Cập nhật mới

Dịch Full Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương
Tác giả: Cassandra Clare
Tình trạng: Đã hoàn thành




Một thế giới bí ẩn sắp bị tiết lộ…

Khi ghé đến CLB Pandemonium ở thành phố New York, cô gái mười lăm tuổi Clary Fray chưa bao giờ mong rằng mình sẽ chứng kiến một vụ giết người – huống hồ thủ phạm ra tay lại là ba thiếu niên có hình xăm kỳ lạ trên người và sử dụng những vũ khí dị thường. Clary biết mình nên gọi cảnh sát, nhưng làm sao để cô giải thích với họ đây khi mà cái xác đã biến mất, không để lại chút dấu vết, trong khi đó, chẳng ai ngoài Clary trông thấy ba kẻ sát nhân.

Tuy có bất ngờ vì bị Clary nhìn thấy, nhưng ba người nọ đã giải thích cho cô: họ là những Thợ Săn Bóng Tối, một nhóm những chiến binh bí ẩn dâng hiến đời mình để quét sạch ma quỷ khỏi trái đất. Trong vòng hai mươi bốn giờ, mẹ Clary đã mất tích và chính Clary cũng bị một con quỷ tấn công.

Nhưng tại sao lũ quỷ lại nảy sinh hứng thú với những người phàm như Clary và mẹ cô? Và làm thế nào cô bỗng nhìn thấy những sự vật vô hình? Các Thợ Săn Bóng Tối rất tò mò muốn biết…

Thông tin tác giả:

Cassandra Clare (27/07/1973), tên thật là Judith Rumelt, nhà văn người Mỹ chuyên viết về thể loại tiểu thuyết kỳ ảo. Từng làm việc tại nhiều tạp chí và tòa báo cỡ nhỏ, trong đó có The Hollvwood Reporter

Thành phố Xương là tiểu thuyết đầu tay của cô, mở đầu cho sê-ri Vũ khí bóng đêm, xuất bản ở Mỹ từ 27/3/2007, được xếp vào danh sách tiểu thuyết ăn khách nhất do New York Times bình chọn.

Thông tin thêm:

Thành phố Xương được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên bởi Hãng Unique Features và Constantin Film, bắt đầu phát hành toàn thế giới từ tháng 8.2013.

Hấp dẫn bởi thể loại phiêu lưu mạo hiểm, kỳ ảo, huyền bí, lãng mạn, phim do chính tác giả chuyển thể kịch bản cùng nhà biên kịch Jessica Postigo, Harald Zwart đạo diễn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Xứ quỷ


NGUỒN GỐC BỊ PHONG KÍN 

Tôi hát về Hỗn mang và Đêm dài vĩnh cửu
Bài hát được Nàng Thơ của địa đàng hạ thế dạy tôi
Nguồn gốc bị phong kín và tiết lộ...
- John Milton, Paradise Lost

1

XỨ QUỶ

“Cậu đùa tôi chắc,” tay bảo vệ khoanh tay trước bộ ngực hộ pháp và nói. Hắn trợn mắt nhìn xuống gã con trai mặc áo khoác kéo khóa màu đỏ mà lắc lắc cái đầu cạo trụi hủi. “Cậu không được mang thứ đó vào đây.”

Khoảng năm chục cô cậu choai choai đang lố nhố xếp hàng bên ngoài câu lạc bộ Xứ Quỷ nhoài người lên hóng chuyện. Phải đợi thật lâu mới được vào một câu lạc bộ dành cho đủ mọi lứa tuổi, đặc biệt lại vào một tối Chủ nhật thế này, mà xếp hàng thì lấy đâu ra nhiều chuyện hay ho cơ chứ. Đám bảo vệ thì hung tợn và luôn sẵn sàng lao thẳng tới bất cư kẻ nào có vẻ sắp sửa gây rối. Clary Fray 15 tuổi, đang đứng xếp hàng cùng cậu bạn thân, Simon, nhoài người theo những người khác, hy vọng tìm được chút phấn khích.

“Ôi, thôi nào.”Cậu con trai kia giơ cái vật kia lên cao quá đầu. Trông nó giống một thanh xà gỗ, nhọn một đầu. “Là một phần trong trang phục của tôi thôi mà.”

Tay bảo vệ nhướn mày. “Trang phục kiểu gì?”

Cậu kia cười toe toét. Anh chàng này trông khá bình thường như những ai đến cái Xứ Quỷ này thôi, Clary nghĩ bụng. Mái tóc nhuộm màu xanh chói tua tủa chĩa quanh đầu cậu ta như xúc tu của một con bạch tuộc bị giật mình, nhưng mặt mày thì không xăm vằn xăm vện còn môi và tai cũng chẳng có mấy thanh kim loại to tướng. “Tôi là thợ săn ma cà rồng.” Cậu ta đè món đồ gỗ xuống. Thanh gỗ dễ dàng bẻ cong như cọng cỏ giạt sang một bên. “Hàng giả ấy mà. Bằng mút thôi. Đấy thấy chưa?”

Đôi mắt to của cậu này mang màu xanh lá sáng quắc, Clary để ý thấy vậy: màu của cỏ mùa xuân không bao giờ bị đông cứng. Có lẽ là kính áp tròng màu. Tay bảo vệ nhún vvai, bỗng dưng cứ như là đã chán rồi. “Gì cũng được. Đi vào đi.”

Cậu ta lách qua tay bảo vệ mà đi vào, nhanh như chạch. Clary thích nhịp đánh vai, cái cách cậu ta hất tóc khi đi. Có một từ dành cho kiểu con trai này mà mẹ cô hẳn sẽ dùng – vô ưu.

“Cậu nghĩ thằng đấy dễ thương chứ gì,” Simon nói, có vẻ cam chịu. “Phải không?”

Clary chọc cùi chỏ vào mạng sườn bạn, nhưng không trả lời.

Bên trong, câu lạc bộ mù mịt khói băng khô. Những ánh đèn màu sặc sỡ nhảy nhót trên sàn nhảy, biến sàn thành một xứ sở thần tiên ngập tràn màu sắc những xanh lơ cùng xanh lục chát chúa, những hồng đào chói lọi cùng vàng kim lóng lánh.

Anh chàng mặc áo khoác đỏ vuốt vuốt con dao dài xọc sắc lẻm trong tay, môi cười hờ hững. Dễ quá đi mà – một chút ảo ảnh lên con dao, khiến nó trông vô hại. Thêm chút huyễn hoặc trong mắt, thế là khi tay bảo vệ nhìn thẳng vào mắt hắn, tay ấy lú ngay. Tất nhiên, thật ra hắn có thể đi vào chẳng chút khó khăn gì, nhưng như vầy mới vui một chút – trêu đùa đám người phàm, bày trò ngay trước mặt chúng, phủi tay ngay trước những đôi mắt mù tịt trên mấy khuôn mặt ngây ngay ngô ngô của chúng.

Không phải là loài người không hữu dụng. Đôi mắt xanh lục của gã thiếu niên lướt khắp sàn nhảy, nơi những tay những chân bọc trong lụa và vải da đen tuyền thoắt ẩn thoắt hiện trong những cột khói uốn lượn khi đám người thường uốn éo theo nhạc. Những cô gái hất mái tóc dài, những cậu trai lắc lắc cái hông quấn vải da, những làn da trần đẫm mồ hôi lấp lánh. Sức sống thanh xuân đang tràn khỏi chúng, những đợt sóng năng lượng cuộn lên trong hắn váng vất lâng lâng. Môi hắn cong lên. Bọn người phàm này không biết chúng may mắn đến thế nào đâu. Chúng nào hay phải khó nhọc thế nào để duy trì sự sống tại một thế giới chết, nơi mặt trời lơ lửng như một cục than cháy rực. Mạng sống của bọn người phàm cháy rực rỡ như ánh nến – nhưng cũng rất dễ thổi tắt phụt.

Hắn nắm chặt lấy con dao mang theo, vừa dợm bước vào sàn nhảy thì một cô gái rời khỏi đám đông đang nhảy nhót và bước về phía hắn. Hắn nhìn chằm chằm vào cô gái. Cô ta xinh đẹp, so với tiêu chuẩn của con người – mái tóc dài đen huyền như mực, mắt đen như than. Chiếc váy trắng dài chấm đất, kiểu váy phụ nữ những thế kỷ trước thường mặc. Cổ tay áo viền đăng ten ôm lấy cổ tay nhỏ nhắn. Cô ta đeo một sợi dây chuyền bạc to bản, với mặt đá đỏ sậm cỡ nắm tay trẻ sơ sinh. Hắn chỉ cần liếc qua là biết nó là hàng thật – thật và quý hiếm. Mồm hắn bắt đầu ứa nước dãi khi cô ta tới gần. Sức sống hừng hực từ cô ta tràn ra như máu đang tuôn trào từ vết thương hở. Cô ta mỉm cười, đi qua hắn, nháy mắt với hắn. Hắn quay người đi theo, nếm lấy mùi vị của cái chết vô hình của cô gái xì xèo trên môi hắn.

Với hắn, hành sự bao giờ chẳng dễ. Hắn đã cảm nhận được năng lượng từ sự sống sắp tiêu tán của cô gái kia đang lan tỏa vào từng huyết mạch hắn giống như ngọn lửa vậy. Loài người quá ngu ngốc. Chúng có một thứ quý giá nhưng chẳng bao giờ buồn bảo vệ. Chúng vứt bỏ mạng sống vì tiền, vì mấy gói bột, vì nụ cười quyến rũ của một kẻ xa lạ. Cô gái kia là một bóng ma mờ ảo đang bước qua làn khói màu. Cô ta đi tới bức tường thì quay lại, hai tay túm tà váy, vừa nâng váy lên vừa cười với hắn. Bên dưới váy, cô ta đi đôi bốt cao tới đùi.

Hắn thong dong bước tới, da hắn ngứa râm ran vì sự gần gụi với cô nàng. Nhìn gần thì cô ta không hề hoàn hảo: hắn có thể thấy mascara lem nhem xuống dưới mắt, mồ hôi làm tóc cô ta bết vào cổ. Hắn có thể ngửi thấy mùi chết chóc nơi cô gái, cái thứ mùi thối rữa ngọt nào. Bắt được bé rồi nhé, hắn nghĩ.

Một nụ cười đẹp nở trên môi cô gái. Cô ta bước sang một bên, và hắn có thể thấy cô nàng đang dựa người vào một cánh cửa đóng. Dòng chữ CẤM VÀO – NHÀ KHO được viết nguệch ngoạc bằng sơn đỏ trên cửa. Cô nàng cho tay ra sau tìm lấy nắm đấm cửa, vặn mở, rồi lách mình vào trong. Hắn thoáng thấy những thùng đồ chồng chất, dây nhợ chằng rối tung. Một nhà kho. Hắn liếc ra sau – không ai nhìn. Cô ta muốn riêng tư thì lại càng tốt cho hắn.

Hắn chui vào phòng theo sau cô gái, không hay biết rằng chính hắn cũng đang bị bám đuôi.

“Này,” Simon nói, “nhạc hay, nhỉ?”

Clary không trả lời. Họ đang nhảy, hoặc đại loại thế - liên tục lắc tới lui rồi thi thoảng chúi nhủi xuống sàn như thể một trong số họ vừa làm rơi kính áp tròng – kẹt giữa một nhóm nam thiếu niên mặc đồ bó sát lấp lánh ánh kim loại, và một cặp đôi người Châu Á đang hôn nhau đắm đuối, mái tóc nối nhuộm màu của họ bện vào nhau như dây leo. Một cậu chàng môi xỏ khuyên và đeo ba lô hình gấu teddy đang phát không mấy viên thuốc kích thích bằng thảo dược, chiếc quần thụng của cậu ta bay phần phạt do gió từ quạt máy. Clary không quan tâm nhiều tới những gì ngay sát xung quanh – cô đang dán mắt vào cậu thiếu niên tóc xanh lúc nãy đã dẻo mồm để được vào câu lạc bộ. Cậu ta đang đi xuyên qua đám đông như thể tìm kiếm gì đò. Trong cách di chuyển của cậu ta có gì đấy khiến cô ngờ ngợ...

“Vì một nhẽ, mình  đang thấy vui cực,” Simon nói tiếp.

Dường như là không phải, Simon, như thường lệ, trông lạc lõng giữa câu lạc bộ, trong chiếc quần bò và áo phông cũ in chữ MADE IN BROOKLYN ngang trước ngực. Đầu tóc mới gội của cậu mang màu nâu chứ không phải xanh chẳng phải hồng, rồi còn cặp kính đang ngự méo xẹo trên chóp mũi. Trông Simon không có vẻ như đang hưởng thụ quyền năng của bóng tối mà giống như đang trên đường đến câu lạc bộ cờ vua thì hơn.

“Ừ hử.” Clary biết rõ Simon tới Xứ Quỷ với cô chỉ vì cô thích tới đó, chứ thực ra cậu nghĩ nơi này chán kinh. Cô thậm chí còn chẳng chắc vì lý gì cô thích chỗ này – là trang phục, là thứ âm nhạc nghe như mơ màng, là cuộc đời của một ai đó, chứ không phải cuộc sống buồn tẻ thường ngày của chính cô. Nhưng cô luôn nhút nhát không muốn trò chuyện với một ai khác ngoài Simon cả.

Cậu thiếu niên tóc xanh da trời đang rời sàn nhảy. Cậu ta trông hơi ngơ ngác, như thể đã không tìm thấy người mà mình đang tìm. Clary tự hỏi chuyện sẽ thế nào nếu cô tiến lên và giới thiệu mình với cậu này, đề nghị dẫn cậu ta đi tham quan. Có thể cậu ta chỉ trân trối nhìn cô. Hoặc có thể cậu ta cũng quá nhút nhát. Có thể cậu ta sẽ thấy biết ơn và hài lòng, nhưng lại cố không thể hiện thái độ gì, kiểu đám con trai thường thế - như cô sẽ biết ngay. Có lẽ...

Cậu tóc xanh đột ngột đứng thẳng dậy, tập trung chăm chú, giống như con chó thấy được miếng mồi. Clary nhìn theo hướng cậu ta nhìn, và thấy cô gái trong chiếc váy trắng.

À thì ra là thế. Clary nghĩ, cố không cảm thấy giống một quả bóng bay bị xì hơi. Mình đoán chuyện phải thế thôi. Cô gái đó rất xinh đẹp, loại con gái Clary luôn muốn vẽ - cao và thon thả như một dải ruy băng, với suối tóc đen óng ả. Ngay cả ở khoảng cách xa thế này, Clary vẫn thấy mặt dây chuyền đỏ trên cổ cô ả. Mặt dây đang phập phòng dưới ánh đèn sàn nhảy giống như một trái tim tách lìa khỏi cơ thể.

“Mình cảm thấy,” Simon nói tiếp, “rằng DJ Bat tối nay đang trổ tài đặc biệt phi thường. Cậu đồng ý không?”

Clary đảo mắt mà không thèm trả lời; Simon ghét thứ nhạc trance này. Cô đang để ý tới cô gái váy trắng. Trong bóng tối, qua màn sương khói nhân tạo, bộ váy trắng của cô nàng sáng lên như một đốm lửa hiệu. Thế nào cái cậu xanh kia lại đi theo cô nàng như thể bị ếm bùa, bị mê hoặc đến nỗi không thể để ý tới bất cứ điều gì xung quanh – kể cả hai bóng đen đang bám sát sau, luồn lách qua đám đông mà đi theo cậu.

Clary nhảy chậm lại và nhìn. Cô chỉ có thể nhìn được hai bóng kia là con trai, cao ráo và mặc cả cây đen. Cô không biết vì sao cô nhìn ra hai người đó đang đi theo cậu trai kia, nhưng cô chỉ biết thế thôi. Cô có thể nhận biết điều này qua cách họ bám theo, cách họ cẩn trọng quan sát, qua những cử động uyển chuyển, duyên dáng của họ. Một nụ hoa e sợ nho nhỏ bắt đầu hét nở trong ngực cô.

“Mà này,” Simon nói thêm, “mình muốn nói với cậu rằng dạo này mình đang mặc đồ nữ. Với lại, mình đang ngủ với mẹ cậu. Mình nghĩ cậu nên biết.”
Cô gái đã tới chỗ bức tường, và đang mở cánh cửa có chữ CẤM VÀO. Cô vẫy tay ra hiệu cho cậu tóc xanh đi theo, rồi họ chui vào qua cánh cửa. Không phải Clary chưa từng thấy cảnh tương tự, một cặp đôi chui vào góc tối của câu lạc bộ để làm trò – nhưng chuyện họ bị bám đuôi thì lại kỳ quặc hơn nhiều.

Clary nhón chân, cố nhìn qua đám đông. Hai người con trai đã dừng lại trước cửa và có vẻ đang bàn bạc gì đó. Một người tóc vàng, người kia tóc đen. Người tóc vàng cho tay vào trong áo, rút ra một thứ gì đó dài và sắc, lóe sáng dưới ánh đèn nháy. Một con dao. “Simon!” Clary hét, và nắm lấy tay bạn.

“Cái gì?” Simon có vẻ hoảng. “Mình không thực sự ngủ với mẹ cậu, cậu biết đấy. Mình chỉ cố làm cậu chú ý thôi. Nhưng không phải mẹ cậu là người không quyến rũ đâu nhé, ở độ tuổi ấy đấy.”

“Cậu có thấy mấy người kia không?” Clary hoảng hốt chỉ chỏ, suýt đâm vào cô gái da đen thân hình hấp dẫn đang khiêu vũ gần đó. Cô ta ném cho Clary cái nhìn ác cảm. “Xin lỗi... Xin lỗi!” Clary quay lại với Simon. “Cậu có thấy hai cậu thanh niên đằng kia không? Cạnh cánh cửa ấy?”

Simon nheo mắt rồi nhún vai. “Mình chẳng thấy gì cả.”

“Có hai người ấy. Họ đi theo cái cậu tóc xanh...”

“Cái người cậu nghĩ dễ thương ấy à?”

“Ừ, nhưng mình không nói tới việc đó. Người tóc vàng vừa rút dao kìa.”

“Cậu chắc không?” Simon nhìn kỹ hơn và lắc đầu. “Mình vẫn chẳng thấy ai cả.”

“Mình chắc.”

Đột nhiên nghiêm túc hẳn, Simon đứng thẳng người. “Mình sẽ đi gọi bảo vệ. Cậu đứng ở đây.” Cậu rẽ đám đông mà bước đi.

Clary quay lại đúng lúc cậu tóc vàng đi vào cánh cửa CẤM VÀO với người bạn đi theo sát gót. Cô nhìn quanh; Simon vẫn cố chen ra khỏi sàn nhảy, nhưng cậu chẳng tiến được bao xa. Kể cả giờ cô có thét lên cũng chẳng ai nghe thấy, và đợi đến khi Simon trở lại thì chuyện tệ hại gì đó hẳn đã xảy ra rồi mất. Clary cắn mạnh môi dưới và bắt đầu lách người chen qua đám đông.

“Tên em là gì?”

Cô gái quay lại và mỉm cười. Trong căn phòng kho chỉ có chút ánh sàng nhàn nhạt lọt vào qua ô cửa sổ gắn song sắt dính đầy đất bẩn. Hàng đống cáp điện, những mảnh vỡ của mấy quả cầu gương chiếu trên sàn nhảy cùng những thùng sơn vứt vương vãi trên sàn.

“Isabelle.”

“Một cái tên đẹp.” Hắn tiến tới chỗ cô gái, cẩn trọng bước qua những cuộn dây phòng một trong số chúng là dây nóng. Dưới ánh sáng yếu ớt cô gái trong nửa như trong suốt, không mang chút màu sắc, ăn vận trắng toát như thiên thần. Sẽ rất dễ chịu nếu làm cho cô nàng ngã xuống... “Anh chưa từng gặp em tại nơi này.”

“Anh đang hỏi em có tới đây thường không ấy à?” Cô gái lấy tay che miệng cười khúc khích. Quanh cổ tay cô gái có chiếc vòng tay gì đấy, ngay bên dưới tay áo – thế rồi, khi tiến lại gần, hắn lại thấy đấy chẳng phải là vòng tay gì cả mà là những họa tiết được vẽ trên da, những ma trận những đường nét uốn lượn.

Hắn đứng sựng lại “Cô...”

Hắn không kịp nói hết câu. Cô gái di chuyển nhanh như chớp, ngửa bàn tay đánh vào hắn, một cú đấm vào ngực với đủ lực lẽ ra đã khiến hắn ngã lăn quay xuống đất mà thở dốc nếu hắn là người thường. Hắn loạng choạng lùi lại, lúc này thì trong tay cô ta đang cầm gì đó, một cuộn rôi lấp lánh ánh vàng khi cô vung nó lên, cuốn quanh cổ chân hắn, kéo hắn bật ngửa. Hắn ngã phịch, rít lên, thứ kim loại đáng ghét thít sâu vào da thị hắn. Con ả cười phá lên, đứng nhìn xuống hắn, trong khi hắn quay cuồng mụ mị nghĩ đáng ra hắn phải biết. Không một cô gái loài người nào lại mặc cái váy giống như Isabelle. Cô ta mặc nó để che đậy lớp da – tất cả phần da thịt.

Isabelle giật mạnh roi, siết chặt lại. Nụ cười cô ta lóng lánh như nước độc. “Các anh ơi, hắn là của các anh đấy.”

Một tràng cười trầm thấp vang lên từ đằng sau hắn, rồi những bàn tay đặt lên người hắn, kéo hắn đứng dậy, ném hắn vào những cột bê tông. Hắn có thể cảm thấy đá ẩm lạnh sau lưng. Tay hắn bị kéo quặt ra sau, cổ tay bị dây điện trói lại. Trong khi hắn đang vùng vẫy thì một kẻ đang đi quanh cây cột lọt vào tầm mắt hắn: một thằng nhãi, bằng tuổi Isabelle và cũng đẹp như vậy. Đôi mắt vàng nâu sáng như mảnh hổ phách. “Ê,” thằng nhãi nói. “Còn kẻ nào khác đi cùng mày không?”

Gã tóc xanh cảm thấy máu ứa ra từ bên dưới sợi kim loại trói quá chặt, khiến cổ tay nhớp nháp. “Kẻ nào khác gì chứ?”

“Thôi nào.” Thằng mắt vàng nâu giơ tay lên, và cổ tay áo tối màu trượt xuống, để lộ những con chữ rune màu đen quanh cổ tay, mu bàn tay và lòng bàn tay. “Mày biết tao là gì rồi.”

Thẳm sâu trong sọ hắn, hàm răng thứ hai của thằng đang bị trói gô kia bắt đầu nghiến ken két.

“Thợ Săn Bóng Tối,” hắn rít lên.

Thằng kia cười toe toét. “Chính xác.”

Clary đẩy mở cửa nhà kho và bước vào. Lúc đầu cô nghĩ trong này không có ai. Những ô cửa sổ duy nhất ở quá cao và lắp song sắt; những tiếng động từ ngoài đường văng vẳng vọng qua cửa sổ, tiếng còi xe và tiếng phanh xe rin rít. Căn phòng có mùi sơn cũ, trên sàn nhà phủ một lớp bụi dày, đôi chỗ còn hằn in một hai vết giày.

Không có ai ở đây, cô nhận ra, và bối rối nhìn quanh. Trong phòng khá lạnh, bất chấp cái oi bức bên ngoài của tháng Tám. Clary túa mồ hôi lạnh. Cô bước thêm một bước, vướng chân vào đống dây điện. Cô cúi xuống để gở giày mình ra khỏi đấy – và nghe thấy những giọng nói. Tiếng cười của con gái, tiếng con trai gay gắt đáp lại. Khi đứng thẳng dậy, cô đã nhìn thấy họ.
Cứ như thể họ xuất hiện chỉ giữa hai lần chớp mắt của cô vậy. Có một đứa con gái mặc váy dài trắng, mái tóc đen chảy dài sau lưng như tảo ướt. Hai cậu con trai đứng cùng – người cao cao tóc đen giống cô gái kia, và một người nhỏ bé hơn, trắng trẻo hơn, với mái tóc sáng lên như đồng thau dưới ánh đèn nhàn nhạt tới từ ô cửa sổ cao cao bên trên. Cậu da trắng đang nhét tay trong túi, đối mặt với gã thiếu niên ăn mặc nổi loạn, đang bị trói vào cái cột bằng thứ gì đó giống dây đàn dương cầm, tay quặt ra sau, chân bị trói ở mắt cá. Mặt hắn nhăn nhúm vì đau và sợ.

Trống ngực đập dồn dập, Clary thụp người vào cột bê tông gần nhất mà nhìn quanh. Cô quan sát trong khi cậu thiếu niên tóc vàng đi đi lại lại, tay khoanh trước ngực. “Hừm,” anh ta nói. “Mày vẫn không chịu khai ra còn bao nhiêu kẻ cùng loài với mày tới đây.”

Cùng loài? Clary thắc mắc anh chàng kia đang nói cái gì thế nhỉ. Có thể cô đã đâm đầu vào một thứ chiến tranh băng đảng gì đây rồi.

“Tao không biết mày đang nói gì.” Giọng gã tóc xanh lộ rõ sự đau đớn nhưng kiên định.

“Em tao muốn nói tới những con quỷ khác kìa,” cậu tóc đen lần đầu tiên lên tiếng. “Mày hiểu quỷ là gì, đúng không?”

Gã bị trói vào cột ngoảnh mặt đi, miệng lầm bầm gì đó.

“Quỷ,” cậu tóc vàng kéo dài giọng, dùng ngón tay vẽ theo chữ cái trong không khí. “Theo định nghĩa của tôn giáo thì quỷ là cư dân của địa ngục, kẻ nô bộc của Sa tăng, nhưng theo nghĩa hiểu ở đây, theo tôn chỉ của Clave, quỷ là linh hồn độc ác có nguồn cội nằm ngoài chiều không gian của bọn tao...”

“Đủ rồi, Jace,” cô gái nói.

“Isabelle nói phải đấy,” cậu thiếu niên cao hơn đồng tình. “Ở đây chẳng cần nghe giảng về ngữ nghĩa học – hoặc quỷ học gì cả.”

Họ điên rồi, Clary nghĩ. Thực sự điên rồi.

Jace ngẩng đầu lên mỉm cười. Cử chỉ này có gì đó hung tàn, một thứ gì đó nhắc Clary nhớ tới những thước phim tài liệu về loài sư tử trên kênh Discovery, cái cách những con mèo lớn đó nghểnh cổ đánh hơi con mồi.

“Isabelle và Alec nghĩ tao nói quá nhiều,” anh ta nhẹ nhàng nói. “Mày có nghĩ vậy không?”

Cậu tóc xanh không trả lời. Mồm hắn vẫn đang lẩm bẩm. “Tao có thể cho mày thông tin,” hắn nói. “Tao biết Valentine ở đâu.”

Jace liếc nhìn Alec, cậu này chỉ nhún vai.  “Valentine đã chôn sâu dưới vài tấc đất,” Jace nói. “Cái thứ kia chỉ đang giỡn mặt với chúng ta thôi.”
Isabelle hất tóc. “Giết nó đi Jace,” cô nàng bảo. “Nó sẽ không nói gì với chúng ta đâu.”

Jace giơ tay lên, Clary trông thấy ánh sáng mờ mờ lóe lên từ con dao anh ta đang cầm. Nó trong suốt kỳ lạ, lưỡi dao trong như pha lê, sắc như mảnh gương, chuôi dao gắn đá đỏ.

Gã bị trói thở hổn hển. “Valentine đã trở lại!” hắn phản đối, vùng vẫy cố thoát khỏi sợi dây đang trói quặt tay hắn. “Tất cả các Địa Ngục đều biết – tao biết – tao có thể nói cho bọn mày nghe hắn ở đâu...”

Cơn giận đột ngột bừng lên trong đôi mắt lạnh băng của Jace. “Có Thiên Thần chứng giám, cứ mỗi lần chúng tao bắt được một trong lũ khốn chúng mày, thì chúng mày lại nói là biết Valentine ở đâu. Nói cho mày nghe, bọn tao cũng biết hắn ở đâu. Hắn ở địa ngục. Còn mày...” Jace xoay con dao, lưỡi dao lóe sáng giống như một đường lửa. “Mày có thể tới đó gặp hắn.”
Clary không thể im lặng lâu hơn nữa. Cô bước ra khỏi cây cột. “Dừng lại!” cô hét. “Các người không thể làm thế.”

Jace quay phắt lại, giật bắn mình khiến con dao văng ra khỏi tay rơi loảng xoảng trên nền nhà bê tông. Isabelle và Alec cùng quay lại, mang cùng một vẻ mặt kinh ngạc. Gã tóc xanh đứng im tại chỗ bị trói, choáng váng và há hốc miệng.

Alec lên tiếng đầu tiên. “Cái gì thế này?” anh ta hỏi, hết nhìn Clary lại nhìn những người bạn đồng hành, như thể họ có lẽ biết được là cô đang làm gì ở đây.

“Một cô gái,” Jace nói, lấy lại bình tĩnh. “Chắc chắn anh từng thấy con gái rồi chứ , Alec. Cô em gái Isabelle của anh đây cũng là con gái đấy.” Anh bước lại gần Clary hơn, nheo nheo mắt như thể không tin nổi điều mình đang trông thấy. “Một cô gái người thường,” anh nói, gần như với chính mình. “Và cô ta có thể thấy chúng ta.”

“Tất nhiên tôi thấy các anh,” Clary bảo. “Các anh thấy đấy, tôi không bị mù.”
“Ồ, nhưng có đó,” Jace vừa nói vừa cúi xuống nhặt con dao. “Chỉ là cô không biết thôi.” Anh ta đứng thẳng dậy. “Tốt hơn hết cô nên ra khỏi đây, nếu cô biết điều gì là tốt cho mình.”

“Tôi sẽ không đi đâu hết,” Clary nói. “Nếu tôi đi, anh sẽ giết anh ta.” Cô chỉ về phía gã tóc xanh.

“Đúng,” Jace thừa nhận, quay con dao trên những ngón tay. “Sao cô lại quan tâm tới việc tôi có giết hắn ta hay không cơ nhỉ?”

“Vì.. vì...” Clary lắp bắp. “Anh không thể đi lung tung giết người bừa bãi được.”

“Cô nói đúng,” Jace nói. “Cô không thể đi lung tung giết người.” Anh ta chỉ về phía gã tóc xanh có đôi mắt chẻ dọc như mắt rắn. “Đây không phải người, cô gái nhỏ ạ. Nó có thể giống người và nói chuyện như người, hoặc thậm chí chảy máu như người. Nhưng nó là một con quái vật.”

“Jace,” Isabelle cảnh báo. “Đủ rồi.”

“Anh điên rồi,” Clary nói và lùi xa anh ta ra. “Tôi sẽ gọi cảnh sát. Họ sẽ ở đây trong vài giây nữa.”

“Cô ta nói dối,” Alec nói, nhưng mặt lại lộ vẻ nghi ngờ. “Jace, em có...”
Anh ta không kịp nói hết câu. Đúng lúc đó gã tóc xanh hét váng một tiếng, giằng ra khỏi những dây dợ đang trói hắn vào cột, rồi lao về phía Jace.

Họ ngã xuống đất và lăn tròn, gã tóc xanh cào Jace bằng những ngón tay lấp lánh như gắn kim loại. Clary lùi lại, những muốn bỏ chạy, nhưng chân bị vướng phải cuộn dây điện khiến cô bổ nhào, hụt hết cả hơi. Cô nghe tiếng Isabelle đang hét lên. Clary lăn người, thấy gã tóc xanh đang ngồi lên ngực Jace. Máu lóng lánh  từ những móng vuốt sắc như dao cạo của hắn.

Isabelle và Alec đang chạy tới phía họ, Isabelle vung sợi roi trên tay. Gã tóc xanh xòe móng vuốt xả vào Jace. Jace giơ một tay lên che mình, và móng vuốt cào vào đấy, máu bắn ra tung tóe. Gã tóc xanh lại lao tới – và sợi roi của Isabelle quật ngang lưng hắn. Hắn gầm lên và ngã qua một bên.

Lanh lẹ tựa cú quật roi của Isabelle, Jace lăn sang bên. Con dao lóe sáng trên tay anh. Anh cắm phập con dao vào ngực gã tóc xanh. Dòng chất lỏng đen sì ứa ra quanh chuôi dao. Hắn ưỡn cong người khỏi sàn nhà, oằn oại sặc sụa. Jace nhăn mặt đứng dậy. Chiếc áo đen của anh ta giờ đen hơn ở vài chỗ, ướt đẫm máu. Anh ta nhìn hình hài co quắp dưới chân, vươn tay xuống, giật dao ra. Chuôi dao dính óng lên đầy chất lỏng màu đen.

Đôi mắt gã tóc xanh chớp chớp mở. Mắt hắn, nhìn chăm chắm vào Jace, dường như đang cháy rực. Hắn rít lên giữa kẽ răng. “Cứ để vậy đi. Những Kẻ Lầm Đường sẽ giết chết chúng mày.”

Jace hình như đang gầm ghè. Đôi mắt gã kia trợn ngược. Thân thể hắn bắt đầu vật vã co giật khi hắn cong người, co quắp lại, bé dần, bé dần tới khi biến mất hoàn toàn.

Clary lồm cồm đứng dậy, đá tung hết những sợi dây điện vướng vào chân. Cô bắt đầu lùi lại. Không ai để ý tới cô. Alec đã tới chỗ Jace và đang nắm tay anh ta, kéo ống tay áo, có lẽ để kiểm tra kỹ vết thương. Clary quay người định chạy – thì thấy Isabelle đã đứng cản đường, sợi roi cầm chắc trong tay. Sợi dây vàng lấm tấm máu đen. Cô quất roi về phía Clary, và đầu sợi roi cuốn chặt lấy cổ tay cô. Clary thở dốc vì đau và ngạc nhiên.

“Đồ người thường ngốc nghếch,” Isabelle nghiến răng nói. “Cô suýt khiến cho Jace bị giết đấy.”

“Anh ta điên rồi,” Clary nói, cố giằng tay lại. Sợi roi bám chắc hơn vào da thịt cô. “Các người đều điên cả rồi. Các người nghĩ mình là gì nào, đội thanh trừng tội ác sao? Cảnh sát sẽ...”

“Cảnh sát thường chẳng quan tâm mấy nếu như cô không trình được thi thể ra,” Jace nói. Anh ta ôm lấy tay, cẩn thận bước qua sàn nhà vương vãi dây cáp, đi tới chỗ Clary. Alec đi theo sau, mặt nhăn nhó khó chịu.

Clary liếc nhìn về nơi gã kia biến mất, không nói không rằng. Ở đó còn chẳng có lấy một vệt máu – không gì chứng tỏ gã kia từng tồn tại.

“Chúng trở về chiều không gian của chúng sau khi chết,” Jace nói. “Nếu cô có tò mò.”

“Jace,” Alec rít lên. “Cẩn thận đấy.”

Jace rụt tay lại. Máu kinh tởm lấm tấm đầy mặt. Anh vẫn khiến cô nghĩ tới một con sư tử, với đôi mắt mở lớn, vàng nhạt, kèm theo mái tóc vàng nâu. “Cô ta có thể thấy chúng ta đấy Alec,” anh nói. “Cô ta đã biết quá nhiều rồi.”
“Vậy anh muốn em làm gì cô ta nào?” Isabelle hỏi.

“Cứ để cô ấy đi,” Jace nói nhẹ bẫng. Isabelle nhìn anh một cách ngạc nhiên, gần như tức giận, nhưng không cãi. Sợi roi rụt lại, thả tay Clary ra. Cô xoa xoa cổ tay ê ẩm và tự hỏi làm cách quái nào mình sẽ thoát ra được khỏi nơi này.

“Có lẽ chúng ta nên đem cô ta về cùng,” Alec nói. “Anh cá bác Hodge sẽ muốn nói chuyện với cô ta.”

“Chúng ta không thể mang cô ta về Học Viện được,” Isabelle nói. “Cô ta là người thường.”

“Thật không?” Jace nhẹ nhàng hỏi. Cái giọng bình tĩnh của anh đáng sợ hơn nhiều so với sự gắt gỏng của Isabelle hay cơn tức giận của Alec. “Cô gái nhỏ này, em đã bao giờ thỏa thuận với quỷ? Đi dạo cùng pháp sư, nói chuyện cùng Những Đứa Con của Màn Đêm chưa? Em đã bao giờ...”

“Tên tôi không phải ‘cô gái nhỏ” Clary ngắt lời. “Và tôi chẳng hiểu anh nói gì cả.” Thật không? Một giọng nói vang vọng trong  đầu cô. Mày vừa nhìn thấy cậu thiếu niên kia biến mất trong không khí. Jace không điên đâu – mày chỉ ước anh ta bị điên thôi. “Tôi không tin vào... vào quỷ, hay bất cứ thứ gì anh...”

“Clary ơi?” Đó là giọng Simon. Cô quay phắt lại. Cậu bạn đang đứng cạnh cửa nhà kho. Một trong những tay bảo vệ mang thân hình hộ pháp lúc nãy đứng ở cửa trước đóng dấu vé vào cho khách giờ đang đứng cạnh cậu. “Cậu ổn không?” Simon nhìn cô qua khoảng không tranh tối tranh sáng. “Sao cậu lại vào đây một mình? Chuyện gì xảy ra với mấy người... cậu biết đấy, mấy người cầm dao ấy?”

Clary nhìn bạn, rồi nhìn về sau, nơi Jace, Isabelle và Alec đang đứng, Jace vẫn trong chiếc áo sơ mi dính máu và con dao trong tay. Anh ta nhoẻn cười với cô rồi nhún vai kiểu nửa xin lỗi, nửa chế nhạo. Rõ ràng anh ta không ngạc nhiên khi cả Simon lẫn tay bảo vệ đều không thấy họ.

Chẳng biết thế nào mà chính Clary cũng không thấy ngạc nhiên gì. Cô từ từ quay lại nhìn Simon, biết rằng cậu thấy cô thế nào, đang đứng một mình trong nhà kho ẩm ướt, chân vướng víu vào những sợi dây cáp nhựa sáng màu. “Mình nghĩ họ chui vào đây,” cô dè dặt nói. “Nhưng có vẻ là không. Mình xin lỗi.” Cô liếc nhìn Simon, vẻ mặt cậu bạn đang chuyển từ lo lắng sang ngượng ngập, rồi cô liếc tới người bảo vệ, trông cực kỳ khó chịu. “Nhầm ấy mà.”

Đằng sau cô, Isabelle cười khúc khích.

“Mình không tin,” Simon cứng đầu nói trong khi Clary, đứng trên vỉa hè, cố gắng trong tuyệt vọng để vẫy taxi. Những người lao công đã dọn dẹp đường Orchard trong khi họ ở trong câu lạc bộ, và giờ đường xá bóng lừ vết nước dầu loang loáng.

“Mình biết,” cô đồng tình. “Cậu nghĩ ở đây sẽ có vài chiếc taxi. Mọi người đi đâu vào nửa đêm ngày Chủ nhật chứ?” cô quay nhìn bạn, nhún vai. “Cậu nghĩ chúng ta có may mắn hơn ở đường Houston không?”

“Mình không nói về vụ taxi,” Simon bảo. “Cậu... Mình không tin cậu. Mình không tin những người cầm dao đó cứ thế biến mất.”

Clary thở dài. “Có lẽ không có người cầm dao nào hết, Simon à. Có thể chỉ là mình tưởng tượng ra toàn bộ câu chuyện.”

“Không thể nào.” Simon giơ tay cao quá đầu, nhưng những chiếc taxi đang bon bon tới cứ thế phóng qua, làm nước bẩn bắn tung tóe. “Mình nhìn thấy nét mặt cậu khi mình bước vào nhà kho. Cậu trông cực kỳ hoảng sợ, như thể nhìn thấy ma ấy.”

Clary nghĩ tới Jace với đôi mắt sư tử. Cô liếc nhìn cổ tay, vẫn  còn hằn một đường nhỏ đo đỏ nơi sợi roi da của Isabelle cuốn vào. Không, không phải ma, cô nghĩ. Mà là một thứ kỳ dị hơn thế.

“Chỉ là mình nhầm thôi,” Clary mệt mỏi nói. Cô tự hỏi sao mình không thể nói ra sự thực với bạn được. Ngoại trừ, tất nhiên, rằng bạn sẽ cho rằng mình bị điên. Với lại có gì đó về sự việc đã xảy ra – về đống máu đen sủi quanh lưỡi dao của Jace, về giọng nói của anh khi anh hỏi Em đã bao giờ nói chuyện với Những Đứa Trẻ của Màn Đêm? khiến cô chỉ muốn giữ bí mật cho riêng mình.

“Ừ thì, đấy là một nhầm lẫn khiến mình ngượng chín người,” Simon nói. Cậu liếc nhìn câu lạc bộ, nơi hàng người thưa thớt vẫn xếp rồng rắn từ ngoài cửa cho đến nửa khói nhà. “Mình nghi họ sẽ không bao giờ cho tui mình vào Xứ Quỷ nữa.”

“Sao cậu phải quan tâm nhỉ? Cậu ghét Xứ Quỷ cơ mà.” Clary lại giơ tay lên khi một hình thù vàng vàng tăng tốc phòng tới chỗ họ qua màn sương mù. Tuy nhiên lần này, chiếc taxi phanh kít lại, tài xế đè nghiến lên còi xe như thế muốn thu hút sự chú ý từ họ.

“Cuối cùng chúng ta cũng gặp may.” Simon giật mở cửa xe và chui vào ngồi trên chiếc ghế sau bọc nhựa. Clary theo sau, hít vào mùi taxi New York quen thuộc của những khói thuốc lá, da thuộc lẫn cùng mùi keo xịt tóc lâu ngày. 

“Bọn em tới Brooklyn,” Simon nói với tài xế, rồi quay sang Clary. “Nghe này, cậu biết cậu có thể nói mọi chuyện với mình, đúng không?”

Clary chần chừ đôi lát, rồi gật đầu. “Chắc chắn rồi, Simon,” cô nói. “Mình biết là mình có thể mà.”

Cô đóng sầm cửa taxi lại, và chiếc xe lao vào màn đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


2

BÍ MẬT VÀ DỐI TRÁ

Hoàng tử bóng tối cưỡi chiến mã đen, áo choàng lông chồn bay phấp phới. Vương miện vàng ôm lấy mái tóc vàng, khuôn mặt đẹp trai lạnh băng vì hăng máu chiến, và...

“Và tay anh ta trông giống quả cà tím,” Clary bực tức lầm bầm một mình. Bức tranh hỏng rồi. Thở dài một tiếng, cô lại xé thêm một trang giấy khỏi tập phác thảo, vo viên rồi ném thẳng vào bức tường phòng ngủ màu vàng cam của mình. Giờ sàn nhà đã lổn nhổn những cục giấy vứt đi, một dấu hiệu hiển hiện cho thấy dòng sáng tạo của cô đã không tuôn trào như cô mong muôn. Cô ước lần thứ một ngàn rằng mình có thể được giống mẹ một chút xíu thôi. Mọi thứ do Jocelyn Fray sơn, vẽ hay phác thảo đều đẹp mà dường như chẳng cần bỏ chút công sức nào.

Clary bỏ tay nghe xuống – ngừng ngang bài hát của nhóm Stepping Razor – và day thái dương đang ê ẩm. Chỉ khi đấy cô mới ý thức được tiếng chuông điện thoại kêu lớn, chát chúa vọng khắp căn hộ. Ném tập phác thảo lên giường, cô nhảy bật dậy chạy vào phòng khách, nơi chiếc điện thoại kiểu cổ màu đỏ nằm án ngữ trên bàn gần cửa trước.

“Clarissa Fray phải không?” Giọng ở đầu dây bên kia nghe khá quen, dầu Clary chưa nhận ra ngay được.

Clary bồn chồn xoắn sợi dây điện thoại quanh ngón tay. “Vâââng?”

“Xin chào, tôi là một trong những kẻ quá khích cầm dao mà em gặp ở Xứ Quỷ vào đêm trước đây? Tôi sợ là tôi đã gây ấn tượng xấu nên mong là em sẽ cho tôi cơ hội sửa sai...”

“SIMON!” Clary giơ điện thoại ra xa tai trong khi cậu bạn thì bò ra cười. “Không có vui đâu!”

“Vui chứ. Chỉ là cậu không thấy vui chỗ nào thôi.”

“Mắc dịch.” Clary thở dài dựa lưng vào tường. “Cậu sẽ không cười được đâu nếu cậu có ở đây khi mình về nhà tối qua.”

“Sao lại không?”

“Mẹ mình. Mẹ không vui vì bọn mình về trễ. Mẹ tá hỏa. Kinh khủng lắm.”

“Sao cơ? Tắc đường đâu phải lỗi của chúng ta!” Simon phản đối. Cậu là em út trong hai chị em và cực kỳ nhạy cảm trước những bất công trong gia đình.

“À vâng, nhưng mẹ lại không thấy thế. Mình làm mẹ phật ý, làm mẹ thất vọng, làm mẹ lo lắng, blah blah blah. Mình là tai họa cho sự tồn tại của mẹ,” Clary vừa nói vừa nhại lại chính xác cụm từ mẹ dùng mà chỉ thấy hơi hơi có tội.

“Vậy là cậu bị cấm túc hả?” Simon hỏi, giọng hơi lớn hơn một chút. Clary có thể nghe tiếng lào xào sau lưng cậu bạn; có người đang nói chuyện với nhau.

“Mình chưa biết,” cô đáp. “Sáng nay mẹ mình ra ngoài cùng chú Luke và chưa về. Mà cậu đang ở đâu thế? Nhà Eric à?”

“Ừ. Bọn mình vừa mới dợt xong.” Có tiếng chũm chọe vang lên sau Simon. Clary nhăn mặt. “Tối nay Eric sẽ đọc thơ tại quán Java Jones,” Simon nói tiếp, nhắc tới tên quán cà phê ở góc đường nhà Clary nơi thi thoảng có biểu diễn nhạc sống. “Toàn bộ ban nhạc sẽ tới ủng hộ. Cậu muốn đi không?”

“Ừ cũng được.” Clary ngừng lại, lo lắng quấn dây điện thoại. “Đợi đã, không được rồi.”

“Này mấy cậu, im giùm chút, được chứ?” Simon hét, giọng cậu nghe xa xa khiến Clary ngờ rằng cậu đang giơ ống nghe ra xa. Ngay sau đấy Simon quay lại, nghe có vẻ không hiểu. “Vậy là có đi hay không cơ?”

“Mình không biết.” Clary cắn môi. “Mẹ vẫn còn giận mình vụ tối qua. Mình không chắc mình có muốn chọc giận mẹ bằng cách hỏi xin gì nữa. Nếu bị rắc rối gì, thì mình cũng không muốn là do trò thơ thẩn vớ vẩn của Eric đâu.”

“Thôi nào, thơ cũng đâu đến nổi,” Simon nói. Eric là cậu bạn hàng xóm của Simon, cả hai quen biết nhau gần như từ lúc lọt lòng. Không thân thiết như kiểu của Simon và Clary, nhưng cả hai đã thành lập ban nhạc rock vào đầu năm lớp 11 cùng với những người bạn của Eric là Matt và Kirk. Họ đều đặn tập với nhau tại ga – ra nhà bố mẹ Eric mỗi tuần. “Hơn nữa, cậu không phải xin,” Simon nói thêm, “chỉ là một buổi cà phê bình thơ loanh quanh gần khu nhà cậu thôi mà. Có phải mình mời cậu tới cuộc ăn chơi trác táng tại Hoboken đâu. Mẹ cậu có thể đi cùng nếu muốn.”

“ĂN CHƠI TRÁC TÁNG Ở HOBOKEN!” Clary nghe thấy tiếng ai đó, có thể là Eric, la làng lên. Thêm một tiếng chũm chọe xập xèng. Cô tưởng tượng cảnh mẹ mình lắng nghe Eric đọc thơ, và thầm rùng mình.

“Mình không biết. Nếu tất cả các cậu đều chường mặt đến đấy, mình nghĩ mẹ sẽ hoảng cho xem.”

“Vậy mình sẽ tới một mình. Mình sẽ đón cậu và chúng ta có thể cùng nhau đi bộ tới, gặp hội còn lại ở quán. Mẹ cậu sẽ không nghĩ ngợi gì đâu. Bà quý mình mà.”

Clary phải phì cười. “Là biểu hiện cái sở thích có vấn đề của mẹ mình đây, nếu mà cậu có hỏi mình ấy.”

“Chẳng ai hỏi đâu.” Simon ngắt máy, giữa những tiếng hò hét của đám bạn trong ban nhạc.

Clary ngắt điện thoại và nhìn quanh phòng khách. Mọi bằng chứng về khuynh hướng nghệ thuật của mẹ ở khắp nơi, từ những chiếc gối sa lông tự làm bọc nhung xếp trên ghế sô pha đỏ sậm, đến mấy bức tường treo đầy tác phẩm hội họa của Jocelyn được đóng khung cẩn thận – hầu hết là tranh phong cảnh: những con đường quanh co của khu Manhattan trong vàng vọt ánh đèn, những cảnh công viên Prospect trong mùa đông, những hồ nước xám xịt được viền quanh bằng mấy lớp băng trắng mỏng tang như đăng ten.

Trên bệ lò sưởi là bức ảnh bố Clary lồng khung. Một người đàn ông da trắng mặc quân phục mang vẻ mặt trầm tư, khóe mắt chan chứa ánh cười. Bố từng là lính chiến ở nước ngoài và đã được nhận huân chương. Jocelyn có giữ vài huân chương của bố trong một cái hộp nhỏ đặt đầu giường. Nhưng mấy tấm huân chương đó chẳng giúp được gì cho Jonothan Clark khi ông lao xe vào thân cây ngoài Albany và chết trước khi cô con gái chào đời.

Jocelyn sử dụng lại nhũ danh sau khi ông qua đời. Mẹ chưa bao giờ kể về bố Clary, nhưng vẫn giữ cái hộp có khắc tên viết tắt J.C. của ông bên cạnh giường. Cùng với những tấm huân chương là một hai bức ảnh, chiếc nhẫn cưới và một lọn tóc vàng. Thi thoảng Jocelyn đem hộp ra mở rồi nhẹ nhàng giữ lọn tóc trong tay trước khi đặt lại và khóa hộp cẩn thận.

Tiếng khóa lách cách ngoài cửa kéo Clary trở về thực tại. Cô vội vàng buông mình xuống ghế và cố giả vờ như thể đang mải mê đọc một trong mấy cuốn sách bìa mềm mà mẹ cô chồng cả chồng trên bàn. Jocelyn cho rằng đọc sách là một cách giết thời gian thiêng liêng và thường không phiền Clary khi cô đang đọc, kể cả khi muốn quát mắng cô.

Cửa mở đánh rầm. Là chú Luke, hai tay ôm đầy thứ trông như mấy xếp bìa các tông to vuông vức. Khi chút đặt chúng xuống, Clary thấy đấy là những hộp các tông, được xếp dẹp. Luke đứng thẳng lên quay lại cười với cô.

“Bác... à, chú Luke,” cô nói. Khoảng cách đây một năm chú đã bảo cô không được gọi chú là bác Luke, bảo rằng gọi như thế làm chú có cảm giác mình già già, hơn nữa lại khiến chú nhớ tới truyện Túp liều của bác Tom. Hơn nữa, chú đã nhẹ nhàng nhắc cô rằng, chú không thực sự là bác của cô, mà chỉ là một người bạn thân của mẹ và biết Clary từ hồi nào đến giờ. “Mẹ cháu đâu?”

“Đang đỗ xe,” Luke vừa đáp vừa rên rỉ đứng thẳng thân mình lêu nghêu gầy đét. Chú vẫn mặc bộ đồ quen thuộc: quần bò cũ, áo sơ mi sọc ca rô, cặp kính gọng vàng cong queo hơi trễ trên sống mũi. “Nhắc lại cho chú nhớ xem vì sao tòa nhà nay không có thang máy nhỉ?”

“Vì căn nhà này cũ rồi, và nó có đặc điểm riêng của nó,” Clary nói ngay. Chú Luke nhoẻn cười. “Những cái hộp này để làm gì ạ?” cô hỏi.

Nụ cười của chú biến mất. “Mẹ cháu muốn thu dọn vài thứ,” chú nói nhưng tránh không nhìn cô.

“Những thứ gì ạ?” Clary hỏi.

Luke phẩy tay. “Vài thứ thừa thãi trong nhà. Vướng chân vướng tay ấy mà. Cháu thừa biết là mẹ cháu chẳng chịu vất món gì đi cả. Còn cháu đang làm gì thế? Học à?” Chú giật cuốn sách ra khỏi tay cô và đọc lớn: “Thế giới đầy rẫy những sinh vật lòe loẹt mà những loại triết lý tỉnh táo hơn đã bác bỏ. Thần tiên và quỷ lùn, ma và quỷ, vẫn còn chờn vờn...” Chú hạ thấp cuốn sách xuống và nhìn cô qua đôi tròng kính. “Bài vở trên trường đấy à?”

“Cuốn Cành cây vàng á? Không. Hai tuần nữa bọn cháu mới đi học cơ.” Clary lấy lại cuốn sách. “Đây là của mẹ cháu.”

“Chú cũng cảm thấy vậy.”

Clary quẳng sách xuống bàn. “Chú Luke này?”

“Gì hử?” Quên béng mất cuốn sách, chú Luke giờ đang lục tìm gì đó trong hộp để dụng cụ cạnh lò sưởi. “À, đây rồi.” Chú lôi ra một súng bắn keo nhựa màu cam và nhìn nó một cách thỏa mãn.

“Chú sẽ làm gì nếu chú nhìn thấy những thứ mà không ai khác nhìn thấy vậy?”

Súng bắn keo rơi khỏi tay Luke, trúng lò sưởi lát gạch. Chú quỳ xuống nhặt lên, mà không nhìn sang Clary. “Cháu muốn nói nếu chú là nhân chứng duy nhất của một vụ án, kiểu vậy đó hả?”

“Không. Cháu muốn nói, nếu có những người khác xung quanh chú, nhưng chú là người duy nhất có thể nhìn thấy vài thứ. Như kiểu nó vô hình với tất cả mọi người, trừ chú ra.”

Luke lưỡng lự, vẫn quỳ, cái súng bắn keo bị móp nắm chặt trong tay.

“Cháu biết nói nghe có vẻ điên khùng,” Clary lo lắng đánh liều, “nhưng...”

Luke quay lại. Mắt chú, đôi mắt màu xanh da ngăn ngắt đằng sau cặp kính, nhìn chăm chắm vào cô với cái nhìn yêu thương hết mực. “Clary, cháu là một họa sĩ, giống mẹ cháu. Nghĩa là cháu nhìn thế giới theo nhiều cách mà những người khác không nhìn được. Đó là năng khiếu của cháu, năng khiếu được nhìn thấy cái đẹp lẫn vẻ kinh hoàng trong những thứ tầm thường. Năng khiếu này không làm cháu bị điên đâu – chỉ khác biệt mà thôi. Khác biệt chẳng có gì là sai cả.”

Clary co chân, gác cằm lên đầu gối, trong tâm tưởng cô trông thấy nhà kho, sợi roi vàng của Isabelle, tới cậu thiếu niên tóc xanh co giật trong cơn giãy chết, và đôi mắt nâu vàng của Jace. Cái đẹp lẫn vẻ kinh hoàng. “Nếu bố cháu còn sống, chú nghĩ bố cháu sẽ là nghệ sĩ luôn chứ?” Clary hỏi.

Chú Luke có vẻ choáng. Trước khi chú kịp trả lời, cánh cửa bật mở và mẹ Clary bước vào, đôi bốt cao gót gõ lộp cộp lên nền nhà lát gỗ bóng loáng. Bà đưa cho chú Luke chùm chìa khóa xe loảng xoảng rồi quay lại nhìn cô con gái.

Jocelyn Fray là một người phụ nữ có vóc dáng gọn gàng, thon thả, mái tóc sậm màu hơn tóc Clary một chút và dài hơn gấp đôi. Lúc này mái tóc được cuốn thành búi đỏ sậm, với một chiếc bút chì than xiên ngang cố định tóc. Mẹ mặc bộ áo liền quần vương vãi màu vẽ bên ngoài áo phong màu hoa oải hương, đi đôi bốt nâu có đế giày đóng cứng những vệt sơn dầu.

Mọi người thường nói Clary giống mẹ, nhưng bản thân cô lại chẳng thấy vậy. Họ chỉ giống nhau ở vóc người: cả hai cùng khá thon thả, ngực nhỏ, hông hẹp. Cô biết mình không xinh đẹp bằng mẹ. Nếu muốn xinh đẹp bạn phải cao ráo yểu điệu thướt tha. Nếu bạn thấp như Clary, chỉ cao có năm foot, bạn chỉ đáng yêu mà thôi. Không dễ thương cũng chẳng xinh đẹp, chỉ đáng yêu thôi. Đã thế lại thêm mái tóc màu cà rốt và khuôn mặt đầy tàn nhang, nên Clary chỉ là một con búp bê vải Raggedy Ann mũm mĩm bên cạnh bà mẹ đẹp như búp bê Barbie.

Jocelyn thậm chí còn có cách bước đi uyển chuyển khiến mọi người phải ngoái đầu nhìn. Clary thì ngược lại, cứ hay vấp ngã. Lần duy nhất mọi người quay lại nhìn cô là khi cô lăn đùng đùng ngang qua họ do ngã cầu thang.

“Cám ơn đã mang giúp mấy hộp lên nhé,” mẹ Clary vừa nói vừa mỉm cười với chú Luke. Chú không cười đáp. Dạ dày Clary dâng lên cảm giác khó chịu. Rõ là đang có chuyện gì đây. “Xin lỗi, em mất một lúc lâu mới tìm được chỗ đỗ xe. Chắc trong công viên hôm nay phải có tới cả triệu người quá...”

“Mẹ ơi?” Clary cắt ngang. “Những cái hộp này dùng làm gì ạ?”

Jocelyn cắn môi. Chú Luke đánh mắt về phía Clary, câm lặng giục Jocelyn tiến lên phía trước. Jocelyn vén tóc ra sau tai bằng một cử chỉ lóng ngóng hất cổ tay, rồi ngồi xuống bên cô con gái trên chiếc ghế dài.

Ngồi gần thế này, Clary mới thấy mẹ mình mệt mỏi ra sao. Mắt mẹ thâm quầng, mí mắt trĩu nặng vì thiếu ngủ.

“Có phải vì chuyện tối qua không ạ?” Clary hỏi.

“Không,” mẹ vội nói rồi lại chần chừ. “Có thể là một chút. Lẽ ra con không được làm chuyện như tối qua. Con phải hiểu chứ?”

“Và con đã xin lỗi rồi. Chuyện này là thế nào ạ? Nếu mẹ định cấm túc con thì mẹ cứ nói luôn đi.”

“Không,” Jocelyn nói, “mẹ không định cấm túc con.” Giọng mẹ căng như dây đàn. Bà liếc sang chú Luke, chú lắc đầu.

“Cứ nói cho con bé nghe đi, Jocelyn,” chú bảo.

“Hai người có thể đừng nói chuyện như thể con không hiện hữu ở đây không?” Clary giận dữ. “Và chú có ý gì khi bảo là nói với cháu? Nói với cháu cái gì?”

Jocelyn thở dài. “Chúng ta sẽ đi nghỉ.”

Vẻ mặt chú Luke trơ ra trống rỗng, giống như một bức tranh bị xóa sạch.

Clary lắc đầu. “Chuyện này là thế đấy à? Mẹ định đi nghỉ?” Cô dựa lưng vào chồng đệm. “Con không hiểu. Thế sao mẹ phải làm nghiêm trọng thế?”

“Mẹ không nghĩ con hiểu. Mẹ muốn nói là tất cả chúng ta sẽ cùng đi nghỉ. Cả ba chúng ta – mẹ, con và chú Luke. Chúng ta sẽ tới trang trại.”

“À,” Clary liếc nhìn chú Luke, nhưng chú chỉ khoanh tay trước ngực và nhìn ra cửa sổ, cơ hàm căng cứng. Cô thắc mắc không biết chuyện gì đang làm chú bực mình đây. Chú rất yêu cái trang trại cũ kỹ tại vùng thượng New York – mười năm trước chú đã tự mua rồi sửa sang lại, và chú lại về đấy mỗi khi có thể. “Bao lâu ạ?”

“Tới hết mùa hè,” Jocelyn đáp. “Mẹ mang hộp lên đây phòng khi con muốn mang theo vài cuốn sách, vài món đồ vẽ...”

“Hết mùa hè cơ ạ?” Clary phẫn nộ ngồi thẳng dậy. “Không được đâu mẹ. Con có kế hoạch – Simon và con sẽ đi dự bữa tiệc mừng năm học mới, và con sẽ có cả đống cuộc gặp gỡ cùng nhóm vẽ, và có thêm mười lớp học nữa tại Tisch...”

“Mẹ xin lỗi về vụ Tisch. Nhưng những thứ khác có thể hủy được. Simon sẽ hiểu, và nhóm vẽ của con cũng thế.”

Clary nghe thấy sự chắc chắn không thể lay chuyển trong giọng nói mẹ và nhận ra bà rất nghiêm túc. “Nhưng con đã đóng tiền học cho từng lớp học rồi! Con đã tiết kiệm cả năm nay! Mẹ đã hứa mà.” Cô quay phắt lại phía Luke. “Nói với mẹ cháu đi! Nói với mẹ cháu rằng thế là không công bằng đi chú!”

Chú Luke không rời mắt khỏi cửa sổ, dù một thớ thịt trên má chú giật giật. “Jocelyn là mẹ cháu. Mẹ cháu mới có quyền quyết định.”

“Con không hiểu.” Clary quay lại với mẹ. “Vì sao?”

“Mẹ phải đi, Clary ạ,” Jocelyn nói, khóe môi hơi run run. “Mẹ cần sự yên bình, tĩnh lặng để vẽ. Và ngân quỹ của chúng ta giờ khá eo hẹp...”

“Vậy bán vài món đồ của bố đi,” Clary giận dữ nói. “Mẹ vẫn thường làm vậy, phải không nào?”

Jocelyn quát lại. “Thế là không công bằng.”

“Mẹ này, mẹ cứ đi nếu muốn. Con không quan tâm. Con sẽ ở lại đây một mình. Con có thể làm việc; con sẽ kiếm việc làm tại Starbucks hay chỗ nào đó. Simon nói họ lúc nào cũng cần người. Con đủ lớn để tự lo cho mình...”

“Không!” Sự sắc lạnh trong giọng nói mẹ khiến Clary nhảy dựng lên. “Mẹ sẽ trả lại tiền học vẽ cho con, Clary. Nhưng con phải đi cùng mẹ và chú. Con không có quyền lựa chọn. Con còn quá nhỏ để ở lại đây một mình. Có thể sẽ có chuyện xảy ra.”

“Như là chuyện gì? Chuyện gì có thể xảy ra chứ?” Clary gặng hỏi.

Có tiếng răng rắc. Clary quay lại ngạc nhiên thấy chú Luke đụng trúng một bức tranh lồng khung đang dựa vào tường. Chú nhặt tranh lên, trông bực bội hết sức. Khi đứng thẳng dậy, miệng chú đã mím lại thành một đường khắc nghiệt. “Tôi về đây.”

Jocelyn cắn môi. “Đợi đã.” Mẹ vội vàng đi theo chú Luke tới lối ra, bắt kịp ngay khi chú chạm tới nắm đấm cửa. Xoay người trên ghế sô pha, Clary chỉ nghe loáng thoáng được tiếng thì thầm liến thoắng từ mẹ. “...Bane,” Jocelyn đang nói. “Đã ba tuần liền em liên tục gọi cho anh ta. Hộp thư thoại nói anh ấy đang ở Tanzania. Em phải làm gì đây?”

“Jocelyn.” Chú Luke lắc đầu. “Em không thể cứ mãi tìm tới anh ta được.”

“Nhưng Clary...”

“Không phải Jonathan,” chú Luke rít lên. “Từ khi chuyện đó xảy ra, em không còn là em nữa, nhưng Clary không phải là Jonathan.”

Bố thì có liên quan gì chứ? Clary bối rối nghĩ.

“Em không thể nhốt con bé ở nhà mãi, không cho nó ra ngoài được. Con bé không chịu đâu.”

“Tất nhiên là không rồi!” Chú Luke đã nổi sung. “Con bé không phải vật nuôi, nó là một đứa mới lớn. Gần là người lớn rồi.”

“Nếu chúng ta rời thành phố...”

“Nói chuyện với Clary đi, Jocelyn.” Chú Luke quả quyết nói. “Thực sự đấy.” Chú với lấy nắm đấm cửa.

Cánh cửa bật mở. Jocelyn hét lên khe khẽ.

“Chúa ôi!” chú Luke kêu lên.

“Thực ra, chỉ là cháu thôi,” Simon nói. “Mặc dù cháu cứ được bảo cháu giống Chúa tới mức đáng ngạc nhiên.” Cậu đứng ở ngưỡng cửa và vẫy tay Clary. “Cậu sẵn sàng chưa?”

Jocelyn bỏ tay đang che miệng ra. “Simon, nãy giờ cháu nghe trộm à?”

Simon chớp mắt. “Không, cháu mới tới thôi.” Cậu nhìn gương mặt trắng bệch của cô Jocelyn và khuôn mặt u ám của chú Luke. “Có gì không ổn ạ? Cháu nên đi ạ?”

“Không có gì đâu,” chú Luke nói. “Chú nghĩ bọn chú nói xong rồi.” Chú lách người qua Simon, rảo bước thình thịch xuống cầu thang. Tiếng cửa chính đóng sầm lại từ dưới vọng lên.

Simon lóng ngóng đứng ngoài lối vào, trông không biết nên đi hay ở. “Tí mình quay lại cũng được,” cậu nói. “Thật đấy. Không vấn đề gì đâu.”

“Thế có lẽ...” Jocelyn mở lời, nhưng Clary đã đứng dậy.

“Khỏi đi, Simon. Chúng ta đi thôi,” cô nói và với lấy cái túi treo trên móc gần cửa. Cô vừa quàng túi qua vai vừa trừng mắt nhìn mẹ. “Gặp lại mẹ sau.”

Jocelyn cắn môi. “Clary, con không nghĩ chúng ta nên nói về chuyện này sao?”

“Chúng ta sẽ có nhiều thời gian để nói khi ‘đi nghỉ’ đấy.” Clary cay nghiệt đáp, hả lòng hả dạ khi thấy mẹ rúng động. “Mẹ không cần đợi con đâu,” cô nói thêm, và, chộp lấy tay Simon, gần như lôi bạn ra ngoài cửa trước.

Cậu luống cuống đi theo, ngoái lại nhìn mẹ Clary với vẻ xin lỗi. Mẹ đang đứng trông thật nhỏ bé và khổ sở, hai tay đan chặt lấy nhau. “Cháu chào cô, cô Fray!” cậu nói vói ra sau. “Chúc cô một buổi tối vui vẻ!”

“Thôi, im đi, Simon,” Clary gắt và đóng sầm cửa lại, cắt ngang lời mẹ đang đáp.

“Trời đất, cô ơi là cô, đừng có giật đứt tay tôi ra chứ,” Simon cự nự khi Clary lôi xềnh xệch cậu xuống cầu thang, đôi giày Skechers nện thình thình xuống cầu thang trong cơn tức giận. Cô liếc nhìn lên, nửa mong sẽ thấy mẹ đứng trên đầu cầu thang nhìn xuống, nhưng cánh cửa căn hộ vẫn đóng chặt.

“Xin lỗi,” Clary lầm bầm, thả tay bạn ra. Cô dừng lại ở chân cầu thang, túi xách nảy trên hông.

Khu nhà đá cát kết nâu của Clary, giống hầu hết các khu nhà khác tại khu Park Slope, từng là nơi ở của một gia đình giàu có. Bóng dáng của lối sống vương giả trước đây vẫn còn hiển hiện trên cây cầu thang cong cong, trên sàn nhà lối vào bằng đá cẩm thạch đã sứt sẹo, và trên một vuông giếng trời bên trên đầu. Giờ khu nhà bị chia thành nhiều căn hộ nhỏ, Clary cùng mẹ ở chung trong tòa nhà ba tầng này cùng một người thuê nhà ở tầng dưới. Bà ta ít khi ra ngoài, dù khách hàng cũng hiếm khi lui tới. Một tấm bảng vàng gắn cố định vào cửa cho biết bà ta là QUÝ BÀ DOROTHEA, THÀY BÓI VÀ NHÀ TIÊN TRI.

Mùi hương trầm nồng ngọt qua cánh cửa khép hờ tràn ra sảnh ngoài. Clary có thể nghe ra nhiều tiếng thì thào nho nhỏ.

“Mừng là bà này vẫn làm ăn phát đạt,” Simon nói. “Thời buổi này khó mà kiếm ra chỗ nào bói toán chính xác đáng tin được lắm.”

“Cậu có cần phải chuyện gì cũng mỉa mai hết à?” Clary gắt.

Simon chớp mắt, rõ là ngạc nhiên vô cùng. “Mình nghĩ cậu lại thích mình châm biếm dí dỏm chứ.”

Clary định trả lời thì cánh cửa nhà quý bà Dorothea mở toang và một người đàn ông bước ra. Ông ta dong dỏng cao, mang nước da nâu hồng, đôi mắt xanh vàng như mắt mèo và mái tóc rối bù. Ông ta cười xạo xạo với cô, phô ra hàm răng trắng sắc nhọn.

Một đợt sóng choáng váng tràn qua Clary, một cảm giác cực kỳ mạnh mẽ rằng cô sắp ngất.

Simon lo lắng liếc qua Clary. “Cậu ổn không? Cậu trông như sắp ngất ấy.”

Cô chớp mắt nhìn Simon. “Gì cơ? Không, mình ổn mà.”

Cậu bạn không muốn bỏ qua chuyện này. “Trông cậu như vừa gặp ma ấy.”

Clary lắc đầu. Ký ức rằng mình đã nhìn thấy gì đó cứ như đang trêu đùa cô, nhưng khi cô cố tập trung, thì ký ức ấy lại trôi tuột đi như nước. “Không có gì. Mình nghĩ mình nhìn thấy con mèo của bà Dorothea, nhưng chắc là quáng gà do ánh sáng thôi mà.” Simon nhìn cô chằm chằm. “Qua nay mình đã không ăn gì cả,” Clary nói thêm vẻ bào chữa. “Chắc là mình hơi đói thôi.”

Simon choàng tay lên vai cô an ủi. “Đi nào, mình mua chút gì cho cậu nhé.”

“Mình không thể tin mẹ mình lại như thế,” Clary đá nói đến lần thứ tư, tay cầm một mẩu nacho di di tí salad guacomole quanh đĩa. Họ đang ở khu người Mexico gần nhà, một nơi bé tí tên là Nocho Mama. “Cứ như kiểu tuần nào cũng cấm túc mình là chưa đủ tệ ấy. Giờ thì mình sẽ bị đày suốt mùa hè.”

“Ừm, cậu biết đấy, mẹ cậu thi thoảng lại thế mà,” Simon nói. “Như khi cô ấy hít vào thở ra ấy.” Cậu ngoác mồm còn đầy món burrito rau mà cười với Clary.

“Ồ, chắc rồi, cậu cứ làm như là buồn cười lắm ấy nhỉ,” Clary nói. “Cậu không phải người bị lôi đến cái chỗ khỉ ho cò gáy mà chỉ có Chúa mới biết là trong bao...”

“Clary.” Simon cắt ngang tràng đả kích cô. “Mình có phải là người cậu giận đâu nào. Hơn nữa, cậu có đi mãi đâu.”

“Sao cậu biết?”

“Thì vì mình biết mẹ cậu,” một lúc sau Simon đáp. “Ý mình là, cậu và mình đã là bạn bao lâu rồi nhỉ, mười năm à? Mình biết đôi khi mẹ cậu có như thế. Rồi mẹ cậu sẽ nghĩ thông suốt thôi.”

Clary nhặt miếng ớt ra khỏi đĩa và trầm ngâm nhấm nhá. “Nhưng mà cậu có thế không?” cô hỏi. “Ý là, cậu có hiểu mẹ mình không ấy? Đôi lúc mình tự hỏi liệu có ai hiểu mẹ mình không nữa.

Simon chớp chớp mắt nhìn cô. “Mình bắt đầu không hiểu cậu nói gì.”

Clary há hốc mồm hớp không khí để hạ hỏa cho miệng mồm bỏng rát. “Ý mình là, mẹ chưa bao giờ nói về bản thân. Mình không biết gì về cuộc đời trước kia của mẹ, về bên đằng ngoại, hay làm sao mẹ gặp bố. Mẹ không có lấy một tấm ảnh cưới. Cứ như thể cuộc đời mẹ bắt đầu từ khi có mình vậy. Mẹ luôn nói vậy mỗi khi mình hỏi.”

“Ôi.” Simon nhăn mặt với cô. “Yêu chưa kìa.”

“Không, không có yêu gì sất. Kỳ quặc thì có. Thật kỳ quặc khi mình không biết chút gì về ông bà mình. Ý mình là, mình biết rằng ông bà nội không đối tốt với mẹ, nhưng họ có thực sự tệ thế không? Làm gì có thể loại ông bà nào lại không thèm nhìn mặt cháu chứ?”

“Có thể do mẹ cậu ghét họ. Có thể họ đã lăng mạ hoặc làm gì mẹ cậu,” Simon gợi ý. “Mẹ cậu quả là có mấy vết sẹo mà.”

Clary nhìn chằm chằm Simon. “Mẹ mình có gì?”

Simon nuốt một mồm đầy burrito. “Mấy vết sẹo nhỏ xíu ấy. Trên khắp lưng và tay. Mình đã thấy mẹ cậu mặc đồ tắm, cậu biết rồi mà.”

“Mình chẳng bao giờ để ý thấy sẹo siếc gì hết,” Clary nhất mực. “Mình nghĩ cậu toàn tưởng tượng không thôi.”

Cậu bạn trợn mắt nhìn cô, và dường như định nói gì đó thì điện thoại của cô, đang bỏ trong túi, bắt đầu rung bần bật. Clary lục lôi điện thoại ra, nhìn những con số nhấp nháy trên màn hình và nhăn mặt. “Mẹ mình gọi.”

“Nhìn mặt cậu là mình biết rồi. Cậu có nói chuyện với mẹ không?”

“Giờ thì không,” Clary nói, đột nhiên cảm thấy nỗi cắn rứt lương tâm quen thuộc trong bụng khi điện thoại ngừng rung và hộp thư thoại được kích hoạt. “Mình không muốn tranh cãi với mẹ.”

“Cậu luôn có thể ở tạm nhà mình,” Simon nói. “Bao lâu cũng được.”

“Ừ, đợi mẹ mình bình tĩnh cái đã.” Clary ấn nút hộp thư thoại. Giọng mẹ có vẻ căng thẳng, nhưng rõ ràng bà đang cố gắng nói cho nhẹ nhàng: “Con yêu, mẹ xin lỗi vì đã áp đặt kế hoạch nghỉ hè cho con. Về nhà và chúng ta sẽ nói chuyện.” Clary ngắt điện thoại trước khi tin nhắn kết thúc, cảm thấy cắn rứt hơn, nhưng vẫn giận. “Mẹ mình muốn nói chuyện.”

“Cậu có nói chuyện với mẹ không?”

“Mình không biết.” Clary dụi mu bàn tay lên mắt. “Cậu có định tới buổi đọc thơ nữa không?”

“Mình hứa là có rồi.”

Clary đứng dậy, đẩy ghế ra sau. “Vậy mình sẽ đi cùng cậu. Mình sẽ gọi cho mẹ sau khi xong.” Quai túi xách tuột xuống tay cô. Simon vô thức đẩy quai túi lên, những ngón tay cậu nán lại trên bờ vai trần của cô bạn.

Không khí bên ngoài khá ẩm ướt, hơi ẩm làm tóc Clary xù lên còn chiếc áo phông của Simon dính sát vào lưng cậu. “Vậy, ban nhạc thế nào rồi?” cô hỏi. “Có gì mới không? Có rất nhiều tiếng la hét lúc mình nói chuyện với cậu.”

Gương mặt Simon bừng sáng. “Mọi chuyện tuyệt lắm,” cậu nói. “Matt bảo cậu ấy biết vài người có thể giúp bọn tớ biểu diễn tại quán Scrap Bar. Bọn mình cũng lại đang bàn lại về tên ban nhạc.”

“Ồ vậy à?” Clary cố giấu nụ cười. Ban nhạc của Simon thực ra chưa chơi được bản nào. Hầu hết thời gian, bọn họ ngồi trong phòng khách nhà Simon, tranh cãi về những cái tên tiềm năng và logo cho ban nhạc. Thi thoảng cô còn thắc mắc liệu có ai trong số họ biết chơi nhạc cụ không nữa. “Thế giờ tới đâu rồi?”

“Bọn mình đang chọn giữa tên Sea Vegetable Conspiracy và Rock Solid Panda.”

Clary lắc đầu. “Toàn tên nghe mà kinh.”

“Eric muốn dùngtên Lawn Chair Crisis.”

“Có lẽ Eric nên chuyên tâm vào chơi game thì hơn.”

“Nhưng thế thì bọn mình phải tìm tay trống mới.”

“Ơ, đó không phải việc của Eric sao? Mình nghĩ cậu ta chỉ moi tiền từ chỗ các cậu rồi đi khắp trường khoe khoang với đám con gái rằng cậu ta đang trong ban nhạc để làm le với bọn họ thôi.”

“Không phải đâu,” Simon hớn hở nói. “Giờ Eric đã thay đổi hoàn toàn. Cậu ấy có bạn gái. Họ đã hẹn hò ba tháng nay rồi.”

“Gần như là cưới rồi,” Clary vừa nói vừa bước vòng qua một cặp vợ chồng đang đẩy đứa bé mới lẫm chẫm biết đi ngồi trong xe đẩy: một bé gái tóc kẹp mấy chiếc kẹp nhựa màu vàng và tay đang ôm chặt một con búp bê tiên nữ mang đôi cánh màu ngọc bích sọc vàng kim. Qua khóe mắt Clary nghĩ mình thoáng thấy đôi cánh rung động. Cô vội vã quay đi.

“Nghĩa là,” Simon nói tiếp, “mình là thành viên cuối cùng trong ban nhạc không có bạn gái. Nghĩa là, cậu biết đấy, là mục đích chủ yếu khi thành lập ban nhạc. Để cua gái.”

“Mình nghĩ lập ban nhạc là để chơi nhạc chứ.” Một người chống gậy đi ngang mặt cô, hướng về phía phố Berkeley. Clary nhìn đi chỗ khác, sợ rằng nếu mình nhìn thấy ai đó lâu quá thì họ sẽ mọc cánh, thêm tay hoặc có cái lưỡi chẻ đôi như lưỡi rắn mất. “Mà ai thèm quan tâm nếu cậu có bạn gái hay không chứ?”

“Mình quan tâm,” Simon ảm đạm nói. “Rốt cuộc rồi người cuối cùng không có bạn gái sẽ là mình và ông Wendell tay lao công. Và ông này bốc mùi như thuốc chùi kiếng Windex vậy.”

“Ít nhất cậu biết cậu vẫn còn ông ấy.”

Simon lườm. “Không vui đâu, cô Fray.”

“Vẫn luôn còn có Sheila Barbarino ‘Chọc Khé cơ mà,” Clary gợi ý. Clary từng ngồi bên sau lưng cô ta trong tiết toán hồi lớp chín. Cứ mỗi lần Sheila làm rơi bút chì – chuyện khá thường xuyên – là Clary được rửa mắt với cảnh cái quần lót của cô nàng kéo lên tận eo trong chiếc quần siêu siêu trễ.

“Đấy là người Eric đang hẹn hò ba tháng nay đấy,” Simon bảo. “Giờ thì cậu ta khuyên mình là, mình chỉ việc quyết định xem cô nàng nào có thân hình bốc lửa nhất trường rồi mời cô ta đi chơi ngay ngày đầu năm học mới.”

“Eric là thằng dê cụ,” Clary nói, đột nhiên không muốn biết cô gái nào trong trường được Simon cho là có thân hình bốc lửa nhất. “Có lẽ các cậu nên đặt tên ban nhạc là Bầy Dê Cụ đi cho rồi.”

“Nghe cũng kêu lắm chứ.” Simon có vẻ tỉnh bơ. Clary bĩu môi với bạn, túi xách cô lại rung lên khi điện thoại kêu inh ỏi. Cô lục lọi lôi điện thoại ra. “Mẹ cậu nữa à?” Simon hỏi.

Clary gật đầu. Cô có thể tưởng tượng ra hình ảnh mẹ, nhỏ bé và cô đơn trên lối vào căn hộ. Cảm giác cắn rứt lương tâm bùng lên trong ngực.

Cô ngước nhìn Simon, lúc này cũng đang nhìn cô, đôi mắt sa sầm vì lo lắng. Gương mặt cậu quá quen thuộc đến mức cô có thể vẽ ra từng đường nét kể cả trong khi ngủ. Cô nghĩ tới những tuần lễ cô độc trước mắt khi không có cậu bạn và nhét điện thoại trở vào túi. “Đi nào,” cô nói. “Bọn mình tới muộn mất.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


3

THỢ SĂN BÓNG TỐI

Lúc họ tới Java Jones, Erics đã đứng trên sân khấu, người đong đưa trước micro trong khi mắt nhắm tịt lại. Nhân dịp này cậu ta đã nhuộm hồng đuôi tóc. Phía sau Eric là Matt, trông như đang phê thuốc, đang vỗ vỗ tùy hứng lên chiếc trống djembe.

“Vụ này ghê tai lắm đây,” Clary tiên đoán. Cô nắm lấy tay áo Simon mà kéo về phía lối ra vào. “Nếu phải bỏ của chạy lấy người, chúng mình vẫn còn có thể thoát thân được.”

Simon kiên quyết lắc đầu. “Mình không là gì nếu không biết giữ lời hứa.” Cậu vương thẳng vai. “Mình sẽ lấy cà phê nếu cậu đi tìm chỗ ngồi. Cậu muốn gì nào?”

“Cà phê thôi. Đen – như tâm hồn mình.”

Simon đi tới quầy cà phê, vừa đi vừa lẩm bẩm gì đó rằng điểu cậu làm lúc này đây tốt hơn nhiều những gì cậu đã từng làm. Clary đi tìm chỗ ngồi cho hai người.

Đối với một ngày thứ Hai thì quán ca phê khá đông đúc; hầu hết những chiếc ghế dài và ghế tựa mòn vẹt đều đã bị đám loai choai chiếm đóng để tận hưởng một buổi tối giữa tuần miễn phí. Mùi cà phê và thuốc lá hoa đinh hương nồng nặc. Cuối cùng Clary cũng tìm được một bàn đôi còn trống ở trong góc tối om đằng sau. Người duy nhất ở gần là cô gái tóc vàng mặc áo sát nách màu cam đang ngồi chăm chú nghịch ngợm chiếc iPod. Tốt, Clary nghĩ, Eric sẽ không thể tìm thấy chúng ta ở đây sau khi đọc thơ xong để hỏi cảm tưởng.

Cô gái tóc vàng nhoài người và chọc vào vai Clary. “Xin lỗi.” Clary ngạc nhiên nhìn lên. “Bạn trai cậu kia hả?” cô gái hỏi.

Clary nhìn theo ánh mắt của cô nàng, đã chuẩn bị nói, Không, mình không biết cậu ấy, thì nhận ra cô gái đang định nói tới Simon. Cậu đang tiến tới chỗ họ, đang mím môi mím lợi tập trung để không làm rơi bất cứ chiếc cốc xốp nào. “À, không,” Clary nói. “Cậu ấy là bạn mình.”

Cô gái rạng rỡ ra. “Cậu ấy dễ thương đấy. Cậu ấy có bạn gái chưa?”

Clary lưỡng lự một giây trước khi trả lời. “Chưa.”

Cô gái có vẻ nghi ngờ. “Cậu ấy gay à?”

Clary thoát khỏi phải trả lời câu này vì Simon đã đến nơi. Cô gái tóc vàng vội ngồi lại khi cậu đặt cốc xuống bàn rồi ngồi phịch xuống bên cạnh Clary. “Mình ghét khi họ không còn tách nữa. Những thứ này nóng kinh.” Cậu thổi ngón tay phù phù và nhăn mặt. Clary cố giấu nụ cười trong khi quan sát. Bình thường cô chẳng thèm quan tâm xem Simon có điển trai hay không. Cậu có đôi mắt khá tối màu, cô nghĩ vậy, và có vẻ vài năm gần đây cậu đã trổ mã rất nhanh. Nếu cắt tóc phù hợp...

“Cậu đang nhìn mình chằm chằm,” Simon nói. “Sao cậu nhìn mình thế? Mình dính gì trên mặt hả?”

Mình nên nói với cậu ấy, cô nghĩ, dù hơi lạ là một phần trong cô hơi lưỡng lự. Mình sẽ là một cô bạn xấu bụng nếu không nói gì. “Giờ đừng nhìn nhé, nhưng cô bạn tóc vàng bên kia nghĩ cậu đáng yêu đấy,” cô thì thầm.

Simon liếc sang phía cô gái, giờ đang chăm chú xem Shonen Jump. “Nhỏ áo cam đó hả?” Clary gật đầu. Simon có vẻ nghi ngờ. “Sao cậu nghĩ vậy?”

Nói đi. Nào, nói đi. Clary mở mồm định đáp thì một tràng âm thanh đinh tai vang lên cắt ngang. Cô nhăn mặt và che tai khi Eric, đang đứng trên sân khấu, vật lộn với cái micro.

“Xin lỗi mọi người!” cậu ta hét lên. “Ổn rồi. Tớ là Eric, còn đây là cậu bạn Matt của tớ đang ngồi bên trống kia. Bài thơ đầu tiên của tôi gọi là “Vô đề.” Eric nhăn mặt như bị đau, rồi ỉ ôi rên rỉ vào micro. “Nào, người khổng lồ giả tạo của tôi, những con chim bất chính của tôi! Hãy tưới tắm hết những vùng đất đai khô cằn!”

Simon trườn xuống khỏi ghế. “Làm ơn đừng nói với ai là mình quen cậu ta nhé.”

Clary cười khúc khích. “Ai lại đi dùng từ con chim chứ?”

“Eric,” Simon chán nản nói. “Tất cả các bài thơ của cậu ấy đều có từ con chim.”

“Cương lên là đau khổ của tôi!” Eric rền rỉ. “Sự cuồng loạn nhảy múa bên trong!”

“Hẳn thế rồi,” Clary nói và trượt thấp xuống cạnh Simon. “Mà thôi, về cô gái nghĩ cậu dễ thương ấy...”

“Tạm thời đừng quan tâm đến chuyện đó,” Simon nói. Clary chớp mắt ngạc nhiên. “Có điều này mình muốn nói với cậu.”

“Furious Mole không phải là cái tên hay cho ban nhạc đâu nhé,” Clary nói ngay tắp lự.

“Không phải chuyện đó,” Simon nói. “Là về chuyện ta đang nói lúc trước ấy. Về chuyện mình không có bạn gái kìa.”

“Ồ.” Clary nhún một bên vai. “Ồ, chẳng biết nữa. Hẹn Jaida Jones đi chơi đi,” cô đề nghị, chọn ra một trong vài nữ sinh trường Xt.Xavier mà mình thực sự thích. “Cô ấy xinh mà lại còn thích cậu nữa.”

“Mình không muốn hẹn hò cùng Jaida Jones.”

“Sao lại không?” Clary đột nhiên thấy bực bội không đâu. “Cậu không thích con gái thông minh à? Vẫn tìm kiếm một cô có thân hình bốc lửa ư?”

“Cũng không phải,” Simon nói, dường như bị đứng ngồi không yên. “Mình không muốn hẹn hò với cô ấy vì sẽ không thực sự công bằng với cô ấy cho lắm nếu mình làm thế...”

Giọng Simon nhỏ dần. Clary nhoài người lên trước. Qua khóe mắt cô biết cô gái tóc vàng kia cũng đang nhoài người lên. Đơn giản là để nghe lén. “Vì sao không?”

“Vì mình thích một người khác,” Simon nói.

“Okay.” Simon có vẻ thoáng xanh lét, theo kiểu như khi cậu ấy từng bị gãy cổ chân trong lần chơi đá bóng ở ngoài công viên và phải nhảy lò cò về nhà. Cô tự hỏi không hiểu làm sao việc cậu ấy thích ai khác mà lại có thể khiến cậu ta đau đớn đến căng thẳng cùng cực như vậy được chứ. “Cậu không phải gay, đúng không?”

Giờ mặt Simon còn xanh hơn. “Nếu mình là gay thật, mình đã ăn mặc đẹp hơn rồi.”

“Vậy thì, cậu thích ai nào?” Clary hỏi. Cô đang định nói thêm là cậu thích Sheila Barbarino thì Eric sẽ đá đít cậu ta mất, nhưngbỗng cô nghe có tiếng ai đó ho húng hắng đằng sau. Đó là cái kiểu ho chế nhạo, kiểu tiếng động người ta phát ra để cho thấy họ đang cố nín cười.

Clary quay phắt lại.

Là Jace, ngồi trên chiếc ghế xanh lá nhạt cách đó vài bước chân. Anh ta vẫn mặc bộ đồ tối màu như đêm trước tại câu lạc bộ. Hai cánh tay anh ta để trần chi chít những vết lằn trắng nhàn nhạt giống như những vết sẹo cũ. Cổ tay anh đeo những chiếc vòng kim loại to bản; Clary có thể trông thấy cán dao bằng xương lòi ra dưới tay trái. Anh ta nhìn thẳng vào cô, mép môi mỏng đang nhếch lên hứng thú. Tệ hơn cảm giác bị cười nhạo là cô biết chắc chắn cách đây năm phút anh ta không ngồi ở chỗ đó.

“Cái gì thế?” Simon đã nhìn theo hướng ánh mắt cô, nhưng rõ ràng vẻ mặt mù tịt của cậu cho thấy cậu ta không hề nhìn ra Jace.

Nhưng tôi nhìn thấy anh. Cô nhìn Jace trong khi thầm nghĩ, còn anh ta thì giơ tay trái lên vẫy chào cô. Một chiếc nhẫn ánh lên trên ngón tay thon dài. Anh ta đứng dậy và bắt đầu bước đi, chẳng lấy gì làm vội vàng, về phía cánh cửa. Môi Clary hé mở vì ngạc nhiên. Anh ta đang bỏ đi, chỉ thế mà thôi.

Cô cảm nhận được bàn tay của Simon trên cánh tay mình. Cậu bạn đang gọi tên cô, hỏi xem có chuyện gì không ổn không. Cô hầu như chẳng nghe ra lời cậu ấy. “Tớ sẽ quay lại ngay,” Clary nghe mình đáp, rồi cô nhào khỏi ghế ngồi, suýt chút nữa quên cả đặt cóc cà phê của mình xuống. Cô phóng ra cửa, bỏ lại Simon trơ mắt nhìn theo.

Clary lao ra khỏi cửa, sợ hãi rằng Jace sẽ biến mất vào bóng tối trong hẻm tựa một bóng ma. Nhưng anh ta vẫn đứng đó, dựa lưng vào tường. Anh ta đã lôi gì đó ra khỏi túi và đang nhấn nút. Anh ta ngạc nhiên ngước lên khi cánh cửa quán cà phê đóng lại sau lưng cô.

Dưới ánh hoàng hôn đang hối hả tràn về, mái tóc anh ta như mang màu vàng hun đỏ. “Bài thơ của bạn em nghe kinh quá,” anh nói.

Clary chớp mắt, chưng hửng trong khoảnh khắc. “Gì?”

“Anh nói bài thơ của cậu ta tệ quá. Nghe như cậu ta ăn cả cuốn từ điển và bắtđầu tùy tiện nôn chữ ra vậy.”

“Tôi không quan tâm tới bài thơ của Eric.” Clary điên tiết. “Tôi muốn biết vì sao anh đi theo tôi.”

“Ai nói là anh đi theo em?”

“Hay lắm. Và anh còn nghe trộm nữa. Anh có định nói cho tôi hay chuyệnnày là ý gì, hay để tôi gọi cảnh sát?”

“Rồi nói với họ gì nào?” Jace khinh miệt hỏi. “Rằng những người vô hình làm phiền em ư? Tin anh đi, cô nhóc, cảnh sát sẽ không bắt người mà họ không nhìn thấy đâu.”

“Tôi đã nói với anh rồi, tên tôi không phải cô nhóc,” cô nói qua kẽ răng. “Là Clary.”

“Anh biết chứ,” anh nói. “Một cái tên đẹp. Tên một loài thảo mộc, cỏ xô thơm clary. Ngày xưa người ta nghĩ ăn hạt giống loại cỏ đó có thể cho em nhìn thấy Tiên Tộc. Em có biết không?”

“Tôi chẳng hiểu anh đang nói gì cả.”

“Em không biết nhiều, đúng không?” anh ta nói. Đôi mắt vàng anh ta lộ vẻ uể oải khinh miệt. “Em có vẻ là một người thường giống bao nhiêu người thường khác, nhưng em có thể thấy anh. Quả là một câu đố hóc búa.”

“Người thường là thế nào?”

“Là người thuộc thế giới loài người. Người giống như em.”

“Nhưng anh là người mà,” Clary nói.

“Đúng,” anh ta thừa nhận. “Nhưng anh không giống em.” Giọng anh ta không có lấy một chút e dè. Anh ta nói như thể chẳng qan tâm xem cô có tin hay không.

“Anh nghĩ anh hay hớm hơn chứ gì. Đó là lý do anh đang cười nhạo chúng tôi.”

“Anh đang cười em vì thú nhận tình cảm khiến anh hứng thú, đặc biệt là khi không được đáp lại,” anh ta bảo. “Và vì anh bạn Simon của em là một trong số những người thường phàm trần nhất mà anh từng gặp. Và vì bác Hodge nghĩ em có thể nguy hiểm, nhưng nếu thật vậy, chắc chắn bản thân em cũng chẳng ý thức được.”

“Tôi nguy hiểm à?” Clary kinh ngạc nhắc lại. “Tôi dã thấy anh giết người vào tối qua. “Tôi đã thấy anh thọc dao vào sườn anh ta, và...” và tôi thấy hắn dùng những móng tay sắc lẻm xả vào người anh. Tôi thấy anh bị thương và chảy máu, vậy mà giờ anh trông như thể chưa từng có gì đụng vào anh.

“Anh có thể là một sát thủ đấy,” Jace nói, “nhưng anh biết anh là gì. Em có thể không?”

“Tôi là một con người bình thường, đúng như anh nói. Bác Hodge là ai?”

“Gia sư của anh. Và nếu anh là em, anh sẽ không vội dán cho mình cái nhãn bình thường đâu.” Anh ta nhoài lên. “Đưa anh xem tay phải của em nào.”

“Tay phải ư?” Clary nhắc lại. Anh ta gật đầu. “Nếu tôi đưa anh xem tay, anh sẽ để tôi yên chứ?”

Clary miễn cưỡng chìa tay phải ra. Bàn tay cô tái nhợt dưới ánh đèn tù mù hắt ra từ cửa sổ, những đốt xương lấm tấm lớp tàn nhang mờ mờ. Không hiểu sao cô có cảm giác trần trụi như thể mình đang kéo áo lên cho anh ta xem bộ ngực trần vậy. Anh ta nắm lấy tay cô và lật ngược lại. “Chẳng có gì.” Jace nghe như là thất vọng. “Em không thuận tay trái, đúng không?”

“Không. Vì sao?”

Anh ta nhún vai thả tay cô ra. “Hầu hết những đứa con của Thợ Săn Bóng Tối đều mang Ấn Ký Minh Mẫn ở tay phải – hoặc trái, nếu họ thuận tay trái giống anh – khi còn nhỏ. Nó là một chữ rune vĩnh cửu giúp bọn anh nhìn thấy thế giới pháp thuật.” Anh cho cô xem mu bàn tay trái; với cô, nó trông hoàn toàn bình thường.

“Tôi chẳng thấy gì hết,” cô nói.

“Hãy để cho đầu óc em thư giản,” anh ta đề nghị. “Đợi nó đến với em. Giống như chờ một điều gì đó ngoi lên khỏi mặt nước vậy.”

“Anh điên rồi.” Nhưng cô vẫn thả lỏng, nhìn vào tay anh ta, bắt đầu thấy những đường hằn nhỏ xíu trên đốt tay, những khúc xương ngón tay thon dài...

Đột nhiên nó nhảy bổ ra trước mắt cô, lóe sáng như thể đèn hiệu ĐỪNG BƯỚC vậy. Một hoa văn màu đen hình con mắt trên mu bàn tay anh ta. Clary chớp chớp mắt, thế là hoa văn biến mất. “Một hình xăm à?”

Anh ta tự mãn cười cười và hạ tay xuống. “Anh biết em có thể mà. Và nó không phải hình xăm – đó là một Ấn Ký. Là những chữ rune, được đóng dấu vào da thịt bọn anh. Những Ấn Ký khác nhau mang những hiệu quả khác nhau. Một số kẻ ở lại trên da vĩnh viễn, nhưng hầu hết sẽ biến mất sau khi hết tác dụng.”

“Vậy đấy là lý do vì sao hôm nay trên tay anh không chi cha chi chít chữ chứ gì?” cô hỏi. “Kể cả khi tôi tập trung ấy?”

“Đó chính xác là lý do đấy.” Anh có vẻ hài lòng với chính mình. “Ít nhất anh đã biết em có Tâm Nhãn.” Anh ngước nhìn bầu trời. “Trời sắp tối hẳn rồi. Chúng ta nên đi thôi.”

“Chúng ta? Tôi nghĩ anh sẽ để tôi yên chứ.”

“Anh nói dối đấy,” Jace đáp khôngmột chút xấu hổ. “Bác Hodge nói anh phải mang em về Học Viện. Bác ấy muốn nói chuyện với em.”

“Vì sao ông ta lại muốn nói chuyện với tôi?”

“Vì giờ thì em đã biết sự thật rồi,” Jace đáp.

“Về bọn anh?” cô nhắc lại. “Ý anh là những người giống anh. Những người tin có quỷ.”

“Những người giết quỷ,” Jace nói. “Bọn anh được mệnh danh là Thợ Săn Bóng Tối. Ít nhất là bọn anh tự gọi mình như thế. Cư dân Thế Giới Ngầm có những cái tên kém vui khác dành cho bọn anh.”

“Cư dân Thế Giới Ngầm ?”

“Những Đứa Con của Màn Đêm. Pháp sư. Tiên. Những kẻ có pháp thuật của không gian này.”

Clary lắc đầu. “Đừng dừng lại nhé. Tôi đoán là lại còn có, có gì nhỉ, ma cà rồng với lại người sói rồi cương thi nữa chứ gì?”

“Tất nhiên rồi,” Jace thông tin cho cô biết. “Những câu chuyện xuất hiện đều có lý do. Chúng dựa trên sự thực, dù loài người cho rằng chúng chỉ là truyền thuyết. Giới Thợ Săn Bóng Tối có câu ngạn ngữ: Mọi câu chuyện đều có thực. Mặc dù,” anh bổ sung, “Thành thực mà nói, em chỉ thấy thây ma ở miền viễn nam, nơi ở của những thày mo mà thôi.”

“Thế còn xác ướp thì sao? Chúng chỉ quanh quẩn ở Ai Cập thôi à?”

“Đừng lố quá thế chứ. Chẳng ai tin có xác ướp cả.”

“Không ai tin ư?”

“Tất nhiên là không rồi,” Jace đáp. “Nghe này, bác Hodge sẽ giải thích tất cả với em khi em đến gặp ông ấy.”

Clary khoanh tay trước ngực. “Nếu tôi không chịu gặp thì sao?”

“Đấy là chuyện của em. Em phải đến dù muốn dù không.”

Clary không tin vào tai mình. “Anh đang đe dọa sẽ bắt cóc tôi đấy ư?”

“Nếu em muốn nhìn nhận theo khía cạnh đó,” Jace nói, “thì phải đấy.”

Clary mở miệng định la lối phản đối, nhưng bị âm thanh rì rì lanh lảnh cắt ngang. Điện thoại cô lại đang rung.

“Cứ tự nhiên trả lời nếu em muốn,” Jace hào phóng nói.

Điện thoại ngừng rung, rồi lại rung, lớn tiếng liên hồi. Clary nhíu mày – hẳn mẹ đang hoảng lắm. Cô quay nửa người né khỏi Jace và bắt đầu mò mẫm trong túi xách. Lúc cô lôi được điện thoại ra thì nó đã đổ chuông lần thứ ba. Cô đưa lên tai. “Mẹ ạ?”

“Ôi, Clary. Trời đất, tạ ơn Chúa.” Clary thấy lạnh sống lưng. Mẹ cô có vẻ hoảng sợ. “Nghe mẹ nói này...”

“Không có gì đâu mẹ. Con ổn. Con đang trên dường về nhà...”

“Không!” Vẻ kinh hoàng khiến giọng bà Jocelyn vỡ vụn. “Đừng về nhà! Hiểu không, Clary? Cấm con không được về nhà. Hãy tới nhà Simon. Hãy tới thẳng nhà Simon và ở đó tới khi mẹ có thể...” Một tiếng động trên nền âm thanh ngắt lời bà: tiếng một thứ gì đó rơi xuống, vỡ tan, một thứ gì đó nặng nề va đập xuống sàn...

“Mẹ!” Clary hét vào điện thoại. “Mẹ, mẹ có sao không?”

Tiếng ong ong vang lên trong điện thoại. Giọng mẹ nghe ngắt quãng: “Hãy hứa với mẹ là con không về nhà. Hãy tới nhà Simon và gọi điện thoại cho chú Luke – nói với chú ấy là hắn đã tìm thấy mẹ...”Lời mẹ bị ngắt bởi tiếng rắc lớn nghe như gỗ bị đập dập.

“Ai đã tìm thấy mẹ? Mẹ, mẹ gọi cảnh sát chưa? Mẹ có...”

Câu hỏi hoảng loạn của cô bị cắt ngang bởi thứ âm thanh Clary sẽ mãi không quên – tiếng khò khè rin rít, kèm theo tiếng thịch. Clary nghe thấy mẹ mình hớp lấy một hơi hộc tốc rồi nói, giọng bình tĩnh đến ghê rợn: “Mẹ yêu con, Clary.”

Điện thoại tắt ngúm.

“Mẹ!” Clary hét vào điện thoại. “Mẹ, mẹ còn đó không?” Cuộc gọi kết thúc, màn hình hiện lên. Sao mẹ lại ngắt máy như vậy?

“Clary,” Jace lên tiếng. Đây là lần đầu tiên cô nghe anh ta gọi tên mình. “Có chuyện gì thế?”

Clary không trả lời. Cô điên cuồng nhấn nút gọi về nhà. Không có ai nhấc máy, đáp lại cô chỉ có tín hiệu máy bận tút-tút.

Tay Clary bắt đầu run rẩy không thể kiểm soát nổi. Khi cô cố gọi lại, điện thoại trượt khỏi tay cầm run rẩy của cô mà văng mạnh xuống vỉa hè. Cô quỳ xuống để nhặt, nhưng điện thoại đã hỏng, một vết nứt dài trên mặt trước. “Chết tiệt!” Chực bật khóc, cô ném điện thoại đi.

“Dừng lại.” Jace kéo cô đứng dậy, tay nắm chặt lấy cổ tay cô. “Có chuyện gì hả?”

“Đưa điện thoại của anh cho tôi,” Clary nói và rút cái vật hình chữ nhật bằng kim loại màu đen dài khỏi túi áo trên ngực của Jace. “Tôi phải...”

“Đó không phải điện thoại,” Jace nói, không phản ứng gì để giật lại. “Nó là Máy Cảm Ứng. Em không thể dùng nó đâu.”

“Nhưng tôi cần gọi cảnh sát!”

“Đầu tiên hãy nói cho anh nghe xem nào,” Cô cố giật cổ tay lại, nhưng anh ta nắm cực chắc. “Anh có thể giúp em.”

Cơn giận bừng bùng trong Clary, một đợt triều phừng phực tràn qua huyết mạch. Không thèm suy nghĩ, cô tấn công vào mặt anh ta, móng tay cô cào lên má anh. Jace giật lui vì bất ngờ. Giằng được ra rồi, Clary bỏ chạy về phía ánh đèn đường của đại lộ Số Bảy.

Ra đến ngoài đường, cô quay phắt lại, nửa mong sẽ thấy Jace bám sát gót. Nhưng con hẻm trống không. Cô nhìn mông lung vào bóng tối trong một đỗi. Không có gì di chuyển trong bóng tối. Cô quay phắt người bỏ chạy về nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


4

RAVENER

Trời đêm đã trở nên nóng hơn, và chạy về nhà giống như bơi cật lực trong nồi súp nóng. Ngay ngã tư về đến tòa nhà, Clary còn bị kẹt lại với đèn hiệu ĐỪNG BƯỚC. Cô nóng nảy bồn chồn kiễng chân lên xuống trong khi dòng xe cộ vút qua trong ánh đèn pha loang loáng. Cô lại cố gọi về nhà, nhưng Jace đã không nói dối; điện thoại của anh ta không phải điện thoại. Chí ít là nó trông không giống bất cứ cái điện thoại nào Clary từng thấy. Những phím trên máy Cảm Ứng không mang số, mà chỉ thêm những biểu tượng kỳ quặc, rồi lại không có màn hình.

Khi chạy lúc thúc trên phố về phía nhà mình, Clary thấy cửa sổ tầng hai vẫn sáng đèn, tín hiệu thường ngày cho thấy rằng mẹ có nhà. Được rồi, cô tự nhủ. Mọi chuyện đều ổn. Nhưng dạ dày cô quặn lại khi Clary đặt chân vào lối cửa chính. Ngọn đèn trên cao đã bị cháy, sảnh ngoài chìm trong bóng tối. Bóng tối dường như chứa đựng những chuyển động bí hiểm. Clary rùng mình, dợm bước lên cầu thang.

“Và cháu nghĩ cháu đi đâu đây?” một giọng vang lên.

Clary quay phắt lại. “Cái...”

Cô ngừng bặt. Mắt cô đang thích ứng với ánh sáng âm u, và cô có thể thấy hình dạng một chiếc ghế tựa lớn, được kéo ra trước cửa phòng đóng kín của nhà Quý bà Dorothea. Bà lão nhét mình vào đấy như một cái gối chêm bị nhồi quá tay. Trong bóng tối Clary chỉ có thể thấy khuôn mặt tròn vành bự phấn, cái quạt ren trắng trên tay, khoảng ngoác rộng đen ngòm của miệng bà ta khi nói. “Mẹ cháu,” bà Dorothea nói, “đã gây ra ồn ào kinh khủng trên kia. Mẹ cháu đang làm gì thế? Di chuyển đồ đạc à?”

“Cháu không nghĩ...”

“Và đèn cầu thang cháy rồi, cháu nhận thấy không?” Dorothea vỗ quạt vào tay vịn trên ghế. “Mẹ cháu không thể bảo bạn trai tới thay cho à?”

“Chú Luke không phải...”

“Cái giếng trời cũng cần lau chùi nữa. Nó bẩn quá rồi. Chả trách trong này cứ tối đen như hũ nút.”

Chú Luke KHÔNG phải chủ nhà, Clary muốn nói, nhưng lại thôi. Cái kiểu của bà lão hàng xóm này là thế. Hễ mà bà ta nhờ chú Luke đến thay bóng đèn tuýp, thế nào bà ấy cũng nhờ chú làm cả trăm việc khác – đi lấy thực phẩm, trát lại vữa quanh vòi hoa sen. Có lần bà ta còn nhờ chú lấy rìu chẻ nhỏ cái ghế sô pha cũ ra để bà ta có thể đem nó ra khỏi nhà mà không cần dỡ cửa ra khỏi bản lề.

Clary thở dài. “Cháu sẽ nhờ.”

“Phải nhờ đấy.” Bà Dorothea phẩy cổ tay gập phắt quạt lại.

Cảm giác của Clary rằng có chuyện không hay chỉ dâng lên khi cô tới cửa căn hộ. Cửa không khóa, hơi hé mở, cho một chút ánh sáng lọt ra cầu thang. Với cảm giác hoảng hốt càng lúc càng dâng cao, cô đẩy cửa mở.

Bên trong căn hộ đèn đóm sáng choang, mọi bóng đèn, mọi thứ đều sáng bừng hết mực. Ánh sáng chọc thẳng vào mắt cô.

Chìa khóa cùng cái túi hồng của mẹ vẫn đặt trên kệ sắt gần cửa, nơi mẹ vẫn thường đặt. “Mẹ ơi?” Clary gọi lớn. “Mẹ ơi, con về rồi.”

Không có tiếng trả lời. Cô đi vào phòng khách. Cả hai cửa sổ đều mở, những tấm rèm trắng mỏng tang bay bay trong gió như những bóng ma dật dờ. Chỉ khi gió ngừng và những tấm màn yên tĩnh lại thì Clary mới thấy những chiếc gối tựa đã bị giật tung khỏi ghế sô pha và vứt lộn xộn quanh phòng. Vài cái bị xé dọc, bông đệm bay đầy sàn. Các giá sách bị lật nhào, sách vở văng tung tóe. Chiếc ghế đàn dương cầm nằm chỏng chơ, mở tung như một vết thương hở, những nhạc phổ yêu thích của Jocelyn bay tung tóe.

Điều kinh hãi nhất là những bức tranh. Từng bức một đều bị cắt khỏi khung ảnh và xé thành từng dải, rải rác khắp sàn nhà. Chắc chắn ai đó phải dùng dao – những bức tranh gần như không thể xé bằng tay không được. Những khung tranh trống hoác trong giống những khúc xương được lóc sạch sẽ. Clary cảm nhận tiếng hét đang dồn lên trong ngực. “Mẹ!” cô hét. “Mẹ ở đâu? Mẹ yêu ơi!”

Cô đã thôi không gọi Jocelyn là “mẹ yêu” từ hồi lên tám.

Tim đập thình thịch, cô chạy vào bếp. Bếp trống trải, cửa tủ mở toang, chai nước sốt Tabasco bị vỡ đổ tràn thứ chất lỏng màu đỏ ớt xuống vải sơn lót nhà. Hai đầu gối cô cảm giác như là những túi nước. Cô biết mình nên lao khỏi căn hộ, tìm điện thoại, gọi cảnh sát. Nhưng những việc này dường như xa xôi quá – cô cần tìm mẹ trước đã, cần biết mẹ có ổn không. Nhỡ cướp đã vào nhà, nhỡ mẹ đã chống cự thì sao...?

Cái loại cướp nào lại không mang ví, hay TV, hay đầu DVD, hay những cái laptop đắt tiền đi cơ chứ?

Lúc này Clary đang đứng ở cửa phòng ngủ của mẹ. Trong khoảnh khắc ít ra căn phòng này trông có vẻ không bị động tới. Chiếc chăn hoa của mẹ Jocelyn tự làm được gấp gọn, chồng lên chiếc chăn lông vịt. Gương mặt Clary hồi năm tuổi mỉm cười lại với cô từ trên tủ đầu giường, năm tuổi, nụ cười sún răng được mái tóc đỏ dâu tây rực rỡ ôm gọn. Một tiếng nấc dâng lên trong lồng ngực. Mẹ, cô thầm thổn thức, chuyện gì xảy ra với mẹ thế này?

Chỉ có im lặng trả lời cô. Không, không phải im lặng – một tiếng động vang vọng khắp căn hộ, khiến tóc gáy cô dựng đứng. Giống như một cái gì bị đánh ngã – một vật nặng rơi sầm xuống nền nhà. Kèm theo tiếng rầm là tiếng kéo lê rin rít – và nó đang tiến về phòng ngủ. Dạ dày quặn lại vì kinh hãi, Clary loạng choạng đứng dậy và từ từ quay lại.

Trong tích tắc cô cứ nghĩ ngoài cửa không có ai, làm cô thấy một làn sóng nhẹ nhõm. Rồi cô nhìn xuống.

Nó đang bò sát sàn nhà, một sinh vật dài thượt, mình đầy vảy có chùm mắt đen bèn bẹt nằm chính giữa trước cái đầu ù ụ. Một thứ gì đấy giống như sinh vật lai giữa cá sấu và rết, có mõm phẳng dẹt, dày và cái đuôi mang ngạnh đang nanh nọc quật qua quật lại. Những cái chân chụm lại thành chùm dưới thân mình khi nó chuẩn bị phóng bật dậy.

Tiếng hét xé toạc cổ họng Clary. Cô loạng choạng lùi lại, trượt chân, ngã nhào, ngay khi thứ sinh vật kia lao tới. Cô lăn người sang bên khiến thứ kia vồ hụt trong gang tấc, trượt đi trên nền nhà bằng gỗ, móng vuốt khoét ra những đường rãnh sâu hoắm. Một tiếng gầm ghè trầm ùng ục dấy lên trong cổ họng nó.

Cô lồm cồm đứng dậy bỏ chạy ra hành lang, nhưng sinh vật kia lại nhanh hơn cô nhiều. Nó lại lao tới, đậu ngay trên cửa trông, treo mình như một con nhện độc khổng lồ, nhìn cô bằng cả tá con mắt. Hàm nó từ từ mở ra, để lộ một dãy những răng nanh nhễu nhại thứ nhớt xanh. Một cái lưỡi dài đen sì thò thụt trong khi sinh vật kia phát ra tiếng ùng ục rin rít. Clary kinh hãi khi nghe ra những tiếng mà nó đang phát ra lại là câu từ.

”Con gái,” nó rít lên. “Da thịt. Máu me. Để ăn, ồ, để ăn.”

Nó bắt đầu từ từ trườn trên tường. Một phần trong Clary đã quá ngưỡng sợ hãi mà chuyển thành đông cứng như tượng. Giờ thứ đó đã đứng lên, bò vể phía cô. Vừa giật lùi lại, Clary vừa quơ lấy cái khung ảnh nặng chịch trên bàn giấy bên cạnh – bức hình chụp cô, mẹ và chú Luke ở đang ở Coney chuẩn bị leo lên xe điện đụng – rồi ném vào con quái vật.

Bức hình trúng giữa thân nó và nảy ra, rơi xuống sàn nhà, tiếng kính vỡ tan. Sinh vật dường như chẳng buồn để ý. Nó tiến về phía cô, những mảnh kính vỡ tan tành thành từng mảnh vụn dưới chân. “Xương, để bóp nát, để hút tủy, để uống máu...”

Lưng Clary đã va vào tường. Cô không thể lùi thêm được nữa. Cảm thấy có chút động đậy ơ hông thế là cô suýt nữa giật bắn hết cả mình. Túi áo. Cô nhét tay vào trong, rút ra cái vật bằng nhựa cô đã giật khỏi tay Jace. Máy Cảm Ứng đang rùng rùng, như điện thoại đặt chế độ rung. Kim loại cứng gần như bỏng giẫy trong lòng bàn tay cô. Clary siết chặt tay quanh máy Cảm Ứng ngay khi sinh vật kia lao tới.

Sinh vật nhảy chồm lên, đánh ngã Clary, làm đầu và vai cô đập mạnh xuống sàn. Cô vặn người sang bên, nhưng cái thứ kia quá nặng. Nó nằm đè lên cô, một khối nặng đè nghiến, nhầy nhụa khiến cô chỉ muốn tắcthở. “Để ăn, để ăn,” nó rền rĩ. “Nhưng không được phép, được nuốt, được nhấm nháp.”

Hơi thở nóng phả vào mặt cô có mùi tanh của máu. Cô không thở nổi. Lồng ngực cô có cảm giác sắp vỡ vụn. Tay cô bị kẹt giữa người cô và con quái vật, máy Cảm Ứng cắm sâu vào lòng bàn tay cô. Cô vặn mình, cố giật thoát tay ra. “Valentine sẽ không biết. Ngài không nói gì về cô gái. Valentine sẽ không giận.” Cái miệng không môi của nó vặn vẹo khi quai hàm mở ra, từ từ, một luồng hơi thở hôi thối phả vào mặt cô rát rạt.

Tay Clary đã tự do. Thét lên một tiếng, Clary vung tay đánh vào con quái vật, những muốn đập nát nó ra, muốn chọc nó mù mắt. Cô hầu như quên mất máy Cảm Ứng. Khi sinh vật lao vào mặt cô, quai hàm mở rộng, cô nhét máy Cảm Ứng vào giữa hai hàm nó và cảm nhận thứ nước dãi nóng cháy, chua lòm trùm xuống cổ tay mình, nhỏ từng giọt rát bỏng lên phần da trần nơi mặt và cổ. Như thể từ nơi xa xăm, Clary nghe thấy mình đang hét.

Có vẻ khá ngạc nhiên, sinh vật lùi lại, máy Cảm Ứng kẹt giữa hai chiếc răng. Nó gầm lên, tiếng kêu tức tối đinh tai nhức óc, rồi vật đầu ra sau. Clary nhìn thấy nó nuốt, nhìn thấy chuyển động nơi cổ họng nó. Tiếp đến là mình, cô nghĩ mà hoảng. Mình...

Đột nhiên thứ đó bắt đầu vặn vẹo. Nó co giật không thể kiềm chế, rồi lăn khỏi người Clary nằm ngửa ra, những chiếc chân huơ huơ trong không khí. Chất lỏng đen sì ứa ra từ miệng nó.

Cố hít lấy hít để, Clary lăn người đi và bắt đầu lồm cồm lùi xa sinh vật kia. Gần ra được đến cửa thì cô nghe thấy thứ gì đấy huýt lên gần đầu mình. Cô cúi xuống né tránh đi, nhưng quá trễ. Một vật đập mạnh vào sau đầu cô, làm cô ngã chúi đến trước rồi ngất lịm.

Ánh sáng chọc vào mí mắt cô, xanh, trắng và đỏ. Có âm thanh rền rĩ cao chót vót, nghe như tiếng ré lên vì hoảng sợ của trẻ nhỏ. Clary nôn khan và mở mắt.

Cô đang nằm trên lớp cỏ ướt lạnh. Bầu trời đêm khẽ lay động trên cao, ánh sao yếu ớt bị lấn át bởi ánh đèn thành phố. Jace đang quỳ bên cạnh cô, một chiếc vòng bạc trên cổ tay anh phóng ra ánh sáng khi anh xé mảnh vải đang cầm thành từng dải. “Đừng cử động.”

Tiếng rền rĩ như muốn xé tai cô làm đôi. Clary quay đầu sang bên, không chịu nghe lời, và nhận được một cơn đau nhói dọc lưng mình. Cô đang nằm trên bãi cỏ đằng sau bụi hồng được chăm chút cẩn thận của mẹ Jocelyn. Tán lá phần nào che đi tầm nhìn ra đường, nơi có chiếc xe cảnh sát đang đậu sát lề, đèn xanh đèn trắng nhấp nháy, còi hụ liên hồi. Đã có một nhóm hàng xóm nhỏ tụ tập, nhìn chằm chặp khi cửa xe mở và hai cảnh sát mặc sắc phục xanh bước ra.

Cảnh sát. Clary cố ngồi dậy, nhưng lại nôn khan, những ngón tay bám chặt lấy nền đất ẩm.

“Anh đã bảo em đừng cử động mà,” Jace rít lên. “Quỷ Ravener đã đánh vào gáy em. Vì nó gần chết nên cú tấn công của nó không đáng ngại lắm, nhưng bọn anh phải đưa em tới Học Viện thôi. Nằm im nhé.”

“Thứ đó – con quái vật đó – biết nói.” Clary bấn loạn rùng mình.

“Em đã từng nghe thấy quỷ nói chuyện rồi đấy.” Đôi bàn tay Jace nhẹ nhàng khi anh luồn dải vải được gút nối vào nhau xuống dưới cổ cô và buộc lại. Dải vải được phết thứ gì giống sáp, giống thứ thuốc mỡ của bác làm vườn mà mẹ thường dùng để giữ mềm cho đôi bàn tay bị sơn – và nhựa thông – làm hỏng.

“Con quỷ ở Xứ Quỷ - nó trông giống người mà.”

“Nó là quỷ Eidolon. Một thứ quỷ biết thay hình đổi dạng. Quỷ Ravener thì nhìn sao thấy vậy. Không quyến rũ lắm, nhưng chúng ngu lắm chẳng màng đến chuyện này đâu.”

“Nó nói nó sẽ ăn tôi.”

“Nhưng nó đâu ăn được. Em đã giết nó.” Jace thắt nút xong rồi ngồi xuống.

Clary nhẹ cả người khi cơn đau ở cổ đã giảm dần. Cô bật ngồi dậy. “Cảnh sát đã tới.” Giọng cô nghe giống tiếng ếch kêu ộp ộp. “Chúng ta nên...”

“Họ chẳng thể làm gì cả. Chắc là có người nghe tiếng em hét và đã gọi điện báo cảnh sát. Cá mười ăn một đây không phải cảnh sát thật. Lũ quỷ biết cách che đậy dấu vết.”

“Mẹ tôi,” Clary nói, ráng hết sức thốt ra lời qua cổ họng sưng phù.

“Nọc độc của quỷ Ravener đang lan tỏa qua huyết quản của em ngay lúc này đấy. Em sẽ chết trong một giờ nữa nếu em không đi cùng anh.” Anh đứng dậy và giơ tay cho cô. Cô nắm lấy để anh kéo cô đứng dậy. “Đi nào.”

Thế giới quay cuồng. Jace choàng một tay ngang qua lưng cô, giữ cô đứng vững. Anh có mùi đất, máu, và kim loại. “Em đi được không?”

“Tôi nghĩ là được.” Cô liếc nhìn qua những bụi hồng hoa nở rộ. Cô có thể thấy cảnh sát đang bước lên lối đi. Một trong những cảnh sát, một người phụ nữ tóc vàng thon thả, một tay cầm đèn pin. Khi cô ta giơ đèn pin lên, Clary thấy cánh tay đó không có lấy một tí thịt, một bàn tay trơ xương với đầu ngón tay xương được mài nhọn hoắc. “Tay con kia...”

“Anh đã bảo có thể chúng là quỷ mà.” Jace liếc nhìn ra sau nhà. “Chúng ta phải thoát khỏi đây. Chúng ta nên đi qua hẻm được không?”

Clary lắc đầu. “Bị xây bít rồi. Không có cách nào...” Lời cô nói biến thành một tràng ho rũ rượi. Cô giơ tay che miệng. Dở ra thì tay đỏ loét. Cô rên rỉ.

Anh nắm lấy tay cô, lật ngửa tay để da thịt trắng xanh, mỏng manh của phần trong cánh tay cô phơi bày dưới ánh trăng. Những mảng gân xanh chạy dọc ngang dưới da cô, mang theo máu độc chạy tới tim, tới não bộ. Clary thấy đầu gối nhũn ra. Có gì đó trong tay Jace, một thứ sắc lẻm bằng bạc. Cố cố kéo tay lại, nhưng anh nắm quá chắc: Cô cảm nhận một nụ hôn nhói trên da. Khi anh thả ra, cô trông thấy một ký hiệu mực đen giống những chữ phủ khắp da anh ta, ngay bên dưới nếp hằn trên cổ tay cô. Ký hiệu này trông như một bộ những vòng tròn chồng lên nhau.

“Cái này để làm gì?”

“Nó sẽ che giấu em,” anh nói. “Một lúc thôi.” Anh nhét cái thứ Clary nghĩ là dao vào thắt lưng. Đấy là một ống hình trụ, dài và sáng phản quang, dày cỡ ngón tay trỏ và thon ở một đầu. “Thanh stele của anh ấy mà.”

Clary không hỏi nó là gì. Cô đang tập trung cố không ngã. Mặt đất đang trồi trụt dưới chân cô. “Jace,” cô nói, ngã vào lòng anh. Anh đỡ lấy cô như thể đã quá quen với việc đón lấy những cô gái sắp ngất, như thể anh làm việc này mỗi ngày. Có thể vậy. Anh bế thốc cô lên tay, nói gì đó vào tai cô nghe như Hòa Ước. Clary ngửng đầu nhìn anh, nhưng chỉ thấy những vì sao nhảy múa trên bầu trời tối đen trên cao. Thế rồi sức chịu đựng của cô đã kiệt, ngay cả vòng tay của Jace cũng không thể ngăn cô ngã xuống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


5

HỘI CLAVE VÀ HIỆP ĐỊNH

“Anh nghĩ cô ta có khi nào tỉnh dậy không? Đã ba ngày rồi đấy.”

“Em phải cho cô ấy chút thơi gian chứ. Quỷ độc rất mạnh, trong khi cô ấy chỉ là người thường. Cô ấy không có các chữ rune giúp cô ấy mạnh như chúng ta.”

“Không phải người thường rất dễ chết sao?”

“Isabelle, em thừa biết nói về chết chóc trong phòng bệnh là xúi quẩy mà.”

Ba ngày, Clary mụ mị nghĩ. Tất cả suy nghĩ của cô đều trôi đi chậm chạp và đặc quánh như máu hay mật ong. Mình phải dậy.

Nhưng cô không thể.

Những giấc mơ níu kéo cô, giấc mơ này nói tiếp giấc mơ khác, một dòng sông hình ảnh cuốn mang cô đi như thể cô là một chiếc lá trôi giữa dòng. Cô thấy mẹ nằm trên giường bệnh, đôi mắt thâm quầng nổi bật trên nước da trắng. Cô thấy chú Luke, đứng trên những bộ xương chất thành đống. Jace với đôi cánh lông trắng mọc ra từ lưng, Isabelle ngồi đó trần truồng cùng chiếc roi quấn quanh mình như một lưới nhẫn vàng, Simon với những chữ thập đốt hằn vào lòng bàn tay. Những thiên thần, rơi xuống và bốc cháy. Rơi xuống khỏi bầu trời.

“Em đã bảo vẫn là một người mà.”

“Anh biết. Nhỏ bé quá, nhỉ? Jace bảo là cô ta đã giết một chết một con quỷ Ravener.”

“Phải. Lần đầu tiên gặp em còn tưởng cô gái này là yêu tinh. Nhưng lại không xinh bằng yêu tinh.”

“Ừ thì, chẳng ai xinh đẹp khi dính quỷ độc trong người cả. Bác Hodge sẽ cho gọi các Tu Huynh chứ?”

“Em mong là không. Họ làm em thấy ghê cả người. Bất cứ ai tự hành xác như họ...”

“Chúng ta cũng tự hành xác đó thôi.”

“Em biết mà, Alec, nhưng khi chúng ta làm vậy, đó không phải vĩnh viễn. Và không phải lúc nào cũng đau...”

“Nếu em đủ lớn. Mà nói về chuyện đó, Jace đâu rồi nhỉ? Jace cứu cô gái nhỏ, đúng không? Anh cứ tưởng cậu ta sẽ quan tâm đến sự hồi phục của cô này chứ.”

“Bác Hodge nói anh ấy không hề tới thăm từ khi mang cô này về đây. Em nghĩ anh ấy không quan tâm.”

“Đôi lúc anh tự hỏi liệu Jace có... Nhìn kìa! Cô ta cử động rồi!”

“Chắc vậy là rốt cuộc cô ta sống nổi rồi.” Một tiếng thở dài. “Em sẽ đi nói với bác Hodge.”

Mí mắt Clary có cảm giác như bị khâu chặt lại. Cô tưởng tượng mình có thể cảm nhận được da đang toạc ra khi cô từ từ mở mắt và chớp chớp lần đầu tiên trong ba ngày.

Cô thấy bầu trời trong xanh trên đầu, những đám mây trắng bồng bềnh và những thiên thần mũm mĩm trên cổ tay đeo ruy băng mạ vàng. Mình chết chưa vậy? Cô tự hỏi. Thiên đường thực sự trông như thế này sao? Cô nhắm chặt mắt và mở ra lần nữa: Lần này cô nhận ra mình đang nhìn lên một mái vòm gỗ, được vẽ theo phong cách Rococo với những đám mây và các tiểu thiên sứ.

Cô đau đớn cố ngồi dậy. Mỗi phần cơ thể cô đều đau nhức, đặc biệt là phần gáy, cô liếc nhìn quanh. Cô được đặt nằm trên chiếc giường trải ga vải lanh, một trong một dãy giường tương tự với đầu giường bằng kim loại. Giường cô có chiếc tủ đầu giường nho nhỏ đặt cạnh với bên trên là một chiếc cốc và bình nước. Những tấm rèm ren che kín những ô cửa sổ, chắn đi ánh sáng, dù cô vẫn nghe được những âm thanh văng vẳng, thường trực của dòng xe cộ đi lại trong thành phố New York từ bên ngoài.

“Thế cuối cùng cô cũng tỉnh dậy nhỉ,” một giọng nói khô khốc vang lên. “Bác Hodge sẽ rất vui. Bọn tôi đều nghĩ cô sẽ chết trong khi hôn mê mất thôi.”

Clary quay lại. Isabelle đang ngồi trên giường bên cạnh, suối tóc đen bện gọn gàng thành hai bím tóc dày thả xuống thắt lưng. Chiếc váy trắng đã được thay thế bằng chiếc quần bò và chiếc áo thun ôm sát cánh màu xanh, nhưng mặt dây chuyền đỏ vẫn nhấp nháy trên cổ. Những hình xăm xoắn ốc màu đen đã biến mất; chỉ trừ Ấn Ký Minh Mẫn màu đen trên mu bàn tay phải.

“Xin lỗi đã làm cô thất vọng vậy,” giọng Clary xô xảm như giấy nhám. “Đây là Học Viện sao?”

Isabelle đảo tròng mắt. “Có gì Jace không nói với cô không nhỉ?”

Clary ho. “Đây là Học Viện, đúng không?”

“Đúng. Cô đang ở trong bệnh xá, nhưng chắc cô cũng đoán ra rồi.”

Một cơn đau đột ngột nhói lên khiến Clary ôm chặt bụng. Cô thở dốc.

Isabelle hoảng hốt nhìn cô. “Cô ổn không đấy?”

Cơn đau đã dịu đi, nhưng Clary cảm nhận được dịch vị đang dâng lên trong cổ họng và một cơn váng vất là lạ. “Bụng tôi.”

“À, đúng rồi. Tôi suýt quên mất. Bác Hodge nói đưa cho cô cái này khi cô tỉnh dậy.” Isabelle vơ lấy cái bình sứ rồi rót thứ trong đấy vào chiếc cốc cùng bộ, sau đó đưa cho Clary. Cốc chứa đầy thứ chất lỏng trắng đục đang khẽ bốc khói. Có mùi thảo dược và thứ gì đấy khác, một thứ gì đấy đượm mùi và huyển hoặc. “Cô đã không ăn gì suốt ba ngày nay,” Isabelle nhận định. “Có thể vì thế mà cô mệt.”

Clary thận trọng nhấp một ngụm. Cũng khá ngon, đậm đà và dễ chịu, để lại dư vị như bơ. “Cái gì đây?”

Isabelle nhún vai. “Một trong những món thuốc nước của bác Hodge. Chúng luôn có tác dụng.” Cô nàng chuồi khỏi giường, lưng hơi cong như lưng mèo khi đặt chân xuống nền nhà. “Mà thôi, mình là Isabelle Lidghtwood. Mình sống ở đây.”

“Mình biết tên cậu. Mình là Clary. Clary Fray. Jace mang mình tới đây à?”

Isabelle gật đầu. “Chưa khi nào anh ấy dám. Cậu để lại vết máu và dịch vàng dây khắp thảm trải ở lối vào. Nếu anh ấy mang cậu về lúc bố mẹ mình có nhà, đảm bảo anh ấy sẽ bị cấm túc cho mà xem.” Cô nheo mắt nhìn Clary kỹ hơn. “Jace nói cậu đã tự mình giết chết con quỷ Ravener đó.”

Hình ảnh chớp nhoáng của thứ sinh vật giống bọ cạp với khuôn mặt kinh khủng xấu xí loáng qua óc Clary; cô rùng mình và nắm chặt cái cốc hơn. “Mình đoán là vậy,”

“Nhưng cậu là người thường mà.”

“Ngạc nhiên, đúng không?” Clary nói, thưởng thức vẻ mặt ngạc nhiên của Isabelle đang cố giấu mà không được. “Jace đâu rồi? Anh ấy có ở đây không?”

Isabelle nhún vai. “Ở đâu đó,” cô nàng nói. “Mình phải đi nói với mọi người là cậu đã tỉnh. Bác Hodge sẽ muốn nói chuyện với cậu.”

“Bác Hodge là gia sư của Jace, đúng không?”

“Bác Hodge là gia sư của tất cả bọn tớ.” Cô chỉ chỏ. “Phòng tắm ở đằng kia, và mình có treo ít quần áo cũ của mình trên mắc treo khăn nếu cậu muốn thay đồ.”

Clary uống thêm một ngụm nữa và thấy cốc đã trống không. Cô không còn cảm thấy đói hay choáng gì nữa, thật nhẹ cả người. Cô đặt cốc xuống và ôm chăn quanh mình. “Điều gì xảy ra cho quần áo của mình vậy?”

“Chúng dính toàn máu và nọc độc. Jace đốt hết rồi.”

“Thật sao?” Clary hỏi. “Nói cho mình nghe xem, anh ta luôn luôn thô lỗ như vậy, hay chỉ là với người thường mới thế?”

“Ồ, với ai anh ấy cũng thế,” Isabelle đáp tỉnh rụi. “Chính vì thế mới làm cho anh ấy quyến rũ vậy chứ. Vì thế, và vì anh ấy đã giết được nhiều quỷ hơn bất cứ ai bằng tuổi.”

Clary nhìn cô nàng mà bối rối. “Anh ta không phải anh trai cậu sao?”

Câu nói đó khiến Isabelle chú ý ngay. Cô ta cười lớn. “Jace? Anh trai mình? Không. Sao cậu nghĩ vậy?”

“Vì anh ấy sống ở đây cùng cậu,” Clary nhận định. “Không phải sao?”

Isabelle gật đầu. “Ừ, phải, nhưng...”

“Vì sao anh ấy không sống cùng bố mẹ ruột?”

Trong tích tắc Isabelle trông thoáng khó chịu. “Vì họ chết rồi.”

Miệng Clary há hốc vì ngạc nhiên. “Họ chết trong tai nạn à?”

“Không.” Isabelle bồn chồn, vén lọn tóc đen ra sau tai trái. “Mẹ anh ấy chết khi anh ấy vừa chào đời. Bố bị giết khi anh ấy lên mười. Jace chứng kiến tất cả.”

“Ôi,” Clary lí nhí nói. “Do... quỷ à?”

Isabelle đứng dậy. “Nghe này, mình nên đi báo cho mọi người biết là cậu đã dậy. Họ đã đợi cậu mở mắt suốt ba ngày nay rồi. À, trong phòng tắm có xà bông đấy,” cô nàng nói thêm. “Cậu nên tắm rửa qua qua đi. Người cậu bốc mùi rồi đấy.”

Clary trừng mắt nhìn cô nàng. “Cám ơn nhiều.”

“Không có chi.”

Quần áo Isabelle thật kỳ quặc. Clary phải xắn ống quần vài lần mới không dẫm phải, còn phần cỗ trễ nải trên chiếc áo sát cánh màu đỏ thì nhấn mạnh thêm sự thiếu hụt của Clary cái thứ mà hẳn Eric sẽ gọi là “điện đóm.”

Cô tắm rửa trong phòng tắm nhỏ, sử dụng miếng xà bông cứng ngắc mùi hoa oải hương. Phải lau khô người bằng chiếc khăn chùi tay màu trắng khiến cho mái tóc ướt nhẹp phải xổ tung thành từng nùi thơm ngằn ngặt quanh mặt. Cô nheo mắt nhìn mình trong gương. Trên má trái có một vết bầm khá rõ, còn đôi môi thì khô cong sưng vều.

Mình phải gọi cho chú Luke, cô nghĩ. Chắc chắn quanh đây phải có điện thoại. Có thể họ sẽ cho phép cô dùng sau khi nói chuyện với bác Hodge.

Cô tìm thấy đôi giày Skechers đặt gọn gàng dưới giường trong bệnh xá, chùm chìa khóa buộc chặt ở dây giày. Cô xỏ chân vào giày rồi hít một hơi sâu trước khi đi tìm Isabelle.

Hành lang bên ngoài bệnh xá chẳng có lấy một bóng người. Clary nhìn suốt hành lang, lòng hoang mang. Nơi đây trông giống kiểu hành lang cô thi thoảng thấy mình đang hớt hơ hớt hải chạy trong những cơn ác mộng, tối tăm và dài vô tận. Những bóng đèn thủy tinh hình hoa hồng treo cách khoảng trên tường, và không khí phảng phấtt mùi bụi và sáp nến.

Cô nghe loáng thoáng đâu đó một thứ âm thanh thật tinh tế, giống như tiếng các chuông gió lanh canh trong cơn giông. Cô chậm rãi đi xuống hành lang, lần tay dọc theo bức tường. Giấy dán tường phong cách Victoria giờ đã bạc màu theo thời gian, mang sắc màu đỏ tía và xám nhạt. Hai bên hành lang là hai dọc những cánh cửa đóng kín.

Âm thanh cô đang lần theo đấy càng lúc càng lớn. Giờ cô đã nhận ra âm thanh đó là tiếng đàn dương cầm được đánh lên bởi một người dù nghiệp dư nhưng có khiếu không thể chối cãi được, dù cô không thể nhận ra khúc nhạc này.

Quành qua góc tường, Clary bước tới cánh cửa đang mở rộng. Nhìn qua cô biết đó là phòng nhạc. Một chiếc dương cầm lớn đặt trong góc, những hàng ghế được xếp tựa vào bức tường đối diện. Một chiếc đàn hạc được phủ khăn đặt nơi giữa phòng.

Jace đang ngồi bên chiếc dương cầm, đôi bàn tay thon dài di chuyển nhanh nhẹn trên những phím đàn. Anh đi chân trần, mặc quần bò và áo phông xám, mái tóc nâu vàng có phần bù xù như thể anh vừa ngủ dậy. Quan sát những cử động nhanh gọn của bàn tay anh lướt trên phím đàn, Clary nhớ lại cái cảm giác khi được đôi bàn tay đó nâng lên, hai cánh tay đã giữ cô đứng vững và những vì sao bay xung quanh đầu cô như một cơn mưa kim tuyến bạc.

Chắc chắn cô đã gây ra tiếng động gì đó, vì anh quay mình trên ghế, chớp chớp mắt nhìn vào bóng tôi.”Alec à?” anh nói. “Cậu phải không?”

“Không phải Alec. Là tôi.” Cô bước thêm vài bước vào phòng. “Clary.”

Những phím đàn dương cầm kêu lên chói tai khi anh đứng dậy. “À, người đẹp ngủ trong rừng của chúng ta đây mà. Cuối cùng là ai đặt lên môi em nụ hôn để đánh thức em dậy vậy?”

“Chẳng ai cả. Tự tôi dậy thôi.”

“Có ai ở đó cùng em không?”

“Isabelle, nhưng cô ấy đi tìm ai đó – hình như tìm bác Hodge thì phải. Cô ấy bảo em đợi, nhưng...”

“Đáng ra anh nên bảo con bé trước là em không thích làm theo những gì được bảo.” Jace nheo mắt nhìn cô. “Quần áo Isabelle phải không? Em mặc trông buồn cười thật.”

“Đó là do anh đã đốt quần áo của tôi.”

“Chỉ là để đề phòng ấy mà.” Anh đóng nắp đàn màu đen bóng lại. “Nào, anh sẽ dẫn em đi gặp bác Hodge.”

Học Việnrất rộng với các lối đi quanh co tựa mê cung, không giống như được thiết kế vì cái sàn nhà phẳng mà có vẻ như nhờ tới sức nước bào mòn nhiều năm trời. Qua những cánh cửa khép hờ, Clary thoáng thấy vô số những căn phòng nhỏ giống hệt nhau, trong mỗi phòng đều bố trí một chiếc giường trải ra kẻ sọc, những chiếc tủ đầu giường, và một chiếc tủ gỗ lớn mở toang. Những mái vòm bằng đá trắng nhạt đỡ lấy trần nhà cao cao, một số trong đó có tạc khắc tinh vi những bức tượng nho nhỏ. cô nhận thấy một vài mô típ nhất định được lặp đi lặp lại: thiên thần và kiếm, mặt trời và hoa hồng.

“Sao nơi này có nhiều phòng ngủ vậy?” Clary hỏi. “Tôi tưởng đây la viện nghiên cứu chứ.”

“Đây là phía chái nhà ở. Bọn anh nguyện cung cấp nơi trú ẩn lẫn sự an toàn cho bất cứ Thợ Săn Bóng Tối nào cần đến. Bọn anh có thể chứa được đến hai trăm người.”

“Nhưng hầu hết những căn phòng này đều trống không.”

“Người ta đến rồi đi. Không ai ở lại đâu. Thường thì chỉ có bọn anh – Alec, Isabelle, Max, bố mẹ họ - cùng anh và bác Hodge.”

“Max?”

“Em đã gặp Isabelle mỹ miều rồi chứ gì? Alec là anh trai. Max là em út, nhưng giờ thằng nhỏ ra nước ngoài cùng bố mẹ rồi.”

“Đi nghỉ ạ?”

“Không hẳn.” Jace lưỡng lự. “Em có thể coi họ như... các đại sứ ngoại giao, và nơi đây kiểu kiểu như đại sứ quán. Giờ họ đang tại quê nhà của Thợ Săn Bóng Tối, đang giải quyết một số hiệp định hòa bình khá nhạy cảm. Họ đưa Max đi cùng vì thằng bé ấy còn quá nhỏ.”

“Quê nhà của Thợ Săn Bóng Tối?” Clary thấy đầu quay mòng mòng. “Tên nó là gì?”

“Idris.”

“Tôi chưa nghe thấy bao giờ.”

“Làm sao em nghe được.” Sự trịch thượng đáng ghét đã quay lại trong giọng nói của Jace. “Người thường không bao giờ biết. Có những hệ thống canh giữ - những lời chú bảo vệ - giăng khắp vùng biên giới. Nếu em cố đột nhập vào Idris, em sẽ chỉ thấy mình đột nhiên bị chuyển từ biên giới này sang biên giới khác. Em không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra.”

“Vậy là nó không có trên bản đồ?”

“Không có trên bản đồ của người thường. Với bọn anh thì em có thể coi nơi đấy là một quốc gia nhỏ nằm giữa Đức và Pháp.”

“Nhưng chẳng có gì giữa Đức và Pháp hết. Trừ Thụy Sĩ.”

“Chính xác,” Jace nói.

“Thế theo tôi hiểu là anh đã từng ở đó. Ý tôi là Idris ấy.”

“Anh lớn lên ở đó.” Giọng Jace vẫn đều đều, nhưng có gì trong cách nói năng khiến cô biết sẽ không có thêm câu hỏi nào đào sau vào hướng nay được chào đón nữa. “Hầu hết bọn anh đều vậy. Tất nhiên, còn có những Thợ Săn Bóng Tối từ khắp nơi trên thế giời. Bọn anh phải ở mọi nơi, vì quỷ dữ hoạt động ở mọi chỗ. Nhưng đối với những Thợ Săn Bóng Tối, Idris luôn là ‘quê hương.’”

“Giống như Mecca hay Jerusalem,” Clary trầm ngâm. “Vậy là hầu hết các anh đều lớn lên ở đó, và khi các anh trưởng thành...”

“Bọn anh sẽ được đưa tới những nơi cần bọn anh,” Jace nói ngắn gọn. “Và cũng có vài người khác, như Isabelle và Alec, lớn lên ở xa quê hương vì bố mẹ họ sống ở đó. Với tất cả những trang thiết bị của Học Viện, dưới sự dạy dỗ của bác Hodge...” Anh ngừng lời. “Đây là thư viện.”

Họ đã tới trước khung cửa gỗ hình vòm. Một con mèo Ba Tư màu xanh xám với cặp mắt vàng đang nằm cuộn tròn phía trước. Nó ngẩng đầu khi thấy họ tới và ngáp. “Này, Church,” Jace vừa nói vừa lấy bàn chân trần vuốt ve lưng con mèo. Con mèo lim dim thỏa mãn.

“Đợi đã,” Clary nói. “Alec, Isabelle và Max – họ là những Thợ Săn Bóng Tối bằng tuổi duy nhất anh biết và chơi cùng à?”

Jace dừng vuốt ve con mèo. “Đúng.”

“Thế thì cô đơn lắm nhỉ?”

“Anh có mọi thứ anh cần.” Anh đẩy mở cửa. Sau một thoáng lưỡng lự, cô đi theo vào trong.

Thư viện được thiết kế dạng hình tròn, với mái nhà thon vút cao, như thể nó nằm trong một ngọn tháp vậy. Những bức tường chất đầy sách vở, những giá sách cao chót vót đến mức phải có những chiếc thang trên bánh xe dựng trong những khoảng trống giữa các kệ. Ở đây cũng không có những cuốn sách thông thường – chỉ có những cuốn sách bìa da và nhung, với những ổ khóa có vẻ chắc chắn có bản lề bằng đồng hoặc bạc. Những gáy sách được gắn những viên đá quý óng ánh đã xỉn màu và được sơn thếp chữ vàng. Những cuốn sách trông sờn mòn theo kiểu chắc chắn chúng không chỉ cũ mà còn được sử dụng thường xuyên, từng được rất yêu chuộng.

Sàn nhà bằng gỗ sáng bóng, khảm những mảnh thủy tinh, đá hoa cương và ít ngọc bản quý. Phần đá khảm tạo thành một kiểu họa tiết Clary không thể giải mã – có thể là dải thiên hà, hoặc thậm chí là bản đồ thế giới; cô ngờ rằng mình phải trèo lên tháp và nhìn xuống mới nhìn cho ra được.

Ở chính giữa phòng là một cái bàn cỡ đại. Bàn được đẽo ra từ nguyên một phiến gỗ sồi đẹp mắt, nặng trịch, óng lên vẻ sáng bóng hơi mờ đi vì năm tháng. Phiến gỗ ngự trên lưng hai thiên thần, tạc từ cùng loại gỗ, đôi cánh mạ vàng, khuôn mặt hằn vẻ khắc khổ như thể sức nặng của phiến gỗ đã đè gãy lưng họ. Một người đàn ông gầy gò với mái tóc điểm bạc và cái mũi diều hâu dài sọc đang ngồi sau bàn.

“Một kẻ yêu sách,” ông ta nói và mỉm cười với Clary. “Thế mà cháu không nói cho bác nghe, Jace.”

Jace cười khùng khục. Clary biết anh đã đi đến đứng ngay sau cô mà nhét tay vào túi quần, cười cười cái nụ cười toe toét khiến người ta điên tiết. “Bọn cháu không nói chuyện nhiều trong quãng thời gian quen biết ngắn ngủi,” anh ta nói. “Cháu e rằng thói quen đọc sách của chúng cháu đã không được nhắn đến.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Clary quay phắt lại mà lườm.

“Sao ông biết?” cô hỏi người đàn ông ngồi sau bàn. “Cháu đang nói tới chuyện cháu thích sách ấy.”

“Thì dựa vào gương mặt cháu khi cháu bước vào,” ông ta nói, đứng dậy bước vòng qua bàn. “Chẳng biết vì sao nhưng ta không cho là cháu bị ta làm cho ấn tượng đến như thế.”

Clary cố nén thở khi ông ta đứng dậy. Cô tự nhiên có cảm giác ông ta bị dị tật sao sao đấy, vai trái gồ lên cao hơn vai phải. Khi ông ta tới gần, cô thấy cái cục gồ lên đó hóa ra là một chú chim đang đậu chắc trên vai – một sinh vật mang bộ lông vũ mượt mà và cặp mắt đen sáng.

“Đây là Hugo,” người đàn ông nói và chạm vào con chim đậu trên vai. “Hugo là một con quạ, và vì vậy, nó biết nhiều thứ. Còn ta, Hodge Starkweather, một giáo sư lịch sử, và vì thế, ta không biết nhiều lắm.”

Clary khẽ bật cười, dù lòng không muốn, rồi nắm bắt bàn tay ông đang chìa ra. “Clary Fray.”

“Rất vinh hạnh được biết cháu,” ông Hodge bảo. “Ta rất vinh hạnh được quen biết bất cứ ai tay không giết được một con quỷ Ravener.”

“Chẳng phải bằng tay không đâu ạ,” Vẫn thật quái quái làm sao khi mà được khen ngợi vì đã giết thứ gì đó. “Đó là đồ của Jace... ừm, cháu không nhớ đồ đó gọi là gì nữa, nhưng mà...”

“Cô ấy đang nói tới cái máy Cảm Ứng của cháu đấy,” Jace nói. “Cô ấy đã tộng nó thẳng vào họng con quỷ. Chắc những chữ rune trên đó đã làm nó chết nghẹn. Cháu nghĩ cháu cần cái khác rồi,” anh nói thêm, như chỉ là bâng quơ. “Đáng ra cháu phải nói rồi chứ nhỉ.”

“Trong phòng vũ khí còn có cả mớ thừa ra đấy,” Hodge nói. Khi ông cười với Clary, hàng ngàn nếp nhăn be bé tỏa ra quanh mắt ông, giống như những vết rạn trên những bức tranh cũ. “Hành động nhanh trí đấy. Điều gì khiến cháu nảy ra ý tưởng dùng máy Cảm Ứng làm vũ khí vậy?”

Trước khi cô kịp trả lời, một tiếng cười sắc lạnh đã vang khắp phòng. Clary nãy giờ mê mẩn đống sách vở rồi thêm bị Hodge làm cho xao lãng nên không nhận ra Alec đang nằm ườn trên chiếc ghế tựa nhồi quá tay cạnh lò sưởi nguội lạnh. “Cháu không tin nổi là bác lại tin câu chuyện ấy đấy bác Hodge,” anh ta nói.

Lúc đầu Clary thậm chí còn chẳng biết anh ta nói gì. Cô đang mải nhìn. Giống như rất nhiều những đứa con một khác, cô rất hứng thú với sự giống nhau giữa các anh chị em ruột, và giờ, dưới ánh sáng ban ngày lồ lộ, cô có thể thấy Alec giống hệt cô em gái đến mức nào. Họ cùng có mái tóc đen tuyền, cũng đường chân mày mảnh hơi vểnh ở đuôi, cùng nước datrắng sáng như nhau. Nhưng nếu Isabelle cực kỳ kiêu ngạo, Alec lại ngồi chìm lỉm xuống ghế như thể hy vọng là không ai để ý tới mình. Lông mi anh ta dài và đen như của Isabelle, nhưng nếu màu mắt của Isabelle là màu đen, thì mắt anh ta lại mang màu xanh sậm của chai thủy tinh. Đôi mắt ấy đang chiếu vào cô với sự thù địch nguyên chất và đậm đặc như acid.

“Takhông rõ cậu muốn nói gì đấy Alec.” Hodge nhướn mày. Clary tự hỏi ông này bao nhiêu tuổi rồi; có một vẻ không tuổi gì đấy ở ông ta, dù mái tóc đã ngả muối tiêu. Ông mặc một bộ com lê gọn gàng bằng vải tuýt màu xám, là phẳng phiu. Hẳn ông ta sẽ trông giống một giáo sư đại học hiền hậu nếu không có vết sẹo dày cui dọc bên má phải. Cô tự hỏisao ông ta lại có vết sẹo đó. “Vậy cậu đang nói rằng cô gái đây không hề giết chết con quỷ à?”

“Tất nhiên là không rồi. Nhìn cô ta mà xem – là người thường đấy Hodge ạ, mà là một cô nhóc nữa chứ. Không đời nào cô này hạ gục một con quỷ Ravener được.”

“Tôii không phải cô nhóc,” Clary xen vào. “Tôi mười sáu rồi... à, tròn mười sáu vào Chủ Nhật này.”

“Bằng tuổi Isabelle,” Hodge nói. “Thế cậu có gọi em cậu là một đứa nhóc không?”

“Isabelle tới từ một trong những đế chế Thợ Săn Bóng Tối hùng mạnh nhất trong lịch sử,” Alec cộc cằn. “Ngược lại, con nhỏ này, tới từ New Jersey đấy.”

“Tôi là dân Brooklyn!” Clary giận dữ. “Và thế thì sao nào? Tôi vừa giết một con quỷ ngay tại nhà mình, còn anh cay cú về chuyện này vì tôi không phải là thứ cậu ấm cô chiêu nhà giàu được nuông chiều quá đỗi như anh với em gái anh à?”

Alec trông thất kinh. “Cô gọi tôi là gì?”

Jace cười lớn. “Cô ấy nói đúng đấy, Alec,” Jace bảo. “Cậu thực sự phải coi chừng mấy con quỷ nhà quê tỉnh lẻ...”

“Không buồn cười đâu nhé, Jace,” Alec ngắt lời và bắt đầu đứng dậy. “Cậu định cứ mặc cho con nhỏ kia đứng đấy sỉ nhục tớ hả?”

“Đúng,” Jace nhẹ nhàng nói. “Như thế sẽ giúp cậu nhiều đấy – cứ coi như đây là một kiểu huấn luyện khả năng chịu đựng đi.”

“Có thể chúng ta là cặp parabatai,” Alec nói qua kẽ răng. “Nhưng cái kiểu xấc láo của cậu đang làm tớ hết kiên nhẫn rồi đấy.”

“Và tính ngoan cố của cậu cũng đang làm tớ hết kiên nhẫn. Khi tớ tìm thấy cô gái này, cô ta đang nằm trên sàn, giữa vũng máu cùng một con quỷ đang hấp hối đè lên trên. Tớ nhìn theo nó biến mất. Nếu không phải cô ta đã giết nó, thì ai làm đây?”

“Bọn quỷ Ravener ngu lắm. Có thể tự nó đốt vào cổ nó. Chuyện đó từng xảy ra rồi...”

“Giờ cậu đang ý nói là con quỷ đó tự sát à?”

Miệng Alec mím lại. “Cô gái này ở lại đây là không ổn. Người thường không được phép vào Học Viện, và có nhiều lý do chính đáng cho chuyện đó. Nếu bất cứ ai biết chuyện này, họ có thể báo cáo lên Clave.”

“Không hoàn toàn đúng,” Hodge nói. “Luật có cho phép chúng ta cung cấp nơi trú náu cho người thường trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó. Một con quỷ Ravener đã tấn công mẹ Clary – Clary đã rất có thể là mục tiêu kế tiếp.”

Tấn công. Clary không biết đó có phải là cách nói giảm nói tránh cho từ “giết hại” không hay không. Con quạ trên vai bác Hodge rúc lên khe khẽ.

“Quỷ Ravener là những cổ máy tìm-và-diệt,” Alec nói. “Chúng hành động theo lệnh của pháp sư hay một chúa quỷ quyền năng nào đó. Thế thì, một pháp sư hay chúa quỷ có hứng thú gì với một hộ gia đình người thường cơ chứ?” Mắt anh ta khi nhìn Clary sáng lên vẻ căm ghét. “Có nghĩ ra gì không?”

Clary đáp, “Chắc nhầm lẫn gì thôi.”

“Bọn quỷ không nhầm lẫn kiểu đó. Nếu chúng tấn công mẹ cô, chắc hẳn phải có lý do. Nếu mẹ cô vô tội...”

“‘Vô tội’ là sao?” giọng Clary rất bình tĩnh.

Alec có vẻ giật mình. “Tôi...”

“Ý cậu ấy,” Hodge nói, “là cực kỳ không bình thường khi một con quỷ hùng mạnh, loại quỷ có thể điều khiển một đạo quân quỷ yếu kém hơn, lại để mắt tới chuyện của một con người bình thường. Không một người thường nào có thể an toàn triệu hồi được quỷ - họ thiếu quyền uy đó – nhưng đã từng có vài kẻ, tuyệt vọng và điên rồ, nhờ pháp sư làm hộ chúng chuyện này.”

“Mẹ cháu không quen bất kỳ một pháp sư nào. Bà không tin vào phép thuật.” Clary chợt nảy ra một ý. “Quý Bà Dorothea – bà ấy sống ở tầng dưới – là phù thủy. Có thể lũ quỷ định tấn công bà ấy nhưng nhầm sang mẹ cháu chăng?”

Hàng lông mày của bác Hodge nhướn tít lên gần chân tóc. “Một phù thủy sống ở dưới nhà cháu?”

“Bà ấy là giống như đa số phù thủy – hàng rởm thôi,” Jace nói. “Cháu đã kiểm tra rồi. Không có lý do gì mà bất cứ pháp sư nào lại để mắt tới bà ta trừ khi hắn ta đang cần mấy quả cầu pha lê vô dụng.” Anh quay sang Clary. “Pháp sư là những kẻ sinh ra đã có khả năng sử dụng phép thuật. Còn phù thủy là con người đã tự học mót đâu đó một chút phép thuật. Nhưng rất ít kẻ xưng danh phù thủy thực sự là phù thủy.”

“Và chúng ta quay lại điểm xuất phát.” Hodge với tay lên gãi gãi con chim đậu trên vai. “Có vẻ đã đến lúc chúng ta nên thông báo cho Clave.”

“Không!” Jace thốt lên. “Chúng ta không thể...”

“Khi chúng ta còn chưa rõ Clary có thể phục hồi được hay không thì việc giữ bí mật cho sự hiện diện của cô ấy tại đây còn có lý,” Hodge nói. “Nhưng giờ cô gái đây đã khỏe, và lại là người thường đầu tiên bước vào cánh cửa Học Viện trong hơn một trăm năm nay. Cháu hiểu những luật lệ về việc người thường biết đến sự tồn tại của Thợ Săn Bóng Tối mà Jace. Hội Clave phải được thông báo.”

“Chắc chắn rồi,” Alec đồng tình. “Cháu có thể gửi thư cho bố...”

“Cô ấy không phải người thường,” Jace bình tĩnh nói.

Lông mày Hodge lại nảy dựng lên chân tóc rồi ở nguyên tại chỗ. Alec, bị ngắt giữa câu, nghẹn lại vì ngạc nhiên. Trong sự im lặng đột ngột Clary có thể nghe thấy tiếng đôi cánh con quạ Hugo sột soạt. “Nhưng tôi là người thường mà,” cô nói.

“Không,” Jace bảo. “Không phải.” Anh quay sang bác Hodge, và Clary thấy yết hầu anh khẽ nhúc nhích khi anh nuốt xuống. Cô thoáng thấy căng thẳng này của anh lại có sức trấn an đến kỳ lạ. “Đêm đó – có những con quỷ Du’sien, trong trang phục cảnh sát. Chúng cháu phải vượt qua chúng. Clary quá yếu không thể chạy nổi, và không còn thời gian để trốn nữa – cô ấy sẽ chết mất. Vì thế cháu đã dùng thanh stele – vẽ chứ medelin lên bên trong cánh tay cô ấy. Cháu nghĩ...”

“Cháu điên sao?” Hodge đập mạnh tay xuống bàn khiến Clary tưởng tấm gỗ sẽ nứt mất. “Cháu biết Luật nói gì về việc vẽ Ấn Ký lên người thường cơ mà! Cháu... cháu phải biết rõ hơn ai chứ!”

“Nhưng nó có tác dụng,” Jace nói. “Clary, cho họ nhìn tay em đi.”

Ngơ ngác liếc về phía Jace, Clary giơ cánh tay trần của mình ra. Cô nhớ vào cái đêm trong hẻm ấy mình đã nhìn xuống tay, đầu nghĩ sao tay mình dường như lại mong manh đến thế. Giờ đây, ngay dưới lằn da cổ tay, cô có thể thấy ba vòng tròn mờ mờ chồng lên nhau, những đường nét đã mờ đi như ký ức về một vết sẹo đã phai đi theo năm tháng. “Đấy, gần như biến mất rồi,” Jace nói. “Không tổn hại gì tới cô ấy hết.”

“Đó không phải vấn đề,” Hodge gần như không kiểm soát được cơn giận. “Cháu đã có thể biến cô gái đây thành Kẻ Lầm Đường.”

Hai điểm màu hồng rực lên trên má Alec. “Không thể tin nổi cậu đấy, Jace. Chỉ Thợ Săn Bóng Tối mới có thể nhận được những Ấn Ký từ Sách Xám – chúng sẽ giết chết người thường...”

“Cô ấy không phải người thường. Nãy giờ cậu không nghe sao? Điều này giải thích vì sao cô ấy có thể thấy chúng ta. Hẳn trong người cô ấy phải có dòng máu Clave.”

Clary hạ tay xuống, đột nhiên thấy lạnh. “Nhưng tôi nào có. Không thể nào.”

“Em phải có,” Jace nói mà không nhìn tới cô. “Nếu không, Ấn Ký anh vẽ lên tay em...”

“Đủ rồi, Jace,” Hodge cắt ngang, sự khó chịu hiện rõ trong giọng nói. “Đừng dọa cô gái này thêm nữa.”

“Nhưng cháu đã đúng, phải không? Việc này cũng giải thích cho chuyện xảy ra với mẹ cô ấy. Nếu bà ấy là Thợ Săn Bóng Tối lưu vong, hẳn bà ta phải có vài kẻ thù từ Thế Giới Ngầm.”

“Mẹ tôi không phải là Thợ Săn Bóng Tối.”

“Vậy thì là bố em,” Jace nói. “Ông ấy thì sao?”

Clary trừng trừng nhìn lại Jace. “Bố tôi mất rồi. Trước khi tôi ra đời.”

Jace nao núng, nhưng chỉ thoáng qua. Alec mới là người lên tiếng. “Có thể đấy,” anh ta không được quả quyết lắm. “Nếu bố cô ta là Thợ Săn Bóng Tối, còn mẹ là người thường – à, chúng ta đều biết kết hôn với người thường là trái Luật. Có lẽ họ đang chạy trốn.”

“Nếu là vậy hẳn mẹ tôi đã nói cho tôi biết rồi,” Clary nói, dù cô lại nghĩ đến việc ít có hình của bố, về cách mẹ bảo cô chẳng bao giờ nhắc tới ông, và cô biết mình đang nói dối.

“Không nhất thiết đâu,” Jace nói. “Chúng ta ai cũng có bí mật.”

“Chú Luke,” Clary nói. “Bạn của mẹ tôi. Chú ấy phải biết.” Vừa nghĩ tới chú Luke thì cảm giác tội lỗi lẫn kinh hoàng ập đến. “Đã ba ngày rồi – hẳn chú lo lắm. Tôi gọi cho chú ấy được không? Ở đây có điện thoại không ạ?” Cô quay sang Jace. “Làm ơn đi mà.”

Jace hơi lưỡng lự, nhìn qua Hodge, ông gật đầu và dịch ra khỏi bàn. Sau lưng ông là một quả địa cầu, làm từ đồng tán, nhưng không giống bất cứ quả địa cầu nào cô từng thấy; hình dạng các quốc gia và châu lục có gì đó khang khác. Bên cạnh khối cầu là một chiếc điện thoại đen lỗi thời với bàn xoay số màu bạc. Clary đưa ống nghe lên tai, tiếng điện thoại đang kết nối quen thuộc tràn qua cô như một đợt sóng an ủi.

Luke nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ ba. “A lô?”

“Chú Luke!” Clary phủ phục xuống bàn. “Cháu đây. Clary đây.”

“Clary.” Cô nghe ra sự nhẹ nhõm trong giọng nói chú, cùng với vẻ gì đấy mà cô không thể nhận ra. “Cháu ổn không?”

“Cháu ổn,” cô nói. “Cháu xin lỗi đã không gọi cho chú từ trước. Chú Luke, mẹ cháu...”

“Chú biết. Cảnh sát đã tới đây.”

“Vậy là chú đã không nghe gì từ mẹ cháu rồi.” Chút hy vọng mong manh rằng mẹ mình đã thoát khỏi nhà và trốn ở đâu đó giờ đã bay biến. Không đời nào mà mẹ không liên lạc với chú Luke cả. “Cảnh sát nói gì ạ?”

“Chỉ nói rằng mẹ cháu mất tích thôi.” Clary nghĩ tới nữ cảnh sát với cánh tay toàn xương và rùng mình. “Cháu ở đâu?”

“Cháu ở trong thành phố,” Clary đáp. “Cháu không biết chính xác là đâu. Với vài người bạn. Nhưng cháu mất ví rồi. Nếu chú có tiền, cháu sẽ đi taxi tới chỗ chú...”

“Đừng,” Luke đáp cụt lủn.

Điện thoại trượt khỏi bàn tay ướt nhẹp mồ hôi của cô. Cô chụp lại. “Sao ạ?”

“Đừng. Nguy hiểm lắm. Cháu không thể tới đây.”

“Chúng ta có thể gọi...”

“Nghe này.” Chú hơi gắt lên. “Mẹ cháu có vướng vào chuyện gì đi nữa cũng chẳng liên quan tới chú. Tốt nhất cháu cứ ở nguyên đó đi.”

“Nhưng cháu không muốn ở đây.” Cô nghe thấy vẻ van nài trong giọng mình, hệt như giọng một đứa trẻ. “Cháu không biết những người này. Chú...”

“Chú không phải bố cháu, Clary. Chú đã nói với cháu rồi.”

Mắt cô cay cay. “Cháu xin lỗi. Chỉ là...”

“Đừng có gọi cho chú cầu xin gì nữa hết,” Luke nói. “Chú có vấn đề của riêng mình rồi và chú không muốn dính dáng thêm chuyện của cháu nữa,” Luke bảo rồi ngắt điện thoại.

Cô đứng đó, nhìn chằm chằm ống nghe, tiếng bíp bíp ong ong trong tai như tiếng đập cánh của con ong bắp cày to tướng xấu xí. Cô quay số của chú Luke thêm lần nữa và đợi. Lần này cuộc gọi được chuyểntới hộp thư thoại. Cô dập ống nghe xuống, hai tay run run.

Jace đang dựa người lên tay ghế Alec đang ngồi mà quan sát. “Anh đoán là ông ta không vui vẻ gì khi nghe tin em chứ gì?”

Clary có cảm giác trái tim mình đã teo lại bằng quả óc chó: một cái hột cứng ngắc, bé xíu trong lồng ngực. Mình sẽ không khóc, cô tự nhủ, Không phải trước mặt những người này.

“Ta nghĩ ta muốn nói chuyện với Clary,” bác Hodge bảo. “Một mình,” bác cương quyết thêm vào, khi nhìn thấy vẻ mặt Jace.

Alec đứng dậy. “Được thôi. Bọn cháu giao cho bác đấy.”

“Thế chẳng công bằng gì cả,” Jace phản đối. “Cháu là người đã tìm thấy cô ấy. Là người cứu mạng cô ấy. Em muốn anh ở lại, đúng không?” anh quay sang Clary khẩn khoản.

Clary quay đi, vì cô biết chỉ cần mở miệng là mình sẽ bật khóc. Cô nghe tiếng cười của Alec như từ xa vọng lại.

“Không phải lúc nào mọi người cũng muốn có cậu đâu, Jace,” anh ta nói.

“Đừng lố bịch chứ,” cô nghe thấy Jace đang nói, giọng lộ rõ thất vọng. “Được rồi. Chúng cháu sẽ ở trong kho vũ khí.”

Cánh cửa dứt khoác đóng cạch sau lưng họ. Mắt Clary cay xè vì kiềm nước mắt quá lâu. Bác Hodge đang đứng lừng lững trước mặt cô, một khói xám mờ mờ. “Ngồi xuống nào,” bác bảo. “Đây, trên ghế kia kìa.”

Cô mừng rỡ thả mình xuống những chiếc gối mềm mại. Hai má cô ươn ướt. Cô đưa tay lên lau nước mắt và chớp chớp. “Thường thì cháu không mấy khi khóc,” cô nghe mình đang nói. “Không sao đâu bác. Một phút nữa cháu sẽ ổn rồi.”

“Hầu hết mọi người không khóc khi buồn bực hay sợ hãi, họ chỉ khóc khi thất vọng. Sự thất vọng của cháu cũng chẳng có gì khó hiểu. Cháu vừa kinh qua quãng thời gian khó khăn nhấtrồi mà.”

“Khó khăn ạ?” Clary lấy ống tay áo Isabelle lau nước mắt. “Bác nói thế cũng đúng.”

Bác Hodge kéo ghế từ đằng sau bàn, lôi ra ngồi đối diện với cô. Clary thấy mắt ông màu xám, giống như màu tóc và màu áo vải tuýt, nhưng trong đó chứa chất ánh nhìn nhân hậu. “Bác mang cho cháu chút gì nhé?” ông hỏi. “Đồ uống được không? Trà vậy?”

“Cháu không muốn uống trà,” Clary cố gắng lắm mới nói lên lời. “Cháu muốn tìm mẹ cháu. Và sau đó cháu muốn tìm ra những kẻ đã bắt cóc mẹ cháu, và cháu muốn giết chết chúng.”

“Thật đáng tiếc là,” bác Hodge nói, “lúc này bọn ta đang hết sạch món báo thù đắng cay rồi, vậy nên cháu phải chọn trà hoặc không gì cả.”

Clary bỏ tay áo xuống – giờ loang lổ những vết nước ươn ướt – và nói, “Vậy cháu nên làm gì đây?”

“Cháu có thể bắt đầu bằng việc kể cho ta nghe chút đỉnh về chuyện đã xảy ra,” bác Hodge vừa bảo vừa lục lọi trong túi áo. Ông rút ra một chiếc khăn tay – được gấp vuông vắn – rồi đưa cho cô. Cô nhận lấy mà thầm kinh ngạc. Trước nay Clary chưa hề biết có ai lại mang theo khăn tay cả. “Con quỷ cháu thấy trong căn hộ nhà cháu – là thứ sinh vật đầu tiên như thế mà cháu từng thấy đấy à? Cháu không mảy may hay biết là những sinh vật như thế có tồn tại phải không?”

Clary lắc đầu, rồi ngừng lại. “Trước đó có một con, nhưng hồi đó cháu không nhận biết được nó là gì. Lần đầu tiên cháu trông thấy Jace...”

“À, đúng rồi, sao ta lẩn thẩn thế nhỉ.” Bác Hodge gật đầu. “Ở Xứ Quỷ. Đó là lần đầu tiên à?”

“Đúng ạ.”

“Và mẹ cháu chưa bao giờ nhắc tới chúng – hay có lẽ là không nhắc gì về một thế giới khác, cái thế giới mà hầu hết mọi người không nhìn thấy ấy? Mẹ cháu có đặc biệt hứng thú với truyện thần thoại, cổ tích, những truyền thuyết kỳ bí...”

“Không ạ. Mẹ cháu ghét những thứ đó. Bà thậm chí còn ghét cả phim Disney nữa. Mẹ không thích cháu đọc truyện manga. Bà bảo mấy thứ đó trẻ con quá.”

Bác Hodge gãi gãi đầu. Tóc ông không hề động đậy. “Kỳ lạ cực,” ông ta lầm bầm.

“Không hẳn ạ,” Clary nói. “Mẹ cháu không kỳ lạ. Mẹ cháu là người bình thường nhất trên thế giới này.”

“Những người bình thường nói chung sẽ không bị quỷ phá tan nhà,” bác Hodge nói, không phải với ác ý.

“Có thể có lầm lẫn gì không ạ?”

“Nếu mà là lầm,” bác Hodge đáp, “và nếu cháu là một cô gái bình thường, thì cháu đã không thể trông thấy con quỷ tấn công cháu – mà có nhìn thấy đi nữa, trí não cháu đã nhìn ra nó thành một thứ hoàn toàn khác: một con chó dữ, thậm chí là một người khác. Cái sự rằng cháu có thể nhìn thấy, rằng con quỷ đã với cháu...”

“Sao bác biết nó nói chuyện với cháu?”

“Jace báo cáo với bác là cháu có bảo ‘Nó nói.’”

“Nó rít.” Clary rùng mình khi nhớ lại. “Nó nói nó muốn ăn cháu, nhưng cháu nghĩ nó không được làm thế.”

“Quỷ Ravener thường chịu sự kiểm soát của con quỷ mạnh hơn. Tự thân thì bọn chúng không được thông minh hay có khả năng làm được gì,” bác Hodge giải thích. “Nó có nói chủ nhân của nó đang tìm cái gì không?”

Clary ngẫm nghĩ. “Nó nói gì đó về Valentine nào đấy, nhưng mà...”

Bác Hodge ngồi bật dậy, quá đột ngột đến nổi khiến cho con Hugo đang yên lành đậu trên vai ông ta phải phóng vụt lên trời mà kêu quang quác. “Valentine?”

“Vâng ạ,” Clary nói. “Cháu nghe thấy cũng cái tên đó từ cậu con trai trong quán Xứ Quỷ - à ý cháu là, từ con quỷ...”

“Đó là cái tên mà ai ai trong giới cũng đều biết,” bác Hodge nói ngắn gọn. Giọng ông thì bình tĩnh đấy, nhưng cô thấy tay ông ta hơi run. Hugo, đã xuống đậu lại trên vai ông, bồn chồn vỗ cánh.

“Một con quỷ ạ?”

“Không. Valentine là – từng là – Thợ Săn Bóng Tối.”

“Thợ Săn Bóng Tối? Sao lại nói từng là ạ?”

“Vì hắn ta đã chết,” bác Hodge nói mà giọng không biểu lộ cảm xúc. “Hắn đã chết mười lăm năm nay rồi.”

Clary ngồi xuống những tấm nệm ghế. Đầu cô giần giật. Có thể cô sẽ cần uống trà thật. “Có thể là người khác không ạ? Một người cùng tên ấy?”

Tràng cười của bác Hodge gằn lên không chút hài hước. “Không. Nhưng cũng có thể có người dùng tên hắn để gửi thông điệp.” Bác đứng dậy tới bên bàn, tay chắp sau lưng. “Và đây sẽlà lúc để làm thế.”

“Sao lại là lúc này?”

“Vì Hòa Ước.”

“Những đàm phán hòa bình phải không ạ? Jace đã nhắc tới chúng. Hòa bình với ai cơ?”

“Với Thế Giới Ngầm,” bác Hodge nói nhỏ. Ông nhìn xuống Clary. Miệng bác mím lại thành một đường chỉ. “Thứ lỗi cho ta,” ông nói. “Chuyện này có thể khiến cháu khó hiểu.”

“Vậy sao?”

Ông dựa người vào bàn, lơ đãng vuốt ve con Hugo. “Những giống nòi của Thế Giới Ngầm là những kẻ sống chung trong Thế giới Bóng Tối cùng chúng ta. Bọn ta lâu nay luôn phải sống trong mối hòa bình căng thẳng với chúng.”

“Giống như ma cà rồng, người sói, và...”

“Tiên Tộc,” bác Hodge nói. “Thần tiên. Còn những đứa con của Lilith, loài bán quỷ, là những pháp sư.”

“Thế còn Thợ Săn Bóng Tối bọn bác là gì?”

“Đôi lúc mọi người gọi chúng ta là Nephilim,” bác Hodge đáp. “Trong Kinh thánh, Nephilim là con của người và thiên thần. Truyền thuyết về nguồn gốc của Thợ Săn Bóng Tối kể rằng họ được sinh ra cách đây hơn một ngàn năm, khi con người bị lũ quỷ thuộc thế giới khác tàn sát. Thợ Săn Bóng Tối Jonathan, Nephilim đầu tiên, đã triệu gọi thiên thần Raziel, thiên thần đã hòa máu mình cùng máu một số người vào cốc, rồi cho những người đó uống. Những người uống máu Thiên Thần trở thành Thợ Săn Bóng Tối, cũng như con cháu của họ. Từ đó về sau chiếc cốc được biết đến như là Cốc Thánh. Mặc dầu truyền thuyết có thể không phải sự thực, giờ sự thật là bao năm qua, mỗi khi số lượng Thợ Săn Bóng Tối giảm sút, chúng ta từng luôn có thể sử dụng Cốc để tạo thêm nhiều Thợ Săn Bóng Tối hơn.”

“Từng là sao kia?”

“Cốc Thánh đã biến mất,” bác Hodge nói. “Bị Valentine tiêu hủy, ngay trước khi hắn chết. Hắn sử dụng lửa lớn để tự thiêu chết cùng gia đình, vợ và con. Vùng đất đó giờ đã trờ thành vùng đất chết. Tới giờ vẫn không ai dám xây nhà trên đó. Họ nói vùng đất đó bị nguyền rủa.”

“Thật không ạ?”

“Có thể. Hội đồng – là nhóm nòng cốt được dựng lên thông qua bầu cử của Clave, họ là những Thợ Săn Bóng Tối sẽ đưa ra những quyết định cuối cùng về vấn đề luật pháp và chính trị - đôi lúc sẽ ếm những lời nguyền như hình phạt cho những kẻ phạm luật. Valentine đã vi phạm điều Luật lớn nhất – hắn đã xây dựng đội quân chống lại những người anh em Thợ Săn Bóng Tối của hắn và giết hại họ. Hắn cùng bè lũ của hắn, hội Circle, đã giết chết hàng tá huynh đệ, cùng với hàng trăm người thuộc Thế Giới Ngầm trong Hòa Ước trước. Khó khăn lắm chúng ta mới đánh bại được họ.”

“Vì sao hắn ta lại phản bội những Thợ Săn Bóng Tối khác?”

“Hắn không đồng ý với Hiệp Định. Hắn thù ghét những giống nòi thuộc về Thế Giới Ngầm và cho rằng chúng phải bị tàn sát, tận diệt, để thế giới này được tinh khôi chỉ cho riêng con người. Dù những người thuộc Thế Giới Ngầm không phải quỷ dữ, không phải quân xâm lăng, nhưng hắn nghĩ về bản chất chúng là quỷ dữ và thế là đủ. Clave không đồng ý – họ cảm thấy sự trợ giúp từ Thế Giới Ngầm là cần thiết nếu chúng ta có khi nào phải đánh đuổi quỷ dữ cút khỏi thế giới này mãi mãi. Và thật tình thì, ai có thể tranh luận được rằng Tiên Tộc không thuộc về thế giới này, khi họ đã có mặt tại đây lâu hơn chúng ta?”

“Thế Hiệp Định có được ký kết không ạ?”

“Được chứ, đã ký rồi. Khi Thế Giới Ngầm nhận thấy hội đồng Clave quay lưng lại với Valentine và hội Circle, họ nhận ra rằng Thợ Săn Bóng Tối không phải kẻ thù của họ. Mỉa mai thay, chính sự nổi dậy của Valentine lại giúp Hiệp Định tiếp tục có hiệu lực.” Bác Hodge lại ngồi xuống ghế. “Ta xin lỗi, hẳn đây là một tiết học lịch sử nhàm chán với cháu. Valentine là vậy đấy. Một kẻ xách động, một tay mơ mộng hão huyền, một người có sức quyến rũ và khả năng thuyết phục đáng sợ. Và là một tên sát nhân. Và giờ ai đó đang viện đến tên hắn...”

“Nhưng là ai?” Clary hỏi. “Và mẹ cháu có liên quan gì chứ?”

Bác Hodge lại đứng dậy. “Ta không biết. Nhưng ta sẽ làm mọi điều để tìm hiểu cho rõ. Ta sẽ gửi thư cho hội đồng Clave và các Tu Huynh Câm. Có thể họ sẽ muốn nói chuyện với cháu.”

Clary không buồn hỏi các Tu Huynh Câm là ai. Cô đã quá mệt khi phải hỏi những câu hỏi mà câu trả lời còn làm cô rối trí hơn. Cô đứng dậy, “Cháu có thể về nhà được không ạ?”

Bác Hodge có vẻ lo lắng. “Không, ta... ta không cho đó là quyết định khôn ngoan đâu.”

“Ở đó có những thứ cháu cần, kể cả nếu cháu sống ở đây. Quần áo...”

“Chúng ta có thể đưa tiền cho cháu đi mua quần áo mới.”

“Làm ơn đi ạ,” Clary nói. “Cháu cần xem xem liệu... cháu phải biết ở đó còn lại gì.”

Bác Hodge lưỡng lự, rồi nhanh gọn hất đầu. “Nếu Jace đồng ý, cả hai cháu có thể đi.” Ông quay lại bàn, lục lọi đống giấy tờ. Ông liếc ra sau như thể nhận ra cô còn đứng đó. “Jace ở trong kho vũ khí ấy.”

“Cháu không biết chỗ đó là chỗ nào.”

Bác Hodge cười ranh mãnh. “Church sẽ đưa cháu đi.”

Clary liếc ra cửa, nơi con mèo Ba Tư xanh xám béo tròn đang nằm cuộn tròn như một chiếc ghế đệm nhỏ. Cu cậu đứng dậy khi cô tiến tới, lông bóng mượt dập dờn như nước. Với một tiếng meo hống hách, con mèo dẫn cô đi vào hành lang. Khi cô ngoái đầu, cô thấy bác Hodge đang hí hoáy gì đó lên một mảnh giấy. Chắc là thư gửi hội đồng Clave thần bí. Nghe có vẻ họ không phải những con người dễ mến gì cho cam. Cô tự hỏi không biết họ sẽ trả lời ra sau đây.

Mực đỏ trông như máu trên nền giấy trắng. Vừa nhíu mày, Hodge Starkweather vừa cuộn tờ giấy lại, một cách cẩn trọng và kỹ càng, thành cuộn hình ống và huýt sáo gọi Hugo. Con chim, kêu lên khe khẽ, đậu xuống cổ tay ông. Hodge nhăn mặt. Nhiều năm trước, trong cuộc Nổi Loạn, ông đã lãnh một vết thương trênvai, và thậm chí khi chịu một trọng lượng nhẹ như Hugo – hay khi chuyển mùa, thay đổi nhiệt độ hay độ ẩm, hoặc cánh tay đột ngột cử động – cũng làm sống dậy những cơn nhức nhối và những ký ức về nỗi đau đáng lẽ nên quên.

Thế nhưng, có những ký ức không bao giờ phai nhạt. Những hình ảnh chớp nhóa như ánh đèn nháy mỗi khi ông nhắm mắt. Máu me và xác chết, đất đai bị dày xéo, cái bục trắng vấy máu đỏ. Tiếng khóc la của người trong cơn hấp hối. Những cánh đồng xanh dập dờn trong gió và bầu trời xanh trải dài bất tận của Idris, bị những ngọn tháp của Thành Phố Pha Lê chọc thủng vươn thẳng lên trời. Nỗi đau về sự mất mát trào dâng trong lòng ông như đợt sóng; ông siết chặt nắm tay, và Hugo, cánh vẫy đập, giận dữ mổ những ngón tay ông, tóe máu. Hodge xòe tay ra, thả con chim, để nó xoay xoay đầu, bay thẳng lên giếng trời, rồi mất hút.

Lắc đầu xua đi dự cảm chẳng lành, Hodge lấy một tờ giấy khác, không để ý tới một giọt máu đỏ sẫm dây trên giấy khi ông khua bút.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Clary quay phắt lại mà lườm.

“Sao ông biết?” cô hỏi người đàn ông ngồi sau bàn. “Cháu đang nói tới chuyện cháu thích sách ấy.”

“Thì dựa vào gương mặt cháu khi cháu bước vào,” ông ta nói, đứng dậy bước vòng qua bàn. “Chẳng biết vì sao nhưng ta không cho là cháu bị ta làm cho ấn tượng đến như thế.”

Clary cố nén thở khi ông ta đứng dậy. Cô tự nhiên có cảm giác ông ta bị dị tật sao sao đấy, vai trái gồ lên cao hơn vai phải. Khi ông ta tới gần, cô thấy cái cục gồ lên đó hóa ra là một chú chim đang đậu chắc trên vai – một sinh vật mang bộ lông vũ mượt mà và cặp mắt đen sáng.

“Đây là Hugo,” người đàn ông nói và chạm vào con chim đậu trên vai. “Hugo là một con quạ, và vì vậy, nó biết nhiều thứ. Còn ta, Hodge Starkweather, một giáo sư lịch sử, và vì thế, ta không biết nhiều lắm.”

Clary khẽ bật cười, dù lòng không muốn, rồi nắm bắt bàn tay ông đang chìa ra. “Clary Fray.”

“Rất vinh hạnh được biết cháu,” ông Hodge bảo. “Ta rất vinh hạnh được quen biết bất cứ ai tay không giết được một con quỷ Ravener.”

“Chẳng phải bằng tay không đâu ạ,” Vẫn thật quái quái làm sao khi mà được khen ngợi vì đã giết thứ gì đó. “Đó là đồ của Jace... ừm, cháu không nhớ đồ đó gọi là gì nữa, nhưng mà...”

“Cô ấy đang nói tới cái máy Cảm Ứng của cháu đấy,” Jace nói. “Cô ấy đã tộng nó thẳng vào họng con quỷ. Chắc những chữ rune trên đó đã làm nó chết nghẹn. Cháu nghĩ cháu cần cái khác rồi,” anh nói thêm, như chỉ là bâng quơ. “Đáng ra cháu phải nói rồi chứ nhỉ.”

“Trong phòng vũ khí còn có cả mớ thừa ra đấy,” Hodge nói. Khi ông cười với Clary, hàng ngàn nếp nhăn be bé tỏa ra quanh mắt ông, giống như những vết rạn trên những bức tranh cũ. “Hành động nhanh trí đấy. Điều gì khiến cháu nảy ra ý tưởng dùng máy Cảm Ứng làm vũ khí vậy?”

Trước khi cô kịp trả lời, một tiếng cười sắc lạnh đã vang khắp phòng. Clary nãy giờ mê mẩn đống sách vở rồi thêm bị Hodge làm cho xao lãng nên không nhận ra Alec đang nằm ườn trên chiếc ghế tựa nhồi quá tay cạnh lò sưởi nguội lạnh. “Cháu không tin nổi là bác lại tin câu chuyện ấy đấy bác Hodge,” anh ta nói.

Lúc đầu Clary thậm chí còn chẳng biết anh ta nói gì. Cô đang mải nhìn. Giống như rất nhiều những đứa con một khác, cô rất hứng thú với sự giống nhau giữa các anh chị em ruột, và giờ, dưới ánh sáng ban ngày lồ lộ, cô có thể thấy Alec giống hệt cô em gái đến mức nào. Họ cùng có mái tóc đen tuyền, cũng đường chân mày mảnh hơi vểnh ở đuôi, cùng nước datrắng sáng như nhau. Nhưng nếu Isabelle cực kỳ kiêu ngạo, Alec lại ngồi chìm lỉm xuống ghế như thể hy vọng là không ai để ý tới mình. Lông mi anh ta dài và đen như của Isabelle, nhưng nếu màu mắt của Isabelle là màu đen, thì mắt anh ta lại mang màu xanh sậm của chai thủy tinh. Đôi mắt ấy đang chiếu vào cô với sự thù địch nguyên chất và đậm đặc như acid.

“Takhông rõ cậu muốn nói gì đấy Alec.” Hodge nhướn mày. Clary tự hỏi ông này bao nhiêu tuổi rồi; có một vẻ không tuổi gì đấy ở ông ta, dù mái tóc đã ngả muối tiêu. Ông mặc một bộ com lê gọn gàng bằng vải tuýt màu xám, là phẳng phiu. Hẳn ông ta sẽ trông giống một giáo sư đại học hiền hậu nếu không có vết sẹo dày cui dọc bên má phải. Cô tự hỏisao ông ta lại có vết sẹo đó. “Vậy cậu đang nói rằng cô gái đây không hề giết chết con quỷ à?”

“Tất nhiên là không rồi. Nhìn cô ta mà xem – là người thường đấy Hodge ạ, mà là một cô nhóc nữa chứ. Không đời nào cô này hạ gục một con quỷ Ravener được.”

“Tôii không phải cô nhóc,” Clary xen vào. “Tôi mười sáu rồi... à, tròn mười sáu vào Chủ Nhật này.”

“Bằng tuổi Isabelle,” Hodge nói. “Thế cậu có gọi em cậu là một đứa nhóc không?”

“Isabelle tới từ một trong những đế chế Thợ Săn Bóng Tối hùng mạnh nhất trong lịch sử,” Alec cộc cằn. “Ngược lại, con nhỏ này, tới từ New Jersey đấy.”

“Tôi là dân Brooklyn!” Clary giận dữ. “Và thế thì sao nào? Tôi vừa giết một con quỷ ngay tại nhà mình, còn anh cay cú về chuyện này vì tôi không phải là thứ cậu ấm cô chiêu nhà giàu được nuông chiều quá đỗi như anh với em gái anh à?”

Alec trông thất kinh. “Cô gọi tôi là gì?”

Jace cười lớn. “Cô ấy nói đúng đấy, Alec,” Jace bảo. “Cậu thực sự phải coi chừng mấy con quỷ nhà quê tỉnh lẻ...”

“Không buồn cười đâu nhé, Jace,” Alec ngắt lời và bắt đầu đứng dậy. “Cậu định cứ mặc cho con nhỏ kia đứng đấy sỉ nhục tớ hả?”

“Đúng,” Jace nhẹ nhàng nói. “Như thế sẽ giúp cậu nhiều đấy – cứ coi như đây là một kiểu huấn luyện khả năng chịu đựng đi.”

“Có thể chúng ta là cặp parabatai,” Alec nói qua kẽ răng. “Nhưng cái kiểu xấc láo của cậu đang làm tớ hết kiên nhẫn rồi đấy.”

“Và tính ngoan cố của cậu cũng đang làm tớ hết kiên nhẫn. Khi tớ tìm thấy cô gái này, cô ta đang nằm trên sàn, giữa vũng máu cùng một con quỷ đang hấp hối đè lên trên. Tớ nhìn theo nó biến mất. Nếu không phải cô ta đã giết nó, thì ai làm đây?”

“Bọn quỷ Ravener ngu lắm. Có thể tự nó đốt vào cổ nó. Chuyện đó từng xảy ra rồi...”

“Giờ cậu đang ý nói là con quỷ đó tự sát à?”

Miệng Alec mím lại. “Cô gái này ở lại đây là không ổn. Người thường không được phép vào Học Viện, và có nhiều lý do chính đáng cho chuyện đó. Nếu bất cứ ai biết chuyện này, họ có thể báo cáo lên Clave.”

“Không hoàn toàn đúng,” Hodge nói. “Luật có cho phép chúng ta cung cấp nơi trú náu cho người thường trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó. Một con quỷ Ravener đã tấn công mẹ Clary – Clary đã rất có thể là mục tiêu kế tiếp.”

Tấn công. Clary không biết đó có phải là cách nói giảm nói tránh cho từ “giết hại” không hay không. Con quạ trên vai bác Hodge rúc lên khe khẽ.

“Quỷ Ravener là những cổ máy tìm-và-diệt,” Alec nói. “Chúng hành động theo lệnh của pháp sư hay một chúa quỷ quyền năng nào đó. Thế thì, một pháp sư hay chúa quỷ có hứng thú gì với một hộ gia đình người thường cơ chứ?” Mắt anh ta khi nhìn Clary sáng lên vẻ căm ghét. “Có nghĩ ra gì không?”

Clary đáp, “Chắc nhầm lẫn gì thôi.”

“Bọn quỷ không nhầm lẫn kiểu đó. Nếu chúng tấn công mẹ cô, chắc hẳn phải có lý do. Nếu mẹ cô vô tội...”

“‘Vô tội’ là sao?” giọng Clary rất bình tĩnh.

Alec có vẻ giật mình. “Tôi...”

“Ý cậu ấy,” Hodge nói, “là cực kỳ không bình thường khi một con quỷ hùng mạnh, loại quỷ có thể điều khiển một đạo quân quỷ yếu kém hơn, lại để mắt tới chuyện của một con người bình thường. Không một người thường nào có thể an toàn triệu hồi được quỷ - họ thiếu quyền uy đó – nhưng đã từng có vài kẻ, tuyệt vọng và điên rồ, nhờ pháp sư làm hộ chúng chuyện này.”

“Mẹ cháu không quen bất kỳ một pháp sư nào. Bà không tin vào phép thuật.” Clary chợt nảy ra một ý. “Quý Bà Dorothea – bà ấy sống ở tầng dưới – là phù thủy. Có thể lũ quỷ định tấn công bà ấy nhưng nhầm sang mẹ cháu chăng?”

Hàng lông mày của bác Hodge nhướn tít lên gần chân tóc. “Một phù thủy sống ở dưới nhà cháu?”

“Bà ấy là giống như đa số phù thủy – hàng rởm thôi,” Jace nói. “Cháu đã kiểm tra rồi. Không có lý do gì mà bất cứ pháp sư nào lại để mắt tới bà ta trừ khi hắn ta đang cần mấy quả cầu pha lê vô dụng.” Anh quay sang Clary. “Pháp sư là những kẻ sinh ra đã có khả năng sử dụng phép thuật. Còn phù thủy là con người đã tự học mót đâu đó một chút phép thuật. Nhưng rất ít kẻ xưng danh phù thủy thực sự là phù thủy.”

“Và chúng ta quay lại điểm xuất phát.” Hodge với tay lên gãi gãi con chim đậu trên vai. “Có vẻ đã đến lúc chúng ta nên thông báo cho Clave.”

“Không!” Jace thốt lên. “Chúng ta không thể...”

“Khi chúng ta còn chưa rõ Clary có thể phục hồi được hay không thì việc giữ bí mật cho sự hiện diện của cô ấy tại đây còn có lý,” Hodge nói. “Nhưng giờ cô gái đây đã khỏe, và lại là người thường đầu tiên bước vào cánh cửa Học Viện trong hơn một trăm năm nay. Cháu hiểu những luật lệ về việc người thường biết đến sự tồn tại của Thợ Săn Bóng Tối mà Jace. Hội Clave phải được thông báo.”

“Chắc chắn rồi,” Alec đồng tình. “Cháu có thể gửi thư cho bố...”

“Cô ấy không phải người thường,” Jace bình tĩnh nói.

Lông mày Hodge lại nảy dựng lên chân tóc rồi ở nguyên tại chỗ. Alec, bị ngắt giữa câu, nghẹn lại vì ngạc nhiên. Trong sự im lặng đột ngột Clary có thể nghe thấy tiếng đôi cánh con quạ Hugo sột soạt. “Nhưng tôi là người thường mà,” cô nói.

“Không,” Jace bảo. “Không phải.” Anh quay sang bác Hodge, và Clary thấy yết hầu anh khẽ nhúc nhích khi anh nuốt xuống. Cô thoáng thấy căng thẳng này của anh lại có sức trấn an đến kỳ lạ. “Đêm đó – có những con quỷ Du’sien, trong trang phục cảnh sát. Chúng cháu phải vượt qua chúng. Clary quá yếu không thể chạy nổi, và không còn thời gian để trốn nữa – cô ấy sẽ chết mất. Vì thế cháu đã dùng thanh stele – vẽ chứ medelin lên bên trong cánh tay cô ấy. Cháu nghĩ...”

“Cháu điên sao?” Hodge đập mạnh tay xuống bàn khiến Clary tưởng tấm gỗ sẽ nứt mất. “Cháu biết Luật nói gì về việc vẽ Ấn Ký lên người thường cơ mà! Cháu... cháu phải biết rõ hơn ai chứ!”

“Nhưng nó có tác dụng,” Jace nói. “Clary, cho họ nhìn tay em đi.”

Ngơ ngác liếc về phía Jace, Clary giơ cánh tay trần của mình ra. Cô nhớ vào cái đêm trong hẻm ấy mình đã nhìn xuống tay, đầu nghĩ sao tay mình dường như lại mong manh đến thế. Giờ đây, ngay dưới lằn da cổ tay, cô có thể thấy ba vòng tròn mờ mờ chồng lên nhau, những đường nét đã mờ đi như ký ức về một vết sẹo đã phai đi theo năm tháng. “Đấy, gần như biến mất rồi,” Jace nói. “Không tổn hại gì tới cô ấy hết.”

“Đó không phải vấn đề,” Hodge gần như không kiểm soát được cơn giận. “Cháu đã có thể biến cô gái đây thành Kẻ Lầm Đường.”

Hai điểm màu hồng rực lên trên má Alec. “Không thể tin nổi cậu đấy, Jace. Chỉ Thợ Săn Bóng Tối mới có thể nhận được những Ấn Ký từ Sách Xám – chúng sẽ giết chết người thường...”

“Cô ấy không phải người thường. Nãy giờ cậu không nghe sao? Điều này giải thích vì sao cô ấy có thể thấy chúng ta. Hẳn trong người cô ấy phải có dòng máu Clave.”

Clary hạ tay xuống, đột nhiên thấy lạnh. “Nhưng tôi nào có. Không thể nào.”

“Em phải có,” Jace nói mà không nhìn tới cô. “Nếu không, Ấn Ký anh vẽ lên tay em...”

“Đủ rồi, Jace,” Hodge cắt ngang, sự khó chịu hiện rõ trong giọng nói. “Đừng dọa cô gái này thêm nữa.”

“Nhưng cháu đã đúng, phải không? Việc này cũng giải thích cho chuyện xảy ra với mẹ cô ấy. Nếu bà ấy là Thợ Săn Bóng Tối lưu vong, hẳn bà ta phải có vài kẻ thù từ Thế Giới Ngầm.”

“Mẹ tôi không phải là Thợ Săn Bóng Tối.”

“Vậy thì là bố em,” Jace nói. “Ông ấy thì sao?”

Clary trừng trừng nhìn lại Jace. “Bố tôi mất rồi. Trước khi tôi ra đời.”

Jace nao núng, nhưng chỉ thoáng qua. Alec mới là người lên tiếng. “Có thể đấy,” anh ta không được quả quyết lắm. “Nếu bố cô ta là Thợ Săn Bóng Tối, còn mẹ là người thường – à, chúng ta đều biết kết hôn với người thường là trái Luật. Có lẽ họ đang chạy trốn.”

“Nếu là vậy hẳn mẹ tôi đã nói cho tôi biết rồi,” Clary nói, dù cô lại nghĩ đến việc ít có hình của bố, về cách mẹ bảo cô chẳng bao giờ nhắc tới ông, và cô biết mình đang nói dối.

“Không nhất thiết đâu,” Jace nói. “Chúng ta ai cũng có bí mật.”

“Chú Luke,” Clary nói. “Bạn của mẹ tôi. Chú ấy phải biết.” Vừa nghĩ tới chú Luke thì cảm giác tội lỗi lẫn kinh hoàng ập đến. “Đã ba ngày rồi – hẳn chú lo lắm. Tôi gọi cho chú ấy được không? Ở đây có điện thoại không ạ?” Cô quay sang Jace. “Làm ơn đi mà.”

Jace hơi lưỡng lự, nhìn qua Hodge, ông gật đầu và dịch ra khỏi bàn. Sau lưng ông là một quả địa cầu, làm từ đồng tán, nhưng không giống bất cứ quả địa cầu nào cô từng thấy; hình dạng các quốc gia và châu lục có gì đó khang khác. Bên cạnh khối cầu là một chiếc điện thoại đen lỗi thời với bàn xoay số màu bạc. Clary đưa ống nghe lên tai, tiếng điện thoại đang kết nối quen thuộc tràn qua cô như một đợt sóng an ủi.

Luke nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ ba. “A lô?”

“Chú Luke!” Clary phủ phục xuống bàn. “Cháu đây. Clary đây.”

“Clary.” Cô nghe ra sự nhẹ nhõm trong giọng nói chú, cùng với vẻ gì đấy mà cô không thể nhận ra. “Cháu ổn không?”

“Cháu ổn,” cô nói. “Cháu xin lỗi đã không gọi cho chú từ trước. Chú Luke, mẹ cháu...”

“Chú biết. Cảnh sát đã tới đây.”

“Vậy là chú đã không nghe gì từ mẹ cháu rồi.” Chút hy vọng mong manh rằng mẹ mình đã thoát khỏi nhà và trốn ở đâu đó giờ đã bay biến. Không đời nào mà mẹ không liên lạc với chú Luke cả. “Cảnh sát nói gì ạ?”

“Chỉ nói rằng mẹ cháu mất tích thôi.” Clary nghĩ tới nữ cảnh sát với cánh tay toàn xương và rùng mình. “Cháu ở đâu?”

“Cháu ở trong thành phố,” Clary đáp. “Cháu không biết chính xác là đâu. Với vài người bạn. Nhưng cháu mất ví rồi. Nếu chú có tiền, cháu sẽ đi taxi tới chỗ chú...”

“Đừng,” Luke đáp cụt lủn.

Điện thoại trượt khỏi bàn tay ướt nhẹp mồ hôi của cô. Cô chụp lại. “Sao ạ?”

“Đừng. Nguy hiểm lắm. Cháu không thể tới đây.”

“Chúng ta có thể gọi...”

“Nghe này.” Chú hơi gắt lên. “Mẹ cháu có vướng vào chuyện gì đi nữa cũng chẳng liên quan tới chú. Tốt nhất cháu cứ ở nguyên đó đi.”

“Nhưng cháu không muốn ở đây.” Cô nghe thấy vẻ van nài trong giọng mình, hệt như giọng một đứa trẻ. “Cháu không biết những người này. Chú...”

“Chú không phải bố cháu, Clary. Chú đã nói với cháu rồi.”

Mắt cô cay cay. “Cháu xin lỗi. Chỉ là...”

“Đừng có gọi cho chú cầu xin gì nữa hết,” Luke nói. “Chú có vấn đề của riêng mình rồi và chú không muốn dính dáng thêm chuyện của cháu nữa,” Luke bảo rồi ngắt điện thoại.

Cô đứng đó, nhìn chằm chằm ống nghe, tiếng bíp bíp ong ong trong tai như tiếng đập cánh của con ong bắp cày to tướng xấu xí. Cô quay số của chú Luke thêm lần nữa và đợi. Lần này cuộc gọi được chuyểntới hộp thư thoại. Cô dập ống nghe xuống, hai tay run run.

Jace đang dựa người lên tay ghế Alec đang ngồi mà quan sát. “Anh đoán là ông ta không vui vẻ gì khi nghe tin em chứ gì?”

Clary có cảm giác trái tim mình đã teo lại bằng quả óc chó: một cái hột cứng ngắc, bé xíu trong lồng ngực. Mình sẽ không khóc, cô tự nhủ, Không phải trước mặt những người này.

“Ta nghĩ ta muốn nói chuyện với Clary,” bác Hodge bảo. “Một mình,” bác cương quyết thêm vào, khi nhìn thấy vẻ mặt Jace.

Alec đứng dậy. “Được thôi. Bọn cháu giao cho bác đấy.”

“Thế chẳng công bằng gì cả,” Jace phản đối. “Cháu là người đã tìm thấy cô ấy. Là người cứu mạng cô ấy. Em muốn anh ở lại, đúng không?” anh quay sang Clary khẩn khoản.

Clary quay đi, vì cô biết chỉ cần mở miệng là mình sẽ bật khóc. Cô nghe tiếng cười của Alec như từ xa vọng lại.

“Không phải lúc nào mọi người cũng muốn có cậu đâu, Jace,” anh ta nói.

“Đừng lố bịch chứ,” cô nghe thấy Jace đang nói, giọng lộ rõ thất vọng. “Được rồi. Chúng cháu sẽ ở trong kho vũ khí.”

Cánh cửa dứt khoác đóng cạch sau lưng họ. Mắt Clary cay xè vì kiềm nước mắt quá lâu. Bác Hodge đang đứng lừng lững trước mặt cô, một khói xám mờ mờ. “Ngồi xuống nào,” bác bảo. “Đây, trên ghế kia kìa.”

Cô mừng rỡ thả mình xuống những chiếc gối mềm mại. Hai má cô ươn ướt. Cô đưa tay lên lau nước mắt và chớp chớp. “Thường thì cháu không mấy khi khóc,” cô nghe mình đang nói. “Không sao đâu bác. Một phút nữa cháu sẽ ổn rồi.”

“Hầu hết mọi người không khóc khi buồn bực hay sợ hãi, họ chỉ khóc khi thất vọng. Sự thất vọng của cháu cũng chẳng có gì khó hiểu. Cháu vừa kinh qua quãng thời gian khó khăn nhấtrồi mà.”

“Khó khăn ạ?” Clary lấy ống tay áo Isabelle lau nước mắt. “Bác nói thế cũng đúng.”

Bác Hodge kéo ghế từ đằng sau bàn, lôi ra ngồi đối diện với cô. Clary thấy mắt ông màu xám, giống như màu tóc và màu áo vải tuýt, nhưng trong đó chứa chất ánh nhìn nhân hậu. “Bác mang cho cháu chút gì nhé?” ông hỏi. “Đồ uống được không? Trà vậy?”

“Cháu không muốn uống trà,” Clary cố gắng lắm mới nói lên lời. “Cháu muốn tìm mẹ cháu. Và sau đó cháu muốn tìm ra những kẻ đã bắt cóc mẹ cháu, và cháu muốn giết chết chúng.”

“Thật đáng tiếc là,” bác Hodge nói, “lúc này bọn ta đang hết sạch món báo thù đắng cay rồi, vậy nên cháu phải chọn trà hoặc không gì cả.”

Clary bỏ tay áo xuống – giờ loang lổ những vết nước ươn ướt – và nói, “Vậy cháu nên làm gì đây?”

“Cháu có thể bắt đầu bằng việc kể cho ta nghe chút đỉnh về chuyện đã xảy ra,” bác Hodge vừa bảo vừa lục lọi trong túi áo. Ông rút ra một chiếc khăn tay – được gấp vuông vắn – rồi đưa cho cô. Cô nhận lấy mà thầm kinh ngạc. Trước nay Clary chưa hề biết có ai lại mang theo khăn tay cả. “Con quỷ cháu thấy trong căn hộ nhà cháu – là thứ sinh vật đầu tiên như thế mà cháu từng thấy đấy à? Cháu không mảy may hay biết là những sinh vật như thế có tồn tại phải không?”

Clary lắc đầu, rồi ngừng lại. “Trước đó có một con, nhưng hồi đó cháu không nhận biết được nó là gì. Lần đầu tiên cháu trông thấy Jace...”

“À, đúng rồi, sao ta lẩn thẩn thế nhỉ.” Bác Hodge gật đầu. “Ở Xứ Quỷ. Đó là lần đầu tiên à?”

“Đúng ạ.”

“Và mẹ cháu chưa bao giờ nhắc tới chúng – hay có lẽ là không nhắc gì về một thế giới khác, cái thế giới mà hầu hết mọi người không nhìn thấy ấy? Mẹ cháu có đặc biệt hứng thú với truyện thần thoại, cổ tích, những truyền thuyết kỳ bí...”

“Không ạ. Mẹ cháu ghét những thứ đó. Bà thậm chí còn ghét cả phim Disney nữa. Mẹ không thích cháu đọc truyện manga. Bà bảo mấy thứ đó trẻ con quá.”

Bác Hodge gãi gãi đầu. Tóc ông không hề động đậy. “Kỳ lạ cực,” ông ta lầm bầm.

“Không hẳn ạ,” Clary nói. “Mẹ cháu không kỳ lạ. Mẹ cháu là người bình thường nhất trên thế giới này.”

“Những người bình thường nói chung sẽ không bị quỷ phá tan nhà,” bác Hodge nói, không phải với ác ý.

“Có thể có lầm lẫn gì không ạ?”

“Nếu mà là lầm,” bác Hodge đáp, “và nếu cháu là một cô gái bình thường, thì cháu đã không thể trông thấy con quỷ tấn công cháu – mà có nhìn thấy đi nữa, trí não cháu đã nhìn ra nó thành một thứ hoàn toàn khác: một con chó dữ, thậm chí là một người khác. Cái sự rằng cháu có thể nhìn thấy, rằng con quỷ đã với cháu...”

“Sao bác biết nó nói chuyện với cháu?”

“Jace báo cáo với bác là cháu có bảo ‘Nó nói.’”

“Nó rít.” Clary rùng mình khi nhớ lại. “Nó nói nó muốn ăn cháu, nhưng cháu nghĩ nó không được làm thế.”

“Quỷ Ravener thường chịu sự kiểm soát của con quỷ mạnh hơn. Tự thân thì bọn chúng không được thông minh hay có khả năng làm được gì,” bác Hodge giải thích. “Nó có nói chủ nhân của nó đang tìm cái gì không?”

Clary ngẫm nghĩ. “Nó nói gì đó về Valentine nào đấy, nhưng mà...”

Bác Hodge ngồi bật dậy, quá đột ngột đến nổi khiến cho con Hugo đang yên lành đậu trên vai ông ta phải phóng vụt lên trời mà kêu quang quác. “Valentine?”

“Vâng ạ,” Clary nói. “Cháu nghe thấy cũng cái tên đó từ cậu con trai trong quán Xứ Quỷ - à ý cháu là, từ con quỷ...”

“Đó là cái tên mà ai ai trong giới cũng đều biết,” bác Hodge nói ngắn gọn. Giọng ông thì bình tĩnh đấy, nhưng cô thấy tay ông ta hơi run. Hugo, đã xuống đậu lại trên vai ông, bồn chồn vỗ cánh.

“Một con quỷ ạ?”

“Không. Valentine là – từng là – Thợ Săn Bóng Tối.”

“Thợ Săn Bóng Tối? Sao lại nói từng là ạ?”

“Vì hắn ta đã chết,” bác Hodge nói mà giọng không biểu lộ cảm xúc. “Hắn đã chết mười lăm năm nay rồi.”

Clary ngồi xuống những tấm nệm ghế. Đầu cô giần giật. Có thể cô sẽ cần uống trà thật. “Có thể là người khác không ạ? Một người cùng tên ấy?”

Tràng cười của bác Hodge gằn lên không chút hài hước. “Không. Nhưng cũng có thể có người dùng tên hắn để gửi thông điệp.” Bác đứng dậy tới bên bàn, tay chắp sau lưng. “Và đây sẽlà lúc để làm thế.”

“Sao lại là lúc này?”

“Vì Hòa Ước.”

“Những đàm phán hòa bình phải không ạ? Jace đã nhắc tới chúng. Hòa bình với ai cơ?”

“Với Thế Giới Ngầm,” bác Hodge nói nhỏ. Ông nhìn xuống Clary. Miệng bác mím lại thành một đường chỉ. “Thứ lỗi cho ta,” ông nói. “Chuyện này có thể khiến cháu khó hiểu.”

“Vậy sao?”

Ông dựa người vào bàn, lơ đãng vuốt ve con Hugo. “Những giống nòi của Thế Giới Ngầm là những kẻ sống chung trong Thế giới Bóng Tối cùng chúng ta. Bọn ta lâu nay luôn phải sống trong mối hòa bình căng thẳng với chúng.”

“Giống như ma cà rồng, người sói, và...”

“Tiên Tộc,” bác Hodge nói. “Thần tiên. Còn những đứa con của Lilith, loài bán quỷ, là những pháp sư.”

“Thế còn Thợ Săn Bóng Tối bọn bác là gì?”

“Đôi lúc mọi người gọi chúng ta là Nephilim,” bác Hodge đáp. “Trong Kinh thánh, Nephilim là con của người và thiên thần. Truyền thuyết về nguồn gốc của Thợ Săn Bóng Tối kể rằng họ được sinh ra cách đây hơn một ngàn năm, khi con người bị lũ quỷ thuộc thế giới khác tàn sát. Thợ Săn Bóng Tối Jonathan, Nephilim đầu tiên, đã triệu gọi thiên thần Raziel, thiên thần đã hòa máu mình cùng máu một số người vào cốc, rồi cho những người đó uống. Những người uống máu Thiên Thần trở thành Thợ Săn Bóng Tối, cũng như con cháu của họ. Từ đó về sau chiếc cốc được biết đến như là Cốc Thánh. Mặc dầu truyền thuyết có thể không phải sự thực, giờ sự thật là bao năm qua, mỗi khi số lượng Thợ Săn Bóng Tối giảm sút, chúng ta từng luôn có thể sử dụng Cốc để tạo thêm nhiều Thợ Săn Bóng Tối hơn.”

“Từng là sao kia?”

“Cốc Thánh đã biến mất,” bác Hodge nói. “Bị Valentine tiêu hủy, ngay trước khi hắn chết. Hắn sử dụng lửa lớn để tự thiêu chết cùng gia đình, vợ và con. Vùng đất đó giờ đã trờ thành vùng đất chết. Tới giờ vẫn không ai dám xây nhà trên đó. Họ nói vùng đất đó bị nguyền rủa.”

“Thật không ạ?”

“Có thể. Hội đồng – là nhóm nòng cốt được dựng lên thông qua bầu cử của Clave, họ là những Thợ Săn Bóng Tối sẽ đưa ra những quyết định cuối cùng về vấn đề luật pháp và chính trị - đôi lúc sẽ ếm những lời nguyền như hình phạt cho những kẻ phạm luật. Valentine đã vi phạm điều Luật lớn nhất – hắn đã xây dựng đội quân chống lại những người anh em Thợ Săn Bóng Tối của hắn và giết hại họ. Hắn cùng bè lũ của hắn, hội Circle, đã giết chết hàng tá huynh đệ, cùng với hàng trăm người thuộc Thế Giới Ngầm trong Hòa Ước trước. Khó khăn lắm chúng ta mới đánh bại được họ.”

“Vì sao hắn ta lại phản bội những Thợ Săn Bóng Tối khác?”

“Hắn không đồng ý với Hiệp Định. Hắn thù ghét những giống nòi thuộc về Thế Giới Ngầm và cho rằng chúng phải bị tàn sát, tận diệt, để thế giới này được tinh khôi chỉ cho riêng con người. Dù những người thuộc Thế Giới Ngầm không phải quỷ dữ, không phải quân xâm lăng, nhưng hắn nghĩ về bản chất chúng là quỷ dữ và thế là đủ. Clave không đồng ý – họ cảm thấy sự trợ giúp từ Thế Giới Ngầm là cần thiết nếu chúng ta có khi nào phải đánh đuổi quỷ dữ cút khỏi thế giới này mãi mãi. Và thật tình thì, ai có thể tranh luận được rằng Tiên Tộc không thuộc về thế giới này, khi họ đã có mặt tại đây lâu hơn chúng ta?”

“Thế Hiệp Định có được ký kết không ạ?”

“Được chứ, đã ký rồi. Khi Thế Giới Ngầm nhận thấy hội đồng Clave quay lưng lại với Valentine và hội Circle, họ nhận ra rằng Thợ Săn Bóng Tối không phải kẻ thù của họ. Mỉa mai thay, chính sự nổi dậy của Valentine lại giúp Hiệp Định tiếp tục có hiệu lực.” Bác Hodge lại ngồi xuống ghế. “Ta xin lỗi, hẳn đây là một tiết học lịch sử nhàm chán với cháu. Valentine là vậy đấy. Một kẻ xách động, một tay mơ mộng hão huyền, một người có sức quyến rũ và khả năng thuyết phục đáng sợ. Và là một tên sát nhân. Và giờ ai đó đang viện đến tên hắn...”

“Nhưng là ai?” Clary hỏi. “Và mẹ cháu có liên quan gì chứ?”

Bác Hodge lại đứng dậy. “Ta không biết. Nhưng ta sẽ làm mọi điều để tìm hiểu cho rõ. Ta sẽ gửi thư cho hội đồng Clave và các Tu Huynh Câm. Có thể họ sẽ muốn nói chuyện với cháu.”

Clary không buồn hỏi các Tu Huynh Câm là ai. Cô đã quá mệt khi phải hỏi những câu hỏi mà câu trả lời còn làm cô rối trí hơn. Cô đứng dậy, “Cháu có thể về nhà được không ạ?”

Bác Hodge có vẻ lo lắng. “Không, ta... ta không cho đó là quyết định khôn ngoan đâu.”

“Ở đó có những thứ cháu cần, kể cả nếu cháu sống ở đây. Quần áo...”

“Chúng ta có thể đưa tiền cho cháu đi mua quần áo mới.”

“Làm ơn đi ạ,” Clary nói. “Cháu cần xem xem liệu... cháu phải biết ở đó còn lại gì.”

Bác Hodge lưỡng lự, rồi nhanh gọn hất đầu. “Nếu Jace đồng ý, cả hai cháu có thể đi.” Ông quay lại bàn, lục lọi đống giấy tờ. Ông liếc ra sau như thể nhận ra cô còn đứng đó. “Jace ở trong kho vũ khí ấy.”

“Cháu không biết chỗ đó là chỗ nào.”

Bác Hodge cười ranh mãnh. “Church sẽ đưa cháu đi.”

Clary liếc ra cửa, nơi con mèo Ba Tư xanh xám béo tròn đang nằm cuộn tròn như một chiếc ghế đệm nhỏ. Cu cậu đứng dậy khi cô tiến tới, lông bóng mượt dập dờn như nước. Với một tiếng meo hống hách, con mèo dẫn cô đi vào hành lang. Khi cô ngoái đầu, cô thấy bác Hodge đang hí hoáy gì đó lên một mảnh giấy. Chắc là thư gửi hội đồng Clave thần bí. Nghe có vẻ họ không phải những con người dễ mến gì cho cam. Cô tự hỏi không biết họ sẽ trả lời ra sau đây.

Mực đỏ trông như máu trên nền giấy trắng. Vừa nhíu mày, Hodge Starkweather vừa cuộn tờ giấy lại, một cách cẩn trọng và kỹ càng, thành cuộn hình ống và huýt sáo gọi Hugo. Con chim, kêu lên khe khẽ, đậu xuống cổ tay ông. Hodge nhăn mặt. Nhiều năm trước, trong cuộc Nổi Loạn, ông đã lãnh một vết thương trênvai, và thậm chí khi chịu một trọng lượng nhẹ như Hugo – hay khi chuyển mùa, thay đổi nhiệt độ hay độ ẩm, hoặc cánh tay đột ngột cử động – cũng làm sống dậy những cơn nhức nhối và những ký ức về nỗi đau đáng lẽ nên quên.

Thế nhưng, có những ký ức không bao giờ phai nhạt. Những hình ảnh chớp nhóa như ánh đèn nháy mỗi khi ông nhắm mắt. Máu me và xác chết, đất đai bị dày xéo, cái bục trắng vấy máu đỏ. Tiếng khóc la của người trong cơn hấp hối. Những cánh đồng xanh dập dờn trong gió và bầu trời xanh trải dài bất tận của Idris, bị những ngọn tháp của Thành Phố Pha Lê chọc thủng vươn thẳng lên trời. Nỗi đau về sự mất mát trào dâng trong lòng ông như đợt sóng; ông siết chặt nắm tay, và Hugo, cánh vẫy đập, giận dữ mổ những ngón tay ông, tóe máu. Hodge xòe tay ra, thả con chim, để nó xoay xoay đầu, bay thẳng lên giếng trời, rồi mất hút.

Lắc đầu xua đi dự cảm chẳng lành, Hodge lấy một tờ giấy khác, không để ý tới một giọt máu đỏ sẫm dây trên giấy khi ông khua bút.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


6

KẺ LẦM ĐƯỜNG

Kho vũ khí trông quả đúng là “kho vũ khí.” Những bức tường kim loại bóng mờ treo đủ loại kiếm, dao găm, giáo, móc, gậy lông vũ, lưỡi lê, roi, chùy, móc câu và cung. Những bao da mềm mại đựng đầy mũi tên treo lủng lẳng trên móc, rồi còn cả chồng những ủng, xà cạp, và ống bao tay. Không khí ngập mùi kim loại, mùi da thuộc dầu đánh bóng thép. Alec và Jace, không còn để chân trần nữa, đang ngồi bên chiếc bàn dài giữa phòng, cúi đầu chăm chú nhìn vật gì đó ở giữa. Jace ngước lên khi cửa đóng lại sau Clary. “Bác Hodge đâu rồi?” anh hỏi.

“Đang viết thư cho các Tu Huynh Câm.”

Alec kiểm lại cái rùng mình. “Ừ hử.”

Clary chậm rãi bước tới bàn, thừa biết được Alec đang quan sát mình. “Các anh đang làm gì đấy?”

“Đang làm cho xong mấy thứ này.” Jade dịch sang bên để cô có thể thấy những thứ trên bàn ba thanh gậy dài mảnh tỏa ánh sáng bạc nhàn nhạt. Chúng chẳng có vẻ sắc hay nguy hiểm gì hết. “Sanvi, Sansavi và Semangelaf. Chúng là những thiên đao.”

“Trông chúng không giống dao cho lắm. Sao các anh tạo ra nó được? Phép thuật à?”

Alec có vẻ kinh hoảng, như thể cô vừa bắt anh ta mặc váy xòe và biểu diễn một động tác xoay vòng hoàn hảo trong múa ba lê vậy. “Điều buồn cười về người thường là,” Jace nói, chẳng rõ với ai, “họ quá bị ám ảnh bởi phép thuật trong khi họ còn chẳng biết từ đó có nghĩa gì.”

“Tôi biết nó có nghĩa gì chứ,” Clary quạt lại.

“Không, em không biết đâu, em chỉ nghĩ mình biết thôi. Phép thuật là thứ sức mạnh hắc ám và mãnh liệt, chứ không phải chỉ là mấy cây gậy phép lấp la lấp lánh, quả cầu pha lê hay những con cá vàng biết nói đâu.”

“Tôi chưa bao giờ nói nó có liên quan tới cá vàng biết nói, anh...”

Jace phẩy tay, ngắt lời cô. “Chỉ vì em gọi lươn điện là vịt cao su thì lươn điện cũng không thể biến thành vịt cao su được, đúng không? Chúa quả đã cứu mạng mấy tên thần kinh khốn khổ thích tắm cùng vịt.”

“Anh chỉ nói vớ nói vẩn,” Clary nhận xét.

“Không có,” Jace nói, rất kiêu hãnh.

“Có đó,” Alec lên tiếng, khá đột ngột. “Nghe này, bọn này không sử dụng phép thuật, được chưa?” cậu ta nói chêm vào mà không nhìn Clary. “Cô chỉ cần biết có thế thôi.”

Clary những muốn quát lại anh ta, nhưng cố ghìm lại. Alec vốn có vẻ đã không thích cô; chẳng việc gì phải gia tăng thêm lòng thù địch của cậu ấy. Cô quay sang Jace. “Bác Hodge nói em có thể về nhà.”

Jace suýt làm rơi lưỡi thiên đao đang cầm. “Bác ấy nói gì?”

“Để xem qua đồ đạc của mẹ tôi,” cô chữa lại. “Nếu có anh đi cùng.”

“Jace,” Alec thốt lên, nhưng Jace phớt lờ.

“Nếu anh thực sự muốn chứng minh bố hoặc mẹ tôi là Thợ Săn Bóng Tối, chúng ta phải xem qua đồ đạc của mẹ tôi. Những gì còn sót lại của họ.”

“Đi thám hiểm thôi.” Jace cười toe ma mãnh. “Ý hay. Nếu chúng ta đi ngay bây giờ, chúng ta sẽ còn được ba bốn tiếng ban ngày đấy.”

“Cậu có muốn tớ đi cùng không?” Alec hỏi, trong khi Clary và Jace tiến tới cửa. Clary liếc nhìn lại. Anh ta hơi đứng dậy, ánh mắt chờ đợi.

“Không.” Jace không buồn quay lại. “Thế này là được rồi. Clary và tớ có thể tự lo được.”

Cái nhìn Alec ném cho Clary chua như giấm. Cô mừng vì cánh cửa đã đóng lại.

Jace đi trước dẫn đường qua sảnh, Clary phải rảo bước mới theo kịp những sải chân dài của anh. “Em có cầm chìa khóa nhà không?”

Clary liếc nhìn đôi giày. “Có.”

“Tốt. Không phải chúng ta không thể đột nhập vào, nhưng nếu làm vậy thì rủi ro mình quấy rầy bất cứ lực lượng canh phòng nào có mặt tại đấy sẽ cao hơn.”

“Nếu anh đã nói vậy.” Hành lang mở rộng thành một sảnh lớn lát đá hoa cương, cổng kim loại đen trên một trong những bức vách. Chỉ khi Jace ấn nút cạnh cửa làm nó sáng lên thì Clary mới nhận ra đó là thang máy. Thang máy cót két cọt kẹt khi đi lên. “Jace này?”

“Ừ?”

“Sao anh biết tôi mang dòng máu Thợ Săn Bóng Tối? Có cách nào để phân biệt à?”

Thang máy lên tới nơi với tiếng cọt kẹt lần cuối. Jace mở chốt và kéo cửa mở. Nội thất thang máy làm Clary nghĩ tới một cái lồng chim, bốn vách kim loại màu đen và đôi ba chỗ trang trí mạ vàng. “Anh đoán thôi,” anh nói sau khi chốt cửa. “Đấy dường như là lời giải thích hợp lý nhất.”

“Anh đoán à? Hẳn anh phải chắc chắn lắm, vì anh đã có thể giết chết tôi cơ mà.”

Jace nhấn một nút trên tường, thang máy lồng lên di chuyển với tiếng ầm ầm bần bật tới mức cô cảm nhận được âm thanh đó qua từng mảnh xương trên bàn chân mình. “Anh chắc chắn chín mươi phần trăm.”

“Hiểu rồi,” Clary nói.

Hẳn trong giọng nói cô phải thế nào đó, vì anh quay sang nhìn cô.Bàn tay Clary táng thẳng mặt Jace, một cái tát mạnh đến mức làm anh loạng choạng lùi lại. Anh đặt tay lên má, vì ngạc nhiên nhiều hơn là vì đau. “Là vì cái quái gì đây?”

“Vì mười phần trăm kia,” cô đáp, rồi họ đi hết chặng thang máy ra đến ngoài phố trong câm lặng.

Suốt chuyến tàu tới Brooklyn, Jace đắm chìm trong im lặng giận dữ. Dù vậy Clary vẫn đi sát theo anh, cảm thấy có chút tội lỗi, đặc biệt khi cô nhìn theo vết hằn đỏ do cái tát của mình để lại trên má Jace.

Cô chẳng màng đến sự im lặng ấy là mấy; như thể còn cho cô thêm cơ hội suy nghĩ. Cô cứ mãi tái hiện cuộc nói chuyện với chú Luke, nghĩ tới nghĩ lui. Nghĩ đến thì đau đớn lắm, giống như bập mãi chiếc răng gãy xuống môi, nhưng cô không thể ngừng lại được.

Ở xa đầu kia toa tàu, hai thiếu nữ đang ngồi trên băng ghế màu cam mà cười khúc khích với nhau. Kiểu con gái mà Clary không bao giờ ưa được ở trường St.Savier, luôn chưng diện loại giày bít bằng nhựa hồng cùng nước da nâu giả tạo. Trong thoáng chốc Clary tự hỏi có phải họ đang cười mình không, trước khi ngạc nhiên nhận ra họ đang nhìn Jace.

Cô nhớ tới cách cô gái ở quán cà phê nhìn chằm chằm vào Simon. Bọn con gái luôn có vẻ mặt đó khi họ nghĩ ai đó đáng yêu mà. Cô gần quên mất là Jace cũng đáng yêu, sau những gì đã xảy ra ấy. Anh không mang vẻ đẹp mong manh dễ vỡ như Alec, nhưng khuôn mặt Jace thú vị hơn nhiều. Trong ánh sáng ban ngày đôi mắt anh mang màu vàng nâu lóng lánh... và đang nhìn thẳng vào cô. Anh nhướn một bên mày. “Anh giúp gì được em chăng?”

Clary quay ngoắt lại thành kẻ phản bội phe ta ngay. “Những cô gái đằng kia đang nhìn anh kìa.”

Jace khoác ngay vào cái vẻ hài lòng tự mãn. “Tất nhiên rồi,” anh nói. “Anh hấp dẫn chết đi được mà.”

“Anh chưa bao giờ nghe nói khiêm tốn cũng là một nét cuốn hút sao?”

“Chỉ từ những người xấu xí thôi,” Jace tự tin nói. “Có thể là những kẻ ngoan hiền tiếm cứ lấy quả đất này, nhưng trong giờ phút này, thế gian đang thuộc về những kẻ tự cao tự đại. Như anh đây.” Anh nháy mắt với hai cô gái, hai cô nàng cười khúc khích giấu mặt vào tóc.

Clary thở dài. “Sao họ có thể thấy anh vậy?”

“Dùng bùa phép cũng mệt mỏi lắm. Thi thoảng bọn anh chẳng buồn vận dụng đến làm gì.”

Sự cố với mấy cô gái trên tàu hình như khiến tâm tính anh ta khá lên đôi chút. Khi họ rời nhà ga và lên đồi tới nhà Clary, anh rút một trong mấy lưỡi thiên đao ra khỏi túi và bắt đầu xoay qua xoay lại giữa các đầu và trên đốt ngón tay, ngâm nga ư ử.

“Anh có cần thiết phải làm vậy không?” Clary hỏi. “Khó chịu lắm đấy.”

Jace càng ư ử tợn. Là làn điệu ngâm nga lớn tiếng, lai lai giữa bài “Happy Birthday” và “Battle Hymn of the Republic.”

“Xin lỗi đã tát anh,” cô nói.

Jace thôi ư ử. “Cứ mừng là em đã đánh anh chứ không phải Alec đi. Phải cậu ta thì cậu ta sẽ tát lại em ngay.”

“Có vẻ anh ấy chỉ đợi có cơ hội thôi, “Clary vừa nói vừa tiện chân đá lon sô đa rỗng ra khỏi lối đi. “Alec gọi anh là gì đấy nhỉ? Para... gì đó?”

”Parabatai,” Jace đáp. “Nó có nghĩa là một cặp chiến binh chiến đấu cùng nhau – những người gần gũi hơn cả anh em ruột thịt. Alec còn hơn là bạn thân của anh. Bố anh và bố Alec cũng từng là parabatai khi họ còn trẻ. Bố cậu ấy là cha đỡ đầu của anh – vì thế mà anh sống cùng họ. Anh là con nuôi nhà đó.”

“Nhưng họ của anh đâu phải là Lightwood.”

“Không,” Jace nói, và đáng lẽ cô đã hỏi ra họ anh là gì, nhưng họ đã tới nhà cô, và trái tim cô bắt đầu đập mạnh tới nỗi tưởng như những người cách đó hàng dặm còn nghe rõ. Tai cô vang lên tiếng ù ù, và lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi. Cô dừng lại trước dãy rào vuông vắn trước nhà, chầm chậm ngước mắt nhìn lên, tưởng là nhìn thấy những vòng dây màu vàng của cảnh sát niêm phong cửa trước, những mảnh kính vỡ vương vất khắp trảng cỏ, toàn bộ ngôi nhà biến thành đốngđổ nát.

Nhưng chẳng có chút dấu hiệu đổ nát nào cả. Tắm mình trong ráng chiều dịu nhẹ, căn nhà đá nâu dường như đang tỏa sáng. Những chú ong lười nhác bay vo ve quanh những khóm hồng trồng dưới ô cửa sổ phòng Quý Bà Dorothea.

“Căn nhà vẫn như cũ,” Clary nói.

“Bên ngoài thôi.” Jace cho tay vào túi quần jean và rút ra lại một cỗ máy kỳ cục bằng nhựa và kim loại khác mà cô từng nhầm là điện thoại.

“Vậy đây là máy Cảm Ứng? Nó có chức năng gì?”

“Rà bắt tần sóng, giống như radio ấy, nhưng những tần sóng này là sóng quỷ.”

“Bước sóng ngắn do quỷ phát ra?”

“Đại loại thế.” Jace giơ máy cảm ứng ra trước mặt khi tiến dần tới căn nhà. Máy tí tách khe khẽ khi họ bước lên bậc tam cấp, rồi dừng hẳn. Jace cau mày. “Nó bắt được dấu vết các hoạt động, nhưng cũng có thể là do còn vương lại từ đêm đó. Anh không bắt được bất cứ bước sóng mạnh nào cho thấy có quỷ hiện diện ở đây.”

Clary thở hắt ra dù không nhận thức được mình nín thở nãy giờ. “Tốt.” Cô cúi xuống lấy chìa khóa. Khi đứng thẳng dậy, cô thấy những vết cào xước trên cửa trước. Hẳn lần trước trời tối quá nên cô không nhìn thấy chúng. Chúng giống những vết vuốt cào, dài và song song, khắc sâu trên thớ gỗ.

Jace chạm vào tay cổ. “Anh vào trước cho,” anh bảo. Clary muốn nói rằng cô không cần trốn sau lưng anh, nhưng cô không thể nói thành lời. Cô có thể nếm được hương vị của nỗi sợ hãi mình đã cảm nhận khi lần đầu trông thấy quỷ Ravener. Cái vị sắc ngọt và tanh tanh trên đầu lưỡi, giống vị những đồng xu cũ.

Anh dùng một tay đẩy cửa, tay đang cầm máy Cảm Ứng vẫy ra hiệu cho cô theo sau. Vừa vào trong sảnh, Clary liền chớp mắt, cho mắt thích ứng với không gian tranh tối tranh sáng. Bóng đèn trên đầu vẫn hỏng, giếng trời quá bẩn không cho chút ánh sáng nào lọt vào, và bóng tối phủ dày đặc lên sàn nhà đá sứt sẹo. Cánh cửa phòng Quý Bà Dorothea đang đóng kín. Không có lấy một chút ánh sáng nào lọt qua khe hổng dưới cửa. Clary bỗng lo lắng nghĩ liệu có chuyện gì xảy ra với bà lão không.

Jace giơ tay và vuốt dọc thành cầu thang. Khi lấy tay ra thì tay đã âm ẩm, lốm đốm những vệt mang màu đỏ sậm dưới ánh sáng mờ mịt. “Máu.”

“Có thể là máu tôi.” Giọng cô nghe nhỏ xíu. “Từ mấy đêm trước.”

“Nếu vậy thì giờ nó phải khô rồi,” Jace nói. “Đi nào.”

Anh bước lên cầu thang, Clary đi sát theo sau. Đầu cầu thang tối đen, cô phải lần sờ chìa khóa những ba lần trước khitra được đúng chìa vào ổ khóa. Jace nhoài người lên trước, nóng nảy quan sát. “Đừng thở vào cổ tôi,” cô rít lên; hai tay cô lẩy bẩy. Cuối cùng thì lẫy khóa cũng bập vào, ổ khóa lách cách mở ra.

Jace kéo cô ra sau. “Anh vào trước.”

Cô lưỡng lự nhưng rồi cũng bước sang nhường đường cho anh qua. Hai bàn tay cô nhớp nháp, và không phải vì cái nóng. Thật ra bên trong căn hộ khá mát, gần như là lạnh – không khí lạnh buốt từ ngoài sảnh chính lọt vào, khiến cô nổi da gà. Cô cảm thấy gai ốc nổi đầy người khi cô bước theo Jace vào hành lang ngắn dẫn tới phòng khách.

Phòng khách trống không. Trống vốc đến lạnh người, hệt như ngày đầu tiên mẹ con cô chuyển tới đây – những bức tường và sàn nhà trần trụi, mọi đồ nội thất đều biến mất, thậm chí những tấm rèm cũng bị tháo khỏi cửa sổ. Chỉ có những ô nước sơn hơi nhạt hơn trên tường cho thấy nơi những bức tranh của mẹ từng ngự trị. Clary đi như trong mơ, quay người bước vào bếp, Jace theo sau, đôi mắt vàng đang nheo lại.

Bếp cũng trống trải, thậm chí tủ lạnh cũng biến mất, cả ghế, cả bàn – những tủ chạn mở toang, những cái giá rỗng không làm cô nhớ tới một bài hát ru. Cô húng hắng giọng. “Thế lũ quỷ,” cô nói, “muốn gì với cái lò vi sóng của nhà tôi vậy nhỉ?”

Jace lắc đầu, khóe môi trên hơn trễ xuống. “Anh không biết, nhưng giờ anh không cảm nhận được bất cứ sự hiện diện nào của quỷ ở nơi đây. Hẳn chúng phải biến đi lâu rồi.”

Cô liếc nhìn quanh thêm lần nữa. Cô lờ mờ nhận ra, đã có người dọn sạch vũng nước sốt Tabasco bị đổ rồi.

“Em hài lòng chưa?” Jace hỏi. “Ở đây chẳng có gì cả.”

Cô lắc đầu. “Tôi muốn xem phòng mình.”

Có vẻ Jace định nói gì đó nhưng lại thôi. “Nếu em cần,” anh nói và nhét lưỡi thiên đao vào túi áo.

Đèn ngoài hành lang bị hỏng, nhưng Clary không cần lắm ánh sáng để xác định vị trí trong nhà chính mình. Với Jace đi sát sau, cô tìm ra cánh cửa phòng ngủ và chạm tay vào nắm đấm. Nắmcửa lạnh lẽo trong tay cô – quá lạnh tới rát tay, giống như chạm vào tảng băng bằng tay trần. Cô thấy Jace liếc nhìn cô, nhưng cô đã vặn nắm đấm, hoặc đúng ra là đang cố. Nắm cửa chầm chậm chuyển động, gần như là dinh dính, như thể bên kia cửa bị dán với thứ gì đó dính như keo và sền sệt như siro...

Cánh cửa bật tung vào trong, khiến cô ngã bệt xuống. Cô trượt văng đi qua sảnh hành lang đến đập người vào tường, lăn sấp bụng. Trong tai cô vang lên tiếng gầm nho nhỏ khi cô lê mình quỳ dậy.

Jace, lưng áp sát vào tường, đang luống cuống mò trong túi áo, mặt hoàn toàn bất ngờ. Sừng sững trước mặt anh như một người khổng lồ từ trong truyện cổ là một người đàn ông bồ tượng, từ đầu đến chân to lừng lững như cây sồi, một lưỡi rìu to bản được nắm chặt trong bàn tay to tướng trắng ỏn nom giống tay người chết. Những mảnh vải rách rưới bám hờ trên làn da cáu bẩn, còn mái tóc bết lại thành tảng, đầy những đất. Hắn bốc mùi mồ hôi độc và da thịt thối rữa. Clary mừng vì không thể nhìn được mặt hắn – nhìn đằng sau đã quá đủ rồi.

Jace đang cầm thanh thiên đao trong tay. Anh giơ nó lên và hét lớn: “Sansavi!”

Một lưỡi dao từ trong ốngvút ra. Clary nghĩ tới những bộ phim thời xa xưa khi mà những lưỡi lê được giấu trong cây gậy ba toong, chỉ cần gạt nút một cái là lưỡi lê liền bắn ra. Nhưng cô chưa bao giờ thấy một con dao nào thế này: trong như kính, chuôi dao tỏa sáng, sắc ghê người và gần dài bằng cẳng tay Jace. Anh đánh tới, chém thẳng vào gã khổng lồ, giờ đang loạng choạng rống lên lùi lại.

Jace quay phắt lại, chạy về phía cô. Anh tóm lấy tay cô, kéo cô đứng dậy, đẩy cô chạy trước qua hành lang. Cô có thể nghe thấy cái thứ kia đang đuổi theo, ngay sát nút; tiếng bước chân của nó nghe như những quả tạ chì rớt xuống sàn nhà, nhưng lại đang đuổi theo rất nhanh.

Họ phóng ra ngoài lối vào rồi ra đến đầu cầu thang, Jace quay lại đóng sầm cửa. Cô nghe tiếng cách của ổ khóa tự động và hít thở lấy sức. Cánh cửa rung bần bật trên bản lề khi một cú đâm sầm cực mạnh từ bên trong căn hộ tông vào cửa. Clary lùi xuống cầu thang, Jace liếc nhìn cô. Mắt anh long lên nổi hứng khởi thất thường. “Đi xuống! Thoát khỏi...”

Một tiếng rầm nữa vang lên, lần này bản lề phải đầu hàng và cánh cửa bay vèo ra ngoài. Lẽ ra cánh cửa hất Jace bay tưng nếu như anh không di chuyển cực nhanh đến nỗi mắt Clary gần như không theo kịp; đột nhiên anh đã đứng trên bậc thang trên cùng, lưỡi dao sáng loáng trên tay anh tựa sao băng. Cô thấy Jace nhìn cô và hét gì đó, nhưng cô không thể nghe nổi vì tiếng gầm của sinh vật khổng lồ đang lao ra khỏi cánh cửa vỡ tung kia, nhắm thẳng tới anh. Cô dán sát người vào tường khi sinh vật đó phóng qua cô kèm một đợt sóng nóng ran hôi hám – và rồi lưỡi rìu của nó vung lên, xé toạc không trung, chẻ thẳng vào đầu Jace. Anh thụp xuống tránh, lưỡi rìu cắm vào thành cầu thang, bập thật sâu.

Jace phá lên cười. Tiếng cười dường như đã chọc giận sinh vận nọ; chẳng thèm lấy lại rìu, gã lao về phía Jace với nắm tay giương cao. Jace khua thanh thiên đao theo hình vòng cung đẹp mắt, đâm lút cán vào vai gã khổng lồ. Trong khoảnh khắc gã đứng lảo đảo tại chỗ. Rồi gã lao tới, hai tay rướn ra cố tóm lấy. Jace vội bước sang bên, nhưng không đủ nhanh: hai nắm tay to tướng đã kịp tóm được anh khi gã khổng lồ loạng choạng rồi đổ kềnh, kéo theo Jace. Anh hét lên một tiếng; tiếp theo đó là hàng loạt những tiếng động đánh đấm thình thịch rầm rập, và rồi im lặng.

Clary lồm cồm đứng dậy và chạy bổ xuống cầu thang. Jace đang nằm ở chân cầu thang, cánh tay gập lại bên dưới thân mình theo một góc không bình thường. Nằm vắt ngang chân anh là gã khổng lồ, chuôi thanh thiên đao vẫn còn lòi ra khỏi vai hắn. Gã chưa chết hẳn, nhưng hơi thở yếu ớt, máu sủi bọt rỉ ra khỏi miệng. Giờ Clary có thể nhìn thấy mặt gã – trẳng ỏn và mỏng như giấy, chi chít những vết sẹo đen sì kinh dị, gần như che hết ngũ quan trên khuôn mặt. Hai hốc mắt nó là hai cái lỗ sâu hoắm hốc đỏ mưng mủ. Cố không nôn, Clary lóc cóc chạy xuống nốt mấy bậc thang cuối, bước qua gã khổng lồ đang co giật trên mặt đất, đến quỳ xuống cạnh Jace.

Anh vẫn nằm im. Cô đặt một tay lên vai anh, cảm nhận chiếc áo anh ươn ướt máu – máu anh hay máy gã khổng lồ, cô không biết nữa. “Jace ơi?”

Mắt anh mở ra. “Hắn chết chưa?”

“Gần chết,” Clary trả lời ngắn gọn.

“Chết tiệt.” Anh nhăn mặt. “Chân anh...”

“Nằm im.” Cô bò sang bên kia đầu Jace, cho tay dưới tay anh mà kéo. Anh rên rỉ đau đớn khi chân anh thoát ra khỏi cái xác đang co giật của sinh vật kia. Clary thả ra, Jace chật vật đứng dậy, tay trái đặt ngang ngực. Cô đứng dậy. “Tay anh vẫn bình thường chứ?”

“Không. Gẫy rồi,” anh nói. Em cho tay vào trong túi anh nhé?”

Cô lưỡng lự, rồi gật đầu. “Túi nào?”

“Bên trong áo khoác, túi bên phải. Lấy một thanh thiên đao ra đưa cho anh.” Anh đứng im trong khi cô căng thẳng cho tay vào túi áo anh. Cô đang đứng rất gần và có thể ngửi thấy mùi cơ thể anh, mùi mồ hôi và xà bông lẫn với mùi máu. Hơi thở anh phả xuống và cổ cô nhồn nhột. Những ngón tay cô nắm chặt lấy một cái ống và cô rút ra, không dám nhìn anh.

“Cám ơn,” anh nói. Những ngón tay anh nhanh gọn lần trên ống trước khi anh gọi lên: “Sanvi.” Giống như con dao trước đó, cái ống biến thành một con dao ác nghiệt, vầng hào quang từ nó soi sáng gương mặt anh. “Đừng nhìn,” anh vừa nói vừa đi đến đứng trước cái xác của sinh vật mặt sẹo kia. Anh giơ lưỡi dao lên trên đầu hắn rồi cắm xuống. Máu phun như suối từ cổ gã khổng lồ, bắn lên đôi giày của Jace.

Cô cứ nghĩ sinh vật đó sẽ biến mất, co rút lại như cậu thiếu niên cô thấy ở Xứ Quỷ. Nhưng không. Không khí sặc sụa mùi máu: đặc sệt và ngai ngái. Jace khụt khịt lầm bầm gì đó. Mặt anh trắng bệch, dù vì đau hay vì kinh tởm thì cô không rõ. “Anh đã bảo em đừng có nhìn mà.”

“Em nghĩ nó sẽ biến mất chứ,” cô nói. “Trở về không gian của nó – như anh từng bảo.”

“Anh nói đó là điều xảy ra với quỷ khi chúng chết.” Nói rồi anh nhăn mặt, kéo áo khoác ra khỏi vai, để lộ phần trên cánh tay trái. “Đây không phải quỷ.” Anh dùng tay phải rút gì đó ra khỏi thắt lưng. Đó là vật trơn láng có hình dáng gậy phép anh đã dùng để vẽ những vòng tròn chồng lên nhau vào da Clary. Nhìn xuống nó, cô có cảm giác cẳng tay mình sắp bừng cháy.

Jace thấy cô nhìn trừng trừng thì mở mồm cười yếu ớt. “Cái này,” anh nói, “là thanh stele.” Anh chạm thanh stele vào một ấn ký được xăm ngay bên dưới vai, một hình dáng lạ mắt trông gần giống hình ngôi sao. Hai cánh sao nhú ra khỏi phần sao còn lại, rời rạc ra. “Và đây,” anh nói, “là chuyện xảy ra khi Thợ Săn Bóng Tối bị thương.”

Dùng đầu thanh stele, Jace vẽ một đường nối hai cánh sao lại. Khi anh hạ tay, Ấn Ký bắt đầu sáng lên như thể được khắc bằng mực lân tinh. Trong khi Clary quan sát, ấn ký lặn vào da anh, giống như một vật nặng chìm vào trong nước. Nó chỉ để lại một vết tích gợi nhớ mờ nhạt: vết sẹo mờ mờ, trắng trắng, gần như không thể thấy được.

Một hình ảnh xuất hiện lên trong trí Clary. Lưng mẹ cô, phơi ra trong bộ đồ bơi, xương bả vai và đường cong xương sống đầy những vết trắng nho nhỏ. Giống như điều gì đấy cô từng thấy trong mơ – lưng mẹ cô không thực sự trông như vậy, cô biết chứ. Nhưng hình ảnh đó làm cô khó chịu.

Jace thở dài, vẻ mặt căng cứng lại vì đau giờ biến mất. Anh động đậy tay, lúc đầu chậm rãi, sau đó thoải mái hơn, nhấc tay lên hạ tay xuống, nắm mở bàn tay. Rõ ràng tay anh đã không còn gãy nữa.

“Kỳ diệu quá,” Clary thốt lên. “Làm sao anh...”

“Đó là chữ iratze – chữ rune trị thương.” Jace đáp. “Vết chữ rune bằng thanh stele sẽ làm nó được kích hoạt.” Anh nhét thanh đũa phép nhỏ vào thắt lưng và kéo áo khoác lên. Anh dùng mũi giày thúc vào cái xác gã khổng lồ. “Chúng ta phải báo cáo chuyện này với bác Hodge,” anh nói. “Bác ấy sẽ mất hồn,” anh nói thêm, như thể ý nghĩ về cái sự hết hồn của bác Hodge làm cho anh thấy chút hả hê. Jace, Clary nghĩ, là loại người hứng chí lắm khi có chuyện đang xảy ra, kể cho đó là chuyện xấu đi chăng nữa.

“Sao bác ấy lại mất hồn?” Clary hỏi. “Và tôi hiểu là cái thứ này không phải quỷ - vì thế nên máy Cảm Ứng không nhận ra nó, đúng không?”

Jace gật đầu. “Em có thấy những vết sẹo chằng chịt trên mặt hắn không?”

“Có.”

“Những vết sẹo đó là vết tích của thanhstele. Giống cái này này.” Anh vỗ vỗ thanh stele đeo nơi thắt lưng. “Em từng hỏi anh chuyện gì xảy ra khi vẽ Ấn Ký lên người không mang mang dòng máu Thợ Săn Bóng Tối. Chỉ một Ấn Ký có thể làm em bị bỏng, thậm chí là giết chết em, nhưng nếu là rất nhiều ấn ký, những ấn ký mang quyền năng vĩ đại thì sao? Vẽ nó lên cơ thể những người hoàn toàn bình thường, không mang dòng máu Thợ Săn Bóng Tối sẽ thế nào? Em sẽ có cái này.” Anh hất hàm chỉ cái xác chết. “Những chữ rune đó đau đớn điên cuồng. Những kẻ bị vẽ Ấn Ký sẽ phát điên – cơn đau khiến họ không kiểm soát nổi đầu óc. Họ trở thành những kẻ giết người tàn bạo không gớm tay. Họ không ngủ không ăn trừ khi em ép họ, rồi họ chết, thường rất nhanh. Những chữ rune chứa quyền năng to lớn và có thể dùng cho việc tốt – nhưng cũng có thể gây chuyện ác. Những Kẻ Lầm Đường là những kẻ ác.”

Clary kinh hoàng nhìn Jace. “Nhưng sao lại có người muốn tự gây ra điều đó cho mình chứ?”

“Chẳng ai muốn cả đâu. Có kẻ đã làm chuyện đó với họ. Là một pháp sư, có lẽ vậy, hay một kẻ biến thái từ Thế Giới Ngầm. Không ai có thể tạo ra những Kẻ Lầm Đường, ngoại trừ chính những Thợ Săn Bóng Tối với khả năng vẽ Ấn Ký. Những Kẻ Lầm Đường cực kỳ trung thành với ai vẽ Ấn Ký lên người chúng, và chúng giết người không gớm tay. Chúng có thể nghe những lệnh đơn giản nữa. Giống như là sở hữu một – một đội quân nô lệ ấy.” Anh bước qua xác của Kẻ Lầm Đường, liếc ra sau nhìn cô. “Anh quay lên lầu lại đây.”

“Nhưng trên đó chẳng còn gì.”

“Có thể còn vài tên nữa,” Jace nói, nghe như chính anh đang mong chờ điều đó. “Em nên đợi ở đây.” Anh dợm bước lên.

“Ta sẽ không làm vậy nếu ta là cậu,” một giọng nói léo nhéo quen thuộc vang lên. “Sẽ còn có thêm nhiều kẻ như vậy nữa tới.”

Jace, đã sắp lên tới tầng trên, quay ngoắt lại nhìn. Cả Clary cũng vậy, dù cô thừa biết ai đang nói. Cái giọng lụ khụ đó không thể lẫn vào đâu được.

“Quý bà Dorothea?”

Bà lão đạo mạo nghiêng đầu. Bà đang đứng ở lối vào căn hộ của mình, đang mặc thứ gì đó na ná cái lều bằng lụa tím lịm. Những sợi dây chuyền vàng lấp lánh trên cổ tay và chằng chịt quanh cổ họng. Mái tóc dài từng vệt trắng đen xen kẽ xù lên từ búi tóc ghim trên đỉnh đầu.

Jace vẫn đang nhìn. “Nhưng...”

“Còn nhiều gì ạ?”

“Nhiều Kẻ Lầm Đường hơn,” Dorothea trả lời với sự vui vẻ mà Clary cảm thấy không phù hợp với hoàn cảnh này cho lắm. Bà ta liếc nhìn quanh sảnh lớn. “Cô cậu gây ra đống hổ lốn này, đúng không? Ta thừa biết cô cậu cũng không định dọn dẹp gì đâu. Biết quá rồi mà.”

“Nhưng bà là người thường,” Jace nói, cuối cùng cũng nói được hết câu.

“Quá tinh mắt,” Dorothea nói, đôi mắt sáng lên. “Hội Clave quả tình đã làm được cuộc cải cách với cậu nhỉ.”

Sự bối rối trên mặt Jace đang dịu đi, thay vào đấy là vẻ giận dữ đang bừng dậy. “Bà biết hội Clave à?” anh hỏi. “Bà biết về họ, và bà biết có Kẻ Lầm Đường trong căn nhà này, vậy bà không báo động cho họ biết? Mỗi sự tồn tại của Kẻ Lầm Đường thôi đã là tội ác chống lại Hiệp Định rồi...”

“Cả hội Clave hay Hiệp Định đều chẳng làm gì cho ta cả,” Quý bà Dorothea nói, mắt lóe lên ánh nhìn giận dữ. “Ta chẳng nợ họ gì sất.” Trong một thoáng, cái âm giọng New York của bà ta biến mất, thay thế bằng một chất giọng khác, thứ giọng nặng nề, đặc sệt âm địa phương hơn mà Clary không nhận ra.

“Jace, thôi đi,” Clary nói. Cô quay sang Quý Bà Dorothea. “Nếu bà biết về Clave và Kẻ Lầm Đường,” cô nói, “vậy có thể bà biết chuyện xảy ra với mẹ cháu?

Dorothea lắc đầu, đôi khuyên tai lúc lắc theo. Mặt bà ta lộ vẻ thương cảm. “Ta khuyên cháu,” bà ta nói, “hãy quên mẹ cháu đi. Mẹ cháu đi rồi.”

Sàn nhà dưới chân Clary dường như đang nghiêng ngả. “Ý bà là mẹ cháu chết rồi?”

“Không.” Dorothea thốt lên chừng như do dự lắm. “Ta chắc chắn là mẹ cháu còn sống. Trong lúc này.”

“Vậy cháu phải tìm mẹ,” Clary nói. Thế giới dừng nghiêng ngả; Jace vẫn đứng sau cô, đặt tay lên khuỷu tay cô tựa như ôm, nhưng cô chẳng buồn để tâm. “Bà hiểu không? Cháu phải tìm ra mẹ trước khi...”

Quý Bà Dorothea giơ một tay lên chặn lại. “Ta không muốn dây dưa tới chuyện của giới Thợ Săn Bóng Tối.”

“Nhưng bà biết mẹ cháu. Mẹ cháu là hàng xóm...”

“Hội Clave chính thức điều tra vụ việc này.” Jace xen ngang. “Tôi lúc nào cũng có thể trở lại cùng các Tu Huynh Câm.”

“Ôi, vì...” Dorothea liếc nhìn cánh cửa, rồi nhìn Jace và Clary. “Ta nghĩ cô cậu nên vào trong,” rốt cuộc bà ta cũng nói. “Ta sẽ nói cho cô cậu nghe những gì ta biết.” Bà ta dợm bước về phía cửa, nhưng rồi dừng lại trước ngưỡng cửa mà trừng mắt nhìn. “Nhưng nếu cậu dám nói với bất cứ ai rằng ta đã giúp, Thợ Săn Bóng Tối ạ, thì sáng mai cậu sẽ thức giấc với mái tóc dệt bằng rắn và mọc thêm hai cánh tay nữa đấy.”

“Có thêm hai cánh tay nữa có khi lại hay,” Jace nói. “Khá tiện trong lúc chiến đấu.”

“Chẳng hay đâu nếu cúng mọc ra từ...” Dorothea dừng lại và mỉm cười với Jace, không phải là không có ác ý. “Cổ.”

“Kinh,” Jace đã dịu giọng đi.

“Kinh là đúng đấy, Jace Wayland.” Dorothea rảo bước vào căn hộ, cái lều tím lịm bay dập dờn chung quanh bà ta như một lá cờ lòe loẹt.

Clary nhìn Jace. “Wayland à?”

“Họ của anh.” Jace có vẻ choáng. “Không thể nói là anh thích vụ bà ta biết chuyện này.”

Clary liếc nhìn theo Dorothea. Đèn đóm đã sáng choang bên trong căn hộ; cái mùi hương trầm nồng nồng đã tràn ra ngoài cửa, hòa trộn cùng mùi máu tanh tưởi thật khó chịu. “Nhưng mà, tôi nghĩ thôi thì chúng ta cũng nên nói chuyện với bà ấy. Có mất gì đâu?”

“Một khi em dành thêm thì giờ ở thế giới của anh,” Jace nói, “thì em sẽ không bao giờ hỏi lại anh câu đó nữa đâu.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


7

CÁNH CỬA NĂM CHIỀU

Căn hộ của Quý Bà Dorothea về cơ bản giống căn hộ của Clary, nhưng cách bà ta sử dụng không gian hoàn toàn khác. Lối vào, sực nức mùi hương trầm, treo đầy những tấm rèm hạt cườm và những tấm áp phích chiêm tinh học. Ở bức này là những chòm sao hoàng đạo, bức kia là hướng dẫn về các biểu tượng phép thuật Trung Hoa, còn bức khác lại là hình một bàn tay xòe rộng với các đường chỉ tay được chú thích cẩn thận. Trên bàn tay có dòng chữ La tinh “In Manibus Fortuna.” Những cái giá hẹp chất đầy sách chạy dọc bức tường cạnh cửa.

Một trong những tấm rèm hạt cườm rung lên lạo xạo, Quý Bà Dorothea thò đầu qua. “Thích xem chỉ tay không?” bà ta hỏi khi thấy Clary nhìn chăm chú. “Hay chỉ là tò mò thôi?”

“Đều không phải ạ,” Clary đáp. “Bà thực sự biết nói trước tương lai ư?”

“Mẹ ta được ông trời ban cho tài năng xuất chúng. Bà có thể nhìn ra tương lai của một người qua lòng bàn tay hay những chiếc lá dưới đáy tách trà. Bà có dạy ta vài ngón nghề.” Bà ta chuyển sang nhìn Jace. “Nói về trà, chàng trai trẻ, cậu có muốn uống trà không?”

“Hả?” Jace bối rối hỏi lại.

“Trà. Ta thấy trà có thể giúp làm yên cái dạ dày và tập trung đầu óc. Trà, một thứ đồ uống tuyệt hảo.”

“Cháu muốn uống ạ,” Clary nói, nhận ra rằng đã khá lâu rồi mình đã không ăn không uống gì. Cô cảm giác như từ lúc dậy tới giờ cô chỉ hoạt động nhờ và adrenaline.

Jace đành buông xuôi. “Thôi được. Miễn không phải trà Earl Grey là được,” anh nói thêm, nhăn nhăn sống mũi thanh tú. “Tôi ghét mùi dầu bergamot.”

Quý Bà Dorothea cười lục khục rồi biến mất sau tấm rèm hạt, bỏ lại bức màn khẽ lay động sau lưng.

Clary nhướn mày nhìn Jace. “Anh ghét mùi dầu bergamot à?”

Jace đã đi tới bên giá sách hẹp và xem xét những cuốn sách. “Em có vấn đề gì với điều đó sao?”.

“Có thể anh là người duy nhất bằng tuổi tôi mà biết dầu bergamot là gì, mà lại ít người hơn biết mùi này có trong trà Earl Grey.”

“Ờ thì,” Jace khinh khỉnh đáp, “anh không giống những người khác. Hơn nữa,” anh vừa nói thêm vừa lấy một cuốn sách khỏi giá, “tại Học viện bọn anh phải học các lớp sử dụng thảo dược cơ bản. Bắt buộc thôi.”

“Tôi cứ tưởng bọn anh toàn học những môn như Xả Xác 101 và Nhập Môn Chặt Đầu chứ.”

Jace mở một trang. “Hóm đấy Fray.”

Clary, lúc này đang nhìn tấm áp phích chỉ tay, quay phắt sang anh. “Không được gọi tôi như thế.”

Jace ngạc nhiên liếc lên. “Vì sao thế? Đó là họ của em, đúng không?”

Hình ảnh Simon bỗng hiện lên trong đáy mắt cô. Simon trong lần cuối cô gặp, đang nhìn theo cô chạy khỏi Java Jones. Cô quay lại nhìn tấm áp phích, chớp chớp mắt. “Chẳng có lý do gì cả.”

“Anh hiểu rồi,” Jace nói, và cô nghe là biết anh thực sự hiểu, hiểu hơn mức cô muốn. Cô nghe tiếng anh bỏ sách về giá. “Hẳn đây là thứ rác rưởi bà ta dựng trước nhà để gây ấn tượng với đám người thường nhẹ dạ,” anh nói, có vẻ chán ghét. “Không có được lấy một cuốn nghiêm túc nào.”

“Chỉ vì đó không phải dạng phép thuật anh thực hành không có nghĩa...” Clary bực bội.

Anh khó chịu cau mày, khiến cô nín khe. “Anh không làm phép,” anh nói. “Hiểu cho thông báo này: con người không phải là những kẻ sử dụng phép thuật. Đấy là một phần trong thứ làm cho họ là người. Pháp sư chỉ có thể sử dụng phép thuật vì họ mang dòng máu quỷ.”

Clary mất một lúc để tiêu hóa thông tin. “Nhưng tôi đã thấy anh dùng phép thuật đấy thôi. Anh sử dụng vũ khí ếm bùa...”

“Anh sử dụng những thứ công cụ có phép. Và chỉ để có thể làm vậy, anh phải trải qua quá trình huấn luyện khắt khe. Những hình xăm chữ rune trên da cũng bảo vệ cho anh nữa. Ví dụ nhé, nếu em thử dùng một trong những thanh thiên đao, dám chắc nó sẽ làm em bỏng, biết đâu còn lấy mạng em luôn.”

“Nếu như tôi có những hình xăm đó thì sao?” Clary hỏi. “Khi đấy tôi có thể dùng chúng chứ?”

“Không,” Jace gắt gỏng. “Những Ấn Ký chỉ là một phần thôi. Còn có những bài khảo nghiệm, những thử thách, những cấp độ huấn luyện – nghe này, hãy quên đi nhé? Hãy tránh xa mấy con dao của anh ra. Thật ra, đừng chạm vào bất cứ thứ vũ khí nào khi anh chưa cho phép.”

“Thế là kế hoạch bán chúng trên eBay của mình đi tong rồi,” Clary lầm bầm.

“Bán trên cái gì?”

Clary cười giả lả với anh. “Một nơi huyền thoại đều là sự thực, ít nhất cũng có một phần sự thực.”

“Tôi bắt đầu hiểu rồi.”

Tấm rèm hạt lại rung động, đầu của Quý Bà Dorothea lại thò ra. “Trà trên bàn rồi,” bà nói. “Hai đứa không cần đứng đây như hai con lừa nữa. Đi vào phòng khách đi.”

“Ở đây có phòng khách ạ?” Clary hỏi.

“Tất nhiên là có phòng khách rồi,” Dorothea đáp. “Nếu không ta tiếp khách ở đâu chứ?”

“Để tôi bỏ mũ lại cho người hầu đã,” Jace nói.

Quý Bà Dorothea sa sầm nhìn anh. “Này cậu nhãi, nếu cậu chỉ vui tính bằng một nửa như cậu tưởng thôi, thì cậu sẽ vui tính gấp đôi bây giờ đấy.” Bà ta lại biến mất sau tấm rèm, tiếng “Hừ!” lớn gần át cả tiếng rèm hạt sột soạt.

Jace nhíu mày. “Anh không rõ bà ta có ý gì.”

“Thật sao,” Clary nói. “Tôi thì lại hiểu cực rõ.” Cô đi qua tấm rèm hạt trước khi anh kịp đáp trả.

Phòng khách mở đèn tù mù khiến Clary phải chớp mắt vài lần mới thích ứng được. Ánh sáng mờ câm cho cô thấy đường nét của tấm rèm nhung đen che kín bức tường bên trái. Những con chim và dơi nhồi bông treo tòng teng trên trần nhà bằng những sợi dây mảnh, những hạt cườm đen lấp lánh thế chỗ cho mắt. Sàn nhà trải lớp lớp thảm Ba Tư đã sờn chỉ cần giẫm một cái là bụi bay mù mịt. Những chiếc ghế tựa màu hồng nhồi bông quá tay được xếp quanh chiếc bàn thấp: đầu bàn bên này là một xấp bài tarot được buộc lại bằng dải ruy băng lựa, đầu kia là quả cầu pha lê đặt trên đế vàng. Ở giữa bàn là khay đồ ngọt bằng bạc, bày ra cho khách: một đĩa nhỏ chồng những bánh sandwich, một bình trà xanh phảng phát làn hơi trắng mỏng, cùng hai chiếc tách trà đặt trên hai dĩa nhỏ cùng bộ được đặt cẩn thận trước hai chiếc ghế tựa.

“Wow,” Clary kêu nho nhỏ. “Trông tuyệt quá.” Cô ngồi xuống một chiếc ghế tựa. Được ngồi thật khỏe cả người.

Dorothea mỉm cười, mắt sáng lên vẻ hài hước ma mãnh. “Dùng trà nhé,” bà nói và nâng cái bình lên. “Sữa? Hay đường?”

Clary liếc sang Jace, đang ngồi bên cạnh cô và chiếm lấy đĩa bánh sandwich mất rồi. Anh đang chăm chú ngắm nghía nó. “Đường ạ,” cô nói.

Jace nhún vai, nhón lấy một cái sandwich và đặt đĩa xuống. Clary cẩn trọng quan sát khi anh cắn một miếng. Anh lại nhún vai. “Dưa chuột,” anh nói, để đáp lại cái nhìn của cô.

“Ta luôn nghĩ sandwich dưa chuột rất hợp với trà, có đúng không? Quý Bà Dorothea hỏi, chẳng nói với một ai.

“Tôi ghét dưa chuột,” Jace nói và đưa cái bánh đang ăn dở cho Clary. Cô cắn một miếng – bánh được nêm nếm vừa đủ lượng mayonnaise và tiêu. Bụng cô kêu ùng ục sung sướng biết ơn món ăn đầu tiên mình được nếm kể từ sau chiếc nacho ăn cùng Simon.

“Dưa chuột à dầu bergamot,” Clary nói. “Còn có thứ gì khác anh ghét mà tôi cần biết không nhỉ?”

Jace nhìn Dorothea qua miệng tách trà. “Những kẻ nói dối,” anh bảo.

Bà lão bình tĩnh đặt ấm trà xuống. “Cậu cứ việc gọi ta là kẻ nói dối cho bằng thích. Đúng, ta không phải pháp sư. Nhưng mẹ ta thì có.”

Jace sặc trà. “Không thể nào.”

“Sao lại không thể?” Clary tò mò hỏi lại. Cô nhấp một ngụm trà. Nó đăng đắng, đậm đà vị khói hun trong bùn.

Jace thở hắt ra. “Vì họ nửa người, nửa quỷ. Giới pháp sư đều là dân lai tạp. Và vì thế, nên họ không thể có con. Họ vô sinh.”

“Giống mấy con la,” Clary ngẫm ngợi, nhớ ra gì đó được học ở môn sinh học. “Lừa cũng là loài lai vô sinh.”

“Kiến thức về vật nuôi của em thật đáng kinh ngạc.” Jace nói. “Tất cả những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm đều mang một phần quỷ, nhưng chỉ pháp sư có cả bố mẹ là quỷ. Vì thế quyền năng của họ là lớn nhất.”

“Ma cà rồng và người sói – họ cũng có một phần quỷ sao? Và tiên nữa?”

“Ma cà rồng và người sói là kết quà của những dịch bệnh do quỷ mang tới miền không gian của chúng. Hầu hết các dịch bệnh từ quỷ đều gây chết người, nhưng trong những trường hợp này, chúng không thực sự giết chết họ. Còn thần tiên...”

“Thần tiên là những thiên thần sa ngã,” Dorothea nói, “bị đuổi khỏi thiên đường vì tội lỗi của mình.”

“Đó là truyền thuyết thôi,” Jace nói. “Cũng có truyền thuyết nói họ là con cháu của quỷ và thiên thần, mà anh luôn thấy thế có vẻ hợp lý hơn. Tốt và xấu, hòa trộn vào nhau. Thần tiên mang vẻ đẹp như thiên thần đáng ra phải có, nhưng chúng còn mang trong mình lắm sự tai quái và độc ác nữa.”

Clary hỏi, “Đáng ra phải có à? Ý bà là thiên thần không...”

“Đủ chuyện về thiên thần rồi đấy,” Dorothea nói, đột nhiên nghiêm túc hơn. “Quả đúng là pháp sư không thể có con. Mẹ ta nhận nuôi ta vì ba muốn đảm bảo có người trông nom nơi này sau khi bà mất. Bản thân ta không cần phải thành thạo phép thuật làm gì. Ta chỉ cần phải quan sát và canh gác.”

“Canh gác gì ạ?” Clary hỏi.

“Cái gì mới được đây?” Bà lão nháy mắt và với lấy cái bánh sandwich trên đĩa, nhưng trên đĩa chẳng còn gì. Clary đã ăn hết trơn. Dorothea tặc lưỡi. “Thật tốt khi thấy cô gái trẻ dám ăn no. Thời gian của ta, con gái là những tạo vật khỏe mạnh, chắc nịch, chứ không như mấy cái cọng củi khô như bọn con gái bây giờ.”

“Cháu cám ơn,” Clary nói. Cô nghĩ tới vòng eo nhỏ xíu của Isabelle và đột nhiên cảm thấy mình là người khổng lồ. Cô đặt cái tách trà xuống đánh cách.

Ngay lập tức, Quý Bà Dorothea chồm lên tách chăm chú nhìn vào, một đường hằn xuất hiện giữa hàng lông mày vẽ.

“Sao thế ạ?” Clary lo lắng hỏi. “Cháu lam vỡ cốc hay sao ạ?”

“Bà ấy đang đọc lá trà của em,” Jace bảo, nghe có vẻ chán chường, nhưng anh vẫn nhoài người lên cùng Clary, trong khi bà Dorothea cau mày xoay xoay cái cốc giữa những ngón tay ú ụ.

“Xấu lắm hả bà?” Clary hỏi.

“Chẳng xấu mà cũng chẳng tốt. Chỉ là hơi rắc rối.” Dorothea nhìn Jace. “Đưa ta cái cốc của cậu,” bà ta ra lệnh.

Jace trông như bị sỉ nhục. “Nhưng tôi chưa uống xong...”

Bà lão giật lấy cái cốc khỏi tay anh và đổ phần nước trà dư vào lại trong bình. Mặt nhăn mày nhíu, bà ta nhìn vào những gì còn sót lại. “Ta nhìn thấy bạo lực trong tương lai của cậu, rất nhiều máu đổ ra, của cậu và của những người khác. Cậu sẽ yêu nhầm người. Và, cậu có một kẻ thù.”

“Chỉ một thôi sao? Tin tốt quá.” Jace tựa lưng ra sau ghế trong khi bà Dorothea đặt chiếc tách của anh xuống và lại cầm chiếc tách của Clary đi lên. Bà ta lắc đầu.

“Ta chẳng đọc được gì từ đây cả. Những hình ảnh lộn xà lộn xộn, chẳng có ý nghĩa gì hết.” Bà liếc nhìn Clary. “Đầu óc cháu có cục chặn nào không?”

Clary ngơ ngác. “Cục gì cơ?”

“Giống như một câu thần chú niêm phong ký ức, hoặc có lẽ đã chặn Tâm Nhãn của cháu.”

Clary lắc đầu. “Không, tất nhiên là không.”

Jace đột ngột nhoài người lên. “Đừng có hấp tấp như thế chứ,” anh nói. “Đúng là cô ấy có nói mình không nhớ từng có Tâm Nhãn gì cho tới trước tuần này. Có thể...”

“Có thể tôi chỉ là đứa chậm phát triển chứ gí,” Clary gắt. “Và đừng có lườm tôi, chỉ vì tôi đã nói vậy.”

Jace làm bộ như bị tổn thương. “Đâu có đâu.”

“Anh đang chuẩn bị lườm kìa, tôi có thể nhìn ra mà.”

“Có thể,” Jace thừa nhận, “nhưng không có nghĩa là anh không đúng. Có thứ gì đấy đang chặn lấy ký ức của em, chuyện này thì anh hầu như chắc chắn.”

“Rất tốt, chúng ta hãy thử cách khác nào.” Dorothea đặt cốc xuống, với tay lấy bộ bài buộc trong dải lụa. Bà ta xòe bài và chìa ra cho Clary. “Cháu lướt tay qua những lá bài này tới khi chạm phải lá nào có cảm giác nóng hoặc lạnh, hoặc có vẻ như là bám vào mấy ngón tay cháu. Sau đó rút lá đó ra và đưa cho ta.”

Clary ngoan ngoãn lướt tay qua những lá bài. Chạm vào thì chúng lành lạnh, trơn trơn, nhưng dường như chẳng có lá nào đặc biệt nóng hay lạnh, cũng chẳng có lá nào dính vào tay cô. Cuối cùng cô chọn bừa một lá, và giơ lên.

“Lá bài Ace of Cups,” Dorothea reo lên sửng sốt. “Lá bài tình yêu.”

Clary lật lá bài lại mà nhìn. Lá bài khá nặng trên tay cô, hình ảnh ở mặt trước được vẽ bằng sơn thật dày cộm. Lá bài cho thấy hình bàn tay đang giữ một chiếc cốc lên trước mặt trời đang tỏa nắng được sơn bằng thếp vàng. Chiếc cốc bằng vàng, có trang trí họa tiết những mặt trời nhỏ hơn và đính đá hồng ngọc. Phong cách hội họa quá quen thuộc với cô tựa hơi thở. “Một lá bài tốt, đúng không ạ?”

“Không hẳn. Những điều tệ hại nhất con người gây nên, đều nhân danh tình yêu, “Quý Bà Dorothea nói, mắt ánh lên lấp lánh. “Nhưng đây là lá bài quyền năng. Nó có nghĩa gì với cháu thế?”

“Rằng mẹ cháu đã vẽ lá bài này,” Clary nói và thả lá bài xuống bàn. “Đúng không ạ?”

Dorothea gật đầu, sự hài lòng thỏa mãn thể hiện trên nét mặt. “Mẹ cháu vẽ cả bộ cho ta. Một món quà đấy.”

“Cứ cho là thế đi.” Jace đúng dậy, ánh mắt lạnh băng. “Bà biết mẹ Clary rõ tới mức nào?”

Clary nghển cổ nhìn anh. “Jace, anh không cần phải...”

Dorothea tựa lưng ra sau ghế, những lá bài xòe rộng trước bộ ngực lớn. “Jocelyn biết ta là gì, và ta biết cô ấy là gì. Chúng ta không nói nhiều tới vấn đề đó. Thi thoảng cô giúp ta một vài việc – giống như vẽ bộ bài này – và đổi lại thi thoảng ta kể cho cô ta nghe vài câu chuyện ngồi lê đôi mách của Thế Giới Ngầm. Có một cái tên mà cô ấy nhờ ta để ý nghe ngóng tới, và ta làm theo.”

Nét mặt Jace thật không thể nhận định được. “Cái tên nào vậy?”

“Valentine.”

Clary ngồi thẳng dậy. “Nhưng đó...”

“Khi bà nói bà biết Jocelyn là gì, ý bà là sao? Cô ấy là gì?” Jace hỏi.

“Jocelyn là chính cô ấy thôi,” Dorothea nói. “Nhưng trong quá khứ cô ta hẳn giống như cậu. Một Thợ Săn Bóng Tối. Một trong những thành viên của hội Clave.”

“Không,” Clary thì thào.

Dorothea nhìn cô bằng đôi mắt buồn bã gần như là nhân từ. “Đúng đó. Mẹ cháu sống trongcăn nhà này chính xác là vì...”

“Vì đây là Náu đường,” Jace nói với bà Dorothea. “Đúng không? Mẹ bà là pháp sư. Bà ta tạo ra không gian này, được che giấu, được bảo vệ, có khi còn được giăng kết giới ấy chứ - một nơi hoàn hảo cho những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm đang chạy trốn đến ẩn náu. Đó là điều bà làm, đúng không? Bà che giấu tội phạm tại đây.”

“Cậu có thể gọi họ như thế,” Dorothea nói. “Cậu hẳn đã quá quen với phương châm của Hiệp Định chứ gì?”

“Sex lex dura lex,” Jace máy móc nói.“Luật tuy có hà khắc, nhưng vẫn là Luật.”

“Đôi lúc Luật quá hà khắc. Ta biết hội Clave hẳn sẽ tách ta khỏi mẹ ta ngay nếu có thể. Cậu muốn ta để cho họ làm chuyện này với những người khác ư?”

“Thế ra bà là một người đầy lòng nhân ái cơ đấy.” Môi Jace cong cớn. “Tôi đoán bà mong tôi sẽ tin rằng những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm kia không trả lời bà một khoản tiền kếch xù để được sử dụng cái Náu Đường này à?”

Dorothea cười toe toét, khoe những cái răng hàm vàng lóe sáng. “Không phải tất cả chúng tôi đều xoay sở giỏi như các cậu.”

Jace có vẻ chẳng bị lời ca ngợi kia làm động tâm. “Tôi phải báo cho hội Clave nghe về bà...”

“Anh không thể!” Clary đứng dậy. “Anh đã hứa rồi.”

“Anh chưa bao giờ hứa gì.” Jace co vẻ chống đối. Anh dóng bước tới tường và kéo vào một trong mấy tấm rèm nhung sang bên. “Bà có muốn nói cho tôi biết cái này là cái gì không?” anh hỏi gặng.

“Đó là cánh cửa mà Jace,” Clary nói. Đúng là một cánh cửa, dựng kỳ cục giữa hai ô cửa sở lối ra ngoài. Rõ ràng cánh cửa đó chẳng dẫn đi đâu, bằng không gian từ ngoài nhà họ đã phải thấy nó. Có vẻ nó được làm từ một kim loại hơi sáng, màu vàng nhàn nhạt chứ không phải màu đồng hun nhưng lại nặng như sắt. Nắm đấm cửa có hình con mắt.

“Im đi,” Jace giận dữ nạt. “Đó là một Cổng Dịch Chuyển. Đúng không?”

“Đó là cửa năm chiều,” Dorothea nói, đặt bộ bài tarot xuống bàn. “Nhưng chiều không gian không phải là những đường thẳng tuột, cháu biết đấy,” bà ta nói thêm, đáp lại vẻ mặt mù tịt của Clary. “Bao chỗ trũng, chỗ gấp khúc, các ngóc ngách và khe hở ẩn khắp nơi. Hơi khó giải thích khi cháu chưabao giờ nghiên cứu về học thuyết các chiều, nhưng, nói một cách đơn giản, cánh cửa này có thể dẫn cháu tới bất cứ nơi nào trong không gian này mà cháu muốn tới. Nó...”

“Một cửa thoát hiểm,” Jace bảo. “Vì thế mà mẹ em muốn sống ở đây. Để mẹ em có thể trốn nay lập tức.”

“Vậy sao mẹ không...” Clary mở miệng, rồi ngừng lại, đột nhiên thấy sợ. “Vì tôi,” cô nói. “Đêm đó mẹ sẽ không đi nếu như không có tôi. Vì thế mẹ ở lại.”

Jace lắc đầu. “Em không thể tự trách mình.”

Cảm nhận được nước mắt đang ầng ậng chực tràn, Clary lách người qua Jace xăm xăm hướng tới cánh cửa. “Tôi muốn biết mẹ tôi đã tới đâu,” cô nói và với tay chạm vào cửa. “Tôi muốn biết mẹ định trốn tới đâu...”

“Clary, không!” Jace vươn tay giữ lấy cô, nhưng cô đã nắm chặt lấy nắm đấm cửa. Nắm cửa nhanh chóng xoay đi, cánh cửa bật tung lên, nhưng đã quá muộn. Trước khi Clary kịp nói hết câu, cô thấy mình nhào tới trước và rơi xoáy vào không gian trống rỗng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


8

VŨ KHÍ TỰ CHỌN

Cô ngạc nhiên đến quên cả hét. Cảm giác rơi xuống là phần tệ nhất; tim cô như xóc lên họng và dạ dày có cảm giác như hóa nước. Cô vung tay ra, cố nắm lấy cái gì đó, bất cứ thứ gì có thể giúp cô rơi chậm lại.

Tay cô bám vào những cành cây. Những chiếc lá tuốt đi trong nắm tay. Cô ngã đánh rầm xuống nền đất, khá đau, hông và vai đập xuống nền đất nện. Cô lăn người, hít lấy hít để. Cô vừa mới ngồi dậy thì một người khác rơi đè lên.

Cô lại ngã ngửa ra sau. Một cái trán đập vào trán cô, đầu gối cô đụng phải đầu gối một người khác. Tay chân vướng víu, cô khạc mớ tóc (không phải của mình) ra khỏi miệng và cố vùng vẫy trước sức nặng có cảm giác như đang đè cô bẹp dí.

“Ối,” Jace phẫn nộ nói bên tai cô. “Em chọc cùi chỏ vào anh rồi.”

“À, thì vì anh đáp xuống mình tôi.”

Anh chống tay lên và điềm tĩnh nhìn xuống cô. Clary có thể thấy bầu trời cao xanh, vài nhánh cây, và góc một căn nhà ghép ván màu xám. “À, thì em cũng đâu cho anh lựa chọn nào đâu nhỉ?” anh hỏi. “Còn lựa chọn gì nữa khi em quyết định tung tăng phóc vào cái Cổng Dịch Chuyển đó như nhảy lên tuyến tàu nhanh vậy. May mà nó không quẳng em tới tận sông Đông ấy.”

“Anh không cần phải đi theo tôi.”

“Ồ có chứ,” anh nói. “Em quá là không có kinh nghiệm bảo vệ bản thân trong tình huống nguy hiểm mà không có anh ở bên.”

“Dễ thương ghê. Có lẽ tôi sẽ tha lỗi cho anh.”

“Tha lỗi cho anh? Lỗi gì nào?”

“Vì dám bảo tôi im miệng.”

Mắt anh nheo lại. “Anh không... Được rồi, anh có nói đầy, nhưng em...”

“Thôi bỏ đi.” Cánh tay cô, bị ghim chặt dưới lưng, bắt đầu bị chuột rút. Trong khi lăn người sang một bên để rút tay ra, cô trông thấy một mảng cỏ chết màu nâu úa, một hàng rào mắt cáo, và thêm phần lớn ngôi nhà bằng ván ghép màu xám nọ, giờ quen thuộc tới khó chịu.

Cô cứng người. “Tôi biết chúng ta ở đâu.”

Jace không còn ấp úng nữa. “Gì cơ?”

“Đây là nhà chú Luke.” Cô ngồi thẳng dậy, đẩy Jace sang bên. Anh nhẹ nhàng lăn người đứng dậy và chìa tay giúp cô đứng lên. Cô lờ tịt anh và loạng choạng đứng lên, lắc lắc cánh tay tê cứng.

Họ đang đứng trước căn nhà liên kết màu xám nho nhỏ, nằm giữa những căn nhà cùng kiểu khác dọc bờ sông Williamsburg. Một cơn gió nhẹ từ dòng sông Đông thổi tới, lay động tấm biển nhỏ treo phía trên những bậc tam cấp bằng gạch. Clary quan sát Jace trong khi anh lớn tiếng đọc những con chữ viết hoa, “Tiệm sách Garroway. Chuyên sách cũ trong tình trạng tốt, sách mới và sách đã ngừng xuất bản. Đóng cửa vào Thứ Bảy.” Anh liếc nhìn cánh cửa tối màu, một ổ khóa kiên cố ngàm chặt tay cầm cửa. Thư từ của nhiều ngày vứt la liệt trên thảm trải chân, chưa mảy may được động tới. Anh liếc nhìn Clary. “Ông ấy sống trong hiệu sách à?”

“Chú ấy sống đằng sau hiệu sách.” Clary liếc nhìn con đường vắng vẻ, một đầu là cây cầu Williamsburg cong cong, đầu kia là xí nghiệp làm đường bị bỏ hoang. Bên kia dòng nước đang lững lờ trôi, mặt trời đang lặn xuống sau những tòa nhà chọc trời của vùng hạ Manhattan, làm những tòa kiến trúc đó tắm trong ánh vàng kim. “Jace, chúng ta đã tới đây bằng cách nào thế?”

“Đi qua Cổng Dịch Chuyển,” Jace vừa đáp vừa săm soi ổ khóa. “Nó sẽ đưa em tới bất cứ nơi nào em đang nghĩ đến.”

“Nhưng tôi có đang nghĩ tới chỗ này đâu,” Clary phản đối. “Tôi đã chẳng nghĩ tới nơi nào hết.”

“Hẳn là em có nghĩ đấy.” Anh bỏ qua cái đề tài chẳng hứng thú tí nào này. “Vậy thì, vì đằng nào chúng ta cũng ở đây rồi...”

“Thì sao?”

“Em muốn làm gì?”

“Tôi nghĩ chúng ta đi về thôi,” Clary cay đắng nói. “Chú Luke bảo tôi không được đến đây.”

Jace lắc đầu. “Và em cam tâm sao?”

Clary vòng tay ôm người. Dù cái ấm của ban ngày còn vướng vất trong không khí, nhưng cô vẫn thấy lạnh. “Tôi có quyền lựa chọn à?”

“Chúng ta luôn có quyền lựa chọn,” Jace nói. “Nếu là em, ngay lúc này anh sẽ rất tò mò về chú Luke. Em có chìa khóa vào nhà không?”

Clary lắc đầu. “Không, nhưng đôi khi chú ấy để ngỏ cửa sau.” Cô chỉ vào con hẻm hẹp giữa nhà chú Luke và nhà bên cạnh. Những thùng rác bằng nhựa được xếp ngay ngắn bên cạnh những chồng báo xếp gọn gàng và cái thùng nhựa đựng những chai sô đa rỗng. Ít ra chú Luke vẫn có ý thức về chuyện tái chế.

“Chắc chú ấy không ở nhà chứ?” Jace hỏi.

Cô liếc nhìn lề đường vắng vẻ. “Ừ thì xe chú ấy không có ở đây, cửa hàng thì đóng cửa, còn đèn đóm thì tắt hết rồi. Tôi nghĩ là không.”

“Vậy dẫn đường đi thôi.”

Đường hông hẹp giữa những căn nhà kết thúc bằng hàng rào mắt cáo cao cao. Hàng rào bao quanh khu vườn sau nho nhỏ của nhà chú Luke, nơi thứ cây cỏ duy nhất đang mọc sum suê dường như chỉ có cỏ dại, xuyên qua kẽ nứt của những phiến đá lát đường, đâm chồi lên thành những phiến lá đầy bụi.

“Nhảy lên rồi qua,” Jace nói và nhét mũi giày vào khe hàng rào. Anh bắt đầu trèo lên. Hàng rào kêu rền rĩ làm Clary chột dạ nhìn quanh, nhưng không có lấy một ngọn đèn nào bên nhà hàng xóm được bật sáng. Jace lên đến đỉnh hàng rào rồi nhảy xuống phía kia, đáp xuống những bụi cây, kéo theo tiếng mèo nheo nhéo tru tréo đinh tai.

Thoạt tiên Clary cứ tưởng anh đã rơi trúng một con mèo hoang nào đó. Cô nghe thấy Jace hét lên vì ngạc nhiên khi anh ngã ra sau. Một cái bóng – quá lớn không thể là mèo được – phóng ra khỏi bụi cây lao băng qua sân, rạp mình sát đất. Jace lăn ngồi dậy, phóng đuổi theo nó, mặt sát khí đằng đằng.

Clary bắt đầu trèo. Khi cô cho một chân sang bên kia hàng rào, chiếc quần bò của Isabelle mắc vào một đầu lưới xoắn nên rách toạt một bên. Cô thả mình xuống đất, giày lún trong đất mềm, đúng lúc Jace la lên trong chiến thắng. “Bắt được nó rồi!” Clary quay lại thấy Jace ngồi trên kẻ đột nhập đang nằm sấp mặt, tay giơ cao quá đầu. Jace nắm lấy cổ tay hắn, “Nào, để bọn tao xem mặt mày nào...”

“Xuống ngay khỏi người tao, thằng khốn nạn hợm mình” kẻ đột nhập gầm ghè, xô đẩy Jace. Hắn vùng vằng đã gần ngồi dậy được, cặp mắt kính nát như tương lệch hẳn sang bên.

Clary đứng sững lại như trờitrồng. “Simon hả?”

“Ôi Chúa ơi,” Jace than, nghe chừng như thối chí. “Thế mà mình thực lòng hy vọng mình đã tóm được cái gì vui vui chứ.”

“ Nhưng sao cậu trốn trong bụi cây nhà chú Luke để làm gì vậy?” Clary hỏi, phủi lá cây đang dính trên tóc Simon. Cậu chàng chịu đựng sự chăm sóc của cô với vẻ vùng vằng. Không hiểu sao cô cứ hình dung ra cuộc hội ngộ với Simon, sau khi mọi chuyện qua đi, thì cậu ấy sẽ trong tâm trạng tốt hơn. “Đấy là phần mình không hiểu.”

“Được rồi, đủ rồi. Tự mình lo vụ đầu tóc mình được, Fray,” Simon nói, nảy người né khỏi tay cô. Họ đang ngồi trên bậc thềm sau nhà chú Luke. Jace đã tót lên ngồi trên hàng lan can, giả vờ lờ tịt hai người kia đi, trong khi dùng thanh stele giũa giũa móng. Clary tự hỏi liệu hội Clave có đồng ý với hành động đó không.

“Ý mình là, chú Luke có biết cậu ở đây không?” cô hỏi.

“Tất nhiên là không rồi,” Simon khó chịu nói. “Dù chưa khi nào hỏi, nhưng mình dám đảm bảo chú ấy có chính sách cực kỳ khắc khe với bọn choai choai ba vớ thập thò trong bụi cây nhà chú.”

“Cậu không phải thứ ba vớ; chú ấy biết cậu mà.” Cô muốn đưa tay chạm vào má bạn, vẫn hơi rên rỉ máu ở nơi cành cây cào phải. “Nhưng cái chính là cậu vẫn ổn.”

“Mình vẫn ổn ư?” Simon cười, một tiếng cười sắc lạnh, chẳng vui vẻ tí nào. “Clary, cậu có biết mình đã sống thế nào trong mấy ngày qua không? Lần cuối cùng mình thấy cậu, cậu chạy khỏi Java và Jone như dơi trốn khỏi địa ngục, và sau đó cậu...biến mất. Cậu không nghe điện thoại – điện thoại nhà cậu cũng không liên lạc được – sau đó chú Luke bảo với mình rằng cậu đang ở với vài người họ hàng phía bắc bang trong khi mình biết cậu chẳng có họ hàng người quen nào cả. Mình cứ tưởng mình đã làm gì đó khiến cậu giận.”

“Cậu đã có thể làm những gì nào?” Clary chạm vào tay bạn, nhưng cậu rụt lại ngay lập tức mà không thèm nhìn cô.

“Chả biết,” cậu nói. “Chuyện này chuyện nọ.”

Jace, vẫn đang chú mắt vào thanh stele, khe khẽ chậc lưỡi.

“Cậu là bạn thân nhất của mình,” Clary nói. “Mình không giận cậu đâu.”

“Vậy sao, hừ, cậu rõ ràng còn chẳng thèm gọi điện mà nói với mình rằng cậu đang đi chơi đêm với một tay nhuộm tóc vàng hoe tập tành bắt chước dân Gothic mà có lẽ cậu đã gặp tại Xứ Quỷ,” Simon chua chát. “Trong khi suốt ngày qua mình cứ sợ rằng cậu đã chết.”

“Mình không chơi bời gì,” Clary nói, bụng mừng thầm vì trời tối khi máu dồn lên mặt.

“Và tóc tôi là tóc vàng tự nhiên,” Jace nói. “Nói cho cậu rõ.”

“Vậy cậu đã làm gì trong ba ngày qua hả?” Simon nói, đôi mắt tối sầm lại vì nghi hoặc. “Cậu thực sự có một bà dì tên Matilda bị cúm gà và cần người chăm sóc cho khỏe lại à?”

“Chú Luke thực sự nói thế sao?”

“Không. Chú ấy chỉ bảo cậu đi thăm một người họ hàng bị ốm, và rằng co lẽ điện thoại cậu lên đến vùng quê đó thì không hoạt động được. Nhưng mình không tin. Sau khi chú ấy đuổi mình ra khỏi hiên trước, mình lỉnh sang hông nhà mà nhìn qua cửa sổ sau. Thấy chú ấy sắp đổ vào cái túi vải xanh như định đi nghỉ cuối tuần. Thế là mình quyết định lảng vảng quanh đây và để mắt tới mọi chuyện.”

“Vì sao? Vì chú ấy sắp đổ à?”

“Chú ấy mang đi đủ loại vũ khí,” Simon bảo, dùng tay áo phông lau máu dính trên má. “Dao rựa, vài con dao găm, cả kiếm nữa. Thú vị là, vài món vũ khí có vẻ như còn phát sáng nữa chứ.” Cậu nhìn Clary và Jace, rồi lại nhìn Clary. Giọng cậu ta sắc nhọn như một trong những lưỡi dao của chú Luke vậy. “Nào, cậu định nói là mình tưởng tượng ra chứ gì?”

“Không,” Clary đáp. “Mình không định nói vậy.” Cô liếc nhìn Jace. Tia nắng cuối ngày tạo nên ánh vàng lóe lên trong đôi mắt anh. “Tôi sẽ kể sự thật cho cậu ấy đây,” cô bảo.

“Biết.”

“Anh có định ngăn tôi không?”

Jace nhìn xuống thanh stele trong tay. “Lời thề của anh trước Hiệp Định ràng buộc anh,” anh nói. “Nhưng chẳng có lời thề nào ràng buộc em cả.”

Cô quay sang Simon, hít một hơi thật sâu. “Được rồi,” cô nói. “Đây là những điều cậu phải biết.”

Mặt trời đã lặn hẳn xuống đường chân trời, hiên nhà hoàn toàn chìm trong bóng tối khi Clary ngừng nói. Nãy giờ Simon lắng nghe lời giải thích dài dòng của cô với vẻ mặt gần như là dửng dưng, chỉ hơi nhăn mặt một chút khi Clary kể tới quỷ Ravener. Kể lể xong, Clary húng hắng cổ họng khô khốc, đột nhiên khát khao có được một cốc nước. “Vậy,” cô nói, “cậu hỏi gì không?”

Simon giơ tay. “À có chứ. Nhiều lằm.”

Clary thở dài mệt mỏi. “Được rồi, nói đi.”

Cậu chỉ tay vào Jace. “Rồi, anh ta là – cậu gọi những người như anh ta là gì ấy nhỉ?”

“Thợ Săn Bóng Tối,” Clary nói.

“Một thợ săn quỷ,” Jace giải thích. “Tôi giết quỷ. Không có gì phức tạp lắm đâu, thật đấy.”

Simon lại nhìn Clary. “Thật sao?” Hai mắt cậu nheo nheo, như thể đang mong cô sẽ nói rằng toàn bộ câu chuyện chẳng có khúc nào là thật và rằng Jace thật sự là một tên điên nguy hiểnm trốn trại mà cô đã quyết định đánh bạn cùng vì tinh thần nhân đạo.

“Thật.”

Trên mặt Simon hiện ra vẻ chăm chú. “Và có cả ma cà rồng nữa ư? Người sói, pháp sư, tất cả những thứ đó?”

Clary cắn môi dưới. “Mình được nghe là thế.”

“Và anh giết họ luôn?” Simon hỏi, hướng tới Jace, anh đã nhét thanh stele vào túi vàđang kiểm tra bộ móng đẹp hoàn hảo kia còn chút tì vết nào không.

“Chỉ khi họ làm loạn thôi.”

Trong một đỗi Simon chỉ ngồi đấy và nhìn trân trối xuống đôi bàn chân. Clary tự hỏi liệu bắt cậu bạn phải tiếp nhận một đống thông tin kiểu đó có phải là việc sai lầm không. Simon là một người sống lý tính hơn bất cứ ai cô biết; có thể cậu sẽ ghét phải biết những chuyện như vầy, những câu chuyện chẳng có lấy một lời giải thích khoa học nào. Cô lo lắng nhoài người lên trước, đúng lúc Simon ngẩng đầu. “Chuyện này tuyệt đỉnh,” cậu nói.

Jace trông bàng hoàng như Clary. “Tuyệt đỉnh á?”

Simon gật đầu nhiệt tình tới mức những lọn tóc xoăn trên trán nảy cả lên. “Hoàn toàn. Giống như game Dungeons và Dragons, nhưng là đời thực.”

Jace đang nhìn Simon như thể cậu là một loài bọ quái thai nào đó. “Giống cái gì?”

“Đó là một trò chơi”, Clary giải thích. Cô thấy hơi xấu hổ. “Mọi người giả bộ là pháp sư và yêu tinh và họ giết quỷ và mấy thứ đại loại thế.”

Jace trông đần thối.

Simon cười toe toét. “Anh chưa từng nghe nói tới Dungeons và Dragons sao?”

“Tôi đã từng nghe tới ngục thất,” Jace nói. “Rồng nữa. Dù chúng hầu như đã tuyệt chủng rồi.”

Simon có vẻ thất vọng. “Anh chưa bao giờ giết rồng?”

“Có thể anh ấy cũng chưa bao giờ gặp một nữ yêu tinh nào cao mét tám thân hình nóng bỏng mặc bikini lông thú nữa,” Clary khó chịu lên tiếng. “Bình tĩnh đi, Simon.”

“Những yêu tinh thật sự chỉ có tám inch thôi,” Jace cho biết. “Với lại, lũ ấy cắn đấy.”

“Nhưng ma cà rồng bốc lắm, đúng không?” Simon nói. “Ý tôi là, một vài con ma cà rồng là mấy cô em bá cháy, nhỉ?”

Trong thoáng chốc Clary hơi lo là Jace sẽ phóng qua hàng hiên để bóp cổ Simon đến xỉu mất. Nhưng không, có vẻ anh đang ngẫm nghĩ. “Có vài con, chắc là vậy.”

“Tuyệt,” Simon lặp lại. Clary quyết định là mình thích hai người này đánh nhau hơn.

Jace trượt khỏi lan can. “Vậy chúng ta có khám nhà hay không?”

Simon lục tục đứng lên. “Tôi tham gia. Chúng ta tìm gì nào?”

“Chúng ta ư?” Jace nói, nhẹ nhàng nhưng độc địa. “Tôi không nhớ có mời cậu đi cùng.”

“Jace,” Clary bực bội.

Khóe miệng bên trái của anh ta cong lên. “Chỉ đùa thôi.” Anh ta bước sang bên nhường đường cho cô tới cửa. “Ta đi nhé?”

Clary lần sờ nắm đấm cửa trong bóng tôi. Cửa mở, làm đèn hiên bật lên, chiếu sáng lối vào. Cánh cửa dẫn vào hiệu sách đã đóng; Clary xoay xoay cái nắm đấm. “Cửa khóa rồi.”

“Cho phép tôi nhé, hai bạn người thường,” Jace nói và nhẹ nhàng đẩy cô sang bên. Anh rút thanh stele ra khỏi túi áo và giơ trước cửa. Simon quan sát với chút tủi hờn. Clary đồ rằng, dù có bao nhiêu em ma cà rồng bá cháy đi nữa cũng chẳng thể khiến cậu thích Jace được cả.

“Tay này khó chơi lắm, phải không?” Simon thì thầm. “Sao cậu chịu được anh ta?”

“Anh ấy cứu mạng mình.”

Simon liếc vội sang cô. “Sao...”

Cách, cửa mở. “Vào thôi,” Jace nói và nhét thanh stele vào túi. Clary nhìn thấy Ấn Ký trên cửa – ngay phí trên đầu anh – đang mờ dần cùng lúc họ đi qua. Cánh cửa hậu dẫn vào một nhà kho be bé; những bức tường đã tróc sơn. Hộp bìa các tông chồng chất khắp nơi, những gì chứa trong hộp được đánh dấu ngoằn ngoèo bằng viết lông: “Viễn tưởng,” “Thơ,” “Nấu ăn,” “Điểm đến trong vùng,” “Tình cảm.”

“Nhà đằng kia.” Clary đi về phía cánh cửa cô chỉ, ở phía cuối nhà kho.

Jace nắm lấy tay cô. “Đợi đã.”

Cô lo lắng nhìn anh. “Có chuyện gì không hay à?”

“Anh không biết.” Anh chui vào giữa hai chồng hộp các tông cao ngất và huýt sáo. “Clary, hẳn là em muốn sang đây xem cái này này.”

Cô nhìn quanh. Trong kho khá tối, chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn hiên hắt qua cửa sổ. “Quá tối...”

Ánh sáng chan hòa, nhấn chìm cả căn phòng trong thứ hào quang lấp lánh Simon ngoảnh đầu sang bên, chơp chớp mắt. “Ối.”

Jace tặc lưỡi. Anh đang đứng trên một chiếc hộp dán kín, tay giơ cao. Thứ gì đó phát sáng trong lòng bàn tay anh, ánh sáng lọt qua kẽ những ngón tay khum khum. “Đèn phù thủy đấy,” anh nói.

Simon lầm bầm gì đó. Clary đã đang bước qua những cái hộp, len tới chỗ Jace. Anh đang đứng sau chồng sách truyện huyền bí xiên xẹo, ngọn đèn phù thủ phả vầng sáng kỳ quái trên mặt anh. “Nhìn kia kìa,” anh nói và chỉ vào chỗ cao cao trên tường. Lúc đầu cô cứ nghĩ anh đang chỉ vào thứ giống như cặp giá nến trang trí. Khi mắt đã thích ứng, cô nhận ra đó thực ra là những cái vòng sắt nối những sợi xích ngắn, một đầu xích ghim sâu trong tường. “Chúng là...”

“Cùm,” Simon vừa nói vừa len lỏi qua những cái hộp. “Cái đó, ờ...”

“Đừng nói là ‘kích dâm’ nhé.” Clary ném cho cậu cái nhìn cảnh cáo. “Chúng ta đang nói về chú Luke đấy.”

Jace vươn tay sờ mặt trong một trong hai vòng kim loại. Khi anh hạ tay xuống, những ngón tay anh phủ đầy bụi màu đỏ nâu. “Máu. Và nhìn xem.” Anh chỉ bức tường chung quanh sợi xích; vữa chừng như trồi ra. “Có người cố giật những thứ này tung ra khỏi tường. Cố gắng khá mạnh, theo như cho thấy.”

Tim Clary bắt đầu đập dồn dập trong lồng ngực. “Anh nghĩ chú Luke ổn chứ?”

Jace hạ ngọn đèn phù thủy xuống. “Anh nghĩ chúng ta nên tìm hiểu xem đã.”

Cánh cửa dẫn vào căn hộ không khóa. Cửa dẫn vào phòng khách nhà chú Luke. Dù ngoài hiệu sách đã có tới cả trăm cuốn, bên trong nhà còn cả trăm cuốn khác nữa. Những giá sach chạm tới tận trần nhà, cuốn nọ nối cuốn kia, hàng này nối hàng khác. Hầu hết là thơ và truyện khoa học viễn tưởng, bên cạnh đó còn có khá nhiều truyện giả tưởng và huyền bí. Clary nhớ mình ngốn ngấu hết bộ Biên niên sử Prydain tại nơi này, cuộn mình trên ghế ngồi cạnh cửa sổ nhà chú Luke trong khi mặt trời dần dần khuất xuống dòng sông Đông.

“Mình nghĩ chú ấy ở quanh đây,” Simon gọi lớn, đứng ở ngưởng cửa dẫn vào gian bếp nhỏ. “Bình pha cà phê vẫn bật và có cà phê nữa. Vẫn còn nóng.”

Clary nhìn qua cửa nhà bếp. Đĩa bẩn chât đầy trong chậu. Những chiếc áo khoác của chú Luke treo gọn gàng trong tủ áo khoác. Cô đi vào hành lang và mở cửa phòng ngủ nho nhỏ của chú. Căn phòng vẫn như cũ, giường phủ ga xám cùng mấy cái gối kê không được thu dọn, mặt bàn giấy để đầy tiền xu lẻ. Cô quay người đi. Một phần trong cô đã chắc chắn rằng khi đi vào đây, họ sẽ thấy nơi này bị xới tung, chú Luke bị trói, bị thương hoặc còn tệ hơn nữa. Giờ cô không biết mình nghĩ gì nữa.

Cô tê dại băng qua hành lang tới căn phòng ngủ nho nhỏ dành cho khách, nơi cô thường ngủ lại mỗi khi mẹ có việc đi khỏi thành phố. Hai chú cháu thường thức khuya xem những bộ phim kinh dị cũ chiếu trên chiếc TV đen trắng nhấp nháy liên tục. Cô thậm chí còn có một chiếc ba lô đựng vật dụng cá nhân ở đây để không phải vác đồ qua lại.

Clary quỳ xuống, nắm quai ba lô xanh màu ô liu lôi nó ra khỏi gầm giường. Ba lô gắn chi chít huy hiệu, hầu hết đều do Simon cho. GAME THỦ LÀM HAY HƠN. HẦU GÁI OTAKU. VẪN CHƯA PHẢI LÀ VUA. Bên trong ba lô là vài ba bộ quần áo gấp gọn, vài bộ đồ lót, lược, thậm chí là dầu gội. Tạ ơn chúa, cô nghĩ thầm, đưa chân đá đóng cửa phòng ngủ lại. Cô nhanh nhẹn thay quần áo, cởi bộ đồ quá khổ của Isabelle ra – giờ còn dây màu cỏ xanh và ướt nhẹp mồ hôi nữa chứ - rồi mặc vào chiếc quần nhung kẻ của mình, mềm mại như giấy nhàu, cùng chiếc áo thun bó át nách màu xanh da trời in chữ tiến Trung Quốc ở mặt trước. Cô nhét quần áo của Isabelle vào ba lô, kéo khóa, rồi rời khỏi phòng ngủ, chiếc ba lô nảy lên một cách quen thuộc trên hai xương đòn. Thật dễ chịu khi lại có được thứ gì đó thuộc về mình.

Cô thấy Jace trong phòng làm việc ngập sách của chú Luke, đang xem xét chiếc túi xanh nằm tênh hênh trên bàn. Đúng như Simon đã nói, túi này chứa đầy vũ khí – những con dao còn nằm trong vỏ, cuộn roi da, và một thứ giống như cái đĩa kim loại sắc như dao cạo.

“Chakhram đấy,” Jace nói, ngước mắt lên khi Clary bước vào phòng. “Một vũ khí của người Sikh. Em xoay chúng trên ngón trỏ trước khi phóng đi. Chúng rất hiếm và khó dùng. Lạ là chú Luke lại có chúng. Chúng từng là vũ khí tự chọn của bác Hodge đấy, thời trước kia. Hay đó là những gì bác kể.”

“Chú Luke sưu tập nhiều thứ. Những món đồ nghệ thuật. Anh biết đấy,” Clary nói và chỉ cái giá sau bàn, nơi bày biện đầy những bức tượng đồng từ Ấn Độ và Nga. Cô thích nhất bức tượng Kali, nữ thần hủy diệt của Ấn Độ, đang huơ kiếm và một cái đầu bị chặt trong khi nhảy múa, đầu ngửa ra sau, mắt nhắm chặt. Bên cạnh là tấm bình phong cổ của Trung Hoa, chạm khắc từ gỗ cẩm lai sáng bóng. “Những thứ xinh đẹp.”

Jace vui vẻ bỏ cái chakhram sang bên. Rất nhiều quần áo đổ ra khỏi miệng túi không được cột lại của chú Luke, như thể sau một hồi ngẫm nghĩ, chú đã bỏ chúng ra vậy. “Mà này, anh nghĩ cái này là của em.”

Jace lôi ra một vật hình chữ nhật ẩn trong đống quần áo: một tấm hình lồng trong khung gỗ với vết nứt dài chạy dọc trên mặt kính. Vết nứt tạo ra những đường rạn như mạng nhện lan ra trên khuôn mặt đang cười của Clary, chú Luke và mẹ. “Cái này là của tôi,” Clary vừa nói vừa giật khung hình khỏi tay anh.

“Bị rạn rồi,” Jace nhận xét.

“Tôi biết. Chính tôi – tôi đã đập vỡ nó. Khi tôi ném nó vào quỷ Ravener.” Cô nhìn anh, thấy được sự vỡ lẽ trên mặt anh. “Vậy là chú Luke đã trở lại nhà em sau vụ tấn công. Có thể thậm chí là ngày hôm nay...”

“Hẳn chú ấy là người cuối cùng đi qua Cổng Dịch Chuyển,” Jace nói. “Vì thế cổng mới đưa chúng ta tới đây. Lúc đó em chẳng nghĩ tới gì, nên cổng đã đưa chúng ta tới điểm sau cùng mà nó đến.”

“Thật mừng vì Dorothea đã bảo với chúng ta là chú ở đó,” Clary nói.

“Có thể chú ấy đã trả tiền để bà ta ngậm miệng. Hoặc có lẽ bà ta tin chú Luke hơn tin chúng ta. Điều ấy có nghĩa có thể chú ấy không phải là...”

“Mọi người ơi!” Đó là giọng Simon, hoảng hốt lao vào phòng mà la lên. “Có người tới.”

Clary làm rơi bức hình. “Có phải chú Luke không?”

Simon liếc ra hành lang rồi gật đầu. “Đúng. Nhưng chú không chỉ có một mình – còn có hai người nữa đi cùng.”

“Người à?” Jace sải chân vài bước băng ngang phòng, chõ mắt nhìn qua cửa rồi lầm bầm văng tục. “Pháp sư.”

Clary trố măt. “Pháp sư ư? Nhưng...”

Jace lắc đầu, lùi tránh khỏi cánh cửa. “Có lối vào khác để ra khỏi đây không? Cửa hậu chẳng hạn?”

Clary lắc đầu. Tiếng bước chân trên hành lang giờ đã khá rõ, nện thêm nỗi sợ vào ngực cô.

Jace tuyệt vọng nhìn quanh. Mắt anh dừng lại ở tấm bình phong bằng gỗ cẩm lai. “Trốn ra sau đây,” anh chỉ tay vào đấy. “Ngay lập tức.”

Clary để tấm hình vỡ xuống bàn rồi lỉnh ra sau tấm bình phong, lôi Simon theo. Jace ngay sát sau lưng hai người, thanh stele cầm sẵn trong tay. Anh vừa mới ẩn thân xong thì Clary đã nghe thấy tiếng cửa bật mở, tiếng người bước vào phòng làm việc của chú Luke – rồi những giọng nó. Ba người đang nói. Cô lo lắng nhìn Simon, giờ mặt mũi đã trắng bệch, rồi nhìn Jace, đang cầm thanh stele, theo kiểu hình vuông, trên mặt sau tấm bình phong. Trong khi Clary nhìn chăm chú, hình vuông đó trở nên trong suốt, như một tấm kính. Cô nghe thấy tiếng Simon hít hơi vào – âm thanh nhỏ xíu, khó nghe rõ – thế mà Jace lắc đầu nhìn hai người, miệng mấp máy: Họ không thể nhìn thấy chúng ta qua chỗ này, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy họ.

Clary bặm môi, dịch chuyển đến rìa ô vuông mà nhìn ra, cảm nhận được hơi thở của Simon phả xuống cổ mình. Cô có thể nhìn thấu toàn bộ căn phòng ngoài kia: những giá sách, bàn giấy có cái túi nằm vắt ngang qua – và chú Luke, trông thảm hại và hơi lòm khòm, kính đẩy lên trên đỉnh đầu, đang đứng gần cửa. Thật đáng sợ kể cả khi cô biết chú không thể nhìn thấy cô, rằng ô cửa sổ Jace tạo ra giống kính trong phòng thẩm tra tại đồn cảnh sát: kính một chiều.

Chú Luke quay người, nhìn ra sau qua lối cửa. “Đúng, cứ thoải mái tìm đi,” chú nói, giọng sặc mùi mỉa mai. “Thật mừng khi hai người lại hứng thú tới vậy.”

Một tiếng chậc lưỡi nho nhỏ vang lên từ góc phòng. Với một cú vẫy cổ tay nóng nảy, Jace vỗ vào khung cái “cửa sổ” của mình, mở nó rộng ra hơn, cho thấy thêm toàn cảnh căn phòng. Có hai người đàn ông đứng đó cùng chú Luke, cả hai đều mặc áo chùng đo đỏ, mủ trùm kéo ra sau. Một người gầy, để ria xám tỉa tót đẹp mắt cùng chòm râu chằm nhọn đầu. Khi cười, hắn lộ ra hàm răng trắng sáng lóa mắt. Người còn lại đô con lực lưỡng như đô vật, mái tóc đỏ cắt sát da đầu. Da hắn màu tím đen, hai bên gò má bóng loáng, như thể bị căng quá mức.

“Những người đó là pháp sư ư?” Clary thì thầm khe khẽ.

Jace không trả lời. Toàn thân anh căng thẳng, cứng đơ như một thanh sắt. Anh ấy sợ mình sẽ bỏ chạy đi, cố tới chỗ chú Lukeđây mà, Clary nghĩ. Cô ước gì có thể làm anh yên tâm rằng mình sẽ không làm vậy. có gì đó về hai gã đàn ông kia, trong hai cái áo chùng dày cui mang màu đỏ máu, thật đáng sợ.

“Không,” anh thì thào. Người anh trắng bệch như một bóng ma. “Thợ Săn Bóng Tối. Trong áo chùng của pháp sư.”

“Cứ coi đây lần theo dõi nhắn lại thân thiện đi, Graymark,” người đàn ông ria xám nói. Nụ cười của hắn phô ra hàm răng sắc đến mức trong như thể chúng được mài dũa để ăn thịt người.

“Anh chẳng có gì là thân thiện hết, Pangborn.” Chú Luke ngồi xuống cạnh bàn, áng mình để người chú chắn đi tầm nhìn của hai gã đàn ông kia về phía cái túi xanh và mọi vật dụng trong đó. Giờ khi chú ở gần hơn, Clary thấy rằng mặt và tay chú bị bầm dập ghê gớm, những ngón tay trầy xước và chảy máu. Một vết cắt dài dọc xuống cổ và biến mất sau cổ áo. Chuyện quái quỷ gì xảy ra với chú đây?

“Blackwell, đừng chạm vào... nó quý lắm đấy,” chú Luke nghiêm nghị nhắc.

Gã đàn ông to lớn tóc đỏ, vừa cầm lên bức tượng nữ thần Kali ở trên nóc giá sách, trầm ngâm vuốt những ngón tay to tướng dọc bức tượng. “Đẹp,” hắn nói.

“À,” Pangborn lên tiếng, giật tượng khỏi tay người bạn đồng hành. “Đây người được sinh ra để chiến đấu với con quỷ mà cả thần lẫn người đều không giết được. Ôi, Kali, đức mẹ của niềm vui! Người vợ đẹp tuyệt trần củaShiva toàn năng, vũ công của mọi vũ công. Người nhảy điệu múa của muôn điệu múa, và chúng con chẳng là gì, ngoài những món đồ chơi tầm thường của Người.”

“Hay lắm,” chú Luke nói. “Thế mà tôi không biết anh là sinh viên khoa truyền thuyết Ấn Độ cơ đấy.”

“Mọi truyền thuyết đều là sự thực,” Pangborn nói, và Clary thấy cơn lạnh chạy dọc xương sống. “Hay là ảnh cũng quên mất điều đó rồi?”

“Tôi chẳng quên gì cả,” chú Luke đáp. Dù chú trông có vẻ thư giãn, nhưng Clary nhận ra sự căng thẳng qua vai và khóe môi chú. “Tôi đoán là Valentine cử các anh tới phải không?”

“Phải,” Pangborn nói. “Ngài ấy nghĩ biết đâu anh đã nghĩ lại.”

“Tôi chẳng việc gì phải nghĩ lại cả. Tôi đã nói là tôi chẳng biết gì rồi. À mà áo choàng đẹp đấy.”

“Cám ơn,” Blackwell nói kèm một nụ cười quỷ quyệt. “Tôi lột xác hai pháp sư để làm đấy.”

“Những cái này là áo choàng chính thức của Accord, đúng không? Chú Luke hỏi. “Từ vụ Nổi Loạn ấy à?”

Pangborn khe khẽ tặc lưỡi. “Chiến lợi phẩm.”

“Các anh không sợ có người sẽ nhầm anh với thứ thật sao?”

“Không,” Blackwell đáp, “trừ khi họ tới gần.”

Pangborn nghịch nghịch đuôi áo. “Anh còn nhớ vụ Nổi Loạn không, Lucian?” hắn nhẹ nhàng hỏi. “Một ngày vừa vĩ đại vừa kinh khủng. Anh còn nhớ chúng ta được huấn luyện thế nào cho trận chiến không?”

Mặt chú Luke rúm lại. “Quá khứ mãi là quá khứ. Tôi không biết phải nói gì với các quý ngài đây nữa. Tôi không thể giúp các vị rồi. Tôi chẳng biết gì cả.”

“Chẳng gì cả là một từ chung chung quá, thật không rõ ràng,” Pangborn nói, nghe có vẻ u uất. “Chắc chắn một người sở hữu nhiều sách thế này phải biết gì đó.”

“Nếu anh muốn biết chỗ tìm nhạn móng rẽ vào mùa xuân, tôi sẽ chỉ cho anh tựa sách tham khảo phù hợp. Nhưng nếu anh muốn biết Cốc Thánh đã biến mất đi đâu...”

“Biến mất có lẽ không phải từ đúng cho lắm,” Pangborn gừ gừ. “Bị giấu thì đúng hơn. Bị Jocelyn giấu.”

“Có thể,” chú Luke nói. “Vậy cô ấy vẫn chưa khai ra nó ở đâu à?”

“Cô ta vẫn chưa tỉnh,” Pangborn ngoáy ngó những ngón tay dài ngoằng. “Valentine rất thất vọng. Ngài rất mong chờ sự đoàn tụ này.”

“Tôi chắc chắn cô ấy sẽ không đáp lại tình cảm đó,” chú Luke lầm bầm.

Pangborn cười khúc khích. “Ghen phải không, Graymark? Có lẽ anh không còn cảm nhận cô ta theo kiểu anh đã từng nữa rồi.”

Cơn run rẫy đã chớm bắtđầu từ những ngón tay của Clary, run quá đỗi khiến cô phải đan chặt tay lại giữ cho tay không lật bật. Jocelyn à? Có phải họ đang nói về mẹ mình không?

“Thật ra, tôi chưa từng có cảm nhận kiểu gì với cô ấy cả,” chú Luke nói. “Hai Thợ Săn Bóng Tối, bị trục xuất khỏi đồng loại, anh có hiểu vì sao chúng tôi có lẽ giao du với nhau. Nhưng tôi không định can thiệp vào kế hoạch Valentine dành cho cô ấy, nếu đó là điều hắn lo.”

“Tôi không nói là ngài ấy lo lắng đâu,” Pangborn nói. “Tò mò thì đúng hơn. Chúng tôi đều tự hỏi liệu anh có còn sống không. Có còn nhìn ra giống người không.”

Chú Luke nhướn mày. “Và?”

“Có vẻ anh vẫn khỏe mạnh,” Pangborn nói một cách miễn cưỡng. Hắn trả bức tượng thần Kali về giá sách. “Có một đứa nhỏ, phải không nhỉ. Một bé gái.”

Chú Luke có vẻ giật mình. “Hả?”

“Đừng giả ngốc nữa,” Blackwell gầm ghè. “Chúng tôi biết con quỷ cái đó có con. Họ tìm thấy những tấm hình của con nhóc trong nhà cô ta, trong phòng ngủ...”

“Tôi tưởng các anh đang hỏi về con tôi,” chú Luke ngắt lời một cách trơn tru. “Đúng, Jocelyn có một cô con gái. Clarissa. Tôi đoán là con bé trốn rồi. Valentine bảo các anh đi tìm con bé hả?”

“Không phải chúng tôi,” Pangborn nói. “Nhưng ngài ấy đang tìm.”

“Chúng ta có thể soát chỗ này,” Blackwell nói thêm.

“Theo tôi thì các anh không nên,” chú Luke nói rồi trượt khỏi bàn. Cái nhìn của chú vào hai gã kia có vẻ tàn nhẫn lạnh lùng nhất định, dù vẻ mặt chú không thay đổi. “Làm sao các người nghĩ con bé còn sống chứ? Tôi nghĩ Valentine đã sai quỷ Ravener tới dọn sạch chỗ đó rồi. Với độc Ravener đủ liều, hầu hết mọi người sẽ tan thành cát bụi, chẳng để lại lấy một dấu vết.”

“Có một con quỷ Ravener đã chết,” Pangborn nói. “Thế nên Valentine mới nghi ngờ.”

“Mọi chuyện đều khiến Valentine nghi ngờ,” chú Luke bảo. “Có lẽ Jocelyn đã giết nó. Cô ấy chắc chắn có đủ khả năng.”

Blackwell gầm gừ. “Có lẽ.”

Chú Luke nhún vai. “Nghe này, tôi không biết con bé ở đâu, nhưng dù vì lý do gì đi nữa, tôi cũng nghĩ con bé chết rồi. Nếu không, giờ nó đã quay về nhà. Hơn nữa, con bé cũng chẳng gây nhiều nguy hiểm. Nó mới mười lăm tuổi, chưa từng nghe về Valentine, và không tin có quỷ.”

Pangborn tặc lưỡi. “Một đứa nhỏ may mắn.”

“Không còn may mắn nữa rồi,” chú Luke nói.

Blackwell nhướn lông mày. “Anh nghe có vẻ giận dữ đấy Lucian.”

“Tôi không giận, tôi chỉ cáu thôi. Tôi không định can thiệp vào kế hoạch của Valentine, các anh có hiểu không? Tôi không ngốc.”

“Thật sao?” Blackwell nói. “Thật mừng vì thấy anh đã gầy dựng được sự tôn trọng đúng mực với đồng loại anh sau từng ấy năm, Lucian ạ. Trước đây anh không phải luôn biết người biết ta như thế.”

“Anh biết là,” Pangborn nói, giọng trao đổi, “rằng chúng tôi sẽ đổi ả, Jocelyn ấy, lấy Cốc Thánh chứ? Sẽ được giao hàng an toàn, tới tận cửa nhà anh. Đó là lời hứa của chính Valentine.”

“Tôi biết,” chú Luke nói. “Tôi không có hứng. Tôi không biết chiếc Cốc quý báu của các anh ở đâu, và tôi không muốn dính vào trò chính trị của các anh. Tôi ghét Valentine,” chú nói thêm, “nhưng tôi tôn trọng hắn. Tôi biết hắn sẽ gạt bỏ bất cứ ai dám ngáng đường. Tôi là tôi sẽ tránh ngay khi chuyện đó xảy đến. Hắn là một con quái vật – một cỗ máy giết người.”

“Nghe xem ai đang nói kìa,” Blackwell gầm gừ.

“Theo tôi hiểu thì đây là những thứ do anh chuẩn bị để tránh khỏi đường của Valentine ấy phỏng?” Pangborn nói, ngón tay dài ngoằng chỉ vào cái túi được che chắn một nữa trên bàn. “Trốn khỏi thị trấn, phải không Lucian?”

Chú Luke chậm rãi gật đầu. “Sẽ về nông thôn ở. Tôi lên kế hoạch ở ẩn một thời gian.”

“Chúng tôi có thể ngăn anh,” Blackwell nói. “Bắt anh ở lại.”

Chú Luke mỉm cười. Nụ cười đã thay đổi khuôn mặt chú. Đột nhiên chú không còn là người đàn ông hiền hậu, học thức đã từng đẩy xích đu cho Clary trong công viên và dạy cô đi xe ba bánh nữa. Đột nhiên trong ánh mắt chú ánh lên tia nhìn nguy hiểm, hoang dã và lạnh lẽo. “Anh cứ việc thử.”

Pangborn liếc nhìn Blackwell, tên này lắc đầu một cái, thật chậm rãi. Pangborn quay lại Luke. “Anh sẽ báo ngay cho chúng tôi nếu đột nhiên nhớ ra gì nhé?”

Chú Luke vẫn cười. “Anh sẽ là người đầu tiên tôi báo.”

Pangborn gật đầu cái rụp. “Tôi nghĩ chúng ta nên đi thôi. Thiên Thần sẽ bảo vệ anh, Lucian.”

“Thiên thần không bảo vệ những người như tôi,” chú Luke nói. Chú cầm cái túi lên và đóng lại. “Đi nhé, các quý ngài?”

Kéo mũ lên che mặt lại, hai gã đàn ông rời khỏi phòng, một lát sau chú Luke đi theo. Chú dừng lại trước cánh cửa, liếc nhìn quanh như để xem có quên gì không. Đoạn chú cẩn thận đóng lại.

Clary ở nguyên tại chỗ, chết trân, nghe tiếng cửa đóng lại rồi tiếng khóa lách cách xa xa khi chú Luke khóa ổ khóa to lại. Cô vẫn nhìn thấy cái vẻ mặt chú Luke khi nãy, nhớ tới nhơ lui, khi chú nói chú không hứng thú gì với chuyện xảy ra cho mẹ cô.

Cô cảm nhận một bàn tay đang đặt lên vai mình. “Clary này?” Là Simon, giọng hơi ngần ngừ, gần như êm dịu. “Cậu ổn không?”

Cô lắc đầu, câm lặng. Cô còn lâu mới ổn. Thật ra, cô có cảm giác không bao giờ còn ổn được nữa.

“Tất nhiên là không ổn rồi.” Đó là giọng Jace, lạnh như băng đá. Anh nắm lấy tấm bình phong và đẩy mạnh sang bên. “Ít nhất giờ chúng ta đã biết ai sai khiến con quỷ đuổi theo mẹ em. Những tên kia nghĩ mẹ em giữ chiếc Cốc Thánh.”

Clary cảm thấy môi mình mỏng thành đường kẻ mảnh. “Chuyện đó hoàn toàn lố bịch và không có khả năng.”

“Có thể,” Jace nói và dựa vào bàn chú Luke. Anh nhìn thẳng vào cô bằng đôi mắt mờ đục như kính trong khói. “Trước đây em đã gặp qua mấy tên ấy chưa?”

“Chưa.” Cô lắc đầu. “Chưa bao giờ.”

“Có vẻ chú Lucian quen biết họ. Từng thân thiết với họ.”

“Tôi sẽ không gọi đấy là thân thiết đâu,” Simon nói. “Tôi thấy họ đang kiềm chế sự thù địch ấy chứ.”

“Chúng không giết chú ấy ngay tại chỗ,” Jace nói. “Chúng nghĩ chú ấy biết nhiều hơn những điều chú ấy nói.”

“Có lẽ vậy,” Clary nói, “hoặc có thể chúng chỉ ngại chưa dám giết thêm một Thợ Săn Bóng Tối nữa.”

Jace cười to, một âm thanh khàn khàn, gần như là hằn học khiến long tay Clary dựng đứng. “Anh nghi lắm.”

Cô khó chịu nhìn anh. “Sao anh dám chắc chắn đến thế chứ? Anh biết họ sao?”

Tiếng cười biến mất hoàn toàn khi anh đáp lời cô. “Anh có biết họ không à?” anh nhắc lại. “Em có thể nói vậy. Đấy là những kẻ đã giết bố anh.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Phần hai

NHÀN NHÃ THUỘC VỀ THẾ HỆ SAU

Facilis descensus Averni:

Noctes atque dies patet atri ianua Ditis.

Sed gradium revocare superasque evadere ad auras;

Hoc opus, hic labor, est.

- Virgil, The Aeneid

9

HỘI CIRCLE VÀ TÌNH ĐỒNG HỮU

Clary bước tới chạm vào tay Jace và định nói gì đó, bất cứ điều gì – bạn sẽ nói gì với ai đó khi người ấy vừa nhìn thấy những kẻ giết bố mình chứ? Hóa ra sự lưỡng lự của cô chẳng là gì; Jace gạt tay cô ra như thể nó châm vào tay anh. “Chúng ta nên đi thôi,” anh nói, rảo bước khỏi phòng làm việc đi vào phòng khách. Clary và Simon vội vã đuổi theo. “Chúng ta không biết khi nào chú Luke quay lại.”

Họ rời khỏi nhà qua lối hậu, Jace dùng thanh stele khóa cửa lại, rồi cả bọn đi ra con phố im ắng. Mặt trăng như miếng mề đay treo lơ lửng bên trên thành phố, tỏa ánh sáng ngọc trai lên mặt sông Đông. Tiếng dòng phương tiện đi lại trên cầu Williamsburg văng vắng trong không gian ẩm ướt nghe như tiếng cánh đập loạn xạ. Simon lên tiếng, “Có ai muốn nói cho mình biết xem chúng ta đang đi đâu không?”

“Tới tàu tuyến L,” Jace bình tĩnh đáp.

“Anh đùa tôi chắc,” Simon chớp chớp mắt. “Kẻ giết quỷ mà lại đi tàu điện ngầm à?”

“Đi tàu nhanh hơn là lái xe.”

“Tôi cứ nghĩ anh dùng phương tiện di chuyển nào đó hay ho hơn, như xe tải với dòng chữ ‘Mang cái chết tới cho Quỷ’ sơn ngoài chứ, hoặc là...”

Jace không thèm ngắt lời. Clary liếc xéo qua Jace. Đôi lúc, khi mẹ Jocelyn thực sự tức giận chuyện gì đấy hay đang trong tâm trạng buồn bực, mẹ sẽ biểu hiện theo cái cách Clary gọi là “sự bình tĩnh đáng sợ.” Đó là kiểu im lặng khiến Clary nghĩ tới lớp băng lừa thị giác ngay trước khi nó nứt vỡ dưới sức nặng của bạn. Jace đang bình tĩnh đến đáng sợ. Mặt anh trơ trơ vô cảm, nhưng có gì đó đang phừng phừng sau đôi mắt nâu vàng của anh.

“Simon,” cô nói. “Đủ rồi.”

Simon ném cô cái nhìn như thể nói, Cậu ở phe nào thế? nhưng Clary lờ đi. Cô vẫn đang quan sát Jace khi họ rẽ về hướng Đại Lộ Kent. Ánh đèn cầu từ phía sau hắt tới, biến mái tóc anh thành một vầng hào quan không hề có thực. Cô tự hỏi liệu có không phải không khi cô thấy vui vì những kẻ bắt cóc mẹ cô lại là thủ phạm sát hại bố Jace nhiều năm về trước. Ít nhất là bây giờ, anh sẽ phải giúp cô tìm mẹ Jocelyn, dù muốn hay không. Ít nhất bây giờ, anh không thể bỏ cô một mình được.

“Anh sống ở đây á?” Simon đứng ngước nhìn nhà thờ cũ với những ô cửa sổ vỡ và cánh cửa bị niêm phong bằng dải dây vàng của cảnh sát. “Nhưng đây là nhà thờ mà.”

Jace cho tay vào cổ áo và lôi ra chiếc chìa khóa đồng treo trên dây chuyền. Chiếc chìa trông như loại người ta sẽ dùng để mở những chiếc hòm cũ trên gác mái. Clary hiếu kỳ nhìn anh – lúc trước anh đã không khóa cửa khi họ rời Học Viện cơ mà, chỉ kệ cho nó đóng sầm lại thôi. “Chúng tôi thấy sống ở vùng đất thiêng có lợi lắm.”

“Tôi hiểu nhưng, không có ý gì đâu nhé, nơi này tồi tàn quá,” Simon nói, nghi ngại nhìn qua hàng rào sắt uốn bao quanh tòa nhà cổ kính, rác chồng đống trên bậc cấp.

Clary thả lỏng đầu óc. Cô tưởng tượng mình đang cầm một trong những cái giẻ dính nhựa thông của mẹ mà chậm vào quang cảnh trước mặt, lau đi ảo ảnh như thể nó là sơn màu cũ.

Kia rồi: hình ảnh đích thực, tỏa sáng xuyên qua tấm màn ảo ảnh giả tạo như ánh sáng soi thấu qua khung kính tối màu. Cô thấy những tòa tháp của nhà thờ cao vút, ánh sáng nhàn nhạt từ những ô cửa sổ viền chì, tấm bản đồ đồng gắn trên bức tường đá bên cạnh cửa, tên Học Viện khắc lên trên ấy. Cô cố nhìn một lúc trước khi buông hình ảnh ấy đi cùng một tiếng thở dài.

“Là ảo ảnh đấy Simon,” cô nói. “Thực ra không thế này đâu.”

“Nếu đây là ý tưởng về ảo ảnh của cậu, thì mình sẽ phải xem lại việc để cậu hóa trang cho mình đấy.”

Jace tra chìa vào ổ, liếc ra sau nhìn Simon. “Tôi không rõ cậu có ý thức được cái vinh hạnh tôi đang ban cho cậu không nữa,” anh nói. “Cậu là người thường đầu tiên nhất từng được đặt chân vào trong Học Viện.”

“Có lẽ cái mùi hôi khiến những người còn lại tránh xa nơi này.”

“Kệ cậu ấy đi,” Clary nói với Jace, rồi chọc cùi chỏ vô sườn Simon. “Cậu ấy nghĩ gì là nói nấy ngay. Không có đầu lọc.”

“Đầu lọc chỉ dành cho thuốc lá và cà phê thôi mà,” Simon làu bàu khi họ bước vào trong. “Mà tiện đây, đấy là hai thứ mình có thể dùng ngay bây giờ.”

Clary thèm thuồng nghĩ tới cốc cà phê khi cả bọn đi lên những bậc thang đá uốn lượn, trên mỗi bậc đều có khắc một chữ tượng hình. Cô bắt đầu nhận ra vài trong số chúng – chúng trêu ngươi cô như kiểu đôi khi vài từ tiếng nước ngoài nghe loáng thoáng khiến cô ngứa tai vậy, như thể chỉ cần tập trung cao độ hơn là cô có thể moi được nghĩa của chúng.

Clary cùng hai cậu con trai chui vào thang máy và im lặng đi lên. Cô vẫn nghĩ tới cà phê, những cốc cà phê thật lớn mà tới một nữa là sữa mẹ thường pha vào mỗi sáng. Đôi lúc chú Luke mang tới những túi bánh ngọt từ tiệm bánh Golden Carriage ở khu phố Tàu. Vừa nghĩ tới chú Luke là bụng dạ cô lại quặn lại, cảm giác thèm ăn biến đi đâu mất.

Thang máy rít lên rồi dừng lại, và họ một lần nữa bước vào cái hành lang mà Clary vẫn nhớ. Jace cởi áo khoác, ném nó lên chiếc ghế gần đó, và huýt sáo qua kẽ răng. Vài giây sau Church xuất hiện, trườn thấp trên mặt đất, đôi mắt vàng sáng lên trong không gian mờ mờ. “Church,” Jace nói và quỳ xuống gãi đầu con mèo xám. “Alec đâu rồi Church? Bác Hodge đâu?”

Church cong lưng lên kêu meo meo. Jace nhăn mũi, cử chỉ mà trong một số hoàn cảnh khác hẳn Clary sẽ thấy là khá dễ thương. “Họ trong thư viện hả?” Anh đứng dậy, và Church lắc mình, lon ton đi một đoạn ngắn rồi liếc nhìn ra sau. Jace đi theo con mèo như thể đó là điều tự nhiên nhất quả đất, vẫy tay ra hiệu cho Clary và Simon nối đuôi đi theo.

“Mình không thích bọn mèo,” Simon nói, vai va phải vai Clary trong khi họ chen chúc đi trong hành lang hẹp.

“Có vẻ như,” Jace nói, “hiểu rõ tính khí Church, thì chính nó cũng không thích cậu.”

Họ đi qua một trong những hành lang dẫn qua dãy phòng ngủ. Simon nhướn mày. “Vậy chính xác có bao nhiêu người sống ở đây?”

“Đây là một học viện,” Clary nói. “Nơi các Thợ Săn Bóng Tối có thể trú lại khi tới thành phố. Giống như một nơi kết hợp giữa chốn ẩn náu an toàn và cơ sở nghiên cứu ấy.”

“Mình tưởng đây là nhà thờ.”

“Nó nằm trong nhà thờ.”

“Vì điều đó chẳng có gì là khó hiểu cả.” Cô nghe thấy sự lo lắng trong cái cách ăn nói xấc xược của cậu bạn. Thay vì bắt cậu ta ngậm miệng lại, Clary đưa tay xuống nắm tay bạn, đan những ngón tay mình vào những ngón tay lạnh cóng kia. Tay Simon lạnh và ẩm ướt, nhưng cậu vẫn nhẹ nhàng bóp lấy tay cô để tỏ sự biết ơn.

“Mình biết nghe có vẻ kỳ lạ,” cô bình tĩnh nói, “nhưng cậu phải chấp nhận thôi. Tin mình đi.”

Đôi mắt đen của Simon rất nghiêm túc. “Mình tin cậu,” cậu nói. “Mình không tin anh ta.” Cậu liếc xéo Jace, đang đi trước họ vài bước, rõ ràng là đang trò chuyện với con mèo. Clary tự hỏi họ đang nói về chuyện gì. Chính trị chăng? Hay nhạc kịch? Hoặc giá cá ngừ cao ngất ngưởng?

“À, cố thử xem sao,” cô nói. “Giờ anh ấy là người có khả năng tốt nhất để giúp mình tìm mẹ.”

Chút rùng mình thoáng qua Simon. “Mình thấy nơi này sao sao ấy,” cậu thì thào.

Clary nhớ mình đã cảm thấy thế nào khi bước đi trong nơi này vào sáng nay – như thể mọi thứ vừa xa lạ mà vừa thân quen vậy. Với Simon, ở đây chẳng có chút gì thân quen cả, chỉ có cảm giác kỳ lạ, xa cách và thù địch. “Cậu không cần đi cùng mình,” cô nói, dù cô đã tranh cãi với Jace trên tàuđể giành quyền cho Simon đi cùng cô, vì rằng sau ba ngày theo dõi chú Luke, chắc hẳn Simon sẽ biết ít nhiều thông tin hữu dụng một khi cả bọn có dịp phân tích chi tiết.

“Cần chứ,” Simon nói. “Mình cần đi với cậu.” Rồi cậu buông tay cô ra khi họ quành qua lối vào cửa và thấy mìnhđang ở trong bếp. Đó là một căn bếp rộng thênh thang, và không giống phần còn lại của Học Viện, nơi đây tất thảy đều hiện đại, với những quầybếp bằng thép và giá kệ ốp kính đựng hàng dãy bát đĩa sành sứ. Isabelle đang đứng cạnh bếp lò gang màu đỏ, tay đang cầm chiếc muỗng tròn, mái tóc đen kẹp cao trên đầu. Hơi nước đang nghi ngút bốc lên từ nồi, còn nguyên liệu thì bày bừa tứ tung – cà chua, hành tỏi thái nhỏ, những loại rau mùi màu đen đen, mấy đụn pho mát bào, vài củ lạc, một nắm lá ô liu, nguyên một con cá, đôi mắt đờ đẫn trợn ngược.

“Em đang nấu súp,” Isabelle nói và vẫy cái muỗng với Jace. “Anh đói không?” Khi đấy cô mới liếc nhìn ra sau ánh, ánh nhìn tối sầm thu nhận Simon lẫn Clary. “Ôi Chú ơi,” cuối cùng cô thốt lên. “Anh lại mang thêm một người thường nữa tới đây à? Bác Hodge sẽ giết anh mất.”

Simon húng hắng. “Mình là Simone,” cậu nói.

Isabelle lờ tịt cậu ta đi. “JACE WAYLAND,” cô nói. “Giải thích đi.”

Jace đang nhìn con mèo. “Tao đã bảo mày đưa tao tới gặp Alec! Đồ Judas phản phúc!”

Church nằm ngửa ra, rên rừ rừ thỏa mãn.

“Đừng trách Church,” Isabelle nói. “Chuyện bác Hodge định giết anh không phải lỗi của nó.” Cô nàng ném cái muỗng vào nồi. Clary tự hỏi thật sự thì cái thứ súp pha tạp nào lạc – cá – ô liu – cà chua có vị thế nào.

“Anh phải mang cậu ta theo,” Jace nói. “Isabelle – hôm nay anh đã thấy hai kẻ giết bố anh.”

Đôi vai Isabelle đanh lại, nhưng khi quay người sang, cô nàng có vẻ bực bội hơn là ngạc nhiên. “Em đoán cậu ta không phải là một trong hai tên đó chứ phỏng?” cô hỏi, lấy cái muỗng chỉ Simon.

Ngạc nhiên là, Simon không nói gì. Cậu ta đang mải quan sát Isabelle, mất hết hồn vía mà mồm miệng thì há hốc. Dĩ nhiên rồi, Clary nhận ra mà lòng nhói lên khó chịu. Isabelle thuộc đúng tuýp con gái mà Simon thích – cao, quyến rũ và xinh đẹp. Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ đó là mẫu con gái mà ai ai cũng mê thích. Clary thôi không nghĩ về món súp lạc – cá – ô liu – cà chua và bắt đầu băn khoăn rằng chuyện sẽ xảy ra nếu mình ụp cả nồi súp lên đầu Isabelle.

“Tất nhiên là không,” Jace nói. “Em có nghĩ cậu ta còn sống không nếu cậu ta là một trong hai tên ấy?”

Isabelle lạnh nhạt nhìn Simon. “Em cho là không,” cô nàng nói và vô tình làm rơi miếng cá xuống đất. Church ngấu nghiến đánh chén.

“Chẳng trách cu cậu dẫn bọn anh tới đây,” Jace bực tức nói. “Anh không thể tin em lại nhồi nhét cá cho nó. Nó béo quay béo cút ra rồi kia kìa.”

“Nó không béo quay béo cút. Hơn nữa, đám còn lại bọn anh chẳng ai chịu ăn gì sất. Em lấy công thức này từ tay thần nước trong chợ Chelsea. Ông ta bảo món này ngon lắm...”

“Nếu em biết nấu ăn, có thể anh sẽ ăn,” Jace lầm bầm.

Isabelle cứng người, cái muỗng giơ ra đe dọa. “Anh vừa nói cái gì?”

Jace bước tới tủ lạnh. “Anh nói anh định kiếm đồ ăn vặt.”

“Em cũng nghĩ anh nói vậy.” Isabelle quay lại chú ý tới nồi súp. Simon tiếp tục nhìn chằm chằm vào Isabelle. Clary, giận không thể nào lý giải, ném cái ba lô xuống sàn rồi theo Jace tới tủ lạnh.

“Không thể tin được là anh đang ăn,” cô rít lên.

“Không thì anh nên làm gì đây?” anh hỏi bằng cái giọng bình tĩnh tới trêu người.Bên trong tủ lạnh toàn những bịch sữa mà hạn sử dụng kéo ngược đến vài tuần trước, thêm mấy hộp nhựa chứa thức ăn dán mác chữ đỏ: CỦA BÁC HODGE, KHÔNG ĐƯỢC ĂN.

“Chà, bác ấy như kiểu bạn cùng phòng khó tính ấy nhỉ,” Clary nhận xét, trong chốc lát sao lãng đi.

“Cái gì, bác Hodge á? Chỉ là bác ấy muốn các thứ đó có trật tự thôi.” Jace lấy một trong mấy hộp nhựa mà mở ra. “Hừm. Spaghetti.”

“Đừng ăn trước, tý không ăn được đâu,” Isabelle gọi lớn.

“Cái đó,” Jace nói, đá cửa tủ lạnh đóng lại và lấy một chiếc nĩa từ ngăn kéo, “chính xác là điều anh tính làm đây.” Anh nhìn Clary. “Muốn ăn chút không?”

Cô lắc đầu.

“Tất nhiên là không rồi,” anh nói với cái mồm đầy thức ăn, “em đã ăn hết đĩa sandwich cơ mà.”

“Cũng đâu có nhiều sandwich đến thế đâu.” Cô liếc nhìn Simon, cậu chàng có vẻ đã thành công với việc dụ cho Isabelle nói chuyện. “Chúng ta đi tìm bác Hodge được chưa?”

“Có vẻ em cực kỳ muốn thoát khỏi chỗ này.”

“Anh không muốn kể cho bác ấy nghe những gì chúng ta đã thấy à?”

“Anh chưa quyết định nữa.” Jace bỏ cái hộp xuống và trầm ngâm liếm nước sốt spaghetti dính trên đốt ngón tay. “Nhưng nếu em đã muốn đi như thế...”

“Tôi muốn.”

“Được thôi.” Anh trông cực kỳ bình tĩnh, Clary nghĩ bụng, không phải kiểu bình tĩnh đến đáng sợ như lúc trước, mà lại là bình thản hơn thường ngày. Cô tự hỏi anh ta có thường để một chút tâm tính thật sự chui qua vẻ bề ngoài lúc nào cũng cứng cỏi và sáng sủa như lớp sơn mài trên mấy chiếc hộp kiểu Nhật của mẹ cô không.

“Cậu định đi đâu đấy?” Simon ngước nhìn khi họ ra tới cửa. Những lọn tóc đen rơi xuống mắt cậu; sao trông cậu ta u mê đến ngu xuẩn thế nhỉ, Clary khó chịu nghĩ, như thể có ai đó đã dùng cả thanh gỗ xẻ phang mạnh vào gáy cậu ta vậy.

“Đi tìm bác Hodge,” cô nói. “Mình cần nói cho bác ấy chuyện ở nhà chú Luke.”

Isabelle ngước lên. “Vậy anh định nói với bác ấy rằng anh đã gặp mấy tên kia hả anh Jace? Những kẻ đã...”

“Chả biết.” Jace cắt ngang. “Nên giờ cứ giữ mồm giữ miệng giùm cho.”

Cô nàng nhún vai. “Được rồi. Thế anh có quay lại không? Anh có muốn ăn súp không?”

“Không,” Jace đáp.

“Anh có nghĩ bác Hodge muốn ăn chút súp không?”

“Chẳng ai muốn ăn súp đâu.”

“Mình muốn ăn súp,” Simon nói.

“Không, cậu không muốn ăn đâu,” Jace nói. “Cậu chỉ muốn ngủ cùng Isabelle thôi.”

Simon đỏ mặt. “Không đúng.”

“Hãnh diện ghê,” Isabelle thì thào với nồi súp, nhưng cô nàng đang cười khẩy.

“Ồ, đúng đấy,” Jace nói. “Cứ tiến lên mà hỏi cô nàng xem... rồi cô nàng sẽ từ chối và chúng tôi có thể vui vẻ sống tiếp còn cậu thì thối rữa ra trong nỗi ê chề đau đớn.” Anh búng tay. “Nhanh lên nào, nhóc người thường, chúng ta có việc phải làm đấy.”

Simon quay đi, mặt đỏ lựng vì xấu hổ. Clary, người vừa lúc nãy thôi hẳn sẽ thấy hả hê ti tiện, đột nhiên lại thấy giận Jace đùng đùng. “Để cho cậu ấy yên,” cô quát. “Không cần phải ác mồm ác miệng chỉ vì cậu ấy không phải là một kẻ trong đám các người đâu.”

“Một trong đám chúng ta chứ,” Jace nói, nhưng ánh nhìn độc địa đã biến mất khỏi mắt anh. “Anh đi tìm bác Hodge đây. Đi cùng hay không, tùy em.” Cửa bếp đóng sầm sau lưng anh, để Clary ở lại cùng Simon và Isabelle.

Isabelle múc chút súp vào bát và đẩy về phía Simon mà không buồn nhìn. Nhưng mà cô nàng vẫn đang cười cười – Clary có thể cảm nhận được. Súp có màu xanh lá cây sậm, lốm đốm nổi vài thứ màu nâu nâu.

“Mình sẽ đi với Jace,” Clary nói. “Simon...?”

“Mìn sẽ... ở... lại... đây,” cậu lúng búng nói, mắt dán xuống chân.

“Cái gì?”

“Mình sẽ ở lại đây.” Simon ngồi lên chiếc ghế đẩu. “Mình đói.”

“Tốt thôi.” Cổ họng Clary nghẹn lại, như thể vừa nuốt thứ gì đó cực nóng hoặc cực lạnh. Cô quày quả rời khỏi bếp, Church quanh quẩn dưới chân như một cái bóng mờ mờ màu xám.

Trong hành lang, Jace đang xoay xoay thanh thiên đao mấy ngón tay. Anh nhét nó vào túi ngay khi thấy cô. “Em thật tốt bụng khi để cặp uyên ương ở lại.”

Clary cau có nhìn Jace. “Vì sao anh khi nào cũng khốn nạn thế nhỉ?”

“Khốn nạn ư?” Jace trông như sắp cười phá lên.

“Điều anh nói với Simon...”

“Anh đang cố cứu cậu ấy khỏi đau khổ thôi. Isabella sẽ cắt trái tim cậu ta ra và dẫm nát nó dưới gót giày. Đấy là điều cô ta sẽ làm với những cậu con trai như thế.”

“Cô ấy đã làm thế với anh sao?” Clary nói, nhưng Jace chỉ lắc đầu trước khi quay qua Church.

“Bác Hodge,” anh nói. “Và lần này thực sự là bác Hodge nhé. Nếu đưa bọn bao tới bất cứ chỗ nào khác, tao sẽ biến mày thành vợt tennis.”

Con mèo Ba Tư khụt khịt rồi lững thửng đi qua hành lang dẫn đường. Clary, đi sau Jace một chút, có thể nhận ra sự mệt mỏi và căng thẳng đè nặng trên vai Jace. Cô tự hỏi liệu sự căng thẳng có bao giờ rời bỏ anh không. “Jace này.”

Anh nhìn cô. “Gì cơ?”

“Tôi xin lỗi. Vì đã quát anh.”

Anh chậc lưỡi. “Lần nào?”

“Anh cũng quát tôi mà, anh thừa biết chứ.”

“Anh biết,” anh đáp, khiến cô ngạc nhiên. “Có gì đó ở em rất...”

“Đáng ghét phải không?”

“Đáng lo.”

Cô muốn hỏi là anh nói vậy theo ý tốt hay xấu, nhưng lại thôi. Cô quá sợ anh sẽ trả lời theo kiểu đùa đùa cợt cợt. Cô cố nghĩ ra điều khác để nói. “Isabelle luôn nấu cho anh ăn à?” cô hỏi.

“Không, cảm ơn Chúa. Hầu hết thời gian nhà Lightwood ở đây và Maryse – mẹ của Isabelle – nấu cơm cho bọn anh ăn. Mẹ nấu ăn ngon lắm.” Anh có vẻ đang mơ màng, theo cái cách Simon nhìn Isabelle qua nồi súp.

“Vậy sao cô ấy không bao giờ dạy Isabelle nấu ăn?” Giờ họ đang đi qua phòng nhạc, nơi cô thấy Jace chơi dương cầm sáng nay. Bóng tối đã bao phủ dày đặc ở các góc nhà.

“Vì,” Jace nói chậm rãi, “Isabelle không muốn học ấy mà. Con bé chỉ thích và hứng thú với chiến đấu mà thôi. Dù gì thì Izzy cũng xuất thân từ một gia đình nữ chiến binh lâu đời,” anh nói. Trong giọng anh nói, Clary nghe ra chút tự hào. “Con bé là Thợ Săn Bóng Tối giỏi nhất anh từng biết.”

“Vậy sao?” Clary tò mò hỏi. Cô nghĩ tới Isabelle lúc ở Xứ Quỷ, cô nàng tự tin ra sao và cô nàng sử dụng cây roi quất người tóe máu thành thục đến thế nào.

Jace cười khe khẽ. “Không phải Isabelle. Cô ấy là một trong những Thợ Săn Bóng Tối giỏi nhất anh từng biết.”

“Giỏi hơn cả Alec?”

Church, đang bước đi không chút tiếng động phía trước họ qua cảnh tranh tối tranh sáng, đột nhiên ngừng lại và kêu meo meo. Nó phục xuống chân cầu thang kim loại xoắn ốc dẫn lên không gian mờ mịt bên trên. “Vậy là bác ấy ở trong nhà kính,” Jace nói. Clary mất một lúc mới nhận ra anh đang nói với con mèo. “Cũng chẳng có gì ngạc nhiên.”

“Nhà kính á?” Clary nói.

Jace bước lên bậc thang đầu tiên. “Bác Hodge thích trên này lắm. Bác trồng các loại thảo dược, những thứ bọn anh có thể dùng. Hầu hết các loại cây đó chỉ sống ở Idris. Anh nghĩ khu vườn đem đến cho bác ấy chút hương vị quê nhà.”

Clary đi theo. Tiếng giày của cô vang vọng trên những bậc cầu thang kim loại; nhưng tiếng bước chân của Jace thì không. “Anh ta có giỏi hơn Isabelle không?” cô lại hỏi. “Em đang nói tới Alec ấy.”

Anh dừng bước quay lại nhìn xuống cô, đổ người xuống như sắp ngã. Cô nhớ tới giấc mơ của mình: những thiên thần, từ trên trời rơi xuống và bốc cháy. “Giỏi hơn ư?” anh nói. “Trong chuyện giết quỷ ấy à? Không, không hẳn. Cậu ta chưa bao giờ giết một con quỷ nào cả.”

“Thật á?”

“Anh cũng không biết vì sao. Có thể vì cậu ấy luôn muốn bảo vệ Izzy và anh.” Họ đã đi đến đầu cầu thang. Một cánh cửa đôi chạm khắc hình lá và dây leo chào đón họ. Jace huých vai đẩy cửa.

Hương thơm phả vào Clary ngay khi cô đi qua cửa: mùi hương xanh mát, nồng nàn của những thứ đang sinh sôi nảy nở, mùi của đất và rễ cây lớn lên trong đất. Cô cứ nghĩ ngôi nhà kính nhỏ hơn nhiều, có khi chỉ bằng kích thước khu nhà kính đằng sau trường St.Xavier, nơi các học sinh môn sinh học nâng cao trồng đậu, hay thứ gì gì đấy mà họ trồng. Nhà kính ở đây là một khu vực rộng lớn được bao quanh bởi những bức tường kính, trồng dọc tường là những cây mang cành lá xum xuê thở ra nguồn không khí xanh tươi mát mẻ. Còn có những bụi cây trĩu nặng các loại dâu chín mọng, màu đỏ, tím và đen đan xen, cùng những loại cây nhỏ cho những loại quả hình dáng kỳ lạ mà cô chưa từng thấy bao giờ.

Clary hít vào. “Mùi giống như...” Mùa xuân, cô nghĩ, trước khi hơi nóng tràn tới và nghiền nát lá cây thành bộ nhuyễn và làm héo úa rơi rụng bao cánh hoa.

“Mùi quê nhà,” Jace nói, “với anh.” Anh gạt một cành dương sỉ lơ lửng sang bên và chui qua. Clary đi theo.

Nhà kính được sắp đặt như không theo hình mẫu cụ thể nào theo con mắt chưa qua tôi luyện của Clary, nhưng nhìn đi đâu cô cũng thấy muôn vàn màu sắc: những chùm hoa nở rộ màu tím xanh da trời buông dài trên bờ giậu xanh lắt, một dây leo ngoằn ngoèo chi chít chồi non màu vàng cam lóng lánh. Chúng lan ra tới khoảng trống nơi đặt băng ghế đá hoa cương thâm thấp dựa lưng vào thân cây rủ tán lá xanh bạc. Nước sóng sánh trong hồ kè đá. Bác Hodge đang ngồi trên băng ghế, huyền điểu đậu trên vai. Bác đang trầm tư nhìn mặt nước, nhưng lại ngước nhìn lên trời ngay khi họ tới gần. Clary ngước mắt nhìn theo bác và thấy mái nhà kính lóng lánh trên cao như mặt hồ lộn ngược.

“Có vẻ bác đang đợi gì đó,” Jace nhận xét, ngắt chiếc lá trên nhánh cây gần đó mà xoay xoay giữa những ngón tay. Đối với một người có vẻ quá bình thản như anh, Jace có quá nhiều thối quen bồn chồn. Có lẽ anh chỉ thích luôn luôn trong trạng thái vận động.

“Ta chỉ đang mải nghĩ.” Bác Hodge đứng dậy, duỗi dài tay cho Hugo. Nụ cười nhạt dần trên mặt bác khi bác nhìn họ. “Có chuyện gì? Các cháu trông như...”

“Bọn cháu bị tấn công,” Jace nói gọn lỏn. “Bởi Kẻ Lầm Đường.”

“Những chiến bình Lầm Đường à? Ở đây ư?”

“Mộ chiến binh thôi,” Jace nói. “Chúng cháu chỉ gặp một tên.”

“Nhưng Dorothea nói còn có nhiều hơn,” Clary bổ sung.

“Dorothea?” Bác Hodge giơ tay lên. “Sẽ dễ hiểu hơn nếu các cháu kể câu chuyện có đầu có đuôi.”

“Được ạ.” Jace nhìn Clary cảnh cáo, ngăn cô nói trước khi cô kịp mở lời. Sau đó anh kể lại những chuyện xảy ra trong chiều nay, chỉ bỏ lại một chi tiết duy nhất – rằng những người trong nhà chú Luke là những kẻ đã giết chết bố anh hồi bảy năm về trước. “Bạn của mẹ Clary – hay dù chú ấy thực sự là ai – lấy tên Luke Garroway,” Jace kể xong. “Nhưng khi bọn cháu ở trong nhà chú ấy, hai kẻ tự xưng là phái viên của Valentine đã gọi chú ấy là Lucian Graymark.”

“Và tên bọn họ là...”

“Pangborn,” Jace nói. “Và Blackwell.”

Mặt bác Hodge trắng bệch. Đối lập với nước da xám ngắt là vết sẹo trên má nổi bật như sợi dây đỏ cong queo. “Đúng như ta lo sợ,” bác nói, nửa như nói với chính mình. “Hội Circle lại trỗi dậy.”

Clary nhìn Jace xin một lời giải thích, nhưng có vẻ anh cũng bối rối hệt như cô. “Hội Circle?” anh hỏi.

Bác Hodge đang lắc đầu như cố lắc sạch mạng nhện phủ lên trí não. “Đi với ta nào,” bác nói. “Giờ đã tới lúc để chỉ cho các cháu một vài điều.”

Những ngọn đèn ga được thắp sáng trong thư viện, bề mặt các món đồ nội thất bằng gỗ sồi bóng loáng mang vẻ ủ dột như đá quý bị xỉn. Bị bóng tối phủ lên vằn vện, những khuôn mặt thiên thần khắc khổ đỡ lấy chiếc ghế sô pha đỏ, chân co lên, Jace bồn chồn dựa lưng vào tay ghế sô pha bên cạnh cô. “Bác Hodge, nếu bác cần bọn cháu giúp tìm...”

“Không cần đâu.” Bác Hodge từ sau bàn giấy đi ra, phủi phủi bụi dính trên đầu gối. “Ta tìm thấy rồi.”

Bác đang cầm một cuốn sách lớn bọc da nâu. Bác lần giở từng trang một bằng một ngón tay lóng ngóng, đôi mắt chớp chớp sau tròng kính và lẩm bẩm: “Đâu... đâu nhỉ... à, đây rồi!” Bác húng hắng trước khi đọc lớn: “Tôi chấp nhận phục tùng hội Circle cùng những tôn chỉ của hội một cách vô điều kiện... Tôi sẵn sàng hy sinh tính mạng vì hội Circle bất cứ khi nào, để bảo tồn dòng máu thuần chủng của Idris, và vì sự bình yên của thế giới mà chúng ta thề bảo vệ.”

Jace nhăn mặt. “Cái đó ở đâu thế ạ?”

“Nó là lời thề trung thành của Hội Circle của Raziel, hai mươi năm trước,” bác Hodge nói, có vẻ cực kỳ mệt mỏi.

“Nghe ghê ghê,” Clary nói. “Giống như một tổ chức phát xít hay cái gì đại loại thế.”

Bác Hodge bỏ sách xuống. Bác trông có vẻ đau thương và buồn bã tựa như mấy bức tượng thiên thần bên dưới bàn. “Họ là một nhóm,” bác chầm chậm nói, “các Thợ Săn Bóng Tối, đứng đầu là Valentine, nguyện xóa sổ những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm và trả thế giới về trạng thái ‘thuần khiết’ hơn. Kế hoạch của họ là đợi cho những người thuộc Thế Giới Ngầm tới Idris để ký kết Hòa Ước. Các Hòa Ước phải được tái ký kết mỗi mười lăm năm, để duy trì hiệu lực phép thuật,” bác nói thêm, để Clary hiểu. “Thế rồi, Circle lên kế hoạch tàn sát tất cả, những kẻ tay không tấc sắt và không có khả năng phòng vệ. Hành động dã man này, theo họ nghĩ, sẽ châm ngòi chiến tranh giữa loài người và các giống loài khác thuộc Thế Giới Ngầm – một cuộc chiến họ nắm phần thắng.”

“Đó là cuộc Nổi Loạn,” Jace nói, cuối cùng cũng đã nhận ra được trong câu chuyện của bác Hodge một điều quá ư quen thuộc. “Cháu không biết Valentine cùng những kẻ theo đuôi hắn lại có tên cơ đấy.”

“Cái tên đó giờ không thường được nhắc tới,” bác Hodge nói. “Sự tồn tại của họ vẫn còn là sự sỉ nhục với hội Clave. Hầu hết các văn bản nhắc tới họ đều đã bị hủy.”

“Vậy vì sao bác có bản copy của lời thề đó?” Jace hỏi.

Bác Hodge ngần ngừ - chỉ trong một khắc thôi, nhưng Clary nhận ra, và cảm thấy một lường rùng mình e sợ tuy thoáng qua thôi nhưng lại không lý giải được chạy dọc sống lưng. “Bởi vì,” cuối cùng bác nói, “ta đã giúp thảo ra nó.”

Nghe vậy Jace ngước mắt nhìn. “Bác từng ở trong hội Circle.”

“Đã từng. Rất nhiều trong chúng ta từng là thành viên hội đó.” Bác Hodge đang nhìn thẳng phía trước. “Mẹ của Clary cũng vậy.”

Clary giật bắn người như thể bác vừa giáng cho cô một cú bợp tai. “Cái gì ạ?”

“Ta nói...”

“Cháu biết bác đã nói gì! Mẹ cháu hẳn sẽ không bao giờ thuộc về cái hội nào như thế. Một kiểu tổ chức... tổ chức cực đoan.”

“Nó không phải...” Jace mở lời, nhưng bác Hodge xen ngang.

“Ta không nghĩ,” bác nói chầm chậm, như thể từng câu từng từ đều làm đau mình, “là mẹ cháu được lựa chọn gì cả.”

Clary trố mắt. “Bác đang nói gì vậy? Sao mẹ cháu lại không được chọn lựa chứ?”

“Bời vì,” bác Hodge đáp, “mẹ cháu là vợ của Valentine.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


10

THÀNH PHỐ XƯƠNG TRẮNG

Một khoảng im lặng sửng sốt kéo dài trước khi cả Clary và Jace đồng thanh hỏi.

“Valentine có vợ á? Hắn đã kết hôn? Cháu cứ tưởng...”

“Không thể nào! Mẹ cháu sẽ không bao giờ... mẹ chỉ kết hôn cùng bố cháu! Mẹ không có chồng cũ!”

Bác Hodge mệt mỏi giơ hai tay. “Này mấy đứa nhỏ...”

“Cháu không nhỏ nhít nữa.” Clary quay phắt khỏi bàn. “Và cháu không muốn nghe thêm gì hết.”

“Clary,” bác Hodge gọi. Sự da diết trong giọng nói bác nghe thật đau lòng cô từ từ quay lại, nhìn bác từ đầu kia căn phòng. Cô nghĩ thật kỳ lạ làm sao, với mái tóc muối tiêu và khuôn mặt sẹo, trông bác già hơn mẹ cô rất nhiều. Ấy vậy họ từng cùng là “những con người trẻ tuổi,” cùng nhau gia nhập hội Circle, cùng biết Valentine. “Mẹ cháu không...” cô bắt đầu, và lạc giọng đi. Cô không rõ mình biết bao nhiêu về mẹ Jocelyn nữa. Mẹ cô đã trở thành một người xa lạ, một kẻ dối trá, một người che giấu không biết bao nhiêu bí mật. Mẹ còn không làm gì nữa chứ?

“Mẹ cháu đã rời hội Circle,” bác Hodge nói. Bác không tiến tới chỗ cô nhưng vẫn từ đầu này phòng quan sát cô với vẻ tĩnh lặng mắt sát rực của loài chim. “Một khi bọn ta nhận ra những quan điểm của Valentine cực đoan đến mức nào – một khi bọn ta biết hắn sẵn sàng làm những gì – thì nhiều người đã rời bỏ tổ chức. Lucian là người đầu tiên. Đấy là đòn nặng nề giáng vào Valentine. Hai người đấy từng rất thân thiết.” Bác Hodge lắc đầu. “Rồi tới Micheal Wayland. Bố cháu đấy, Jace ạ.”

Jace nhướn mày nhưng không nói gì.

“Nhưng rất nhiều người vẫn trung thành với hắn ta. Pangborn. Blackwell. Nhà Lightwood...”

“Nhà Lightwood ư? Bác nói tới bố Robert và mẹ Maryse?” Jace choáng váng như bị sét đánh trúng. “Bác thì sao? Bác bỏ tổ chức khi nào?”

“Ta không bỏ,” bác Hodge nhẹ nhàng nói. “Nhà Lightwood cũng không... Bọn ta đều sợ, quá sợ những điều hắn có thể làm. Sau vụ Nổi Loạn, những kẻ trung thành như Blackwell và Pangborn đã tẩu thoát. Bọn ta ở lại hợp tác cùng hội Clave. Chỉ điểm cho họ. Giúp họ tìm những kẻ đã đào tẩu. Và vì thế chúng ta nhận được sự khoan hồng.”

“Sự khoan hồng?” cái nhìn của Jace chỉ thoáng qua, nhưng bác Hodge đã nhận thấy.

Bác nói: “Cháu đang nghĩ tới lời nguyền trói buộc ta với nơi này, đúng không? Cháu luôn cho rằng đó là một thứ bùa chú báo thù do một con quỷ hay một tay pháp sư tức tối nào đó ếm. Ta mặc cho cháu nghĩ thế. Nhưng đó không phải là sự thật. Lời nguyền trói buộc ta là do hội Clave đưa ra.”

“Vì đã nằm trong hội Circle ư?” Jace hỏi, mặt vờ vịt kinh ngạc.

“Vì đã không rời khỏi hội đó trước vụ Nổi Loạn.”

“Nhưng nhà Lightwood không bị trừng phạt,” Clary nói. “Vì sao ạ? Họ đã làm những chuyện như bác thôi mà.”

“Trường hợp của họ có tình tiết giảm tội – họ đã kết hôn, họ có con. Mặc dù không phải họ sống tại nơi xa xôi này, xa quêhương mình, là do họ tự chọn đâu. Bọn ta bị đày tới đây, cả bọn ba người – ta nên nói là bốn chứ nhỉ; Alec lúc đó mới là một đứa nhỏ gào khóc inh ỏi khi bọn bác rời khỏi Thành Phố Pha Lê. Họ chỉ được trở về Idris nếu có công vụ, và chỉ trong một thời gian ngắn. Ta thì không bao giờ được. Ta sẽ mãi mãi không còn được thấy Thành Phố Pha Lê nữa.

Jace cứ thế nhìn mãi. Như thể anh đang nhìn người thầy của mình bằng ánh mắt mới, Clary nghĩ, dù người thay đổi không phải là Jace. Anh nói, “Luật có thể khắc nghiệt, nhưng Luật vẫn là Luật.”

“Ta đã dạy cháu vậy,” bác Hodge nói, sự vui vẻ không thật vang lên trong giọng bác. “Và giờ cháu trả lại bài học đó cho ta. Hợp tình hợp cảnh nữa chứ.” Bác nhìn như thể muốn sụm ngồi xuống chiếc ghế gần đó, nhưng dầu vậy vẫn cố đứng cho vững. Trong cái tư thế cứng nhắc ấy thấp thoáng nét gì đó của một chiến binh lúc trước bác đã từng, Clary nhủ thầm.

“Vì sao bác không nói cho cháu biết?” cô nói. “Rằng mẹ cháu kết hôn cùng Valentine. Bác biết tên mẹ cháu...”

“Ta biết mẹ cháu tên là Jocelyn Fairchild, chứ không phải Jocelyn Fray, bác Hodge đáp. “Và cháu lại rất chắc chắn mẹ cháu không có liên hệ gì với Thế Giới Bóng Đêm, nên cháu đã khiến ta tin rằng có thể đó không phải Jocelyn ta biết – và có lẽ chính ta cũng không muốn tin. Không ai mong sự trở lại của Valentine cả.” Bác lại lắc đầu. “Sáng nay khi ta cho mời các Huynh Đệ Thành Phố Xương Trắng, ta không biết mình sẽ có tin gì cho họ,” bác nói. “Khi hội Clave phát hiện có lẽ Valentine đã quay trở lại, rằng hắng đang tìm kiếm chiếc Cốc, thì sẽ có một cuộc náo động ngay. Ta chỉ mong nó không làm xáo trộn gì tới Hòa Ước.”

“Cháu cá Valentine sẽ thích điều đó,” Jace nói. “Nhưng vì sao hắn lại thèm muốn Cốc Thánh vậy chứ?”

Mặt bác Hodge xám xịt. “Không phải quá rõ ràng rồi sau?” bác nói. “Để hắn có thể xây dựng cả một đội quân cho riêng mình.”

Jace có vẻ giật mình. “Nhưng chuyện đó sẽ không bao giờ...”

“Tới giờ ăn rồi!” Là Isabelle, đứng trước ngưỡng cửa thư viện. Cô nàng vẫn cầm muỗng trong tay, dù mái tóc đã tuột khỏi búi và đổ xuống cổ. “Xin lỗi nếu cháu làm phiền,” cô nói, sau khi ngẫm nghĩ một hồi.

“Ôi chúa ơi,” Jace nói, “giờ phút kinh hoàng đã tới.”

Bác Hodge có vẻ cảnh giác. “Ta... Ta... Ta đã ăn sáng quá no rồi,” bác lắp bắp. “À là ăn trưa ấy. Ăn trưa rất no. Ta không thể ăn...”

“Cháu đã đổ nồi súp đi,” Isabelle nói. “Và gọi món ăn Trung Hoa ngoài tiệm dưới phố rồi.”

Jace đứng thẳng dậy và duỗi người. “Tốt. Anh chết đói đây này.”

“Có lẽ ta sẽ ăn một chút,” bác Hodge hiền hậu thừa nhận.

“Hai người nói dối dở tệ hại,” Isabelle đay nghiến. “Nghe này, cháu biết hai người không thích cháu nấu...”

“Vậy thì đừng nấu nữa,” Jace khuyên nhủ. “Em có gọi món thịt lợn mu shu không? Em biết là anh thích món thịt mu shu mà.”

Isabelle ngước mắt nhìn trời. “Có, Ở trong bếp đấy.”

“Tuyệt vời.” Jace lách người qua sẵn đưa tay âu yếm vò tung đầu tóc cô em. Bác Hodge theo bước, dừng lại để vỗ vai Isabelle – rồi bác đi mất, với cái cách cúi đầu ngụ ý xin lỗi khá buồn cười. Có phải Clary thực sự chỉ mới vài phút trước vừa thấy bóng dáng người chiến binh ngày xưa của chính bác không nhỉ?

Isabelle đang nhìn theo Jace và bác Hodge, xoay cái muỗng giữa những ngón tay trắng xanh, đầy sẹo. Clary hỏi, “Anh ấy thực sự vậy hả?”

Isabelle không nhìn cô. “Ai thực sự sao?”

“Jace. Anh ấy thực sự là một kẻ nói dối dở tệ á?”

Giờ thì Isabelle mới đưa mắt nhìn Clary, đôi mắt tối đen to tròn và bỗng chợt suy tư. “Anh ấy không hề biết nói dối. Nhất là trong những chuyện quan trọng. Anh ấy sẽ kể cho cậu nghe những sự thực kinh hoàng, nhưng anh ấy sẽ không nói dối.” Cô dừng lại trước khi lặng lẽ nói thêm: “Đó là lý do vì sao cơ bản cô không nên hỏi anh ấy bất cứ điều gì nếu như cậu không thể chịu đựng được câu trả lời.”

Phòng bếp ấm cúng, ngập tràn ánh sáng và mùi ngòn ngọt mằn mặn của món ăn Trung Hoa. Hương vị đó khiến Clary nhớ nhà, cô ngồi đấy nhìn cái đĩa mì sáng bóng, nghịch tay với nĩa, và cố không nhìn Simon, cậu này đang nhìn Isabelle với vẻ mặt còn đờ đẫn hơn là món vịt chiên giòn nữa.

“À, mình nghĩ chuyện này cũng khá lãng mạn,” Isabelle nói, hút hạt trân châu qua cái ống hút màu hồng to tướng.

“Chuyện gì cơ?” Simon hỏi, ngay lập tức lo lắng.

“Toàn bộ chuyện mẹ Clary lấy Valentine ấy mà,” Isabelle nói. Jace và bác Hodge đã kể hết cho cô nàng nghe, dù Clary thấy cả hai đều bỏ qua đoạn nhà Lightwood từng có mặt trong hội Circle, và những lời nguyền mà hội Clave đã giáng xuống. “Vậy là giờ hắn ta đã từ cõi chết trở về và đang đi tìm mẹ cô ấy. có thể hắn muốn họ trở lại với nhau.”

“Anh hơi nghi ngờ về chuyện hắn cho quỷ Ravener tới nhà Jocelyn chỉ vì muốn họ ‘trở về với nhau’,” Alec, người đã xuất đầu lộ diện khi tới giờ ăn, nói. Không ai thèm hỏi xem anh ta ở đâu, mà anh cũng chẳng nói. Anh đang ngồi cạnh Jace, đối diện với Clary, và đang tránh nhìn cô.

“Nếu là tớ thì tớ sẽ không làm vậy,” Jace đồng tình. “Đầu tiên tớ sẽ gửi kẹo và hoa, sau đó là những lá thư xin lỗi, rồi mới mới tới lũ quỷ đói đó. Theo thứ tự này.”

“Có thể hắn đã gửi hoa và kẹo rồi,” Isabelle nói. “Chúng ta có biết đâu.”

“Isabelle,” bác Hodge kiên nhẫn nói, “đây là kẻ đã gây ra thứ hủy diệt mà Idris chưa bao giờ chứng kiến, kẻ đã châm ngòi cuộc chiến giữa giới Thợ Săn Bóng Tối và Thế Giới Ngầm và khiến máu chảy thành sông trên những con phố của Thành Phố Pha Lê.”

“Nghe cũng hấp dẫn đấy chứ,” Isabelle tranh cãi, “cái thứ tà đạo ấy đấy.”

Simon cố tỏ ra vẻ hăm dọa, nhưng thôi ngay khi thấy Clary nhìn mình. “Vậy vì sao Valentine lại cần Cốc Thánh đến thế, và vì sao ông ta lại nghĩ mẹ Clary có nó?” cậu hỏi.

“Bác nói hắn cần Cốc để có thể tạo nên một đội quân,” Clary quay sang bác Hodge. “Ý bác là vì người ta có thể dùng Cốc Thánh để tạo ra các Thợ Săn Bóng Tối à?”

“Ừ.”

“Vậy Valentine có thể gặp bất cứ ai trên đường và biến người đó thành Thợ Săn Bóng Tối sao? Chỉ nhờ chiếc Cốc?” Simon nhoài người tới. “Việc này có tác dụng được đến cháu không ạ?”

Bác Hodge nhìn cậu cân nhắc một hồi lâu. “Cũng có thể,” bác nói. “Nhưng lý do mà rất ít người thường được chọn được Thăng Cấp và trở thành Nephilim là rất ít người có thể sống sót qua quá trình biến đổi. Những người đó phải có sức mạnh và khả năng phục hồi phi thường. Trước khi có thể biến đổi, họ phải chịu sự huấn luyện và kiểm tra rất khắc nghiệt – nhưng Valentine không chịu làm những chuyện rườm rà đó. Hắn sẽ sử dụng chiếc Cốc trên mọi người thường hắn bắt được, sau đó chọn ra hai mươi phần trăm những kẻ sống sót đó để tạo thành một đội quân cho hắn. Một đội quân hắn có thể sử dụng để tấn công Clave.”

Alec đang nhìn bác Hodge với vẻ bàng hoàng hệt như Clary. “Sao bác biết?”

“Vì,” bác Hodge nói, “đó là dự định của hắn khi còn trong hội Circle. Hắn nói đó là cách duy nhất để xây dựng một đội quân cần thiết để bảo vệ thế giới này.”

“Đó là giết người,” Isabelle nói, có vẻ hơi xanh.

“Hắn nói cả ngàn năm nay chúng ta đã giữ bình yên cho thế giới,” bác Hodge nói, “và giờ là lúc con người phải trả ơn Thợ Săn Bóng Tối bằng chính mạng sống của họ.”

“Bằng mạng sống của họ?” Jace, má đỏ lựng, hỏi. “Điều đó đi ngược lại mọi tôn chỉ về chúng ta. Bảo vệ những kẻ không có khả năng tự vệ, bảo vệ con người...”

Bác Hodge đẩy cái dĩa đi. “Valentine bị điên,” bác nói. “Thông minh, nhưng điên. Hắn chẳng quan tâm tới chuyện gì ngoài chuyện giết quỷ và các giống nòi của Thế Giới Ngầm. Không điều gì ngoài việc khiến thế giới này thanh khiết. Hắn sẵn sàng hy sinh con trai của chính mình vì mục đích đó và không hiểu nổi vì sao những người khác lại không thể.”

“Hắn có con trai ư?” Alec hỏi.

“Ta đang nói theo nghĩa ẩn dụ,” bác Hodge nói và vươn tay lấy khăn tay. Bác dùng khăn lau trán trước khi nhét lại vào túi. Clary nhận thấy tay bác hơi run. “Khi mảnh đất của hắn bị thiêu trụi, khi nhà cửa hắn bị tiêu hủy, người ta cứ tưởng hắn đã tự thiêu chết cùng chiếc Cốc thành tro bụi còn hơn để Clave có được một trong hai. Xương cốt hắn được tìm thấy trong đống tro tàn, cùng với xương cốt vợ hắn.”

“Nhưng mẹ cháu còn sống mà,” Clary nói. “Bà đã không chết trong vụ hỏa hoạn đấy.”

“Và giờ thì, có vẻ Valentine cũng vậy,” bác Hodge nói. “Hội Clave không thích thú gì đâu khi biết họ bị chơi xỏ. Nhưng quan trọng hơn, họ muốn bảo vệ chiếc Cốc. Và quan trọng hơn nữa, họ sẽ muốn chắc chắn rằng Valentine không có nó.”

“Theo cháu thấy thì việc đầu tiên hết chúng ta nên làm là phải tìm ra mẹ Clary,” Jace nói. “Tìm ra cô ấy, tìm ra chiếc Cốc, trước khi Valentine làm được.”

Điều này Clary nghe thấy ổn đấy, nhưng bác Hodge nhìn Jace như thể anh vừa đề nghị tung hứng nitroglycerin lên như một giải pháp. “Hoàn toàn không được.”

“Vậy chúng ta làm gì đây?”

“Chẳng làm gì hết,” bác Hodge nói. “Tất cả chuyện này nên để cho những Thợ Săn Bóng Tối có kỹ năng và kinh nghiệm giải quyết.”

“Cháu có kỹ năng mà,” Jace phẩy tay phản đối. Một chiếc nhẫn bạc lấp lánh trên ngón tay thanh mảnh, một chiếc nhẫn mà Clary không nhớ anh có đeo nó bao giờ. “Và cháu có kinh nghiệm.”

Giọng bác Hodge cứng rắn, gần như theo kiểu cha chú. “Bác biết cháu thế nào chứ, nhưng cháu còn là một đứa trẻ, hoặc gần như thế.”

Jace nheo nheo mắt nhìn bácHodge. Lông mi anh dài, tỏa bóng xuống xương gò má cao. Nếu là ai đó khác thì hẳn đấy là cái nhìn bẽn lẽn, thậm chí là ăn năn hối lỗi, nhưng trên mặt Jace thì cái nhìn đấy trong hẹp hòi độc địa. “Cháu không phải trẻ con.”

“Bác Hodge nói đúng đấy,” Alec lên tiếng. Anh đang nhìn Jace, và Clary nghĩ anh là một trong ít người trên thế giới này dám nhìn Jace không phải như thể sợ Jace, mà là sợ cho Jace. “Valentine rất nguy hiểm. Tớ biết cậu là một Thợ Săn Bóng Tối giỏi đấy. Có thể là người giỏi nhất trong lứa tuổi chúng ta. Nhưng Valentine là người giỏi nhất từ trước tới nay. Cần phải chiến đấu dữ dội lắm mới hạ gục được hắn.”

“Mà hắn cũng có gục hẳn đâu,” Isabelle vừa nói vừa săm soi mấy chiếc răng nĩa. “Rõ ràng là vậy.”

“Nhưng chúng ta ở đây,” Jace nói. “Chúng ta ở đây và vì Hòa Ước, ngoài chúng ta ra thì chẳng có ai. Nếu chúng ta không làm gì...”

“Chúng ta sẽ làm gì đó,” bác Hodge nói. “Tối nay bác sẽ gửi thư cho hội Clave. Họ sẽ phái một đội quân Nephilim tới vào ngày mai nếu họ muốn. Họ sẽ lo liệu việc này. Các cháu đã làm quá đủ rồi.”

Jace im lặng, nhưng đôi mắt lóe sáng. “Cháu không thích như vậy.”

“Cậu không cần phải thích,” Alec nói. “Cậu chỉ cần im mồm và đừng làm chuyện dại dột.”

“Nhưng còn mẹ tôi?” Clary hỏi. “Mẹ không thể đợi cho tay đại diện nào đó của Clave tới được. Valentine đang giữ bà mà – Pangborn và Blackwell nói vậy – và có thể hắn...” Cô không thể nói nổi ra từ tra tấn, nhưng Clary biết cô không phải người duy nhất nghĩ tới từ đó. Đột nhiên không ai trong bàn dám nhìn vào mắt cô.

Trừ Simon, “Làm cô ấy tổn thương,” cậu nói nốt câu của cô. “Ngoại trừ là, Clary này, chúng bảo mẹ cậu đang bất tỉnh và Valentine không vui với chuyện đó. Hình như hắn đang đợi cô ấy tỉnh dậy.”

“Nếu mình là cô ấy, mình sẽ bất tỉnh mãi thôi.” Isabelle lầm bầm.

“Nhưng mẹ tôi cóthể tỉnh dậy bất cứ lúc nào,” Clary nói, chẳng để ý tới Isabelle. “Tôi tưởng hội Clave nguyện bảo vệ con người cơ đấy. Chẳng phải ngay lúc này Thợ Săn Bóng Tối đang có mặt ở đây hay sao? Chẳng phải họ nên tìm kiếm mẹ rồi sao?”

“Sẽ dễ hơn,” Alec quát, “nếu chúng ta có được tí ý niệm là phải tìm từ đâu.”

“Nhưng chúng ta biết mà,” Jace nói.

“Anh biết á?”

Clary nhìn anh, vừa giật mình vừa hăm hở. “Ở đâu?”

“Ở đây.” Jace nhoài người và chạm tay vào thái dương cô, dịu dàng đến mức làm cô đỏ mặt. “Mọi thứ bọn anh cần biết đều bị khóa trong đầu em, dưới những lọn tóc đỏ xoăn xinh đẹp kia.”

Clary đưa tay lên vuốt tóc vẻ như ngăn ngừa. “Tôi không nghĩ...”

“Vậy anh định làm gì đây?” Simon sắc giọng hỏi. “Xẻ đầu cô ấy ra để tìm hả?”

Mắt Jace tóe lửa, nhưng anh bình tĩnh đáp, “Không hề. Các Tu Huynh Câm có thể giúp cô ấy lấy lại trí nhớ.”

“Anh ghét các Tu Huynh Câm cơ mà,” Isabelle phản đối.

“Anh không ghét họ,” Jace thẳng thắn nói. “Anh e ngại họ. Hai khái niệm đó không giống nhau.”

“Tôi tưởng anh bảo họ là thủ thư,” Clary nói.

“Họ là thủ thư.”

Simon huýt sao. “Hẳn phải có phí trả sách trễ cắt cổ đây.”

“Các Tu Huynh Câm là những chuyên viên lưu trữ văn thư, nhưng không phải chỉ là vậy,” bác Hodge ngắt lời, nghe như thể bác đã hết kiên nhẫn. “Để tăng khả năng bộ nhớ, họ đã chọn tác động vào bản thân những chữ rune quyền năng nhất. Quyền năng của những chữ rune lớn đến mức việc sử dụng chúng...” Bác ngừng bặt làm Clary nghe thấy giọng Alec trong đầu mình. Họ tự tra tấn mình. “Ưm, việc sử dụng chúng vặn vọ bóp méo hình thể của họ. Họ không phải những chiến binh theo cách các Thợ Săn Bóng Tối khác. Sức mạnh của họ là từ trí óc, không phải thể xác.”

“Họ có thể đọc ý nghĩ ạ?” Clary lí nhí nói.

“Còn những khả năng khác nữa. Họ thuộc hàng những thợ săn quỷ đáng sợ nhất.”

“Cháu không biết,” Simon nói, “cháu nghe cũng đâu có tệ lắm đâu. Cháu thà có người lục lọi đầu óc mình còn hơn là chặt đầu cháu.”

“Vậy thì cậu còn ngu hơn vẻ ngoài nhỉ,” Jace nói và dành cho Simon cái nhìn khinh bỉ.

“Jace nói đúng đấy,” Isabelle nói và lờ Simon đi. “Các Tu Huynh Câm thực sự quái dị.”

Tay bác Hodge siết chặt cạnh bàn. “Họ rất quyền năng,” bác nói. “Họ đi trong màn đêm và không nói, nhưng họ có thể làm nứt trí óc con người theo cách cháu làm nứt hạt óc chó – rồi để mặc hắn đấy một mình gào thét trong bóng tối nếu như họ muốn.”

Clary trắng bệch, nhìn Jace. “Anh muốn giao tôi cho họ?”

“Anh muốn họ giúp em,” Jace nhoài người qua bàn, gần đến mức để cô thấy được những đốm màu hổ phách tối hơn trong đôi mắt sáng màu. “Có thể chúng ta không cần đi tìm Cốc Thánh,” anh nhẹ nhàng nói. “Có thể hội Clave sẽ làm điều đó. Nhưng những gì trong đầu óc em thuộc về em. Có người đã giấu những bí mật trong đó, những bí mật em không thể nhìn thấy. Không phải em muốn biết sự thực về cuộc đời của chính em à?”

“Tôi không muốn ai chui vào đầu óc tôi cả,” cô yếu ớt nói. Cô biết anh nói đúng, nhưng cứ nghĩ việc giao mình cho những kẻ mà chính những Thợ Săn Bóng Tôi cũng cho là quái dị đủ khiến máu cô lạnh cóng.

“Anh sẽ đi với em,” Jace nói. “Anh sẽ ở cạnh em khi họ làm điều đó.”

“Đủ rồi đấy.” Simon đã đứng dậy khỏi bàn, mặt đỏ gay vì giận. “Tha cho cô ấy đi.”

Alec liếc nhìn Simon như giờ mới để ý tới, đưa tay vén lọn tóc đen khòi mắt và chớp chớp. “Thế cậu người thường này còn làm gì ở đây nhỉ?”

Simon lờ anh ta đi. “Tôi nói, tha cho bạn ấy đi.”

Jace liếc nhìn lại Simon, cái nhìn độc địa ngọt ngào, kéo dài. “Alec nói đúng,” anh nói. “Học viện thề bảo vệ các Thợ Săn Bóng Tối, không phải những anh bạn người thường của họ. Đặc biệt khi họ không biết điều.”

Isabelle đứng dậy và nắm tay Simon. “Em sẽ dẫn cậu ta ra.” Trong một thoáng có vẻ Simon sẽ chống cự lại cô nàng, nhưng cậu bắt gặp ánh mắt của Clary bên kia bàn khi cô khẽ lắc đầu. Cậu đành thôi. Đầu ngẩng cao, cậu để Isabelle đưa ra khỏi phòng.

Clary đứng dậy. “Tôi mệt rồi,” cô nói. “Tôi muốn đi ngủ.”

“Em còn chưa ăn gì...” Jace phản đối.

Cô gạt bàn tay đang giơ ra của anh. “Tôi không đói.”

Ngoài hành lang lạnh hơn trong bếp. Clary dựa người vào tường, kéo áo, giờ đang dính vào ngực cô vì mồ hôi lạnh. Xa xa ngoài hành lang cô thấy Isabelle và Simon đang rời đi, biến mất trong bóng tối. Cô quan sát họ đi trong im lặng, một cảm giác hãi hùng kỳ lạ dâng lên trong bụng. Từ khi nào mà Simon đã trở thành trách nhiệm của Isabelle, thay vì của cô vậy nhỉ? Nếu có điều gì cô học được từ tất cả những chuyện vừa xảy ra, thì đó là ta rất dễ mất đi mọi thứ mà ta hằng tưởng ta sẽ mãi có.

Căn phòng chìm trong sắc vàng và trắng, với những bức tường cao óng ánh như tráng men, và mái nhà, cao cao trên kia, trong veo và lấp lánh như kim cương. Clary mặc chiếc váy nhung xanh lá cây và tay cầm chiếc quạt vàng. Mái tóc cô, búi gọn thành búi có lơi ra mấy lọn loăn xoăn, khiến cô thấy nằng nặng lạ lẫm mỗi khi cô quay lại nhìn về sau.

“Cậu thấy có ai thú vị hơn mình sao?” Simon hỏi. Trong giấc mơ, cậu trở thành một người bạn nhảy điệu nghệ tới lạ kỳ. Cậu dìu cô qua đám đông như thể cô là chiếc lá vàng giữa dòng nước. Cậu mặc toàn đồ đen, như một Thợ Săn Bóng Tối, và sắc màu này chưng ra toàn bộ những nét đẹp của cậu: tóc đen, làn da nâu sáng, răng trắng bóng. Cậu ấy thật đẹp trai, Clary nghĩ, giật mình vì ngạc nhiên.

“Không ai thú vị hơn cậu hết,” Clary nói. “Chỉ là do nơi này thôi. Mình chưa bao giờ thấy nơi nào như nơi này.” Cô lại quay đầu khi họ đi qua đài phun sâm banh: những chiếc đĩa thật lớn, ở giữa là một nàng tiên cá đang dội rượu sáng lấp lánh từ trong bình xuống tấm lưng trần. Mọi người đang rót rượu từ đĩa này, cười đùa và trò chuyện. Nàng tiên cá quay đầu khi Clary đi qua, rồi nhoẻn cười. Nụ cười khoe những chiếc răng trắng ỏn và sắc như răng ma cà rồng.

“Chào mừng tới Thành Phố Pha Lê,” một giọng nói không phải của Simon vang lên. Clary thấy Simon đã biến mất và giờ cô đang khiêu vũ cùng Jace, người mặc toàn đồ trắng, áo may từ chất liệu cô tông mỏng; cô có thể nhìn xuyên qua và thấy những Ấn Ký đen. Trên cổ anh đeo sợi xích đồng, và mái tóc cùng đôi mắt anh óng vàng hơn bao giờ hết; cô nghĩ mình mong mỏi vô cùng được họa ra chân dung của anh bằng loại màu sơn vàng kim bóng mờ mà đôi khi người ta nhìn thấy trong mấy bức thánh họa kiểu Nga.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


“Simon đâu rồi?” cô hỏi khi họ một lần nữa xoay mình quanh đài phun sâm banh. Clary thấy Isabelle ở đó, cùng Alec, cả hai đều khoác trên mình màu xanh quyền quý. Họ đang nắm tay nhau như Hansel và Gretel trong khu rừng tối.

“Nơi này dành cho người sống,” Jace nói. Tay anh lạnh ngắt trên tay cô, và cô để ý tới chúng theo cách chưa bao giờ để ý tới tay Simon.

Cô nheo mắt nhìn anh. “Ý anh là sao?”

Anh nhoài tới gần. Cô có thể cảm nhận đôi môi anh nhột nhạt trên tai cô. Chúng không lạnh chút nào. “Tỉnh dậy đi Clary,” anh thì thầm. “Tỉnh dậy. Tỉnh dậy.”

Cô bật dậy, thở hổn hển, mái tóc bết vào cổ vì mồ hôi lạnh toát. Cổ tay cô bị nắm chặt; cô cố giằng ra, rồi nhận ra người đang giữ cô. “Jace hả?”

“Ừ.” Anh đang ngồi ở mé giường – sao cô leo lên giường được nhỉ? – quần áo xộc xệch và mơ mơ màng màng, tóc tai lộn xộn như mới sáng dậy cùng đôi mắt ngái ngủ.

“Thả tôi ra.”

“Xin lỗi.” Tay anh rời khỏi cổ tay cô. “Em đã cố đánh anh ngay khi anh gọi tên em.”

“Chắc tôi hơi giật mình ấy mà.” Cô nhìn quanh. Cô đang ở trong căn phòng ngủ nhỏ nhắn với đồ đạc bằng gỗ tối màu. Dựa vào ánh sáng lờ mờ lọt qua cửa sổ mở hé, cô đoán giờ mới là bình minh, hoặc vừa qua bình minh một chút. Ba lô của cô dựng ở bên tường. “Tôi vào đây bằng cách nào vậy? Tôi không nhớ...”

“Anh thấy em ngủ gục trong hành lang.” Jace nghe vui vui. “Bác Hodge giúp anh đưa em vào phòng ngủ. Bọn anh nghĩ chắc em thích ở trong phòng dành cho khách hơn trong bệnh xá.”

“Cha. Tôi chẳng nhớ gì cả.” Cô lùa tay vào tóc, hất những lọn tóc xoăn khỏi mắt. “Mà mấy giờ rồi nhỉ?”

“Khoảng năm giờ.”

“Sáng á?” Cô lườm anh. “Tốt hơn là anh nên có lý do chính đáng giải thích cho việc đánh thức tôi dậy.”

“Vì sao, em đang có giấc mộng đẹp hả?”

Cô vẫn còn nghe được dư âm tiếng nhạc vang lên trong tai, cảm nhận được khuyên tai quệt vào má. “Tôi không nhớ.”

Anh đứng dậy. “Một trong các Tu Huynh Câm đã tới để gặp em. Bác Hodge bảo anh tới đánh thức em dậy. Thực ra, bác ấy định đi đánh thức em, nhưng vì giờ mới là năm giờ sáng, anh nghĩ em sẽ bớt gắt ngủ khi có được thứ gì đẹp đẽ để mở mắt ra mà nhìn.”

“Nghĩa là anh ấy à?”

“Chẳng nhẽ còn gì khác?”

“Anh biết là tôi đâu có đồng ý với chuyện này đâu,” cô gắt. “Về Tu Huynh Câm ấy.”

“Em có muốn tìm mẹ không?” Anh hỏi, “Có hay không nào?”

Cô nhìn anh trừng trừng.

“Em chỉ cần gặp Tu Huynh Jeremiah thôi. Chỉ cần thế. Có khi em còn thích anh ta ấy chứ. Anh ta khá hài hước so với một người chẳng nói năng gì.”

Cô ôm lấy đầu. “Đi ra. Đi ra cho tôi thay đồ.”

Cô vung chân xuống ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng anh. Dù chỉ mới bình minh, hơi nóng ẩm thấp đã bắt đầu tích tụ trong phòng. Cô đóng cửa sổ và vào phòng tắm rửa mặt và súc miệng, miệng mồm có vị như giấy cũ.

Năm phút sau, cô xỏ chân vào đôi giày thể thao xanh. Cô đã thay sang quần lửng và chiếc áo phông đen đơn giản. Giá mà đôi chân đầy tàng nhang gầy nhẳng của cô giống đôi chân dài thon và mịn của Isabelle nhỉ. Nhưng không thể. Cô buộc tóc đuôi ngựa rồi đi ra gặp Jace ngoài hành lang.

Church ở đó cùng anh, kêu gào và bồn chồn đi vòng quanh.

“Con mèo sao thế?” Clary hỏi.

“Các Tu Huynh Câm khiến cu cậu lo lắng.”

“Nghe có vẻ như họ làm mọi người lo lắng.”

Jace cười nhẹ. Church meo meo khi họ đi xuống hành lang, nhưng không đi theo. Ít ra những viên đá dày xây nên bức tường nhà thờ vẫn giữ được chút hơi lạnh của ban đêm: hành lang tối và mát mẻ.

Khi họ tới thư viện, Clary ngạc nhiên thấy đèn đóm đã tắt. Thư viện chỉ được chiếu sáng nhờ ánh sáng nhờ nhờ hắt tới qua ô cửa sổ cao cao trên mái vòm. Bác Hodge mặc com lê ngồi sau chiếc bàn lớn, mái tóc muối tiêu phủ màu bàng bạc của ánh bình minh. Trong một thoáng cô nghĩ trong phòng chỉ có mình bác: rằng Jace đang chọc cô. Rồi cô thấy có người đang đi lại trong bóng tranh tối tranh sáng, và cô nhận ra thứ mình tưởng là mảng tối đen hơn kia là một người đàn ông. Một người cao cao mặc áo choàng nặng nề từ cổ tới gót chân, che kín người. Chiếc mũ trùm kéo lên, che đi khuôn mặt. Áo chùng mang màu da dê, và những họa tiết chữ rune phức tạp chạy dọc theo đường viền áo choàng và cổ tay áo trông như được vẽ bằng máu khô. Lông tay và tóc gáy của Clary dựng ngược, râm ran tới phát đau.

“Đây,” bác Hodge nói, “là Tu Huynh Jeremiah của Thành Phố Câm Lặng.”

Người đàn ông tiến tới chỗ họ, cái áo choàng nặng nề lất phất theo bước chuyển động, và Clary nhận ra điều kỳ lạ về người đàn ông này: anh ta di chuyển không phát ra lấy một tiếng động, kể cả tiếng bước chân khẽ nhất. Thậm chí áo choàng, lẽ ra phải kêu sột soạt, cũng im re. Cô gần tự hỏi liệu anh ta có phải ma không – nhưng không, cô nghĩ khi anh ta dừng lại trước mặt họ, và ở anh ta có cái mùi ngòn ngọt kỳ lạ, giống mùi hương trầm và máu, mùi của sự sống.

“Và đây, Jeremiah,” bác Hodge nói và đứng dậy, “là cô gái tôi đã viết trong thư gửi các anh. Clarissa Fray.”

Khuôn mặt ẩn trong mũ trùm từ từ hướng sang cô. Clary thấy lạnh tới đầu ngón tay. “Xin chào,” cô nói.

Không trả lời.

“Ta thấy cháu nói đúng, Jace ạ,” bác Hodge bảo.

“Cháu đã đúng mà,” Jace nói. “Cháu thường xuyên đúng.”

Bác Hodge bỏ qua. “Tôi đã gửi thư cho Clave về chuyện này vào đêm trước, nhưng ký ức của Clary thuộc về Clary. Chỉ cô ấy mới có quyền quyết định muốn xử trí với những thứ trong não bộ của mình bằng cách nào. Nếu cô ấy muốn sự giúp đỡ từ các Tu Huynh Câm, cô ấy phải có được sự lựa chọn ấy.”

Clary không nói gì. Dorothea đã nói có rào chắn trong óc cô, che giấu gì đó. Tất nhiên cô muốn biết nó là gì rồi. Nhưng hình dáng thâm u của người Tu Huynh Câm này quá - ừm, câm lặng. Sự câm lặng bản thân nó dường như tràn ra khỏi anh ta như một cơn thủy triều tăm tối, đen thui và đặc quánh như mực. Nó làm cô lạnh xương.

Khuôn mặt của Tu Huynh Jeremiah vẫn quay về phía cô, nhưng chẳng có gì ngoài bóng tối bên dưới cái mũ trùm. Đây là con gái Jocelyn ư?

Clary hơi thở dốc, lùi lại. Những lời nói vang trong đầu cô, như thể chính cô nghĩ tới nó – nhưng cô không hề.

“Đúng,” bác Hodge nói, và vội nói thêm, “nhưng bố con bé là người thường.”

Không vấn đề gì, Jeremiah nói. Dòng máu của hội Clave vượt trội hơn.

“Vì sao anh gọi mẹ tôi là Jocelyn?” Clary nói, tìm kiếm trong vô vọng một chút khuôn mặt ẩn dưới mũ trùm. “Anh biết mẹ tôi à?”

“Các Tu Huynh giữ hồ sơ về tất cả các thành viên của Clave,” bác Hodge giải thích. “Những ghi chép thấu đáo...”

“Không thấu đáo đến thế đâu,” Jace nói, “nếu họ thậm chí còn không biết cô ấy còn sống.”

Có vẻ cô ấy đã nhờ vào một pháp sư để biến mất. Hầu hết các Thợ Săn Bóng Tối đều khó lòng trốn khỏi Clave. Giọng Jeremiah không có lấy một chút cảm xúc, anh ta nghe như chẳng tán đồng cũng chẳng phản đối hành động của Jocelyn.

“Có điều tôi không hiểu,” Clary nói. “Vì sao Valentine nghĩ mẹ tôi có Cốc Thánh? Nếu mẹ đã mất bao nhiêu công sức để biến mất, như anh nói, vậy sao mẹ còn mang nó theo?”

“Để không cho hắn động tay tới nó,” bác Hodge nói. “Mẹ cháu hơn ai hết hiểu rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu Valentine có được Cốc Thánh. Và bác nghĩ mẹ cháu không tin hội Clave sẽ giữ được nó. Không phải sau khi Valentine từng đánh cắp được nó.”

“Cháu đoán vậy.” Clary không thể giấu sự ngờ vực trong giọng nói. Toàn bộ câu chuyện thật không tưởng. Cô cố vẽ ra hình ảnh mẹ cô chạy trốn trong bóng tối, với chiếc Cốc vàng to tướng nhét trong túi bộ áo liền quần, nhưng không thể hình dung ra được.

“Jocelyn đã quay lưng với chồng khi biết hắn định làm gì với Cốc Thánh,” bác Hodge nói. “Cũng không phải là không có lý nếu cho rằng bà ấy sẽ làm mọi chuyện trong khả năng để chiếc Cốc không rơi vào tay hắn. Hội Clave cũng sẽ tìm mẹ cháu trước tiên nếu họ nghĩ mẹ cháu còn sống.”

“Cháu có cảm giác,” Clary nói hơi cay độc, “rằng chẳng có ai mà Clave nghĩ rằng đã chết, lại chết thật sự cả. Có thể họ nên nghiên cứu thêm về hồ sơ nha khoa.”

“Bố anh đã chết,” Jace nói, cũng cay độc hệt như cô. “Anh không cần xem các báo cáo nha khoa để biết.”

Clary cáu tiết quay sang. “Nghe này, tôi không có ý...”

Đủ rồi, Tu Huynh Jeremiah ngắt ngang. Chúng ta cần tìm hiểu sự thực ở đây, nếu các em chịu kiên nhẫn lắng nghe.

Với cử chỉ nhanh gọn, anh ta giơ hai tay lên kéo mũ trùm ra khỏi mặt. Quên béng đi Jace, Clary cố ngăn mình không khóc thét. Cái đầu của nhân viên lưu trữ thư viện hói rọi, bóng loáng và trắng như quả trứng, hõm đen lại tại nơi từng là mắt. Giờ đôi mắt đã không còn. Môi anh ta bị khâu chéo qua chéo lại bởi những đường đen giống chỉ y khoa. Giờ thì cô đã hiểu Alec muốn nói gì khi dùng từ tra tấn.

Tu Huynh của Thành Phố Câm Lặng không nói dối, Jeremiah nói. Nếu các em muốn sự thực từ tôi, các em sẽ có nó, nhưng đổi lại, tôi cũng cần các em nói thật.

Clary hất hàm. “Tôi cũng không phải là kẻ nói dối.”

Đầu óc không nói dối. Jeremiah tiến tới. Tôi muốn ký ức của em.

Mùi máu và mực thật ngột ngạt. Clary cảm nhận cơn sóng hoảng loạn đang dâng lên. “Đợi đã...”

“Clary.” Đó là bác Hodge, nhẹ nhàng lên tiếng. “Hoàn toàn có khả năng rằng có những ký ức của cháu đã bị chôn vùi hoặc che giấu, những ký ức được hình thành khi cháu còn quá nhỏ không nhận thức về chúng, mà Tu Huynh Jeremiah đây có thể chạm tới. Nó sẽ giúp chúng ta rất nhiều.”

Cô không nói gì, chỉ cắn môi trong. Cô ghét cái cảm giác có người mò vào trong trí óc mình, chạm tới những ký ức quá đỗi riêng tư và bị giấu kín mà ngay cả cô cũng không thể chạm tới được.

“Cô ấy không phải làm điều mà cô ấy không muốn,” đột ngột Jace lên tiếng. “Đúng không?”

Clary ngắt ngang bác Hodge trước khi ông kịp lên tiếng. “Không sao đâu. Tôi sẽ làm.”

Tu Huynh Jeremiah gật đầu cộc lốc, lặng lẽtiến tới cô khiến cô lạnh lưng. “Có đau không ạ?” cô thì thào.

Anh ta không trả lời, nhưng hai bàn tay trắng hẹp đã đưa lên chạm vào mặt cô. Da mấy ngón tay anh ta mỏng như giấy da dê, kín những chữ rune. Cô có thể cảm nhận được quyền năng từ chúng, nhảy lên như tĩnh điện chích vào da cô. Cô nhắm mắt, nhưng kịp thấy sự căng thẳng trên nét mặt bác Hodge.

Những màu sắc xoắn sít sống dậy trên nền bóng tối sau mí mắt. Cô cảm nhận được áp lực, một lực hút trong đầu, tay và chân. Cô nắm chặt tay, chống lại sức nặng, màn đen. Cô cảm giác như mình bị ép vào thứ gì đó cứng và không độ đàn hồi, đang dần bị nghiến nát. Cô nghe tiếng mình thở dốc và đột nhiên lạnh toàn thân, lạnh như mùa đông. Trong thoáng mắt, cô trông thấy con đường đóng băng, những tòa nhà xám xít lừng lững trên đầu, rồi sắc trắng nổ tung châm vào mặt cô những mảnh li ti lạnh buốt...

“Đủ rồi.” Giọng Jace cắt xuyên qua cái lạnh buốt của mùa đông, và những bông tuyết trắng xóa biến mất, một cơn mưa rào những tia lửa trắng tinh. Clary mở choàng mắt.

Từ từ thư viện hiện trở lại – những bức tường toàn những sách, khuôn mặt căng thẳng của bác Hodge và Jace. Tu Huynh Jeremiah đứng bất động, như một bức tượng được khắc những những mực trắng ngà và đỏ. Clary đã nhận thức được cơn đau nhói trên hai bàn tay, cô liếc xuống và thấy những lằn đỏ hằn vào da do móng tay mình bấm vào.

“Jace,” bác Hodge quở trách.

“Nhìn tay cô ấy đi.” Jace chỉ về Clary, cô đang nắm tay lại che đi lòng bàn tay bị thương.

Bác Hodge đặt bàn tay rộng trên vai cô. “Cháu ổn không?”

Cô từ từ cố gật đầu. Sức nặng muốn nghiền nát cô đã biến mất, nhưng cô có thể cảm thấy mồ hôi làm tóc tai ướt nhẹp, làm áo dính chặt vào lưng như băng dính.

Trong trí óc em có một khối chặn, Tu Huynh Jeremiah nói. Các ký ức không thể chạm tới được.

“Khối chặn ư?” Jace hỏi. “Ý anh là cô ấy tự phong tỏa trí nhớ?”

Không. Ý tôi là có người đã dùng thần chú phong tỏa ký ức của cô gái này. Ở đây thì tôi không thể phá vỡ được. Cô gái đây phải tới Thành Phố Xương Trắng và đứng trước hội Đồng Hữu.

“Một thần chú hả?” Clary ngờ vực. “Ai lại phù phép em chứ?”

Không ai trả lời. Jace nhìn qua thầy mình. Anh trông trắng bệch tới lạ lùng, Clary thầm nghĩ, dù đây chính là ý tưởng của anh. “Bác Hodge, cô ấy không phải đi nếu không...”

“Ổn thôi mà.” Clary hít một hơi sâu. Tay cô đau ở nơi móng tay bấu vào, và cô thật sự muốn chui vào một chỗ tối mà nằm nghỉ. “Tôi sẽ đi. Tôi muốn biết sự thực. Tôi muốn biết điều trong đầu mình có những gì.”

Jace gật đầu cái rụp. “Được. Vậy anh sẽ đi cùng em.”

Rời khỏi học viện giống như chui vào một cái túi vải thô vừa nóng vừa ẩm. Không khí ẩm ướt nén xuống thành phố, biến bầu không khí thành một nồi súp đặc sệt bụi bẩn. “Tôi không hiểu sao chúng ta phải đi tách riêng khỏi Tu Huynh Jeremiah,” Clary lầm bầm. Họ đang đứng ở góc ngoài Học Viện. Đường phố vắng tanh, trừ có cái xe chở rác chầm chậm lăn bánh qua tòa nhà. “Sao vậy, anh ta ngại bị bắt gặp đi cùng Thợ Săn Bóng Tối hay sao thế?”

“Các Tu Huynh là Thợ Săn Bóng Tối,” Jace giải thích. Không hiểu sao anh vẫn có vẻ thoải mái dù thời tiết oi nóng. Điều này khiến Clary thật chỉ muốn đánh anh.

“Vậy chắc anh ấy đi lấy xe nhỉ? cô mỉa mai hỏi.

Jace cười toe. “Đại loại thế.”

Cô lắc đầu. “Anh biết không, tôi sẽ thấy yên lòng hơn nếu bác Hodge đi cùng chúng ta.”

“Sao thế, có anh bảo vệ còn chưa đủ à?”

“Đó không phải kiểu bảo vệ tôi cần trong lúc này – mà là người có thể giúp tôi suy nghĩ cơ.” Đột nhiên nhớ ra, cô lấy tay che miệng. “Ối – Simon!”

“Không, anh là Jace,” Jace kiên nhẫn nhắc. “Simon là cái cậu nhóc nhỏ thó mặt chồn với kiểu tóc thấy ghê và gu thời trang thảm hại cơ.”

“Ôi, im đi,” cô trả lời, nhưng là máy móc trả lời hơn là thực tâm cô cảm nhận. “Đáng lẽ tôi phải gọi cho cậu ấy trước khi đi ngủ. Để xem cậu ấy có về nhà an toàn không.”

Jace lắc đầu, nhìn lên bầu trời như thể chúng sắp mở toang để hé lộ nhũng bí mật của vũ trụ. “Với bao nhiêu sự việc xảy ra, em vẫn còn có thời gian lo cho Mặt Chồn hả?”

“Đùng gọi cậu ấy vậy. Cậu ấy không giống chồn.”

“Có thể em đúng,” Jace nói. “Anh đã gặp một hay hai con chồn đáng yêu rồi. Cậu ta giống chuột hơn.”

“Cậu ấy không...”

“Có lẽ cậu ta đang ở nhà nằm dài trong vũng nước dãi của cậu ta rồi. Hãy đợi tới khi Isabelle chán cậu ta và rồi em sẽ phải đi nhặt xác đấy.”

“Isabelle có khả năng chán cậu ấy không?” Clary hỏi.

Jace nghĩ một lúc. “Có,” anh trả lời.

Clary tự hỏi liệu có thể Isabelle thông minh hơn mức Jace đánh giá không. Có thể cô nàng sẽ thực sự nhận ra Simon là dạng con trai tuyệt vời thế nào: vui tính, thông minh, sành điệu ra sao. Có thể họ sẽ hẹn hò. Ý tưởng đó dấy lên trong cô một nỗi sợ hãi vô danh.

Vì đắm chìm trong suy nghĩ, cô mất một lúc lâu mới nhận ra rằng Jace đang nói gì đó với mình. Khi cô chớp mắt nhìn anh, cô thấy một nụ cười nhăn nhở ngoác ra trên mặt anh. “Gì hả?” cô hỏi, không dễ thương chút nào.

“Anh ước gì em thôi cố gắng trong tuyệt vọng để thu hút sự chú ý của anh như thế này,” anh nói. “Ngại lắm.”

“Chẳng còn ý tưởng nào nên mới mỉa mai moi móc chứ gì,” cô bảo.

“Anh chẳng thể đặng đừng. Anh sử dụng sự hóm hỉnh khôn khéo để che giấu nỗi đau đớn bên trong.”

“Nỗi đau đớn của anh sẽ sớm trồi ra ngoài ngay nếu anh không thoát khỏi dòng giao thông này. Anh định để taxi cán chết hử?”

“Đừng vớ vẩn thế chứ,” anh nói. “Chúng ta sẽ không dễ dàng bắt taxi ở khu vực này đâu.”

Như thể được báo hiệu, một chiếc xe màu đen nhỏ với cửa sổ phủ tối màu bình bịch tấp vào lề dừng lại trước Jace, động cơ kêu rì rì. Chiếc ô tô dài, bóng bẩy, gầm thấp như limousine, cửa sổ được thiết kế lồi cong ra ngoài.

Jace liếc nhìn cô; cái nhìn của anh có vẻ hứng khởi, nhưng đồng thời còn gấp gáp nữa. Cô lại nhìn chiếc xe, để đôi mắt thư thái, để cho cường lực của những gì có thật xuyên thủng qua lớp màn ảo ảnh.

Giờ thì chiếc xe trông giống cỗ xe ngựa của nàng Lọ Lem, trừ việc thay vì sơn hồng sơn vàng sơn xanh da trời như một quả trứng Phục Sinh, cổ xe có màu đen tuyền như nhung, đến cả những cửa sổ cũng màu đen. Ngồi trên băng ghế kim loại màu đen của người xà ích là Tu Huynh Jeremiah, đang cầm bộ dây cương trong đôi tay đeo găng. Gương mặt anh ta ẩn dưới mũ trùm của tấm áo choàng màu da dê. Đầu kia dây cương là hai con ngựa, đen sì như khói, đang gầm ghè chồm vó lên trời.

“Vào đi,” Jace nói. Khi cô cứ đứng há hốc mồm mà nhìn, anh nắm lấy tay cô mà đẩy cô bước vào cánh cửa cổ xe đang mở, rồi phóc vào theo sau. Cỗ xe ngựa dợm lăn bánh trước khi anh kịp đóng cửa. Anh ngã ngữa ra sau chiếc ghế tựa – bọc vải nhung lông và nhồi bông xa xỉ - và nhìn cô. “Có người hộ tống riêng em tới Thành Phố Xương Trắng có là gì đâu mà em phải khinh khỉnh thế.”

“Tôi nào có khinh khỉnh. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi không nghĩ... ý tôi là, tôi tưởng đây là ô tô.”

“Cứ thư giãn đi,” Jace nói. “Tận hưởng mùi xe mới đi nào.”

Clary đảo mắt chán chường và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hẳn cô đã nghĩ một con ngựa cùng cỗ xe sẽ không thể di chuyển được trên đường phố Manhattan, nhưng họ lại đang thênh thang đi xuống phố, đà tiến triển không chút âm thanh của họ bị chìm lấp giữa những tiếng còi inh ỏi của tắc xi, xe buýt và những chiếc SUV đang nườm nượp lưu thông trên đại lộ. Phía trước mặt, một chiếc tắc xi màu vàng chuyển làn đường, cắt ngang đà tiến tới của họ. Clary căng thẳng, lo lắng cho những con ngựa – thế rồi cỗ xe ngựa nảy lên khi những con ngựa nhẹ nhàng chạy lên trên nóc ô tô. Cô há hốc miệng. Cỗ xe, thay vì lê đi trên mặt đất, lại đang lướt ngay sau lũ ngựa, nhẹ nhàng và câm lặng lăn qua nóc chiếc taxi và hạ xuống bên kia. Clary nhìn ra sau trong khi cỗ xe hơi nảy lên khi chạm vỉa hè – người tài xế taxi đang hút thuốc và nhìn về phía trước, hoàn toàn không biết gì. “Tôi luôn nghĩ tài xế taxi không để ý tới giao thông, nhưng tới mức này thì quá là nực cười,” cô yếu ớt nói.

“Chỉ vì giờ em nhìn thấy được qua ảo ảnh...” Jace để phần kết câu treo lơ lửng giữa họ.

“Tôi chỉ nhìn được nếu tập trung,” cô nói. “Và mỗi lần như vậy em thấy hơi đau đầu.”

“Anh cá đó là do cái khối chặn trong đầu đấy. Các Tu Huynh sẽ xử lý vụ đó.”

“Rồi sao?”

“Rồi em sẽ thấy thế giới như nó vốn có – mênh mông vô cùng,” Jace nói kèm theo nụ cười khô khốc.

“Đừng trích dẫn Blake với em.”

Nụ cười bớt khô hơn. “Anh không nghĩ là em nhận ra. Em không tạo cho anh ấn tượng là người đọc nhiều thơ văn.”

“Mọi người đều biết câu nói đó nhờ vào ban The Doors.”

Jace nhìn cô không hiểu.

“The Doors ấy. Họ là một ban nhạc.”

“Nếu em đã nói vậy,” anh nói.

“Tôi đoán anh không có nhiều thì giờ nghe nhạc nhỉ,” Clary nói, nghĩ tới Simon, người mà âm nhạc là cả cuộc đời, “vì tính chất công việc.”

Anh nhún vai. “Thi thoảng anh cũng có nghe điệp khúc những tiếng rên rỉ của những kẻ bị nguyền rủa.”

Clary vội liếc qua, để xem anh có đùa không, nhưng anh chẳng biểu lộ thái độ gì hết.

“Nhưng hôm qua anh có chơi dương cầm,” cô nói, “ở Học Viện. Vậy thì anh phải...”

Chiếc xe lại xóc lên. Clary nắm lấy cạnh ghế và nhìn – họ đang lăn bánh trên nóc chiếc xe buýt M1. Từ cao điểm này cô có thể thấy tầng trên của những khu chung cư cổ kính chạy dọc đại lộ, được trang trí tỉ mỉ bằng những máng xối đầu thú và những gờ đắp nổi.

“Anh chỉ chơi linh tinh ấy mà,” Jace nói mà không nhìn cô. “Bố bảo anh phải học chơi một loại nhạc cụ gì đó.”

“Bố anh có vẻ nghiêm khắc nhỉ.”

Giọng Jace đanh lại. “Không hề. Ông ấy nuông chiều anh. Ông dạy anh mọi thứ - sử dụng vũ khí, quỷ học, những truyền thuyết huyền bí, cổ ngữ. Ông ấy cho anh mọi thứ anh muốn. Ngựa, vũ khí, sách, kể cả chim cắt.”

Nhưng vũ khí và sách không hẳn là thứ hầu hết mọi đứa trẻ muốn trong Giáng Sinh, Clary nghĩ trong khi chiếc xe ngựa hạ xuống vỉa hè. “Vì sao anh không nói với bác Hodge rằng anh biết mấy người nói chuyện với chú Luke? Rằng họ là người đã giết bố anh ấy?”

Jace nhìn xuống bàn tay. Đôi tay anh thanh mảnh tỉ mỉ, đôi bàn tay của một nghệ sĩ, không phải của một chiến binh. Cái nhẫn cô đã từng để ý đang sáng lên trên ngón tay. Cô từng nghĩ con trai đẹp mà đeo nhẫn cứ ái ái sao ấy, nhưng không hề. Cái nhẫn bản thân nó khá nặng nề và rắn chắc, làm từ bạc có sắc hun đen, mang họa tiết hình sao bao quanh thân nhẫn. Chữ W được chạm khắc trên đó. “Vì nếu vậy,” anh nói, “bác ấy sẽ biết anh muốn tự tay giết chết Valentine. Và bác sẽ không bao giờ cho anh cơ hội đó.”

“Ý anh là anh muốn giết hắn để trả thù?”

“Để đòi lại công bằng,” Jace nói. “Anh chưa bao giờ được biết ai đã giết chết bố anh. Giờ anh đã biết. Đây là cơ hội của anh để đòi lại công bằng.”

Clary không hiểu vì sao giết một người lại có thể đòi lại công bằng cho một người đã khuất, nhưng cô nhận thấy nói ra cũng chẳng ích gì. “Nhưng anh biết ai đã giết bố anh cơ mà,” cô nói. “Chính là những kẻ đó. Anh đã nói...”

Jace không đang nhìn cô, nên Clary để giọng mình lạc dần. Giờ họ đang đi qua đoạn đường Astor Place, lách đi trong gang tấc qua đoàn tàu điện màu tím nhạt nho nhỏ của Đại Học New York khi cắt ngang đường tàu. Những người qua đường như bị đè nghiến bởi bầu không khí nặng nề, giống như côn trùng bị ghim dưới tấm kính. Vài nhóm trẻ vô gia cư đang tụ tập dưới chân bức tượng đồng lớn, những tấm biển các tông xin tiền được gấp lại nhô lên trước mặt chúng. Clary thấy một cô gái trạc tuổi mình, đầu cạo trọc lóc, đang dựa vào một cậu con trai da nâu có tóc xoắn lọn dài, mặt bấm chi chít khuyên. Hắn quay đầu khi chiếc xe đi ngang qua như thể trông thấy nó, và cô bắt gặp ánh lóe lên từ mắt hắn. Một trong hai con mắt mờ đục, nom có vẻ không có con ngươi.

“Anh lên mười,” Jace nói. Cô quay sang nhìn anh. Mặt anh vẫn không có chút cảm xúc nào hết. Dường như thể luôn có vài thứ màu sắc rút hết khỏi anh mỗi khi anh nhắc tới bố mình. “Bố con anh sống trong một căn nhà nhỏ ở vùng ngoại ô. Bố thường nói sống xa người ta sẽ an toàn hơn. Anh nghe thấy tiếng bọn chúng lái xe vào thế là anh chạy đi báo với bố. Bố bảo anh trốn đi, thế là anh trốn. Ngay dưới chân cầu thang. Anh thấy những kẻ đó bước vào. Họ đi cùng những kẻ khác. Không phải người. Những kẻ Lầm Đường. Bọn chúng trấn áp bố anh và cắt cổ bố. Máu chảy lênh láng trên sàn nhà. Thấm ướt sũng giày anh. Anh không nhúc nhích.”

Clary mất một lúc mới nhận ra anh đã nói xong, mất thêm chút nữa mới cất lời được. “Tôi thật xin lỗi, Jace ạ.”

Mắt anh sáng lên trong bóng tối. “Anh không hiểu vì sao người thường luôn xin lỗi vì những điều không phải lỗi của họ.”

“Tôi không phải xin bỏ qua lỗi. Đó là cách... thể hiện sự đồng cảm. Để nói rằng tôi lấy làm tiếc vì anh không vui.”

“Anh không hề không vui,” anh nói. “Chỉ có người sống không mục đích mới không vui. Anh sống có mục đích.”

“Ý anh là giết quỷ, hay trả thù cho cái chết của bố?”

“Cả hai.”

“Liệu bố anh thực sự muốn anh giết những kẻ đó? Chỉ để trả thù?”

“Một Thợ Săn Bóng Tối dám ra tay tàn sát những người anh em của mình còn tồi tệ hơn một con quỷ và phải chịu chết như giết một con quỷ.” Jace nói, nghe như đang trích lại lời lẽ trong sách giáo khoa vậy.

“Nhưng có phải tất cả quỷ đều xấu?” cô hỏi. “Ý em là, nếu tất cả ma cà rồng đều không xấu, tất cả người sói đều không xấu, có lẽ...”

Jace quay sang cô, trông cáu tiết. “Không giống nhau đâu em ạ. Ma cà rồng, người sói, kể cả pháp sư, trong họ vẫn mang một phần người. Một phần của thế giới này, sinh ra trongthế giới này. Họ thuộc về nơi đây. Nhưng quỷ dữ đến từ thế giới khác. Chúng là lũ ký sinh liên không gian. Chúng tới một thế giới nào là bóc lột cạn kiệt thế giới đó. Chúng không thể xây dựng, chỉ hủy diệt – chúng không thể tạo ra, chỉ biết sử dụng. Chúng bòn rút một nơi thành tro tàn và khi nơi đó chết đi, chúng sẽ di chuyển tới thế giới khác. Chúng muốn sự sống – không chỉ của anh hay của em, mà là tất cả sự sống trên thế gian, mọi dòng sông và thành phố, đại dương, tất cả của thế gian này. Và thứ duy nhất ngáng giữa chúng và sự hủy diệt tất cả những thứ này đây” – anh chỉ ra ngoài cửa sổ, phẩy tay như ám chỉ mọi thứ trong thành phố, từ những tòa cao ốc tới mớ giao thông đông nghẹt trên đường Houston – “là Nephilim.”

“À,” Clary nói. Dường như chẳng còn gì nhiều khác để nói. “Có bao nhiêu thế giới khác vậy?”

“Không ai biết. Hàng trăm chăng? Có lẽ là hàng triệu.”

“Và tất cả đều – đều là thế giới chết? Đều đã kiệt quệ?” Clary thấy dạ dày chùng xuống, dù đáng ra nó phải nhộn lên khi họ lăn qua trên chiếc Mini tím. “Có vẻ buồn quá nhỉ.”

“Anh không nói vậy.” Ánh sáng cam cam sầm sậm của sương mù thành phố đổ qua ô cửa sổ, viền quanh những đường nét nhìn nghiêng sắc cạnh trên khuôn mặt Jace. “Có thể có vài thế giới sống khác như thế giới của chúng ta. Chỉ có quỷ mới di chuyển giữa những nơi này được. Vì chúng hầu như là phi vật chất, một phần thôi, nhưng không ai biết đích xác vì sao. Rất nhiều pháp sư đã thử, nhưng chưa ai thành công. Không một thứ gì từ Trái Đất có thể đi xuyên qua kết giới giữa các thế giới. Nếu chúng ta có thể,” anh nói thêm, “thì chùng ta đã có thể ngăn không cho chúng tới đây, nhưng chẳng ai biết làm sao để làm được điều đó nữa. Thật ra, càng ngày càng có nhiều quỷ tiến vào đây. Lúc đầu chỉ có những vụ xâm nhập của lũ quỷ nhỏ, rất dễ bị dập tắt. Nhưng ngay lúc này càng lúc càng có nhiều quỷ vượt qua kết giới. Hội Clave phải phái rất nhiều Thợ Săn Bóng Tối, nhưng lắm lần họ không bao giờ trở về.”

“Nhưng nếu các anh có Cốc Thánh, các anh có thể tạo ra nhiều Thợ Săn Bóng Tối hơn, đúng không? Nhiều Thợ Săn Quỷ hơn?” Clary ngập ngừng hỏi.

“Đúng,” Jace nói. “Nhưng đã nhiều năm nay bọn anh đã không giữ Cốc Thánh nữa rồi, trong khi đó rất nhiều người phải chết trẻ. Vì thế số lượng Thợ Săn Bóng Tối càng ngày càng ít.”

“Các anh không, ừm...” Clary cố tìm từ đúng. “Sinh sản được à?”

Jace bật cười ngay khi cỗ xe đột ngột quặt sang trái. Anh ngồi vững vàng, nhưng Clary lại ngã dúi vào anh. Anh đỡ lấy, tay nhẹ nhàng nhưng cương quyết giữ cô cách xa mình. Cô cảm nhận dấu ấn lạnh tanh của chiếc nhẫn nơi tay anh như một lát băng áp lên làn da mướt mồ hôi của cô. “Chắc rồi,” anh nói. “Bọn anh thích sinh sản lắm. Đó là một trong những chuyện bọn anh yêu thích.”

Clary nhích người ra xa, mặt đỏ lên trong bóng tối, và quay đi nhìn ra ngoài cửa sổ. Họ đang lăn về phía cánh cổng sắt uốn nặng nề, những hàng dây leo đen tối đan thành mắt cáo phong kín cổng.

“Chúng ta tới nơi rồi,” Jace tuyên bố khi vòng bánh xe nhẹ nhàng di chuyển trên vỉa hè chuyển sang đoạn đường đá sỏi lạo xạo. Clary thoáng thấy mấy chữ trên cổng vòm khi xe họ lăn bánh bên dưới: NGHĨA TRANG MARBLE THÀNH PHỐ NEW YORK.

“Nhưng người ta đã không chôn cất ở Manhattan từ cả thế kỷ trước vì không còn chỗ cơ mà – phải không nhỉ?” cô nói. Họ đang đi qua đoạn đường hẹp hai bên là những bức tường đá cao cao.

“Thành Phố Xương Trắng đã tồn tại ở đây lâu hơn thế.” Chiếc xe ngựa đột nhiên rùng mình dừng lại. Clary giật nảy người khi Jace duỗi tay ra, nhưng anh chỉ vươn tay qua để mở cánh cửa bên phía cô. Tay anh có chút cơ bắp và chút lông tay vàng mịn như phấn hoa.

“Anh không được lựa chọn, đúng không?” cô hỏi. “Về chuyện trở thành Thợ Săn Bóng Tối ấy. Anh không thể muốn là từ bỏ được.”

“Không hề dễ, hoặc không phải không có nguy hiểm,” anh nói. Cánh cửa bật mở, để một luồng không khí mang mùi bùn đất ùa vào. Cỗ xe ngựa đã dừng lại trên một trảng cỏ vuông vức bị bao quanh bởi những bức tường cẩm thạch mọc rêu xanh. “Nhưng nếu được lựa chọn, anh vẫn chọn làm Thợ Săn Bóng Tối.”

“Vì sao?” cô hỏi.

Anh nhướn một bên mày, ngay lập tức Clary thấy ghen tị. Cô luôn muốn làm được như vậy. “Vì lẽ thường tình thế thôi,” anh nói. “Anh giỏi trong khoản đó.”

Jace nhảy khỏi cỗ xe. Clary trượt ra mép ghế, chân đong đưa. Chân cô còn lâu mới chạm nền đá sỏi. Cô nhảy xuống. Cú chạm đất khiến chân cô đau nhói, nhưng cô không ngã. Cô quay người đắc thắng thì thấy Jace đang nhìn mình. “Anh đã có thể giúp em xuống mà,” anh nói.

Cô chớp mắt. “Ổn thôi. Anh không cần phải giúp em.”

Anh liếc nhìn ra sau. Tu Huynh Jeremiah đang rời xuống khỏi ghế xà ích trong âm thanh im lặng rơi của chiếc áo chùng. Trên trảng cỏ úa nắng không hề in bóng anh ta.

Đi nào, anh ta nói. Vị Tu Huynh rời xa cỗ xe và những ngọn đèn tỏa ánh sáng thân thiện của Đại Lộ Số Hai, đi vào trung tâm tối tăm của khu vườn. Rõ ràng anh ta muốn họ đi theo.

Cỏ khô và kêu lạo xạo dưới gót chân họ, những bức tường đá cẩm thạch hai bên đường trơn láng sáng bóng. Có những cái tên được khắc trên những phiến đá trên tường, tên kèm theo ngày tháng. Clary mất một lúc mới nhận ra đó là lời ghi chú trên bia mộ. Cô thấy lạnh sống lưng. Thế những cái xác ở đâu? Trong những bức tường bị chôn thẳng đứng như thể họ bị ốp sống vào trong tường sao...?

Cô quên không nhìn xem mình đang đi đâu. Khi đụng phải một vật chắc chắn còn sống, cô hét lớn.

Là Jace. “Đừng ré lên như thế. Em sẽ đánh thức người chết dậy đấy.”

Cô cau có nhìn anh. “Vì sao chúng ta dừng lại?”

Anh chỉ Tu Huynh Jeremiah, người đã dừng lại trước bức tượng chỉ cao hơn anh ta một chút, bệ chân tượng phủ đầy rêu. Là một bức tượng thiên thần. Đá cẩm thạch tạc nên bức tượng nhẵn đến nỗi gần như trong suốt. Gương mặt của thiên thần vừa hung tợn, vừa đẹp lại vừa buồn. Trên đôi bàn tay dài trắng, thiên thần đang giơ chiếc chén, miệng chén viền đá quý cẩm thạch. Có gì đó về bức tượng khơi dậy ký ức của Clary với một sự quen thuộc tới khó chịu. Dưới chân tượng có khắc ngày tháng, 1234, và vài chữ xung quanh đó: NEPHILIM: FACILIS DESCENSUS AVERNI.

“Cái chén đấy tượng trưng cho Cốc Thánh phải không?” Clary hỏi.

Jace gật đầu. “Và đó là khẩu hiệu của Nephilim – những Thợ Săn Bóng Tối - ở ngay chân tượng.”

“Nó có nghĩa gì?”

Nụ cười của Jace lóe sáng trong bóng tối. “Nó có nghĩa Thợ Săn Bóng Tối: Mặc Đồ Đen Đẹp hơn Các Góa Phụ của Kẻ Thù Chúng Ta kể từ năm 1234.”

“Jace...”

Nó có nghĩa, Jeremiah nói, Đường xuống Địa Ngục rất dễ đi.

“Hay là phấn khích quá,” Clary nói, nhưng cô vẫn thấy lạnh toàn thân dù không gian khá nóng nực.

“Đó là trò đùa nho nhỏ của các Tu Huynh đấy mà, khi khắc khẩu hiệu ấy ở đây” Jace nói. “Em sẽ hiểu ngay thôi.”

Cô nhìn Tu Huynh Jeremiah. Anh ta đã rút ra cây stele tỏa sáng nhàn nhạt từ một túi trong nào đấy trong áo chùng, dùng mũi thanh stele vẽ nên một ký tự rune trên chân tượng. Miệng bức tượng thiên thần đột ngột mở ra thành tiếng hét im lặng, và một cái hố đen xuất hiện trên lớp cỏ dưới chân Jeremiah. Nó trông như một huyệt mộ được khai mở vậy.

Clary chầm chậm đến gần và nhìn xuống. Những bậc thang bằng đá hoa cương dẫn sâu xuống hố, đã mòn vẹt vì nhiều năm sử dụng. Những ngọn đuốc đặt cách nhau từng quãng đều đặn dọc theo cầu thang, tỏa ánh sáng xanh lục nóng rực và xanh lam lạnh băng. Phía cuối cầu thang khuất trong bóng tối.

Jace bước xuống cầu thang dễ dàng như một người thấy hoàn cảnh này quá quen thuộc nếu không muốn nói là thật thoải mái. Đi nữa đường tới ngọn đuốc đầu tiên, anh dừng lại và ngước nhìn. “Đi nào,” anh nóng nảy giục.

Clary vừa đặt chân lên bậc đầu tiên thì thấy cánh tay mình bị một bàn tay lạnh ngắt giữ rịt lấy. cô kinh ngạc ngước nhìn. Tu Huynh Jeremiah đang nắm lấy cổ tay cô, những ngón tay trắng xanh lạnh băng bám chắc vào da thịt cô. Cô có thể thấy khuôn mặt sẹo xương xẩu sang sáng bên dưới cái mũ trùm.

Đừng sợ, giọng nói anh ta vang lên trong đầu cô. Một tiếng hét của con người không đủ đánh thức những người chết này đâu.

Khi anh ta thả tay cô ra, cô lần xuống cầu thang theo Jace, tim đập dồn dập trong lồng ngực. Anh đang đợi ở chân cầu thang. Anh đã lấy một trong những ngọn đuốc xanh lục đang cháy sáng khỏi giá và giơ ngang tầm mắt. Ánh sáng xanh lá cây nhàn nhạt tỏa chiếu lên da anh. “Em ổn không?”

Cô gật đầu, không nghĩ mình nói được. Cầu thang dẫn xuống một khoảng chân cầu thang cạn; phía trước họ là một đường hầm, dài và đen hun hút, lố nhố những ụ rễ cây cuộn lại. Một thứ ánh sáng xanh xanh mờ mờ nhập nhòa phía cuối đường hầm. “Trong này... tối quá,” cô lắp bắp.

“Em muốn anh cầm tay không?”

Clary đặt cả hai tay sau lưng như một đứa trẻ. “Đừng ra vẻ bề trên với tôi.”

“À, anh không thể nào ở bề dưới nói chuyện với em được. Em lùn quá mà.” Jace liếc nhìn cô, ngọn đuốc phả ra chi chít tàn lửa theo từng bước anh di chuyển. “Không cần giữ đúng nghi thức đâu, Tu Huynh Jeremiah,” anh dài giọng. “Dẫn đường đi. Bọn tôi sẽ đi ngay sau lưng.”

Clary nhảy dựng. Cô vẫn không quen với cách đến và đi trong sự im lặng tuyệt đối của chuyên viên lưu trữ văn thư này. Anh ta di chuyển không có lấy một tiếng động từ nơi đang đứng đằng sau cô ra tới trước dẫn đường vào đường hầm. Sau một lúc cô đi theo, hất cánh tay đang đưa ra của Jace khi đi qua.

Quang cảnh đầu tiên của Thành Phố Câm Lặng đập vào mắt Clary là từng hàng từng hàng những mái vòm bằng đá cẩm thạch cao cao trên đầu, biến mất xa xa như những hàng cây ngăn nắp trong vườn cây ăn quả. Cẩm thạch bản thân nó đã mang vẻ tinh khôi, ngà ngà xam xám, cứng nhắc và bóng bẩy, đây đó lại được điểm thêm những dải đá mã não, ngọc thạch anh và ngọc bích. Khi họ rời khỏi đường hầm và tiến vào khu rừng những mái vòm, Clary thấy sàn nhà được khắc cùng những chữ rune thi thoảng tô điểm cho da của Jace theo từng đường thẳng, xoắn ốc và họa tiết uốn lượn.

Khi ba người họ đi qua cổng vòm đầu tiên, có gì đó lớn và trắng sừng sững phía bên trái Clary, giống như tảng băng bên ngoài mạn tàu Titanic. Là một tảng đá vuông vức trắng mịn, một loại cửa gì đấy lắp vào mặt nước. Tảng đá gợi cho cô nhớ đến căn nhà đồ chơi của trẻ con, dù nó gần đủ rộng để cho cô đứng vào trong.

“Là lăng mộ đấy,” Jace chiếu đuốc về phía đó. Clary có thể thấy chữ rune khắc trên cánh cửa được niêm phong bằng chốt sắt. “Một nấm mồ. Bọn anh chôn người chết trong đó.”

“Tất cả người chết sao?” cô nói, nửa muốn hỏi xem bố anh có được chôn trong đó không, nhưng anh đã tiến lên, không nghe được lời cô nói nữa rồi. Cô vội vàng đuổi theo, không muốn bị bỏ lại cùng Tu Huynh Jeremiah tại cái nơi ghê rợn thế này. “Tôi tưởng anh bảo đây là thư viện chứ.”

Thành Phố Câm lặng được chia làm nhiều tầng, Jeremiah xen vào. Và không phải tất cả người chết đều được chôn tại đây. Còn một chỗ chứa hài cốt khác nữa ở Idris, và tất nhiên, còn lớn hơn nhiều. Nhưng ở tầng này chỉ có các lăng tẩm và nơi hỏa táng.”

“Nơi hỏa táng?”

Những người chết trong chiến trận được hỏa táng, tro cốt họ được dùng để tạo nên những cổng vòm đá cẩm thạch mà em thấy ở đây. Bản thân máu và xương của kẻ giết quỷ đã là sự bảo vệ đầy quyền năng chống lại quỷ dữ. Kể cả khi chết, thành viên hội Clave vẫn phục vụ đại nghiệp.

Thật mệt mỏi làm sao, Clary nghĩ, phải chiến đấu cả đời rồi lại phải tiếp tục cuộc chiến ấy ngay cả khi cuộc đời đã kết thúc. Ở cuối tầm nhìn cô có thể thấy những hầm mộ trắng vuông vức nhô lên hai bên cô theo từng hàng lăng mộ trật tự, mọi cánh cửa đều khóa kín từ bên ngoài. Giờ cô đã hiểu vì sao nơi đây được gọi là Thành Phố Câm Lặng: những cư dân duy nhất nơi đây là các Tu Huynh Câm và những người chết mà họ sốt sắng canh giữ.

Họ đi tới một cầu thang khác dẫn xuống một không gian tối tăm hơn; Jace giơ đuốc lên trước, tạo ra những khoảng tối sáng trên bức tường. “Chúng ta đang xuống tầng hai, nơi lưu trữ tài liệu và phòng hội đồng,” anh nói, như để trấn an cô.

“Khu vực sinh hoạt ở đâu vậy?” Clary hỏi, nửa vì lịch sự, nửa vì tò mò. “Các Tu Huynh ngủ ở đâu?”

Ngủ ư?

Tiếng nói im lặng đó treo trong không gian tối tăm giữa họ. Jace phá ra cười, ngọn đuốc anh đang cầm nhấp nháy chập chờn. “Em phải hỏi thôi.”

Dưới chân cầu thang là một đường hầm khác, cuối đường hầm mở ra một cái đình vuông vức, ở mỗi góc có một ngọn tháp xương khắc gọt. Những ngọn đuốc cháy trên những giá đuốc bằng đá mã não dài dọc theo khoảng không gian, không khí có mùi tro và khói. Ở giữa đình là một chiếc bàn dài bằng đá ba-dan vân trắng. Đằng sau bàn, trên bức tường tối màu, có treo thanh kiếm bạc thật lớn, mũi kiếm chúc xuống, chuôi kiếm chạm hình đôi cánh đang giang rộng. Ngồi tại bàn là một hàng Tu Huynh Câm, tất cả đều mặc áo choàng và đội mũ trùm cùng màu da dê như Tu Huynh Jeremiah.

Jeremiah vào đề ngay. Chúng tôi đã tới. Clarissa, ra đứng trước Hội Đồng nào.

Clary liếc nhìn Jace, nhưng anh đang chớp mắt, rõ ràng là bối rối. Hẳn Tu Huynh Jeremiah chỉ nói trong đầu cô mà thôi. Cô nhìn qua bàn, nhìn vào một dãy dài những dáng người im lặng ủ trong bộ áo chùng nặng nề. Những ô vuông xen kẽ nhau tạo nên sàn đình: đồng vàng và đỏ sậm. Ngay trước bàn là một ô vuông lớn hơn, bằng đá cẩm thạch trắng có chạm nổi những ngôi sao bạc kiểu cong cong.

Clary bước vào trung tâm ô vuông đen như bước ra trước đội xử bắn. Cô ngẩng đầu. “Được rồi,” cô nói. “Giờ thì sao đây?”

Khi đấy thì các Tu Huynh tạo ra âm thanh, một thứ âm thanh đủ khiến lông tay và lông cổ Clary dựng đứng cả. Đó là âm thanh giống tiếng thở dài hoặc tiếng rên rỉ. Họ đồng thời giơ tay và bỏ mũ trùm, để lộ khuôn mặt sẹo và những hốc mắt trống rỗng.

Dù đã nhìn thấy khuôn mặt của Tu Huynh Jeremiah, dạ dày của Clary vẫn xoắn lại. Giống như nhìn một hàng những bộ xương khô, giống như những bức tranh khắc gỗ thời trung cổ với những hình người chết biết đi lại, nói chuyện và nhảy nhót trên chồng đống thân xác người chết. Những cái mồm bị khâu lại của họ dường như đang cười với cô.

Hội đồng chào mừng ngươi, Clarissa Fray, cô nghe thấy, và không chỉ một giọng mà là hàng tá, những chất giọng trầm khàn, có giọng mượt mà và không có tông điệu, nhưng tất cả đều mang kiểu kẻ cả, bề trên, đẩy lùi những hàng rào mỏng manh quanh đầu óc cô.

“Dừng lại,” cô nói, và ngạc nhiên là giọng cô rất kiên định và mạnh mẽ. Những âm thanh trong đầu cô đột ngột ngừng lại như đĩa nhạc ngừng quay. “Các người có thể chui vào đầu óc tôi,” cô nói, “nhưng chỉ khi tôi sẵn sàng.”

Nếu ngươi không cần sự giúp đỡ của chúng ta, thì không cần làm vậy. Dù gì, chính ngươi là người yêu cầu chúng ta giúp.

“Các người cũng muốn biết những thông tin trong đầu tôi, hệt như tôi vậy,” cô bảo. “Điều đó không có nghĩa các người có quyền thích làm gì thì làm.”

Tu Huynh ngồi chính giữa xoa những ngón tay trắng ỏn gầy guộc dưới cằm. Thành thực mà nói, đây là một câu đố thú vị,Tu Huynh nói, giọng nói trong đầu cô nghe khô khốc và ngang phè. Nhưng cũng không cần dùng đến vũ lực làm gì, nếu ngươi không chống cự.

Cô nghiến răng. Cô muốn chống lại họ, muốn đuổi tống những giọng nói xâm phạm đầu óc cô đi. Phải đứng im mà chấp nhận kiểu xâm phạm tới nơi riêng tư, sâu kín nhất của mình...

Nhưng có thể ngay lúc này đây việc đó đã xảy ra rồi thôi, Clary tự thầm nhắc. Chỉ là một cuộc khai quật tội ác trong quá khứ thôi mà, tội ác đã đánh cắp trí nhớ của cô. Nếu thành công, những gì bị lấy khỏi cô sẽ được phục hồi. Cô nhắm mắt lại.

“Tiến hành đi,” cô nói.

Sự tiếp xúc đầu tiên xuất hiện khi có tiếng thì thầm đầu tiên vang lên trong đầu cô, khẽ khàng như một chiếc lá rơi sượt qua. Hãy khai báo tên trước Hội Đồng.

Clarissa Fray.

Giọng nói đầu tiên hòa cùng những giọng nói khác. Ngươi là ai?

Tôi là Clary. Mẹ tôi là Jocelyn Fray. Tôi sống ở số 807 Berkeley Place tại Brooklyn. Tôi mười lăm tuổi. Tên bố tôi là...

Dường như trí óc cô đang bật lại chính nó, giống như sợi dây thun, và cô đang guồng trong cơn lốc xoáy những hình ảnh bên trong mí mắt nhắm nghiền. Mẹ cô đang vội vàng cùng cô chạy trên con phố đen như màn đêm giữa những chồng tuyết bẩn thỉu. Rồi, một bầu trời thấp, xám xịt, những hàng cây khẳng khiu. Một khu đất vuông trống trải trũng xuống, một quan tài đơn giản hạ xuống. Cát bụi trở về với cát bụi. Jocelyn cuốn mình trong chiếc chăn bông vải ghép, nước mắt lăn dài trên má, vội đóng cái hộp lại và nhét xuống dưới cái gối khi Clary bước vào phòng. Cô lại thấy những chữ cái viết tắt trên hộp: J.C.

Những hình ảnh chuyển động nhanh hơn, như những trang của một trong những cuốn sách mang những hình vẽ nhìn như có thể di chuyển khi bạn lật nhanh chúng. Clary đứng trên đầu cầu thang, nhìn xuống hành lang hẹp, và chú Luke lại hiện ra, chiếc túi vải thô màu xanh lá cây đặt dưới chân. Jocelyn đứng trước mặt chú, lắc đầu. “Tại sao lại là bây giờ, hả Lucian? Em nghĩ anh đã chết...” Clary chớp chớp mắt; chú Luke có vẻ khác, gần như người xa lạ, râu ria xồm xoàm, mái tóc dài và rối bù – và những nhánh cây sà xuống che khuất mất tầm nhìn của cô; cô lại ở trong công viên, những nàng tiên xanh, nhỏ bằng cây tăm, bay rì rào giữa những bông hoa đỏ. Cô vui sướng chạm tay tới nó, và mẹ cô bế thốc cô lên cùng tiếng thét kinh hoàng. Rồi lại là mùa đông trên con phố tối tăm, họ đang vội vã chạy; mẹ Jocelyn, tay cầm cây dù, đang nửa lôi nửa kéo Clary qua những ụ tuyết, một cánh cửa đá cẩm thạch sừng sững trước mắt trong cảnh tuyết rơi trắng xóa; trên cánh cửa có khắc mấy chữ. ĐẠI TÀI. Rồi cô đang đứng trong hành lang thoang thoảng mùi sắt và tuyết tan. Những ngón tay cô cứng đờ vì lạnh. Một bàn tay đặt dưới cằm cô hướng cô nhìn lên, và cô thấy hàng chữ chạy dọc tường. Hai chữ nhảy xổ vào cô, khắc ghi vào mắt cô: “MAGNUS BANE.”

Một cơn đau đột ngột phóng qua cánh tay phải. Clary ré lên khi những hình ảnh rơi đi còn cô thì trồi lên trên, vượt qua bề mặt của nhận thức, như một thợ lặn trồi lên khỏi con sóng. Có gì đó lành lạnh ép lên má cô. Cô mở mắt nhìn thấy những ngôi sao bạc. Cô chớp mắt hai lần trước khi nhận ra mình đang nằm trên nền đá cẩm thạch, đầu gối co sát ngực. Khi cô di chuyển, cơn đau bỏng giẫy chạy theo cánh tay.

Clary thận trọng ngồi dậy. Da ở khuỷu tay trái cô bị xước và chảy máu. Chắc cô đã đập cùi chỏ xuống khi ngã rồi. Có máu dính trên áo cô. Cô nhìn quanh, mất phương hướng, và thấy Jace đang quan sát, không nhúc nhích nhưng khóe miệng hằn rõ sự căng thẳng cực độ.

Magnus Bane. Từ này có nghĩa gì đó, nhưng là gì đây? Trước khi cô kịp hỏi lớn, Tu Huynh Jeremiah đã ngắt lời.

Cái rào cản trong đầu em mạnh hơn chúng ta tưởng, anh ta nói. Nó chỉ có thể được tháo gỡ bởi kẻ đã đặt vào đấy thôi. Để chúng ta gỡ bỏ được nó nghĩa là phải giết em đấy.

Clary loạng choạng đứng dậy, ôm lấy cánh tay bị thương. “Nhưng tôi không biết ai đã đặt nó vào đấy. Nếu biết thì tôi đã không đến đây.”

Câu trả lời nằm trong chính những sợi chỉ suy nghĩ của em, Tu Huynh Jeremiah nói. Trong giấc mơ tỉnh lại vừa rồi em đã thấy nó được viết ra đấy.

“Magnus Bane ư? Nhưng... đó còn chẳng phải tên người nữa!”

Thế là đủ. Tu Huynh Jeremiah đứng dậy. Như thể đây là một tín hiệu, những Tu Huynh khác cũng đứng dậy theo. Họ nghiêng đầu về phía Jace, một cử chỉ câm lặng cho thấy họ nhận ra anh, trước khi họ đi giữa những hàng cột và biến mất. Chỉ có Tu Huynh Jeremiah còn nán lại. Anh ta hững hờ quan sát trong lúc Jace vội chạy tới chỗ Clary.

“Tay em ổn không? Để anh xem nào,” anh hỏi và nắm lấy cổ tay cô.

“Ối! Nó ổn mà. Đừng làm thế, anh sẽ làm vết thương xấu đi đấy,” Clary nói, cố giằng tay lại.

“Em chảy máu trên Ngôi sao Tiên Tri,” anh nói. Clary nhìn và biết anh nói đúng: có vết máu trên ô cẩm thạch trắng bạc. “Anh cá có luật về chuyện đó.” Anh lật tay cô lại, nhẹ nhàng hơn cô nghĩ. Anh cắn môi dưới và huýt sáo; cô liếc nhìn xuống thấy một lớp máu phủ từ khuỷu tay tới cổ tay. Cánh tay nhức nhối, cứng đơ và đau đớn.

“Giờ là lúc anh sẽ xé áo và băng vết thương cho tôi đấy nhỉ?” cô đùa. Cô ghét nhìn thấy máu, đặc biệt là máu mình.

“Nếu em muốn anh xé quần xé áo, em chỉ cần yêu cầu mà thôi.” Anh cho tay vào túi và rút thanh stele ra. “Thế sẽ bớt đau hơn nhiều.”

Nhớ lại cảm giác nhoi nhói khi thanh stele chạm vào cổ tay, cô gồng người, nhưng tất cả những gì cô cảm thấy khi thứ dụng cụ tỏa sáng ấy nhẹ nhàng trượt trên vết thương của mình chỉ là chút hơi ấm. “Đấy,” anh nói và đứng thẳng lại. Clary co duỗi tay mà ngạc nhiên – dù máu vẫn còn đấy, nhưng vết thương đã biến mất, cùng cơn đau và sự cứng đờ. “Nều lần sau em định cố làm mình bị thương để anh để ý, nhớ là nói chuyện ngọt ngào chút xíu ấy nhé.”

Khuôn miệng Clary cong lại thành một nụ cười. “Tôi sẽ nhớ,” cô nói, và khi anh quay đi, cô nói thêm, “và cám ơn anh.”

Anh nhét thanh stele vào túi quần sau mà không thèm nhìn lại cô, nhưng cô nghĩ đã nhận ra sự hài lòng trên vai anh. “Tu Huynh Jeremiah, anh nói, xoa xoa hai tay, “từ nãy tới giờ anh im lặng quá. Hẳn anh có gì muốn chia sẻ?”

Tôi có nhiệm vụ dẫn các em rời khỏi Thành Phố Câm Lặng, thế thôi, chuyên viên lưu trữ văn thư nói. Clary tự hỏi liệu có phải mình đang tưởng tượng ra không, hay thực sự trong “giọng nói” của anh ta có chút gì đó như đang xúc xiểm.

“Bao giờ chúng tôi cũng có thể tự tìm đường ra mà,” Jace vui vẻ nói. “Tôi chắc chắn mình nhớ đường...”

Những kỳ quan của Thành Phố Câm Lặng không dành cho con mắt những kẻ thiếu kinh nghiệm, Jeremiah nói và quay lưng khiến chiếc áo choàng lay động không phát ra âm thanh. Lối này.

Khi họ ra ngoài lối vào, Clary hít thật sâu không khí đậm đà hương sớm mai, tận hưởng mùi thành phố hơi nồng của khói bụi, đất đai và mùi người. Jace ngẫm ngợi nhìn quanh. “Trời sắp mưa,” anh nói.

Anh ta nói đúng, Clary nghĩ, nhìn lên bầu trời màu xám đỏ. “Chúng ta sẽ đi xe ngựa về Học Viện à?”

Jace nhìn Tu Huynh Jeremiah đang đứng im lìm như tượng gỗ, rồi lại nhìn cỗ xe sừng sững như một cái bóng đen ở lối cổng vòm dẫn ra đường lớn. Rồi anh nhoẻn miệng cười.

“Không hề,” anh nói. “Anh ghét mấy thứ đó lắm. Chúng ta bắt tắc xi thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Magnus bane


Jace nhoài người lên trước và đập tay vào bức vách ngăn giữa họ và người tài xế. “Rẽ trái! Trái! Tôi nói là rẽ sang Broadway, đồ khùng khùng chết não!”

Người tài xế đáp lại bằng cách quặt tay lái sang trái quá mạnh khiến Clary ngã chúi nhủi sang Jace. Cô oán thán hét lên. “Vì sao cta phải ra đường Broadway chứ?”

“Anh đang đói muốn chết rồi,” Jace nói. “Và ở nhà chẳng còn j ngoài mấy món Trung Hoa còn thừa.” Anh lấy điện thoại ra khỏi túi và ấn số. “Alec! Dậy đi!” anh hét. Clary có thể nghe tiếng lầm bầm tức tối từ đầu dây bên kia. “Gặp bọn tớ ở quán Taki’s nhé. Ăn sáng. Đúng, cậu nghe rõ rồi đấy. Ăn sáng. Cái gì? Chỉ cách vài tòa nhà thôi mà. Dậy mà đi đi!”

Anh tắt máy và nhét điện thoại vào một trong khá nhiều túi áo khi họ tấp xe vào lề. Jace đưa cho người tài xế ít tiền, rồi huých Clary xuống xe. Khi đặt chân xuống vỉa hè, anh duỗi người như mèo và giang rộng tay. “Chào mừng tới quán ăn ngon nhất New York.”

Trông không giống thế lắm - một tòa nhà gạch thấp bị lún ở giữa như món bánh phồng bị xẹp. Một bảng hiệu đèn neon bị vỡ có đề tên quán ăn nằm bên cạnh và kêu xèo xèo. Hai người đàn ông mặc áo khoác dài và mũ chóp đang ngồi ườn trước lối vào chật hẹp. Không hề có cửa sổ.

“Nhìn cứ như nhà tù ấy,” Clary nói.

Anh chỉ cô. “Nhưng trong nhà tù em có thể gọi món spaghetti fra diavolo khiến em muốn mút tay không? Anh không nghĩ vậy.”

“Em không muốn ăn spaghetti. Em muốn biết Magnus Bane là gì.”

“Đó không phải cái gì. Đó là một ai,” Jace nói. “Đó là một cái tên.”

“Anh biết người ấy là ai hả?”

“Là một pháp sư,” Jace nói bằng giọng biết điều nhất. “Chỉ có pháp sư mới có thể phong tỏa trí nhớ của em như thế. Hoặc có thể là một trong các Tu Huynh Câm, nhưng rõ ràng là không phải họ.”

“Có phải tay pháp sư mà anh từng nghe qua không?” Clary hỏi, đã cực kỳ chán ngán cái giọng biết điều của Jace.

“Cái tên đó nghe cũng quen quen...”

“Này!” Là Alec, có vẻ vừa lăn xuống khỏi giường và mặc quần bò ngoài quần ngủ. Tóc tai anh ta, chưa chải bới gì, bù xù lĩa chĩa quanh đầu. Anh tiến tới chỗ họ, mắt nhìn Jace, lờ Clary đi như thường lệ. “Izzy đang tới,” anh ta nói. “Con bé mang theo thằng người thường.”

“Simon hả? Cậu ta từ đâu xuất hiện thế?” Jace hỏi.

“Sáng sớm ngày ra cậu ta đã xuất hiện. Chắc là không thể nào sống thiếu Izzy đây mà. Thảm quá.” Alec có vẻ hứng thú. Clary chỉ muốn đá anh ta. “Mà này, cta có vào quán không đây? Tớ chết đói rồi.”

“Tớ cũng thế,” Jace nói. “Tớ thực sự có thể xơi món đuôi chuột chiên giòn luôn đấy.”

“Món gì?” Clary hỏi, chắc chắn rằng cô đã nghe lầm.

Jace cười với cô. “Bình tĩnh đi,” anh nói. “Chỉ là một món ăn thôi mà.”

Họ bị chặn lại ngay cửa trước bởi một trong hai tay đang ngồi ườn. Khi gã ta đứng thẳng dậy, Clary thoáng thấy khuôn mặt gã sau vành mũ. Da gã màu đỏ sậm, bàn tay vuông chằn chặn kết thúc bằng những móng tay màu xanh đen. Clary thấy người cứng đơ, nhưng Jace và Alec có vẻ chẳng để ý. Họ nói gì đó với gã, gã gật đầu và lùi lại, nhường lối cho họ đi qua.

“Jace ơi,” Clary rít lên khi cánh cửa đóng lại. “Ai thế?”

“Em hỏi Clancy hả?” Jace hỏi liếc nhìn quanh nhà hàng mở đèn sáng rực. Không gian bên trong khá dễ chịu, dù không có cửa sổ. Những khu bàn bằng gỗ ấm cúng đấu lưng nhau, mỗi khu được đặt thêm vài tấm nệm màu sắc tươi sáng. Những bộ bát đĩa không cùng bộ xinh xắn sắp trên quầy, đằng sau là một cô gái tóc vàng đeo tạp dề bồi bàn màu hồng-trắng, đang nhanh nhẹn trả tiền thừa cho người đàn ông to con mặc áo sơ mi vải nỉ. Cô thấy Jace, vẫy tay và ra hiệu họ thích ngồi đâu thì ngồi. “Clancy chặn những vị khách không được chào đón,” Jace nói, lùa cô tới một trong những dãy bàn.

“Hắn ta là quỷ,” cô rít lên. Vài thực khách quay ra nhìn cô – một cậu bé tóc xoắn màu xanh vuốt keo chổng ngược đang ngồi cạnh cô gái Ấn Độ xinh đẹp tóc đen dài và mang đôi cánh mờ như sương mở rộng sau lưng. Cậu ta nhíu mày khó chịu. Clary mừng vì nhà hàng gần như không có người.

“Không, không phải đâu,” Jace nói và ngồi vào bàn. Clary định ngồi cạnh anh, nhưng Alec đã ngồi vào chỗ đó. Cô ngượng nghịu ngồi sang ghế đối diện, tay còn khá cứng dù Jace đã săn sóc tận tình. Cô thấy trong mình trống rỗng, như thể các Tu Huynh Câm đã chạm vào bên trong cô và lôi nội tạng ra, khiến cô nhẹ bẫng và choáng váng. “Anh là pháp sư kiểng ifrit,” Jace giải thích. “Họ là pháp sư không có phép thuật. Không hiểu vì đâu mà một nửa số quỷ không thể dùng thần chú.”

“Khổ thân,” Alec nói và cầm thực đơn. Clary cầm thực đơn lên ngó trân trân. Châu chấu quện mật ong được đánh dấu là đặc sản của quán, cũng như đĩa thịt tùy chọn, cá sống nguyên con, và thứ gì đó được gọi là sanwich dơi nướng. Trang đồ uống chia ra làm các loại máu khác nhau và Clary thấy nhẹ người, đó là những loại máu động vật khác nhau, chứ không phải nhóm máu O, A hay B âm tính. “Ai lại đi ăn cá sống nguyên con chứ?” cô hỏi lớn.

“Ngựa nước Kelpie,” Alec nói. “Người sư tử biển selkie. Có thể là một vài yêu tinh cá biệt.”

“Đừng gọi bất cứ món ăn nào của thần tiên,” Jace nói, nhìn cô qua cuốn thực đơn. “Nó sẽ khiến loài người hơn điên khùng một chút. Một phút trước em đang ăn mận tiên, thì phút sau em đã trần truồng chạy trên đại lộ Madison với gạc hươu mọc trên đầu. Điều đó,” anh vội bổ sung, “chưa từng xảy ra với anh đâu nhé.”

Alec cười lớn. “Cậu có nhớ...” anh bắt đầu nói, và kể câu chuyện có quá nhiều cái tên kỳ lạ và danh từ riêng đến nỗi Clary chẳng buồn ráng nghe cho hết. Thay vào đấy cô lại quan sát Alec, theo dõi anh tán gẫu với Jace. Ở anh toát ra một luồng năng lượng sinh động, gần như là sục sôi mà lúc trước anh ta không hề có. Có gì đó từ Jace đã khơi nguồn hứng thú trong Alec, khiến anh ta tập trung. Nếu cô định vẽ hai người họ với nhau, cô nghĩ, cô sẽ vẽ Jace mờ nhạt đi một chút, trong khi Alec nổi bật lên, với các góc mặt rõ ràng, sắc nét.

Jace đang nhìn xuống trong khi Alec nói, miệng cười cười còn đầu móng tay gõ gõ ly nước. Cô cảm giác anh đang nghĩ gì đó khác. Đột nhiên, cô hơi hơi thông cảm cho Alec. Jace không phải người dễ để tâm tới chuyện gì. Anh cười em vì tuyên ngôn tình yêu khiến anh hứng thú, đặc biệt là khi nó không được đáp lại.

Jace ngước nhìn khi người phục vụ đi qua. “Thế cta có tính kêu cà phê không đây?” anh hỏi lớn, ngắt ngang lời Alec.

Alec dừng lại, nguồn năng lượng giảm sút. “Tớ...”

Clary vội lên tiếng. “Những loại thịt sống này dành cho ai?” cô hỏi, chỉ vào trang thứ ba trong thực đơn.

“Người sói,” Jace nói. “Dù thi thoảng anh cũng không ngại làm một miếng bít tết còn rỉ máu đâu.” Anh vươn tay và giở cuốn thực đơn của Clary. “Món ăn của con người ở mặt sau.”

“Có món sinh tố mận-mơ và mật ong hoa dại ngon nhất trần đời đấy,” Isabelle xuất hiện cùng Simon bên cạnh. “Dịch vào nào,” cô nói với Clary, lúc này đang ngồi quá sát tường đến mức cảm nhận được những viên gạch lạnh cóng ép vào cánh tay. Simon, chuồi vào ngồi cạnh Isabelle, cười lỏn lẻn với cô nàng nhưng cô không buồn đáp lại. “Cậu nên uống thử xem.”

Clary không chắc Isabelle đang nói với cô hay Simon, vì thế cô không nói gì. Tóc Isabelle châm châm lên mặt cô, vương vất mùi một loại dầu thơm va ni gì đấy. Clary cố không hắt xì. Cô ghét dầu thơm hương va ni. Cô không bao giờ hiểu vì sao có mấy con nhỏ cứ muốn phải có mùi như đồ tráng miệng mới được chứ.

“Vậy chuyến đi tới Thành Phố Xương Trắng ra sao?” Isabelle hỏi và mở cuốn thực đơn. “Hai người đã phát hiện ra điều gì trong đầu Clary chưa?”

“Bọn anh có một cái tên,” Jace nói. “Magnus...”

“Im đi,” Alec rít, đánh mạnh Jace bằng cuốn thực đơn đã gập.

Jace có vẻ đau. “Chúa ơi.” Anh xoa xoa cánh tay. “Cậu làm sao đấy?”

“Nơi đây toàn những cư dân của Thế Giới Ngầm. Cậu thừa biết điều đó. Tớ nghĩ cậu nên giữ những chi tiết về cuộc điều tra của cta trong bí mật.”

“Cuộc điều tra á?” Isabelle cười lớn. “Giờ cta là thám tử à? Có lẽ cta nên có biệt hiệu nhỉ?”

“Ý kiến hay,” Jace nói. “Anh sẽ là nam tước Hotschaft Von Hugenstein.”

Alec phì nước ngược trở vào ly. Đúng lúc đó người phục vụ bàn tới lấy món. Tới gần thế này trông cô ta vẫn là cô gái tóc vàng xinh đẹp, nhưng đôi mắt khiến người ta mất bình tĩnh – xanh ngăn ngắt, không có lòng trắng hay con ngươi gì cả. Cô ta nở nụ cười khoe những chiếc răng nhỏ xíu sắc nhọn. “Có biết sẽ gọi gì chưa thế?”

Jace cười. “Như thường lệ,” anh nói, thế là nhận được nụ cười đáp lại từ cô phục vụ.

“Anh cũng thế nhé,” Alec phụ họa, dù chẳng nhận được nụ cười nào. Isabelle gọi sinh tố hoa quả yêu cầu đủ thứ, Simon gọi cà phê, và Clary, sau một hồi phân vân, gọi một cốc cà phê lớn và bánh kếp vị. Nữ phục vụ bàn nháy mắt với cô rồi đi mất.

“Cô ta cũng là ifrit nữa sao?” Clary hỏi, nhìn theo cô phục vụ bỏ đi.

“Kaelie á? Không. Anh nghĩ là bán tiên,” Jace nói.

“Cô ta có đôi mắt của yêu tinh,” Isabelle trầm ngâm nói.

“Mọi người thực sự không biết cô ta thuộc loài nào à?” Simon hỏi.

Jace lắc đầu. “Tôi tôn trọng riêng tư của cô ta.” Anh huých Alec. “Này, cho tớ đi ra một chút.”

Alec nhăn mặt và dịch người sang bên. Clary quan sát Jace trong khi anh bước tới chỗ Kaelie, lúc này đang dựa người vào quầy và nói chuyện với đầu bếp qua ô cửa giữa phòng bếp và quán. Tất cả những gì Clary có thể thấy về người đầu bếp là cái đầu cúi xuống đội mũ đầu bếp màu trắng. Đôi tai dài nhọn chĩa ra từ hai cái lỗ cắt ra ở hai bên mũ.

Kaelie quay lại cười với Jace khi anh vòng tay ôm cô ta. Cô ta dụi người vào. Clary tự hỏi liệu đây có phải ý của Jace khi bảo tôn trọng sự riêng tư của cô ta không.

Isabelle đảo mắt. “Anh ấy thực sự không nên trêu chọc nhân viên phục vụ như thế.”

Alec nhìn cô em. “Em không nghĩ cậu ấy thật lòng chứ? Ý anh là thích cô nàng ấy đấy.”

Isabelle nhún vai. “Cô ta thuộc Thế Giới Ngầm,”cô nàng nói, như thể điều đó giải thích cho mọi chuyện.

“Mình không hiểu,” Clary nói.

Isabelle hờ hững liếc qua cô. “Hiểu gì?”

“Toàn bộ chuyện về Thế Giới Ngầm này. Các cậu không săn đuổi họ, vì họ không hẳn là quỷ, nhưng họ cũng chẳng hẳn là người. Ma cà rồng cũng giết người, uống máu...”

“Chỉ có những ma cà rồng điên khùng mới đi uống máu người sống,” Alec xen vào. “Và với những kẻ đó, bọn tôi có quyền giết.”

“Và người sói thì sao? Chỉ là những con cún quá khổ à?”

“Họ giết quỷ,” Isabelle nói. “Vì thế họ không đụng tới bọn mình, bọn mình cũng chẳng điên mà động tới họ.”

Giống như cứ để nhện sống vì chúng ăn muỗi, Clary nghĩ. “Vậy thì họ đủ tốt để được tha cho sống, để nấu ăn cho các cậu, để các cậu tán tỉnh... nhưng lại không thực sự tốt thật sao? Ý mình là, không bằng con người ấy.”

Isabelle và Alec nhìn như thể cô đang nói tiếng Urdu. “Khác con người chứ,” cuối cùng Alec nói.

“Tốt hơn người thường à?” Simon hỏi.

“Không,” Isabelle quả quyết. “Cậu có thể biến người thường thành Thợ Săn Bóng Tối. Ý mình là, chúng mình cũng xuất phát từ người thường. Nhưng cậu không bao giờ biến đổi người thuộc Thế Giới Ngầm thành người của hội Clave được. Họ không thể chịu được những chữ rune.”

“Vậy là họ yếu?” Clary hỏi.

“Anh sẽ không nói vậy,” Jace nói và chui lại vào chỗ cạnh Alec. Tóc anh rối bù và trên má dính vệt son. “Ít nhất ‘yếu’ không dùng để miêu tả cho tiên bướm peri, thần đèn, quỷ lửa ifrit và có Chúa mới biết còn những loài nào nữa.” Anh cười cười khi Kaelie xuất hiện và mang thức ăn tới cho họ. Clary thận trọng nhìn đĩa bánh kếp. Chúng có vẻ ngon: màu nâu vàng, đẫm mật ong. Cô cắn một miếng khi Kaelie lộp cộp gõ guốc đi mất.

Bánh ngon tuyệt.

“Anh đã bảo em đây là quán ăn ngon nhất ở Manhattan mà,” Jace nói trong khi dùng tay bốc khoai tây rán.

Cô liếc nhìn Simon đang cúi đầu ngoáy cà phê.

“Mmmf,” Alec nhồm nhoàm nói.

“Đúng rồi,” Jace bảo. Anh nhìn Clary. “Đó không phải đường một chiều không đâu,” anh nói. “Không phải lúc nào bọn anh cũng thích người của Thế Giới Ngầm, và cũng không phải lúc nào họ cũng thích bọn anh. Vài trăm năm của Hòa Ước không thể xóa nhòa cả ngàn năm thù địch được.”

“Em chắc cô ấy không biết Hòa Ước là gì đâu, Jace à,” Isabelle ngậm thìa mà nói.

“Thực ra là tôi biết,” Clary nói.

“Tớ không biết,” Simon nói.

“Ừ, nhưng chẳng ai quan tâm xem cậu có biết không đâu.”

Jace ngắm nghía miếng khoai tây rán trước khi cắn. “Anh thích đi chơi cùng vài người của Thế Giới Ngầm ở vài nơi vài chỗ nhất định. Nhưng thực sự bọn anh không hề được mời tới tiệc của Thế Giới Ngầm.”

“Đợi đã.” Isabelle đột nhiên ngồi thẳng dậy. “Anh nói cái tên đó là gì nhỉ?” cô nàng hỏi Jace. “Cái tên trong đầu Clary ấy.”

“Anh đâu có nói,” Jace nói. “Ít nhất anh không nói ra hết. Magnus Bane.” Anh cười toe chế giễu Alec. “Vần với lại ‘cái thứ khó chịu cẩn thận quá đáng.’”

Alec lầm bầm chửi rủa vào trong cốc cà phê. Nghe như có vần với gì đấy nghe giống giống “né con chuột chũi thủy tinh.” Clary cười thầm.

“Không thể nào – nhưng em gần như chắc...” Isabelle lục lọi trong túi xách lôi ra mảnh giấy gấp màu xanh da trời. Cô vung vẩy nó giữa những ngón tay. “Nhìn cái này đi.”

Alec giơ tay lấy tờ giấy, liếc nhìn rồi nhún vai, giao cho Jace. “Đó là thiếp mời dự tiệc. Đâu đó ở Brooklyn,” anh ta nói. “Tớ ghét Brooklyn.”

“Đừng tỏ ra hợm hĩnh chứ,” Jace nói. Rồi, y như Isabelle, anh ngồi thẳng dậy mà nhìn trân trân. “Em lấy cái này ở đâu hả Izzy?”

Cô nàng ung dung vẫy tay. “Từ chính kelpie ở Xứ Quỷ ấy. Hắn nói nơi đó hay lắm. Hắn có cả chồng mấy tờ giấy mời này.”

“Cái gì thế?” Clary nóng nảy hỏi. “Anh có định cho cả bọn biết hay không đây?”

Jace xoay tờ giấy lại để tất cả cùng đọc được. Thiệp được viết tay trên loại giấy mỏng, gần giống giấy da dê, với những con chữ mảnh mai, duyên dáng, văn hoa. Tờ giấy thông báo về buổi tụ tập tại ngôi nhà khiêm tốn của Magnus Pháp sư Đại tài, kèm lời hứa cho người tham dự “một buổi tối nồng nhiệt với những điều kỳ thú ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất.”

“Magnus,” Simon nói. “Magnus như Magnus Bane á?”

“Tôi không nghĩ có nhiều pháp sư tên Magnus tại khu vực Ba Bang đâu,” Jace nói.

Nghe thế Alec chớp chớp mắt. “Vậy nghĩa là cta phải tới bữa tiệc?” anh ta dành câu hỏi đó chẳng cho riêng ai.

“Chúng ta chẳng phải làm gì sất,” Jace nói, lúc này đang đọc những dòng chữ trên thiệp mời. “Nhưng căn cứ vào tấm thiệp này, Magnus Bane là Đại Pháp sư khu vực Brooklyn.” Anh nhìn Clary. “Có điều này, anh hơi tò mò cái tên của Đại Pháp sư khu vực Brooklyn đang làm gì trong đầu em thế nhỉ.”

Tới nửa đêm tiệc mới bắt đầu, vì có cả một ngày trời rỗi rãi nên Jace và Alec biến mất trong kho vũ khí, trong khi Isabelle và Simon lại muốn đi dạo trong Công Viên Trung Tâm để cô nàng có thể chỉ cậu ấy xem giới thần tiên. Simon hỏi Clary có muốn đi cùng không. Cố nén cơn giận muốn giết người, cô từ chối với lý do kiệt sức.

Đó không hẳn là lời nói dối – cô đã kiệt sức, cơ thể vẫn yếu do di chứng của chất độc và dậy quá sớm. Cô nằm trên giường trong Học Viện, giày đá văng đi, sẵn lòng muốn ngủ, nhưng giấc ngủ lại không đến. Chất caffein trong huyết quản cô sủi bọt lèo xèo như nước có ga, còn đầu cô toàn những hình ảnh phóng đi vun vút. Cô mãi trông thấy gương mặt của mẹ đang nhìn xuống cô, vẻ hoảng loạn. Mãi trông thấy Ngôi sao tiên Tri, nghe thấy giọng nói của các Tu Huynh Câm vang lên trong đầu. Vì sao trong đầu cô lại có khối chặn chứ? Vì sao một pháp sư quyền năng lại làm điều đó, và vì mục đích gì? Cô tự hỏi mình có thể đã mất đi những ký ức nào, loại kinh nghiệm nào cô đã trải qua mà giờ không thể nhớ ra. Hay có lẽ nào mọi điều cô nghĩ mình có nhớ đều là dối trá...?

Cô ngồi dậy, không thể nghĩ ngợi thêm một chút nào nữa. Chân để trần, cô đi xuống hành lang và hướng tới thư viện. Có lẽ bác Hodge sẽ giúp được cô.

Nhưng thư viện hoàn toàn vắng người. Ánh sáng ban chiều xuyên qua tấm rèm đã được kéo sang bên, để lại những sọc vàng trên sàn. Trên bàn là cuốn sách mà bác Hodge đã đọc lúc trước, lớp bìa da đã sờn sáng bóng lên. Bên cạnh đó là con Hugo đang ngủ trên trạc lồng, rúc mỏ dưới cánh.

Mẹ mình biết cuốn sách đó, Clary nghĩ. Mẹ mình đã chạm vào nó, đã đọc nó. Sự đau đớn khi phải giữ một thứ thuộc về phần đời của mẹ cảm giác như gặm nhấm đáy dạ dày. Cô vội sải bước tới và đặt tay lên cuốn sách. Ấm áp quá, lớp bìa da được ánh mặt trời làm nóng lên. Cô lật mở nó.

Vật gì đó được gấp lại bung khỏi những trang giấy và rơi xuống sàn nhà dưới chân cô. Cô cúi xuống nhặt lên, không nghĩ ngợi gì mà mở ra ngay.

Là bức ảnh chụp một nhóm thanh niên, không lớn hơn Clary là mấy. Cô biết bức hình đã được chụp ít nhất hai mươi năm trước, không phải vì quần áo họ mặc – khá giống bộ đồ săn của Thợ Săn Bóng Tối, cũng đen tuyền và không có lấy một họa tiết – mà vì cô ngay lập tức nhận ra mẹ mình: Jocelyn, chỉ tầm mười bảy mười tám, tóc dài ngang lưng và gương mặt tròn hơn chút đỉnh, cằm và miệng ít nếp nhăn hơn. Trông mẹ giống mình, Clary sửng sốt.

Jocelyn đang vòng tay ôm một người mà Clary không nhận ra. Cô giật mình. Cô chưa bao giờ nghĩ mẹ có quan hệ tình cảm với ai ngoài bố, vì mẹ Jocelyn chưa từng hẹn hò hay tỏ ra có hứng thú với chuyện tình cảm. Mẹ không giống hầu hết các bà mẹ đơn thân khác, thường tới các buổi họp phụ huynh để tìm người có khả năng lấy về làm bố, hoặc như mẹ Simon, người luôn ghé vào xem qua lý lịch trích ngang của mình trên trang Jdate. Người thanh niên này khá điển trai, tóc nhạt màu đến nỗi gần như là trắng, mắt đen.

“Đó là Valentine,” một giọng nói vang lên ngang khuỷu tay cô. “Khi hắn mười bảy tuổi.”

Cô lùi lại, suýt làm rơi bức hình. Hugo giật mình tức tối quang quác lên rồi ổn định lại xuống lồng, lông vũ kêu sột soạt.

Đó là bác Hodge, đang tò mò nhìn cô.

“Cháu rất xin lỗi,” cô nói, đặt bức hình xuống bàn rồi vội vàng lùi lại. “Cháu không định lục lọi đồ đạc của bác.”

“Không sao.” Bác chạm vào bức hình bằng bàn tay dãi dầu đầy sẹo – một sự đối lập kỳ lạ với cổ tay áo vải tuýt phẳng phiu không một vết bẩn. “Dù gì nó cũng là một phần quá khứ của cháu.”

Clary lại lui tới gần bàn như thể bức hình có lực hút nam châm. Người con trai tóc trắng trong bức hình đang cười với Jocelyn, đôi mắt nheo nheo theo cách mắt các cậu con trai sẽ nheo nheo khi thực sự thích bạn. Không ai, Clary nghĩ, từng nhìn mẹ theo cách này. Valentine, với khuôn mặt lạnh, đẹp đẽ, trông hoàn toàn không giống bố cô, với nụ cười mở rộng và mái tóc sáng màu mà cô thừa hưởng. “Valentine nhìn... cũng được.”

“Được thì không phải,” bác Hodge nói, với một nụ cười méo mó, “nhưng hắn quyến rũ, thông minh và rất có sức thuyết phục. Cháu có nhận ra ai khác không?”

Cô lại nhìn. Đứng đằng sau Valentine, hơi chếch sang trái, là một người con trai gầy nhẳng với mái tóc nâu nhạt. Cậu ta có đôi vai to và cổ tay lóng ngóng của một người chưa nhổ giò. “Đó là bác à?”

Bác Hodge gật đầu. “Và...?”

Cô phải nhìn hai lần mới nhận ra một người nữa mình biết: quá trẻ tới khó nhận ra. Cuối cùng chính đôi kính của cậu ta đã tiết lộ thân phận cậu, cùng đôi mắt đằng sau cặp kính, màu xanh nhạt như nước biển. “Chú Luke,” cô nói.

“Lucian. Và đây.” Bác Hodge cúi đầu nhìn bức hình, chỉ vào một cặp đôi trông khá đẹp đôi, đều tóc đen, cô gái cao hơn cậu con trai nửa cái đầu. Gương mặt cô ta nhỏ hẹp và tràn ngập dã tâm, có thể nói là độc ác. “Vợ chồng Lightwood,” bác nói. “Và kia,” – bác chỉ cậu thiếu niên đẹp trai tóc xoăn đen, gương mặt vuông vức trắng trẻo – “là Micheal Wayland.”

“Chú ấy không giống Jace chút nào.”

“Jace giống mẹ.”

“Đây là kiểu ảnh tập thể lớp ạ?” Clary hỏi.

“Không hẳn. Đây là bức hình chụp hội Circle, vào năm nó được thành lập. Đó là lý do vì sao Valentine, tay thủ lĩnh, đang đứng trước, và Luke đứng ngay bên phải hắn – cậu ấy là phó thủ lĩnh của Valentine.”

Clary nhìn đi nơi khác. “Cháu vẫn không hiểu vì sao mẹ cháu lại gia nhập tổ chức thế này.”

“Cháu phải hiểu...”

“Bác cứ nói thế mãi,” Clary nóng nảy nói. “Cháu không hiểu vì sao cháu phải hiểu mọi điều. Bác kể cho cháu nghe sự thực, và cháu hoặc hiểu hoặc không.”

Khóe miệng bác Hodge giật giật. “Nếu cháu đã nói vậy.” Bác dừng lại và vươn tay nựng con Hugo đang khệnh khạng đi đi lại lại trên cạnh bàn. “Hòa Ước chưa bao giờ được mọi thành viên trong hội Clave ủng hộ. Đặc biệt là các gia đình có dòng dõi lâu đời, bám víu vào thời xưa cũ, khi những giống loài của Thế Giới Ngầm là chỉ để tàn sát. Không phải chỉ vì thù hận mà vì làm thế khiến họ an toàn hơn. Đương đầu với một nguy cơ là số đông, là một nhóm người, bao giờ cũng dễ dàng hơn là những cá nhân đơn lẻ phải được kiểm tra đánh giá từng người một... và hầu hết bọn bác đều quen biết ai đó bị kẻ thuộc Thế Giới Ngầm đả thương hoặc giết hại. Không có gì,” bác nói thêm, “giống như tính đạo nghĩa chuyên chế của tuổi trẻ. Một đứa bé dễ dàng tin vào điều tốt và điều xấu, vào ánh sáng và bóng tối. Valentine chưa bao giờ quên điều đó – cả chủ nghĩa hủy diệt lẫn những lời thề đầy nhiệt huyết đối với bất cứ thứ gì hắn quy là ‘không phải người.’”

“Nhưng hắn yêu mẹ cháu,” Clary nói.

“Đúng,” bác Hodge đáp. “Hắn yêu mẹ cháu. Và hắn yêu Idris...”

“Idris thì có gì hay chứ?” Clary hỏi, nghe thấy sự cộc cằn trong giọng nói mình.

“Nơi đó từng là,” bác Hodge dợm trả lời, nhưng rồi tự chữa lại, “vẫn là quê nhà – cho các Nephilim, nơi họ có thể là chính mình, một nơi họ không cần lẩn trốn hay ẩn thân. Một nơi được Thiên Thần chúc phúc. Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố nếu cháu chưa từng thấy Alicante với những tòa tháp pha lê. Nó đẹp hơn cháu có thể tưởng tượng. “Giọng nói bác mang nỗi đau còn rỉ máu.

Clary đột nhiên nghĩ tới giấc mơ. “Liệu có từng có... những buổi khiêu vũ tại Thành phố Pha Lê không ạ?”

Bác Hodge chớp mắt như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mơ. “Mỗi tuần. Bác chưa bao giờ tham dự, nhưng mẹ cháu thì có. Cả Valentine nữa.” Bác khe khẽ chậc lưỡi. “Bác giống mọt sách hơn. Bác dành cuộc đời mình tại thư viện ở Alicante. Những cuốn sách cháu thấy ở đây chỉ là một phần rất nhỏ trong kho báu mà thành phố ấy có. Bác nghĩ có lẽ tới một ngày nào đó bác nên gia nhập hội Tu Huynh Câm, nhưng tất nhiên sau những điều bác làm, họ sẽ không nhận bác.”

“Cháu rất tiếc,” Clary lóng ngóng bảo. Đầu óc cô vẫn ngập tràn hình ảnh trong mơ. Liệu có đài phun nước mỹ nhân ngư tại nơi họ khiêu vũ không? Liệu Valentine có mặc toàn đồ trắng và vì thế mẹ nhìn thấy những Ấn Ký trên da kể cả qua lớp áo?

“Cháu giữ bức hình này được không ạ?” cô hỏi và chỉ bức hình.

Một thoáng lưỡng lự loáng qua mặt bác Hodge. “Bác mong là cháu không đưa nó cho Jace xem,” bác nói. “Thằng bé đã có quá nhiều chuyện để đấu tranh rồi, không cần thêm chuyện bức hình người bố quá cố của nó xuất hiện nữa.”

“Tất nhiên rồi ạ.” Cô ôm hình vào ngực. “Cám ơn bác.”

“Không có gì.” Bác nhìn cô một cách dò hỏi. “Cháu tới thư viện tìm bác, hay vì mục đích gì khác?”

“Cháu tự hỏi bác có nghe tin gì từ hội đồng Clave chưa. Về Cốc Thánh ấy. Và... về mẹ cháu.”

“Bác nhận được một bức thư ngắn vào sáng nay.”

Cô có thể nghe ra sự hăm hở trong giọng nói của mình. “Họ có cho người tới không? Những Thợ Săn Bóng Tối ấy ạ?”

Bác Hodge nhìn lảng đi. “Có.”

“Vì sao họ không ở lại đây?”

“Vì có người nghi ngại rằng Học Viện đang bị Valentine theo dõi. Hắn biết càng ít càng tốt.” Bác nhìn ra sự buồn bã trên nét mặt cô và thở dài. “Bác rất tiếc vì không thể nói cho cháu biết nhiều hơn. Bác không được Clave tin tưởng nhiều gì cho cam, kể cả bây giờ. Họ nói cho bác rất ít. Bác ước gì có thể giúp cho cháu.”

Có gì đó buồn bã trong giọng nói bác khiến cô ngại không muốn dồn hỏi thêm. “Bác có thể chứ,” cô nói. “Cháu không ngủ được. Cháu mải nghĩ quá nhiều. Bác có thể...”

“Và, đầu óc không thư thái.” Giọng bác ngập tràn sự thông cảm. “Vụ này thì bác có thể cho cháu chút gì đấy. Đợi ở đây nhé.”

Thứ thuốc nước bác Hodge đưa cho cô có mùi dễ chịu của cây bách xù và lá cây. Clary mở nắp lọ và hít hà mãi khi đi quay trở ra hành lang. Không may thay là lọ vẫn mở khi cô vào phòng và thấy Jace đang nằm ngả ngớn trên giường, nhìn cuốn tập vẽ phác thảo của cô. Với một tiếng hét nho nhỏ vì kinh ngạc, Clary làm rơi cái lọ; nó nảy lên trên sàn, làm sánh thứ chất lòng màu xanh lá cây trong đó ra sàn gỗ cứng.

“Ôi trời,” Jace nói, ngồi thẳng dậy, bỏ cuốn tập sang bên. “Anh hy vọng thứ đó không quan trọng lắm.”

“Nó là thuốc ngủ ấy mà,” cô giận dữ đáp, dùng mũi giày đá cái lọ. “Và giờ thì không còn rồi.”

“Giá mà Simon ở đây. Có thể cậu ta sẽ làm em chán tới buồn ngủ nhỉ.”

Clary không có tâm trạng để bảo vệ Simon. Thay vào đó cô ngồi xuống giường, cầm cuốn tập lên. “Tôi thường không cho người khác xem cái này đâu.”

“Vì sao không?” Jace trông có vẻ bù xù, như thể vừa ngủ dậy. “Em là họa sĩ giỏi mà. Đôi khi thậm chí còn xuất sắc nữa ấy chứ.”

“À, vì – nó giống như một cuốn nhật ký vậy. Trừ việc tôi không nghĩ bằng từ ngữ, tôi nghĩ bằng tranh, có bao nhiêu tôi vẽ ra hết. Nhưng nó vẫn là đồ riêng tư.” Cô tự hỏi liệu mình nói nghe có vẻ điên khùng như cô đang nghi không.

Jace có vẻ bị tổn thương. “Một cuốn nhật ký mà không có bức tranh nào về anh sao? Bao nhiêu cảnh tưởng tượng tình tứ cuồng nhiệt đâu cả rồi? Còn những bìa tiểu thuyết lãng mạn nữa? Những...”

“Chẳng lẽ tất cả những cô gái gặp anh đều yêu anh sao?” Clary bình thản hỏi.

Câu hỏi dường như làm Jace mất hứng, như một mũi kim chích cho bong bóng xì hơi. “Không phải là yêu,” anh nói, sau khi ngừng một lúc. “Ít nhất...”

“Anh có thể thử đừng lúc nào cũng đi quyến rũ người khác,” Clary nói. “Như thế mọi người sẽ dễ chịu hơn chút đỉnh.”

Anh nhìn xuống đôi tay, chúng đã giống tay bác Hodge rồi, lốm đốm những vết sẹo nhỏ trắng, dù da anh còn căng mịn và chưa có nếp nhăn. “Nếu em đã mệt, anh có thể giúp em ngủ,” anh nói. “Kể chuyện cho em nghe.”

Cô nhìn anh. “Anh nghiêm túc đấy chứ?”

“Anh luôn nghiêm túc.”

Cô tự hỏi liệu vì quá mệt mỏi có khiến cả hai có chút điên khùng không. Nhưng trông Jace không mệt. Anh có vẻ buồn. Cô đặt cuốn tập xuống kệ đầu giường, nằm xuống, nghiêng người cuộn ôm lấy cái gối. “Được rồi.”

“Nhắm mắt lại nào.”

Cô nhắm mắt. Cô có thể thấy lưu ảnh của ánh đèn ở mí mắt trong, giống như ánh sao nhỏ xíu.

“Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé,” Jace kể.

Clary lập tức ngắt lời. “Một cậu bé Thợ Săn Bóng Tối?”

“Tất nhiên.” Chút vui vẻ thoáng qua thêm chút gia vị cho giọng nói của anh. Rồi nó biến mất. “Khi cậu bé đó lên sáu, bố tặng cậu ta một con chim cắt để cậu ấy huấn luyện. Chim cắt là loài ăn thịt – bố bảo, chúng giết những con chim khác và chúng, là những Thợ Săn Bóng Tối của bầu trời.

“Con chim cắt không thích cậu bé, và cậu bé cũng chẳng ưa gì nó. Cái mỏ nhọn của nó làm cậu lo lắng, đôi mắt sáng quắc của nó dường như lúc nào cũng dõi theo cậu. Nó sẽ dùng mỏ và móng vuốt để làm cậu bị thương nếu cậu dám tới gần: Trong nhiều tuần cổ tay và bàn tay cậu lúc nào cũng chảy máu. Cậu không mảy may hay biết rằng thật ra bố đã chọn cho cậu con chim đã sống trong môi trường hoang dã cả năm trời, và vì thế, chuyện huấn luyện nó dường như là không tưởng. Nhưng cậu bé đã cố, vì bố bảo cậu phải làm con chim biết nghe lời, còn cậu thì muốn bố vui lòng.

“Cậu thường ở cùng con chim, bắt nó thức bằng cách nói chuyện với nó, thậm chí chơi nhạc cho nó nghe, vì một con chim mệt mỏi sẽ dễ bị thuần hóa hơn. Cậu dung các trang bị: dây buộc chân chim cắt, mũ trùm, dây cuộn buồm, dây xích để buộc con chim vào cổ tay cậu. Cậu đáng ra phải làm mù mắt con chim cắt, nhưng cậu không thể - thay vào đó cậu ngồi tại nơi con chim có thể nhìn thấy khi cậu chạm và gãi cánh nó, để nó sẵn sàng tin tưởng cậu. Cậu cho nó ăn trên tay mình, và lúc đầu nó không chịu. Sau đó nó ăn ngốn nghiến đến mức cái mỏ làm lòng bàn tay cậu bị thương. Nhưng cậu bé rất vui, vì mọi chuyện đã tiến triển, và vì cậu muốn con chim hiểu mình, kể cả nếu con chim phải uống máu cậu để điều đó xảy ra.

“Cậu bắt đầu thấy con chim cắt thật đẹp, rằng đôi cánh thon gọn của nó dành cho những chuyến bay tốc độ, rằng nó mạnh mẽ và uyển chuyển, dũng mạnh và nhẹ nhàng. Khi nó lao xuống mặt đất, nó di chuyển như một tia chớp. Khi nó học lượn vòng và đậu xuống cổ tay cậu, cậu gần như hét lên vì sung sướng. Thi thoảng con chim sẽ nhảy lên vai cậu và cọ mỏ vào tóc cậu. Cậu biết con chim cắt yêu mến mình, và khi cậu biết chắc con chim không chỉ đã được huấn luyện mà còn thuần hóa một cách hoàn hảo, cậu tới gặp bố và cho ông xem thành quả, mong ông sẽ tự hào.

“Thay vào đó ông cướp đi con chim, giờ đã được thuần hóa và tin người, rồi bẻ cổ nó. ‘Bố bảo con làm cho nó biết vâng lời,’ bố nói và ném cái xác không hồn của con chim cắt xuống đất. ‘Vậy mà con lại dạy nó yêu quý con. Chim cắt không phải thú cưng: chúng là sinh vật mạnh mẽ và hoang dã, dữ tợn và tàn độc. Con chim này không phải đã được thuần hóa; nó đã bị làm cho hư rồi.’

“Sau đó, khi bố bỏ đi, cậu bé khóc thương cho con chim, tới khi bố cho người giúp việc tới mang xác con chim đi chôn. Cậu bé không bao giờ khóc nữa, và cậu không bao giờ quên điều mình học được: yêu thương là hủy diệt, và được yêu sẽ bị diệt.”

Clary, nãy giờ vẫn nằm im, gần như không thở được, ngồi dậy và mở mắt. “Câu chuyện ghê quá,” cô phẫn nộ.

Jace co chân, tực cằm lên gối. “Thật sao?” anh tư lự.

“Bố cậu bé đó thật tệ. Đây là câu chuyện kể về nạn bạo hành trẻ em. Lẽ ra tôi phải biết rằng giới Thợ Săn Bóng Tối nghĩ thế nào về truyện kể trước giờ đi ngủ chứ nhỉ. Bất cứ truyện gì khiến người ta gặp phải những cơn ác mộng kinh hoàng...”

“Thi thoảng các Ấn Ký có thể khiến em gặp phải những cơn ác mộng kinh hoàng đấy,” Jace nói. “Nếu em có nó khi còn quá nhỏ.” anh trầm ngâm nhìn cô. Ánh sáng của buổi chiều tà lọt qua những tấm rèm và chia gương mặt anh thành hai nửa đối lập. Chiaroscuro, cô nghĩ. Nghệ thuật tương phản sáng tối. “Một câu chuyện hay nếu em suy nghĩ về nó,” anh nói. “Bố cậu bé chỉ cố làm cậu ấy mạnh mẽ hơn. Cứng rắn hơn.”

“Nhưng anh cũng nên học cách mềm dẻo đi một chút,” Clary ngáp dài và nói. Dù nội dung câu chuyện kinh khủng, nhưng âm điệu trong giọng nói của Jace khiến cô buồn ngủ. “Không anh sẽ bị bẻ gẫy.”

“Sẽ không nếu em đủ mạnh mẽ,” Jace quả quyết. Anh vươn tay tới, cô cảm nhận mu bàn tay anh sượt qua má mình; cô nhận thấy mình đang dần nhắm mắt. Kiệt sức khiến xương cốt cô nhũn ra; cô có cảm giác như mình sẽ bị cuốn đi và biến mất. Khi chìm vào giấc ngủ, cô nghe có tiếng vọng trong đầu. Bố cho anh mọi thứ anh muốn. Ngựa, vũ khí, thậm chí là một con chim cắt đi săn.

“Jace,” cô cố nói. Nhưng cơn buồn ngủ đã bám lấy cô; kéo dìm cô xuống, và cô im lặng.

Cô tỉnh giấc bởi giọng giục giã. “Dậy đi!”

Clary từ từ mở mắt. Hai mắt dinh dính, nhắm tít vào nhau. Có gì đó ngưa ngứa trên mặt cô. Tóc một ai đó. Cô vội vàng ngồi dậy, đầu đập mạnh vào cái gì đó.

“Ối! Cậu đập phải đầu mình rồi!” Một giọng con gái. Isabelle. Cô bật ngọn đèn bên giường và cau có nhìn Clary, tay xoa xoa da đầu. Cô nàng có vẻ lấp lánh dưới ánh đèn – đang mặc chiếc váy dài màu bạc và áo kim tuyến, móng tay sơn màu như đồng xu lóng lánh. Những hạt cườm bạc gắn trên mái tóc đen. Cô nàng giống nữ thần mặt trăng. Clary ghét con nhỏ này.

“Ừm, không ai bảo cậu phải nhoài lên người mình như vậy. Cậu dọa mình chết khiếp.” Clary xoa đầu mình. Chỗ đau ngay trên lông mày cô. “Vậy cậu muốn gì nào?”

Isabelle chỉ ra bầu trời đêm ngoài ô cửa sổ. “Gần nửa đêm rồi. Chúng mình phải tới bữa tiệc thôi, và cậu vẫn chưa ăn mặc chỉnh tề.”

“Mình định mặc đồ thế này thôi,” Clary nói, chỉ vào chiếc quần bò và chiếc áo phông. “Có vấn đề gì không?”

“Có vấn đề gì không ấy à?” Isabelle trông như sắp xỉu. “Tất nhiên là có rồi! Không có kẻ nào thuộc Thế Giới Ngầm lại ăn mặc mấy món đồ đó. Và đây lại là một bữa tiệc nữa chứ. Cậu sẽ nổi bần bật như con lật đật nếu ăn mặc... xuề xòa,” cô nàng nói xong, nhưng có vẻ từ cô nàng định dùng còn tệ hơn từ “xuề xòa” nhiều.

“Mình không biết chúng ta phải chưng diện lên,” Clary chua chát nói. “Mình không mang quần áo dự tiệc đi.”

“Cậu mượn đồ của mình là được rồi.”

“Ôi không.” Clary nghĩ tới chiếc áo phông và quần bò quá khổ. “Ý mình là, mình không thể. Thật đấy.”

“Mình thực sự thà mặc quần áo của mình còn hơn,” Clary cự nự, khó chịu vặn vẹo người khi Isabelle đẩy cô đến trước tấm gương dài chạy ngang phòng ngủ.

“Ừm, cậu không thể,” Isabelle nói. “Cậu trông như bé gái tám tuổi, và tệ hơn, trông cậu giống như người thường.”

Clary cắn chặt răng phản kháng. “Chẳng có đồ nào của cậu vừa với mình cả.”

“Để xem xem sao nào.”

Clary quan sát Isabelle trong gương trong khi cô nàng lục lọi tủ quần áo của mình. Phòng cô nàng trông như là có một trái bóng sàn nhảy disco vừa nổ tung ra vậy. Những bức tường màu đen và lấp lánh những cuộn xoáy sơn màu vàng. Quần áo vương vất khắp nơi: trên chiếc giường đen chăn chiếu lộn xộn, máng trên lưng mấy chiếc ghế gỗ, tràn ra khỏi tủ chìm lẫn tủ quần áo cao cao tực vào tường. Chiếc bàn trang điểm, với gương được viền bằng lông vũ màu hồng, phủ đầy kim tuyến, kim sa và những hộp phấn má hồng rồi phấn nền.

“Phòng đẹp đấy,” Clary nói, lòng thèm khát nghĩ đến những bức tường sơn vàng cam trong phòng ngủ mình.

“Cám ơn. Mình tự sơn đấy.” Isabelle từ trong tủ chìm thò ra, cầm thứ gì đó màu đen và bó sát. Cô ném cho Clary.

Clary giơ bộ đồ lên, để nó duỗi ra. “Trông nhỏ kinh.”

“Nó co dãn mà,” Isabelle nói. “Giờ mặc vào đi.”

Vội vàng, Clary chui vào cái nhà tắm nhỏ sơn màu xanh da trời chói lóa. Cô vất vả chui đầu qua chiếc váy – chật ních, hai quai dây mảnh tanh. Cố không hít quá sâu, cô trở lại phòng ngủ, nơi Isabelle đang ngồi trên giường, đang đeo nhẫn ngón chân vào bàn chân đã mang xăng đan. “Cậu may mắn vì có ngực phẳng lì như thế,” Isabelle nói. “Mình không thể chui nổi vào cái đó mà không có áo ngực.”

Clary nhăn mặt. “Ngắn quá.”

“Không hề ngắn. Nhìn rất ổn,” Isabelle nói và thò chân vào gầm giường khua khoắng. Cô nàng đá ra một đôi bốt và đôi tất lưới. “Đây, cậu có thể mặc mấy thứ này với cái váy ấy. Chúng sẽ làm cậu trông cao hơn.”

“Được rồi, vì mình ngực phẳng và lùn.” Clary kéo gấu váy xuống. Nó chỉ chấm đến mé trên đùi. Gần như cô chẳng bao giờ mặc váy, chứ đừng nói tới váy ngắn, vì thế nhìn thấy chân mình lồ lộ ra nhiều thế này thật đáng sợ. “Nếu với mình nó còn ngắn thế này, cậc mặc còn ngắn tới mức nào nữa?” cô nói lớn suy nghĩ của mình với Isabelle.

Isabelle cười. “Mình mặc nó làm áo sơ mi mà.”

Clary ngồi phịch xuống giường kéo tất và đi bốt. Đôi bốt hơi lỏng quanh bắp chân, nhưng không bị tuột. Cô cột dây bốt lên và đứng dậy, nhìn ngắm mình trong gương. Cô phải thừa nhận rằng sự kết hợp giữa váy đen ngắn, tất lưới và bốt cao cổ thật quá ấn tượng. Thứ duy nhất không hợp là...

“Tóc cậu,” Isabelle nói. “Cần phải làm lại tóc thôi. Cực kỳ cần. Ngồi xuống.” Cô nàng hống hách chỉ vào cái bàn trang điểm. Clary ngồi, và nhắm chặt mắt trong khi Isabelle giằng tháo bím tóc cô ra – không hề nhẹ nhàng chút nào – chải mượt, rồi ấn cái gì giống như cặp ghim vào trong. Cô mở mắt ngay khi bông phấn đập vào mặt cô, khiến đám mây kim tuyến bay ra. Clary ho và nhìn Isabelle với vẻ buộc tội.

Cô gái kia cười lớn. “Đừng nhìn mình. Nhìn gương kìa.”

Nhìn vào gương, Clary thấy Isabelle đã búi tóc mình lại thành cuộn duyên dáng trên đỉnh đầu, và cố định bằng mấy cái cặp ghim lấp la lấp lánh. Clary đột nhiên nhớ tới giấc mơ, mớ tóc nặng kéo trĩu đầu cô xuống, nhảy cùng Simon... Cô bồn chồn cựa quậy.

“Đừng đứng dậy vội,” Isabelle nói. “Chúng ta chưa xong đâu.” Cô nàng cầm cây chì kẻ mắt lên. “Mở mắt ra nào.”

Clary mở to mắt, nhờ vậy mà cô không khóc. “Isabelle, mình hỏi cậu điều này được không?”

“Được,” Isabelle nói trong khi đang vẽ mắt một cách điệu nghệ.

“Alec là gay à?”

Cổ tay Isabelle giật nảy. Cây chì kẻ trượt đi, vẽ một vệt đen kéo dài từ khóe mắt Clary tới tận chân tóc. “Ồ, chết tiệt,” Isabelle nói và đặt chì xuống.

“Không sao đâu,” Clary cất tiếng và đưa tay lên mắt.

“Không, có sao đấy,” Isabelle gần như bật khóc lục lọi đống hầm bà lằng trên mặt bàn trang điểm. Rốt cuộc cô nàng cũng tìm ra một miếng bông và đưa cho Clary. “Đây. Dùng cái này.” Cô ngồi xuống mép giường, những cái vòng chân leng keng và nhìn Clary qua mái tóc xổ xuống. “Sao cậu đoán ra?” cuối cùng cô nàng nói.

“Mình...”

“Cậu nhất định không được nói cho bất cứ ai đấy,” Isabelle nói.

“Kể cả Jace?”

“Đặc biệt là Jace!”

“Được rồi!” Clary nghe thấy sự ngượng nghịu trong giọng mình. “Mình nghĩ mình không nhận ra chuyện này quan trọng thế nào.”

“Với bố mẹ mình thì quan trọng lắm,” Isabelle bình tĩnh đáp. “Họ sẽ từ anh ấy rồi ném anh ấy ra khỏi Clave...”

“Sao cơ, người ta không thể vừa là dân gay vừa là Thợ Săn Bóng Tối à?”

“Không có quy định chính thức về chuyện đó. Nhưng mọi người không thích. Ý mình là, những người độ tuổi chúng ta thì đỡ hơn – mình nghĩ thế,” cô nói thêm, không chắc chắn lắm, và Clary nhớ lại xem số lượng người khác bằng tuổi mà Isabelle thực sự đã gặp ít ỏi đến như thế nào. “Nhưng lớp già thì, không. Nếu chuyện đó xảy ra, người ta không nhắc tới.”

“Ồ,” Clary nói, ước gì chưa từng đề cập đến chuyện này.

“Mình yêu anh mình,” Isabelle nói. “Mình có thể làm mọi điều vì anh. Nhưng mình lại chẳng thể làm gì cả.”

“Ít nhất là anh ấy có cậu,” Clary ngượng nghịu nói, và cô thoáng nghĩ tới Jace, người nghĩ tình yêu là thứ sẽ nghiền nát con người ta thành từng mảnh. “Cậu có thực sự nghĩ Jace sẽ... để tâm không?”

“Mình không biết,” Isabelle nói bằng cái giọng ám chỉ rằng cô nàng không muốn nói thêm về đề tài này nữa. “Nhưng có phải lựa chọn của mình đâu chứ.”

“Mình nghĩ là không,” Clary nói. Cô ngoài người tới gần gương, dùng miếng bông Isabelle đưa để lau đường kẻ hỏng. Khi ngồi xuống, cô ngạc nhiên tới suýt làm rơi miếng bông: Isabelle đã làm gì với cô thế này? Xương gò má cô trông góc cạnh và thon gọn, mắt sâu mơ màng và mang màu xanh lá cây lúng liếng.

“Trông mình giống mẹ,” cô nói trong ngạc nhiên.

Isabelle nhướn mày. “Cái gì? Quá đứng tuổi á? Có lẽ thêm ít kim tuyến...”

“Không kim tuyến gì nữa đâu,” Clary vội nói. “Không, rất đẹp. Mình rất thích.”

“Tuyệt.” Isabelle bật phắt khỏi giường, vòng đeo chân kêu lanh canh. “Chúng ta đi thôi.”

“Mình cần về phòng mang theo vài thứ,” Clary nói và đứng dậy. “Mà – mình có cần mang vũ khí đi không? Cậu có mang gì không?”

“Mình có nhiều lắm.” Isabelle mỉm cười, đá cao chân, khiến vòng chân kêu lanh canh như chuông Giáng Sinh. “Ví dụ như những thứ này. Cái bên trái là hợp kim vàng bạc, cực độc đối với quỷ, và cái bên trái là vòng sắt được vảy nước thánh, nếu chẳng may mình gặp vài ma cà rồng kém thân thiện hoặc thậm chí là đám tiên nữ - chúng ghét sắt mà. Trên cả hai đều có khắc chữ rune sức mạnh, vì thế mình có thể mang theo cú đá cho nặng vào.”

“Săn quỷ là thời trang,” Clary nói. “Mình chưa bao giờ nghĩ chúng đi cùng nhau.”

Isabelle cười khanh khách. “Ngạc nhiên chưa!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Mấy cậu con trai đứng chờ ở lối vào. Họ mặc đồ đen, kể cả Simon trong chiếc quần âu hơi quá rộng và chiếc áo sơ mi mặc ngược để giấu đi logo ban nhạc. Cậu đang đứng lớ ngớ riêng một bên trong khi Jace và Alec ngồi cạnh nhau, dựa lưng vào tường, có vẻ buồn chán. Simon liếc nhìn khi Isabelle bước ra, sợi roi vàng quấn quanh eo, những chiếc vòng chân bằng kim loại kêu leng keng như chuông. Clary cứ nghĩ cậu sẽ choáng váng – quả thật Isabelle quá đẹp – nhưng ánh mắt cậu lướt qua cô ấy mà lại nhìn sang Clary, sững sờ.

“Cái gì thế này?” cậu hỏi và đứng thẳng lên. “Ý mình là, đồ cậu mặc ấy.”

Clary nhìn xuống thân mình. Cô đã mặc thêm chiếc áo khoác mỏng để đỡ cho mình cảm giác trần trụi và cầm theo ba lô từ trong phòng. Ba lô đang quàng qua một bên vai, nảy lên một cách quen thuộc trên xương bả vai. Nhưng Simon không nhìn cái ba lô; cậu nhìn chân cô như thể chưa bao giờ được thấy.

“Váy ấy mà Simon,” Clary khó chịu nói. “Mình biết mình không hay mặc, nhưng thật tình thôi đi cho.”

“Nó quá ngắn,” cậu bối rối nói. Kể cả mang trên mình một nửa trang phục của thợ săn quỷ, Clary nghĩ, trông Simon vẫn giống kiểu con trai sang nhà bạn đón bạn đi chơi, nhã nhặn với bậc phụ huynh và tốt bụng với con vật nuôi của bạn.

Jace, ngược lại, nhìn giống kiểu con trai sẽ sang nhà bạn đốt nhà cho vui vậy. “Anh thích cái váy đó,” anh nói và đứng dậy. Ánh mắt anh lười nhác lướt lên lướt xuống trên người cô, như móng vuốt của con mèo vờn qua. “Nhưng nó cần thêm chút gì đó nữa.”

“Giờ anh là chuyên gia thời trang à?” Giọng cô lạc đi – anh đang đứng rất gần, gần đến nỗi cô có thể cảm nhận hơi ấm nơi anh, ngửi thấy mùi khét thoang thoảng từ những Ấn Ký mới vẽ.

Anh lấy gì đó ra khỏi áo và đưa cho cô. Một con dao dài mảnh vẫn nằm trong vỏ. Chuôi dao có gắn một viên đá đỏ tạc hình hoa hồng.

Cô lắc đầu. “Tôi thậm chí còn không biết dùng cái này...”

Anh nhét vào tay cô, ấn tay cô nắm lấy nó. “Em phải học.” Anh hạ giọng. “Nó nằm trong máu em rồi.”

Cô từ từ rút tay lại. “Thôi được.”

“Mình có thể cho cậu mượn bao da quấn chân để nhét nó vào,” Isabelle đề nghị. “Mình có hàng đống.”

“TẤT NHIÊN LÀ KHÔNG,” Simon nói.

Clary ném cho cậu ta cái nhìn bực bội. “Cám ơn, nhưng mình không phải dạng con gái đeo bao da quanh chân.” Cô nhét con dao vào túi ngoài của ba lô.

Cô nhìn lên sau khi kéo khóa ba lô lại thì thấy Jace đang quan sát mình qua đôi mắt lim dim. “Và điều cuối cùng,” anh nói. Anh vươn tay rút những cái kẹp ghim lấp lánh khỏi tóc cô, để tóc xõa ra thành những lọn âm ấm nằng nặng buông xuống cổ. Cảm giác tóc ngứa ngứa trên làn da trần thật lạ lẫm và dễ chịu tới ngạc nhiên.

“Đẹp hơn nhiều rồi đấy,” anh nói, và cô nghĩ lần này có lẽ giọng nói của anh cũng hơi hơi lạc đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Bữa tiệc của người chết


Chỉ dẫn trong thiếp mời đưa họ tới một khu công nghiệp rộng lớn ở Brooklyn với những đường phố hai bên là những công xưởng và kho hàng. Clary nhận thấy, một vài trong số đó đã được cải tạo thành gác xép và phòng triển lãm, nhưng vẫn có gì đó ở vẻ bề ngoài sừng sững vuông vức, khoe ra chỉ vài ô cửa sổ đan song sắt khiến người ta có cảm giác khó gần.

Họ từ trạm tàu điện ngầm tìm đường đến, Isabelle dùng máy Cảm Ứng để định vị, có vẻ máy này có gắn sẵn hệ thống bản đồ. Simon, người rất thích đồ công nghệ, mê tít cả lên – hoặc ít nhất là cậu chàng đang giả vờ thứ mình mê tít là cái máy Cảm Ứng. Mong tránh xa họ, Clary lùi ra sau trong khi họ đi qua công viên rậm rạp, lớp cỏ không được chăm sóc đã ngả màu nâu úa trong sức nóng mùa hè. Ở bên phải cô, những ngọn tháp nhà thờ ánh lên màu xám và đen nổi bật trên bầu trời đêm không sao.

“Đi tiếp đi,” một giọng khó chịu vang lên bên tai cô. Là Jace, người đã lùi lại để đi cạnh cô. “Anh không muốn cứ phải nhìn ra sau để đảm bảo không có chuyện gì với em.”

“Vậy đừng nhìn.”

“Lần cuối cùng anh bỏ em một mình, một con quỷ đã tấn công em,” anh nhận định.

“À, chắc chắn là tôi ghét phá ngang cuộc đi dạo buổi tối vui vẻ của anh bằng cái chết đột ngột của tôi rồi.”

Anh chớp chớp mắt. “Có một lằn ranh ngăn cách mong manh giữa sự mỉa mai và thái độ thù địch công khai, mà dường như em đã vượt qua nó. Chuyện gì thế?”

Cô cắn môi. “Sáng nay, mấy người kỳ lạ quái gở đã đào bới não tôi. Giờ tôi lại đi gặp một gã kỳ lạ quái gở đã nhét vài thứ vào não tôi. Thế nhỡ tôi không thích điều hắn tìm thấy thì sao?”

“Sao em lại nghĩ là không?”

Clary vén tóc khỏi làn da nhớp nháp. “Tôi ghét khi anh trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi.”

“Không em không ghét đâu, em nghĩ là quyến rũ thì có. Mà, chẳng nhẽ em thà không muốn biết sự thực?”

“Không. Ý tôi là, có lẽ. Tôi không biết nữa.” Cô thở dài. “Anh thì sao?”

“Đúng đường này rồi!” Isabelle reo lên, cách đó một phần tư dãy nhà. Họ đang đứng trên một con phố hẹp hai bên là những nhà kho cũ, dù hầu hết trong số đó nay đều có dấu hiệu của cư dân sống: những cái hộp ở bậu cửa sổ trồng hoa, rèm cửa lay động trong gió đêm, những thùng rác bằng nhựa có đánh số chất trên vỉa hè. Clary nheo mắt rõ lắm, nhưng không có gì cho cô thấy đây là con phố cô từng thấy tại Thành Phố Xương Trắng – trong giấc mơ nó gần như bị chôn vùi trong tuyết.

Cô cảm nhận được những ngón tay của Jace sượt qua vai mình. “Nhất định là muốn rồi. Luôn luôn vậy,” anh lầm bầm.

Cô liếc nhìn, không hiểu. “Cái gì?”

“Sự thực,” anh nói. “Anh...”

“Jace!” Là Alec. Anh ta đang đứng trên vỉa hè, không xa lắm; Clary tự hỏi vì sao giọng anh ta lại lớn thế chứ.

Jace quay người, tay rời khỏi vai cô. “Ơi?”

“Chúng ta ở đúng nơi chứ?” Alec chỉ về cái gì đó mà Clary không thấy; ẩn sau một chiếc ô tô màu đen lù lù.

“Cái gì thế?” Jace tới bên Alec; Clary nghe anh ta cười lớn. Vòng quanh chiếc xe, cô nhìn ra thứ họ đang nhìn: vài chiếc xe máy, thon gọn màu bạc, với khung gầm đen thấp. Những đường ống bóng lừ trườn quanh chúng, ngoằn ngoèo như mạch máu. Có cảm giác buồn nôn về một thứ có sự sống trong những chiếc xe đó, giống như những sinh vật trong tranh của Giger.

“Ma cà rồng,” Jace nói.

“Với tôi trông chúng giống xe máy,” Simon nói, đứng cạnh Jace với Isabelle ở bên. Cô nàng nhíu mày nhìn mấy cái xe.

“Đúng là xe máy đấy, nhưng chúng đã được chỉnh sửa để chạy bằng năng lượng ác quỷ,” cô nàng giải thích. “Ma cà rồng sử dụng chúng – cho phép chúng di chuyển nhanh trong đêm. Không phải tuyệt đối trong Giao Ước, nhưng...”

“Nghe đồn vài chiếc còn bay được,” Alec hăng hái nói. Anh nghe hệt như Simon khi vớ được đĩa game mới. “Hoặc biến thành vô hình chỉ cần một nút gạt. Hoặc chạy dưới nước.”

Jace nhảy lên vỉa hè và đi vòng quanh mấy cái xe, săm săm soi soi. Anh vươn tay ra vuốt dọc theo khung gầm thon gọn của một chiếc xe. Trên thân xe có sơn vài con chữ bằng mực bạc: NOX INVICTUS. “Đêm huy hoàng,” anh dịch.

Alec nhìn anh một cách kỳ lạ. “Cậu đang làm gì đấy?”

Clary nghĩ mình thấy Jace cho tay lại vào trong áo. “Đâu làm gì đâu.”

“Vậy thì nhanh lên thôi,” Isabelle gọi. “Em không định mặc chiếc váy này rồi đứng nhìn các anh xà quần trong đống bẩn thỉu với toàn xe máy thế này đâu.”

“Chúng đẹp mà,” Jace nhìn rồi nhảy lại lên vỉa hè. “Em phải thừa nhận thôi.”

“À vâng,” Isabelle nói, trông có vẻ không định thừa nhận cái gì. “Giờ nhanh lên.”

Jace đang nhìn Clary. “Tòa nhà này,” anh nói và chỉ vào cái nhà kho gạch đỏ. “Có phải nó không?”

Clary thở dài. “Tôi nghĩ vậy,” cô không chắc chắn. “Trông chúng giống hệt nhau à.”

“Chỉ có một cách duy nhất để tìm ra thôi,” Isabelle nói, sải từng bước dài đi lên bậc cấp một cách quyết tâm. Những người khác đi theo, sát rạt vào nhau trong lối vào bốc mùi thối hoắc. Một ngọn đèn trơ trụi treo trên dây phía trên, hắt sáng xuống cánh cửa viền kim loại và những hàng chuông cửa dọc theo bức tường bên trái. Chỉ duy nhất một chuông cửa là có đề tên: BANE.

Isabelle ấn chuông. Chẳng có chuyện gì xảy ra. Cô nhấn lần nữa. Vừa định nhấn lần thứ ba thì Alec giữ lấy cổ tay cô em. “Đừng bất lịch sự,” anh nói.

Cô lườm. “Alec...”

Cánh cửa bật mở.

Một người đàn ông vóc dáng thanh mành đứng trước ngưỡng cửa, tò mò nhìn cả bọn. Isabelle là người đầu tiên lấy lại bình tĩnh và nở nụ cười quyến rũ. “Magnus? Magnus Bane?”

“Chính tôi đây.” Người đàn ông đứng chắn trước cửa cao gầy như thanh treo quần áo, mái tóc là một đầu chi chít tóc đen dựng lỉa chỉa. Từ nét cong cong trên đôi mắt ngái ngủ và sắc vàng trên làn da được nhuộm nâu đều khắp của người này Clary đoán ông ta một phần là người châu Á, với đôi gò má cao cuốn hút, khuôn mặt đẹp trai, vai rộng dù khung người có phần mảnh khảnh. Hẳn ông ta đang mặc đồ dự tiệc, là chiếc quần bò bó và áo sơ mi đính hàng tá đinh tán. Ông ta đánh mắt viền đen lấp lánh như mắt gấu trúc và tô môi màu xanh da trời sậm. Ông ta đưa bàn tay đầy những nhẫn lên vuốt mái tóc dựng đứng và trầm tư đánh giá họ. “Con cháu của Nephilim,” ông ta nói. “Chà chà. Tôi không nhớ có mời mấy cô mấy cậu.”

Isabelle rút thiếp mời ra mà vẫy như vẫy cờ trắng. “Tôi có thiếp mời đây. Những người này” – cô nàng khoa tay chỉ những người đi cùng – “là bạn tôi.”

Magnus giật lấy thiệp mời khỏi tay Isabelle và nhìn với vẻ chán ghét không buồn che giấu. “Chắc lúc đó tôi say quá,” ông ta nói rồi mở rộng cửa. “Vào đi. Và cố đừng giết người khách nào của tôi đấy nhé.”

Jace lách qua cửa, ngước mắt độ chừng Magnus. “Kể cả khi khách của ông đổ đồ uống lên đôi giày mới của tôi à?”

“Kể cả vậy.” Bàn tay Magnus bắn ra, quá nhanh nên trông chỉ như một cái bóng nhờ nhờ. Ông ta rút thanh stele khỏi tay Jace – Clary còn không hề biết Jace đang cầm nó – và giơ lên. Jace trông hơi bối rối. “Và cái này,” Magnus nói và nhét vào túi quần Jace,” để nó trong quần đi, Thợ Săn Bóng Tối.”

Magnus cười toe toét và bắt đầu lên lầu, để lại Jace đang sửng sốt đứng giữ cửa. “Đi nào,” ông nói và vẫy tay gọi những người khác vào. “Trước khi có người nghĩ đây là bữa tiệc của tôi.”

Cả bọn đi qua Jace, miệng nhoẻn cười một cách căng thẳng. Chỉ có Isabelle dừng lại và lắc đầu. “Làm ơn đừng có chọc giận ông ta. Nếu không ông ta sẽ không giúp chúng ta đâu.”

Jace có vẻ chán ngấy. “Anh biết anh đang làm gì mà.”

“Em mong vậy.” Isabelle hối hả vượt qua trong mớ váy áo lượt là.

Căn hộ của Magnus ở đầu trên cùng cái cầu thang dài dằng dặc và lung lay như sắp rụng. simon hối hả bắt kịp Clary, người đang hối hận vì đã đặt tay lên lan can để đi lại cho vững. Trên đó dính dính một thứ tỏa sáng sắc xanh lá cây nhàn nhạt thật ghê người.

“Gớm,” Simon nói và giơ gấu áo phông cho cô lau tay. Cô chùi vào. “Mọi chuyện ổn không? Cậu có vẻ... xao lãng.”

“Trông ông ta quen lắm. Ý mình là Magnus ấy.”

“Cậu nghĩ ông ta học ở St.Xavier à?”

“Nghe buồn cười quá.” Cô lườm xéo cậu bạn.

“Cậu nói đúng. Ông ta quá già không thể là học sinh được. Mình nghĩ mình học cùng ông ta môn hóa vào năm ngoái.”

Clary cười lớn. Đột nhiên Isabelle đến bên họ, phả hơi thở xuống cổ cô. “Mình bỏ lỡ chuyện hay gì hả? Simon?”

Simon tỏ ra ngượng nghịu, nhưng không nói gì. Clary lầm bầm, “Cậu chẳng bỏ lỡ gì cả,” và đi tụt lại đằng sau. Đôi bốt gót nhọn rộng ngoác của Isabelle bắt đầu làm cô đau chân. Khi tới đầu cầu thang cô đã đi cà nhắc, nhưng cô quên ngay cơn đau khi bước qua cánh cửa nhà Magnus.

Căn gác xép rộng và gần như chẳng có chút đồ nội thất nào. Những ô cửa sổ kéo dài từ sàn nhà tới trần dính lớp bụi và sơn dày, chắn gần hết ánh đèn đường từ ngoài phố chiếu vào. Những cột sắt lớn quấn đầy những bóng đèn màu đỡ lấy mái nhà hình vòm dính đầy bồ hóng. Cửa nẻo bị giằng khỏi bản lề và nằm vắt ngang những cái thùng rác bằng kim loại móp méo tạo thành một quầy bar tự chế ở cuối phòng. Người phụ nữ da màu hoa cà mặc áo quây kim tuyến đang xếp loại đồ uống dọc quầy bar trong những ly thủy tinh cao cao màu tối đục, khiến cho thứ chất lỏng chứa trong ly sẫm màu đi: đỏ lè như máu, xanh bầm tím đen, xanh lét độc hại. Thậm chí nếu so với một tay pha chế rượu ở New York này thì người đàn bà kia thao tác hiệu quả nhanh nhẹn đến ngạc nhiên – có lẽ là vì bà ta có thêm hai cánh tay dài duyên dáng phối hợp với đôi tay thứ nhất. Clary nhớ tới bức tượng nữ thần Ấn Độ của chú Luke.

Đám người còn lại cũng kỳ dị không kém. Cậu con trai đẹp mã có mái tóc nửa đen ngòm nửa xanh lục ướt át cười với cô qua cái đĩa đựng món gì đó nom như cá sống. Răng cậu ta sắc nhọn và lởm chởm răng cưa, như răng cá mập. Bên cạnh cậu ta là cô gái có mái tóc vàng dài bẩn thỉu được bện thành bím và cài hoa trên đó. Dưới phần tà của chiếc váy ngắn màu xanh lá cây, hai bàn chân của cô ta có màng như chân ếch. Một nhóm thiếu nữ mang nước da quá trắng làm Clary thắc mắc liệu có phải họ trát quá nhiều phấn hóa trang hay không đang uống từng ngụm chất lỏng đỏ sậm quá sánh không thể nào là rượu được từ những chiếc cốc thủy tinh xẻ rãnh. Phần trung tâm căn phòng nêm cứng những kẻ đang nhảy nhót theo nhịp trống nện thình thình dội ra mấy bức tường, dù Clary không thấy ban nhạc ở đâu.

“Cô thích bữa tiệc không?”

Cô quay lại thấy Magnus đang dựa người lên một trong mấy cái cột. Mắt ông ta sáng lên trong bóng tối. Liếc nhìn quanh, cô thấy Jace và những người khác đã đi đâu mất, bị đám đông che lấp.

Cô cố cười. “Bữa tiệc này nhằm dịp gì vậy?”

“Sinh nhật con mèo của tôi.”

“À.” Cô liếc nhìn quanh. “Con mèo của ông đâu?”

Ông ta đứng thẳng dậy, có vẻ trang nghiêm. “Tôi không biết. Nó chạy mất rồi.”

Clary không phải trả lời câu này vì Jace và Alec xuất hiện trở lại. Alec mang vẻ ủ rũ như thường lệ. Jace đang đeo những chiếc vòng kết hoa sáng nhỏ xíu quanh cổ và có vẻ hài lòng. “Simon và Isabelle đâu?” Clary hỏi.

“Trên sàn nhảy rồi.” Anh chỉ. Cô chỉ thấy họ ở ven ngoài một khu vực chật ních những người. Simon đang làm những động tác thường làm trên sàn nhảy thay cho nhảy, đó là nhảy lên nhảy xuống trên đầu ngón chân, trông có vẻ không thoải mái. Isabelle lượn lờ quanh cậu, uốn éo như rắn, di ngón tay trên ngực cậu. Cô nàng đang nhìn cậu ta như thể định lôi cậu ta ra góc nào đó mà làm “chuyện ấy” vậy. Clary ôm tay lấy quanh người, những chiếc vòng kêu lanh canh. Nếu họ nhảy sát nhau hơn, không cần tìm góc nào mà làm “chuyện ấy” hết.

“Nghe này,” Jace nói và quay sang Magnus, “chúng tôi thực sự cần nói chuyện với...”

“MAGNUS BANE!” Một chất giọng trầm trầm oang oang phát ra từ một gã lùn xủn tới kỳ lạ trông có vẻ như ba mươi tuổi. Hắn ta cơ bắp nùi nụi, đầu cạo nhẵn thín cùng chòm râu dê nhọn hoắc. Gã chỉ ngón tay run rẩy về phía Magnus. “Có kẻ đã đổ nước thánh vào bình xăng của xe tôi. Nó hỏng rồi. Hỏng hoàn toàn. Tất cả các đường ống đều tan chảy cả rồi.”

“Tan chảy?” Magnus lầm bầm. “Thật kinh khủng.”

“Tôi muốn biết ai gây ra chuyện đó.” Người đàn ông nhe răng ra, phô những cái răng nanh dài nhọn hoắt. Clary hứng thú nhìn. Trông chúng hoàn toàn không giống những gì cô tưởng về răng nanh ma cà rồng cả: mấy cái răng này mảnh và sắc như kim khâu. “Tôi tưởng anh thề là tối nay không có người-sói nào mà, Bane.”

“Tôi không mời bất cứ Đứa Con của Mặt Trăng nào tới hết,” Magnus nói trong lúc ngắm nghía bộ móng tay lấp lánh. “Chính vì mối thù truyền kiếp ngu ngốc của các người. Nếu có ai định phá xe của anh, đó không phải khách của tôi, và vì thế...” Ông ta cười rạng rỡ. “Không phải trách nhiệm của tôi.”

Ma cà rồng gầm lên giận dữ, xỉa ngón tay vào Magnus. “Anh đang định nói với tôi rằng...”

Ngón tay trỏ phủ kim tuyến của Magnus chỉ nhích đi một tí teo, khẽ khàng tới mức Clary cứ tưởng ông ta không động đậy gì sất. Đang rống nửa chừng con ma cà rồng bỗng tắc nghẹn đưa tay bấu lấy cổ họng. Mồm hắn vẫn há ra, nhưng không phát ra bất cứ âm thanh nào.

“Anh không còn được chào đón tại đây nữa,” Magnus thờ ơ bảo, mở trừng mắt. Clary trông thấy, giật bắn mình vì ngạc nhiên, rằng đôi đồng tử mắt ông ta thẳng đứng như mắt mèo. “Giờ thì cút đi.” Ông ta vẫy vẫy mấy ngón tay và ma cà rồng xoay người một cách mau lẹ như có ai nắm lấy vai hắn mà xoay. Hắn rảo bước về phía đám đông, hướng thẳng ra cửa.

Jace huýt sáo nho nhỏ. “Quá ấn tượng.”

“Ý cậu là cái cơn thịnh nộ nho nhỏ ấy hả?” Magnus nhìn lên trần nhà. “Tôi biết.”

Alec phát ra âm thanh như bị nghẹn. Một lúc sau Clary mới nhận ra là anh ta đang cười. Anh ta nên cười nhiều hơn.

“Chúng tôi đổ nước thánh vào bình xăng, thế thôi,” anh ta nói.

“ALEC,” Jace nói. “Im ngay.”

“Tôi cũng đoán là vậy,” Magnus nói, có vẻ vui thú. “Mấy thằng khốn hằn học, nhỉ? Các cậu thừa biết những chiếc xe của họ chạy bằng năng lượng ác quỷ. Tôi không nghĩ hắn có thể sửa được rồi.”

“Ít đi một con đỉa đi trên chiếc xe đẹp,” Jace nói. “Điều đó làm trái tim tôi ứa máu.”

“Tôi nghe nói vài người trong số họ có thể làm xe bay được,” Alec chen vào, ít ra được một lần trông có vẻ sống động. Còn gần như là hơi mỉm cười nữa.

“Chỉ là câu chuyện nhảm của mấy lão pháp sư già ấy mà,” Magnus nói, đôi mắt mèo lấp lánh. “Vậy đó là lý do các cậu muốn phá buổi tiệc của tôi hả? Chỉ để phá xe của vài kẻ hút máu thôi ư?”

“Không.” Jace lại tập trung vào việc chính. “Chúng tôi cần nói chuyện với ông. Tốt hơn là ở một chỗ riêng tư.”

Magnus nhướn một bên lông mày. Chết tiệt, Clary nghĩ, lại thêm người nữa. “Tôi có rắc rối gì với Clave chăng?”

“Không,” Jace nói.

“Có lẽ là không,” Alec lên tiếng. “Ối!” anh lườm Jace, người vừa đá mạnh vào mắt cá chân anh ta.

“Không,” Jace lặp lại. “Chúng tôi có thể nói chuyện với ông thuận theo các điều kiện của Hiệp Định. Nếu ông giúp chúng tôi, bất cứ điều gì ông nói đều được giữ bí mật.”

“Còn nếu tôi không giúp?”

Jace dang rộng hai tay. Những hình xăm chữ rune đen tuyền nổi bật trong lòng bàn tay. “Có thể là chẳng sao cả. Có thể là một chuyến viếng thăm tới thành phố Câm Lặng.”

Giọng Magnus nghe như mật ong đổ lên băng lạnh. “Cậu đang cho tôi một lựa chọn thú vị đó, cậu Thợ Săn Bóng Tối nhỏ bé ạ.”

“Đó không phải lựa chọn gì hết,” Jace nói.

“Phải,” pháp sư nói. “Đó chính xác là điều tôi muốn nói.”

Phòng ngủ của Magnus là một cơn sắc màu cuồng loạn: những tấm ga giường và chăn màu vàng hoàng yến phủ trên tấm nệm đặt trên sàn nhà, chiếc bàn trang điểm màu xanh điện tử còn vương vãi nhiều lọ sơn móng tay và đồ trang điểm hơn của Isabelle. Những tấm rèm nhung bảy sắc cầu vồng che đi ô cửa sổ cao tới trần nhà, tấm thảm len rối nùi phủ trên sàn nhà.

“Phòng đẹp đấy,” Jace nói, kéo tấm rèm nặng nề sang bên. “Chắc hẳn một Đại Pháp sư khu Brooklyn được trả thù lao hậu hĩnh lắm nhỉ?”

“Cũng được,” Magnus nói. “Dù không mang thêm những món lợi đi kèm. Không trả cho khám răng.” Ông ta đóng cửa lại và dựa người lên đó. Khi Magnus khoanh tay, chiếc áo phông bị kéo lên, để lộ ra cái bụng màu vàng kim phẳng lì không hề có lỗ rốn. “Rồi đấy,” ông ta nói. “Có gì trong đầu óc nhỏ bé quỷ quyệt của mấy cô cậu vậy?”

“Thực ra không phải bọn họ đâu,” Clary nói trước khi Jace kịp trả lời. “Tôi mới là người muốn nói chuyện với ông.”

Magnus hướng đôi mắt không phải của con người sang cô. “Cô không phải là một trong số họ,” ông ta nói. “Không phải của hội Clave. Nhưng cô có thể nhìn thấy Thế Giới Vô Hình.”

“Mẹ tôi là một người thuộc hội Clave,” Clary nói. Đây là lần đầu tiên cô nói lớn điều đó và biết đó là sự thực. “Nhưng bà chưa bao giờ nói cho tôi cả. Bà giữ đấy làm bí mật. Tôi không biết vì sao.”

“Vậy hỏi mẹ cô đi.”

“Tôi không thể. Mẹ...” Clary lưỡng lự. “Mẹ đi mất rồi.”

“Thế còn bố cô?”

“Bố mất trước khi tôi chào đời.”

Magnus bực tức thở hắt ra. “Đúng như Oscar Wilde từng nói, ‘Mất đi bố hoặc mẹ có thể được xem là vận rủi. Mất hết cả hai dường như là bất cẩn mà thôi.’”

Clary nghe thấy Jace rít lên khe khẽ, như thể không khí bị hút vào qua kẽ răng. Cô nói. “Tôi không mất mẹ. Bà bị cướp khỏi tôi. Bởi Valentine.”

“Tôi không biết Valentine nào hết,” Magnus nói, nhưng ánh mắt hấp háy như ánh nến bị rung động, và Clary biết ông ta đang nói dối. “Tôi rất tiếc vì hoàn cảnh bi kịch của cô, nhưng tôi không hiểu vì sao tất cả chuyện này có liên quan gì tới tôi. Nếu cô có thể nói cho tôi...”

“Cô ấy không thể, vì không nhớ,” Jace đanh giọng. “Có người đã xóa đi ký ức của cô ấy rồi. Vì lý do đó chúng tôi đã tới Thành Phố Câm Lặng để xem các Tu Huynh có lôi gì ra khỏi đầu cô ấy được không. Họ lấy ra được hai từ. Tôi nghĩ ông cũng đoán ra chứ nhỉ.”

Một khoảng im lặng ngắn ngủi. Cuối cùng, khóe miệng Magnus cong lên. Nụ cười xem chừng có phần cay đắng. “Chữ ký của tôi,” ông ta nói. “Tôi biết tôi hơi ngớ ngẩn khi làm điều đó. Một hành động ngông cuồng...”

“Ông ký lên trí nhớ của tôi á?” Clary không tin nổi.

Magnus giơ tay, vẽ những con chữ dữ dội trong không khí. Khi ông ta hạ tay xuống, chúng lơ lửng tại chỗ, bốc lửa và vàng rực, khiến cho đôi mắt viền đen và đôi môi đánh son của ông ta sáng lên phản chiếu. MAGNUS BANE.

“Tôi tự hào vì việc tôi với cô,” ông ta chậm rãi nói và nhìn Clary. “Quá sạch sẽ. Quá hoàn hảo. Những gì cô nhìn thấy cô sẽ quên đi, kể cả ngay khi cô đang nhìn thấy nó. Không một hình ảnh về yêu tinh, quỷ lùn hay những quái vật chân dài nào có thể nán lại để gây khó dễ cho giấc ngủ khả tử không đáng trách của cô. Đấy là điều bà ta muốn.”

Giọng Clary thều thào vì căng thẳng. “Điều ai muốn vậy chứ?”

Magnus thở dài, và khi hơi thở ông ta chạm tới, những con chữ đang rực cháy tan đi thành tro bụi óng ánh. Cuối cùng ông ta lên tiếng – và dù cô không ngạc nhiên, dù cô biết chính xác ông ta sắp nói gì, cô vẫn thấy những lời ấy như một cú đánh vào tim mình.

“Mẹ cô,” anh ta nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Ký ức trắng trơn


“Mẹ làm vậy với tôi ư? Clary gặng hỏi, nhưng cơn giận dữ vì ngạc nhiên nghe không hề thuyết phục, kể cả với chính tai cô. Nhìn quanh, cô thấy sự thương cảm trong mắt Jace, mắt Alec – kể cả Alec cũng đoán ra và thấy thương hại cho cô. “Vì sao?”

“Tôi không biết.” Magnus xòe bàn tay dài trắng ra. “Tôi không việc gì phải hỏi. Tôi làm những việc người ta trả thù lao thôi.”

“Trong khuôn khổ của Hiệp Định,” Jace nhắc, giọng mềm mại như lông mèo.

Magnus nghiêng đầu. “Tất nhiên, trong khuôn khổ Hiệp Định.”

“Vậy thì Hiệp Định đồng ý với chuyện... cưỡng đoạt trí nhớ này ư?” Clary cay đắng hỏi. Khi không ai trả lời, cô ngồi phịch xuống mép giường của Magnus. “Chỉ duy nhất một lần sao? Mẹ đặc biệt muốn tôi quên những gì? Ông có biết là những chuyện gì không?”

Magnus bồn chồn đi lại bên ô cửa sổ. “Tôi không nghĩ là cô hiểu. Lần đầu tiên tôi thấy cô, hẳn cô chỉ tầm hai tuổi. Tôi đã nhìn ra ô cửa sổ này” – ông ta gõ lên cửa kính, làm rơi lớp bụi và vụn sơn xuống – “và tôi thấy mẹ cô vội vã chạy trên đường, ôm theo cái gì đó quấn trong chăn. Tôi ngạc nhiên khi mẹ cô dừng trước cửa nhà tôi. Bà ấy trông rất bình thường, rất trẻ.”

Ánh trăng chạm đến khuôn mặt nhìn nghiêng hiếu chiến của ông ta bằng thứ ánh sáng bàng bạc. “Bà mở chăn khi bước vào nhà tôi. Cô nằm trong đó. Mẹ cô đặt cô xuống sàn nhà và cô bắt đầu bò lê la, nhặt mọi thứ lên, kéo đuôi con mèo của tôi – cô hét lên như nữ thần báo tử khi con mèo cào cô, vì thế tôi đã hỏi mẹ cô rằng cô có mang dòng máu thần báo tử không. Mẹ cô không cười.” Ông ta ngừng lại. Giờ tất cả đều chăm chú quan sát ông ta, kể cả Alec. “Mẹ cô nói với tôi rằng bà là Thợ Săn Bóng Tối. Mẹ cô chẳng việc gì phải nói dối cả; những Ấn Ký Giao Ước phơi ra đó, thậm chí khi chúng phai đi cùng năm tháng, nhưng những vết sẹo trắng bạc mờ trên da. Chúng sáng lên theo từng bước mẹ cô chuyển động.” Ông ta dụi lớp kim tuyến bôi quanh mắt. “Mẹ cô nói bà đã hy vọng cô sinh ra bị mù Tâm Nhãn – một vài Thợ Săn Bóng Tối phải được dạy dỗ mới nhìn thấy Thế Giới Bóng Tối. Nhưng bà đã bắt gặp cô trong chiều hôm đó, đang trêu chọc một yêu tinh bị kẹt trên bờ rào. Mẹ cô biết rằng cô thấy được. Vì thế mẹ cô hỏi tôi liệu tôi có thể làm mù Tâm Nhãn của cô không.”

Clary kêu lên khe khẽ, một tiếng thở ra đau đớn, nhưng Magnus vẫn tàn nhẫn tiếp tục.

“Tôi đã nói với mẹ cô rằng làm tổn hại tới phần đầu óc ấy của cô có thể khiến cô bị tổn thương, thậm chí là bị điên. Mẹ cô không khóc. Bà ấy không phải loại phụ nữ ỉ ôi yếu đuối. Bà hỏi tôi liệu có cách nào khác không, và tôi đã nói tôi có thể khiến cô quên đi những phần của Thế Giới Bóng Tối mà cô vừa nhìn được, kể cả ngay khi cô đang nhìn thấy. Nhưng có điều cứ hai năm mẹ cô lại phải tới gặp tôi vì tới lúc đó hiệu lực bùa chú bắt đầu yếu dần.”

“Và mẹ tôi có tới không?” Clary hỏi.

Magnus gật đầu. “Kể từ hồi đó cứ hai năm tôi lại gặp cô một lần – tôi quan sát cô trưởng thành. Cô là đứa nhỏ duy nhất tôi từng quan sát trưởng thành theo cách đó. Trong công việc của tôi thường thì pháp sư không được chào đón ở quanh những đứa trẻ loài người.”

“Vậy là ông đã nhận ra Clary ngay khi chúng tôi bước vào,” Jace hỏi. “Ông phải nhận ra.”

“Tất nhiên rồi.” Magnus có vẻ bực bội. “Và tôi bị sốc. Nhưng cậu định làm gì nào? Clary không biết tôi. Đáng ra cô ấy không nên biết đến tôi. Nhưng việc cô ấy có mặt ở đây có nghĩa câu thần chú đã dần mất hiệu lực – và đáng ra chúng tôi phải gặp lại nhau từ một tháng trước. Thậm chí tôi còn tới nhà cô ngay khi trở về từ Tanzania, nhưng Jocelyn nói hai mẹ con đã cãi nhau và cô đã bỏ đi. Bà bảo sẽ ghé qua chỗ tôi khi cô trở về, nhưng” – một cái nhún vai duyên dáng – “mẹ cô chưa hề gọi lại.”

Một luồng ký ức lạnh ngắt ùa về làm da Clary sởn cả lên. Cô nhớ đã đứng ở sảnh ngoài cạnh Simon, căng thẳng cố nhớ vừa thoáng thấy thứ gì nhảy qua... Mình nghĩ mình vừa thấy con mèo của bà Dorothea, nhưng chắc do ánh sáng thôi.

Nhưng Dorothea làm gì có mèo. “Ông đã ở đó vào ngày hôm đó,” Clary nói. “Tôi thấy ông rời khỏi phòng Dorothea. Tôi nhớ đôi mắt ông.”

Magnus nhìn như sắp rên rừ rừ. “Đúng là tôi là người đáng nhớ lắm,” ông ta hả hê. Rồi lắc đầu. “Cô không nên nhớ tôi,” ông ta nói. “Tôi đã dựng ngay phép ảo ảnh sừng sững như tường thành ngay khi vừa thấy cô. Cô đã có thể đâm sầm mặt vào đấy ấy chứ - nói theo phương diện tâm lý đấy.”

Nếu anh đâm vào bức tường tâm lý, anh có bị bầm mặt không? Clary nói, “Nếu ông tháo bỏ bùa chú khỏi người tôi, liệu tôi có thể nhớ lại những gì đã quên không? Tất cả những ký ức ông đã đánh cắp ấy?”

“Tôi không thể tháo bỏ bùa chú cho cô,” Magnus có vẻ khó ở.

“Cái gì?” Jace nghe chiều tức giận. “Vì sao không? Hội Clave yêu cầu anh...”

Magnus lạnh lùng nhìn lại. “Tôi không thích bị bảo phải làm gì, Thợ Săn Bóng Tối nhỏ bé ạ.”

Clary có thể thấy Jace ghét bị gọi là “nhỏ bé” thế nào, nhưng trước khi anh gay gắt trả lời, Alec đã lên tiếng. Giọng anh ta vang lên nhẹ nhàng, trầm tư. “Ông không biết cách đảo ngược à?” Alec hỏi. “Ý tôi là câu thần chú ấy.”

Magnus thở dài. “Đảo ngược thần chú khó hơn tạo ra thần chú gấp nhiều lần. Sự rắc rối trong câu thần chú này, sự quan tâm tôi đặt vào đó để dệt nên nó – nếu tôi chỉ cần phạm phải một lỗi lầm nhỏ nhất khi tháo bỏ nó, đầu óc của cô ấy sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Hơn nữa,” ông ta bổ sung, “nó bắt đầu mất hiệu lực rồi. Hiệu lực sẽ dần tự biến mất theo thời gian thôi.”

Clary gay gắt nhìn ông ta. “Vậy lúc đó tôi có lại được ký ức không? Bất cứ thứ gì bị lôi khỏi đầu tôi ấy?”

“Tôi không biết. Có thể chúng sẽ đồng loạt quay lại, hoặc theo từng giai đoạn. Cũng có thể cô sẽ không bao giờ nhớ được những điều mình đã quên trong bao nhiêu năm qua. Trong bao nhiêu năm hành nghề của tôi, điều mẹ cô yêu cầu là độc nhất vô nhị. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nữa.”

“Nhưng tôi không muốn đợi.” Clary đan chặt tay đặt trong lòng, những ngón tay bấu vào nhau chặt tới mức những đầu ngón tay trắng bệch. “Cả đời tôi tôi luôn có cảm giác có gì đó không ổn. Có gì đó thiêu thiếu hoặc bị tổn hại. Giờ thì tôi biết...”

“Tôi không làm tổn hại cô.” Lần này đến lượt Magnus ngắt lời, đôi môi giận dữ cong lên để lộ hàm răng trắng sắc nhọn. “Tất cả những thiếu niên trên thế giới này đều cảm thấy như vậy, cảm thấy tan nát hay lạc loài, khác biệt mà không hiểu vì sao, là hoàng tử mà bị sinh nhầm vào nhà nông dân. Cái khác trong trường hợp của cô là rằng cảm giác đó là thật. Cô thực sự khác biệt. Có lẽ không tốt hơn – nhưng khác biệt. Mà khác biệt không phải là điều dễ chịu gì. Cô có muốn biết cảm giác là như thế nào khi bố mẹ cô là dân con chiên ngoan đạo còn cô tự nhiên bị sinh ra với dấu ấn của quỷ không?” Ngón tay Magnus run rẩy chỉ lên mắt mình. “Khi bố cô chùn bước lúc nhìn thấy cô còn mẹ cô lại treo cổ trong kho thóc, đã hóa điên vì những gì mình làm ấy? Khi tôi lên mười, bố tôi đã cố dìm tôi xuống lạch. Ông ta biết, tôi không phải con đẻ của ông ta; rằng bố đẻ của tôi là một con quỷ. Tôi đã vùng vẫy, đã chống trả ông ta bằng mọi thứ có thể - và thiêu sống ông ta tại chỗ. Tôi đã tới gặp các Tu Huynh Câm để xin họ một chỗ nương thân. Họ nói bị thương hại là một điều thật cay đắng, nhưng còn tốt hơn là bị ghét bỏ. Khi tôi biết thực sự mình là gì, rằng bản thân tôi chỉ là một bán nhân, tôi đã ghét bỏ chính mình. Đấy là điều tồi tệ nhất.”

Sau khi Magnus nói xong, tất cả chìm trong im lặng. Clary ngạc nhiên khi chính Alec là người phá vỡ sự im lặng ấy. “Đó không phải lỗi của ông,” anh ta nói. “Ông sinh ra thế nào là ý trời.”

Vẻ mặt Magnus được đóng kín. “Tôi vượt qua chuyện đó rồi,” ông ta nói. “Tôi nghĩ cô đã hiểu tôi muốn nói gì. Khác biệt không đồng nghĩa với tốt hơn đâu, Clarissa ạ. Mẹ cô chỉ cố bảo vệ cô thôi. Đừng nổi khùng với mẹ.”

Đôi tay Clary lỏng ra đôi chút. “Tôi không quan tâm là mình có khác biệt hay không,” cô nói. “Tôi chỉ muốn thực sự là chính mình.”

Magnus chửi thề, bằng thứ ngôn ngữ cô không biết. Nghe như tiếng lửa cháy lách tách. “Được rồi. Nghe này. Tôi không thể tháo bỏ điều tôi đã làm, nhưng tôi có thể cho cô thứ khác. Một phần của thứ đáng lẽ là cô nếu cô được nuôi dạy như một Nephilim đúng nghĩa.” Ông ta đi qua phòng tới kệ sách và lôi xuống một cuốn sách nặng bìa nhung xanh lá cây đã mủn. Ông ta mở từng trang, khiến bụi và những mẩu vải đen bay lên. Những trang giấy mỏng dính, gần như trong veo như lớp màng trong vỏ trứng, mỗi trang được đánh dấu bằng một chữ rune đen lấp lánh.

Lông mày Jace nhướn lên. “Đây là bản sao cuốn Sách Xám sao?”

Magnus, đang lật sách liên hồi, không nói gì.

“Bác Hodge có một cuốn,” Alec nhận xét. “Bác ấy từng cho tớ xem một lần.”

“Nó đâu có xám,” Clary thấy buộc phải nói ra. “Nó màu xanh lá cây mà.”

“Nếu có một thứ mà chiết tự rõ ràng như vậy, thì hẳn em đã chết từ hồi nhỏ rồi,” Jace nói, phủi bụi dính trên khung cửa sổ rồi nhìn nhìn như đánh giá xem đã đủ sạch để ngồi lên hay chưa. “Xám là từ viết tắt của Gramarye. Nghĩa là ‘những kiến thức kỳ diệu được cất giấu’. Trong đấy ghi lại toàn bộ những chữ rune mà thiên thần Raziel đã viết lên cuốn Sách Giao Ước đầu tiên. Không có nhiều bản sao của cuốn sách này vì mỗi cuốn phải được chế bản một cách đặc biệt. Một số chữ rune chứa đựng quyền năng quá lớn có thể đốt cháy những trang sách bình thường.”

Alec có vẻ ấn tượng. “Thế mà tớ không biết.”

Jace nhảy lên bệ cửa sổ và đung đưa chân. “Không phải tất cả chúng ta đều ngủ gật trong tiết lịch sử đâu.”

“Tớ đâu có…”

“Ồ, có đấy, và chảy nước dãi sang bàn bên cạnh nữa cơ.”

“Im lặng nào,” Magnus nói, nhưng nói khá nhẹ nhàng. Ông ta dùng hai ngón tay giữ lấy hai trang sách và tới bên Clary, cẩn thận đặt sách lên đùi cô. “Giờ, khi tôi mở cuốn sách này ra, tôi muốn cô nhìn thật chăm chú. Nhìn tới khi cô cảm nhận có gì đó thay đổi bên trong đầu óc mình.”

“Có đau không?” Clary bồn chồn hỏi.

“Tất cả kiến thức đều mang lại đau đớn,” ông ta trả lời, rồi đứng thẳng dậy, để cho cuốn sách mở rộng trong lòng cô. Clary nhìn xuống trang giấy trắng trơn chỉ có duy nhất một Ấn Ký chữ rune đen tuyền dàn cả trang giấy. Trông giống như một hình xoáy ốc có cánh, tới khi cô nghiêng đầu, thì Ấn Ký trông giống một thanh trượng bị những dây leo bám quanh. Cạnh ngoài của hoa văn đó biến đổi khiến đầu óc cô ngứa ngáy như những sợi lông vũ chạm trên làn da nhạy cảm. Cô cảm nhận thoáng phản ứng rùng mình, khiến cô chỉ muốn nhắm mắt, nhưng vẫn cố mở cho tới khi mắt cay xè và mờ đi. Cô đang định chớp mắt thì cảm nhận thấy nó: một tiếng cách trong đầu, giống như chìa khóa xoay trong ổ khóa.

Chữ rune trên trang giấy có vẻ bắt đầu tụ lại, và cô nghĩ một cách thụ động, Nhớ. Nếu chữ rune là một từ, nó sẽ là từ đó, nhưng nó có nhiều ý nghĩa hơn bất cứ từ ngữ nào cô có thể tưởng tượng ra. Nó là ký ức đầu tiên của đứa trẻ về ánh sáng chiếu qua những chấn song trên thành nôi, ký ức về mùi hương của mưa và phố phường trong thành phố, là nỗi đau đớn vì những mất mát không thể nào quên, là cơn nhói đau khi nhớ lại những lần bị xỉ nhục, và là sự lãng quên độc ác của tuổi già, khi những ký ức lâu cũ nhất sống động với sự chính xác đến bực mình trong khi những sự kiện mới đây nhất lại biến mất không thể nhớ nổi.

Với một tiếng thở dài khe khẽ cô lật sang trang tiếp, trang tiếp nữa, để cho những hình ảnh và cảm giác chảy tràn trong cô. Buồn đau. Suy nghĩ. Sức mạnh. Bảo vệ. Ân huệ - và rồi hét lên trong sự ngạc nhiên quở trách khi Magnus giật cuốn sách khỏi lòng cô.

“Đủ rồi,” ông ta nói và nhét sách trở lại lên kệ. Ông chùi tay vào chiếc quần sặc sỡ, để lại những vệt màu xam xám. “Nếu cô đọc tất cả những chữ rune một lúc, cô sẽ bị đau đầu đấy.”

“Nhưng mà...”

“Hầu hết những đứa con của Thợ Săn Bóng Tối lớn lên chỉ học duy nhất một chữ rune một lần trong nhiều năm liền,” Jace nói. “Sách Xám chứa những chữ rune mà cả anh cũng chẳng biết.”

“Tinh tướng nhỉ,” Magnus nói.

Jace lờ đi. “Magnus đã cho em xem chữ rune mang nghĩa Hiểu biết và Hồi tưởng. Nó sẽ khơi mở tâm trí em giúp em đọc và nhớ những Ấn Ký còn lại.”

“Nó cũng giúp kích hoạt những ký ức ngủ vùi,” Magnus nói. “Những ký ức ấy sẽ trở lại với cô nhanh hơn khi cô chưa được xem qua hai chữ rune ấy. Tôi chỉ làm được đến đó thôi.”

Clary nhìn xuống lòng mình. “Tôi vẫn không nhớ chút gì về Cốc Thánh cả.”

“Cô muốn nhớ lại chỉ vì thế à?” Magnus rõ ràng là kinh ngạc. “Cô đang truy tìm chiếc Cốc của Thiên Thần ư? Nghe này, tôi đã quan sát những ký ức của cô. Không có gì liên quan tới Bảo Bối Thiên Thần hết.”

“Bảo Bối Thiên Thần ư?” Clary bối rối nhắc lại. “Tôi tưởng...”

“Thiên Thần đã ban ba báu vật cho những Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên. Chiếc cốc, thanh kiếm và tấm gương. Các Tu Huynh Câm giữ thanh kiếm; chiếc cốc và tấm gương ở Idris, ít nhất là tới khi Valentine xuất hiện.”

“Không ai biết tấm gương ở đâu,” Alec nói. “Đã nhiều năm nay rồi.”

“Nhưng bọn tôi chỉ quan tâm tới chiếc Cốc thôi,” Jace nói. “Valentine đang tìm nó.”

“Và các cậu muốn có có trước khi Valentine tìm ra à?” Magnus hỏi, lông mày nhướn lên.

“Tôi tưởng ông bảo không biết Valentine là ai mà?” Clary thắc mắc.

“Tôi nói dối đấy,” Magnus thẳng thắn thừa nhận. “Các cậu cũng biết tôi không phải thần tiên mà. Tôi đâu cần phải thật thà. Và chỉ có kẻ ngốc mới ngáng đường trả thù của Valentine.”

“Vậy đó là điều ông nghĩ hắn đang theo đuổi ư? Trả thù?” Jace nói.

“Tôi đoán vậy. Hắn đã thua trong đau đớn, và hắn từng có vẻ như không thể nào là – vẫn đang có vẻ chứ nhỉ - dạng người chịu thua một cách quân tử.”

Alec nhìn Magnus kỹ hơn. “Ông đã có mặt trong vụ Nổi Dậy à?”

Đôi mắt Magnus xoáy thẳng vào Alec. “Đúng. Tôi đã giết một số người trong cộng đồng các cậu đấy.”

“Thành viên của hội Circle,” Jace nhanh nhảu. “Không phải hội chúng tôi...”

“Nếu các cậu cứ khăng khăng phủ nhận về điều xấu xa các cậu đã làm,” Magnus nói, vẫn nhìn Alec, “thì các cậu sẽ không bao giờ rút ra được bài học từ sai lầm cũ.”

Alec, đang nắm lấy khăn phủ bàn ở một bên tay, mặt đỏ lừ lộ vẻ không vui. “Ông có vẻ không ngạc nhiên khi nghe tin Valentine còn sống,” Alec nói, lảng tránh ánh nhìn của Magnus.

Magnus xòe rộng tay. “Các cậu thì sao?”

Jace mở miệng rồi lại ngậm miệng lại. Có vẻ anh thực sự lúng túng. Rốt cuộc anh cũng nói, “Vậy ông sẽ không giúp chúng tôi tìm chiếc Cốc Thánh phải không?”

“Nếu giúp được tôi cũng không giúp,” Magnus nói, “nhưng mà này, tôi không có khả năng giúp đâu. Tôi không biết nó ở đâu, và tôi cũng không muốn biết. Như tôi đã nói, chỉ có kẻ ngốc mới làm thế.”

Alec đứng thẳng hơn. “Nhưng không có chiếc Cốc, chúng tôi không thể...”

“Tạo thêm nhiều đồng loại các cậu. Tôi biết chứ,” Magnus nói. “Có lẽ không phải ai cũng nghĩ đó là thảm họa như các cậu tưởng đâu. Cậu nhớ cho này,” ông ta nói thêm, “nếu tôi phải chọn giữa hội Clave và Valentine, tôi sẽ chọn hội Clave. Ít nhất họ không thể xóa sổ giống nòi chúng tôi. Nhưng những gì hội Clave đã làm cũng chẳng thu phục được lòng trung thành cúc cung tận tụy của tôi cả. Vì thế, không đâu, tôi sẽ không can dự. Giờ chúng ta đã xong việc ở đây, tôi muốn trở lại bữa tiệc của tôi trước khi có vị khách nào ăn thịt nhau.”

Jace nãy giờ hết nắm tay lại rồi mở tay ra, trông có vẻ như định nói lên điều gì đó phẫn nộ lắm vậy, nhưng Alec đã đứng lên và đặt tay lên vai anh. Clary không thể nhìn được rõ trong cảnh tranh tối tranh sáng, nhưng có vẻ Alec bóp vai Jace rất mạnh. “Có thể không?” anh ta hỏi.

Magnus vui vẻ nhìn anh. “Chuyện đó từng xảy ra rồi.”

Jace lầm bầm gì đó với Alec, giờ đã thả anh ra. Lách mình đi, anh tới bên Clary. “Em ổn không?” anh thấp giọng hỏi.

“Chắc ổn. Tôi chẳng cảm thấy khác biệt gì hết...”

Magnus đứng bên cửa, nóng nảy búng ngón tay. “Đi nào, mấy cô mấy cậu. Người duy nhất được ân ân ái ái phòng ngủ của tôi là chính con người cao quý này mà thôi.”

“Ân ân ái ái hả?” Clary nhắc lại, như chưa từng nghe thấy từ đó bao giờ.

“Cao quý ư?” Jace nhắc lại, mặt như thể buồn nôn. Magnus càu nhàu. Tiếng càu nhàu nghe giống “Cút ra.”

Họ đi ra, Magnus đi sau, sau khi dừng lại khóa cửa phòng. Với Clary, tinh thần bữa tiệc dường như đã có chút khác biệt. Có lẽ vì nhãn quang của cô đã hơi thay đổi: Mọi thứ dường như rõ ràng hơn, những góc cạnh pha lê trở nên cực kỳ rõ nét. Cô quan sát nhóm nghệ sĩ đang biểu diễn trên một sân khấu nhỏ ở giữa phòng. Họ mặt quần áo bồng bềnh màu vàng, màu tím và xanh lá cây sậm, hát bằng tông giọng cao chót vót siêu trần.

“Tôi ghét mấy ban nhạc tiên,” Magnus lầm bầm khi các nghệ sĩ chơi liên khúc sang một bài hát gây ám ảnh khác, giai điệu tinh tế và trong suốt như đá pha lê. “họ toàn chơi mấy bản nhạc não tình.”

Jace, liếc nhìn quanh phòng, cười lớn. “Isabelle đâu rồi?”

Cảm giác tội lỗi chợt ùa đến với Clary. Cô đã quên mất Simon. Cô nhìn quanh, tìm kiếm đôi vai gầy và mái tóc đen bù xù quen thuộc. “Tôi không thấy cậu ấy. Ý em là họ.”

“Con nhỏ kia kìa,” Alec đã thấy cô em gái và vẫy cô nàng tới, trông có vẻ an tâm hơn phần nào. “Đằng này này. Và coi chừng thứ tiên biến hình phouka kia nhé.”

“Coi chừng con phouka à?” Jace nhắc lại, liếc nhìn người đàn ông gầy nhẳng da nâu mặc bộ vét hoa lá cành màu xanh lá cây đang trầm tư nhìn Isabelle khi cô nàng bước ngang qua.

“Hắn nhéo tớ khi lúc nãy tớ đi qua hắn,” Alec ngại ngùng nói. “Ở khu vực vô cùng riêng tư.”

“Tớ ghét phải nói thẳng với cậu, nhưng nếu hắn thích cái khu vực cực kỳ riêng tư của cậu, thì chắc chắn hắn sẽ không thích em gái cậu đâu.”

“Không hẳn,” Magnus nói. “Tiên không phân biệt nam nữ.”

Jace cong môi khinh bỉ về phía vị pháp sư. “Ông vẫn còn ở đây à?”

Trước khi Magnus kịp trả lời, Isabelle đã đứng trước mặt họ, mặt hồng rực, người bẩn thỉu và nồng nặc mùi cồn. “Jace! Alec! Các anh vừa ở đâu về thế? Em tìm các anh suốt...”

“Simon đâu rồi?” Clary xen ngang.

Isabelle lảo đảo. “Cậu ấy là chuột,” cô nàng buồn bã nói.

“Cậu ta làm gì em hả?” Alec ra giọng quan tâm như một người anh. “Cậu ta chạm vào em à? Nếu cậu ta dám làm gì...”

“Không, Alec,” Isabelle bực bội nói. “Không phải thế. Cậu ấy hóa chuột ấy.”

“Nhỏ này xỉn rồi,” Jace nói, bắt đầu khó chịu quay người đi.

“Không có đâu,” Isabelle căm phẫn. “Ừm, có thể một chút, nhưng đấy không phải vấn đề. Vấn đề là, Simon đã uống thứ nước màu xanh da trời – em đã bảo cậu ấy không được uống, nhưng cậu ấy không nghe – và cậu ấy hóa thành chuột.”

“Chuột á?” Clary ngờ vực nhắc lại. “Cậu không định nói là...”

“Ý mình là chuột,” Isabelle nói. “Nhỏ thó. Màu nâu. Đôi xếp vảy.”

“Hội Clave sẽ không thích vụ này đâu,” Alec hồ nghi. “Anh tin chắc việc hóa người thường thành chuột là đi ngược với Luật.”

“Về cơ bản thì nhỏ này đâu có biến Simon thành chuột,” Jace chỉ ra. “Tệ nhất thì cô nàng chỉ bị buộc tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng mà thôi.”

“Ai thèm quan tâm về cái Luật ngớ ngẩn ấy chứ?” Clary hét lên, nắm lấy cổ tay Isabelle. “Bạn thân của tôi bị hóa thành chuột rồi!”

“Ối!” Isabelle cố rút tay lại. “Thả tớ ra!”

“Tới khi cậu nói cho mình biết cậy ấy ở đâu đã.” Cô chưa từng muốn tát ai như muốn tát Isabelle trong lúc này. “Mình không thể tưởng tượng nổi cậu đã bỏ rơi cậu ấy – chắc cậu ấy sợ lắm...”

“Nếu cậu ta chưa bị dẫm bẹp ấy,” Jace chỉ ra điều vô bổ kia.

“Mình không bỏ cậu ấy. Cậu ấy chạy xuống dưới quầy bar ấy,” Isabelle cự nự. “Thả ra! Cậu làm móp vòng tay của mình rồi.”

“Quỷ cái,” Clary giận dữ, quật bàn tay của cô nàng Isabelle đang king ngạc về phía cô ta, rất mạnh. cô không thèm dừng lại xem cô gái kia phản ứng ra sao; cô đang chạy tới quầy bar. Cô quỳ thụp xuống, nhìn vào khoảng tối tăm bên dưới. Trong bóng tối mờ mờ nồng nặc mùi ẩm mốc, cô nghĩ mình chỉ có thể thấy ra một cặp mắt hình hạt đậu sáng lấp lánh.

“Simon ơi?” cô nói, giọng nghẹn lại. “Cậu phải không?”

Simon-chuột-cống bò ra một chút, hàng ria rung động. Cô đã thấy hình dáng đôi tai tròn nhỏ, ép sát vào đầu, cùng chóp mũi nhòn nhọn. Cô cố kìm nén cảm giác khiếp sợ - cô chưa bao giờ thích chuột cống cả, những sinh vật sở hữu hàm răng vàng ệch nhe ra chực cắn. Cô ước giá mà bạn mình hóa thành chuột đồng thì hơn.

“Mình, Clary đây,” cô chầm chậm nói. “Cậu ổn không?”

Jace và những người khác chạy tới sau lưng cô, Isabelle giờ trông có vẻ khó chịu hơn là chớm khóc. “Cậu ta có dưới đó không?” Jace tò mò hỏi.

Clary, vẫn bò chống tay, gật đầu. “Suỵt. Anh làm cậu ấy sợ đấy.” Cô dè dặt thò tay dưới gầm quầy và vẫy vẫy. “Đi ra nào, Simon. Chúng mình sẽ nhờ Magnus đảo ngược bùa chú. Ổn thôi mà.”

Cô nghe có tiếng rúc rích, rồi cái mũi hồng hồng của con chuột thò ra dưới quầy bar. Reo lên vì nhẹ nhõm, Clary ôm con chuột trong tay. “Simon! Cậu hiểu mình!”

Con chuột, nằm lọt thỏm trong hai bàn tay của Clary, lít chít rầu rĩ. Clary mừng rơn, ôm cậu bạn sát vào ngực. “Ôi, cậu bé đáng thương,” cô nựng, như thể cậu bạn thực sự là một con vật nuôi. “Simon đáng thương, mọi chuyện sẽ ổn thôi, mình hứa...”

“Anh thì anh sẽ không cảm thấy quá buồn cho cậu ta đâu,” Jace nói. “Đó có lẽ là khoảng cách gần nhất mà cậu ta từng được tiếp cận đến vòng hai.”

“Im đi!” Clary giận dữ lườm xéo Jace, nhưng cô đã buông lỏng con chuột hơn. Hàng ria của cậu bạn hơi rung động, không hiểu vì tức giận, lo lắng hay sợ hãi. “Đi tìm Magnus đi,” cô quát. “Chúng ta phải biến cậu ấy trở lại làm người.”

“Đừng vội.” Jace quả thật là đang cười toe toét, thằng cha đểu giả. Anh vươn tay về phía Simon như định nựng. “Trông cậu ta thế này lại dễ thương đấy chứ. Nhìn cái mũi hồng hồng be bé kia mà xem.”

Simon nhe những chiếc răng vàng khè dài ngoẵng với Jace và hầm hè chực cắn. Jace rụt tay lại ngay tức khắc. “Izzy, đi gọi vị chủ nhà cao quý tới đây xem nào.”

“Sao lại là em?” Isabelle nghe có vẻ dỗi.

“Bởi vì do lỗi của em nên gã người thường này mới hóa chuột, ngốc tử ạ,” anh nói, Clary chợt nhận ra đám người này thật hiếm khi nói ra tên thật của Simon, ngoài Isabelle. “Mà chúng ta không thể bỏ cậu ta tại đây.”

“Anh hẳn sẵn sàng bỏ cậu ta lại ngay nếu không vì con nhỏ kia,” Isabelle nói, cũng ráng tiêm được vào ba tiếng kia một liều thuốc độc đủ hạ gục một con voi. Cô nàng quày quả bỏ đi, chiếc váy nảy quanh hông.

“Mình không tin nổi là cô ta lại để cậu uống cái thức nước xanh xanh đó,” Clary nói với chuột-Simon. “Giờ cậu đã thấy cậu nhận lấy gì khi nông cạn đến thế rồi đấy.”

Simon giận dữ rít lên. Clary nghe có ai đang chậc lưỡi nên ngước lên trông thấy Magnus tì người nhìn xuống mình. Isabelle đứng sau ông ta, vẻ mặt phừng phừng phẫn nộ. “Rattus norvegicus,” Magnus nheo mắt nhìn Simon và nói. “Một con chuột cống lông nâu thông thường, không có gì độc hại.”

“Tôi không quan tâm cậu ấy thuộc loại chuột gì,” Clary bực dọc. “Tôi muốn cậu ấy trở lại thành người.”

Magnus gãi đầu nghĩ ngợi, làm rơi ít kim tuyến xuống. “Không đáng,” ông ta nói.

“Tôi đã nói thế mà.” Jace có vẻ hài lòng.

“KHÔNG ĐÁNG LÀ SAO?” Clary hét lên, lớn tiếng đến nỗi khiến Simon giấu đầu dưới ngón tay cái của cô. “SAO ÔNG CÓ THỂ NÓI LÀ KHÔNG ĐÁNG CHỨ?”

“Vì cậu ta sẽ trở lại nguyên trạng sau vài giờ nữa,” Magnus đáp. “Hiệu lực của ly cocktail chỉ tạm thời mà thôi. Không đáng để thực hiện thần chú biến hình; sẽ làm cậu ấy chấn thương đấy. Quá nhiều phép thuật sẽ gây hậu quả nghiêm trọng lên người thường, vì cơ chế của họ không quen với điều đó.”

“Tôi không nghĩ cơ chế của cậu ấy cũng quen với việc làm chuột đâu,” Clary nhận xét. “Ông là một pháp sư, ông không thể đảo ngược bùa chú sao?”

Magnus ngẫm nghĩ. “Không.”

“Ý ông là sẽ không làm.”

“Không làm miễn phí, cưng à, mà cô cũng chẳng trả nổi tiền cho tôi đâu.”

“Tôi không thể mang chuột lên tàu điện ngầm được,” Clary than vãn. “Tôi sẽ làm rơi cậu ấy, hoặc một trong những cảnh sát MTA sẽ bắt tôi vì tôiang loài gây hại lên các phương tiện giao thông công cộng mất.” Simon kêu chin chít giận dữ. “Tất nhiên cậu không phải động vật gây hại rồi.”

Một cô gái nãy giờ đang la hét cạnh cánh cửa giờ lại có thêm sáu hay bảy người khác hòa thanh. Âm thanh những giọng nói giận dữ át tiếng động của bữa tiệc và làn điệu bản nhạc. Magnus đảo mắt chán nản. “Xin phép nhé,” ông ta vừa nói vừa thụt lùi vào trong đám đông, đám đông ngay lập tức quây kín ông ta.

Isabelle, lảo đảo đứng trên đôi săng đan, thở dài thườn thượt. “Thôi rồi cái sự giúp đỡ của ông này.”

“Cô biết đấy,” Alec nói, “cô có thể nhét con chuột vào ba lô mà.”

Clary trừng trừng nhìn anh ta, nhưng không thấy ý kiến đó có gì sai. Không phải là cô có túi áo túi quần nào để nhét bạn vào. Quần áo của Isabelle không có chỗ cho túi; chúng quá bó. Clary ngạc nhiên khi chúng lại có chỗ cho Isabelle.

Nhún vai thả ba lô xuống, cô tìm được một chỗ giấu con chuột nâu nhỏ từng là Simon, nép giữa chiếc áo len tròng đầu và cuốn tập phác thảo. Cậu ta cuộn tròn người ngồi trên ví của cô, trông như muốn quở trách. “Mình xin lỗi,” cô khổ sở nói.

“Đừng chứ,” Jace nói. “Vì sao người thường cứ đòi nhận trách nhiệm về những việc không phải lỗi của họ vẫn là một điều bí ẩn với anh. Em đâu có đổ thứ cocktail đó xuống cái cổ họng ngu ngốc của cậu ấy.”

“Nếu không phải vì tôi, cậu ấy sẽ không tới đây làm gì,” Clary lí nhí nói.

“Đừng tự nịnh mình. cậu ta đi là vì Isabelle.”

Clary giận dữ kéo khóa cặp lại và đứng dậy. “Đi khỏi đây thôi. Tôi phát ốm với nơi này rồi.”

Đám đông người lố nhố la hét ngoài cửa hóa ra là những ma cà rồng, dễ nhận ra nhờ nước da trắng xanh và mái tóc đen tuyền. Họ chắc chắn có nhuộm, Clary nghĩ, không thể tất cả đều mang mái tóc đen tự nhiên được, và hơn nữa, một vài trong số họ có lông mày vàng. Họ đang lớn tiếng phàn nàn về những chiếc xe máy bị phá hoại và một vài người bạn của họ bị mất tích không rõ lý do. “Chắc họ uống say rồi ngất ở đâu đó thôi,” Magnus nói, vẫy những ngón tay dài ra chừng chán nản. “Các anh cũng thừa biết đám bọn anh có khuynh hướng biến thành dơi hay những đụn tro sau khi nốc quá nhiều ly Bloody Mary mà.”

“Họ trộn vodka với máu,” Jace nói vào tai Clary.

Hơi thở anh làm cô run rẩy. “Vâng, tôi hiểu rồi, cám ơn.”

“Chúng tôi không thể đi vòng vòng và hốt từng đống tro tại chỗ này chỉ để đề phòng sáng mai nó sẽ hóa thành Gregor được,” cô gái miệng sưng sỉa, lông mày vẽ nói.

“Gregor sẽ ổn thôi. Tôi ít khi quét nhà tắm lắm,” Magnus trấn an. “Tôi sẵn lòng đưa bất cứ ai nán lại đây về khách sạn vào sáng hôm sau – tất nhiên là trong những cỗ xe bịt kính đen.”

“Nhưng còn xe máy của chúng tôi?” cậu thiếu niên gầy nhẳng, chân tóc vàng lộ ra vì nhuộm qua loa nói. Chiếc khuyên vàng hình cọc nhọn lủng lẳng bên dái tai trái cậu ta. “Mất hàng giờ mới sửa xong chúng mất.”

“Cậu còn được chừng đó thời gian đến bình minh đấy,” Magnus nói, rõ ràng là tâm tính đang khó chịu vì nghe cãi vã. “Tôi đề nghị cậu nên bắt tay làm ngay đi.” Ông ta nói lớn hơn. Được rồi, XONG! Bữa tiệc đã kết thúc! Tất cả ra hết!” Ông ta vẫy tay, làm rơi chút bột kim tuyến.

Với một tiếng xoảng thật lớn, ban nhạc ngừng chơi. Những tiếng phàn nàn ầm ĩ dấy lên từ những người dự tiệc, nhưng họ ngoan ngoãn tiến ra cửa. Không ai dừng lại cảm ơn Magnus vì bữa tiệc.

“Đi nào.” Jace đẩy Clary về phía lối ra. Đám đông chen chúc nhau. Cô giữ ba lô trước ngực, vòng tay ôm bảo vệ nó. Có ai đó va vào vai cô, mạnh, và cô gắt lên rồi tránh sang bên, rời xa Jace. Một bày tay sượt qua ba lô. Cô ngước lên thấy cậu ma cà rồng tai đeo khuyên hình cọc nhọn cười với cô. “Ê, cô gái dễ thương ơi,” hắn nói. “Có gì trong ba lô thế?”

“Nước thánh,” Jace nói, tái xuất hiện bên cạnh cô hệt như một thần đèn bị triệu tới. Một thần đèn tóc vàng hoe thích châm biếm với thái độ không hay.

“Ối, Thợ Săn Bóng Tối,” ma cà rồng nói. “Đáng sợ nhỉ.” Nháy mắt một cái, hắn biến mất trong đám đông.

“Ma cà rồng đúng là lũ đỏng đa đỏng đảnh,” Magnus đứng bên lối cửa mà thở dài. “Thành thật mà nói, tôi chẳng hiểu sao lại đi tổ chức bữa tiệc nữa.”

“Vì mèo của ông,” Clary nhắc nhở.

Magnus hoạt bát lên. “Đúng. Chủ tịch Meow xứng đáng cho tôi nỗ lực hết mình.” Ông ta nhìn cô và nhúm những Thợ Săn Bóng Tối đi sát sau. “Cô cậu đi về đấy à?”

Jace gật đầu. “Không muốn ở quá lâu khiến ông không muốn tiếp.”

“Tiếp gì chứ?” Magnus hỏi. “Tôi nên nói rất vui được gặp các cô cậu đây, nhưng thực ra thì không đâu. Không phải vì các cô các cậu không duyên dáng bặt thiệp, còn riêng với cậu thì...” Ông ta nháy mắt lấp lánh với Alec, anh chàng trông sững sờ. “Gọi cho tôi nhé?”

Alec đỏ mặt, lắp bắp và có lẽ sẽ đứng im cả tối nếu như Jace không nắm lấy khuỷu tay anh ta mà lôi ra ngoài cửa, Isabelle bám theo sát gót. Clary định đi theo thì thấy có ai đó vỗ nhẹ vào tay; là Magnus. “Tôi có thông điệp dành cho cô,” ông ta bảo. “Từ mẹ cô.”

Clary quá ngạc nhiên suýt đánh rơi ba lô. “Từ mẹ tôi à? Ý ông là mẹ tôi nhờ ông nói gì với tôi ư?”

“Không hẳn,” Magnus nói. Đôi mắt mèo của ông ta, bị chẻ giữa bằng hai đồng tử thẳng đứng như hai khe nứt trên bức tường màu vàng kim-xanh lục, lần đầu tiên trở nên nghiêm túc. “Nhưng tôi biết mẹ cô theo cách cô không hề biết. Bà ấy đã làm mọi điều để giúp cô tránh xa cái thế giới mà bà ta căm ghét. Toàn bộ sự tồn tại, rồi bỏ chạy, rồi trốn tránh của mẹ cô – những điều mà cô gọi là dối trá ấy – là để cho cô được an toàn. Đừng liều mạng để rồi lãng phí sự hy sinh của mẹ cô. Bà ấy sẽ không muốn thế.”

“Mẹ tôi không muốn tôi cứu bà ư?”

“Sẽ là không nếu điều đó có nghĩa phải đặt cô vào vòng nguy hiểm.”

“Nhưng tôi là người duy nhất quan tâm tới chuyện xảy tới với mẹ...”

“Không,” Magnus nói. “Không phải đâu.”

Clary chớp mắt. “Tôi không hiểu. Nếu có – Magnus, nếu ông biết gì đó...”

Ông ta cộc lốc cắt lời. “Và điều cuối cùng.” Ánh mắt ông ta loáng nhìn ra cửa, ngay khi Jace, Alec và Isabelle biến mất. “Hãy nhớ là khi mẹ cô chạy trốn khỏi Thế Giới Bóng Tối, không phải vì bà ấy trốn tránh những con quái vật gì đâu. Không phải pháp sư, người sói, thần tiên, kể cả lũ quỷ dữ. Mà là vì họ. Những Thợ Săn Bóng Tối.”

Cả bọn đang đợi cô ở ngoài nhà kho. Jace, tay nhét trong túi quần, dựa người lên lan can cầu thang mà quan sát đám ma cà rồng đi vòng quanh những cỗ xe máy giờ đã hỏng, rủa xả và chửi thề ầm ĩ. Anh cười nhạt. Alec và Isabelle đứng xa hơn một chút. Isabelle đang chùi mắt, và Clary đột nhiên cảm thấy tức tối bực bội – Isabelle hầu như chẳng biết gì về Simon. Cô ta không buồn vì cậu. Clary là người phải khóc, chứ không phải cô nàng Thợ Săn Bóng Tối kia.

Jace đứng thẳng dậy khi Clary xuất hiện. Anh đi bên cạnh cô, không nói năng gì. Anh dường như đang chìm trong suy nghĩ. Isabelle và Alec, rảo bước đi trước, nghe có vẻ như đang tranh cãi. Clary đi nhanh hơn một chút, nghển cổ để nghe cho rõ hơn.

“Đó không phải lỗi của em,” Alec đang nói. Anh ta có vẻ mệt mỏi, như thể đã từng trải qua loại sự kiện như thế này với cô em mình rồi. Clary tự hỏi cô nàng đã vô tình biến bao nhiêu cậu bạn trai thành chuột. “Nhưng việc này phải dạy cho em rằng không nên đi tới quá nhiều các bữa tiệc của Thế Giới Ngầm,” anh nói thêm. “Toàn những thứ lợi bất cập hại không à.”

Isabelle sụt sịt ầm ĩ. “Nếu có chuyện gì xảy ra với cậu ấy, em... em không biết em sẽ làm gì nữa.”

“Có lẽ làm bất cứ điều gì em từng làm ấy,” Alec đáp bằng giọng chán nản. “Cũng có phải là em thân thiết gì lắm với cậu ta đâu.”

“Nhưng không có nghĩa là em không...”

“Sao? Yêu cậu ta ư?” Alec giễu cợt, giọng cao hơn. “Em cần phải hiểu ai đó thì mới yêu người ta được.”

“Nhưng không phải chỉ có vậy.” Giọng Isabelle khá buồn. “Anh không vui chút nào ở bữa tiệc ư, Alec?”

“Không.”

“Em nghĩ anh sẽ thích Magnus. Ông ta cũng dễ thương đấy chứ, đúng không?”

“Dễ thương ư?” Alec nhìn cô em như thể cô bị điên. “Lũ mèo mới dễ thương. Còn pháp sư...” anh chần chừ. “Thì không,” anh ta ngại ngùng nói hết câu.

“Em tưởng anh sẽ lao vào làm quen chứ.” Đôi mắt đánh kim tuyến của Isabelle sáng như nước mắt khi cô liếc nhìn ông anh. “Kết bạn đi.”

“Anh có bạn mà,” Alec nói và ngoái nhìn ra sau, gần như không thể đừng được, về phía Jace.

Nhưng Jace, đầu tóc vàng đang cúi xuống, chìm trong suy nghĩ, không buồn để ý.

Clary đột nhiên mở cái túi và nhìn vào trong – rồi nhăn mặt. Cái túi bị mở toang. Cô nhớ lại bữa tiệc – cô đã nhấc túi lên, đã kéo khóa đóng lại. Chắc chắn mà. Cô giằng mở toang túi ra, trống ngực đập dồn dập.

Cô nhớ lần bị móc mất ví ỏ trên tàu điện ngầm. Cô nhớ đã mở túi, không thấy ví trong đó, miệng mồm khô khốc vì ngạc nhiên – Mình làm rơi ví ư? Mình đã làm mất nó? Và nhận ra: Nó biến mất rồi. Lần này cũng vậy, nhưng tệ hơn gấp ngàn lần. Miệng khô khốc khô ráo, Clary quơ cào trong ba lô, đẩy hết quần áo và cuốn tập sang bên, móng tay dính đầy sạn. Chẳng có gì.

Cô dừng bước. Jace đang đi trước cô, có vẻ mất kiên nhẫn, Alec và Isabelle đã cách cả tòa nhà. “Chuyện gì thế?” Jace hỏi, và cô biết anh định mỉa mai gì đó. Nhưng chắc hẳn anh phải nhìn thấy vẻ mặt cô, vì anh đã không nói. “Clary?”

“Cậu ấy biến mất rồi,” cô thì thào. “Simon. Cậu ấy ở trong ba lô...”

“Cậu ta trèo ra ngoài à?”

Đó không phải một câu hỏi không có lý, nhưng Clary, kiệt sức và hoảng loạn, đã phản ứng lại một cách vô lý. “Tất nhiên là không!” cô hét lên. “Cái gì, anh nghĩ cậu ấy muốn bị xe chèn phải, hay bị mèo ăn thịt à...”

“Clary...”

“Im đi!” cô hét lên, quật cái túi về phía anh. “Anh là người đã bảo không đáng phải biến cậu ấy lại thành người...”

Anh khéo léo bắt lấy cái túi khi cô vung tới. Lấy túi ra khỏi tay cô, anh kiểm tra lục lọi. “Cái khóa bị xé,” anh nói. “Từ bên ngoài. Có người đã xé toạc cái túi.”

Tê dại lắc lắc đầu, Clary chỉ có thể thì thào. “Tôi không...”

“Anh biết.” Giọng anh rất nhẹ nhàng. Anh chụm tay thành loa. “Alec! Isabelle! Cứ đi trước nhé! Bọn này sẽ đuổi theo sau.”

Hai dáng người kia, đã đi khá xa, liền dừng lại; Alec xem chừng lưỡng lự, nhưng cô em đã nắm tay và dứt khoát kéo anh ta về phía lối vào ga tàu. Có gì đó ấn lên lưng Clary: Là tay Jace, nhẹ nhàng xoay cô lại. Cô để cho anh đẩy cô đi tới trước, vấp chân lên những khe nứt trên vỉa hè, cho đến khi họ trở lại lối vào tòa nhà của Magnus. Mùi tanh tưởi của rượu ôi cùng hương ngòn ngọt kỳ lạ của Thế Giới Ngầm tràn ngập trong khoảng không nhỏ xíu. Bỏ tay khỏi lưng cô, Jace ấn chuông mang tên Magnus.

“Jace,” cô nói.

Anh nhìn xuống cô. “Hử?”

Cô cố tìm từ đúng. “Anh nghĩ cậu ấy ổn không?”

“Simon hả?” Lúc này anh hơi lưỡng lự, và cô nghĩ tới lời nói của Isabelle: Đừng hỏi anh ấy câu nào trừ khi cậu biết cậu chịu được câu trả lời. Thay vì nói gì đó, anh lại ấn chuông cửa, lần này mạnh hơn.

Lần này Magnus trả lời, giọng oang oang vang qua lối vào nhỏ xíu. “AI DÁM LÀM PHIỀN GIẤC NGỦ CỦA TA?”

Jace có vẻ khá lo lắng. “Jace Wayland. Nhớ chứ? Từ hội Clave.”

“À đúng rồi.” Magnus dường như có phần vui vẻ hơn. “Cậu là anh chàng có đôi mắt xanh ấy phỏng?”

“Ông ta đang hỏi Alec đấy,” Clary giúp.

“Không. Mọi người thường nói mắt tôi màu vàng,” Jace nói với cái điệu đàm nội bộ. “Và long lánh.”

“À, cậu là cái người đó.” Magnus nghe có vẻ thất vọng. Nếu không phải Clary đang trong tâm trạng không vui, chắc cô đã cười phá lên rồi. “Tôi nghĩ cậu nên đi lên đây.”

Pháp sư ra mở cửa, mặc bộ kimono họa tiết hình rồng, đội khăn xếp vàng, vẻ mặt mang vẻ khó chịu được kiềm chế nhưng vẫn chực bùng lên.

“Tôi đang ngủ đấy,” ông ta nói bằng cái giọng trịnh thượng.

Jace có vẻ như định nói gì hỗn hào, chắc là về cái khăn xếp, vì thế Clary ngắt lời ngay. “Xin lỗi vì làm phiền ông...”

Có gì đó nhỏ và màu trắng lượn quanh chân vị pháp sư. Nó có những cái sọc xám hình zigzag và đôi tai lông hồng khiến nó giống một con chuột lớn hơn là một con mèo nhỏ.

“Chủ tịch Meow đây ư?” Clary đoán.

Magnus gật đầu. “Nó vừa về.”

Jace khinh miệt nhìn con mèo mướp nhỏ. “Đây không phải mèo,” anh nhận xét. “Nó chỉ bằng cỡ con chuột cảnh.”

“Tôi sẽ vui lòng quên đi câu nói đó của cậu,” Magnus nói, lấy chân ẩy Chủ Tịch Meow ra sau lưng. “Nào, chính xác hai cô cậu đến đây vì việc gì nào.”

Clary giơ cái túi rách ra. “Vì Simon. Cậy ấy mất rồi.”

“À,” Magnus nói, nhẹ nhàng, “chính xác là mất gì nào?”

“Mất tích ấy,” Jace nhắc lại, “theo nghĩa biến mất, vắng mặt, không hiện diện, đi mất.”

Có lẽ cậu ta bỏ đi và trốn dưới đâu đó,” Magnus gợi ý. “Không dễ để quen với thân phận chuột, đặc biệt với một người vốn đã quá đần độn.”

“Simon không đần độn,” Clary tức giận phản đối.

“Đúng thế,” Jace đồng tình. “Cậu ta chỉ có vẻ đần độn thôi. Thật chứ sự thông minh của cậu ta rất trung bình.” Giọng anh rất nhẹ nhàng nhưng hai vai căng cứng khi quay sang Magnus. “Khi chúng tôi về, một trong những vị khác của ông đã chạm vào Clary. Tôi nghĩ hắn ta đã rạch ba lô cô ấy lấy đi con chuột. Ý tôi là Simon ấy.”

Magnus nhìn anh. “Và sao?”

“Và tôi cần biết ai làm chuyện đó,” Jace kiên định nói. “Tôi đoán là ông biết. ông là Đại Pháp Sư khu Brooklyn cơ mà. Tôi nghĩ không có nhiều chuyện xảy ra tại căn hộ của ông mà ông không biết đâu.”

Magnus ngắm nghía cái móng tay sơn nhũ. “Cậu nói không sai.”

“Làm ơn nói cho chúng tôi nghe đi,” Clary nói. Jace nắm chặt lấy cổ tay cô. Cô biết anh muốn cô im lặng, nhưng cô không thể. “Làm ơn.”

Magnus hạ tay xuống và thở dài. “Được rồi. Tôi thấy một trong những thằng nhóc ma cà rồng đi xe máy từ hang ổ trong khu thương mại ra về cùng con chuột nâu trên tay. Thành thực mà nói, tôi cũng tưởng đó là con chuột của chúng. Thi thoảng những Đứa Trẻ của Màn Đêm cũng biến thành chuột hay dơi khi say.”

Hai tay Clary run rẩy. “Nhưng giờ ông nghĩ đó là Simon à?”

“Chỉ là đoán thôi, nhưng chắc vậy rồi.”

“Còn một điều nữa,” Jace nói chuyện khá bình tĩnh, nhưng giờ anh đang cảnh giác cao độ, theo kiểu lúc ở nhà cô trước khi đụng phải Kẻ Lầm Đường. “Hang ổ của chúng ở đâu?”

“Cái gì của chúng cơ?”

“Hang ổ của ma cà rồng. Đó là nơi chúng tới, đúng không?”

“Tôi hình dung ra thế.” Magnus trông như thể thà là mình đang ở nơi nào khác.

“Tôi cần ông nói cho tôi biết nó ở đâu.”

Magnus lắc cái đầu đang cuốn khăn. “Tôi không có ý định trở thành kẻ thù của những Đứa Trẻ của Màn Đêm chỉ vì một người trưởng thành mà tôi không hề quen biết.”

“Đợi đã,” Clary ngắt ngang. “Chúng muốn gì ở Simon thế? Tôi nghĩ chúng không được phép làm hại con người...”

“Theo như tôi đoán ư?” Magnus nói, không vui vẻ gì lắm cho cam. “Chúng cho rằng cậu ta là một con chuột đã thuần hóa và nghĩ sẽ rất vui khi giết thú cưng của Thợ Săn Bóng Tối. Họ không thích các người là mấy, dù cho Hòa Ước nói gì chăng nữa – còn trong Giao ước cũng chẳng nói gì tới việc giết động vật.”

“Vậy chúng sẽ giết cậu ấy à?” Clary nói, nhìn trân trân.

“Không hẳn đâu,” Magnus nói liến thoắng. “Có thể chúng đã tưởng cậu ta là một trong số chúng thôi.”

“Trong trường hợp đó, chuyện gì sẽ xảy ra với cậu ấy?” Clary nói.

“À thì, khi cậu ấy trở lại thành người, họ vẫn giết cậu ta. Nhưng cô cậu sẽ có thêm vài tiếng nữa.”

“Vậy ông phải giúp chúng tôi,” Clary nói với pháp sư. “Nếu không Simon chết mất.”

Magnus nhìn cô từ trên xuống dưới như kiểucảm thông sâu sắc. “Bé cưng à, rồi họ sẽ chết cả thôi,” ông ta nói. “Cô nên làm quen với điều đó cho rồi.”

Ông ta bắt đầu đóng cửa. Jace nhét chân vào, chặn cửa lại. Magnus thở dài. “Gì nữa đây?”

“Ông vẫn chưa nói cho chúng tôi biết cái ổ đó ở đâu,” Jace nói.

“Và tôi sẽ không nói. Tôi đã nói với cậu...”

Là Clary ngắt lời ông ta, chen lên trước Jace. “Ông đã gây rối loạn trí nhớ của tôi,” cô nói. “Cướp đi ký ức của tôi. Ông không thể làm dù chỉ một điều cho tôi ư?”

Magnus nhíu đôi mắt mèo sáng rực lại. Ở đâu đó xa xa, Chủ tịch Meow đang gào thét. Thật chậm rãi vị pháp sư hạ đầu xuống và đập một lần, không hề nhẹ, vào tường. “Khách sạn Dumont cũ. Trong khu thương mại.”

“Tôi biết chỗ đó,” Jace có vẻ hài lòng.

“Chúng tôi cần tới đó ngay lập tức. Ông có Cổng Dịch Chuyển không?” Clary gặng hỏi, ý là với Magnus.

“Không.” Ông ta có vẻ bực mình. “Cổng Dịch Chuyển quá khó xây dựng và mang lại không ít nguy hiểm cho người sở hữu. Những thứ ghê tởm có thể chui qua nếu cánh cổng không được trông giữ cẩn thận. Tôi chỉ biết hai cánh cổng duy nhất ở New York là tại nhà Dorothea và Renwick, nhưng cả hai đều quá xa chẳng đáng để cô cậu cố tới đó làm gì, thậm chí là nếu cô cậu biết chắc họ cho phép cô cậu sử dụng ấy, mà rất có khả năng là không. Hiểu chưa? Giờ đi đi.” Magnus nhìn chằm chằm vào chân Jace, vẫn chẹn ở cửa. Jace không nhúc nhích.

“Một điều nữa,” Jace nói. “Có nhà thờ nào gần đây không?”

“Ý kiến hay. Nếu cậu định tự mình tấn công hang ổ của ma cà rồng, cậu nên cầu nguyện trước.”

“Chúng tôi cần vũ khí,” Jace đáp gọn lỏn. “Nhiều hơn những thứ chúng tôi hiện đang có trên người.”

Magnus chỉ. “Có một nhà thờ Công giáo ở dưới đường Diamond. Cái đó được không?”

Jace gật đầu, lùi lại. “Thật...”

Cánh cửa đóng sầm trước mặt họ, Clary, thở hổn hển như đang chạy nãy giờ, nhìn cánh cửa trân trối cho tới khi Jace nắm lấy tay cô mà kéo xuống cầu thang và bước vào màn đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Khách sạn Dumort


Vào ban đêm, nhà thờ trên đường Diamond nhìn thật ma quái, những cửa sổ cong cong theo phong cách Gothic phản chiếu ánh trăng như những tấm gương bạc. Hàng rào bằng sắt uốn bao quanh tòa nhà và được sơn màu đen mờ. Clary lắc lắc cổng trước, nhưng ổ khóa chắc nụi giữ cánh cổng đóng chặt. “Cổng khóa rồi,” cô nói, liếu ra sau nhìn Jace.

Anh vung thanh stele. “Để anh lo.”

Cô quan sát trong khi anh vẽ lên cái khóa, nhìn những đường cong thanh mảnh của lưng anh, nhìn những cơ bắp lộ ra dưới tay áo phông ngắn tay. Ánh trăng đã gội sách màu tóc anh, khiến nó giống màu bạc hơn là vàng.

Cái khóa rơi lanh canh trên mặt đất và bị vặn xoắn tới biến dạng. Jace có vẻ hài lòng với chính mình. “Như thường lệ,” anh nói, “anh giỏi tới đáng ngạc nhiên trong vụ này.”

Clary đột nhiên thấy bực. “Khi phần chúc mừng thành công của bản thân trong đêm nay kết thúc, chúng ta có thể trở lại phần cứu bạn thân của tôi khỏi bị hút cạn máu mà chết chứ?”

“Hút cạn máu,” Jace bị ấn tượng. “Quả là một từ rất kêu.”

“Và anh là cái đồ...”

“Chậc chậc,” anh ngắt lời. “Không chửi bậy trong nhà thờ.”

“Chúng ta chưa ở trong nhà thờ,” Clary lầm bầm, đi theo anh lên đoạn đường rải đá dẫn tới cánh cửa đôi. Mái vòm đá phía trên cánh cửa được chạm khắc đẹp mắt hình một thiên thần đang từ điểm cao nhất nhìn xuống. Những ngọn tháp ngọn hoắt đâm thẳng lên bầu trời đêm và Clary nhận ra đây là nhà thờ cô đã thoáng thấy từ công viên McCarren. Cô cắn môi. “Phá khóa nhà thờ có vẻ là một công việc tội lỗi.”

Jace nhìn nghiêng dưới ánh trăng trông mới thư thái làm sao. “Chúng ta sẽ không làm vậy,” anh nói và nhét thanh stele vào túi. Anh đặt bàn tay nâu gầy, đầy những vết sẹo trắng nhỏ giống như một màn ren, lên cánh cửa gỗ, ngay trên then cửa. “Nhân danh hội Clave,” anh nói, “con xin phép được bước vào nơi linh thiêng này. Nhân danh Cuộc Chiến Chưa Bao Giờ Kết Thúc, con cầu xin được sử dụng vũ khí của người. Và nhân danh Thiên Thần Raziel, con xin người chúc phúc cho sứ mệnh của con trước bóng tối.”

Clary nhìn anh chăm chú. Anh không di chuyển, dù gió đêm thổi tóc xòa xuống mắt anh; anh chớp mắt, và ngay khi cô định nói, cánh cửa lách cách mở ra và tiếng bản lề cọt kẹt vang lên. Cách cửa nhẹ nhàng xoay vào trong trước mặt họ, mở vào khoảng không vắng vẻ, tối tăm, lạnh lẽo, được thắp sáng nhờ những ánh nến.

Jace bước lùi lại. “Em đi trước đi.”

Khi Clary bước vào trong, một luồng không khí mát mẻ bao trùm lấy cô, cùng với mùi đá và sáp nến. Những hàng ghế lễ chìm trong bóng tối kéo dài tới tận bệ thờ, và những hàng nến tỏa sáng như cả rừng tia sáng in lên bức tường đầu kia. Cô nhận ra, trừ Học Viện, nơi này không tính, thì trước giờ cô chưa thực sự vào trong một nhà thờ nào. Cô đã nhìn thấy tranh, thấy không gian trong những nhà thờ qua phim ảnh và những bộ phim hoạt hình anime, nhà thờ xuất hiện khá thường xuyên trong mấy thứ này. Một cảnh trong bộ phim hoạt hình yêu thích của cô diễn ra trong một nhà thờ với cha xứ ma cà rồng xấu xa. Đáng ra người ta phải có cảm giác an toàn trong nhà thờ, nhưng cô thì không. Những bóng đen lạ kỳ dường như đang lom lom nhòm cô từ trong bóng tối. Cô rùng mình.

“Những bức tường đá ngăn cái nóng lại,” Jace nói khi để ý thấy.

“Không phải thế,” cô nói. “Anh biết đấy, trước nay tôi chưa từng vào trong nhà thờ.”

“Em đã ở trong Học viện.”

“Ý tôi là nhà thờ thực sự ấy. Có làm lễ ấy. Kiểu dạng như thế.”

“Vậy à. Ừ, đây là chính điện, nơi đặt những hàng ghế lễ. Là nơi người ta ngồi trong giờ lễ.” Họ tiến lên, giọng dội lại từ những bức tường đá. “Trên này là nơi tụng kinh. Đó là nơi chúng ta đang đứng. Và đây là bệ thờ, nơi cha xứ thực hiện lễ Ban Thánh Thể. Nó luôn luôn ở phía đông nhà thờ.” Anh quỳ xuống trước bệ thờ, và cô thoáng nghĩ anh đang cầu nguyện. Bệ thờ khá cao, làm từ đá cẩm thạch đen và phủ khăn đỏ. Đằng sau nó là tấm bình phong vàng trang trí công phu, khắc hình các vị thánh và những người tử vì đạo, đều có một đĩa vàng dẹt sau đầu tượng trưng cho vầng hào quang.

“Jace,” cô thì thầm. “Anh đang làm gì đấy?”

Anh đặt tay lên nền đá và di chuyển lên xuống nhanh chóng, như thể tìm gì đó, những ngón tay khuấy động lớp bụi bám. “Tìm vũ khí.”

“Ở đây á?”

“Chúng được giấu thường là dưới bệ thờ. Để bọn anh sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.”

“Và đây là gì nhỉ, một kiểu thỏa thuận mà các anh giao kèo với nhà thờ Công giáo ư?”

“Không hẳn. Ác quỷ có mặt trên trái đất ngay khi con người xuất hiện. Chúng xuất hiện ở mọi nơi, trong những hình dáng khác nhau – quỷ daemon của người Hi Lạp, quỷ daevas Ba Tư, asuras trong tính ngưỡng Hindu, oni của Nhật. Hầu hết những hệ thống tín ngưỡng đều có cách để hợp nhất giữa sự tồn tại của chúng và những cuộc đấu tranh chống lại chúng. Thợ Săn Bóng Tối không gắn liền với duy một tôn giáo nào, và vì thế các tôn giáo đều hỗ trợ bọn anh trong mọi cuộc chiến. Anh có thể dễ dàng nhờ sự giúp đỡ từ Giáo đường Do Thái hay đền thờ thần đạo Shinto, hoặc... A. Đây rồi” anh phủi đất cát trong khi cô quỳ xuống bên cạnh. Được khắc trên một trong những viên đá hình bát giác ngay trước bệ thờ là một chữ rune. Clary nhận ra nó, dễ dàng như đang đọc một từ tiếng Anh. Nó là chữ rune mang nghĩa “Nephilim.”

Jace rút thanh stele và chạm vào tảng đá. Hòn đá thụt lại với âm thanh ken két, để lộ ra một ngăn nhỏ tối om bên dưới. Bên trong ngăn đó đặt một chiếc hộp gỗ dài; Jace nhấc nắp hộp, và quan sát những vật được sắp xếp gọn ghẽ bên trong với vẻ hài lòng.

“Những thứ này là gì vậy?” Clary hỏi.

“Vài bình nước thánh, dao được ban phép, lưỡi dao găm bằng thép và bạc,” Jace nói, và chất đống vũ khí sang bên cạnh, “roi điện – không hữu dụng lắm trong trường hợp này, nhưng thừa còn hơn thiếu – đạn bạc, bùa bảo vệ, thánh giá, ngôi sao David...”

“Jesus,” Clary nói.

“Anh không nghĩ Ngài bỏ vừa vào trong này.”

“Jace.” Clary thất kinh.

“Gì?”

“Không biết nữa, hình như đùa cợt như vậy trong nhà thờ là không phải.”

Anh nhún vai. “Anh không hẳn là con chiên ngoan đạo.”

Clary ngạc nhiên nhìn anh. “Không phải ư?”

Anh lắc đầu. Tóc xòa xuống mặt anh, nhưng anh đang kiểm tra cái bình đựng thứ chất lỏng trong veo mà không thèm cho tay lên vén tóc. Những ngón tay Clary ngứa ngáy với thôi thúc muốn làm thế thay anh. “Em tưởng anh là kẻ có đức tin tôn giáo à?” anh hỏi.

“À.” Cô lưỡng lự. “Nếu có ác quỷ, hẳn phải có...”

“Phải có gì nào?” Jace nhét chai nước vào túi. “À,” anh nói. “Ý em là nếu có những cái này” – anh chỉ xuống sàn nhà – “thì phải có cái này.” Anh chỉ lên trần nhà.

“Cũng có lý chứ. Đúng không?”

Jace hạ tay và cầm con dao lên, xem xét chuôi dao. “Anh sẽ nói cho em nghe,” anh nói. “Suốt một phần ba cuộc đời anh đã lao vào và giết lũ ác quỷ. Anh chắc đã phải đưa tiễn năm trăm con trở về không gian địa ngục nào đó mà chúng chui ra. Và trong suốt thời gian đó – suốt thời gian đó – anh chưa bao giờ nhìn thấy một thiên thần. Thậm chí cũng chưa từng nghe thấy ai đã gặp thiên thần hết.”

“Nhưng chính thiên thần đã tạo ra Thợ Săn Bóng Tối,” Clary nói. “Đó là điều bác Hodge nói.”

“Thế mới tạo ra một câu chuyện hấp dẫn chứ.” Jace nhìn cô qua cặp mắt đồng tử dọc như mắt mèo. “Bố anh tin vào Đức Chúa Trời,” anh nói. “Anh thì không.”

“Không một chút nào?” Cô không chắc vì sao cô lại châm chọc anh – cô chưa bao giờ nghĩ xem mình có đặt lòng tin vào Chúa Trời với thiên thần và đại loại như thế hay không, và nếu được hỏi, cô cũng trả lời là không. Nhưng có gì đó về Jace, khiến cô muốn hỏi anh tới cùng, muốn đập tan cái lớp vỏ hoài nghi, và bắt anh thừa nhận rằng anh tin vào một cái gì đó, cảm nhận một điều gì đó, quan tâm tới thứ gì đó.

“Để anh nói theo cách này nhé,” anh nói, nhét hai con dao vào thắt lưng. Ánh sáng mờ ảo chiếu qua những ô cửa sổ kính bẩn tạo thành từng ô màu sắc trên gương mặt anh. “Bố anh tin vào Đức Chúa công bằng. Deus volt, đó là phương châm của ông – ‘vì ý nguyện của Đức Chúa.’ Đó cũng chính là phương châm của những Thập Tự quân, và họ đã lên đường chiến đấu để bị chém giết, cũng như bố anh. Và khi anh thấy ông nằm chết trên vũng máu của chính mình, lúc ấy anh đã biết mình không thôi tin tưởng vào Đức Chúa. Anh chỉ thôi tin rằng Chúa trời biết quan tâm. Clary, có thể có Chúa Trời đấy, hoặc cũng có thể không, nhưng với anh không quan trọng. Dù thế nào, chúng ta vẫn chỉ có một mình.”

Họ là những hành khách duy nhất trên toa tàu hướng lên phía bắc thành phố. Clary ngồi im lặng, nghĩ về Simon. Thi thoảng Jace lại nhìn cô như định nói gì đó, trước khi tiếp tục im lặng một cách không bình thường.

Khi họ rời khỏi ga tàu điện ngầm, đường phố chẳng có lấy một bóng người, bầu không khí nặng nề và ngậm ngụa mùi sắt thép, những cửa hàng rượu vang, những tiệm giặt là và trung tâm đổi tiền đều chìm trong yên lặng sau những cánh cửa tôn múi kéo xuống vào ban đêm. Cuối cùng, sau một tiếng đồng hồ tìm kiếm, họ cũng tìm ra khách sạn, ở con phố bên hông đường số 116. Họ đã đi qua nó hai lần, vì nghĩ đó chỉ là một chung cư bỏ hoang, cho đến khi Clary nhìn thấy biển hiệu. Tấm bảng đã sút khỏi đinh, lủng lẳng khuất sau một thân cây còi cọc. KHÁCH SẠN DUMONT,từng có thời trên tấm bảng đề vậy, nhưng có ai đó đã xóa chữ N và thay bằng R.

“Khách sạn Dumort,” Jace nói khi cô chỉ cho anh xem. “Dễ thương thật.”

Clary chỉ học hai năm tiếng Pháp, nhưng thế cũng đủ để hiểu trò đùa này. “Du mort,” cô nói. “Của sự chết chóc.”

Jace gật đầu. Anh đang căng thẳng toàn thân, như con mèo đã nhìn thấy con chuột đang chạy sau ghế sô pha.

“Nhưng đây không thể là khách sạn được,” Clary nói. “Những ô cửa sổ đều bị bịt ván kín, cửa đã bị xếp gạch lấp đi – Ồ,” cô dứt lời, khi nhìn thấy vẻ mặt anh. “Đúng rồi. Ma cà rồng. Nhưng sao chúng vào trong được?”

“Bay vào,” Jace đáp, chỉ vào những tầng trên của tòa nhà. Rõ ràng từng có thời, nơi đây là một khách sạn đẹp đẽ và sang trọng. Những viên đá lát mặt tiền được khắc các vòng xoắn trang trí và hoa huệ tây, giờ đã đen xỉn và mòn vẹt vì nhiều năm hứng chịu không khí ô nhiễm và những trận mưa axit ăn mòn.

“Chúng ta không bay,” Clary thấy cần phải nói ra.

“Ừ,” Jace đồng tình. “Chúng ta không bay. Chúng ta phá cửa xông vào.” Anh bắt đầu bước sang đường, tiến về phía khách sạn.

“Bay nghe vui hơn,” Clary nói và vội vàng đuổi theo.

“Giờ thứ gì nghe cũng vui hơn hết.” Cô tự hỏi liệu anh có thật tình nghĩ thế không. Ở anh toát lên vẻ phấn khích, vẻ nôn nóng mong chờ đến cuộc săn mà cô thấy không có vẻ gì là anh không được vui như anh bảo. Anh ấy đã giết nhiều quỷ hơn những người đồng trang lứa. Bạn không thể giết nhiều quỷ đến vậy bằng cách chần chừ lưỡng lự chùn bước trước trận đánh.

Mộ cơn gió nóng thổi tới, khuấy động những chiếc lá trên cái cây còi cọc ngoài khách sạn, lùa rác rưởi rơi từ dưới cống và trên vệ đường bay tứ tung trên vỉa hè đã nứt vỡ. Nơi này vắng vẻ tới lạ lùng, Clary nghĩ – thường thường, ở Manhattan, khi nào cũng có ai đó trên đường phố, thậm chí là vào bốn giờ sáng. Vài ngọn đèn đường đã cháy, dù ngọn đèn gần khách sạn nhất đang tỏa ánh sáng vàng vọt lên lối vào rạn nứt, dẫn lên nơi từng là cửa trước.

“Tránh xa ánh sáng ra,” Jace nói và nắm cổ tay áo cô mà kéo về phía mình. “Chúng có thể đang quan sát qua cửa sổ. Và đừng nhìn lên,” anh nói thêm, nhưng đã quá muộn. Clary đã liếc mắt lên những ô cửa sổ xập xệ trên những tầng cao hơn. Cô thoáng nghĩ đã thấy một chuyển động lướt qua ô cửa sổ, một màu trắng trắng có thể là một gương mặt, hoặc là một cánh tay đang kéo tấm màn nặng trịch...

“Đi nào.” Jace kéo cô theo mình để lẩn vào quầng bóng tối gần khách sạn hơn. Cô cảm nhận sự căng thẳng dâng cao dọc nơi sống lưng, nơi nhịp đập trên cổ tay, nơi máu rần rần chảy trong màng nhĩ. Tiếng còi xe văng vẳng dường như vang tới từ rất xa, âm thanh duy nhất là tiếng giày của chính cô dẫm lên vỉa hè lổn nhổn rác. Cô ước gì cô có thể đi lại không phát ra tiếng động, như một Thợ Săn Bóng Tối. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ nhờ Jace dạy cho mình.

Họ lẻn quanh góc khách sạn, rẽ vào một con hẻm có lẽ từng là lối phụ để đưa hàng hóa vào. Con hẻm hẹp, đầy ứ rác: những thùng các tông mọc rêu mốc, những chai thủy tinh rỗng, những mảnh nhựa, vài thứ rải rác mà lúc đầu Clary nghĩ là tăm xỉa răng, nhưng nhìn gần thì có vẻ là...

“Xương đấy,” Jace nói tỉnh lụi. “Xương chó, xương mèo. Đừng nhìn gần quá; lục lọi qua đống rác thải của ma cà rồng hiếm khi nào là một bức tranh đẹp.”

Cô dằn cơn buồn nôn xuống. “Ừm,” cô nói, “ít nhất chúng ta cũng biết mình tới đúng nơi,” và được khen tặng bằng một thoáng nhìn thể hiện sự đánh giá cao lộ ra, tích tắc thôi, trong mắt Jace.

“Ồ, chúng ta tới đúng nơi rồi,” anh nói. “Giờ chúng ta chỉ phải nghĩ ra vào bằng cách nào thôi.”

Rõ ràng ở đây từng có cửa sổ, nhưng giờ đã bị xây kín lại. Không có cửa cũng như dấu hiệu nào của lối thoát hiểm. “Khi nơi này còn là khách sạn,” Jace chậm rãi nói, “hẳn họ đưa hàng hóa qua lối này. Ý anh là, họ không thể mang đồ vào qua cửa trước được, và ở đây không có chỗ nào khác để đỗ xe tải cả. Vậy thì phải có lối vào.”

Clary nghĩ tới những cửa hàng nhỏ và cửa hiệu rượu vang gần nhà cô tại Brooklyn. Vào sáng sớm khi cô đi bộ tới trường, cô đã thấy khi nhập hàng, những chủ tiệm thức ăn người Hàn Quốc mở cánh cửa sắt gắn trên lề đường ngay ngoài cửa trước, để họ có thể mang những hộp khăn giấy và thức ăn mèo vào tầng hầm trữ hàng. “Em cá là cửa nằm dưới đất. Có lẽ bị chôn vùi dưới lớp rác rưởi này.”

Jace, đứng sát sau cô, gật đầu. “Anh cũng đang nghĩ vậy.” Anh thở dài. “Anh nghĩ chúng ta nên dời đống rác đi chỗ khác. Chúng ta có thể bắt đầu với cái thùng rác kia.” Anh chỉ vào đấy, rõ ràng là không hứng thú gì.

“Anh thà đối diện với một lô một lốc quỷ dữ còn hơn, đúng không?” Clary nói.

“Ít nhất chúng không có dòi. À,” anh ngẫm ngợi rồi nói thêm, “đa số bọn chúng thôi. Lần trước có một con quỷ, anh đã lần theo dấu nó xuống các đường cống bên dưới nhà ga Trung Tâm...”

“Đừng.” Clary giơ tay cảnh cáo. “Giờ tôi không có hứng.”

“Đây là lần đầu tiên có một cô gái từng nói lời đó với anh,” Jace vui vẻ.

“Cứ ở cạnh tôi là anh còn nghe dài dài.”

Khóe miệng Jace giật giật. “Giờ không phải lúc để đùa cợt. Chúng ta còn phải dọn rác đây này.” Anh sải bước về phía thùng rác và cầm lấy một quai. “Em cầm quai kia. Chúng ta sẽ lật nó.”

“Lật sẽ gây ra nhiều tiếng động lắm,” Clary cãi lại, nhưng vẫn đứng vào tư thế bên kia thùng rác khổng lồ. Đây là loại thùng rác thông thường trong thành phố, sơn màu xanh lá cây đậm, lốm đốm những vết ố kỳ lạ. Nó thối um, thậm chí còn thối hơn đa số những thùng rác khác, thối mùi rác và và thứ gì đó khác, thứ gì đó sền sệt và ngọt lịm lan xuống tận cổ họng cô và khiến cô phát ói. “Chúng ta phải đẩy nó thôi.”

“Nào, nghe này...” Jace mở miệng, thì một giọng nói đột ngột vang lên từ bóng tối phía sau.

“Mấy người thật sự nghĩ nên làm vậy sao?” giọng nói này hỏi.

Clary đứng khựng lại, nhìn vào khoảng tối ngay lối vào con hẻm. Trong giây phút hoảng hốt, cô tự hỏi có phải mình vừa tưởng tượng ra giọng nói không, nhưng Jace cũng đang đứng thần người, vẻ kinh ngạc lộ rõ trên gương mặt. Hiếm có cái gì làm anh ngạc nhiên, lại càng hiếm hơn khi có kẻ đến sát hù anh. Anh lùi xa thùng rác, tay dịch về thắt lưng, giọng vẫn bình tĩnh. “Có ai ngoài đó sao?”

“Dios mío.” Một giọng nam, khá vui vẻ, nói tiếng Tân Ban Nha trôi chảy. “Các người không thuộc khu này, đúng không?”

Hắn bước ra khỏi vùng bóng tối dày đặc. Hình dáng cơ thể hắn chầm chậm hiện ra: một gã trai, không lớn hơn Jace là bao, và có lẽ thấp hơn khoảng 6 inch. Hắn gầy gò, mắt to đen và da mật ong như những nhân vật trong tranh của họa sĩ Diego Rivera. Hắn mặc chiếc quần rộng thùng thình màu đen và áo sơ mi trắng mở cúc ngực, và sợi dây chuyền vàng quanh cổ hắn lấp lánh sáng khi hắn tiến gần ra ánh sáng hơn.

“Có thể nói là thế,” Jace cẩn trọng cất tiếng, không rời tay khỏi thắt lưng.

“Các cậu không nên ở đây.” Gã trai lùa tay qua những lọn tóc xoăn đen dày xõa xuống trán. “Nơi này nguy hiểm lắm.”

Ý hắn là đây là khu dân cư kém an toàn. Clary suýt bật cười dù chuyện chẳng lấy gì làm buồn cười. “Chúng tôi biết,” cô nói. “Chúng tôi đi lạc ấy mà.”

Hắn chỉ tay về phía thùng rác. “Thế các cậu đang làm gì với thứ kia?”

Mình không giỏi nói dối ngay tại chỗ, Clary nghĩ và nhìn Jace, người mà cô hy vọng biết nói dối cực giỏi.

Anh ngay lập tức khiến cô thất vọng. “Chúng tôi đang cố chui vào khách sạn. Chúng tôi nghĩ chắc có cửa tầng hầm bên dưới cái thùng rác.”

Đôi mắt gã trai mở lớn vì kinh ngạc. “Puta madre – vì sao các cậu lại muốn làm chuyện như vậy chứ?”

Jace nhún vai. “Nghịch tí ấy mà. Vui vẻ chút thôi.”

“Cậu không hiểu rồi. Nơi đây bị ám, bị nguyền rủa. Không may đâu.” Hắn lắc đầu lia lịa và nói vài câu tiếng Tây Ban Nha mà Clary nghĩ có liên quan tới sự ngu ngốc của đám trẻ da trắng ăn no rửng mỡ nói chung và sự ngu ngốc của hai người họ nói riêng. “Đi cùng tớ, tôi sẽ dẫn các cậu ra ga tàu.”

“Chúng tôi biết ga tàu ở đâu,” Jace nói.

Gã trai bật lên tiếng cười nhẹ nhàng, vang vọng. “Claro. Tất nhiên rồi, nhưng nếu các cậu đi với tôi, không ai dám làm phiền các cậu cả. Các cậu không muốn gặp rắc rối, đúng không?”

“Còn tùy,” Jace nói và di chuyển khiến áo khoác hơi mở ra, cho thấy những thứ vũ khí lóe sáng nơi thắt lưng. “Chúng trả cho anh bao nhiêu để anh khiến mọi người tránh xa cái khách sạn này?”

Gã trai nhìn ra sau anh, và thần kinh của Clary căng lên khi cô tưởng tượng ra cảnh miệng con hẻm hẹp này đầy ắp những bóng hình mặt trắng ởn, miệng đỏ lòm, răng nanh lóe sáng đột nhiên như kim loại đánh lên tia lửa điện ở trên vỉa hè. Khi quay lại nhìn Jace, miệng hắn đã mím thành đường kẻ mảnh. “Ai trả cho tôi bao nhiêu, chico?”

“Ma cà rồng. Chúng trả cho anh bao nhiêu? Hay là thứ gì khác nào – chúng có nói với anh rằng sẽ biến anh thành một trong số chúng, hứa hẹn cho anh cuộc sống vĩnh hằng, không còn chịu đau đớn, không bệnh tật và anh sẽ sống trường sinh bất tử? Vì nó không đáng đâu. Cuộc sống sẽ rất dài khi anh không được nhìn thấy ánh mặt trời đấy, chico ạ,” Jace nói.

Cậu trai kia chẳng thể hiện chút cảm xúcnào. “Tên tôi là Raphael. Không phải là chico.”

“Nhưng anh biết chúng ta đang nói về cái gì mà. Anh biết ma cà rồng chứ?” Clary nói.

Raphael quay mặt về một phía và nhổ nước bọt. Khi gã quay nhìn họ, ánh mắt gã tràn ngập sự thù địch đang sáng lên. “Los vampiros, sí, những bọn súc sinh uống máu. Kể cả trước khi khách sạn này bị niêm phong, đã có một vài câu chuyện, họ nghe thấy tiếng cười vào những đêm tối muộn, vài con vật nhỏ biến mất, những âm thanh...” Gã ngừng nói, lắc đầu. “Mọi người trong khu vực đều biết tránh xa nơi này, biết làm sao được? Ta không thể gọi cảnh sát để báo cáo rắc rối là ma cà rồng.”

“Anh đã bao giờ gặp chúng chưa?” Jace hỏi. “Hay biết ai đã từng gặp?”

Raphael nói chậm rãi. “Từng có vài cậu con trai, một nhóm bạn. Họ nghĩ họ đã có một ý tưởng hay khi đi vào khách sạn và giết lũ quái vật sống trong đó. Họ mang theo súng, cả dao nữa, tất cả những món vũ khí đó đều được một cha xứ ban phép thánh. Họ không bao giờ trở ra được nữa. Dì của tôi, sau đó dì đã tìm thấy quần áo của họ, ở trước ngôi nhà.”

“Nhà dì anh?” Jace nói.

“Sí. Một trong những cậu con trai đó là anh trai tôi,” Raphael đều đều nói. “Và giờ cậu đã hiểu vì sao thi thoảng tôi đi qua đây giữa đêm khuya, trên đường trở về từ nhà dì tôi, và vì sao tôi muốn cảnh cáo cho các cậu. Nếu các cậu bước vào trong đó, các cậu sẽ không bao giờ trở ra được nữa.”

“Bạn tôi ở trong đó,” Clary nói. “Chúng tôi đến cứu cậu ấy.”

“À,” Raphael nói, “vậy có lẽ tôi không thể bảo các cậu đi được rồi.”

“Không.” Jace nói. “Nhưng đừng lo. Chuyện xảy ra với các bạn anh sẽ không xảy ra với chúng tôi.” Anh rút một trong mấy thanh thiên đao khỏi thắt lưng và giơ lên, ánh sáng mờ nhạt tỏa ra từ nó phản chiếu vào những hõm má, làm mắt anh đen lại. “Tôi đã từng giết rất nhiều ma cà rồng. Trái tim chúng không đạp, nhưng chúng vẫn có thể chết.”

Raphael thở mạnh và nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha, quá nhỏ và nhanh nên Clary không hiểu. Gã tiến tới chỗ họ, suýt vấp phải những bao nhựa nhăn nhúm khi rảo chân. “Tôi biết các cậu là gì – tôi đã nghe về loại người các cậu, từ một linh mục già ở nhà thờ St. Cecilia. Tôi cứ tưởng đó chỉ là một câu chuyện.”

“Tất cả những câu chuyện đều là thật,” Clary nói, nhưng quá khẽ khiến gã dường như không nghe thấy. Gã ta đang nhìn Jace, tay nắm chặt.

“Tôi muốn đi cùng cậu,” gã nói.

Jace lắc đầu. “Không. Nhất định không.”

“Tôi có thể chỉ cho cậu cách vào,” Raphael nói.

Jace xao động, rõ ràng là bị quyến rũ. “Chúng tôi không thể mang anh theo.”

“Được thôi.” Raphael hiên ngang bước qua mặt Jace và đá một đống rác vào tường. Nơi đấy có tấm lưới kim loại, những đoạn song sắt mỏng bị phủ lớp gỉ màu đỏ nâu. Gã quỳ xuống, nắm lấy những song sắt, và nâng tấm lưới sắt lên. “Đó là cách em tôi và bạn bè chui vào. Tôi nghĩ nó dẫn xuống tầng hầm.” Gã ngước nhìn trong khi Jace và Clary đến đứng cạnh. Clary nửa như nín thở; mùi rác rưởi quá nồng, và kể cả trong bóng tối cô vẫn thấy những bóng lũ gián lao nhanh qua những chồng rác.

Một nụ cười hờ xuất hiện, chỉ nơi khóe miệng Jace. Anh vẫn nắm thanh thiên đao trên tay. Ngọn đèn phù thủy tỏa ánh sáng ma mị lên khuôn mặt anh, khiến cô nhớ lại lúc Simon chĩa đèn pin từ dưới cằm chiếu lên khi kể cho cô nghe những câu chuyện kinh dị khi họ mới mười một tuổi. “Cám ơn,” anh nói với Raphael. “Thế này là ổn rồi.”

Khuôn mặt gã trai kia trắng bệch. “Cậu đi vào đó và hãy làm cho bạn cậu những điều tôi không thể làm cho anh tôi.”

Jace nhét thanh thiên đao vào thắt lưng và liếc nhìn Clary. “Đi theo anh,” anh nói và chui qua lưới sắt chỉ bằng một chuyển động duyên dáng, chân cho vào trước. Cô nín thở, đợi một tiếng hét đau đớn hay ngạc nhiên, nhưng chỉ có tiếng chân rơi thịch nhẹ xuống nền đất cứng. “Ổn rồi,” anh hét vọng lên, giọng nghe nghèn nghẹt. “Nhảy xuống và anh sẽ đón em.”

Cô nhìn Raphael. “Cám ơn anh đã giúp bọn tôi.”

Gã không nói gì, chỉ giơ tay ra. Cô nắm lấy tay gã để giữ thăng bằng trong khi xoay người vào vị trí. Những ngón tay gã lạnh băng. Gã buông tay cô ra khi cô thả mình qua tấm lưới. Cú rơi chỉ kéo dài một giây rồi Jace đón cô, chiếc váy túm tụm quanh đùi cô và tay anh lướt qua đôi chân trần của cô khi cô trượt vào vòng tay anh. Anh gần như thả cô ngay lập tức. “Em ổn không?”

Cô kéo váy xuống, mừng vì anh không nhìn thấy cô trông bóng tối. “Ổn.”

Jace lôi thanh thiên đao tỏa ánh sáng mờ mờ ra khỏi thắt lưng rồi giơ lên cao, để cho ánh sáng mỗi lúc một mạnh hơn tỏa lên mọi thứ xung quanh. Họ đang đứng trong một không gian tù túng, trần thấp, nền nhà bằng bê tông đã rạn nứt. Những đống đất cho thấy nơi sàn nhà bị vỡ, và Clary có thể lấy những thân cây leo đen đúa đã bắt đầu xoắn tít lên những bức tường. Một lối vào cửa, thiếu hẳn cánh cửa, dẫn vào một căn phòng khác.

Một tiếng thịch lớn khiến Clary nhảy dựng, cô quay lại nhìn thấy Raphael rơi xuống, đầu gối gập lại, chỉ cách cô vài bước chân. Gã đã đi theo họ qua lối lưới sắt. Gã đứng thẳng dậy và cười có phần quá kích động.

Jace có vẻ bừng bừng tức giận. “Tôi đã bảo anh...”

“Và tôi cũng nghe rồi.” Raphael phẩy tay ra chiều chẳng quan tâm. “Vậy cậu định làm gì nào? Tôi không thể quay ra bằng đường chúng ta chui vào, và cậu không thể bỏ tôi lại đây để lũ người chết tới tìm... đúng không?”

“Tôi đang nghĩ tới chuyện đó đây,” Jace nói. Anh trông mệt mỏi, Clary thấy mà hơi ngạc nhiên, những quầng thâm trên mắt anh trông rõ rệt hơn.

Raphael chỉ trỏ. “Chúng ta phải đi lối đó, tới cầu thang. Bọn chúng ở trên những tầng cao hơn của khách sạn. Cậu sẽ thấy thôi.” Gã chen qua Jace mà đi qua lối cửa hẹp. Jace nhìn gã ta, lắc đầu.

“Anh bắt đầu thực sự ghét người thường rồi đấy,” anh nói.

Tầng dưới của khách sạn là một khu vực ngóc ngách những hành lang như mê cung mở ra những kho hàng trống hoác, khu giặt giũ bị bỏ không – từng chồng khăn tắm vải lanh giờ đã mọc rêu mốc chất cao trong những cái rổ gỗ liễu gai đã mủn – thậm chí nhà bếp cũng vắng lặng đến lạnh người, từng hàng quầy bếp bằng thép không gỉ trải dài khuất vào bóng tối. Hầu hết các cầu thang dẫn lên tầng trên đã biến mất, không phải bị mục mà cố tình bị chặt đi, chất thành những đống củi đun dựng bên tường, những mảnh thảm Ba Tư từng một thời xa xỉ vắt ngang qua như những đóa hoa rêu mốc.

Clary lấy làm khó hiểu về vụ cầu thang bị chặt đứt. Ma cà rồng có thành kiến gì với cầu thang sao? Cuối cùng cả ba cũng tìm thấy một cầu thang chưa bị hỏng hóc gì, khuất sau phòng giặt là. Chắc hẳn trước đây những người giúp việc thường đi lại trên đó để đưa khăn lên xuống vào hồi chưa có cầu thang máy. Giờ thì bụi phủ dày trên các bậc thang, giống như một lớp tuyết xám mịn khiến Clary ho hắng.

“Suỵt,” Raphael rít lên. “chúng có thể nghe thấy tiếng em đấy. Chúng ta đang ở gần với chỗ chúng ngủ.”

“Sao anh biết?” cô thì thầm hỏi lại. Gã này thậm chí đáng ra không nên ở đây. Điều gì cho gã cái quyền răn dạy cô về vụ ồn ào gây tiếng động chứ?

“Tôi cảm nhận được.” Khóe mắt gã giần giật, và cô biết Raphael đang sợ y như mình. “Em thì không ư?”

Cô lắc đầu. Cô chẳng cảm thấy gì, trừ cảm giác lạnh buốt bất thường; sai cái nóng oi ả khó chịu của ngoài trời đêm, thì cái lạnh bên trong khách sạn thật buốt cóng.

Ở đầu cầu thang là một cánh cửa có sơn chữ “Sảnh” hầu như chẳng nhận ra nổi sau nhiều năm tích tụ bụi. Cách cửa rơi ra đầy gỉ sét khi Jace đẩy mở ra. Clary chuẩn bị tinh thần...

Nhưng căn phòng sau cánh cửa trống toang. Họ đang ở trong một sảnh ngoài rộng lớn, lớp thảm mục bị lột ngược lên để lộ ra lớp ván sàn gỗ vụn bên dưới. Giữa căn phòng này từng ngự trị chiếc cầu thang lớn sang trọng, cong cong một cách duyên dáng, hàng lan can mạ vàng và trên đó trải loại thảm đắt tiền màu vàng và đỏ sậm. Giờ tất cả những gì còn lại là những bậc cầu thang cao hơn, dẫn vào bóng tối. Phần cầu thang còn lại kết thúc ngay trên đầu họ, lửng lơ giữa không trung. Khung cảnh trông như hư ảo như một trong những bức tranh trừu tượng của họa sĩ Magritte mà mẹ Jocelyn yêu thích. Clary nghĩ, bức họa này nên mang tên Cầu thang dẫn tới hư vô.

Giọng cô nghe khô khốc như lớp bụi đã phủ lên mọi thứ. “Ma cà rồng có thành kiến gì với cầu thang vậy?”

“Không,” Jace nói. “Chỉ là chúng không cần dùng tới nó.”

“Đây là cách để tỏ ra rằng nơi này thuộc về chúng.” Đôi mắt Raphael bừng sáng. Gã dường như đang phấn khích. Jace liếc nhìn gã ta.

“Raphael, anh đã thực sự gặp một ma cà rồng nào chưa?” anh hỏi.

Raphael hờ hững nhìn anh. “Tôi biết trông chúng thế nào. Chúng xanh xao, gầy gò hơn con người, nhưng rất khỏe. Chúng di chuyển như mèo và nhảy lên uyển chuyển như rắn. Chúng đẹp và dễ sợ. Giống như khách sạn này.”

“Anh nghĩ nơi đây đẹp sao?” Clary ngạc nhiên hỏi.

“Em nên thấy nơi này nhiều năm trước. Khách sạn này giống như một bà lão từng một thời mang sắc đẹp khuynh nước khuynh thành, nhưng thời gian đã cướp đi nhan sắc của bà ta. Em phải tưởng tượng ra cầu thang này như nó từng thế, với những ngọn đèn khí đốt thắp sáng suốt các bậc thang, giống như những con đom đóm cháy sáng trong đêm, còn trên ban công đầy ắp người. Không phải như bây giờ, thật...” Gã dừng lại, tìm một từ phù hợp.

“Cụt hả?” Jace cộc lốc gợi ý.

Raphael hơi giật mình, như thể Jace vừ lôi gã khỏi giấc mộng. Gã hơi run rẩy cười rồi quay mặt đi.

Clary quay sang Jace. “Vậy chúng ở đâu? Lũ ma cà rồng ấy?”

“Có lẽ là tầng trên. Chúng thích ngủ trên cao, giống lũ dơi vậy. Mà giờ cũng gần bình minh rồi.”

Giống như những con rối đầu gắn vào dây, cả Clary lẫn Raphael đều đồng loạt ngước lên. Chẳng có gì trên đó ngoài trần nhà được trang trí bức bích họa, giờ đã rạn nứt và đen lại đôi chỗ như từng trải qua hỏa hoạn. Khung cửa vòm bên tay trái dẫn vào xa hơn trong bóng tối; những cột trụ ở hai bên được trang trí hoa văn hình hoa lá. Khi Raphael liếc xuống, một vết sẹo nơi cổ chân gã, rất trắng đối lập với làn da nâu, sáng lên như một con mắt đang hấp háy. Cô tò mò sao gã lại mang vết sẹo này.

“Tôi nghĩ chúng ta nên trở lại cầu thang của người hầu,” cô thì thào. “Ở đây tôi thấy dễ bị tấn công quá.”

Jace gật đầu. “Em tưởng, một khi chúng ta lên tới đó, em sẽ gọi tên Simon và mong cậu ấy nghe thấy em à?”

Cô tự hỏi không biết nỗi sợ hãi mình cảm nhận có hiện rõ trên gương mặt không. “Tôi...”

Lời nói của cô bị cắt ngang bởi một tiếng hét thảm thiết. Clary quay phắt lại.

Raphael. Gã đã biến mất, không chút dấu chân nào trên lớp bụi cho thấy gã đã đi – hay bị kéo đi – theo hướng nào. Theo phản xạ, cô đưa tay tìm Jace, nhưng anh đã di chuyển, xông qua khung cửa hình vòm ở bức tường xa xa và bước vào bóng tối. Cô không nhìn ra anh nhưng vẫn đi theo ánh sáng ngọn đèn phù thủy đang phóng vùn vụt do anh mang theo, như người lữ khách được dẫn đường qua đầm lầy bởi những ngọn lửa ma trơi xảo quyệt.

Bên kia cánh cửa vòm là nơi từng là phòng khiêu vũ hoành tráng. Sàn nhà lát cẩm thạch trắng giờ đã vỡ vụn, nom giống một biển băng trôi. Những ban công uốn lượn chạy dọc tường, lan can phủ đầy gỉ sét. Những tấm gương viền vàng treo cách quãng, phía trên mỗi tấm đều có gắn đầu tượng thần tình yêu được mạ vàng. Mạng nhện giăng đầy trong không gian lạnh lẽo và ẩm ướt, nom như mạng che mặt mà những cô dâu thời xa xưa thường mang trong lễ cưới.

Rachael đang đứng giữa phòng, tay buông xuôi. Clary chạy tới chỗ gã, Jace đi chậm hơn ở phía sau. “Anh ổn không?” cô hụt hơi hỏi.

Gã từ từ gật đầu. “Tôi nghĩ tôi thấy chút dịch chuyển trong bóng tối. Nhưng chẳng có gì cả.”

“Chúng tôi quyết định trở về cầu thang của người hầu,” Jace nói. “Ở tầng này chẳng có gì hết.”

Raphael gật đầu. “Ý kiến hay.”

Gã hướng ra cửa, không thèm nhìn xem họ có theo sau không. Gã mới chỉ đi được vài bước thì Jace gọi, “Raphael này?”

Raphael quay lại, đôi mắt mở to dò hỏi, và Jace phi dao.

Phản xạ của Raphael rất nhanh, nhưng chưa đủ. Con dao trúng đích, lực tác động làm gã ngã ngửa ra. Hai chân gã hất tung lên khi gã ngã rầm xuống sàn nhà cẩm thạch nứt nẻ. Dưới ánh sáng ngọn đèn yếu ớt của ngọn đèn phù thủy, máu của gã trông đen đen.

“Jace,” Clary rít lên không tin vào mắt mình, choáng váng rần rật khắp người. Jace có nói anh ghét người thường, nhưng anh chưa bao giờ...

Khi cô định tiến tới bên Raphael, Jace thô bạo đẩy cô sang bên. Anh lao vào gã trai kia vồ lấy con dao nhô lên từ ngực Raphael.

Nhưng Raphael còn nhanh hơn. Hắn nắm lấy con dao, rồi hét lên khi chạm tay vào cán dao hình thập tự. Con dao văng lanh canh trên sàn, lưỡi vấy máu đen. Một tay Jace nắm lấy áo Raphael, tay kia cầm chắc lưỡi dao Sanvi. Con dao đang sáng rực rỡ lan tỏa, cho phép Clary thấy rõ màu sắc: sắc xanh hoàng gia của giấy dán tường đã tróc ra từng mảng, những đốm vàng trên nền cẩm thạch, sắc đỏ của vết máu đang loang dần trên ngực Raphael.

Nhưng Raphael đang cười. “Mày hụt rồi,” hắn nói, lần đầu tiên nhoẻn cười, nhe những chiếc răng cửa trắng ởn sắc nhọn. “Mày đâm hụt tim tao.”

Jace nắm chặt hơn. “Mày di chuyển vào phút cuối,” anh nói. “Khinh suất quá.”

Raphael nhíu mày rồi nhổ toẹt, đỏ lòm. Clary lùi lại, kinh hoàng quan sát.

“Mày đoán ra từ khi nào?” hắn hỏi. Âm thanh của hắn không còn rõ nữa, từ ngữ hắn dùng rành mạch chính xác hơn.

“Chắc lúc ở trong con hẻm,” Jace nói. “Nhưng tao tưởng là mày muốn lừa chúng tao vào khách sạn, rồi bán đứng bọn tao. Một khi bọn tao đã thâm nhập bất hợp pháp, thì bọn tao đã vượt khỏi tầm bảo vệ của Giao Ước. Công bằng thôi. Khi mày không làm vậy, tao lại tưởng mình lầm. Sau đó tao thấy vết sẹo trên cổ họng mày.” Anh hơi nhích ra xa một chút, tay vẫn kề dao vào cổ Raphael. “Khi lần đầu tiên nhìn thấy sợi dây chuyền đó tao cứ nghĩ nó là dạng dây chuyền treo thánh giá. Mà mày đã đeo, đúng không, khi mày ra ngoài gặp gia đình mày ấy? Vết sẹo bỏng nho nhỏ ấy là gì chứ khi giống loài chúng mày lành rất nhanh cơ mà?”

Raphael cười lớn. “Chỉ vậy thôi? Vì một vết sẹo?”

“Khi mày rời khỏi sảnh ngoài, chân mày không để lại lấy một dấu chân trên lớp bụi. Thế là tao biết.”

“Không phải là em trai anh bước vào đây để tìm quỷ và không bao giờ trở ra, đúng không?” Clary nhận ra. “Đó là anh.”

“Cả hai đều rất thông minh,” Raphael nói. “Dù chưa thông minh lắm. Nhìn lên đi,” hắn nói chỉ tay lên trần nhà.

Jace gạt cánh tay xuống mà không hề rời mắt khỏi Raphael. “Clary. Em thấy gì?”

Cô từ từ ngẩng đầu, nỗi sợ hãi cuộn lại trong dạ dày.

Em có thể thấy nơi này nhiều năm trước. Giống như một bà lão từng có một thời là mỹ nhân, nhưng thời gian đã cướp đi son sắc của bà ta. Em phải tưởng tượng ra cầu thang này như nó từng thế, với những ngọn đèn khí đốt thắp sáng khắp cầu thang, giống như những con đom đóm trong đêm, và ban công đầy ắp người. Và giờ trên những ban công đầy ắp người thật, từng hàng từng hàng ma cà rồng mặt trắng nhợt chết chóc, cái miệng đỏ lòm mở lớn, hoang mang nhìn chằm chằm xuống dưới.

Jace vẫn đang nhìn Raphael. “Mày đã cho gọi chúng. Đúng không?”

Raphael vẫn cười nhăn nhở. Máu đã ngừng loang ra từ vết thương trên ngực. “Quan trọng gì đâu? Có quá nhiều ma cà rồng, kể cả đối với mày đấy, Wayland ạ.”

Jace không nói gì. Dù anh không nhúc nhích, nhưng anh thở từng hơi nhanh và ngắn, và Clary gần như có thể cảm nhận được cường độ ham muốn của anh được giết chết gã ma cà rồng này, được cắm phập dao vào ngực hắn mà xóa sạch nụ cười nham nhở kia khỏi mặt hắn vĩnh viễn. “Jace,” cô cảnh báo. “Đừng giết hắn.”

“Sao lại không?”

“Chúng ta có thể dùng hắn làm con tin.”

Mắt Jace mở lớn. “Con tin ư?”

Cô thấy chúng, càng lúc càng nhiều hơn, tràn ra lối cửa hình vòm, di chuyển im lặng như những Tu Huynh của Thành phố Xương Trắng. Nhưng những Tu Huynh không mang nước da trắng bệch không hề có chút màu sắc, hay hàm răng sắc nhọn như đầu kim...

Clary liếm đôi môi khô. “Tôi biết tôi đang làm gì. Kéo hắn đứng dậy đi, Jace.”

Jace nhìn cô, đoạn nhún vai. “Được rồi.”

Raphael gắt, “Trò này chẳng vui đâu.”

“Thế nên chẳng ai cười cả.” Jace đứng dậy, kéo theo Raphael, trong khi vẫn dứ dứ mũi dao lên xương vai Raphael. “Tao thừa sức đâm trúng tim mày từ đằng sau,” anh nói. “Nếu là mày thì tao sẽ không nhúc nhích.”

Clary quay lưng lại hai người họ để đối diện với những bóng đen đang tiến đến. Cô vung một tay ra. “Đứng ngay tại đó,” cô nói. “Nếu không anh ấy sẽ thọc dao xuyên tim Raphael.”

Những tiếng rì rào lan khắp đám đông nghe có thể là tiếng thì thào hay cười cợt. “Dừng ngay,” Clary nói, và lần này Jace làm gì đó, cô không thấy là gì, khiến Raphael rống lên vì cơn đau đột ngột.

Một trong những ma cà rồng giơ tay để cản đám đồng loại. Clary nhận ra hắn chính là gã thiếu niên gầy gò tóc vàng, đeo khuyên tai mà cô từng gặp trong bữa tiệc của Magnus. “Cô gái nói thật đấy,” thằng nhãi nói. “Họ là Thợ Săn Bóng Tối.”

Một ma cà rồng khác chen qua đám đông, đến đứng bên cạnh gã thiếu niên – một cô gái châu Á tóc xanh da trời xinh đẹp mặc bộ đầm bằng giấy kẽm. Clary tự hỏi liệu có ma cà rồng nào xấu xí không nhỉ, hoặc có lẽ nào beo béo í. Có lẽ chúng không biến người xấu xí thành ma cà rồng. Hoặc có lẽ người xấu xí không muốn sống mãi. “Thợ Săn Bóng Tối đã thâm nhập vào lãnh thổ của chúng ta,” ả nói. “Chúng không được Hiệp Định bảo vệ nữa. Tôi nói chúng ta sẽ giết chúng – chúng đã giết quá nhiều ma cà rồng chúng ta rồi.”

“Ai là thủ lãnh nơi này?” Jace nói, giọng vẫn cực kỳ bình tĩnh. “Bảo hắn bước tới.”

Cô gái nhe hàm răng nhọn. “Đừng sử dụng ngôn ngữ Clave với chúng tao, Thợ Săn Bóng Tối kia. Mi đã phá vỡ cái Giao Ước quý báu của mình khi chui vào đây rồi. Luật không còn bảo vệ mi nữa.”

“Đủ rồi, Lily,” cậu nhóc tóc vàng quát. “Thủ lãnh của chúng tôi không ở đây. Cô ấy đang ở Idris.”

“Phải có ai đó thay thế nắm quyền chỉ huy,” Jace nhận định.

Im lặng. Những ma cà rồng ở trên ban công đang treo mình qua lan can, nhoài người để nghe cho rõ. Cuối cùng thì, “Raphael là thủ lĩnh,” cậu ma cà rồng tóc vàng nói.

Cô gái tóc xanh, Lily rít lên không đồng tình. “Jacob...”

“Tôi đề nghị trao đổi,” Clary vội nói, ngắt ngang tràng đả kích của Lily và lời bắt bẻ của Jacob. “Giờ hẳn các người phải biết các người đã mang theo rất nhiều người lạ lùng về cùng trong bữa tiệc tối nay. Một trong số đó là Simon bạn tôi.”

Jacob nhướn mày. “Cô đánh bạn với ma cà rồng à?”

“Cậu ấy không phải ma cà rồng. Và cũng chẳng phải Thợ Săn Bóng Tối,” cô nói thêm, khi nhìn thấy đôi mắt tái nhách của Lily nheo lại. “Chỉ là một cậu con trai bình thường thôi.”

“Chúng tôi không mang theo bất cứ một cậu con trai nào trở về cùng từ bữa tiệc của Magnus cả. Làm thế sẽ vi phạm Giao ước.”

“Cậu ấy đã bị biến thành chuột. Một con chuột nâu bé,” Clary nói. “Chắc có người đã nghĩ cậu ấy là thú nuôi, hoặc...”

Giọng cô lạc đi. Họ đang nhìn cô như thể cô bị điên. Nỗi tuyệt vọng lạnh lẽo len lỏi vào tận xương tủy cô.

“Để tao nói thẳng nhé,” Lily nói. “Mi đang yêu cầu trao đổi mạng sống của Raphael lấy một con chuột?”

Clary đưa ánh mắt cầu cứu nhìn Jace. Anh nhìn cô ý nói, Đây là ý tưởng của em mà. Em tự xử đi.

“Đúng,” cô nói, quay về phía những ma cà rồng. “Chúng tôi đang yêu cầu như vậy đấy.”

Chúng nhìn cô, những khuôn mặt trắng bệch gần như không có chút cảm xúc. Trong một hoàn cảnh khác có lẽ Clary sẽ nghĩ là họ đang bối rối.

Cô có thể cảm thấy Jace đang đứng đằng sau, nghe được tiếng thở sột soạt của anh. Cô tự hỏi liệu anh có đang vắt óc cố nghĩ cho ra vì sao anh lại để cô lôi cả hai tới đây không. Cô tự hỏi liệu anh có bắt đầu ghét cô không.

“Ý cô là con chuột này?”

Clary chớp mắt. Một ma cà rồng khác, dáng người gầy gò, da đen, tóc cuốn lọn dài đang rẽ đường đi lên trước. Hắn ta cầm gì đó trong tay, cái gì đó màu nâu đang kêu chít chít yếu ớt. “Simon?” cô thì thào.

Con chuột ré lên và bắt đầu điên cuồng quẫy đạp trong lòng bàn tay cậu con trai kia. Hắn nhìn xuống con chuột bị bắt với vẻ chán ghét. “Ôi trời, tôi cứ nghĩ đó là Zeke. Tôi cứ suy nghĩ mãi vì sao tên này lại mang thái độ như thế chứ.” Hắn lắc đầu, những lọn tóc cuốn nảy lên. “Mọi người này, tôi thấy cô ta có thể lấy nó đi. Nó đã cắn tôi những năm lần rồi đấy.”

Clary chìa tay về phía Simon, hai tay đau đáu chỉ muốn ôm lấy bạn. Nhưng Lily đã bước lên ngáng đường trước khi cô kịp bước thêm bước nào về phía gã ma cà rồng kia. “Khoan,” Lily nói. “Làm sao chúng tôi biết cô không cướp con chuột và giết Raphael chứ?”

“Chúng tôi đã hứa là giữ lời,” Clary nói ngay lập tức, rồi căng thẳng, đợi bọn họ phá lên cười.

Không ai cười. Raphael khẽ chửi thề bằng tiếng Tây Ban Nha. Lily tò mò nhìn Jace.

“Clary,” anh nói. Trong giọng anh ngấm ngầm chứa đựng một nỗi tuyệt vọng bực bõ. “Có thực sự là...”

“Không thề thốt thì cũng chẳng trao đổi gì hết,” Lily nói ngay, thừa cơ hội chộp ngay giọng điệu thiếu dứt khoát của anh. “Elliott, giữ lấy con chuột đó.”

Elliott nắm chặt chuột Simon, con chuột đang điên cuồng cắm ngập răng vào tay cậu con trai tóc xoắn lọn đó. “Trời ơi,” cậu ta than. “Đau lắm đấy.”

Clary nắm lấy cơ hội để thì thầm với Jace. “Thề thôi mà! Thì có làm sao đâu chứ?”

“Đối với bọn anh, lời thề không giống như của người thường,” anh bực bội quát lại. “Anh sẽ bị ràng buộc vĩnh viễn với bất cứ lời thề nào anh nói ra.”

“Ồ, vậy sao? Chuyện gì xảy ra nếu anh phá bỏ lời thề nào?”

“Anh sẽ không phá, đấy mới là vấn đề...”

“Lily nói đúng,” Jacob lên tiếng. “Chúng tôi cần một lời thề. Thề rằng các người không làm hại Raphael đi. Kể cả khi chúng tôi trả con chuột lại.”

“Tôi sẽ không làm hại Raphael,” Clary nói ngay lập tức. “Dù có bất cứ chuyện gì.”

Lily cười nhân ái với cô. “Chúng tôi không lo về cô.” Cô ta nhìn thẳng về phía Jace, người đang giữ chặt Raphael tới mức những mấu tay trắng bệch. Một mảng mồ hôi làm vải áo anh sẫm màu lại, ngay giữa hai xương bả vai.

Anh nói, “Thôi được. Tôi thề vậy đấy.”

“Nói lên Lời Thề kia,” Lily khôn khéo. “Thề dưới Thiên Thần. Nói đầy đủ.”

Jace lắc đầu. “Các người thề trước đi.”

Lời nói của anh rơi vào vòng thinh lặng như những viên đá, tạo ra đợt sóng thì thầm lan tỏa khắp đám đông. Jacob trông lo lắng; Lily thì tức giận. “Mơ đi, Thợ Săn Bóng Tối.”

“Chúng tôi có thủ lãnh của các người trong tay.” Mũi dao của Jace đâm sâu hơn vào cổ họng Raphael. “Còn các người có gì nào? Một con chuột.”

Simon, đang bị Elliott giữ chắc, rít lên một cách giận dữ. Clary muốn giật lấy bạn, nhưng cố kiềm chế. “Jace...”

Lily nhìn về phía Raphael. “Chủ nhân?”

Raphael cúi đầu, những lọn tóc xoăn đen rơi xuống, che khuất khuôn mặt. Máu thấm ướt cổ áo gã, nhỏ giọt xuống làn da nâu trần bên dưới. “Một con chuột khá quan trọng,” gã nói, “để cho hai tên bọn bây phải tới tận nơi này để tìm nó. Vì thế tao nghĩ, mày đấy, Thợ Săn Bóng Tối, mày phải thề trước.”

Nắm tay Jace dữ dội tóm chặt hơn lấy hắn ta. Clary nhìn thấy cơ bắp bên dưới da anh gồng cứng, những ngón tay anh và khóe miệng anh trắng bệch khi anh phải cố kìm cơn nóng giận. “Con chuột đó là một người thường,” anh đanh giọng. “Nếu mày giết nó, mày sẽ bị Luật trừng trị...”

“Nó đang ở trong lãnh địa của bọn tao. Mày thừa biết, những kẻ đột nhập trái phép sẽ không được Giao Ước bảo vệ...”

“Các người mang cậu ấy tới đây cơ mà,” Clary ngắt lời. “Cậu ấy không đột ngập.”

“Về lý thuyết là thế,” Raphael bảo, cười nham nhở với cô dù con dao vẫn đang kề cổ. “Hơn nữa. Chúng mày nghĩ bọn tao không nghe thấy những tin đồn, những tin tức đang lan trong Thế Giới Ngầm, giống như máu chảy trong huyết quản ư? Valentine đã trở lại. Sẽ chóng thôi rồi sẽ chẳng còn Hòa Ước hay Hiệp Định gì hết.”

Jace ngẩng phắt đầu. “Mày nghe tin đó ở đâu?”

Raphael nhíu mày khinh bỉ. “Tất cả Thế Giới Ngầm đều biết. Hắn trả tiền cho một pháp sư để triệu hồi một nhóm Ravener vào tuần trước. Hắn phái đội quân Kẻ Lầm Đường đi tìm Cốc Thánh. Khi hắn tìm ra nó, thì sẽ chẳng còn chút hòa bình giả tạo nào giữa chúng ta nữa đâu, chỉ còn chiến tranh mà thôi. Không Luật nào có thể ngăn được tao xé xác tim mày ra ngay trên đường, Thợ Săn Bóng Tối ạ...”

Thế là quá đủ cho Clary. Cô lao tới chỗ Simon, huých vai đẩy Lily sang bên, giật lấy con chuột khỏi tay Elliott. Simon vội vàng nhảy lên tay cô, bám lấy tay áo Clary bằng những móng vuốt cuống cuồng.

“Ổn rồi,” cô thì thào, “ổn rồi.” Dù cô biết chuyện không hề ổn. Cô quay người bỏ chạy, và cảm nhận những bàn tay đang nắm lấy áo khoác cô, giữ cô lại. Cô vùng vẫy, nhưng nỗ lực để thoát khỏi những bàn tay đang giữ cô – tay của Lily, xương xẩu gầy gò với những cái móng tay sơn đen – bị ngăn cản phần nào vì sợ mất Simon, lúc này đang bám chặt lấy chiếc váy cô đang mặc bằng móng và răng. “Thả ra!” cô hét, đá ả ma cà rồng. Mũi bốt của cô đá trúng, thật mạnh, khiến Lily hét lên trong đau đớn và giận dữ. Ả ta phóng tay tới, đánh vào má Clary bằng lực đủ khiến cô gẫy cổ.

Clary loạng choạng suýt ngã. Cô nghe Jace hét gọi tên, quay ra thấy anh đã thả Raphael và đang chạy tới bên cô. Clary cố tới bên anh, nhưng hai vai đang bị Jacob giữ rịt, những móng tay hắn cắm vào da thịt cô.

Clary hét lên – nhưng âm thanh đó lạc mất giữa tiếng hét lớn hơn, khi Jace rút một trong những bình thủy tinh trong áo khoác, vung thứ nước trong đấy về phía cô. Cô cảm thấy nước mát chảy trên mặt cô, nghe tiếng Jacob thét lên khi mướn chạm phải da hắn. Khói bốc lên từ những ngón tay và hắn thả Clary, rú lên tiếng rú xé tai như động vật. Lily lao tới, hét gọi tên hắn, và giữa lúc hỗn loạn ấy, Clary cảm nhận có ai đang nắm cổ tay cô. Cô vật vã cố giằng tay lại.

“Dừng ngay – đồ ngốc này – anh đây,” Jace thở hổn hển vào tai cô.

“Ối!” Cô nhẹ người được một chút, rồi lại căng thẳng, khi nhìn cái bóng quen thuộc đứng sừng sững đằng sau Jace. Cô hét lên và Jace cúi xuống quay lại khi Raphael nhảy lên người anh, răng nhe ra, nhanh như mèo. Răng nanh hắn cắn phải áo của Jace vùng gần vai xé dọc áo anh trong khi anh loạng choạng suýt ngã. Raphael tiếp tục đeo bám như một con nhện lì lợm, răng táp tới cổ họng Jace. Clary quơ cào lục túi tìm con dao Jace đã đưa cho cô...

Cái bóng màu nâu nhỏ thó phóng qua sàn nhà, lao đến giữa hai chân Clary, phóng về phía Raphael.

Raphael hét lên. Simon treo mình thắt leo trên cánh tay hắn, những chiếc răng chuột sắc nhọn cắm ngập vào da thịt. Raphael thả Jace ra, ngã lùi lại, máu phun thành dòng khi một tràng tiếng Tây Ban Nha tục tĩu ào ra từ miệng hắn.

Jace thở dốc, miệng mở lớn. “Thằng chó đ...”

Lấy lại thăng bằng, Raphael giật con chuột khỏi tay và ném nó xuống nền đá cẩm thạch. Simon rít lên một tiếng trong đau đớn, rồi hớt hải chạy về phía Clary. Cô cúi xuống chộp cậu lên, ôm chặt hết sức trước ngực mà không làm bạn đau. Cô có thể cảm nhận được nhịp tim đập dồn dập từ trái tim nhỏ xíu qua đầu ngón tay mình. “Simon,” cô thì thào. “Simon...”

“Không còn thì giờ cho trò ấy đâu. Giữ chặt lấy cậu ta.” Jace đã nắm lấy tay phải cô, chặt tới phát đau. Tay kia anh đang cầm thanh thiên đao tỏa sáng. “Đi.”

Anh nửa kéo nửa đẩy cô đi ra ngoài rìa đám đông. Đám ma cà rồng nhăn mặt tránh xa ánh sáng từ thanh thiên đao khi ánh sáng quét qua bọn chúng, tất cả đều rít lên như những con mèo bị bỏng.

“Đứng đực ra vậy là đủ rồi!” Là Raphael. Tay hắn đang chảy máu, môi cong lên lộ ra những chiếc răng cửa nhọn hoắt. Hắn trừng mắt nhìn đám đông ma cà rồng lúc nhúc đang bối rối. “Giữ bọn đột nhập lại,” hắn hét lên. “Giết cả hai – cả con chuột nữa!”

Đám ma cà rồng bắt đầu lao về phía Jace và Clary, vài kẻ bước đi, một vài kẻ đang lướt trên sàn, những kẻ khác nhảy xuống từ ban công bên trên như những con dơi đen đúa đang vỗ cánh. Jace tăng tốc độ khi họ tránh xa được đám đông, nhắm về bức tường phía xa. Clary lúng túng, muốn quay lại để nhìn anh. “Chẳng phải chúng ta nên đấu lưng vào nhau hay gì đó sao?”

“Hả? Tại sao chứ?”

“Đâu biết đâu. Trong phim, đó là điều họ sẽ làm trong kiểu... hoàn cảnh này.”

Cô thấy anh đang run lên. Anh đang sợ ư? Không, anh đang cười. “Em,” anh thở hổn hển. “Em là cái người...”

“Người làm sao?” cô phẫn nộ. Họ vẫn đang lùi dần, cẩn thận bước tránh những mảnh vỡ của đồ nội thất hay đá cẩm thạch vụn rải rác trên nền nhà. Jace giơ thanh thiên đao lên cao quá đầu. Cô có thể thấy cách những ma cà rồng đang lượn vòng quanh rìa vòng ánh sáng tỏa ra từ thiên đao. Cô tự hỏi ánh sáng đó giúp họ đẩy lùi lũ ma cà rồng trong bao lâu nữa.

“Chẳng sao cả,” anh nói. “Đây không phải một hoàn cảnh, được chứ? Anh để giành từ đó khi sự việc thực sự tệ kia.”

“Thực sự tệ? Đây chưa thực sự tệ sao? Anh muốn gì nào, một quả bom nguyên tử...”

Cô ngừng nói mà hét lên khi Lily, chẳng sợ gì ánh sáng, lao mình vào Jace, răng nhe ra trong tiếng gầm gừ. Jace nắm lấy con dao thứ hai từ thắt lưng và phóng xuyên qua không trung; Lily ngã ngược lại hét toáng, một vết thương dài kêu xì xì trên tay. Khi ả ta lảo đảo, những ma cà rồng khác ùa đến quanh ả. Nhiều ma cà rồng, Clary nghĩ bụng, quá nhiều...

Cô lần sờ thắt lưng, những ngón tay nắm lấy chuôi dao. Con dao có cảm giác lạnh lẽo lạ lẫm trên tay cô. Cô không biết cách dùng dao. Cô chưa bao giờ đánh ai, chứ đừng nói là đâm. Cô thậm chí còn trốn học thể dục vào cái ngày lớp học cách tự vệ trước bọn trấn lột và hiếp dâm bằng những vật dụng thông thường như chìa khóa xe hay bút chì. Cô rút con dao ra, tay run rẩy giơ lên...

Những ô cửa sổ bùng nổ vào trong tạo thành một cơn mưa miểng kính. Cô nghe tiếng mình hét lên, nhìn thấy những con ma cà rồng – chỉ còn cách cô và Jace độ một cánh tay – kinh ngạc quay phắt lại, vẻ choáng váng lẫn kinh hoàng hiện lên trên mặt. Qua những cửa sổ vỡ nát kia là hàng tá những thân hình thon dài, đi trên bốn chân và ép mình thấp xuống đất, những bộ lông của chúng tỏa ra ánh sáng trăng cùng những mảnh kính vỡ. Đôi mắt chúng mang màu lửa xanh, và từ cổ họng chúng đồng thanh phát ra tiếng gầm gừ trầm khàn nghe giống tiếng thác đổ ùng ục.

Những con sói.

“Giờ cái này,” Jace nói, “mới là hoàn cảnh này.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Cao và khô


Những con sói cong mình, ép sát đất và gầm ghè, còn lũ ma cà rồng, trông sững sờ, vội lùi lại. Chỉ có Raphael là giữ nguyên vị trí. Hắn đang ôm lấy cánh tay bị thương, áo dính đầy đất và máu. “Los Niños de la Luna,” hắn rít lên. Kể cả Clary, người mà hầu như chẳng biết chút xíu nào về tiếng Tây Ban Nha, cũng hiểu hắn vừa nói gì. Những đứa trẻ của mặt trăng – người sói. “Tôi nghĩ bọn này ghét nhau,” cô thì thào với Jace. “Ma cà rồng và người sói.”

“Đúng. Chúng chưa bao giờ tới thăm thú nhà của nhau. Chưa bao giờ. Hiệp Định cấm điều đó.” Anh có vẻ bực tức. “Hẳn đã có chuyện đã xảy ra. Chuyện này tệ. Rất tệ.”

“Sao chuyện có thể tệ hôn lúc trước chứ?”

“Vì,” anh nói, “Chúng ta đang kẹt giữa một cuộc chiến.”

“SAO CÁC NGƯỜI DÁM BƯỚC VÀO NƠI Ở CỦA BỌN TA?” Raphael gào thét. Mặt hắn đỏ, ứ máu.

Con sói to nhất, một con quái vật lông xám vằn vện, với hàm răng như răng cá mập, cười khùng khục nghe như tiếng chó thở. Khi hắn tiến lên, chỉ trong hai bước chân hắn dường như đã biến đổi hình dạng như một cơn sóng dâng lên và cuộn lại. Giờ hắn đã trở thành một người đàn ông cao lớn cơ bắp với mái tóc dài buông xuống như những lọn dây thừng xám rối. Gã mặc quần bò và áo khoác da dày, và vẫn còn vẻ gì đó của sói vương lại trên sắc thái của khuôn mặt phong sương, gầy gò. “Chúng tôi không đến đây để gây chiến,” hắn nói. “Chúng tôi tới vì cô gái.”

Raphael vừa bực mình vừa ngạc nhiên. “Ai?”

“Cô gái loài người.” Người sói vung cánh tay cứng đơ, chỉ về phía Clary.

Cô quá choáng không tài nào di chuyển nổi. Simon, đang kêu chin chít trong tay cô, cũng bất động. Đằng sau cô, Jace lầm bầm gì đó nghe có vẻ cực kỳ báng bổ. “Em không nói với anh rằng em biết người sói.” Cô nghe thấy ra trọng âm trong giọng nói đều đều của anh – anh cũng ngạc nhiên hệt như cô.

“Tôi đâu có,” cô nói.

“Thế thì tệ rồi,” Jace nói.

“Anh đã nói câu đó rồi.”

“Có vẻ như cũng nên lặp lại lắm.”

“À, không đâu.” Clary dúm người vào anh. “Jace. Tất cả đều đang nhìn tôi kìa.”

Mọi gương mặt đều hướng về phía cô; đa số trông kinh ngạc. Đôi mắt Raphael nheo lại. Hắn từ từ quay về phía người sói. “Mi không thể có cô ta,” hắn nói. “Cô ta đột nhập vào đất của bọn ta; vì thế cô ta thuộc về bọn ta.”

Người sói cười. “Ta rất mừng vì mi nói vậy,” gã nói và phóng về phía trước. Lên giữa không trung cơ thể hắn lại rúng động, một lần nữa gã trở lại lốt sói, lông dựng đứng, hàm mở lớn, chỉ chực xé xác con mồi. Gã lao thẳng vào ngực Raphael, và cả hai ngã ra, lăn lộn, gầm ghè với nhau. Với những tiếng hú giận dữ đáp lễ, những ma cà rồng lao vào đàn người sói, đám này đối đầu trực diện với đám kia ngay chính giữa gian phòng khiêu vũ.

Tiếng ồn đó là thứ Clary chưa nghe thấy bao giờ. Nếu những bức tranh của Bosch vẽ địa ngục có cả nhạc nền, thì tiếng nhạc ấy sẽ có âm thanh tựa vậy.

Jace huýt sáo. “Quả là Raphael đang có một buổi tối đặc biệt tồi tệ.”

“Thế thì sao nào?” Clary chẳng thông cảm chút nào với gã ma cà rồng. “Chúng ta làm gì đây?”

Anh liếc nhìn quanh. Họ đang bị ghim trong góc bởi rất nhiều người; dù giờ chẳng ai chú ý tới họ, nhưng điều đó sẽ không kéo dài được lâu. Trước khi Clary kịp nói ra suy nghĩ, Simon đột nhiên giẫy mạnh đòi thoát khỏi tay cô và phóng xuống sàn. “Simon!” cô hét lên khi cậu bạn thân lao đến góc phòng và đống thảm nhung đã mục nát. “Simon, dừng lại!”

Đôi lông mày của Jace nhướn lên trong bối rối. “Cậu ta đang định...” Anh nắm lấy tay cô, kéo cô lùi lại. “Clary, đừng đuổi theo con chuột đó. Cậu ta đang trốn. Đó là điều lũ chuột làm.”

Cô phóng cho anh ánh nhìn nảy lửa. “Cậu ấy không phải chuột. Cậu ấy là Simon. Và cậu ấy đã cắn Raphael cho anh đấy, đồ ăn cháo đá bát.” Cô vùng tay ra và lao theo Simon, hiện ra co rúm dưới đống ga, kêu chít chít vui vẻ và cào đống ga. Muộn màng nhận ra điều bạn đang cố nói với mình, cô giằng đống vải sang bên. Chúng mỏng đi vì rêu mốc ăn mòn, nhưng đằng sau chúng là...

“Một cánh cửa,” cô thở ra. “Cậu quả là một con chuột thiên tài.”

Simon kêu lên một cách khiêm nhường trong khi Clary bế cậu lên. Jace đến ngay sau cô. “Một cánh cửa hả? Nó có mở được không?”

Cô nắm lấy nắm đấm rồi quay về phía anh, mặt ỉu xìu. “Bị khóa rồi. Hoặc bị kẹt.”

Jace ném mình vào cánh cửa. Cửa không nhúc nhích. Anh văng tục. “Vai anh sẽ không bao giờ được như cũ nữa. Anh mong em sẽ chăm sóc anh cho tới khi anh phục hồi.”

“Phá cánh cửa đi đã, có được không?”

Anh nhìn qua cô mà mắt mở lớn. “Clary...”

Cô quay lại. Một con sói to lớn đã rời khỏi đám hỗn chiến và lao về phía cô, tai dán sát da đầu. Con này to vật, lông đen-xám và vằn vện, với cái lưỡi thè ra đỏ lòm. Clary hét lên. Jace lao vào cánh cửa lần nữa, rồi lại chửi thề. Clary với đến thắt lưng, nắm lấy con dao, rồi phóng.

Cô chưa bao giờ phi dao, chưa bao giờ nghĩ tới việc phi dao nữa. Lần tới gần kho vũ khí nhất trước tuần này là lần vẽ tranh cho chúng, vì thế Clary ngạc nhiên hơn ai hết, cô nghĩ vậy, khi con dao bay đi, lắc lư nhưng trúng đích, cắm vào sườn người sói.

Nó kêu ẳng ẳng, giảm tốc lại, nhưng ba con sói đồng bọn đã lao tới chỗ họ. Một con dừng lại bên con sói bị thương, những con khác chạy về phía cánh cửa. Clary hét lên lần nữa khi Jace lao vào cánh cửa lần thứ ba. Cánh cửa bật mở phát ra những âm thanh buốt óc của gỉ sét siết vào nhau và gỗ nứt chẻ. “Quá tam ba bận,” anh thở dốc, ôm lấy vai. Anh thụp mình chui vào khoảng tối sau cánh cửa hỏng, rối quay lại chìa ra bàn tay hối hả. “Clary, đi nào.”

Miệng há hốc, cô lao về phía anh và đóng sầm cửa, đúng lúc hai thân hình nặng nề lao vào đó. Cô lần sờ chốt cửa, nhưng nó đã biến mất, bị tung ra sau khi Jace phá chui vào.

“Cúi xuống,” anh nói, và cô làm theo, trong khi thanh stele phóng vụt qua đầu cô, xẻ những đường thẳng màu đen lên cánh cửa gỗ mủn. Cô nghếch cổ nhìn thứ anh vừa khắc: một đường cong cong giống lưỡi hái, ba đường thẳng song song và một ngôi sao có tỏa tia sáng: Chống lại kẻ đuổi theo.

“Tôi làm mất con dao của anh rồi,” cô thú nhận. “Xin lỗi.”

“Xảy ra thường ấy mà.” Anh nhét thanh stele vào túi. Cô có thể nghe tiếng thịch văng vẳng khi những con sói hết lần này tới lần khác lao vào cửa, nhưng cánh cửa vẫn vững như bàn thạch. “Chữ rune sẽ ngăn cản chúng, nhưng không lâu. Chúng ta nên đi thôi.”

Cô ngước nhìn. Họ đang đứng trong một hành lang ẩm ướt; một cầu thang hẹp dẫn lên bóng tối. Những bậc thang làm bằng gỗ, những lan can bị phủ đầy bụi. Simon thò mũi ra ngoài áo khoác của cô, đôi mắt đen nhìn như cúc áo sáng lên dưới ánh sáng lờ mờ. “Ổn rồi,” cô gật đầu với Jace. “Anh đi trước đi.”

Jace trông như muốn cười nhưng quá mệt. “Em biết anh thích đi trước thế nào mà. Nhưng chậm thôi,” anh nói thêm. “Anh không đảm bảo cầu thang chịu nổi sức nặng của chúng ta.”

Clary cũng không chắc. Những bậc thang kêu cọt kẹt và rền rĩ theo từng bước chân họ, giống như một bà lão than vãn về những cơn đau của tuổi già. Clary nắm lấy lan can để giữ thăng bằng, thế là một mảnh rời ra trong tay cô, khiến cô hét lên làm Jace mệt mỏi tặc lưỡi. Anh nắm lấy tay cô. “Đây. Đi vững nhé.”

Simon cũng kêu lên một tiếng, nghe rất giống tiếng khụt khịt của loài chuột. Jace dường như không nghe thấy. Họ vất vả leo lên cầu thang nhanh trong mức họ dám. Cầu thang chạy theo hình xoắn ốc dẫn lên cao hơn, xuyên qua tòa nhà. Họ đi hết tầng này tới tầng khác, nhưng không thấy một cánh cửa nào. Họ đã quặt lần thứ tư thì một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cầu thang, và kèm theo đó là một đám mây bụi từ bên dưới bốc lên.

“Chúng đã vượt qua cửa rồi,” Jace chán nản. “Chết tiệt... anh cứ tưởng nó sẽ cản chân chúng lâu hơn.”

“Giờ chúng ta có chạy không?” Clary hỏi.

“Giờ thì chạy,” anh nói và họ lao rầm rập trên cầu thang, khiến nó kêu rít dưới sức nặng của hai người, những cái đinh bắn ra như đạn. Giờ họ đã lên tới tầng năm – cô có thể nghe tiếng thịch – thịch nhẹ nhàng do bàn chân sói gây ra từ những bậc thang dưới xa, hoặc có lẽ chỉ do cô tưởng tượng mà thôi. Cô biết thực sự chẳng có hơi thở nóng hổi nào sau cổ mình cả, nhưng những tiếng tru và tiếng gầm ghè, càng lúc càng lớn khi chúng tới gần hơn, là thật và đáng sợ.

Tầng sáu hiện ra trước mặt họ và họ gần như lao vào nó. Clary thở dốc, phổi đau nhức, nhưng cô vẫn khẽ phát ra tiếng kêu mừng rỡ yếu ớt khi thấy cánh cửa. Cánh cửa bằng thép nặng, có tán đinh, và có một viên gạch chặn giữ cửa luôn mở. Cô không có thời gian để tự hỏi vì sao thì Jace đã đá mở cửa, đẩy cô qua, và đi theo sau, đóng chặt cửa lại. Cô nghe thấy tiếng lách cách rõ ràng khi cửa khóa lại sau lưng họ. Tạ ơn Chúa, cô nghĩ.

Rồi cô quay nhìn quanh.

Bầu trời đêm xoay tròn trên đầu cô, lác đác những sao như những viên kim cương rải rác. Màu trời không đen mà là sắc xanh da trời sậm trong veo, màu của bình minh đang tới. Họ đang đứng trên mái nhà lát đá phiến lố nhố mấy ống khói bằng gạch. Một tháp nước cổ, đen ố bị lãng quên, vươn lên từ mặt phẳng được nâng lên tại một đầu nóc; một miếng vải nhựa dày giấu đống gỗ ngổn ngang bên dưới ở đầu nóc kia. “Hẳn đây là cách chúng chui vào và chui ra,” Jace nói, liếc nhìn cánh cửa. Giờ Clary có thể nhìn rõ Jace trong ánh sáng yếu ớt, thấy được sự căng thẳng hằn quanh mắt anh hệt như những vết cắt không sâu. Máu dính trên áo anh, chủ yếu là máu Raphael, đen lại. “Lũ ma cà rồng bay lên đây. Biết thì biết vậy chứ cũng chẳng giúp gì cho chúng ta được.”

“Hẳn phải có lối thoát hiểm chứ,” Clary đoán. Cả hai rón rén đi ra đến rìa mái nhà. Clary chưa bao giờ thích độ cao, và việc rơi từ tầng mười xuống đất khiến dạ dày cô điên đảo. Cảnh tượng về lối thoát hiểm cũng thế, một khúc kim loại vặn vẹo, không được sử dụng vẫn bám hờ hững vào một bên mặt tiền đá của khách sạn. “Hoặc không,” cô nói. Cô liếc nhìn cánh cửa mà họ vừa chui qua. Nó được lắp vào khối giống kiểu ca bin ở giữa mái nhà. Cửa đang rung lên, nắm đấm cửa dao động điên cuồng. Cánh cửa chỉ còn chịu được chừng thêm vài phút nữa thôi, hoặc thậm chí là ít hơn.

Jace ấn chặt mu bàn tay lên mắt. Bầu không khí nặng như chì đè xuống họ, khiến Clary dựng tóc gáy. Cô có thể thấy mồ hôi chảy thành dòng xuống cổ áo anh. Cô ước, dù chẳng liên quan gì, rằng trời sẽ đổ mưa. Mưa có thể làm nổ tung cái móng bập bùng này như vết rộp bị chích vào ấy.

Jace đang lẩm bẩm nói với chính mình. “Nghĩ đi, Wayland, nghĩ đi...”

Có gì đó thành hình trong đầu Clary. Một chữ rune nhảy múa dưới mí mắt cô; hai hình tam giác ngược, nối bằng một đường kẻ duy nhất – một chữ rune giống đôi cánh...

“Chính nó,” Jace thở, hạ tay, và trong khoảnh khắc giật mình Clary tự hỏi liệu anh có đọc được trí óc cô không. Anh trông sôi sục, đôi mắt vàng sáng rực lên. “Anh không thể tin là mình không nghĩ tới nó từ trước.” Anh lao về phía bên kia mái nhà, rồi dừng lại và nhìn cô. Cô vẫn đứng im ngơ ngáo, suy nghĩ vẫn còn đầy những hình ảnh mông lung. “Đi nào, Clary.”

Cô đi theo anh, cố đẩy những suy nghĩ về chữ rune ra khỏi tâm trí. Anh đã chạy tới chỗ tấm bạt và kéo mép bạt đi. Nó tuột ra, để lộ bên dưới không phải một đống rác mà là crom sáng bóng, da thuộc, và lớp sơn bóng loáng. “Mô tô ư?”

Jace sờ chiếc xe gần nhất, một chiếc Harley màu đỏ sậm khổng lồ có vẽ hình ngọn lửa vàng trên bình xăng và chắn bùn. Anh nhảy lên xe và ngoái nhìn cô. “Lên đi.”

Clary nhìn trân trối. “Anh đùa hả? Anh có biết lái nó không? Anh có chìa khóa không?”

“Anh không cần chìa khóa,” anh giải thích với sự kiên nhẫn vô biên. “Nó chạy nhờ năng lượng ác quỷ. Nào, em sẽ lên, hay em muốn tự lái một chiếc nào?”

Clary lúng túng trèo lên sau anh. Ở đâu đó, sâu trong não cô, một giọng nói nhỏ xíu đang hét lên về chuyện ý tưởng này tệ lậu tới mức nào.

“Tốt,” Jace nói. “Giờ vòng tay quanh người anh.” Cô nghe theo, cảm nhận cơ bụng rắn chắc của anh thắt lại khi anh nhoài lên trước và chọc đầu thanh stele vào ổ khóa. Cô ngạc nhiên khi nhận thấy chiếc xe rùng rùng sống dậy dưới chân mình. Trong túi cô, Simon đang lớn tiếng kêu gào.

“Mọi chuyện đều ổn mà,” cô nói, cố an ủi bạn trong khả năng của mình. “Jace!” cô hét, qua tiếng động cơ xe máy. “Anh đang làm gì đấy?”

Anh hét trả lời gì đó giống như, “Khởi động xe!”

Clary chớp mắt. “Vậy nhanh lên! Cánh cửa...”

Như đáp lời cô, cánh cửa gác mái bật tung với một tiếng rầm, bị xé toạc khỏi bản lề. Những con sói túa qua lỗ hổng, lao băng qua mái nhà thẳng về phía họ. Phía trên họ những ma cà rồng bay tới, rú rít, lấp đầy màn đêm với những tiếng gào thét của thú săn mồi.

Cô cảm nhận tay Jace giật về sau và chiếc xe lao về phía trước, khiến dạ dày cô va vào xương sống. Cô vô thức nắm chặt lấy thắt lưng Jace khi họ lao lên, bánh xe rít lên trên nền đá phiến, buộc những con sói phải tránh đường, kêu lên ăng ẳng khi nhảy sang bên. Cô nghe Jace hét gì đó, nhưng tiếng guồng xe, tiếng gió và tiếng động cơ đã át đi mất. Rìa mái nhà tiến tới rất nhanh, quá nhanh làm Clary muốn nhắm tịt mắt lại, nhưng có gì đó buộc đôi mắt cô phải mở lớn trong khi chiếc xe máy phóng qua bức tường chắn và chiếc xe, như một viên đá rơi thẳng xuống mặt đất, từ độ cao tầng mười.

Nếu Clary có hét, thì sau đó cô cũng chẳng nhớ. Giống như lần đầu tiên tàu lượn hạ xuống, khi đường tàu rơi đi mất và bạn có cảm giác như đang lao vào không trung, hai tay vô dụng vùng vẫy trong không khí và dạ dày nhảy lên tận tai. Khi xe chỉnh thẳng lại kêu xình xịch và nảy lên, cô gần như chẳng ngạc nhiên. Thay vì rơi xuống, giờ họ đang bay lên bầu trời rải rác kim cương.

Clary liếc ra sau và thấy nhóm ma cà rồng đang đứng trên mái khách sạn, bị bao vây bởi đàn sói. Cô nhìn đi chỗ khác – nếu cô không bao giờ nhìn lại khách sạn, thì giờ còn quá sớm.

Jace đang hò hét, những tiếng hú hí ồn ào vì vui mừng và nhẹ nhõm. Clary nhoài người, vòng tay ôm tay chặt lấy anh. “Mẹ luôn bảo nếu tôi ngồi trên xe máy với một cậu con trai, mẹ sẽ giết tôi,” cô hét qua tiếng gió thổi vù vù qua tai và tiếng động cơ rầm rập đến thủng màng nhĩ.

Cô không thể nghe thấy tiếng anh cười, nhưng cô cảm nhận cơ thể anh đang rung lên. “Mẹ em sẽ không nói vậy nếu biết anh đâu,” anh tự tin đáp lời cô. “Anh là tay lái lụa mà.”

Chặp sau Clary nhớ ra gì đó. “Tôi tưởng anh nói chỉ có vài chiếc xe ma cà rồng có thể bay thôi mà.”

Thật khéo léo, Jace lái xe quành qua đèn giao thông trong khi nó chuyển từ đỏ sang xanh. Bên dưới kia, Clary nghe tiếng còi ô tô, tiếng còi báo động của xe cứu thương và tiếng xe buýt nhả phanh tại trạm đỗ, nhưng cô không dám nhìn xuống. “Chỉ một số là có thể thôi.”

“Sao anh biết chiếc xe này bay được?”

“Anh có biết đâu!” anh hân hoan hét lên, và làm gì đó khiến chiếc xe gần như bay thẳng đứng lên bầu trời. Clary ré lên và nắm chặt lấy thắt lưng anh thêm lần nữa.

“Em nên nhìn xuống đi!” Jace hét. “Tuyệt lắm!”

Sự tò mò tột bực đã vượt qua được nỗi sợ và cơn chóng mặt. Clary nuốt khan và mở mắt.

Họ đang ở cao hơn mức cô tưởng, và trong một thoáng, trời đất như đảo lộn bên dưới cô, cảnh tranh tối tranh sáng nhập nhèm. Họ đang bay về phía đông, tránh xa công viên, hướng về đường cao tốc chạy vòng vèo quanh bờ phải của thành phố.

Tay Clary tê dại, và áp lực đè nặng lên ngực cô. Cảnh tượng thật đẹp: thành phố vươn tới bên cạnh cô như một khu rừng tháp bằng bạc và kính, dòng sông Đông lấp lánh ánh xám, như một vết sẹo chia cách Manhattan và những quận khác. Gió thổi man mát bên tóc, lên đôi chân trần, thật tuyệt vời sau bao nhiêu ngày phải chịu cảnh nóng nực và nhớp nháp. Dầu vậy, cô chưa bao giờ bay, kể cả bằng máy bay, và khoảng không bao la giữa họ và mặt đất khiến cô sợ. Cô không thể không khép hờ mắt khi họ phóng vút qua dòng sông. Dưới chân cầu Queensboro, Jace quặt về hướng nam và hướng về phía đảo. Bầu trời bắt đầu bừng sáng và từ xa Clary có thể thấy nhịp cầu Brooklyn cong cong phản chiếu ánh mặt trời, ở xa hơn về phía chân trời nhòe nhoẹt là tượng Nữ Thần Tự Do.

“Em ổn không?” jace hét toáng.

Clary không nói gì, chỉ ôm anh chặt hơn. Anh nghiêng xe, và thế là họ sang phóng thẳng về phía cầu, giúp Clary thấy rõ những vì sao qua những dây cáp giữ tàu. Một chuyến tàu sáng đang lao vun vút qua cầu – tàu tuyến Q, mang theo những hành khách buổi sớm còn đang ngái ngủ. Cô nghĩ tới việc mình đã từng trên chuyến tàu đó thường xuyên đến mức nào. Một đợt sóng hoa mắt tràn qua cô, cô nhắm chặt mắt lại, há hốc vì buồn nôn.

“Clary?” Jace gọi. “Clary, em ổn không?”

Cô lắc đầu, mắt vẫn nhắm chặt, cảm giác cô đang một mình giữa bóng tối và những cơn gió thổi bạt qua với chỉ tiếng tim nện thình thịch. Có gì đó sắc cào lên ngực cô. Cô lờ tịt nó đi tới khi cảm giác đó lại xuất hiện, giục giã hơn. Hơi hé mở một mắt, cô thấy đó là Simon, thò đầu ra khỏi túi áo, dùng móng vuốt cào áo cô vẻ gấp gáp. “Ổn rồi mà, Simon,” cô nỗ lực nói, cố không nhìn xuống. “Chỉ là một cây cầu...”

Cậu bạn lại cào cô, rồi chỉ bàn chân về phía bờ sông Brooklyn, đang dần hiện lên phía bên trái. Chóng mặt và buồn nôn, cô nhìn và thấy, đằng sau những đường nét của nhà kho nhà xưởng, một mảnh bình minh vàng ươm chớm xuất hiện, giống như mép góc đồng xu mạ màu vàng nhạt. “Đúng, rất đẹp,” Clary nói, nhắm tịt mắt lại. “Bình minh rất đẹp.”

Jace cứng hết cả người, như thể vừa bị bắn. “Bình minh ư?” anh hét, rồi vội vàng quành sang phải. Đôi mắt Clary mở choàng khi họ phóng về phía mặt nước, đã bắt đầu lấp lánh sắc xanh của buổi bình minh đang tới rất gần.

Clary ôm chặt với Jace hết sức có thể mà không khiến Simon bẹp dí ở giữa. “Bình minh thì sao nào?”

“Anh bảo em rồi! Chiếc xe chạy nhờ năng lượng ác quỷ!” Anh phanh lại khi họ ngang tầm mặt nước, chỉ lướt trên mặt nước với bánh xe khiến nước bắn lên. Những tia nước bắn lên mặt Clary. “Ngay khi mặt trời lên...”

Chiếc xe bắt đầu khựng lại. Jace chửi thề đủ loại câu, đấm vào tay ga. Chiếc xe lao lên lần nữa, rồi lục khục, giật nảy lên bên dưới họ như một con ngựa bất kham. Jace vẫn chửi thề trong khi mặt trời ló ra trên mấy cầu tàu Brooklyn đổ nát, rọi chiếu xuống toàn bộ thế giới với vẻ sáng sủa đau lòng. Clary có thể nhìn thấy từng viên đá gộc, đá cuội bên dưới họ trong khi phóng qua khỏi dòng sông mà lao lên bờ đê hẹp. Bên dưới họ là đường cao tốc, đã ngược xuôi dòng giao thông buổi sáng. Họ chỉ vừa qua khỏi đường cao tốc, bánh xe nghiến lên nóc chiếc xe tải đi ngang. Bên dưới họ là chỗ đậu xe đầy những rác của một siêu thị lớn. “Bám chắc vào!, Clary, và đừng thả...”

Chiếc xe nghiêng đi và chạm vào lớp nhựa đường của bãi đậu xe, bánh trước chạm đất trước. Nó phóng lên, lảo đảo dữ dội, rồi trượt dài, nảy lên va đập trên mặt đất lồi lõm, quật đầu Clary hết lao về trước lại giật ngược về sau với lực đủ làm cô gẫy cổ. Không khí bốc mùi cao su cháy. Nhưng chiếc xe đang chậm dần, trượt dài để dừng lại – và rồi nó chạm vào rào chắn bằng xi măng với lực mạnh đến nỗi nhấc bổng cô lên không trung rồi quẳng sang một bên, tay bị giằng khỏi thắt lưng Jace. Cô chỉ kịp cuộn mình lại để bảo vệ, ôm chặt tay hết mức có thể và cầu nguyện cho Simon không bị nát bét khi họ chạm đất.

Cô đập mạnh xuống đất, cơn giận dữ chạy dọc tay cô. Có gì đó té lên mặt cô, và cô ho khi lật ngửa ra, đặt lưng xuống đất. Cô chộp lấy túi. Nó trống không. Cô cố gọi tên Simon, nhưng trong người cô không còn chút hơi thở. Cô há miệng thở khò khè. Mặt cô ướt nhẹp và nước chảy xuống cổ áo.

Máu phải không? Cô mơ hồ mở mắt. Mặt cô có cảm giác như bầm một đống, tay cô, đau đớn nhức nhối, như một miếng thịt sống. Cô lăn sang bên và nửa người đang nằm trên vũng nước bẩn. Bình minh đã thực sự tới – cô có thể thấy những gì còn lại của chiếc xe, giờ đã biến thành đống tro tàn không thể nhận dạng, khhi ánh mặt trời chạm tới nó.

Và kia là Jace, đang đau đớn đứng lên. Anh bắt đầu vội vã chạy tới cô, rồi chậm lại khi tới gần. Tay áo khoác bị rách toạc và bên tay trái của anh có vết trầy dài đang chảy máu. Mặt anh, khuất sau những lọn tóc vàng sậm đang bết bát mồ hôi, đất cát và máu, đang trắng bệch như giấy. Cô tự hỏi vì sao anh lại như thế. Có phải chân cô có bị đứt lìa và nằm đâu đó trong vũng máu không?

Cô cố ngồi dậy và cảm nhận bàn tay đặt lên vai cô. “Clary?”

“Simon!”

Cậu bạn đang quỳ bên cạnh cô, chớp chớp mắt như thể chính cậu cũng không tin nổi. Quần áo cậu nhàu nhĩ cáu bẩn, kính đã biến đâu mất, nhưng ngoài ra dường như cậu chẳng bị tổn hại gì. Không có kính, trông Simon trẻ hơn, yếu đuối, và có chút gì đó thẫn thờ. Simon vươn tay chặm vào mặt cô, nhưng cô né ra. “Đau!”

“Cậu ổn không? Cậu trông tuyệt lắm,” cậu nói, giọng nghe là biết có vấn đề. “Điều tuyệt nhất mình từng thấy...”

“Là vì cậu không có kính thôi,” cô yếu ớt lên tiếng, nhưng nếu cô đợi một lời trả lời tự cho là thông minh của cậu bạn, thì cô đã không nghe được. Thay vào đó, cậu vòng tay quanh cô, ôm chặt lấy cô. Quần áo cậu có mùi máu, mồ hôi và bụi bẩn, tim đập một phút một dặm và cậu đang đè vào những vết bầm trên người cô, nhưng dù sao được bạn ôm và được biết, thực sự biết bạn mình vẩn ổn, quả là niềm an ủi lớn.

“Clary,” cậu khàn giọng nói. “Mình tưởng... mình tưởng cậu...”

“không quay lại tìm cậu? Tất nhiên mình có chứ,” cô nói. “Tất nhiên là có rồi.”

Cô vòng tay ôm bạn. Mọi thứ về Simon đều quen thuộc, từ chiếc áo phông đã sờn vải tới phần xương quai xanh góc cạnh nằm gọn ngay dưới cằm cô. Cậu gọi tên cô, và cô vỗ lưng cậu an ủi. Khi liếc ra sau chỉ trong một thoáng chốc, cô thấy Jace quay mặt đi như thể ánh mặt trời làm anh đau mắt.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom