Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: C20: Chương 20


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#Thanh_minh_thượng_hà_đồ
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ MƯỜI CHÍN: "THANH MINH THƯỢNG HÀ ĐỒ" -
TÁM TRĂM NĂM LƯU LẠC


Một trong những tác phẩm hội họa nổi tiếng nhất lịch sử Trung Quốc và được mệnh danh là "Mona Lisa Trung Quốc" chính là bức "Thanh Minh Thượng Hà Đồ" do Trương Trạch Đoan chấp bút. Bức tranh trải qua tám trăm năm chìm nổi với đầy tính truyền kỳ này chính là chủ thể mà hôm nay An muốn giới thiệu đến các bạn.

Trương Trạch Đoan là một họa sỹ người Nam Bắc Tống. “Thanh minh thượng hà đồ” được Trương Trạch Đoan vẽ vào thời Tống Huy Tông, lúc bấy giờ ông là quan hàn lâm họa sử của Họa Viện. Tranh được vẽ trên lụa, màu sắc không quá cầu kỳ, chiều rộng 24,8cm, dài 528,7cm, tái hiện lại phong tục tập quán và sinh hoạt một cách sinh động, đưa người xem quay trở về một thời Bắc Tống - nơi có phố phường Biện Kinh phồn hoa đô hội và thái bình thịnh trị.

Từ khi "Thanh minh thượng hà đồ” tồn tại đến nay, mỗi một triều đại đều có một bản vẽ phỏng theo, đồng thời khổ cỡ của mỗi một bản sao cũng bất đồng. Theo thống kê, hiện nay trong và ngoài Trung Quốc có đến 30 bức sao từ bản gốc. Vậy rốt cuộc “Thanh minh thượng hà đồ” có nội dung như thế nào? Vì sao trăm ngàn năm qua đi mà mị lực của nó vẫn không hề suy suyển?

Theo như ghi nhận ở quyển thứ tám của “Chiết đường văn thoại” thì trong bức “Thanh minh thượng hà đồ” có tổng cộng hơn 1643 người, 208 động vật, sánh bằng với các tiểu thuyết cổ điển được khắc họa rất nhiều nhân vật như “Tam quốc diễn nghĩa” (1191 người), “Hồng Lâu Mộng” (975 người), “Thủy Hử truyện” (787 người). Toàn bức “Thanh minh thượng hà đồ” được chia làm ba phần. Đoạn đầu vẽ cảnh vật của ngoại ô thành Biện Kinh. Đoạn giữa chủ yếu miêu tả cảnh sắc và sự phồn hoa tấp nập hai bên bờ sông Biện Kinh và trên cầu. Đoạn cuối miêu tả cảnh trí đường phố Biện Kinh. Người lớn cao không quá 3cm, trẻ con thì bé như hạt đậu, có đủ thuyền chài các kiểu,... cảnh sắc cực kỳ phong nhã nhu tình. Thanh minh thượng hà đồ” vẽ lại một vùng quê rộng lớn với sông nước mênh mang, mua bán sầm uất và người ngựa tấp nập,…..tất cả cùng hội tụ, chân thực tự nhiên khiến con người như lạc vào kỳ cảnh. Toàn bộ tác phẩm tuy dài nhưng không rối, phồn hoa mà không loạn, cô đọng súc tích, giống như sự liền mạch lưu loát khi hành văn, họa sỹ Trương Trạch Đoan thật đúng là bút lực hơn người, đây quả không hổ là “hi thế trân bảo” trong nghệ thuật Trung Hoa.


Theo như khảo cứu của một hậu nhân thời Minh là Lý Đông Dương thì phía trước phần vẽ bức “Thanh minh thượng hà đồ” này còn có một đoạn họa ngoại thành vẽ cảnh nước từ trên núi chảy xuống, phần này đã được Tống Huy Tông đề tên bằng thể chữ sấu kim và được đóng ấn song long, hiện tại thì phần họa này vẫn chưa được tìm thấy. Có hai giả thuyết có thể xảy ra, một là vì đây là bức họa được truyền lưu từ rất lâu nên đã qua tay thường thức của nhiều người, các đoạn vẽ đầu đều đã bị hư hỏng nặng, nên hậu nhân thấy thế đã cắt bớt đi. Khả năng còn lại là là bởi vì lời tựa của Tống Huy Tông đóng ấn song long quá đáng giá nên hậu nhân cố tình cắt đi rồi bán mất bức họa. 

Sau khi vẽ xong bức tranh, Trương Trạch Đoan đã đề lên cuối bức họa những lời ca tụng về một đất nước thái bình thịnh thế và trường tồn phồn vinh, sau đó mang trình tặng cho Tống Huy Tông. Tống Huy Tông đam mê thi họa và thông thạo sử sách, nên sau khi nhìn thấy bức tranh th cùng yêu thích vì vậy đã ngay lập tức tự tay đề lên bức tranh năm chữ “Thanh minh thượng hà đồ” bằng thể chữ sấu kim rồi đóng lên đó ấn song long.

Năm công nguyên 1126, Biện Kinh đại loạn, tất cả mọi vàng bạc châu báu và văn vật quý giá trong cung nhà Tống đều bị quân Kim mang đi, bức “Thanh minh thượng hà đồ” cũng rơi vào tay quân Kim nhưng lại không được giai cấp thống trị để mắt tới, nó trở thành một món tranh chữ bình thường lưu lạc trong dân gian qua tay bao người. Mãi đến triều Nguyên thì bức họa này mới lần nữa được trở về hoàng cung.


Tổ tiên của vua Nguyên vốn là dân tộc du mục ở cao nguyên Mạc Bắc, triều Nguyên tồn tại chưa tới trăm năm nên khả năng giám định kỳ trân dị bảo kém rất nhiều so với triều Nam Tống. Vì thế tuy bức “Thanh minh thượng hà đồ” được nhập cung nhưng trong suốt một thời gian dài cũng chỉ được cất ở một nơi vắng vẻ ít được quan tâm. Sau này vào những năm cuối triều Nguyên (công nguyên năm 1336 – 1368), có một người thợ thủ công trong cung nhà Nguyên đã hoán tráo bản gốc bẰNG một bản giả rồi mang bức “Thanh minh thượng hà đồ” thật ra ngoài rồi đem bán cho một vị quan giàu có đam mê thi họa trong triều. Vị quan nọ mua được bức tranh nhưng không lâu sau thì bị phái đến Chân Định, để lại bức tranh lại phủ. Có kẻ nhân cơ hội này lén trộm bức tranh đem bán cho một người họ Trần ở Hàng Châu. Trần bảo vệ gìn giữ được vài năm thì nghe nói vị quan đó đang từ Chân Định quay trở về kinh, tình thế vô cùng cấp bách nên đã ngay lập tức bán bức “Thanh minh thượng hà đồ” này đi để tránh rước họa vào thân. Lúc này có một khách vãng lai người Giang Tây tên Dương Chuẩn, sau khi nghe được tin rao bán thì vội vàng ra giá mua lại bức tranh. Dương Chuẩn tinh thông kim cổ, ông ta dốc túi mua cho bằng được bức họa, mua xong thì mau chóng trở về cố hương. Năm sau, Dương Chuẩn gọi người đến sao chép lại bức họa này. Một năm sau nữa có vị khách quý lâu ngày không gặp đột nhiên đến thăm. Vị khách này là một nhà giám định và thưởng thức danh tiếng tên Lưu Hán Long và đã kết làm bằng hữu nhiều năm với Dương Chuẩn. Dương Chuẩn mang bức “Thanh minh thượng hà đồ” ra để thưởng thức cùng bạn tốt. Nhưng sau khi Lưu Hán Long nhìn thấy bức họa thì ngạc nhiên đến mức chấn kinh, ông gọi bức tranh này là “hi thế trân ngoại” (món đồ quý giá), căn dặn Dương Chuẩn cùng gia quyến phải gìn giữ đời đời.

Song thế sự thường không chiều theo lòng người, 200 năm sau, bức tranh ấy đã đổi chủ biết bao lần, đến thời vua Gia Tĩnh thì đến tay một người tên Lục Hoàn ở Trường Châu. Nhưng sau khi Lục Hoàn qua đời, con trai của ông ta vì thiếu tiền nên đã bán bức “Thanh minh thượng hà đồ” này cho một vị quan tên Sơn Cố Đỉnh. Tuy nhiên sau đó đã bị đại gian thần đời Minh là cha con Nghiêm Tung đoạt lấy. Đến đời Long Khánh, phụ tử Nghiêm Tung bị kết án, quan trường thất thế, gia sản của Nghiêm phủ bị tịch thu, bức “Thanh minh thượng hà đồ” này lại một lần nữa – lần thứ hai trở về hoàng cung.

Vào khoảng giữa triều Minh, “Thanh minh thượng hà đồ” được một người trong cung tên là Phùng Bảo lén trộm ra ngoài. Phùng Bảo là một thái giám mài mực vào thời vua Gia Tĩnh. Sau khi vua Mục Tông băng hà, Vạn Lịch hoàng đế lúc này chỉ mới 10 tuổi lên kế vị. Phùng Bảo cấu kết với ngoại thần, giả truyền di chiếu, giả rằng: “Các đại thần và ti lễ giám cùng thụ cố mệnh”. Không chỉ có vậy, lúc Vạn Lịch hoàng đế cử hành nghi thức đăng cơ, Phùng Bảo đứng sau lưng Vạn Lịch hoàng đế, thành ra khi quần thần đến kính lễ tiểu hoàng đế cũng chẳng khác nào kính lễ hắn. Sau này, những sự tình liên quan đến Phùng Bảo bị bại lộ, hắn bị trục xuất khỏi cung, về sau chết ở Nam Kinh. Bản thân Phùng Bảo cũng là một người khéo tay hay chữ, Vạn Lịch năm thứ sáu (năm 1578), Phùng Bảo đề lời tựa lên “Thanh minh thượng hà đồ”, tự xưng mình là “Quan tổng đốc khâm sai Đông Hán kiêm chưởng ngự dung can sự ti lễ giam thái giám”. Sau đó, Phùng lại đem bức họa bán lấy tiền mặt, bức tranh lần nữa lưu lạc dân gian.

Đến thời Thanh thì bức “Thanh minh thượng hà đồ” này do Lục Phí Trì cất giữ, sau đó lại được Tất Nguyên mua được. Khi Tất Nguyên qua đời, triều Đình nhà Thanh cho rằng Tất Nguyên trong lúc nhậm chức Tổng đốc Hồ Quảng đã để “đạo chích vùng lên, sơ suất trong việc giám sát đôn đốc làm hỏng việc quân cơ”, không những cách chức con cháu dòng họ Tất mà còn giết hết toàn gia hơn trăm người và sung toàn bộ gia sản vào cung.


Sau khi triều đình nhà Thanh mang “Thanh minh thượng hà đồ” về cung thì đem đến nghênh xuân trong nội các ở Tử Cấm Thành. Kể từ đó, “Thanh minh thượng hà đồ” được cất giữ và bảo vệ kỹ lưỡng ở cung nhà Thanh. Năm 1911 cuối đời Thanh, “Thanh minh thượng hà đồ” cùng với những bức tranh chữ trân quý khác được hoàng đế Phổ Nghi mang tặng cho Phổ Kiệt (em trai Phổ Nghi). Năm 1932, Phổ Nghi được người Nhật Bản tôn lên làm hoàng đế bù nhìn, danh xưng là hoàng đế nước Mãn Châu. Vì vậy những bức danh họa lại được chuyển đến Trường Xuân và được cất giữ tại kho sách ở Đông viện tại Ngụy hoàng cung. Tháng 8 năm 1945, việc lớn giữa Phổ Nghi và chính quyền Nhật không thành, ông có dự cảm không tốt liền trốn đi, ngụy hoàng cung nhà Mãn bị cháy và trở nên hỗn loạn. Trong khoảng thời gian đó có rất nhiều vật phẩm trân quý bị lưu lạc khắp nơi ở nhân gian, trong đó có “Thanh minh thượng hà đồ”. Năm 1946, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giải phóng thành công Trường Xuân, cán bộ giải phóng quân Trương Khắc Uy thu thập được hơn 10 quyển tranh chữ từ hoàng cung triều Mãn, trong đó có “Thanh minh thượng hà đồ” được đem đến nhà bảo tàng Đông Bắc, sau lại đưa đến bảo tồn trong viện bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh.

Vào thời kỳ cách mạng văn hóa, Lâm Bưu – một trong tứ đại kiện tướng thời bấy giờ đứng đầu là Lý Tác Bằng, gọi là “mượn tạm” từ bảo tàng Cố Cung, nhưng thực chất là lợi dụng chức quyền lấy về làm của riêng. Ông ta cùng với Lý Tác Bằng, Khâu Hội Tác, Ngô Pháp Hiến chiếm đoạt một số lượng lớn các văn vật quý giá. Sau này khi Lâm Bưu sụp đổ, bức “Thanh minh thượng hà đồ” mới lần nữa thấy được thấy ánh mặt trời, từ đó đến bây giờ vẫn được giữ gìn cẩn thận ở bảo tàng Cố Cung – Bắc Kinh.

“Thanh minh thượng hà đồ” liệu đến cuối cùng có hay không còn lại nửa bộ sau? Nó rốt cuộc còn tồn tại bao nhiêu ẩn tình khó giải? Tất cả mọi thứ đều thu hút các học giả, các chuyên gia trong và ngoài nước tiếp tục tiến hành nghiên cứu.

-------------------------------------
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: C21: Chương 21


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI: UYỂN DUNG

Trong lịch sử phong kiến kéo dài năm nghìn năm của đất nước Trung Hoa, vị hoàng hậu cuối cùng của chế độ này chính là Quách Bố La Uyển Dung. Cuộc sống của bà là một chuỗi bi kịch được viết bằng máu và nước mắt. Hôm nay, chúng ta cùng nhau xuyên qua dòng sông dài của lịch sử, tìm hiểu về cuộc đời bạc bẽo của người phụ nữ sắc nước hương trời này.

Quách Bố La Uyển Dung biểu tự Mộ Hồng, tự hiệu là Thực Liên, là người bộ tộc Tahua (Đoạt Oát Nhĩ) gốc Mông Cổ, xuất thân từ gia tộc Quách Bố La thị thuộc Mãn Châu Chính Bạch kỳ. Cao tổ là Quách Bố La A Nhĩ Cảnh, là phó đô thống dưới thời Hàm Phong, cũng được phong lần lượt là Vũ Hiển tướng quân và Kiến Uy tướng quân. Thân phụ của bà là một đại thần tên Quách Bố La Vinh Nguyên, còn mẹ bà là cháu gái của Định Quận vương Ái Tân Giác La Phổ Hú và là con gái thứ tư của Bối lặc Ái Tân Giác La Dục Trưởng.


Sau khi sinh Uyển Dung, mẹ Uyển Dung cũng qua đời do sốt sản hậu, từ đó Uyển Dung được nuôi dạy bởi mẹ kế - cũng là dì họ tên là Hằng Hương. Bà cũng là cháu gái của Định quận vương Phổ Hú, là con gái thứ hai của Bối lặc Dục Lãng. Uyển Dung có một anh trai cùng mẹ là Nhuận Lương, về sau cưới em gái lớn của Phổ Nghi là Uẩn Anh và một em trai khác mẹ là Nhuận Kỳ, về sau cưới em gái thứ ba của Phổ Nghi là Uẩn Dĩnh. Thân phụ của Uyển Dung - Vinh Nguyên, là một quý tộc Mãn có tư tưởng khoáng đạt, quan điểm nam nữ bình đẳng, cho phép con gái được tiếp thu giáo dục như các con trai. Thuở nhỏ, Uyển Dung sống cùng gia đình ở Thiên Tân, được mẹ kế Hằng Hương chú tâm dạy dỗ các quy tắc truyền thống. Ở tuổi thiếu niên, bà được cho được học ở trường do Giáo hội Cơ đốc Mỹ thành lập, theo học tiếng Anh, đàn piano, đặc biệt bà rất hâm mộ nhạc jazz. Ngoài ra, gia đình còn mời một số gia sư riêng cho bà, dạy cả kiến thức, âm nhạc, hội họa phương Tây. Trong số đó có cả một gia sư người Mỹ sinh tại Trung Quốc là bà Isabel Ingram dạy tiếng Anh. Chính vị gia sư này đã đặt tên tiếng Anh cho bà là Reasa. (Theo Wikipedia)

Hồi trẻ, Uyển Dung nổi tiếng là mỹ nhân, bà vào cung lúc mới mười sáu tuổi. Song Uyển Dung được chọn không phải nhờ nhan sắc và sự đa tài mà dưới sự chở che của Cẩn Hoàng quý phi (tức Cẩn phi - chị gái của Trân phi thời vua Quang Tự), Phổ Nghi mới miễn cưỡng đồng ý. Bởi khi đó, người Phổ Nghi chọn đầu tiên không phải Uyển Dung mà là Văn Tú, song Uyển Dung vừa cao quý vừa xinh đẹp, gia thế lại hiển hách nên cuối cùng được lên ngôi hoàng hậu còn Văn Tú thì trở thành phi tử.

Năm 1911, chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn năm của Trung Hoa đi đến hồi kết, quốc gia từ chế độ quân chủ chuyển sang cộng hòa. Khi đó, chính phủ dân quốc dành cho tôn thất nhà Thanh một "ưu đãi", đó là "sau khi hoàng đế Đại Thanh từ vị, tôn hào vẫn còn và không bị phế, Trung Hoa dân quốc đối đãi bằng lễ dành cho quân chủ ngoại quốc", vì vậy, hôn lễ của tốn đế Phổ Nghi (tốn tức là khiêm nhường) vẫn giống hoàn toàn với lễ nghi đại hôn dành cho hoàng đế.


Sau đại hôn, Phổ Nghi rất ít khi ở lại cung Trữ Tú. Bỗng chốc, việc hoàng đế ở lại đã trở thành việc hiếm lạ. Trời chỉ vừa trở sáng là Phổ Nghi đã rời đi, song cũng không hề mở miệng quở trách bất kỳ việc gì liên quan đến chuyện "phòng the". Còn tinh thần của Uyển Dung thì càng ngày càng suy sụp, lớp trang điểm trên gương mặt thường lưu lại vết nước mắt. Giữa cuộc sống kỳ dị như thế này, mối quan hệ giữa Phổ Nghi và Uyển Dung cũng không cách nào bình thường nổi. Nếu ví Uyển Dung là một ngọn lửa hừng hực cháy thì Phổ Nghi đích xác là một que củi không thể đốt, ông có sở thích khác, còn Uyển Dung chẳng qua chỉ là một bức bình phong dùng để ứng phó mà thôi. Dần dà, Uyển Dung dần nhận ra nguyên nhân thật sự. Bà rơi vào nỗi buồn chẳng thể giải thoát, vừa ngại nói với người ngoài vừa chẳng cách nào bình ổn được nội tâm, không còn cách nào khác, bà chỉ đành tìm kiếm những thú vui khác.

Trong cung, vì nhiều lần đau bụng không dứt nên bà bất đắc dĩ phải giảm đau bằng thuốc phiện, lâu dần thành nghiện và không tài nào thoát khỏi được, cuối cùng sa vào vũng bùn ma túy. Từ góc độ nào đó nhìn nhận thì đây là sự tất yếu chắc chắn sẽ xảy ra trong cuộc sống đang dần mục nhát của cung đình nhà Mãn Thanh, song nếu nhìn ở một góc độ khác thì sẽ cảm thấy có phần kỳ lạ.

Về tâm trạng của Uyển Dung, ta không thể đoán bừa được, song theo như sự kể lại của Tôn Diệu Đình thì: "Uyển Dung cũng không phải kẻ ngốc, tất nhiên hoài nghi Phổ Nghi đương trẻ trung sao có thể bị bệnh gì được? Nhưng cái khó là mở miệng với "hoàng thượng", lại chẳng cách nào đâm vỡ lớp giấy này nên chỉ có thể chịu đựng trong đau khổ..."

Thường thì khi buồn, Uyển Dung rất ít khi viết chữ, song lại cực kỳ thích đọc sách. Nhưng việc đọc sách không thể nào xua tan được nỗi sầu, ngược lại còn tăng thêm phiền não. Đôi khi bà sẽ ngẩn người, mãi vẫn chẳng nói câu nào. Thái giám trong cung ai cũng biết từ bé bà chỉ ở trong khuê phòng, chưa từng ra cửa, lại hiếm khi về nhà thăm cha mẹ, không ai chia sẻ, lại "vớ" phải ông chồng như Phổ Nghi, những sầu bi này biết nói với ai cho đặng?


Trong một thời gian rất dài, Phổ Nghi rất lãnh đạm với Uyển Dung, song với một người cực sĩ diện như Uyển Dung, bà không thể nào chấp nhận bỏ qua cái danh hão hoàng hậu, vì vậy đã tư thông với hai phụ tá của Phổ Nghi là Lý Thể Ngọc và Kỳ Kế Trung, sau đó mang thai và sinh ra một bé gái. Về việc hút thuốc phiện và tư thông này, Uyển Dung nhận được sự cổ vũ cực kỳ tích cực từ phái anh trai của mình, trên thực tế, anh trai bà từ lâu đã bán đứng bà đổi lấy lợi ích.

Năm 1935, đến tận khi Uyển Dung sắp sinh, Phổ Nghi mới biết được Uyển Dung tư thông với kẻ khác song vẫn để bà sinh con ra. Sau khi Uyển Dung hạ sinh, Phổ Nghi ngoài mặt nói dối bà rằng đã mang con cho anh trai bà nuôi hộ, song thực chất đã ném con bà vào lò lửa. Còn Uyển Dung thì không biết rằng con bà sớm đã vong mạng. Phổ Nghi cho rằng đây là sai lầm không thể tha thứ nên đã biếm bà vào "lãnh cung", lại thêm điên loạn và nghiện ngập nên dần bị tâm thần, sau đó Phổ Nghi đã đuổi bà đến sống tại một bệnh viện hẻo lánh.

Trải qua biết bao lần đả kích, chỉ trong vòng năm năm, một người phụ nữ đẹp như hoa như ngọc đã trở thành một kẻ điên không cách nào điều khiển được bản thân, bà không còn biết đến việc điểm trang xinh đẹp là như thế nào nữa mà ngày ngày hỉ nộ vô thường. Duy chỉ có một thói quen vẫn không đổi, chính là hút thuốc phiện.

Vì bị giam trong phòng và cách biệt với thế giới bên ngoài một thời gian dài, cộng thêm bệnh tình nghiêm trọng nên hai chân bị mất năng lực đứng và đi. Đồng thời việc bị nhốt lâu khiến mắt Uyển Dung bị mất luôn cả nhãn lực, chỉ có thể nhìn bằng cách ghé mắt qua khe hở giữa các phiến quạt. Song đôi lúc bà cũng tỉnh táo, và những lúc này bà sẽ vừa khóc vừa mắng chửi phụ thân của mình, mắng rằng ông ta vì cái danh quốc trượng mà hủy đi một đời của con gái mình.


Năm 1945, Liên Xô xâm lược Mãn Châu, Phổ Nghi hoảng sợ bỏ lại Mãn Châu, các bà vợ và hoàng thất để chạy trốn. Khi đó, Uyển Dung tuy sức cùng lực kiệt nhưng vẫn cố gắng chạy trốn cùng với các thành viên hoàng gia khác đến Hàn Quốc, song giữa đường lại bị bắt và bị đưa đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, chịu đủ bao hành hạ và đói rét khổ sở. Lúc đầu có kha khá quân lính nghe nói bà là "hoàng hậu" nên tò mò lén đến xem thử, nhưng sau khi nhìn thấy bà quần áo rách bươm, mặt mũi bẩn thỉu, khó thể nào liên hệ đến vị hoàng hậu xinh đẹp ngày nào nên dần không hứng thú nữa.

Trên đường tù đày bà bị giày vò bởi cơn nghiện thuốc, nước mũi nước bọt chảy đầy mặt, mệt đến mức chẳng thể cất bước phải nhờ người cõng hộ. Khi đến Đôn Hóa thì Uyển Dung gần như đã không còn thần trí, cơ thể càng thêm dơ bẩn, người lúc nào cũng bay một mùi hôi thối. Trong thời gian này, em dâu của bà tên là Hito Saga luôn cực khổ chăm sóc bà, sau khi Hito bị đày sang nơi khác thì Uyển Dung không còn ai chăm sóc nữa.

Ngày 20 tháng 6 năm 1946, Uyển Dung qua đời, hưởng dương 39 tuổi.

Lịch sử dần đi xa, chỉ để lại cho chúng ta một câu chuyện đầy bi kịch, trong câu chuyện đó có một người phụ nữ bất hạnh, sống ở khoảng thời gian mà chúng ta chẳng thể nào chạm tới, cả đời nếm trải biết bao chông gai và đau khổ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: C22: Chương 22


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI MỐT

Trong suốt gần sáu trăm năm chìm nổi của lịch sử Minh - Thanh, có biết bao người muốn ngồi lên ngôi cửu ngũ chí tôn, chạm tay tới ngai rồng được đặt trong Tử Cấm Thành và trở thành hoàng đế oai phong một cõi. Chỉ tiếc nhiều người mộng còn chưa thành thì đã thân bại danh liệt, chỉ có một số ít người có thể thực hiện được, họ trở thành thiên tử, có thể tùy tiện giết người, có thể cưới 2811 bà vợ cùng một lúc, có thể ăn một bữa cơm ngốn hai mươi ngàn lượng bạc trắng... Đồng thời, Tử Cấm Thành cũng là nơi tập trung vàng bạc châu báu quý hiếm giữa thế gian, tập trung quyền lực, và cũng là nơi tồn tại rất nhiều bí mật. Những bí mật ấy có người biết, có người không, có người quan tâm, có người không quan tâm. Hôm nay An sẽ giới thiệu đến các bạn một vài "bí mật" mà An biết nhé:

1. Tam Hi Đường:

Vào thời Càn Long, trong Tử Cấm Thành có tồn tại một nơi gọi là Tam Hi Đường. Có tận 99,9% người đều cho rằng nơi này được gọi như vậy là do bởi có cất giữ ba tác phẩm thư pháp danh tiếng được mệnh danh là "tam hi mặc bảo" gồm "Khoái tuyết thời tình thiếp" (ánh nắng sau tuyết) của Vương Hy Chi, "Trung thu thiếp" của Vương Hiến Chi (con trai của Vương Hy Chi) và "Bá viễn thiếp" của Vương Tuân. Nhưng thực ra không đúng. Càn Long có một người thầy tên là Thái Thế Viễn, ông ta có một thư phòng tên là Nhị Hi Đường với ý "sĩ hi hiền, hiền hi thánh" (kẻ sĩ mong thành người hiền, người hiền mong thành thánh nhân), thế là vua Càn Long cũng cho xây một thư phòng riêng rồi đặt là Tam Hi, nhiều hơn Nhị Hi một tầng nghĩa: thánh hi thiên (thánh nhân ước thành trời). Thực ra những lời này giảng giải về ba nấc thang trong cuộc đời: như thế nào làm một hiền nhân, làm một thánh nhân và làm một thiên tử. Và cách để bước lên được ba nấc thang này chính là: cố gắng, cố gắng và tiếp tục cố gắng!

2. Lục đầu bài:
Nếu người nào có vợ đi ngoại tình thì mọi người sẽ trêu rằng người đó "đội mũ xanh". Thế nhưng vào thời Thanh có một định chế như này, nếu thần tử có chuyện khẩn cần gặp hoàng đế thì có thể dùng "lục đầu bài" (thẻ có đầu màu xanh), muốn bắt người hay miễn xá phạm nhân cũng dùng lục đầu bài, thậm chí hoàng đế chọn phi tần để thị tẩm cũng lật thẻ có đầu màu xanh.

3. "Phóng hiền khúc" (Khúc hát kiếm tìm người tài):
Hồi mới đầu, cung nhà Thanh không có tục cúng ông Táo. Phải đến thời vua Khang Hy, ngài thấy tập tục hai ba đưa ông Táo về trời khá hay nên đã mang về cung, đồ cúng tế là hai con dê thượng hạng và ba mươi ba loại hoa quả tươi ngon. Lần nọ, trong cung Khôn Ninh, vua Càn Long cúng ông Táo xong, sẵn tâm trạng đang tốt nên ngả người lên chiếc kháng, vừa gõ nhịp vừa hát "Phóng hiền khúc". Được nghe hoàng thượng hát quả là một "hưởng thụ ngàn năm có một".

4. Đồng hồ:
Vào thời Thanh, người ta tính giờ bằng một loại đồng hồ tên là "đồng lậu". Đó là một kiểu đồng hồ nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định giờ giấc ngày xưa và được sử dụng rất rộng rãi. Loại đồng hồ này có tầm quan trọng đến mức hoàng đế Càn Long từng khắc lên chiếc đồng hồ nước trong cung bài "Khắc lậu minh".
Song một ngày nọ, một mục sư dâng tặng cho Càn Long một chiếc đồng hồ kiểu Tây, kể từ đó mâu thuẫn giữa đồng hồ nước và đồng hồ kiểu Tây được sinh ra. Lúc đầu vua Càn Long còn kiên trì sử dụng đồng hồ nước bởi ngài nghĩ đồng hồ nước phù hợp với sự vận hành của trời đất. Nhưng đồng hồ nước có một nhược điểm trí mạng là đến mùa đông thì nước lại kết thành băng, rốt cuộc chỉ đành sử dụng đồng hồ kiểu Tây.

5. Thượng Thừa Kiệu:

Thượng Thừa Kiệu là đội ngũ khiêng kiệu cho hoàng gia trong cung nhà Thanh. Cấu trúc nhân sự của đội ngũ này không mấy phức tạp, đứng đầu là hai thái giám bát phẩm, còn lại là thái giám khiêng kiệu. Những thái giám khiêng kiệu không chỉ sở hữu diện mạo đoan chính mà cơ thể phải khỏe mạnh và cao ráo. Khi hoàng đế ngồi kiệu, phía trước sẽ có thái giám mở đường, thái giám này sẽ vừa đi vừa cất tiếng "xùy xùy". Người nào vô phận sự mà nghe được âm thanh này thì sẽ vội tránh đi.

6. Ngự y:
Nhiệm vụ của ngự y triều Thanh là xem bệnh cho hoàng đế, hoàng hậu và những nhân vật thuộc hoàng thất. Bất kể những người này có bệnh hay không thì ngày nào ngự y cũng phải đến xem mạch, tục gọi là "bình an mạch", nói nôm na chỉ là bắt mạch như bình thường mà thôi. Sau khi xem xong "bình an mạch" thì ngự y sẽ phải kê một "phương thuốc bình an". Tất nhiên, hoàng thượng, hoàng hậu và hoàng tộc có thể không uống thuốc nhưng ít ra ngự y có thể giữ được mạng mình!

7. Mời rượu tết:
Hoàng cung là nơi có rất nhiều lễ tiết, tết âm lịch là một trong những ngày lễ nhộn nhịp nhất. Mỗi dịp tết, hoàng đế đều thiết tiệc ở cung Càn Thanh và mời rượu hoàng thái hậu. Lúc mời rượu hoàng thái hậu, hoàng đế sẽ hít một hơi thật sâu bởi khi vãn bối mời rượu trưởng bối mà hít vào thở ra là không lễ phép, buộc phải nói liền một hơi. Thật sự muốn tưởng tượng một chút, trong lúc mời rượu mà hoàng thượng bị ngộp thở chắc là rất buồn cười nhỉ.

-------------------------------------


Ảnh dưới là một phần của bức "Khoái tuyết thời tình thiếp" (ánh nắng sau tuyết) của Vương Hy Chi.


Thẻ bài thị tẩm

Cách tính giờ thời xưa

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: C23: Chương 23


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI HAI: NƠI Ở CỦA CÁC VỊ THÁI HẬU


Nếu các bạn có theo dõi series Tử Cấm Thành nghìn lẻ một đêm này của An thì ắt hẳn sẽ còn nhớ thông tin về đầu mũi tên được cắm trên cửa Long Tông mà An từng đề cập ở đêm thứ chín. Hôm nay, An sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện khác về khu vực cung Thái Hậu đằng sau cửa Long Tông này - tức cung Từ Ninh. Sở dĩ cung Từ Ninh được gọi là cung Thái Hậu là do bởi đây là nơi ở của suốt bao đời thái hậu của hai triều Minh - Thanh, rất hiếm khi mở cửa, ngay cả hậu duệ hoàng tộc cũng rất hiếm khi lai vãng.

Cung Từ Ninh được vua Gia Tĩnh xây vào năm 1536 dành cho người mẹ ruột là Tưởng Thái hậu, mở rộng thêm từ cung Nhân Thọ lúc ban đầu. Các vị thái hậu mà chúng ta thường thấy trong phim đều sống tại đây cả. Song trên thực tế, nơi đây ngoại trừ là nơi ở của thái hậu thì còn có những "công dụng" khác ví như đây cũng là nơi ở của các phi tần của tiên đế và hoàng đế đương nhiệm. Một thí dụ điển hình là dưới thời vua Vạn Lịch, các phi tần của vua Vạn Lịch như Trịnh hoàng quý phi, Chiêu phi cũng ở cung Nhân Thọ cùng với Lý Thái hậu (tức Hiếu Định hoàng thái hậu hay Từ Thánh hoàng thái hậu). Hay sau khi vua Minh Hy Tông băng hà, Hoàng quý phi và các phi tần khác của ngài cũng dời đến đây sống. Vì thế, hậu nhân còn gọi cung Nhân Thọ là "nơi tập trung các bà lão".

Sau khi thay đổi triều đại, nhà Thanh tuy lên nắm quyền nhưng vẫn giữ lại những chế độ tồn tại ở thời Minh, và vị thái hậu có trí tuệ và tài đức nhất triều đại này chính là Hiếu Trang hoàng thái hậu, nếu mang ra so sánh xa hơn một chút thì cá nhân mình nghĩ bà thậm chí còn thông minh hơn cả nhân vật Mị Nguyệt trong Mị Nguyệt Truyện.

Hiếu Trang hoàng thái hậu là ai? Bà là phi tần của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, đồng thời cũng là mẹ ruột của Thanh Thế Tổ Thuận Trị. Công lao to lớn của bà là không cần phải bàn cãi, chính bà đã dưỡng dục hai đời vua Thuận Trị - Khang Hi và góp công giúp hai vị hoàng đế này ổn định căn cơ khi lên ngôi lúc còn quá nhỏ tuổi. Có rất nhiều tác phẩm phim ảnh tái hiện lại vị hoàng thái hậu nổi tiếng bậc nhất Trung Hoa này, đa phần các diễn viên đều rất xinh đẹp, song trên thực tế bà cũng là một đại mỹ nhân. Vừa có nhan sắc, vừa tài hoa, lại góp công lao to lớn trong việc giữ vững sự thịnh trị của quốc gia, thảo nào bà được vua Khang Hi khiêm nhường cung kính tới thế. Theo như ghi chép lịch sử, vua Khang Hi thường hay ở cung Từ Ninh, rất hay tổ chức tiệc cho thái hậu, đặc biệt là vào sinh nhật của thái hậu, Khang Hi tự mình hành lễ, lễ tiết cực kỳ long trọng.

Khi Hiếu Trang hoàng thái hậu qua đời (ở tuổi 75) thì ở cung Từ Ninh (trước đó có tên là Nhân Thọ) liên tiếp xảy ra rất nhiều hiện tượng kỳ lạ. Ví như đến tối thì lại nghe thấy tiếng tấu nhạc, còn có người trông thấy bóng dáng cung nữ thái giám xếp hàng đi ngang qua. Lời đồn mỗi lúc một ly kỳ vì vậy các đời thái hậu và thái phi về sau cũng không ai dám ở lại đây nữa, các bà đều đưa ra kiến nghị với hoàng đế rằng công lao của Hiếu Trang hoàng thái hậu quá lớn, những người sau không có tư cách ở nơi bà từng ở. Vua cũng chẳng thể làm gì khác hơn là sắp xếp cho các bà chỗ ở mới. Từ đó về sau cung Từ Ninh vắng bóng người, dần dà chẳng còn ai dọn dẹp chăm sóc, cuối cùng xuống dốc theo sự sụp đổ của vương triều đại Thanh.


Lại nói về việc sau khi Hiếu Trang hoàng thái hậu mất thì không ai dám ở đây nữa, thế là vua liền đưa các bà đến ở cung Thọ Khang. Cung Thọ Khang nằm ở phía tây của cung Từ Ninh, lúc đầu là tẩm cung do vua Càn Long xây dựng cho mẹ ruột Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu (hay còn gọi là Sùng Khánh hoàng thái hậu). Vậy Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu là ai? Bà chính là nhân vật Nữu Hỗ Lộc Chân Hoàn trong Chân Hoàn Truyện, là Liên Nhi trong Cung Tỏa Châu Liêm, và cũng là Lão Phật Gia trong Hoàn Châu Cách Cách.

Năm đó, "Chân Hoàn" của chúng ta trở thành thái hậu, nhưng như những "tiền bối" trước đó, bà cũng không dám vào ở cung Từ Ninh. Chẳng còn cách nào khác, vua Càn Long quyết định xây dựng cung Thọ Khang ở phía tây cung Từ Ninh. Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu đã sống ở đây gần hết cả cuộc đời, mãi đến khi bà 80 tuổi (lúc này tuổi tác của bà đã cao hơn tuổi tác hồi Hiếu Trang hoàng thái hậu qua đời) vua Càn Long mới cho dọn dẹp lại cung Từ Ninh và đưa mẹ ruột mình đến đây ở. Sáu năm sau, Hiếu Thánh thái hậu mất, cung Từ Ninh mới chính thức không còn ai ở nữa.

Sau khi Hiếu Thánh thái hậu qua đời, cung Thọ Khang trở thành nơi dưỡng lão của các thái hậu và thái phi nhiều thế hệ. Hiếu Hòa Duệ thái hậu dưới thời vua Đạo Quang, Khang Từ hoàng thái hậu dưới thời vua Hàm Phong cũng từng ở đây dưỡng già. Thậm chí là Từ Hi thái hậu cũng từng ở cung Thọ Khang một khoảng thời gian ngắn vì muốn "nâng cao" thân phận hoàng thái hậu đầy "vĩ đại" của mình.


Xuôi theo sự suy tàn của triều Thanh, cung Thọ Khang dần trở nên tiêu điều, người cuối cùng ở cung Thọ Khang không phải vị thái hậu nào cả mà là Du thái phi Hách Xá Lý thị. Hồi hoàng đế Tuyên Thống mới ba tuổi lên ngôi là do chính thái hậu Long Dụ nuôi nấng, sau khi Long Dụ thái hậu qua đời thì vị Du Thái phi này đã chăm sóc Phổ Nghi. Trưa ngày 5 tháng 11 năm 1934, Phùng Ngọc Tường phát động chính biến ở Bắc Kinh, Phổ Nghi và thê thiếp bị trục xuất khỏi Tử Cấm Thành, Du Thái phi lấy lý do tuổi cao sức yếu nên được tạm ở lại Cố Cung. Ngày 21 tháng 11, Du Thái Phi tập tễnh rời khỏi Cố Cung, bà trở thành vị hoàng tộc Mãn Thanh cuối cùng rời khỏi Cố Cung. Tiếp đó, cánh cửa lớn của cung Thọ Khang cũng bị đóng lại, mãi đến năm 2015 mới được mở ra.

Dưới đây là hình ảnh phục dựng của cung Từ Ninh trong phim Hậu Cung Như Ý Truyện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: C24: Chương 24


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI BA: NỮ QUỶ TRONG TỬ CẤM THÀNH


1. Trong lịch sử Trung Quốc có xuất hiện một cụm từ gồm ba chữ "hồng vệ binh". Hồng vệ binh là gì? Đây là một lực lượng tiêu biểu trong cách mạng văn hóa Trung Quốc ở những năm 60. Theo Wikipedia thì: "lực lượng này được coi là xung kích trong việc đấu tranh, phá bỏ những tập tục hủ lậu trong xã hội, nhưng dần đã trở nên quá khích, nhiều danh thắng và giá trị văn hóa truyền thống của Trung Hoa bị lực lượng này phá hủy, một số di tich lịch sử bị lực lượng này đe dọa đập phá khiến chính quyền phải cử quân đội tới bảo vệ (ví dụ như Tử Cấm Thành còn tồn tại là nhờ có sự bảo vệ của quân đội do Chu Ân Lai phái đến), đến tận khi cách mạng văn hóa kết thúc vào đầu thập niên 1970, lực lượng này mới bị giải tán". Các bạn có thể xem đoạn kết của bộ phim điện ảnh kinh điển Bá Vương Biệt Cơ để chứng kiến sự tiêu cực này.

Nghe nói vào tầm tháng 8 tháng 9 (thời điểm Hồng Vệ Binh tập trung thực hiện chiến dịch tiêu diệt "Bốn cái cũ", Tử Cấm Thành cũng nằm trong tầm ngắm), một buổi tối nọ, ngay trên cửa Đông Hoa xuất hiện một cô gái mặc đồ cổ trang ngồi trên cửa thành thong dong chơi đàn tranh, tầm nửa tiếng đồng hồ thì biến mất. Liên tiếp ba ngày như thế, đến ngày thứ tư, một Hồng Vệ Binh mang súng đến, không ngoài dự liệu, cô gái kia lại xuất hiện, một Hồng Vệ binh cầm súng bắn trúng cô gái ấy, cô gái ấy bỗng biến mất, về sau người ta cũng không thấy cô gái đó xuất hiện nữa.

2. Có thể bạn đã biết, bốn mặt quanh Tử Cấm Thành đều được bao bọc bởi một con sông tên là Đồng Tử, con sông này là con "hào" dùng để bảo vệ cả tòa Tử Cấm Thành uy nghiêm này. Toàn bộ sông dài 3,5km, rộng 52 mét và sâu 4,1 mét. Đây là phòng tuyến số một của Tử Cấm Thành nhưng, ý nghĩa của câu "thành trì vững chắc, lũy cao hào sâu" là bắt nguồn từ con hào Đồng Tử này. Lúc xây Tử Cấm Thành, vua Vĩnh Lạc chỉ cho đào ba mặt Đông - Bắc - Tây, lần lượt ở cổng Đông Hoa, cổng Huyền Vũ và cổng Tây Hoa. Đến năm Càn Long thứ hai mươi lăm (1760), vua Càn Long mới ra lệnh cho đào rộng thêm sang mặt thứ tư với hệ thống cống ngầm tân tiến.


Phải khái quát một chút về lịch sử của con hào Đồng Tử này bởi câu chuyện mà chúng ta sẽ được nghe tiếp sau đây có liên quan đến con hào ấy. Một netizen đã kể lại rằng:

Ở khu vực con hào quanh Cố Cung có trồng rất nhiều cây (cây gì thì tôi quên rồi do đã lâu rồi chưa đi), trong đó có một cái cây rất kỳ lạ, nghe nói cứ đến 12 giờ, nếu ai đi ngang qua đó sẽ trông thấy có một cô gái mặc đồ đỏ đang khóc, nghe nói đã có người nhìn thấy tận mắt rồi, người đó còn tới tận nơi để kiểm chứng nhưng vừa mới bước gần hơn là đã không còn nhìn thấy nữa. Sau đó có một ông cụ bảo rằng có lẽ dưới nơi đó có chôn thứ gì không sạch sẽ nên "người ta" mới mãi không siêu thoát, vì vậy đã gọi vài thanh niên dạn dĩ cầm cuốc xẻng đến đào thử ở khu vực đó (tất nhiên là vào ban ngày), đào một hồi thì trông thấy một khối ngọc, kể từ khi khối ngọc ấy được đào lên thì không còn nghe thấy tiếng ai khóc nữa.

3. Trong Tử Cấm Thành có một nơi gọi là giếng Trân Phi, đây là cái giếng mà Từ Hi thái hậu đã cho người đẩy xuống phi tần mà hoàng đế Quang Tự sủng ái nhất, mãi đến một năm sau đó mới cho người vớt lên nhập liệm. Bây giờ thì cái giếng đã được tu sửa lại và che lấp bớt rồi, thoạt trông rất nhỏ, nhưng hồi xưa miệng giếng rất lớn, bên giếng còn đặt cả một cái linh đường nhỏ. Nghe nói, tối tối khi nhân viên công tác trực đêm mà đi ngang qua cái giếng này thường trông thấy có bóng hình ai đó đi qua đi lại hoặc ngồi đàn bên giếng. Có lẽ năm xưa không ai siêu độ cho nàng nên vong hồn nàng mới ở đây lâu đến thế.


---------------------------------

Ảnh dưới là một căn phòng ở cung Khôn Ninh - phòng tân hôn của hoàng hậu và hoàng thượng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: C25: Chương 25


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI TƯ: CƯƠNG THI Ở THÀNH ĐÔ


Thời gian tầm khoảng năm 1995, thế hệ 8x ở Thành Đô hẳn vẫn còn có chút ấn tượng, bỗng một ngày nọ ở Thành Đô nổi lên tin tức: đội khảo cổ của thành phố Thành Đô đào được ba xác chết đời Thanh gần đền thờ Võ Hậu (tức Võ Tắc Thiên), bởi sơ suất trong quá trình bảo vệ mà cả ba cái xác đã không cánh mà bay chỉ trong một đêm!

Thực ra nguyên bản là thế này: năm 1995, Thành Đô được chính phủ đầu tư phát triển nên không ít doanh nghiệp đã mua đất xây dựng trụ sở công ty, có một công ty nọ trong lúc thi công đã đào lên được ba cái quan tài, sau đó họ đã mang đến cho các nhà khảo cổ học kiểm nghiệm xem người được mai táng thuộc niên đại nào, khi mở ra không ngờ lại là triều Thanh. Vốn chính phủ định cho tiêu hủy nhưng các nhà khoa học muốn tìm hiểu kỹ hơn nên đã giữ lại nghiên cứu và phái người đến canh giữ, nhưng không ngờ sau một đêm, ba xác chết ấy đã "không cánh mà bay".

Chỉ sau đó vài ngày lại xuất hiện tin tức tồn tại năm cương thi chuyên đi cắn đầu người, trong đó có ba xác chết kia, người nào bị cắn đều biến thành cương thi cả, gặp người là sẽ cắn, hoàn toàn không còn ý thức. Lúc đó đã có rất nhiều người tận mắt nhìn thấy cảnh cương thi cắn người, gây nên chấn động lớn trong xã hội. Chính phủ đành phải hợp tác với đài truyền hình đứng ra bác bỏ tin đồn, bảo rằng đây không phải là chuyện thật. Song chẳng lâu sau lại nổi lên một tin mới: những cương thi này đều đã bị "giết chết". Chính phủ đã phái quân đội dùng súng phun lửa thiêu cháy chúng sau đó mang đi chôn, nhưng chôn ở đâu thì không ai biết, tất cả mọi tin tức đều bị phong tỏa, người ngoài muốn biết cũng chỉ đành bó tay. Vì thế tuy chuyện này từng gây chấn động một thời nhưng cuối cùng đã bị dập tắt bởi sự can thiệp của chính phủ.


Các bạn tưởng đến đây là đã hết rồi ư? Không nhé, vẫn còn cơ. Ở Thành Đô có một con sông tên là Phủ Nam, thực ra tên thật của con sông này là sông Cẩm, nhưng vì chia thành hai nhánh lần lượt tên là Phủ và Nam nên dần dà được gọi thành Phủ Nam. Có một thời gian chính phủ cho cải tạo dòng sông này, song trong quá trình cải tạo lại xảy ra rất nhiều vụ án mạng ly kỳ, có không ít người nhảy sông tự vẫn. Thực ra sông cũng không sâu lắm, dòng nước cũng không xiết nhưng chỉ cần trượt chân rơi xuống nước là sẽ chết đuối. Bởi có quá nhiều người chết bất đắc kỳ tử nên nổi lên tin đồn rằng ở sông Phủ Nam có cương thi, các đài truyền hình đều đứng ra đưa tin phản bác nhưng không thể nào dẹp được dư luận bởi khi vớt những thi thể đó lên, người ta đều thấy trên những thi thể đó đều có vết tích tổn thương nghiêm trọng, đặc biệt những vết tích đó chứng tỏ một điều rằng không phải họ chết chìm mà là... chết cháy. Các cơ quan có thẩm quyền bắt tay vào điều tra nhưng đều không có kết quả. Nhiều người liên tưởng đến vụ việc quân đội dùng súng phun lửa phun chết cương thi từng xảy ra, tuy khá liên quan nhưng rốt cuộc vẫn chẳng ai có thể giải thích được chuyện này.

Ngoài ra còn có những thông tin khác, ví như có tin bảo rằng "xuất thân" của chúng là từ động Cửu Lão ở núi Thanh Thành, người ta còn tìm thấy ở đó khá nhiều xương trắng. Một thông tin khác lại nói rằng chúng được đào lên ở khu vực Tì Huyền, thậm chí còn có tin chúng được đào thấy ở Thập Lăng (là một con đường thuộc khu Long Tuyền Dịch ở Thành Đô, thuộc trung tâm thành phố Thành Đô)

Có nhiều cư dân mạng tỏ bày rằng: "Vụ cương thi này từng oanh tạc toàn bộ Tứ Xuyên, hồi đó tôi học lớp Năm, đáng sợ lắm cơ. Đủ thứ lời đồn, ngày nào đi học về cũng sợ bị gặp!", thậm chí còn có miêu tả cụ thể hơn "Tôi là dân Thành Đô, khi đó vẫn còn học tiểu học. Chuyện này từng gây náo loạn một thời, nghe nói cương thi được phát hiện ở Thành Đô, sau tự dưng nghe nói rằng đã "chạy" đến tận Hoa Dương rồi. Vì nhà tôi ở giữa hai khu đó nên tôi rất sợ tới trường, tan học cũng không dám về một mình. Nghe nói lúc cương thi "đến" Hoa Dương từng "ghé thăm" những nhà vệ sinh công cộng, một người đã "may mắn" chạm mặt, buồn cười là khi đó người nọ đi vệ sinh nhưng quên mang theo giấy, đúng lúc đó có ai đưa cho người nọ một tờ giấy, đó chính là loại giấy dùng để đốt cho người chết. Người nọ cảm thấy là lạ nên đã ngẩng đầu lên nhìn, suýt tí thì bị dọa chết..."


Song sự thực là như sau. Có một người họ Lâm, chó săn nhà anh ta nổi cơn dại nên đã cắn chết heo nhà anh ta nuôi. Anh ta mổ heo ra cho cả nhà ăn. Tối đó, cả nhà anh ta phát bệnh, da dẻ nóng lên và xuất hiện đốm đỏ, hễ gặp người nào thì cắn người nấy, đã có hai đứa trẻ và một ông cụ bị cắn. Hôm sau họ hàng và hàng xóm đưa cả nhà anh ta đến Thành Đô khám bệnh, khi đến khu Hợp Giang Đình (khu vực giao nhau giữa sông Nam và sông Phủ), nhà họ Lâm phát bệnh lần hai, nhiều người bị cắn. lúc đầu những người bị cắn cũng không biết sẽ bị truyền nhiễm nên không đến trạm y tế, vì vậy đã tử vong, thậm chí còn đi cắn người khác.

Cuối cùng, người ta phát hiện thấy có nhiều xác chết bị cắn ở khu vực Long Tuyền Dịch (một trong 11 khu vực quản lý của thành phố Thành Đô), sau đó lại bị lan truyền là cương thi hút máu rồi lên đầy các bản tin thời sự và báo chí. Còn chuyện nhà họ Lâm cắn người ở Hợp Giang Đình bị cải thành "xuất hiện cương thi ở sông Phủ Nam" khiến cả Thành Đô náo loạn. Chính phủ phải huy động lượng lớn nhân sự xử lý vụ việc này. Kể từ đó, bệnh này bị dân bản xứ gọi là "heo điên". Đến năm 2005, Tứ Xuyên bùng nổ dịch khuẩn liên cầu ở heo, cũng gây nên khủng hoảng không nhỏ, người người nhà nhà đeo khẩu trang và không dám ăn thịt heo, cả khu vực Thành Đô đều giương cao cảnh giác, những sản phẩm thịt không rõ nguồn gốc đều không được nhập, những hộ nuôi heo nào phát sinh hiện tượng lạ đều bị cách ly hoàn toàn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: C26: Chương 26


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI LĂM: HIẾU THÁNH HIẾN HOÀNG HẬU NỮU HỖ LỘC THỊ

Nữu Hỗ Lộc Thị (Niuhuru Hala) là một trong tám dòng họ quý tộc Mãn Châu, đồng thời cũng là dòng họ cổ xưa nhất tộc Mãn, sống chủ yếu ở lưu vực sông Tùng Hoa, sông Mẫu Đơn và núi Trường Bạch. Khi nhắc đến cái tên này, chắc chắn rằng rất nhiều mọt phim Thanh đấu hẳn đều rất quen thuộc, ví như đại tham quan Hoà Thân cũng là họ Nữu Hỗ Lộc, rất nhiều hoàng hậu đời Thanh cũng họ Nữu Hỗ Lộc. Vì vậy họ này được xếp vào hàng "bát đại gia", là một danh môn chính hiệu!


Chúng ta thường nghe nói mẹ của vua Càn Long có họ là Nữu Hỗ Lộc, nhiều người vừa nghe liền khẳng định rằng bà xuất thân danh môn. Thực ra nhận định này cũng đúng nhưng không hẳn. Chúng ta nói Nữu Hỗ Lộc là một trong "bát đại gia" là ý chỉ thế hệ sau của công thần khai quốc Ngạch Diệc Đô, song mẹ của Càn Long chỉ là họ hàng xa, xa tới mức dù bắn đại bác cũng không tới. Nhà Nữu Hỗ Lộc có rất nhiều nhân vật nổi bật, ngoại trừ Hòa Thân thì còn có cả đại trọng thần Ngạch Diệc Đô, Át Tất Long,...Bên cạnh đó, kể từ thời Hoàng Thái Cực đến tận đời vua Hàm Phong, trải qua sáu triều vua tất cả, dòng tộc này đã có công "góp" mười hai vị phi tần, quyền lực đến mức người có tước vị thấp nhất cũng chỉ dừng lại ở mức phi. Hôm nay, chúng ta tìm hiểu về một vị hoàng hậu nức tiếng một thời, từng xuất hiện với hình tượng đầy mạnh mẽ trên sóng truyền hình, lấy đi nước mắt và sự tán thưởng của biết bao người - Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị - tức Sùng Khánh Hoàng thái hậu.

Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu sinh ngày 5 tháng 11 năm 1692 thuộc Mãn Châu Tương Hoàng Kỳ, phụ thân là Lăng Trụ, ông là quan điển nghi hàm tứ phẩm, được gia phong làm nhất đẳng thừa ân công, song phải đến đời Càn Long ông mới được gia phong. Chúng ta phân tích một chút về chức quan này - điển nghi hàm tứ phẩm, thoạt nghe thì thấy to tát nhưng thực ra đây chỉ là một chức quan mà khi hoàng thất cử hành lễ gì đó thì đứng hô "khẩu hiệu" mà thôi, là một kiểu quan khá nhàn, được phong cho người nhà của các phi tử. Điều này chứng tỏ, chức quan này cũng không phải do Lăng Trụ tự mình có được mà là nhờ con gái nên mới có.


Cuộc đời của vị hoàng hậu nức tiếng trong lịch sử Trung Hoa được tóm tắt như sau (có một số phần An dịch lại dựa theo Baike Trung, nhưng vì thông tin ở Wiki Việt cũng được dịch từ Baike nên độ giống nhau về mặt nội dung là 100%, song An chỉ tóm lược, nếu muốn đọc cụ thể hơn, các bạn có thể qua Wiki để tìm hiểu với từ khóa là Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu): Năm Khang Hy thứ bốn mươi ba (1704), Nữu Hỗ Lộc thị (13 tuổi) được chỉ hôn cho Tứ A Ca Dận Chân lúc này đã 26 tuổi. Tuy bà thuộc gia tộc danh giá nhưng gia đình bà cũng chỉ là họ hàng xa, cả chức quan của phụ thân Lăng Trụ cũng không cao, cộng thêm tước vị của Dận Chân lúc ấy chỉ dừng ở mức Bối Lặc nên khi nhập Ung bối lặc phủ, thân phận của bà cũng chỉ dừng ở mức Cách Cách, dù hạ sinh Hoằng Lịch nhưng địa vị của bà vẫn không hề tăng, mười năm ròng vẫn chỉ ở phong hào Cách Cách. Dừng! Mọi người dừng ở đây, theo sách sử thì bà cưới Ung Chính lúc 13 tuổi, đến hai mươi tuổi thì sinh ra Càn Long, ở giữa còn cách tận bảy năm nhưng không một sách sử nào ghi chép lại, vậy trong bảy năm ấy có gì, đây vẫn là một câu đố, song có một điều chắc chắn là sau khi sinh Càn Long (lúc ấy bà gần 20), mãi đến khi Khang Hy triệu kiến thì bà tròn 30 tuổi, suốt 12 năm đó bà cũng không hoài thai thêm lần nào nữa, có thông tin là Ung Thân Vương khá lãnh cảm với bà trong chuyện phòng the, chỉ vì bà sinh Hoằng Lịch nên Ung Chính mới để tâm đến bà. Song điều cần nói đến là cái phong hào Cách Cách này, thực ra trong tiếng Mãn, hai chữ Cách Cách cũng kiểu như "tỷ tỷ (chị gái) vậy, cũng không phải dùng để chuyên chỉ công chúa các kiểu. Đời Thanh có một cuốn từ điển Mãn văn rất uy tín được đích thân triều đình khâm định tên là "Thanh văn giám", trong đó có giải thích hai chữ "cách cách" này có nghĩa là tỷ tỷ. Thực ra thì An chỉ giải thích thêm cho vui thế thôi chứ cũng không có ý gì, chúng ta tiếp tục.

Hồi thời Khang Hy, Ung Chính tức Tứ A Ca Dận Chân mắc bệnh dịch nặng suýt chết. Nữu Hỗ Lộc thị ân cần chăm sóc chu đáo. Sau khi Ung Chính bình phục, vì cảm động trước sự săn sóc ấy nên đã yêu quý bà hơn. Lúc Hoằng Lịch 10 tuổi thì được theo cha đến Mẫu Đơn Đài ở Viên Minh Viên tham dự yến tiệc, Khang Hy thấy hoàng tôn Hoằng Lịch thông minh hơn người nên rất yêu mến bèn đón vào cung học tập, tự tay nuôi nấng, lại khen Nữu Hỗ Lộc thị có phúc, từ đó bà càng nhận Ung Chính ân sủng hơn. Wiki thì cũng ghi tương tự thế nhưng sau khi mình tìm hiểu thì theo như ghi chép trong "Thanh Cao Tông thực lục", khi Khang Hy nhìn thấy Càn Long thì rất yêu mến bèn muốn nhìn mặt mẹ đẻ của Càn Long, khi Nữu Hỗ Lộc thị quỳ gối trước mặt Khang Hy, Khang Hy đã cảm thán rằng: "Quả là người có phúc, người có phúc!", kể từ đó địa vị của bà và con trai có sự thay đổi tốt đẹp. Sau khi Ung Chính đăng cơ đã phong cho bà làm Hi phi, sau đó phong tiếp lên Hi quý phi. Tháng tám năm 1723, Ung Chính bí mật lập hoàng trữ (người sẽ lên nối ngôi vua), ông đã đề tên Hoằng Lịch lên di chiếu sau đó đặt sau tấm biển Chính Đại Quang Minh ở cung Càn Thanh. Thực ra thì trong chuyện tình cảm, nhất là gia đình đế vương, chuyện yêu hay không yêu rất mơ hồ, chỉ người trong cuộc mới biết rõ, song có một điều chắc chắn rằng, bất kể Ung Chính có yêu Nữu Hỗ Lộc Thị hay không thì ông quả thật rất trân trọng và yêu thương cậu con trai Hoằng Lịch của mình. Tứ hoàng tử được mẹ thương yêu, lại có cha và ông nội quyền khuynh thiên hạ hết mực chở che, thêm cả thông minh sáng sủa, đặc biệt là con đường lên ngôi cửu ngũ đã được trải sẵn, quả là quá phúc khí!

Năm 25 tuổi, Hoằng Lịch kế vị ngôi vua, lấy hiệu là Càn Long, sau đó phong Hi quý phi làm hoàng thái hậu, hết sức cung kính và tôn trọng bà. Trong khoảng thời gian Càn Long tại vị, cả ba lần Nam tuần, ba lần Đông tuần, ba lần tuần du Ngũ Đài, một lần tuần du Trung Châu, viếng Đông Lăng, hái mộc lan, đều đưa thái hậu đi cùng. Thường ngày cũng không rời xa, mỗi ngày đều ghé thăm mẹ, đến lễ mừng thọ đều dẫn quan viên đại thần đến hành lễ chúc mừng. Đại thọ sáu mươi, bảy mươi, tám mươi của thái hậu, mỗi một lần đại thọ đều long trọng và hoành tráng hơn lần đại thọ trước. Đặc biệt vào lúc đại thọ tám mươi của mẹ, Càn Long lúc này đã sáu mươi tuổi vẫn nhảy múa cho mẹ xem, cực kỳ hiếu kính.


Có một đoạn nói về chữ hiếu của Càn Long khiến An cảm thấy rất cảm động, nhất định phải dịch ra cho mọi người cùng đọc: "Càn Long nghĩ lúc hoàng thái hậu 90 tuổi thì mình cũng đã là một ông già 71 tuổi rồi, đến lúc đó nhất định càng phải chúc mừng hoàng thái hậu long trọng hơn nữa", quả đúng như Khang Hy từng nói, Sùng Khánh Hoàng thái hậu có được một người con như Càn Long là đại phúc khí, mọi bà mẹ trên thiên hạ cũng chỉ mong có được một đứa con hiếu thảo đến thế mà thôi. Theo như ghi nhận của lịch sử, "thành tựu" của Sùng Khánh Hoàng thái hậu là: sinh hạ Càn Long, hoàng thái hậu trường thọ và hưởng phúc nhất Đại Thanh. Phải nói thêm một chút là Càn Long cũng là một vị vua sống rất thọ. Trước Càn Long, tuổi thọ bình quân của các vị hoàng đế không quá cao, từ Nỗ Nhĩ Cáp Xích (cha của Hoàng Thái Cực) đến Ung Chính, thọ mệnh đều không quá cao, chỉ tầm năm mươi mà thôi, thế mà Càn Long sống đến tận tám mươi chín tuổi, trong các anh em huynh đệ thì ông cũng là người có tuổi thọ cao nhất. Huynh đệ của Càn Long tổng cộng mười người, đều cùng cha khác mẹ, trong đó sáu người chết yểu, bốn người may mắn sống sót, ngoại trừ Càn Long thì người sống lâu nhất cũng chỉ tầm sáu mươi tuổi. Tố chất sức khỏe của Càn Long rất tốt, phải nói là cực kỳ tốt, cái này hẳn là do di truyền từ mẹ vì Sùng Khánh Hoàng thái hậu cũng sống rất thọ, bà sống đến tám mươi sáu tuổi, sức khỏe tốt, được mệnh danh là "lão thái hậu thích du lịch". Quả là cả hai mẹ con đều rất có phúc khí.

Đã nói đến đây thì sẵn tiện nói luôn, một trong những bộ phim truyền hình tái hiện lại hình tượng Sùng Khánh Hoàng thái hậu được lòng khán giả nhất là bộ phim truyền hình dài tập Hậu Cung Chân Hoàn Truyện được cải biên từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lưu Diễm Tử. Thực ra thì trong phim người ta cải lại gần hết rồi, drama hóa hơn, nói chính xác hơn là chỉ mượn hình tượng nhân vật mà thôi. Một ví dụ cụ thể là trong phim, Chân Hoàn nhập cung qua đợt tuyển tú dưới thời Ung Chính, lúc đó chính Ung Chính cũng đã lập hậu, khác hoàn toàn so với lịch sử. Bên cạnh đó, Ung Chính sở hữu hơn hai mươi phi tần, trong đó có Trung Cung Hoàng hậu tức Hiếu Kính Hiến hoàng hậu Ô Lạp Na Thị. Trong phim, Ô Lạp Na Thị được miêu tả là một vị hoàng hậu nội tâm âm hiểm và luôn mưu tính hãm hại những phi tử mang thai. Song thực ra trong lịch sử, Hiếu Kính Hiến hoàng hậu là một người rất nhã nhặn, tuy đứng đầu lục cung nhưng mối quan hệ giữa bà và các phi tần đều rất thuận hòa, ngay cả Ung Chính cũng rất tin tưởng bà.

Trong hậu cung của Ung Chính còn tồn tại một nhân vật cực kỳ quan trọng, đó là Đôn Túc Hoàng quý phi Niên thị, bà là con gái của nhất đẳng công Niên Hà Linh, là em gái của Phủ Viễn đại tướng quân Niên Canh Nghiêu, cũng chính là nhân vật Hoa phi Niên Thế Lan trong phim. Trong Chân Hoàn Truyện, Hoa phi được xây dựng với hình tượng một người phụ nữ lòng dạ nhỏ mọn, kiêu căng hống hách, song trong lịch sử, đích thân Ung Chính đã đánh giá bà như sau: "Bản tính nhu hòa, quản lý việc hậu cung cẩn trọng,... tấm lòng khoan hậu bao dung", mỗi một câu đều là ngợi khen, có thể thấy được sự coi trọng của Ung Chính dành cho bà.


Ung Chính là một người cuồng công việc, ông dành phần lớn tinh lực vào việc trị quốc vì thế không có nhiều thời gian dành cho hậu cung. Nếu nói trong lòng ông người phụ nữ nào quan trọng nhất, chỉ e người xếp ở vị trí đầu hẳn là Niên quý phi. Ngày 23 tháng Mười Một năm Ung Chính thứ ba, Niên quý phi chết vì bạo bệnh, lần đầu tiên trong đời Ung Chính nghỉ thiết triều (5 ngày), đích thân tổ chức tang lễ cho Hoàng quý phi (Ung Chính phong hào này cho bà vào ngày 15 cùng tháng). Trong tang lễ, Ung Chính cực kỳ đau buồn, tâm trạng kích động đến mức nghẹn ngào. Theo như ghi chép mà Wikipedia dịch lại thì: "Những người con do Niên thị sinh ra, chỉ có Phúc Huệ. Ung Chính Đế tư niệm đó là cốt nhục duy nhất của Niên phi nên thập phần sủng ái, đối đãi khác với các hoàng tử khác. Nhưng ở năm Ung Chính thứ 6 (1728), Phúc Huệ cũng bất hạnh qua đời. Ung Chính Đế đau buồn, lấy lễ Thân vương mà mai táng Phúc Huệ. Đến thời Càn Long, Hoàng đế từng nói về Phúc Huệ:“Trẫm đệ tám a ca, tố vì hoàng khảo sở yêu tha thiết”, chứng minh việc Ung Chính Đế yêu quý Phúc Huệ là các anh em trong hoàng tộc đều biết."

Vậy rốt cuộc nàng "Chân Hoàn" Nữu Hỗ Lộc Thị có vị trí như thế nào trong lòng Ung Chính? Thực ra trong lịch sử, dung mạo của Hi phi chỉ thường thường bậc trung. Tuy thời Ung Chính còn tại vị đã sắc phong bà làm phi tử nhưng chỉ ở tước vị phi. Song Nữu Hỗ Lộc thị lại là một người có phúc, tuy bà không nhận được sủng ái của Ung Chính nhưng lại may mắn hạ sinh được tứ hoàng tử Hoằng Lịch. Lại tuy bà không có được tình yêu của Ung Chính nhưng con trai bà từ lâu đã là người được Ung Chính xác định sẽ kế thừa ngai vị. Sau khi Ung Chính qua đời, Hoằng Lịch nối ngôi, mẹ quý nhờ con, Nữu Hỗ Lộc thị được suy tôn làm Hoàng thái hậu, hưởng hết mọi vinh hoa phú quý, sống thọ đến gần chín mươi tuổi.

Hình dưới lần lượt là hình vẽ của Sùng Khánh Hoàng thái hậu - nhân vật Nữu Hỗ Lộc Chân Hoàn do Tôn Lệ thủ vai trong Hậu Cung Chân Hoàn Truyện - nhân vật Sùng Khánh Hoàng thái hậu do Ô Quân Mai thể hiện trong Hậu Cung Như Ý Truyện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: C27: Chương 27


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI SÁU: CÀN LONG VÀ MIẾNG THỊT LUỘC DO UNG CHÍNH GẮP CHO

Khang Hy và Càn Long là bộ đôi ông cháu nổi tiếng nhất lịch sử triều Thanh, song không phải ai cũng biết Càn Long là do một tay Khang Hy bồi dưỡng, cũng có thể nói rằng ngôi vị hoàng đế của Càn Long là do ông nội Khang Hy cho chứ không phải là do cha ruột Ung Chính cho.

Khang Hy có tổng cộng 97 tôn tử, vì bận bịu chính sự nên rất khó nhớ mặt tất cả con cháu, song Càn Long lại khiến Khang Hy có ấn tượng mạnh mẽ. Năm Càn Long 12 tuổi, lần đầu tiên ngài được nhìn thấy ông nội Khang Hy của mình. Trước mặt Khang Hy, Càn Long vẫn rất ung dung không hề lo lắng hay hoảng loạn, lúc hành lễ cũng rất thong dong không cứng nhắc, điều đó đã khiến Khang Hy nhìn đứa cháu này bằng cặp mắt khác.


Sau khi Khang Hy trở về đã hỏi riêng Ung Chính bát tự của Càn Long. Mấy hôm sau thì trực tiếp đón Càn Long vào cung ở cạnh và tự tay bồi dưỡng, chính điều đó cũng khiến Càn Long trở thành vị hoàng tử được xem trọng nhất. Tất nhiên là Ung Chính cũng rất xem trọng Càn Long, tuy địa vị của mẹ đẻ Càn Long không cao nhưng tính cách của Càn Long lại trầm ổn, rất có phong phạm đế vương. Còn thứ tử Hoằng Thời của Ung Chính, tuy đã lập gia đình và địa vị phía nhà mẹ rất cao song lại sống rất phóng túng, hành sự không cẩn trọng nên không được Ung Chính để tâm.

Ngày mười một tháng Giêng năm Ung Chính thứ nhất, lần đầu tư Ung Chính đến Thiên Đàn tế tự, ngay trong lễ đại điển, Ung Chính đã thưởng cho Càn Long một miếng thịt luộc, Càn Long không hề do dự, ngay lập tức ăn miếng thịt đó.

Tất niên không phải ai cũng được ăn miếng thịt này, tuy miếng thịt này rất khó ăn nhưng đây là miếng thịt được tế trời, được thần phù hộ nên là một miếng thịt có phúc. Miếng thịt luộc đó còn có một tên gọi khác là tộ nhục, thời cổ, khi hoàng đế đăng cơ được gọi là tiễn tộ, thế nên mới nói Ung Chính gắp thịt cho Càn Long cũng có ý là lập Càn Long làm hoàng trữ.


Vài tháng sau đó, Ung Chính viết tên của Càn Long vào di chiếu rồi đặt ở đằng sau tấm bảng Chính Đại Quang Minh. Còn trong lòng các đại thần thì chuyện Càn Long là hoàng trữ thì ai ai cũng đều ngầm biết.

Ba tháng sau, Ung Chính lại để Càn Long thay mình làm giỗ hoàng đế Khang Hy, chuyện này còn rõ ràng hơn nữa, hoàng đế tương lai cúng bái lão hoàng đế, Ung Chính đang tuyên cáo với thế nhân rằng đã định xong người nối nghiệp, Càn Long sẽ trở thành hoàng đế kế tiếp của Thanh triều.

Vì đã là người được "định sẵn" nên Càn Long rất được hoàng thất chú trọng dạy dỗ, Khang Hy và Ung Chính đã cho vời những lão sư nổi tiếng và giỏi giang nhất đến dạy cho Càn Long, đồng thời ngài cũng được các chú tức Dận Lộc, Dận Hi đích thân dạy cưỡi ngựa bắn cung, thế nên từ rất sớm, ngài đã thông thạo nhiều ngôn ngữ dân tộc và có tư duy khác lạ.

Con đường lên ngôi cửu ngũ của Càn Long cực kỳ thuận lợi, ngài không những được ông nội và cha ruột hậu thuẫn mà còn nhận được sự ủng hộ của cả các vị vương gia và quần thần. Có thể nói, Càn Long sinh ra là để làm hoàng đế, đồng thời góp công kiến lập nên một thời Khang Càn thịnh thế nổi danh nhất lịch sử triều Thanh nói riêng và lịch sử phong kiến Trung Quốc nói chung.

Ảnh dưới lần lượt là ba diễn viên gạo cội Trương Quốc Lập, Đường Quốc Cường và Trương Thiết Lâm tái hiện lại vai diễn về ba vị hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long trong show Vương Bài Đối Vương Bài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: C28: Chương 28


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết
#Diên_Hi_Công_Lược
#Team_hoàng_hậu
#Hoàng_hậu_là_chân_ái_tất_cả_đều_là_phù_du_ngoại_trừ_Phó_Hằng


ĐÊM THỨ HAI MƯƠI BẢY: HIẾU HIỀN THUẦN PHÚ SÁT HOÀNG HẬU

Trong các bộ phim triều Thanh, hoàng đế Càn Long luôn được tái hiện với hình tượng phong lưu phóng khoáng, thích ghẹo nguyệt trêu hoa, vừa mới quên Hạ Vũ Hà bên hồ Đại Minh là đã ôm ngay Hương Phi vào lòng. Nhưng điều khiến rất nhiều người không ngờ được chính là, tuy hoàng đế Càn Long sống thọ hơn 80 tuổi và tại vị hơn 60 năm, song người có thể khiến ngài trân quý mãi như thuở ban đầu mới gặp, chỉ có mỗi mình hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần Phú Sát.

Hiện tại có một bộ Thanh đấu rất hot tên là Diên Hi Công Lược, một trong những điểm sáng (có lẽ là sáng nhất) của bộ phim chính là hình tượng hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần được xây dựng rất thành công và khá sát với lịch sử. Trong phim, Phú Sát thị là người phụ nữ được Càn Long vừa yêu vừa kính, mà trong lịch sử cũng quả đúng như vậy. Xuất thân của Phú Sát thị cao quý và hiển hách, thuộc tầng lớp quý tộc Mãn Châu Tương Hoàng Kỳ, song hoàng thượng yêu quý bà không phải vì xuất thân danh giá đó của bà. Mười sáu tuổi, Phú Sát thị được đưa vào cung tham dự kỳ tuyển tú, hoàng đế Ung Chính vừa nhìn là đã chọn ngay bà, ngài cho rằng cô gái trông vừa xinh đẹp vừa thông minh thế này, tương lai tất sẽ trở thành mẫu nghi thiên hạ. Vì thế ngài đã gả Phú Sát thị cho con trai Càn Long của mình. Còn Ung Chính đã nhìn thấy được sự tài hoa của bà như thế nào, mời các bạn tra Wikipedia, trên đó có một đoạn miêu tả lần gặp đầu tiên giữa gia đình bà và Ung Chính đế, đọc xong chỉ có thể thốt ra một chữ "mệnh" - mệnh trở thành phượng hoàng.

Càn Long lớn hơn Phú Sát thị một tuổi, cả hai kể từ khi thành thân sống rất hòa hợp, lưỡng tình tương duyệt, yêu thương nhau hết mực. Sau khi Càn Long lên ngôi cũng ngay lập tức sắc phong cho bà làm hoàng hậu. Phú Sát thị xuất thân danh môn, là tiểu thư khuê các, thông tuệ hơn người, khí độ bất phàm, lại dịu dàng hòa nhã, thấu hiểu lòng người, nên rất hiển nhiên, bà trở thành một hoàng hậu đại nhân đức trong lịch sử triều Thanh. Trong khi Càn Long bộn bề chính sự thì chốn hậu cung có sự cai quản tinh tế của bà, bà cẩn trọng sắp xếp và ổn định mọi chuyện trong cung, giúp Càn Long có được một "hậu phương" vững chắc để ngài không cần phải phí sức phân tâm. Còn khi Càn Long phiền lòng vì chuyện triều chính, hoàng hậu Phú Sát thị như biết thuật đọc tâm, bà luôn hiểu được tâm tư của ngài, đôi khi chỉ vài câu chuyện trò, một chén trà trong, một bát canh nóng của hoàng hậu cũng có thể khiến Càn Long thư thái và quên đi sầu não. Cảnh tượng này thật ấm êm, dễ khiến người khác liên tưởng tới với cuộc sống hòa hợp giữa vua Lý Thế Dân và hoàng hậu Trưởng Tôn năm nào. Tuy cách nhau cả mấy trăm năm nhưng đều đượm tình nghĩa chốn cung đình lạnh lẽo.


Càn Long và hoàng hậu Phú Sát thị vừa là quân thần vừa là vợ chồng, đồng thời cũng là tri kỷ. Họ từng cùng thề hẹn dưới hoa trước trăng, đồng thời cũng sát cánh bên nhau dốc lòng vì đất nước. Hoàng hậu Phú Sát thị không giống những người phụ nữ khác chốn hậu cung chỉ biết tranh quyền đoạt lợi và hưởng thụ phú quý vinh hoa, mà bà biết đặt chính bản thân mình vào vị trí của người khác và biết suy nghĩ cho Càn Long, dốc lòng giúp Càn Long chống đỡ "nửa bầu trời". Theo như sử sách ghi lại thì Phú Sát thị tuy thân ở ngôi cao nhưng lại sống rất tiết kiệm, chỉ thích hoa cỏ chim muông chứ không thích đua đòi vàng ngọc.

Ở vị trí là hoàng hậu, Phú Sát thị là một vị hoàng hậu vô cùng may mắn, bà gặp được một minh quân rất yêu thương mình. Nhưng ở vị trí là một người mẹ, bà là một người mẹ bất hạnh. Bà từng vì Càn Long sinh hạ hai hoàng tử song cả hai đều yểu mệnh, để lại trong tâm bà một bóng ma mãi mãi không thể phai nhòa. Phú Sát thị trải qua hai lần tang đau khổ nên cả ngày đều rầu rĩ không vui. Vì muốn giúp bà giải tỏa áp lực nên Càn Long đã đưa bà đi du ngoạn giải sầu. Tháng Giêng năm Càn Long thứ 13 (1748), Càn Long cùng Phú Sát hoàng hậu và chúng phi tần bồi giá Thái hậu đại giá tuần du Đông tuần. Họ cùng nhau đến cúng tế miếu Khổng Tử rồi leo lên đỉnh Thái Sơn, sau đó đến Tế Nam ngắm suối Bác Đột, rồi hồi kinh theo đường kênh đào.

Không ngờ lần quay trở về này lại là lần vĩnh biệt của họ. Lúc đến Đức Châu, hoàng hậu Phú Sát thị mệt lả người không dậy nổi, bệnh tình đến hồi nguy kịch, nhắm mắt xuôi tay ngay trên thuyền, năm ấy, người phụ nữ quốc sắc thiên hương này vừa tròn 37 tuổi. Nỗi đau mất vợ đã thay đổi tính tình của Càn Long, ngài dễ nổi nóng và bực tức hơn, ngài chỉ trích hoàng trưởng tử và hoàng tam tử không thành tâm thương tiếc hoàng hậu rồi tước đoạt vĩnh viễn tư cách Thái tử, sau đó trút giận lên chúng quan, giáng cấp và phạt nặng cả hơn trăm người. Tuy cách giải tỏa tâm lý này khá tiêu cực, song chính điều đó đã đủ chứng tỏ vị trí của hoàng hậu Phú Sát thị trong lòng Càn Long. Càn Long ngày đêm tưởng nhớ hoàng hậu Phú Sát thị, thậm chí lúc đưa di thể của hoàng hậu về đến kinh thành, vì thuyền quá lớn không cách nào vào được thành, Càn Long tức giận bèn lập tức sai người dỡ luôn cả cửa thành. Vì an táng Phú Sát thị mà hoàng đế Càn Long không tiếc tiền bạc của cải, cho vời 20 nghìn thợ thủ công lành nghề, hao phí tận 100 ngàn lượng bạc trắng.


Thông thường thì quá trình phong thụy hiệu rất rườm rà và đều do Lễ bộ chọn sẵn rồi dâng lên hoàng đế lựa chọn, sửa đi sửa lại tới khi nào ưng ý mới thôi. Song thụy hiệu của hoàng hậu Phú Sát thị lại do đích thân hoàng đế Càn Long tự đặt. Theo như ghi chép trong "Thực lục", Càn Long đế đã từng nói rằng ngài cảm thấy hai chữ Hiếu Hiền trong câu "Thánh từ thâm ức Hiếu, Cung khổn tẫn xưng Hiền" quả có thể hình dung được sự thục đức cả đời của hoàng hậu, vì vậy lấy hai chữ ấy đặt thụy hiệu cho bà. Sau khi hoàng hậu qua đời, Càn Long không cho phép bất kỳ phi tần nào đến ở tại cung Trường Xuân nơi Phú Sát hoàng hậu từng ở nữa, mãi đến khi lên làm Thái thượng hoàng, ngài mới cho phép phi tần mới vào đó ở.

Cả cuộc đời huy hoàng của mình, hoàng đế Càn Long từng làm mười mấy nghìn bài thơ, tuy không quá xuất sắc nhưng những bài thơ thương nhớ hoàng hậu Phú Sát thị đều rất chân thành, tha thiết và cảm động lòng người. Năm Càn Long 86 tuổi, bởi không muốn thời gian trị vì của mình dài hơn thời gian trị vì của người ông Khang Hy mà ngài kính quý nên đã nhường ngôi lại cho Gia Khánh đế (song thực ra ngài vẫn tự thân quyết định những sự vụ lớn) và lui về làm Thái thượng hoàng. Năm ấy, ngài đã dẫn Gia Khánh đến tưởng niệm hoàng hậu Phú Sát thị. Trước mộ phần người vợ tri kỷ của mình, ngài đã uống ba chén rượu và lẩm bẩm trong sự đau thương: "Nàng ra đi chỉ để lại một mình trẫm, trẫm sống quá lâu, có nghĩa lý gì đâu chứ?".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: C29: Chương 29


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI BẢY: NGOẠI TRUYỆN


Có thể bạn chưa biết nhưng hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần Phú Sát ngoại trừ sinh ra hai hoàng tử (được chính Càn Long mật lập làm thái tử, chỉ tiếc là quá yểu mệnh) thì bà còn sinh hạ thêm hai cô công chúa nữa, song chỉ có cô công chúa út là còn sống. Phải nói là cô công chúa này rất được Càn Long yêu thương, đúng kiểu ôm trên tay cũng sợ bị tổn thương, nàng chính là công chúa Cố Luân Hòa Kính. Công chúa rất có khí chất của hoàng hậu Phú Sát thị, rất thanh lịch và tao nhã, đặc biệt là có tướng mạo gần giống với mẹ ruột của mình nên luôn được Càn Long xem là ngọc quý trên tay.

Vì các ca ca tỷ tỷ trước của công chúa bạc mệnh nên Càn Long cũng vô cùng lo lắng cô con gái yêu gặp điều bất trắc, mà các bạn cũng biết rồi đấy, thời phong kiến từ hoàng đế đến bách tín đều khá mê tín, để bảo vệ cô công chúa nhỏ của mình, Càn Long đã hạ chiếu xây một tòa bảo trang (kiểu như phủ đệ xa hoa vậy), đồng thời ban tên là "Lục Hòa Kính". Bình thường thì đây đã là sự ban thưởng rất to lớn rồi nhưng có vẻ như Càn Long cảm thấy thế vẫn chưa đủ nên ban tặng thêm cho công chúa 5240 món "kim thạch ngự bảo hộ thân phù" (kiểu như vàng bạc châu báu í), đồng thời tăng gấp đôi thị vệ bảo vệ.

Bởi công chúa Cố Luân Hòa Kính là cốt nhục duy nhất còn lưu lại hoàng hậu Phú Sát thị nên Càn Long luôn thương yêu nàng, thậm chí đến lúc công chúa xuất giá, Càn Long cũng không nỡ xa nàng, thậm chí còn phá tiền lệ của những đời vua trước, khi giữ công chúa ở lại kinh thành ngài đã trả lương bổng lên đến 1000 bạc và xây một tòa phủ rất xa hoa, đồng thời cũng là tòa phủ công chúa tráng lệ nhất của Thanh triều. Phủ gồn 239 gian, hao tốn hơn 29880 lượng bạc trắng. Mà sự sủng ái của Càn Long dành cho công chúa không chỉ dừng ở đó, ngài gả công chúa cho người đàn ông xuất sắc nhất Mông Cổ là Khoa Nhĩ Tẩm Bác Nhĩ Tề Cát Đặc, sau khi kết hôn hai vợ chồng sống rất hòa hợp. Theo như sử sách ghi lại thì hai vợ chồng sinh hạ ít nhất 5 đứa con, Càn Long cũng hết mực yêu thương các cháu, và tự mình đặt tên cho các cháu của mình, nổi tiếng nhất là một cái tên rất dài: "Ngạc Lặc Triết Y Thắc Mộc Nhĩ Ngạch Nhĩ Khắc Ba Bái". Ý nghĩa của cái tên này là "bảo bối", từ đó có thể thấy được Càn Long cũng rất yêu quý ngoại tôn của mình.


Năm Càn Long thứ 40 (1775), trên đường đến Vân Nam, chồng bà qua đời. Năm Càn Long thứ 57 (1792), công chúa cũng qua đời, hưởng thọ 62 tuổi. Di thể được hợp táng cùng chồng tại trấn Đông Ba, gần Bắc Kinh, hiện tại nơi đó được gọi là lăng công chúa, thuộc Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm.

-----------------------------------

Công chúa Chiêu Hoa tức công chúa Cố Luân Hòa Tĩnh - con của Lệnh Phi trong Diên Hi Công Lược.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: C30: Chương 30


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết
#Diên_Hi_Công_Lược
#Team_Nhàn_phi #Team_Hoàng_hậu #Team_Phó_Hằng

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI TÁM:
KẾ HOÀNG HẬU Ô LẠP NA LẠP THỊ - THƯƠNG THAY MỘT KIẾP HỒNG NHAN

(Hơi bị dài đó các bạn, nếu bạn nào không kiên nhẫn thì lướt xuống đọc đoạn về cái chết của bà thôi, nhưng mình khuyên là các bạn nên đọc hết bởi những thông tin ở đây có rất nhiều cái trên Wiki không có ghi, mình lục rất nhiều các trang thông tin từ bên Trung rồi chọn lọc để dịch lại đó)

Trong bộ phim Hoàn Châu Cách Cách có một nhân vật phản diện kinh điển, bà ác độc, kiêu ngạo, vua Càn Long rất ghét bà, các cách cách và a ca cũng xa lánh bà, thế nên mới sa vào bước đường xuất gia. Trong một bộ phim khác cũng đang hot dạo gần đây - Diên Hi Công Lược, một lần nữa, hình tượng của người phụ nữ này lại được tái hiện với một góc nhìn khác và một cách diễn đạt khác. Bà chính là hoàng hậu thứ hai của vua Càn Long - Kế hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị.


Song trên thực tế, Ô Lạp Na Lạp thị không ác độc như trong phim truyền hình, thậm chí có thể nói là một người phụ nữ dịu dàng hiền lương. Sử nhà Thanh ghi chép lại rằng, hoàng hậu "tính sinh uyển thuận" (tính tình dịu dàng nhu mì), "phú tính an hòa" (bản tính hòa nhã), "trì cung thục thận" (khiêm tốn cẩn trọng), nhưng kết cục của bà thậm chí còn thảm hơn cả trên phim, nói trắng ra là "chết không có chỗ chôn".

Ô Lạp Na Lạp thị sinh vào năm Khang Hy thứ năm mươi bảy (1718), thuộc Mãn Châu Tương Lam Kỳ, gia thế lâu đời và hiển hách, bà nhỏ hơn Càn Long 7 tuổi. Sẵn nói thì chúng ta lược sơ qua một chút về dòng họ của bà, thực ra họ đúng của bà phải là Huy Phát Na Lạp thị, tài liệu lịch sử Thanh Sử Cảo đã ghi nhầm thông tin này. Na Lạp thị là một dòng họ đã tồn tại từ rất lâu trên đất Trung Hoa, thuộc tộc Nữ Chân, gồm bốn chi lớn là Diệp Hách, Ô Lạp, Cáp Đạt và Huy Phát. Vốn ở Hắc Long Giang cũng có một chi nữa là Ích Khắc Đắc Lý thị, song sau này đã đổi lại là Na Lạp thị, rồi hậu duệ của chi này lại di cư đến Huy Phát, tự thành lập quốc gia tên Huy Phát nên mới dần có tên đầy đủ là Huy Phát Na Lạp thị. Thê nên đáng lý ra Kế hậu phải được gọi là Huy Phát Na Lạp thị mới đúng, thông tin cụ thể các bạn có thể tìm đọc trên Wikipedia.

Cuộc đời của Kế hoàng hậu có thể tóm gọn như sau:

Năm Khang Hy thứ năm mươi bảy (1718), Na Lạp thị được sinh ra.

Năm Ung Chính thứ mười hai (1734), trở thành trắc phúc tấn của Bảo Thân vương Hoằng Lịch, lúc này Càn Long đã có tổng cộng ba vị phúc tấn gồm đích phúc tấn Phú Sát thị và hai vị trắc phúc tấn lần lượt là Cao Giai thị (Tuệ Hiền Hoàng quý phi), Phú Sát thị (Triết Mẫn Hoàng quý phi, bà mất trước khi Càn Long đăng cơ).

Năm Càn Long thứ hai (1737), sắc phong làm Nhàn phi.


Năm Càn Long thứ mười (1745), tấn phong Nhàn Qúy phi.

Năm Càn Long thứ mười ba (1748), tấn phong Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi (tức Hoàng quý phi quản lý chuyện hậu cung)

Năm Càn Long thứ mười lăm (1750), sắc lập làm hoàng hậu.

Năm Càn Long thứ mười bảy (1752), sinh hạ hoàng tử thứ mười hai - Vĩnh Cơ.

Năm Càn Long thứ mười tám (1753), sinh hạ công chúa thứ năm nhưng mất lúc mới lên 2.

Năm Càn Long thứ hai mươi (1756), sinh hạ hoàng tử thứ mười ba - Vĩnh Cảnh, song cũng chết yểu vào năm năm.


Năm Càn Long thứ ba mươi mốt (1766), tạ thế, an táng theo nghi thức của Hoàng quý phi.

Cuộc đời của người phụ nữ lẫy lừng một thời, khi tóm gọn lại, cũng chỉ có thế mà thôi...

Sau khi Càn Long đăng cơ đã ngay lập tức sắc phong đích phúc tấn lên ngôi Hoàng hậu không chút chần chừ, rồi mới phong Qúy phi cho Cao Giai thị và phong Nhàn phi cho Ô Lạp Na Lạp thị, còn trắc phúc tấn Phú Sát thị do mất sớm nên không được tấn phong. Trong đó, Càn Long kính trọng nhất là Hoàng hậu Phú Sát thị, sủng ái nhất là Qúy phi Cao Giai thị, còn Ô Lạp Na Lạp thị thì rất mờ nhạt, hầu như không được sủng ái, thậm chí dù nhập cung sau nhưng địa vị của Thuần phi, Gia tần trong lòng Càn Long còn cao hơn cả Ô Lạp Na Lạp thị. Từ việc Thuần phi liên tiếp sinh hạ Hoàng lục tử và Hoàng tam tử, còn Gia Tần liên tiếp sinh hạ Hoàng tứ tử và Hoàng bát tử có thể thấy được điều này. Vì vậy mới nói, sức nặng của Ô Lạp Na Lạp thị trong lòng Càn Long rất thấp, còn tình cảm có đậm sâu hay không thì càng không cần phải nhắc đến.

Sống trong hoàng cung rộng lớn, không ân sủng, không có con cái, những tháng ngày ấy đau khổ thế nào ắt các bạn cũng có thể mường tượng được. Điều duy nhất có thể an ủi được người phụ nữ này là bà rất hợp ý Thái hậu, hoặc có lẽ nên nói rằng nhờ hảo cảm của Thái hậu với bà nên bà mới được phong hào Nhàn phi. Năm Càn Long thứ mười, Nhàn phi Ô Lạp Na Lạp thị và Thuần phi Tô thị cùng được tấn thăng lên hào quý phi.

Năm Càn Long thứ mười bốn, hoàng hậu Phú Sát thị về cõi tiên. Tháng Bảy cùng năm, bởi Ô Lạp Na Lạp thị tính tình dịu dàng nên rất được Thái hậu yêu thích, Càn Long xuôi theo ý chỉ của Thái hậu, tấn phong bà làm Hoàng quý phi, tạm thay thế Hoàng hậu quản lý hậu cung. Nhưng đối với lần tấn phong này, Càn Long có vẻ khá không tình nguyện, dường như muốn tuyên cáo thiên hạ sự bất mãn này của mình nên sau khi sắc phong không lâu đã viết một câu thơ: "Lục cung tòng thử thiêm tân khánh, phiên nhạ vô đoan ý võng nhiên" (từ nay về sau lục cung thêm vui mới, bỗng ngẩn ngơ). Song bình tĩnh mà suy xét thì Càn Long không hẳn có ác cảm với Hoàng hậu Na Lạp thị, mà suy cho cùng ngài không muốn bất kỳ vị phi tần nào thay thế vị trí của Hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần Phú Sát, càng không cần phải bàn đến việc thay thế vị trí của Hoàng hậu trong lòng ngài.

Năm Càn Long thứ mười lăm, dưới sự đốc thúc của Thái hậu, Càn Long sắc phong Ô Lạp Na Lạp thị làm hoàng hậu. Năm ấy, bà đã 33 tuổi, xuân sắc đã phai. Khi tấn phong, Càn Long cũng không nhìn bà lâu, vẫn thờ ơ như trước. Có lẽ ông trời cũng cảm thấy không đành lòng trước sự bi ai của bà, nên vào năm Càn Long thứ mười sáu (đây cũng là năm giỗ ba năm ngày mất của Hoàng hậu Phú Sát thị), thương nhớ người vợ đã khuất, ngài bỗng cảm thấy áy náy với Ô Lạp Na Lạp thị. Lúc này đây Càn Long mới chú ý đến sự tồn tại của Kế Hoàng hậu, vì thế, một năm sau, Hoàng tử thứ mười hai cất tiếng khóc chào đời, tiếp sau đó Ô Lạp Na Lạp thị lại sinh hạ Hoàng ngũ nữ (công chúa thứ năm) và hoàng tử thứ mười ba. Từ những điều này có thể thấy, quan hệ giữa Càn Long và Kế Hoàng hậu đã dần trở nên hòa hoãn. Song chút tình thương hại này chỉ kéo dài trong vòng sáu năm, lúc bà gần 40 tuổi, sự chú ý của hoàng thượng đã chuyển dời đến các phi tử trẻ tuổi mới nhập cung. Kế Hoàng hậu lại tiếp tục chuỗi ngày cô đơn tĩnh mịch.

Tháng Giêng năm Càn Long thứ ba mươi lăm, Kế Hoàng hậu cùng Càn Long và Thái hậu Nam tuần. Lần Nam tuần này là bước ngoặc trong cuộc đời bà, lúc vừa bắt đầu cuộc tuần du, hết thảy đều rất bình thường, trên đường đi hoàng thượng còn đích thân chúc mừng sinh nhật lần thứ bốn tám của Hoàng hậu. Ngày mười tám tháng Hai, đoàn đến Hàng Châu, lúc dùng bữa sáng, hoàng thượng còn ban cho hoàng hậu rất nhiều món ngon, nhưng đến bữa tối thì hoàng hậu không xuất hiện nữa, cùng dùng bữa với hoàng thượng chỉ có Lệnh Qúy phi Ngụy Giai thị và các chúng phi tần khác. Về sau mới có tin, ngày hôm đó, Càn Long đã phái ngạch phò Phúc Long (triều Thanh không gọi con rể là phò mã mà là ngạch phò) đưa Hoàng hậu về kinh theo đường thủy.


Rốt cuộc thì đêm đó Ô Lạp Na Lạp thị đã làm gì? Theo như ghi chép trong mục Hậu Phi thuộc phần Liệt Truyện trong cuốn Thanh Sử Cảo, trên đường đi tuần, Hoàng hậu đã xảy ra cãi vã với Hoàng thượng và đã cắt tóc trong cơn tức giận, Càn Long giận dữ bèn ra lệnh hồi cung. Trong phong tục dân tộc Mãn, người Mãn rất kiêng kỵ việc phụ nữ cắt tóc, Hoàng hậu chỉ có thể cắt ngắn khi Hoàng thái hậu hoặc Hoàng đế băng hà. Nhưng lúc đó cả Hoàng thái hậu và Hoàng thượng đều rất mạnh khỏe nhưng Hoàng hậu lại tự ý cắt tóc, thế chẳng khác nào đang "rủa xả" họ chết sớm. Hai tháng sau, sau khi hồi triều, tuy không công khai phế hậu nhưng vẫn biếm Hoàng hậu vào lãnh cung và hạ lệnh thu hồi bốn phần sách bảo trong tay bà (bốn phần đó gồm một phần của chức vị Hoàng hậu, một phần của chức vị Hoàng quý phi, một phần của chức vị Qúy phi và một phần của chức vị Nhàn phi), đồng thời cắt giảm lượng tì nữ thái giám theo hầu, đến tháng Bảy, hoàng hậu chỉ còn hai cung nữ ở bên hầu hạ, theo như chế độ cung đình nhà Thanh, chỉ có Đáp ứng (phân vị thấp nhất trong chúng phi tần) mới được phân hai cung nữ. Nửa năm sau, Kế Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị ôm hận mà chết, hưởng dương 49 tuổi.

Khi nghe tin Hoàng hậu qua đời, Càn Long thờ ơ bảo rằng vì bà phúc mỏng mệnh bạc nên không đồng ý cử hành lễ tang theo cấp bậc Hoàng hậu, thế nên ban lệnh an táng theo nghi thức của Hoàng quý phi, song trên thực tế nghi thức còn thấp hơn cả bậc Hoàng quý phi. Không những hủy bỏ tang nghi mà còn không lập bài vị và không truy điệu hay cúng tế gì cả. Đáng lý ra vào ngày đại tang phải có các đại thần, công chúa, mệnh phụ,... có mặt để khóc than và hành lễ, nhưng phần này lại bị hủy bỏ. Đáng thương nhất là, đáng lý ra linh cữu của Kế Hoàng hậu có thể táng ở Dụ Lăng của Càn Long nhưng lại không được Càn Long chấp thuận, thậm chí ngài còn không cho xây lăng tẩm mà lệnh táng cùng địa cung với Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô Giai thị (bà là một phi tần được Càn Long sủng ái và là vị Hoàng quý phi duy nhất trong lịch sử nhà Thanh xuất thân là người Hán từng được nhận lễ sắc phong khi còn sống, lúc sắc phong tước vị Hoàng quý phi, bà đang lâm trọng bệnh sắp qua đời). Phàm táng trong tẩm nội của phi tần phải táng theo phân cấp địa vị rõ ràng, thế nhưng Kế Hoàng hậu lại chỉ được táng trong một góc địa cung của Thuần Huệ Hoàng quý phi, đường đường là hoàng hậu một nước giờ đây chẳng khác nào thuộc hạ của một vị Hoàng quý phi. Theo như ghi chép trong Đại Thanh Hội Điển, quan tài của Hoàng Qúy phi được khắc gỗ, được sơn đàng hoàng và có 96 người khiêng. Còn theo như ghi chép của phủ Nội Vụ thì quan tài của Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị được chế tác bằng gỗ sam, 64 người khiêng, chỉ dừng ở cấp Tần. Mà sự thực là sau khi khai quật cũng hoàn toàn giống y như vậy. Mặc khác, theo quy chế nhà Thanh, phàm là Hoàng quý phi, Quý phi, Phi, sau khi chết đều được đặt thần bài (tức bài vị), chỉ có Tần, Qúy nhân, Thường tại, Đáp ứng là không lập thần bài, lúc tế tự chỉ cần mang cống phẩm đến đài ngắm trăng trước Bảo Đỉnh là được. Nhưng Kế Hoàng hậu lại không có thần bài, sau khi qua đời cũng không được truy điệu, sau khi nhập táng cũng không được nhắc tới dù chỉ một chữ. Theo như ghi chép của phủ Nội Vụ, toàn bộ tang sự của Hoàng hậu chỉ vỏn vẹn có 207 bạc mà thôi, còn không bằng một quan viên cấp thấp trong triều đình.

Tuy cách nói này có hơi độc ác nhưng quả thật là hoàng hậu chết không có chỗ chôn. Thân là Hoàng hậu nhưng đãi ngộ lại ít đến mức đáng thương. Song rốt cuộc chuyện gì có thể khiến một vị hoàng hậu dịu hiền hiểu lễ nghĩa như Ô Lạp Na Lạp thị phạm phải tối kỵ để rồi ra nông nỗi này? Nguyên nhân không được ghi chép lại nên chúng ta không cách nào biết được, mọi thông tin được ghi lại chỉ là lời nói từ một phía, thật giả ra sao vẫn còn là lớp sương mờ. Nhưng bà đã ở trong cung hơn ba mươi năm trời đằng đẵng, cuối cùng lại sa vào nghịch cảnh như vậy, cá nhân tôi cảm thấy không đáng thay bà.

Có một phiên bản khá thịnh hành trong dân gian giải thích cho sự việc này. Tương truyền rằng Càn Long là một vị vua phong lưu, ngài luôn bắt chước theo tổ phụ Khang Hy đi du tuần miền Nam, song mục đích chính chỉ là vì tham luyến mỹ cảnh Giang Nam, mượn cơ hội tìm hoa vấn liễu. Nghe nói trong lúc Nam tuần, ngài si mê một cô đào kép ở Thanh Giang Phổ, lúc nào cũng cho hầu bên cạnh, sau này còn đưa về Dương Châu, ban cho rất nhiều ngọc ngà châu báu. Còn có một cô đào khác tên là Tuyết Như, cũng rất xinh đẹp, lúc Nam tuần, Càn Long rất xem trọng nàng, cho vào ngủ cùng chỗ, rất được quan tâm. Tuyết Như còn thêu một con rồng nhỏ trên vai áo, đồng thời nói với người ngoài rằng Càn Long đã từng vuốt ve qua vai nàng, bởi thế nên mới đặc biệt thêu một con rồng nhỏ. Sau khi hoàng hậu theo Càn Long đến Hàng Châu, Càn Long từng thay sang thường phục để du ngoạn lúc tối trời. Hoàng hậu khuyên can, thậm chí khóc lóc, Càn Long không nghe và nói thần trí Hoàng hậu không bình thường nên phái người đuổi bà về kinh.

Ngoài ra còn có một cách giải thích khác được chép trong Văn Tự Ngục Án Cung Từ của Nghiêm Tăng: "Năm hoàng thượng Nam tuần, trên đường du ngoạn Giang Nam, đã đưa Hoàng hậu về kinh trước. Khi đó ta ở quê nhà Sơn Tây cũng nghe được chuyện này. Mọi người đều nói hoàng thượng đã lập một phi tử ở Giang Nam, Hoàng hậu không đồng ý nên mới kích động cắt tóc đi". Có sử gia cho rằng, vì hoàng đế Càn Long và Hoàng thái hậu muốn tấn phong Lệnh Qúy phi làm Hoàng quý phi nên Hoàng hậu mới phản đối kịch liệt như vậy.

Nhắc tới đây cũng phải giải thích một chút. Hậu cung Thanh triều chỉ có một cấp Hoàng quý phi mà thôi và chỉ lập trong các tình huống sau: sắc lập trước khi tấn phong hậu, phi tần của tiên đế được tấn phong, xung hỉ và truy phong sau khi qua đời. Trong lịch sử triều Thanh, đồng tồn tại cả Hoàng hậu và Hoàng quý phi của đương đế chỉ có hai lần: trường hợp thứ nhất là dưới thời vua Thuận Trị, Đổng Ngạc phi được sủng ái nên được sắc phong làm Hoàng Qúy phi, trực tiếp uy hiếp đến địa vị của Hoàng hậu Hiếu Huệ Chương. Trường hợp thứ hai là dưới thời vua Đồng Trị, Phú Sát thị được thái hậu Từ Hi ưu ái, nhưng thái hậu Từ An (đồng nhiếp chính với thái hậu Từ Hi) lại thích A Lỗ Đặc thị hơn nên A Lỗ Đặc thị được may mắn lên ngôi hoàng hậu, còn Phú Sát thị được phong làm Tuệ phi, tuy chỉ thuộc hàng tam phẩm, nhưng Tuệ phi lại được hưởng đặc ân theo tiêu chuẩn của một quý phi thuộc hàng nhị phẩm. Vì thái hậu Từ Hi không thích hoàng hậu Hiếu Triết Nghị A Lỗ Đặc thị nên thường xuyên gây khó dễ, còn đối với vị Hoàng quý phi Phú Sát thị  này (đã được tấn phong sau khi lên làm Tuệ phi mới hai năm) thì lại vô cùng ưu ái. Có thể thấy được, nếu trong cung có hoàng hậu, thường thì hoàng đế sẽ không sắc lập phi tần nào lên làm Hoàng quý phi để tránh việc vô cớ tạo nên uy hiếp cho hoàng hậu. Nhưng cách giải thích này cũng chỉ là suy đoán, vẫn còn thiếu rất nhiều bằng chứng xác thực để đi đến kết luận.

----------------------------------
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: C31: Chương 31


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ HAI MƯƠI CHÍN: PHÚ SÁT PHÓ HẰNG

Phú Sát Phó Hằng là một danh nhân nổi tiếng thời Càn Long, ngài được sinh ra vào năm Khang Hy thứ 59 (1720), xuất thân thuộc Mãn Châu Tương Hoàng Kỳ, nhiều lần dẫn quân xuất chinh, lập vô số công trạng, được Càn Long thăng lên tước vị Đại Học Sĩ và Nhất Đẳng Trung Dũng Công, sau khi qua đời được phong Quận Vương và thờ ở Thái Miếu. Đồng thời, ngài là em trai ruột của hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần Phú Sát. Phó Hằng là con trai út của Lý Vinh Bảo, các anh trai gồm Quảng Thành, Phó Thanh, Phó Ninh, Phó Khoan, Phó Ngọc, Phó Khiêm; các chị gái gồm hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần Phú Sát và vợ cả của Phó Đô Thống Tát Lạt Thiện.

Cuộc đời của Phú Sát Phó Hằng là một vầng hào quang sáng chói với những điểm chính sau:


Thứ nhất và cũng là trực tiếp nhất, chị lớn của Phó Hằng đảm nhận vị trí Hoàng hậu của Đại Thanh, danh vọng cực cao, lại thuộc phía ngoại thích nên thân phận Phó Hằng cao quý hơn các vương tôn công tử cùng lứa rất nhiều.

Thứ nhì, Phú Sát là dòng họ thế gia, mỗi đời vua Thanh đều có công thần, hơn nữa đa phần đều nắm giữ vị trí quan trọng, vô cùng hiển hách, có thể nói, ngay cả thân phận Hoàng hậu của Phú Sát thị cũng một phần là do gia tộc mang đến.

Cuối cùng, bản thân Phó Hằng giỏi chinh chiến, là nhân tài mà triều đình bồi dưỡng trọng điểm, tuổi còn trẻ nhưng đã làm đến chức Nhất Đẳng Công, được gia phong làm Đại Học Sĩ thuộc Bảo Hòa điện.

Điểm quan trọng nhất cần phải đề cập đó là Phú Sát Phó Hằng sớm qua đời, ngài tạ thế lúc 50 tuổi. Thử nghĩ, một nhân vật xuất sắc như vậy, song thời gian lại mãi mãi dừng ở lúc rực sáng nhất, thế nhân không chứng kiến được sự già đi của ngài, cũng chẳng biết được nếu thọ mệnh của ngài dài hơn thì liệu ngài có như Hòa Thân, từ đỉnh cao danh vọng bị đánh ngã xuống đáy vực sâu vạn trượng hay chăng? Hầu như Phú Sát Phó Hằng chẳng có một vết nhơ nào trong cuộc đời cả, tất cả đều dừng lại ở khoảnh khắc huy hoàng nhất của đời người. Vì thế, cuộc đời của Phú Sát Phó Hằng khiến rất nhiều người tò mò, thậm chí cả thê tử của ngài cũng vậy, bởi ai cũng muốn tìm hiểu xem, người phụ nữ đứng sau vị tướng quân tuổi trẻ tài cao ấy là một cô gái như thế nào.

Thời cổ đại có truyền thống ghi gia phả, hoàng thất nhà Thanh cũng không ngoại lệ. Thân là nữ quyến; phúc tấn, trắc phúc tấn hay thậm chí chỉ là thiếp thất (có sinh con) của bất kỳ một vị hoàng thân quốc thích nào cũng đều có tư cách ghi vào gia phả. Thế nhưng lúc các sử gia tra duyệt gia phả của Phú Sát Phó Hằng thì không hề đọc được bất kỳ ghi chép xác thực nào về chính thê của ngài, chỉ biết bà là Qua Nhĩ Giai thị (có khá nhiều phim truyền hình cho rằng bà là Hỉ Tháp Lạp thị, từ điều này có thể góp phần chứng minh, sự tồn tại của thê tử Phó Hằng khá mơ hồ trong lịch sử). Thế nên, không còn cách nào khác, các sử gia đành phải chuyển sang nghiên cứu về các con của bà.


Đầu tiên là con trai trưởng Phúc Linh An, song lại bạc mệnh sớm qua đời khi còn tráng niên nên chúng ta tạm không đề cập tới.

Tiếp theo là con thứ Phúc Long An. Bởi có người cha là Phú Sát Phó Hằng, còn có một người cô là cựu hoàng hậu đương triều, nên con đường thăng quan tiến chức của Phúc Long An rất suông sẻ, không cần kinh qua bất kỳ sự tôi luyện hay rèn giũa nào. Sách sử bắt đầu ghi chép về cuộc đời ông khi ông ở tuổi 22, tuy chỉ mới 22 tuổi nhưng ông đã làm đến chức Binh Bộ Thượng Thư rồi Công Bộ Thượng Thư và đã bắt tay vào xử lý việc quân cơ. So sánh với đại thần nổi tiếng đời thanh là Trương Đình Ngọc, lúc Trương Đình Ngọc 26 tuổi vẫn còn đang tham gia kỳ thi hội. Chỉ có điều, nếu bạn tìm hiểu thêm chút nữa sẽ nhận ra một điều rằng tại sao Phúc Long An lại được trọng dụng tới thế, đó là do bởi ông là con rể của Càn Long. Năm Càn Long thứ hai mươi lăm, Hoàng tứ nữ - tức công chúa Hòa Thạc Hòa Gia - được gả cho Phúc Long An, mẹ ruột của công chúa là vị Thuần phi Tô thị rất được sủng ái, Tô thị cũng là một người phụ nữ có nhiều chuyện cần bàn, song tạm thời không đề cập ở bài này.

Sau khi cưới công chúa, địa vị của Phúc Long An phải nói là một bước lên mây và thay Phó Hằng đảm nhận trọng trách nối liền giữa dòng họ Phú Sát thị và hoàng thất. Càn Long cũng rất tán thưởng ông, từng nhiều lần viết thư mong Phúc Long An ở lại kinh thành. Thế nhưng lúc tuổi già, Phúc Long An bị liên lụy bởi vụ án của Hòa Thân, tuy thế với danh thế của dòng tộc và trước nay gây dựng, Phúc Long An vẫn không hề hấn gì.

Thứ ba là hai cô con gái. Trong sách sử, nhất là sử đời Thanh, chúng ta rất hiếm thấy tên của bất kỳ một cô gái nào, chỉ đề cập đến họ mà thôi, hai con gái của Phó Hằng cũng y vậy, chỉ vỏn vẹn đề cập là Phú Sát thị. Cô con gái đầu tiên của Phó Hằng được gả cho một vị hoàng tử rất giỏi thư pháp, đó là Hoàng tử thứ mười một của Càn Long - Thành thân vương Vĩnh Tinh. Thành thân vương Vĩnh Tinh, Bàng Cương, Lưu Dung và Thiết Bảo là tứ đại thư pháp nổi danh thời bấy giờ. Gia tộc Phú Sát thị không phải là một gia tộc nhỏ mà là một gia tộc lớn, vinh hiển đời đời, thế nhưng sau khi kết hôn, cuộc sống của Phú Sát thị không được sung sướng. Càn Long sống rất thọ, thời gian tại vị cũng dài, cũng không thiếu con cái nối dõi, nhưng đa phần đều chết trước Càn Long, bởi thế nên Càn Long thường xuyên khổ não trong việc chọn người nối nghiệp, Thập nhất a ca vốn cũng là một trong những hoàng tử được nằm trong danh sách đề cử, thế nhưng lại là người bị Càn Long loại bỏ đầu tiên, nguyên nhân quả thật không biết nên khóc hay nên cười, chỉ vì Càn Long ghét cái tính ki bo của Thập nhất a ca, nếu Thập nhất a ca mà lên làm hoàng đế, phỏng chừng ngay cả tiền cứu trợ thiên tai cũng không dám chi ra. Phải công nhận một điều rằng, Thành thân vương là một người rất keo kiệt, rất thắt lưng buộc bụng và không quan tâm đến cảm nhận của những người chung quanh. Vào ngày đại hôn, Phó Hằng cho con gái rất nhiều của hồi môn, song sau khi về đến nhà chồng thì ngay lập tức bị sung vào "quỹ phủ", ngày lễ ngày tết gì Vĩnh Tinh cũng không may áo mới và mua trang sức mới cho vợ, cuộc sống của bà còn chẳng sung sướng bằng hồi còn ở phủ Đại Học Sĩ. Ta lại liên tưởng một chút đến cuộc sống xa xỉ của Càn Long và đống của nả của Hòa Thân, quả là người ăn không hết, kẻ lần không ra.


Cô con gái thứ hai được gả cho Duệ Thân vương Thuần Dĩnh (không phải con của Càn Long, chỉ là người trong hoàng tộc), song đến năm Gia Khánh thứ năm (1800) Ái Tân Giác La Thuần Dĩnh qua đời, hưởng dương 40 tuổi, được ban thụy hiệu là Cung, trưởng tử Ái Tân Giác La Bảo Ân kế thừa tước vị Duệ Thân vương.

Một nhân vật không thể không nhắc đến, chính là Phúc Khang An, ông cũng là sủng thần của hoàng thượng không kém Hòa Thân, chưa kể Phúc Khang An và Hòa Thân luôn đối đầu nhau, là người dám đứng lên công khai đối địch với Hòa Thân. Ông cũng chính là nhân vật Phúc Nhĩ Khang trong Hoàn Châu Cách Cách. Con đường thăng quan tiến chức của Phúc Khang An thuận lợi gấp ngàn lần người anh thứ Phúc Long An của mình. Cũng bởi thế nên mới dấy lên tin đồn rằng Phúc Khang An là con riêng của Càn Long và vợ của Phú Sát Phó Hằng, cả chuyện Càn Long cưỡng dâm thê tử của Phó Hằng khiến Hoàng hậu ôm hận mà chết, đây cũng chỉ là lời đồn mà thôi, và là một cách lý giải của dân gian trước cái chết bất chợt của Hoàng hậu, nói thẳng ra chỉ là sự phỏng đoán, giống như những phỏng đoán về sự thất sủng của Kế hoàng hậu vậy, mình có tra thông tin về cuốn Thanh Đại Ngoại Sử mà Wiki có nhắc đến nhưng tìm không ra, chỉ tìm thấy một cuốn tên là Mãn Thanh Ngoại Sử. Đoán chừng do bởi Phúc Khang An được Hoàng thượng quá mức thiên vị nên mới dấy lên tin đồn này để giải thích cho sự thuận buồm xuôi gió ấy cũng nên. Song thực hư về lịch sử vẫn là lớp sương mờ, hậu nhân chúng ta không thể nào chạm tới được quá khứ mà chỉ có thể gián tiếp tiếp xúc qua giấy vở mà thôi, những gì mình viết trên đây cũng có cả nhận định và đánh giá của riêng mình, mỗi người có một quan điểm riêng về lịch sử, vẫn câu nói cũ: đúng sai ấm lạnh chỉ có người trong cuộc mới hiểu.

Phó Hằng còn một người con trai nữa là Phúc Trường An. Vào thời Càn Long, ông giữ chức Hộ Bộ Thượng Thư, là đại thần chuyên trách việc quân cơ và được phong thăng tước Nhất Đẳng Hầu nhờ góp công bình định Đài Loan. Phúc Trường An cũng như anh trai Phúc Khang An của mình, đều được Càn Long mang vào cung dưỡng dục, sau khi trưởng thành thì liên tiếp được Càn Long thăng chức. Song đến năm Gia Khánh thứ tư, Càn Long qua đời, Phúc Trường An bị khép tội đồng đảng với Hòa Thân.

Từ việc cưới được công chúa hoàng gia và cả hai con gái đều bước chân vào làm dâu hoàng thất, chỉ từ ba cuộc hôn nhân này cũng đủ thấy được sự quyền thế của gia tộc Phú Sát thị. Bên cạnh Càn Long có rất nhiều tài tử giai nhân, đồng thời cũng lắm sủng thần, nhưng dòng họ Phú Sát có thể được như thế quả cũng là phúc trạch, vả lại dòng họ Phú Sát có rất nhiều người tài nên được hoàng đế ưu ái cũng không có gì lạ. Lúc tuổi già, Càn Long đã đánh giá gia tộc Phú Sát thị là: thời đại sinh ra công thần, cùng vui buồn với vận mệnh quốc gia.

Dạo gần đây có một bộ phim Thanh đấu rất hot tên là Diên Hi Công Lược, nhân vật Phú Sát Phó Hằng là một vai rất quan trọng, đồng thời cũng là người giúp đỡ rất nhiều trong quá trình trưởng thành của Lệnh phi Ngụy thị, bởi những tình tiết đáng yêu nên khán giả xem đài cũng rất mong cả hai có thể thành một đôi. Thế nhưng sự thực lịch sử khó thể cải lại, dù duyên phận của cả hai trong phim có lớn thế nào thì cuối cùng cũng phải quay về với sự thực lịch sử, đường chia đôi ngả.


Trong Diên Hi Công Lược, người nên duyên với Phó Hằng là đại cung nữ Nhĩ Tình bên cạnh Hoàng hậu, cô gái này cũng là một người có tâm cơ khá sâu. Song dù sao đây cũng chỉ là phim ảnh, mọi tình tiết đều đã được nghệ thuật hóa, kết hợp với sự mơ hồ trong lịch sử về lai lịch chính thê của Phó Hằng, nhân vật Nhĩ Tình dù có nên duyên với Phó Hằng trong phim thì tất cả cũng chỉ là hư cấu và là sự suy đoán từ phía biên kịch, còn trong sử sách thì "Phú Sát Phó Hằng cưới ai" vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ.

Sẵn tiện thì mình đề cập luôn một chút là những gì ghi chép về chính thê của Phó Hằng rất ít, là Qua Nhĩ Giai thị hay Hỉ Tháp Lạp thị thì vẫn có những sơ hở nhất định, chúng ta chỉ có thể hình dung ra đại thể hình tượng của bà mà thôi. Tuy gia tộc của Phó Hằng rất lớn nhưng ngài không phải hoàng tử, gia phả của nhà Phó Hằng cũng không giống với hoàng thất thuộc kiểu ghi chép chính quy, rất có khả năng đây là nguyên nhân cho sự thiếu sót này.

Hình vẽ của Phó Hằng thời đó

Phó hằng bây giờ :))

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: C32: Chương 32


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết
#Diên_Hi_Công_Lược

ĐÊM THỨ BA MƯƠI: LỆNH Ý HOÀNG QUÝ PHI NGỤY GIAI THỊ - HOA TRONG GƯƠNG, TRĂNG DƯỚI NƯỚC.


Lệnh phi Ngụy Giai thị là Hoàng quý phi của hoàng đế Càn Long và là mẹ ruột của hoàng đế Gia Khánh - tức Ái Tân Giác La Ngung Diễm, sau khi qua đời được truy phong làm hoàng hậu Hiếu Nghi Thuần Ngụy Giai thị. Bà là phi tần rất được Càn Long sủng ái, đồng thời cũng là vị phi tử sinh hạ nhiều hoàng tử và hoàng nữ nhất cho Càn Long, song có bao giờ bạn thắc mắc rằng, nếu Càn Long yêu thương nhất là Ngụy Giai thị, bà lại sinh ra Thái tử, vậy tại sao lúc Càn Long còn sống không phong cho bà làm Hoàng hậu mà lại dừng ở mức Hoàng quý phi, dù rằng Hoàng quý phi chỉ dưới Hoàng hậu một bậc?

Ngụy thị xuất thân từ tầng lớp bao y cấp thấp. Chúng ta khái quát một chút về hai chữ "bao y" này, thực ra vào thời Thanh, có một tầng lớp chuyên hầu hạ hoàng thất do phủ Nội Vụ trực tiếp quản lý, nhà họ Ngụy của bà thuộc tầng lớp bao y Chính Hoàng Kỳ. Vốn bà chỉ được gọi là Ngụy thị song do bởi sau khi lên ngôi, Gia Khánh xót mẹ nên đã đưa dòng họ bà vào Mãn Châu Tương Hoàng Kỳ, do thế nên Ngụy thị mới được gọi là Ngụy Giai thị. Năm Ung Chính thứ năm (1727), Ung Chính đích thân chỉ hôn cho Càn Long và Phú Sát thị, đây cũng là năm Ngụy Giai thị ra đời. Năm Càn Long thứ mười (1745), Càn Long sắc phong Ngụy Giai thị làm Ngụy quý nhân và cùng năm đó tấn phong lên làm Lệnh tần. Năm Càn Long thứ mười ba (1748) thì từ Lệnh tần được tấn phong thành Lệnh phi.

Bà sinh hạ bốn trai hai gái, năm Càn Long thứ hai mươi mốt, bà sinh hạ hoàng nữ thứ bảy tức công chúa Cố Luân Hòa Tĩnh, năm thứ hai mươi hai thì sinh hạ hoàng tử thứ mười bốn Vĩnh Lộ, năm thứ hai mươi ba thì sinh hạ hoàng nữ thứ chín tức công chúa Hòa Thạc Hòa Khác, năm thứ hai mươi lăm thì sinh hạ hoàng tử thứ mười lăm Vĩnh Diễm tức hoàng đế Gia Khánh sau này, năm thứ hai mươi bảy sinh hạ hoàng tử thứ mười sáu và năm ba mươi mốt thì sinh hạ hoàng tử thứ mười bảy Vĩnh Lân. Thế là trong vòng mười năm, bà sinh liên tiếp sáu người con. Có rất nhiều người lấy điều này ra để chứng minh rằng Càn Long yêu nhất là bà, thậm chí là tri kỷ. Song thực ra, chữ tình đối với Càn Long rất hời hợt chứ đừng nói đến "chân ái", thiết nghĩ chỉ dùng mỗi "sủng ái" thôi sẽ miễn cưỡng hợp hơn. Còn tại sao mình lại dùng hai chữ "miễn cưỡng" thì các bạn đọc tiếp sẽ mường tượng được đại khái, và tất nhiên, đây là quan điểm của mình dựa theo những gì được đọc về chính sử.

Giờ Sửu mùng Sáu tháng Mười năm Càn Long thứ hai mươi lăm, tức ba giờ sáng ngày 13 tháng 11 năm 1760, hoàng tử thứ mười lăm ra đời. Thế nhưng lúc này đây Càn Long đế vẫn còn đang đi săn! Đến tận mùng Chín ngài vẫn còn... "bận" săn! Đối với sự ra đời của đứa trẻ này, ngài chỉ giản đơn hỏi thăm mấy câu, sau đó phất tay ý bảo cho lui, vài hôm sau mới ban tên là Vĩnh Diễm. Các bạn có thể thử tưởng tượng một người phụ nữ mang nặng đẻ đau song cha của đứa bé lại không sốt sắng thiết tha, đó là cảm giác gì? Nếu nói đó là biểu hiện của tình yêu thì tình yêu này của Càn Long cũng quá ư... đặc biệt. Phụ nữ sinh con chẳng khác nào đi dạo một vòng quỷ môn quan, thân là người cha ít ra cũng nên tỏ ra quan tâm một chút, như thế này khác nào "trẫm muốn đi săn, không rảnh, đợi trẫm rảnh rồi trẫm sẽ đặt tên sau".


Sống thì đã vậy, còn chết thì như nào? Thuận Trị truy phong con trai của Đổng Ngạc phi là Thân vương, Ung Chính tổ chức tang nghi cho Hoàng bát tử theo cấp bậc Thân vương, Càn Long cũng truy phong con trai Vĩnh Liễn do hoàng hậu Phú Sát thị sinh hạ làm Thái tử, song hoàng tử thứ mười bốn Vĩnh Lộ và hoàng tử thứ mười sáu do Lệnh phi sinh ra cũng chết yểu nhưng tang sự của cả hai hoàng tử đều khá tùy ý, cũng không truy phong bất kỳ phong hào hay tước vị nào. Chưa kể, lúc Lệnh phi hạ sinh hoàng tử Vĩnh Lân, Khiếu Đình Tạp Lục đã ghi chép lại rằng "thuần hoàng đế thâm ác chi", ý chỉ Càn Long không phải chỉ ghét vừa mà là rất ghét!

Lại so sánh một chút sự ra đời của hai hoàng tử do Hoàng hậu Phú Sát thị hạ sinh. Mỗi năm cứ đến tết Nguyên Tiêu là Càn Long lại đến vườn Viên Minh đón Tết, song năm ấy (tức năm Càn Long thứ mười), khi nghe tin Phú Sát hoàng hậu mang thai hoàng tử Vĩnh Tông, ngài đã hủy bỏ ngay kế hoạch đón Tết để ở lại Tử Cấm Thành bầu bạn với mẹ con bà, sau này khi Hoàng tử qua đời, dù chưa đầy một tuổi song vẫn ban thụy hiệu và truy phong thành Thành Triết thân vương. Còn khi hoàng tử Vĩnh Liễn qua đời, không những được tổ chức tang lễ theo thân phận Hoàng thái tử và dược ban thụy hiệu đàng hoàng, mà còn được Càn Long đặc biệt ban chỉ kị húy chữ Liễn trong tên của hoàng tử. Đó là chưa kể đến việc Càn Long từ lâu đã có ý muốn lập Vĩnh Tông làm thái tử từ lúc mới sinh, đồng thời thường xuyên cầu phúc cho Hoàng hậu sớm khỏi bệnh và sinh hạ đích tử.

Nhưng thế vẫn chưa là gì, vào ngày đông chí năm Càn Long thứ ba mươi tám, lúc đến Thiên Đàn tế bái, những lời mà Càn Long nói cũng khiến kẻ khác phải thương tâm thay cho Vĩnh Diễm, ngài nói rằng nếu Vĩnh Diễm có thể làm một Hoàng đế tốt thì hãy phù hộ cho hắn, còn nếu không thì hãy để hắn đoản mệnh chết đi! Vận mệnh quốc gia là quan trọng, ngôi vị hoàng đế quan trọng, nhưng nếu tới mức thế thì...


Sau Kế hoàng hậu, Càn Long không lập thêm hậu nữa, chỉ phong bà làm Lệnh Hoàng quý phi và giao cho trọng trách quản lý hậu cung. Vào thời Thanh, những cung quyến (nôm na là các phi tần, hoàng tử, hoàng nữ,...) trước khi chết đều được đưa từ Đại Nội đến Cát An Sở, các phi tần và hoàng tử được sủng ái thì không được xếp vào nhóm này. Đổng Ngạc phi qua đời tại cung Thừa Càn, hoàng hậu Hiếu Ý cũng ở cung Thừa Càn, hoàng tử Vĩnh Liễn thì tại cung Vĩnh Thọ. Còn Lệnh phi khi chết thì lại ở Cát An Sở. Nguyên cả tang ma của Hoàng quý phi đều do hoàng tử Vĩnh Diễm đứng ra cử hành là chính, còn Càn Long thì nghỉ thiết triều năm ngày, Hoàng quý phi hưởng dương 48 tuổi. Năm Càn Long thứ sáu mươi, hoàng tử Vĩnh Diễm trở thành thái tử, rốt cuộc Lệnh phi mới được truy phong làm Hiếu Nghi hoàng hậu. Tuy nhiên, dù đã trở thành hoàng hậu nhưng thần bài của bà vẫn không được đặt ở Thái miếu mà chỉ được để ở điện Phụng Tiên, mãi đến khi vua Càn Long qua đời, Gia Khánh mới đưa được thần bài của bà tới Thái miếu.

Lệnh Ý hoàng quý phi là người thứ năm và cũng là người cuối cùng được hợp táng cùng Càn Long, quan tài của bà được đặt bên phải quan tài của Càn Long. Vua Càn Long còn ra lệnh tăng lượng văn vật bồi táng thêm mười tám món so với đãi ngộ thông thường cho cấp bậc Hoàng quý phi, tổng cộng tới bảy mươi sáu món, chỉ kém Hoàng hậu một món. Thế nhân thường cảm thán rằng đây quả là ân sủng, song nếu nhìn ở một góc độ khác thì việc này cũng rất đỗi bình thường bởi dù sao thì khi còn sống bà cũng là Hoàng quý phi, có công quản lý hậu cung, lại có công sinh hạ trữ quân, được những ưu ái này cũng là xứng đáng.

Những gì được kể ở trên chỉ là một phần nhỏ trong cuộc đời bà. Thân là phụ nữ ở chế độ phong kiến, đặc biệt là phi tử hoàng gia, mọi vinh sủng đều phụ thuộc vào thái độ của hoàng đế. Vẫn câu nói cũ, câu nói này mình cũng đã đề cập biết bao lần trong series này: đúng sai ấm lạnh chỉ có người trong cuộc mới hiểu. Là yêu thật, yêu giả, thương thật hay thương giả đều là lớp sương mờ, hậu nhân chúng ta chỉ có thể đứng từ xa ngoái đầu nhìn lại. Song riêng cá nhân mình thì cảm thấy thương thay cho một trang quốc sắc thiên hương.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: C33: Chương 33


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ BA MƯƠI MỐT: KHÔN NINH BẤT NINH

Tính đến nay, Tử Cấm Thành đã trải qua hơn 600 năm lịch sử với biết bao đau thương chua xót. Trong tòa thành này, không có một phút giây bình yên, dường như mỗi một người sống tại đây đều đã định sẵn sẽ phải khoác lên mình sự bi thương đến chết. Vua cũng vậy mà bề tôi cũng thế, hậu cung ba nghìn giai lệ càng xót xa hơn, thân làm mẫu nghi thiên hạ cũng vậy.

Kiến trúc của Tử Cấm Thành chia thành hai phần: ngoại triều và nội đình. Trung tâm của ngoại triều gồm điện Thái Hòa, điện Trung Hòa và điện Bảo Hòa, cả ba đều là nơi cử thành những điển lễ lớn. Trung tâm của nội đình gồm cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh, gọi chung là hậu tam cung, là chính cung của hoàng đế và hoàng hậu. Tiếp đó mới tới ngự hoa viên. Xung quanh hậu tam cung lần lượt là Đông và Tây lục cung, là nơi ở của các hậu phi. Song dường như có một lời nguyền nào đó đã giáng xuống cung Khôn Ninh, trải qua ngần ấy năm chìm nổi, thế nhưng mỗi lần nhắc tới nơi này, người ta lại chỉ nhớ tới bốn chữ "Khôn Ninh bất an" hoặc "Khôn Ninh bất ninh" (An: bình an, Ninh: yên tĩnh, yên ổn), bởi một lý do: tất cả những vị chủ tử từng sống tại đây đều không một ai chết già. Cứ nhìn vào Tiền Hoàng hậu của Chính Thống đế Minh Anh Tông, cùng bốn vị hoàng hậu của Minh Thế Tông Gia Tĩnh và hoàng hậu A Lỗ Đặc Thị của Thanh Mục Tông Đồng Trị đế là sẽ thấy được sao lại "bất an", sao lại "bất ninh" (riêng hậu cung của Minh Thế Tông, An sẽ đặc biệt có một bài riêng). Chúng ta hãy cũng điểm qua những vị chủ tử vắn số của cung Khôn Ninh dưới thời Thanh (chú ý, trong đó có ba vị không phải chủ tử của cung Khôn Ninh, nhưng vì là chính thất nên cũng sẵn tiện đề cập xem như cung cấp thêm chút thông tin vậy):


- Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị của Thiên Mệnh Hãn Nỗ Nhĩ Cáp Xích, qua đời năm 29 tuổi vì bạo bệnh và nhớ nhung mẹ già.

- Hoàng hậu Bác Nhĩ Tể Cát Đặc Triết Triết của Sùng Đức đế Hoàng Thái Cực có hai người cháu cùng nhập cung vào làm phi tử của Hoàng Thái Cực, một trong số đó sinh hạ hoàng tự, chính là hoàng đế Thuận Trị sau này, còn bà thì chỉ sinh hạ được ba công chúa. Sau khi Thanh Thái Tông băng hà (52 tuổi), bà trở thành Hoàng thái hậu và 6 năm sau bà cũng qua đời, khi đó bà chỉ mới 49 tuổi.

- Phế hoàng hậu Bác Nhĩ Tể Cát Đặc thị của Thuận Trị đế Phúc Lâm, bà là vị hoàng hậu đầu tiên và duy nhất của triều Thanh bị Hoàng đế phế truất khi đương tại vị (trường hợp của hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp của Thanh Cao Tông là bị thu hồi sách phong chứ không tuyên cáo chính thức, khác hoàn toàn), tuy bà có xuất thân cao quý (cao quý nhất trong số các hoàng hậu đời Thanh) và là vị hoàng hậu đầu tiên của nhà Thanh được cử hành đại hôn, nhưng chỉ sau hai năm đứng đầu hậu cung, bà đã bị Thuận Trị phế truất. Nguyên nhân được ghi lại rằng do bà sống quá xa xỉ còn hoàng đế lại quá giản dị, tính cách lại ương bướng nên hoàng đế vốn đã không ưa giờ lại dần xa cách, chưa kể đến đằng sau vị hoàng hậu này còn có sự chống lưng của Đa Nhĩ Cổn, ý định phế hậu cứ thế nảy mầm.

- Hoàng hậu Hách Xá Lý thị của Khang Hy đế Huyền Diệp có tổ phụ là đại thần phụ chính, phụ thân là đại thần suất lĩnh thị vệ, nhưng không may qua đời trong lúc hạ sinh, khi ấy bà mới 22 tuổi.

- Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị của Ung Chính đế Dận Chân, bà được sách lập làm hoàng hậu vào năm Ung Chính nguyên niên, song chín năm sau thì bất hạnh qua đời.

- Hoàng hậu Phú Sát thị của Càn Long đế Hoằng Lịch, trên đường hồi kinh sau cuộc Nam tuần, hoàng hậu qua đời khi đương ở độ tuổi 37 (không phải chủ nhân)


- Hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp thị của Gia Khánh đế Ngung Diễm, chỉ mới sách lập hoàng hậu được một năm thì mất vì bạo bệnh, hưởng dương 36 tuổi. Tang sự của bà là tang sự đơn sơ nhất dành cho hoàng hậu trong lịch sử triều Thanh, ý chỉ này cũng là do Càn Long ban, ngay cả Gia Khánh cũng không mấy quan tâm đến lễ tang của bà, niềm an ủi duy nhất của bà có lẽ là con trai bà sau này trở thành hoàng đế - tức Đạo Quang đế.

- Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị của Đạo Quang đế Miên Ninh, vẫn còn chưa trở thành hoàng hậu thì đã qua đời (28 tuổi), sau đó mới được truy phong làm hoàng hậu, không có con nối dõi (không phải chủ nhân).

- Hoàng hậu Tát Khắc Đạt thị của Hàm Phong đế Dịch Trữ, vừa được sách phong làm phúc tấn được hai năm, vẫn chưa kịp lên ngôi hoàng hậu và chưa tròn 20 tuổi thì đã qua đời, sau này Hàm Phong tiếc thương bèn truy phong làm hoàng hậu (không phải chủ nhân).

- Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị của Đồng Trị đế Tải Thuần, tuy bà là một trong bốn hoàng hậu duy nhất của Đại Thanh được cử hành đại hôn tức được rước kiệu qua cổng lớn khi thành thân với hoàng đế, nhưng lại chết rất thảm, nói đúng hơn là cái chết không rõ ràng. Sử sách chép rằng hoàng hậu qua đời vì bạo bệnh, nhưng tương truyền bà bị Từ Hy ban rượu độc, còn một thuyết khác nữa là bà tuyệt thực, nhiều minh chứng nghiêng về nguyên nhân thứ hai hơn. Hoàng hậu hưởng dương 21 tuổi.

- Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị của Quang Tự đế Tái Điềm, sau đại hôn, bà và Quang Tự bất hòa, cuộc sống vợ chồng không êm ấm, lúc Quang Tự qua đời (38 tuổi), bà trở thành Hoàng thái hậu, đồng thời bà cũng là Hoàng thái hậu cuối cùng của triều Thanh, khi ấy bà 41 tuổi.


- Hôn lễ của Phổ Nghi cũng được cử hành tại cung Khôn Ninh, người con gái nào liên quan đến Phổ Nghi thì càng thảm hơn, vào đêm tân hôn, ông từ cung Khôn Ninh bỏ về điện Dưỡng Tâm, bỏ lại hoàng hậu Quách Bố La Uyển Dung vò võ một mình, kể từ đó trở về sau, đến tận khi Uyển Dung thân tàn ma dại, bà vẫn chưa từng một lần được viên phòng với Phổ Nghi.

Dẫu sao thì cung Khôn Ninh cũng là chính cung của Hoàng hậu. Cái tên này được đặt với ý mong các hoàng hậu có thể an bình, nhưng nguyện vọng này có thể thực hiện được sao? Bất kể ai là hoàng hậu, ai là hoàng đế thì mưu cầu tối thiểu của họ cũng chỉ đơn giản là hai chữ "an" và "khang". Không bình an, không khỏe mạnh thì dù tiền bạc có nhiều, quyền thế bao cao, cũng chẳng thể nào hưởng được hạnh phúc.

Nói rộng ra, không chỉ riêng các vị chủ tử ở cung Khôn Ninh, xuyên suốt lịch sử Minh - Thanh gồm 16 đời Minh đế, 12 đời Thanh đế, tổng cộng có 28 vị vua, các ngài lập hậu, có người sớm qua đời, có người bị phế, hoặc không có con nối dõi, hoặc tuổi trẻ góa bụa, hoặc chết oan uổng, hoặc thương đau đến cuối đời. Tuy đứng đầu nữ nhân trong thiên hạ song chẳng ai được bình an. Muốn viết rất nhiều nhưng tới đây bèn nghẹn lại, hẹn các bạn vào bài sau.

Nhắc tới đây cũng sẵn phải nói một chút, sau đời Minh, cung Khôn Ninh trở thành nơi tế tự và cử hành đại hôn là chủ yếu, bên trên có không ít người từng chưa có cơ hội ở lại cung Khôn Ninh dù rằng họ là chính thất, ví như hoàng hậu Phú Sát, hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc Thị, hoàng hậu Tát Khắc Đạt thị, nhưng ở đây đang xét chủ thể là chính thất, thế nên cũng sẵn nhắc tới cả ba.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: C34: Chương 34


#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết

ĐÊM THỨ BA MƯƠI HAI: "ĐÂY CHÍNH LÀ ĐỨC HẠNH CỦA NHÀ CÁC NGƯỜI!"

Tính đến thời điểm hiện tại, Tử Cấm Thành đã trải qua biết bao đời đế vương với hai triều đại lớn trong lịch sử Trung Hoa là Minh - Thanh. Kinh qua bao đợt trùng tu và cải thiện, Tử Cấm Thành mỗi lúc mỗi mở rộng và lộng lẫy hơn. Sau khi triều Thanh diệt vong, Tử Cấm Thành đổi tên thành Cố Cung, diện tích là 720 nghìn mét vuông. Tương truyền, Tử Cấm Thành có 9999 gian phòng, song đó chỉ là con số tượng trưng chứ không phải là con số thật. Theo như ghi chép trong "Cố Cung sử thoại" thì Tử Cấm Thành có hơn 10 nghìn phòng, chỉ là trải qua mấy trăm năm bể dâu, một phần trong số đó đã vùi chôn theo cát bụi thời gian. Vào năm 1972, các nhà khảo cổ học đã tiến hành đo đạc tòa thành này, thống kê năm đó cho hay, Tử Cấm Thành còn tồn tại 9687 gian phòng.


Phần trước của Tử Cấm Thành là nơi hoàng đế thảo luận chính sự và tổ chức các điển lễ yến tiệc, phần sau là hậu cung dành cho các phi tần. Người ta gọi tổ hợp ba cung Càn Thanh, Khôn Ninh và Giao Thái là "hậu cung tam đại", trong đó cung Càn Thanh tượng trưng cho "dương", cung Khôn Ninh tượng trưng cho "Âm" còn điện Giao Thái tượng trưng cho "âm dương giao hợp".

Lại kể chuyện về cung Khôn Ninh, Như đợt trước đã nói, sau khi hoàng hậu Hiếu Trang qua đời, chẳng ai dám đến đấy ở nữa. Có thuyết cho rằng người phụ nữ như hoàng hậu Hiếu Trang quá ghê gớm, những nơi bà từng ở đều để lại khí khái ngất trời, ngay cả Từ Hy cũng không "đỡ" nổi. Một nguyên nhân khác là do hoàng đế cũng không ở cung Càn Thanh nữa, tuy cung Càn Thanh là cung chính của hoàng thượng nhưng vị trí khá bất tiện nên các đời hoàng đế sau đều sống ở điện Dưỡng Tâm là chủ yếu. Hoàng đế không ở cung Càn Thanh nên hoàng hậu cũng không tiện ở cung điện đối ứng là cung Khôn Ninh. Tuy nhiên, ngyên nhân quan trọng nhất là triều Thanh đã thay đổi "chức năng" của cung Khôn Ninh, sửa lại thành nơi tế tự Tát Mãn. Đây cũng chính là nền văn hóa đặc sắc của hoàng tộc Mãn Thanh, biến nơi "chí âm" thành nơi tế tự tức là nơi đây không còn dành cho "người sống" ở nữa.

Song cung Khôn Ninh vẫn giữ vững một vai trò bất di bất dịch, đó là nơi động phòng của hoàng đế và hoàng hậu. Hoàng đế sẽ viên phòng ở đây vào đêm tân hôn, sang hôm sau sẽ dọn ra. Thực tế cho hay, hơn non nửa các hoàng đế triều Thanh đều là kết hôn trước rồi mới đăng cơ nên "chức năng" này của cung Khôn Ninh không được sử dụng nhiều. Cả triều Thanh chỉ có hoàng đế Thuận Trị, hoàng đế Đồng Trị, hoàng đế Quang Tự và hoàng đế Phổ Nghi động phòng tại đây, tiếc là cuộc sống hôn nhân của cả ba với vị hoàng hậu của mình không mấy êm thấm.

Chuyện về Phế hậu Tĩnh phi tức Bát Nhĩ Tề Cát Đặc phế hậu của vua Thuận Trị hẳn đã không còn xa lạ với các bạn yêu sử Thanh. Bà là vị hoàng hậu đầu tiên được cử hành đại hôn với hoàng đế đương nhiệm, được đưa kiệu đón rước qua cổng Đại Thanh Môn với đầy đủ mọi lễ tiết cao quý nhất của triều Thanh, đồng thời bà cũng là vị hoàng hậu có xuất thân cao quý nhất (có họ hàng với Thành Cát Tư Hãn)  trong số tất cả các hoàng hậu của triều đại này. Song cuộc sống hôn nhân chẳng suông sẻ được bao lâu, bà bị đích thân Thuận Trị phế truất và giáng xuống làm Tĩnh phi, ba năm sau thì được ân chuẩn cho về quê nhà.

Tiếp theo phải kể đến hôn lễ của hoàng đế Đồng Trị, phải nói hôn lễ của ngài với hoàng hậu A Lỗ Đặc Thị là long trọng nhất, đồng thời tình cảm giữa ngài và hoàng hậu cũng rất hòa hợp, song hoàng hậu lại có mối quan hệ không mấy tốt đẹp với thái hậu Từ Hy nên Từ Hy thường hay tìm cớ bắt nạt và khi dễ bà. Đến nay cái chết của bà vẫn là một bí ẩn. Riêng bà, An sẽ có một bài riêng đặc biệt.

Nơi duy nhất không có người sống trong Cố Cung, âm khí nặng nề, lại phải lấy người con gái mà mình không yêu rồi viên phòng tại đây, không cần nói cũng biết lòng của hoàng đế Quang Tự khi cưới cháu gái Long Dụ của thái hậu Từ Hy nặng nề như thế nào. Có một chuyện hẳn phải kể cho mọi người nghe, tháng 2 năm 1888, thái hậu Từ Hy khâm điểm cho Quang Tự kết hôn với Long Dụ, nhưng mười ngày trước khi diễn ra đại điển thành hôn thì bỗng xảy ra một việc - Thái Hòa Môn phát hỏa. Chuyện này rất kỳ lạ bởi khi đó đương mùa rét, thậm chí trời còn có tuyết, theo lý mà nói thì không xảy ra hỏa hoạn dễ dàng thế được. Mà quan trọng là Thái Hòa Môn là một trong những địa điểm trong hoàng cung mà hoàng hậu buộc phải đi qua trong lễ đại hôn, qua Thái Hòa Môn rồi thì mới được tiến vào hậu cung. Điều đó đồng nghĩa với việc nếu không đi qua cửa này thì không thể gọi là "cưới hỏi đàng hoàng".


Trước tình thế cấp bách này, thái hậu Từ Hy bèn lập tức hạ lệnh dùng giấy làm tạm thành một cái cửa giả, nghe nói kỹ năng thực hiện rất cao siêu, người bình thường căn bản không nhìn ra được là giả. Song chính điều này đã vô tình trung tạo ra điềm xấu, bởi chỉ có cõi âm mới sử dụng vật làm bằng giấy. Chuyện vẫn chưa dừng lại, lúc động phòng, Từ Hy bèn an bài bốn vị ma ma đến... nghe! Không biết bốn vị ma ma đó là ai nhưng trong đó có một vị họ Vinh, chính vị Vinh ma ma này đã kể lại rằng, bà đứng trước cửa phòng thành hôn hồi lâu thì bỗng nghe bên trong truyền ra một tiếng thở than, sau đó là một câu nói: "Đây cũng chính là đức hạnh của nhà các người!", tiếp đó vang lên tiếng khóc của vua Quang Tự. Điều đó có nghĩa là gì? Tức là chuyện động phòng không thuận lợi, nhưng tại sao lại không thuận lợi cơ chứ? Nghe nói Quang Tự bị... yếu ở phương diện đó, phần eo của ngài không được khỏe. Trong hồ sơ Thanh cung có ghi lại bệnh lý của ngài: "Bệnh di tinh đã hai mươi năm nay, mấy năm trước mỗi tháng phát bệnh mười mấy lần, nhưng mấy năm này mỗi tháng chỉ tầm hai ba lần... dạo này ít đi, song không phải dần khỏi, thận quá mức suy tổn, không thể phát tiết."

Tất nhiên khi đó Long Dụ rất thất vọng, song thốt ra những lời này quả khá là nghiêm trọng, Quang Tự nhất định sẽ nghĩ rốt cuộc hoàng hậu đã nghe những gì ở nhà mẹ đẻ mà thốt ra những lời đó. Dù sao thì câu nói ấy cũng khiến lòng tự tôn của đàn ông tổn thương, từ đó về sau Quang Tự rát lãnh cảm với hoàng hậu. Sẵn thì thôi lại nhắc tới Trân phi, Trân phi là người khá rộng rãi phóng khoáng, lại rất biết cách dỗ dành nên rất được Quang Tự yêu thích. Phải nói rõ một chút là Quang Tự cũng không hẳn là "yếu toàn tập", ít ra thì Trân phi cũng có hoài thai, chỉ có điều do bởi Trân phi đắc tội với thái hậu Từ Hy nên bị thái hậu làm cho sảy thai. Năm 1908, Quang Tự băng, Từ Hy cũng băng sau đó ít lâu. Cứ thế, Long Dụ thay Từ Hy trở thành người đứng đầu hậu cung, tân đế Phổ Nghi lại chỉ mới ba tuổi nên Long Dụ cũng bắt đầu buông rèm nhiếp chính. Song khí khái và tính cách của bà lại thua Từ Hy quá xa, chèo chống không nổi cục diện rối loạn lúc bấy giờ. Còn chuyện về hoàng hậu Long Dụ cụ thể ra sao, An nhất định sẽ dành một bài riêng viết về bà.

Ảnh bên dưới là thái hậu Long Dụ và tiểu hoàng đế Phổ Nghi.

Từ Hy thái hậu vào năm 1903 - một trong những bức ảnh hiếm chụp toàn thân của thái hậu

Thanh Quang Tự hoàng hậu Long Dụ lúc hơn 40 tuổi


Một bức ảnh bán đấu giá khác của Thuần thân vương Tải Phong chụp cùng các đại sứ Đức tại Thượng Hải vào năm 1901 (ôi đẹp giaiiii)

Một bức ảnh của thái hậu Từ Hy từng được đưa ra bán đấu giá, ảnh được chụp trong khoảng từ năm 1905 đến 1906.

Thần tượng của tớ - nữ quan Dụ Đức Linh hầu cận cạnh thái hậu Từ Hy, ảnh được chụp trong khoảng năm 1910 và 1920, dòng chữ viết tay bằng tiếng Anh của chính bà ❤
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: C35: Phong Thủy Ở Tử Cấm Thành (ngoại Truyện)


Bí mật phong thủy trong kiến trúc Tử Cấm Thành

Tử Cấm Thành (Bắc Kinh, Trung Quốc) thu hút lượng khách khổng lồ nhờ kiến trúc tuyệt đẹp và ý nghĩa sâu xa trong từng chi tiết. Đằng sau đó là nghệ thuật phong thủy lâu đời.

Năm 1402, Minh Thành Tổ lên ngôi hoàng đế sau khi chiếm được Nam Kinh, sau đó dời đô về Bắc Kinh. Việc tấn công Nam Kinh và chuyển kinh thành về Bắc Kinh đều ngược hẳn với luật của tổ tiên. Do đó, khi xây dựng cung điện, ông muốn thêm nhiều yếu tố kiến trúc giúp củng cố ngai vàng.

Điều đó đồng nghĩa với việc cung điện sẽ được thiết kế để Minh Thành Tổ có vị trí như hoàng đế được thần linh lựa chọn và thuận theo ý trời. Vì thế, Hoàng đế đã cử người về phía Nam tuyển chọn các bậc thầy phong thủy và thợ thủ công điêu luyện, đưa về Bắc Kinh để bắt tay xây dựng hoàng thành. Trong số đó, Nguyễn An người Việt được giao trọng trách làm tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng của Tử Cấm Thành (cùng với Sái Tín).

ÂM VÀ DƯƠNG


Người Trung Quốc cổ đại tin rằng khởi đầu thế giới chỉ có hai yếu tố âm và dương. Trời là dương, đất là âm. Mặt trời là dương và mặt trăng là âm. Hoàng đế Vĩnh Lạc lệnh cho các thầy phong thủy tạo ra thiết kế ba lớp: lớp ngoài tạo thành vòng tròn có 4 đàn tế, lớp giữa là tường thành, và trong cùng là cung điện. Nhìn vào bản đồ Bắc Kinh thời cổ đại, ta có thể thấy phía ngoài tường thành là đền thờ Trời, Đất, Mặt trăng và Mặt trời, tạo thành không gian hình tròn.

Tử Cấm Thành nằm ở trung tâm Bắc Kinh thời xưa, với hình thế núi phía sau (núi Vạn Niên) và sông chảy phía trước (sông Kim Thủy). Sông Kim Thủy là một kênh đào. Núi Vạn Niên cũng là sản phẩm nhân tạo, được làm từ đất đào sông, gạch đá từ cung điện nhà Nguyên cũ. Núi Vạn Niên được xây ở phía bắc cung điện mới, với vai trò ngăn chặn tà ma xâm nhập.

Sông Kim Thủy và núi Vạn Niên đóng vai trò quan trọng trong Tử Cấm Thành, kết nối năng lượng âm dương của núi Thiên Thọ, Diêm Sơn, Thái Hành và Côn Lôn. Do đó, núi Vạn Niên trở thành "tổ rồng" - nơi năng lượng sống tập trung. Trong khi đó, núi Thiên Thọ là đầu "mạch rồng", tạo thành dòng chảy thông suốt và mạnh mẽ. Năng lượng từ cung điện có thể truyền qua hệ thống sông và núi này mà không gặp trở ngại gì, cho tới tận núi Côn Lôn và hòa vào năng lượng của trời.

Tử Cấm Thành có một trục chính chạy từ bắc xuống nam, chia toàn bộ cung điện thành hai phần: phần phía Đông tượng trưng cho dương, phần phía Tây tượng trưng cho âm. Mọi sảnh dọc trục chính này đều nhìn về phía nam, bên trái là dương - nơi mặt trời mọc, bên phải là âm - nơi mặt trời lặn. "Tổ rồng" nằm ở điện Giao Thái. Từ đây ta có thể thấy núi cuồn cuộn phía xa và dòng sông chảy vào cung điện, đem năng lượng từ trời truyền vào Tử Cấm Thành.

Âm và dương được xem là cội nguồn sự sống, từ thời Tần Thủy Hoàng, mỗi thế hệ hoàng đế đều mong muốn quốc gia được thịnh vượng. Các hậu điện của Tử Cấm Thành được thiết kế theo tôn chỉ này, gồm cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh.

Ba điện này tạo thành một vòng tròn khép kín. Cung Càn Thanh là nơi hoàng đế ở, còn cung Khôn Ninh dành cho hoàng hậu, điện Giao Thái ở giữa tượng trưng cho sự bình yên và trường tồn, mối liên hệ giữa trời và đất, sự dung hòa của năng lượng âm dương, sự hòa hợp của mọi thứ trên thế giới. Trên ngai vàng trong điện Giao Thái, chiếc gương Hiên Viên (chòm sao chế ngự mưa dông và sấm chớp) tượng trưng cho giao điểm giữa trời và đất, âm và dương.

NGŨ HÀNH
Thuyết ngũ hành là một trong những học thuyết quan trọng của Trung Quốc thời cổ đại, gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Khắp Tử Cấm Thành, du khách có thể tìm thấy những chi tiết đặc trưng của các hành này.


"Thổ" xuất hiện ở điện trước và sau (được xây trên hai nền lớn tạo thành chữ thổ trong tiếng Trung). Ngoài ra, màu tượng trưng cho đất là màu vàng - màu cao quý nhất. Do đó, mái của các công trình ở khu điện trước và sau trong Tử Cấm Thành được lợp ngói vàng - thể hiện tầm quan trọng của chúng, đồng thời đánh dấu đây là trung tâm của cả nước.

Yếu tố "hỏa" nằm ở phía Nam, với cổng Ngọ Môn có hình năm con phượng hoàng. Cột trên năm cây cầu đá ngoài cổng được tạc họa tiết lửa.

Phía bắc là "thủy" kết hợp với truyền thuyết về Huyền Vũ (rùa đen). Cổng Huyền Vũ (sau này được đổi thành Thần Vũ) tượng trưng cho vị thần nước, nắm giữ sự sống và cái chết, cùng khả năng xua tà ma. Do đó, các phòng phía Đông và phía Tây của điện Tần An đều có ngói màu đen.

"Kim" là yếu tố ở phía Tây. Theo phong thủy, kim sinh thủy, nên dòng sông chảy quanh cung điện bắt đầu từ phía Bắc (chính vì thế mà có tên sông Kim Thủy).

Cuối cùng, "mộc" nằm ở phía Đông, thể hiện sự sinh trưởng và thay đổi của vạn vật. Phía đông rất giàu năng lượng, nơi lý tưởng để làm chỗ ở cho các hoàng tử. Màu của hành mộc là xanh lục, do đó các khu nhà ở của hoàng tử đều lợp ngói xanh - thể hiện mong mỏi các hoàng tử luôn mạnh khỏe và có tiềm năng không giới hạn.


TRỜI VÀ ĐẤT
Theo người Trung Quốc cổ đại, một công trình hoàn hảo cần có sự hòa hợp giữa trời và đất. Nói cách khác, bản đồ các vì sao sẽ được phản chiếu trên bề mặt trái đất, tạo ra một hệ thống mang tính biểu tượng cao. Họ tin rằng sao Bắc Đẩu là trung tâm, các ngôi sao còn lại chia làm ba khu. Thiên đế sống ở trung tâm, quanh đó là các chòm sao Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ và 28 chòm sao khác, tạo thành bản đồ vũ trụ.

Tử Cấm Thành được thiết kế theo bản đồ sao, mô phỏng vị trí của chúng trên bầu trời theo cách thông minh hơn. Trước hết, compa được sử dụng để tìm ra vị trí Bắc Đầu, từ đó quyết định hướng nam, sau đó tới trục chính đi qua đó. Tiếp theo, "tổ rồng" được xác định (ở điện Giao Thái sau cung Càn Thanh). Đây là điểm khởi đầu cho việc thiết kế và xây dựng toàn bộ khu thành, và cũng là điểm sao Bắc Đẩu phản chiếu trên mặt đất.

Các khu phong ở của cung Càn Thanh, điện Giao Thái, cung Khôn Ninh và sáu cung khác tượng trưng cho thiên đường, tam hậu điện tượng trưng cho khu trung tâm nơi dành cho Thiên đế. Điều này tạo ra liên tưởng "Thiên đế sống trên thiên đình, Thiên tử sống ở Tử Cấm Thành". Sông Kim Thủy còn được coi là hiện thân cho sông Ngân Hà.

Kiến trúc của Tử Cấm Thành chứa đựng bản đồ sao, cũng như các yếu tố âm dương, ngũ hành. Chúng được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ, từ vị trí hậu điện, tên cổng, hướng cổng, tới các con kênh dẫn nước... Tất cả hòa hợp và kết nối, biến Tử Cấm Thành thành một trong những công trình có phong thủy ấn tượng nhất mọi thời đại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: C36: Từ Hi Thái Hậu Sau Khi Mất (ngoại Truyện)


Sau khi Từ Hi Thái Hậu qua đời, bà được an táng tại Thanh Đông Lăng, trong vô vàn vật báu được chôn theo trong tang lễ, có một viên dạ minh châu cực kỳ quý hiếm.
Viên dạ minh châu phát sáng trong đêm và được đặt trong miệng của Từ Hi, tương truyền có tác dụng chống thi thê bà phân hủy.
Những năm Trung Hoa Dân Quốc, chiến tranh loan lạc, mộ của Từ Hi Thái Hậu bị Tôn Điện Anh (một lãnh chúa quân phiệt thời Trung Hoa Dân Quốc) cướp phá, lấy đi châu báu và cả viên dạ minh châu.

Sau khi bị Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bắt được, vì bảo toàn mạng sống Tôn Điện Anh đã tặng viên dạ minh châu cho Tống Mỹ Linh. Các vật báu trong phần mộ của Từ Hi Thái hậu cũng dần dần biến mất, không rõ tung tích. Riêng viên dạ minh châu quý hiếm được cho rằng đang được chất tại mộ của Tống Mỹ Linh.




 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37-38-39


C37: Hoàn Châu Cách Cách (ngoại Truyện)

[Hoàn Châu Cách Cách trong lịch sử có thật hay không? Là vị cách cách nào? Triều Thanh thật sự có Cách Cách xuất thân Hán tộc?]


    Như rất nhiều người trong chúng ta đã biết, năm 1997 nữ văn sĩ Quỳnh Dao trong một chuyến du lịch Bắc Kinh khi đi qua địa danh có tên "Mộ công chúa phía tây" đã cảm thấy rất hứng thú, và có hỏi qua người đi cùng đoàn, xem nàng công chúa được chôn ở đó là ai? Và có một người trong đoàn trả lời rằng đó là ngôi mộ của một nữ tử dân gian, được Càn Long nhận làm nghĩa nữ, và phong làm công chúa. Từ một lời kể vô thưởng vô phạt của nhân viên cùng đoàn, Quỳnh Dao đã sáng tác nên tiểu tuyết Hoàn Châu Cách Cách và bộ phim được chuyển thể từ đó cũng nổi danh khắp Châu Á.
Vì sao mình lại gọi đó là lời nói "Vô thưởng vô phạt" vì đó là chém gió đó các bạn... Vị nhân viên đi cùng trí tưởng tượng cũng phong phú quá...
     Thực chất, theo các nhà sử học đã khai quật, ngôi mộ trong lời kể đó, là nơi chôn chất 2 vị công chúa của hoàng đế Gia Khánh.
Phần chính của ngôi mộ, là nơi chôn cất Trang Kính Hòa Thạc công chúa, con gái thứ 3 của hoàng đế Gia Khánh. Sinh năm 1781 và đã kết hôn với một hoàng tử Mông Cổ.
Phần phía tây, chôn cất công chúa thứ tư của Gia Khánh, Trang Kính Cố Luân Công Chúa, cũng kết hôn với một vị hoàng Tử Mông Cổ.
Bởi hai nàng công chúa này mất cùng 1 năm (1811) nên đã được mai táng cùng một nơi.

Theo luật lệ của nhà Thanh, sau khi kết hôn, các công chúa sau khi mất sẽ không được chôn cất trong nghĩa trang hoàng gia, mà sẽ được xây dựng một ngôi mộ riêng. Vì thế, xung quanh Bắc Kinh có rất nhiêu nơi gọi là "công chúa phần - gongzhufen"
Vậy đó, vậy mà hồi nhỏ, đọc báo thấy kiểu một ngôi mộ nơi hoang vắng, xong rồi nghĩa nữ được nhận vào cung nhưng chết yểu....mình thương ơi là thương.. ai ngờ...
À mà khoan đã, nếu mình nói cho các bạn biết, trong triều đình nhà Thanh thật sự có một nàng công chúa người Hán, và cuộc đời của nàng còn oanh liệt và thú vị hơn nhiều tiểu thuyết Quỳnh Dao thì sao?
Nàng là Hòa Thạc Công chúa, người con gái hán đầu tiên và duy nhất được phong danh hiệu này - Khổng Tứ Trân
Nàng cũng là 1 trong 5 vị công chúa triều thanh nổi tiếng nhất (bài này nói về nàng đã nhé, 4 người sau nếu rảnh mình tổng hợp 1 thể)
Hiếu Trang Thái Hoàng Thái hậu thương cảm, nàng là huyết mạch cuối cùng của nhà họ Khổng, nên mới trắc phong Khổng Tứ Trân làm công chúa.
Khổng Tứ Trinh (1635-1713) con gái của Định Nam Vương Khổng Hữu Đức. hổng Hữu Đức vốn thuộc Hán Quân Chính Hồng Kỳ, đối với triều Thanh nam chính Bắc chiến, có nhiều công lao
Năm 1652 Ông bị đánh bại bởi một tướng nhà Minh - Lý Định Quốc, cả nhà hơn 200 người thiệt mạng, con trai duy nhất cũng bị giết.
Chỉ còn con gái Khổng Tứ Trinh còn sống, và chạy thoát.
Năm 1654 2 năm sau cuộc chạy trốn, Khổng Tứ Trân liều mình quay trở lại Bắc Kinh, cầu xin Thuận Trị Hoàng đế cho cha là Khổng Hữu Đức được chôn cất tại Bắc Kinh.
Thuận Trị hoàng đế vì những công lao của ông với triều đình liền đồng ý, truy phong Khổng Hữu Đức là Định Nam Vương, lập đền thờ tại Bắc Kinh.
Tấm lòng hiểu thảo của Khổng Tứ Trinh, Hiếu Trang Thái Hoàng Thái Hậu nhận nàng làm con gái nuôi, phong hiệu Hòa Thạc Cách Cách và giữ lại trong cung nuôi dưỡng.
Sau đó không lâu, Không Tứ Trinh được gả cho Tôn Diên Linh. Khổng Hữu Đức đã chết, không còn con trai nối dõi, nên khi cưới Khổng Tứ Trinh, triều đình đã phong Tôn Diên Linh làm tướng quân chỉ huy trấn giữ tại Quế Lâm.

Khổng Tứ Trinh vốn xuất thân danh môn, con gái tướng quân, tính tình cương kiệt, sau khi gả cho Tôn Diên Linh vốn về chức vị, cấp bậc đều thua kém nàng, Khổng Tứ Trấn không hề để Tôn Diên Linh trong mắt, trước mặt chồng luôn lạnh lùng, kiêu hãnh. Tôn Diên Linh vì biết Khổng Tứ Trinh đối với triều đình dù là nữ nhân nhưng cũng có tiếng nói, lại là một Công Chúa, nên nhường kính chu đáo, hết mực sủng ái.
Một vài năm sau, nghe lời Khổng Tứ Trinh Tôn Diên Linh xin Khang Hy hoàng đế cho về Quảng Tây để sinh sống. Khang Hy phê chuẩn, phong Tôn Diên Linh thành "thượng trụ quốc" và Khổng Tứ Trinh thành nhất phẩm phu nhân.
Năm Khang Hy Thứ 12, 1673, Loạn Tam Phiên nổ ra, Ngô Tam Quế dẫn quân phản Thanh, Tôn Diên Linh tuy đang trấn giữ Quảng Tây, nhưng năng lực không đủ, các binh sĩ cũ của Khổng Hữu Đức không hề nghe theo lệnh ông. Tôn Diên Linh tiến thoái lương nan, không biết làm sao. Binh biến xảy ra, Khổng Tứ Trinh giúp chồng dẹp loạn, lập công ngang những đáng nam nhi khác. Tuy nhiên, phận nữ nhân trong binh biến, năm 1675, Quế Lâm Thất thủ, chồng và con trai Khổng Tứ Trân bị bắt và giết hại. Bà bị bắt và giam lỏng ở Côn Minh trong 8 năm.
Đến tận năm 1682, khi Vua Khang Hy dẹp yên "Loan Tam phiên"  Quân Thanh chiếm được Côn Minh, Khổng Tú Trinh mới được cứu và đón quay trở về Bắc Kinh, nơi bà vẫn có được lòng trung thành tuyệt đối của các tướng sĩ dưới trướng cha bà.
Năm 1713, sau gần 30 năm cô độc, bà qua đời. Triều Đình nhà Thanh đã tổ chức Tang Lễ rất lớn, cho vị cách cách người Hán bạc mệnh này.
Sở dĩ, mình hứng thú với cuộc đời bà, vì mộ của bà hiện giờ vẫn chưa được tìm thấy, nhiều truyền thuyết cũng cho rằng, bà chính là nàng Cách cách người Hán oanh oanh liệt liệt một thời và được chôn ở "Mộ Công Chúa Phía Tây" Bắc Kinh.

Cuối cùng, dù nàng Hoàn Châu cách cách trong tiểu thuyết Quỳnh Dao hoàn toàn là hư cấu, nhưng Khổng Tứ Trinh cũng cho chúng ta thấy, triều thành thật sự đã có một nàng cách cách anh dũng, kiêu hãnh và rất "Tiểu yến tử" đúng không?

--------------------

*Loạn Tam phiên (1673-1681) là cuộc chiến giữa 3 phiên vương phía nam lãnh thổ Trung Quốc do Ngô Tam Quế cầm đầu chống lại vương triều nhà Thanh cuối thế kỷ 17

*Ảnh 3: Chiếc chông tại núi Fubo Quảng tây có khắc tên Khổng Tứ Trinh, như minh chứng cho nàng cách cách oanh liệt một thời

Ai còn nhớ bộ phim này chắc già lắm rồi ?
Chương 38

Nguồn thiếu chương, mong độc giả thông cảm!

Chương 39

Nguồn thiếu chương, mong độc giả thông cảm!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40-41-42


Chương 40

Nguồn thiếu chương, mong độc giả thông cảm!

Chương 41

Nguồn thiếu chương, mong độc giả thông cảm!

C42: Y Phục Thời Thanh (phần 1)

Thanh cung Triều bào




Y phục nữ
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
619,357
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43: C43: Y Phục Thời Thanh (phần 2)


Y phục nữ nhân


-----------------------

Y phục biểu diễn






Hết.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom