Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 80


“Cái gì chỉ có ngươi mà không có ta?”

Vi Huấn thoáng sững người, ánh mắt vụt hiện vẻ hoang mang. Nhớ tới lời dặn của thầy thuốc mà Khâu Nhậm nhắc lại hôm qua, hắn vội vã nói:
“Lão Tứ chỉ thuận miệng nói bừa, ngươi chớ tin làm gì! Ta thật sự không sao cả. Không tin thì gọi Dương đại phu đến bắt mạch cho ta…”

Bảo Châu lập tức ngắt lời:
“Gã mặt đen ấy tuy thô lỗ, nhưng là danh y có tiếng, chưa từng nói sai một lời với ta. Trái lại, chính ngươi đã nhiều lần giả mạo mạch tượng để lừa khối kẻ ở Hạ Khuê huyện. Khi đó ta đứng một bên nhìn tận mắt, nên nay dù bắt mạch ta cũng chẳng tin ngươi.”

Vi Huấn nghẹn lời, không ngờ trò đùa vô thưởng vô phạt năm xưa, đến hôm nay lại hóa thành gậy gộc quay về tự đập vào mình.

Bảo Châu nghiêm giọng:
“Lão Dương còn chưa khỏi phong hàn, đang nằm ở phòng bên nói mê. Nếu ngươi lại đổ bệnh, chẳng lẽ muốn ta dắt Thập Tam Lang, cưỡi lừa một mình vượt đường dài tới U Châu?”

Vi Huấn cuống quýt giải thích:
“Ta nghỉ một đêm đã khá hơn rồi, chỉ là hôm qua uống nhiều rượu nên mệt.”

Miệng thì nói cứng, nhưng môi đã tái đi vì lạnh. Bảo Châu trong lòng giận lắm:
“Ta biết rõ bệnh cũ của ngươi thế nào, nay lại thêm vết thương độc, thầy thuốc căn dặn rõ ràng mà ngươi còn muốn đi lại khắp nơi, chẳng phải là ngại sống lâu sao?”

Vi Huấn định mở miệng, nhưng Bảo Châu đã lạnh lùng nói tiếp:
“Còn muốn chối? Nếu ngươi dám lừa ta thêm một lần nữa, ta sẽ lập tức đuổi ngươi! Đại Đường ngoài kia có không ít kẻ tự xưng là hiệp khách đồng môn với ngươi, ta hoàn toàn có thể chọn lấy một hai người trong số đó theo ta đến U Châu. Như gã đạo sĩ áo tím kia chẳng hạn, cái áo choàng hắn khoác ta đoán là vật trong cung. Biết đâu hắn đang cố tình bám lấy hoàng thất, vậy thì càng hợp với ta hơn…”

Nàng làm bộ quay người định bước ra cửa. Vi Huấn hoảng hốt, vội với tay giữ nàng lại, tay níu lấy dây thắt ngang hông, ngăn nàng bước đi. Nhưng sau đó lại chẳng biết nên làm gì tiếp theo, chỉ đứng im phía sau nàng, chẳng dám dùng sức, cũng không dám buông tay.

“Đừng! Đừng tìm họ… bọn họ sao sánh được với ta…”

Khi nghe hai chữ “đuổi”, sắc mặt Vi Huấn tái nhợt, lời nói lắp bắp, giọng khàn khàn, chẳng còn chút gì là vẻ ngang tàng thường thấy.

Bảo Châu liếc mắt nhìn hắn, lạnh nhạt hỏi:
“Vì đâu ngươi hơn được họ? Ta thấy ai nấy đều khí sắc tốt lành, không giống ngươi đã xanh xao lại còn cố cãi.”

Vi Huấn cố nuốt khan, cứng giọng nói:
“Dù ta bệnh, thì cũng còn hơn họ về võ công. Lão nhị áo tím kia vốn là kẻ ham danh hám lợi, âm hiểm xảo quyệt, ngươi tuyệt đối không được để lộ thân phận trước mặt hắn. Lão tam là nữ quỷ, chẳng phải ngươi sợ ma quỷ nhất sao? Mà tính nết nàng lại xấu vô cùng, chỉ thích bày trò ám toán, một ngày không gây chuyện là bức bối khó chịu. Lão tứ thì ngươi gặp rồi, thô kệch vô lễ, lại thêm nhiều sở thích gớm ghiếc, ngươi chắc chắn không chịu nổi nếu phải đi đường cùng hắn. Lão ngũ thì tính tình còn được, nhưng đánh nhau thì phát điên, chẳng màng ai khác. Nếu để hắn hộ tống, e là chính ngươi chịu khổ trước.”

Vi Huấn kể ra từng người một, chỉ trích không sót kẻ nào. Nhưng Bảo Châu lại như chẳng để vào tai, mắt vẫn dán vào cánh cửa, lạnh lùng nói:
“Ta không phải người trong giang hồ, không phân được cao thấp võ công. Ta chỉ biết, kẻ sống thì luôn mạnh hơn kẻ đã chết. Dẫu ngươi từng kinh tài tuyệt thế, một khi nằm xuống, thì tất cả đều thành hư không. Kẻ ta dựa vào để sống, một khi không còn, cũng như chim non mất tổ, phải tha hương, chẳng còn ai chở che.”

Giọng nàng run rẩy, dần khàn đi. Vi Huấn giật mình, buông tay khỏi thắt lưng nàng, nghiêng người nhìn lên, chỉ thấy khóe mắt nàng đã đỏ hoe.

Hắn như chợt hiểu điều gì, thấp giọng hỏi:
“Kẻ trong lời ngươi… không phải là ta đó chứ?”

Bảo Châu hít sâu một hơi, cố ghìm nước mắt, mãi sau mới cất lời:
“Ta nói đến mẫu thân ta. Khi bà còn sống từng quản lý cả lục cung, một người dưới trời, trên vạn người. Ta khi ấy ở Bồng Lai điện trong Đại Minh Cung, muốn gì có nấy, chưa từng biết đời này còn có chuyện gì là khó.”

Nhưng bà mất sớm vì khó sinh, mọi quyền lực cũng theo đó mà tiêu tan. Bồng Lai điện vốn là nơi ở của trung cung, bà không còn, ta cùng đệ đệ liền bị dọn đi, đưa đến sống cùng tay chân của kẻ từng đối đầu với bà. Khi ấy a huynh đã được xuất các, dọn vào vương trạch vậy mà cũng chẳng giúp được gì.

Nàng nghẹn ngào:
“Đừng nói đâu xa… ngay tháng Năm năm ấy, ta bị chôn sống đưa vào địa cung. Nếu mẫu thân còn sống, sao ta lại chịu những nỗi oan uổng như vậy? Dẫu là người quyền cao hay võ nghệ cao, một khi mất đi, thì còn gì nữa đâu. Ngươi biết mình còn bao nhiêu ngày tháng, mà lại cứ mãi liều mạng tiêu xài sinh mệnh như thế?”

Nàng nói một hơi, chẳng màng đến việc đã gợi lại chuyện cũ. Vi Huấn rốt cuộc cũng hiểu được, nàng đang đau lòng vì hắn.

Ngay từ khi ở chùa Thúy Vi, trong lòng hắn đã dửng dưng với sống chết. Bao nhiêu người chết oan ngoài đường mỗi ngày, bản thân hắn cũng chẳng giết ít, đến khi gặp Diêm Vương, thì cũng là chuyện sớm muộn. Nhưng hôm nay nghĩ lại, nếu mình chết dọc đường tới U Châu, bỏ mặc nàng một mình trong loạn thế, không ai bảo vệ thì thật chẳng cam tâm.

Bàng Lương Ký nợ ân tình, nàng cũng cần một người đáng tin bên mình. Một đôi tay dễ kiếm, nhưng một người đáng để nương tựa lại khó hơn gấp trăm lần.

Vi Huấn không dám giấu nữa, giọng khẽ như thì thầm:
“Bệnh ta là từ nhiều năm trước, đã tìm không ít thầy giỏi, chữa mãi cũng không khá lên. Sống được tới hôm nay đã là kỳ tích rồi. Nhưng khoảng thời gian còn lại… cũng đủ để đưa ngươi đến nơi an toàn.”

Hắn siết chặt tay, khẽ khàng nói:
” Ta thật sự là người giỏi nhất trong số họ. Xin ngươi… đừng thay ta bằng ai khác.”

Bảo Châu nhìn nét mặt hoang mang của hắn, hồi lâu mới nhẹ gật đầu. Nàng tuy đã kìm nước mắt, nhưng giọng vẫn khàn. Vi Huấn cẩn thận lau chiếc ly, rót cho nàng một chén nước.

Bảo Châu uống vài ngụm, rồi tức giận:
“Sao lại là nước lạnh? Rõ ràng hôm qua ta dặn chủ quán chăm sóc cho ngươi, không được để ngươi thiếu nước nóng cơ mà!”

Vi Huấn đỏ mặt, hận không thể trèo cửa sổ bỏ đi. Đời hắn từng hạ bao nhiêu đối thủ, tay không biết dính máu bao nhiêu lần, vậy mà giờ lại biến thành kẻ yếu ớt không dám ho he trước mặt nàng. Nghĩ lại chuyện chạy trốn lần trước, hắn giờ ngay cả động cũng không dám nhúc nhích, chỉ biết ngửa đầu nhìn trần nhà, im lặng.

Bảo Châu thấy hắn lặng thinh, cổ họng khẽ động, nhìn kỹ vùng cổ hắn, dường như có thứ gì nhỏ bé đang cựa quậy dưới da. Trong lòng nàng thoáng ngờ vực. Tuy nam trang của Hoắc Thất Lang trông rất tự nhiên, nhưng xét kỹ thì vẫn khác với thân thể nam tử thực sự. Nàng nhìn kỹ thêm mấy lần, chợt cảm thấy ngượng, vội quay đi, hai tai cũng nóng bừng.

Mãi mới dằn được nỗi xấu hổ trong lòng, Vi Huấn cười khổ nói:
“Đêm qua bọn tiểu nhị bị người ta đánh cho bất tỉnh hết rồi, giờ chưa chắc đã tỉnh lại. Chuyện nước ấm là do lão Tứ hay ba hoa chích chòe thôi, xin ngươi đừng nhắc lại nữa.”

Bảo Châu thoáng ngẩn ra. Thì ra đám người kia hành sự kín đáo đến vậy, chẳng ai để lộ chút tiếng gió, chẳng hề giống tưởng tượng của nàng về đám giang hồ l* m*ng.

Nàng nói:
“Ta thấy lời Khâu Nhậm nói không sai. Rượu cũ để lâu vốn mang hàn khí. Ngươi trước nay thích uống rượu cất trong cổ mộ, trên đời còn gì lạnh lẽo âm u hơn thế? Uống nhiều, không bệnh mới là lạ.”

Vi Huấn thở dài:
“Từ nay… không uống nữa.”

Bảo Châu thầm nghĩ, Quan Trung danh y đều ở Trường An, sau này có thể tìm vài ngự y chữa cho hắn. Nhưng nghĩ đến việc mình bị chôn sống cũng là sau một lần ngự y chẩn đoán sai, nàng lại thấy khó mở miệng.

Nàng dịu giọng:
“Ta biết ngươi nợ Bàng Lương Ký một món ân tình, phải giúp hắn, nhưng chưa chắc chuyện gì cũng phải tự tay làm. Hãy nghe lời thầy thuốc, ở lại đây nghỉ ngơi thêm hai hôm. Hãy xem ta phá án ra sao. Hung thủ võ công chắc chắn không cao, nếu không đã chẳng dùng trò lén lút. Ngươi không xuất hiện, mới là cách tốt nhất để dụ rắn ra hang.”

Vi Huấn trầm giọng hỏi:
“Lỡ như con rắn độc ấy cắn trúng ngươi thì sao?”

Bảo Châu ngẩng đầu, ánh mắt rắn rỏi, giọng đầy tự tin:
“Ta vốn chẳng muốn để lộ thân phận giữa bọn sư huynh sư muội, nhưng dẫu trời có sập, cũng chưa chắc đè được ta. Dù ngươi đã thay ta chắn lấy mũi độc của kẻ giấu mặt, nhưng phần núi sống này vẫn là ta gánh, món nợ ấy, ta phải chính tay đòi lại!”

Vi Huấn biết nàng tuy thường ngày thích cười đùa, nhưng đến lúc hiểm nguy thì cứng đầu vô cùng, ai khuyên cũng vô ích. Đã quyết việc gì, tất cả mọi người chỉ còn cách thuận theo nàng. Hắn nghĩ ngợi một hồi, rồi tháo thanh dao găm đeo bên hông đưa cho nàng.

“Cầm lấy phòng thân. Nếu gặp nguy hiểm thì đừng cố liều mình đối đầu, cứ tìm lão Ngũ hay lão Thất mà tránh. Nhưng nhớ kỹ, nếu thấy lão Ngũ bắt đầu lẩm nhẩm tụng kinh, thì đừng chần chừ gì nữa, phải chạy càng xa càng tốt.”

Bảo Châu nhận lấy, rút ra một đoạn, thấy giữa vân thép ánh lên mặt gương, phản chiếu dung nhan mình như soi vào một dòng nước âm u và kỳ bí.

Nàng hỏi:
“Thanh đao này rốt cuộc tên gọi là gì?”

Vi Huấn đáp tỉnh queo:
“Gọi là dao… ăn.”

Bảo Châu tức tối:
“Ít nhất cũng là binh khí từ ngàn năm trước, sao ngươi có thể coi nó như dao ăn dùng hàng ngày? Thật là xúc phạm đến nguồn gốc của nó!”

Vi Huấn cười khẽ, không mấy để tâm:
“Không ưng thì tự đặt cho nó cái tên đẹp đi.”

Bảo Châu suy nghĩ một lúc, rồi nhẹ nhàng nói:
“Trong Tấn thư có chép rằng: “Ngưu Chử là vực sâu không đáy, bên dưới đầy quái vật. Lấy sừng tê giác trừ tà, dùng ánh lửa soi xuống thì có thể nhìn thấu mọi thứ ẩn giấu.” Chủy thủ này cán làm từ sừng tê, thân khắc vân nước, thôi thì đặt tên là Tê Chiếu, mong nó có thể soi sáng dòng sông ngầm u tối kia, chiếu rọi mọi tà ma quỷ mị.”

Vi Huấn gật đầu tán thưởng:
“Tên hay. Hy vọng ngươi có thể dùng nó trấn áp con quái dưới tầng hầm, bắt được cả kẻ đứng sau vụ bắt cóc tân nương.”

Bảo Châu nghiêm túc:
“Ngươi cũng phải giữ lời đã hứa với ta.”

Vi Huấn đáp ngay:
“Nghe theo lời thầy thuốc dặn, hai ngày tới tuyệt không vận công, tránh động đến khí huyết.”

Bảo Châu vừa lòng gật đầu, cẩn thận giắt dao găm vào hông, rồi tháo chiếc túi nhỏ mang theo. Đó là túi thường dùng của quan viên trong triều để đựng bút mực. Nàng biết tính Vi Huấn không thể ngồi yên, nên riêng xin Dương Hành Giản đưa cho một túi để hắn luyện chữ.

“Trước từng hứa sẽ dạy ngươi viết chữ, nhưng mấy hôm nay bận lên đường liên tục, không có dịp luyện tập. Giờ đang rỗi rãi dưỡng thương, tiện thể học luôn đi.”

Nàng mở trang giấy, chấm mực, viết trước một đoạn “Ngũ Liễu tiên sinh quy viên điền cư”, rồi bảo Vi Huấn ngồi xuống, tay nắm tay sửa cho hắn tư thế cầm bút.

“Phép cầm bút tám phần là đúng, ngón trỏ vững, lòng bàn tay nhẹ. Năm thế tay cần nhớ: Dẫn, ấn, móc, hất, giữ.”

Cách giảng dạy viết chữ chẳng khác gì dạy luyện võ tâm pháp, Vi Huấn vốn chỉ nghe một lần là hiểu, nhưng lúc này vì tay nàng đặt lên tay hắn, trong đầu hắn như có sấm nổ, tai lùng bùng không nghe rõ nàng nói gì, lòng rối như tơ vò, tay chân cũng chẳng còn biết nặng nhẹ.

Từng ngón tay nàng dịu dàng uốn nắn từng động tác cho hắn. Vi Huấn tay khẽ run, bất giác siết mạnh khiến bút ngà bị bóp nứt.

Chưa từng gặp học trò nào tay mạnh đến vậy, Bảo Châu nhíu mày rút cây bút gãy từ tay hắn, không tin nổi:
“Không thể dùng cách cầm vũ khí để cầm bút! Đây là ngà voi, dù làm bằng gỗ chắc cũng chịu không nổi sức tay ngươi. Trong túi chỉ còn một cây dự phòng thôi đấy, nhớ nhẹ tay!”

Nàng lấy bút mới, đưa lại:
“Hãy tưởng tượng ngươi đang cầm một cành hoa, mềm mại, mong manh, nếu dùng sức quá sẽ gãy. Ngón tay chỉ nên giữ nhẹ, điều khiển bằng cổ tay. Ngươi là người học võ, chẳng lẽ không biết cách phát lực từ khớp cổ tay?”

Nàng lại một lần nữa cầm tay sửa cho đúng, chỉ rõ từng đốt ngón tay, từng khớp nối.

Khoảng cách gần đến nỗi có thể nghe rõ hơi thở thơm dịu. Vi Huấn càng cúi thấp đầu, gần như áp sát mặt bàn, chẳng nói chẳng rằng, chỉ gật khẽ một cái. Thực ra tay đã tê dại, cả người như hóa thành một khúc gỗ. Hắn phải ngừng thở, âm thầm tụng khẩu quyết tĩnh tâm, mới giữ được vẻ ngoài không phát run.

Tay nàng mềm như cánh hoa đào, đầu móng tay hồng hồng trong suốt, như cánh hoa vừa hé nở. Nhưng lúc này không phải hắn cầm hoa, mà là hoa đang nắm lấy hắn.

Cảm giác lạ lan nhanh từ tay lên khắp cánh tay, rồi đến vai. Nhanh hơn bất kỳ loại độc nào, hắn chẳng thể chống đỡ, cũng chẳng nén được. Bao năm kiêu ngạo vì giỏi điều khiển thân thể, lúc này chỉ còn biết thừa nhận: đây quả thực là bệnh vào tận xương, chỉ muốn có một chỗ nghỉ lưng một lát.

“Được rồi, như thế là đúng! Ngươi cứ ở trong phòng, viết câu này: “Lâu ở lồng chim, phục đến phản tự nhiên” đủ trăm lần. Chữ lung kết cấu phức tạp, chờ khi ngươi viết thuần thục, cũng là lúc có thể từ nhà giam chui ra, quay về với tự nhiên.

Bảo Châu dặn dò một hồi, thấy Vi Huấn không ngẩng đầu, vẫn cắm cúi viết theo mẫu, tay giơ bút vững vàng, cả người cứng đờ như tượng. Tưởng hắn chăm chú học hành, nàng trong lòng càng khoái chí, cảm thấy mình thật sự có dáng làm thầy, liền tươi tắn gọi khẽ:
“Ta đi đây!” rồi líu ríu bước ra cửa.

Cửa vừa khép lại, Vi Huấn lập tức gục luôn xuống bàn, tay phải vẫn giơ cao không dám động, sợ chỉ hơi động là phá thế cầm bút nàng đã sửa. Cảm giác ấm áp, mềm mại nơi tay nàng vẫn còn đọng lại trên da, khiến hắn chẳng dám chạm, cũng không dám bị ai chạm đến.

Chưa kịp thở ra một hơi, bên ngoài lại vang lên tiếng bước chân. Bảo Châu lần này không gõ cửa, cứ thế đẩy vào. Vi Huấn ngẩng đầu, ánh mắt đầy tuyệt vọng, không biết nàng còn định hành hạ gì thêm.

Thì ra Bảo Châu thấy hắn ngoan ngoãn quá mức, sợ hắn đang toan tính chuyện trốn đi, nên trở lại nhắc nhở, giọng lạnh tanh:
“Ta bảo viết một trăm lần là một trăm lần. Chờ ta phá án về sẽ đếm từng tờ. Nếu thiếu một tờ…”

Nàng ngẫm nghĩ, rồi quyết định đem ra tuyệt chiêu từng dùng phạt đệ đệ mình là Lý Nguyên Ức, híp mắt, nghiến răng dọa:
“Ta sẽ lấy thước đánh vào lòng bàn tay ngươi!”

Nói rồi lại đóng cửa rời đi.

Vi Huấn lại một lần nữa gục đầu xuống bàn, mãi không ngồi dậy nổi.

Mãi lâu sau, dư âm kỳ lạ nàng để lại mới dần tan đi. Vai hắn khẽ run, không nén được bật cười khe khẽ, lòng rối như mớ bòng bong:
“Chữ này… rốt cuộc là nên viết hay không nên viết đây? Nghe lời, thì đúng là được gần nàng. Không nghe lời… hình như cũng có chút hay ho riêng.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 81


Sau khi thành công nhốt được Vi Huấn trong phòng luyện chữ, Bảo Châu mang bao tay bảo hộ, từ tay đến chân trang bị đầy đủ, dáng vẻ oai phong từ trên lầu hai bước xuống.

Đám người phía dưới vừa trông thấy nàng bên hông đeo thanh dao găm, ai nấy sắc mặt đều có phần bất ngờ, vẻ mặt đủ mọi loại cảm xúc khó nói : kẻ thì lộ vẻ căm phẫn bất bình, người lại hả hê, kẻ thì khinh thường.

Trong lòng mỗi người đều vang lên tiếng thầm than: Hắn vậy mà lại giao cả Ngư Tràng kiếm cho nàng!

Ngư Tràng chính là một trong mười thanh kiếm cổ xưa nhất, từng xuất hiện trong các truyền tích chư hầu thời loạn, so với những thanh kiếm chỉ để vương tộc cất giữ làm vật trưng bày thì nó mang sát khí từng nhuốm biết bao máu lửa nơi sa trường có uy danh vang dội. Năm xưa bị Trần Sư Cổ đào ra từ một ngôi mộ cổ thời Tiên Tần, do đã nghìn năm chưa dính máu nên sắt bị gỉ nhiều chỗ trông chẳng khác gì một cây gậy sắt.

Khi còn trẻ, Trần Sư Cổ dùng chính thanh gậy sắt ấy đánh chết bảy trưởng môn các phái ở Quan Trung mở ra một cõi giang hồ nhuộm máu mà nên. Ngư Tràng kiếm, sau nhiều lần uống máu, dần dần lấy lại sự sắc bén năm xưa, từ đó trở thành vật trấn viện khi Tàn Dương Viện thành lập. Về sau, khi Trần Sư Cổ già yếu, ông trao lại cho đệ tử là Vi Huấn.

Oái oăm thay, thầy trò hai người lại chẳng ai thật sự quý trọng thanh kiếm này. Trần Sư Cổ chê kiếm ngắn khó dùng, đem mài thành dao găm; còn Vi Huấn thì chẳng màng binh khí, ngày thường dùng thanh Ngư Tràng như… dao ăn. Mấy người sư huynh đệ trong viện đã sớm bất mãn, chỉ là không tiện nói ra.

Trong lòng mỗi người dâng tràn phẫn uất và nghi ngờ. Lúc ấy Hoắc Thất Lang tiến lên, tươi cười đón nàng, trước là khen ngợi bộ nam trang của nàng hôm nay, rồi mới hỏi:
“Đại sư huynh đâu?”

Bảo Châu đáp:
“Hắn không đi. Giờ tới lượt ta phá án.”

Thác Bạt Tam Nương nghe vậy tức thì giận sôi, thấp giọng lầm bầm:
“Tiểu nha đầu này cho rằng thanh dao găm ấy là lệnh bài sư môn chắc? Muốn dùng vật đó ra lệnh cho bọn ta?”

Hứa Bão Chân cũng lạnh lùng nói:
“Chúng ta chẳng ai từng thừa nhận Ngư Tràng kiếm là lệnh phù cả. Nó chỉ là biểu tượng người có võ công cao nhất thôi.”

Khâu Nhậm bật cười hắc hắc:
“Vậy các ngươi dám cướp lấy nó từ tay cô nương ấy không? Ý Vi đại là muốn chúng ta thấy kiếm như thấy người, chớ có làm loạn.”

Mấy người nhỏ giọng bàn bạc. Hoắc Thất Lang lại hỏi tiếp Bảo Châu:
“Chuyện chiến đấu đại sư huynh xưa nay chưa từng vắng mặt, chẳng hay hôm nay là vì bệnh hay thương tích?”

Bảo Châu không muốn để lộ tình trạng thật của Vi Huấn, liền bịa:
“Không, hắn quyết định từ bỏ võ học, theo ta học chữ, giờ đang luyện viết trong phòng.”

Cả căn phòng lập tức rơi vào im lặng, rồi vỡ òa tiếng xì xào bàn tán. Hứa Bão Chân và Thác Bạt Tam Nương nghe thế liền muốn bỏ đi, nhưng lại ngần ngại Ngư Tràng kiếm là binh khí trấn viện, giờ nằm trong tay một thiếu nữ xa lạ, lỡ bị ai cướp mất thì quả là chuyện lớn.

Hai người ấy lòng đầy toan tính, nửa muốn đi, nửa không đành. Trong lúc ấy, Bảo Châu đã bước ra khỏi đám người, dắt con lừa, nhẹ nhàng lên yên, ánh mắt nhìn thẳng, dáng vẻ quyết đoán.

Hoắc Thất Lang xưa nay vốn thương hoa tiếc ngọc, lập tức đi theo hộ tống.

Thấy phần lớn người còn đứng ngẩn ra, Bảo Châu quay đầu nói lớn:
“Hung thủ tráo tân nương là ai, ta đã đoán được bảy tám phần. Vi lang hôm nay không ra khỏi cửa, các ngươi đứng đây chờ chẳng được gì. Theo ta, cơ hội phá án càng lớn hơn.”

Thái độ quá mức tự tin khiến Thác Bạt Tam Nương không nhịn được mỉa mai:
“Ồ, hôm nay khẩu khí lớn thật đấy! Không phải trước kia toàn khóc lóc chờ tiểu quỷ đầu tới cứu đó sao?”

Bảo Châu trong lòng tức tối, nhưng vẫn nhẫn nhịn, cất cao giọng:
“Ngươi dùng mấy trò giả thần giả quỷ, thủ đoạn chẳng có gì hay ho nay trời sáng rõ, ta chẳng ngán ngươi đâu. Các ngươi đi hay không tùy ý. Ta chỉ nói một điều: Vụ án trộm châu ở tháp Phật huyện Hạ Khuê là do ta phá được, Hoa Châu đệ nhất danh bộ La Thành Nghiệp cũng đã bị ta đánh bại. Sư huynh các ngươi chỉ góp mặt giúp ta một vài phần nhỏ mà thôi.”

Mọi người nghe vậy ngẩn ra, đưa mắt nhìn nhau dò xét.

Khâu Nhậm lên tiếng:
“Chuyện này giang hồ đồn đãi ầm ĩ cả lên. Viên ngọc bạch xà ở huyện Hạ Khuê kia chẳng phải do đại sư huynh trộm sao?”

Hoắc Thất Lang vỗ ngực xác nhận:
“Không phải đâu. Lúc đó lão thất ta có mặt, vụ án rất phức tạp, đúng là Cửu Nương tự mình phá.”

Khâu Nhậm vẫn chưa hết nghi ngờ:
“Ủa? Sao kỳ vậy? Ta nhớ ngày đó hỏi, đại sư huynh còn khoe rằng đã trộm được viên bảo châu quý nhất tặng cho Bảo Châu, hiện giờ vẫn đeo trên người, chẳng phải là viên ở huyện Hạ Khuê sao?”

Bảo Châu kinh ngạc sững người, rồi chợt hiểu ra Vi Huấn đang lấy danh nghĩa nàng làm chuyện bậy, lập tức nổi trận lôi đình, nghiến răng nghiến lợi:
“Đó là chuyện ở Trường An, không liên quan tới bạch xà châu gì cả!”

Tàn Dương Viện từ trước tới nay vẫn là nơi “gánh tội thay” nổi danh trong chốn giang hồ. Bọn họ mỗi người đều từng vài ba lần bị mang tiếng thay người khác, nên chuyện đồn thổi thế nào cũng không quá tin. Lần này nghe Bảo Châu giải thích, lại có Hoắc Thất Lang làm chứng, đành tạm thời tin tưởng.

Dù sao trong mắt họ, La Thành Nghiệp tuy không phải là cao thủ nhưng danh hiệu “Hoa Châu đệ nhất danh bộ” cũng không phải hư danh. Không ngờ lại bại dưới tay một thiếu nữ, lần này mới nhìn nàng bằng con mắt khác.

Hôm ấy, trời âm u, mây đen giăng kín như sắp mưa. Bảo Châu không muốn nói nhiều, khẽ giật dây cương, con lừa cất bước đi trước. Hoắc Thất Lang lập tức thúc ngựa đuổi theo.

La Đầu Đà hỏi:
“Trong các ngươi, có ai nắm chắc bảy tám phần như nàng?”

Thấy ai nấy đều im lặng, hắn xách tích trượng, sải bước đuổi theo.

Khâu Nhậm bĩu môi, cũng cưỡi lừa đuổi theo.

Thác Bạt Tam Nương thở dài, tay nhấc vạt váy, chậm rãi bước qua bậc cửa. Hứa Bão Chân thấy thế kinh ngạc hỏi:
“Ngươi cũng đi?”

Thác Bạt Tam Nương ngoái đầu mỉm cười, thì thầm như gió thoảng:
“Một chữ “tình”, nhị sư huynh mãi không hiểu được đâu. Ta đoán tiểu quỷ kia chẳng yên lòng để nàng một mình ra mặt, dù ngày mai có chết, hôm nay cũng sẽ âm thầm theo sau. Nếu hắn đã đi, thì chẳng khác nào Tàn Dương Thất Tuyệt cùng ra tay. Như thế cũng không tính là mất mặt đâu.”

Nói rồi bước đi nhẹ nhàng như làn khói mỏng.

Hứa Bão Chân dù không hiểu lắm, nhưng lo Ngư Tràng kiếm bị Tam Nương đoạt mất, đành lưỡng lự một hồi, rồi cũng dẫn đồ đệ theo sau nhập đoàn.

Trên lầu hai, Dương Hành Giản mặt mày xám ngắt, chống gậy đứng nhìn theo bóng Bảo Châu rời đi giữa đám người. Hắn muốn theo sau nhưng sức khỏe không cho phép, đến xuống lầu cũng không nổi. Trong lòng càng giận dữ: tên áo xanh kia hôm nay không hiểu nghĩ gì mà chẳng theo bên bảo hộ công chúa, còn ra thể thống gì nữa?

Bảo Châu đội mũ có rèm, cưỡi trên lưng lừa, giữa vòng vây quần hùng, thẳng hướng Ngọc Thành mà đi.

Trên đường, kẻ qua người lại thấy nàng cùng đoàn giang hồ khách khí thế hùng hổ, sắc mặt nghiêm nghị, ai nấy đều sợ chọc phải Diêm Vương, liền chủ động né tránh. Bảo Châu tuy chẳng mấy vui vẻ khi đi cùng một đám người hình dáng cổ quái, nhưng tình thế hiện tại lại chẳng khác nào cảnh một người quyền cao chức trọng ra phố, thị vệ hai bên mở lối.

Rời khỏi huyện thành Linh Bảo, khói mù nặng nề phủ đầy trời, không khí lẫn mùi bùn đất tanh ngai ngái, thêm mấy phần âm u nặng nề. Gió lạnh quất tới xé áo giật tóc, trời âm trầm thấp nặng, như sắp mưa mà lại không mưa, khiến người đi đường phân vân: nên về nhà tránh mưa, hay là chờ xem tình hình rồi mới tính?

Hoắc Thất Lang hỏi nàng:
“Hiện giờ chưa có chút manh mối nào, ngươi lại nói nắm chắc đến bảy tám phần, vậy ngươi đoán hung thủ là ai?”

Bảo Châu ngẩng đầu nói:
“Thiên cơ bất khả lộ. Ta ngờ rằng có liên quan đến vụ án cũ năm xưa ở Đại Lý Tự.”

Nàng hỏi lại Hoắc Thất Lang:
“Hôm ấy đón dâu, ngươi đi suốt bên kiệu hoa, có từng phát hiện dấu hiệu nào cho thấy tân nương bị tráo đổi trên đường không?”

Hoắc Thất Lang lắc đầu:
“Tuyệt đối không thể. Từ lúc rước dâu từ Tiêu gia ra, ta cùng đại sư huynh luôn dõi theo mọi động tĩnh trong xe, dù thật hay giả cũng chỉ có một người. Lúc ấy đoàn rước loạn cả lên, tân nương trong kiệu hơi thở vẫn đều, lòng ta còn thầm phục tính khí trầm ổn của nàng dâu lão lục. Giờ ngẫm lại, e là ngay từ lúc rời nhà mẹ đẻ đã không phải người thật.”

Nàng bĩu môi:
“Cũng tại tân nương quỳ xuống quá nhanh, nếu khi ấy Lão Lục lên tiếng ngăn lại, ba chúng ta đã chẳng đến nỗi để đám tẩu tẩu muội phu nhà họ xúm lại đánh cho một trận tơi bời rồi.”

Bảo Châu lặng lẽ trầm ngâm. Ngày hôm ấy nàng có mặt từ đầu đến cuối, nhưng không bước chân vào nhà Tiêu gia đón dâu. Sau việc mới nghe Vi Huấn và Hoắc Thất Lang kể lại, tất nhiên bỏ sót nhiều chi tiết then chốt.

Đang đắm chìm trong suy nghĩ, bỗng thấy nơi đất hoang ven đường, cách chừng trăm bước, sừng sững một nấm mộ lớn. Cũng con đường ấy, cũng lộ trình ấy, hôm rước dâu đi qua mà chẳng ai để tâm. Khi ấy hỉ khí ngập trời, đâu có ai trông vào mấy chỗ không may kia. Giờ giữa cảnh hoang vu thê lương, trông lại chốn đó mà lòng chợt dấy lên cảm giác nặng nề bất an.

Đột nhiên, một trận gió dữ từ phía nấm mồ cuốn tới, cát bay đá chạy, bụi đất mù mịt, khiến người ta mở mắt không nổi. Cùng lúc, giữa mộ phần vang lên tiếng kêu rít gào rợn người, như từ âm phủ vọng về, nghe như tiếng quỷ khóc ma gào. Bảo Châu nghe động, cả người nổi gai lạnh buốt.

Nàng đội mũ có rèm, lại có khăn che mặt, nên gió lạnh khó lùa tới, đôi mắt còn nhìn được mờ mờ. Chỉ thấy sau bia mộ thấp thoáng bóng đen như tro bụi lay động.

Bỗng bóng đen nọ lao vọt ra, hình như mang theo hai cánh vỗ phành phạch giữa không trung, tiếng rít chát chúa vang rền. Bảo Châu phản xạ theo bản năng, giương cung, một mũi tên bật ra, vun vút lao tới. Theo sau là một tiếng rú xé gan, bóng dáng kia quằn quại giữa không trung, rơi nghiêng xuống, rồi lẩn thẳng vào rừng đào bên cạnh, thoáng nhìn tựa như một loài ác điểu to lớn nào đó.

Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp mắt, lại cách trăm bước, bọn họ còn đang gượng mở mắt giữa gió lốc, thì bóng kia đã biến mất, chỉ còn âm vang vẳng lại quanh khu mộ địa. Với tầm xa như thế, nếu không phải cung tiễn, thì chẳng có môn võ nào kịp ra tay.

Lúc đầu thấy Bảo Châu mang theo cung, ai nấy còn ngờ nàng chỉ học lỏm đôi chút rồi mang ra khoe mẽ như bọn tiểu thư nhà giàu. Nhưng cú bắn vừa rồi nhanh như sấm giật, chuẩn xác như tay thiện xạ hạng nhất, khiến tất cả đều giật mình. Thác Bạt Tam Nương vốn giỏi dùng ám khí, càng hiểu rõ cung bắn trong gió loạn dễ lệch mục tiêu, phải có bản lĩnh lão luyện và tính toán cực kỹ mới dám bắn trúng. Nàng chẳng thể không thầm tán thưởng tài bắn cung của thiếu nữ trẻ kia.

Song miệng nàng lại không chịu buông lời khen, ngược lại bĩu môi chê bai:
“Ngươi mang nhẫn ban chỉ, lại đeo bảo hộ tay, làn da tuy trắng trẻo, nhưng dễ ảnh hưởng cảm giác, thể lực yếu, chưa thể bắn chí mạng.”

Bảo Châu vốn chẳng ưa nàng, liền đáp thẳng:
“Có công cụ hỗ trợ tuy không bằng tay không linh hoạt, nhưng ta mang đủ thứ vướng víu vẫn là người duy nhất đả thương được địch. Chẳng phải càng chứng minh ta giỏi hơn người khác một bậc sao? Không phục, ngươi bắn thử đi!”

Lời nàng vừa dứt, mọi người liền thấy toát ra hẳn mùi kiêu ngạo quen thuộc. Ba đệ tử đầu của Tàn Dương Viện luôn được xếp trên, cách biệt với đám còn lại. Còn Vi Huấn thì xưa nay vẫn luôn ngang ngược, thường nói những lời chẳng ai cãi nổi. Nhớ lại bộ mặt tên tiểu quỷ ấy lúc hăng hái tự đắc, ai nấy đều cắn răng nhịn, không dám bật lại.

Trong lòng Bảo Châu lúc này lại nghĩ: nhóm người này quả thực không ai sánh được với Vi Huấn. Ngày xưa nàng bắn trật con mồi, hắn đã phóng như bay đuổi theo. Còn bọn này thì mắt trơ trơ, chẳng ai nhích một bước. Chẳng lẽ bắt nàng tự mình đi đến? Cưỡi lừa đuổi theo thì cũng được đấy, nhưng bên kia là mộ lớn, nàng vốn sợ ma, chẳng dám đến gần. Nếu Vi Huấn có mặt, hẳn đã hiểu lòng nàng mà giúp đỡ.

Nàng không biết rằng, bọn họ mỗi người một tính, ai cũng chẳng phục ai. Nay đại sư huynh không có mặt, chẳng ai nắm quyền vốn định tự đi tìm dấu vết, giờ lại cố tình đứng yên xem nàng làm được gì.

Chờ một hồi vẫn chẳng thấy ai động đậy, Bảo Châu thở dài, định bụng phải lên tiếng sai bảo, thì mặt đất bỗng chấn động, tựa hồ có đoàn ngựa đang tới gần. Chẳng bao lâu, Bàng Lương Ký dẫn theo hơn hai chục người từ hướng Ngọc Thành cưỡi ngựa phi nhanh tới, khí thế cuồn cuộn, vừa lúc gặp đoàn Bảo Châu ở dọc đường.

“Nhị sư huynh! Tam sư tỷ! Tứ sư huynh! Ngũ sư huynh! Lão Thất!”

Hắn không tiện xuống ngựa, hô một mạch mấy người, sau đó ghìm cương chạy tới trước mặt Bảo Châu:
“Ta ngồi chờ mãi mà không thấy các ngươi đến, chờ rồi lại chờ, cuối cùng quyết định đem người tới đón.”

Tối qua việc được nàng sắp đặt, hắn chỉ trong một canh giờ đã thu xếp đâu vào đấy. Tật Phong Thái Bảo dù đôi chân tàn phế, nhưng vẫn nóng lòng như lửa đốt, hễ có hy vọng là lập tức hành động.

Bảo Châu nghĩ bụng: ban đầu thấy tên này ngây ngô, giờ so với đám giang hồ này, hắn lại là người tỉnh táo duy nhất. Nàng kể lại chuyện quái lạ vừa rồi, nói:
“Ta săn thú bao năm, chưa từng gặp con quái điểu nào như thế. Cả thứ chim đầu chó do Tây Vực tiến cống cũng chưa chắc to như vậy.”

Bàng Lương Ký lập tức nói:
“Các ngươi đi trước vào Ngọc Thành. Đất hoang này mò mẫm tốn thời gian ta dù gì cũng chẳng đánh đấm gì được, vừa lúc đem người tới đi tìm.”

Đoạn sai người xuống ngựa, nhường ngựa cho các vị sư huynh sư tỷ.

Bảo Châu liếc qua đám người theo hầu, đều là gia đinh bình thường. Nghĩ bụng: nay Bàng gia bị kẻ nhắm tới, không thể để những người này một thân một mình dễ trở thành miếng mồi. Bèn quay sang đám người Tàn Dương Viện:
“Có người nên theo Bàng Lương Ký, phòng khi xảy ra chuyện bất trắc còn có người ứng biến.”

Mọi người lặng lẽ đưa mắt liếc dao găm bên hông nàng, trong lòng đều hiểu: bảo vệ Bàng Lục là việc nên làm, lời này dù chẳng phải phát từ miệng nàng cũng cần có người thực hiện.

La Đầu Đà trầm giọng, lời ít ý nhiều:
“Ta ở lại.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 82


Đoàn người tiến vào Ngọc Thành trong tay nắm ba đầu mối cần phải tra xét. Bảo Châu nhất thời do dự, chưa biết nên bắt đầu từ đâu. Lúc ấy, Thác Bạt Tam Nương bất ngờ quay đầu ngựa, định tách ra khỏi đoàn.

Bảo Châu thấy nàng nhắm hướng phủ Bàng Lương Ký, liền cất giọng nhắc:
“Tân nương mất tích, hiện trường đầu tiên hẳn là Tiêu gia, đâu phải Bàng gia?”

Thác Bạt Tam Nương bật cười khinh khỉnh:
“Ta muốn đi đâu, cần gì phải bẩm báo với ngươi?”

Nói đoạn, nàng không thèm ngoảnh lại, thúc ngựa phóng đi.

Bảo Châu giận tím mặt. Hoắc Thất Lang vội giải thích:
“Tam sư tỷ vốn tinh thông mật thám, ẩn thân hành thích, dò la cơ mật, hoặc hạ thủ đoạt đầu. Lần này e là nàng muốn quan sát thủ pháp của kẻ địch, mà kẻ giả làm tân nương kia chắc chắn cũng không phải hạng tầm thường, cần có người bản lĩnh theo dõi sát sao.”

Bảo Châu nghe xong, tim như gõ trống. Trong lòng nảy ý muốn thu phục Tam Nương về dưới trướng. Nhưng nữ nhân ấy vốn tính tình ngạo mạn, khó thuần, dường như còn lấn át cả Vi Huấn, nói năng tử tế thôi cũng đã chẳng dễ.

Nàng dõi mắt nhìn theo bóng dáng nữ hiệp thần sắc quỷ dị kia dần khuất sau con hẻm vắng, khẽ thở dài:
“Nàng đã chọn đi Bàng gia, vậy thì ta trước tiên tới Tiêu phủ.”

Ngày rước dâu hôm ấy, Tiêu phủ ngựa xe tấp nập, cửa trước rộng mở, tiếng nhạc vang khắp nơi. Giờ đây lại tiêu điều vắng lặng, một lão bộc còng lưng, chậm rãi hất từng gáo nước giữa sân, quét tàn tro rơi rụng như người chẳng còn sức lực.

Đoàn người xuống ngựa, không ai ra đón, không cả người dắt lừa dắt ngựa. Họ đành tự mình buộc dây cương vào cọc gỗ trước cổng, lặng lẽ đi thẳng vào trong. Mãi đến khi vào tới giữa sân, mới có một nha hoàn lật đật chạy vào trong báo tin.

Chờ khá lâu, một người đàn ông trung niên áo gấm từ trong bước ra. Trên mặt hắn thoa phấn trắng dày, hương thơm xộc thẳng vào mũi, so với mặt Bảo Châu điểm trang còn diêm dúa hơn vài phần. Hoắc Thất Lang vừa thoáng nhìn đã phải nhăn mặt cắn răng.

Người ấy vẻ mặt cao ngạo, mũi hếch lên trời, cất tiếng hỏi:
“Các người là ai?”

Bảo Châu nhìn cách ăn mặc và tuổi tác của hắn, đoán đây hẳn là chủ của Tiêu phủ, liền nói:
“Tiểu nữ là Dương thị Cửu Nương, họ hàng nhà Bàng Lương Ký. Do Tiêu tiểu thư bất ngờ mất tích trong ngày thành thân, nên tiểu nữ đến nhà mẹ đẻ nàng dò la sự tình. Ngài là thân phụ nàng sao?”

Kẻ kia vẫn giữ nguyên vẻ khinh khỉnh, tuyệt không lộ lấy một nét lo âu vì con gái mất tích. Tuy thời Đường nam tử nhà giàu có thói thoa phấn điểm hương, nhuộm tóc chải râu, không phải chỉ riêng mình nữ giới, nhưng con gái vừa mới mất tích hôm qua, hắn không những chẳng sai người qua hỏi han nhà thông gia, lại còn trang điểm rực rỡ thế kia, khiến ngay cả Bảo Châu cũng phải nhíu mày khó chịu.

Người nọ xưng danh:
“Ta là Tiêu Sĩ Liêm. Tiêu Nhiễm đã gả vào Bàng gia, từ lúc bước chân lên kiệu hoa rời khỏi cửa nhà, nàng đã không còn là người của Tiêu thị. Các ngươi đem chuyện náo loạn khiến lời ra tiếng vào, giờ còn có mặt mũi tới đây dò xét sao?”

Bảo Châu vốn định ôn hòa hỏi chuyện, mong lần theo dấu vết tìm ra chút manh mối. Nào ngờ chủ nhà tự nhận là “thanh quý”, lại ngạo ngược vô lễ, ngay câu đầu đã phủi sạch quan hệ, mặt đầy vẻ “gả rồi thì mặc kệ”, khiến nàng lập tức nổi giận. Dẫu sao nàng cũng là dòng dõi vọng tộc, nếu luận tài đối đáp, bọn kẻ sĩ nghèo rớt này sao địch nổi Lũng Tây Lý thị?

Nàng cười nhạt, ngẩng cao đầu, giọng lạnh lùng:
“Họ là ‘Sĩ Liêm’, mà hành xử chẳng khác nào kẻ ham lợi. Vội vã phủi tay, chẳng lẽ sợ Bàng gia đem tân nương bị tráo trả về, bắt ngươi trả sính lễ sao? Nhìn cảnh nhà tiêu điều thế này, sợ rằng cả đời chẳng có cháu bồng, chẳng dám nhận lại cô con gái đã bán đi làm của hồi môn. Phấn son ngươi bôi trên mặt, tơ lụa ngươi mặc trên người, chẳng phải đều từ tiền sính lễ đó sao? Nay muốn thoái hôn, đòi lại của, e là cũng chẳng dám ra mặt nói rõ với người ta, đúng là khó xử thật đấy.”

Nàng nói bằng giọng châm biếm sâu cay, ánh mắt lạnh lùng khinh miệt.

Tiêu Sĩ Liêm nghe xong mặt mày tái xanh, miệng há hốc, tay run run chỉ vào nàng, lời nói nghẹn lại nơi cuống họng.

Từ xưa, thế tộc vọng tộc vốn lấy huyết thống và phẩm cấp làm đầu, giữ nghiêm lễ nghi, khinh thường thông hôn với hạng hàn môn. Nhưng thời thế đổi dời, nhiều nhà vọng tộc sa sút, kinh tế eo hẹp, lại bị những gia tộc mới giàu lấn át, bèn đem nữ nhi gả cho kẻ có tiền để đổi lấy sính lễ, mong dùng của cải bù đắp thể diện, gọi là “bán hôn”.

Nếu hai bên ưng thuận còn dễ thông cảm. Nhưng có nhà, cha mẹ chẳng hỏi ý con, không màng tuổi tác, bệnh tật, dung mạo, chỉ xét tiền tài, đem con gái như món hàng mà gả bán, khiến người đời cười chê, gọi là gả con vì lợi, là mang danh bán nữ nhi.

Việc này triều đình từng ra lệnh cấm, nhưng lòng tham con người thì đâu dễ dứt. Lệnh ban chưa ráo mực, nạn bán con vẫn nhan nhản khắp nơi.

Tiêu Sĩ Liêm thừa biết hành vi đó bị thiên hạ khinh miệt. Nhiều lời đàm tiếu đang lan truyền cũng nhắm vào hắn, nói hắn đem con gái còn giữ tiết hạnh gả cho kẻ què chân tàn phế, chỉ vì tham món sính lễ. Bị Bảo Châu vạch mặt ngay trước sân, hắn xấu hổ đến mức mặt mày trắng bệch, chỉ đành gắt lên:

“Con ranh kia! Ngươi là thứ hàn môn vô danh lấy tư cách gì mà đến đây hỗn hào với nhà ta?”

Nào ngờ hắn vừa dứt lời, Bảo Châu lại càng được thể, cười khúc khích đáp lời:
“Bàng gia tuy xuất thân hàn môn, nhưng ta là Dương thị Hoằng Nông, nhà ta ba đời vinh hiển, truyền thống thanh sạch. A gia ta từng mặc triều phục đỏ, huynh trưởng ta từng đội mão tím, còn ngài, một nhánh Tiêu thị mấy đời tay không, chẳng đỗ nổi một khoa thi, đọc sách như gió, tự xưng thư hương, chẳng thấy xấu hổ sao? Vậy mau cầm tiền sính lễ đem cho đứa con ngốc nhà ngươi đi mua lấy chức quan nho nhỏ là gỡ lại được chút thể diện ấy mà!”

Đêm qua, Bàng Lương Ký đã sai người tới từ đường Tiêu thị đánh cắp gia phả, Bảo Châu nhờ đó nắm rõ gốc rễ từng tộc phái nhà họ Tiêu. Giờ mở miệng công kích, chẳng khác nào gió thuận buồm xuôi, nhắm đúng điểm yếu mà giáng đòn, ép đối phương nghẹn lời.

Dù không cần đến thân phận Lũng Tây Lý thị, chỉ riêng danh môn của Dương Hành Giản cũng đủ đè bẹp loại người như Tiêu Sĩ Liêm, khiến hắn chẳng còn dám ngẩng đầu.

Sau khi Võ hậu chấn hưng khoa cử, môn phiệt thế gia dần suy vi, muốn chấn hưng phải dựa vào thi cử mà vào triều. Sĩ tộc sa sút, con cháu không học hành thì chẳng có đường ra dù gia thế lớn đến đâu cũng bị chèn ép.

Bảo Châu biết rõ bọn người ấy vừa hận đời vừa khát cầu công danh, nói câu nào cũng như gươm chém trúng chỗ hiểm. Mấy lời qua lại, mặt Tiêu Sĩ Liêm lúc thì đỏ bừng, khi lại tái mét, tay ôm ngực ngã phịch xuống ghế, thở không ra hơi.

Hắn định xông lên tát nàng một cái, nhưng nhìn nàng khí chất đài các, dáng vẻ con cháu quyền quý, lại không dám làm liều như với con gái mình.

Hoắc Thất Lang đứng bên, khoanh tay xem kịch, thầm tiếc không có hạt dưa để nhâm nhi thưởng thức.

Khâu Nhậm thì liếc mắt về phía góc sân, thấp giọng nói với Bảo Châu:
“Ta từng nghe nói Nhật Mộ Yên Ba chưởng có thể đánh người nội thương mà bên ngoài không tổn hại, nay thấy Cửu Nương dùng lời lẽ mắng mỏ, hiệu quả chẳng kém Vi đại chút nào. Xem ra lão già kia sắp phát bệnh tim thật rồi, bị nàng mắng sống mắng chết rồi.”

Hoắc Thất Lang cũng liếc mắt nhìn về phía góc sân, nửa đùa nửa thật nói:
“Hay là Cửu Nương dắt theo Tứ sư huynh đến sẵn đi, lát nữa nếu người kia lăn đùng ra ngất, thì người còn có ngươi ứng cứu.”

Hứa Bạo Chân đứng bên cửa, thái độ lạnh nhạt, trong lòng dâng lên ngờ vực. Chàng để ý khẩu âm, cách dùng từ và cách nói năng của Bảo Châu, đều y hệt như người trong cung cấm, đặc biệt là điệu bộ cao cao tại thượng, ngữ khí răn dạy đầy kiêu căng, khiến ngờ vực trong lòng mỗi lúc một lớn.

Đúng lúc Bảo Châu đang mắng chửi Tiêu Sĩ Liêm đến hả dạ, một nữ nhân cao gầy lặng lẽ bước vào chính đường. Phía sau, đám gia nhân dìu Tiêu Sĩ Liêm thất thểu lui vào trong.

Gia chủ Tiêu phủ ăn vận bóng bẩy, mặt mày phấn son kỹ càng, trái lại người nữ tử mới đến lại để mặt mộc, mày mắt vuông vắn, dung nhan nghiêm nghị, trạc hơn ba mươi, tóc tai quần áo vẫn giữ cách ăn mặc của người chưa chồng.

Gia phả xưa nay chỉ ghi tên con trai, chẳng nhắc tới con gái, nên Bảo Châu không khỏi ngỡ ngàng, nhất thời chưa biết nên xưng hô ra sao, thì đã nghe người kia mở miệng:
“Tiểu nữ Tiêu Nhẫm, là tỷ tỷ của Tiêu Nhiễm — tân nương hôm ấy. Phụ thân sức khỏe yếu, không tiện tiếp khách, xin các vị lượng thứ.”

Nữ tử ấy nét mặt bình thản, giọng nói ôn hòa, như thể chẳng nghe thấy gì về trận mắng chửi dữ dội vừa rồi.

Hai chữ “thấm thoát” vốn dùng để chỉ thời gian trôi qua nhẹ nhàng không dấu vết, xuất xứ từ đời Hán trong bài Quả phụ phú: “Khi thấm thoát mà không lưu, đem dời linh lấy đại sự.” Dùng làm tên người thật chẳng may mắn.

Bảo Châu thấy nàng tuổi đã xế chiều, lại vẫn giữ nếp ăn mặc của người chưa chồng, trong bụng cũng đoán được phần nào thân thế. Chuyện “bán hôn” đời sau vẫn thường nhắc: nhà danh gia vọng tộc nếu không gả được con gái cho nhà môn đăng hộ đối, bèn để đấy chờ dịp tốt, hy vọng bán được giá cao. Còn nếu bán chẳng được, thì cứ để đó cho đến khi già.

Thời gian thấm thoát trôi qua, muội muội đã là quả phụ, tỷ tỷ lại hóa kẻ cô đơn sống qua tuổi xuân thì, đúng như cái tên “Tiêu Nhẫm” của nàng — thấm thoát mà lỡ cả đời, như có số mệnh sắp sẵn, không thể tránh.

Bảo Châu chưa từng gặp Tiêu Nhiễm, chỉ mới thấy kẻ giả dạng nàng trong ngày rước dâu. Qua dáng vẻ cũng có thể hình dung bản thân Tiêu Nhiễm hẳn là thanh tú dịu dàng, xứng gả danh gia, lại tái giá nhà giàu cũng không lạ. Trái lại, Tiêu Nhẫm dung nhan bình thường, nhìn qua chẳng có nhiều lựa chọn, e cũng bị phụ thân ham tiền mà giữ lại mãi trong nhà.

Tiêu Nhẫm sau khi an bài cho Tiêu Sĩ Liêm nghỉ ngơi, liền gọi một nha hoàn, dặn xuống bếp kêu đầu bếp hầm một chén canh an thần cho cha dùng. Đoạn lại bảo người mang trà nước tiếp đãi khách khứa, lời nói hành xử ung dung, cử chỉ đoan chính, chẳng khác gì quản gia lâu năm dày dạn kinh nghiệm.

Quả nhiên, sau khi mọi việc được sắp xếp thỏa đáng, nàng mời Bảo Châu ngồi xuống, sắc mặt lạnh lùng, nói:
“Mẫu thân đã mất nhiều năm, mọi việc trong nhà đều do ta quán xuyến. Hôn lễ của muội muội cũng một tay ta lo liệu, phụ thân chẳng rõ chi tiết bên trong, tiểu thư có điều chi muốn hỏi, cứ hỏi thẳng ta.”

Bảo Châu để tâm quan sát từng nét mặt, cử chỉ của nàng, lại chẳng thấy chút gì lo lắng vì em gái mất tích, trong lòng càng cảm thấy kỳ quặc. Nàng vẫn còn canh cánh chuyện Vi Huấn bị rót rượu độc trong lễ cưới, vì thế dù trà nước đã được bưng tới, nàng vẫn không hề động tay. Chỉ có Khâu Nhậm là khẽ nâng ly, l**m thử rồi ngửi ngửi.

Vừa rồi đã trút hết cơn giận vào Tiêu Sĩ Liêm, giờ chẳng cần quanh co, Bảo Châu đi thẳng vào chuyện:
“Tiêu Nhiễm rời nhà chồng, trở về nhà mẹ đẻ từ khi nào?”

Tiêu Nhẫm đáp:
“Thủ tang cho chồng xong, đầu năm nay thì trở về.”

Bảo Châu nhớ lời Bàng Lương Ký nói: hôn kỳ cũng định vào đầu năm. Nghĩ bụng, lần tái giá này quả thật quá vội, bảo sao ngoài phố xá người người đều chê cười. Nhưng nhìn ánh mắt Tiêu Sĩ Liêm đầy tham lam, nàng đoán việc định hôn sớm e chẳng phải ý của Tiêu Nhiễm.

Pháp luật nhà Đường có quy định rõ ràng trong Hộ hôn luật: “Phụ nhân phu tang phục trừ, thề tâm thủ chí, duy tổ phụ mẫu, cha mẹ đến đoạt mà gả chi.”

Tức là, chỉ cần hết thời gian để tang, nếu cha mẹ hoặc ông bà ép gả, thì dù bản thân quả phụ không muốn, cũng không thể cãi lại. Chuyện tái giá, gả ai, lúc nào, vẫn do người trong nhà định đoạt như lần đầu xuất giá.

Bảo Châu lại hỏi:
“Nói vậy, Tiêu Nhiễm ở nhà mẹ đẻ nửa năm, trong khoảng ấy có qua lại với nhà chồng cũ Lư gia không?”

Tiêu Nhẫm lắc đầu, nói nhạt:
“Lư gia giũ hết của hồi môn, vào mùa đông đã đuổi muội muội ta đi trong giá rét, bắt muội ấy đi chân trần ra khỏi nhà. Hôm ấy náo loạn khắp đầu phố cuối ngõ, chẳng có khả năng còn qua lại gì nữa.”

Bảo Châu gật đầu, lại hỏi tiếp:
“Vậy nàng ở phòng nào? Xuất giá từ gian nào? Ta muốn nhìn qua.”

Tiêu Nhẫm liền đứng dậy:
“Mời các vị theo ta.”

Bảo Châu cùng mọi người Tàn Dương Viện đi theo bước chân nàng vào nội viện Tiêu phủ.

Hai dãy sân nối liền trước sau, tuy bề ngoài chia tiền viện hậu viện, nhưng bài trí bên trong lại chật chội tù túng, nhà cửa cũ kỹ xiêu vẹo, trái lại bàn ghế, đồ dùng thì đều là vật mới sang quý, trông có vẻ chắp vá, thiếu hài hòa.

Thấy Bảo Châu chăm chú quan sát, Tiêu Nhẫm thản nhiên giải thích:
“Đồ mới là sính lễ nhà Bàng gia đưa đến, mấy người hầu kia cũng là mới tuyển, còn chưa quen việc. Huynh trưởng ta đã dọn sang phủ mới, nơi này từ đó không còn ai sửa sang gì nữa.”

Vốn dĩ nhóm người Bảo Châu định bụng chế giễu Tiêu gia bán con cầu vinh, nhưng thấy nàng thẳng thắn, thái độ tự nhiên, không tranh hơn thua lại chẳng nỡ chê bai gì nữa.

Chừng nửa khắc sau, họ đến gian phòng của Tiêu Nhiễm. Cửa phòng đóng chặt, mới được sơn đỏ lại, khóa lớn còn niêm phong. Tiêu Nhẫm lấy chìa khóa mở ra, bên trong tối om, ánh sáng lờ mờ ảm đạm.

Tuy chưa bước vào, nhưng khung cảnh bên trong hoàn toàn chẳng giống khuê phòng, ngược lại giống phòng kho hoặc nhà giam. Bảo Châu thấy nghi, Tiêu Nhẫm giải thích:
“Sau lần đầu xuất giá, trong nhà không còn chừa lại phòng riêng cho muội ấy. Gian này vốn là phòng chứa đồ, tạm sửa lại dùng, không có cửa sổ lớn. Xin chờ một lát để ta lấy đèn.”

Hoắc Thất Lang thấy vậy, cẩn thận dặn:
“Cửu Nương tạm ở ngoài chờ, để ta cầm đèn vào xem trước. Lỡ bên trong có người mai phục thì nguy hiểm.”

Khâu Nhậm thì nói:
“Ta không vào đâu. Ta muốn biết, hôm rót rượu tân lang trước cổng lớn, là nữ nhân nào ra mặt? Rượu ấy ai chuẩn bị?”

Tiêu Nhẫm đáp gọn:
“Đó là biểu muội Mai cô cô. Rượu là do nhà ta chuẩn bị. Các nàng bàn nhau bỏ ít thuốc trêu chọc tân lang, ta không cản được, thật lòng xin lỗi.”

Lời nàng nói thẳng thắn không né tránh, khiến ai nấy đều bất ngờ. Khâu Nhậm nói:
“Ta muốn xem nơi các người pha rượu.”

Tiêu Nhẫm gật đầu, sai gia nhân đưa hắn đi.

Chờ đèn được mang tới, Hoắc Thất Lang một tay cầm đèn dầu, cẩn trọng bước vào trước dò xét một vòng. Xác nhận bên trong không có gì nguy hiểm mới gọi Bảo Châu vào xem.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 83


Đám người Tàn Dương Viện tuy bề ngoài có vẻ lười biếng, nhưng từ lúc bước chân vào gian “khuê phòng” kỳ thực chẳng khác ngục thất ấy, lại trở nên đặc biệt thận trọng. Trước hết là Hoắc Thất Lang tiến vào dò xét, sau đó mới cùng Bảo Châu vào trong, còn Hứa Bạo Chân thì ở lại ngoài cửa để phòng hờ, tránh trường hợp bị mai phục chẳng khác chi “cá chui vào rọ”.

Vừa bước qua ngưỡng cửa, cảm giác đầu tiên đập vào người là một luồng áp lực nặng nề.

Nếu nơi đây vốn là phòng chứa vật dụng, thì hẳn có tính toán đề phòng trộm cắp vì cửa sổ chỉ là một ô vuông nhỏ bằng lòng bàn tay, thông khí kém, bên ngoài lại giăng đầy song sắt. Lớp gỉ đã dày, rỉ đỏ ăn mòn tới tận chân sắt, hiển nhiên là đã nhiều năm chưa từng thay thế.

Trong phòng, bàn ghế vật dụng toàn bộ đều mới toanh, làm bằng gỗ hoàng dương, kiểu cách tinh xảo, hoa văn chim chóc sặc sỡ uốn lượn như tranh vẽ, có lẽ cũng là đồ sính lễ từ Bàng gia đưa tới. Ngoài ra còn thấy không ít sách vở, nghiên bút, giấy mực… dấu vết sử dụng rõ ràng, hiển nhiên chủ nhân là người thường xuyên đọc sách, viết chữ.

Bảo Châu thuận tay lật vài trang viết, thấy chữ viết ngay ngắn thanh tú, nét bút như trâm hoa rơi nhẹ, vượt xa mấy nét chữ xấu tệ của Bàng Lương Ký. Chỉ là trong nhà âm u, ánh sáng tù mù, muốn đọc sách viết chữ thì dẫu giữa ban ngày cũng phải đốt đèn mới sáng.

Bảo Châu lấy làm lạ, hỏi:
“Tiêu phủ tuy không rộng rãi, nhưng chẳng đến nỗi không dành nổi một gian phòng sáng sủa cho cô nương ở tạm?”

Tiêu Nhẫm đáp khẽ:
“Là phụ thân cố chấp muốn muội ấy ở đây.”

Nói đến đây nàng hơi ngập ngừng, như đang cân nhắc có nên nói ra thực tình hay không.

“Nếu các vị là người nhà Bàng gia, vậy ta xin nói thật. Năm xưa nhà ta ở sát vách Bàng phủ, A Nhiễm lúc ấy còn nhỏ, người giữ cửa lại không nghiêm nên muội ấy có dịp làm quen với công tử nhà họ Bàng. Chính vì điều ấy mà lần đầu nàng xuất giá đã khiến Lư gia sinh lòng khó chịu. Lần này nàng trở về nhà mẹ đẻ, phụ thân liền nhất quyết bắt nàng nhốt trong phòng, bắt chép sách, không cho bước ra khỏi cửa.”

Bảo Châu thầm nghĩ: vậy chẳng khác nào trong cung gọi là “giam cung” — một hình thức giam cầm nữ nhân không danh không phận.

Chỉ bởi vì thời thơ bé từng quen biết Bàng Lương Ký mà rộ lên những lời đồn thất thiệt, khiến Tiêu Sĩ Liêm chẳng rõ vì tâm địa vặn vẹo hay hẹp hòi mà giam con gái chẳng khác gì phạm nhân. Một nhà vốn mang tiếng danh gia vọng tộc, vậy mà hành xử chẳng khác gì kẻ tiểu nhân hèn mọn, khiến người khác chỉ thấy ngột ngạt khó thở.

Hoắc Thất Lang nhảy phắt lên bàn, vung tay thử vào dãy song sắt nơi cửa sổ, không ngờ bẻ ra được một thanh gỉ sét.

“Chà, sắt gỉ mục đến thế này rồi.” — Nàng chìa thanh sắt đưa cho Bảo Châu, nói: “Một khi đã bẻ xuống rồi thì coi như không thể gắn lại. Trong phòng mùi ẩm mốc nặng nề, xem ra từ lâu không ai đến chỉ có thể ra vào bằng cửa chính thôi.”

Bảo Châu hỏi Tiêu Nhẫm:
“Thường ngày căn phòng này vẫn khóa chặt vậy sao?”

Tiêu Nhẫm gật đầu:
“Phần lớn thời gian là vậy. Chỉ khi phụ thân ra ngoài, ta mới lén mở cửa cho muội ấy ra ngoài hít thở khí trời. Trong thời gian tổ chức hôn lễ, phòng này hoàn toàn khóa kín. Sính lễ của Bàng gia có nhiều đồ quý giá, người ra kẻ vào lại lắm tay tạp, sợ thất thoát, nên ai cũng bị kiểm tra gắt gao.”

Bảo Châu càng nghe càng thấy phản cảm. Một nhà chỉ biết nhìn tiền, nhốt con gái như nhốt tù nhân. Nàng quay sang nói:
“Chúng ta cần xem xét kỹ căn phòng này. Phiền Tiêu đại nương ra ngoài nghỉ tạm một lúc.”

Tiêu Nhẫm thoáng khựng lại. Nhận ra thiếu nữ kia đang thay mặt quản lý, ra lệnh cho chính mình người chủ sự Tiêu gia lui ra, mà giọng điệu lại vô cùng tự nhiên, khiến nàng bỗng có cảm giác nơi đây không phải Tiêu phủ của mình, mà như thể chỉ là một tiểu viện mà Bảo Châu cai quản, còn bản thân nàng chỉ là một kẻ sai vặt dưới tay người ta. Phải chăng đây mới thực sự là phong thái của con nhà thế gia, danh môn đích nữ?

Trong lòng Tiêu Nhẫm bất giác dâng lên nỗi tự ti, không nói gì thêm, lặng lẽ lui xuống.

Bảo Châu và Hoắc Thất Lang liền chia nhau ra tìm. Một người lật giở sách vở, giấy bút; người kia thì xem xét từng góc khuất sau kệ tủ, tường vách, đề phòng có hầm ngầm hay cửa bí mật.

Tiêu Nhiễm không chỉ dung mạo xinh đẹp, mà tài văn cũng đáng kinh ngạc. Thơ phú nàng viết cao nhã thanh khiết, như lan như huệ giữa núi rừng u tịch. Bảo Châu lần dở tập thơ bản thảo, nghĩ bụng: cô nương này tài học ắt vượt xa huynh trưởng, tiếc thay sinh làm nữ tử, bị nhốt trong trăm điều lễ giáo, trói buộc bởi những toan tính hôn nhân tầm thường. Nếu sinh làm nam nhi, ắt sẽ được tung hoành trong chốn khoa trường, chẳng đến nỗi Tiêu gia giờ đây nghèo túng, luẩn quẩn bán con lấy tiền.

Hoắc Thất Lang lục lọi một hồi chẳng thấy manh mối gì, quay sang hỏi:
“Vậy rốt cuộc chúng ta đang tìm cái gì?”

Bảo Châu đáp:
“Ta cũng chưa biết. Manh mối thường chỉ lộ ra khi bản thân bước tới gần nó. Án này xoay quanh chuyện ba nhà tranh giành một nữ nhân: chồng cũ họ Lư, nhà mẹ đẻ họ Tiêu, và tân lang họ Bàng. Nàng vốn là người do cha mẹ sinh dưỡng, rồi bị bán cho nhà chồng, sau đó lại bị bán lần nữa mà mỗi lần như vậy đều vì tiền. Kẻ nào bỏ tiền ra thì có quyền “mua lại”. Thân phận nàng chẳng khác gì món hàng bị đem ra đổi chác, còn nàng thì vĩnh viễn không thể tự quyết vận mệnh chính mình.”

Hoắc Thất Lang nghe mà chấn động:
“Người trong giang hồ bọn ta vẫn tưởng nữ nhân nhà quyền quý sống trong nhung lụa, áo gấm rượu ngon, chẳng ngờ bị nhốt trong cái phòng như ngục tù thế này, bị giam giữ, định giá, không có một chút quyền tự do. Thế khác gì súc vật đâu?”

Bảo Châu thầm nghĩ, ngay cả thân là công chúa như nàng, hôn nhân cũng chẳng hơn gì Tiêu gia tỷ muội. Đến tuổi thì cũng phải nghe cha mẹ, nghe lời mai mối, trở thành công cụ quyền lực trong tay triều đình. Nếu không được vua cha thương yêu, thì có khi còn bị đưa đi hòa thân nơi phiên bang, chẳng có lấy một con đường phản kháng. Muốn thực sự có được tự do, chỉ còn cách bỏ lại tất cả, sống lang bạt giữa đời loạn, tóc tai rối bời, miếng ăn bữa đói bữa no, một bước xuống giang hồ, chẳng biết ngày về.

Nàng mở một chiếc rương đỏ, xem xét bên trong, chỉ thấy vài hộp phấn son cũ kỹ chẳng có lấy một món trang sức nào. Ở đáy rương, lại tìm được một tờ giấy dùng để pha màu, mặt trên nguệch ngoạc mấy dòng thơ:

“A gia luyến Kim Trọng,
Thân huynh muốn mã kỵ;
Đem bán tiểu nữ nhi,
Gả cùng chơi xuân nhi.”

Đây vốn là thơ của Nguyên Chẩn trong bài Đại cửu cửu, nói về một người cha vì tham lam mà bán con gái cho kẻ trăng hoa. Bốn câu ấy, chỉ đổi “a mẫu” thành “a gia”, mà chẳng lệch một nghĩa nào quả đúng với hoàn cảnh của Tiêu gia lúc này.

Bảo Châu đọc đến đó, lòng bất an, thấp giọng nói:
“Hỏng rồi!”

Hoắc Thất Lang ngạc nhiên ghé tới:
“Sao lại thế?”

Bảo Châu chỉ vào tờ thơ:
— “Chơi xuân nhi” chính là kẻ trăng hoa, ăn chơi trác táng. Nữ nhân trong bài thơ tự biết mình gả nhầm người, kết cục là:

“Sao Sâm, sao Thương nửa đêm khởi,
Cầm sắt một tiếng ly.
Nỗ lực tân tùng diễm,
Cuồng phong thứ tự thổi.”

Nghĩa là nàng ấy quyết rời khỏi kẻ chồng không xứng đáng, mở ra một đời sống mới. Nếu “chơi xuân nhi” ám chỉ chính là Bàng Lương Ký, thì rất có thể Tiêu Nhiễm chưa từng muốn lấy hắn!

Hoắc Thất Lang chết sững:
“Chẳng lẽ cô nương ấy thật sự rất chán ghét lão Lục?”

Việc tráo tân nương đã khiến cả kinh thành bàn tán xôn xao, vậy mà phụ thân và tỷ tỷ nàng vẫn thản nhiên như không, quả là đáng nghi. Bảo Châu vốn tưởng Tiêu Nhiễm và Bàng Lương Ký là thanh mai trúc mã, tình cảm mặn nồng. Nhưng Tiêu Nhiễm bị nhà mẹ đẻ cưỡng ép đoạt lại từ tay nhà chồng, rồi bị giam lỏng trong căn phòng tối như ngục này, từ đầu đến cuối đều là nghe lệnh cha mẹ, do người mai mối sắp đặt.

Vậy Bàng Lương Ký có từng tự thân đến hỏi nàng về hôn nhân này chưa? Hay chỉ là hắn một mình si tình, mê muội theo đuổi mà không biết người ta chẳng hề mong muốn? Đứng ở góc nhìn của tân nương, có khi hắn chẳng khác nào một tên hào phú mặt dày, dùng tiền ép cưới, lại còn mượn danh nghĩa “hộ vệ” mà đưa cả sư huynh đệ hung hăng đến ép buộc nàng… Như thế, há chẳng phải đáng sợ hay sao?

Bảo Châu ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nghiêm giọng nói:
“Nếu tra ra sau cùng là Tiêu Nhiễm tự ý bỏ trốn, vậy ta cũng chẳng thể ép nàng quay về, chỉ đành bảo Bàng Lương Ký đi tìm một mối khác mà kết duyên.”

Hoắc Thất Lang nghe vậy thì khẽ thở dài, lòng như có chút vướng bận. Một lát sau mới lên tiếng:
“Cũng phải thôi, bọn ta tuy chẳng phải hạng người tốt lành gì, nhưng chuyện cưỡng ép nữ nhân, quả thật chẳng đành lòng làm ra. Nàng không muốn, thì đành chịu vậy.”

Khám xét khuê phòng chẳng thấy thêm manh mối nào, Bảo Châu rảo bước ra ngoài sân, đang định nghĩ xem bước tiếp theo nên dò hỏi nơi nào, thì bất chợt nhớ lại lời Vi Huấn từng nói: trong lễ cưới hôm ấy, có kẻ trà trộn giữa đám phụ nhân nhà chồng dùng gậy sắt đánh lén. Hắn vì ngại tình thế không tiện phản đòn nên chỉ đoạt lấy vũ khí rồi tiện tay ném lên mái nhà.

Nhìn thấy Hứa Bạo Chân vẫn ung dung đứng tựa cột bên hành lang, Bảo Châu bèn sai:
:Phiền đạo trưởng lên mái xem giúp, thử coi có tìm được hai cây gậy sắt hay không?:

Hứa Bạo Chân lơ đễnh liếc nàng một cái, phất nhẹ tay áo, coi như không nghe thấy.

Hoắc Thất Lang bật cười:
“Nhị sư huynh xưa nay vốn kén chọn cao ngạo, thôi để Lão Thất ta vì ngươi chạy chân một phen.”
Dứt lời, nàng liền nhanh nhẹn phóng lên mái nhà tìm kiếm.

Bảo Châu trong lòng không khỏi bực bội. Đạo sĩ kia rõ ràng là theo nàng ra đây, nhưng hết lần này đến lần khác lại chẳng chịu nghe lời sai khiến. Lúc này nàng mới để ý: y phục Hứa Bạo Chân mặc khác hẳn đám đồng môn áo vải mũ cỏ. Trên đầu hắn đội một chiếc mũ nạm vàng, thân khoác áo bào tím rộng tay thêu sao dệt gấm, từ cách may đến màu sắc đều giống hệt mấy vị pháp sư hầu bên long giá trong cung.

Mà áo bào màu tím chính là lễ phục dành riêng cho hoàng thân quốc thích hoặc quan lại từ tam phẩm trở lên, do đích thân Thái Tông sắc định. Chẳng biết mấy năm gần đây, thánh thượng mải mê đan dược trường sinh, đem y phục tôn quý ấy ban cho lũ “chân nhân”, “thiên sư” trong cung, khiến cả triều trên dưới đều lấy làm khó chịu.

Bảo Châu lạnh lùng hỏi:
“Bộ quần áo này là ngự ban sao? Ngươi có thân thế gì mà dám mặc đồ trong cung?”

Hứa Bạo Chân trong lòng chợt dâng nghi hoặc, ánh mắt lạnh như nước lướt nhanh qua gương mặt nàng. Cùng lúc đó, chiếc phất trần khẽ rung, như cảm ứng sát khí từ đâu bất ngờ ập tới. Hắn liền trấn định lại tinh thần, cúi mi rũ mắt, điềm nhiên đáp:
“Mắt ngươi tinh tường thật đấy, sao lại nhận ra?”

Bảo Châu bịa đại:
“Nhà ta có người là thương nhân có giao tình với hoàng thân. Thân mặc ngự phục, sao không ở lại bên thánh thượng? Cung đình đãi ngộ chẳng phải cao quý hơn giang hồ gió bụi nhiều lắm sao?”

Hứa Bạo Chân cười nhạt:
“Vua chúa đời nào cũng mong sống lâu trăm tuổi, nhưng chẳng ai muốn bỏ công sức thật sự. Chỉ muốn động cái miệng mà đòi đan dược trường sinh bất tử, há chẳng là mơ chuyện hoang đường? Ta lười phụng hầu, cũng chẳng quen nói lời nịnh hót dối trá.”
Dứt lời, mặc nàng có hỏi thêm, hắn cũng nhất quyết không mở miệng nữa.

Hoắc Thất Lang từ mái hiên nhẹ nhàng đáp xuống, trong tay cầm hai cây gậy sắt, cười nói:
“Mua một tặng một, vận may tốt thật! Tìm gậy còn lượm thêm được một quyển sách nữa.”
Nói xong, nàng đưa cho Bảo Châu một quyển sách bọc trong giấy dầu.

Bảo Châu lòng dấy nghi ngờ, liền tháo giấy ra xem, trải tờ bìa đầu tiên, chỉ thấy một hàng chữ tựa như ca dao, lại tựa như câu đố:
“Một mảnh lửa, hai mảnh lửa,
Trẻ áo bay ngồi giữa điện đình.”

Mắt vừa lướt qua câu đó, sắc mặt nàng liền biến hẳn, lập tức khép chặt quyển sách lại.

Sắc mặt nàng nghiêm trọng chưa từng thấy, trầm giọng hỏi:
“Ngươi đã xem nội dung bên trong chưa?”

Hoắc Thất Lang nhướng mày hỏi lại:
“Trong ấy có nhắc đến tên ta sao?”

Bảo Châu lắc đầu.

Nàng lại hỏi:
“Vậy có thứ nào giống trò gieo xúc xắc, đánh bài, hay trò chơi cờ lá không?”

Bảo Châu biết đó là mấy trò bạc bẽo mà Hoắc Thất Lang mê mẩn, bèn lại lắc đầu.

Nghe vậy, nàng cười phá lên:
“Vậy thì chẳng có can hệ gì tới ta. Ta không quen sách, sách cũng chẳng quen ta.”

Bảo Châu thầm thở phào. Nghĩ bụng, đôi khi không biết chữ lại hóa ra tránh được hoạ. Nàng vội ôm quyển sách giấu vào trong ngực, rồi gọi một nha hoàn tới, sai dẫn mình đến gặp riêng Tiêu Nhẫm cùng gia chủ Tiêu Sĩ Liêm để nói chuyện kín.

Hoắc Thất Lang gọi giật lại:
“Còn hai cây gậy này thì sao, bỏ à?”

Bảo Châu vừa đi vừa đáp, giọng khẩn trương như có lửa đốt lòng:
“Gậy sắt cùng lắm chỉ dùng để đánh người. Còn quyển sách này… có thể khiến cả nhà chết không kịp chạy!”
Nói rồi nàng rảo bước đi thẳng vào nội đường.

Hoắc Thất Lang cùng mấy người còn lại bị giữ lại ở sân ngoài. Hứa Bạo Chân nhếch môi khinh khỉnh:
“Nhìn bộ dạng ân cần kia mà chướng mắt. Chẳng khác gì đám tay sai l**m gót vương công quý tộc.”

Hoắc Thất Lang bị mắng một hồi, chỉ cười cười, chẳng lấy làm phiền:
“Ngươi chưa thấy Đại sư huynh của ta đâu. Bộ dạng chạy đông chạy tây lấy lòng còn ân cần hơn ta gấp bội.”

Hứa Bạo Chân lạnh lùng nói:
“Hắn sớm muộn cũng chết nên mới dám muốn gì làm nấy. Còn ngươi cũng muốn đi vào vết xe đổ ấy sao?”

Hoắc Thất Lang nhún vai:
“Chẳng ai sống mãi với đời. Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ chết. Trước khi chết, được sống theo ý mình, sống vui một chút, vậy chẳng tốt hơn sao?
Ta thì thích vui vầy bên mỹ nhân, chẳng mưu tính lớn lao gì, nhưng tâm lại thảnh thơi khoan khoái.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 84


Sấm vĩ, là điềm trời báo mệnh.

Tựa như xưa kia có câu: “A Phòng A Phòng, mất nước vì Thủy Hoàng”, hay “Nước Sở dấy binh, Trần Thắng làm vua”. Gần đây lại có: “Hoa dương rơi, mận nở rộ”, “Nữ vương nổi dậy, thiên hạ đổi thay”… Những câu ấy phần nhiều lưu truyền trong dân gian qua lời đồng dao, câu đố, hát ru, như thể ý trời âm thầm hé lộ giữa cõi nhân gian.

Nếu điềm trời thuận lợi cho kẻ cầm quyền thì gọi là “Thiên mệnh”, còn nếu làm lung lay kỷ cương thì liền thành “Lời ma mị nhiễu loạn lòng dân”.

Bởi đấng quân vương là kẻ mang mệnh trời, nên triều đình xưa nay đều e sợ những lời tiên đoán dị thường. Ai tự tiện viết sách tiên tri tàng trữ trong nhà, chẳng khác gì cất giấu gươm giáo để phản nghịch. Có thời, triều đình còn lấy tội tru di cả tộc mà nghiêm cấm.

Năm xưa, Thiều Vương Lý Nguyên Anh vì một câu: “Xuyến đi trung thẳng truyền thiên hạ”, mà bị nghi là kẻ phản nghịch, cha con sinh hiềm khích, cuối cùng bị đày nơi biên ải, chẳng còn mặt mũi quay về Trường An.

(Câu sấm này bị lợi dụng để ám chỉ rằng Lý Nguyên Anh là “trung thẳng” – người ở giữa, nhưng sẽ đoạt quyền, giành lấy thiên hạ. Do đó, kẻ đối địch mượn lời sấm để gieo rắc nghi kỵ giữa Lý Nguyên Anh và hoàng đế, khiến cha con bất hòa, bị giáng chức đày đi biên ải.)

Bởi vậy, Bảo Châu càng thêm cảnh giác. Vừa cầm lấy quyển sách đã lật sơ qua, thấy toàn những câu kiểu như “Áo bay, đứa trẻ ngồi giữa điện”, “Người gặp dưới chân núi quỷ, buộc áo lụa”, “Ba anh em, mỹ nhân về, dung nhan trắng trẻo đoạt ánh xuân trời”… toàn những câu đố ca dao rối rắm khó hiểu, xen lẫn vô số bức vẽ thiên văn đầy ký hiệu kỳ dị. Nàng lập tức đoán ra đây chính là một quyển sấm ký, loại sách mà triều đình luôn kiêng kị nhất.

Thứ sách ấy được bọc trong giấy dầu chống nước, giấu kín trên mái phòng không ai lui tới. Nếu quan quân tra xét mà thấy, cả nhà Tiêu thị ắt gánh tội tru di. Kẻ nào giấu nó, tâm địa còn hiểm độc hơn cả rắn rết. Nếu chẳng phải Bảo Châu tình cờ cùng Hoắc Thất Lang lên đó tìm cây gậy Vi Huấn đánh rơi, ắt cũng không ai phát hiện ra.

Nàng lặng lẽ đem sách đưa cho Tiêu Sĩ Liêm. Gã vừa thấy đã quỵ ngay xuống đất, mặt trắng bệch như tờ giấy, tay chân run rẩy, chẳng đứng lên nổi.

Tiêu Nhẫm chưa từng thấy vật ấy, nhưng nghe danh đã hoảng. Vốn là người trầm lặng điềm nhiên, nay ống tay áo cũng không giấu nổi run rẩy. Tuy chưa ngất, nhưng rõ ràng đang gắng gượng.

Bảo Châu nghiêm mặt nói:

“Việc này đã không còn là chuyện của riêng một tân nương. Là họa diệt môn. Tiêu đại nương tử, từ đây về sau, ngươi phải nói rõ hết mọi sự trong nhà. Một lời cũng không được giấu. Nếu không, ta cũng chẳng giúp được gì cho các ngươi.”

Tiêu Nhẫm gật đầu, nuốt nước miếng, miễn cưỡng giữ vẻ bình tĩnh.

“Tiêu Nhiễm có thật bằng lòng tái giá hay không? “— Bảo Châu hỏi thẳng.

Nàng kia cúi đầu, ngón tay siết chặt dây lưng áo, nói nhỏ:

“Muội ấy không phản đối, nhưng cũng không có vẻ gì vui mừng. Chắc là vì sợ ta lo lắng. Từ khi trở về, tính tình muội ấy khác xưa, không còn nói nhiều với ta như trước. Ta… ta trước kia từng ghen ghét muội ấy, nhưng giờ đã buông bỏ rồi.”

“Sao lại buông bỏ?” — Bảo Châu truy hỏi.

Tiêu Nhẫm ngập ngừng, rồi đáp:

“Vì lấy chồng chẳng có gì hay. A Nhiễm về Lư gia, không con cái, bị chồng và nhà chồng chê bai, sống chẳng ra gì. Ta tuy không chồng, nhưng trong nhà còn có căn phòng của riêng mình.”

Nàng thở nhẹ một hơi, rồi nói tiếp:

“Càng gần ngày cưới, muội ấy càng buồn bã. Ta thấy muội ấy giấu một mảnh giấy, trên có mấy dòng thơ, ý cũng chẳng thiết tha gì Bàng gia tiểu lang. Lúc nhỏ có lẽ có chút tình cảm, nhưng nay gã đã què, lại nổi tiếng ăn chơi lêu lổng. Chúng ta… thật sự đã đến đường cùng, không có sính lễ của Bàng gia, mùa đông tới than sưởi cũng không có. Trong lòng ta rất áy náy với muội ấy.”

Tiêu Sĩ Liêm lúc này mới bò tới, định nắm chân Bảo Châu cầu xin, nhưng bị nàng đá sang một bên.

Nàng thầm nghĩ, nhà này thật chẳng có một người nam ra hồn. Tiêu Nhiễm có tài, nhưng không được đi thi; Tiêu Nhẫm giỏi việc, nhưng không thể ra ngoài kiếm sống. Hai người giỏi nhất nhà, đều là nữ tử, mà phả hệ thì chỉ ghi nam. Không lụi bại mới là lạ.

Tiêu Nhẫm ngẩng mặt lên, giọng kiên quyết:

“Nếu A Nhiễm không muốn lấy chồng, ta sẽ bảo vệ muội ấy đến cùng. Khi nhỏ muội ấy vốn nghịch ngợm, trèo tường ra ngoài chơi là chuyện thường, bằng không sao lại quen biết Bàng lang.”

Bảo Châu khẽ gật đầu, nghĩ thầm: Tiêu Nhẫm hẳn đoán muội mình đã bỏ trốn, nên giả vờ không quan tâm, mong giữ lại cho nàng con đường lui.

“Hôm ấy có gì khác lạ không? “— nàng hỏi.

“Ngày cưới đông người, ta lo tiếp khách nên chẳng theo sát được. Nhưng có một việc lạ: Bàng gia có phái một nữ nhân đến làm bạn tân nương, ta cũng sắp xếp nàng này ở cùng A Nhiễm. Nhưng tới lúc lên kiệu hoa, người ấy lại biến mất. May còn có tẩu tử muội phu ta theo kèm.”

Bảo Châu ghi nhớ kỹ tướng mạo nữ nhân kia. Nếu bên Tiêu gia có sách sấm, nhà kia e cũng chẳng sạch sẽ gì.

Nàng giấu sách vào người, dặn Tiêu Nhẫm đóng cửa lục lại toàn bộ nhà, rồi cùng Hoắc Thất Lang trở lại Bàng phủ.

Khâu Nhậm vẫn lần mò dấu vết rượu thuốc. Bảo Châu sợ trong đám người hầu mới của Tiêu gia có gian tế, bèn để hắn ở lại canh giữ.

Trên đường về, nơi từng đón dâu nay đã vắng vẻ. Bảo Châu nhớ lại dáng thiếu niên hăng hái hôm ấy, giờ chỉ còn là kẻ tơi tả máu me, bất giác lửa giận bốc lên, trong lòng thề sẽ tận tay kết thúc vụ này.

Ngang qua đoạn Vi Huấn từng ném tiền đuổi bọn phá hôn, những đồng bạc chôn trong phiến đá đã bị người ta cạy sạch, chỉ còn lại lỗ chỗ hố nhỏ.

Hoắc Thất Lang cảm khái:

“Đại sư huynh ra tay thật mạnh.”

“Nhưng không ném vào người.” — Bảo Châu nói.

Hứa Bão Chân nhếch môi cười khẩy. Hoắc Thất Lang vẻ mặt khổ sở:

“Chẳng qua vì là hôn lễ nên hắn mới nương tay, chứ bình thường với huynh đệ trong môn, có bao giờ nhẹ nhàng?”

Bảo Châu hơi sửng sốt, nghĩ: Bàng Lương Ký cũng từng chê trách Vi Huấn ra tay độc ác, nay lại thêm Hoắc Thất Lang, chẳng biết cái gọi là “sư môn” này có còn tình nghĩa hay chăng.

Hoắc Thất thấy nàng ngạc nhiên, nhớ đến vụ cá cược, bèn cố tình thử:

“Với ngươi thì hắn hẳn rất dịu dàng, chẳng bao giờ mạnh tay.”

“Ta luyện cung ngựa, không so quyền cước với hắn. Hắn ra tay nặng hay nhẹ thì có liên quan gì tới ta?” — Bảo Châu đáp tỉnh bơ.

Hoắc Thất biết nàng không hiểu, vội vàng cười trừ cho qua.

Tới chỗ hôm trước Vi Huấn giương cờ, lá cờ rách đã bị hạ xuống, chỉ còn một dải lụa đỏ mắc nơi đầu cây. Bảo Châu bước qua cây cầu đã hai lần đi lại, chợt thấy bên sông có một chiếc lông chim đen sì rơi giữa bụi cỏ, bèn sai Hoắc Thất Lang nhặt lên.

Từ xa nhìn không rõ, cầm trong tay mới biết: Lông chim cứng như đao, dài tới gần hai thước, chẳng rõ mọc từ con chim khổng lồ nào. Nàng lập tức nhớ đến con chim kỳ quái gặp lúc sáng nơi mộ hoang.

“Buổi sáng chưa nói kịp, ta cũng thấy giống như… — Hoắc Thất Lang nói — … một giống yêu điểu nơi mộ phần.”

“Nói nghe thử xem? “— Bảo Châu tò mò.

“Ngươi hẳn cũng biết sư môn ta vốn làm nghề gì. Chuyện quỷ quái kỳ dị ai cũng từng nghe kể. Có truyền rằng nơi phần mộ âm khí tích tụ, người sống oán, kẻ chết hận, lâu dần sinh ra quái điểu gọi là La Sát Điểu. Con ấy thân to như chim ưng, móng vuốt nhọn hoắt, có thể hóa thành mỹ nữ mê hoặc kẻ sống, rồi moi mắt mà ăn.

Nghe đến đây, Bảo Châu rùng mình, tay sờ thanh chủy thủ bên hông, cầu mong vật ấy thực sự có thể trừ tà. Nàng rụt rè hỏi:

“Các ngươi… từng gặp thứ ấy chưa?”

“Chưa.” — Hoắc Thất Lang lắc đầu.

Hứa Bão Chân lạnh lùng nói:

“Chuyện truyền miệng mà thôi. Đừng nói La Sát, đến một bóng ma tụi ta còn chưa từng thấy.”

Bảo Châu thầm nghĩ: Các ngươi đã là lũ tà ma sống, âm binh dưới mộ thấy cũng phải chạy mất.

“Không biết Bàng Lương Ký có đuổi kịp con chim ta bắn rơi không. Nếu bắt được xác, may ra còn rõ nó là thứ gì. Với lại… mỹ nữ mê hoặc người sống, chẳng giống chuyện tân nương bị tráo hôm ấy sao?”

“Ma quỷ thì khó nói, nhưng kẻ tráo tân nương chắc chắn là người. — Hoắc Thất Lang đáp — Tới Bàng phủ là rõ.”

Thế nhưng chưa kịp tới nơi, chuyện lạ đã xảy ra. Dọc đường người trong giang hồ kéo nhau đi như hội. Đến gần biệt phủ Bàng gia, đã có tới hơn hai ba trăm người tụ tập.

Hứa Bão Chân hỏi một kẻ trong đám, được đáp: Tật Phong Thái Bảo Bàng Lương Ký nhân danh Tàn Dương Thất Tuyệt mời toàn bộ võ lâm trong vùng tới phủ, nói sẽ tuyên bố một chuyện “động trời”.

Hoắc Thất Lang cùng Hứa Bão Chân nghe xong đầy bụng ngờ vực.

Tàn Dương Thất Tuyệt đã lâu không tụ họp, chẳng ai muốn bị xem như một môn phái. Bàng Lương Ký lại đã bị trục xuất, danh cũng không còn trong nhóm, mấy người còn lại cũng chẳng buồn tìm ai thay thế, chỉ mặc kệ gọi là “lục tuyệt” từ lâu.

“Ta nhớ Bàng Lục định nhân dịp cưới xin để rửa tay rời giang hồ, nhưng thế nào cũng không phải chuyện kinh thiên động địa. ” — Hoắc Thất nói.

Hứa Bão Chân cau mày:

“Việc này không do Bàng Lục làm. Hắn không dám xưng như vậy. Ta đi dò hỏi xem tin từ đâu ra.”

Nói rồi giục ngựa đi.

Bảo Châu thấy đoàn người của mình ngày càng lẻ tẻ, sốt ruột:

“Phái đồ đệ đi là biết rồi, sao phải tự mình?”

Hứa Bão Chân liếc nàng:

“Ngươi không phải người trong giang hồ, nên không hiểu quy củ.” — Giọng lạnh nhạt, rõ ý khinh thường, rồi bỏ đi.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 85


“Tiêu Nhiễm” vốn có vẻ mặt thanh tú dịu dàng, giờ phút này trông còn đáng sợ hơn cả lệ quỷ mười phần. Mặt nạ da người bên ngoài bị Hoắc Thất Lang xé rách, để lộ nửa khuôn mặt thật khô quắt và nhăn nhúm vì thời gian dài bị giam trong tối tăm. Nửa còn lại thì bị Thác Bạt Tam Nương khoét mất một con mắt, hốc trống chảy ròng ròng máu đọng.

Tứ chi nàng vặn vẹo, nằm oặt như con rối đứt dây, trắng bệch và co rúm. Tay chân bị rút hết gân, xếp một bên như những sợi dây trắng. Dù là người đã quen thấy cảnh chết chóc như Hoắc Thất Lang, cũng không khỏi rùng mình, than thở: “Tam sư tỷ ra tay hơi quá rồi.”

Thác Bạt Tam Nương lại chẳng lấy làm áy náy, trái lại còn trách Vi Huấn: “Đều tại tiểu quỷ đó đánh trúng vào vai ta, không đổi được dây đàn, giờ còn thiếu một dây, không thể đàn được nữa.”

Bảo Châu tối sầm mặt mày, dạ dày dâng trào, vội ôm miệng chạy khỏi hầm. Nàng vốn nghĩ mình gan lì, không sợ quỷ thần, ai ngờ lại bị cảnh sống rút gân người làm cho sợ đến thất vía.

Hoắc Thất Lang nhanh chóng đuổi theo.

Kẻ giả tân nương, trước vốn được cung phụng chu đáo, bị xé mặt nạ, lộ ra nửa mặt người nửa mặt quỷ, từ đó chẳng ai dám gần. Không bao lâu bị đưa xuống hầm, rơi vào tay Bà Âm Ma, chưa đầy mấy hôm đã bị dày vò đến chẳng còn ra hình người.

Bảo Châu nôn ọe bên gốc cây, chẳng nhớ nổi mình định hỏi gì, Thập Tam Lang bèn chạy đi tìm nước cho nàng súc miệng.

Lúc mới vào Bàng phủ, nàng đã căn dặn tổng quản tìm cho bằng được thư Sấm Vĩ, sau mới định dò hỏi giả tân nương. Hoắc Thất Lang từng khuyên nàng đừng vào hầm, nàng lại cố chấp vào bằng được, nào ngờ tự rước khổ vào thân.

Hoắc Thất Lang tính vỗ lưng an ủi nàng, song nghĩ rồi lại thôi, chỉ dịu giọng nói: “Tam sư tỷ giỏi thẩm vấn, Đại Lý Tự mà nàng còn moi được lời, huống gì là một đứa giả trang. Có gì cần biết, hỏi nàng là rõ.”

Bảo Châu hít sâu mấy lần, mới trấn định lại, hỏi: “Ngươi học thuật giả dung, chỉ cần giỏi là có thể giả được mặt ai cũng giống sao?”

Hoắc Thất Lang lắc đầu: “Mặt thật ra dễ, khó là hình vóc và giọng nói. Như ta cao lớn thế này, có làm mặt giống Tiêu tiểu nương mười phần, nhìn qua cũng thấy giả. Muốn giả cho giống, cần thân hình và giọng nói tương đồng. Muốn bắt chước giọng, phải ở bên người ta thật lâu, quen mới bắt chước nổi. Ta đoán tên kia hoặc không giỏi bắt chước giọng, hoặc chưa gần gũi Tiêu Nhiễm bao giờ, nên đành giả làm người câm.”

Bảo Châu ngẩng nhìn hắn. Nàng còn cao hơn Vi Huấn, nếu là nàng thì càng khó giả người khác. Hiểu ra, thuật giả dung không phải vô địch, nếu lọt vào địch doanh mà bị lộ, hậu quả thật khó lường.

Hai người đang trò chuyện, chợt trên cành cây trong viện vang lên tiếng kêu khàn khàn. Bảo Châu lập tức giương cung, mũi tên còn chưa rời dây, đã thấy một chiếc phi đao lấp lánh bay vút qua, tiếng kêu im bặt. Từ trên cao rơi xuống xác một con quạ đen, đầu lìa khỏi cổ.

Thác Bạt Tam Nương cười đắc ý: “Thấy chưa? Phải thế mới gọi là gọn gàng. Đánh không chết ngay thì phải bổ thêm đao, tức là công phu còn yếu.”

Trong tầm hai mươi bước, cung tên cần giương kéo, ám khí chỉ cần tay nhanh. Vũ khí khác nhau, mỗi người mỗi sở trường. Song nghĩ đến cách nàng đối xử với tên giả tân nương ban nãy, Bảo Châu không muốn cùng loại người này luận tài nữa.

Hoắc Thất Lang thấy Bảo Châu e sợ, liền bước lên che trước nàng. Thác Bạt Tam Nương hừ lạnh, nhặt xác quạ lên xem. Phát hiện dưới cánh có lông nhuộm lam, không phải tự nhiên.

Hoắc Thất Lang nói: “Là ám ký. Bàng gia bị người theo dõi. Giang hồ có nơi dùng cách này báo tin.”

Bảo Châu thắc mắc: “Không phải thường dùng bồ câu sao?”

Hoắc Thất đáp: “Người giang hồ đa phần không biết chữ, chỉ cần thoả thuận từ trước, phân biệt bằng màu sắc là đủ. Không chỉ bồ câu, quạ, chim sẻ, thậm chí chó mèo cũng dùng được.”

Thập Tam Lang chen vào: “Môn phái chúng ta dùng khói ngũ huynh chế ra truyền tin.”

Thác Bạt Tam Nương phì cười: “Tàn Dương Viện các ngươi cái gì cũng nói cho người ngoài, thật chẳng có chút đường lui.”

Bảo Châu không tranh luận, hỏi thẳng: “Ngươi moi được gì từ miệng tân nương giả rồi?”

Tam nương đáp: “Gã rất kín miệng, chỉ khai rằng khi lẻn vào khuê phòng nơi ấy trống trơn, không còn thấy bóng tân nương.”

Nghe vậy, nghi hoặc trong lòng Bảo Châu bỗng rơi rụng.

Tam nương giễu cợt: “Ngươi nói ta mờ ám, nhưng ngươi cũng chẳng hơn gì. Tự xưng nắm chắc bảy tám phần, đông chạy tây dò nửa ngày, rốt cuộc được gì?”

Bảo Châu điềm đạm đáp: “Ta đã biết rõ hai phe – một bên là kẻ biết luật triều đình, ra tay âm hiểm nhằm diệt cả hai họ Tiêu và Bàng; bên kia là người giang hồ, chỉ phá hôn lễ để hạ nhục Bàng Lương Ký. Một bên là thù nước, một bên là oán riêng.”

Nàng dừng một chút, tiếp: “Căn cứ nhiều vụ án trước ở Đại Lý Tự, phàm nữ tử chết thảm, hơn nửa là do nhà chồng ra tay, hoặc trượng phu, hoặc cha mẹ chồng. Tân nương mất tích, hung thủ khả nghi nhất là chồng trước Lư gia. Tiêu gia vì tham giàu mà gả con hai lần, lại có oán với Lư thị, kẻ kia trong triều có thế, không khó đoán bọn họ thừa dịp hôn sự hoàn tất, ra tay trừ hai nhà. Hơn nữa, theo lệ, phát hiện người giả được thưởng một nửa tài sản của tội nhân. Bàng gia giàu có, e sớm bị nhắm tới.”

Tam nương chau mày hỏi: “Nhưng việc tái giá đâu phải mới, sao bọn họ không ra tay sớm?”

Bảo Châu đáp: “Lư gia có thế, song Tiêu Nhiễm vẫn từng là vợ họ, nếu ra tay sớm thì vạ lây cả thân tộc. Phải đợi khi lục lễ hoàn thành, nàng thật sự thuộc về Bàng gia, lúc đó mới có cớ ra tay. Mưu tính rất sâu, chẳng khác gì đá tự đập vào chân mình nếu sai một bước.”

Tam nương lặng im, Bảo Châu nói: “Ta giờ quay lại Tiêu gia tìm chứng cứ.”

Vừa dứt lời, Bàng tổng quản chạy tới, sắc mặt tái nhợt, nhỏ giọng nói: “Chủ nhân sai ta đi theo Cửu nương, nguyện dốc sức trợ giúp, chỉ mong ngài cứu một nhà Bàng gia.”

Bảo Châu gật đầu, lập tức quay lại Tiêu gia. Tiêu Nhẫm kéo theo một tiểu tỳ chừng mười ba, mười bốn tuổi đến trước mặt nàng, nói: “Con bé này từ nhỏ hầu hạ muội muội, cùng theo về nhà. Có gì nương tử muốn hỏi, nó chắc biết đôi chút.”

Bảo Châu nhìn tiểu tỳ, hỏi: “Nếu Lư gia đã tịch thu của hồi môn, sao ngươi còn theo nàng về được?”

Tiêu Nhẫm đáp: “Lạ là ở chỗ đó. Muội muội về nhà một mình, mấy tháng sau con bé này tới gõ cửa, nói bị đuổi khỏi Lư gia, không nơi nương tựa, xin về hầu hạ lại. Phụ thân ta tiếc của, một nô tỳ ba mươi quan tiền, nên chỉ hỏi vài câu rồi nhận lại.”

Tiểu tỳ sợ run người, nước mắt lưng tròng. Tiêu Nhẫm biết sự việc liên quan đến lời sấm rất hiểm nguy, nên sau khi Bảo Châu rời đi đã tra xét lại mọi manh mối.

Bảo Châu nghiêm giọng hỏi: “Lư gia sai ngươi chuyển gì cho tiêu tiểu nương?”

Khí chất uy nghi khiến tiểu tỳ lập tức quỳ xuống, vừa khóc vừa khai: “Phu nhân Lư gia lén đưa một phong thư, sau khi xem xong, tiểu nương tử lập tức đốt ngay. Nô không biết chữ, chẳng hiểu gì cả!”

Bảo Châu nghĩ: Với thân phận nàng, không biết nội dung thư cũng phải. Nhưng điều đó chứng thực Lư gia có nhúng tay. Giờ chỉ còn biết Tiêu Nhiễm giữ vai trò gì trong âm mưu ấy.

Bảo Châu hỏi tiếp: “Ngày thành thân, nàng có gì bất thường?”

Tiểu tỳ đáp: “Vẫn như ngày thường, trâm nương đến điểm trang, chúng nô giúp mặc áo cưới, đội trang sức. Nhưng nàng chẳng vui vẻ gì, còn đuổi hết ra ngoài, nói muốn tự tay mặc.”

Lúc ấy, Khâu Nhậm đi ra, nói với Bảo Châu: “Bọn họ còn giữ nửa hồ rượu có pha thuốc mê, nhưng không có mạn đà la. Có lẽ có kẻ lén thêm vào sau, mùi bị thứ thuốc khác át đi. Đại sư huynh kỵ cay chẳng ngờ cũng uống hết.”

Hoắc Thất Lang cười: “Không khéo, tam sư tỷ vừa tìm được một gói thuốc bột từ tên giả.”

Khâu Nhậm nghe xong, mắt sáng như sao: “Đó là bảo vật đấy, ta đi xin lại ngay.” Rồi vội vàng chạy đi.

Bảo Châu gom hết đầu mối suy ngẫm lại, lòng còn ngờ vực. Lư thị có động cơ rõ ràng, người giang hồ thì mục tiêu mơ hồ, dường như chỉ muốn làm nhục Bàng gia trước mặt bá quan văn võ.

Nhưng vì sao phải hại một kẻ vốn tàn phế, sắp rời giang hồ, như Bàng Lương Ký? Vi Huấn và bọn họ có cừu oán gì chăng? Nàng nghĩ mãi vẫn không ra. Bèn lệnh Tiêu Nhẫm trông coi tiểu tỳ, còn mình quay lại khuê phòng Tiêu Nhiễm, tìm thêm manh mối.

Hoắc Thất Lang nói: “Phòng tối quá, hay là dọn hết đồ ra ngoài mà xem cho rõ?”

Bảo Châu cười nhẹ: “Ngươi quả là người có sức mà không chỗ dùng.”

Hoắc Thất đáp: “Nhờ lão lục nuôi ăn nuôi uống, nên ta mới có sức. Nghe bảo hắn còn đúc cả chậu vàng để rửa tay gác kiếm, thật đúng là phung phí. Trên giang hồ, dùng thau đồng đã là sang.”

Bảo Châu lặng người. Thế sự đã rối như tơ vò, người này vẫn còn lòng nói chuyện cười. Chẳng biết là tâm rộng hay lòng bình thản.

Nàng hỏi: “Ngươi lo xong việc Bàng Lương Ký rồi định đi đâu?”

Hoắc Thất Lang thành thật: “Tính về Trường An uống rượu.”

Bảo Châu không do dự: “Vậy đầu quân cho ta, cùng các huynh đệ hộ tống ta đi tìm người thân. Tiền công không kém đâu.”

Hoắc Thất vừa nghe, lòng run rẩy, một bên đi đường một bên được ngắm người đẹp, còn có tiền đầy tay đời này còn gì hơn?

Bảo Châu lại tiếp lời: “Vi Huấn dù sao cũng là nam tử, có nhiều việc bất tiện. Ta lại hơi sợ tối, sợ ma… Có ngươi bên cạnh, vừa tiện vừa an tâm.”

Nói tới đây, nàng chớp mắt long lanh: “Ngươi có thể ở cùng phòng, cùng giường với ta, chẳng gì hợp bằng.”

Hoắc Thất Lang nghe đến đó, nụ cười dần tắt, cảm thấy một luồng sát khí từ đâu kéo đến, lạnh sống lưng. Biết nếu trả lời sai, e đầu không còn giữ nổi.

“Tiếc là… việc này lão Thất không tiện nhận.”

Vì mạng sống, hắn đành từ chối, miệng bịa ra: “Sư môn chúng ta có quy củ, đã nhận chủ rồi thì không được nhận người khác.”

Bảo Châu chau mày: “Thập Tam Lang chẳng phải vẫn theo ta đấy thôi?”

Hoắc bảy cúi đầu cung kính: “Đó là ngoại lệ. Tiểu Thập Tam Lang chưa xuất sư đi theo đại sư huynh. Ta là anh hùng có tiếng, chẳng thể so được.”

Bảo Châu thất vọng rõ ràng, oán trách: “Môn phái các ngươi nhỏ, quy củ lại nhiều như luật lệnh vậy.”

Hoắc Thất thầm thở dài: thật ra chẳng có quy củ gì cả, chỉ là Vi đại chiếm mất chỗ tốt, kẻ khác chẳng dám tranh.

Không giữ được người, Bảo Châu lại quay về với khuê phòng Tiêu Nhiễm, ánh mắt dừng trên chiếc giường lớn. Giường cao, rộng, chăn gấm xếp chồng, màn buông lên cả giường, chưa chắc đã kiểm tra kỹ.

Nàng nói: “Ngươi có thể dỡ giường lên cho ta xem kỹ không?”

Hoắc Thất Lang liền vén tay áo, dỡ hết màn, nhấc giường dịch ra. Vừa kéo ra, nàng đã kêu lên: “Dưới giường có dấu vết, như từng có người trốn ở đây.”

Bảo Châu nhìn kỹ, thấy có một dòng chữ nhòe máu ghi vội nơi đầu giường:

“Chết ở chỗ nào nói, đành giử thân nơi núi non.”

Cạnh đó, trong khe giường, có cắm một chiếc thoa mạ vàng.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 86


Hoắc Thất Lang từ đáy giường rút ra một chiếc trâm cài, cầm trong tay ngắm nghía. Đó là loại trang sức nữ nhân thường dùng, trên đầu trâm có hình con bướm, phía đuôi chia hai nhánh nhỏ, vì thường xuyên đeo nên lớp mạ vàng bên ngoài đã mòn gần hết, lộ ra lõi đồng bên trong.

Còn dòng thơ, chính là câu cuối trong bài “Nghĩ khúc phúng điếu từ” của tiên sinh Ngũ Liễu – Đào Uyên Minh. Có lẽ được viết bằng ngón tay dính phấn son vạch trong bóng tối, nên chữ xiêu vẹo, không rõ nét.

Bảo Châu nhìn câu thơ, trong lòng bất giác dâng lên một linh cảm chẳng lành, quay sang Hoắc Thất Lang nói khẽ:

“Đây là một câu thơ tuyệt mệnh.”

“Nghĩa là người biết mình sắp chết mới để lại lời trối?”

Bảo Châu gật đầu, mặt trầm hẳn xuống. Bên dưới giường phủ một lớp bụi mỏng, hiện rõ dấu một thân người nhỏ nhắn từng nằm co ro, và ở một phía còn lưu lại những vệt trắng tròn như giọt nước. Người khác có lẽ không nhận ra, nhưng Bảo Châu thì quá quen thuộc đó là vết nước mắt hòa son phấn, rơi xuống từ một gương mặt đang lặng lẽ khóc trong uất nghẹn.

“Tên thích khách bị tam sư tỷ ngươi tra tấn đến nửa sống nửa chết ấy, ban đầu giả làm nữ tỳ của Bàng gia để trà trộn vào Tiêu phủ, sau đó lẻn vào phòng Tiêu tiểu thư. Gã tưởng phòng vắng người, liền khoác lễ phục, đeo trang sức, hóa trang thành tân nương để thế thân. Gã đâu ngờ, lúc ấy, tân nương thật lại đang trốn dưới gầm giường, âm thầm khóc trong bóng tối.”

Hoắc Thất Lang nói: “Nếu Tiêu tiểu thư bị trói bịt miệng giấu dưới giường, khóc thì còn có thể, nhưng làm sao viết chữ được?”

Bảo Châu khẽ thở dài: “Không có ai trói nàng cả. Kẻ bắt cóc tân nương… chính là nàng. Lư gia đã cho người đuổi tiểu tỳ đi, nhân tiện truyền thư đến, có lẽ trong đó chứa lời đe dọa cả hai nhà Tiêu – Bàng, buộc nàng phải tự bắt cóc mình. Đợi đoàn rước dâu rời đi, Tiêu phủ yên tĩnh trở lại, nàng sẽ đội mũ che mặt trèo tường bỏ trốn.

Bài thơ để trong hộp gương chỉ là để đánh lạc hướng, khiến người ta tưởng nàng tự ý bỏ trốn vì không muốn lấy chồng. Dòng thơ tuyệt mệnh dưới gầm giường mới là tiếng lòng chân thực.”

Hoắc Thất Lang vừa nói vừa lật đi lật lại chiếc trâm trong tay, một lát sau mới khẽ nói: “Tiêu tiểu thư, hẳn là có tình với lão lục.”

Bảo Châu hỏi: “Sao ngươi đoán được?”

Hoắc Thất Lang nói: “Chiếc trâm này làm từ đồng, mạ vàng, trong có lõi đồng ý là ‘đồng tâm’, thường được người yêu nhau dùng làm tín vật đính ước.”

Bảo Châu ngạc nhiên, nghi hoặc: “Ngươi làm sao biết rõ như vậy?”

Hoắc Thất Lang cười nhạt: “Vì ta thường được tặng thứ này.”

Bảo Châu nghẹn lời, nhất thời không thể hình dung được cảnh mình cài trâm lên tóc ra sao, liền nói: “Nhưng cũng chưa thể chắc chắn đây là tín vật giữa nàng và Bàng Lương Ký. Bàng gia giàu có, nếu tặng vật gì cũng là vàng bạc châu báu, sao lại đưa một chiếc trâm đồng rẻ tiền như thế này?”

Nói rồi nàng ra khỏi phòng, gọi Bàng tổng quản Tiêu phủ đến, đưa trâm cho ông xem.

Bàng tổng quản nhìn thấy, chấn động: “Đây là món quà tiểu lang nhà ta tặng Tiêu tiểu thư khi còn nhỏ. Chính ta là người trộm nó từ tiệm về cho cậu ấy. Sao vị tiểu thư ấy còn giữ bên mình?”

Bảo Châu đem phỏng đoán của mình nói ra, Bàng tổng quản cười khổ: “Khi ấy nhà họ Tiêu chưa khá giả, nếu con gái đột nhiên mang vàng bạc không rõ nguồn gốc, cha mẹ chắc chắn nghi ngờ. Tiểu lang vì vậy mới tặng trâm đồng. Đuôi trâm vốn có khắc hình con ngựa nhỏ chính là hàm nghĩa trong tên của cậu ấy.”

Bàng tổng quản chỉ cho Bảo Châu chỗ từng khắc dấu hiệu ấy, nhưng đã bị v*t c*ng cạo mòn từ lâu.

Bảo Châu nghĩ thầm: nhìn lớp mạ vàng bị mài mòn, chắc hẳn nàng đã đeo trâm này nhiều năm. Nếu mang theo trâm về nhà chồng, nàng đương nhiên phải cẩn thận để không bị phát hiện đó là tín vật của tình lang, nên mới cố tình xóa đi dấu hiệu.

Họ là có tình.

Nàng tưởng tượng lại cảnh đêm tân hôn hôm đó. Tiêu tiểu thư giấu mình dưới giường, chờ thời cơ bỏ trốn, nhưng bất ngờ thấy một kẻ lạ trà trộn vào phòng. Nàng đâu hay biết đó là người từ phe khác phái tới, tưởng là người nhà chồng cũ sắp đặt thế thân. Kẻ kia mặc lên lễ phục thuộc về nàng, chuẩn bị thay nàng lấy người mình yêu. Trong tuyệt vọng, nàng chỉ có thể để mặc nước mắt rơi, thấm qua phấn son, nhỏ xuống sàn gỗ.

“Chết ở chỗ nào nói, đành giử thân nơi núi non.”

Linh cảm chẳng lành trong lòng Bảo Châu mỗi lúc một rõ. Lư gia đã bày mưu giết người, lại ép nàng tự đào hôn, chẳng lẽ chỉ để gây khó dễ cho Bàng gia? Ba tộc kết oán thâm thù, người chồng trước cũng đã chết còn ép nàng quay về thì được lợi gì?

Càng nghĩ càng lạnh sống lưng, Bảo Châu lập tức bảo Hoắc Thất Lang chuẩn bị đến Lư phủ đối chất. Nhưng xét thấy nhân lực còn yếu, nàng vừa bước khỏi cửa Tiêu phủ thì thấy Hứa Bão Chân đã ngồi sẵn trên lưng ngựa, đợi bên ngoài.

Hắn ít lời, nhưng dứt khoát: “Bàng Lục đi tìm người, không hề truyền tin ra ngoài. Kẻ tụ tập võ lâm vào Bàng phủ là có kẻ phá rối. Có lẽ… liên quan đến di ngôn của sư phụ.”

Hoắc Thất Lang cau mày: “Có nên gọi cả đại sư huynh?”

Bảo Châu chưa rõ ẩn ý của họ, nhưng câu đó thì nàng nghe hiểu, vội nói: “Không cần! Ta sắp tìm ra Tiêu tiểu thư rồi, chỉ là sắp phải đối đầu với kẻ địch, số người hơi ít. Hai người theo ta một chuyến.”

Hoắc Thất Lang nghe xong, sờ vào hông trống không, vẻ mặt lúng túng: “Biết trước phải động thủ thật, ta đã mượn theo cây đao. Giờ tay không, có phần bất tiện.”

Hứa Bão Chân thở dài, như tiếc thay cho hắn: “Lần sau đừng tham tiền nữa, ta cùng các ngươi đi.”

Thêm một người tiếp sức, tinh thần Bảo Châu càng vững. Nàng cho gọi tiểu tỳ từng truyền thư, dẫn theo mọi người thẳng tới phủ Lư gia.

Trên đường, Bảo Châu dặn Hoắc Thất: “Lát nữa nếu động thủ, gặp họ Lư thì cứ đánh cho thật mạnh.”

Từ trước đến giờ nàng luôn tỏ vẻ đoan trang điềm đạm, nay đột nhiên dặn dò như vậy, Hoắc Thất Lang tò mò hỏi: “Sao? Bọn họ từng chọc ngươi à?”

Bảo Châu gật đầu: “Cũng có chút tư thù. Ngươi từng nghe đến ngoại hiệu ‘Hồ tiêu khanh’ chưa?”

Hoắc Thất Lang bật cười: “Ở Trường An ai chẳng biết, chẳng lẽ là nhà của Lư Tụng Chi kia?”

Bảo Châu đáp: “Không sai.”

Lúc trước nàng từng kể rằng trong cung từng xảy ra vụ tranh cãi quanh việc dùng hồ tiêu. Một vị ngự sử tự xưng thanh liêm cho rằng hồ tiêu quá đắt đỏ, dâng tấu xin đổi sang dùng hoa tiêu.

Hoàng thượng không đồng ý. Hoa tiêu tuy thơm, nhưng ăn vào tê miệng, chỉ hợp làm gia vị, không hợp dùng thường xuyên. Ngự sử dù sao cũng là bề tôi chính trực, chẳng thể thẳng tay đuổi, cần có lý lẽ để bác bỏ.

Lúc đó, Lư Tụng Chi một thầy thuốc nhỏ ở Thái Y Thự viết lời từ sách “Thiên kim phương” của Tôn Tư Mạc, nói hoa tiêu có độc, dễ gây loét miệng và choáng váng, còn hồ tiêu lại không độc, có thể làm thuốc trị đau bụng. Vì sức khỏe hoàng thượng và nhan sắc quý phi, phải dùng hồ tiêu mới yên tâm. Theo cách giải thích đó, ai còn đòi dùng hoa tiêu tức là có dã tâm hại hoàng tộc.

Lư Tụng Chi rất hiểu lòng vua, đem y thư ra làm bằng chứng từ đó được sủng ái, chức quan lên nhanh, nay đã là gián nghị đại phu, kiêm quản Thượng Dược Cục.

Khi ấy, Bảo Châu chưa đến mười tuổi, nhớ rõ hiệu quả chữa bệnh của hồ tiêu. Trong một buổi yến, nàng từng đùa giỡn gọi Lư Tụng Chi là “Hồ tiêu khanh”, chẳng ngờ truyền ra ngoài, từ triều đình đến dân gian ai cũng gọi hắn như vậy. Chắc hẳn cả đời này, hắn cũng không quên được ngoại hiệu đó.

Lư Tụng Chi không dám làm khó nàng người được hoàng đế yêu quý nhưng lại ngấm ngầm kéo theo nhiều phương sĩ vào cung, khiến hoàng thượng dần sinh nghi và tính tình thay đổi.

Trước khi nàng bị chôn sống, một ngự y từng đến khám bệnh đột ngột bị thay thế, mà người có thể can thiệp vào việc ấy không ai ngoài Lư Tụng Chi. Vì vậy Bảo Châu tin rằng hắn đã nhân cơ hội trả thù.

Hiện tại, nàng đã mất hết thân phận, không thể điều tra, chỉ biết âm thầm khắc ghi mối hận này.

Những điều ấy, nàng không thể nói ra. Chỉ nhẹ nhàng bảo: “Ta xem tộc phổ nhà họ Lư rồi. ‘Hồ tiêu khanh’ chính là người chống lưng cho gia tộc này. Gia chủ Lư Đình Phương là em ruột hắn, cũng là cha chồng cũ của Tiêu tiểu thư.”

Hoắc Thất Lang nói: “Lại thân thích lằng nhằng, rồi lại phải cãi nhau như với Tiêu gia nữa sao?”

Bảo Châu nhớ đến bài thơ tuyệt mệnh, lắc đầu: “Không thể chậm trễ, phải tốc chiến tốc thắng.”

Một đường phi ngựa đến Lư phủ, nơi này rõ ràng to lớn hơn hẳn Tiêu gia, nhưng trước cổng lại treo khăn trắng như có tang sự trong nhà.

Bảo Châu đi thẳng vào, dõng dạc: “Ta tới tìm Tiêu tiểu thư, gọi Lư Đình Phương ra gặp.”

Bọn gia đinh thấy nàng gọi thẳng tên gia chủ, thái độ chẳng khách khí lập tức định đuổi đi, nhưng bị Hoắc Thất Lang tung chân đá bay.

Bảo Châu dẫn đầu tiến vào. Lũ gia đinh xông tới vây quanh, tay cầm gậy gộc.

Hứa Bão Chân rút kiếm đưa cho Hoắc Thất, bản thân tay cầm phất trần, bước đi chậm rãi mà uy nghi. Từng bước của hắn như tiên nhân giáng trần, động tác nhẹ nhàng mà sát thương cực mạnh. Lũ gia đinh vừa bị phất trần quét trúng liền gãy xương r*n r*.

Hoắc Thất Lang cầm kiếm không rút, dùng cả vỏ làm gậy. Hắn chỉ bảo vệ Bảo Châu, không ra tay trước nhưng ai dám lại gần, hắn liền thọc cho một cú.

Cả nhóm thuận lợi tiến vào chính sảnh, Bảo Châu ung dung ngồi lên vị trí chủ tọa, ngẩng đầu thấy trong sảnh toàn là người bệnh.

Nàng lớn tiếng: “Gọi Lư Đình Phương ra! Thứ ngươi giấu ở Tiêu gia và Bàng gia, ‘Nhị đế cùng công, thế vạn toàn’, những lời phản nghịch ấy là do ngươi viết sao? Nếu không ra, coi chừng cả nhà ngươi bị liên lụy!”

Nàng gọi mấy lần, lời nói động trời. Cuối cùng, một người đàn ông trung niên mặc đồ tang trắng bước vào, vẻ mặt căng thẳng, sau lưng có gia đinh theo hầu.

Vừa thấy nàng, ông ta liền mắng: “Con đàn bà nào dám đến đây gây rối nhà họ Lư?”

Bảo Châu mỉm cười: “Chỉ là chi thứ, mà cũng dám tự nhận là họ Lư Phạm Dương? Ngươi là cha chồng cũ của Tiêu tiểu thư? Mặc đồ tang cho ai vậy?”

Lư Đình Phương không đáp, nhìn thấy tiểu tỳ từng bị đuổi khỏi nhà, biết âm mưu đã lộ, nhưng vẫn hỏi: “Ngươi vừa rồi nói gì?”

Bảo Châu lạnh lùng: “Ngươi biết rõ ta nói gì. Mau giao Tiêu tiểu thư ra, ta tha cho ngươi một mạng.”

Lư Đình Phương vốn xuất thân thế gia, cả đời chưa ai dám lớn tiếng với ông. Nay bị Bảo Châu mắng như kẻ hầu, nhất thời nghẹn lời, chỉ biết lắp bắp. Rồi ông quát: “Tiện phụ đã tái giá, còn dám đến Lư gia đòi người?”

Bảo Châu nói thẳng: “Nếu không giao người, ta tặng ngươi một món quà lớn. Thứ ngươi dùng để hại người, ta đã giấu kỹ. Đừng mong đào đất lật ngói mà tìm ra. Ta đã báo lên phủ, xem quan quân tới lục soát nhanh hay ngươi tìm ra trước.”

Lư Đình Phương tái mặt. Hắn hiểu rõ sự lợi hại của lời sấm, biết kẻ trước mặt có người võ công cao cường hỗ trợ, chuyện giấu vật không phải chuyện khó. Hắn không ngờ Bàng gia lại có liên hệ giang hồ, lại còn hiểu rõ quy tắc triều đình đến vậy.

Hoắc Thất Lang thích thú nghe nàng ép hỏi, thầm nghĩ: nàng từ sáng tới giờ chưa hề rời khỏi, làm gì có thời gian giấu vật? Ấy vậy mà nói ra mồm dối trá như thật, quả là thông minh đến đáng mến.

Bảo Châu thừa thắng: “Ngươi lấy thứ đó để hại người, đương nhiên biết giá trị của nó. Một khi bị tố cáo, nam đinh nhà ngươi sẽ bị bắt, dù không bị xử tử, cũng nát thân đừng mong khoa cử làm quan.”

Câu nói đánh trúng điểm yếu. Bảo Châu đoán hắn sẽ đem tên Lư Tụng Chi ra hù dọa, ai ngờ ông ta chỉ biết run rẩy, mặc kệ người hầu đỡ đứng.

Bỗng từ trong nhà vang lên tiếng khóc gào. Một người đàn bà trung niên tóc đã bạc phơ, nét mặt đầy oán hận xông ra:

“Con tiện phụ ấy khắc chết con ta, còn mơ tái giá với kẻ phú quý? Hừ! Tên tiểu tử nhà họ Bàng còn dám nói con ta không xứng! Nó phát tang thì hắn bày tiệc, nó giỗ đầu thì hắn đính hôn, ha ha ha! Đừng hòng gặp lại tiện phụ ấy nữa, nàng sống là người nhà ta, chết cũng phải làm ma nhà ta! Xuống hầu hạ con ta đi!”

Bảo Châu nhìn người đàn bà vừa khóc vừa cười như điên, lòng chợt lạnh. Nàng nhớ lại dòng thơ viết bằng phấn trong bóng tối kia, biết chắc đã xảy ra chuyện chẳng lành.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 87


Hoắc Thất Lang và Hứa Bão Chân vốn không giỏi hỏi cung, hai người vừa ra tay đã vung chưởng đánh ngất phu thê nhà họ Lư, còn chưa kịp tra ra tâm phúc là ai, ai là kẻ trực tiếp thi hành mưu đồ diệt môn. Trong lúc rối ren, mọi manh mối đều vụt tan như khói.

Từ những lời nói lắp bắp, rối loạn của Lư phu nhân, Bảo Châu đoán được tính mạng của Tiêu Nhiễm đang như ngọn đèn cạn dầu, không thể chậm trễ thêm được nữa.

Hoắc Thất Lang chau mày nói:
“Tên lão già mặc đồ tang kia, chẳng lẽ đã lỡ tay gi.ết c.hết Tiêu cô nương?”

Bảo Châu vội đáp:
“Không thể nào. Không có chuyện bậc trưởng bối để tang cho con cháu. Hơn nữa nhà họ Lư đối với nàng còn mang thâm thù, sao có thể làm vậy được?”

Nàng lặng người giây lát, rồi chộp lấy một gã gia đinh bị thương, gằn giọng hỏi:
“Lư Đình Phương để tang cho ai?”

Tên kia òa lên khóc:
“Là huynh trưởng của chủ nhân mất ở Trường An cách đây hai tháng. Cả nhà đều mặc đồ tang vì ông ấy.”

Bảo Châu chợt hiểu, liếc nhìn áo tang của Lư Đình Phương, thấy cách thắt vạt áo đúng theo lễ tiết ‘trảm suy’, lòng chấn động: chẳng lẽ là để tang cho con của Lư Tụng Chi?

Nhưng chuyện đó có vẻ không liên can trực tiếp đến vụ mất tích của Tiêu Nhiễm. Bảo Châu nôn nóng đi đi lại lại, trong lòng rối bời, miệng khẽ ngâm nga bài “Nghĩ vãn ca từ ” của Đào Uyên Minh:

“Mênh mông cánh đồng cỏ
Hàng bạch dương xác xơ
Trời tháng chín sương lạnh
Đưa ta ra ngoài ô
Bốn bên không nhà ở
Mộ thấp cao nhấp nhô
Ngựa hí vang nghển cổ
Gió từng cơn vật vờ
Nhà tối một đóng kín
Ngàn năm chẳng sáng cho
Ngàn năm chẳng sáng cho
Hiền đạt há khác chi
Người đưa ta đến đó
Đà lục tục ra về ra về
Thân thuộc còn xót xa
Người dưng đà vui vẻ
Chết đi là hết nói
Thân vùi bên sườn đồi” (Thivien)

Bài thơ miêu tả cảnh mình sau khi chết được đưa ra nơi đồng vắng, từ cỏ hoang, gió buốt, đến tiếng khóc người thân, thảy đều bi thiết khôn nguôi. Đặc biệt câu “Nhà tối một đóng kín, Ngàn năm chẳng sáng cho” khiến Bảo Châu rùng mình, nhớ lại cảnh bản thân từng bị chôn sống trong địa cung, nỗi tuyệt vọng ấy bỗng sống dậy.

Nàng lẩm bẩm:
“Không thể nào… chẳng lẽ bọn họ thật sự…”

Hoắc Thất Lang dù không biết nhiều chữ, nhưng vốn thích thơ phú, nghe nàng đọc cũng thấy cảm xúc dâng trào, bèn nói:
“Câu ‘Ngựa hí vang nghển cổ, Gió từng cơn vật vờ’, chẳng phải như thể con ngựa của Bàng Lương Ký đang khóc cho Tiêu cô nương hay sao?”

Bảo Châu chợt sáng mắt, lớn tiếng:
“Phải rồi! Bọn họ đem nàng chôn theo cùng chồng trước Lư Đan!”

Theo lệ, dù là vợ của chồng trước hay sau, nếu chết thì vẫn thường được táng chung cùng trượng phu. Dẫu là đất khách quê người, người thân cũng thường tìm cách cải táng cho được hợp mộ.

Không trách Lư Đình Phương thà chết cũng không chịu khai, bởi ông ta biết rõ Tiêu Nhiễm không còn là người sống.

Bảo Châu lại bắt một gia đinh, hỏi gắt:
“Mộ của Lư Đan nằm ở đâu?”

Tên kia còn chần chừ, đã bị Hứa Bão Chân quét phất trần cuốn vào cổ chân, kéo thẳng ra cửa:
“Thời gian không đợi ai, vừa đi vừa hỏi!”

Bảo Châu biết mộ phần của nhà quyền quý dù có lớn, cũng không như địa cung với nhiều tầng lớp. Nếu còn sống bị vùi bên trong, thì e chẳng cầm cự được lâu, nàng lòng như lửa đốt, vội theo sau chạy đi.

Hoắc Thất Lang nói:
“Dù là đại sư huynh có ở đây, muốn đào một hầm lớn cũng cần thời gian. Trừ phi là ngũ sư huynh…”

Gã gia đinh bị kéo lê một quãng, đến khi Hứa Bão Chân nhảy lên ngựa, giơ roi đe dọa:
“Nếu ta thúc ngựa một roi, thì da ngươi cũng tan nát. Còn không nói thật?”

Tên kia hoảng hốt kêu to:
“Xin đạo trưởng tha mạng! Nô chỉ đường ngay!”

Hứa Bão Chân lập tức xách hắn lên ngựa, phóng như bay. Gã chỉ tay về phía huyện thành Linh Bảo. Mấy người liền thúc ngựa phi nước đại.

Bảo Châu quay sang hỏi:
“Ngươi vừa nói câu kia là có ý gì?”

Hoắc Thất Lang đáp:
“Trong sư môn, nếu nói ai giỏi tìm mộ nhất, thì là đại sư huynh. Nhưng nếu so về tốc độ đào, thì ngũ sư huynh đứng đầu.”

Bảo Châu thầm nghĩ, La Đầu Đà thân hình to lớn, mỗi lần vào mộ đều phải lom khom mới đi được. Người như vậy sao chen nổi vào đường hầm trộm mộ nhỏ hẹp?

Mọi người phi như bay. Bảo Châu ngạc nhiên nhận ra con lừa của nàng hôm nay lại đặc biệt nhanh nhẹn. Bao lần nàng chê nó thấp lùn, xấu xí, chẳng dám cưỡi ra đường. Thế mà hôm nay roi vừa giục, nó không những không chậm, mà còn nhanh chẳng kém ngựa thường, khiến nàng âm thầm thấy lạ.

Theo hướng tên gia đinh chỉ, họ quay lại con đường cũ từ khách đ**m tới Ngọc thành. Vừa bàn bạc cách liên lạc với La Đầu Đà, thì bỗng một chấn động dữ dội vang lên, mặt đất rung chuyển. Sau đó là tiếng nổ lớn, một luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn.

Ngựa giật mình hí vang, đứng thẳng hai vó trước, chỉ riêng con lừa của Bảo Châu vẫn ung dung, không nao núng.

Hoắc Thất Lang nhìn làn khói, reo lên:
“Là ngũ sư huynh! Hắn tới còn nhanh hơn chúng ta?”

Tới nơi, mấy người kinh ngạc thấy đây chính là gò đất lớn nơi sáng sớm Bảo Châu bắn hạ con chim quái. Cửa mộ bị đánh sập, một lối vào tối om mở ra giữa lòng mộ.

Bàng Lương Ký từ trong khói đen khập khiễng ôm ra một thiếu nữ nhỏ nhắn, mặt mũi lem luốc, nước mắt cùng tro tàn nhòe nhoẹt một vùng. Bọn tùy tùng vội vây quanh, nhưng hắn nhất định không buông, ôm chặt lấy người ấy rõ ràng chính là tân nương đã mất tích.

Bảo Châu vừa mừng rỡ vừa ngỡ ngàng:
“Các ngươi làm sao biết nàng bị chôn ở đây?”

Bàng Lương Ký chẳng buồn đáp, chỉ ôm lấy Tiêu Nhiễm đang thoi thóp trong vòng tay, nước mắt tuôn như suối, miệng gọi không ngừng:
“A Nhiễm… A Nhiễm…”

Một tùy tùng lên tiếng:
“Thưa Cửu Nương, công tử nhà ta cũng chẳng biết. Sáng nay người sai chúng tôi đi tìm quái điểu, tìm suốt ban ngày chẳng thấy gì, đang định trở về thì công tử đọc được bia mộ. Ngài phát hiện đây là mộ chồng trước của tân nương, thấy đất quanh mộ còn mới, trong lòng bất an nên cầu xin đầu đà sư huynh phá mộ xem. Không ngờ thật sự cứu được người. Này chẳng phải trời giúp hay sao?”

Mộ thất không có thông gió như địa cung, Tiêu Nhiễm đã hôn mê vì ngạt thở, tính mạng như chỉ mành treo chuông. Nếu không nhờ trực giác của Bàng Lương Ký, e rằng lúc Bảo Châu tới khai quật thì đã muộn.

Thấy mộ bị phá tung, Bảo Châu kinh ngạc:
“Đây là uy lực thuốc nổ? Thứ đó không phải chỉ để phát khói thôi sao? Sao không làm thương ai trong mộ?”

Hoắc Thất Lang cười:
“Ngũ sư huynh được gọi là Chấp Hỏa Lực Sĩ, chuyên phá cấu trúc mộ. Nhưng mỗi lần phá nổ như vậy động tĩnh rất lớn, bình thường không thể dùng, trừ khi ở nơi hoang vắng.”

Lúc ấy, từ lỗ hổng trong mộ, một bóng người to lớn khom lưng chui ra, hệt như núi đổ. La Đầu Đà tay cầm một mũi tên, mặt đầy nghi hoặc, bước tới đưa cho Bảo Châu:
“Của ngươi sao?”

Nàng cầm lên nhìn – đúng thật. Mỗi mũi tên trong túi nàng đều có khắc dấu chữ thập bằng móng tay. Kiểm lại chỉ còn 29 mũi, buổi sáng nàng bắn một tên vào quái điểu, chính là mũi này.

Bảo Châu ngạc nhiên:
“Ở đâu ra vậy?”

La Đầu Đà đáp:
“Găm trên nắp quan tài. Ta là người đầu tiên vào, không ai đổi được.”

Bảo Châu thẫn thờ. Mũi tên bắn vào quái điểu sáng sớm lại nằm trong phần mộ khép kín, bên cạnh là xác Lư Đan và Tiêu Nhiễm mất tích không tài nào lý giải được.

Nghĩ đến lời Hoắc Thất Lang từng kể về La Sát Điểu sinh ra từ thi khí, nàng bất giác thấy lạnh sống lưng. Không dám giữ mũi tên bên mình, nàng đưa lại cho La Đầu Đà:
“Làm phiền sư huynh đem nó đi siêu độ hay gì đó…”

Bàng gia sai người cấp tốc mời Quỷ Thủ Kim Cương Khâu Nhậm đến. Y xem mạch, châm vài mũi định hồn lên cổ Tiêu Nhiễm, rồi bảo ôm nàng về tĩnh dưỡng.

Khâu Nhậm quay sang nói:
“Gần đây lão lục đang tụ hội hơn ngàn người, gần như nửa võ lâm Trung Nguyên đã tới, nói là do Tàn Dương Thất Tuyệt mời đến xem lễ. Ba ngày rồi chưa mở tiệc, ai cũng ngồi chờ sốt ruột. Bàng phủ bị sự cố hôm cưới hãi đến không dám mở cửa, tam sư tỷ trấn thủ bên ngoài, tính tình lại nóng nảy, e rằng sắp đánh nhau tới nơi.”

Bảo Châu nghĩ: cứu được Tiêu Nhiễm mới là một phần, kẻ ẩn mình trong bóng tối giật dây vẫn chưa lộ mặt, nếu không trừ sạch, về sau sẽ còn tai họa.

Tàn Dương Thất Tuyệt đều có cùng ý nghĩ, liền lập tức lên ngựa, hộ tống Tiêu Nhiễm trở về.

Hứa Bão Chân bảo:
“Sắp tới là chuyện giang hồ, ngươi nên về khách đ**m nghỉ ngơi.”

Bàng Lương Ký cũng nói:
“Cửu Nương đã giúp đến mức này, đã là đại ân. Trước mặt là đao núi biển máu, không thể để nàng liên lụy.”

Bảo Châu nhìn quanh quần hùng đang hừng hực khí thế, ngạo nghễ đáp:
“Từ nay về sau ta với ngươi không liên quan. Nhưng đám người mai phục ta, khiến thuộc hạ ta bị thương, mối thù này ta phải đòi cho bằng được.”

Mọi người nghe nàng nói “thuộc hạ của ta” thì ngơ ngác, rồi đồng loạt nghĩ thầm: đến Vi Huấn cũng chịu lép vế trước nàng, quả là người dũng cảm ít ai bì.

Hứa Bão Chân cười cười:
“Tùy ngươi. Nhưng khi động thủ, không ai liều chết che chở ngươi như đại sư huynh đâu.”

Bảo Châu không đáp, chỉ ngẩng đầu thúc lừa tiến về phía Ngọc Thành.

Bàng phủ chung quanh đã tụ người như biển, đen nghịt cả mấy con phố, ai nấy tay cầm đao trượng, ánh mắt hằm hằm. Các tiểu thương gần đó sợ hãi bỏ cả hàng hóa mà chạy trốn.

Thác Bạt Tam Nương ngồi xếp bằng trên nóc tường, tay ôm tỳ bà làm bằng xương trắng, gảy khúc “Tần Vương phá trận nhạc”. Dây đàn đã hư hao, tiếng gảy nghẹn ngào sai nhịp, nghe mà rợn người.

Quần hùng Trung Nguyên bối rối, chẳng hiểu Tàn Dương Thất Tuyệt mời họ tới để làm gì, sao lại nghiêm phòng như nghênh địch. Giang hồ vốn ít ai tính khí hiền lành, dần dà trong đám đã có người giận dữ gào thét, khí thế căng như dây đàn.

Ngay lúc ấy, một cơn bụi mù nổi lên, tiếng vó ngựa chấn động đất trời, một nhóm hảo hán giục ngựa phi như bay đến, dũng mãnh như sơn băng thủy trút.

Người ta nhìn kỹ chính là Tàn Dương Thất Tuyệt!

Lão nhị “Động Chân Tử” Hứa Bão Chân, lão tam “Bà Âm Ma” Thác Bạt Tam Nương, lão tứ “Quỷ Thủ Kim Cương” Khâu Nhậm, lão ngũ “Chấp Hỏa Lực Sĩ” La Đầu Đà, lão lục “Tật Phong Thái Bảo” Bàng Lương Ký, lão thất “Khỉ La Lang Quân” Hoắc Thất Lang – tất cả đều có mặt.

Chỉ riêng người từng khiến thiên hạ khiếp sợ trong lễ cưới Thanh Sam Khách Vi Huấn là không thấy đâu.

Thay vào chỗ hắn là một thiếu nữ áo đỏ xinh đẹp rực rỡ, cưỡi lừa ung dung tiến tới, bên hông treo thanh kiếm Ngư Tràng trứ danh của Trần Sư Cổ bá chủ một phương, oai trấn võ lâm.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 88


Bàng Lương Ký giao Tiêu Nhiễm đang hôn mê cho tùy tùng, dặn đưa nàng vòng theo cửa sau về phủ, còn bản thân vẫn ngồi yên trên lưng ngựa, đứng giữa đám đồng môn.

Thác Bạt Tam Nương thấy bè bạn đã tụ đủ, dừng tay nắm dây đàn, hướng Bàng Lương Ký quát lớn:
“Tên què, lui xuống mà hầu hạ vợ con đi, đứng đây chỉ thêm vướng tay vướng chân!”

Bàng Lương Ký cười khổ:
“Tuy sư phụ đã đuổi ta ra khỏi môn hộ, song được các vị sư huynh sư tỷ không bỏ, Tàn Dương Thất Tuyệt cũng chẳng xoá tên ta khỏi danh sách. Vậy hôm nay có máu chảy đầu rơi, ta cũng phải ở đây mà chờ.”

Trời thu cao vợi, gió lộng bốn bề, câu nói của hắn mang theo chút u hoài và khí khái. Hắn chắp tay ôm quyền, cao giọng hướng những bậc anh hùng trong chốn võ lâm:
“Chư vị đến đây dự lễ thành hôn và nghi thức rửa tay chậu vàng của Bàng mỗ, bản phủ đón tiếp không chu đáo, trong lòng vô cùng hổ thẹn. Mọi rối ren hôm nay đều do có kẻ ác sau lưng giở trò, muốn chia rẽ Tàn Dương Viện và võ lâm Trung Nguyên…”

Chưa kịp giãi bày cho rõ ngọn ngành, trong đám đông bỗng có người the thé lên tiếng:
“Tàn Dương Viện tội ác chất chồng, ẩn náu nơi Quan Trung không yên, vừa đặt chân vào Trung Nguyên đã dấy lên sóng gió. Nếu không nói rõ chuyện Trần Sư Cổ, thì đừng mong yên ổn mà lui về!”

Giọng lạ, khẩu âm lại giống vùng Kiếm Nam. Bàng Lương Ký đưa mắt nhìn quanh mà chẳng thấy được kẻ nói kia, trong lòng rối ren khó hiểu, bèn đáp lớn:
“Tuy sư môn ta chẳng được xem là danh môn chính đạo, nhưng sao có thể mang tiếng mưu đồ tạo phản cho được?”

Giới võ lâm Trung Nguyên người nhìn người chẳng ai rõ ràng chuyện gì. Lại từ hướng khác vang lên tiếng người bén nhọn:
“Di vật Trần Sư Cổ để lại, các ngươi có chịu giao ra không?!”

Bàng Lương Ký trong bụng nghi hoặc, khi Trần Sư Cổ lâm bệnh qua đời thì hắn đã sớm về quê, nào biết có lưu lại vật gì? Nhìn quanh đồng môn, ai nấy mặt mày u ám, không nói một lời, như thể quả thật có điều chẳng tiện mở miệng.

Rồi lại từ nơi khác, có tiếng mắng thẳng:
“Đám tà ma ngoại đạo các ngươi âm mưu tạo phản, dân chúng Đại Đường đều căm giận, thấy phải trừ khử…”

Chưa dứt lời, Hứa Bão Chân bỗng trợn trừng mắt, hét lớn về phía ấy:
“Vô Lượng Thiên Tôn!”

Nội lực hắn thâm hậu, tiếng hô vang dội, khiến kẻ đang nói chuyện trong đám đông giật mình ngưng thở, khụ lên một tiếng rồi lộ diện. Định quay đầu bỏ chạy, liền bị Thác Bạt Tam Nương ném phi đao xuyên yết hầu, ngã gục xuống đất, không một tiếng động.

Song một người ngã, bọn đồng lõa vẫn chưa chịu im. Chúng ngán sợ võ công Tàn Dương Thất Tuyệt, biết không thể đọ sức chính diện, liền tung sương khói làm rối loạn rồi lui về sau, tránh xa tầm phóng ám khí của Thác Bạt Tam Nương.

Giữa khói mờ mịt, một con quái điểu chợt bay lên từ đám đông, hai cánh lớn như che kín bầu trời. Nhìn kỹ, là một người vóc dáng nhỏ bé cưỡi trên thiết bị kỳ lạ, lợi dụng gió lớn mà vút lên không trung, vừa phi hành vừa la lớn:
“Điên đảo Đại Đường, họa loạn thiên hạ!”

Thác Bạt Tam Nương nắm chặt phi đao, nhưng biết ám khí bay xa quá ba mươi bước thì lực suy yếu, không thể liều mình mà ra tay, đành đứng yên giữ thế.

Một người trong đám đông kêu lên:
“Là đệ tử La Sát Điểu của môn phái Kiếm Nam!”

Bầy quái điểu bay theo sương khói, mục đích dường như không phải giết người mà là truyền tin ra giang hồ. Ban đầu chúng định dùng tân nương giả bắt cóc Bàng Lương Ký để hỏi về di vật, nay bất thành, liền dứt khoát tung tin bôi nhọ, muốn lôi cả võ lâm về phía đối địch Tàn Dương Viện.

Một con La Sát Điểu nữa vừa kêu “Điên đảo Đại Đường”, chưa kịp dứt câu đã bị mũi tên xé gió cắm xuyên, ngã lăn xuống đất.

Kẻ bắn tên chính là Bảo Châu. Nàng lạnh mặt, rút tiếp một mũi tên từ ống sau lưng, đặt lên cung, ánh mắt như băng:
“Bọn ngươi dám giữa thanh thiên bạch nhật kêu gọi tạo phản, thật là không còn thiên lý. Nếu hôm nay không hạ hết đám yêu nghiệt này, ta còn xứng là con cháu hoàng thất hay sao?”

Nàng mắt tinh, đã sớm nhận ra đám quái điểu đều là người giả dạng. Không hề nao núng, nàng thúc lừa lướt tới. Ngõ hẻm hẹp, người đông nghịt, ngựa khó len qua, song con lừa kia lại chân nhỏ nhanh nhẹn, luồn lách giữa đám đông như lướt nước.

Bảo Châu cưỡi lừa mà bắn, mũi tên như mưa, không sai một phát, quét rơi từng con La Sát Điểu giữa không trung.

Đám La Sát Điểu võ công không cao, vốn dựa vào dịch dung, khói độc, ám khí để hại người. Người giang hồ tay ngắn, khó bắn xa, dễ bị đám này trêu đùa mà thoát thân. Nhưng hôm nay gặp phải Bảo Châu cung thủ bắn xa lừng danh, chúng liền bị dồn vào thế bí.

Thấy chẳng còn đường lui, vài tên liều mạng phóng ám khí về phía nàng. Độc tiêu như mưa trút xuống. Người xem thảy kinh hãi, tưởng nàng không tránh nổi. Nào ngờ chỉ thấy bóng hồng loé lên, Bảo Châu đã lộn người, treo mình dưới bụng lừa tránh đòn.

Chiêu ấy tên là “Đăng ẩn thân”, vốn là tuyệt kỹ bảo mệnh giữa trận vạn tiễn, cực kỳ khó luyện. Ngày trước nàng chỉ vì tranh hơn thua mà học chiêu ấy, từng ngã ngựa gãy sườn, nay lại cứu mạng chính mình.

Ám khí găm khắp yên và đất bùn, vài mũi cắm lên mình lừa, nhưng phần lớn đều lệch hướng. Bảo Châu đang treo ngược mình, từ dưới bụng lừa ngẩng lên bắn tiếp hai tên nữa, hạ thêm hai địch thủ.

Chỉ là lúc này, lừa đã bắt đầu mỏi mệt, bước chân chậm lại. “Đăng ẩn thân” thường khiến ngựa giật mình bỏ chạy, không thể tái chiến. Nàng tưởng mình phải dừng tại đây. Nào ngờ con lừa kia không chịu thua, hí vang một tiếng, rồi phóng đi nhanh hơn trước. Người xem cảm động, tự động nép sát hai bên, nhường ra một lối.

Trận đánh dậy sóng, người người hồi hộp. Nhiều người mường tượng lại trận chiến Hổ Lao Quan khi xưa, nơi Thái Tông tuổi trẻ điều quân, một mình xông pha chiến địa.

Trên không trung chỉ còn lại thủ lĩnh La Sát Điểu kẻ cưỡi cánh chim lớn nhất. Hắn thấy thế không ổn, vội vã tháo lui. Bảo Châu chuẩn bị phát tên cuối cùng, nhưng vừa đưa tay chạm túi tên thì trống rỗng. Một mũi cũng chẳng còn.

Lúc này, lừa chạy ngang cổng Bàng phủ. Nàng nhìn lên, thấy biển hiệu sáng lấp lánh, chợt nhớ lúc trước Bàng Lương Ký từng bảo có treo ba mũi tên trừ tà bên cửa để trấn trạch. Nghĩ đoạn, nàng liền đứng lên yên, vươn tay chụp lấy, quả nhiên là ba mũi bọc vàng.

Đây là mũi tên cực sắc, bắn gần thì xuyên giáp, bắn xa lại càng vững. Xưa kia Tiết Nhân Quý dùng chính loại tên này định Thiên Sơn. Nắm được trong tay, Bảo Châu mừng rỡ vô cùng.

Thủ lĩnh La Sát Điểu bay đã xa, thân hình chỉ còn như cánh én nhỏ. Biết chỉ còn một cơ hội, nàng liền gắn cả ba mũi tên lên dây, dẫm bàn đạp đứng thẳng, cong lưng kéo căng dây cung như vành trăng non.

Hơn ngàn người nín lặng. Mọi ánh mắt dõi theo nàng. Ba mũi tên rời dây, bay vun vút như cầu vồng xuyên qua trời cao. Thân ảnh La Sát Điểu cứng lại, như diều đứt dây, loạng choạng rồi rơi xuống đất.

Cả Ngọc Thành nổ tung tiếng hoan hô. Nữ hiệp áo đỏ, đơn thương độc mã, không một vết xước, tiêu diệt trọn La Sát Điểu tà phái.

Dưới muôn ánh mắt, Bảo Châu cưỡi lừa đi qua, áo đỏ rực rỡ, mồ hôi lấp lánh trên trán. Người giang hồ vốn vẫn cho rằng những lời thi nhân vẽ nên chỉ là ảo vọng, không ngờ hôm nay trước mắt lại hiện rõ:

Chính là một thiếu nữ áo đỏ cưỡi lừa, tay cung vững vàng, oai phong lẫm liệt. Thiếu niên nộ mã, sao băng bên hông, ánh kiếm lấp lánh, hệt như lời thơ trong mộng.

Tàn Dương Viện mấy người đứng trên đầu tường xa xa nhìn về phía nàng. Thác Bạt Tam Nương thở dài:
“Ta thu lời trước kia. Lời đồn đãi quả không sai. Nàng có bản lĩnh bắt sống Thanh Sam Khách.”

Giang hồ tranh giành lấy công trạng làm đầu. Những người khác không thể không gật đầu thừa nhận. Mà trong đám kia, không ít thiếu niên lòng xốn xang, má đỏ tai hồng, thầm nghĩ:
“Không rõ nàng có muốn bắt sống thêm mấy người nữa không… Nếu được, ta cũng nguyện dắt lừa cho nàng cả đời!”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 89


Bàng phủ mở toang bốn phía cửa lớn, dốc hết rượu ngon thức lạ trong kho, thiết đãi các anh hùng hào kiệt từ bốn phương tới xem lễ. Vẫn thấy chưa đủ, họ còn cho người khắp thành thu gom đồ ngon vật lạ, ngay cả đầu bếp, quán rượu và các cô gái bán rượu người Hồ cũng bị mời về phủ, lo việc tiếp khách.

Trong nhà chật không chỗ đứng, ngoài sân đông như hội, nhưng sau một trận giao tranh chấn động lòng người vừa qua, lòng người không còn hướng về rượu thịt. Khắp nơi người ta xì xào dò hỏi về thiếu nữ áo đỏ.

Nàng là ai? Có quan hệ gì với Tàn Dương Thất Tuyệt? Vì sao lại mang kiếm của Trần Sư Cổ? Vì sao lại luyện võ công trận pháp hiếm gặp trong giang hồ?

Không ít người đoán nàng là thủ lĩnh mới của Tàn Dương Viện, song không ai dám chắc. Bởi từ xưa đến nay, Trần Sư Cổ vốn hành xử kỳ dị, đệ tử ra vào đầy tai tiếng, người trong võ lâm luôn xem họ như tà ma ngoại đạo.

Nhưng cô gái áo đỏ ấy không chỉ có dung mạo kiều diễm mà còn khí độ trầm ổn, khiến người nhìn qua đã sinh thiện cảm. Nhờ nàng nâng đỡ, ngay cả đám môn sinh tang tóc y phục của Tàn Dương Viện cũng bớt phần đáng ghét.

Câu “Điên đảo Đại Đường, họa loạn thiên hạ!” vang lên lúc trước khiến nhiều người ngờ vực. Nhưng kẻ dám chất vấn giữa đám đông đã bị diệt sạch, nên giờ ai muốn cũng không dám mở lời, e rước họa.

Bảo Châu được mời ngồi tại vị trí khách quý dành cho đồng môn sư huynh sư đệ của Bàng Lương Ký. Bên trái là Hoắc Thất Lang, bên phải là Thập Tam Lang. Khách khứa liên tục đến chúc rượu, đông hơn cả lúc trước kính Vi Huấn, nhất là đám thiếu niên, đỏ mặt lắp bắp đứng bên nàng chẳng nỡ rời đi.

Trong lòng nàng vẫn canh cánh câu nói “Điên đảo Đại Đường”, nhưng vì người đông tai vách, đành nhẫn nhịn chờ về khách đ**m dò hỏi Vi Huấn.

Hoắc Thất Lang khi thì giúp nàng chắn rượu, khi thì đuổi khách, vui vẻ không kể xiết. Thập Tam Lang hoàn thành xong mệnh lệnh sư môn, trở về bên nàng, sắc mặt sáng bừng. Khâu Nhậm từ trong viện bước ra, xoa tay cười:
“Tân nương tỉnh rồi, không sao cả. Hai người vừa khóc vừa cười, sến đến ta không dám nhìn.”

Quần hào Trung Nguyên được mời đến dự lễ thành hôn và nghi thức thoái ẩn. Mọi hiểu lầm đã hóa giải, người người dâng lên lễ vật, xếp thành núi hoa trong sân viện.

Thác Bạt Tam Nương chợt hỏi:
“Mọi người đều có mang theo lễ vật chứ?”

Tàn Dương Viện ai nấy cúi đầu uống rượu, hoặc lảng đi chỗ khác, không ai đáp lời. Họ từng thấy tang sự nhiều, hỉ sự thì lại xa lạ, trước cảnh náo nhiệt này lại thấy bối rối.

Thác Bạt Tam Nương nghĩ ngợi, hạ giọng nói:
“Hay là chúng ta chung tiền, đem tân nương kia chôn sống một lần, coi như tặng cho lão Lục lễ cưới cuối cùng. Trừ gốc rễ khỏi sinh họa về sau.”

Mọi người không phản bác xem như đồng thuận. Ai trong bọn cũng có thể ra tay việc ấy, nhưng đã chia tiền, ai nấy đều phải góp công.

Bảo Châu lúc ấy bị vây quanh bởi những người mời rượu, không nghe được đoạn đối thoại kia. Tửu lượng nàng thường, uống mấy chén đã đỏ mặt, phần còn lại đều nhờ Hoắc Thất Lang chắn hộ. Mãi tới khi Bàng phủ e làm phiền nàng, mới khéo léo mời khách ra ngoài, vây hàng rào quanh phòng khách.

Hôm trước hôn lễ bị phá ngang, lễ bái chưa trọn. Lúc hoàng hôn vừa buông, chính là thời điểm thích hợp để bù lễ. Bàng Lương Ký nắm tay Tiêu Nhiễm, trước mặt quần hào Trung Nguyên, tái hành lễ hợp cẩn.

Ba mũi tên trấn trạch treo trước cửa đã mất, thanh lư hư hại, chẳng còn nghi lễ cầu kỳ. Lễ cưới nay giản dị theo tục lệ giang hồ, khách khứa uống rượu ồn ào, vui vẻ như hội.

Quần hào nâng chén chúc mừng:
“Nhị nữ lẻ loi gặp gỡ, ngũ nam sum vầy bên nhau, vinh tới chín tộc, lộc đầy ngàn kho, tiền tài thần Phật đều phù hộ, gia môn hưng thịnh.”

Tàn Dương Viện chỉ đứng xa nhìn, không bước tới gần. Dù gì, dự lễ cưới cũng vui hơn dự lễ tang.

Trở về chỗ ngồi, Thập Tam Lang chợt nói với Bảo Châu:
“Ta biết vì sao lục sư huynh bị sư phụ khai trừ khỏi sư môn.”

Bảo Châu sững người, thầm ngạc nhiên hắn biết gì về chuyện cũ. Nàng hỏi:
“Vì sao?”

Thập Tam Lang đáp:

“Lục sư huynh khác chúng ta ở một điểm huynh ấy có nhà. Những người còn lại, dẫu bị đuổi đi cũng chẳng có nơi quay về, càng không thể tổ chức được lễ cưới như thế này. Có lẽ sư phụ… chỉ ghét điểm đó của huynh ấy.”

Bảo Châu nhìn về phía đám người Tàn Dương Viện, cũng thấy khí chất họ xa lạ với hôn lễ. Dẫu vậy, biết sư đệ cũ sắp thành thân, họ vẫn đến, dù chẳng được mời. Trong lòng nàng dấy lên nỗi cảm hoài khó tả.

Hoắc Thất Lang cười nói:
“Tiểu đầu trọc nói không sai. Đám như bọn ta sống chết nơi đầu gươm mũi giáo, làm gì có chuyện thành thân. Mai sau nếu ngươi làm tân nương, nhớ cho lão Thất làm chủ hôn. Nam khách nữ khách gì cũng tiếp, không lấy tiền, đảm bảo ngươi thuận buồm xuôi gió mà xuất giá.”

Bảo Châu trừng mắt:
“Ta không lấy chồng. Tương lai ta muốn đi tu.”

Mọi người xung quanh tức thì lặng thinh, dỏng tai nghe. Hoắc Thất Lang chỉ vào đầu trọc Thập Tam Lang:
“Như vậy sao?!”

Bảo Châu lắc đầu:
“Tóc không được cạo. Ta muốn làm nữ quan.”

Hoắc Thất Lang sờ mũi nhìn Thập Tam Lang người chẳng hề kinh ngạc rồi nói:
“Trời sinh mỹ nhân như ngươi, còn trẻ thế đã định đoạn tuyệt ái tình sao?”

Bảo Châu uống mấy chén, lại được người đời ca tụng, nên phấn khởi nói:
“Ta chưa từng nói đoạn tuyệt ái tình. Khi Tiêu tiểu Nương mất tích, ta đã đoán bảy tám phần là do người chồng trước ra tay. Đó là kết quả từ bao bản án cũ ở Đại Lý Tự. Nhưng thực ra, sát hại chỉ là một phần nhỏ. Thống kê của Hộ Bộ cho thấy, nguyên nhân tử vong hàng đầu ở nữ nhân tuổi sinh đẻ là tai nạn khi sinh. Cứ hai mươi người thì có một chết vì khó sinh hay biến chứng.”

“Vừa rồi mọi người chúc tân nhân sinh năm trai hai gái, nếu thật muốn có bảy đứa con như vậy, tức là phải trải qua bảy lần đối mặt tử sinh. Nặng nề như thế, nguy hiểm hơn cả ra trận. Mà hoàng thân quốc thích hay dân đen áo vải cũng chẳng tránh khỏi. Trưởng Tôn Hoàng Hậu, Vĩnh Thái Công Chúa, Hoài Dương Công Chúa, Đường An Công Chúa… đều chết vì vậy. Mẫu thân ta…”

Nàng ngừng lại, lời chưa dứt. Ký ức tang thương nơi mẫu thân mất máu đến cạn, vẫn còn in hằn sâu trong tâm trí. Vì thế nàng mới buộc Hộ Bộ và Đại Lý Tự cung cấp số liệu, mong tìm chút lý lẽ để an lòng.

“Ngược lại, nữ xuất gia làm tì kheo hay làm nữ quan đều sống thọ hơn gấp đôi người lấy chồng. Ta không muốn chết vì sinh nở. Xuất gia làm nữ quan, vừa giữ được liên hệ thân thích, vừa không chịu uy h**p sinh mạng từ nhà chồng, sống khoẻ, sống lâu.”

“Chưa kể, như Công Chúa Kim Tiên hay Ngọc Tiều triều Huyền Tông, sau khi xuất gia vẫn được đế vương sủng ái, phong đất, nuôi ở chùa, có bạn tri kỷ, có người hầu kẻ hạ. Đó là đặc quyền hoàng tộc. Nhưng lý do này, ta không thể công khai nói.”

Dứt lời, nàng nâng ly uống cạn, đắc ý vô cùng.

Mọi người xung quanh cố tiêu hóa mớ lý lẽ vừa được nghe. Hoắc Thất Lang im lặng giây lát rồi nói:
“Ta từng quen vài người xuất gia, quan hệ rất… thân thiết…”

Hứa Bão Chân rên một tiếng, định tát hắn một phát.

Hắn thản nhiên tiếp:
“Tóm lại, người xuất gia nếu không dứt tình đoạn ái, sớm muộn gì cũng… lên giường sinh nở.”

Bảo Châu ngẩn người:
“Sao có thể? Có con phải có hôn ước chứ. Dù là thiếp thất hay ngoại thất cũng phải có giao ước. Nếu không, vì sao Bàng Lương Ký lại mất công làm lễ cưới?”

Thấy nàng nói như sách vở, Hoắc Thất Lang nhận ra điểm sơ hở, liền hỏi:
“Nói vậy, ngươi nghĩ nếu không có hôn ước thì không thể sinh con sao?”

Bảo Châu quả quyết gật đầu:
“Tất nhiên. Chưa từng thấy sách nào nói khác.”

Một câu định thắng thua. Hoắc Thất Lang cười to, quay sang giơ tay đòi tiền cược từ đám người dỏng tai nãy giờ:
“Kết quả đã định, ai thua ai thắng rõ ràng chứ?”

Mọi người cười ồ. Thì ra nàng chỉ biết nói đạo lý, chứ chẳng hay gì về việc sinh nở. Nàng ngây thơ, tên kia theo nàng tự nhiên cũng vẫn còn “trinh nguyên”.

Khâu Nhậm thắng cược cười toe, Hứa Bão Chân và Thác Bạt Tam Nương thì mặt nặng như chì. La Đầu Đà ở ngoài cuộc, thầm may mắn vì mình không tham dự.

Thác Bạt Tam Nương nốc cạn ly rượu, thấy bực cả người. Bỗng nảy ra ý, cười khúc khích hỏi:
“Này, ngươi có nuôi thú cưng chưa?”

Bảo Châu ngạc nhiên:
— “Nuôi thú?”

Thác Bạt Tam Nương cười mỉa:
“Thú hoang dù có nhốt vào lồng, chỉ cần để hở một khe cửa sổ, nó cũng tìm cách trốn ra thôi.”

Bảo Châu giật mình, hồi tưởng lại khi nãy Bàng Lương Ký đưa Tiêu Nhiễm vào phòng mà chẳng hỏi Vi Huấn đâu, người vốn thân thiết nhất với hắn. Câu nói kia chẳng khác gì nhắc khéo. Mặt nàng biến sắc, chậm rãi đứng dậy.

Ngay lúc ấy, trong tầm mắt mọi người, có bóng người áo xanh nhạt trèo tường phóng qua.
 
Back
Top Bottom