Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


“Sáng hôm sau, khi thức dậy, cha thấy mình đang nằm ngửa trên chiếc giường nhỏ cứng ngắc, mắt trừng trừng nhìn những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, một lúc lâu vẫn không thể nhớ ra mình đang ở đâu. Đó là một cảm giác khó chịu; cha thấy mình như đang trôi bồng bềnh, xa cách với quê nhà nhiều hơn mình tưởng, không thể nhớ ra nơi đây là New York, Istanbul, Budapest, hay một thành phố nào khác. Cha có cảm giác vừa trải qua một cơn ác mộng ngay trước lúc thức giấc. Một cơn nhói đau trong lòng làm cha nhớ đến sự vắng mặt của thầy Rossi, cảm giác thường đến với cha trước tiên hàng sáng, rồi cha băn khoăn tự hỏi liệu có phải giấc mơ vừa xong đã đưa cha đến một nơi chốn khắc nghiệt nào đó, nơi nếu cha ở lại lâu hơn thì có thể cha đã tìm được thầy?

“Cha thấy Helen đang ngồi ăn điểm tâm trong phòng ăn của khách sạn với một tờ nhật báo Hungary mở rộng trước mặt - những dòng chữ in tiếng Hung ngay lập Hức khiến cha thấy tuyệt vọng vì không thể hiểu dù chỉ một từ tiêu đề. Cô chào cha bằng một cái vẫy tay vui vẻ. Cảm giác kết hợp mang lại từ giấc mơ mụ mị kia, những dòng tiêu đề này và bài thuyết trình sắp tới hẳn đang lộ ra trên mặt cha, bởi cô nhìn cha với ánh mắt giễu cợt khi cha đến gần. ‘Sao mặt anh bí xị quá vậy? Chắc lại đang nghĩ đến những trò tàn bạo của người Ottoman chứ gì?’

“ ‘Ồ, không. Tôi chỉ đang nghĩ đến các cuộc hội nghị quốc tế thôi.’ Cha ngồi xuống và tự với tay lấy một chiếc khăn ăn trắng và giỏ bánh mì của cô. Có vẻ như khách sạn này, bất chấp toàn bộ vẻ tồi tàn của nó, vẫn có những chiếc khăn trải bàn và khăn ăn đặc biệt trắng không tì vết. Món bánh mì bơ và mứt dâu rất tuyệt, cà phê được mang ra vài phút sau đó cũng vậy. Chẳng có gì cay đắng ở đây.

“ ‘Đừng lo,’ Helen nói, giọng vỗ về. ‘Anh sắp sửa…’

“ ‘Làm cho người ta khoái chí tử chứ gì?’ cha ngắt lời cô.

“Cô bật cười, nói, ‘Anh đang giúp tôi trau dồi vốn tiếng Anh, hoặc đang phá hoại nó đấy.’

“ ‘Tối hôm qua tôi rất ấn tượng về bà bác cô.’ Cha phết bơ vào một ổ bánh mì khác.

“ ‘Tôi có thể nhận thấy điều đó.’

“ ‘Nếu không phiền, xin cô cho tôi biết chính xác, làm thế nào mà từ Rumani bà ấy đến được đây, và còn đạt đến một địa vị cao như vậy?’

“Helen nhấp một ngụm cà phê. ‘Đó là một sự tình cờ của số phận, tôi nghĩ vậy. Gia đình bác rất nghèo khổ - họ là những người vùng Transylvania, sống nhờ vào một mảnh đất nhỏ trong ngôi làng mà nghe nói nay cũng không còn nữa. Ông bà ngoại tôi có chín người con, bác Éva là con thứ ba. Ông bà ngoại tôi đã cho bác đi làm lúc mới lên sáu vì cần tiền và không thể nuôi nổi bác. Bác làm việc trong biệt thự của một gia đình người Hungary giàu có, chủ của tất cả đất đai bên ngoài làng. Giữa hai cuộc thế chiến, có nhiều địa chủ người Hungary còn ở lại khu vực đó - họ bị kẹt lại ở đó do sự thay đổi các đường biên giới sau Hiệp ước Trianon.’

“Cha gật đầu. ‘Đó là hiệp ước tái sắp xếp các đường biên giới sau Thế chiến I phải không nhỉ?’

“ ‘Chính xác. Vậy là bác Éva đã làm việc cho gia đình kia từ lúc còn rất bé. Bác kể với tôi là họ rất tử tế. Thỉnh thoảng, họ cho phép bác về nhà vào các ngày Chủ nhật nên bác vẫn khá thân thiết với gia đình. Lúc bác được mười bảy tuổi, gia đình mà bác giúp việc quyết định trở về Budapest, họ quyết định mang bác theo. Tại đây, bác gặp một người đàn ông trẻ tuổi, một nhà báo đồng thời là người hoạt động cách mạng tên là János Orbán. Họ yêu nhau, cưới nhau, và bác Orbán đã sống sót sau thời gian phục vụ quân đội trong cuộc chiến.’ Helen thở dài. ‘Anh biết đấy, rất nhiều chàng Hrai Hungary đã chiến đấu khắp châu Âu và rồi bị chôn vùi trong những nấm mồ tập thể ở Ba Lan, Nga… Dù sao chăng nữa, sau chiến tranh bác Orbán đã nhanh chóng thăng tiến trong chính phủ liên minh, và đến sau cuộc cách mạng vinh quang của chúng tôi thì ông được tưởng thưởng bằng một vị trí trong nội các. Nhưng sau đó ông qua đời vì một tai nạn xe hơi, bác Éva vừa một mình nuôi dạy hai con trai vừa tiếp tục sự nghiệp chính trị của chồng. Bác là một phụ nữ tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ biết chính xác đức tin của cá nhân bác ấy là gì - đôi khi tôi có cảm giác bác luôn tránh bộc lộ cảm xúc với mọi vấn đề chính trị, tựa như chính trị chỉ đơn giản là nghề của bác mà thôi. Còn bác Orbán là mộH người đầy nhiệt huyết, một người tuyệt đối tin theo học thuyết của Lênin và ngưỡng mộ Stalin. Tôi không thể nói liệu bác gái của tôi có giống như vậy hay không, nhưng bà ấy đã tự tay xây dựng cho mình một sự nghiệp đáng nể. Kết quả là các con của bác được hưởng mọi đặc quyền có thể có, và bác cũng sử dụng quyền lực của mình để giúp tôi, như tôi đã kể với anh.’

“Cha chăm chú lắng nghe. ‘Thế cô và mẹ cô thì đã đến đây như thế nào?’

“Helen lại thở dài. ‘Mẹ tôi nhỏ hơn bác Éva mười hai tuổi,’ cô Hiếp tục. ‘Bao giờ bà cũng là đứa em bác Éva cưng nhất nhà. Khi bác Éva được đưa sang Budapest, mẹ tôi mới được năm tuổi. Mười chín tuổi, mẹ tôi mang bầu khi vẫn chưa chồng. Bà sợ ông bà ngoại và mọi người trong làng biết được - anh biết đấy, trong một nền văn hóa trọng truyền thống như vậy, mẹ tôi có nguy cơ bị tống cổ ra khỏi nhà và có thể bị chết đói. Bà đã viết thư cầu cứu bác Éva, hai vợ chồng bác đã thu xếp cho mẹ tôi đến Budapest. Bác Orbán gặp mẹ ở biên giới, vốn được canh phòng rất nghiêm ngặt, rồi mang bà về thành phố. Có lần tôi nghe bác kể lại là đã hối lộ cho đám viên chức biên phòng một số tiền khổng lồ. Ở Hungary, dân vùng Transylvania đều bị mọi người ghét bỏ, nhất là sau Hiệp ước Trianon. Mẹ tôi kể lại, bác trai đã làm cho bà hoàn toàn kính phục - không chỉ vì bác đã cứu bà thoát khỏi một tình huống khủng khiếp, mà còn vì ông chưa bao giờ để bà cảm nhận có sự phân biệt chủng tộc giữa họ. Bà vô cùng đau khổ khi ông mất. Ông là người đã cưu mang bà đến Hungary an toàn và đã cho bà một cuộc sống mới.’

“ ‘Và sau đó cô ra đời?’ cha khẽ hỏi.

“ ‘Rồi tôi ra đời, trong một bệnh viện ở Budapest, hai vợ chồng bác đã giúp mẹ nuôi dạy tôi. Chúng tôi sống chung với họ cho đến khi tôi vào trung học. Trong suốt thời chiến, bác Éva đã đưa chúng tôi về quê và bằng cách nào đó đã tìm kiếm đủ cái ăn cái mặc cho tất cả chúng tôi. Ở đấy, mẹ tôi cũng được cho học hành, và bà đã học tiếng Hungary. Mẹ luôn dứt khoát từ chối, không dạy cho tôi một chữ Rumani nào, dù thỉnh thoảng tôi vẫn nghe bà nói mê bằng thứ tiếng đó.’ Cô nhìn cha, một cái liếc nhìn đầy vẻ cay đắng. ‘Anh thấy đấy, giáo sư Rossi yêu quý đã làm cho cuộc sống của chúng Hôi đến nông nỗi đó,’ cô nói, môi run run. Nếu không có hai bác tôi, hẳn mẹ tôi đã chết cô độc trong một xó rừng núi nào đó và làm mồi cho lũ chó sói. Nói đúng ra, cả hai mẹ con tôi đều sẽ bị thế.’

“ ‘Tôi cũng cảm thấy mang ơn hai bác cô,’ cha nói, và rồi sợ phải nhìn thấy ánh mắt nhạo báng của cô, cha vờ bận rộn cầm lấy cái bình kim loại ở ngay khuỷu tay để châm thêm cà phê vào cốc.

“Helen không đáp, và sau một lát lặng im, cô rút mấy tờ giấy ra khỏi xắc tay. ‘Chúng ta xem lại bài thuyết trình một lần nữa chứ?’ “

“Ánh mặt trời buổi sáng và bầu không khí mát lạnh bên ngoài có vẻ như đầy đe dọa đối với cha; tất cả những gì cha có thể nghĩ đến khi chúng ta bước về hướng trường đại học chỉ là khoảnh khắc đang nhanh chóng đến gần ấy, cái khoảnh khắc mà cha phải lên bục diễn thuyết. Trước lần thuyết trình này, cha chỉ tham gia diễn thuyết một lần, cùng xuất hiện chung với thầy Rossi năm ngoái khi thầy tổ chức một hội nghị về chủ đề chủ nghĩa thực dân Hà Lan. Mỗi người chúng ta viết nửa bài thuyết trình, nửa bài viết của cha là một nỗ lực khốn khổ nặn ra từ cái mà cha nghĩ sẽ là luận văn tốt nghiệp của mình, trước khi cha kịp viết ra mộH chữ của nó, sao cho nói đủ trong hai mươi phút; nửa bài viết của thầy Rossi đúng là một chuyên luận xuất sắc, Hoàn diện về di sản văn hóa của người Hà Lan, sức mạnh chiến lược của hải quân Hà Lan và bản chất của chủ nghĩa thực dân. Bất chấp cảm giác tổng quan của cha về sự bất tương xứng trong toàn bộ bài thuyết trình, cha vẫn được tán thưởng do cùng diễn thuyết với ông. Cha cũng được khích lệ suốt trải nghiệm đó nhờ sự hiện diện vững chắc, đầy tin tưởng của thầy ở bên cha, ngay trên bục thuyết trình, thân mật đấm vào vai cha khi cha nhường cử tọa lại cho ông ấy. Còn hôm nay, cha phải một mình tự lực. Viễn cảnh quả thực đáng nản lòng, nếu không nói là khủng khiếp, và chỉ khi nhớ lại thầy đã xử lý tình huống ra sao cha mới bình tĩnh trở lại một chút.

“Khu vực Pest thanh lịch nằm bao quanh chúng ta, và giờ đây, giữa ánh sáng ban ngày, cha có thể nhận ra vẻ đẹp tráng lệ của thành phố đang trong quá trình xây dựng - đúng hơn là tái thiết - ở những nơi đã bị hủy hoại trong chiến tranh. Nhiều ngôi nhà vẫn bị mất tường hoặc cửa sổ của những tầng trên, hoặc thậm chí nguyên cả tầng trên, nếu nhìn kỹ người ta sẽ thấy hầu hết mọi bề mặt bên ngoài của các công trình, dù làm bằng bất kỳ vật liệu gì, đều chi chít lỗ đạn. Cha ước gì có thời gian để đi xa hơn, để có thể nhìn thấy khu vực Pest được nhiều hơn, nhưng Helen và cha đã thỏa thuận là nên tham dự đầy đủ chương trình hội nghị buổi sáng hôm đó để hợp thức hóa sự hiện diện của chúng ta càng nhiều càng tốt. ‘Chốc nữa, vào buổi chiều, tôi còn muốn làm một việc nữa,’ Helen nói, vẻ trầm ngâm suy nghĩ. ‘Chúng ta sẽ đến thư viện của trường, trước khi nơi đó đóng cửa.’

“Khi chúng ta đến tòa nhà đồ sộ kia, nơi diễn ra lễ đón tiếp tối hôm qua, cô dừng lại. ‘Anh có thể giúp tôi một việc chứ?’

“ ‘Dĩ nhiên rồi. Chuyện gì vậy?’

“ ‘Đừng nói gì với Géza József về chuyến đi của chúng ta hoặc về việc chúng ta đang tìm người.’

“ ‘Tôi chẳng đời nào làm chuyện đó đâu,’ cha đáp lại, giọng bực tức.

“ ‘Tôi chỉ phòng hờ thôi. Anh ta có sức quyến rũ lắm đấy.’ Cô đưa bàn tay vẫn còn mang găng ra, ra vẻ muốn giải hòa.

“ ‘Ổn thôi,’ cha giữ cánh cửa lớn kiểu Ba rốc cho cô, và chúng ta cùng bước vào.

“Trong phòng thuyết trình trên tầng hai, nhiều người mà cha nhìn thấy tối hôm qua đã yên vị trong các hàng ghế, đang sôi nổi trò chuyện hoặc sột soạt giở tài liệu. ‘Lạy Chúa,’ Helen lẩm bẩm. ‘Khoa nhân học cũng có ở đây.’ Một lát sau, cô bị chìm ngập giữa những lời chào hỏi và trò chuyện. Cha thấy cô mỉm cười, có lẽ là với những người bạn cũ, các đồng nghiệp đã bao nhiêu năm làm việc cùng lĩnh vực với cô, cha chợt cảm thấy lòng trào dâng một cảm giác cô đơn. Có vẻ như cô đang chỉ trỏ cha, cố gắng giới thiệu cha từ xa, nhưng những giọng nói cùng hàng tràng tiếng Hungary vô nghĩa đã dựng nên giữa chúng ta một hàng rào dường như sờ thấy được.

“Ngay lúc đó, cha cảm nhận một cái vỗ nhẹ ở cánh tay và anh chàng Géza đã ở trước mặt. Cái bắt tay và nụ cười của anh ta vẫn ấm áp. ‘Anh thích thành phố chúng tôi chứ?’ anh ta hỏi. ‘Mọi điều đều như ý chứ?’

“ ‘Mọi thứ đều tuyệt vời,’ cha cũng nồng nhiệt trả lời. Cha đã ghi nhớ cẩn thận lời cảnh báo của Helen, nhưng quả thậH khó mà ghét bỏ người đàn ông này.

“ ‘À, tôi rất hân hạnh,’ anh ta tiếp tục. ‘Và chiều nay anh sẽ diễn thuyếH chứ?’

“ ‘Vâng,’ cha vừa ho vừa trả lời. ‘Vâng, chính xác là vậy. Còn anh, hôm nay anh cũng diễn thuyết chứ?’

“ ‘Ồ không, tôi thì không,’ anh ta đáp. ‘Thực ra, những ngày này tôi đang nghiên cứu một chủ đề mà tôi rất quan tâm. Nhưng Hôi chưa sẵn sàng để thuyết trình về chủ đề đó.’

“ ‘Chủ đề của anh là gì,’ cha không thể không hỏi, nhưng ngay lúc đó, từ bục diễn đàn, giáo sư Sándor, với mái tóc bạc trắng chải bồng ra phía sau, lên tiếng đề nghị trật tự. Đám đông ngồi vào ghế giống như những chú chim lần lượt đậu lên dây cáp điện thoại rồi dần im lặng. Cha ngồi xuống kế bên Helen ở hàng ghế phía sau, liếc nhìn đồng hồ. Mới chín giờ rưỡi, cha có thể thư giãn một lát. Géza József ngồi ở một ghế hàng đầu, cha có thể nhìn thấy phía sau mái đầu đẹp trai của anh ta. Nhìn chung quanh, cha nhận ra nhiều gương mặt quen thuộc mới được giới thiệu với cha từ tối hôm qua. Đây là một nhóm người ăn mặc nghiêm chỉnh nhưng hơi tuềnh toàng, tất cả đều đang nhìn chằm chằm về phía giáo sư Sándor.

“ ‘Guten Morgen,’(1) ông ta bắt đầu, giọng oang oang, và tiếng micro rít lên cho đến khi một sinh viên mặc sơ mi xanh, thắt cà vạt đen chạy lên giúp chỉnh lại. ‘Kính chào tất cả quý khách kính mến, Guten Morgen, bonjour, chào mừng các bạn đã đến với Đại học Budapest. Chúng tôi tự hào giới thiệu với các bạn hội nghị châu Âu đầu tiên của các sử gia của…’ Đến đây, micro lại rít lên, cha không nghe được một vài câu. Lúc đó giáo sư Sándor rõ ràng cũng đã cạn kiệt vốn liếng tiếng Anh, nên ông ta tiếp tục thêm vài phút bằng một phát biểu pha trộn giữa tiếng Hungary, Pháp và Đức. Vận dụng hết vốn liếng tiếng Pháp và Đức, cha hiểu rằng bữa trưa sẽ được phục vụ lúc mười hai giờ, và rằng - thật kinh hoàng - cha sẽ là diễn giả chủ chốt, cái đinh của hội nghị, điểm sáng của sự kiện, rằng cha là một học giả xuất sắc người Mỹ, một chuyên gia không chỉ về lịch sử Hà Lan mà còn về nền kinh tế của đế chế Ottoman và các phong trào lao động ở Hoa Kỳ (chắc hẳn bác Éva đã tự sáng chế ra chi tiết này?), rằng cuốn sách của cha về những phường hội buôn bán của các thương nhân Hà Lan thế kỷ mười bảy sẽ xuất bản vào năm tới, và rằng họ đã vô cùng may mắn mới có thể bổ sung cha vào chương trình nghị sự chỉ trong tuần này.

“Tất cả những điều trên quả thực còn tồi tệ hơn cả những giấc mơ ngông cuồng nhất của cha, cha thề sẽ bắt Helen phải trả giá nếu cô nhúng tay vào việc này. Nhiều học giả trong đám cử tọa đã quay sang nhìn cha, gật đầu mỉm cười thân thiện, thậm chí chỉ trỏ cho nhau nhìn thấy cha. Helen ngồi bên, nghiêm nghị và quý phái, nhưng có gì đó ở bờ vai cong cong khoác áo vest đen của cô khiến cho cha - chỉ mình cha, hy vọng thế - thấy một nỗ lực nín cười được che giấu gần như hoàn hảo. Cha cũng đành cố giữ bộ mặt nghiêm trang và nhủ thầm việc này, thậm chí tất cả việc này, là vì thầy Rossi.

“Khi giáo sư Sándor kết thúc, một người đàn ông nhỏ thó, hói đầu bèn lên đọc một tham luận có vẻ như về chủ đề Liên minh Hanseatic(2). Tiếp theo ông ta là một bà tóc xám mặc váy màu xanh nước biển với chủ đề tập trung vào lịch sử thành phố Budapest, nhưng cha chẳng hiểu mô tê gì cả. Diễn giả còn lại trước giờ ăn trưa là một học giả trẻ đến từ Đại học Luân Đôn - trông anh ta có vẻ cùng tuổi với cha - và cha nhẹ cả người khi anh ta phát biểu bằng tiếng Anh, một sinh viên khoa triết người Hungary đọc bản dịch bài thuyết trình qua tiếng Đức. (Thật kỳ lạ khi nghe tất cả những bài tham luận đều được dịch sang tiếng Đức, chỉ một thập kỷ sau khi người Đức gần như phá hủy hoàn toàn Budapest, nhưng cha chợt nhớ lại tiếng Đức cũng là ngôn ngữ giao tiếp của Đế quốc Áo-Hung). Giáo sư Sándor giới thiệu anh chàng người Anh là Hugh James, một giáo sư chuyên về lịch sử Đông Âu.

“Giáo sư James là một người rắn chắc, mặc bộ com lê vải tuýt màu nâu, cà vạt màu ô liu; cha phải nhịn cười vì trong bộ cánh đó trông anh ta đặc sệt dân Anh, không lẫn vào đâu được. Lướt mắt nhìn xuống thính giả, anh ta nở nụ cười hiền lành. ‘Tôi chưa bao giờ nghĩ có ngày lại được có mặt ở Budapest thế này,’ anh ta bắt đầu, nhìn chúng ta một lượt, ‘nhưng tôi rất cảm kích khi được ở đây, trong thành phố vĩ đại nhất Trung Âu này, một cánh cửa nối liền phương Đông và phương Tây. Và bây giờ, tôi mạn phép làm mất chút thời gian của các bạn để trình bày một số nét về những di sản mà đế quốc Ottoman của người Thổ đã để lại vùng Trung Âu khi họ phải rút lui vì thất bại trong cuộc vây hãm thành Vienna năm 1685.’

“Anh ta dừng lại và mỉm cười với anh chàng sinh viên khoa triết, đang nôn nóng đọc lại câu phát biểu đầu tiên này bằng tiếng Đức. Họ cứ thế tiếp tục, hết tiếng Anh rồi tiếng Đức, nhưng hẳn là anh chàng giáo sư James kia đã nói ngoài lề nhiều hơn là chỉ đóng khung trong trang giấy, bởi trong suốt bài thuyết trình, anh chàng sinh viên thông dịch thường xuyên liếc nhìn anh ta bằng ánh mắt bối rối. ‘Tất cả chúng ta đều đã nghe câu chuyện về việc sáng chế ra chiếc bánh sừng bò, sản phẩm của một chủ lò bánh ở Paris để mừng chiến thắng của thành Vienna trước đế chế Ottoman. Bánh sừng bò tượng trưng cho vành trăng khuyết trên lá cờ của người Ottoman, một biểu tượng mà cho đến tận ngày nay người phương Tây vẫn ngấu nghiến mỗi khi uống cà phê.’ Anh ta nhìn quanh, tươi cười, và rồi có vẻ chợt nhớ ra, cũng như cha, rằng hầu hết các học giả Hungary nhiệt thành đều chưa từng đến Paris hoặc Vienna. ‘Vâng, tóm lại, tôi nghĩ di sản của người Ottoman có thể tóm gọn trong một từ: cái đẹp.’

“Anh ta tiếp tục bằng việc mô tả lại kiến trúc của chừng nửa tá thành phố ở Trung và Đông Âu, các trò giải trí và kiểu mốt thời trang, các món gia vị cùng với cách trang trí nội thất. Cha say mê lắng nghe, chỉ một phần nhỏ là vì có thể hiểu trọn vẹn những lời anh ta nói, còn lại là vì bản thân những điều ấy. Khi James bàn về các bồn tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ở Budapest, những dinh thự kiểu Ottoman nguyên thủy hay kiểu Áo-Hung ở Sarajevo, nhiều điều cha nhìn thấy ở Istanbul chợt ùa trở lại trong tâm trí. Khi anh ta tả Cung điện Topkapi, cha đã tâm đắc gật đầu liên tục cho đến lúc chợt nhận ra lẽ ra phải tế nhị hơn.

“Tiếng vỗ tay ầm ĩ vang lên tiếp theo sau bài thuyết trình, và ngay sau đó giáo sư Sándor mời mọi người qua phòng ăn để dùng bữa trưa. Giữa đám đông các học giả và đồ ăn thức uống, cha đã xoay xở tìm được giáo sư James ngay lúc anh ta ngồi xuống bàn. ‘Tôi ngồi cùng anh được chứ?’

“Anh ta giật mình nhìn lên rồi mỉm cười. ‘Tất nhiên, tất nhiên rồi. Xin chào. Tôi là Hugh James.’ Cha tự giới thiệu mình đáp lại và chúng ta bắt tay nhau. Khi cha ngồi xuống đối diện anh ta, chúng ta tò mò nhìn nhau, một cách thân thiện. ‘A,’ anh ta thốt lên, ‘như vậy anh là diễn giả chủ chốt hôm nay đấy à? Tôi đang rất nóng lòng muốn nghe bài nói của anh đây.’ Nhìn gần, anh ta có vẻ như lớn hơn cha mười tuổi, đôi mắt nâu ngời sáng kỳ lạ, ướt át và hơi lồi, như mắt của một chú chó săn giống basset. Qua bài thuyết trình, cha nhận ra anh ta là người miền Bắc nước Anh.

“ ‘Cám ơn anh,’ cha đáp lời, cố để lộ ra mình đang run lên vì ngượng. ‘Tôi thực sự bị bài diễn thuyết của anh lôi cuốn đấy. Quả thực nó đã bao quát được một phạm vi đáng kể. Tôi không biết liệu anh có biết - ừm - thầy của tôi, Bartholomew Rossi không. Ông ấy cũng là người Anh.’

“ ‘Chà, tất nhiên rồi!’ Hugh James trải tấm khăn ăn ra, vẻ sôi nổi và cởi mở. ‘Giáo sư Rossi là một trong các tác giả tôi ưa thích - tôi đã đọc hầu hết tác phẩm của ông ấy. Anh làm việc chung với ông ấy à? May mắn lắm đấy nhé.’

“Cha đã mất dấu Helen, nhưng ngay lúc đó cha chợt thấy cô ở quầy buffet, Géza József đứng bên cạnh. Anh ta đang nghiêm trang nói gì đó, gần như ghé sát vào tai Helen, và sau một lát cô chấp nhận để anh ta đi theo đến một bàn nhỏ bên kia phòng ăn. Cha nhìn rõ đến mức có thể nhận ra vẻ cáu kỉnh trên mặt cô, nhưng chuyện cụ thể thế nào thì cha không thể đoán được. Anh ta chồm đến, nhìn chằm chằm vào mặt Helen, cô thì cúi nhìn xuống đĩa thức ăn, cha cảm thấy gần như nổi điên lên vì muốn biết anh ta đang nói gì với Helen.

“ ‘Dù sao chăng nữa’ - anh chàng Hugh James vẫn đang nói về các tác phẩm của thầy Rossi - ‘tôi vẫn nghĩ các nghiên cứu của ông ấy về nhà hát Hy Lạp thật là tuyệt vời. Ông ấy quả là người có thể làm được mọi chuyện.’

“ ‘Vâng,’ cha lơ đãng trả lời. ‘Ông ấy đang viết một bài báo tựa đề là “Hồn ma trong bình cổ”, bàn về những phục trang và đạo cụ sân khấu sử dụng trong những vở bi kịch Hy Lạp.’ Cha dừng lại, chợt nhận ra mình có thể đang tiết lộ những bí mật nghề nghiệp của thầy Rossi. Tuy nhiên, ngay cả khi cha chưa kịp tự nhận ra thì nét mặt của anh chàng giáo sư này cũng làm cha lưu ý ngay.

“ ‘Cái gì?’ anh ta thốt lên, rõ ràng ngạc nhiên. Anh ta bỏ dao nĩa xuống, bỏ dở bữa ăn. ‘Anh vừa nói là “Hồn ma trong bình cổ” à?’

“ ‘Đúng vậy.’ Giờ thì thậm chí cha đã quên cả Helen và Géza. ‘Sao anh lại hỏi thế?’

“ ‘Chuyện này thật đáng kinh ngạc! Tôi nghĩ mình phải viết thư cho giáo sư Rossi ngay mới được. Anh biết không, gần đây tôi đang nghiên cứu một tài liệu rất thú vị của đất nước Hungary thế kỷ mười lăm. Ban đầu, đó chính là lý do chính đưa tôi đến Budapest - anh biết đấy, tôi đang tìm hiểu về giai đoạn lịch sử đó của Hungary, và rồi được sự chấp thuận của giáo sư Sándor tốt bụng, tôi đã bám càng luôn hội nghị này. Tài liệu này đã được một trong các học giả của vua Matthias Corvinus viết, và đề cập đến một hồn ma trong chiếc bình cổ.’

“Cha nhớ, đêm hôm qua, Helen cũng đã đề cập đến vua Matthias Corvinus; ông ta chính là người lập ra cái thư viện tuyệt vời trong Lâu đài Buda ấy phải không nhỉ? Bác Éva cũng đã kể về ông ta. ‘Anh vui lòng,’ cha nôn nóng nói, ‘giải thích rõ hơn.’

“ ‘Chà, tôi… nghe thì có vẻ khá ngớ ngẩn, nhưng đã nhiều năm nay tôi rất quan tâm về những huyền thoại dân gian vùng Trung Âu. Niềm đam mê này bắt đầu từ rất lâu rồi, ban đầu chỉ là để cho vui thôi, nhưng rồi dần dần tôi đã bị truyền thuyết về ma cà rồng mê hoặc hoàn toàn.’

“Cha nhìn anh ta trừng trừng. Trông anh ta vẫn bình thường như trước, vẫn gương mặt hồng hào vui vẻ và bộ vest vải tuýt, nhưng cha lại cảm thấy như mình đang mơ.

“ ‘Ồ, tôi biết nghe qua thì có vẻ trẻ con - Bá tước Dracula và tất cả những chuyện đó - nhưng anh biết không, đó thực sự là một chủ đề đáng lưu ý khi anh đào sâu hơn một chút. Anh thấy đấy, Dracula là một con người có thực, vì vậy, tất nhiên không phải là một con ma cà rồng, và điều tôi quan tâm là cuộc đời hắn ta liên quan đến những truyền thuyết dân gian về ma cà rồng như thế nào. Vài năm trước đây, tôi bắt đầu tìm kiếm những văn bản tư liệu về chủ đề này, thậm chí chỉ tìm xem có văn bản hay không, vì dễ thấy là ma cà rồng chủ yếu chỉ xuất hiện trong những huyền thoại truyền miệng ở các làng quê vùng Trung và Đông Âu.’

“Anh ta ngả người ra sau, nhịp ngón tay lên cạnh bàn. ‘Mà kể cũng lạ, lúc làm việc trong thư viện đại học ở đây, tôi đã khám phá ra một tài liệu có vẻ như là do vua Corvinus ủy thác thực hiện - nhà vua muốn có người thu thập tất cả thông tin về ma cà rồng từ những thời sơ khai nhất. Dù vị học giả đảm nhận công việc này là ai, ông ta chắc chắn là một chuyên gia về cổ ngữ Hy Lạp và Latin, và thay vì rảo quanh khắp các xóm làng như bất kỳ nhà nhân học chân chính nào, ông ta bắt đầu chúi mũi vào các văn bản tiếng Hy Lạp và Latin - anh biết đấy, hẳn nhà vua Corvinus có rất nhiều thứ đó ở nơi này - để tìm những gì có liên quan đến ma cà rồng, và phát hiện một ý tưởng Hy Lạp cổ xưa mà trước khi anh đề cập tới tôi chưa từng thấy ở một nơi nào khác: hồn ma trong chiếc bình cổ. Anh biết đấy, thời Hy Lạp cổ đại cũng như trong các vở bi kịch Hy Lạp, đôi khi loại bình hai quai được dùng để chứa tro người chết, và đám dân dốt nát tin rằng chiếc bình sẽ sản sinh ra một con ma cà rồng nếu không được chôn cất đúng cách - tuy nhiên, tôi không biết chắc như thế nào là đúng cách, vẫn chưa biết. Nếu đang viết về chủ đề hồn ma trong bình cổ, có thể giáo sư Rossi biết một điều gì đó về vấn đề này. Một sự trùng hợp đáng lưu ý đấy chứ nhỉ? Thực ra, theo như những câu chuyện dân gian ở Hy Lạp hiện đại vẫn còn lũ ma cà rồng.’

“ ‘Tôi biết,’ cha nói. ‘Lũ vrykolakas.’

“Lần này thì đến lượt Hugh James nhìn cha chằm chặp. Cặp mắt lồi màu hổ phách của anh ta mở to. ‘Làm sao anh biết?’ anh thì thào. ‘Ý tôi là - xin anh thứ lỗi - tôi chỉ ngạc nhiên khi gặp một ai khác cũng…’

“ ‘Cũng quan tâm đến ma cà rồng chứ gì?’ cha tiếp lời, giọng tỉnh bơ. ‘Vâng, trước đây việc đó cũng thường làm tôi ngạc nhiên, nhưng giờ thì tôi sắp quen rồi đây. Giáo sư James, làm thế nào mà anh trở nên quan tâm đến lũ ma cà rồng đến vậy?’

“ ‘Hugh,’ anh ta ôn tồn trả lời. ‘Xin cứ gọi tôi là Hugh. Chà, tôi…’ Anh ta chăm chú nhìn cha một lát, và lần đầu tiên cha nhận ra dưới vẻ bề ngoài tươi vui và hơi vụng về đó là một xúc cảm mãnh liệt như một ngọn lửa. ‘Quả là vô cùng kỳ lạ, thường tôi không kể với ai chuyện này, nhưng…’

“Cha thực sự không chịu nổi sự trì hoãn đó. ‘Phải chăng, anh đã tình cờ tìm thấy một cuốn sách cổ có hình con rồng ở giữa?’ cha hỏi.

“Anh ta trố mắt nhìn cha, gần như sửng sốt, gương mặt hồng hào trở thành trắng bệch. ‘Vâng,’ anh ta hổn hển. ‘Tôi tìm thấy một cuốn sách.’ Đôi tay anh ta siết chặt cạnh bàn. ‘Anh là ai vậy chứ?’

“ ‘Tôi cũng tìm thấy một cuốn sách như vậy.’

“Chúng ta ngồi nhìn nhau một lúc khá lâu, cố đè nén lại những gì muốn trao đổi, và có thể sẽ lặng im lâu hơn nữa nếu không bị cắt ngang. Giọng nói của Géza József đến tai cha trước khi cha kịp nhận ra sự hiện diện của anh ta; anh ta đã đến sau lưng cha và đang cúi xuống bàn với một nụ cười vui vẻ. Helen cũng đang vội vã bước đến, gương mặt cô thực kỳ lạ - gần như dằn vặt vì cảm giác có lỗi, cha nghĩ vậy. ‘Chào các đồng chí,’ anh ta thốt lên, giọng thân tình. ‘Chuyện tìm được mấy cuốn sách là thế nào vậy?’ ”

Chú thích:

1. Tiếng Đức; Chào buổi sáng

2. Hanseatic League (còn gọi là Hanse hay Hansa) là một liên minh gồm phường hội của các thành phố chuyên buôn bán, được thành lập để duy trì tình trạng độc quyền thương mại ở vùng duyên hải Bắc Âu, tồn tại từ khoảng thế kỷ 13 đến 17.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


“Khi giáo sư József cúi xuống bàn ăn của chúng ta thân thiện hỏi câu đó, trong giây lát cha đã không biết phải đáp lại thế nào. Cha phải nói chuyện với Hugh James càng sớm càng tốt, nhưng phải ở chỗ riêng tư và kín đáo chứ không phải chỗ đông người này, và chắc chắn không phải trước sự có mặt của con người mà chính Helen đã cảnh báo cha phải đề phòng - lý do? - vì hắn muốn dòm ngó công việc của cha. Cuối cùng cha cũng thì thầm được vài tiếng. ‘Chúng tôi đang chia sẻ với nhau thú đam mê sách cổ,’ cha nói. ‘Học giả nào mà chẳng phải thừa nhận điều đó, anh không nghĩ vậy sao?’

“Vào lúc đó, Helen đã kịp đến bên chúng ta, nhìn cha bằng một ánh mắt mà cha nghĩ là cảnh giác lẫn tán đồng. Cha đứng dậy kéo cho cô một chiếc ghế. Trong lúc phải giấu sự thật với Géza József, hẳn cha vẫn để lộ phần nào vẻ phấn khích ra với Helen, vì cô cứ nhìn chằm chằm dò hỏi từ cha sang Hugh. Géza có vẻ ân cần với tất cả chúng ta, nhưng cha có cảm tưởng đôi mắt một mí đẹp đẽ của anh ta khẽ nhíu lại; cha chợt nghĩ hẳn dân Hung Nô cũng từng nheo mắt nhìn ánh chiều phương Tây qua kẽ hở của mũ da như thế. Cha cố gắng không nhìn anh ta thêm một lần nữa.

“Chúng ta có thể ngồi đó, tránh nhìn vào mặt nhau cả ngày nếu giáo sư Sándor không bất ngờ xuất hiện. ‘Tốt quá,’ ông ta oang oang. ‘Tôi thấy các bạn có vẻ ngon miệng. Các bạn xong rồi chứ? Còn bây giờ, anh vui lòng đi cùng tôi, chúng tôi sẽ thu xếp để anh bắt đầu bài thuyết trình của mình.’

“Cha ngần ngại - trong vài phút cha đã thực sự quên bẵng cái cực hình đang chờ phía trước - nhưng vẫn ngoan ngoãn đứng lên. Géza kính cẩn rút lui ra phía sau giáo sư Sándor và cho cha một khoảnh khắc may mắn được nhìn Helen. Cha tự hỏi liệu thái độ của Géza như thế có quá kính cẩn chăng, nhưng rồi không nghĩ tiếp mà chỉ mở to mắt và dịch về phía Hugh James, người đã lịch sự đứng lên lúc Helen đến và giờ đang im lặng đứng yên tại bàn. Helen cau mày, bối rối, sau đó cha cảm thấy nhẹ nhõm khi giáo sư Sándor vỗ vai và dẫn Géza đi. Cha nghĩ mình đã nhận ra vẻ bực bội khó chịu trên tấm lưng đồ sộ dưới lớp áo vest của anh chàng người Hung, nhưng có lẽ là do lời cảnh báo của Helen về anh ta đã tác động quá mạnh tới cha. Dù sao chăng nữa, tạm thời chúng ta cũng đã có được một khoảnh khắc tự do.

“Hugh cũng có cuốn sách đó,’ cha thì thầm, không chút xấu hổ khi tiết lộ bí mật của anh chàng người Anh.

“Helen chăm chú nhìn, nhưng không hiểu. ‘Hugh nào?’

“Cha vội gật đầu về phía anh bạn mới của chúng ta, anh ta nhìn lại Helen và cha chằm chằm. Tiếp theo, Helen há hốc miệng vì ngạc nhiên. Đến lượt Hugh chằm chặp nhìn cô. ‘Cô ấy cũng…?’

“ ‘Không,’ cha thì thào. ‘Cô ấy đang giúp tôi. Xin giới thiệu đây là cô Helen Rossi, nhà nhân học.’

“Hugh bắt tay Helen với vẻ nhiệt tình hơi thái quá, vẫn nhìn cô đăm đăm. Giáo sư Sándor đã quay lại, tỏ ý chờ đợi và chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc đi theo ông ta. Helen và Hugh đi sát bên cạnh cha tựa như chúng ta là một bầy cừu.

“Hội trường đang dần đông người trở lại, cha chiếm một chỗ ở hàng đầu, mạnh dạn lấy tài liệu ghi chú ra khỏi cặp. Giáo sư Sándor và anh chàng sinh viên phụ tá lại đang loay hoay với chiếc micro, và cha chợt nghĩ có thể cử tọa không nghe được những gì cha phát biểu, và như vậy cha sẽ ít phải lo lắng hơn. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc micro đã hoạt động trở lại, vị giáo sư tử tế lên tiếng giới thiệu cha, thỉnh thoảng phấn khởi lắc lư mái đầu bạc trắng ở một vài điểm cần nhấn mạnh. Một lần nữa ông tóm tắt các thành tích xuất sắc của cha, mô tả uy tín trường đại học ở Hoa Kỳ mà cha đang làm việc, chúc mừng vì hội nghị đã có đặc ân hiếm hoi được nghe cha nói chuyện, lần này tất cả đều bằng tiếng Anh, có lẽ nhằm tạo thuận lợi cho cha. Bất chợt, cha nhận ra không có thông dịch viên để dịch tập ghi chú đã nhăn nheo và quăn góc của mình qua tiếng Đức trong lúc cha phát biểu, phát hiện này khiến cha cảm thấy tự tin hẳn lên khi đứng đối diện với thử thách của mình.

“ ‘Các bạn đồng nghiệp thân mến,’ cha bắt đầu, và rồi, nhận ra mình đang quá phô trương, bèn đặt tập giấy ghi chú xuống. ‘Cám ơn các bạn đã cho tôi được vinh dự nói chuyện cùng các bạn hôm nay, tôi muốn bàn với các bạn về thời kỳ đế chế Ottoman xâm nhập vào vùng Transylvania và Wallachia, hai vùng đất hiện đang thuộc Rumani mà hẳn các bạn đã rất quen thuộc.’ Những khuôn mặt đăm chiêu của đám cử tọa như dán chặt vào cha, hình như cha vừa phát hiện ra một sự căng thẳng đột ngột phủ lên hội trường. Vùng Transylvania đối với các sử gia Hungary, cũng như với nhiều người Hungary khác, vốn là một đề tài nhạy cảm. ‘Như các bạn đã biết, từ sau cuộc chinh phục thành phố Constantinople cổ kính vào năm 1453, đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm giữ nhiều lãnh thổ khắp khu vực Đông Âu trong hơn năm trăm năm, điều hành chúng từ một căn cứ vững chắc. Đế quốc này đã thành công trong việc xâm lăng hơn một chục nước, nhưng một vài xứ sở không bao giờ chịu khuất phục hoàn toàn, phần lớn đó là những khu vực thuộc vùng núi non hiểm trở, ở những vùng xa xôi hẻo lánh ở Đông Âu, cả địa thế lẫn người dân bản địa đều thách thức công cuộc chinh phục của đế quốc này. Một trong số đó là xứ Transylvania.’

“Cha cứ tiếp tục như vậy, một phần đọc từ giấy, một phần từ trí nhớ, thỉnh thoảng vẫn thấy hoảng hốt vì chưa nắm vững chủ đề này, dù các bài học của Helen vẫn khắc ghi sống động trong trí óc. Sau phần giới thiệu, cha tóm tắt khái quát về những tuyến đường giao thương của người Ottoman trong khu vực, sau đó mô tả các ông hoàng và những nhà quý tộc đã cố gắng đẩy lui sự xâm lăng của người Thổ. Làm như tình cờ, cha gộp luôn Vlad Dracula vào những nhân vật đó, vì Helen và cha đã nhất trí rằng nếu hoàn toàn không nhắc gì đến hắn trong bài thuyết trình thì sẽ gây nghi ngờ đối với bất kỳ sử gia nào biết hắn từng là một kẻ chuyên tiêu diệt quân đội Ottoman. Cha đã phải trả giá nhiều hơn so với suy nghĩ khi thốt ra cái tên này trước một đám đông xa lạ, vì khi bắt đầu mô tả việc Vlad Dracula cho hành hình hai mươi ngàn tù binh Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách cho đóng cọc xuyên người, tay cha đã bất chợt vung quá trớn làm đổ ly nước.

“ ‘Ồ, xin lỗi các bạn!’ cha kêu lên, khổ sở đưa mắt nhìn những gương mặt đầy thông cảm của cử tọa - ngoại trừ hai người. Helen trông tái nhợt và căng thẳng, còn Géza József hơi nghiêng người tới trước, mặt nghiêm nghị, tựa như vô cùng quan tâm đến màn vụng về ngớ ngẩn của cha. Cả hai, anh chàng sinh viên mặc áo xanh và giáo sư Sándor cùng xông vào, dùng khăn tay giải cứu cho cha, và chỉ một lát sau cha đã có thể diễn thuyết tiếp, với toàn bộ vẻ nghiêm trang mà cha có thể tập hợp được. Cha chỉ ra rằng mặc dù người Thổ cuối cùng đã thắng được Vlad Dracula và nhiều đồng chí của ông ta - nói xong cha mới nghĩ ra là nên dùng từ đồng chí này ở chỗ khác thì hơn - nhưng những cuộc nổi dậy như vậy vẫn tiếp tục dai dẳng trong nhiều thế hệ, cho đến sau cùng, cuộc khởi nghĩa này tiếp nối cuộc khởi nghĩa khác đã lật đổ được đế chế này. Chính bản chất địa phương của những cuộc nổi dậy này, cùng với khả năng biến mất vào lãnh địa của mình sau mỗi cuộc đột kích, cuối cùng đã làm suy yếu dần cỗ máy Ottoman khổng lồ.

“Cha đã định kết thúc một cách hùng hồn hơn, nhưng hình như chỉ thế này đã làm hài lòng cử tọa. Những tràng pháo tay vang lên. Thật ngạc nhiên, cha đã làm được. Chẳng có gì kinh khủng xảy ra. Helen ngồi sụp xuống, rõ ràng đã trút được gánh nặng, còn giáo sư Sándor thì tươi cười đến bắt tay cha. Nhìn quanh cha để ý thấy bác Éva ở phía sau, cười thật tươi vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên có chuyện gì đó không ổn trong hội trường, và cha nhận ra ngay bóng dáng cao lớn của Géza đã biến mất. Cha không biết anh ta đã bỏ về lúc nào, có lẽ anh ta thấy phần cuối bài thuyết trình dở tệ.

“Ngay khi cha vừa bước xuống, mọi người đứng dậy và bắt đầu rì rào nói chuyện bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ba hay bốn nhà sử học Hungary đến bắt tay chúc mừng cha. Giáo sư Sándor hớn hở ra mặt. ‘Tuyệt vời!’ ông ta thốt lên. ‘Tôi rất vui khi thấy lịch sử xứ sở Transylvania của chúng tôi được các bạn ở Mỹ hiểu rõ như vậy.’ Cha băn khoăn tự hỏi không biết ông ta sẽ nghĩ gì nếu biết mọi điều trong bài thuyết trình đều là do cha học được từ một trong những đồng nghiệp của ông ta, trong lúc ngồi tại một quán ăn ở Istanbul.

“Bác Éva cũng bước đến chìa tay ra cho cha. Cha không biết nên bắt tay hay hôn tay bà, nhưng cuối cùng cha quyết định bắt tay. Hôm nay, trông bà có vẻ cao hơn và ấn tượng hơn giữa đám đông những người đàn ông ăn mặc xoàng xĩnh này. Bà mặc một chiếc váy xanh đậm, đeo đôi khuyên tai lớn bằng vàng, và mái tóc uốn quăn mềm mại dưới một chiếc mũ nhỏ màu xanh lá, chỉ qua một đêm đã từ màu đỏ rực chuyển sang đen tuyền.

“Helen cũng bước đến tiếp chuyện, cha để ý họ nói chuyện với nhau một cách vô cùng trịnh trọng trong cuộc gặp mặt này; khó tin được là đêm hôm qua Helen đã lao vào vòng tay bà như thế. Helen dịch lại cho cha nghe lời khen ngợi của bà: ‘Anh làm tốt lắm, chàng trai ạ. Qua nét mặt của mọi người, tôi có thể thấy là anh đã thành công trong việc không làm mếch lòng bất kỳ ai. Có lẽ anh đã không nói nhiều quá, nhưng anh đã đứng thẳng trên bục và nhìn thẳng vào mắt cử tọa - điều đó sẽ giúp anh tiến xa.’ Bác Éva nhận xét một cách nhẹ nhàng, cùng với một nụ cười rạng rỡ, khoe hàm răng trắng đều đặn. ‘Giờ tôi phải về vì có chút việc nhà, nhưng sẽ gặp lại anh vào bữa ăn tối mai. Chúng ta có thể ăn tối tại khách sạn anh ở.’ Cha không ngờ chúng ta lại sẽ cùng ăn tối với bà, nhưng cha cảm thấy vui khi nghe câu nói đó. ‘Tôi rất tiếc không thể mời anh một bữa tối thực sự ngon lành tại nhà, mặc dù rất muốn thế,’ bà nói. ‘Tôi chắc anh sẽ hiểu được nguyên nhân khi tôi giải thích mình cũng đang phải xây dựng lại nhà như đa số người dân khác của Budapest. Tôi không thể để khách khứa nhìn thấy phòng ăn đang bừa bộn của mình.’ Nụ cười của bà rất dễ đánh lạc hướng người khác, nhưng cha cũng chắt lọc được hai thông tin từ hai câu nói này - một là tại thành phố của những căn hộ bé tí này, bà vẫn có một phòng ăn; và hai là, dù nơi đó có bừa bộn hay không, bà cũng phải rất thận trọng với việc mời một người Mỹ xa lạ đến dùng bữa tối tại nhà. ‘Tôi phải trao đổi chút việc với cháu gái mình. Helen có thể đến gặp tôi tối nay, nếu anh chưa cần đến cô ấy.’ Helen dịch chính xác toàn bộ câu nói trên với vẻ như chính cô có lỗi.

“ ‘Tất nhiên,’ cha nói, cười đáp lại nụ cười của bác Éva. ‘Tôi chắc chắn bà và cô ấy sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau sau một thời gian dài xa cách. Tôi nghĩ mình cũng có kế hoạch ăn tối riêng.’ Ngay lúc đó, cha rảo mắt tìm chiếc áo vest vải tuýt của Hugh James trong đám đông.

“ ‘Tốt lắm,’ bà lại đưa tay cho cha, và lần này cha hôn tay bà như một người Hungary thật sự, lần đầu tiên cha hôn tay một phụ nữ, và bác Éva ra về.

“Sau giờ giải lao là một bài nói chuyện bằng tiếng Pháp về những cuộc khởi nghĩa của nông dân Pháp vào đầu thời hiện đại, và tiếp theo là những bài thuyết trình khác bằng tiếng Đức và Hungary. Cha lắng nghe họ diễn thuyết, ngồi ở phía sau, bên Helen, thích thú vì không phải chường mặt ra nữa. Khi nhà nghiên cứu người Nga với chủ đề các nhà nước vùng Baltic rời khỏi bục, Helen thì thầm với cha, vẻ quả quyết, là chúng ta đã nán lại đó đủ lâu và có thể ra về được rồi. ‘Thư viện còn mở cửa thêm một giờ nữa. Mình chuồn thôi.’

“ ‘Cho tôi một phút,’ cha nói. ‘Tôi muốn chắc chắn về cái hẹn ăn tối.’ Cha tìm lại được Hugh chẳng mấy khó khăn; rõ ràng anh ta cũng đang tìm cha. Chúng ta đồng ý gặp nhau vào lúc bảy giờ tại tiền sảnh của khách sạn trường đại học. Helen sẽ đến nhà bác Éva bằng xe buýt, và qua nét mặt cô cha nghĩ chắc hẳn cô sẽ không ngơi thắc mắc về những gì Hugh James sẽ kể với cha.

“Khi chúng ta đến nơi, những bức tường của thư viện đại học vẫn còn lấp lánh nắng chiều, một màu hổ phách vàng óng thánh thiện, và cha lại cảm thấy kinh ngạc về tốc độ tái thiết nhanh chóng của đất nước Hungary sau thảm họa chiến tranh. Thậm chí những chính quyền độc tài nhất cũng không phải là hoàn toàn tệ hại nếu đã có thể phục hồi nhiều vẻ đẹp đến vậy cho toàn thể người dân của mình trong một thời gian ngắn như thế. Nỗ lực này chắc hẳn đã được tiếp sức từ chủ nghĩa dân tộc Hungary cũng nhiều như từ nhiệt tình của những người cộng sản, cha thầm nghĩ và nhớ lại những nhận xét bóng gió của bác Éva. ‘Anh đang nghĩ gì vậy?’ Helen hỏi. Cô đã mang găng tay và khoác túi xách sẵn sàng.

“ ‘Tôi đang nghĩ về bác cô.’

“ ‘Nếu anh thích bác tôi đến vậy, có lẽ mẹ tôi sẽ không hợp với phong cách của anh,’ cô nói kèm theo một tiếng cười khiêu khích. ‘Nhưng đó là chuyện của ngày mai. Giờ thì ta phải tìm một thứ ở đây đã.’

“ ‘Thứ gì vậy? Cô đừng làm ra vẻ bí ẩn như vậy chứ.’

“Cô lờ đi, chúng ta cùng bước qua những cánh cửa nặng nề có hình chạm khắc. ‘Thời kỳ Phục hưng phải không?’ cha thì thầm hỏi, nhưng Helen lắc đầu.

“ ‘Đây chỉ là bản mô phỏng làm từ thế kỷ mười chín. Tôi nghĩ, thậm chí cho đến tận thế kỷ mười tám, bộ sưu tập cũng chưa có bản gốc ở Pest mà chỉ có ở Buda, tại trường đại học đầu tiên ở đó. Tôi nhớ một thủ thư từng kể với tôi rằng trong số những cuốn sách cổ nhất thuộc bộ sưu tập này, nhiều cuốn có được là nhờ những gia đình chạy trốn quân xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ trao tặng cho thư viện từ thế kỷ mười sáu. Anh thấy đó, chúng tôi nợ người Thổ một số thứ. Nếu không, đến giờ ai biết được tất cả những cuốn sách này đang lưu lạc nơi chốn nào?’

“Thật dễ chịu khi lại bước vào một thư viện; nó có mùi hương thật thân thuộc. Đây là một kho báu xây theo kiểu tân cổ điển, tất cả các thứ đồ gỗ đều được khắc chạm và có màu sậm, ban công, hành lang, các bức bích họa. Nhưng thứ lôi cuốn ánh mắt của cha là hàng hàng dãy dãy sách, hàng trăm ngàn cuốn sách xếp hàng trong khắp các phòng, từ sàn lên đến trần, những gáy sách màu nâu, đỏ hay mạ vàng xếp thành hàng tăm tắp, những bìa áo vẫn mát lạnh như cẩm thạch và những trang lót sờ vào vẫn mịn màng, phần sống sách mấp mô có màu nâu như màu xương lâu năm. Cha băn khoăn tự hỏi không biết chúng đã được cất giấu ở đâu trong suốt thời gian chiến tranh, và phải mất bao lâu để sắp xếp chúng lại trên tất cả các kệ sách vừa được đóng lại này.

“Một vài sinh viên còn đọc sách ở những chiếc bàn dài, và một người đàn ông trẻ đang sắp xếp lại những đống sách phía sau một bàn lớn. Helen dừng lại nói gì đó với anh ta, anh ta gật đầu, vẫy tay ra hiệu mời chúng ta đi theo về phía một phòng đọc lớn mà cha vừa thoáng nhìn thấy qua một cánh cửa để mở. Ở đó, anh ta tìm cho chúng ta một cuốn sách khổ đôi lớn, đặt lên bàn, rồi để chúng ta ở lại đó. Helen ngồi xuống và cởi găng tay ra. ‘Đúng rồi,’ cô ôn tồn nói. ‘Tôi nghĩ đây đúng là thứ mà tôi nhớ. Năm ngoái tôi đã xem qua cuốn sách này trước khi rời Budapest, nhưng lúc đó tôi nghĩ là nó chẳng có ý nghĩa gì quan trọng cả.’ Cô mở sách ra đến trang tựa đề, cha nhìn thấy một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Những con chữ trông quen thuộc một cách lạ lùng, tuy vậy cha chẳng đọc được một chữ nào.

“ ‘Chữ gì vậy?’ Cha gí ngón tay vào nơi mà cha nghĩ là tên sách. Đó là một trang giấy dày, tốt, in mực màu nâu.

“ ‘Đây là chữ Rumani,’ Helen trả lời.

“ ‘Cô đọc được chứ?’

“ ‘Đương nhiên.’ Cô đặt tay lên trang giấy, sát bên tay cha. Cha nhận ra bàn tay chúng ta hầu như cùng một cỡ, dù tay cô trông thanh mảnh hơn và có sơn màu trên móng. ‘Đây này,’ cô nói. ‘Anh biết tiếng Pháp chứ?’

“ ‘Có chứ,’ cha gật đầu thừa nhận. Sau đó cha hiểu ra những gì cô muốn nói và bắt đầu dịch cái tựa sách đó. ‘Những khúc tình ca vùng Carpates, 1790.’

“ ‘Tốt lắm,’ cô thốt lên. ‘Rất tốt.’

“ ‘Tôi cứ nghĩ là cô không biết nói tiếng Rumani,’ cha nói.

“ ‘Tôi nói chẳng ra gì, nhưng ít nhiều vẫn có thể đọc được thứ ngôn ngữ này. Tôi đã học tiếng Latin mười năm ở trường, ngoài ra bác tôi đã dạy tôi đọc và viết tiếng Rumani rất nhiều. Dĩ nhiên là ngược lại mong muốn của mẹ tôi. Mẹ tôi rất bướng bỉnh. Dù trong thâm tâm chưa bao giờ từ bỏ nhưng bà vẫn ít khi nhắc nhở về xứ sở Transylvania.’

“ ‘Thế cuốn này nói về cái gì?’

“Cô từ tốn lật qua trang đầu tiên, cha nhìn thấy một cột chữ dài mà thoạt nhìn qua cha không hiểu gì cả; thêm vào sự xa lạ của thứ ngôn ngữ này với cha, nhiều chữ cái Latin làm nên nó còn quá bay bướm với những dấu gạch ngang, dấu đuôi, dấu mũ và các ký hiệu khác. Đối với cha, loại chữ viết này trông có vẻ quá quyến rũ so với một ngôn ngữ Roman. ‘Tôi đã tìm được cuốn sách này khi tiến hành đợt nghiên cứu trước khi đến nước Anh. Thực ra không có nhiều tư liệu về hắn trong thư viện này. Tôi chỉ tìm được một vài tài liệu về ma cà rồng, vì Mátyás Corvinus, ông vua ham mê sách vở của chúng tôi rất hiếu kỳ về chủ đề này.’

“ ‘Hugh cũng nói như vậy,’ cha khẽ nói.

“ ‘Cái gì?’

“ ‘Tôi sẽ giải thích sau. Cô tiếp tục đi.’

“ ‘Vâng, tôi không muốn bỏ sót bất kỳ vấn đề nào ở đây, vì vậy tôi đã đọc vô số tài liệu nói về lịch sử vùng Wallachia và Transylvania. Mất đến vài tháng. Tôi còn buộc mình đọc cả những gì được viết bằng tiếng Rumani. Lẽ dĩ nhiên, qua nhiều thế kỷ bị người Hung đô hộ, nhiều tài liệu và lịch sử về vùng Transylvania được viết bằng tiếng Hungary, nhưng cũng có vài nguồn tư liệu viết bằng tiếng Rumani. Đây là một tuyển tập lời dân ca vùng Transylvania và Wallachia, được một nhà sưu tầm khuyết danh công bố. Một số trong các bài hát này còn hơn cả dân ca - chúng là các thiên sử thi hùng tráng.’

“Cha cảm thấy hơi thất vọng; cha mong cô sẽ cho thấy một tài liệu lịch sử quý hiếm, một cái gì đó nói về Dracula kìa. ‘Có bài nào đề cập đến ông bạn chúng ta không?’

“ ‘Không, tôi e rằng không. Nhưng ở đây có một bài hát mà tôi cứ nhớ mãi, và lại nghĩ đến nó khi anh kể với tôi về những gì Selim Aksoy muốn chúng ta xem tại trung tâm lưu trữ thành phố Istanbul - nhớ không, cái đoạn nói về các tu sĩ từ vùng Carpates, đi xe la vào thành phố Istanbul, anh nhớ chứ? Tôi ước lúc bấy giờ chúng ta đã nhờ Turgut ghi lại bản dịch đoạn đó.’ Lúc đó, Helen đang lật tập sách rất cẩn thận. Một vài văn bản dài được minh họa bằng những bức tranh khắc gỗ ở phía trên, phần lớn là tranh minh họa có nội dung là một cảnh tưởng tượng nào đó trong những chuyện cổ tích dân gian, nhưng cũng có một vài bức tranh sơ sài về cây cối, nhà cửa và súc vật. Chữ in rõ ràng, nhưng nói chung cuốn sách vẫn mang vẻ thô sơ của chế tác thủ công. Helen rà ngón tay dọc theo các dòng đầu của mấy bài thơ, môi mấp máy, rồi lắc đầu. ‘Có những bài buồn quá,’ cô nói. ‘Anh biết đó, tâm tư người Rumani chúng tôi khác với người Hungary.’

“ ‘Nghĩa là thế nào?’

“ ‘Chà, tục ngữ Hungary có một câu thế này, “Người Magyar đón nhận niềm vui một cách buồn bã.” Thực vậy - Hungary có rất nhiều bài hát buồn, làng quê của họ đầy rẫy chuyện bạo lực, rượu chè, tự tử. Nhưng người Rumani lại còn buồn hơn, buồn hơn nữa. Tôi nghĩ, không phải vì chúng tôi buồn do cuộc sống mà vì bản chất con người chúng tôi sinh ra đã buồn.’ Helen lại cúi đầu xuống nhìn vào quyển sách cổ, hai hàng mi như rợp cả đôi gò má. ‘Anh thử nghe bài này nhé - một bài tiêu biểu.’ Cô ngắc ngứ dịch, và kết quả cũng gần giống như bản cha trích dưới đây - bản chính thức rút ra từ một tập nhỏ các bản dịch thế kỷ mười chín hiện có trong thư viện của cha:

Cô bé đã chết vẫn xinh đẹp dịu dàng như thế.

Cô em gái nhỏ nở nụ cười giống chị.

Khẽ nói cùng mẹ: “Ôi, mẹ thương yêu,

Người chị quá cố hiền lành bảo con đừng sợ.

Bởi cuộc đời chị không thể sống, chị đã tặng cho con,

Để con có thể mang cho mẹ niềm hân hoan mới.”

Nhưng không, người mẹ vẫn chẳng thể ngẩng đầu,

Vẫn chỉ ngồi khóc than cho đứa con đã mất.

“ ‘Lạy Chúa,’ cha rùng mình thốt lên. ‘Thật là dễ hiểu vì sao một nền văn hóa sản sinh ra một bài hát như vậy có thể tin vào chuyện ma cà rồng - thậm chí còn sáng tác ra chúng.’

“ ‘Ừ,’ Helen đáp, gật đầu, nhưng lúc này cô đang lật xem tiếp nội dung quyển sách. ‘Chờ chút.’ Cô đột nhiên dừng lại. ‘Có lẽ là bài này.’ Cô chỉ tay vào một đoạn thơ ngắn, có một bức tranh khắc gỗ minh họa phía trên, có vẻ như mô tả cảnh nhà cửa và các loài vật bị mắc kẹt trong một khu rừng đầy gai góc.

“Cha ngồi một lúc lâu trong tâm trạng hồi hộp trong lúc Helen im lặng đọc, và cuối cùng cô nhìn lên. Một tia khích động hiện trên gương mặt cô; hai mắt cô sáng lên. ‘Nghe này - tôi thử cố hết sức dịch nhé.’ Ở đây, cha ghi lại cho con bản dịch nghĩa mà cha đã giữ suốt hai mươi năm nay:

Họ đánh xe đến cổng, đến tận thành phố vĩ đại.

Họ đánh xe đến thành phố vĩ đại từ vùng đất chết.

“Chúng ta là người của Chúa, người đến từ vùng Carpates.

Chúng ta là những tu sĩ thánh thiện, nhưng chỉ mang theo những

tin tức xấu xa.

Chúng ta mang đến thành phố vĩ đại này tin tức về một bệnh dịch.

Phụng sự chủ nhân, chúng ta than khóc cho cái chết của Người.”

Họ đánh xe đến tận cổng thành và thành phố khóc than cùng họ

Khi họ đi vào.

“Dù rùng mình khi nghe đoạn thơ khó hiểu này, nhưng cha vẫn phải phản bác ý tưởng của Helen rằng nó có liên quan. ‘Đoạn thơ này rất chung chung. Tuy vùng Carpates được đề cập đến ở đây, nhưng hẳn nó cũng từng xuất hiện trong hàng chục, hoặc thậm chí hàng trăm văn bản xa xưa khác. Và “thành phố vĩ đại” có thể chẳng có ý nghĩa gì. Có thể nó có nghĩa là Thành phố của Thượng đế, Nước Trời.’

“Helen lắc đầu. ‘Tôi không nghĩ vậy,’ cô nói. ‘Đối với người dân vùng Balkan và Trung Âu - dù là Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo - thành phố vĩ đại bao giờ cũng là Constantinople, trừ phi anh gộp luôn những người đã thực hiện chuyến hành hương đến Jerusalem hoặc Mecca suốt nhiều thế kỷ qua. Và phần đề cập đến một bệnh dịch và các tu sĩ - tôi thấy theo một cách nào đó đoạn thơ này có vẻ liên quan đến câu chuyện trong đoạn văn của Selim Aksoy. Phải chăng vị chủ nhân mà họ đề cập đến chính là Vlad Ţepeş?’

“ ‘Chắc vậy,’ cha trả lời, không mấy tin tưởng, ‘giá mà chúng ta có nhiều tư liệu hơn. Cô nghĩ bài hát này có từ bao giờ?’

“ ‘Việc xác định niên đại của các bài hát dân gian bao giờ cũng rất khó khăn.’ Helen trông có vẻ đăm chiêu. ‘Như anh thấy đấy, cuốn sách này được in vào năm 1790, nhưng không có tên nhà xuất bản hay tên địa điểm nào cả. Dân ca có thể tồn tại suốt hai, ba hoặc bốn trăm năm một cách dễ dàng, nên rất có thể những bài hát này đã có trước cuốn sách nhiều thế kỷ. Bài hát này có thể được sáng tác vào cuối thế kỷ mười lăm, hoặc có thể trước đó nữa, vì vậy có thể nó không đáp ứng được những mục tiêu của chúng ta.’

“ ‘Bức tranh khắc gỗ trông khá kỳ lạ,’ cha nhận xét, quan sát kỹ hơn.

“ ‘Cuốn sách này có đầy những bức tranh như vậy,’ Helen thì thầm. ‘Lần đầu nhìn thấy chúng, tôi nhớ là mình đã rất kinh ngạc. Bức hình này dường như chẳng liên quan gì đến bài thơ - anh hẳn sẽ nghĩ người ta nên minh họa nó bằng hình ảnh một tu sĩ đang cầu nguyện hoặc một thành phố có tường thành cao bao bọc, hoặc một cái gì đại loại như vậy.’

“ ‘Ừ,’ cha chậm rãi nói, ‘nhưng chúng ta hãy quan sát kỹ hơn.’ Chúng ta cúi xuống nhìn bức hình minh họa nhỏ bé kia, đầu gần như chạm vào nhau bên trên cuốn sách. ‘Phải chi chúng ta có một cái kính lúp nhỉ,’ cha nói. ‘Cô có nghĩ đó là một đám rừng - hoặc bụi cây, bất kể là gì - đang che giấu thứ gì đó không? Không có thành phố vĩ đại, nhưng nếu nhìn kỹ chỗ này cô có thể thấy một tòa nhà trông giống như một giáo đường, với một cây thập tự giá trên đỉnh mái vòm, và kế bên là…’

“ ‘Một con vật nhỏ bé.’ Cô nhíu mắt. Và rồi, ‘Lạy Chúa,’ cô thốt lên. ‘Một con rồng.’

“Cha gật đầu. Chúng ta choáng váng với hình ảnh này, gần như không thở nổi. Hình dạng nhỏ bé vô cùng quen thuộc kia - đôi cánh dang rộng, đuôi uốn lại thành một vòng nhỏ. Cha không cần lấy cuốn sách đang cất trong cặp ra để so sánh. ‘Điều này có ý nghĩa gì?’ Tim cha đập thình thịch khi nhìn thấy hình ảnh con rồng đó, dù chỉ là một hình ảnh thu nhỏ.

“ ‘Chờ đã.’ Helen chúi mũi vào bức tranh khắc gỗ, mặt cô chỉ cách trang giấy vài phân. ‘Ôi, trời ơi,’ cô kêu lên. ‘Tôi không đọc được, nhưng có một chữ ở đây này, tôi nghĩ, mỗi nơi một chữ, cách đều nhau giữa lùm cây. Chúng rất nhỏ, nhưng tôi tin chắc đây là những con chữ.’

“ ‘Chữ Drakulya?’ cha hỏi, cố giữ vẻ bình thản.

“Cô lắc đầu. ‘Không phải, nhưng có thể là một cái tên - Ivi - Ivireanu. Tôi không biết đó là gì. Tôi chưa từng nhìn thấy từ này bao giờ, nhưng “u” thông thường là chữ cuối của tên người Rumani. Chuyện quái quỷ gì ở đây vậy nhỉ?’

“Cha thở dài. ‘Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ bản năng của cô đúng - trang sách này liên quan ít nhiều đến Dracula, nếu không sẽ không có hình con rồng ở đây. Dù gì thì cũng không phải là con rồng đó.’

“Cô và cha bất lực đưa mắt nhìn nhau. Chỉ nửa giờ trước đây, căn phòng này dễ chịu và đầy hứa hẹn biết bao nhiêu, nhưng bây giờ dưới mắt cha, trông nó tăm tối như một lăng mộ tri thức bị lãng quên.

“ ‘Thủ thư không biết gì về cuốn sách này,’ Helen nói. ‘Tôi nhớ đã hỏi họ về nó, vì nó là sách rất hiếm mà.’

“ ‘Chà, vậy thì chúng ta chưa thể giải quyết vấn đề này rồi,’ cuối cùng cha nói. ‘Thôi cứ dịch rồi ghi lại đã, để biết những gì chúng ta đã nhìn thấy.’ Cha ghi lại những gì Helen đọc và phác thảo vội bức tranh khắc gỗ lên một trang giấy sổ ghi chép. Helen nhìn đồng hồ.

“ ‘Tôi phải quay về khách sạn,’ cô nói.

“ ‘Tôi cũng vậy, nếu không sẽ lỡ hẹn với Hugh James mất.’ Chúng ta thu xếp đồ đạc và đặt trả cuốn sách lên kệ, kính cẩn như với một thánh tích.

“Có lẽ đầu óc cha đã rối tung trong những hình ảnh tưởng tượng mà bài thơ và bức hình minh họa mang lại, hoặc có lẽ cha đã mỏi mệt hơn là mình nghĩ do chuyến đi, do phải thức khuya ở nhà hàng của bác Éva, do phải thuyết trình trước một đám đông xa lạ nên khi bước vào phòng, phải mất một lúc lâu cha mới ý thức được những gì mình nhìn thấy ở đó, và còn lâu hơn nữa để kết luận rằng Helen có thể cũng đang chứng kiến cùng một cảnh tượng giống như vậy trong phòng cô, cách hai tầng phía trên. Sau đó, đột nhiên cảm thấy lo sợ cho sự an toàn của cô, cha phóng nhanh lên cầu thang, không cần quan sát thêm gì nữa. Phòng của cha đã bị lục soát, không chừa một ngóc ngách nào - các ngăn hộc, căn buồng nhỏ, chăn nệm và vải giường, mọi tài liệu mà cha có đều bị vứt tứ tung, bị hủy hoại, thậm chí bị xé bằng tay, một cách không chỉ vội vàng không cần suy nghĩ, mà còn đầy chủ ý và ác tâm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


“ ‘Nhưng anh không thể nhờ cảnh sát giúp đỡ hay sao? Có vẻ như ở đây bọn họ có mặt ở khắp nơi kia mà.’ Hugh James bẻ đôi ổ bánh mì và cắn một miếng thật to. ‘Thật kinh khủng, nhất là khi nó lại xảy ra tại một khách sạn ở nước ngoài.’

“ ‘Chúng tôi đã gọi cảnh sát,’ cha quả quyết với Hugh. ‘Ít nhất tôi nghĩ chúng tôi đã gọi, vì nhân viên khách sạn đã làm việc này thay cho chúng tôi. Anh ta nói không ai được về phòng cho đến khuya hôm nay hoặc sáng sớm mai, và không được đụng chạm vào bất kỳ thứ gì. Anh ta đã bố trí chúng tôi ở hai phòng mới.’

“ ‘Cái gì? Ý anh muốn nói phòng cô Rossi cũng bị lục lọi à?’ Đôi mắt lồi to tướng của Hugh như càng trợn tròn hơn. ‘Còn ai khác trong khách sạn bị quấy rối như vậy không?’

“ ‘Tôi nghĩ là không,’ cha trả lời dứt khoát.

“Chúng ta đang ngồi tại một quán ăn ngoài trời ở Budapest, không xa Đồi Lâu Đài, từ vị trí này có thể nhìn qua sông Danube, về hướng Tòa nhà Quốc hội bên khu Pest. Trời còn rất sáng và bầu trời chiều hắt ánh lấp lánh xanh pha lẫn hồng xuống dòng sông. Hugh đã chọn địa điểm này - đây là một trong những địa điểm ưa thích của anh. Những người dân Budapest, đủ mọi lứa tuổi, đang tản bộ trên con đường phía trước mặt chúng ta, nhiều người trong số họ dừng lại bên lan can phía trên dòng sông ngắm nhìn phong cảnh hữu tình ấy, tựa như ngay cả họ cũng không bao giờ thấy chán nó được. Hugh đã gọi nhiều món ăn đặc sản cho cha nếm thử, và chúng ta chỉ vừa ngồi vào bàn ăn với món bánh mì thông dụng có vỏ cứng vàng và một chai Tokay, một loại rượu vang nổi tiếng có gốc gác từ vùng Đông Bắc Hungary, theo lời giải thích của Hugh. Chúng ta đã biết qua những thông tin sơ bộ về nhau - trường đại học chúng ta theo học, bản luận văn trước đây của cha (anh ta bật cười khi cha thuật lại việc giáo sư Sándor đã hiểu lầm về công việc của cha ra sao), công trình nghiên cứu của Hugh về lịch sử vùng Balkan và cuốn sách sắp xuất bản của anh ta, viết về những thành phố thuộc đế chế Ottoman tại Âu châu.

“ ‘Hai người có bị mất gì không?’ Hugh hỏi, châm rượu đầy ly cho cha.

“ ‘Không, chúng tôi không mất gì cả,’ cha rầu rĩ đáp lại. ‘Lẽ dĩ nhiên tôi không để tiền trong phòng, hoặc bất kỳ thứ gì có giá trị - và theo như tôi biết thì hộ chiếu của chúng tôi được cất giữ ở quầy tiếp tân, hoặc có thể tại đồn cảnh sát.’

“ ‘Vậy chúng tìm cái gì?’ Hugh nâng ly mời cha và nhấp một ngụm Tokay.

“ ‘Đây là một câu chuyện dài, rất dài.’ Cha thở dài. ‘Nhưng nó trùng khớp một cách khá thú vị với một số vấn đề khác mà chúng ta sắp bàn đến.’

“Anh ta gật đầu. ‘Được rồi. Vậy thì nhập cuộc đi chứ.’

“ ‘Nếu anh cũng sẵn sàng nhập cuộc.’

“ ‘Lẽ tất nhiên.’

“Cha chỉ uống nửa ly để lấy tinh thần, và bắt đầu ngay từ đầu câu chuyện. Cha không cần mượn rượu để xóa bỏ hoàn toàn mọi ngần ngại khi kể cho Hugh James nghe tất cả câu chuyện của thầy Rossi; nếu không kể cho anh ta nghe hết mọi việc, có thể cha sẽ không được biết hết những gì anh ta đã biết. Anh ta im lặng nghe, vẻ nghiền ngẫm, ngoại trừ lúc cha đề cập đến quyết định của thầy Rossi là phải tiến hành nghiên cứu tại Istanbul thì anh giật bắn mình. ‘Thánh thần ơi,’ anh ta thốt lên. ‘Tôi đã nghĩ đến việc đích thân đến nơi đó. Tôi muốn nói là quay trở lại đó - tôi đã từng đến đó hai lần, nhưng chưa lần nào vì mục đích tìm kiếm Dracula cả.’

“ ‘Vậy để tôi giúp anh đỡ mất công.’ Lần này cha rót đầy ly và kể với Hugh về những cuộc phiêu lưu của thầy Rossi tại Istanbul, và sau đó là việc ông mất tích, đến đó hai mắt của Hugh như lồi hẳn ra ngoài, dẫu vậy anh ta vẫn chưa nói gì. Cuối cùng cha kể lại việc cha gặp Helen và không bỏ sót chi tiết nào về quan hệ của cô với thầy Rossi, cũng như chi tiết về những chuyến đi và việc tìm kiếm của chúng ta từ đó đến nay, kể cả cuộc gặp gỡ với Turgut. ‘Anh thấy đó,’ cha kết luận, ‘đến thời điểm này, tôi chẳng hề ngạc nhiên khi phòng mình tại khách sạn bị xới tung lên.’

“ ‘Vâng, chính xác.’ Anh ta có vẻ trầm ngâm một lúc. Đến lúc này, chúng ta đã ăn khá nhiều món hầm và dưa chua, anh ta buông nĩa xuống trông vẻ hơi buồn rầu, tựa như tiếc rẻ khi phải nhìn thấy món cuối cùng. ‘Việc chúng ta gặp gỡ như thế này thật khác thường. Tôi đau buồn trước việc thầy Rossi mất tích - rất đau buồn. Thực là vô cùng kỳ lạ. Trước khi nghe câu chuyện của anh, hẳn tôi đã chẳng dám nói chắc rằng nơi đó liên quan đến việc nghiên cứu về Dracula hơn mấy chuyện bình thường khác. Ngoại trừ, anh biết đấy, tôi có một cảm giác kỳ lạ về chính cuốn sách của mình. Chẳng ai muốn nếm trải những cảm giác kỳ quái cả, nhưng nó cứ sờ sờ ra đấy.’

“ ‘Có thể thấy là tôi đã không lạm dụng sự cả tin của anh nhiều như tôi vốn lo sợ.’

“ ‘Và những cuốn sách này,’ anh trầm ngâm suy nghĩ. ‘Tôi đếm được những bốn cuốn - của tôi, của anh, của giáo sư Rossi và một cuốn nữa thuộc về vị giáo sư tại Istanbul. Điều cực kỳ quái lạ là bốn cuốn đều giống nhau.’

“ ‘Anh đã gặp giáo sư Turgut Bora chưa?’ cha hỏi. ‘Anh nói là đã đến Istanbul vài lần.’

“Anh ta lắc đầu. ‘Không, thậm chí tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến tên ông ấy. Vì ông ấy ở khoa văn chương nên tôi không có cơ hội gặp ông ta ở khoa lịch sử, hoặc tại bất kỳ cuộc hội nghị nào ở đó. Tôi rất cảm kích nếu một ngày nào đó anh giúp tôi liên lạc với ông ấy. Tuy chưa bao giờ đến trung tâm lưu trữ mà anh mô tả, nhưng tôi đã có đọc về nó lúc còn ở Anh, và đã nghĩ đến việc thử thăm viếng nơi đó. Dù vậy anh đã giúp tôi khỏi bị vướng mắc, như lời anh nói. Anh biết đấy, tôi chưa bao giờ nghĩ hình ảnh đó - con rồng trong quyển sách của tôi - lại là một tấm bản đồ. Thật là một ý tưởng dị thường.’

“ ‘Vâng, và có lẽ đây là một vấn đề sinh tử đối với thầy Rossi,’ cha nói. ‘Nhưng bây giờ thì đến lượt anh. Anh có được quyển sách đó như thế nào?’

“Trông anh ta có vẻ nghiêm trọng. ‘Không như anh đã mô tả trường hợp của anh - và hai trường hợp kia - tôi có được cuốn sách của mình không hẳn do tình cờ, dù có được từ ai và ở đâu thì tôi không thể nói với anh được. Có lẽ tôi nên thuật sơ qua với anh một chút về bối cảnh sự việc.’ Anh ta lại im lặng một lát, cha có cảm tưởng đây là một chủ đề khó khăn đối với anh. ‘Anh thấy đó, tôi đã tốt nghiệp Oxford chín năm về trước, sau đó đi dạy tại Đại học Luân Đôn. Gia đình tôi sống tại Cumbria, quận Lake, chẳng giàu có gì. Cả gia đình luôn phải phấn đấu - và tôi cũng vậy - để tôi có thể có được sự giáo dục tốt nhất. Anh biết đấy, tôi luôn cảm thấy mình khá lạc lõng, đặc biệt là hồi học trung học tại một trường tư thục danh tiếng - chú tôi đã giúp tôi vào được trường đó. Tôi cho rằng mình đã cố gắng học tập nhiều hơn hầu hết các bạn khác, luôn cố gắng để đạt mức xuất sắc. Ngay từ đầu, lịch sử đã là niềm đam mê lớn nhất của tôi.’

“Hugh dùng khăn ăn chậm môi và lắc đầu, tựa như nhớ lại thời trai trẻ ngông cuồng của mình. ‘Tôi biết đến cuối năm thứ hai đại học mình đã học khá tốt, và chính điều này đã khuyến khích tôi tiến xa hơn. Nhưng rồi chiến tranh xảy ra, làm gián đoạn mọi thứ. Tôi đã học gần hết năm thứ ba tại Oxford. Tiện thể cũng xin nói luôn, đó là thời gian tôi nghe nói đến tên thầy Rossi lần đầu tiên dù chưa bao giờ gặp ông ấy. Chắc hẳn ông ấy đã đi Mỹ nhiều năm trước khi tôi vào đại học.’

“Anh ta xoa cằm bằng bàn tay to bè và hơi nứt nẻ. ‘Tôi không thể tiếp tục niềm đam mê học hành nữa, bởi tôi cũng yêu nước và đã lập tức đăng ký gia nhập hải quân. Tôi được đưa tới Ý và sau đó một năm quay về nhà với những vết thương ở chân và tay.’

“Anh ta thận trọng sờ vào cánh tay áo vải trắng, ngay phía trên cổ tay áo, tựa như bất ngờ cảm thấy lại có máu chảy ra ở đó. ‘Tôi hồi phục khá nhanh và muốn quay trở lại chiến trường, nhưng người ta không nhận tôi nữa - một mắt của tôi đã bị ảnh hưởng khi chiến hạm nổ tung. Vì vậy tôi quay về Oxford, cố gắng bỏ ngoài tai tiếng còi báo động và hoàn thành học vị ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Tôi nghĩ, những tuần lễ sau cùng ở trường đại học là những tuần hạnh phúc nhất trong đời mình, dù thiếu thốn đủ mọi thứ - nhưng thế giới đã được gỡ bỏ khỏi lời nguyền khủng khiếp, tôi đã sắp hoàn tất chuyện học hành dang dở, và cô gái tôi yêu nơi quê nhà cuối cùng đã đồng ý kết hôn với tôi. Dù không có tiền và phải ăn uống kham khổ nhưng tôi vẫn cặm cụi ăn cá mòi trong phòng và dẫu sao vẫn viết thư tình gửi về quê - hy vọng anh sẽ không phiền mấy chuyện cà kê này - và tôi lao vào học như điên chuẩn bị cho thi cử. Và kết quả tất nhiên là tôi đã bị suy nhược trầm trọng.’

“Hugh cầm chai Tokay giờ đã rỗng lên, rồi lại thở dài đặt xuống bàn. ‘Tôi gần như đã vượt qua được toàn bộ thử thách, và đã ấn định ngày cưới vào cuối tháng Sáu. Đêm trước ngày thi tốt nghiệp, tôi đã thức rất khuya để ôn lại bài vở. Tôi chắc mình đã học hết mọi thứ cần thiết, nhưng chỉ là tôi không thể nào bắt mình ngơi nghỉ. Lúc đó, tôi đang ôn bài trong một góc thư viện, tách biệt phía sau các kệ sách, ở đó tôi không phải nhìn mấy tên điên khác cũng đang miệt mài với việc bút sách như tôi.

“ ‘Ở những thư viện nhỏ bé thường hay có một số sách rất thú vị, và đôi lúc tôi đã tự cho phép mình thư giãn bằng một tuyển tập thơ trữ tình của Dryden, cách chỗ tôi ngồi chỉ một tầm tay. Tuy nhiên, tôi đã quyết định gấp cuốn sách lại, nghĩ bụng tốt hơn nên ra ngoài làm một điếu thuốc, rồi sau đó sẽ gắng tập trung trở lại. Tôi nhét cuốn sách trở lại kệ và bước ra ngoài. Đó là một đêm mùa xuân dễ chịu, tôi đứng đó, nghĩ đến Elspeth và mái nhà đơn sơ mà nàng đang lo sửa sang lại cho chúng tôi, và về người bạn tốt nhất của mình - chắc hẳn là người đàn ông tốt nhất với tôi - đã tử trận ở mỏ dầu Ploieşti cùng những người Mỹ, sau đó tôi quay trở vào thư viện. Tôi vô cùng ngạc nhiên, tập thơ Dryden vẫn còn nằm đó, trên bàn làm việc, như thể tôi chưa hề cất nó lại vào ngăn kệ. Tôi nghĩ chắc là do mình bắt đầu mơ màng do làm việc quá sức. Vì vậy, tôi quay người lại để trả nó về vị trí cũ trên kệ sách, nhưng chợt nhận ra không còn chỗ nữa. Tôi chắc chắn nó nằm kế bên cuốn sách của Dante, nhưng giờ đã có một cuốn khác nằm ở đó, một cuốn sách có gáy in hình chạm nổi một con vật nhỏ và trông rất cổ xưa. Tôi lôi cuốn sách kia ra, nó tự động bật mở trên tay tôi đến ngay chỗ - chà, anh biết rồi đó.’

“Lúc này, gương mặt dễ mến của Hugh đã tái nhợt, anh ta lục tìm hết túi áo lại túi quần cho đến khi tìm được bao thuốc lá. ‘Anh không hút thuốc à?’ Anh ta châm một điếu, rít một hơi thật sâu. ‘Tôi bị cuốn hút bởi bề ngoài, vẻ cổ xưa rành rành của cuốn sách, dáng vẻ đầy đe dọa của con rồng - cũng như mọi thứ đã làm anh sững sờ trước cuốn sách của anh. Lúc đó là ba giờ sáng, không có viên thủ thư nào ở đó, vì vậy tôi đến tủ thư mục và tự mình lục tìm, nhưng tôi chỉ biết được tên và dòng dõi của Vlad Ţepeş. Vì cuốn sách không có dấu của thư viện nên tôi mang nó về nhà.

“ ‘Tôi hầu như không ngủ được và không thể tập trung đầu óc trong buổi thi sáng hôm sau; đầu óc chỉ loay hoay nghĩ tới việc đến các thư viện khác, và có lẽ phải đến cả Luân Đôn để thử xem có thể tìm ra được điều gì không. Nhưng cho đến lễ cưới, tôi vẫn không thu xếp được thời gian nên đành mang cuốn sách nhỏ đó theo và tiếp tục xem xét trong những lúc rảnh rỗi. Elspeth đã bắt gặp tôi cứ chúi đầu vào cuốn sách và tỏ ra chẳng thích thú chút nào khi tôi giải thích. Lúc đó chỉ còn năm ngày nữa là đám cưới, nhưng tôi không thể nào ngưng suy nghĩ cũng như thôi nói với cô ấy về cuốn sách cho đến khi cô ấy yêu cầu tôi chấm dứt đề tài này.

“ ‘Rồi một buổi sáng - hai ngày trước đám cưới - tôi bất chợt nảy ra một ý tưởng. Anh biết đấy, có một tòa nhà lớn không quá xa làng của cha mẹ tôi, một công trình kiến trúc đồ sộ phong cách Jacobin mà khách du lịch thường đến tham quan bằng xe buýt. Khi tháp tùng các chuyến tham quan do nhà trường tổ chức, bao giờ tôi cũng thấy chán, nhưng tôi vẫn nhớ nhà quý tộc đã xây dựng tòa nhà đó cũng là một người sưu tập sách và ông ta có đủ loại sách có xuất xứ từ khắp nơi trên thế giới. Vì phải sau đám cưới tôi mới về được Luân Đôn, nên tôi nghĩ đến việc thân chinh đến khu thư viện nổi tiếng của ngôi nhà đó để lục lọi, biết đâu sẽ tìm được cái gì đó về vùng Transylvania. Khi báo cho cha mẹ biết là tôi đi dạo, tôi biết chắc hẳn hai người nghĩ là tôi đến gặp Elsie.

“ ‘Đó là một buổi sáng mưa, lạnh và đầy sương mù. Bà quản gia tòa nhà cho biết hôm đó người ta không mở cửa đón khách du lịch, nhưng vẫn cho tôi vào thư viện. Bà quen biết với bà tôi và có nghe nói đến đám cưới sắp tổ chức trong làng nên đã pha cho tôi một cốc trà. Lúc cởi áo mưa, tôi đã quên bẵng mọi chuyện khác khi phát hiện hai mươi kệ sách nằm kéo dài khá xa về hướng Đông so với các kệ khác, được nhắc đến trong tua Du lịch Tuyệt vời Tham quan Tòa nhà cổ Jacobin.

“ ‘Tôi lật qua tất cả những cuốn sách kỳ diệu ấy, cả những cuốn sách khác mà vị chủ nhân đã sưu tầm được tại nước Anh, có lẽ từ những chuyến du lịch của ông ta, cho đến khi tình cờ đọc đến cuốn lịch sử Hungary và vùng Transylvania, trong đó tôi đã tìm được một đoạn có đề cập đến Vlad Ţepeş, sau đó là một đoạn khác, và cuối cùng, tôi vui mừng và kinh ngạc khi đọc đến đoạn miêu tả ghi lại việc chôn cất Vlad tại vùng hồ Snagov, trước bệ thờ của một giáo đường mà hắn đã từng cho tân trang và sửa chữa lại. Đoạn miêu tả này là một truyền thuyết được một nhà phiêu lưu người Anh từng đến vùng đó ghi lại - ông ta tự xưng một cách đơn giản là Lữ Khách ở trang bìa giả, và là người sống cùng thời với nhà sưu tập thời Jacobin kia. Anh biết đấy, đó là khoảng 130 năm sau cái chết của Vlad.

“ ‘Lữ Khách đã đến thăm tu viện tại Snagov vào năm 1605. Ông ta đã trò chuyện rất nhiều với tu sĩ ở đó, và họ đã cho ông biết theo truyền thuyết thì một quyển sách lớn, một báu vật của tu viện từng được đặt trên bệ thờ suốt lễ tang Vlad cho các tu sĩ có mặt trong tang lễ hôm đó ký tên vào, những người không biết viết đã vẽ hình một con rồng để tỏ lòng kính trọng Giáo đoàn Rồng. Điều đáng tiếc là không có chi tiết nào đề cập đến những gì đã xảy ra với quyển sách sau đó. Nhưng tôi đã phát hiện điều đáng chú ý nhất. Khi Lữ Khách thuật lại việc ông yêu cầu được xem ngôi mộ, các tu sĩ đã chỉ cho ông ta thấy một phiến đá nằm trên nền nhà, phía trước bệ thờ. Trên phiến đá là chân dung của Vlad Drakulya và dày đặc những dòng chữ Latin - có lẽ chúng cũng được kẻ bằng sơn, vì vị Lữ Khách không đề cập đến việc khắc chạm gì cả, và ông ta đã bị sốc khi không nhìn thấy cây thánh giá đánh dấu mộ bia. Phần văn bia mà tôi đã cẩn thận ghi chép lại do bị thôi thúc bởi một bản năng nào đó chính tôi cũng không nhận ra - cũng viết bằng tiếng Latin.’ Hugh trầm giọng nói nhỏ lại, liếc mắt nhìn về phía sau, dập điếu thuốc vào khay gạt tàn đặt trên bàn.

“ ‘Sau khi ghi lại và mò mẫm dịch một lát, tôi đọc thành tiếng câu dịch của mình: “Hỡi độc giả, hãy quật mồ hắn lên bằng một…” Hẳn anh đã biết rõ phần còn lại. Ngoài trời vẫn đang mưa nặng hạt, một cánh cửa sổ ở đâu đó trong thư viện bị bung chốt, cứ bật ra rồi đóng lại ầm ầm. Tôi cảm nhận có một luồng không khí ẩm ướt gần đâu đó. Chắc hẳn tôi đã giật mình, chạm tay lên chiếc cốc làm một giọt trà văng lên cuốn sách. Tôi nhìn đồng hồ, chùi giọt trà và cảm thấy bực mình vì sự vụng về của mình - đã một giờ trưa, tôi biết đã đến lúc phải về nhà để dùng bữa. Có vẻ như ở đó không còn gì khác có liên quan để đọc nữa, do vậy tôi xếp hết sách lại, cám ơn bà quản gia, rồi bước xuống những lối đi giữa các luống hoa hồng tháng Sáu.

“ ‘Khi về đến nhà cha mẹ, tôi tưởng sẽ trông thấy họ và có thể cả Elsie nữa đang ngồi đợi ở bàn ăn, nhưng tôi lại nghe có tiếng om sòm. Nhiều bạn bè và hàng xóm đang tụ tập ở đó, mẹ tôi đang khóc nức nở. Cha tôi trông có vẻ rất đau buồn.’ Hugh lại châm một điếu thuốc nữa, ánh lửa diêm run run trong bóng tối đang mỗi lúc một đặc quánh. ‘Cha đặt tay lên vai tôi và cho biết Elsie đã gặp tai nạn khi đang lái chiếc xe mượn của người quen, trở về nhà sau khi đi mua sắm ở một thị trấn gần đó. Lúc đó trời mưa rất lớn, người ta cho rằng cô đã bất ngờ nhìn thấy cái gì đó nên phải bẻ ngoặt tay lái. Ơn Chúa, cô không chết nhưng bị thương nặng. Cha mẹ cô đã đến bệnh viện ngay, cha mẹ tôi thì chờ ở nhà để báo tin cho tôi biết.

“ ‘Tôi tìm được một chiếc xe và phóng nhanh đến nỗi suýt nữa chính mình cũng gặp tai nạn. Tôi chắc rằng anh không muốn nghe tất cả chuyện này nhưng… Cô nằm trên giường bệnh, đầu quấn băng kín mít, hai mắt mở trừng trừng. Hình ảnh của Elsie lúc đó là vậy. Hiện tại, cô đang sống trong một viện cứu tế, ở đó cô được chăm sóc tốt, nhưng cô không nói được cũng như không hiểu được nhiều, và không thể tự ăn uống. Điều kinh khủng trong chuyện này là…’ Giọng anh bắt đầu run lên. ‘Điều kinh khủng là, tôi luôn cho rằng đó là một tai nạn, một tai nạn thật sự, và giờ khi đã nghe câu chuyện của anh - ông Hedges, bạn của thầy Rossi, và con mèo - con mèo của anh - tôi không biết phải nghĩ thế nào.’ Anh ta lại rít một hơi thuốc dài nữa.

“Cha buông một tiếng thở dài. ‘Tôi rất, rất lấy làm tiếc. Tôi ước mình biết phải nói gì cùng anh. Việc xảy ra với anh thật là khủng khiếp.’

“ ‘Cám ơn anh.’ Có vẻ như anh ta đang cố gắng lấy lại phong cách hành xử bình thường. ‘Anh biết đấy, đến nay chuyện cũng đã nhiều năm rồi, thời gian cũng giúp tôi nguôi ngoai được phần nào. Chỉ đơn giản là…’

“Không phải như bây giờ, ngày ấy cha không biết điều gì đã bị bỏ lửng ở cuối câu nói đó: những lời nói ra cũng vô ích, những lời chỉ lặp lại sự mất mát vốn không thể diễn đạt thành lời. Khi chúng ta ngồi đó, quá khứ như ngưng đọng giữa hai ta. Một người hầu bàn xuất hiện, đặt lên bàn chúng ta một chiếc đèn lồng thủy tinh bên trong có gắn nến. Quán cà phê đã đông khách, cha nghe vọng ra từ bên trong tiếng cười ồn ã.

“ ‘Tôi cảm thấy choáng váng vì những gì anh vừa kể về Snagov,’ cha lại lên tiếng, sau một lúc khá lâu. ‘Anh biết đó, tôi chưa bao giờ nghe nói đến bất kỳ chuyện gì như thế về hầm mộ này - ý tôi muốn nói đến câu chữ ghi trên bia mộ, bức chân dung, và không có thánh giá. Sự phù hợp giữa những dòng văn bia và những gì thầy Rossi đã phát hiện trên những tấm bản đồ trong trung tâm lưu trữ tại Istanbul là cực kỳ quan trọng, tôi nghĩ - đây là một bằng chứng cho thấy ít ra Snagov là địa điểm ban đầu của hầm mộ Dracula.’ Cha ấn ngón tay lên thái dương. ‘Vậy thì, vì sao tấm bản đồ - bản đồ dưới dạng con rồng trong những cuốn sách và tại trung tâm lưu trữ - lại không phù hợp với địa hình của Snagov - không có hồ nước hoặc hòn đảo?’

“ ‘Giá mà tôi biết.’

“ ‘Sau đó anh vẫn tiếp tục nghiên cứu về Dracula chứ?’

“ ‘Không hề, trong nhiều năm trời sau đó.’ Hugh dập điếu thuốc. ‘Tôi không còn lòng dạ nào mà tiếp tục. Dù vậy, khoảng hai năm trước, tôi chợt nhận ra mình lại suy nghĩ về hắn, và khi bắt đầu làm việc với cuốn sách hiện nay, cuốn sách về Hungary, tôi đã lại để mắt đến hắn.’

“Lúc này trời đã tối hẳn, dòng sông Danube lấp lánh ánh sáng phản chiếu từ những ngọn đèn trên cầu và những tòa nhà khu Pest. Chúng ta vui vẻ cám ơn khi một người hầu bàn mang ra cà phê eszpresszó. Hugh nhấp một ngụm rồi đặt cốc xuống. ‘Anh muốn xem cuốn sách đó không?’ anh ta hỏi.

“ ‘Cuốn mà anh đang nghiên cứu à?’ cha lúng túng mất một lát.

“ ‘Không - cuốn sách có hình con rồng của tôi.’

“Cha hỏi. ‘Anh mang nó theo bên người sao?’

“ ‘Tôi luôn mang nó theo bên người,’ anh ta nghiêm nghị trả lời. ‘Hầu như bao giờ cũng vậy. Thực ra tôi đã để nó lại khách sạn khi tham dự buổi thuyết trình hôm nay, tôi nghĩ cuốn sách sẽ được an toàn hơn ở đó khi tôi đang diễn thuyết. Cứ nghĩ tới việc nó có thể bị đánh cắp…’ Anh ta dừng lại. ‘Anh không để cuốn sách lại trong phòng chứ hả?’

“ ‘Không.’ Cha cũng phải mỉm cười. ‘Tôi cũng mang nó theo bên mình.’

“Anh ta thận trọng dẹp những cốc cà phê qua một bên rồi mở cặp, sau đó lôi trong cặp ra một hộp gỗ bóng láng và đặt gói vải trong hộp lên bàn. Bên trong gói vải là một cuốn sách nhỏ hơn cuốn sách của cha, nhưng được bọc bằng cùng một loại giấy da mịn đã sờn cũ. Các trang sách có màu nâu sậm hơn và giòn hơn so với giấy trong cuốn sách của cha, nhưng hình con rồng ở giữa lại giống nhau, trải rộng đến rìa trang và quắc mắt nhìn chúng ta trừng trừng. Không nói gì, cha mở cặp, lấy cuốn sách của mình ra, đặt bức hình ở giữa sách vào cạnh con rồng của Hugh. Giống hệt nhau, cha nghĩ khi cúi sát xuống nhìn từng hình.

“ ‘Nhìn vào vết nhòe ở đây này - thậm chí chúng cũng giống nhau nữa. Chúng được in ra từ cùng một bản khắc,’ Hugh thì thầm.

“Cha thấy anh ta nhận xét chính xác. ‘Anh biết đấy, chi tiết này nhắc tôi nhớ đến một chuyện khác mà tôi quên kể với anh. Chiều nay, cô Rossi và tôi đã ghé qua thư viện trường đại học, trước khi quay trở lại khách sạn, cô ấy muốn tìm lại một thứ mà trước đó không lâu cô đã từng xem qua.’ Cha mô tả tuyển tập các bài hát dân gian Rumani, và bài thơ khó hiểu nói về việc những tu sĩ đi vào một thành phố vĩ đại. ‘Cô ấy nghĩ bài thơ đó có liên quan đến câu chuyện trong một bản thảo chép tay tại Istanbul mà tôi đã kể với anh. Bài thơ khó hiểu này có nội dung rất chung chung, nhưng ngay trên trang in bài thơ đó có một bức tranh khắc gỗ rất đáng chú ý, nó vẽ một cánh rừng đầy các bụi cây, một nhà thờ nhỏ, với hình một con rồng ở giữa, và một từ.’

“ ‘Drakulya?’ Hugh đoán, giống như cha đã đoán trong thư viện.

“ ‘Không, Ivireanu.’ Cha nhìn vào cuốn sổ ghi chú và đánh vần cho anh ta nghe.

“Đôi mắt anh ta trợn trừng, ‘Quả là kỳ lạ!’ anh ta thốt lên.

“ ‘Cái gì kỳ lạ? Nói nhanh xem nào.’

“ ‘Chỉ là, ngày hôm qua tôi cũng thấy cái tên đó trong thư viện.’

“ ‘Trong cùng một thư viện à? Ở đâu? Trong cùng một cuốn sách sao?’ Cha nôn nóng hỏi, không chờ anh ta kịp trả lời, không còn để ý đến phép xã giao.

“ ‘Đúng, trong thư viện trường đại học, nhưng không phải trong cùng một cuốn sách. Tôi đã sục sạo quanh trong đó suốt tuần nay để tìm tư liệu cho cuốn sách của mình, và vì lúc nào cũng bị anh bạn chúng ta ám ảnh nên tôi cũng tiếp tục để ý tìm tài liệu có liên quan đến thế giới của hắn. Anh biết đó, Dracula và Hunyadi là những kẻ thù không đội trời chung, và sau đó Dracula và Matthias Corvinus cũng vậy, nên khi đọc tài liệu về Hungary thỉnh thoảng tôi lại gặp lại Dracula. Lúc ăn trưa tôi đã đề cập với anh là đã tìm được một bản chép tay do Corvinus ra lệnh soạn thảo có nhắc tới hồn ma trong chiếc bình cổ.’

“ ‘Ồ! Vâng,’ cha nói, giọng nao nức. ‘Và đó cũng là nơi anh nhìn thấy chữ Ivireanu?’

“ ‘Thực ra không phải vậy. Bản chép tay của Corvinus rất thú vị, nhưng vì những nguyên cớ khác. Nó nói về - vâng, tôi đã chép lại một ít ở đây. Nguyên bản viết bằng chữ Latin.’

“Anh ta lấy sổ ghi chép ra, đọc cho cha nghe vài dòng. ‘ “Năm 1463 Dương lịch, người hầu cận hèn mọn của đức vua dâng lên ngài những dòng chữ này, trích từ những tác phẩm tuyệt vời, tất cả nhằm thông tin cho Bệ hạ biết về lời nguyền của tên ma cà rồng kia, cầu cho hắn bị thiêu rụi trong hỏa ngục. Thông tin này dành cho bộ sưu tập cao quý của Bệ hạ. Hy vọng nó có thể giúp ngài tiêu diệt được cái độc ác xấu xa này trong thành phố của chúng ta, để chấm dứt sự hiện diện của lũ ma cà rồng, giúp cư dân của thành phố chúng ta tránh được căn bệnh dịch này.” Và vân vân. Người đã soạn bản thảo thú vị này, dù ông ta là ai, tiếp tục nêu lên các thông tin mà ông đã phát hiện trong nhiều tác phẩm kinh điển, bao gồm những chuyện kể về hồn ma trong chiếc bình cổ. Như anh biết, niên đại của bản chép tay này là năm sau khi Dracula bị bắt và bị cầm tù gần Buda. Trong những tài liệu mà anh tìm được ở Istanbul, anh đã mô tả vị Quốc vương Thổ cũng có mối quan tâm giống như vậy, điều này khiến tôi nghĩ là Dracula gây rắc rối ở bất kỳ nơi nào hắn đến. Cả hai trường hợp đều đề cập đến một bệnh dịch, và cả hai đều quan tâm đến tình trạng có sự mê tín về ma cà rồng. Hoàn toàn giống nhau, đúng không?’

“Anh ta dừng lại, trầm tư suy nghĩ. ‘Thực ra, nói theo cách nào đó thì mối liên hệ với bệnh dịch cũng không hẳn là không đáng tin - trong một tài liệu của Ý mà tôi đã đọc tại Thư viện Bảo tàng Anh quốc thì Dracula từng dùng chiến tranh vi trùng để chống lại người Thổ. Thực tế, hẳn hắn phải là một trong những người Âu châu đầu tiên từng sử dụng phương cách này. Hắn thích phái những kẻ tay sai đã nhiễm bệnh, ăn mặc như người Thổ đến các doanh trại của quân Thổ.’ Dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, mắt của Hugh nheo lại, gương mặt bừng sáng, vẻ tập trung tinh thần cao độ. Cha chợt nhận ra mình đã tìm được ở Hugh James một bạn đồng minh thông minh sắc sảo nhất.

“ ‘Toàn bộ việc này nghe rất hấp dẫn,’ cha nhận xét. ‘Nhưng còn chuyện chữ Ivireanu thì sao?

“ ‘Ồ, tôi xin lỗi,’ Hugh mỉm cười. ‘Tôi hơi bị lạc đề. Tôi đã gặp chữ đó trong thư viện thành phố này. Tôi nghĩ mình đã tình cờ nhìn thấy chữ đó ba hay bốn ngày trước, trong một cuốn Tân ước thế kỷ mười bảy bằng tiếng Rumani. Tôi đã xem xét rất kỹ vì thấy cách trang trí bìa cuốn sách chịu ảnh hưởng khác thường của phong cách Ottoman. Trang bìa giả cũng có chữ Ivireanu chạy suốt ở chân trang - tôi chắc chắn đây cũng là chữ đó. Thành thực mà nói, lúc đó tôi không bận tâm lắm, vì chỉ biết lơ mơ tiếng Rumani nên tôi rất hay bỏ qua những từ thuộc ngôn ngữ này. Ngôn ngữ này thu hút sự chú ý của tôi chỉ vì kiểu chữ khá tao nhã của nó. Tôi cho rằng đó là tên một địa danh hoặc một cái gì đó đại loại như vậy.’

“Cha rên lên vì thất vọng. ‘Chỉ bấy nhiêu đó thôi sao? Anh chưa bao giờ nhìn thấy nó ở bất kỳ nơi nào khác sao?’

“ ‘Tôi e là không.’ Hugh lại cầm lấy cốc cà phê bỏ quên nãy giờ. ‘Nếu tình cờ gặp lại chữ đó lần nữa, chắc chắn tôi sẽ cho anh biết.’

“ ‘Chà, xét cho cùng có thể chữ đó chẳng liên quan gì với Dracula,’ cha nói, để tự an ủi. ‘Tôi chỉ ước giá chúng tôi có nhiều thời gian hơn để tra cứu trong thư viện này. Tiếc là thứ Hai chúng tôi đã phải bay về Istanbul rồi - tôi không được phép ở lại lâu hơn thời gian tổ chức hội nghị. Nếu anh phát hiện được bất cứ điều gì thú vị…’

“ ‘Dĩ nhiên rồi,’ Hugh trả lời. ‘Tôi còn được ở đây thêm khoảng sáu ngày nữa. Nếu tìm được cái gì đó thì tôi sẽ thư cho anh, gửi về khoa của anh, được chứ?’

“Câu hỏi khiến cha bất ngờ; đã nhiều ngày qua cha không nghĩ về quê nhà một cách nghiêm túc và không biết khi nào mới lại kiểm tra thư từ trong hộp thư của mình ở khoa. ‘Không, không,’ cha vội đáp. ‘Ít ra không phải là lúc này. Nếu tìm được điều gì đó mà anh nghĩ thực sự có thể có ích với chúng tôi, anh vui lòng gọi điện cho giáo sư Bora. Chỉ cần giải thích với ông ấy là chúng ta đã thỏa thuận như vậy. Nếu trực tiếp nói chuyện được với ông ấy, tôi sẽ cho ông ta biết có thể anh sẽ bắt liên lạc với ông ta.’ Cha lấy tấm danh thiếp của Turgut ra và ghi số điện thoại cho Hugh.

“ ‘Tốt lắm.’ Anh ta nhét tờ giấy ghi số điện thoại vào túi ngực áo. ‘Và xin gửi anh tấm danh thiếp của tôi. Hy vọng chúng ta sẽ có dịp gặp lại nhau.’ Chúng tôi im lặng ngồi đó một lát, anh ta đưa mắt nhìn xuống bàn, cùng những cốc đĩa trống trơn và ánh nến lung linh. ‘Xem nào,’ cuối cùng anh thốt lên. ‘Nếu tất cả những gì anh nói - hoặc thầy Rossi nói, ai cũng được - là sự thật, và nếu có một kẻ là Bá tước Dracula, hoặc Vlad Kẻ Xiên Người - vẫn còn sống - theo một ý nghĩa khủng khiếp nào đó, thì tôi sẵn sàng giúp anh…’

“ ‘Tiêu diệt hắn?’ cha bình thản tiếp lời. ‘Tôi sẽ ghi nhớ điều này.’

“Lúc đó, hình như chẳng còn gì để chúng ta bàn luận thêm, dù cha vẫn hy vọng một ngày nào đó chúng ta sẽ lại có dịp chuyện trò với nhau. Chúng ta tìm được một chiếc taxi để về Pest, anh ta khăng khăng đòi cùng cha bước vào trong khách sạn. Khi chúng ta thân mật nói lời tạm biệt tại quầy tiếp tân, tay nhân viên khách sạn mà cha đã nói chuyện trước đó bỗng bước ra khỏi căn phòng nhỏ và nắm lấy cánh tay cha. ‘Ngài Paul!’ anh ta nói, giọng nghiêm trọng.

“ ‘Chuyện gì vậy?’ Hugh và cha cùng quay nhìn chăm chú vào tay nhân viên khách sạn. Anh ta cao, trông ủ rũ trong bộ áo vest màu xanh công nhân, với bộ ria mép hẳn sẽ hợp hơn với một chiến binh Hung Nô. Anh ta kéo cha lại gần thì thào, cha cố gắng ra dấu bảo Hugh đừng bỏ đi. Không có ai ngoài chúng ta ở đó, và nhất là cha không muốn đơn độc trong bất kỳ biến cố nào nữa.

“ ‘Ngài Paul, tôi biết ai đã vào zimmer(1) của ngài trưa hôm nay.’

“ ‘Cái gì? Ai?’ cha hỏi.

“ ‘Ừm, ừm.’ Nhân viên khách sạn bắt đầu ậm ừ, và đưa mắt liếc quanh, lục tìm trong túi áo khoác một cách khó hiểu. Cha băn khoăn tự hỏi phải chăng gã thuộc típ người đần độn.

“ ‘Hắn muốn anh cho hắn ít tiền đấy,’ Hugh khe khẽ diễn dịch.

“ ‘Ôi, lạy Chúa,’ cha kêu lên, giọng bực tức, nhưng đôi mắt đang lờ đờ của gã nhân viên chỉ sáng bừng lên khi cha chìa ra hai tờ giấy bạc Hungary lớn. Gã kín đáo cầm lấy, nhét ngay vào túi, chẳng thèm nói một tiếng để cám ơn sự thỏa hiệp của cha.

“ ‘Ngài người Mỹ,’ gã thì thầm. ‘Tôi biết không chỉ có ein(2) tên. Mà là hai tên. Thoạt tiên chỉ xuất hiện một tên, một nhân vật rất quan trọng. Sau đó là tên kia. Tôi thấy hắn khi mang một chiếc cặp lên lầu, đến một zimmer khác. Tôi nhìn thấy bọn chúng ngay lúc đó. Chúng đã bàn với nhau. Bọn chúng cùng nhau ra ngoài.’

“ ‘Không ai ngăn bọn chúng lại sao?’ cha ngắt lời. ‘Bọn chúng là ai? Chúng có phải là người Hung không?’ Tay nhân viên khách sạn lại đưa mắt liếc quanh, cha ngừng thúc hối để gã bớt căng thẳng. Cái không gian bị rình mò và soi mói này làm cho thần kinh cha căng thẳng. Hugh đặt bàn tay lên cánh tay cha, ra vẻ can gián, chắc hẳn trông cha có vẻ giận dữ.

“ ‘Một người đàn ông Hungary có thế lực. Người còn lại không phải là người Hungary.’

“ ‘Làm sao anh biết?’

“Gã hạ thấp giọng. ‘Một người đàn ông Hungary, nhưng họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Ănglê.’ Đó là tất cả những gì gã tiết lộ, mặc cho cha đưa ra những câu hỏi càng lúc càng hối thúc. Có vẻ như gã cho rằng đã cung cấp đủ thông tin tương ứng với số tiền nhận được, và cha hẳn đã chẳng nghe gã nói thêm lời nào nữa, nếu không có một điều đột nhiên khiến gã chú ý. Gã đưa mắt nhìn về phía sau cha, cha cũng quay đầu nhìn theo, dõi theo ánh mắt của gã đến một khung cửa sổ lớn gần cửa khách sạn. Qua đó, trong một thoáng, cha nhìn thấy một nét mặt, với đôi mắt sâu hoắm và đói khát mà cha đã biết quá rõ, một gương mặt đến từ cõi âm ty chứ không phải của người trần gian. Gã nhân viên khách sạn nắm chặt cánh tay cha, lắp bắp. ‘Hắn kia kìa, cái mặt ma quỷ ấy kia kìa - thằng cha Ănglê!’

“Gần như thét lên một tiếng, cha hất gã nhân viên khách sạn ra và lao đến cửa. Hugh rất nhanh trí (sau này cha mới nhận ra), chộp lấy cây dù trên giá gần bàn tiếp tân rồi cũng lao ra theo cha. Ngay cả trong cơn hoảng hốt, cha vẫn giữ chặt chiếc cặp, và chính vì vậy không thể chạy nhanh. Chúng ta hết quẹo chỗ này rồi quẹo chỗ kia, phóng lên đường chính rồi quặt lui, nhưng chỉ hoài công. Thậm chí cha không nghe được tiếng bước chân của tên quỷ quái kia, vì vậy không thể nói chắc là hắn đã biến đi theo lối nào.

“Sau cùng, cha dừng lại, tựa người vào tường một tòa nhà, cố gắng lấy lại hơi thở. Hugh cũng thở hồng hộc. ‘Chuyện gì vậy?’ anh ta hổn hển hỏi.

“ ‘Tên thủ thư,’ cha cố gắng thều thào vài tiếng. ‘Kẻ đã theo dõi chúng tôi đến tận Istanbul. Tôi chắc chắn đó là gã.’

“ ‘Lạy Chúa.’ Hugh lấy tay áo lau trán. ‘Hắn làm gì ở đây?’

“ ‘Cố gắng lấy nốt những ghi chép còn lại của tôi,’ cha trả lời, thở khò khè. ‘Hắn là ma cà rồng, nếu anh có thể tin được điều đó, và giờ chúng tôi đã dẫn hắn đến thành phố xinh đẹp này.’ Thực ra, cha nói nhiều hơn thế, và chắc hẳn đã nhận ra trong ngôn ngữ chung của chúng ta toàn bộ những biến thể kiểu Mỹ khi thể hiện sự tức giận. Cha muốn trào nước mắt khi nghĩ đến tai ương mà mình đang lôi theo.

“ ‘Bình tĩnh nào,’ Hugh ôn tồn nói. ‘Theo như tôi biết, thành phố này trước đây cũng có ma cà rồng.’ Nhưng anh ta bỗng đưa mắt nhìn trừng trừng xung quanh, cầm chặt cây dù, mặt trắng bệch.

“ ‘Tức quá đi!’ cha đấm vào vách tường.

“ ‘Anh phải cẩn thận khi ra ngoài,’ Hugh nói, vẻ nghiêm nghị. ‘Cô Rossi đã về chưa?’

“ ‘Helen!’ Cha chợt nhớ ra cô, và Hugh suýt cười khi cha kêu thốt lên như thế. ‘Tôi về xem cô ấy thế nào đây. Tôi cũng sẽ gọi điện cho giáo sư Bora nữa. Nghe này, Hugh - anh cũng phải cẩn thận khi ra ngoài đấy. Cẩn thận, được chứ? Hắn đã thấy anh đi cùng tôi, và việc này có vẻ như không phải là chuyện may mắn đối với bất kỳ ai trong những ngày này.’

“ ‘Đừng lo cho tôi.’ Hugh đăm chiêu nhìn vào cây dù đang cầm trong tay. ‘Anh đã dúi cho tay nhân viên khách sạn bao nhiêu?’

“Cha bật cười dù đang căng thẳng đến ngạt thở. ‘Ừ, luôn nhớ mang tiền theo lót tay nhé.’ Chúng ta nồng nhiệt bắt tay nhau, và Hugh biến mất trên con đường dẫn về khách sạn anh ta trú ngụ, cách đó không xa. Cha không thích để anh ta đi một mình, nhưng khi ấy trên phố vẫn còn khá đông người đang tản bộ và trò chuyện. Mà đằng nào cha cũng biết anh ta sẽ đi theo con đường của riêng mình; anh ta là mẫu người như vậy.

“Quay trở lại đại sảnh của khách sạn, cha không thấy dấu vết của tay nhân viên nhát gan kia. Có lẽ chỉ đơn giản vì ca trực của gã đã hết: có một thanh niên mày râu nhẵn nhụi đang ngồi ở chỗ của gã sau quầy. Anh ta chỉ cho cha thấy chìa khóa phòng Helen vẫn còn treo tại chỗ, vì vậy cha nghĩ chắc hẳn cô vẫn còn ở bên nhà bà bác. Sau một cuộc mặc cả chi tiết về chi phí cuộc gọi, anh ta để cha sử dụng điện thoại, và phải sau vài lần quay số chuông điện thoại của Turgut mới reo. Cha không thấy thoải mái khi gọi điện thoại từ khách sạn vì biết có thể bị nghe lén, nhưng vào giờ này không còn lựa chọn nào khác. Cha hy vọng cuộc nói chuyện của chúng ta sẽ kỳ quặc đến độ không hiểu nổi. Rốt cuộc, cha cũng nghe tiếng lách cách nhấc máy, và sau đó là giọng của Turgut, nghe xa xôi nhưng vui vẻ, trả lời bằng tiếng Thổ.

“ ‘Giáo sư Bora!’ cha hét lên. ‘Turgut, Paul đây, tôi đang gọi từ Budapest.’

“ ‘Chào Paul, bạn thân mến!’ Cha nghĩ mình chưa từng được nghe cái gì ngọt ngào hơn giọng nói trầm xa xôi đó. ‘Đường dây có vấn đề - cho tôi số điện thoại anh đang gọi phòng trường hợp đường dây bị gián đoạn.’

“Cha hỏi tay nhân viên trực khách sạn số điện thoại rồi hét to lên đọc cho Turgut. Ông ta hét đáp lại. ‘Anh khỏe không? Anh tìm được hắn chứ?’

“ ‘Chưa được!’ cha hét lên. ‘Chúng tôi ổn, và đã biết thêm được chút ít, nhưng một chuyện đáng sợ vừa xảy ra.’

“ ‘Chuyện gì vậy?’ Cha như nghe được giọng nói sửng sốt của ông ta vọng tới yếu ớt qua đường dây. ‘Anh có hề hấn gì không? Cô Rossi thì sao?’

“ ‘Không - chúng tôi đều ổn, nhưng gã thủ thư đã theo bọn tôi đến đây.’ Cha nghe một tràng những lời lên bổng xuống trầm, có thể đó là một lời chửi rủa nào đó theo kiểu văn chương của Shakespeare, nhưng cha không thể nghe rõ vì đường dây bị nhiễu. ‘Ông nghĩ chúng tôi phải làm gì đây?’

“ ‘Tôi cũng chưa biết.’ Lúc này giọng nói của Turgut đã rõ hơn một chút. ‘Lúc nào anh cũng mang theo bộ đồ nghề của tôi đấy chứ?’

“ ‘Vâng,’ cha trả lời. ‘Nhưng tôi vẫn chưa tiếp cận được con ma cà rồng này đủ gần để sử dụng được bộ đồ nghề của ông. Tôi nghĩ hắn đã lục soát phòng tôi hôm nay, trong lúc chúng tôi đang ở chỗ hội nghị, và có vẻ như có ai đó đã giúp hắn.’ Có lẽ ngay lúc này cảnh sát đang nghe lén chúng ta. Ai biết được bọn họ sẽ suy diễn gì từ những lời trao đổi này chứ?

“ ‘Hãy cẩn thận, giáo sư ạ.’ Giọng Turgut có vẻ lo lắng. ‘Ngay lúc này, tôi chưa có lời khuyên khôn ngoan nào dành cho anh, nhưng tôi sẽ sớm có được vài tin tức, có thể ngay cả trước khi anh trở về Istanbul. Tôi rất vui vì tối nay anh đã gọi điện. Aksoy và tôi đã tìm được một tài liệu mới, cả hai chúng tôi đều chưa từng thấy nó trước đó. Anh ta tìm được nó trong trung tâm lưu trữ của Quốc vương Mehmed. Tài liệu này được một tu sĩ thuộc Giáo hội Chính thống Phương Đông viết vào năm 1477, và cần phải dịch ra.’

“Đường dây lại bị nhiễu nên cha phải hét lên. ‘Ông nói năm 1477? Nó được viết bằng tiếng gì?’

“ ‘Tôi không nghe anh được, chàng trai à!’ Turgut gầm lên, nghe rất xa xăm. ‘Ở đây đang mưa dông. Tối mai tôi sẽ gọi lại cho anh.’ Một mớ hỗn độn âm thanh - cha không rõ liệu đó là tiếng Hung hay tiếng Thổ - xen vào giữa chúng ta và át hết những lời nói sau đó của Turgut. Tiếp theo là những tiếng cạch, và đường dây im bặt. Cha chậm rãi gác máy, băn khoăn không biết có nên gọi lại hay không, nhưng tay nhân viên đã chực sẵn để nhận lại điện thoại với vẻ mặt lo âu và cộng số tiền cha phải thanh toán trên một mẩu giấy. Cha rầu rĩ trả tiền và đứng nán lại đó một lát, chẳng muốn quay trở lại căn phòng mới trống trơn của mình, nơi cha chỉ được phép mang theo bộ đồ cạo râu và một chiếc áo sạch. Xét cho cùng, tinh thần cha đang tuột dốc không phanh - hôm nay thật là một ngày dài, và đồng hồ trong tiền sảnh đã chỉ gần mười một giờ.

“Tinh thần cha sẽ còn tiếp tục sa sút nếu ngay lúc đó không có một chiếc taxi trờ đến. Helen bước ra, trả tiền cho tài xế, rồi bước vào qua cánh cửa lớn. Cô vẫn chưa nhận ra cha đang đứng cạnh quầy tiếp tân, nét mặt có vẻ nghiêm trọng và dè dặt, cùng với vẻ dữ dội u sầu mà đôi khi cha vẫn thấy. Cô choàng một chiếc khăn len màu đỏ pha đen mà cha mới nhìn thấy lần đầu, có thể đó là quà tặng của bà bác. Chiếc khăn che khuất đường nét thô cứng của chiếc áo vest và hai bờ vai, khiến làn da cô trở nên trắng rạng rỡ ngay cả dưới ánh đèn thô mộc của gian tiền sảnh. Cô trông giống như một nàng công chúa, trong khoảnh khắc cha ngẩn người nhìn cô chăm chú, trước khi cô nhận ra cha. Cha cứ nhìn trân trân, không phải chỉ vì vẻ đẹp được tôn lên nhờ chiếc khăn len mềm mại và chiếc cằm kiêu sa ấy, mà còn bởi nó khiến cha chợt nhớ, với một thoáng rùng mình khó chịu, tới bức chân dung trong phòng làm việc của Turgut - gương mặt ngạo mạn, chiếc mũi dài thẳng, đôi mắt to đen với hàng mi dày rợp. Chắc chỉ vì mình đã quá mỏi mệt thôi, cha tự nhủ. Đúng lúc ấy Helen trông thấy cha, mỉm cười, và hình ảnh kia lại tan biến khỏi tâm trí cha.”

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Đức: Phóng

2. Nguyên văn tiếng Đức: Một
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Nếu tôi không đánh thức Barley, hoặc nếu Barley chỉ đi một mình, thì có lẽ bây giờ anh ấy đã ngủ quên mà đi tuốt qua biên giới Tây Ban Nha và bị các viên chức hải quan Tây Ban Nha đánh thức một cách thô bạo rồi. Barley loạng choạng xuống sân ga Perpignan, vẫn còn ngái ngủ, nên tôi đành tự hỏi đường đến trạm xe buýt. Ông trưởng tàu mặc áo bành tô màu xanh cau mày, như cho rằng giờ này chúng tôi phải ở nhà, trong phòng trẻ con rồi mới phải, nhưng ông vẫn tử tế chỉ giùm chỗ hành lý lúc trước chúng tôi bỏ lại, hiện chúng ở sau quầy nhà ga. Ông hỏi chúng tôi định đi đâu? Chúng tôi đáp cần bắt xe buýt đến Les Bains. Ông lắc đầu. “Các cháu sẽ phải chờ đến sáng - cháu không biết giờ đã gần nửa đêm sao? Có một khách sạn sạch sẽ ở ngay trên đường này, ở đó cháu và...” “Anh cháu,” tôi tiếp lời ngay, “có thể tìm thuê một phòng.” Ông trưởng tàu lại nhìn chúng tôi vẻ xét nét, tôi nghĩ vậy, tôi tóc đen và còn quá trẻ còn Barley tóc vàng và gầy lêu nghêu, nhưng ông ta chỉ tặc lưỡi bỏ đi.

“Bình minh hôm nay sáng và đẹp hơn hôm qua, và đến khi cha gặp được Helen trong phòng ăn khách sạn để dùng bữa điểm tâm thì những dự cảm không lành đêm hôm trước đã trở thành một giấc mơ xa xăm. Ánh mặt trời xuyên qua những khung cửa sổ bụi bặm, chiếu vào mấy chiếc khăn bàn ăn trắng và những cốc cà phê thô nặng. Helen ngồi ở bàn, đang ghi chép vào một cuốn sổ tay nhỏ. ‘Chào anh,’ cô niềm nở lên tiếng lúc cha ngồi xuống và tự rót cà phê cho mình. ‘Anh đã sẵn sàng gặp mẹ tôi chưa?’

“ ‘Tôi chả quan tâm đến chuyện nào khác từ khi chúng ta đến Budapest,’ cha thú nhận. ‘Chúng ta sẽ đến đó như thế nào?’

“ ‘Làng mẹ tôi nằm trên một tuyến xe buýt, ở phía Bắc thành phố. Vào các buổi sáng Chủ nhật chỉ có một chuyến xe buýt về đó, vì vậy chúng ta phải chắc chắn không được lỡ chuyến xe đó. Chuyến đi kéo dài khoảng một giờ, xe chạy qua những khu ngoại ô rất buồn tẻ.’

“Cha không tin có điều gì trong chuyến đi này lại buồn tẻ, nhưng cũng không nói gì. Tuy nhiên, vẫn có một điều làm cha lo lắng. ‘Helen, chắc chắn cô muốn tôi đi cùng chứ? Cô có thể một mình về hỏi chuyện bà ấy kia mà. Có thể như vậy sẽ làm cho bà ít lúng túng hơn so với việc cô xuất hiện với một người đàn ông hoàn toàn xa lạ - đã thế còn là người Mỹ nữa. Và nhỡ sự hiện diện của tôi làm bà gặp rắc rối thì sao?’

“ ‘Nói đúng ra thì sự hiện diện của anh sẽ làm cho mẹ tôi dễ nói chuyện hơn,’ Helen quả quyết. ‘Anh biết đấy, trước mặt tôi mẹ tôi rất dè dặt. Còn anh sẽ quyến rũ bà.’

“ ‘Này, trước giờ tôi chưa từng bị gán cho cái tội biết quyến rũ đâu đấy.’ Cha lấy cho mình ba lát bánh mì và một đĩa bơ.

“ ‘Đừng lo - anh không bị buộc tội đó đâu.’ Helen tặng cho cha một nụ cười châm biếm chưa từng thấy, nhưng cha nghĩ mình đã thoáng nhìn thấy một ánh trìu mến trong đôi mắt cô. ‘Chỉ là mẹ tôi dễ bị người ta quyến rũ mà thôi.’

“Cô không nói tiếp, ông Rossi đã quyến rũ được bà ấy, vậy tại sao anh lại không? Nhưng cha nghĩ tốt hơn nên tạm gác đề tài này lại.

“ ‘Tôi hy vọng cô đã báo trước là chúng ta sắp đến thăm.’ Nhìn cô ngồi bên kia bàn, cha tự hỏi liệu cô có định kể với mẹ mình việc đã bị tên thủ thư tấn công hay không. Chiếc khăn quàng nhỏ vẫn quấn quanh cổ cô, cha cố gắng không nhìn vào nó.

“ ‘Tối qua bác Éva đã nhắn tin cho mẹ tôi rồi,’ Helen bình thản nói, rồi chuyển đĩa mứt cho cha.

“Chuyến xe buýt mà chúng ta đón ở vùng ven phía Bắc thành phố chầm chậm xuyên qua vùng ngoại ô, như Helen đã nói - trước tiên là những khu ngoại ô cũ kỹ xa xôi và bị chiến tranh tàn phá nặng nề, sau đó là một loạt tòa nhà mới hơn, cao vút và trắng toát như bia mộ của những gã khổng lồ. Cha nghĩ, đây là tiến bộ của người cộng sản mà báo chí phương Tây thường đơm đặt với thái độ thù địch: lùa hàng triệu người dân khắp Đông Âu vào những căn hộ không chút tiện nghi trong các khu tập thể cao tầng. Xe buýt dừng lại vài lần ở các khu liên hợp này, cha nhận ra mình đang băn khoăn tự hỏi chúng thực sự thiếu tiện nghi đến mức nào: dưới chân mỗi tòa nhà là những mảnh vườn giản dị trồng đủ mọi loại rau cỏ, những cánh hoa rực rỡ và lũ bướm; trên một chiếc ghế dài bên ngoài một tòa nhà, gần điểm dừng xe buýt là hai ông lão mặc sơ mi trắng và áo khoác màu sậm đang chơi cờ - vì khoảng cách khá xa nên cha không phân biệt được loại cờ gì. Vài phụ nữ bước lên xe buýt, mặc những chiếc áo thêu màu sáng - bộ cánh diện ngày Chủ nhật chăng? - một bà xách theo cái lồng bên trong là con gà mái. Người tài xế khoát tay đưa cái lồng gà vào xe để cùng mọi người khác, còn bà chủ gà ngồi ở phía sau với mớ đồ đan len của mình.

“Khi đã bỏ những khu ngoại ô lại phía sau, chiếc xe buýt ì ạch chạy trên con đường miền quê, cha nhìn thấy những cánh đồng phì nhiêu và những đường lộ thênh thang, bụi bặm. Thỉnh thoảng chúng ta qua mặt một chiếc xe ngựa kéo - thùng xe được làm bằng những cành cây trông giống một cái thúng thô sơ - do một người nông dân mặc áo khoác và đội mũ phớt đen điều khiển. Đôi lúc, chúng ta bắt gặp một chiếc xe hơi mà nếu ở Mỹ chắc hẳn đã được đem vào viện bảo tàng. Đất đai một màu xanh tươi mát, hàng liễu rủ cành lá vàng xuống những dòng suối nhỏ uốn lượn quanh co. Thỉnh thoảng xe chạy vào một ngôi làng; đôi lúc cha nhìn thấy những mái vòm hình củ hành của một giáo đường Chính Thống giáo, chen lẫn giữa những tháp chuông nhà thờ khác. Helen cũng nghiêng người qua phía cha để nhìn cho rõ. ‘Nếu tiếp tục đi theo con đường này, chúng ta sẽ đến Esztergom, thủ phủ đầu tiên của các vị vua Hungary. Giá ta có đủ thời gian thì chắc chắn đó là nơi đáng tham quan lắm đấy.’

“ ‘Để sau vậy,’ cha ngả người ra. ‘Tại sao mẹ cô lại chọn sống ở mãi ngoài này?’

“ ‘Ồ, bà đã chuyển đến đây từ hồi tôi còn học trung học, để gần gũi hơn với núi rừng. Tôi không muốn đi với bà - tôi ở lại Budapest với bác Éva. Mẹ tôi không thích sống trong thành phố, bà nói vùng núi Bưrzsưny phía Bắc nhắc bà nhớ đến xứ Transylvania. Bà thường đến vùng núi đó cùng một câu lạc bộ đi bộ leo núi các ngày Chủ nhật, chỉ trừ những ngày tuyết quá dày.’

“Chi tiết này đã bổ sung thêm một mảnh nhỏ vào bức chân dung của người mẹ Helen mà cha đã hình dung trong đầu. ‘Sao bà không đến ở hẳn tại vùng núi non kia?’

“ ‘Ở đó không có việc làm - nơi đó gần như một công viên quốc gia vậy. Vả lại, giả dụ mẹ tôi có muốn thế thật thì bác tôi cũng sẽ ngăn cản, ngăn cản quyết liệt là đằng khác. Bác vẫn nghĩ mẹ tôi như bình thường cũng đã quá tự cô lập rồi.’

“ ‘Mẹ cô làm việc ở đâu?’ Cha nhô ra, chăm chú nhìn một biển dừng xe buýt trong làng; người duy nhất đứng chờ ở đó là một bà lão, mặc toàn quần áo màu đen, cả vuông khăn trùm đầu cũng màu đen, tay cầm một bó hoa vừa đỏ vừa hồng. Bà không bước lên lúc chiếc xe buýt dừng lại, cũng chẳng chào đón ai trong số hành khách xuống xe. Khi xe lăn bánh trở lại, cha thấy bà lão nhìn chằm chằm theo chúng ta, tay đưa cao bó hoa.

“ ‘Mẹ tôi làm việc tại trung tâm văn hóa làng, sắp xếp giấy tờ, đánh máy một số văn bản, và pha cà phê cho mấy ông thị trưởng của các thành phố lớn hơn mỗi khi họ ghé qua. Tôi từng nói với bà đây là một công việc không xứng đáng với một người thông minh như bà, nhưng bà luôn nhún vai rồi tiếp tục với công việc đó. Mẹ tôi thích một nghề đơn giản.’ Có chút gì đó cay đắng trong giọng nói của Helen, cha băn khoăn tự hỏi liệu cô có nghĩ sự giản dị này của bà đã làm hỏng không chỉ sự nghiệp của người mẹ mà còn làm mất cả cơ hội của con gái. Nhưng ngẫm ra những cơ hội đó đã được bác Éva bù đắp hậu hĩnh. Helen trễ khóe miệng xuống làm thành một nụ cười lộn ngược lạnh lùng. ‘Anh sẽ được nhìn tận mắt.’

“Chúng ta nhận ra ngôi làng nơi mẹ Helen ở qua một biển báo đặt tại bìa làng. Một lúc sau, chiếc xe buýt của chúng ta tiến vào một quảng trường có những cây ngô đồng bám đầy bụi bặm bao bọc xung quanh, một nhà thờ bịt ván kín mít ở cạnh bên. Một bà lão, giống hệt như bà lão mặc đồ đen mà cha vừa nhìn thấy ở làng kế bên, một mình đứng đợi dưới mái che trạm xe buýt. Helen lắc đầu khi cha liếc nhìn cô dò hỏi, nhưng cảnh bà lão ôm hôn một anh lính vừa bước ra khỏi xe trước mắt chúng ta đã thay cho câu trả lời.

“Có vẻ như Helen xem việc chúng ta đến mà không ai ra đón là chuyện bình thường, cô nhanh nhẹn dẫn cha bước xuống những con đường nhánh, băng qua những căn nhà im lìm có chậu hoa đặt trên bệ cửa sổ và buông kín mành che ánh mặt trời chói chang. Bên ngoài một căn nhà, một ông lão ngồi trên ghế gỗ đưa tay lên vành mũ và gật đầu chào. Gần cuối con đường là một chú ngựa lông xám cột vào cây trụ, đang ừng ực uống nước trong một cái xô. Hai phụ nữ quần áo tuềnh toàng, mang dép lê đang ngồi nói chuyện bên ngoài một quán cà phê dường như đã đóng cửa. Từ bên kia cánh đồng, cha nghe vọng lại xa xa tiếng chuông nhà thờ, và gần hơn là tiếng chim hót trên những cành đoan. Khắp nơi trong không gian âm vang tiếng vo ve mơ hồ; thiên nhiên chỉ còn cách ta một bước chân, nếu ta biết đâu là hướng để bước.

“Sau đó con đường đột ngột kết thúc tại một cánh đồng đầy cỏ dại. Helen gõ cửa căn nhà cuối cùng. Đó là một căn nhà rất nhỏ, xây theo kiểu nông thôn, trát vữa vàng, lợp ngói đỏ, phía ngoài có vẻ như mới vừa được sơn lại xong. Mái ngói nhô ra phía trước, tạo thành một hàng hiên tự nhiên, cánh cửa gỗ sậm màu với chiếc tay nắm to đã gỉ sét. Ngôi nhà nằm khá cách biệt với những căn nhà lân cận, không có vườn rau đủ màu sắc hoặc lối đi mới lát đá dẫn vào nhà như nhiều nhà khác dọc theo con đường dẫn vào đây. Do bóng râm hắt xuống từ mái hiên, phải mất một lúc cha mới nhận ra gương mặt của người phụ nữ ra mở cửa cho Helen. Nhưng rồi cha cũng thấy rõ, và một lát sau bà quay qua bắt tay cha sau khi ôm chầm và hôn lên má Helen, điềm tĩnh và gần như trang trọng.

“Cha không biết chính xác mình mong đợi điều gì; có lẽ câu chuyện thầy Rossi bỏ rơi bà và việc sinh hạ Helen đã khiến cha hình dung bà là một phụ nữ đẹp, có đôi mắt u sầu hoặc thậm chí yếu đuối, cần sự giúp đỡ. Nhưng người bằng xương bằng thịt đứng trước mặt cha này lại có khung xương thô giống Helen, nét mặt kiên nghị, gò má thấp và đôi mắt đen. Mái tóc đen nhánh giản dị búi lại phía sau. Bà mặc váy vải bông kẻ sọc, đeo tạp dề hoa. Khác với bác Éva, bà không trang điểm hoặc mang nữ trang, quần áo bà tương tự như quần áo các bà nội trợ mà cha vừa nhìn thấy trên con đường ngoài kia. Có lẽ bà đang dở việc nhà vì tay áo đang xắn lên đến tận cùi chỏ. Bà thân thiện siết chặt tay cha, không nói gì, chỉ nhìn thẳng vào mắt. Trong khoảnh khắc, cha bất chợt nhận ra trong sâu thẳm đôi mắt đen huyền đã hằn những vết chân chim kia hình ảnh cô gái e thẹn chắc hẳn từng là bà hơn hai mươi năm về trước.

“Bà dẫn chúng ta vào nhà và ra hiệu mời chúng ta ngồi vào bàn, ở đó đã bày sẵn ba chiếc cốc sứt mẻ và một đĩa bánh mì. Cha nghe thoang thoảng mùi cà phê đang pha. Bà cũng vừa mới hái rau, mùi thơm nồng của khoai tây và hành tươi tỏa khắp phòng.

“Giờ cha mới nhận ra đây là căn phòng duy nhất của bà, và cố gắng không nhìn quanh một cách quá lộ liễu - nó vừa là bếp, vừa là phòng ngủ và phòng khách. Căn phòng sạch như lau như li, một giường nhỏ đặt trong góc có trải chăn trắng, điểm xuyết những chiếc gối trắng thêu nhiều màu rực rỡ. Cạnh giường ngủ là một cái bàn, trên bàn bày một cuốn sách, một cây đèn có bóng chụp bằng thủy tinh, một cặp mắt kính, bên cạnh bàn đặt một chiếc ghế đẩu nhỏ. Ở chân giường kê một tủ gỗ sơn hoa. Khu vực bếp, nơi chúng ta ngồi chỉ có một bếp nấu đơn sơ và bàn ghế. Không có điện, không có phòng tắm (một lúc sau trong cuộc viếng thăm này cha mới biết nhà vệ sinh nằm ở phía sau vườn). Một tấm lịch có hình công nhân đang làm việc trong nhà máy treo trên tường, trên một bức tường khác là một bức tranh thêu hai màu đỏ và trắng. Rèm cửa sổ trắng, hoa cắm trong bình. Một bếp củi đặt gần bàn nhà bếp, củi xếp thành chồng bên cạnh.

“Mẹ Helen mỉm cười nhìn cha, vẫn còn thoáng chút ngượng ngập, lúc đó cha mới nhận ra sự giống nhau giữa bà và bác Éva, và có lẽ đó cũng là một nét đã lôi cuốn thầy Rossi. Nụ cười bà ấm áp lạ lùng, một nụ cười khởi đầu e ấp rồi dần bừng lên, tỏa đến người nhận được nó một sự cởi mở tuyệt đối, gần như rực rỡ. Nó không tắt ngay mà từ từ phai đi khi bà ngồi xuống để cắt thêm rau. Bà lại ngước mắt lên nhìn cha và nói với Helen một điều gì đó, bằng tiếng Hungary.

“ ‘Bà bảo tôi pha cà phê cho anh.’ Helen bận rộn bên bếp để pha cà phê, thêm vào đó ít đường đựng trong chiếc lon thiếc. Mẹ Helen bỏ dao xuống, đẩy đĩa bánh mì về phía cha. Cha lịch sự cầm một ổ và vụng về nói đôi lời cám ơn bằng tiếng Hungary. Nụ cười rạng rỡ ấy lại từ từ hé nở, bà nhìn từ cha sang Helen, một lần nữa nói với cô điều gì đó mà cha không hiểu. Helen đỏ mặt và quay trở lại với món cà phê.

“ ‘Chuyện gì vậy?’

“ ‘Chẳng có gì cả. Mấy ý tưởng quê mùa của mẹ tôi đấy thôi.’ Cô đến ngồi vào bàn, đặt cà phê trước mặt mẹ và rót cho mình một cốc. ‘Paul này, giờ xin phép anh để tôi thăm hỏi bà ấy và chuyện làng xóm một chút nhé.’

“ ‘Trong lúc họ nói chuyện với nhau, Helen bằng giọng trầm dứt khoát còn bà mẹ thì thầm trả lời, cha đưa mắt nhìn khắp phòng lần nữa. Người phụ nữ này không chỉ sống một nếp sống giản dị lạ thường - có lẽ láng giềng của bà ở đây ai cũng sống như vậy - mà còn cực kỳ cô độc. Cha chỉ thấy hai hoặc ba cuốn sách, không có thú nuôi trong nhà, thậm chí chẳng có một chậu hoa. Chẳng khác gì căn phòng nhỏ của một nữ tu.

“Liếc nhìn lại, cha nhận thấy bà còn khá trẻ, trẻ hơn bà nội con nhiều. Tóc bà đã chớm vài sợi bạc ở đường rẽ trên đỉnh đầu, gương mặt đã hằn in năm tháng, nhưng ở bà toát lên một vẻ gì đó tráng kiện và mạnh khỏe lạ thường, một nét lôi cuốn hoàn toàn không phụ thuộc vào cách ăn mặc hoặc tuổi tác. Cha thầm nghĩ, bà có thể lập gia đình dễ dàng, tuy vậy bà lại chọn sống một cuộc sống im lìm như một nữ tu. Cha cười đáp trả khi bà lại mỉm cười với cha; gương mặt bà toát lên vẻ nồng hậu đến nỗi cha phải cố kiềm chế mới không đưa tay ra để nắm lấy bàn tay đang chậm rãi gọt khoai của bà.

“ ‘Mẹ tôi muốn biết tất cả về anh,’ Helen nói với cha, và với sự giúp đỡ của cô cha đã cố gắng trả lời trọn vẹn mọi câu hỏi, câu nào cũng được nêu ra bằng một giọng Hungary ôn tồn, cùng với ánh mắt cảm thông của người đối thoại, tựa như bà có thể làm cho cha hiểu mình bằng sức mạnh của ánh mắt ấy. Ở Mỹ cha là người vùng nào? Tại sao cha lại đến đây? Cha mẹ của cha là ai? Họ có quan tâm đến chuyến đi xa xôi này không? Cha đã gặp Helen như thế nào? Đến đây bà xen vào nhiều câu hỏi khác mà có vẻ như Helen né tránh không chịu dịch, một trong số các câu hỏi đó kèm theo một cái vuốt lên đôi má Helen, âu yếm dịu dàng. Trông Helen có vẻ bực nên cha không ép cô dịch lại. Thay vì vậy, chúng ta tiếp tục với những đề tài liên quan đến việc học hành, những dự định, những món ăn ưa thích của cha.

“Khi cảm thấy đã hài lòng, mẹ Helen đứng dậy và bắt đầu cho rau và thịt vào một đĩa lớn, rắc một thứ gia vị màu đỏ đựng trong cái hũ phía trên bếp lên rồi nhẹ nhàng cho tất cả vào lò. Bà chùi tay lên tạp dề và lại ngồi xuống, nhìn từ cha qua Helen, không nói gì, tựa như cả ba chúng ta đang quá thừa thãi thời gian trên đời này. Rốt cuộc Helen cũng lên tiếng, qua cách cô đằng hắng lấy giọng cha đoán được rằng cô đang muốn đề cập đến mục đích của cuộc thăm viếng. Bà mẹ bình thản nhìn cô con gái, nét mặt không thay đổi cho đến khi Helen ra hiệu với cha đã tới lúc nhắc đến tiếng Rossi. Phải thu hết can đảm cha mới có thể ngồi yên bên chiếc bàn nhỏ ở một làng quê cách xa khỏi mọi thứ quen thuộc với mình mà nhìn thẳng vào khuôn mặt bình thản ấy. Mẹ Helen chớp mắt, chỉ một lần, tựa như ai đó vừa dọa đánh bà, và trong một thoáng bà đảo mắt nhìn vào mặt cha. Sau đó bà gật gù, vẻ đăm chiêu rồi hỏi Helen vài câu. ‘Mẹ tôi hỏi anh biết giáo sư Rossi được bao lâu.’

“ ‘Đã ba năm,’ cha trả lời.

“ ‘Bây giờ,’ Helen nói, ‘tôi sẽ giải thích cho bà biết việc ông ta mất tích.’ Dịu dàng và thận trọng, không phải như đang trò chuyện với một đứa trẻ mà tựa như thúc ép bản thân cưỡng lại ý muốn của chính mình, Helen nói chuyện với mẹ, đôi lúc chỉ vào cha, đôi lúc lại dùng tay vẽ một hình nào đó vào không khí. Cuối cùng cha nghe được tiếng Dracula, và cùng với âm thanh đó cha thấy mặt mẹ Helen trắng bệch ra, bà đưa tay vịn vào cạnh bàn. Helen và cha lập tức đứng lên, Helen nhanh nhẹn cầm lấy cái bình trên bếp rót một cốc nước. Mẹ cô nói cái gì đó, rất nhanh và khó nghe. Helen quay lại phía cha. ‘Bà nói bà luôn biết chuyện này sẽ xảy ra.’

“Cha đứng lặng, chẳng giúp được gì, nhưng khi đã nhấp vài ngụm nước, mẹ Helen có vẻ như phần nào bình tĩnh lại. Bà ngước nhìn lên, và rồi, cha ngạc nhiên khi bà cầm lấy tay cha - như một khoảnh khắc trước đó cha đã muốn nắm lấy tay bà - và kéo cha ngồi xuống ghế. Bà trìu mến giữ lấy tay cha, chẳng chút kiểu cách, vuốt ve tựa như đang vỗ về một đứa bé. Cha không thể hình dung người phụ nữ nào trong nền văn hóa của mình có thể hành xử như vậy trong lần đầu gặp gỡ một người đàn ông, tuy vậy, lúc đó đối với cha có vẻ như chẳng có gì có thể tự nhiên hơn. Cha chợt hiểu Helen hàm ý gì khi nói trong hai người phụ nữ lớn tuổi của gia đình cô, mẹ cô sẽ là người cha yêu quý nhất.

“ ‘Mẹ tôi muốn biết liệu anh có thực tình tin là giáo sư Rossi đã bị Dracula bắt mang đi không.’

“Cha hít một hơi thật sâu. ‘Tôi tin.’

“ ‘Và bà muốn biết liệu anh có yêu quý giáo sư Rossi không.’ Tuy giọng thoáng vẻ khinh khỉnh, nhưng nét mặt Helen lại lộ vẻ xót xa. Nếu có thể cầm lấy bàn tay cô bằng bàn tay còn lại của mình hẳn cha đã cầm lấy ngay rồi.

“ ‘Tôi có thể chết vì ông ấy,’ cha nói.

“Cô lặp lại câu nói trên với mẹ mình, bà đột nhiên siết chặt tay cha bằng một bàn tay rắn chắc mà sau này cha mới nhận ra đã được tôi luyện từ vô số việc nặng nhọc. Cha cảm nhận được sự thô ráp của những ngón tay, những vết chai sần trong lòng bàn tay, các đốt ngón tay gồ ghề. Khi nhìn xuống, cha nhận ra bàn tay nhỏ nhắn nhưng mạnh mẽ đó già hơn nữ chủ nhân của nó nhiều.

“Một lát sau, mẹ Helen buông tay cha ra rồi đến bên chiếc rương ở chân giường. Bà chậm rãi mở rương, dịch chuyển mấy món đồ bên trong rồi lấy ra một vật mà cha nhận ra ngay là một gói thư. Helen trừng mắt, cô buông ra một câu hỏi, giọng gay gắt; mẹ cô không đáp lại, chỉ im lặng quay về bàn và đặt cái gói vào tay cha.

“Những lá thư vẫn còn phong bì, không có tem, đã ngả vàng theo năm tháng và được bó lại bằng một sợi dây màu đỏ đã tua xơ. Khi trao những lá thư đó cho cha, bằng cả hai tay, mẹ Helen cầm những ngón tay cha áp lên sợi dây, tựa như thúc giục cha hãy nâng niu chúng. Chỉ cần liếc mắt thoáng nhìn nét chữ trên bì thư đầu tiên, cha nhận ra ngay đó là nét chữ của thầy Rossi, và đọc tên người nhận. Cái tên đó cha đã biết, nó nằm đâu đó xa xôi trong miền ký ức của cha, còn địa chỉ chính là Cao đẳng Trinity, Đại học Oxford, nước Anh.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


“Cha rất xúc động khi cầm những lá thư của thầy Rossi trong tay, nhưng trước khi có thể suy nghĩ về chúng, cha còn có một nghĩa vụ phải hoàn thành. ‘Helen,’ cha quay sang nói với cô, ‘Tôi biết đôi lúc cô cảm thấy tôi không tin câu chuyện cô ra đời như thế nào. Cũng có những lúc tôi hồ nghi chuyện này. Xin cô thứ lỗi.’

“ ‘Tôi cũng ngạc nhiên như anh,’ Helen trầm giọng trả lời. ‘Mẹ tôi chưa bao giờ cho tôi biết bà có bất kỳ lá thư nào của ông Rossi. Nhưng chúng không phải là những lá thư viết cho bà, phải vậy không? Ít nhất là lá thư ở trên cùng.’

“ ‘Không,’ cha đáp. ‘Nhưng tôi nhận ra cái tên này. Ông ta là một sử gia xuất sắc người Anh - chuyên về thế kỷ mười tám. Hồi sinh viên tôi từng đọc một trong những cuốn sách của ông, và trong các lá thư thầy Rossi trao cho tôi, thầy cũng đã kể về ông ta.’

“Helen trông có vẻ bối rối. ‘Chuyện đó thì liên quan gì đến ông Rossi và mẹ tôi?’

“ ‘Tất cả mọi thứ đều có thể liên quan. Cô không nhận thấy sao? Ông ta hẳn phải là ông bạn Hedges của thầy Rossi - đó là cái tên mà thầy Rossi dùng để gọi ông ta, cô nhớ chứ? Thầy Rossi chắc hẳn đã viết cho ông ta từ Rumani, dù chúng ta chưa giải thích được vì sao mẹ cô có những lá thư này.’

“Mẹ Helen chắp tay ngồi nhìn chúng ta, hết người này đến người kia với một vẻ mặt rất nhẫn nại, nhưng cha nghĩ mình đã thoáng thấy nét đỏ bừng vì khích động trên gương mặt bà. Sau đó bà bắt đầu nói, Helen dịch lại cho cha nghe. ‘Bà nói bà sẽ kể hết với anh câu chuyện của bà.’ Giọng Helen xúc động, còn cha thì gần như nín thở.

“Đó là một quá trình không trôi chảy: người phụ nữ lớn tuổi nói chậm rãi, Helen làm nhiệm vụ thông dịch, thỉnh thoảng dừng lại để tỏ cho cha biết là cô cũng ngạc nhiên. Hình như Helen bị sốc vì từ trước đến nay cô chỉ biết câu chuyện một cách đại khái. Cha còn nhớ, khi về đến khách sạn, cha đã mất gần như suốt đêm hôm đó, bằng hết khả năng của mình ghi lại những điều được nghe kể theo trí nhớ. Tới thời điểm đó đã có nhiều sự kiện kỳ lạ xảy ra, và cha ắt hẳn đã rất mỏi mệt, nhưng cha nhớ mình vẫn ghi lại được câu chuyện đó với một sự tỉ mỉ đáng tự hào.

“ ‘Khi còn con gái, tôi sống trong làng P. nhỏ bé - thuộc vùng Transylvania, sát gần bên dòng sông Argeş. Tôi có nhiều anh chị em, phần đông họ hiện vẫn còn sinh sống tại khu vực đó. Cha tôi luôn nói rằng chúng tôi vốn thuộc dòng dõi các gia đình quý tộc xa xưa, nhưng tổ tiên chúng tôi lâm vào cảnh khó khăn, nên tôi đã lớn lên mà không có giày để mang và chăn ấm để đắp. Đó là một vùng đất nghèo nàn, những người duy nhất khá giả ở đó là vài gia đình Hungary, sống trong các biệt thự đồ sộ phía hạ lưu sông. Cha tôi vốn vô cùng khắt khe, tất cả bọn tôi đều khiếp sợ chiếc roi da của cha. Mẹ tôi đau ốm luôn, từ nhỏ tôi đã phải làm việc quần quật trên những cánh đồng bên ngoài làng. Đôi lúc cha xứ mang đến cho chúng tôi thực phẩm hoặc những vật dụng cần thiết, nhưng thường chúng tôi vẫn phải tự lực xoay xở.

“ ‘Khi tôi được khoảng mười tám tuổi, một bà lão từ một làng nào đó trên vùng núi cao, phía thượng lưu dòng sông, đã đến làng chúng tôi. Bà là một vracă, một thầy lang, cũng là người có khả năng đặc biệt nhìn thấy được tương lai. Bà nói với cha tôi bà có một món quà dành cho ông và lũ trẻ, rằng bà đã nghe nói về gia đình chúng tôi và muốn trao cho ông một vật thần diệu, một vật lẽ ra phải thuộc về ông. Cha tôi là người nóng nảy, không muốn mất thời gian cho những bà già mê tín dị đoan, mặc dù chính ông cũng từng dùng tỏi chà lên tất cả các kẻ hở trong căn nhà nhỏ của chúng tôi - ống khói, khung cửa, lỗ khóa và cửa sổ - để trừ ma cà rồng. Ông thô bạo đuổi bà lão đi ngay, nói rằng chẳng có tiền để đổi lấy bất cứ thứ gì bà rao bán. Sau đó, lúc ra giếng làng để lấy nước, tôi thấy bà lão đứng đó và đã cho bà bánh mì nước uống. Bà chúc tôi may mắn, nói tôi tử tế hơn cha tôi và sẽ đền đáp sự rộng lượng của tôi. Sau đó bà lấy trong túi đeo lưng ra một đồng xu nhỏ, đặt vào tay tôi, căn dặn tôi phải giấu và cất giữ đồng xu an toàn, vì nó thuộc về gia đình chúng tôi. Bà còn cho biết đồng xu có xuất xứ từ một lâu đài phía trên vùng thượng lưu sông Argeş.

“ ‘Tôi biết mình nên đưa đồng xu đó cho cha, nhưng tôi không dám vì nghĩ rằng ông ấy sẽ nổi giận vì tôi đã dám trò chuyện với bà phù thủy già kia. Thay vì vậy, tôi đã giấu đồng xu vào góc giường nơi tôi và các chị em gái ngủ chung và không nói cho một ai biết chuyện này. Thỉnh thoảng khi tin chắc không có ai dòm ngó tôi mới lấy đồng xu ra. Tôi cầm nó trong tay và tự hỏi không hiểu bà lão kia có ý gì khi trao nó cho tôi. Một mặt đồng xu là hình một con vật kỳ lạ có chiếc đuôi uốn thành vòng, mặt kia là hình một con chim cùng với một thánh giá nhỏ.

“ ‘Một hai năm nữa trôi qua, tôi tiếp tục quần quật trên mảnh ruộng của cha và giúp mẹ làm việc nhà. Lúc nào cha cũng chìm trong thất vọng vì có quá nhiều con gái. Ông nói chúng tôi sẽ không bao giờ có chồng vì ông quá nghèo, không có gì cho chúng tôi làm của hồi môn, và chúng tôi sẽ luôn là rắc rối lớn của ông. Nhưng mẹ bảo mọi người trong làng đều cho rằng chúng tôi rất xinh đẹp, vì vậy sớm muộn gì cũng sẽ có người hỏi cưới bọn tôi làm vợ. Tôi cố gắng giữ gìn áo quần sạch sẽ và chải, bện tóc gọn gàng, hy vọng một ngày nào đó mình sẽ được lựa chọn. Vào những dịp lễ hội, tôi chẳng thích một ai trong số các anh chàng đến mời tôi khiêu vũ, nhưng tôi biết sớm muộn gì tôi cũng phải lấy một người trong số họ, để không còn là gánh nặng cho cha mẹ. Chị Éva của tôi đã đi Budapest từ lâu, cùng với gia đình Hungary mà chị giúp việc, thỉnh thoảng chị gửi về nhà ít tiền. Thậm chí, có lần chị ấy còn gửi cho tôi một đôi giày tốt, một đôi giày da kiểu dân thành phố mà tôi rất tự hào.

“ ‘Đó là hoàn cảnh cuộc sống của tôi lúc gặp giáo sư Rossi. Rất hiếm khi có người lạ đến làng chúng tôi, nhất là lại đến từ một nơi rất xa, nhưng một ngày kia mọi người rỉ tai nhau cho biết có một người đàn ông đến từ Bucharest đã vào quán rượu cùng một người đàn ông khác, từ một đất nước khác đến. Họ hỏi han nhiều về các ngôi làng nằm dọc dòng sông, và về tòa lâu đài đổ nát trên núi, phía thượng nguồn con sông, cách làng chúng tôi một ngày đi bộ. Người hàng xóm, người đã ghé qua cho chúng tôi biết chuyện này, còn thì thầm với cha điều gì đó khi cả hai ngồi ở chiếc ghế dài bên ngoài cửa ra vào. Cha tôi làm dấu thánh giá và khạc xuống đất. “Chuyện tào lao nhảm nhí,” ông nói. “Chẳng ai lại hỏi những câu như vậy cả. Chẳng khác nào mời Quỷ tới.”

“ ‘Nhưng tôi rất hiếu kỳ. Tôi lấy cớ ra ngoài lấy nước để có thể nghe ngóng thêm chuyện này, khi đến quảng trường làng, tôi nhìn thấy những vị khách lạ ngồi tại một trong hai chiếc bàn đặt bên ngoài quán rượu, đang trò chuyện với một ông lão lúc nào cũng có mặt ở đó. Một trong hai người khách lạ cao lớn và da màu sậm, giống như người Gypsy nhưng ăn mặc theo kiểu dân thành thị. Người kia mặc một chiếc áo khoác màu nâu kiểu tôi chưa từng thấy, ống quần rộng nhét vào đôi giày ống, đầu đội mũ rộng vành màu nâu. Đứng ở phía bên kia quảng trường, gần bên giếng nước, tôi không thể nhìn rõ được gương mặt của anh chàng người nước ngoài. Hai người trong số các bạn tôi muốn nhìn rõ hơn, thì thầm bảo tôi theo họ. Tôi miễn cưỡng bước theo, biết rằng cha sẽ chẳng tán thưởng việc này.

“ ‘Khi chúng tôi đi ngang qua quán rượu, người đàn ông ngoại quốc ngước mắt nhìn lên, tôi ngạc nhiên thấy anh trẻ và đẹp trai quá, bộ râu hoe vàng và đôi mắt xanh sáng ngời giống như những anh chàng trong làng người Đức ở nước chúng tôi. Anh hút tẩu và khẽ chuyện trò với người bạn đồng hành. Một túi xách loại vải bạt, có quai đeo đặt dưới đất bên cạnh anh, còn anh thì đang viết gì đó vào một cuốn sách bìa cứng. Có nét gì đó trên gương mặt anh làm tôi thấy có cảm tình ngay tức khắc - vừa lơ đãng, vừa dịu dàng nhưng vẫn tinh anh. Anh đưa tay lên chạm vào vành mũ chào chúng tôi rồi quay mặt nhìn sang nơi khác ngay, người đàn ông kia cũng đưa tay lên vành mũ, nhìn chúng tôi chằm chằm, sau đó họ quay sang chuyện trò tiếp với già Ivan và lại ghi chép. Người đàn ông hình như đang nói chuyện với già Ivan bằng tiếng Rumani, rồi quay lại nói với chàng thanh niên bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi không hiểu. Tôi tiếp tục rảo bước cùng các bạn, không muốn chàng thanh niên xa lạ đẹp trai nghĩ rằng tôi sốt sắng hơn các bạn mình.

“ ‘Sáng hôm sau, cả làng đồn ầm là những người khách lạ đã cho tiền một chàng trai trẻ tại quán rượu, để anh ta dẫn họ đến tòa lâu đài đổ nát, có tên gọi là Poenari, ở vùng thượng lưu sông Argeş. Họ sẽ đi suốt đêm. Tôi nghe cha nói với một người bạn là họ đi tìm lâu đài của Hoàng thân Vlad - ông nhớ lại trước đó gã ngốc có gương mặt Gypsy kia cũng đã từng đến tìm tòa lâu đài. “Một thằng ngốc thì chả bao giờ khôn ra được,” ông bực tức nói. Tôi chưa từng nghe nhắc đến cái tên đó - Hoàng thân Vlad. Dân làng thường gọi tòa lâu đài đó là Poenari hoặc Arefu. Cha bảo anh chàng dẫn đường cho đám khách lạ ấy là một tên điên ham tiền mọn. Ông quả quyết chẳng có món tiền nào có thể buộc ông phải ngủ qua đêm ở đó, bởi đống phế tích kia đầy rẫy tà ma. Ông nói có lẽ người khách lạ đi tìm kho báu đó cũng đang làm một việc điên rồ vì số kho báu của vị hoàng thân kia đã được chôn giấu kỹ và phải chịu một lời nguyền ác độc. Ông nói, nếu bất kỳ ai tìm được kho báu và giải được lời nguyền thì ông phải có một phần, một số báu vật ở đó thuộc quyền sở hữu của ông. Rồi ông bỗng im bặt khi bắt gặp tôi và các chị em gái đang lắng nghe.

“ ‘Những gì cha nói làm tôi nhớ đến đồng xu nhỏ bé mà bà lão đã cho tôi dạo nào, tôi cảm thấy có lỗi vì đã sở hữu một vật mà lẽ ra phải trao lại cho cha. Nhưng đột nhiên một ý tưởng nổi loạn xuất hiện trong tôi, và tôi quyết định sẽ cố trao đồng xu lại cho anh chàng ngoại quốc đẹp trai kia, bởi anh ta đang đi tìm kho báu ở tòa lâu đài. Khi có cơ hội, tôi đã lấy đồng xu ra khỏi nơi cất giữ, giấu nó vào một chiếc khăn tay, buộc chặt vào tấm tạp dề.

“ ‘Hai ngày sau đó, người khách lạ không xuất hiện, nhưng rồi tôi lại nhìn thấy anh ngồi một mình tại chiếc bàn ấy, trông rất mỏi mệt, áo quần dơ bẩn và sờn rách. Bạn bè tôi cho biết, ngày hôm đó tên Gypsy dân thành thị kia đã rời đi, chỉ còn lại một mình người khách ngoại quốc. Không ai biết vì sao anh muốn nán lại. Anh đã bỏ mũ ra, tôi nhìn thấy mái tóc bù xù màu nâu sáng. Vài người đàn ông khác đang cùng ngồi uống rượu với anh. Tôi không dám đến gần, hoặc bắt chuyện với người khách lạ vì quanh anh toàn là đàn ông, vì vậy tôi dừng lại trò chuyện với một người bạn một lát. Trong lúc chúng tôi đang trò chuyện, người khách lạ đứng dậy và đi ra khỏi quán rượu.

“ ‘Tôi cảm thấy rất nản, nghĩ rằng mình không thể nào trao được đồng xu cho anh. Nhưng chiều hôm đó vận may đã đến. Ngay khi rời khỏi cánh đồng của cha, nơi tôi phải nán lại cho xong việc, anh chị em tôi còn bận bịu với những chuyện nhà lặt vặt khác, tôi nhìn thấy người khách lạ đang lững thững một mình ở bìa rừng. Anh đi dọc theo bờ sông, cúi đầu, hai tay chắp sau lưng. Anh chỉ có một mình, và giờ tôi đã có cơ hội để bắt chuyện với anh, nhưng lại chợt thấy sợ hãi. Thu hết can đảm, nắm chặt chiếc khăn, cùng đồng xu trong đó, tôi bước về phía anh, đứng trên đường mòn chờ anh đến.

“ ‘Khi đứng chờ ở đó, tôi cảm thấy thời gian như dài lê thê. Chắc hẳn anh đã không để ý cho đến khi chúng tôi hầu như mặt đối mặt. Rồi anh ta bất chợt ngước mắt lên khỏi con đường mòn, trông có vẻ rất ngạc nhiên. Anh bỏ mũ và bước sang một bên, tựa như để nhường tôi bước qua, nhưng tôi vẫn đứng yên, thu hết can đảm lên tiếng chào anh. Anh khẽ cúi xuống và mỉm cười, chúng tôi đứng đó, đăm đăm nhìn nhau một lúc. Không có gì trong gương mặt hoặc thái độ của anh làm cho tôi cảm thấy lo sợ, nhưng tôi hầu như ngây người đi vì e thẹn.

“ ‘Trước khi lòng can đảm kịp biến mất, tôi vội tháo chiếc khăn khỏi thắt lưng và lấy đồng xu ra. Tôi đưa nó cho anh, không nói gì, anh cầm lấy, lật qua lật lại, chăm chú xem xét đồng xu. Đột nhiên, mặt anh sáng lên, anh lại đưa mắt liếc nhìn tôi, ánh mắt rất sắc, tựa như có thể nhìn xuyên thấu tâm tư tôi. Khó mà hình dung nổi đôi mắt anh ấy lại sáng ngời và xanh biếc đến thế. Tôi cảm thấy run rẩy. “De unde? - từ đâu?” Anh làm điệu bộ ra dấu cho tôi hiểu câu hỏi của anh. Tôi ngạc nhiên, có vẻ như anh biết một vài từ trong ngôn ngữ chúng tôi. Tôi chợt hiểu khi anh vỗ vỗ lên mặt đất. Phải chăng tôi tìm được đồng xu từ dưới đất? Tôi lắc đầu. “De unde? - Vậy thì ở đâu?”

“ ‘Tôi cố gắng diễn tả hình ảnh một bà lão, khăn trùm trên đầu, gập người trên gậy - đưa đồng xu cho tôi. Anh gật đầu, cau mày. Anh bắt chước dáng điệu của một bà lão, sau đó chỉ tay theo con đường mòn hướng về làng chúng tôi. “Từ nơi đó?” Không - tôi lại lắc đầu và trỏ ngược lên phía trên dòng sông, rồi lên trời, tôi nghĩ tòa lâu đài và làng của bà lão nằm ở trên đó. Tôi chỉ cho anh và làm điệu bộ đang bước đi lên - lên cao trên đó! Mặt anh lại sáng lên, tay nắm chặt đồng xu. Sau đó, tôi đã từ chối khi anh trao đồng xu lại cho tôi, tôi trỏ vào anh và cảm thấy mình đang đỏ mặt. Lần đầu tiên anh mỉm cười, rồi cúi xuống chào tôi, và trong một khoảnh khắc tôi thấy như thiên đường đã rộng mở trước mắt mình. “Multumesc,” anh nói. “Rất cám ơn.”

“ ‘Sau đó tôi muốn bỏ đi ngay, trước khi cha kịp phát hiện tôi không có mặt ở bàn ăn tối, nhưng người khách lạ đã nhanh chóng ngăn tôi lại. Anh chỉ tay vào mình. “Ma numesc Bartolomeo Rossi,”(1) anh tự giới thiệu. Anh ta lặp lại lần nữa, sau đó viết ra trên mặt đất ngay dưới chân. Tôi bật cười khi cố gắng bắt chước anh đọc lên cái tên đó. Sau đó anh chỉ vào tôi. “Voi?- Còn cô?” anh hỏi. “Tên cô là gì?” Tôi trả lời và anh mỉm cười lặp lại. “Familia? - Họ à?” Dường như anh đang mò mẫm tìm từ.

“ ‘ “Họ của tôi là Getzi,” tôi trả lời.

“ ‘Hình như anh rất ngạc nhiên. Anh chỉ tay theo hướng dòng sông, sau đó vào tôi, và lặp đi lặp lại điều gì đó, theo sau là tiếng Drakulya, mà tôi hiểu nó có nghĩa là của con rồng. Tôi không hiểu ý anh. Cuối cùng vừa lắc đầu vừa thở dài anh thốt lên, “Ngày mai.” Anh trỏ vào tôi, vào chính mình, vào nơi bọn tôi đang đứng, và vào mặt trời trên bầu trời. Tôi hiểu anh yêu cầu được gặp lại tôi ở đây, vào cùng thời gian này ngày mai. Tôi biết cha tôi sẽ rất giận nếu biết việc này. Tôi trỏ tay xuống đất, ngay phía dưới chân, sau đó đặt một ngón tay lên môi. Tôi không biết cách nào khác để nói với anh đừng tiết lộ chuyện này với bất kỳ người nào trong làng. Trông anh có vẻ như giật mình, nhưng sau đó cũng đặt một ngón tay lên môi, và lại mỉm cười với tôi. Đến tận giây phút đó, tôi vẫn cảm thấy có phần e sợ anh, nhưng anh vẫn nở nụ cười đôn hậu và đôi mắt xanh sáng lấp lánh. Anh lại cố gắng trả đồng xu cho tôi, nhưng một lần nữa tôi từ chối không chịu nhận, anh cúi chào, đội mũ lên, và đi vào rừng theo hướng mà trước đó anh đã đến. Tôi hiểu anh muốn để tôi quay trở về làng một mình, tôi nhanh chóng rảo bước, không dám quay lại nhìn theo anh.

“ ‘Suốt buổi tối hôm đó, tại bàn ăn cùng gia đình, cũng như lúc rửa và lau chùi chén đĩa với mẹ tôi, không lúc nào tôi thôi nghĩ đến người khách lạ. Tôi nghĩ đến anh, đến bộ áo quần nước ngoài, cách anh cúi đầu chào lịch sự, vẻ mặt vừa lơ đãng vừa tinh anh, đôi mắt sáng ngời làm ấm lòng người của anh. Tôi nhớ đến anh suốt cả ngày hôm sau, khi cùng chị em mình quay sợi, dệt vải, lúc dọn bữa ăn, khi đi lấy nước, trong lúc làm việc đồng áng. Nhiều lần mẹ đã quở trách tôi không chú ý vào công việc đang làm. Lúc chiều tối, tôi nán lại để làm cỏ dại một mình, và nhẹ nhõm cả người khi cha và các anh em trai đi khuất về hướng làng.

“ ‘Ngay khi họ vừa đi khỏi, tôi vội vã chạy đến bìa rừng. Người khách lạ đang ngồi tựa lưng vào một gốc cây, chờ đợi, khi thấy tôi đến anh ngồi nhỏm dậy và mời tôi ngồi trên một khúc cây gần lối đi. Nhưng vì e ngại người trong làng đi ngang qua nên tôi đã dẫn anh vào sâu hơn trong rừng, vừa đi vừa nghe tiếng tim mình đập thình thịch. Sau đó, chúng tôi ngồi xuống hai tảng đá. Rừng cây vang tiếng chim gọi nhau về tổ - trời đầu hạ ấm áp và cây cỏ tươi một màu xanh.

“ ‘Người khách lạ lấy ra từ trong túi đồng xu mà tôi đã trao cho anh, cẩn thận đặt nó lên mặt đất. Sau đó anh lôi trong ba lô ra một hai cuốn sách và bắt đầu lật giở. Tôi hiểu đó là những cuốn tự điển tiếng Rumani và tiếng gì đó mà anh biết. Rất từ tốn, thường xuyên liếc nhìn vào hai quyển sách, anh hỏi liệu tôi đã từng thấy bất kỳ đồng xu nào khác giống đồng xu mà tôi đã trao cho anh. Tôi trả lời không. Anh nói con vật trên đồng tiền là một con rồng, và anh hỏi liệu tôi đã từng thấy con rồng này ở bất kỳ nơi nào khác, chẳng hạn như trên một tòa nhà hoặc trong một quyển sách hay chưa. Tôi trả lời mình có hình con vật đó ở trên vai.

“ ‘Thoạt đầu, anh không hiểu những gì tôi nói. Tôi tự hào vì biết viết và đọc chút đỉnh ngôn ngữ chúng tôi - một thời, lúc tôi còn bé, làng chúng tôi từng có một ngôi trường và một tu sĩ đã đến dạy chúng tôi học. Cuốn tự điển của người khách lạ quá rắc rối với tôi, nhưng chúng tôi đã cùng nhau tìm được chữ vai. Anh hỏi lại vì trông anh có vẻ bối rối, “Drakul?” Anh giơ đồng tiền lên. Tôi chạm vào vai áo khoác và gật đầu. Anh đỏ mặt nhìn xuống đất, và tôi chợt nhận thấy trong hai chúng tôi, tôi mới là người can đảm. Tôi mở nút, cởi chiếc áo khoác len, rồi mở cổ áo cánh. Tim đập thình thịch, nhưng tôi như bị một cái gì đó khống chế và không thể nào dừng lại. Anh nhìn đi nơi khác, nhưng tôi đã kéo chiếc áo cánh để lộ ra bờ vai và trỏ tay vào đó.

“ ‘Tôi không còn nhớ nổi quãng thời gian trước khi tôi mang trên mình hình xăm con rồng nhỏ màu xanh đậm đó. Mẹ tôi nói mỗi thế hệ bên họ cha tôi đều có một đứa trẻ bị xăm hình đó, và ông đã chọn tôi vì nghĩ rằng sau này lớn lên tôi sẽ là đứa xấu xí nhất. Ông nói cụ nội tôi cho biết đó là việc cần thiết để giữ cho ma quỷ tránh xa dòng họ chúng tôi. Tôi chỉ nghe nói về chuyện này một đôi lần, vì cha thường không thích đề cập đến nó, tôi cũng không biết người bà con nào thuộc thế hệ cha có hình xăm này, hoặc nó nằm đâu đó trên chính cơ thể cha, hoặc trên cơ thể của một trong số các anh chị em của ông. Con rồng của tôi trông rất khác với con rồng nhỏ trên đồng xu, nên đến tận khi người khách lạ hỏi liệu tôi còn có bất kỳ thứ gì khác có hình con rồng không tôi vẫn chưa từng thấy hai hình ảnh này có gì liên quan.

“ ‘Người khách lạ quan sát tỉ mỉ hình con rồng trên da tôi, để đồng xu sát bên cạnh để so sánh, nhưng không chạm vào người tôi, thậm chí cũng không nghiêng người lại gần hơn. Anh vẫn còn đỏ mặt và có vẻ như bớt căng thẳng khi tôi cài áo cánh lại và mặc áo khoác vào. Anh tra tự điển và hỏi tôi người nào đã xăm con rồng lên chỗ da thịt đó. Khi tôi trả lời là cha mình, với sự giúp đỡ của một bà lão trong làng, một bà lang, anh hỏi liệu anh có thể nói chuyện với cha tôi về việc đó. Tôi lắc đầu phản đối dữ dội đến nỗi anh lại đỏ bừng mặt lên. Sau đó anh nói với tôi, một cách rất khó khăn, rằng gia đình tôi là dòng dõi của một ông hoàng độc ác, người đã xây dựng tòa lâu đài phía thượng nguồn dòng sông. Ông hoàng này được người ta gọi là “con trai của rồng,” và đã giết hại nhiều người. Anh ta nói ông hoàng đã trở thành một pricolic, một con ma cà rồng. Tôi làm dấu thánh để cầu xin Đức Mẹ che chở. Tôi đã phủ nhận khi anh hỏi liệu tôi có biết câu chuyện này không. Anh hỏi tôi bao nhiêu tuổi và có anh chị em không, và liệu có ai khác trong làng cùng họ với chúng tôi.

“ ‘Cuối cùng tôi chỉ vào mặt trời, gần như đã lặn, để báo cho anh biết là tôi phải trở về nhà, anh đứng lên ngay, trông rất nghiêm túc. Sau đó anh chìa tay ra giúp tôi đứng dậy. Khi nắm lấy bàn tay anh, tôi có cảm giác như tim mình muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi lúng túng và nhanh chóng quay đi. Nhưng tôi chợt nghĩ, vì quá quan tâm đến chuyện ma quỷ nên anh có thể sẽ gặp nguy hiểm. Có lẽ, tôi nên cho anh một cái gì đó để bảo vệ. Tôi chỉ tay xuống đất và vào mặt trời. ‘Ngày mai, đến,” tôi nói. Anh tỏ vẻ ngần ngại một lúc, nhưng sau cùng cũng mỉm cười. Anh đội mũ, đưa tay chạm vào vành mũ ra dấu chào rồi đi khuất vào rừng.

“ ‘Sáng hôm sau, khi tôi ra chỗ giếng nước, anh đang ngồi ở quán rượu cùng với mấy ông lão, và lại viết gì đó. Tôi nghĩ mình đã thấy ánh mắt anh liếc nhìn tôi, nhưng anh không tỏ dấu hiệu nào có quen biết với tôi. Trong thâm tâm tôi rất vui, vì hiểu anh đã giữ kín bí mật của anh và tôi. Trưa hôm đó, khi cha mẹ và anh chị em tôi ra khỏi nhà, tôi đã làm một việc xấu xa: tôi mở chiếc tủ gỗ của cha mẹ lấy ra một con dao găm nhỏ bằng bạc mà trước đây tôi đã nhiều lần trông thấy. Mẹ tôi có lần đã nói nó được dùng để giết ma cà rồng, nếu chúng đến để gây rắc rối cho người hoặc gia súc. Tôi cũng nhổ một nắm hoa tỏi trong mảnh vườn của mẹ rồi giấu các món này vào trong khăn trên đường đi ra đồng.

“ ‘Lần này, các anh tôi cứ kè kè bên tôi, làm việc rất trễ, tôi không thể nào bứt ra khỏi họ, nhưng cuối cùng họ cũng nói sẽ trở về làng và bảo tôi về cùng. Tôi nói mình phải hái thêm một ít cỏ thuốc trong rừng và một lát sau sẽ về. Suốt quãng đường đến chỗ người khách lạ đang ngồi trên tảng đá hôm qua, sâu trong rừng, tôi rất hồi hộp. Anh đang hút tẩu, nhưng khi tôi bước đến, anh đứng bật dậy và bỏ tẩu thuốc xuống. Tôi ngồi xuống và bày ra cho anh thấy những gì tôi mang theo. Trông anh có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy con dao, và rất thích thú khi tôi giải thích là anh có thể dùng nó để giết pricolici. Anh muốn từ chối, nhưng tôi đã nài nỉ tha thiết đến độ anh không cười nữa và thận trọng dùng khăn tay của tôi gói và cất con dao vào ba lô. Sau đó tôi trao cho anh bó hoa tỏi và bảo anh nên bỏ một ít vào túi áo khoác.

“ ‘Lúc tôi hỏi anh còn ở lại làng bao lâu, anh đưa năm ngón tay - năm ngày nữa. Anh cho biết là sẽ đến nhiều làng khác gần đó, đi từ làng chúng tôi đến từng làng để hỏi chuyện người dân về tòa lâu đài kia. Tôi hỏi sau năm ngày nữa, anh sẽ đi đâu khi rời khỏi làng chúng tôi. Anh nói anh sẽ đến một nước có tên là Hy Lạp, một đất nước tôi đã từng nghe nói đến, sau đó quay về quê mình, ở Anh. Anh vẽ lên đất cho tôi thấy đất nước anh, gọi là Anh quốc, một hòn đảo ở cách xa đất nước chúng tôi. Anh cho tôi biết trường đại học của anh ở đâu - tôi không biết anh hàm ý gì - và viết tên trường lên mặt đất. Tôi vẫn còn nhớ những con chữ này: OXFORD. Sau đó, thỉnh thoảng tôi đã viết lại những con chữ đó, để nhìn ngắm chúng. Đó là từ ngữ lạ lùng nhất mà tôi được nhìn thấy.

“ ‘Đột nhiên, nước ứa ra trong mắt tôi vì tôi hiểu anh sắp ra đi, tôi sẽ không còn bao giờ gặp lại anh hoặc ai đó giống như anh. Tôi đâu muốn khóc - tôi chưa bao giờ khóc vì đám trai làng khó chịu - nhưng giờ tôi không sao ngăn được nước mắt khỏi tuôn tràn trên má mình. Trông có vẻ lo lắng, anh rút trong túi áo khoác và trao cho tôi một chiếc khăn tay màu trắng. Chuyện gì vậy? Tôi lắc đầu. Anh chậm rãi đứng dậy, chìa tay ra giúp tôi đứng lên, giống như chiều tối hôm qua. Trong lúc đứng lên, tôi đã vô tình vấp ngã vào người anh, rồi chúng tôi đã hôn nhau khi anh đỡ lấy tôi. Sau đó, tôi quay người bỏ chạy ra khỏi rừng. Khi ra tới con đường mòn, tôi ngoái lại nhìn. Anh vẫn còn đứng đó, im lìm như một gốc cây, nhìn theo tôi. Tôi chạy suốt đường về làng, thao thức suốt đêm với chiếc khăn giấu trong bàn tay.

“ ‘Chiều tối hôm sau anh đã ở đó, vẫn nơi đó, tựa như chưa từng dịch chuyển từ khi tôi rời đi. Tôi lao đến, anh dang tay ôm lấy tôi. Khi những nụ hôn đắm đuối không còn đủ nữa, anh trải tấm áo khoác xuống đất và chúng tôi cùng nằm xuống. Trong giờ phút đó tôi mới biết thế nào là tình yêu, một khoảnh khắc đặc biệt. Bên trên tôi, đôi mắt anh xanh như bầu trời. Anh cài hoa lên tóc và hôn những ngón tay tôi, tôi ngạc nhiên vì việc anh làm, việc mình làm, và tôi biết như thế là sai, là tội lỗi, nhưng đồng thời cũng cảm nhận niềm vui thiên đường đang bừng mở chung quanh chúng tôi.

“ ‘Sau đó là ba đêm cho đến khi anh ra đi. Chúng tôi gặp nhau sớm hơn vào mỗi chiều tối. Tôi viện đủ mọi lý do có thể nghĩ ra để nói với cha mẹ, và luôn quay về với những bó cỏ thuốc hái trong rừng, tựa như đã vào đó chỉ để hái cỏ thuốc. Mỗi đêm Bartolomeo đều thủ thỉ với tôi là anh yêu tôi và năn nỉ tôi hãy theo anh khi anh rời khỏi làng. Tuy rất muốn nhưng tôi lại e sợ cái thế giới rộng lớn mà từ đó anh đến, mà tôi cũng không thể hình dung làm sao để có thể thoát khỏi cha mình. Mỗi đêm tôi hỏi anh vì sao anh không thể ở lại làng cùng tôi anh lại lắc đầu, nói anh phải về nhà, về với công việc của anh.

“ ‘Vào đêm cuối trước khi anh rời khỏi làng, tôi đã bật khóc ngay khi chúng tôi vừa chạm vào nhau. Anh ôm và hôn lên tóc tôi. Tôi chưa từng gặp một người đàn ông nào dịu dàng và tử tế như vậy. Khi tôi ngưng khóc, anh cởi chiếc nhẫn bạc nhỏ có phù hiệu ra. Tôi không chắc, nhưng lúc đó tôi nghĩ đó là phù hiệu trường đại học nơi anh làm việc. Anh đã đeo chiếc nhẫn đó ở ngón út bàn tay trái. Anh tháo chiếc nhẫn ra, đeo nó vào ngón nhẫn của tôi. Rồi anh ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Chắc hẳn anh đã học câu này trong tự điển, vì anh nói là tôi hiểu ngay.

“ ‘Thoạt đầu, ý tưởng đó có vẻ bất khả thi đến nỗi tôi lại bắt đầu khóc - tôi còn quá trẻ - nhưng rồi tôi lại đồng ý. Anh cho tôi hiểu là anh sẽ quay trở lại tìm tôi trong vòng bốn tuần. Anh phải đi Hy Lạp để lo một số công việc ở đó - công việc gì, tôi không thể hiểu. Sau đó anh sẽ trở lại với tôi và sẽ đưa cho cha tôi một ít tiền để làm vui lòng ông. Tôi đã cố gắng giải thích là tôi không có của hồi môn, nhưng anh không nghe. Mỉm cười, anh cho tôi thấy con dao găm và đồng xu mà tôi đã tặng anh, sau đó dùng hai tay ôm vòng lấy mặt và hôn tôi.

“ ‘Lẽ ra tôi phải cảm thấy hạnh phúc, nhưng tôi lại linh cảm thấy sự hiện diện của tà ma và lo sợ sẽ có chuyện gì đó xảy ra khiến anh không thể trở lại. Mỗi khoảnh khắc bên nhau của chúng tôi trong chiều tối hôm đó đều vô cùng ngọt ngào vì tôi nghĩ chúng là những giây phút cuối cùng. Anh tỏ ra rất tự tin, chắc chắn rằng chúng tôi sẽ sớm gặp lại nhau. Đến tận khi khu rừng gần như tối hẳn, tôi vẫn không thể nói lời từ biệt. Nhưng rồi tôi bắt đầu thấy sợ cơn giận dữ của cha nên sau cùng đành hôn Bartolomeo một lần nữa, kiểm tra chắc chắn là bó hoa tỏi vẫn còn trong túi áo anh, rồi rời đi. Tôi cứ ngoái lại nhìn nhiều lần. Lần nào cũng vậy, tôi thấy anh vẫn đứng đó, cầm mũ trong tay. Trông rất cô đơn.

“ ‘Tôi vừa bước đi vừa khóc, tháo chiếc nhẫn nhỏ, hôn lên nó rồi cột gút nó lại trong chiếc khăn tay. Khi về đến nhà, cha đang nổi giận và muốn biết tôi đi đâu khi trời đã tối mà không được phép của ông. Tôi trả lời là cô bạn Maria bị lạc mất một con dê và tôi phải giúp cô đi tìm. Tôi lên giường ngủ, lòng nặng trĩu, đôi lúc cảm thấy tràn đầy hy vọng nhưng rồi nỗi buồn lại ập đến ngay.

“ ‘Sáng hôm sau, tôi nghe nói Bartolomeo đã rời khỏi làng, đi nhờ xe ngựa của một bác nông dân đến Târgoviste. Với tôi, đó là một ngày dài lê thê và chán chường, đến chiều tối tôi lại lững thững vào rừng, đến nơi hẹn hò của chúng tôi, để được một mình ở đó. Tôi lại bật khóc khi thấy lại cảnh cũ. Tôi ngồi xuống những tảng đá mà chúng tôi đã ngồi, nằm xuống nơi chúng tôi đã nằm mỗi chiều tối. Tôi úp mặt xuống đất nức nở khóc. Rồi tôi cảm thấy tay mình chạm vào một cái gì đó giữa đám dương xỉ, và ngạc nhiên khi nhận ra một gói các lá thư vẫn còn nguyên phong bì. Tôi không đọc được những dòng chữ viết tay trên các bì thư, chúng được gửi đến đâu và cho ai, nhưng in ở nắp của mỗi bì thư là cái tên đẹp đẽ của anh, như những dòng chữ vẫn in trong sách. Tôi mở vài lá thư và hôn lên những dòng chữ của anh, dù có thể nhận thấy chúng không phải gửi cho mình. Trong một thoáng, tôi băn khoăn tự hỏi liệu có thể chúng được viết cho một phụ nữ khác hay không, nhưng lập tức gạt phăng ý nghĩ này đi. Tôi nhận ra có lẽ những lá thư hẳn đã rơi ra lúc anh mở ba lô khoe con dao găm và đồng xu mà tôi đã tặng anh.

“ ‘Tôi đã nghĩ đến việc gửi chúng bằng đường bưu điện về Oxford trên đảo quốc Anh, nhưng lại không nghĩ ra được cách phải gửi như thế nào để không bị để ý. Vả lại, tôi không biết sao có tiền mà gửi. Chắc hẳn phải tốn nhiều tiền để gửi một gói như vậy đến hòn đảo xa xôi của anh, trong khi tôi thì chưa bao giờ có tiền ngoại trừ đồng xu nhỏ mà tôi đã tặng anh. Tôi quyết định giữ chúng lại để trao tận tay khi anh trở lại với tôi.

“ ‘Bốn tuần lễ chậm chạp trôi qua, rất chậm. Để có thể theo dõi được ngày tháng, tôi đã khắc những khía hình chữ V vào một gốc cây gần nơi hẹn hò bí mật của chúng tôi. Tôi làm việc đồng áng, giúp đỡ mẹ, kéo sợi và dệt vải để may áo quần cho mùa đông sắp đến, đi lễ nhà thờ, và nghe ngóng tin tức về Bartolomeo ở bất cứ nơi nào có thể. Thoạt đầu những người lớn tuổi còn nhắc đến anh chút ít, và lắc đầu ngao ngán trước mối quan tâm của anh về lũ ma cà rồng. “Chẳng có gì tốt lành từ việc đó cả,” một người trong số họ nhận xét, những người còn lại đều đồng tình. Tôi cảm thấy lòng mình lẫn lộn buồn vui khi nghe thấy vậy. Vui vì được nghe người khác kháo chuyện về anh, bởi tôi không bao giờ có thể thổ lộ với bất kỳ ai một lời nào, nhưng tôi cũng cảm thấy rùng mình ớn lạnh khi nghĩ đến việc anh ấy có thể lôi kéo sự chú ý của lũ pricolici.

“ ‘Tôi không ngớt băn khoăn tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi anh quay trở lại. Liệu anh có đến nhà cha tôi, gõ cửa và xin cha tôi cho phép cưới tôi làm vợ? Tôi tưởng tượng cả gia đình sẽ ngạc nhiên ra sao. Tất cả bọn họ sẽ tụ tập ở cửa nhà và chăm chú nhìn, trong lúc Bartolomeo trao quà cho họ còn tôi hôn từ biệt mọi người. Sau đó anh sẽ dẫn tôi đến một chiếc xe ngựa đang chờ sẵn, thậm chí có thể là một chiếc xe hơi. Chúng tôi sẽ đi xe ra khỏi làng, ngang qua các xứ sở mà tôi không thể hình dung được, bên kia những ngọn núi, xa hơn cả thành phố vĩ đại mà chị Éva đang sống. Tôi hy vọng chúng tôi sẽ ghé thăm Éva, vì lúc nào tôi cũng thương yêu chị nhất. Bartolomeo cũng sẽ quý mến chị ấy, vì chị mạnh mẽ và dũng cảm, và là một người thường đi đây đó như anh.

“ ‘Tôi đã trải qua bốn tuần trong tình trạng như vậy, đến cuối tuần thứ tư tôi cảm thấy mệt, kém ăn và mất ngủ. Khi đã khắc những khía chữ V vào gốc cây được gần bốn tuần, tôi bắt đầu trông ngóng một dấu hiệu nào đó của việc anh sẽ quay lại. Bất kỳ lúc nào có một chiếc xe vào làng, tiếng bánh xe luôn làm cho tim tôi rộn lên. Tôi ra giếng lấy nước ba lần một ngày, chờ mong và trông ngóng tin tức. Tôi thầm nhủ chắc hẳn anh không thể đến đúng sau bốn tuần, và mình nên chờ thêm một tuần nữa. Sau tuần thứ năm, tôi ngã bệnh và nghĩ chắc chắn ông hoàng của lũ pricolici đã giết anh. Có lần, thậm chí tôi đã nghĩ rằng người yêu tôi có thể quay trở lại dưới lốt ma cà rồng. Tôi chạy đến nhà thờ ngay giữa trưa, và cầu nguyện trước tượng Thánh Nữ Đồng Trinh để xua đi cái ý tưởng khủng khiếp đó.

“ ‘Đến tuần thứ sáu rồi thứ bảy, tôi bắt đầu không còn hy vọng. Vào tuần thứ tám, qua nhiều triệu chứng mà tôi thường nghe được từ những phụ nữ có gia đình, tôi chợt hiểu là mình đã có thai. Đêm về, tôi lặng lẽ khóc thầm trong chiếc giường ngủ chung với các chị em, và cảm thấy toàn thế giới, kể cả Chúa Trời và Đức Mẹ Thiêng liêng đều đã bỏ rơi mình. Tôi không biết chuyện gì đã xảy đến với Bartolomeo, nhưng tôi tin chắc chuyện đó phải khủng khiếp lắm, vì tôi biết anh thực sự yêu tôi. Tôi bí mật đi hái các loại cỏ và rễ cây, những thứ được cho rằng có thể ngăn không cho đứa bé trong tôi ra đời, nhưng chỉ hoài công vô ích. Đứa bé lớn mạnh trong tôi, mạnh hơn cả tôi, và bất chấp bản thân mình tôi bắt đầu yêu cái sức mạnh đó. Lúc kín đáo đặt tay lên bụng, tôi cảm nhận được tình yêu của Bartolomeo và tôi tin rằng anh không thể nào quên tôi.

“ ‘Tôi biết mình phải rời khỏi làng trước khi mang tủi nhục đến cho gia đình và hứng chịu cơn lôi đình của cha. Tôi nghĩ đến việc thử tìm bà lão đã trao cho tôi đồng xu. Có lẽ bà sẽ cho tôi vào nhà, cho tôi nấu nướng và lau nhà cho bà. Bà đến từ một trong những làng mạc phía thượng lưu sông Argeş, gần lâu đài của ma cà rồng, nhưng tôi không biết làng nào, hoặc liệu bà còn sống hay không. Tôi không dám mạo hiểm băng rừng một mình, vì trên núi ngoài lũ gấu và chó sói còn có rất nhiều ma quỷ.

“ ‘Sau cùng, tôi quyết định viết thư cho chị Éva, tôi đã gửi thư cho chị một đôi lần. Tôi lấy vài tờ giấy và một cái bì thư từ nhà của vị cha xứ, nơi thỉnh thoảng tôi tới giúp việc bếp núc. Trong lá thư, tôi nói rõ cho chị biết tình trạng của tôi và cầu xin chị đến giúp tôi. Phải mất năm tuần sau thư trả lời của chị mới đến. Tạ ơn Chúa, bác nông dân mang lá thư cùng một ít hàng tiếp tế đến nhà đã trao nó cho tôi chứ không phải cha, và tôi đã bí mật vào rừng để đọc. Khi ấy bụng tôi đã lùm lùm, nên tôi cảm thấy lạ lùng khi ngồi xuống một khúc cây, dù vậy tôi vẫn có thể giấu cái bụng tròn đó dưới tấm tạp dề của mình.

“ ‘Có một ít tiền trong thư, tiền Rumani, tôi chưa bao giờ thấy nhiều tiền như vậy, thư của chị Éva ngắn gọn và thực tế. Chị nói tôi phải đi bộ rời khỏi làng, đến làng kế tiếp, cách xa khoảng năm cây số, và sau đó bắt xe ngựa hoặc xe tải đến Târgoviste. Từ đó tôi có thể đáp xe đến Bucharest, và từ Bucharest tôi có thể đi xe lửa đến biên giới Hungary. Chồng chị sẽ đợi tôi tại trạm biên phòng T - vào 20 tháng Chín - tôi vẫn còn nhớ ngày hẹn đó. Chị nói tôi phải tính toán thế nào để có thể đến nơi đúng ngày hôm đó. Kèm theo thư của chị còn có một thư mời có đóng dấu của Chính phủ Hungary, giúp tôi vào đất nước đó. Chị gởi lời yêu thương đến tôi, và bảo tôi phải rất thận trọng, và cầu chúc tôi lên đường bình an. Khi đọc đến cuối thư, tôi đã hôn lên chữ ký của chị và cầu Chúa phù hộ cho chị bằng tất cả tấm lòng mình.

“ ‘Tôi gói nhúm đồ đạc ít ỏi của mình vào một túi nhỏ, gồm cả đôi giày tốt kia để dành cho lúc lên xe lửa, những lá thư mà Bartolomeo đã đánh rơi và chiếc nhẫn bạc của anh. Một buổi sáng nọ tôi rời bỏ căn nhà tranh của gia đình mình, ôm hôn người mẹ đang càng lúc càng già yếu của tôi. Tôi muốn sau này mẹ hiểu đó là một cách tôi tạm biệt bà. Tôi nghĩ bà sẽ ngạc nhiên, nhưng bà không hỏi tôi câu nào. Sáng hôm đó, thay vì ra đồng, tôi đã băng qua khu rừng, cố tránh đường lộ. Tôi dừng lại để chào từ biệt địa điểm hẹn hò bí mật trong rừng, nơi tôi đã nằm cùng Bartolomeo. Bốn tuần khắc trên thân cây đã mờ nhạt. Ở đó tôi đã đeo lại vào tay chiếc nhẫn của anh và cột khăn lên đầu, như một phụ nữ đã có chồng. Tôi có thể cảm nhận mùa đông đang đến qua những chiếc lá vàng và bầu không khí se lạnh. Tôi đứng đó khá lâu, sau đó đi dọc theo con đường mòn đến làng kế bên.

“ ‘Tôi không nhớ toàn bộ chuyến đi đó, chỉ còn nhớ là tôi rất mệt và đôi lúc rất đói. Có đêm tôi ngủ nhờ nhà một bà lão, bà đã cho tôi ăn xúp đỡ dạ và càu nhàu lẽ ra chồng tôi không nên để tôi đi một thân một mình như vậy. Có lúc tôi phải tá túc trong kho thóc. Sau cùng tôi tìm được một chuyến xe đến Târgoviste, và sau đó bắt thêm một chuyến nữa đến Bucharest. Tôi không biết đi xe lửa sẽ mất bao nhiêu tiền, vì vậy tôi rất cẩn thận, và chỉ bỏ tiền ra cho việc ăn uống khi cần thiết. Bucharest rất lớn và đẹp, nhưng tôi cảm thấy khiếp sợ vì ở đó có quá nhiều người, tất cả đều ăn mặc đẹp, và bọn đàn ông trâng tráo nhìn tôi ngay cả ở giữa đường. Tôi phải ngủ tại ga xe lửa. Tàu hỏa cũng làm tôi sợ, một con quái vật khổng lồ, đen đúa. Khi đã ngồi trên tàu, cạnh bên cửa sổ, tôi cảm thấy lòng hơi nhẹ nhõm một chút. Con tàu chạy qua nhiều cảnh đẹp tuyệt vời - những ngọn núi, dòng sông và những cánh đồng mênh mông, khác xa với những khu rừng vùng Transylvania chúng tôi.

“ ‘Ở trạm ga biên giới, tôi được biết hôm đó là ngày 19 tháng Chín và tôi đã nằm ngủ trên một chiếc ghế dài cho đến khi một trong các viên chức biên phòng cho tôi vào phòng làm việc của ông và cho tôi uống một ly cà phê nóng. Ông ta hỏi chồng tôi ở đâu, tôi trả lời là đang đến Hungary để gặp chồng. Sáng hôm sau, một người đàn ông đội mũ, mặc com lê đen đến gặp tôi. Anh ta có khuôn mặt rất hiền hậu, hôn lên cả hai má tôi và gọi tôi bằng “em gái”. Tôi luôn quý mến người anh rể này từ lúc đó cho đến ngày anh qua đời, và đến nay tôi vẫn còn yêu quý. Anh ấy còn hơn bất kỳ người anh nào trong gia đình tôi. Anh ấy đã chăm lo mọi thứ, mời tôi một bữa ăn nóng mà chúng tôi ngồi ăn tại một bàn có trải khăn ăn trên tàu. Chúng tôi có thể vừa ăn vừa ngắm nhìn cảnh vật đang lướt trôi bên ngoài cửa sổ.

“ ‘Chị Éva đợi chúng tôi tại ga Budapest. Chị mặc bộ áo vest và váy, đội một chiếc mũ xinh xắn, tôi nghĩ trông chị chẳng khác gì một bà hoàng. Chị ôm chầm và hôn tôi nhiều lần. Đứa bé sinh ra tại một bệnh viện tốt nhất Budapest. Tôi muốn đặt tên nó là Éva, nhưng chị Éva bảo muốn được đích thân đặt tên cho đứa bé và đã gọi nó là Elena. Nó là một đứa bé dễ thương, hai mắt to đen, và biết cười rất sớm, lúc mới năm ngày tuổi. Mọi người ai cũng nói là chưa bao giờ thấy một bé sơ sinh biết cười sớm như vậy. Tôi đã hy vọng nó có đôi mắt xanh của Bartolomeo, nhưng con bé giống hệt gia đình bên tôi.

“ ‘Tôi đã chờ cho đến khi sinh xong đứa bé mới viết thư cho anh ấy, vì muốn báo cho anh biết thông tin về một đứa bé thật sự, chứ không phải chỉ nói về cái bào thai của mình. Khi Elena được một tháng tuổi, tôi đã nhờ anh rể giúp tôi tìm địa chỉ trường đại học nơi Bartolomeo làm việc, trường Oxford, và chính tay tôi viết cái từ lạ lùng này lên bì thư. Anh rể tôi viết hộ tôi lá thư tiếng Đức, chính tay tôi đã ký tên vào bức thư đó. Trong thư tôi kể với Bartolomeo là tôi đã chờ anh suốt ba tháng trời, sau đó phải bỏ làng ra đi vì biết mình sắp có con. Tôi kể về chuyến đi của mình và về ngôi nhà của chị Éva tại Budapest. Tôi kể với anh về Elena, nó xinh đẹp và tươi tắn biết bao. Tôi nói tôi yêu anh và lo sợ một chuyện gì đó khủng khiếp đã xảy ra làm anh không thể quay trở lại. Tôi hỏi khi nào tôi có thể gặp anh, và liệu anh có thể đến Budapest để đón tôi và Elena. Tôi bảo bất chấp chuyện gì xảy ra, tôi sẽ yêu anh suốt đời.

“ ‘Rồi tôi lại chờ, lần này là một thời gian dài, rất dài, khi Elena đã chập chững những bước đi đầu tiên mới có thư của Bartolomeo. Lá thư đến từ Mỹ, chứ không phải từ nước Anh, và được viết bằng tiếng Đức. Anh rể tôi đã dịch lá thư bằng một giọng rất ôn tồn, nhưng tôi nhận ra anh ấy đã quá trung thực, không thay đổi bất kỳ nội dung nào của lá thư. Trong thư, Bartolomeo nói anh đã nhận được thư tôi, lúc còn ở nhà cũ tại Oxford, trước khi đi Mỹ. Anh lịch sự cho biết là anh chưa bao giờ nghe nói hay từng biết tên tôi, và anh chưa bao giờ đến Rumani, vì vậy đứa trẻ mà tôi mô tả có thể không phải là con anh. Anh rất lấy làm tiếc khi nghe một câu chuyện đáng buồn như vậy và anh cầu chúc cho tôi những điều tốt lành. Đó là một lá thư ngắn gọn và rất tử tế, không chút ác tâm nhưng cũng không có dấu hiệu nào cho thấy là anh có biết tôi.

“ ‘Tôi đã khóc rất lâu, tôi còn trẻ và không hiểu con người có thể đổi thay, tâm tư và tình cảm của họ cũng có thể biến đổi. Khi đã ở Hungary được nhiều năm, tôi bắt đầu hiểu ra rằng người ta có thể là một người này khi ở quê hương mình nhưng sẽ là một người khác khi ở đất nước khác. Tôi hiểu rằng điều tương tự đã xảy ra với Bartolomeo. Cuối cùng tôi chỉ ước gì anh đừng nói dối như thế, rằng anh chẳng biết gì về tôi. Tôi ước như vậy bởi khi cùng ở bên nhau tôi đã cảm nhận anh là một người đáng quý trọng, một con người thành thật, tôi không muốn nghĩ xấu về anh.

“ ‘Tôi nuôi Elena lớn lên với sự giúp đỡ của những người bà con, và nó đã trở thành một cô gái thông minh và xinh đẹp. Tôi biết điều này vì con bé mang trong mình dòng máu của Bartolomeo. Tôi đã kể cho con bé nghe về cha nó - tôi chưa bao giờ nói dối con gái mình. Có thể tôi chưa kể cho nó nghe đầy đủ, nhưng nó còn quá trẻ để hiểu được tình yêu có thể làm cho con người trở nên mù quáng và điên khùng đến mức nào. Nó đã vào đại học và tôi rất hãnh diện vì nó, Elena cũng nói với tôi nó đã biết cha nó là một học giả xuất sắc tại Hoa Kỳ. Tôi hy vọng một ngày nào đó nó có thể gặp ông ấy. Nhưng tôi không biết ông ta dạy ở trường đại học mà anh theo học,’ mẹ Helen bổ sung rồi quay lại nhìn cô con gái với vẻ gần như trách móc, và bằng cử chỉ đột ngột này bà kết thúc câu chuyện.

“Helen lắc đầu, thì thầm một vài tiếng gì đó giống như lời xin lỗi hay tự bào chữa. Trông cô có vẻ sửng sốt chẳng kém gì cha. Suốt câu chuyện cô đã ngồi im, tựa như chỉ biết dịch và thở, và chỉ thì thầm điều gì đó khi mẹ cô mô tả con rồng trên vai bà. Sau này, Helen mới cho cha biết mẹ cô không bao giờ cởi đồ trước mặt cô, không bao giờ đưa cô đến những nhà tắm chốn công cộng như bác Éva.

“Thoạt tiên chúng ta ngồi yên lặng tại bàn, cả ba người bọn ta, nhưng sau đó một lát Helen quay về phía cha, bất lực ra dấu chỉ vào gói thư đang nằm trên bàn, trước mặt chúng ta. Cha hiểu; cha cũng đã từng nghĩ như vậy. ‘Tại sao bà không gửi một vài lá trong số này cho thầy Rossi, để chứng tỏ ông đã từng ở bên bà tại Rumani?’

“Cô nhìn về phía mẹ - trong đôi mắt là vẻ vô cùng phân vân, cha nghĩ vậy - sau đó, có vẻ như cô đã nêu câu hỏi này với bà. Câu trả lời của mẹ cô, khi cô dịch ra cho cha nghe đã làm cha nghẹn ngào, một nỗi đau cho cả bà lẫn người thầy bạc tình của cha. ‘Tôi đã nghĩ đến việc này, nhưng qua lá thư của ông tôi hiểu bây giờ tâm tư của ông ấy đã hoàn toàn thay đổi. Tôi nhận ra có gửi đến ông những lá thư này cũng sẽ chẳng có thay đổi nào xảy đến với tôi, trái lại sẽ gây ra nhiều khổ đau hơn, và rồi sẽ mất mát thêm một vài kỷ niệm về ông mà tôi còn có thể gìn giữ.’ Bà đưa tay ra tựa như muốn chạm vào nét chữ của ông, sau đó rút tay lại. ‘Tôi chỉ ân hận là không trả lại được cho Bartolomeo những gì thật sự là của ông ấy. Nhưng ông ấy cũng đã giữ quá nhiều thứ của tôi, nên có lẽ chẳng sai trái gì khi tôi giữ những lá thư này lại cho bản thân mình, phải vậy không?’ Bà đưa mắt nhìn từ Helen sang cha, đột nhiên một chút xao xuyến thoáng hiện trong đôi mắt bà. Cha nghĩ, cha đã nhìn thấy trong đôi mắt đó không phải là sự bất chấp, mà là ngọn lửa hồi tưởng về sự dâng hiến ngày xưa, rất xưa. Cha nhìn đi nơi khác.

“Helen tỏ ra không đồng tình. ‘Vậy tại sao mẹ không trao những lá thư này cho tôi từ sớm, ít nhất là thế?’ Câu hỏi của cô bật ra gay gắt, và ngay sau đó, cô quay sang hỏi bà mẹ cũng câu hỏi đó. Người phụ nữ lớn tuổi lắc đầu. ‘Bà nói,’ Helen dịch, gương mặt đanh lại, ‘bà biết tôi ghét cha tôi, mà bà thì muốn chờ đợi một ai đó yêu quý ông thì mới trao bảo vật này.’ Vì bà vẫn còn yêu ông ấy, cha có thể tiếp lời Helen như vậy, dường như lòng cha đã cảm động đến mức có thể thấu hiểu mối tình đã bị chôn vùi bao năm qua trong căn nhà nhỏ bé đơn sơ này.

“Tình cảm của cha không chỉ dành cho thầy Rossi. Ngồi tại bàn, trong căn nhà đó, cha cầm lấy bàn tay Helen, tay kia nắm lấy bàn tay chai sần của người mẹ, giữ chặt chúng. Vào khoảnh khắc đó, cái thế giới trong đó cha đã lớn lên, sự dè dặt và tĩnh lặng của nó, những thói quen và tập quán của nó, cái thế giới trong đó cha đã học hành và thành đạt rồi thỉnh thoảng tập tành yêu đương, có vẻ như đã xa tít tắp như dải Ngân hà. Cha không thể nói liệu mình có muốn hay không, nhưng nếu không vì nỗi xúc cảm nghẹn ngào trong cổ họng ắt hẳn cha đã có thể tìm được một cách nào đó để nói cùng hai người phụ nữ này, cùng mối quan hệ dẫu có khác nhau nhưng đều sâu sắc của họ với thầy Rossi, rằng cha cảm nhận sự hiện diện của ông giữa chúng ta.

“Một lát sau, Helen im lặng rút tay ra khỏi tay cha, nhưng mẹ cô vẫn để nguyên như vậy và bằng giọng nói êm ái, bà hỏi một câu gì đó. ‘Bà muốn biết bà có thể làm gì để giúp anh tìm được thầy Rossi.’

“ ‘Xin cô nói với bà là bà đã giúp tôi, và tôi sẽ đọc những lá thư này ngay khi rời khỏi nơi đây, để xem liệu chúng có thể giúp dẫn chúng ta đi xa hơn không. Nói với bà khi nào tìm được ông ấy chúng ta sẽ báo cho bà biết.’

“Mẹ Helen tỏ vẻ khiêm nhường cúi đầu xuống khi nghe như vậy, và đứng dậy để kiểm tra món hầm trong lò. Một mùi thơm ngào ngạt bốc lên, ngay cả Helen cũng mỉm cười, như thể chuyến trở về căn nhà vốn chẳng phải nhà cô này đã được đền bù. Khoảnh khắc bình yên này giúp cha bạo dạn hơn. ‘Xin cô hỏi xem liệu bà có biết bất kỳ điều gì về ma cà rồng, những điều có thể giúp ích chúng ta trong cuộc tìm kiếm này.’

“Khi Helen dịch lại yêu cầu này, cha chợt nhận ra mình đã phá vỡ sự yên bình mong manh vừa xuất hiện. Bà nhìn đi nơi khác rồi đưa tay làm dấu thánh, nhưng một lát sau có vẻ như bà đã lấy lại được sức mạnh để tiếp tục nói. Helen chăm chú lắng nghe và gật đầu. ‘Bà nói chúng ta cần phải nhớ tên ma cà rồng kia có thể thay đổi hình dạng. Hắn có thể đến với bọn ta dưới nhiều hình thức khác nhau.’

“Cha muốn biết thực sự câu nói này chính xác có ý nghĩa gì, nhưng mẹ Helen đã bắt đầu múc thức ăn ra đĩa bằng bàn tay run run. Hơi ấm của lò nấu cùng mùi vị của bánh mì và thịt tràn ngập căn nhà nhỏ bé, tất cả chúng ta đều ăn rất ngon miệng, dù trong im lặng. Thỉnh thoảng mẹ Helen vừa vỗ vỗ lên tay cha vừa lấy thêm bánh mì hoặc châm thêm trà tươi cho cha. Thức ăn tuy đơn sơ nhưng nhiều và ngon, ánh nắng chiếu vào từ cửa sổ phía trước như để trang hoàng cho bữa ăn thêm đẹp.

“Khi đã ăn xong Helen bước ra ngoài với một điếu thuốc, mẹ cô vẫy tay ra hiệu cho cha theo bà đi vòng qua bên hông nhà. Ở phía sau là một chuồng gà nhỏ với vài con gà đang bới đất xung quanh, một chuồng thỏ có hai con thỏ tai dài. Mẹ Helen bắt một con thỏ ra, đứng bên cha như trong một màn trình diễn kịch câm dễ chịu, gãi nhẹ lên cái đầu mềm mại của con vật trong lúc nó chớp mắt và khẽ vùng vẫy. Qua một trong các cánh cửa sổ, cha có thể nghe tiếng Helen đang rửa chén đĩa. Mặt trời ấm áp trên cao, xa xa bên kia mái nhà là những cánh đồng xanh mướt, âm vang tiếng vo ve và dập dờn một niềm lạc quan bất tận.

“Rồi cũng đến lúc chúng ta từ giã để trở lại trạm xe buýt, cha cất những lá thư của thầy Rossi vào cặp. Khi chúng ta bước ra ngoài, mẹ Helen dừng lại ở lối đi; có vẻ như bà không nghĩ đến việc bách bộ qua làng để tiễn Helen và cha lên xe buýt. Bằng cả hai tay, bà nắm chặt và thân tình lắc mạnh hai tay cha, nhìn thẳng vào mặt cha. ‘Bà chúc anh lên đường bình an, mong anh sẽ tìm được những gì anh mong muốn,’ Helen giải thích. Cha nhìn vào đôi mắt đen huyền của người đàn bà lớn tuổi và hết lòng cám ơn bà. Bà ôm lấy Helen, buồn bã giữ lấy và vuốt ve khuôn mặt cô trong lòng bàn tay một lúc, sau đó bà để chúng ta lên đường.

“Đến lề đường, cha quay lại nhìn bà lần nữa. Bà đứng ở cửa, một tay vịn vào khung, tựa như cuộc viếng thăm của chúng ta đã làm bà mệt mỏi. Cha đặt chiếc cặp xuống đất và rảo bước trở lại với bà, nhanh đến nỗi trong khoảnh khắc cha không kịp nhận ra mình đã hành động như vậy. Rồi, trong lúc nhớ đến thầy Rossi, cha ôm bà trong vòng tay và hôn lên đôi má mềm mại, đã hằn những nếp nhăn năm tháng. Bà đứng thấp hơn cha một cái đầu, ôm cha thật chặt, vùi mặt vào vai cha. Đột nhiên bà xoay người và chạy biến vào nhà. Cha nghĩ bà muốn được một mình với những cảm xúc riêng tư nên đã quay đi, nhưng chỉ một giây sau bà đã quay lại. Cha ngạc nhiên khi bà lại xuất hiện, nắm lấy và ép chặt vào lòng bàn tay cha một vật gì đó nhỏ và cứng.

“Khi xòe tay ra, cha thấy một chiếc nhẫn bạc có một phù hiệu nhỏ. Cha hiểu ngay đó là chiếc nhẫn của thầy Rossi và bà định nhờ cha trả lại cho ông. Khuôn mặt bà bừng sáng, đôi mắt đen huyền chợt long lanh. Cha lại cúi xuống hôn bà, nhưng lần này là một cái hôn lên miệng. Đôi môi bà ấm và dịu ngọt. Khi buông bà ra, đi như chạy trở lại chỗ chiếc cặp và Helen, cha nhìn thấy trên gương mặt người phụ nữ lớn tuổi lấp lánh một giọt lệ lẻ loi. Cha đã đọc được ở đâu đó rằng chẳng có cái gì gọi là giọt lệ lẻ loi, đó chỉ là kiểu nói hoa mỹ xa xưa đầy thi vị. Và có lẽ hiện giờ đúng là như vậy thật, vì đơn giản giọt lệ của bà đang là bạn đồng hành với nước mắt của cha.

“ Ngay khi chúng ta đã ngồi yên vị trên xe buýt, cha lấy các lá thư của thầy Rossi ra và thận trọng mở lá thư đầu tiên. Khi ghi lại lá thư ở đây, cha sẽ trân trọng ý nguyện của thầy, bảo vệ sự riêng tư của người bạn thầy bằng một biệt danh - bí danh, như ông gọi. Cha cảm thấy thật kỳ lạ khi lại được nhìn thấy nét chữ của thầy Rossi - trẻ trung hơn, ít nét bay bướm hơn - trên các trang giấy đã ngả vàng.

“ ‘Anh đọc chúng ở đây sao?’ Helen hỏi, tựa gần như sát vào vai cha, vẻ ngạc nhiên.

“ ‘Ừ, chẳng lẽ cô có thể chờ được hay sao?’

“ ‘Không,’ cô đáp.”

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Rumani: Tên tôi là Bartolomeo Rossi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Ngày 20 tháng Sáu năm 1930

Bạn thân mến,

Ngay lúc này tôi chẳng còn ai để hàn huyên tâm sự, tôi nhận ra mình đang cầm bút trong tay và đặc biệt mong có anh bên cạnh để bầu bạn - anh sẽ vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy cảnh tượng mà tôi đang thưởng thức ngay lúc này. Hôm nay tôi đang trong một trạng thái hoài nghi chính bản thân mình - anh chắc hẳn cũng sẽ như vậy nếu có thể nhìn thấy tôi đang ở đâu - trên một chuyến tàu, nhưng bản thân điều này cũng chẳng nói lên gì nhiều. Con tàu vẫn đang phì phò nhả khói tiến về Bucharest. Trời đất ơi, anh bạn, tôi như đang nghe tiếng anh trên nền tiếng còi tàu. Nhưng đây là sự thực. Tôi không định đến nơi chốn này, nhưng một điều gì đó vô cùng kỳ quái đã thúc đẩy tôi. Vài ngày trước, lúc hãy còn ở Istanbul, đang tiến hành một số công việc nghiên cứu mà tôi phải giữ bí mật, tôi đã phát hiện ra một vài manh mối khiến tôi muốn đến đây. Thực ra tôi không muốn, nói cho chính xác thì tôi đã bị làm cho khiếp đảm, thậm chí cảm thấy như bị ép buộc. Anh vốn là người rất duy lý - anh sẽ chẳng thèm quan tâm đến câu chuyện, nhưng tôi vô cùng mong muốn có được trí lực của anh trong chuyến đi này; để tìm được những gì tôi đang tìm kiếm, tôi sẽ phải huy động toàn bộ sức lực mình và còn hơn thế nữa.

Đoàn tàu đang chạy chậm lại để vào một thị trấn, một cơ hội tốt để mua bữa điểm tâm - tôi tạm ngừng một lát và sẽ quay lại với câu chuyện này sau.

Buổi chiều - Bucharest

Chắc hẳn tôi đã nghỉ trưa nếu tâm trí không đang bất an và kích động như thế này. Ở đây trời nóng kinh khủng - tôi cứ tưởng nơi đây phải là một vùng núi non mát lạnh, nhưng nếu có đúng thế thật thì tôi cũng chưa đến được đó. Bucharest là Paris thu nhỏ của phương Đông, vừa đường bệ vừa nhỏ nhắn vừa điểm nét tàn phai. Thành phố chắc hẳn đã phát triển rất nhanh vào các thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước. Phải rất lâu tôi mới tìm được một chiếc taxi, sau đó là một khách sạn, nhưng căn phòng khách sạn khá tiện nghi, tôi đã có thể tắm rửa, nghỉ ngơi, và suy nghĩ về những việc phải làm. Tôi lưỡng lự không muốn ghi lại ở đây những gì mình định làm, nhưng cuối cùng tôi đã ghi lại vì nghĩ anh sẽ rất khó mà hiểu được những đam mê của tôi. Nói một cách ngắn gọn và ấn tượng, tôi đang tiến hành một việc đại loại như là một cuộc điều tra, cuộc săn lùng của một sử gia với đối tượng là Dracula - không phải Bá tước Dracula trên sân khấu lãng mạn, mà là một Dracula có thực, bằng xương bằng thịt - Drakulya - Vlad III, một bạo chúa của thế kỷ mười lăm, từng sống tại vùng Transylvania và Wallachia và đã toàn tâm toàn ý cống hiến cuộc đời mình để ngăn không cho Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ xăm lăng lãnh thổ của mình. Khi ghé lại Istanbul gần một tuần để thăm một trung tâm lưu trữ tư liệu, nơi có một số tài liệu được người Thổ sưu tập và nói về nhân vật này, tôi đã tìm được ở đó một bộ bản đồ kỳ lạ, mà tôi tin rằng chúng là đầu mối dẫn đến vị trí hầm mộ của Dracula. Khi về nhà, tôi sẽ giải thích với anh đầy đủ hơn những gì đã đưa tôi vào cuộc săn lùng này, trong khi chờ đợi tôi chỉ biết cầu mong anh thông cảm chờ đến khi ấy. Xét cho cùng, về việc tôi lao vào cuộc truy lùng này, anh có thể đổ lỗi cho tuổi trẻ, anh bạn hiền triết già ạ.

Dù thế nào chăng nữa, rốt cuộc thời gian lưu trú của tôi tại Istanbul lại trở nên tăm tối và làm tôi khá sợ hãi, dù đối với người không trực tiếp chứng kiến thì chắc chắn điều này nghe có vẻ như chuyện điên khùng. Nhưng một khi đã bắt đầu một cuộc truy tìm, tôi không dễ gì từ bỏ, như anh biết đấy, và tôi không thể không đến đây cùng với các bản sao mà tôi đã vẽ lại từ những tấm bản đồ đó, để tìm kiếm thêm thông tin về ngôi mộ của Drakulya. Tôi sẽ giải thích cặn kẽ với anh, người ta cho rằng hắn đã được chôn cất tại một tu viện trên một hòn đảo giữa hồ Snagov, miền Tây Rumani - Wallachia, người ta gọi tên khu vực ấy như vậy. Những tấm bản đồ tôi phát hiện tại Istanbul tuy có đánh dấu rõ ràng vị trí ngôi mộ của hắn nhưng lại không cho thấy hòn đảo nào, và theo như tôi thấy thì nó không có đặc điểm nào giống như miền Tây Rumani. Dường như bao giờ cũng vậy, tôi luôn nghĩ rằng trước tiên phải kiểm tra những điều hiển nhiên đã vì đôi khi những gì bày ra trước mắt lại chính là câu trả lời đúng đắn nhất. Vì vậy, tôi đã quyết định - đến đây tôi chắc chắn anh sẽ lắc đầu ngao ngán trước điều mà anh sẽ gọi là sự bướng bỉnh điên khùng của tôi - đến hồ Snagov cùng với những tấm bản đồ để tự mình xác định là ngôi mộ kia không có ở đó. Tôi vẫn chưa biết sẽ đến đó bằng cách nào, nhưng tôi không thể hài lòng với việc truy tìm ở một nơi chốn nào khác khi chưa loại bỏ được khả năng này. Và có lẽ, rốt cuộc thì những tấm bản đồ của tôi chỉ là một trò chơi khăm cũ rích nào đó, và tôi sẽ chỉ tìm được bằng chứng đầy đủ rằng từ trước đến nay tên bạo chúa này vốn vẫn yên nghỉ tại nơi đó mà thôi.

Mồng năm tôi sẽ phải có mặt tại Hy Lạp, vì vậy tôi có rất ít thời gian quý báu dành cho toàn bộ chuyến đi này. Tôi chỉ muốn biết liệu những tấm bản đồ của mình có khớp với bất cứ chi tiết nào ở địa điểm hầm mộ. Thậm chí tôi không thể nói với anh lý do vì sao tôi cần biết rõ điều này, bạn thân mến ạ - chính tôi cũng ước gì mình cũng hiểu rõ lý do này. Tôi dự định kết thúc cuộc hành trình Rumani của mình bằng cách viếng thăm càng nhiều càng tốt khu vực Wallachia và Transylvania. Khi nghĩ tới từ Transylvania, nếu như anh có khi nào lại nghĩ tới nó, thì anh sẽ hình dung ra những gì? Phải, tôi biết - anh chẳng buồn nghĩ tới nó, thật khôn ngoan. Còn với tôi, những gì hiện ra trong tâm trí tôi là những ngọn núi với vẻ đẹp man dại, những tòa lâu đài cổ, lũ ma sói và những mụ phù thủy - một vùng đất hoang sơ kỳ diệu. Tóm lại, tôi hình dung đó là một vùng đất mà khi tiến vào tôi sẽ chẳng tin nổi mình vẫn còn trên đất châu Âu. Khi đến nơi, tôi sẽ cho anh biết đó là Âu châu hay một xứ sở thần tiên nào đó sau. Trước tiên là hồ Snagov - mai tôi sẽ lên đường tới đó.

Người bạn chân tình của anh,

Bartholomew Rossi

22 tháng Sáu

Hồ Snagov

Bạn thân mến,

Tôi vẫn chưa tìm được nơi nào để gửi lá thư đầu tiên của tôi đến anh - ý tôi là chưa tìm được chỗ nào để có thể gửi nó đi với sự tin tưởng rằng thư sẽ đến tay anh - dù vậy tôi vẫn tiếp tục ở đây, tràn trề hy vọng vì đã có thêm nhiều diễn biến mới. Tôi đã dành cả ngày hôm qua tại Bucharest để cố gắng lùng tìm những tấm bản đồ rõ ràng nhất - hiện tại tôi đã có ít nhất vài tấm bản đồ đường sá vùng Wallachia và Transylvania - và trò chuyện với những người có chút quan tâm đến câu chuyện về Vlad Ţepeş ở trường đại học. Ở đây, tôi có cảm giác dường như không ai muốn bàn tán về chủ đề này, và tôi có cảm giác khi tôi nhắc đến tên Dracula, bọn họ đều làm dấu thánh, không công khai thì cũng thầm làm thế trong lòng. Phải thừa nhận rằng sau trải nghiệm tại Istanbul, việc này khiến tôi khá căng thẳng, nhưng thôi, hiện tại tôi sẽ cứ tiếp tục tiến tới cái đã.

Dù thế nào chăng nữa, hôm qua tôi đã gặp một giáo sư trẻ thuộc khoa khảo cổ học của trường đại học, anh ta khá tử tế cho tôi biết là một trong số các bạn đồng sự của anh, một ông Georgescu nào đó, chuyên nghiên cứu về lịch sử hồ Snagov, hiện đang đào xới khai quật khu vực đó từ mùa hè này. Lẽ tất nhiên, tôi vô cùng phấn khích khi nghe tin đó và lập tức quyết định phó thác tất cả - những tấm bản đồ, các túi xách hành lý và cả bản thân mình - vào tay một tài xế, người sẽ đưa tôi đến đó ngay hôm nay; anh ta bảo hồ Snagov chỉ cách Bucharest vài giờ chạy xe. Một giờ trưa chúng tôi lên đường nên giờ tôi phải tìm nơi nào đó để ăn trưa đã - những quán ăn nhỏ ở đây đẹp một cách đặc biệt, đồ ăn cũng phảng phất nét sang trọng của người phương Đông.

Chiều tối

Bạn thân mến,

Tôi không thể không tiếp tục mối quan hệ thư từ không gửi này của chúng ta - mong rằng đến cuối cùng những lá thư này sẽ thực sự đến được tay anh - bởi hôm nay là một ngày khác thường đến nỗi tôi không thể không trò chuyện với một ai đó. Tôi rời Bucharest trên một chiếc taxi nhỏ, gọn gàng, được điều khiển bởi một người đàn ông cũng nhỏ thó gọn gàng mà tôi chỉ trao đổi được hai từ (Snagov là một trong hai từ đó). Sau khi xem lướt qua những tấm bản đồ đường sá, và sau nhiều cái vỗ vai trấn an (tất nhiên là vai tôi), chúng tôi lên đường. Chúng tôi đã chạy xe nguyên cả buổi chiều, lọc xọc vượt qua những con đường hầu hết được trải nhựa nhưng vẫn mù mịt bụi, qua một vùng phong cảnh hầu hết là đất đai nông nghiệp nhưng thỉnh thoảng xen vào những cánh rừng, để tới hồ Snagov.

Cái vẫy tay đầy kích động của người tài xế là dấu hiệu đầu tiên cho tôi biết là đã tới, theo đó tôi nhìn ra bên ngoài và chỉ thấy toàn là rừng rậm. Tuy nhiên, đó chỉ là khúc dạo đầu. Tôi hoàn toàn không biết mình mong đợi điều gì; tôi nghĩ mình đã bị tính ham tìm hiểu mọi thứ của một sử gia thôi thúc đến nỗi tôi đã thôi mong đợi một điều cụ thể. Ngay khi nhìn thấy hồ nước đó, tôi đã lập tức bật ra khỏi những ám ảnh của mình. Anh bạn ạ, đó là một nơi vô cùng xinh đẹp, thanh bình và kỳ ảo. Cứ tưởng tượng mà xem, từ con lộ, anh sẽ thấy một dòng nước chảy dài lấp lánh thấp thoáng ẩn hiện sau những tán cây dày. Ẩn mình đây đó trong những cánh rừng là những biệt thự xinh đẹp - thường anh chỉ có thể nhìn thấy một ống khói thanh nhã, hoặc một bức tường cong cong - nhiều biệt thự trong số đó có lẽ đã được xây dựng từ thế kỷ trước, hoặc xa xưa hơn nữa.

Chúng tôi đã đỗ xe gần một quán ăn nhỏ đằng sau có neo ba chiếc thuyền. Khi đến một khoảng trống trong khu rừng, từ bờ hồ anh có thể nhìn thấy hòn đảo nơi tu viện kia tọa lạc và tại đó, cuối cùng tại chính nơi đó, anh sẽ nhìn được toàn cảnh của một vùng mà chắc chắn đã chẳng hề thay đổi dù đã trải qua nhiều thế kỷ. Hòn đảo chỉ cách bờ một quãng ngắn chèo thuyền và cũng rậm rịt cây cối như trên bờ. Nhô lên khỏi đám cây cối là những mái vòm lộng lẫy theo phong cách Byzantine của giáo đường tu viện, và tiếng chuông bỗng lướt qua mặt nước ngân lên - được một tu sĩ gióng lên bằng chày vồ gỗ (sau này tôi mới biết). Tôi cảm thấy lòng bồi hồi khi nghe tiếng chuông vang vọng qua mặt hồ; đối với tôi có vẻ như đây đúng là một trong những thông điệp đến từ quá khứ, thiết tha muốn con người hiểu chúng, cho dù người ta không thể chắc chắn chúng muốn nói lên điều gì. Người tài xế và tôi, đứng đó, trong ánh nắng chiều tà phản chiếu từ mặt hồ, giống như những tên do thám của binh đội Thổ Nhĩ Kỳ đang chăm chú theo dõi cái pháo đài của một đức tin xa lạ, chứ không phải là hai gã đàn ông thời hiện đại lấm lem bụi đường đang đứng tựa vào xe ô tô.

Tôi có thể đứng ngắm nhìn và lắng nghe lâu hơn nữa mà không cảm thấy bồn chồn, nhưng tôi đã vào quán ăn vì quyết tâm phải tìm gặp được nhà khảo cổ kia trước khi trời tối. Tôi đã vận dụng hết mớ vốn liếng tiếng Latin ba rọi của mình, kể cả việc khoa chân múa tay để hỏi thuê một chiếc thuyền đi ra đảo. Vâng, vâng, có một người đàn ông đến từ Bucharest đang dùng xẻng đào xới ngoài đó, ông chủ thuyền cố loay hoay diễn đạt cho tôi hiểu như vậy - và chỉ hai mươi phút sau chúng tôi đã cập vào đảo. Tu viện nằm khá cách biệt, nhìn gần thậm chí trông nó còn đẹp hơn, với những bức tường cũ kỹ và mái vòm vút cao, trên mỗi mái vòm là một cây thánh giá trang trí công phu. Người chủ thuyền dẫn chúng tôi bước lên những bậc thang khá dốc, tôi định đi vào luôn qua cánh cửa gỗ lớn nhưng ông ta chỉ cho chúng tôi đi vòng ra phía sau.

Bước men theo những bức tường cổ xưa xinh đẹp, tôi chợt nhận ra đây là lần đầu tiên mình thực sự lần bước theo dấu chân của Dracula. Cho đến lúc đó, tôi đã lần theo dấu vết của hắn qua một mớ tài liệu rối rắm, nhưng bây giờ, tôi đang đứng trên mảnh đất, mà đôi chân hắn - mang loại giày nào nhỉ? Loại giày da, có gắn loại đinh thúc ngựa ác độc chăng? - có lẽ đã từng rảo bước. Nếu là người có thói quen làm dấu thánh, hẳn có lẽ tôi đã làm dấu thánh ngay tức khắc; trong tâm trạng đó, bất chợt tôi cảm thấy một thôi thúc mãnh liệt, muốn vỗ lên bờ vai đang khoác lớp áo len thô ráp của người chủ thuyền mà yêu cầu ông ta trở mái chèo đưa tôi trở về lại đất liền an toàn. Nhưng tôi đã không làm vậy, như anh có thể hình dung, và tôi hy vọng rốt cuộc sẽ không hối tiếc vì đã không đưa tay ra vỗ lên bờ vai đó.

Phía sau nhà thờ, giữa một khu phế tích lớn, chúng tôi thấy một người đàn ông đang cầm xẻng. Ông ta cỡ tuổi trung niên, trông có vẻ vui vẻ và khỏe mạnh, mái tóc quăn đen, áo sơ mi trắng để mở, hai cánh tay áo xắn lên đến tận cùi chỏ. Hai cậu bé làm việc bên cạnh ông ta, cẩn thận mò mẫm hai tay trong đất, thỉnh thoảng ông ta cũng bỏ xẻng xuống và làm y như hai cậu bé. Họ chăm chú tụ quanh một khu vực rất nhỏ, tựa như đã tìm được ở đó một cái gì thú vị, và chỉ ngẩng đầu nhìn lên khi người chủ thuyền lên tiếng chào hỏi.

Người đàn ông mặc áo sơ mi trắng bước đến, quan sát chúng tôi bằng đôi mắt đen sắc sảo, người chủ thuyền nói vài tiếng như là những lời giới thiệu, với sự phụ họa của tay tài xế. Tôi chìa tay ra và cố lõm bõm vài câu Rumani vừa mới học được, trước khi xổ ra một tràng tiếng Anh: “Ma numesc Bartolomeo Rossi. Nu va suparati...” Tôi đã học được câu nói hay ho này tại Bucharest từ người giữ cửa khách sạn nơi tôi tạm trú, đây là câu thường được sử dụng khi chặn người lạ lại để hỏi han này nọ. Câu này có nghĩa, đúng nghĩa đen là “Đừng nổi giận” - anh có thể nghĩ ra một câu nói nào sử dụng hàng ngày lại gợi nhắc lịch sử nhiều hơn thế không? “Anh bạn, xin đừng rút dao ra - tôi chỉ bị lạc trong khu rừng này và cần biết hướng ra mà thôi.” Tôi không biết liệu có phải do cách sử dụng câu, hoặc có thể do cách phát âm quá tệ hại của mình mà nhà khảo cổ học kia đã vừa bật cười vừa bắt chặt tay tôi.

Nhìn gần, ông là một người rắn rỏi với làn da rám nắng và những nếp chân chim quanh mắt và miệng. Ông cười để lộ hàm răng trên bị thiếu mất hai cái, phần lớn những chiếc răng còn lại đều sáng lấp lánh ánh vàng. Bàn tay ông rắn chắc một cách lạ thường, khô ráp như bàn tay một nông dân. “Bartolomeo Rossi hả,” ông trầm giọng nói, vẫn cười. “Ma numesc Velior Georgescu - Tên tôi là Velior Georgescu. Anh khỏe chứ? Tôi giúp anh được gì nào?” Trong khoảnh khắc, tôi chợt nhớ lại cuộc hành trình đi bộ của chúng ta hồi năm ngoái; người đàn ông này có thể là một trong những người dân vùng cao nguyên dày dạn phong sương mà chúng ta thường hỏi đường, chỉ khác một điều tóc ông đen thay vì hung hung đỏ.

“Anh nói được tiếng Anh sao?” tôi lúng túng buông ra một câu ngớ ngẩn.

“Chút đỉnh thôi,” Georgescu trả lời. “Đã từ lâu tôi không có cơ hội nói tiếng Anh, nhưng nó sẽ mau chóng trở lại với cái lưỡi tôi thôi.” Giọng ông trầm và lưu loát, với chữ ‘r’ được phát âm trong cổ.

“Xin lỗi ông,” tôi vội nói. “Tôi biết ông rất quan tâm đến Vlad III và rất mong được hầu chuyện với ông. Tôi là một sử gia đến từ Đại học Oxford.”

Ông gật đầu. “Tôi cũng vui khi biết mối quan tâm của anh. Anh lặn lội xa xôi như vậy chỉ để xem ngôi mộ của hắn hay sao?”

“Vâng, tôi hy vọng...”

“À, anh hy voọn, anh hy voọn,” Georgescu nói, vỗ vỗ lên vai tôi, vẻ bỗ bã. “Nhưng tôi phải kéo hy voọn của anh xuống thấp hơn một chút, anh bạn ạ.” Tim tôi như hụt một nhịp đập - có thể nào người đàn ông này cũng nghĩ Vlad không được chôn cất ở đây? Nhưng tôi quyết định chờ cơ hội tốt và lắng nghe cẩn thận trước khi nêu thêm bất kỳ câu hỏi nào khác. Ông ta quan sát tôi bằng ánh mắt giễu cợt, và lại mỉm cười. “Nào, tôi sẽ dẫn anh đi tham quan một voòn.” Ông nói với hai cậu bé phụ việc một vài câu ngắn gọn, dường như bảo chúng nghỉ tay, vì sau đó tôi thấy chúng liền chùi tay và đến ngồi nghỉ bên một gốc cây. Đặt xẻng tựa vào thành hố đang đào dang dở, ông vẫy tay ra hiệu với tôi. Đến lượt tôi cho người chủ thuyền và anh chàng tài xế biết là tôi bận chút việc, và dúi tiền vào tay người chủ thuyền. Chủ thuyền đưa tay chạm vành mũ chào rồi lỉnh ngay, còn tay tài xế thì ngồi tựa vào đống đổ nát và lấy ra một chai rượu loại bỏ túi.

“Tốt lắm, trước tiên chúng ta sẽ dạo quanh bên ngoài.” Ông quơ vòng bàn tay to tướng. “Anh biết lịch sử của hòn đảo này chứ? Chút đỉnh à? Vào thế kỷ mười bốn, ở đây có một giáo đường, tu viện được xây dựng sau đó ít lâu, nhưng cũng trong thế kỷ đó. Giáo đường đầu tiên được xây dựng bằng gỗ, và cái thứ hai thì bằng đá, nhưng cái bằng đá đã chìm xuống hồ vào năm 1453. Chuyện kỳ quái, anh có nghĩ vậy không? Dracula lên cầm quyền tại vùng Wallachia lần thứ hai vào năm 1462, và đã có những ý đồ của riêng mình. Tôi tin hắn ta thích tu viện này vì đây là một hòn đảo dễ phòng thủ - hắn ta luôn tìm những địa điểm có thể củng cố để chống lại người Thổ. Đây là một địa điểm thuận lợi, anh có nghĩ vậy không?”

Tôi gật đầu đồng ý, cố không nhìn thẳng vào ông. Tôi nhận thấy mình khó tập trung vào những gì ông nói vì tiếng Anh của người đàn ông này quá kỳ lạ, nhưng vẫn ngấm được ý tưởng cuối cùng của ông. Chỉ liếc nhìn qua chung quanh người ta cũng có thể hình dung chỉ cần vài tu sĩ là đủ để bảo vệ cứ điểm này khỏi quân xâm lược. Tôi nhận ra trong ánh mắt Velior Georgescu một sự đồng tình với nhận xét trên. “Do đó, Vlad đã xây dựng tu viện này thành một pháo đài. Hắn đã xây tường phòng thủ xung quanh, một nhà tù một phòng tra tấn, ngoài ra còn có một đường hầm thoát hiểm và một cây cầu nối liền vào bờ. Một gã lõi đời, Vlad là thế đấy. Lẽ dĩ nhiên, lâu lắm rồi cây cầu không còn nữa, tôi đã khai quật những gì còn sót lại của nó. Vị trí mà anh nhìn thấy chúng tôi đang đào xới, trước kia vốn là nhà tù. Chúng tôi đã tìm được vài bộ xương ở đó.” Ông nhoẻn miệng cười và những chiếc răng vàng lại lóe sáng dưới ánh nắng.

“Vậy thì đây là nhà thờ của Vlad?” tôi hỏi, chỉ vào một tòa nhà xinh xắn gần đó, với những mái vòm nhô cao, và đám cây cối u ám đang sột soạt quanh các bức tường.

“Không, tôi e rằng không phải vậy,” Georgescu đáp. “Tu viện đã bị người Thổ đốt cháy một phần vào năm 1462, khi Radu, em trai của Vlad, một con rối của đế chế Ottoman, đang ngồi trên ngai voàn xứ Wallachia. Và ngay sau khi Vlad được chôn cất ở đây, một cơn bão khủng khiếp đã thổi bay ngôi giáo đường của hắn xuống hồ.” Vlad được chôn cất ở đây phải không? Tôi rất muốn hỏi câu đó, nhưng đã kịp ngậm miệng lại. “Những người nông dân chắc hẳn đã nghĩ đó là sự trừng phạt của Chúa đối với những tội lỗi của hắn ta. Giáo đường được xây dựng lại vào năm 1517 - phải mất ba năm - và anh thấy ở đây là các thành quả xây dựng kia đấy. Những bức tường phía ngoài tu viện là một công trình phục chế, mới khoảng ba mươi năm.”

Chúng tôi tản bộ theo rìa giáo đường, ông đưa tay vỗ lên những công trình cổ xưa tựa như vỗ lên mông một chú ngựa yêu. Khi chúng tôi đứng đó, bất chợt một người đàn ông vòng qua góc nhà thờ và tiến về phía chúng tôi - một ông lão có dáng đi lom khom, râu tóc bạc trắng, mặc áo đen và đội chiếc mũ tròn nhỏ cũng màu đen với những tua dài buông lòng thòng xuống tận vai. Ông chống gậy bước đi, áo choàng cột lại bằng một sợi dây nhỏ, lủng lẳng ở đó là một xâu chìa khóa. Quanh cổ ông lão là sợi dây chuyền, đong đưa một cây thánh giá nhỏ rất đẹp, giống như những thánh giá tôi nhìn thấy trên đỉnh các mái vòm giáo đường.

Tôi quá kinh ngạc vì sự xuất hiện của ông lão đến độ gần như ngã lăn ra; tôi không thể tả lại tác động của sự xuất hiện đó đối với mình, chỉ biết nói rằng nó tựa như việc Georgescu đã thành công trong việc gọi hiện hình một hồn ma. Nhưng ông bạn mới quen của tôi đã bước đến, mỉm cười rồi kính cẩn cúi xuống hôn lên bàn tay xương xẩu lấp lánh chiếc nhẫn vàng của vị tu sĩ già. Có vẻ như ông lão cũng rất yêu mến Georgescu, ông đặt tay lên đầu nhà khảo cổ học một lúc lâu và mỉm cười, một nụ cười uể oải yếu ớt, khoe ra hàm răng thậm chí còn thiếu nhiều chiếc hơn cả hàm răng của Georgescu. Tôi thoáng nghe tên mình trong những lời giới thiệu và đã hết sức trịnh trọng để cúi chào vị tu sĩ, dù vậy tôi không thể buộc mình phải cúi hôn chiếc nhẫn của ông ta.

“Đây là cha tu viện trưởng,” Georgescu giới thiệu. “Ông là người cuối cùng ở đây và hiện tại chỉ có ba tu sĩ khác đang sống cùng ông tại tu viện. Ông đã ở đây từ khi còn trẻ và biết hòn đảo này rõ hơn tôi. Ông ấy chào mừng và chúc anh những điều tốt lành. Nếu anh có bất kỳ câu hỏi nào với ông,” nhà khảo cổ học nói tiếp, “ông sẽ cố gắng trả lời.” Tôi cúi chào cám ơn, và ông lão chầm chậm đi tiếp. Vài phút sau, tôi thấy ông lặng lẽ ngồi trên một gờ tường đổ nát phía sau chúng tôi, như một con quạ đang im lìm ngơi nghỉ dưới ánh nắng chiều.

“Họ sống ở đây suốt năm à?” tôi hỏi Georgescu.

“Ồ, vâng. Ngay cả vào những mùa đông khắc nghiệt nhất, họ cũng ở đây.” Ông bạn hướng dẫn viên của tôi gật đầu đáp. “Anh sẽ nghe họ cùng hát Thánh ca nếu anh đừng rời khỏi đây quá xớm.” Tôi quả quyết với ông là tôi không muốn bỏ lỡ một trải nghiệm như thế này. “Bây giờ, chúng ta hãy vào nhà thờ.” Chúng tôi đi vòng đến cửa trước, những cánh cửa gỗ đồ sộ được chạm khắc, và từ đó bước vào một thế giới mà trước giờ tôi chưa từng biết, hoàn toàn khác với những nhà nguyện Thanh giáo.

Bên trong là một bầu không khí mát lạnh, và trước khi có thể nhìn thấy được bất kỳ thứ gì trong nội thất tối âm u đó, tôi nghe thoảng mùi khói hương và cảm nhận được hơi ẩm từ những tảng đá, tựa như chúng đang thở. Khi mắt đã quen với bóng tối mờ mờ, tôi chỉ thấy những tia sáng yếu ớt phản chiếu từ những đồ vật bằng đồng và ánh nến. Ánh nắng ban ngày chỉ lờ mờ xuyên qua lớp kính dày màu sậm. Chẳng có ghế dài hoặc ghế dựa gì cả, ngoại trừ vài ghế gỗ cao đặt dọc theo một bức tường. Gần lối vào có bệ cắm nến đang cháy, chảy nhỏ giọt và bốc lên mùi sáp cháy; một số cắm vào một giá đồng hình vương miện ở phía trên đỉnh và một số được cắm vào một bình cát quanh chân bệ. “Hàng ngày, các tu sĩ đều lên đây thắp nến, thỉnh thoảng khách đến thăm cũng vậy,” Georgescu giải thích. “Những cây nến quanh trên đỉnh dành cho những người còn sống và những cây ở quanh bệ phía dưới là dành cho linh hoồng của những người chết. Chúng sẽ được để cháy cho đến hết.”

Đến chính giữa nhà thờ, ông chỉ tay lên trên, tôi nhìn thấy một khuôn mặt nổi lên lờ mờ phía trên chúng tôi, ngay đỉnh mái vòm. “Anh biết rành các giáo đường Byzantine của chúng tôi chứ?” Georgescu hỏi. “Đấng Cứu Thế luôn ở chính giữa, nhìn suốn chúng ta. Cây chúc đèn” - như một vương miện khổng lồ rủ xuống từ giữa ngực đấng Cứu Thế, choán hết khoảng không gian chính của giáo đường, nhưng nến trong đó đã cháy hết - “cũng mang ý nghĩa đặc trưng của loại giáo đường này.”

Chúng tôi tiến đến gần bệ thờ. Bất chợt, tôi cảm thấy mình như đang xâm phạm nơi này: không thấy bóng tu sĩ nào còn Georgescu thì bước sải phía trước với thái độ hoan hỉ của người chủ. Trên bệ thờ có treo những tấm vải thêu, và phía trước là một đống thảm len và thảm chùi chân với các mẫu trang trí dân dã, mà nếu không biết rõ hơn chắc hẳn tôi sẽ nghĩ chúng là những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Đỉnh bệ thờ được trang hoàng nhiều món đồ đa dạng, trong số đó có một mô hình Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá được tráng men và một tượng Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng lồng trong khung bằng vàng. Phía sau bệ thờ là một bức tường với bích họa mô tả những vị thánh có đôi mắt u buồn và các thiên thần với đôi mắt thậm chí còn sầu muộn hơn, chính giữa đó là hai cánh cửa dát vàng, rèm cửa bằng nhung màu đỏ tía, dẫn đến một nơi nào đó hoàn toàn được che kín và bí ẩn.

Trong bóng tối nhá nhem, khó khăn lắm tôi mới phân biệt được toàn bộ khung cảnh đó, nhưng vẻ đẹp ảm đạm của khung cảnh đã làm tôi xúc động. Tôi quay sang hỏi Georgescu, “Vlad làm lễ ở đây à? Ý tôi là ở cái nhà thờ trước đây ấy?”

“Ồ, hẳn rồi,” nhà khảo cổ cười khúc khích. “Hắn là một kẻ sát nhân ngoan đạo. Hắn còn xây dựng nhiều nhà thờ và tu viện khác, để chắc chắn có nhiều người cầu nguyện cho linh hồn hắn được cứu rỗi. Đây là một trong những địa điểm ưa thích của hắn, hắn cũng rất thân thít với các tu sĩ ở đây. Tôi không biết họ nghĩ thế nào về những hành động xấu xa của hắn, nhưng họ thích việc hắn ủng hộ cho tu viện. Hơn nữa, hắn còn bảo vệ họ tránh khỏi người Thổ. Nhưng các báu vật mà anh nhìn thấy ở đây đều được mang về từ các nhà thờ khác - vào cuối thế kỷ trước, khi nhà thờ bị đóng cửa bọn nông dân đã cuỗm hết mọi thứ có giá trị ở đây rồi. Anh nhìn này - đây là điều tôi muốn chỉ cho anh thấy.” Ông ngồi xổm xuống và lật các tấm thảm phía trước bệ thờ lên. Ngay trước mặt, tôi thấy một phiến đá dài hình chữ nhật, trơn nhẵn, không có hình vẽ hoặc chữ nghĩa gì cả, nhưng rõ ràng đó là dấu vết một ngôi mộ. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch.

“Mộ của Vlad?”

“Vâng, theo truyền thuyết là vậy. Vài năm trước đây, tôi và một số đồng nghiệp đã khai quật nơi này và chỉ thấy có một cái hố trống rỗng - chỉ có một ít xương thú vật.”

Tôi nín thở. “Hắn không có trong này sao?”

“Hoàn toàn không.” Hàm răng của Georgescu lại lóe sáng lấp lánh như tất cả mớ đồ vật bằng đồng và vàng chung quanh chúng tôi. “Các tài liệu ghi lại cho biết hắn đã được chôn cất ở đây, phía trước bệ thờ, và nhà thờ mới đã được xây dựng trên cùng một nền móng với nhà thờ cũ, vì vậy ngôi mộ của hắn đã không bị ảnh hưởng gì. Anh có thể hình dung chúng tôi đã thất vọng như thế nào khi không tìm thấy hắn.”

Thất vọng à? Tôi nghĩ. Tôi thì thấy cái hố trống rỗng bên dưới đáng sợ hơn là nỗi thất vọng.

“Dù sao chăng nữa, chúng tôi đã quyết định đào sâu quanh đây thêm chút nữa và ở đằng kia” - ông dẫn tôi ngược xuống gian giữa giáo đường, đến vị trí gần lối vào phía trước và lật một tấm thảm khác lên - “ở chỗ này chúng tôi đã phát hiện được một phiến đá thứ hai giống y như phiến thứ nhất.” Tôi chăm chăm nhìn xuống. Quả thực, phiến đá này cùng kích cỡ và hình dạng như phiến đá đầu tiên, cũng trơn nhẵn không có hình hoặc chữ gì cả. “Vì vậy chúng tôi cũng đã đào xới nơi này lên,” Georgescu giải thích, vỗ tay lên phiến đá.

“Và ông đã tìm thấy...?”

“Ồ, một bộ xương rất đẹp.” Ông thốt lên, vẻ hài lòng ra mặt. “Trong một quan tài vẫn còn một phần vải liệm - thật đáng kinh ngạc, sau năm thế kỷ. Tấm vải liệm màu đỏ tía vương giả với các đường thêu kim tuyến, bộ xương bên trong vẫn còn trong tình trạng tốt, trong trang phục rất đẹp, bằng gấm đỏ tía thêu kim tuyến với ống tay áo đỏ sậm. Món tuyệt vời nhất mà chúng tôi tìm được là một chiếc nhẫn nhỏ được khâu vào một trong hai cánh tay áo. Chiếc nhẫn khá giản dị, có biểu tượng của Giáo đoàn Rồng, một trong các đồng sự của tôi tin rằng nó thuộc về một bộ troang xức lớn hơn.”

Khi nghe đến đây, tim tôi như hụt nhịp, tôi hỏi, giọng như thừa nhận. “Biểu tượng à?”

“Vâng, một con rồng với móng vuốt dài và một cái đuôi cuộn lại. Những người có chức sắc trong Giáo đoàn này lúc nào cũng mang hình ảnh này đâu đó trên người họ, thường thường là một cây trâm hoặc một móc gài áo choàng. Chắc chắn ông bạn Vlad của chúng ta cũng vậy, khi đã tới tuổi trưởng thành, có lẽ nhờ cha hắn.” Georgescu mỉm cười với tôi. “Nhưng tôi có cảm giác anh đã biết việc này rồi.”

Tôi đang chống chọi với các cảm xúc trái ngược lẫn nhau, giữa tiếc nuối và khuây khỏa. “Vậy đây mới là mộ của hắn, và truyền thuyết chỉ nhầm địa điểm chính xác?”

“Không, tôi không nghĩ vậy.” Ông trải lại tấm thảm phía trên phiến đá. “Không phải tất cả các đồng sự đều đồng ý với tôi, nhưng tôi nghĩ chứng cứ có được rõ ràng cho thấy truyền thuyết không nhầm.”

Tôi không khỏi kinh ngạc nhìn ông chằm chằm. “Nhưng những trang phục vương giả và chiếc nhẫn nhỏ kia thì sao?”

Georgescu lắc đầu. “Gã này chắc có lẽ cũng là một thành viên của Giáo đoàn - một nhà quý tộc cấp cao - và không chừng ông ta đã được cho mặc những thứ quần áo đẹp nhất của Dracula trong dịp này. Có lẽ, thậm chí ông ta còn được mời tuẫn táng theo để có một cái xác lấp đầy cái hầm mộ này - ai biết được chính xác ông ta chết khi nào?”

“Ông đã chôn lại bộ xương đó chứ?” Tôi phải nêu ra câu hỏi này; phiến đá nằm sát bên chân chúng tôi.

“Ồ, không - chúng tôi đã đem nó vào viện bảo tàng lịch sử tại Bucharest, nhưng anh không thể đến đó để thăm người đàn ông này được đâu - người ở đó đã cất ông ta cùng toàn bộ số áo quần đẹp đẽ ấy vào kho rồi khóa lại. Rất đáng tiếc.” Tuy vậy, Georgescu trông không có vẻ hối tiếc gì nhiều, dường như bộ xương tuy hấp dẫn nhưng không quan trọng, ít ra so với nhân vật thực sự ông muốn truy lùng.

“Tôi không hiểu,” tôi nói, nhìn ông ta chằm chằm. “Với quá nhiều chứng cứ như vậy, nói một cách chính xác, tại sao ông không nghĩ đó là Vlad Dracula?”

“Rất đơn giản,” Georgescu vui vẻ đáp, vỗ lên tấm thảm. “Gã này còn đầu. Trong khi đầu của Dracula bị người Thổ chặt và mang về Istanbul làm chiến lợi phẩm. Tất cả các nguồn tư liệu đều thống nhất về chi tiết này. Vì vậy bây giờ tôi đang đào bới ở khu nhà tù cũ để mong tìm một ngôi mộ khác. Tôi nghĩ cái xác đã được mang đi khỏi hầm mộ phía trước bệ thờ là để đánh lừa bọn trộm mộ, hoặc cũng có thể để bảo vệ nó khỏi các cuộc xâm lăng của người Thổ sau này. Hắn đang ở đâu đây trên hòn đảo này, tên khốn đó.”

Số câu tôi muốn hỏi Georgescu nhiều đến nỗi khiến tôi gần như tê liệt, nhưng ông chỉ thản nhiên đứng vươn vai. “Anh muốn qua quán ăn ăn tối không? Tôi đói đến nỗi có thể ngốn hết cả con cừu đây này. Nhưng nếu anh muốn chúng ta vẫn có thể kịp nghe phần đầu buổi thánh lễ sắp được bắt đầu. Anh đang trọ ở đâu nhỉ?”

Tôi thú nhận là chưa nghĩ đến việc đó, và cũng cần tìm nơi trọ cho người tài xế của mình. “Tôi có nhiều vấn đề muốn thảo luận cùng ông,” tôi nói thêm.

“Tôi cũng vậy,” ông ta đồng ý. “Chúng ta sẽ trò chuyện trong bữa ăn tối.”

Tôi cần nói chuyện với người tài xế của mình, vì vậy chúng tôi quay lại khu phế tích nhà tù. Tôi bảo anh ta rằng nhà khảo cổ được tu viện cho mượn một chiếc thuyền nhỏ, ông ta có thể chèo thuyền đưa chúng tôi vào bờ và sẽ nhờ người chủ quán ăn tìm thuê hộ phòng cho chúng tôi. Georgescu thu xếp đồ đạc và cho các cậu bé phụ việc về nghỉ, chúng tôi quay trở lại nhà thờ đúng lúc cha tu viện trưởng và ba vị tu sĩ của ông ta, cũng mặc quần áo tuyền một màu đen, tiến vào nhà thờ qua các cánh cửa điện thờ. Hai trong số ba tu sĩ đã già, nhưng người còn lại dáng đi vẫn còn mạnh mẽ, bộ râu vẫn còn màu nâu. Họ chầm chậm đi vòng đến trước bệ thờ, cha tu viện trưởng đi trước dẫn đường, trong tay là một cây thánh giá và một quả cầu. Chiếc áo choàng vàng và đỏ tía phủ lên đôi bờ vai đã còng xuống vì tuổi tác, rực sáng dưới ánh nến.

Các tu sĩ cúi đầu phủ phục xuống nền đá phía trước bệ thờ - tôi để ý thấy chỉ ngay phía trước ngôi mộ trống rỗng. Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác kinh hoàng là họ không cúi lạy bệ thờ mà là mộ của Kẻ Xiên Người.

Đột nhiên một âm thanh kỳ quái vang lên; dường như âm thanh đó xuất phát từ ngay trong nhà thờ, loang ra khỏi các bức tường và mái vòm như một làn sương. Họ đang cầu nguyện. Tôi cố không nghển cổ nhìn vào chính điện phía trong khi cha tu viện trưởng bước qua cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ và mang ra một cuốn sách lớn có bìa nhiều màu, làm dấu chúc phúc trong khoảng không phía trên cuốn sách. Ông ta đặt nó lên bệ thờ. Một trong các tu sĩ trao cho ông một bình hương có gắn một sợi xích dài nhỏ; ông ta đong đưa bình hương trên cuốn sách, một làn khói thơm tỏa ra bao phủ lấy nó. Khắp chung quanh chúng tôi, phía trên và phía sau và phía dưới, dậy lên tiếng nhạc linh thiêng, âm thanh ong ong rù rì, lên bổng xuống trầm. Tôi chợt nổi da gà, nhận ra bấy giờ mình đã cận kề trái tim của đế chế Byzantine hơn nhiều so với lúc còn ở Istanbul. Tiếng nhạc xa xưa và nghi thức kèm theo hẳn đã chẳng hề thay đổi từ khi chúng được cử hành cho vị hoàng đế ở thủ đô Constantinople.

“Buổi lễ kéo dài rất lâu,” Georgescu thì thầm bên tai tôi. “Chúng ta có chuồn đi thì họ cũng không để ý đâu.” Ông ta lấy trong túi áo ra một cây nến, châm vào bấc một cây đèn trong giá đèn gần lối vào rồi cắm nó vào bình cát bên dưới.

Tại quán ăn nhỏ tí và cáu bẩn bên hồ, chúng tôi ăn ngon lành món xa lát và thịt hầm do một cô gái rụt rè ăn mặc kiểu dân quê phục vụ. Có nguyên một con gà và một chai vang đỏ loại mạnh mà Georgescu uống một cách thoải mái. Tay tài xế dường như đã đánh bạn được với vài người trong nhà bếp, vì vậy chỉ có hai người chúng tôi đơn độc trong căn phòng ốp gỗ này, nhìn ra quang cảnh đang mờ dần của hồ nước và hòn đảo.

Khi đã ăn uống no say, tôi hỏi nhà khảo cổ học về vốn liếng tiếng Anh tuyệt vời của ông. Ông bật cười dù miệng còn đầy thức ăn. “Đó là nhờ cha mẹ tôi, cầu xin linh hồn họ được an nghỉ bên Chúa,” ông trả lời. “Cha tôi là một nhà khảo cổ Scotland, một nhà nghiên cứu chuyên về thời kỳ Trung cổ, và mẹ tôi là người Scotland gốc Gypsy. Tôi lớn lên tại Fort William và làm việc với cha cho đến khi ông mất. Sau đó một số bà con của mẹ tôi đã yêu cầu bà cùng về quê họ ở Rumani. Mẹ tôi ra đời và lớn lên tại một làng ở miền Tây Scotland, nhưng khi cha tôi qua đời, bà chỉ muốn rời bỏ nơi đó. Anh biết đấy, gia đình bên cha tôi đã đối xử với bà không mấy tử tế. Vì vậy, bà đã mang tôi về đây khi tôi được mười lăm tuổi, và tôi đã sống ở đây từ lúc đó. Khi chúng tôi đến đây, tôi đã lấy họ của mẹ tôi. Để hòa nhập tốt hơn ấy mà.”

Câu chuyện đời của ông đã khiến tôi phải lặng im một lúc, ông lại nở nụ cười tươi. “Tôi biết đó là một câu chuyện kỳ lạ. Còn chuyện đời của anh như thế nào?”

Tôi kể tóm tắt với ông ta về cuộc đời và công việc nghiên cứu của mình, về việc đã sở hữu cuốn sách bí ẩn kia. Ông cau mày lắng nghe và từ tốn gật đầu khi tôi ngừng nói. “Một câu chuyện kỳ lạ, tuy vậy chẳng có gì đáng phải nghi ngờ.”

Tôi lấy cuốn sách ra khỏi túi và trao nó cho ông ta. Georgescu cẩn thận xem xét cuốn sách và lặng nhìn bức tranh khắc gỗ ở giữa một lúc lâu. “Ừ,” ông bảo tôi, vẻ đăm chiêu. “Con rồng này rất giống với những hình ảnh có liên quan tới Giáo đoàn; tôi đã thấy một con rồng tương tự trên các món đồ trang sức - chẳng hạn như chiếc nhẫn nhỏ kia. Nhưng từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cuốn sách như thế này. Anh biết xuất xứ của nó chứ?”

“Không,” tôi thừa nhận. “Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ mang nó đến - có lẽ là Luân Đôn - cho một chuyên gia xem xét.”

“Đây là một cuốn sách kỳ lạ.” Georgescu trao cuốn sách lại cho tôi. “Và bây giờ, sau khi đã nhìn thấy Snagov, anh định đến nơi nào nữa? Quay trở lại Istanbul chăng?”

“Không,” tôi trả lời, rùng mình nhưng không muốn nói với ông lý do vì sao. “Thực ra, tôi phải trở lại Hy Lạp một hai tuần để tham dự một cuộc khai quật, nhưng tôi nghĩ mình nên đến thăm Târgoviste một chút, vì đó là thủ phủ chính của Vlad. Ông đã bao giờ đến đó chưa?”

“À, vâng, lẽ dĩ nhiên,” Georgescu vét sạch bóng cái đĩa như một cậu bé đói ăn. “Đó là một địa điểm thú vị đối với bất kỳ ai săn đuổi Dracula. Nhưng thứ thực sự thú vị là tòa lâu đài của hắn kìa.”

“Lâu đài của hắn? Hắn thực sự có một tòa lâu đài sao? Ý tôi là, nó vẫn còn tồn tại hay sao?”

“Chà, bây giờ nó đã là một phế tích, nhưng là một phế tích khá hấp dẫn. Một pháo đài đổ nát. Nó cách Târgoviste vài dặm và nằm ở thượng nguồn sông Argeş, anh có thể đến đó khá dễ dàng bằng đường bộ, rồi leo bộ lên đỉnh. Dracula luôn ưa chuộng bất kỳ địa điểm nào có thể phòng thủ tốt trước quân Thổ, và đây là một vị trí yêu thích của hắn.” Ông lục tìm trong túi, lấy ra một ống điếu nhỏ bằng đất sét, và nhồi thứ thuốc lá thơm ngát vào. Tôi mồi lửa cho ông. “Cám ơn, anh bạn. Tôi bảo này - tôi sẽ đi cùng anh. Dù chỉ có thể ở lại một vài ngày, nhưng tôi có thể giúp anh tìm ra pháo đài đó. Nếu anh có một người hướng dẫn thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tôi chưa từng có thời gian thong thả ở pháo đài này, nên giờ tôi muốn thăm lại nó.”

Tôi thành thật cám ơn ông; phải thừa nhận là tôi cảm thấy không yên tâm khi nghĩ đến việc đâm đầu vào giữa lòng đất nước Rumani mà không có người thông dịch. Chúng tôi đồng ý khởi hành vào ngày hôm sau, nếu người tài xế chịu đưa chúng tôi đến tận Târgoviste. Georgescu biết một làng gần sông Argeş, nơi chúng tôi có thể ở lại với chỉ vài bảng Anh; đó không phải là ngôi làng gần pháo đài nhất, nhưng dường như Georgescu không thích đến ngôi làng gần nhất nữa vì có lần ông gần như bị xua đuổi ra khỏi đó. Chúng tôi chia tay, thân mật chúc nhau ngủ ngon, và bây giờ, bạn thân mến, tôi phải tắt đèn đi ngủ để chuẩn bị cho chuyến phiêu lưu kế tiếp mà tôi sẽ kể lại với anh sau.

Gửi đến anh lời chào thân mến nhất

Bartholomew
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


Bạn thân mến,

Hôm nay, sau khi đưa chúng tôi ngược lên hướng Bắc đến tận Târgoviste, người tài xế đã quay về với gia đình anh ta ở Bucharest, còn chúng tôi thì nghỉ lại một quán trọ cũ kỹ. Georgescu đúng là một người bạn đồng hành tuyệt vời; dọc đường ông đã làm tôi thích thú bằng cách kể tôi nghe lịch sử của miền quê mà chúng tôi đi ngang qua. Trong ngày hôm đó tôi đã học hỏi được nhiều vì kiến thức của ông rất rộng, bao trùm cả những lĩnh vực như kiến trúc và những loại thực vật của từng địa phương.

Târgoviste là một thành phố xinh đẹp, vẫn đậm dấu ấn thời Trung cổ và có hơn một quán trọ tử tế nơi khách lữ hành có thể rửa mặt bằng nước sạch. Bây giờ chúng tôi đang ở giữa lòngWallachia, một vùng bán sơn địa nằm kẹp giữa những rặng núi và vùng đồng bằng. Vlad Dracula cai trị vùng Wallachia nhiều lần trong hai thập niên 1450 và 1460; Târgoviste là thủ phủ của hắn. Trưa hôm đó, khi chúng tôi tản bộ quanh các phế tích quan trọng nhất còn sót lại trong cung điện, Georgescu chỉ cho tôi thấy những căn phòng khác nhau và mô tả chức năng có thể của chúng trong quá khứ. Dracula không ra đời ở đây mà là trong vùng Transylvania, tại một thị trấn có tên gọi là Sighişoara. Tôi không có đủ thời gian để đến tham quan nơi đó, nhưng Georgescu đã đến đó nhiều lần, ông cho tôi biết căn nhà nơi cha Dracula từng sinh sống - nơi Vlad ra đời - vẫn còn đứng vững.

Đáng chú ý nhất trong số các quang cảnh đáng chú ý mà chúng tôi nhìn thấy ở đây hôm nay, khi rảo quanh những con đường cũ kỹ và các phế tích, là những tháp canh của Dracula, hay đúng ra là những công trình phục chế khá xinh xắn của chúng được thực hiện vào thế kỷ mười chín. Georgescu, nhà khảo cổ học tài ba, hếch cái mũi lai hai dòng máu Scotland và Rumani, trỏ vào các công trình phục chế, giải thích là trong trường hợp này, những lỗ châu mai quanh đỉnh tháp đã được phục chế không đúng hoàn toàn; nhưng anh còn mong đợi được điều gì hơn nữa, ông hỏi tôi với giọng châm biếm, khi các sử gia bắt đầu sử dụng trí tưởng tượng của họ? Nhưng dù việc phục chế có hoàn toàn chính xác hay không thì những gì Georgescu kể với tôi về tòa tháp đó cũng làm cho tôi phải rùng mình. Tòa tháp đã được Vlad Dracula sử dụng không chỉ như một cứ điểm để canh phòng những cuộc xâm nhập thường xuyên của quân Thổ vào khu vực, mà còn như một địa điểm thuận lợi giúp hắn dễ dàng quan sát những cuộc hành hình đóng cọc xuyên người được thực hiện ở sân bên dưới.

Chúng tôi ăn tối tại một quán rượu nhỏ gần trung tâm thị trấn. Từ đó, chúng tôi có thể nhìn thấy các bức tường phía ngoài của cung điện đổ nát, lúc đang dùng bánh mì với món thịt hầm, Georgescu cho tôi biết Târgoviste là địa điểm thích hợp nhất, từ đó có thể di chuyển dễ dàng đến pháo đài nằm sâu trong vùng rừng núi của Dracula. “Khi chiếm lại ngai vàng xứ Wallachia lần thứ hai vào năm 1456,” nhà khảo cổ học giải thích thêm, “hắn đã quyết định xây dựng một lâu đài phía trên thượng nguồn sông Argeş, nơi hắn có thể tránh được những cuộc xâm lấn từ vùng đồng bằng. Các rặng núi giữa Târgoviste và Transylvania - và những khu vực hoang vu xứ Transylvania - bao giờ cũng là chốn thoát thân của người dân xứ Wallachia.”

Ông bẻ một miếng bánh mì, và dùng nó vét sạch đĩa thịt hầm, mỉm cười nói tiếp. “Dracula biết rõ ở đó có vài pháo đài đổ nát, được xây dựng ít nhất từ thế kỷ mười một, phía trên thượng nguồn dòng sông. Hắn quyết định xây dựng lại một trong số các lâu đài đó, Lâu đài Argeş cổ. Hắn cần lao động rẻ tiền - chẳng phải mấu chốt của những việc như thế này vẫn luôn là nguồn nhân lực sao? Vì vậy, hắn đã giở trò giả nhân giả nghĩa thường lệ của mình, mời tất cả các boyar - tức địa chủ trong vùng, anh biết đấy - đến tham dự một buổi lễ Phục sinh nhỏ. Bọn họ đã đến trong những bộ cánh đẹp nhất, tập trung ở cái sân lớn kia, ngay tại đây, tại Târgoviste, hắn đã cho bọn họ ăn uống thật no say, sau đó lạnh lùng giết hết những người mà hắn cho là vô dụng, và bắt những người còn lại - kể cả vợ con họ - lội bộ năm mươi cây số lên núi để xây dựng lại Lâu đài Argeş.”

Georgescu đưa mắt nhìn quanh bàn ăn, dường như để tìm thêm một miếng bánh mì khác. “Chậc, nhưng thực ra sự việc phức tạp hơn nhiều - lịch sử Rumani bao giờ cũng vậy. Trước đó nhiều năm, người anh lớn của Dracula, Mircea, đã bị các đối thủ chính trị của gia đình giết chết tại Târgoviste. Khi lên cầm quyền, Dracula ra lệnh quật mồ, đưa quan tài của anh mình lên và phát hiện người anh xấu số của mình đã bị chôn sống. Đó là lúc hắn gửi lời mời tham dự lễ Phục sinh, kết quả là đã trả thù được cho anh mình, cũng như có được nguồn lao động rẻ tiền để xây dựng tòa lâu đài trong vùng núi non. Hắn cho xây lò nung gạch gần pháo đài cũ, những người sống sót sau chuyến hành trình đều bị buộc phải làm việc ngày đêm, vận chuyển gạch và xây tường và tháp. Những bài hát xa xưa thuộc khu vực này kể rằng những thứ quần áo đẹp đẽ của các địa chủ đã rách tả tơi trước khi công trình hoàn thành.” Georgescu đã vét sạch đĩa thức ăn. “Tôi nhận thấy ngoài việc là một kẻ ác độc, Dracula còn là một người thực tế.”

Vì vậy, anh bạn ạ, ngày mai chúng tôi sẽ đi theo con đường mòn mà những nhà quý tộc bất hạnh từng phải đau khổ cuốc bộ qua, nhưng chúng tôi sẽ đi bằng xe ngựa.

Thật kỳ lạ khi nhìn thấy những nông dân mặc trang phục dân tộc họ giữa những thứ trang phục hiện đại hơn của dân thành thị. Cánh đàn ông thì sơ mi trắng với áo vest màu sậm, mang dép da to có dây buộc lên đến đầu gối, giống như những người chăn cừu La Mã thời xưa đột ngột sống lại. Phụ nữ, phần đông cũng có nước da sậm màu như cánh đàn ông và thường khá đẹp, mặc váy dày và áo cánh, dưới một chiếc áo khoác bó sát, thứ trang phục nào cũng thêu họa tiết sặc sỡ. Có vẻ như họ là những con người sống động, luôn cười to và sang sảng bàn luận công việc làm ăn mua bán ngay giữa chợ, nơi tôi đã kịp lướt qua sáng hôm qua, lúc mới đến.

Ở đây, tôi cũng không có cơ hội để gửi thư qua đường bưu điện, vì vậy bây giờ tôi sẽ phải nhét kỹ nó vào túi xách thôi.

Người bạn chân thành của anh,

Bartholomew

Bạn thân mến.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được một ngôi làng ven sông Argeş sau một hành trình vất vả dài cả ngày trời vượt qua những ngọn núi dốc đứng như huyền thoại trong chiếc xe ngựa của một nông dân mà tôi đã trả không ít tiền thuê. Kết quả là hôm nay dù trong lòng rất phấn chấn tôi vẫn thấy ê ẩm tận xương cốt. Đối với tôi, ngôi làng này quả là kỳ quan, một cái gì đó như trong truyện cổ Grimm chứ không phải là cuộc sống thực, tôi ước gì anh có thể đến đây, dù chỉ một giờ thôi, để cảm nhận khoảng cách bao la giữa nó với cả thế giới Tây Âu. Những ngôi nhà nhỏ bé, một số trông nghèo nàn và tồi tàn nhưng phần lớn khá vui mắt, những mái hiên thấp lè tè và trên đỉnh những ống khói to tướng là những tổ chim lớn, nơi trú ngụ của lũ cò vào mùa hè.

Trưa nay, khi cùng với Georgescu dạo quanh làng, tôi phát hiện quảng trường giữa làng là nơi tụ tập của dân làng, ở giữa có một giếng nước công cộng và một máng ăn lớn dùng để vỗ béo lũ gia súc hai ngày một lần trước khi đưa chúng ra thành phố. Dưới một thân cây xiêu vẹo là quán rượu, một chốn náo nhiệt nơi tôi đã mua không biết bao nhiêu lượt thứ rượu mạnh cay xè để chiêu đãi dân nhậu địa phương - anh hãy tưởng tượng đến thứ rượu này khi ngồi ở quán Chó Sói Vàng với thứ bia đen nhạt nhẽo kia! Trong đám dân nhậu, chỉ có một hai người chúng tôi thực sự có thể chuyện trò được chút đỉnh.

Trưa nay, khi chúng tôi mới vào làng, một vài người trong số những người đàn ông này còn nhớ mặt và chuyến viếng thăm sáu năm về trước của Georgescu, họ chào mừng bằng những cái vỗ thùm thụp lên lưng ông ta, trong khi những người khác lại có vẻ như tránh mặt. Georgescu cho biết chuyến đi lên pháo đài phải mất một ngày, cả đi lẫn về, nhưng không có người nào muốn đưa chúng tôi đến đó. Họ xầm xì về lũ chó sói, gấu và lẽ dĩ nhiên cả lũ ma cà rồng - pricolici, theo ngôn ngữ địa phương. Tôi đang dần thành thạo một vài từ tiếng Rumani, và toàn bộ mớ vốn liếng tiếng Pháp, Ý và Latin của tôi đều rất có ích khi nỗ lực giao tiếp với họ. Chiều hôm nay, khi hỏi thăm mấy ông lão đầu tóc bạc trắng đang khề khà bên ly rượu, gần như cả làng đều quay sang nhìn chúng tôi chòng chọc, chẳng mấy giữ kẽ - các bà nội trợ, những anh chàng nông dân, đám trẻ con lóc nhóc đi chân trần, và các nàng thiếu nữ - nàng nào cũng có cặp mắt huyền đẹp tuyệt trần. Tôi bị vây quanh bởi đám dân làng vờ như đi lấy nước hoặc quét các bậc cấp trước nhà hoặc hỏi han chủ quán rượu chuyện này chuyện nọ, có lúc họ vây quanh tôi đông đến nỗi tôi phải bật cười, và điều này lại khiến tất cả mọi người trân trối nhìn tôi hơn.

Ngày mai tôi sẽ viết nhiều hơn. Thật là thoải mái khi tâm sự cùng anh cả giờ đồng hồ bằng chính ngôn ngữ của tôi - của chúng ta!

Người bạn chân thành của anh,

Rossi

Bạn thân mến,

Tôi đã cảm thấy một nỗi kính sợ không thể nào xóa nhòa khi đến được rồi trở về từ pháo đài của Vlad. Giờ thì tôi đã biết lý do vì sao mình lại muốn nhìn thấy nơi này đến thế: nó khiến nhân vật đáng sợ đã chết mà tôi vẫn truy tìm - hoặc sẽ sớm truy tìm, ở đâu đó, khi nào đó, nếu mấy tấm bản đồ của tôi giúp được gì đó - có thực hơn một chút trong cuộc sống. Tôi sẽ cố gắng tả lại với anh chuyến đi của chúng tôi, bởi muốn anh có thể hình dung ra khung cảnh đó đồng thời cũng để ghi chép lại cho chính mình.

Chúng tôi lên đường lúc trời vừa hừng sáng trong chiếc xe ngựa của một nông dân trẻ người địa phương, anh ta là con trai của một khách quen của quán rượu, có vẻ có của ăn của để. Hình như người cha đã ra lệnh cho anh ta đưa chúng tôi đi nên xem ra anh ta chẳng mấy thích thú. Trong ánh rạng đông tại quảng trường làng, khi chúng tôi vừa trèo lên xe, anh ta đã vài lần chỉ tay về phía những ngọn núi, vừa lắc đầu vừa nói, “Poenari? Poenari?” Rốt cuộc, dường như rốt cuộc anh ta cũng buộc lòng phải chấp nhận công việc được giao phó, giục dây cương hai chú ngựa, hai cỗ máy màu nâu to lớn được giải phóng khỏi việc đồng áng trong một ngày.

Chàng thanh niên là người có dáng vẻ trông khá dữ dằn, cao lớn, hai vai bành ra dưới lớp áo choàng và áo vest len, khi đội mũ anh ta cao hơn chúng tôi hai cái đầu. Bộ dạng này có vẻ khá khôi hài so với thái độ nhút nhát của anh ta đối với chuyến đi, tuy vậy, có lẽ tôi chẳng nên cười nhạo nỗi sợ hãi của những người nông dân này, nhất là sau những gì đã chứng kiến tại Istanbul (như đã nói, khi nào gặp tôi sẽ đích thân kể cho anh nghe chuyện này). Georgescu cố gắng động viên tinh thần chàng nông dân trẻ trong suốt cuộc hành trình vào rừng sâu, nhưng anh chàng khốn khổ này cứ cầm dây cương, lặng im trong tuyệt vọng (tôi nghĩ vậy), chẳng khác gì một tử tù đang bị dẫn đến pháp trường. Thỉnh thoảng anh ta luồn tay vào bên trong áo sơ mi, tựa như đang mang trong đó một thứ bùa hộ mạng nào đó - tôi đoán vậy khi nhìn thấy sợi dây da quanh cổ anh ta và cố cưỡng lại ý định muốn nhìn xem đó là vật gì. Tôi cảm thấy thương hại anh chàng, những gì mà chúng tôi đưa đẩy anh ta vào đều ngược lại với mọi cấm kỵ trong nền văn hóa anh ta, nhất định tôi sẽ thưởng thêm tiền cho anh ta khi chuyến đi kết thúc.

Chúng tôi dự định ở lại qua đêm để có đủ thời gian xem xét mọi thứ và cố gắng hỏi thăm bất kỳ người nông dân nào sống gần khu vực đó mà chúng tôi có thể gặp, vì vậy cha của chàng thanh niên đã cung cấp mền và tấm trải, người mẹ thì lo một số bánh mì, pho mát và táo, tất cả được cột lại thành một bó để phía sau xe. Khi tiến vào rừng, tôi bất chợt cảm thấy rùng mình, rõ ràng chẳng vì lý do gì, chỉ là bản năng. Tôi còn nhớ nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết của Bram Stoker cũng lên đường vào những cánh rừng vùng Transylvania bằng xe ngựa tuyến - dù sao chăng nữa đó cũng là phiên bản hư cấu của những cánh rừng này - và chợt ao ước phải chi mình khởi hành vào lúc chiều tối để có thể thoáng nhìn thấy những đốm lửa bí ẩn trong rừng sâu và nghe được tiếng sói tru. Thật đáng tiếc, tôi nghĩ, khi Georgescu lại chưa từng đọc cuốn sách đó, nhất định tôi sẽ gửi cho ông ta một cuốn khi trở về Anh, nếu có bao giờ tôi trở lại cái chốn buồn chán ấy. Nhưng rồi tôi chợt nhớ ra cuộc chạm trán của mình tại Istanbul và tỉnh táo lại.

Chúng tôi chậm chạp vượt qua cánh rừng vì con đường bị lún đầy vết bánh xe và ổ gà, và hầu như bắt đầu dốc đứng. Những cánh rừng này rất sâu, ngay cả vào giờ trưa nóng nhất thì trong rừng vẫn chỉ sáng lờ mờ, cùng với cái mát lạnh kỳ dị của nội thất một giáo đường. Dong xe xuyên qua những cánh rừng này, người ta hầu như bị bao phủ giữa đám cây cối và một sự tĩnh lặng nặng nề; phía trước chiếc xe ngựa kéo này hàng dặm không thấy có gì, ngoại trừ những thân cây và bụi rậm nối tiếp nhau bất tận, dày đặc những gốc vân sam xen lẫn giữa nhiều cây gỗ cứng khác. Nhiều cây cao ngất ngưởng, tán lá sum suê của chúng như che mất cả bầu trời. Cũng giống như đi ngang những cây cột của một thánh đường bao la, nhưng là một thánh đường tăm tối, một thánh đường đầy yêu ma, nơi mà người ta thường nghĩ đã thoáng thấy bức tượng Madonna Đen(1) hoặc các thánh tử đạo trong mọi ngóc ngách. Tôi nhận ra có ít nhất một chục loại cây, trong đó có những cây hạt dẻ cao vút và một loại sồi tôi chưa bao giờ nhìn thấy.

Khi mặt đất bằng phẳng trở lại, chúng tôi tiến vào giữa một khoảnh rừng toàn những thân cây màu trắng bạc, một loại gần như cây sồi mà người ta vẫn tình cờ gặp - dù rất hiếm - trong những khu rừng rậm rạp thuộc các thái ấp ở nước Anh. Chắc chắn anh đã nhìn thấy loại cây này rồi. Có khi khu rừng này trước đây còn là sảnh đường lễ cưới cho Robin Hood rồi cũng nên, với những thân cây kềnh càng đồ sộ làm cột chống cho chiếc mái làm bằng hàng triệu chiếc lá xanh nhỏ li ti, những lớp lá năm trước rơi đầy trên mặt đất làm thành một tấm thảm màu nâu nhạt phía dưới bánh xe chúng tôi. Anh chàng lái xe có vẻ như không có chút cảm hứng nào ngắm nhìn vẻ đẹp này - có lẽ khi phải sống trọn đời giữa những khung cảnh như thế này, người ta sẽ không còn cảm nhận đúng cái đẹp của thế giới mà họ đang sống. Georgescu bận rộn với một số ghi chú về công việc ông đang thực hiện tại Snagov, vì vậy tôi không có ai để chia sẻ, dù chỉ một lời, về vẻ đẹp xung quanh.

Sau khi rong ruổi trên xe gần nửa ngày, chúng tôi vào một cánh đồng trống, chỉ có hai màu: xanh và vàng dưới ánh nắng mặt trời. Chúng tôi đã lên rất cao so với ngôi làng, và từ đây có thể nhìn ra một khung cảnh cây cối rậm rạp, từ rìa cánh đồng đổ dốc thẳng đứng xuống phía dưới, bước hụt chân ở đó sẽ là một cú rơi thẳng đứng khủng khiếp. Từ đây rừng cây lại lao xuống một vực sâu và tôi lại nhìn thấy dòng sông Argeş, như một dòng bạc lấp lánh phía dưới. Phía bên kia bờ sông là những triền dốc bạt ngàn cây cối, trông có vẻ như không cách nào leo lên được. Đó là lãnh địa của lũ đại bàng, không phải dành cho con người, tôi chợt cảm thấy kinh sợ khi nghĩ đến nhiều cuộc đụng độ đã xảy ra ở đây giữa người Thổ và người Thiên Chúa giáo. Tôi nghĩ, với bất kỳ đế quốc nào, dù táo tợn đến đâu, chuyện nỗ lực xâm nhập vào vùng đất này cũng là việc cực kỳ điên rồ. Tôi đã hiểu lý do vì sao Vlad Dracula lại chọn khu vực này làm cứ địa: hầu như chẳng cần đến một pháo đài, nơi này vốn đã là một nơi bất khả xâm phạm.

Anh chàng đánh xe ngựa nhảy xuống và mở bao thức ăn ra, chúng tôi ăn bữa trưa ngay trên bãi cỏ lác đác những gốc tổng quán sủi và sồi. Sau đó, anh ta nằm dài ra bên dưới một gốc cây, đắp mũ che mặt lại. Georgescu cũng nằm thẳng dưới một gốc cây khác, tựa như đó là một việc làm tự nhiên, họ ngủ khoảng một giờ trong lúc tôi thơ thẩn dạo quanh bãi cỏ. Không gian hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có tiếng gió rền rĩ trong những khu rừng bất tận. Trên tất cả là bầu trời cao vút và sáng rực một màu xanh. Tản bộ qua phía bên kia bãi cỏ, tôi nhìn thấy một khoảng rừng thưa tương tự, khá xa phía dưới, ở đó chỉ có một người chăn cừu mặc quần áo trắng và đội một chiếc mũ rộng vành màu nâu nhạt. Bầy cừu trôi quanh anh ta như những đám mây, tôi nghĩ có thể anh ta đã đứng ở đó, trong tư thế tựa vào cây gậy cũng như vậy từ thời Trajan(2). Tôi cảm thấy một sự bình yên tuyệt vời bỗng bao trùm lên mình. Những tưởng tượng quái đản về chuyến đi đã dần mờ nhạt trong tâm trí, tôi nghĩ mình có thể đứng đó, trong đồng cỏ thơm ngát này mãi mãi, như người chăn cừu kia.

Vào buổi chiều, con đường càng lúc càng trở nên dốc, và cuối cùng dẫn vào một ngôi làng mà Georgescu cho biết là làng gần với pháo đài nhất; tại đây, chúng tôi ngồi nghỉ một lát ở quán rượu trong làng, cùng những ly rượu mạnh mà người ta gọi là pălincă. Người đánh xe nói rõ ràng là anh ta sẽ ở lại làng cùng với hai chú ngựa trong lúc chúng tôi leo bộ lên pháo đài; không có chuyện anh ta cùng leo lên đó, cũng như chẳng có chuyện qua đêm giữa đống phế tích đó cùng chúng tôi. Khi chúng tôi tỏ ý thuyết phục, anh ta gầm lên “Pentru nimica ỵn lime,” rồi đưa tay lên sợi dây da quanh cổ. Georgescu cho tôi biết câu đó nghĩa là “Tuyệt đối không.” Đối với chuyện này, anh chàng tỏ ra kiên quyết đến nỗi rốt cuộc Georgescu phải tặc lưỡi nói rằng quãng đường phải cuốc bộ cũng vừa phải và đằng nào đến đoạn cuối chúng tôi cũng phải cuốc bộ. Tôi hơi băn khoăn tự hỏi vì sao Georgescu lại muốn nghỉ qua đêm ngoài trời thay vì quay trở lại làng, và thật lòng thì dù không nói ra nhưng tôi không hoàn toàn thích thú với ý tưởng phải ngủ qua đêm trên đó.

Cuối cùng chúng tôi đành để chàng trai ở lại với ly rượu mạnh và bầy ngựa bên máng nước rồi tiếp tục lên đường với đồ ăn và chăn mền trên lưng. Khi bước dọc con đường làng chính, tôi lại nhớ đến câu chuyện các địa chủ ở Târgoviste, hình dung lại cảnh họ đang lê lết leo lên cái pháo đài đổ nát đầu tiên, và sau đó lại nghĩ đến những gì mình đã chứng kiến - hoặc tin rằng mình đã chứng kiến - tại Istanbul, và một lần nữa cảm thấy day dứt một cảm giác khó chịu.

Chẳng bao lâu, con đường đã hẹp lại thành một đường mòn chỉ vừa cho một xe ngựa nhỏ, rồi tiếp theo là một lối mòn nhỏ băng qua khu rừng, gần như dựng đứng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi chỉ phải leo đoạn dốc đứng sau cùng, và đã dễ dàng vượt qua. Đột nhiên chúng tôi đã ở trên một gờ đá lộng gió, một chiếc xương sống đá sắc cạnh nhô vút lên trên cánh rừng. Ngay trên đỉnh chiếc xương sống này, bám chặt trên đốt sau cùng cao hơn hẳn các đốt khác là hai ngọn tháp và một cụm những bức tường đổ nát, đó là tất cả những gì còn lại của Lâu đài Dracula. Quang cảnh thật ngoạn mục, dòng sông Argeş lấp lánh trong vực sâu bên dưới và rải rác đây đó những làng mạc trên những dốc đá dọc dòng sông. Xa về phía Nam là những ngọn đồi thấp, Georgescu nói đó là những cánh đồng của vùng Wallachia, và về hướng Bắc nhô cao lên những đỉnh núi, một số trắng xóa tuyết phủ. Chúng tôi đã đến nơi loài đại bàng ngự trị.

Georgescu đi trước, trèo qua những tảng đá ngổn ngang và cuối cùng chúng tôi đã đứng giữa đống phế tích kia. Tôi nhận ra ngay đây là một pháo đài nhỏ từ lâu đã bị bỏ hoang cho trời đất, đủ mọi loại hoa dại, địa y, rong rêu, nấm mốc và đám cây nảy mầm từ hạt giống gió mang đến đã định cư bên trong tự thuở nào. Hai ngọn tháp còn lại vẫn đứng như hai bóng đen xương xẩu trên nền trời. Georgescu giải thích thoạR tiên ở đây có năm ngọn tháp, từ các ngọn tháp đó bọn lính thuộc hạ của Dracula có thể canh phòng những cuộc xâm nhập của người Thổ. Khoảnh sân chúng tôi đang đứng từng có một giếng nước sâu, đề phòng trường hợp bị vây hãm, và cũng - theo truyền thuyết - là một lối đi bí mật dẫn đến một cái hang xa bên dưới, trên bờ sông Argeş. Qua lối đi bí mật này, Dracula đã thoát khỏi tay người Thổ năm 1462, sau năm năm sử dụng không liên tục pháo đài này. Hình như hắn đã không bao giờ quay Rrở lại nơi này. Georgescu tin rằng mình đã xác định được căn nhà nguyện của lâu đài ở một đầu sân, ở đó chúng tôi nhô đầu nhìn vào một khung vòm đổ nát. Chim chóc bay lượn vào ra các vách tường ngọn tháp, rắn rết và các loài Rhú nhỏ chạy sột soạt và biến mất trước mắt chúng tôi, tôi có cảm giác chẳng bao lâu nữa thiên nhiên sẽ chiếm hết những gì còn lại của cơ ngơi này.

Vào lúc bài học khảo cổ của chúng tôi kết thúc, mặt trời đã lơ lửng bên trên những ngọn đồi phía Tây, quanh chúng tôi bóng các tảng đá, cây cối và ngọn tháp đã đổ dài. “Chúng ta có thể quay trở lại ngôi làng vừa rồi,” Georgescu đăm chiêu nói. “Nhưng rồi sáng mai sẽ lại phải leo lên nếu muốn xem xét lại nơi này. Tốt hơn chúng ta nên cắm trại ở đây, anh thấy thế nào?”

Ngay lúc đó tôi cảm thấy tốt hơn là không nên, nhưng Georgescu trông có vẻ quá Rhản nhiên, quá khoa học, rạng rỡ nhìn tôi với cuốn sổ ghi chép cầm trong tay, tôi không đành thốt lên tiếng không. Ông bắt đầu thu nhặt các cành khô quanh đó, tôi giúp một tay, và chẳng bao lâu chúng tôi đã có một đống lửa cháy tí tách trên phiến đá đã được cẩn thận gạt bỏ các lớp rong rêu trong khoảnh sân xưa cũ kia. Georgescu có vẻ như rất mê đống lửa, hết thổi phù phù vào ngọn lửa lại tới chỉnh các cành củi cho ngay ngắn, dựng một cái bếp nguyên thủy để đặt cái nồi mà ông lấy trong ba lô ra. Chẳng bao lâu, ông đã xong món thịR hầm và vừa cắt bánh mì vừa mỉm cười nhìn ngọn lửa, lúc ấy tôi mới nhớ ra ông không chỉ là người Scotland, mà còn là dân Gypsy nữa.

Mặt trời lặn trước khi bữa ăn tối sẵn sàng, và khi nó khuất hẳn sau dãy núi, khu phế tích cũng chìm vào bóng tối, những ngọn tháp ảm đạm nổi lên trên nền ánh chiều hôm tranh tối tranh sáng. Con gì đó - lũ cú? hoặc dơi? - vỗ cánh bay vào bay ra qua các lỗ châu mai trống rỗng, từ nơi đó, ngày xưa những mũi tên đã lao về phía đám quân Thổ. Tôi lấy chăn ra và trải sát gần đống lửa, nhưng vẫn giữ khoảng cách an toàn. Georgescu đã dọn ra một bữa ăn cực kỳ hấp dẫn và lại kể về lịch sử của nơi này trong lúc chúng tôi ăn uống. “Một trong những câu chuyện buồn nhất về huyền thoại Dracula xuất phát từ chốn này. Anh đã nghe nói về người vợ đầu tiên của Dracula rồi chứ?”

Tôi lắc đầu.

“Những người nông dân sống quanh đây kể một câu chuyện về bà ta, mà tôi nghĩ có lẽ là có thực. Chúng ta đã biết vào mùa thu năm 1462, Dracula bị người Thổ đuổi ra khỏi pháo đài này, sau đó hắn cũng không quay trở lại chốn này khi trở lại nắm quyền cai trị vào năm 1476, ngay trước khi bị giết. Các bài dân ca từ các làng mạc ở đây cho thấy vào đêm mà quân Thổ chiếm được vách đá đối diện đằng kia” - ông chỉ tay vào cánh rừng đen như nhung - “bọn chúng đã đóng quân tại pháo đài cũ của Poenari, và cố triệt hạ tòa lâu đài của Dracula bằng cách bắn đại bác qua sông. Bọn chúng không thành công, vì vậy sáng hôm sau, viên tướng chỉ huy đã ra lệnh tổng tiến công chiếm lâu đài.”

Georgescu ngừng kể, khơi cho ngọn lửa sáng hơn; khi ánh sáng nhảy múa trên gương mặt ngăm đen và những chiếc răng vàng, những lọn tóc đen của ông bỗng Rrông giống như những cái sừng. “Trong đêm, một nô lệ trong doanh trại quân Thổ, vốn là bà con của Dracula, đã lén bắn một mũi tên vào một khoảng trống của ngọn tháp trong lâu đài, nơi anh ta biết đó là phòng riêng của Dracula. Gắn trên mũi tên là một lá thư cảnh báo Dracula nên trốn thoát khỏi lâu đài trước khi hắn và gia đình bị bắt làm tù binh. Người nô lệ kia có thể đã nhìn thấy gương mặt người vợ của Dracula đang đọc lá thư dưới ánh nến. Trong các bài dân ca cổ, những người nông dân kể rằng vợ của Dracula đã bảo với chồng là bà thà để cá dưới dòng sông Argeş ăn thịt chứ không làm nô lệ cho quân Thổ. Anh biết đấy, người Thổ chẳng tử tế gì với tù binh của họ.” Sau đĩa thịR hầm, Georgescu cười với tôi một nụ cười bí hiểm. “Sau đó bà ta chạy lên các bậc cấp ngọn Rháp - có lẽ là ngọn tháp đằng kia - và gieo mình xuống. Lẽ dĩ nhiên Dracula đã trốn thoát qua lối đi bí mật.” Ông thản nhiên gật gù. “Đoạn này của dòng sông Argeş còn gọi là Riul Doamnei, nghĩa là Sông của Bà Hoàng.”

Như anh có thể hình dung, tôi đã rùng mình - trưa hôm đó, tôi đã liếc qua cái vực thẳm đó. Cú rơi từ trên đó xuống dòng sông bên dưới hầu như không thể tưởng tượng nổi.

“Dracula có con với người vợ này chứ?”

“Ồ, có.” Georgescu múc thêm cho tôi mộR ít thịt hầm. “Con trai của họ là Mihnea Đê Tiện, đã cai trị vùng Wallachia vào đầu thế kỷ mười sáu. Lại là một nhân vật hấp dẫn nữa. Dòng dõi của gã là một loạt những kẻ như Mehnea và Mircea, tất cả đều đáng ghét. Sau đó Dracula lại lấy vợ, lần thứ hai với một phụ nữ Hungary có bà con với Matthias Corvinus, vua Hungary. Chúng sinh ra mộR lô một lốc Dracula.”

“Có người nào còn sinh sống tại vùng Wallachia hay Transylvania không?”

“Tôi nghĩ là không. Nếu có, hẳn tôi đã tìm ra họ.” Ông xé mộR mẩu bánh mì rồi đưa cho tôi. “Dòng dõi thứ hai định cư tại vùng Szekler và tất cả đã hòa nhập với người Hungary. Những người cuối cùng trong số này đã kết hôn với gia đình quý tộc Getzi và cũng đã biến mất.”

Trong lúc ăn, tôi đã ghi tất cả các chi tiết này vào sổ tay dù không tin tưởng chúng có thể dẫn mình đến bất kỳ ngôi mộ nào. Điều này lại khiến tôi nghĩ đến một câu hỏi cuối cùng mà tôi hoàn toàn không muốn nêu ra trong cái bóng đêm dày đặc thăm thẳm này.

“Liệu có thể nào Dracula được chôn cất ở đây, hay xác hắn đã được chuyển từ Snagov về đây, để giữ cho an toàn?”

Georgescu cười khúc khích. “Anh vẫn hy voọn, đúng không? Không, lão già đó nằm đâu đó tại Snagov, hãy chú ý lời tôi. Lẽ tất nhiên, cái nhà nguyện đằng kia cũng có một hầm mộ - có một khu vực trũng xuống, với một vài bậc cấp đi xuống. Nhiều năm trước tôi đã khai quật hầm mộ đó, trong chuyến đầu tiên đến đây.” Ông cười tươi. “Hồi đó đám dân làng không thèm bắt chuyện với tôi cả mấy tuần lễ. Nhưng hầm mộ đó trống không. Thậm chí chẳng có lấy một mẩu xương.”

Chẳng bao lâu sau ông đã ngáp dài. Chúng tôi kéo sát đồ đạc vào đống lửa, cuộn tròn trong túi ngủ và nằm lặng yên. Trời đêm lạnh buốt, Rôi mừng vì đã mặc bộ quần áo ấm nhất của mình. Nhìn lên bầu trời đầy sao một lát - dường như chúng gần với vách núi đen thẫm kia đến kỳ lạ - tôi lắng nghe tiếng ngáy của Georgescu.

Cuối cùng hẳn tôi cũng đã thiếp đi vì khi mở mắt ra tôi thấy đống lửa gần tàn và một đám mây bao phủ đỉnh núi. Tôi rùng mình, và trong lúc chuẩn bị đứng lên để châm thêm củi thì chợt nghe tiếng sột soạt sát gần một bên. Máu tôi như đông lại. Như vậy, không chỉ có một mình chúng tôi giữa đống phế tích này, và bất kể là thứ gì đang chia sẻ với chúng tôi cái lâu đài tăm tối kỳ dị này thì cũng đang ở rất gần. Tôi từ từ đứng lên, nghĩ đến việc đánh thức Georgescu nếu cần thiết, và băn khoăn tự hỏi không biết ông ta có mang Rheo loại vũ khí nào trong chiếc túi Gypsy đa dụng kia không. Một sự im lặng chết chóc vây phủ xung quanh, chỉ vài giây sau sự hồi hộp đã quá mức chịu đựng của tôi. Tôi dun vào đống lửa một nhánh cây lấy từ đống củi, khi nhánh cây bắt lửa tôi đã có một ngọn đuốc, tôi cẩn thận giơ cao nó lên.

Đột nhiên, tận phía trong sâu thẳm của khu vực nhà nguyện đầy cây cối, ánh đuốc làm ánh lên một đôi mắR rực đỏ. Bạn thân mến, sẽ là dối trá nếu tôi nói rằng lúc đó tóc tai mình không dựng đứng lên. Đôi mắt di chuyển tới gần hơn một chút và tôi không thể nói chúng cách mặt đất bao xa. Nó đăm đăm nhìn tôi một lúc lâu, tôi cảm thấy, một cách phi lý, rằng dường như nó biết rõ chúng tôi, biết tôi là ai và đang thăm dò tôi. Sau đó, có tiếng xô đẩy trong bụi rậm, một con vật to lớn xuất hiện, đảo mắt nhìn quanh rồi phóng vào bóng đêm. Đó là một con chó sói to lớn dị thường; trong ánh sáng mờ mờ tôi nhìn thấy bộ lông bờm xờm và cái đầu to tướng của con vật, chỉ trong một thoáng trước khi nó lủi biến mất khỏi khu phế tích đổ nát.

Tôi lại nằm xuống, lúc này không còn muốn đánh thức Georgescu vì mối nguy hiểm có vẻ như đã trôi qua, nhưng vẫn không tài nào ngủ lại được. Tôi thấy đi thấy lại - ít ra là trong tâm trí mình - đôi mắt sắc bén quen thuộc đó. Tôi nghĩ cuối cùng mình cũng sẽ thiếp đi, nhưng khi nằm đó tôi nghe có tiếng động xa xa, có vẻ như chúng vọng đến từ trong bóng tối của khu rừng. Cuối cùng cảm thấy quá bức bối, không thể nằm yên trong đống chăn mền, tôi lại đứng lên, rón rén băng qua mảnh sân um tùm bụi rậm để nhìn qua bức tường. Như tôi đã mô tả, chỗ dốc đứng phía trên vực thẳm kia hướng xuống sông Argeş, nhưng bên trái là một khu vực với những cánh rừng ít dốc hơn, tôi nghe có tiếng rì rầm từ phía dưới đó và nhìn thấy ánh sáng chập chờn giống như những đống lửa trại. Tôi tự hỏi phải chăng đó là trại của đám dân Gypsy; sáng mai tôi phải hỏi Georgescu mới được. Tựa như ý nghĩ trên đã đánh động ông ta, người bạn mới của tôi đột ngột xuất hiện, như một bóng mờ bên cạnh tôi và vẫn còn ngái ngủ.

“Có chuyện gì không ổn à?” Ông ta nhìn chòng chọc qua bức tường.

Tôi trỏ tay chỉ. “Có thể nào đó là trại của người Gypsy không?”

Ông ta bật cười. “Không, người Gypsy không ở quá xa với nền văn minh như vậy đâu.” Theo sau câu trả lời là một cái ngáp dài, nhưng trong ánh sáng của đám lửa đang tàn đôi mắt ông ta sáng lên và đầy cảnh giác. “Dù vậy, cũng kỳ lạ đấy. Ta qua đó xem thử xem sao.”

Tôi chẳng mặn mà với ý kiến đó chút nào, nhưng vài phút sau, chúng tôi mang giày vào và rón rén đi xuống con đường mòn hướng về phía tiếng động. Âm thanh nghe dần to hơn, cao lên rồi thấp xuống, một nhịp điệu kỳ quái - tôi nghĩ, không phải là lũ chó sói mà là tiếng người. Tôi cố gắng không giẫm lên các cành cây. Có lúc tôi quan sát thấy Georgescu cho tay vào áo khoác - ông ta có súng, tôi thầm nghĩ và cảm thấy yên tâm. Chẳng bao lâu chúng tôi nhìn thấy ánh lửa lập lòe sau các thân cây, ông ta ra dấu cho tôi khom người rồi ngồi xổm xuống cạnh ông, trong bụi cây.

Thật kinh ngạc, chúng tôi đã đến một khoảnh rừng thưa rấR đông đàn ông. Họ đứng thành hai vòng tròn quanh một đống lửa, nhìn vào ngọn lửa và tụng kinh. Một người, hình như là chỉ huy, đứng gần đám lửa, mỗi khi bài tụng đến đoạn vút cao lên, mỗi người trong họ lại giơ thẳng tay lên chào, bàn tay còn lại đặt lên vai người đứng kế bên. Gương mặt bọn họ khắc nghiệt và nghiêm nghị, ánh lên một màu cam kỳ lạ trong ánh lửa, mắt họ sáng lấp lánh. Họ mặc một loại giống như đồng phục, áo khoác sậm màu bên ngoài sơ mi xanh và cà vạt đen. “Chuyện gì vậy?” tôi thì thầm hỏi Georgescu. “Họ đang nói gì vậy?”

“Tất cả cho tổ quốc!” ông ta thì thầm vào tai tôi. “Ngồi im, nếu không là chết đấy. Tôi nghĩ đây là bọn Binh đoàn Tổng Thiên thần Michael.”

“Là gì vậy?” Tôi cố gắng chỉ mấp máy môi. Thật khó hình dung một thứ gì đó khác thiên thần hơn những gương mặt sắt đá và những cánh tay vung thẳng cứng nhắc kia. Georgescu vẫy tay ra hiệu cho tôi lùi lại và chúng tôi lại bò vào rừng. Nhưng trước khi quay đi tôi để ý thấy một cử động ở phía bên kia khoảnh rừng thưa, và càng kinh ngạc hơn khi nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông cao lớn mặc áo choàng, mái tóc đen nhánh, gương mặt bủng vàng sáng lên từng lúc dưới ánh lửa. Hắn đứng bên ngoài những vòng người mặt đồng phục, vẻ mặt hoan hỉ, có vẻ như đang cười. Sau đó một giây tôi không còn nhìn thấy hắn nữa, và nghĩ rằng hắn đã lủi vào đám cây cối, và rồi Georgescu lại kéo tôi ngược lên dốc.

Khi đã về lại khu phế tích an toàn - thực là kỳ lạ và phi lý, giờ tôi lại cảm thấy an toàn - Georgescu ngồi xuống bên cạnh đống lửa, châm tẩu thuốc tựa như để tìm chút khuây khỏa. “Trời ơi, anh bạn,” ông hổn hển. “Đây có thể là ngày tàn của hai chúng ta.”

“Bọn họ là ai vậy?”

Ông quăng que diêm vào đống lửa. “Bọn tội phạm,” ông ta trả lời cụt lủn. “Chúng còn gọi là Binh đoàn Thép. Chúng càn quét các làng mạc trong khu vực này, bắt thanh niên và biến họ thành những kẻ chỉ biết căm thù. Chúng đặc biệt căm thù và muốn loại bỏ người Do Thái ra khỏi thế giới này.” Ông rít một hơi thuốc dữ dội. “Người Gypsy chúng tôi biết rằng ở đâu người Do Thái bị giết chóc thì người Gypsy cũng luôn bị tàn sát theo. Và sau đó sẽ còn nhiều người khác nữa, thường là vậy.”

Tôi tả lại gương mặt kỳ lạ mà mình đã nhìn thấy đứng bên ngoài vòng người.

“Ồ, nói thật ra là,” Georgescu thì thầm, “chúng thu hút đủ mọi loại thành phần lạ lùng ngưỡng mộ chúng. Chẳng bao lâu nữa tất cả đám dân chăn cừu trên núi sẽ quyết định đi theo chúng.”

Phải mất một lúc lâu chúng tôi mới có thể dỗ lại giấc ngủ, nhưng Georgescu trấn an là một khi đã bắt đầu các nghi thức thì rất ít khả năng đám Binh đoàn này leo lên núi. Tôi chỉ chợp mắt trong chốc lát và thấy nhẹ nhõm khi ánh bình minh lại trở về trên vùng đất chỉ có chim đại bàng làm tổ này. Lúc này, trời vẫn còn mù sương và thậR yên tĩnh, cây cối xung quanh lặng yên vì không một chút gió. Ngay khi ánh mặt trời sáng tỏ hơn, tôi cẩn thận đi đến chỗ khung mái vòm đổ nát của nhà nguyện để xem xét dấu vếR con sói. Chúng hiện rõ sát bên cạnh nhà nguyện, lớn và nặng nề, trên mặt đất. Điều lạ lùng là chỉ có một loạt những dấu chân, từ khu vực nhà nguyện đi ra, bước thẳng ra từ cái đáy lõm của hầm mộ, không có dấu vết cho thấy con sói đã vào đó Rheo đường nào - hoặc có lẽ tôi đã không thể quan sát đầy đủ dấu vết của nó ở đám bụi cây phía sau nhà nguyện. Sau khi ăn sáng xong, tôi vẫn còn bối rối nghiền ngẫm điều này một lúc lâu nên đã vẽ vài bản phác thảo, chúng tôi lên đường xuống núi.

Một lần nữa tôi phải dừng bút ở đây, và từ vùng đất xa xôi này tôi xin gửi đến anh những lời thăm hỏi nồng nhiệt nhất.

Rossi

Chú thích:

1. Black Madonna: chỉ những bức tượng hoặc tranh vẽ Đức Mẹ Mary có nước da sẫm hoặc màu đen, đặc biệt là những tranh, tượng ra đời trong hoặc trước thời Trung cổ tại châu Âu. (Không phải là hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh da đen phổ biến Rrong cộng đồng Thiên Chúa giáo châu Phi hoặc nơi có nhiều người da đen sinh sống).

2. Tên đầy đủ là Marcus Ulpius Nerva Traianus, thường biết đến với tên Trajan (53-117); Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 98 cho đến khi qua đời năm 117.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Bạn thân mến,

Tôi không thể hình dung anh sẽ nghĩ gì về sự trao đổi thư từ một chiều và kỳ quặc này khi cuối cùng những lá thư này đến tay anh, nhưng tôi bắt buộc phải tiếp tục, ít ra là để ghi chép lại cho chính bản thân mình. Chiều hôm qua, chúng tôi trở về ngôi làng bên dòng sông Argeş mà từ đó chúng tôi đã lên đường đi đến tòa pháo đài của Dracula lúc trước. Georgescu đã chia tay tôi trở về với công việc của ông ta ở hồ Snagov, với một cái ôm choàng lấy tôi thắm thiết, tay siết chặt vai tôi và mong một ngày nào đó chúng tôi sẽ có dịp gặp lại. Ông là người dẫn đường đôn hậu nhất mà chắc chắn tôi sẽ không thể nào quên. Giây phút chia tay đó, tôi cảm thấy trong lòng dằn vặt một cảm giác có lỗi vì không kể với ông những gì mình đã tận mắt chứng kiến ở Istanbul, không đủ sức chiến thắng bản thân để phá vỡ sự im lặng của chính mình. Nhưng đằng nào ông ta cũng sẽ không tin chuyện đó, nên có cố thuyết phục ông ta tin tôi cũng chẳng giúp ông ta tránh khỏi bất cứ rủi ro gì. Tôi có thể hình dung rất rõ ràng tất cả, từ nụ cười chân thành, cái lắc đầu của một nhà khoa học, đến việc ông ta có thể cho tôi là một con người hoang tưởng.

Georgescu đã nài nỉ tôi cùng quay lại Târgoviste với ông ta, nhưng tôi quyết định ở lại thêm vài ngày trong khu vực này để viếng thăm một vài giáo đường và tu viện địa phương, và để có thể biết thêm chút ít về khu vực xung quanh pháo đài của Vlad. Dù thế nào chăng nữa, đây là lý do tôi đưa ra để tự biện minh cho mình và cáo lỗi với Georgescu, vậy là ông ta đã cho tôi biết thêm nhiều địa điểm có nhiều bằng chứng cho thấy Dracula từng lui tới lúc hắn còn sống. Ngoài ra có lẽ tôi ở lại còn vì một động cơ khác nữa: cảm giác có lẽ mình sẽ không bao giờ trở lại nơi đây, chốn hẻo lánh đẹp tuyệt vời nhưng cách quá xa những địa điểm nghiên cứu thường lệ của tôi này. Quyết tâm nán lại thêm vài ngày thay vì vội vã đến Hy Lạp trước kế hoạch, tôi đã đến quán rượu để giải khuây chút đỉnh, cố gắng cải thiện mớ vốn liếng tiếng Rumani nghèo nàn của mình bằng cách chuyện trò với các ông già bà lão trong làng về những truyền thuyết trong khu vực, nhưng nỗ lực này xem ra chẳng mấy thành công. Hôm nay, tôi tản bộ hướng về một khu rừng ở gần làng, và bất chợt phát hiện một ngôi mộ nằm lẻ loi dưới một tàn cây. Nó được xây bằng đá cổ, với mái che bằng tranh, tôi nghĩ phần nguyên thủy của ngôi mộ có lẽ đã có ở đó từ lâu, trước cả lúc những đội quân của Dracula sải vó ngựa trên những con đường này. Những cánh hoa tươi trên mộ chỉ vừa mới tàn, và sáp nến chảy đọng lại phía dưới chân cây thánh giá.

Khi quay về làng, tôi gặp một cảnh tượng đáng kinh ngạc không kém - một thôn nữ trẻ mặc trang phục nông dân, đứng bất động trên lối đường mòn nhỏ bé tôi đang đi, giống hệt như một nhân vật lịch sử. Vì cô không tỏ dấu hiệu nào muốn tránh đường, nên tôi phải dừng lại để lên tiếng, và sửng sốt khi cô đưa cho tôi một đồng xu. Rõ ràng đó là một đồng xu rất xưa - thời Trung cổ - trên một mặt có hình một con rồng. Tôi cảm thấy chắc chắn, dù không có bằng chứng rõ rệt, đồng xu này được đúc ra cho Giáo đoàn Rồng. Dĩ nhiên, cô gái nói tiếng Rumani, nhưng tôi đã cố gắng và hiểu được phần nào là có một bà lão từ một nơi nào đó trên các rặng núi bên cạnh dòng sông, gần lâu đài của Vlad đã đến làng này và cho cô đồng xu đó. Cô gái cũng nói với tôi họ của cô là Getzi, dù hình như cô không có ý niệm nào về ý nghĩa của cái họ đó. Anh có thể hình dung được tôi khích động đến thế nào: rất có thể tôi đang đứng mặt đối mặt với một hậu duệ của Vlad Dracula. Ý tưởng đó làm cho tôi vừa ngạc nhiên vừa bối rối (dù gương mặt thánh thiện và thái độ cư xử dịu dàng của cô gái không gợi lên bất kỳ điều gì ghê gớm hoặc ác độc). Khi tôi có ý định trả lại đồng xu, cô đã nài nỉ tôi giữ lấy nó, và hiện giờ tôi vẫn còn đang giữ đồng xu đó, dù chắc chắn sau này tôi sẽ cố tìm cách trả lại. Chúng tôi thỏa thuận mai sẽ nói chuyện nhiều hơn nên giờ tôi phải dừng bút ở đây để ngồi lại vẽ một phác thảo đồng xu đó và tra cứu thêm tự điển để có thể hỏi nhiều hơn về gia đình và lai lịch cô ấy.

Bạn thân mến,

Đêm hôm qua, tôi đã có chút tiến triển trong việc nói chuyện với cô thiếu nữ mà tôi đã kể với bạn - họ cô quả thực là Getzi, cô đánh vần cho tôi, giống y như cái tên Georgescu đã cho tôi. Khi tôi cố gắng bắt chuyện, tôi kinh ngạc nhận ra cô là một người thông minh nhạy bén, và ngoài năng khiếu tự nhiên là khả năng nhận thức, cô có thể viết, đọc và có thể giúp tôi tra cứu tự điển. Tôi thích thú nhìn ngắm gương mặt sáng ngời và lanh lợi, đôi mắt đen huyền sáng lên mỗi khi hiểu được một nghĩa mới. Dĩ nhiên, cô chưa bao giờ học một ngôn ngữ nào khác, nhưng tôi tin chắc rằng nếu được chỉ dạy đúng cách, cô sẽ tiếp thu rất dễ dàng.

Việc phát hiện một người thông minh như vậy tại một vùng núi non hẻo lánh và quê mùa như thế này đã khiến tôi kinh ngạc; có lẽ đây là một bằng chứng nữa cho thấy cô là con cháu của một dòng dõi những người quý tộc, thông minh và có học. Gia đình cha cô đã đến xứ này từ rất lâu, đến độ không ai còn nhớ từ lúc nào, ngoại trừ việc một số người trong bọn họ là người Hungary, tôi chỉ hiểu được chừng đó. Cô kể việc cha cô tin rằng ông ta chính là người thừa kế của ông hoàng tại Lâu đài Argeş, kho báu của họ vẫn còn chôn giấu ở đó, và dường như tất cả mọi nông dân ở đây đều nghĩ vậy. Một cách khó khăn, tôi cũng hiểu người ta tin rằng vào vài ngày lễ thánh nào đó có một thứ ánh sáng siêu nhiên chiếu rọi trên địa điểm chôn giấu kho báu, nhưng người dân trong các làng mạc quá sợ hãi, không dám tìm kiếm kho báu đó. Trí tuệ của cô gái, rõ ràng quá nổi trội so với những người dân làng khác, và làm tôi nhớ đến nàng Tess xinh đẹp trong tác phẩm Tess of the d’Urbervilles của Thomas Hardy. Bạn ạ, tôi biết bạn sẽ chẳng định đi ngược trở lại quá năm 1800, nhưng năm ngoái tôi đã đọc lại cuốn sách đó, vì vậy tôi khuyên anh cũng nên đọc nó để giải trí sau những công việc thường ngày của mình. Nhân tiện cũng xin nói luôn, tôi cũng không mấy tin việc có kho báu trên tòa lâu đài, vì nếu có hẳn Georgescu đã tìm thấy rồi.

Cô cũng cho tôi biết một sự thực đáng sợ là mỗi thế hệ trong dòng họ cô đều có một thành viên phải xăm lên người hình một con rồng nhỏ. Thực tế này, cũng như tên cô, và câu chuyện của cha cô về kho báu, làm cho tôi tin rằng cô là thành viên của một nhánh còn sống sót của Giáo đoàn Rồng. Tôi ngỏ ý muốn nói chuyện với cha cô, nhưng khi tôi đề nghị điều này cô trông có vẻ vô cùng đau khổ đến mức tôi cảm thấy mình là một kẻ chẳng ra gì nếu cứ tiếp tục theo đuổi ý định đó. Văn hóa ở đây là một nền văn hóa truyền thống, cổ hủ và cực đoan, tôi lo ngại sẽ gây tai tiếng cho cô với dân làng - chắc chắn cô đã mạo hiểm khi dám đứng một mình nói chuyện với tôi, vì vậy tôi càng cảm thấy biết ơn hơn đối với sự quan tâm giúp đỡ của cô.

Bây giờ tôi phải tạm dừng ở đây để vào rừng một lát, nơi này còn có quá nhiều chuyện phải suy nghĩ đến nỗi tôi cảm thấy mình cần phải để đầu óc thảnh thơi một chút.

Bạn thân mến, người tri kỷ duy nhất của tôi,

Hai ngày đã trôi qua, và tôi phân vân hầu như không biết viết cho anh như thế nào về quãng thời gian đó, hoặc liệu có nên kể với bất kỳ ai chuyện này. Với tôi, hai ngày này là khoảng thời gian lạ lùng nhất trong đời. Khoảng thời gian mà trong tôi tràn đầy vừa hy vọng vừa sợ hãi. Suốt hai ngày đó tôi cảm thấy mình như đang bước qua một ranh giới để vào một cuộc sống mới. Dù sao chăng nữa tôi cũng không thể nói được điều này có ý nghĩa gì. Tôi cảm thấy vừa cực kỳ lo lắng vừa là người hạnh phúc nhất từng được tạo ra.

Hai đêm trước, sau khi viết cho anh, tôi đã gặp lại cô thiếu nữ thiên thần kia, và cuộc chuyện trò lần này của chúng tôi dẫn đến một thay đổi bất ngờ - thực ra là một nụ hôn, trước khi cô gái biến mất. Tôi thao thức suốt đêm, và khi bình minh đến đã ra khỏi căn phòng trong làng để lang thang vào rừng. Tôi dạo trong rừng một lát, thỉnh thoảng ngồi xuống, khi thì một tảng đá, lúc thì một gốc cây giữa bạt ngàn màu xanh mướt đang chuyển sắc của buổi sớm mai, hình dung khuôn mặt cô gái trong đám cây lá hoặc thậm chí ngay trong ánh nắng. Nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi liệu có nên rời khỏi làng ngay tức khắc, bởi vì có thể tôi đã xúc phạm đến cô gái rồi.

Cả ngày cứ như thế trôi qua, tôi cứ lang thang hết nơi này đến nơi khác, chỉ trở về làng để ăn bữa trưa, tôi vừa mong mỏi vừa sợ chạm mặt cô gái. Nhưng vẫn không có dấu vết của cô; buổi chiều, khi đang trên đường ghé qua nơi chúng tôi thường gặp nhau mấy ngày vừa rồi, nghĩ rằng nếu cô lại đến đó tôi sẽ cố gắng nói với cô tôi nợ cô một lời xin lỗi và sẽ không làm phiền cô nữa. Ngay khi đinh ninh là mình đã xúc phạm nặng nề và từ bỏ hy vọng gặp lại cô gái, và quyết định sẽ rời làng vào sáng hôm sau thì cô bỗng xuất hiện giữa những hàng cây. Tôi thoáng thấy cô trong chiếc váy chân quê và tấm áo khoác đen, mái tóc đen nhánh và bóng mượt, bím tóc đong đưa trên đôi bờ vai. Đôi mắt cũng một màu đen huyền và có vẻ lo sợ, nhưng gương mặt rạng rỡ thông minh như nổi bật lên trước mắt tôi.

Tôi mở miệng định lên tiếng, nhưng ngay khoảnh khắc đó cô gái đã lao thẳng vào vòng tay tôi. Tôi bàng hoàng, có vẻ như cô muốn phó thác bản thân hoàn toàn cho tôi, chẳng bao lâu, những xúc cảm đã khiến chúng tôi trở nên hoàn toàn thân mật, một sự thân mật dịu dàng và trong sáng vì chẳng ai trong chúng tôi dự định trước. Tôi nhận ra chúng tôi có thể trò chuyện với nhau một cách thoải mái - bằng những ngôn ngữ của mỗi người mà tôi không còn nhớ chắc - và tôi như nhìn thấy cả thế giới cũng như toàn bộ tương lai của chính mình trong đôi mắt đen thẳm với bờ mi dày và nếp gấp da thanh tú ở khóe mắt trong đặc thù Á Đông của cô gái.

Khi cô đi rồi, tôi đứng một mình, vẫn còn run rẩy vì xúc động, và cố hình dung lại tôi đã làm gì, cả hai chúng tôi đã làm gì, nhưng cảm giác trọn vẹn và hạnh phúc cứ không ngớt dậy lên trong tâm trí. Hôm nay tôi sẽ lại đi để chờ đợi cô gái, bởi tôi đã cảm thấy nhớ cô, bởi bây giờ toàn bộ con người tôi hình như đã trở thành một con người khác hẳn so với con người trước đây, tuy nhiên con người đó cũng vô cùng thân thuộc đến độ hầu như tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra nữa.

Bạn thân mến (nếu vẫn là bạn, người mà tôi thư từ lâu nay),

Hiện tại, tôi đã trải qua bốn ngày như ở thiên đường, và tình yêu của tôi dành cho vị thiên thần chủ quản thiên đường đó dường như đúng là tình yêu. Trước đây, tôi chưa bao giờ cảm nhận về một phụ nữ như những gì tôi đang cảm nhận tại đây, trong nơi chốn xa lạ này. Lẽ tất nhiên, tôi chỉ có thêm vài ngày để suy ngẫm, cân nhắc chuyện này ở mọi góc cạnh. Ý nghĩ rời bỏ và không bao giờ gặp lại cô đối với tôi có vẻ là không hiện thực, chẳng khác gì việc tôi sẽ không bao giờ trở lại quê hương. Mặt khác, tôi đang tranh đấu với việc đưa cô theo cùng, nghĩa là - quan trọng hơn hết, liệu tôi có nhẫn tâm khi tách cô ra khỏi nhà và gia đình cô, và hậu quả sẽ như thế nào nếu cô cùng tôi trở về Oxford. Ý nghĩ sau cùng này tuy cực kỳ rắc rối, nhưng sự khắc nghiệt của tình huống đối với tôi là rất rõ ràng: nếu tôi ra đi và bỏ cô ở lại, cả hai chúng tôi đều đau khổ, và đó cũng là một hành động đốn mạt và tàn ác sau những gì tôi đã làm với cô.

Bây giờ tôi phải quyết tâm biến cô trở thành vợ mình càng sớm càng tốt. Không nghi ngờ gì nữa, cuộc sống của chúng tôi sẽ khó khăn, nhưng tôi chắc chắn vẻ duyên dáng tự nhiên cũng như trí tuệ sắc sảo sẽ giúp cô ấy vượt qua bất cứ trở ngại nào mà chúng tôi gặp phải. Tôi không thể để cô ở lại nơi chốn này, cũng không thể bỏ rơi cô trong một tình huống như thế này. Nếu làm vậy cả cuộc đời tôi sẽ ra sao? Tôi gần như đã quyết tối nay sẽ hỏi cô làm vợ và sẽ tiến hành hôn lễ trong vòng một tháng nữa. Tôi nghĩ trước tiên mình sẽ trở về Hy Lạp, ở đó tôi sẽ mượn của bạn bè đồng nghiệp - hoặc chuyển bằng điện - đủ tiền để gặp và đền bù cho cha cô; thời gian còn lại của tôi ở nơi này rất ít, nếu không thì tôi đã không dám làm theo cách này. Hơn nữa, tôi còn phải tham gia cuộc khai quật mà tôi đã được mời tới: hầm mộ của một nhà quý tộc gần Knossos. Công việc tương lai của tôi có thể tùy thuộc vào các đồng nghiệp này, và nhờ nó tôi có thể chu cấp cho cô cũng như bản thân mình trong cuộc sống mà chúng tôi sẽ cùng nhau xây dựng.

Sau thời gian này tôi sẽ trở về với cô - dù cho bốn tuần xa cách có dài bao nhiêu chăng nữa! Tôi muốn biết liệu các tu sĩ ở Snagov có thể làm lễ cưới cho chúng tôi ở đấy hay không, như vậy Georgescu có thể là người làm chứng cho chúng tôi. Dĩ nhiên, nếu cha mẹ cô ấy nhất định chúng tôi phải làm đám cưới trước khi rời khỏi làng, tôi sẽ sẵn sàng thực hiện yêu cầu đó. Dù sao chăng nữa, cô sẽ cùng ra đi với tư cách là vợ tôi. Tôi nghĩ, ở Hy Lạp, tôi sẽ đánh điện cho cha mẹ mình, và sau đó sẽ đưa cô đến ở với ông bà một thời gian khi chúng tôi trở về Anh. Và bạn thân mến, nếu anh đang đọc đến đây rồi, anh có thể để ý một chút tới phòng ốc bên ngoài trường đại học được không? - chỗ nào kín đáo một chút - lẽ tất nhiên, giá cả cũng quan trọng lắm đấy! Tôi sẽ cho cô học tiếng Anh càng sớm càng tốt; chắc chắn cô sẽ học xuất sắc. Bạn ạ, có lẽ đến mùa thu anh sẽ được ngồi bên cạnh lò sưởi nhà chúng tôi, và rồi anh sẽ hiểu được lý do cơn điên rồ của tôi. Đến lúc đó, anh vẫn là người duy nhất mà tôi có thể kể lại chuyện này một cách thoải mái, và ngay khi tôi có thể gửi những lá thư này tới tay anh, tôi cầu mong anh hãy phán xét tôi thật khoan dung, bằng tấm lòng độ lượng của bạn.

Người bạn hạnh phúc và lo lắng của anh,

Rossi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


“Đó là lá thư cuối cùng của thầy Rossi, có lẽ cũng là lá thư cuối cùng thầy viết cho người bạn của mình. Ngồi cạnh Helen trên chuyến xe buýt trở về Budapest, cha cẩn thận gấp lại những trang thư, sau đó nhẹ nhàng nắm lấy tay cô một lúc. ‘Helen’, cha lên tiếng, giọng ngập ngừng, cha cảm thấy ít nhất một trong hai người chúng ta phải nói ra điều đó. ‘Cô là hậu duệ của dòng dõi Vlad Dracula.’ Cô nhìn cha, rồi quay nhìn ra ngoài cửa xe, cha nghĩ mình đã thấy trên mặt cô có đôi chút phân vân, tựa như không biết phải nghĩ như thế nào về thực tế đó, và có lẽ chính điều đó đã làm cho mặt cô đỏ bừng lên.”

“Trời đã xế bóng khi Helen và cha bước xuống xe buýt ởBudapest, nhưng cha cảm thấy sốc khi nhận ra chúng ta đã khởi hành từ chính trạm xe buýt này chỉ mới sáng hôm nay. Từ giây phút đó đến giờ, cha có cảm tưởng như mình vừa trải qua đôi ba năm rồi vậy. Những lá thư của thầy Rossi vẫn còn cất an toàn trong cặp, và nội dung của chúng khiến tâm trí cha tràn ngập những hình ảnh xót xa; cha cũng nhìn thấy trong đôi mắt Helen sự hồi tưởng về những hình ảnh đó. Cô khoác lấy tay cha, tưởng chừng như những phát hiện trong ngày hôm đó đã làm lung lay niềm tin của cô. Cha muốn quàng tay ôm lấy, siết chặt và hôn cô ấy ngay giữa đường phố, nói rằng cha sẽ không bao giờ rời bỏ cô và rằng thầy Rossi chưa bao giờ - thực sự chưa bao giờ từ bỏ mẹ cô, nhưng cuối cùng, cha đành bằng lòng siết chặt tay Helen, mặc cô dẫn đường cho cả hai chúng ta trở về khách sạn.

“Ngay lúc chúng ta vừa đặt chân vào tiền sảnh khách sạn, cha lại có cảm tưởng đã rời xa nơi đó từ lâu lắm - cha nghĩ, thật là kỳ lạ khi nơi chốn xa lạ này bắt đầu có vẻ như đã trở nên quen thuộc với mình trong thời gian chỉ một hai ngày. Có một tin nhắn của bác Éva cho Helen, cô vội vã đọc. ‘Đúng như tôi nghĩ. Bác muốn tối nay chúng ta cùng ăn tối với bác, ở đây, tối nay, trong khách sạn này. Tôi nghĩ lúc đó bác sẽ chào tạm biệt chúng ta.’

“ ‘Cô sẽ kể lại chuyện này với bác ấy chứ?’

“ ‘Về nội dung của các lá thư à? Chắc là vậy. Tôi luôn kể với bác Éva mọi chuyện, không sớm thì muộn.’ Cha băn khoăn không biết liệu cô đã kể với bà ấy điều gì về cha, những chuyện mà chính bản thân cha còn chưa biết, nhưng rồi cha cố gắng dằn nén ý nghĩ đó lại.

“Trước bữa ăn tối, chúng ta chỉ có chút thời gian để về phòng tắm rửa và thay đồ - cha đã chọn chiếc áo sơ mi sạch nhất trong số hai cái áo mà cha đã mặc qua, cẩn thận cạo mặt trước cái bồn rửa mặt cầu kỳ kia - khi cha xuống lầu, bác Éva đã có mặt ở đó dù chưa thấy Helen xuất hiện. Bác Éva đứng cạnh cửa sổ mặt tiền, lưng quay về phía cha, mặt hướng nhìn ra đường phố và ánh nắng đang dần tàn của buổi chiều tà. Nhìn trong tư thế này, trông bà đã bớt đi phần nào thái độ cảnh giác cao độ và cả sự nghiêm nghị vốn vẫn luôn có ở bà ở chốn công cộng; lưng bà cong cong, thậm chí là hơi gù xuống một chút dưới chiếc áo khoác màu xanh đen. Bà đột ngột quay lại, cha bối rối không biết có nên lên tiếng gọi hay không, và cha đã kịp nhận ra nét lo lắng trên gương mặt bà trước khi một nụ cười tuyệt vời rạng ngời trước mắt cha. Bà vội vàng bước đến bắt tay cha, cha hôn lên tay bà chào đáp lại. Dù không ai nói với ai lời nào, nhưng người ngoài nhìn vào có thể nghĩ chúng ta là những người bạn cũ gặp lại nhau sau một thời gian dài xa cách.

“Cha cảm thấy khuây khỏa khi chỉ một lát sau Helen xuất hiện, vừa phiên dịch vừa dẫn chúng ta vào phòng ăn với những chiếc khăn trải bàn trắng tinh và đồ sứ xấu xí. Vẫn như lần trước, bác Éva gọi món ăn cho cả ba người, cha ngồi xuống, mệt mỏi, trong khi Helen và bác Éva nói chuyện với nhau một lúc. Thoạt tiên, có vẻ như họ chỉ trao đổi với nhau những câu nói đùa thân mật, nhưng chẳng bao lâu gương mặt bác Éva sa sầm lại, cha thấy bà cầm nĩa lên và xoay xoay giữa ngón trỏ và ngón cái. Rồi bà thì thầm điều gì đó với Helen, làm đôi hàng lông mày của cô chợt cau lại.

“ ‘Có gì không ổn sao?’ cha lo âu hỏi. Cha đã có quá đủ chuyện bí mật và huyền bí rồi.

“ ‘Bác tôi phát hiện một chuyện.’ Helen thì thào, dù không bao nhiêu thực khách quanh chúng ta trong phòng ăn có khả năng biết tiếng Anh. ‘Một chuyện có thể gây rầy rà cho chúng ta.’

“ ‘Chuyện gì vậy?’

“Bác Éva gật đầu và tiếp tục nói, lần này giọng rất ôn tồn, trán Helen cũng hằn sâu những đường nhăn. ‘Rất tệ hại,’ cô nói, giọng thì thầm. ‘Bác tôi đã bị tra hỏi về anh - về chúng ta. Bác nói chiều hôm nay bác phải tiếp một thanh tra cảnh sát mà bác quen biết từ lâu. Ông ta xin lỗi bác và nói đấy chỉ là thủ tục thường lệ của cảnh sát, nhưng ông ta đã hỏi về sự hiện diện của anh ở Hungary, về những điều anh quan tâm, và mối quan hệ của - của chúng ta. Bác rất khôn khéo trong những vấn đề như thế này, và khi bác hỏi ngược lại, ông ta bất đắc dĩ phải cho biết là đã được - người ta nói thế nào nhỉ? - được Géza József giao đảm trách vụ việc.’ Giọng cô lí nhí, thì thầm đến độ hầu như không thể nghe được.

“ ‘Géza à!’ cha nhìn cô trừng trừng.

“ ‘Tôi đã bảo với anh, hắn là một mối phiền phức. Lúc ở hội nghị, hắn cũng cố lục vấn tôi, nhưng tôi đã lờ đi. Rõ ràng chuyện đó đã làm hắn nổi giận nhiều hơn so với tôi dự đoán.’ Cô dừng lại. ‘Bác tôi nói hắn là một tay mật vụ gộc, và có thể rất nguy hiểm đối với chúng ta. Bọn chúng không thích những cải cách tự do của chính phủ và đang cố duy trì những đường lối cũ.’

“Có một điều gì đó trong giọng nói của cô buộc cha phải hỏi, ‘Có phải cô đã biết chuyện này? Chức vụ của gã là gì?’

“Cô gật đầu, vẻ như có lỗi. ‘Tôi sẽ kể với anh chuyện đó sau.’

“Cha không chắc mình mong muốn biết được điều đó đến mức nào, tuy nhiên ý nghĩ bị cái gã bự con đẹp mã kia theo dõi, đối với cha chắc chắn là chẳng thú vị gì. ‘Gã muốn gì?’

“ ‘Rõ ràng gã cảm thấy anh không chỉ dành hết tâm trí cho việc nghiên cứu lịch sử. Hắn tin là anh đến đây còn để tìm kiếm một cái gì khác nữa.’

“ ‘Vậy là gã đúng rồi,’ cha công nhận, giọng nhỏ lại.

“ ‘Hắn quyết tâm tìm cho ra đó là cái gì. Tôi tin chắc hắn biết hôm nay chúng ta đi đâu - tôi hy vọng hắn sẽ không tra hỏi mẹ tôi. Bác Éva đã cố gắng đánh lạc hướng tay thanh tra, nhưng hiện giờ bác vẫn lo lắng.’

“ ‘Bác cô có biết điều - hoặc người - mà tôi đang tìm kiếm?’

“Helen im lặng một lát, và khi cô ngước nhìn lên, có gì đó như là sự khẩn cầu trong đôi mắt ấy.

“ ‘Có. Tôi nghĩ, bác ấy có thể giúp chúng ta bằng cách nào đó.’

“ ‘Bác ấy có lời khuyên gì không?’

“ ‘Bác chỉ nói tốt nhất mai chúng ta nên rời Hungary ngay, và cảnh báo chúng ta không nên nói chuyện với bất kỳ người lạ mặt nào cho đến khi rời khỏi nơi này.’

“ ‘Đương nhiên rồi,’ cha đáp lại, giọng tức giận. ‘Có thể thằng cha József kia sẽ thích được cùng chúng ta nghiên cứu các tài liệu về Dracula ở phi trường đấy.’

“ ‘Thôi nào.’ Giọng cô nghe như tiếng thì thầm. ‘Đừng đùa với chuyện này nữa, anh Paul. Chuyện nghiêm trọng đấy. Nếu tôi còn muốn quay trở lại nơi này…’

“Cha lặng người, cảm thấy xấu hổ. Cha đâu có ý đùa giỡn, chỉ là cách biểu lộ một sự bực tức. Người phục vụ mang món tráng miệng ra - bánh ngọt và cà phê, bác Éva giục chúng ta ăn với sự quan tâm của một người mẹ, tựa như bà có thể giữ cho chúng ta tránh xa khỏi thế giới độc ác xấu xa chỉ bằng việc làm cho chúng ta béo lên một chút. Trong khi ăn, Helen kể với bà về những lá thư của thầy Rossi, bà từ tốn gật đầu, chăm chú lắng nghe nhưng không nói gì. Khi những chiếc ly đã cạn, bà thong thả quay sang cha, và Helen dịch lại, mắt cúi gằm xuống.

“ ‘Chàng trai thân mến,’ bác Éva nói, nắm chặt bàn tay cha không khác gì người em gái bà mấy giờ trước đó. ‘Ta không biết liệu chúng ta có gặp lại nhau nữa không, nhưng ta hy vọng là sẽ có. Trong thời gian chờ đợi đó, anh hãy chăm sóc cô cháu gái yêu quý của ta, hoặc ít nhất hãy để con bé chăm sóc cho anh’ - bà liếc nhìn Helen bằng một ánh mắt tinh nghịch nhiều ý nghĩa mà Helen rõ ràng vờ như không trông thấy - ‘và hãy chắc chắn là cả anh và con bé trở về bình yên với công việc nghiên cứu của mình. Helen đã kể cho ta nghe về sứ mệnh của anh, đó là một việc đáng làm, nhưng nếu không thể sớm hoàn thành được sứ mệnh đó, anh hãy trở về quê nhà với ý thức rằng đã làm mọi việc hết sức mình. Và tiếp tục cuộc sống của mình, anh bạn ạ, bởi anh hãy còn trẻ và cuộc đời vẫn còn đang ở phía trước.’ Bà dùng khăn ăn chùi nhẹ lên môi và đứng dậy. Ở cửa khách sạn, bà im lặng ôm lấy Helen và nghiêng người về phía trước hôn lên hai má cha. Nét mặt bà nghiêm nghị, chẳng có giọt nước mắt nào long lanh trong đôi mắt đó, nhưng cha vẫn nhận ra trên khuôn mặt đó một nỗi buồn sâu thẳm, lặng câm. Chiếc xe đẹp đẽ kia vẫn chờ đợi. Hình ảnh cuối cùng của bà mà cha thoáng nhìn thấy là cái vẫy tay điềm đạm từ cửa sau xe.

“Mãi một lúc lâu, Helen có vẻ như vẫn chưa thể thốt nên lời. Cô quay sang cha, rồi lại ngoảnh mặt đi. Rồi như kịp trấn tĩnh lại, cô nhìn cha với vẻ mặt cương quyết. ‘Nào, anh Paul. Đây là giờ phút rảnh rỗi cuối cùng của chúng ta ở Budapest. Ngày mai chúng ta lại phải ba chân bốn cẳng ra phi trường rồi. Tôi muốn đi dạo một lát.’

“ ‘Đi dạo ư?’ cha hỏi. ‘Thế còn bọn cảnh sát chìm và mối quan tâm của bọn chúng đến tôi thì sao?’

“ ‘Người ta chỉ muốn biết anh biết cái gì chứ không phải muốn lụi cho anh vài dao trong một ngõ hẹp tăm tối nào đâu. Đừng lo sợ hão huyền nữa,’ cô nói, mỉm cười. ‘Người ta cũng quan tâm đến tôi như anh thôi. Chúng ta sẽ ở những nơi có nhiều ánh sáng, dọc theo đường phố chính, tôi chỉ muốn anh nhìn ngắm thành phố này một lần nữa.’

“Cha cũng muốn vậy, vì biết rằng có thể đó là lần cuối cùng trong đời được nhìn ngắm thành phố này, và chúng ta lại bước ra ngoài, bước vào bầu trời đêm dịu êm, mát lành. Chúng ta lững thững đi về hướng dòng sông, dừng lại trên những trục phố chính, như Helen đã hứa. Tại cây cầu tuyệt vời kia, chúng ta lại dừng bước, rồi thong thả bước lên cầu, một tay cẩn thận men dọc theo thành cầu. Đến giữa cầu, trên mặt nước mênh mông, chúng ta lại dừng tiếp, nhìn qua lại hai bên bờ thành phố Budapest, và lại một lần nữa cảm nhận vẻ đường bệ của nó và sự bùng nổ của cuộc chiến đã phá hủy gần như toàn bộ thành phố. Ánh đèn thành phố chiếu tỏa khắp nơi, lung linh lên mặt nước tối đen. Helen đứng dựa vào lan can cầu một lát, rồi quay lại, tựa như miễn cưỡng, bước trở lui về hướng Pest. Cô đã cởi áo khoác, và khi cô quay đi cha nhìn thấy hình dạng một cái gì đó lởm chởm trên lưng chiếc áo cánh. Cúi gần hơn, cha chợt nhận ra đó là một con nhện lớn. Nó đã kịp giăng lưới ngang trên lưng cô; cha có thể thấy rõ cả những sợi tơ lấp lánh. Lúc đó cha nhớ lại đã nhìn thấy mạng nhện dọc suốt lan can cầu, con nhện có thể đã từ đó bò qua tay cô. ‘Helen,’ cha ôn tồn nói. ‘Bình tĩnh nhé - có một cái gì đó trên lưng cô.’

“ ‘Cái gì?’ Cô như cứng người lại.

“ ‘Tôi sẽ phủi nó đi,’ cha tiếp tục, giọng nhẹ nhàng. ‘Chỉ là một con nhện.’

“Cô rùng mình, nhưng vẫn ngoan ngoãn đứng yên trong khi cha búng con vật kia văng khỏi lưng cô. Phải thú nhận là cha cũng rùng mình vì chưa bao giờ thấy một con nhện lớn như vậy, nó gần như bằng nửa bàn tay cha. Helen hét lên khi con nhện va mạnh vào lan can cầu thành tiếng. Từ trước đến nay, cha chưa bao giờ nghe thấy cô tỏ ra sợ hãi, và tiếng hét đó khiến cha bỗng muốn ôm chầm lấy, vỗ về và thậm chí âu yếm cô. ‘Ổn rồi,’ cha vội nói, cầm lấy tay cô, cố gắng giữ bình tĩnh. Trước sự ngạc nhiên của cha, cô chỉ nức nở một hai tiếng rồi trấn tĩnh lại ngay. Cha cảm thấy kinh ngạc vì một phụ nữ có thể nã súng vào ma cà rồng lại hoảng hốt vì một con nhện, nhưng rõ ràng hôm nay đúng là một ngày dài đầy căng thẳng. Cô lại làm cha ngạc nhiên khi quay nhìn dòng sông rồi trầm giọng khẽ nói, ‘Tôi đã hứa sẽ kể cho anh về Géza.’

“ ‘Cô không phải kể với tôi điều gì cả.’ Cha hy vọng là mình không để lộ vẻ cáu kỉnh.

“ ‘Tôi không muốn dối trá bằng cách im lặng.’ Cô bước vài bước, như muốn hoàn toàn bỏ lại con nhện phía sau, dù có lẽ nó đã biến mất trong dòng sông Danube. ‘Khi còn là sinh viên đại học, tôi đã yêu anh ta một thời gian, hoặc là tôi đã nghĩ như vậy, và đáp lại, anh ta đã giúp bác tôi lấy được cho tôi học bổng nghiên cứu sinh và hộ chiếu, để tôi có thể rời khỏi Hungary.’

“Cha đứng sững lại, nhìn cô chằm chằm.

“ ‘Ồ, không sống sượng như vậy đâu,’ cô tiếp. ‘Anh ta không nói kiểu “Cô hãy ngủ với tôi và rồi cô có thể ung dung đến nước Anh.” Thực ra, anh ta khá tế nhị. Dù sao, anh ta đã không chiếm được mọi thứ mà anh ta muốn ở tôi. Nhưng lúc tôi không còn thấy anh ta quyến rũ nữa, tôi đã có hộ chiếu trong tay. Đó là cách sự việc đã xảy ra, và khi nhận ra điều đó tôi đã có chiếc vé đi Tây, và tôi không muốn bỏ mất cơ hội này. Tôi nghĩ đó cũng là việc đáng hy sinh để tìm kiếm cha mình. Vì vậy tôi đã tiếp tục cặp kè với Géza cho đến lúc có thể thoát đi Luân Đôn, không quên để lại cho anh ta một lá thư cắt đứt mối quan hệ giữa tôi và anh ta. Ít nhất, tôi muốn tỏ ra trung thực về vấn đề đó. Chắc hẳn anh ta đã rất giận, dù sau đó chưa bao giờ viết cho tôi một lá thư.’

“ ‘Và làm thế nào cô biết anh ta làm việc cho lực lượng cảnh sát mật?’

“Cô bật cười. ‘Anh ta là người huênh hoang nên không thể giữ kín chuyện đó. Anh ta cũng muốn gây ấn tượng với tôi. Tôi không dám nói ra với anh ta là tôi đã kinh sợ hơn là có ấn tượng. Anh ta kể với tôi về những người mà anh ta đã bỏ tù, đã tra tấn, thậm chí còn nhấn mạnh rằng còn có những chuyện tồi tệ hơn. Rốt cuộc, làm sao mà không ghê tởm một con người như vậy được.’

“ ‘Tôi chẳng vui vẻ gì khi nghe chuyện này, bởi anh ta đang chú ý đến động thái của tôi,’ cha nói. ‘Nhưng tôi mừng khi biết cô cảm nhận về anh ta như vậy.’

“ ‘Anh nghĩ gì vậy?’ cô thốt lên. ‘Tôi đã cố tránh xa anh ta ngay từ phút đầu tiên chúng ta đến đây kia mà.’

“ ‘Nhưng tôi cảm nhận cô vẫn còn một cảm giác khó tả nào đấy khi nhìn thấy hắn ở hội nghị,’ cha thú nhận. ‘Tôi không thể không nghĩ cô đã yêu hoặc vẫn còn yêu hắn ta, một điều gì đại loại như vậy.’

“ ‘Không.’ Cô lắc đầu, nhìn dòng nước tối đen. ‘Tôi không thể yêu một kẻ chuyên đi hỏi cung - một kẻ chuyên tra tấn - và có lẽ còn là một tên sát nhân. Và nếu tôi không chấp nhận anh ta vì tất cả lý do đó - thì trong quá khứ và ngay cả hiện tại - còn có nhiều điều khác buộc tôi phải cự tuyệt anh ta.’ Cô khẽ quay qua cha, nhưng không nhìn vào ánh mắt đăm đăm của cha. ‘Đó có thể là những điều nhỏ nhặt hơn, nhưng không phải không quan trọng. Anh ta không phải là người có lòng tốt. Anh ta không biết khi nào thì phải nói một điều gì đó để an ủi người khác, hoặc khi nào thì nên im lặng. Thực sự, anh ta không mấy quan tâm đến lịch sử. Anh ta không có đôi mắt xám hiền lành, đôi mày rậm và không bao giờ xắn tay áo lên tận khuỷu.’ Cha nhìn cô chăm chăm, và giờ đến lượt cô nhìn thẳng vào mặt cha với một sự can đảm đầy quyết tâm: ‘Tóm lại, vấn đề trầm trọng nhất của anh ta là… anh ta không phải là anh.’

“Không thể đoán cô đang nghĩ gì qua ánh mắt nhìn đăm đăm đó, nhưng sau đó một lát cô bắt đầu mỉm cười, tựa như phải gắng gượng, giống như phải tự đấu tranh với bản thân, và đó là nụ cười dễ thương nhất trong tất cả phụ nữ trong gia đình cô. Cha cũng nhìn cô chăm chăm, một sự tĩnh lặng đầy hoài nghi, và rồi siết chặt cô trong vòng tay, hôn đắm đuối. ‘Anh nghĩ gì?’ cô thì thầm ngay khi cha để cô có dịp. ‘Anh đang nghĩ gì vậy?’

“Chúng ta đứng ở đó rất lâu - có lẽ một giờ đồng hồ cũng nên - rồi cô bất chợt thoái lui, thốt ra một tiếng rên, và đưa tay lên cổ. ‘Gì vậy em?’ cha vội hỏi.

“Cô ngập ngừng một lát. ‘Vết thương của em,’ cô từ tốn nói. ‘Nó đã lành, nhưng đôi khi em thoáng thấy đau. Lúc nãy em vừa chợt nghĩ - nếu em không biết anh thì sao nhỉ?’

“Chúng ta lại đăm đăm nhìn nhau. ‘Để anh xem vết thương,’ cha nói. ‘Helen, cho anh xem vết thương nào.’

“Không nói lời nào, cô tháo khăn quàng và ngẩng cằm lên dưới ánh sáng đèn đường. Cha nhìn thấy trên làn da cổ khỏe mạnh hai vết màu tím, gần như đã liền miệng. Cha cảm thấy bớt sợ một chút; từ khi bị tấn công lần đầu đến nay, rõ ràng cô không bị cắn lần nào nữa. Cha cúi sát, liếm vào vết thương.

“ ‘Ôi, đừng, anh Paul!’ cô la lên, lùi lại.

“ ‘Không sao đâu,’ cha thì thầm. ‘Chính anh sẽ chữa lành vết thương.’ Cha nhìn vào mặt cô. ‘Em thấy đau à?’

“ ‘Không, dễ chịu chứ,’ cô thừa nhận, nhưng rồi lại đưa tay lên chỗ vết thương, gần như để che lại, và một lát sau quàng khăn lại. Cha biết, chính vì cô chỉ bị nhiễm nhẹ nên cha cần phải trông chừng cô cẩn thận hơn. Cha thò tay vào túi. ‘Lẽ ra chúng ta phải làm việc này lâu rồi. Anh muốn em mang cái này.’ Đó là một trong những thánh giá nhỏ của nhà thờ Saint Mary mà chúng ta đã mang theo từ quê nhà. Cha đeo nó vào cổ Helen, để cho cây thánh giá kín đáo nằm dưới chiếc khăn quàng. Dường như Helen buông một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi đưa tay sờ vào chiếc thánh giá.

“ ‘Anh biết đấy, em không phải là người theo đạo, và em cũng cảm thấy mình có quá nhiều tố chất của người làm khoa học…’

“ ‘Anh biết. Vậy lúc ở nhà thờ Saint Mary thì sao?’

“ ‘Lúc ở nhà thờ Saint Mary?’ Cô cau mày.

“ ‘Ở Mỹ, gần trường đại học. Khi đến đó để đọc những lá thư của thầy Rossi với anh, em đã vẩy nước thánh lên trán.’

“Cô trầm ngâm một lúc. ‘Vâng, đúng vậy. Nhưng đó không phải là đức tin. Chỉ là một cử chỉ xuất phát từ cảm giác nhớ nhà.’

“Chúng ta thong thả quay trở lại, lặng lẽ bước qua cầu và những con đường tối đen, đi tách khỏi nhau. Nhưng cha vẫn còn cảm nhận vòng tay cô ôm lấy người cha.

“ ‘Anh đến phòng em nhé,’ cha thì thầm khi trông thấy khách sạn.

“ ‘Ở đây không được đâu.’ Cha nghĩ bờ môi cô đã run lên. ‘Chúng ta đang bị theo dõi.’

“Cha không nhắc lại yêu cầu của mình và mừng vì ở quầy tiếp tân khách sạn đã có thứ khiến chúng ta lảng khỏi chuyện này. Lúc cha hỏi lấy chìa khóa phòng, tay nhân viên trực đã giao chìa khóa cho cha cùng với mảnh giấy có nguệch ngoạc những chữ tiếng Đức: Giáo sư Turgut có gọi và muốn cha gọi lại. Helen đứng chờ trong lúc cha làm thủ tục gọi điện thoại và không quên dúi ít tiền cho tay nhân viên - những ngày ở nơi chốn này, cha đã biết khom lưng cúi đầu một chút - và sau đó, miệt mài quay số một lúc lâu, cho đến khi nghe tiếng chuông ở phía bên kia, nghe rất xa. Turgut trả lời như gầm lên, rồi nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh. ‘Paul, quý hóa quá! Cám ơn trời vì anh đã gọi lại. Tôi có tin tức cho anh đây - tin quan trọng đấy!’

“Tim cha như muốn nhảy lên cổ họng. ‘Ông đã tìm thấy - Tấm bản đồ? Ngôi mộ? Hay ông Rossi?’

“ ‘Ồ không đâu, anh bạn, chẳng có gì kỳ diệu như vậy đâu. Nhưng lá thư Selim tìm thấy đã được dịch xong và đó là một tài liệu gây sửng sốt đấy. Nó được một tu sĩ Chính Thống giáo viết ở Istanbul, năm 1477. Anh nghe rõ chứ?’

“ ‘Vâng, rõ!’ cha hét to khiến tay nhân viên trực khách sạn nhìn cha trừng trừng, Helen trông có vẻ lo lắng. ‘Ông tiếp tục đi.’

“ ‘Năm 1477. Còn nhiều điều khác nữa. Tôi nghĩ điều quan trọng là anh phải hiểu được thông tin của lá thư này. Tôi sẽ đưa nó cho anh khi anh quay về vào ngày mai. Được chứ?’

“ ‘Được!’ cha lại hét lên. ‘Nhưng trong thư có nói là người ta đã chôn cất - hắn - ở Istanbul không?’ Helen lắc đầu, cha hiểu ý cô - đường dây có thể bị nghe lén.

“ ‘Theo lá thư đó thì tôi chưa thể nói gì,’ Turgut ồm ồm nói. ‘Tôi vẫn không chắc người ta chôn cất hắn ở đâu, nhưng khả năng chắc chắn là ngôi mộ không có ở đây. Tôi nghĩ anh phải sẵn sàng cho một chuyến đi khác thôi. Chắc hẳn anh sẽ lại cần đến sự giúp đỡ của bà bác tốt bụng kia đấy.’ Dù âm thanh bị nhiễu âm, cha vẫn nghe có nét mỉa mai trong giọng nói của ông ta.

“ ‘Một chuyến đi khác? Nhưng đi đâu?’

“ ‘Đến Bungari!’ Turgut hét lên, nghe rất xa.

“Cha nhìn Helen chằm chằm, ống nghe tuột ra khỏi tay. ‘Bungari ư?’ “
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


Vài năm trước đây, ngoài những lá thư của cha, tôi còn tìm thấy giữa đống giấy tờ của ông một bức thư không liên quan gì tới câu chuyện này, chỉ trừ việc đó là vật duy nhất gợi nhớ về tình yêu cha dành cho Helen mà nay tình cờ đang ở trong tay tôi. Cha chẳng khi nào giữ lại những ghi chép hàng ngày như vậy, còn những ghi chép bất chợt của riêng bản thân ông thì hầu như chỉ hoàn toàn liên quan đến công việc, như những suy ngẫm về các vấn đề ngoại giao, hoặc lịch sử, đặc biệt khi nó liên quan đến cuộc xung đột quốc tế nào đó. Những suy ngẫm ấy, cũng như các bài giảng và bài báo phát triển từ đó ra, giờ đang nằm trong cái thư viện do cha thành lập, và rốt cuộc, tôi chỉ được thừa hưởng một mẩu thư mà ông chỉ viết cho riêng mình - và cho Helen. Tôi biết cha là một người toàn tâm toàn ý với chân lý và lý tưởng chứ không phải với thơ ca, điều đó khiến tài liệu này càng trở nên quan trọng hơn đối với tôi. Bởi đây không phải một cuốn sách trẻ con, và cũng bởi tôi muốn cuốn sách càng đầy đủ tư liệu càng tốt, nên dù còn đôi chút lưỡng lự đắn đo tôi vẫn đưa bức thư vào đây. Hoàn toàn có khả năng cha đã viết những lá thư khác như thế này, nhưng với tính cách của mình thì có thể ông đã tiêu hủy chúng - có lẽ ông đã đốt chúng trong mảnh vườn nhỏ phía sau căn nhà ở Amsterdam của chúng tôi, nơi mà thời niên thiếu, thỉnh thoảng tôi phát hiện ra những mảnh giấy đã cháy thành than và không còn đọc được gì trong chiếc cối đá nhỏ - và lá thư này có thể tình cờ còn sót lại. Lá thư không đề ngày, vì vậy tôi đã lưỡng lự không biết xếp nó vào đâu theo trình tự thời gian. Tôi đưa lá thư vào ở thời điểm này vì nó nhắc đến những ngày đầu tiên của mối tình giữa họ, mặc dù nỗi khổ đau trong đó khiến tôi tin rằng cha đã viết lá thư khi không còn gửi nó cho Helen được nữa.

Em yêu, anh đã nhớ em biết bao. Tâm trí anh hoàn toàn thuộc về em, bởi những ngày này anh cứ không thôi nhớ về những giây phút đầu tiên ta bên nhau. Anh đã nhiều lần tự hỏi tại sao những tình cảm khác không thể thay thế sự hiện diện của em, và vì đâu lúc nào anh cũng ảo tưởng rằng chúng ta vẫn còn bên nhau, để rồi - dù muốn hay không - anh đành chấp nhận rằng em đã bắt giữ tâm trí anh làm con tin mất rồi. Lời em nói tràn ngập ký ức trong anh vào những lúc ít trông đợi nhất. Anh cảm nhận sức nặng bàn tay em trên tay anh, cả hai bàn tay đều nằm khuất dưới mép áo khoác của anh, chiếc áo được cuộn lại trên ghế ngồi giữa hai ta, khuôn mặt nghiêng nghiêng của em quay sang phía khác, tiếng trầm trồ của em khi ta cùng nhau bay vào vùng trời Bungari, khi ta lần đầu bay trên những đỉnh núi Bungari.

Em yêu, ngay từ thuở ta còn thanh xuân đã diễn ra cách mạng tình dục, một lễ hội say sưa hoan lạc như trong những thiên sử thi mà em không còn sống để chứng kiến - giờ đây, ít ra là ở các nước phương Tây, có vẻ như giới trẻ gặp gỡ nhau mà không e ngại gì. Nhưng anh vẫn nhớ về thời chúng ta bị cấm đoán với nỗi ước ao chẳng kém gì nhớ đến đêm tân hôn rất lâu sau đó của chúng ta. Đây là những ký ức anh không thể chia sẻ cùng ai: chúng ta đã quen thuộc đến cả những thứ người kia mặc, trong một tình huống mà cả hai ta đều phải trì hoãn không dám hoàn thành, cái cách cởi bỏ từng món quần áo trên người cũng là một câu hỏi cháy bỏng giữa chúng ta, để rồi anh nhớ rõ ràng đến khổ sở - ngay lúc anh không muốn nhớ nhất - cả cần cổ thanh tú lẫn nếp cổ áo mềm mại của em, chiếc áo mà anh đã thuộc nằm lòng từng đường nét bên ngoài trước cả khi những ngón tay anh lướt trên lớp vải hay chạm đến những hạt nút xà cừ. Anh nhớ mùi tàu xe và cả mùi xà phòng gắt nồng tỏa ra từ bờ vai chiếc áo khoác đen của em, nhớ chiếc mũ rơm đen ram ráp, cũng trọn vẹn như nhớ mái tóc nhung mượt mà gần như cùng một tông màu với mũ. Khi chúng ta dám ở cùng nhau nửa tiếng đồng hồ trong phòng khách sạn ở Sofia trước khi lại đi đến một bữa ăn u ám nữa, anh tưởng như nỗi ham muốn mãnh liệt sắp hủy hoại bản thân mình đến nơi. Khi em treo áo khoác lên ghế, rồi vắt chiếc áo cánh bên trên một cách chậm rãi và khoan thai, rồi khi em quay lại đối mặt với anh, mắt không rời khỏi mắt anh, anh đã đờ người ra vì cảm giác nóng rực. Khi em đặt tay anh lên hông em, và hai bàn tay anh phải chọn lựa giữa lớp vải váy láng mịn và làn da còn láng mịn hơn của em, anh tưởng như có thể khóc lên được.

Có lẽ đó là lúc anh nhận ra vết sẹo duy nhất của em - nơi duy nhất mà chắc sẽ chẳng bao giờ anh hôn lên - hình con rồng bé nhỏ cuộn tròn trên bả vai em. Chắc hẳn anh đã lướt tay qua đó trước khi anh nhìn thấy nó. Anh nhớ mình đã gần như nín thở - và em cũng vậy - khi anh nhận ra rồi ve vuốt con rồng bằng một ngón tay vừa e dè vừa hiếu kỳ. Đối với anh nó dần trở thành một phần trên tấm lưng mịn màng của em, nhưng trong khoảnh khắc đầu tiên ấy, nó đã khích động trong anh nỗi thèm muốn ghê gớm. Dầu cho chuyện này có xảy ra hay không trong cái khách sạn tại Sofia ấy, chắc hẳn anh đã phải nhận ra vết sẹo xung quanh thời điểm anh khắc sâu vào tâm trí mình gờ hàm dưới của em, cạnh khía sắc nhọn của những chiếc răng em, và làn da quanh mắt em, với những dấu hiệu đầu tiên của tuổi tác đan cài như mạng nhện...

Lá thư của cha ngắt ngang ở đó, và tôi chỉ còn cách trở lại với những lá thư ý tứ hơn cha viết cho tôi.

Phần Ba

Có một ngôi mộ vĩ đại,

nguy nga tráng lệ hơn tất cả

những ngôi mộ khác; vô cùng đồ sộ

và cân xứng. Trên đó chỉ

có một chữ độc nhất,

DRACULA.

- Bram Stoker, Dracula, 1897
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


“Turgut Bora và Selim Aksoy đang chờ chúng ta ở phi trườngIstanbul. ‘Paul!’ Turgut ôm hôn và vỗ vỗ lên vai cha. ‘Chào bà giáo sư!’ Ông bắt tay Helen bằng cả hai tay. ‘Ơn trời các bạn vẫn bình yên và mạnh khỏe. Chào mừng chiến thắng trở về!’

“ ‘Chà, tôi không gọi chuyến đi này là chiến thắng đâu,’ cha trả lời, bật cười dù không định thế.

“ ‘Chúng ta sẽ nói chuyện sau, chúng ta sẽ nói chuyện sau!’ Turgut vừa hét lên vừa vỗ mạnh lên lưng cha. Selim Aksoy nối tiếp tất cả những ồn ào đó bằng một câu chào trầm lặng hơn. Một giờ đồng hồ sau, chúng ta đã đứng trước cửa căn hộ của Turgut, nơi bà Bora rõ ràng là tươi hẳn nét mặt trước sự xuất hiện trở lại của chúng ta. Cả Helen và cha đều trầm trồ khi thấy bà: hôm nay bà diện bộ cánh màu xanh rất nhạt, trông như một đóa hoa xuân nhỏ bé. Bà nhìn chúng ta, vẻ bối rối. ‘Chúng tôi thích bộ đồ của bà quá!’ Helen reo lên và nắm bàn tay nhỏ nhắn của bà Bora trong bàn tay thanh mảnh của mình.

“Bà Bora cười lớn. ‘Cám ơn các bạn,’ bà đáp. ‘Còn tôi muốn lôi tất cả đám quần áo của mình ra tòa mà thôi.’ Sau đó, bà và Selim Aksoy mời chúng ta uống cà phê và ăn một món mà bà gọi là bưrek, bánh nướng nhân pho mát mặn, cùng một bữa tối năm sáu món.

“ ‘Nào, các bạn, kể cho tôi xem mình biết được những gì đi chứ.’

“Đó là một nhiệm vụ nặng nề, nhưng rồi cha và Helen vẫn cùng nhau kể cho ông những việc đã xảy ra tại hội nghị ở Budapest, cuộc gặp gỡ với Hugh James, câu chuyện của mẹ Helen, những lá thư của thầy Rossi; Turgut trố mắt lắng nghe khi cha mô tả việc Hugh James tìm thấy cuốn sách có hình con rồng. Khi kể lại chi tiết tất cả những chuyện đó, cha cảm thấy quả thực mình đã biết thêm được nhiều điều. Nhưng đáng buồn thay, chẳng điều nào cho biết thầy Rossi đang ở đâu.

“Đến lượt Turgut kể với chúng ta là họ đã gặp những rắc rối nghiêm trọng trong thời gian chúng ta vắng mặt ở Istanbul; hai đêm trước, người bạn tử tế của ông, ông bạn chuyên viên lưu trữ, đã bị tấn công lần thứ hai trong căn hộ mà lúc này ông ta đang tĩnh dưỡng. Người đầu tiên mà họ thuê trông nom ông ta đã ngủ khi đang làm nhiệm vụ và không trông thấy gì cả. Bây giờ họ đã có một người bảo vệ mới, người mà họ hy vọng sẽ cẩn thận hơn. Họ đang phòng ngừa mọi bất trắc, nhưng ông Erozan khốn khổ lại không được khỏe lắm.

“Họ cũng còn một tin tức khác. Turgut nốc tách cà phê thứ hai và bước vội về căn phòng làm việc ghê rợn của mình để lấy một thứ gì đó. (Cha thấy nhẹ cả người khi không bị mời vào căn phòng đó hôm nay). Turgut xuất hiện trở lại, mang theo một cuốn sổ và ngồi xuống bên cạnh Selim Aksoy. Cả hai nhìn chúng ta, vẻ trầm trọng. ‘Như đã nói với anh qua điện thoại, trong thời gian các bạn vắng mặt chúng tôi đã tìm thấy một lá thư,’ Turgut nói. ‘Nguyên bản lá thư được viết bằng tiếng Xlavơ, một ngôn ngữ cổ của các nhà thờ Thiên Chúa giáo. Như tôi đã nói với anh, lá thư do một tu sĩ đến từ vùng núi Carpates viết về những chuyến đi của ông ta đến Istanbul. Anh bạn Selim đã ngạc nhiên khi thấy lá thư không viết bằng tiếng Latin, nhưng có lẽ vị tu sĩ này là người Xlavơ. Tôi đọc lướt qua nhé?’

“ ‘Tất nhiên,’ cha trả lời, nhưng Helen đưa tay lên ngăn lại.

“ ‘Gượm đã nào, thưa giáo sư. Hai người đã tìm thấy lá thư ở đâu và như thế nào?’

“Turgut gật đầu vẻ đồng tình. ‘Thực ra, anh Aksoy đã tìm thấy nó trong trung tâm lưu trữ - nơi các bạn cùng viếng thăm với chúng tôi. Anh ấy mất ba ngày để xem xét tất cả bản thảo viết tay của thế kỷ mười lăm trong trung tâm lưu trữ đó và đã tìm thấy lá thư này trong một bộ tài liệu của các nhà thờ ngoại đạo - tức nhà thờ đạo Thiên Chúa giáo được phép duy trì hoạt động trong thời trị vì của Người Chinh phục và những Quốc vương kế vị ông ta. Không có nhiều bộ tài liệu như vậy trong trung tâm lưu trữ vì chúng thường được các tu viện, và nhất là giáo trưởng thành Constantinople lưu giữ lại. Nhưng một số tài liệu của nhà thờ đã lọt vào tay Quốc vương Mehmed, đặc biệt là các tài liệu liên quan đến những thỏa thuận mới đối với các nhà thờ dưới thời đế quốc - một thỏa thuận như vậy được gọi là một sắc chỉ. Thỉnh thoảng, vị Quốc vương này nhận những lá thư - người ta gọi là gì nhỉ? - thư thỉnh cầu về một vấn đề nào đó của nhà thờ, trong trung tâm lưu trữ cũng có những lá thư như vậy.’

“Turgut dịch nhanh lời Aksoy, anh muốn ông giải thích thêm một điều gì khác. ‘Vâng, anh bạn tôi muốn nói rõ về chuyện đó. Anh ta nhắc tôi là chẳng bao lâu sau khi chiếm được thành phố, Người Chinh phục đã bổ nhiệm một giáo trưởng mới cho người Thiên Chúa giáo, giáo trưởng Gennadius.’ Aksoy vừa lắng nghe vừa gật đầu lia lịa. ‘Và vị Quốc vương cùng Gennadius đã có mối giao tình rất thân mật - tôi đã nói với các bạn là Người Chinh phục rất khoan dung với tín đồ Thiên Chúa giáo trong đế quốc của mình một khi đã chinh phục được họ. Quốc vương Mehmed đã yêu cầu Gennadius viết một bản giải trình về đức tin Chính Thống giáo rồi cho dịch một bản dành cho thư viện riêng của mình. Trung tâm lưu trữ có một bản sao bản dịch này. Ngoài ra ở đó còn có bản sao các hiến chương của một vài nhà thờ được đệ trình lên Người Chinh phục. Trong khi lướt qua một trong các bản hiến chương của một nhà thờ ở Tiểu Á, anh Aksoy đã phát hiện ra lá thư này kẹp giữa hai trang bản hiến chương đó.’

“ ‘Cám ơn ông.’ Helen ngồi lại xuống ghế nệm.

“ ‘Than ôi, chúng tôi không thể đưa cho các bạn xem bản gốc, vì tất nhiên là chúng tôi không được phép mang lá thư đó ra khỏi trung tâm lưu trữ rồi. Nếu muốn, các bạn có thể đến xem tận mắt trong thời gian còn ở lại đây. Lá thư đó là một tờ giấy da nhỏ, một rìa bị xé rách và chữ viết tay rất đẹp. Bây giờ, tôi sẽ đọc bản dịch tiếng Anh. Xin nhớ đây là bản dịch của một bản dịch, và qua quá trình đó một vài điểm có thể không còn ý nghĩa nguyên thủy của nó.’

“Và ông đã đọc cho chúng ta bản dịch sau:

Thưa Đức cha tu viện trưởng Maxim Eupraxius:

Cầu xin ngài hãy lắng nghe kẻ hèn mọn tội lỗi này. Như tôi đã mô tả, đã có sự tranh luận gay gắt trong đội này kể từ hôm qua khi sứ mệnh của chúng tôi thất bại. Thành phố đó không phải là một nơi an toàn đối với chúng tôi, tuy vậy chúng tôi vẫn tin là mình không thể rời nơi đó mà chưa biết vật báu chúng ta tìm kiếm đã trở thành cái gì. Sáng hôm nay, nhờ ơn Đấng Toàn năng, một con đường mới đã mở ra, mà tôi phải ghi lại ở đây trình ngài. Sau khi nghe cha tu viện trưởng nơi chúng tôi trú ngụ nói về hoàn cảnh khốn cùng của chúng tôi, với tư cách là bạn thân của ngài, cha tu viện trưởng Panachrantos đã đích thân đến gặp chúng tôi ở Saint Irine. Ông ấy khoảng năm mươi tuổi và là một người nhân từ thánh thiện, trước đây ông đã sống một thời gian ở Great Lavra, Athos và từ nhiều năm nay là cha tu viện trưởng ở Panachrantos. Khi đến chỗ chúng tôi, ông bàn bạc riêng với cha tu viện trưởng chủ nhà và sau đó nói chuyện với chúng tôi ngay trong phòng cha tu viện trưởng chủ nhà, hoàn toàn bí mật, sau khi đã đuổi các giáo sinh và người hầu ra khỏi phòng. Ông bảo cho đến sáng nay ông vẫn chưa nghe nói đến sự hiện diện của chúng tôi ở nơi này, và chỉ biết được tin tức qua người bạn, người này không báo cho ông sớm hơn vì không muốn đưa ông và các tu sĩ vào vòng nguy hiểm. Tóm lại, ông tiết lộ với chúng tôi rằng cái mà chúng ta tìm kiếm đã được chuyển ra khỏi thành phố, đến một nơi an toàn trong vùng đất bị chiếm đóng của Bungari. Ông đã cho chúng tôi những chỉ dẫn tối mật để đi đến nơi đó an toàn, cũng như nói tên của thánh đường mà chúng tôi phải tìm. Chúng tôi định chờ ở đây một thời gian ngắn để báo cho ngài biết và nhận lệnh của ngài về chuyện này, nhưng hai cha tu viện trưởng cũng cho biết một vài tên vệ binh hoàng gia đã đến tra vấn cha giáo trưởng về sự biến mất của vật mà chúng ta đang tìm kiếm. Đối với chúng tôi, hiện tại phải lưu lại nơi này dù chỉ một ngày cũng là vô cùng nguy hiểm, chúng tôi sẽ an toàn hơn dù đang trên đường đi giữa những vùng đất ngoại đạo. Thưa Đức cha, xin ngài tha thứ cho việc chúng tôi ra đi khi chưa nhận được chỉ dạy của ngài, cầu Chúa và ngài ban phước lành cho quyết định của chúng tôi. Nếu cần thiết, tôi sẵn sàng hủy báo cáo này trước khi nó đến được tay ngài, và sẽ đích thân đến báo lại với ngài về việc tìm kiếm của chúng tôi, nếu lưỡi tôi chưa bị cắt mất.

Kẻ tôi tớ hèn mọn tội lỗi, Sư huynh Kiril

Tháng Tư, năm của Chúa 6985

“Khi Turgut dứt lời, tất cả lặng ngắt như tờ. Selim và bà Bora ngồi im lặng, Turgut bồn chồn đưa tay cào cào lên mái tóc bạc trắng bờm xờm. Helen và cha đưa mắt nhìn nhau.

“ ‘Năm của Chúa 6985 ư?’ cuối cùng cha thốt lên. “Con số đó có nghĩa gì?’

“ ‘Tài liệu thời Trung cổ được ghi ngày tháng theo lịch Cựu ước,’ Helen giải thích.

“ ‘Đúng vậy,’ Turgut gật đầu, ‘Năm 6985, theo lịch hiện đại, là năm 1477.’

“Cha không thể ngăn tiếng thở dài. ‘Đúng là một lá thư rất sinh động và rõ ràng là đầy quan ngại về một điều gì đó. Nhưng đến đây thì quá tầm hiểu biết của tôi rồi,’ cha nói, giọng chán nản. ‘Ngày tháng đề trên lá thư chắc chắn làm tôi nghĩ đến mối liên hệ nào đó với đoạn trích dẫn mà anh Aksoy đã phát hiện trước đây. Nhưng đâu có gì chứng tỏ vị tu sĩ viết lá thư này đến từ vùng Carpates? Và lý do nào khiến hai người nghĩ lá thư này có liên quan đến Vlad Dracula?’

“Turgut mỉm cười. ‘Vẫn những câu hỏi tuyệt vời như thường lệ, nhà điều tra trẻ tuổi ạ. Tôi sẽ cố gắng trả lời các câu hỏi đó. Như tôi đã kể với anh, anh Selim rất rành thành phố này, và khi phát hiện ra lá thư rồi hiểu rằng nó có thể hữu ích, anh ấy đã mang nó đến người trông coi thư viện của cái tu viện cổ vẫn còn tồn tại ở Saint Irine. Ông bạn này đã dịch lá thư sang tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tỏ ra rất quan tâm vì nó đề cập đến tu viện của ông ta. Tuy nhiên, ông ta không tìm thấy trong thư viện của mình tư liệu nào về một cuộc thăm viếng như vậy vào năm 1477 - hoặc chuyện đó không được ghi chép lại hoặc có thể bất kỳ tài liệu nào liên quan đã biến mất từ lâu.’

“ ‘Nếu sứ mệnh họ mô tả là một sứ mệnh bí mật và nguy hiểm,’ Helen phân tích, ‘họ sẽ không đời nào ghi lại.’

“ ‘Đúng vậy,’ Turgut gật đầu với Helen. ‘Dù sao chăng nữa, anh bạn ở tu viện của Selim đã giúp chúng tôi một việc quan trọng - anh ta tìm trong các câu chuyện nhà thờ cổ xưa nhất có ở đó và phát hiện ra Cha tu viện trưởng mà lá thư này gửi đến, ông Maxim Eupraxius, những năm cuối đời là một tu viện trưởng cao quý ở núi Athos. Nhưng năm 1477, khi lá thư này được viết ra, ông ấy là trưởng tu viện ở hồ Snagov.’ Turgut thốt ra những từ sau cùng kia với giọng gằn mạnh ra vẻ đắc thắng.

“Mọi người ngồi lặng im một lúc, dù trong lòng vô cùng khích động. Cuối cùng Helen phá vỡ sự yên lặng. ‘ “Chúng ta là người của Thượng đế, người đến từ vùng Carpates,” ’ cô thì thầm.

“ ‘Xin lỗi, cô vừa nói gì vậy?’ Turgut nhìn cô chằm chằm đầy vẻ quan tâm.

“ ‘Đúng rồi!’ cha tiếp lời Helen. ‘ “Người đến từ vùng Carpates.” Đó là lời một bài hát, một bài dân ca Rumani mà Helen phát hiện ra ở Budapest.’ Cha kể lại khoảng thời gian chúng ta lần giở lại cuốn sách dân ca cổ ở thư viện Đại học Budapest, bức tranh khắc gỗ ở đầu trang hình một con rồng và một nhà thờ nằm khuất giữa đám cây cối. Khi cha đề cập đến chi tiết đó, Turgut nhướn mày lên cao đến nỗi gần như chạm vào mái tóc bờm xờm, rồi cha lục lọi trong mớ giấy tờ của mình. ‘Nó ở đâu nhỉ?’ Một lát sau, cha tìm thấy bản dịch do chính tay mình viết giữa các tập hồ sơ trong cặp - Lạy Chúa, cha thầm nghĩ, nếu mình mất cái cặp này thì sao nhỉ! - rồi cha đọc to bản dịch đó cho tất cả bọn họ nghe, thỉnh thoảng dừng lại để chờ Turgut dịch cho Selim và bà Bora:

Họ đánh xe đến cổng, đến tận thành phố vĩ đại.

Họ đánh xe đến thành phố vĩ đại từ vùng đất chết.

“Chúng ta là người của Chúa, người đến từ vùng Carpates.

Chúng ta là những tu sĩ thánh thiện, nhưng chỉ mang theo những tin tức xấu xa.

Chúng ta mang đến thành phố vĩ đại này tin tức về một bệnh dịch.

Phụng sự chủ nhân, chúng ta than khóc cho cái chết của Người.”

Họ đánh xe đến tận cổng thành và thành phố khóc than cùng họ

Khi họ đi vào.

“ ‘Trời ơi, quả thực kỳ lạ và đáng sợ,’ Turgut thốt lên. ‘Chẳng lẽ tất cả những bài dân ca của dân tộc cô đều như vậy sao?’

“ ‘Vâng, phần lớn đều như vậy,’ Helen vừa trả lời vừa cười lớn. Cha nhận ra vì quá phấn khích mà trong hai phút vừa rồR cha đã quên bẵng rằng Helen vẫn đang ngồi sát bên cạnh. Khó khăn lắm cha mới ngăn mình không đưa tay ra nắm lấy tay cô, không nhìn chằm chằm vào nụ cười hay mớ tóc đen lòa xòa trên má cô.

“ ‘Và con rồng ở đầu trang, giữa đám cây cối - hẳn phải có một sự liên quan.’

“ ‘Ước gì tôi được thấy bức tranh đó nhỉ.’ Turgut thở dài. Rồi đột nhiên, ông vỗ mạnh vào gờ chiếc bàn bằng đồng làm cho cốc chén nảy bật cả lên. Bà Bora nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay ông, và Turgut vỗ vỗ lên bàn tay ấy vẻ trấn an. ‘Không - xem này - bệnh dịch!’ Ông quay qua Selim và cả hai trao đổi một tràng tiếng Thổ.

“ ‘Cái gì?’ Mắt Helen nhíu lại, vẻ tập trung cao độ. ‘Bệnh dịch trong bài hát đó ư?’

“ ‘Phải.’ Turgut vuốt ngược tóc ra phía sau. ‘Ngoài lá thư này, chúng tôi còn phát hiện ra một sự kiện khác ở Istanbul vào đúng thời kỳ đó - thực ra, đó là một điều mà anh bạn Aksoy đây đã biết rồi. Cuối mùa hè năm 1477, lúc thời tiết nóng bức nhất, đã xảy ra cái mà sử gia nước tôi gọi là một trận Tiểu Dịch. Nó đã cướp đi mạng sống của nhiều người trong khu Pera thành phố này - giờ chúng tôi gọi đó là khu Galata. Xác người chết bị đóng cọc vào tim trước khi đem đi thiêu. Anh Aksoy nói đây là điều khá bất thường, bởi bình thường thi thể của những người bất hạnh chỉ bị thiêu ngoài cổng thành để ngăn ngừa sự lây nhiễm. Nhưng đó chỉ là bệnh dịch xảy ra trong một thời gian ngắn và không làm chết nhiều người.’

“ ‘Ông có cho rằng các tu sĩ này, nếu họ cũng chính là những người trong bài hát, mang dịch bệnh này đến thành phố?’

“ ‘Lẽ tất nhiên là chúng tôi không biết,’ Turgut thừa nhận. ‘Nhưng nếu bài hát của các bạn đề cập đến cùng một nhóm tu sĩ ở bức thư...’

“ ‘Tôi đang nghĩ đến một điều.’ Helen đặt cốc cà phê xuống. ‘Em không nhớ đã nói với anh điều này chưa Paul ạ, nhưng trong lịch sử Vlad Dracula là một trong các chiến lược gia quân sự đầu tiên sử dụng - ngườR ta gọi là gì nhỉ? - bệnh tật trong chiến tranh.’

“ ‘Chiến tranh vi trùng,’ cha bổ sung. ‘Hugh James đã nói với anh như vậy.’

“ ‘Đúng rồi.’ Cô ngồi gập chân lại. ‘Suốt các cuộc xâm lấn xứ llachia của Quốc vương Mehmed, Dracula thường phái người đã nhiễm bệnh đậu mùa hoặc một bệnh dịch nào đó cải trang thành người Thổ và xâm nhập vào doanh trạR quân Thổ. Trước khi chết ở đó, những người này cố làm lây nhiễm cho càng nhiều người càng tốt.’

“Cha hẳn đã mỉm cười nếu câu chuyện không đáng sợ đến vậy. Ông hoàng xứ llachia quả là vừa vô cùng sáng tạo vừa có khả năng hủy diệt đáng sợ, một kẻ thù cực kỳ thông minh. Một lát sau cha nhận ra mình vừa mới nghĩ về ông ta như là một con người đương thời.

“ ‘Tôi hiểu.’ Turgut gật đầu. ‘Ý cô là, có lẽ nhóm tu sĩ này, nếu họ quả thực là cùng một nhóm với nhóm tu sĩ trong bài hát, là những người mang theo bệnh dịch từ llachia.’

“ ‘Tuy nhRên, vẫn còn một điều không giảR thích được.’ Helen cau mày. ‘Nếu một vài người trong số họ nhiễm bệnh, tại sao Cha tu vRện trưởng ở Sain Irine cho phép họ ở lại đó?’

“ ‘Thực vậy,’ Turgut lại thừa nhận. ‘Dù rằng nếu đó không phải là bệnh dịch mà là một loại lây nhiễm nào đó - nhưng cũng chẳng có cách nào để biết được.’ Chúng ta ngồi nghiền ngẫm trong tâm trạng chán nản.

“ ‘Nhiều tu sĩ Chính Thống giáo vẫn hành hương qua Constantinople ngay cả sau cuộc chinh phục,’ sau cùng Helen cũng lên tiếng trở lại. ‘Có thể đây chỉ là một nhóm những người hành hương.’

“ ‘Nhưng họ đang tìm kiếm một cái gì đó mà có vẻ như họ đã không tìm được trong chuyến hành hương của mình, ít ra là ở Constantinople,’ cha phân tích. ‘Và Sư huynh Kiril nói rằng họ sẽ hóa trang thành người hành hương để đi Bungari, như thể họ không phải là những người hành hương thực sự - ít nhất, đó dường như là điều ông ta muốn nói.’

“Turgut gãi đầu. ‘Aksoy cũng đã suy nghĩ về điều này,’ ông nói. ‘Anh ấy giải thích với tôi là suốt cuộc xâm lăng hầu hết các thánh tích quan trọng của Thiên Chúa giáo trong các nhà thờ tại Constantinople đều bị phá hủy hoặc đánh cắp - ảnh thánh, thánh giá, di hài các vị thánh. Dĩ nhiên là vào năm 1453 ở đây không còn nhiều vàng bạc châu báu như thời cực thịnh của thành phố Byzantium, những món đồ cổ đẹp đẽ nhất đã bị đánh cắp trong cuộc Thập tự chinh của dân Latin vào năm 1204 rồi mang về Rome, Venice và các thành phố phương Tây khác - chắc hẳn các bạn cũng biết chuyện đó.’ Turgut xòe đôi bàn tay ra phía trước, cử chỉ như bày tỏ sự phản đối. ‘Cha tôi đã kể với tôi về những chú ngựa tuyệt vời tại thánh đường San Marco ở Venice đã bị Thập tự quân đánh cắp ở Byzantium. Các bạn thấy đó, những kẻ xâm lăng Thiên Chúa giáo cũng tồi tệ đâu kém quân Thổ Nhĩ Kỳ. Dù sao chăng nữa, các bạn ạ, trong cuộc xâm lăng năm 1453, một vài vật báu của các nhà thờ đã được cất giấu, thậm chí một số còn được mang ra khỏi thành phố trước cuộc bao vây của Quốc vương Mehmed rồi được giấu trong các tu viện ngoại thành hoặc bí mật chuyển đến những xứ khác. Nếu các tu sĩ của chúng ta là người hành hương, có lẽ họ đến thành phố này với hy vọng viếng thăm một thánh vật nào đó nhưng rồi lại phát hiện ra vật này đã biến mất. Có lẽ đRều mà Cha tu viện trưởng của tu viện thứ hai kể với họ là câu chuyện về một ảnh thánh quan trọng nào đó đã được đưa đến Bungari an toàn. Nhưng chúng ta không có cách nào để biết rõ, qua lá thư này.’

“ ‘Giờ thì tôi đã hiểu vì sao ông muốn chúng tôi đi Bungari.’ Cha lại phải kìm nén lại cái thôi thúc muốn cầm tay Helen. ‘Mặc dù tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ làm thế nào để tìm hiểu thêm về câu chuyện này khi đến nơi, chưa nói đến việc làm sao để vào được đất nước đó. Ông chắc chắn chúng ta không còn chỗ nào để tìm kiếm ở Istanbul này chứ?’

“Turgut buồn bã lắc đầu và cầm lấy cốc cà phê ông bỏ quên nãy giờ. ‘Tôi đã sử dụng mọi nguồn thông tin có thể nghĩ đến, kể cả vài nguồn - tôi rất tiếc phải nói rằng - không thể tiết lộ với các bạn. Anh Aksoy đã xem xét khắp nơi, trong các cuốn sách của riêng anh, trong thư viện của bạn bè, trong các kho lưu trữ của trường đại học. Tôi đã nói chuyện với mọi sử gia có thể tìm được, kể cả một vị chuyên nghiên cứu về các nghĩa địa ở Istanbul - các bạn đã thấy các nghĩa địa xinh xắn của chúng tôi rồi đấy. Chúng tôi không tìm thấy bất kỳ sự đề cập nào đến vụ mai táng bất thường một người ngoại quốc ở đây, trong thời kỳ ấy. Có thể chúng tôi đã bỏ sót gì đó, nhưng trong một thời gian ngắn thì tôi không biết phải tìm ở nơi nào khác nữa.’ Ông nhìn chúng ta đăm đăm, vẻ nghiêm trang. ‘Tôi biết với các bạn phải đi Bungari là một việc rất khó khăn. Tôi cũng có thể đi, nhưng đối với tôi đó cũng là một việc thậm chí còn khó khăn hơn. Là người Thổ, thậm chí tôi còn không thể tham dự bất kỳ hội nghị học thuật nào của họ. Không dân tộc nào ghét con cháu của đế quốc Ottoman như người Bungari.’

“ ‘Ồ, còn có người Rumani,’ Helen trấn an ông, nhưng lời của cô đã được làm nhẹ đi bằng một nụ cười khiến Turgut đáp lại bằng một tiếng cười khúc khích.

“ ‘Nhưng - Chúa ơi.’ Cha lại ngồi dựa vào đám đệm trên trường kỷ, cảm giác như mình đang bị cuốn vào một trong những cơn sóng hão huyền càng lúc càng dồn dập dâng trào. ‘Tôi vẫn chưa nghĩ ra mình có thể tiến hành việc này như thế nào.’

“Turgut chồm tới, đặt bản dịch sang tiếng Anh lá thư của vị tu sĩ trước mặt cha. ‘Ông ta cũng không biết.’

“ ‘Ai kia chứ?’ cha rên lên.

“ ‘Sư huynh Kiril. Nghe đây, anh bạn, giáo sư Rossi mất tích từ khi nào?’

“ ‘Hơn hai tuần rồi,’ cha trả lời.

“ ‘Anh đừng để hao phí thời gian thêm nữa. Chúng ta đã biết Dracula không có trong hầm mộ của hắn ở Snagov. Chúng ta cho rằng hắn không được chôn ở Istanbul. Nhưng’ - ông gõ gõ lên tờ giấy - ‘đây là một chứng cứ. Về cái gì, chúng ta chưa biết, nhưng vào năm 1477, một ai đó từ tu viện Snagov đã đi Bungari - hoặc cố gắng tới đó. Đây là một việc đáng để tìm hiểu. Nếu anh không tìm thấy điều gì, anh cũng đã làm hết sức mình. Lúc đó anh có thể trở về nhà mà khóc thương ông thầy của mình với một tấm lòng thanh thản, còn chúng tôi, bạn anh, sẽ ghi nhớ mãi lòng dũng cảm của anh. Nhưng nếu anh không cố gắng, anh sẽ luôn băn khoăn và không bao giờ nguôi ngoai được nỗi buồn đau của mình.’

“Ông lại cầm bản dịch lên, rà ngón tay trên tờ giấy rồi đọc to, ‘ “Đối với chúng tôi, hiện tại phải lưu lại nơi này dù chỉ một ngày cũng là vô cùng nguy hiểm, chúng tôi sẽ an toàn hơn dù đang trên đường đi giữa những vùng đất ngoại đạo.” Đây, anh bạn. Hãy cất bản dịch này vào túi xách. Đây là bản của anh, bản tiếng Anh. Kèm theo đây là một bản tiếng Xlavơ mà ông bạn ở tu viện của anh Aksoy đã chép ra.’

“Turgut ngả người về phía trước. ‘Ngoài ra, tôi biết có một học giả ở Bungari mà các bạn có thể nhờ giúp đỡ. Tên ông ta là Anton Stoichev. Anh bạn Aksoy của tôi rất ngưỡng mộ các tác phẩm của ông ấy, vốn đã được xuất bản dưới nhiều thứ tiếng.’ Selim Aksoy gật đầu khi nghe cái tên đó. ‘Stoichev hiểu biết về vùng Balkan thời Trung cổ hơn bất kỳ người nào, đặc biệt là về Bungari. Ông ta ở gần Sofia - các bạn phảR hỏi thăm để tìm ra ông ấy.’

“Helen bất chợt nắm lấy tay cha, một cách công khai, khiến cha vô cùng ngạc nhiên; cha nghĩ chúng ta chưa nên công khai mối quan hệ ngay cả ở đây, trước những người bạn này. Cha thấy ánh mắt Turgut dừng lại nơi cử động nhỏ ấy. Những nếp nhăn nồng hậu chung quanh mắt và miệng ông như hằn sâu hơn, còn bà Bora nhìn chúng ta và nở nụ cười hiền hậu, đan đôi bàn tay nhỏ nhắn như tay con gái quanh đầu gối. Rõ ràng bà tán thành sự kết hợp của chúng ta, và cha như cảm nhận được những lời chúc phúc bất chợt từ những con người nhân hậu này.

“ ‘Được rồi, để em gọi cho bác em,’ Helen siết chặt tay cha và nói giọng dứt khoát.

“ ‘Bác Éva ư? Bác ấy có thể làm được gì?’

“ ‘Anh bRết đấy, bác Éva có thể làm bất kỳ điều gì.’ Helen mỉm cười với cha. ‘Không, em không biết chính xác bác ấy có thể hoặc sẽ làm gì. Nhưng bác ấy có bạn bè cũng như kẻ thù trong lực lượng cảnh sát mật của đất nước chúng ta’ - cô hạ giọng, có vẻ như một phản xạ vô điều kiện - ‘mà bọn họ thì lại có bạn bè khắp vùng Đông Âu này. Và lẽ dĩ nhiên, cả kẻ thù nữa - tất thảy bọn họ đều canh chừng lẫn nhau. Việc này có thể khiến bác ấy gặp chút nguy hiểm - đó là đRều duy nhất làm em cảm thấy hốR tiếc. Và chúng ta cũng sẽ cần một khoản đút lót rất, rất lớn đấy.’

“ ‘Tiền trà nước ấy mà.’ Turgut gật đầu. ‘Dĩ nhiên là vậy. Anh Selim và tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Các bạn có thể sử dụng hai mươi ngàn lia mà chúng tôi có. Và mặc dù không thể cùng đi với các bạn nhưng tôi sẽ hỗ trợ bất cứ việc gì có thể, anh Aksoy cũng vậy.’

“Lúc đó, cha nhìn sững ông, và cả Aksoy nữa - họ ngồi ngay trước mặt chúng ta, không đụng đến cốc cà phê, người thẳng đơ và nghiêm túc. Một nét gì đó trên mặt họ - khuôn mặt to hồng hào của Turgut, khuôn mặt thanh tú của Aksoy, sự tinh tường, điềm tĩnh nhưng cũng vô cùng cảnh giác trên gương mặt cả hai - bỗng trở nên quen thuộc với cha. Một cảm giác cha không thể gọi tên chợt trào dâng trong cha; trong khoảnh khắc, cảm xúc đó như níu lại câu hỏi trên miệng cha. Rồi cha siết tay Helen chặt hơn trong tay mình - bàn tay mạnh mẽ, rắn chắc mà thành thân thương ấy - và nhìn vào đôi mắt đăm đăm tối đen của Turgut.

“ ‘Ông là ai?’ cha gằn giọng.

“Turgut và Selim liếc nhìn nhau, và có vẻ như đang ngầm trao đổi một điều gì đó. Rồi Turgut lên tiếng, giọng trầm nhưng rõ ràng. ‘Chúng tôi phụng sự Quốc vương.’ ”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


“Helen và cha giật mình, lùi lại nép sát vào nhau. Trong một thoáng, cha nghĩ Turgut và Selim hẳn phải trong hàng ngũ của một thế lực tăm tối nào đó, và cha cố cưỡng lại mong muốn chộp lấy cái cặp và kéo tay Helen chạy thoát khỏi căn hộ đó. Ngoại trừ nhờ vào những phương cách huyền bí, làm sao hai người đàn ông này, những người mà cha đã từng xem là bạn, có thể phụng sự một vị Quốc vương đã chết từ lâu? Thực ra, tất cả các vị Quốc vương Hồi giáo đều đã chết từ lâu, vì vậy bất cứ vị nào mà Turgut đề cập đến đều không thể là người cõi trần này nữa. Và liệu ông ta có lừa dối chúng ta về nhiều chuyện khác?

“Cơn hoang mang của cha bị cắt ngang bởi giọng nói của Helen. Cô ngả người về phía trước, mặt tái nhợt, mắt mở to, nhưng câu hỏi của cô lại điềm tĩnh và vô cùng thiết thực trong tình huống đó - thiết thực đến mức phải mất một lúc cha mới hiểu được ý nghĩa câu hỏi đó. ‘Thưa giáo sư Bora,’ cô từ tốn hỏi, ‘ông bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?’

“Ông ta mỉm cười với Helen. ‘À, quý cô thân mến, nếu cô muốn hỏi có phải tôi năm trăm tuổi không, thì câu trả lời - may mắn thay - là không. Tôi phụng sự Đấng Cứu thế Vĩ đại và Quang vinh, Quốc vương Mehmed II, nhưng chưa bao giờ có niềm vinh dự vô song là được gặp mặt ngài.’

“ ‘Vậy thì ông đang cố nói với chúng tôi thứ quái quỷ gì thế?’ cha gần như quát lên.

“Turgut lại mỉm cười và Selim gật đầu với cha, vẻ mặt vẫn thân thiện. ‘Tôi không định nói với các bạn điều này,’ Turgut trả lời. ‘Tuy nhiên, các bạn đã tin cậy chúng tôi trong nhiều chuyện, và cũng vì cô đã nêu một câu hỏi rất sắc sảo, cô bạn ạ, cho nên tôi sẽ giải thích. Tôi ra đời một cách bình thường vào năm 1911 và hy vọng sẽ giã từ cõi đời trên giường mình một cách bình thường vào - ồ, khoảng ¬năm 1985.’ Ông cười khùng khục. ‘Tuy nhiên, những người trong gia đình tôi bao giờ cũng sống dai, rất thọ, vì vậy chắc hẳn tôi sẽ còn phải khổ sở lay lắt ngồi trên chiếc trường kỷ này vào lúc đã quá già, không còn ai trọng vọng mình nữa’. Ông quàng tay quanh vai bà Bora. ‘Anh Aksoy cũng ở cái tuổi mà các bạn đang nhìn thấy. Chẳng có gì quái lạ ở chúng tôi cả. Điều mà tôi sẽ tiết lộ với các bạn tới đây là bí mật thầm kín nhất không thể chia sẻ với bất kỳ ai, đó cũng là điều các bạn phải giữ kín dù xảy ra bất cứ chuyện gì, chúng tôi là thành viên vệ binh Trăng Lưỡi Liềm của Quốc vương.’

“ ‘Tôi nghĩ mình chưa từng được nghe nói về tổ chức này,’ Helen cau mày đáp lại.

“ ‘Chưa, giáo sư ạ, cô chưa nghe nói đâu.’ Turgut liếc nhìn Selim, anh vẫn ngồi kiên nhẫn lắng nghe, rõ ràng là đang cố bắt kịp những câu trao đổi giữa chúng ta, đôi mắt xanh biếc của anh tĩnh lặng như mặt hồ. ‘Chúng tôi tin rằng không ai từng nghe nói đến chúng tôi, ngoại trừ các thành viên. Chúng tôi được thành lập như một đội bí mật gồm những thành phần ưu tú nhất của vệ binh hoàng gia.’

“Cha bất chợt nhớ lại những gương mặt trai trẻ lạnh như tiền, mắt sáng quắc trên những bức tranh tại Cung điện Topkapi Saray, đội ngũ vững chắc của bọn họ tụ tập sát bên ngai vàng Quốc vương, gần đến độ có thể bổ nhào đến tấn công một kẻ nào đó bị tình nghi là thích khách - hoặc tấn công bất kỳ ai bất ngờ bị Quốc vương thất sủng.

“Turgut gật đầu, có vẻ như đọc được ý nghĩ của cha. ‘Tôi biết các bạn đã nghe nói đến đoàn vệ binh của Quốc vương. Chà, các bạn ạ, năm 1477, Quốc vương Mehmed Vĩ đại và Quang vinh đã cho gọi hai mươi sĩ quan tin cậy nhất và tinh nhuệ nhất trong lực lượng để bí mật ban cho họ biểu tượng vệ binh Trăng Lưỡi Liềm mới. Họ được trao một nhiệm vụ phải hoàn thành - nếu cần thiết thì sẵn sàng trả giá bằng mạng sống. Nhiệm vụ đó là ngăn chặn không cho Giáo đoàn Rồng gây thêm bất kỳ nỗi thống khổ nào cho đế quốc vĩ đại của chúng tôi và tìm giết các thành viên của Giáo đoàn này ở bất kỳ nơi chốn nào có thể.’

“Cả Helen và cha đều há hốc miệng kinh ngạc, nhưng lần này cha nhận ra vấn đề trước cô ấy. ‘Vệ binh Trăng Lưỡi Liềm được thành lập năm 1477 - năm các tu sĩ kia đến Istanbul!’ cha vừa nói vừa suy nghĩ để mong tìm được lời giải. ‘Nhưng Giáo đoàn Rồng do Hoàng đế Sigismund thành lập trước đó rất lâu - vào năm 1400, đúng không?’

“ ‘Chính xác là năm 1408, anh bạn ạ. Dĩ nhiên. Trước năm 1477, các vị Quốc vương đã gặp khá nhiều khó khăn với Giáo đoàn Rồng và những cuộc chiến do họ gây ra với đế quốc. Nhưng đến năm 1477, Đấng Cứu thế Quang vinh nhận định rằng trong tương lai có thể còn có những cuộc đột kích tệ hại hơn của Giáo đoàn Rồng.’

“ ‘Ý ông là sao?’ Bàn tay Helen vẫn bất động trong tay cha, lạnh buốt.

“ ‘Thậm chí hiến chương của chúng tôi cũng không trực tiếp nêu ra vấn đề này,’ Turgut thừa nhận, ‘nhưng tôi chắc chắn việc Quốc vương thành lập vệ binh Trăng Lưỡi Liềm chỉ vài tháng sau cái chết của Vlad Ţepeş không phải là một sự trùng hợp.’ Ông ta chắp hai tay lại, tựa như đang cầu nguyện - mặc dù cha chợt nhớ là tổ tiên ông ta phải quỳ úp mặt xuống đất để cầu nguyện. ‘Hiến chương đó nêu rõ là Đức Hoàng thượng đã thành lập vệ binh Trăng Lưỡi Liềm để truy kích Giáo đoàn Rồng, kẻ thù đáng gờm nhất của đế quốc vĩ đại, ở mọi lúc mọi nơi, trên đất liền, trên mặt biển, và thậm chí sau cái chết.’

“Turgut chồm tới trước, ánh mắt rực sáng, mái tóc như bờm sư tử bạc trắng xù lên hoang dại. ‘Tôi cho rằng Đức Quốc vương Vĩ đại đã cảm nhận, hoặc thậm chí biết được mối nguy hiểm mà Vlad Dracula có thể gây ra cho Đế quốc sau cái chết của hắn - của Dracula.’ Ông vuốt ngược mái tóc. ‘Như chúng ta biết, thời gian đó Quốc vương cũng cho sưu tầm các tài liệu về Giáo đoàn Rồng - trung tâm lưu trữ không phải là một cái gì bí mật, nhưng nó được các thành viên chúng tôi bí mật sử dụng, và hiện nay vẫn vậy. Còn bây giờ, lá thư kỳ lạ anh Selim phát hiện và bài ca dân gian của cô đây - những thứ này đã chứng tỏ một cách rõ ràng hơn rằng Đức Hoàng thượng Quang vinh đã có lý khi lo lắng như vậy.’

“Đầu óc cha vẫn sôi sục với những băn khoăn. ‘Nhưng làm thế nào mà ông - và anh Aksoy - gia nhập đội vệ binh này?’

“ ‘Tư cách thành viên được người cha truyền cho người con trai cả. Mỗi người con trai được - tiếng Anh gọi là gì nhỉ? - kết nạp vào năm mười chín tuổi. Người cha sẽ mang bí mật đó xuống mồ nếu ông ta chỉ có những đứa con trai không xứng đáng, hoặc không có con trai.’ Cuối cùng thì Turgut cũng nhấc cốc cà phê bỏ quên lên uống, và bà Bora lại bước đến rót đầy cốc cho chồng. ‘Vệ binh Trăng Lưỡi Liềm được giữ bí mật đến độ các vệ binh hoàng gia khác cũng không biết vài đồng đội của họ thuộc về một nhóm như vậy. Người Chinh phục vĩ đại của chúng tôi qua đời năm 1481, nhưng đội vệ binh Trăng Lưỡi Liềm của ngài vẫn tiếp tục tồn tại. Đôi khi dưới thời các vị Quốc vương yếu kém hơn, lực lượng vệ binh hoàng gia trỗi dậy thành một thế lực lớn mạnh, nhưng chúng tôi vẫn giữ được bí mật của mình. Rốt cuộc, khi đế chế tan rã, không còn tồn tại ngay cả ở Istanbul, không ai biết về chúng tôi và chúng tôi vẫn tồn tại. Hiến chương của chúng tôi được cha anh Aksoy gìn giữ an toàn trong suốt cuộc Thế chiến I, và được anh Selim bảo quản trong cuộc chiến vừa qua. Hiện tại, anh ấy vẫn đang gìn giữ nó ở một chỗ bí mật theo như truyền thống của chúng tôi.’ Turgut ngừng lại để lấy hơi rồi nhấp một ngụm cà phê.

“ ‘Tôi cứ nghĩ,’ Helen cắt ngang, giọng thoáng vẻ nghi ngờ, ‘ông nói cha mình là người Ý chứ. Sao ông ta lại ở trong vệ binh Trăng Lưỡi Liềm được?’

“ ‘Đúng thế.’ Turgut gục gặc đầu trên cốc cà phê. ‘Thực ra, ông ngoại tôi là một thành viên rất tích cực của đội vệ binh và không thể chịu nổi việc đội sẽ tiêu vong khi mình chết đi, nhưng ông chỉ có một người con gái. Khi ông nhận thấy đế chế sẽ vĩnh viễn không thể khôi phục trong đời mình...’

“ ‘Mẹ ông ư!’ Helen thốt lên.

“ ‘Đúng vậy.’ Turgut cười bâng khuâng. ‘Cô không phải là người duy nhất ở đây có thể khẳng định mình có một bà mẹ đáng nể đâu. Có lẽ tôi đã kể với các bạn rồi, mẹ tôi là một trong những phụ nữ được giáo dục tốt nhất đất nước này vào thời của bà - thực vậy, một trong số rất ít người được giáo dục đầy đủ và xuất sắc - và ông ngoại đã truyền lại cho mẹ tôi tất cả kiến thức và tham vọng của ông cũng như chuẩn bị cho bà phục vụ trong đội vệ binh mà không tiếc bất cứ điều gì. Bà đã tỏ ra quan tâm tới kỹ thuật từ khi nó vẫn còn là một ngành khoa học mới mẻ ở chốn này, vậy nên sau lễ kết nạp mẹ tôi vào đội vệ binh, ông đã cho phép bà đến Rome học tập - ông ngoại tôi có bạn bè ở đó. Bà rất xuất sắc về môn toán cao cấp và có thể đọc bốn thứ tiếng, trong đó có tiếng Hy Lạp và Ả-rập.’ Turgut nói gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với bà vợ và Selim, cả hai gật đầu tỏ vẻ đồng ý. ‘Bà có thể cưỡi ngựa không thua bất kỳ kỵ binh nào của các Quốc vương, và bắn súng cũng chẳng kém ai nữa, mặc dù rất ít người biết về điều này.’ Đến đây ông nháy mắt với Helen, và cha nhớ ra khẩu súng nhỏ của cô - cô cất nó ở đâu nhỉ? ‘Từ ông ngoại tôi, bà cũng biết được rất nhiều điều về truyền thuyết ma cà rồng và cách bảo vệ người sống khỏi những mưu ma chước quỷ của hắn. Hình bà ở kia, các bạn muốn xem chứ.’

“Ông đứng dậy và mang lại tấm hình trên một cái bàn chạm khắc trong góc rồi nhẹ nhàng đặt nó vào tay Helen. Đó là một tấm hình ấn tượng, với độ rõ ràng tinh vi tuyệt vời theo kiểu các bức ảnh chân dung từ đầu thế kỷ. Người thiếu phụ, hẳn đã phải ngồi làm mẫu rất lâu trong một tiệm ảnh ở Istanbul để chụp tấm hình đó, trông vẫn kiên nhẫn và điềm tĩnh, nhưng người thợ ảnh, bên dưới tấm vải trùm lớn màu đen của mình, đã thu được vào ống kính sự thích thú ánh lên trong mắt bà. Nước da nâu đỏ trông không chê vào đâu được trên nền trang phục màu đen. Gương mặt bà giống gương mặt Turgut, nhưng mũi và cằm của bà thanh tú hơn so với nét nặng nề của ông, khuôn mặt đó nở ra như một đóa hoa tươi thắm trên cuống hoa là cần cổ cao thanh mảnh - gương mặt của một nàng công chúa Ottoman. Mắt bà chạm mắt cha với ánh nhìn hóm hỉnh ấy, và bất chợt cha cảm thấy tiếc nuối vì những năm tháng đã chia cắt giữa chúng ta.

“Turgut lại cầm chiếc khung hình nhỏ bé trong tay, vẻ trìu mến. ‘Ông ngoại tôi đã có một chọn lựa khôn ngoan khi phá vỡ truyền thống, biến mẹ tôi thành một thành viên đội vệ binh. Chính bà là người đã tìm thấy một số tài liệu của trung tâm lưu trữ chúng tôi nằm rải rác trong các thư viện khác và mang chúng về lại với bộ sưu tập. Khi tôi lên năm, bà đã hạ một con sói tại căn nhà nghỉ hè ở miền quê của chúng tôi, và khi tôi lên mười một, bà dạy tôi cưỡi ngựa và bắn súng. Cha tôi rất yêu mẹ, dù bà làm ông phát hoảng vì sự can đảm của bà - ông luôn nói ông đã bỏ thành Rome theo bà về Thổ Nhĩ Kỳ chỉ để thuần hóa bà. Giống như các bà vợ tin cẩn nhất của thành viên đội vệ binh, cha tôi biết tư cách thành viên của mẹ và không ngơi lo lắng cho sự an toàn của bà. Cha tôi kìa...’ Ông trỏ một bức chân dung sơn dầu treo cạnh cửa sổ mà trước đó cha đã để ý. Người đàn ông đang nhìn ra từ bức tranh trông rắn chắc, phong lưu, ưa nhìn, mặc quần áo tối màu, tóc và mắt đen nhánh, vẻ mặt nhân hậu; Turgut cho biết cha ông là một sử gia chuyên về thời Phục hưng của Ý, nhưng cha có thể dễ dàng hình dung người đàn ông trong bức chân dung chơi bi với đứa con trai nhỏ trong khi bà vợ thì hướng thằng bé vào một nền giáo dục khắc nghiệt hơn.

“Helen cựa quậy, kín đáo duỗi thẳng chân bên cạnh cha. ‘Ông nói ông ngoại ông là một thành viên tích cực của vệ binh Trăng Lưỡi Liềm. Điều đó nghĩa là sao? Và các hoạt động của đội vệ binh là gì?’

“Turgut lắc đầu vẻ hối tiếc. ‘Xin lỗi, chuyện đó thì tôi không thể tiết lộ chi tiết với hai bạn được. Có một vài vấn đề cần giữ kín. Chúng tôi kể cho các bạn nhiều thế này vì các bạn đã hỏi - và gần như đã đoán ra - và bởi chúng tôi muốn các bạn tin tưởng hoàn toàn vào sự trợ giúp của chúng tôi. Đội vệ binh cũng có lợi nếu các bạn đi Bungari, và đi càng sớm càng tốt. Ngày nay, đội chỉ còn lại vài người, rất ít ỏi.’ Ông thở dài. ‘Than ôi, tôi lại chẳng có con trai - hoặc con gái - để truyền lại niềm kỳ vọng của mình, dù anh Aksoy cũng đang nuôi dạy một người cháu theo truyền thống của chúng tôi. Nhưng các bạn có thể tin tưởng rằng tất cả sức mạnh quyết tâm của đế chế Ottoman sẽ đồng hành cùng các bạn, không cách này thì cách khác.’

“Cha lại phải cố kìm nén để không rên lên. Cha có thể tranh cãi với Helen, có lẽ vậy, nhưng tranh biện với sức mạnh bí mật của đế chế Ottoman thì quả là ngoài khả năng của cha. Turgut giơ một ngón tay lên. ‘Tôi phải cảnh báo các bạn một điều, cảnh báo rất nghiêm túc đấy. Tôi đã trao vào tay các bạn một bí mật được gìn giữ cẩn thận - và gìn giữ thành công, chúng tôi tin như vậy - trong suốt năm trăm năm. Chúng tôi không có lý do gì để nghĩ rằng tên cựu thù kia biết được bí mật này, mặc dù thời còn sống chắc chắn hắn căm ghét và sợ hãi thành phố của chúng tôi. Trong hiến chương của đội, Đức Quốc vương Vĩ đại đã đề ra luật lệ. Bất kỳ kẻ nào phản bội làm lộ bí mật của đội vệ binh cho kẻ thù sẽ bị trừng phạt bằng cách xử tử hình ngay tức khắc. Theo tôi biết, việc này chưa bao giờ xảy ra. Nhưng vì lợi ích của riêng các bạn cũng như của chúng tôi, tôi yêu cầu các bạn thận trọng.’

“Giọng Turgut không có dấu hiệu của ác ý hoặc đe dọa mà chỉ ẩn chứa vẻ trang nghiêm, cha còn nghe được trong đó lòng trung thành không thể lay chuyển, lòng trung thành đã biến vị Quốc vương của ông ta trở thành Người Chinh phục Thành phố Vĩ đại này, thành phố kiêu hãnh và bất bại trước đây của đế quốc Byzantine. Khi thốt lên ‘Chúng tôi phụng sự Quốc vương,’ ông đã nói hoàn toàn nghiêm túc, mặc dù ông ra đời cả năm trăm năm sau cái chết của Quốc vương Mehmed. Bên ngoài cửa sổ phòng khách, mặt trời đang lặn xuống thấp hơn, một tia nắng hồng rọi khuôn mặt to bè của Turgut khiến ông bỗng như cao quý hẳn lên. Trong một thoáng, cha nghĩ thầy Rossi sẽ có thể bị Turgut mê hoặc đến thế nào, thầy sẽ nhìn ông ta như cả một pho sử sống ra sao, và cha cũng băn khoăn những câu hỏi nào thầy Rossi có thể nêu ra với ông ta - những câu hỏi mà thậm chí chính cha cũng chưa thể hình thành trong đầu.

“Tuy nhiên, chính Helen lại là người nói điều thích hợp. Cô đứng dậy, làm tất cả chúng ta đứng lên theo, rồi cô chìa tay ra với Turgut. ‘Chúng tôi rất vinh dự vì ông đã kể cho chúng tôi bí mật đó,’ cô nói, nhìn thẳng vào mặt ông vẻ tự hào. ‘Chúng tôi sẽ gìn giữ bí mật của các ông cũng như di nguyện của Quốc vương bằng mạng sống của mình.’ Turgut hôn lên tay Helen, rõ ràng đang xúc động, còn Selim Aksoy thì cúi mình trước cô. Có vẻ như cha không cần phải nói thêm điều gì; tạm thời gác qua một bên lòng thù hận truyền thống của dân tộc mình đối với những kẻ áp bức Ottoman, Helen đã nói thay cho cả hai chúng ta.

“Chúng ta có thể đứng như vậy cả ngày, lặng yên nhìn nhau trong ánh chiều tà dần buông nếu điện thoại của Turgut không đột ngột reo. Ông cúi đầu tỏ ý xin lỗi rồi băng ngang qua căn phòng để trả lời điện thoại, còn bà Bora thì bắt đầu dọn dẹp những gì còn lại của bữa ăn vào một khay đồng. Turgut lắng nghe người gọi đến một lúc, trả lời vẻ khá xúc động, rồi đột ngột gác ống nghe. Ông quay sang Selim và liến thoắng câu gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, anh chàng này nhanh chóng choàng lên người chiếc áo khoác xộc xệch.

“ ‘Có chuyện gì xảy ra sao?’ cha hỏi.

“ ‘Đúng vậy, chao ôi.’ Turgut vỗ mạnh tay lên ngực. ‘Ông thủ thư, ông Erozan. Người tôi để lại để trông chừng ông ta đã ra ngoài một lát, và anh ta vừa điện báo ông bạn chúng ta lại bị tấn công. Ông Erozan hiện đang bất tỉnh, anh ta sẽ đi gọi bác sĩ. Việc này rất nghiêm trọng. Đây là lần tấn công thứ ba, và ngay lúc hoàng hôn.’

“Sửng sốt, cha vớ lấy chiếc áo khoác, Helen vội mang giày vào dù bà Bora đã đặt tay lên cánh tay cô để trấn an. Turgut hôn tạm biệt vợ, và khi chúng ta vội vã ra khỏi nhà, cha quay lại, thấy bà vẫn đứng ở cửa căn hộ, tái mét và hoảng sợ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


“Mình ngủ ở đâu đây?” Barley thốt lên vẻ nghi ngại. Chúng tôi đang trong phòng khách sạn ở Perpignan, một căn phòng đôi có được bằng cách nói với người trực khách sạn lớn tuổi chúng tôi là anh em. Dù nhìn từ người này sang người kia bằng ánh mắt ngờ vực, nhưng ông ta đã cho chúng tôi thuê phòng mà không hỏi một lời nào. Cả Barley và tôi đều biết chúng tôi không đủ tiền để thuê hai phòng riêng. “Sao đây?” Barley thốt lên, giọng hơi nôn nóng. Chúng tôi nhìn vào cái giường. Chẳng còn chỗ nào khác, thậm chí không có lấy một tấm thảm trên nền nhà trơ trụi và bóng láng. Rốt cuộc Barley cũng đưa ra quyết định - ít nhất là cho bản thân mình. Trong khi tôi cứ đứng trơ một chỗ, Barley bước vào phòng tắm cùng với mấy thứ áo quần và chiếc bàn chải đánh răng, vài phút sau xuất hiện trở lại trong bộ đồ ngủ vải bông sáng màu như mái tóc anh.

Có gì đó trong tình cảnh này và sự giả vờ lạnh nhạt bất thành của Barley làm tôi bật cười dù hai má đang nóng bừng, và anh cũng bắt đầu cười. Cả hai chúng tôi cười rũ rượi cho đến lúc mặt ràn rụa nước mắt - Barley gập đôi người lại, hai tay ôm ngang thắt lưng còm nhom, còn tôi thì phải bám vào cái tủ cũ kỹ tối màu. Tiếng cười cuồng loạn như giúp chúng tôi xóa sạch tất cả: sự căng thẳng của chuyến đi, nỗi sợ hãi của tôi, lời trách móc của Barley, những lá thư đau khổ của cha, những tranh cãi giữa chúng tôi. Nhiều năm sau này, tôi học được từ fou rire - một tràng cười như điên - và ở đó, trong một khách sạn nước Pháp, là lần đầu tiên tôi cười như điên. Fou rire đầu tiên của tôi tiếp nối bằng những “đầu tiên” khác, khi chúng tôi ngã vào nhau. Barley chộp lấy vai tôi không được nhẹ nhàng cho lắm, hệt như khi tôi bám vào tủ quần áo trước đó vậy, nhưng nụ hôn của anh là một nụ hôn thiên thần ngọt ngào, kinh nghiệm trẻ trung của anh mềm mại áp vào sự non nớt vụng dại của tôi. Cũng như tràng cười điên dại, nụ hôn đó làm tôi như đứt hơi, thở hổn hển.

Tất cả kiến thức trước đây của tôi về chuyện làm tình là từ những cuốn phim đứng đắn và các cuốn sách khó hiểu, vậy nên tôi hầu như không biết phải làm thế nào. Tuy nhiên, Barley đã làm thay và tôi chỉ biết vụng về tuân theo với vẻ biết ơn. Lúc nhận ra cả hai chúng tôi đang nằm dài trên chiếc giường gọn gàng và cũ mèm kia, tôi đã học được gì đó về thỏa thuận giữa những cặp tình nhân và mớ quần áo của họ. Dường như với tôi, mỗi món áo quần đều là một quyết định quan trọng, trước hết là chiếc áo ngủ của Barley; chiếc áo cởi ra phơi bày một thân hình trắng như tuyết và bờ vai vạm vỡ đáng kinh ngạc. Việc cởi bỏ áo cánh và chiếc nịt ngực trắng xấu xí hầu như là quyết định của tôi hơn là của anh. Barley thủ thỉ với tôi rằng anh yêu màu da của tôi vì nó khác hẳn màu da anh, và thực vậy, khi đặt cạnh cánh tay trắng như tuyết của Barley chưa bao giờ tay tôi hiện lên màu ô liu rõ ràng như vậy. Anh lướt lòng bàn tay trên người tôi, trên những món quần áo còn sót lại, và lần đầu tiên tôi cũng làm như vậy với anh, khám phá những đường nét lạ lẫm trên cơ thể một người đàn ông; dường như tôi đang e thẹn dò dẫm những miệng núi lửa trên mặt trăng. Tim tôi đập mạnh đến độ tôi e là Barley cũng cảm nhận được nó đang đập thình thịch lên lồng ngực anh.

Thực ra, còn quá nhiều điều để làm, để chú ý, đến nỗi chúng tôi không cởi bỏ thêm thứ quần áo nào nữa, và dường như biết bao thời gian đã trôi qua khi Barley cuộn người quanh tôi, buông một tiếng thở dài và thì thầm, ‘Em đúng là cô bé con,’ rồi quàng tay ôm siết vai tôi, cổ tôi.

Khi anh thốt lên những lời đó, tôi chợt nhận ra anh cũng chỉ là một đứa bé - một đứa bé đúng nghĩa. Chính giây phút ấy, tôi thấy mình yêu anh hơn bao giờ hết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


“Căn hộ thuê nơi Turgut tạm bố trí cho ông Erozan ở có lẽ chỉ cách căn hộ của ông mười phút đi bộ - hoặc mười phút chạy bộ, bởi tất cả chúng ta gần như đã chạy, ngay cả Helen cũng cố rảo bước theo kịp dù đi giày cao gót. Turgut lẩm bẩm không thành tiếng (và chửi thề, cha đoán vậy). Ông mang theo một túi xách nhỏ màu đen, cha nghĩ trong đó đựng thuốc men phòng khi bác sĩ không đến hoặc chưa kịp đến. Cuối cùng chúng ta cũng nhận ra mình đang leo lên cầu thang gỗ một ngôi nhà cũ kỹ. Chúng ta lao theo sau Turgut, rồi ông mở bật một cánh cửa tầng trên cùng.

“Ngôi nhà có vẻ như được chia thành nhiều căn hộ nhỏ tồi tàn; đồ đạc trong gian chính của căn hộ này chỉ có một cái giường, mấy chiếc ghế, một cái bàn và một ngọn đèn chiếu sáng duy nhất. Ông bạn của Turgut nằm đắp mền trên sàn, bên cạnh ông ta, một người đàn ông trạc ba mươi lắp ba lắp bắp đứng lên chào chúng tôi. Anh ta sợ hãi và hối hận đến độ gần như hoảng loạn; anh ta cứ vặn vẹo hai bàn tay và kể đi kể lại với Turgut chuyện gì đó. Gạt anh ta qua một bên, Turgut và Selim quỳ xuống bên cạnh ông Erozan. Gương mặt của nạn nhân khốn khổ tái mét, mắt nhắm nghiền, hơi thở hổn hển và dồn dập. Có một vết rách xấu xí ở cổ, không lớn hơn vết chúng ta thấy lần trước nhưng trông lại kinh khủng hơn vì dù nham nhở nhưng vết thương lại sạch sẽ đến kỳ cục, chỉ có một viền máu quanh rìa. Cha chợt nghĩ một vết rách sâu như vậy lẽ ra phải chảy máu rất nhiều, và một khi nhận ra điều đó, bụng cha quặn lên buồn nôn. Cha quàng tay quanh Helen, và chúng ta cứ đứng nhìn chăm chăm, không thể quay mặt đi.

“Turgut đang xem xét vết thương mà không chạm vào đó, và rồi ông ngước nhìn lên chúng ta. ‘Một vài phút trước đây, thằng khốn kiếp này đã đi tìm một bác sĩ lạ mà không hỏi ý kiến tôi, nhưng ông bác sĩ đó không có nhà. Ít nhất, đó cũng là một điều may mắn, bởi chúng ta đâu có cần một ông bác sĩ ở đây lúc này. Nhưng hắn đã bỏ mặc ông Erozan một mình ngay vào lúc hoàng hôn.’ Turgut nói gì đó với Aksoy khiến anh đột ngột đứng dậy - và bằng một sức mạnh mà cha không thể ngờ - đánh đuổi gã bảo vệ bất hạnh khỏi phòng. Gã giật lùi, và rồi chúng ta nghe tiếng bước chân hoảng sợ của gã lao xuống cầu thang. Selim khóa cửa lại và nhìn qua cửa sổ xuống phố, tựa như để đảm bảo với chính mình rằng gã bảo vệ kia sẽ không trở lại. Sau đó, anh ta quỳ xuống cạnh Turgut và cả hai thì thầm hội ý với nhau.

“Một lát sau, Turgut thò tay vào trong chiếc túi xách ông mang theo. Cha thấy ông lôi ra một thứ đã quen thuộc với mình: một bộ đồ nghề săn lùng ma cà rồng, tương tự như bộ ông đã trao cho cha hơn một tuần trước đây trong phòng làm việc, chỉ có điều bộ này chứa trong một cái hộp xinh xắn hơn, trang trí bởi những dòng chữ Ả-rập và thứ gì đó giống như khảm xà cừ. Turgut mở hộp và lôi tất cả mớ đồ nghề bên trong ra. Rồi ông lại ngẩng nhìn lên chúng ta. ‘Các bạn ạ,’ ông lặng lẽ nói, ‘ông bạn của tôi đã bị gã ma cà rồng kia cắn ít nhất là ba lần, và ông ta đang hấp hối. Nếu để ông ta chết tự nhiên trong tình trạng này, chẳng bao lâu ông ta cũng sẽ trở thành quỷ nhập tràng.’ Ông đưa bàn tay to tướng lên chùi trán. ‘Đây là một thời điểm khủng khiếp, và tôi buộc phải yêu cầu cô rời khỏi phòng. Cô gái ạ, cô không nên chứng kiến cảnh này.’

“ ‘Cho phép chúng tôi làm bất cứ việc gì để giúp ông,’ cha ngần ngại lên tiếng, nhưng Helen đã bước tới.

“ ‘Hãy cho tôi ở lại đây,’ cô trầm giọng nói với Turgut. ‘Tôi muốn biết việc đó được thực hiện như thế nào.’ Trong một thoáng, cha băn khoăn vì sao cô lại khao khát muốn biết điều này, và rồi cha chợt nhớ - ý nghĩ kỳ quái - xét cho cùng, cô là một nhà nhân học. Turgut nhìn Helen trừng trừng, rồi có vẻ như chấp nhận lời đề nghị của cô mà không dùng lời, và lại cúi xuống ông bạn. Cha vẫn hy vọng rằng mình đã đoán lầm, nhưng Turgut đang thì thầm gì đó vào tai ông bạn. Ông cầm tay Erozan và vuốt ve bàn tay ấy.

“Sau đó - và đây có lẽ là điều khủng khiếp nhất trong tất cả những điều khủng khiếp xảy ra sau đó - Turgut ấn bàn tay người bạn vào tim mình và bật ra một tràng than khóc thảm thiết, những từ ngữ có vẻ như vọng đến chúng ta từ tận cùng sâu thẳm một câu chuyện không chỉ quá xưa cũ mà còn quá xa lạ đến độ cha không tài nào phân biệt được các âm tiết, giọng rền rĩ thương tiếc hơi giống tiếng kêu gọi cầu nguyện của các tu sĩ mà chúng ta thường nghe phát ra từ các tháp thánh đường trong thành phố - chỉ có điều, tiếng than van của Turgut nghe giống lời mời gọi đến với cõi âm ty địa ngục hơn - một chuỗi âm vang kinh hoàng nổi lên từ ký ức về hàng ngàn doanh trại Ottoman, hàng triệu lính tráng Thổ Nhĩ Kỳ. Cha như thấy được những ngọn cờ phấp phới, những tia máu tung tóe lên chân ngựa, ngọn giáo và vành trăng lưỡi liềm, ánh mặt trời lấp lánh trên các thanh đại đao và bộ giáp xích, những cái đầu, những gương mặt, những thân hình đẹp đẽ trẻ trung bị chém đứt lìa; cha như nghe được tiếng gào thét của những con người đang trở về trong vòng tay của Thánh Allah và tiếng gào khóc của những người cha người mẹ từ nơi chốn xa xăm; cha như ngửi được mùi khói những căn nhà đang bốc cháy và mùi máu tươi, mùi lưu huỳnh của đạn đại bác, những đám cháy bùng lên từ lều, cầu và xác ngựa.

“Thật vô cùng kỳ lạ khi giữa những âm thanh cuồng nộ đó cha nghe được một tiếng thét mà cha hiểu ngay: ‘Kaziklu Bey! Kẻ Xiên Người!’ Và dường như cha cũng nhận ra giữa đám hỗn loạn đó một con người khác hẳn với những người còn lại, một kỵ sĩ mặc áo choàng đen đang quay cuồng giữa những màu sắc chói lọi, khuôn mặt co rúm nhe răng gầm gừ và lưỡi kiếm chặt đứt không biết bao nhiêu thủ cấp của quân lính Ottoman, những cái đầu đội mũ sắt nặng nề lăn tròn.

“Tiếng Turgut ngưng bặt và cha nhận ra mình đang đứng gần ông ta, nhìn xuống người đàn ông hấp hối. Helen cũng đứng sát bên cha - cha mở miệng định hỏi nhưng nhận ra cô cũng cảm nhận được nỗi kinh hoàng tương tự trong bài tụng của Turgut. Dù không muốn, cha vẫn nhớ là dòng máu của Kẻ Xiên Người đang chảy trong huyết quản cô. Helen quay sang cha một lát, thái độ vẫn điềm tĩnh dù không giấu được vẻ xúc động trên gương mặt; chính lúc ấy, cha chợt nhận ra di sản của thầy Rossi - tính hòa nhã, lòng cao thượng, một chút của người Ý, một chút của người Anh - cũng chảy trong con người Helen, và cha thấy lòng nhân hậu không gì sánh được của thầy Rossi trong mắt cô. Trong khoảnh khắc đó, cha nghĩ - không phải là sau này trong ngôi nhà thờ màu nâu buồn tẻ của ông bà nội con nơi quê nhà, không phải trước bất kỳ vị mục sư nào - cha đã lấy Helen làm vợ, cha đã cưới cô ấy trong tâm tưởng, cha sẽ chung thủy với cô suốt cuộc đời.

“Turgut, giờ đã yên lặng, đặt tràng hạt cầu nguyện lên cổ họng ông bạn, khiến thi thể ấy khẽ rung lên, rồi ông chọn trong cái hộp lót xa tanh kia một cây cọc bằng bạc sáng bóng dài hơn bàn tay cha. ‘Xin Thượng đế hãy cứu vớt con, trong suốt cuộc đời mình con chưa bao giờ phải làm như thế này,’ ông lặng lẽ nói. Ông mở nút áo sơ mi của Erozan ra, và cha nhìn thấy lớp da nhăn nheo vì tuổi tác, đám lông ngực quăn queo màu xám tro, chỗ dựng lên chỗ nằm bẹp hỗn độn. Selim im lặng tìm quanh căn phòng rồi mang đến cho Turgut một viên gạch mà có vẻ như vốn được dùng làm vật chêm cửa, Turgut cầm ước lượng xem cái vật dụng thô kệch kia nặng nhẹ thế nào. Ông đặt đầu nhọn của cây cọc trên ngực trái ông thủ thư và bắt đầu trầm giọng ê a một bài tụng niệm, trong đó cha nghe được những tiếng mà cha nhớ là đã nghe hoặc thấy ở đâu đó - trong sách, trong phim, hoặc trong lúc chuyện trò? - ‘Allahu akbar, Allahu akbar: Thượng đế vĩ đại.’ Cha biết mình không thể buộc Helen rời khỏi căn phòng này cũng như cha không thể bỏ ra ngoài một mình, nhưng cha kéo cô lùi lại một bước khi viên gạch giáng xuống. Bàn tay Turgut thô và chắc. Selim giữ cây cọc thẳng đứng, và rồi sau một tiếng phập khô khan, cây cọc ngập vào thi thể ông thủ thư. Máu ứa ra trên làn da xanh tái chung quanh cây cọc. Trong một thoáng, mặt ông Erozan co giật một cách đáng sợ, hai môi nhếch lên để lộ hàm răng ố vàng chẳng khác gì răng chó. Helen nhìn trừng trừng còn cha thì không dám quay đi; cha không muốn cô nhìn thấy bất kỳ điều gì mà cha không thể cùng chứng kiến. Thi thể người thủ thư rung lên, cây cọc bất chợt lún ngọt đến tận cán, Turgut ngồi thụt lui, tựa như đang chờ đợi. Môi ông run run và mồ hôi lấm tấm khắp mặt.

“Một lát sau, thi thể Erozan chùng xuống, rồi gương mặt cũng giãn ra; hai môi khép lại thanh thản, một tiếng thở dài thoát ra từ lồng ngực; hai bàn chân trong đôi vớ rách thảm hại co rút rồi nằm yên. Cha siết chặt người Helen và thấy cô đang run rẩy bên mình, nhưng cô vẫn đứng lặng yên. Turgut cầm bàn tay mềm oặt của người bạn và hôn lên đó. Cha thấy những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt hồng hào của ông, ướt đẫm bộ râu mép, và ông lấy tay che mắt. Selim chạm vào hàng lông mày của người thủ thư rồi đứng dậy và bóp nhẹ vai Turgut.

“Một lát sau, Turgut trấn tĩnh lại, ông đứng dậy hỉ mũi vào khăn tay. ‘Ông ấy là một người rất tốt,’ Turgut nói, giọng run run. ‘Một con người tử tế và rộng lượng. Bây giờ ông ấy đang yên nghỉ trong thanh bình cùng Đức Tiên Tri Muhammad thay vì kết bè kết đảng với lũ quỷ dữ trong địa ngục.’ Ông quay đi chùi nước mắt. ‘Các bạn ạ, chúng ta phải đưa xác ông ấy ra khỏi nơi này. Có một bác sĩ ở bệnh viện - ông ấy sẽ giúp chúng ta. Anh Selim sẽ khóa cửa ở lại đây trong lúc tôi đi gọi điện thoại, ông bác sĩ đó sẽ đến cùng xe cứu thương và ký các giấy tờ cần thiết.’ Turgut lấy trong túi mấy nhánh tỏi và nhẹ nhàng nhét chúng vào miệng người chết. Selim rút cây cọc ra, đem đi rửa trong cái chậu ở góc phòng rồi cẩn thận đặt nó trở lại trong chiếc hộp đẹp đẽ. Turgut chùi sạch mọi dấu máu, băng bó ngực người bạn bằng một tấm khăn lau bát rồi cài lại nút áo cho ông ta, sau đó ông để cha giúp ông đắp lên thi thể đó một tấm khăn trải giường, phủ kín gương mặt giờ đã bình lặng của người bạn.

“ ‘Giờ thì, các bạn thân mến, tôi cầu xin các bạn một ân huệ đây. Các bạn đã chứng kiến những gì mà lũ quỷ nhập tràng kia có thể làm, và chúng ta đều biết chúng đang hiện diện nơi đây. Các bạn phải luôn chú ý bảo vệ bản thân. Và nếu có thể thu xếp, xin các bạn hãy đến Bungari - càng sớm càng tốt - trong vòng vài ngày tới. Hãy gọi về nhà tôi khi các bạn đã lên được kế hoạch.’ Ông nhìn cha đăm đăm. ‘Nếu chúng ta không gặp lại nhau trước khi các bạn ra đi, tôi cầu chúc các bạn may mắn và bình yên. Tôi sẽ nghĩ đến các bạn từng giây từng phút. Xin hãy gọi cho tôi ngay khi các bạn trở về Istanbul, nếu các bạn còn quay trở lại nơi này.’

“Cha hy vọng ông chỉ có ý Nếu việc trở về đó thuận tiện cho lộ trình của các bạn chứ không phải là Nếu các bạn sống sót trở về từ Bungari. Ông nồng nhiệt bắt tay chúng ta, cả Selim cũng vậy, sau cái bắt tay anh chàng này còn hôn tay Helen nữa, dù vẫn tỏ ra rất bẽn lẽn.

“ ‘Chúng tôi phải đi đây,’ Helen chỉ nói vậy rồi khoác lấy tay cha và chúng ta ra khỏi căn phòng bi thảm đó, bước xuống cầu thang ra phố.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


“Ấn tượng đầu tiên - và sau này là ký ức của cha về Bungari - là những ngọn núi nhìn từ trên không, những ngọn núi cao và sâu thẳm, phủ đầy một màu xanh đen kịt của cỏ cây và phần lớn nằm cách biệt với đường giao thông, dù thỉnh thoảng đây đó một dải màu nâu chạy giữa các làng mạc hoặc dọc theo những vách đá dựng đứng. Helen ngồi yên lặng bên cha, mắt dán chặt vào ô cửa máy bay, bàn tay nằm yên trong tay cha, dưới lớp áo khoác. Cha có thể cảm nhận lòng bàn tay cô ấm áp, những ngón tay xinh xắn, không đeo nhẫn và hơi lành lạnh. Thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy ánh sáng phản chiếu lấp lánh giữa những khe núi, cha nghĩ hẳn đó là những dòng sông, và cha đã căng mắt tìm kiếm, dù không mấy hy vọng, một hình đuôi rồng cuộn lại mà có lẽ là lời giải cho câu đố của chúng ta. Lẽ dĩ nhiên, chẳng có gì khớp với những đường nét mà dù có nhắm mắt cha cũng quá rành ấy.

“Chắc sẽ chẳng có gì ở đây khớp với những đường nét ấy đâu, cha tự nhủ như vậy, chỉ để dập tắt niềm hy vọng cứ trào dâng một cách bất trị trong người khi nhìn thấy những ngọn núi già cỗi đó. Sự tối tăm mù mịt, vẻ nguyên sơ chưa hề bị lịch sử hiện đại đụng chạm tới, sự thiếu vắng khó hiểu của các thành phố, thị trấn hoặc công trình công nghiệp khiến cha hy vọng. Không hiểu vì sao, cha cảm nhận quá khứ càng được giấu kín trong đất nước này bao nhiêu thì càng có khả năng nó được bảo tồn bấy nhiêu. Chúng ta đang bay bên trên hành trình không còn dấu vết của các tu sĩ kia, và chắc hẳn họ đã vượt qua những ngọn núi như thế này - biết đâu chính là những đỉnh núi này, dù chúng ta chưa biết chắc lộ trình của họ. Cha chia sẻ với Helen suy nghĩ đó vì muốn nghe hy vọng của chính mình được nói ra thành lời. Helen lắc đầu. ‘Chúng ta không biết chắc liệu họ có đến được Bungari hay không, hay thậm chí liệu họ có thực sự khởi hành đi Bungari hay không nữa,’ cô nhắc nhở cha, nhưng đồng thời cũng vuốt ve bàn tay cha dưới tấm áo khoác như để làm nhẹ đi cách nói thẳng thừng của mình.

“ ‘Em biết đấy, anh chẳng biết gì về lịch sử Bungari cả,’ cha nói. ‘Anh sợ mình sẽ mất phương hướng ở đây mất.’

“Helen mỉm cười. ‘Dù không phải là chuyên gia nhưng em có thể nói qua cho anh biết là người Xlavơ đã di cư từ miền Bắc đến khu vực này vào thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, và một bộ lạc Thổ tên là Bungari đã đến đây vào thế kỷ thứ bảy, tầm đó. Họ đã liên minh chống lại đế quốc Byzantine - làm thế là sáng suốt - và vị vua đầu tiên của họ là một người Bungari tên là Asparuh. Vào thế kỷ thứ chín, sa hoàng Boris I đã biến Thiên Chúa giáo thành tôn giáo chính thức của xứ sở này. Mặc dù vậy, có vẻ như ông ta vẫn là một anh hùng vĩ đại ở đây. Đế quốc Byzantine cai trị từ thế kỷ mười một cho đến đầu thế kỷ mười ba, và sau đó Bungari trở thành một đất nước rất hùng mạnh cho đến khi bị người Ottoman đè bẹp vào năm 1393.’

“ ‘Khi nào thì người Ottoman bị tống cổ đi?’ cha hỏi đầy quan tâm. ‘Có vẻ như chúng ta gặp họ ở khắp mọi nơi.’

“ ‘Mãi đến năm 1878,’ Helen xác nhận. ‘Người Nga đã giúp Bungari đánh đuổi quân Ottoman.’

“ ‘Và rồi Bungari lại đứng về phe Trục trong cả hai cuộc chiến.’(1)_

“ ‘Đúng vậy, và ngay sau chiến tranh quân đội Liên Xô đã mang lại cả một cuộc cách mạng vẻ vang. Ta sẽ làm được gì nếu không có quân đội Liên Xô cơ chứ?’ Helen nở một nụ cười rạng rỡ nhất mà cũng cay đắng nhất, và cha siết mạnh tay cô.

“ ‘Nói khẽ thôi nào,’ cha nói. ‘Nếu em không cẩn thận, anh sẽ phải cẩn thận gấp đôi cho cả hai chúng ta.’ ”

“Phi trường Sofia bé tí; cha đã chờ đợi một công trình tráng lệ của chủ nghĩa cộng sản hiện đại, nhưng chúng ta lại hạ cánh xuống một khoảng đất rải nhựa khiêm tốn rồi cuốc bộ qua đó cùng các hành khách khác. Cha cố nghe vài mẩu chuyện trò giữa họ và quả quyết hầu hết bọn họ đều là người Bungari. Họ rất đẹp, một số người còn đẹp đến ấn tượng, gương mặt đa dạng từ người Xlavơ da trắng mắt đen đến người Trung Đông da đồng, đám đông như một cái kính vạn hoa đủ màu sắc và hình dạng: những hàng lông mày đen bờm xờm, những cái mũi dài phình ra hoặc khoằm xuống, cánh phụ nữ trẻ tóc đen uốn quăn trên vầng trán cao, các ông lão trông vẫn còn mạnh khỏe dù hàm răng không còn bao nhiêu chiếc. Họ cười nói sôi nổi với nhau; một ông cao lớn cầm tờ báo khoa tay múa chân với người bạn đồng hành. Quần áo của họ rõ ràng không theo lối người phương Tây, dù vậy cha cũng khó mà nói được gì về kiểu cắt may của những bộ vest và váy áo, những đôi giày nặng nề và những cái mũ chỉ một màu đen ấy, tất cả trông quá lạ lẫm trong mắt cha.

“Cha cũng ấn tượng về niềm hạnh phúc gần như không giấu giếm của những con người này khi đặt chân xuống mảnh đất - hoặc nhựa đường - của xứ sở Bungari quê hương, và điều này đã làm đảo lộn hình ảnh định kiến của cha về một đất nước cố kết chặt chẽ với người Liên Xô, thậm chí giờ vẫn là đồng minh thân cận nhất, cánh tay mặt của Stalin, dù đã hơn một năm sau cái chết của ông ta - một đất nước không có niềm vui trong vòng cương tỏa của những ảo tưởng mà có lẽ trong đó họ sẽ mãi đắm chìm. Những khó khăn trong việc xin thị thực Bungari tại Istanbul - một đoạn đường được bôi trơn chủ yếu nhờ tiền bạc từ quỹ bí mật của Turgut và những cú điện thoại từ người đồng nhiệm Bungari ở Sofia của bác Éva - đã làm tăng thêm lo ngại của cha về đất nước này, và cha thấy đám quan chức mặt nặng như chì, những kẻ mà rốt cuộc cũng miễn cưỡng đóng dấu chuẩn thuận vào hộ chiếu của chúng ta ở Budapest, dường như đã bị ướp xác trong áp bức. Helen tâm sự với cha là chính việc tòa đại sứ Bungari cấp thị thực cho chúng ta lại làm cô thấy băn khoăn.

“Tuy nhiên, nhìn chung người Bungari đích thực có vẻ như là một chủng tộc khác hẳn. Khi đi vào tòa nhà phi trường, chúng ta nhận ra mình đang xếp hàng trước quầy thủ tục hải quan, thậm chí ở đây tiếng cười nói còn to hơn, và chúng ta có thể nhìn thấy người đi đón bà con họ hàng đứng sau rào chắn hét to những tiếng chào mừng. Xung quanh chúng ta, mọi người đang khai báo những món tiền nhỏ nhoi và mấy món đồ lưu niệm mua ở Istanbul hoặc các điểm đến trước đó, chúng ta cũng phải khai báo như vậy khi đến lượt.

“Lông mày tay nhân viên hải quan trẻ nhướn lên, mất hút dưới vành mũ lưỡi trai khi thấy hộ chiếu của chúng ta, gã đem hai sổ hộ chiếu đi tham khảo ý kiến một nhân viên hải quan khác. ‘Chẳng phải điềm lành rồi,’ Helen thì thào. Nhiều gã mặc đồng phục vây lấy chúng ta, tay lớn tuổi nhất và có vẻ kênh kiệu nhất bắt đầu tra vấn chúng ta bằng tiếng Đức, rồi tiếng Pháp, và cuối cùng bằng thứ tiếng Anh sai bét nhè. Theo lời dặn dò của bác Éva, cha bình tĩnh đưa ra thư giới thiệu của Đại học Budapest, lá thư ấy yêu cầu chính quyền Bungari cho phép chúng ta nhập cảnh vì có công việc quan trọng về lĩnh vực học thuật, và một thư giới thiệu khác mà bác Éva đã lấy được từ một người bạn ở tòa đại sứ Bungari cho chúng ta.

“Cha không biết tay nhân viên hải quan xoay xở như thế nào với lá thư liên quan đến lĩnh vực học thuật và được viết bằng cả ba thứ tiếng Anh, Hung và Pháp, nhưng lá thư từ tòa đại sứ thì viết bằng tiếng Bungari và có đóng dấu của tòa đại sứ. Gã im lặng đọc, đôi hàng lông mày đen rậm to tướng nhíu lại gần như chạm vào nhau trên sống mũi, và rồi trên mặt gã hiện lên vẻ ngạc nhiên, thậm chí có thể nói là sửng sốt, gã nhìn chúng ta bằng ánh mắt kinh ngạc. Điều đó thậm chí còn khiến cha lo lắng hơn cả lúc trước, khi gã có thái độ thù địch, rồi cha chợt nhớ ra bác Éva đã khá mập mờ về nội dung lá thư của tòa đại sứ. Lúc này chắc chắn cha không thể hỏi lá thư đó nói gì, và cha thấy bối rối đến khổ sở khi tay nhân viên hải quan kia đột nhiên mỉm cười rồi thậm chí còn vỗ lên vai cha nữa. Gã đến bên máy điện thoại trong một quầy thủ tục hải quan và có vẻ như đã liên lạc được với một người nào đó sau một lúc lâu cần mẫn quay số. Cha không thích cái kiểu gã cứ thỉnh thoảng cười vào ống nghe rồi lại liếc nhìn chúng ta. Helen loay hoay bên cạnh cha, cha biết chắc hẳn cô hiểu rõ toàn bộ chuyện này hơn cha.

“Cuối cùng, tay nhân viên hải quan cũng gác máy với điệu bộ màu mè, giúp chúng ta lấy lại đám va li bụi bặm và dẫn chúng ta đến một quầy rượu nằm trong phi trường, ở đó gã mời chúng ta những ly nhỏ rượu mạnh tên là rakiya và cũng nhiệt tình uống cùng. Bằng vài thứ ngôn ngữ sai bét, gã hỏi chúng ta đã tham gia cách mạng bao lâu, đã vào Đảng từ lúc nào, và những câu hỏi đại loại, chẳng câu nào khiến cha thoải mái hơn. Việc này lại làm cho cha suy nghĩ nhiều hơn về những điểm có thể không đúng sự thật trong lá thư giới thiệu chúng ta, nhưng theo sự dẫn dắt của Helen, cha chỉ mỉm cười hoặc đưa ra những nhận xét vô thưởng vô phạt. Gã nâng cốc chúc mừng tình hữu nghị giữa giai cấp công nhân của mỗi quốc gia, rồi lại châm đầy ly cho tất cả. Nếu Helen hoặc cha nói điều gì đó - chẳng hạn như một nhận xét tẻ nhạt về chuyện thăm viếng đất nước xinh đẹp của gã - gã sẽ lắc đầu, toét miệng cười, tựa như phủ nhận những nhận xét của chúng ta. Cha cảm thấy bối rối vì thái độ đó cho đến khi Helen thầm thì với cha là cô đã từng đọc về đặc trưng văn hóa này: người Bungari lắc đầu khi đồng ý và gật đầu khi phủ nhận.

“Đúng lúc cha không thể uống thêm một giọt rakiya nào nữa thì chúng ta được cứu thoát nhờ sự xuất hiện của một người đàn ông có gương mặt khắc khổ mặc vest và đội mũ toàn một màu đen. Trông anh ta chỉ lớn hơn cha vài tuổi và có lẽ sẽ đẹp trai hơn nếu vẻ tươi vui không biến mất trên gương mặt. Cũng vậy, bộ ria mép đen hầu như không che được đôi môi bĩu lại như chê bai, và mớ tóc đen lòa xòa trên trán chẳng giấu nổi vẻ cau có khó chịu của anh ta. Tay nhân viên hải quan chào người đàn ông với vẻ tôn kính và giới thiệu anh ta là người được chỉ định hướng dẫn cho chúng ta ở Bungari, rồi giải thích thêm là chúng ta đã được biệt đãi trong việc này, bởi anh Krassimir Ranov là người rất được trọng vọng trong chính phủ Bungari cũng như ở Đại học Sofia, và cũng là người rành rẽ những thắng cảnh thú vị của đất nước cổ xưa và quang vinh này.

“Trong cơn lâng lâng vì rượu cha bắt tay con người lạnh lùng đó và thầm cầu Chúa cho chúng ta được nhìn ngắm Bungari mà không cần đến một hướng dẫn viên nào. Helen có vẻ không mấy ngạc nhiên trước toàn bộ việc này và lên tiếng chào anh ta bằng thái độ mà theo cha thì vừa khó chịu vừa khinh khỉnh. Ranov vẫn chưa thốt ra một lời nào, nhưng đã tỏ vẻ không ưa gì Helen ngay cả trước khi tay hải quan lớn giọng giới thiệu Helen là người Hungary và đang du học ở Hoa Kỳ. Lời giải thích đó làm ria mép anh ta giật giật, để lộ một nụ cười nham hiểm. ‘Chào giáo sư,’ anh ta mở miệng - những lời đầu tiên - rồi quay đi. Tay nhân viên hải quan tươi cười bắt tay chúng ta, vỗ vỗ lên vai cha cứ như thể chúng ta đã là bạn bè thân quen, và rồi ra dấu cho chúng ta đi theo Ranov.

“Bên ngoài phi trường, Ranov ra hiệu dừng một chiếc taxi, cha chưa bao giờ nhìn thấy nội thất chiếc xe nào lạc hậu cũ kỹ đến vậy, lớp vải đen nhồi chặt thứ gì đó, có lẽ là lông ngựa, và từ ghế ngồi phía trước Ranov cho biết chúng ta đã được thu xếp lấy phòng ở một khách sạn nổi tiếng nhất. ‘Tôi tin các bạn sẽ cảm thấy thoải mái, ngoài ra khách sạn cũng có một nhà hàng tuyệt vời. Ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau ở đó để ăn sáng, khi ấy các bạn có thể giải thích với tôi tính chất công việc nghiên cứu của các bạn và tôi có thể giúp các bạn sắp xếp các cuộc hẹn thế nào để hoàn thành nghiên cứu đó. Chắc hẳn các bạn sẽ mong được gặp đồng nghiệp ở Đại học Sofia cũng như các bộ ngành liên quan. Chúng tôi cũng sẽ thu xếp để các bạn thăm viếng một vài địa điểm lịch sử của Bungari.’ Anh ta lại nở nụ cười chua lè, cha nhìn anh ta đăm đăm, càng lúc càng cảm thấy kinh sợ hơn. Tiếng Anh của anh ta quá tuyệt; mặc dù mang thổ âm rõ rệt nhưng lại có âm điệu chính xác buồn tẻ của thứ đĩa học ngoại ngữ trong ba mươi ngày.

“Gương mặt anh ta có nét gì đó quen quen. Chắc chắn cha chưa bao giờ gặp anh ta trước đây, nhưng gương mặt ấy làm cha nhớ đến một người quen biết, kèm theo là cảm giác thất vọng vì không thể nhớ ra cái người quái quỷ đó là ai. Cảm giác ấy tiếp tục tồn tại dai dẳng trong cha suốt ngày đầu tiên ở Sofia, nhùng nhằng bám theo cha trong chuyến tham quan thành phố được-hướng-dẫn-từ-đầu-đến-cuối. Tuy nhiên, Sofia đẹp kỳ lạ - một sự pha trộn giữa vẻ tao nhã của thế kỷ mười chín, nét lộng lẫy của thời Trung cổ với những dinh thự mới mẻ sáng ngời theo kiểu cách xã hội chủ nghĩa. Ở trung tâm thành phố, chúng ta thăm tòa lăng u ám chứa xác ướp nhà độc tài theo khuynh hướng Stalin - Georgi Dimitrov, người đã chết cách đây năm năm. Ranov bỏ mũ trước khi bước vào lăng và ra hiệu cho chúng ta đi trước. Chúng ta nhập vào hàng người Bungari đang lặng lẽ bước ngang qua quan tài để mở của Dimitrov. Gương mặt của nhà độc tài như làm bằng sáp, bộ ria mép đen rậm rịt giống y như Ranov. Cha nhớ đến Stalin, thi hài ông ta nghe nói đã được đưa đến chỗ Lenin vào năm ngoái, trong một tòa lăng tương tự trên Quảng trường Đỏ. Những nền văn hóa vô thần này rõ ràng đã tỏ ra quá mẫn cán trong việc bảo quản thi hài các vị thánh của mình.

“Linh tính không hay của cha về gã đàn ông hướng dẫn càng tăng lên khi gã lùi lại vẻ ghê tởm lúc cha hỏi liệu gã có thể giúp chúng ta liên lạc với một người tên Anton Stoichev. ‘Ông Stoichev là kẻ thù của nhân dân,’ gã khẳng định với chúng ta bằng giọng cáu kỉnh. ‘Sao các bạn lại muốn gặp ông ta?’ Và rồi, thật kỳ lạ, hắn nói thêm, ‘Lẽ tất nhiên, nếu các bạn muốn, tôi có thể thu xếp việc đó. Ông ta không còn dạy ở đại học nữa - với quan điểm về tôn giáo của mình, ông ta không thể được lớp trẻ tin cậy. Nhưng ông ta rất nổi tiếng và có lẽ các bạn muốn gặp ông ta vì lý do đó chăng?’ ”

“ ‘Ranov đã được yêu cầu phải đáp ứng bất kỳ điều gì chúng ta muốn,’ Helen khe khẽ nhận xét khi chúng ta có được một khoảnh khắc riêng tư bên ngoài khách sạn. ‘Vì sao? Vì sao có người cho rằng đó là một ý hay?’ Chúng ta nhìn nhau, sợ hãi.

“ ‘Anh ước gì mình biết được điều đó,’ cha trả lời.

“ ‘Ở đây chúng ta phải vô cùng thận trọng.’ Vẻ mặt Helen trầm trọng còn giọng nói thì lí nhí, cha cũng không dám hôn cô một cách công khai. ‘Chúng ta phải thỏa thuận là từ giờ sẽ không để lộ bất kỳ điều gì ngoài những quan tâm liên quan đến lĩnh vực học thuật, và nếu phải bàn luận công việc trước mặt gã thì cố gắng để lộ càng ít càng tốt.’

“ ‘Đồng ý.’ ”

Chú thích:

1. Có lẽ ở đây tác giả có đôi chút nhầm lẫn. Khối Trục (The Axis powers) là thuật ngữ phải đến những năm 1930 mới ra đời, để chỉ khối đối địch với Đồng minh trong Thế chiến II - với ba nước đứng đầu là Đức, Nhật và Ý; Bungari cũng thuộc phe này. Thời Thế chiến I, Bungari thuộc phe Liên Minh chống lại phe Hiệp Ước, cùng với Đức, Áo - Hung, Thổ (đế chế Ottoman).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


“Mấy năm trở lại đây, cha thấy mình cứ không ngơi nhớ về lần đầu tiên nhìn thấy ngôi nhà của Anton Stoichev. Có lẽ nó để lại trong cha ấn tượng sâu đậm như vậy vì sự tương phản giữa thành phố Sofia và nơi trú ngụ của ông, ở ngay bên ngoài thành phố, hoặc có thể cha thường nhớ đến nó vì chính bản thân Stoichev - sự đặc biệt và tinh tế của con người ông. Tuy nhiên, cha nghĩ mình cảm thấy một niềm hy vọng mãnh liệt đến nín thở khi hồi tưởng lại hình ảnh cánh cổng trước căn nhà của Stoichev, bởi buổi gặp giữa ông ấy và chúng ta là bước ngoặt trong cuộc tìm kiếm thầy Rossi.

“Mãi sau này, khi đọc về các tu viện nằm ngoài thành Constantinople, những chốn linh thiêng nơi đôi lúc người ta đến trú ngụ để tránh không phải thi hành những sắc dụ toàn thành phố về điểm này điểm kia trong lễ nghi nhà thờ, nơi họ không được bảo vệ bởi những bức tường vĩ đại của thành phố nhưng ở một mức độ nào đó lại thoát khỏi cái vòi bạch tuộc bạo ngược của nhà nước, cha lại nghĩ đến Stoichev - mảnh vườn nhà ông, những cây táo và anh đào nghiêng nghiêng nở đầy hoa trắng, ngôi nhà nằm sâu trong sân, những chiếc lá non trên cành và các tổ ong màu xanh, hai cánh cổng gỗ cũ kỹ, không gian tĩnh lặng bao trùm nơi ấy, không khí của lòng mộ đạo, của chốn ẩn dật thong dong tự tại.

“Chúng ta đứng trước cánh cổng đó trong lúc bụi lắng xuống xung quanh chiếc xe của Ranov. Helen là người đầu tiên đẩy tay nắm của một trong những then cửa cũ kỹ kia; Ranov sưng sỉa đi tụt lại phía sau, tựa như không muốn bị ai nhìn thấy ở nơi đó, thậm chí là chúng ta, và thực kỳ lạ cha có cảm giác như mình đang chôn chân tại chỗ. Mất một lúc cha như bị thôi miên bởi sự dao động giữa buổi sớm của lá và ong, và bởi một cảm giác sợ hãi không mong đợi. Cha nghĩ, có thể Stoichev hóa ra lại không giúp được gì, một giải pháp cuối cùng không lối thoát, và như vậy chúng ta sẽ phải trở về nhà sau khi đã đi một chặng đường dài vô ích. Cha đã hình dung tình huống này hàng trăm lần: chuyến bay thầm lặng về New York từ Sofia hoặc Istanbul - cha nghĩ mình muốn gặp lại Turgut một lần nữa - và sắp xếp lại cuộc sống của mình ở quê nhà, một cuộc sống không có thầy Rossi, những câu tra hỏi cha đã đi đâu, các vấn đề nảy sinh với khoa trong thời gian dài cha vắng mặt, việc quay lại viết tiếp về giới thương nhân Hà Lan - những kẻ bình tĩnh chán ngắt - dưới sự dẫn dắt của một vị giáo sư hướng dẫn mới năng lực kém xa thầy Rossi, và cánh cửa đóng kín của phòng làm việc thầy Rossi. Hơn tất thảy, cha khiếp sợ cánh cửa đóng kín đó, sợ cuộc điều tra đang diễn ra, sợ sự tra vấn khó chịu của cảnh sát - ‘Vậy... ông... ờ… ông Paul… đúng chứ? Ông đã thực hiện một chuyến đi chỉ hai ngày sau khi thầy hướng dẫn của mình mất tích?’ - sợ những cuộc triệu tập nho nhỏ khó hiểu với không khí như thể ở lễ truy điệu, kết thúc bằng câu hỏi về những cuốn sách, tác quyền và di sản của thầy Rossi.

“Dĩ nhiên, quay trở về tay trong tay với Helen sẽ là một niềm an ủi lớn. Cha định hỏi cưới cô khi toàn bộ chuyện khủng khiếp này kết thúc, cách này hay cách khác; nếu có thể, trước tiên cha phải dành dụm một ít tiền, rồi cha sẽ đưa cô đến Boston gặp ông bà. Đúng vậy, cha sẽ trở về nắm tay cô trong tay mình, nhưng sẽ không có người cha nào cầm lấy bàn tay đó trong lễ cưới. Cha thoáng cảm thấy một nỗi đau đớn mơ hồ khi Helen mở cánh cổng.

“Phía bên trong, ngôi nhà của Stoichev nằm êm đềm trên một khu đất gập ghềnh mà một phần là sân và phần còn lại là vườn cây ăn quả. Phần móng nhà xây bằng một loại đá xám nâu nhạt, kết dính với nhau bằng thạch cao trắng; sau này cha mới biết đó là một trong những loại đá hoa cương được sử dụng ở hầu hết các công trình xây dựng cổ của Bungari. Trên lớp nền móng là tường gạch, nhưng là loại gạch có màu đỏ vàng mượt mà nhất, tưởng chừng như đã thấm đẫm ánh mặt trời qua hàng bao nhiêu năm tháng. Mái được lợp ngói đỏ. Cả mái và tường nhà đều hơi xiêu vẹo. Toàn bộ ngôi nhà trông có vẻ như đã dần dần mọc lên từ mặt đất và bây giờ đang chậm rãi trở về với cát bụi, và đám cây cối mọc bên trên tựa như chỉ để phủ bóng lên cái tiến trình đó. Tầng trệt có một cái chái nhô ra một bên hông, cạnh hông bên kia căng một giàn lưới mắt cáo, bên trên phủ đầy dây nho và bên dưới dọc theo bờ tường là những cụm hoa hồng phớt. Phía dưới giàn lưới mắt cáo là một bàn gỗ và bốn chiếc ghế thô mộc, cha hình dung đó là chỗ sẽ rợp bóng mát của những chùm lá nho vào mùa hè. Bên ngoài giàn nho, và dưới gốc táo già nhất, đong đưa hai tổ ong hình thù quái dị; gần đó, một mảnh vườn nhỏ với những luống rau xanh mướt thẳng thớm nằm trong ánh nắng ngập tràn, chứng tỏ có sự chăm sóc tỉ mỉ của bàn tay ai đó. Cha có thể ngửi thấy mùi thảo mộc và một thứ mùi có lẽ là oải hương, mùi cỏ tươi và mùi hành rán. Ai đó đã chăm nom gìn giữ chốn xưa cũ này bằng sự nâng niu trìu mến, và cha phần nào nghĩ rằng sẽ nhìn thấy Stoichev mặc đồ tu sĩ, đang quỳ trong mảnh vườn với một cái xẻng trồng cây.

“Rồi, một giọng hát bắt đầu trỗi lên bên trong, có lẽ gần bên ống khói đổ nát và các cửa sổ tầng trệt. Đó không phải là giọng nam trung của một người đàn ông sống ẩn dật, mà là một giọng nữ cao ngọt ngào, một giai điệu mãnh liệt thậm chí khiến cả tay Ranov đang phì phèo điếu thuốc và cau cau có có bên cạnh cha cũng có vẻ thích thú. ‘Izvinete!’ gã thốt lên. ‘Dobar den!’ Tiếng hát ngưng lại đột ngột, tiếp theo là tiếng lách cách và một tiếng thịch. Cánh cửa trước nhà Stoichev bật mở và một cô gái đứng đó, nhìn chúng ta chằm chằm, tựa như cô ta không tưởng tượng được trong sân nhà mình lại có hình bóng con người.

“Cha dợm bước tới, nhưng Ranov đã chen ngang, nhấc mũ, gật đầu, nghiêng người chào cô theo kiểu cách người Bungari. Cô gái đưa hai tay ôm má, nhìn Ranov với ánh mắt tò mò, cha nhận ra trong đó dường như còn có vẻ cảnh giác nữa. Nhìn kỹ thì cô không hẳn trẻ như cha nghĩ, nhưng từ người cô toát ra một sức sống mạnh mẽ và sinh động khiến cha nghĩ có thể cô là tác giả của mảnh vườn nhỏ nhiều màu sắc và những mùi thơm trong bếp kia. Mái tóc chải ngược ra sau để lộ một gương mặt tròn trĩnh; một nốt ruồi đen trên trán. Mắt, miệng và cằm giống như của một đứa bé xinh xắn. Tạp dề khoác bên ngoài áo cánh trắng và váy xanh. Cô gái dò xét chúng ta bằng một cái liếc nhìn sắc lẻm trái ngược hẳn với vẻ ngây thơ trong mắt, và cha nhận thấy sau những câu tra vấn nhanh của cô, Ranov thậm chí đã phải mở ví cho cô xem một cái thẻ. Dù là con gái hay người giúp việc - liệu giáo sư về hưu có được phép thuê người giúp việc trong một đất nước cộng sản? - thì rõ ràng cô ta không phải là người khờ dại. Dường như Ranov đang nỗ lực khác thường để tỏ ra quyến rũ; gã vừa cười vừa quay lại giới thiệu chúng ta. ‘Đây là cô Irina Hristova,’ gã giải thích khi chúng ta bắt tay nhau. ‘Cô ấy là ness của giáo sư Stoichev.’

“ ‘Nest - tổ chim(1)_ hả?’ cha hỏi, thoáng nghĩ đây có thể là một cách gọi ẩn dụ tinh tế nào đó.

“ ‘Con gái của bà chị,’ Ranov trả lời. Gã châm điếu thuốc khác và mời Irina một điếu nhưng cô từ chối bằng một cái gật đầu dứt khoát. Khi gã giải thích là chúng ta từ Mỹ đến, cô tròn xoe mắt nhìn chúng ta chăm chú. Rồi cô gái bật cười, cha chưa bao giờ hiểu ý nghĩa nụ cười đó là gì. Ranov lại quắc mắt cau có - cha không nghĩ mới khoảnh khắc trước đây gã có thể tỏ ra vui vẻ như vậy - và cô gái quay người dẫn chúng ta vào.

“Ngôi nhà lại làm cho cha ngạc nhiên; bên ngoài nó có thể là một trang trại cổ xưa xinh xắn, nhưng bên trong, trong ánh sáng mờ mờ tương phản hoàn toàn với ánh mặt trời của khoảnh sân phía trước, ngôi nhà thực sự là một viện bảo tàng. Cánh cửa mở thẳng vào một căn phòng lớn có lò sưởi, ánh nắng chiếu lên mặt đá thay vì một ngọn lửa. Bản thân đồ đạc trong nhà trông rất bắt mắt - những chiếc tủ com mốt màu đen, gắn gương, chạm khắc cầu kỳ và những chiếc ghế dựa, ghế bành sang trọng - nhưng thứ làm cha không thể rời mắt và khiến Helen trầm trồ thán phục là sự hòa hợp hiếm thấy giữa chất liệu vải dân gian và những vật trang trí - phần lớn là ảnh thánh cổ, nhiều ảnh trong số đó, theo cha, có chất lượng vượt hẳn những ảnh thánh chúng ta nhìn thấy trong các nhà thờ ở Sofia. Có những bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh mắt sáng ngời, những ảnh lớn nhỏ khác nhau của các vị thánh môi mỏng, mặt mày buồn bã, nổi bật nước sơn mạ vàng hoặc bọc miếng dát bạc, ảnh các đấng tông đồ đang đứng trong thuyền và các thánh tử đạo đang kiên trì trải qua những khổ nạn của mình. Sắc màu phong phú cổ xưa và ám khói hiển hiện ở mọi phía, từ những tấm thảm đến những chiếc tạp dề dệt thành đủ kiểu hoa văn kỷ hà, thậm chí một bộ áo giáp thêu và một cặp khăn quàng cũng điểm thêm những đồng xu nhỏ tí. Helen trỏ những chiếc túi nằm ngang thân dưới bộ áo giáp. ‘Để chứa đạn,’ cô chỉ nói có vậy.

“Kế bên chiếc áo là một cặp dao găm. Cha những muốn hỏi ai là người đã mặc bộ áo giáp đó, ai đã từng giữ túi đạn, ai đã mang những con dao găm kia. Ai đó đã cắm một bình hoa hồng và dương xỉ xanh ở cái bàn bên dưới, trông có vẻ sống động dị thường giữa tất cả những báu vật đang phai tàn này. Nền nhà bóng loáng. Cha có thể nhìn thấy ở phía bên kia một phòng khác, tương tự.

“Ranov cũng nhìn quanh, và giờ thì gã khịt mũi. ‘Theo quan điểm của tôi, ông giáo sư Stoichev này được phép giữ quá nhiều tài sản quốc gia. Những món này lẽ ra phải bán đi vì lợi ích của nhân dân.’

“Irina hoặc không hiểu tiếng Anh hoặc không thèm trả lời câu nói đó; cô quay đi, dẫn chúng ta ra khỏi phòng và leo lên một cầu thang hẹp. Cha cũng không biết mình mong nhìn thấy điều gì ở phía trên nữa. Có lẽ chúng ta sẽ nhìn thấy một căn phòng nhỏ bừa bộn, một cái hang để vị giáo sư già trú ẩn, hoặc có lẽ, cha nghĩ - với sự ray rứt đau khổ giờ đã thành quen thuộc - chúng ta có thể thấy một phòng làm việc gọn gàng ngăn nắp kiểu như cái phòng làm việc ẩn tàng trí tuệ dữ dội và tuyệt vời cỡ thầy Rossi. Những hình ảnh tưởng tượng này biến mất khi cánh cửa phía trên cầu thang mở ra, một người đàn ông tóc bạc trắng, nhỏ người, nhưng rắn rỏi, xuất hiện ở đầu cầu thang. Irina vội vàng đến bên cạnh, dùng cả hai tay nắm chặt cánh tay người đàn ông, liến thoắng gì đó bằng tiếng Bungari cùng với vài tiếng cười phấn khích.

“Ông già quay qua chúng ta, bình thản, im lặng, gương mặt hoàn toàn thờ ơ đến độ mất một lúc cha cảm giác như ông đang chăm chăm nhìn xuống đất, dù thực sự ông đang nhìn thẳng vào chúng ta. Cha bước đến và chìa tay ra. Ông trang trọng bắt tay cha, rồi sau đó quay qua bắt tay Helen. Ông tỏ ra lịch sự, giữ đúng nghi thức, khiêm nhường theo kiểu người biết tự trọng. Đôi mắt to đen của ông lướt nhìn từng người chúng ta, và rồi chiếu vào Ranov, gã đang chùn lại phía sau quan sát cảnh tượng này. Đến lúc đó, Ranov mới bước đến bắt tay ông - với vẻ kẻ cả, cha nghĩ vậy, và càng cảm thấy không ưa gã hướng dẫn viên hơn nữa. Cha thầm ước phải chi gã biến đi để chúng ta có thể một mình nói chuyện với giáo sư Stoichev. Cha băn khoăn làm thế nào chúng ta có thể trò chuyện một cách thẳng thắn và học hỏi điều gì từ Stoichev khi mà Ranov cứ lảng vảng phía sau chúng ta như một con ruồi.

“Giáo sư Stoichev chậm rãi quay người dẫn chúng ta vào phòng. Phòng này hóa ra là một trong nhiều phòng của tầng trên ngôi nhà. Trong hai lần đến thăm nơi này, cha chưa bao giờ biết rõ những người trong nhà ngủ ở đâu. Theo như cha thấy, tầng trên của ngôi nhà chỉ có một phòng khách dài, hẹp mà chúng ta đang đi vào, và nhiều phòng khác nhỏ hơn, cửa hướng ra phòng này. Cửa mở vào các phòng khác chỉ khép hờ, ánh nắng chiếu xuyên qua đám cây cối xanh rì bên ngoài những cửa sổ đối diện, ve vuốt lên gáy của cơ man nào là sách xếp dọc theo các vách tường, hoặc chứa trong các thùng gỗ trên sàn nhà, hoặc nằm chất đống trên các mặt bàn. Xếp trên kệ ở giữa chúng là những văn kiện tư liệu rời đủ các hình dạng và kích cỡ, nhiều tài liệu rõ ràng là rất xưa. Không, đây không phải là kiểu phòng làm việc ngăn nắp của thầy Rossi, mà đúng hơn là một phòng thí nghiệm bừa bộn, bộ não của một nhà sưu tầm. Ánh mặt trời chiếu rọi khắp mọi nơi: các loại giấy da, sách da cổ xưa, những gáy sách rập nổi, hoặc mạ vàng, hoặc phồng rộp lên, những góc giấy sờn rách - những cuốn sách tuyệt vời màu đỏ, màu nâu, màu trắng ngà - sách và những cuộn bản thảo viết tay xáo trộn lung tung vì đang được sử dụng. Không có thứ gì bụi bặm, không có vật nặng chất lên thứ dễ vỡ, tuy vậy chỗ nào trong phòng của Stoichev cũng hiện diện những cuốn sách và những bản thảo này, cha có cảm tưởng như bị chúng bao vây theo cái cách người ta còn không cảm thấy ngay cả khi ở trong một viện bảo tàng, nơi những vật quý giá như vậy không hẳn có nhiều như ở đây và được trưng bày một cách có phương pháp.

“Cha ngạc nhiên thích thú khi thấy một tấm bản đồ cổ bằng da treo trên tường phòng khách. Stoichev mỉm cười khi cha không thể ngăn mình bước về tấm bản đồ. ‘Anh thích nó à?’ ông ta hỏi. ‘Đó là đế quốc Byzantine vào khoảng năm 1150.’ Câu nói đầu tiên của Stoichev, một thứ tiếng Anh đơn giản và chính xác.

“ ‘Trong lúc Bungari vẫn còn là một phần lãnh thổ của đế quốc,’ Helen trầm ngâm.

“Stoichev liếc nhìn Helen, rõ ràng có vẻ thích thú. ‘Đúng, chính xác là vậy. Tôi nghĩ tấm bản đồ này được làm ra tại Venice hoặc Genoa và mang đến Constantinople, có lẽ như một tặng phẩm dâng lên hoàng đế hoặc một người nào đó trong triều đình. Đây là một bản sao do một người bạn làm cho tôi.’

“Helen mỉm cười, đưa tay sờ cằm ra vẻ suy tư. Rồi cô gần như là nháy mắt với Stoichev. ‘Có lẽ là hoàng đế Manuel I Comnenus chăng?’

“Cha sửng sốt và Stoichev cũng có vẻ kinh ngạc, Helen thì bật cười. ‘Đế quốc Byzantine từng là sở thích của tôi mà,’ cô nói. Nhà sử học già mỉm cười, và bất ngờ tỏ thái độ lịch sự, cúi đầu chào Helen. Ông ra dấu chỉ những cái ghế chung quanh chiếc bàn ở giữa phòng, và tất cả chúng ta ngồi xuống. Từ chỗ ngồi, cha có thể nhìn thấy mảnh sân phía sau nhà, thoai thoải dốc xuống rìa một cánh rừng và những cây ăn trái, một số cây đã đậu quả xanh nho nhỏ. Các cửa sổ đều để mở, văng vẳng tiếng vo ve của lũ ong và tiếng xào xạc của cây lá. Cha nghĩ dù trong chốn lưu đày này, hẳn giáo sư Stoichev vẫn thoải mái khi ngồi đây, giữa những bản thảo viết tay, vừa đọc hoặc viết vừa lắng nghe những âm thanh đó, những âm thanh mà không một nhà nước độc đoán nào có thể bóp nghẹt, hoặc chẳng một quan chức nào có thể xua đuổi. Nhìn những gì đang diễn ra thì đây quả là một sự giam cầm may mắn, và có lẽ cũng có phần tự nguyện mà chúng ta không cách nào khẳng định được.

“Mất một lát Stoichev không nói thêm một lời nào, mặc dù vẫn nhìn chúng ta chăm chú, cha thầm hỏi ông nghĩ gì về sự xuất hiện của chúng ta và liệu ông có dự định tìm hiểu chúng ta là ai. Sau một vài phút, cha lên tiếng vì nghĩ rằng có thể ông sẽ không bao giờ nói với chúng ta. ‘Thưa giáo sư Stoichev,’ cha nói, ‘xin ông thứ lỗi vì chúng tôi đã đường đột xâm phạm đến sự riêng tư của giáo sư. Chúng tôi rất biết ơn ông và cô cháu gái đã cho phép chúng tôi vào tư gia để thăm ông.’

“Ông nhìn xuống đôi tay đang để trên bàn của mình - đôi bàn tay thanh mảnh và lấm tấm những đốm đồi mồi - rồi nhìn cha. Mắt ông, như cha đã tả, to đen và là đôi mắt của một chàng trai, dù gương mặt màu ô liu được cạo nhẵn nhụi là gương mặt của một ông già. Đôi tai to một cách dị thường và vểnh lên hai bên đầu, giữa mái tóc bạc trắng được cắt ngắn gọn gàng; ánh nắng từ các khung cửa sổ chiếu vào làm tóc ông như trong suốt, vành tai ửng màu hồng nhạt trông chẳng khác gì tai thỏ. Đôi mắt, vừa dịu dàng vừa cảnh giác, cũng có một nét gì đó của loài thỏ. Hàm răng đã ố vàng và không còn đều đặn, một chiếc răng cửa bịt vàng. Nhưng hàm răng vẫn không thiếu chiếc nào, và gương mặt ông khi cười khiến ta giật mình, tựa như một con thú hoang dã bất chợt có vẻ mặt của một con người. Đó là một gương mặt tuyệt vời, một khuôn mặt mà nét thanh xuân rạng ngời, sự nhiệt tình hiển hiện - và đó chắc chắn là một khuôn mặt lôi cuốn lòng người.

“Bây giờ thì Stoichev đang mỉm cười, cũng với cái hấp lực làm cho Helen và cha cười theo. Irina cũng nhìn chúng ta mỉm cười, để lộ lúm đồng tiền trên má. Cô gái đã ngồi thoải mái trên một chiếc ghế, bên dưới ảnh một vị thánh nào đó - cha nghĩ có lẽ đó là ảnh Thánh George - đang gom hết sức lực để đâm ngọn giáo vào một con rồng ốm o. ‘Tôi rất hân hạnh khi được các bạn tới thăm,’ Stoichev nói. ‘Chúng tôi không có nhiều khách lắm đâu, và khách nói tiếng Anh lại càng hiếm hoi hơn. Tôi rất vui khi có thể thực tập tiếng Anh cùng các bạn, dù e rằng nó không được lưu loát như ngày xưa nữa.’

“ ‘Tiếng Anh của ông thật tuyệt vời,’ cha đáp lại. ‘Ông đã học tiếng Anh ở đâu vậy, thứ lỗi nếu câu hỏi của tôi có gì phiền phức?’

“ ‘Ồ, có gì phiền đâu,’ giáo sư Stoichev trả lời. ‘Lúc còn trẻ tôi đã may mắn được đi học ở nước ngoài, và vài nghiên cứu của tôi được tiến hành ở Luân Đôn. Liệu tôi có thể giúp các bạn điều gì không, hay các bạn chỉ muốn đến thăm thư viện của tôi?’ Cha lại ngạc nhiên khi ông ta đề cập đến điều đó một cách hết sức dễ dàng.

“ ‘Cả hai,’ cha trả lời. ‘Chúng tôi muốn thăm thư viện và cũng mong được hỏi giáo sư vài câu liên quan đến công trình nghiên cứu của chúng tôi.’ Cha dừng lại để lựa lời. ‘Cô Rossi và tôi rất quan tâm đến lịch sử đất nước giáo sư thời Trung cổ mặc dù chưa biết được gì nhiều như kỳ vọng, ngoài ra chúng tôi cũng đang viết một vài… à…’ Cha bắt đầu ấp a ấp úng, bởi cha chợt nhận ra rằng dù đã được nghe Helen nói vắn tắt lúc ngồi trong máy bay nhưng thực ra cha chẳng biết gì hoặc biết quá ít về lịch sử Bungari, và có thể làm trò cười với người đàn ông thông thái này, người canh giữ quá khứ lịch sử của đất nước mình; và cũng vì những gì chúng ta phải trao đổi là quá riêng tư, vô cùng khó tin, và hoàn toàn chẳng phải là kiểu chuyện cha muốn đề cập đến khi có mặt gã Ranov đang ngồi ở đầu bàn với nụ cười khinh khỉnh đáng ghét.

“ ‘Vậy là các bạn quan tâm đến Bungari thời Trung cổ?’ Stoichev nhắc lại, cha nhận thấy có vẻ như ông cũng liếc nhìn về hướng Ranov.

“ ‘Vâng,’ Helen trả lời, kịp thời ứng cứu cha. ‘Chúng tôi quan tâm đến cuộc sống của giới tu sĩ ở Bungari thời Trung cổ, chúng tôi đang nghiên cứu càng nhiều càng tốt để viết một số bài báo. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến cuộc sống trong các tu viện ở Bungari vào giai đoạn cuối thời Trung cổ, và những lộ trình đưa người hành hương đến Bungari cũng như những con đường họ đi từ Bungari đến các xứ sở khác.’

“Stoichev sáng mắt lên, gật gù có vẻ tâm đắc, đôi tai dỏng lên. ‘Đây là một đề tài rất thú vị,’ ông nói, nhìn ra phía sau chúng ta, cha nghĩ hẳn ông đang chìm đắm vào một quá khứ xa xăm, vào một cái giếng thời gian sâu thẳm, và nhìn thấy rõ hơn ai hết trên thế gian này quãng thời gian mà chúng ta đề cập đến. ‘Không biết các bạn có viết về một điều gì cụ thể hay không? Ở đây, tôi có nhiều bản thảo có thể có ích đối với các bạn, nếu các bạn muốn tôi sẵn lòng để các bạn xem chúng.’

“Ranov ngọ nguậy trên ghế, và cha lại cảm thấy ghét kinh khủng cái kiểu gã nhìn chúng ta. Nhưng may mắn là hầu hết sự chú ý của gã có vẻ như chỉ tập trung vào gương mặt nghiêng nghiêng xinh đẹp của Irina ở đầu kia phòng. ‘Vâng,’ cha lên tiếng. ‘Chúng tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn về thế kỷ mười lăm - cuối thế kỷ mười lăm, cô Rossi đây đã thu thập được khá nhiều điều về giai đoạn đó ở xứ sở quê hương cô ấy, tức là…’

“ ‘Rumani,’ Helen chêm vào. ‘Nhưng tôi lớn lên và học tập ở Hungary.’

“ ‘À, ra vậy - cô là láng giềng của chúng tôi đấy.’ Giáo sư Stoichev quay qua Helen và nở một nụ cười hiền lành. ‘Và cô công tác ở Đại học Budapest?’

“ ‘Đúng vậy,’ Helen trả lời.

“ ‘Có lẽ các bạn biết ông bạn tôi ở đó, ông ấy là giáo sư Sándor.’

“ ‘Ồ, vâng. Ông ấy là trưởng khoa lịch sử của chúng tôi. Đồng thời cũng là một người bạn rất tốt của tôi.’

“ ‘Thật là tuyệt vời - rất tuyệt vời,’ giáo sư Stoichev thốt lên. ‘Cho tôi gửi đến ông ấy lời chào thân ái nhất, nếu các bạn có dịp.’

“ ‘Vâng, tôi sẽ chuyển lời.’ Helen mỉm cười với ông.

“ ‘Còn ai nữa nhỉ? Lúc này thì tôi nghĩ mình không còn nhớ ai ở bên đó. Nhưng họ của cô, cô giáo sư ạ, rất thú vị đấy. Tôi biết cái họ này. Ở Hoa Kỳ’ - ông lại quay sang cha, rồi quay lại với Helen; cha cảm thấy khó chịu khi Ranov nheo mắt nhìn chúng ta - ‘có một nhà sử học nổi tiếng họ là Rossi. Có lẽ ông ấy là một người bà con của cô chăng?’

“Cha ngạc nhiên khi thấy mặt Helen đỏ bừng. Cha nghĩ có lẽ cô chưa muốn công khai thừa nhận chuyện này, hoặc cảm thấy vẫn còn chút nghi ngại khi thừa nhận thực tế đó, hoặc có lẽ cô đã nhận thấy Ranov đột nhiên chú ý đến cuộc chuyện trò. ‘Vâng,’ cô trả lời ngắn gọn. ‘Ông ấy là cha tôi, giáo sư Bartholomew Rossi.’

“Cha nghĩ, theo lẽ thường hẳn Stoichev có thể ngạc nhiên vì sao con gái một nhà sử học người Anh lại tuyên bố mình là một người Rumani và lớn lên ở Hungary, nhưng nếu thực sự có những thắc mắc đó, ông đã giữ chúng lại cho riêng mình. ‘Phải, đúng là cái họ đó. Ông ta đã viết những cuốn sách tuyệt vời, mà cũng trong phạm vi chủ đề như vậy!’ Ông vỗ tay lên trán. ‘Khi đọc một vài bài báo đầu tiên của ông ta, tôi đã nghĩ ông ta sẽ trở thành một sử gia xuất sắc về Balkan, nhưng tôi thấy ông ta đã bỏ rơi lĩnh vực này để theo đuổi nhiều lĩnh vực khác.’

“Cha cảm thấy khuây khỏa khi nghe Stoichev biết và đánh giá cao công việc của thầy Rossi; điều này có thể làm ông ấy tin tưởng và dễ dàng có cảm tình với chúng ta hơn. ‘Vâng, đúng vậy,’ cha tiếp lời. ‘Thực ra, giáo sư Rossi không chỉ là cha Helen mà còn là giáo sư hướng dẫn của tôi - tôi cùng làm việc với ông ấy trong luận văn tốt nghiệp của mình.’

“ ‘May mắn quá nhỉ.’ Stoichev chắp hai bàn tay nổi đầy gân xanh lại với nhau. ‘Vậy đề tài luận văn tốt nghiệp của anh là gì?’

“ ‘Chà,’ cha trả lời, và lần này đến lượt cha đỏ bừng mặt. Cha thầm hy vọng Ranov không dòm ngó quá kỹ những biến đổi sắc mặt này. ‘Đó là về giới thương nhân Hà Lan thế kỷ mười bảy.’

“ ‘Không tồi chút nào,’ Stoichev nhận xét. ‘Một đề tài rất thú vị. Vậy thì điều gì đã đưa anh đến xứ sở Bungari này vậy?’

“ ‘Đó là một câu chuyện dài,’ cha trả lời. ‘Cô Rossi và tôi quan tâm đến việc nghiên cứu những mối liên quan giữa Bungari và cộng đồng Chính Thống giáo ở Istanbul sau khi đế quốc Ottoman chinh phục thành phố này. Dù chủ đề này có chệch hướng so với đề tài luận văn của tôi, chúng tôi vẫn đang viết vài bài báo về chủ đề đó. Thực ra, ở Đại học Budapest tôi còn lên lớp giảng về lịch sử… một vùng thuộc Rumani dưới chế độ cai trị của người Thổ.’ Ngay tức khắc cha nhận ra đây là một sai lầm; có lẽ Ranov chưa biết cha đã từng ở Budapest và Istanbul. Tuy nhiên, Helen đã kịp chấn chỉnh lại và cha phải làm theo ám hiệu của cô. ‘Chúng tôi rất muốn kết thúc công trình nghiên cứu của mình ở đây, ở Bungari này, và chúng tôi nghĩ ông có thể giúp chúng tôi rất nhiều.’

“ ‘Tất nhiên rồi,’ Stoichev nói vẻ kiên nhẫn. ‘Có lẽ các bạn có thể nói với tôi chính xác thì điều gì khiến các bạn quan tâm nhất trong lịch sử các tu viện thời Trung cổ và lộ trình của những người hành hương, và đặc biệt về thế kỷ mười lăm. Đó là một thế kỷ đầy hấp dẫn của lịch sử Bungari. Các bạn nên biết là sau năm 1393, phần lớn đất nước chúng tôi phải sống dưới gông cùm của đế chế Ottoman, mặc dù một vài khu vực của Bungari vẫn chưa bị chinh phục cho đến khi bước hẳn sang thế kỷ mười lăm. Nền văn hóa trí tuệ của quê hương chúng tôi được gìn giữ phần lớn nhờ các tu viện. Tôi rất vui khi các bạn quan tâm đến tu viện vì đó là một trong những nguồn di sản phong phú nhất của đất nước Bungari.’ Ông ngưng nói và lại chắp hai tay vào nhau, tựa như chờ xem chúng ta quen thuộc với thông tin vừa rồi đến mức nào.

“ ‘Vâng,’ cha nói. Không thể đừng được nữa. Chúng ta sẽ buộc phải nói chuyện về một vài khía cạnh của cuộc tìm kiếm trong lúc Ranov vẫn ngồi ngay ở đó. Xét cho cùng, nếu chúng ta yêu cầu gã ra ngoài, ngay lập tức gã sẽ đặt dấu hỏi về mục đích của chúng ta khi đến đây. Chúng ta chỉ hy vọng những câu hỏi nêu ra sẽ có vẻ như chỉ liên quan đến lĩnh vực học thuật và không đụng chạm ám chỉ đến bất kỳ điều gì cấm kỵ. ‘Chúng tôi tin rằng có những mối liên quan thú vị giữa cộng đồng Chính Thống giáo ở Istanbul vào thế kỷ mười lăm và những tu viện ở Bungari.’

“ ‘Đúng, tất nhiên là có,’ Stoichev thừa nhận. ‘Đặc biệt từ khi giáo hội Bungari được đặt dưới quyền hạn của vị giáo trưởng ở Constantinople theo lệnh của Quốc vương Mehmed Người Chinh phục. Lẽ dĩ nhiên, trước đó, giáo hội của chúng tôi độc lập với giáo trưởng của riêng mình tại Veliko Trnovo.’

“Cha cảm thấy trào dâng một cảm giác biết ơn đối với người đàn ông uyên bác và có đôi tai biết lắng nghe tuyệt vời này. Những lời bình luận của cha gần như là ngớ ngẩn, vô nghĩa, tuy nhiên ông đã trả lời với thái độ thận trọng đúng mực, rất lịch sự, đó là chưa kể về khía cạnh thông tin.

“ ‘Chính xác,’ cha thốt lên. ‘Và chúng tôi đặc biệt quan tâm - chúng tôi đã phát hiện ra một lá thư - nghĩa là, chúng tôi vừa mới ở Istanbul’ - cha thận trọng không liếc nhìn về phía Ranov - ‘và chúng tôi tìm thấy một lá thư có liên quan đến Bungari - một nhóm các tu sĩ đã đi từ Constantinople đến một tu viện ở Bungari. Chúng tôi quan tâm đến chi tiết này vì mục tiêu của một trong các bài báo của chúng tôi là vạch lại con đường họ đã đi ngang qua Bungari. Có lẽ họ đi hành hương - nhưng chúng tôi không hoàn toàn chắc chắn về điều đó.’

“ ‘Tôi hiểu,’ Stoichev nói. Đôi mắt ông có vẻ thận trọng hơn và ngời sáng hơn bao giờ hết. ‘Lá thư đó có đề ngày tháng chứ? Liệu các bạn có thể cho tôi biết sơ qua về nội dung của nó hoặc ai là người viết, nếu các bạn biết, và các bạn đã tìm thấy nó ở đâu? Nó được gửi cho ai, vân vân, nếu các bạn biết được những điều đó?’

“ ‘Chắc chắn rồi,’ cha nói. ‘Thực ra, chúng tôi có mang theo ở đây một bản sao. Bản chính viết bằng chữ Xlavơ, một tu sĩ ở Istanbul đã chép lá thư lại cho chúng tôi. Bản chính hiện đang ở trung tâm lưu trữ tư liệu về Mehmed II của nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ. Có lẽ ông muốn tự đọc lá thư này.’ Cha mở cặp, lấy bản sao lá thư trao cho ông, thầm hy vọng sau đó Ranov sẽ không đòi xem.

“Stoichev cầm lá thư, cha thấy ánh mắt ông lướt qua những dòng mở đầu. ‘Thú vị đấy,’ ông nói, và cha cảm thấy thất vọng khi ông đặt lá thư xuống bàn. Có lẽ rốt cuộc ông sẽ không giúp chúng ta, hoặc thậm chí không thèm đọc lá thư. ‘Cháu yêu,’ ông lên tiếng, quay về phía cô cháu gái. ‘Chúng ta không thể đọc những lá thư cổ xưa này mà không mời các vị khách của chúng ta ăn uống một cái gì đó. Cháu mang cho chúng ta rượu rakiya và một ít gì đó để ăn trưa nhé?’ Ông hướng về phía Ranov, gật đầu vẻ vô cùng lịch thiệp.

“Irina mỉm cười, đứng dậy ngay. ‘Được chứ, thưa cậu,’ cô gái trả lời bằng giọng Anh chuẩn. Cha trộm nghĩ chẳng có giới hạn nào cho những điều ngạc nhiên trong ngôi nhà này. ‘Nhưng cháu cần giúp mang đồ lên cầu thang.’ Cô đưa đôi mắt trong veo khẽ liếc Ranov một cái, gã đứng dậy, vuốt tóc.

“ ‘Tôi xin hân hạnh được giúp cô, thưa quý cô,’ gã nói, và cả hai bước xuống cầu thang, Ranov bước thùm thụp trên các bậc cấp, Irina liến thoắng gì đó với gã bằng tiếng Bungari.

“Ngay khi cánh cửa khép lại phía sau lưng Irina và Ranov, Stoichev nghiêng người về phía trước, ngốn ngấu đọc lá thư với vẻ tập trung cao độ. Khi đọc xong, ông ngước nhìn chúng ta. Gương mặt ông như già đi cả mười tuổi, và căng thẳng nữa. ‘Chuyện này quả thực đặc biệt,’ ông trầm giọng. Theo bản năng, chúng ta cùng bật dậy, đến ngồi sát bên ông, ở đầu chiếc bàn dài thượt. ‘Tôi rất kinh ngạc khi thấy lá thư này.’

“ ‘Vâng… gì cơ?’ cha hỏi, giọng nôn nóng. ‘Ông có ý tưởng gì về ý nghĩa có thể có của lá thư này chăng?’

“ ‘Một chút thôi.’ Mắt Stoichev mở to, nhìn cha chăm chú. ‘Vấn đề là,’ ông nói tiếp, ‘tôi cũng có một trong các lá thư của Sư huynh Kiril.’ ”

Chú thích:

1. Tác giả ngụ ý nhân vật Ranov phát âm không chuẩn, từ NIECE thành NESS - gần như đồng âm của từ NEST (tổ chim).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


Tôi nhớ rất rõ trạm xe buýt ở Perpignan, năm ngoái tôi đã đứng ở đó cùng với cha, chờ một chiếc buýt lấm lem bụi đường để đi về các làng quê. Bây giờ thì chiếc buýt lại đang dừng lại, Barley và tôi bước lên. Chuyến đi về thị trấn Les Bains chạy trên những đường quê rộng rãi đã trở nên quen thuộc đối với tôi. Bao quanh các thị trấn mà xe chạy ngang qua là những hàng tiêu huyền cắt tỉa vuông vức. Cây cối, nhà cửa, những cánh đồng và những chiếc xe cũ kỹ, tất cả như đều bằng bụi đất, một đám mây màu cà phê bao phủ lên mọi vật.

Tôi cũng nhớ rõ cái khách sạn ở Les Bains với bốn tầng trát thạch cao, những lưới mắt cáo cửa sổ bằng sắt và các bình hoa hồng đỏ thắm. Tôi cảm thấy nhớ cha, nghẹt thở vì ý nghĩ sắp được gặp lại cha, có lẽ chỉ vài phút nữa. Lần đầu tiên tôi được làm người hướng dẫn cho Barley, tôi đẩy cánh cửa nặng nề mở ra và đặt túi xách xuống trước quầy tiếp tân mặt đá cẩm thạch. Nhưng rồi cái quầy đó có vẻ như quá cao và quá trang trọng đến độ tôi lại cảm thấy rụt rè và phải cố hết sức mới lí nhí được với ông lão béo tốt phía sau quầy rằng tôi nghĩ có thể cha mình đang ở đây. Tôi không nhớ đã gặp ông lão này lần trước tới đây, nhưng ông lão tỏ ra nhã nhặn, và chỉ một lát sau ông trả lời là quả thực cũng có một quý ông ngoại quốc tên họ đó đang ở đây, nhưng la clé - chìa khóa phòng ông ta - không có ở đây, vì vậy hẳn ông ta đã ra ngoài. Ông lão chỉ cho chúng tôi thấy chỗ treo chìa khóa trống không. Tim tôi hụt một nhịp đập, và chỉ một lát sau lại hụt thêm một nhịp nữa khi một người đàn ông mà tôi còn nhớ mở cánh cửa phía sau quầy. Đó là viên quản lý nhà hàng, vẫn cái vẻ chững chạc, duyên dáng và có vẻ hơi vội vàng ấy. Ông lão chặn ông ta lại bằng một câu hỏi, và ông ta liền quay sang tôi vẻ étonné(1)_, rồi thốt lên ngay nào là cô gái này đã từng ở đây, nào là cô đã lớn quá, đã trưởng thành và xinh đẹp quá. Và đây là… bạn trai ư?

“Cousin(2)__,” Barley trả lời.

Nhưng quý ông không đề cập gì đến việc con gái và cháu trai sẽ đến gặp mình, thật là một sự ngạc nhiên thú vị. Tối nay nhất định tất cả chúng tôi phải ăn tối ở nhà hàng của ông ta đấy nhé. Tôi hỏi liệu họ có biết cha tôi ở đâu, nhưng không ai biết. Ông lão cho biết thêm là cha tôi đã đi từ rất sớm, có lẽ là đi dạo buổi sáng. Viên quản lý nhà hàng nói khách sạn không còn chỗ, nhưng nếu chúng tôi cần các phòng khác thì ông ta sẽ xem xét việc đó. Nhưng ít ra, tại sao chúng tôi không lên phòng cha tôi mà gửi túi xách lại đó nhỉ? Cha tôi đã lấy một phòng hạng sang có phòng khách nhỏ, nhìn ra một khung cảnh đẹp. Ông ta - viên quản lý nhà hàng - sẽ đưa chúng tôi l’autre clé(3)_ cũng như sẽ cho mang cà phê lên cho chúng tôi. Có lẽ cha tôi sẽ trở về sớm thôi. Chúng tôi đồng ý với tất cả các đề nghị trên với vẻ biết ơn. Chiếc thang máy kêu kẽo kẹt, ì ạch đưa chúng tôi lên cao, chậm đến nỗi tôi tự hỏi phải chăng viên quản lý nhà hàng đang trì kéo sợi xích thang máy dưới tầng hầm.

Chúng tôi mở cửa, căn phòng của cha rộng rãi dễ chịu, và hẳn tôi sẽ cảm thấy thích thú từng ngóc ngách trong phòng nếu không bất chợt cảm thấy không thoải mái vì đây là lần thứ ba trong vòng một tuần tôi xâm phạm chốn riêng tư của cha. Tệ hơn nữa là bất ngờ phải nhìn thấy va li, những thứ quần áo quen thuộc khắp phòng, bộ dụng cụ cạo râu đã mòn vẹt và đôi giày đẹp đẽ của ông. Chỉ vài ngày trước đây, tôi đã nhìn thấy những vật này trong phòng cha, tại nhà thầy James ở Oxford, và giờ đây tôi cảm thấy choáng khi nhìn lại những vật quen thuộc đó.

Nhưng ngay cả cơn choáng ấy cũng bị một cảm giác sửng sốt khác lấn át. Cha vốn là một người ngăn nắp; nói một cách ngắn gọn, bất kỳ phòng ở hoặc phòng làm việc nào của cha cũng là một kiểu mẫu của sự gọn gàng và ngăn nắp. Không giống như những người độc thân, ở góa hoặc ly dị vợ mà tôi gặp gỡ sau này, cha chưa bao giờ rơi vào tình trạng của người sống một mình - chất đống những thứ trong túi quần túi áo lên bàn ăn hay bàn làm việc, hoặc xếp đống áo quần lên lưng ghế. Trước đây, tôi chưa bao giờ thấy đồ đạc của cha lộn xộn như thế này. Chiếc va li nửa đóng nửa mở bên cạnh giường ngủ. Hình như cha đã lục lọi va li và lôi ra một hai thứ đồ, khiến tất vớ và áo lót vung vãi trên nền nhà. Chiếc áo khoác nhẹ bằng vải bạt nằm vắt ngang trên giường. Thực tế là cha đã thay đồ, cũng rất vội vàng, và dồn đống bộ quần áo đã thay ra kế bên chiếc cặp. Tôi chợt nghĩ có thể không phải cha tạo ra khung cảnh hỗn độn này, mà căn phòng đã bị lục lọi khi ông ra ngoài. Nhưng đống quần áo của cha, nằm vương vãi như đống da rắn trên nền nhà, khiến tôi phải nghĩ ngược lại. Đôi giày thể thao không còn ở vị trí thường lệ trong va li, và các cốt giày gỗ tuyết tùng cha thường để bên trong giày cũng bị quăng qua một bên. Rõ ràng cha chưa bao giờ phải vội vã như vậy trong cuộc đời mình.

Chú thích:

1. Tiếng pháp trong nguyên bản, nghĩa là "ngạc nhiên".

2. Tiếng pháp trong nguyên bản, nghĩa là "anh họ".

3. Tiếng pháp trong nguyên bản, nghĩa là "chìa khóa khác".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


“Khi Stoichev cho biết ông cũng có một trong các lá thư của Sư huynh Kiril, Helen và cha trố mắt nhìn nhau, sửng sốt. ‘Ý ông là sao?’ cuối cùng Helen thốt lên.

“Stoichev gõ gõ ngón tay lên bản sao lá thư của Turgut, vẻ kích động. ‘Năm 1924, ông bạn Atanas Angelov của tôi đã trao cho tôi một lá thư viết tay. Nó thuật lại một giai đoạn khác của cuộc hành trình này, tôi chắc chắn như vậy. Tôi không biết liệu còn tồn tại bất kỳ tài liệu nào khác nói về các chuyến đi này nữa không. Thực ra, ông bạn khốn khổ của tôi đã bất ngờ qua đời ngay sau khi trao lá thư cho tôi. Xin chờ một lát…’ Ông đứng bật dậy, vội vàng đến độ lảo đảo suýt ngã, cả Helen và cha đều lao đến để đỡ ông. Tuy nhiên, ông tự đứng thẳng trở lại mà không cần đến sự trợ giúp nào rồi bước vào một trong các phòng nhỏ hơn, ra hiệu cho chúng ta đi theo và tránh vấp vào những đống sách xếp dọc vách tường. Stoichev dò tìm trên các ngăn kệ và với tay lên một cái hộp, cha phải giúp ông lấy nó xuống. Ông lôi từ trong hộp ra một tập hồ sơ bìa cứng, được cột lại bằng loại dây thừng tước nhỏ. Mang tập hồ sơ trở lại bàn, Stoichev mở nó trước cặp mắt háo hức của chúng ta, kéo ra một tài liệu mỏng mảnh đến mức cha cảm thấy rùng mình khi nhìn ông cầm nó trong tay. Ông đứng lặng nhìn trang giấy một lúc lâu, tựa như bị tê liệt, rồi buông một tiếng thở dài. ‘Như các bạn thấy, đây là bản gốc. Chữ ký…’

“Chúng ta cúi xuống trang giấy, và cha chợt nổi da gà khi nhìn thấy ở đó một cái tên viết bằng chữ Kiril(1), nét chữ thanh tú, ngay cả cha cũng có thể đọc hiểu cái tên ấy - Kiril - và cái niên đại kia: 6985. Cha nhìn Helen, cô đang cắn môi. Cái tên đã phai mờ của vị tu sĩ hiển hiện như một sự thực sờ sờ trước mắt. Ông ta đã từng sống như chúng ta đang sống, đã từng cầm một cây bút lông ngỗng viết lên tờ giấy da này, bằng một bàn tay ấm nóng và sinh động.

“Stoichev trông có vẻ kinh sợ giống như cha, mặc dù nhìn thấy một bản thảo cổ viết tay hẳn là một phần công việc hàng ngày của ông. ‘Tôi đã dịch nó sang tiếng Bungari,’ một lúc sau ông nói, rồi rút ra một tờ giấy khác, loại giấy vỏ hành mỏng. Chúng ta ngồi xuống. ‘Tôi sẽ cố gắng đọc cho các bạn.’ Ông hắng giọng rồi dịch thẳng từ tiếng Bungari ra cho chúng ta nghe, một phiên bản tuy chưa trau chuốt nhưng khá hoàn chỉnh của bức thư sau này được dịch ra rộng rãi.

Thưa Đức cha tu viện trưởng Maxim Eupraxius,

Tôi cầm bút để hoàn thành bổn phận mà tôi phải gánh vác theo sự sắp đặt sáng suốt của ngài, cũng như để tường thuật chi tiết sứ mệnh của chúng tôi. Cầu cho tôi hoàn thành sứ mệnh và thỏa mãn những mong ước của ngài, nhờ ơn Thượng đế phù trợ. Đêm nay, chúng tôi đã ngủ lại ở tu viện Thánh Vladimir gần Virbius, cách ngài hai ngày đường, các sư huynh sùng đạo ở đó đã đón tiếp chúng tôi nhân danh ngài rất chân tình. Như ngài chỉ dạy, tôi đã một mình đến gặp và bộc bạch với cha tu viện trưởng sứ mệnh của chúng tôi, hoàn toàn bí mật, không có sự hiện diện của một tu sĩ hay người hầu nào. Ông đã ra lệnh khóa chiếc xe ngựa của chúng tôi vào chuồng ngựa ở sân trong, dưới sự canh gác của hai tu sĩ ở tu viện và hai người trong nhóm chúng tôi. Tôi hy vọng có thể thường xuyên nhận được sự cảm thông và bảo vệ như vậy, ít nhất là cho đến khi chúng tôi bắt đầu tiến vào những xứ sở ngoại đạo. Như ngài chỉ dạy, tôi đã trao tận tay cha tu viện trưởng cuốn sách có các huấn thị của ngài, tôi thấy ông giấu cuốn sách ngay tức khắc, thậm chí còn không mở nó ra trước mặt tôi.

Lũ ngựa đã mệt mỏi sau chuyến leo núi nên chúng tôi sẽ nghỉ ở đây thêm một đêm nữa. Hiện tại, chúng tôi đã hồi phục nhờ sự giúp đỡ của nhà thờ ở đây, trong nhà thờ này có hai ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh tám mươi năm về trước đã thực hiện những điều diệu kỳ. Một ảnh thánh vẫn còn nhỏ nước mắt nhiệm màu để than khóc cho một kẻ tội lỗi, những giọt nước mắt giờ đã trở thành trân châu quý hiếm. Chúng tôi đã dâng lên Đức Mẹ những lời cầu nguyện thiết tha nhất, xin Người bảo vệ sứ mệnh của chúng tôi, xin cho chúng tôi có thể an toàn đến thành phố vĩ đại và thậm chí trong hang ổ của kẻ thù cũng tìm được một nơi trú ẩn để từ đó cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Nhân danh Cha, Con, và Thánh thần - Kẻ tôi tớ hèn mọn của ngài,

Sư huynh Kiril

Tháng Tư, năm của Chúa 6985

“Cả Helen và cha gần như không dám thở trong khi Stoichev đọc bản dịch. Ông dịch chậm rãi, có phương pháp và đầy lão luyện. Lúc cha suýt kêu to lên vì sự liên quan không thể chối cãi giữa hai lá thư thì tiếng bước chân thình thịch trên cầu thang gỗ làm tất cả chúng ta phải ngước lên. ‘Họ đang quay trở lại,’ Stoichev khẽ nói. Ông cất lá thư đi, và cha cũng tạm thời để ông ta giữ bản sao lá thư của chúng ta cho an toàn. ‘Gã Ranov ấy… anh ta được phân công làm người hướng dẫn cho các bạn à?’

“ ‘Đúng vậy,’ cha trả lời ngay. ‘Và anh ta có vẻ quá quan tâm đến công việc của chúng tôi ở đây. Chúng tôi phải nói với ông rất nhiều điều về cuộc tìm kiếm của mình, nhưng đó là việc khá bí mật và cũng…’ cha ngập ngừng.

“ ‘Nguy hiểm?’ Stoichev tiếp lời, quay gương mặt già nua kỳ lạ về phía chúng ta.

“ ‘Làm sao ông đoán được?’ Cha không giấu nổi sự ngạc nhiên. Cho đến lúc này chẳng có gì trong những điều chúng ta nêu ra hàm ý có thể có nguy hiểm.

“ ‘Chà.’ Ông lắc đầu, và cha nghe trong tiếng thở dài của ông một trải nghiệm sâu sắc và cả nỗi hối tiếc mà cha không tài nào dò thấu. ‘Còn vài điều nữa tôi muốn nói với các bạn. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ nhìn thấy một lá thư nào khác như thế này. Nói với gã Ranov kia càng ít càng tốt nhé.’

“ ‘Ông đừng lo.’ Helen lắc đầu, hai người nhìn nhau một lát, mỉm cười.

“ ‘Cứ yên lặng nhé,’ Stoichev nói, giọng từ tốn. ‘Tôi sẽ lo liệu để chúng ta có cơ hội trò chuyện một lần nữa.’

“Irina và Ranov bước vào phòng trong tiếng lanh canh của bát đĩa, Irina bắt đầu bày ly và một chai chứa thứ chất lỏng màu hổ phách. Ranov đứng sau cô, tay cầm ổ bánh mì và đĩa đậu trắng. Gã đang mỉm cười và trông gần như một người trong gia đình. Cha ước gì mình có thể cảm ơn cô cháu gái của Stoichev. Sau khi thu xếp cho ông cậu mình ngồi thoải mái trên ghế, cô mời chúng ta ngồi xuống, và cha chợt nhận ra chuyến tham quan sáng nay cũng đã khiến cha đói cồn cào.

“ ‘Xin mời, các vị khách quý, xin cứ tự nhiên.’ Stoichev khoát tay quanh bàn, tựa như trên bàn là một bữa đại tiệc của hoàng đế ởConstantinople. Irina rót rượu ra ly - rượu nặng đến mức chỉ riêng hơi của nó thôi có khi cũng có thể hạ gục một con thú nhỏ - và Stoichev vừa điệu nghệ nâng ly vừa cười thật tươi và chân thành, để lộ hàm răng đã ố vàng. ‘Tôi xin uống mừng tình hữu nghị giữa các học giả khắp nơi trên thế gian này.’

“Tất cả chúng ta đều nồng nhiệt nâng ly chúc mừng, trừ Ranov, gã vừa nhìn chúng ta khắp lượt vừa nâng ly lên với vẻ mặt mỉa mai.

“ ‘Cầu cho học vấn uyên thâm của các vị nâng cao được kiến thức của Đảng và nhân dân,’ gã lên tiếng, khẽ nghiêng đầu về phía cha. Câu nói đó làm cha không còn thấy ngon miệng; gã chỉ nói chung chung hay gã muốn nâng cao tri thức của cái Đảng kia nhờ một điều cụ thể mà chúng ta biết? Cha gật đầu đáp lại rồi nốc cạn ly rakiya của mình. Cha không còn cách nào khác để uống loại rượu này ngoài nốc ực thật nhanh, và rồi cái cảm giác tra tấn cháy bỏng cuối cổ họng nhanh chóng nhường chỗ cho một cảm giác hào hứng khoái trá. Xin đủ cái thứ đồ uống này, cha nghĩ, hình như cha có nguy cơ có chút cảm tình với tay Ranov kia.

“ ‘Tôi rất vui khi có cơ hội tiếp chuyện với bất cứ ai quan tâm đến lịch sử thời Trung cổ của đất nước chúng tôi,’ Stoichev nói với cha. ‘Có lẽ anh và cô Rossi sẽ thấy thích thú nếu được xem ngày lễ tưởng niệm hai trong số những gương mặt xuất sắc của chúng tôi thời Trung cổ. Ngày mai là ngày tưởng niệm Kiril và Methodii, những người lập ra bảng chữ cái Xlavơ tuyệt vời của chúng tôi. Trong tiếng Anh các bạn gọi họ là Cyril và Methodius, còn hệ thống chữ cái đó là Cyrillic, đúng vậy chứ? Chúng tôi thì gọi là kirilitsa, để tưởng nhớ đến Kiril, vị tu sĩ đã sáng tạo ra bảng chữ cái ấy.’

“Trong một thoáng cha mơ hồ liên tưởng đến vị Sư huynh Kiril của các lá thư, nhưng phải đến khi Stoichev nói tiếp, cha mới hiểu rõ ý định của ông và nhận ra quả thực ông xoay xở rất khéo.

“ ‘Chiều nay tôi bận viết lách,’ ông nói, ‘nhưng nếu muốn, ngày mai các bạn có thể quay lại, một vài sinh viên cũ của tôi sẽ có mặt ở đây để kỷ niệm ngày này, và lúc đó tôi có thể trò chuyện với các bạn nhiều hơn về Kiril.’

“ ‘Ồ, ông thật vô cùng tử tế,’ Helen lên tiếng. ‘Chúng tôi không muốn làm lãng phí quá nhiều thời gian của ông, nhưng cũng rất hân hạnh được gặp lại ông. Việc này có thể thu xếp được chứ, đồng chí Ranov?’

“Hai tiếng đồng chí có vẻ như không thoát khỏi tai Ranov, gã quắc mắt nhìn Helen qua ly rượu thứ hai của mình. ‘Dĩ nhiên,’ gã gằn giọng. ‘Tôi sẵn lòng giúp một tay nếu việc đó giúp các bạn hoàn tất nghiên cứu.’

“ ‘Tốt lắm,’ Stoichev nói. ‘Chúng ta sẽ tụ tập ở đây vào khoảng một giờ rưỡi, và Irina sẽ chuẩn bị một món gì đó ngon lành để ăn trưa. Bao giờ chúng tôi cũng là một nhóm vui vẻ. Các bạn sẽ thấy thích thú với công việc của một vài học giả mình sắp gặp đấy.’

“Chúng ta rối rít cảm ơn ông và ăn uống theo sự thúc giục của Irina, mặc dù cha để ý thấy Helen cũng tránh không đụng chạm đến phần rượu rakiya còn lại trong ly. Khi đã dùng xong bữa ăn đạm bạc, Helen đứng dậy ngay và tất cả chúng ta cũng đứng lên theo. ‘Chúng tôi không dám làm phiền ông thêm, thưa giáo sư,’ cô nói rồi bắt tay Stoichev.

“ ‘Tôi có mệt gì đâu, bạn thân mến,’ Stoichev bắt tay Helen, vẻ nồng nhiệt, nhưng cha thấy quả thực ông có vẻ mệt mỏi. ‘Tôi rất mong cuộc gặp mặt của chúng ta vào ngày mai.’

“Irina lại đưa chúng ta ra cổng, ngang qua mảnh sân vườn xanh ngắt. ‘Mai nhé,’ cô nói, mỉm cười với chúng ta, rồi liến thoắng nói thêm một câu gì đó bằng tiếng Bungari khiến Ranov vuốt vuốt tóc trước khi đội mũ lên lại. ‘Cô ấy thật xinh đẹp,’ gã hài lòng nhận xét khi chúng ta bước về chiếc xe, và Helen đảo mắt nhìn cha sau lưng gã.

“Mãi đến tối chúng ta mới có được vài phút riêng tư với nhau. Ranov đã bỏ đi sau bữa tối dài lê thê trong phòng ăn trống trải của khách sạn. Helen và cha phải cuốc bộ lên cầu thang - thang máy lại hỏng - và cùng thơ thẩn trong hành lang gần phòng cha, những khoảnh khắc ngọt ngào hiếm hoi giữa cái tình thế quái lạ mà chúng ta đang lâm vào. Khi cho rằng Ranov đã thực sự bỏ đi, chúng ta lại xuống tầng dưới, tản bộ đến một quán cà phê trên con phố nhỏ gần đó, và ngồi dưới những tán cây.

“ ‘Ở đây cũng có người theo dõi chúng ta nữa,’ Helen khẽ nói khi chúng ta ngồi vào một cái bàn kim loại. Cha thận trọng để chiếc cặp vào lòng; cha thậm chí còn không đặt nó xuống dưới gầm bàn trong quán ăn như trước nữa. Helen mỉm cười. ‘Nhưng ít ra nơi này không bị đặt máy nghe lén như trong phòng em. Và phòng anh.’ Cô nhìn lên những tán lá xanh rì trên đầu. ‘Cây đoan,’ cô trầm giọng. ‘Một hai tháng nữa chúng sẽ trổ đầy hoa. Ở quê em, người ta dùng hoa đoan thay cho trà, có lẽ ở đây cũng vậy. Khi ngồi ở một bàn ngoài trời như thế này, trước tiên người ta phải chùi sạch bàn ghế vì hoa và phấn rơi khắp nơi. Chúng có mùi như mật ong, rất ngọt và mát.’ Cô bỗng khoát tay, tựa như đang gạt qua một bên hàng ngàn cánh hoa màu xanh nhạt.

“Cha cầm lấy bàn tay Helen và lật ngược lại để có thể nhìn thấy những đường chỉ tay thanh mảnh. Cha hy vọng chúng chỉ ra rằng cô sẽ cùng cha sống một cuộc đời hạnh phúc đến trăm năm. ‘Em nghĩ gì về việc Stoichev có lá thư ấy?’

“ ‘Đó có lẽ là một may mắn bất ngờ đối với chúng ta,’ cô nói, không giấu được vẻ trầm ngâm. ‘Thoạt tiên, em cho rằng đó chỉ là một mẩu trong trò chơi ghép hình của lịch sử - một mẩu kỳ diệu, nhưng liệu nó có ích gì cho chúng ta? Nhưng khi Stoichev đoán lá thư của chúng ta có thể gây nguy hiểm, em đã vô cùng hy vọng ông ấy biết một điều gì đó rất quan trọng.’

“ ‘Anh cũng hy vọng như vậy,’ cha thú nhận. ‘Nhưng anh cũng nghĩ có thể ông ấy chỉ hàm ý lá thư đó là tài liệu nhạy cảm về mặt chính trị, giống như phần nhiều công việc của ông - bởi công việc ấy liên quan đến lịch sử giáo hội.’

“ ‘Em biết.’ Helen thở dài. ‘Có thể sự việc chỉ có ý nghĩa như vậy.’

“ ‘Và chỉ việc đó cũng đủ khiến ông ấy thận trọng khi trò chuyện trước mặt Ranov.’

“ ‘Đúng vậy. Chúng ta phải chờ đến ngày mai mới biết được ông ấy có ý gì.’ Helen đan các ngón tay vào tay cha. ‘Thực là khổ sở vì ngày nào cũng phải chờ đợi không cái này thì cái nọ, phải không anh?’

“Cha từ tốn gật đầu. ‘Em mà biết thầy Rossi thì,’ cha nói, và đột ngột dừng lại.

“Cô nhìn sững vào mắt cha rồi chậm rãi đưa tay gạt mớ tóc vừa tuột khỏi ghim cài ra sau. Cử chỉ đó trông buồn đến độ làm cho những lời nói tiếp theo của Helen càng nặng nề hơn. ‘Em bắt đầu hiểu cha rồi, nhờ có anh.’

“Ngay lúc ấy, một cô phục vụ áo trắng đến bên chúng ta và hỏi gì đó. Helen quay sang cha. ‘Anh uống gì?’ Cô nàng phục vụ tò mò nhìn chúng ta, những con người nói một thứ ngôn ngữ xa lạ.

“ ‘Em biết phải gọi món gì như thế nào rồi chứ?’ cha trêu Helen.

“ ‘Chai(2),’ Helen nói, trỏ vào người mình và người cha. ‘Cho chúng tôi trà. Moyla(3).’

“ ‘Em học nhanh thật,’ cha nói khi cô phục vụ đã quay vào bên trong.

“Helen nhún vai. ‘Em đã học qua tiếng Nga mà. Tiếng Bungari cũng gần tương tự thôi.’

“Khi cô phục vụ trở lại với hai tách trà, Helen khuấy khuấy tách trà với vẻ mặt buồn thiu. ‘Thật là nhẹ cả người khi thoát khỏi cái gã Ranov kia, đến độ em hầu như không thể chịu nổi khi nghĩ đến ngày mai lại phải nhìn thấy bản mặt gã. Em không hiểu làm thế nào mà tìm hiểu được cái gì ra hồn khi gã cứ lẽo đẽo sau lưng như thế.’

“ ‘Anh sẽ thấy dễ chịu hơn nếu biết liệu hắn có thực sự nghi ngờ gì về cuộc tìm kiếm của chúng ta hay không,’ cha thú nhận. ‘Điều kỳ lạ là hắn gợi cho anh nhớ đến một người anh đã gặp trước đây, nhưng có vẻ như anh bị mắc chứng quên, không thể nhớ nổi đó là ai.’ Cha liếc nhìn gương mặt nghiêm nghị đáng yêu của Helen, và đúng giây phút này cha cảm thấy đầu óc mình dò dẫm được một cái gì đó, như đang chấp chới bên rìa lời giải một câu hỏi khó, và không phải là câu hỏi về khả năng Ranov có một người anh em song sinh. Đó là một điều liên quan đến gương mặt Helen trong cảnh tranh tối tranh sáng này, liên quan đến động tác cha nâng cốc trà lên uống, liên quan đến cái từ lạ lùng mà cha đã chọn. Tâm trí cha đã từng chạm đến đó, nhưng lần này ý tưởng ấy bùng lên như một tia chớp.

“ ‘Chứng quên lãng,’ cha thốt lên. ‘Helen... Helen, chứng quên lãng.’

“ ‘Gì cơ?’ Cô cau mày, bối rối trước vẻ xúc động của cha.

“ ‘Những lá thư của thầy Rossi!’ cha gần như reo lên. Cha mở cặp ra hấp tấp đến mức làm trà đổ ra mặt bàn. ‘Thư của thầy, chuyến đi Hy Lạp của thầy!’

“Phải mất vài phút cha mới tìm ra lá thư quái quỷ đó trong mớ giấy tờ của mình, dò tìm đoạn thư và đọc cho Helen nghe, mắt cô mỗi lúc một mở to rồi dần tối sầm lại đầy kinh ngạc. ‘Em còn nhớ lá thư kể về việc thầy trở về Hy Lạp - về đảo Crete - như thế nào sau khi bị lấy mất tấm bản đồ ở Istanbul, rồi vận may của thầy trở thành vận rủi, và mọi chuyện trở nên xấu đi chứ?’ Cha đọc một mạch trang thư ngay trước mặt cô. ‘Em nghe này: “Những ông lão trong các quán rượu trên đảo Crete có vẻ như thích kể cho tôi nghe về hai trăm mười câu chuyện ma cà rồng của họ hơn là giải thích xem tôi có thể tìm ở đâu ra những mảnh gốm vỡ khác như mảnh gốm kia, hoặc những con tàu đắm cổ xưa nào cha ông họ đã lặn xuống để tìm chiếm cổ vật. Một tối nọ, tôi đã để một người lạ mặt mời mình một chầu thứ nước uống đặc sản địa phương có tên gọi rất quái dị là amnesia - quên lãng, hậu quả là tôi phải nằm bẹp suốt cả ngày hôm sau.” ’

“ ‘Ôi, lạy Chúa,’ Helen khẽ thốt lên.

“ ‘Tôi để một người lạ mặt mời uống một thứ gọi là amnesia - quên lãng,’ cha diễn giải, cố hạ giọng. ‘Em nghĩ gã lạ mặt quái quỷ đó là ai? Và đó là lý do vì sao thầy Rossi đã quên...’

“ ‘Ông đã quên...’ Helen như bị cái từ ấy thôi miên. ‘Ông đã quên đất nước Rumani...’

“ ‘... quên là thầy đã từng ở đó. Những lá thư gửi cho anh bạn Hedges viết rằng thầy từ Rumani trở về Hy Lạp để lấy một ít tiền và tham gia vào một vụ khai quật khảo cổ...’

“ ‘Và ông đã quên mẹ em,’ Helen kết luận, giọng lí nhí hầu như không thể nghe được.

“ ‘Mẹ em,’ cha lặp lại, chợt liên tưởng đến hình ảnh mẹ Helen đứng ở cửa dõi nhìn chúng ta ra đi. ‘Thầy chưa từng có ý định không quay trở lại. Thầy đã đột ngột quên tất cả mọi chuyện. Và đó là... đó là lý do vì sao thầy nói với anh thầy không thể nhớ rõ nghiên cứu ấy.’

“Khuôn mặt Helen giờ đã trắng bệch, hàm nghiến chặt, mắt rực lên vẻ khắc nghiệt và ngấn đầy nước mắt. ‘Em căm ghét hắn,’ cô khe khẽ nói, và cha biết cô không ám chỉ cha mình.”

Chú thích:

1. Phiên âm từ nguyên bản tiếng Anh Cyrillic, là bảng chữ cái sử dụng trong một số ngôn ngữ Xlavơ, chẳng hạn như tiếng Nga.

2. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "trà".

3. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "thưa cô".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


“Trưa hôm sau, chúng ta đến cổng nhà ông Stoichev đúng một giờ rưỡi. Helen siết chặt tay cha, phớt lờ sự hiện diện của Ranov, và ngay cả Ranov cũng có vẻ như đang vui như hội; gã mặc một bộ vest màu nâu sậm và ít cau có hơn thường lệ. Từ phía sau cánh cổng, chúng ta có thể nghe được tiếng chuyện trò, tiếng cười, mùi gỗ cháy và mùi thơm ngậy của thịt nướng. Nếu kiên quyết gạt khỏi tâm trí tất cả ý nghĩ vương vấn về thầy Rossi, hẳn cha cũng cảm thấy vui như hội. Cha linh cảm chính ngày hôm nay, trong tất cả mọi ngày, sẽ có một điều xảy ra giúp cha tìm được thầy, và cha nhủ thầm sẽ toàn tâm toàn ý tham gia buổi yến tiệc kỷ niệm Kiril và Methodius.

“Trong sân, chúng ta nhìn thấy đàn ông và một ít phụ nữ tụ tập thành từng nhóm dưới giàn lưới mắt cáo. Irina đi tới đi lui phía sau bàn, chất đầy thức ăn vào đĩa mọi người hoặc rót đầy ly thứ rượu mạnh màu hổ phách kia. Khi nhìn thấy chúng ta, cô vội vàng lao đến, dang rộng đôi tay, tựa như chúng ta là bạn bè đã thân quen. Cô bắt tay cha và Ranov rồi hôn lên hai má Helen. ‘Tôi rất vui vì các bạn đã đến. Cám ơn các bạn,’ cô thốt lên. ‘Từ lúc các bạn đến đây vào ngày hôm qua, cậu tôi không ngủ được chút nào và cũng chẳng ăn uống gì. Tôi hy vọng các bạn khuyên được ông ấy ăn chút gì đó.’ Gương mặt xinh đẹp của cô gái cau lại.

“ ‘Cô đừng lo,’ Helen trả lời. ‘Chúng tôi sẽ cố hết sức thuyết phục ông ấy.’

“Chúng ta thấy Stoichev trông như thể đang tổ chức buổi thiết triều dưới những gốc táo. Ở đó người ta đã xếp các ghế gỗ thành một vòng tròn, và ông ngồi ở chiếc ghế lớn nhất, vài người đàn ông trẻ hơn ngồi xung quanh. ‘Ồ, xin chào!’ ông reo lên, đứng dậy một cách khó nhọc. Những người khác vội đứng dậy giúp ông một tay rồi chờ đợi chào hỏi chúng ta. ‘Chào mừng các bạn. Hãy gặp gỡ những bằng hữu khác của tôi.’ Bằng một cái vẫy tay yếu ớt, ông chỉ vào những gương mặt chung quanh. ‘Vài người là sinh viên cũ của tôi từ trước chiến tranh, họ thật tử tế khi trở về thăm tôi.’ Nhiều người trong số họ mặc sơ mi trắng và bộ vest tồi tàn tối màu, chỉ trẻ bằng cỡ Ranov; còn lại đa phần ít ra phải vào độ tuổi năm mươi. Họ mỉm cười và nồng nhiệt bắt tay chúng ta, một người còn cúi xuống hôn tay Helen, trang trọng theo đúng nghi thức xã giao. Cha thấy có cảm tình với những đôi mắt đen tuyền lanh lợi, những nụ cười điềm đạm lấp lánh răng vàng của bọn họ.

“Irina đến phía sau chúng ta; có vẻ như cô đang thúc giục mọi người trở lại ăn uống, vì một lát sau cha chợt nhận ra chúng ta đang theo dòng khách khứa tiến tới những chiếc bàn dưới giàn lưới mắt cáo. Ở đó chúng ta thấy cả một chiếc bàn dài đang trĩu xuống vì nặng, và nguồn gốc của mùi thơm ngào ngạt kia hóa ra là nguyên một con cừu đang nướng trên cái hố đào sát bên nhà. Trên bàn chất đầy những đĩa đất nung đựng khoai tây thái lát, cà chua, dưa chuột, mẩu pho mát trắng, những ổ bánh mì vàng rộm, và những đĩa bánh nướng phủ bột pho mát mà chúng ta đã từng được ăn tại Istanbul. Có thịt hầm, hàng tô sữa chua đông lạnh, cà và hành nướng vỉ. Irina chỉ chịu thôi khi đĩa ăn của chúng ta đã đầy ứ, nặng gần như không thể mang đi nổi, rồi cô cùng chúng ta trở lại vườn cây ăn quả nhỏ bé kia, không quên mang theo những ly rượu rakiya.

“Lúc này, những học trò cũ của Stoichev rõ ràng đang tranh nhau xem ai mang cho ông thầy nhiều thức ăn nhất, và giờ thì họ rót đầy ly của ông, rồi ông chậm chạp đứng dậy. Mọi người trong sân bảo nhau yên lặng, và rồi ông nâng ly chúc mừng cùng một bài diễn văn ngắn, trong đó cha thoáng nhận ra những cái tên như Kiril và Methodius, cũng như tên Helen và tên cha. Khi ông nói xong, tiếng hoan hô vang lên từ khắp mọi phía. ‘Stoichev! Za zdraveto na Profesor Stoichev! Nazdrave!’(1),_ Những tiếng hoan hô vang dội quanh chúng ta. Mặt ai cũng tươi hẳn lên, mỉm cười hướng về phía Stoichev và nâng cao ly rượu, vài người còn rơm rớm nước mắt. Cha lại nhớ đến thầy Rossi, thầy đã lắng nghe với thái độ khiêm nhường biết bao những lời hoan hô chúc tụng trong buổi lễ kỷ niệm năm thứ hai mươi thầy dạy tại trường đại học. Cha quay đi, cảm thấy cổ họng nghẹn lại. Cha để ý thấy Ranov đang loanh quanh dưới giàn lưới mắt cáo, tay cầm ly rượu.

“Khi mọi người đã ngồi trở lại, tiếp tục ăn uống chuyện trò, Helen và cha chợt nhận ra chúng ta đang ngồi ở vị trí dành cho khách danh dự, kế bên Stoichev. Ông mỉm cười và gật đầu với chúng ta. ‘Tôi rất vui vì hôm nay các bạn đã đến tham dự cùng chúng tôi. Các bạn biết đấy, đây là ngày lễ ưa thích của tôi. Theo lịch giáo hội, chúng tôi có rất nhiều ngày lễ thánh, nhưng đây là một ngày được tất cả những người đang dạy và học trân trọng, bởi vì đó là ngày chúng tôi tôn vinh di sản chữ viết và văn chương Xlavơ, cũng như việc dạy và học đã phát triển từ nhiều thế kỷ nay nhờ Kiril, Methodius và phát minh vĩ đại của họ. Hơn nữa, vào ngày này, tất cả sinh viên và đồng nghiệp thân yêu của tôi lại trở về đây để bứt ông giáo già này khỏi công việc. Tôi rất biết ơn họ vì sự quấy quả này.’ Ông nhìn quanh bằng ánh mắt trìu mến và vỗ lên vai người bạn đồng nghiệp gần nhất. Cha nhói lòng khi nhận thấy bàn tay ông yếu ớt biết bao, gầy guộc và gần như trong suốt.

“Sau một lúc, các sinh viên của Stoichev bắt đầu tản đi, hoặc đến bên chiếc bàn nơi chú cừu nướng vừa bị cắt lạng ra từng mảng, hay lang thang trong vườn từng nhóm hai hoặc ba người. Ngay khi họ vừa rời đi, Stoichev quay sang chúng ta với vẻ mặt khẩn trương. ‘Đi nào,’ ông nói. ‘Chúng ta hãy bàn luận khi còn có thể. Cô cháu gái tôi đã hứa sẽ giữ chân gã Ranov càng lâu càng tốt. Tôi có một vài điều cần nói với các bạn, và tôi hiểu các bạn cũng có nhiều điều muốn nói với tôi.’

“ ‘Chắc chắn rồi,’ cha kéo ghế lại gần ông hơn, Helen cũng làm y như vậy.

“ ‘Các bạn ạ, trước tiên,’ Stoichev nói, ‘tôi đã đọc kỹ lại lá thư mà các bạn để lại cho tôi hôm qua. Đây là bản sao lá thư của các bạn.’ Ông lấy lá thư từ trong túi áo ra. ‘Bây giờ tôi sẽ trao nó lại để các bạn giữ cho an toàn. Tôi đã đọc lá thư này nhiều lần và tin là nó được viết ra bởi chính bàn tay đã viết lá thư tôi có - Sư huynh Kiril, dù ông ấy có là ai thì cũng chính là người đã viết cả hai lá thư này. Dĩ nhiên tôi không có bản gốc lá thư của các bạn để nhìn qua một cái, nhưng nếu đây là một bản sao chính xác thì cả hai lá thư đều có cùng một cách viết, cả tên tuổi và ngày tháng rõ ràng cũng khớp với nhau nữa. Tôi nghĩ chúng ta có thể có đôi chút ngờ vực rằng những lá thư này gửi đi chung một lần, nhưng hoặc chúng được giao riêng rẽ, hoặc bị tách ra vì những nguyên cớ mà chúng ta sẽ không bao giờ biết được. Hiện tại, tôi có một số ý tưởng khác, nhưng trước tiên các bạn phải cho tôi biết về nghiên cứu của các bạn đã. Tôi có cảm tưởng là các bạn đến Bungari không chỉ để tìm hiểu về các tu viện của chúng tôi. Các bạn đã tìm được lá thư này như thế nào?’

“Cha trả lời ông rằng chúng ta bắt đầu nghiên cứu này vì những lý do khó lòng mô tả, bởi dường như chúng chẳng hợp lý chút nào. ‘Ông nói ông đã đọc các tác phẩm của giáo sư Bartholomew Rossi, cha của Helen. Ông ấy vừa mới mất tích trong những tình huống vô cùng lạ lùng.’

“Nhanh chóng và rõ ràng, cha tóm tắt cho Stoichev nghe việc mình tìm thấy cuốn sách có hình rồng, việc thầy Rossi mất tích, nội dung các lá thư, bản sao những tấm bản đồ kỳ lạ mà chúng ta đang mang theo, và nghiên cứu của chúng ta ở Istanbul và Budapest, kể cả bài dân ca và bức tranh khắc gỗ có chữ Ivireanu chúng ta nhìn thấy ở thư viện Đại học Budapest. Cha chỉ không đề cập đến bí mật về vệ binh Trăng Lưỡi Liềm. Cha không dám lấy tài liệu trong cặp ra vì có quá nhiều người có thể nhìn thấy, nhưng cha mô tả cho ông ba tấm bản đồ và sự giống nhau của tấm bản đồ thứ ba với hình rồng trong cuốn sách. Stoichev lắng nghe, vẻ vô cùng quan tâm và kiên nhẫn, lông mày nhăn lại dưới mái tóc bạc trắng còn đôi mắt đen thì mở to. Ông chỉ cắt ngang một lần, nôn nóng yêu cầu mô tả chính xác hơn từng cuốn sách có hình rồng - của cha, của thầy Rossi, của Hugh James và của Turgut. Cha nhận thấy là do am hiểu về các loại bản thảo viết tay và công việc xuất bản thời xa xưa nên Stoichev tỏ ra đặc biệt quan tâm đến các cuốn sách kia. ‘Tôi có mang theo cuốn sách của mình đây,’ cha nói thêm, đưa tay sờ chiếc cặp trong lòng.

“Ông giật mình, nhìn cha trừng trừng. ‘Tôi muốn xem cuốn sách đó khi có thể,’ ông nói. Nhưng dường như chi tiết thậm chí còn làm cho ông quan tâm nhiều hơn sau phát hiện của Selim và Turgut là: cha tu viện trưởng mà các lá thư của Sư huynh Kiril gửi đến đã từng cai quản tu viện ở hồ Snagov xứ Wallachia. ‘Snagov,’ ông thì thầm. Gương mặt già nua của Stoichev bỗng đỏ rực lên và trong một thoáng cha tự hỏi phải chăng ông sắp ngất. ‘Lẽ ra tôi phải biết chuyện này. Vậy mà tôi đã giữ lá thư đó trong thư viện của mình những ba mươi năm!’

“Cha hy vọng cũng sẽ có cơ hội hỏi ông đã tìm thấy lá thư ở đâu. ‘Ông thấy đấy, có bằng chứng khá rõ là các tu sĩ thuộc nhóm của Sư huynh Kiril đã đi từ vùng Wallachia đến Constantinople trước khi đến Bungari,’ cha góp ý.

“ ‘Đúng vậy,’ ông lắc đầu. ‘Tôi đã luôn cho rằng lá thư chỉ mô tả hành trình của các tu sĩ từ Constantinople hành hương đến Bungari. Tôi chưa bao giờ nhận ra… Maxim Eupraxius… tu viện trưởng ở Snagov…’ Trong một thoáng Stoichev có vẻ như bị một cơn trầm tư kiểm soát, nét tư lự vụt qua gương mặt già nua nhưng vẫn còn sinh động của ông, như một cơn bão chợt ập đến và làm cho mắt ông không ngừng nhấp nháy. ‘Và cái từ Ivireanu mà các bạn tìm thấy, và cả ông Hugh James, ở Budapest…’

“ ‘Ông biết nó có nghĩa gì chứ?’ cha nôn nóng hỏi.

“ ‘Biết chứ, biết chứ, con trai ạ.’ Có vẻ như Stoichev nhìn thấu ruột gan cha mà không cần phải nhìn mặt cha. ‘Đó là tên của Antim Ivireanu, một học giả và cũng là một chủ nhà in ở Snagov vào cuối thế kỷ mười bảy, rất lâu sau thời của Vlad Ţepeş. Tôi đã đọc tác phẩm của Ivireanu. Ông ta rất nổi tiếng trong giới học giả cùng thời và đã lôi cuốn nhiều vị khách danh tiếng đến thăm Snagov. Ông ta in các sách thánh bằng tiếng Rumani và tiếng Ả-rập, và rất có thể nhà in của ông là nhà in đầu tiên ở Rumani. Nhưng, lạy Chúa, có lẽ nó không phải là nhà in đầu tiên, nếu những cuốn sách có hình rồng lâu đời hơn. Tôi có rất nhiều thứ phải cho các bạn xem!’ Ông lại lắc đầu, mắt mở to. ‘Vào phòng tôi, nhanh lên.’

“Helen và cha liếc quanh. ‘Ranov đang bận rộn với Irina,’ cha nói nhỏ.

“ ‘Phải,’ Stoichev dứng lên. ‘Chúng ta sẽ vào nhà qua cửa hông. Nào, nhanh lên.’

“Chẳng cần phải hối thúc chúng ta. Chỉ riêng vẻ mặt của ông cũng đủ làm cha sẵn sàng theo ông trèo lên vách đá rồi. Ông bước lên cầu thang một cách khó nhọc, chúng ta chậm chạp theo sau. Ông ngồi xuống cạnh chiếc bàn lớn để nghỉ. Cha để ý thấy rải rác trên bàn là các cuốn sách và bản thảo mà ngày hôm qua không có ở đó. ‘Tôi chưa bao giờ có nhiều thông tin về lá thư đó, hay về các lá thư khác.’ Stoichev lên tiếng khi đã hết hổn hển.

“ ‘Các lá thư khác?’ Helen ngồi xuống bên cạnh ông.

“ ‘Phải. Còn có hai lá thư khác của Sư huynh Kiril - kể cả lá thư của tôi và lá ở Istanbul là bốn. Chúng ta phải đến tu viện Rila ngay tức khắc để xem hai lá thư đó. Đây là một phát hiện không thể tin được, để liên kết chúng với nhau. Nhưng đó không phải là thứ tôi phải cho các bạn xem. Trước kia tôi chưa bao giờ nhận ra chúng có liên quan với nhau...’ Lại một lần nữa, ông có vẻ như quá choáng váng đến độ không thể nói gì nhiều.

“Một lát sau, ông vào một căn phòng nhỏ bên cạnh và mang ra một cuốn sách bìa giấy, hóa ra là một tập san cũ, chuyên đề về học thuật, in ở Đức. ‘Tôi có một người bạn...’ ông dừng lại. ‘Ước gì ông ấy còn sống để thấy ngày hôm nay! Như tôi đã nói với các bạn, tên ông ấy là Atanas Angelov, vâng, ông ấy là một sử gia Bungari và là một trong những người thầy đầu tiên của tôi. Năm 1923, ông nghiên cứu tại thư viện ở Rila, đó là một trong những kho báu tư liệu thời Trung cổ tuyệt vời của chúng tôi. Ông tìm thấy ở đó một bản thảo viết tay từ thế kỷ mười lăm - nó được giấu trong bìa gỗ của một cuốn sách khổ lớn thế kỷ mười tám. Ông muốn công bố bản thảo này - đó là biên niên ký về một cuộc hành trình từ Wallachia đến Bungari. Ông qua đời trong khi đang ghi chép về hành trình đó, vì vậy tôi đã hoàn thành các ghi chép và xuất bản cuốn biên niên ký. Bản thảo đó vẫn còn nằm ở Rila... và tôi chưa bao giờ biết rằng...’ Ông vỗ mạnh bàn tay yếu ớt lên trán. ‘Đây này, nhanh lên. Nó được xuất bản bằng tiếng Bungari, nhưng chúng ta sẽ xem qua và tôi sẽ nói cho các bạn những điểm quan trọng nhất.’

“Stoichev mở cuốn tập san cũ kỹ bằng bàn tay run run, và giọng ông cũng run run khi trích dẫn cho chúng ta nghe những điểm đại cương trong phát hiện của Angelov. Bài báo ông viết từ những ghi chép của Angelov, và bản thân tài liệu đó, đến nay đã được xuất bản bằng tiếng Anh với nhiều cập nhật và vô số chú giải. Nhưng thậm chí đến tận bây giờ, khi nhìn bản dịch đã được công bố đó, cha vẫn không thể nào không thấy gương mặt già nua của Stoichev hiện lên, mái tóc lưa thưa trên đôi tai vểnh, đôi mắt to cúi xuống trang giấy với vẻ tập trung mãnh liệt, và hơn tất thảy là giọng nói đầy lưỡng lự của ông.”

Chú thích:

1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Thầy Stoichev! Hoan hô giáo sư Stoichev! Hoan hô!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,391
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


“BIÊN NIÊN KÝ” CỦA ZACHARIAS Ở ZOGRAPHOU

Do Atanas Angelov và Anton Stoichev biên soạn

GIỚI THIỆU

“Biên niên ký” của Zacharias là một tài liệu lịch sử.

Bất chấp tình trạng không hoàn chỉnh rất đáng thất vọng, “Biên niên ký” của Zacharias cùng với tập ký “Chuyện kể của Stefan Kẻ Lãng Du” là một nguồn tư liệu quan trọng chứng thực những lộ trình hành hương của tín đồ Thiên Chúa giáo vùng Balkan thế kỷ mười lăm, cũng như thông tin về số phận thi hài ông hoàng Vlad III “Ţepeş” xứ Wallachia, từ lâu vốn được cho là đã được chôn cất tại tu viện hồ Snagov (hiện thuộc về Rumani). Nó cũng cung cấp cho chúng ta một miêu tả hiếm có về những người tử đạo vô danhWallachia (mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn nguồn gốc dân tộc của các tu sĩ ở Snagov, ngoại trừ Stefan, nhân vật chính của “Biên niên ký”). Chỉ có bảy người tử đạo khác được ghi nhận có gốc gác Wallachia, và không ai trong số này tuẫn đạo ở Bungari.

Tập “Biên niên ký” không tên này được viết bằng ngôn ngữ Xlavơ vào năm 1479 hoặc 1480 và do một tu sĩ tên Zacharias tại tu viện Zographou, núi Athos, Bungari ghi lại. Zographou, “tu viện của họa sĩ”, tọa lạc gần trung tâm bán đảo Athonite, thoạt tiên được thành lập vào thế kỷ thứ mười và đến những năm 20 của thế kỷ mười ba thì trực thuộc giáo hội Bungari. Cùng với tu viện Hilandar ở Serbia và Panteleimon ở Nga, tu viện Zographou không bị giới hạn trong quốc gia nơi tu viện tọa lạc; chính điều này và sự thiếu thông tin về Zacharias khiến ta không thể xác định gốc gác của ông: Zacharias có thể là người Bungari, Serbia, Nga, hoặc có lẽ là người Hy Lạp, mặc dù việc Zacharias sử dụng tiếng Xlavơ ủng hộ cho giả thuyết ông là người gốc Xlavơ. “Biên niên ký” chỉ cho chúng ta biết ông sinh ra vào thế kỷ mười lăm và được cha tu viện trưởng ở Zographou, vốn rất quý trọng tài năng của ông, chọn đích thân nghe lời xưng tội của Stefan Kẻ Lãng Du và ghi lại lời xưng tội này vì một mục đích quan trọng liên quan đến bộ máy quan chức giáo hội và có lẽ còn liên quan cả đến khía cạnh tâm linh nữa.

Các lộ trình Stefan đề cập trong chuyện kể của ông phù hợp với vài tuyến đường hành hương nổi tiếng. Constantinople là đích đến sau cùng của những người hành hương xứ Wallachia, cũng như tất cả tín đồ Thiên Chúa giáo ở phương Đông. Xứ Wallachia, và đặc biệt là tu viện ở hồ Snagov, cũng là một địa điểm hành hương và được biết tới như là con đường để người hành hương tiếp cận cả Snagov và Athos tại những vùng xa xôi nhất. Việc các tu sĩ băng qua Haskovo trên đường đến Bachkovo cho thấy có lẽ họ đã sử dụng đường bộ từ Constantinople qua Edirne (hiện là Thổ Nhĩ Kỳ) để vào miền Đông Nam Bungari; vì các bến cảng thông dụng ven Biển Đen hẳn đã đưa họ đi rất xa về hướng Bắc chứ không qua Haskovo.

Sự xuất hiện của các điểm hành hương truyền thống trong “Biên niên ký” của Zacharias đặt ra câu hỏi liệu chuyện kể của Stefan có phải là một tài liệu về hành hương hay không. Tuy nhiên, hai sự kiện được coi là lý do cho các cuộc lãng du của Stefan - rời khỏi thành phố suy tàn Constantinople để sống ly hương từ sau năm 1453, vận chuyển các thánh tích và tìm kiếm một “vật báu” ở Bungari sau năm 1476 - đã khiến ký sự này trở thành biến thể của một biên niên ký hành hương kinh điển. Hơn nữa, chỉ riêng việc Stefan rời khỏi Constantinople lúc còn là một tu sĩ trẻ cũng có vẻ như bị thúc đẩy chủ yếu bởi ước vọng tìm kiếm những địa điểm thiêng liêng ở nước ngoài.

Đề tài thứ hai mà cuốn “Biên niên ký” soi rọi đến là những ngày cuối cùng của ông hoàng Vlad III xứ Wallachia (1428?-1476), thường được biết đến dưới tên Vlad Ţepeş Kẻ Xiên Người, hoặc Dracula. Dù vài sử gia cùng thời với Dracula đã thuật lại những chiến dịch của ông ta chống lại người Thổ cũng như những cuộc đấu tranh giành giật và duy trì ngai vàng xứ Wallachia, nhưng không mấy ai đề cập chi tiết đến cái chết và việc chôn cất ông hoàng này. Vlad III đã có những đóng góp hào phóng cho tu viện ở Snagov xây dựng lại nhà thờ, như Stefan khẳng định trong chuyện kể của mình. Có khả năng Dracula cũng yêu cầu được chôn cất ở đó, theo truyền thống của các nhà sáng lập hoặc bảo trợ chính của các tổ chức trong khắp thế giới Chính Thống giáo.

Stefan khẳng định trong cuốn “Biên niên ký” rằng Vlad đã đến thăm tu viện này vào năm 1476, năm cuối đời ông ta, có lẽ một vài tháng trước khi chết. Năm 1476, ngai vàng của Vlad III phải chịu sức ép khủng khiếp từ Quốc vương Ottoman Mehmed II, người không ngừng giao tranh với Vlad từ năm 1460. Đồng thời, việc Vlad nắm giữ ngai vàng xứ Wallachia cũng bị đe dọa bởi một nhóm địa chủ sẵn sàng về phe với Mehmed nếu vị Quốc vương này tiến hành một cuộc xâm lấn mới vào Wallachia.

Nếu “Biên niên ký” của Zacharias chính xác thì cuộc viếng thăm Snagov của Vlad III đã không được sử sách chép lại và chắc hẳn cực kỳ nguy hiểm đối với bản thân ông ta. “Biên niên ký” ghi lại là Vlad đã mang kho báu đến tu viện; rằng việc ông ta hành động liều lĩnh như vậy chứng tỏ tầm quan trọng của mối ràng buộc giữa ông ta và Snagov. Hẳn ông ta phải biết rõ mạng sống của mình thường xuyên bị đe dọa, từ đế chế Ottoman và cả từ đối thủ chính ở Wallachia thời kỳ đó, Basarab Laiota, người chiếm giữ ngai vàng Wallachia ngay sau cái chết của Vlad. Bởi vì viếng thăm Snagov chẳng đem lại mấy lợi ích chính trị, nên có vẻ hợp lý khi suy ra rằng Snagov rất quan trọng đối với Vlad III vì những lý do tâm linh hoặc lý do cá nhân, có thể ông ta định biến chốn này thành nơi yên nghỉ sau cùng của mình. Dù thế nào thì “Biên niên ký” của Zacharias cũng khẳng định về cuối đời ông ta đặc biệt lưu tâm đến Snagov.

Hoàn cảnh chết của Vlad III cũng rất mờ ám, và càng mù mờ hơn bởi sự mâu thuẫn giữa những truyền thuyết dân gian và giả thuyết này nọ của các học giả. Vào cuối tháng Mười hai năm 1476 hoặc đầu tháng Giêng năm 1477, Vlad bị một bộ phận quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Wallachia phục kích, và bị giết trong trận đụng độ nhỏ sau đó. Một vài chuyện truyền khẩu cho rằng thực ra ông ta đã bị người của mình giết chết, vì bị nhầm là một sĩ quan Thổ khi leo lên đồi để quan sát rõ hơn trận đánh đang diễn ra. Một biến thể của truyền thuyết này còn khẳng định vài người trong đám thủ hạ đã tìm cơ hội ám sát ông ta để trừng trị bản tính ác độc khét tiếng. Hầu hết mọi nguồn tư liệu bàn luận về cái chết này đều nhất trí là thi thể của Vlad đã bị chặt đầu và thủ cấp ấy được mang về Constantinople dâng lên Quốc vương Mehmed như bằng chứng về sự gục ngã của một kẻ đại kình địch.

Dù sao chăng nữa thì theo chuyện kể của Stefan, chắc hẳn một vài thủ hạ của Vlad vẫn trung thành với ông ta, bởi họ đã mạo hiểm mang thi thể ông về Snagov. Từ lâu người ta vẫn tin rằng cái xác không đầu được chôn cất trong nhà thờ tu viện Snagov, trước bệ thờ.

Nếu câu chuyện của Stefan Kẻ Lãng Du đáng tin cậy, thì xác của Vlad III đã được bí mật chuyển từ Snagov đến Constantinople, và từ đó chuyển tiếp đến một tu viện tên Sveti Georgi, ở Bungari. Mục đích của việc dời chuyển này, và “vật báu” mà các tu sĩ tìm kiếm trước tiên ở Constantinople rồi sau đó ở Bungari là gì, đều không rõ ràng. Câu chuyện của Stefan khẳng định rằng vật báu kia sẽ “nhanh chóng cứu rỗi linh hồn của ông hoàng này”, điều này cho thấy hẳn cha tu viện trưởng Snagov đã nghĩ vật báu ấy cần thiết về khía cạnh tâm linh. Có thể ông ta và các tu sĩ của mình tìm kiếm một thánh tích thiêng liêng ở Constantinople còn sót lại sau những cuộc càn quét của người Latin hoặc Ottoman. Cũng có thể ông ta không muốn lãnh trách nhiệm hủy hoại cái xác ở Snagov, hoặc chặt thi thể đó ra vì tin rằng làm vậy sẽ ngăn ngừa được ma cà rồng, hay cũng không thể mạo hiểm giao cho dân địa phương thực hiện việc này. Căn cứ vào thân thế của Vlad và thực tế là các giáo sĩ Chính Thống giáo không đủ can đảm tham gia vào việc cắt xén, hủy hoại xác chết con người, thì sự miễn cưỡng này cũng là điều tự nhiên.

Đáng tiếc là người ta vẫn chưa tìm thấy địa điểm chôn cất di hài Vlad III ở Bungari, và thậm chí, giống như trường hợp tu viện Paroria ở Bungari, nơi tọa lạc cái tu viện tên là Sveti Georgi cũng chưa được biết đến; có lẽ nó đã bị bỏ hoang hoặc bị phá hủy thời đế chế Ottoman, và “Biên niên ký” là tài liệu duy nhất tiết lộ vị trí tu viện, dù chỉ chung chung. “Biên niên ký” chép rằng các tu sĩ chỉ đi một đoạn ngắn - “không quá xa” - từ tu viện ở Bachkovo, cách thành phố Asenovgrad bên sông Chepelarska khoảng ba mươi lăm cây số về hướng Nam. Rõ ràng là Sveti Georgi nằm ở đâu đó về phía Nam miền Trung Bungari. Phần lớn dãy Rhodope thuộc khu vực này, một trong những khu vực bị đế quốc Ottoman chinh phục sau cùng ở Bungari; một vài vùng có địa hình đặc biệt hiểm trở ở khu vực này chưa bao giờ nằm hoàn toàn dưới ách cai trị của người Thổ. Nếu Sveti Georgi tọa lạc trong vùng núi non này thì có thể phần nào giải thích cho việc nó được chọn làm địa điểm yên nghỉ tương đối an toàn cho di hài Vlad III.

Mặc dù “Biên niên ký” khẳng định tu viện đã trở thành một địa điểm hành hương sau khi các tu sĩ Snagov đến đó, cái tên Sveti Georgi vẫn không xuất hiện trong các nguồn tư liệu quan trọng của thời kỳ ấy, hoặc trong bất kỳ nguồn tư liệu nào sau này, điều đó chứng tỏ tu viện đã bị xóa sổ hoặc bỏ hoang không bao lâu sau khi Stefan rời khỏi nơi đó. Tuy nhiên, chúng ta biết được đôi điều về việc thành lập tu viện Sveti Georgi nhờ bản sao duy nhất của một typikon_(1) được lưu giữ tại thư viện tu viện Bachkovo. Theo tài liệu này, Sveti Georgi được Georgios Komnenos, một người anh em họ xa của Hoàng đế Byzantine, Alexios I Komnenos, xây dựng năm 1101. “Biên niên ký” của Zacharias khẳng định là lúc nhóm tu sĩ từ Snagov đến, tu sĩ ở Sveti Georgi “già nua và lèo tèo vài người”; có thể đoán chừng là nhóm thầy tu ít ỏi này đã gìn giữ chế độ tế lễ được quy định trong typikon, sau đó chế độ này cũng được đám tu sĩ người Wallachia tuân thủ.

Điều đáng lưu ý là “Biên niên ký” nhấn mạnh cuộc hành trình của các tu sĩ Wallachia ngang qua Bungari theo hai cách khác nhau: thuật lại khá chi tiết sự tuẫn đạo của hai người trong nhóm dưới tay các quan chức Ottoman và ghi chép lại sự chú ý của người dân Bungari trong quá trình họ hành hương trên đất nước này. Không có cách nào để biết được điều gì đã kích động những người Thổ ở Bungari, nói chung vốn khoan dung với những hoạt động tôn giáo của người Thiên Chúa giáo, lại xem các tu sĩ người Wallachia là một mối đe dọa. Qua Zacharias, Stefan thuật lại là những người bạn của ông ta đã “bị hỏi cung” ở thị trấn Haskovo trước khi bị tra tấn và giết chết, điều này lại dẫn đến giả thuyết là chính quyền Ottoman tin rằng nhóm tu sĩ nắm giữ một thông tin nhạy cảm nào đó về mặt chính trị. Haskovo nằm ở Đông Nam Bungari, một vùng nằm dưới quyền cai trị bó buộc của người Thổ vào thế kỷ mười lăm. Điều kỳ lạ là các tu sĩ tử đạo bị trừng phạt theo hình phạt truyền thống của người Thổ đối với tội trộm cắp (chặt tay) và tội đào tẩu (chặt chân). Đa số những người tuẫn đạo dưới chế độ cai trị của đế chế Ottoman đều bị tra tấn và giết chết bằng các phương cách khác. Các hình thức trừng phạt trên, cũng như việc lục soát xe ngựa của các tu sĩ được Stefan tả lại trong câu chuyện của mình, cho thấy rõ quan chức ở Haskovo đã buộc các tu sĩ vào tội trộm cắp, dù có vẻ như không chứng minh được lời cáo buộc đó.

Stefan thuật lại sự lưu tâm rộng khắp của người dân Bungari suốt dọc lộ trình, điều này có thể đã kéo theo sự chú ý của người Thổ. zuy nhiên, chỉ tám năm trước đó, tức năm 1469, di hài của Sveti Ivan Rilski, một ẩn sĩ và cũng là người sáng lập tu viện Rila, đã được chuyển từ Veliko Trnovo đến một nhà nguyện ở Rila, đám rước này được Vladislav Gramatik chứng kiến và thuật lại trong tác phẩm “Kể lại chuyến chuyển dời di hài Sveti Ivan”. Suốt cuộc dời chuyển này, các quan chức Ottoman đã tỏ ra khoan dung trước sự chú ý của dân Bungari địa phương đối với di hài đó, và cuộc diễu hành được xem như sự kiện và biểu tượng đoàn kết của người Công giáo Bungari. Cả Zacharias và Stefan có lẽ đã biết về đám rước di hài Ivan Rilski nổi tiếng, và chắc hẳn đến năm 1479 thì Zacharias ở Zographou cũng phải có một bản tường thuật chép tay về sự kiện đó.

Thái độ rộng lượng trước đó - và mới đó thôi - đối với một cuộc diễu hành tôn giáo tương tự dọc Bungari khiến nỗi lo ngại của người Ottoman với hành trình của các tu sĩ xứ Wallachia trở nên có ý nghĩa đặc biệt. Việc lục soát xe ngựa của các tu sĩ - chắc hẳn do lính của quan tổng trấn địa phương tiến hành - cho thấy các quan chức người Thổ ở Bungari có lẽ đã biết được ít nhiều về mục đích cuộc hành trình của họ. Chắc chắn chính quyền Ottoman không thiết tha gì việc chứa chấp di hài một trong các kẻ thù lớn nhất trên mặt trận chính trị, hoặc tỏ lòng khoan dung trước sự sùng kính di hài đó. Tuy nhiên, điều khó hiểu hơn nữa là chắc hẳn họ không phát hiện được gì khi lục soát chiếc xe ngựa, bởi sau đó chuyện kể của Stefan đề cập đến việc mai táng thi hài tại tu viện Sveti Georgi. Chúng ta chỉ có thể suy đoán cách họ cất giấu một cái xác nguyên vẹn (dù không đầu) nếu quả thực họ đã mang nó theo.

Cuối cùng, có một điểm cả các nhà sử học lẫn nhân học đều quan tâm, đó là “Biên niên ký” đề cập đến những điều các tu sĩ tin rằng đã thấy trong nhà thờ Snagov. Họ không thống nhất về những gì đã xảy ra với thi thể Vlad III trong đêm thức canh xác và đã kể ra nhiều phương cách mà, theo truyền thống, là nền tảng để một xác chết chuyển hóa thành quỷ nhập tràng - một con ma cà rồng - điều đó cho thấy họ đều tin rằng Vlad có nguy cơ hóa ma cà rồng. Vài người trong số họ tin là đã nhìn thấy một con thú nhảy qua xác chết, còn những người khác thì cho rằng một sức mạnh siêu nhiên dưới dạng sương mù hoặc gió đã tràn vào nhà thờ khiến xác chết ngồi dậy. Trong văn hóa dân gian vùng Balkan, sự hình thành ma cà rồng bởi một con thú được ghi lại rất nhiều, cũng như niềm tin là ma cà rồng có thể biến thành làn khói hoặc sương mù. Chắc hẳn các tu sĩ đã biết đến sự khát máu khét tiếng của Vlad III, và việc ông ta tiến hành cải sang đạo Công giáo trong gia thất của Mátyás Corvinus, tức vua Hungary, bởi tính khát máu kia vốn là điều mà ai ở Wallachia cũng biết, còn việc cải đạo chắc hẳn từng là một mối lo ngại của cộng đồng Chính Thống giáo ở đó (và đặc biệt là với tu viện được Vlad ưu ái, nơi cha tu viện trưởng có lẽ cũng là Cha giải tội của ông ta).

Các bản viết tay.

“Biên niên ký” của Zacharias được biết đến qua hai tập bản thảo viết tay là Athos 1480 và R.VII.132; bản sau còn gọi là “Bản của Tòa Giáo trưởng”. Athos 1480, một bản thảo khổ tư viết tay theo kiểu chữ bán ông-xi-an_(2), được phát hiện ở Bungari năm 1923 và hiện được cất giữ tại thư viện tu viện Rila, Bungari. Athos 1480 là bản lâu đời hơn trong hai phiên bản của “Biên niên ký”, hầu như chắc chắn do chính Zacharias chấp bút ở Zographou, có lẽ ghi chép từ những lời xưng tội trong giờ phút lâm chung của Stefan. Bất chấp lời khẳng định rằng ông “đã ghi lại từng lời”, chắc hẳn Zacharias ghi lại bản này sau khi đã suy luận và sắp xếp khá nhiều, bởi Athos 1480 chỉ có một chỗ chỉnh sửa và phản ảnh một sự trau chuốt không thể có được khi ghi chép ngay tại chỗ. Bản gốc này có lẽ được giữ ở thư viện Zographou ít nhất đến năm 1814, bởi tên nó được đề cập đến trong một thư mục các bản thảo viết tay thế kỷ mười lăm và mười sáu ở Zographou, ghi niên đại năm đó. Athos 1480 xuất hiện trở lại ở Bungari vào năm 1923, khi nhà sử học Bungari Atanas Angelov phát hiện ra nó giấu trong bìa một cuốn sách chuyên luận khổ đôi thế kỷ mười tám ở thư viện tu viện Rila, viết về cuộc đời Thánh George (Georgi 1364.21). Năm 1924, Angelov khẳng định không còn bản nào ở Zographou. Chưa rõ bản gốc này được chuyển từ Athos đến Rila chính xác vào lúc nào và bằng cách nào, mặc dù mối đe dọa từ các cuộc cướp bóc của bọn cướp biển ở Athos suốt thế kỷ mười tám và mười chín có lẽ đã phần nào tác động đến việc dời chuyển bản thảo này (cũng như vô số các tài liệu và vật tạo tác quý giá khác) ra khỏi ngọn Núi Thiêng này.

Bản sao hoặc phiên bản thứ hai của “Biên niên ký” Zacharias, và cũng là bản duy nhất được biết đến ngoài bản gốc - R.VII.132, hay còn gọi là “Bản của Tòa Giáo trưởng” - được lưu giữ ở thư viện Tòa Giáo trưởng Constantinople, theo phân tích chữ viết thì có niên đại vào khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ mười sáu. Có lẽ đó là phiên bản về sau của bản sao được cha tu viện trưởng Zographou gửi đến giáo trưởng vào thời Zacharias. Bản gốc của phiên bản này được cho là gửi kèm một lá thư từ tu viện trưởng, nhằm báo động giáo trưởng về khả năng có một dòng dị giáo trong tu viện Sveti Georgi ở Bungari. Lá thư đó hiện nay không còn nữa, nhưng có thể vì lý do hiệu quả và thận trọng, cha tu viện trưởng Zographou đã yêu cầu Zacharias sao chép lại biên niên ký của mình để giao cho Constantinople, giữ bản gốc lại cho thư viện Zographou. Trong khoảng thời gian từ năm mươi đến một trăm năm từ khi nhận được bản sao ấy, “Biên niên ký” vẫn được thư viện Tòa Giáo trưởng đánh giá là tài liệu quan trọng, đủ để được gìn giữ bằng cách chép thêm một phó bản.

“Bản của Tòa Giáo trưởng” có thể là một bản sao sau này của lá thư từ Zographou, ngoài ra nó còn khác bản Athos 1480 ở một điểm quan trọng khác: nó cắt bỏ phần kể về những gì các tu sĩ khẳng định đã chứng kiến trong đêm thức canh thi hài Vlad tại nhà thờ Snagov, cụ thể là từ dòng “một thầy tu trông thấy một con thú” cho đến dòng “cái xác không đầu của ông hoàng cựa quậy và cố ngồi dậy”. Đoạn này có thể đã được loại bỏ trong bản sao sau này nhằm ngăn người sử dụng thư viện Tòa Giáo trưởng nắm giữ thông tin không cần thiết về dòng dị giáo Stefan mô tả, hoặc có lẽ để giảm đến mức tối thiểu chuyện mê tín dị đoan về nguồn gốc quỷ nhập tràng, một loạt niềm tin mà các giới chức giáo hội thường bác bỏ. “Bản của Tòa Giáo trưởng” rất khó xác định niên đại, mặc dù gần như chắc chắn nó là bản sao được liệt kê trong một bản danh mục thư viện Tòa Giáo trưởng từ năm 1605.

Giữa hai bản chép tay “Biên niên ký” hiện đang tồn tại này có một điểm tương đồng cuối cùng - một điểm nổi bật và khó hiểu. Cả hai đều bị xé rách bằng tay hầu như tại cùng một điểm của câu chuyện. Athos 1480 kết thúc tại chỗ “Tôi nhận ra,” trong khi “Bản của Tòa Giáo trưởng” tiếp tục “đó không phải là một bệnh dịch thông thường, mà là,” mỗi tập đều bị xé rách ngay sau một dòng hoàn chỉnh, có lẽ nhằm loại bỏ phần Stefan cung cấp chứng cứ về khả năng tồn tại một dòng dị giáo hoặc một điều xấu xa sai trái khác tại tu viện Sveti Georgi.

Một manh mối về thời điểm xảy ra việc hủy hoại này có thể tìm thấy trong bản danh mục thư viện đề cập ở trên, trong đó “Bản của Tòa Giáo trưởng” được chú thích là “không hoàn chỉnh”. Vì vậy, chúng ta có thể suy ra phần cuối của bản này đã bị xé mất trước năm 1605. Tuy nhiên, chẳng có cách nào để biết được liệu hai hành động cố ý hủy hoại trên có xảy ra trong cùng một thời kỳ hay không, hay liệu có phải hành động này đã gợi ý cho một độc giả rất lâu sau này thực hiện hành động kia, hoặc hai phần cuối của những tài liệu này thực sự giống nhau như thế nào. Mức độ trung thực của “Bản của Tòa Giáo trưởng” so với tập bản thảo viết tay tại Zographou, ngoại trừ việc thiếu mất đoạn về thức canh xác, cho thấy là câu chuyện trong hai bản có lẽ đã kết thúc y hệt nhau, hoặc ít nhất rất giống nhau. Hơn nữa, việc “Bản của Tòa Giáo trưởng” bị xé rách dù đã bỏ đoạn nói về những sự kiện siêu nhiên trong nhà thờ Snagov ủng hộ giả thuyết rằng nó cũng kết thúc bằng miêu tả về một dị giáo hoặc một điều xấu xa tại tu viện Sveti Georgi. Trong số các bản thảo viết tay của vùng Balkan thời Trung cổ, đến nay vẫn chưa ghi nhận được trường hợp nào khác về việc can thiệp một cách có hệ thống vào hai bản sao của cùng một tài liệu ở cách xa nhau hàng trăm dặm.

Các lần xuất bản và các bản dịch.

Trước đây “Biên niên ký” của Zacharias ở Zographou đã được xuất bản hai lần. Lần thứ nhất là một bản dịch tiếng Hy Lạp với vài bình luận ít ỏi đính kèm trong cuốn Lịch sử các nhà thờ thời Byzantine của Xanthos Constantinos, xuất bản năm 1849. Năm 1931, Tòa Giáo trưởng in nó thành một tập sách mỏng bằng ngôn ngữ gốc Xlavơ. Atanas Angelov, người phát hiện ra bản gốc Zographou vào năm 1923, dự định xuất bản tập bản thảo này kèm theo những bình luận sâu rộng hơn, nhưng chưa hoàn thành dự án này thì ông đã qua đời vào năm 1924. Một số ghi chép của Angelov được công bố sau cái chết của ông trong tác phẩm Balkanski istoricheski pregled_(2) năm 1927.

“BIÊN NIÊN KÝ” CỦA ZACHARIAS Ở ZOGRAPHOU

Câu chuyện này do Sư huynh đồng đạo Stefan Kẻ Lãng Du ở thành phố Tsarigrad kể lại với tôi, Zacharias Sám Hối. Ông đến tu viện Zographou của chúng tôi vào năm 6987 [1479]. Ở đây, ông đã thuật lại với chúng tôi những biến cố quái lạ và kỳ diệu trong cuộc đời ông. Khi đến với chúng tôi, Stefan Kẻ Lãng Du đã năm mươi ba tuổi, một con người từng trải và mộ đạo, từng chu du qua nhiều đất nước. Cảm tạ Đức Mẹ Thánh Thể đã dẫn dắt ông đến với chúng tôi từ Bungari, xứ sở mà ông cùng một nhóm tu sĩ từ Wallachia đã lang thang và phải chịu nhiều khổ đau do bàn tay bọn Thổ vô đạo, phải chứng kiến hai trong số các đạo hữu của mình tuẫn đạo tại thành phố Haskovo. Ông và các đạo hữu đã mang qua những vùng đất vô đạo một vài thánh tích có quyền năng kỳ lạ. Cùng những thánh tích ấy, họ diễu hành sâu vào đất nước Bungari và nổi tiếng khắp các miền quê, đến mức các tín đồ Thiên Chúa giáo tụ tập hai bên đường khi đám rước đi qua để cúi chào hoặc hôn lên thành xe ngựa. Và các thánh tích này được mang đến tu viện có tên là Sveti Georgi như thế, rồi được cất giữ trong thánh đường. Vì vậy, dù là một tu viện nhỏ yên tĩnh, sau này nhiều người hành hương vẫn đến Sveti Georgi trên đường đi từ các tu viện ở Rila và Bachkovo hoặc từ ngọn núi thiêng Athos. Nhưng Stefan Kẻ Lãng Du là người đầu tiên mà chúng tôi biết đã từng ở Sveti Georgi.

Sau khi Stefan sống với chúng tôi được vài tháng, điều đáng lưu ý là ông không đề cập gì nhiều đến tu viện Sveti Georgi, dù đã kể nhiều chuyện về những nơi chốn thiêng liêng khác mà ông đã đến thăm, theo bản tính mộ đạo của mình ông chia sẻ những câu chuyện ấy để chúng tôi, những kẻ lúc nào cũng ru rú ở một đất nước, có được ít nhiều kiến thức về những kỳ quan nhà thờ Thiên Chúa ở các xứ sở khác. Có lần ông kể cho chúng tôi về một nhà nguyện trên đảo trong vịnh Maria, thuộc vùng biển Venice(3)_, hòn đảo nhỏ đến độ những con sóng vỗ bập bềnh lên cả bốn mặt tường nhà nguyện, ông còn kể về tu viện trên đảo Sveti Stefan, cách nhà nguyện kia hai ngày đường về hướng Nam dọc theo bờ biển, nơi Stefan đã từ bỏ tên mình lấy tên vị thánh bảo hộ tu viện. Ông nói nhiều với chúng tôi về việc này, cũng như nhiều điều khác nữa, kể cả việc nhìn thấy những con quái vật đáng sợ ở biển Marble.

Và ông hay kể cho chúng tôi nhất về các giáo đường và tu viện thành phố Constantinople trước thời đám lính vô đạo của tên Quốc vương Hồi giáo Mehmed xâm phạm những nơi đó. Với vẻ sùng kính, ông mô tả những ảnh thánh vô giá có thể thực hiện các phép lạ, chẳng hạn như ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh trong đại giáo đường Hagia Sophia, và bức ảnh che mặt của Người tại thánh địa Blachernae. Ông đã nhìn thấy hầm mộ của Thánh John Chrysostom và mộ các vị hoàng đế, thấy thủ cấp của Thánh Basil thiêng liêng trong giáo đường Panachrantos, cũng như vô số các thánh tích khác. May mắn thay cho ông và cho cả chúng tôi, những người được nghe ông kể chuyện, là ông đã rời khỏi Constantinople từ lúc còn trẻ để lại lên đường viễn du, vì vậy ông đang ở rất xa khi tên ác quỷ Muhammad xây dựng một pháo đài vô cùng kiên cố gần đó nhằm mục đích tấn công thành phố, và chẳng bao lâu sau đã phá vỡ các thành lũy khổng lồ của Constantinople, tàn sát hoặc bắt những quý tộc của thành phố làm nô lệ. Từ phương xa, Stefan nghe được tin này và cùng với những tín hữu Thiên Chúa khác, ông khóc thương cho thành phố tử đạo đó.

Ông đem đến tu viện chúng tôi những cuốn sách quý hiếm và kỳ diệu thồ trên lưng ngựa, những cuốn sách ông đã sưu tầm và từ đó được khơi gợi cảm hứng thần thánh, do bản thân ông tinh thông tiếng Hy Lạp, Latin, Xlavơ và có lẽ nhiều ngôn ngữ khác nữa. Ông thổ lộ với chúng tôi những điều này và tặng cho thư viện chúng tôi các cuốn sách kia để mãi mãi làm rạng danh thư viện, mặc dù đa số chúng tôi chỉ đọc được một ngôn ngữ và thậm chí có người còn không biết đọc. Khi trao các tặng phẩm kia, ông nói rằng ông cũng sẽ chấm dứt những cuộc lãng du và ở lại Zographou mãi mãi, như những cuốn sách của mình.

Chỉ có tôi và một sư huynh khác nhận ra Stefan không nhắc nhở gì đến thời gian ông lưu lại Wallachia, ngoại trừ việc nói mình đã từng là một tu sĩ tân tòng ở đó, và cho đến cuối đời ông cũng không nói gì nhiều về tu viện Bungari có tên Sveti Georgi. Bởi vì, khi đến với chúng tôi ông đã bị bệnh rồi, đã phải chịu đựng những cơn sốt thấp khớp nhức nhối khắp tay chân, và chưa đến một năm sau ông nói rằng hy vọng sẽ được phủ phục trước ngai Đấng Cứu thế, nếu những tội lỗi của ông được Chúa - Người luôn tha thứ cho tất cả những ai thành tâm sám hối - bỏ qua. Trong cơn bệnh sau cùng ông yêu cầu được xưng tội với cha tu viện trưởng của chúng tôi, bởi ông đã chứng kiến những điều xấu xa nên không thể chết khi chưa được giải tội, và cha tu viện trưởng rất kinh ngạc trước lời xưng tội của ông nên đã yêu cầu tôi hỏi lại lời xưng tội ấy và ghi lại tất cả những gì ông nói, bởi cha tu viện trưởng muốn gửi một lá thư báo về Constantinople chuyện đó. Tôi nhanh chóng thực hiện việc ghi chép không sai lời nào, tôi đã vô cùng kinh hoàng khi ngồi bên giường bệnh, lắng nghe câu chuyện mà Stefan kiên nhẫn kể lại, sau đó ông được làm lễ ban thánh thể rồi qua đời trong khi đang ngủ và được chôn cất tại tu viện chúng tôi.

Chuyện kể của Stefan ở Snagov, được Zacharias Kẻ Tội Lỗi ghi lại một cách trung thực.

Tôi, Stefan, sau nhiều năm lãng du, cũng như sau khi thành phố chôn nhau cắt rốn thân yêu và thiêng liêng của mình, Constantinople, thất thủ, đã lên đường tìm kiếm phần Bắc ngạn dòng sông lớn chia cắt Bungari với Dacia. Tôi lang thang tiến vào vùng đồng bằng, sau đó lên miền núi, rồi rất lâu sau mới tìm được đường đến một tu viện nằm trên một hòn đảo trong hồ Snagov, một địa điểm đẹp, hẻo lánh và có thể dễ dàng tổ chức phòng thủ chống trả lại các cuộc tấn công. Cha tu viện trưởng nhân từ ở đó đã nồng nhiệt chào đón tôi, và tôi ngồi vào bàn cùng các tu sĩ khiêm tốn và toàn tâm với việc cầu nguyện cũng như bất kỳ tu sĩ nào tôi đã có dịp gặp gỡ trên những chặng đường lãng du. Bọn họ gọi tôi là đạo hữu và hào phóng chia sẻ cho tôi thức ăn nước uống, tôi cảm thấy bình yên giữa sự trầm lặng đầy vẻ thành kính của họ hơn bao giờ hết so với những tháng vừa qua. Do làm việc siêng năng và khiêm nhường tuân theo mọi chỉ dẫn của cha tu viện trưởng nên chẳng bao lâu sau ông đã cho phép tôi ở lại. Nhà thờ của họ tuy không lớn nhưng đẹp kỳ lạ, với những cái chuông nổi tiếng có âm thanh vang vọng khắp mặt hồ.

Nhà thờ và tu viện này đã nhận được sự giúp đỡ tối đa cũng như được củng cố vững chắc nhờ ông hoàng vùng đó, Vlad con trai của Vlad Dracul, người đã hai lần bị tên Quốc vương Hồi giáo và các kẻ thù khác xua đuổi khỏi ngai vàng. Ông ta cũng từng một lần bị Matthias Corvinus, vua Hungary, giam giữ một thời gian dài. Ông hoàng Dracula này rất dũng cảm, trong những trận chiến táo bạo ông ta đã chiếm lại từ tay quân vô đạo nhiều vùng đất chúng đã cưỡng đoạt cùng các chiến lợi phẩm mà sau đó ông ta dâng tặng cho tu viện, Dracula luôn cầu mong chúng tôi hãy cầu nguyện cho ông ta và gia đình được yên bình. Một số tu sĩ xì xào với nhau rằng ông ta phạm tội vì đã tàn ác quá độ và trong thời gian bị vua Hungary giam giữ, đã cải đạo theo Thiên Chúa La Mã. Nhưng cha tu viện trưởng không nghe lời nói xấu về ông ta dù là từ bất kỳ ai và đã nhiều lần che giấu ông ta cùng đám tay chân trong điện thờ giáo đường khi các nhà quý tộc khác muốn tìm giết ông ta.

Trong năm cuối đời mình, Dracula ít đến tu viện hơn thời gian trước đó. Lúc ấy tôi cũng không gặp ông ta vì cha tu viện trưởng đã phái tôi và một tu sĩ đến một nhà thờ khác, nơi ông có một vài công chuyện, để làm một số việc lặt vặt. Khi trở về, tôi nghe nói ông hoàng Dracula đã đến và để lại nhiều của quý mới. Một sư huynh, người chuyên đi mua cho chúng tôi vật dụng và thực phẩm từ các nông dân trong vùng, đã nghe được nhiều câu chuyện lan truyền khắp vùng quê rằng Dracula có khả năng đã lấy một bịch đầy lỗ tai và mũi người để trao tặng như một túi bảo vật, nhưng khi cha tu viện trưởng nghe được lời nhận xét này ông đã trừng phạt người nói rất nặng. Như vậy, tôi chưa bao giờ thấy Vlad Dracula khi còn sống, nhưng lại thấy khi ông ta đã chết, tôi sẽ thuật lại đầy đủ chuyện đó ngay sau đây.

Có lẽ khoảng bốn tháng sau, có tin là Dracula đã bị vây bắt trong một trận đánh, và bị đám lính vô đạo giết chết sau khi ông ta tiêu diệt hơn bốn mươi tên bằng đường gươm tuyệt vời của mình. Bọn lính của Quốc vương Hồi giáo đã chặt thủ cấp của ông ta, mang về dâng cho chủ mình.

Những người thuộc phe cánh của ông hoàng Dracula biết toàn bộ chuyện này, và sau cái chết của ông ta, mặc dù nhiều kẻ bỏ trốn, vẫn có một số người mang tin này cũng như thi thể ông ta đến tu viện ở hồ Snagov, rồi họ cũng bỏ trốn. Cha tu viện trưởng đã khóc khi nhìn thấy cái xác được đưa lên khỏi thuyền và đã đọc to lời cầu nguyện cho cả linh hồn của ông hoàng Dracula lẫn sự che chở của Chúa, bởi bấy giờ đạo quân của bọn vô đạo đang tiến đến rất gần. Ông cho quàn thi hài Dracula một cách trang trọng, đúng theo nghi thức trong nhà thờ.

Đó là một trong những cảnh tượng rùng rợn nhất mà tôi từng chứng kiến, cái xác không đầu khoác tấm áo choàng đỏ tía, chung quanh lung linh ánh sáng những ngọn nến. Chúng tôi ngồi canh xác theo đúng thánh lễ trong ba ngày ba đêm. Tôi ngồi canh đêm thứ nhất, mọi vật trong nhà thờ đều yên tĩnh bình thường ngoại trừ cái thi thể cụt đầu kia. Các sư huynh canh gác đêm thứ hai cũng nói tất cả đều yên tĩnh. Nhưng vào đêm thứ ba, một số sư huynh mệt mỏi đã ngủ gật và một chuyện gì đó xảy ra khiến những người khác vô cùng sợ hãi. Sau này họ đã không thống nhất được với nhau đó là chuyện gì, mỗi người nhìn thấy một thứ khác hẳn nhau. Một tu sĩ nhìn thấy một con thú từ trong bóng tối của các dãy ghế nhảy qua quan tài, nhưng không thể khẳng định được hình dáng con thú. Những người khác thì cảm thấy một luồng gió mạnh hoặc nhìn thấy một màn sương mù dày đặc lùa vào nhà thờ làm tắt nhiều cây nến, và họ đều thề có thánh thần, nhất là các tổng thiên thần Mikhail và Gabriel, là trong bóng tối, cái xác không đầu của ông hoàng cựa quậy và cố ngồi dậy. Ai đó trong các sư huynh đã thét lên vì khiếp đảm, và do vậy cả tu viện cũng bị đánh thức. Các tu sĩ chạy ra ngoài, thuật lại những gì họ trông thấy, mỗi người một kiểu khác nhau.

Sau đó cha tu viện trưởng đến, qua ánh sáng ngọn đuốc trong tay ông, tôi thấy ông mặt mũi trắng bệch, tỏ vẻ kinh sợ khi nghe những chuyện các tu sĩ thuật lại và liên tục làm dấu thánh. Ông nhắc nhở những người hiện diện rằng linh hồn của con người quý tộc này đang nằm trong tay chúng tôi và do vậy chúng tôi phải hành động một cách thích đáng. Ông dẫn chúng tôi vào trong nhà thờ, thắp lại nến, và chúng tôi nhìn thấy cái xác vẫn nằm yên như cũ trong quan tài. Cha tu viện trưởng ra lệnh lục soát khắp nhà thờ, nhưng chẳng tìm thấy con thú hoặc ma quỷ nào trong mọi ngóc ngách. Rồi ông ra lệnh cho chúng tôi bình tĩnh trở lại, ai trở về phòng nấy, và khi giờ lễ nhất đến, mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường và êm ả.

Nhưng sáng hôm sau ông triệu tập tám tu sĩ đến, tôi rất vinh dự được nằm trong số đó, và nói rằng chúng tôi chỉ phải giả vờ chôn xác của ông hoàng trong nhà thờ rồi chuyển nó ra khỏi đây ngay lập tức. Ông nói sẽ chỉ tiết lộ bí mật với một người trong số chúng tôi lý do và địa điểm chúng tôi phải chuyển cái xác đến, càng ít người biết điều đó thì càng an toàn hơn cho tất cả những người còn lại, và ông đã hành động y như vậy, chọn một tu sĩ đã ở bên ông nhiều năm và bảo những người còn lại (trong chúng tôi) chỉ cần ngoan ngoãn đi theo, đừng thắc mắc gì cả.

Như vậy, tôi, người đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ phải sống cuộc đời lãng du nữa, lại một lần nữa trở thành lữ khách, phải băng qua một quãng đường xa diệu vợi cùng các đạo hữu trở về thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, nơi đã trở thành trung tâm vương quốc của những kẻ ngoại đạo, và tôi nhận ra đã có quá nhiều đổi thay ở chốn đó. Chúng tôi không thể vào đại giáo đường Hagia Sophia vì nơi đó giờ được xem như một nhà thờ Hồi giáo. Nhiều nhà thờ đã bị phá hủy hoặc để mặc cho hư hại, đổ nát, và nhiều nhà thờ khác, thậm chí cả nhà thờ Đức Mẹ Panachrantos cũng biến thành nơi hành lễ của người Thổ. Và đến đó tôi mới biết chúng tôi đang tìm kiếm một vật báu có thể nhanh chóng cứu rỗi linh hồn ông hoàng này, vật báu ấy đã được hai tu sĩ mộ đạo và gan dạ mạo hiểm lấy từ tu viện Thánh Saviour rồi bí mật mang ra khỏi thành phố trước đó. Nhưng một số vệ binh của Quốc vương Hồi giáo đã có dấu hiệu nghi ngờ, do vậy chúng tôi lại lâm vào vòng nguy hiểm và buộc phải lên đường một lần nữa để tìm kiếm vật báu đó, lần này là đi vào vương quốc lâu đời của người Bungari.

Khi chúng tôi đi qua đất nước ấy, có vẻ như một số người Bungari đã biết về sứ mệnh này, vì ngày càng có nhiều người xuất hiện dọc bên đường, im lặng cúi đầu cung kính chào đoàn người chúng tôi, một số người còn đi theo nhiều dặm đường, đưa tay sờ hoặc hôn lên thành xe ngựa. Một chuyện rất khủng khiếp đã xảy ra trong chuyến đi này. Lúc đi ngang qua Haskovo, một số vệ binh của thành phố đã phi ngựa vượt xe chúng tôi, bắt chúng tôi dừng lại bằng vũ lực và bằng những lời thô lỗ cục cằn. Chúng lục soát xe ngựa, tuyên bố sẽ tìm ra thứ chúng tôi mang theo, dù đó là gì đi nữa, khi thấy hai cái bọc, chúng vồ lấy và mở ra. Khi thấy đó chỉ là lương thực, bọn vô đạo giận dữ vứt hết xuống đường rồi bắt giữ hai người của chúng tôi. Họ quả là những tu sĩ đức hạnh khi quả quyết rằng mình không biết gì, vì thế càng làm cho những kẻ xấu xa kia thêm tức giận, chúng chặt tay chân họ, xát muối vào các vết thương trước khi họ chết. Bọn chúng để những người còn lại chúng tôi được sống, nhưng hành hạ, xua đuổi bằng những lời nguyền rủa và đòn roi. Sau đó, chúng tôi tìm lại được thi thể và tứ chi của các đạo hữu thân yêu, ráp chúng lại rồi chôn cất theo nghi thức Thiên Chúa giáo tại tu viện Bachkovo, các tu sĩ ở đó đã cầu nguyện cho linh hồn mộ đạo của họ nhiều ngày đêm liền.

Sau biến cố ấy, dù rất buồn rầu và hoảng sợ, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc hành trình đến tu viện Sveti Georgi, cũng không còn bao xa và không gặp biến cố nào nữa. Các tu sĩ ở đó, dù đã già nua và chỉ còn thưa thớt vài người, nhưng vẫn nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi và cho biết quả thực vật báu mà chúng tôi tìm kiếm đã được hai khách hành hương mang đến chỗ họ vài tháng trước đây, và tất cả đều tốt. Sau khi trải qua bao nhiêu hiểm nguy như vậy chúng tôi chưa thể nghĩ đến việc trở về Dacia ngay, vì vậy chúng tôi đã ở lại tu viện đó. Di hài mà chúng tôi chuyển đến đã được bí mật cất giữ vào thánh đường Sveti Georgi, và tiếng đồn về nó trong các tín đồ Thiên Chúa giáo đã khiến nhiều người đến đó tế lễ, và họ cũng giữ bí mật. Chúng tôi sống yên ổn tại nơi này một thời gian và góp công lớn xây dựng tu viện to đẹp hơn. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau một chứng bệnh dịch bùng phát trong các làng mạc gần chúng tôi, dù thoạt tiên không ảnh hưởng đến tu viện. Tôi nhận ra đó không phải là một bệnh dịch thông thường, mà là...

[Đến đây bản thảo bị cắt hoặc xé mất.]

Chú thích:

1. Cuốn sách chỉ dẫn nghi thức tế lễ hàng ngày trong các nhà thời Chính Thống giáo.

2. Tiếng Bungari trong nguyên bản. nghĩa là "Một góc nhìn lịch sử về vùng Balkan".

3. Vùng biển Bắc biển Adriatic, phân cách bán đảo Ý với bán đảo Balkan, một phần của địa trung hải.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom