Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60


“Khi Stoichev đọc xong, Helen và cha ngồi lặng yên một lúc lâu. Stoichev cũng lắc đầu và đưa tay lên che mặt tựa như để đánh thức bản thân ra khỏi một giấc mơ. Sau cùng Helen cũng lên tiếng. ‘Cùng một hành trình đó... chắc chắn cùng một hành trình đó.’

“Stoichev quay sang Helen. ‘Tôi tin là vậy. Và chắc chắn các tu sĩ trong nhóm của Sư huynh Kiril đã vận chuyển thi hài của Vlad Ţepeş.’

“ ‘Và như thế có nghĩa là, ngoại trừ hai người đã bị người Thổ giết, bọn họ đã đến được một tu viện Bungari an toàn. Sveti Georgi... tu viện đó ở đâu nhỉ?’

“Đó là câu hỏi mà cha muốn nêu ra nhất trong số những thắc mắc đang đè nặng trong cha. Stoichev bóp trán. ‘Ước gì tôi biết được,’ ông lẩm bẩm. ‘Chẳng ai biết cả. Không có tu viện nào có tên là Sveti Georgi trong vùng Bachkovo, và cũng chẳng có chứng cứ nào chứng tỏ đã từng có một tu viện như vậy ở đó. Sveti Georgi là một trong vài tu viện thời Trung cổ ở Bungari mà chúng tôi biết là từng tồn tại nhưng đã biến mất trong những thế kỷ đầu tiên dưới gông cùm của đế chế Ottoman. Có thể nó đã bị phóng hỏa, đá của nó phân tán khắp nơi hoặc được sử dụng cho những công trình xây dựng khác.’ Ông nhìn chúng ta bằng ánh mắt buồn bã. ‘Nếu người Thổ có lý do nào đó để căm ghét hoặc sợ hãi tu viện này thì có lẽ nó đã bị phá hủy hoàn toàn rồi. Chắc chắn là, cũng như tu viện Rila, họ không cho phép xây dựng lại nó. Đã có lúc tôi rất quan tâm tìm kiếm vị trí của tu viện Sveti Georgi.’ Ông chợt dừng lại một lát. ‘Sau khi ông bạn Angelov qua đời, tôi đã cố tiếp tục nghiên cứu của ông ấy một thời gian. Tôi đã tìm đến Bachkovski manastir(1) _, trò chuyện với các tu sĩ cũng như hỏi han nhiều người ở xứ đó, nhưng chẳng ai biết gì về tu viện mang tên Sveti Georgi. Tôi cũng chưa bao giờ tìm thấy cái tên đó trên bất kỳ tấm bản đồ cổ nào. Tôi đã tự hỏi phải chăng Stefan cung cấp cho Zacharias một cái tên giả của tu viện. Tôi nghĩ, ít nhất phải có một truyền thuyết lưu truyền giữa những người dân trong vùng nếu di hài của một nhân vật quan trọng như Vlad Dracula được chôn cất ở đó. Trước khi chiến tranh bùng nổ, tôi đã muốn đến Snagov để xem liệu có thể biết thêm được điều gì ở đó...’

“ ‘Nếu đi, có thể ông đã gặp thầy Rossi, hoặc ít nhất là nhà khảo cổ kia - ông Georgescu,’ cha gần như reo lên.

“ ‘Có thể.’ Ông mỉm một nụ cười kỳ lạ. ‘Nếu ông Rossi và tôi quả thực gặp nhau ở đấy, có lẽ chúng tôi đã có thể kết nối những gì cả hai biết lúc đó, trước khi quá trễ.’

“Cha băn khoăn không biết liệu có phải ý ông là, Trước cuộc cách mạng ở Bungari, trước khi tôi bị lưu đày ở chốn này; cha không muốn hỏi. Tuy nhiên, chỉ một lát sau Stoichev tự giải thích. ‘Các bạn thấy đó, tôi đã dừng nghiên cứu một cách khá đột ngột. Ngày trở về từ vùng Bachkovo, tâm trí tôi nung nấu kế hoạch đi Rumani, nhưng tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng đáng sợ khi trở về căn hộ của mình ở Sofia.’

“Ông lại ngưng nói, mắt nhắm nghiền. ‘Tôi đã cố không nghĩ về cái ngày đó. Trước tiên, tôi cần phải cho các bạn biết tôi có một căn hộ nhỏ gần Rimskaya stena - bức tường do người La Mã xây ở Sofia, một địa điểm rất cổ xưa - tôi rất ưa thích căn hộ này vì lịch sử của thành phố vây bọc xung quanh nó. Tôi ra ngoài để mua các vật dụng linh tinh, để mớ giấy tờ và sách vở về Bachkovo cùng các tu viện khác trên bàn. Khi trở về tôi nhận ra có ai đó đã xáo trộn tất cả đồ đạc của mình, các cuốn sách bị kéo ra khỏi kệ, tủ tường bị lục soát. Trên bàn, rải khắp mớ giấy tờ, là một vệt máu nhỏ. Hẳn các bạn cũng biết mực làm ố một trang giấy là như thế nào...’ Ông chợt dừng lại, nhìn như xuyên thấu chúng ta. ‘Nằm ngay giữa bàn là một cuốn sách mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy...’ Ông đột ngột đứng dậy, lê bước vào một phòng khác, chúng ta nghe tiếng ông bước quanh, dời chuyển các cuốn sách. Lẽ ra cha nên đứng dậy giúp ông một tay, nhưng thay vì vậy, cha lại ngồi nhìn Helen chằm chằm, có vẻ như cô cũng đang chết lặng.

“Một lúc sau, Stoichev quay lại, trong tay là một cuốn sách khổ đôi lớn, bìa bọc da đã sờn rách. Ông đặt cuốn sách trước mặt chúng ta, chúng ta nhìn ông ngập ngừng lật từng trang bằng bàn tay già nua, và ông lẳng lặng cho chúng ta xem những trang giấy trắng, rồi một hình to tướng ở giữa cuốn sách. Con rồng ở đây trông có vẻ nhỏ hơn do khoảng trống đáng kể của khổ giấy đôi còn lại chung quanh, nhưng chắc chắn đó vẫn là bức tranh khắc gỗ kia, vẫn là vết nhòe mà cha đã nhận ra trong cuốn sách của anh bạn Hugh James. Còn có một vết nhòe khác nằm giữa đường viền màu vàng gần móng vuốt của con rồng. Stoichev trỏ vào đó, nhưng có vẻ như ông quá bị chi phối bởi một xúc cảm nào đó - có thể là ghê tởm, có thể là sợ hãi - đến độ dường như trong một thoáng ông đã quên bẵng phải nói với chúng tôi bằng tiếng Anh. ‘Kr’v,’ ông nói. ‘Máu.’ Cha cúi sát xuống. Vết dơ màu nâu rõ ràng là một dấu tay.

“ ‘Lạy Chúa.’ Cha nhớ lại chú mèo tội nghiệp của mình, và ông bạn Hedges của thầy Rossi. ‘Liệu có còn ai khác hoặc cái gì khác trong phòng lúc đó không? Ông đã làm gì khi nhìn thấy dấu máu này?’

“ ‘Không có ai trong phòng cả,’ ông nói nhỏ. ‘Cửa đã khóa và vẫn còn khóa khi tôi trở về, bước vào nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ đó. Tôi đã gọi cảnh sát, họ xem xét khắp nơi và sau cùng đã - nói thế nào nhỉ? - đã phân tích mẫu máu tươi đó và so sánh. Ít nhất họ cũng dễ dàng phát hiện ra mẫu máu đó là của ai.’

“ ‘Của ai?’ Helen chồm tới.

“Giọng Stoichev thậm chí còn nhỏ hơn nữa, vì vậy cha cũng phải chồm tới mới nghe được những lời ông thì thào. Mồ hôi tứa ra trên khuôn mặt nhăn nheo. ‘Của tôi,’ ông trả lời.

“ ‘Nhưng...’

“ ‘Không, dĩ nhiên là không phải rồi. Tôi đâu có mặt ở đó. Nhưng cảnh sát cho là tôi đã tự dàn dựng mọi chuyện. Điều duy nhất không bình thường là dấu tay này. Họ nói là chưa bao giờ nhìn thấy một dấu tay người giống như vậy - quá ít đường vân. Họ trả lại tôi cuốn sách và mớ giấy tờ, cũng như buộc tôi phải nộp một số tiền phạt vì tội giỡn mặt với pháp luật. Tôi còn suýt mất vị trí giảng viên.’

“ ‘Và ông từ bỏ nghiên cứu?’ cha đoán.

“Stoichev nhún đôi vai gầy, vẻ bất lực. ‘Đó là dự án duy nhất mà tôi không thể tiếp tục. Thậm chí lúc đó tôi vẫn có thể tiếp tục, nếu không vì cái này.’ Ông chậm rãi lật đến trang thứ hai của cuốn sách khổ đôi. ‘Đây, cái này,’ ông lặp lại, và trên trang giấy chúng ta nhìn thấy một chữ duy nhất, nắn nót viết tay theo lối cổ bằng một thứ mực màu dịu và cũng xưa cũ không kém. Lúc đó cha chỉ biết bảng chữ cái Kiril nổi tiếng kia đủ để đọc được chữ đó, dù ký tự đầu tiên làm cha băn khoăn mất một lát. Helen đọc thành tiếng chữ đó. ‘STOICHEV,’ cô thì thầm. ‘Ôi, ông thấy tên chính mình trong cuốn sách. Kinh khủng quá.’

“ ‘Phải, chính tên tôi, mà bằng kiểu chữ viết tay và thứ mực rõ ràng là thuộc thời Trung cổ. Tôi luôn hối tiếc rằng mình thật hèn nhát khi không tiếp tục dự án này, nhưng quả thực tôi thấy sợ. Tôi đã nghĩ sẽ có chuyện xảy đến với tôi - như chuyện đã xảy ra với cha cô.’

“ ‘Ông sợ là đúng,’ cha an ủi vị học giả già. ‘Nhưng chúng tôi hy vọng mọi chuyện không quá trễ đối với giáo sư Rossi.’

“Ông ngồi thẳng người trên ghế. ‘Đúng vậy. Nếu bằng cách nào đó chúng ta tìm được Sveti Georgi. Trước tiên, chúng ta phải đến Rila để xem qua những lá thư khác của Sư huynh Kiril. Như tôi đã nói, tôi chưa bao giờ liên kết chúng với tập “Biên niên ký” của Zacharias. Tôi không có bản sao những lá thư ấy ở đây, và chính quyền tại Rila cũng không cho phép công bố chúng, mặc dù nhiều sử gia - trong đó có cả bản thân tôi - đã yêu cầu điều này. Và tôi cũng muốn các bạn nói chuyện với một người ở Rila. Dù có thể ông ta cũng không giúp được gì.’

“Trông Stoichev có vẻ như còn muốn nói thêm một điều gì đó, nhưng ngay lúc ấy chúng ta nghe tiếng bước chân rầm rập trên cầu thang. Ông cố đứng dậy rồi liếc nhìn cha bằng ánh mắt khẩn cầu. Cha chộp lấy cuốn sách khổ đôi và phóng vào phòng kế bên, giấu cuốn sách sau một chiếc hộp. Cha kịp quay trở lại với Stoichev và Helen đúng lúc Ranov mở cánh cửa thư viện.

“ ‘Chà,’ gã thốt lên. ‘Một hội nghị của các nhà sử học. Ông đã bỏ lỡ buổi tiệc của chính mình rồi, thưa giáo sư.’ Không cần khách sáo che đậy, gã xem lướt qua các cuốn sách và mớ giấy tờ trên bàn, sau cùng cầm lên tờ tạp chí cũ mà có những đoạn “Biên niên ký” của Zacharias mà Stoichev đã đọc cho chúng ta nghe. ‘Đây là thứ mà các bạn lưu tâm phải không?’ Gã gần như mỉm cười với chúng ta. ‘Có lẽ tôi cũng nên đọc qua, để trau dồi kiến thức của mình ấy mà. Tôi vẫn rất mù mờ về thời Trung cổ của Bungari. Cô cháu gái khó hiểu của giáo sư không quan tâm đến tôi như tôi nghĩ. Tôi đã đưa ra một lời mời rất nghiêm chỉnh nơi góc vườn đẹp nhất của ngài, nhưng cô ấy lại kháng cự.’

“Stoichev đỏ mặt giận dữ và có vẻ như sắp tuôn ra lời gì đó, nhưng cha ngạc nhiên khi Helen can thiệp. ‘Đừng có chạm bàn tay dơ dáy của anh vào cô ấy,’ cô cao giọng, nhìn thẳng vào mắt gã. ‘Anh có mặt ở đây là để quấy rầy chúng tôi chứ nào phải cô ấy.’ Cha chạm vào tay Helen, hy vọng bằng cách nào đó cô sẽ không làm cho gã đàn ông kia nổi điên lên; không cần thêm một thảm họa chính trị chúng ta cũng đủ khổ sở rồi. Nhưng cô và Ranov chỉ trừng trừng nhìn nhau một lúc lâu, vẻ cân nhắc đánh giá nhau, rồi quay đi.

“Trong lúc đó, Stoichev đã kịp trấn tĩnh lại. ‘Sẽ vô cùng ích lợi cho công trình nghiên cứu của các vị khách này nếu anh có thể thu xếp cho họ đến Rila,’ ông nói với Ranov, vẻ điềm tĩnh. ‘Tôi cũng muốn cùng đi với họ, tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh nếu được đích thân dẫn họ đi xem thư viện Rila.’

“ ‘Rila ư?’ Ranov như đang xem xét tờ tạp chí trong tay nặng nhẹ thế nào. ‘Được thôi. Đó sẽ là điểm tham quan kế tiếp của chúng ta. Có thể là ngày mốt. Tôi sẽ nhắn tin cho ông, thưa giáo sư, để báo cho ông biết khi nào ông có thể gặp chúng tôi ở đó.’

“ ‘Ngày mai không được hay sao?’ Cha cố làm ra vẻ tự nhiên.

“Stoichev gật đầu. ‘Phải kiên nhẫn chờ đợi thôi, trong thời gian đó các bạn có thể thưởng thức cảnh đẹp của Sofia. Nào, các bạn, đây là cuộc trao đổi ý kiến thú vị, nhưng chắc hẳn Kiril và Methodii cũng chẳng phiền lòng nếu chúng ta còn ăn uống vui vẻ nữa. Cô Rossi...’ Ông đưa bàn tay yếu ớt về phía Helen và cô giúp ông đứng dậy. ‘Quàng lấy tay tôi và chúng ta sẽ đi ăn mừng ngày của việc dạy và học.’

“Những khách khứa khác đã bắt đầu tụ tập dưới giàn lưới mắt cáo, chúng ta nhận ra ngay lý do: ba chàng trai trẻ tuổi đang lôi từ trong túi ra các nhạc cụ và dựng chúng gần khu bàn ăn. Anh chàng cao lêu nghêu có mái tóc đen bù xù đang thử phím một cây accordeon màu đen và bạc. Một người khác cầm kèn clarinet. Anh ta thử dạo một vài nốt trong khi người nhạc công thứ ba bày ra một trống da lớn và chiếc dùi dài đầu bọc vải. Họ ngồi xuống ba chiếc ghế kê sát và nhìn nhau cười toe toét, họ thử dạo một hai điệu nhạc, chỉnh lại tư thế ngồi. Anh chàng chơi kèn clarinet cởi áo khoác ra.

“Rồi họ liếc nhìn nhau và bất chợt, thứ âm nhạc sôi nổi nhất mà cha từng nghe tuôn chảy. Stoichev cười rạng rỡ trên ngai của mình, phía sau chú cừu nướng, và Helen ngồi sát bên cha, siết chặt cánh tay cha. Đó là một âm thanh quay cuồng bốc cao như lốc xoáy, rồi bật nảy theo một nhịp điệu tuy xa lạ nhưng cha vẫn không thể cưỡng lại không nhịp chân theo. Cây accordeon dìu dặt kéo ra xếp vào, những nốt nhạc vút lên từ ngón tay anh chàng nhạc công. Cha sững sờ trước tốc độ và sức lực họ dồn vào bản nhạc. Điệu nhạc làm dậy lên trong đám đông những tiếng hò reo vui vẻ đầy phấn khích.

“Chỉ vài phút sau, một vài người bật dậy, người này nắm lấy thắt lưng người kia, nối đuôi nhau bắt đầu một điệu nhảy sôi nổi không kém gì tiếng nhạc. Những đôi giày bóng láng nâng lên, giậm xuống trên mặt cỏ. Chẳng bao lâu, vài phụ nữ váy áo trang nhã cũng tham gia, họ nhảy với phần thân trên thẳng và bất động trong khi chân xoay tít quay cuồng. Gương mặt những người tham gia nhảy múa rạng rỡ; tất cả đều tựa như không thể nào ngăn được tiếng cười, anh chàng chơi đàn accordeon cũng nhe răng cười hưởng ứng. Người đàn ông dẫn đầu hàng rồng rắn rút ra một khăn tay màu trắng, giơ cao và quay tròn chiếc khăn. Mắt Helen sáng bừng, cô nhịp tay lên cạnh bàn tựa như không thể ngồi yên được. Các nhạc công chơi nhạc không ngừng trong lúc số người còn lại chúng ta hò reo, nâng ly chúc mừng họ, và những người tham gia nhảy múa cũng chưa có dấu hiệu muốn ngừng. Cuối cùng, tiếng nhạc ngưng và hàng rồng rắn cũng rã đám, những người khiêu vũ vừa lau mồ hôi đầm đìa trên mặt vừa bật cười to. Các ông lại châm đầy ly rượu, các bà thì lục tìm khăn tay, vuốt lại mái tóc, cười khúc khích với nhau.

“Anh chàng accordeon lại bắt đầu trỗi nhạc, nhưng lần này là những nốt nhạc chậm, rung, ngân dài thành một âm điệu rền rĩ. Anh ta ngửa mái đầu bù xù ra sau và cất tiếng hát. Thực ra là nửa hát nửa rền rĩ, một giai điệu cất lên bằng giọng nam trung quá thống thiết đến độ cha thấy quặn thắt trong lòng vì cảm giác mất mát, vì tất cả những mất mát trong cuộc đời mình. ‘Anh ta hát gì vậy?’ cha hỏi Stoichev để che giấu nỗi xúc động.

“ ‘Đó là một bài hát xưa, rất xưa - tôi nghĩ ít nhất là ba hoặc bốn trăm năm tuổi. Bài hát kể chuyện một thôn nữ Bungari xinh đẹp bị những kẻ xâm lăng Thổ Nhĩ Kỳ săn đuổi. Chúng muốn nàng về làm thiếp trong hậu cung của tên quan tổng trấn địa phương, nhưng nàng đã cự tuyệt. Chúng phi ngựa đuổi theo khi nàng chạy trốn lên một ngọn núi cao gần làng. Trên đỉnh núi đó là một vách đá. Nàng thét lên rằng thà chết chứ không thể trở thành thiếp của một kẻ vô đạo, rồi gieo mình xuống vách đá. Sau đó, một dòng suối đã xuất hiện dưới chân núi, đó là dòng nước tinh khiết, ngọt ngào nhất thung lũng.’

“Helen gật đầu. ‘Ở Rumani chúng tôi cũng có những bài hát nội dung tương tự.’

“ ‘Tôi nghĩ chúng hiện diện ở bất kỳ nơi nào gông cùm của đế chế Ottoman rơi xuống đầu người dân vùng Balkan,’ Stoichev nói, vẻ mặt ảm đạm. ‘Trong nền văn hóa dân gian Bungari có hàng ngàn bài hát như vậy, với các chủ đề khác nhau - tất cả đều là tiếng thét phản kháng lại ách nô lệ áp đặt lên dân tộc chúng tôi.’

“Dường như cảm thấy đã đủ làm trái tim chúng ta quặn thắt, anh chàng nhạc công accordeon nở nụ cười lém lỉnh khi bài hát kết thúc và bắt qua một bản khiêu vũ khác. Lần này, hầu hết đám khách khứa đều đứng dậy tham gia vào hàng rồng rắn quanh sân. Một vị khách thúc giục chúng ta cùng tham gia, chỉ một lát sau Helen đã hòa mình cùng họ, dù cha vẫn ngồi yên cạnh Stoichev, say sưa ngắm nhìn cô. Sau vài bước Helen đã hòa nhập với điệu nhảy. Khiêu vũ dường như đã nằm trong máu cô; dáng cô tự nhiên, chân cô chuyển động vững vàng theo nhịp điệu sôi nổi. Dõi theo thân hình mềm mại trong bộ áo cánh màu nhạt và váy đen ấy, gương mặt tươi vui rạng rỡ lòa xòa những lọn tóc quăn đen ấy, cha nhận ra mình đang nguyện cầu để đừng xảy ra chuyện gì làm tổn hại đến cô, và tự hỏi liệu cô có chịu để cha che chở cô hay không.”

Chú thích:

1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "tu viện Bachkovo".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61


“Nếu ấn tượng đầu tiên khi nhìn ngôi nhà của Stoichev đã bất chợt làm dâng lên trong cha nỗi thất vọng, thì ấn tượng ban đầu khi thấy tu viện Rila lại làm cha choáng ngợp nỗi kinh sợ. Tu viện nằm trong một thung lũng sâu hút - vào thời điểm đó gần như chiếm cả thung lũng - còn trên các bức tường và mái vòm là những ngọn núi trong dãy Rila, sừng sững vút lên, dựng đứng và phủ dày những cánh rừng vân sam. Ranov dừng xe trong bóng râm phía ngoài cổng chính, và chúng ta đi vào cùng vài nhóm khách du lịch khác. Đó là một ngày hanh nóng; mùa hè vùng Balkan dường như đang đến gần, bụi bặm từ nền đất cuộn lên quanh mắt cá chân chúng ta. Cánh cửa gỗ lớn của cổng chính để mở, chúng ta bước vào và nhìn thấy một cảnh tượng mà cha chưa bao giờ quên được. Chung quanh chúng ta lù lù hiện ra những bức tường của pháo đài tu viện, với những sọc đen, đỏ trên nền thạch cao trắng và những tầng hành lang gỗ dài. Chiếm một phần ba khu vực bên trong là một nhà thờ thanh nhã, cổng vòm đầy những bức bích họa, các mái vòm màu xanh lục nhạt sáng bừng lên dưới nắng ban trưa. Bên cạnh nhà thờ là một ngọn tháp đá xám vuông vắn, đồ sộ, rõ ràng cổ xưa hơn mọi thứ khác trong tầm mắt. Stoichev cho chúng ta biết đó là tháp Hrelyo, do một nhà quý tộc thời Trung cổ xây dựng làm nơi ẩn náu khỏi các đối thủ chính trị. Đó là phần còn lại duy nhất của tu viện nguyên thủy vốn đã bị quân Thổ phóng hỏa tiêu hủy, công trình tráng lệ với những sọc đen đỏ hiện nay mãi tới nhiều thế kỷ sau mới được xây dựng. Khi chúng ta đang đứng đó, chuông nhà thờ bỗng ngân vang, khiến một bầy chim sợ hãi bay lên. Những con chim giật mình vút lên cao, cha dõi theo chúng và lại nhìn thấy những đỉnh núi cao đến khó tưởng tượng nổi phía bên trên - ít nhất cũng phải một ngày leo núi. Cha nín thở; liệu thầy Rossi có đang ở đâu đó trong chốn cổ xưa này?

“Đứng sát bên với một chiếc khăn nhỏ buộc trên tóc, Helen quàng tay vào tay cha, và cha chợt nhớ lại khoảnh khắc ở thánh đường Hagia Sophia, khi cô chợt nắm chặt tay cha, buổi chiều đó ở Istanbul có vẻ như đã trôi qua lâu lắm rồi dù thực sự chỉ mới vài ngày trước đây. Đế chế Ottoman đã chinh phục vùng đất này rất lâu trước khi chiếm Constantinople; đúng ra, chúng ta nên bắt đầu cuộc hành trình tìm ở đây chứ không phải ở Hagia Sophia. Mặt khác, ngay cả trước khi vùng đất này bị chinh phục, những học thuyết của người Byzantine cũng như nghệ thuật và kiến trúc tao nhã của họ đã được truyền bá từ Constantinople sang để làm phong phú thêm nền văn hóa Bungari. Ngày nay Hagia Sophia là một viện bảo tàng giữa các nhà thờ Hồi giáo, trong khi cái thung lũng hẻo lánh này lại đầy ắp những đặc trưng của nền văn hóa Byzantine.

“Đứng bên cạnh chúng ta, Stoichev rõ ràng đang khoái trá tận hưởng sự ngạc nhiên của Helen và cha. Dưới chiếc mũ rộng vành, Irina ôm cứng tay ông cậu mình. Chỉ mình Ranov đứng lẻ loi, nhìn quang cảnh đẹp tuyệt vời này bằng ánh mắt cau có, gã nghi ngờ quay đầu lại khi một nhóm tu sĩ đội mũ trùm đen đi ngang qua chúng ta để vào nhà thờ. Chúng ta phải vất vả lắm mới thuyết phục được gã đồng ý đón Stoichev và Irina đi cùng xe; gã nói muốn dành cho Stoichev cái vinh dự được chỉ dẫn chúng ta ở Rila, nhưng Stoichev không có lý gì mà không thể sử dụng xe buýt như những người dân Bungari khác. Cha đã cố kiềm chế không huỵch toẹt ra là chính gã, Ranov, cũng đâu có vẻ mặn mà lắm nếu bản thân phải sử dụng xe buýt. Cuối cùng chúng ta cũng thuyết phục được gã, dù điều này cũng không thể ngăn gã càu nhàu về Stoichev suốt trên đường từ Sofia đến nhà vị giáo sư già. Nào là Stoichev đã sử dụng danh tiếng của mình để rao truyền sự mê tín dị đoan và những ý tưởng đi ngược lại với tinh thần yêu nước; tất cả mọi người đều biết ông ta đã không chịu từ bỏ lòng trung thành mù quáng, thiếu cơ sở khoa học đối với giáo hội Chính Thống giáo; ông ta còn có một người con trai đang học ở Tây Đức cũng phản động không kém gì cha mình. Nhưng chúng ta đã thắng cuộc, Stoichev được đi cùng xe với chúng ta, và trong lúc dừng lại ăn trưa tại một quán rượu miền núi Irina thì thầm với vẻ biết ơn rằng cô sẽ ngăn không cho ông cậu đi nếu họ phải đi bằng xe buýt; ông sẽ không chịu nổi một chuyến đi khó nhọc như vậy trong thời tiết nóng bức này.

“ ‘Đây là cánh bên nơi các tu sĩ ở,’ Stoichev lên tiếng. ‘Và ở đằng kia, dọc theo cánh đó, là khu nhà trọ nơi chúng ta sẽ qua đêm. Mặc dù ban ngày tấp nập du khách, nhưng các bạn sẽ cảm nhận được sự tĩnh mịch vô cùng của nơi này vào ban đêm. Đây là một trong những kho báu tuyệt vời nhất của đất nước chúng tôi, có rất nhiều người đến đây tham quan, đặc biệt là vào mùa hè. Nhưng đến đêm thì cảnh vật lại trở nên tĩnh lặng. Nào,’ ông tiếp tục, ‘chúng ta sẽ vào trong để gặp cha tu viện trưởng. Tôi đã gọi cho ông ấy hôm qua, có lẽ ông ấy đang mong chúng ta.’ Stoichev dẫn đường với vẻ hăng hái bất ngờ, hăm hở nhìn quanh, tựa như nơi này đã thổi vào ông một luồng sinh khí mới.

“Chúng ta đến dãy phòng tiếp khách của cha tu viện trưởng ở tầng trệt bên một cánh tu viện. Một tu sĩ mặc áo chùng đen có bộ râu dài màu nâu mở cửa cho chúng ta, Stoichev bỏ mũ ra và bước vào trước tiên. Cha tu viện trưởng đứng lên khỏi chiếc ghế băng dài đặt sát tường và bước ra đón chúng ta. Ông và Stoichev chào hỏi nhau rất thân mật, Stoichev hôn tay ông, còn ông thì làm dấu ban phước lành cho vị giáo sư già. Cha tu viện trưởng khoảng sáu mươi, gầy gò nhưng dáng người vẫn thẳng, râu đã chớm bạc và mắt xanh trầm tĩnh - cha khá ngạc nhiên khi nhận ra có những người Bungari mắt xanh như vậy. Bằng kiểu cách rất hiện đại, ông bắt tay chúng ta và cả Ranov, gã chào lại với vẻ khinh khỉnh ra mặt. Sau đó, ông ra hiệu mời tất cả chúng ta ngồi xuống, một tu sĩ bưng vào một khay đầy ly - nhưng ở đây thì đó không phải là những ly đầy rakiya mà là nước mát, cùng với những đĩa nhỏ bột tinh chất hoa hồng mà chúng ta đã từng gặp ở Istanbul. Cha để ý thấy Ranov không thèm đụng đến ly nước của mình, tựa như gã nghi ngờ có thuốc độc.

“Cha tu viện trưởng rõ ràng rất vui khi gặp Stoichev, cha nghĩ cuộc thăm viếng này hẳn khiến cho cả hai vô cùng mãn nguyện. Thông qua Stoichev, ông hỏi chúng ta ở vùng nào tại Mỹ, ông có thể làm gì giúp chúng ta, chúng ta có thể ở lại bao lâu. Stoichev nói chuyện với ông một lúc lâu, đồng thời ân cần dịch lại để chúng ta có thể trả lời những câu hỏi của tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng tuyên bố chúng ta có thể sử dụng thư viện bao lâu tùy thích; chúng ta có thể ngủ ở khu nhà trọ; chúng ta nên tham gia các buổi lễ trong nhà thờ; chúng ta có thể đi bất cứ đâu ngoại trừ khu vực của các tu sĩ - ông nói câu này với một cái gật đầu tế nhị hướng về Helen và Irina - và sẽ không có chuyện bạn bè giáo sư Stoichev phải trả tiền trọ. Chúng ta nồng nhiệt cảm ơn ông, rồi Stoichev đứng dậy. ‘Nào,’ ông nói, ‘vì đã được cha tu viện trưởng cho phép, chúng ta sẽ đến thư viện ngay.’ Chưa dứt lời ông đã bước ra cửa một cách thận trọng, không quên hôn tay và cúi chào cha tu viện trưởng.

“ ‘Cậu tôi rất xúc động,’ Irina thì thầm với chúng ta. ‘Ông nói lá thư của các bạn là một phát hiện lớn đối với lịch sử Bungari.’ Cha tự hỏi cô có biết nghiên cứu này khó khăn nhiều như thế nào, những thế lực vô hình nào chặn ngang đường chúng ta, nhưng cha không thể đoán được gì qua nét mặt Irina. Cô gái giúp ông cậu của mình bước qua cửa, và chúng ta theo ông đi dọc những hành lang gỗ mênh mông ở khu sân trong, Ranov theo đuôi chúng ta, điếu thuốc kẹp trong tay.

“Thư viện là một gian phòng dài ở tầng trệt, gần như đối diện với các căn phòng của cha tu viện trưởng. Một tu sĩ râu đen đón ở cửa và dẫn chúng ta vào; ông ta cao, nét mặt u ám, và cha thấy dường như ông ta chăm chú nhìn Stoichev một lúc trước khi gật đầu chào chúng ta. ‘Đây là Sư huynh Rumen,’ Stoichev giới thiệu. ‘Hiện ông ấy là tu sĩ thủ thư. Ông ấy sẽ tìm cho chúng ta thứ chúng ta cần.’

“Một vài cuốn sách và bản thảo viết tay được đặt trong hộp kính, dán nhãn và trưng bày cho du khách; cha rất muốn dừng lại xem, nhưng chúng ta vẫn đi tiếp vào một khu ở sâu bên trong, lối vào khu này ở cuối phòng. Không khí mát lạnh kỳ lạ khi vào sâu trong tu viện, và những bóng đèn trần ít ỏi không đủ xua đi bóng tối thăm thẳm trong các ngóc ngách. Tại khu riêng biệt nội bộ này, tủ gỗ kệ gỗ chất đầy những hộp và khay sách. Trong góc là một ngai nhỏ đặt bức hình Đức Mẹ Đồng Trinh, Chúa Hài Đồng cùng các thiên thần cánh đỏ chầu hai bên, một ngọn đèn bằng vàng khảm ngọc quý đong đưa phía trước bức ảnh thánh. Những bức tường cổ kính trát vữa, quét vôi trắng, và một mùi quen thuộc tràn ngập xung quanh chúng ta: mùi của giấy da và lớp lông nhung đang dần phân hủy. Cha mừng là Ranov ít nhất cũng biết điều mà tắt điếu thuốc trước khi theo chúng ta bước vào kho báu này.

“Tiếng bước chân Stoichev gõ cồm cộp trên nền đá như muốn đánh thức những linh hồn đang còn lẩn quất đâu đây. ‘Ở đây,’ ông nói, ‘các bạn đang nhìn vào trái tim của dân tộc Bungari - đây là nơi hàng trăm năm qua các tu sĩ đã gìn giữ di sản của chúng tôi, thường là trong bí mật. Nhiều thế hệ tu sĩ trung thành đã bỏ công sao chép các bản thảo này hoặc cất giấu chúng khi tu viện bị những kẻ vô đạo tấn công. Đây chỉ là một phần nhỏ trong di sản của dân tộc chúng tôi - dĩ nhiên phần lớn đã bị phá hủy. Nhưng chúng tôi vẫn rất tự hào về những gì còn lại ở đây.’

“Stoichev quay qua nói gì đó với người thủ thư, ông này bắt đầu thận trọng dò tìm những chiếc hộp có gắn nhãn tên. Một lúc sau, ông ta nhấc xuống một hộp gỗ và lôi ra vài cuốn sách. Cuốn trên cùng trang trí một bức tranh Chúa Jesus trông rất ấn tượng - ít nhất cha cho đó là Chúa Jesus - một tay cầm quả cầu cắm thánh giá còn tay kia cầm vương trượng, gương mặt bao phủ nỗi u sầu của người Byzantine. Cha thấy khá thất vọng vì những lá thư của Sư huynh Kiril không nằm trong cuốn sách được đóng bìa lộng lẫy này mà ở trong cuốn sách đơn sơ hơn bên dưới, trông rất cổ xưa. Người thủ thư mang cuốn sách đến một chiếc bàn, Stoichev nôn nóng ngồi xuống, mở cuốn sách ra với vẻ hào hứng. Helen và cha rút sổ ghi chép ra, còn Ranov thì dạo quanh các kệ sách thư viện, vẻ như quá chán không thể ở yên một chỗ.

“ ‘Theo như tôi nhớ,’ Stoichev lên tiếng, ‘ở đây có hai lá thư, và không rõ liệu có còn lá thư nào khác hay không - liệu Sư huynh Kiril có viết những lá thư khác nhưng chúng không còn tồn tại hay không.’ Ông trỏ vào trang sách đầu tiên. Trang giấy da rất cũ, hầu như đã ngả màu nâu, chi chít những con chữ viết tay đẹp đẽ, tròn trịa và sít rịt bên nhau. Stoichev quay sang người thủ thư hỏi gì đó. ‘Đúng vậy,’ ông lại quay qua nói với chúng ta, vẻ hài lòng. ‘Cũng như với các tài liệu quý hiếm cùng thời kỳ, họ đã cho đánh máy những lá thư này qua tiếng Bungari.’ Người thủ thư đặt trước mặt ông một tập tài liệu, Stoichev ngồi lặng yên một lúc, xem xét các trang đánh máy và lật lui trang sách có chữ viết đẹp đẽ cổ kính kia. ‘Họ đã làm rất tốt,’ sau cùng ông cũng thốt lên. ‘Tôi sẽ cố gắng hết sức dịch ra để các bạn ghi lại.’ Rồi ông đọc cho chúng ta bản dịch các lá thư, với đôi chỗ còn hơi ngắc ngứ.

Thưa Đức cha tu viện trưởng Eupraxius,

Cho đến lúc này chúng tôi đã đi được ba ngày trên những con lộ chính từ Laota hướng về Vin. Chúng tôi đã trải qua một đêm trong chuồng gia súc của một nông dân tốt bụng, và một đêm tại viện tu khổ hạnh Thánh Mikhail, nơi đó dù hiện không còn tu sĩ nào sống nhưng ít nhất cũng cho chúng tôi một chỗ tá túc khô ráo. Đêm qua, lần đầu tiên chúng tôi buộc phải cắm trại trong rừng, trải chăn mền lên mặt đất gồ ghề, chúng tôi nằm xuống trong vòng tròn giữa toa xe và lũ ngựa. Trong đêm, lũ chó sói lảng vảng gần đến độ chúng tôi nghe được tiếng tru của chúng, lũ ngựa lồng lên vì sợ hãi. Phải rất khó khăn mới làm chúng dịu lại. Giờ tôi thấy mừng vô cùng vì có hai đạo hữu cao lớn khỏe mạnh là Sư huynh Ivan và Theodosius, cầu Chúa ban phước cho Đức cha đã sáng suốt cử họ đi cùng chúng tôi.

Đêm nay, chúng tôi được đón vào ở nhà một người chủ chăn cừu khá giàu và rất mộ đạo; ông ta cho biết mình nuôi ba ngàn con cừu trong khu vực này, chúng tôi được mời ngủ trên những tấm nệm da cừu êm ái, dù vậy riêng tôi vẫn chọn ngủ dưới nền nhà vì lòng mộ đạo. Lúc này chúng tôi đã ra khỏi khu vực rừng rậm, lọt vào giữa vùng đồi trải rộng bốn bề, nơi chúng tôi có thể thong dong bước đi dù là giữa nắng nôi mưa gió. Ông chủ nhà tốt bụng kể rằng đã hai lần bị những kẻ vô đạo bên kia sông cướp bóc, con sông cách đây chỉ vài ngày đi bộ nếu Sư huynh Angelus có thể bình phục và theo kịp chúng tôi. Tôi nghĩ sẽ để Sư huynh Angelus trên lưng ngựa, mặc dù cái gánh nặng thiêng liêng mà lũ ngựa đang ra sức kéo cũng đã quá nặng nề. May mắn là chúng tôi không còn nhìn thấy dấu vết của đám quân vô đạo trên đường.

Kẻ tôi tớ hèn mọn của ngài

Sư huynh Kiril

Tháng Tư, năm của Chúa 6985

Thưa Đức cha tu viện trưởng Eupraxius,

Chúng tôi đã bỏ thành phố lại sau lưng mấy tuần rồi và bây giờ đang công khai đi giữa lãnh thổ của quân vô đạo. Tôi không dám viết ra vị trí của chúng tôi, vì sợ sẽ bị bắt. Xét cho cùng, có lẽ chúng tôi nên chọn đường biển, nhưng Chúa sẽ là Đấng Che chở trên con đường chúng tôi đã chọn. Chúng tôi đã nhìn thấy những tàn tích của hai tu viện và một nhà thờ bị phóng hỏa. Ngôi nhà thờ vẫn còn đang bốc khói. Năm tu sĩ ở đó bị treo cổ vì tội âm mưu làm phản, các sư huynh còn sống sót đã chạy trốn tán loạn vào những tu viện khác. Chúng tôi chỉ biết có vậy bởi không thể trò chuyện lâu với những người dân ra cung nghinh đoàn chúng tôi. Tuy vậy, không có lý gì để cho rằng một trong các tu viện này là tu viện chúng ta tìm kiếm. Dấu hiệu ở đó đã rõ ràng, ác quỷ ngang hàng với thánh thần. Thưa Đức cha, nếu thư này được giao đến tay ngài, cầu cho nó đến càng sớm càng tốt.

Kẻ tôi tớ hèn mọn của ngài

Sư huynh Kiril

Tháng Sáu, năm của Chúa 6985

“Khi Stoichev dừng lời, chúng ta ngồi lặng yên. Helen vẫn đang hí hoáy ghi chép, vẻ mặt chăm chú, Irina ngồi chắp hai tay vào nhau, Ranov đứng dựa vào một cái tủ, tay gãi sồn sột lên cổ, vẻ lơ đễnh. Cha thì đã bỏ không cố ghi lại những sự kiện tả trong hai lá thư nữa; dù sao Helen cũng sẽ ghi lại được tất cả thôi. Trong các lá thư này chẳng có chứng cứ rõ ràng về một đích đến cụ thể, chẳng đề cập đến ngôi mộ hoặc cảnh chôn cất nào - cha cảm thấy thất vọng đến nghẹt thở.

“Nhưng Stoichev có vẻ như chẳng chán nản chút nào. ‘Thú vị thật,’ ông thốt lên, sau một lúc trầm ngâm. ‘Thú vị thật. Các bạn thấy không, tính theo trình tự thời gian thì lá thư ở Istanbul của các bạn chắc là ở giữa hai lá thư này. Trong hai lá thư đầu tiên, họ đi từ Wallachia hướng về sông Danube - căn cứ vào các địa danh thì đó là điều rõ ràng. Rồi đến lá thư của các bạn, lá thư Sư huynh Kiril viết tại Constantinople, có lẽ ông ta hy vọng gửi nó cùng các lá thư trước từ thành phố đó. Nhưng ông ta đã không thể gửi hoặc sợ không dám gửi - trừ phi đây chỉ là những bản sao - điều mà chúng ta không cách nào biết được. Và lá thư cuối cùng được viết vào tháng Sáu. Họ đi bằng đường bộ, giống như con đường được mô tả trong “Biên niên ký” của Zacharias. Thực ra, hai lộ trình chắc chỉ là một, từ Constantinople qua Edirne và Haskovo, bởi đó cũng là con đường chính từ Tsarigrad vào Bungari.

“Helen ngẩng lên. ‘Nhưng liệu chúng ta có chắc lá thư cuối cùng mô tả Bungari không?’

“ ‘Chúng ta không thể đoan chắc tuyệt đối được,’ Stoichev thừa nhận. ‘Tuy nhiên, tôi tin rất có thể là như vậy. Nếu họ đi từ Tsarigrad - tức là Constantinople - vào một đất nước mà các tu viện và nhà thờ bị đốt cháy vào cuối thế kỷ mười lăm, thì rất có khả năng đất nước đó là Bungari. Hơn nữa, lá thư Istanbul của các bạn cũng nói rõ là họ định đi Bungari.’

“Cha không thể không nói lên nỗi thất vọng của mình. ‘Nhưng đâu có thêm thông tin gì về vị trí cái tu viện họ đang tìm kiếm. Ngay cả khi thừa nhận đó là tu viện Sveti Georgi.’ Ranov đã ngồi vào bàn với chúng ta và đang săm soi ngón tay cái của mình; cha tự hỏi có nên giấu gã mối quan tâm của chúng ta về Sveti Georgi hay không, nhưng liệu có còn cách nào khác để hỏi Stoichev về tu viện ấy?

“ ‘Chẳng có gì cả.’ Stoichev gật đầu. ‘Sư huynh Kiril chắc chắn đã không viết tên đích đến của họ trong các lá thư, cũng như không nêu tên tu viện Snagov trong chức danh của cha tu viện trưởng Eupraxius. Nếu bọn họ bị bắt, những tu viện này cũng sẽ bị khủng bố theo, hoặc ít nhất là bị lục soát.’

“ ‘Trong lá thư có một dòng thú vị.’ Helen đã ghi chép xong. ‘Ông có thể đọc lại dòng đó chứ - về dấu hiệu để họ tìm được trong tu viện ác quỷ ngang hàng với thánh thần ấy? Ông nghĩ câu đó có ý gì?’

“Cha liếc nhanh qua Stoichev; câu đó cũng làm cha ngạc nhiên. Ông thở dài. ‘Có thể câu ấy đề cập đến một bức bích họa hoặc một ảnh thánh ở tu viện - ở Sveti Georgi, nếu quả thực đó là đích đến của họ. Thật khó hình dung hình ảnh ấy có thể là cái gì. Và ngay cả nếu chúng ta có tìm thấy tu viện Sveti Georgi thì cũng rất ít hy vọng một ảnh thánh đã có từ thế kỷ mười lăm vẫn còn ở đó, nhất là vì tu viện có thể đã bị phóng hỏa ít nhất một lần. Tôi không hiểu câu đó có ý gì. Thậm chí nó có thể là một ám chỉ về khía cạnh thần học mà cha tu viện trưởng hiểu được còn chúng ta thì không, hoặc có thể nó đề cập đến một bí mật riêng giữa hai người bọn họ. Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ câu đó trong đầu bởi Sư huynh Kiril đã nói rõ đó là dấu hiệu báo rằng họ đã đến đúng chỗ.’

“Cha vẫn đang phải chiến đấu với nỗi thất vọng của mình; lúc ấy cha nhận ra mình đã mong những con chữ đã phai nhòa theo năm tháng trong các lá thư kia nắm giữ chìa khóa quyết định đối với cuộc tìm kiếm của chúng ta, hoặc ít nhất soi rọi được điều gì đó lên các tấm bản đồ mà cha vẫn hy vọng sẽ dùng đến.

“ ‘Có một vấn đề quan trọng hơn và cũng rất lạ lùng.’ Stoichev đưa tay vuốt cằm. ‘Lá thư viết ở Istanbul cho biết vật báu mà họ tìm kiếm - có lẽ là một thánh tích ở Tsarigrad - nằm trong một tu viện nhất định ở Bungari, và đây là lý do vì sao họ phải đến đó. Phiền anh đọc lại đoạn thư ấy cho tôi.’

“Cha đã để sẵn lá thư Istanbul bên cạnh trong lúc nghiên cứu các lá thư khác của Sư huynh Kiril. ‘Lá thư viết, “… thứ chúng ta tìm kiếm đã được chuyển ra khỏi thành phố, đến một nơi an toàn trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng của Bungari.” ’

“ ‘Chính đoạn thư đó,’ Stoichev xác nhận. ‘Vấn đề là’ - ông gõ gõ ngón tay dài lên mặt bàn trước mặt - ‘tại sao người ta lại phải lén lút chuyển một thánh tích, cứ cho là vậy đi, ra khỏi Constantinople vào năm 1477? Thành phố này đã thuộc về người Ottoman từ năm 1453 và hầu hết các thánh tích đều đã bị phá hủy trong cuộc xâm chiếm đó. Tại sao hai mươi bốn năm sau tu viện Panachrantos lại phải gửi một thánh tích còn lại đến Bungari, và tại sao các tu sĩ này phải đến Constantinople để tìm cái thánh tích đặc biệt đó?’

“ ‘Chà,’ cha nhắc ông, ‘từ lá thư chúng ta biết được vệ binh hoàng gia cũng đang tìm kiếm thánh tích kia, điều này chứng tỏ nó cũng có giá trị nào đó đối với Quốc vương Hồi giáo.’

“Stoichev nói, giọng cân nhắc. ‘Đúng vậy, nhưng vệ binh hoàng gia chỉ tìm kiếm sau khi thứ đó đã được đưa ra khỏi tu viện.’

“ ‘Chắc hẳn nó là một vật thiêng có quyền lực chính trị đối với người Thổ, và đồng thời cũng là vật báu tâm linh đối với các tu sĩ Snagov.’ Helen cau mày, gõ gõ cây viết lên gò má. ‘Một cuốn sách chăng?’

“ ‘Đúng rồi,’ cha thốt lên, giọng đầy phấn khích. ‘Nếu là một cuốn sách chứa đựng thông tin nào đó mà người Thổ muốn và các tu sĩ cần thì sao nhỉ?’ Ranov, ở bên kia bàn, đột nhiên nhìn cha chăm chú.

“Stoichev chậm rãi gật đầu, nhưng một lát sau cha nhớ ra cái gật đó có nghĩa là không đồng tình. ‘Sách vở thời kỳ đó thường không chứa các thông tin chính trị - chúng thường là các văn bản tôn giáo, được chép lại thành nhiều bản để sử dụng trong các tu viện hoặc cho các trường học và nhà thờ Hồi giáo. Khó có khả năng các tu sĩ phải thực hiện một cuộc hành trình nguy hiểm như vậy chỉ vì một bản cuốn kinh phúc âm. Họ đã có vô khối những cuốn sách như vậy tại Snagov.’

“ ‘Chờ đã.’ Mắt Helen mở lớn, đầy tư lự. ‘Hượm đã. Chắc hẳn phải là một vật liên quan đến các nhu cầu của tu viện Snagov, hoặc Giáo đoàn Rồng, hoặc có thể là lễ thức canh Vlad Dracula - mọi người nhớ chi tiết ở “Biên niên ký” chứ? Cha tu viện trưởng muốn an táng Dracula tại một nơi khác.’

“ ‘Đúng vậy,’ Stoichev trầm ngâm. ‘Ông ta muốn đưa thi hài Dracula đến Tsarigrad, thậm chí đánh liều cả tính mạng của các tu sĩ.’

“ ‘Phải,’ cha lên tiếng. Cha đang sắp nói một điều gì đó để loại bớt những nghi vấn không cần thiết thì đột nhiên Helen quay sang lắc lắc tay cha.

“ ‘Gì vậy em?’ cha hỏi, nhưng Helen đã kịp trấn tĩnh lại ngay.

“ ‘Không có gì,’ cô khẽ nói, tránh không nhìn cha và Ranov. Cha cầu Chúa cho gã đứng dậy ra ngoài hút thuốc hoặc chán ngấy cuộc trò chuyện của chúng ta để Helen có thể nói ra thoải mái. Stoichev liếc nhìn Helen bằng ánh mắt đầy thâm ý, và lát sau, bằng một giọng đều đều ông bắt đầu giải thích cách các bản thảo thời Trung cổ được làm ra và sao chép - thực ra đôi khi do các tu sĩ mù chữ tiến hành, tạo nên những lỗi vụn vặt lưu truyền hàng thế hệ - và cách những kiểu chữ viết tay khác nhau được các học giả hiện đại giải mã. Mặc dù vẫn rất chú tâm đến những gì ông nói nhưng cha vẫn không hiểu vì sao ông phải dài dòng như vậy. May mắn là cha im lặng suốt bài giảng lê thê của Stoichev, vì một lát sau Ranov thực sự bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Cuối cùng, gã đứng dậy bước ra khỏi thư viện, lôi trong túi áo khoác ra một gói thuốc. Ngay lúc gã biến đi, Helen lại chộp lấy cánh tay cha. Stoichev chăm chú nhìn cô.

“ ‘Anh Paul,’ Helen thốt lên, vẻ mặt kỳ lạ đến độ cha phải quàng tay ôm lấy vai cô, nghĩ rằng cô sắp ngất đi. ‘Cái đầu của hắn! Anh không nhận ra sao? Dracula quay trở lại Constantinople để lấy lại cái đầu của mình!’

“Stoichev húng hắng để báo hiệu, nhưng đã quá trễ. Ngay khoảnh khắc đó, cha liếc nhìn quanh và thấy khuôn mặt giơ xương của Sư huynh Rumen sau rìa một kệ sách. Ông ta đã âm thầm trở lại phòng, và mặc dù quay lưng lại chúng ta để cất một thứ gì đó, ông ta vẫn để tai lắng nghe. Một lát sau, ông ta lại yên lặng bỏ ra ngoài, chúng ta vẫn ngồi lặng thinh. Helen và cha liếc nhìn nhau vẻ bất lực, cha đứng dậy kiểm tra lại căn phòng. Người thủ thư đã đi, nhưng có lẽ chẳng mấy chốc một người nào khác - như Ranov chẳng hạn - sẽ được nghe kể về những lời Helen đã thốt lên. Và Ranov có thể sử dụng thông tin đó để làm gì nhỉ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62


“Hiếm có khoảnh khắc nào trong những năm nghiên cứu, viết lách và suy tư của cuộc đời mình lại khơi lên trong cha một sự thấu ngộ bất ngờ như giây phút Helen thốt lên suy đoán của cô trong thư viện ở Rila. Vlad Dracula đã quay lại Constantinople để tìm thủ cấp của mình - hoặc đúng hơn, cha tu viện trưởng ở Snagov đã gửi thi thể không đầu của Dracula đến đó để ráp lại với cái đầu. Phải chăng Dracula đã thỉnh cầu việc này lúc còn sống, khi biết về món tiền thưởng hậu hĩnh cho cái đầu nổi tiếng của mình và sở thích của vị Quốc vương Hồi giáo: bêu đầu kẻ thù trước công chúng? Hoặc chính cha tu viện trưởng tự gánh lấy sứ mệnh này vì không muốn giữ lại ở Snagov cái xác không đầu của nhà bảo trợ có lẽ là dị giáo - hoặc nguy hiểm. Chắc chắn, một con ma cà rồng không đầu chẳng phải một mối đe dọa to tát cho lắm - hình ảnh ấy còn có vẻ rất khôi hài - nhưng nỗi lo âu, xáo động trong đám tu sĩ có lẽ đã đủ để thuyết phục cha tu viện trưởng tổ chức lễ an táng Dracula đúng nghi thức Công giáo tại một nơi nào khác. Chắc hẳn ông ta không thể tự gánh lấy trách nhiệm phá hủy thi hài của ông hoàng. Và ai mà biết ông ta đã hứa hẹn những gì với Dracula khi hắn còn sống?

“Một hình ảnh đặc biệt lại hiển hiện trong tâm trí cha: Cung điện Tokapi ở Istanbul, nơi mà mới đây cha đã lang thang tản bộ trong một buổi sáng ngập nắng, và những cánh cổng nơi các đao phủ Ottoman từng bêu đầu những kẻ cừu địch của Quốc vương. Chắc hẳn thủ cấp của Dracula phải được cắm vào cây cọc cao nhất - Kẻ Xiên Người cuối cùng cũng bị xiên vào cọc. Bao nhiêu người đã đến xem cái thủ cấp ấy, bằng chứng về chiến thắng của Quốc vương Mehmed II? Có lần Helen đã nói với cha ngay cả cư dân Istanbul cũng rất sợ Dracula và lo ngại hắn có thể đánh vào thành phố. Không doanh trại Thổ nào phải run sợ khi hắn đến nữa; rốt cuộc Mehmed II đã nắm quyền kiểm soát cái khu vực luôn gây phiền hà khó chịu kia và có thể đặt một ông vua chư hầu Ottoman lên ngai vàng xứ Wallachia như đã mong muốn bao năm qua. Tất cả những gì còn lại của Kẻ Xiên Người là một chiến lợi phẩm gớm ghiếc, với hai mắt nhăn nhúm nhắm nghiền và râu tóc bù xù bê bết máu.

“Người bạn đồng hành của chúng ta dường như cũng đang trầm tư về một hình ảnh tương tự. Ngay khi chắc chắn Sư huynh Rumen đã đi khỏi, Stoichev thì thầm, ‘Đúng, hoàn toàn có khả năng như vậy. Nhưng làm thế nào các tu sĩ tu viện Panachrantos lấy được thủ cấp của Dracula từ cung điện Quốc vương? Quả thực nó là một vật báu, như Stefan gọi trong câu chuyện của ông.’

“ ‘Chúng ta đã làm thế nào để lấy thị thực nhập cảnh vào Bungari?’ Helen hỏi, đôi mày nhướng lên. ‘Bakshish(1)_ - không phải ít đâu. Sau cuộc xâm chiếm, các tu viện trở nên vô cùng khốn khó, nhưng một số tu viện có thể đã cất giấu được lượng lớn tiền vàng và châu báu - những thứ vệ binh hoàng gia rất thèm khát.’

“Cha suy nghĩ rất lung về chuyện này. ‘Cuốn sách hướng dẫn về Istanbul có nói là thủ cấp những kẻ kình địch của Quốc vương Mehmed bị ném xuống kênh Bosphorus sau một thời gian bêu lên thị chúng. Có thể một người ở Panachrantos đã can thiệp vào quy trình ấy - như vậy sẽ ít nguy hiểm hơn cố lấy thủ cấp Dracula tại cổng cung điện.’

“ ‘Chúng ta hoàn toàn không biết thực hư chuyện này thế nào,’ Stoichev nói, ‘nhưng tôi nghĩ phỏng đoán của cô Rossi là một phỏng đoán rất có cơ sở. Rất có khả năng thủ cấp của Dracula là vật các tu sĩ cất công tìm kiếm ở Tsarigrad. Về mặt tâm linh, cũng có một lý do sâu xa để họ hành động như vậy. Tín điều Chính Thống giáo của chúng tôi nêu rõ khi chết thi hài con người cần phải giữ càng nguyên vẹn càng tốt - cũng vì lý do đó, chúng tôi không có tục hỏa táng - bởi vào Ngày Phán xét, chúng tôi sẽ phục sinh trong thân xác đó.’

“ ‘Vậy di hài các vị thánh bị phân tán rải rác khắp nơi thì sao?’ cha hỏi, giọng hồ nghi. ‘Làm sao họ có thể phục sinh trong một thể xác nguyên vẹn được? Đó là chưa kể vài năm trước tôi còn nhìn thấy đến năm bàn tay của Thánh Francis ở Ý.’

“Stoichev bật cười. ‘Thánh thì được hưởng đặc quyền chứ,’ ông nói. ‘Nhưng Vlad Dracula, dù là một sát thủ đáng sợ đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ, chắc chắn không phải là một vị thánh. Thực ra, cha tu viện trưởng Eupraxius hết sức lo lắng cho linh hồn bất tử của Dracula, ít nhất là theo chuyện kể của Stefan.’

“ ‘Hoặc lo cho thể xác bất tử của Dracula,’ Helen nói rõ hơn.

“ ‘Vậy thì,’ cha góp ý, ‘có thể các tu sĩ ở Panachrantos đã liều mạng lấy thủ cấp của Dracula để chôn cất theo đúng nghi lễ, nhưng vệ binh hoàng gia phát hiện ra vụ đánh cắp và bắt đầu lùng sục, vì vậy thay vì chôn nó ở Istanbul cha tu viện trưởng đã phải cho mang cái thủ cấp ra khỏi thành. Chắc hẳn thỉnh thoảng lại có người hành hương đến Bungari’ - cha liếc nhìn Stoichev chờ sự xác nhận - ‘và họ nhờ đưa cái đầu đi chôn cất ở… chà, ở Sveti Georgi, hoặc một tu viện Bungari nào đó mà họ có quan hệ. Sau đó, các tu sĩ Snagov đến, nhưng đã quá trễ, không thể ráp thân lại với đầu được nữa. Tu viện trưởng tu viện Panachrantos nghe tin đã liên lạc với nhóm tu sĩ Snagov, và các tu sĩ quyết định hoàn thành sứ mệnh của mình bằng cách mang cái xác đi tìm cái đầu. Vả lại, họ cũng phải nhanh chóng rời khỏi chốn quái quỷ đó trước khi vệ binh hoàng gia chú ý đến mình.’

“ ‘Một suy đoán tuyệt vời.’ Stoichev trao cho cha nụ cười lạ lùng của ông. ‘Như tôi đã nói, chúng ta không thể biết chắc, bởi tài liệu của chúng ta chỉ gợi ý bóng gió về những sự kiện này thôi. Nhưng anh đã dựng chúng thành một bức tranh đầy sức thuyết phục. Rồi chúng tôi sẽ làm anh quên tiệt cái đám thương nhân Hà Lan kia thôi.’ Cha cảm thấy mặt mình đỏ bừng, phần vì hài lòng phần vì ngượng nghịu, nhưng nụ cười của Stoichev thật thân ái.

“ ‘Và mạng lưới của người Thổ bắt đầu cảnh giác trước sự hiện diện rồi lại ra đi của các tu sĩ Snagov’ - Helen tiếp tục suy diễn câu chuyện - ‘nên người Thổ đã lục soát các tu viện, phát hiện ra các tu sĩ từng trú ngụ tại tu viện Thánh Irine, họ đã báo tin về cuộc hành trình của các tu sĩ đến những quan chức dọc theo lộ trình, có lẽ là đến Edirne rồi sau đó là Haskovo. Haskovo là thành phố lớn đầu tiên của Bungari mà các tu sĩ đến, và đó là nơi họ bị - gọi là gì nhỉ? - ngăn cản.’

“ ‘Đúng vậy,’ Stoichev kết luận. ‘Chính quyền Thổ đã tra tấn hai người trong nhóm để lục vấn tin tức, nhưng hai tu sĩ can đảm kia đã không hé răng tiết lộ điều gì. Lính Thổ đã lục soát xe ngựa và chỉ tìm thấy lương thực. Nhưng điều này lại làm nảy sinh một nghi vấn - tại sao lính Thổ không phát hiện được cái xác?’

“Cha ngập ngừng. ‘Có thể họ không tìm một cái xác. Có thể họ vẫn chỉ tìm kiếm cái đầu. Nếu vệ binh hoàng gia không biết gì nhiều về toàn bộ câu chuyện ở Istanbul thì có thể họ vẫn cho rằng các tu sĩ Snagov đang vận chuyển cái thủ cấp kia. “Biên niên ký” của Zacharias viết rằng lính Thổ đã nổi giận khi mở những bó đồ mà chỉ tìm thấy lương thực. Cái xác hẳn đã được giấu trong cánh rừng gần đó, nếu các tu sĩ được cảnh báo về cuộc khám xét.’

“ ‘Hoặc có thể họ đóng chiếc xe ngựa sao cho có một chỗ đặc biệt để giấu cái xác,’ Helen ngẫm ngợi.

“ ‘Nhưng xác chết hẳn phải bốc mùi chứ,’ cha nhắc nhở Helen.

“ ‘Cái đó còn tùy thuộc anh tin vào điều gì nữa kia.’ Cô nhìn cha, nở một nụ cười giễu cợt đầy duyên dáng.

“ ‘Anh tin vào điều gì ư?’

“ ‘Vâng. Anh thấy đó, một cái xác có nguy cơ trở thành quỷ nhập tràng, hoặc đã trở thành quỷ nhập tràng, sẽ không phân hủy, hoặc sẽ phân hủy chậm hơn. Theo truyền thống, nếu nghi ngờ có tình trạng hóa ma cà rồng, người dân trong các làng mạc Đông Âu sẽ đào các xác chết lên để kiểm tra tình trạng thối rữa, và sẽ phá hủy theo đúng nghi thức những xác không phân hủy theo quy trình thông thường. Thậm chí thời nay, thỉnh thoảng việc đó vẫn xảy ra.’

“Stoichev rùng mình. ‘Một hành động quái dị. Tôi nghe nói chuyện đó còn xảy ra ở Bungari nữa, lẽ dĩ nhiên thời nay đó là một hành động bất hợp pháp. Giáo hội bao giờ cũng ngăn cấm hành động xâm phạm mồ mả người chết, và hiện nay chính quyền của chúng tôi cũng nỗ lực ngăn cấm tất cả những điều mê tín dị đoan.’

“Helen khẽ nhún vai. ‘Vậy thì cũng có khác gì hy vọng các xác chết sẽ sống lại đâu cơ chứ?’ cô hỏi, nhưng đồng thời cũng mỉm cười với Stoichev, và ông cũng bị nụ cười ấy lôi cuốn.

“ ‘Cô bạn ạ,’ Stoichev trả lời, ‘chúng ta có cách hiểu rất khác nhau về các di sản của mình, nhưng tôi đánh giá cao sự nhanh trí của cô. Còn bây giờ, các bạn ạ, tôi muốn dành thời gian để xem xét những tấm bản đồ của các bạn - tôi chợt nghĩ trong thư viện này có thể có những tư liệu giúp chúng ta đọc được các bản đồ đó. Cho tôi một giờ - việc tôi sắp làm có vẻ ngớ ngẩn, nhưng hãy để tôi từ từ giải thích với các bạn.’

“Ranov lại vừa trở vào, gã đứng nhìn quanh thư viện và cựa quậy không yên. Cha hy vọng gã không nghe được về tấm bản đồ.

“Stoichev hắng giọng. ‘Chắc các bạn muốn đi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nhà thờ chứ nhỉ.’ Ông khẽ liếc về phía Ranov. Helen lập tức đứng dậy, tiến về phía Ranov để lôi kéo sự chú ý của gã vào một câu chuyện rối rắm nào đó, trong lúc cha kín đáo lục tìm và lấy trong cặp ra tập bản sao các tấm bản đồ. Khi nhìn Stoichev háo hức đón lấy chúng, cha cảm thấy nôn nao trong lòng một niềm hy vọng.

“Thật không may, Ranov có vẻ chú tâm dò xét công việc của Stoichev và trao đổi với viên thủ thư hơn là chú ý đến chúng ta, mặc dù cha rất muốn đánh lạc hướng gã. ‘Anh giúp chúng tôi tìm cái gì ăn tối được chứ?’ cha hỏi gã. Viên thủ thư đứng lặng yên, nhìn cha chăm chú.

“Ranov mỉm cười. ‘Anh đói bụng à? Chưa đến giờ ăn ở đây đâu, sáu giờ mới đến bữa tối. Chúng ta phải chờ đến lúc đó. Thật không may, ta sẽ phải ăn chung với mấy ông thầy tu này.’ Gã quay lưng lại phía chúng ta rồi bắt đầu nhìn ngắm một ngăn kệ đầy những cuốn sách bọc da, và chỉ có vậy.

“Helen theo cha ra cửa, siết chặt tay cha. ‘Mình đi dạo một chút chứ anh?’ cô đề nghị khi chúng ta đã ra ngoài.

“ ‘Lúc này anh cũng không biết phải làm thế nào nếu không có cái gã Ranov kia,’ cha nói, giọng u ám. ‘Không có gã thì chúng ta sẽ nói chuyện gì nhỉ?’

“Helen bật cười, nhưng cha nhận ra cô cũng đang lo lắng. ‘Vậy em trở lại cố đánh lạc hướng gã lần nữa nhé?’

“ ‘Đừng,’ cha trả lời. ‘Tốt hơn là không nên. Chúng ta càng làm như vậy, gã sẽ càng thắc mắc về những gì ông Stoichev đang xem. Chúng ta không tống khứ nổi con ruồi phiền nhiễu ấy đâu.’

“ ‘Hắn đúng là một con ruồi phiền nhiễu.’ Helen quàng tay cha. Mặt trời vẫn chiếu rực rỡ trong khu vực sân trong, và khi bước ra khỏi bóng râm của những bức tường và hành lang mênh mông của tu viện, chúng ta mới cảm thấy nóng. Ngước nhìn lên, cha có thể thấy những sườn núi phủ đầy cây cối xung quanh tu viện, và những đỉnh núi đá dựng đứng bên trên. Tít trên cao, một con đại bàng đang đảo cánh, chao lượn. Các tu sĩ trong lớp áo chùng đen nặng nề, thắt lưng buộc chặt, mũ đen cao, râu cũng đen và dài thậm thượt, đang đi đi lại lại giữa nhà thờ và tầng trệt tu viện, đang quét dọn sàn gỗ các hành lang, hoặc đang ngồi trong vũng bóng râm hình tam giác gần cổng vòm nhà thờ. Cha băn khoăn làm sao họ chịu đựng nổi cái nóng mùa hè trong bộ quần áo đó. Vào trong nhà thờ cha mới hiểu được phần nào; không khí mát rượi như trong kho lạnh, lung linh ánh sáng những ngọn nến và lấp lánh ánh vàng, đồng hoặc châu ngọc. Các mặt tường phía trong được trang trí mạ vàng hoặc vẽ hình vị thánh và các nhà tiên tri - ‘Tác phẩm nghệ thuật thế kỷ mười chín,’ Helen nhận xét một cách tự tin - và cha dừng lại trước một ảnh thánh đặc biệt giản dị, một vị thánh râu trắng dài, tóc điểm bạc đang trừng trừng nhìn thẳng vào chúng ta. Helen đọc to những con chữ ghi sát bên vầng hào quang quanh đầu vị thánh. ‘Ivan Rilski.’

“ ‘Người mà hài cốt được mang đến đây tám năm trước khi ông bạn người Wallachia của chúng ta đến Bungari ư? “Biên niên ký” đã đề cập đến ông ta.’

“ ‘Đúng vậy.’ Helen đứng ngây mặt trước bức hình, tựa như cho rằng nếu đứng đó đủ lâu thì bức tranh có thể lên tiếng với chúng ta.

“Những giây phút chờ đợi dài đằng đẵng bắt đầu làm thần kinh cha mỏi mệt. ‘Helen,’ cha thốt lên, ‘dạo một vòng đi em. Chúng ta có thể leo lên núi ngắm cảnh.’ Nếu không vận động một chút, chắc cha sẽ phát điên lên vì cứ suy nghĩ về thầy Rossi.

“ ‘Được thôi,’ Helen tán đồng, rồi nhìn xoáy vào cha, tựa như đọc được sự sốt ruột trong cha. ‘Miễn là đừng xa quá. Ranov không bao giờ để chúng ta đi xa đâu.’

“Lối mòn dẫn lên núi quanh co xuyên cánh rừng rậm rịt, tán rừng che chở cho chúng ta khỏi sức nóng buổi chiều, chẳng khác gì như đang ở trong nhà thờ. Thật dễ chịu khi thoát khỏi cái gã Ranov kia dù chỉ vài phút, Helen và cha thoải mái tay trong tay, dung dăng dung dẻ bước đi. ‘Em có nghĩ gã thấy khó khăn khi phải chọn giữa chúng ta và ông Stoichev không?’

“ ‘Ồ, không đâu,’ Helen trả lời thẳng thừng. ‘Chắc chắn gã đã cho một người khác theo dõi chúng ta. Chỉ một lát nữa thôi chúng ta sẽ đụng đầu kẻ ấy, dù đó là ai, nhất là nếu chúng ta đi lâu hơn nửa giờ đồng hồ. Gã không thể đơn độc vừa theo dõi chúng ta vừa phải chăm sóc ông Stoichev cẩn thận để tìm hiểu nghiên cứu của chúng ta sẽ dẫn đến cái gì.’

“ ‘Em nói như thực ấy nhỉ,’ cha buột miệng, liếc nhìn khuôn mặt nghiêng nghiêng của cô khi cô sải bước trên lối mòn. Cô đã kéo ngược mũ ra phía sau, để lộ gương mặt hơi ửng hồng. ‘Anh không tài nào hình dung nổi người ta có thể lớn lên mà phải hoài nghi như thế, phải chịu sự giám sát soi mói như thế.’

“Helen nhún vai. ‘Chẳng có vẻ ghê gớm như vậy đâu, bởi em không biết đến một kiểu sống nào khác.’

“ ‘Vậy sao em lại muốn rời bỏ đất nước mình để đến phương Tây?’

“ ‘Đúng vậy,’ cô trả lời, nhìn lảng qua bên cạnh cha. ‘Em đã muốn rời bỏ đất nước mình.’

“Chúng ta dừng lại nghỉ một lát trên một thân cây đổ ven đường. ‘Anh đang nghĩ vì sao người ta lại để chúng ta vào Bungari,’ cha nói với Helen. Ngay cả ở nơi đây, giữa chốn rừng rậm này, cha cũng chỉ dám thì thầm.

“ ‘Và vì sao người ta lại để chúng ta một mình lang thang quanh quẩn.’ Helen gật đầu. ‘Anh đã nghĩ đến điều đó chưa?’

“ ‘Anh thấy có vẻ như,’ cha chậm rãi trả lời, ‘người ta không ngăn chúng ta tìm bất kỳ cái gì chúng ta đang tìm kiếm - việc họ có thể làm dễ dàng - là bởi vì người ta muốn chúng ta tìm được thứ đó.’

“ ‘Tuyệt vời, thám tử Sherlock ạ.’ Helen lấy bàn tay quạt cho cha. ‘Anh học hỏi được nhiều quá.’

“ ‘Như vậy, cứ cho là họ thực sự biết hoặc nghi ngờ cái mà chúng ta đang tìm kiếm. Tại sao họ lại nghĩ chuyện Dracula là quỷ nhập tràng sẽ có giá trị, thậm chí, tại sao họ lại tin được chuyện đó?’ Cha phải cố gắng lắm mới nói ra được câu hỏi đó, dù đã hạ giọng chỉ còn như tiếng thì thầm. ‘Đã nhiều lần chính em nói với anh rằng chính quyền cộng sản rất xem thường sự mê tín dị đoan của giới nông dân. Vậy tại sao thay vì ngăn cản họ lại khuyến khích chúng ta như thế này? Phải chăng họ nghĩ sẽ đạt được một thứ quyền lực siêu nhiên nào đó trước người dân Bungari nếu chúng ta tìm được ngôi mộ của Dracula ở đây?’

“Helen lắc đầu. ‘Không phải vậy đâu. Mối quan tâm của họ chắc chắn dựa trên nền tảng quyền lực, nhưng bao giờ cũng có tính khoa học trong cách tiếp cận. Hơn nữa, nếu có một phát hiện hay điều gì đó đáng quan tâm, họ cũng không muốn một người Mỹ được ca tụng vì chuyện đó.’ Helen trầm ngâm một lúc. ‘Anh thử nghĩ xem, đối với khoa học, có gì tác động mạnh bằng việc tìm ra cách làm cho người chết sống lại, hoặc bất tử trong mọi hoàn cảnh. Nhất là đối với khối phương Đông, với những đại lãnh tụ đang được ướp xác trong các lăng mộ của họ?’

“Hình ảnh gương mặt vàng khè của Georgi Dimitrov trong lăng mộ ở Sofia chợt hiện lên trong đầu cha. ‘Như vậy càng có lý do để tiêu diệt Dracula,’ cha nói, nhưng cha cũng cảm nhận mồ hôi đang túa ra trên trán.

“ ‘Và em cũng băn khoăn,’ Helen buồn rầu nói tiếp, ‘rằng tiêu diệt hắn liệu có tạo ra khác biệt gì nhiều nhặn trong tương lai hay không. Hãy nghĩ đến những gì mà Stalin đã làm với nhân dân ông ta mà xem, cả Hitler nữa. Họ đâu cần sống đến năm trăm năm để thực hiện những sự việc kinh hoàng kia.’

“ ‘Anh biết,’ cha tiếp lời. ‘Anh cũng đã nghĩ đến điều đó.’

“Helen gật đầu. ‘Anh biết không, điều kỳ lạ là Stalin công khai ngưỡng mộ Ivan Bạo Chúa(2)_. Hai nhà lãnh đạo sẵn sàng đàn áp và tàn sát nhân dân của mình - thực hiện bất kỳ hành động nào cần thiết - nhằm củng cố quyền lực. Và anh biết Ivan Bạo Chúa ngưỡng mộ kẻ nào không?’

“Cha cảm thấy như máu đang rút sạch khỏi tim mình. ‘Em có nói với anh rằng người Nga có nhiều câu chuyện về Dracula.’

“ ‘Vâng. Chính xác là vậy.’

“Cha nhìn cô chăm chăm.

“ ‘Anh có thể hình dung một thế giới mà Stalin có thể sống đến năm trăm năm không?’ Cô miết ngón tay lên một chỗ vỏ mềm trên thân cây. ‘Hoặc có thể bất tử?’

“Cha nhận ra mình đang nắm chặt tay lại. ‘Liệu chúng ta có thể tìm ra một hầm mộ thời Trung cổ mà không dẫn dắt người nào khác đến đó?’

“ ‘Rất khó, có lẽ là không thể. Em chắc chắn họ đã cho người theo dõi chúng ta khắp mọi nơi.’

“Ngay lúc ấy, một người đàn ông xuất hiện ở khúc quẹo con đường mòn. Cha giật mình vì sự xuất hiện đột ngột của anh ta, đến nỗi suýt buột miệng chửi thề. Nhưng đó là một người có bề ngoài giản dị, ăn mặc tuềnh toàng, và vác một bó củi trên vai, anh ta đưa tay vẫy chào chúng ta rồi tiếp tục bước đi. Cha nhìn Helen.

“ ‘Anh thấy chứ?’ cô khẽ nói.”

“Leo núi được một đoạn, chúng ta gặp một chỗ dốc nhô ra khỏi vách đá. ‘Nhìn kìa,’ Helen nói. ‘Ngồi đây nghỉ một lát đã anh.’

“Thung lũng dốc đứng rậm rịt cây cối nằm ngay phía dưới chúng ta, gần như bị lấp đầy bởi những bức tường và mái ngói đỏ của tu viện. Giờ cha mới thấy rõ quy mô đồ sộ của tổng thể phức hợp này. Cả công trình như một lớp vỏ bọc góc cạnh bao quanh nhà thờ, những mái vòm rực rỡ trong nắng chiều, ngọn tháp Hrelyo vút lên ở giữa trung tâm. ‘Từ trên đây có thể thấy nơi này được củng cố vững chắc như thế nào. Thử hình dung cảnh quân thù phải thường xuyên nhìn xuống như thế này xem.’

“ ‘Hoặc người hành hương nữa chứ,’ Helen nhắc. ‘Đối với người hành hương, nơi đây là một điểm đến tinh thần chứ không phải một thách thức quân sự.’ Helen ngả người về phía sau, dựa vào một thân cây, vuốt thẳng váy. Cô đã bỏ túi xách xuống, cởi mũ ra và xắn tay chiếc áo cánh sáng màu cho bớt nóng. Mồ hôi lấm tấm trên trán và má. Gương mặt cô mang cái vẻ mà cha yêu thích nhất - cô miên man suy nghĩ, nhìn đăm đăm như vừa tự lục vấn bản thân vừa dõi đến một chốn xa xăm nào đó, mắt mở to chăm chú, miệng mím chặt; vì nguyên nhân nào đó, cha vẫn luôn thích ánh mắt ấy hơn những lúc cô quay sang nhìn thẳng vào cha. Mặc dù dấu cắn của tên thủ thư đã phai nhạt thành một vết thâm tím, cô vẫn quàng khăn quanh cổ, cây thánh giá lấp lánh bên dưới. Vẻ đẹp sắc sảo của Helen làm dậy lên trong cha cảm giác đau nhói, không đơn thuần là sự thèm khát thể xác mà là một cảm giác gần như kinh sợ sự toàn mỹ của cô. Cô xa cách vời vợi, của cha mà chẳng hề thuộc về cha.

“ ‘Helen,’ cha lên tiếng mà không nắm tay cô. Cha chưa định nói nhưng không thể ngăn mình lại được. ‘Anh muốn hỏi em một chuyện.’

“Cô gật đầu, ánh mắt và tâm trí vẫn còn lang thang trong cái thánh địa khổng lồ bên dưới.

“ ‘Helen, em bằng lòng làm vợ anh nhé?’

“Cô từ từ quay sang cha, và cha đã tự hỏi không biết mình đang nhìn thấy trên gương mặt đó là sự sững sờ, thích thú, hay vui sướng. ‘Anh Paul,’ Helen lên tiếng, giọng nghiêm nghị. ‘Chúng ta quen nhau bao lâu rồi?’

“ ‘Hai mươi ba ngày,’ cha xác nhận. Đến lúc đó, cha mới nhận ra mình đã không suy nghĩ cẩn thận xem phải hành xử thế nào nếu cô từ chối, nhưng đã quá trễ nếu muốn rút lại câu hỏi, hoặc để dành nó cho một thời điểm khác. Nếu cô nói không thì cha cũng chẳng thể lao mình xuống núi giữa chừng cuộc tìm kiếm thầy Rossi, dù có lẽ cha rất muốn làm vậy.

“ ‘Anh nghĩ là đã hiểu rõ em?’

“ ‘Không hề,’ cha mạnh giọng chống chế.

“ ‘Anh nghĩ em đã hiểu anh?’

“ ‘Anh không chắc.’

“ ‘Chúng ta biết về nhau quá ít. Chúng ta đến từ hai thế giới hoàn toàn khác nhau.’ Lần này cô mỉm cười, tựa như để lời mình nói bớt vẻ chua cay. ‘Vả lại, em luôn nghĩ rằng em sẽ không lấy chồng. Em không phải là kiểu người thích hợp để làm vợ. Và còn cái này thì sao?’ Cô đưa tay chạm vào chiếc khăn quàng cổ. ‘Anh sẽ lấy một phụ nữ đã bị âm ty, quỷ dữ đánh dấu chứ?’

“ ‘Anh sẽ bảo vệ em khỏi bất cứ loại âm ty quỷ dữ nào dám đến gần.’

“ ‘Đó chẳng phải là một gánh nặng hay sao? Và làm sao chúng ta có thể có con’ - ánh mắt cô vừa gay gắt vừa thẳng thắn - ‘khi biết rằng chúng có thể bị ảnh hưởng thế nào đó bởi sự nhiễm bệnh này.’

“Khó khăn lắm cha mới thốt nên lời qua cái cổ họng bỏng rát của mình. ‘Như vậy câu trả lời của em là không ư, hay anh có thể lại cầu hôn em vào một lúc khác?’

“Bàn tay cô - cha không thể hình dung sẽ ra sao nếu không có bàn tay ấy, những đầu móng vuông vắn, làn da mềm mại, ngón tay xương xương - đặt lên tay cha, và cha thoáng nghĩ mình không có chiếc nhẫn nào để mang vào bàn tay ấy.

“Helen nhìn cha, vẻ mặt nghiêm trang. ‘Câu trả lời là dĩ nhiên em sẽ làm vợ anh.’

“Sau nhiều tuần lễ tìm kiếm vô vọng một con người khác mà cha cũng vô cùng yêu quý, cha quá sững sờ vì sự dễ dàng của cái tình yêu tìm thấy này đến độ không thể thốt lên lời, thậm chí cũng không có nổi một nụ hôn. Chúng ta yên lặng ngồi sát bên nhau, nhìn xuống những sắc đỏ, vàng, xám của cái tu viện mênh mông kia.”

Chú thích:

1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Tiền hối lộ".

2. Sa Hoàng đầu tiên của Nga từ 1547 - 1584, còn gọi là Ivan IV (1530 - 1584). Ông đã bành trướng đế quốc của mình đến tận dãy Ural và miền Siberia, thúc đẩy nhiều cải cách trong nước, nhưng bị lưu tiếng xấu trong lịch sử do các chính sách và hành động cực kỳ chuyên quyền tàn ác trong hai mươi năm cuối đời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63


Barley đứng cạnh tôi trong phòng khách sạn của cha, ngắm nghía cái đống hỗn độn kia, nhưng nhanh hơn tôi, anh nhận ra ngay những gì tôi đã không chú ý - mớ giấy tờ sách vở trên giường. Chúng tôi tìm thấy một cuốn Dracula của Bram Stoker rách tả tơi, một cuốn sách còn mới về lịch sử các dòng dị giáo thời Trung cổ ở miền Nam nước Pháp, và một cuốn trông rất cũ kỹ về truyền thuyết ma cà rồng châu Âu.

Giữa các cuốn sách là mớ giấy tờ, kể cả những ghi chép với nét chữ của chính cha, và lẫn trong đống giấy má này là một tập bưu thiếp, nét chữ hoàn toàn xa lạ với tôi, viết bằng mực đen, nhỏ và rõ ràng. Barley và tôi - lại một lần nữa, tôi cảm thấy vui mừng vì không phải lẻ loi một mình - tự động bắt đầu lục soát tất cả mọi thứ, và theo bản năng, tôi gom các tấm bưu thiếp lại trước tiên. Chúng được dán tem của nhiều nước khác nhau: Bồ Đào Nha, Pháp, Ý,Monaco, Phần Lan, Áo. Các con tem vẫn còn mới, chưa đóng dấu bưu điện. Đôi khi lời nhắn ghi trên thiệp kéo dài thêm đến bốn, năm tấm nữa, được đánh số rõ ràng. Điều đáng ngạc nhiên nhất là mỗi tấm bưu thiếp đều ký tên “Helen Rossi”. Và tấm nào cũng ghi gửi cho tôi.

Nhìn qua vai tôi nhưng Barley vẫn cảm nhận được sự sững sờ của tôi, chúng tôi cùng ngồi xuống mép giường. Bưu thiếp đầu tiên gửi từ Rome - một tấm hình đen trắng chụp phế tích quảng trường La Mã.

Tháng Năm 1962

Con gái thương yêu,

Con gái của tâm hồn và thân xác mẹ, đứa con mà đã hơn năm năm rồi mẹ không gặp, mẹ nên viết cho con bằng ngôn ngữ nào đây? Đúng ra hai mẹ con ta phải được trò chuyện với nhau suốt thời gian vừa qua, bằng một thứ ngôn ngữ không lời của những âm thanh bé nhỏ và những nụ hôn, ánh mắt, tiếng thì thầm. Mẹ cảm thấy khó khăn biết bao mỗi khi nghĩ đến, mỗi lần nhớ ra mình đã bỏ lỡ những gì, đến mức hôm nay mẹ phải dừng bút ở đây thôi, dù chỉ vừa mới bắt đầu.

Mẹ thương yêu của con,

Helen Rossi

Tấm thứ hai là một bưu thiếp đã phai màu, có hình hoa lá và những cái vạc - “Jardins de Boboli - Vườn hoa Boboli - Boboli”.

Tháng Năm 1962

Con gái thương yêu,

Mẹ sẽ nói với con một điều bí mật: mẹ ghét thứ tiếng Anh này. Tiếng Anh là một bài tập văn phạm, hoặc là một lớp học văn chương. Trong thâm tâm, mẹ cảm thấy chỉ có thể nói với con trọn vẹn nhất những gì mẹ muốn nói bằng chính ngôn ngữ của mẹ, tiếng Hungary, hoặc thậm chí bằng cái ngôn ngữ đang cuộn chảy bên trong con người Hungary, tiếng Rumani. Rumani là thứ ngôn ngữ của tên ác quỷ mà mẹ đang tìm kiếm, nhưng dù vậy đó vẫn là thứ ngôn ngữ mẹ không hề do dự chọn lựa. Nếu sáng hôm nay con đang ngồi trong lòng mẹ, nhìn ra vườn hoa này, hẳn mẹ sẽ dạy con bài học vỡ lòng: “Ma numesc...”(1)_ Và hai mẹ con ta sẽ thì thào lặp đi lặp lại tên của con bằng thứ tiếng êm ái ấy, tiếng mẹ đẻ của con. Mẹ sẽ giải thích với con rằng tiếng Rumani là ngôn ngữ của một dân tộc u buồn nhưng dũng cảm và nhân hậu, ngôn ngữ của những người chăn cừu và nông dân, cũng là ngôn ngữ của bà ngoại con, người mà hắn đã hủy hoại cả cuộc đời. Mẹ sẽ kể cho con những điều đẹp đẽ mà bà ngoại đã kể với mẹ, trăng sao trên bầu trời đêm ở làng bà, những ngọn đèn lồng thả trôi sông. “Ma numesc...” Một ngày nào đó, được kể cho con về những điều ấy sẽ là niềm hạnh phúc vô bờ bến của mẹ.

Mẹ thương yêu của con,

Helen Rossi

Barley và tôi nhìn nhau, và anh dịu dàng quàng lấy cổ tôi.

Chú thích:

1. Tiếng Rumani trong nguyên bản, nghĩa là "Tên tôi là..."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 64


“Chúng ta thấy Stoichev đang ngồi tại bàn thư viện, vẻ phấn khích. Ranov ngồi đối diện, nhịp ngón tay lên mặt bàn, thỉnh thoảng liếc nhìn tập tài liệu mà vị học giả già để qua một bên. Cha thấy gã trông có vẻ cáu kỉnh, dường như Stoichev không trả lời các câu hỏi của gã. Lúc chúng ta bước vào, Stoichev ngước lên, vẻ hăm hở. ‘Tôi nghĩ mình đã hiểu rồi,’ ông thì thào. Helen ngồi xuống cạnh ông, còn cha cúi xuống tập bản thảo ông đang xem. Về cách trình bày và cách viết, chúng cũng tương tự các lá thư của Sư huynh Kiril, kiểu chữ viết tay xinh xắn, gọn gàng, dày đặc đã phai màu trên các trang giấy lề xơ rách. Cha nhận ra những con chữ Xlavơ trong các lá thư. Stoichev trải các tấm bản đồ của chúng ta bên cạnh chúng. Cha cảm thấy như không thở nổi, hy vọng ông sắp tiết lộ với chúng ta một điều thực sự quan trọng. Cha chợt nghĩ ngôi mộ thậm chí có thể đang ở ngay đây, ở Rila - có lẽ vì vậy mà Stoichev cứ khăng khăng đòi đến đây, bởi ông cũng ngờ ngợ như vậy. Dù thế, cha vẫn thấy ngạc nhiên và băn khoăn sao ông lại muốn thông báo trước mặt Ranov.

“Stoichev nhìn quanh, liếc Ranov, đưa tay xoa lên cái trán nhăn nheo và nói nhỏ, ‘Tôi tin là ngôi mộ không nằm ở Bungari.’

“Cha cảm thấy lùng bùng trong đầu. ‘Cái gì?’ Helen nhìn Stoichev chằm chằm, Ranov ngoảnh mặt đi, gõ gõ ngón tay lên mặt bàn, làm ra vẻ lơ đễnh.

“ ‘Các bạn, tôi rất tiếc đã làm các bạn thất vọng, nhưng bản viết tay này, nhiều năm qua tôi đã không xem xét nó cẩn thận, ghi rõ rằng năm 1478 một nhóm những người hành hương đã từ Sveti Georgi trở về Wallachia. Bản viết tay này là một tài liệu hải quan - nó cho phép họ mang một loại thánh tích Thiên Chúa giáo nào đó có nguồn gốc từ Wallachia trở về xứ này. Tôi rất tiếc. Có lẽ một ngày nào đó các bạn có thể đến nơi ấy để xem xét kỹ hơn vấn đề này. Tuy nhiên, tôi sẵn lòng giúp một tay nếu các bạn vẫn muốn tiếp tục nghiên cứu về lộ trình của người hành hương ở Bungari.’

“Cha nhìn ông đăm đăm, không nói được lời nào. Cha nghĩ chúng ta không thể vào Rumani sau toàn bộ chuyện này. Việc Helen và cha đến được tận đây cũng đã là phép lạ rồi.

“ ‘Tôi khuyên các bạn nên xin phép tham quan thêm vài tu viện khác và những lộ trình có các tu viện, đặc biệt là tu viện Bachkovo. Đó là một điển hình đẹp đẽ về phong cách kiến trúc Byzantine ở Bungari, và các công trình ở đó còn cổ xưa hơn các công trình ở Rila. Hơn nữa, họ cũng có một số bản thảo rất quý hiếm do các tu sĩ đi hành hương tặng. Sẽ thú vị đấy, và bằng cách đó các bạn có thể thu thập thêm một vài tư liệu cho các bài viết của mình.’

“Cha ngạc nhiên khi Helen có vẻ như hoàn toàn đồng ý với kế hoạch đó. ‘Có thể thu xếp việc này chứ, anh Ranov?’ cô hỏi. ‘Có lẽ cả giáo sư Stoichev cũng muốn đi với chúng tôi.’

“ ‘Ồ, tôi e là mình phải về nhà thôi,’ Stoichev nói, vẻ tiếc nuối. ‘Tôi còn quá nhiều việc phải làm. Ước gì tôi giúp được các bạn ở Bachkovo, nhưng tôi có thể gửi một lá thư giới thiệu các bạn với cha tu viện trưởng. Anh Ranov có thể làm người phiên dịch cho các bạn, và cha tu viện trưởng sẽ giúp dịch bản thảo các bạn muốn. Ông ấy là một học giả xuất sắc về lịch sử các tu viện.’

“ ‘Tốt lắm,’ Ranov có vẻ hài lòng khi nghe nói Stoichev sẽ không đi cùng chúng ta. Cha nghĩ không còn gì để nói về tình huống tệ hại này nữa; chúng ta chỉ phải vờ vịt tiếp tục nghiên cứu tại một tu viện khác, trong lúc ấy sẽ quyết định hành động tiếp theo. Rumani ư? Hình ảnh cánh cửa phòng làm việc của thầy Rossi tại trường đại học lại một lần nữa hiện lên trước mắt cha: đóng kín và khóa chặt. Thầy Rossi sẽ chẳng bao giờ mở lại cánh cửa đó. Cha lặng người nhìn Stoichev bỏ các bản thảo vào hộp và đóng nắp lại. Helen mang hộ chiếc hộp đến một ngăn kệ và giúp ông ra cửa. Ranov đi theo chúng ta trong im lặng - một sự im lặng đầy hả hê. Cái mà chúng ta thực sự tìm kiếm, dù là cái gì, bây giờ cũng đã ở ngoài tầm tay, và một lần nữa chúng ta sẽ chỉ còn lại một mình với gã hướng dẫn viên này. Rồi gã sẽ làm cho chúng ta kết thúc nghiên cứu và biến khỏi Bungari càng sớm càng tốt.

“Irina hình như vừa ở trong nhà thờ; cô băng qua khoảng sân nắng cháy hướng về phía chúng ta khi chúng ta xuất hiện, thấy cô Ranov liền lỉnh vào một hành lang để hút thuốc, rồi gã rảo bước về phía cổng chính và biến mất sau cánh cổng. Cha cảm giác Ranov đi nhanh hơn một chút khi gã đến cánh cổng; có lẽ gã cũng cần thoát khỏi chúng ta một lúc. Stoichev nặng nề ngồi xuống một chiếc ghế gỗ dài gần cổng, bàn tay che chở của Irina đặt lên vai ông. ‘Nhìn đây,’ ông vừa nói rất khẽ vừa ngẩng lên mỉm cười với chúng ta, tựa như chúng ta chỉ chuyện phiếm với nhau. ‘Chúng ta phải nói nhanh trong khi anh bạn kia không nghe được. Tôi không có ý muốn làm các bạn hoảng sợ. Chẳng có tài liệu nào về một cuộc hành hương ngược trở lại Wallachia với thánh tích đâu. Tôi xin lỗi vì đã nói dối. Vlad Dracula chắc chắn được chôn cất ở Sveti Georgi, bất kể cái tu viện này nằm ở đâu, và tôi vừa phát hiện ra một điều rất quan trọng. Trong “Biên niên ký”, Stefan đã nói Sveti Georgi ở gần Bachkovo. Tôi không thấy bất kỳ mối liên quan nào giữa khu vực Bachkovo và những tấm bản đồ của các bạn, nhưng ở đây có một lá thư của cha tu viện trưởng Bachkovo gửi cho cha tu viện trưởng Rila, vào đầu thế kỷ mười sáu. Tôi không dám đưa nó cho các bạn trước mặt anh bạn quý của chúng ta. Lá thư này nói rõ cha tu viện trưởng Bachkovo không còn cần đến sự trợ giúp của cha tu viện trưởng Rila hoặc bất kỳ tu sĩ nào khác để trừ khử dòng dị giáo tại Sveti Georgi, bởi tu viện này đã bị thiêu hủy và các tu sĩ đã tản mát khắp nơi. Ông ta cảnh báo tu viện trưởng Rila nên để mắt canh chừng bất kỳ tu sĩ nào đến từ Bachkovo, hoặc bất kỳ tu sĩ nào loan truyền ý tưởng rằng một con rồng đã tàn sát Sveti Georgi - tức Thánh George - bởi đó là dấu hiệu dị giáo của bọn chúng.’

“ ‘Con rồng đã tàn sát… chờ chút,’ cha chen ngang. ‘Ý ông là dòng chữ đó nói về con quái vật và vị thánh ư? Kiril nói rằng bọn họ tìm kiếm một tu viện có dấu hiệu ác quỷ ngang hàng với thánh thần.’

“ ‘Thánh George là một trong những nhân vật quan trọng nhất được mô tả trong tranh tượng thánh ở Bungari,’ Stoichev khẽ nói tiếp. ‘Quả là ngược đời kỳ cục khi con rồng đánh bại được Thánh George. Nhưng các bạn nên nhớ các tu sĩ Wallachia tìm kiếm một tu viện đã có sẵn dấu hiệu ấy, bởi đó chính xác là địa điểm để mang thi thể Dracula đến ráp lại với đầu hắn. Đến đây tôi bắt đầu băn khoăn phải chăng có một dòng dị giáo lớn hơn mà chúng ta không biết - một dòng dị giáo có thể đã được Constantinople, Wallachia, hoặc thậm chí cả Dracula biết đến. Liệu Giáo đoàn Rồng có những đức tin tâm linh riêng biệt, không nằm trong khuôn khổ Giáo hội? Có thể Giáo đoàn này đã tạo ra một dòng dị giáo? Trước đây, tôi chưa bao giờ nghĩ đến một khả năng như vậy.’ Ông lắc đầu. ‘Các bạn phải đến Bachkovo và hỏi cha tu viện trưởng ở đó xem ông ấy có biết về sự đánh đồng hoặc đảo ngược giữa ác quỷ và thánh thần không. Các bạn phải bí mật hỏi riêng ông ấy. Lá thư tôi gửi ông ấy - chắc chắn anh bạn hướng dẫn sẽ lấy của các bạn để đọc - sẽ chỉ ngụ ý rằng các bạn muốn nghiên cứu về những lộ trình của người hành hương, nhưng các bạn phải tìm cách để nói chuyện riêng với ông ấy. Ngoài ra, ở đó còn có một tu sĩ từng là học giả, một người nổi tiếng chuyên về lịch sử tu viện Sveti Georgi. Ông ta đã từng làm việc với Atanas Angelov và là người thứ hai nhìn thấy “Biên niên ký”của Zacharias. Khi quen tôi, tên ông ta là Pondev, nhưng tôi không biết khi thành tu sĩ tên ông ta là gì. Cha tu viện trưởng có thể giúp các bạn tìm ông ấy. Còn một điều nữa. Tôi không có ở đây bản đồ khu vực Bachkovo, nhưng tôi tin là đâu đó về hướng Đông Bắc tu viện có một thung lũng dài, uốn khúc quanh co và có thể có một dòng sông ở đó. Tôi nhớ đã nhìn thấy một lần và đã nói chuyện với các tu sĩ về dòng sông đó, dù giờ tôi không còn nhớ người ta gọi nó là gì. Có thể đó là đuôi con rồng của chúng ta chăng? Nhưng vậy thì, cái gì là cánh rồng? Có lẽ là các ngọn núi chăng? Các bạn cũng phải tìm kiếm chúng.’

“Cha muốn quỳ xuống trước Stoichev mà hôn lên chân vị giáo sư già. ‘Nhưng ông không đi cùng chúng tôi được sao?’

“ ‘Tôi bất chấp cả cô cháu gái để được cùng đi ấy chứ,’ ông trả lời, mỉm cười nhìn lên Irina, ‘nhưng tôi sợ như vậy sẽ chỉ gây thêm nghi ngờ. Tay hướng dẫn viên của các bạn sẽ càng chú ý hơn nếu nghĩ rằng tôi vẫn quan tâm đến cuộc nghiên cứu này. Nếu có thể, các bạn hãy đến gặp tôi ngay khi trở về Sofia. Tôi sẽ luôn nhớ đến các bạn, cầu chúc các bạn lên đường may mắn và tìm được cái các bạn mong muốn. Đây… các bạn cầm lấy.’ Ông đặt vào tay Helen một vật nho nhỏ, cô nhanh chóng khép chặt các ngón tay lại, cha không kịp nhận ra đó là vật gì hoặc cô đã cất nó vào đâu.

“ ‘Ranov đi lâu nhỉ, lâu so với gã ấy,’ cô khẽ nhận xét.

“Cha liếc vội về phía Helen. ‘Anh đi xem gã làm gì nhé?’ Đã ngộ ra rằng phải tin vào bản năng của Helen, cha bước về hướng cổng chính không cần chờ câu trả lời.

“Ngay bên ngoài công trình phức hợp khổng lồ, cha nhìn thấy Ranov đang đứng với một người đàn ông khác, gần chiếc xe dài màu xanh. Người kia cao, đội mũ, trông thanh nhã trong bộ vest mùa hạ, ở gã có điều gì đó khiến cha dừng lại ngay trong bóng râm cánh cổng. Cả hai đang trao đổi sôi nổi bỗng dừng lại đột ngột. Gã đàn ông đẹp mã vỗ lên lưng Ranov một cái rồi quay người chui tọt vào xe. Cha điếng người trước cái vỗ lưng thân thiện đó - cha biết cử chỉ ấy - vai cha cũng đã một lần đón nhận nó. Thật khó tin, nhưng chắc chắn gã đàn ông đang phóng xe khỏi bãi đậu xe bụi bặm kia là Géza József. Cha lùi vào sân rồi cố hết sức chạy trở lại chỗ Helen và Stoichev. Helen nhìn cha bằng ánh mắt sắc sảo; có lẽ cô cũng nhận thấy cần tin vào bản năng của cha. Cha kéo Helen qua một bên, và Stoichev dù có vẻ hoang mang vẫn lịch sự không hỏi han gì. ‘Anh nghĩ József đang ở đây,’ cha vội thì thầm vào tai Helen. ‘Anh không trông thấy mặt hắn, nhưng một gã trông giống hắn vừa mới nói chuyện với Ranov.’

“ ‘Cứt thật,’ Helen khẽ thốt lên. Cha nghĩ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng cha nghe cô chửi thề.

“Một lát sau, Ranov hấp tấp bước đến. ‘Đến giờ ăn tối rồi,’ gã nói cộc lốc, cha tự hỏi liệu gã có đang hối tiếc vì đã để chúng ta một mình với giáo sư Stoichev một lúc lâu. Qua giọng gã, cha có thể chắc chắn gã không nhìn thấy cha ở bên ngoài. ‘Đi với tôi. Chúng ta sẽ dùng bữa tối.’

“Bữa tối trong tu viện dù diễn ra trong yên lặng nhưng rất ngon, một bữa ăn do tu viện nấu và được hai tu sĩ phục vụ. Hình như cũng có một vài khách du lịch cùng ở lại nhà trọ với chúng ta, cha để ý thấy vài người không nói tiếng Bungari. Những người nói tiếng Đức chắc hẳn đang đi nghỉ và đến từ Đông Đức, cha nghĩ vậy, thứ tiếng còn lại có lẽ là Tiệp Khắc. Chúng ta ngồi vào một bàn gỗ dài và ăn uống rất ngon miệng, các tu sĩ ngồi ở một bàn khác gần đó, và cha đón nhận những cái giường xếp chật hẹp đang chờ chúng ta với thái độ vui vẻ. Helen và cha không có lúc nào được ở một mình, nhưng cha biết hẳn cô đang nghĩ đến sự hiện diện của József. Hắn muốn gì ở Ranov? Hoặc, đúng hơn, hắn muốn gì ở chúng ta? Cha nhớ lại lời cảnh báo của Helen rằng chúng ta đang bị theo dõi. Ai đã báo cho hắn biết chúng ta đang ở đâu?

“Đó là một ngày mệt nhoài, nhưng cha nôn nóng muốn đến Bachkovo đến độ sẵn sàng vui vẻ lên đường đi bộ ngay nếu việc đó có thể khiến cha đến đó nhanh hơn. Thay vì vậy, chúng ta sẽ ngủ để chuẩn bị cho cuộc hành trình ngày mai. Hòa lẫn giữa những tiếng ngáy đến từ Đông Berlin và Praha, cha như nghe được giọng thầy Rossi trầm ngâm về một điểm gây tranh cãi trong tác phẩm của chúng ta, và giọng Helen, hơi buồn cười trước giây phút thiếu sáng suốt của cha, ‘Dĩ nhiên, em sẽ làm vợ anh.’ ”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 65


Tháng Sáu 1962

Con gái thương yêu,

Con biết không, chúng ta giàu có vì một vài điều kinh khủng đã xảy ra với mẹ và cha con. Mẹ để lại hầu hết số tiền đó cho cha để cha chăm lo cho con; nhưng mẹ vẫn còn đủ để dấn thân vào một cuộc kiếm tìm dài đằng đẵng, một cuộc vây hãm. Gần hai năm trước, mẹ đã đổi một ít tiền ở Zurich và mở tài khoản ngân hàng dưới một cái tên mà mẹ sẽ không bao giờ nói cho ai biết. Tài khoản của mẹ rất bí mật. Mỗi tháng một lần, mẹ rút tiền từ đó ra để trả tiền thuê phòng, các chi phí lưu trữ, ăn uống. Mẹ đã chi tiêu tiết kiệm hết mức để một ngày nào đó có thể trao cho con tất cả những gì còn lại, khi con lớn, con gái bé bỏng của ta ạ.

Mẹ thương yêu của con,

Helen Rossi

Tháng Sáu 1962

Con gái thương yêu,

Hôm nay là một trong những ngày tồi tệ. (Mẹ sẽ không bao giờ gửi tấm thiệp này. Nếu phải gửi một tấm, thì cũng không phải là tấm này). Hôm nay là một trong những ngày mà mẹ không thể nhớ ra mình đang truy lùng tên ác quỷ này hay chạy trốn hắn. Mẹ đứng trước tấm gương, một tấm gương cũ trong phòng của mẹ ở khách sạn Este; mặt gương có những đốm như rêu mốc, lan dần ra trên bề mặt cong cong. Mẹ tháo chiếc khăn quàng ra, đứng đó và chạm vào vết sẹo trên cổ, một vết sẹo màu đỏ không bao giờ lành hẳn. Mẹ tự hỏi liệu hắn có tìm thấy mẹ trước khi mẹ tìm được hắn. Mẹ tự hỏi tại sao hắn chưa tìm ra mẹ. Mẹ tự hỏi liệu có còn được gặp lại con.

Mẹ thương yêu của con,

Helen Rossi

Tháng Tám 1962

Con gái thương yêu,

Khi con chào đời, tóc con đen, quăn tít và dính bẹp vào mái đầu nhầy nhụa. Sau khi được rửa ráy và lau khô, nó thành một mái tóc đen tuyền mềm mại rủ xuống quanh mặt con, giống tóc mẹ nhưng cũng pha chút ánh đồng như tóc cha con. Mẹ đang được truyền morphine, vừa ôm con vừa ngắm mái tóc sơ sinh của con biến đổi từ màu bánh mật thành màu sáng, rồi trở lại đen tuyền. Mọi thứ ở con đều bóng láng và ngời sáng; mẹ đã tạo hình và hoàn thiện con trong cơ thể mẹ mà không hề hay biết. Những ngón tay vàng óng, đôi má hồng hồng, lông mày và lông mi như lông tơ của một chú chim non. Niềm hạnh phúc của mẹ như dâng trào, thậm chí át hẳn cả cảm giác đau đớn.

Mẹ thương yêu của con,

Helen Rossi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 66


“Cha dậy sớm trên chiếc giường xếp trong phòng ngủ nam khu nhà trọ tu viện Rila; ánh mặt trời chỉ mới bắt đầu le lói qua những khung cửa sổ nhỏ nhìn ra sân trong, vài du khách vẫn còn ngon giấc trên những chiếc giường xếp khác. Cha đã nghe tiếng chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên từ lúc trời còn tối, và bây giờ tiếng chuông lại vang lên. Lần này, ý nghĩ đầu tiên khi cha thức dậy là Helen đã nói cô sẵn sàng làm vợ cha. Cha muốn gặp lại cô, muốn nhìn thấy cô ngay tức khắc, tìm một lúc nào đó để hỏi cô liệu ngày hôm qua có phải là một giấc mơ. Ánh nắng tràn ngập khoảng sân bên ngoài như nhân lên niềm hạnh phúc bất chợt trong cha, không khí buổi sớm đó với cha dường như trong lành đến độ như không thể nào tin nổi, sự trong lành của hàng bao thế kỷ dồn lại.

“Nhưng Helen không có mặt trong bữa điểm tâm. Ranov đã ở đó, vẫn mặt sưng mày sỉa như thường lệ, hút thuốc phì phèo cho đến lúc một tu sĩ nhẹ nhàng yêu cầu gã ra ngoài cùng điếu thuốc. Ngay khi ăn xong, cha đi dọc hành lang dẫn đến dãy phòng dành cho nữ, tối qua Helen và cha đã chia tay ở đó, và thấy cửa để mở. Những phụ nữ khác, người Đức và Tiệp, đã đi khỏi, giường chiếu xếp lại gọn ghẽ. Helen vẫn còn ngủ say, hình như vậy; cha có thể nhận ra hình dáng cô trên chiếc giường gần cửa sổ nhất. Cô nằm xoay mặt vào tường, và cha khe khẽ bước vào, tự bào chữa rằng giờ cô đã là hôn thê của cha, cha có quyền hôn chào cô, dù là trong tu viện. Cha đóng cửa lại, hy vọng không có tu sĩ nào tình cờ đi qua.

“Helen nằm xoay lưng vào phía trong, trên chiếc giường gần cửa sổ. Lúc cha tiến lại gần, cô khẽ lăn về hướng cha, tựa như cảm nhận được sự hiện diện của cha. Đầu cô ngửa ra sau, mắt nhắm nghiền, những lọn tóc đen quăn lòa xòa trên gối. Helen đang ngủ rất say, hơi thở thoát qua miệng nghe rõ ràng gần như tiếng ngáy. Cha nghĩ chắc cô phải rất mệt mỏi sau những cuộc hành trình cũng như buổi đi bộ ngày hôm qua, nhưng có gì đó trong cái vẻ rũ rượi của cô khiến cha thấy khó chịu và bước đến gần hơn. Cha cúi xuống, nghĩ là sẽ hôn Helen trước khi cô thức dậy, và trong một khoảnh khắc kinh khủng cha thấy vẻ nhợt nhạt xanh xao trên mặt và giọt máu tươi trên cổ Helen. Nơi vết thương sắp lành, ở sâu dưới cổ có hai vết rách nhỏ màu đỏ, hở miệng và đang rỉ máu. Còn có một ít máu ở rìa tấm khăn trải giường trắng, và nhiều hơn ở tay chiếc áo ngủ trắng có vẻ rẻ tiền, chắc cô đã dụi tay vào cổ khi ngủ. Vạt áo bị kéo lệch qua một bên và hơi rách, để lộ một bên ngực Helen đến tận núm vú. Trong khoảnh khắc, người cha như tê cứng lại khi nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng đó, và tim cha dường như cũng đã ngừng đập. Cha nhẹ nhàng đưa tay kéo chăn che đi phần thân thể lõa lồ của cô, tựa như đắp chăn cho một đứa bé đang ngủ. Lúc ấy cha không nghĩ ra phải làm gì khác. Tiếng nức nở nghẹn ngào trong cổ họng, một cơn cuồng nộ mà cha vẫn chưa cảm nhận rõ ràng.

“ ‘Helen!’ cha nhẹ nhàng lắc vai cô, nhưng mặt cô vẫn không có dấu hiệu thay đổi. Bây giờ cha mới nhận ra vẻ phờ phạc của Helen, tựa như cô đau đớn cả trong giấc ngủ. Cây thánh giá ở đâu nhỉ? Cha chợt nhớ ra và thấy nó dưới chân mình, sợi dây đã đứt. Có ai đó giât ra hay tự Helen làm đứt sợi dây trong lúc ngủ? Cha lại lay cô. ‘Helen, dậy đi em!’

“Lần này thì Helen cục cựa, nhưng có vẻ bực bội, và cha tự hỏi liệu mình có gây nguy hiểm cho Helen khi làm cô tỉnh dậy quá nhanh hay không. Tuy nhiên, chỉ một thoáng sau cô mở mắt, mặt nhăn nhó. Cô đã mất bao nhiêu máu đêm qua, cái đêm cha ngủ yên giấc ở hành lang kế bên? Tại sao cha lại để cô một mình, đêm hôm qua cũng như mọi đêm khác?

“ ‘Anh Paul,’ cô thốt lên, tựa như vẫn còn hoang mang. ‘Anh làm gì ở đây vậy?’ Rồi dường như cô cố gắng ngồi dậy và phát hiện ra điều bất thường trên chiếc áo ngủ. Cô đưa tay sờ lên cổ rồi chậm chạp hạ tay xuống, trong khi cha chỉ biết đau khổ nhìn mà không nói nên lời. Máu nhầy nhụa đang khô lại trên các ngón tay cô. Helen trừng trừng nhìn tay mình, rồi nhìn vào cha. ‘Ôi, lạy Chúa,’ cô thốt lên. Cô ngồi thẳng dậy, và cha cảm thấy đôi chút nhẹ lòng, dù nét hoảng hốt vẫn còn trên mặt Helen; nếu mất quá nhiều máu, hẳn cô sẽ yếu đến độ không thể cử động nhiều như vậy. ‘Ôi, anh Paul,’ cô thì thào. Cha ngồi xuống bên mép giường, cầm bàn tay không vấy máu của cô siết chặt trong tay mình.

“ ‘Em tỉnh hẳn rồi chứ?’ cha hỏi.

“Cô gật đầu.

“ ‘Em biết mình đang ở đâu chứ?’

“ ‘Vâng,’ cô đáp, nhưng rồi gục mặt vào bàn tay vấy máu, cô bật lên những tiếng nức nở nho nhỏ khàn khàn, một âm thanh kinh hoàng. Cha chưa bao giờ nghe cô khóc thành tiếng trước đây. Âm thanh đó xoáy vào cha nhói buốt.

“ ‘Anh đây.’ Cha hôn lên bàn tay không dính máu.

“Cô siết chặt tay cha, tiếp tục nức nở, rồi cô cố trấn tĩnh lại. ‘Chúng ta phải nghĩ xem cái gì… đó có phải là thánh giá của em không?’

“ ‘Ừ.’ Cha giơ cây thánh giá lên, quan sát Helen thật kỹ, và cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm vì trên mặt cô không có dấu hiệu giật mình sợ hãi. ‘Em đã tháo nó ra sao?’

“ ‘Không, dĩ nhiên là không rồi.’ Helen lắc đầu, một giọt nước còn đọng lại nơi khóe mắt lăn dài trên má. ‘Em cũng không biết nó bị đứt như thế nào nữa. Em không nghĩ bọn chúng… hắn… dám, nếu truyền thuyết nói đúng.’ Helen lau mặt, thận trọng không để tay chạm vào vết thương trên cổ. ‘Chắc em đã làm đứt sợi dây chuyền trong lúc ngủ.’

“ ‘Suy luận từ vị trí anh tìm thấy nó thì anh cũng cho là vậy.’ Cha chỉ cho cô vị trí đó trên nền nhà. ‘Và cây thánh giá không làm em cảm thấy… khó chịu… khi ở gần bên chứ?’

“ ‘Không,’ cô ngập ngừng trả lời. ‘Ít ra là chưa.’ Tiếng chưa lạnh lùng làm cha muốn nín thở.

“Helen đưa tay sờ cây thánh giá, thoạt tiên có vẻ ngần ngại, nhưng sau đó cầm hẳn nó trong tay. Cha thở phào. Helen cũng thở dài. ‘Em thiếp đi lúc đang nghĩ đến mẹ và một bài báo mà em muốn viết về những nhân vật trong ngành thêu thùa xứ Transylvania - họ rất nổi tiếng, anh biết đấy - và rồi em thiếp đi đến bây giờ.’ Cô cau mày. ‘Em gặp ác mộng, nhưng hình ảnh mẹ em cứ xen vào từ đầu đến cuối, bà đang… xua đuổi một con chim đen khổng lồ. Sau khi đã làm nó hoảng sợ bay đi, bà cúi xuống hôn lên trán em, y như hồi nhỏ trước lúc đi ngủ, và em nhìn thấy dấu vết’ - cô ngừng lại, tựa như suy nghĩ cũng làm cô đau đớn - ‘em nhìn thấy dấu vết hình rồng trên bả vai trần của bà, nhưng dấu vết ấy với em như một phần của bà vậy, không phải một thứ gì đó kinh khủng. Và em đỡ sợ hơn khi bà hôn lên trán em.’

“Cha cảm thấy nhói lên cảm giác sợ hãi quái lạ, nhớ lại cái đêm mà hình như cha đã ngăn kẻ giết con mèo không thể lại gần bằng cách đọc đến quá nửa đêm về cuộc sống của giới thương nhân Hà Lan mà cha vốn yêu thích. Có một điều đã bảo vệ Helen như vậy, ít nhất ở mức độ nào đó; cô bị làm tổn thương một cách tàn nhẫn, nhưng không bị hút hết máu. Chúng ta yên lặng nhìn nhau.

“ ‘Chuyện này đã có thể tệ hại hơn,’ Helen nói.

“Cha ôm lấy cô và nhận ra bờ vai vốn vững vàng đang rung lên. Cha cũng cảm thấy chính mình run lên. ‘Đúng thế,’ cha thì thầm. ‘Anh phải bảo vệ em khỏi bất cứ hiểm nguy nào.’

“Cô bỗng lắc đầu, vẻ kinh ngạc. ‘Đây là một tu viện kia mà! Em không thể hiểu nổi. Lũ quỷ nhập tràng ghét những chỗ như thế này.’ Helen trỏ vào cây thánh giá trên cửa, bức ảnh và ngọn đèn thánh treo trong góc. ‘Nơi này không được Đức Mẹ Đồng Trinh để mắt đến hay sao?’

“ ‘Anh cũng không hiểu,’ cha chậm rãi tiếp lời, ngửa bàn tay cô lên trong tay cha. ‘Nhưng chúng ta biết các tu sĩ đã cùng đi với di hài của Dracula và có lẽ hắn được chôn cất ở một tu viện. Trong chuyện này vốn đã có điều gì đó kỳ lạ rồi, Helen ạ’ - cha siết chặt bàn tay cô - ‘anh nghĩ đến một chuyện khác kia. Tên thủ thư ở quê nhà… hắn đã tìm thấy chúng ta ở Istanbul và sau đó ở Budapest. Có thể hắn cũng theo chúng ta đến đây chăng? Có thể hắn đã tấn công em tối qua chăng?’

“Cô cau mày. ‘Em biết. Hắn đã cắn em một lần trong thư viện, vì vậy có thể hắn thèm muốn cắn em thêm lần nữa, đúng vậy chứ? Nhưng em cảm thấy rõ ràng trong giấc mơ của mình là một cái gì khác - một kẻ mạnh mẽ hơn nhiều. Nhưng làm sao kẻ nào trong bọn chúng có thể xâm nhập vào đây, ngay cả khi kẻ đó không e sợ tu viện?’

“ ‘Chuyện đó thì dễ hiểu thôi.’ Cha trỏ cánh cửa sổ gần nhất, chỉ khép hờ và cách giường Helen khoảng chưa đến hai mét. ‘Ôi, lạy Chúa, tại sao anh lại để em ở đây một mình như vậy nhỉ?’

“ ‘Em đâu có ở một mình,’ cô nhắc. ‘Còn có năm người nữa ngủ trong phòng với em. Nhưng anh nói đúng… như mẹ em từng nói, hắn có thể thay hình đổi dạng - thành dơi, sương mù…’

“ ‘Hoặc một con chim đen khổng lồ.’ Giấc mơ của cô lại hiện lên trong đầu cha.

“ ‘Giờ thì em đã bị cắn hai lần,’ Helen nói, gần như mơ màng.

“Helen!’ Cha lay cô. ‘Anh sẽ không bao giờ để em một mình một lần nào nữa, sẽ không xa em quá một giờ đồng hồ.’

“ ‘Vậy em sẽ không bao giờ có một tiếng đồng hồ riêng tư nữa ư?’ Nụ cười quen thuộc của Helen, mỉa mai mà âu yếm, trong một khoảnh khắc chợt trở lại về trên gương mặt cô.

“ ‘Và anh muốn em hứa với anh, nếu em cảm thấy điều gì anh không cảm thấy, nếu em cảm thấy có cái gì đó đang tìm kiếm em…’

“ ‘Em sẽ nói với anh, anh Paul, nếu em cảm nhận bất kỳ điều gì như vậy.’ Lúc này cô nói bằng một giọng dữ dội, và có vẻ như lời hứa ấy cũng kích thích cô hành động. ‘Thôi nào. Em muốn ăn và uống một chút vang hoặc rượu mạnh, nếu chúng ta xoay được mấy thứ đó. Mang cho em khăn tắm, ở kia kìa, và chậu nước - em phải lau rửa và băng bó cái cổ.’ Sự sôi nổi của cô như lây sang cha, cha răm rắp làm theo ngay lập tức. ‘Chúng ta sẽ đến nhà thờ để làm sạch vết thương bằng nước thánh sau, lúc không có ai dòm ngó. Nếu em chịu đựng nổi việc đó thì chúng ta vẫn còn tràn trề hy vọng. Thực kỳ lạ,’ - cha rất vui khi lại nhìn thấy nụ cười giễu cợt của cô - ‘em luôn cảm thấy nghi thức nhà thờ ấy thật vớ vẩn, vậy mà em vẫn làm.’

“ ‘Nhưng có vẻ như hắn không nghĩ nghi thức ấy là vớ vẩn đâu,’ cha nói, vẻ nghiêm nghị.

“Cha giúp Helen lau rửa sạch, cẩn thận không chạm vào miệng vết thương, và canh chừng cửa trong lúc cô mặc quần áo. Vết thương nhìn gần trông kinh khủng đến mức trong một thoáng cha muốn bỏ ra ngoài và để mặc cho nước mắt tuôn tràn. Cha có thể nhận ra vẻ quyết tâm trên mặt Helen dù cô di chuyển có vẻ yếu ớt. Cô quấn lại chiếc khăn quàng quen thuộc và tìm trong hành lý một sợi dây để thay cho sợi dây chuyền thánh giá - dây này bền chắc hơn, cha hy vọng như vậy. Tấm khăn trải giường của cô vấy bẩn đầy những đốm máu nhỏ. ‘Cứ để mặc các ông thầy tu nghĩ… chà, rằng đã có đàn bà con gái trong khu tập thể của họ,’ Helen nói theo cái kiểu thẳng ruột ngựa vốn có. ‘Chắc chắn chẳng phải lần đầu họ đi giặt sạch ít máu đâu.’

“Lúc chúng ta ra khỏi nhà thờ, Ranov đang thơ thẩn trong sân. Gã nheo mắt nhìn Helen. ‘Cô dậy muộn quá đấy,’ gã nói, giọng trách móc. Cha chăm chú quan sát cặp răng nanh của gã khi gã mở miệng nói, nhưng chúng chẳng có vẻ sắc nhọn hơn bình thường; nếu có chăng, chúng chỉ nghiến chặt lại và trở màu xám xịt khi hắn nở cái nụ cười khó ưa kia.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 67


“Cha bực mình khi Ranov rất miễn cưỡng đưa chúng ta đến Rila, nhưng khi gã tỏ vẻ nhiệt tình đưa chúng ta đến Bachkovo thì cha còn thấy bực hơn. Trong suốt chuyến đi, gã chỉ trỏ đủ loại cảnh đẹp này nọ, nhiều thắng cảnh thật sự thú vị, bất chấp những lời bình luận lung tung của gã. Helen và cha cố không nhìn nhau, nhưng cha chắc chắn cô cũng chung một nỗi lo như cha. Giờ thì chúng ta lại có thêm József để mà lo lắng. Con đường từ Plovdiv hẹp hẳn lại, quanh co giữa một bên là một dòng suối lởm chởm đá còn bên kia là những vách đá dựng đứng. Chúng ta lại đang tiến dần vào vùng núi non - ở Bungari, người ta không thể nào xa cách những ngọn núi được. Cha nói với Helen nhận xét đó, cô đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa xe đối diện ở ghế sau, và cô gật đầu. ‘Balkan trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là núi.’ ”

“Tu viện không có đường vào rộng rãi - xe chúng ta tấp vào một bãi đất bụi mù, từ đó đi bộ một quãng ngắn đến cổng tu viện. Bachkovski manastir nằm giữa vùng đồi cao, cằn cỗi, một phần là rừng một phần là đá, gần một dòng sông nhỏ; quang cảnh khô cằn dù mới chỉ đầu hè, nên cha dễ dàng hình dung các tu sĩ ở đây quý trọng nguồn nước gần đó như thế nào. Tường ngoài xây bằng đá nâu xám cùng màu với những ngọn đồi xung quanh. Các mái vòm lợp ngói đỏ có rãnh giống căn nhà cũ kỹ của Stoichev và hàng trăm nhà ở và nhà thờ khác chúng ta nhìn thấy dọc đường. Cổng vào tu viện là một lối đi rộng dài có vòm mái, tối thui như một cái hang trong lòng đất. ‘Chúng ta cứ thế bước vào thôi à?’ cha hỏi Ranov.

“Gã lắc đầu, ý là đúng thế, vậy là chúng ta bước vào bóng tối mát lạnh của cái cổng tò vò kia. Phải mất một lúc dò dẫm bước đi chúng ta mới lọt vào khoảnh sân trong ngập nắng, và suốt những giây phút ở bên trong bức tường dài hun hút của tu viện, cha không nghe thấy gì khác ngoài tiếng bước chân của chính chúng ta.

“Có lẽ cha đã mong nhìn thấy một khoảng không gian rộng lớn như ở Rila; nhưng sự cách biệt và vẻ đẹp của sân chính tu viện Bachkovo đã làm cha bật lên một tiếng xuýt xoa, và Helen cũng trầm trồ gì đó. Nhà thờ của tu viện với những ngọn tháp góc cạnh màu đỏ theo phong cách Byzantine chiếm khá nhiều diện tích của sân trong. Ở đây không có những mái vòm bằng vàng, chỉ có vẻ thanh nhã cổ kính - những vật liệu đơn sơ nhất được sắp đặt thành những hình thể hài hòa, cân đối. Dây leo bò quanh các ngọn tháp; đám cây cối cũng áp sát vào nhà thờ; một cây bách đứng sừng sững như một tháp chuông. Ba tu sĩ mặc áo chùng và mũ trùm đen đứng trò chuyện bên ngoài nhà thờ. Một cơn gió nhẹ lướt qua làm lay động những cành lá của hàng cây đang đổ bóng râm rải rác trên khoảnh sân rực nắng. Cha ngạc nhiên khi thấy lũ gà chạy khắp nơi, cào bới mặt sân lát đá cũ kỹ, và một con mèo vằn đang đuổi theo cái gì đó ở khe nứt tường.

“Giống như ở Rila, phía trong tu viện là những hành lang dài có ban công, xây bằng gỗ và đá. Bức tường đá phía dưới vài hành lang, giống như cổng nhà thờ, phủ đầy những bức bích họa đã phai màu. Không còn ai hay cái gì trong tầm mắt ngoài ba vị tu sĩ, lũ gà và con mèo. Chỉ có chúng ta đơn độc ở đó, lẻ loi giữa một không gian đậm màu sắc Byzantine.

“Ranov bước đến bắt chuyện với các tu sĩ, Helen và cha nán lại phía sau một chút. Một lát sau gã quay trở lại. ‘Tu viện trưởng đi vắng, nhưng ông thủ thư ở đây và có thể giúp chúng ta.’ Cha không nói gì dù chẳng thích cái cách gã xưng chúng ta chút nào. ‘Các bạn có thể tham quan nhà thờ trong lúc tôi đi tìm ông ta.’

“ ‘Chúng tôi sẽ cùng đi với anh,’ Helen nói, giọng quả quyết, và cả ba người chúng ta đi theo một tu sĩ vào dãy hành lang. Người thủ thư đang làm việc trong một phòng ở tầng trệt; ông ta đứng dậy chào khi chúng ta bước vào. Căn phòng trống trải, không có gì ngoài một lò sưởi bằng sắt và tấm thảm màu sáng trên nền nhà. Cha thầm hỏi sách vở và các loại bản thảo để ở đâu. Ngoại trừ một vài cuốn sách trên cái bàn gỗ, cha chẳng nhìn thấy ở đây dấu hiệu gì của một thư viện.

“ ‘Đây là Sư huynh Ivan,’ Ranov giới thiệu. Ông thầy tu nghiêng người chào nhưng không đưa tay để bắt tay chúng ta; thực ra, hai bàn tay ông ta khoanh trước ngực và nằm khuất trong cánh tay áo dài thậm thượt. Cha chợt nhận ra ông ta không muốn chạm vào Helen. Chắc hẳn Helen cũng có ý nghĩ như vậy, vì cô lùi lại và hầu như đứng khuất sau lưng cha. Ranov trao đổi với ông ta vài lời. ‘Sư huynh Ivan mời các bạn ngồi.’ Chúng ta ngoan ngoãn ngồi xuống. Khuôn mặt dài, nghiêm nghị và rậm rịt râu của Ivan chăm chú quan sát chúng ta một lúc. ‘Các bạn có thể hỏi han ông ta,’ Ranov nói, giọng khuyến khích.

“Cha hắng giọng. Không còn cách nào khác; chúng ta sắp phải hỏi han này nọ trước mặt Ranov. Cha sẽ phải cố gắng nêu ra những câu hỏi có vẻ như chỉ liên quan đến học thuật. ‘Anh vui lòng hỏi hộ chúng tôi liệu ông ấy có biết gì về những người hành hương đến đây từ xứ Wallachia không?’

“Ranov dịch câu hỏi cho ông thầy tu, mặt ông ta sáng lên ngay lúc nghe cái từ Wallachia. ‘Ông ấy nói tu viện này đã có mối liên hệ mật thiết với xứ Wallachia vào cuối thế kỷ mười lăm.’

“Tim cha bắt đầu đập rộn lên, dù cha vẫn cố gắng ngồi yên. ‘Vậy à? Mối liên hệ gì vậy?’

“Họ lại trao đổi thêm một lúc, Sư huynh Ivan khoát tay về hướng cửa. Ranov gật đầu. ‘Ông ấy nói khoảng thời gian đó, các ông hoàng xứ Wallachia và Moldova đã tài trợ cho tu viện này rất nhiều. Thư viện ở đây còn lưu lại những bản thảo kể về sự ủng hộ đó.’

“ ‘Ông ấy có biết nguyên cớ vì sao các ông hoàng kia lại làm như vậy hay không?’ Helen hỏi khẽ.

“Ranov lại hỏi ông thầy tu. ‘Không,’ gã quay lại chúng ta. ‘Ông ấy chỉ biết các bản viết tay này ghi chép về sự giúp đỡ đó.’

“ ‘Xin hãy hỏi ông ấy,’ cha tiếp tục, ‘liệu ông ấy có biết một nhóm người hành hương nào từ Wallachia đến đây vào Phoảng thời gian đó.’

“Sư huynh Ivan giờ mới thực sự nở nụ cười. ‘Có,’ Ranov dịch lại. ‘Rất nhiều. Đây là một điểm dừng chân quan trọng trong lộ trình hành hương từ Wallachia. Từ đây, nhiều người hành hương đi tiếp đến Athos hoặc Constantinople.’

“Có thể cha đã nghiến răng. ‘Nhưng một nhóm người hành hương đặc biệt từ Wallachia, mang theo một… một loại thánh tích, hoặc tìm Piếm một thánh tích nào đó, liệu ông ta có biết chuyện nào như vậy không?’

“Có vẻ như Ranov đang cố kìm lại một nụ cười đắc thắng. ‘Không,’ gã trả lời. ‘Ông ấy chẳng thấy ghi chép nào về những người hành hương như vậy. Có rất nhiều nhóm hành hương trong suốt thế kỷ đó. Bachkovski manastir thời ấy có vai trò rất quan trọng. Khi đế chế Ottoman xâm chiếm đất nước này, giáo trưởng Bungari đã bị đẩy ra khỏi phòng làm việc ở Veliko Trnovo và lưu đày đến đây. Ông ta mất năm 1404 và được chôn cất ở đây. Khu vực lâu đời nhất của tu viện và cũng là khu vực duy nhất giữ được nguyên sơ như lúc ban đầu là khu chứa hài cốt.’

“Helen lại lên tiếng. ‘Anh làm ơn hỏi xem ông ấy có biết một tu sĩ ở đây từng có tên là Pondev không?’

“Ranov chuyển tiếp câu hỏi, Ivan có vẻ như bối rối, rồi cảnh giác. ‘Ông ta nói chắc hẳn đó là Sư huynh già Angel. Ông ấy vốn tên là Vasil Pondev, và là một nhà sử học. Nhưng hiện nay ông ta không còn… minh mẫn nữa. Các bạn sẽ chẳng biết được gì khi nói chuyện với ông ấy đâu. Hiện nay cha tu viện trưởng là học giả uyên thâm nhất ở đây, nhưng đáng tiếc lúc các bạn đến thì ông ấy lại đi vắng.’

“ ‘Chúng tôi vẫn mong được nói chuyện với Sư huynh Angel,’ cha nói với Ranov. Và mong ước ấy cũng được thu xếp, dù có Pèm theo vẻ cau có của ông thủ thư, ông ta dẫn chúng ta trở ra khoảnh sân rực nắng và bước vào một lối đi có mái vòm thứ hai. Lối đi này lại dẫn đến một khoảnh sân khác mà ngay chính giữa là một tòa nhà rất cũ kỹ. Khoảnh sân này không được chăm sóc kỹ lưỡng bằng mảnh sân thứ nhất, các công trình và mặt sân lát đá có vẻ như bị bỏ hoang phế và đang trong quá trình đổ nát. Dưới chân mọc đầy cỏ dại, và cha để ý thấy trên góc mái nhà còn mọc lên một cái cây; nếu người ta cứ để nguyên như vậy, sẽ có lúc cái cây kia đủ lớn để phá hủy nguyên cả góc tòa nhà đó. Cha có thể dễ dàng hình dung việc tu tạo lại ngôi nhà của Chúa này không phải là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Bungari. Họ đã có Rila với một lịch sử ‘thuần túy’ Bungari và liên quan đến sự nổi dậy chống lại đế chế Ottoman để mà trưng bày với thiên hạ rồi. Dù đẹp đẽ nhưng chốn cổ kính này lại có nguồn gốc từ thời Byzantine, cũng là một kẻ xâm lược, một kẻ chiếm đóng như đế chế Ottoman sau này, rồi sau đó nó lại thuộc về Armenia, Georgia, Hy Lạp - hình như chúng ta còn nghe nói nơi này, không như các tu viện Bungari khác, giữ được sự độc lập dưới thời đế chế Ottoman thì phải? Vậy nên cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chính quyền để cho cây cối mọc cả trên mái tu viện.

“Ông thủ thư đưa chúng ta vào một phòng nằm trong góc. ‘Bệnh xá,’ Ranov giải thích. Cái thái độ hợp tác này của Ranov càng lúc càng làm cha lo lắng. Ông thủ thư mở một cánh cửa gỗ ọp ẹp, bên trong là một cảnh tượng não lòng mà cha thực sự chẳng muốn nhớ lại chút nào. Trong phòng là hai ông thầy tu già lọm khọm. Căn phòng chỉ được trang bị hai giường xếp, một ghế gỗ và một lò sưởi bằng sắt mà chắc hẳn Phông đủ để chống chọi với cái lạnh buốt người của mùa đông vùng núi. Nền phòng bằng đá, tường quét vôi trắng, trống trơn ngoại trừ một bàn thờ trong góc: một ngọn đèn treo, một giá chạm khắc công phu, một bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh đã xỉn màu.

“Một trong hai ông lão đang nằm trên giường và thậm chí không thèm liếc mắt khi chúng ta bước vào. Sau một lúc, cha nhận ra đôi mắt ông lão nhắm tịt, đỏ tấy và sưng húp, thỉnh thoảng ông ta xoay cái cằm tuồng như cố gắng nhìn mọi vật bằng cái cằm đó. Ông ta trùm gần kín người bằng một tấm mền trắng, một tay lần mò mép giường, tựa như để tìm kiếm giới hạn của không gian trên giường, cái điểm mà ông có thể bị rơi xuống nếu bất cẩn, trong lúc tay kia sờ soạng lớp da thịt lùng nhùng trên cổ.

“Cư dân năng động hơn của căn phòng ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế độc nhất, một cây ba toong dựa vào bức tường cạnh ông ta, như thể từ chiếc giường đến chỗ ngồi kia là một hành trình dài đằng đẵng. Ông lão mặc áo chùng đen, bụng lồi ra dưới lớp áo không có thắt lưng. Đôi mắt mở thao láo, xanh kỳ lạ, phóng ra một tia nhìn cảnh giác khi chúng ta bước vào. Râu tóc ông ta bờm xờm như cỏ dại trắng phau, nhưng ông ta để đầu trần. Chính cái đầu trần trong một thế giới mà tất cả tu sĩ thường xuyên trùm kín đầu trong những chiếc mũ cao màu đen khiến ông ta trông càng ốm yếu và dị thường hơn. Ông thầy tu đầu trần này có thể là minh họa cho một vị tiên tri trong cuốn Kinh Thánh của thế kỷ mười chín, chỉ có điều vẻ mặt ông ta chẳng hư ảo chút nào. Ông ta nhăn mũi lại tựa như chúng ta bốc mùi khó ngửi, mép miệng nhếch lên nhếch xuống, đôi mắt lúc nheo lại lúc mở to. Cha không thể xác định liệu ông ta trông như đang sợ hãi, đang giễu cợt, hay đang thích thú ranh mãnh, bởi vẻ mặt ông ta thay đổi liên tục. Cả thân thể và đôi tay ông ta im lìm trong chiếc ghế tồi tàn, tuồng như tất cả các cử động của chúng đều dồn hết vào gương mặt nhăn nheo. Cha ngoảnh nhìn đi nơi khác.

“Ranov nói chuyện với ông thủ thư, ông này đang chỉ trỏ quanh phòng. ‘Ông lão ngồi trên ghế là Pondev,’ Ranov nói. ‘Ông thủ thư báo trước là chúng ta sẽ chẳng nghe được mấy lời tỉnh táo của ông lão đâu.’ Ranov thận trọng đến gần, tuồng như gã nghĩ ông thầy tu già Angel này có thể cắn mình, rồi săm soi mặt ông lão. Sư huynh Angel - Pondev - xoay đầu nhìn gã, cử chỉ không khác gì một con thú trong chuồng ở vườn thú. Có vẻ như Ranov đang thử giới thiệu, và một lát sau đôi mắt xanh kỳ lạ của Sư huynh Angel lướt đến mặt chúng ta. Gương mặt ông ta nhăn nheo và co rúm lại. Rồi ông ta lên tiếng, những lời nói ào ạt tuôn ra, nối tiếp bởi tiếng gầm gừ, tiếng nghiến răng ken két. Ông ta đưa một tay lên cao, làm dấu trông như một nửa dấu thánh, nhưng cũng có thể là cố gắng không cho chúng ta đến gần.

“ ‘Ông ấy nói gì vậy?’ cha hỏi nhỏ Ranov.

“ ‘Chẳng có ý nghĩa gì cả,’ Ranov trả lời, vẻ thích thú. ‘Tôi chưa bao giờ nghe cái gì giống như vậy. Có vẻ như vừa giống kinh cầu nguyện - một thứ mê tín trong nghi lễ của bọn họ - vừa như nói về hệ thống xe điện ở Sofia.’

“ ‘Anh thử hỏi ông ấy một câu xem? Bảo ông ấy chúng tôi cũng là sử gia giống ông ấy, và chúng tôi muốn biết liệu có hay không một nhóm người hành hương từ Wallachia đến đây qua ngả Constantinople vào cuối thế kỷ mười lăm, mang theo một thánh tích.’

“Ranov nhún vai nhưng cũng cố gắng thử, và ông thầy tu Angel lắc đầu, đáp lại bằng một chuỗi âm thanh. Cái lắc đầu ấy nghĩa là có hay không? ‘Càng tào lao hơn,’ Ranov nhận xét. ‘Lần này có vẻ như gì đó về cuộc xâm lăng Constantinople của bọn Thổ, như vậy ít nhất ông ta cũng còn hiểu được chút ít.’

“Đột nhiên, đôi mắt ông lão sáng lên, tựa như đến giờ cái tâm điểm sáng như pha lê của đôi mắt mới thực sự nhận ra chúng ta. Giữa dòng âm thanh lạ lẫm mà ông ta tuôn ra - phải chăng là ngôn ngữ? - cha nghe được rõ ràng cái tên Atanas Angelov.

“ ‘Angelov!’ cha kêu lên, nói trực tiếp với ông thầy tu già. ‘Ông biết Atanas Angelov chứ? Ông nhớ đã cùng làm việc với ông ấy chứ?’

“Ranov cẩn thận lắng nghe. ‘Phần lớn vẫn vô nghĩa, nhưng tôi sẽ cố dịch lại những gì ông ta nói. Nghe cho kỹ nhé.’ Gã bắt đầu dịch, nhanh và bình thản; dù rất ghét gã cha vẫn phải nể phục khả năng của gã. ‘ “Tôi đã làm việc với Atanas Angelov. Nhiều năm trước, có lẽ hàng thế kỷ rồi. Ông ấy là một kẻ điên. Tắt cái đèn đằng kia đi… nó làm cái chân tôi đau quá. Ông ấy muốn biết tất cả mọi điều trong quá khứ, nhưng quá khứ đâu có muốn người ta biết nàng. Nàng cứ nói không không không. Nàng cứ nhảy dựng lên và làm tổn thương người ta. Tôi muốn lấy số mười một, nhưng nó đâu còn đi đến khu nhà của chúng tôi nữa. Dù sao chăng nữa, đồng chí Dimitrov đã xóa bỏ khoản tiền lương mà chúng tôi sắp nhận, vì lợi ích của nhân dân. Nhân dân tốt đẹp.” ’

“Ranov dừng lại lấy hơi, chắc gã phải bỏ lỡ vài điều trong lúc nghỉ như vậy, vì ông thầy tu già vẫn tiếp tục tuôn ra một tràng. Phần thân thể từ cổ ông lão trở xuống vẫn bất động trong chiếc ghế dựa, nhưng cái đầu cứ lúc lắc và gương mặt rúm ró lại. ‘ “Angelov phát hiện ra một nơi nguy hiểm, một nơi tên là Sveti Georgi, ông ấy nghe có tiếng hát. Đó là nơi người ta chôn một vị thánh và nhảy múa trên nấm mồ ngài. Tôi có thể mời các bạn uống cà phê, nhưng chỉ là lúa mì xay, lúa mì và đất. Thậm chí chúng tôi chẳng có chút bánh mì nào cả.” ’

“Cha quỳ xuống cầm tay ông thầy tu già, dù Helen có vẻ như muốn ngăn cha lại. Bàn tay ông ta mềm oặt như một con cá chết, trắng nhợt và phù nề, móng tay vàng ệch và dài kỳ quặc. ‘Sveti Georgi nằm ở đâu?’ cha khẩn khoản. Cha cảm thấy như chỉ một phút nữa thôi là mình có thể bật khóc ngay trước mặt Ranov, Helen và hai sinh vật đang khô héo trong cái nhà tù này.

“Ranov cúi xuống bên cha, cố dõi theo ánh mắt đờ đẫn của ông thầy tu. ‘K’de e Sveti Georgi?’(1)_ Nhưng ánh mắt đăm đăm của Sư huynh Angel đã lại chìm vào một thế giới xa xăm. ‘ “Angelov đến Athos và thấy cuốn typikon, ông ta vào vùng núi và phát hiện ra cái chốn kinh khủng kia. Tôi mang số mười một đến căn hộ của ông ấy. Ông ấy bảo, Đến đây nhanh lên, tôi đã tìm ra một cái gì đó rồi. Tôi sẽ quay trở lại nơi đó để đào bới cái quá khứ kia lên.’ Tôi sẽ mời các bạn cà phê, nhưng nó chỉ là đất cát. Ôi, ôi, ông ấy chết trong phòng mình, nhưng xác ông ấy không còn ở nhà xác.” ’ Sư huynh Angel chợt bật cười, nụ cười làm cha giật mình thối lui. Lợi ông ta lởm chởm và chỉ còn trơ lại hai chiếc răng. Hơi thở phả ra từ miệng ông ta có thể làm ma quỷ cũng phải bỏ chạy. Ông ta bắt đầu cất tiếng hát, giọng the thé run run.

Con rồng xuống thung lũng chúng ta.

Đốt cháy mùa màng rồi bắt các thôn nữ.

Làm kinh sợ bọn Thổ vô đạo và bảo vệ làng mạc.

Chúng ta băng qua những dòng sông đã khô cạn vì hơi thở Rồng.

“Khi Ranov dịch xong, Sư huynh Ivan, người thủ thư, hào hứng lên tiếng. Tay ông ta vẫn giấu trong ống tay áo, nhưng gương mặt sáng lên lộ vẻ thích thú. ‘Ông ta nói gì?’ cha hỏi ngay.

“Ranov lắc đầu. ‘Ông ta nói đã từng nghe bài hát này rồi. Ông ta sưu tập bài hát từ một bà lão ở làng Dimovo, Baba Yanka, một ca sĩ tuyệt vời ở đó, nơi có dòng sông đã khô cạn từ lâu. Dân làng ấy có vài ngày hội hè, đó là dịp để người ta hát những bài ca cổ xưa, và Baba Yanka là người lĩnh xướng. Hai ngày nữa là một trong các ngày hội đó, ngày lễ Thánh Petko, và có lẽ các bạn sẽ muốn nghe bà ta hát.’

“ ‘Lại dân ca,’ cha rền rĩ. ‘Làm ơn hỏi ông Pondev - Sư huynh Angel - liệu ông ta có biết ý nghĩa bài hát đó không.’

“Ranov lặp lại câu hỏi với sự kiên nhẫn đáng ngạc nhiên, nhưng Sư huynh Ivan chỉ ngồi nhăn nhó rúm ró lại, lặng yên không nói gì. Một lúc sau, sự yên lặng làm cha nổi cáu. ‘Hỏi xem ông ta có biết gì về Vlad Dracula hay không!’ cha hét lên. ‘Vlad Ţepeş ấy! Có phải hắn được chôn cất ở vùng này không? Ông ta từng nghe nói đến cái tên đó chưa? Cái tên Dracula ấy?’ Helen dằn cánh tay cha lại, nhưng lúc đó cha đã mất tự chủ. Ông thủ thư nhìn cha chằm chằm, dù có vẻ như không cảm thấy kinh sợ gì, và nếu bận tâm để ý kỹ hơn thì hẳn cha sẽ thấy Ranov nhìn mình bằng một ánh mắt có thể gọi là thương hại.

“Nhưng tác động đối với Pondev thật kinh hoàng. Mặt ông ta bỗng tái nhợt, mắt trợn ngược giống như những viên bi xanh biếc. Sư huynh Ivan lao đến đỡ lấy Pondev trước khi ông lão sụm nhào khỏi ghế, rồi loay loay cùng Ranov đưa ông ta lên giường. Pondev trông như một đống thịt thảm hại, bàn chân trắng phù nề chòi ra khỏi bộ quần áo ngủ, đôi tay lòng thòng quanh cổ Ivan và Ranov. Khi đã đặt Pondev nằm yên vị, ông thủ thư lấy một bình nước và vẩy vài giọt lên mặt ông lão khốn khổ. Cha đứng lặng câm trong nỗi kinh hoàng, cha đâu có ý gây ra nỗi đau đớn như vậy, và có lẽ giờ đây cha đã giết chết một trong những nguồn tin duy nhất còn lại của chúng ta. Sau khoảnh khắc tưởng chừng như bất tận đó, Sư huynh Angel bắt đầu cựa quậy và mở mắt, nhưng lúc này đó là đôi mắt hoang dại, đầy cảnh giác của một con thú bị săn đuổi, khiếp sợ đảo quanh phòng tựa như hoàn toàn không nhìn thấy chúng ta. Ông thủ thư vỗ nhẹ lên ngực Pondev và cố xoay trở để ông lão nằm ở tư thế thoải mái hơn, nhưng ông thầy tu già gạt tay Ivan ra, tiếp tục run rẩy. ‘Để ông ấy yên,’ Ranov nói, vẻ ủ rũ. ‘Ít ra thì ông ta sẽ không chết… vì chuyện này đâu.’ Theo chân ông thủ thư ra khỏi căn phòng, tất cả chúng ta đều im lặng và day dứt.

“ ‘Tôi xin lỗi,’ cha lên tiếng khi chúng ta đứng giữa sân, trong ánh nắng rực rỡ làm yên lòng trở lại.

“Helen quay qua Ranov. ‘Anh làm ơn hỏi ông thủ thư xem ông ta có biết gì thêm về bài hát đó, hoặc nó xuất phát từ thung lũng nào hay không?’

“Ranov và Ivan lại trao đổi với nhau, ông thủ thư liếc nhìn chúng ta. ‘Ông ta nói bài hát đó xuất phát từ Krasna Polyana, thung lũng nằm ở sườn bên kia dãy núi này, về hướng Đông Bắc. Các bạn có thể đi cùng với ông ấy hai ngày nữa vào dịp lễ thánh, nếu các bạn muốn ở lại đây. Bà ca sĩ già kia có thể biết gì đó về bài hát - ít nhất bà ta cũng có thể cho các bạn biết bà ta đã học được nó ở đâu.’

“ ‘Em nghĩ liệu việc đó có ích lợi gì không?’ cha thì thầm hỏi Helen.

“Cô nhìn cha bằng ánh mắt buồn bã. ‘Em cũng chẳng biết, nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có. Chúng ta nên bám theo bài hát đó, bởi nó đề cập đến một con rồng. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta có thể thăm thú Bachkovo kỹ lưỡng hơn, và có lẽ sẽ sử dụng thư viện nếu ông thủ thư sẵn sàng giúp chúng ta.’

“Cha mệt mỏi ngồi xuống một chiếc ghế đá dài bên rìa dãy hành lang. ‘Đành vậy thôi,’ cha nói.”

Chú thích:

1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Sveti Georgi ở đâu?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 68


Tháng Chín 1962

Con gái thương yêu,

Quỷ tha ma bắt cái thứ tiếng Anh chết tiệt này! Nhưng khi mẹ cố viết cho con bằng tiếng Hungary, dù chỉ vài dòng, mẹ biết ngay là con không hiểu. Con lớn lên trong tiếng Anh. Tin rằng mẹ đã chết, cha con luôn nói tiếng Anh với con khi công kênh con trên vai, khi mang giày cho con - hẳn giờ con đã mang những đôi giày thực sự nhiều năm rồi - và khi nắm tay dẫn con đi trong công viên. Nhưng nếu mẹ nói tiếng Anh với con, mẹ cảm thấy con không thể nghe mẹ. Từ lâu, mẹ chẳng viết gì cho con bởi mẹ nghĩ con không nghe được lời mẹ dù trong bất kỳ ngôn ngữ nào. Mẹ biết cha con tin rằng mẹ đã chết, vì cha chưa bao giờ cố gắng tìm mẹ. Nếu cố gắng, hẳn cha con đã có thể tìm được mẹ. Nhưng cha con không thể nghe được mẹ, dù bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.

Mẹ thương yêu của con,

Helen

Tháng Năm 1963

Con gái thương yêu,

Không biết bao lần mẹ đã thầm giải thích với con rằng chúng ta đã có những tháng đầu tiên hạnh phúc bên nhau. Mẹ nhìn con thức giấc sau một giấc ngủ ngắn, tay con cử động trước khi những phần cơ thể khác cựa quậy, kế đến là đôi hàng mi đen nhánh chớp chớp, và rồi con duỗi thẳng người, con cười, khiến mẹ tràn ngập hạnh phúc. Nhưng rồi một điều đã xảy ra. Không phải là một thứ bên ngoài mẹ, không phải là mối đe dọa từ bên ngoài đối với con. Đó là một cái gì đó bên trong con người mẹ. Mẹ bắt đầu không ngơi tìm đi tìm lại trên cơ thể hoàn mỹ của con một dấu hiệu tổn thương nào đó. Nhưng chỉ có sự tổn thương trong mẹ, một tổn thương thậm chí có trước cái vết thương trên cổ mẹ và sẽ không bao giờ lành hẳn. Mẹ bỗng sợ phải chạm vào con, thiên thần hoàn hảo của mẹ.

Mẹ thương yêu của con,

Helen

Tháng Bảy 1963

Con gái thương yêu,

Hôm nay, dường như mẹ cảm thấy nhớ con hơn bao giờ hết. Mẹ đang ở trong kho lưu trữ văn thư Đại học Rome. Trong hai năm vừa qua, mẹ đã đến đây sáu lần. Những người bảo vệ biết mẹ, những chuyên viên lưu trữ biết mẹ, người phục vụ bàn ở quán cà phê phố đối diện cũng biết mẹ và muốn tìm hiểu mẹ rõ hơn nếu mẹ không làm mặt lạnh, vờ như không nhận thấy sự quan tâm của ông ta. Trung tâm lưu trữ này có các hồ sơ về một bệnh dịch năm 1517, cổ bệnh nhân chỉ nổi một vết thương màu đỏ đau nhức. Giáo hoàng ra lệnh chôn cất các bệnh nhân sau khi đã đóng cọc vào tim và nhét tỏi vào miệng họ. Năm 1517. Mẹ đang cố dựng một biểu đồ thời gian về các động thái của hắn, hoặc - thật tình cũng chẳng khác nhau - các động thái của đám tay chân. Biểu đồ này, thực ra là một bản liệt kê trong sổ ghi chép của mẹ, đã kéo dài trên nhiều trang. Nhưng mẹ chưa biết sử dụng nó vào việc gì. Trong lúc tiếp tục làm việc, mẹ mong sẽ phát hiện ra điều này.

Mẹ thương yêu của con,

Helen

Tháng Chín 1963

Con gái thương yêu,

Mẹ đã sẵn sàng, gần như sẵn sàng, từ bỏ tất cả và quay trở về với con. Tháng này là sinh nhật con. Làm sao mẹ có thể bỏ lỡ một sinh nhật nữa? Mẹ sẽ trở về với con ngay tức khắc, nhưng mẹ biết nếu mẹ làm vậy thì việc kia sẽ xảy ra. Mẹ sẽ cảm thấy sự nhơ nhuốc của mình, như lần đầu cách đây sáu năm - mẹ sẽ cảm thấy kinh hoàng trước sự nhơ nhớp đó, mẹ sẽ nhìn thấy sự hoàn mỹ của con. Làm sao mẹ có thể gần bên con khi biết bản thân mình bị ô uế? Mẹ đâu có quyền chạm vào đôi má mượt mà của con?

Mẹ thương yêu của con,

Helen

Tháng Mười 1963

Con gái thương yêu,

Mẹ đang ở Assisi. Mẹ cảm thấy nỗi thất vọng tràn ngập trong lòng khi leo lên những ngọn đồi có các giáo đường và nhà nguyện đẹp sững sờ này. Lẽ ra chúng ta có thể cùng đến đây, con đội mũ và mặc bộ váy áo nhỏ nhắn, rồi mẹ, rồi cha, tất cả chúng ta tay trong tay, như những khách du lịch. Thay vì vậy, mẹ đang cắm đầu làm việc trong một thư viện tu viện bụi bặm, đang đọc một tài liệu có từ năm 1603. Hai tu sĩ ở đây đã chết vào tháng Mười hai năm đó. Thi thể họ được tìm thấy trong tuyết, cổ họng bị thương nhẹ. Vốn liếng tiếng Latin của mẹ vẫn rất tốt, số tiền mẹ mang theo cũng giúp chi tiêu trong việc biên phiên dịch và giặt giũ quần áo. Thị thực, hộ chiếu, vé tàu, một thẻ căn cước giả cũng tốn một ít tiền. Hồi trẻ mẹ chưa bao giờ có tiền. Bà ngoại con, vốn sống ở làng quê, thật sự hầu như chưa bao giờ nhìn thấy tiền. Nhưng giờ thì mẹ biết tiền bạc có thể mua mọi thứ. Không, không phải là mọi thứ. Không phải là tất cả mọi thứ mẹ muốn.

Mẹ thương yêu của con,

Helen
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 69


“Hai ngày ở Bachkovo là hai trong những ngày dài nhất cuộc đời cha. Cha muốn mau mau chóng chóng đến cái lễ hội hứa hẹn ấy ngay, muốn nó diễn ra tức thì, để chúng ta có thể đi theo một từ của bài hát đó - rồng - tới chính hang ổ của nó. Nhưng đồng thời cha cũng sợ hãi giây phút có lẽ không thể tránh khỏi kia, khi cái có thể là manh mối này tan thành mây khói, hoặc hóa ra chẳng liên quan gì cả. Helen đã cảnh báo cha là những bài dân ca vốn nổi tiếng không đáng tin cậy; nguồn gốc của chúng thường thất lạc sau hàng thế kỷ, lời hát cũng thay đổi và biến hóa, những người hát dân ca ít khi biết các bài hát xuất xứ từ đâu hoặc có từ thời nào. ‘Chính những yếu tố đó biến chúng trở thành dân ca,’ Helen vừa nói với vẻ đăm chiêu, vừa đưa tay vuốt thẳng cổ áo cha khi chúng ta ngồi ở khoảnh sân trong, đó là ngày thứ hai ở tu viện. Helen vốn ít bày tỏ những cử chỉ âu yếm như vậy, nên cha biết hẳn cô đang rất lo lắng. Mắt cha nóng ran và đầu nhức như búa bổ khi nhìn quanh khoảng sân sỏi đầy nắng mà lũ gà đang bươi móc. Đây là một chốn đẹp đẽ hiếm thấy, đối với cha nó đẹp kỳ lạ, ở đây chúng ta được chứng kiến dòng sống cứ thế trôi chảy từ thế kỷ mười một đến nay: lũ gà vẫn đang săn lùng côn trùng sâu bọ, con mèo vẫn lười biếng cuộn mình bên chân chúng ta, ánh mặt trời rực rỡ vẫn rộn ràng trên cái công trình bằng đá xinh đẹp màu trắng và đỏ bao quanh chúng ta. Nhưng cha hầu như không còn cảm nhận được vẻ đẹp đó nữa.

“Vào buổi sáng ngày thứ hai, cha thức dậy rất sớm. Cha nghĩ có lẽ mình đã nghe tiếng chuông nhà thờ ngân lên, nhưng không chắc chắn đó là thực hay chỉ là một phần của giấc mơ. Từ ô cửa sổ phòng ngủ che tấm rèm thô ráp, cha nhìn thấy bốn năm tu sĩ đang đi vào nhà thờ. Cha mặc quần áo vào - lạy Chúa, bộ quần áo đã quá dơ, nhưng cha chẳng hơi đâu mà bận tâm đến chuyện giặt giũ nữa - rồi yên lặng xuống cầu thang, bước vào sân trong. Quả thực, hãy còn quá sớm, trời mờ mờ tối, trăng đang lơ lửng trên đầu núi. Cha thoáng nghĩ đến việc vào nhà thờ rồi lừng khừng gần cánh cửa để ngỏ; từ bên trong hắt ra ánh nến, thoảng mùi thơm của sáp và hương trầm đang cháy, phần nội thất mà ban ngày tối om giờ bỗng trở nên ấm áp và mời gọi. Cha có thể nghe tiếng cầu kinh của các tu sĩ. Âm thanh u uất đó cao dần lên và xoáy vào lòng cha như một mũi dao. Có lẽ họ đã từng cầu kinh như thế này, vào một buổi sáng còn lờ mờ tối năm 1477 khi Sư huynh Kiril và Stefan cùng các tu sĩ khác bỏ lại nấm mộ của hai người bạn tử đạo - trong khu chứa hài cốt? - và lên đường băng qua những ngọn núi, bảo vệ cái vật báu trong cỗ xe. Nhưng họ đã đi theo hướng nào? Cha quay mặt về hướng Đông, rồi hướng Tây - nơi mặt trăng đang lặn xuống rất nhanh - và rồi hướng Nam.

“Một cơn gió nhẹ làm lao xao những cành đoan, và chỉ vài phút sau cha thấy tia sáng mặt trời đầu tiên ló rạng sau những triền núi xa xa và trên các bức tường tu viện. Rồi một chú gà trống cất tiếng gáy muộn màng từ một nơi nào đó trong khuôn viên tu viện. Nếu còn chút lòng dạ nào thì chắc chắn đó là một khoảnh khắc cực kỳ thú vị, một giây phút được đắm mình trong lịch sử mà cha hằng mơ ước. Cha nhận ra mình đang chậm rãi xoay một vòng, cố cảm nhận hướng Sư huynh Kiril đã đi. Có lẽ đâu đó ngoài kia là một ngôi mộ mà vị trí chính xác đã thất truyền từ quá lâu đến độ không ai còn biết gì về nó nữa. Nó có thể cách đây một ngày đi bộ, hoặc chỉ ba giờ, hoặc phải cả tuần. ‘Không còn bao xa và không còn sự cố nào nữa,’ Zacharias đã viết như vậy. Không còn bao xa là còn bao xa? Bọn họ đã đi đâu? Mặt đất đang quay cuồng - những ngọn núi rậm rạp cùng những tảng đá nhô cao bụi bặm, khoảnh sân đầy đá cuội dưới chân cha và đồng cỏ, trang trại của tu viện - nhưng tất cả vẫn câm lặng giữ kín bí mật của mình.

“Khoảng chín giờ sáng hôm đó, chúng ta khởi hành trên chiếc xe của Ranov, Sư huynh Ivan ngồi ghế trước. Chúng ta chạy trên con đường dọc sông khoảng mười cây số, rồi bỗng nhiên dòng sông dường như biến mất và con đường men theo một thung lũng dài khô cạn, uốn khúc giữa các ngọn đồi. Quang cảnh này gợi cho cha nhớ đến một điều. Cha thúc khuỷu tay vào Helen, cô cau mày nhìn cha. ‘Helen, thung lũng có dòng sông.’

“Mặt Helen sáng lên, cô vỗ vào vai Ranov. ‘Anh làm ơn hỏi Sư huynh Ivan dòng sông chảy về đâu? Chúng ta đã qua sông ở chỗ nào chưa?’

“Ranov nói mà không cần quay qua Ivan rồi dịch lại cho chúng ta. ‘Ông ta nói ở đây dòng sông đã khô cạn - bây giờ nó đã ở phía sau chúng ta, lúc ta băng qua cây cầu mới đây. Ngày xưa nơi này từng là thung lũng có sông, nhưng giờ thì nước ở đây đã khô cạn rồi.’ Helen và cha im lặng nhìn nhau. Phía trước chúng ta, ở cuối thung lũng, cha nhìn thấy hai đỉnh núi vút lên, hai ngọn đơn độc giống như đôi cánh góc cạnh. Và ở giữa hai đỉnh núi, tít đằng xa, chúng ta có thể nhìn thấy các ngọn tháp của một nhà thờ nhỏ. Helen bỗng nắm chặt tay cha.

“Một lát sau, chúng ta quẹo lên một con đường đất dẫn vào một vùng đồi bằng phẳng, theo biển chỉ dẫn đến một ngôi làng tên Dimovo. Rồi con đường hẹp lại và Ranov dừng xe trước nhà thờ, mặc dù chưa thấy cái làng Dimovo ấy ở đâu cả.

“Nhà thờ Thánh Tử Đạo Petko bé tí xíu, một nhà nguyện trát vữa dãi dầu mưa nắng, nằm lẻ loi giữa một bãi đất trống có lẽ được sử dụng để phơi cỏ cuối vụ mùa. Hai cây sồi cong cong phủ bóng phía trên nhà thờ, kế bên là một kiểu nghĩa địa mà cha chưa từng thấy bao giờ - mộ của các nông dân, một số có ghi ngày chôn cất từ thế kỷ mười tám, Ranov giải thích với vẻ mặt hãnh diện. ‘Đó là truyền thống, thậm chí ngày nay vẫn có nhiều địa điểm như vậy, dành để chôn cất những người lao động nông thôn. Bia mộ hoặc bằng đá hoặc bằng gỗ, có mái che hình tam giác phía trên, nhiều cái còn có một ngọn đèn nhỏ dưới chân. ‘Sư huynh Ivan cho biết sau mười một giờ rưỡi buổi lễ mới bắt đầu,’ Ranov lên tiếng khi chúng ta lừng khừng ở đó. ‘Bây giờ, người ta đang sửa soạn nhà thờ. Ông ấy sẽ đưa ta đến gặp Baba Yanka trước, sau đó ta sẽ quay lại xem buổi lễ.’ Gã nhìn chúng ta chăm chú, tựa như để đoán xem chúng ta quan tâm đến điều gì nhất.

“ ‘Chuyện gì đằng kia vậy?’ Cha trỏ một nhóm người đang làm việc trên cánh đồng kế bên nhà thờ. Một số đang kéo các khúc gỗ và cành cây lớn xếp thành một đống, trong khi những người khác xếp gạch hoặc đá chung quanh. Họ đã thu nhặt rất nhiều vật liệu từ trong rừng.

“ ‘Sư huynh Ivan nói đó là dành để đốt lửa. Lúc trước tôi chưa nhớ ra, nhưng sẽ có màn đi trong lửa nữa đấy.’

“ ‘Đi trong lửa ư!’ Helen thốt lên.

“ ‘Đúng vậy,’ Ranov trả lời. ‘Các bạn biết tục lệ này chứ? Nó rất hiếm thấy tại Bungari thời hiện đại, thậm chí càng hiếm thấy hơn ở miền này của đất nước. Tôi mới chỉ nghe nói về tục đi trong lửa ở vùng Biển Đen. Nhưng đây là một khu vực nghèo khó và mê tín đị đoan mà Đảng vẫn đang đầu tư phát triển. Tôi chắc chắn những việc như thế này rốt cuộc cũng sẽ bị loại trừ.’

“ ‘Em cũng nghe nói đến tục này.’ Helen quay sang cha. ‘Nó là một phong tục của dân ngoại giáo, và đã trở thành tục lệ của người Thiên Chúa giáo vùng Balkan khi người dân ở đây cải đạo. Thường không phải đi mà là nhảy múa. Em rất vui vì chúng ta sẽ được chứng kiến một sự kiện như thế này.’

“Ranov nhún vai, dẫn chúng ta hướng về phía nhà thờ, nhưng ngay sau đó cha nhìn thấy một trong những người đang làm việc quanh đống củi bỗng chồm tới châm lửa. Đống củi nhanh chóng bắt lửa, bùng lên, lan rộng và bắt đầu gầm gào. Đống củi khô chẳng khác gì bùi nhùi và chẳng mấy chốc đã bốc lên đến đỉnh, cháy rừng rực. Thậm chí cả Ranov cũng đứng sững. Cánh đàn ông vừa chất đống củi ấy lùi lại vài bước, rồi thêm vài bước nữa, và đứng lại chùi hai tay vào quần. Ngọn lửa đã đạt đến mức cao nhất, bùng lên mãnh liệt, gần như cao ngang với mái ngôi nhà thờ gần bên, nhưng vẫn ở khoảng cách an toàn. Chúng ta nhìn ngọn lửa ngốn dần cái đống củi khổng lồ cho đến khi Ranov lại ngoảnh đi. ‘Họ sẽ để nó cháy vài giờ đồng hồ và tự lụi tàn,’ gã nói. ‘Giờ thì ngay cả những kẻ mê tín nhất cũng chả dám vào đó nhảy múa nữa.’

“Khi chúng ta bước vào nhà thờ, một người đàn ông trẻ, hình như là vị cha xứ, bước đến chào chúng ta. Ông ta cười vui vẻ, bắt tay chúng ta, rồi Sư huynh Ivan và ông ta cúi chào nhau một cách thân mật. ‘Ông ta nói rất vinh dự đón các bạn ở đây trong ngày lễ thánh,’ Ranov lạnh nhạt dịch lại.

“ ‘Nói với ông ấy là chúng tôi cũng hân hạnh được chứng kiến lễ hội này. Anh có thể hỏi ông ấy Sveti Petko là ai không?’

“Vị cha xứ giải thích Thánh Petko là một người tử đạo ở địa phương, bị người Thổ giết vì từ chối bỏ đạo trong thời gian xứ này bị chiếm đóng. Thánh Petko là cha xứ của nhà thờ trước đây ở địa điểm này, nhà thờ đó bị bọn Thổ đốt cháy, và ngay cả khi nhà thờ đã bị phá hủy ông ấy vẫn cự tuyệt không chấp nhận đức tin Hồi giáo. Sau đó, người ta xây nhà thờ này, di hài của ông được mai táng trong hầm mộ cũ. Ngày nay, vẫn có nhiều người đến quỳ ở đó. Ảnh thánh đặc biệt của ông, cùng hai ảnh thánh đầy quyền năng khác sẽ được rước quanh nhà thờ và đi băng qua đống lửa. Đây là Thánh Petko, được vẽ trên bức tường trước nhà thờ - vị cha xứ trỏ vào bức bích họa phai màu phía sau, một gương mặt râu ria chẳng khác gì ông ta. Chúng ta hãy quay lại tham quan nhà thờ khi ông ta đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Hoan nghênh chúng ta đến xem toàn bộ buổi lễ và nhận phước lành của Thánh Petko. Chúng ta không phải là những người hành hương đầu tiên từ xứ sở khác đến đây và được làm vơi bớt bệnh tật, đau đớn. Vị cha xứ mỉm cười ngọt ngào với chúng ta.

“Qua Ranov, cha hỏi liệu ông ta đã từng nghe nói đến một tu viện có tên là Sveti Georgi. Vị cha xứ lắc đầu. ‘Tu viện gần nhất là Bachkovski,’ ông trả lời. ‘Thỉnh thoảng tu sĩ từ những tu viện khác cũng ghé đến đây trên đường hành hương, vào những năm… lâu lắm rồi.’ Cha hiểu câu ấy nghĩa là việc hành hương có lẽ đã chấm dứt từ khi người cộng sản nắm quyền cai trị, và thầm ghi nhớ điều này để hỏi Stoichev khi trở về Sofia.

“ ‘Tôi sẽ nhờ ông ấy tìm hộ Baba Yanka,’ một lúc sau Ranov lên tiếng. Vị cha xứ biết chính xác căn nhà Baba Yanka. Ông ta rất muốn đi cùng chúng ta, nhưng nhà thờ vừa đóng cửa hàng tháng trời - ông ta chỉ đến đây vào các ngày lễ - vì vậy ông và người phụ lễ hãy còn quá nhiều việc phải làm.

“Ngôi làng nằm trong một lòng chảo ngay phía dưới đồng cỏ nơi nhà thờ tọa lạc, và đó là cộng đồng nhỏ bé nhất mà cha gặp kể từ khi đến với cái khối phương Đông này: không hơn mười lăm mái nhà túm tụm lại với nhau một cách gần như là sợ hãi, những cây táo và vườn rau mơn mởn trồng quanh rìa làng, con đường đất chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe ngựa chạy ở giữa, một giếng nước cổ với một cây cột gỗ và chiếc xô treo lủng lẳng trên cột. Cha ngạc nhiên vì sự thiếu vắng tuyệt đối của thời hiện đại và nhận ra mình đang kiếm tìm những dấu vết của thế kỷ hai mươi. Dường như thế kỷ này chưa xuất hiện ở nơi đây. Vậy nên cha có cảm giác như bị phản bội khi thấy một xô nhựa trắng trong sân bên hông một ngôi nhà đá. Những ngôi nhà này như mọc trồi lên từ đống đá xám, lớp vữa ở tầng trên chắc vừa được trát vội vào sau, mái lợp bằng loại ván lợp phẳng màu xám đen. Vài căn còn phô trương kiểu trang trí tường gạch khung gỗ thanh nhã cổ kính, trông thân quen như một làng quê mang phong cách kiến trúc Tudor.

“Khi chúng ta bước vào một con đường trong làng Dimovo, mọi người ra khỏi nhà hoặc chuồng gia súc để chào hỏi chúng ta - chủ yếu là các ông già bà lão, nhiều người trong số họ do lao động nặng nhọc nên gầy giơ xương đến mức hầu như không thể tin được, đám phụ nữ thì thô kệch với kiểu đi chữ bát, cánh đàn ông thì lưng khom về phía trước tựa như luôn phải vác trên lưng một cái bao vô hình trĩu nặng. Nước da họ nâu, má đỏ hây hây - họ cười và thốt lên những lời chào hỏi, cha thoáng thấy những cái lợi trống trơn không còn răng hoặc ánh kim loại lấp lánh trong vòm miệng. Cha nghĩ ít ra họ còn biết đi chữa răng dù thực khó hình dung việc đó được thực hiện ở đâu và như thế nào. Một vài người bước đến cúi chào Sư huynh Ivan, ông làm dấu thánh ban phước lành và có vẻ như đang hỏi han bọn họ đôi điều. Chúng ta đi đến nhà Baba Yanka giữa một đám người vây quanh, người trẻ nhất có lẽ cũng phải đến bảy mươi, dù sau này Helen nói rằng những nông dân này có lẽ trẻ hơn cả hai chục tuổi so với bề ngoài của họ.

“Nhà của Baba Yanka rất nhỏ, hầu như chỉ là một túp lều tranh, nặng nề tựa vào một chuồng gia súc nhỏ. Chính bà cũng đi nhanh ra cửa trước để xem có chuyện gì xảy ra; vật đầu tiên trên người bà đập vào mắt cha là vuông khăn quàng đầu in hoa đỏ rất nổi bật, kế đến là chiếc váy yếm tạp dề kẻ sọc. Bà nhòm ra cửa nhìn chúng ta, và gật đầu lia lịa khi vài dân làng gọi to tên bà. Da mặt bà có màu gỗ, mũi và cằm nhọn, đôi mắt - khi chúng ta đến càng lúc càng gần hơn - hình như có màu nâu, nhưng đã bị che khuất bởi những nếp nhăn.

“Ranov gọi bà - cha chỉ có thể hy vọng đó không phải là một mệnh lệnh hoặc một câu bất kính - và sau khi nhìn đăm đăm chúng ta một lát, bà đóng cánh cửa gỗ lại. Chúng ta yên lặng chờ bên ngoài, và khi cửa lại mở ra cha nhận thấy bà không nhỏ bé như cha đã hình dung; bà cao đến vai Helen, ánh mắt vui vẻ dù gương mặt vẫn còn vẻ thận trọng. Bà hôn tay Sư huynh Ivan, và thoạt tiên có vẻ bối rối khi chúng ta bắt tay bà. Sau đó bà xua chúng ta vào nhà tựa như chúng ta là một bầy gà có thể chạy mất.

“Bên trong nhà rất tồi tàn, nhưng sạch sẽ, và cha chợt thấy thoáng mủi lòng khi nhận ra bà trang trí căn nhà đơn sơ của mình bằng một lọ hoa dại tươi tắn, đặt trên một cái bàn xập xệ, trầy xước. Ngôi nhà của mẹ Helen giống như một dinh thự so với gian nhà xập xệ gọn gàng, với một cái thang đóng vào tường làm lối đi lên gác này. Cha tự hỏi Baba Yanka còn có thể leo trèo cái thang kia bao lâu nữa, nhưng khi nhìn bà di chuyển quanh phòng với vẻ nhanh nhẹn đầy sinh lực, cha dần nhận ra là bà thực sự chưa già. Helen gật đầu khi cha thì thầm với cô nhận xét trên. ‘Năm mươi, có lẽ vậy,’ cô thì thầm đáp lại.

“Phỏng đoán của Helen làm cha rất ngạc nhiên. Bà nội con ở Boston đã năm mươi hai tuổi, vậy mà trông như thể là cháu gái của người phụ nữ này. Đôi bàn tay Baba Yanka chỉ toàn xương chẳng khác gì đôi chân gầy gò của bà; cha nhìn bà mang ra những chiếc đĩa phủ vải, đặt ly cốc trước mặt chúng ta mà thầm hỏi bà đã làm gì với đôi bàn tay kia suốt cả đời để chúng ra đến nông nỗi đó. Đốn cây, có lẽ vậy, bửa củi, gặt hái mùa màng, làm việc trong giá buốt hoặc giữa trời nắng chang chang. Bà liếc trộm chúng ta một hai lần trong lúc làm việc, mỗi lần liếc kèm theo một nụ cười, và sau cùng rót cho chúng ta một loại đồ uống gì đó - một thứ nước màu trắng, sền sệt - mà Ranov nốc cạn ngay rồi gật đầu với bà trong khi chùi miệng bằng khăn tay. Cha bắt chước gã, nhưng thứ nước đó làm cha suýt chết; nó âm ấm và rõ ràng có mùi đặc trưng của sàn chuồng gia súc. Cha cố không nôn ra trước mặt mọi người trong lúc Baba Yanka nhìn cha với ánh mắt tán thưởng. Helen bình thản uống ly của mình, và Baba Yanka vỗ vỗ lên tay cô. ‘Sữa cừu pha nước lã,’ Helen nói với cha. ‘Anh cứ xem nó như sữa lắc là xong.’

“ ‘Bây giờ tôi sẽ đề nghị bà ta hát,’ Ranov nói với chúng ta. ‘Đó là điều các bạn mong muốn, đúng chứ?’ Gã trao đổi với Sư huynh Ivan một lúc, rồi ông này lại quay qua Baba Yanka. Người phụ nữ lùi lại, gật đầu lia lịa. Không, bà ta sẽ không hát; rõ ràng bà ấy không muốn hát. Bà ra dấu về phía chúng ta rồi giấu hai tay dưới tấm tạp dề. Nhưng Sư huynh Ivan rất kiên trì.

“ ‘Chúng tôi sẽ yêu cầu bà ấy hát bất kỳ bài nào bà ấy muốn trước,’ Ranov giải thích. ‘Sau đó các bạn có thể đề nghị bài mình quan tâm.’

“Baba Yanka dường như đã chịu nhượng bộ, cha tự hỏi phải chăng toàn bộ sự phản kháng của bà là một hình thái khiêm tốn, bởi bà đã lại mỉm cười. Bà thở dài, xốc lại vai dưới chiếc áo cánh sờn rách in hoa đỏ. Bà nhìn chúng ta bằng ánh mắt chân thật và mở miệng cất tiếng hát. Âm thanh vang lên nghe ấn tượng lạ lùng; thoạt tiên nó vang to một cách đáng kinh ngạc, đến độ không chỉ làm ly cốc trên bàn rung lanh canh mà còn khiến những người đứng bên ngoài cánh cửa để ngỏ - có vẻ như một nửa cái làng này đang tụ tập ngoài kia - thò đầu vào nhìn. Âm thanh đó rung lên từ các vách tường, từ dưới chân chúng ta và làm những dây tỏi ớt lắc lư trên chiếc lò vỡ. Cha kín đáo nắm tay Helen. Âm điệu đầu tiên đã làm chúng ta xúc động, rồi một âm điệu khác, mỗi âm điệu kéo dài và rền rĩ, mỗi âm điệu là một tiếng gào khóc vì cùng cực và tuyệt vọng. Cha chợt nhớ đến cô thôn nữ thà gieo mình xuống vách đá cao ngất chứ không chịu bị bắt vào hậu cung của tên quan tổng trấn, và tự hỏi phải chăng bài hát này diễn tả nội dung tương tự. Điều kỳ lạ là Baba Yanka lại mỉm cười trong mỗi giai điệu, hít mạnh không khí vào phổi, tươi cười nhìn chúng ta. Chúng ta sững sờ im lặng lắng nghe cho đến lúc bà đột ngột dừng hát; âm điệu cuối cùng như vẫn còn ngân vang mãi trong gian nhà nhỏ bé.

“ ‘Làm ơn nhờ bà ấy nói với chúng tôi về lời bài hát,’ Helen nói.

“Bằng sự cố gắng thấy rõ - nhưng cũng không làm nụ cười tắt trên môi - Baba Yanka thuật lại lời bài hát để Ranov dịch.

Vị anh hùng nằm chết trên đỉnh núi xanh.

Vị anh hùng nằm chết với chín vết thương bên sườn.

Ôi, chim ưng, hãy bay đến báo cho chàng, rằng dân của chàng vẫn yên lành.

Yên lành trong những ngọn núi, nhân dân của chàng.

Vị anh hùng đã bị chín vết thương bên sườn,

Nhưng chính vết thương thứ mười đã giết chết chàng.

“Khi đọc xong, Baba Yanka còn giải thích thêm một vài điểm với Ranov, vẫn cười rạng rỡ và lắc lắc một ngón tay về phía gã. Cha có cảm giác bà sẵn sàng đét vào đít và bắt gã nhịn đói đi ngủ nếu gã làm điều gì bậy bạ trong nhà bà. ‘Hỏi bà ấy bài hát đó có từ bao giờ,’ Helen gợi ý cho Ranov, ‘và bà ấy học nó ở đâu.’

“Ranov dịch câu hỏi, và Baba Yanka bật ra một tràng cười, vừa xua xua tay vừa diễn tả điệu bộ gì đó bằng vai. Ranov nhăn răng ra cười. ‘Bà ấy nói nó cũng xưa như những ngọn núi, thậm chí cả bà cố bà ấy cũng không biết nó có từ bao giờ. Bà ấy đã học bài hát ấy từ bà cố, người đã sống đến chín mươi ba tuổi.’

“Kế tiếp, đến lượt Baba Yanka đặt câu hỏi cho chúng ta. Khi bà dán mắt nhìn chúng ta, cha mới nhận ra đó là đôi mắt đẹp tuyệt vời, hình quả hạnh đào đã dãi dầu nắng gió, màu vàng nâu, gần như màu hổ phách, và có vẻ sáng hơn nhờ ánh đỏ của chiếc khăn trùm đầu. Bà gật đầu, có vẻ như không tin khi cha nói chúng ta đến từ Mỹ.

“ ‘Amerika?’ Bà có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. ‘Chắc là bên kia núi chứ gì.’

“ ‘Bà ta là một bà già dốt nát,’ Ranov nói giọng như muốn đính chính. ‘Chính phủ đang nỗ lực nâng cao tiêu chuẩn giáo dục ở vùng này. Việc đó hiện là một ưu tiên quan trọng.’

“Helen đã lấy ra một tờ giấy và lúc này cô đang cầm tay bà già. ‘Hỏi xem bà ấy có biết bài hát nào như thế này không - anh dịch ra cho bà ấy nhé. “Con rồng xuống thung lũng chúng ta. Đốt cháy mùa màng và bắt các thôn nữ.” ‘ Ranov dịch câu đó cho Baba Yanka, bà chăm chú lắng nghe một lúc, rồi đột nhiên gương mặt bà co rúm vì sợ hãi và khó chịu; bà thụt người lại trên chiếc ghế gỗ, hấp tấp làm dấu thánh. ‘Ne!’(1)_ bà dữ dằn kêu lên, rút tay ra khỏi tay Helen. ‘Ne, ne.’

“Ranov nhún vai. ‘Các bạn hiểu rồi đấy. Bà ta không biết.’

“ ‘Rõ ràng là bà ấy biết,’ cha khẽ nói. ‘Hỏi xem vì sao bà ấy sợ không dám nói với chúng tôi.’

“Lần này bà già trông có vẻ kiên quyết. ‘Bà ta không chịu nói về chuyện đó,’ Ranov nói.

“ ‘Nói là chúng tôi sẽ có hậu tạ.’ Lông mày Ranov lại nhướng lên, nhưng gã vẫn chuyển lại lời đề nghị tới bà Yanka. ‘Bà ấy nói chúng ta phải đóng cửa lại.’ Gã đứng dậy và lặng lẽ đóng các cánh cửa chính cũng như cửa chớp lại, ngăn cách chúng ta với đám khán giả ngoài đường. ‘Bây giờ bà ấy sẽ hát.’

“Không thể tin nổi có sự tương phản nhiều đến thế giữa lần hát thứ nhất của Baba Yanka với lần hát bài này. Bà như co sụm lại trên ghế, mắt nhìn nền nhà. Nụ cười tươi tắn đã biến mất, đôi mắt màu hổ phách dán chặt vào chân chúng ta. Giai điệu vang lên từ bà chắc chắn là một giai điệu sầu bi, mặc dù cha nhận ra câu cuối cùng kết thúc bằng một âm điệu thách thức, ngạo nghễ. Ranov thận trọng dịch lại. Cha lại băn khoăn vì sao gã tận tình giúp đỡ chúng ta như vậy?

Con rồng xuống thung lũng chúng ta.

Đốt cháy mùa màng rồi bắt các thôn nữ.

Làm kinh sợ bọn Thổ vô đạo và bảo vệ làng mạc.

Chúng ta băng qua những dòng sông đã khô cạn vì hơi thở của Rồng.

Giờ là lúc chúng ta phải tự bảo vệ chính mình.

Con rồng là người bảo vệ chúng ta,

Nhưng giờ đây chúng ta phải tự vệ chống lại nó.

“ ‘Chà,’ Ranov thốt lên. ‘Đó là thứ các bạn muốn nghe sao?’

“ ‘Đúng vậy,’ Helen vỗ vỗ lên tay Baba Yanka và bà lão bật ra một tiếng nghe như la mắng. ‘Hỏi xem bài hát này xuất xứ từ đâu và vì sao bà ấy lại sợ nó,’ Helen yêu cầu.

“Phải mất một lúc khá lâu Ranov mới sắp xếp xong những lời giống như trách mắng của Baba Yanka. ‘Bà ấy đã lén học bài hát này từ bà cố, và được bà này căn dặn là đừng bao giờ hát nó vào ban đêm. Đó là một bài hát mang lại xui rủi. Nghe như là bài hát may mắn nhưng thực ra là bất hạnh. Ở đây, người ta chỉ hát bài hát đó vào ngày Thánh George. Đó là ngày duy nhất mà người ta có thể hát nó một cách yên lành, không sợ vận rủi. Bà ấy hy vọng các bạn không làm cho con bò sữa của bà chết, hoặc những việc tệ hại hơn nữa, khi bắt bà ấy hát như vậy.’

“Helen mỉm cười. ‘Hãy nói với bà ấy là tôi sẽ đền ơn bằng một món quà có khả năng xua đi tất cả vận rủi và mang lại vận may.’ Helen mở bàn tay chai sạn của Baba Yanka ra và đặt vào đó một mặt dây chuyền bạc. ‘Cái này là của một người đàn ông thông thái và mộ đạo, ông ấy gửi nó đến để bảo vệ bà. Nó có hình của Thánh Ivan Rilski, một vị thánh vĩ đại của người Bungari.’ Cha nhận ra đó chắc hẳn là cái vật nhỏ bé mà Stoichev đã bỏ vào tay Helen. Baba Yanka nhìn ngắm, lật đi lật lại hình mặt dây chuyền một lúc lâu trong lòng bàn tay thô ráp, rồi đưa nó lên môi hôn. Bà nhét nó vào một ngăn bí mật nào đó trong chiếc tạp dề. ‘Blagodarya(2),’_ bà nói. Bà cũng hôn lên tay Helen, rồi ngồi mơn trớn tay cô tựa như vừa tìm lại được đứa con gái thất lạc đã lâu. Helen lại quay qua Ranov. ‘Làm ơn hỏi xem bà ấy có biết bài hát có ý nghĩa gì, nó xuất xứ từ đâu. Và tại sao người ta hát nó vào ngày Thánh George?’

“Baba Yanka nhún vai khi nghe câu hỏi. ‘Bài hát đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Đó chỉ là một bài hát cổ mang lại vận rủi. Bà cố tôi bảo rằng một số người tin nó xuất phát từ một tu viện. Nhưng không thể như vậy được, vì các tu sĩ đâu có hát những bài hát như vậy - họ hát những bài ngợi ca Thượng đế. Chúng tôi chỉ hát bài này vào ngày Thánh George để mời Thánh George đến tiêu diệt con rồng, chấm dứt sự tra tấn người dân của con rồng.’

“ ‘Tu viện nào?’ cha kêu lên. ‘Hỏi xem bà ấy có biết một tu viện tên là Sveti Georgi không, một tu viện đã biến mất từ lâu.’

“Nhưng Baba Yanka chỉ gật đầu - ý là không biết - và tắc lưỡi. ‘Ở đây chẳng có tu viện nào cả. Tu viện nằm ở Bachkovo kia. Chúng tôi chỉ có nhà thờ, chiều nay chị em tôi sẽ hát ở đó.’

“Cha rên lên và năn nỉ Ranov cố gắng một lần nữa. Lần này, chính gã cũng phải tắc lưỡi. ‘Bà ta nói chẳng biết tu viện nào. Ở đây chưa bao giờ có một tu viện nào cả.’

“ ‘Ngày Thánh George là ngày nào?’ cha hỏi.

“ ‘Ngày sáu tháng Năm.’ Ranov nhìn cha chằm chằm đến mức khó chịu. ‘Anh đã lỡ dịp đó mấy tuần rồi.’

“Cha lặng thinh, nhưng trong lúc đó Baba Yanka lại vui vẻ trở lại. Bà bắt tay chúng ta, hôn Helen và bắt chúng ta hứa chiều hôm đó sẽ đến nghe bà hát - ‘Có chị tôi thì nghe hay hơn. Chị ấy hát bè.’

“Chúng ta hứa sẽ có mặt ở đó. Bà kiên quyết mời chúng ta ăn bữa trưa mà bà đã chuẩn bị lúc chúng ta đến; có khoai tây và một thứ cháo gì đó, và lại là sữa cừu, cái món mà cha nghĩ mình chỉ có thể quen được nếu ở đây vài tháng.

“Trong bữa ăn, chúng ta tỏ ra hết sức biết ơn và hết lời khen ngợi tài nấu nướng của bà, cho đến lúc Ranov lên tiếng bảo chúng ta nên quay trở lại nhà thờ nếu muốn xem mở đầu buổi lễ. Baba Yanka miễn cưỡng chia tay, siết chặt tay chúng ta và vỗ vỗ lên má Helen.

“Dù vẫn còn vài khúc cây cháy trên đỉnh đống than, ngọn lửa bên cạnh nhà thờ hầu như đã tàn, trông nhợt nhạt trong nắng chiều rực rỡ. Dân làng đã bắt đầu tụ tập gần nhà thờ, thậm chí trước cả lúc chuông bắt đầu gióng lên. Tiếng chuông ngân vang từ trên đỉnh tháp đá nhỏ, và vị cha xứ trẻ xuất hiện ở cửa nhà thờ. Lúc này ông mặc áo choàng thêu không tay phủ lên áo chùng màu đỏ và vàng chóe, mũ trùm khăn choàng đen. Ông giữ cái lư hương nghi ngút đang treo trên một sợi xích vàng, rồi đẩy cái lư theo ba hướng ngoài cửa nhà thờ.

“Đám đông tụ tập ở đó - cánh phụ nữ ăn mặc giống Baba Yanka, váy áo sọc và hoa, hoặc đen từ đầu đến chân, cánh đàn ông mặc vest len nâu, sơ mi trắng thắt nơ con bướm hoặc cài nút đến tận cổ - dạt lui về phía sau khi vị cha xứ xuất hiện. Ông bước ra đứng giữa đám con chiên, làm dấu thánh ban phước lành cho họ, và một số người cúi đầu hoặc gập người chào ông. Đi sau ông là một ông lão, mặc toàn một màu đen như một tu sĩ, cha nghĩ đó là người phụ lễ của cha xứ. Ông ta cầm một ảnh thánh phủ tấm lụa màu tím. Cha liếc nhanh bức ảnh - một gương mặt tai tái, khắc nghiệt, đôi mắt đen thẫm. Chắc hẳn đó là Thánh Petko, cha nghĩ. Dân làng yên lặng lũ lượt theo sau bức ảnh đi quanh rìa nhà thờ, nhiều người phải chống gậy hoặc tựa vào tay những người trẻ tuổi hơn. Baba Yanka tìm thấy chúng ta và hãnh diện quàng tay cha tựa như để khoe với xóm giềng mối quan hệ mật thiết mà bà có được. Mọi người nhìn chúng ta chằm chằm; cha chợt nghĩ mình cũng thu hút sự chú ý của mọi người đâu thua kém gì bức ảnh Thánh Petko.

“Hai ông thầy tu dẫn chúng ta đi quanh nhà thờ trong yên lặng, từ hông bên kia của nhà thờ chúng ta có thể nhìn thấy đống lửa cách đó không xa và ngửi được mùi khói bốc lên từ đó. Lửa đang tàn dần, những cành cây khúc gỗ cuối cùng đã chuyển sang màu cam, tất cả nằm trên một đống than. Chúng ta diễu hành ba vòng quanh nhà thờ, rồi vị cha xứ dừng lại ở cửa vòm và bắt đầu cầu kinh. Thỉnh thoảng, người phụ lễ lớn tuổi phụ họa, và đám đông đôi khi cũng rì rầm đáp lại, làm dấu thánh hoặc cúi đầu xuống. Baba Yanka đã bỏ tay cha ra nhưng vẫn đứng cạnh chúng ta. Cha thấy Helen đang quan sát mọi thứ với vẻ quan tâm sâu sắc, và Ranov cũng vậy.

“Kết thúc phần nghi lễ ngoài trời, chúng ta theo đám đông vào nhà thờ, từ ánh sáng chan hòa rực rỡ của cánh đồng và khu rừng thưa bước vào, nhà thờ bỗng tối âm u như một nấm mồ. Đây là một nhà thờ nhỏ nhưng nội thất bên trong đạt đến độ tinh tế mà những nhà thờ lớn hơn chúng ta từng thấy không thể bì kịp. Vị cha xứ trẻ đặt bức ảnh Thánh Petko vào một vị trí trang trọng gần phía trước, trên một cái bục chạm khắc cầu kỳ. Cha để ý thấy Sư huynh Ivan đang cúi đầu trước bệ thờ. Như thường lệ, chẳng có ghế ngồi; mọi người hoặc đứng, hoặc quỳ trên nền đá lạnh, một vài bà lão nằm úp mặt xuống đất ngay chính giữa nhà thờ. Tường hai bên có các hốc lõm được trang trí bích họa hoặc để đặt ảnh thánh, một trong các hốc đó mở ra một lối đi tối om, cha nghĩ chắc hẳn đó là lối dẫn xuống hầm mộ. Thật dễ dàng hình dung bao thế hệ nông dân đã từng hành lễ nơi đây, trong một nhà thờ cổ hơn từng tọa lạc nơi đây trước nhà thờ này.

“Tiếng cầu kinh rồi cũng ngưng lại sau một hồi dài tưởng chừng như vô tận. Mọi người lại một lần nữa cúi đầu chào và bắt đầu lũ lượt kéo ra khỏi nhà thờ, một số dừng lại nơi này nơi kia để hôn lên các ảnh thánh hoặc thắp nến và cắm vào các giá đèn gần lối vào. Chuông nhà thờ bắt đầu ngân vang, chúng ta lại theo chân dân làng bước ra ngoài, nơi mặt trời, những cơn gió hiu hiu cùng những cánh đồng rực rỡ bất chợt vỡ òa trước mắt. Người ta đã bày sẵn một cái bàn dài dưới những tàng cây, đám phụ nữ bày biện chén đĩa và rót từ các bình sứ ra một thứ nước gì đó. Rồi cha nhìn thấy hố lửa thứ hai, ở cạnh bên này của nhà thờ, một hố lửa nhỏ, một con cừu bị xiên ngang bên trên. Hai người đàn ông chậm rãi quay đều con cừu, mùi thơm tỏa ra bất giác làm cha ứa nước miếng. Baba Yanka đích thân lấy thức ăn đầy đĩa cho chúng ta rồi đưa chúng ta đến ngồi xa đám đông, chỗ có trải tấm khăn. Ở đó, chúng ta gặp chị của Baba Yanka, trông giống hệt bà, chỉ có điều cao gầy hơn, và tất cả đều ních đầy bụng vì thức ăn quá tuyệt. Ngay cả Ranov, ngồi xếp bằng cẩn thận trên tấm khăn dệt trong bộ vest dân thị thành, có vẻ như cũng rất hài lòng. Những dân làng khác ghé ngang qua chào chúng ta và hỏi lúc nào chị em Baba Yanka mới chịu hát, một sự săn đón mà cả hai chị em xua tay gạt đi với vẻ trịch thượng của các ngôi sao kịch nghệ.

“Khi con cừu đã được tiêu thụ sạch sẽ, cánh phụ nữ lo dọn dẹp đống ly đĩa vào một xô gỗ; cha chú ý thấy ba người đàn ông mang nhạc cụ ra và đang chuẩn bị cho buổi hòa nhạc. Một trong ba người sử dụng một loại nhạc cụ kỳ dị nhất mà cha từng thấy - một cái túi da thuộc màu trắng, với các ống tiêu gỗ nhô lên. Rõ ràng đó là một loại kèn túi, Ranov cho chúng ta biết đó là gaida - một loại nhạc cụ cổ truyền của người Bungari, làm bằng da dê. Ông già ôm thứ nhạc cụ đó trong tay đang phùng má thổi dần nó thành một quả cầu lớn; quá trình này phải mất mười phút và mặt ông ta đỏ bừng lên trước khi hoàn tất. Ông ta kẹp chặt cái túi dưới tay rồi thổi từng hơi ngắn vào một trong các ống tiêu, và mọi người hò reo và vỗ tay hoan hô. Tiếng kèn chẳng khác gì tiếng kêu của một con thú, giống tiếng be be của dê cừu, tiếng rít rền rĩ hay tiếng quang quác ai oán của một loài chim, làm Helen bật cười, ‘Anh biết không,’ cô nói với cha, ‘’kèn túi hiện diện trong mọi nền văn hóa chăn nuôi trên thế giới.’

“Rồi ông lão bắt đầu trỗi nhạc, một lát sau hai người bạn bắt nhịp hòa theo, một người sử dụng sáo gỗ dài, âm thanh như một dải ruy băng mềm mại xoáy cuộn xung quanh chúng ta, người còn lại chơi một loại trống da mềm với cây dùi bịt đầu. Vài phụ nữ đứng bật dậy và xếp thành hàng, một người đàn ông cầm chiếc khăn tay trắng, như chúng ta đã chứng kiến tại nhà Stoichev, dẫn đầu đoàn rồng rắn, nhảy múa quanh bãi cỏ. Những người quá già và quá ốm yếu không thể tham gia nhảy múa chỉ ngồi vỗ nhịp xuống đất, hoặc gõ gõ các cây gậy chống, hoặc cười toe toét khoe những hàm răng khủng khiếp và nướu răng trống trơn.

“Chị em Baba Yanka vẫn ngồi yên tại chỗ, tựa như thời điểm của họ chưa đến. Họ đợi cho đến lúc người thổi sáo lên tiếng gọi, ra dấu và mỉm cười, và rồi đám khán giả cũng tham gia kêu gọi, lúc đó cả hai chị em mới vờ như có chút miễn cưỡng, rồi rốt cuộc họ cũng đứng dậy, tay trong tay bước đi, đứng cạnh các nhạc công. Mọi người bỗng yên lặng, và chiếc kèn gaida trỗi một khúc dạo đầu ngắn. Hai bà già bắt đầu hát, tay người này ôm vòng lấy hông người kia, và tiếng hát của họ - một hòa âm khàn khàn đẹp đẽ làm xốn xang lòng người - như phát ra từ cùng một cơ thể. Tiếng gaida lớn dần hòa vào tiếng hát, để rồi nghe như có ba giọng, giọng hai người phụ nữ và giọng của một con dê, cùng cất lên và bao trùm lên chúng ta như tiếng than van của cõi trần gian này. Mắt Helen đột nhiên đẫm nước, một điều khác thường đến nỗi cha phải vòng tay ôm lấy cô ngay trước mặt mọi người.

“Sau khi hai người đã hát được năm hay sáu bài cùng tiếng hò reo tán thưởng, mọi người đứng cả dậy - cha không rõ là do đâu cho đến lúc nhìn thấy vị cha xứ tiến lại gần. Ông mang theo bức ảnh Thánh Petko, giờ đã được phủ một tấm nhung đỏ, đằng sau là hai cậu bé mặc áo chùng đen, mỗi cậu mang một bức ảnh thánh phủ kín dưới lớp lụa trắng. Đám rước này đi vòng qua hông bên kia nhà thờ, các nhạc công theo sau, trỗi lên một giai điệu nghe buồn rười rượi, rồi tất cả dừng lại giữa nhà thờ và đống lửa lớn. Lúc bấy giờ ngọn lửa đã hoàn toàn lụi hẳn; chỉ còn lại đống than rực một màu đỏ quỷ quái. Thỉnh thoảng, những làn khói mỏng bốc lên từ đống than tựa như có một cái gì đó đang sống, đang thở bên dưới. Vị cha xứ và các cậu bé phụ lễ đứng cạnh tường nhà thờ, ôm chặt những bức ảnh thánh phía trước.

“Cuối cùng, các nhạc công trỗi lên một giai điệu mới - cha nghe vừa sống động vừa buồn bã - và dân làng, từng người một, những người còn có thể nhảy múa hoặc ít ra còn bước đi nổi, xếp thành một hàng rồng rắn và chậm rãi bước quanh đống lửa. Khi đoàn rồng rắn đã khép thành vòng tròn phía trước nhà thờ, Baba Yanka và một phụ nữ khác - lần này không phải chị bà, mà là một phụ nữ thậm chí còn dạn dày mưa nắng hơn với đôi mắt mờ đục trông gần như mù hẳn - bước đến, cúi đầu trước vị cha xứ và các bức ảnh thánh. Họ cởi giày, vớ và đứng nghiêm trang cạnh bậc tam cấp nhà thờ, hôn lên gương mặt dễ sợ của Thánh Petko và nhận lễ ban phước lành từ cha xứ. Hai cậu bé phụ lễ kéo các tấm lụa phủ ra rồi trao cho mỗi bà một bức ảnh thánh. Tiếng nhạc trỗi lên cao hơn; ông lão chơi gaida đã nhễ nhại mồ hôi, mặt đỏ bừng, hai má phình ra.

“Tiếp theo, Baba Yanka và người phụ nữ có đôi mắt mờ đục kia nhảy múa tiến về phía trước, không lỡ một nhịp chân nào, và rồi, trong lúc cha lặng người theo dõi, họ tiến vào đống lửa, nhảy múa bằng đôi chân trần. Mỗi người giơ cao bức ảnh thánh của mình phía trước khi bước vào vòng lửa; cả hai ngẩng cao đầu, hãnh diện nhìn chăm chăm như đang nhìn vào một thế giới khác. Helen siết chặt tay cha đến độ cha cảm thấy các ngón tay mình bắt đầu rêm nhức. Chân hai người phụ nữ đều đặn nâng lên rồi hạ xuống trong đống than hồng làm tóe lên các tia lửa đỏ; có lúc cha thấy lửa đã bắt vào viền chiếc váy sọc của Baba Yanka. Họ nhảy qua đống than đỏ theo nhịp điệu huyền bí của trống và kèn túi, mỗi người theo một hướng khác nhau bên trong vòng lửa.

“Cha không kịp nhìn thấy các bức ảnh thánh khi họ tiến vào vòng lửa, nhưng lúc này cha đã nhận ra bức ảnh trong tay người phụ nữ mù, đó là Đức Mẹ Đồng Trinh, với Chúa Hài Đồng đặt trên gối, đầu nghiêng nghiêng dưới chiếc vương miện nặng nề. Cha không nhìn thấy bức ảnh Baba Yanka mang cho đến lúc bà đảo lại một vòng. Gương mặt Baba Yanka khiến ta sửng sốt, mắt bà trợn trừng, miệng há to, làn da dạn dày mưa nắng đỏ bừng lên dưới sức nóng khủng khiếp. Bức ảnh thánh trong tay bà chắc hẳn rất cổ, giống như bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh kia, nhưng qua những vết ám khói trên bức ảnh và làn hơi nóng chập chờn cha có thể nhận ra khá rõ một hình ảnh: hai nhân vật đang mặt đối mặt trong một vũ điệu của riêng mình, hai sinh vật gây ấn tượng sâu sắc và đáng kinh sợ như nhau. Một là hiệp sĩ mặc bộ giáp trụ và khoác áo choàng đỏ, một là con rồng với chiếc đuôi dài, cuộn tròn.”

Chú thích:

1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "không!"

2. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "cám ơn"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 70


Tháng Mười hai 1963

Con gái thương yêu,

Lúc này mẹ đang ở Napoli. Năm nay, mẹ sẽ cố tìm kiếm một cách có hệ thống hơn. Thời tiết tháng Mười hai ở Napoli rất ấm, thật tốt, vì mẹ đang bị cảm lạnh. Trước đây, khi chưa phải xa con, mẹ chưa bao giờ biết đến cô đơn, bởi vì mẹ chưa từng được ai yêu như cha con đã yêu mẹ - và như con yêu mẹ nữa, mẹ nghĩ vậy. Bây giờ, mẹ là một người phụ nữ cô đơn trong một thư viện, vừa khụt khịt lau mũi vừa ghi chép. Mẹ tự hỏi liệu có ai từng cô đơn như mẹ giữa chốn này cũng như trong căn phòng khách sạn kia. Giữa chốn đông người, mẹ phải quàng khăn hoặc mặc áo cao cổ. Khi mẹ ăn trưa một mình, có người mỉm cười với mẹ và mẹ cười đáp lại. Rồi mẹ lại ngoảnh đi. Con không phải là người duy nhất mà mẹ không xứng đáng để tiếp xúc.

Mẹ thương yêu của con,

Helen

Tháng Hai 1964

Con gái thương yêu,

Athens rất bụi bặm ồn ào, và mẹ phải rất khó khăn mới tiếp cận được những tài liệu mẹ cần tại Viện Trung cổ Hy Lạp, cái viện cũng có vẻ Trung cổ chẳng khác gì những thứ nó lưu giữ. Nhưng sáng hôm nay, khi ngồi trên thành Acropolis, mẹ hầu như có thể hình dung được cái ngày mà sự chia cách giữa chúng ta chấm dứt, và chúng ta sẽ ngồi - có lẽ lúc đó con đã là một phụ nữ trưởng thành - trên những tảng đá đổ nát này nhìn xuống thành phố dưới kia. Tưởng tượng xem: con sẽ cao, như mẹ, như cha, với mái tóc mây đen tuyền - rất ngắn hoặc thắt bím dày? - đeo kính mát, đi giày thể thao và cột khăn trùm đầu nếu gió mạnh như ngày hôm nay. Và lúc đó mẹ cũng đã già, nhăn nheo, chỉ hãnh diện vì con. Những anh chàng phục vụ bàn sẽ nhìn con chăm chăm chứ không nhìn mẹ, và mẹ sẽ cười hãnh diện, còn cha sẽ trừng mắt nhìn họ sau tờ báo.

Mẹ thương yêu của con,

Helen

Tháng Ba 1964

Con gái thương yêu,

Hôm qua mẹ cảm thấy mê thành Acropolis đến độ sáng nay mẹ đã quay trở lại nơi ấy, chỉ để viết cho con. Nhưng khi ngồi ở đó, đưa mắt nhìn thành phố bên dưới, vết thương trên cổ mẹ bắt đầu co giật, và mẹ nghĩ một kẻ đang ở sát bên đã tác động đến mình, mẹ chỉ có thể nhìn quanh, cố gắng tìm giữa các đám đông du khách bất cứ kẻ nào tình nghi. Mẹ không thể hiểu vì sao tên ác ôn này chưa vượt qua bao thế kỷ ngăn cách để tìm mẹ. Mẹ là của hắn vì đã bị hút máu, đã bị ô uế, đang thoáng cảm thấy khao khát hắn. Tại sao hắn chưa hành động để chấm dứt tình trạng khốn khổ của mẹ? Nhưng ngay khi nghĩ đến điều đó, mẹ chợt nhận ra là mình phải tiếp tục chống cự lại hắn, phải ngăn ngừa và bảo vệ bản thân mình khỏi hắn bằng mọi thứ bùa phép, phải tìm ra các sào huyệt của hắn với hy vọng sẽ bắt được hắn tại một trong những nơi đó, bắt hắn một cách hoàn toàn bất ngờ để có thể làm nên lịch sử bằng cách tiêu diệt hắn. Con, thiên thần mẹ đã đánh mất, chính là ngọn lửa nung nấu tham vọng ghê gớm này.

Mẹ thương yêu của con,

Helen
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 71


“Khi chúng ta nhìn thấy bức ảnh thánh trong tay Baba Yanka, cha không biết ai há hốc miệng kinh ngạc trước, cha hay là Helen, nhưng cả hai chúng ta đều kìm nén phản ứng của mình ngay lập tức. Ranov đang đứng tựa vào một thân cây cách chúng ta chưa đến mười bước chân, cha thở phào khi thấy gã đang nhìn ra ngoài thung lũng, vẻ buồn chán và khinh khỉnh, mải mê với điếu thuốc, và dường như chẳng chú ý gì đến bức ảnh. Một lát sau, Baba Yanka đã ngoảnh đi hướng khác, rồi cùng với bà già kia nhảy những bước nhảy sinh động và oai nghiêm ra khỏi đống lửa, hướng về phía vị cha xứ. Hai cậu bé lấy lụa phủ các bức ảnh thánh ngay khi được hai người phụ nữ trao lại. Cha để mắt theo dõi Ranov. Lúc này vị cha xứ đang làm dấu ban phước lành cho hai người phụ nữ, sau đó Sư huynh Ivan dẫn họ đi và trao cho mỗi người một ly nước. Khi đi ngang qua, Baba Yanka liếc nhìn chúng ta đầy vẻ hãnh diện, mặt đỏ bừng, mỉm cười, gần như là nháy mắt, Helen và cha cúi chào bà, lòng đầy kính sợ. Cha chăm chú nhìn bàn chân bà lúc bà đi qua; đôi bàn chân trần chai sần nứt nẻ hoàn toàn không hề hấn gì, bàn chân người phụ nữ kia cũng vậy. Chỉ có gương mặt họ vẫn còn tỏa hơi nóng của ngọn lửa, như bị sạm nắng.

“ ‘Con rồng,’ Helen thì thầm với cha khi chúng ta đang chăm chú nhìn hai người phụ nữ.

“ ‘Đúng vậy,’ cha cũng thì thào. ‘Chúng ta phải tìm ra nơi người ta cất giữ bức ảnh này cũng như niên đại của nó. Đi nào. Vị cha xứ đã hứa đưa chúng ta đi xem một vòng nhà thờ.’

“ ‘Ranov thì sao?’ Helen không nhìn xung quanh.

“ ‘Chúng ta chỉ còn cách cầu mong hắn đừng quyết định đi theo thôi,’ cha nói. ‘Anh không nghĩ là gã đã nhìn thấy bức ảnh thánh.’

“Vị cha xứ đang quay trở lại nhà thờ, mọi người bắt đầu tản đi. Chúng ta chậm rãi bước theo và thấy ông đang đặt bức ảnh Thánh Petko trở lại trên bục. Không nhìn thấy hai bức ảnh kia đâu. Cha cúi đầu cảm ơn, và vừa đưa tay chỉ ra phía ngoài vừa nói với ông bằng tiếng Anh là buổi lễ rất đẹp. Ông có vẻ hài lòng. Sau đó, cha làm dấu chỉ quanh nhà thờ và nhướng mày. ‘Chúng tôi có thể thăm qua một vòng không?’

“ ‘Một vòng à?’ Ông thoáng cau mày, rồi lại mỉm cười. Xin chờ một chút - ông chỉ cần cởi bỏ áo choàng. Ông trở lại trong bộ áo chùng đen thường nhật và cẩn thận dẫn chúng ta đến từng hốc tường, chỉ trỏ giải thích các ‘ikoni’(1) _ và ‘Hristos’(2) _ và một vài điều gì đó mà chúng ta chỉ hiểu loáng thoáng. Có vẻ như ông rất am hiểu nơi này và lịch sử của nó, giá mà chúng ta có thể hiểu được ông. Sau cùng, cha hỏi ông hai bức ảnh thánh kia ở đâu, và ông trỏ vào lối đi bên hông nhà thờ mà cha đã để ý trước đó. Có vẻ như hai bức ảnh đã được mang trở lại khu hầm mộ, nơi cất giữ chúng. Vị cha xứ sốt sắng đi lấy cây đèn lồng rồi dẫn chúng ta xuống.

“Các bậc cầu thang đá rất dốc, hơi lạnh từ bên dưới bốc lên khiến nhà thờ lại có vẻ ấm áp. Cha nắm chặt tay Helen khi chúng ta thận trọng bước từng bước sau cây đèn lồng của vị cha xứ, ánh đèn soi rạng những khối đá cổ xưa chung quanh chúng ta. Tuy nhiên, căn phòng nhỏ bên dưới không tối thui tối mò; hai giá nến đang cháy sáng cạnh một bệ thờ, và một lúc sau chúng ta mới nhận ra, dù chỉ lờ mờ, đó không phải một bệ thờ mà là một hòm đựng di hài thánh nhân bằng đồng chạm khắc tinh xảo, che phủ một phần bởi một tấm lụa Damas đỏ được thêu thùa công phu. Bên trên hòm là hai bức ảnh thánh đóng khung bạc, Đức Mẹ Đồng Trinh và - cha bước đến một bước - con rồng và vị hiệp sĩ. ‘Sveti Petko,’ vị cha xứ vui vẻ nói, tay sờ vào hòm đựng di hài thánh nhân.

“Cha trỏ vào ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh, và ông nói điều gì đó liên quan đến Bachkovski manastir, dù chúng ta không thể hiểu gì nhiều hơn. Rồi cha lại trỏ vào bức ảnh thánh kia, và vị cha xứ tươi cười. ‘Sveti Georgi,’ ông nói, trỏ vào vị hiệp sĩ. Rồi ông chỉ con rồng: ‘Drakula.’

“ ‘Chữ đó có thể chỉ có nghĩa là con rồng,’ Helen nhắc.

“Cha gật đầu. ‘Làm thế nào để hỏi ông ấy bức ảnh có từ bao giờ nhỉ?’

“ ‘Star? Staro?’(3) _ Helen phỏng đoán.

“Vị cha xứ lắc đầu để bày tỏ sự đồng ý. ‘Mnogo star,’(4) _ ông nói, vẻ mặt nghiêm nghị. Chúng ta nhìn ông chăm chăm. Cha đưa tay lên rồi đếm ngón tay. Ba? Bốn? Năm? Vị cha xứ mỉm cười. Năm. Năm ngón tay - khoảng năm trăm năm.

“ ‘Ông ấy nghĩ bức ảnh có từ thế kỷ mười lăm,’ Helen kết luận. ‘Chúa ơi, bây giờ làm sao hỏi nó xuất xứ từ đâu nhỉ?’ Cha trỏ vào bức ảnh, làm cử chỉ khoát tay một vòng quanh khu hầm mộ, chỉ lên nhà thờ phía trên chúng ta. Khi hiểu ra, ông làm một cử chỉ mà ai cũng hiểu là dấu hiệu không biết: vừa nhún vai vừa nhướng mày lên. Ông không biết. Có vẻ như ông cố nói cho chúng ta hiểu là bức ảnh đã có ở nhà thờ Thánh Petko hàng trăm năm - ngoài điều đó ra, ông không biết gì hơn.

“Sau cùng, vị cha xứ quay người, mỉm cười, và chúng ta chuẩn bị theo ông cùng ngọn đèn lồng trở lại cầu thang. Lẽ ra chúng ta đã rời khỏi khu hầm mộ đó mãi mãi, trong nỗi vô vọng hoàn toàn, nếu Helen không bất chợt bị mắc kẹt gót giày giữa hai viên đá sàn. Cô há hốc miệng kinh ngạc, vẻ bực bội - cha biết Helen không mang theo đôi giày nào khác - và cha nhanh chóng cúi xuống giúp cô. Vị cha xứ gần như đã khuất dạng, nhưng ánh nến bên cạnh hòm di hài cũng đủ sáng cho cha nhìn thấy hình ảnh được khắc trên mặt đứng của bậc cấp dưới cùng, ngay sát bên chân Helen. Đó là một con rồng nhỏ, nét khắc thô nhưng không lẫn vào đâu được, và rõ ràng cùng một mẫu với con rồng trong cuốn sách của cha. Cha quỳ xuống, lấy tay lần theo từng đường nét hình khắc ấy. Nó quen thuộc đến độ cha tưởng như chính mình cũng có thể khắc hình rồng kia vào đó. Helen cũng cúi xuống bên cạnh cha, quên bẵng chuyện giày dép. ‘Lạy Chúa,’ cô thốt lên. ‘Chỗ này là chỗ nào vậy?’

“ ‘Sveti Georgi,’ cha trả lời, giọng điềm tĩnh. ‘Chỗ này chắc phải là tu viện Sveti Georgi.’

“Trong ánh sáng lờ mờ, Helen trố mắt nhìn cha, tóc cô lòa xòa trước mắt. ‘Nhưng nhà thờ này mới có từ thế kỷ mười tám mà,’ cô phản bác. Nhưng rồi mặt cô sáng lên. ‘Anh nghĩ là…’

“ ‘Rất nhiều nhà thờ có nền móng cũ xưa hơn chính bản thân chúng, đúng không? Và chúng ta biết nhà thờ này được xây dựng lại sau khi quân Thổ đã thiêu rụi ngôi nhà thờ nguyên thủy. Nó không thể là một nhà thờ của tu viện hay sao, một tu viện mà mọi người đã quên lãng từ lâu?’ cha thì thầm trong cơn khích động. ‘Nó có thể được xây dựng lại hàng chục năm sau hoặc nhiều thế kỷ sau, và được đặt tên lại theo vị thánh tử đạo mà người ta còn nhớ.’

“Helen kinh hãi quay lại, nhìn chằm chằm vào hòm di hài bằng đồng sau lưng chúng ta. ‘Anh có nghĩ là…’

“ ‘Anh không biết,’ cha đáp lại, chậm rãi. ‘Có vẻ như người ta khó lòng mà nhầm lẫn bộ di hài này với bộ di hài khác, nhưng em nghĩ xem cái hòm kia được mở ra gần đây nhất là lúc nào?’

“ ‘Trông nó có vẻ không đủ lớn,’ Helen nhận xét. Dường như cô không thể nói gì thêm.

“ ‘Không đủ lớn,’ cha tán đồng, ‘nhưng chúng ta cũng phải thử. Ít nhất là anh phải thử. Anh muốn em đứng ngoài chuyện này, Helen.’

“Helen ném cho cha một cái nhìn kỳ quặc, tựa như sửng sốt khi cha thậm chí còn đuổi cô đi nơi khác nữa. ‘Đột nhập vào nhà thờ và xâm phạm hầm mộ một vị thánh là chuyện nghiêm trọng đấy.’

“ ‘Anh biết,’ cha đáp lại. ‘Nhưng nếu đây không phải là mộ một vị thánh thì sao?’

“Có hai cái tên mà chúng ta không thể thốt ra dưới chốn lạnh lẽo và tăm tối này, trong ánh nến lập lòe, chỉ có mùi sáp cháy và mùi đất. Một trong hai cái tên đó là Rossi.

“ ‘Ngay bây giờ sao? Ranov sẽ đi tìm chúng ta đấy,’ Helen nói.

“Khi chúng ta ra khỏi nhà thờ, bóng cây xung quanh nhà thờ đã ngả dài, Ranov đang chờ đợi, mặt lộ vẻ sốt ruột. Sư huynh Ivan đứng bên cạnh, dù cha để ý thấy cả hai hầu như không nói gì với nhau. ‘Anh chợp mắt được một chút chứ?’ Helen hỏi, giọng lịch sự.

“ ‘Đến giờ về lại Bachkovo rồi đấy.’ Ranov đáp lại cộc lốc; cha tự hỏi phải chăng gã thất vọng vì có vẻ như chúng ta chẳng tìm kiếm điều gì ở đây cả. ‘Chúng ta sẽ khởi hành về Sofia vào buổi sáng. Tôi có việc phải làm ở đấy. Tôi hy vọng các bạn hài lòng về công việc nghiên cứu của mình.’

“ ‘Cũng tạm hài lòng,’ cha đáp. ‘Tôi muốn đến thăm Baba Yanka một lần nữa, để cám ơn sự giúp đỡ của bà.’

“ ‘Tốt thôi,’ Ranov trông có vẻ bực bội nhưng cũng đi trước dẫn đường trở lại làng, Sư huynh Ivan im lặng bước theo sau chúng ta. Con đường làng lặng im không một tiếng động trong nắng chiều hanh vàng, mùi nấu nướng bốc lên khắp mọi nơi. Một ông lão bước ra, đến bên giếng bơm giữa làng, lấy đầy một xô nước. Xa tít cuối con đường nhỏ là nhà Baba Yanka, một bầy dê và cừu đang được lùa vào chuồng; cha có thể nghe tiếng kêu rền rĩ và nhìn thấy chúng xúm lại lộn xộn giữa các ngôi nhà trước khi một cậu bé vỗ roi đen đét xua chúng rẽ quanh góc đường.

“Baba Yanka tỏ vẻ vui mừng khi nhìn thấy chúng ta. Thông qua Ranov, chúng ta nói lời chúc mừng buổi hát diễn tuyệt vời và màn nhảy múa trong lửa của bà. Sư huynh Ivan im lặng làm dấu ban phước lành cho bà. ‘Làm thế nào mà bà không bị bỏng vậy?’ Helen hỏi.

“ ‘Ồ, đó là quyền năng của Chúa,’ bà trả lời, giọng dịu dàng. ‘Sau đó, tôi cũng không nhớ chuyện đã xảy ra thế nào. Đôi khi, sau đó tôi cảm thấy nóng ở chân, nhưng không bao giờ bị bỏng. Đối với tôi, đây là ngày tuyệt vời nhất trong năm, dù không nhớ gì nhiều về ngày đó. Nhiều tháng sau, tôi cảm thấy thanh thản như một mặt hồ.’

“Bà lấy trong tủ ra một cái chai không có nhãn hiệu rồi rót cho chúng ta mỗi người một ly thứ nước màu nâu trong. Trong chai lềnh bềnh những sợi cỏ dài, Ranov giải thích đó là những loại dược thảo, ngâm để lấy mùi vị. Sư huynh Ivan từ chối, nhưng Ranov thì cầm lấy ly nước. Sau một vài hớp gã bắt đầu hỏi Sư huynh Ivan một câu gì đó, giọng vừa bỗ bã vừa khiêu khích. Chẳng mấy chốc, cả hai sa vào một cuộc tranh cãi mà chúng ta không hiểu nổi, dù thỉnh thoảng cha nghe lõm bõm tiếng politicheski(5) _.

“Ngồi nghe được một lát, cha cắt ngang cuộc tranh luận để nhờ Ranov xin phép Baba Yanka cho cha sử dụng phòng vệ sinh của bà. Gã bật cười một cách khó ưa. Chắc hẳn gã lại sắp giở cái trò khôi hài cũ rích của mình, cha nghĩ. ‘Tôi e là nhà vệ sinh ở đây chẳng dễ chịu lắm đâu,’ gã nói. Baba Yanka cũng bật cười và trỏ về phía cửa sau. Helen nói sẽ đi theo cha để chờ đến lượt mình. Nhà xí trong sân sau nhà Baba Yanka trông còn tồi tệ hơn túp lều tranh kia nữa, nhưng đủ rộng để che khuất cuộc bỏ trốn thầm lặng của chúng ta, giữa đám cây cối và tổ ong, qua cánh cổng sau. Không có ai trong tầm mắt, nhưng chúng ta vẫn rảo bước khi ra đến con lộ, yên lặng len lỏi giữa các bụi cây, và leo lên đồi. Ơn Chúa, không có ai quanh ngôi nhà thờ đang nằm im lìm dưới bóng cây râm mát. Cái hố lửa tỏa một màu đỏ yếu ớt dưới các tán cây.

“Chúng ta không dám sử dụng cửa trước, ở đó chúng ta có thể bị nhìn thấy từ đường làng; thay vì thế, chúng ta vội vã quành ra phía sau. Ở đấy có một cửa sổ thấp, phủ rèm tím phía trong. ‘Chỗ đó dẫn vào điện thờ,’ Helen nói. Khung cửa gỗ chỉ cài lại, không khóa, và chỉ với một mẩu gỗ nhỏ chúng ta đã mở được cánh cửa và chui vào giữa hai tấm màn, sau đó cẩn thận đóng lại mọi thứ. Ở bên trong, cha nhận ra Helen đã nói đúng; chúng ta ở ngay sau bức trướng ngăn bệ thờ. ‘Phụ nữ không được phép vào đây,’ Helen thì thầm trong khi lia mắt nhìn quanh với vẻ hiếu kỳ của một học giả.

“Căn phòng phía sau bức trướng hầu như bị choán hết bởi một bệ thờ cao phủ những tấm vải sặc sỡ và những cây nến. Hai cuốn sách cổ dựng trên một giá bằng đồng ở kế bên, móc dọc theo các vách tường treo những bộ lễ phục lộng lẫy mà chúng ta đã được thấy vị cha xứ mặc trước đó. Mọi vật bất động và tĩnh lặng đến khủng khiếp. Cha tìm thấy cánh cổng thánh, nơi vị cha xứ đi qua để xuất hiện trước đám giáo dân, và chúng ta tiếp tục tiến tới để vào trong gian nhà thờ tối om với ít nhiều cảm giác tội lỗi. Có một chút ánh sáng le lói từ những cánh cửa sổ hẹp, nhưng tất cả nến đều đã tắt, có lẽ vì sợ hỏa hoạn, và phải mất một lúc cha mới tìm được hộp diêm quẹt trên một ngăn kệ. Cha thắp cho mỗi người một cây nến lấy từ trên giá nến. Sau đó, chúng ta thận trọng bước xuống cầu thang. ‘Em chẳng ưa chỗ này,’ cha nghe Helen thì thào phía sau, nhưng cha biết không phải cô có ý muốn muốn bỏ cuộc, dù trong bất kỳ trường hợp nào. ‘Anh nghĩ bao lâu nữa Ranov sẽ phát hiện ra sự vắng mặt của chúng ta?’

“Khu hầm mộ này đúng là nơi tăm tối nhất mà cha từng lui tới, tất cả các ngọn nến ở đây đều đã tắt sạch, cha thầm cảm ơn hai đốm sáng mà chúng ta mang theo. Cha dùng cây nến của mình để thắp lại những ngọn nến tắt. Ánh sáng bùng lên, tấm vải thêu màu vàng trên hòm di hài lấp lánh dưới ánh nến. Tay cha bắt đầu run lên một cách tệ hại, dù vậy cha vẫn xoay xở lấy con dao găm nhỏ của Turgut ra khỏi túi áo khoác, cha đã cất ở đó từ khi rời khỏi Sofia. Cha để con dao xuống nền, gần chiếc hòm di hài, rồi cùng Helen nhẹ nhàng nhấc hai bức ảnh ra khỏi vị trí và đặt chúng dựa vào một vách tường - cha nhận thấy mình tránh không đưa mắt nhìn cả con rồng lẫn Thánh George. Chúng ta kéo tấm vải nặng nề ra để Helen gấp lại. Trong suốt khoảng thời gian ấy, lúc nào cha cũng căng tai lắng nghe từng tiếng động, ở đây và cả trong nhà thờ bên trên, đến độ chính sự tĩnh lặng như bắt đầu gõ tưng tưng và kêu ong ong trong tai cha. Có một lúc Helen bíu lấy tay áo cha, và chúng ta cùng lắng nghe, nhưng vẫn không có gì động đậy.

“Khi chỉ còn chiếc hòm di hài nằm trơ trụi, chúng ta nhìn xuống, run rẩy. Nắp hòm khắc một bức phù điêu đẹp đẽ - một vị thánh tóc dài, một tay đưa lên như để ban phước, có lẽ đó là chân dung vị thánh tử đạo mà chúng ta có thể tìm thấy nắm xương tàn của ông ở bên trong. Cha chợt nhận ra mình đang hy vọng chúng ta sẽ chỉ tìm thấy một vài mảnh xương thánh, và sau đó khép lại toàn bộ chuyện này. Nhưng tiếp sau niềm hy vọng đó là một sự trống rỗng - không có thầy Rossi, không trả được thù, vẫn mất mát. Nắp hòm có vẻ như được đóng đinh hoặc cài chốt, nên cha không thể cạy nó lên nổi. Trong lúc loay hoay, chúng ta đã làm nghiêng nó một chút, và thật rùng rợn, một cái gì đó dịch chuyển bên trong, va vào vách hòm. Quả thực, cái hòm quá nhỏ đối với bất cứ thứ gì ngoại trừ xác một đứa bé, hoặc các bộ phận lẻ của cơ thể, nhưng nó rất nặng. Một ý nghĩ khủng khiếp bỗng lóe lên trong đầu cha, rằng có thể cái thủ cấp của Vlad rốt cuộc đã được đặt ở đây, dù giả thuyết đó lại làm nảy sinh nhiều vấn đề chưa giải thích được. Cha bắt đầu đổ mồ hôi và tự hỏi liệu có nên quay lại tìm một dụng cụ nào đó trong nhà thờ bên trên, dù không quá hy vọng là sẽ tìm được thứ gì.

“ ‘Chúng ta thử đẩy nó xuống đất xem sao,’ cha nói qua hàm răng nghiến chặt, và không biết bằng cách nào đó chúng ta đã cùng nhau đẩy được cái hòm xuống nền đá yên ổn. Ở vị trí đó, cha mới nhìn thấy rõ hơn bản lề và móc khóa trên nắp hòm, cha nghĩ vậy, thậm chí còn có thể dốc toàn lực để giật tung nó lên.

“Lúc cha chuẩn bị thử làm vậy thì Helen buột miệng thốt ra một tiếng la nho nhỏ. ‘Anh Paul, nhìn này!’ Cha vội quay lại và thấy khối đá cẩm thạch bụi bặm nơi đặt hòm di hài không phải là một khối đặc; nắp của nó đã lệch một chút vì nỗ lực di chuyển cái hòm của chúng ta. Cha không tin là lúc đó mình còn thở nổi nữa, nhưng không nói một lời, chúng ta lại cùng hợp lực di chuyển phiến đá cẩm thạch đó. Nó không dày, nhưng nặng trình trịch, cả hai chúng ta thở hổn hển lúc dựa được nó vào vách tường sau. Phía dưới là một phiến đá dài, bằng chiều dài của một người, cùng loại với đá nền và tường. Bức chân dung trên đó cực kỳ thô sơ, chạm khắc trực tiếp vào mặt đá cứng - không phải là gương mặt một vị thánh mà là của một người thực, một người đàn ông với gương mặt khắc khổ, đôi mắt hình quả hạnh nhìn trừng trừng, mũi dài, ria mép rậm rịt - một khuôn mặt tàn ác, cái mũ hình tam giác trên đầu chỉ càng làm cho gương mặt đó trông tự mãn hơn, ngay cả khi nó chỉ là những đường nét thô.

“Helen lùi lại, môi trắng bệch dưới ánh nến, cha cố kiềm chế để không túm lấy tay cô bỏ chạy lên cầu thang. ‘Helen,’ cha khẽ cất lời, nhưng chẳng biết nói gì nữa. Cha nhặt lưỡi dao găm lên, còn Helen luồn tay vào đâu đó trong bộ quần áo của mình - cha chưa bao giờ nhìn thấy là ở đâu - rút ra khẩu súng nhỏ, đặt nó cách xa một cánh tay, gần sát tường. Rồi chúng ta thò tay dưới mép và nâng tấm bia mộ lên. Được nửa chừng thì phiến đá trượt xuống. Lúc ấy cả hai chúng ta đều run lẩy bẩy nên phiến đá dễ dàng tuột khỏi tay chúng ta. Chúng ta nhìn xuống hình hài bên trong, mắt nhắm nghiền, nước da vàng bủng, môi đỏ một cách dị thường, hơi thở nông và khẽ. Đó là giáo sư Rossi.”

Chú thích:

1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Ảnh thánh".

2. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Chúa Cứu thế".

3. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Thế kỷ? Nhiều thế kỷ?".

4. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Năm thế kỷ".

5. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "chính trị".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 72


“Cha ước gì có thể nói mình đã có một hành động dũng cảm, hoặc có ích, hoặc ôm Helen trong vòng tay để chắc chắn cô sẽ không ngất đi, nhưng cha đã không làm gì cả. Gần như không có gì tồi tệ bằng một gương mặt rất đỗi thương yêu bị biến dạng vì cái chết, vì bị hủy hoại, hoặc vì một chứng bệnh kinh hoàng nào đó. Những khuôn mặt ấy trở thành những quái vật khủng khiếp nhất - những con người yêu dấu mà ta không thể chịu đựng được nữa. ‘Ôi, thầy Ross,’ cha thốt lên, và nước mắt trào ra ràn rụa trên má, bất ngờ đến độ cha không kịp cảm nhận là mình sắp khóc.

“Helen bước một bước đến gần hơn và nhìn xuống. Lúc này cha mới nhận ra ông vẫn mặc bộ quần áo trong đêm cuối cùng trò chuyện với cha, đã gần một tháng; chúng rách nát và dơ dáy, như thể ông đã gặp tai nạn. Cà vạt không còn nữa. Máu rỉ ra đọng đầy những nếp nhăn một bên cổ và tạo thành một vệt đỏ tươi trên chiếc cổ áo cáu bẩn. Miệng ông trễ xuống, sưng phồng, và ngoại trừ chiếc áo sơ mi phập phồng lên xuống theo từng nhịp thở yếu ớt, ông hầu như bất động. Helen đưa tay ra. ‘Đừng sờ vào ông ấy,’ cha kêu lên và càng cảm thấy kinh hoàng hơn.

“Nhưng Helen có vẻ như đang trong trạng thái mê man không khác gì thầy Rossi, và chỉ một lát sau, cô đã lướt nhẹ tay lên má ông, môi run run. Cha không biết liệu có tệ hại hơn không nếu ông mở mắt ra, nhưng ông đã thực sự mở mắt. Ngay cả trong ánh nến tù mù, đôi mắt ấy vẫn còn rất xanh, nhưng tròng trắng lại đỏ ngầu còn mí mắt thì sưng phồng. Đôi mắt vẫn cực kỳ sinh động và bối rối, nhìn nơi này nơi kia tựa như đang cố nhớ lại gương mặt của chúng ta, trong khi cơ thể ông vẫn bất động như chết. Rồi ánh mắt của ông dừng lại nơi Helen, cô đang cúi xuống trên người ông, và màu xanh trong mắt ông như ngời lên một sức mạnh dữ dội, đôi mắt mở lớn như thể cố bao trọn lấy Helen. ‘Ôi, em yêu,’ ông nói rất khẽ. Môi ông nứt nẻ và sưng vù, nhưng giọng ông là chất giọng cha hằng yêu mến, một giọng nói giòn tan.

“ ‘Không… mẹ con,’ Helen nói một cách khó khăn, tựa như đang mò mẫm lựa lời. Cô đưa tay vuốt lên má ông. ‘Cha, con là Helen... Elena. Con là con gái cha.’

“Ông nhấc một bàn tay lên, tựa như không còn điều khiển được bàn tay đó nữa, và cầm lấy tay Helen. Bàn tay thâm tím, móng đã quá dài và ố vàng. Cha muốn nói với ông rằng chúng ta sẽ đưa ông ra khỏi đó ngay, rằng cả ba chúng ta sẽ trở về nhà, nhưng cha cũng nhận ra là ông đã bị thương tổn quá trầm trọng. ‘Thầy Ross,’ cha lên tiếng, cúi xuống gần hơn. ‘Tôi đây. Là Paul đây.’

“Ông đảo mắt qua lại từ Helen qua cha, hoang mang, rồi buông một tiếng thở dài, nhắm mắt lại. ‘Ồ, Paul,’ ông thì thào. ‘Vì tôi, anh đã đến đây. Anh không nên như vậy.’ Ông lại nhìn Helen, ánh mắt tối sầm lại, và có vẻ như muốn nói một điều gì đó. Một lát sau, ông thì thầm, ‘Anh nhận ra em.’

“Cha lần mò túi trong của áo khoác và lấy ra chiếc nhẫn mà mẹ Helen đã trao cho cha. Cha đưa nó đến gần mắt ông, nhưng không quá gần, ông bỏ tay Helen ra rồi vụng về sờ lên mặt nhẫn. ‘Tặng em,’ ông nói với Helen. Helen cầm lấy và đeo chiếc nhẫn vào tay.

“ ‘Mẹ con,’ Helen nói, không che giấu được vành môi run run. ‘Cha không nhớ sao? Cha đã gặp mẹ ở Rumani.’

“Ông nhìn Helen với một vẻ gì đó giống như bản tính sôi nổi vốn có của ông rồi mỉm cười, mặt nhăn lại. ‘Đúng,’ cuối cùng ông cũng thì thào. ‘Ta yêu bà ấy. Bà ấy đâu rồi?’

“ ‘Mẹ đang yên ổn ở Hungary,’ Helen trả lời.

“ ‘Cô là con gái bà ấy ư?’ Bây giờ trong giọng nói đã có chút ngạc nhiên.

“ ‘Con là con gái của cha.’

“Nước mắt chậm chạp dâng lên trong mắt thầy Rossi, tựa như chúng không còn trào dâng một cách dễ dàng nữa, và chảy xuống thành dòng từ hai khóe mắt. Những vệt nước mắt lấp lánh dưới ánh nến. ‘Hãy chăm sóc con bé nhé Paul,’ ông thều thào.

“ ‘Tôi sẽ cưới cô ấy,’ cha trả lời. Cha đặt tay lên ngực ông. Có một cái gì đó không phải của con người đang khò khè bên trong, nhưng cha bắt mình phải giữ tay ở đó.

“ ‘Vậy là... tốt,’ sau cùng ông cũng nói. ‘Mẹ con bé còn sống và khỏe mạnh chứ?’

“ ‘Vâng, thưa cha.’ Mặt Helen run lên. ‘Mẹ đang yên ổn ở Hungary.’

“ ‘Đúng rồi, con đã nói điều đó rồi.’ Ông lại nhắm mắt.

“ ‘Thầy Rossi, bác ấy vẫn còn yêu thầy.’ Cha vuốt ve lớp vải áo trước ngực ông bằng bàn tay run rẩy. ‘Bác ấy gửi cho thầy chiếc nhẫn này cùng... một nụ hôn.’

“ ‘Đã nhiều lần ta cố gắng nhớ lại bà ấy ở đâu, nhưng một cái gì đó...’

“ ‘Bác ấy biết thầy đã cố gắng. Thầy hãy nghỉ ngơi một lát đi.’ Hơi thở ông đã trở nên khò khè một cách đáng ngại.

“Đột nhiên, ông mở bừng mắt và cố ngồi dậy. Nỗ lực đó trông thật kinh khủng, nhất là khi nó không hề có kết quả. ‘Các con, các con phải rời khỏi đây ngay,’ ông hổn hển. ‘Ở đây rất nguy hiểm. Hắn sẽ trở lại, giết các con.’ Ông lia mắt nhìn khắp nơi.

“ ‘Dracula ư?’ cha hỏi khẽ.

“Trong một thoáng, mặt ông thất kinh khi nghe cái tên đó. ‘Đúng vậy. Hắn đang ở trong thư viện.’

“ ‘Thư viện à?’ cha hỏi, ngạc nhiên nhìn quanh bất chấp vẻ hoảng hốt trên khuôn mặt Rossi. ‘Thư viện nào?’

“ ‘Thư viện của hắn ở trong kia...’ Ông cố trỏ vào một bức tường.

“ ‘Thầy Rossi,’ cha thốt lên, giọng nôn nóng. ‘Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra và chúng tôi nên làm gì.’

“Có vẻ như ông đang vật lộn với thị lực của mình trong một lúc, mắt ông chớp lia lịa, cố tập trung nhìn cha. Máu khô trên cổ phập phồng theo nhịp thở khó nhọc của ông. ‘Hắn bất chợt xuất hiện, ở phòng làm việc của ta, dẫn ta đi một chuyến đi thật là dài. Ta không... tỉnh táo trong một vài thời điểm của cuộc hành trình, vì vậy ta không biết đây là đâu.’

“ ‘Bungari,’ Helen tiếp lời, âu yếm nắm bàn tay sưng phù của ông.

“Thầy Rossi lại khẽ chớp mắt như mỗi khi tỏ ra quan tâm hoặc tò mò về một điều gì đó. ‘Bungari ư? Hèn gì mà...’ Ông cố liếm môi.

“ ‘Hắn đã làm gì với thầy?’

“ ‘Hắn mang ta đến đây để trông nom cái... thư viện quái quỷ của hắn. Ta đã kháng cự lại bằng mọi cách mà mình có thể nghĩ ra. Đó là lỗi của ta, Paul ạ. Ta đã bắt đầu nghiên cứu trở lại, cho một bài báo...’ Ông thở khó nhọc. ‘Ta muốn trình bày về hắn như là một phần của một... truyền thống lớn hơn. Bắt đầu với người Hy Lạp. Ta... ta nghe có một học giả mới ở trường đại học chúng ta viết về hắn, dù ta chưa biết được tên người đó.’

“Đến đây, cha nghe Helen hít vào một hơi thật mạnh. Thầy Rossi đảo mắt về phía Helen. ‘Xem ra cuối cùng rồi ta cũng phải công bố...’ Lúc này ông đã thở khò khè, mắt nhắm nghiền một lúc lâu. Helen, vẫn đang nắm tay ông, tựa vào người cha và bắt đầu run lên; cha quàng tay ôm siết lấy cô.

“ ‘Ổn rồi,’ cha nói. ‘Thầy cứ nghỉ ngơi đi.’ Nhưng thầy Rossi có vẻ như đã quyết tâm kết thúc.

“Không ổn đâu,’ ông nghẹn ngào, mắt vẫn nhắm nghiền. ‘Hắn đã trao cho anh cuốn sách đó. Lúc ấy ta biết rồi hắn sẽ đến tìm ta, và hắn đã đến. Ta chống lại, nhưng hầu như hắn đã làm cho ta... trở thành như hắn...’ Có vẻ như ông không nâng nổi bàn tay kia, nên ông xoay cổ và đầu một cách vụng về, để rồi chúng ta bất chợt nhìn thấy một vết thủng sâu hoắm ở một bên cổ họng ông. Vết thương vẫn còn hở miệng, máu lại ứa ra lúc ông cử động. Có vẻ như ánh mắt chăm chăm của chúng ta trên vết thương lại làm ông thất kinh, ông nhìn cha với ánh mắt van nài. ‘Paul, ngoài kia trời sắp tối phải không?’

“Cảm giác hoảng sợ và tuyệt vọng trào dâng trong cha. ‘Thầy Ross, thầy có thể cảm nhận được điều đó sao?’

“ ‘Đúng vậy, ta cảm nhận được bóng đêm đang đến, và cảm thấy... đói. Nào. Hắn sẽ nghe thấy các con. Nhanh lên... hãy đi đi.’

“ ‘Nói cho chúng tôi làm thế nào để tìm được hắn,’ cha khẩn khoản. ‘Chúng tôi sẽ giết hắn ngay.’

“ ‘Đúng, hãy giết hắn, nếu các con có thể làm được điều đó mà không rước vạ vào thân. Hãy giết hắn cho ta.’ Thầy Rossi thì thào, và bấy giờ cha mới nhận ra là ông vẫn còn có thể giận dữ. ‘Nghe đây, Paul. Có một cuốn sách ở trong đó. Cuộc đời của Thánh George.’ Ông lại bắt đầu thở khó nhọc. ‘Rất cũ, bìa sách kiểu Byzantine... chưa có ai từng nhìn thấy một cuốn sách như vậy đâu. Hắn có rất nhiều sách hay, nhưng cuốn này là...’ Có vẻ như ông bị lả đi một lúc, Helen siết chặt tay ông trong đôi bàn tay mình, và bắt đầu nức nở. Lúc tỉnh lại, ông thì thầm, ‘Ta đã giấu nó đằng sau cái giá đầu tiên, phía bên trái. Nếu có thể, anh hãy lấy cuốn sách đó. Ta đã viết vài dòng trong đó... ta đã để ở đó một vật. Nhanh lên, Paul. Hắn đang thức dậy. Ta cũng đang thức dậy cùng với hắn.’

“ ‘Ôi, lạy Chúa.’ Cha nhìn quanh để tìm một sự trợ giúp - cái gì sẽ giúp được đây, cha cũng không biết nữa. ‘Thầy Ross, xin đừng... tôi không thể để mặc thầy với hắn. Chúng tôi sẽ tiêu diệt hắn và thầy sẽ khỏe lại. Hắn ở đâu?’ Nhưng lúc này Helen đã bình tĩnh hơn, cô nhặt con dao găm lên và đưa cho ông nhìn thấy.

“Dường như ông buông một tiếng thở dài, và hòa lẫn trong đó là một nụ cười. Đến lúc ấy cha mới nhận ra răng ông đã dài ra, chẳng khác gì răng chó, và cái khóe miệng kia đã từng ăn sống nuốt tươi máu người. Nước mắt lại tuôn trào trên mắt ông, lăn xuống đôi gò má xương xẩu. ‘Paul, bạn của ta...’

“ ‘Hắn ở đâu? Cái thư viện kia ở đâu?’ cha lại hỏi, giọng càng lúc càng nôn nóng hơn, nhưng thầy Rossi không thể nói gì nữa.

“Helen ra dấu, cha hiểu ngay và nhanh chóng đào lấy một phiến đá ở cạnh sàn. Phải mất một lúc lâu cha mới nạy được phiến đá đó, và ngay lúc ấy cha e là mình đã nghe được một vài tiếng dịch chuyển ở nhà thờ phía trên. Helen cởi nút và nhẹ nhàng vạch áo thầy Rossi, rồi cô đặt mũi dao găm của Turgut ngay trên tim ông.

“Ông nhìn chúng ta một lúc, đầy tin cậy, đôi mắt xanh như mắt trẻ thơ, và rồi ông nhắm mắt lại. Ngay lúc đôi mắt ấy khép lại, cha lấy hết sức bình sinh giáng phiến đá cổ xưa kia xuống chuôi dao găm, phiến đá đã được gắn ở đây bởi một tu sĩ vô danh hoặc một nông dân làm thuê, một cư dân của thế kỷ mười hai hoặc mười ba đã hoàn toàn biến mất. Chắc hẳn phiến đá đã nằm lặng yên ở đó hàng thế kỷ, biết bao tu sĩ đã bước chân lên để khiêng hài cốt của người này người kia trở về nơi an nghỉ cuối cùng, hoặc vận chuyển rượu vào hầm. Phiến đá vẫn nằm yên ở đó khi thi hài của một kẻ ngoại bang, một kẻ tàn sát quân Thổ, được bí mật chuyển đến rồi giấu trong một hầm mộ mới dưới nền nhà kế bên, khi các tu sĩ đến từ Wallachia cử hành một nghi lễ dị giáo ở bên trên, khi vệ binh Ottoman ùa vào lục soát trong vô vọng cái xác kia, khi các kỵ sĩ Thổ Nhĩ Kỳ xông vào nhà thờ cùng với những ngọn đuốc, khi một ngôi nhà thờ mới mọc lên ở phía trên, khi di hài Thánh Petko được mang đến trong hòm di hài đặt gần bên, hoặc khi những người hành hương quỳ lên nó để nhận phước lành của vị thánh tử đạo mới. Nó đã nằm ở đó bao thế kỷ qua, cho đến lúc cha đào bật nó lên và trao cho nó một công dụng mới, và đó là tất cả những gì cha có thể viết về phiến đá đó.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 73


Tháng Năm 1954

Tôi không biết mình viết những dòng chữ này cho ai, và niềm hy vọng có ai đó sẽ tìm thấy chúng cũng rất mong manh, nhưng tôi cảm thấy sẽ là có tội nếu không cố ghi lại những hiểu biết của mình trong khi còn có thể, và chỉ Thượng đế mới biết tôi còn bao nhiêu thời gian nữa.

Tôi bị lôi ra khỏi văn phòng trường đại học đã nhiều ngày nay - tôi không chắc là bao nhiêu ngày, nhưng đoán chừng bây giờ vẫn đang còn là tháng Năm. Đêm hôm đó, tôi tạm biệt người học trò yêu và cũng là một người bạn, cậu ta vừa đưa tôi xem một bản sao khác của cuốn sách ma quái mà nhiều năm qua tôi đã cố tình quên đi. Tôi nhìn cậu đi khỏi, mang theo tất cả thông tin mà tôi có thể cung cấp. Sau đó, tôi đóng cửa phòng làm việc, ngồi lặng đi trong nỗi tiếc nuối sâu xa cũng như sự sợ hãi tột cùng. Tôi biết mình đã phạm lỗi. Tôi đã lén lút phục hồi lại cuộc nghiên cứu về lịch sử ma cà rồng và rõ ràng có ý định phát triển đến một mức độ cao hơn những kiến thức của mình về huyền thoại Dracula, thậm chí còn hy vọng rốt cuộc có thể làm sáng tỏ được bí mật về vị trí hầm mộ của hắn. Tôi đã để cho thời gian, suy luận logic, và tính kiêu ngạo ru mình vào niềm tin rằng sẽ không có hậu quả gì khi trở lại nghiên cứu. Tôi đã tự thừa nhận tội lỗi của mình ngay trong khoảnh khắc đơn độc đầu tiên đó.

Tôi đã dằn vặt kinh khủng khi trao cho Paul các ghi chép về công trình nghiên cứu và những lá thư viết về các trải nghiệm của bản thân, không phải vì muốn tiếp tục giữ chúng lại cho mình - tất cả tham vọng muốn tiếp tục cuộc nghiên cứu đã tan biến ngay từ lúc Paul đưa cho tôi xem cuốn sách của cậu. Đơn giản chỉ vì tôi vô cùng hối tiếc đã trao cái kiến thức kinh tởm này vào tay cậu, dù vẫn tin chắc là càng hiểu biết Paul sẽ càng có khả năng tự bảo vệ bản thân hữu hiệu hơn. Tôi chỉ còn cách hy vọng nếu bất kỳ sự trừng phạt nào xảy ra thì người gánh chịu sẽ là tôi chứ không phải Paul, một thanh niên còn đầy lạc quan yêu đời, bước chân còn nhẹ nhàng không vướng bận, và tài năng còn non nớt chưa kinh qua thử thách. Chắc Paul còn chưa qua tuổi hai mươi bảy; tôi thì đã mấy chục năm sống trong một thứ hạnh phúc vờ vịt, không xứng đáng. Đó là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Ý nghĩ tiếp theo thực tiễn hơn. Thậm chí dù có muốn, tôi cũng không có cách nào để tự bảo vệ bản thân ngay tức khắc được, ngoại trừ niềm tin dựa trên lý trí. Tôi giữ các ghi chép mà không có bất kỳ một phương tiện truyền thống nào để trừ tà, phòng ngừa ma quỷ - chẳng có thánh giá, chẳng có đạn bạc hoặc chùm tỏi. Tôi chưa bao giờ phải sử dụng đến những thứ đó, thậm chí ngay cả trong những lúc cao điểm của cuộc nghiên cứu, nhưng bây giờ tôi bắt đầu hối tiếc là đã khuyên Paul chỉ sử dụng những nguồn lực tinh thần của chính bản thân cậu.

Những ý nghĩ này lởn vởn một hai phút rồi biến mất, mà hóa ra tôi cũng chỉ còn một hai phút để suy nghĩ. Rồi, đột ngột đến cùng luồng gió lạnh căm và hôi thối, sự hiện diện rõ rệt của ai đó đổ ập lên tôi, tôi hầu như không còn nhìn thấy gì và toàn thân như bật ra khỏi ghế vì sợ hãi. Trong khoảnh khắc, tôi như bị phong kín, mù lòa, cảm thấy mình như đang trong cơn hấp hối, dù không biết là do đâu. Giữa khoảnh khắc mơ hồ đó tôi thấy như hiện ra những hình ảnh kỳ lạ nhất của tuổi trẻ và cái đẹp, không hẳn là nhìn thấy, đúng ra là cảm nhận thấy, cảm nhận chính bản thân mình khi còn trẻ trung và tràn đầy tình yêu với một điều gì đó, một ai đó. Có lẽ đó là cách mà con người từ giã cuộc sống này. Nếu vậy, khi thời điểm của tôi đến - và sẽ đến sớm thôi, dù dưới hình thức kinh khủng nào - tôi hy vọng hình ảnh này sẽ lại đến với tôi trong khoảnh khắc cuối cùng.

Sau đó tôi không còn nhớ gì nữa, sự vô thức kéo dài một thời gian mà đến nay tôi vẫn không thể đánh giá là bao lâu. Tôi từ từ tỉnh lại và sửng sốt khi nhận ra mình vẫn còn sống. Những giây phút đầu tiên, tôi chưa thể nghe hoặc nhìn thấy gì. Giống như vừa tỉnh dậy sau một ca phẫu thuật nghiêm trọng, vì tiếp ngay sau đó là cảm giác đau đớn, toàn bộ cơ thể yếu ớt và đau nhức kinh khủng, tựa như có lửa cháy trong đầu, trong cổ họng và bên chân phải. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo, và vật tôi đang nằm bên trên cũng lạnh, vậy nên khắp người tôi thấy ớn lạnh. Tiếp sau cảm giác đó là ánh sáng - một thứ ánh sáng lờ mờ nhưng cũng đủ để tôi tin là mình chưa bị mù và vẫn đang mở mắt. Ánh sáng và cảm giác đau đớn, hơn bất kỳ điều gì khác, cho thấy rằng tôi vẫn còn sống. Tôi bắt đầu nhớ lại những gì mà mới đầu tôi nghĩ vừa xảy ra tối hôm trước - Paul đến phòng làm việc của tôi với phát hiện sửng sốt của cậu. Rồi tôi thấy lòng chùng lại và chợt hiểu mình đã bị quỷ dữ giam cầm; đó là lý do vì sao thân xác tôi bị đối xử hung bạo như thế này và tại sao có vẻ như xung quanh tôi chỉ dậy lên toàn mùi quỷ dữ.

Tôi thận trọng cựa quậy chân tay, thu hết tàn lực để xoay và nhấc đầu lên. Ánh mắt tôi bị chặn lại ở một vách tường lờ mờ cách xa không đến một tấc, nhưng ánh sáng yếu ớt mà tôi cảm nhận lại đến từ phía trên bức tường đó. Tôi thở dài và nghe được tiếng thở của mình; chính điều này khiến tôi tin mình vẫn có thể nghe được, nhưng chỉ vì đang ở trong một nơi quá tĩnh lặng nên tôi đã có ảo giác là bị điếc. Tôi tập trung lắng nghe hơn bao giờ hết, nhưng vẫn chẳng nghe thấy gì, nên tôi thận trọng cố gượng ngồi dậy. Cử động đó làm tôi cảm nhận được sự yếu ớt cũng như cảm giác đau đớn khốn khổ khắp cả tứ chi, đầu nhức như búa bổ. Trong tư thế ngồi, xúc giác cũng trở lại, và tôi nhận ra mình đang nằm trên đá, vách thấp hai bên đã làm chỗ dựa giúp tôi nhỏm dậy. Có tiếng ong ong kinh khủng trong đầu tôi, và dường như tràn ngập không gian chung quanh tôi. Như tôi đã mô tả, đó là một không gian tối lờ mờ, tĩnh lặng và co lại thành những khoảng tối trong các góc. Tôi đưa tay sờ soạng xung quanh. Tôi đang ngồi trong một quan tài bằng đá, không có nắp.

Phát hiện này làm dấy lên trong tôi một cơn buồn nôn, nhưng cùng lúc đó tôi nhận ra mình vẫn mặc bộ quần áo đã mặc trong phòng làm việc, dù cà vạt không còn, áo sơ mi và áo khoác đã rách một bên tay. Tuy nhiên, việc tôi vẫn đang mặc quần áo của chính mình khiến tôi hơi yên tâm trở lại; đây không phải là cái chết, cũng không đơn thuần là sự điên rồ mất trí, và tôi cũng không tỉnh dậy ở một thời đại khác, trừ phi tôi mang theo cả quần áo của mình đến đó. Tôi sờ soạng quần áo và tìm thấy chiếc ví trong túi quần trước. Thật xúc động khi sờ thấy món đồ quen thuộc này dưới tay mình. Nhưng rất tiếc là cây viết loại tốt trong túi áo khoác và cả cái đồng hồ đeo tay đều không còn nữa.

Sau đó, tôi đưa tay sờ lên mặt lên cổ. Có vẻ gương mặt tôi không có gì thay đổi, ngoại trừ một vết bầm còn mới trên trán, nhưng ở cổ tôi sờ thấy một vết thương gớm ghiếc, bầy nhầy. Khi tôi cử động đầu quá mạnh hoặc nuốt nước miếng, vết thương lại phát ra âm thanh nghe như tiếng mút bú, khiến tôi thất kinh. Khu vực vết thương sưng phồng lên và nhức nhối khi tôi sờ vào. Tôi cảm thấy mình lại có thể ngất đi vì kinh hoàng và thất vọng, nhưng rồi tôi nhớ ra là mình đã có đủ sức lực để tự ngồi dậy. Có thể tôi không mất quá nhiều máu như đã lo sợ lúc đầu, và có lẽ điều đó nghĩa là tôi mới chỉ bị cắn một lần. Tôi vẫn cảm nhận mình là mình, không phải là một ác quỷ; tôi không thấy thèm khát máu, tâm hồn vẫn không độc ác đồi bại. Rồi một cảm giác đau khổ cùng cực trào lên trong tôi. Liệu có ý nghĩa gì khi tôi chưa cảm thấy thèm khát máu? Dù tôi đang ở bất cứ nơi đâu, chắc chắn tôi sẽ bị nhiễm hoàn toàn, chỉ còn là vấn đề thời gian. Dĩ nhiên, trừ phi tôi trốn thoát được.

Tôi chậm chạp quay đầu nhìn xung quanh, cố nhìn rõ hơn, và rồi nhận ra nguồn ánh sáng. Đó là một nguồn sáng mờ đỏ tít xa trong khoảng không gian tối kịt - tôi không thể nói là xa bao nhiêu - và lù lù giữa tôi và nguồn sáng đó là những hình thù nặng nề tối đen. Tôi đưa tay sờ xuống mặt ngoài căn nhà bằng đá của mình. Cái quan tài đá này có vẻ như ở sát mặt đất, hoặc là một nền đá; tôi sờ soạng chung quanh cho đến lúc quyết định là có thể leo ra ngoài cái khoảng không mờ mờ tối đó mà không sợ bị ngã xuống từ trên cao. Tôi phải bước một bước dài để xuống nền nhà, và đôi chân tôi run rẩy dữ dội đến độ tôi phải quỳ sụm xuống ngay khi vừa ra khỏi cỗ quan tài. Bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy rõ hơn một chút. Tôi tiến về nguồn sáng đỏ mờ mờ kia, hai tay đưa về phía trước, và trong lúc quờ quạng tôi đã đâm sầm vào một vật giống như một cỗ quan tài đá trống rỗng khác, và một món đồ gỗ. Khi va vào mặt gỗ tôi nghe có một thứ gì đó mềm mềm rơi xuống, nhưng không thể nhận ra đó là cái gì.

Quả thực kinh khủng khi mò mẫm trong cái bóng tối lờ mờ này, tôi luôn chực chờ giây phút bị Cái Vật đã mang tôi đến đây vồ lấy. Tôi lại băn khoăn tự hỏi phải chăng mình thực sự chưa chết - phải chăng đây là một dạng kinh hoàng của cái chết mà tôi vừa nhầm lẫn cho là sự tiếp nối của cuộc sống. Nhưng chẳng có gì vồ chụp lấy tôi cả, cảm giác đau đớn cũng đủ thuyết phục tôi tin đây là thực tại, và càng lúc tôi càng đến gần hơn với nguồn sáng đang lung linh nhảy múa cuối gian phòng dài lê thê này. Trước nguồn sáng đó, tôi có thể nhận ra lù lù một hình thù to tướng bất động đen thui. Khi chỉ còn cách vài mét, tôi nhận ra ngọn lửa trên nền lò sưởi, đang leo lắt cháy đỏ. Ngọn lửa nằm trong một lò sưởi vòm đá, đủ sáng để soi rõ những món đồ gỗ đồ sộ và cũ kỹ - một chiếc bàn to tướng bừa bãi giấy tờ, một cái tủ chạm khắc, một hai cái ghế cao đặt trong góc. Lưng một trong hai chiếc ghế xoay về hướng tôi, đối mặt với ngọn lửa, một người đang ngồi gần như bất động trên đó - tôi chỉ nhìn thấy một hình thù đen thui phía trên lưng ghế. Lúc này, tôi ước gì mình đã dò dẫm theo hướng ngược lại, tránh xa ánh lửa, hướng về một lối thoát khả dĩ nào đó, nhưng ánh mắt tôi bị cuốn hút dữ dội về phía cái hình thù đen thui kia và chiếc ghế vương giả bên dưới, cũng như màu đỏ mềm mại của ngọn lửa. Một mặt, tôi phải thu hết nghị lực để bước về phía đó, mặt khác, dù cố gắng tôi cũng không thể quay đi.

Tôi chậm rãi lê vào vùng sáng của ngọn lửa bằng đôi chân thâm tím, khi tôi vòng đến chiếc ghế bành kia, một hình thù từ từ đứng dậy, quay về phía tôi. Bởi lúc đó hắn quay lưng về phía ngọn lửa và cũng vì ánh sáng quá yếu ớt nên tôi không thể nhìn thấy gương mặt hắn, mặc dù thoạt tiên tôi nghĩ mình đã thoáng thấy một gò má trắng bợt, xương xẩu và ánh mắt sáng lấp lánh. Tóc hắn đen, quăn dài, phủ xuống quanh bờ vai đang khoác áo choàng ngắn. Có gì đó trong cử động của hắn rất khác, khác hẳn với cử động của một con người còn sống, nhưng tôi không thể xác quyết nó nhanh hơn hay chậm hơn. Hắn chỉ cao hơn tôi một chút, nhưng tôi có thể nhìn thấy bề ngang của đôi vai rộng trên nền ánh lửa và có cảm giác như hắn rất cao, rất vạm vỡ. Đoạn hắn cúi xuống ngọn lửa, với tay lấy một vật gì đó. Tôi tự hỏi phải chăng hắn sắp giết mình, và cố tỏ ra bình thản, hy vọng sẽ chết như một người có phẩm giá. Nhưng hắn chỉ châm một cây nến dài, và dùng nó để thắp các ngọn nến khác trong một giá đèn gần chiếc ghế hắn ngồi, rồi quay lại đối mặt với tôi.

Lúc này, tôi đã có thể nhìn hắn rõ hơn dù gương mặt hắn vẫn còn nằm trong bóng tối. Hắn đội mũ màu vàng kim và xanh lá với một cây trâm ngọc nặng nề ở phía trước, mặc áo nhung vàng có thắt lưng, cổ áo màu xanh và viền đăng ten cao đến tận chiếc cằm rộng. Món trang sức trên mũ và những sợi chỉ vàng ở cổ áo hắn lấp lánh trong ánh lửa. Một chiếc áo choàng lông thú màu trắng khoác trên vai, được cài lại bằng một huy hiệu hình rồng bằng bạc. Cách ăn mặc của hắn quả thực lạ thường; tôi thấy sợ kiểu ăn mặc đó gần như chẳng khác gì nỗi kinh sợ đối với sự hiện diện ma quái kỳ dị của hắn. Đó là quần áo thực sự, mới mẻ và sống động, không phải là loại trang phục cũ kỹ trưng bày trong một viện bảo tàng. Hắn mặc thứ trang phục đó lên người với dáng vẻ cực kỳ thanh lịch và giàu có, đứng yên lặng trước mặt tôi, chiếc áo choàng phủ xuống cuốn quanh hắn như một ngọn lốc tuyết. Ánh nến soi rọi một bàn tay hắn với những ngón tay dùi đục và đầy sẹo, đang đặt lên chuôi dao găm, xa hơn phía dưới là đôi chân cứng cáp đi tất dài màu xanh lá và giày ống. Hắn nhúc nhích, xoay người về phía ánh sáng, nhưng vẫn yên lặng. Giờ thì tôi có thể nhìn mặt hắn rõ hơn, vẻ tàn độc của gương mặt đó làm tôi lùi lại - hai con mắt đen to dưới hàng lông mày rậm rịt, mũi thẳng dài, lưỡng quyền rộng và xương. Miệng hắn, bây giờ tôi cũng nhìn thấy rõ hơn, mím lại thành một nụ cười khắc nghiệt, môi đỏ sậm cong lên dưới bộ ria mép đen, cứng. Tôi nhìn thấy ở một khóe môi hắn một vết máu khô - ôi, lạy Chúa, tôi giật mình chùn người lại vì ghê tởm. Nhìn thấy vết máu đó cũng đã đủ kinh hoàng rồi, nhưng nhận thức ngay sau đó rằng có thể đó là máu của tôi, máu của chính tôi, đã làm tôi choáng váng.

Hắn vươn thẳng người, thậm chí còn kiêu hãnh hơn, và qua cái bóng tối lờ mờ ngăn cách hai người, hắn nhìn thẳng vào mặt tôi. “Ta là Dracula,” hắn nói. Những tiếng ấy phát ra lạnh lùng và rõ ràng. Tôi cảm giác như đó là một thứ ngôn ngữ mình chưa hề biết, dù tôi hoàn toàn hiểu. Tôi không thể thốt nên lời, chỉ đứng nhìn hắn trân trân, toàn thân như rơi vào một cơn tê liệt khủng khiếp. Thân xác hắn chỉ cách tôi khoảng hơn ba mét, dù là một thân xác còn sống hay đã chết thì điều không thể chối cãi là nó có thực và đầy quyền uy. “Đến đây,” hắn nói, vẫn với giọng lạnh lùng và rành rọt. “Ngươi đã mệt và đói sau cuộc hành trình rồi. Ta đã dọn bữa tối cho ngươi.” Cử chỉ của hắn hòa nhã, thậm chí có thể nói là lịch sự, những viên đá quý trên các ngón tay thô kệch trắng nhợt lóe lên.

Tôi nhìn thấy một cái bàn gần lò sưởi, bày la liệt những đĩa thức ăn được đậy kín. Bấy giờ tôi mới ngửi thấy mùi đồ ăn - đồ ăn ngon, có thực và của con người - và mùi thơm đó khiến tôi muốn ngất đi. Dracula yên lặng đi đến bàn, rót từ một cái bình cao cổ ra một ly thứ nước màu đỏ mà tôi thoáng nghĩ là máu. “Đến đây,” hắn lặp lại, giọng nhẹ nhàng hơn. Hắn bước ra xa bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế của mình, dường như cho là tôi chắc sẽ bước đến gần bàn nếu hắn giữ chút khoảng cách. Tôi ngập ngừng đi đến chiếc ghế trống bên cạnh bàn, chân run rẩy vì hoàn toàn suy nhược cũng như vì sợ hãi. Tôi ngồi xuống giữa những tấm nệm màu đen, gần như là gục xuống, và nhìn vào những đĩa thức ăn. Tôi tự hỏi tại sao mình lại thèm ăn trong khi có thể chết bất cứ lúc nào. Đó là một điều bí ẩn mà chỉ cơ thể tôi mới hiểu nổi. Lúc này Dracula đang nhìn chăm chăm vào ngọn lửa; tôi có thể nhìn từ mặt bên gương mặt hung ác của hắn, cánh mũi dài và chiếc cằm bạnh, mái tóc quăn đen phủ xuống bờ vai. Hắn chắp tay lại, vẻ trầm tư, áo choàng và hai tay áo thêu tụt xuống, để lộ cổ tay chiếc áo nhung màu xanh lá và một vết sẹo lớn choán gần hết mu bàn tay. Thái độ của hắn bình thản và trầm tĩnh; tôi bắt đầu cảm thấy như mình đang mơ chứ không phải đang cận kề với hiểm nguy, vậy nên tôi đánh liều mở nắp vài đĩa thức ăn.

Đột nhiên tôi cảm thấy đói đến độ tưởng như không thể kiềm chế khỏi hành động ăn ngốn ngấu bằng cả hai tay, nhưng tôi đã cố cầm cái nĩa kim loại và con dao sừng lên và xẻ món gà rán trước, sau đó là một tảng thịt thú rừng màu đen. Có các tô sứ chứa đầy khoai tây và cháo, một ổ bánh mì cứng và một tô đầy xúp rau nóng. Tôi ăn ngấu nghiến, chỉ cố phanh lại đủ để không bị co thắt dạ dày. Tôi nốc cạn chiếc ly bạc đầy rượu vang đỏ bên cạnh khuỷu tay, loại rượu mạnh, không phải máu. Dracula không hề cựa quậy suốt thời gian tôi ăn, dù tôi không thể ngăn mình cứ liên tục liếc nhìn về phía hắn. Ăn xong, trong một lúc lâu tôi thấy mình thỏa mãn và hầu như đã sẵn sàng để chết. Tôi nghĩ phải chăng đây là lý do người sắp bị xử tử được cho ăn bữa ăn cuối cùng. Đó là ý nghĩ rõ ràng đầu tiên của tôi từ khi tỉnh lại trong cỗ quan tài đá. Tôi chậm rãi đậy những đĩa thức ăn trống trơn lại, cố không gây tiếng động, rồi dựa vào ghế, chờ đợi.

Một lúc lâu sau, người đồng hành của tôi mới xoay người trên ghế. “Ngươi đã ăn xong,” hắn khẽ lên tiếng. “Vậy có lẽ chúng ta có thể trò chuyện một chút, và ta sẽ cho ngươi biết lý do vì sao ta đưa ngươi đến đây.” Giọng hắn vẫn rõ ràng và lạnh tanh, nhưng lần này tôi để ý thấy trong sâu thẳm giọng nói ấy tiếng lách tách nho nhỏ, tựa như bộ phận cơ thể tạo ra nó đã quá cũ kỹ và rách nát. Hắn ngồi nhìn tôi với vẻ trầm ngâm, và tôi cảm thấy mình co rúm lại trước ánh nhìn của hắn. “Ngươi có biết mình đang ở đâu không?”

Tôi đã hy vọng không phải trò chuyện với hắn, nhưng lại cảm thấy chẳng ích gì khi giữ im lặng, điều đó chỉ càng khuyến khích hắn dấn tới, mặc dù có vẻ như lúc này hắn tỏ ra khá bình thản. Tôi cũng chợt nghĩ, bằng cách thu hút sự chú ý của hắn, tôi có thể có một chút thời gian thăm dò chung quanh để tìm một lối thoát khả dĩ, hoặc tìm phương cách để tiêu diệt hắn, nếu tôi có thể giữ vững tinh thần thì biết đâu có thể hoàn thành cả hai việc một lúc. Nếu truyền thuyết chính xác thì bây giờ hẳn phải là ban đêm, nếu không hắn đã không thức. Rồi trời cũng sẽ sáng, và nếu tôi còn sống để thấy bình minh, hắn sẽ phải ngủ trong khi tôi vẫn thức.

“Ngươi có biết ngươi đang ở đâu không?” hắn lặp lại, không hề tỏ ra nóng nảy.

“Biết,” tôi trả lời. Tôi không biết phải gọi hắn bằng danh xưng nào. “Ít nhất là tôi cũng nghĩ mình biết. Đây là hầm mộ của ông.”

“Một trong các hầm mộ của ta.” Hắn mỉm cười. “Dù sao chăng nữa, đây là ngôi mộ ưa thích nhất của ta.”

“Có phải chúng ta đang ở xứ Wallachia không?” Tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.

Hắn lắc đầu khiến ánh lửa chuyển động trên mái tóc đen nhánh và trong đôi mắt sáng quắc của hắn. Có một cái gì đó không phải của con người trong cử chỉ ấy khiến tôi cảm thấy dạ dày quặn thắt. Hắn không cử động như một người sống, vậy nhưng - lại một lần nữa - tôi không thể nói chính xác điểm khác biệt là gì. “Wallachia đã trở nên quá nguy hiểm. Lẽ ra ta phải được yên nghỉ mãi mãi ở đó, nhưng đó là điều không thể. Hãy tưởng tượng xem - sau khi chiến đấu gian khổ cho ngai vàng của mình, cho tự do của chúng ta, thậm chí ta còn không thể gửi nắm xương tàn của mình ở đó.”

“Vậy thì chúng ta đang ở đâu?” Tôi cố làm như đây chỉ là một cuộc trò chuyện bình thường, nhưng chỉ hoài công vô ích. Rồi tôi nhận ra rằng tôi không chỉ muốn đêm nay trôi qua một cách nhanh chóng và yên lành, nếu có cơ hội nào để được như thế. Tôi còn muốn biết thêm về Dracula. Dù là cái gì chăng nữa, sinh vật này, hắn đã sống đến năm trăm năm. Lẽ tất nhiên, câu trả lời của hắn sẽ cùng chết với tôi, nhưng tôi không sao ngăn được cảm giác tò mò.

“À, chúng ta đang ở đâu ư,” Dracula lặp lại. “Ta nghĩ, đó không phải là vấn đề. Chúng ta không ở Wallachia, những kẻ ngu xuẩn vẫn đang trị vì xứ sở đó.”

Tôi nhìn hắn đăm đăm. “Ông có... ông có biết gì về thế giới ngày nay không?”

Hắn nhìn tôi, vẻ thích thú pha lẫn ngạc nhiên, khiến gương mặt dễ sợ cong lên. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những chiếc răng nanh dài và hai hàng lợi tụt lại, khiến khi cười trông hắn như một con chó già. Hình ảnh so sánh ấy biến mất cũng nhanh như khi hiện ra - không, miệng hắn vẫn bình thường, ngoại trừ vết máu nhỏ của tôi, hoặc của ai đó - bên dưới bộ ria mép đen kịt. “Biết chứ,” hắn trả lời, và cha thoáng sợ rằng mình sắp phải nghe tiếng cười của hắn. “Ta biết về thế giới hiện đại chứ. Đó là phần thưởng của ta, công trình ưa thích của ta.”

Tôi thấy muốn tấn công kiểu trực diện, biết đâu điều đó sẽ thu hút sự chú ý của hắn. “Vậy thì ông muốn gì ở tôi nào? Tôi đã tránh né thế giới hiện đại nhiều năm rồi - không như ông, tôi sống trong quá khứ.”

“Ôi, quá khứ.” Trong ánh lửa lung linh, hắn lại chắp các đầu ngón tay lại với nhau. “Quá khứ rất có ích, nhưng chỉ vì những gì nó có thể dạy chúng ta về hiện tại. Hiện tại rất phong phú. Nhưng ta cũng rất say mê quá khứ. Lại đây. Vì ngươi đã ăn uống và nghỉ ngơi, tại sao không cho ngươi thấy bây giờ nhỉ?” Hắn đứng dậy, lại cũng bằng cái cử động mà có vẻ như do một lực nào đó tác động chứ không phải là nhờ tứ chi hắn, tôi cũng đứng dậy ngay, sợ rằng hành động kia có thể là một trò lừa và hắn có thể lao vào tôi ngay lúc đó. Nhưng hắn chậm rãi xoay người, nhấc một cây nến ra khỏi giá đèn gần ghế hắn ngồi, đưa cao cây nến lên. “Cầm theo một ngọn nến,” hắn nói rồi đi khỏi khu vực lò sưởi, tiến vào căn phòng lớn. Tôi lấy cây nến thứ hai và bước theo hắn, tránh xa thứ trang phục kỳ dị và những cử động gây ớn lạnh kia. Tôi hy vọng hắn không dẫn mình trở lại cỗ quan tài đá.

Nhờ ánh nến yếu ớt, tôi bắt đầu thấy được những vật mà mới đây không thể nhìn thấy - những đồ vật tuyệt vời. Bây giờ tôi có thể nhận ra những chiếc bàn dài ở trước mặt, những chiếc bàn rất cổ. Trên bàn là hàng chồng, hàng đống sách - những cuốn bọc da rách nát và những bìa sách mạ vàng bắt lấy ánh sáng chập chờn của ngọn nến trong tay tôi. Còn có những thứ đồ vật khác mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy, như một giá để mực, hay những cây bút lông ngỗng kỳ lạ. Một máy đánh chữ cũ kỹ và một chồng giấy da hiện lên lờ mờ trong ánh nến. Tôi thấy lấp lánh những bìa sách và hộp cẩn đá quý, các cuộn bản thảo trên những khay đồng. Còn có những cuốn sách khổ đôi hoặc khổ tư to tướng bọc da trơn láng, và hàng dãy sách có niên đại gần đây hơn trên các ngăn kệ dài. Thực ra, chúng tôi đang bị bao vây; mọi bức tường có vẻ như xếp đầy những sách và sách. Giương cây nến lên, tôi bắt đầu nhận ra những tựa sách rải rác đây đó, lúc là một dòng chữ Ả-rập tao nhã nằm chính giữa gáy sách bọc da đỏ, khi lại là một thứ ngôn ngữ phương Tây quen thuộc. Tuy nhiên, phần lớn sách đều không còn tên vì quá cũ. Đó là một kho tài liệu không thể nào so sánh nổi, và dù không có ý định, tôi cũng bắt đầu nóng lòng muốn mở ra xem một vài cuốn, muốn chạm vào những bản thảo viết tay trên các khay gỗ kia.

Dracula quay lại, giương cao cây nến, ánh nến làm nổi bật sắc màu rực rỡ của những viên đá trên mũ hắn - hoàng ngọc, lục bảo, ngọc trai. Đôi mắt hắn rực sáng. “Ngươi thấy thư viện của ta thế nào?”

“Có vẻ như là một... một bộ sưu tập rất giá trị. Một kho báu,” tôi trả lời.

Vẻ hài lòng thoáng hiện lên trên gương mặt kinh khủng của hắn. “Ngươi nói đúng,” hắn nói, giọng nhẹ nhàng. “Thư viện này là thư viện tuyệt vời nhất trong những thư viện cùng loại trên thế giới. Nó là kết quả của sự tuyển chọn công phu suốt nhiều thế kỷ. Nhưng ngươi sẽ có vô khối thời gian mà khám phá những kỳ quan ta đã tập hợp lại nơi đây. Bây giờ, ta sẽ cho ngươi xem một thứ khác.”

Hắn dẫn đường đến một bức tường khác, ở đó tôi nhìn thấy một máy in cổ lỗ sĩ, giống như chiếc máy in ta bắt gặp trong những tranh minh họa cuối thời kỳ Trung cổ - một bộ máy nặng nề kỳ quái làm bằng kim loại màu đen và gỗ màu sậm với một con ốc to tướng ở mặt trên. Một đĩa tròn bằng đá vỏ chai chứa đầy mực bóng láng, phản chiếu ánh nến như một tấm gương ma quái. Một tờ giấy dày nằm trên kệ máy in. Chồm đến gần hơn, tôi nhận thấy tờ giấy đó đang in dở, một công việc bị bỏ giữa chừng, và bằng tiếng Anh. “Hồn ma trong chiếc bình cổ,” đó là tựa đề. “Ma cà rồng từ bi kịch Hy Lạp đến bi kịch hiện đại.” Và hàng cuối: “Bartholomew Rossi.”

Chắc hẳn Dracula đang chờ đợi tôi hổn hển vì sững sờ kinh ngạc, và thực vậy, tôi đã không làm hắn phật lòng. “Ngươi thấy đó, ta vẫn bắt Wịp với công trình nghiên cứu hiện đại tuyệt vời nhất - từng giây từng phút, giống như người ta thường nói. Khi không thể có một tác phẩm in ấn xuất bản đàng hoàng, hoặc muốn có nó ngay lập tức, thỉnh thoảng ta phải tự in lấy. Nhưng ở đây còn có một thứ dễ dàng thu hút sự quan tâm của ngươi không kém đâu.” Hắn trỏ vào cái bàn phía sau máy in. Trên bàn là một dãy khuôn khắc gỗ. Khuôn lớn nhất đập vào mắt tôi là bản khắc hình con rồng trong các cuốn sách của chúng tôi - của tôi và của Paul - tất nhiên là theo chiều ngược lại. Khó Whăn lắm tôi mới ngăn không buột miệng kêu lên. “Ngươi ngạc nhiên,” Dracula nói, đưa cây đèn lại gần con rồng. Những đường nét quá quen thuộc đến độ tôi nghĩ mình cũng có thể tự tay khắc gọt chúng. “Ta nghĩ ngươi biết rất rõ hình ảnh này.”

“Đúng vậy.” Tôi nắm chặt cây nến. “Ông đã tự in những cuốn sách kia ư? Bao nhiêu cuốn?”

“Các tu sĩ của ta in một số, và ta tiếp tục công việc của họ,” hắn bình thản trả lời, nhìn xuống bản khắc gỗ kia.

“Ta sắp hoàn thành tham vọng in một ngàn bốn trăm năm mươi ba cuốn, nhưng từ từ thôi, để ta còn có thời gian phân phát chúng trong khi hoạt động nữa. Con số đó có ý nghĩa gì với ngươi không?”

“Có chứ,” một lúc sau, tôi trả lời. “Đó là năm thành Constantinle sụp đổ.”

“Ta biết ngươi sẽ nhận ra mà,” hắn thốt lên cùng với nụ cười cay đắng. “Đó là thời điểm tồi tệ nhất trong lịch sử.”

“Đối với tôi, có vẻ như có rất nhiều thời điểm giành giật cái vinh dự ấy,” tôi đáp lại, nhưng hắn lại lắc cái đầu to tướng trên bờ vai to bè.

“Không,” hắn nói. Hắn nâng cao cây nến, và trong ánh nến tôi nhìn thấy mắt hắn quắc lên, đỏ ngầu như mắt chó sói, ngập đầy căm hận. Chuyện này giống như nhìn thấy một cặp mắt vô hồn đột nhiên có sự sống vậy; trước đó tôi nghĩ hắn chỉ có đôi mắt sáng, nhưng giờ dưới ánh nến chúng còn toát ra nét tàn ác. Tôi không thể thốt nên lời và cũng không thể ngoảnh đi nơi khác. Một lát sau, hắn quay lại và tiếp tục nhìn ngắm hình rồng. “Nó là một sứ giả tuyệt vời,” hắn nói, vẻ trầm ngâm.

“Có phải ông đã để nó lại cho tôi? Cuốn của tôi ấy?”

“Hãy cứ cho là ta đã sắp đặt việc đó.” Hắn đưa bàn tay đầy các vết sẹo chiến trận sờ vào bản khắc gỗ hình rồng. “Ta rất thận trọng trong việc phân phát chúng. Chúng chỉ đến với những học giả triển vọng nhất, và đến với những người mà ta nghĩ có thể đủ kiên trì để theo đuổi con rồng đến tận hang ổ của nó. Và ngươi là người đầu tiên thực sự làm được việc ấy. Ta chúc mừng ngươi. Ta để lại những kẻ phụ tá khác trong thế giới trần tục, để thực hiện công cuộc nghiên cứu của ta.”

“Tôi đâu có theo đuổi ông,” tôi đánh bạo phản bác lại. “Ông đã mang tôi đến đây.”

“À...” Đôi môi đỏ choét của hắn lại nhếch lên, bộ ria mép giật giật. “Ngươi sẽ không ở đây nếu ngươi không muốn đến. Không một người nào dám coi thường lời cảnh báo của ta đến hai lần trong đời. Ngươi đã tự dẫn xác đến đây.”

Tôi nhìn vào cái máy in cổ lỗ sĩ và bản khắc gỗ hình rồng. “Tại sao ông muốn tôi ở đây?” Tôi không muốn chọc tức hắn bằng những câu hỏi này nọ; nếu muốn, hắn có thể giết tôi vào tối mai, nếu suốt thời gian ban ngày tôi không tìm được cách trốn thoát. Nhưng tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.

“Ta đã chờ đợi rất lâu một người có thể sắp xếp, phân loại lại cái thư viện này,” hắn trả lời một cách đơn giản. “Ngày mai, ngươi sẽ tự do nhìn ngắm tất cả mọi thứ trong thư viện. Tối nay chúng ta sẽ thảo luận.” Hắn quay trở lại ghế, bước đi chậm rãi, đầy uy quyền. Những lời hắn nói khiến tôi cảm thấy tràn trề hy vọng - dường như hắn thực sự không có ý muốn giết tôi vào tối nay, hơn nữa, tính hiếu kỳ cũng đang sôi sục trong người tôi. Tôi không đang mơ, có vẻ vậy; tôi đang nói chuyện với một kẻ đã sống xuyên suốt một lịch sử dài hơn bất kỳ sử gia nào may ra có thể nghiên cứu được, thậm chí ở mức sơ đẳng nhất, trong sự nghiệp của mình. Tôi đi theo hắn, thận trọng giữ khoảng cách, và cả hai lại ngồi xuống trước lò sưởi. Khi đã ổn định chỗ ngồi tôi mới để ý thấy chiếc bàn với những đĩa bát trống trơn của bữa ăn tối đã biến mất, thay vào đó là một ghế nệm dài trông rất thoải mái mà tôi thận trọng gác chân lên. Dracula ngồi thẳng người, đường bệ trên chiếc ghế dựa to. Ghế của hắn cao, bằng gỗ và cũ xưa từ thời Trung cổ trong khi ghế của tôi được bọc nệm êm ái như chiếc ghế dài, tựa như hắn nghĩ phải cung cấp cho vị khách của mình một thứ phù hợp với tính yếu đuối nhu nhược của thời hiện đại.

Chúng tôi ngồi trong yên lặng một lúc lâu, ngay vào lúc tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng hắn định để cả hai ngồi như vậy suốt đêm thì hắn bắt đầu lên tiếng. “Khi còn sống, ta rất thích sách,” hắn nói. Hắn khẽ xoay mặt về phía tôi, khiến tôi có thể nhìn thấy ánh đèn phản chiếu bóng láng trên mái tóc dày và lấp lánh trong đôi mắt hắn. “Có lẽ ngươi không biết ta cũng gần như là một học giả. Đấy là điều ít ai biết.” Hắn nói, vẻ rất bình thản. “Ngươi vẫn biết sách vở thời của ta rất hạn chế về chủng loại. Trong cuộc đời trần tục của ta, chủ yếu ta chỉ nhìn thấy những văn bản được Giáo hội thừa nhận - chẳng hạn như những cuốn Phúc âm cùng với lời chú giải của Giáo hội Chính thống. Những cuốn sách đó rốt cuộc lại chẳng có ích lợi gì với ta. Và vào thời điểm ta chính thức lên ngôi lần đầu tiên thì những thư viện lớn ở Constantinle đã bị phá hủy. Những gì còn lại của chúng nằm trong các tu viện, ta chẳng bao giờ có thể bước vào đó để xem tận mắt.” Hắn nhìn chăm chăm vào ngọn lửa. “Nhưng ta có những nguồn khác. Bọn thương nhân đã mang đến cho ta những cuốn sách lạ lùng và tuyệt vời, từ nhiều địa phương khác nhau - Ai Cập và Vùng Đất Thánh, và những tu viện lớn ở phương Tây. Từ những cuốn sách đó, ta biết về sự huyền bí cổ xưa. Bởi ta biết mình không thể đạt đến một thiên đường toàn mỹ,” - lại vẫn cái giọng bình thản đó - “ta đã trở thành một sử gia để gìn giữ mãi mãi lịch sử của chính ta.”

Hắn bỗng im bặt một lúc, nhưng tôi sợ không dám hỏi gì thêm. Sau cùng, có vẻ như chợt tỉnh, hắn vỗ bàn tay to tướng lên thành ghế. “Đó là căn nguyên của cái thư viện này.”

Mặc dù thấy khó mà diễn đạt được câu hỏi của mình, tôi vẫn không thể nào giữ im lặng nổi vì quá tò mò. “Nhưng sau ihi... chết, ông vẫn tiếp tục sưu tập những cuốn sách này?”

“Ồ, đúng vậy.” Lần này hắn quay lại nhìn tôi, có lẽ do tôi đã tự ý nêu câu hỏi, và nở một nụ cười khắc nghiệt. Đôi mắt hắn bị sấp bóng bởi ánh lửa, quá khủng khiếp đến nỗi tôi không dám nhìn vào. “Ta đã nói với ngươi, tự trong tâm khảm ta là một học giả và cũng là một chiến binh, ta đã bầu bạn với các cuốn sách này qua bao năm tháng. Thêm nữa, có nhiều điều thiết thực phải học hỏi từ sách vở - chẳng hạn như nghệ thuật chính trị, chiến thuật của các vị tướng vĩ đại. Nhưng ta có rất nhiều loại sách. Ngày mai nhà ngươi sẽ thấy.”

“Vậy ông muốn tôi làm gì cho thư viện của ông?”

“Như ta đã nói, lập danh mục cho thư viện. Ta chưa bao giờ lập một hồ sơ ghi lại đầy đủ tài sản của mình, về nguồn gốc và tình trạng của chúng. Đó sẽ là nhiệm vụ đầu tiên của ngươi, và với việc thông thạo nhiều ngôn ngữ cũng như kiến thức uyên thâm của mình, ngươi sẽ hoàn thành nhiệm vụ đó một cách nhanh chóng và xuất sắc hơn bất kỳ ai khác. Trong thời gian tiến hành nhiệm vụ này, ngươi sẽ được sử dụng một số cuốn sách đẹp nhất - và quyền lực nhất - từ trước đến nay. Nhiều cuốn trong số đó sẽ không bao giờ còn hiện diện ở bất kỳ nơi nào khác. Có lẽ ngươi cũng biết, giáo sư ạ, chỉ khoảng một phần ngàn các tác phẩm văn học từng được xuất bản là còn tồn tại? Nhiều thế kỷ qua, ta đã đặt ra cho mình một sứ mệnh là nâng cái tỷ lệ đó lên.” Khi hắn nói, tôi lại nhận ra sự rõ ràng mà lạnh lùng iỳ dị và cái âm thanh lách tách trong sâu thẳm giọng nói của hắn - giống như tiếng Wêu của loài rắn đuôi chuông, hay tiếng nước lạnh chảy trên đá.

“Nhiệm vụ thứ hai của ngươi quan trọng hơn nhiều. Thực ra, nó sẽ kéo dài mãi mãi. Khi ngươi đã biết tường tận thư viện này và mục đích của nó giống như ta, ngươi sẽ trở lại với thế giới ngoài kia, dưới sự chỉ huy của ta, để tìm kiếm những nguồn sách mới - và cả sách cũ nữa, bởi ta chưa bao giờ ngưng sưu tầm những tác phẩm đã có trong quá khứ. Ta sẽ đặt nhiều chuyên viên lưu trữ dưới quyền sai khiến của ngươi - những tay cừ nhất - và ngươi sẽ mang về nhiều tay chân dưới quyền chúng ta hơn nữa.”

Tầm cỡ của viễn cảnh này và ý định đầy đủ của hắn, nếu tôi hiểu chính xác, bất chợt khiến tôi toát mồ hôi lạnh. Tôi nghe được chính cái giọng run run của mình. “Sao ông không tự mình tiếp tục công việc này?”

Hắn nhìn vào ngọn lửa, nở một nụ cười, và lại một lần nữa tôi thấy lóe lên một gương mặt khác - bộ mặt của loài chó, chó sói. “Hiện tại ta đang có nhiều việc khác phải đeo đuổi. Thế giới đang biến đổi và ta dự định phải biến đổi theo. Có lẽ chẳng bao lâu nữa ta sẽ không cần đến cái hình hài này” - hắn chậm chạp đưa tay chỉ vào bộ quần áo lộng lẫy thời Trung cổ của mình - “để hoàn thành tham vọng của mình. Nhưng đối với ta, thư viện này rất quý giá và ta muốn nhìn thấy nó phát triển. Vả lại, có đôi khi ta cảm thấy nơi này càng lúc càng kém an toàn. Nhiều sử gia đang tiếp cận rất gần để tìm kiếm nó, và chắc hẳn ngươi đã tìm được với các phương tiện của riêng ngươi nếu ta để ngươi có đủ thời gian. Nhưng ta cần ngươi ở ngay đây. Ta ngửi thấy mùi nguy hiểm đang đến gần, và thư viện này phải được lập danh mục trước khi chuyển đi.”

Trong một thoáng, tôi lại có thể vờ như mình đang mơ. “Ông sẽ dời nó đi đâu?” Và cả tôi theo ư? Có lẽ tôi nên thêm vào như vậy.

“Đến một địa điểm cổ xưa, thậm chí còn cổ xưa hơn nơi này và có nhiều kỷ niệm đẹp đối với ta. Một chốn hẻo lánh, nhưng gần các thành phố lớn và hiện đại hơn, nơi ta có thể đến và đi dễ dàng. Chúng ta sẽ bố trí thư viện ở đó và ngươi sẽ tha hồ mà làm cho nó phát triển.” Hắn nhìn tôi với vẻ tin cậy mà nếu ở trên khuôn mặt một con người, ta có thể coi đó là sự thương yêu. Rồi hắn đứng dậy với kiểu cử động mạnh mẽ và lạ lùng của mình. “Chúng ta đã bàn bạc đủ cho một đêm - ta thấy ngươi đã mệt. Chúng ta hãy dùng những giờ còn lại này để đọc một lát, như ta vẫn thường làm, và sau đó ta sẽ ra ngoài. Khi trời sáng, ngươi sẽ tìm thấy giấy bút ở gần máy in, hãy sử dụng chúng để bắt đầu công việc lập danh mục của mình. Ngươi sẽ thấy những cuốn sách của ta được sắp xếp theo từng loại, chứ ihông phải theo thế kỷ hoặc thập kỷ. Ngoài ra, ta đã cung cấp cho ngươi một máy đánh chữ. Dù muốn ngươi soạn bộ danh mục này bằng tiếng Latin hơn, nhưng ta để ngươi tùy nghi lựa chọn trong việc này. Và, lẽ tất nhiên, từ giờ trở đi ngươi được tự do, đọc bất cứ lúc nào và bất kỳ thứ gì ngươi muốn.”

Đến đây, hắn đứng dậy chọn một cuốn sách trên bàn, rồi ngồi lại xuống ghế. Tôi sợ không dám không làm theo, và cầm lấy cuốn đầu tiên chạm tay vào. Hóa ra đó là một ấn bản đầu tiên của Machiavelli_(1): cuốn Quân Vương, kèm theo là một loạt bài diễn văn, thuyết trình về chủ đề đạo đức mà tôi chưa bao giờ đọc hoặc nghe nói đến. Trong tâm trạng hiện tại, quả thực tôi không thể bắt đầu tìm hiểu điều gì trong đó mà chỉ ngồi nhìn chăm chăm vào những dòng chữ, hoặc lật bâng quơ một trang nào đó. Có vẻ như Dracula hoàn toàn say sưa đọc sách. Tôi lén liếc nhìn hắn, tự hỏi làm sao hắn thích nghi được với sự tồn tại trong bóng đêm, dưới lòng đất thế này, cuộc sống của một học giả sau một đời chiến chinh trận mạc.

Sau cùng, hắn đứng dậy, yên lặng bỏ cuốn sách qua một bên. Không nói một lời, hắn bước vào bóng tối của gian đại sảnh, khiến tôi không còn phân biệt được hình dáng của hắn nữa. Sau đó, tôi nghe như có tiếng cào bới sột soạt khô khốc, như tiếng động của một con thú trong hang sập, hoặc tiếng quẹt diêm dù không thấy có ánh lửa nào, rồi tôi cảm thấy mình hoàn toàn đơn độc. Tôi dỏng tai lắng nghe nhưng vẫn không thể xác định hắn đi ra theo hướng nào. Ít ra thì tối hôm nay hắn sẽ không è cổ tôi ra để hút máu. Tôi kinh hoàng tự hỏi không biết hắn để dành tôi làm gì, trong khi hắn có thể vừa nhanh chóng biến tôi thành tay sai vừa thỏa mãn cơn khát máu. Tôi cứ ngồi trên ghế như thế hàng giờ liền, thỉnh thoảng đứng dậy vươn vai để cơ thể bớt đau nhức. Tôi không dám ngủ khi trời chưa sáng, nhưng dù không muốn, chắc hẳn tôi đã chợp mắt một chút trước lúc bình minh, bởi tôi bất chợt tỉnh lại khi cảm thấy sự thay đổi trong không khí, dù ánh sáng không lọt được vào căn phòng tăm tối này, và nhìn thấy Dracula trong chiếc áo choàng đang tiến gần đến lò sưởi. “Chúc một ngày tốt lành,” hắn điềm tĩnh nói, rồi quay người đi về hướng bức tường tối đen, nơi có cỗ quan tài đá của tôi. Tôi đã đứng dậy do tác động của sự hiện diện của hắn. Rồi, lại một lần nữa, tôi không thể nhìn thấy hắn, và một sự im lặng sâu thẳm bao phủ xung quanh tôi.

Một lúc lâu sau, tôi cầm nến của mình lên thắp lại những cây nến ihác trong giá đèn và cả những cây trong chân đế dọc theo các vách tường. Trên nhiều chiếc bàn, tôi phát hiện ra những cây đèn sứ hoặc đèn lồng nhỏ bằng sắt, và tôi thắp một vài cây trong số đó. Tôi cảm thấy ít nhiều khuây khỏa khi có nhiều ánh sáng hơn, nhưng rồi tôi lại băn khoăn không biết mình có còn được nhìn lại ánh sáng mặt trời, hay đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu trong bóng tối và ánh nến lập lòe - cuộc sống ấy trải ra trước mắt tôi như một cảnh địa ngục. Giờ thì ít ra tôi có thể nhìn thấy căn phòng rõ hơn; đó là một phòng rất lớn, dọc theo các bức tường là những tủ kệ khổng lồ. Khắp nơi toàn là sách, hộp, cuộn bản thảo, hàng chồng hàng dãy bộ sưu tập đồ sộ của Dracula. Dọc theo một bức tường là hình dáng lờ mờ của ba cỗ quan tài đá. Hai cái nhỏ hơn trống trơn - chắc hẳn tôi đã tỉnh lại ở một trong ba chiếc quan tài đó.

Rồi tôi thấy cỗ quan tài lớn nhất, uy nghi hơn hai cái kia, trông đồ sộ và cân xứng dưới ánh nến. Dọc theo cạnh bên là một từ được khắc bằng ký tự Latin: DRACULA. Hầu như vô thức, tôi đưa cao cây nến, nhìn vào bên trong. Thân xác to lớn của hắn đang nằm ở đó, trơ trơ. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ ràng cận cảnh gương mặt dữ tợn của hắn, và dù vô cùng khiếp sợ tôi vẫn cứ đứng đó, nhìn trân trân. Lông mày hắn nhíu lại như đang mơ một giấc mơ khó chịu, mắt mở to, nhìn trừng trừng, do vậy trông hắn giống như đã chết hơn là đang ngủ, màu da vàng bợt bạt, lông mi đen dài bất động, những nét cương nghị, có thể gọi là đẹp, trên mặt hắn trông như mờ đi. Mớ tóc đen dài của hắn phủ quanh vai, xõa ra hai bên thành quan tài. Kinh khủng nhất là cái màu đỏ tươi trên má trên môi, trước đó trong ánh sáng lò sưởi tôi không thể nhìn được toàn bộ gương mặt cũng như hình dáng hắn. Quả thực hắn đã miễn thứ cho tôi đêm nay, nhưng ở đâu đó ngoài kia, trong đêm tối, hắn đã uống no nê máu của ai đó. Cái vết nhỏ máu của tôi trên môi hắn đã biến mất; nhưng giờ dưới bộ ria mép đen, đôi môi đó lại tươi một màu đỏ thắm. Tôi cảm thấy ớn lạnh cả người khi nhận ra vẻ dồi dào sinh lực và khỏe mạnh của hắn là hoàn toàn giả tạo - hắn không thở, ngực bất động, hoàn toàn không một chút phập phồng. Một điều khác thường nữa: hắn đang mặc một bộ đồ khác, cũng lộng lẫy và đẹp như bộ tôi đã thấy, áo và ủng màu đỏ sậm, áo choàng và mũ bằng nhung tím. Áo choàng đã hơi sờn vai, còn mũ gắn một chiếc lông vũ màu nâu. Cổ áo lấp lánh những viên đá quý.

Tôi đứng đó, nhìn đăm đăm cho đến khi cảm thấy như sắp ngất đi vì cái cảnh tượng kỳ lạ trước mắt, rồi tôi lùi lại một bước và cố tập trung suy nghĩ. Hãy còn sớm - từ giờ cho đến hoàng hôn, tôi còn nhiều thời gian. Trước tiên, tôi sẽ tìm một lối thoát, sau đó sẽ tìm cách tiêu diệt sinh vật này khi hắn đang ngủ, và dù chế ngự hắn được hay không tôi cũng phải biến ngay tức khắc. Tôi cầm chặt ngọn nến trong tay. Phải nói rằng tôi đã sục sạo khắp căn phòng đá khổng lồ trong suốt hơn hai giờ đồng hồ mà không thấy một lối thoát nào cả. Ở một đầu, đối diện với lò sưởi, là một cánh cửa gỗ lớn với ổ khóa bằng sắt, tôi hết đẩy lại kéo cánh cửa, cứ cố cho đến lúc người mệt lử và đau nhức toàn thân. Cánh cửa chẳng hề nhúc nhích; thực ra, tôi tin là nó đã không mở ra từ nhiều năm qua - có ihi từ nhiều thế kỷ. Không còn cách nào khác để thoát ra - không cửa khác, không đường hầm, không một viên đá lung lay hay một kẽ hở nào. Chắc chắn cũng không có cửa sổ, vì tôi cảm giác mình đang ở khá sâu trong lòng đất. Hốc tường duy nhất là nơi đặt ba cỗ quan tài, và ở đó, các tảng đá cũng trơ trơ bất di bất dịch. Quả là một sự tra tấn khi phải sờ soạng dọc theo bức tường đó trong tầm nhìn của Whuôn mặt cứng đơ với đôi mắt mở to thao láo của Dracula; cho dù đôi mắt đó hoàn toàn bất động, tôi vẫn cảm thấy chúng hẳn phải có năng lực theo dõi và nguyền rủa kỳ bí nào đó.

Tôi lại ngồi xuống bên lò sưởi để phục hồi cái sức lực đang tàn tạ của mình. Trong lúc hơ tay trên lửa, tôi để ý thấy dù đang ngốn những cành cây hoặc khúc gỗ thực sự, ngọn lửa không hề cháy nhỏ hơn và tỏa ra một hơi nóng dễ chịu, có thể cảm nhận rõ rệt. Bấy giờ tôi cũng phát hiện ra nó không có khói; nó đã cháy như vậy suốt đêm ư? Tôi đưa tay ôm mặt, tự cảnh báo chính mình. Tôi cần hết sức tỉnh táo. Thực ra - trong khoảnh khắc đó tôi đã đề ra quyết tâm - tôi sẽ xem nhiệm vụ của mình là giữ tâm trí và đạo đức nguyên vẹn cho đến giờ phút cuối cùng. Đó sẽ là điều nâng đỡ tôi, phương tiện sống cuối cùng còn lại của tôi.

Khi đã trấn tĩnh trở lại, tôi lại bắt đầu sục sạo, một cách có hệ thống, tìm kiếm bất kỳ phương cách khả dĩ nào có thể tiêu diệt tên chủ nhà gớm guốc kia. Lẽ tất nhiên, nếu thực hiện thành công việc đó, tôi cũng sẽ chết ở đây, trong đơn độc, không một lối thoát, nhưng hắn cũng sẽ không bao giờ rời khỏi căn phòng này để săn đuổi, làm hại con người ở thế giới ngoài kia được nữa. Đã hơn một lần tôi thoáng nghĩ đến sự giải thoát êm ái của việc tự sát, để rồi nhận ra rằng mình không được phép hành động như vậy. Tôi đã có nguy cơ trở thành giống như Dracula, và truyền thuyết đã quả quyết là bất kỳ người nào bị nhiễm như tôi nếu tự tử cũng có thể trở thành quỷ nhập tràng mà không cần phải bị cắn thêm lần nào nữa - một truyền thuyết ác độc nhưng tôi vẫn buộc phải lưu ý. Đối với tôi, chọn lựa đó kể như đã phá sản. Đưa cao ngọn nến, tôi lùng sục khắp mọi ngóc ngách trong phòng, mở tung các ngăn hộp, kiểm tra các giá kệ. Chắc ông hoàng ranh mãnh này không để lại cho tôi một thứ vũ khí nào có thể sử dụng chống lại hắn, nhưng tôi cứ phải tìm. Và tôi không tìm thấy gì, thậm chí không cả một khúc gỗ mà tôi hy vọng bằng cách nào đó có thể chuốt nhọn thành một cây cọc. Khi tôi thử lôi một khúc cây trong lò sưởi ra, ngọn lửa bất ngờ phực lên, cháy đến tay tôi. Tôi đã thử làm đi làm lại nhiều lần, nhưng lần nào cũng là cái kết cục quái quỷ kia.

Sau cùng tôi quay lại cỗ quan tài lớn nằm ở chính giữa, kinh hoàng nghĩ đến cái phương tiện cuối cùng đang nằm ở đó: lưỡi gao găm Dracula mang ở thắt lưng. Bàn tay sứt sẹo của hắn đang nắm chặt chuôi dao. Con dao có thể làm bằng bạc, trong trường hợp ấy, tôi có thể cắm lưỡi dao này vào tim hắn, nếu tôi lấy được nó ra khỏi người Dracula. Tôi ngồi xuống một lát để dồn hết can đảm cho nỗ lực này, và cũng để vượt qua nỗi khiếp sợ. Rồi tôi đứng dậy, thận trọng đưa tay đến gần lưỡi dao, tay kia giương cao ngọn nến. Gương mặt khắc nghiệt của Dracula không hề biểu lộ chút sự sống nào khi tôi rụt rè chạm tay vào, tôi nhận thấy như vậy, dù nét ác độc trên mặt và vẻ cau có của cái mũi có vẻ như rõ ràng và gay gắt hơn. Nhưng tôi kinh hoàng nhận ra bàn tay to tướng kia, vì lý do nào đó, lại đang nắm chặt cán dao. Phải gỡ bàn tay ấy ra mới chạm đến được con dao. Tôi để tay lên tay Dracula, và cảm giác ihi chạm vào đó là một nỗi kinh hoàng mà tôi không muốn ghi lại ở đây, dù sẽ chẳng ai đọc được những dòng này ngoài bản thân tôi. Bàn tay hắn khép chặt, cứng ngắt như đá trên chuôi dao. Tôi không thể gỡ tay hắn ra nổi, thậm chí không thể khiến nó nhúc nhích; tình thế chẳng khác gì tôi đang cố gỡ một con dao ra khỏi tay một bức tượng cẩm thạch. Đôi mắt chết chóc kia như đang rực lên vẻ căm hận. Liệu sau này khi tỉnh dậy hắn có nhớ việc này không? Tôi thụt lui, mệt nhoài, cảm thấy sức lực như đã cạn kiệt, và tôi lại ngồi bệt xuống sàn một lúc lâu, cây nến vẫn cầm trong tay.

Cuối cùng, nhận ra không

thể thành công theo kế hoạch đó, tôi quyết định chuyển qua một hướng hành động khác. Trước tiên, tôi phải chợp mắt một lúc, lúc này muộn nhất thì vẫn đang khoảng giữa trưa, tôi có thể thức dậy rất lâu trước Dracula, không sợ hắn tỉnh trước mà thấy tôi đang ngủ. Tôi nghĩ mình sẽ ngủ trong khoảng một, hai giờ - tôi phải tìm ra cách tốt hơn để ước lượng thời gian trong cái thế giới tách biệt này mới được - bằng cách nằm trước lò sưởi, áo khoác gấp lại làm gối. Không gì có thể thuyết phục tôi leo trở lại cái quan tài đá kia, ở đây tôi cảm thấy khá dễ chịu nhờ hơi ấm của những viên đá lát lò sưởi bên dưới tứ chi nhức nhối của mình.

Tôi dỏng tai lắng nghe khi tỉnh dậy, nhưng căn phòng vẫn im lặng một cách chết chóc. Tôi nhận ra trên bàn lại dọn sẵn một bữa ăn ngon lành, dù Dracula vẫn nằm cứng đờ trong quan tài của hắn. Sau đó, tôi vào trong để tìm chiếc máy đánh chữ đã thấy trước đó. Kể từ lúc ấy, tôi bắt đầu ghi lại nhanh nhất có thể mọi điều quan sát được. Bằng cách này, tôi còn tìm được cách ước lượng thời gian bởi tôi biết tốc độ đánh máy của mình và số trang tôi có thể hoàn thành trong một giờ đồng hồ. Tôi đang viết những dòng sau cùng này dưới ánh sáng của một ngọn nến; tôi đã tắt những cây khác đi để tiết kiệm. Lúc này tôi đang ngồi ở một chỗ ẩm ướt cách xa lò sưởi, đói lả và lạnh cóng. Giờ thì tôi sẽ giấu những trang viết này đi, ăn cái gì đó, và lao vào công việc mà Dracula đã xếp đặt cho tôi, để khi thức dậy hắn thấy tôi đang bận rộn với việc đó. Ngày mai, tôi sẽ cố viết nhiều hơn nếu còn sống và còn đủ tỉnh táo.

Ngày Thứ Hai

Sau khi ghi lại những quan sát đầu tiên ở trên, tôi đã cuộn các trang viết lại và nhét vào phía sau một cái tủ gần đó, nơi tôi có thể lấy lại dễ dàng nhưng khuất mọi góc nhìn. Tôi chậm rãi đi lại giữa những cái bàn sau khi đã thắp một cây nến mới. Tôi ước lượng phải có đến hàng chục ngàn cuốn sách trong căn phòng lớn - có lẽ phải đến trăm ngàn nếu đếm cả các cuộn bản thảo và bản viết tay khác. Sách không chỉ nằm trên bàn mà còn chất đống trong những chiếc tủ cũ kỹ nặng nề và trên những ngăn kệ thô mộc chạy dọc theo vách tường. Có vẻ như những tác phẩm thời Trung cổ nằm lẫn lộn với những cuốn sách khổ đôi đẹp đẽ thời Phục hưng và những bản in thời hiện đại. Tôi tìm thấy một cuốn khổ tư thuộc loạt tác phẩm đầu tay của Shakespeare kế bên một cuốn của Thomas Auinas(2)_. Rất nhiều sách về nghệ thuật giả kim thế kỷ mười sáu xếp cạnh một tủ chứa toàn những cuộn sách chữ Ả-rập có hình minh họa mà tôi đoán thuộc thời Ottoman. Còn có những cuốn thuyết giảng của Thanh giáo bàn về ma thuật và phép phù thủy, những cuốn thơ nhỏ nhắn thế kỷ mười chín, những cuốn triết học và tội phạm học dài dòng của thế kỷ chúng ta. Không, chẳng có trật tự thời gian gì cả, nhưng tôi nhận ra có một trật tự khác hiện lên khá rõ ràng.

Phải mất hàng tuần hoặc hàng tháng mới sắp xếp những cuốn sách được như trong bộ sưu tập lịch sử của một thư viện bình thường, nhưng vì Dracula cho rằng chúng đã được phân loại theo những quan tâm của riêng hắn, nên tôi sẽ giữ chúng như cũ và chỉ cố gắng phân biệt chúng theo chủng loại. Tôi nghĩ bộ sưu tập đầu tiên hẳn phải bắt đầu từ bức tường gần cánh cửa không thể mở kia, rồi kéo qua ba cái tủ và hai cái bàn lớn: nghệ thuật chính trị và chiến lược quân sự, tôi có thể gọi bộ sưu tập đó như vậy.

Ở đó, tôi tìm thấy các tác phẩm khác của Machiavelli, những cuốn sách khổ đôi đẹp đẽ có nguồn gốc Padua và Florence. Một cuốn tiểu sử Hannibal(3)_ do một người Anh viết từ thế kỷ mười tám và một bản thảo viết tay ngoằn ngoèo chữ Hy Lạp có lẽ có nguồn gốc từ thời thư viện Alexandria: Herodotus bàn về những cuộc chiến tại Athens. Sau các tập bản thảo viết tay, tôi lại bắt đầu cảm thấy một cơn ớn lạnh khác khi lật xem qua những cuốn sách, cuốn sau lại càng làm tôi giật mình hoảng hốt hơn cuốn trước. Một ấn bản đầu tiên đã sờn cũ quăn góc của cuốn Mein Kampf(4)_ và một cuốn nhật ký bằng tiếng Pháp - viết tay, lốm đốm trang này trang kia những vết mốc màu nâu - từ ngày tháng và những ghi chép đầu tiên có thể kết luận cuốn nhật ký tường thuật lại Thời đại Kinh hoàng(5)__ theo quan điểm của một quan chức trong bộ máy chính quyền. Tôi sẽ đọc kỹ cuốn nhật ký này sau - có vẻ như người viết không nêu tên mình ở đâu cả. Tôi tìm thấy một cuốn sách lớn nói về chiến thuật trong những chiến dịch quân sự đầu tiên của Napoleon, được in lúc ông ta còn ở Elba, tôi phỏng chừng như vậy. Trong chiếc hộp trên một trong các bàn, tôi tìm thấy một tài liệu đánh máy đã ố vàng, viết bằng ký tự Kiril; tiếng Nga của tôi chẳng đâu vào đâu, nhưng qua tiêu đề tôi chắc chắn đó là một công văn nội bộ của Stalin gửi cho một người trong quân đội Nga. Tôi không đọc được phần lớn công văn ấy, nhưng nó liệt kê một danh sách dài những cái tên Nga và Ba Lan.

Đó chỉ là vài thứ mà tôi có thể xác định danh tính; ngoài ra còn có nhiều sách và bản thảo mà tác giả và chủ đề của chúng hoàn toàn xa lạ với tôi. Khi chỉ vừa bắt đầu liệt kê những hạng mục mà mình có thể xác định và phân chia đại khái theo thế kỷ thì tôi cảm thấy một cơn buốt lạnh, giống như có gió thổi ở một nơi không hề có gió, tôi nhìn lên và thấy hình dáng kỳ lạ kia đang đứng ở đầu kia của chiếc bàn, cách tôi khoảng mười bước chân.

Hắn đang mặc bộ cánh lộng lẫy đỏ và tím như tôi đã nhìn thấy trong quan tài, trông hắn cao lớn và rắn chắc hơn so với những gì tôi nhớ đêm qua. Tôi không nói gì, chờ xem liệu hắn có tấn công tôi ngay hay không - hắn có nhớ tôi đã cố lấy con dao của hắn không nhỉ? Nhưng hắn chỉ khẽ nghiêng đầu, tựa như để chào hỏi. “Ta thấy ngươi đã bắt đầu công việc của mình. Chắc chắn ngươi sẽ có những thắc mắc này nọ, cứ hỏi ta đừng ngại. Nhưng trước hết, chúng ta hãy dùng bữa điểm tâm, sau đó chúng ta sẽ bàn về những bộ sưu tập.” Qua ánh sáng lờ mờ của gian sảnh, tôi thấy một tia sáng lấp lánh trên mặt hắn, có lẽ là ánh sáng lóe lên từ mắt. Hắn dẫn đường với những sải bước không phải của con người nhưng đầy vẻ trịch thượng trở về bên cạnh lò sưởi, ở đó tôi thấy đồ ăn thức uống nóng sốt đã bày sẵn, có cả một tách trà còn bốc hơi khiến tôi cảm thấy dễ chịu khi cầm lên trong đôi tay lạnh cóng của mình. Dracula ngồi nhìn ngọn lửa không tỏa khói, đầu dựng thẳng trên bờ vai rộng. Dù không muốn, tôi cũng chợt nghĩ đến cái xác bị chặt đầu của hắn - chi tiết tương đồng trong tất cả những bản miêu tả cái chết của hắn. Làm thế nào hắn có lại được cái đầu kia, phải chăng tất cả những gì ở đây đều là ảo ảnh? Cổ chiếc áo đẹp đẽ hắn đang mặc dựng cao đến tận cằm, những lọn tóc quăn đen phủ quanh cổ áo và xõa xuống tận vai.

“Nào,” hắn lên tiếng, “giờ chúng ta hãy dạo quanh một vòng.” Hắn lại châm sáng tất cả các cây nến, tôi bước theo hắn hết bàn này qua bàn khác trong lúc hắn thắp những ngọn đèn lồng trên bàn. “Chúng ta sẽ phải đọc qua một số thứ.” Tôi cố nhìn vào các tựa sách thay vì nhìn mặt hắn vì chẳng thích cái cách ánh sáng nhảy múa trên gương mặt mỗi khi hắn cúi xuống mỗi ngọn đèn mới thắp. Hắn bước đến bên cạnh khi tôi đang đứng trước các dãy sách và bản thảo tiếng Ả-rập. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi hắn vẫn còn cách hơn một mét, nhưng mùi hăng nồng tỏa ra từ người hắn khiến tôi phải cố giữ cho mình khỏi bị choáng váng. Phải giữ bình tĩnh, tôi nghĩ; đêm nay chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. “Ta thấy ngươi đã phát hiện một trong các phần thưởng của ta,” hắn nói. Vẻ hài lòng hiện rõ trong giọng nói lạnh lùng. “Đây là những tài sản ta có được từ tay bọn Thổ. Một số rất cổ xưa, từ những ngày đầu tiên của cái đế quốc quỷ quái ấy, và riêng kệ sách này chứa những cuốn từ thập niên sau cùng của bọn chúng.” Hắn mỉm cười trong ánh sáng lập lòe. “Ngươi không thể hình dung ta vui mừng thế nào khi chứng kiến nền văn minh của chúng lụi tàn đâu. Tất nhiên, đức tin của chúng chưa chết, nhưng bọn vua chúa thì vĩnh viễn tiêu đời, và ta đã tồn tại lâu hơn bọn chúng.” Tôi thoáng nghĩ hắn sẽ bật cười, nhưng hắn lại nói tiếp với vẻ nghiêm trọng. “Đây là những pho sách tuyệt vời soạn cho tên Quốc vương kia, viết về những vùng lãnh thổ của hắn. Còn đây” - hắn sờ vào mép một cuộn sách - “là lịch sử về Mehmed, cầu cho hắn nát thây trong địa ngục, do một tên sử gia Thiên Chúa giáo nhưng đã trở thành kẻ bợ đít tên Quốc vương Mehmed viết, ta cũng cầu cho hắn thối thây trong địa ngục luôn. Ta cố tìm ra hắn, cái thằng sử gia đó, nhưng hắn đã chết trước khi ta sờ tới gáy hắn. Đây là những bản tường thuật các chiến dịch của Mehmed và sự thất thủ của Thành phố Vĩ đại, do chính những tên nịnh thần của hắn soạn ra. Ngươi không biết đọc chữ Ả-rập ư?”

“Lõm bõm thôi,” tôi thú nhận.

“À, ra vậy,” hắn có vẻ thích thú. “Ta đã có cơ hội học ngôn ngữ và chữ viết này khi là tù nhân của chúng. Chắc ngươi cũng biết là ta từng bị bọn chúng giam cầm chứ?”

Tôi gật đầu, cố không nhìn vào hắn.

“Đúng vậy, cha ta đã để ta lại ở chỗ cha của Mehmed, như một lời cam kết rằng chúng ta sẽ không phát động chiến tranh chống lại Đế quốc. Ngươi hình dung xem, Dracula - một con tốt đen trong tay những kẻ vô đạo. Ta đã không bỏ phí thời gian ở đó - ta học hỏi mọi thứ có thể về chúng để vượt chúng về mọi mặt. Đó là lúc ta đã thề sẽ làm nên lịch sử chứ không phải là nạn nhân của nó nữa.” Giọng hắn sôi sục đến độ tôi không thể nào không liếc nhìn hắn dù chẳng muốn chút nào, và thấy vẻ căm hận trên mặt hắn, cái nhếch mép cay độc dưới bộ ria dài. Rồi hắn bật cười, giọng cười nghe cũng ghê rợn. “Ta đã chiến thắng và bọn chúng đã chết sạch cả rồi.” Hắn đưa tay chạm vào một gáy sách bọc da trang trí hình rập nổi. “Tên Quốc vương kia sợ ta đến độ đã thành lập một đội hiệp sĩ để săn đuổi ta. Hiện vẫn còn một vài tên, ở đâu đó tại Tsarigrad - cũng là một mối rầy rà. Nhưng bọn chúng càng ngày càng ít đi, vị thế của chúng cũng suy yếu chẳng còn gì, trong khi trên khắp thế giới người của ta càng lúc càng đông hơn.” Hắn vươn thẳng cơ thể cường tráng của mình. “Đi nào. Ta sẽ cho ngươi xem những vật báu khác của ta, và ngươi phải cho ta biết ngươi định lập danh mục cho kho báu này như thế nào.”

Hắn dẫn tôi từ khu vực này sang khu vực khác, chỉ trỏ những vật đặc biệt quý hiếm, tôi nhận thấy phỏng đoán của mình về trật tự bộ sưu tập của hắn là chính xác. Đây là một cái tủ to tướng đầy những cuốn hướng dẫn cách tra tấn, một số có niên đại thời cổ đại. Các cuốn hướng dẫn này rất đa dạng, từ các nhà tù ở Anh thời Trung cổ, đến những phòng tra tấn của Tòa Dị giáo, rồi những thử nghiệm thời Đệ tam Quốc xã Đức. Một số cuốn thời Phục hưng có những bức tranh khắc gỗ mô tả các dụng cụ tra tấn, các cuốn khác có biểu đồ cơ thể người. Một khu vực khác trong phòng dành cho biên niên ký về những kẻ dị giáo của Giáo hội, đối tượng để áp dụng nhiều phương pháp tra tấn nói trên. Một góc khác dành cho thuật giả kim, một góc nữa dành cho phép phù thủy và ma thuật, một góc dành cho các loại triết lý rắc rối khó hiểu nhất.

Dracula dừng lại trước một kệ sách lớn, để tay lên kệ với vẻ trìu mến. “Đây là mối quan tâm đặc biệt của ta, ta nghĩ rồi cũng sẽ là mối quan tâm của ngươi. Đây là những cuốn tiểu sử của chính ta.” Mỗi cuốn sách ở đây đều liên quan theo một cách nào đó với cuộc đời hắn. Có những tác phẩm do các sử gia Byzantine hoặc Ottoman viết - một số là những bản gốc vô cùng hiếm - và cả những tái bản của chúng trong suốt các thời đại khác nhau. Có những tập sách mỏng thời Trung cổ của Đức, Nga, Hungary, Constantinople, tất cả đều ghi chép về tội ác của hắn. Nhiều thứ trong số đó tôi chưa hề nhìn thấy hoặc nghe nói đến trong suốt cuộc nghiên cứu của mình, và tôi chợt cảm thấy dậy lên một sự hiếu kỳ vô lý trước khi nhớ ra rằng giờ đây mình không còn lý do gì để hoàn tất nghiên cứu đó nữa. Ngoài ra, còn có vô số những cuốn sách về văn hóa dân gian, từ thế kỷ mười bảy trở về sau, bao gồm những truyền thuyết về ma cà rồng - tôi sững sờ vì khiếp sợ và cảm thấy kỳ quái khi Dracula, một cách rất thẳng thắn, xếp những thứ này giữa những cuốn tiểu sử của hắn. Hắn đặt bàn tay to tướng lên ấn bản đầu tiên cuốn tiểu thuyết của Bram Stoker rồi mỉm cười, nhưng không nói gì. Sau đó, hắn im lặng đi qua một khu vực khác.

“Đây cũng sẽ là mối quan tâm đặc biệt của ngươi,” hắn lên tiếng. “Những tác phẩm này là lịch sử thế kỷ của ngươi, thế kỷ hai mươi. Một thế kỷ tươi đẹp - ta đang mong đợi những năm tháng còn lại của nó. Vào thời của ta, một ông hoàng có thể loại bỏ những nhân tố phiền nhiễu chỉ được mỗi lần một người. Ngày nay, các ngươi có thể làm việc đó với một khả năng lớn vô hạn. Ví dụ như, hãy nghĩ đến sự tiến bộ vượt bậc từ viên đại bác đáng nguyền rủa đã phá vỡ tường thành Constantinople đến loại hỏa lực tuyệt diệu mà quê hương thứ hai của ngươi đã ném xuống các thành phố Nhật Bản mấy năm trước.” Hắn khẽ nghiêng người như chào tôi, đầy vẻ lịch sự và tán thưởng. “Chắc hẳn ngươi đã đọc rất nhiều trong số này, giáo sư ạ, nhưng có lẽ ngươi nên lướt nhìn trở lại với một nhãn quan mới.”

Sau cùng, hắn lại bảo tôi ngồi xuống gần lò sưởi, tôi nhận ra có thêm một cốc trà đang bốc hơi ở ngay khuỷu tay mình. Hắn quay sang tôi lúc cả hai đang ngồi nghỉ trên ghế. “Ta cũng sắp phải kiếm đồ giải khát cho riêng mình rồi,” hắn nói, vẻ bình thản. “Nhưng trước hết, ta sẽ hỏi ngươi một câu.” Dù không muốn, tay tôi bắt đầu run lên. Cho đến lúc đó, tôi đã cố đối đáp với hắn bằng giọng càng nhỏ nhẹ càng tốt để tránh không phải gánh chịu cơn thịnh nộ của hắn. “Ngươi đang hưởng lòng hiếu khách của ta, theo như khả năng ta có thể ở nơi này, và hưởng cả lòng tin vô bờ của ta đối với tài năng của ngươi. Ngươi sẽ hưởng một cuộc sống vĩnh cửu mà chỉ một ít sinh linh có thể đạt được. Ngươi được tự do sử dụng cái văn khố chắc chắn là tuyệt vời nhất trong những văn khố cùng loại trên mặt đất này. Thực vậy, đang mở ra trước mặt ngươi là những cuốn sách quý hiếm mà hiện nay không thể nhìn thấy ở bất kỳ nơi nào khác. Tất cả những gì ở đây là của ngươi.” Hắn ngọ nguậy trên ghế, tựa như giữ cho cái thân xác to lớn, không chịu chết của hắn bất động lâu là một việc khó khăn. “Hơn nữa, ngươi là người có trực giác và khả năng tưởng tượng ít ai sánh bằng, có óc phán đoán chính xác và sâu sắc. Ta đã học hỏi nhiều từ phương pháp nghiên cứu, cách tổng hợp nguồn tư liệu và trí tưởng tượng của ngươi. Vì tất cả những phẩm chất đó, cũng như kiến thức uyên bác tuyệt vời mà ngươi đã được truyền thụ, ta mang ngươi về đây, về cái kho báu của ta.”

Hắn lại dừng lời. Tôi nhìn vào mặt hắn, không thể quay đi nơi khác. Hắn đang chằm chằm nhìn ngọn lửa. “Với tính trung thực không thể lay chuyển của mình, ngươi có thể thấy được bài học của lịch sử,” hắn tiếp tục. “Lịch sử đã dạy cho chúng ta bản chất con người là tuyệt đối xấu xa, ác độc. Cái thiện là cái không thể hoàn hảo, trong khi cái ác thì có thể. Vậy tại sao không sử dụng đầu óc tuyệt vời của mình để phục vụ cho cái có thể hoàn hảo? Ta yêu cầu ngươi, bạn của ta, hãy toàn tâm toàn ý cộng tác trong công cuộc nghiên cứu của ta. Nếu chấp nhận như vậy, ngươi sẽ không còn bị thống khổ cả thể xác lẫn tinh thần, và cũng giúp cho ta thoát khỏi rất nhiều lo âu rắc rối. Cùng nhau chúng ta sẽ đi tiên phong hoàn thành một công trình lịch sử chưa từng có trên thế giới. Không có gì trong sáng bằng sự trong sáng của những nỗi khổ đau trong lịch sử. Ngươi sẽ có cái mà mọi sử gia mong muốn: lịch sử sẽ là thực tại của ngươi. Chúng ta sẽ tẩy rửa tâm trí chúng ta bằng máu.”

Đoạn hắn quay qua nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt uyên thâm đầy những kiến thức cổ xưa rực sáng, đôi môi đỏ nhếch lên. Tôi chợt nghĩ nếu không bị méo mó bởi quá nhiều thù hận thì gương mặt đó hẳn phải là một gương mặt vô cùng thông minh sáng láng. Tôi cố không để mình trở nên yếu đuối, không chạy ngay đến bên hắn, quỳ xuống trước mặt hắn, đặt mình dưới sự sai bảo của hắn. Hắn là một lãnh tụ, là một đấng quân vương. Hắn không chịu được sự xúc phạm. Tôi dồn hết yêu thương với những thứ mình đã từng có trong đời để thốt lên một câu trả lời chắc nịch. “Không bao giờ.”

Gương mặt hắn đầy kích động, tái nhợt, mũi phập phồng và mép giật giật liên hồi. “Giáo sư Rossi ạ, chắc chắn ngươi sẽ chết ở chốn này,” hắn gằn giọng như cố chế ngự giọng nói của mình. “Ngươi sẽ không bao giờ sống sót mà rời khỏi những căn phòng này, dù ngươi sẽ ra khỏi nơi này dưới một cuộc sống mới. Tại sao ngươi lại không chọn lựa nhỉ?”

“Không,” tôi cố gắng nói bằng giọng càng nhẹ nhàng càng tốt.

Hắn đứng dậy, vẻ đe dọa, rồi cười gằn. “Vậy thì ngươi vẫn sẽ phải làm việc cho ta dù không muốn,” hắn gầm gừ. Bóng tối bắt đầu trùm lên trước mắt tôi, và tôi cố giữ chút - cái gì thế nhỉ? Da tôi bắt đầu râm ran ngứa ngáy, mắt nổ đom đóm. Khi hắn bước đến gần hơn, tôi mới nhìn thấy gương mặt thật của hắn, một gương mặt khủng khiếp đến độ giờ đây tôi không thể nào nhớ lại - dù đã cố. Sau đó, tôi không biết gì nữa, trong một thời gian dài.

Tôi tỉnh dậy trong cỗ quan tài đá của mình, trong bóng tối, và lại nghĩ đây là ngày đầu tiên, lần đầu tiên tỉnh dậy ở nơi ấy, cho đến lúc nhận ra tôi đã biết ngay mình đang ở đâu. Lần này tôi yếu hơn, yếu hơn rất nhiều, vết thương trên cổ lại phập phồng và rỉ máu. Tôi đã mất máu, nhưng không nhiều đến mức trở thành hoàn toàn bất lực. Một lúc sau, tôi cố sờ soạng chung quanh, run rẩy leo ra khỏi cái nhà tù của mình. Tôi nhớ lại khoảnh khắc mình bị bất tỉnh. Qua ánh sáng của những ngọn nến còn lại, tôi thấy Dracula lại đang ngủ trong ngôi mộ của hắn. Hai mắt hắn vẫn mở thao láo vô hồn, môi đỏ rực, tay nắm chặt dao găm - tôi quay đi trong nỗi sợ hãi tột độ cả về thể xác lẫn tâm hồn và đến ngồi bên cạnh lò sưởi, cố nuốt trôi đồ ăn tôi thấy ở đó.

Dường như hắn có ý định hủy hoại tôi dần dần, có lẽ để mở cho tôi cơ hội chọn lựa đến giây phút cuối cùng đề nghị mà hắn đã đưa ra tối qua, để tôi có thể tự nguyện toàn tâm toàn lực phục vụ hắn. Hiện tại, tôi chỉ còn một mục tiêu - không, hai mục tiêu chứ: chết khi tinh thần càng nguyên vẹn càng tốt với hy vọng sau này có thể hạn chế được phần nào những hành vi khủng khiếp mà tôi sẽ thực hiện khi trở thành ma cà rồng, và cố sống sót đủ lâu để ghi lại tất cả những gì có thể trong bản tường thuật này, dù có lẽ nó sẽ tan thành tro bụi mà vẫn chưa được ai đọc đến. Những ước nguyện này là điều duy nhất vực dậy tinh thần tôi lúc này. Đó là một số phận quá cay đắng mà tôi không còn đủ sức để khóc than.

Ngày Thứ Ba

Tôi không còn cảm nhận rõ ràng về ngày tháng nữa; tôi bắt đầu cảm thấy có lẽ một số ngày khác đã trôi qua, hoặc tôi đã mơ mơ tỉnh tỉnh nhiều tuần qua, hay tôi bị bắt mang đi đã một tháng rồi. Nhưng dù sao chăng nữa, đây là lần thứ ba tôi ngồi viết. Tôi đã bỏ cả ngày để khảo sát thư viện, không phải để hoàn thành cái tham vọng thiết lập danh mục cho thư viện này của Dracula, mà là để biết thêm bất kỳ thứ gì hữu ích cho bất cứ ai - nhưng xem ra đó là một nỗ lực vô vọng. Hôm nay, tôi chỉ ghi lại khám phá rằng Napoleon đã cho ám sát hai tướng lĩnh của mình trong năm đầu tiên lên ngôi hoàng đế, những cái chết tôi chưa từng thấy được ghi vào sổ sách nào cả. Tôi cũng xem xét kỹ một cuốn sách ngắn của Anna Comnema, sử gia Byzantine, tựa đề “Phương pháp tra tấn được hoàng đế chuẩn thuận vì lợi ích của nhân dân” - nếu tiếng Hy Lạp của tôi chuẩn xác. Tôi cũng tìm thấy trong khu vực thuật giả kim một cuốn sách pháp thuật được minh họa tuyệt đẹp, có lẽ là của xứ Ba Tư. Giữa các ngăn kệ chứa bộ sưu tập về các dòng dị giáo, tôi bất chợt bắt gặp một văn bản về Thánh John của Giáo hội Byzantine, nhưng có điều gì đó không ổn ngay từ phần đầu văn bản - nó nói về sự u ám tăm tối chứ không phải sự trong sáng. Tôi sẽ xem kỹ lại văn bản này sau. Tôi cũng phát hiện ra một cuốn sách tiếng Anh xuất bản từ năm 1521 - niên đại được ghi như vậy - có tên là Triết lý về sự sợ hãi, một tác phẩm về vùng Carpates mà tôi chỉ nghe nói và đã đinh ninh là không còn tồn tại.

Tôi đã quá mệt mỏi và tơi tả, không thể nghiên cứu những cuốn sách này theo như khả năng của tôi - hay đúng ra là như nhiệm vụ của tôi - nhưng mỗi khi nhìn thấy một thứ mới lạ tôi vẫn cứ háo hức cầm lên, quên bẵng tình trạng hoàn toàn vô vọng của mình ở chốn này. Giờ thì tôi phải chợp mắt một lát, trong lúc Dracula vẫn đang ngủ, để có thể đối mặt với thử thách sắp đến, bất chấp đó là thử thách gì.

Ngày Thứ Tư?

Tôi cảm thấy tinh thần bắt đầu suy sụp; cố gắng hết sức tôi cũng không thể theo dõi thời gian một cách chính xác hoặc tiếp tục nghiên cứu cái thư viện kia. Hôm nay tôi cảm thấy mình không chỉ quá yếu mà còn bệnh nữa, tình trạng đó càng làm tôi thấy khổ sở hơn. Tôi đang xem một cuốn sách về tra tấn trong khu lưu trữ độc nhất vô nhị của Dracula thì thấy trong một cuốn sách tiếng Pháp khổ tư xinh xắn mẫu thiết kế một cái máy chặt đầu, có thể chặt đầu người một cách nhanh chóng và gọn gàng. Có một bản khắc vẽ minh họa cái máy đó - các bộ phận máy, người đàn ông ăn mặc lịch sự cùng cái thủ cấp đã bị chặt tách rời khỏi thân hình. Khi nhìn mẫu thiết kế đó, tôi không chỉ cảm thấy kinh tởm công dụng của nó, không chỉ ngạc nhiên về tình trạng hoàn hảo của cuốn sách, mà bất chợt còn thèm muốn được chứng kiến cảnh tượng có thực, được nghe tiếng hò reo của đám đông và nhìn thấy dòng máu phụt ra trên ngực áo viền đăng ten và tấm áo khoác nhung kia. Sử gia nào cũng trải qua nỗi khao khát muốn nhìn thấy cảnh thực tại của quá khứ, nhưng đây là một cái gì đó mới lạ, một loại thèm khát khác hẳn. Tôi ném cuốn sách qua một bên, gục cái đầu nhức bưng bưng xuống bàn, và lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu cuộc sống bị giam cầm, tôi bật khóc. Thực ra, đã nhiều năm rồi tôi chưa hề khóc, chưa phải nhỏ giọt nước mắt nào sau đám tang mẹ tôi. Vị mặn của những giọt nước mắt làm tôi cảm thấy được an ủi đôi chút - vì nước mắt mặn là chuyện bình thường.

Ngày…

Gã quái vật kia cứ ngủ, suốt cả ngày hôm qua hắn không thèm nói gì, chỉ hỏi tôi công việc lập danh mục đang tiến hành thế nào rồi bỏ ra vài phút để xem xét công việc của tôi. Hiện tại tôi quá mệt để có thể tiếp tục nhiệm vụ, hoặc thậm chí đánh máy chữ nhiều hơn. Tôi sẽ ngồi trước lò sưởi và cố tìm lại một chút con người xưa cũ của mình.

Ngày…

Đêm qua, tựa như chúng tôi vẫn còn giữ cách đối xử như những người văn minh lịch sự với nhau, hắn lại bảo tôi ngồi trước lò sưởi và cho biết hắn sắp dời thư viện, sớm hơn dự định ban đầu, vì một mối đe dọa nào đó đang cận kề. “Đây là đêm cuối cùng của ngươi, sau đó ta sẽ để ngươi ở đây một thời gian ngắn,” hắn nói, “nhưng ngươi phải đến chỗ ta khi ta gọi. Lúc ấy, ngươi có thể tiếp tục lại công việc tại một địa điểm mới an toàn hơn. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc đưa ngươi trở lại với thế giới. Để tâm mà nghĩ xem ngươi có thể mang về cho ta những ai để giúp đỡ sứ mạng của chúng ta. Bây giờ, ta sẽ giấu ngươi vào một nơi mà không ai có thể tìm thấy, dù trong bất cứ trường hợp nào.” Hắn cười, nụ cười như làm cho mắt tôi mờ đi, vì vậy tôi cố nhìn vào ngọn lửa. “Ngươi rất ngoan cố đấy. Có lẽ ta sẽ ngụy trang ngươi thành di hài của thánh.” Tôi chẳng thèm hỏi hắn có ý gì khi nói vậy.

Như vậy, chỉ còn là vấn đề thời gian, thời gian rất ngắn, trước khi hắn kết thúc cuộc sống có sinh có tử của tôi. Bây giờ, tôi dồn tất cả năng lượng để củng cố bản thân cho đến những giây phút cuối cùng. Tôi cẩn thận không nghĩ đến những người thân yêu với hy vọng sẽ ít nghĩ về họ trong trạng thái ghê tởm sắp tới của mình. Tôi sẽ giấu tập giấy ghi chép này vào cuốn sách đẹp nhất tôi tìm thấy ở đây - một trong số ít tác phẩm ở thư viện này không gây ra cho tôi một cảm giác vừa thích thú vừa kinh tởm - và tôi cũng sẽ giấu cuốn sách ấy, để nó không còn thuộc về cái kho lưu trữ này nữa. Ước gì tôi có thể để thân xác mình trở thành tro bụi cùng với nó. Tôi cảm nhận thấy hoàng hôn sắp buông xuống, đâu đó bên ngoài cái thế giới mà ánh sáng và bóng tối vẫn còn hiện hữu kia, và tôi sẽ sử dụng tất cả tàn lực để vẫn là chính mình cho đến khoảnh khắc cuối cùng. Tôi đang khơi gợi mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống, trong lịch sử, trong quá khứ của riêng tôi. Tôi khơi gợi chúng với tất cả niềm đam mê mà tôi đã sống cùng.

Chú thích:

1. Machiavelli Niccoio (1469 - 1527): sử gia, triết gia, chính trị gia người Ý; ông viết nhiều tác phẩm về nghệ thuật lãnh đạo và cai trị, trong đó cuốn Quân Vương - The Prince (1532) có ảnh hưởng rất lớn đối với thời đại đó cũng như các thời đại sau này.

2. Thomas Aquinas (1225 - 1274): triết gia, nhà thần học và cũng là tu sĩ người Ý, được phong thánh thuộc dòng Dominique.

3. Hannibal (247 - 183 TCN): một danh tướng người Phoenicia, thuộc vương quốc cổ đại Carthage, nay là khu vực phụ cận của Tunis, thủ đô nước Tunisia, Bắc Phi.

4. Đời chiến đấu của tôi, tác phẩm dạnh hồi ký của Hitler.

5. Nguyên văn: Reign of Terror, ám chỉ cuộc Cách mạng Pháp (09/1793 - 07/1794, trong đó hàng ngàn người dân vô tội đã bị xử tử với tội danh kẻ thù của Cách mạng.)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 74


“Helen đưa hai ngón tay sờ lên trán cha mình, tựa như đang làm dấu thánh ban phước lành. Mẹ đang nén những tiếng nức nở. ‘Làm sao chúng ta có thể đưa ông ấy ra khỏi nơi này? Em muốn chôn cất ông ấy.’

“ ‘Không đủ thời gian đâu em,’ cha chua xót đáp lại. ‘Ông ấy muốn chúng ta sống sót thoát khỏi nơi đây hơn, anh chắc chắn thế.’

“Cha cởi áo khoác, nhẹ nhàng đắp lên người thầy Rossi, che mặt thầy lại. Chúng ta không thể đậy lại nắp quan tài vì quá nặng. Helen rút ra và cẩn thận kiểm tra khẩu súng nhỏ của mình dù vẫn đang rất xúc động. ‘Thư viện,’ mẹ thì thầm. ‘Chúng ta phải tìm ra cái thư viện đó ngay. Mà vừa xong anh có nghe thấy gì không?’

“Cha gật đầu. ‘Anh nghĩ là có, nhưng không thể xác định tiếng động đó xuất phát từ đâu.’ Chúng ta đứng yên, lắng tai nghe. Chỉ có sự yên lặng nặng nề bao trùm chung quanh. Helen một tay cầm súng, một tay lần mò dọc theo các vách tường. Ánh nến mờ đến phát bực. Chúng ta quanh đi quẩn lại, hết ấn rồi gõ lên khắp mọi nơi. Không có hốc tường nào, không có tảng đá nào nhô ra khác thường, không một kẻ hở khả dĩ nào, không có gì trông có vẻ đáng ngờ.

“Ngoài kia chắc đã sắp tối rồi,’ Helen thì thào.

“ ‘Anh biết,’ cha đáp lại. ‘Có lẽ chúng ta chỉ nên tìm kiếm mười phút nữa và sau đó nên rời nơi này, anh chắc là phải vậy.’ Chúng ta lại rà quanh căn phòng nhỏ đó một lần nữa, kiểm tra tất cả mọi ngóc ngách. Không gian lạnh ngắt, và đặc biệt là khi lúc này cha không mặc áo khoác, nhưng mồ hôi vẫn ròng ròng dọc lưng cha. ‘Có thể thư viện nằm dưới nền, hoặc trong một khu khác của nhà thờ.’

“ ‘Chắc hẳn nó đã bị che giấu hoàn toàn dưới mặt đất,’ Helen thì thào. ‘Nếu không, thì phải có ai đó biết đến nó từ lâu rồi chứ. Vả lại, nếu cha em ở trong hầm mộ này…’ Mẹ không nói trọn vẹn nhưng đó cũng là câu hỏi đã hành hạ cha ngay từ những giây phút choáng váng đầu tiên khi nhìn thấy Rossi ở đó: Nếu vậy thì Dracula ở đâu?

“ ‘Ở đây chẳng lẽ không có gì khác thường hay sao?’ Helen nhìn lên và cố vươn đầu ngón tay chạm vào trần nhà hình mái vòm thấp lè tè.

“ ‘Anh chẳng thấy gì cả.’ Bỗng dưng một ý tưởng bất chợt thoáng qua khiến cha chộp lấy một cây nến trên giá và cúi thấp xuống. Helen cũng lập tức cúi xuống theo.

“ ‘Đúng rồi,’ Helen thở phào. Cha sờ vào hình con rồng khắc ở mặt đứng bậc cầu thang dưới cùng. Cha đã miết ngón tay lên đó trong lần đầu xuống viếng thăm khu hầm mộ này; bây giờ thì đè mạnh hơn, dùng cả sức nặng cơ thể. Con rồng vẫn trơ trơ dính chặt vào vách. Nhưng đôi bàn tay nhạy cảm của Helen lần mò các phiến đá chung quanh, và bất ngờ phát hiện một phiến đá lỏng lẻo; từ vị trí nó được gắn vào, kế bên cái hình khắc con rồng, nó rời ra trong tay mẹ một cách dễ dàng, như một chiếc răng rụng. Ở đó giờ là một cái lỗ nhỏ tối đen. Cha thò tay vào, quơ tay, trống rỗng. Helen cũng thò tay vào, tuy nhiên lại mò mẫm về phía sau hình con rồng. ‘Anh Paul!’ mẹ khẽ thốt lên.

“Cha lần theo đến nắm tay mẹ trong bóng tối. Chắc chắn ở đấy là một tay nắm, một tay nắm lớn bằng sắt, lạnh buốt, và khi cha đẩy vào tay nắm đó, phiến đá có hình con rồng bật lên dễ dàng ra khỏi khoảng không gian phía dưới bậc cầu thang cuối cùng, không ảnh hưởng gì đến bất kỳ phiến đá nào chung quanh hoặc bậc cấp phía trên. Đến lúc đó chúng ta mới thấy đó là một công trình được che giấu tinh vi, có tay nắm sắt hình dạng một con thú có sừng được khoan gắn chặt vào phiến đá có hình con rồng, có lẽ để người ta có thể kéo đóng nó lại sau khi bước xuống các bậc cầu thang đá nhỏ hẹp ở phía trước. Helen lấy cây nến thứ hai, cha chụp vội hộp diêm quẹt. Chúng ta bò vào - cha chợt nhớ đến gương mặt bầm tím và trầy xước, bộ quần áo rách te tua của thầy Rossi và tự hỏi phải chăng thầy đã hơn một lần bị kéo lê qua cái lối đi này - nhưng chẳng bao lâu Helen và cha đã có thể đứng thẳng dậy trên các bậc cầu thang.

“Làn không khí ập lên người chúng ta cực kỳ lạnh và nặng nề âm khí, trong lúc bước xuống cha phải cố để không run lên cầm cập và siết chặt Helen, mẹ cũng đang run lẩy bẩy. Ở bậc cuối cùng của lối mười lăm bậc cấp đó là một lối đi, tối kinh khủng, dù ánh nến của chúng ta cho thấy có đế đèn gắn cao trên các bức tường, tuồng như nơi đây từng một thời rực rỡ ánh đèn. Ở cuối hành lang đó - lại là mười lăm bậc thang hướng về phía trước, cha thận trọng đếm từng bậc - tiếp theo là một cánh cửa gỗ nặng nề và rõ ràng rất cổ xưa, tận cùng phía dưới đã có chỗ vỡ vụn và một lần nữa lại là cái tay nắm kỳ dị kia, hình dạng một sinh vật có sừng dài, chế tác bằng sắt. Cha không nhìn thấy nhưng cảm nhận Helen đang nâng súng lên. Cánh cửa bị cài chắc, khi quan sát kỹ cha phát hiện nó được cài chốt một bên, phía chúng ta đang đứng. Cha ấn cả người xuống cái chốt cửa nặng nề và sau đó từ từ mở cánh cửa ra, cùng với nỗi sợ hãi cũng đang từ từ ngấm dần đến tận xương cốt.

“Phía bên trong, ánh nến của chúng ta, vốn đã yếu ớt, như tan biến trong căn phòng rộng lớn. Gần cửa có kê vài cái bàn, bàn kiểu cổ xưa vững chắc, và những kệ sách trống rỗng. Không khí trong phòng khô ráo một cách đáng ngạc nhiên so với cái lạnh buốt ngoài hành lang, tựa như nó có một hệ thống thông gió bí mật nào đó hoặc có đường ngầm bảo vệ ăn thông đâu đó. Chúng ta đứng sát vào nhau, dỏng tai lắng nghe, trong phòng vẫn tịnh không tiếng động. Cha ước gì có thể nhìn xuyên qua cái bóng tối dày đặc kia. Vật tiếp theo mà ánh nến chúng ta chiếu đến là một giá những cây nến đã thắp một nửa, cha thắp tất cả chúng lên. Bây giờ, ánh sáng đã chiếu đến những cái tủ cao lớn, cha thận trọng nhìn vào phía trong một tủ. Trống trơn. ‘Thư viện đây sao?’ cha thốt lên. ‘Chẳng có gì ở đây cả.’

“Chúng ta lại đứng yên, nghe ngóng, cây súng của Helen lấp loáng trong ánh sáng đang dần mạnh lên. Cha nghĩ lẽ ra mình nên đề nghị là người cầm súng, để sử dụng nếu cần thiết, nhưng cha chưa bao giờ đụng đến súng, còn mẹ, cha biết quá rõ, là một tay thiện xạ. ‘Xem kìa, anh Paul.’ Mẹ trỏ cánh tay không cầm súng, cha nhận ra cái thứ đã khiến mẹ nhìn đăm đăm.

“ ‘Helen,’ cha gọi, nhưng mẹ đã tiến lên phía trước. Một thoáng sau, ánh đèn của cha chiếu đến một cái bàn, một bàn đá lớn. Một lát sau cha nhìn lại, không phải là cái bàn mà là một bệ thờ - không, không phải bệ thờ mà là một cỗ quan tài bằng đá. Còn một cái khác ở kế bên - phải chăng đây là phần mở rộng của hầm mộ trong tu viện, nơi các cha tu viện trưởng có thể yên nghỉ, tránh được những ngọn đuốc của người Byzantine và máy bắn đá của người Thổ Nhĩ Kỳ? Rồi chúng ta cũng nhận ra, phía bên kia chúng, cỗ quan tài lớn nhất. Dọc theo cạnh hông là một chữ, khắc vào đá: DRACULA. Helen nâng súng lên, cha nắm chặt gậy. Helen bước tới một bước, cha bước sát theo mẹ.

“Ngay lúc đó, chúng ta nghe có tiếng chấn động phía sau, nghe khá xa, tiếng bước chân rầm rập, tiếng thân người bò trườn, tất cả làm át đi âm thanh yếu ớt trong bóng tối bên kia hầm mộ, tiếng chảy của đất khô. Chúng ta cùng lúc nhảy tới và nhìn vào - cỗ quan tài đá lớn nhất không có nắp và trống rỗng, hai cỗ quan tài kia cũng vậy. Và cái âm thanh kia: ở một nơi nào đó trong bóng tối, chắc hẳn một sinh vật nhỏ bé nào đó đang theo các rễ cây lủi lên trên.

“Helen bắn vào trong khoảng tối, tiếp theo là tiếng đất đá lở xuống; cha cầm nến lao về phía trước. Tận cùng thư viện là một ngõ cụt, một vài cụm rễ cây rủ xuống từ trần nhà hình mái vòm. Trong một hốc bức tường phía sau, có thể đó là nơi người ta từng đặt một pho tượng thánh nào đó, cha nhìn thấy một vũng nhầy màu đen trên nền đá trần trụi - máu chăng? Hoặc nước ẩm rịn ra từ lòng đất?

“Cánh cửa phía sau bật mở tung, chúng ta quay ngoắt lại, tay cha vẫn nắm chặt cánh tay không cầm súng của mẹ. Hiện ra trong ánh sáng ngọn nến của chúng ta là một ngọn đèn lồng sáng quắc, ánh đèn pin, những hình dáng vội vã, một tiếng thét. Đó là Ranov, cùng với gã là một nhân vật cao to mà hình bóng của hắn chảy dài che khuất chúng ta trong bóng tối: Géza József, ngay sau gót Géza là khuôn mặt thất thần vì khiếp sợ của Sư huynh Ivan. Tiếp theo Ivan là một tay quan chức nhỏ con có mái tóc quăn, đội mũ và mặc bộ vest màu sậm, hàng râu mép đen rậm. Còn một người nữa, mà chắc hẳn dáng đi khập khiễng và chậm chạp của ông ta đã cản trở bước chân của đám người này rất nhiều, giờ cha đã nhận ra: Stoichev. Gương mặt ông là một pha trộn kỳ lạ giữa sợ hãi, hối tiếc, hiếu kỳ, và một vết bầm tím trên má. Đôi mắt già nua mệt mỏi của ông bắt gặp đôi mắt chúng ta, một khoảnh khắc u sầu tưởng chừng như dài lê thê, và rồi Stoichev mấp máy đôi môi, tựa như đang thầm cảm ơn Thượng đế vì tìm được chúng ta còn sống.

“Trong chưa tới một giây Géza và Ranov đã ở ngay bên chúng ta. Ranov chĩa mũi súng vào cha còn Géza thì nhắm vào mẹ, trong khi Ivan đứng há hốc miệng, Stoichev thì chờ đợi, yên lặng và lo lắng phía sau Ranov và Géza. Tay quan chức mặc bộ vest màu sậm đứng chìm trong vũng tối. ‘Bỏ súng xuống,’ Ranov gằn giọng với Helen, mẹ ngoan ngoãn thả cây súng xuống nền. Cha quàng tay ôm lấy mẹ, cố giữ vẻ bình tĩnh. Trong ánh nến ảm đạm, gương mặt bọn họ trông càng hung hiểm hơn, chỉ trừ Stoichev, cha có cảm tưởng nếu không quá khiếp đảm hẳn ông ấy đã mỉm miệng cười với chúng ta.

“ ‘Anh đang làm cái quái gì ở đây vậy?’ Helen quát lên với Géza, cha không kịp cản mẹ lại.

“ ‘Thế em đang làm cái quái gì ở đây vậy cưng?’ Câu trả lời của hắn chỉ có vậy. Trông hắn như cao lớn hơn bao giờ hết trong bộ quần áo màu nhạt và đôi giày ống nhà binh nặng nề. Ở hội nghị, cha đã không kịp nhận ra là mình thực sự ghét cay ghét đắng con người này.

“ ‘Hắn ở đâu?’ Ranov gầm lên, lia mắt nhìn từ cha sang Helen.

“ ‘Ông ấy chết rồi,’ cha trả lời. ‘Các người đã đi qua khu hầm mộ. Hẳn các người cũng đã thấy ông ấy.’

“Ranov cau mày. ‘Anh đang nói đến ai vậy?’

“Một điều gì đó, một bản năng nào đó mà nhờ Helen cha mới có được, có lẽ là vậy, đã ngăn không cho cha nói thêm gì khác.

“ ‘Anh muốn nói đến ai?’ Helen hỏi, giọng lạnh tanh.

“Géza chĩa mũi súng chính xác hơn vào Helen. ‘Cô biết quá rõ tôi muốn nói gì đấy, Elena Rossi ạ. Dracula ở đâu?’

“Gì chứ câu này thì dễ trả lời hơn, cha để Helen lên tiếng trước. ‘Sờ sờ ra đấy, hắn đâu có ở đây.’ Mẹ trả lời bằng giọng châm chọc nhất. ‘Các người có thể đến mà xem tận mắt.’ Ngay lúc đó, tay quan chức nhỏ thó bước tới một bước, có vẻ như muốn nói gì đó.

“ ‘Anh ở lại với bọn chúng,’ Ranov nói với Géza rồi thận trọng len lỏi giữa những cái bàn, tiến về phía trước, không quên liếc nhìn mọi thứ chung quanh; cha nhận thấy rõ ràng hắn chưa bao giờ đến đây. Tên quan chức mặc bộ đồ đen bước theo Ranov, không nói một lời. Khi cả hai đến bên cỗ quan tài đá, Ranov đưa cao cây đèn lồng, nâng súng lên, cẩn thận nhìn vào bên trong. ‘Chẳng có gì cả,’ hắn nói với ra sau với Géza rồi quay sang hai cỗ quan tài nhỏ hơn. ‘Cái gì thế này? Đến đây nào, giúp tôi một tay.’ Tay quan chức và thầy tu Ivan ngoan ngoãn bước tới. Stoichev theo sau, chậm chạp hơn, cha nghĩ mình đã nhận ra một ánh mắt lóe lên trên mặt Stoichev khi ông ta đưa mắt nhìn chung quanh, nhìn vào những tủ, bàn trống trơn. Cha có thể đoán ông ấy nghĩ gì về nơi chốn này.

“Ranov thò đầu vào cỗ quan tài. ‘Trống trơn,’ hắn thốt lên nặng nề. ‘Hắn không có ở đây. Lục soát căn phòng đi.’ Géza sải bước giữa những cái bàn, rọi đèn vào từng vách tường, từng chiếc tủ đang mở toang hoác. ‘Anh có nhìn hoặc nghe thấy tiếng hắn không?’

“ ‘Không,’ cha trả lời, ít nhiều thành thật. Cha thầm nhủ, chỉ cần người ta đừng động đến Helen, đừng bắt giữ mẹ thì chuyến đi này kể như là một sự thành công. Cha sẽ không đòi hỏi cuộc đời này bất kỳ điều gì khác. Cha cũng thoáng nghĩ, với chút lòng biết ơn thầy Rossi, người đã thực sự mở ra toàn bộ tình huống này.

“Géza nói gì đó, chắc hẳn là một lời chửi rủa trong tiếng Hungary, bởi Helen gần như mỉm cười dù mũi súng vẫn đang chĩa ngay tim mình. ‘Đúng là hoài công vô ích,’ một lúc sau đó, hắn thốt lên. ‘Cái hòm trong khu hầm mộ trống rỗng, cái này cũng vậy. Bởi chúng ta đã phát hiện ra, hắn sẽ không bao giờ trở lại nơi này nữa.’ Phải mất một lúc cha mới hiểu được câu nói đó. Cái hòm bên khu hầm mộ trống rỗng ư? Vậy thi hài của thầy Rossi mà chúng ta để lại trên đó biến đi đâu?

“Ranov quay sang Stoichev. ‘Hãy cho chúng tôi biết thứ này là gì.’ Cuối cùng thì bọn họ cũng hạ súng xuống, cha kéo mẹ sát vào mình, thấy vậy, Géza liền ném vào cha một ánh mắt cáu kỉnh, dù không nói gì.

“Stoichev giương cao chiếc đèn lồng của mình, tựa như chờ đợi giây phút này đã lâu. Ông bước đến và gõ gõ lên cái bàn gần nhất. ‘Tôi nghĩ, đây là gỗ sồi,’ Stoichev thong thả nói, ‘còn kiểu dáng thì có thể là thời Trung cổ.’ Ông nhìn xuống một chỗ khớp nối dưới chân bàn, gõ gõ vào một cái tủ. ‘Nhưng tôi không biết gì nhiều về mấy thứ đồ mộc này.’ Chúng ta chỉ biết yên lặng và chờ đợi.

“Géza đá vào chân một trong những cái bàn cổ đó. ‘Tôi sẽ phải nói với ngài Bộ trưởng Văn hóa cái gì đây? Là Wallachia thuộc về chúng tôi ư? Hắn là tù nhân của Hungary và vì vậy xứ sở hắn là lãnh thổ thuộc về chúng tôi chứ.’

“ ‘Tại sao chúng ta lại cãi vã về chuyện đó khi chưa tìm thấy hắn nhỉ?’ Ranov gầm lên. Cha chợt nhận ra ngôn ngữ chung của hắn và Géza là tiếng Anh, và cả hai đều thù ghét nhau. Ngay lúc đó, cha nhận ra Ranov gợi cha nhớ đến ai. Với bộ mặt nặng trình trịch và hàm râu mép đen kịt, hắn trông giống những tấm hình Stalin lúc còn trẻ. Những người như Ranov và Géza gây ra những tác hại cỏn con chỉ bởi vì quyền lực bọn chúng còn nhỏ nhoi quá mà thôi.

“ ‘Nói với bà bác của cô là phải cẩn thận hơn với những cuộc điện thoại đấy.’ Géza ném cho Helen một cái nhìn hiểm ác, cha cảm thấy như mẹ dựa sát vào cha hơn. ‘Nào, giờ thì để thằng cha thầy tu khốn kiếp này ở lại đây canh chừng chỗ này,’ hắn nói tiếp với Ranov, và Ranov lại tuôn ra một mệnh lệnh làm cho Sư huynh Ivan khốn khổ run lẩy bẩy. Ngay lúc đó, ánh sáng từ ngọn đèn lồng trong tay Ranov bỗng chiếu qua một hướng khác. Hắn đang vung vẩy ngọn đèn, xem xét mấy cái bàn. Lúc này, ánh sáng ngọn đèn đó chiếu xiên xiên lên mặt tay quan chức nhỏ thó mặc đồ đen và đội mũ sùm sụp kia, hắn đang đứng yên lặng bên cạnh cỗ quan tài đá trống rỗng của Dracula. Có lẽ cha sẽ chẳng để ý gì đến gương mặt hắn nếu nó không biểu lộ vẻ kỳ quái kia - một ánh mắt thương tiếc thầm kín chợt lóe lên dưới ánh sáng ngọn đèn lồng. Cha có thể thấy rõ ràng gương mặt gầy giơ xương, hàng râu mép kỳ quặc, và vẻ cay đắng quen thuộc trong đôi mắt. ‘Helen!’ cha thét lên. ‘Nhìn kìa!’ Mẹ cũng nhìn trừng trừng.

“ ‘Cái gì?’ Géza quay ngoắt qua Helen.

“ ‘Gã kia...’ Giọng Helen kinh hoàng. ‘Người đàn ông kia... hắn là...’

“ ‘Hắn là một con ma cà rồng,’ cha tiếp lời, thẳng thừng. ‘Hắn theo dõi chúng tôi từ trường đại học tại ở Mỹ.’ Tên đầu sai kia phóng người chạy trốn khi cha vừa mới bắt đầu lên tiếng. Hắn phóng thẳng về hướng chúng ta để thoát ra ngoài, Géza cố chụp khi gã buộc phải lao ngay vào chỗ hắn đứng, rồi hắn vụt qua trước Ranov. Ranov nhanh chân hơn; hắn chụp được gã thủ thư, cả hai va mạnh vào nhau, Ranov kêu lên một tiếng rồi ngã vật về phía sau, gã thủ thư cắm đầu chạy tiếp. Ranov quay người, nã súng vào cái hình bóng đang chạy trốn, lúc đó đã ở khá xa. Bóng người đó không hề vấp ngã hay loạng choạng - như thể Ranov đã bắn gió. Rồi gã thủ thư như bỗng dưng biến mất, đột ngột đến độ cha không chắc hoặc gã đã ra đến hành lang hay tan biến ngay trước mắt chúng ta. Ranov phóng theo, qua khỏi lối cửa, nhưng hầu như trở lại ngay tức khắc. Tất cả chúng ta nhìn Ranov chăm chăm, mặt gã trắng bệch, bụm tay lên chỗ chiếc áo khoác bị rách, ở đó máu đang chảy nhỏ giọt giữa các ngón tay. Mãi một lúc sau, Ranov mới thốt lên, ‘Chuyện quái quỷ này là thế nào?’ bằng giọng run run.

“Géza lắc đầu. ‘Lạy Chúa,’ hắn thốt lên. ‘Hắn cắn anh rồi.’ Hắn lùi cách xa Ranov thêm một bước. ‘Vậy mà tôi đã nhiều lần ở một mình với thằng cha nhỏ con đó. Hắn nói hắn có thể giúp tôi tìm ra bọn Mỹ, nhưng hắn chưa bao giờ nói hắn là ai...’

“ ‘Lẽ dĩ nhiên là hắn chẳng bao giờ tỉ tê với anh đâu,’ Helen nói bằng cái giọng khinh khỉnh, mặc dù cha đã cố ngăn không cho mẹ lên tiếng. ‘Gã muốn tìm ông chủ của gã, muốn theo dõi chúng tôi để tìm đến ông chủ kia, chứ đâu có muốn giết anh. Anh có ích cho gã kia mà. Gã đã dâng nộp cho anh những ghi chép của chúng tôi rồi chứ?’

“ ‘Câm miệng.’ Géza có vẻ như sẵn sàng tặng cho Helen một trận, nhưng cha nhận ra trong giọng nói của hắn nỗi kinh sợ và khiếp đảm, cha yên lặng kéo mẹ lùi ra xa.

“ ‘Đi nào.’ Ranov lại dùng khẩu súng xua xua chúng ta, tay kia vẫn đặt trên vết thương ở vai. ‘Các người chẳng còn giúp ích được gì nữa. Tôi muốn các người trở về Sofia ngay, càng sớm càng tốt, bằng máy bay. Các người may mắn đấy, chúng tôi không được phép xóa sổ hai người - quá phiền phức.’ Cha nghĩ chắc hẳn gã sắp đá chúng ta như Géza đã đá vào cái chân bàn, nhưng thay vì vậy, gã quay người thô bạo lùa chúng ta ra khỏi thư viện. Gã để Stoichev đi trước; cha đau xót thầm nghĩ tới những gì ông lão hẳn đã phải trải qua trong quá trình bị bắt buộc tham gia cuộc săn đuổi này. Rõ ràng, Stoichev không muốn chúng ta bị theo dõi; cha tin như vậy ngay từ lúc đầu, lúc thoáng thấy nét khổ đau trên mặt ông. Liệu ông đã về đến Sofia chưa, trước khi bị buộc phải quay trở lại và theo dõi chúng ta? Cha hy vọng danh tiếng của Stoichev trên thế giới sẽ giúp ông không bị đối xử tồi tệ hơn, như đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng Ranov, dù đã bị nhiễm thì chắc vẫn sẽ quay trở lại với nhiệm vụ cảnh sát mật của gã. Cha băn khoăn tự hỏi liệu Géza có cố làm gì về việc này không, nhưng cha không dám hỏi vì khuôn mặt gã Hungary trông quá gớm guốc.

“Từ lối cửa, cha ngoái nhìn một lần nữa cỗ quan tài đá của Dracula, nó đã nằm ở đó gần năm trăm năm. Hiện giờ, kẻ đã từng nằm bên trong nó giờ đang ở đâu đó, hoặc đang trên đường đến bất cứ đâu. Tại bậc cầu thang trên cùng, lần lượt từng người chúng ta lại trườn người qua lỗ hổng đó - cha thầm khấn cầu đừng có khẩu súng nào trong các khẩu súng đó phải vang lên - và rồi cha nhận ra ở đó một cái gì đó rất kỳ lạ. Hòm đựng di hài của Thánh Petko để mở trên bệ. Chắc hẳn bọn họ có một vài dụng cụ nào đó để mở trong khi chúng ta không mở được. Nắp hòm cẩm thạch bên dưới đã được đặt lại chỗ cũ và phủ lại bằng tấm vải thêu của nó, chẳng có gì xáo trộn. Helen ném cho cha một ánh mắt trống rỗng. Liếc nhìn vào hòm khi đi ngang qua, cha chỉ nhìn thấy một vài mẩu xương, một hộp sọ bóng láng - tất cả những gì còn lại của một vị thánh tử vì đạo của địa phương này.

“Bên ngoài nhà thờ, trong bóng đêm đậm đặc hiện ra lố nhố vừa người vừa xe - có vẻ như Géza đã đến đây với một đoàn tùy tùng, hai trong số bọn chúng đang canh gác các cửa nhà thờ. Cha nghĩ, chắc chắn Dracula không thoát ra bằng lối đó. Đồi núi sừng sững vây quanh, đen hơn cả bầu trời tối mịt. Một số dân làng nghe phong thanh về người lạ và đã kéo đến, trong tay là những ngọn đuốc, họ dạt lui khi Ranov đến, nhìn chăm chăm chiếc áo khoác rách và đẫm máu của gã, mặt căng ra dưới ánh lửa lập lòe. Stoichev khoác tay, ghé sát mặt vào tai cha. ‘Chúng ta đã tiếp cận gần nó rồi,’ ông thì thào.

“ ‘Cái gì?’ Cha cúi xuống để lắng nghe ông ấy rõ hơn.

“ ‘Ông thầy tu và tôi xuống khu vực hầm mộ trước tiên, trong khi các gã kia - mấy tên côn đồ đó lùng sục trên nhà thờ và khu rừng để tìm anh. Chúng tôi nhìn thấy người đàn ông đó trong mộ - không phải Dracula - nên tôi biết anh đã ở đấy. Vì vậy chúng tôi đã đậy nắp hòm lại và khi bọn chúng xuống, chúng chỉ mở cái hòm thánh tích. Chúng giận dữ đến độ tôi tưởng chúng đã quẳng nắm xương tàn của vị thánh khốn khổ kia ra ngoài.’ Sư huynh Ivan trông có vẻ khá vững vàng, nhưng cái vẻ yếu đuối của giáo sư Stoichev này mới thực sự tiềm ẩn một sức mạnh hiếm có, cha nghĩ. Stoichev nhìn cha, ánh mắt sắc sảo. ‘Nhưng ai ở trong hầm mộ bên dưới đó, nếu nó không phải là...?’

“ ‘Đó là giáo sư Rossi,’ cha thì thầm. Ranov đã mở cửa xe, ra lệnh cho chúng ta vào.

“Stoichev khẽ liếc nhìn cha, một cái nhìn đầy ý nghĩa. ‘Tôi rất tiếc.’ ”

“Chúng ta đã để lại người bạn thân yêu nhất của mình ở lại Bungari như vậy, cầu mong ông được mãi mãi yên nghỉ ở nơi chốn đó.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 75


“Sau chuyến phiêu lưu trong hầm mộ, phòng khách phía trước của gia đình Bora trông giống như một thiên đường nơi hạ giới. Quả là cực kỳ thoải mái khi trở lại nơi này, với cốc trà nóng trong tay - tuần lễ đó thời tiết đã chuyển lạnh, một đợt lạnh hiếm hoi vì đã vào tháng Sáu - Turgut đang ngồi trên chiếc trường kỷ bọc nệm mỉm cười với chúng ta. Helen cởi giày để ở cửa căn hộ và mang vào đôi dép lê màu đỏ có trang trí những tua những núm mà bà Bora mang đến. Selim Aksoy cũng có mặt, ngồi im lìm trong góc phòng, Turgut khăng khăng muốn chúng ta giải thích tường tận mọi chuyện cho hai vợ chồng ông.

“ ‘Các bạn chắc chắn là ngôi mộ trống trơn chứ?’ Turgut đã hỏi câu đó một lần rồi nhưng có vẻ như không thể không hỏi lại một lần nữa.

“ ‘Hoàn toàn chắc chắn.’ Cha liếc nhìn Helen. ‘Điều chúng tôi không thể khẳng định là liệu tiếng động mà chúng tôi nghe được có phải là âm thanh do Dracula gây ra khi thoát đi bằng một cách nào đó, khi chúng tôi vào. Lúc đó chắc hẳn trời bên ngoài đã tối, và hắn đã dễ dàng chuồn đi.’

“ ‘Và dĩ nhiên, có thể hắn đã thay hình đổi dạng, nếu truyền thuyết nói đúng.’ Turgut thở dài. ‘Hắn đúng là thứ ranh ma! Các bạn đã gần bắt được hắn, các bạn ạ, gần hơn so với bất kỳ Đội vệ binh Trăng Lưỡi Liềm nào trong năm thế kỷ qua. Tôi rất mừng vì các bạn không hề hấn gì nhưng cũng vô cùng tiếc là các bạn đã không thể tiêu diệt được hắn.’

“ ‘Ông nghĩ là hắn đi đâu chứ?’ Helen chồm tới, đôi mắt nhung huyền long lên.

“Turgut đưa tay xoa cái cằm bạnh của mình. ‘Chà, chuyện đó thì tôi không thể đoán nổi. Hắn có thể đi rất nhanh và rất xa, nhưng không biết hắn sẽ đi xa đến chừng nào. Đến một địa điểm cũ xưa khác, tôi chắc chắn như vậy, một địa điểm được che giấu và không bị quấy rầy nhiều thế kỷ qua. Chắc hẳn việc phải rời bỏ Sveti Georgi là một đòn đau đối với hắn, nhưng hẳn hắn sẽ hiểu nơi chốn đó từ nay sẽ được canh giữ và còn lâu mới trở lại đó được. Tôi sẵn sàng làm bất cứ gì để biết liệu hắn còn ở đâu đó trong Bungari hay đã cao bay xa chạy khỏi đất nước đó rồi. Biên giới và thể chế chính trị chả có ý nghĩa gì nhiều đối với hắn đâu, tôi chắc chắn như vậy.’ Đôi hàng lông mày cau lại đầy vẻ suy tư trên gương mặt nhân hậu của Turgut.

“ ‘Ông không nghĩ hắn sẽ theo dõi chúng tôi sao?’ Helen hỏi, vẻ thẳng thắn, nhưng có gì đó trong tư thế của đôi vai khiến cha nghĩ mẹ phải cố gắng lắm mới nêu ra được câu hỏi đơn giản đó.

“Turgut lắc đầu. ‘Tôi mong là không, nữ giáo sư ạ. Tôi cho là hiện nay hắn đang khá e ngại hai bạn, bởi trong khi không ai có thể tìm ra hắn thì các bạn lại có thể.’

“Helen im lặng, cha chẳng thích vẻ nghi ngờ trên mặt mẹ chút nào. Selim Aksoy và bà Bora nhìn mẹ với vẻ dịu dàng đặc biệt, cha nghĩ; có lẽ họ đang băn khoăn tự hỏi làm sao cha có thể cho phép mẹ đi vào những nơi chốn nguy hiểm như vậy, cho dù chúng ta đã xoay xở để trở về mà không sứt mẻ gì.

“Turgut quay sang cha. ‘Tôi cũng rất tiếc về ông bạn Rossi của anh. Tôi đã rất mong muốn được gặp ông ấy.’

“ ‘Tôi cũng nghĩ là ông và ông ấy sẽ hợp với nhau lắm,’ cha nói một cách thành thực, nắm lấy tay Helen. Đôi mắt mẹ lại rưng rưng khi nghe nhắc đến cái tên Rossi, Helen ngoảnh mặt đi, tựa như để che giấu nỗi niềm riêng tư của mình.

“ ‘Ước gì tôi có thể gặp giáo sư Rossi.’ Turgut thở dài, đặt tách trà xuống cái bàn bằng đồng trước mặt chúng ta.

“ ‘Như thế hẳn sẽ tuyệt lắm,’ cha thốt lên, mỉm cười tưởng tượng ra hình ảnh hai học giả đang đối chiếu những ghi chép với nhau. ‘Ông và giáo sư Stoichev có thể giảng giải cho nhau nghe về đế chế Ottoman và vùng Balkan thời Trung cổ. Có lẽ, một ngày nào đó các ông sẽ gặp nhau.’

“Turgut lắc đầu. ‘Tôi không nghĩ vậy,’ ông ta nói. ‘Những rào cản ngăn cách giữa chúng tôi quá cao - rất nhạy cảm - như những cách biệt giữa bất kỳ một sa hoàng và một quan tổng trấn Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo nào. Nhưng nếu anh lại có dịp chuyện trò hoặc viết thư cho ông ấy, nhớ cho tôi gửi lời hỏi thăm.’

“Đó quả là một lời hứa dễ thực hiện.

“Selim Aksoy muốn Turgut hỏi chúng ta một câu. Turgut lắng nghe anh ta, vẻ mặt nghiêm trọng. Ông dịch lại cho Helen và cha, ‘Chúng tôi băn khoăn không biết giữa lúc vô cùng nguy hiểm và lộn xộn đó, các bạn có thấy cuốn sách mà giáo sư Rossi mô tả không - cuốn sách viết về cuộc đời của Thánh George ấy? Liệu người Bungari đã mang cuốn sách đó về trường Đại học Sofia chưa?’

“Khi thực sự vui vẻ, tiếng cười của Helen có thể trở nên dễ thương đến đáng ngạc nhiên, và cha phải cố kìm lại để không ôm hôn mẹ say đắm trước mặt mọi người. Helen hầu như không cười từ lúc chúng ta để thầy Rossi lại trong hầm mộ kia. ‘Nó đang trong cặp của tôi,’ cha trả lời. ‘Lúc này là vậy.’

“Turgut nhìn trừng trừng, sửng sốt, phải mất một lát mới nhớ lại nhiệm vụ thông dịch của mình. ‘Làm sao các bạn mang được nó về nhà, ra khỏi chỗ đó?’

“Helen vẫn im lặng, chỉ mỉm cười, vì vậy cha phải giải thích. ‘Tôi chẳng hề nghĩ đến nó cho đến khi trở về khách sạn ở Sofia.’ Không, cha không thể kể với bọn họ toàn bộ sự thật, vì vậy cha đã bịa với họ một câu chuyện cho phải phép.

“Toàn bộ sự thật là khi cuối cùng chỉ còn lại mình cha và mẹ trong căn phòng của mẹ ở khách sạn, cha đã ôm mẹ vào lòng, hôn lên mái tóc đen tuyền, kéo mẹ tựa vào vai, ôm mẹ sát vào người như một phần cơ thể mình mặc cho lớp quần áo đầy bụi đường sau chuyến du hành - nửa phần thân thể thất lạc của Plato(1)_, cha thầm nghĩ - và rồi cha cảm nhận không chỉ nỗi khuây khỏa vì chúng ta đã sống sót để được trong vòng tay nhau ở đấy, vì vẻ đẹp của những chiếc xương dài của mẹ, vì hơi thở nồng ấm của mẹ trên cổ cha mà còn vì một cái gì đó sai lạc không thể giải thích được trong cơ thể mẹ, một cái gì đó cứng cộm lên cứng ngắc. Cha lui người lại để nhìn Helen, sợ hãi, và thấy nụ cười đầy vẻ giễu cợt. Mẹ đưa ngón tay lên môi. Đó chỉ là một dấu hiệu nhắc nhở, cả hai chúng ta đều biết căn phòng có thể đã bị đặt máy nghe trộm.

“Một lúc sau, mẹ cầm tay cha đặt trên hàng cúc chiếc áo sơ mi giờ đã dơ dáy và tả tơi vì cuộc thám hiểm vừa qua. Cha không kịp suy nghĩ, chỉ cởi cúc và kéo chiếc áo ra. Đồ lót của phụ nữ thời đó rất phức tạp với đủ loại dây nhợ, móc và các bộ phận kỳ dị - một thứ áo giáp mặc phía bên trong. Gói trong một chiếc khăn tay, sát với da thịt Helen và hãy còn ấm hơi người là một cuốn sách - không phải là cuốn khổ lớn đẹp đẽ như cha tưởng tượng khi thầy Rossi tiết lộ với chúng ta về sự hiện hữu của nó, mà là một cuốn nhỏ bằng cỡ bàn tay cha. Bìa sách làm bằng gỗ sơn và da, bên ngoài có các hoa văn tinh tế bằng vàng, nạm trên lớp vàng đó là ngọc lục bảo, hồng ngọc, ngọc bích, ngọc trai - một vòm trời nho nhỏ những loại đá quý, tất cả để tôn vinh một khuôn mặt vị thánh ở trung tâm. Nét mặt Byzantine thanh nhã của ông trông như mới được vẽ một vài ngày chứ không phải là đã hàng thế kỷ, và đôi mắt to, buồn bã, khoan dung dường như đang dõi theo ánh mắt cha. Đôi hàng lông mày nhướng lên thành hai vòng cung thanh mảnh trên đôi mắt, cánh mũi dài thẳng, miệng mím lại nghiêm nghị u sầu. Bức chân dung có một vẻ tròn trịa, đầy đủ và giống như thật mà cha chưa bao giờ nhìn thấy ở các bức tranh Byzantine - một gương mặt của tổ tiên người La Mã. Nếu chẳng phải vì cha đã yêu rồi, hẳn cha đã nói đó là một gương mặt đẹp nhất mà cha được nhìn thấy, đầy chất người nhưng cũng rất thần thánh, hoặc vừa thần thánh vừa rất con người. Chạy suốt trên cổ áo khoác là những con chữ tinh tế. ‘Chữ Hy Lạp,’ Helen lên tiếng. Giọng mẹ nghe chưa bằng một tiếng thì thầm, lửng lơ bên tai cha. ‘Thánh George.’

“Bên trong là những trang giấy da còn trong tình trạng hoàn hảo đến độ đáng ngạc nhiên, đầy những dòng chữ viết tay đẹp đẽ, cũng bằng tiếng Hy Lạp. Thỉnh thoảng là những trang hình minh họa cực kỳ tinh tế: Thánh George đâm mũi giáo vào bụng một con rồng đang quằn quại dưới sự chứng kiến của một đám đông các nhà quý tộc; Thánh George đang nhận một vương miện mạ vàng từ tay Chúa Jesus, người đang cúi xuống từ cái ngai vàng lộng lẫy của mình; Thánh George nằm chết trên giường, những thiên thần có đôi cánh màu đỏ đang nhỏ lệ khóc than. Mỗi tấm hình đầy những chi tiết tỉ mỉ, có thể làm người xem sững sờ. Helen gật đầu, cha ghé sát tai vào miệng mẹ, thậm chí nghe được hơi thở của mẹ. ‘Em không phải là chuyên gia lĩnh vực này,’ Helen thì thầm, ‘nhưng em nghĩ có thể cuốn sách này được làm riêng cho hoàng đế Constantinople - chính xác đây là cái người ta gìn giữ lại cho hậu thế. Đây là dấu triện của các vị hoàng đế đời sau.’ Chắc chắn là vậy, mặt trong bìa sách có hình vẽ một con chim đại bàng hai đầu, một đầu nhìn về quá khứ huy hoàng của thành phố thủ đô của đế quốc, một đầu hướng về tương lai vô hạn phía trước; đôi mắt đó đã không đủ sắc bén để thấy được việc đế quốc bị kẻ vô đạo mới nổi lật đổ sau này.

“ ‘Nghĩa là cuốn sách này có niên đại tối thiểu là nửa đầu thế kỷ mười lăm, trước cuộc chinh phục,’ cha thở ra.

“ ‘Ồ, em nghĩ nó phải xưa hơn chứ,’ Helen tiếp tục thì thào, nhẹ nhàng sờ lên dấu triện. ‘Cha em - cha em nói nó rất cổ. Và anh có thể thấy cái phù hiệu ở chỗ này, đây là dấu hiệu của hoàng đế Constantine VII. Ông ta trị vì trong’ - Helen lục tìm một hồ sơ bên trong - ‘khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ thứ mười. Ông ta lên ngôi trước khi Bachkovski manastir - tu viện Bachkovo được xây dựng. Hình chim đại bàng ắt hẳn được bổ sung thêm vào sau này.’

“Cha cũng thì thào, hầu như không thành tiếng. ‘Ý em muốn nói cuốn sách này đã có hơn một ngàn năm?’ Thận trọng cầm cuốn sách bằng cả hai tay, cha ngồi xuống mép giường, sát bên Helen. Không ai trong chúng ta gây ra một tiếng động nào, chúng ta hầu như chỉ trao đổi với nhau bằng mắt. ‘Tình trạng cuốn sách gần như là hoàn hảo. Và em định lén tuồn một kho báu như thế này ra khỏi Bungari sao, Helen?’ cha nói, kèm theo một cái liếc mắt, ‘em mất trí rồi. Còn cái thực tế là nó thuộc về nhân dân Bungari thì sao?’

“Helen hôn cha rồi lấy cuốn sách khỏi tay cha và lật qua trang bìa trước. ‘Nó là quà tặng của cha em,’ mẹ thì thầm. Mặt trong của trang bìa trước có một túi da có nắp, Helen thận trọng luồn tay vào bên trong. ‘Em đã chờ cho đến lúc chúng ta có thể cùng mở ra xem cái này.’ Mẹ lôi ra một tập giấy mỏng đầy những dòng chữ đánh máy sít rịt bên nhau. Rồi chúng ta cùng đọc, trong yên lặng, những dòng nhật ký đau đớn của thầy Rossi. Lúc đọc xong, không ai thốt lên được lời nào, dù cả hai bố mẹ đều giàn giụa nước mắt. Sau cùng, mẹ lại gói cuốn sách trong chiếc khăn tay và thận trọng giấu nó trở lại vào chỗ cũ trong người.

“Turgut mỉm cười khi cha kể xong phiên bản ít chi tiết hơn của câu chuyện này. ‘Nhưng có một điều khác quan trọng hơn mà tôi phải nói với ông,’ cha nói. Cha mô tả cái hình phạt ngục tù kinh khủng của thầy Rossi trong thư viện. Bọn họ lắng nghe với gương mặt bất động, vẻ nghiêm trọng, và khi cha kể đến chi tiết Dracula biết sự tồn tại tiếp nối của một đội vệ binh được Quốc vương Mehmed thành lập để truy sát hắn, Turgut hít một hơi thật sâu. ‘Tôi xin lỗi,’ cha kết thúc.

“Turgut dịch ngay cho Selim, anh chàng này cúi đầu và khẽ nói gì đó. Turgut gật đầu. ‘Anh đã nói lên điều tôi cảm thấy rõ nhất. Tin kinh khủng này chỉ có nghĩa là chúng tôi sẽ phải nỗ lực hơn trong việc truy đuổi Kẻ Xiên Người, cũng như không để hắn ảnh hưởng đến thành phố chúng tôi. Nếu còn sống thì hẳn Người Chinh phục cũng sẽ lãnh đạo chúng tôi đi chính con đường này. Đó là sự thật. Thế khi trở về quê hương, các bạn sẽ làm gì với cuốn sách?’

“ ‘Tôi quen một vài người có quan hệ với một hãng đấu giá,’ cha trả lời. ‘Lẽ tất nhiên là chúng tôi sẽ rất thận trọng, và sẽ chờ đợi một thời gian trước khi thực hiện bất kỳ việc gì. Tôi cho là, trước sau gì cũng sẽ có một viện bảo tàng mua nó.’

“ ‘Còn tiền thì sao?’ Turgut lắc đầu. ‘Các bạn sẽ làm gì với quá nhiều tiền như vậy?’

“ ‘Chúng tôi đang suy nghĩ,’ cha trả lời. ‘Một việc gì đó có ích. Chúng tôi cũng chưa xác định đó là việc gì.’

“Chuyến bay của chúng ta trở về New York khởi hành lúc năm giờ, Turgut bắt đầu nhìn đồng hồ ngay khi chúng ta kết thúc bữa ăn trưa thịnh soạn cuối cùng trên bộ trường kỷ. Đáng buồn là ông ta có một lớp dạy buổi chiều, nhưng Aksoy sẽ tiễn chúng ta ra phi trường, bằng xe taxi. Khi chúng ta đứng dậy để chuẩn bị đi, bà Bora mang ra và quấn vào cổ Helen một khăn quàng lụa thượng hạng màu kem xinh xắn, thêu chỉ bạc. Chiếc khăn che đi phần nào cái cổ áo bẩn và vẻ tuềnh toàng chiếc áo khoác của cô, khiến tất cả chúng ta - ít nhất là cha, nhưng không thể chỉ một mình cha được - đều há hốc miệng vì kinh ngạc. Gương mặt của Helen trên chiếc khăn quàng là hình ảnh của một nữ hoàng. ‘Dành cho ngày cưới của các bạn,’ bà Bora nói rồi nhón chân lên hôn từ biệt Helen.

“Turgut hôn lên tay Helen. ‘Của mẹ tôi đấy,’ ông chỉ nói ngắn gọn, Helen không thốt nên lời. Cha phải lên tiếng đáp lại, thay cho cả hai chúng ta, rồi bắt tay họ. Chúng ta sẽ thư cho họ, sẽ nhớ đến họ. Cuộc đời còn dài, rồi chúng ta sẽ lại gặp nhau.”

Chú thích:

1. Thần thoại Hy Lạp: Plato đánh mất một nửa con người mình và suốt dời lang thang đi tìm một nửa bị đánh mất đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 76


“Phần cuối câu chuyện của cha có lẽ là phần khó kể nhất, bởi bất chấp mọi điều, nó đã khởi đầu với vô vàn hạnh phúc. Chúng ta yên lặng trở về trường đại học và tiếp tục trở lại công việc của mình. Cha bị cảnh sát thẩm vấn một lần nữa, nhưng bọn họ có vẻ đã hài lòng với cái kết luận là chuyến đi nước ngoài của cha chỉ liên quan đến công việc nghiên cứu chứ không phải với việc biến mất của thầy Rossi. Rồi thì các tờ báo cũng nắm được tin ông ấy mất tích và đã thêu dệt thành một câu chuyện hình sự đầy bí ẩn, mà trường đại học cố lờ đi như không biết đến. Lẽ dĩ nhiên hiệu trưởng cũng tra vấn cha, và dĩ nhiên cha không tiết lộ điều gì và chỉ nói là cũng như bất kỳ người nào khác cha rất đau lòng về thầy Rossi. Mùa thu đó, Helen và cha tổ chức lễ cưới tại nhà thờ tại nơi ông bà nội con sinh sống - ngay cả giữa buổi lễ, cha vẫn không thể không cảm thấy hôn lễ thật đơn giản và tuềnh toàng khi thiếu đi thứ trầm hương thơm ngát.

“Lẽ dĩ nhiên, ông bà nội con khá ngạc nhiên về tất cả mọi chuyện, nhưng rốt cuộc cả hai không thể nào không yêu mến Helen. Mẹ không bao giờ để lộ bản tính ưa cáu gắt và châm chọc khi ở bên họ, trong thời gian chúng ta đến thăm ông bà nội ở Boston cha thường nghe Helen cười nói cùng với bà nội trong nhà bếp, chỉ cho bà nấu các món đặc sản của người Hungary, hoặc bàn luận với ông nội về nhân học trong phòng làm việc chật hẹp của ông. Về phần cha, mặc dù cảm thấy khổ tâm về cái chết của thầy Rossi và dường như cái chết đó cũng gây ra cho Helen nỗi bi thương không thể nguôi ngoai, nhưng dù sao với cha năm đầu tiên đó cũng ngập đầy niềm vui. Cha hoàn thành luận án tiến sĩ với một giáo sư hướng dẫn khác, người không để lại trong cha một ấn tượng rõ rệt nào trong suốt quá trình làm việc chung. Không phải vì cha vẫn còn quan tâm đến chủ đề các thương nhân Hà Lan; cha chỉ muốn hoàn tất việc học của mình để có thể ổn định cuộc sống ở một nơi nào đó. Helen đã công bố một bài báo dài về những điều mê tín dị đoan trong các làng mạc vùng Wallachia, bài báo rất được tán thưởng, mẹ đã bắt đầu luận án tiến sĩ có chủ đề về những tàn dư của phong tục tập quán vùng Transylvania ở Hungary.

“Chúng ta còn viết một thứ khác nữa, ngay khi về đến Mỹ: một lá thư gửi cho mẹ Helen, nhờ bác Éva chuyển. Helen không dám viết gì nhiều trong lá thư đó, chỉ vắn tắt vài dòng là thầy Rossi đã mất rồi, trước sau ông vẫn nhớ và thương yêu bà. Mẹ dán lá thư lại với vẻ mặt đầy tuyệt vọng. ‘Một ngày nào đó em sẽ kể với mẹ em mọi chuyện sau,’ Helen nói, giọng buồn bã, ‘khi em có thể thì thầm vào tai bà.’ Chúng ta không biết chắc lá thư đó có đến được địa chỉ hay không, bởi cả bác Éva lẫn mẹ Helen không ai hồi âm, và trong năm đó quân đội Liên Xô đã tràn vào Hungary.

“Cha hoàn toàn có ý định sẽ sống một cuộc sống hạnh phúc lâu dài, chẳng bao lâu sau đám cưới, cha đã nói với Helen là cha hy vọng chúng ta sẽ sớm có con. Thoạt tiên, mẹ lắc đầu, đưa những ngón tay mềm mại sờ lên vết sẹo trên cổ. Cha hiểu mẹ có ý gì. Nhưng triệu chứng nhiễm của mẹ rất nhẹ, cha phân tích rõ điều đó, mẹ vẫn khỏe mạnh và không bệnh tật gì. Càng lúc có vẻ như tình trạng bình phục hoàn toàn càng khiến mẹ yên tâm, cha nhìn ra ánh mắt thèm thuồng của mẹ như dán vào những chiếc xe đẩy trẻ con khi chúng ta đi trên phố.

“Helen nhận học vị tiến sĩ nhân học vào mùa xuân sau khi chúng ta cưới. Tốc độ viết luận án của Helen làm cha thấy xấu hổ; suốt năm đó cha thường thức giấc vào lúc năm giờ sáng và thấy mẹ đã rời giường từ lúc nào, đang ngồi ở bàn làm việc. Trông mẹ xanh xao và mỏi mệt, và hôm sau ngày mẹ bảo vệ luận án tiến sĩ, cha thức dậy và nhìn thấy máu dính trên chăn mền, Helen nằm kế bên, đã lả đi vì đau đớn: sẩy thai. Mẹ đã chờ đợi để làm cha ngạc nhiên với một tin tốt lành. Sau đó mẹ ốm nhiều tuần lễ, nhưng vẫn im lặng. Bản luận án tiến sĩ được đánh giá cao, nhưng mẹ chẳng hề nhắc đến điều đó.

“Mẹ thúc giục cha nhận công việc giảng dạy đầu tiên ở New York, và chúng ta đã chuyển đến đó. Chúng ta cư ngụ ở khu vực Brooklyn Heights, trong một căn sang trọng dễ chịu nhưng đã có phần xuống cấp. Chúng ta thường đi dạo dọc theo bến tàu nhìn ngắm những chiếc tàu kéo ngược xuôi trong bến cảng và những tàu chở khách khổng lồ cuối cùng nhổ neo trong cuộc đua hướng về châu Âu. Helen dạy tại một trường đại học cũng tuyệt vời như trường của cha, đám sinh viên ở đó rất ngưỡng mộ mẹ; tại New York chúng ta đã đạt được một sự cân bằng tuyệt diệu trong cuộc sống, kiếm sống được bằng công việc chúng ta yêu thích nhất.

“Thỉnh thoảng, chúng ta đem cuốn Cuộc đời của Thánh George ra chậm rãi nghiền ngẫm lại từng trang, và rồi cũng đến cái ngày mang nó đến một hãng đấu giá không công khai, và đến cuối buổi, tay người Anh tổ chức cuộc đấu giá gần như ngất xỉu. Sau một cuộc mua bán kín đáo, quyển sách đã trở về với tu viện Cloisters khu Thượng Manhattan, và một số tiền lớn được chuyển vào tài khoản mà chúng ta mở sẵn. Cũng giống như cha, Helen không thích cuộc sống cầu kỳ, nên ngoài việc cố gắng gửi vài món tiền nhỏ cho những người bà con ở Hungary, tạm thời chúng ta vẫn chưa đụng gì đến món tiền kia cả.

“Lần sẩy thai thứ hai của Helen nghiêm trọng và nguy hiểm hơn lần đầu, một ngày kia, cha trở về nhà và nhìn thấy những dấu chân vấy đầy máu trên mặt sàn gỗ phòng sảnh. Mẹ đã xoay xở tự gọi xe cứu thương và lúc cha đến được bệnh viện thì mẹ hầu như đã qua cơn nguy hiểm. Từ lúc đó, ký ức về những dấu chân vấy máu kia đã nhiều lần làm cha thức giấc giữa đêm khuya. Cha bắt đầu lo ngại chúng ta sẽ chẳng bao giờ có một đứa con khỏe mạnh và thầm băn khoăn tự hỏi thực tế đó sẽ ảnh hưởng như thế nào, đặc biệt với Helen. Nhưng rồi mẹ lại có thai, và những tháng dài đầy lo âu tiếp nối nhau trôi qua mà không có gì bất thường. Đôi mắt Helen trở nên hiền dịu chẳng khác gì bức tượng Đức Mẹ, bụng mẹ dần tròn lẳn dưới bộ váy áo len xanh, mẹ đi lại đã hơi khó khăn. Helen luôn miệng mỉm cười; đứa con này là đứa con chúng ta sẽ giữ được.

“Con sinh ra trong một bệnh viện nhìn xuống dòng sông Hudson. Khi nhìn thấy làn da ngăm đen và gương mặt của con sáng láng giống hệt mẹ, hoàn hảo như một đồng xu mới, mẹ đã giàn giụa nước mắt vì vui sướng lẫn đau đớn, cha bồng con lên cao trong lớp tã lót quấn chặt như để con có thể nhìn thoáng qua những chiếc tàu bên dưới dòng sông. Đó cũng là cách cha che giấu những giọt nước mắt của mình. Chúng ta đã đặt tên con theo tên bà ngoại của con.

“Mẹ con mê mẩn con; cha muốn con biết điều đó hơn bất cứ điều nào khác về cuộc sống của chúng ta. Mẹ con đã nghỉ dạy trong thời kỳ mang thai và có vẻ như sẵn sàng bỏ hàng giờ để chơi đùa với những ngón tay ngón chân con, mẹ con nói với một nụ cười tinh quái rằng chúng đặc sệt chất Transylvania, hoặc ngồi đu đưa con trong chiếc ghế bành cha mua cho mẹ. Con biết cười rất sớm và đã biết đưa mắt dõi theo cha mẹ khắp nơi. Đôi lúc cha bất thần rời khỏi phòng làm việc của mình để trở về nhà, để chắc chắn cả con và mẹ con - những cô gái có mái tóc huyền của cha - vẫn còn nằm ngủ yên lành trên chiếc trường kỷ kia.

“Một ngày kia, cha trở về nhà sớm, vào lúc bốn giờ, mang theo một vài hộp thức ăn Tàu và vài bông hoa cho con ngắm. Không có ai trong phòng khách, cha thấy Helen đang cúi xuống chiếc giường cũi, con thì đang ngủ. Gương mặt con khi ngủ trông vô cùng thanh thản, nhưng mẹ thì đầm đìa nước mắt và có vẻ như chưa nhận ra sự có mặt của cha ngay. Cha ôm mẹ vào lòng và cảm thấy, cùng một cơn ớn lạnh, rằng phần nào đó trong mẹ đáp lại vòng tay cha quá chậm chạp. Mẹ không thổ lộ với cha những gì đang khiến mẹ lo lắng, sau một vài lần thăm dò hỏi han không có kết quả cha cũng không dám hỏi nhiều hơn. Tối hôm đó, Helen đã tỏ ra vui vẻ với những bông cẩm chướng và đồ ăn cha mang về, nhưng tuần kế tiếp cha phát hiện mẹ lại giàn giụa nước mắt và lại câm lặng không chịu đáp lời, chỉ đọc lướt một trong các cuốn sách mà thầy Rossi đã ký tặng cha lúc chúng ta bắt đầu làm việc chung với nhau. Đó là một cuốn đồ sộ về nền văn minh Minoan, cuốn sách đang nằm trên lòng Helen, và mở đến một trang có tấm hình do chính thầy Rossi chụp một bệ thờ dùng trong các lễ hiến tế ở đảo Crete. ‘Con đâu em?’ cha hỏi.

“Helen chậm chạp ngẩng đầu lên, nhìn cha đăm đăm, tựa như vừa nhớ lại thực tại. ‘Nó đang ngủ.’

“Cha nhận thấy mình, một cách kỳ lạ, đang cưỡng lại cái thôi thúc muốn đi vào phòng ngủ để xem con thế nào. ‘Em yêu, có chuyện gì vậy?’ Cha cất cuốn sách đi và ôm lấy mẹ, nhưng mẹ cũng chỉ lắc đầu, không nói gì. Sau cùng, cha đi vào đúng lúc con vừa thức giấc, cùng với nụ cười dễ thương, lẫy người xuống, cố ngỏng lên nhìn cha.

“Chẳng bao lâu sau, Helen hầu như im lặng suốt mọi buổi sáng và khóc lúc đêm về mà chẳng vì nguyên do rõ rệt nào. Bởi Helen không chịu nói gì với cha nên cha đã cố ép mẹ đến gặp một bác sĩ và sau đó là một chuyên gia tâm lý. Vị bác sĩ cho biết là không tìm thấy bệnh tật gì ở Helen, phụ nữ đôi khi thường có tâm trạng chán nản trong vài tháng đầu thời kỳ sau sinh, Helen sẽ bình thường trở lại khi đã quen với vai trò làm mẹ. Đến tận khi một người bạn của chúng ta tình cờ gặp Helen ở Thư viện Công cộng New York, cha mới phát hiện ra mẹ đã không hề đến điều trị ở chỗ chuyên gia tâm lý. Khi cha hỏi thẳng chuyện đó, mẹ trả lời là một vài công việc nghiên cứu nào đó sẽ làm cho mẹ vui hơn và đã quyết định sử dụng thời gian gửi con đi nhà trẻ để thực hiện việc đó thay vì đến bác sĩ tâm lý. Nhưng vào một vài buổi tối, tâm trạng của mẹ rất nặng nề, cha đi đến kết luận là mẹ rất cần một sự thay đổi khung cảnh, môi trường sống. Vào đầu mùa xuân, cha đã rút một ít tiền dành dụm để mua vé máy bay đến Pháp.

“Helen chưa bao giờ đến Pháp mặc dù có lẽ cả đời đã đọc sách về nước Pháp và nói thạo tiếng Pháp như một người được học từ nhỏ. Mẹ trông tươi cười trên phố Montmartre, bình luận bằng giọng châm biếm cố hữu là nhà thờ Sacré Coeur trông xấu thậm chí còn tệ hại hơn nhiều so với mức mẹ tưởng tượng. Helen thích đẩy chiếc xe nôi của con dạo trong chợ hoa và dọc theo sông Seine, chúng ta cũng thường nán lại ở đó, len lỏi giữa những kệ sách trong khi con ngồi trong chiếc xe đẩy màu đỏ mềm mại, mải mê nhìn xuống dòng nước. Con đã là một khách du lịch tuyệt vời từ lúc mới chín tháng tuổi và mẹ thì thầm với con đó chỉ mới là sự khởi đầu.

“Bà lao công của khách sạn nhỏ nơi chúng ta ở hóa ra đã làm bà của nhiều đứa bé, nên bố mẹ nhờ luôn bà trông hộ con lúc con đang ngủ, còn mình thì la cà vào một quán rượu làm vài ly hoặc vẫn mang găng tay ngồi ngoài trời uống cà phê. Mẹ - cả con nữa, với đôi mắt ngời sáng - thích nhất là mái vòm vút cao của nhà thờ Đức Bà. Sau cùng chúng ta đã lang thang xa hơn xuống phía Nam thăm viếng những thắng cảnh có các công trình chạm trổ điêu khắc khác - giáo đường Chartres với những ô cửa kính rực rỡ; nhà thờ-pháo đài Albi kỳ dị rực một màu đỏ, nơi phát sinh của những dòng ngoại đạo; những đại sảnh của giáo đường Carcassone.

“Helen muốn đến thăm tu viện Thánh Matthieu cổ ở Pyrénées-Orientales, chúng ta quyết định sẽ đến đó một hoặc hai ngày trước khi trở về Paris và bay về nhà. Cha nghĩ đã nhìn thấy gương mặt mẹ rạng rỡ hơn khá nhiều trong chuyến đi, cha yêu thích cái cách mẹ nằm ườn thoải mái trên chiếc giường khách sạn ở Perpignan, lật từng trang cuốn sách về lịch sử kiến trúc Pháp mà cha mua ở Paris. Tu viện này được xây dựng từ năm 1000, Helen nói, dù biết cha đã đọc xong cuốn đó. Đó là mẫu kiến trúc phong cách Roman cổ xưa nhất còn tồn tại ở châu Âu. ‘Cũng cổ xưa gần như cuốn Cuộc đời của Thánh George,’ cha thì thầm, nhưng ngay lúc đó mẹ gấp sách lại, mặt xịu xuống, vẫn nằm đó nhìn con, lúc đó đang chơi đùa trên giường bên cạnh, bằng ánh mắt trừng trừng khao khát.

“Helen cứ khăng khăng đòi chúng ta phải đi bộ lên tu viện, như những người hành hương. Từ thị trấn Les Bains, chúng ta leo lên con đường dốc vào một buổi sáng mùa xuân lành lạnh, cột áo len dài tay quanh thắt lưng khi cảm thấy người đã nóng lên. Helen để con trong một cái địu ở trước ngực, khi mẹ mệt thì đến lượt cha bồng con. Con đường mùa này rất vắng, chỉ có một người nông dân tóc đen, im lặng cưỡi ngựa vượt qua mặt chúng ta, cũng hướng lên trên. Cha bảo Helen hãy hỏi ông ta đi nhờ ngựa một đoạn, nhưng mẹ không trả lời; sáng hôm đó sự trầm uất đã trở lại với mẹ, cha lo âu và chán nản khi để ý thấy thỉnh thoảng những giọt nước mắt lại ứa đầy đôi mắt mẹ. Cha biết nếu cha lên tiếng hỏi han này nọ mẹ sẽ lại lắc đầu, gạt ngang, vì vậy cha đành bằng lòng vừa đi lên vừa bồng giữ con trong tay, âu yếm trỏ cho con thấy cảnh vật xung quanh mỗi khi đến một khúc quanh nào đó, những dải làng mạc và cánh đồng bụi mờ trải dài phía dưới. Ở đỉnh núi, con đường mở rộng thành một bãi đất rộng, vài chiếc xe cũ kỹ đang đậu ở đó, và chú ngựa của người nông dân - dường như vậy - được cột vào một gốc cây, dù không trông thấy anh ta đâu. Tu viện đứng sừng sững trên khu vực này, những bức tường đá nặng nề chạy đến tận đỉnh, chúng ta đi lên, băng qua cổng vào khuôn viên tu viện.

“Thời đó, tu viện Thánh Matthieu hoạt động khá sôi động so với bây giờ, và có lẽ cái cộng đồng mười hai hoặc mười ba con người ở đó đang tiếp tục cuộc sống như các bậc tiền nhân của họ từ một ngàn năm trước, có khác chăng là thỉnh thoảng họ phải đón tiếp các du khách và có xe riêng đậu ở bên ngoài. Hai tu sĩ dẫn chúng ta đi quanh những dãy hành lang cực kỳ tinh tế - cha vẫn còn nhớ mình đã sững sờ ra sao khi bước vào khoảng không gian thênh thang ở cuối khoảnh sân trong và nhìn thấy cái vực thẳm thẳng đứng lô nhô đá trồi ra, một vách đá sừng sững, bên dưới là những cánh đồng. Những ngọn núi xung quanh thậm chí còn cao hơn đỉnh núi mà tu viện tọa lạc, và trên những sườn núi xa xa cha có thể trông thấy những bức màn trắng xóa mà một lúc sau mới nhận ra chính là những dòng thác.

“Chúng ta ngồi một lát trên chiếc ghế dài gần vách núi, con ngồi ở giữa, trông ra bầu trời buổi trưa bao la và nghe tiếng nước róc rách trong bể nước khắc chạm bằng cẩm thạch đỏ ở giữa sân - chỉ có trời mới biết từ nhiều thế kỷ trước người ta đã vận chuyển bể nước kia lên đến đây bằng cách nào. Helen có vẻ vui vẻ trở lại, cha cũng vui khi nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ. Dù đôi lúc mẹ vẫn tỏ vẻ u sầu, nhưng chuyến đi này cũng đáng đồng tiền bát gạo.

“Sau cùng, Helen tỏ ý muốn thăm viếng tu viện kỹ hơn. Chúng ta lại cho con vào địu và bắt đầu rảo quanh đến tận gian bếp và nhà ăn dài nơi các tu sĩ vẫn đang dùng bữa, khu nhà ngủ tập thể với những chiếc giường xếp dành cho khách hành hương, và phòng viết - một trong những phần lâu đời nhất của quần thể, chắc hẳn đó là nơi nhiều bản thảo tuyệt vời đã được sao chép và giải mã. Có một bản thảo được trưng bày dưới lớp kính, một cuốn kinh Phúc âm Matthew mở ra đến một trang viền dọc hai bên bằng hình những con quỷ sứ nhỏ xíu lô nhô đẩy nhau xuống phía dưới. Helen mỉm cười trước cảnh đó. Nhà nguyện ở kế bên - nhỏ nhắn như tất cả mọi thứ trong tu viện, nhưng cân đối hài hòa, chìm hẳn vào trong đá; cha chưa bao nhờ nhìn thấy một công trình kiến trúc phong cách Roman nào thú vị và dễ chịu như vậy. Cuốn cẩm nang hướng dẫn cho biết phần vành cung bên ngoài của khu tụng niệm chính là khoảnh khắc hiện thân đầu tiên của phong cách kiến trúc Roman, ban đầu chỉ là một ứng biến để lấy ánh sáng cho bệ thờ. Trong các khung cửa sổ hẹp vẫn còn một số tấm kính có niên đại từ thế kỷ mười bốn, bệ thờ được trang trí chủ yếu bằng hai màu trắng đỏ, cùng những giá nến bằng vàng. Chúng ta yên lặng rời khỏi đó.

“Sau cùng, vị tu sĩ trẻ hướng dẫn cho biết chúng ta đã thăm viếng mọi nơi ngoại trừ khu hầm mộ, Helen và cha bước theo anh ta xuống đó. Đó là một cái hố nhỏ ẩm thấp nặng nề âm khí, tách biệt với khu hành lang, kiến trúc thật thú vị với một mái vòm xây kiểu Roman sơ khai được chống đỡ trên những cây cột thấp, to bè, và một cỗ quan tài đồ sộ bằng đá chạm trổ có từ thế kỷ đầu tiên, từ ngày có tu viện - là nơi an nghỉ của cha tu viện trưởng đầu tiên, vị tu sĩ hướng dẫn cho biết. Ngồi kế bên cỗ quan tài đá là một tu sĩ lớn tuổi đang chìm trong trầm tư mặc tưởng; khi chúng ta bước vào, ông ngẩng nhìn lên, ánh mắt hiền hậu và có phần bối rối, ông chỉ ngồi yên trên ghế và gật đầu chào chúng ta. ‘Đã nhiều thế kỷ qua, ở đây chúng tôi có truyền thống là một người trong chúng tôi phải ngồi với cha tu viện trưởng,’ vị tu sĩ hướng dẫn giải thích. ‘Thông thường, chỉ một vị tu sĩ cao niên có được vinh dự này.’

“ ‘Kỳ lạ thật,’ cha nhận xét, nhưng ở nơi này có điều gì đó, có lẽ là sự lạnh lẽo, khiến con ọ ẹ khóc và vùng vẫy trước ngực mẹ. Nhận thấy mẹ có vẻ mệt nên cha đã đề nghị bồng con lên chỗ không khí thoáng mát bên trên. Cha bước ra khỏi cái hầm đầy âm khí nặng nề đó với cảm giác nhẹ nhõm và đưa con đến nhìn ngắm đài phun ngoài hành lang.

“Cha cứ ngỡ Helen sẽ bước theo ngay, nhưng mẹ cứ nhẩn nha ở dưới khu hầm mộ, và khi xuất hiện trở lại, khuôn mặt mẹ đã thay đổi đến độ cha cảm thấy dậy lên trong lòng một nỗi sợ hãi. Helen trông có vẻ phấn khích - phải, gương mặt sinh động hơn hẳn những tháng vừa qua - nhưng đồng thời cũng xanh xao hơn và đôi mắt mở to, như dự định một điều gì đó mà cha không nhận ra. Cha bước về hướng mẹ và cố làm ra vẻ thản nhiên rồi hỏi dưới đó có gì khác đáng quan tâm không. ‘Có thể,’ Helen trả lời, nhưng như thể mẹ không nghe thấy cha hỏi gì vì trong lòng mẹ đang rộn lên quá nhiều suy nghĩ. Rồi mẹ đột ngột quay sang giằng lấy con từ tay cha, ôm chặt và thiết tha hôn lên đầu lên má con. ‘Con ổn chứ? Nó có sợ không?’

“ ‘Con khỏe mà,’ cha trả lời. ‘Có thể hơi đói một chút.’ Helen ngồi xuống một chiếc ghế dài, lấy ra một bình thức ăn trẻ con và bắt đầu cho con ăn, ngân nga một bài hát ru ngắn mà cha không hiểu - tiếng Hungary hay tiếng Rumani? - trong lúc con bú bình. ‘Chỗ này đẹp quá,’ một lúc sau mẹ nói, giọng nhẹ nhàng. ‘Mình ở lại đây vài hôm, anh nhé.’

“ ‘Chúng ta phải trở về Paris vào tối thứ Năm,’ cha phản đối.

“ ‘Ồ, đâu có gì khác nhau giữa việc qua đêm tại đây và ở dưới thị trấn Les Bain đâu,’ mẹ điềm đạm đáp lại. ‘Ngày mai chúng ta có thể đi bộ xuống và đón xe buýt, nếu anh nghĩ chúng ta cần phải đi sớm.’

“Cha đã đồng ý, bởi mẹ trông có vẻ rất kỳ lạ, nhưng đến tận khi cha đi bàn chuyện đó với vị tu sĩ hướng dẫn cha vẫn cảm thấy phần nào lưỡng lự. Tu sĩ hướng dẫn báo lại với cha bề trên của mình và cha bề trên đã cho phép chúng ta ở lại khu nhà ở tập thể đang còn trống. Khoảng giữa bữa trưa đạm bạc và bữa tối còn đạm bạc hơn lúc họ dọn cho chúng ta trong một phòng cách biệt với nhà bếp, chúng ta lang thang trong những vườn hồng, tản bộ trong vườn cây ăn quả trên triền dốc bên ngoài những bức tường tu viện và ra sau nhà nguyện nghe các tu sĩ ngân nga hát thánh ca trong lúc con ngủ vùi trong lòng mẹ. Một tu sĩ sửa soạn nơi ngủ cho chúng ta: giường xếp cùng chăn mền giản dị sạch sẽ. Sau khi con ngủ say trên một giường, với hai chiếc giường của chúng ta đẩy sát lại hai bên để con khỏi lăn té ra ngoài, cha nằm xuống và vờ như không nhìn qua mẹ. Mẹ con vẫn ngồi ở mép giường, trong bộ váy áo màu đen, nhìn ra bên ngoài về phía bóng đêm. Ơn trời rèm cửa đã buông xuống, nhưng rốt cuộc mẹ cũng đứng dậy, vén rèm lên, đứng nhìn đăm đăm ra bầu trời đêm. ‘Ngoài đó hẳn phải tối lắm nhỉ,’ cha nói, ‘và chẳng có thị trấn nào gần.’

“Helen gật đầu. ‘Tối om om, nhưng ở đây bao giờ cũng vậy, anh không nghĩ thế sao?’

“ ‘Sao em không vào giường ngủ đi?’ cha với tay về phía con và vỗ vỗ lên giường mẹ.

“ ‘Được thôi,’ mẹ đáp, không tỏ dấu hiệu gì phản đối. Thực ra mẹ còn mỉm cười, cúi xuống hôn cha trước khi nằm xuống giường. Cha đã ôm mẹ một lúc, cảm nhận sức lực của đôi bờ vai, làn da cổ mịn màng của mẹ. Rồi mẹ duỗi người, kéo chăn đắp và có vẻ như chìm vào giấc ngủ rất lâu trước khi cha đọc hết chương sách và thổi tắt ngọn đèn lồng.

“Cha tỉnh dậy vào lúc trời hừng sáng, cảm thấy một cơn gió hiu hiu thổi qua phòng. Không gian rất yên tĩnh; con nằm thở đều đều bên cạnh cha, dưới tấm chăn len trẻ con, nhưng giường của Helen trống trơn. Cha yên lặng ngồi dậy, mang giày và áo khoác vào. Dãy hành lang phía ngoài tối lờ mờ, khu sân trong một màu xám xịt, đài phun nước là một khối mờ mờ ảo ảo. Cha chợt nghĩ chắc hẳn còn lâu ánh mặt trời mới chiếu đến nơi này, bởi trước tiên nó phải vượt qua những đỉnh núi khổng lồ ở hướng Đông kia. Cha nhìn quanh tìm mẹ, nhưng không gọi to vì biết mẹ con ưa dậy sớm và có thể đang ngồi suy tư trên một chiếc ghế dài nào đó, chờ bình minh lên. Không có dấu vết gì của mẹ, tuy nhiên, khi bầu trời sáng lên một chút, cha bắt đầu sục sạo nôn nóng hơn, một lần nữa đến chỗ chiếc ghế dài mà chúng ta đã ngồi ngày hôm qua và một lần nữa đến ngôi nhà nguyện im lìm sặc sụa mùi hương khói.

“Cuối cùng, cha cũng bắt đầu lên tiếng gọi mẹ, ban đầu là khe khẽ, sau đó là to hơn, và rồi là hoảng hốt. Một vài phút sau, một tu sĩ xuất hiện từ phòng ăn, chắc hẳn họ đang yên lặng dùng bữa ăn đầu tiên trong ngày ở đó, và hỏi cha liệu ông ta có thể giúp được điều gì không. Cha giải thích là vợ mình đã đi đâu không thấy, ông bắt đầu sục sạo cùng cha. ‘Có lẽ bà nhà đi dạo chăng?’ Nhưng cũng không có dấu vết nào của Helen trong khu vườn cây ăn quả, hoặc khu vực đậu xe, cả trong khu hầm mộ tăm tối cũng không. Khi mặt trời vượt qua đỉnh núi thì chúng ta đã lùng sục khắp mọi nơi, vị tu sĩ kia đã đến gặp một vài tu sĩ khác, một người trong số họ nói sẽ lái xe xuống thị trấn Les Bains để trình báo. Cha khẩn khoản yêu cầu ông ấy mời cảnh sát về theo. Sau đó cha vội trở về trong căn nhà ngủ tập thể vì nghe tiếng con khóc, sợ con lăn ra khỏi giường. Cha nhanh chóng cho con ăn và bồng con trong tay trong khi chúng ta lùng sục mọi nơi một lần nữa.

“Sau cùng, cha yêu cầu tập họp tất cả mọi tu sĩ để hỏi lại. Cha tu viện trưởng bằng lòng và đã gọi mọi người tụ tập trong khu vực hành lang. Không ai nhìn thấy Helen sau khi chúng ta rời khỏi nhà bếp vào tối hôm qua. Mọi người đều tỏ ra lo lắng - ‘La pauvre - Ôi, tội nghiệp cô ấy,’ một tu sĩ buột miệng, câu nói đó bất chợt khiến cha nổi cáu. Cha gặng hỏi, ngày hôm qua liệu có người nào đã nói chuyện với Helen, hoặc chú ý nhận thấy có điều gì bất thường không. ‘Chúng tôi không tiếp chuyện với phụ nữ, đó là quy tắc chung,’ cha tu viện trưởng nhẹ nhàng trả lời.

“Nhưng một tu sĩ bước lên phía trước, cha nhận ra ngay đó là vị tu sĩ già có nhiệm vụ ngồi trong hầm mộ. Trong tâm trạng khá hoang mang cha vẫn chú ý nhận thấy dưới ánh đèn lồng gương mặt ông vẫn nhân hậu và trầm tĩnh như ngày hôm qua. ‘Cô ấy đã dừng lại để hỏi tôi,’ ông ta nói. ‘Tôi không muốn phạm luật, nhưng cô ấy tỏ ra rất điềm tĩnh và lịch thiệp, vì vậy tôi đã trả lời.’

“ ‘Cô ấy hỏi ông điều gì?’ Tim cha vốn đã thình thịch trong lồng ngực bây giờ lại bắt sang một nhịp điệu dồn dập khốn khổ.

“ ‘Cô ấy hỏi ai được chôn ở đấy, tôi đã trả lời đó là một trong các cha tu viện trưởng đầu tiên, và chúng tôi có nghi thức tưởng nhớ đến ông. Cô lại hỏi cha tu viện trưởng đó đã thực hiện được những việc lớn lao nào, tôi đã giải thích là chúng tôi có một truyền thuyết’ - đến đây ông liếc nhìn cha tu viện trưởng, ông này gật đầu để ra hiệu ông ta tiếp tục - ‘chúng tôi có một truyền thuyết kể rằng ông ấy đã sống một cuộc đời thánh thiện nhưng lại bất hạnh vướng phải một lời nguyền sau khi chết, vì vậy đêm nào ông ấy cũng ra khỏi quan tài để hãm hại các tu sĩ khác, và do vậy thi hài ông ấy phải được tẩy uế. Lúc đã được tẩy uế, một bông hồng trắng sẽ mọc lên từ tim ông ấy, tượng trưng cho sự tha thứ của Đức Mẹ Thiêng Liêng.’

“ ‘Và đó là lý do vì sao phải có người ngồi canh chừng ông ấy?’ cha xẵng giọng hỏi.

“Cha tu viện trưởng nhún vai. ‘Đơn giản đó chỉ là truyền thống của chúng tôi, để tưởng nhớ ông ấy.’

“Cha quay sang ông thầy tu già, cố kìm nén cái ước muốn được bóp cổ ông ta và nhìn thấy gương mặt hiền từ kia tái tím đi. ‘Có phải đó là câu chuyện ông kể cho vợ tôi nghe?’

“ ‘Cô ấy hỏi tôi về câu chuyện của chúng tôi. Tôi không thấy có gì sai trái trong việc trả lời các câu hỏi của cô ấy.’

“ ‘Và cô ấy nói gì sau khi ông trả lời?’

“Ông thầy tu già mỉm cười. ‘Cô ấy cảm ơn tôi bằng một giọng rất dịu dàng và hỏi tên tôi, tôi đã xưng mình là Frère Kiril.’ Ông lão trả lời, chắp hai tay ngang thắt lưng.

“Phải mất một lúc cha mới hiểu ý nghĩa của những tiếng đó, cái tên trở nên xa lạ vì cái cách nhấn trọng âm vào âm tiết thứ hai đặc Pháp, vì cái từ vô thưởng vô phạt frère_(1) kia. Cha ôm con chặt hơn như thể sợ làm rơi con xuống. ‘Có phải ông đã nói tên ông là Kiril? Có phải ông đã nói như vậy? Ông có thể đánh vần cái tên đó được chứ?’

“Ông thầy tu ngạc nhiên, miễn cưỡng làm theo yêu cầu của cha.

“ ‘Cái tên này xuất phát từ đâu?’ cha hỏi, không thể giữ cho giọng nói của mình đừng run run. ‘Có phải đó là tên thật của ông? Ông là ai?’

“Cha tu viện trưởng xen vào, có lẽ vì ông thấy vị thầy tu già có vẻ lúng túng thực sự. ‘Đó không phải là tên thật của ông ấy,’ ông ta giải thích. ‘Khi thề nguyện tất cả chúng tôi đều nhận một tên mới. Bao giờ cũng có một người tên là Kiril - luôn như vậy - và một sư huynh mang tên Michel - như Sư huynh này...’

“ ‘Ý ông muốn nói,’ cha hỏi, ôm con còn chặt hơn, ‘có một Sư huynh Kiril trước ông này, và một ông khác trước ông đó nữa?’

“Ồ, đúng vậy,’ cha tu viện trưởng trả lời, rõ ràng cũng bối rối vì sự tra vấn gay gắt của cha. ‘Theo như truyền thống của chúng tôi mà ai cũng biết. Chúng tôi hãnh diện về những truyền thống của mình - chúng tôi không ưa chuộng những lề thói mới.’

“ ‘Vậy thì truyền thống này xuất phát từ đâu?’ cha gần như hét lên.

“ ‘Điều đó thì chúng tôi không biết,’ cha tu viện trưởng trả lời, giọng kiên nhẫn. ‘Từ bao lâu nay ở đây vẫn vậy.’

“Cha bước sát đến, gần như gí sát mũi mình vào mũi ông ta. ‘Tôi muốn ông mở cỗ quan tài đá trong khu hầm mộ ra,’ cha gằn giọng.

“Ông ta lui lại, vẻ kinh hoàng. ‘Anh nói cái gì vậy? Chúng tôi không thể làm việc đó.’

“ ‘Hãy đi với tôi. Đây…’ Cha trao con cho vị tu sĩ trẻ, người đã hướng dẫn chúng ta rảo quanh đây đó ngày hôm qua. ‘Xin giữ hộ con gái tôi.’ Anh ta bồng con, đu đưa con trong tay, không vụng về lúng túng như cha nghĩ. Con bắt đầu khóc. ‘Đi nào,’ cha nói với cha tu viện trưởng. Cha kéo ông ta về hướng khu hầm mộ, ông ra dấu bảo các tu sĩ khác hãy ở yên tại chỗ. Chúng ta nhanh chóng xuống các bậc cấp. Trong cái hầm lạnh lẽo đó, vẫn còn leo lắt hai cây nến do Sư huynh Kiril để lại, cha quay qua ông tu viện trưởng. ‘Ông không phải kể với ai về việc này, nhưng tôi phải nhìn xem bên trong cỗ quan tài đá kia.’ Cha dừng lại để nhấn mạnh. ‘Nếu ông không giúp tôi, bắt buộc tôi phải nhờ đến pháp luật để đối phó với tu viện các ông.’

“Ông ta ném vào cha một cái nhìn - sợ hãi? căm giận? thương hại? - rồi không nói một lời, đi thẳng đến một đầu cỗ quan tài. Chúng ta cùng hợp lực đẩy nắp quan tài qua một bên, vừa đủ rộng để có thể nhìn vào bên trong. Cha đưa cao cây nến. Cỗ quan tài trống rỗng. Cha tu viện trưởng trợn trừng mắt và vội đẩy mạnh nắp hòm trở lại. Chúng ta nhìn nhau. Ông ta có một gương mặt đặc trưng của người Pháp - thanh tú, lanh lợi - mà hẳn cha sẽ rất mến trong một tình huống khác. ‘Xin ông đừng tiết lộ với các sư huynh khác điều này,’ ông ta trầm giọng nói nhỏ, rồi quay người leo lên khỏi hầm mộ.

“Cha bước theo, cố suy nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Cha quyết định sẽ đưa con quay xuống thị trấn Les Bains ngay tức khắc và chắc chắn là cảnh sát đã được báo động. Có thể Helen đã quyết định về Paris trước chúng ta - tại sao, cha chưa thể hình dung được - hoặc thậm chí bay về nhà trước. Cha cảm thấy như bị một cú đấm trời giáng vào mang tai, tim như nghẹn lại trong cuống họng, máu muốn trào ra miệng.

“Khi cha bước vào lại hành lang, ánh mặt trời đã tràn ngập chỗ đài phun, chiếu lấp lánh trên mặt sân lát đá, lũ chim ríu rít líu lo và cha đã biết chuyện gì xảy ra. Cha cố gắng, một cách khó khăn, trong cả giờ đồng hồ để đừng nghĩ đến điều đó, nhưng giờ thì hầu như cha không cần biết cái tin mà hai tu sĩ vừa chạy về hướng cha tu viện trưởng vừa hét toáng lên thông báo ấy nữa. Đó là hai tu sĩ được phân công tìm kiếm khu vực bên ngoài các bức tường tu viện: vườn cây ăn quả, trong vườn rau, khu rừng nhỏ đầy những cây khô, những tảng đá nhô ra ở bên dưới triền dốc đứng. Họ vừa trở về từ dưới đó - một trong hai người trỏ vào rìa hành lang mà hôm qua Helen, con và cha đã ngồi trên một chiếc ghế dài nhìn xuống cái vực sâu thăm thẳm ấy. ‘Thưa cha tu viện trưởng!’ một trong hai người thét lên, tựa như ông ta không thể gọi cha trực tiếp. ‘Cha tu viện trưởng, có máu trên các tảng đá! Ở dưới kia, dưới kia kìa!’

“Không có lời nào có thể tả lại những khoảnh khắc như vậy. Cha chạy đến các rìa hành lang, địu con trên lưng, cảm nhận cái má mượt mà như một cánh hoa của con áp vào cổ mình. Những giọt nước mắt đầu tiên trào dâng trong mắt cha, nóng bỏng và cay đắng hơn bất kỳ những gì mà cha đã từng trải nghiệm. Cha nhìn qua bức tường thấp. Trên một tảng đá nhô ra cách khoảng năm mét phía dưới là một vệt màu đỏ tươi - không lớn, nhưng có thể nhận ra rõ ràng trong ánh nắng ban mai. Dưới đó nữa là cái vực sâu đang há miệng toang hoác, sương mù cuồn cuộn, lũ đại bàng đang bay lượn săn mồi, vách núi đổ xuống hun hút đến tận cùng chân chúng. Cha chạy về phía cổng chính, loạng choạng bước quanh những bức tường phía bên ngoài. Vách đá đó quá dựng đứng, ngay cả nếu không phải bồng con cha cũng không thể an toàn leo xuống chỗ hòn đá nhô ra kia được. Cha chỉ biết đứng nhìn làn sóng mất mát tràn qua không gian thánh thiện ấy, qua buổi ban mai tươi đẹp ấy, ập xuống đầu mình. Rồi nỗi khổ đau chạm đến cha, cháy bỏng như một ngọn lửa mà không một lời nào có thể tả được.

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Pháp: Sư huynh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 77


“Cha đã ở lại thị trấn Les Bains ba tuần lễ, cùng với cảnh sát địa phương và một đội đặc nhiệm được gọi từ Paris đến để sục sạo những vách đá và khu rừng. Ông bà nội con bay đến Pháp và dành ra hàng giờ để chơi đùa với con, cho con ăn uống, đẩy xe cho con loanh quanh khắp thị trấn - cha nghĩ vậy. Trong lúc ấy cha phải điền vào hết biểu mẫu này đến biểu mẫu khác trong các văn phòng buồn tẻ nhỏ bé. Cha đã gọi những cuộc điện thoại vô vọng, tìm kiếm từng từ trong tiếng Pháp để diễn tả tình trạng khẩn cấp của nỗi đau mất mát trong mình. Ngày này tiếp ngày nọ, cha sục sạo các khu rừng dưới chân vách núi, đôi khi cùng với nhóm người của một thanh tra cảnh sát mặt lạnh như tiền, đôi khi chỉ một mình cha cùng với những giọt nước mắt lưng tròng. 

“Thoạt đầu, cha mong được nhìn thấy Helen còn sống, bước về phía cha với nụ cười phớt lạnh quen thuộc, nhưng sau cùng niềm hy vọng đó giảm xuống chỉ còn là một nửa nỗi khao khát cay đắng được nhìn thấy hình hài vỡ nát của mẹ, hy vọng sẽ vô tình vấp vào hình hài ấy đâu đó giữa những tảng đá hoặc bụi rậm. Nếu cha có thể mang thi hài mẹ về nhà - hoặc về Hungary như đôi khi cha nghĩ, mặc dù làm thế nào để vào được đất nước Hungary đang bị quân đội Liên Xô kiểm soát vẫn là một câu hỏi hóc búa - thì cha vẫn phải giữ lại gì đó của mẹ để tỏ lòng tôn kính, để chôn cất, để một cách nào đó chấm dứt việc này và được một mình còn lại với nỗi khổ đau của mình. Cha hầu như không dám thừa nhận là muốn tìm thấy thi hài của mẹ còn vì một mục đích khác nữa: để chắc chắn xem cái chết của mẹ có phải là hoàn toàn tự nhiên, hoặc liệu mẹ có cần cha hoàn thành cái nhiệm vụ cay đắng mà cha đã thực hiện vì thầy Rossi. Tại sao cha không thể tìm được xác Helen chứ? Thỉnh thoảng, nhất là vào buổi sáng, cha cảm thấy mẹ đơn giản chỉ bị té ngã, mẹ không bao giờ chủ ý muốn từ bỏ chúng ta - con và cha. Rồi cha lại tin rằng ở một nơi nào đó trong những cánh rừng, chắc hẳn mẹ cũng đã có được một nấm mồ đơn sơ của một người vô tội, cho dù cha sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Nhưng đến trưa, cha lại nhớ đến tâm trạng kỳ lạ, nỗi buồn rầu thất vọng của mẹ. 

“Cha biết rằng mình sẽ khổ đau trong suốt phần đời còn lại, nhưng việc đến thi hài của mẹ cha cũng không tìm thấy đã dằn vặt cha ghê gớm. Ông bác sĩ ở địa phương đã cho cha một liều thuốc an thần, cha uống vào mỗi đêm để có thể chợp mắt và để phục hồi đủ sức lực tiếp tục lùng sục các khu rừng vào ngày hôm sau. Khi đám cảnh sát trở nên bận rộn với những chuyện khác, cha vẫn tiếp tục sục sạo một mình. Thỉnh thoảng cha lôi từ trong bụi cây ra những phần khác của khu di tích: những mẩu đá, các ống khói vỡ vụn, và một lần cha đã tìm thấy một phần của đầu máng xối có hình đầu người đã vỡ nát - liệu Helen có rơi xa thế này chăng? Hiện vẫn còn một vài đầu máng xối như vậy trên các bức tường tu viện. 

“Sau cùng, ông bà nội con đã thuyết phục cha không nên cứ lùng sục mãi như vậy, rằng cha nên mang con trở về New York một thời gian, rằng bất cứ lúc nào cha cũng có thể quay trở lại để tìm kiếm. Qua mạng lưới của cảnh sát Pháp, cảnh sát toàn châu Âu đã được báo vụ việc; nếu Helen còn sống - ông bà nội con nói bằng giọng nhẹ nhàng - thì sẽ có người tìm thấy. Cuối cùng, cha đành nhượng bộ không phải chỉ vì những lời trấn an kia mà vì chính những khu rừng, những vách đá dựng đứng nhìn muốn chóng mặt, vì đám cây cối bụi rậm dày đặc, quần áo và cả áo khoác của cha rách tả tơi khi luồn lách giữa chúng, những thân cây to kinh khủng và cao ngút trời, bầu không gian im lặng nặng nề như phủ chụp toàn thân mỗi khi cha dừng lại, mò mẫm, hoặc đứng bất động chỉ trong vài phút. 

“Trước khi rời khỏi nơi đó, cha đã xin ông tu viện trưởng cầu kinh ban phước lành cho Helen ở ngay rìa cuối dãy hành lang, nơi Helen đã nhảy xuống. Ông đã tổ chức một buổi lễ, tụ tập các tu sĩ xung quanh mình, đưa cao lên giữa trời hết thứ thánh vật này đến thánh vật khác - dù thực sự chúng có là gì thì cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với cha - và cầu nguyện, hướng lên một khoảng mênh mông mà ngay lập tức đã nuốt chửng tiếng ông. Ông bà nội cùng đứng với cha, bà nội đưa tay chùi vội lên mắt, con ngọ nguậy trong tay cha. Cha ôm chặt lấy con, trong những tuần lễ đó cha hầu như đã quên bẵng mái tóc của con mềm mại ra sao, đôi chân con khi không vừa ý thì quẫy đạp thế nào. Quan trọng hơn cả, con vẫn còn sống, con vẫn đang phả hơi thở vào cằm cha, đôi tay vẫn đang bám quanh cổ cha, vừa tin cậy vừa trìu mến. Khi cha bất chợt bật lên một tiếng nức nở, con đã chụp vào tóc cha, kéo tai cha. Bồng con trong tay, cha thầm nguyện sẽ cố phục hồi phần nào cuộc sống, một cuộc sống theo nghĩa nào đó.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 78


Barley và tôi ngồi nhìn nhau, trước mớ bưu thiếp của mẹ tôi. Giống như những lá thư của cha, chúng quá ít thông tin để tôi có thể hiểu nhiều hơn về tình hình hiện tại. Điều chính yếu, cái điều như đang cháy bỏng sôi sục trong đầu tôi chính là ngày tháng ghi trên các tấm bưu thiếp. Mẹ tôi đã viết chúng sau ngày bà mất.

“Cha em đã đến tu viện đó,” tôi buột miệng.

“Đúng vậy,” Barley đáp. Tôi gom các tấm thiệp lại đặt lên mặt đá cẩm thạch của chiếc bàn phấn.

“Đi nào,” tôi nói, lục trong xắc tay của mình lấy ra con dao bạc nhỏ vẫn nằm nguyên trong vỏ bao và thận trọng đút vào túi áo.

Barley chồm tới, hôn lên má tôi. Nụ hôn làm tôi ngạc nhiên. “Đi nào,” anh nói.

Con đường dẫn đến tu viện Thánh Matthieu hóa ra dài hơn so với trí nhớ của tôi, bụi bặm và nóng nực dù đã là cuối buổi chiều. Ở thị trấn Les Bains không có taxi - ít ra là trước mắt không thấy chiếc nào cả - vì vậy chúng tôi đành phải cuốc bộ, sau khi nhanh chóng vượt qua các trang trại, chúng tôi đến một bìa rừng. Từ đó, con đường bắt đầu lên dốc. Bước vào rừng, giữa những gốc ô liu, thông, và những thân sồi cao vút, không khác gì bước vào một thánh đường; chúng tôi trầm giọng xuống giữa cái không gian lờ mờ và mát lạnh đó, mặc dù cũng chẳng nói gì nhiều. Giữa lúc đang lo lắng, tôi vẫn cảm thấy đói, lúc nãy thậm chí chúng tôi còn không kịp chờ món cà phê. Barley bỏ chiếc mũ lưỡi trai xuống lau trán.

“Mẹ không thể sống sót với một cú rơi như vậy,” tôi nói, cảm thấy cổ họng như đang bị bóp nghẹt.

“Đúng vậy.”

“Cha em chưa bao giờ băn khoăn - ít nhất là trong các lá thư của ông - liệu mẹ có bị ai đó đẩy xuống hay không.”

“Đúng vậy thật,” Barley hưởng ứng, đội lại mũ lên đầu.

Tôi im lặng một lát. Chỉ có tiếng bước chân chúng tôi trên nền đá lát gập ghềnh - con đường đến chỗ đó vẫn còn lát đá. Dù tôi không muốn nói ra những điều này nhưng không hiểu sao chúng vẫn tuôn ra: “Giáo sư Rossi viết là hành động tự tử đưa con người vào nguy cơ có thể trở thành... trở thành...”

“Anh nhớ điều đó,” Barley đáp đơn giản. Tôi ước gì mình đã không nói ra câu này. Con đường bây giờ quành lên cao hơn. “Có thể có ai đó sẽ lên đây bằng xe,” Barley nói thêm.

Nhưng chẳng có chiếc xe nào xuất hiện và chúng tôi càng lúc càng đi nhanh hơn, vì vậy sau một lúc thay vì trò chuyện cả hai đều hổn hển. Khi ra khỏi cánh rừng, ở khúc quanh sau cùng, những bức tường quanh tu viện làm tôi thoáng ngạc nhiên; tôi không nhớ khúc quanh đó, hoặc khoảng trời đột ngột mở ra trên đỉnh núi, buổi chiều mênh mông bao quanh chúng tôi. Tôi chỉ nhớ khoảnh đất bằng phẳng bên dưới cổng trước, hôm nay không có chiếc xe nào đậu ở đó. Khách du lịch đâu hết rồi nhỉ? Tôi thầm hỏi. Một lát sau, chúng tôi đã đến gần hơn để đọc được tấm bảng: sửa chữa, tháng này không tiếp khách. Nhưng thế cũng không đủ làm cho bước chân chúng tôi chậm lại. “Đi tiếp nào,” Barley thốt lên, rồi cầm lấy tay tôi, tôi cảm thấy nhẹ lòng, vì tay tôi đã bắt đầu run lên.

Hiện tại, những bức tường phía trước xung quanh cổng đầy những giàn giáo. Một máy trộn xi măng di động đứng chắn trên lối đi - xi măng ư? ở nơi chốn này? Chúng tôi rụt rè đưa tay kéo chiếc chuông sắt khi nhận ra các cánh cửa dưới cổng đóng kín nhưng không khóa. Tôi chẳng thích đột nhập vào chút nào, chẳng thích cái thực tế không thấy có dấu vết gì của cha mình. Có thể cha vẫn còn dưới thị trấn Les Bains hoặc một nơi nào khác. Có thể nào cha đang sục sạo dưới chân vách đá kia như đã từng sục sạo những năm trước đây, hàng trăm thước sâu tít phía dưới kia, khuất tầm mắt chúng tôi? Tôi bắt đầu thấy hối tiếc vì đã đi thẳng đến tu viện trong lúc bốc đồng. Hơn nữa, dù có lẽ phải một giờ nữa mới đến hoàng hôn, mặt trời vẫn nhanh chóng chìm dần ở phía Tây dãy Pyrénées, trông thấy rõ đang khuất dần sau những đỉnh núi cao nhất. Cánh rừng mà chúng tôi vừa ra khỏi đã chìm trong bóng tối ảm đạm, và chẳng bao lâu những tia nắng đỏ cuối cùng của ban ngày cũng biến mất trên những bức tường tu viện.

Chúng tôi bước vào bên trong, thận trọng, rồi đi ngược lên khoảnh sân trong và khu hành lang. Đài phun nước bằng cẩm thạch đỏ róc rách chảy ở giữa sân. Tôi nhớ có những cột hình xoắn ốc xinh xắn, khu hành lang dài hun hút, một vườn hồng ở cuối sân. Ánh nắng chiều vàng cũng không còn nữa, thay vào đó là những hình bóng nhờ nhờ tối. Không thấy người nào cả. “Anh có nghĩ chúng ta nên quay trở lại Les Bains?” tôi thì thầm vào tai Barley.

Khi Barley có vẻ như sắp trả lời thì chúng tôi chợt nghe một âm thanh - tiếng cầu kinh, vọng ra từ nhà thờ bên kia dãy hành lang. Các cánh cửa đều đóng kín nhưng chúng tôi có thể nghe rõ ràng buổi lễ đang diễn ra bên trong, với những khoảng lặng nửa chừng. “Tất cả mọi người đang ở trong đó,” Barley thốt lên. “Có thể cha em cũng ở trong đó.”

Nhưng tôi không tin. “Nếu có ở đây, hẳn ông ấy cũng đã đi xuống rồi...” Tôi dừng lại và quan sát quanh sân. Đã gần hai năm từ lần tôi cùng cha tới thăm viếng nơi này nên trong chốc lát tôi chưa thể nhớ ra lối vào khu hầm mộ ở đâu. Đột nhiên, tôi nhận ra lối cửa vào, dường như nó đã mở sẵn gần bức tường khu hành lang mà tôi không chú ý. Bây giờ tôi đã nhớ ra những con thú kỳ lạ được tạc thẳng vào đá quanh lối cửa vào đó: sư tử và điểu sư, rồng và chim, những con thú quái dị mà tôi không nhận dạng được, những đứa con lai giữa thiện và ác.

Barley và tôi nhìn về phía nhà thờ, các cánh cửa vẫn đóng chặt im lìm, chúng tôi rón rén bước ngang qua khoảng sân tiến về lối cửa vào khu hầm mộ. Đứng lặng ở đó một lát, dưới ánh mắt trừng trừng của những con thú đã hóa đá kia, tôi chỉ nhìn thấy trong đó cái bóng tối mà chúng tôi sẽ bước vào, tôi cảm thấy tim mình như chùng xuống. Rồi tôi chợt nhớ lại là cha mình có thể ở dưới đó - thực ra là có thể đang lâm vào một rắc rối kinh khủng nào đó. Và Barley vẫn đang nắm lấy tay tôi, cao lớn, lặng thinh và đầy tự tin bên tôi. Tôi gần như mong anh sẽ lên tiếng càu nhàu về những điều kỳ quái mà gia đình tôi tự lao vào, nhưng anh vẫn nghiêm nghị bên cạnh tôi, cũng như tôi, ở tư thế sẵn sàng cho bất kỳ chuyện gì. “Bọn mình không có đèn,’ anh thì thầm.

“Mình có thể vào nhà thờ xin một cây,” tôi nêu ý kiến hơi thừa.

“Anh có bật lửa đây.” Barley lấy bật lửa ra khỏi túi. Tôi không biết anh hút thuốc. Anh bật quẹt lên, soi trên các bậc thang, chúng tôi cùng nhau bước xuống, vào trong bóng tối.

Thoạt tiên, quả đúng là tối om om, chúng tôi cảm thấy những bậc cấp cổ xưa dưới chân mình rất dốc, và sau đó tôi nhìn thấy ánh sáng lập lòe đầu kia mái vòm sâu thẳm - không phải bật lửa của Barley, vài giây anh mới bật lửa một lần - tôi sợ chết khiếp. Không hiểu vì sao, cái thứ ánh sáng mờ mờ ảo ảo kia có vẻ như còn tồi tệ hơn cả bóng tối. Barley nắm chặt tay tôi đến độ tôi cảm thấy như tay mình không còn cảm giác. Phần cầu thang ở dưới cùng uốn cong và khi đến đoạn quanh cuối cùng tôi mới chợt nhớ đến điều cha nói, rằng chỗ này có thể là gian giữa của nhà thờ trước đây. Ở đây có cỗ quan tài đá khổng lồ của cha tu viện trưởng, cây thánh giá mờ mờ chạm khắc ở gian hậu cung cổ kính, mái trần hình vòm thấp lè tè trên đầu chúng tôi, một trong những công trình kiến trúc cổ xưa nhất theo phong cách Roman còn tồn tại ở châu Âu.

Tuy nhiên, tôi chỉ nhớ thoáng qua điều đó, bởi ngay sau đó một cái bóng ở bên kia cỗ quan tài đá liền tách mình ra khỏi một cái bóng đen hơn và đứng thẳng dậy: một người đang cầm ngọn đèn lồng. Đó là cha. Gương mặt cha trông tiều tụy dưới ánh đèn chập chờn. Tôi nghĩ, cha cũng nhận ra chúng tôi ngay khi chúng tôi nhìn thấy ông và thốt lên “Chúa ơi!” Chúng tôi nhìn nhau sửng sốt. “Con làm gì ở đây?” cha trầm giọng, hỏi, nhìn từ tôi đến Barley, đưa cao ngọn đèn lồng trước mặt chúng tôi. Giọng cha dữ dội - đầy giận dữ, sợ hãi, yêu thương. Tôi bỏ tay Barley ra chạy đến bên cha, vòng qua cỗ quan tài. Cha ôm tôi trong vòng tay. “Lạy Chúa Jesus,” cha nói, vuốt ve mái tóc tôi một lát. “Con không nên đến nơi này chút nào.”

“Con đã đọc chương cuối cùng ở trung tâm lưu trữ tại Oxford,’ tôi thì thầm. “Con sợ rằng cha đã...” Tôi không thể nói hết câu. Giờ khi chúng tôi đã tìm thấy cha, và cha vẫn còn sống, trông vẫn là cha, tôi lại run lên.

“Con phải ra khỏi đây ngay,” cha nói, nhưng rồi lại kéo tôi sát hơn. “Không, trễ quá rồi - cha không muốn các con ra ngoài đó một mình. Chúng ta chỉ còn vài phút trước khi mặt trời lặn. Đây,” - cha dúi cây đèn vào tay tôi - “con cầm lấy, còn cháu” - cha hướng về Barley - giúp ta đẩy cái nắp hòm này.” Barley bước đến ngay, mặc dù tôi nghĩ mình nhìn thấy đầu gối anh run run, và giúp cha tôi chầm chậm đẩy trượt nắp cỗ quan tài ra. Tôi đã nhìn thấy cha dựng một cây cọc dài vào vách tường gần đó. Chắc hẳn cha đã chuẩn bị cho việc nhìn thấy trong cỗ quan tài đá kia một con quỷ mà cha đã bỏ công tìm kiếm từ lâu, chứ không phải cho thứ mà cha thực sự nhìn thấy. Tôi nâng cao ngọn đèn cho cha, nửa muốn nửa không muốn nhìn, nhưng rồi tất cả chúng tôi đều nhìn trừng trừng xuống cái khoảng không trống rỗng kia: chỉ có bụi bặm. “Ôi trời,” cha thốt lên. Đó là một tiếng than mà từ trước đến nay tôi chưa từng bao giờ nghe trong giọng nói của cha, một âm thanh thất vọng não nề, tôi nhớ cha đã nhìn vào chỗ trống đó một lần nữa. Cha loạng choạng về phía trước, tôi nghe tiếng cây cọc rơi loảng xoảng trên nền đá. Tôi nghĩ cha sắp khóc, hoặc vò đầu bứt tai, cúi xuống cái hầm mộ trống rỗng kia, nhưng cha chỉ đứng bất động, mặt hằn lên nét khổ đau. “Trời ơi,” cha lại rền rĩ, gần như thì thào. “Ta cứ tưởng ta đã tìm ra đúng chỗ, đúng thời điểm, vậy mà rốt cuộc thì... cha cứ tưởng...”

Cha không nói hết câu vì lúc đó bỗng có tiếng bước chân trong bóng tối vang lên từ gian ngang cổ kính bên cạnh, nơi ánh đèn không thể chiếu đến, một hình bóng hoàn toàn khác hẳn với bất cứ những gì mà bất kỳ ai trong chúng tôi đã từng trông thấy. Một bộ dạng quá đỗi kỳ quái đến độ tôi không thể hét lên cho dù cổ họng không hề nghẹn lại ngay tức khắc. Ngọn đèn lồng trong tay tôi chỉ soi được bàn chân, cẳng chân, một cánh tay và bờ vai chứ không chiếu đến được gương mặt hắn, tôi quá khiếp đảm đến độ không thể đưa ngọn đèn lồng cao hơn. Tôi nhích sát gần cha hơn và Barley cũng vậy, như vậy không ít thì nhiều tất cả chúng tôi cũng đứng sau một rào chắn là cỗ quan tài đá trống rỗng đó.

Hình bóng kia lướt đến gần hơn một chút rồi dừng lại, khuôn mặt vẫn chìm trong bóng tối. Lúc đó, tôi đã có thể nhận ra nó có hình dáng của một người đàn ông nhưng là một kẻ không di chuyển giống như con người. Hai bàn chân giấu kín trong đôi ủng đen chật cứng hoàn toàn chẳng giống bất cứ đôi ủng nào tôi từng nhìn thấy, chúng chỉ vang lên âm thanh đùng đục trên nền đá khi hắn bước tới. Phủ xuống toàn thân hắn là một áo choàng không tay, hoặc có lẽ chỉ là một hình bóng lớn hơn, và đôi chân mạnh mẽ của hắn bọc kín trong hai ống quần nhung đen. Hắn không cao bằng cha, nhưng đôi bờ vai dưới lớp áo choàng nặng nề lại rất rộng và có điểm gì đó trong cái hình dáng lờ mờ kia tạo ấn tượng như hắn cao to hơn. Chắc hẳn chiếc áo choàng có mũ trùm bởi khuôn mặt hắn vẫn chìm hoàn toàn trong bóng tối. Sau những giây phút kinh hãi lúc đầu, giờ tôi đã có thể thấy tay hắn, trắng bệch như xương và nổi bật trên nền quần áo màu sậm, trên một ngón tay là chiếc nhẫn gắn đá quý.

Hắn hiện diện quá thực, quá gần gũi bên chúng tôi đến độ tôi gần như không thở nổi; nhưng rồi tôi bắt đầu cảm thấy nếu buộc được mình đến gần hắn hơn thì tôi có thể thở lại được, và rồi tôi bắt đầu nôn nóng muốn đến gần hơn một chút. Tôi có thể cảm nhận lưỡi dao bạc trong túi áo mình, nhưng tôi sợ không dám chạm đến nó. Một cái gì đó lấp lánh ở nơi chắc hẳn là khuôn mặt hắn - đôi mắt đỏ ngầu? hàm răng, hắn cười chăng? - và rồi hắn thốt lên, phun ra một tràng tiếng nói. Tôi gọi đó là một tràng bởi chưa bao giờ nghe một âm thanh nào như vậy, một dòng tuôn trào từ yết hầu những từ ngữ rất giống như lấy từ nhiều ngôn ngữ khác nhau gộp lại hoặc là từ một thứ ngôn ngữ lạ lẫm nào đó mà tôi chưa bao giờ nghe. Một lúc sau, dòng âm thanh đó tựa như tự phân giải thành những từ tôi có thể hiểu được, và tôi có cảm giác đó là những lời mà tôi đã biết từ trong máu thịt chứ không phải từ đôi tai mình.

Xin chào. Ta chào mừng các ngươi.

Nghe thấy thế, cha như tỉnh lại. Tôi không biết cha tìm đâu ra sức lực để nói. “Cô ấy ở đâu?” cha hét lên. Giọng run run vừa giận dữ vừa sợ hãi.

Ngươi đúng là một học giả đáng nể đấy.

Tôi không hiểu gì cả, nhưng ngay khoảnh khắc đó thân thể tôi muốn tự động di chuyển về phía hắn. Gần như đồng thời ngay lúc đó cha đưa tay ra chộp chặt cánh tay tôi, ngọn đèn lồng chao đảo, những hình bóng khủng khiếp và ánh sáng đèn như nhảy múa quanh chúng tôi. Trong giây phút chớp chớp lòa lòa đó, tôi nhận ra một nét gì đó trên khuôn mặt Dracula, chỉ là hàng râu mép đen cong quặp xuống, một gò má có thể thực sự chỉ còn toàn xương.

Ngươi đúng là kẻ quyết tâm cao nhất so với tất cả. Hãy đến với ta, ta sẽ trao cho ngươi kiến thức của cả vạn đời người.

Tôi không biết, vẫn không biết, làm sao tôi có thể hiểu được hắn, nhưng tôi nghĩ hắn đang mời gọi cha. “Không!” tôi thét lên. Trong khoảnh khắc, tôi quá khiếp đảm trước việc mình vừa thực sự mở miệng nói với cái dáng người kia đến mức đầu óc quay cuồng như không còn ý thức. Tôi có cảm giác hắn đang mỉm cười, dù khuôn mặt hắn đã lại chìm vào bóng tối.

Hãy đến với ta, hoặc để con gái của ngươi đến.

“Cái gì?” cha hỏi tôi, giọng gần như không thể nghe được. Đến lúc đó tôi biết là cha không thể hiểu được tiếng nói của Dracula, và thậm chí có lẽ cũng chẳng nghe được hắn. Cha chỉ hỏi vì tiếng hét của tôi.

Hình dáng kia như im lặng suy nghĩ một lúc. Hắn ngọ nguậy đôi ủng kỳ lạ trên nền đá. Trong hình dạng dưới những thứ trang phục cổ xưa có cái gì đó không chỉ là gớm ghiếc mà còn thanh nhã, một kẻ vốn đã quen với quyền lực.

Ta đã chờ đợi quá lâu một học giả tài ba như ngươi.

Giọng nói đó vẫn nhẹ nhàng nhưng đầy vẻ hăm dọa. Chúng tôi đứng như bị chìm ngập trong một thứ bóng tối phát xuất từ cái hình dáng đen kịt kia.

Hãy tự nguyện đến với ta.

Lúc đó, cha có vẻ như khẽ chồm về phía hắn, vẫn nắm chặt cánh tay tôi. Có vẻ như cha cảm nhận được những gì mình không thể nghe thấy. Dracula co vai, chuyển sức nặng kinh khủng qua bên chân kia. Bóng dáng thân hình hắn giống như sự hiện diện thực sự của thần chết, vậy mà hắn vẫn sống và đang di chuyển.

Đừng để ta chờ đợi. Nếu ngươi không đến, ta sẽ tìm đến ngươi.

Lúc đó, có vẻ như cha gom hết tất cả sức lực của mình. “Cô ấy ở đâu?” cha thét lên. “Helen đâu?”

Dáng người kia bật lên, và tôi nhìn thấy răng, xương, mắt hắn ánh lóe lên giận dữ, bóng tối từ chiếc mũ trùm lại đong đưa trên mặt hắn, trong cái bàn tay không phải của con người đang nắm chặt lại trong vùng rìa ánh sáng đèn. Ngay cả trước khi hắn chuyển động, tôi đã có cảm giác khủng khiếp rằng hắn như một con thú đang thu mình để chuẩn bị ra đòn, chồm tới chúng tôi, rồi bỗng có tiếng bước chân trên cầu thang tối mờ mờ phía sau hắn và một ánh chớp do sự chuyển động mà chúng tôi chỉ cảm nhận trong bầu không khí vì không thể nhìn thấy. Tôi đưa cao ngọn đèn lồng với một tiếng thét nghe như thể vọng đến từ đâu đó bên ngoài tôi: tôi đã nhìn thấy khuôn mặt Dracula - một gương mặt không bao giờ có thể quên được - và rồi, kinh ngạc tột độ, tôi nhìn thấy một dáng người khác, đứng ngay sau lưng hắn. Người thứ hai này dường như vừa đi xuống cầu thang, một hình dáng đen và lờ mờ như hắn, nhưng vạm vỡ hơn, mang vóc dáng của một người sống. Người đó di chuyển rất nhanh, cầm một vật gì đó sáng lóe trong bàn tay đang giương lên. Nhưng Dracula đã cảm nhận được sự hiện diện của người đó, hắn xoay người vung tay xô bật người kia văng ra. Sức mạnh của Dracula chắc hẳn vô cùng kinh khủng, bởi bóng dáng mạnh mẽ của con người kia đã lập tức văng mạnh vào vách tường hầm mộ. Chúng ta nghe một tiếng uỵch câm lặng và rồi là một tiếng rên. Dracula quay lại, trong một vẻ điên cuồng khủng khiếp, trước tiên là về phía chúng tôi và sau đó là về con người kia, giờ đang rên rỉ.

Đột nhiên lại có tiếng bước chân trên cầu thang, lần này là những bước chân nhẹ nhàng, đi cùng là một chùm ánh sáng của ngọn đèn pin cực mạnh. Dracula bị mất thăng bằng, hắn xoay người quá trễ, một hình ảnh lờ mờ đen kịt. Người đó giương đèn chớp nhoáng quan sát hiện trường, rồi nâng súng bắn ngay.

Dracula không di chuyển giống như tôi đã nghĩ một lát trước đây: lao đến phía trên cỗ quan tài đá về hướng chúng tôi. Thay vì vậy hắn ngã xuống, trước tiên là ngã vật về phía sau, vì vậy khuôn mặt tái nhợt như tượng của hắn lại một lần nữa bị phơi bày dù chỉ trong khoảnh khắc, và sau đó là gục về phía trước, về phía trước, cho đến lúc có một tiếng thịch trên nền đá, một âm thanh khô khốc như tiếng xương gãy nát. Hắn nằm đó, co giật một lát và sau cùng bất động hẳn. Rồi thân xác hắn dường như biến thành tro bụi, không còn gì cả, thậm chí những trang phục cổ xưa kia cũng đang mục rã chung quanh hắn, tan biến trong ánh sáng chập chờn.

Cha buông tay tôi ra, chạy về hướng chùm ánh sáng đèn, vòng qua cái đống trên sàn. “Helen,” cha kêu lên - cũng có thể đó là tiếng khóc, hoặc tiếng thì thầm.

Rồi Barley cũng lao đến, chộp lấy ngọn đèn lồng của cha. Một người đàn ông to lớn nằm sóng soài trên nền đá, lưỡi dao găm bên cạnh. “Ôi, Elsie,” một giọng tiếng Anh run rẩy thốt lên. Đầu ông ta rỉ một ít máu đen bầm, và ngay cả khi tất cả chúng tôi đang kinh hoàng sững sờ nhìn vào, đôi mắt ông ta vẫn bất động.

Barley vật mình xuống đất bên cạnh hình dáng tả tơi kia. Có vẻ như anh đang bị sự ngạc nhiên lẫn nỗi khổ đau bóp nghẹt. “Thầy James phải không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 79


Khách sạn ở Les Bains rất tự hào về căn phòng ách có trần cao vút, được trang bị lò sưởi của mình, và tay quản lý ách sạn đã cho đốt lửa lò sưởi và nhất quyết đóng cửa phòng ách ông cho những vị ách ác vào. “Chuyến đi đến tu viện đã làm các bạn mệt mỏi,” ông ta chỉ nói vậy i đặt chai rượu cô nhắc gần bên cha, kèm ly - năm chiếc, tôi chú ý, tựa như người bạn vắng mặt của chúng tôi vẫn hiện diện ở đấy để cùng uống vậy - nhưng tôi nhận ra từ ánh mắt mà cha trao đổi với ông ấy rằng họ trao đổi nhiều hơn thế.

Suốt buổi chiều viên quản lý ách sạn đã gọi điện liên tục và bằng cách nào đó đã dàn xếp ổn thỏa với cảnh sát, bọn họ chỉ thẩm vấn chúng tôi tại ách sạn rồi để chúng tôi tự do ngay trước ánh mắt hiền từ của ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy cũng đã lo liệu việc gọi một nhà xác hoặc một nhà đòn, bất kỳ nơi nào người ta hay gọi đến ở một làng quê Pháp. Bây giờ, i mọi viên chức đều đã ra về, tôi ngồi với Helen trên chiếc trường kỹ thô kệch bọc lụa Đa-mát, cứ vài phút là mẹ lại đưa tay vuốt tóc tôi, còn tôi chỉ cố ông hình dung ra hình hài cứng ngắc và gương mặt nhân từ của thầy James đang nằm im lìm dưới tấm vải phủ. Cha ngồi trên một ghế bành gần bên lò sưởi và đăm đăm nhìn mẹ, nhìn chúng tôi. Barley gác đôi chân dài ngoẵng lên chiếc ghế dài bọc đệm và đang cố gắng, tôi nghĩ, đừng nhìn chăm chăm vào chai rượu cô nhắc cho đến i cha như chợt tỉnh lại và rót cho chúng tôi mỗi người một ly. Đôi mắt Barley đỏ lên vì óc thầm, nhưng có vẻ anh muốn được yên tĩnh một mình. Khi ngắm nhìn anh, bất giác mắt tôi cũng ứa đầy nước mắt.

Cha nhìn sang Barley, và trong một thoáng tôi đã nghĩ chắc hẳn cha cũng sắp óc. “Ông ấy rất can đảm,” cha nói, giọng từ tốn. “Anh nên biết chính sự tấn công của ông ấy đã tạo cơ hội cho Helen có thể bắn được như vậy. Cô ấy ông thể bắn chính xác vào tim hắn nếu như tên quái vật đó ông bị làm cho mất tập trung. Tôi nghĩ thầy James, trong những oảnh ắc sau cùng kia cũng nhận ra sự ác biệt do mình tạo ra. Và ông ấy đã trả được thù cho người ông thương yêu nhất - cũng như cho nhiều người ác.” Barley gật đầu nhưng vẫn chưa thể nói gì, một khoảng lặng ngắn ngủi giữa chúng tôi.

“Em đã hứa sẽ nói hết mọi chuyện khi chúng ta có thể ngồi yên ổn với nhau,” cuối cùng Helen cũng đặt ly rượu của mình xuống và lên tiếng.

“Cô chú chắc là ông muốn cháu để gia đình cô chú ở lại với nhau chứ?” Barley hỏi, vẻ miễn cưỡng.

Helen bật cười, tôi ngạc nhiên vì âm điệu tiếng cười của mẹ, ác hẳn với giọng nói của bà. Ngay trong gian phòng này, nơi gần như đong đầy ổ đau, tiếng cười ấy dường như vẫn ông hề lạc điệu. “Hẳn rồi, cháu yêu ạ,” mẹ nói với Barley. “Chúng ta ông thể nói chuyện mà ông có cháu.” Tôi thích giọng nói tiếng Anh của mẹ, nghe hơi lơ lớ nhưng ngọt ngào, một giọng nói tôi nghĩ mình đã quen thuộc từ lâu đến nỗi ông nhớ nổi từ lúc nào. Mẹ cao ráo, thanh mảnh, trong chiếc đầm màu đen lỗi mốt, một vòng tóc đã ngả bạc vấn gọn quanh đầu. Gương mặt bà thật ấn tượng - mệt mỏi, hằn vết năm tháng, chỉ còn đôi mắt vẫn trẻ trung. Lần nào quay lại thấy mẹ tôi cũng xúc động vô bờ - ông chỉ vì mẹ đang ở đó, bằng xương bằng thịt, mà còn vì tôi chỉ luôn mường tượng hình ảnh một Helen tươi trẻ. Trong tưởng tượng của mình, tôi chưa bao giờ tính đến những năm tháng mẹ xa cách chúng tôi.

“Kể lại sẽ lâu, rất lâu đấy,” mẹ nhẹ nhàng nói, “nhưng bây giờ, ít nhất tôi có thể nói một vài điều. Trước tiên, anh Paul, em muốn nói lời xin lỗi, vì em đã gây ra nỗi đau ổ nhường vậy cho anh, em biết.” Qua ánh lửa, ánh mắt mẹ nhìn cha tha thiết. Barley cựa quậy, vẻ lúng túng, nhưng mẹ đã trấn an anh bằng một cử chỉ cương quyết. “Em cũng gây ra cho chính mình một nỗi ổ đau ông kém. Thứ hai, em nên nói với anh từ lâu rồi, nhưng bây giờ, có con gái của chúng ta” - nụ cười của mẹ ngọt ngào cùng những giọt nước mắt long lanh trong mắt - “con gái chúng ta và những người bạn của chúng ta làm chứng, em mới nói: Em vẫn còn sống, ông phải là ma cà rồng. Hắn chưa bao giờ chạm được vào em lần thứ ba.”

Tôi muốn nhìn cha, nhưng thậm chí ông thể xoay nổi cái đầu. Đó là oảnh ắc riêng tư của cha. Dù vậy, tôi vẫn nghe tiếng cha ẽ nức nở.

Mẹ dừng lại, có vẻ như để lấy hơi. “Anh Paul, khi chúng ta thăm tu viện Thánh Matthieu và em biết được về tục lệ của họ - chuyện cha tu viện trưởng sống dậy sau i chết và Sư huynh Kiril phải canh chừng ông ta - em đã tràn đầy tuyệt vọng, nhưng cũng nổi cơn hiếu kỳ kinh ủng. Em cảm thấy việc mình muốn đến thăm nơi này, át khao được tới đó, ông chỉ là sự trùng hợp. Trước i chúng ta đi Pháp, em đã nghiên cứu thêm ở New York - mà ông cho anh biết, anh Paul ạ - với hy vọng tìm thấy địa điểm bí mật thứ hai của Dracula và trả thù cho cái chết của cha em. Nhưng em đã ông tìm thấy bất cứ chi tiết nào về tu viện Thánh Matthieu. Nỗi ao át muốn đến đó của em chỉ bắt đầu sau i đọc về nó trong cuốn cẩm nang hướng dẫn của anh. Chỉ là sự khao át, ông dựa trên cơ sở oa học nào.”

Mẹ nhìn quanh chúng tôi một lượt, gương mặt xinh đẹp nhìn nghiêng trông ủ rũ. “Em lại tiếp tục nghiên cứu ở New York vì cảm thấy mình là nguyên nhân gây nên cái chết của cha em - chỉ vì cái ước vọng muốn vượt trội hơn ông ấy, muốn lật tẩy sự phản bội của ông ấy với mẹ em - và em đã ông thể chịu đựng nổi ý nghĩ đó. Rồi sau đó em bắt đầu cảm thấy đó là do dòng máu ác độc của em - dòng dõi Dracula - đã iến em hành động như vậy, và em nhận ra rằng mình đã truyền dòng máu đó cho con mình, ngay cả khi có vẻ như em đã hồi phục sau i bị ma cà rồng cắn.”

Mẹ dừng lại vuốt lên má tôi, ấp tay tôi trong tay mẹ. Tôi run lên i mẹ chạm vào mình, run lên bởi sự gần gũi với người phụ nữ kỳ lạ nhưng thân thiết đang tựa vai vào tôi trên chiếc trường kỷ này. “Càng lúc em càng cảm thấy mình ông xứng đáng, và đến i nghe lời giải thích của Sư huynh Kiril về truyền thuyết tại tu viện Thánh Matthieu, em cảm thấy mình ông thể bình yên cho đến i biết được nhiều hơn nữa. Em tin là nếu tìm được Dracula và hủy diệt được hắn, em có thể lành mạnh hoàn toàn, trở thành một người mẹ tốt, một con người với một cuộc sống mới.

“Anh Paul, sau i anh ngủ say, em đã ra ngoài u hành lang. Em nghĩ đến việc trở xuống u hầm mộ kia với ẩu súng của mình, cố mở cỗ quan tài đó ra, nhưng em nghĩ mình không thể làm việc đó một mình. Trong i phân vân ông biết có nên đánh thức anh dậy xin anh giúp một tay hay ông, em ngồi trên chiếc ghế băng dài nhìn qua vách đá. Em biết mình ông nên ở đó một mình, nhưng em cứ bị lôi kéo đến chỗ đó. Ánh trăng rất đẹp và sương mù đã trườn lên dọc theo vách núi.”

Đôi mắt Helen bỗng mở to một cách kỳ lạ. “Khi ngồi đó, em cảm thấy gai ốc nổi trên lưng mình, tựa như có một cái gì đó đứng ngay sau lưng. Em quay phắt lại, và bên kia dãy hành lang, nơi ánh trăng ông chiếu đến, em dường như thấy một bóng người đen kịt. Mặt hắn chìm trong bóng tối, nhưng em có thể cảm thấy, hơn là nhìn thấy, ánh mắt dữ dội như đang chụp lên người em. Đó chỉ là việc xảy ra chỉ một oảnh ắc trước i hắn xòe cánh ra và bay đến bên em, mà em thì hoàn toàn đơn độc bên cái lan can đó. Đột nhiên, dường như em nghe có giọng nói, những lời thống ổ trong chính đầu óc em bảo rằng em ông bao giờ có thể đánh bại được Dracula, rằng đây là thế giới của hắn, ông phải của em. Chúng bảo em rằng hãy nhảy xuống trong i vẫn còn được là chính mình, vậy là em đứng dậy như một người đang mơ và nhảy xuống.”

Lúc này mẹ đã ngồi rất thẳng, nhìn vào ngọn lửa, cha đưa tay che mặt. “Em muốn để mình rơi tự do xuống, như Lucifer, như một thiên thần, nhưng em ông ngờ đến những tảng đá kia. Em đã rơi vào chúng, đầu và tay chân bị trầy xước, nhưng ở đó cũng có một thảm cỏ nên cú rơi đã ông làm em mất mạng hoặc gãy mất cái xương nào. Một vài giờ sau, em nghĩ vậy, em đã tỉnh dậy giữa trời đêm lạnh giá, và cảm thấy máu đang rỉ ra ắp mặt khắp cổ, thấy trên đầu mình mảnh trăng đang lặng lờ đứng yên còn bên dưới là vách đá dựng đứng. Lạy Chúa, nếu em mà lăn xuống thay vì ngất đi thì...” Mẹ bỏ dở câu nói. “Em biết em ông thể giải thích với anh những gì em cố thực hiện, và nỗi xấu hổ vì việc mình làm đã choán lấy em gần như một cơn điên. Sau sự việc đó, em cảm thấy mình ông bao giờ có thể xứng đáng với anh, với con gái chúng ta. Khi có thể gượng dậy, em đứng lên và nhận thấy mình đã ông chảy máu quá nhiều. Dù vậy, em thấy rất đau nhức, em ông bị gãy vỡ bất kỳ bộ phận nào và có thể thấy hắn đã ông nhào xuống vồ lấy em - chắc hẳn i em nhảy xuống hắn đã từ bỏ em vì mất dấu. Em thấy mình yếu kinh ủng và đi lại rất ó ăn, nhưng trong bóng tối em đã lần mò quanh những bức tường tu viện rồi xuống được con đường.”

Tôi nghĩ có thể cha sẽ lại rơi nước mắt, nhưng cha vẫn trầm lặng, ánh mắt chưa bao giờ rời ỏi đôi mắt mẹ.

“Em đã trở về với thế giới. Đó ông phải là một việc ó ăn. Em đã mang theo cái xách tay của mình - một thói quen, em nghĩ vậy, chỉ bởi vì trong đó có ẩu súng và những viên đạn bạc. Em nhớ mình đã suýt bật cười i nhận ra chiếc xách tay vẫn còn trên tay, trên vách đá cheo leo đó. Em cũng cất tiền trong đó, rất nhiều tiền trong lớp vải lót, và em đã sử dụng số tiền đó rất thận trọng. Mẹ em bao giờ cũng mang theo bên mình tất cả tiền bạc của bà. Em nghĩ đó là thói quen của những người nông dân trong làng bà ở. Bà chẳng bao giờ tin tưởng ngân hàng. Mãi sau này, i cần nhiều hơn, em mới rút một số từ tài oản của chúng ta và chuyển sang một ngân hàng Thụy Sĩ. Sau đó, em đã rời Thụy Sĩ ngay để phòng anh sẽ cố lần ra dấu vết của em, anh Paul, hãy tha thứ cho em.” Mẹ bất chợt khóc òa, siết chặt các ngón tay tôi, và tôi biết mẹ có ý muốn nói đến sự trốn chạy của mình chứ ông phải là số tiền kia.

Cha đan hai bàn tay vào nhau. “Lần rút tiền đó đã iến anh hy vọng vài tháng, hay ít nhất cũng đặt một dấu hỏi trong đầu, nhưng ngân hàng đã ông thể lần ra dấu vết. Anh đã được nhận lại đúng số tiền ấy.” Nhưng vẫn ông thể tìm ra em, cha đã ông nói dù hẳn cha có thể nói thêm như vậy. Mặt cha bừng lên, vừa mệt mỏi vừa hạnh phúc.

Mẹ nhắm mắt. “Dù thế nào chăng nữa, em đã tìm được một chỗ để trú ngụ vài ngày, cách xa Les Bains, cho đến khi những vết thương lành lại. Em đã giấu mình cho đến lúc có thể trở lại với thế giới.”

Những ngón tay mẹ vô tình đưa lên cổ và tôi nhận ra vết sẹo nhỏ màu trắng mình đã nhiều lần để ý. “Từ trong thâm tâm em biết Dracula vẫn chưa quên em, và có thể hắn lại đang lùng sục. Em bỏ tỏi đầy túi và cố giữ vững tinh thần. Em mang kè kè theo người súng, dao găm, thánh giá. Đi đâu em cũng dừng chân ở nhà thờ để xin được ban phước lành, mặc dù đôi khi bước vào cửa nhà thờ thôi cũng đã iến vết thương cũ ở cổ em giần giật. Bao giờ em cũng thận trọng che kín cổ lại. Sau cùng, em đã cắt ngắn và nhuộm tóc, thay đổi trang phục, đeo kính râm. Một thời gian dài, em đã trú tại những nơi cách xa thành phố, và dần dần bắt đầu đến những trung tâm lưu trữ tư liệu, em vẫn luôn muốn nghiên cứu ở những nơi đó.

“Em rất tỉ mỉ. Em đã phát hiện hắn ở ắp nơi mình đến - ở Rome vào thập niên 1620, ở Florence dưới thời Medici_(1), ở Madrid, ở Paris suốt thời kỳ Cách mạng. Đôi i là bản báo cáo về một bệnh dịch quái lạ, thỉnh thoảng là một cuộc bùng phát hiện tượng ma cà rồng hút máu trong một nghĩa trang lớn - như tại nghĩa trang Cha Lachaise chẳng hạn. Có vẻ như bao giờ hắn cũng ưa chuộng các học giả chuyên về tôn giáo, các chuyên viên lưu trữ văn thư, quản thủ thư viện, các nhà sử học - bất kỳ ai nghiên cứu, đụng chạm đến quá ứ qua sách vở. Em đã cố suy luận địa điểm hầm mộ mới của hắn từ những hoạt động của hắn, nơi hắn đã giấu mình sau i chúng ta ui mở hầm mộ của hắn ở Sveti Georgi, nhưng em đã ông phát hiện được bất kỳ quy luật nào. Em nghĩ i đã tiêu diệt được hắn, em sẽ quay về mà nói với anh là thế giới đã trở nên an toàn biết bao. Em sẽ giành lại anh. Em đã sống trong nỗi sợ hãi là hắn sẽ tìm thấy em trước i em có thể phát hiện ra hắn. Và đi đến bất kỳ nơi đâu em cũng nhớ đến anh - ôi, em đã cô đơn biết bao.”

Mẹ lại cầm lấy và vuốt ve tay tôi như một người xem bói, và tôi chợt cảm thấy, dù ông muốn, trào dâng một cơn giận dỗi - về tất cả những tháng năm thiếu vắng mẹ. “Cuối cùng, em nghĩ cho dù em ông xứng đáng, em vẫn muốn được trông thấy anh một chốc lát. Cả anh và con. Paul ạ, em đã đọc trên báo về quỹ tài trợ của anh và biết anh ở Amsterdam. Cũng chẳng ó ăn gì để tìm thấy anh, hoặc ngồi trong một quán cà phê gần văn phòng anh, hoặc dõi theo anh trong một hai chuyến đi - rất cẩn thận - rất, rất thận trọng. Em ông bao giờ để mình phải mặt đối mặt hoặc với anh hoặc với con, vì sợ anh và con sẽ nhận ra em. Em chỉ đến rồi đi. Nếu việc nghiên cứu êm trôi, em lại cho phép mình về thăm Amsterdam và từ đó dõi theo anh. Rồi một ngày kia - ở Ý, tại Monteperduto - em nhìn thấy hắn trên quảng trường. Hắn cũng đang theo dõi, dòm chừng anh. Đó là lúc em nhận ra hắn đã đủ mạnh để thỉnh thoảng xuất hiện giữa ánh sáng ban ngày. Em biết anh đang gặp nguy hiểm, nhưng em nghĩ nếu em đến gặp và cảnh báo với anh, có thể em sẽ mang mối nguy hiểm kia đến gần hơn. Xét cho cùng, có thể hắn đang lùng sục em chứ ông phải anh, hoặc có thể hắn đang cố gắng lần ra em qua anh. Thực là một sự ổ tâm. Em biết chắc hẳn anh lại đang tiến hành nghiên cứu một cái gì đó - chắc hẳn anh lại đang quan tâm đến hắn, Paul ạ - để lôi kéo sự chú ý của hắn. Em ông biết phải quyết định thế nào.”

“Đó là do con - lỗi của con,” tôi thì thầm, siết chặt bàn tay bình dị và hằn vết nhăn của mẹ. “Con tìm thấy cuốn sách đó.”

Mẹ nhìn xuống tôi giây lát, đầu nghiêng sang bên. “Con là nhà sử học,” một lát sau mẹ thốt lên. Đó ông phải là một câu hỏi. Rồi mẹ thở dài. “Trong vài năm, mẹ viết bưu thiếp cho con, con gái ạ - mà ông gửi, tất nhiên là vậy. Một ngày nọ, mẹ bỗng nghĩ mẹ có thể liên lạc với cha và con từ xa, để con và cha biết mẹ còn sống mà ông để bất kỳ ai ác nhìn thấy mẹ. Mẹ đã gửi các tấm bưu thiếp về Amsterdam, đến nhà của cha và con, trong một bưu kiện đề tên cha.”

Lần này tôi quay sang cha với vẻ ngạc nhiên pha lẫn giận dỗi. Cha nói với tôi, giọng buồn rầu. “Cha cảm thấy chưa thể đưa chúng cho con, ông thể làm con xáo động mà lại ông thể tìm ra mẹ cho con. Con có thể hình dung đối với cha thời kỳ ấy tồi tệ thế nào.” Tôi chợt nhớ lại vẻ mệt mỏi ủng iếp của cha ở Athens, buổi tối mà tôi nhìn thấy cha vật vờ gần như đã chết trong phòng làm việc. Nhưng giờ cha đang cười với chúng tôi, tôi nhận ra giờ đây có lẽ cha sẽ mỉm cười hàng này.

“Ra vậy,” mẹ cũng mỉm cười. Tôi nhìn thấy có những nếp nhăn hằn sâu quanh miệng mẹ, những vết chân chim đầy ở óe mắt.

“Và anh bắt đầu tìm kiếm em - cả hắn nữa.” Nụ cười của cha bỗng trở nên nghiêm trang.

Mẹ nhìn cha đăm đăm. “Và rồi em nhận ra là em phải dừng việc nghiên cứu lại để chỉ chuyên tâm theo dõi hắn trong khi hắn đang theo dõi anh. Em đã thấy anh vài lần, đã thấy anh lại lao vào nghiên cứu - đã thấy anh vào rồi ra các thư viện, em ước gì có thể nói hết với anh những gì chính em đã biết. Rồi sau đó anh đến Oxford. Trong quá trình nghiên cứu của mình em chưa từng đến Oxford, dù đã đọc và biết là ở đấy đã có một đợt bùng phát nạn ma cà rồng hút máu vào thời Trung cổ. Và ở Oxford anh đã để mở một cuốn sách...”

“Cha đã gấp sách lại i nhìn thấy con kia mà,” tôi ngắt lời mẹ.

“Và cháu nữa,” Barley lên tiếng với nụ cười tươi rói. Đến lúc đó anh mới chịu góp lời, tôi cảm thấy nhẹ người i trông anh vẫn còn có thể vui vẻ.

“Chà, lần đầu tiên xem cuốn sách kia, cha đã quên gấp nó lại.” Mẹ gần như nháy mắt với chúng tôi.

“Em nói đúng,” cha tiếp lời. “Ừ, nghĩ lại thì đúng là anh đã quên thật.”

Mẹ quay sang cha cùng với nụ cười thật dễ thương. “Anh có biết trước đó em chưa bao giờ nhìn thấy cuốn sách đó ông? Cuốn Ma cà rồng thời Trung cổ phải ông?”

“Một tác phẩm kinh điển,” cha trả lời. “Nhưng lại là một cuốn sách rất hiếm.”

“Cháu nghĩ thầy James hẳn cũng đã xem cuốn đó,” Barley chậm rãi xen vào. “Cô chú biết đấy, cháu thấy thầy ấy ở đó sau i bất ngờ nhìn thấy chú đang đọc cuốn sách.” Cha có vẻ như vẫn chưa hiểu. “Vâng,” Barley tiếp tục. “Cháu đã bỏ quên áo mưa ở sảnh chính thư viện và oảng gần một tiếng sau mới trở lại lấy. Và cháu đã nhìn thấy thầy James bước ra ỏi hốc tường trên ban công đó, nhưng thầy ấy ông nhìn thấy cháu. Cháu nghĩ thầy trông có vẻ cực kỳ lo lắng, giống như đang phải chịu một nỗi thống ổ và quẫn trí nào đó. Cháu nhớ đến điều đó và đã quyết định gọi cho thầy ấy.”

“Anh gọi cho thầy James?” Tôi ngạc nhiên, nhưng ngay lập tức cảm thấy tức giận. “Lúc nào? Tại sao anh làm vậy?”

“Anh đã gọi cho thầy ấy tại Paris bởi chợt nhớ lại một chuyện,” Barley trả lời gọn bâng, duỗi thẳng cặp giò. Tôi chợt muốn nhào qua ôm choàng quanh cổ anh, nhưng đó là lúc ông có cha mẹ kia. Barley cũng nhìn tôi. “Trên tàu hỏa, anh đã nói với em là anh đang cố nhớ lại một chuyện, một chuyện liên quan đến thầy James, và i đến Paris thì anh nhớ ra. Có lần, anh đã nhìn thấy trên bàn làm việc của thầy James một lá thư, trong lúc ông ấy loại bỏ bớt một số giấy tờ - thực ra là một bì thư, anh thích con tem trên bì thư đó nên đã nhìn kỹ hơn một chút.

“Lá thư gửi từ Thổ Nhĩ Kỳ, trông rất cũ kỹ - chi tiết đó iến anh nhìn đến con tem - chậc, dấu bưu điện cả hai mươi năm trước, người gửi là một ông giáo sư Bora nào đó, và anh thầm nghĩ một ngày nào đó mình cũng sẽ có một cái bàn làm việc bự như vậy và nhận thư từ ắp nơi trên thế giới. Cái tên Bora cứ ám ảnh anh, thậm chí đến bây giờ - nó nghe có vẻ kỳ cục làm sao ấy. Dĩ nhiên, anh đâu có mở và đọc lá thư đó,” Barley vội nói thêm. “Anh chẳng bao giờ làm vậy.”

“Dĩ nhiên là ông rồi.” Cha hừ mũi, nhưng tôi nghĩ mắt cha đang ngời lên vẻ trìu mến.

“Vâng. Khi xuống tàu ở Paris, anh đã nhìn thấy một ông lão trên sân ga, một người Hồi giáo, anh đoán vậy, đội một chiếc mũ màu đỏ sậm có một quả núm tua dài, mặc áo thụng dài, giống như một ông tổng trấn Ottoman, và anh chợt nhớ đến lá thư đó. Rồi anh lại chợt nhớ đến câu chuyện của cha em - em biết đấy, cái tên của ông giáo sư Thổ Nhĩ Kỳ” - anh nhìn tôi với ánh mắt ảm đạm - “và đã đến buồng điện thoại. Anh nhận ra là theo một cách nào đó, thầy James vẫn còn đang theo đuổi cuộc săn lùng này.”

“Thế lúc đó em ở đâu?” tôi hỏi, không giấu nổi sự ganh tị.

“Trong phòng tắm, chắc thế. Các cô gái bao giờ chẳng ở trong phòng tắm.” Có thể lúc đó anh cũng muốn gửi cho tôi một nụ hôn gió, nhưng phải ông có mặt người ác kia. “Qua điện thoại, thầy James có vẻ rất sôi nổi với anh, nhưng lúc anh kể những chuyện đang xảy ra thì thầy ấy bảo thầy sẽ nhớ ơn anh mãi mãi.” Đôi môi đỏ thắm của Barley ẽ run run. “Anh đã ông dám hỏi thầy có ý muốn nói gì, nhưng giờ thì anh đã biết vì sao.”

“Phải, chúng ta đã biết,” cha buồn rầu lặp lại. “Chắc hẳn ông ấy cũng tính toán từ cuốn sách cổ kia, và luận ra được đã mười sáu năm kể từ tuần lễ Dracula thăm viếng tu viện Thánh Matthieu lần sau cùng. Sau đó, chắc hẳn ông ấy nhận ra ta đang đi đâu. Thực ra có thể i lên cái hốc tường chứa sách quý hiếm đó, ông ấy chỉ có ý xem ta có ổn không - ở Oxford đã nhiều lần ông ấy theo bên ta, yêu cầu ta cho ông biết ta có gặp rắc rối gì ông, tỏ ra lo lắng cho sức ỏe và tinh thần của ta. Ta ông muốn lôi kéo ông ấy vào chuyện này, vì đã biết nguy hiểm như thế nào.”

Mẹ gật đầu. “Phải đấy. Em nghĩ chắc hẳn em đã có mặt ở đó ngay trước i ông ấy đến. Em tìm thấy cuốn sách để mở và tự tính toán lấy, rồi nghe thấy có ai đó trên cầu thang nên đã lẻn ra theo hướng ác. Paul ạ, như người bạn của chúng ta, em hiểu ra rằng anh sẽ đến tu viện Thánh Matthieu để cố tìm em và con quỷ kia, nên đã lập tức đi theo càng nhanh càng tốt. Nhưng em ông biết anh đi chuyến tàu nào, và đương nhiên em cũng ông ngờ rằng con gái của chúng ta cũng cố đi theo anh.”

“Con đã nhìn thấy mẹ,” tôi sững sờ thốt lên. Mẹ nhìn tôi chằm chằm, và chúng tôi để mặc giây phút đó trôi qua trong im lặng. Sẽ có nhiều thời gian hơn để trò chuyện. Tôi có thể nhận thấy mẹ đã mệt, tất cả chúng tôi đều đã mệt nhừ tận xương cốt, thậm chí trong buổi tối này chúng tôi còn chưa thể nói được với nhau chiến thắng này có ý nghĩa ra sao. Liệu thế giới đã bình yên hơn bởi chúng tôi đã đoàn tụ bên nhau, hay bởi vì cuối cùng hắn đã biến ỏi trái đất này? Tôi nhìn vào một tương lai mà trước đây mình chưa bao giờ biết tới. Mẹ Helen sẽ sống với chúng tôi, sẽ là người thổi tắt nến trong phòng ăn. Mẹ sẽ đến dự lễ tốt nghiệp trung học và ngày đầu tiên học đại học của tôi, sẽ giúp tôi mặc áo cưới trong ngày hôn lễ, nếu tôi lấy chồng. Sau bữa cơm tối, mẹ sẽ đọc truyện cho chúng tôi nghe trong căn phòng tiền sảnh, sẽ hòa nhập lại với thế giới và sẽ đi dạy học lại, mẹ sẽ dẫn tôi mua sắm giày và quần áo, sẽ quàng lấy hông tôi và cùng bước đi.

Khi ấy tôi đã ông thể nào biết được rồi đây đôi lúc mẹ sẽ phiêu du ỏi chúng tôi, không nói gì hàng tiếng đồng hồ, mân mê ngón tay lên cổ, và một cơn bạo bệnh sẽ mang mẹ ra đi mãi mãi chín năm sau đó - quá sớm, i chúng tôi còn chưa kịp quen với sự trở lại của mẹ, dù có thể chúng tôi sẽ chẳng bao giờ quen thuộc sự trở lại ấy, chẳng bao giờ thấy chán sự có mặt muộn màng của mẹ. Tôi đã ông thể thấy trước rằng món quà cuối cùng dành cho chúng tôi là biết chắc được mẹ đã an nghỉ, trong i chuyện có thể xảy ra theo hướng ác, và rằng sự chắc chắn ấy sẽ iến tâm can chúng tôi vừa tan nát vừa nguôi ngoai. Nếu như tôi đoán trước được chút nào trong tất cả những điều này, có thể tôi đã biết rằng cha sẽ biến mất nguyên cả ngày hôm sau tang lễ của mẹ, cùng với lưỡi dao găm nhỏ vẫn để trong chiếc tủ ở phòng ách, và rằng tôi sẽ ông bao giờ, ông bao giờ hỏi cha về việc đó.

Nhưng bên cạnh cái lò sưởi ở thị trấn Les Bains kia, những năm tháng mà chúng tôi sẽ sống với mẹ vẫn đang trải dài phía trước trong niềm hạnh phúc vô tận. Những năm tháng đó chỉ bắt đầu vài phút sau đó i cha đứng dậy hôn từ giã tôi, nồng nhiệt bắt tay Barley tuy chỉ là cái bắt tay ngắn ngủi, và đỡ mẹ đứng lên ỏi trường kỷ. “Đi nào,” cha nói, mẹ dựa vào cha, câu chuyện của mẹ giờ đã qua, gương mặt mẹ vừa mệt mỏi vừa tươi vui. Cha nắm lấy tay mẹ. “Đi ngủ thôi.”

Chú thích:

1. Tên đầy đủ Cosimo I dé Medici (1519 - 1574), Đệ nhất Công tước xứ Tuscany, trở thành lãnh chúa cai trị vùng Florence và Tuscany bằng một chính sách tàn bạo, chuyên quyền độc đoán.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom