây, một tấm màn lụa buông xuống, che kín mặt tiền. Tư lễ vội vàng bảo tân lang rút chim nhạn từ lòng ng.ực ra ném qua màn. Rồi cao giọng xướng bài thơ cầu duyên, mời tân nương ra tiếp lễ.

May mắn là có Bảo Châu dạy trước, Bàng Lương Ký giắt bên hông một thẻ hốt ngà nhỏ, trên khắc sẵn các tên hiệu văn sĩ, thi nhân nổi tiếng như Lục Sướng, Giả Đảo, Lư Trữ…, cứ thế mà niệm vanh vách, không lệch một chữ. Đám người Bàng phủ chuẩn bị từ trước cũng đồng thanh hô vang:

“Tân nương tử, mau mau ra tiếp giá!”

Giữa tiếng người hô hào, tấm màn được vén lên. Một dáng nữ nhân mặc lễ phục xanh sẫm từ từ hiện ra sau làn vải mỏng. Bàng Lương Ký vừa thoáng nhìn đã thấy đôi mắt ươn ướt sau tấm mấn phủ, lòng liền run lên, không nhịn được khẽ kêu:

“A Nhiễm!”

Nhưng chẳng ai hồi đáp. Khi tấm màn được vén hẳn, tân nương xuất hiện trong bộ áo cưới xanh lơ đậm, đầu đội mấn dài phủ kín tận đầu gối, không thấy rõ dung nhan.

Nghi lễ nhạn thư được cử hành, tân lang và tân nương lạy từ biệt cha mẹ, rồi do hai phụ nữ trung niên dìu dắt ra khỏi Tiêu phủ, đưa lên kiệu cưới do Bàng gia mang tới. Bàng Lương Ký định nhân cơ hội ấy nói với người mình thương vài lời, nhưng giữa tiếng người xô bồ, nàng đã bị đẩy lên kiệu, khăn che phủ quá dày, không nghe thấy gì cả.

Vi Huấn đi trước dẹp đường, liếc mắt đã thấy cột cờ treo cành đào vẫn đứng thẳng ngoài cổng. Lòng y chợt nhẹ đi. Lá cờ ấy vốn là để làm dấu, nhưng kỳ thực không cần giữa biển người, nàng vẫn luôn nổi bật như thế, chỉ cần ngoảnh đầu là có thể nhìn thấy ngay.

Tân lang cưỡi ngựa, hôn kiệu đi sau, đoàn người đi vòng ba vòng rồi bắt đầu rước về Bàng phủ.

Thấy Vi Huấn cưỡi ngựa quay đầu tìm kiếm, Bảo Châu liền khẽ kiễng chân, giơ tay phất nhẹ. Nàng nghĩ, bộ hồng y trên người hắn hôm nay thật đẹp, nếu về sau hắn cũng ăn mặc như vậy thì hay biết mấy. Chỉ tiếc hắn chẳng bao giờ chịu đeo kiếm, nếu không thì đúng là hình tượng thiếu niên hiệp khách trong thơ ca rồi. Lại nghĩ đến tên hiệu giang hồ của hắn vốn là “Thanh Sam Khách”, đổi áo, chẳng lẽ cũng phải đổi cả tên?

Hôn kiệu vừa rời đi, Tiêu gia bắt đầu cho người khiêng của hồi môn ra ngoài, từng gánh một, kéo dài như sóng vỗ, lên tới hơn trăm gánh. Một kẻ đứng xem bên đường trố mắt:

“Tiêu gia nghe đâu đã sa sút, vậy mà vẫn còn chuẩn bị được của hồi môn hoành tráng thế này sao?”

Kẻ khác cười nhạt:

“Ngươi ngây thơ thật. Tiêu tiểu nương tái giá, bị nhà chồng cũ tịch thu sạch sính lễ, bị đuổi khỏi nhà không một tấm áo lành, phụ thân nàng còn lấy đâu ra của hồi môn? Đống này là do Bàng gia đem đến từ tháng trước, để tân nương không phải ngượng với làng nước, cũng là để giữ thể diện.”

Người ban đầu kinh ngạc:

“Bàng gia không chỉ đưa sính lễ bạc triệu, lại còn lo cả của hồi môn? Bàng công tử thật sự mê mệt một người đã qua một đời chồng sao?”

Lại có một kẻ hớn hở chen lời:

“Chuyện này dài lắm. Tiêu gia xưa kia sống cạnh Bàng phủ, hai người là thanh mai trúc mã. Sau Tiêu gia lụn bại, bán luôn cả nhà cho Bàng gia mà dọn đi. Bàng công tử thổ hào có tiền, định cưới Tiêu tiểu nương, nhưng cha nàng khinh nghèo chê thấp, đem gả cho con nhà Lư gia. Bàng công tử buồn giận bỏ đi học võ, vài năm sau chân tật tàn quay về. Vừa hay Lư gia tử bệnh chết, Bàng công tử lại tới cầu thân lần nữa. Nhà Tiêu chẳng còn gì ăn, nên cha nàng đành cắn răng gả con đổi bạc, mặc kệ thanh danh.”

Kẻ khác chen vào:

“Nhìn bên ngoài thì long trọng vậy chứ kỳ thực là người què cưới vợ tái giá. Còn nói gì tiết hạnh với chả danh tiết!”

Bảo Châu đứng giữa đám đông, nghe đủ mọi lời đồn đãi, lòng không khỏi tức giận. Đại Đường hoàng thất từ lâu vốn dung hòa phong tục người Hồ, không bó buộc phụ nữ như Nho gia, công chúa góa chồng tái giá là thường, vậy mà dân chúng vẫn lấy chuyện “nhị hôn” ra mà giễu cợt.

Ngược lại, nàng càng thêm kính trọng Bàng Lương Ký. Biết tân nương khốn khó, hắn âm thầm chuẩn bị cả trăm gánh của hồi môn giúp nàng không mất mặt. Cái tình ấy, cái nghĩa ấy, thật không phải người thường nào cũng làm được.

Lúc ấy, đoàn người khiêng đồ đi qua, tiếng bàn tán mỗi lúc một nhiều. Có kẻ lại đem chuyện so sánh với các cô gái thành Trường An, kể rằng:

“Nói đến của hồi môn, xưa nay chưa ai vượt được Vạn Thọ Công Chúa. Nàng lấy chồng chưa đầy mười bảy tuổi, chết trẻ, của hồi môn đem đi táng theo còn phải dùng đoàn xe kéo dài mấy chục dặm!”

Kẻ khác phụ họa:

“Nếu nàng còn sống, ôi thôi, xinh đẹp lại phú quý như thế, không biết rơi vào tay tiểu tử nào cho đáng!”

Miệng lưỡi bỉ ổi, lời lẽ phỉ báng.

Bảo Châu nghe đến đoạn ấy liền biến sắc, rút roi ngựa toan đánh người. Nhưng xung quanh người chen người, không thể chen qua. Nàng tức tối giậm chân.

Đúng lúc ấy, Thập Tam Lang lặng lẽ xách cột cờ, vươn tay một cái đã chọc thẳng vào sườn gã lắm mồm kia, khiến gã khụy xuống đất, rồi thuận tay quất thêm một đòn.

Thập Tam Lang mặt mày nghiêm nghị, cất giọng trầm trầm:

“Thí chủ, người lưng cõng một con quỷ lưỡi dài, nó đang ăn dần thọ mạng đấy.”

Đám đông nghe nói là một chú tiểu đánh người, lời lẽ lại như thần ngôn, không khỏi nửa tin nửa ngờ, cùng nhau la lớn:

“Mau ngậm miệng! Bớt mồm cho yên chuyện!”

Bảo Châu thấy thế thì mừng rỡ, cười khẽ:

“Diệu kế! Biết vậy, ngày thường không uổng công thương đệ.”

Việc nhỏ đã có người trừng trị thay, nàng cũng nhanh chóng nguôi giận, quay đầu tìm lại đoàn rước dâu.

Vừa quay lại đã thấy giữa đám đông có người cõng lá cờ trắng thêu bốn chữ “Diệu Thủ Hồi Xuân”. Không rõ là ai, chỉ thấy bóng lưng thấp thoáng nhưng lại cảm thấy vô cùng quen mắt…
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 73


Khi đêm đã khuya, thường ngày dân chúng Ngọc Thành sớm đã tắt đèn nghỉ ngơi, nhưng hôm nay vì lễ cưới long trọng, náo nhiệt khôn cùng, khắp thành chẳng khác gì đêm rằm nguyên tiêu. Bà con trong thành rủ nhau đổ ra đường, đông như hội, lửa đuốc rực rỡ chiếu sáng cả hàng cây ven phố, ánh đỏ hồng phản chiếu như lửa đốt vào ngọn tiêu tre khô.

Đối với nhà trai, đoạn khó nhọc nhất của lễ cưới gọi là chặn xe hoa mới thật sự bắt đầu.

Cái gọi là chặn xe, chính là người đời bày ra trò đùa trong ngày cưới: họ đem vật cản ra chặn giữa đường, nằng nặc đòi rượu, món ngon, tiền bạc, có khi còn trêu chọc tân lang, đòi hỏi cho bằng được mới cho đi tiếp. Mà Bàng gia lại là hào phú nhất vùng, của cải đếm không xuể, bởi vậy đám người đến quấy rối đông gấp mười lần đám cưới nhà thường. Có người còn đem theo trống chiêng, vừa ca vừa múa, thật là náo động chưa từng có.

Bàng Lương Ký cứ đi một bước là phải uống một ly, chẳng trốn tránh nửa phần. Đám người chặn xe tụ trước đầu đoàn, mượn tiếng mời rượu để vòi vĩnh của ngon vật lạ, chẳng cho thì không chịu dẹp đường. May mà Vi Huấn và Hoắc Thất Lang đều là bậc tửu lượng kinh người, thường ngày nghèo chẳng có rượu mà uống, nay nhân dịp cưới xin, liền thay chủ nhà mà mở lòng uống thỏa thích. Ai đến cũng không từ chối, cười cười mà cạn ly, đã nghiền men say lại thêm lòng vui vẻ.

Trong mắt người xem, hai chàng tuổi trẻ ấy uống mãi không say, thần sắc vẫn ung dung tiêu sái, càng uống càng phong độ, khiến ai nấy đều trầm trồ thán phục.

Nhờ vào sức hai người uống rượu không biết mệt, xe hoa cũng từ từ vượt qua được bốn, năm dặm. Lúc này, một đám hán tử vai to tay lớn lại tiếp tục vây quanh, nét mặt đầy vẻ xảo trá, vừa ném rượu thịt, vừa tung tiền ra như mưa, nhưng xe hoa vẫn không tài nào tiến bước. Trong đám ấy, một người đầu trọc cất giọng sang sảng:

“Thiếu niên trẻ! Ta là kẻ danh tộc đất Cửu Châu nghe tin đại lễ cố tình đến đây chặn xe. Không cần dê béo rượu ngon, chẳng màng món lạ trăm vị, chỉ mong một góc kỳ lân, ba chân phượng hoàng, bạc vàng đầy rương, gấm vóc phủ nền!”

Khẩu khí ngang ngược, lời lẽ lưu loát, vừa nghe đã biết là kẻ chuyên làm nghề chặn xe trong hôn lễ, nay lấy cớ rượu thịt chưa đủ hậu hĩnh mà đòi thêm bạc vàng mới chịu mở lối.

Vi Huấn cúi đầu liếc nhìn tên đầu trọc một cái, ghé tai hỏi Bàng Lương Ký:

“Có thể ra tay được chưa?”

Bàng Lương Ký khẽ lắc đầu, đáp:

“Ngày vui nên lấy hòa làm trọng, vẫn chưa thể động thủ.”

Vi Huấn nghe vậy thì thở dài tiếc rẻ.

Bàng gia đã liệu trước sẽ có chuyện như vậy, tổng quản lập tức cho người đem ra mười quan tiền cùng mười bảy cuộn lụa gấm đưa cho bọn kia. Ngần ấy của cải đủ để gả chồng cho một cô gái trong nhà khá giả, vậy mà tên đầu trọc vẫn chưa vừa lòng. Hắn hét to một tiếng, đám du côn lập tức vây kín kiệu hoa.

“Đã nói là bạc vàng chất đống, gấm vóc nghìn cuộn, vậy ngần ấy đã là gì? Đại gia đây muốn xem tân nương đội gì trên đầu, mau gỡ xuống đôi trâm vàng cho chúng ta ngắm nghía một phen!”

Vừa dứt lời, hai tên côn đồ ở phía sau kiệu đã thò tay định vén rèm. Đám chặn kiệu này không khác gì cường đạo, có kẻ còn liều lĩnh bắt cóc tân nương để đòi tiền chuộc, hành vi không gì là không dám làm.

Bàng Lương Ký thấy thế liền biến sắc, hai tay bám chặt yên ngựa, định nhảy xuống cản lại. Nhưng vì chân tật nguyền không thể vận khinh công như trước, chỉ biết gấp gáp lo âu. Vi Huấn đưa mắt ra hiệu cho Hoắc Thất Lang, nàng liền tung mình lên, một cái nhảy đã đến bên kiệu, lật rèm ngăn tay bọn côn đồ, hất cả hai ngã lăn ra đất.

Đám người chặn kiệu lập tức xôn xao, định xông vào đánh hội đồng. Kỳ thực, mục đích của chúng là moi tiền bạc, chỉ chờ người nhà Bàng gia ra tay trước để lấy cớ mà phá kiệu, gây chuyện cướp của. Một khi đánh nhau loạn lên, hôn lễ cũng sẽ tan nát. Bởi vậy, Bàng gia không thể ra tay nhưng cũng không chịu nhún nhường, rơi vào thế khó xử, chỉ còn cách tranh luận với bọn người gây rối mà thương lượng giá cả.

Bàng Lương Ký cùng Hoắc Thất Lang đứng trước sau bảo vệ kiệu cưới, không cho kẻ nào đến gần tân nương. Trên đường cái, cảnh tượng hỗn loạn như nồi cháo, tiếng người huyên náo, bụi mù mịt trời.

Vi Huấn gọi tư lễ tới, hỏi rõ câu đối đáp khi bị chặn kiệu, rồi nhẹ nhàng lướt lên mái kiệu, từ trên cao nhìn xuống, cất giọng vang như chuông đồng:

“Thiếu niên trẻ! Kẻ phương nào mà dám làm càn, ngăn đường cản lối? Đã lấy của rồi, thì hãy nhìn phần thưởng, quyết chẳng phải thứ tầm thường đâu!”

Tiếng nói của y đĩnh đạc, mạnh mẽ, tựa như mưa giáng sấm vang, vang vọng khắp phố dài, mỗi người đều cảm thấy tai ù vang, nhưng từng chữ lại nghe rõ mồn một. Thậm chí chuông đồng trên kiệu cũng bị tiếng ấy làm rung động, khiến cả một dãy phố bỗng chốc lặng ngắt như tờ, ánh mắt mọi người cùng hướng về người thiếu niên đang đứng trên mái kiệu kia.

Tổng quản Bàng phủ bấy giờ nâng lên một túi bạc là bạc nguyên khối, đúc riêng để đem tặng thân hữu. Theo giá thị trường lúc ấy, năm lượng bạc ấy ngang với một lượng vàng. Nay Vi Huấn đã nói “phần thưởng không tầm thường”, ý là sẽ ném đồ quý. Đám du côn chưa từng thấy vật lạ, ánh mắt liền sáng lên, chen nhau xông lên chuẩn bị cướp lấy.

Vi Huấn từ túi da rút ra một nắm đồng tiền, tung nhẹ trong tay cho mọi người thấy rõ.

Bao ánh mắt tham lam đều đổ dồn về bàn tay hắn. Đột nhiên, Vi Huấn dồn sức vào cánh tay, ném mạnh nắm tiền về phía bên đường. Đồng tiền bay như châu ngọc, leng keng va vào nhau, rồi toàn bộ cắm phập vào cánh cửa gỗ của một cửa tiệm bên đường mỗi đồng đều ghim sâu đến nửa thân.

Tiền đồng vốn nhẹ, không sắc, lại không có gió, vậy mà tay không ném ra, lực đạo mạnh đến mức ghim sâu vào gỗ cứng khiến ai nấy đều há hốc mồm kinh ngạc, không một ai dám bén mảng tới gần cánh cửa ấy để moi tiền.

Vi Huấn nhoẻn miệng cười ranh mãnh, giọng cợt đùa:

“Thứ lỗi, ta chưa từng luyện ám khí, ném lệch tay. Lần sau nhất định nhắm cho chuẩn.”

Nói rồi lại lấy thêm một nắm tiền nữa, làm bộ định ném về phía đám người chặn kiệu.

Những đồng tiền ném lên cửa gỗ đã có uy lực như thế, nếu trúng vào thân thể máu thịt người sống, e rằng chẳng khác gì tên bắn đá chọi. Tên đầu trọc mặt tái xanh, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Cả đám du côn thấy vậy cũng ùn ùn giải tán.

Vi Huấn lại tung tiếp một nắm đồng bạc, lần này toàn bộ cắm thẳng vào phiến đá lát đường, ánh lửa bập bùng chiếu lên, bạc sáng lấp lánh tựa vì sao sa.

Sau màn rải tiền đuổi giặc, trước kiệu hoa chỉ còn lại một người, vóc dáng cao lớn, tay cầm tấm khiên sắt, rõ ràng là một tay giang hồ có tiếng.

Vi Huấn thấy gã đeo khiên phòng thân, liền bật cười, cất giọng:

“Đường này còn có huynh đài góp vui chặn kiệu sao?”

Gã kia lập tức lắc đầu, cởi tấm khiên giắt ra sau lưng, vòng tay cúi chào:

“Không dám. Tại hạ là Nhạc Hoằng, người đất Trung Nguyên, danh xưng ‘Tường Đồng Vách Sắt’. Thấy huynh thân thủ phi phàm, mạo muội muốn xin kính một ly. Xin cho hay cao danh quý tính, có phải cũng có tên hiệu giang hồ chăng?”

Lời cung kính, dáng người ngay ngắn, quả nhiên là đến để xin rượu chứ không phải gây chuyện.

Vi Huấn thấy người kia không có vẻ gì muốn gây hấn, liền chắp tay đáp lễ, nói:
Không dám nhận. Tại hạ là Vi Huấn, kẻ lữ hành áo xanh đất Quan Trung.
Đoạn cùng hắn đối ẩm một chén.

Tên hiệu “Thanh Sam Khách” của Vi Huấn sớm đã nổi danh trên chốn giang hồ, chỉ là tung tích mờ mịt, ít ai tỏ tường dung mạo. Lúc này, các tay võ phu đến xem hôn lễ mới giật mình nhận ra, thiếu niên dáng vẻ gầy gò, chưa tới đôi mươi này, chính là người đứng đầu “Tàn Dương Thất Tuyệt”, môn sinh đắc ý nhất của Trần Sư Cổ, võ công tuyệt đỉnh. Ai nấy trong lòng đều ngầm hốt hoảng.

Đoàn rước dâu liền thông thuận, phu xe đánh ngựa trắng lăn bánh, kiệu hoa tiếp tục đi tới. Từ đây không còn kẻ nào dám cản trở gây rối, ngược lại nhiều người trong giới giang hồ lần lượt bước ra kính rượu Vi Huấn.

Người đời đều tưởng từ khi Tật Phong Thái Bảo gãy chân, nhà họ Bàng đã đoạn tuyệt với giang hồ. Nào ngờ nay đại sư huynh đích thân xuất hiện hộ giá, mọi người mới hiểu rằng quan hệ với sư môn vẫn còn chẳng thể xem thường.

Vi Huấn vừa tiếp rượu, vừa không ngừng quan sát bốn phía, mắt thỉnh thoảng liếc về phía Bảo Châu. Bàng Lương Ký vốn thích giao du bốn phương, khách đến dự lễ không ít là người giang hồ. Trong số đó, Vi Huấn để ý mấy đạo sĩ trẻ tuổi mặc hoàng y, đầu đội mũ tròn, lẫn trong đám đông nhưng không tiến lên kính rượu.

Hắn lén đưa mắt cho Hoắc Thất Lang. Nàng cũng khẽ gật, nét mặt có phần cảnh giác, chứng tỏ đã sớm chú ý. Vi Huấn ngầm nghi ngờ, biết rằng lễ cưới này vốn đã có điều chẳng lành, nhưng giờ phút này đành tạm nhẫn nhịn.

Đoàn xe qua khỏi khu doanh trại quân đội ở Ngọc Thành, qua cầu đá bắc ngang sông đục, chỉ còn cách Bàng phủ chưa đầy hai dặm. Nhưng bất ngờ, có tiếng kinh hô nổi lên:
“Coi chừng, cột cờ đổ rồi!”

Chỉ thấy cột cờ trước doanh trại một cây cột lớn bằng gỗ lim, cao gần ba trượng đột ngột đổ sập xuống, hướng thẳng vào hôn kiệu. Chiếc kiệu hoa lúc ấy đang mắc kẹt trên cầu đá hẹp, tiến lùi đều khó, ai nấy đều thất sắc, tiếng thét kinh hoàng vang lên khắp nơi.

Vi Huấn lập tức nhún chân bật lên như chim ưng tung cánh, một cước đá nghiêng thân cột ra phía trước, khiến nó chệch khỏi hướng xe hoa. Nhưng người dân tụ tập đông nghịt, lối thoát bị bịt kín, cột đổ tới đâu cũng sẽ đè lên kẻ đó. Trong tiếng la hét hỗn loạn, thảm họa chỉ còn cách một chớp mắt.

Vừa rơi xuống đất, Vi Huấn liền vơ lấy một đoá hoa đỏ trên xe, cuốn lại thành dây lụa, nhún mình lao lên không trung. Lần này hắn như con diều đỏ rực, vút cao ba trượng, lụa quấn vào đầu cột, một cái vung tay liền kéo lệch nó sang phía đối diện, ghìm chặt thân gỗ vào một thân cây to ven đường.

Người thường thì chỉ thấy một màn náo nhiệt thót tim, nhưng các cao thủ giang hồ đã lộ rõ kinh hoàng. Hai lần tung người vừa rồi, thân pháp và lực đạo hoàn toàn khác biệt. Lần đầu, hắn đá mạnh đến vỡ cả phiến đá dưới chân; lần sau thì nhẹ như mây nổi, áo bay lụa cuốn như rồng uốn khói, khiến người ta không dám tin mắt mình.

Có kẻ luyện khinh công suốt đời cũng khó đạt được ba trượng cao, lại thêm kéo theo một cây cột nặng hàng trăm cân. Người luyện ngoại công có thể nhấc nổi, nhưng làm như hắn vừa bay trên không, vừa xoay vật thể thì là việc chẳng tưởng tượng nổi.

Hắn đứng trên chóp cột nhìn xuống, định xem ai là kẻ giở trò. Bỗng thấy một đạo sĩ trẻ tay cầm đơn câu, vội lao về phía kiệu hoa. Vi Huấn lao xuống như chim ưng bắt thỏ, ngăn ngay trước mặt, chỉ kịp nghe hắn kêu một tiếng “Sư bá…” rồi cánh tay đã bị bẻ gãy, thân thể ném văng ra xa.

Tất cả xảy ra nhanh như điện xẹt, đến người ngoài còn chưa kịp định thần. Vi Huấn thì cảm thấy cánh tay vừa rồi có phần tê dại. Hồi nãy ở nhà tân nương, hắn đã uống một chén rượu có mùi lạ tuy dùng nội lực áp chế không phát tác, nhưng khi chân khí vận hành nâng cột, độc tố dường như theo rượu lan khắp kinh mạch. Loại rượu ấy không chỉ là rượu bình thường, mà còn pha thêm độc dược làm toàn thân tê liệt như rễ cây mạn đà la.

Một cây cột to như thế, lại gãy đúng lúc đoàn xe đi ngang qua, sao có thể là trùng hợp? Vi Huấn nghĩ thầm: kẻ ra tay hoặc nhằm vào Bàng Lương Ký người đã mất võ công hoặc nhằm vào tân nương trong xe. Dù thế nào, chỉ cần sơ suất một chút là hậu quả khó lường.

Không muốn dây dưa thêm, hắn ghé sát tai Bàng Lương Ký, hạ giọng:
“Lên đường!”

Lúc này, vẻ cợt nhả trên mặt hắn đã tan biến, thay vào đó là khí chất lạnh lẽo lạ thường. Toàn thân như toả ra luồng áp lực khiến người sống không dám tới gần. Đám đông tức thì tản ra, để trống một lối. Ngựa cảm thấy bất an, hí vang không chịu tiến, Vi Huấn bèn vứt dây cương, bước lên xe hoa, đích thân cầm roi thúc ngựa.

Bàng Lương Ký và Hoắc Thất Lang hiểu rõ không thể chậm trễ, liền cùng nhau hô gọi, thúc ngựa phi nhanh. Đoàn rước như lao đi trong cơn gió lớn, chỉ nửa khắc đã tới cửa Bàng phủ. Vải đỏ trải sẵn, người nghênh nương kéo rèm, đỡ tân nương vừa mới qua một trận sinh tử xuống kiệu, mặt mày còn chưa hết bàng hoàng.

Bảo Châu theo đoàn vào trong phủ, Bàng Lương Ký kiểm người hầu, thấy không thiếu ai mới yên tâm, lập tức ra lệnh đóng cửa lớn, chốt gỗ gài lại. Thở phào nhẹ nhõm, hắn không còn gắng gượng nổi, để hai gia đinh dìu đi vào sân tổ chức lễ chính.

Nhìn người trong lòng còn đang che mặt e lệ, hắn gần như rơi lệ vì mừng, nghẹn ngào nói với Vi Huấn:
“Sư huynh! May có huynh, bằng không hôm nay coi như bỏ.”

Vi Huấn gật đầu, nét mặt vẫn chưa thư thái. Trong đầu còn quanh quẩn những sự lạ nãy giờ, càng nghĩ càng không thể bỏ qua.

Mãi đến khi thấy Bảo Châu bước vào khu trướng lễ với thân phận khách quý, hắn mới khẽ thở ra. Nàng đội trâm hoa rũ thấp, ánh mắt sáng trong, rực rỡ như đào tiên giữa nhân gian. Hắn không khỏi mỉm cười với nàng, trong lòng như vừa trút gánh nặng.

Bảo Châu cũng định lên tiếng thì tư lễ bắt đầu xướng nghi thức, khiến nàng đành im lặng.

Bên trong chỉ có mấy mươi thân tín của Bàng phủ và khách quý dự lễ. Thập Tam Lang không được vào, chỉ đứng ngoài. Tân nương hạ khăn che mặt, tay cầm quạt tròn che nửa gương mặt, cùng tân lang cúi đầu vái bái.

Chỉ còn đợi rượu hợp cẩn là lễ thành. Tư lễ hô:
“Rải trướng!”

Nô tỳ chuẩn bị sẵn hạt dẻ, hạt sen, táo đỏ, các loại quả khô mang ý chúc con đàn cháu đống, ném vào trướng theo phong tục. Nhưng vừa lúc đó, vang lên những tiếng gió rít, thay vì quả ngọt cát tường, từ trên cao trút xuống lại là ám khí: kim tiêu, dao găm như mưa sa bão táp.

Bên trái là tân lang, bên phải là Bảo Châu ám khí cùng lúc ào xuống, mà khoảng thời gian chỉ đủ cứu một bên.

Từ nhỏ Vi Huấn học toàn sát pháp, chưa từng được dạy cách bảo vệ người khác. Nhưng ngày hôm nay, hắn lại buộc phải che chở cho quá nhiều người.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 74


Một bên là sư đệ đã mất hết võ công, một bên là Bảo Châu hoàn toàn không đề phòng, tuy Vi Huấn xưa nay ứng biến linh hoạt, gặp hiểm chẳng loạn, nhưng hôm nay cũng rơi vào thế khó chưa từng có.

Bàng Lương Ký đang quỳ hành lễ, nghe tiếng ám khí xé gió, chưa kịp đứng lên, liền đổ nhào người ôm lấy tân nương. Trong khoảnh khắc loé điện rạch trời, Vi Huấn và Hoắc Thất Lang đồng loạt xoay người đá bật hai trụ gỗ chống trướng cưới. Cả gian trướng sập xuống, lớp vải bố dày phủ trùm lên cặp tân nhân, kịp thời chắn được phần lớn ám khí.

Nhưng chớp mắt ấy trôi qua, phía Bảo Châu không còn đường lùi. Nàng chưa kịp phản ứng thì Vi Huấn đã nhào tới, ôm lấy nàng lăn một vòng dưới đất.

Bảo Châu chưa hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ nghe tiếng xé gió dồn dập, rồi tiếng trướng sập đè xuống. Trước mắt tối sầm, nàng bị Vi Huấn ghì chặt xuống đất. Cú nhào đó quá mạnh, thân hình hắn nặng mà lại dồn hết sức, ép nàng đến không thở nổi, lồng ng.ực như bị nén sạch khí. May sao hắn lập tức co eo nâng người, dồn lực sang bên, giúp nàng dễ thở hơn.

Bảo Châu vẫn nằm gọn trong tay hắn, cánh tay rắn chắc giữ lấy cổ nàng, một tay khác che chắn nơi eo lưng, khiến thân thể dù ngã nhưng không hề tổn thương.

Tim nàng đập thình thịch. Mùi hương lạnh nhè nhẹ từ cổ áo hắn phả ra như mưa qua đêm hạ, trong trẻo mà lành lạnh. Dù hơi thở hắn mang chút mùi rượu, vẫn khiến người ta cảm thấy an lòng lạ lùng.

Ám khí ngưng phóng, từ trong trướng bốc lên khói đặc mùi tanh hôi. Vi Huấn lập tức hiểu có độc, liền kéo nàng đứng dậy, xé ống tay áo buộc ngang miệng mũi nàng, rồi thắt chặt sau đầu.

Tiếng r*n r* vang lên khắp nơi. Làn khói vàng đặc sánh tràn ra, tầm nhìn mờ mịt. Vi Huấn, quen sống dưới đất, nín thở cực giỏi, mấy khắc không cần thở cũng chẳng hề gì. Biết không thể dừng lại, hắn kéo tay Bảo Châu men theo hướng gió mà đi.

Đi được vài bước, chợt nhận ra bản năng vừa rồi bóp trúng khuỷu tay nàng đúng ngay huyệt Thiếu Hải chiêu bắt người thường dùng để khống chế địch. Vi Huấn vốn lực mạnh, chỉ sợ tay nàng giờ đã tê dại. Hắn vội nới tay, lướt xuống cổ tay nắm lấy. Nhưng nơi đó lại là mạch môn điểm chí tử trong giới võ lâm, dễ bị nội lực chấn thương.

Hắn đành lùi xuống thêm một tấc, cuối cùng nắm lấy tay nàng. Bàn tay nhỏ nóng hổi, mềm mại như lụa. Lúc ấy, hắn mới thấy yên lòng. Bao nhiêu kinh nghiệm luyện võ trong đầu đều mách rằng: nắm như thế này, mới là đúng.

Nếu không vì khói độc, hắn thật muốn cứ thế nắm mãi tay nàng mà đi hết con đường. Nhưng đời nào chẳng có điểm dừng, cuối cùng vẫn phải buông.

Cứ thế đổi vị trí nắm tay mấy lượt, Bảo Châu không có phản ứng. Vi Huấn cảm thấy nàng lạ lùng yên tĩnh, cúi xuống nhìn, bắt gặp ánh mắt kinh hoàng của nàng đang nhìn ra phía sau lưng mình. Hắn biết nàng đã phát hiện, nhưng vì bịt mặt nên không lên tiếng.

Ra khỏi làn khói dày, bọn họ lần theo mùi khói mà tìm đến nguồn gốc. Trong viện có chiếc cối đá lớn dùng để đập ngô, giờ đang phụt khói lên trời. Hoắc Thất Lang đã đơn độc tìm tới, nhúng tấm màn lớn vào hồ nước rồi phủ kín cối đá, dập tắt khói độc.

Thập Tam Lang vốn không được vào trướng lễ cũng chạy đến, tay còn ôm theo cung và tiễn, như sẵn sàng ứng chiến.

Khói độc tan dần. Bảo Châu tháo tay áo bịt mặt, lắp bắp nói:
“Ngươi… sau lưng bị thương! Có… có bảy tám mũi tiêu…”

Vi Huấn bình thản đáp:
“Ta cảm giác được. c*m v** lưng ta rồi.”

Hắn xoay đầu trò chuyện với Hoắc Thất Lang, chẳng để tâm đến đám ám khí còn cắm lút trong da thịt.

Bảo Châu nghe như sét đánh ngang tai, ánh mắt vẫn dán chặt lên tấm lưng chằng chịt. Những mũi tiêu hình cánh én cắm sâu, quanh vết thương không phải máu tươi, mà rỉ ra dòng máu đen đặc quánh.

Nàng run rẩy đưa tay định rút, nhưng bị Vi Huấn giữ lại:
“Đừng chạm vào, tiêu này có độc, sờ trúng sẽ khiến tay sưng vù.”

Bảo Châu kinh hoàng bật thốt:
” Ngươi biết có độc mà còn mặc kệ sao?!”

Vi Huấn nhàn nhạt nói:
“Không phải loại độc chí mạng. Chưa chết được.”

Hoắc Thất Lang tay chân cũng dính không ít độc vật, cả người lấm lem nhếch nhác, nhưng nàng không lấy làm để tâm.

Hai sư huynh đệ một người rách nát, một người bê bết, áo cưới đỏ nay chẳng khác gì áo tang. Vi Huấn xé toạc vạt áo, lộ lưng đầy thương tích; Hoắc Thất Lang thì lau mặt một lượt, lớp hoá trang trôi sạch, để lộ vết sẹo cũ trải dài.

Không còn là thiếu niên áo gấm rực rỡ, càng không phải lãng tử cười cợt phong lưu. Thứ còn lại là giang hồ thật sự, thô ráp, dữ dằn và lạnh lẽo.

Hoắc Thất Lang chau mày, lẩm bẩm:
” Thật là kỳ quái. Bàng Lương Ký sớm đoán có người trà trộn, kiểm tra hạ nhân mấy lần gia đinh được bố trí đầy viện, vậy mà thích khách vẫn xuất hiện. Rốt cuộc là chui từ đâu ra?”

Vi Huấn lặng im trầm ngâm, trong lòng nghĩ thầm: dù có giấu vật phóng ám khí trong cối đá từ trước, muốn rải được nhiều ám khí như thế, ít nhất cũng phải có hai người, lại thêm kế sách và thời cơ. Suốt chặng đường, kẻ địch luôn ẩn mình trong đám đông, không hề lộ diện, nay lợi dụng màn khói độc làm bình phong mà phóng ám khí, rồi lẩn đi, có thể thấy không hề muốn ra mặt đối đầu.

“Các ngươi nếu chịu xử lý vết thương độc trên người ta, ta sẽ nói cho biết thích khách ẩn nấp ở đâu.”

Bảo Châu chỉ khẽ nói một câu, khiến hai sư huynh đệ sững người, đồng loạt quay nhìn nàng. Bảo Châu từ tay Thập Tam Lang đón lấy cung tên, nước mắt giàn giụa trên má, nhưng trong ánh mắt không chút sợ hãi, chỉ còn căm phẫn.

Vi Huấn thấy thần sắc nàng nghiêm nghị, vội vàng lên tiếng: “Không phải ta mặc kệ, mà giờ nếu nhổ ám khí ra, độc sẽ theo huyết mạch mà lan. Ta đã phong huyệt sau lưng, đợi mọi việc tạm yên, mới có thể vận công trị thương.”

Hoắc Thất Lang cũng rối rít: “Đừng khóc, vết thương này không lấy mạng được đâu.”

Tuy lời giải thích miễn cưỡng, cũng coi như có thể trấn an lòng người. Bảo Châu gật đầu, bước nhanh về phía giếng nước, nhặt lấy một cây gậy trúc rồi xốc tấm chiếu trúc phủ trên miệng giếng.

Trong dân gian, những vật như cối đá, giếng nước, chiếu trúc… thường thấy trong lễ cưới. Không ai mấy ai để ý hay kiểm tra kỹ càng.

Nhưng sáng nay vào phủ Bàng gia, Bảo Châu từng thấy miệng giếng phủ chiếu, tò mò định vén lên xem thì không động đậy, tưởng là chiếu bị cố định. Khi thoát khỏi khói độc, nàng lại thấy chiếu trúc đã lệch hẳn, để lộ một khe hở đáng ngờ.

Vi Huấn và Hoắc Thất Lang nhìn vào trong giếng một cái rồi ngăn không cho nàng lại gần. Trong giếng là hai xác người, áo quần đã bị l*t s*ch, thân thể co rút như bị nhét vào vội vàng, phần nửa th*n d*** chìm trong nước, da thịt trắng bệch.

Vi Huấn thầm nghĩ: hóa ra bọn thích khách giết người đêm qua, lấy áo quần giả làm gia nhân Bàng phủ, xác thì giấu xuống giếng, có thể còn giẫm lên xác nổi trong nước để ẩn mình.

Tấm chiếu trúc không ngăn gió, có thể che giấu một thời gian dài, chỉ đợi lúc tân nhân vào lễ đường sẽ nhảy ra tung ám khí. Khi Bảo Châu vén chiếu ban sáng, chính là lúc hai thích khách đang ẩn nấp bên trong, chiếu không phải được cố định từ ngoài, mà là bị giữ lại từ bên trong.

Xưa nay gặp bao hiểm cảnh, Vi Huấn chưa từng lay động. Nhưng nghĩ đến nàng đã cận kề tử vong, trên gáy hắn cũng lạnh toát, lông tơ dựng đứng, một phen bàng hoàng sau cơn thoát hiểm.

Hoắc Thất Lang nhìn thi thể trong giếng, lẩm bẩm: “Thi thể còn chưa trương lên, chắc mới chết hai ngày, bọn chúng đúng là biết giữ sức.” Nàng định nhảy xuống xem kỹ manh mối, thì từ phía lều vang lên tiếng quát tháo của Bàng Lương Ký. Ba người lập tức biến sắc, vội chạy về phía đó.

Bên trong lều, hỗn loạn không chịu nổi. Khắp nơi người nằm la liệt, có kẻ trúng ám khí, có người bị khói độc hun ngất. May nhờ Vi Huấn và Hoắc Thất Lang ứng biến kịp thời, đôi tân nhân vẫn an toàn.

Tân nương đứng giữa sân, dung mạo thanh tú, gương mặt nửa che sau chiếc quạt tròn.

Bàng Lương Ký đang nằm trên đất, tay chân ra sức đạp lui, như muốn tránh xa tân nương.

“Ngươi là ai?! A Nhiễm đâu?! Ngươi đã giấu nàng ở đâu?!”

Tiếng hắn hoảng hốt vang dội. Tân nương chỉ mỉm cười, không nói, ánh mắt dịu dàng nhìn phu quân.

Bàng tổng quản che vết thương đang chảy máu đầm đìa trên trán, hét lên: “Tổ tông ơi! Đây chẳng phải chính là người ngươi ngày đêm thương nhớ đó sao?!”

Bàng Lương Ký cãi lớn: “Ta sao có thể nhận sai người mình yêu? Lúc ngã nhào vào người nàng ta đã cảm thấy không đúng rồi!”

Phù dâu nhà họ Tiêu giận dữ, nước mắt ngắn dài: “Các người cố ý bôi nhọ nhà gái sao? Cả đoạn đường từ nhà về đây chúng tôi không rời mắt khỏi hôn xa, không phải tân nương thì ai vào đây?!”

Khách khứa xôn xao, người quen cô dâu Tiêu gia đều nói đúng người. Chỉ riêng Bàng Lương Ký cương quyết phủ nhận, cho dù dung mạo y như đúc, hắn vẫn quả quyết đây không phải người mình cưới.

Hắn tuyệt vọng nhìn sang Vi Huấn và Hoắc Thất Lang, gào lên: “Đại sư huynh! Lão Thất! Kẻ địch đã bắt A Nhiễm rồi! Người này không phải nàng, chỉ là giả mặc áo nàng, đeo gương mặt nàng thôi!”

Cả đám đông kinh ngạc. Lễ cưới tiêu hao bạc vàng, chông gai trắc trở mới rước được tân nương, giờ bái đường xong, tân lang lại không nhận cô dâu. Trưởng bối đôi bên nổi giận, suýt nữa gọi người đánh chết hắn.

Hoắc Thất Lang ngắm tân nương một lúc, nhặt hòn đá dưới đất búng nhẹ lên mặt nàng. Tân nương chớp mắt, gương mặt vẫn mỉm cười bất động như tượng.

Nàng nghiêng đầu nói nhỏ với Vi Huấn: “Có vẻ không ổn, có cần vạch trần luôn không?”

Vi Huấn lắc đầu: “Con tin đã bị bắt, vật thế này giữ lại may ra có thể trao đổi.”

Mặc kệ cảnh tượng hỗn loạn thế nào, tân nương vẫn cầm quạt tròn đứng yên, không nói không rằng, thần sắc ung dung, càng khiến người khác thêm sợ hãi.

Hôn lễ vốn là đại hỉ kéo dài suốt một đêm thành cơn ác mộng. Người trong Bàng phủ rối ren lo lắng, nô bộc bỏ trốn, kẻ trúng độc cần được trị liệu gấp.

Vi Huấn biết sẽ còn nhiều nguy hiểm bất ngờ, phải nhanh chóng xử lý vết thương. Hắn xin Bàng gia một cỗ xe ngựa, định đưa Bảo Châu về khách đ**m huyện Linh Bảo nghỉ ngơi. Hai sư đệ ở lại thu xếp hậu sự. Hoắc Thất Lang giỏi nghề dịch dung, để nàng lo liệu phần “tân nương”.

Trước khi rời đi, Vi Huấn lấy từ bên hông một ống pháo kim loại đưa cho Thập Tam Lang .

Thập Tam Lang thấy vậy liền biến sắc: “Đại sư huynh định phát tín lệnh triệu tập đồng môn sao?”

Vi Huấn bình thản đáp: “Chuyện này đã đến nước này, không mời mà đến thì cũng tới đủ rồi. Vậy thì gọi cả bọn đến khách đ**m Linh Bảo gặp huynh cho tiện.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 75


Vó ngựa lộc cộc, bánh xe rền vang, nghiến qua con đường lát đá xanh ướt đẫm sương mai. Phố xá vắng tanh, cảnh tượng chen chúc náo nhiệt đêm qua nay đã tan biến như mộng.

Trong xe, Vi Huấn ngồi xếp bằng, mắt khép hờ, chuyên tâm vận khí trục độc. Từ đỉnh đầu đến vai cổ mờ mịt bốc lên từng sợi khí trắng như sương mù. Đối diện, Bảo Châu ngồi nghiêng chăm chú nhìn hắn. Gương mặt hắn trắng bệch, ửng một tầng hơi xanh, môi và đầu ngón tay đều lạnh màu tro, tựa như người bệnh nặng mới tỉnh. Thật khó tin thân thể như vậy lại có thể trải qua một đêm vất vả không nghỉ, vừa uống rượu vừa giao đấu, tung hoành khắp nơi như cơn gió dữ.

Bỗng nghe “phụt” một tiếng, một chiếc tiêu độc từ sau lưng Vi Huấn bật văng ra, cắm sâu vào vách xe, máu đen phun trào theo. Bảo Châu nín thở, rướn cổ nhìn, dùng tay che miệng không dám lên tiếng, sợ quấy rầy hắn.

Chỉ một nén nhang sau, bảy chiếc tiêu độc lần lượt bật ra khỏi da thịt, máu đen dần đổi sắc thành đỏ tươi. Toàn thân áo sau lưng hắn ướt đẫm, vách xe lấm tấm vết máu, trong xe ngập mùi tanh. Mãi đến khi vùng lưng tê rát dần lui, Vi Huấn mới thu khí về đan điề, chậm rãi mở mắt. Vừa ngẩng đầu đã thấy gương mặt Bảo Châu nhòe lệ, nét trang điểm hoa lệ nay đã nhòe nhoẹt.

Hắn cắn răng, lòng ngổn ngang hối hận, cảm thấy có lỗi vì liên lụy nàng vào chuyện này. Nhẹ giọng nói:

” Đã xong rồi.”

Bảo Châu vội quay đi, làm bộ cứng cỏi:

“Mắt ta bị khói độc hun cay, chẳng liên quan gì đến ngươi.”

Không gian trong xe vốn hẹp, dù nàng dời mắt, mùi máu tanh vẫn xộc vào mũi. Hương máu nồng gợi ký ức tang tóc năm nào trong điện Bồng Lai cũng từng đẫm máu như thế. Nỗi đau lòng âm ỉ kéo về khiến nàng không dám nhìn chiếc áo đẫm máu của hắn.

Vi Huấn lặng lẽ ngắm nàng. Trước kia nàng mạnh miệng, hắn còn có thể đùa cợt chọc ghẹo. Nhưng lúc này chỉ thấy môi mằn mặn mùi máu, chẳng nói nên lời.

Tóc nàng xõa rối, tà váy lấm lem bùn đất, trâm hoa chẳng rõ rơi đâu mất. Từ lúc ra cửa đến giờ, nàng vốn trang điểm rạng rỡ, một thân diễm lệ, giờ đã tàn tạ. Lẽ ra hắn phải kịp thời khen ngợi, nhưng vì lão Thất có mặt nên lời nghẹn lại, thành ra lỡ mất.

Nghĩ đến đây, Vi Huấn lắp bắp:

” Ngươi… hôm qua thật sự rất đẹp.”

Bảo Châu ngỡ hắn trêu chọc, mắt trợn tròn định quở trách. Nhưng thấy vẻ áy náy trên mặt hắn, lại nghe tiếp:

” Là ta không đủ bản lĩnh, không chặn được trận đầu, khiến ngươi chịu khổ.”

Nàng bất ngờ đến nghẹn lời, định mắng cũng không được, chỉ lạnh nhạt đáp:

” Ngươi chưa đủ mạnh, chẳng lẽ muốn đội trời đạp đất? Lúc ngươi nâng cây cờ kia, ta thấy binh lính trong doanh trại đã giương cung nhắm vào ngươi. May mà ngươi mặc lễ phục tiếp giá, bằng không đã bị bắt rồi.”

Vi Huấn gượng cười, trong lòng thầm phục: giữa cơn hỗn loạn, chỉ có nàng còn quan sát được biến động nơi quân doanh. Hắn chân thành tán thưởng:

“Mắt ngươi thật tốt.”

Bảo Châu nghĩ lại cảnh trong lễ đường, nếu lúc ấy có cung trong tay chưa chắc cần hắn bảo vệ. Nàng từng được hắn dặn dò phải mang vũ khí bên người, nhưng không ngờ lễ cưới lại đầy cạm bẫy như thế. Lúc ấy vì mặc đồ lộng lẫy mà chẳng giắt cung tên, đến khi mượn được cung từ Thập Tam thì đã chậm.

Nghĩ vậy, nàng thêm áy náy. Bất chợt nhớ lại điều muốn nói từ nãy, nàng lên tiếng:

” Nói đến mắt nhìn, ta thấy gã mặt đen đồng môn của ngươi cũng có mặt trong đám đông xem lễ. Nếu hắn là thầy thuốc lang thang, có thể giúp ngươi trị độc. Người trong giang hồ hẳn tinh thông hơn thầy thuốc thường.”

Vi Huấn gật đầu:

” Ta đã phát tín hiệu triệu tập, hôm nay Khâu Nhậm sẽ đến khách đ**m, cùng với vài kẻ phiền phức khác. Ngươi đừng ra ngoài, kẻo lại sinh sự.”

Bảo Châu nhíu mày:

” Cả Thác Bạt tam nương cũng đến? Ngươi bị thương, chẳng lẽ không nên tránh nàng?”

Vi Huấn thản nhiên đáp:

” Dù có gãy tay, ta vẫn có thể đối phó lão tam. Chỉ e nàng thấy ta mới không dám đến.”

Cách hắn nói khiến Bảo Châu không khỏi nghi hoặc. Người hắn triệu tập, chẳng giống đang cầu viện, mà như gọi tới để đối chất.

Xe đã vào thành Linh Bảo, trời sáng rõ, tiếng rao bán đồ ăn vang khắp phố. Cả hai bụng đều trống rỗng sau một đêm. Vi Huấn cất tiếng:

” Muốn ăn gì? Ta xuống mua.”

Bảo Châu lập tức ngăn lại:

” Ngươi không được nhúc nhích! Một thân máu me thế kia hù chết người ta mất. Để ta.”

Vi Huấn chưa kịp phản ứng, nàng đã nhảy xuống xe. Nhưng chỉ lát sau, nàng quay lại, hai tay trống trơn, má đỏ bừng:

” Ta… quên mang tiền.”

Vi Huấn nhìn nàng, trong lòng bật cười. Vị công chúa tôn quý, lại không xoay xở nổi chuyện mua đồ ăn sáng. Hắn cười đến đau vết thương, vừa xuýt xoa vừa nói:

” May mà không mua được. Vi đại mà ăn đồ ngươi mua, chắc mất nửa cái mạng, tại chỗ mà lăn ra cũng nên.”

Bảo Châu thẹn quá hóa giận, định quở trách, nhưng thấy hắn đã hồi lại thần sắc ngày xưa, ánh mắt lại ánh lên nét cười quen thuộc. Nhớ lại lúc sáng hai người còn ăn vận tề chỉnh, một ngày qua thôi mà đã rơi vào thảm cảnh, nàng chợt buồn cười đến mức không nhịn được, bật cười giữa hàng mi còn đẫm lệ.

Vừa trở về khách đ**m, sư huynh thứ tư trong môn là Quỷ Thủ Kim Cương Khâu Nhậm đã ngồi sẵn trong sảnh. Đối diện hắn là một người vạm vỡ, lưng mang tích trượng, tóc búi cao như đầu đà, mặt mày dữ dằn. Hai kẻ một trái một phải, ngồi như chặn cửa, toát ra sát khí khiến khách trọ vừa ló đầu vào đã vội quay đi, chẳng ai dám bước vào.

Khâu Nhậm tuy treo cờ trắng với bốn chữ “Diệu thủ hồi xuân”, nhưng khí chất vẫn dữ dằn không kém kẻ trong giang hồ. Nếu gọi là đại phu, chi bằng nói là cường đạo ghé nhà xin lễ vật còn dễ tin hơn. Chủ quán khách đ**m dẫu trong lòng ngao ngán, cũng chỉ đành nuốt nước miếng, không dám hé răng nửa lời.

Thấy Vi Huấn từ xe ngựa bước xuống, hai người liền cùng đứng dậy, đồng thanh hành lễ gọi:
“Đại sư huynh.”

Bảo Châu ngẩng đầu nhìn vị đầu đà kia, chợt giật mình, nhớ ra từng gặp trong phố lò rèn, ấn tượng khắc sâu bởi tướng mạo dị thường. Nàng hỏi:
“Cũng là người trong sư môn ngươi?”

Vi Huấn gật đầu:
“Là lão ngũ.”

Hắn không định giới thiệu đôi bên, chỉ quay sang Khâu Nhậm dặn:
“Ngươi vào giúp ta khâu lại lưng.”

Khâu Nhậm gật đầu, xách hòm thuốc bước theo. Bảo Châu cũng lẳng lặng đi sau, vào tận phòng.

Khâu Nhậm mở hòm, bày kim chỉ thuốc men ra mặt bàn. Vi Huấn tháo dải lưng, định cởi áo. Thấy Bảo Châu vẫn đứng đó, mắt chăm chăm dõi theo từng động tác, hắn liền thấy khó chịu, sống lưng cũng ngứa ngáy.

” Ngươi còn chưa ra ngoài? Ra uống chén nước đi, nhìn gì mà như muốn xem ta còn thở nổi không.”

Bảo Châu lạnh nhạt đáp:
” Vì sao ta phải ra? Cũng phải xem ngươi bị đâm thành dạng gì rồi mới tính tiếp.”

Vi Huấn đảo tròng mắt, liếc Khâu Nhậm, bèn nghiêm giọng:
” Y thuật của lão tứ là bí truyền trong sư môn, không tiện để người ngoài xem.”

Bảo Châu hơi sửng sốt, thầm nghĩ sư môn gì mà lắm phép lạ quy củ lạ kỳ, nhưng đã nói vậy, nàng cũng không tiện cưỡng ép. Hừ một tiếng, nàng quay lưng rời khỏi phòng.

Khâu Nhậm cầm kim chỉ, ngẩn người một lát rồi hỏi:
” Ta cũng chỉ là đại phu trị ngoại thương, học thêm bó xương, có gì mà bí thuật không tiện nhìn?”

Đối với sư đệ, Vi Huấn chẳng kiên nhẫn như với Bảo Châu, gằn giọng:
” Ta nói không tiện là không tiện, lắm lời nữa ta đạp cho một cước!”

Nói đoạn, hắn xé toạc áo, để lộ sau lưng thương tích chằng chịt, máu thịt lẫn lộn.

Khâu Nhậm chau mày, xem xét kỹ vết thương, thấy độc phần lớn đã được ép ra, chỉ cần rửa sạch bôi thuốc, khâu lại là xong. Vừa cắm kim vá thịt, vừa lẩm bẩm:
” Nếu không phải thương ở sau lưng khó với tay, chắc cũng chẳng cần gọi ta tới. Dù sao trong sư môn, Vi đại vẫn là người khâu da giỏi nhất…”

Nhưng nghĩ tới việc hắn phải dối cô nương kia ra ngoài mới cởi áo, lại ngẫm giọng điệu nhỏ nhẹ trước đó, Khâu Nhậm bất giác rùng mình, lưng nổi da gà. Chẳng lẽ… là thẹn thùng?

Vừa nghĩ đến đó, Khâu Nhậm suýt bật cười. Kim chỉ trong tay thành mấy mũi lệch lạc như con rết, rõ ràng sẽ để lại sẹo xấu. Hắn giật mình, thầm than: Nếu sau này sư huynh cởi áo trước mặt cô nương kia, thấy lưng sẹo ngang dọc, chẳng phải sẽ tìm ta báo thù?

Khâu Nhậm nghiêm mặt nói:
” Xin lỗi đại sư huynh, lão tứ uống hơi nhiều, tay run phùng lệch, để ta tháo ra, khâu lại một lần.”

Chưa dứt lời, đã rút dao giải phẫu, gỡ từng mũi chỉ. Vi Huấn nghe vậy lửa giận bốc lên đầu, rít qua kẽ răng:
” Tên mập chết dẫm, lấy ta ra làm nơi luyện tay nghề?”

Khâu Nhậm cười trừ:
“Vừa nãy dùng chỉ thường, khâu xong cắt bỏ sẽ phiền. Để ta đổi loại tốt hơn, không để lại vết sẹo.”

Nói rồi lấy ra cuộn chỉ vàng dành riêng cho con gái nhà quyền quý, loại mịn như tơ, rút ra dễ dàng, lỗ kim khó thấy. Dùng thứ này để khâu cho Vi Huấn, đúng là nực cười, mà cũng là một chút an ủi duy nhất.

Chốc lát, thấy Vi Huấn nắm tay trắng bệch, trán rịn mồ hôi, gân tay bật cả lên, mà vẫn cố nín chịu không kêu, Khâu Nhậm vui sướng như được trả thù xưa. Gương mặt đen sì méo xệch vì nghẹn cười, may mà thương ở lưng, nếu không hắn đã bị đấm cho vỡ mặt.

Khâu xong, băng bó kỹ, Vi Huấn thay lại áo vải trúc xanh quen thuộc. Đang định quay sang hỏi tội Khâu Nhậm vì sao lại tới Linh Bảo huyện, thì thấy bóng Bảo Châu lấp ló ngoài cửa.

Không muốn nàng lo lắng, hắn bước ra. Bảo Châu liếc hắn một cái, thấy y phục đã chỉnh tề, bèn tiến lại gần Khâu Nhậm hỏi:
“Vậy là khỏi rồi sao? Không cần uống thuốc tiêu độc? Không bôi thuốc gì à?”

Khâu Nhậm hơi sửng sốt, đáp:
” Đại sư huynh không cần.

Bảo Châu cau mày, giọng không vui:
“Dù sao cũng là vết thương do độc, chẳng lẽ khâu xong là được?”

Khâu Nhậm lúng túng, thầm nghĩ người giang hồ bị thương chẳng phải đều vậy? Nếu ngồi khám bệnh đàng hoàng thì còn bày thuốc, chứ đồng môn trong nhà với nhau, ai lại dở trò?

Nhưng cô nương này khí thế rắn rỏi, khiến hắn cũng không dám qua loa, đành nói:
“Vài ba hôm tới không nên vận khí, kẻo độc sót lại chạy vào tạng phủ, để hậu họa.”

Bảo Châu quay phắt lại, trừng mắt nhìn Vi Huấn:
” Nghe chưa? Hai ba ngày phải nằm yên!”

Vi Huấn vốn đang bực vì lão tứ bày trò, lại bị nàng răn dạy như tiểu hài tử, càng thêm ngứa ngáy. Khâu Nhậm thì ngồi giữa như kẹp bánh, thở dài không thôi: “Người thường thì sợ thật, nhưng sư huynh vốn sẵn bệnh trong người, sống chẳng còn được bao nhiêu ngày, nào để tâm hậu họa gì nữa…”

Hắn không dám nói ra, chỉ cúi đầu đáp:
“Lần sau sư huynh muốn lời dặn, cứ báo trước, lão tứ nhất định ghi nhớ.”

Bảo Châu nghiêm mặt:
“Ngươi khỏi cần hỏi hắn, nói cho ta biết là được. Còn gì cần lưu ý nữa?”

Khâu Nhậm nhìn sắc mặt âm u của Vi Huấn, lại quay sang ánh mắt nghiêm nghị của Bảo Châu, không dám dây dưa, thu hòm thuốc kẹp dưới nách, buông một câu:
“Uống nhiều nước ấm.”

Rồi lật đật chạy đi.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 76


Khách đ**m Đào Nguyên ở huyện Linh Bảo hôm nay có phần khác lạ.

Từ tờ mờ sáng, khách lữ lác đác vào tiệm trọ đều chẳng giống người thường. Ban đầu là một gã thầy lang mặt mày u ám, nét mặt hung hăng, tuy xấu xí nhưng dù sao cũng mang danh đại phu, nên chủ quán vẫn niềm nở tiếp đãi. Thế nhưng người này chẳng nói nghỉ chân cũng không nhận phòng, vừa ngồi xuống liền ngồi một chỗ không đi.

Chưa kịp lấy lại tinh thần, lại thêm một người nữa bước vào, thân hình to lớn hơn cả khuôn cửa, mặt đầy râu quai nón, ánh mắt sắc như dao, vẻ mặt đằng đằng sát khí. Gã đầu đà vác theo cây tích trượng, vừa vào đã gõ nát một viên đá lát nền. Chủ quán tái mặt, tưởng là người tới hóa duyên, vội vã nhóm bếp nấu cơm chay. Ai ngờ gã ăn xong một thau cơm liền ngồi ì ra đó, chẳng rời bước.

Qua giờ ngọ, lại thêm một đoàn đạo sĩ tới. Cầm đầu là một đạo trưởng tuổi độ tứ tuần, mặt trắng như ngọc, mặc áo pháp màu tím nhã nhặn, dáng vẻ thong dong, chẳng khác gì tiên nhân hạ thế. Theo sau là bốn tiểu đạo đồng, một trong số đó bị thương, tay quấn băng treo trên cổ.

Chủ quán thấy lại là người xuất gia, còn chưa biết tiếp đãi thế nào thì đạo trưởng áo tím đã lên tiếng trước:
“Hôm nay quán không tiếp khách mới. Ai đã vào thì đuổi được cứ đuổi, không chịu đi, đừng trách đạo gia ra tay mạnh.”

Giọng điệu chẳng chút khoan nhượng, khiến chủ quán hít sâu một hơi. Nhìn lại thấy đạo trưởng vốn cúi đầu mỉm cười ôn hòa, nhưng khi ngẩng mắt lên, thần thái bỗng đổi, ánh mắt sắc lạnh như điện, toát ra sát khí lạ thường, tuyệt chẳng giống người tu hành thanh tịnh.

Lúc ấy, chủ quán mới để ý sau lưng đạo trưởng là thanh bảo kiếm, bốn tiểu đồng theo sau cũng đều mang binh khí. Cả đám ngồi xuống chiếm trọn đại sảnh, cộng thêm hai người vào trước như hung thần ác sát, chớ nói buôn bán, đến ruồi bọ cũng chẳng dám bén mảng.

Khi hoàng hôn buông xuống, bóng chiều đỏ như máu nhuộm kín mặt đường, khiến lòng người bất an, mọi vật lặng lẽ chìm vào một tầng mờ mịt. Lúc này, một thiếu phụ áo trắng tay ôm đàn tỳ bà bước qua ngạch cửa, theo sau là một đôi trai gái dung mạo thanh tú.

Chủ quán vừa thoáng thấy mặt nàng, tim đã đập mạnh, bởi nhớ lại vài hôm trước, một đêm mưa lớn cũng có một kỹ nữ già bệnh ho khan tới trọ, khuôn mặt và y phục y hệt người này. Đêm ấy từng xảy ra huyết án, tuy không ai truy cứu, nhưng chính tay ông đã lau khô từng vệt máu dưới đất, vờ như chưa hề có chuyện gì.

Hôm đó, kỹ nữ kia yếu đuối bệnh tật, còn hôm nay lại là một nữ nhân y phục trắng toát, tay ôm đàn, khí chất ung dung, phong thái ngang tàng. Duy chỉ có vẻ mặt lạnh tanh, ánh mắt oán độc, vẫn chẳng đổi thay.

Giờ đây, khách đ**m chẳng khác gì hang ổ yêu tà, không khí nặng nề đến cực độ, chỉ cần một đốm lửa là bùng nổ. Chủ quán mồ hôi lạnh chảy ròng, chẳng dám thở mạnh, thậm chí nảy sinh ý định bỏ của chạy lấy người.

Thiếu phụ kia chọn chỗ đối diện đạo sĩ áo tím, ngồi xuống, lười nhác nói:
“Sao không hẹn nơi vắng vẻ mà gặp? Giữa chốn đông người, muốn nói gì cũng chẳng tiện.”

Đạo trưởng áo tím đáp:
“Là ý đại sư huynh, người đang ở đây.”

Nữ nhân đảo mắt nhìn quanh, chau mày:
“Các ngươi kéo nhau tới đủ mặt, mà tên nhóc ấy đâu rồi?”

Khâu Nhậm đáp:
“Bị thương nhẹ, đang nghỉ ngơi. Đợi mọi người đông đủ rồi đánh thức cũng chưa muộn.”

Thiếu phụ ánh mắt chợt lóe như lửa ma trơi:
“Thương ở đâu?”

Khâu Nhậm đáp bối rối:
“Chỉ là vết ngoài da, tam sư tỷ xin đừng hành động nông nổi.”

Thác Bạt tam nương hừ khẽ một tiếng, vẻ tiếc rẻ. Vài hôm trước nàng liều lĩnh thử hắn, không những bị thương, còn mất cả con thú quý như ruột thịt. Nếu không phải để xem trò hay, chuyến đó coi như uổng công.

“Hai hôm trước ta đã tới thăm dò, biết hắn giờ khác xưa. Còn mang theo một cô nương nhỏ, cưng chiều vô cùng.”

Nghe nhắc tới việc riêng của Vi Huấn, ai nấy bỗng tỉnh táo hẳn, ánh mắt đồng loạt hướng về phía nàng.

Khâu Nhậm nhếch môi cười:
“Người đầu tiên thấy nàng là ta. Đại sư huynh xưa nay kiêu ngạo, vậy mà cam tâm dắt lừa, chạy đông chạy tây, ân cần chẳng khác gì phu quân mẫu mực. Thật không ngờ.”

Đạo trưởng áo tím tựa hồ lần đầu nghe chuyện này, kinh ngạc nói:
“Có chuyện ấy sao? Hắn vốn lạnh lùng, đâu dễ mềm lòng.”

Thác Bạt tam nương cười khúc khích:
“Nhị sư huynh mới xuống núi nên không rõ. Tin này đã lan khắp giang hồ. Ta ở Trường An nghe xong, liền xuất quan tới xem tận mắt. Ban đầu đồn rằng một cao thủ tuyệt đỉnh bắt sống Vi Huấn, ta bán tín bán nghi, bèn thử dọa cô nương ấy. Ai ngờ nàng non nớt, sợ đến phát khóc, chẳng biết chút võ công nào. Thật khiến người ta muốn tức chết.”

Gã đầu đà nãy giờ im lặng, lúc này lên tiếng:
“Không hẳn vậy. Cô nương đó có chút gan dạ.”

Mọi người đang trò chuyện, Hoắc Thất Lang cũng tới. Nàng là đệ tử chân truyền của Trần Sư Cổ, đối với các sư huynh sư tỷ rất mực kính trọng, từng người chào hỏi không thiếu ai. Chỉ khi đối mặt với Hứa Bão Chân đạo trưởng áo tím thì lộ vẻ lúng túng, chọn chỗ xa nhất, ngồi xuống hàng cuối.

Hứa Bão Chân làm như không thấy, trầm ngâm một lúc rồi chậm rãi nói:
“Các ngươi còn nhớ lời sư phụ dặn chăng? Người luyện công pháp Huyền Khí nếu vẫn còn thân đồng tử thì mới đạt tới uy lực tối cao. Nếu Vi Huấn đã động tâm, công lực có còn không?”

Thác Bạt tam nương bật cười:
“Quả nhiên chỉ có nhị sư huynh để tâm chuyện ấy. Trong sư môn, chỉ còn huynh và Vi Huấn giữ mình, nhưng huynh thì vì cầu đạo mà kìm nén, còn Vi Huấn chẳng màng tới. Nói thẳng ra, sư phụ vốn thích thổi phồng đạo lý quái gở, lừa huynh sống đơn độc đến già.”

Hứa Bão Chân không giận, chỉ nhẹ nhàng nói:
“Nếu hiện giờ chỉ còn ta và đại sư huynh võ công cao nhất, thì lời ấy vẫn chưa thể phủ nhận. Tam nương, nếu thật không tin lời sư phụ, sao lại nhân lúc Vi Huấn bị bệnh, phái người đến phá công lực hắn? Việc không thành, hắn hồi phục rồi quay lại báo thù, lôi ngươi từ giường xuống đánh đến trọng thương, có đáng không?”

Cả sư môn đều biết Vi Huấn và tam sư tỷ có oán, nhưng đôi bên kín miệng, không ai rõ chuyện gì. Nay Động Chân Tử và Bà Âm Ma vạch trần trước mặt, mọi người mới hiểu rõ đầu đuôi. Ai nấy cứng họng, không dám nói gì.

Lão nhị lão tam đối mặt, mắt toét lửa, không khí căng như dây đàn. Nhưng vì là ngày tụ hội của sư môn, bọn họ đành cố nhẫn nhịn, chưa dám gây chuyện trước mặt các huynh đệ.

Sau một lúc, Thác Bạt Tam Nương ho khan, tay ôm ngực, sắc mặt thay đổi, giả bộ yếu đuối tội nghiệp nói: “Ta cũng lựa chọn một đôi đồ đệ xinh đẹp nhất đưa tới, chẳng phải bạc đãi gì hắn, vậy mà hắn lại không biết điều, bốn chân chạm đất mà trốn mất. Sau đó ta tránh đầu sóng ngọn gió, trốn trong phòng tình nhân, định bụng sẽ vờ vô tình gặp hắn, nào ngờ tên tiểu quỷ kia chẳng hề nể mặt, ra tay tàn nhẫn, thật là tức chết người! May mà ông trời có mắt, lần này hắn cũng khổ sở rồi!”

Thác Bạt Tam Nương tuy trong võ học tinh thông ám sát hàng đầu, nhưng sự liều lĩnh ngang tàng, lối hành xử ngang ngược ấy trong sư môn chẳng ai bì kịp. Chuyện nàng nhăm nhe vị trí đứng đầu Tàn Dương Viện thì ai ai cũng biết, không ngờ lại dám dùng thủ đoạn ấy để đối phó Vi Huấn. Hắn chưa giết nàng tại chỗ, cũng là bởi nàng mạng lớn.

Cả bọn ngồi nghe, kẻ câm lặng, người nghiến răng, ai nấy trong lòng cũng nổi cơn sóng ngầm.

Hoắc Thất Lang ngồi nghe đã lâu, không nhịn được, mở lời: “Đã khó khăn lắm mới tụ họp được một lần, chi bằng mở một ván cược? Ta đặt hai mươi lượng vàng, cược rằng đại sư huynh công lực vẫn còn.”

Khâu Nhậm giật mình: “Ngươi trúng mối gì mà vung tiền lớn vậy?”

Hoắc Thất Lang cười khì: “Mới chém được một khoản từ chỗ lão Lục, không tiêu xài thì khó chịu. Các người theo không?”

Thác Bạt Tam Nương cười tủm tỉm: “Ta theo. Mấy ngày trước thử hắn một trận, rõ ràng có cơ hội giết ta, vậy mà chỉ vì ta phóng một phi đao lên búi tóc cô nương bên cạnh hắn, hắn liền quay lại chắn thay nàng. Mấy sợi tóc cũng tiếc không cho rụng, chẳng phải là si mê quá đỗi? Ta đoán là hắn đã… không còn giữ mình.”

Khâu Nhậm nhớ lại khi chữa thương, Vi Huấn thoát y trước mặt cô nương nọ mà mặt đỏ tới mang tai, lại cố lừa nàng rời đi, dáng vẻ như tiểu tử mới lớn vừa đụng chuyện tình cảm, liền nói: “Ta đánh cược với lão Thất, hắn vẫn còn là đồng tử.”

Hứa Bão Chân liếc xéo Hoắc Thất Lang, lạnh giọng: “Ngươi cả ngày lông bông, chỉ lo gái gú, chẳng trách võ công không ra gì.”

Hoắc Thất Lang gãi gãi vết sẹo trên mặt, cười không để tâm: “Nhị sư huynh mơ làm thiên hạ đệ nhất võ công, còn ta thì mơ thiên hạ đệ nhất mỹ nhân. Mỗi người một chí hướng, chẳng thể ép buộc.”

Thác Bạt Tam Nương xen lời: “Lão Nhị khỏi tức giận. Dù có một lòng luyện võ thì có ai vượt được Vi đại? Ngươi chẳng qua là núp trên núi đợi hắn chết bệnh rồi mới mon men lên làm đệ nhất. Nếu ai cũng không bì kịp hắn, hà tất làm khó lão Thất?”

Lời nàng như đâm thẳng, Hứa Bão Chân cũng chẳng phản bác, khuôn mặt tuấn tú lộ chút cười lạnh: “Vậy ta cược với tam nương một ván, xem như đầu tư dài hạn, đặt cược vào đoạn đường xuống núi của hắn.”

Hoắc Thất Lang quay sang hỏi đầu đà: “Ngũ sư huynh có theo không?”

Đầu đà lắc đầu, dứt khoát từ chối: “Ta không đánh cược việc không thể chứng thực. Dù đại sư huynh có mất công lực, chúng ta vẫn không địch nổi, ai dám chắc được?”

Hoắc Thất Lang cười: “Tất nhiên là phải có chứng cớ rõ ràng khiến ai nấy tâm phục khẩu phục mới được tính.”

Mọi người đều hiểu, ván cược này cái giá không nằm ở vàng bạc, mà nếu bị Vi Huấn biết chuyện, e là kẻ tham dự sẽ chết không toàn thây. Nhưng đám người này xưa nay chẳng để sinh tử trong lòng, máu mạo hiểm nổi lên là đánh cược sống chết không chớp mắt. Lập tức từng người đặt cược, thỏa thuận sòng phẳng.

Vi Huấn chưa tới, vị trí chính giữa đại sảnh vẫn còn trống.

Bên trái thủ tọa là Động Chân Tử Hứa Bão Chân, đối diện hắn là Bà Âm Ma Thác Bạt Tam Nương. Hai người này đều đã lập phái riêng, đệ tử đứng sau lưng, uy nghi không kém.

Tòa thứ hai bên trái là Quỷ Thủ Kim Cương Khâu Nhậm, bên phải là đầu đà to lớn mang tóc, người trong giang hồ gọi là Chấp Hỏa Lực Sĩ, tục danh La Đầu Đà.

Tòa thứ ba bên trái bỏ trống vốn thuộc về Tật Phong Thái Bảo Bàng Lương Ký, hiện đã bị trục xuất sư môn. Tòa thứ ba bên phải là Khỉ La Lang Quân Hoắc Thất Lang.

Tuy Trần Sư Cổ không lập môn phái chính thức, nhưng bảy đồ đệ tuy mạnh ai nấy đi, người đời vẫn gọi chung là “Tàn Dương Thất Tuyệt”, theo tên nơi ở của thầy họ Trần.

Tiểu đồ đệ võ công kém chưa xuất sư, không được triệu lệnh, nay đều theo chân các sư huynh sư tỷ.

Mặt trời khuất núi, bóng đêm phủ xuống, u tối dần chiếm lấy cõi trần. Hứa Bão Chân thấy người đã đủ mặt, liền sai chủ quán đóng cửa, dẹp hết khách, dọn chỗ, bố trí kín kẽ. Những kẻ không chịu rời đi, kể cả gia nhân, đều bị xử lý ổn thỏa. Chỉ còn lại hai phòng chưa ai bước vào: phòng Bảo Châu và phòng Dương Hành Giản.

Sau cùng mới truyền tin cho Vi Huấn: toàn bộ sư môn đã tề tựu.

Vi Huấn bị Bảo Châu ép nghỉ suốt cả buổi, vừa tỉnh giấc đã cảm thấy tinh thần khôi phục đôi phần. Nhưng nghĩ đến việc bỏ lỡ bữa ăn cùng nàng, lại còn phải đối mặt đám người hắn chán ghét, trong lòng bỗng buồn bực khó tả. Xuống lầu, nét mặt đã lạnh như sương khuya, khí tức băng giá quanh thân khiến ai nhìn cũng tránh xa.

Bảo Châu tay cầm chân nến, định qua thăm Dương Hành Giản. Đi ngang qua hành lang lầu hai, liếc nhìn đại sảnh, nàng chợt ngẩn người. Trong khách đ**m khi ấy như động quỷ tụ linh, tà khí ngập tràn. Người đàn bà ôm tỳ bà từng một lần dọa nàng cũng ngồi chễm chệ giữa đại sảnh.

Bảo Châu từ nhỏ đọc thơ Lý Bạch mà lớn, mơ về những kẻ sĩ phiêu dật, “Bạc yên chiếu bạch mã, đạp táp như sao băng”, hay “Sao băng bạch vũ bên hông cắm, kiếm sáng rút ra giữa trăng thu”, luôn cho rằng giang hồ là chốn phong lưu trượng nghĩa.

Nhưng giờ đây, khi tận mắt thấy những kẻ gọi là hiệp khách giang hồ, bao mộng tưởng trong nàng như tan thành mây khói. Mỗi người trong kia, chẳng ai không hợp làm hình mẫu truy nã, kể cả Vi Huấn kẻ ngồi chính giữa ánh mắt u ám lạnh lẽo, hoàn toàn khác với chàng trai nàng từng quen.

Nghĩ lại mỗi lần qua bố cáo, Vi Huấn đều là kẻ đầu tiên nhào tới xem, nàng cứ tưởng hắn tò mò tin tức thiên hạ, giờ mới hiểu, có lẽ hắn chỉ xem xem mặt mình và đồng môn có bị truy nã hay không.

Bảo Châu còn đang thở dài cho giấc mộng thời thiếu nữ thì bỗng tay bị kéo lại, Dương Hành Giản đã kéo nàng vào phòng, sắc mặt tái mét, run rẩy khóa cửa, hạ giọng nói: “Chuyện lớn rồi, công chúa mau đi báo quan! Phải điều ba trăm trọng nỏ từ quân doanh mới mong vây bắt được đám ác tặc này!”

Bảo Châu biết hắn chưa lành bệnh, đầu óc chưa tỏ, thở dài lắc đầu: “Đã chậm rồi, hiện tại… chúng ta đã cùng một thuyền với bọn họ rồi.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 77


Vi Huấn ngồi vào ghế đầu, không nói một lời, chỉ lạnh lùng lườm Thác Bạt tam nương. Nàng thì lại mỉm cười tươi tắn, nhẹ nhàng đặt tay lên dây đàn tỳ bà, rồi đưa nhạc cụ cho người theo hầu sau lưng, tỏ rõ thành ý nhún nhường, là kẻ đầu tiên tự nguyện giao nộp binh khí.

Trần Sư Cổ vốn là người tự do phóng túng, chưa từng đặt ra môn quy gì nghiêm ngặt cho đệ tử nhưng mỗi lần tụ hội đều cấm xô xát, chẳng qua là sau vài trận đánh loạn đẫm máu mới đành ngầm ước định quy củ riêng cho nhau.

Thác Bạt tam nương đã chịu nhún, kẻ khác cũng khó mà tiếp tục hung hăng. Vi Huấn cười lạnh một tiếng, tháo dao găm vẫn đeo bên hông, đặt mạnh lên bàn bên cạnh. Ngư Tràng kiếm gác xuống, như một thứ mệnh lệnh trong sư môn.

Những người còn lại cũng nối gót hạ vũ khí. Hứa Bão Chân giao phất trần và trường kiếm cho môn nhân; Khâu Nhậm, người nổi danh với ngoại hiệu Quỷ Thủ Kim Cương, vốn không dùng binh khí, từ trước đến nay đều tay không luyện công; La Đầu Đà quay người, cắm cây tích trượng nặng ch*ch xuống đất, cán trượng cắm sâu vào lớp gạch, như dựng cờ báo hiệu đã buông binh khí.

Tới lượt Hoắc Thất Lang, nàng giơ tay ra, tỏ vẻ chẳng mang theo vật gì.

Hứa Bão Chân chau mày: “Ta vừa muốn hỏi, đao của ngươi đâu rồi?”

Hoắc Thất Lang nhún vai, đáp: “Vài ngày trước kẹt tiền, đầu óc bức bối nên tạm thời đã cầm cố ở tiệm cầm đồ.”

Cả bọn tròn mắt nhìn nàng, ai nấy đều thầm nghĩ: người này phóng túng đến độ đem cả binh khí đi cầm lấy tiền tiêu, quả thực chẳng còn lời nào để nói.

Thấy ánh mắt khinh bỉ từ các sư huynh sư tỷ, Hoắc Thất Lang cười nhạt: “Đừng làm mặt nặng mày nhẹ thế chứ, xem kìa, đại sư huynh rộng rãi bao dung cỡ nào, chưa từng hỏi ta một tiếng, đao đi đâu mất.”

Hứa Bão Chân lạnh lùng: “Hắn xem chúng ta như không khí, ngươi có mang theo cái trống hay cả cái bảng, e cũng chẳng vào mắt hắn đâu.”

Hoắc Thất Lang cười nói: “Ta nhận tiền của lão Lục rồi, sau sẽ chuộc đao về, các ngươi đừng nhìn ta như kẻ phá sản.” Rồi lại đổi giọng, nói lảng sang chuyện khác: “Thật ra, ta vẫn cho rằng quy định tước vũ khí này không công bằng chút nào. Đại sư huynh vốn lợi hại nhất khi tay không, giờ bỏ hết binh khí, chẳng phải chúng ta càng thêm thiệt thòi sao?”

Vi Huấn nhếch mép cười, giọng khinh khỉnh: “Ta có tháo một cánh tay đi nữa, cũng còn mạnh hơn các ngươi, chớ lo chuyện lặt vặt.”

Cả bọn nghe vậy, chỉ tức nghẹn họng, nhưng chẳng ai phản bác nổi. Ai nấy đều thầm nghĩ: Trần Sư Cổ để lại Ngư Tràng kiếm cho Vi Huấn, hắn lại thường ngày chỉ dùng dao ăn làm vũ khí, vậy mà cũng chẳng ai dám hé môi.

Trong môn phái này, thực lực chính là lẽ trời. Vi Huấn xưa nay vẫn ngạo mạn, từng tuyên bố: “Ai thắng được ta, kẻ đó sẽ là đại sư huynh mới, có quyền cầm lấy Ngư Tràng kiếm.” Từ sau lần Thác Bạt tam nương thử thách thất bại, thân mang trọng thương trở về, chưa ai dám bước lên thách đấu lần nữa. Có lẽ đành chờ hắn bệnh chết, mới rõ ai sẽ là người kế vị thanh thần binh ấy.

“Dông dài đủ rồi chứ? Giờ mới đến chuyện chính.”

Vi Huấn nghiêm giọng, nhìn quanh đồng môn rồi hỏi: “Bàng Lương Ký không mời ai, vậy các ngươi sao lại xuất hiện tại hôn lễ của hắn?” Hắn trừng mắt nhìn đạo sĩ cụt tay sau lưng Hứa Bão Chân: “Ngươi trước, nói rõ ràng cho ta.”

Đạo sĩ trẻ bị điểm tên, giật mình hoảng hốt, liếc nhìn sư phụ cầu ý, thấy gật đầu mới rụt rè đáp: “Hồi bẩm đại sư bá, lúc đó sư phụ dặn chúng con trông chừng hôn lễ, đề phòng kẻ lạ quấy phá. Khi hôn kỳ sắp cử hành, con thấy có bóng người lẻn dưới xe cưới, nên mới xông lên…”

Vi Huấn lạnh giọng: “Vậy ta chặt tay ngươi cũng không uổng.” Lại quay sang chất vấn Hứa Bão Chân: “Ta nhớ ngươi không phải kẻ hay làm chuyện nghĩa hiệp. Phái đồ đệ đi bảo vệ hôn lễ người khác, không thấy quá thừa tình? Ngươi xuống núi vì chuyện gì?”

Hứa Bão Chân bình thản: “Ta đã bỏ Hoa Sơn, định đi chu du Trung Nguyên, tìm một nơi cắm rễ mới. Chỉ là tình cờ ghé qua Linh Bảo huyện, nghe tin lão Lục thành thân, nên tiện đường tới xem.”

Hắn từng chiếm đạo quán Hoa Sơn, lập ra Lâu Quan phái, nay lại bỏ đi, mọi người biết Hứa Bão Chân là kẻ thâm hiểm, xưa nay không dễ dàng buông tay điều gì, ai nấy đều lấy làm lạ.

Hắn lại nói tiếp: “Hoa Sơn tuy đẹp, là một ngọn núi phía Tây, nhưng gần Trường An quá, trong cung thái giám thỉnh thoảng lại lên núi tìm đạo sĩ cao tay. Ta không định vào cung hầu hạ hoàng đế già, phiền toái quá, thôi thì dứt khoát bỏ luôn chỗ ấy.”

Thác Bạt tam nương cười cợt: “Nhị sư huynh nói vậy chẳng khác nào chối khéo. Ai chẳng biết Động Chân Tử có chí lớn, hiện giờ đạo pháp được sủng ái, sư môn ta chỉ có ngươi là tinh thông thuật xem sao tính mệnh, mà vào cung chính là bước khởi đầu thuận lợi nhất.”

Hứa Bão Chân điềm nhiên: “Chính bởi ta học xem sao tính mệnh, nên mới biết không thể vào. Năm nay tháng xấu chồng chất, Vạn Thọ Công Chúa vừa mới băng hà. Ta ở Lạc Nhạn Phong đêm xem thiên tượng, thấy tướng ‘Mê hoặc phạm Tử Vi’ mà Tử Vi là sao đế vương, sao đế gặp nạn, là điềm đại hung. Ta đoán long ỷ chẳng còn giữ được bao lâu. Giờ mà vào cung, thời thế không thuận.”

Lời Động Chân Tử nói ra khiến cả sảnh rúng động. Ai nấy thầm biết ngôi báu đổi chủ, át sẽ kéo theo một trận máu đổ đầu rơi.

Vi Huấn thoáng liếc nhìn lầu hai, thấy Bảo Châu vẫn còn trong phòng, không nghe được gì, mới tạm gác Hứa Bão Chân lại, quay sang hỏi Khâu Nhậm: “Còn ngươi, sao lại đến Linh Bảo huyện?”

Thác Bạt tam nương chen lời: “Sao lại bỏ qua ta? Ta cũng có chuyện muốn nói.”

Vi Huấn chẳng buồn đoái hoài, nàng tự mình lên tiếng: “Thứ nhất, ta nghe tin ở Trường An rằng Thanh Sam Khách bị một cô nương xinh đẹp bắt giữ…”

“Ngươi mà nói thêm một chữ,” Vi Huấn lạnh như băng, “ta đánh chết ngươi tại chỗ. Quy củ không được động thủ là do ta lập, ta cũng có thể phá bất cứ lúc nào.”

Thác Bạt tam nương giậm chân, hừ một tiếng: “Thôi thì chỉ nói chuyện thứ hai. Ta định dời sang Lạc Dương sống, lần này tiện đường đi thăm dò trước, tính mua vài căn nhà làm chỗ đặt chân. Muốn đi Đồng Quan sang Lạc Dương, tất phải qua Linh Bảo.”

Đây là người thứ hai trong Tàn Dương Thất Tuyệt rời khỏi đất Quan Trung. Khâu Nhậm chần chừ một lát, hỏi: “Tam sư tỷ cũng bị ảnh hưởng bởi lời đồn đó sao?”

Thác Bạt tam nương lặng lẽ gật đầu, sắc mặt trầm hẳn.

“Di ngôn của sư phụ, không hiểu vì đâu mà lộ ra giang hồ. Trường An tuy rộng lớn, lại chẳng dễ ẩn mình.”

Một người như Thác Bạt tam nương, kẻ đứng đầu trong giới thích khách, mà còn không dám ở lại Trường An, đủ thấy sóng ngầm đã dâng cao.

Khâu Nhậm tiếp lời: “Sư phụ từng càn quét mộ cổ, trộm hết bảo vật quý giá trong lăng đế cùng phần mộ vương hầu, nay chẳng còn gì sót lại. Ta vốn muốn rút khỏi giang hồ, tập trung buôn bán thuốc men, đi theo đường chính. Ai ngờ lời di ngôn ấy lại rò rỉ ra ngoài, người đến hỏi thăm ngày một đông, rõ ràng là điềm xấu, vì thế ta cũng tính đi Trung Nguyên phát triển.”

Thác Bạt tam nương thấy Vi Huấn cau mày im lặng, bèn lên tiếng:
“Đại sư huynh xem ra còn chưa hay chuyện này. Vì võ công ngươi cao nhất, lại chẳng nhận môn nào, người đời không ai dám tới gần dò xét, chỉ mình ta là khổ sở chịu đựng. Cũng bởi lời đồn ấy, nhiều mối làm ăn với các thế gia đều tan theo mây khói.”

Trước lúc lâm chung, Trần Sư Cổ đem quyền chưởng quản giao cho lão nhị Động Chân Tử. Nhưng ai nấy đều rõ, trong sư môn, kẻ mạnh mới là người cầm quyền. Hứa Bão Chân vốn không địch nổi Vi Huấn, cái gọi là “giao y bát” kỳ thực chỉ là mảnh sân cũ cùng ít sách vở xưa, chẳng mấy ai xem là di mệnh thực thụ. Để lại vài đồ đệ nhỏ tuổi chưa ra đời, mấy thứ ấy chẳng phải gia sản, mà chỉ là dây buộc chân.

Trần Sư Cổ vốn không giữ gì riêng. Từ võ học đến tạp thư, tâm pháp khẩu quyết đều công khai. Ai học được thì chính là của người đó, nên cũng chẳng có bí kíp nào truyền lại đời sau.

Chỉ là, trước khi nhắm mắt, ông còn nói ra một câu di ngôn khiến người nghe bối rối chẳng hiểu đâu vào đâu. Lúc ấy ai cũng cho là lời mê sảng, vậy mà mấy năm trôi qua, lời ấy lại lan rộng dần dần, như hạt mầm tai họa chờ dịp trổ mầm.

Hoắc Thất Lang chợt hỏi:
“Chẳng lẽ là thứ gọi là… “điên đảo Đại Đường, họa loạn thiên hạ”?

Tám chữ vừa thốt ra, trong lòng ai nấy đều rúng động. Khâu Nhậm vội hạ giọng:
“Suỵt! Đừng nói lớn như thế.”

La Đầu Đà, bấy lâu lặng lẽ ngồi nghe, bỗng cao giọng nói:
“Sợ gì chứ! Trừ lão Lục ra thì chúng ta chẳng ai còn thân thích gần. Trong tay lại nắm món trò chơi đó, chẳng lẽ còn sợ triều đình đến tận nơi mà tru di cả họ?”

Lời vừa dứt, như chạm vào tâm can mọi người. Có kẻ cười nhạt, kẻ cười căm phẫn, người lại cười ngậm ngùi. Trong quán trọ, tiếng cười vang râm ran, trộn lẫn u uất âm thầm, tạo nên một bầu không khí nửa vui nửa sợ.

Hoắc Thất Lang vừa lau nước mắt vừa cười:
“Ta còn có mấy người họ hàng xa, chắc cũng tính là còn chút rễ.”

La Đầu Đà cười hào sảng:
” Thôi thì cho ngươi nửa điểm “còn họ”.”

Vi Huấn nhếch mép nói:
“Khi ta nghe câu ấy, đã biết sư phụ đang mê mang, nội khí đã loạn, chẳng rõ có nghiêm túc hay không.”

Mọi người cùng nhớ lại chuyện năm xưa. Khi Trần Sư Cổ buông lời “đại họa”, ai nấy tranh nhau đùn đẩy, chẳng ai muốn gánh lấy phiền phức ấy. Thứ gọi là “điên đảo Đại Đường, họa loạn thiên hạ” kia, trừ gây họa thì có ích gì? Bảo vật gì mà đến mức phải gây phản loạn như thế?

Vi Huấn khi ấy là người đầu tiên lên tiếng:
“Ta sống chẳng được bao lâu, không kịp mà “điên đảo”, để cho người khác giữ lấy đi.”

Hứa Bão Chân cũng cười gượng:
“Ta là kẻ xuất gia, không mang gươm ra trận, việc này xin nhường cho sư đệ sư muội.”

Thác Bạt tam nương thì châm chọc:
“Ta thì có lòng lấy sắc đẹp làm rối loạn thiên hạ, nhưng khổ nỗi tuổi già rồi, chẳng còn tâm tư làm Đát Kỷ hay Bao Tự nữa.”

Khâu Nhậm thì nhỏ giọng:
“Sư phụ trộm bao nhiêu lăng tẩm, chỉ để lại Ngư Tràng kiếm cho đại sư huynh. Lẽ nào không để lại cho chúng ta chút thứ gì hữu dụng?”

Mọi người cứ thế đùn đẩy, tranh cãi nhau. Đến khi định hỏi rõ xem rốt cuộc vật kia là gì, ở đâu, thì Trần Sư Cổ đã xuôi tay nhắm mắt.

Thác Bạt tam nương cười đến khúc khắc ho:
” Ta năm ấy học võ đã gần ba mươi, chẳng còn dễ bị nam nhân lừa phỉnh. Nếu thật sự có vật có thể “điên đảo Đại Đường”, lão Trần đã sớm mang ra dùng.”

Hứa Bão Chân trầm ngâm:
“Cũng chưa chắc là binh khí. Có khi là thư tịch trong cổ mộ, hoặc độc dược ghê gớm nào đó cũng nên.”

Khâu Nhậm bỗng nói:
“Cũng có thể là vàng bạc chiêu binh mua mã. Sư phụ cả đời moi mộ không ít, vậy mà vẫn sống trong cái viện rách nát, ăn mặc vá chằng vá đụp, ngủ trong quan tài cũ. Những châu báu ấy rốt cuộc đi đâu? Đại sư huynh theo ông ấy nhiều năm nhất, hẳn phải rõ.”

Vi Huấn đáp:
“Thực ra lão chẳng màng tiền của. Mục đích là lật mộ đào xác, lấy cái chết làm trò chơi, nghiền xương đốt tro mới lấy làm hài lòng. Có lần đào mộ xong chẳng lấy gì cả.”

Hứa Bão Chân cười nhạt:
“Ta biết. Sư phụ oán hận cả người sống lẫn người chết, lòng dạ lạnh lẽo vô tình. Nói thật, lúc ông ấy mất, ta cũng chẳng dám tin. Còn sợ là dùng thuật chết giả thoát thân. Thành ra ta phải canh đủ bảy ngày bên linh cữu, cuối cùng lén đâm một đao vào ngực mới dám yên tâm chôn cất.”

Hoắc Thất Lang ngẩn người:
“Nhị sư huynh… thật là… thật là chu đáo cẩn thận.”

Mọi người nghĩ lại, mới hiểu vì sao Hứa Bão Chân hôm tang lễ lại giả vờ hiếu thuận, một mực ở bên linh cữu, ai cũng tưởng hắn định tranh chức chưởng môn, nào ngờ phía sau còn có lý do ấy.

Trần Sư Cổ xưa nay vốn lãnh khốc vô tình, chưa từng thương yêu ai, đệ tử dưới tay mới trở nên phản nghịch, dửng dưng. Đến giờ nghĩ lại, cũng chẳng thấy có gì lạ.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 78


Trần Sư Cổ vừa mất, đám môn đồ như hẹn mà không hẹn, người người đều lần lượt rút lui khỏi nghề trộm mộ, rủ nhau tìm đường sống khác. Nguyên do cũng dễ hiểu: bọn họ ai nấy võ nghệ cao cường, lại đều có bản lãnh tự lập thân, trừ mỗi Vi Huấn vì phải cầu thuốc cứu mạng nên buộc lòng tiếp tục hành nghề, còn lại đều không muốn mãi lăn lộn nơi bùn nhơ này nữa.

Lần tụ hội này của Tàn Dương Thất Tuyệt, mục đích không phải tranh đoạt di vật sư phụ để lại, mà là điều tra xem kẻ nào phá hỏng lễ cưới của Bàng Lương Ký. Dù trên giang hồ bọn họ được gọi chung một tên, thực chất bên trong lại mạnh ai nấy sống, lòng nghi kỵ chất chồng, chẳng ai thật sự tin tưởng ai.

Đồ đệ của Động Chân Tử bị Vi Huấn bắt quả tang tại chỗ, nghi ngờ là lớn nhất. Tuy đã biện bạch, nhưng Hứa Bão Chân vốn là kẻ tâm tư sâu sắc, giảo hoạt như cáo, lời hắn nói chẳng thể tin toàn phần.

Thấy thế, Hứa Bão Chân bèn giở trò “dẫn lửa về đông”, đưa tay chỉ sang Thác Bạt tam nương:
“Nghe đồn hôm đó có người nấp sau màn lụa thêu, dùng ám khí rải khói độc. Ngay cả đại sư huynh cũng trúng chiêu. Môn hạ ta xưa nay không ai dùng thứ ấy, lão tam mới là người giỏi trò ám khí kia.”

Thác Bạt tam nương nghe xong, đôi mày liễu nhướng cao, lạnh lùng đáp:
“Lão nương tuy quen tay dùng ám khí, nhưng chưa bao giờ dùng độc, chỉ nhờ vào tay nghề. Nghe đâu kẻ phục kích dùng hỏa dược vậy hỏa dược ấy từ đâu mà có, mới thật cần tra cho kỹ.”

Nói đoạn, nàng liền xoay thế cục, chuyển mũi dùi sang La Đầu Đà người ngày trước chuyên giao dịch tiêu thạch, lưu hoàng, am hiểu các loại hỏa công.

La Đầu Đà sắc mặt vẫn thản nhiên, cười lạnh:
“Nói nhảm! Nếu là ta ra tay, nhất định đã nổ tung cả xe hoa, tân lang tân nương lẫn khách khứa đều tan xác như tương. Chứ làm gì có chuyện thả chút khói rồi để tất cả còn sống sờ sờ?”

Khâu Nhậm tiếp lời:
“Ta ban ngày nghe khắp đầu phố cuối ngõ đồn rằng, tân nương tuy dáng vẻ chẳng đổi, nhưng lại không biết nói năng, Bàng Lương Ký sống chết không chịu nhận, bảo là đồ giả. Nghe là biết trò giả dạng thay mặt, dùng thuật dịch dung đánh tráo. Lão Thất ngươi, e cũng chẳng sạch sẽ gì đâu!”

Hoắc Thất Lang vốn ngồi yên xem náo nhiệt, bị gọi trúng tên, liền nổi giận:
“Ta đứng tiếp khách suốt buổi, một bước không rời đại sư huynh, lại chẳng có đồ đệ hay kẻ dưới, lấy gì mà phân thân giả dạng tân nương? Hai đứa hầu chết dưới giếng, bị kẻ nào đó vặn gãy cổ tay một cách tàn nhẫn. Còn đại sư huynh bị ép uống rượu pha mạn đà la trước cửa phòng tân hôn. Mạn đà la vốn là dược liệu gây mê dùng trong mổ xẻ, mà lão Tứ giỏi dùng Tàn Đăng Thủ, lại thông thạo y dược, đừng tưởng có thể rút lui khỏi cuộc được!”

Khâu Nhậm nghe xong, ngẩn người thốt lên:
“Vi đại ca mà uống phải mạn đà la, lại còn ầm ầm như lang sói ngoài cửa, thế mà vẫn đi hết cả hôn lễ?! Thật khó tin.”

Hứa Bão Chân nhàn nhạt nói:
“Nếu là Vi Huấn, thì có chuyện gì làm không nổi?”

Thác Bạt tam nương tuy trong bụng kinh ngạc, mặt mày vẫn như không, chỉ quay sang châm biếm Khâu Nhậm:
“Mạn đà la quý giá lắm, ngày thường ngươi trị thương cũng tiếc không dám dùng, toàn cho người ta dùng thuốc se da cầm máu. Lần này phóng lên người Vi đại, lại hào phóng thế.”

Khâu Nhậm cãi lại:
“Nếu ta biết người bị thuốc là hắn, đã thêm ô đầu, dương trịch, cho đủ vị, chứ không phải nửa nóng nửa nguội như thế. Mà ta với lão đại, lão lục chẳng có oán thù gì. Ngược lại, tam sư tỷ từ xưa đến nay hay gây chuyện, gần như người nào trong đây cũng từng xích mích, hiềm nghi lớn hơn hết.”

Thác Bạt tam nương cười khẩy:
“Nếu ta thật muốn giết lão lục, đầu người nhà hắn đã theo thứ tự bày hết trên mâm rồi. Ai trong các ngươi cũng biết ta nhập môn thế nào. Giết người diệt tộc thì được, nhưng ta xưa nay chưa từng làm cái nghề bắt cóc con gái bán lấy tiền.”

Đám người này ai nấy đều là kẻ xuất chúng, ngông nghênh tự phụ, trời sinh đã không chịu thua thiệt. Nếu để riêng ra, đặt vào bất kỳ môn phái nào, thời đại nào cũng đều được xem như bảo vật. Nhưng số phận khéo đẩy đưa, lại cùng tụ về dưới trướng Trần Sư Cổ, chen chúc nơi Tàn Dương Viện nhỏ hẹp, nhìn nhau chướng mắt, tâm tâm bất phục.

Bọn họ học nghệ nhiều năm, hiểu rõ từng người một: ai giỏi gì, ai xấu nết gì đều rõ như lòng bàn tay. Tuy chán ghét nhau nhưng khó lòng loại bỏ, mỗi khi xảy ra tranh cãi, liền lôi nhau xuống hố, kẻ đổ tội, người gièm pha, ồn ào như nồi cháo thiu. Nếu không phải có Vi Huấn ngồi trên thủ tọa giữ trận, có khi đã vung tay đánh nhau từ lâu.

Trong đại đường, lời qua tiếng lại vang rền, chẳng ai nói ra được điều mấu chốt, cuối cùng cũng chỉ toàn lôi chuyện cũ ra xào lại. Vi Huấn nghe riết mà phiền lòng rối óc, mắt không buồn dừng trên mặt bất kỳ ai, vô thức quay ra nhìn cửa sổ. Ngoài kia, bóng đào lay động in trên giấy hồ, mưa tí tách đổ rơi. Trong lòng hắn chợt nghĩ: “Giá mà giờ này có thể kéo Bảo Châu ra rừng đào, ngắm mưa, uống rượu, há chẳng hơn lãng phí thời gian bên lũ phiền phức này.”

Mọi người đấu khẩu đến khô miệng khô họng, định gọi tiểu nhị nấu chút canh nóng, mới chợt nhớ ra: sớm đã đánh bất tỉnh hết người sống trong quán, chẳng ai nhóm bếp nổi.

Hoắc Thất Lang liếc thấy Vi Huấn vẫn ngồi yên, chống cằm ngắm mưa, tưởng rằng hắn đang thâm tính suy đoán, bèn lớn tiếng:
“Cãi nhau tới sáng cũng vô ích, chi bằng để đại sư huynh chỉ đường!”

Vụ này vốn do Vi đại đứng ra triệu tập, mọi người nghe thế đều thấy phải, nhất loạt im lặng đợi hắn mở lời.

Đại sảnh thoáng chốc im như tờ. Vi Huấn giật mình nhìn quanh, thấy ai nấy đều chăm chăm nhìn mình, ánh mắt chờ đợi. Hứa Bão Chân cũng lặp lại:
“Việc này nên xử ra sao, xin đại sư huynh định đoạt.”

Vi Huấn lấy lại tinh thần, gượng kéo suy nghĩ đang trôi xa trở về, chậm rãi nói:
“Quan Trung xưa nay có chuyện gì xấu, dù chẳng liên can đến Tàn Dương chúng ta, thiên hạ vẫn muốn bọn ta gánh chịu. Lâu dần thành quen, ai nấy đều mặc định như thế. Chúng ta ai cũng đủ sức chém sạch cả nhà Bàng Lương Ký, vậy mà lại chọn cách vòng vo rắc rối quấy phá hôn lễ, lý nào lại như vậy? Lão lục võ công mất hết đã nhiều năm, nếu có oán thù, đã ra tay từ sớm.

Nếu không coi hắn là một kẻ riêng biệt, mà tính hắn là người của Tàn Dương Viện, thì hắn chính là mắt xích yếu nhất trong bảy người. Kẻ vì tám chữ “điên đảo Đại Đường, họa loạn thiên hạ” mà tới, chắc chắn không dám nhằm vào ta là chuốc lấy cái chết; cũng không dám chọc vào các ngươi vì không có lợi. Mấy tên đồ đệ chưa xuất sư thì vẫn ở bên cạnh chúng ta, không có thời cơ. Nhưng nếu gặp Bàng Lương Ký kẻ yếu nhất, lại đã tách khỏi sư môn thì là cơ hội quá tốt. Bắt tân nương để uy h**p hắn, ép hỏi tung tích di vật, cũng là lẽ thường.

Chúng ta trước nay hoạt động ở Quan Trung, giờ đều tản ra định tiến vào Trung Nguyên, tất nhiên sẽ chạm đến địa bàn người khác, trở thành cái đích cho thiên hạ dòm ngó. Nếu việc của lão lục lần này không đòi lại được món nợ, không trả đòn thật mạnh, thì cả sư môn sẽ bị người ta coi khinh, chà đạp dưới chân. Về sau tai họa cứ tới liên hồi, đến lúc đó, đừng mong ai còn chỗ đứng nơi đất Trung Nguyên nữa.”

Lời nói của Vi Huấn lần này rành rọt như chẻ tre, dựa vào lẽ võ học mà phân tích tình thế một cách rõ ràng, sáng tỏ.

Ai cũng biết “đã ra tay thì phải đánh cho đau” vốn là đạo xử thế của Vi Huấn. Nếu không có tính khí quyết liệt, hành sự dứt khoát, thù không để qua đêm, thì với tuổi đời còn trẻ như hắn, khó lòng sống sót nổi trong một môn phái hiểm ác như hang hùm miệng sói. Mà sự tàn độc ấy, ở mức độ nào đó, lại khiến đám đồng môn ít nhiều hiểu được và nể sợ.

Thác Bạt tam nương thở ra một hơi nhẹ, thản nhiên nói:
“Nếu là kẻ bên ngoài, vậy thì chẳng có gì đáng bận lòng. Cứ giết sạch là xong.”

Hứa Bão Chân lắc đầu:
“Chuyện khó là ở chỗ, kẻ thù vẫn lẩn khuất dưới làn nước đen ngòm, làm sao lần ra được kẻ giật dây phía sau mới là điều nan giải.”

Hoắc Thất Lang chen vào:
“Còn phải nhớ, tân nương của Bàng Lương Ký vẫn đang nằm trong tay hung thủ. Việc cấp thiết là tìm cách cứu người còn sống ra trước đã. Lão Lục giờ ở nhà nổi điên, cầm đao ép hỏi kẻ giả làm tân nương, bị nhạc phụ hắn liều mạng xông vào ngăn cản.”

Hứa Bão Chân hỏi:
“Vậy ngươi rời khỏi đó, không sợ con quỷ kia nhân cơ hội bỏ trốn à?

Hoắc Thất Lang đáp:
“Nó còn đang ngồi trong phòng tân hôn, hai nhà cùng nhau dòm ngó, Thập Tam Lang lấy cớ tụng kinh cầu phúc mà canh chừng sát sao.”

Thác Bạt tam nương nói:
” Ta cũng đã cho hai thủ hạ ngồi rình sẵn trên xà nhà, coi như không có kẽ hở.”

Mọi người nghe xong đều giật mình. Nhớ tới thủ đoạn của “Bà Âm Ma” xưa nay quỷ khốc thần sầu, hành tung như quỷ, chỗ nào cũng len vào được, ai nấy đều không khỏi kính nể sự chu toàn của nàng.

Nàng hừ một tiếng:
“Đã biết các người luôn nghi ta, ta chẳng bằng chuẩn bị sẵn trước một bước, miễn cho lúc cần lại mất luôn con tin duy nhất thì toi.”

La Đầu Đà lúc này đã đứng dậy, rút tích trượng, định lặng lẽ rút lui:
“Cứu người không phải sở trường của ta, lúc nào các ngươi tìm được kẻ gây chuyện thì nhớ gọi.”

Khâu Nhậm nhún vai nói:
“Ta đã nói rồi, cứu người bao giờ cũng khó hơn giết người. Nếu con tin chẳng may đã chết, thì nể tình đồng môn, ta có thể giúp khâu vá tử thi một chút…”

Hoắc Thất Lang bĩu môi:
“Quỷ xui quỷ khiến!”

Kế hoạch đã có hướng rõ ràng, chẳng cần bàn thêm. Trời càng lúc càng khuya, bụng ai cũng cồn cào. Một đám người gỡ ván cửa, định ra ngoài kiếm chút đồ lót dạ. Hoắc Thất Lang, vì áy náy với Bàng Lục, liền một mình phi ngựa quay về Bàng phủ trước.

Vi Huấn trở lên lầu, muốn hỏi Bảo Châu có muốn cùng đi ăn không, lại thấy hai phòng trong im ắng, đoán rằng nàng đã ngủ. Hắn tuy võ nghệ cao cường, nhưng cũng biết nàng là mối lo lớn nhất, không dám để nàng một mình trong khách đ**m, bèn sai người khác trông chừng, rồi quay lại phòng nghỉ, không nhắc thêm gì nữa.

Bảo Châu vốn định chờ bọn họ họp xong để hỏi lại chuyện, ai ngờ đợi mãi cùng y thiếp đi. Dạo gần đây theo đoàn cưới, ngày đêm đảo lộn, ăn ngủ thất thường, không biết đã ngủ bao lâu, đến khi tỉnh dậy, nhìn qua cửa sổ vẫn là một màu đen đặc, chẳng rõ canh mấy.

Nửa mơ nửa tỉnh bước ra cửa, nàng thấy đám người kỳ quặc lúc nãy đều đã đi, chỉ còn một người khoác áo đỏ ngồi một mình giữa đại sảnh, uống rượu lặng lẽ. Chính là người duy nhất không xuất hiện trong buổi tụ họp sư môn vừa rồi Bàng Lương Ký.

Bảo Châu bước xuống, hỏi:
“Sao ngươi còn ngồi ở đây?”

Bàng Lương Ký vẫn mặc nguyên bộ lễ phục từ buổi hôn lễ, ngẩng đầu nhìn nàng, ánh mắt ngây dại, mùi rượu nồng nặc. Hắn lẩm bẩm:
“Ta định ép hỏi con quỷ kia, ai ngờ bị nhạc phụ ngăn lại. Trong nhà còn ép ta vào động phòng với cái thứ giả đó… Ta không chịu nổi, đành chạy đi.”

Nói đoạn, hắn lại rót rượu, ngửa cổ uống cạn, khẽ cười đầy chua xót:
“Bàng gia tiểu lang, từ bé được nuông chiều, cuối cùng cũng có ngày khiến người thân mất kiên nhẫn.”

Lời hắn trĩu nặng thê lương, vạt áo đỏ lấm lem vì rượu thấm.

Bảo Châu biết hắn đang trong lúc rối bời, chẳng biết nên nương thân nơi nào, bản năng chạy đến chỗ mà trong lòng vẫn còn chút tin tưởng nơi sư huynh cư ngụ. Nàng nhớ lại dáng vẻ hắn khi chuẩn bị hôn lễ, hớn hở tận tụy, không ngờ nay lại rơi vào cảnh khốn cùng như thế.

Nàng ngồi xuống đối diện, dịu giọng an ủi:
“Khi nãy mấy vị sư huynh đệ còn bàn bạc cách giúp ngươi tìm lại tân nương. Nhìn họ… nhìn họ có vẻ rất nghiêm túc. Có khi chẳng bao lâu nữa sẽ có kết quả thôi.”

Bàng Lương Ký cười khổ:
“Năm xưa họ chẳng tốt với ta như vậy. Ai cũng kênh kiệu, mở miệng là khinh ta, động tay là bắt nạt.”

Bảo Châu ngạc nhiên:
“Vi Huấn cũng bắt nạt ngươi à?”

Bàng Lương Ký thở dài:
“Chính huynh ấy là người ra tay nặng nhất.”

Bảo Châu vốn tưởng quan hệ giữa hai người không tồi, nghe vậy bèn lặng người, chẳng biết nói chi.

Bàng Lương Ký đã say lắm, lại tiếp tục lải nhải kể chuyện cũ:
“Ta từ nhỏ đã có khiếu luyện võ, học gì cũng nhanh, ai dạy cũng khen ta là thiên tài hiếm gặp, tương lai chắc chắn thành cao thủ. Ta tin lắm, chuyên tâm luyện khinh công và các thế đá. Mới chưa đầy hai mươi đã có ngoại hiệu Tật Phong Thái Bảo, gia đình lại quyền thế, ra giang hồ ai cũng tán tụng, ta tự phụ ngút trời, tưởng không ai bằng mình.”

A Nhiễm người ta yêu bị cha mẹ ép gả cho kẻ khác vì chê xuất thân nhà ta. Ta buồn, nhưng chưa đến nỗi gục ngã. Lúc ấy chỉ nghĩ, đời mình không nên chỉ xoay quanh tình ái. Ta là thiên tài, phải trèo l*n đ*nh cao võ học. Sau cùng, ta tìm được Trần Sư Cổ người được đồn là cao thủ đứng đầu thiên hạ bèn từ biệt nhà cửa, tới Quan Trung bái sư học nghệ.

Ban đầu ta tưởng sư phụ nhận ta vì tình xưa nghĩa cũ gì đó, nhưng sau mới biết, ông ta chẳng vì tình nghĩa mà hạ mình. Ông nhận ta, chỉ vì muốn tận mắt chứng kiến ta kẻ tự cao tự đại từng chút một bị đánh cho tan tành.

Ngày đầu nhập môn, từ trong phòng đi ra một đứa trẻ mặt mày lạnh lẽo, kiêu căng khó thuần, chưa bằng tuổi Thập Tam Lang bây giờ. Thế mà đám môn đồ ai nấy cung kính gọi hắn là đại sư huynh. Ta trong lòng phì cười, đoán chắc thằng nhóc này do nhập môn sớm nên mới được đứng hàng đầu, chứ chưa chắc tài cán gì.

Trần Sư Cổ nhìn sắc mặt ta, chỉ cười cười, bảo thằng bé kia đấu một trận với ta, coi như bài kiểm tra đầu vào. Nghe nói ta giỏi công phu chân, thế thì chỉ đấu bằng chân.

Ta nghĩ phải nương tay, không thể mới tới đã đá què học trò nhà người ta. Nhưng thằng bé kia vẻ mặt khó chịu, ánh mắt đầy chán ghét. Trần Sư Cổ liền gọi nó lại, dùng dây trói hai tay nó ra sau, bắt cởi giày, để trần chân bước lên tỉ thí.

Nhìn vẻ cô đơn hiện trên gương mặt Bàng Lương Ký, Bảo Châu đã mơ hồ đoán được chuyện gì sẽ đến.

Quả nhiên, hắn tiếp lời:
“Ta tưởng mình là thiên tài hiếm thấy, nào ngờ ở Tàn Dương Viện, người như vậy nhan nhản. Mà Vi Huấn… là thiên tài trong những thiên tài. Hôm ấy, bị trói hai tay, huynh ấy đá cho ta mặt mũi bầm dập. Bao nhiêu mánh lới, chiêu trò, ta đều tung ra hết, nhưng đều vô dụng. Suốt hai canh giờ, ta hoặc quỳ hoặc bò, chẳng thể đứng vững nổi một lần trước mặt huynh ấy.”

Bàng Lương Ký khẽ vuốt bên chân đã gãy, ánh mắt bình thản:
“Từ ngày đó, ta mới hiểu, trong mắt đại sư huynh, có chân hay không có chân… thật ra cũng chẳng khác gì nhau.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 79


Mấy năm ấy, là khoảng thời gian khổ cực nhất trong đời ta. Trần Sư Cổ là bậc thầy hiếm có dưới gầm trời, võ công sâu như vực thẳm, dạy dỗ không chút giấu nghề. Dù ta muốn học thứ gì, ông cũng đem hết những điều mình biết mà chỉ bảo. Nhưng đồng thời, ông cũng là người thầy tệ nhất trên đời khi trên gương mặt ông vĩnh viễn là nụ cười lạnh lẽo đầy khinh miệt, dịu dàng đến đáng sợ. Nụ cười ấy khiến người ta nghi ngờ chính bản thân mình là kẻ ngu dốt, hết thuốc chữa.

Võ công ta tiến bộ nhanh chóng, thế nhưng so với các môn đồ khác trong Tàn Dương Viện, dường như ta vẫn chỉ giẫm chân tại chỗ, không có gì đáng kể. Nhất là khi đứng trước đại sư huynh, tất cả những điều từng khiến ta tự hào như thiên tư, linh kh bỗng chốc trở thành trò cười. Dẫu ta có cố sức khổ luyện thế nào, thì cảnh giới của huynh ấy vẫn luôn là thứ xa vời, chẳng thể nào với tới.

Ta hận huynh ấy, ghen tị với huynh ấy, có những ngày chỉ muốn buông bỏ, về quê làm một tên địa chủ sống qua ngày. Nhưng từ nhỏ đã lấy võ học làm lẽ sống, thật sự nuốt không trôi nỗi uất nghẹn ấy.

Đại sư huynh không để ai vào mắt. Có khi thì lạnh lùng ra tay trừng phạt chúng ta bằng những đòn đau thấu xương, có khi lại lặng lẽ rời viện đi lo đào huyệt trộm mộ. Ta từ xưa không vì tiền bạc mà muộn phiền, lại vô cùng khinh bỉ nghề trộm mộ, cho rằng một người như huynh ấy tài năng hơn người, chẳng nên tự h* th*n thế làm việc tạp nham dơ bẩn đó. Sau mới hay, huynh ấy đã phát bệnh từ lâu, vẫn luôn vào cổ mộ tìm một loại linh dược đặc biệt.”

Bảo Châu kinh ngạc buột miệng:
” Vi Huấn trộm mộ… là để tìm thuốc chữa bệnh?”

“Phải gọi là thuốc cứu mạng mới đúng. Sư tổ Xích Túc đạo nhân từng đoán mệnh rằng, đại sư huynh khó sống qua tuổi hai mươi. Quả thật, bệnh của hắn mỗi năm một nặng. Trần Sư Cổ tuy có nội công thâm hậu, thọ mệnh dài lâu, nhưng khí âm nơi cổ mộ và độc thi tích tụ lâu ngày, khiến ông cũng dần bị hao mòn nguyên khí. Đại sư huynh vì thế càng gấp rút tìm thuốc, nhưng càng tìm, bệnh lại càng thêm trầm trọng, chẳng khác nào lao đầu vào ngõ cụt.

Hắn đi khắp nơi trộm sách thuốc, muốn tự chữa cho mình, nhưng vốn không biết nhiều chữ, đọc y thư cũng chỉ mò mẫm từng dòng. Tuy thỉnh thoảng học lỏm được ít nhiều ở thư phòng, nhưng với loại sách y thuật sâu xa này thì chẳng thấm vào đâu. Trần Sư Cổ tuy là người văn võ song toàn, học vấn uyên thâm, nhưng nhất quyết không dạy người ta đọc sách. Ông từng nói, chữ trong sách độc hơn cả khí độc trong mộ phần.

Chữ nghĩa không phải cứ có thiên tư là hiểu được, đại sư huynh mấy đêm liền ngồi vùi đầu lật sách mà như đi trong sương mù. Ban đầu ta cứ tưởng mình sẽ khoái chí khi huynh ấy lâm vào khốn cảnh, mong hắn sớm chết. Nhưng rồi thấy hắn mỏi mòn như đứa trẻ con vùng vẫy trong tuyệt vọng, ta lại không đành lòng.

Vì thế ta xen vào việc không liên quan, lúc chẳng có ai liền giúp huynh ấy đọc to vài lượt, đọc đi đọc lại, đến khi huynh ấy thuộc lòng, có thể ghép chữ lại mà hiểu nghĩa. Đại sư huynh chưa từng nói lời cảm ơn, nhưng từ đó về sau, mỗi lần luận bàn, huynh ấy luôn để cho ta một chút thể diện. Có khi thấy ta khó nắm bắt tâm pháp, huynh ấy cũng lặng lẽ gợi mở đôi lời.”

Chỉ vì một câu “khó sống quá tuổi hai mươi”, lòng Bảo Châu như rơi xuống đáy giếng lạnh, lạnh đến thấu xương. Một lúc lâu nàng chẳng nói nên lời, cổ họng khô khốc. Sau cùng, mới cất tiếng khẽ:
“Thì ra… thì ra đó là món nợ lớn mà hắn mang trong lòng đối với ngươi.”

Bàng Lương Ký cười khan, say lướt mà lẩm bẩm:
“Đúng vậy… Một chuyện nực cười nhất đời người là, ở nơi quái quỷ như Tàn Dương Viện, ta người duy nhất từng có thể giúp đại sư huynh chỉ vì hồi nhỏ trong nhà có chút bạc, thuê được thầy đến dạy chữ cho mà thôi.”

Hai người lặng lẽ ngồi đối diện nhau hồi lâu. Bàng Lương Ký lại rót thêm rượu, vừa uống vừa lẩm bẩm:
“Cho đến nay, ta vẫn không hiểu vì sao bị đuổi khỏi sư môn. Mấy năm ấy, ta luôn cố gắng nhẫn nhịn, mọi việc đều theo ý Trần Sư Cổ. Ngay cả khi bị ép theo đi đào mộ, nâng xác chết, ta cũng cắn răng chịu đựng. Nhưng hôm ấy, nhân lúc đại sư huynh đi xa, ông ta đột nhiên nổi giận, nặng tay đánh ta đến gãy gối, nát cả cổ chân. Ta nghĩ, nếu lúc ấy Vi Huấn có mặt, hẳn sẽ tìm cách ngăn cản.”

Bảo Châu thoáng nghĩ: Việc duy nhất ngươi từng làm trái ý Trần Sư Cổ, chính là đã đọc sách cho Vi Huấn nghe. Người kia nếu đã nhất quyết không muốn hắn học chữ, thì lẽ dĩ nhiên cũng không tha cho kẻ nào dạy hắn.

Võ công Bàng Lương Ký bị phế, thành người tàn tật, âu cũng là bởi một chữ “nghĩa”. Vi Huấn trong lòng rõ điều ấy, mới cam tâm vào sinh ra tử, muốn hoàn lại món nợ năm xưa.

Bàng Lương Ký ngửa mặt cười:
“Nói thật, ngày bị đuổi khỏi sư môn, tuy thân thể đau đớn đến mức chẳng thở nổi, nhưng trong lòng lại như trút được gánh nặng. Thân đã thành phế, có thể đường đường chính chính trở về nhà, đoạn tuyệt với võ học, từ đây hết chấp niệm. Nếu không có những ngày thống khổ ở Tàn Dương Viện, ta cũng chẳng bao giờ nhìn rõ đời người rốt cuộc nên theo đuổi điều gì… Như là tri kỷ, hay người thương…”

Nói đến đây, nước mắt hắn đã giàn giụa:
“Có lẽ vì trừng phạt sự ngu xuẩn bồng bột thuở nào, ông trời muốn cướp sạch mọi thứ khỏi tay ta.”

Bàng lang đất Ngọc Thành một đời thuận buồm xuôi gió, được thân bằng quyến thuộc hết mực yêu thương, nếu không gặp những cú giáng trời giáng đất, có khi mãi mãi chỉ là một thiếu gia nhà giàu sống hoang phí, không bao giờ thấu hiểu đâu là điều quý giá.

Bảo Châu chưa từng nghĩ, giữa đêm yên ắng thế này lại nghe được biết bao chuyện xưa. Lòng nàng rối như tơ vò. Nàng biết rõ, với tính cách Vi Huấn, vì để báo đáp một ân tình nhỏ, hắn chắc chắn sẽ không ngần ngại dốc sức liều mình, chẳng màng vết thương độc hại, càng đánh càng bệnh nặng thêm.

Dựa theo tính cảnh giác và thính lực của Vi Huấn, hai người đã ngồi đây trò chuyện bấy lâu, hắn lẽ ra phải phát hiện. Vậy mà đến giờ vẫn chưa thấy xuống lầu, chỉ có thể là tình hình không ổn: hoặc là thân thể quá suy kiệt, ngủ mê mệt không còn giữ được sự cảnh giác như xưa, hoặc là trúng độc khiến thần trí mê muội.

Bảo Châu khẽ nhắm mắt, hồi tưởng lại từng chi tiết vụ đánh tráo tân nương, cố gắng giữ bình tĩnh, rồi khẽ nói, giọng kiên quyết:
“Đừng khóc nữa. Ta nhất định sẽ giúp ngươi tìm lại tân nương.”

Bàng Lương Ký ngẩn ra, nhìn nàng như trong mộng. Chỉ thấy ánh mắt nàng tràn đầy quyết đoán, giống hệt khi xông pha giữa bài thơ đón dâu, thản nhiên phá tan cạm bẫy.

Bảo Châu nói thẳng, như ra lệnh:
‘Thứ nhất, ngươi lập tức về nhà, cùng Bàng tổng quản thu xếp cho ta một bộ nam trang hợp thân, hoặc hồ phục cũng được. Cả trâm nương cũng phải cùng mang tới, ta ra tay thì nhất định phải có hình dung cho ra thể thống. Thứ hai, bất kể dùng cách gì, dù phải lén trộm từ từ đường, trước hừng đông, ta nhất định phải thấy gia phả hai nhà: Tiêu gia nhà tân nương, và Lư gia nhà phu quân trước. Thứ ba, ta cần một chiếc túi cung nhỏ mang theo người, phải có thể gắn dây cốt, tiện cho ta lúc cần đối phó kẻ địch.”

Bàng Lương Ký vốn đã thấy mình đường cùng không lối thoát, giờ phút này bỗng bùng lên một tia hy vọng, thần hồn còn chưa hoàn hồn, ngơ ngác hỏi:
“Ngươi thật có thể tìm lại A Nhiễm?”

Bảo Châu ánh mắt sáng ngời, thần sắc đầy kiêu khí, đáp:
“Ngươi từng nghe vụ án Bạch Xà trộm châu ở Hạ Khuê huyện chưa? Chính tay ta là người vạch trần toàn cục, Vi đại ca của ngươi chẳng qua chỉ đến đúng lúc để ra tay hỗ trợ. Lần này người có thể giúp sức thì rất nhiều, nên cũng chẳng cần phải trông cậy vào hắn.”

Sắc trời còn mờ mịt, mọi người trong Tàn Dương Viện lục tục quay về khách đ**m tụ họp. Kẻ cắn bánh hấp nóng, người bưng chén hồ ma thơm lừng, vừa ăn điểm tâm sớm, vừa thấp giọng bàn bạc về những tin tức thu lượm được trong đêm qua.

Hứa Bão Chân nói:
“Cột cờ trước nha môn đã sớm bị cưa quá nửa, sau đó dùng màu từ hậu sơn che giấu lại. Chỉ cần xe hoa đi qua, dùng lực xô ngã là đủ, địa thế nơi đó lại gấp khúc, bị vây trên cầu, muốn tránh cũng không dễ.”

Thác Bạt tam nương tiếp lời:
“Ám khí bôi độc lần này dùng là lạn tràng thảo và nọc rắn, hai loại độc dược ấy vốn thuộc nhóm thường dùng của năm môn phái vùng Trung Nguyên, cũng không xa nơi này lắm. Ta đã cho người đi dò la từng nơi rồi.”

Khâu Nhậm góp thêm:
“Mông hãn dược cùng lang đãng tử là loại làm tê tê, thường thấy ở các hộ nông dùng để trấn trâu ngựa, hầu như nơi nào cũng có thể mua. Chỉ có mạn đà la là hiếm, ta đã dò qua tám tiệm thuốc ở Linh Bảo huyện và Ngọc Thành, đều không có hàng, chứng tỏ hai loại này chắc chắn không được mua chung.”

Hoắc Thất Lang nhíu mày:
“Kẻ giả làm tân nương dùng mặt nạ da, thủ pháp lại khác hẳn cách ta thường hóa trang. Mặt nạ ấy gương mặt cứng đờ, không thể đổi nét, ngũ quan cố định. Ta tính ép hỏi thì bị nó hăm dọa: nếu ta bẻ một ngón tay nó, thì nó sẽ chặt hai ngón tay tân nương thật.”

La Đầu Đà bật cười:
“Vậy thì ngược lại là tin tốt, chứng tỏ tân nương vẫn còn sống. Kẻ chết thì đâu bận tâm còn mấy ngón tay.”

Hoắc Thất Lang ngán ngẩm:
“Còn Vi đại ca? Giao cho chúng ta làm việc thâu đêm, còn bản thân thì lại ngủ một giấc yên lành.”

Khâu Nhậm đáp:
“Hắn trúng quá nhiều loại độc, tuy đã bức ra hơn nửa, nhưng vẫn còn vướng vào nội tạng và kinh mạch. Muốn khôi phục công lực hoàn toàn, e phải chờ thêm vài ngày.”

Mọi người đều im lặng, trong lòng mỗi người đều âm thầm tính toán. Một vài kẻ thoáng nghĩ đến chuyện nhân cơ hội này lật đổ Vi Huấn, nhưng nghĩ lại, dẫu hắn chưa khỏi hẳn, sự quyết đoán và uy thế vẫn đó, ai cũng không dám khinh suất. Huống chi chuyện của Bàng Lục còn chưa giải quyết xong, nếu thất tuyệt chi thủ lại chết vì nội đấu, thì Tàn Dương Viện có nguy cơ tan rã ngay trước mặt Linh Bảo huyện, lợi chẳng bù hại.

Đúng lúc ấy, từ lầu hai vang lên tiếng bước chân, một thiếu nữ mặc nam trang màu đỏ, lưng mang cung tiễn, dáng người nhẹ nhàng như gió hiện ra. Nàng chỉ liếc mọi người một cái, chưa nói câu nào, đã sải bước đi thẳng tới phòng Vi Huấn, gõ cửa bước vào.

Hứa Bão Chân cau mày:
“Chẳng lẽ hắn muốn đem nàng theo cùng hành động? Người không thuộc giang hồ, chỉ thêm vướng víu thôi.”

Khâu Nhậm đáp:
“Các ngươi có thấy bộ y phục nàng mặc ban nãy không? Chẳng lẽ không có chút công phu?”

Thác Bạt tam nương cười nhạt:
“Đừng nhìn lớp phấn son ngoài mặt, muốn xem một người có biết võ hay không, phải nhìn làn da và đôi tay. Tay nàng trắng đến nỗi chẳng một vết chai, không hề có dấu tích từng cầm vũ khí. Rõ ràng là tay người quen sống an nhàn. Lão Thất, tiểu cô nương kia rốt cuộc là ai?”

Hoắc Thất Lang cười đáp:
“Chỉ biết Cửu Nương là người Trường An, gia thế giàu có, đầu óc lanh lợi, lần này thuê đại sư huynh hộ tống tìm người thân. Còn công phu thế nào, ta cũng chưa thấy qua. Nhưng nếu là đối địch, thì có chúng ta là đủ. Còn nếu muốn tìm người cứu người, đem theo Cửu Nương cũng chẳng thiệt, chính nàng là người đầu tiên phát hiện giếng nước chôn xác.”

Trong lúc đám người còn bàn luận, bên trong phòng, Vi Huấn vừa kết thúc điều tức, thầm xem xét thương thế. Tuy chỉ hồi phục được sáu, bảy phần công lực, nhưng đối phó với kẻ địch cũng đã đủ dùng, chỉ sợ đánh lâu sẽ khiến độc khí thấm sâu hơn vào kinh mạch, dễ phát thành bệnh hàn khi ấy sẽ càng nguy hiểm. Nhưng vụ bắt cóc thế này, thời gian kéo dài càng lâu, con tin càng thêm nguy hiểm, không thể trì hoãn mãi.

Đang mải suy nghĩ tìm cách dùng cái giá nhỏ nhất để cứu người ra, chợt ngoài cửa có tiếng bước chân quen thuộc, rồi tiếng gõ cửa vang lên. Vi Huấn mở cửa, ngẩn người sững lại.

Bảo Châu bước vào, mình vận một thân y phục đỏ rực chính là bộ lễ phục đón khách trong hôn lễ của Bàng Lương Ký, đã được may lại cho vừa vóc nàng. Cổ áo tròn, thắt lưng khảm hoa vàng, bước chân vững vàng trong đôi ủng đế thấp gấm thêu vân.

Nam trang ấy khoác lên người nàng, không chỉ tôn lên nét rực rỡ kiều diễm, mà còn pha lẫn ba phần anh khí cương quyết. Cả căn phòng bỗng như bừng sáng.

Vi Huấn thoáng thất thần, ánh mắt như bị vẻ rực rỡ kia đẩy lùi, trong lòng thầm cảm thán: Màu sắc tươi tắn này, quả thực là dành riêng cho nàng.

Bảo Châu bắt gặp ánh mắt hắn, biết ngay bộ đồ mình mặc quá sức nổi bật, liền cười đắc ý:
“Thế nào? Là y phục tiếp khách, ta nhờ người suốt đêm sửa lại theo kích cỡ mình.”

Vi Huấn trông thấy nàng còn mang theo túi cung, dây cốt đã căng sẵn, biết nàng không chỉ mang theo cho đủ lệ, mà là thực sự chuẩn bị ra tay.

Bảo Châu từng học cung thuật từ danh sư quân đội Đại Đường, thói quen cũng như tướng sĩ thường tháo dây cốt khi hành quân, đến lúc chiến mới giương cung. Nhưng trên giang hồ, đâu cho phép thong thả như thế. Lúc giao chiến, ai nấy đều ra tay trong chớp mắt, kẻ nào lề mề căng dây, ắt thua trước một chiêu.

Nay nàng mang theo cung đã giương, rõ ràng là nghe theo lời khuyên của hắn, khiến Vi Huấn thấy yên lòng phần nào, liền cười nói:
“Xem ra hôm nay ngươi cũng định cùng ta sát phạt tứ phương một phen?”

Bảo Châu thu lại nụ cười, ánh mắt nghiêm nghị:
“Ta đi, còn ngươi thì ở lại. Nghe lời, ở khách đ**m nghỉ ngơi dưỡng thương, uống nước ấm cho mau lành.”
 
Back
Top Bottom