Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Nhà thờ Thánh Mary, cha nói, là một công trình kiến trúc nhỏ giản dị mang phong cách thời Victoria, tọa lạc bên rìa khu vực có từ xưa của khuôn viên trường. Cha đã đi ngang qua đó hàng trăm lần mà chưa bao giờ ghé vào, nhưng bây giờ, đối với cha, ngôi nhà thờ Công giáo đó là nơi thích hợp nhất để đối phó với tất cả những chuyện khủng khiếp này. Chẳng phải ngày nào Công giáo cũng phải đối phó với máu và quỷ nhập tràng sao? Chẳng phải tôn giáo này nổi tiếng với những chuyện mê tín dị đoan hay sao? Chẳng hiểu sao cha không mấy tin rằng những nhà nguyện giản dị và hiếu khách của đạo Tin Lành, nằm rải rác trong khuôn viên trường đại học có thể giúp được gì nhiều; dường như chúng không hội đủ điều kiện để đối phó với lũ quỷ nhập tràng. Cha cũng cảm thấy chắc chắn những ngôi nhà thờ Thanh giáo đồ sộ, vuông vắn trên những bãi cỏ xanh của thị trấn cũng sẽ chẳng làm gì được lũ ma cà rồng châu Âu. Thiêu sống phù thủy có lẽ thích hợp với chúng hơn - hoặc cái gì đó chỉ giới hạn gần gần như thế. Dĩ nhiên, cha có mặt ở nhà thờ Thánh Mary trước vị khách bất đắc dĩ của mình rất lâu. Cô ta có đến không? Cha cũng không dám chắc.

Đúng là may mắn, nhà thờ Thánh Mary mở cửa, và phần nội thất được ốp gỗ sẫm màu của nó phả ra mùi sáp và mùi bụi bặm của những thứ đồ gỗ bọc vải. Hai phụ nữ lớn tuổi đội mũ có gắn hoa giả đang đứng cắm hoa thật trên bệ thờ chạm trổ phía trước. Cha bước vào, khá lúng túng, ngồi xuống một ghế dài cuối dãy, từ đó cha có thể quan sát được các cửa ra vào mà không bị người đi vào phát hiện. Đó là một cuộc chờ đợi dài, nhưng giáo đường yên tĩnh và tiếng nói chuyện rì rầm của hai người phụ nữ làm cha thấy nguôi ngoai phần nào. Lần đầu tiên cha bắt đầu cảm thấy mỏi mệt trong vòng từ đêm hôm qua đến giờ. Sau cùng, cánh cửa trước cũng bật mở, xoay trên những chiếc bản lề đã chín mươi năm tuổi, và Helen Rossi đứng đó, ngập ngừng trong giây lát, nhìn về phía sau, rồi bước vào.

Nắng từ cửa sổ hai bên như hắt lên y phục cô ta ánh màu lam và tim tím. Cha thấy cô ta đảo mắt nhìn quanh lối đi vào. Không thấy ai, cô ta bước tới. Cha cố tìm xem có cái gì đó giả dối, một nét nhăn mặt ác độc hoặc chút thay đổi trên màu da mặt lạnh lùng đó - bất cứ gì, cha không biết rõ là gì, có thể cho thấy sự dị ứng với nhà thờ Công giáo, kẻ thù từ xa xưa của Dracula. Nhưng đằng nào thì có lẽ cái tòa phế tích thời Victoria này cũng chẳng thể xua đuổi các thế lực hắc ám được, cha ngờ vực nghĩ. Nhưng giáo đường này rõ ràng có một sức mạnh nội tại nào đó tác động lên Helen Rossi, bởi chỉ sau một lúc, cô ta đã bước qua chùm ánh sáng rực rỡ màu sắc hắt xuống từ cánh cửa sổ tiến về bức tường phía trước. Cha cảm thấy xấu hổ vì hành động như thể rình mò của mình khi nhìn thấy cô ta cởi bao tay, nhúng bàn tay vào chậu nước thánh rồi làm dấu thánh. Cử chỉ đó rất dịu dàng, khuôn mặt cô ta, nhìn từ chỗ cha ngồi, trông rất nghiêm nghị. Thôi thì, cha đang làm việc này vì thầy Rossi. Và bây giờ, cha hoàn toàn biết rõ Helen Rossi không phải là một vrykolakas - ma cà rồng, dù diện mạo cô ta có phần khó ưa và đôi khi quái gở.

Cô ta bước vào gian giữa và khựng lại, dợm lui một chút khi thấy cha bước đến. “Anh có mang theo những lá thư đấy chứ?” cô ta thì thầm, nhìn cha bằng ánh mắt quan tòa. “Chừng một tiếng nữa tôi phải về khoa.” Cô ta lại liếc quanh.

“Có gì không ổn sao?” cha hỏi ngay, sởn gai ốc vì cảm giác bồn chồn không lý giải được. Có vẻ như hai ngày nay trong cha đã phát triển được một loại giác quan thứ sáu bệnh hoạn nào đó. “Cô sợ cái gì à?”

“Không,” cô ta trả lời, giọng vẫn thì thầm. Cô ta nắm chặt đôi bao trong một tay, chúng trông giống một đóa hoa trên nền bộ y phục màu đen của cô. “Tôi chỉ ngạc nhiên - có ai đó vừa mới đi vào phải không?”

“Đâu có.” Cha cũng liếc nhìn quanh. Giáo đường vẫn vắng vẻ một cách dễ chịu, chỉ có hai phụ nữ đang chăm chút bệ thờ.

“Có ai đó đi theo tôi,” cô ta nói, vẫn với giọng thì thầm. Khuôn mặt cô ta, bao bọc giữa những lọn tóc đen dày, mang một nét biểu lộ kỳ lạ, pha trộn giữa sự ngờ vực và vẻ can đảm giả tạo. Lần đầu tiên, cha băn khoăn tự hỏi cô ta phải trả giá bằng cái gì mới học được cái kiểu cách can đảm của riêng mình như thế. “Tôi nghĩ hắn đang theo dõi tôi. Một gã cao, ốm, quần áo lôi thôi - áo khoác vải tuýt, cà vạt màu xanh lá cây.”

“Cô chắc chứ? Cô thấy hắn ở đâu?”

“Ở bộ phận danh mục thẻ,” cô ta nói, giọng có phần yếu ớt. “Tôi đến đó để kiểm tra chuyện anh nói về những tấm thẻ thất lạc. Đơn giản vì tôi không tin chuyện đó.” Cô ta nói thẳng băng, chẳng cần quanh co rào đón. “Tôi thấy hắn ở đó, sau đó tôi biết là hắn đi theo tôi, nhưng giữ khoảng cách khá xa, suốt phố Elm. Anh biết hắn chứ?”

“Phải,” cha trả lời, vẻ rầu rĩ. “Đó là tay thủ thư.”

“Một thủ thư?” Có vẻ như cô ta chờ đợi cha nói tiếp, nhưng cha chưa thể tiết lộ phát hiện của mình về vết thương trên cổ hắn cho cô ta biết. Chuyện này quá khó tin, quá kỳ quặc; nếu nói ra, chắc chắn cô ta sẽ cho là cha bị tâm thần.

“Gã có vẻ nghi ngờ hành tung của tôi. Cô phải tuyệt đối tránh xa gã,” cha nói. “Tôi sẽ nói thêm về gã sau. Thôi nào, hãy ngồi xuống và thoải mái đi. Đây là những lá thư.”

Cha để cô ta ngồi trên một ghế nệm dài bọc nhung rồi mở cặp ra. Mặt sáng bừng lên ngay, cô cẩn thận mở phong bì, và gần như cung kính khi lấy những lá thư ra, giống như cha đã làm vào ngày hôm qua. Cha chỉ có thể băn khoăn tự hỏi cô ta có cảm giác gì khi nhìn thấy những dòng chữ viết tay của người cô ta cho là cha mình, người mà trước giờ cô chỉ biết đến như một nguồn cơn gây giận dữ. Cha nhìn lá thư qua đôi vai cô ta. Phải, những dòng chữ viết tay mạnh mẽ, nét đẹp, ngay thẳng của thầy Rossi. Có lẽ, chúng đã khiến ông dường như lờ mờ hiện hữu giống một người bình thường hơn trong mắt con gái ông. Sau đó, cha đứng dậy, nghĩ mình nên chấm dứt cái nhìn dò xét này. “Giờ tôi đi loanh quanh đây và sẽ để cô ở một mình, bao lâu tùy cô. Nếu có điều gì tôi có thể giải thích hoặc giúp cô thì…”

Cô ta lơ đãng gật đầu, dán mắt đọc lá thư thứ nhất, và cha bước đi. Cha có thể thấy cô đang thận trọng cầm những tờ giấy quý giá của cha, và đọc rất nhanh những dòng chữ của thầy Rossi. Trong khoảng nửa giờ, cha ngắm nhìn những nét chạm khắc trên bệ thờ, những bức tranh trong nhà nguyện, những tấm rèm có tua viền tại bục giảng, bức tượng cẩm thạch mô tả một người mẹ kiệt sức, trong tay bồng một đứa bé. Một trong các bức tranh đặc biệt thu hút sự chú ý của cha là bức mô tả Lazarus(1)_ trong bộ dạng kinh tởm, vẽ theo trường phái Tiền Raphael, đang được các bà chị dìu đi lảo đảo ra khỏi hầm mộ, mắt cá chân màu xanh-xám, trong bộ quần áo tẩm liệm dơ dáy. Khuôn mặt đã phai màu sau một thế kỷ chịu đựng khói hương, trông có vẻ cay đắng và buồn nản, như thể biết ơn là điều cuối cùng ông cảm thấy khi bị triệu về từ nơi an nghỉ của mình. Chúa Jesus, vẻ sốt ruột, đứng ở lối vào hầm mộ, cầm tay ông ta, có dáng dấp ma quái, tham lam và ghê gớm. Cha chớp mắt, quay đi. Việc thiếu ngủ rõ ràng đang đầu độc đầu óc cha.

“Tôi đọc xong rồi,” Helen Rossi lên tiếng phía sau cha. Giọng yếu ớt, trông cô ta xanh xao và mỏi mệt. “Anh nói đúng,” cô ta tiếp tục. “Chẳng có gì đề cập đến việc dan díu giữa ông ta và mẹ tôi, thậm chí cả chuyến đi đến Rumani của ông ta. Anh đã nói thật về chuyện đó. Tôi không hiểu. Chuyện ắt hẳn phải xảy ra trong cùng khoảng thời gian đó, chắc chắn cùng với chuyến đi tới châu Âu lục địa của ông ta, bởi vì tôi ra đời chín tháng sau đó.”

“Tôi rất tiếc.” Gương mặt với sắc da sậm màu của cô ta không lộ vẻ cầu xin lòng thương cảm, nhưng cha cảm nhận được điều đó. “Tôi cũng mong có được vài manh mối để giúp cô, nhưng cô thấy sự việc ra sao rồi đấy. Tôi cũng không giải thích nổi.”

“Ít ra chúng ta cũng tin tưởng nhau, đúng không nào?” Cô ta nhìn thẳng vào cha.

Cha ngạc nhiên khi phát hiện ra mình có thể cảm nhận được niềm vui hiện diện giữa toàn bộ nỗi đau buồn và lòng cảm thông này. “Chúng ta tin tưởng nhau ư?”

“Vâng. Tôi không biết liệu có gì đó gọi là Dracula hiện hữu thật sự hay không, cũng không biết Dracula cụ thể là cái gì, nhưng tôi tin anh khi anh nói ông Rossi - cha tôi - cảm thấy bản thân ông đang gặp nguy hiểm. Rõ ràng, ông ấy đã cảm thấy điều đó từ nhiều năm trước, vậy tại sao lại không có khả năng nỗi sợ hãi của ông ấy bùng phát trở lại khi thấy cuốn sách nhỏ của anh, một trùng hợp khó chịu và một sự khơi gợi lại quá khứ chứ?”

“Cô nghĩ sao về sự mất tích của ông ấy?”

Cô ta lắc đầu. “Dĩ nhiên, đó có thể do ông suy sụp tinh thần. Nhưng hiện giờ tôi hiểu ý anh muốn ám chỉ gì. Những lá thư của ông có biểu hiện của” - cô ta ngần ngại - “một trí tuệ logic và dũng cảm, giống như thể hiện trong những cuốn sách khác của ông. Anh luôn có thể biết được rất nhiều điều từ những tác phẩm của một sử gia. Tôi rất hiểu các tác phẩm của ông ấy. Chúng là những nỗ lực của một đầu óc trong sáng và vững vàng.”

Cha đưa cô ta về chỗ những lá thư và chiếc cặp; cha thấy lo lắng khi phải rời xa chúng dù chỉ trong một vài phút. Cô ta đã xếp gọn gàng mọi thứ trở lại vào phong bì - đúng thứ tự như cũ, cha tin như vậy. Cô ta và cha lại cùng ngồi xuống chiếc ghế dài, giống như hai người bạn.

“Tạm cho là có một sức mạnh siêu nhiên can dự vào vụ mất tích của ông ấy,” cha thử thăm dò. “Tôi không thể tin mình đang nói ra điều đó, nhưng cứ xem xét khả năng đó đi. Kế tiếp cô khuyên tôi phải làm gì đây?”

“Ừm,” cô thong thả nói. Nhìn nghiêng, khuôn mặt cô ta sắc sảo và đầy suy tư, sát bên cha trong ánh sáng lờ mờ. “Tôi không thấy việc này sẽ giúp gì được anh trong việc điều tra bằng phương pháp hiện đại, nhưng nếu chịu suy nghĩ theo những gì người ta ghi chép lại về Dracula, hẳn anh sẽ phải cho rằng ông Rossi đã bị ma cà rồng tấn công và bắt đi, hoặc có thể đã bị giết hoặc - và nhiều khả năng hơn - bị hủy hoại bằng lời nguyền của quỷ nhập tràng. Anh biết rồi đấy, ba lần tấn công khiến máu anh bị trộn lẫn máu Dracula, hoặc một trong các đệ tử của hắn, có thể biến anh thành ma cà rồng vĩnh viễn. Nếu hắn đã cắn anh một lần, anh sẽ phải tìm ra hắn càng sớm càng tốt.”

“Nhưng sao Dracula lại xuất hiện ở đây, thay vì những nơi khác? Và tại sao hắn bắt ông Rossi mang đi? Sao không chỉ tấn công và hủy hoại ông ta, không để lại dấu vết nào gây ra sự chú ý của mọi người?”

“Tôi không biết,” cô ta lắc đầu trả lời. “Theo truyền thuyết dân gian thì đó quả là một hành vi bất thường. Ông Rossi hẳn phải - ý tôi muốn nói, nếu đây quả thực là một chuyện có tính siêu nhiên - là một mối quan tâm đặc biệt của Vlad Dracula. Thậm chí có thể, theo cách nào đó, là một mối đe dọa đối với hắn.”

“Và cô có tin việc tôi tìm thấy và mang cuốn sách nhỏ này đến chỗ ông Rossi có gì đó liên quan đến việc ông ta mất tích?”

“Lý lẽ bảo với tôi đó là một ý nghĩ kỳ quặc. Nhưng…” cô ta gấp đôi bao tay cẩn thận trong vạt váy màu đen. “Tôi băn khoăn không biết liệu có một nguồn thông tin nào khác mà chúng ta đã bỏ sót hay không.” Miệng cô ta chợt trễ xuống. Im lặng, cha thầm cám ơn cô vì hai tiếng chúng ta.

“Nguồn nào vậy?”

Cô ta thở dài rồi lại mở cặp bao tay ra. “Mẹ tôi.”

“Mẹ cô? Nhưng bà ấy có thể biết gì về…” Khi cha mới chỉ bắt đầu đưa ra một loạt thắc mắc thì ánh sáng chợt thay đổi và một làn hơi lạnh từ đâu phả tới làm cha phải quay lại. Từ chỗ ngồi của mình, cha và cô ta có thể nhìn thấy cửa ra vào nhà thờ mà không bị phát hiện từ vị trí đó - đây chính là vị trí lợi thế cha đã chọn để quan sát Helen đi vào. Lúc này, một bàn tay thò vào giữa hai cánh cửa, sau đó là một khuôn mặt nhọn, xương xương. Tay thủ thư bộ dạng kỳ quái đang nhô đầu vào giáo đường.

Cha không thể mô tả với con cảm giác của cha trong ngôi nhà thờ tĩnh lặng ấy khi gương mặt của tay thủ thư xuất hiện giữa hai cánh cửa. Trong óc cha chợt hiện lên hình ảnh của một con thú mũi nhọn, một con gì đó đang lén lút đánh hơi, một con chồn hoặc một con chuột cống. Bên cạnh cha, Helen như cóng người lại, nhìn sững ra cửa. Giờ thì hắn có thể đánh hơi được cô ta và cha bất cứ lúc nào. Nhưng vẫn còn được một hai giây, cha tính toán trong đầu, rồi yên lặng kẹp chiếc cặp và mớ giấy tờ bằng một tay, chộp lấy Helen bằng tay còn lại - không có thời gian để xin phép cô ta - rồi kéo cô ta ra cuối băng ghế dài, vào một bên gian cánh gà. Ở đó có một cánh cửa để mở dẫn vào một phòng nhỏ, cô ta và cha lủi vào đó. Cha lặng lẽ khép cửa lại. Không có cách nào để khóa từ phía trong, cha thấy quặn trong ruột khi nhận ra điều đó, mặc dù có một lỗ khóa lớn bằng sắt trên cửa.

Căn phòng nhỏ này tối hơn gian giữa giáo đường. Một bình nước thánh dùng trong lễ rửa tội đặt ở giữa phòng, một hai ghế nệm dài kê dọc theo tường. Helen và cha nhìn nhau yên lặng. Cha không đọc được nét mặt của cô ta, ngoại trừ có vẻ như nó đang chứa đựng sự cảnh giác vừa thách thức vừa sợ hãi. Không nói một lời hay một cử chỉ ra hiệu, bọn ta thận trọng di chuyển nấp sau bình nước thánh, Helen đặt một tay lên đó để tự trấn tĩnh. Sau một phút, không thể ở yên lâu hơn nữa, cha trao mớ giấy tờ cho cô ta và trở lui lại chỗ lỗ khóa. Thận trọng nhìn qua đó, cha thấy gã thủ thư đang đi ngang qua một cây cột. Giống y như một con chồn, gương mặt nhọn của gã chĩa về phía trước, liếc quanh tất cả các ghế dài. Gã quay sang hướng cha, khiến cha phải thụt lui một chút. Có vẻ gã đang quan sát cánh cửa chỗ bọn ta đang ẩn nấp, thậm chí đã bước một hoặc hai bước về phía đó, rồi lại quay đi. Đột nhiên, một chiếc áo len màu hoa oải hương xuất hiện trong tầm quan sát của cha. Một trong hai phụ nữ coi sóc bệ thờ. Cha có thể nghe thấy tiếng bà ta, nghèn nghẹt. “Tôi có thể giúp gì ông?” bà ta nói, vẻ tử tế.

“Vâng, tôi đang tìm một người.” Giọng gã thủ thư sắc, rít lên, và xem ra quá to đối với một nơi chốn tôn nghiêm. “Tôi... Bà có thấy một phụ nữ trẻ vào đây, mặc đồ đen? Tóc đen?”

“Ồ, có.” Người phụ nữ tốt bụng nhìn quanh. “Một lúc trước vừa có một người như ông tả ở đây đấy. Cô ta đi với một người đàn ông trẻ, ngồi ở ghế dài phía cuối kia kìa. Nhưng giờ thì ông thấy đấy, cô ta không còn ở đó nữa rồi.”

Gã chồn quay qua quay lại. “Cô ta không thể trốn ở một trong các phòng kia sao?” Rõ ràng, gã không hề giữ kẽ gì cả.

“Trốn à?” Người phụ nữ mặc áo màu hoa oải hương cũng quay về hướng cha. “Tôi chắc chắn không có ai trốn trong nhà thờ của chúng tôi đâu. Ông muốn tôi gọi cha xứ không? Ông cần giúp gì nữa không?”

Gã thủ thư thoái lui. “Ồ, không, không,” gã thốt lên. “Chắc tôi nhầm rồi.”

“Ông có muốn lấy một ít kinh kệ của chúng tôi không?”

“Ồ không.” Gã bước lui xuống lối đi giữa các dãy ghế. “Không, cám ơn.” Cha thấy gã nhòm quanh lần nữa, rồi sau đó biến khỏi tầm mắt của cha. Một tiếng “cách” nặng nề, rồi rầm vang lên, cửa trước đóng lại sau lưng gã. Cha gật đầu với Helen, cô ta liền buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm, không thành tiếng, nhưng bọn ta chờ ở đó thêm vài phút, liếc nhìn nhau qua bình nước thánh. Helen nhìn xuống trước, đôi hàng lông mày nhăn lại. Cha biết, chắc hẳn cô ta đang thắc mắc không hiểu tại sao cô ta lại rơi vào một tình huống như thế này và nó thực sự có ý nghĩa gì. Mái tóc cô đen tuyền, bóng - hôm nay cô ta lại không đội mũ.

“Hắn tìm cô,” cha nói thì thầm.

“Có lẽ hắn đang tìm anh.” Cô ta chỉ vào chiếc phong bì trong tay cha.

“Tôi có một ý nghĩ khá kỳ lạ,” cha nói, giọng từ tốn. “Có thể hắn biết ông Rossi ở đâu.”

Cô ta lại cau mày. “Đằng nào thì cũng chẳng có phần nào trong toàn bộ chuyện này logic cả, nên rất có thể anh đúng,” cô ta thì thầm.

“Tôi không thể để cô trở lại thư viện. Hoặc về phòng cô. Hắn sẽ tìm kiếm cô ở cả hai nơi đó.”

“Để tôi?” cô ta lặp lại, vẻ bực bội.

“Cô Rossi, xin cô. Cô muốn là người kế tiếp biến mất hay sao?”

Cô ta im lặng. “Vậy anh định lên kế hoạch bảo vệ tôi như thế nào?” Cô ta vẫn giữ giọng châm chọc, và cha lại nghĩ đến thời thơ ấu kỳ lạ của cô ta, chuyến bay đầu tiên đến Hungary khi còn nằm trong bụng mẹ, những hiểu biết về chính trị đã cho phép cô đến phía bên kia thế giới để thực hiện cuộc báo thù học thuật ấy. Lẽ dĩ nhiên, nếu câu chuyện của cô ta hoàn toàn có thực.

“Tôi có một ý kiến,” cha nói, chậm rãi. “Tôi biết điều này nghe có vẻ… vớ vẩn, nhưng tôi cảm thấy tốt hơn hết cô nên nghe theo tôi trong chuyện này. Chúng ta có thể mang theo người một vài… thứ bùa phép của nhà thờ này…” Cô ta lại nhướng mày lên. “Chúng ta sẽ tìm một cái gì đó… nến hoặc thánh giá hoặc cái gì đó… rồi mua một ít tỏi trên đường về nhà… ý tôi muốn nói là căn hộ của tôi…” Lông mày cô ta nhướng cao hơn nữa. “Ý tôi là nếu cô bằng lòng đi cùng tôi… và cô có thể… ngày mai có thể tôi có một chuyến đi, nhưng cô có thể…”

“Ngủ trên ghế sofa chứ gì?” Cô ta lại mang bao tay vào và khoanh trước ngực. Cha cảm thấy mặt mình đỏ lên.

“Tôi không thể để cô trở về phòng cô - hoặc trở về thư viện, tất nhiên - khi biết cô có thể bị truy đuổi. Và tôi nghĩ chúng ta cần phải thảo luận thêm. Tôi muốn biết cô nghĩ mẹ cô…”

“Chúng ta có thể thảo luận chuyện đó ngay ở đây, ngay bây giờ,” cô ta nói… lạnh lùng, cha nghĩ vậy. “Về phần tay thủ thư, tôi nghi ngờ việc hắn có thể theo dõi tôi về đến phòng mình, trừ phi…” Có phải cô ta có lúm đồng tiền ở một bên chiếc cằm khắc khổ không nhỉ, hay đó chỉ là vẻ mỉa mai? “Trừ phi hắn biến thành một con dơi. Anh biết đấy, bà quản lý của chúng tôi đâu có cho phép ma cà rồng vào phòng chúng tôi. Cả đàn ông cũng không. Vả lại, tôi hy vọng hắn sẽ theo tôi trở về thư viện.”

“Hy vọng?” cha giật mình.

“Tôi biết hắn sẽ không chịu nói chuyện với chúng ta ở đây, trong nhà thờ. Chắc hẳn hắn đang chờ chúng ta ở bên ngoài. Tôi có chuyện lớn cần thảo luận với hắn đây” - lại là thứ tiếng Anh đặc biệt kia - “bởi vì hắn đang cố can thiệp vào quyền được vào làm việc trong thư viện của tôi, vả lại anh cũng tin rằng hắn có thông tin về cha… à không, giáo sư Rossi. Tại sao không để hắn theo dõi tôi? Chúng ta có thể nói chuyện về mẹ tôi trên đường đi.” Chắc hẳn vẻ hoài nghi hiện rõ mồn một trên mặt cha, bởi cô ta chợt bật cười, hàm răng trắng và đều đặn. “Hắn sẽ không nhảy bổ vào anh giữa ban ngày ban mặt đâu, anh Paul.”

Chú thích:

1. Nhân vật trong Kinh Thánh, được Chúa Jesus cứu sống sau khi chết và đã chôn được bốn ngày (BT).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Không có dấu hiệu nào của gã thủ thư bên ngoài nhà thờ. Chúng ta tản bộ về phía thư viện - dù Helen trông có vẻ bình tĩnh nhưng tim cha vẫn đập thình thịch - trong túi cô ta và cha có hai cây thánh giá giống hệt nhau mua ở đại sảnh nhà thờ (“Hãy lấy một cái, để lại hai mươi lăm xu”). Cha thất vọng vì Helen chẳng nhắc gì đến mẹ cô ta. Cha có cảm giác rằng cô ta chỉ tạm thời hợp tác với thái độ điên khùng của cha, và rằng cô ta sẽ biến mất khi hai người bọn ta đến thư viện, nhưng một lần nữa cô ta lại làm cha ngạc nhiên. “Hắn quay lại kìa,” cô ta khẽ lên tiếng khi đã đi cách nhà thờ hai khu phố. “Tôi vừa nhìn thấy hắn lúc quẹo ở góc đường. Đừng nhìn ra phía sau.” Cha cố nén một tiếng kêu, cô ta và cha tiếp tục đi. “Tôi sẽ lên kho sách ở tầng trên thư viện,” cô ta nói. “Anh nghĩ thế nào về tầng bảy? Đó là khu vực đầu tiên thật sự yên tĩnh. Đừng lên đó cùng tôi. Có nhiều khả năng hắn sẽ theo tôi nếu tôi chỉ có một mình, hơn là theo anh - anh khỏe hơn.”

“Cô tuyệt đối không nên hành động như vậy,” cha thì thầm. “Tìm kiếm thông tin về thầy Rossi là chuyện của tôi.”

“Lấy thông tin về ông Rossi chính xác là chuyện của tôi,” cô ta cũng thì thầm đáp lại. “Làm ơn đừng cho rằng tôi đang giúp anh. Anh Lái Buôn Hà Lan ạ.”

Cha liếc xéo cô ta. Cha nhận ra mình đã quen với khiếu hài hước kiểu châm chọc cay nghiệt của cô ta, và một nét gì đó ở đường viền gò má cạnh bên chiếc mũi thẳng, trông có vẻ rất buồn cười. “Thôi được. Tôi sẽ ở ngay sau hắn, nếu cô gặp rắc rối tôi sẽ có mặt ngay tức khắc để giúp cô.”

Ở cửa vào thư viện, cô ta và cha làm ra vẻ thân mật chia tay nhau. “Chúc may mắn với công việc nghiên cứu, anh Hà Lan,” Helen nói, bắt tay cha bằng bàn tay vẫn còn mang găng.

“Cô cũng vậy, cô…”

“Suỵt,” cô nói rồi bỏ đi. Cha rút vào khu kệ đựng thẻ danh mục, kéo đại một ngăn hộc làm ra vẻ đang bận rộn: “Ben-Hur đến Benedictine”. Tuy cúi đầu nhìn vào đó nhưng cha vẫn thấy được quầy cho mượn sách; Helen có giấy phép vào kho sách, dáng cô ta cao mảnh khảnh trong chiếc áo khoác đen, lưng quay hẳn về gian sảnh giữa của thư viện. Sau đó cha thấy gã thủ thư rón rén men theo tường đối diện của sảnh, tiến đến gần đầu kia khu kệ thẻ danh mục. Gã đã tới chỗ chữ “H” vào lúc Helen di chuyển đến cửa kho sách. Cha biết cánh cửa đó rất rõ, hầu như ngày nào cha cũng đi ngang qua đó nhưng chưa bao giờ thấy nó mở toang hoác ra như lúc này. Cánh cửa được chặn suốt ngày, nhưng luôn có một người bảo vệ trực để kiểm soát giấy phép ra vào. Trong chốc lát, hình bóng mờ đen của Helen biến mất phía trên cầu thang sắt. Gã thủ thư chần chừ trong chốc lát tại mục chữ “G”, rồi mò mẫm tìm cái gì đó trong túi áo khoác - chắc chắn hắn có thẻ nhận dạng đặc biệt của thư viện, cha nhìn thấy - trình thẻ, rồi biến mất.

Cha vội vã đến quầy. “Tôi cần sử dụng kho sách, xin làm ơn.” Cha nói với người phụ nữ đang ngồi trực. Trước giờ cha chưa hề gặp bà ta - bà ta quả rất lề mề - cha có cảm giác hình như hai bàn tay nhỏ thó tròn trịa của bà sẽ mãi mãi phải mò mẫm trong đống giấy phép màu vàng trước khi đưa cho cha một tấm. Cuối cùng cha cũng qua cửa và cẩn thận bước lên cầu thang, mắt hướng nhìn lên. Ở mỗi tầng, người ta có thể nhìn lên tầng trên qua các bậc thang sắt, nhưng tầng trên nữa thì không. Chẳng có dấu hiệu nào của gã thủ thư ở phía trên, không một tiếng động.

Cha rón rén bước lên tầng hai, ngang qua khu sách kinh tế và xã hội học. Tầng ba cũng vắng người, ngoại trừ hai sinh viên đang làm việc ở khu vực dành riêng. Đến tầng bốn, cha bắt đầu cảm thấy lo lắng thực sự. Quá yên lặng. Lẽ ra, cha không bao giờ nên để Helen tự làm mồi nhử trong nhiệm vụ này. Cha đột nhiên nhớ lại câu chuyện anh bạn Hedges của thầy Rossi và cảm thấy cần phải nhanh chân hơn. Tầng thứ năm - khảo cổ và nhân học - có rất đông sinh viên lớp chuẩn bị tốt nghiệp đang tham gia một buổi kiểu như học nhóm và đang rì rầm trao đổi với nhau về những ghi chép của mình. Sự hiện diện của họ làm cha thấy nhẹ nhõm phần nào; vậy chắc chẳng có chuyện gì ghê gớm xảy ra được ở hai tầng phía trên đó. Ở tầng thứ sáu cha có thể nghe có tiếng bước chân phía trên đầu, và đến tầng bảy - lịch sử - cha dừng lại, không biết phải vào kho sách như thế nào mà không bị lộ.

Ít nhất cha cũng biết rõ tầng này; nó là vương quốc của cha, và cha có thể cho con biết sự sắp đặt của từng ngăn nghiên cứu, từng chiếc ghế, mọi dãy sách quá khổ. Thoạt tiên, tầng lịch sử có vẻ như cũng tĩnh lặng như các tầng khác, nhưng một lát sau cha nghe có tiếng nói chuyện thì thầm ở một góc. Cha rón rén đi về phía đó, ngang qua khu vực về Babylon và Assyria, cố gắng bước thật khẽ. Rồi cha nghe được giọng nói của Helen. Chắc chắn đó là giọng của Helen, và sau đó là giọng nói nhát gừng khó ưa của gã thủ thư. Tim cha thót lại. Họ đang ở khu vực Trung cổ - giờ thì cha đã quá rành khu đó - cha đến gần để có thể nghe rõ hơn; mặc dù cha không thể mạo hiểm đến cuối giá sách cạnh đó để nhìn qua bên đó. Hình như họ ở phía bên kia các ngăn kệ bên tay phải của cha. “Việc đó đúng không?” Helen hỏi, giọng hằn học.

Giọng nói nhát gừng, rin rít lại cất lên. “Cô không được phép lục lọi những cuốn sách đó, thưa cô.”

“Những cuốn sách đó? Tài sản của trường Đại học? Ông là ai mà có quyền tịch thu sách của thư viện trường đại học?”

Giọng nói của gã thủ thư vừa giận dữ vừa ngon ngọt dỗ dành. “Cô không cần phải lục lọi những cuốn sách như vậy. Chúng đâu phải là sách hay cho một quý cô. Hôm nay chỉ cần cô trả chúng lại là mọi việc sẽ ổn.”

“Tại sao ông cần chúng dữ vậy?” Giọng Helen dứt khoát và rõ ràng. “Liệu chúng có liên quan gì đến giáo sư Rossi, có lẽ vậy chăng?”

Nép mình sau kệ sách về chế độ phong kiến Anh, cha không biết phải ro rúm lại hay lên tiếng hoan hô. Dù cho Helen nghĩ như thế nào về tất cả sự vụ này, ít nhất cô ta cũng quan tâm. Dường như cô không coi cha là người điên. Và cô ta muốn giúp cha, ngay cả chỉ để thu thập thông tin về thầy Rossi vì những mục đích của riêng cô ta.

“Giáo sư nào - ai? Tôi không hiểu cô muốn nói gì,” gã thủ thư thốt lên, giọng cáu kỉnh.

Helen đanh giọng, “Ông biết ông ấy đang ở đâu chứ?”

“Cô gái ơi, tôi không biết những điều cô vừa nói. Nhưng tôi cần cô hoàn trả những cuốn sách đó, thư viện đang cần chúng cho các kế hoạch khác, nếu không chắc chắn sự nghiệp hàn lâm của cô sẽ phải gánh chịu hậu quả đấy.”

“Sự nghiệp của tôi?” Helen chế giễu. “Bây giờ tôi chưa thể trả lại những cuốn sách đó. Tôi có công việc quan trọng liên quan đến chúng.”

“Vậy thì tôi sẽ buộc cô trả chúng lại. Giờ chúng ở đâu?” Cha nghe có tiếng bước chân, giống như Helen bỏ đi. Cha định phóng đến cuối kệ sách, chộp cuốn sách khổ đôi về các tu sĩ dòng Cistercian để ném vào đầu con chồn nhỏ hôi hám bẩn thỉu kia thì Helen đột ngột tung ra một chiêu khác.

“Tôi sẽ cho ông biết vài điều,” cô ta nói. “Nếu ông có thể cho tôi biết vài điều về giáo sư Rossi, thì có thể tôi sẽ chia sẻ với ông một ít…” cô dừng lại. “Một tấm bản đồ nhỏ mà tôi mới phát hiện gần đây.”

Cha chưng hửng rớt xuống cả bảy tầng lầu này. Tấm bản đồ? Helen nghĩ gì? Tại sao cô ta lại tiết lộ một thông tin chết người như vậy? Tấm bản đồ có thể là thứ nguy hiểm nhất và quan trọng nhất mà cha và cô ta sở hữu, nếu các phân tích của thầy Rossi về ý nghĩa của nó là đúng. Món sở hữu nguy hiểm nhất của riêng mình thôi, cha thầm đính chính. Liệu Helen có chơi trò lá mặt lá trái với cha? Cha chợt thấy được sự việc: cô ta muốn sử dụng tấm bản đồ để trước hết tìm tới chỗ thầy Rossi, hoàn tất công trình nghiên cứu của ông ấy, lợi dụng cha để biết tất cả những gì ông ta đã biết, sau đó gạt cha ra rìa, công bố và vạch trần ông ấy - cha không có đủ thời gian để luận suy tiếp vì ngay sau đó gã thủ thư đã gầm lên. “Tấm bản đồ! Ngươi có tấm bản đồ của Rossi! Ta sẽ giết ngươi vì tấm bản đồ đó!” Tiếng Helen thở hổn hển, sau đó là một tiếng thét và tiếng một cú đấm. “Bỏ xuống!” gã thủ thư hét lên.

Chân cha hầu như không chạm đất cho đến khi vật được hắn xuống. Cái đầu nhỏ bé của gã đập rầm một tiếng xuống nền nhà làm cha cũng cảm thấy lùng bùng trong đầu. Helen nép người bên cạnh cha. Mặt cô ta trắng bệch nhưng vẫn có vẻ bình tĩnh. Cô ta đang cầm chiếc thánh giá hai mươi lăm xu mua ở nhà thờ, giữ chắc hướng về phía hắn trong lúc hắn giãy giụa chống cự bên dưới cha. Tên thủ thư này rất yếu, chỉ ít phút sau cha đã ít nhiều chế ngự được gã - may cho cha, vì trong ba năm gần đây cha chỉ đánh vật với mớ giấy tờ tài liệu của xứ Hà Lan này chứ không tập cử tạ. Gã vùng vẫy trong tay cha, cha tì chặt hai đầu gối xuống khóa chân hắn. “Rossi!” gã hét lên. “Thật bất công! Lẽ ra ta mới là kẻ được đi - đó là lượt của ta! Đưa tấm bản đồ cho ta! Ta chờ đợi quá lâu rồi - ta đã mất hai mươi năm để tìm nó!” Hắn bắt đầu nức nở, tiếng khóc thảm thiết, khó chịu. Trong lúc đầu hắn giật tới giật lui, cha nhìn thấy hai vết thương giống hệt nhau gần rìa cổ áo, hai lỗ gai đâm nham nhở gớm ghiếc. Cha cố giữ cho tay mình không chạm vào đó.

“Thầy Rossi đâu?” cha gầm lên. “Nói ngay cho bọn tao biết ông ấy ở đâu - ngươi làm hại ông ấy phải không?” Helen gí chiếc thánh giá sát gần hơn, gã vội quay mặt đi, giãy giụa dưới chân cha. Cha kinh ngạc, ngay cả vào lúc đó, khi nhìn thấy tác dụng của biểu tượng đó đối với tên tay sai này. Đây là chuyện trong phim Hollywood, chuyện mê tín dị đoan hay chuyện lịch sử? Cha băn khoăn tự hỏi làm sao hắn có thể bước chân vào nhà thờ - nhưng cha chợt nhớ lúc đó hắn đứng rất xa bệ thờ và nhà nguyện, và đã lùi xa khỏi bà coi sóc bệ thờ.

“Ta chẳng đụng chạm gì tới lão! Ta không biết gì về chuyện đó!”

“Ồ, không, ngươi có biết,” Helen cúi xuống sát hơn. Nét mặt cô ta dữ tợn, nhưng trắng bệch, và cha để ý lúc đó cô ta giữ chặt bàn tay còn lại lên cổ.

“Helen!”

Cha hẳn đã thét lên to lắm, nhưng cô khoát tay ra hiệu bảo cha ngừng, rồi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt gã thủ thư. “Ông Rossi đâu? Ngươi chờ đợi cái gì trong nhiều năm?” Gã co rúm lại. “Ta sẽ đặt cái này lên mặt ngươi ngay bây giờ đây.” Helen nói, hạ cây thánh giá xuống.

“Đừng!” hắn thét lên. “Tôi sẽ nói. Rossi không muốn đi. Tôi muốn đi. Như vậy là không công bằng. Người mang Rossi đi thay vì tôi! Người đã dùng vũ lực bắt lão đi - tôi rất muốn theo hầu hạ Người, giúp Người, ghi vào mục lục…” Gã chợt ngưng bặt.

“Cái gì?” Cha dộng nhẹ đầu hắn xuống sàn để gia tăng sức ép. “Ai bắt ông Rossi đi? Ngươi giữ ông ấy ở đâu?”

Helen gí sát cây thánh giá lên mũi hắn, hắn lại bắt đầu khóc nức nở. “Ông Chủ,” gã rền rĩ. Helen, bên cạnh cha, hít vào một hơi dài rồi ngồi thụp xuống, tựa như vô tình bị chựng lại vì những lời nói của gã thủ thư.

“Chủ ngươi là ai?” Cha thúc đầu gối vào chân hắn. “Hắn mang ông Rossi đi đâu?”

Đôi mắt hắn đỏ ngầu. Quả là một cảnh tượng gây sốc - sự biến dạng ấy, những đường nét bình thường của một con người bỗng tượng hình cho ý nghĩa khủng khiếp ấy. “Tôi được phép đến đâu nữa chứ! Đi đến cái hầm mộ kia thôi.”

Có thể tay nắm của cha đã lỏng, hoặc có thể lời thú nhận đó đã làm cho gã đột nhiên mạnh lên - có lẽ bởi gã khiếp đảm cho số phận của mình, sau này cha nhận ra. Dù sao đi nữa, gã đã bất ngờ rút ra được một tay, lật ngược người lại như một con bọ cạp, bẻ ngoặt ra sau cổ tay cha đang đè lên vai hắn. Không chịu đựng nổi cơn đau sắc lẹm, cha giận dữ rụt tay lại. Gã vùng bỏ chạy trước khi cha kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra, sau đó cha đuổi theo gã xuống cầu thang, rầm rập chạy qua đám sinh viên đang thảo luận nhóm và lãnh địa tri thức tĩnh lặng ở bên dưới. Nhưng cha bị vướng víu vì chiếc cặp vẫn còn nắm chặt trong tay. Ngay từ khi bắt đầu cuộc rượt đuổi, cha đã nhận ra ngay là mình không muốn bỏ nó xuống. Hoặc thảy nó cho Helen. Cô ta đã cho gã biết về tấm bản đồ. Cô ta là kẻ phản bội. Và gã đã cắn cô ta, dù chỉ mới một lát. Bây giờ cô ta đã bị nhiễm chưa nhỉ?

Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng thay vì khoan thai bước đi, cha đã chạy băng qua gian sảnh giữa tĩnh lặng của thư viện, chỉ thoáng thấy những gương mặt kinh ngạc quay lại nhìn khi cha chạy băng qua. Không thấy dấu vết gã thủ thư. Cha thất vọng nhận ra có thể gã đã chạy thoát vào một khu vực phía sau nào đó, một khu chứa rác hoặc kho chứa chổi nào đó dành riêng cho nhân viên thư viện. Cha bật tung cánh cổng trước nặng nề, hai cánh cửa lớn kiểu Gothic dẫn vào đại sảnh và chưa bao giờ mở ra trọn vẹn. Rồi cha khựng lại trên các bậc tam cấp. Nắng buổi chiều khiến cha lóa mắt, tựa như cha vừa sống dưới âm ty, trong một hang dơi hoặc hang một loài gặm nhấm nào dưới đất. Trên đường phía trước thư viện, vài chiếc xe đã dừng lại. Thực ra, giao thông đang ngừng lại, một cô gái trong đồng phục hầu bàn đang đứng khóc trên lề đường, trỏ tay vào một cái gì đó. Ai đó hét lên, hai người đàn ông đang quỳ phía trước một trong những chiếc xe đang dừng lại. Chân gã thủ thư chồn hôi thò ra từ phía dưới gầm xe, vẹo đi theo một góc kỳ dị. Một cánh tay của gã vắt qua đầu. Gã nằm sấp trên mặt đường trong một vũng máu nhỏ, ngủ giấc ngàn thu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Cha ngại ngần không muốn dẫn tôi đến Oxford. Cha nói cha sẽ phải lưu lại ở đó sáu ngày, lại một thời gian đủ lâu để tôi bỏ lỡ chương trình trên lớp. Tôi ngạc nhiên khi cha muốn để tôi ở nhà; cha đã không làm vậy dù chỉ một lần từ khi tôi phát hiện ra cuốn sách có hình con rồng. Phải chăng cha định để tôi ở nhà do một vài sự đề phòng đặc biệt nào đó? Tôi kỳ kèo với cha là chuyến du lịch ở vùng bờ biển Nam Tư kéo dài gần hai tuần nhưng việc học của tôi đâu có dấu hiệu bê trễ nào. Cha nói học hành là việc ưu tiên trước hết. Tôi nhắc lại là cha luôn biện minh du lịch là phương cách giáo dục tốt nhất, mà tháng Năm là tháng tuyệt vời nhất để du lịch. Tôi đưa cho cha xem phiếu điểm mới nhất, dày đặc những điểm xuất sắc, và tấm giấy khen mà trên đó vị giáo viên hướng dẫn vốn khá ưa ngôn từ khoa trương đã viết: “Em bộc lộ một khả năng thấu hiểu khác thường bản chất của việc nghiên cứu lịch sử, đặc biệt đối với một người ở độ tuổi như em,” một lời khen tôi luôn ghi nhớ và thường lặp đi lặp lại như một câu thần chú trước khi ngủ.

Vẻ nao núng thấy rõ, cha đặt dao nĩa xuống bàn theo cái cách mà tôi biết là chỉ hàm ý tạm dừng trong phòng ăn cổ xưa kiểu Hà Lan của chúng tôi chứ chưa phải chấm dứt bữa ăn. Cha nói công việc lần này của cha quá bận rộn để có thể dẫn tôi đi tham quan nơi này nơi nọ, và cha không muốn làm hỏng ấn tượng đầu tiên của tôi về Oxford qua việc phải nhốt tôi lại đâu đó. Tôi bảo tôi thích được nhốt ở Oxford hơn là bị nhốt ở nhà với bà Clay - nói đến đây cả hai cha con đều hạ giọng, mặc dù hôm đó bà Clay nghỉ. Vả lại, tôi cũng đã đủ lớn khôn để tự một mình lang thang đây đó, tôi nài nỉ. Cha nói ông không biết liệu dẫn tôi theo có phải là một ý tưởng hay ho không, vì những cuộc nói chuyện ở đó hứa hẹn khá nhiều… căng thẳng. Có thể không hẳn đến mức như vậy, nhưng cha không thể nói tiếp, và tôi biết lý do vì sao. Cũng như tôi không thể dùng lý lẽ thực sự của mình để thuyết phục ông cho đi Oxford, cha không thể nói ra lý do thực sự khiến ông muốn ngăn không cho tôi đi. Tôi không thể lớn tiếng nói thẳng với cha là lúc này tôi không chịu đựng nổi việc để cha đi xa, ra khỏi tầm mắt của tôi, với những quầng thâm trên hai mắt cùng đôi vai đã khòm xuống và vầng trán hằn sâu những nếp nhăn mỏi mệt ấy. Và cha cũng không thể lớn tiếng nói thẳng rằng có thể cha không an toàn tại Oxford và do đó tôi cũng không thể an toàn khi ở với ông. Cha im lặng trong chốc lát, rồi bằng giọng từ tốn lên tiếng hỏi món tráng miệng, tôi vội lấy ra món bánh nho khô bột gạo dở tệ mà bà Clay đã làm sẵn như để đền bù việc bà đi xem phim ở British Center mà không có cha con tôi đi cùng.

Tôi đã tưởng tượng Oxford là nơi chốn thanh tịnh và xanh mát, như một thánh đường ngoài trời, ở đó các giáo sư mặc trang phục thời Trung cổ rảo bước qua lại, mỗi người có một sinh viên ở bên, diễn giảng về lịch sử, văn chương cũng như môn thần học khó hiểu. Nhưng thực tế thì nơi này sống động một cách đáng ngạc nhiên: xe gắn máy bóp còi inh ỏi, đôi khi xe con phóng vèo vèo, gần như suýt đụng phải sinh viên băng qua đường, một nhóm du khách đang chụp hình một cây thánh giá trên lối đi ven đường, trước khi trở thành lối đi, tại đây, bốn trăm năm trước, hai vị giám mục đã bị trói vào cột rồi thiêu sống. Giáo sư và sinh viên, thật thất vọng, chỉ mặc quần áo theo kiểu hiện đại, phần lớn là áo len dài tay, thầy thì quần vải flannel còn trò thì quần bò xanh. Trước khi xuống xe buýt ở phố Broad, tôi nghĩ đến thời của thầy Rossi với cảm giác tiếc nuối: bốn mươi năm trước, hẳn người ta ít nhất phải ăn mặc trịnh trọng hơn chút đỉnh.

Rồi tôi cũng thấy ở đó ngôi trường đại học đầu tiên mình được tận mắt nhìn, nhô lên phía trên vách tường bao trong ánh nắng ban mai, còn hiện ra lờ mờ gần đó là hình dạng hoàn hảo của thư viện Radcliffe Camera mà thoạt tiên tôi cứ ngỡ là một đài thiên văn nhỏ. Đằng sau đó vút lên những ngọn tháp của một giáo đường đồ sộ màu nâu, và chạy dọc theo con đường là một bức tường trông cũ kỹ đến nỗi đám địa y bám trên đó cũng có vẻ như đồ cổ. Tôi không thể hình dung trông chúng tôi hiện tại sẽ thế nào trong mắt những người từng qua lại trên những con đường này thời bức tường vừa mới được dựng lên - tôi mặc váy đầm ngắn màu đỏ, đi tất đan kim màu trắng, cha mặc áo khoác hải quân, quần xám, áo len cao cổ màu đen và đội mũ vải tuýt, mỗi người kéo theo một va li nhỏ. “Chúng ta đến nơi rồi,” cha thốt lên, và tôi cảm thấy phấn khởi khi hai cha con chúng tôi rẽ vào một cánh cổng trên bức tường phủ đầy địa y. Cổng bị khóa, chúng tôi phải đứng chờ cho đến khi một sinh viên ra giữ cánh cổng sắt uốn ấy mở cho vào.

Ở Oxford cha sẽ phải phát biểu tại một hội nghị về các mối liên hệ chính trị giữa Hoa Kỳ và Đông Âu, giờ đang phát triển mạnh trong thời kỳ băng tan. Vì trường đại học chủ trì tổ chức hội nghị, nên chúng tôi được mời ở tại những phòng riêng trong nhà một trong các quản lý của những trường trực thuộc Đại học Oxford. Các vị quản lý này, cha giải thích là các nhà độc tài nhân hậu chuyên chăm lo cho sinh viên đang sống trong khuôn viên các trường trực thuộc đó. Khi đã bước qua lối vào thấp và khá tối, chúng tôi lọt vào mảnh sân trong ngập tràn ánh nắng mặt trời, lần đầu tiên tôi nhận ra chẳng bao lâu nữa mình cũng sẽ vào đại học, và tôi ngoéo tay làm dấu cầu may mắn ngay trên quai cặp sách, thầm ước một ngày nào đó sẽ được học tại một nơi như thế này.

Xung quanh chúng tôi là những phiến đá lót lối đi mòn nhẵn nằm im lìm, chen vào đó đây là những bóng cây to - những cây cổ thụ nghiêm trang, trầm mặc, thỉnh thoảng có một chiếc ghế đá dài dưới gốc. Một vuông cỏ hoàn hảo và một hồ nước nhỏ nằm ngay dưới chân tòa nhà chính của trường. Đó là một trong các kiến trúc cổ xưa nhất của Oxford, được vua Edward III thế kỷ thứ mười ba tài trợ xây, các chi tiết thêm vào mới nhất của nó cũng là do các kiến trúc sư thời nữ hoàng Elizabeth I thiết kế. Ngay cả khoảng cỏ được cắt tỉa cẩn thận này trông cũng có vẻ đáng tôn kính; đương nhiên tôi không thấy có ai bước chân lên đó rồi.

Chúng tôi men theo bãi cỏ và hồ nước, đi qua phòng trực của bảo vệ ngay bên trong, từ đó đến một dãy phòng sát với nhà ông quản lý. Những căn phòng này chắc hẳn đã từng là một phần thiết kế nguyên thủy của trường đại học, mặc dù khó mà đoán được ban đầu chúng được sử dụng cho mục đích gì; trần phòng rất thấp, cửa sổ ốp gỗ màu sậm và cửa sổ đóng khung chì bé xíu. Phòng ngủ của cha treo rèm xanh trời. Phòng của tôi, thật hết ý, có một giường ngủ cao với màn che sặc sỡ.

Chúng tôi mở va li, sắp xếp đồ một chút, rửa ráy khuôn mặt bụi bặm vì đi đường xa của mình trong một chậu rửa màu vàng nhạt của phòng tắm dùng chung cho cả hai phòng, sau đó đến gặp thầy James, quản lý, người đang chờ chúng tôi trong văn phòng ở phía đầu kia tòa nhà. Hóa ra ông là người thân mật, nói năng ân cần, có mái tóc xám bạc và một vết sẹo lồi ngay chỗ xương gò má. Tôi thích cái bắt tay ấm áp và ánh nhìn từ đôi mắt to, hơi lồi màu nâu đỏ của ông. Hình như ông chẳng thấy việc tôi tháp tùng cha đến hội nghị có gì lạ lùng mà thậm chí còn đề nghị sẽ cho sinh viên phụ tá của ông đưa tôi đi tham quan trường đại học chiều hôm đó. Sinh viên phụ tá này, theo lời ông, là người lịch thiệp rất nhiệt tình và kiến thức rộng. Cha nói chắc chắn tôi có thể đi cùng anh ta; vì chiều nay cha sẽ bận rộn với những cuộc hội họp, vả lại tại sao lại không đi thăm thú những kho báu của nơi chốn này khi đang có mặt ở đây nhỉ?

Ba giờ chiều, tôi háo hức có mặt, một tay cầm chiếc mũ nồi mới, tay còn lại cầm cuốn sổ ghi chép vì cha đã gợi ý tôi nên ghi chép lại chuyến tham quan này để dùng cho một bài tập ở trường. Người hướng dẫn tôi là một sinh viên năm cuối tóc hoe vàng, thầy James giới thiệu anh ta là Stephen Barley. Tôi thích đôi bàn tay thon, nổi gân xanh và chiếc áo len dài tay dày sụ kiểu dân đánh cá của anh - “jumpah” - anh gọi cái áo thế khi tôi lên tiếng trầm trồ khen nó. Tôi có cảm giác như mình được tạm thời chấp nhận trong cộng đồng ưu tú này khi dạo bước bên anh qua sân trong của trường. Tôi còn cảm thấy thoáng chút xao xuyến tình cảm lứa đôi, một cảm giác mơ hồ rằng khi cùng tản bộ với nhau nếu tôi nắm tay anh thì một cánh cửa đâu đó trên bức tường dài của thực tế mà tôi vẫn biết sẽ mở ra và không bao giờ khép lại. Tôi cho rằng mình đã có một cuộc sống quá khép kín - khép kín đến nỗi, giờ tôi mới nhận ra, đến nỗi gần mười tám tuổi đầu mà tôi cũng không nhận ra cuộc sống đó tù túng đến mức nào. Cái rùng mình nổi loạn mà tôi cảm nhận khi cùng sánh bước với một chàng sinh viên đẹp trai đã đến với tôi như một nét nhạc của nền văn hóa xa lạ. Nhưng tôi giữ chặt cuốn sổ ghi chú hơn, và cả tuổi thơ của mình nữa, hỏi anh ta vì sao sân trường phần lớn được lót đá thay vì trồng cỏ. Anh mỉm cười đáp lời. “Chà, anh không biết. Trước giờ chưa ai thắc mắc điều đó cả.”

Anh dẫn tôi vào phòng ăn lớn - một kiểu phòng giản dị có trần cao, xà kiểu Tudor, đầy những chiếc bàn gỗ - và chỉ cho tôi thấy nơi trước đây chàng trai trẻ Earl of Rochester(1) đã khắc câu gì đó thô lỗ lên một chiếc ghế trong lúc ngồi ăn ở đây. Tường nhà ăn có trổ những dãy cửa sổ khung chì, chính giữa mỗi cửa sổ được trang trí một bức tranh mô tả cảnh tượng những việc làm từ thiện cổ xưa: Thomas à Becket(2) quỳ cạnh giường một người chết, một thầy tu mặc áo choàng dài đang múc xúp cho một hàng dài những người nghèo khổ co ro cúm rúm, một thầy thuốc thời Trung cổ đang băng bó chân cho một người bệnh. Phía trên băng ghế của Rochester là một bức tranh mà tôi không thể hiểu nổi, một người đeo thánh giá ở cổ và cầm một cây lao trong tay, đang cúi người xuống vật gì đó trông giống như đống giẻ rách màu đen. “Ồ, bức tranh kia thực sự là của hiếm đấy,” Stephen Barley lên tiếng. “Bọn anh rất hãnh diện với nó. Em thấy đấy, người đàn ông này là giáo sư của trường anh từ những năm đầu tiên, đang chuẩn bị phóng một mũi lao bằng bạc vào tim một con ma cà rồng.”

Tôi chăm chú nhìn anh, im lặng một lúc. “Ngày xưa ở Oxford có ma cà rồng à?” cuối cùng tôi cất tiếng hỏi.

“Anh cũng không biết nữa,” anh thú nhận, nhoẻn miệng cười. “Nhưng tương truyền, các học giả của trường đại học này ngày xưa đã từng bảo vệ vùng quê quanh đây khỏi lũ ma cà rồng. Thực sự, người ta thu thập khá nhiều truyền thuyết về ma cà rồng, những chuyện kỳ quặc, và em vẫn có thể thấy trong thư viện Radcliffe Camera, bên kia đường. Truyền thuyết nói rằng những giáo sư của thời kỳ ban sơ ấy thậm chí còn không cất giữ những cuốn sách nói về chuyện huyền bí này tại trường đại học, vì vậy họ phải cất chúng ở những nơi khác nhau, cuối cùng cứ ở những nơi đó mãi.”

Tôi chợt nhớ đến thầy Rossi và băn khoăn thầm hỏi không biết liệu ông có đọc được cuốn nào trong bộ tuyển tập cổ xưa kia hay không. “Có cách nào để tìm được tên những sinh viên ngày xưa đã học ở trường không - ý em là - có thể năm mươi năm trước? Các sinh viên đã tốt nghiệp?”

“Lẽ dĩ nhiên.” Anh bạn đồng hành nhìn tôi có vẻ hơi giễu cợt lúc đi ngang qua một băng ghế gỗ. “Anh có thể hỏi thầy quản lý hộ em việc này, nếu em muốn.”

“Ồ, không,” tôi cảm thấy mặt mình đỏ bừng, nỗi khổ thường trực thời trẻ của tôi. “Không có gì quan trọng. Nhưng em sẽ… em có thể đọc những truyền thuyết nói về ma cà rồng được không?”

“Chà, em thích đọc truyện kinh dị à?” Anh trông có vẻ thích thú. “Chẳng nhiều nhặn gì đâu, em biết đấy - chỉ vài tập sách cổ khổ lớn và một mớ sách giấy da. Nhưng thôi được. Giờ chúng ta sẽ đến thư viện trường - em không nên bỏ qua nơi này - sau đó anh sẽ đưa em đến thư viện Camera.”

Lẽ dĩ nhiên, thư viện là một trong những viên ngọc quý của trường đại học này. Ngay từ lúc còn nhỏ, tôi đã thăm rất nhiều trường đại học và hiểu biết khá tường tận về chúng, đã từng lang thang qua các thư viện, nhà nguyện và nhà ăn của các trường này, nghe giảng trên giảng đường và uống trà ở các phòng tiếp khách. Tôi có thể khẳng định không có nơi nào bằng thư viện của trường đại học cổ xưa nhất này, có lẽ chỉ ngoại trừ nhà Nguyện trường Đại học Magdalen cùng với phong cách trang trí siêu phàm của nơi đó. Trước tiên chúng tôi vào phòng đọc sách, được bao quanh bằng lớp kính màu, giống như một nhà ươm lồng kính cao, trong đó các sinh viên, những loài thảo mộc quý hiếm bị cầm giữ, ngồi quanh những chiếc bàn mà tuổi đời cũng xa xưa không kém gì bản thân ngôi trường. Những ngọn đèn kỳ lạ treo lủng lẳng trên trần, và những chao đèn đồ sộ từ thời vua Henry VIII nằm tư lự trên các đế cột ở các góc phòng. Stephen Barley đưa tay chỉ những bộ tự điển Oxford English Dictionary nguyên tác, xếp hàng trên các kệ dọc một bức tường; trên các kệ khác nhau chứa đầy hoặc những tập bản đồ xa xưa hàng thế kỷ, hoặc các danh sách những nhà quý tộc và các tác phẩm cổ trong lịch sử nước Anh, hoặc những cuốn giáo trình bằng tiếng Latin và Hy Lạp thuộc mọi thời kỳ từ khi trường ra đời đến nay. Giữa phòng là một cuốn bách khoa tự điển vĩ đại trên một bệ đỡ điêu khắc theo phong cách Ba rốc, gần lối dẫn sang căn phòng bên cạnh có một hộp thủy tinh, trong đó là một cuốn sách cổ bìa cứng mà Stephen cho biết là cuốn Thánh kinh Gutenberg. Phía trên, những vệt nắng dài chiếu xuyên qua cửa sổ trần tròn như cửa sổ trên mái vòm một nhà thờ Byzantine. Lũ bồ câu bay lượn bên trên. Vệt ánh nắng lung linh những hạt bụi chiếu xuống mặt các sinh viên đang lật đọc những trang sách trên bàn, lướt qua những chiếc áo ngoài nặng nề và gương mặt nghiêm nghị của họ. Đây là thiên đường của việc học hành, tôi thầm cầu mong sau này được nhận vào học ở đây.

Căn phòng cạnh đó là một đại sảnh, có ban công với những cầu thang uốn, một khoảng tường có dãy cửa sổ bằng kính. Sách xếp dọc theo các bức tường, từ trên xuống dưới, từ nền nhà đá lên tận trần mái vòm. Tôi thấy rất nhiều bìa sách bọc da, những kệ danh mục, rất nhiều cuốn sách nhỏ màu đỏ sậm từ thế kỷ mười chín. Tôi băn khoăn thầm hỏi không biết bên trong chúng chứa đựng điều gì? Liệu tôi có hiểu được bất kỳ điều gì trong số đó không? Những ngón tay tôi khát khao muốn lấy vài cuốn ra khỏi kệ nhưng rốt cuộc không dám chạm vào ngay cả một bìa sách. Tôi mơ hồ không biết nơi đây là thư viện hay viện bảo tàng. Chắc hẳn tôi đã nhìn ngắm khắp nơi với ánh mắt ngây dại, vì bất chợt tôi nhận ra chàng sinh viên hướng dẫn mỉm cười thích thú. “Không tệ lắm phải không? Chắc em cũng là dân mọt sách. Thôi nào, đi tiếp nào - em đã nhìn thấy những gì hay ho nhất ở đây rồi, giờ mình đến Camera đi.”

Sau cái tĩnh lặng của thư viện, ánh trời chói chang và tiếng ồn từ những chiếc ô tô phóng vèo vèo làm tôi thấy khó chịu hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, tôi cũng thầm cám ơn chúng, vì chúng đã mang lại một món quà bất ngờ: khi chúng tôi vội vã băng qua đường, để bảo đảm an toàn, Stephen đã nắm tay, kéo tôi đi. Tôi nghĩ chắc anh phải là ông anh cả độc đoán của ai đó, nhưng cái tiếp xúc của lòng bàn tay khô ấm ấy gửi một tín hiệu rộn ràng đến bàn tay tôi, bàn tay vẫn nóng rực ngay cả khi tay anh đã không còn ở đó. Tôi cảm thấy chắc chắn, khi liếc mắt lén nhìn khuôn mặt nghiêng nghiêng không biểu hiện chút xúc động nào và vẫn hớn hở tươi cười của anh, là thông điệp rộn ràng kia chỉ được ghi nhận theo một chiều. Nhưng đối với tôi, nhận được thông điệp ấy là đủ.

Radcliffe Camera, như mọi người yêu mến nước Anh đều biết, là một trong các địa điểm hấp dẫn nhất của kiến trúc nước Anh, đẹp đẽ và kỳ lạ, một kho sách đồ sộ. Một mặt của tòa nhà hầu như nằm sát mặt đường, nhưng phần còn lại được bao quanh bởi một thảm cỏ lớn. Chúng tôi bước đi thật im lặng, dù một đám du khách ồn ào đang đứng chật ních khu vực trung tâm của gian nội thất hình tròn lộng lẫy. Stephen lưu ý với tôi nhiều khía cạnh khác nhau trong thiết kế tòa nhà, những đặc điểm được giảng dạy trong mọi chương trình đào tạo kiến trúc Anh quốc và được viết trong mọi cuốn sách hướng dẫn. Đây là một nơi chốn dễ thương và gợi nhiều cảm hứng, tôi tiếp tục nhìn quanh trong lúc trầm tư nghĩ thật kỳ lạ biết bao khi đây lại là cái kho chứa những truyền thuyết về ma quỷ. Cuối cùng anh dẫn tôi đến cầu thang, và chúng tôi leo lên đến ban công. “Ở đây này.” Anh đi về phía một ô cửa trổ giữa vách tường đầy kín sách. “Có một phòng đọc sách nhỏ ở đằng kia. Anh mới chỉ đến đây một lần, nhưng anh nghĩ đó là nơi họ lưu giữ tuyển tập nói về ma cà rồng.”

Căn phòng sáng mờ mờ thực ra rất nhỏ và tĩnh mịch, hoàn toàn không nghe được tiếng ồn ào của đám du khách bên dưới. Những cuốn sách uy nghi, bìa màu nâu nhạt, giòn và dễ vỡ như xương lâu năm. Ở giữa chúng, một cái sọ người trong một hộp thủy tinh mạ vàng càng cho thấy rõ bản chất bệnh hoạn của tuyển tập. Phòng này nhỏ đến nỗi chỉ có đủ chỗ để kê một bàn đọc sách ở giữa, chúng tôi gần như đụng vào nó khi bước vào. Điều này còn có nghĩa là chúng tôi đột ngột mặt đối mặt với một học giả đang ngồi lật xem những trang giấy của một tập sách khổ lớn, vội vã ghi chép lên một tập giấy. Đó là một người đàn ông khá gầy, da xanh tái. Hai mắt ông ta sâu hoắm, sợ hãi và gấp gáp, nhưng cũng tràn đầy say mê khi ông ngước nhìn lên. Đó là cha tôi.

Chú thích:

1. Earl of Rochester, John Wilmot (1647-1680), một cận thần của triều đình vua Charles II vàcũng là một nhà thơ đầy tai tiếng về tình ái, cách sống phóng đãng, và cái chết vì bệnh giang mai.

2. Thomas Becket: (1118?-1170): Tổng Giám mục giáo phận Canterbury (Anh) từ năm 1162; vì có quan điểm tôn giáo chống đối mạnh mẽ vua Henry II nên đã bị hiệp sĩ của nhà vua ám sát, sau đó được Tòa Thánh Vatican La Mã phong thánh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Trong cảnh hỗn loạn của xe cứu thương, xe cảnh sát và người xem tới lui khi xác của gã thủ thư được mang ra khỏi con đường phía trước thư viện trường đại học, trong thoáng chốc cha đứng như chết lặng. Thật kinh khủng, không thể tưởng tượng được là cuộc đời của một con người, dù đáng ghét đến đâu, lại có thể kết thúc một cách đột ngột như vậy, nhưng mối quan tâm kế tiếp của cha là Helen. Đám đông nhanh chóng đông lên, cha chen lấn xô nơi này đẩy nơi kia để tìm cô ta. Và cha vô cùng nhẹ nhõm khi cô ta lại tìm được cha trước, đứng ở phía sau dùng bàn tay đeo găng vỗ lên vai cha. Cô ta trông tái xanh nhưng có vẻ như đã trấn tĩnh lại. Cô ta đã quàng lại chiếc khăn kín quanh cổ và cha lại rùng mình khi nhìn thấy nó trên chiếc cổ mềm mại ấy. “Tôi chờ thêm một lúc rồi mới chạy theo anh xuống cầu thang,” cô ta nói giữa tiếng ồn ào của đám đông. “Tôi muốn cám ơn anh vì đã đến giúp tôi. Hắn đúng là một kẻ thô bạo. Anh thật can đảm.”

Sau tất cả những chuyện ấy, cha ngạc nhiên khi nhìn thấy gương mặt cô ta có thể tử tế đến vậy. “Thực ra cô mới là người dũng cảm. Và hắn đã làm cô đau,” cha trầm giọng, nói và cố không làm ra vẻ không chú ý nhìn vào cổ cô ta. “Có phải hắn đã…?”

“Vâng,” cô ta bình tĩnh trả lời. Theo bản năng, cha và cô ta nhích lại gần nhau hơn để không ai nghe được cuộc chuyện trò của bọn ta. “Ở trên đó, hắn đã cắn vào cổ tôi khi lao vào tôi.” Trong một thoáng dường như đôi môi cô ta run run, tựa như gần bật khóc. “Hắn chưa hút được nhiều máu - không có thời gian. Và cũng chỉ hơi đau thôi.”

“Nhưng cô…” cha lắp bắp, không tin.

“Tôi không nghĩ sẽ bị nhiễm,” cô ta nói. “Vết thương chảy máu rất ít, và tôi đã cố gắng cầm lại.”

“Liệu chúng ta có nên đến bệnh viện?” Cha cảm thấy hối tiếc ngay khi vừa buông ra câu nói đó, chỉ vì ánh mắt tỏ vẻ chế nhạo mà cô ta ném vào cha. “Hay chúng ta có thể chữa trị theo cách nào đó?” Cha bán tín bán nghi tự hỏi liệu có thể hút chất độc này ra như khi xử lý một vết rắn cắn. Vẻ đau đớn trên khuôn mặt cô ta chợt khiến lòng cha quặn thắt. Nhưng rồi cha chợt nhớ đến việc cô ta đã phản bội, tiết lộ bí mật về tấm bản đồ. “Nhưng sao cô…?”

“Tôi biết những gì anh đang thắc mắc,” cô ta vội ngắt lời cha, giọng nhấn mạnh. “Nhưng tôi không còn thứ gì khác có thể dùng làm mồi nhử tên vô lại đó, và tôi muốn nhìn thấy phản ứng của hắn. Tôi đâu có đưa tấm bản đồ hay bất kỳ thông tin nào khác cho hắn. Tôi cam đoan với anh như vậy.”

Cha nghi ngờ nhìn cô ta chằm chằm. Nét mặt cô nghiêm trang, miệng trễ xuống, mím lại thành một đường cương quyết. “Cô chắc chứ?”

“Thề với anh đấy,” cô ta đáp lại giản dị. “Vả lại” - nụ cười mỉa mai của cô ta chợt cứu vãn nét mặt cau có - “tôi không hẳn là có thói quen chia sẻ những gì mình có thể sử dụng được, anh cũng vậy chứ?”

Cha đành cho qua chuyện đó, nhưng có nét gì đó trên gương mặt cô ta thật sự làm nỗi sợ hãi trong cha như lắng xuống. “Phản ứng của hắn quả thật rất đáng chú ý, đúng không?”

Cô ta gật đầu. “Hắn nói lẽ ra hắn phải được phép đi đến ngôi mộ kia, và rằng ông Rossi đã bị người nào đó bắt đưa đến đó. Việc này rất kỳ lạ, nhưng có vẻ như hắn biết gì đó về tung tích của cha… à không, của vị giáo sư hướng dẫn anh. Nói một cách chính xác, tôi không thể nào tin câu chuyện Dracula này, nhưng có lẽ có nhóm người kỳ bí nào đó đã bắt cóc giáo sư Rossi, đại loại là vậy.”

Đến lượt cha gật đầu, dù rõ ràng cha tin chuyện này hơn cô ta.

“Anh định làm gì bây giờ?” cô ta hỏi, vẻ thờ ơ kỳ lạ.

Cha chưa kịp suy nghĩ cặn kẽ thì câu trả lời đã buột ra. “Đến Istanbul. Tôi tin rằng ở đó có ít nhất một tài liệu mà thầy Rossi chưa bao giờ có cơ hội xem xét, và có thể trong đó có thông tin về một ngôi mộ, có lẽ là mộ của Dracula ở hồ Snagov.”

Cô ta bật cười. “Tại sao anh không làm một kỳ nghỉ nho nhỏ đến quê hương Rumani đáng yêu của tôi? Anh có thể đến lâu đài của Dracula với một chiếc thánh giá bạc trong tay, hoặc thân chinh viếng thăm hắn tại hồ Snagov. Tôi nghe nói đó là một nơi khá đẹp để cắm trại đấy.”

“Này,” cha nói, giọng bực bội. “Tôi biết toàn bộ việc này thật kỳ quặc, nhưng tôi buộc phải lần theo bất kỳ dấu vết nào có thể liên quan đến sự mất tích của thầy Rossi. Và cô cũng biết rất rõ là công dân Mỹ không thể cứ thế mà vượt qua Bức Màn Sắt để tìm người này kẻ nọ.” Cô ta không trả lời, có lẽ sự thẳng thắn của cha khiến cô cảm thấy hơi ngượng. “Tôi có vài điều muốn hỏi cô. Cô nói khi chúng ta rời nhà thờ là mẹ cô có thể có vài thông tin về cuộc săn tìm Dracula của thầy Rossi. Cô có ý gì khi nói vậy?”

“Tôi chỉ muốn nói khi họ gặp nhau, ông ta đã nói với mẹ tôi là ông ta đến Rumani để nghiên cứu huyền thoại về Dracula, và chính bà cũng tin vào huyền thoại này. Có thể bà biết nhiều về cuộc nghiên cứu của ông ta tại đó hơn là những gì tôi nghe bà kể lại - tôi không chắc lắm. Bà không dễ dàng nói về chuyện đó đâu, tôi đã theo đuổi mối quan tâm nhỏ bé này của ông cha già thân yêu của mình qua những nguồn thông tin có tính học thuật, chứ không phải từ bầu sữa gia đình. Lẽ ra tôi phải hỏi mẹ tôi nhiều hơn về những trải nghiệm của riêng bà.”

“Một sơ suất kỳ lạ đối với một nhà nhân học,” cha cáu kỉnh trả miếng. Bây giờ khi đã lại tin cô ta là đồng minh của mình, cha lại cảm thấy toàn bộ nỗi khó chịu khi được nhẹ nhõm. Gương mặt cô ta sáng lên, thích thú.

“Giỏi lắm, anh Sherlock ạ. Lần tới khi gặp mẹ, tôi sẽ hỏi hết tất cả mọi chuyện.”

“Khi nào cô sẽ về thăm bà?”

“Tôi nghĩ một hai năm nữa. Thị thực quý báu của tôi đâu có cho phép tôi dễ dàng nhảy tới nhảy lui giữa phương Đông với phương Tây.”

“Cô không điện thoại hoặc viết thư cho bà ấy bao giờ sao?”

Cô ta nhìn chòng chọc. “Ồ phương Tây quả thật là một nơi chốn ngây thơ,” cuối cùng cô thốt lên. “Anh nghĩ bà ấy có điện thoại à? Anh nghĩ là thư của tôi không khi nào bị mở ra đọc lén hay sao?”

Cha không trả lời, hối tiếc vì mình đã hỏi câu đó.

“Tài liệu mà anh háo hức muốn tìm là tài liệu gì, thám tử Sherlock?” cô ta hỏi. “Đó có phải là thư mục, cái gì đó về Giáo đoàn Rồng không? Tôi thấy nó được ghi ở trong danh sách cuối cùng trong mớ giấy tờ của ông Rossi. Đây là thứ duy nhất mà ông ta không mô tả đầy đủ. Đó có phải là cái anh muốn tìm không?”

Lẽ dĩ nhiên cô ta đã đoán đúng. Cha có cảm giác kỳ lạ về trí thông minh tuyệt vời của cô ta, và nuối tiếc khi thoáng tưởng tượng đến những cuộc nói chuyện giữa cô ta và cha nếu chúng diễn ra trong những điều kiện tốt đẹp hơn. Mặt khác, cha cũng không thích cách suy đoán của cô ta lắm. “Tại sao cô muốn biết?” cha hỏi ngược lại. “Vì công việc nghiên cứu của cô à?”

“Lẽ dĩ nhiên,” cô ta trả lời, vẻ nghiêm túc. “Anh sẽ liên lạc lại với tôi khi trở về chứ?”

Bất chợt, cha cảm thấy chán nản. “Trở về? Tôi còn không biết mình đang sắp lao vào cái gì, nói gì đến việc khi nào trở về. Có thể tôi sẽ bị ma cà rồng hạ gục ngay khi tới cái nơi mà tôi sắp đến, cho dù đó là nơi nào.”

Cha có ý muốn nói ra câu trên bằng một giọng mỉa mai, nhưng tính phi thực của toàn bộ tình huống lại bắt đầu nhen nhóm trong đầu lúc cha nói; cha ở đây, đang đứng trên lề đường phía trước thư viện như hàng trăm lần trước đó, ngoại trừ lần này cha đang bàn về chuyện ma cà rồng - như thể cha tin chúng có thực - với một nhà nhân học Rumani, và cả hai chúng ta đang nhìn tài xế xe cứu thương và cảnh sát tụ tập ở hiện trường tai nạn chết người, trong đó cha có liên quan, ít nhất là một cách gián tiếp. Cha cố không nhìn họ làm cái công việc ghê rợn đó và chợt nghĩ nên rời khỏi cái sân này ngay, nhưng không được tỏ ra vội vã. Cha không chịu được việc bị cảnh sát giữ lại ở thời điểm này, thậm chí chỉ trong vài giờ để thẩm vấn. Cha còn rất nhiều việc phải làm, và phải làm ngay tức khắc - cha cần xin thị thực để đến Thổ Nhĩ Kỳ, mà cái đó cha phải về New York mới xin cấp được, và một vé máy bay, ngoài ra cần phải để lại ở nhà bản sao của tất cả các thông tin, tài liệu mà cha có cho an toàn. Ơn Chúa, học kỳ này cha không có giờ dạy, nhưng dù sao cũng nên nêu ra vài lý do này nọ cáo lỗi với khoa của cha cũng như giải thích vài lời với ông bà nội để họ đừng lo lắng.

Cha quay sang Helen. “Cô Rossi,” cha nói. “Nếu cô giữ kín chuyện này thì tôi hứa sẽ liên lạc với cô ngay khi tôi trở về. Cô còn điều gì khác có thể cho tôi biết không? Cô có thể nghĩ ra cách gì để tôi có thể tiếp xúc với mẹ cô trước khi tôi lên đường không?”

“Tôi chỉ có thể tiếp xúc với bà qua thư từ,” cô ta trả lời dứt khoát. “Vả lại, bà ấy đâu biết tiếng Anh. Hai năm nữa khi về nhà, tôi sẽ đích thân hỏi bà về các vấn đề này.”

Cha thở dài. Hai năm là quá trễ, trễ đến không thể tưởng tượng được. Chưa gì cha đã cảm thấy bồn chồn lo lắng vì phải xa cách người bạn lạ lùng đã ở bên mình vài ngày - đúng hơn là chỉ vài giờ - này, người duy nhất ngoài cha biết gì đó về bản chất vụ mất tích của thầy Rossi. Sau đây cha sẽ phải đơn độc tại một đất nước mà thậm chí cha còn chẳng mấy khi nghĩ tới. Tuy nhiên cần phải làm việc này. Cha chìa tay ra. “Cô Rossi, cám ơn cô đã hợp tác trong vụ việc điên rồ vô bổ này trong vài ngày vừa qua. Chắc chắn tôi sẽ cho cô biết nếu tôi an toàn trở về - ý tôi là, biết đâu đấy - nếu tôi đưa được cha cô trở về an toàn…”

Cô ta làm một cử chỉ mơ hồ bằng bàn tay đeo găng, tựa như chẳng mấy quan tâm tới việc thầy Rossi trở về an toàn hay không, nhưng rồi cô ta đặt bàn tay vào tay cha, và chúng ta đã bắt tay tạm biệt nhau, một cách thân tình. Cha có cảm giác cái bắt tay siết chặt của cô ta là mối tiếp xúc cuối cùng của cha với thế giới thân thuộc của mình. “Tạm biệt,” cô ta nói. “Chúc anh gặp nhiều may mắn trong cuộc tìm kiếm của mình.” Cô ta quay lưng bước đi lẫn vào đám đông - tài xế xe cứu thương đã đóng cửa xe lại. Cha cũng quay đi, bước xuống các bậc cầu thang rồi băng qua sân. Cách thư viện khoảng ba mươi mét, cha dừng lại, ngoái lại nhìn, hy vọng thoáng thấy chiếc áo khoác đen của cô ấy giữa đám đông đang nhìn theo xe cứu thương. Cha ngạc nhiên khi thấy cô ta đang vội vã chạy về phía cha, gần như đã theo sát gót. Cô nhanh chóng bắt kịp cha, và cha nhận thấy hai má cô ấy ửng hồng. “Tôi đã nghĩ kỹ,” cô ấy nói, chợt ngừng lại. Có vẻ như cô ta đang thở hít vào thật sâu. “Việc này liên quan đến cuộc đời tôi hơn bất kỳ việc nào khác.” Cô ta nhìn thẳng vào cha, vẻ thách thức. “Tôi không hoàn toàn chắc chắn sẽ hành động như thế nào, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ cùng đi với anh.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Cha tôi đã có những lý do giải thích khá khôi hài về việc cha hiện diện trong phòng đọc tuyển tập ma cà rồng của trường Oxford, thay vì ở chỗ hội nghị. Hội nghị đã bị hủy vào phút chót, cha nói trong lúc bắt tay Stephen Barley với thái độ niềm nở như thường lệ. Theo thói quen cũ cha đã lang thang đến đây - nói đến đó cha dừng lại, gần như cắn môi, sau đó nói tiếp. Cha đi tìm một nơi chốn yên tịnh, (đây là điều tôi có thể tin dễ dàng). Có thể nhận thấy rõ vẻ biết ơn của cha trước sự hiện diện của Stephen, vóc dáng cao lớn, mạnh khỏe cũng như vẻ tráng kiện trong chiếc áo len dài tay của anh. Giả sử, nếu chỉ có một mình tôi bất ngờ bắt gặp cha ở đó, thì cha sẽ phải nói với tôi chuyện gì nhỉ? Ông phải giải thích với tôi thế nào về cuốn sách khổ đôi đang cầm trong tay, thậm chí là tình cờ đóng nó lại bằng cách nào chứ? Cha đã đóng sách lại, nhưng quá trễ; tôi đã đọc được tên của chương sách, nổi bật trên trang giấy dày màu trắng ngà: Vampires de Provence et des Pyrénées(1).

Đêm hôm đó tôi trằn trọc không yên giấc trên chiếc giường có màn che sặc sỡ, trong nhà của thầy quản lý, cứ vài giờ lại giật mình thức giấc vì các giấc mơ kỳ lạ. Một lần tôi đã có cảm giác yên tâm khi nhìn thấy có ánh sáng phía dưới cửa phòng tắm nằm giữa phòng cha và phòng tôi. Mặc dù vậy, đôi lúc cái cảm giác về việc cha vẫn đang thao thức, về sự tĩnh lặng trong căn phòng cạnh bên lại đột ngột lôi tôi ra khỏi giấc ngủ. Gần sáng, khi màn sương nhàn nhạt bắt đầu ló dạng sau tấm rèm vải màn, tôi thức dậy hẳn.

Lần này chính sự im lặng đã đánh thức tôi dậy. Mọi vật đều quá tĩnh lặng: đường nét lờ mờ của cây cối trong sân vườn (tôi dòm quanh mép rèm), chiếc tủ đồ sộ cạnh bên giường ngủ, và trên tất cả - phòng cha ở cạnh bên. Không phải vì tôi cho rằng cha vẫn còn thức vào giờ này; có thể cha vẫn còn ngủ nữa là khác - có thể đang ngáy chút đỉnh nếu cha nằm ngửa - đang cố gắng quên đi những lo âu của ngày hôm qua, trì hoãn lại chương trình làm việc mệt mỏi, với các buổi diễn thuyết và hội thảo và tranh luận đang chực chờ cha ở phía trước. Trong những chuyến du hành của chúng tôi, cha thường vui vẻ gõ gõ lên cửa phòng sau khi tôi đã hoàn toàn tỉnh ngủ, một tín hiệu thúc giục tôi mau ra để cùng đi bộ tập thể dục với ông trước khi dùng điểm tâm.

Không biết vì sao cái im lặng của buổi sáng hôm đó lại đè nặng lên tôi, tôi bước xuống giường, mặc quần áo và choàng khăn lên vai. Tôi sẽ vào tắm bồn và lắng nghe tiếng cha ngủ trong lúc ngồi trong đó. Tôi gõ nhẹ cửa phòng tắm để chắc chắn không có cha bên trong. Sự im lặng càng nặng nề hơn khi tôi vào đứng trước tấm gương trong phòng tắm, lau mặt. Tôi áp tai vào cửa phòng cha. Chắc chắn cha đang ngủ say. Tôi biết đánh thức cha lúc này là một hành động vô tâm, vì hẳn phải khó khăn lắm cha mới dỗ được giấc ngủ, nhưng cảm giác kinh hoàng bắt đầu trườn lên chân tay tôi. Tôi gõ nhẹ lên cánh cửa. Không có tiếng động nào trong phòng. Nhiều năm qua cha con chúng tôi vẫn luôn tuyệt đối tôn trọng riêng tư của nhau, nhưng bây giờ, trong ánh ban mai trắng đục hắt vào từ cửa sổ phòng tắm, tôi vặn nắm cửa.

Trong phòng cha, những tấm rèm dày vẫn còn khép kín, vì vậy phải mất vài giây tôi mới nhận ra được đường nét mờ mờ của đồ đạc và các bức tranh trang trí trong phòng. Sự tĩnh lặng của không gian khiến phần da dọc sau gáy tôi sởn lên rờn rợn. Bước sát đến giường ngủ, tôi lên tiếng gọi cha. Nhưng đến gần, chiếc giường vẫn gọn gàng phẳng phiu, nổi lên tối sẫm trong căn phòng tối. Căn phòng trống không. Tôi buông ra hơi thở nãy giờ vẫn cố kìm nén. Cha đã ra ngoài, đi bộ tập thể dục một mình, có lẽ thế, để được yên tĩnh suy nghĩ. Nhưng một cái gì đó xui tôi bật ngọn đèn bên giường ngủ, đưa mắt nhìn quanh cẩn thận hơn. Trong vòng sáng tròn có một lá thư đề gửi cho tôi, và trên đó là hai món đồ khiến tôi phải ngạc nhiên: cây thánh giá bạc nhỏ gắn vào một sợi dây chuyền trông chắc chắn và một củ tỏi tươi. Sự hiện diện rành rành của những món đồ đó khiến dạ dày tôi quặn lên, thậm chí trước khi đọc lá thư của cha.

Con gái thân yêu của cha,

Cha vô cùng xin lỗi vì đã làm con bất ngờ thế này, nhưng cha có công việc gấp rút phải lên đường ngay, và không muốn làm xáo trộn giấc ngủ của con. Cha chỉ đi vài ngày, cha hy vọng như vậy. Cha đã thu xếp với thầy James để anh bạn của chúng ta, Stephen Barley, đưa con về nhà. Anh ấy được cho nghỉ học hai ngày và sẽ đưa con về Amsterdam tối nay. Cha đã bảo bà Clay ra đón con, nhưng chị bà ấy đang ốm nên bà đã về Liverpool. Bà sẽ cố gắng gặp con ở nhà tối nay. Trong bất kỳ trường hợp nào, con cũng sẽ được chăm sóc chu đáo và cha tin con sẽ biết tự chăm sóc mình một cách hợp lý. Đừng lo âu về việc cha vắng mặt. Đây là một chuyện bí mật, nhưng cha sẽ cố trở về sớm nhất có thể, sau đó sẽ kể lại cho con nghe. Trong khi chờ đợi, từ đáy lòng mình, cha muốn con lúc nào cũng phải đeo thánh giá và bỏ tỏi trong túi. Con biết cha không phải là người buộc con phải tin theo một tôn giáo hay chuyện mê tín nào đó, và cha cũng không tin vào những chuyện đó. Nhưng chúng ta phải đối phó với cái ác theo cách của nó, hết sức có thể, và con đã biết những cách này là gì rồi đấy. Riêng về điểm này, cha hết lòng xin con đừng coi thường ý nguyện của cha.

Cuối thư là một chữ ký ấm áp tràn đầy tình cảm thương yêu, nhưng tôi có thể nhận thấy nó đã được ký một cách vội vã. Tim tôi đập thình thịch. Tôi vội đeo dây chuyền vào cổ và tách củ tỏi để bỏ chúng vào các túi áo. Khi nhìn quanh, tôi thấy thật đúng là cha: vẫn sắp xếp giường gối gọn gàng ngay trong lúc vội vã yên lặng rời khỏi trường đại học như vậy. Nhưng tại sao cha lại vội vã như vậy? Dù mục đích chuyến đi của cha là gì, nó cũng không thể là một nhiệm vụ ngoại giao thuần túy, nếu không cha đã không dặn dò tôi nhiều như vậy. Nghề nghiệp của cha khiến cha vẫn hay phải đi khi có công chuyện khẩn; tôi từng chứng kiến cha phải đi giải quyết một cuộc khủng hoảng ở phía bên kia của Âu châu mà chẳng dặn dò gì nhiều, nhưng lúc nào cha cũng cho biết ông đi đâu. Lần này, con tim đang đập dồn dập của tôi cho biết cha không đi công tác. Hơn nữa, ông đã được sắp xếp ở lại đây, ở Oxford suốt tuần lễ này, để diễn thuyết và tham gia hội nghị. Cha đâu phải là người dễ bỏ ngang công việc.

Không. Việc cha biến mất chắc chắn có mối liên quan nào đó với những dấu hiệu căng thẳng gần đây của cha - bây giờ tôi nhận ra ngay từ đầu tôi đã lo sợ chuyện gì đó như thế này sẽ xảy ra. Và cả cảnh tượng ngày hôm qua tại thư viện Radcliffe Camera nữa, cha hoàn toàn mê mải ở đó - chính xác cha đã đọc những gì? Và cha đi đâu, đi đâu mới được cơ chứ? Đi đâu, mà không có tôi? Lần đầu tiên trong suốt những năm tháng mà tôi còn nhớ được, những năm tháng cha đã che chở tôi khỏi sự cô đơn của cuộc sống mồ côi mẹ, không anh em, không quê hương, những năm tháng ông vừa làm mẹ vừa làm cha - lần đầu tiên, tôi cảm thấy mình như một đứa trẻ mồ côi.

Thầy quản lý rất ân cần khi tôi xách va li và áo mưa trên tay đến chào từ biệt. Tôi giải thích với ông là tôi có thể một mình về nhà. Tôi bảo đảm với ông là tôi rất biết ơn đề nghị cho học trò đưa tôi về nhà của ông - vượt qua cả một eo biển - và rằng tôi sẽ không bao giờ quên tấm lòng tử tế của ông. Tôi cảm thấy nhói trong lòng, một thoáng thất vọng dễ nhận ra khi nghĩ tới chuyện đó: sẽ vui thích biết bao khi được rong ruổi cả một ngày cùng Stephen Barley, anh sẽ ngồi ở ghế đối diện trong xe lửa mỉm cười với tôi! Nhưng tôi vẫn phải nói thế. Chỉ vài giờ nữa là tôi sẽ về đến nhà an toàn, tôi lặp lại, cố gắng nén đi những tưởng tượng êm ái ngọt ngào trong đầu, lo ngại ông thầy tốt bụng đang tươi cười kia có thể biết tỏng tim đen của mình, có khi còn thấy rõ thứ tình cảm ấy hiện ra trên mặt tôi. Tôi sẽ về tới nhà an toàn và sẽ gọi điện thoại báo tin để ông an tâm. Sau đó, tất nhiên, tôi nói thêm với sự vờ vĩnh còn hơn thế, rằng vài ngày nữa cha cũng về nhà thôi.

Thầy James đã chắc chắn tôi có thể về nhà một mình; tôi trông như một thiếu nữ đã biết tự lo cho bản thân rồi, chắc chắn là vậy. Chỉ có điều ông không thể - ông càng cười dịu dàng hơn với tôi - đơn giản là ông không thể nuốt lời hứa với cha tôi, một người bạn cũ của ông. Tôi là tài sản vô giá của cha tôi, và ông không thể để tôi ra đi mà không có sự bảo vệ thích đáng. Chính xác đó không phải vì tôi, tôi phải hiểu điều đó, mà vì cha tôi - chúng ta nên tôn trọng ý nguyện ông ấy một chút. Stephen Barley đã xuất hiện trước khi tôi nói thêm được lời nào, thậm chí trước cả khi tôi kịp ghi vào đầu ý tưởng thầy quản lý này là bạn cũ của cha trong khi tôi tin họ chỉ vừa mới gặp nhau hai ngày trước. Nhưng tôi không có thời gian để giải thích việc bất bình thường này; Stephen đang đứng đó, nhìn tôi như một người bạn cũ, đến lượt anh ta cũng tay xách va li tay cầm áo khoác, và tôi không thể nào hoàn toàn hối tiếc vì đã gặp lại anh. Tôi thấy hối tiếc vì việc này sẽ khiến chuyến đi của tôi thêm lòng vòng, nhưng không hoàn toàn hối tiếc như lẽ ra tôi phải thế. Không thể nào không chào đón nụ cười tươi tắn, thông minh, hoặc câu nói của anh “Em đã cứu thoát anh khỏi những việc vặt vãnh đấy!”

Thầy James tỏ vẻ nghiêm nghị hơn. “Anh bạn ạ, đây cũng là công việc,” ông dặn dò cậu học trò. “Tôi muốn anh gọi điện về cho tôi từ Amsterdam ngay khi đến nơi, và tôi muốn nói chuyện với bà quản gia. Đây là tiền mua vé tàu và ăn uống dọc đường, và nhớ đừng quên mang hóa đơn về cho tôi đấy.” Lúc đó, đôi mắt màu nâu lục nhạt của ông chớp chớp. “Nhưng như vậy không có nghĩa là anh không được thưởng thức một ít sô cô la Hà Lan ở ga. Nhớ mang về cho tôi một thanh. Không ngon như sô cô la Bỉ, nhưng cũng tạm được. Thôi bây giờ hai đứa lên đường đi, và nhớ sử dụng cái đầu của mình đấy.” Sau đó ông bắt tay tôi và trao danh thiếp. “Chào cháu yêu. Nhớ lại đến và gặp bác khi cháu nghĩ đến việc vào đại học.”

Ra khỏi văn phòng, Stephen xách va li hộ tôi. “Bây giờ thì lên đường. Tàu sẽ khởi hành lúc mười giờ ba mươi, vậy là chúng ta khá dư thời gian đấy.”

Tôi để ý thấy thầy quản lý và cha đã lo liệu từng chi tiết, và băn khoăn không biết khi về nhà mình có còn bị tròng thêm sợi xích nào vào cổ nữa không. Tuy nhiên, lúc này tôi còn có một việc khác. “Anh Stephen?” tôi mở lời.

“Cứ gọi anh là Barley.” Anh cười. “Mọi người đều gọi anh như thế, và anh đã quen với cái tên đó đến độ cứ rùng mình khi ai đó gọi tên cúng cơm của mình.”

“Được rồi,” nụ cười anh hôm nay vẫn vậy, vẫn là nụ cười khiến người khác cũng muốn cười theo. “Anh Barley, em… anh có thể giúp em một việc trước khi chúng ta rời khỏi đây không?” Anh gật đầu. “Em muốn vào Camera một lần nữa. Chỗ đó quá tuyệt vời, em… và em muốn được xem lại tuyển tập về ma cà rồng. Em thực sự chưa được nhìn kỹ nó.”

Anh rên lên. “Có thể thấy là em thích ba cái chuyện kinh dị kia. Có vẻ như đó là sở thích trong máu của gia đình em thì phải.”

“Em biết.” Tôi có cảm giác mặt mình đỏ bừng.

“Thôi được. Giờ mình đi xem lại thật nhanh, nhưng sẽ phải vội đấy. Thầy James chắc chắn sẽ cho anh một phát xiên qua tim nếu chúng ta bị lỡ tàu mất.”

Sáng hôm đó Camera yên tịnh, gần như vắng tanh, chúng tôi vội vã trèo lên cái cầu thang láng bóng để đến cái hốc rùng rợn mà hôm qua chúng tôi đã tình cờ gặp cha. Tôi cố ngăn những giọt nước mắt cứ chực trào ra khi bước vào căn phòng nhỏ bé đó; chỉ mới mấy giờ trước đây, cha còn ngồi ở đó, vẻ xa xăm kỳ lạ hiện trong đôi mắt cha, vậy mà giờ đây, thậm chí tôi không biết cha đang ở nơi đâu nữa.

Tôi nhớ nơi cha đã đặt lại cuốn sách trên kệ, mặc dù cha chỉ đặt bừa lên đấy trong lúc chúng tôi nói chuyện với nhau. Nó nằm bên dưới cái kệ hộp sọ người, về phía trái. Tôi lấy ngón tay lần theo mép ngăn kệ. Barley đứng gần tôi (chúng tôi không thể không đứng sát vào nhau trong căn phòng chật hẹp này, và tôi muốn thay vì vậy anh nên ra ngoài ban công đứng thì hơn), quan sát, với vẻ tò mò không giấu giếm. Nơi đáng lẽ là cuốn sách bây giờ là một khoảng trống như một chiếc răng sún trên hàm răng. Tôi lạnh người: chắc chắn cha không bao giờ, không bao giờ lấy trộm một cuốn sách, vậy thì ai lấy? Nhưng ngay sau đó tôi nhận ra cuốn sách nằm cách đó khoảng một gang tay. Chắc chắn có ai đó đã dời cuốn sách đi từ khi tôi thấy nó ở đó lần sau cùng. Cha đã quay lại để đọc lần nữa chăng? Hay ai đó đã lấy nó ra khỏi kệ? Tôi nghi ngờ liếc nhìn cái sọ người trong hộp kính, nhưng chỉ nhận được một cái nhìn mỉa mai từ hai hốc mắt. Sau đó tôi lấy quyển sách xuống, rất cẩn thận - bìa sách màu xương lâu năm, một dải ruy băng lụa đen nhô ra trên đầu. Tôi đặt nó lên bàn và tìm trang nhan đề: Vampires du Moyen Age - Ma cà rồng thời Trung cổ, Baron de Hejduke, Bucharest, 1886.

“Em muốn gì ở ba cái thứ ngớ ngẩn này nhỉ?” Barley chằm chằm nhìn qua vai tôi.

“Làm bài tập ở trường,” tôi lầm bầm trả lời. Cuốn sách được chia ra thành nhiều chương, đúng như còn nhớ: “Vampires de la Toscane - Ma cà rồng ở Toscane”, “Vampires de la Normandie - Ma cà rồng ở Normandie”, và vân vân. Cuối cùng tôi tìm được chương mình cần: “Vampires de Provence et des Pyrénées - Ma cà rồng vùng Provence và Pyrénées”. Ôi! Lạy Chúa! Vốn liếng tiếng Pháp của mình có đủ đọc hết những cái này không? Barley bắt đầu liếc nhìn đồng hồ. Tôi đưa tay dò trang giấy, cẩn thận không chạm vào tờ giấy đánh máy màu ngà lộng lẫy. “Vampires dans les villages de Provence - Ma cà rồng tại các làng vùng Provences”. Cha tìm kiếm điều gì ở đây nhỉ? Lúc đó cha đã trầm ngâm trên trang đầu tiên của chương này. “Il y a aussi une légende…- Cũng còn có một huyền thoại”. Tôi cúi xuống sát hơn.

Từ đó về sau, tôi nhiều lần được trải nghiệm lại những gì khi đó tôi cảm thấy lần đầu tiên. Cho đến lúc đó, những nỗ lực chinh phục tiếng Pháp của tôi chỉ đơn thuần vì động cơ thực dụng - để hoàn thành đa số các bài tập toán. Khi hiểu được một câu mới, đó chỉ là một cầu nối dẫn qua bài tập kế tiếp. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được cái rùng mình đột ngột của sự thông hiểu đi từ con chữ vào tim vào óc con người, cách thức một ngôn ngữ mới có thể di chuyển, cuộn lại, bơi vào cuộc sống qua đôi mắt, cú nhảy vọt gần như man dại của nhận thức, sự giải phóng tức thời, hân hoan của ý nghĩa, cách thức từ ngữ rũ bỏ phần xác dưới dạng những con chữ in của chúng trong một ánh chớp sáng nóng rực. Từ đó, tôi đã được trải nghiệm khoảnh khắc chân lý đó với những ngôn ngữ khác: Đức, Nga, Latin, Hy Lạp và - trong một giờ ngắn ngủi - cả tiếng Phạn.

Nhưng lần đầu tiên đó đã khai thông lối vào các ngôn ngữ khác. “Il y a aussi une légende - còn có một huyền thoại khác,” tôi thở ra và Barley bất chợt cúi xuống đọc. Tuy nhiên, những gì anh lên tiếng dịch tôi đều đã hiểu và thầm kinh ngạc: “ ‘Còn có một huyền thoại nói về Dracula, ưu tú nhất và cũng nguy hiểm nhất trong số ma cà rồng, kẻ đã giành được quyền lực không phải trong vùng Wallachia mà, thông qua một dị giáo, tại tu viện Thánh Matthieu tỉnh Pyrénées-Orientales, một nhà thờ thuộc dòng Biển Đức(2), được thành lập vào năm 1000 sau Chúa Giáng sinh.’ Cái gì thế?” Barley lên tiếng hỏi.

“Để làm bài tập ở trường ấy mà,” tôi lặp lại, nhưng ánh mắt chúng tôi lại gặp nhau một cách kỳ lạ bên trên cuốn sách, và trông anh như thể lần đầu tiên nhìn thấy tôi. “Chắc anh giỏi tiếng Pháp lắm?” tôi khiếm tốn hỏi.

“Dĩ nhiên.” Anh cười rồi cúi xuống đọc tiếp. “Người ta nói rằng Dracula đến viếng thăm tu viện đó mười sáu năm một lần để tỏ lòng tôn kính nguồn gốc của hắn và khôi phục lại những uy lực đã cho phép hắn sống trong cái chết.”

“Anh đọc tiếp đi.” Tôi ghì chặt cạnh bàn.

“Được thôi,” anh đọc tiếp. “Theo tính toán của thầy tu Pierre ở vùng Provence vào đầu thế kỷ mười bảy, Dracula thăm viếng tu viện Thánh Matthieu vào giữa tuần trăng tháng Năm.”

“Bây giờ là ngày bao nhiêu của tuần trăng rồi nhỉ?” tôi hổn hển hỏi, nhưng Barley cũng không biết. Không có thêm thông tin nào về tu viện Thánh Matthieu; những trang còn lại ghi lại một tài liệu của một nhà thờ tại Perpignan nói về những xáo trộn trong các đàn dê cừu tại vùng này vào năm 1428; nhưng không nói rõ là ma cà rồng hay con người đã trộm dê cừu. “Thật kỳ quặc,” Barley bình luận. “Đây là những gì gia đình em đọc để giải trí ư? Em muốn nghe về ma cà rồng đảo Cyprus không?”

Không còn điều nào khác trong cuốn sách có vẻ liên quan đến các mục tiêu của tôi, và khi Barley lại liếc nhìn đồng hồ, tôi buồn rầu chia tay những bức tường cám dỗ đầy ắp sách.

“Chà, vui nhỉ,” Barley nói khi bước xuống cầu thang. “Em không phải là một cô gái bình thường, đúng vậy không?” Dù không biết anh có ý gì nhưng hy vọng đó là một lời khen tặng.

Trên xe lửa, Barley giải khuây cho tôi bằng những câu chuyện gẫu về đám sinh viên bạn bè anh, một hoạt cảnh của những chàng khùng và những kẻ chuyên phải đưa đầu chịu báng, sau đó mang hộ túi xách tôi xuống chiếc tàu đang neo trên mặt nước xám xịt loang đầy những vệt dầu của eo biển Manche. Hôm đó là một ngày trời trong giá lạnh, chúng tôi ngồi vào những chiếc ghế nhựa bên trong khoang tàu kín gió. “Suốt học kỳ, anh ngủ rất ít,” Barley thông báo với tôi, rồi nhanh chóng tựa vai lên chiếc áo khoác đã cuộn tròn, đánh một giấc ngon lành.

Việc anh ngủ vài giờ cũng tiện cho tôi vì tôi cũng có nhiều chuyện để suy ngẫm, cả những vấn đề thực tế lẫn học thuật. Vấn đề trước mắt của tôi không phải là câu hỏi về mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử mà là bà Clay. Bà sẽ đứng nghiêm nghị trong tiền sảnh nhà chúng tôi tại Amsterdam, lo âu đến ngạt thở cho cha và tôi. Sự hiện diện của bà sẽ khiến tôi không thể ra khỏi nhà ít nhất đến sáng hôm sau, và nếu ngày hôm sau tôi không về nhà sau buổi học thì chắc chắn bà sẽ lồng lộn như bầy sói đi săn tìm tôi, chắc hẳn với cả nửa lực lượng cảnh sát Amsterdam theo trợ giúp. Lại còn Barley nữa. Tôi liếc nhìn gương mặt say ngủ của anh; anh khe khẽ ngáy, hơi thở khẽ phả vào chiếc áo khoác đang cuộn trên vai làm gối. Ngày mai Barley sẽ lại quay lại bến phà khi tôi đến trường, tôi sẽ cẩn thận để không chạm mặt anh trên đường đi.

Thật vậy, bà Clay đã có mặt ở nhà khi chúng tôi về đến nơi. Barley đứng cùng tôi trên bậc cửa trong lúc tôi lục tìm chìa khóa; anh nghển cổ ngắm nhìn những hiệu buôn cổ kính và những dòng kênh đào lấp lánh - “Tuyệt vời! Cả những mặt tiền phong cách Rembrandt trên những phố này nữa!” Khi bà Clay bất ngờ mở cửa và kéo tôi vào nhà, anh gần như không kịp bước vào theo tôi trước khi cánh cửa sập lại. Nhưng rồi tôi nhẹ nhõm khi thấy sau đó anh cư xử thật lịch sự. Khi bà Clay và Barley đi vào bếp để gọi điện cho thầy James, tôi chạy vội lên cầu thang, gọi với xuống nói là mình cần phải rửa mặt. Thực ra - ý định này khiến tim tôi đập thình thịch vì cảm giác phạm tội - tôi định lục soát cấm cung của cha ngay tức khắc. Sẽ tính đến chuyện đối phó với bà Clay và Barley sau. Bây giờ tôi phải đi tìm những gì mà tôi chắc chắn bị giấu kín trong đó.

Căn nhà phố của chúng tôi được xây dựng vào năm 1620, có ba phòng ngủ trên tầng hai, những căn phòng hẹp tranh sáng tranh tối mà cha rất ưa thích, vì như cha nói, đối với ông chúng có vẻ như vẫn chứa đầy dấu vết của sự lao động cần mẫn và những con người giản dị từng sống ở đó trước đây. Phòng của cha là phòng lớn nhất, một nơi trưng bày tuyệt vời những thứ đồ gỗ Hà Lan qua các thời kỳ. Ông đã phối hợp những đồ đạc giản dị với thảm và màn treo giường phong cách thời Ottoman, một bản phác thảo nhỏ của Van Gogh và mười hai chảo đồng có xuất xứ từ một nông trại Pháp - chúng tạo thành một gallery trên tường và lấp lánh phản chiếu ánh sáng hắt lên từ dòng kênh bên dưới. Giờ tôi nhận ra căn phòng này mới đặc biệt làm sao, không chỉ bởi cách trần thiết kế kiểu chiết trung mà còn vì sự giản dị giống như tu viện. Trong phòng không có một cuốn sách nào; sách vở đều được cất giữ trong phòng đọc sách dưới nhà. Không có áo quần vắt lên lưng chiếc ghế dựa kiểu thế kỷ mười bảy, không có tờ báo nào xâm phạm đến chiếc bàn làm việc đồ sộ. Không có điện thoại, không cả đồng hồ - sáng nào cha cũng dậy sớm một cách tự nhiên. Đây là một khoảng không gian sinh hoạt thuần khiết, một căn phòng trong đó người ta ngủ, thức giấc và có thể cả cầu nguyện - mặc dù tôi không rõ những buổi cầu nguyện có còn diễn ra ở đó hay không - như khi nó mới được xây dựng. Tôi rất thích căn phòng nhưng ít khi vào đó.

Rón rén bước vào như một tên trộm, tôi đóng cửa phòng lại, mở hộc tủ bàn làm việc của cha ra. Quả là một cảm giác khủng khiếp, như phá vỡ niêm phong một chiếc quan tài, nhưng tôi cứ dấn tới, mở hết các ngăn kéo, lục soát nhưng cẩn thận xếp trở lại chỗ cũ mọi thứ sau khi đã xem xong - thư từ của bạn bè, những chiếc bút đầu nhỏ, những trang ghi chú chằng chịt. Cuối cùng tay tôi cũng tìm được một phong bì niêm kín. Tôi mở ra, chẳng hề cảm thấy xấu hổ và nhìn thấy bên trong có vài dòng chữ, viết cho tôi và khuyên tôi hãy đọc những lá thư bên trong, chỉ trong trường hợp cha qua đời bất ngờ hay biệt tăm một thời gian dài. Chẳng phải tôi đã từng trông thấy cha ngồi viết miệt mài, hết đêm này qua đêm khác, một cái gì đó mà cha vẫn dùng tay che lại khi thấy tôi xuất hiện gần đó hay sao? Tôi vội vã chộp lấy cái phong bì, đóng tủ hộc bàn lại và mang nó về phòng mình, căng tai lắng nghe xem có tiếng bước chân của bà Clay trên cầu thang không.

Cái phong bì đó đầy những lá thư, tất cả đều được xếp gọn trong một phong bì nhỏ hơn và đề gửi cho tôi theo địa chỉ nhà, tựa như cha đã nghĩ sẽ phải gửi chúng về cho tôi vào lúc nào đó từ một nơi nào khác. Tôi giữ chúng theo thứ tự - ồ, hóa ra tôi đã học được nhiều điều mà không nhận ra - và cẩn thận mở lá thư đầu tiên. Nó đề ngày sáu tháng trước đó và có vẻ như không phải được mở đầu chỉ bằng lời nói mà còn bằng một tiếng khóc tận đáy lòng. “Con thân yêu của cha” - nét chữ của cha như run rẩy dưới mắt tôi - “Nếu con đang đọc lá thư này, thì hãy tha thứ cho cha. Cha đang đi tìm mẹ con.”

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Pháp: Ma cà rồng vùng Provence và Pyrénées.

2. Tiếng phiên âm của tên riêng Benedicli trong tiếng Latin hay Benedicli trong tiếng Anh. Thnahs Benedict lập ra dòng có tên quốc tế là Ordo Sancli hay Order of St. Benedict. (BT)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Đối với tôi, ga tàu hỏa Amsterdam là một quang cảnh quen thuộc - tôi đã đi ngang qua đây hàng chục lần, nhưng chưa bao giờ đến đó một mình. Tôi chưa bao giờ một mình đi đến bất kỳ nơi chốn nào, và lúc ngồi trên băng ghế chờ chuyến tàu sáng tốc hành đi Paris, tôi thấy tim mình đập dồn dập không hẳn vì hồi hộp lo âu cho cha, mà vì trong tôi cuồn cuộn dâng lên nguồn nhựa sống đến từ khoảnh khắc hoàn toàn tự do đầu tiên tôi biết tới trong đời. Ở nhà, bà Clay hẳn đang rửa chén bát sau bữa điểm tâm và nghĩ rằng tôi đang trên đường đến trường. Barley chắc chắn đã khăn gói ra bến cảng và cũng nghĩ tôi đang đi học. Tôi ân hận vì đã lừa dối bà Clay tử tế nhưng cứng nhắc kia, và cảm thấy khá nuối tiếc vì phải chia tay Barley, anh đã bất ngờ lịch thiệp hôn lên tay tôi nơi ngưỡng cửa nhà và tặng tôi một thanh sô cô la dù tôi đã bảo là có thể mua bánh kẹo xứ Hà Lan này bất kỳ lúc nào tôi thích. Tôi nghĩ có lẽ mình sẽ viết thư cho anh, khi tất cả những rắc rối này chấm dứt - nhưng đó là việc xa vời, tôi không thể đoán trước được.

Lúc này, bình minh Amsterdam đã lung linh lấp lánh biến hóa quanh tôi. Thậm chí sáng hôm nay tôi còn mơ hồ nhận ra chút cảm giác khuây khỏa trong khi đi bộ dọc theo con kênh đào từ nhà đến ga xe lửa, trong mùi thơm của bánh mì nướng và mùi ẩm ướt của những dòng kênh, vẻ tất bật nhưng tươm tất, dù không hoàn toàn thanh nhã, của mọi thứ. Ngồi trên một ghế dài trong nhà ga, tôi kiểm tra lại hành lý của mình: quần áo để thay, những lá thư của cha, bánh mì, pho mát, những hộp nước trái cây lấy ở nhà bếp. Tôi cũng chôm được khá nhiều tiền đi chợ - nếu bất nhẫn hơn, tôi đã lấy cả hai mươi đồng - để bổ sung cho số tiền trong ví. Việc này sẽ làm bà Clay nhanh chóng để ý cảnh giác, nhưng chẳng còn cách nào khác - tôi không thể nấn ná chờ đến giờ nhà băng mở cửa để rút tiền từ cái tài khoản tiết kiệm nhỏ nhoi trẻ con của mình. Tôi mang theo một chiếc áo len ấm dài tay và áo mưa, hộ chiếu, một cuốn sách để đọc trong những chuyến hành trình dài bằng xe lửa, và cuốn tự điển tiếng Pháp loại bỏ túi.

Tôi còn lấy trộm một thứ khác nữa. Trong phòng khách tại nhà, tôi lấy trộm một con dao găm bạc trong tủ chứa những vật kỷ niệm quý hiếm có từ những chuyến đi công cán ngoại giao đầu tiên của cha ở những xứ sở xa xôi, những chuyến đi mang theo những nỗ lực sơ khởi nhằm thiết lập quỹ tài trợ của cha. Thời đó tôi còn quá nhỏ, không theo cha được, nên ông phải để tôi ở lại Mỹ với những người bà con họ hàng khác. Con dao sắc bén kỳ lạ, cán dao có khắc chạm trang trí. Vỏ dao cũng có rất nhiều hình chạm khắc tinh vi. Đây là loại vũ khí duy nhất mà tôi thấy trong nhà - cha không thích súng, và sở thích sưu tầm của ông không bao gồm các loại đao kiếm hoặc rìu chiến. Dù không biết phải tự vệ như thế nào với con dao nhỏ này, nhưng tôi cảm thấy an tâm hơn khi biết nó đang hiện diện trong xắc tay của mình.

Khi chuyến tàu tốc hành tới, ga tàu đông nghẹt người. Lúc đó tôi thấy, và bây giờ vẫn vậy, rằng không có niềm vui nào giống như niềm vui lúc tàu đến, dù tâm trạng của bạn có đang rối ren như thế nào - đặc biệt là một con tàu châu Âu, và nhất là một chuyến tàu châu Âu đưa bạn về phương Nam. Quãng thời gian này trong cuộc đời tôi, vào những năm cuối thập niên 70, tôi đã được nghe tiếng còi của một số đầu máy hơi nước cuối cùng còn sót lại chạy qua rặng Alps theo một hành trình đều đặn. Rồi tôi lên tàu, tay nắm chặt cặp sách, gần như mỉm cười. Trước mắt tôi giờ là hàng giờ đồng hồ rảnh rỗi, và tôi sẽ cần đến chúng, không phải để đọc sách, mà để nghiền ngẫm một lần nữa những lá thư quý báu của cha. Tôi tin rằng mình đã chọn đúng hướng, nhưng cũng cần phải suy nghĩ tại sao lại đúng.

Tìm được một cabin yên tĩnh, tôi kéo tấm màn ngăn lối đi bên cạnh ghế ngồi của mình, hy vọng không có ai dõi theo mình đến nơi này. Một lát sau, một phụ nữ trung niên, mặc áo khoác xanh, đầu đội mũ bước vào, mỉm cười chào tôi và ngồi xuống ghế với một xấp tạp chí Hà Lan. Từ góc ngồi thoải mái của mình, ngắm nhìn thành phố cổ kính rồi đến những khu ngoại ô nhỏ bé một màu xanh ngát lùi dần về phía sau, tôi lại mở lá thư đầu tiên của cha. Lúc này tôi đã thuộc nằm lòng những câu mở đầu, nét chữ gây xúc động, ngày tháng và nơi chốn gây sửng sốt, những dòng chữ viết vội vàng mà cứng cáp của cha.

“Con gái thương yêu của cha:

“Nếu con đang đọc lá thư này, thì hãy tha thứ cho cha. Cha đang đi tìm mẹ con. Nhiều năm qua cha tin rằng mẹ con đã chết, nhưng hiện tại niềm tin đó không còn vững chắc nữa. Tình trạng mập mờ này thậm chí tồi tệ hơn nỗi đau thương, một ngày nào đó con sẽ hiểu điều này; nó đã dằn vặt tâm can cha cả ngày lẫn đêm. Cha chưa bao giờ nói cho con biết nhiều về mẹ con, cha biết đây là do sự yếu đuối của cha, nhưng câu chuyện của cha và mẹ con đau lòng đến độ cha không thể dễ dàng kể lại cho con nghe. Cha luôn có ý định sẽ kể với con nhiều hơn khi con khôn lớn hơn và có thể hiểu tường tận hơn mà không kinh sợ - mặc dù cho đến bây giờ, chuyện xảy ra đã khiến cha rất sợ hãi, nỗi sợ bất tận, đến mức trở thành lý do tội nghiệp nhất trong các lý do mà cha có thể biện minh cho bản thân mình trong chuyện này.

“Trong vài tháng gần đây, cha đã cố gắng bù đắp cho sự yếu đuối của mình bằng cách kể con nghe từng chút một những gì có thể về quá khứ của chính cha, cũng như đã có ý định dần dần đưa mẹ con vào câu chuyện, mặc dù mẹ đã bước vào cuộc đời cha một cách khá bất ngờ. Bây giờ cha e rằng không còn kịp thu xếp để kể với con hết những gì con phải biết về di sản của con, trước khi cha bị buộc phải im lặng - theo đúng nghĩa đen, không còn khả năng đích thân thông tin cho con biết được - hoặc một lần nữa trở thành con mồi cho chính sự im lặng của mình.

“Cha đã mô tả sơ qua với con về cuộc sống của cha khi còn là một nghiên cứu sinh, trước khi con ra đời, cũng như đã kể cho con biết chút ít về trường hợp mất tích bí ẩn của vị giáo sư hướng dẫn cha, sau khi ông ấy tiết lộ câu chuyện với cha. Cha cũng đã kể cho con nghe cuộc gặp gỡ của cha với một phụ nữ trẻ tên Helen, người cũng quan tâm không kém gì cha, có thể còn quan tâm nhiều hơn, đến việc tìm kiếm thầy Rossi. Cha đã cố gắng kể ra câu chuyện này với con khi có bất kỳ cơ hội nào thuận tiện, nhưng bây giờ cha bắt đầu cảm thấy phải viết ra phần còn lại, ghi lại chuyện này rạch ròi trên giấy trắng mực đen. Nếu lúc này con phải đọc thay vì nghe cha kể lại nó trên một đỉnh núi đá hoặc một quảng trường thanh vắng, ở một bến cảng kín đáo hay bên chiếc bàn ấm cúng trong một quán cà phê nào đó, thì đó là do lỗi của cha trước đây đã chưa kịp kể lại cho con nghe một cách trọn vẹn và sớm hơn.

“Khi viết lá thư này, cha đang nhìn ra ngoài trời, nhìn những ngọn đèn trong một bến cảng cổ xưa - còn con đang vô tư yên ngủ trong căn phòng kế bên. Cha mệt mỏi sau một ngày làm việc, và mệt mỏi khi nghĩ đến việc phải bắt đầu kể ra câu chuyện dài dòng này - một bổn phận đau buồn, một sự phòng ngừa bất hạnh. Cha cảm thấy mình chỉ có vài tuần, cùng lắm là vài tháng, để đích thân kể tiếp câu chuyện, vì vậy cha sẽ không nhắc lại tất cả những gì cha đã kể với con trong suốt những chuyến đi đến nhiều đất nước vừa qua. Sau khoảng thời gian này - vài tuần hay vài tháng ấy - cha không còn nói chắc được nữa. Những lá thư này là sự bảo đảm của cha để con khỏi đơn độc. Trong trường hợp tồi tệ nhất, con sẽ thừa hưởng ngôi nhà, tiền bạc, đồ đạc và sách vở của cha, nhưng cha có thể dễ dàng tin rằng con sẽ nâng niu gìn giữ những tài liệu này, những tài liệu mà cha sở hữu hơn bất kỳ những gì khác, bởi chúng sẽ bao gồm câu chuyện của riêng con, lịch sử cuộc đời con.

“Tại sao cha không kể cho con một lần cho hết tất cả sự thật của câu chuyện để dứt khoát với nó, để con được biết đầy đủ? Câu trả lời, một lần nữa, lại nằm ở sự yếu đuối của chính cha, và trên thực tế rằng tóm lược rồi kể hết một lần sẽ là, chính xác là - một điều gây tác động quá mạnh. Cha không đành lòng muốn con phải đau đớn như vậy, ngay cả khi nỗi đau đó chỉ bằng một phần nhỏ của nỗi đau trong cha. Vả lại, có thể con sẽ không hoàn toàn tin nếu cha kể hết ngay một lần, cũng như bản thân cha cũng đã hoài nghi phần nào câu chuyện của thầy Rossi khi chưa đọc hết tập thư từ và tài liệu của thầy để lại. Và, cuối cùng, trên thực tế có câu chuyện nào có thể được giản lược đến chỉ còn các yếu tố có thực của nó cơ chứ? Do đó, cha sẽ dần kể câu chuyện của mình từng bước một. Cha cũng phải thử phỏng chừng xem đến thời điểm khi những lá thư này tới tay con thì cha đã kể những gì để không lặp lại chúng.”

Phỏng đoán của cha tôi không chính xác hoàn toàn, cha đã đi trước một hai bước so với những gì tôi đã biết. Tôi u sầu nghĩ ngợi, có lẽ mình sẽ không bao giờ được nghe kể về phản ứng của cha đối với quyết định bất ngờ của Helen Rossi - cùng đi với cha trong cuộc tìm kiếm - hoặc các chi tiết thú vị trong cuộc hành trình của họ từ New England đến Istanbul. Tôi thắc mắc không biết họ đã xoay xở như thế nào để hoàn tất các thủ tục giấy tờ cần thiết, vượt qua các rào cản do bất đồng về chính trị, thị thực nhập cảnh, hải quan? Liệu cha có bịa ra chuyện này chuyện nọ với ông bà nội, hai cư dân Boston nhân hậu và thông thái, về kế hoạch chuyến đi bất ngờ của mình? Cha và Helen có đến New York ngay như đã hoạch định? Và họ có ngủ chung phòng ở khách sạn hay không? Đầu óc tuổi thiếu niên của tôi không thể lý giải được chuyện bí ẩn này nhưng cũng không thể thôi ưu tư thắc mắc về nó. Rốt cuộc, tôi đành bằng lòng với hình ảnh hai người giống như các nhân vật trong những bộ phim được sản xuất vào thời thanh xuân của họ: Helen kín đáo duỗi thẳng người dưới tấm chăn trên chiếc giường đôi, cha thì khốn khổ gật gù trên chiếc ghế bành, chỉ cởi mỗi đôi giày thôi - ngoài ra không còn gì khác, và ánh sáng của Quảng trường Thời Đại nhấp nháy bên ngoài cửa sổ như mời mọc chuyện gió trăng.

“Sáu ngày sau khi thầy Rossi mất tích, cha và Helen bay đến Istanbul từ phi trường Idlewild(1)_, vào một đêm đầy sương mù, đổi máy bay tại Frankfurt. Chiếc máy bay thứ hai hạ cánh sáng hôm sau, chúng ta cùng các du khách khác lũ lượt kéo nhau ra ngoài. Đến thời điểm đó cha đã đến Tây Âu được hai lần, nhưng lần này, chuyến đi đối với cha dường như là cuộc du ngoạn từ trái đất đến một hành tinh khác - Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1954, là một thế giới tách biệt hơn hiện nay nhiều. Chỉ một phút trước, cha còn co mình trên chiếc ghế máy bay gò bó, lau mặt bằng khăn nóng, vậy mà giờ bọn ta đã đứng trên mặt đường nhựa cũng nóng như vậy, với những mùi kỳ lạ phảng phất quanh mình, cùng với gió bụi, và chiếc khăn quàng đang bay phần phật của một người Ả-rập đứng xếp hàng phía trước - chiếc khăn cứ bay chọc vào miệng cha. Đứng bên cạnh cha, Helen bật cười, quan sát vẻ ngạc nhiên của cha trước tất cả những thứ đó. Trên máy bay, cô đã chải tóc, thoa lại son môi, và trông rất tươi tắn sau chuyến bay đêm tù túng. Cô vấn quanh cổ một chiếc khăn quàng nhỏ; cha vẫn chưa thấy cái dấu vết bên dưới chiếc khăn, nhưng cũng không dám yêu cầu cô gỡ khăn ra. “Chào mừng đến thế giới vĩ đại, anh chàng người Mỹ,” cô nói, mỉm cười. Lần này là một nụ cười thật sự, không phải nụ cười nhăn nhó thường thấy ở cô.

“Cha càng ngạc nhiên hơn trong suốt chuyến taxi trở về thành phố. Cha không biết chính xác mình mong đợi gì ở Istanbul - có thể chẳng có gì cả, vì cha không có nhiều thời gian để chuẩn bị cho chuyến đi - nhưng vẻ đẹp của thành phố này đã chinh phục cha. Nó mang đậm chất huyền hoặc của Nghìn lẻ một đêm mà dù bao nhiêu tiếng còi xe inh ỏi và hình ảnh của các doanh nhân trong những bộ com lê Tây phương cũng không hề làm tan biến. Thành phố đầu tiên của nơi đây, Constantinople, thủ phủ của đế chế Byzantine và thủ đô đầu tiên của đế quốc La Mã Thiên Chúa giáo, thật sự nguy nga tráng lệ ngoài sức tưởng tượng, cha nghĩ - một cuộc hôn phối giữa La Mã giàu có và chủ nghĩa thần bí Thiên Chúa giáo thuở sơ khai. Cho đến lúc tìm thuê được phòng trong khu phố cổ Sultanahmet, dù chỉ được nhìn thoáng qua, cha đã thấy hoa mắt trước hàng chục ngôi thánh đường Hồi giáo cùng những ngọn tháp, những khu chợ treo đầy vải vóc hảo hạng, thậm chí cả hình ảnh lướt qua của mái vòm đồ sộ và bốn ngọn tháp của thánh đường Hagia Sophia sừng sững hiện ra bên trên bán đảo.

“Helen cũng chưa bao giờ đến đây, cô im lặng tập trung quan sát mọi thứ, chỉ quay về phía cha một lần trong suốt chuyến taxi để nhận xét rằng thật kỳ lạ làm sao khi được tận mắt thấy cội nguồn - cha chắc chắn cô đã dùng từ này - của đế quốc Ottoman, cái cội nguồn đã để lại rất nhiều vết tích trên xứ sở quê hương cô. Những nhận xét ngắn gọn, sắc sảo của Helen về đủ mọi thứ đã trở thành âm hưởng chung của những ngày chúng ta sống ở đó: tên các địa danh bằng tiếng Thổ, món xa lát dưa chuột ăn tại một nhà hàng ngoài trời, hình dáng cong nhọn của một khung cửa sổ. Điều này cũng gây ra một tác động đặc biệt với cha, một hình thức nhân đôi sự trải nghiệm của cha, vì vậy cùng một lúc dường như cha được nhìn thấy cả Istanbul cả Rumani, và dần dần, khi câu hỏi liệu chúng ta có nên đến chính Rumani hay không đặt ra giữa cha và Helen, cha có cảm giác như đang được dẫn dắt đến xứ sở đó qua những món đồ tái tạo từ quá khứ mà cha nhìn thấy trong đôi mắt của Helen. Nhưng cha đã lạc đề - đó là phần sau của câu chuyện.

“Đằng sau ánh nắng chói chang và bụi bặm của đường phố là gian tiền sảnh mát mẻ của nhà trọ. Cha khoan khoái thả người xuống một chiếc ghế ở lối vào, mặc Helen đến liên hệ thuê hai phòng bằng thứ tiếng Pháp chuẩn xác nhưng kỳ quặc của cô ấy. Bà chủ nhà trọ - một phụ nữ Armenia rất mến khách và rõ ràng biết nhiều thứ tiếng - cũng không biết tên của khách sạn mà thầy Rossi đã từng ở trước đây. Có lẽ nó đã biến mất từ nhiều năm trước.

“Helen thích điều hành mọi việc, cha thầm nghĩ, vậy tại sao không để cô ấy được hài lòng? Một điều không được nói ra nhưng chắc chắn có sự đồng ý dứt khoát giữa hai người là sau này cha sẽ thanh toán mọi khoản chi phí. Cha đã rút hết tiền tiết kiệm tại ngân hàng ở quê nhà; thầy Rossi xứng đáng để cha làm mọi điều có thể, thậm chí nếu có phải thất bại. Nếu trường hợp đó xảy ra, cùng lắm cha cũng chỉ bị sạch túi khi về nhà. Cha biết Helen, một sinh viên nước ngoài, chắc hẳn chẳng mấy dư dả. Cha nhận ra hình như cô chỉ có hai bộ vest, chúng trông như được thay đổi bằng một loạt áo sơ mi được cắt may rất khéo. ‘Vâng, chúng tôi muốn thuê hai phòng riêng nhưng ở sát bên nhau,’ cô nói với người phụ nữ Armenia, một phụ nữ đứng tuổi nhưng trông vẫn rất có nét. ‘Anh tôi - mon frère - ronfle kinh khủng.’

“ ‘Ronfle?’ cha hỏi với lên từ chỗ ngồi đợi.

“ ‘Ngáy,’ cô chanh chua đáp lại. ‘Anh biết đấy, đúng là anh có ngáy mà. Ở New York tôi chẳng nháy mắt được chút nào.’

“ ‘Chợp mắt chứ,’ cha chỉnh lại.

“ ‘OK,’ cô nói. ‘Chỉ cần anh đóng cửa phòng thôi, s’il te plaỵt - làm ơn.’

“Dù có ngáy hay không, cả Helen và cha đều ngủ vùi sau chuyến hành trình mệt nhọc trước khi có thể làm bất cứ việc gì khác. Helen muốn xuống trung tâm lưu trữ tư liệu ngay, nhưng cha khăng khăng muốn nghỉ ngơi thêm và ăn uống trước đã. Vì vậy sau buổi trưa chúng ta mới bắt đầu thơ thẩn qua những con đường chằng chịt đan xen nhau như những mê cung, thấp thoáng những khu vườn và những mảnh sân nhỏ nhiều màu sắc.

“Thầy Rossi không nêu tên trung tâm lưu trữ này trong các lá thư, và trong cuộc nói chuyện giữa cha và ông ấy, ông chỉ gọi nó là ‘kho tư liệu ít người biết đến, do Quốc vương Mehmed II lập ra’. Lá thư nói về cuộc nghiên cứu của ông tại Istanbul đã bổ sung thêm chi tiết là trung tâm đó nằm sát bên một nhà thờ Hồi giáo thế kỷ mười bảy. Ngoài chi tiết này, chúng ta còn biết ông ấy có thể nhìn thấy thánh đường Hagia Sophia từ một cửa sổ, và trung tâm lưu trữ này có hơn một tầng lầu, ở tầng trệt có một cánh cửa mở trực tiếp ra đường. Cha đã cẩn thận thử đi tìm thông tin về một trung tâm lưu trữ tư liệu như vậy tại thư viện trường đại học ở quê nhà, ngay trước khi khởi hành, nhưng không có kết quả. Cha thắc mắc không hiểu tại sao thầy Rossi không nêu tên trung tâm lưu trữ tư liệu trong các lá thư; bỏ quên một chi tiết thế này thật không giống ông chút nào, nhưng có lẽ vì ông không muốn nhớ đến nó. Cha có mang theo tất cả giấy tờ tài liệu của ông trong cặp, kể cả bảng danh mục tài liệu mà ông đã tìm được ở đó, cùng với một dòng ghi chú kỳ lạ chơi vơi ở cuối: ‘Thư mục, Giáo đoàn Rồng.’ Lùng sục khắp cả thành phố, một mê cung đầy những mái vòm và các ngọn tháp, để tìm nguồn gốc của dòng chữ viết tay khó hiểu của thầy Rossi quả là một triển vọng không mấy phấn khởi, nói vậy đã là giảm đi rất nhiều rồi.

“Việc duy nhất mà Helen và cha có thể thực hiện là quay về một điểm mốc, thánh đường Hagia Sophia, nguyên thủy là nhà thờ Saint Sophia(2)_ vĩ đại thuộc giáo hội Byzantine. Và khi đến gần địa điểm đó, chúng ta không thể không bước vào. Những cánh cổng đều rộng mở và điện thờ uy nghi đã lôi kéo chúng ta hòa vào giữa các du khách khác, tựa như đang trôi theo con sóng vào một hang động. Trong suốt một ngàn bốn trăm năm qua, cha thầm nghĩ, những người hành hương vẫn luôn bị cuốn hút vào trong đó, như chúng ta hiện giờ. Bên trong, cha đi chầm chậm đến khu vực chính giữa, ngửa đầu nhìn lên khoảng không gian thiêng liêng và bao la với những mái vòm và khung vòm nổi tiếng khiến người ta chóng mặt ấy, thứ ánh sáng từ thiên đàng tràn vào nó, những tấm khiên tròn đầy những con chữ Ả-rập treo bên trên các góc, những đặc điểm của thánh đường Hồi giáo phủ lên nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ Thiên Chúa giáo phủ lên tàn tích của thế giới cổ đại. Khoảng không gian đó uốn cong lên cao, cao vút phía trên chúng ta, như muốn tái tạo vũ trụ của đế quốc Byzantine. Cha hầu như không tin là mình đã có mặt ở đó. Nó khiến cha quá sững sờ.

“Từ khoảnh khắc đó nhìn ngược về quá khứ, cha hiểu rằng mình đã sống quá lâu trong thế giới sách vở, trong khuôn viên chật hẹp của trường đại học, đến mức cha đã dần bị cách sống đó ức chế từ bên trong. Đột nhiên, trong ngôi nhà của đế chế Byzantine âm vang tiếng dội này - một trong các kỳ quan của lịch sử - tinh thần của cha như được tháo cũi sổ lồng. Ngay giây phút đó, cha đã biết dù có bất kỳ chuyện gì xảy ra, cha cũng sẽ không bao giờ trở lại với những điều kìm kẹp xưa cũ kia nữa. Cha muốn lên tầm cao cuộc sống, trải lòng ra với nó, như cái cách mà khoảng không gian rộng lớn bên trong này cuộn dâng lên cao và trải rộng ra bên ngoài. Lòng cha như cũng trào dâng cùng với nó, một cảm giác chưa từng có trong suốt thời gian lang thang giữa các thương nhân trong đề tài nền thương mại Hà Lan thế kỷ mười bảy.

“Cha liếc nhìn Helen và thấy cô cũng xúc động hệt như cha, ngửa đầu lên mải mê nhìn ngắm, những lọn tóc đen buông lơi trên cổ áo sơ mi, gương mặt cô bình thường vốn cảnh giác và châm chọc lúc này bừng lên trong sự thấu ngộ. Cha bất chợt đưa tay ra, nắm lấy bàn tay cô. Helen cũng siết chặt tay cha, cũng với bàn tay rắn chắc, xương xương mà cha vẫn biết qua những lần bắt tay chào hỏi. Ở một người phụ nữ khác, đây có thể là một cử chỉ phục tùng hoặc làm dáng, một sự ngầm bằng lòng có tính lãng mạn; ở Helen nó chỉ là một cử chỉ đơn giản và mãnh liệt như cái nhìn chằm chằm hay thái độ tách biệt đã trở thành đặc điểm của cô. Sau một lát, dường như chợt tỉnh, cô buông tay cha ra, nhưng không hề lộ vẻ bối rối, và chúng ta lại cùng nhau rảo bước trong nhà thờ, ngắm nhìn cái bục giảng xinh đẹp, làm bằng đá cẩm thạch byzantine sáng lấp lánh. Cha phải cố gắng lắm để tự nhắc nhở rằng chúng ta có thể quay lại Hagia Sophia bất cứ lúc nào trong thời gian còn ở lại Istanbul, và công việc trước hết của chúng ta ở thành phố này là tìm cho ra cái trung tâm lưu trữ tư liệu kia. Rõ ràng Helen cũng có cùng một suy nghĩ, vì khi cha rảo bước về hướng lối ra thì cô cũng vậy, và chúng ta lại len lỏi qua những đám đông, bước ra đường phố.

“ ‘Kho lưu trữ ấy có thể ở khá xa nơi này,’ cô nhận xét. ‘Thánh đường Saint Sophia quá lớn, tôi cho rằng hầu như người ta có thể nhìn thấy nó từ bất cứ tòa nhà nào trong khu vực này của thành phố, hoặc thậm chí ngay cả từ phía bên kia kênh Bosphorus(3)._’

“ ‘Tôi biết. Chúng ta phải tìm vài manh mối khác. Những lá thư cho biết là trung tâm lưu trữ này nằm gần sát một thánh đường Hồi giáo thế kỷ mười bảy.’

“ ‘Thành phố này đầy nhóc các thánh đường Hồi giáo.’

“ ‘Phải.’ Cha lấy tay dò cuốn sách hướng dẫn vừa mới mua một cách vội vàng. ‘Hãy bắt đầu với cái này - Đại Thánh đường của Quốc vương. Mehmed II và triều đình ông ta có lẽ từng đến đó tế lễ đôi lần - thánh đường này được xây dựng vào cuối thế kỷ mười lăm, và theo logic thì nơi đây rất có thể là nơi lân cận với thư viện mà thầy Rossi đã đến, cô có nghĩ như vậy không?’

“Helen nghĩ cũng đáng để thử xem một lần, và chúng ta lại tiếp tục rảo bước. Trên đường đi, cha lại xem lướt qua cuốn sách hướng dẫn một lần nữa. ‘Nghe này. Trong này người ta nói Istanbul là một từ Byzantine nghĩa là thành phố. Cô thấy đấy, ngay cả người Ottoman cũng không thể phá hủy Constantinople, họ chỉ đặt tên lại cho nó - bằng một cái tên Byzantine. Ở đây nói Đế quốc Byzantine tồn tại từ năm 333 đến năm 1453. Hình dung xem - thật là một đế chế trường tồn trước khi bị diệt vong.’

“Helen gật đầu. ‘Không thể nào nghĩ về khu vực này của thế giới mà không nghĩ đến thủ phủ của đế chế Byzantine,’ cô nói, vẻ nghiêm nghị. ‘Và, anh biết đấy, ở Rumani anh sẽ thấy hình bóng của đế chế này khắp mọi nơi - trong mọi nhà thờ, trong các bức bích họa, trong các tu viện và ngay cả trên mặt người dân, tôi nghĩ vậy. Theo cách nào đó, ở đó nó trông gần gũi hơn với mắt anh so với nơi này, khi không có toàn bộ những dấu tích - đúng hơn là trầm tích - của đế chế Ottoman ở phía trên.’ Nét mặt cô sa sầm. ‘Cuộc chinh phục thành phố Constantinople năm 1453 của Quốc vương Mehmed II là một trong những tấn thảm kịch lớn nhất của lịch sử. Sau khi phá vỡ các bức tường thành này bằng đạn đại bác, Mehmed II đã cho binh lính cướp bóc và tàn sát ba ngày liền. Đám lính tráng này đã hãm hiếp các thiếu nữ và cả thanh niên trên bệ thờ của các giáo đường, ngay cả tại thánh đường Saint Sophia. Chúng cướp phá tượng thánh và các báu vật thiêng liêng khác đem nấu chảy để lấy vàng, và ném hài cốt của các thánh ra ngoài đường cho chó gặm. Trước biến cố này, nơi đây vốn là thành phố đẹp nhất trong lịch sử loài người.’ Helen chống nạnh, hai bàn tay nắm chặt lại.

“Cha im lặng. Thành phố vẫn xinh đẹp với đủ các sắc màu thanh nhã phong phú, các mái vòm và những ngọn tháp tuyệt đẹp, bất chấp những hành vi hung bạo đã từng xảy ra ở nơi chốn này trước đây rất lâu. Cha bắt đầu hiểu vì sao một khoảnh khắc tệ hại của năm trăm năm trước lúc này lại quá hiện thực với Helen như vậy, nhưng liệu khoảnh khắc này thực sự liên quan gì đến cuộc sống hiện tại của chúng ta? Đột nhiên, cha giật mình nhận ra có lẽ mình đã thực hiện một cuộc hành trình xa xôi mà chẳng vì cái gì cả, đến một nơi chốn đầy mê hoặc này, cùng với một phụ nữ phức tạp, đi tìm một người Anh có thể lúc này đang ở trên một chuyến xe buýt đi New York. Cha kìm nén ý nghĩ đó lại, và thay vì thế cố trêu chọc cô một chút. ‘Sao cô rành lịch sử quá vậy? Tôi nghĩ cô là một nhà nhân học kia mà.’

“ ‘Vâng, tôi là nhà nhân học,’ cô nghiêm nghị trả lời. ‘Nhưng anh không thể nghiên cứu các nền văn hóa nếu không có kiến thức về lịch sử của chúng.’

“ ‘Vậy tại sao cô không chọn làm sử gia đơn thuần? Theo tôi thấy, như vậy cô vẫn có thể nghiên cứu về văn hóa kia mà.’

“ ‘Có lẽ là vậy.’ Lúc này cô không nhìn thẳng vào mắt cha và trông có vẻ khá dữ tợn. ‘Nhưng tôi muốn một lĩnh vực mà cha tôi chưa dính dáng vào.’

“Đại Thánh đường Hồi giáo vẫn còn mở cửa đón du khách cũng như người mộ đạo trong ánh chiều vàng rực. Cha thử nói thứ tiếng Đức vụng về của mình với nhân viên bảo vệ ở lối vào, một chàng trai tóc quăn, da màu ô liu - những người Byzantine kia thì trông như thế nào nhỉ? - nhưng anh ta cho biết không có thư viện nào trong đó, chẳng có trung tâm lưu trữ tư liệu nào, chẳng có những gì đại loại như thế, và anh ta cũng chưa bao giờ nghe nói gần quanh đó có một nơi như vậy. Chúng ta hỏi liệu anh ta có gợi ý gì không.

“Anh ta trầm ngâm khuyên chúng ta có thể thử tìm ở trường đại học, vì ở đó có hàng trăm nhà thờ Hồi giáo nhỏ.

“ ‘Giờ đã quá muộn rồi, không thể đến thăm trường đại học trong hôm nay được,’ Helen bảo cha. Cô xem cuốn sách hướng dẫn. ‘Ngày mai chúng ta có thể đến đó và thử hỏi thăm về các trung tâm lưu trữ có từ thời Mehmed. Tôi nghĩ đây sẽ là phương cách hữu hiệu nhất. Giờ chúng ta thử đến tham quan những bức tường thành cổ của Constantinople xem. Từ nơi này, chúng ta có thể đi bộ đến một khu vực của các phế tích đó.’

“Cha rảo bước đi theo qua các đường phố trong lúc cô dò tìm đường, tay mang găng cầm cuốn sách hướng dẫn, ví xắc nhỏ màu đen đeo trên cánh tay. Những chiếc xe đạp phóng vượt qua, những chiếc áo thụng Thổ Nhĩ Kỳ xen lẫn với đủ loại áo quần Tây phương, những chiếc xe hơi nước ngoài và xe ngựa cùng đan xen nhau. Nhìn đâu cha cũng thấy những người đàn ông mặc com lê tối màu và đội mũ vải nhỏ, cánh phụ nữ thì vận áo hoa màu sáng, quần phồng, khăn choàng quấn quanh đầu. Họ mang theo đủ thứ: túi mua hàng và giỏ đi chợ, những bọc vải, gà trong lồng, bánh mì, hoa. Đường phố tràn ngập sức sống - cha nghĩ, vẫn như xưa, từ một ngàn sáu trăm năm nay. Dọc theo những con đường này, các hoàng đế của La Mã Thiên Chúa giáo đã được đám hầu cận khiêng đi, các tu sĩ đi dọc hai bên, di chuyển từ cung điện đến giáo đường để làm lễ Ban Thánh thể. Họ là những nhà cai trị dũng mãnh, những người bảo trợ vĩ đại của các ngành nghệ thuật, của kỹ sư và các nhà thần học. Và trong số họ cũng có những kẻ xấu xa - theo đúng truyền thống La Mã - chuyên lừa dối triều thần và bịt mắt các thành viên trong hoàng tộc. Đây là nơi các cuộc đấu đá tranh giành quyền lực phức tạp đầu tiên đã xảy ra. Xét cho cùng, có lẽ không phải quá kỳ lạ đối nếu nơi này có một hai con ma cà rồng.

“Helen dừng lại trước một khu vực có những bức tường đá phần nào đổ nát sừng sững bao bọc xung quanh. Các cửa hàng nằm chen chúc trên nền móng của nó còn những cây sung thì đâm rễ vào các cạnh tường; trên những bức tường đầy lỗ châu mai, bầu trời không một gợn mây đang dần chuyển sang màu đồng. ‘Nhìn những gì còn lại của những bức tường thành phố Constantinople này,’ cô ôn tồn nói. ‘Anh có thể nhận ra chúng đồ sộ như thế nào khi còn nguyên vẹn. Cuốn sách hướng dẫn này nói rằng ngày xưa nước biển dâng lên đến tận chân thành, vì vậy các vị hoàng đế có thể xuống thuyền ngay từ cung điện. Và ở đằng kia, bức tường kia là một phần của trường đua ngựa Hippodrome.’

“Chúng ta cứ đứng đó ngắm nhìn cho đến khi cha chợt nhận ra mình đã quên phắt thầy Rossi trong gần mười phút vừa qua. ‘Mình đi ăn tối đi,’ cha bất chợt lên tiếng. ‘Đã quá bảy giờ rồi mà tối nay chúng ta cần phải về sớm. Tôi quyết sẽ tìm trung tâm lưu trữ ấy vào ngày mai.’ Helen gật đầu và hai người chúng ta cùng sánh đôi bước về phía trung tâm phố cổ.

“Gần nhà trọ, chúng ta tìm được một nhà hàng, bên trong trang trí những chiếc bình đồng và lát đá mịn, một bàn ăn tại cửa sổ hình vòng cung ở mặt tiền, một khoảng trống không có kính che, ở đó Helen và cha có thể ngồi ngắm người qua lại trên con đường bên ngoài. Trong lúc chờ dọn bữa ăn tối, lần đầu tiên cha cảm thấy ngạc nhiên vì tính cách kỳ lạ mà cha chưa bao giờ nhận ra của thế giới phương Đông này: những người đang vội vã bước đi kia thực ra không vội vã, đơn giản, họ chỉ bước đi. Những gì trông có vẻ vội vã ở đây chỉ giống như một cuộc tản bộ ngẫu nhiên trên những lề đường của New York hay Washington. Cha nói với Helen nhận xét đó, cô bật cười chua chát. ‘Khi chẳng có việc gì có thể làm để ra tiền, chẳng ai vội vã làm gì,’ cô nói.

“Người hầu bàn mang đến cho bọn ta một khoanh bánh mì, một đĩa sữa chua có rải những lát dưa leo, và một bình thủy tinh trà thơm phức. Sau một ngày mệt nhọc, Helen và cha ăn rất ngon miệng và đang chuẩn bị chuyển sang món gà nướng bằng xiên gỗ thì một người đàn ông có một bờm tóc trắng xóa và bộ ria bạc, mặc bộ vest xám trang nhã, bước vào quán và đưa mắt nhìn quanh. Ông ta ngồi vào bàn gần chúng ta, đặt một cuốn sách xuống gần đĩa ăn. Bình thản gọi món ăn bằng tiếng Thổ, và có vẻ như cảm nhận được vẻ thích thú của chúng ta về bữa ăn, ông ta nghiêng người về phía chúng ta, nở một nụ cười thân thiện. ‘Tôi nhận ra các bạn có vẻ thích những món ăn của quê hương chúng tôi đấy,’ giọng tiếng Anh hơi nặng nhưng chuẩn xác.

“ ‘Vâng, chắc chắn rồi,’ cha đáp, ngạc nhiên. ‘Ngon tuyệt.’

“ ‘Xem nào,’ ông ta nói tiếp, quay gương mặt đẹp, ôn hậu về phía cha. ‘Các bạn không đến từ nước Anh. Người Mỹ phải không?

“ ‘Vâng,’ cha đáp. Helen im lặng, cắt thịt gà và cảnh giác liếc chừng người bạn mới này.

“ ‘À, vâng. Thật là dễ chịu. Các bạn đang tham quan thành phố xinh đẹp của chúng tôi đấy à?’

“ ‘Vâng, đúng vậy,’ cha đồng tình, và mong sao ít nhất Helen cũng tỏ ra thân thiện một chút; dù sao chăng nữa, thái độ thù địch có thể làm cho người ta nghi ngờ.

“ ‘Chào mừng các bạn đến với Istanbul,’ ông ta nói cùng với một nụ cười rất tươi, nâng chiếc cốc thủy tinh lên chúc mừng chúng ta. Cha nâng cốc đáp lại và gương mặt ông ta liền tươi cười rạng rỡ. ‘Xin thứ lỗi cho câu hỏi của một người xa lạ, nhưng các bạn thích gì nhất ở đây trong lần thăm viếng này?’

“ ‘À, quả thật là khó lựa chọn.’ Cha thích gương mặt của ông ta; không thể nào không trả lời thành thật được. ‘Tôi thấy ấn tượng nhất với sự pha trộn giữa phương Đông và phương Tây trong một thành phố.’

“ ‘Quả là một nhận xét thông minh, anh bạn trẻ à,’ ông ta nhã nhặn trả lời khi dùng một chiếc khăn ăn trắng lớn chùi nhẹ bộ ria. ‘Đối với chúng tôi, sự pha trộn này là một báu vật và cũng là một sự nguyền rủa. Tôi có những đồng nghiệp đã bỏ suốt cả cuộc đời để nghiên cứu về Istanbul, và họ cho biết không bao giờ có đủ thời gian để khám phá tất cả, mặc dầu họ luôn sống tại đây. Đây là một nơi chốn luôn làm cho người ta ngạc nhiên.’

“ ‘Xin lỗi, ông làm nghề gì?’ cha tò mò hỏi, mặc dù từ thái độ lặng im của Helen, cha có cảm giác cô sắp sửa đạp lên chân cha dưới bàn.

“ ‘Tôi là giáo sư ở đại học Istanbul,’ ông ta nói, vẫn bằng giọng đáng kính ấy.

“ ‘Ồ, thật là may mắn!’ cha buột miệng reo lên. ‘Chúng tôi…’ Ngay lúc đó Helen đạp lên chân cha. Cô mang giày cao gót, như mọi phụ nữ ở vào thời đó, gót giày khá nhọn. ‘Chúng tôi rất hân hạnh được gặp ông,’ cha nói nốt câu. ‘Ông dạy môn gì?’

“ ‘Chuyên môn của tôi là Shakespeare,’ ông bạn mới của bọn ta đáp rồi quay trở lại với món xa lát đặt trước mặt. ‘Tôi dạy văn học Anh cho những người giỏi nhất trong các nghiên cứu sinh. Họ là những sinh viên xuất sắc nhất. Tôi phải nói với các bạn như vậy.’

“ ‘Thật tuyệt vời,’ cha loay hoay đáp trả. ‘Tôi cũng là một nghiên cứu sinh, nhưng về lịch sử, tại Hoa Kỳ.’

“ ‘Một lĩnh vực rất hấp dẫn,’ ông ta nhận xét, vẻ trang trọng. ‘Ở Istanbul, anh sẽ thấy nhiều thứ khiến anh quan tâm. Tên trường anh theo học là gì?’

“Cha cho ông ta biết, trong lúc Helen vẫn lạnh lùng ăn nốt bữa ăn tối.

“ ‘Một trường đại học danh tiếng. Tôi có nghe tiếng,’ vị giáo sư nhận xét. Ông nhấp một ngụm trà và gõ gõ các ngón tay lên cuốn sách cạnh đĩa đồ ăn. ‘Mà này,’ cuối cùng ông lên tiếng. ‘Sao các vị không đến thăm trường đại học chúng tôi trong lúc đang ở Istanbul? Đây cũng là một trường đại học có uy tín, và tôi sẽ rất vui được hướng dẫn anh và cô vợ đáng mến của anh tham quan trường.’

“Cha nghe tiếng Helen khẽ khịt mũi, và vội vã đính chính hộ cô. ‘Em gái - em gái tôi.’

“ ‘Ồ, thành thật xin lỗi.’ Vị học giả chuyên về Shakespeare hướng về Helen, cúi đầu xuống như để xin lỗi. ‘Tôi là tiến sĩ Turgut Bora, hân hạnh được biết cô.’ Chúng ta tự giới thiệu - thực ra là cha giới thiệu, vì Helen kiên quyết không chịu mở miệng. Cha có thể nói là cô không thích cha sử dụng tên thật, vì vậy cha hấp tấp gọi cô là Smith, một màn ứng xử ngớ ngẩn càng khiến cô chau mày cau mặt thêm. Chúng ta lần lượt bắt tay nhau, và cha chẳng còn cách nào khác là mời ông ta sang ngồi cùng bàn.

“Ông ta từ chối chiếu lệ và chỉ một lát sau đã qua ngồi cùng bàn với chúng ta, mang theo đĩa xa lát và ly nước, ngay sau đó ông nâng ly lên. ‘Mừng các bạn đã đến với thành phố xinh đẹp của chúng tôi,’ ông ta lên giọng. ‘Cheerio! - Chúc mừng!’ Ngay cả Helen cũng phải khẽ mỉm cười, dù vẫn tiếp tục câm như hến. ‘Xin cô thứ lỗi cho sự thiếu thận trọng của tôi,’ Turgut ngỏ lời xin lỗi Helen, tựa như cảm nhận được thái độ đề phòng của cô. ‘Rất hiếm khi tôi có cơ hội tập nói tiếng Anh với người bản xứ.’ Ông ta vẫn chưa nhận ra Helen không phải là người bản xứ, cha nghĩ - mà có khi sẽ chẳng bao giờ nhận ra điều đó - vì cô có thể sẽ chẳng thốt ra với ông ta lời nào.

“ ‘Con đường nào đã dẫn ông theo con đường nghiên cứu về Shakespeare?’ cha hỏi khi chúng ta bắt đầu tiếp tục trở lại với bữa ăn.

“ ‘À!’ Turgut ôn tồn trả lời. ‘Đó là một câu chuyện kỳ lạ. Mẹ tôi là một phụ nữ rất khác thường - rất thông minh - một người rất say mê các ngôn ngữ, và cũng là một kỹ sư vóc dáng nhỏ bé lạ thường’ - có nổi tiếng không nhỉ? cha băn khoăn tự hỏi - ‘và trong khi theo học ở Đại học Rome, bà đã gặp cha tôi. Ông, một người thú vị, là một học giả về nước Ý thời Phục hưng, đặc biệt quan tâm tới…’

“Ngay ở đoạn hấp dẫn này, cuộc nói chuyện của bọn ta đột nhiên bị cắt ngang vì sự xuất hiện của một cô gái trẻ, từ ngoài đường nhòm vào qua khung cửa sổ hình vòng cung. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy một người như vậy, ngoại trừ trong các bức hình, cha cho rằng cô là một người Gypsy; da cô màu sậm, nét mặt sắc cạnh, quần áo sáng màu lòe loẹt, mái tóc đen nhánh lòa xòa quanh cặp mắt huyền sắc lẹm. Có thể cô mười lăm hoặc cũng có thể là bốn mươi tuổi; không thể nào đoán được tuổi tác cô qua khuôn mặt gầy kia. Trong tay cô là những bó hoa vàng hoa đỏ, dường như cô muốn mời chúng ta mua chúng. Cô thảy vài cành hoa lên bàn chỗ cha ngồi, và cất tiếng hát một khúc chói tai mà cha không thể hiểu được. Helen trông có vẻ giận dữ còn Turgut thì khó chịu ra mặt, nhưng cô gái kia vẫn cứ trơ trơ. Cha rút ví ra định mua một bó hoa Thổ Nhĩ Kỳ tặng Helen - để mua vui thôi, dĩ nhiên - ả Gypsy đột nhiên quay phắt sang phía Helen, trỏ tay và rít lên. Turgut giật mình và Helen, bình thường chẳng biết sợ là gì, co rúm người lại.

“Việc này có vẻ làm cho Turgut nổi nóng; ông ta nhổm người lên và bắt đầu mắng ả Gypsy bằng một giọng phẫn nộ. Chẳng khó khăn gì để hiểu được ngữ điệu và cử chỉ của ông ta, rõ ràng ông ta muốn tống cổ ả đi bằng những lời đanh thép nhất. Ả nhìn chằm chằm vào bọn ta và đột ngột biến đi như khi xuất hiện, biến mất trong dòng khách bộ hành. Turgut ngồi xuống, giương mắt nhìn Helen, sau một lát ông lục tìm trong trong túi áo khoác, lấy ra một vật nhỏ, đặt xuống cạnh đĩa thức ăn của Helen. Đó là một hòn đá xanh dẹt, dài khoảng ba phân, hai màu trắng và xanh nhạt, trông giống một con mắt sống. Helen tái mặt khi nhìn thấy hòn đá và đưa ngón trỏ, tựa như bản năng, định chạm vào nó.

“ ‘Chuyện quái quỷ gì vậy?’ Cha không thể không cảm thấy bực mình khi trở thành kẻ ngoài cuộc về phương diện văn hóa như vậy.

“ ‘Cô ta nói gì vậy?’ Lần đầu tiên Helen lên tiếng với Turgut. ‘Cô ta nói tiếng Thổ hay tiếng Gypsy? Tôi chẳng hiểu gì cả.’

“Ông bạn mới của chúng ta tỏ ra ngần ngại, tựa như không muốn lặp lại lời nói của người phụ nữ kia. ‘Tiếng Thổ,’ ông ta thì thầm. ‘Tôi có thể nói với cô là chẳng hay ho gì. Những gì cô ta nói rất thô tục. Và kỳ lạ.’ Ông ta chăm chú nhìn Helen, với gì đó như một sự sợ hãi thoáng qua, cha nghĩ, trong đôi mắt nhân hậu của ông. ‘Cô ta sử dụng một từ mà tôi không muốn dịch ra,’ ông ta chậm rãi giải thích. ‘Còn sau đó, cô ta nói, “Cút khỏi đây, đồ con gái của lũ chó sói Rumani. Ngươi và lũ bạn bè ngươi mang theo lời nguyền rủa của ma cà rồng đến thành phố chúng ta.” ’

“Mặt Helen trắng bệch, và cha phải ngăn mình không nắm lấy tay cô. ‘Chỉ là một sự trùng hợp thôi,’ cha nhẹ nhàng an ủi, cô trừng mắt nhìn cha; cha đã nói quá nhiều trước mặt ông giáo sư.

“Turgut hết nhìn cha lại nhìn Helen. ‘Việc này quả thật rất kỳ lạ, những người bạn tử tế của tôi ạ,’ ông ta nói. ‘Tôi nghĩ chúng ta phải thảo luận thêm, không thể chần chừ được.’ ”

Tôi gần như ngủ gật trên ghế xe lửa, dù câu chuyện của cha vô cùng hấp dẫn với tôi; việc đọc hết tất cả các lá thư trong một lần đã khiến tôi thức suốt đêm, mệt lử. Một cảm giác hư ảo bao trùm lấy tôi, trong cabin tàu ngập tràn ánh nắng, tôi quay ra cửa sổ, nhìn những trang trại Hà Lan ngăn nắp vụt qua. Khi đến gần hoặc ra khỏi từng thị trấn, đoàn tàu lại cành cạch băng qua hàng loạt những vườn rau nhỏ bé, đang xanh mượt trở lại dưới bầu trời đầy mây, những khu vườn sân sau của hàng ngàn con người đang chăm nom công việc làm ăn của chính mình, nhà họ quay lưng về phía đường sắt. Những cánh đồng xanh mướt, một màu xanh bắt đầu, tại Hà Lan, vào đầu xuân và kéo dài cho đến tận khi tuyết rơi, được nuôi dưỡng bằng hơi ẩm của trời và đất, và bằng nước, lấp lánh ở mọi hướng nhìn. Chúng tôi đã bỏ lại phía sau một vùng mênh mông những dòng kênh cùng những cây cầu để lọt vào giữa đàn bò trên những cánh đồng cỏ được quy hoạch gọn gàng. Một cặp vợ chồng già đáng kính đang lững thững đạp xe theo con đường cạnh bên chúng tôi, chỉ lát sau đã biến mất tựa như đã bị những đồng cỏ đang hiện ra mỗi lúc một nhiều ấy nuốt chửng. Chẳng bao lâu, chúng tôi đã đến Bỉ, một đất nước tôi biết rõ, nhờ kinh nghiệm bản thân, rằng nếu chỉ ngủ quên một giấc ngắn thôi ta cũng có thể đi qua nó mà hoàn toàn không biết.

Tôi giữ chặt những lá thư trong lòng, nhưng hai mí mắt đã bắt đầu sụp xuống. Người phụ nữ có khuôn mặt dễ chịu trong ghế đối diện cũng đã ngủ gà ngủ gật, tạp chí vẫn cầm trong tay. Hai mắt tôi chỉ vừa mới khép lại thì cánh cửa cabin đột nhiên bật mở. Một giọng nói cáu kỉnh vang lên rồi một dáng người lêu nghêu chen vào giữa tôi và giấc mơ ban ngày của tôi. “Giỏi nhỉ! Biết ngay mà. Anh đã sục hết cả đoàn tàu để tìm em đấy.” Đó là Barley, anh đưa tay lên lau trán rồi quắc mắt nhìn tôi.

Chú thích:

1. Hiện là sân bay Quốc tế John F. Kennedy, New York (BT).

2. Tên đầy đủ ban đầu của nhà thờ này trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là Nhà thờ Thánh trí của Chúa (The Church of HolyWisom of God). Santa Sophia hay Saint Sophia là cách gọi theo âm Latin của chữ Thánh trí (Holy Wisdom) trong tiếng Hy Lạp chứ không phải để chỉ một vị thánh tên là Sophia nào cả (BT).

3. Bosphorus: con kênh dài 32 km nối thông Biển Đen và Biển Marmara, phân cách giữa phần châu Âu và châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ.

Phần Hai

Tôi đã đến nơi đâu và đang ở _giữa hạng người nào? Cuộc phiêu lưu khắc _nghiệt nào mà tôi đang dấn thân vào? Tôi dụi _mắt, tự véo bản thân để xem mình đang tỉnh hay mê. _Đối với tôi, tất cả chuyện này dường như chỉ là một cơn _ác mộng kinh hoàng, tôi ước gì sẽ chợt tỉnh và thấy mình vẫn đang ở nhà, với ánh nắng ban mai đang len qua cửa sổ, như đôi khi tôi vẫn thấy vào buổi bình minh sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng thịt da tôi có phản ứng với cái _nhói đau của cú véo thử nghiệm ấy, và đôi mắt tôi _chẳng thể bị đánh lừa. Tôi thật sự vẫn đang còn _tỉnh và đang ở giữa vùng rừng núi Carpates. _Tất cả những gì tôi có thể làm lúc này _là kiên nhẫn chờ bình minh đến.

- Bram Stocker, Dracula, 1897
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Barley giận dữ. Tôi không thể trách anh ấy, nhưng rõ ràng đây là một trong những sự kiện bất lợi nhất đối với tôi, và tôi cũng cảm thấy hơi bực bội. Tôi càng giận dữ hơn bởi tiếp theo cơn khó chịu ban đầu là một cảm giác nhẹ nhõm thầm kín dâng trào; trước khi nhìn thấy anh, tôi đã không nhận ra mình hoàn toàn cô đơn trên chuyến tàu này, lao tới những gì chưa biết, có lẽ là vào một nỗi cô đơn lớn lao hơn vì không thể tìm được cha, hoặc thậm chí vào nỗi cô đơn vĩnh hằng vì phải mất cha mãi mãi. Vài ngày trước đây, với tôi Barley chỉ là một người xa lạ nhưng giờ đây anh đã trở thành một gương mặt thân thuộc.

Tuy nhiên, vào lúc này gương mặt đó vẫn còn cau có. “Em nghĩ mình đang đến nơi quái quỷ nào vậy? Em vừa tặng cho anh một cuộc đuổi bắt thú vị đấy - mà dù sao chăng nữa, em đang làm quái gì vậy?”

Lúc đó, tôi cố lẩn tránh câu hỏi cuối cùng. “Em không có ý làm anh lo lắng, Barley. Em cứ tưởng anh đã ra bến phà và sẽ không bao giờ biết chuyện này.”

“Phải, anh vội vã quay về báo cho thầy James biết em đã an toàn về đến Amsterdam rồi liền nhận được tin em đã biến mất. Ồ, lúc đó chắc hẳn anh sẽ được thầy khen ngợi lắm đấy.” Anh ngồi phịch xuống bên cạnh tôi, khoanh tay lại, vắt đôi chân dài ngoằng lên nhau. Anh xách theo chiếc va li nhỏ, mớ tóc màu vàng rơm phía trước đầu dựng ngược lên. “Em nghĩ gì mà làm thế vậy?”

“Tại sao anh lại theo dõi em?” tôi vặn lại.

“Chuyến phà sáng nay bị hoãn lại để sửa chữa.” Lúc này, dường như anh không thể nhịn được cười. “Anh đói quá sức, vì vậy đã quay lại để kiếm vài ổ bánh và uống chút trà, khi ấy anh thấy em rẽ sang hướng khác, đi ngược lên, nhưng vẫn không chắc chắn lắm. Em biết đấy, anh đã nghĩ chắc mình chỉ đang tưởng tượng thôi, nên vẫn yên trí đứng đó mua bữa điểm tâm cho mình. Sau đó lương tâm anh chợt cắn rứt, vì nếu đó là em thì anh sẽ gặp rắc rối to. Vì vậy anh vội vã đi theo con đường đó và thấy nhà ga, sau đó khi thấy em lên tàu, anh tưởng mình sắp lên cơn đau tim.” Anh lại nhìn tôi chằm chằm. “Em quả đã gây quá nhiều phiền phức cho anh sáng hôm nay. Anh phải vội chạy đi mua vé tàu - anh hầu như không đủ tiền Hà Lan để mua vé - và đã lùng tìm em khắp nơi trên đoàn tàu này. Và giờ chúng ta đã đi quá xa để có thể xuống tàu ngay.” Anh nheo mắt nhìn ra cửa sổ, sau đó nhìn vào mớ bì thư trên đùi tôi. “Em sẽ giải thích cho anh biết tại sao em lại ở trên chuyến tàu tốc hành đi Paris này thay vì đến trường chứ?”

Tôi có thể làm gì đây? “Em xin lỗi, anh Barley,” tôi rụt rè nói. “Em không có ý định lôi anh vào chuyện này chút nào. Thực sự em cứ tưởng anh đã lên đường về nhà lâu rồi và có thể yên tâm đến gặp thầy James. Em đâu muốn gây rắc rối cho anh.”

“Vậy à?” Rõ ràng anh đang chờ đợi câu trả lời sáng tỏ hơn. “Nghĩa là em chỉ có chút ham muốn đến Paris thay vì vào lớp học lịch sử thôi sao?”

“À thì,” tôi bắt đầu tìm cách câu giờ. “Cha em đã gửi cho em một bức điện tín nói rằng ông ổn và em phải đến đó ở cùng ông vài ngày.”

Barley im lặng một lúc. “Xin lỗi nhé, nhưng việc đó không giải thích được mọi chuyện. Nếu em nhận được điện tín, có lẽ nó đã đến vào tối hôm qua nhưng anh đâu có nghe nói gì về bức điện đó. Và đâu có câu hỏi nào về việc cha em không được ‘ổn’ đâu nào? Anh nghĩ ông chỉ đi xa vì công việc. Em đang đọc cái gì vậy?”

“Đây là một câu chuyện dài,” tôi thủng thẳng trả lời, “và em biết anh đang nghĩ em rất kỳ quặc…”

“Quá sức kỳ quặc,” Barley gắt gỏng đáp lại. “Nhưng tốt hơn em nên nói cho anh biết em định làm chuyện gì. Chúng ta chỉ có quãng thời gian trước khi xuống tàu tại Brussels rồi bắt chuyến tàu tiếp trở về Amsterdam.”

“Không!” Tôi không có ý định hét to lên như vậy. Người phụ nữ đối diện chúng tôi chợt cựa mình trong giấc ngủ êm ái, tôi trầm giọng lại. “Em phải đi tiếp đến Paris. Em ổn mà. Anh có thể xuống tàu ở đó, nếu anh muốn, sau đó quay trở về Luân Đôn tối nay.”

“Hả, ‘xuống ở đó’? Ý em là em sẽ không xuống đó? Chuyến tàu này còn đi đến nơi nào khác nữa?”

“Không, nó sẽ dừng ở Paris…”

Anh lại khoanh tay và chờ đợi. Anh còn tệ hơn cả cha tôi. Có khi anh còn tệ hơn cả giáo sư Rossi nữa. Tôi thoáng hình dung ra cảnh Barley đang đứng lớp, hai tay khoanh lại, quắc mắt nhìn đám sinh viên không may của anh, giọng sắc lẹm: “Thế cuối cùng chuyện gì đã dẫn Milton đến cái kết luận khủng khiếp của ông ta về việc Xa tăng bị tống khỏi thiên đường? Không ai chịu đọc sách hay sao?”

Tôi nuốt nước bọt. “Đây là một câu chuyện dài.” Tôi lặp lại, giọng nghe càng lí nhí hơn.

“Chúng ta có đủ thời gian đấy,” Barley nói.

“Helen và Turgut và cha ngồi quanh chiếc bàn nhỏ trong quán ăn, đưa mắt nhìn nhau, và cha cảm nhận một tín hiệu thân thiện đang xuất hiện giữa chúng ta. Có lẽ để trì hoãn thêm chốc lát, Helen cầm viên đá xanh tròn mà Turgut đã đặt cạnh bên đĩa thức ăn của cô lên rồi chìa nó ra cho cha. ‘Đây là một biểu tượng cổ xưa,’ cô nói. ‘Đây là một cái bùa chống lại Con Mắt Quỷ.’ Cha cầm lấy, cảm nhận hòn đá trơn phẳng, nặng, còn vương hơi ấm bàn tay cô, rồi lại đặt nó lại xuống bàn.

“Tuy nhiên Turgut vẫn tỉnh táo. ‘Thưa cô, cô là người Rumani?’ Cô im lặng. ‘Nếu đúng vậy thì cô phải cẩn thận hơn ở nơi này.’ Ông ta nhỏ giọng lại một chút. ‘Cảnh sát có thể sẽ khá quan tâm đến cô. Đất nước tôi không được thân thiện với Rumani lắm.’

“ ‘Tôi biết,’ cô lạnh lùng đáp lại.

“ ‘Nhưng vì sao ả Gypsy ấy biết được điều này nhỉ?’ Turgut cau mày. ‘Cô đâu có nói gì với ả?’

“ ‘Tôi không biết.’ Helen nhún vai, tỏ vẻ không hiểu nổi.

“Turgut lắc đầu. ‘Vài người cho rằng người Gypsy có biệt tài xem tướng. Tôi không bao giờ tin việc này, nhưng…’ Ông ta dừng lại giữa câu và dùng khăn ăn chấm chấm bộ ria. ‘Chuyện cô ta nói về ma cà rồng mới đúng là kỳ quặc.’

“ ‘Thật vậy à?’ Helen đốp chát. “Chắc hẳn ả điên rồi. Dân Gypsy đều là lũ khùng điên.’

“ ‘Có thể, có thể.’ Turgut im lặng. ‘Tuy nhiên, đối với tôi, việc này rất kỳ lạ, cách cô ả nói, vì đó cũng là lĩnh vực chuyên môn của tôi.’

“ ‘Về dân Gypsy à?’ cha hỏi.

“ ‘Không, anh bạn ạ - về ma cà rồng.’ Helen và cha nhìn ông ta đăm đăm nhưng thận trọng tránh nhìn vào mắt nhau. ‘Shakespeare là sự nghiệp của đời tôi, nhưng truyền thuyết về ma cà rồng là thú tiêu khiển của tôi. Ở đây, chúng tôi có một truyền thuyết cổ xưa nói về ma cà rồng.’

“ ‘Đó là… à… một truyền thuyết Thổ Nhĩ Kỳ sao?’ cha kinh ngạc thốt lên.

“ ‘Ồ, truyền thuyết ấy đã lan truyền ít nhất là đến tận Ai Cập, các bạn đồng nghiệp thân mến ạ. Nhưng ở đây, tại Istanbul, có một câu chuyện cho rằng những bạo chúa khát máu nhất của đế chế Byzantine đều là ma cà rồng, một số trong bọn họ hiểu cộng đồng Thiên Chúa giáo là nguồn máu người trần mời gọi để uống. Nhưng tôi không tin chuyện này. Tôi tin về sau nó mới xuất hiện.’

“ ‘Ừm…’ cha không muốn để lộ sự quan tâm sâu sắc, vì sợ Helen sẽ lại đạp lên chân cha dưới bàn hơn sợ bất kỳ niềm tin nào rằng Turgut có thể mang trong mình quyền lực của bóng tối. Nhưng cô cũng đang chăm chú nhìn Turgut. ‘Vậy còn truyền thuyết về Dracula thì sao? Ông đã nghe nói về truyền thuyết đó chứ?’

“ ‘Nghe nói à?’ Turgut khịt mũi, vặn xoắn chiếc khăn ăn, đôi mắt đen nhánh ngời lên. ‘Cô biết Dracula là một con người có thật, một nhân vật lịch sử chứ? Một đồng bào của cô, thật vậy, thưa cô…’ Ông cúi người xuống chào Helen. ‘Hắn là một lãnh chúa, một voivoda, tại miền Tây Carpates vào thế kỷ mười lăm. Các bạn biết đấy, hắn chẳng phải là một người đáng ngưỡng mộ gì đâu.’

“Helen và cha gật đầu - chúng ta không thể làm gì khác. Ít ra thì cha cũng không thể, còn cô thì hình như đã quá chăm chú vào những lời nói của Turgut để có thể tự kiềm chế. Cô hơi chồm tới trước lắng nghe, đôi mắt đen cũng sáng rực một màu đen láy như ông ta. Làn da xanh xao thường lệ bây giờ đã điểm chút sắc hồng. Dù đang giữa cơn khích động cha vẫn nhận ra đây là một trong những khoảnh khắc mà vẻ đẹp ngời sáng từ nội tâm của cô đột ngột xuất hiện và phủ lấp đi nét mặt vốn khá cay nghiệt thường ngày.

“ ‘Chà…’ Turgut có vẻ phấn khích với đề tài này. ‘Tôi không có ý định làm cô thấy chán, nhưng có giả thuyết Dracula là một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Istanbul. Người ta biết rằng khi còn là một cậu bé, hắn đã bị Quốc vương Mehmed II cầm giữ tại Gallipoli, rồi sau đó là xa hơn về phía Đông, tại Anatolia - cha hắn đã trao hắn cho cha của Mehmed, Quốc vương Murad II, làm con tin cho hòa ước từ năm 1442 đến 1448, sáu năm dài đằng đẵng. Cha của Darcula cũng không phải là một quý ông tốt đẹp gì.’ Turgut cười khùng khục. ‘Bọn lính canh giữ cậu bé Dracula là những bậc thầy về nghệ thuật tra tấn, và hẳn hắn đã học được nhiều hơn cần thiết trong khi quan sát chúng. Nhưng các anh ạ’ - trong một khoảnh khắc nhiệt huyết thuyết giảng, có vẻ như ông ta đã quên phắt giới tính của Helen - ‘tôi có giả thuyết của riêng mình là hắn cũng để lại dấu ấn của hắn lên bọn lính.’

“ ‘Ý ông là quái gì vậy?’ Hơi thở cha đã trở nên hổn hển.

“ ‘Kể từ khoảng thời gian đó đã có ghi nhận về hiện tượng ma cà rồng ở Istanbul. Quan điểm của tôi - và than ôi, nó vẫn chưa được công bố mà tôi cũng không thể chứng minh được nó - là những nạn nhân đầu tiên của hắn nằm trong số những người Ottoman, có thể là những lính gác đã trở thành bạn của hắn. Tôi cho rằng hắn đã để lại trong đế quốc của chúng tôi mầm truyền nhiễm, sau đó mầm nhiễm này hẳn đã truyền vào Constantinople cùng với Người Chinh phục.(1)’

“Chúng ta nhìn ông ta chằm chằm, không nói được lời nào. Cha chợt nhớ lại, theo truyền thuyết, chỉ có người chết mới trở thành ma cà rồng. Việc này phải chăng có nghĩa là Vlad Dracula thực sự đã bị giết tại vùng Tiểu Á và sau đó trở thành ma cà rồng lúc còn là một thanh niên rất trẻ, hay đơn giản là từ rất nhỏ hắn đã có sở thích bệnh hoạn là uống máu người và truyền cái cảm hứng đó sang người khác? Cha xếp thắc mắc này vào loại sẽ chỉ được nêu ra với Turgut sau này, khi đã biết nhiều hơn về ông ta. ‘Ồ, các bạn biết đấy, đây là sở thích kỳ lạ của tôi.’ Turgut lại nở một nụ cười đôn hậu. ‘Chà, thứ lỗi cho tôi đã quá nhiều chuyện. Vợ tôi thường bảo tôi đúng là kẻ hết chịu nổi.’ Trước khi nhấp thêm một ngụm nước, ông ta lại nâng cốc chúc mừng bọn ta, cử chỉ nhã nhặn, tinh tế. ‘Nhưng, trời ơi, tôi có một bằng chứng! Tôi có bằng chứng là các Quốc vương Hồi giáo sợ hắn chẳng khác gì sợ ma cà rồng!’ Ông chỉ tay lên trần nhà.

“ ‘Bằng chứng à?’ cha lặp lại.

“ ‘Phải! Tôi đã phát hiện ra bằng chứng này vài năm về trước. Quốc vương Mehmed quan tâm tới Vlad Dracula đến mức đã thu thập một số tài liệu và những vật gì hắn từng sở hữu ở nơi này sau khi hắn chết tại Wallachia. Dracula từng tiêu diệt nhiều binh lính Thổ tại xứ sở hắn, và vì vậy Quốc vương chúng tôi rất căm hận hắn, nhưng đó không phải là lý do khiến ông lập ra kho lưu trữ này. Không! Vào năm 1478, thậm chí Quốc vương đã viết một lá thư cho tổng trấn Wallachia, hỏi xin ông này bất cứ tài liệu nào về Vlad Dracula mà ông ta biết được. Tại sao ư? Vì theo như ông ta nói, ông ta đang lập một thư viện chống lại cái xấu xa mà Dracula đã gieo rắc trong thành phố của ông ta sau khi hắn chết. Các bạn thấy đó - tại sao Quốc vương Mehmed vẫn sợ sau khi Dracula đã chết nếu không tin hắn có thể quay trở lại? Tôi đã tìm được bản sao lá thư mà vị tổng trấn phúc đáp cho Quốc vương.’ Ông ta đấm tay xuống mặt bàn và mỉm cười với bọn ta. ‘Thậm chí tôi đã tìm được thư viện mà ông ta đã lập ra để chống lại cái ác ấy.’

“Helen và cha ngồi lặng yên. Sự trùng hợp kỳ lạ đến mức hầu như không thể tin nổi. Cuối cùng cha đánh bạo nêu ra một câu hỏi. ‘Thưa giáo sư, bộ sưu tập này có chắc là do Quốc vương Mehmed II lập ra không?’

“Lần này ông ta lại chằm chằm nhìn bọn ta. ‘Ui chà, anh đúng là một sử gia tài giỏi. Anh quan tâm đến giai đoạn lịch sử này của chúng tôi à?’

“ ‘À - rất quan tâm,’ cha đáp. ‘Và chúng tôi - tôi rất mong muốn được xem tài liệu mà ông đã tìm được.’

“ ‘Lẽ dĩ nhiên,’ ông ta thốt lên. ‘Rất sẵn lòng. Tôi sẽ cho các bạn xem. Hẳn vợ tôi sẽ phải kinh ngạc lắm khi thấy có người muốn xem nó.’ Ông ta khúc khích cười. ‘Nhưng, than ôi, tám năm trước đây, tòa nhà xinh đẹp từng lưu giữ tư liệu đó đã bị phá hủy để nhường chỗ xây dựng văn phòng Bộ Giao thông Công chính. Đó là một tòa nhà nhỏ xinh xắn gần Thánh đường Xanh. Thật đáng tiếc.’

“Cha có cảm giác như mặt mình không còn chút máu. Hóa ra đó là nguyên nhân vì sao chúng ta không thể xác định địa điểm trung tâm lưu trữ mà thầy Rossi nhắc tới. ‘Nhưng còn các tài liệu…?’

“ ‘Đừng lo, anh bạn. Đích thân tôi đã bảo đảm để chúng trở thành một phần của Thư viện Quốc gia. Chúng phải được bảo quản, cho dù không có ai khác sùng bái chúng như tôi.’ Gương mặt ông ta hình như lại thoáng sa sầm lần đầu tiên kể từ lúc ông trách mắng ả Gypsy. ‘Trong thành phố chúng tôi vẫn còn có cái ác cần chiến đấu chống lại, cái ác hiện diện ở khắp mọi nơi.’ Ông ta nhìn lần lượt từng người bọn ta. ‘Nếu các bạn thích những cổ vật hiếm, tôi sẽ rất vui lòng dẫn các bạn đến đó vào ngày mai. Lẽ dĩ nhiên, tối nay thì nó đã đóng cửa. Tôi quen với viên thủ thư ở đó, anh ta có thể cho phép các bạn nghiên cứu bộ sưu tập đó.’

“ ‘Cám ơn ông rất nhiều.’ Cha không dám nhìn Helen. ‘Mà làm sao… sao ông lại quan tâm đến chủ đề không bình thường này?’

“ ‘Ồ, đây là một câu chuyện dài,’ Turgut trả lời, giọng nghiêm trọng. ‘Tôi không thể làm phiền các bạn nhiều quá.’

“ ‘Chúng tôi chẳng thấy phiền hà gì cả,’ cha khăng khăng.

“ ‘Các bạn thật tử tế.’ Ông ta ngồi im lặng một lúc lâu, dùng ngón tay cái và ngón trỏ chùi bóng chiếc nĩa. Bên ngoài hốc tường gạch của chúng tôi, trên đường phố đông đúc, những chiếc xe hơi bóp còi inh ỏi lách qua những chiếc xe đạp còn khách bộ hành tới đây thì xuất hiện rồi bước qua như diễn viên trên sân khấu - cánh phụ nữ mặc chân váy suông có hoa văn, cổ quàng khăn và đeo hoa tai vàng đong đưa, hoặc váy liền đen và tóc hung đỏ; đàn ông thì com lê phương Tây cùng sơ mi trắng và cà vạt. Những cơn gió nhẹ mang theo hương muối thổi đến chỗ bàn chúng ta ngồi, cha tưởng tượng cảnh tàu thuyền từ khắp vùng Âu-Á đang mang tặng vật về trung tâm của một đế quốc - đầu tiên là của người Thiên Chúa giáo, sau đó là của người Hồi giáo - và cập bến tại một thành phố mà tường thành vươn xuống đến tận mặt biển. Cái thành trì trong rừng rậm của Vlad Dracula, với các nghi thức bạo lực man rợ dường như thực sự cách xa với thế giới quốc tế cổ xưa này. Cha nghĩ chẳng có gì phải ngạc nhiên khi hắn căm ghét người Thổ và họ cũng thù hận hắn. Mà với các phẩm vật thủ công bằng vàng, đồng và lụa, các khu chợ sầm uất, tiệm sách và vô số nơi dành cho việc thờ phụng, người Thổ tại Istanbul hẳn phải có nhiều điểm chung với người Byzantine Thiên Chúa giáo mà họ đã chinh phục ở nơi chốn này hơn là với Vlad, kẻ đã luôn thách thức họ từ vùng biên cương của hắn. Nhìn từ trung tâm văn hóa này, hắn giống như một tên côn đồ ở vùng rừng núi hẻo lánh, một con quỷ tỉnh lẻ, một tên thô lậu thời Trung cổ. Nhưng cha chợt nhớ đến bức chân dung của hắn mà cha đã thấy trong bộ bách khoa tự điển ở nhà - tranh khắc gỗ một gương mặt để ria, lịch sự, ăn mặc phong nhã. Quả là một nghịch lý.

“Khi Turgut lại lên tiếng, cha vẫn còn miên man suy nghĩ về bức chân dung Dracula. ‘Xin cho tôi biết, các bạn thân mến, điều gì làm cho các bạn quan tâm đến chủ đề Dracula này?’ Ông ta đột ngột đổi chủ đề, với một nụ cười lịch sự - hoặc ngờ vực?

“Cha liếc mắt nhìn Helen. ‘Vâng, tôi đang nghiên cứu châu Âu thế kỷ mười lăm để làm bối cảnh cho luận văn của tôi,’ cha trả lời và ngay tức khắc bị trừng phạt vì sự thiếu trung thực của mình, bởi một cảm giác rằng lời dối trá này có thể đã là sự thật. Cha nghĩ, chỉ có trời mới biết khi nào cha sẽ làm tiếp luận văn này, và điều cha không cần nhất là một chủ đề rộng lớn hơn. ‘Còn giáo sư,’ cha lại thúc ép. ‘Làm thế nào mà ông lại nhảy từ Shakespeare sang ma cà rồng?’

“Turgut mỉm cười - buồn rầu, cha thấy hình như vậy, và vẻ trung thực bình thản của ông lại càng làm cha áy náy nhiều hơn. ‘À, đây là một việc rất kỳ lạ, lâu lắm rồi. Các bạn thấy đó, tôi đang viết cuốn sách thứ hai của mình về Shakespeare - về các bi kịch. Hàng ngày tôi vào ngồi làm việc trong - các bạn gọi là gì nhỉ? - trong một hốc tường trong phòng tiếng Anh của trường đại học. Rồi một ngày kia tôi phát hiện một quyển sách, mà trước nay chưa bao giờ thấy nó ở đó.’ Ông ta quay sang phía cha, một lần nữa với một nụ cười buồn. Cha thấy ớn lạnh cả người. ‘Cuốn sách này không giống như những cuốn sách khác, một cuốn sách không có chữ nào cả, rất cổ, chỉ có hình một con rồng ở ngay giữa sách và một chữ - DRAKULYA. Trước đó tôi chưa bao giờ nghe nói đến Dracula. Nhưng bức hình này rất kỳ lạ và ấn tượng. Sau đó tôi nghĩ mình phải biết cuốn sách này là cái gì. Vì vậy tôi cố tìm hiểu đủ mọi thứ.’

“Helen nãy giờ như đóng băng ở phía đối diện cha, bỗng cử động, có vẻ rất háo hức. ‘Mọi thứ?’ cô ta lặp lại nhẹ nhàng.

Barley và tôi đã gần đến Brussels. Tôi đã mất một lúc lâu - mặc dù có vẻ như chỉ là vài phút - để kể cho Barley nghe theo cách ngắn gọn và rõ ràng nhất có thể về những trải nghiệm của cha trong thời gian theo học cao học mà cha đã kể với tôi. Barley đăm đăm nhìn qua tôi vào những ngôi nhà và khu vườn nhỏ bé của đất nước Bỉ bên ngoài cửa sổ, trông ủ rũ dưới một màn mây. Lúc tàu đến gần Brussels, thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhìn thấy một tia nắng trên tháp chuông nhà thờ hay ống khói cũ kỹ của một nhà máy. Người phụ nữ Hà Lan ngáy khe khẽ, tờ tạp chí đã rớt xuống trên sàn tàu, bên cạnh chân.

Lúc tôi sắp đề cập đến trạng thái bất an gần đây của cha, vẻ xanh xao ốm yếu và thái độ kỳ lạ của ông, Barley đột ngột quay sang nhìn thẳng vào mặt tôi. “Chuyện này quả thực vô cùng kỳ lạ,” anh nói. “Anh không hiểu vì sao mình lại tin câu chuyện lung tung này, nhưng thật sự anh tin. Mà anh cũng muốn tin nữa.” Tôi ngạc nhiên vì chưa bao giờ nhìn thấy anh nghiêm túc như vậy - anh thường chỉ khôi hài, hoặc nói cộc lốc, hoặc tỏ ra bực bội. Đôi mắt anh, nheo lại, xanh như hai mảnh bầu trời. “Điều buồn cười là tất cả mọi thứ này lại gợi cho anh nhớ lại một chuyện.”

“Chuyện gì vậy anh?” Tôi hầu như nhẹ cả người khi thấy anh có vẻ như đã chấp nhận câu chuyện của tôi.

“Chà, đó là một câu chuyện lạ thường. Anh không biết phải diễn tả như thế nào. Liên quan đến thầy James. Nhưng đó là chuyện gì nhỉ?”

Chú thích:

1. Chỉ Quốc vương Hồi giáo Mehmed II.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Barley ngồi trầm ngâm trong cabin của chúng tôi, cằm tì lên đôi bàn tay có những ngón tay thon dài, cố gắng nhớ lại chuyện gì đó về thầy James - nhưng chỉ hoài công. Cuối cùng anh nhìn tôi, và tôi chợt sững sờ trước vẻ đẹp gương mặt anh, một khuôn mặt xương xương, tươi tắn ngay cả khi đang nghiêm nghị. Nếu không có vẻ vui nhộn khá lộ liễu kia, đó có thể là gương mặt của một thiên thần, hay của một vị tu sĩ khắc kỷ trong một tu viện vùng Northumberland. Lúc đó, tôi chỉ lờ mờ cảm nhận những so sánh này, phải đến sau này chúng mới hiện ra rõ ràng với tôi.

“Được rồi,” cuối cùng anh thốt lên, “như anh nhận thấy, có hai khả năng. Hoặc em đã bồng bột, trong trường hợp này anh sẽ phải theo sát và đưa em trở về nhà an toàn, ngược lại nếu không phải thế, trong trường hợp này em sẽ phải đối đầu với rất nhiều rắc rối, và như vậy, kiểu gì anh cũng vẫn phải sát cánh với em. Mai anh phải dự một bài giảng, nhưng anh sẽ tìm cách đối phó.” Anh thở dài liếc nhìn tôi, ngả người tựa vào thành ghế. “Anh nghĩ Paris không phải là điểm đến cuối cùng của em. Em có thể cho anh biết sau đó em sẽ đi đâu chứ?”

“Nếu tại cái bàn dễ chịu trong quán ăn ở Istanbul này, giáo sư Bora tát vào mặt cha và Helen mỗi người một cái, có lẽ chúng ta cũng không kinh ngạc bằng khi nghe ông ta tiết lộ cái ‘sở thích quái gở’ của mình. Tuy nhiên đây là một cái tát có tác dụng tốt; lúc này chúng ta đã hoàn toàn tỉnh táo. Trạng thái lừ đừ sau chuyến bay dài không còn nữa, và cùng với sự tỉnh táo này là cảm giác muốn tìm kiếm thêm thông tin về ngôi mộ của Dracula đến tuyệt vọng. Bọn ta đã đến đúng nơi. Có lẽ - tim cha đập rộn lên, không chỉ vì hy vọng - có lẽ mộ của Dracula nằm ngay tại Thổ Nhĩ Kỳ.

“Cha chưa từng nghĩ thế bao giờ, nhưng giờ cha nghĩ có thể điều đó có lý. Xét cho cùng, ở đây thầy Rossi đã từng bị một trong những tên tay sai của Dracula gay gắt cảnh cáo. Có thể nào lũ ma cà rồng không chỉ canh giữ trung tâm lưu trữ mà còn cả ngôi mộ? Sự hiện diện rõ ràng của lũ ma cà rồng mà Turgut đang đề cập phải chăng chỉ là một hệ lụy của việc bọn đệ tử của Dracula vẫn liên tục chiếm cứ thành phố này? Cha rà soát một lượt những gì đã biết về sự nghiệp và huyền thoại về Vlad Kẻ Xiên Người. Nếu đã từng bị giam giữ ở nơi này trong thời trai trẻ, liệu có thể sau khi chết hắn quay trở lại nơi đã học những bài học vỡ lòng về nghệ thuật hành hạ con người? Có thể hắn đã có một tâm trạng kiểu như hoài cổ về nơi này, giống như người ta thường lui về nghỉ hưu ngay tại nơi họ đã lớn lên. Và nếu có thể tin được các ghi chép về thói quen của ma cà rồng trong tiểu thuyết của Stoker, thì tên quỷ dữ này chắc chắn đã có thể rời bỏ nơi chốn nào đó để đến một nơi khác, xây mộ cho mình ở bất cứ nơi nào hắn thích; trong cuốn tiểu thuyết đó, hắn đã nằm trong quan tài được di chuyển đến nước Anh. Vậy tại sao hắn lại không thể di chuyển đến Istanbul cơ chứ, vào ban đêm, sau khi chết như một con người, di chuyển vào ngay trung tâm của chính đế quốc của đoàn quân đưa hắn tới chỗ chết? Xét cho cùng, đây cũng là một sự trả thù thích đáng đối với đế chế Ottoman.

“Nhưng cha chưa thể nêu ra với giáo sư Turgut bất kỳ câu hỏi nào. Helen và cha chỉ vừa mới gặp người đàn ông này, và cha vẫn còn băn khoăn tự hỏi liệu có thể tin được ông ta hay không. Ông ta có vẻ thành thật, nhưng việc ông ta chuyển sang ngồi cùng bàn chúng ta rồi tiết lộ cái ‘sở thích’ ấy vẫn quá kỳ quặc để có thể chấp nhận ngay. Bây giờ Turgut đang trò chuyện với Helen, cuối cùng cô cũng đã chịu nói chuyện với ông ta. ‘Không, thưa cô, thực ra tôi không biết “mọi thứ” về chuyện Dracula đâu. Thú thật, kiến thức của tôi còn lâu mới đủ sức thuyết phục. Nhưng tôi ngờ là hắn đã có một ảnh hưởng quan trọng đối với thành phố chúng tôi, ở khía cạnh độc ác xấu xa, và chính vì vậy tôi vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề. Còn các bạn, những người bạn của tôi?’ Ông ta đưa ánh mắt sắc sảo, liếc nhìn từ Helen qua cha. ‘Dường như các bạn có phần quan tâm đến chủ đề của tôi. Chính xác thì luận văn của anh bạn là về chủ đề gì, anh bạn trẻ?’

“ ‘Chủ nghĩa trọng thương của Hà Lan vào thế kỷ mười bảy,’ cha ấp úng trả lời. Dù sao chăng nữa nghe chẳng tự nhiên chút nào, rồi cha bắt đầu băn khoăn tự hỏi liệu đây có phải là một cố gắng khá nhạt nhẽo. Xét cho cùng, các thương nhân Hà Lan, hàng thế kỷ qua cũng đâu có rình mò tấn công và đánh cắp linh hồn bất tử của con người.

“ ‘À.’ Cha nghĩ Turgut có vẻ bối rối. ‘Chà,’ cuối cùng ông ta thốt lên, ‘nếu các bạn cũng quan tâm đến lịch sử Istanbul, thì sáng mai các bạn có thể đến cùng tôi đi chiêm ngưỡng bộ sưu tập của Quốc vương Mehmed. Ông ta là một bạo chúa tuyệt vời - đã sưu tập nhiều thứ rất thú vị, ngoài ra còn có các tài liệu ưa thích của tôi. Trễ quá rồi, bây giờ tôi phải về nhà với vợ đây, nếu không bà ấy sẽ lo lắng muốn chết mất.’ Ông ta mỉm cười, tựa như chờ mong được thấy tâm trạng của bà vợ vui vẻ chứ không phải ngược lại. ‘Cũng như tôi, chắc chắn bà ấy sẽ mong các bạn đến dùng bữa tối cùng chúng tôi vào ngày mai.’ Cha ngẫm nghĩ về lời mời này một lúc lâu; chắc hẳn các bà vợ người Thổ vẫn còn ngoan ngoãn dễ bảo như các cung nữ hậu cung trong huyền thoại. Hay ông ta chỉ hàm ý vợ ông ta cũng hiếu khách như ông? Cha chờ tiếng khịt mũi của Helen, nhưng cô vẫn ngồi im, giương mắt nhìn hai người bọn ta. ‘Thế nhé, các bạn…’ giáo sư Turgut vừa nói vừa thu xếp đứng lên ra về. Cha không biết từ đâu đó ông ta đã rút ra và nhét một ít tiền dưới đĩa thức ăn của mình. Sau đó, nâng ly chúc mừng bọn ta lần cuối và uống cạn phần trà còn lại. ‘Tạm biệt và hẹn gặp lại ngày mai.’

“ ‘Chúng tôi sẽ gặp lại ông ở đâu?’ cha hỏi.

“ ‘Ồ, tôi sẽ quay trở lại đây để đón các bạn. Chính xác vào lúc mười giờ sáng ở đây, được chứ? Tốt lắm. Chúc các bạn một buổi tối vui vẻ.’ Ông ta cúi chào rồi bước ra. Một phút sau, cha mới nhận ra ông ta hầu như chưa hề ăn bữa tối, đã trả tiền ăn cho mình và cho cả chúng ta, và đã để lại cho bọn ta một cái bùa chống lại Con Mắt Quỷ, đang ngời sáng giữa tấm khăn trải bàn trắng toát.

“Tối hôm đó cha ngủ như chết, như người ta thường nói, sau chuyến du hành và cuộc tham quan mệt bã người. Đã sáu giờ ba mươi khi những âm thanh của thành phố đánh thức cha dậy. Căn phòng nhỏ lờ mờ sáng. Ngay khi vừa tỉnh ngủ, cha nhìn quanh những bức tường quét vôi trắng, đồ đạc trong phòng trông đơn giản và có gì đó xa lạ, ánh sáng phản chiếu yếu ớt trên tấm gương treo phía trên giá rửa mặt, cha cảm thấy đầu óc lẫn lộn lung tung. Cha nghĩ đến việc lưu trú của thầy Rossi ở đây - tại Istanbul, thời gian ông cư ngụ tại một khách sạn nhỏ nào đó - nó nằm ở đâu nhỉ? - nơi hành lý của ông bị lục soát và các tấm bản đồ phác thảo quý giá bị lấy mất, cha hồi tưởng lại việc đó cứ như chính mình đã hiện diện ở đó, hoặc đang tự trải qua cảnh ấy ngay lúc này. Một lát sau cha mới nhận ra tất cả mọi thứ trong phòng đều bình thường, ngăn nắp; chiếc va li vẫn để trên bàn, không bị xáo trộn, và - quan trọng hơn - cái cặp xách với các tài liệu quý giá bên trong vẫn nằm nguyên bên giường ngủ, nơi cha có thể với tay đến, chạm vào nó. Ngay cả trong giấc ngủ, không hiểu vì sao cha vẫn cảm nhận được cuốn sách cổ xưa kia, im lặng nằm trong đó.

“Hiện tại, cha có thể nghe tiếng động của Helen trong phòng tắm, tiếng nước chảy và tiếng đi tới lui. Sau một lát, cha cảm thấy xấu hổ vì nhận ra việc này có thể bị đánh giá là một sự rình mò đối với cô. Để khỏa lấp cảm giác này, cha vội ngồi dậy, đổ nước vào chậu rửa mặt và bắt đầu tạt nước lên mặt và cánh tay. Nhìn trong gương, khuôn mặt cha - trẻ trung biết bao vào những ngày ấy, chính cha cũng nhận thấy điều đó, con gái thân yêu của cha, có lẽ cha không biết phải mô tả với con thế nào - vẫn như thường lệ. Đôi mắt cha tuy hơi lờ đờ sau chuyến hành trình, nhưng vẫn lanh lợi. Cha làm bóng tóc với một chút dầu thông dụng của thời kỳ đó, chải hất ra phía sau sao cho thật ẹp xuống và thật láng mướt, và mặc quần áo vào - quần và áo khoác nhăn nhúm, áo sơ mi và cà vạt khá sạch, dù cũng hơi nhăn. Lúc đang soi gương để vuốt thẳng cà vạt, cha không còn nghe tiếng động trong phòng tắm, và một lát sau cha lấy ra bộ đồ cạo râu rồi khẽ gõ nhẹ vào cánh cửa. Cha mở cửa bước vào khi không nghe có tiếng trả lời. Mùi thơm của Helen, một loại nước hoa Cologne rẻ tiền, mùi khá gắt, có lẽ được cô mang theo từ nhà, còn phảng phất trong gian phòng nhỏ bé. Cha gần như bắt đầu thấy thích mùi hương đó.

“Bữa ăn sáng ở nhà hàng là cà phê đậm - rất đậm - được pha sẵn trong một bình bằng đồng có cán dài, dùng với bánh mì, pho mát mặn và quả ô liu, kèm theo một tờ báo mà chúng ta không thể đọc được. Helen im lặng ăn uống, cha ngồi trầm ngâm, hít hà hương thuốc lá bay đến từ khu dành cho nhân viên phục vụ. Sáng hôm đó, nhà hàng vắng tanh, chỉ có một vài tia nắng rọi qua các khung cửa sổ cong cong, nhưng cảnh người xe hối hả bên ngoài đã đổ đầy không gian trong này những âm thanh vui tai và hình ảnh vụt qua của những người hoặc ăn vận đồ công sở hoặc xách hàng giỏ đồ mua ở chợ. Theo bản năng, chúng ta đã chọn một bàn xa cửa sổ nhất.

“ ‘Phải hai tiếng nữa ông giáo sư mới đến,’ Helen nhận xét, cho thêm đường vào ly cà phê thứ hai và khuấy mạnh. ‘Chúng ta làm gì bây giờ nhỉ?’

“ ‘Tôi nghĩ chúng ta có thể tản bộ trở lại thánh đường Hagia Sophia,’ cha nói. ‘Tôi muốn thăm lại nơi ấy một lần nữa.’

“ ‘Tại sao lại không nhỉ?’ cô thì thầm. ‘Trong lúc chúng ta còn ở đây thì làm du khách cũng đâu có sao.’ Cô trông có vẻ thanh thản, và cha để ý cô mặc chiếc áo sơ mi sạch sẽ màu xanh nhạt cùng chiếc áo vest đen, màu sắc đầu tiên mà cha nhìn thấy, một ngoại lệ so với loại quần áo chỉ có hai màu trắng đen thường thấy ở cô. Như thường lệ, cô quấn một khăn quàng nhỏ quanh cổ, chỗ vết cắn của gã thủ thư. Gương mặt cô đượm vẻ mỉa mai và cảnh giác, nhưng cha có cảm giác - dù không có bằng chứng rõ rệt - cô đã quen với sự hiện diện của cha ở đối diện bên kia bàn, gần như đến mức giảm bớt phần nào tính khí dữ tợn của cô.

“Lúc chúng ta ra khỏi quán, đường sá đầy người và xe cộ, Helen và cha thơ thẩn giữa đám người đó qua trung tâm thành phố cổ, bước vào một khu chợ. Lối đi giữa các sạp hàng đầy ắp người đi mua sắm - những phụ nữ lớn tuổi mặc đồ đen, đứng mân mê những tấm vải đẹp đủ màu; đám phụ nữ trẻ mặc áo quần sặc sỡ, trùm kín đầu, đang cò kè mặc cả để mua những thứ trái cây mà cha chưa bao giờ trông thấy, hoặc đang săm soi những khay trang sức bằng vàng; đám đàn ông lớn tuổi với những chiếc mũ đan trên đỉnh đầu hói nhẵn hoặc bạc trắng đang đọc báo hoặc khom người xem xét những chiếc tẩu gỗ có hình khắc chạm. Một số cầm chuỗi tràng hạt trong tay. Nhìn đâu cha cũng thấy những gương mặt da màu ô liu đẹp đẽ, sắc sảo, rắn rỏi, những đôi tay ra hiệu, ngón tay chỉ trỏ, những nụ cười sáng lóa đôi lúc lại lộ ra một chiếc răng vàng sáng chói. Xung quanh, cha nghe ầm ĩ đủ thứ giọng tranh cãi dứt khoát, hùng hồn, đôi lúc xen vào tiếng cười.

“Helen bối rối, miệng trễ xuống thành một nụ cười ngược, nhìn những kẻ xa lạ quanh mình kia, tựa như họ đã làm cô hài lòng, nhưng cũng tựa như cô nghĩ là cô hiểu bọn họ rất rõ. Đối với cha, đây là một quang cảnh thú vị, nhưng đồng thời cha cũng cảm thấy cần phải cảnh giác, một cảm giác mà cha đã có từ gần một tuần nay, một cảm giác mà trong những ngày này ở bất kỳ nơi công cộng nào cha cũng cảm thấy. Đó là một cảm giác săm soi tìm hiểu đám đông, liếc mắt ngang qua vai, dò xét những gương mặt để đánh giá chúng có ý định tốt hay xấu - và có lẽ cũng là cảm giác đang bị theo dõi. Đó là một cảm giác khó chịu, một nốt chói tai trong bản hòa âm những cuộc chuyện trò sống động xung quanh, và không phải là lần đầu tiên cha băn khoăn tự hỏi phải chăng Helen đã lây sang cha một phần nào đó thái độ hoài nghi đối với con người? Cha cũng thắc mắc liệu thái độ đó trong cô là bản chất hoặc đơn giản chỉ là hậu quả tất nhiên của cuộc sống cô trong chế độ cảnh sát trị.

“Dù nguồn gốc của thái độ ấy là gì chăng nữa, cha cũng cảm nhận tính đa nghi hiện nay như một sự sỉ nhục đối với bản ngã trước đây của mình. Một tuần trước cha còn là một nghiên cứu sinh Mỹ bình thường, bằng lòng với công việc dù chưa được như ý của mình, tận hưởng cảm giác về sự phồn vinh và tính ưu việt của nền văn hóa của mình ngay cả trong lúc làm ra vẻ nghi ngờ nó và mọi thứ khác. Hiện tại, Chiến tranh Lạnh là có thực đối với cha, hiện diện trong con người của Helen và thái độ vỡ mộng của cô, và cha chợt cảm thấy một cuộc chiến tranh lạnh xa xưa hơn trong chính huyết quản của cha. Cha nghĩ đến thầy Rossi, hẳn thầy đã đi qua những đường phố này vào mùa hè năm 1930 trước cái lần mạo hiểm trong trung tâm lưu trữ đã buộc thầy phải nháo nhào chạy khỏi Istanbul, và thầy cũng là người có thực đối với cha - không chỉ là giáo sư Rossi như cha biết mà cũng còn là chàng trai trẻ Rossi trong những lá thư thầy viết vào thời ấy.

“Helen vỗ lên tay cha khi chúng ta bước đi và hất đầu chỉ về hướng hai ông già đang ngồi tại một bàn gỗ nhỏ khuất sau một ki ốt gần đó. ‘Nhìn kìa - lý thuyết về sự nhàn rỗi của anh thực sự hiện diện bằng xương bằng thịt kia kìa,’ cô nói. ‘Mới chín giờ sáng mà họ đã chơi cờ rồi. Điều kỳ lạ là không phải họ đang chơi tabla(1)_ - trò được ưa thích ở khu vực này của thế giới. Thay vì tabla, họ chơi cờ vua.’ Đúng là hai người đàn ông sắp các quân cờ lên bàn cờ gỗ cũ. Quân đen đấu với quân trắng, mã và xe bảo vệ vua của mình, tốt được dàn đối diện nhau sẵn sàng chiến đấu - cùng một cách dàn trận trong chiến tranh trên khắp thế giới, cha ngẫm nghĩ, thôi không nhìn nữa. ‘Anh biết chơi cờ chứ?’ Helen hỏi.

“ ‘Lẽ dĩ nhiên,’ cha nói, hơi gắt giọng. ‘Tôi thường chơi cờ với cha tôi.’

“ ‘Vậy à.’ Âm thanh nghe chua chát, cha chợt nhớ ra nhưng đã quá muộn rằng cô không có được những bài học thời thơ ấu như vậy, và rằng cô đang chơi ván cờ của chính mình với cha cô - đúng hơn là với hình ảnh cô hình dung về ông. Nhưng dường như giờ cô lại đang mải mê với những hồi tưởng về lịch sử. ‘Anh biết không, đây không phải là trò chơi phương Tây - nó là một trò chơi xa xưa có nguồn gốc từ Ấn Độ - ở Ba Tư còn gọi là shahmat. Phát âm gần giống như checkmate - chiếu tướng trong tiếng Anh, tôi đoán vậy. Shah nghĩa là vua. Một cuộc chiến giữa các vị vua.’

“Cha nhìn hai người đàn ông đang bắt đầu cuộc chơi, những ngón tay xương xẩu lựa chọn các chiến binh đầu tiên. Những lời nói đùa trao đổi qua lại - có lẽ họ là những người bạn vong niên. Cha có thể đứng đó suốt cả ngày, quan sát ván cờ, nhưng Helen đã nôn nóng bỏ đi nên cha bước theo. Khi Helen và cha đi ngang qua, có vẻ như hai người đàn ông này lần đầu tiên để ý đến bọn ta, thoáng nhìn lên với ánh mắt dò hỏi. Cha chợt nhận ra, chắc hẳn chúng ta trông giống những người ngoại quốc lắm, dù gương mặt Helen trông chẳng khác gì những khuôn mặt xung quanh. Cha băn khoăn tự hỏi không biết ván cờ của họ kéo dài bao lâu - có thể suốt cả buổi sáng - và lần này ai trong số họ sẽ là người thắng cuộc.

“Ki ốt gần chỗ họ ngồi vừa mở cửa. Thực ra đó là một nhà kho, khuất dưới một cây sung cổ kính, ở ngoài rìa khu chợ. Một thanh niên mặc áo trắng, quần màu sậm đang ra sức kéo các cánh cửa và màn che ki ốt, kê những chiếc bàn ra bên ngoài để bày hàng hóa - sách - của anh ta ra. Sách chất đống trên các quầy gỗ, nhô ra khỏi những thùng thưa dưới sàn, xếp thành hàng kín các kệ bên trong.

“Cha hăm hở bước tới, chàng thanh niên mỉm cười gật đầu chào, tựa như anh ta nhận ra một người ham mê sách, dù cho đó là người quốc tịch gì. Helen đi chậm lại phía sau, chúng ta đứng lật xem các quyển sách, viết bằng hàng chục thứ tiếng khác nhau. Phần lớn là chữ Ả-rập, hoặc tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại; một số thì bằng chữ Hy Lạp hoặc Kirin, một số khác viết bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý. Cha tìm được một quyển tiếng Do Thái và nguyên một kệ toàn là sách tiếng Latin kinh điển. Phần lớn là sách in rẻ tiền và đóng bìa tồi, phần vải bọc bìa của chúng cũng sờn rách trong quá trình sử dụng. Cũng có những cuốn sách bìa mềm mới với bìa in những cảnh ghê rợn, và vài quyển sách trông rất xưa, đặc biệt một số cuốn viết bằng tiếng Ả-rập. ‘Người Byzantine cũng yêu thích sách,’ Helen thì thầm trong lúc lật xem cái gì đó giống như một tập thơ Đức. ‘Có lẽ họ đã mua sách ngay chỗ này.’

“Chàng thanh niên đã dọn hàng xong, và anh ta đến chào hỏi chúng ta. ‘Tiếng Đức hay tiếng Anh?’

“ ‘Tiếng Anh,’ cha nhanh chóng đáp lại, vì Helen không mở miệng.

“ ‘Tôi có sách tiếng Anh,’ anh ta nói với cha kèm theo một nụ cười tươi tắn. ‘Không thành vấn đề.’ Gương mặt anh ta xương xương và biểu cảm, với đôi mắt to màu xanh lá và một chiếc mũi dài. ‘Còn có cả báo chí từ Luân Đôn, New York nữa.’ Cha cám ơn và hỏi anh ta có sách cổ không. ‘Có, rất cổ.’ Anh ta trao cho cha một bản in thế kỷ mười chín vở hài kịch Shakespeare Much Ado About Nothing - Quá nhiều công sức cho chuyện tầm phào - trông có vẻ rẻ tiền, vải bọc đã sờn rách. Cha băn khoăn tự hỏi không biết nó được lôi ra từ thư viện nào và đã trôi nổi qua cuộc hành trình nào - từ Manchester tư sản, ví dụ thế - đến giao lộ thế giới cổ xưa này. Tỏ vẻ lịch sự, cha lật xem chiếu lệ vài trang rồi trao cuốn sách lại cho anh ta. ‘Không được cổ lắm à?’ Anh ta cười hỏi.

“Helen vẫn nhìn qua vai cha, nhưng giờ đã chĩa ánh mắt vào đồng hồ đeo tay. Cuối cùng thì thậm chí chúng ta còn chưa kịp đến Hagia Sophia. ‘Vâng, mà giờ chúng tôi cũng có việc phải đi ngay,’ cha nói.

“Chàng thanh niên bán sách lịch sự cúi chào chúng ta, tay vẫn cầm cuốn sách. Cha nhìn anh ta đăm đăm một lát, bối rối bởi một cảm giác như sắp nhận ra anh ta quen quen đến nơi, nhưng anh ta đã quay sang một người khách khác, một ông lão - có thể là người thứ ba của nhóm chơi cờ. Helen thúc vào khuỷu tay cha, và chúng ta rời cửa hàng sách, chủ định đi vòng qua rìa khu chợ rồi trở lại hướng nhà trọ.

“Quán ăn nhỏ bé kia vẫn vắng tanh khi chúng ta bước vào, nhưng chỉ vài phút sau Turgut đã xuất hiện ở lối vào, mỉm cười gật đầu chào, lên tiếng hỏi thăm chúng ta có được ngon giấc không. Ông ta mặc vest len màu ô liu, dù trời nóng hầm hập, và hình như đang đầy ắp sự phấn khích dồn nén. Mái tóc quăn đen nhánh vuốt ngược ra sau, đôi giày láng cóng, ông sải bước dẫn chúng ta ra khỏi quán ngay. Cha nhận ra ông quả là một người giàu sinh lực và cảm thấy yên tâm khi có được một hướng dẫn viên như vậy. Cảm giác phấn khích cũng dần dâng lên trong cha. Mớ giấy tờ tài liệu của thầy Rossi vẫn nằm an toàn trong cặp xách, và có lẽ vài giờ nữa chúng sẽ đưa cha tiến một bước gần hơn đến nơi thầy Rossi đang ở. Ít nhất, cha cũng sắp được đối chiếu bản sao tài liệu của thầy với các bản gốc mà thầy đã xem xét nhiều năm trước đó.

“Khi chúng ta theo chân Turgut qua các đường phố, ông ta giải thích rằng kho lưu trữ của Quốc vương Mehmed không nằm trong tòa nhà chính của Thư viện Quốc gia, dù nó vẫn được nhà nước bảo vệ. Hiện tại, nó nằm trong một khu phụ của thư viện, nơi từng là một mendrese, một trường Hồi giáo truyền thống. Ataturk(2)_ đã đóng cửa các trường học này khi thực hiện chính sách thế tục hóa xã hội trên đất nước này, và nơi đây hiện lưu trữ các đầu sách hiếm và cổ xưa của Thư viện Quốc gia nói về lịch sử của đế chế Ottoman. Chúng ta sẽ tìm được bộ sưu tập của Quốc vương Mehmed trong số các bộ sách ra đời từ những thế kỷ khi đế quốc Ottoman đang bành trướng.

‘Khu vực phụ của thư viện quả là một tòa nhà nhỏ cực kỳ xinh đẹp. Từ ngoài đường, chúng ta bước vào đó qua những cánh cửa gỗ có tay nắm bằng đồng. Ánh nắng được lọc qua những mảng hoa văn chạm khắc từ đá cẩm thạch che phủ các cửa sổ thành những hình kỷ hà tinh tế, điểm trang cho nền nhà tối nhờ nhờ của lối vào bằng vô số hình ngôi sao và bát giác. Turgut chỉ cho Helen và cha nơi đăng ký, nằm tại một quầy ở lối vào (cha để ý thấy Helen đã nguệch ngoạc một chữ ký không thể đọc nổi), và đích thân ông ta ký tên bằng một nét chữ bay buớm.

“Sau đó chúng ta bước vào một phòng dành riêng cho các bộ sưu tập, một khoảng không gian rộng lớn yên tĩnh nằm dưới một mái vòm khảm hai màu xanh-trắng. Những chiếc bàn bóng láng chạy suốt chiều dài gian phòng, đã có ba hoặc bốn nhà nghiên cứu ngồi làm việc ở đó. Các bức tường không chỉ có kệ sách mà còn có các ngăn hộc và hộp gỗ, những chiếc chao đèn bằng đồng tinh xảo thật hợp với bóng điện treo lủng lẳng trên trần. Viên thủ thư, một người đàn ông mảnh khảnh khoảng độ năm mươi, mang một chuỗi tràng hạt ở cổ tay, ngừng công việc lại đến chào hỏi, bắt cả hai tay Turgut. Họ nói chuyện với nhau một lát - trong cuộc trò chuyện của họ, cha nghe Turgut nhắc đến tên trường đại học của cha tại Mỹ - sau đó người thủ thư mỉm cười cúi chào và nói gì đó với chúng ta bằng tiếng Thổ. ‘Đây là ông Erozan. Ông ấy chào mừng các bạn đến với phòng sưu tập.’ Turgut thông dịch lại cho chúng ta, trông hài lòng ra mặt. ‘Ông ấy sẵn lòng phục vụ các bạn dù có bị giết hại.’ Cha bất giác cảm thấy chựng lại, Helen thì nở một nụ cười ngờ nghệch. ‘Ông ấy sẽ mang các tài liệu của Quốc vương Mehmed về Giáo đoàn Rồng ra ngay cho các bạn. Nhưng trước tiên, chúng ta phải ngồi ở đây chờ ông ấy đã.’

“Chúng ta ngồi xuống một chiếc bàn, thận trọng cách xa vài nhà nghiên cứu kia. Họ thoáng nhìn chúng ta với vẻ tò mò rồi trở lại ngay với công việc của mình. Một lát sau, ông Erozan quay lại, mang theo một hộp gỗ lớn có khóa đằng trước và dòng chữ Ả-rập khắc trên nắp. ‘Câu đó nghĩa là gì?’ tôi hỏi vị giáo sư.

“ ‘À.’ Ông ta di đầu ngón tay lên nắp hộp theo dòng chữ. ‘Câu này có nghĩa, “Đây là cái ác” - ừm - “nơi đây chứa đựng cái ác. Hãy giam cầm nó lại bằng những bí quyết trong Kinh Koran thiêng liêng.” ’ Tim cha như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực; những câu này tương đồng đến kinh ngạc với những gì thầy Rossi ghi lại bên lề tấm bản đồ bí ẩn kia và đã buột miệng đọc to lên trong trung tâm lưu trữ cổ kính, nơi tấm bản đồ từng được cất giữ. Thầy Rossi đã không đề cập đến chiếc hộp này trong các lá thư, nhưng cũng có thể ông chưa từng trông thấy nó, nếu người thủ thư chỉ mang đến cho thầy những tài liệu chứa bên trong. Hoặc cũng có thể sau thời điểm thầy Rossi lưu trú ở đây các tài liệu đó mới được đặt vào hộp.

“ ‘Cái hộp này có từ bao giờ nhỉ?’ cha hỏi Turgut.

“Ông ta lắc đầu. ‘Tôi không biết, và ông bạn của tôi đây cũng vậy. Vì là hộp gỗ nên tôi nghĩ nó không có khả năng cùng tuổi với thời của Mehmed. Ông bạn tôi đã có lần bảo với tôi’ - ông ta mỉm cười nhìn về hướng Erozan, và ông thủ thư này cười lại dù chẳng hiểu chuyện gì - ‘là những tài liệu này được cất vào hộp này vào năm 1930, để giữ chúng được an toàn. Ông ấy biết điều đó vì đã trao đổi với viên thủ thư tiền nhiệm. Ông bạn tôi là người rất cẩn thận.’

“Vào năm 1930! Helen và tôi đưa mắt nhìn nhau. Có lẽ là khoảng thời gian thầy Rossi viết những lá thư đó - tháng Mười hai năm 1930 - cho bất kỳ ai có thể nhận chúng sau này, các tài liệu mà ông ấy nghiên cứu đã được đặt vào trong chiếc hộp này để giữ cho an toàn. Một chiếc hộp gỗ bình thường là đã có thể phòng ngừa chuột và ẩm mốc, nhưng điều gì khiến người thủ thư thời kỳ đó phải khóa các tài liệu về Giáo đoàn Rồng bên trong một chiếc hộp có khắc dòng chữ cảnh báo trầm trọng như vậy?

“Ông bạn thủ thư của Turgut rút ra một xâu chìa khóa, tra một chìa vào ổ. Cha gần như muốn bật cười, nhớ đến danh mục thẻ hiện đại ở trường nhà, có thể giúp truy cập hàng ngàn cuốn sách quý hiếm trong hệ thống thư viện của trường. Cha chưa bao giờ tưởng tượng phải dùng đến một cái chìa khóa cũ kỹ để tiến hành công việc nghiên cứu. Ổ khóa bật lên một tiếng tách. ‘Được rồi,’ Turgut thì thầm, và người thủ thư rút lui. Turgut cười với từng người chúng ta - những nụ cười buồn bã, cha nghĩ - và mở nắp hộp lên.”

Trong tàu, Barley vừa đọc xong hai lá thư đầu tiên của cha. Tôi cảm thấy nhói đau khi nhìn thấy những lá thư mở rộng trong đôi tay anh, nhưng tôi biết Barley sẽ tin vào tiếng nói có cơ sở của cha, dù chỉ tin phân nửa cái giọng điệu kém thuyết phục của tôi. “Anh đã từng đến Paris rồi chứ?” tôi lên tiếng hỏi, một phần để che giấu cảm xúc của mình.

“Chắc là rồi,” Barley đáp, giọng vẫn còn tức giận. “Anh đã học ở đó một năm trước khi vào đại học. Mẹ anh muốn anh giỏi tiếng Pháp hơn.” Tôi rất muốn hỏi về mẹ anh và lý do vì sao bà yêu cầu con trai mình phải đạt được một thành tựu thú vị như vậy, cũng như cảm giác khi có mẹ thì thế nào, nhưng Barley đã lại chúi mũi vào lá thư. “Cha em chắc hẳn là một giảng viên có tài,” anh ta trầm ngâm. “Những bức thư này thú vị hơn nhiều so với những gì bọn anh được học tại Oxford.”

Câu nói đó mở ra trước mắt tôi một lãnh địa khác. Các bài giảng tại Oxford nhàm chán lắm sao? Có thể như vậy được sao? Barley có nhiều thứ mà tôi muốn biết, một sứ giả từ thế giới rộng lớn đến nỗi hiện giờ tôi vẫn chưa thể hình dung. Lần này, dòng suy tưởng của tôi bị cắt ngang bởi một nhân viên của đoàn tàu vội vã đi dọc lối đi, băng qua trước cửa cabin của chúng tôi. “Bruxelles!” ông ta kêu lên. Tàu chạy chậm dần, vài phút sau, qua cửa sổ tàu chúng tôi nhìn thấy ga Brussels; các nhân viên hải quan bước lên tàu. Bên ngoài mọi người hối hả lên xuống tàu và lũ bồ câu đang mải mê săn tìm các mẩu thức ăn thừa rơi rớt trên sân ga.

Có thể vì thầm yêu mến loài bồ câu nên tôi đã nhìn chúng trong đám đông chăm chú đến nỗi chợt nhận ra một hình dáng đang đứng bất động. Một phụ nữ, cao, mặc một chiếc áo khoác đen dài, lặng lẽ đứng trên sân ga. Chiếc khăn đen choàng qua đầu, quấn quanh một gương mặt trắng toát. Khoảng cách khá xa để có thể nhìn rõ được nét mặt, nhưng tôi thoáng thấy cặp mắt đen, và một cái miệng đỏ choét dị thường - son môi màu chói, chắc thế. Có gì đó khác thường trong bộ quần áo đen kịt như một hình chiếu bóng của bà ta; giữa những chiếc váy ngắn và bốt cao gót thời thượng dị hợm, bà ta mang đôi giày cao gót mũi nhọn màu đen.

Nhưng đặc điểm trước tiên làm tôi chú ý đến bà ta, và cứ phải chú ý cho đến lúc đoàn tàu lại chuyển bánh, là thái độ cảnh giác của bà ta. Bà ta chăm chú quan sát đoàn tàu của chúng tôi, từ đầu đến cuối. Theo bản năng, tôi nép người ra sau, tránh khỏi cửa sổ, Barley liền nhìn tôi với ánh mắt thắc mắc. Rõ ràng người phụ nữ đó không nhìn thấy chúng tôi, dù bà ta đã bước một bước bâng quơ về hướng chúng tôi. Sau đó, có vẻ như bà ta thay đổi ý định, quay sang quan sát một đoàn tàu khác vừa đỗ lại ở bên kia boong ke. Một vẻ gì đó trong cái lưng thẳng đuột, cứng đơ của bà ta làm tôi cứ phải nhìn chăm chăm cho đến khi đoàn tàu ra khỏi nhà ga, và bà biến mất trong đám đông, tựa như chưa bao giờ hiện hữu.

Chú thích:

1. Các trò chơi kiểu đổ xúc xắc rồi di chuyển quân cờ trên một tấm bảng lớn (BT).

2. Ataturk (tên đầy đủ là Mustapha Kemal Ataturk (1881-1938): vị tổng thống đầu tiên (1923-1938) và cũng là người sáng lập nền cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ với chính sách thế tục hóa xã hội, giảm nhẹ ảnh hưởng của đạo Hồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Lần này không phải Barley mà là tôi ngủ gật. Lúc thức dậy, tôi nhận ra mình đang tựa vào người anh, đầu gục lên vai chiếc áo len dài tay kiểu hải quân của anh. Anh đang chăm chú nhìn qua cửa sổ, những lá thư của cha đã được xếp lại, cất vào các bì thư nằm gọn trên đùi đôi chân bắt tréo chữ ngũ của anh, gương mặt anh - không xa lắm phía bên trên gương mặt tôi - đang quay về phía những phong cảnh, tôi biết chắc lúc này đã là cảnh đồng quê nước Pháp, đang lướt qua. Tôi mở mắt và nhìn thấy chiếc cằm xương xương của anh. Khi nhìn xuống, tôi thấy hai tay Barley đan hờ vào nhau trên những lá thư. Lần đầu tiên tôi để ý anh có tật cắn móng tay giống như tôi. Tôi lại khép mắt, vờ ngủ tiếp, hơi ấm từ bờ vai anh thật dễ chịu. Nhưng rồi vì sợ anh không thích tôi tựa vào người như vậy, hoặc ngại sẽ nhỏ dãi lên chiếc áo len của anh trong lúc gà gật, nên tôi đã vội ngồi thẳng lại. Barley quay lại nhìn tôi, đôi mắt anh như đầy những suy tư xa xôi, hay có thể chỉ đầy ắp những cảnh đẹp đồng quê phía xa bên ngoài cửa sổ, lúc này là một khung cảnh đồng quê bình thường với các trang trại kiểu Pháp, không còn bằng phẳng nhưng vẫn đang lướt nhanh. Lát sau, anh mỉm cười.

“Khi nắp chiếc hộp chứa đựng tài liệu bí mật của Quốc vương Mehmed được giở lên, cái mùi mà cha đã biết rất rõ cũng theo đó lan tỏa. Đó là mùi của những tài liệu rất xưa cũ, của các trang giấy da dê hay da bê, của bụi bặm và hàng thế kỷ quá khứ, của những trang giấy mà theo dòng trôi dài dặc của thời gian đã bắt đầu bị hủy hoại. Đó cũng là mùi của cuốn sách nhỏ ấy, cuốn sách trống trơn không một dòng chữ và chỉ có hình con rồng ở giữa, cuốn sách của cha. Cha chưa bao giờ dám kê sát mũi vào nó, như thường lén làm với những cuốn sách cổ khác mà cha phải sử dụng - cha sợ, có lẽ thế, rằng có thể có một cái gì đó gớm ghiếc phảng phất trong cái mùi của nó, hoặc tệ hơn, một sức mạnh tiềm ẩn bên trong nó, một thứ độc dược mà cha không muốn hít phải.

“Turgut nhẹ nhàng nhấc các tài liệu ra khỏi hộp. Tài liệu nào cũng được gói lại trong loại giấy lụa đã ngả vàng, và chúng có hình dạng và kích cỡ khác nhau. Ông cẩn thận sắp chúng lên mặt bàn, trước mặt chúng ta. ‘Tôi sẽ đích thân cho các bạn xem mớ giấy tờ này và nói với các bạn những gì tôi biết về chúng,’ ông nói. ‘Sau đó, có lẽ các bạn sẽ muốn ngồi xuống để nghiền ngẫm, các bạn cũng nghĩ như vậy chứ?’ Phải, có lẽ cha và Helen cũng nghĩ như vậy - cha gật đầu, và ông ta tháo một cuộn giấy, cẩn thận trải ra dưới ánh nhìn chằm chằm của chúng ta. Đó là một dải giấy da được gắn vào hai trục gỗ nhỏ, khác hẳn với những trang giấy khổ lớn và các tập sổ cái được đóng gáy mà cha đã quen thuộc khi nghiên cứu về thế giới của Rembrandt. Hai mép dải giấy da được trang trí bằng những đường diềm sặc sỡ, mạ vàng hoặc xanh đậm hoặc đỏ sẫm. Cha cảm thấy thất vọng vì nó được viết bằng chữ Ả-rập. Cha không chắc mình mong đợi điều gì nữa: tài liệu này xuất xứ từ trung tâm của một đế quốc nói tiếng Thổ nhưng lại dùng chữ Ả-rập để viết, chỉ viện đến tiếng Hy Lạp để đàn áp người Byzantine, hay tiếng Latin để gây dông bão ở cổng thành Vienne.

“Turgut như hiểu được nét mặt của cha nên vội giải thích. ‘Các bạn ạ, đây là cuốn sổ cái báo cáo phí tổn của một cuộc chiến tranh với Giáo đoàn Rồng. Nó được một viên chức đang mua sắm cho Quốc vương tại một thành phố bên bờ Nam sông Danube ghi chép lại ngay tại đó - nói cách khác, đây là một báo cáo công tác. Các bạn có thể nhận ra là vào giữa thế kỷ mười lăm, cha của Dracula là Vlad Dracula đã khiến đế quốc Ottoman phải hao tổn một số tiền rất lớn. Viên chức này đã đặt mua áo giáp và - người ta gọi thế nào nhỉ? - đại đao cho ba trăm người canh giữ vùng biên cương phía Tây Carpates để không cho dân địa phương nổi loạn, ông ta còn mua cả ngựa nữa. Ở đây’ - ông ta chỉ một ngón tay dài về phía cuối cuộn giấy - ‘nói rằng Vlad Dracula là một rắc rối tốn kém và một… một mối phiền toái rất đáng ghét đã buộc họ phải chi nhiều tiền hơn mức quan tổng trấn mong muốn. Quan tổng trấn rất lấy làm hối tiếc và khổ sở, ông ta cầu chúc đấng Vô Song được trường thọ nhân danh Thánh Allah.’

“Helen và cha đưa mắt nhìn nhau, và cha nghĩ đã đọc được trong mắt cô nỗi kính sợ mà chính cha cũng đang cảm thấy. Góc lịch sử này cũng có thực như cái nền nhà lát đá dưới chân, hoặc cái mặt bàn gỗ bên dưới những ngón tay chúng ta. Những người mà nó đề cập đến cũng đã thực sự sống, hít thở, cảm nhận và suy nghĩ rồi chết đi, như chúng ta đã sống - như chúng ta sẽ sống. Cha nhìn ra chỗ khác, không thể thấy được thoáng cảm xúc hiện ra trên gương mặt rắn rỏi của Helen.

“Turgut đã quấn cuộn giấy kia lại và đang mở ra gói thứ hai, chứa hai cuộn giấy khác. ‘Đây là thư của quan tổng trấn xứ Wallachia, trong đó ông ta hứa sẽ gửi đến Quốc vương Mehmed bất kỳ tài liệu nào có liên quan đến Giáo đoàn Rồng mà ông ta có thể tìm thấy. Còn đây là một báo cáo về thương mại dọc theo sông Danube vào năm 1461, không xa nơi Giáo đoàn Rồng kiểm soát. Các bạn hiểu đấy, biên giới của khu vực này không hề bền vững - chúng liên tục thay đổi. Ở đây bản báo cáo liệt kê số lụa, đồ gia vị và ngựa mà quan tổng trấn yêu cầu trao đổi với len của những người chăn cừu trong lãnh địa ông ta.’ Hai cuộn giấy kế tiếp cũng có nội dung báo cáo tương tự. Sau đó, Turgut mở ra một gói nhỏ hơn, chứa một tờ giấy da có một bản vẽ phác thảo. ‘Một tấm bản đồ,’ ông ta nói. Cha tự động đưa tay tìm chiếc cặp đựng các bản vẽ phác thảo và ghi chép của thầy Rossi, nhưng Helen khẽ kín đáo lắc đầu. Cha hiểu ý cô muốn gì - bọn ta quen biết Turgut chưa đủ rõ để bộc lộ hết với ông ấy tất cả bí mật của mình. Chưa phải là lúc này, cha thầm bổ sung trong đầu; xét cho cùng, rõ ràng ông ta đã thổ lộ với chúng ta tất cả những gì ông ta biết.

“Tôi chưa bao giờ hiểu được tấm bản đồ này chỉ dẫn tới cái gì, các bạn ạ,’ Turgut thừa nhận với chúng ta. Có chút nuối tiếc trong giọng nói đó, và ông vuốt bộ ria mép, vẻ trầm tư. Cha cúi xuống nhìn sát vào tờ giấy da, và cảm thấy run sợ khi thấy nó giống hệt phiên bản đầu tiên mà thầy Rossi đã sao chép, dù đã mờ nhạt, những đường vòng cung dài thể hiện các dãy núi với dòng sông uốn khúc ở phía Bắc. ‘Các bạn biết đấy, nó chẳng giống bất kỳ khu vực nào mà tôi đã đích thân khảo sát, và không có cách nào để biết được - người ta gọi là gì nhỉ? - tỷ lệ xích của tấm bản đồ này.’ Ông đặt nó sang một bên. ‘Đây là một tấm bản đồ khác, có vẻ như thể hiện cận cảnh hơn khu vực trong tấm bản đồ đầu tiên.’ Cha biết đúng là thế - cha đã xem qua tất cả bản sao của những tấm bản đồ này rồi mà, nên cảm thấy mỗi lúc một phấn khích. ‘Tôi tin rằng đây là những ngọn núi, được vẽ nằm ở phía Tây tấm bản đồ đầu tiên, đúng không các bạn?’ Ông thở dài. ‘Ngoài ra không còn thông tin nào khác, và chắc các bạn cũng thấy nó không được ghi chú gì nhiều, ngoại trừ vài dòng trích từ Kinh Koran, và cả câu phương châm kỳ lạ này nữa - trước đây tôi cẩn thận dịch ra - nói điều gì đó đại ý là “Hắn bị giam giữ nơi đây cùng với sự độc ác xấu xa. Hỡi độc giả, bằng một lời, hãy đào mồ hắn lên.” ’

“Cha giật mình đưa tay ra định ngăn ông ta lại, nhưng Turgut nói quá nhanh khiến cha trở tay không kịp. ‘Đừng!’ cha chỉ kịp hét lên, nhưng đã quá trễ, Turgut nhìn cha chằm chằm, kinh ngạc. Helen nhìn chúng ta, từ người này sang người kia, ông thủ thư Erozan đang làm việc ở phía bên kia đại sảnh cũng quay lại đăm đăm nhìn cha. ‘Tôi xin lỗi,’ cha thì thầm. ‘Chỉ vì tôi bị khích động khi nhìn thấy các tài liệu này. Chúng rất… thú vị.’

“ ‘Ồ, rất mừng vì anh nhận thấy chúng thú vị,’ ánh mắt Turgut gần như rạng rỡ dù vẻ mặt vẫn còn nghiêm trọng. ‘Và dòng chữ này thực sự nghe có vẻ kỳ bí khó hiểu. Chúng mang đến cho người ta - các bạn biết cái gì không? - một cú sốc.’

“Vào lúc đó có tiếng bước chân trong đại sảnh, cha bồn chồn đưa mắt nhìn quanh, gần như mong đợi được thấy chính Dracula, dù hắn có giống thứ gì đi chăng nữa, nhưng đó chỉ là một người đàn ông nhỏ thó, đội mũ trắng và có hàm râu xám bờm xờm. Ông Erozan bước ra cửa đón ông ta, và chúng ta trở lại xem xét mớ tài liệu. Turgut rút trong hộp ra một tờ giấy da khác. ‘Đây là tài liệu cuối cùng trong chiếc hộp này,’ ông ta nói. ‘Tôi chưa thể làm rõ được ý nghĩa của nó. Nó được liệt kê trong danh mục thư viện như một thư mục về Giáo đoàn Rồng.’

“Tim cha như hụt mất một nhịp đập và Helen cũng biến sắc mặt. ‘Một thư mục?’

“ ‘Phải, anh bạn ạ.’ Turgut nhẹ nhàng trải tờ giấy lên bàn, trước mặt chúng ta. Tờ giấy trông rất cũ và đã giòn, đầy những chữ Hy Lạp viết tay rất đẹp. Lề phía trên khá nham nhở, tựa như nó từng là một phần của một cuộn giấy dài, còn lề dưới thì rõ ràng bị xé bớt. Không có bất kỳ hình trang trí nào trên văn bản này, chỉ toàn là những dòng chữ viết đẹp đẽ bằng bút mực. Cha thở dài. Cha chưa bao giờ học tiếng Hy Lạp, dù cha cũng biết thừa rằng dù sao đi nữa, dẫu có học rồi thì để hiểu một tài liệu thế này cũng đòi hỏi phải cực kỳ thành thạo.

“Giống như đoán biết được vấn đề của cha, Turgut lấy trong cặp xách ra một cuốn sổ ghi chép. ‘Tôi đã nhờ một học giả chuyên về đế chế Byzantine trong trường đại học chúng tôi dịch bản văn này. Ông ta có kiến thức tuyệt vời về ngôn ngữ và các tài liệu của người Byzantine. Đây là một danh sách các tác phẩm văn chương mà đa số chưa được liệt kê trong bất kỳ danh mục nào khác và bản thân tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy chúng.’ Ông mở cuốn sổ ghi chép ra và vuốt phẳng một trang giấy đầy những chữ Thổ gọn gàng ngay ngắn. Lần này thì Helen thở dài. Turgut vỗ trán. ‘Ôi, vô cùng xin lỗi,’ ông ta thốt lên. ‘Đây, giở đến đâu tôi sẽ dịch đến đó, được chứ? “Herodotus, Cách đối xử với tù binh chiến tranh. Pheseus, Bàn về lý trí và tra tấn. Origen, Chuyên luận về các nguyên lý đầu tiên. Euthymius Lớn, Số phận của những kẻ bị đọa đày. Gubent xứ Ghent, Chuyên luận về thiên nhiên. Thánh Thomas Aquinas, Sisyphus.” Các bạn thấy đấy, đây là một tuyển chọn rất kỳ lạ, và một vài trong số các quyển sách này rất hiếm. Chẳng hạn, ông bạn học giả chuyên về Byzantine của tôi cho biết sẽ là phép lạ nếu còn tồn tại đâu đó một bản chuyên luận trước đây không được biết đến của Origen, một trong những triết gia Thiên Chúa giáo đầu tiên - vì Origen bị buộc tội là dị giáo nên phần lớn các tác phẩm của ông đều đã bị tiêu hủy.’

“ ‘Dị giáo nào?’ Helen trông có vẻ quan tâm. ‘Chắc chắn là tôi đã đọc đâu đó về ông ta.’

“ ‘Ông ta bị kết án vì đã lập luận trong chuyên luận này rằng theo lý luận của người Thiên Chúa giáo thì thậm chí quỷ Xa tăng cũng có thể được cứu rỗi và phục sinh,’ Turgut giải thích. ‘Tôi có nên tiếp tục với danh sách này không nhỉ?’

“ ‘Nếu không phiền,’ cha đáp, ‘khi đọc cho chúng tôi nghe liệu ông có thể viết ra tiếng Anh tên các cuốn sách không?’

“ ‘Rất sẵn lòng,’ Turgut ngồi xuống với cuốn sổ ghi chú, rút ra một cây bút.

“ ‘Cô nghĩ sao về chuyện này?’ cha hỏi Helen. Gương mặt cô nói rõ hơn bất kỳ ngôn từ nào, Chúng ta đến đây chỉ vì mớ bòng bong danh sách sách vở này sao? ‘Tôi biết lúc này nó chưa có ý nghĩa gì,’ cha nói nhỏ với cô, ‘những hãy chờ xem nó có thể đưa chúng ta đến đâu.’

“ ‘Bây giờ, thưa các bạn, cho phép tôi đọc cho các bạn nghe vài tên sách kế tiếp.’ Turgut viết ra, vẻ phấn khích. ‘Các bạn có thể nhận ra, đa số các cuốn này đều liên quan đến hành động tra tấn hoặc hành vi giết người hay chuyện gì đó chẳng vui vẻ gì. “Erasmus, Số phận của một sát thủ. Henricus Curtius, Những kẻ ăn thịt người. Giorgio xứ Padua, Những kẻ bị nguyền rủa.” ’

“ ‘Niên đại các cuốn sách này có được liệt kê kèm theo không?’ cha hỏi, cúi người xuống mớ tài liệu.

“ ‘Turgut thở dài. ‘Không. Tôi chưa tìm được tài liệu tham khảo khác có liên quan đến các nhan đề sách này, nhưng từ những gì đã xác định được, tôi biết không cuốn nào trong số sách đó được viết sau năm 1600.’

“ ‘Và đó là quãng thời gian sau thuở sinh tiền của Vlad Dracula,’ Helen bình luận. Cha ngạc nhiên nhìn cô. Cha đã không nghĩ đến chi tiết đó. Đây là một điểm đơn giản, nhưng hoàn toàn chính xác và rất khó hiểu.

“ ‘Đúng vậy, thưa cô,’ Turgut nói, ngẩng nhìn lên cô. ‘Những tác phẩm gần đây nhất cũng được viết hơn một trăm năm sau cái chết của hắn, cũng như sau cái chết của Quốc vương Mehmed. Rất tiếc tôi đã không tìm được bất kỳ thông tin nào cho biết bằng cách nào và khi nào thư mục này đã trở thành một phần trong bộ sưu tập của Quốc vương Mehmed. Chắc hẳn ai đó đã bổ sung vào sau này, có lẽ rất lâu sau khi bộ sưu tập này được đưa đến Istanbul.’

“ ‘Nhưng trước năm 1930,’ cha trầm ngâm.

“Turgut nhìn cha sắc lẹm. ‘Đó là năm bộ sưu tập này được bỏ vào hộp khóa lại,’ ông ta nói, ‘Điều gì đã khiến anh nói lên điều đó, giáo sư?’

“Cha cảm thấy mình đang đỏ mặt, bởi vì đã nói quá nhiều, nhiều đến độ Helen phải quay sang nơi khác giấu nỗi thất vọng vì sự ngu ngốc của cha, và cũng bởi cha chưa phải là giáo sư. Cha im bặt một lúc; bao giờ cha cũng ghét phải nói dối, và, con gái thân yêu của cha ạ, không bao giờ nói dối nếu có thể tránh được.

“Turgut nhìn cha dò xét, và cha cảm thấy - khó chịu - vì trước khoảnh khắc này cha chưa bao giờ chú ý đánh giá hết sự sắc sảo cực kỳ trong đôi mắt đen, phúc hậu, hằn những vết chân chim của ông ta. Cha hít một hơi thật sâu. Cha sẽ giải thích với Helen sau. Từ khi gặp gỡ, cha đã tin tưởng Turgut, và ông ta có thể sẽ giúp đỡ chúng ta nhiều hơn nếu biết được nhiều hơn. Tuy nhiên để trì hoãn thêm chốc lát, cha nhìn xuống danh sách các tài liệu mà Turgut đã dịch cho chúng ta, rồi liếc nhìn vào bản dịch tiếng Thổ mà ông ta đang dựa vào để dịch lại cho chúng ta. Cha không dám nhìn vào mắt ông ta. Chính xác thì ta nên nói ra bao nhiêu điều trong số những gì ta đã biết với ông ấy? Nếu kể hết ra đây những gì cha biết về các trải nghiệm của thầy Rossi, liệu ông ta có nghi ngờ tính nghiêm túc và sự minh mẫn của chúng ta? Và cũng chính vì cha đã nhìn xuống bản danh sách trong lúc do dự ấy mà cha đột nhiên phát hiện một cái gì đó kỳ lạ. Bàn tay cha lập tức với tới trang tài liệu gốc viết bằng tiếng Hy Lạp, thư mục của Giáo đoàn Rồng. Rốt cuộc, không phải tất cả đều được viết bằng chữ Hy Lạp. Cha có thể đọc rõ ràng một cái tên ở cuối danh sách: Bartolomeo Rossi. Theo sau đó là một câu bằng chữ Latin.

“ ‘Lạy Chúa!” Cha nhận ra quá muộn màng là tiếng kêu của mình đã kinh động tới những nhà nghiên cứu đang im lặng trong phòng. Ông Erozan, vẫn đang nói chuyện với người đàn ông đội mũ và có râu dài, quay lại nhìn chúng ta, vẻ thắc mắc.

“Ngay lập tức Turgut tỏ ra cảnh giác, Helen lập tức nhích đến gần hơn. ‘Chuyện gì vậy?’ Turgut với tay về phía trang tài liệu. Cha vẫn còn đang nhìn trừng trừng; ông ta dễ dàng dõi theo ánh mắt của cha. Rồi ông ta nhảy dựng lên, bật ra một tiếng kêu thảng thốt mà có lẽ phản ánh đúng tâm trạng rối bời của cha, âm vang tiếng kêu này rõ ràng đến độ cha đã cảm thấy một niềm an ủi kỳ lạ giữa vô vàn những chuyện kỳ lạ khác: ‘Thượng đế ơi! Giáo sư Rossi!’

Cả ba người chúng ta đưa mắt nhìn nhau, và trong chốc lát tất cả đều lặng thinh. Cuối cùng cha thử lên tiếng. ‘Ông,’ cha trầm giọng với Turgut, ‘ông biết cái tên này?’

“Turgut nhìn từ cha sang Helen. ‘Các bạn biết ông ta ư?’ cuối cùng ông thốt lên.”

Barley nở nụ cười tử tế. “Chắc em phải mệt lắm thì mới ngủ say thế. Anh thì chỉ nghĩ đến cái mớ hỗn độn mà em đang lâm vào thôi cũng đủ thấy mệt rồi. Người ta sẽ nói gì nếu em kể hết những chuyện này ra nhỉ - ý anh là với bất kỳ người nào khác ấy? Chẳng hạn như quý bà ở đằng kia.” Anh hất đầu chỉ vào người bạn đồng hành đang gà gật của chúng tôi, bà đã không xuống tàu ở Brussels và rõ ràng có ý định ngủ cho đến tận Paris. “Hoặc với một tay cảnh sát. Người ta sẽ chẳng nghĩ gì khác ngoài việc cho là em bị điên.” Anh thở dài. “Mà em dự định đi về miền Nam nước Pháp một mình thật đấy à? Thay vì đoán mò, anh muốn em cho anh biết địa điểm chính xác để có thể đánh điện về cho bà Clay và thông báo em đang lâm vào cảnh rắc rối nhất có thể.”

Đến lượt tôi mỉm cười. Chúng tôi đã dùng cớ này vài lần rồi.

“Em bướng bỉnh khiếp lên được,” Barley càu nhàu. “Anh chưa bao giờ nghĩ một cô bé lại có thể gây nhiều rắc rối đến vậy - cụ thể là rắc rối mà anh sẽ gặp với thầy James nếu bỏ lại em bơ vơ giữa lòng nước Pháp này, em biết đấy.” Câu nói này suýt nữa làm tôi xúc động ứa nước mắt, nhưng những lời kế tiếp của anh lại làm cho nước mắt tôi ráo hoảnh, còn trước khi kịp hình thành. “Ít ra chúng ta cũng còn thời gian để ăn trưa trước khi đón chuyến tàu kế tiếp. Ga Bắc(1) có món bánh mì sandwich tuyệt ngon, và bọn mình có thể xài hết những đồng franc còn lại của anh.” Hai tiếng “bọn mình” làm tôi cảm thấy ấm lòng.

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Pháp: Gare du Nord.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Bước xuống một đoàn tàu, dù đó là một chuyến tàu hiện đại, để vào Ga Bắc, cái vũ đài vĩ đại của những chuyến du hành, với các khung sắt và thủy tinh cũ kỹ vươn thẳng lên trời, với vẻ đẹp của không gian hình mái vòm tràn đầy ánh sáng, chúng tôi đã đến Paris. Barley và tôi xuống tàu, tay xách túi, đứng lặng yên một lúc lâu và say sưa ngắm nhìn. Ít nhất thì đó cũng là những gì tôi đang làm, dù đã từng ở đó hoặc đi ngang qua nơi chốn này nhiều lần trong những chuyến du hành cùng cha. Nhà ga vang dội âm thanh của những đoàn tàu đang thắng lại, tiếng người trò chuyện, tiếng bước chân, tiếng còi hiệu, tiếng đập cánh vội vã của lũ bồ câu, tiếng leng keng của những đồng xu. Một ông già đầu đội mũ nồi đen khoác tay một thiếu nữ trẻ đi ngang qua chúng tôi. Cô gái có mái tóc đỏ cắt rất khéo và đôi môi tô son hồng, trong một thoáng, tôi hình dung mình đang đổi chỗ với cô gái. Ôi, để trông được như vậy, để được là dân Paris, để được là người lớn, để được mang bốt cao gót, có ngực thực sự, và có một nghệ sĩ già dặn lịch thiệp bên cạnh! Nhưng tôi chợt nghĩ, ông già kia có thể là cha cô gái, và bất chợt lại cảm thấy rất đỗi cô đơn.

Tôi quay sang Barley, hình như anh đang thưởng thức mùi vị hơn là phong cảnh. “Trời ơi, anh đói bụng quá,” anh càu nhàu. “Nếu đã đến đây thì ít nhất chúng ta phải ăn cái gì đó ngon ngon chứ.” Anh phóng nhanh về phía một góc nhà ga, tựa như đã nằm lòng đường đi lối lại ở đây; thật vậy, hóa ra không những biết rõ đường đi mà Barley còn rất rành món giăm bông cắt lát mỏng ăn với mù tạt, và chẳng mấy chốc bọn tôi đã đang thưởng thức hai ổ sandwich to tướng gói trong bao giấy trắng. Thậm chí Barley không thèm ngồi xuống chiếc ghế dài mà tôi vừa tìm được.

Tôi cũng đói, nhưng lo nghĩ nhiều hơn về những việc phải làm kế tiếp. Giờ chúng tôi đã xuống tàu, Barley có thể đến một trạm điện thoại công cộng bất kỳ để gọi về cho bà Clay hoặc thầy James, có khi gọi cả một đoàn cảnh sát đến còng tay tống tôi trở về Amsterdam. Tôi lo lắng nhìn chừng anh, nhưng hầu như khuôn mặt anh lúc nào cũng khuất sau ổ bánh sandwich. Khi anh ngừng ăn để uống chút nước cam, tôi tranh thủ nói ngay, “Anh Barley, anh làm ơn giúp em một việc nhé.”

“Chuyện gì nữa đây?”

“Làm ơn đừng gọi bất kỳ cuộc điện thoại nào. Ý em là, anh Barley, xin đừng bắt em về nhà. Từ đây, em sẽ đi xuống miền Nam, không hề gì đâu. Anh thấy đó, em không thể về nhà khi chưa biết cha mình đang ở đâu và có chuyện gì đang xảy ra với cha, anh hiểu chứ?”

Anh hớp một ngụm nước cam, vẻ nghiêm nghị, “Anh hiểu.”

“Làm ơn nhé, anh Barley.”

“Em xem anh là gì chứ?”

“Em không biết,” tôi đáp, có phần ngơ ngác. “Em nghĩ anh giận về việc em bỏ trốn, và có thể vẫn cảm thấy cần phải mách người lớn.”

“Em nghĩ xem,” Barley nói. “Thực sự thẳng thắn mà nói thì ngay bây giờ anh có thể lôi theo em cùng trên đường trở về với các bài giảng ngày mai - và một màn trách mắng ra trò của thầy James. Hoặc thay vì vậy, ở đây, để sự ga lăng và trí tò mò thúc đẩy, bốc đồng đi cùng một cô gái đến tận miền Nam nước Pháp. Em nghĩ anh sẽ bỏ lỡ cơ hội này sao?”

“Em không biết,” tôi lặp lại, giọng tỏ ra biết ơn hơn.

“Tốt hơn chúng ta nên hỏi về chuyến tàu kế tiếp đi Perpignan,” Barley nói, gấp vỏ bao giấy ổ bánh mì lại một cách dứt khoát.

“Làm sao anh biết?” tôi hỏi, giọng ngạc nhiên.

“Ồ, chắc em nghĩ mình bí mật lắm hả.” Trông Barley lại có vẻ bực dọc. “Chẳng phải anh đã dịch tất cả mấy thứ trong tuyển tập về ma cà rồng ấy cho em hay sao? Em có thể đi đâu ngoài tu viện ở tỉnh Pyrénées-Orientales cơ chứ? Chẳng lẽ anh không biết bản đồ nước Pháp hay sao? Thôi nào, đừng nhăn nhó nữa. Như thế sẽ làm cho bản mặt em kém hấp dẫn đi nhiều đấy.” Cuối cùng, chúng tôi cùng nhau bước đến quầy đổi tiền(1), tay trong tay.

“Khi Turgut thốt lên tên thầy Rossi bằng cái giọng quen thuộc không thể nào nhầm lẫn ấy, cha đột nhiên có cảm giác về một thế giới đang đổi thay, về những mảng màu sắc và hình dạng bị đẩy bật ra khỏi vị trí của chúng và biến thành một hình ảnh vô lý rối rắm. Tựa như cha đang xem một cuốn phim quen thuộc thì đột nhiên một nhân vật chưa bao giờ xuất hiện trước đó hiện lên màn ảnh, nhập vai một cách trơn tru mà không có sự giải thích nào.

“ ‘Anh biết giáo sư Rossi à?’ Turgut lặp lại, vẫn giọng như cũ.

“Cha vẫn còn chưa biết phải nói gì, nhưng hình như Helen đã có một quyết định. ‘Giáo sư Rossi là giáo sư hướng dẫn của anh Paul, ở khoa lịch sử trường đại học chúng tôi.’

“ ‘Nhưng quả thực không thể nào tin được,’ Turgut từ tốn.

“ ‘Ông biết ông ấy?’ cha hỏi.

“ ‘Tôi chưa bao giờ gặp ông ấy,’ Turgut đáp. ‘Nhưng tôi đã được nghe nói theo một cách khác thường nhất, tôi nghĩ đây là một câu chuyện mà tôi phải kể với các bạn. Ngồi xuống đi, các bạn.’ Dù vẫn còn kinh ngạc nhưng Turgut vẫn tỏ ra niềm nở với chúng ta. Helen và cha vẫn đứng, nhưng rồi chúng ta cũng ngồi xuống gần bên ông ta. ‘Ở đây có gì đó vô cùng kỳ lạ…’ Ông ta dừng lại giữa chừng, rồi có vẻ như phải gắng sức để giải thích cho chúng ta. ‘Nhiều năm trước, khi bắt đầu say mê các tư liệu này, tôi đã hỏi viên thủ thư về tất cả thông tin có thể hỏi được về chúng. Ông ta bảo, theo như ông ta còn nhớ, trước đây chưa từng có ai lục tìm chúng cả, nhưng ông nghĩ người tiền nhiệm - ý tôi muốn nói viên thủ thư trước ông ta - biết một điều gì đó về chúng. Và tôi đã tìm gặp ông thủ thư già đó.’

“ ‘Hiện ông ấy vẫn còn sống chứ?’ cha hỏi, vẻ nôn nóng.

“ ‘Ồ, không, anh bạn à. Tôi rất tiếc. Lúc đó ông ta đã già lắm rồi, và đã chết một năm sau khi tôi hỏi chuyện ông ta, tôi tin vậy. Nhưng trí nhớ của ông ta thật là tuyệt vời, ông ta cho tôi biết là đã bỏ vào hộp, khóa cất bộ sưu tập này lại vì đã có một cảm giác tồi tệ về nó. Ông ta kể lại, trước đó có một vị giáo sư người nước ngoài đã có lần nghiên cứu về bộ sưu tập này, nhưng sau đó ông ta trở nên - người ta gọi thế nào nhỉ? - bị rối loạn và gần như nổi điên, sau đó đột ngột bỏ chạy ra khỏi trung tâm lưu trữ. Vị thủ thư già kể tiếp chuyện xảy ra vài ngày sau đó, một ngày kia, lúc đang ngồi làm việc một mình trong thư viện, ông ta nhìn lên và bất chợt nhận ra có một người đàn ông cao lớn đang xem xét cùng các tài liệu đó. Trước đó không thấy ai vào, lúc đó là sau giờ mở cửa bình thường của thư viện, trời đã tối và cánh cửa thông ra đường đã khóa lại. Ông ta không hiểu bằng cách nào người đàn ông kia vào được thư viện. Sau cùng ông nghĩ có lẽ mình đã quên khóa cửa và người đàn ông kia đã lên cầu thang mà ông không nghe thấy tiếng bước chân, dù điều này hầu như khó có thể xảy ra. Rồi ông ta kể với tôi là’ - Turgut nghiêng người tới phía trước, hạ giọng thấp hơn - ‘ông ta kể với tôi khi ông đến gần gã đàn ông kia để hỏi xem hắn đang làm gì, hắn đã ngước nhìn lên và - các bạn biết đấy - một ít máu vẫn đang nhỏ giọt ở khóe miệng hắn.’

“Cha cảm nhận một cơn rùng mình vì khiếp sợ, Helen thì so vai lại tựa như để tránh một cơn rùng mình. ‘Thoạt tiên, ông thủ thư già không muốn kể với tôi chuyện đó. Tôi tin rằng ông ta ngại tôi sẽ cho rằng ông ta bị mất trí. Ông thú thật đã cảm thấy choáng váng khi nhìn thấy cảnh tượng đó, lúc ông nhìn lại thì gã đàn ông kia đã biến mất, nhưng mớ tài liệu vẫn còn rải rác trên bàn. Ngày hôm sau ông đã mua một chiếc hộp linh thiêng ở chợ đồ cổ, bỏ mớ tài liệu vào hộp và khóa chúng lại, tuyên bố chừng nào ông còn là thủ thư ở đó thì sẽ không ai được đụng đến chúng nữa. Sau đó ông ta cũng không hề gặp lại gã đàn ông đó.’

“ ‘Về phần ông Rossi thì sao?’ cha hỏi.

“ ‘Chà, anh thấy đó, tôi quyết tâm tìm lại mọi dấu vết của câu chuyện này nên tôi đã hỏi thăm người thủ thư già tên của nhà nghiên cứu ngoại quốc kia, nhưng ông ta không còn nhớ bất cứ điều gì ngoài chi tiết ông này là người Ý. Ông bảo, nếu muốn tôi hãy đến tìm ở quầy đăng ký vào thời điểm 1930, và anh bạn tôi, làm việc ở đấy, đã cho phép tôi làm việc đó. Sau một lúc tìm kiếm, tôi đã tìm được tên của giáo sư Rossi và biết được ông ta đến từ nước Anh, Đại học Oxford. Sau đó tôi viết một lá thư cho ông ta, gửi đến Oxford.’

“ ‘Ông ấy trả lời chứ?’ Helen hỏi, gần như nhìn Turgut trừng trừng.

“ ‘Có, nhưng ông ta không còn ở Oxford nữa. Ông đã đến một trường đại học Mỹ - trường của các bạn ấy, nhưng thoạt tiên khi chúng ta nói chuyện với nhau tôi đã không liên kết cái tên này với các bạn - và phải sau rất lâu lá thư của tôi mới đến tay ông ta, rồi ông ta viết thư trả lời. Ông nói là rất lấy làm tiếc, nhưng ông không biết bất cứ điều gì về các tài liệu lưu trữ mà tôi đề cập và do vậy không thể giúp tôi. Tôi sẽ cho các bạn xem lá thư này tại nhà tôi khi các bạn đến ăn tối với gia đình tôi. Lá thư trả lời này đến tay tôi chẳng bao lâu trước khi chiến tranh xảy ra.’

“ ‘Việc này rất kỳ lạ,’ cha lẩm bẩm. ‘Tôi thật không thể nào hiểu được.’

“ ‘Ồ, đây chưa phải là chuyện kỳ lạ nhất đâu,’ Turgut nói, vẻ bức xúc. Ông quay lại nhìn tờ giấy da trên bàn, bản thư mục, ngón tay ông ta rà đến tên của thầy Rossi ở dưới cùng. Nhìn vào đó, cha lại chú ý đến những chữ phía sau tên thầy Rossi. Chúng là chữ Latin, cha chắc chắn như vậy, dù vốn liếng Latin học từ hai năm đầu đại học của cha chưa bao giờ giỏi đặc biệt và nay thì đã mai một chẳng thể đọc được cụ thể dòng chữ ấy.

“ ‘Câu này ý nghĩa gì? Ông đọc được tiếng Latin chứ?’

“Cha cảm thấy nhẹ nhõm khi Turgut gật đầu. ‘Nó nghĩa là, “Bartolomeo Rossi, ‘Linh hồn - Hồn ma - trong bình cổ.’ ” ’

“Đầu óc cha quay cuồng. ‘Nhưng tôi biết câu đó. Tôi nghĩ - tôi chắc chắn đó là tựa đề của một bài báo mà ông ta bắt đầu viết vào mùa xuân này.’ Cha dừng lại. ‘Nói đúng hơn là đang viết dở. Ông ta đã đưa nó cho tôi xem khoảng một tháng trước đây. Bài báo viết về thể loại bi kịch Hy Lạp và các đồ vật đôi khi được các nhà hát Hy Lạp dùng làm đạo cụ sân khấu.’ Helen nhìn cha chăm chú. ‘Đó là - tôi chắc chắn ông ta vẫn đang viết nó.’

“ ‘Điều kỳ lạ, rất kỳ lạ là,’ Turgut nói, và bây giờ cha nhận thấy giọng của ông ta thực sự trở nên sợ hãi, ‘tôi đã xem bản danh sách này nhiều lần, và chưa hề bao giờ nhìn thấy đề mục này. Một ai đó đã thêm tên ông Rossi vào.’

“Cha kinh ngạc nhìn ông ta. ‘Hãy thử tìm xem người đó là ai,’ cha nói, giọng hổn hển. ‘Chúng ta phải tìm cho ra người nào đã sửa chữa những tài liệu này. Lần cuối cùng ông đến đây là khi nào?’

“ ‘Khoảng ba tuần trước,’ Turgut trả lời rành rọt. ‘Vui lòng chờ một lát, để tôi đến hỏi ông Erozan đã. Xin đừng đi đâu cả.’ Nhưng khi ông ta dợm đứng dậy, viên thủ thư chu đáo đã nhìn thấy và đến gặp ông ta ngay. Họ trao đổi với nhau mấy câu ngắn gọn.

“ ‘Ông ta nói gì vậy?’ cha hỏi.

“ ‘Tại sao ông ta không nghĩ đến việc nói với tôi chuyện này trước cơ chứ?’ Turgut rền rĩ. ‘Hôm qua, một người đàn ông đã đến đây và xem qua cái hộp này.’ Turgut tra vấn thêm ông bạn của mình và Erozan phác tay chỉ ra hướng cửa. ‘Gã kia kìa,’ Turgut nói, vừa trỏ tay. ‘Ông ta nói đó chính là người vừa mới vào và ông ta đã tiếp chuyện với gã.’

“Tất cả chúng ta đều quay lại, kinh ngạc, người thủ thư lại ra dấu này nọ, nhưng đã quá trễ. Gã đàn ông nhỏ thó râu xám đội mũ trắng đã biến mất.”

Barley lục ví. “Chậc, mình phải đổi hết số tiền anh mang theo thôi,” anh rầu rĩ nói. “Ngoài số tiền của thầy James, anh còn một ít tiền trợ cấp nữa đây.”

“Em cũng có mang theo một ít,” tôi nói. “Ý em là, từ Amsterdam. Em nghĩ mình sẽ mua vé tàu về miền Nam, và có thể đủ tiền ăn ở cho chúng ta, ít nhất cũng được vài ngày.” Tôi thầm tự hỏi không biết liệu mình thực sự có đủ tiền để kham nổi việc ăn uống của Barley hay không. Quả thực kỳ lạ khi một người gầy gầy như anh lại có thể ăn được nhiều như vậy. Tôi cũng gầy, nhưng không thể tưởng tượng mình có thể nuốt nổi hai miếng sandwich theo cái tốc độ mà Barley vừa mới cho tôi xem. Tôi nghĩ nỗi lo lắng về tiền bạc này thật là một gánh nặng khó chịu đè lên đầu óc mình cho đến khi chúng tôi thực sự đứng trước quầy đổi tiền và thấy một phụ nữ trẻ mặc áo cộc tay màu xanh nước biển soi mói nhìn chúng tôi. Barley nói chuyện với cô về tỷ giá ngoại tệ, rồi lát sau cô nhấc điện thoại lên, quay đi nói gì đó vào ống nghe. “Tại sao cô lại gọi điện thoại?” tôi lo lắng thì thầm hỏi Barley.

Anh ngạc nhiên liếc nhìn tôi. “Vì lý do nào đó, cô đang kiểm tra tỷ giá,” anh trả lời. “Anh không biết. Em nghĩ gì vậy?”

Tôi không thể giải thích. Có lẽ chỉ là do ảnh hưởng từ những lá thư của cha, nhưng đúng là bây giờ đối với tôi mọi chuyện đều trông có vẻ khả nghi cả. Tựa như chúng tôi đang bị theo dõi bởi những đôi mắt vô hình.

“Turgut, có vẻ bớt lơ đãng hơn cha, vội chạy đến cửa và khuất dạng vào phòng giải lao. Sau đó ông ta quay trở lại, lắc đầu. ‘Hắn biến mất rồi,’ ông ta nặng nề nói. ‘Tôi không thấy dấu vết của hắn ở ngoài đường. Hắn đã biến vào đám đông.’

“Ông thủ thư Erozan có vẻ như đang xin lỗi, Turgut nói chuyện với ông ta thêm một lúc rồi quay sang chúng ta. ‘Trong quá trình nghiên cứu, liệu có lý do nào để các bạn nghĩ rằng đã bị theo dõi đến đây?’

“ ‘Bị theo dõi?’ Có đủ mọi lý do để nghĩ như vậy, nhưng cha không biết chính xác là kẻ nào.

“Turgut nhìn cha, ánh mắt sắc sảo, cha nhớ lại sự xuất hiện của ả Gypsy tại bàn ăn của cha và Helen tối hôm qua. ‘Anh bạn thủ thư của tôi nói là người đàn ông kia muốn xem các tài liệu mà chúng ta đang nghiên cứu, gã đã giận dữ khi nhận thấy chúng đang bị người khác sử dụng. Ông ta nghĩ gã là người nước ngoài vì hắn nói tiếng Thổ bằng một giọng lơ lớ. Đó là lý do vì sao tôi hỏi có ai đó theo dõi các bạn đến đây hay không. Các bạn à, chúng ta hãy rời khỏi đây, nhưng phải cẩn thận coi chừng. Tôi sẽ nhờ ông bạn tôi canh giữ các tài liệu này, và lưu ý đến gã đàn ông kia hoặc bất kỳ ai khác để mắt đến chúng. Ông ta sẽ cố tìm hiểu hắn là ai nếu hắn quay trở lại. Có lẽ hắn sẽ quay lại ngay nếu chúng ta rời khỏi nơi này.’

“ ‘Còn những tấm bản đồ!’ Cha cảm thấy lo lắng vì phải để lại những vật quý giá trong chiếc hộp này. Hơn nữa, chúng ta đã biết được gì đâu? Thậm chí chúng ta chưa giải được sự bí ẩn của ba tấm bản đồ, ngay cả khi đã đứng ở đó, nhìn chúng hiện diện sờ sờ một cách kỳ lạ trên chiếc bàn của thư viện.

“Turgut lại quay về phía ông Erozan, và một nụ cười, một tín hiệu hiểu biết lẫn nhau dường như đang được gửi đi giữa họ. ‘Đừng lo, giáo sư ạ,’ Turgut nói với cha. ‘Tôi đã tự tay sao chép lại hết mọi thứ này, và các bản sao đã được cất giữ an toàn tại nhà tôi. Hơn nữa, ông bạn tôi sẽ không cho phép bất kỳ chuyện gì xảy ra đối với những bản gốc này. Các bạn có thể tin tôi.’

“Cha muốn tin. Helen đang kín đáo quan sát hai người bạn mới quen của chúng ta, cha băn khoăn tự hỏi cô suy đoán được gì sau tất cả việc này. ‘Vậy thì ổn rồi,’ cha nói.

“ ‘Đi nào, các bạn.’ Turgut bắt đầu dọn dẹp tài liệu, nhẹ nhàng nâng niu chúng đến mức cha nghĩ mình không thể nào làm được như vậy. ‘Có vẻ chúng ta còn nhiều điều cần bàn luận riêng với nhau. Tôi sẽ đưa các bạn về nhà tôi, chúng ta trò chuyện ở đó. Tôi cũng sẽ cho các bạn xem một số tư liệu khác mà tôi đã thu thập được về chủ đề này. Không nên bàn những chuyện này ở ngoài đường. Chúng ta sẽ rời khỏi nơi đây, càng lộ liễu càng tốt và’ - ông gật đầu về phía viên thủ thư - ‘chúng ta để lại vị tướng giỏi nhất của mình ở vị trí chiến đấu.’ Ông Erozan bắt tay chúng ta, từng người một, cẩn thận khóa chiếc hộp lại, mang đi và cùng nó biến mất giữa các kệ sách phía sau đại sảnh. Cha nhìn theo cho đến khi ông thủ thư hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt, rồi bất chợt buông một tiếng thở dài. Cha không thể rũ bỏ cái cảm giác là số phận của thầy Rossi vẫn bị che giấu trong chiếc hộp đó - gần như thể, xin Chúa tha thứ, thầy Rossi đã bị chôn vùi trong đó - mà chúng ta không sao cứu ông ra được.

“Sau đó chúng ta ra khỏi tòa nhà, cố tình đứng lồ lộ trên bậc thang trong vài phút, vờ như đang trò chuyện. Dù cha cảm thấy cực kỳ căng thẳng còn Helen thì trông tái nhợt, nhưng Turgut vẫn tỏ ra bình tĩnh. ‘Nếu còn quanh quẩn đâu đây,’ ông ta nói nhỏ, ‘tên ném đá giấu tay nhỏ thó ấy sẽ biết chúng ta sắp ra về.’ Ông chìa cánh tay ra cho Helen, cô khoác lấy cánh tay ấy chả có vẻ gì miễn cưỡng như cha nghĩ, rồi chúng ta cùng nhau ra về, băng qua những con đường đông người qua lại. Đã đến giờ ăn trưa, mùi bánh mì và thịt nướng ngậy lên khắp xung quanh chúng ta, hòa lẫn với một mùi nặng nề khó chịu, có thể đó là mùi than hay mùi dầu cặn, thứ mùi mà đôi lúc cha lại đột ngột nhớ ra, đối với cha đó là một mùi có ý nghĩa như ranh giới của thế giới phương Đông. Cha nghĩ, dù bất kỳ chuyện gì xảy ra tiếp theo, nó cũng sẽ là một bí ẩn khác, cũng như toàn bộ nơi đây - cha nhìn chung quanh vào những gương mặt trong đám đông người Thổ, những chóp nhọn thanh mảnh của các ngọn tháp ở đường chân trời cuối mỗi con đường, những mái vòm cổ xưa giữa những cây sung, những cửa hàng đầy những món hàng kỳ bí - là một bí ẩn. Nhưng bí ẩn lớn nhất trong số ấy một lần nữa lại giày vò trái tim cha đau đớn: thầy Rossi đang ở đâu? Liệu thầy có ở đây, trong thành phố này, hay ở đâu đó xa hơn? Còn sống hay đã chết, hay đang ở giữa sự sống và cái chết?”

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Pháp: Bureau de change.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Đúng 4 giờ 02 phút, Barley và tôi đáp chuyến tàu tốc hành đi về miền Nam, đến Perpignan. Barley quẳng hành lý qua bậc thang lên tàu dựng đứng rồi đưa tay ra giúp tôi lên theo. Chỉ có vài hành khách trên chuyến tàu, thậm chí khi tàu đã chuyển bánh thì toa tàu chúng tôi bước vào vẫn trống trơn. Tôi bắt đầu thấm mệt; nếu ở nhà vào giờ này thì bà Clay đã bắt tôi ngồi vào bàn ăn trong nhà bếp, cùng với một cốc sữa và một lát bánh nướng vàng ngậy. Trong thoáng chốc, tôi hầu như cảm thấy nhớ tiếc sự chăm sóc phiền phức của bà. Barley ngồi xuống bên tôi, mặc dù còn bốn chỗ ngồi khác để anh lựa chọn, và tôi dúi tay vào dưới cánh tay mặc áo len của anh. “Anh phải học bài đây,” anh nói, nhưng không mở sách ra ngay; có quá nhiều thứ cần phải xem khi đoàn tàu tăng tốc chạy qua thành phố. Tôi nghĩ đến những lần ở đây cùng cha - leo lên dốcMontmartre, hay ngắm nhìn chú lạc đà u sầu ủ rũ trong Vườn Bách thảo. Paris giờ dường như là một thành phố tôi chưa từng nhìn thấy.

Tôi thấy buồn ngủ khi nhìn Barley mấp máy môi đọc cuốn sách của Milton, và đã lắc đầu từ chối vì đang lơ mơ ngủ khi anh nói muốn xuống toa ăn để uống trà. “Em đúng là kiệt sức rồi,” anh nói, mỉm cười. “Vậy thì em cứ ở đây mà ngủ, anh sẽ mang sách theo. Khi nào em thấy đói chúng ta có thể trở lại toa ăn dùng bữa.”

Mắt tôi gần như khép lại ngay khi anh ta rời khỏi toa, và khi lại mở mắt ra tôi thấy mình đang nằm cuộn tròn trên chiếc ghế trống trơn, như một đứa bé con, chiếc váy vải bông dài kéo lên trên mắt cá chân. Có người nào đó đang ngồi đọc báo ở băng ghế đối diện, nhưng không phải là Barley. Tôi ngồi bật dậy ngay. Người đàn ông đang đọc tờ Le Monde, tờ báo trải rộng che gần hết người ông ta - tôi hoàn toàn không thấy được phần thân trên và gương mặt người đàn ông đó. Một chiếc cặp da đen đặt trên ghế bên cạnh ông ta.

Trong một thoáng, tôi đã tưởng tượng đó là cha, một cảm xúc vừa biết ơn vừa bối rối dâng tràn trong tôi. Rồi tôi nhìn thấy đôi giày người đàn ông, cũng là loại giày da màu đen và rất bóng, mũi giày có những lỗ nhỏ sắp thành những hình thanh tú, đầu dây buộc là các tua núm màu đen. Ông ta bắt chân chữ ngũ, mang vớ lụa đen mịn và mặc quần com lê cũng màu đen không chê vào đâu được. Không phải là giày của cha; thực ra, có một cái gì đó không bình thường ở đôi giày đó, hoặc với đôi bàn chân mang nó, dù tôi không thể hiểu điều gì khiến tôi cảm nhận như vậy. Tôi nghĩ một người đàn ông xa lạ không nên vào trong khoang lúc tôi đang ngủ - chuyện này cũng có gì đó thật khó chịu, mong là ông ta đã không nhìn ngắm gì lúc tôi đang ngủ. Tôi bực mình tự hỏi liệu mình có thể đứng lên, mở cửa khoang mà không làm cho ông ta để ý hay không. Đột nhiên tôi nhận ra ông ta đã kéo rèm ngăn giữa khoang tàu của chúng tôi và lối đi lại. Không ai đi ngang qua có thể nhìn thấy chúng tôi. Hay là Barley đã kéo rèm lại trước khi đi để tôi ngủ cho yên?

Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã gần năm giờ. Bên ngoài, phong cảnh bao la lướt qua; chúng tôi đang tiến vào miền Nam. Người đàn ông phía sau tờ báo vẫn tiếp tục bất động, tôi bắt đầu run mặc dù không muốn chút nào. Một lát sau, tôi nhận ra điều gì đã khiến tôi hoảng sợ. Dù đã thức giấc rất lâu, và suốt thời gian đó tôi đã nhìn và lắng nghe, nhưng ông ta vẫn không lật một trang báo nào.

“Căn hộ của Turgut nằm tại một khu vực khác của Istanbul, trên bờ biển Marmara, chúng tôi đáp chuyến phà từ một bến cảng náo nhiệt có tên là Eminưn đến đó. Helen đứng tựa lan can, dõi nhìn những chú mòng biển đang bay lượn theo con tàu, và quay lại nhìn hình bóng đồ sộ của khu thành cổ. Cha đến đứng cạnh cô, Turgut đưa tay chỉ cho chúng ta thấy những ngọn tháp và mái vòm, giọng ông ta át hẳn tiếng ầm ì của động cơ tàu. Khi bước xuống phà, chúng ta nhận ra khu vực ngoại ô nơi ông ta ở hiện đại hơn những gì chúng ta đã nhìn thấy trước đó, nhưng trong trường hợp này hiện đại chỉ có ý nghĩa là thế kỷ thứ mười chín. Khi đi dọc theo những con đường càng lúc càng yên tĩnh hơn, xa dần địa điểm con phà đổ khách, cha nhìn thấy một Istanbul thứ hai, mới lạ trong mắt cha: những hàng cây trang nghiêm rủ bóng, những ngôi nhà xây dựng bằng đá và gỗ xinh xắn, những chung cư dường như được bốc ra từ một khu ngoại ô Paris, những vỉa hè gọn gàng, những chậu hoa, những gờ tường chạm trổ. Đây đó, dấu vết của đế quốc Hồi giáo xa xưa đột ngột hiện ra dưới hình dạng một khung cửa vòm đổ nát hoặc một thánh đường Hồi giáo nằm tách biệt lẻ loi, một căn nhà kiểu Thổ với tầng hai nhô ra ở trên. Nhưng trên con đường nơi nhà Turgut tọa lạc, phương Tây đã tràn qua để lại những dấu ấn lịch thiệp và hoàn hảo. Sau này cha đã thấy những bản sao khác của nó tại những thành phố khác - Praha và Sofia, Budapest và Matxcơva, Belgrade và Beirut. Nét thanh lịch này được vay mượn khắp nơi trong thế giới phương Đông.

“ ‘Xin mời vào.’ Turgut dừng lại phía trước một dãy nhà cổ, dẫn chúng ta lên một cầu thang đôi phía trước, và kiểm tra một hòm thư nhỏ có ghi tên GIÁO SƯ BORA - có vẻ không có gì. Ông ta mở cửa và bước tránh qua một bên. ‘Xin mời, chào mừng các bạn đã đến nơi trú ngụ của tôi, ở đây mọi thứ đều là của bạn. Tiếc là vợ tôi không có nhà - bà ấy đang dạy ở nhà trẻ.’

“Trước tiên chúng ta bước vào căn phòng sảnh có sàn và tường gỗ bóng láng, ở đó chúng ta bắt chước Turgut, cởi giày ra rồi xỏ chân vào những đôi dép thêu ông ta trao cho. Sau đó ông đưa chúng ta vào phòng khách, Helen khẽ thốt lên trầm trồ, cha cũng không thể nào không lặp lại tiếng trầm trồ đó. Gian phòng tràn ngập một thứ ánh sáng xanh nhạt dễ chịu, hòa lẫn với chút ánh hồng và vàng dịu. Một lát sau, cha nhận ra đó là ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua một lùm cây bên ngoài hai khung cửa sổ lớn. Căn phòng xếp đầy những thứ đồ gỗ khác thường, rất thấp, bằng thứ gỗ màu sậm có chạm khắc, có đệm lót và bọc bằng nhiều loại vải sặc sỡ. Chạy quanh theo ba bức tường là một băng ghế dài với những chiếc gối phủ ren. Phía trên băng ghế, những bức tường được sơn trắng và trang trí bằng những bức tranh in, tranh phong cảnh Istanbul, bức chân dung của một ông lão đội mũ đuôi seo và một bức khác hình một người đàn ông trẻ hơn mặc com lê đen, một tờ giấy da được đóng khung, đầy những nét chữ Ả-rập tinh tế. Có những bức ảnh sepia chụp cảnh thành phố, màu nâu đỏ đã phai và các tủ nhỏ xếp đầy những bộ đồ cà phê bằng đồng. Trong các góc phòng là những chiếc bình gốm tráng men nhiều màu, đầy ắp hoa hồng. Dưới chân bình là những tấm thảm dày màu đỏ thẫm, hồng và xanh nhạt. Ở ngay giữa phòng là một khay tròn lớn có chân đứng bóng láng và trống không, tựa như đang chờ đợi bữa ăn kế tiếp.

“ ‘Căn nhà đẹp quá,’ Helen trầm trồ, quay sang vị chủ nhà, cha còn nhớ cô trông dễ thương như thế nào khi sự chân thành làm dịu đi những nếp nhăn khắc nghiệt quanh miệng và mắt. ‘Chẳng khác gì cảnh trong Nghìn lẻ một đêm.’

“Turgut bật cười, khiêm tốn xua tay ra vẻ không dám nhận lời khen tặng, nhưng rõ ràng ông ta rất hài lòng. ‘Là do vợ tôi đấy,’ ông ta nói. ‘Bà ấy rất yêu thích đồ thủ công mỹ nghệ cổ của đất nước chúng tôi, gia đình bên ngoại cũng để lại cho vợ tôi nhiều món rất đẹp. Có khi còn có món gì đó từ thời đế chế của Quốc vương Mehmed cũng nên.’ Ông ta cười với cha. ‘Tôi pha cà phê không ngon như bà nhà tôi - bà ấy vẫn hay bảo tôi thế - nhưng tôi sẽ cố hết sức.’ Ông ta mời chúng ta ngồi xuống bộ ghế gỗ thấp, sát bên nhau, cha cảm thấy thích thú khi nghĩ về tất cả những vật dụng truyền thống cho thấy sự sung túc kia: đệm, trường kỷ và - nhất là - ottoman, loại ghế dài có đệm.

“Nỗ lực lớn nhất của Turgut hóa ra lại là bữa trưa. Ông ta từ chối mọi đề nghị giúp đỡ tha thiết của cha và Helen, một mực tự nấu rồi tự mang vào từ gian bếp nhỏ ở bên kia phòng đợi. Cha không thể hình dung bằng cách nào ông làm xong được bữa ăn trong một thời gian ngắn như vậy - chắc có lẽ thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trong nhà bếp. Ông mang ra mấy khay gồm nước xốt và xa lát, một tô dưa, một món thịt hầm rau cải, những xiên thịt gà nướng, món dưa leo nghiền cùng sữa chua quen thuộc, cà phê, và rất nhiều kẹo hạnh nhân tẩm mật. Chúng ta đã ăn uống rất ngon miệng, Turgut cứ thúc ép ăn cho đến lúc chúng ta phải rên lên. ‘Ôi,’ ông ta nói, ‘tôi không thể để bà nhà tôi nghĩ là tôi đã bỏ đói các bạn.’ Sau bữa ăn là một ly nước đặt gần bên một cái đĩa đựng chất gì đó màu trắng và tỏa mùi thơm ngát. ‘Tinh chất hoa hồng,’ Helen cho biết, sau khi nếm thử. ‘Rất tuyệt. Ở Rumani người ta cũng dùng thứ này.’ Cô cho một ít chất trắng vào ly rồi nhâm nhi ly nước, cha cũng làm theo. Cha không chắc sau đó thứ nước này có ảnh hưởng gì đến việc tiêu hóa của mình hay không, nhưng giờ không phải lúc cho những lo lắng như vậy.

“Khi đã no gần như muốn vỡ bụng, chúng ta ngả người dựa lưng vào những chiếc trường kỷ thấp - bây giờ cha mới hiểu công dụng của chúng: nơi nghỉ ngơi sau một bữa ăn thịnh soạn - Turgut đưa mắt nhìn chúng ta với vẻ hài lòng. ‘Các bạn chắc chắn mình no rồi chứ?’ Helen bật cười còn cha thì khẽ rền rĩ, nhưng Turgut vẫn rót đầy ly nước và cốc cà phê cho chúng ta. ‘Rất tốt. Giờ hãy bàn tiếp về những vấn đề mà chúng ta chưa kịp thảo luận. Trước hết, tôi kinh ngạc khi nghĩ đến chuyện các bạn cũng quen biết giáo sư Rossi, nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ mối quan hệ của các bạn. Ông là giáo sư hướng dẫn của anh, đúng không anh bạn trẻ?’ Ông ta ngồi xuống ghế đệm dài, nghiêng người về phía chúng ta, đầy vẻ mong đợi câu trả lời.

“Cha liếc nhìn Helen, cô khẽ gật đầu. Cha băn khoăn tự hỏi phải chăng cái tinh chất hoa hồng kia đã làm cô bớt đi tính đa nghi. ‘Chà! Giáo sư Bora ạ, cho đến thời điểm này e rằng chúng tôi chưa hoàn toàn cởi mở với ông,’ cha thú nhận, ‘nhưng, ông thấy đó, chúng tôi đang thực hiện một nhiệm vụ kỳ dị, và không biết phải tin vào ai.’

“ ‘Tôi hiểu.’ Ông ta mỉm cười. “Có lẽ các bạn khôn ngoan hơn các bạn nghĩ đấy.’

“Câu nói trên đã làm cha khựng lại, nhưng Helen lại gật đầu, và cha lại tiếp tục. ‘Giáo sư Rossi là một mối quan tâm đặc biệt của chúng tôi, không chỉ vì ông là giáo sư hướng dẫn của tôi, mà còn vì một số thông tin ông đã cung cấp cho chúng tôi - cho tôi - và vì ông ta - vâng, ông ta đã mất tích.”

“Ánh mắt Turgut chợt đanh lại. ‘Mất tích là sao, anh bạn?’

“ ‘Đúng là vậy.’ Cha ngập ngừng tiết lộ với ông ta mối quan hệ giữa cha và thầy Rossi, công việc của cha với ông về luận văn tốt nghiệp, và cuốn sách kỳ lạ mà cha tìm thấy trong ngăn làm việc riêng tại thư viện. Khi cha bắt đầu mô tả cuốn sách, Turgut như bật người lên, đập hai tay vào nhau nhưng không nói gì, chỉ chăm chú lắng nghe. Cha tiếp tục kể việc đã mang cuốn sách đến cho thầy Rossi xem, và câu chuyện mà ông đã kể với cha về việc chính ông cũng tìm thấy một cuốn sách như vậy. Cha ngưng lại lấy hơi và thầm nghĩ, như vậy là ba cuốn sách. Bây giờ chúng ta biết rõ có ba cuốn sách kỳ lạ như thế này - một con số bí ẩn. Chúng chắc chắn có liên quan đến nhau, nhưng chính xác thì liên quan như thế nào? Cha thuật lại những gì thầy Rossi đã kể cha nghe về việc nghiên cứu của ông tại Istanbul - đến đây Turgut lắc đầu tựa như không hiểu - và việc thầy Rossi đã tìm thấy trong trung tâm lưu trữ bức hình con rồng khớp với các nét vẽ trên những tấm bản đồ cổ.

“Cha kể lại cho Turgut nghe thầy Rossi đã biến mất như thế nào, về cái bóng kỳ lạ mà cha thấy thoáng lướt qua phía trên cửa sổ phòng làm việc của thầy trong buổi tối ông ấy mất tích, và thoạt tiên cha đã một mình khởi sự cuộc tìm kiếm ra sao trong khi chỉ mới nửa tin nửa ngờ câu chuyện thầy ấy kể. Đến đây cha dừng lại, lần này để xem Helen sẽ nói gì, vì cha không muốn tiết lộ chuyện riêng tư của cô mà không được cô cho phép. Cô ngồi thụt sâu về phía sau trường kỷ, khẽ cựa người và bình thản nhìn cha, rồi trước sự ngạc nhiên của cha, đích thân cô kể lại với Turgut câu chuyện của mình và tất cả mọi điều từng kể với cha, bằng giọng trầm, đôi lúc khàn khàn - câu chuyện cô đã ra đời như thế nào, mối thù hận cá nhân đối với thầy Rossi, cô đã miệt mài lao vào nghiên cứu câu chuyện Dracula ra sao, và cuối cùng là ý định tìm hiểu về truyền thuyết về hắn ngay tại thành phố này. Chân mày của Turgut như dựng lên tận rìa mái tóc bôi sáp trơn bóng. Những lời nói, cách phát âm rõ ràng và sâu lắng, trí óc tuyệt vời, và có lẽ cả đôi gò má ửng hồng phía trên cổ áo xanh nhạt của cô, tất cả đã mang vẻ thán phục đến trên mặt Turgut - hoặc chỉ là cha thấy như vậy, và lần đầu tiên từ khi gặp Turgut cha cảm thấy sự thù địch với ông ta nhói lên trong mình.

“Khi Helen kết thúc câu chuyện, trong một khoảnh khắc, tất cả chúng ta đều ngồi lặng im. Ánh nắng màu xanh lá chiếu vào gian phòng xinh đẹp này dường như trầm lắng hơn quanh chúng ta và một cảm giác hão huyền xa xôi len lén chiếm ngự tâm tư cha. Cuối cùng Turgut phá vỡ sự im lặng. ‘Cám ơn các bạn đã kể những trải nghiệm rất khác thường của mình. Cô Rossi ạ, tôi rất tiếc khi nghe chuyện đau lòng của gia đình cô. Tôi vẫn mong muốn biết được vì sao giáo sư Rossi buộc lòng phải viết cho tôi là ông không biết gì về trung tâm lưu trữ của chúng tôi ở nơi này, đó có vẻ là một lời nói dối, đúng chứ? Nhưng việc biến mất của một học giả tài ba như vậy quả thực là kinh khủng. Giáo sư Rossi đã bị trừng phạt vì một chuyện gì đó - hoặc ông ta đang bị trừng phạt ngay lúc này, lúc chúng ta đang ngồi ở đây.’

“Tựa như bị một ngọn gió lạnh xua đi, cảm giác lừ đừ vụt tan biến khỏi đầu óc cha. ‘Nhưng điều gì khiến ông quả quyết như vậy? Và chúng ta phải xoay xở thế nào để tìm ra ông ấy, nếu điều này là sự thật?’

“ ‘Tôi cũng là một người duy lý như anh,’ Turgut bình thản trả lời, ‘nhưng theo bản năng, tôi tin những gì giáo sư Rossi đã kể với anh tối hôm đó. Và chúng ta tìm được bằng chứng cho những điều ông ấy nói qua những gì viên thủ thư già đã kể lại với tôi - có một nhà nghiên cứu nước ngoài đã kinh hãi bỏ chạy khỏi nơi đó - cũng như việc tôi tìm thấy tên giáo sư Rossi trong sổ đăng ký. Đó là chưa kể đến sự xuất hiện của một gã ác ôn khóe miệng còn vương máu…’ ông ta dừng lại. ‘Và giờ lại còn việc rối bời đáng sợ này nữa, tên của ông ta - tựa đề bài viết của ông ta - bằng cách nào đó đã được bổ sung vào bản thư mục trong trung tâm lưu trữ. Chính sự bổ sung này làm cho tôi bối rối và ngạc nhiên! Các đồng nghiệp thân mến, các bạn đã đúng khi tìm đến Istanbul. Nếu giáo sư Rossi có mặt ở đây, thì chúng ta sẽ tìm ra ông ta. Từ lâu chính tôi cũng tự hỏi liệu có thể ngôi mộ Dracula tọa lạc ở Istanbul này hay không. Theo tôi, có vẻ như nếu có một ai đó mới bổ sung tên ông Rossi vào bản danh mục kia thì rất có cơ may là ông Rossi đang ở đây. Vì các bạn đã tin tưởng là sẽ tìm thấy ông Rossi tại nơi Dracula được chôn cất. Tôi cũng sẽ hết lòng giúp đỡ các bạn trong việc tìm kiếm này. Tôi cảm thấy… có trách nhiệm với các bạn trong việc này.’

“ ‘Bây giờ tôi có một câu hỏi dành cho ông.’ Helen nhíu mắt nhìn Turgut và cha. ‘Giáo sư Bora, sao ông lại đến nhà hàng chúng tôi ngồi ăn tối hôm qua? Theo tôi, có vẻ như việc ông xuất hiện ngay khi chúng tôi vừa đến Istanbul để tìm kiếm cái trung tâm lưu trữ mà ông rất quan tâm trong những năm vừa qua, không phải là một sự trùng hợp hoàn toàn ngẫu nhiên.’

“Turgut đứng dậy, lấy trong bàn bên cạnh một hộp nhỏ bằng đồng rồi mở ra, mời chúng ta hút thuốc, cha từ chối nhưng Helen nhận một điếu và để Turgut châm lửa cho. Ông cũng châm cho mình một điếu rồi ngồi xuống, cả hai đưa mắt nhìn nhau, trong một khoảnh khắc cha có cảm giác mình là người ngoài cuộc. Rõ ràng, loại thuốc lá này có hương vị nhẹ và rất thơm; cha tự hỏi liệu đây có phải là đặc sản xa xỉ nổi tiếng của Thổ Nhĩ Kỳ tại Mỹ hay không, Turgut nhẹ nhàng nhả khói, Helen bỏ đôi dép thêu ra rồi duỗi thẳng hai chân, tựa như đã quen với kiểu nằm ườn người trên những tấm đệm Đông phương. Đây là một khía cạnh mà cha chưa từng nhìn thấy ở cô, sự duyên dáng thoải mái bộc lộ khi nghe câu thần chú của lòng hiếu khách.

“Cuối cùng Turgut lên tiếng. ‘Sao tôi lại gặp được các bạn trong nhà hàng ư? Tôi đã tự nêu câu hỏi này với bản thân mình nhiều lần, nhưng bản thân tôi cũng không tìm được câu trả lời thích đáng. Nhưng với tất cả lòng trung thực của mình, tôi có thể nói với các bạn rằng khi ngồi xuống gần bàn các bạn tôi chưa biết các bạn là ai hoặc các bạn đang làm gì ở Istanbul. Thực ra, tôi thường đến đó bởi vì đó là nơi chốn ưa thích của tôi trong khu phố cổ, thỉnh thoảng tôi vẫn tản bộ đến đó vào những lúc rảnh rỗi giữa các giờ dạy. Ngày hôm đó, tôi đã đến mà hầu như chẳng chủ định, và khi thấy không có ai ngoài hai người ngoại quốc, tôi cảm thấy cô đơn, không muốn ngồi một mình trong góc. Vợ tôi thường nói tôi vốn là một người khó kết bạn.’

“Ông ta mỉm cười, gạt tàn thuốc vào một chiếc đĩa đồng, rồi đẩy nó về phía Helen. ‘Nhưng đó cũng đâu phải là một thói quen tệ hại, đúng không? Dù sao chăng nữa, tôi đã ngạc nhiên và xúc động khi nhận ra các bạn quan tâm đến trung tâm lưu trữ của chúng tôi, và bây giờ khi đã biết câu chuyện còn-hơn-cả-khác-thường của các bạn, tôi cảm thấy bằng cách nào đó mình sẽ là người trợ giúp cho các bạn tại Istanbul này. Xét cho cùng, tại sao các bạn lại đến ngồi ăn tại nhà hàng ưa thích của tôi? Tại sao tôi đã vào đó ăn tối với một quyển sách? Thưa cô, tôi thấy cô tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng tôi sẽ không có câu trả lời dành cho cô, ngoại trừ phải nói rằng sự ngẫu nhiên này cho tôi niềm hy vọng. “Trong trời đất này còn có nhiều điều chúng ta không thể giải thích…” ’ Ông ta đăm chiêu nhìn Helen và cha, mặt ông đầy vẻ chân thành, cởi mở, và khá buồn rầu.

“Helen nhả một bụm khói thuốc Thổ Nhĩ Kỳ vào ánh nắng mờ mờ. ‘Vậy thì, kể như ổn,’ cô nói. ‘Chúng ta nên hy vọng. Còn giờ thì chúng ta sẽ làm gì với niềm hy vọng này? Chúng ta đã xem các tấm bản đồ gốc, và cũng đã xem bản thư mục của Giáo đoàn Rồng, mà Paul rất khao khát muốn xem. Nhưng tất cả những chuyện đó đưa chúng ta đến đâu?’

“ ‘Xin các bạn hãy theo tôi,’ Turgut đột ngột nói. Ông ta đứng bật dậy, và cái không khí uể oải của buổi chiều cũng lập tức biến mất. Helen dụi tắt điếu thuốc, đứng dậy theo, ống tay áo của cô cọ vào tay cha. Cha cũng đứng dậy. ‘Mời các bạn đến phòng làm việc của tôi một lát.’ Turgut mở một cánh cửa khuất sau những lớp rèm len và lụa cổ, rồi lịch sự đứng nép qua một bên.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Tôi ngồi yên, rất yên, trên ghế tàu, nhìn chằm chằm vào tờ báo của người đàn ông ngồi đối diện. Tôi cảm thấy mình nên cử động một chút, một cách tự nhiên, nếu không tôi có thể làm hắn để ý, nhưng hắn hoàn toàn bất động, đến mức tôi có cảm tưởng không nghe được tiếng thở của hắn, và tôi nhận ra chính mình cũng thấy khó thở. Sau một lúc, nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của tôi trở thành hiện thực: hắn lên tiếng mà không bỏ tờ báo xuống. Giọng của hắn giống hệt như đôi giày và chiếc quần may đo rất khéo của hắn, hắn nói tiếng Anh bằng một âm điệu mà tôi hầu như không xác định được, mặc dù nghe như có chút âm hưởng giọng Pháp - hoặc có thể, tôi đang bị ảnh hưởng bởi những tiêu đề chữ Pháp đang nhảy múa và đan xen vào nhau trên tờ Le Monde dưới ánh mắt kinh hoàng của tôi. Những chuyện kinh khủng đang xảy ra tại Campuchia, Algeria, những nơi mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến, mà đấy là trình độ tiếng Pháp của tôi còn được cải thiện rất nhiều trong vòng một năm qua. Nhưng gã đàn ông đó đang nói từ phía sau tờ báo, không hề nhúc nhích tờ báo một li. Khi nghe hắn nói tôi nổi da gà vì không tin điều mình nghe được. Giọng hắn hòa nhã, có học thức. Gã chỉ hỏi độc nhất một câu: “Cha cháu đâu rồi, cháu gái?”

Tôi bật ra khỏi ghế và lao nhanh về phía cửa; tôi nghe tiếng tờ báo rơi xuống phía sau mình, nhưng giờ đây tôi chỉ tập trung chú ý vào cái chốt cửa. Nó không cài. Tôi kéo bật cánh cửa trong một khoảnh khắc sợ hãi cùng cực, rồi vọt thẳng ra ngoài, cắm đầu lao theo hướng Barley đã đi về phía toa ăn. May mắn trong các khoang trên toa đều lác đác có người; rèm ngăn khoang họ không đóng, sách báo và giỏ đựng thức ăn nằm yên bên cạnh họ, mặt họ hiếu kỳ hướng theo khi tôi chạy vụt qua. Thậm chí tôi không thể dừng lại để nghe xem có tiếng bước chân đuổi theo phía sau hay không. Tôi chợt nhớ mình vẫn còn để va li đồ đạc trong ngăn tàu, trên giá để đồ ở phía trên. Liệu hắn có lấy chúng xuống? Hoặc lục lọi trong đó? Tôi vẫn cầm túi xách tay; khi thiếp ngủ tôi vẫn mắc nó vào cổ tay, như tôi thường làm khi ra ngoài.

Barley ngồi ở gần cuối toa ăn, cuốn sách của anh để mở trên mặt chiếc bàn rộng. Anh đã kêu trà và vài món khác, vì vậy phải một lúc anh mới rời mắt khỏi cái vương quốc nhỏ bé của mình, ngước nhìn lên và nhận ra sự hiện diện của tôi. Chắc hẳn trông tôi phải hốt hoảng lắm thì anh mới kéo ngay tôi vào trong toa như thế. “Chuyện gì vậy?”

Tôi úp mặt vào cổ anh, cố ngăn không bật ra tiếng nức nở. “Em thức dậy và có một người đàn ông trong khoang của mình, hắn đọc báo, và em không thấy được mặt hắn.”

Barley vuốt tóc tôi. “Một người đàn ông với một tờ báo? Em sợ cái gì dữ vậy?”

“Hắn giấu không cho em nhìn thấy mặt,” tôi thì thầm, quay nhìn về phía lối vào toa ăn. Không có ai ở đó, không có bóng dáng người nào mặc y phục đen đi vào để tìm kiếm hoặc truy đuổi. “Nhưng hắn nói với em từ phía sau tờ báo.”

“Thì sao?” Có vẻ như Barley nhận ra anh ta thích mái tóc xoăn của tôi.

“Hắn hỏi em cha em đang ở đâu?”

“Cái gì?” Barley ngồi thẳng dậy. “Em chắc chứ?”

“Vâng, bằng tiếng Anh.” Tôi cũng ngồi dậy. “Em đã bỏ chạy, em không nghĩ hắn đuổi theo, nhưng hắn đang ở trên tàu. Em phải để hành lý chúng ta ở lại đó.”

Barley cắn môi; tôi tưởng chừng như máu sắp bật ra và chảy xuống làn da mặt trắng trẻo của anh. Sau đó anh ra dấu gọi người phục vụ, trao đổi với anh chàng này một lúc, và móc trong túi ra một món tiền boa hậu hĩnh để bên cạnh tách trà. “Trạm dừng sắp đến của chúng ta là Boulois,” anh nói. “Khoảng mười sáu phút nữa.”

“Còn hành lý của chúng ta thì sao?”

“Em còn có cái xắc tay, anh cũng còn ví.” Barley chợt dừng lại và nhìn tôi chăm chăm. “Những lá thư…”

“Trong xắc tay,” tôi trả lời ngay.

“Tạ ơn Chúa. Có lẽ chúng ta phải bỏ hành lý lại, nhưng không sao đâu.” Barley nắm lấy tay tôi đi về cuối toa và, trước sự ngạc nhiên của tôi, vào nhà bếp. Người phục vụ cũng vội vàng bám theo phía sau, chỉ cho chúng tôi một hốc nhỏ gần các tủ lạnh. Barley trỏ tay vào một cánh cửa kế bên nó. Chúng tôi đứng ở đó suốt mười sáu phút, tôi giữ chặt chiếc xắc tay. Trong cái hốc nhỏ bé này, dường như có vẻ tự nhiên hơn nếu chúng tôi đứng ôm chặt lấy nhau, như hai tình nhân đang chạy trốn. Bất chợt tôi nhớ đến món quà của cha và đưa tay lên sờ vào nó: chiếc thánh giá vẫn lủng lẳng trên cổ, và tôi biết nó lồ lộ ra trước mắt người khác. Hắn chưa bao giờ hạ tờ báo xuống là chuyện chẳng có gì đáng thắc mắc.

Sau cùng tàu bắt đầu chạy chậm lại, tiếng thắng rít lên và con tàu giật mạnh rồi dừng lại. Anh chàng phục vụ đẩy một cái cần và cánh cửa gần chúng tôi mở ra. Anh ta nhăn nhở nở một nụ cười tỏ vẻ đồng tình với Barley; chắc hẳn anh ta nghĩ đây là một vở hài kịch của trái tim, người cha đang nổi cơn lôi đình của tôi đang săn lùng chúng tôi khắp con tàu, hoặc gì đó đại loại như vậy. “Bước xuống, nhưng cứ nép sát bên thân tàu,” Barley trầm giọng căn dặn, chúng tôi cùng nhích dần trên vỉa hè đường ray. Đầu kia là một nhà ga rộng, trát vữa xtucô, dưới những tán cây óng ánh màu bạc, không khí ấm áp và ngọt ngào. “Em có thấy hắn không?”

Tôi chăm chú nhìn qua phía dưới con tàu, cho đến khi cuối cùng nhìn thấy một người ở xa dọc theo đường ray, giữa đám khách vừa xuống tàu - một dáng người cao, vai rộng, mặc quần áo đen, nhưng về tổng thể ở hắn có cái gì đó không bình thường, một phẩm chất đen tối khiến dạ dày tôi nôn nao. Lúc này hắn đội một cái mũ màu đen, che sụp xuống làm tôi không thể nhìn rõ mặt hắn. Hắn cầm một cặp xách màu sậm và một cuộn gì đó màu trắng, có lẽ là tờ báo. “Hắn kìa.” Tôi cố không đưa tay ra chỉ, Barley vội kéo tôi nấp sau các bậc cấp.

“Đừng để hắn thấy. Anh sẽ quan sát xem hắn đi đâu. Hắn đang nhìn dáo dác.” Barley chăm chú nhìn ra ngoài trong khi tôi rúm người lại phía sau, tim đập thình thịch. Anh giữ chặt cánh tay tôi. “Được rồi - hắn đang đi về hướng khác. Không, hắn đang quay lại. Đang nhìn vào các cửa sổ toa tàu. Anh nghĩ hắn sẽ lại lên tàu. Lạy Chúa, đúng là một thằng cha máu lạnh - hắn đang nhìn đồng hồ. Hắn đang bước lên tàu. Giờ hắn lại bước xuống và đi về hướng này. Sẵn sàng đi - chúng ta sẽ lên tàu trở lại và chạy suốt cả đoàn tàu nếu cần. Em sẵn sàng chưa?”

Ngay lúc đó, những cánh quạt quay tít, con tàu hú một hồi còi và Barley buột miệng chửi thề. “Khốn kiếp, hắn lại lên tàu. Anh nghĩ hắn vừa nhận ra chúng ta thực sự chưa xuống tàu.” Barley đột ngột kéo mạnh tôi, nhảy khỏi các bậc cấp xuống sân ga. Sát bên cạnh chúng tôi, tàu lại hú còi và bắt đầu chuyển bánh. Nhiều hành khách hạ cửa sổ xuống để nhô ra ngoài hút thuốc hoặc nhìn ngắm quang cảnh xung quanh. Giữa những ô cửa sổ đó, cách xa chúng tôi vài toa tàu, tôi thấy một cái đầu màu đen nhô ra, quay về hướng chúng tôi, đó là một người đàn ông vai rộng bè bè và đang điên cuồng giận dữ, tôi nghĩ vậy. Rồi con tàu tăng tốc, chạy quành theo một khúc cua. Tôi quay qua Barley, chúng tôi đăm đăm nhìn nhau. Ngoại trừ một vài dân làng đang ngồi trong cái ga xép miền quê đó, chúng tôi trơ trọi giữa một chốn vô danh trên đất Pháp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


“Cha mong đợi phòng làm việc của Turgut lại là một giấc mơ phương Đông khác, nơi trú ẩn của một học giả Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cha đã lầm. Căn phòng ông ta dẫn Helen và cha vào nhỏ hơn phòng mà bọn ta vừa ra khỏi, tuy trần cũng cao như vậy, và ánh sáng ban ngày từ hai cửa sổ làm hiện rõ mọi thứ đồ đạc bên trong. Hai bức tường xếp đầy sách từ sàn lên đến trần. Rèm nhung đen vén bên cửa sổ, phủ xuống đến tận nền, thảm thêu hình ngựa và chó săn đang lồng lên trong một cuộc săn bắn, tất cả tạo cho căn phòng một ấn tượng huy hoàng của thời Trung cổ. Hàng chồng sách tham khảo tiếng Anh nằm trên chiếc bàn giữa phòng; một bộ tuyển tập Shakespeare đồ sộ chiếm hết chỗ trong một chiếc tủ kỳ lạ gần bàn làm việc.

“Nhưng ấn tượng trước tiên của cha về phòng làm việc của Turgut không phải tính áp đảo của nền văn học Anh; mà là cảm nhận đến ngay tức khắc về một sự hiện diện tăm tối hơn, thứ ám ảnh đã dần loại mất ảnh hưởng nhẹ nhàng từ những tác phẩm tiếng Anh mà ông viết. Sự hiện diện này như đột ngột nhảy ra, lao vào cha bằng một khuôn mặt hiện hữu khắp nơi, ngạo mạn tóm lấy ánh mắt cha từ một tấm ảnh treo phía sau bàn làm việc, từ một khung kệ sách trên bàn, hoặc từ một mảnh tranh thêu kỳ lạ trên tường, từ bìa một tập hồ sơ, từ một bức tranh phác họa gần cửa sổ. Bao giờ cũng là khuôn mặt đó, trong những tư thế và phương cách khác nhau, nhưng bao giờ cũng là gương mặt thời Trung cổ với bộ râu mép và đôi gò má dữ tợn.

Turgut nhìn cha chăm chú. ‘À, anh biết hắn là ai chứ,’ ông ta nói giọng rành rọt. ‘Như anh thấy đấy, tôi sưu tập hình ảnh hắn dưới đủ mọi hình thức.’ Ba người chúng ta đứng bên cạnh nhau, nhìn vào khung hình phía sau bàn làm việc. Đó là một bản sao bức tranh khắc gỗ giống bức mà cha đã thấy ở nhà, nhưng khuôn mặt ở đây được vẽ chính diện, vì vậy đôi mắt đen thẳm màu mực như xoáy thẳng vào mắt chúng ta.

“ ‘Ông đã tìm được toàn bộ những tấm hình khác nhau này ở đâu vậy?’ cha hỏi.

“ ‘Đủ mọi nơi.’ Turgut phác một cử chỉ hướng về cuốn sách khổ đôi trên bàn. ‘Đôi khi tôi thuê vẽ lại từ những cuốn sách cổ, đôi lúc tìm thấy chúng trong các cửa hàng đồ cổ, hoặc các cuộc bán đấu giá. Một khi để mắt đến chúng, anh sẽ nhận ra một điều vô cùng kỳ lạ là có rất nhiều tấm hình chân dung của hắn trôi nổi bày bán khắp mọi nơi trong thành phố chúng tôi. Tôi có cảm giác nếu có thể gom hết những bức chân dung đó, thì từ đôi mắt hắn, có lẽ tôi sẽ đọc được cái bí mật trong cuốn sách trắng trơn của mình.’ Ông ta thở dài. ‘Nhưng các bức tranh khắc gỗ này rất thô sơ - chỉ có hai màu đen trắng. Tôi không thể nào cảm thấy hài lòng với chúng, sau cùng tôi đã nhờ một anh bạn họa sĩ vẽ tất cả lại thành một bức tranh màu.’

“Ông ta dẫn bọn ta đến một hốc tường gần cửa sổ nơi những tấm rèm ngắn, cũng bằng nhung đen, buông xuống che phủ một cái gì đó. Trước khi Turgut đưa tay kéo sợi dây thu rèm, cha đã cảm thấy thoáng kinh hoàng, và khi tấm rèm tinh xảo ấy rẽ ra, tim cha như muốn ngừng đập. Tấm rèm nhung bày ra một bức tranh sơn dầu kích thước bằng và sinh động y như người thật, chân dung từ đầu đến vai của một người đàn ông trẻ, lực lưỡng, rắn rỏi. Tóc dài, những lọn tóc đen nặng nề buông xuống quanh bờ vai. Gương mặt đẹp trai nhưng trông cực kỳ độc ác với màu da tái nhợt, đôi mắt màu xanh lá rực sáng một cách quái dị, mũi dài, thẳng, với hai cánh mũi căng phồng. Đôi môi cong đỏ và trông trần tục dưới hàng ria dài rũ xuống, mím chặt lại tựa như muốn giữ cho cằm ở yên. Hai xương gò má nhọn và hàng lông mày đen rậm dưới một chiếc mũ nhung chỏm nhọn màu xanh lục sậm gắn ở phía trước một lông chim màu nâu trắng. Đó là một khuôn mặt đầy sức sống nhưng cũng hoàn toàn thiếu vắng lòng trắc ẩn, tràn đầy sức mạnh và tỉnh táo nhưng lại thể hiện một nhân cách không ổn định. Đôi mắt chính là đặc điểm gây cảm giác khó chịu nhất của bức tranh; tựa như đôi mắt đó ghim chặt, xuyên qua cha một cách sống động và mãnh liệt, chỉ sau một lát cha phải quay nhìn sang nơi khác cho nhẹ người. Helen, đứng kế bên cha, cũng nhích sát lại gần vai cha hơn một chút, tựa như muốn bày tỏ sự đoàn kết hơn là để tìm nguồn an ủi cho bản thân.

“ ‘Bạn tôi là một họa sĩ tài ba,’ Turgut ôn tồn nói. ‘Các bạn có thể hiểu vì sao tôi che bức tranh này lại rồi đấy. Tôi không muốn nhìn thấy nó lúc đang làm việc.’ Cha nghĩ thực ra có lẽ ông ta định nói là không thích bức tranh ấy nhìn thẳng vào mình. ‘Đây là một hình dung về bề ngoài của Vlad Dracula vào khoảng năm 1456, khi hắn bắt đầu thời gian cai trị dài nhất ở Wallachia. Lúc đó, hắn hai mươi lăm tuổi, được giáo dục kỹ lưỡng theo tiêu chuẩn nền văn hóa của hắn, và do đó còn là một kỵ sĩ tài ba. Suốt hai mươi năm kế tiếp, có lẽ hắn đã giết chết khoảng mười lăm ngàn thần dân của mình - đôi khi vì những lý do chính trị, nhưng thường chỉ vì hắn cảm thấy khoái trá khi được nhìn thấy người khác chết.’

“Turgut kéo rèm lại, cha cảm thấy nhẹ nhõm khi đôi mắt sáng quắc khủng khiếp kia biến mất. ‘Ở đây, tôi còn một số thứ của hiếm kỳ lạ để cho các bạn xem,’ ông ta nói, chỉ vào một chiếc tủ gỗ treo tường. ‘Đây là một con dấu của Giáo đoàn Rồng, tôi tìm được nó trong khu chợ đồ cổ gần bến cảng thành phố. Và đây là một con dao găm bằng bạc, có nguồn gốc từ thời kỳ đầu của đế chế Ottoman ở Istanbul. Tôi tin là nó được sử dụng để săn lùng ma cà rồng, vì trên vỏ dao có khắc những lời cho biết điều gì đó giống như vậy. Những sợi xích và cọc nhọn này’ - ông ta chỉ qua một tủ khác - ‘là những dụng cụ tra tấn, tôi cho là vậy, có thể chúng xuất xứ từ chính Wallachia. Và đây, thưa các bạn, là thứ có giá trị đặc biệt nhất.’ Ông ta cầm rồi mở khóa móc một hộp gỗ có chạm khắc rất đẹp nằm ở rìa bàn làm việc. Bên trong, giữa những lớp vải xa tanh đen là những dụng cụ bén nhọn trông như một bộ đồ nghề phẫu thuật, ngoài ra còn có một khẩu súng lục nhỏ và một con dao bằng bạc.

“ ‘Cái gì vậy?’ Helen ngập ngừng đưa tay ra rồi kéo chiếc hộp về phía mình.

“Một bộ đồ nghề đáng tin cậy dùng cho việc săn lùng ma cà rồng, một trăm năm tuổi rồi đấy,’ Turgut nói, vẻ hãnh diện. ‘Tôi tin nó có xuất xứ từ Bucharest. Một người bạn chuyên sưu tập đồ cổ đã tìm món đó cho tôi từ nhiều năm trước đây. Có rất nhiều bộ như vậy - chúng đã được bán cho du khách đến thăm Đông Âu từ thế kỷ mười tám và mười chín. Thoạt tiên có cả tỏi trong đó, đây, chỗ này, nhưng tôi đã treo lên rồi.’ Ông ta trỏ tay chỉ, cha lại cảm thấy ớn lạnh khi nhìn thấy những dây tỏi khô ở hai bên lối cửa ra vào, đối diện với bàn làm việc. Cha chợt nghĩ, cũng như đã nghĩ như vậy về thầy Rossi chỉ mới một tuần trước đây, có lẽ giáo sư Bora không chỉ tỉ mẩn mà xem ra còn điên khùng nữa.

“Nhiều năm sau cha đã hiểu nhiều hơn về cái phản ứng đầu tiên ấy, hiểu nhiều hơn về thái độ cảnh giác của mình khi thấy phòng làm việc của giáo sư Turgut, nó giống y hệt một căn phòng trong lâu đài của Dracula vậy, một phòng giam nhỏ với những dụng cụ tra tấn. Có một thực tế là các sử gia chúng ta luôn quan tâm tới những gì phản ảnh một phần của chính chúng ta, có lẽ là phần mà chúng ta sẽ chẳng buồn tìm hiểu nếu không có học bổng; nhưng đúng là khi chúng ta để bản thân chìm đắm trong những mối quan tâm ấy, chúng càng lúc càng trở thành một phần của chúng ta. Vài năm sau thời điểm đó, khi viếng thăm một trường đại học Mỹ - không phải trường đại học nơi cha giảng dạy - cha được giới thiệu với một trong những sử gia hàng đầu về Đức Quốc xã. Ông ta sống trong một ngôi nhà tiện nghi, bên rìa khuôn viên trường, ở đó ông ta sưu tập không chỉ những sách có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của mình mà còn cả các thứ đồ sứ của chính quyền Đệ Tam Đế chế. Hai con chó của ông, giống chó Đức chăn cừu khổng lồ, tuần quanh sân trước cả ngày lẫn đêm. Trong phòng khách, khi đã ngà ngà say cùng các bạn đồng sự trong khoa, ông ta đã cả quyết thổ lộ với cha rằng ông ta căm thù những tội ác của Hitler như thế nào và muốn phơi bày chúng với thế giới văn minh một cách càng chi tiết càng tốt. Cha đã rời buổi tiệc sớm, cẩn thận đi ngang qua hai con chó khổng lồ, mà không thể nào tống khứ nỗi khiếp sợ trong lòng.

“ ‘Có thể các bạn cho rằng như thế này là quá nhiều,’ Turgut nói, giọng có vẻ thoáng chút ân hận, tựa như ông ta hiểu được nét biểu lộ trên mặt cha. Ông ta vẫn trỏ vào dây tỏi. ‘Chỉ là tôi không muốn ngồi ở đây, bị bao vây giữa những ý tưởng ma quỷ của quá khứ mà không được bảo vệ. Và bây giờ, để tôi cho anh xem thứ mà tôi đưa anh đến đây để xem.’

“Ông ta mời Helen và cha ngồi xuống những chiếc ghế dựa ọp ẹp, bọc lụa Damas. Lưng cha như chạm vào một cục gì đó - xương chăng? Cha không dựa vào thành ghế nữa. Turgut lôi từ một ngăn kệ sách ra một cặp tài liệu nặng trịch. Từ trong đó, ông ta rút ra các tài liệu được sao chép lại bằng tay mà Helen và cha đã xem trong trung tâm lưu trữ tư liệu - những bản vẽ phác thảo tương tự như các bản của thầy Rossi, điều khác biệt là những bản này được vẽ chăm chút cẩn thận hơn - sau đó rút ra và trao cho cha một lá thư. Nó được đánh máy trên giấy có tiêu đề của trường đại học và do thầy Rossi ký tên. Cha nghĩ không có gì phải nghi ngờ, rõ ràng là chữ ký của thầy Rossi; nét uốn thắt nút của chữ B và R quá quen thuộc đối với cha. Và lá thư này chắc chắn được viết trong thời gian thầy Rossi đang dạy học ở Mỹ. Một vài dòng của lá thư có nội dung như Turgut mô tả: thầy Rossi, không biết gì về kho lưu trữ của Quốc vương Mehmed. Rossi xin lỗi vì đã gây thất vọng và hy vọng công việc của giáo sư Bora sẽ tiến triển tốt đẹp hơn. Đúng là một lá thư khó hiểu.

“Tiếp đó, Turgut mang ra một cuốn sách cổ bọc da nhỏ. Cha cảm thấy khó mà không đưa tay ra để cầm lấy nó ngay, nhưng đã nén lòng chờ đợi trong khi Turgut từ tốn mở ra cho chúng ta thấy những trang đầu và cuối để trống và rồi bức tranh khắc gỗ ở giữa - cái hình dáng vốn đã rất quen thuộc ấy, con rồng với đôi cánh xòe rộng quái đản, trên móng vuốt của nó là cái tiêu kỳ với một chữ độc nhất, đầy đe dọa kia. Cha mở cặp lấy ra cuốn sách của mình. Turgut để hai cuốn sách trên bàn, cạnh nhau. Mỗi người so sánh kho báu của mình với món quà tặng xúi quẩy của người kia, đều cùng nhận ra hai con rồng cùng là một, hình con rồng của ông ta nằm tràn ra đến rìa các trang sách, đậm hơn, hình con rồng của cha nhạt hơn, nhưng cũng là một con rồng, giống y như nhau. Thậm chí cũng có một vết mờ mờ giống nhau gần chóp tai con rồng, tựa như bản khắc gỗ có một chỗ gồ ghề và vấy bẩn một chút mực mỗi lần in. Helen nhìn hai cuốn sách nghiền ngẫm, im lặng.

“ ‘Thật kỳ lạ,’ cuối cùng Turgut thở hắt ra. ‘Tôi chưa bao giờ mơ có một ngày như ngày này, thấy một cuốn sách thứ hai giống như cuốn sách này.’

“ ‘Và nghe nói đến một cuốn thứ ba nữa chứ,’ cha nhắc ông ta. ‘Nên nhớ, đây là cuốn sách thứ ba giống như thế này mà tôi tận mắt nhìn thấy. Bức tranh khắc gỗ trong cuốn sách của giáo sư Rossi cũng y như vậy.’

“Ông ta gật đầu. ‘Vậy thì điều này có thể có ý nghĩa gì?’ Ông ta trải bản sao bản đồ của mình bên cạnh các cuốn sách và di ngón tay to bè so sánh các đường nét vẽ con rồng với đường nét vẽ sông, núi. ‘Thực đáng ngạc nhiên,’ ông ta thì thầm. ‘Cứ nghĩ mà xem, tôi chưa bao giờ tận mắt thấy việc này. Quả thực rất giống nhau. Con rồng là một bản đồ. Nhưng bản đồ của cái gì?’ Mắt ông ta ánh lên.

“ ‘Đó là điều giáo sư Rossi đã cố hình dung ra khi đang ở trong trung tâm lưu trữ của thành phố này,’ cha trả lời kèm theo một tiếng thở dài. ‘Sau đó, ước gì ông ấy tiến thêm vài bước nữa để khám phá ra ý nghĩa của nó.’

“ ‘Có thể ông ấy đã tìm ra.’ Giọng Helen đầy vẻ suy tư, cha bèn quay sang hỏi cô muốn nói gì. Ngay lúc đó, cánh cửa giữa các dây tỏi kỳ lạ kia bỗng mở ra, cả ba người bọn ta đều giật bắn mình. Tuy nhiên, đó không phải sự hiện hình ma quỷ khủng khiếp mà là một phụ nữ nhỏ nhắn, tươi cười, mặc váy màu xanh đang đứng nơi khung cửa. Vợ của Turgut. Helen và cha đứng dậy chào.

“ ‘Chào em,’ Turgut nhanh chóng đưa tay kéo người vợ vào. ‘Như anh đã nói với em, đây là hai người bạn của anh, giáo sư đến từ Mỹ.’

“Ông ta lịch sự giới thiệu lần lượt từng người chúng ta với nhau, bà Bora bắt tay Helen và cha với nụ cười khả ái. Bà chỉ bé bằng đúng nửa Turgut, với đôi mắt xanh lá và hàng lông mi cong dài, chiếc mũi hếch thanh tú, mái tóc hung đỏ uốn thành từng lọn quăn dài. ‘Tôi rất tiếc vì đã không gặp được các bạn sớm hơn.’ Bà ta nói tiếng Anh chậm rãi, cẩn thận để phát âm chuẩn. ‘Chắc hẳn ông chồng tôi chưa mời các bạn ăn gì, đúng không?’

“Cha đã nói là bọn ta đã được ăn một bữa rất thịnh soạn, nhưng bà ta vẫn lắc đầu. ‘Cái ông Bora này chả bao giờ mời khách được một bữa ra hồn. Tôi phải - rầy ông ta mới được!’ Bà ta thụi nhẹ ông chồng một cái, ông Turgut có vẻ thích thú.

“ ‘Tôi sợ bà nhà tôi lắm,’ ông ta nói giọng hả hê. ‘Bà ấy dữ như sư tử vậy.’ Helen, đứng cao hơn hẳn bà vợ, mỉm cười với cả hai người; hai vợ chồng họ thật dễ thương.

“ ‘Và,’ bà Bora tiếp tục, ‘tôi xin lỗi vì chắc hẳn ông nhà tôi đã quấy rầy các bạn bằng mấy cái bộ sưu tập kinh khủng của ông ấy.’ Chỉ trong vòng vài phút chúng ta đã lại an tọa trên chiếc trường kỷ lộng lẫy, trong lúc bà Bora rót cà phê. Cha nhận thấy bà khá đẹp, theo kiểu nhỏ nhắn, nhẹ nhàng, một phụ nữ tính cách trầm tĩnh, có lẽ vào khoảng tuổi bốn mươi. Tiếng Anh của bà có phần hạn chế, nhưng bà sử dụng một cách hài hước ý nhị, tựa như ông chồng vẫn thường xuyên lôi về nhà những vị khách nói tiếng Anh. Chiếc váy giản dị nhưng thanh lịch, cử chỉ của bà cũng rất tinh tế. Cha hình dung những đứa trẻ mà bà dạy dỗ trong nhà trẻ đang quây quần chung quanh bà - chắc chúng phải cao đến cằm bà mất. Cha băn khoăn tự hỏi liệu hai vợ chồng đã có con với nhau chưa; chẳng thấy hình trẻ con trong phòng, hoặc dấu hiệu gì về chúng, nhưng cha không dám hỏi.

“ ‘Ông xã tôi đã đưa các bạn đi dạo quanh thành phố một vòng rồi chứ?’ bà Bora hỏi Helen.

“ ‘Vâng ạ, đã một vài nơi,’ Helen đáp lời. ‘Tôi e là hôm nay bọn tôi đã làm ông ấy mất nhiều thời giờ rồi đấy.’

“ ‘Không đâu - chính tôi mới là người đã làm các bạn mất nhiều thời giờ.’ Turgut nhấp một ngụm cà phê, vẻ hài lòng ra mặt. ‘Nhưng bọn anh cũng còn rất nhiều việc phải làm, em yêu ạ’ - ông ta nói với vợ - ‘bọn anh sẽ đi tìm một giáo sư đang mất tích, vì vậy anh sẽ bận rộn vài ngày đấy.’

“ ‘Một giáo sư đang mất tích?’ Bà Bora trầm tĩnh nhìn chồng, mỉm cười. ‘Thôi được. Nhưng trước hết chúng ta phải dùng bữa tối đã chứ. Tôi hy vọng anh chị sẽ dùng bữa tối với chúng tôi?’ Bà ta quay sang Helen và cha.

“Nghĩ đến việc phải nhồi nhét thêm thức ăn vào bụng quả là không thể chịu nổi, cha cẩn thận tránh ánh mắt của Helen. Tuy nhiên, dường như Helen nhận thấy tất cả mọi chuyện đều rất bình thường. ‘Cám ơn bà Bora, bà rất tử tế, nhưng tôi nghĩ chúng tôi cần trở về khách sạn vì đã có hẹn ở đó lúc năm giờ.’

“Đã có hẹn à? Đúng là chuyện phịa, nhưng cha cũng hưởng ứng theo. ‘Đúng vậy, có mấy người bạn Mỹ hẹn đến uống nước. Nhưng chúng tôi hy vọng sẽ sớm được gặp lại vợ chồng ông bà.’

“Turgut gật đầu. ‘Tôi sẽ tìm ngay trong thư viện ở đây mọi thứ có ích cho chúng ta. Chúng ta phải nghĩ đến khả năng hầm mộ của Dracula là ở Istanbul - dù những tấm bản đồ này có chỉ đến một khu vực trong thành phố hay không. Tôi có ở đây một ít sách cổ về thành phố này, và những người bạn của tôi cũng có các bộ sưu tập tuyệt vời về Istanbul. Đêm nay tôi sẽ tìm mọi thứ cho anh.’

“ ‘Dracula.’ Bà Bora lắc đầu. ‘Tôi thích Shakespeare hơn Dracula. Một sở thích lành mạnh hơn. Vả lại’ - bà liếc nhìn chúng ta bằng ánh mắt bông đùa - ‘Shakespeare giúp thanh toán các hóa đơn của chúng tôi.’

“Họ nồng nhiệt tiễn chúng tôi ra về, và Turgut hứa sẽ đến gặp chúng tôi tại khách sạn vào lúc chín giờ sáng mai. Ông sẽ mang lại tin tức mới, nếu có thể, và chúng ta sẽ lại viếng trung tâm lưu trữ tư liệu để xem liệu tiến triển được gì thêm không. Đồng thời, ông cũng cảnh báo, chúng ta phải cảnh giác tối đa, quan sát khắp mọi nơi để xem có sự theo dõi hoặc mối nguy hiểm nào khác hay không. Turgut muốn tháp tùng chúng ta trở về chỗ trọ, nhưng cha trấn an ông ta là bọn ta có thể tự mình đáp phà quay trở lại - ông ta liền cho biết phà sẽ rời bến trong vòng hai mươi phút nữa. Hai vợ chồng nhà Bora tiễn Helen và cha đến cửa tòa nhà, họ đứng trên bậc thềm, tay trong tay, nói lời từ biệt. Lúc đi dọc theo con đường có những hàng cây sung và cây đoan dọc hai bên, cha liếc nhìn lui một đôi lần. ‘Tôi nghĩ đó là một cuộc hôn nhân hạnh phúc,’ cha nói với Helen nhận xét đó và ngay lập tức cảm thấy hối tiếc, bởi cô đã khịt mũi, biểu lộ ngay thái độ khinh khỉnh.

“ ‘Thôi nào, Ông Người Mỹ,’ cô thốt lên. ‘Còn khối chuyện phải lo đấy.’

“Bình thường, chắc hẳn cha đã mỉm cười vì cái biệt danh mà cô gán ghép cho mình, nhưng lần này, có gì đó làm cha phải rùng mình và quay lại nhìn thẳng vào mặt cô. Một ý tưởng khác liên quan đến cuộc thăm viếng lạ lùng chiều hôm đó, một ý tưởng mà cha phải cố kìm nén cho đến giây phút cuối cùng. Nhìn vào Helen lúc cô quay lại phía cha cũng với ánh mắt trừng trừng, cha không thể nào không cảm thấy sốc vì sự tương đồng giữa những nét đặc trưng mạnh mẽ mà xinh đẹp của cô với bức chân dung rõ nét đáng sợ phía sau tấm màn che của Turgut.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Khi con tàu tốc hành đi Perpignan đã khuất dạng sau rặng cây óng ánh bạc và những mái nhà trong làng, Barley nói, “Xong, hắn đang ở trên con tàu đó, còn bọn mình thì không.”

“Vâng,” tôi trả lời, “nhưng hắn biết chính xác chúng ta đang ở đâu.”

“Không lâu lắm đâu.” Barley đi về phía cửa sổ quầy bán vé - nơi một ông già dường như đang vừa đứng vừa gà gật - nhưng đã nhanh chóng quay trở lại, có vẻ cố không tỏ ra bức xúc. “Phải đến sáng mai mới có chuyến tàu kế tiếp đến Perpignan,” Barley thông báo lại. “Và cũng đến trưa mai mới có xe buýt đến một thị trấn lớn khác. Chỉ có một phòng cho thuê ở một nông trại cách làng này nửa cây số. Chúng ta có thể ngủ ở đó và quay trở lại đây để đón chuyến tàu sáng mai.”

Tôi chỉ còn nước hoặc nổi điên hoặc òa khóc thôi. “Anh Barley, em không thể chờ đến sáng mai mới đáp tàu đến Perpignan! Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian.”

“Ôi, nhưng đâu còn cách nào khác,” Barley đáp lại, giọng cáu kỉnh. “Anh đã hỏi thăm đủ các thứ phương tiện từ taxi, xe hơi, xe tải của nông trại, xe lừa, và cả đi quá giang nữa - em muốn anh làm gì nữa nào?”

Chúng tôi im lặng cuốc bộ vào làng. Đó là buổi chiều muộn của một ngày ấm áp và yên tĩnh, và mọi người mà chúng tôi thấy nơi ngưỡng cửa hay trong các khu vườn đều có vẻ lờ đờ, tựa như họ đang bị bỏ bùa. Khu nông trại chúng tôi đến có một biển hiệu sơn bằng tay ở bên ngoài cùng với một chiếc bàn bày bánh trứng, pho mát và rượu nho. Một người phụ nữ bước ra - chùi hai tay lên tạp dề - và chẳng có vẻ gì ngạc nhiên khi trông thấy chúng tôi. Khi Barley giới thiệu tôi là em gái, bà ta chỉ cười vui vẻ, không hỏi han gì, dù chúng tôi chẳng hề có hành lý. Khi Barley hỏi có phòng cho hai người hay không, bà ta trả lời giọng lí nhí “Oui, oui,”(1) tựa như chỉ nói cho chính mình nghe. Trong sân trại nền đất cứng có lác đác vài khóm hoa, những chú gà đang bươi đất tìm mồi, một dãy thùng xô nhựa dưới mái hiên, những kho thóc và căn nhà bằng đá xúm xít quanh nhau vừa lộn xộn vừa thân tình. Chúng tôi có thể dùng bữa tối trong khu vườn sau nhà, bà chủ nông trại giải thích, và phòng chúng tôi nằm kế cận khu vườn, trong khu vực cổ xưa nhất của khu nhà.

Chúng tôi im lặng đi theo bà chủ nông trại qua căn nhà bếp thấp lè tè vào một chái nhà nhỏ, có lẽ từng là chỗ ngủ của người phụ bếp. Phòng ngủ có sẵn hai giường nhỏ, kê ở hai bức tường đối diện nhau, thật nhẹ nhõm khi nhìn thấy thế, một cái tủ gỗ đựng quần áo. Phòng vệ sinh ở cạnh cửa có bồn cầu và bồn tắm. Mọi thứ trông sạch sẽ không tì vết, rèm được hồ cứng, những bức tranh thêu cũ xưa trên một bức tường đã phai màu vì ánh nắng. Tôi vào phòng tắm và rửa mặt sơ qua bằng nước lạnh trong khi Barley trả tiền cho người phụ nữ.

Khi tôi ra khỏi phòng tắm, Barley rủ tôi đi dạo, có lẽ phải một giờ nữa bà chủ nông trại mới chuẩn bị xong bữa tối cho chúng tôi. Thoạt tiên, tôi không muốn rời khỏi sự che chở của khuôn viên nông trại, nhưng ở bên ngoài, con đường râm mát dưới những tán cây, chúng tôi bước đi bên cạnh những gì còn lại của thứ trước đây chắc hẳn từng là một ngôi nhà rất xinh đẹp. Barley leo qua hàng rào, tôi cũng leo theo. Gạch đá đổ ngổn ngang, dấu tích của những bức tường thành cũ, và một ngọn tháp đổ nát còn sót lại khiến chốn này có một vẻ huy hoàng của thời quá khứ. Vẫn có một ít cỏ khô trong nhà kho he hé cửa, dường như nó vẫn còn đang được sử dụng. Một xà nhà lớn rơi xuống giữa các ngăn chuồng.

Barley ngồi giữa đống đổ nát, nhìn tôi. “Này, anh biết em đang rất điên tiết,” anh châm chọc. “Em chẳng hề màng đến việc anh đã giúp em thoát khỏi mối nguy hiểm trước mắt, nhưng em chỉ nên như thế khi nó không biến thành sự phiền phức với em sau này thôi.”

Sự xấu tính của anh làm cho tôi thoáng cảm thấy như nghẹt thở. “Làm sao anh dám,” rốt cuộc tôi thốt lên và bỏ đi, len lỏi giữa đám đá. Tôi nghe tiếng Barley đứng dậy, bước theo.

“Không lẽ em muốn ở lại trên con tàu đó hay sao?” anh ta hỏi, giọng đã hòa hoãn hơn.

“Dĩ nhiên là không,” tôi trả lời, vẫn không quay mặt lại. “Nhưng cũng như em, anh biết là cha em có thể đã có mặt ở tu viện Thánh Matthieu.”

“Nhưng cái gã đó, là Dracula hay là bất kỳ ai, đã đến đó đâu.”

“Giờ thì hắn đã đi trước chúng ta một ngày rồi,” tôi phản pháo, nhìn sang bên kia cánh đồng. Ngôi nhà thờ làng nhô lên sau một hàng dương ở phía xa xa; tất cả như một bức tranh thôn dã yên bình, chỉ thiếu hình ảnh những chú bò, chú dê.

“Trước hết,” Barley lên giọng (và tôi ghét anh vì cái giọng ưa lên lớp này), “chúng ta không biết gã đàn ông kia là ai. Có thể hắn không phải là Dracula. Theo như các lá thư của cha em thì Dracula phải có đám tay sai chứ, đúng không nào?”

“Thậm chí còn tồi tệ hơn kia,” tôi trả lời. “Nếu gã đó chỉ là một tên tay sai của hắn, vậy thì có lẽ chính bản thân hắn đã có mặt ở tu viện Thánh Matthieu rồi.”

“Hoặc,” Barley tiếp lời, nhưng bỗng im bặt. Tôi biết anh định nói gì, “Hoặc có lẽ hắn đang ở đây, với chúng ta.”

“Chúng ta đã làm lộ địa điểm chính xác nơi chúng ta xuống tàu,” tôi nói tiếp, làm rõ ý anh luôn.

“Giờ thì ai đang xấu tính nào?” Barley đến sát phía sau và khá ngượng nghịu vòng một cánh tay quanh vai tôi, và tôi nhận ra, ít nhất thì anh cũng đang nói như là đã tin câu chuyện của cha tôi. Những giọt nước mắt cố nén lại trong mắt bấy giờ ứa ra và giàn giụa trên mặt tôi. “Thôi, nào,” Barley vỗ về. Tôi ngả đầu vào vai anh, áo anh âm ấm do ánh mặt trời và do cả mồ hôi. Một lúc sau, tôi ngoảnh đi, chúng tôi trở về dùng bữa tối trong im lặng, trong khu vườn trang trại.

“Helen không nói gì thêm trên đường trở về nhà trọ, cha đành bằng lòng với việc quan sát xem có dấu hiệu thù địch nào từ những người qua lại, thỉnh thoảng nhìn xung quanh và phía sau xem có bị ai theo dõi không. Khi về đến phòng, cha rơi trở lại tâm trạng chán nản do vẫn chưa có thông tin để biết phải tìm kiếm thầy Rossi như thế nào. Một hàng dài những tên sách, thậm chí một vài cuốn trong số đó dường như không còn nữa, liệu sẽ giúp ích được gì không?

“ ‘Đến phòng tôi đi,’ Helen thân mật nói khi bọn ta về đến nhà trọ. ‘Chúng ta cần nói chuyện riêng một chút.’ Vào một lúc khác, thái độ thiếu ý tứ này của cô hẳn sẽ làm cha cảm thấy thích thú, nhưng ngay lúc đó thì gương mặt cô có vẻ quyết liệt đến mức cha chỉ có thể tự hỏi cô đang nghĩ gì trong đầu. Dù sao chăng nữa, ngay lúc đó, vẻ mặt cô chẳng có lấy một chút gì làm cha thấy hấp dẫn. Trong phòng, giường gối thẳng thớm ngăn nắp, số vật dụng ít ỏi của cô hình như được xếp cất kín đáo không để ai thấy. Cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh cửa sổ, khoát tay chỉ chiếc ghế dựa. ‘Nghe này,’ cô lên tiếng, tháo găng tay và cởi mũ, ‘Tôi đang suy nghĩ một chuyện. Có vẻ như chúng ta đã chạm đến một chướng ngại thực sự trong việc tìm kiếm ông Rossi.’

“Cha rầu rĩ gật đầu. ‘Đó chính là điều tôi băn khoăn từ nửa giờ qua. Nhưng có thể Turgut sẽ xoay xở kiếm được cho chúng ta vài thông tin từ những bạn bè ông ta.’

“Cô lắc đầu. ‘Chỉ là mò que đáy biển.’

“ ‘Kim,’ cha sửa lại, nhưng chẳng chút hào hứng.

“ ‘Mò kim,’ cô chỉnh lại. ‘Tôi nghĩ chúng ta đã bỏ qua một nguồn thông tin rất quan trọng.’

“Cha nhìn cô chăm chăm. ‘Nguồn nào vậy?’

“ ‘Mẹ tôi,’ cô trả lời rành rọt. ‘Khi còn ở Mỹ, anh đã có lý khi hỏi tôi về bà ấy. Tôi đã suy nghĩ về bà suốt ngày nay. Bà biết ông Rossi rất lâu trước anh, còn tôi thì chưa bao giờ thực sự hỏi han bà về ông ấy sau khi bà tiết lộ với tôi ông là cha tôi. Tôi không hiểu lý do sao lại không hỏi, chỉ biết rằng rõ ràng đối với bà đó là một chuyện đau lòng. Hơn nữa - cô thở dài - mẹ tôi chỉ là một người bình dị. Tôi không cho rằng bà có thể bổ sung thêm điều gì về công việc của ông Rossi vào những gì tôi đã biết. Năm ngoái, thậm chí khi bà tiết lộ với tôi ông ấy tin vào sự tiếp tục tồn tại của Dracula, tôi đã không thúc ép bà nhiều lắm - tôi biết bà vốn mê tín dị đoan như thế nào. Nhưng hiện tại tôi lại băn khoăn liệu bà có biết được điều gì khả dĩ giúp chúng ta tìm ra ông ấy.’

“Niềm hy vọng lại bùng dậy trong cha cùng với những lời Helen vừa nói. ‘Nhưng chúng ta nói chuyện với bà ấy bằng cách nào? Tôi nhớ cô đã nói bà không có điện thoại kia mà.’

“ ‘Phải, mẹ tôi không có điện thoại.’

“ ‘Vậy… thì làm thế nào?’

“Helen cầm chặt hai chiếc găng tay và vỗ mạnh chúng lên đầu gối. ‘Chúng ta sẽ phải đến gặp trực tiếp bà ấy. Mẹ tôi đang sống tại một thị trấn nhỏ bên ngoài Budapest.’

“ ‘Cái gì?’ bây giờ đến lượt cha nổi cáu. ‘Ồ, đơn giản quá nhỉ. Chúng ta chỉ cần nhảy lên tàu, với hộ chiếu Hungary của cô, còn tôi - chà, ngon lành nhỉ - chỉ có hộ chiếu Mỹ, rồi nhảy xuống để tán gẫu với một trong những người thân của cô về Dracula.’

“Điều ngạc nhiên là Helen lại mỉm cười. ‘Chả có lý do gì mà nổi máu lên như vậy, anh Paul ạ,’ cô nói. ‘Ở Hungary chúng tôi có câu tục ngữ là: “Nếu một việc là bất khả thi, việc đó nên được thực hiện.” ’

“Cha đành bật cười. ‘Thôi được,’ cha nói. ‘Vậy kế hoạch của cô thế nào? Tôi để ý là cô bao giờ cũng có kế hoạch cả.’

“ ‘Phải, tôi có một kế hoạch.’ Cô vuốt thẳng đôi bao tay. ‘Thực ra, tôi hy vọng bác tôi sẽ có kế hoạch.’

“ ‘Bác cô?’

“Helen liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, về phía những căn nhà cổ trát vữa xtucô màu dịu ở bên kia đường. Trời đã xế chiều, và bên ngoài kia, ánh nắng vùng Địa Trung Hải mà cha giờ đã đem lòng yêu đang đậm dần thành một màu vàng óng ánh dát lên khắp các bề mặt của thành phố. ‘Bác tôi làm việc tại Bộ Nội vụ Hungary từ năm 1948, và là một nhân vật khá quan trọng. Tôi có được học bổng cũng nhờ bà ấy. Ở quê hương tôi, người ta chẳng làm được trò trống gì nếu không có họ hàng quen biết. Bác ấy là chị của mẹ tôi, hai vợ chồng bác đã giúp mẹ tôi thoát khỏi Rumani đến Hungary, nơi bác sống, ngay trước khi tôi ra đời. Tôi và bác ấy rất thân thiết với nhau, bác sẵn sàng làm tất cả những gì tôi yêu cầu. Không giống như mẹ, nhà bác có điện thoại, tôi sẽ gọi cho bác ấy.’

“ ‘Ý cô muốn nói là bằng cách nào đó bác ấy sẽ đưa mẹ cô đến bên máy điện thoại để mẹ cô nói chuyện với chúng ta?’

“Helen rên lên. ‘Ôi, lạy Chúa, anh nghĩ chúng ta có thể nói qua điện thoại bất kỳ chuyện riêng tư hay còn đang tranh cãi nào hay sao?’

“ ‘Tôi xin lỗi,’ cha nói.

“ ‘Không, đích thân chúng ta sẽ đến đó. Bác tôi sẽ thu xếp chuyện này. Bằng cách như vậy chúng ta có thể trực tiếp nói chuyện với mẹ tôi. Vả lại’ - giọng cô chợt dịu hẳn đi - ‘họ sẽ rất vui khi gặp tôi. Dù nơi ấy không cách xa đây lắm nhưng đã hai năm rồi tôi chưa gặp họ.’

“ ‘Cũng được,’ cha nói, ‘tôi sẵn lòng làm tất cả vì thầy Rossi, mặc dù tôi thấy khó hình dung được mình lại đang nhẹ lướt vào cái xứ Hungary cộng sản đó.’

“ ‘À,’ Helen tiếp lời, ‘vậy thì anh sẽ còn thấy khó khăn hơn khi hình dung cảnh, như anh nói, nhẹ lướt vào xứ sở cộng sản Rumani, nhỉ?’

“ Lần này cha im lặng một lúc lâu. Sau cùng cha nói. ‘Tôi biết, tôi cũng đang nghĩ về điều đó. Nếu mộ của Dracula rốt cuộc không ở Istanbul thì còn có thể nằm ở đâu?’

“Cha và Helen ngồi yên cả phút, miên man suy nghĩ, có vẻ xa cách nhau đến không thể tin nổi, rồi Helen lên tiếng. ‘Tôi sẽ xuống dưới nhà để xem liệu bà chủ nhà có cho chúng ta mượn điện thoại để gọi đi hay không,’ cô nói. ‘Bác tôi cũng sắp về nhà rồi, tôi cũng muốn nói chuyện với bác ấy ngay.’

“ ‘Tôi có thể đi cùng với cô chứ?’ cha hỏi. ‘Xét cho cùng, việc này cũng liên quan đến tôi.’

“ ‘Dĩ nhiên rồi,’ Helen mang găng tay vào và cùng cha đi xuống phòng khách riêng của bà chủ nhà để gặng hỏi bà. Chúng ta mất tới mười phút để giải thích ý định của mình, nhưng một ít tiền lia Thổ Nhĩ Kỳ và lời hứa sẽ thanh toán đầy đủ tiền cuộc gọi mới là những thứ làm mọi việc êm xuôi. Helen ngồi trên ghế dựa và bấm một loạt con số. Sau cùng, cha thấy mặt cô sáng lên. ‘Chuông đang reo.’ Cô nhìn cha mỉm cười, nụ cười bộc trực và dễ thương. ‘Chắc bà bác của tôi sẽ không thích chuyện này đâu,’ cô nói. Bỗng gương mặt cô thay đổi, trở thành lanh lợi vui vẻ. ‘Bác Éva phải không?’ cô thốt lên. ‘Cháu, Elena đây!’

“Lắng nghe kỹ, cha nhận ra hẳn cô phải đang nói tiếng Hungary; ít ra cha biết tiếng Rumani là một thứ tiếng thuộc dòng Rôman, nên cha còn có thể hiểu được đôi ba từ. Nhưng thứ tiếng mà Helen đang nói giống như tiếng vó ngựa phi nước đại, một sự pha tạp hỗn loạn âm điệu Phần Lan-Hung mà cha không thể nào nhận ra, dù chỉ một âm. Cha băn khoăn không biết liệu cô có bao giờ nói tiếng Rumani với gia đình mình, hoặc có lẽ phần đời đó của họ đã vĩnh viễn biến mất từ lâu, dưới áp lực hội nhập vào xã hội mới. Giọng cô cao lên rồi trầm xuống, đôi khi ngắt quãng vì một tiếng cười hoặc một cái nhíu mày. Bà bác Éva ở bên kia đầu dây hình như cũng có khối chuyện để nói, đôi lần Helen lắng nghe rất kỹ, rồi lại bật lên trả lời bằng những âm tiết kỳ lạ như tiếng vó ngựa.

“Helen dường như quên bẵng sự có mặt của cha, nhưng đột nhiên cô lại giương mắt nhìn cha, hé cười cùng một cái gật đầu đắc thắng, tựa như kết quả cuộc nói chuyện của cô là rất triển vọng. Cô cười vào ống nghe rồi gác máy. Ngay lập tức, bà chủ nhà nhào đến, dường như quá sốt ruột cho cái hóa đơn điện thoại sắp đến của mình, và cha nhanh chóng thỏa thuận tổng số tiền phải trả, cộng thêm một ít nữa, và đặt tiền vào bàn tay đang xòe rộng của bà ta. Helen đang trên đường quay trở về phòng, vẫy tay ra hiệu cha đi theo; cha nghĩ thái độ bí mật ấy là không cần thiết, nhưng xét cho cùng, cha đã biết được gì nào?

“ ‘Nào Helen, nói đi chứ,’ cha rền rĩ khi ngồi trở lại vào chiếc ghế bành. ‘Tôi hồi hộp muốn chết đây này.’

“ ‘Tin tức tốt lành,’ cô bình thản đáp lại. ‘Tôi biết, rồi cuối cùng bác tôi sẽ cố giúp thôi.’

“ ‘Cô nói với bà ta chuyện quái quỷ gì vậy?’

“Cô nở một nụ cười tươi. ‘Chà, làm sao mà nói được gì nhiều trên điện thoại, và tôi còn phải nói chuyện kiểu khách sáo nữa. Nhưng tôi đã nói với bác ấy là tôi đang ở Istanbul vì một công trình nghiên cứu, cùng với đồng nghiệp, và chúng ta cần đến Budapest khoảng năm ngày để tìm kết luận cho công trình nghiên cứu đó. Tôi đã nói rõ anh là một giáo sư người Mỹ và chúng ta đang viết chung một bài báo chuyên ngành.’

“ ‘Về chủ đề gì?’ cha hỏi, giọng e dè.

“ ‘Về những mối quan hệ lao động ở châu Âu thời chiếm đóng của đế chế Ottoman.’

“ ‘Không tệ lắm. Nhưng tôi đâu biết gì về đề tài đó.’

“ ‘Sẽ ổn thôi.’ Helen phủi mấy sợi chỉ xơ ra chỗ gấu chiếc váy đen thanh nhã của cô. ‘Tôi sẽ nói sơ qua đề tài đó với anh.’

“ ‘Cô giống hệt cha cô.’ Tri thức uyên bác tự nhiên của cô khiến cha chợt nhớ đến thầy Rossi, câu nhận xét trên đã vọt ra khỏi miệng trước khi cha kịp suy nghĩ. Cha liếc vội về phía cô, e rằng mình đã nói hớ hênh làm cô khó chịu. Cha cũng chợt nhận ra đây là lần đầu tiên mình nghĩ cô là con gái của thầy Rossi một cách hoàn toàn tự nhiên, tựa như cha đã chấp nhận cái ý tưởng này vào một thời điểm nào đó mà thậm chí cha cũng không để ý.

“Cha ngạc nhiên khi trông thấy Helen có vẻ buồn. ‘Đó là một luận cứ vững chắc để chứng minh yếu tố di truyền áp đảo yếu tố môi trường,’ cô chỉ nói có vậy. ‘Dù sao đi nữa, bác Éva có vẻ như bực mình, nhất là khi tôi nói anh là người Mỹ. Tôi biết bác ấy phải thế thôi, bởi bác luôn nghĩ tôi là người bốc đồng và liều lĩnh. Lẽ dĩ nhiên, tôi là vậy. Và cũng tất nhiên, trước tiên bác cũng phải tỏ ra khó chịu như vậy trên điện thoại cho đúng kiểu.’

“ ‘Cho đúng kiểu à?’

“ ‘Bác ấy phải nghĩ đến công việc và vị thế của mình nữa chứ. Nhưng bác nói sẽ thu xếp cho chúng ta, tôi định sẽ gọi lại cho bác vào tối mai. Mọi việc là vậy. Bác tôi rất khéo léo, vì vậy tôi chắc chắn bà ấy sẽ tìm ra cách. Khi có tin tức chắc chắn, chúng ta sẽ mua vé khứ hồi từ Istanbul đến Budapest, có lẽ nên đi bằng máy bay.’

“Cha chỉ biết thầm thở dài, nghĩ đến khoản tiền có thể phải trả và tự hỏi không biết món tiền của cha còn cầm cự được bao lâu nữa với cuộc săn đuổi này, nhưng cha chỉ nói, ‘Tôi thấy có vẻ như bà ấy phải là người có phép lạ mới đưa được tôi vào Hungary và giữ cho chúng ta tránh khỏi rắc rối trong suốt chuyến đi đó.’

“Helen bật cười. ‘Bà ấy là một người có phép lạ. Đó là lý do vì sao tôi không phải ở nhà làm việc trong cái trung tâm văn hóa ở làng mẹ tôi.’

“Cô và cha lại xuống lầu và thả bộ ra phố, như thể đã ngầm đồng ý với nhau trước. ‘Ngay bây giờ thì chả có việc gì phải làm,’ cha trầm ngâm. ‘Phải chờ đến ngày mai mới có kết quả từ ông Turgut và bác cô. Tôi phải nói là luôn cảm thấy khó khăn khi chờ đợi những chuyện như thế này. Trong khi chờ đợi thì chúng ta sẽ làm gì đây?’

“Helen đứng giữa ánh nắng vàng đang sậm màu dần trên phố, suy nghĩ khoảng một phút. Cô đã mang găng tay và đội mũ chỉnh tề trở lại, nhưng ánh mặt trời cuối chiều vẫn làm ánh lên một thoáng màu đỏ trên mái tóc đen tuyền của cô. ‘Tôi muốn nhìn ngắm thành phố thêm nữa,’ rốt cuộc cô cũng lên tiếng. ‘Xét cho cùng, có thể tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại chốn này nữa. Liệu chúng ta có nên quay lại thánh đường Hagia Sophia không nhỉ? Chúng ta có thể dạo quanh đó một chút trước bữa tối.’

“ ‘Ừ, tôi cũng thích vậy.’ Cô và cha không nói gì thêm suốt trên đường đến ngôi thánh đường tuyệt mỹ kia, nhưng khi đến gần và lại nhìn thấy những mái vòm, cùng những ngọn tháp chiếm lĩnh toàn bộ cảnh quan đường phố, cha cảm thấy sự im lặng giữa chúng ta còn trở nên sâu sắc hơn, như thể cha và cô càng lúc càng đi sát nhau hơn. Cha băn khoăn tự hỏi liệu Helen có cảm nhận như vậy không, hoặc liệu có phải sức thu hút của ngôi thánh đường đồ sộ kia đã tác động tới thân phận bé nhỏ của chúng ta. Cha vẫn cân nhắc những gì Turgut nói ngày hôm qua - niềm tin của ông ta về việc bằng cách nào đó Dracula đã truyền lại cái tai họa ma cà rồng hút máu trong thành phố lớn này. ‘Helen,’ cha lên tiếng, dù chẳng muốn phá vỡ sự yên tĩnh giữa chúng ta chút nào. ‘Cô không nghĩ hắn được chôn cất tại đây chứ - ở ngay chính Istanbul này? Điều đó giải thích việc Quốc vương Mehmed vẫn lo ngại về hắn dù hắn đã chết? Đúng không?’

“ ‘Hắn? À, vâng.’ Cô gật đầu tựa như đồng ý với việc cha không nhắc đến cái tên đó trên đường phố. ‘Đó là một ý kiến thú vị, nhưng không lẽ Mehmed không biết chuyện này và không lẽ Turgut cũng không tìm ra chứng cứ nào về chuyện đó. Tôi không thể tin người ta có thể che giấu một chuyện như vậy cả nhiều thế kỷ.’

“ ‘Cũng thật khó tin là Mehmed đã cho phép an táng kẻ thù của mình tại Istanbul, nếu ông ta biết được chuyện này.’

“Cô có vẻ như vẫn đang nghiền ngẫm vấn đề. Chúng ta gần như đã đến cổng chính dẫn vào thánh đường Hagia Sophia.

“ ‘Helen,’ cha gọi, giọng dịu dàng.

“ ‘Vâng?’ Cha và Helen dừng lại giữa mọi người, giữa đám khách du lịch và người hành hương chen lấn nhau qua cánh cổng đồ sộ. Cha tiến sát gần lại cô để có thể nói nhỏ, gần như thì thầm vào tai cô.

“ ‘Nếu có khả năng ngôi mộ đó ở nơi này thì có nghĩa là thầy Rossi cũng ở đây.’

“Cô quay lại nhìn vào mặt cha. Đôi mắt rực sáng, vài nếp nhăn của năm tháng và âu lo giữa hai hàng lông mày. ‘Dĩ nhiên là vậy, Paul ạ.’

“ ‘Tôi đọc trong sách hướng dẫn thì Istanbul cũng có những phế tích ngầm như La Mã - đại loại như các hầm mộ, bể chứa… Chúng ta còn ít nhất là một ngày trước khi rời khỏi nơi đây - có lẽ chúng ta nên nói với Turgut điều này.’

“ ‘Đó không phải là một ý kiến tồi,’ Helen ôn tồn tiếp lời. ‘Cung điện của các hoàng đế thuộc đế quốc Byzantine hẳn phải có những khu vực ngầm.’ Cô cơ hồ mỉm cười, nhưng lại đưa tay lên sờ vào chiếc khăn quàng cổ, tựa như ở đó có gì đó làm cô cảm thấy khó chịu. ‘Trong bất kỳ trường hợp nào, những gì còn lại của các cung điện đó chắc hẳn đầy những linh hồn tội lỗi - các hoàng đế từng chọc mù mắt thân thích của họ, đại loại như thế. Đúng là đám tay sai tuyệt hảo cho Dracula.’

“Bởi vì cả cha và cô, người này có thể đọc rõ ràng các suy nghĩ qua nét mặt người kia, đang cùng nhau tập trung suy ngẫm về cuộc săn lùng kỳ lạ và vĩ đại mà những suy nghĩ ấy có thể dẫn đắt đến, nên thoạt tiên cha không để ý thấy có người đang chăm chú theo dõi cha. Hơn nữa, hắn không phải là bóng ma cao lớn, đầy đe dọa, mà chỉ là một gã khá nhỏ con, gầy ốm, bình thường giữa chốn đông người qua lại, lảng vảng cách bức tường thánh đường chưa đến chục mét.

“Sau đó, trong cơn choáng váng ập đến ngay tức khắc, cha nhận ra đó là vị học giả nhỏ bé với bộ râu xám bờm xờm, mũ lưỡi trai trắng, quần áo một màu nâu buồn tẻ - người đã vào trung tâm lưu trữ tư liệu sáng hôm đó. Vào giây kế tiếp, cha còn thấy choáng váng hơn. Gã đó đã phạm sai lầm khi nhìn cha chằm chằm một cách lộ liễu, đến độ cha bất chợt nhận ra và trông thấy gã lủi vào đám đông. Sau đó gã biến mất, tan biến như một bóng ma giữa đám du khách ồn ào vui vẻ. Cha lao đến, gần như suýt va vào Helen, nhưng chỉ hoài công vô ích. Gã đàn ông đã bốc hơi; hắn biết đã bị cha phát hiện. Gương mặt hắn, giữa hàm râu quái đản và chiếc mũ lưỡi trai mới, rõ ràng không thể chối cãi là một khuôn mặt cha đã từng gặp tại trường đại học ở quê nhà. Lần sau cùng cha nhìn thấy gương mặt đó là ngay trước khi nó được phủ lại bởi một tấm vải trắng. Đó là gương mặt của gã thủ thư đã chết.”

Chú thích:

1. Nguyên văn tiếng Pháp: “Vâng, có.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Tôi vẫn giữ một số ảnh của cha, chụp trong khoảng thời gian trước khi cha rời Mỹ để đi tìm thầy Rossi, dù suốt thời thơ ấu, khi lần đầu tiên thấy chúng, tôi hoàn toàn không biết chúng cho thấy những gì sau này. Vài năm sau, tôi đã đóng khung và lồng kính một trong các tấm hình đó và bây giờ nó được treo phía trên bàn làm việc của tôi, một tấm hình đen trắng của thời kỳ ảnh đen trắng đang trên bờ vực thoái trào vì ảnh màu. Tấm hình chụp cha từ khi tôi còn chưa ra đời. Cha nhìn thẳng vào máy chụp ảnh, cằm hơi ngước lên tựa như sắp đáp lại điều gì đó mà người chụp đang nói. Có lẽ tôi không bao giờ biết người chụp bức ảnh đó là ai; tôi cũng quên hỏi xem cha còn nhớ hay không. Không thể là Helen, nhưng có lẽ là một người bạn khác, một người bạn nghiên cứu sinh nào đó. Năm 1952 - chỉ có thời điểm chụp được chính tay cha ghi lại ở mặt sau tấm hình - cha đã là nghiên cứu sinh được một năm và bắt đầu nghiên cứu về các thương gia Hà Lan.

Trong hình, có vẻ như cha đang đứng kế bên một tòa nhà, căn cứ vào công trình xây dựng bằng đá theo phong cách Gothic ở hậu cảnh nên có thể nói đây là một phần kiến trúc của trường đại học. Cha gác một chân lên chiếc ghế băng dài, mặt tươi cười, cánh tay đặt trên lưng ghế, bàn tay buông điệu đàng gần đầu gối. Cha mặc áo sơ mi trắng hoặc có thể là một màu sáng nào đó và thắt cà vạt có sọc chéo, quần màu sậm may theo kiểu xếp li, đi đôi giày da bóng láng. Vóc dáng cha vẫn giống y như trong ký ức của tôi về cha sau này - cao trung bình, vai rộng trung bình, ăn mặc chỉnh tề, vẫn có vẻ dễ gần và không quá nổi bật, một đặc điểm cha chưa bao giờ đánh mất suốt thời trung niên của mình. Trong tấm hình, mắt cha màu xám và sâu thẳm chứ không xanh thẫm như ngoài đời. Cùng với cặp mắt trũng sâu và hàng lông mày rậm rịt, xương gò má cao, chiếc mũi to, hai cánh môi dày nở thành một nụ cười, vẻ mặt cha khá giống với loài linh trưởng - nét mặt của một loài thú thông minh. Nếu là một tấm hình màu, mái tóc rủ xuống trán của cha hẳn phải có màu đồng dưới ánh mặt trời; tôi biết chắc như vậy vì có lần cha đã miêu tả cho tôi về màu tóc đó. Khi tôi sinh ra, ngay từ lúc bắt đầu biết nhận thức, tóc cha đã bạc trắng.

“Đêm hôm đó ở Istanbul, cha mới cảm nhận trọn vẹn thế nào là một đêm mất ngủ. Một phần vì nỗi kinh hoàng khi nhớ lại giây phút đầu tiên nhìn thấy gương mặt một người đã chết chợt sống lại và cố hiểu điều mình đã chứng kiến - chỉ riêng khoảnh khắc đó cũng khiến cha không thể nào chợp mắt. Phần khác là vì cha cảm thấy vô cùng lo lắng cho những giấy tờ tài liệu đang cất giữ trong cặp vì trước khi biến mất tên thủ thư đã chết ấy cũng đã thấy cha. Hắn biết Helen và cha có bản sao tấm bản đồ kia. Việc hắn xuất hiện ở Istanbul là do hắn theo dõi chúng ta, hay là vì bằng cách nào đó hắn đã tự suy đoán được bản chính của tấm bản đồ có ở đây? Hoặc, nếu hắn không tự giải đoán được thì liệu hắn có được một nguồn kiến thức nào khác mà cha chưa biết giúp đỡ hay không? Hắn đã xem những tài liệu trong bộ sưu tập của Quốc vương Mehmed ít nhất một lần. Liệu có phải hắn đã nhìn thấy và sao lại mấy tấm bản đồ gốc ấy không? Cha không thể trả lời được những câu hỏi hóc búa trên, và chắc chắn không dám ngủ - dù là chỉ chợp mắt - khi nghĩ đến sự thèm khát của gã thủ thư đầu sai kia đối với bản sao tấm bản đồ của chúng ta, cái cách mà hắn nhảy bổ vào bóp cổ Helen trong kho sách thư viện lúc còn ở Mỹ. Ở đó, hắn đã cắn Helen, và có lẽ từ hành động này đã quen mùi cô. Thực tế này lại làm cha càng cảm thấy thêm rối trí.

Nếu tất cả những điều này không đủ làm cho cha phải mở mắt thao láo suốt đêm, trong lúc thời gian cứ trôi qua, càng lúc càng tĩnh lặng, thì vẫn còn thêm một điều nữa - có một gương mặt đang ngủ say không cách xa cha quá - nhưng cũng không quá gần. Cha đã cố ép Helen ngủ trên giường, còn cha thì ngồi trong chiếc ghế bành ọp ẹp. Nếu có đôi lần nào mí mắt cha sụp xuống, thì một cái liếc nhìn về gương mặt mạnh mẽ kiên nghị ấy lại làm dậy lên trong cha một cơn lo lắng, làm cha bừng tỉnh như bị dội một gáo nước lạnh. Helen đã muốn ở lại trong phòng cô - xét cho cùng, bà quản lý nhà trọ sẽ nghĩ gì, nếu phát hiện được việc thu xếp này? - nhưng cha đã thúc ép cho đến khi cô đồng ý, dù có chút cáu kỉnh, nằm ngủ dưới đôi mắt canh chừng của cha. Cha đã xem quá nhiều phim ảnh, đã đọc quá nhiều tiểu thuyết, đến độ luôn lo sợ rằng một phụ nữ ở một mình vài giờ ban đêm có thể trở thành nạn nhân kế tiếp của lũ ma quỷ. Helen ngủ vùi vì quá mệt, cha có thể nhìn thấy những vết thâm quầng dưới mắt cô, và mơ hồ cảm thấy cô cũng sợ hãi. So với tiếng khóc nức nở vì khiếp sợ của một người đàn bà khác, cơn sợ hãi xuất phát từ cô sẽ làm cha kinh hoàng và tạo ra chút cafein tỉnh táo trong mạch máu. Cũng có thể là vì có điều gì đó u sầu và mềm yếu ẩn chứa dưới cái vẻ bình thường vẫn ngang ngạnh, cứng nhắc của cô, dưới cá tính kiên quyết, mạnh mẽ của cô, đã làm cha không tài nào nhắm mắt được. Cô nằm nghiêng, một bàn tay lót dưới gối, những lọn tóc như càng đen nhánh hơn trên nền vải trắng.

“Cha không thể nào viết hoặc đọc gì được. Chắc chắn cha không mong muốn phải mở cái cặp xách mà cha đã nhét dưới giường Helen đang ngủ. Nhưng thời gian vẫn cứ trôi qua mà chẳng có tiếng sột soạt bên ngoài hành lang, không có tiếng thở nào ở lỗ khóa, chẳng có chút sương mù nào len lén luồn qua dưới cánh cửa, không có tiếng vỗ cánh bên khung cửa sổ kia. Cuối cùng, một tia sáng yếu ớt đã ngập ngừng chiếu vào căn phòng mờ mờ tối, và Helen thở hắt ra tựa như cảm nhận được ngày mới đã đến. Rồi một chùm ánh sáng chiếu qua khung cửa chớp, cô cựa quậy trở mình. Cha lấy áo khoác, nhẹ nhàng hết sức kéo cái cặp xách ở dưới giường ra để không gây ra tiếng động nào, và tế nhị lánh đi, chờ cô ở lối ra vào dưới lầu.

“Chưa đến sáu giờ nhưng từ đâu đó mùi cà phê đậm đã tỏa ra thơm ngát cả căn nhà, cha ngạc nhiên khi thấy tiến sĩ Turgut đang ngồi ở một trong các ghế dựa bọc vải thêu, một cặp hồ sơ màu đen đặt trên lòng. Ông có vẻ vô cùng tươi tắn và tỉnh táo, khi cha bước vào ông gần như bật dậy để bắt tay cha. ‘Chào buổi sáng, anh bạn. Tạ ơn Chúa đã cho tôi gặp anh ngay.’

“ ‘Tôi cũng vậy, cám ơn ông đã đến đây,’ cha đáp rồi ngồi xuống chiếc ghế cạnh ông. ‘Nhưng điều gì khiến ông đến đây sớm vậy?’

“ ‘À, tôi không chờ được khi có thêm tin tức cho anh.’

“ ‘Tôi cũng có tin tức cho ông đây,’ cha nghiêm nghị nói. ‘Nhưng ông nói trước đi, tiến sĩ Bora.’

“ ‘Gọi tôi là Turgut thôi,’ ông chỉnh lại, vẻ lơ đãng. ‘Anh xem đây này.’ Ông bắt đầu tháo dây cột chiếc cặp hồ sơ. ‘Như đã hứa với anh, đêm qua tôi đã xem lại cẩn thận số giấy tờ tài liệu của mình. Tôi đã cho sao các tài liệu của trung tâm lưu trữ, như anh thấy, và tôi cũng sưu tập nhiều bản báo cáo các sự kiện xảy ra ở Istanbul suốt thời sinh tiền của Vlad và thời gian tiếp theo ngay sau cái chết của hắn.’

“Ông thở dài. ‘Một số trong các tài liệu này đề cập đến những sự cố bí ẩn xảy ra trong thành phố, những cái chết, lời đồn về ma cà rồng hút máu. Tôi cũng thu thập bất kỳ thông tin nào có thể từ các cuốn sách liên quan đến Giáo đoàn Rồng ở Wallachia. Nhưng đêm qua, tôi chẳng tìm được điều gì mới từ những nguồn đó. Sau đó, tôi đã gọi cho một người bạn tên Selim Aksoy. Anh ta không làm việc tại trường đại học - chỉ là chủ một cửa hàng - nhưng kiến thức rất rộng. Anh ta rành về sách vở hơn bất kỳ người nào khác ở Istanbul, nhất là sách nói về lịch sử và huyền thoại của thành phố chúng tôi. Cũng là người rất tốt bụng, anh ta đã dành gần như suốt cả buổi tối để dẫn tôi xem qua thư viện riêng của anh ta. Tôi đã nhờ anh ta tìm kiếm dấu vết của một người quê quán ở Wallachia nhưng được an táng ở Istanbul vào cuối thế kỷ mười lăm, hoặc tìm mọi manh mối có thể có về một ngôi mộ ở đây, nhưng có liên quan đến xứ Wallachia, Transylvania, hoặc Giáo đoàn Rồng. Tôi cũng đưa ra cho anh ta - cũng chẳng phải lần đầu tiên đâu - bản sao các tấm bản đồ, cuốn sách có hình con rồng của tôi, và giải thích cho anh ta biết giả thuyết do anh đưa ra, theo đó những hình ảnh đó mô phỏng một vị trí, địa điểm hầm mộ của Vlad Dracula, Kẻ Xiên Người.’

“ ‘Chúng tôi đã cùng nhau lật qua nhiều, rất nhiều trang sách về lịch sử Istanbul, xem xét những bản in cổ, những cuốn sổ ghi chép vô số điều mà anh ta đã khám phá ra được tại các thư viện và viện bảo tàng. Selim Aksoy rất cần mẫn. Anh ta không có vợ, không có gia đình riêng, không có đam mê nào khác. Lịch sử thành phố Istanbul hầu như ngốn hết thời gian và sức lực của anh ta. Chúng tôi đã làm việc rất khuya, thư viện riêng của anh ta đồ sộ đến mức anh ta chưa bao giờ đọc thấu đáo hết sách trong đó, cũng như không chắc chúng tôi có thể khám phá ra được gì ở đó không. Sau cùng, chúng tôi phát hiện một vật kỳ lạ - một lá thư - được in lại trong một cuốn sách về các thư từ trao đổi qua lại giữa các vị thượng thư trong triều đình Quốc vương Hồi giáo với các tiền đồn của Đế quốc vào thế kỷ mười lăm và mười sáu. Selim cho biết anh ta mua cuốn sách đó từ một người bán sách ở Ankara. Cuốn sách được in vào thế kỷ mười chín, do một trong các nhà sử học của chúng tôi ở Istanbul sưu tập và biên soạn, ông ta là người quan tâm đến tất cả những sổ sách ghi chép của thời kỳ đó. Selim nói anh ta chưa bao giờ thấy một bản thứ hai cuốn sách đó.’

“Nhận ra tính chu đáo kỹ lưỡng của tiến sĩ Turgut, cha kiên nhẫn chờ đợi, cảm nhận tầm quan trọng của tất cả thông tin cần thiết này. Từ một học giả chuyên về văn chương kinh điển, ông ta phút chốc đã trở thành một sử gia có hạng.

“ ‘Selim chưa từng thấy bản in nào khác của cuốn sách, nhưng anh ta tin những tài liệu in lại trong đó không phải là - người ta gọi là gì nhỉ? - những thứ giả mạo, bởi anh ta đã nhìn thấy bản gốc của một trong số những lá thư đó, trong một bộ sưu tập tương tự mà chúng tôi đã xem ngày hôm qua. Anh ta cũng rất say mê trung tâm lưu trữ kia, anh biết đấy, tôi thường gặp anh ta ở đó.’ Ông mỉm cười. ‘Vâng, khi mắt chúng tôi hầu như muốn sụp xuống vì mệt mỏi, và bình minh cũng sắp đến, chính trong cuốn sách đó, chúng tôi đã tìm thấy một lá thư có lẽ là có ý nghĩa đối với cuộc tìm kiếm của anh. Người sưu tập đã in cuốn sách kia tin rằng lá thư có nguồn gốc từ cuối thế kỷ mười lăm. Đây này, tôi đã dịch nó sang tiếng Anh cho anh.’

“Turgut rút trong cặp hồ sơ ra một trang giấy vở ghi chép. ‘Đáng tiếc là lá thư trước đó, mà lá thư này đề cập đến, lại không có trong cuốn sách. Có trời chứng giám, có khi nó còn chẳng hề tồn tại ở bất kỳ nơi nào, nếu không thì anh bạn Selim của tôi đã tìm được ra nó lâu rồi.’

“Ông hắng giọng trước khi đọc to. ‘ “Kính gửi Ngài Rumeli Kadiasker vô cùng kính mến…” ’ Ông dừng lại. ‘Anh biết đấy, đó là vị tổng trấn đại phán quan của vùng Balkan.’ Tất nhiên là cha không biết, nhưng ông gật đầu và tiếp tục. ‘ “Thưa Ngài, tôi đã tiến hành điều tra kỹ lưỡng hơn như Ngài yêu cầu. Một số tu sĩ đã hợp tác tích cực nhờ số tiền chúng ta đã thỏa thuận, và đích thân tôi đã khảo sát ngôi mộ. Điều họ đã báo cáo cho tôi trước đây là có thật. Họ không giải thích gì thêm, chỉ nhắc đi nhắc lại rằng họ rất sợ hãi. Tôi đề nghị tiến hành một cuộc điều tra khác về vấn đề này ở Istanbul. Tôi đã cắt cử hai vệ binh ở lại Snagov để canh chừng động tĩnh. Điều khó hiểu là không có báo cáo gì về dịch bệnh ở đó cả. Nhân danh đức Allah, tôi mãi thuộc về Ngài.” ’

“ ‘Còn tên người viết thư?’ cha hỏi ngay. Tim cha đập dồn dập; cha đã tỉnh hẳn dù sau một đêm không ngủ.’

“ ‘Không có chữ ký. Selim nghĩ rằng có lẽ chữ ký đã bị rách khỏi bản chính một cách ngẫu nhiên hoặc bị cố ý xé đi để bảo vệ cuộc sống riêng tư của người viết lá thư đó.’

“ ‘Hoặc có thể vì lý do bảo mật, ngay từ đầu lá thư đã không có chữ ký,’ cha đưa ra giả thiết. ‘Không còn lá thư nào khác trong cuốn sách đề cập đến vấn đề này sao?’

“ ‘Không. Chẳng có thư trước mà cũng chẳng thư sau gì cả. Lá thư đó là một mảnh rời rạc, nhưng Rumeli Kadiasker là một nhân vật rất quyền thế, vì vậy chuyện này phải là một vấn đề hệ trọng có thực. Chúng tôi đã lùng sục rất kỹ và lâu trong những cuốn sách và tài liệu khác của Selim nhưng vẫn không tìm được gì có liên quan đến lá thư. Anh ta bảo, theo những gì anh ta có thể nhớ, là chưa bao giờ thấy chữ Snagov trong bất kỳ tư liệu tường thuật về lịch sử Istanbul nào. Vài năm trước, anh ta đã đọc những lá thư này một lần - chính vì tôi đề cập với anh ta giả thuyết về địa điểm mà phe đảng Dracula chôn cất hắn mà khi xem xét qua mớ giấy tờ tài liệu anh ta mới lại lưu ý đến địa danh đó. Nên có thể là thực ra anh ta đã nhìn thấy nó ở đâu đó nhưng không thể nhớ lại được.’

“ ‘Lạy Chúa,’ cha kêu lên, không phải vì nghĩ đến cái khả năng hiếm hoi rằng Aksoy đã nhìn thấy cái từ Snagov kia ở một nơi nào khác mà vì mối liên hệ kỳ lạ giữa thành phố Istanbul đang vây quanh chúng ta với xứ sở Rumani xa xôi kia.

“ ‘Vâng.’ Turgut bật cười vui vẻ tựa như ông và cha chỉ đang bàn bạc về thực đơn bữa điểm tâm. ‘Mấy viên quan điều tra được người Balkan cử đi thám thính ấy đã lo lắng về một chuyện gì đó ở đây, ở Istanbul này, lo lắng đến độ phải phái người, hai vệ binh, đến hầm mộ của Dracula ở Snagov.’

“ ‘Nhưng, quái quỷ thật, họ đã phát hiện cái gì chứ?’ Cha đấm lên thành ghế. ‘Mấy tay thầy tu ở đó đã báo cáo chuyện gì? Và tại sao bọn họ lại sợ hãi?’

“ ‘Đó cũng chính là điều làm tôi bối rối,’ Turgut nói như an ủi cha. ‘Nếu Vlad Dracula nằm chết yên ổn ở đấy, tại sao ở cách xa hàng trăm cây số, ở Istanbul, người ta lại lo lắng về hắn ta? Và nếu hầm mộ của Vlad thực sự ở Snagov và vẫn luôn luôn ở đó, tại sao những tấm bản đồ chỉ dẫn lại không khớp?’

“Cha chỉ biết khâm phục sự chính xác của các câu hỏi của ông ta. ‘Còn một điều nữa,’ cha nói. ‘Anh có nghĩ thực sự có khả năng Dracula được chôn cất ở đây, ở Istanbul này? Phải chăng việc đó giải thích sự lo lắng của Quốc vương Mehmed về Dracula ngay cả sau khi hắn chết, và về tình trạng người và vật bị hút máu từ thời kỳ đó trở đi?’

“Turgut đan hai tay vào nhau, tựa cằm lên ngón tay cái. Đúng là một câu hỏi quan trọng. Chúng ta sẽ cần sự giúp đỡ để giải đáp nó, và có lẽ anh bạn Selim của tôi sẽ là người giúp chúng ta trong vụ này.’

“Chúng ta - những người bạn mới quen gặp nhau vì một chuyện cổ xưa - im lặng ngồi nhìn nhau một lúc trong căn phòng khách sáng nhờ nhờ của khu nhà trọ, mùi cà phê bốc lên ngào ngạt. Rồi Turgut lên tiếng. ‘Rõ ràng, chúng ta phải nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn nữa. Selim nói sẽ dẫn chúng ta đến trung tâm lưu trữ tư liệu ngay khi anh sẵn sàng. Ở đó, anh ta biết nhiều nguồn tư liệu từ thế kỷ mười lăm về Istanbul mà bản thân tôi cũng chưa xem xét gì nhiều vì chúng khá xa so với các mối quan tâm của tôi về Dracula. Chúng ta sẽ cùng xem xét chúng. Nếu tôi gọi điện, chắc chắn ông Erozan sẽ vui vẻ chuẩn bị sẵn tất cả những tài liệu đó cho chúng ta trước giờ làm việc. Ông ta sống gần trung tâm lưu trữ và có thể mở cửa cho chúng ta trước giờ Selim phải đi làm. Nhưng cô Rossi đâu rồi? Cô đã thức dậy chưa vậy?’

“Cuộc nói chuyện này đã khơi dậy trong cha một loạt những ý nghĩ lẫn lộn, cha không biết phải chú tâm vào vấn đề nào trước. Việc giáo sư Turgut đề cập đến người bạn thủ thư làm cha bất chợt nhớ đến tay thủ thư kẻ thù của mình, cha hầu như quên bẵng gã vì quá phấn khích trước lá thư Turgut cho xem. Bây giờ, cha phải đối mặt với nhiệm vụ đặc biệt là cảnh cáo tính nhẹ dạ cả tin của Turgut bằng cách thuật lại việc mình đã nhìn thấy một người đã chết xuất hiện trở lại, mặc dù chắc rằng niềm tin của ông về ma cà rồng có thật trong quá khứ có thể mở rộng thành niềm tin về ma cà rồng có thật trong thời đại hôm nay. Nhưng câu hỏi của ông ta về Helen làm cha nhớ là đã sơ suất, một cách không thể tha thứ được, vì đã để cô lại một mình trong một thời gian dài. Cha muốn để cô được riêng tư khi thức giấc, và rất mong cô theo cha xuống dưới nhà càng sớm càng tốt. Nhưng vì sao đến bây giờ cô vẫn chưa xuất hiện? Turgut vẫn tiếp tục nói. ‘Vì vậy Selim - anh ta không bao giờ ngủ - đang đi uống cà phê sáng, vì không muốn làm anh ngạc nhiên ngay - a, anh ta đây rồi!’

“Chuông cửa nhà trọ reo lên và một người đàn ông mảnh khảnh bước vào, khép cánh cửa lại sau lưng. Cha tưởng mình sẽ gặp một nhân vật lớn tuổi bệ vệ trong bộ cánh trịnh trọng của một doanh nhân, nhưng Selim Aksoy gầy và trẻ trung, mặc quần tây màu sậm đã sờn và áo sơ mi trắng rộng thùng thình. Anh ta bước nhanh về phía chúng ta, vẻ mặt vừa hăm hở vừa căng thẳng, mỉm cười ngượng ngập. Không phải đến lúc bắt chặt bàn tay xương xẩu kia cha mới nhận ra đôi mắt xanh và chiếc mũi dài khoằm của anh ta. Cha đã nhìn thấy gương mặt anh ta, mới gần đây thôi. Phải mất một thoáng để định thần, cha mới nhớ lại được bàn tay thanh mảnh đã trao cho cha một cuốn sách của Shakespeare. Anh ta là người bán sách trong khu chợ nọ.

“ ‘Chúng tôi đã gặp nhau rồi!’ cha reo lên, cùng lúc anh ta cũng thốt lên mấy tiếng tương tự, pha trộn vừa tiếng Thổ vừa tiếng Anh. Turgut sững người hết nhìn rồi lại nhìn cha, rõ ràng là không hiểu gì cả, bật cười khi cha giải thích nhưng vẫn lắc đầu tựa như vẫn còn ngạc nhiên. ‘Thật là ngẫu nhiên,’ ông ta chỉ nói vậy.

“ ‘Các bạn sẵn sàng lên đường chưa?’ Aksoy gạt phăng cử chỉ mời ngồi xuống của Turgut.

“ ‘Chưa đâu,’ cha trả lời. ‘Nếu các anh không phiền, tôi sẽ đi xem cô Rossi đang ở đâu, để xem liệu khi nào thì cô ấy có thể đi với chúng ta.’

“Giáo sư Turgut khẽ gật đầu, có vẻ hơi quá vô tư.

“Cha suýt va đầu Helen ở cầu thang - theo đúng nghĩa đen, trong lúc đang nhảy ba bậc thang một. Cô phải chụp lấy tay vịn để khỏi bị ngã. ‘Ui cha!’ cô thốt lên, giọng cáu kỉnh. ‘Trời ơi, anh làm cái gì vậy?’ Cô xoa xoa khuỷu tay, cha thì cố không cảm thấy bộ áo váy màu đen và bờ vai rắn chắc của cô đang cọ vào cánh tay mình.

“ ‘Đi tìm cô,’ cha đáp. ‘Xin lỗi - cô có bị đau không? Tôi hơi lo vì đã để cô ở lại trên đó một mình quá lâu.’

“ ‘Tôi ổn mà,’ cô nói, giọng đã hòa nhã hơn. ‘Tôi vừa nghĩ ra vài ý. Bao lâu nữa giáo sư Bora mới đến?’

“ ‘Ông ấy đã ở đây rồi,’ cha nói, ‘và có một người bạn theo cùng.’

“Helen cũng nhận ra anh chàng bán sách trẻ tuổi, cả hai ngập ngừng trò chuyện với nhau trong khi Turgut điện thoại cho ông Erozan, nói như hét vào ống nghe. ‘Trời đang mưa dông,’ ông quay sang ba người chúng ta, giải thích. ‘Tín hiệu điện thoại ở khu vực thị trấn này thường bị nhiễu khi trời mưa. Ông bạn tôi có thể gặp chúng ta ngay tại trung tâm lưu trữ. Thực ra, nghe giọng ông ta có vẻ không khỏe, có lẽ là một cơn cảm lạnh, nhưng ông ta nói sẽ đến ngay. Cô dùng cà phê chứ, thưa cô? Tôi sẽ mua cho cô vài cái bánh mì vừng trên đường đi.’ Cha chẳng thích chút nào khi ông ta hôn tay Helen. Rồi tất cả chúng ta vội vã lên đường.

Trong khi đi, cha muốn kéo Turgut ra sau để kể riêng cho ông ta nghe sự xuất hiện của gã thủ thư gớm ghiếc kia; cha nghĩ không nên giải thích chuyện này trước mặt một người xa lạ, đặc biệt đối với người mà Turgut từng mô tả là chẳng mấy mặn mà với chuyện săn ma cà rồng. Nhưng chúng ta còn chưa đi hết một con phố, Turgut và Helen đã chuyện trò thân mật, cha cảm thấy khổ sở bội phần khi nhìn thấy cô tặng cho ông ta nụ cười vốn rất hiếm hoi và vì biết mình đang giữ cái thông tin đáng lẽ phải cho ông ta biết ngay. Anh chàng Aksoy đi bên cạnh cha, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cha, nhưng phần lớn thời gian anh ta có vẻ như chìm trong suy tư đến độ cha cảm thấy không nên cắt ngang dòng suy nghĩ của anh bằng những nhận xét vu vơ về vẻ đẹp của đường phố vào buổi sáng.

“Chúng ta nhận ra cửa ngoài của thư viện không khóa và im lặng bước vào - Turgut nói kèm theo một nụ cười, rằng ông ta biết bạn mình sẽ đúng hẹn, rồi lịch sự nhường Helen đi trước. Hành lang dẫn vào vắng tanh, với ngăn quầy khảm chạm xinh đẹp và cuốn sổ đăng ký mượn sách để mở, sẵn sàng cho những vị khách trong ngày. Turgut đẩy cánh cửa bên trong cho Helen, cô bước hẳn vào gian sảnh yên tĩnh và tối lờ mờ của thư viện trước khi cha kịp nghe cô thở hắt ra và thấy cô đột ngột khựng lại làm ông bạn Turgut gần như ủi vào người cô. Trước khi có thể nhận ra chuyện gì đang xảy ra, tóc gáy cha đã dựng đứng lên, ngoài ra còn một cái gì đó khác khiến cha phải nhào đến, một cách thô bạo, vượt qua ông giáo sư đến bên cạnh Helen.

“Viên thủ thư đứng bất động giữa phòng, chờ đợi, quay mặt về phía chúng ta, vẻ nôn nóng. Tuy nhiên, đó không phải là dáng hình thân thuộc như chúng ta mong đợi, cũng không mang sẵn ra cái hộp mà chúng ta hy vọng được xem lại, cũng chẳng có chồng bản thảo bụi bặm về lịch sử của thành phố Istanbul nào. Mặt gã tái nhợt, tựa như đã bị hút sạch sinh khí - chính xác là như bị hút sạch sinh khí. Đó không phải là người bạn thủ thư của giáo sư Turgut, mà là gã thủ thư mà cha biết, đôi mắt láo liên và sáng quắc, cặp môi đỏ rực dị thường, ánh mắt đói khát nhìn xoáy về hướng chúng ta. Ngay lúc đó, ánh mắt hắn dừng lại trên cha, cha cảm thấy bàn tay đã từng bị hắn bẻ quặt trong kho sách thư viện trường đại học của cha ở Mỹ run lên. Hắn đang khao khát một cái gì đó. Nhưng dẫu có đủ bình tĩnh để phỏng đoán nỗi khát khao đó là gì - dù đó là sự thèm khát có được tri thức ở đây hay là điều gì khác - thì cha cũng không có thời gian để suy nghĩ. Trước khi cha kịp đứng chặn giữa Helen và sinh vật ghê tởm kia, cô đã rút trong túi áo khoác ra một khẩu súng và bắn thẳng vào hắn.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


“Sau này, khi đã biết Helen trong nhiều tình huống hơn, kể cả những tình huống chúng ta quen gọi là đời thường, cô vẫn không ngừng khiến cha phải ngạc nhiên. Cha thường kinh ngạc trước khả năng liên kết nhanh các sự kiện trong đầu óc cô, những liên kết thường dẫn đến sự thấu hiểu bản chất sự việc mà phải mất khá lâu bản thân cha mới đạt đến được. Cô còn làm cha phải sững sờ với kiến thức uyên bác tuyệt vời của mình. Helen có đầy những chuyện bất ngờ như vậy, và cha dần dần xem chúng như cái giá mình phải trả hằng ngày, một sự nghiện ngập đối với khả năng luôn khiến cha bất ngờ ở cô. Nhưng chưa bao giờ cô làm cha hoảng hốt như khoảnh khắc ở Istanbul, lúc cô bất ngờ nổ súng vào tay thủ thư kia.

“Tuy nhiên, cha không có thời gian để ngạc nhiên, vì hắn chỉ trượt ngã sang một bên và ném một cuốn sách sượt qua đầu cha, sách trúng một cái bàn đâu đó bên trái cha, rồi rơi xuống sàn. Helen lại bấm cò, vừa tiến lên phía trước vừa nhắm bắn với vẻ bình tĩnh khiến cha nghẹt thở. Rồi phản ứng kỳ quái của tên tay sai khiến cha phải kinh ngạc. Từ trước đến nay, cha chưa bao giờ thấy ai bị bắn, ngoại trừ trong phim ảnh, nhưng trong phim, than ôi, kể từ hồi mười một tuổi cha đã xem bộ phim trong đó cả ngàn người da đỏ chết trước mũi súng, sau này còn thấy đủ mọi hình tượng tội phạm, cướp ngân hàng, đám lưu manh côn đồ, cả bọn lính Đức Quốc xã, được Hollywood thời chiến hăng hái tạo ra để bắn giết. Điều kỳ lạ của vụ nổ súng này, một vụ nổ súng thực sự, là dù có một vết đen do trúng đạn hiện trên áo, tại một chỗ dưới vùng xương ức, nhưng hắn không hề tỏ vẻ đau đớn, đưa tay chộp ngay vào chỗ đó. Viên đạn thứ hai sượt qua vai; gã bỏ chạy, lủi vào kho sách ở cuối sảnh.

“ ‘Cánh cửa!’ Turgut la lên phía sau cha. ‘Có một cánh cửa ở đó!’ Bọn chúng ta chạy đuổi theo hắn, va vấp lung tung vào bàn ghế. Selim Aksoy mảnh khảnh và nhanh như một chú linh dương, vọt đến chỗ các kho sách trước tiên và biến mất vào trong đó. Bọn ta nghe thấy âm thanh một cuộc ẩu đả, cùng với một tiếng rầm, đúng hơn là tiếng cửa sập, và nhận ra Aksoy đang nằm sóng soài, thân hình bị đè dưới một đống bản thảo viết tay từ thời Ottoman, một cục u bầm tím hiện rõ trên một bên má anh ta. Turgut chạy về phía cánh cửa, cha cũng chạy theo, nhưng cánh cửa đã đóng chặt. Khi mở được nó ra, chúng ta chỉ thấy một con hẻm nhỏ vắng tanh, không có gì ngoài một chồng hộp gỗ. Turgut và cha sóng đôi sục sạo cả khu vực rối rắm như một mê cung đó, nhưng không thấy dấu vết nào của tên tay sai kia, chắc hẳn hắn đã bay mất rồi. Turgut chặn một vài khách bộ hành lại để hỏi nhưng không ai trông thấy nhân vật của chúng ta.

“Một cách miễn cưỡng, hai chúng ta quay trở về trung tâm lưu trữ, Helen đang cầm khăn tay lau má cho Aksoy. Không thấy cây súng ở đâu nữa, các tập bản thảo cũng đã xếp lại ngay ngắn trên những giá sách. Cô ngước nhìn lên khi bọn ta bước vào. ‘Anh ta đã ngất đi khoảng một phút,’ Helen lên tiếng, giọng bình tĩnh, ‘nhưng bây giờ thì ổn rồi.’

“Turgut quỳ xuống bên cạnh bạn mình. ‘Selim, đầu anh u to quá.’

Selim Aksoy nở một nụ cười thiểu não. ‘Tôi được chăm sóc tốt rồi mà,’ anh ta trả lời.

“ ‘Chuyện đó thì tôi thấy rồi,’ Turgut đồng tình. ‘Helen này, tôi thành thực khen ngợi nỗ lực của cô. Nhưng cố giết một kẻ đã chết là một việc vô ích.’

“ ‘Làm sao ông biết?’ cha hỏi, há hốc vì kinh ngạc.

“ ‘Ồ, tôi biết chứ,’ ông trả lời, giọng dứt khoát. ‘Tôi biết cái vẻ mặt đó. Đó là nét mặt của quỷ nhập tràng. Chẳng có khuôn mặt nào khác giống như vậy cả. Tôi đã từng nhìn thấy vẻ mặt đó.’

“ ‘Dĩ nhiên, đó là một viên đạn bạc.’ Helen miết chiếc khăn tay mạnh hơn lên má Aksoy, để đầu anh ta tựa hờ lên vai. ‘Nhưng, như các anh đã thấy, hắn di chuyển nên tôi đã không bắn trúng tim. Tôi biết mình đã liều lĩnh - cô nhìn cha một lúc lâu, nhưng cha không thể đoán cô đang nghĩ gì - nhưng chính bản thân ông cũng thấy là tôi đã ngắm khá chuẩn. Một người bình thường hẳn đã bị thương nặng vì những phát đạn như vậy.’ Cô thở dài, chỉnh lại chiếc khăn tay.

“Cha hoang mang nhìn hết người này qua người khác. ‘Chẳng lẽ lúc nào cô cũng mang khẩu súng đó đi khắp nơi như vậy sao?’ cha hỏi.

“ ‘Ồ, vâng.’ Cô quàng cánh tay Aksoy qua vai mình. ‘Đến đây nào, giúp tôi đỡ anh ta dậy.’ Bọn ta cùng nâng anh ta dậy và giúp anh ta tự đứng vững - anh chàng nhẹ như một đứa trẻ. Anh ta mỉm cười gật đầu, nhún vai tỏ ý không cần đến sự trợ giúp của bọn ta nữa. ‘Vâng, tôi luôn mang theo súng của mình mỗi khi cảm thấy có gì đó… bất an. Và kiếm một hai viên đạn bạc cũng chẳng phải là việc quá khó khăn.’

“ ‘Đúng vậy.’ Turgut gật đầu.

“ ‘Nhưng cô đã học bắn súng ở đâu vậy?’ Cha vẫn còn kinh ngạc bởi khoảnh khắc Helen rút súng ra rồi ngắm bắn nhanh đến vậy.

“Helen bật cười. ‘Ở đất nước tôi, nền giáo dục của chúng tôi tuy hạn hẹp nhưng lại sâu,’ cô giải thích. ‘Năm mười sáu tuổi tôi được giải thưởng của đoàn thanh niên về môn bắn súng. Tôi mừng là mình đã không quên cách ngắm bắn như thế nào.’

“Đột nhiên Turgut la lên và vỗ tay lên trán. ‘Ông bạn tôi!’ Cả bọn chúng ta đều mở to mắt ngạc nhiên. ‘Bạn tôi - Erozan! Tôi quên bẵng ông ta.’

“Phải mất một lúc chúng ta mới hiểu được Turgut muốn nói gì. Anh chàng Selim Aksoy, lúc này có vẻ đã hồi phục, là người đầu tiên phóng vào kho sách, nơi anh ta đã bị đả thương, ba người còn lại trong chúng ta nhanh chóng tỏa ra khắp căn phòng dài, tìm kiếm dưới bàn hoặc sau ghế. Sau một vài phút, không ai tìm thấy ông ta. Sau đó, có tiếng Selim gọi, chúng ta vội ùa đến chỗ anh ta. Aksoy đang quỳ trong kho sách, dưới chân một cái giá cao chất đủ loại hộp, bao, cuộn giấy. Chiếc hộp đựng các tài liệu của Giáo đoàn Rồng nằm dưới sàn, bên cạnh anh, nắp hộp chạm trổ đã bật mở và một số tài liệu chứa bên trong bị vứt tung kế bên.

“Giữa đống di vật này, ông Erozan nằm ngửa sóng soài, trắng nhợt và bất động, đầu ngoẹo qua một bên. Turgut quỳ xuống, áp tai vào ngực người bạn. ‘Cảm tạ Thượng đế,’ sau một lúc ông thốt lên. ‘Ông ấy còn thở.’ Rồi, quan sát kỹ hơn, ông ta trỏ tay vào cổ người bạn. Nằm sâu dưới khoảng da thịt mềm và xanh tái ngay phía trên cổ áo là một vết thương gớm ghiếc. Helen quỳ xuống bên cạnh Turgut. Một lúc lâu, không ai nói gì. Dù đã nghe thầy Rossi mô tả về gã quan chức mà thầy đụng đầu nhiều năm về trước, dù đã biết việc Helen bị thương trong thư viện ở quê nhà, cha vẫn thấy khó tin được điều mình đang chứng kiến. Gương mặt người thủ thư tái mét, gần như đã trở xám, hơi thở yếu ớt, ngắt quãng từng cơn, phải rất lắng tai mới nghe được tiếng thở đó.

“ ‘Ông ta bị nhiễm rồi,’ Helen khẽ nói. ‘Tôi nghĩ ông ta đã mất rất nhiều máu.’

“ ‘Hôm nay thực là một ngày đáng nguyền rủa!’ Khuôn mặt Turgut lộ vẻ đau khổ, siết chặt bàn tay người bạn trong hai bàn tay to lớn của mình.

“Helen là người đầu tiên trấn tĩnh lại. ‘Chúng ta cần phải suy nghĩ một cách hợp lý. Có lẽ, đây chỉ là lần đầu tiên ông ta bị tấn công.’ Cô quay sang Turgut. ‘Hôm qua, lúc ở đây giáo sư không thấy ở ông ta bất kỳ dấu hiệu nào thế này chứ?’

“Turgut lắc đầu. ‘Ông ta hoàn toàn bình thường.’

“ ‘Vậy thì tốt.’ Cô lục trong túi áo khoác, trong một thoáng cha chợt rúm người lại, vì nghĩ cô lại chuẩn bị rút súng ra. Thay vì vậy, cô lôi ra và đặt lên ngực người thủ thư một củ tỏi. Dù toàn bộ cảnh này rất nghiêm trang, Turgut vẫn không khỏi mỉm cười và cũng rút trong túi ra một củ tỏi, đặt nó chung với củ tỏi của Helen. Cha không thể hình dung được cô đã lấy củ tỏi đó ở đâu - có lẽ trong lúc chúng ta đi dạo ở khu chợ người Hồi giáo, khi cha đang mải mê nhìn ngắm những cảnh quan khác? ‘Tôi nghĩ vậy là chí lớn gặp nhau rồi,’ Helen nói với Turgut. Sau đó, cô lấy rồi mở một gói giấy, bày ra một chiếc thánh giá nhỏ bằng bạc. Cha nhận ra đó là cây thánh giá bọn ta đã mua ở nhà thờ Công giáo gần trường đại học, cô đã sử dụng nó để dọa gã thủ thư quỷ quái kia khi hắn tấn công cô trong khu vực sách lịch sử của kho sách thư viện.

“Lần này Turgut ôn tồn khoát tay ngăn cô lại. ‘Không, không,’ ông ta thốt lên. ‘Ở đây, chúng tôi có những kiểu mê tín của riêng mình.’ Từ đâu đó bên trong áo khoác, ông ta lấy ra một tràng hạt gỗ, giống các tràng hạt cha nhìn thấy trong tay những người đàn ông trên đường phố Istanbul. Cuối tràng hạt này là một tấm mề đay có khắc chữ Ả-rập trên cả hai mặt. Ông ta nhẹ nhàng rà tấm mề đay lên môi ông Erozan, gương mặt người thủ thư nhăn lại, như bị làm cho ghê sợ, giần giật và co rúm. Một cảnh tượng dễ sợ nhưng kéo dài không lâu, và rồi người thủ thư mở mắt, nhíu mày. Turgut cúi xuống, dịu dàng nói gì đó bằng tiếng Thổ, sờ vào trán rồi bất ngờ lôi trong áo khoác ra một cái chai dẹt chứa chất gì đó và cho ông thủ thư uống một ngụm.

“Một phút sau, Erozan ngồi dậy, nhìn quanh, đưa tay sờ lên cổ tựa như chỗ đó hãy còn đau. Khi những ngón tay cảm nhận được những giọt máu rỉ ra rồi khô dần trên vết thương nhỏ bé kia, ông úp mặt vào lòng bàn tay, bật khóc nức nở, một âm thanh não lòng.

“Turgut quàng tay lên vai còn Helen thì đặt một bàn tay lên cánh tay người thủ thư. Cha chợt nhớ, chỉ trong vòng một giờ qua, đây là lần thứ hai cô dịu dàng chăm sóc cho một người bị đau đớn khổ sở. Turgut bắt đầu hỏi han người thủ thư bằng tiếng Thổ, sau vài phút ông ta ngồi xổm lên, nhìn ba chúng ta. ‘Ông Erozan cho biết, sáng nay tên lạ mặt kia đã đến chỗ căn hộ ông ta rất sớm, lúc trời vẫn còn tối, và hăm dọa giết nếu ông ta không mở cửa thư viện cho hắn. Sáng nay, khi tôi gọi điện, tên ma cà rồng kia đã ở bên cạnh rồi nhưng ông ta không dám nói. Khi tên lạ mặt kia biết được người gọi, hắn bảo ông ta phải đến trung tâm lưu trữ ngay, cùng với hắn. Ông Erozan phải tuân theo vì sợ hãi, khi đến nơi, hắn bảo ông ta mở cái hộp kia ra. Ngay khi chiếc hộp vừa bật mở, con quỷ liền nhảy bổ vào, vật ông ta xuống đất - ông bạn tôi cũng cho biết là gã mạnh kinh khủng - rồi cắn vào cổ ông ta. Đó là tất cả những gì ông ta nhớ được.’ Turgut lắc đầu, vẻ buồn rầu. Ông Erozan đột ngột níu chặt cánh tay Turgut, và nói một tràng tiếng Thổ, có vẻ như đang van xin một điều gì đó.

“Một lúc lâu, Turgut vẫn không nói gì, rồi sau đó, như thay cho một câu trả lời câm lặng, ông ta siết chặt và ấn tràng hạt vào đôi tay người bạn mình. ‘Ông ta nói với tôi rằng ông ấy hiểu, chỉ cần bị tên quỷ kia cắn hai lần nữa là cũng trở thành quỷ như hắn. Ông ta yêu cầu nếu việc đó xảy ra mà không cách nào tránh khỏi thì chính tay tôi hãy giết ông ta.’ Turgut quay đi, cha nghĩ mình đã thấy những giọt nước mắt long lanh trong đôi mắt ông.

“ ‘Không đến nỗi thế đâu.’ Mặt Helen đanh lại. ‘Chúng ta sắp lần ra nguồn gốc của điều tồi tệ này rồi.’ Cha không biết cô có ý muốn ám chỉ tên thủ thư xấu xa kia hay chính Dracula, nhưng khi nhìn thấy quai hàm cương nghị của cô, cha hầu như tin chắc vào thắng lợi sau cùng của chúng ta trong việc đánh bại cả hai kẻ đó. Trước đây, cha đã từng chú ý vẻ mặt đó của cô, bây giờ nhìn thấy nó cha lại chợt nhớ đến buổi ăn tối ở quê nhà nơi lần đầu tiên chúng ta đã đề cập đến gốc gác của cô. Sau đó cô đã thề phải tìm ra và lật mặt nạ người cha bội bạc của mình trước thế giới học thuật. Cha băn khoăn tự hỏi phải chăng mình đã tưởng tượng ra chuyện đó hay vào một lúc nào đó sứ mệnh của cô đã đổi thay mà chính bản thân cô cũng không hay biết?

“Selim Aksoy vẫn lảng vảng phía sau chúng ta, lúc này anh ta lại đang nói gì đó với Turgut. Ông giáo sư gật đầu. ‘Anh Aksoy nhắc nhở tôi về công việc mà chúng ta đến đây làm, anh ta có lý đấy. Chẳng bao lâu nữa, những người nghiên cứu khác sẽ đến, chúng ta phải chọn lựa hoặc đóng hoặc mở cửa trung tâm cho công chúng. Anh ta đề nghị bỏ mặc cửa hàng của mình hôm nay, và làm người thủ thư thay thế ở đây. Nhưng trước tiên, chúng ta phải dọn dẹp mớ tài liệu này, xem chúng có hư hỏng mất mát gì không, và quan trọng hơn hết phải tìm một chỗ an toàn để ông bạn tôi nằm nghỉ. Ngoài ra Aksoy còn muốn chỉ cho chúng ta một vài điều trong trung tâm trước khi người khác đến.’

“Cha lập tức thu dọn các tài liệu rơi vương vãi đây đó, và nỗi lo sợ tệ hại của cha được xác nhận ngay. ‘Mất các bản đồ gốc rồi,’ cha rầu rĩ báo lại với mọi người. Chúng ta lục tìm trên các giá kệ, nhưng các bản đồ của khu vực kỳ lạ trông giống con rồng đuôi dài kia đã biến mất. Chúng ta chỉ còn biết kết luận rằng tên ma cà rồng kia đã kịp giấu chúng vào người trước khi chúng ta đến. Quả là một ý nghĩ u ám. Lẽ tất nhiên, chúng ta còn có các bản sao, cả bản của thầy Rossi lẫn giáo sư Turgut, nhưng đối với cha, các bản chính tượng trưng cho chìa khóa dẫn đến nơi giam cầm thầy Rossi, một mối liên kết gần gũi hơn rất nhiều so với bất kỳ thứ gì khác cha đang có trong tay.

“Cộng thêm vào sự chán nản vì mất các tấm bản đồ quý báu là ý nghĩ tên thủ thư xấu xa kia có thể khám phá ra bí mật trong đó trước chúng ta. Nếu thầy Rossi đang ở chỗ hầm mộ Dracula, bất luận nó tọa lạc ở đâu, thì giờ cơ hội để gã thủ thư quỷ quái kia đánh bại chúng ta ở ngay đó cũng đã khá lớn. Cha chưa bao giờ cảm thấy vừa nôn nóng vừa bất lực về việc tìm kiếm vị giáo sư hướng dẫn kính yêu của mình đến vậy. Ít nhất - cha lại nhận ra, một cách kỳ lạ - hiện tại Helen vẫn vững vàng bên cạnh cha.

“Turgut và Selim đang bàn bạc bên cạnh người bạn thủ thư ốm yếu, hiện tại có vẻ họ đang hỏi ông ta một câu gì đó, vì ông ta cố gượng dậy và yếu ớt trỏ tay về phía sau kho sách. Selim biến mất, một phút sau trở lại với một cuốn sách nhỏ, bìa bọc da màu đỏ, hơi sờn rách, một dòng chữ Ả-rập màu vàng trên trang bìa. Anh ta đặt nó lên bàn, xem qua một lúc rồi vẫy tay ra hiệu gọi Turgut lại, ông giáo sư đang cuộn cái áo khoác lại để làm gối cho Erozan, xem ra bây giờ ông đã khỏe hơn. Cha đã định mở miệng đề nghị gọi xe cứu thương, nhưng rồi cảm thấy hẳn Turgut biết phải hành xử thế nào. Xong Turgut đứng dậy đi đến chỗ Selim, cả hai lại sôi nổi bàn luận với nhau vài phút nữa, trong khi đó Helen và cha tránh nhìn vào mắt nhau, hai chúng ta vừa hy vọng Aksoy sẽ khám phá được điều gì đó mới nhưng đồng thời lại lo sợ sẽ thất vọng nhiều hơn. Cuối cùng, Turgut lên tiếng gọi chúng ta.

“ ‘Đây chính là cái anh Aksoy muốn chỉ cho chúng ta thấy sáng nay,’ ông ta nói, vẻ nghiêm trọng. ‘Thực ra, tôi không biết nó có ý nghĩa gì với cuộc tìm kiếm của chúng ta hay không. Tuy nhiên, tôi sẽ đọc cho các bạn nghe. Đây là một cuốn sách có niên đại từ đầu thế kỷ mười lăm, do một nhóm tác giả mà tôi chưa bao giờ nghe tiếng biên soạn, các sử gia của thành phố Istanbul. Họ sưu tập ở đây tất cả các bản miêu tả hoặc tường thuật mà họ tìm thấy về cuộc sống ở Istanbul trong những năm đầu tiên của thành phố chúng tôi - đó là, bắt đầu từ năm 1453, khi Quốc vương Mehmed II chiếm được thành phố và tuyên bố nơi này là thủ phủ của đế chế Ottoman.’

“Ông ta trỏ vào một trang sách đầy những con chữ Ả-rập bay bướm, và không biết đây là lần thứ bao nhiêu cha nghĩ quả là kinh khủng khi các ngôn ngữ và bảng chữ cái của loài người lại khác xa nhau một trời một vực thế này, đến nỗi khi liếc nhìn vào một trang sách ấy, khả năng nhận thức của cha liền bị mắc kẹt trong một đống các biểu tượng chẳng khác gì một hàng rào tầm xuân ma quái không thể nào vượt qua. ‘Đây là một đoạn văn mà anh Aksoy nhớ lại từ một trong những lần đến đây nghiên cứu. Đó là một bản tường thuật về một vài sự kiện trong năm 1477, không biết tác giả là ai - vâng, các bạn ạ, đó là năm kế ngay sau năm Vlad Dracula bị giết trong trận đánh ở Wallachia. Đoạn văn kể lại về chuyện trong năm đó có những trường hợp mắc dịch bệnh ở Istanbul như thế nào, một thứ dịch bệnh khiến các thầy tế đạo Hồi phải chôn cất một số xác chết với cọc nhọn đóng vào tim. Nó cũng kể lại chuyện một nhóm tu sĩ vùng Carpates đã vào thành phố bằng một chiếc xe la - chính chi tiết này đã khiến Aksoy nhớ cuốn sách. Các tu sĩ này xin tị nạn trong một tu viện của Istanbul, họ đã ở đó chín ngày chín đêm. Toàn bộ bản tường thuật chỉ có vậy, và các mối liên kết trong câu chuyện cũng chẳng mạch lạc chút nào - nó chẳng đề cập gì thêm về các tu sĩ cũng như tình trạng họ sau đó như thế nào. Chính chữ Carpates làm cho anh bạn Selim muốn dẫn chúng ta đến đây.’

“Selim gật đầu xác nhận, nhưng cha thì không thể không buông tiếng thở dài. Đoạn văn quả có một âm hưởng kỳ lạ, nó khiến cha cảm thấy bất an mà không làm sáng tỏ chút nào vấn đề của chúng ta. Năm 1477 - quả đúng là kỳ lạ, nhưng đó có thể chỉ là một sự trùng hợp. Tuy nhiên, tính tò mò đã thúc đẩy cha đặt một câu hỏi cho Turgut. ‘Nếu thành phố này đã bị người Thổ cai trị thì tại sao vẫn có một tu viện Công giáo để các tu sĩ kia trú ẩn?’

“ ‘Câu hỏi hay, anh bạn ạ,’ Turgut điềm đạm nhận xét. ‘Nhưng tôi phải nói với anh là trước đó đã có một số nhà thờ và tu viện Công giáo ở Istanbul, trước khi người Thổ bắt đầu cai trị. Quốc vương Mehmed là người khoan dung nhất khi cho phép chúng tồn tại.’

“Helen lắc đầu. ‘Sau khi cho phép binh lính của mình phá hủy hầu hết các nhà thờ trong thành phố, hoặc biến chúng thành thánh đường đạo Hồi.’

“ ‘Sự thật là khi đã chinh phục được thành phố này, Quốc vương Mehmed đã cho phép binh lính của mình cướp phá ba ngày liền,’ Turgut bổ sung. ‘Nhưng ông ta hẳn không hành động như vậy nếu thành phố này đầu hàng thay vì kháng cự - thực ra, ông ta đã đề nghị một sự dàn xếp hoàn toàn hòa bình. Sử sách cũng ghi lại là khi tiến vào thành phố Constantinople và chứng kiến những tổn hại do binh lính mình gây ra - những dinh thự bị tàn phá, các nhà thờ bị hủy hoại, dân chúng bị tàn sát - Mehmed đã khóc than cho thành phố xinh đẹp này. Từ đó, ông ta đã cho phép một số nhà thờ hoạt động và dành nhiều ưu đãi cho các cư dân Byzantine.’

“ ‘Ông ta cũng bắt hơn năm mươi ngàn người trong số cư dân đó làm nô lệ,’ Helen lạnh lùng chêm vào. ‘Xin đừng quên sự thật đó.’

“Turgut dành tặng cô một nụ cười thán phục. ‘Cô quả là một đối thủ quá sức tôi. Nhưng tôi chỉ muốn chứng minh rằng các vị Quốc vương của chúng tôi không phải là những con quái vật. Vào thời đó, họ thường tỏ ra khá khoan dung sau khi đã chinh phục được một vùng nào đó. Chỉ có bản thân quá trình chinh phục là không mấy vui vẻ thôi.’ Ông ta trỏ bức tường ở đầu kia của trung tâm lưu trữ. ‘Chân dung của vị Quốc vương Mehmed vĩ đại ở kia, nếu các bạn muốn chiêm ngưỡng ông ấy.’ Cha đi đến đó xem, dù Helen vẫn bướng bỉnh đứng yên tại chỗ. Bức tranh được đóng khung - có vẻ như là một bức tranh màu nước rẻ tiền - vẽ một người đàn ông rắn chắc, ngồi trên ghế, đầu đội khăn xếp hai màu trắng đỏ. Da trắng, bộ râu tỉa tót công phu, đôi hàng lông mày như nét chữ bay bướm và đôi mắt màu hổ phách. Trong tay là một bông hồng độc nhất, áp sát vào chiếc mũi khoằm lớn, ngửi hương hoa và nhìn xa xăm. Cha thấy ông ta có vẻ là một đạo sĩ phái Hồi giáo Sufi thần bí hơn là một kẻ xâm lăng ác độc.

“ ‘Đúng là một bức tranh làm người ta khá ngạc nhiên,’ cha nhận xét.

“ ‘Vâng, ông ta còn là người bảo trợ nhiệt tình cho ngành kiến trúc và các loại hình nghệ thuật, và đã xây dựng cho thành phố này nhiều dinh thự xinh đẹp.’ Turgut gõ gõ ngón tay to bè vào cằm. ‘À, các bạn nghĩ gì về bản tường thuật anh Selim phát hiện?’

“ ‘Thú vị,’ cha đáp lời theo kiểu xã giao, ‘nhưng tôi không rõ nó có ích gì trong việc giúp chúng ta tìm ra ngôi mộ.’

“ ‘Tôi cũng vậy,’ Turgut nói tiếp. ‘Tuy nhiên, ở đây tôi ghi nhận có một sự tương đồng nào đó giữa đoạn tường thuật này với mẩu thư tôi đọc cho anh nghe sáng nay. Những chuyện náo động trong khu hầm mộ ở Snagov, dù là gì chăng nữa, cũng xảy ra cùng năm 1477 đó. Chúng ta đã biết đó là năm ngay sau năm Vlad Dracula chết, và có một nhóm tu sĩ rất quan tâm đến gì đó ở Snagov. Liệu các tu sĩ này có cùng là một nhóm với họ không, hay là một nhóm nào đó liên quan tới Snagov?’

“ ‘Có thể,’ cha thừa nhận, ‘nhưng đó chỉ là phỏng đoán. Bản tường thuật này chỉ nói là các tu sĩ từ vùng Carpates đến. Trong thời kỳ đó, vùng Carpates hẳn phải đầy rẫy tu viện. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn là họ đến từ một tu viện ở Snagov? Helen, cô có ý kiến gì không?’

“Chắc hẳn cha đã làm cô bất ngờ, bởi cô nhìn thẳng vào cha với vẻ mặt đượm buồn mà từ trước đến nay cha chưa bao giờ nhìn thấy. Tuy nhiên, ấn tượng đó tan biến ngay, và cha lại nghĩ có thể mình đã tưởng tượng ra điều đó, hoặc có lẽ cô đang nhớ đến người mẹ và chuyến đi Hungary sắp tới của hai chúng ta. Dù đầu óc có đang mơ màng ở đâu đâu, cô vẫn trấn tĩnh lại ngay. ‘Vâng, có rất nhiều tu viện trong vùng Carpates. Anh Paul nói đúng - chúng ta không thể đánh đồng hai nhóm tu sĩ đó nếu không có thêm thông tin nào khác.’

“Cha nghĩ giáo sư Turgut có vẻ thất vọng, ông ta mở miệng định nói điều gì đó, nhưng ngay lúc ấy chúng ta bị cắt ngang bởi tiếng thở hổn hển, khò khè. ‘Ông ấy ngất rồi!’ Turgut thét lên. ‘Còn chúng ta thì cứ mãi ba hoa như một đám lắm điều…’ Ông ta lại đưa củ tỏi lên mũi người bạn, và viên thủ thư lại nói lắp bắp và hơi hồi tỉnh. ‘Nhanh lên, chúng ta phải đưa ông ta về nhà. Giáo sư, và cô nữa, xin giúp tôi một tay. Tôi sẽ gọi taxi đưa ông ấy về nhà tôi. Ở đó, tôi và vợ tôi có thể chăm sóc ông ấy. Selim sẽ ở lại lo cho trung tâm lưu trữ - hẳn sắp tới giờ mở cửa rồi.’ Ông giáo sư liến thoắng bằng tiếng Thổ với Aksoy thêm vài yêu cầu gì đó nữa.

“Sau đó, Turgut và cha nâng người thủ thư ốm yếu xanh xao kia lên, dìu ông ta ra ngoài, cẩn thận đi qua lối cửa sau. Helen cầm áo khoác của Turgut theo sau, chúng ta đi hết con hẻm, và một lát sau đã đứng giữa ánh nắng ban mai. Khi ánh nắng chiếu vào mặt, ông Erozan rúm người lại, rúc vào vai cha, đưa một bàn tay lên che mắt lại, tựa như đang né tránh một cú đánh vào người.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Đêm nghỉ tại trang trại ở Boulois, với Barley nằm phía bên kia phòng, là một đêm thao thức nhất mà tôi chưa bao giờ nếm trải. Chúng tôi đi ngủ vào khoảng chín giờ, vì không biết phải làm gì ngoài việc lắng nghe âm thanh lục cục của lũ gà và ngắm nhìn ánh sáng đang mờ dần trên khu chuồng gia súc ọp ẹp. Tôi sửng sốt vì nông trại không có điện - “Em không để ý là không có dây điện hay sao?” Barley hỏi - bà chủ nông trại đã mang đến một chiếc đèn lồng cùng hai cây nến trước khi chúc chúng tôi ngủ ngon. Dưới ánh sáng của chúng, bóng của những thứ đồ gỗ cổ bóng loáng như cao hơn, phủ quanh chúng tôi đầy đe dọa, những đồ may thêu trang trí cũng rập rình đong đưa trên tường.

Sau vài lần ngáp, Barley để nguyên quần áo nằm xuống giường và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Tôi không dám bắt chước anh nhưng cũng ngại không dám để các ngọn nến cháy suốt đêm. Cuối cùng, tôi thổi tắt nến, chỉ để lại cây đèn lồng, ánh sáng le lói từ nó chỉ làm cho bóng tối quanh tôi càng thêm đặc quánh lại, và bóng tối bên ngoài, từ sân khu trại, như càng đè nặng lên khung cửa sổ. Những dây nho xào xạc trên kính cửa sổ, lũ cây cối hình như cũng nghiêng vào sát hơn, một tiếng động kỳ lạ, có thể là tiếng của lũ cú hoặc bồ câu, vang lên khi tôi đã nằm co ro trên giường. Barley dường như ở rất xa; lúc nãy tôi đã mừng biết mấy khi thấy hai cái giường tách biệt, nhưng giờ thì tôi chỉ ước gì chúng tôi buộc phải nằm ngủ một giường, lưng-đối-lưng.

Sau một lúc lâu nằm yên trong một tư thế đến độ tê người, tôi thấy một thứ ánh sáng dịu êm trườn từ cửa sổ vào rồi dần lan ra trên nền ván sàn. Trăng đang lên, và nhờ thế tôi cảm thấy nỗi sợ hãi của mình phần nào nhẹ bớt, tựa như đã có một người bạn cũ đến chơi bầu bạn cùng tôi. Tôi cố không nghĩ đến cha; nếu đây là một cuộc du hành nào khác của tôi, thì hẳn cha mới là người nằm trên chiếc giường bên kia, mặc pyjama đàng hoàng, cuốn sách dở dang để bên cạnh. Chắc hẳn cha sẽ là người đầu tiên để ý cái trang trại cũ kỹ này, biết ngay phần trung tâm của trang trại được xây dựng từ thời Aquitaine(1), rồi sẽ mua vài ba chai rượu vang và bàn luận về vườn nho với bà chủ nhà vui vẻ dễ chịu.

Nằm trên giường, tôi băn khoăn tự hỏi mình sẽ làm gì nếu cha không còn sống trở về sau chuyến đi đến tu viện Thánh Matthieu. Tôi nghĩ mình sẽ không thể nào trở về Amsterdam để một mình quẩn quanh suốt ngày trong nhà với bà Clay được; như vậy tôi sẽ chỉ càng thêm đau đớn. Theo hệ thống giáo dục châu Âu, tôi còn hai năm nữa mới học xong trung học, rồi mới được đi học đại học ở một nơi nào đó. Tôi sẽ sống với ai trong thời gian đó? Barley sẽ trở về với cuộc sống thường nhật của anh; tôi không thể trông mong anh lo lắng cho mình nhiều hơn nữa. Hình ảnh thầy James thoáng hiện ra trong đầu tôi, cùng với nụ cười buồn, sâu lắng và những nếp nhăn đôn hậu quanh đôi mắt. Rồi tôi lại nghĩ đến hai bác Giulia và Massimo, đến căn biệt thự của họ ở Umbria. Tôi như thấy lại bác Massimo đang rót rượu vang cho tôi - “Thế cháu đang học gì thế, cháu yêu?” - và bác Giulia nói tôi phải được dành cho căn phòng tốt nhất. Họ không có con; họ cũng yêu mến cha. Tôi sẽ đến với họ nếu cuộc sống trắc trở.

Bây giờ đã cảm thấy bạo dạn hơn, tôi thổi tắt ngọn đèn lồng, rón rén nhón chân nhô đầu nhìn ra bên ngoài. Tôi chỉ nhìn thấy vầng trăng chia nửa trên bầu trời đầy những mảnh mây nham nhở. Lơ lửng trôi ngang qua trước mặt trăng là một hình bóng mà tôi biết rất rõ - không, chỉ một chốc lát thoáng qua thôi, và chỉ là một đám mây thôi, đúng không nhỉ? Đôi cánh xòe rộng, cái đuôi uốn cong? Nó tan đi ngay, nhưng sau đó, thay vì trở lại giường mình, tôi đã đến giường của Barley, nằm đối lưng với anh, cái lưng vô tư lự của anh, run rẩy hàng giờ liền.

“Việc vận chuyển và thu xếp ông Erozan một chỗ trong căn phòng khách kiểu phương Đông của Turgut đã mất gần hết buổi sáng. Bây giờ, ông thủ thư đã yên vị trên đi văng dài, vẫn xanh xao nhưng đã bình tĩnh trở lại. Chúng ta vẫn còn ở đó khi bà Bora từ trường về nhà vào buổi trưa. Bà nhanh nhẹn bước vào, trong mỗi bàn tay nhỏ bé vẫn còn mang găng là một giỏ đồ. Hôm nay bà mặc váy màu vàng, đội mũ vải hoa, trông chẳng khác gì một nhánh thủy tiên nhỏ bé. Nụ cười bà vẫn tươi tắn, dễ thương ngay cả khi nhìn thấy tất cả chúng ta đang đứng vây quanh một người đàn ông kiệt sức. Có vẻ như chẳng có hành động nào của ông chồng khiến bà phải ngạc nhiên, cha nghĩ; có lẽ đó cũng là bí quyết của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

“Bằng tiếng Thổ, Turgut giải thích với bà tình huống xảy ra, vẻ mặt vui vẻ của bà nhường chỗ cho trước tiên là nét hoài nghi không giấu nổi rồi sau đó là vẻ kinh hoàng bùng lên khi ông kín đáo chỉ cho bà xem vết thương trên cổ họng vị khách mới. Bà nhìn Helen và cha bằng một ánh mắt thất thần không thốt nên lời, như thể đó là lần đầu tiên bà biết tới một điều xấu xa. Rồi bà cầm lấy tay người thủ thư, trước đó một lát cha đã biết bàn tay đó không chỉ trắng nhợt mà còn lạnh ngắt. Một lát sau, bà lau nước mắt rồi bước nhanh vào bếp, cha nghe vọng ra tiếng lách cách của xoong nồi. Dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, người đàn ông đang nhiễm bệnh này chắc chắn sẽ có một bữa ăn ngon. Ông Turgut thuyết phục chúng ta ở lại ăn trưa, cha ngạc nhiên khi thấy Helen đi theo bà Bora để phụ giúp.

“Khi nhận thấy ông Erozan chắc chắn đã ngủ ngon, Turgut dẫn cha vào căn phòng làm việc quái dị của ông ta một vài phút. Cha cảm thấy dễ chịu vì tấm rèm che bức chân dung kia đã buông xuống kín mít. Chúng ta ngồi đó một lát để bàn bạc tình hình. ‘Ông có cho rằng hai vợ chồng sẽ an toàn khi để ông bạn thủ thư ở đây không?’ Cha không thể ngăn mình nêu ra câu hỏi đó.

“ ‘Tôi sẽ sắp xếp mọi biện pháp đề phòng. Nếu một hai ngày tới tình trạng sức khỏe ông ấy khá hơn, tôi sẽ tìm một nơi nào đó cho ông ấy ở, cùng với một người trông nom.’ Turgut kéo cho cha một cái ghế rồi ngồi xuống sau bàn làm việc. Cha chợt nghĩ, hầu như chẳng khác gì đang ở với thầy Rosssi trong phòng làm việc của thầy tại trường đại học, chỉ có điều phòng làm việc thầy Rossi rõ ràng là vui hơn với những loại cây kiểng xanh tốt và ấm cà phê đang reo sôi, còn căn phòng này tăm tối một cách lạ lùng. ‘Tôi chẳng mong có bất kỳ cuộc tấn công nào ở đây, nhưng nếu có, anh bạn người Mỹ ấy của chúng ta sẽ phải đối mặt với một sự giáng trả ra trò.’ Nhìn cái vóc dáng chắc đậm đầy cương quyết của ông sau bàn làm việc, cha có thể dễ dàng tin vào điều ấy.

“ ‘Xin lỗi giáo sư,’ cha nói. ‘Có lẽ chúng tôi đã mang đến cho ông quá nhiều chuyện rắc rối, mang mối đe dọa này đến ngay cửa nhà ông.’ Cha kể sơ lược cho ông ta nghe cuộc đụng độ giữa chúng ta và gã thủ thư xấu xa kia, kể cả việc nhìn thấy hắn trước thánh đường Hagia Sophia đêm hôm qua.

“ ‘Kỳ lạ thật,’ Turgut nói. Đôi mắt ánh lên vẻ quan tâm nghiêm túc, ông ta nhịp đầu ngón tay lên mặt bàn.

“ ‘Tôi cũng muốn hỏi ông một câu nữa,’ cha thú nhận. ‘Sáng nay, trong trung tâm lưu trữ ông có nói trước đây ông đã nhìn thấy một gương mặt giống như hắn. Ông có ý gì khi nói vậy?’

“ ‘À.’ Ông bạn thông thái của cha chắp hai tay trên bàn. ‘Vâng, tôi sẽ kể anh nghe chuyện đó. Đã nhiều năm rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in. Thực ra, nó đã xảy ra chỉ vài ngày sau khi tôi nhận được thư của giáo sư Rossi giải thích là ông ta chẳng biết gì về trung tâm lưu trữ ở đây cả. Cuối buổi chiều hôm đó, sau giờ tan học, tôi đã ghé qua phòng sưu tập - bấy giờ hãy còn nằm trong tòa nhà thư viện cũ, trước khi chuyển đến địa điểm hiện nay. Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đang nghiên cứu một bài báo cũ viết về một tác phẩm bị thất lạc của Shakespeare, cuốn Vua Tashkani, một số người tin rằng tác phẩm này được dựng lên theo một chuyện hư cấu ở Istanbul. Chắc có lẽ anh cũng nghe nói đến tác phẩm đó chứ?’

“Cha lắc đầu.

“ ‘Nó được trích dẫn trong tác phẩm của nhiều sử gia nước Anh. Cũng chính từ các sử gia này tôi biết được nội dung của nguyên tác vở kịch, một con quỷ tên là Dracole đến triều kiến vua của một thành phố cổ xinh đẹp mà ông ta - tức nhà vua - đã chiếm đoạt bằng vũ lực. Con quỷ đó cho biết hắn đã từng là kẻ thù của nhà vua nhưng bây giờ hắn đến để chúc mừng vì sự khát máu của ông ta. Rồi, hắn thúc giục nhà vua uống cạn máu của cư dân thành phố, những người giờ đã là thần dân của ông ta. Đó là một đoạn văn gây ớn lạnh. Một số người cho rằng đoạn văn không phải của Shakespeare, nhưng tôi’ - ông ta vỗ mạnh tay xuống mép bàn, vẻ tự tin - ‘tôi tin rằng cách diễn đạt đó, nếu được trích dẫn chính xác, chỉ có thể là của Shakespeare, và thành phố kia chính là Istanbul, được cải danh thành Tashkani - một cái tên Thổ Nhĩ Kỳ.’ Ông ta chồm tới trước. ‘Tôi cũng tin rằng ông vua độc tài mà con quỷ kia triều kiến không phải ai khác mà chính là Quốc vương Mehmed II, Người Chinh phục Constantinople.’

“Cha cảm thấy sởn tóc gáy. ‘Ông có cho rằng ý nghĩa của vở kịch này có thể là - ý tôi muốn nói đó là nơi liên quan đến quá trình hoạt động của Dracula?’

“ ‘Chà, anh bạn à, tôi cảm thấy rất thú vị là huyền thoại về Vlad Dracula thậm chí cũng thâm nhập vào nước Anh theo đạo Tin Lành một cách rất mạnh mẽ, vào khoảng - xem nào - năm 1590. Hơn nữa, nếu Tashkani quả thực là Istanbul, thì điều đó cho thấy sự hiện diện của Dracula ở nơi chốn này, vào thời đại của Mehmed, là có thực. Mehmed đã tiến vào thành phố này vào năm 1453. Thời điểm đó chỉ cách năm mà gã thanh niên Dracula trở về Wallachia sau thời gian bị giam giữ ở Tiểu Á năm năm, và không có bằng chứng chắc chắn nào cho thấy trong suốt cuộc đời hắn, Dracula có quay lại khu vực chúng tôi, dù một số học giả cho rằng hắn đã đích thân đến triều kiến Quốc vương. Tôi không nghĩ người ta có thể chứng minh được điều này. Giả thuyết của tôi là chính hắn đã để lại cái di sản ma cà rồng hút máu ở đây, nếu không phải trong thời gian còn sống thì cũng là sau khi hắn chết. Nhưng’ - ông ta thở dài - ‘ranh giới giữa văn chương và lịch sử thường là một ranh giới không rõ ràng và dễ đổi thay, mà tôi lại chẳng phải là một sử gia.’

“ ‘Ông là một sử gia đích thực rồi đấy,’ cha đáp lại, tỏ vẻ khâm phục. ‘Tôi rất ấn tượng trước số lượng những đầu mối lịch sử mà ông đã theo đuổi, cùng với những thành công như vậy.’

“ ‘Anh thật tử tế, anh bạn trẻ à. Dù sao chăng nữa, một buổi chiều hồi tôi còn đang soạn thảo bài viết về giả thuyết này - tiếc là nó chưa bao giờ được công bố, trời ơi, vì những biên tập viên của tạp chí chuyên đề nơi tôi gửi bài đến nhận định là nội dung bài viết quá mê tín dị đoan - tôi đã mê mải làm việc ở trung tâm lưu trữ ba tiếng đồng hồ liền, sau đó vào nhà hàng bên kia đường để ăn qua loa món bưrek. Anh đã ăn bưrek rồi chứ?’

“ ‘Ồ, chưa ạ,’ cha thừa nhận.

“ ‘Anh nên thử món đó ngay đi - đó là một trong những món đặc sản ngon nhất của đất nước chúng tôi. Khi tôi vào nhà hàng đó, vì đang là mùa đông nên ngoài trời đã tối. Sau khi ngồi xuống bàn, và trong thời gian đợi món ăn tôi đã lấy ra và đọc lại lá thư của giáo sư Rossi. Như đã nói, tôi chỉ nhận lá thư này mới mấy ngày và hãy còn rối tung vì nó. Người phục vụ mang thức ăn ra, và tôi chợt nhìn thấy gương mặt hắn khi hắn đặt các đĩa thức ăn xuống. Hắn nhìn xuống, tôi thấy có vẻ như hắn bất chợt chú ý đến lá thư tôi đang đọc, có tên của giáo sư Rossi ở phía trên. Hắn liếc nhìn lá thư một hoặc hai lần bằng ánh mắt sắc lạnh, ngay sau đó cố xóa tất cả nét biểu lộ trên mặt như không có gì xảy ra, nhưng tôi chú ý thấy hắn bước ra sau lưng tôi để đặt một đĩa khác xuống bàn, và hình như qua vai tôi, hắn lại nhìn vào lá thư.

“ ‘Tôi không thể giải thích hành vi đó và cảm thấy vô cùng khó chịu, vì vậy tôi yên lặng xếp lá thư lại và bắt đầu bữa ăn tối. Gã bỏ đi, không nói gì, tôi không thể không chú ý quan sát gã đi quanh quẩn trong nhà hàng. To con, vai rộng, đậm người, mái tóc đen nhánh chải lật ngược ra sau để lộ gương mặt và đôi mắt to đen. Chắc hẳn đó là một khuôn mặt đẹp trai nếu trông nó không có vẻ - người ta gọi là gì nhỉ? - khá nham hiểm. Suốt cả giờ đồng hồ, có vẻ như hắn không thèm chú ý đến tôi, ngay cả khi tôi đã ăn xong. Tôi lấy một cuốn sách ra đọc trong vài phút, nhằm giết thời gian, đột nhiên gã lại tiến đến, đặt trước mặt tôi một tách trà nóng còn bốc hơi. Tôi ngạc nhiên vì mình đâu có gọi trà, và nghĩ chắc hẳn hoặc đó là món khuyến mãi của nhà hàng hoặc là sự nhầm lẫn. “Trà của ông đây,” gã nói lúc đặt tách trà xuống. “Tôi bảo đảm trà còn nóng lắm đấy.”

“ ‘Rồi hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi không thể giải thích vì sao gương mặt đó lại làm mình khiếp sợ đến vậy. Một khuôn mặt tái mét, nước da gần như vàng ệch, tựa như gã đã - nói thế nào nhỉ? - đã mục ruỗng hết bên trong. Dưới hàng lông mày rậm, cặp mắt hắn đen và sáng rực, chẳng khác gì mắt của một con thú. Những chiếc răng dài và trắng nhởn trong một cái miệng đỏ như máu - trông chúng có vẻ khỏe mạnh lạ thường trên một khuôn mặt bệnh hoạn. Gã mỉm cười lúc cúi xuống đặt tách trà lên bàn, tôi có thể ngửi thấy cái mùi cơ thể kỳ dị của gã và cảm thấy muốn nôn vì kinh tởm. Anh bạn ạ, nói ra anh đừng cười, nhưng nó cũng thoảng chút cái mùi mà trong những trường hợp khác tôi luôn thấy thích - mùi những cuốn sách cổ. Chắc hẳn anh cũng rành rẽ cái mùi đó - mùi giấy và bìa da của những cuốn sách cổ xưa - và một cái gì khác nữa nhỉ?’

“Cha biết cái mùi đó và cảm thấy chẳng có gì đáng buồn cười cả.

“ ‘Một lát sau, gã bỏ đi về hướng bếp nhà hàng, chẳng hề tỏ ra vội vã, tôi ngồi lại đó, có cảm giác như gã muốn cho tôi thấy một cái gì đó - gương mặt của gã chăng, có lẽ vậy. Gã muốn tôi nhìn kỹ gã, tuy vậy tôi vẫn không thể viện dẫn được bất cứ lý do cụ thể nào để giải thích cho nỗi sợ hãi của mình.’ Sắc diện Turgut giờ đã chuyển sang tái mét, ông ngồi dựa vào lưng chiếc ghế bành kiểu thời Trung cổ. ‘Để lấy lại bình tĩnh, tôi bỏ một ít đường vào cốc trà rồi khuấy đều. Tôi chỉ định trấn tĩnh lại bằng cốc trà nóng hổi đó, nhưng rồi đã xảy ra một chuyện gì đó rất - rất kỳ lạ.’

“Ông ta chợt ngưng bặt tưởng chừng như đang hối tiếc vì đã bắt đầu câu chuyện. Bản thân cha cũng biết rất rõ cảm giác đó, nên đã gật đầu để khuyến khích ông ấy. ‘Xin ông cứ tiếp tục.’

“ ‘Bây giờ khi kể lại, sự việc có vẻ như kỳ quái, nhưng tôi đang nói rất chân thật. Hơi nóng bốc lên từ cốc trà - chắc anh cũng biết hơi nóng bốc lên thường trông như thế nào khi ta khuấy một thứ gì đó còn nóng chứ? - nhưng khi khuấy cốc trà đó, hơi nóng bốc lên khỏi miệng cốc thành hình một con rồng nhỏ, lơ lửng ở đó vài giây rồi tan biến. Chính mắt tôi nhìn thấy nó rất rõ ràng. Anh có thể tưởng tượng cảm giác của tôi lúc đó như thế nào, trong một thoáng tôi cảm thấy không còn tin vào chính bản thân mình nữa, sau đó tôi đã nhanh chóng thu xếp giấy tờ, trả tiền rồi vội vã ra khỏi nhà hàng.’

“Cha cảm thấy miệng mình khô khốc. ‘Ông có gặp lại gã hầu bàn đó chứ?’

“ ‘Chưa bao giờ. Mấy tuần sau tôi không quay lại nhà hàng đó, và khi tính hiếu kỳ trỗi dậy, tôi đã trở lại đó vào một buổi tối, nhưng không có dấu vết nào của gã. Thậm chí, tôi đã hỏi thăm một trong những người hầu bàn khác, anh ta nói gã chỉ làm việc ở đó một thời gian ngắn và anh ta cũng chẳng biết gã họ gì. Tên gã, anh ta cho biết, là Akmar. Tôi chưa bao giờ tìm được dấu vết nào khác của gã.’

“ ‘Và liệu ông có nghĩ chính gương mặt hắn cho thấy hắn là…’ cha bỏ lửng câu hỏi.

“ ‘Nó làm tôi quá kinh hãi. Tôi chỉ có thể nói với anh như vậy về khoảnh khắc đó. Khi nhìn thấy gương mặt của tên thủ thư mà anh đã - như anh nói - anh đã mang tới đây, tôi cảm nhận là mình đã biết vẻ mặt đó. Đó không đơn giản chỉ là vẻ mặt của cái chết. Nét mặt đó còn có một cái gì đó…’ ông ta bứt rứt quay qua quay lại trên ghế rồi liếc nhìn về phía cái hốc tường che rèm, nơi treo bức chân dung. ‘Một chi tiết trong câu chuyện của anh khiến tôi suy nghĩ rất lung, tên thủ thư người Mỹ kia đã phát triển thành một con quỷ mạnh hơn nhiều so với lúc anh gặp hắn lần đầu.’

“ ‘Ý ông muốn nói gì?’

“ ‘Khi hắn tấn công cô Rossi trong thư viện ở Mỹ, anh đã có thể đánh ngã hắn. Nhưng ông bạn tôi ở trung tâm lưu trữ, người hắn tấn công sáng nay, nói rằng hắn rất khỏe, và ông ta cũng đâu có yếu ớt hơn anh. Tên ác ôn đó còn hút được của ông bạn tôi một lượng máu đáng kể, than ôi. Và hơn nữa, lúc chúng ta nhìn thấy hắn, tên ma cà rồng này đang ở giữa ánh sáng ban ngày, chứng tỏ hắn vẫn chưa hoàn toàn bị biến thành quỷ. Tôi phỏng đoán là tên tay sai này đã được hồi sinh lần thứ hai ở trường đại học của anh hoặc ở ngay Istanbul này, và nếu có những mối liên lạc ở đây, hắn sẽ nhanh chóng nhận được phép hồi sinh của quỷ lần thứ ba và mãi mãi trở thành quỷ nhập tràng.’

“ ‘Vâng,’ cha nói. ‘Khi chưa tìm ra gã thủ thư đó thì chúng ta chưa thể làm gì cả, vì vậy ông phải canh chừng bạn ông ở đây rất cẩn thận.’

“ ‘Tôi sẽ cẩn thận.’ Turgut trả lời, giọng nhấn mạnh đầy quyết tâm. Ông chợt im lặng một lát, rồi lại quay về hướng tủ sách. Không nói lời nào, ông rút ra từ trong bộ sưu tập của mình một cuốn album lớn có dòng chữ Latin ở bìa trước. ‘Tiếng Rumani,’ ông giải thích với cha. ‘Đây là bộ sưu tập hình ảnh các nhà thờ vùng Transylvania và Wallachia của một nhà sử học chuyên về nghệ thuật vừa qua đời cách đây không lâu. Ông ta đã chụp lại nhiều hình ảnh của các nhà thờ mà tiếc là sau này đã bị phá hủy trong chiến tranh. Vì vậy, cuốn sách này rất quý.’ Ông ta đặt cuốn sách vào tay cha. ‘Tại sao anh không thử lật đến trang hai mươi lăm xem sao?’

“Cha lật đến trang đó. Ở đó, cha thấy trải rộng trên cả hai trang sách là một bức bích họa điêu khắc màu. Nhà thờ có bức tranh đó được chụp lại trong một bức hình đen trắng nhỏ in ở góc bức hình hai trang ấy: một kiến trúc xinh xắn với hai tháp chuông như kiểu vặn xoắn. Nhưng chính tấm hình lớn mới thu hút sự chú ý của cha. Phía bên trái, hiện ra lờ mờ hình một con rồng dữ tợn đang bay, đuôi cuộn lại không phải một mà thành hai vòng, đôi mắt vàng khè trừng trừng vẻ điên cuồng, miệng đang khạc lửa. Có vẻ như nó đang bổ nhào xuống để tấn công nhân vật ở phía bên phải, một người đàn ông mặc áo giáp, đầu đội khăn xếp vải sọc đang co rúm người lại. Nét mặt rúm ró vì sợ hãi, một tay cầm thanh mã tấu cong, tay kia là một tấm khiên tròn. Thoạt tiên, cha nghĩ anh ta đang đứng giữa một cánh đồng thảo mộc kỳ lạ, nhưng khi nhìn kỹ cha nhận ra những vật chung quanh đầu gối anh ta là những con người, một rừng người tí hon, và người nào cũng đang quằn quại trên đầu một cây cọc. Một số mang khăn xếp, như nhân vật khổng lồ ở giữa họ, nhưng nhiều người khác ăn mặc kiểu như nông dân. Vẫn còn một số người khác mặc quần áo kim tuyến và đội mũ lông cao. Có cả những mái đầu hoe vàng và đen nhánh; quý tộc với bộ ria nâu dài; thậm chí có cả các tu sĩ và thầy tế đội mũ cao và mặc áo thụng đen dài. Đám đàn bà rũ rượi với những bím tóc dài, nam thiếu niên và bọn trẻ nhỏ đều trần truồng. Thậm chí còn có cả một hai con vật. Tất cả đều đang lộ vẻ đau đớn cùng cực.

“Turgut nhìn cha chăm chú. ‘Nhà thờ đó được Dracula chu cấp trong suốt thời kỳ trị vì thứ hai của hắn,’ Turgut nói, giọng bình thản.

“Cha đứng đó, nhìn đăm đăm tấm hình thêm một lát, rồi đóng ập cuốn sách lại vì không thể chịu thêm nữa. Turgut nhận lại và mang cuốn sách đi cất. Khi quay lại với cha, ông ta trông như đang sôi sục. ‘Còn bây giờ, anh bạn, anh dự định làm thế nào để tìm giáo sư Rossi đây?’

“Câu hỏi như một lưỡi dao xoáy vào người cha. ‘Tôi vẫn đang cố gắng chắp nối tất cả các thông tin này lại với nhau,’ cha chậm rãi thừa nhận, ‘cho đến tối hôm qua, thậm chí với sự trợ giúp nhiệt tình của ông - và ông Aksoy - tôi vẫn không cảm thấy mình biết gì nhiều. Có lẽ Vlad Dracula đã hóa thân thành một cái gì đó ở Istanbul sau khi chết, nhưng làm sao chúng ta có thể tìm ra xem liệu hắn chỉ từng được chôn ở đây hay vẫn đang nằm dưới mồ ở đây? Đối với tôi, điều đó vẫn còn là một bí mật. Cho đến lúc chúng ta tiến hành bước kế tiếp, tôi chỉ có thể nói với ông là chúng tôi sẽ đi Budapest một vài ngày.’

“ ‘Budapest?’ Cha hầu như có thể thấy rõ những suy đoán đang dồn dập hiện ra trên gương mặt to bè của ông.

“ ‘Đúng vậy. Ông còn nhớ câu chuyện về mẹ cô Helen và giáo sư Rossi - cha cô ấy không? Helen chắc rằng mẹ cô có thể có những thông tin cần thiết đối với chúng tôi, những thông tin mà Helen chưa bao giờ hỏi đến, vì vậy chúng tôi sẽ đích thân nói chuyện với bà ấy. Bác của Helen là một nhân vật quan trọng trong chính quyền và sẽ thu xếp chuyện đó, chúng tôi hy vọng như vậy.’

“ ‘À, là vậy.’ Ông ta gần như mỉm cười. ‘Ơn trời vì chúng ta có những người bạn quyền chức. Khi nào hai người đi?’

“ ‘Có lẽ là mai hoặc ngày kia. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ ở đó năm, sáu ngày rồi quay trở lại đây.’

“ ‘Tốt lắm. Và các bạn nên mang thứ này theo.’ Turgut đột ngột đứng dậy, lấy trong tủ ra bộ đồ nghề săn ma cà rồng mà hôm qua đã cho chúng ta xem. Ông ta đặt nó ngay ngắn trước mặt cha.

“ ‘Nhưng nó là một trong những báu vật của ông mà,’ cha phản đối. ‘Vả lại, có thể chúng không qua được cửa hải quan đâu.’

“ ‘Ồ, anh đừng bao giờ trưng nó ra với hải quan chứ. Các bạn phải giấu nó thật cẩn thận. Hãy kiểm tra lại va li xem có thể giấu vào đâu đó hay không, hoặc tốt hơn là để cô Rossi mang nó. Họ sẽ không xét kỹ hành lý của phụ nữ đâu.’ Ông ta gật đầu động viên cha. ‘Tôi sẽ chẳng thể an tâm nếu anh không mang nó theo. Trong thời gian anh ở Budapest, tôi sẽ xem qua thêm nhiều sách cổ khác để cố giúp anh, nhưng có một điều chắc chắn là anh sắp phải săn tìm một con quỷ. Còn giờ thì anh hãy cất nó vào cặp xách đi - gọn nhẹ mà.’ Cha im lặng cầm lấy hộp gỗ đó, xếp nó cạnh cuốn sách có hình con rồng. ‘Và trong thời gian anh nói chuyện với mẹ của Helen, tôi sẽ sục sạo thêm quanh đây để truy tìm những dấu vết khả dĩ về ngôi mộ đó. Tôi chưa từ bỏ ý kiến đó đâu.’ Ông ta nhíu mắt. ‘Việc đó sẽ giúp giải thích rõ hơn về những dịch bệnh đã nguyền rủa thành phố này từ thời kỳ mà chúng ta đã đề cập. Nếu chúng ta không thể giải thích mà chấm dứt chúng thì…’

“Đúng lúc đó thì cửa phòng làm việc bật mở, bà Bora ló đầu vào mời chúng ta dùng bữa trưa. Đó là một bữa ăn ngon giống như bữa ăn mà chúng ta đã ăn ngày hôm trước ở đó, nhưng cũng là một bữa ăn khá u sầu. Helen im lặng và có vẻ mệt mỏi, bà Bora phục vụ với thái độ hòa nhã nhưng cũng yên lặng không nói gì, còn ông Erozan, dù đã ngồi dậy được để cùng ăn với chúng ta, nhưng không ăn được nhiều. Tuy nhiên, bà Bora đã cho ông ta uống khá nhiều rượu vang đỏ, và ăn một ít thịt, trông ông ta có vẻ đã hồi phục phần nào. Ngay cả Turgut cũng có vẻ như nhụt chí và buồn bã. Helen và cha lịch sự cáo từ ngay khi có thể.

“Turgut tiễn Helen và cha ra khỏi nhà và bắt tay từ giã nồng nhiệt như thường lệ, nhắc chúng ta điện thoại cho ông ngay khi có được kế hoạch cụ thể cho chuyến đi Budapest và tỏ ý mong được đón tiếp chúng ta trở về. Đoạn ông gật đầu rồi vỗ vỗ vào cặp xách của cha. Cha gật đầu đáp trả, ra dấu với Helen là sẽ giải thích với cô sau. Turgut đứng vẫy tay cho đến khi hàng dương và đoan đã che khuất ông, rồi chúng ta không còn nhìn thấy ông ta nữa. Ngay lúc đó, Helen mệt mỏi quàng lấy tay cha. Không khí thoảng mùi tử đinh hương, và trong khoảnh khắc, trên con đường xám xịt yên tĩnh đó, bước đi trong những vệt nắng mờ bụi, cha bỗng tưởng rằng mình đang đi nghỉ ở Paris.”

Chú thích:

1. Aquitaine: khu vực miền Tây Nam nước Pháp, bao gồm các hạt hành chính như Dordogne, Gironde, Landes, Lot-et- Garonne, và Pyrénées-Atlantiques. Thủ phủ của khu vực là thành phố Bordeaux; dân số: 2.795.800 (1990); diện tích: 41.308 kilomet vuông. Thời Aquitaine: ám chỉ thời kỳ khu vực này thuộc quyền cai trị của Anh khi nữ Công tước Eleanor xứ này (Eleanor of Aquitaine) kết hôn với vua Henry II nước Anh (1154-1189).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


“Quả thực Helen đã rất mệt mỏi, cha đành miễn cưỡng để cô ở lại nhà nghỉ để chợp mắt một lát. Cha không muốn để cô ở đó một mình, nhưng Helen nói rằng ánh nắng giữa ban ngày chắc chắn đã đủ bảo vệ cho cô rồi. Thậm chí nếu biết chúng ta ở đâu, vào giữa thanh thiên bạch nhật thế này gã thủ thư xấu xa kia cũng chẳng dám xâm nhập vào phòng đã khóa kín, vả lại cô đã mang theo cây thánh giá nhỏ rồi. Chúng ta còn nhiều giờ rảnh rỗi trước khi Helen có thể gọi lại cho bác cô, và chúng ta cũng không thể làm gì để thu xếp cho chuyến đi, cho đến khi nhận được chỉ dẫn của bà. Cha để cặp xách lại cho Helen trông chừng và cố ép mình rời khỏi phòng trọ, vì chắc hẳn cha sẽ điên lên mất nếu cứ cố nán lại đó mà vờ như đang đọc sách hoặc suy nghĩ chuyện này chuyện kia.

“Có vẻ như đây là một cơ hội thuận tiện để ngắm nhìn một vài thứ khác của Istanbul, vì vậy cha đã hướng về khu Cung điện Topkapi, đầy những mái vòm và rối rắm như mê cung, được Quốc vương Mehmed ra lệnh xây dựng để làm nơi an tọa của ông trên vùng lãnh thổ mới chinh phục. Ngay từ buổi chiều đầu tiên tạiIstanbul, cha đã lưu ý đến khu cung điện này, khi nhìn từ xa và cả khi đọc cuốn sách hướng dẫn. Cung điện Topkapi bao phủ một diện tích lớn trên mỏm đất nhô ra biển của Istanbul, ba bề là mặt nước: kênh Bosphorus, mũi Golden Horn và biển Marmara. Cha thầm nghĩ nếu bỏ qua nơi này, cha cũng sẽ bỏ qua một phần cốt lõi của lịch sử thành phố Istanbul dưới thời Ottoman. Có lẽ lại một lần nữa cha để cho tâm trí lang thang, quên bẵng đi thầy Rossi, nhưng hồi tưởng lại, cha nghĩ chính thầy Rossi hẳn cũng sẽ hành động như vậy nếu có một vài giờ rảnh rỗi ngoài dự kiến.

Khi tản bộ qua những công viên, các khoảnh sân nhỏ phía bên trong, và các sảnh đường, những nơi từng in dấu nhịp đập của trái tim đế quốc Ottoman hàng trăm năm, cha đã thất vọng khi thấy có rất ít hiện vật thời Mehmed được trưng bày tại đó - chỉ có vài món trang sức lẻ tẻ trong kho báu của Quốc vương và vài thanh kiếm của Người Chinh phục, đã sứt mẻ vì sử dụng quá nhiều hoặc quá lâu. Cha nghĩ mình đã quá kỳ vọng khi muốn nắm bắt nhiều hơn về vị Quốc vương có đạo quân từng đánh bại Vlad Dracula ấy, vị Quốc vương có những vị triều thần từng lo lắng về vấn đề trị an phát sinh từ ngôi mộ được cho là của Dracula ở hồ Snagov. Cha nghĩ - nhớ lại trò chơi cờ shahmat của mấy ông già trong khu chợ nọ - như thế khá giống với việc cố gắng xác định vị trí quân vua của đối thủ bằng cách chỉ biết vị trí quân vua của mình.

“Tuy nhiên, vẫn còn vô số những thứ khác trong cung điện khiến đầu óc cha bận rộn. Dựa theo những gì Helen đã kể với cha ngày hôm qua, đây là một thế giới nơi có hơn năm ngàn kẻ hầu người hạ được phong chức danh Đại Mão Quan(1) chỉ để phục vụ ý muốn của Quốc vương; nơi có vô số thái giám ngày đêm canh giữ đức hạnh cho khu hậu cung khổng lồ của các vị Quốc vương, mà thực chất nơi này chẳng khác gì một nhà tù lộng lẫy; nơi mà Quốc vương Sleyman Vĩ đại, trị vì vào giữa thế kỷ mười sáu, đã thống nhất vương quốc, hệ thống hóa luật pháp và biến Istanbul thành một kinh thành tráng lệ không kém gì dưới thời các hoàng đế Byzantine. Cũng giống các hoàng đế xưa kia, mỗi tuần một lần, vị Quốc vương này xuất hành vào thành phố, đến thánh đường Hagia Sophia để tế lễ - nhưng vào ngày thứ Sáu, ngày thiêng liêng của tín đồ đạo Hồi, chứ không phải là Chủ nhật. Đó là một thế giới của những nghi thức khắt khe và những bữa tiệc xa hoa lãng phí, của gấm vóc lụa là và những công trình lát đá làm say đắm lòng người, của những loại trang phục màu xanh lá dành riêng cho vị tể tướng và màu đỏ cho các thị thần khác, của những đôi ủng đủ màu sắc và những chiếc khăn xếp cao ngất ngưởng.

“Cha đặc biệt ấn tượng với lời mô tả của Helen về các Janissary, những quân đoàn vệ binh thiện chiến, được tuyển chọn từ những thiếu niên bị bắt giữ trên khắp đế quốc Ottoman. Trước đây cha đã có đọc về họ, những cậu bé này sinh ra là người Thiên Chúa giáo trong những vùng như Serbia và Wallachia nhưng lại lớn lên trong xã hội Hồi giáo, được huấn luyện để thù ghét chính những dân tộc mà từ đó họ xuất thân và khi đến tuổi trưởng thành, giống như những chú chim ưng đã đủ lông đủ cánh, họ sẽ gây chiến chống lại những dân tộc đó. Thực ra, cha đã nhìn thấy hình ảnh của đám vệ binh này ở đâu đó rồi, có lẽ trong một tuyển tập tranh vẽ thì phải. Khi nghĩ đến những khuôn mặt non nớt vô cảm đang quần tụ lại để bảo vệ vị Quốc vương của họ, cha cảm thấy cung điện vốn đã lạnh lẽo này càng trở nên lạnh lẽo thêm xung quanh mình.

“Khi lang thang từ phòng này sang phòng khác, một ý nghĩ chợt lóe lên trong cha: chàng trai trẻ Vlad Dracula hẳn có thể là một Janissary xuất sắc. Ở đấy, đế quốc Ottoman đã bỏ qua một cơ hội, một cơ may để tăng thêm chút nữa tính tàn bạo cho sức mạnh khổng lồ của mình. Cha nghĩ, họ nên bắt hắn lúc hắn còn rất trẻ, thay vì trả hắn về cho cha hắn, lẽ ra họ nên giữ hắn ở lại vùng Tiểu Á. Sau khi được trả về, hắn đã trở nên quá độc lập, một kẻ phản bội, không trung thành với bất kỳ ai ngoài bản thân mình, hành hình những người từng đi theo mình cũng nhanh chóng và dễ dàng như khi tàn sát những kẻ thù người Thổ. Giống như Stalin vậy - khi nhìn ra mặt nước lấp lánh nắng của dòng kênh Bosphorus, chính cha cũng thấy ngạc nhiên khi mình lại chuyển hướng liên tưởng như thế. Stalin đã chết năm ngoái, và lại có thêm tin đồn về những hành động tàn bạo của ông ta rò rỉ đến giới báo chí phương Tây. Cha nhớ câu chuyện về một vị tướng có lẽ là trung thành nhưng đã bị Stalin buộc tội - ngay trước khi chiến tranh xảy ra - là muốn lật đổ ông ta. Nửa đêm, vị tướng đó đã bị lôi ra khỏi nhà và bị treo ngược lên xà ngang của một ga xe lửa nhộn nhịp bên ngoài Matxcơva nhiều ngày liền cho đến chết. Hành khách của các chuyến tàu đều trông thấy, nhưng không ai dám liếc nhìn về hướng ông ta lần thứ hai. Nhưng sau này, ngay cả những người trong khu vực quanh đó cũng không thể xác nhận chuyện này có thật là đã xảy ra hay không.

“Ý tưởng khó chịu đó cứ bám riết lấy cha lúc cha rảo bước khắp các căn phòng kỳ diệu trong cung điện; chỗ nào cha cũng cảm nhận thấy có gì đó quái gở hoặc nguy hiểm, thứ gì đó rất có thể trong quá khứ chỉ đơn giản là để thể hiện một cách áp đảo quyền lực tối thượng của Quốc vương, một quyền lực không những không được che giấu mà còn trưng ra ở những hành lang nhỏ hẹp, những lối đi vòng vèo, những khung cửa sổ có chấn song, trong những khu vườn nằm tách biệt. Cuối cùng, để tìm đôi chút khuây khỏa khỏi cảnh pha trộn giữa cảm giác dễ chịu đến mê mẩn và bức bối như bị cầm tù, giữa sự tao nhã và áp chế ấy, cha lững thững đi ngược trở lại ra mảnh sân phía ngoài, đến bên hàng cây chan hòa ánh nắng.

“Tuy nhiên, ở ngoài đó, cha chỉ gặp những hồn ma đáng sợ nhất, vì cuốn sách hướng dẫn đã ghi rõ đó là khu vực hành quyết và giải thích cặn kẽ thói quen của Quốc vương: chặt đầu các quan chức và bất cứ người nào làm ông ta phật lòng. Đầu của họ bị bêu trên những cây cọc nhọn trước cổng cung điện, một bài học khắc nghiệt dành cho kẻ khác. Vị Quốc vương ở đây và kẻ nổi loạn ở Wallachia đều một giuộc như nhau, cha nghĩ, ghê tởm quay mặt đi. Cha cảm thấy đã tỉnh táo trở lại sau một lúc dạo quanh khu công viên xung quanh, hình bóng mờ đen của một chiếc tàu chạy ngang qua dưới ánh chiều đỏ yếu ớt như nhắc nhở trời đã về chiều và cha nên quay về với Helen, có lẽ lúc này cô cũng đã nhận được tin tức từ bà bác.

“Lúc cha về đến, Helen đang chờ trong sảnh nhà nghỉ với một tờ báo tiếng Anh. ‘Đi dạo vui chứ?’ cô ngước nhìn lên, hỏi.

“ ‘Kinh khủng lắm,’ cha trả lời. ‘Tôi đã đến Cung điện Topkapi.’

“ ‘À.’ Cô xếp tờ báo lại. ‘Tiếc quá, tôi bị hụt mất chỗ đó rồi.’

“ ‘Ồi đừng tiếc làm gì. Còn trên toàn thế giới thì thế nào?’

“Cô dò ngón tay theo các tiêu đề. ‘Cũng kinh khủng lắm. Nhưng tôi có tin tốt lành cho anh đây.’

“ ‘Cô đã nói chuyện với bác cô rồi à?’ Cha buông người xuống một chiếc ghế sờn rách kế bên cô.

“ ‘Vâng, bác ấy thật tuyệt vời, lúc nào cũng vậy. Tôi chắc chắn bác sẽ quở mắng tôi chút đỉnh khi chúng ta đến nơi, nhưng chuyện đó đâu có nhằm nhò gì. Điều quan trọng là bác đã tìm ra một hội nghị để chúng ta tham dự.’

“ ‘Một hội nghị?’

“ ‘Vâng, quả là tuyệt diệu, thực vậy. Tuần này, ở Budapest có một hội nghị quốc tế của các nhà sử học. Chúng ta sẽ tham dự với tư cách học giả khách mời, bác ấy đã thu xếp để chúng ta có thể lấy thị thực nhập cảnh ngay ở đây.’ Cô mỉm cười. ‘Có vẻ như bác tôi có người bạn là một sử gia ở Đại học Budapest thì phải.’

“ ‘Chủ đề của hội nghị đó là gì?’ cha lo lắng hỏi.

“ ‘Các vấn đề về tầng lớp lao động của châu Âu cho đến năm 1600.’

“ ‘Một chủ đề khá rộng đây. Và tôi đoán là chúng ta sẽ tham gia với tư cách là những chuyên gia về thời Ottoman hả?’

“ ‘Chính xác đấy, anh Watson thân mến.’

“Cha thở dài. ‘Vậy thì việc tôi đi thăm Cung điện Topkapi hóa ra lại là một điều hay.’

“Helen mỉm cười nhìn cha, cha không thể kết luận đó là một nụ cười đơn thuần do bản tính ranh mãnh của cô hay do cô tin tưởng vào khả năng xoay xở của cha. ‘Hội nghị khai mạc vào ngày thứ Sáu, vì vậy chúng ta có hai ngày để đến đó. Chúng ta sẽ tham dự các buổi thuyết trình vào cuối tuần, và anh sẽ đọc một tham luận. Chủ nhật là ngày tự do để các học giả tham quan thành phố Budapest lịch sử, chúng ta sẽ lợi dụng dịp đó để về thăm mẹ tôi.’

“ ‘Tôi sẽ làm gì?” Cha không thể không nhìn cô trừng trừng, nhưng cô chỉ vuốt thẳng lọn tóc quanh vành tai và đáp trả ánh mắt ấy của cha bằng một nụ cười ngây thơ.

“ ‘À, một tham luận. Anh sẽ đọc một bài thuyết trình. Đó là cách chúng ta đi vào đất nước đó.’

“ ‘Một tham luận về cái gì, cầu nguyện à?’

“ ‘Về sự hiện diện của đế quốc Ottoman trong vùng Transylvania và Wallachia, chẳng hạn thế. Bây giờ hẳn bác tôi đã tử tế bổ sung tiết mục đó vào chương trình rồi. Tham luận đó sẽ không cần phải dài lắm đâu, bởi điều hiển nhiên là người Ottoman chưa bao giờ chinh phục nổi Transylvania hoàn toàn. Tôi nghĩ đó là một chủ đề thuận lợi đối với anh vì cả hai chúng ta đều biết khá nhiều về Vlad Dracula, và trong thời đại của mình, Dracula đã có công ngăn chặn cuộc xâm lăng của người Ottoman.’

“ ‘Thuận lợi cho cô thì có,’ cha vặc lại. ‘Ý cô là cô biết rất nhiều về hắn. Cô đang bảo tôi là tôi sẽ phải đứng trước một đám học giả tề tựu từ khắp nơi trên thế giới để thuyết trình về Dracula đấy à? Cô hãy bỏ ra chút thời gian để nhớ lại rằng chủ đề luận văn của tôi là về các phường hội buôn bán của thương nhân Hà Lan và thậm chí tôi còn chưa hoàn thành nó nữa kìa. Sao cô không tự đi mà đọc tham luận?’

“ ‘Vì như thế sẽ rất lố bịch,’ Helen trả lời, chắp hai tay trên tờ báo. ‘Tôi là - người ta nói thế nào trong tiếng Anh nhỉ? - một gương mặt cũ rồi. Mọi người ở trường Đại học Budapest đều đã biết rõ rành tôi và đều bị công trình của tôi làm cho chán ngấy vài lần rồi. Việc có được một người Mỹ sang dự sẽ tạo thêm một chút tiếng vang cho hội nghị, và họ biết ơn tôi vì đã đưa anh đến, dù là vào phút cuối. Việc có được một người Mỹ cũng sẽ làm họ cảm thấy bớt ngượng ngùng vì cái ký túc xá đại học tồi tàn và món đậu Hà Lan đóng hộp mà họ chiêu đãi mọi người ăn trong buổi đại tiệc chia tay. Tôi sẽ giúp anh viết tham luận đó - hoặc viết hộ anh, nếu anh cảm thấy quá khó chịu như thế - và anh chỉ cần đọc nó vào thứ Bảy. Tôi nhớ là bác tôi đã nói hội nghị sẽ bắt đầu vào chừng một giờ chiều.

“Cha rên lên. Cô ấy quả là con người quá quắt nhất mà cha từng gặp. Cha chợt nghĩ sự hiện diện của mình ở đó với cô có thể là một nghĩa vụ về mặt chính trị nhiều hơn mức cô thừa nhận. ‘Chậc, người Ottoman ở Wallachia và Transylvania thì liên quan gì đến những vấn đề của tầng lớp lao động châu Âu nhỉ?’

“ ‘Ồ, chúng ta sẽ tìm cách chèn vào đó một vài vấn đề về lực lượng lao động. Đó là cái hay của nền giáo dục Mác-xít vững chắc mà anh chưa có đặc ân được hấp thụ. Tin tôi đi, nếu chịu khó tìm tòi anh có thể nhìn thấy vấn đề về lực lượng lao động trong bất kỳ chủ đề nào. Vả lại, đế quốc Ottoman là một thế lực kinh tế lớn, Vlad đã cắt đứt những con đường giao thương của họ và sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực sông Danube. Anh đừng lo - đó sẽ là một tham luận hấp dẫn.’

“ ‘Lạy Chúa Jesus,’ rốt cuộc cha chỉ biết thốt lên như vậy.

“ ‘Không.’ Cô lắc đầu. ‘Xin nhớ cho, không có Jesus. Chỉ có những mối quan hệ lao động.’

“Sau đó, cha không thể không bật cười cũng như không ngăn được mình thầm ngưỡng mộ ánh lấp lánh trong đôi mắt đen huyền kia. ‘Tôi chỉ hy vọng chuyện này không lọt đến tai bất kỳ người nào ở Mỹ. Tôi có thể hình dung hội đồng giám khảo về luận văn tốt nghiệp của tôi sẽ nói gì. Nhưng tôi nghĩ chắc là thầy Rossi sẽ thấy thích thú toàn bộ chuyện này.’ Cha lại bắt đầu bật cười rồi ngưng lại khi hình dung ánh mắt màu trời cũng thoáng vẻ tinh quái như vậy của Rossi. Nghĩ đến thầy Rossi cha lại cảm thấy day dứt trong lòng, không sao chịu nổi; giờ cha ở đây, phía bên kia của cái thế giới có căn phòng làm việc nơi cha nhìn thấy thầy lần cuối, và cha có đủ mọi lý do để tin rằng sẽ không bao giờ nhìn thấy thầy còn sống một lần nữa, thậm chí có lẽ còn không bao giờ biết được thầy đã bị biến thành cái gì. Cha gạt bỏ ý nghĩ đó qua một bên, cố không cho nó kéo dài và gây u sầu thêm dù chỉ một giây. Helen và cha sắp đi Hungary để nói chuyện với một người phụ nữ tự nhận là biết ông ấy - biết tường tận - biết từ lâu trước khi cha gặp ông, biết từ thời ông còn đang gian khổ truy lùng Dracula. Đó là một đầu mối mà chúng ta không thể bỏ qua. Nếu phải đọc một bài thuyết trình tào lao để đến được nơi đó, cha sẽ đọc.

“Helen đang im lặng nhìn cha, và cha cảm nhận ở cô, cũng chẳng phải là lần đầu tiên, cái khả năng kỳ lạ là đọc được ý nghĩ của cha. Chỉ một lát sau, cô xác nhận dự cảm của cha bằng câu hỏi, ‘Cũng xứng đáng, phải không?’

“ ‘Đúng vậy.’ Cha trả lời, ngoảnh mặt đi.

“ ‘Rất tuyệt,’ cô ôn tồn nói. ‘Tôi rất mừng vì anh sắp gặp bác tôi, bà ấy rất tuyệt, và cả mẹ tôi nữa, cũng rất tuyệt, nhưng nói cách khác, tôi vui vì họ cũng sắp được gặp anh.’

“Cha liếc nhanh về phía cô - sự dịu dàng trong giọng nói của cô chợt khiến tim cha loạn nhịp - nhưng gương mặt cô đã trở lại vẻ mỉa mai thận trọng thường lệ. ‘Vậy thì bao giờ chúng ta lên đường?’ cha hỏi.

“ ‘Sáng mai chúng ta lấy thị thực và sẽ bay vào ngày kia, nếu chuyện vé không có gì trở ngại. Bác tôi bảo sáng mai chúng ta phải đến lãnh sự quán Hungary trước giờ mở cửa và bấm chuông - vào khoảng bảy giờ ba mươi. Từ đó, chúng ta có thể đi thẳng đến đại lý du lịch để đặt vé máy bay. Nếu hết chỗ, chúng ta sẽ đi tàu, một chuyến hành trình rất dài đấy.’ Cô lắc đầu, nhưng cha bất chợt hình dung ra đoàn tàu đang gầm rú, xình xịch hướng về vùng Balkan, vượt qua hết thủ đô cổ xưa này đến thủ đô cổ xưa khác, và trong khoảnh khắc cha bỗng hy vọng là chuyến bay đã hết vé, dù như vậy chúng ta có thể mất nhiều thời gian hơn.

“ ‘Liệu có chính xác nếu tôi hình dung cô giống bác cô hơn là giống mẹ cô không?’ Có lẽ cuộc phiêu lưu tưởng tượng bằng tàu hỏa kia đã làm cha mỉm cười với Helen.

“Cô lưỡng lự chỉ trong giây lát. ‘Lại chính xác nữa rồi, anh Watson. Ơn Chúa, tôi rất giống bác tôi. Nhưng anh sẽ thích mẹ tôi hơn - ai cũng vậy cả. Và giờ tôi mời anh ăn tối tại nhà hàng ưa thích của chúng ta rồi làm việc về bài thuyết trình của anh trong bữa ăn được chứ?’

“ ‘Tất nhiên rồi,’ cha đồng ý, ‘miễn là đừng có cô ả Gypsy nào ở đó nữa.’ Cha khuỳnh cánh tay ra, vẻ vô cùng trịnh trọng, cô tì nhẹ vào tờ báo để đứng dậy. Khi chúng ta bước ra ngoài, trong ánh nắng chiều hanh vàng trải dài trên những con đường của thành phố Byzantine đó, cha ngẫm nghĩ và thấy thật kỳ lạ khi ngay cả trong những hoàn cảnh lạ lùng nhất, những giai đoạn khó khăn nhất trong đời một con người, những cuộc chia ly đau lòng nhất với gia đình và những gì thân thuộc, vẫn có những khoảnh khắc của niềm vui không sao phủ nhận được.”

Vào một buổi sáng đầy nắng ở Boulois, Barley và tôi đáp chuyến tàu sớm đi về Perpignan.

Chú thích:

1. Nguyên văn: Great Turban Winder - quan chức có nhiệm vụ trông nom những chiếc mũ khăn xếp của Quốc vương Hồi giáo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


“Chuyến bay ngày thứ Sáu từ Istanbul đến Budapest còn nhiều ghế trống, khi chúng ta đã ngồi yên vị giữa các doanh nhân Thổ Nhĩ Kỳ ăn mặc toàn com lê đen, quan chức Hungary mặc áo khoác xám trò chuyện với nhau theo từng nhóm, những phụ nữ lớn tuổi mặc áo choàng xanh và mang khăn trùm đầu - phải chăng họ đang đến Budapest làm tạp dịch, hay đến thăm con gái lấy chồng là những nhà ngoại giao Hungary? Chuyến bay rất ngắn, chỉ đủ thời gian cho cha tiếc nuối chuyến du hành bằng tàu hỏa mà lẽ ra Helen và cha có thể chọn.

“Chuyến đi đó, với những tuyến đường ray cắt qua vách núi, những khoảng bao la rừng cây và vách đá, sông suối và thị trấn từ thời Trung cổ, sẽ phải chờ đến sau này, khi cha đảm nhận công việc ngoại giao, và từ đó mới đi được hai lần. Đối với cha, có gì đó vô cùng kỳ bí trong sự chuyển biến mà ta chứng kiến khi đi dọc theo lộ trình đó, từ thế giới Hồi giáo sang Thiên Chúa giáo, từ đế chế Ottoman qua đế quốc Áo-Hung, từ đạo Hồi chuyển sang Công giáo và đạo Tin Lành. Đó là một sự thay đổi dần dần của những thành phố, của phong cách kiến trúc, của những tháp thánh đường Hồi giáo ban đầu còn vô số, rồi xen lẫn và cuối cùng là nhường chỗ hẳn cho những mái vòm nhà thờ Công giáo, của chính phong cảnh rừng và dòng sông, để rồi dần dần ta bắt đầu tin mình có thể đọc được tiến trình lịch sử ngay trong chính thiên nhiên. Liệu dốc một sườn đồi trên đất Thổ Nhĩ Kỳ có thực sự khác hẳn với triền dốc của một cánh đồng cỏ ở Hungary? Dĩ nhiên là không, thế nhưng mắt ta chắc chắn sẽ thấy chúng khác nhau khi mà thông tin lịch sử về chúng lại xuất phát từ chính đầu óc con người. Sau này, khi đi lại trên lộ trình đó, cha còn nhìn nhận nó mỗi lúc một khác, khi thì thấy đó là một vùng đất yên bình, lúc thì tắm trong máu đổ - đây cũng là một đặc điểm khác của cảnh quan lịch sử, liên tục bị giằng xé giữa cái thiện và cái ác, giữa chiến tranh và hòa bình. Dù đang hình dung một cuộc đột kích bất ngờ của người Thổ qua sông Danube hay một cuộc càn quét thời xa xưa của người Hung Nô từ hướng Đông về phía con sông ấy, cha luôn bị ám ảnh bởi những hình ảnh đối nghịch: một cái thủ cấp được mang về doanh trại trong tiếng hò reo chiến thắng pha lẫn thù hận, và một bà lão - có thể là cụ tổ của những gương mặt nhăn nheo mà cha nhìn thấy trên chuyến bay này - khoác áo ấm cho đứa cháu trai, bẹo yêu lên một bên má vẫn còn vương nét trẻ thơ của chàng trai Thổ, trong khi vẫn khéo léo giữ cho món thịt hầm rau không cháy.

“Tuy nhiên, với cha, những hình ảnh ấy còn nằm trong tương lai, còn lúc này, suốt chuyến bay cha chỉ biết tiếc nuối về bức tranh toàn cảnh bên dưới dù chưa biết nó là gì và sẽ khơi gợi trong cha ý tưởng nào. Helen, một khách lữ hành dày dạn kinh nghiệm hơn do đó bớt phấn khích hơn, tận dụng cơ hội này để cuộn người trên ghế, đánh một giấc. Hai đêm liền, chúng ta đã thức khuya, ngồi tại bàn trong nhà hàng ở Istanbul ấy để cùng viết bài tham luận cho cha đọc tại Budapest. Cha phải ghi nhớ nhiều kiến thức về những trận đánh của Vlad với người Thổ hơn, mặc dù chúng chẳng nói lên được gì nhiều. Cha hy vọng sau khi mình đọc xong tham luận nửa vời này sẽ không có ai nêu lên bất kỳ câu hỏi nào. Dù vậy, những gì Helen lưu giữ trong bộ nhớ của cô quả là đáng nể, cha lại cảm thấy kinh ngạc khi thấy cô đã tự tìm hiểu được ngần ấy kiến thức về Dracula chỉ vì một niềm hy vọng mơ hồ là sẽ tìm thấy một người cha mà cô còn hầu như chưa thừa nhận. Khi cô say ngủ, tựa đầu vào vai cha, cha để yên, cố không hít vào mùi hương tỏa ra từ những lọn tóc mềm mại ấy - dầu gội đầu Hungary chăng? Cô ấy đã mệt rồi; cha cẩn thận ngồi lặng yên trong khi cô ngủ.

“Ấn tượng đầu tiên của cha về Budapest, cảm nhận qua cửa xe taxi, ngay từ phi trường, là vẻ đẹp tao nhã, mênh mang của thành phố. Helen giải thích là chúng ta sẽ ở một khách sạn trên bờ Đông sông Danube, gần trường đại học, bên phần Pest của thành phố, nhưng dường như cô đã yêu cầu người tài xế chạy dọc theo sông Danube trước khi thả chúng ta xuống khách sạn. Chỉ trong giây lát, chúng ta đã lướt qua những đường phố cổ kính của thế kỷ mười tám và mười chín, thỉnh thoảng lại trầm trồ trước sự xuất hiện đột ngột một biểu hiện kỳ lạ nào đó của phong cách tân nghệ thuật hoặc một cây cổ thụ khổng lồ. Ngay sau đó, chúng ta đã thấy dòng Danube xuất hiện. Thật vĩ đại - cha không ngờ nó lại hùng vĩ nhường này - ba cây cầu khổng lồ giăng ngang dòng sông. Trên bờ sông bên phía chúng ta, những ngọn tháp phong cách tân Gothic và mái vòm Tòa nhà Nghị viện vút lên cao, còn phía bờ đối diện, cung điện hoàng gia và những tháp giáo đường có từ thời Trung cổ nhô lên khỏi nền cây xanh ngút ngàn trên những sườn đồi. Giữa tất cả những cảnh tượng đó là khoảng mênh mông của dòng sông, mặt nước màu xanh xám, lăn tăn gợn sóng theo từng cơn gió và lấp lánh ánh mặt trời. Bầu trời bao la một màu xanh, uốn cong trên những mái vòm, dinh thự và giáo đường, khẽ hắt xuống mặt nước những màu sắc liên tục thay đổi.

“Cha đã chuẩn bị tinh thần sẽ thấy một Budapest hấp dẫn, và cha sẽ ngưỡng mộ nó; nhưng cha chưa từng nghĩ mình sẽ sửng sốt nhường này. Thành phố mang trong mình dáng dấp của những kẻ từng xâm lược nó và đồng minh của chúng, bắt đầu với người La Mã và cuối cùng là người Áo - hoặc Liên Xô, cha vừa nghĩ vừa nhớ lại những bình luận cay đắng của Helen - nhưng vẫn khác hẳn. Budapest không hoàn toàn thuộc về phương Tây, chẳng phải phương Đông như Istanbul, và với tất cả các kiến trúc Gothic ấy thì cũng không phải Bắc Âu. Cha đăm đắm nhìn ra ngoài khung cửa taxi tù túng và thấy cả một toàn cảnh tráng lệ độc đáo. Helen cũng nhìn đăm đăm, một lát sau cô quay sang cha. Chắc có lẽ một vài nét khích động hãy còn hiển hiện trên mặt cha, bởi cô đã bật cười. ‘Tôi thấy anh mê tít thành phố nhỏ bé này của chúng tôi rồi,’ cô nói, cha nghe thấy dưới giọng châm biếm ấy là một sự hãnh diện. Rồi cô nói tiếp, giọng trầm xuống, ‘Anh biết không? - Dracula từng là một người của thành phố này đấy. Năm 1462, hắn đã bị vua Matthias Corvinus giam vào một nhà ngục ở cách Buda hai mươi dặm vì đã đe dọa những quyền lợi của Hungary trong vùng Transylvania. Dường như vua Corvinus đã đối xử với hắn như một vị khách của gia đình hơn là một tù nhân và thậm chí đã ban cho hắn một người vợ thuộc hoàng tộc Hungary, dù không ai biết chính xác người vợ này là ai - đó là người vợ thứ hai của Dracula. Hắn đã tỏ lòng biết ơn bằng cách cải đạo theo Công giáo, và được phép sống ở Pest một thời gian. Và ngay khi được tha khỏi Hungary thì…’

“ ‘Tôi nghĩ tôi có thể hình dung được chuyện đó,’ cha tiếp lời. ‘Hắn trở về Wallachia, tiếp quản lại ngai vàng ngay khi có thể và tuyên bố phủ nhận sự cải đạo của mình.’

“ ‘Về cơ bản, điều đó là chính xác,’ cô thừa nhận. ‘Anh hiểu ý ông bạn chúng ta đấy. Hắn không muốn gì hơn ngoài việc chiếm giữ ngai vàng xứ Wallachia.’

“Chẳng bao lâu, chiếc taxi đã vòng trở lại khu vực cổ của Pest, cách xa dòng sông, nhưng ở đây còn nhiều thứ tuyệt vời hơn để rồi cha phải ngẩn ngơ ngắm nhìn, và cha đã làm thế không chút ngượng ngùng: quán cà phê với ban công mô phỏng những công trình tráng lệ của Ai Cập hay Assyria, phố đi bộ tấp nập người qua lại mua sắm và đầy những chiếc đèn đường kiểu cũ, những tác phẩm khảm chạm và điêu khắc: các vị thánh và thiên thần bằng đồng hoặc cẩm thạch, các vị vua hoặc hoàng đế, và những nghệ sĩ vĩ cầm khoác áo choàng trắng biểu diễn nơi một góc phố. ‘Đến nơi rồi,’ Helen chợt thốt lên. ‘Đây là khu vực đại học, còn kia là thư viện trường.’ Cha nghển cổ lên nhìn một tòa nhà cổ kính đường bệ, xây bằng một loại đá màu vàng. ‘Chúng ta sẽ vào đó khi có dịp - thực ra tôi muốn xem lại một thứ ở đó. Và đây là khách sạn của chúng ta, ngay cuối utca Magyar - đường Magyar. Dù sao chăng nữa, tôi phải mua một tấm bản đồ để anh khỏi bị lạc mới được.’

“Người tài xế bỏ hành lý chúng ta trước một mặt tiền ốp đá màu xám, sang trọng và thanh lịch, cha đưa tay ra giúp Helen ra khỏi xe. ‘Biết ngay mà,’ cô nói, hừ mũi. ‘Bao giờ người ta cũng dùng cái khách sạn này làm nơi tổ chức hội nghị.’

“ ‘Tôi thấy nó cũng được đấy chứ,’ cha đánh bạo nhận xét.

“ ‘Ừ, thì nó đâu có tồi. Rồi anh sẽ đặc biệt thích thú khi được chọn lựa giữa cái lạnh hoặc nước lạnh, và thức ăn đóng hộp cho mà xem.’ Helen chọn ra một mớ đồng xu bằng bạc và đồng để trả cho tay tài xế.

“ ‘Tôi tưởng là món ăn Hungary ngon lắm kia mà,’ cha nói, vẻ tin tưởng. ‘Chắc chắn là tôi đã nghe nói thế ở đâu đó. Như món goulash và paprika chẳng hạn.’

“Helen đảo mắt. ‘Khi anh nói đến Hungary thì mọi người đề cập ngay đến món goulash. Cũng như họ sẽ đề cập ngay đến Dracula nếu anh nhắc đến Transylvania.’ Cô bật cười. ‘Nhưng anh có thể quên đồ ăn của khách sạn đi. Cứ chờ cho đến khi chúng ta ăn uống tại nhà bác tôi hoặc mẹ tôi, lúc đó chúng ta sẽ bàn luận về cách nấu nướng của người Hungary.’

“ ‘Tôi tưởng mẹ cô và bác cô là người Rumani chứ,’ cha vặn lại và phải hối tiếc ngay tức khắc; mặt cô đanh lại lạnh như tiền.

“ ‘Anh muốn nghĩ thế nào thì tùy, anh Người Mỹ à,’ Helen độp lại, chộp lấy chiếc va li của cô trước khi cha kịp đưa tay xách hộ.

“Tiền sảnh khách sạn yên tĩnh và lạnh lẽo, với những chi tiết bằng đá cẩm thạch và thếp vàng của một thời hưng thịnh xa xưa. Cha thấy khách sạn này thật dễ chịu, chẳng có gì để Helen cảm thấy phải xấu hổ vì nó. Một lát sau, cha nhận ra đây là lần đầu tiên mình đến một đất nước xã hội chủ nghĩa - trên bức tường phía sau quầy tiếp tân là chân dung những quan chức chính quyền, loại đồng phục màu xanh đậm của tất cả nhân viên khách sạn có gì đó thể hiện ý thức vô sản tự giác. Helen ghi tên lấy phòng và trao cho cha chìa khóa phòng cha. ‘Bác tôi đã thu xếp rất tuyệt,’ cô hài lòng nói. ‘Bác ấy đã gọi điện đến nhắn là sẽ gặp chúng ta vào bảy giờ tối nay để đưa chúng ta ăn tối ở ngoài. Chúng ta sẽ đi đăng ký ở phòng hội nghị trước rồi dự lễ đón tiếp ở đó vào lúc năm giờ.’

“Cha thấy thất vọng với cái tin bác cô không mời chúng ta về nhà để thưởng thức món ăn Hungary do chính bà nấu và cũng để nhìn thoáng xem cuộc sống của giới quan chức chóp bu như thế nào, nhưng cha nhớ lại rằng mình, xét cho cùng, là một người Mỹ và chẳng nên mong đợi mọi cánh cửa ở đây sẽ mở ra trước mặt mình. Cha có thể là mối hiểm nguy, một nguy cơ hoặc ít nhất là một tác nhân gây rắc rối. Thực ra, cha nghĩ, mình nên giấu mặt và càng ít gây rắc rối cho các vị chủ nhà càng tốt. Rốt cuộc, cha đã may mắn có mặt ở đây và điều cha mong muốn nhất là không để xảy ra vấn đề gì với Helen và gia đình cô.

“Căn phòng ở trên lầu của cha bài trí đơn sơ nhưng sạch sẽ, điểm xuyết một cách bất hợp lý nét vương giả xa xưa bằng tượng mạ vàng hình các tiểu thiên thần bụ bẫm trên bốn góc trần và một chậu rửa mặt bằng đá cẩm thạch hình một vỏ sò lớn. Khi rửa tay ở đó rồi nhìn vào tấm gương phía trên để chải tóc, cha chợt nhăn mặt khi nhìn từ vết keo dán kính ngớ ngẩn sang chiếc giường nhỏ hẹp đã sửa soạn thẳng thớm, chắc hẳn vốn là một chiếc giường nhà binh. Lần này, phòng của cha không ở cùng tầng với Helen - một sự lo xa của bà bác Helen chăng? - nhưng ít ra cha sẽ có các vị tiểu thiên thần lỗi thời, đầu đội vòng hoa kiểu Áo Hung làm bầu bạn.

“Helen đang chờ trong tiền sảnh, cô im lặng dẫn cha qua những cánh cửa đồ sộ của khách sạn ra một con đường lớn. Cô lại mặc chiếc sơ mi xanh nhạt, tóc kẹp ra phía sau thành một dải mềm mại - trong thời gian cùng đi chung với nhau, dần dần cha đã trở nên khá lôi thôi trong khi cô vẫn xoay xở để giữ được bề ngoài sạch sẽ và tươm tất, cha nghĩ đó là một biệt tài của người Đông Âu. Cô mải mê suy nghĩ khi chúng ta bách bộ hướng về phía trường đại học. Cha không dám hỏi cô đang nghĩ gì, nhưng sau một lát cô tự lên tiếng. ‘Thực là kỳ lạ khi trở lại nơi đây một cách quá đột ngột như thế này,’ cô nói, liếc nhìn cha.

“ ‘Và với một người Mỹ xa lạ nữa chứ?’

“ ‘Và với một người Mỹ xa lạ,’ cô lẩm bẩm, nghe có vẻ chẳng vui vẻ gì.

“Trường đại học gồm những tòa nhà trông rất uy nghi, một số trông rập khuôn cái thư viện đường bệ mà chúng ta vừa nhìn thấy trước đó, và cha bắt đầu cảm thấy thoáng chút lo lắng khi Helen ra dấu chỉ về nơi chúng ta sẽ đến, một gian sảnh rộng, phong cách cổ điển, có những bức tượng bao quanh ở tầng hai. Cha dừng lại, nghển lên nhìn và đọc được tên của một số tượng, viết theo tự dạng Hungary: Plato, Descartes, Dante, tất cả tượng đều mang vòng nguyệt quế trên đầu và khoác áo choàng kiểu cổ. Một số nhân vật khác khá xa lạ với cha: Szent István, Mátyás Corvinus, János Hunyadi. Họ giương cao quyền trượng hoặc đội vương miện oai phong.

“ ‘Họ là ai thế?’ cha hỏi Helen.

“ ‘Mai tôi sẽ trả lời anh,’ cô đáp. ‘Đi nào, hơn năm giờ rồi.’

“Chúng ta vào một sảnh, một số thanh niên - cha đoán là sinh viên - đang sôi nổi nói chuyện ở đó, rồi tiến đến một căn phòng lớn ở tầng hai. Cha cảm thấy hơi cồn ruột; chỗ này thì đầy nghẹt các giáo sư bận com lê vải tuýt hoặc đen hoặc xám, thắt nơ bướm - chắc hẳn họ phải là giáo sư - và đang ăn món pho mát trắng kèm ớt đỏ trên những đĩa nhỏ và uống thứ gì đó có mùi gắt như một loại dược phẩm. Tất cả bọn họ hẳn đều là những sử gia, cha vừa nghĩ vừa than thầm và cảm thấy lòng nặng trịch, dù cha được cho là một người trong số họ. Ngay lập tức, Helen bị một đám các bạn đồng sự vây quanh, cha thoáng thấy cô bắt tay thân mật với một người đàn ông có mái tóc bạc trắng hất ngược ra phía sau khiến cha liên tưởng đến một loài chó nào đó. Lúc cha gần như đã quyết định đi đến bên một cửa sổ để vờ như nhìn ngắm mặt tiền lộng lẫy của một giáo đường ở phía đối diện thì Helen bất chợt chộp lấy khuỷu tay cha - liệu đây có phải là sự khôn ngoan của cô ấy? - và lôi cha vào giữa đám đông.

“ ‘Đây là giáo sư Sándor, trưởng khoa sử Đại học Budapest và là nhà Trung cổ học vĩ đại nhất của chúng tôi,’ cô nói, trỏ vào người đàn ông có bộ dạng giống một chú chó lông trắng ấy, hà cha cũng vội tự giới thiệu. Tay cha như muốn nát ra vì cái siết chặt từ một bàn tay cứng như sắt, rồi giáo sư Sándor nói những lời biểu lộ niềm vinh dự lớn lao của ông vì có cha tham gia hội nghị. Trong khoảnh khắc, cha băn khoăn tự hỏi không biết ông ta có phải là người bạn của bà bác bí ẩn kia hay không. Cha ngạc nhiên khi nghe ông ta nói tiếng Anh, chậm rãi nhưng rõ ràng. “Tất cả chúng tôi đều vui mừng,’ ông ta nói, vẻ nồng nhiệt. ‘Chúng tôi vui mừng trông chờ bài diễn thuyết của anh vào ngày mai.’

“Cha cũng đáp trả bằng cách biểu lộ cảm giác vinh dự của mình khi được phép phát biểu tại hội nghị và thận trọng không nhìn vào mắt Helen khi nói.

“ ‘Tuyệt vời,’ ông giáo sư oang oang. ‘Chúng tôi luôn đánh giá cao những trường đại học ở đất nước anh. Mong sao hai đất nước chúng ta mãi mãi sống trong hòa bình và hữu nghị.’ Ông ta nâng ly đựng thứ nước uống có mùi vị dược phẩm kia lên chúc mừng cha, cha vội chúc mừng lại - một ly đầy thứ nước kia đã xuất hiện trong tay cha như phép ảo thuật. ‘Còn giờ thì, nếu có điều gì đó chúng tôi có thể làm để thời gian lưu trú của anh ở Budapest mến yêu này được vui vẻ hơn, anh phải cho chúng tôi biết nhé.’ Đôi mắt đen to sáng ngời trên gương mặt in dấu tuổi tác và tương phản kỳ lạ với mái tóc trắng bờm xờm của ông ta, cha thoáng liên tưởng đến mái tóc của Helen và chợt cảm thấy thích ông ta.

“ ‘Xin cảm ơn giáo sư,’ cha thành thật đáp lời, ông giáo sư vỗ mạnh bàn tay to lớn lên lưng cha.

“ ‘Xin hãy vào đây, mình vừa ăn uống vừa trò chuyện.’ Tuy nhiên, ngay sau đó, ông ta biến mất vào những nhiệm vụ khác, cha lại thấy mình lọt thỏm giữa những câu hỏi háo hức của những thành viên khác trong khoa sử và các học giả khách mời khác, một số trông còn trẻ hơn cha. Họ túm tụm quanh Helen và cha, thỉnh thoảng cha nghe được trong giọng nói của họ bập bẹ tiếng Pháp, tiếng Đức và một vài thứ tiếng khác mà có lẽ là tiếng Nga. Thực ra, đó là một nhóm người sôi nổi, lịch thiệp, và cha bắt đầu quên đi sự căng thẳng của mình. Helen giới thiệu cha bằng một thái độ lịch sự xa cách mà cha nhận ra đúng là phù hợp với không khí của hội nghị này, cô giải thích cặn kẽ bản chất của công việc chung của chúng ta và bài viết chúng ta sắp công bố trên một tạp chí chuyên ngành Mỹ. Những gương mặt hăm hở cũng vây xung quanh cô, cùng hới những câu hỏi chớp nhoáng bằng tiếng Hungary, và khi cô bắt tay, thậm chí hôn lên má một vài người quen cũ, gương mặt cô lại ửng hồng. Rõ ràng, họ không quên cô - nhưng làm sao mà họ quên được? cha nghĩ vậy. Cha để ý nhận thấy còn nhiều phụ nữ khác trong phòng, một số lớn tuổi hơn và một vài cô còn rất trẻ, nhưng Helen làm lu mờ tất cả bọn họ. Cô cao hơn, sống động hơn, đĩnh đạc hơn, với đôi bờ vai rộng, mái đầu xinh đẹp với những lọn tóc xoăn dày, ánh mắt sôi nổi một vẻ mỉa mai châm biếm. Cha quay sang một trong những thành viên trong khoa sử để khỏi nhìn chằm chằm vào cô; thứ nước uống nặng đô kia bắt đầu chảy rần rật trong mạch máu.

“ ‘Ở đây vẫn hay tổ chức hội nghị như thế này à?’ Cha không chắc mình muốn nói gì, nhưng dù sao cũng phải nói gì đó khi không nhìn vào Helen chứ.

“ ‘Đúng vậy,’ ông bạn đứng cạnh cha trả lời, vẻ hãnh diện. Ông ta hơi lùn, khoảng sáu mươi, diện bộ com lê và cà vạt đều cùng màu xám. ‘Trường chúng tôi đã tổ chức nhiều hội thảo quốc tế, đặc biệt là khoảng thời gian hiện tại.’

“Cha muốn hỏi ông ta có ý gì khi nói đặc biệt là khoảng thời gian hiện tại, nhưng giáo sư Sándor lại xuất hiện và dẫn cha đến gặp một người đàn ông đẹp trai có vẻ như rất nôn nóng muốn gặp cha. ‘Đây là giáo sư Géza József,’ ông ta giới thiệu. ‘Anh ấy rất muốn làm quen với anh.’ Ngay lúc đó, Helen quay lại phía chúng ta, cha vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra cô thoáng lộ hẻ khó chịu - hay thậm chí còn tức giận nữa? Cô lập tức đi về phía chúng ta, tựa như muốn can thiệp.

“ ‘Mạnh khỏe chứ, anh Géza?’ cô bắt tay giáo sư Géza József, vẻ hình thức và khá lạnh nhạt, thậm chí trước khi cha kịp chào hỏi anh ta.

“ ‘Rất hân hạnh được gặp cô, Elena,’ giáo sư József khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ, cha cũng nhận ra có gì đó bất thường trong giọng nói anh ta, có thể đó là một nét nhạo báng nhưng cũng có thể là một cảm xúc khác. Cha băn khoăn tự hỏi liệu có phải chỉ vì cha mà họ đang trao đổi với nhau bằng tiếng Anh.

“ ‘Và,’ cô nói, không chút thân thiện. ‘Cho phép tôi giới thiệu người bạn mà tôi đang cùng làm việc tại Mỹ…’

“ ‘Rất vui được gặp anh,’ anh ta nói, nở với cha một nụ cười như muốn khoe ra hết những nét đẹp đẽ trên mặt mình. Anh ta cao hơn cha, mái tóc rậm màu nâu và dáng hẻ tự tin của một người đàn ông cảm thấy thỏa mãn với khí chất nam nhi của chính mình - cha nghĩ, hẳn anh ta trông sẽ tuyệt đẹp nếu ở trên lưng ngựa, rong ruổi trên thảo nguyên cùng các đàn cừu. Anh ta nồng nhiệt bắt tay cha, một tay bắt tay cha, tay kia vỗ vỗ lên vai cha biểu lộ sự chào đón thân tình. Dù không rũ bỏ ấn tượng do Helen tạo ra, cha cũng không hiểu tại sao Helen lại tỏ vẻ không ưa anh ta. ‘Và ngày mai chúng tôi sẽ vinh dự được nghe bài diễn thuyết của anh chứ? Thật là tuyệt vời,’ anh ta thốt lên, rồi chợt ngừng lại. ‘Nhưng tiếng Anh của tôi không khá lắm. Liệu anh có thể nói bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Đức được không?’

“ ‘Tôi chắc chắn tiếng Anh của anh còn hơn xa thứ tiếng Pháp hoặc tiếng Đức của tôi,’ cha trả lời ngay.

“ ‘Anh thật khiêm tốn.’ Nụ cười của anh ta tươi rói như cả một cánh đồng hoa. ‘Theo tôi biết, lĩnh vực của anh là sự cai trị của đế quốc Ottoman ở vùng Carpates phải không?’

“Rõ ràng ở đây tin tức loan truyền nhanh thật, cha thầm nghĩ; chẳng khác gì ở quê nhà. ‘À, vâng,’ cha xác nhận. ‘Dù vậy, tôi chắc rằng sẽ còn phải học hỏi nhiều điều từ phân khoa của các bạn về chủ đề đó.’

“ ‘Chắc chắn là không đâu,’ anh ta xã giao nói nhỏ. ‘Nhưng tôi cũng có nghiên cứu chút ít và rất vui nếu được bàn luận với anh về chủ đề này.’

“ ‘Giáo sư József quan tâm đến nhiều lĩnh vực lắm,’ Helen xen vào. Giọng cô lạnh tanh tưởng như có thể làm cho nước sôi cũng phải đông lại. Quả thực khó xử, nhưng cha nhớ lại là hầu như mọi khoa ở mọi trường đại học đều phải chịu đựng những bất ổn nội bộ, nếu không nói là những cuộc chiến tranh tổng lực, và trường hợp này chắc hẳn không phải là ngoại lệ. Trước khi cha kịp nghĩ ra một lời hòa giải nào đó thì Helen đột ngột quay sang cha. ‘Chúng ta phải đi đến cuộc hẹn kế tiếp thôi,’ cô nói. Trong một thoáng, cha không biết cô định đề cập đến người nào, nhưng cô đã nắm lấy bàn tay cha, vẻ cương quyết.

“ ‘Ồ, tôi thấy quả thực anh rất bận rộn,’ giáo sư József tỏ vẻ rất hối tiếc. ‘Có lẽ chúng ta có thể bàn luận về chủ đề đế chế Ottoman vào dịp khác chăng? Tôi sẽ hân hạnh nếu được giới thiệu với anh một chút về thành phố của chúng tôi, hoặc mời anh ăn trưa…’

“ ‘Anh ấy sẽ rất bận rộn suốt cả thời gian hội nghị,’ Helen cắt lời. Cha bắt tay anh ta, một cách chừng mực như mức độ lạnh lẽo trong ánh mắt Helen cho phép, rồi anh ta chợt túm lấy bàn tay rảnh rang kia của Helen.

“ ‘Rất vui khi thấy cô trở lại quê nhà,’ anh ta nói, cúi xuống hôn lên tay Helen. Cô rụt ngay tay lại, nhưng một vẻ kỳ lạ thoáng hiện trên mặt cô. Cha nhận thấy ở mức độ nào đó cô đã xúc động trước cử chỉ đó và bắt đầu cảm thấy không ưa tay sử gia Hungary đẹp trai này. Helen đưa cha trở lại chỗ giáo sư Sándor, chúng ta xin phép cáo từ và nói rất nôn nóng muốn được nghe các tham luận ngày mai.

“ ‘Và chúng tôi cũng rất mong được nghe tham luận của anh.’ Ông ta siết chặt tay cha bằng cả hai tay. Người Hungary là một dân tộc thật nồng hậu, cha nghĩ với một niềm hứng khởi có lẽ một phần xuất phát từ tác dụng của thứ nước uống kia trong máu cha. Chừng nào còn trì hoãn được những suy nghĩ thực tế về bài diễn thuyết sắp tới của mình, cha sẽ vẫn còn được bồng bềnh trong cảm giác hài lòng. Helen khoác lấy tay cha, và trước khi bước ra ngoài, cha nghĩ cô đã liếc nhanh căn phòng một lượt.

“ ‘Tất cả chuyện đó là sao vậy?’ Bầu không khí buổi tối mát lạnh và cha chưa bao giờ cảm thấy hưng phấn như vậy. ‘Tôi nghĩ đồng hương của cô đều là những người dễ chịu nhất tôi từng được gặp, nhưng tôi có cảm giác cô luôn sẵn sàng chặt đầu anh bạn giáo sư József.’

“ ‘Đúng vậy,’ cô trả lời cộc lốc. ‘Anh ta là người khó lòng chịu đựng nổi.’

“ ‘Không thể chịu đựng nổi, như thế mới đúng,’ cha nói. ‘Điều gì khiến cô đối xử với anh ta như vậy? Anh ta chào hỏi cô như một người bạn cũ kia mà?’

“ ‘Ồ, thực ra anh ta thì chẳng có gì không ổn cả, ngoại trừ việc anh ta là thứ kền kền ăn thịt người. Một con ma cà rồng thực sự.’ Cô dừng nửa chừng, nhìn cha đăm đăm, mắt mở to. ‘Tôi không có ý…’

“ ‘Dĩ nhiên cô không có ý đó,’ cha ngắt lời cô. ‘Tôi đã quan sát kỹ răng nanh anh ta mà.’

“ ‘Anh cũng là loại người không thể chịu nổi,’ cô thốt lên, buông tay cha ra.

“Cha nhìn cô, vẻ tiếc nuối. ‘Tôi không phiền hà gì việc cô khoác tay tôi đâu,’ cha nhẹ nhàng nói, ‘nhưng liệu đấy có phải là một ý hay không, nhất là trước mặt toàn thể trường đại học của cô?’

“Cô vẫn nhìn cha trừng trừng, cha không giải mã nổi vẻ u tối trong đôi mắt cô. ‘Đừng lo, không có ai trong khoa nhân học có mặt đâu.’

“ ‘Nhưng cô biết nhiều nhà sử học, mà người ta có thể buôn chuyện với nhau,’ cha nhấn mạnh.

“ ‘Ồ, không phải ở đây đâu.’ Cô bật lên một tiếng cười mũi khô khan. ‘Ở đây, chúng tôi là những người cùng đồng tâm hiệp lực làm việc với nhau. Chẳng có chuyện ngồi lê đôi mách hoặc xung đột gì cả - chỉ có tình đồng chí mà thôi. Ngày mai anh sẽ thấy. Đó thực sự là một xứ utopia nho nhỏ.’

“ ‘Helen,’ cha muốn rên lên. ‘Cô làm ơn nghiêm chỉnh, một lần thôi, được chứ? Tôi chỉ lo ngại cho tiếng tăm của cô ở nơi này - tiếng tăm về mặt chính trị đấy. Xét cho cùng, một ngày nào đó cô phải trở lại nơi chốn này và phải đối mặt với tất cả những con người này.’

“ ‘Tôi phải trở lại à?’ Cô lại khoác tay cha và chúng ta lại bước đi. Cha cứ để yên như vậy; ngay khoảnh khắc đó, cha không cảm thấy gì ngoài cảm giác va chạm êm ái của lớp vải áo khoác của cô với khuỷu tay mình. ‘Dù sao đi nữa, chuyện đó cũng đáng phải làm. Tôi làm vậy chỉ để làm Géza phải nghiến răng thôi. Những chiếc răng nanh của hắn ấy, chỉ có vậy.’

“ ‘Chà, xin cảm ơn,’ cha thì thầm, nhưng cảm thấy không đủ tự tin để có thể nói gì thêm nữa. Nếu cô có ý định chọc cho ai đó phải nổi ghen, thì chắc chắn hành động đó cũng có tác dụng đối với cha. Cha bất chợt hình dung cô trong vòng tay rắn chắc của Géza. Liệu họ có quan hệ với nhau trước khi Helen rời khỏi Budapest? Họ hẳn phải là một cặp xứng đôi vừa lứa, cha thầm nghĩ - cả hai đều có cùng bản tính táo bạo, cao ráo và thanh lịch, vai rộng và tóc đen. Đột nhiên cha cảm thấy giống người Ănglô ốm yếu và nhỏ con như cha không phải là đối thủ của những kỵ sĩ vùng thảo nguyên này. Tuy nhiên, nét mặt Helen lộ vẻ không muốn phải nghe thêm câu hỏi nào nữa, nên cha đành tự cảm thấy bằng lòng với cảm giác cô lặng lẽ khoác tay mình.

“Chẳng mấy chốc, chúng ta đã quẹo vào cánh cửa thếp vàng và bước vào tiền sảnh lặng như tờ của khách sạn. Ngay khi chúng ta bước vào, đã có một dáng người đơn độc đứng giữa những chiếc ghế bọc vải màu đen và những cây cọ kiểng trồng trong chậu, đang im lặng chờ đợi chúng ta tiến đến. Helen kêu lên một tiếng và lao về phía trước, dang rộng đôi tay. ‘Bác Éva!’ ”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
615,468
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


“Từ khi gặp gỡ Éva, bác của Helen, cha thường nhớ đến bà - dù chỉ gặp mặt bà có ba lần. Có những người chỉ sau một thời gian quen biết ngắn ngủi đã có thể ghi dấu hình ảnh của họ trong ký ức ta sâu hơn nhiều người ta vẫn gặp ngày này qua ngày khác suốt cả một thời gian dài. Bác Éva chắc chắn là một người đầy sức sống, một con người mà hai mươi năm nay cả ký ức lẫn trí tưởng tượng của cha đã cùng chung sức gìn giữ như một hình ảnh đầy màu sắc sinh động. Đã nhiều lần cha hình dung ra bà khi đọc miêu tả các nhân vật trong sách, hoặc các gương mặt trong lịch sử; ví dụ như, hình ảnh bà ấy tự động hiện lên trong tâm trí khi cha đọc đến đoạn có nhân vật Phu nhân Merle, người phụ nữ đầy thủ đoạn trong cuốn Chân dung một Quý Bà của Henry James.

“Thực ra, trong suy nghĩ của cha, bác Éva nằm trong số những phụ nữ xinh đẹp, vừa khôn ngoan, vừa dữ dội; nên hiện tại cha cũng khá khó khăn khi hình dung lại con người thực sự của bà trong lần gặp gỡ đầu tiên, buổi tối đầu hè ở Budapest năm 1954. Cha nhớ rõ ràng Helen đã lao vào vòng tay của bà với vẻ trìu mến chẳng mấy khi thấy cô bộc lộ còn bà chỉ trầm tĩnh đứng yên, ôm và hôn thắm thiết lên cả hai bên má cô cháu gái. Khi Helen quay lại, đôi má ửng hồng, giới thiệu chúng ta với nhau, cha thấy nước mắt long lanh trong mắt của cả hai người phụ nữ. ‘Bác Eva, đây là anh bạn đồng nghiệp người Mỹ của cháu, người mà cháu đã kể với bác. Anh Paul, đây là bác tôi, Éva Orbán.’

“Cha bắt tay, cố không nhìn bà chằm chằm. Éva là một phụ nữ đẹp, cao ráo và có lẽ khoảng năm mươi lăm tuổi. Điều khiến cha ngạc nhiên đến sững sờ là bà rất giống Helen. Họ có thể là hai chị em - một người khá lớn tuổi và người kia trẻ hơn nhiều, hoặc hai người là một cặp sinh đôi - một người già dặn với những trải nghiệm gian khổ, trong lúc người kia vẫn còn trẻ trung tươi mát một cách diệu kỳ. Thực ra, bác Éva tuy thấp hơn nhưng vóc dáng vẫn còn mạnh mẽ và thanh nhã như Helen. Gương mặt bà hẳn đã có một thời đáng yêu hơn Helen, và bà vẫn còn rất đẹp, với chiếc mũi dọc dừa thẳng và khá dài, đôi gò má cương nghị, đôi mắt huyền trầm tư. Màu tóc của bà làm cha bối rối, nhưng rồi cha nhận ra rằng tóc của bà có thể chưa bao giờ có được màu nguyên thủy tự nhiên của nó, hiện tại đó là một màu đỏ ánh tím kỳ lạ, nhuốm bạc một chút ở chân. Trong những ngày kế tiếp ở Budapest, cha đã nhìn thấy những mái tóc nhuộm như vậy ở nhiều phụ nữ, nhưng dù sao lần đầu nhìn thấy màu tóc đó thì cha vẫn ngạc nhiên. Bà mang một đôi bông tai vàng nhỏ, mặc chiếc sơ mi nữ màu đỏ bên dưới bộ vest sậm màu, cùng kiểu với bộ vest của Helen.

“Khi chúng ta bắt tay nhau, bác Éva nghiêm nghị nhìn vào mặt cha, hầu như thẳng thắn. Cha nghĩ có thể bà đang xem xét liệu cha có khuyết điểm nào để cảnh báo với cô cháu gái, nhưng rồi cha lại tự trách mình; sao bà lại xem cha như một đối tượng tiềm tàng cho cô cháu gái thương yêu của bà được? Cha nhận ra những vết chân chim ở đuôi mắt và khóe môi, dấu hiệu của một nụ cười cởi mở. Chỉ một lát sau, nụ cười đó đã nở ra, tựa như bà không thể kìm nén lâu hơn. Thảo nào người đàn bà này có thể dễ dàng thu xếp để nhét thêm người vào các cuộc hội nghị hoặc lấy được dấu thị thực nhập cảnh ngay tức khắc, cha nghĩ, vẻ thông minh của bà rạng ngời đến mức chỉ nụ cười của bà mới sánh nổi. Giống như Helen, hàm răng bà trắng và đều đặn, một đặc điểm mà cha bắt đầu nhận ra không thường có bẩm sinh ở người Hungary.

“ ‘Rất hân hạnh được gặp bà,’ cha nói. ‘Cám ơn bà đã thu xếp để chúng tôi được vinh dự tham gia hội nghị này.’

“ ‘Bác Éva cười, siết chặt tay cha. Cha đã lầm vì khoảnh khắc trước đó nghĩ rằng bà là người kín đáo và trầm lặng; lúc này bà đang huyên thuyên một tràng tiếng Hungary, cha tự hỏi có phải bà cho là cha có thể hiểu được những câu ấy không. Helen lao đến cứu nguy ngay. ‘Bác tôi không nói được tiếng Anh,’ cô giải thích. ‘Mặc dù bác hiểu tiếng Anh nhiều hơn mức bác thừa nhận. Những người lớn tuổi ở đây thường học tiếng Đức hoặc tiếng Nga, đôi khi cả tiếng Pháp, nhưng tiếng Anh thì họa hoằn lắm. Tôi sẽ phiên dịch cho anh. Suỵt…’ Cô trìu mến đặt bàn tay lên cánh tay bà bác, nói một vài câu cầu khiến ngắn gọn bằng tiếng Hung. ‘Bác ấy nói rất hân hạnh được đón tiếp anh ở đây và hy vọng anh sẽ không gặp rắc rối nào, bởi bác đã làm cho cả văn phòng của viên phó lãnh sự phụ trách thị thực nhập cảnh rối tung lên với việc cấp thị thực cho anh. Bác ấy mong sẽ được anh mời đến nghe diễn thuyết - bác ấy không hiểu tiếng Anh tốt lắm đâu, nhưng đó là vấn đề nguyên tắc - và anh phải thỏa mãn sự tò mò của bác về trường đại học của anh ở Mỹ, về việc anh đã gặp tôi như thế nào, liệu ở Mỹ tôi có cư xử chừng mực không, và thứ đồ ăn nào mẹ anh thường nấu. Sau này, bác ấy chắc chắn sẽ còn nhiều thắc mắc khác nữa đấy.’

“Cha ngạc nhiên nhìn hai người bọn họ. Cả hai đang mỉm cười nhìn cha, hai người phụ nữ tuyệt vời, cha chợt nhận ra sự giống nhau kỳ lạ giữa tính cách ưa châm biếm của Helen trên gương mặt bác cô, dù Helen có thể có lợi thế hơn nếu bắt chước được nụ cười thường trực như trên gương mặt của bác Éva. Chắc chắn không ai lừa được một người như bác Éva Orbán; xét cho cùng, cha nhớ lại, bà xuất thân từ một làng quê Rumani mà đã lên được đến một vị thế đầy quyền lực trong chính quyền Hungary kia mà. ‘Chắc chắn tôi sẽ cố gắng đáp ứng những mối quan tâm của bác cô.’ Cha nói với Helen. ‘Xin vui lòng giải thích với bà ấy món đặc sản của mẹ tôi là thịt băm nướng và nui pho mát.’

“ ‘Á, thịt băm nướng,’ Helen thốt lên. Bà Éva nở nụ cười tán thưởng sau khi nghe cô giải thích. ‘Bác ấy nhờ anh chuyển đến mẹ anh lời thăm hỏi và chúc mừng vì đã có người con trai tuyệt vời.’ Cha cảm thấy đỏ mặt lên vì ngượng nhưng vẫn hứa sẽ chuyển đến bà nội con lời nhắn đó. ‘Giờ bác ấy đưa chúng ta đến một nhà hàng mà anh sẽ rất thích, một hương vị Budapest cổ xưa.’

“Vài phút sau, cả ba chúng ta đã ngồi vào băng ghế sau trong xe riêng của bác Éva - cũng xin nói thêm là chẳng mấy giống xe của người vô sản - Helen ngồi chỉ trỏ các cảnh quan bên ngoài mỗi lần bà bác nhắc. Cha cũng nên nhắc lại, qua hai lần gặp gỡ, bác Éva chưa bao giờ thốt ra với cha một từ tiếng Anh nào, nhưng cha có ấn tượng đó chỉ là một vấn đề nguyên tắc - một nghi thức mang tính chống phương Tây chăng? - như bất kỳ vấn đề nào khác; khi Helen và cha có chuyện trao đổi với nhau, bác Éva thường có vẻ như hiểu được phần nào câu chuyện, ngay cả trước khi Helen kịp dịch lại. Tựa như thông qua cách dùng ngôn ngữ thế này, bác Éva đang tuyên bố rằng phải giữ khoảng cách với những gì của phương Tây, thậm chí phải tỏ ra căm ghét một chút, nhưng cá nhân một người phương Tây thì hoàn toàn có thể là một người dễ thương và đáng được hưởng trọn vẹn lòng hiếu khách của người Hungary. Rốt cuộc, cha cũng quen với việc nói chuyện với bà thông qua Helen, thậm chí một đôi lần cha có cảm giác gần như hiểu được những âm điệu trầm bổng như thơ của thứ tiếng bà nói.

“Dù sao thì giữa chúng ta vẫn có một vài hình thức giao tiếp không cần phải có người thông dịch. Sau một cuộc dạo bằng xe dọc theo dòng sông cực kỳ thú vị, chúng ta vượt qua cái mà sau này cha mới biết là Széchenyi Lánchid, cây Cầu Xích Széchenyi, một phép màu của kỹ thuật thế kỷ mười chín, được đặt tên theo một trong những con người vĩ đại có công làm đẹp cho thành phố Budapest, Bá tước István Széchenyi. Khi chúng ta hướng lên cây cầu, ráng chiều hắt lên từ dòng Danube tràn ngập toàn bộ quang cảnh, làm cho các hình khối đầy ấn tượng của các lâu đài và giáo đường bên Buda, nơi chúng ta đang hướng đến, như chìm vào trong một bức tranh khắc nổi chỉ có hai màu vàng và nâu. Bản thân cây cầu là một công trình đồ sộ mà thanh nhã, đỡ trên mình nó hai khải hoàn môn khổng lồ, canh giữ ở mỗi đầu là tượng những chú sư tử nằm phủ phục. Cha há hốc miệng, sững sờ ngắm nhìn, và bắt gặp nụ cười của bác Éva, Helen, đang ngồi giữa cha và Éva cũng nở nụ cười tự hào. ‘Một thành phố tuyệt vời,’ cha thốt lên, bác Éva chợt với sang siết chặt cánh tay cha, tựa như cha đã trở thành một trong những đứa con đã lớn khôn của bà.

“Helen giải thích với cha rằng bác Éva muốn cho cha biết về việc xây dựng lại cây cầu. ‘Budapest bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh,’ cô dịch lại. ‘Chúng tôi vẫn còn một cây cầu chưa sửa xong, nhiều công trình khác cũng phải chịu hoàn cảnh tương tự. Anh có thể thấy chúng tôi đang xây dựng lại ở khắp mọi nơi trong thành phố. Nhưng cây cầu này đã được sửa chữa lại để - người ta gọi thế nào nhỉ? - kỷ niệm một trăm năm tuổi của nó, từ năm 1949, chúng tôi rất hãnh diện vì điều đó. Và đặc biệt là tôi vô cùng hãnh diện vì bác là người đứng ra tổ chức việc tái thiết đó.’ Bác Éva gật đầu, mỉm cười và rồi có vẻ như khựng lại vì chợt nhớ là mình được xem là không hiểu gì về những lời Helen vừa nói với cha.

“Một lát sau, chúng ta chạy vào một đường hầm có vẻ như nằm ngay dưới tòa lâu đài, bác Éva nói với chúng ta bác đã chọn đi ăn ở một trong các nhà hàng ưa thích nhất của bác, một chỗ ‘Hungary đích thực’ trên phố József Attila. Cha vẫn còn ngạc nhiên về tên những đường phố của Budapest, ngoài một số tên hoàn toàn xa lạ và có vẻ kỳ lạ với cha còn một vài tên khác, như cái tên này, gợi nhớ lại một quá khứ mà cha nghĩ chỉ có trong sách vở. Đường József Attila hóa ra cũng bề thế như hầu hết những đường phố khác của thành phố, hoàn toàn không phải là một đường mòn bùn lầy với những lều trại hoang dã dọc hai bên với những chiến binh Hung Nô nhồm nhoàm ăn uống ngay trên lưng ngựa. Bên trong nhà hàng rất yên tĩnh và thanh lịch, viên quản lý nhà hàng vội vã chạy đến chào hỏi đích danh bác Éva. Có vẻ bà đã quen với kiểu quan tâm đặc biệt này. Chỉ trong vài phút, chúng ta đã yên vị tại một bàn tốt nhất trong phòng, từ vị trí đó chúng ta có thể thưởng ngoạn cảnh trí của những cây cổ thụ và các tòa nhà cổ kính, những khách bộ hành tản bộ trong bộ cánh mùa hè sang trọng, thoáng nhìn thấy những chiếc xe nhỏ rồ ga phóng ngang qua thành phố. Cha ngồi dựa ra phía sau, buông ra một tiếng thở dài hài lòng.

“Bác Éva gọi món ăn cho cả ba người, như một điều đương nhiên, món ăn đầu tiên được mang ra kèm theo một loại rượu mạnh gọi là pálinka, Helen cho biết đó là loại rượu chưng cất từ quả mơ. ‘Nào, bây giờ chúng ta sẽ có một món rất ngon với thứ rượu này đây,’ bác Éva giải thích với cha, thông qua Helen. ‘Chúng tôi gọi món này là hortobàgyi palacsinta. Một loại bánh sữa nhồi với thịt bê, một món ăn truyền thống của dân chăn cừu ở những vùng đất thấp của Hungary. Anh sẽ thích món này cho mà xem.’ Cha thích thật, và cũng thích tất cả các món sau đó - thịt hầm rau, món ba lớp gồm trứng gà luộc kỹ, khoai tây và xúc xích Ý cắt lát, những món xa lát đẫm nước xốt, cừu hầm đậu xanh, và loại bánh mì vàng nâu tuyệt vời. Cho đến lúc đó cha vẫn chưa cảm thấy đói sau một ngày dài di chuyển. Cha cũng chú ý nhận thấy Helen và bác cô đã ăn uống rất tự nhiên, với một vẻ ngon miệng mà không một phụ nữ Mỹ lịch sự nào dám biểu lộ công khai trước mặt người khác.

“Tuy nhiên, sẽ là một điều sai lầm khi nghĩ rằng chúng ta chỉ đang ăn uống. Khi tất cả các món ăn truyền thống này đã yên vị trong dạ dày thì bác Éva bắt đầu nói và Helen dịch. Thỉnh thoảng cha nêu vài câu hỏi này nọ, nhưng phần lớn thời gian, như cha nhớ, cha không kịp hấp thu cả hai thứ, thức ăn và lượng thông tin bác Éva đưa ra. Bà có vẻ nhớ kỹ trong đầu rằng cha thực sự là một nhà sử học; có lẽ thậm chí bà ngờ rằng cha hãy còn thiếu hiểu biết về lịch sử Hungary và muốn chắc chắn cha không làm bẽ mặt bà tại hội nghị, hoặc cũng có thể bà bị thôi thúc bởi lòng yêu nước của một công dân nhập cư từ lâu. Dù động cơ là gì chăng nữa, bà đã diễn tả rất xuất sắc, thậm chí cha có thể đoán được câu nói kế tiếp trên gương mặt sinh động và đầy sức sống của bà trước khi Helen kịp dịch câu nói đó.

“Chẳng hạn, khi nâng ly pálinka lần cuối để kết thúc việc chúc mừng tình hữu nghị giữa hai đất nước của chúng ta, bác Éva vừa cho gia vị vào món bánh kếp của dân chăn cừu vừa thuật lại nguồn gốc của thành phố Budapest - vốn là một vị trí đồn trú tên là Aquincum của binh lính La Mã, giờ vẫn còn có thể thấy những tàn tích của người La Mã nằm rải rác khắp nơi - sau đó bà vẽ nên một bức tranh sống động về Attila và chuyện đạo quân Hung Nô của ông ta đã lấy được Budapest từ tay người La Mã vào thế kỷ thứ 5. Cha nghĩ, so với người Hung Nô, người Ottoman thực sự là những người đến sau ôn hòa hơn. Món thịt hầm rau - món ăn Helen quả quyết với cha bằng một vẻ mặt dứt khoát: là gulyás chứ không phải thịt hầm rau, thịt hầm rau là món khác - lại dẫn đến một đoạn kể lể dài dòng về cuộc xâm lăng khu vực này của người Hungary vào thế kỷ thứ 9. Khi đến món khoai tây và xúc xích Ý cắt lát - chắc chắn là ngon hơn món thịt băm nướng hoặc mì nui trộn pho mát nhiều - bác Éva mô tả lại, vào năm 1000 sau Công nguyên, giáo hoàng đã làm lễ đăng quang cho vua Stephen I, sau này là Thánh István. ‘Ông vua này khởi thủy vốn là người ngoại đạo man rợ,’ bà nói thông qua Helen, ‘nhưng ông ta đã trở thành vị vua Hungary đầu tiên cải đạo và biến Hungary thành một nước Thiên Chúa giáo. Anh sẽ thấy tên ông ta khắp nơi ở Budapest.’

“Ngay khi cha nghĩ mình đã no đến không thể ăn thêm một miếng nào nữa, thì hai người phục vụ xuất hiện cùng với những đĩa bánh nướng và bánh kem, tất cả phủ đầy sô cô la và kem, kèm theo cà phê - ‘cà phê Eszpresszó,’ theo lời giải thích của bác Éva, những món ăn tráng miệng hẳn sẽ rất phù hợp với một đại điện vương giả kiểu Áo Hung. Và cha cũng không biết bằng cách nào, chúng ta vẫn còn bụng để tiêu thụ hết đống bánh tráng miệng đó. ‘Cà phê có một lịch sử bi thảm ở Budapest,’ Helen tiếp tục dịch lại lời của bác Éva. ‘Một thời gian rất lâu trước đây - đúng hơn là năm 1541 - Sleyman I, kẻ xâm lăng đến từ đế quốc Ottoman, đã mời Bálint Tưrưk, một trong các vị tướng của Hungary chúng tôi đến doanh trại của ông ta để dự tiệc, và cuối bữa ăn, trong lúc vị tướng nhâm nhi ly cà phê - anh biết đấy, vị tướng này là người Hungary đầu tiên thưởng thức hương vị cà phê - Sleyman báo cho ông ta biết rằng đội quân tinh nhuệ nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm lâu đài Buda trong lúc họ đang ăn uống. Anh có thể hình dung ly cà phê đó đắng như thế nào.’

“Lần này, nụ cười của bà trông có vẻ u sầu chứ chẳng tươi sáng chút nào. Lại là người Ottoman, cha nghĩ - họ thật thông minh biết bao, và tàn nhẫn nữa, một sự pha trộn lạ thường giữa mưu kế tinh tế và những thủ đoạn mọi rợ. Đến năm 1541, họ đã chiếm giữ Istanbul gần một thế kỷ; nhớ đến điều này khiến cha cảm nhận được sức mạnh bất diệt của họ, cái thành lũy vững chắc mà từ đó họ vươn vòi bạch tuộc ra khắp châu Âu, chỉ chịu dừng bước trước những cổng thành Vienna. Cuộc chiến của Vlad Dracula chống lại họ, giống như cuộc chiến của những đồng bào Thiên Chúa giáo, là cuộc chiến của chàng David nhỏ bé chống lại gã khổng lồ Goliath, mà mức độ thành công còn kém xa so với những gì David đạt được. Mặt khác, những nỗ lực của thiểu số quý tộc khắp Đông Âu và vùng Balkan, không chỉ trong Wallachia mà còn ở Hungary, Hy Lạp và Bungari - cha chỉ nêu tên một vài nước làm thí dụ, rốt cuộc chỉ mở đường cho sự chiếm đóng của đế quốc Ottoman. Helen đã thành công trong việc chuyển tải tất cả các thông tin trên vào đầu óc cha và để lại trong cha một sự thán phục vô cùng đối với Dracula. Hẳn hắn phải biết cuộc chiến đấu của mình chống lại các lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ yểu mệnh, tuy vậy hắn đã chiến đấu hầu như suốt cả đời để giải phóng lãnh thổ khỏi tay những kẻ xâm lược.

“ ‘Thực ra đó là lần thứ hai quân Thổ chiếm đóng khu vực này.’ Helen nhấp một ngụm cà phê rồi đặt cốc xuống cùng với một tiếng thở khoan khoái, tựa như đối với cô, cà phê ở đây có mùi vị ngon hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. ‘Năm 1456, János Hunyadi đã đánh bại quân Thổ ở Belgrade. Ông, cùng với vua István và vua Matthias Corvinus - người đã xây dựng lại lâu đài Buda và xây mới thư viện Bibliotheca Corviniana vĩ đại, nằm trong số những anh hùng dân tộc của chúng tôi. Trưa mai, khi nghe tiếng chuông nhà thờ ngân vang khắp thành phố, anh có thể hiểu đó là để tưởng nhớ những chiến công xa xưa từ nhiều thế kỷ trước của Hunyadi. Hiện nay, hàng ngày người ta vẫn kéo chuông tưởng nhớ ông.’

“ ‘Hunyadi,’ cha trầm ngâm nói. ‘Hình như tối hôm trước cô có nhắc đến ông ta. Mà cô vừa nói chiến thắng của ông ta là vào năm 1456 đúng không?’

“Cô và cha lại nhìn nhau, bất kỳ thời điểm nào nằm trong khoảng thời gian Dracula còn sống đều trở thành một loại tín hiệu giữa hai chúng ta. ‘Lúc đó, hắn đang ở Wallachia,’ Helen nói, giọng nhỏ lại. Cha biết cô không có ý ám chỉ Hunyadi, bởi chúng ta đã có một thỏa thuận ngầm là không nhắc đến tên Dracula trước mặt người khác.

“Bác Éva quá sắc sảo nên đã nhận ra sự im lặng của chúng ta, và không để cho rào cản ngôn ngữ gây trở ngại. ‘Hunyadi à?’ bà hỏi, rồi nói thêm một điều gì đó bằng tiếng Hungary.

“ ‘Bác tôi muốn biết liệu anh có mối quan tâm đặc biệt nào đối với giai đoạn Hunyadi còn sống không,’ Helen giải thích.

“Vì không biết phải nói gì, cha trả lời là tất cả mọi vấn đề thuộc lịch sử châu Âu đều khiến cha cảm thấy thú vị. Câu bình luận ba phải này đã mang lại cho cha một vẻ mặt khó đoán ý, gần như cau mày của bác Éva, cha vội vàng tìm cách xoa dịu bà. ‘Xin cô vui lòng hỏi bà Orbán xem liệu tôi có thể nêu một vài câu hỏi với bà ấy?’

“ ‘Dĩ nhiên.’ Nụ cười của Helen có vẻ như đã nắm bắt được cả lời yêu cầu lẫn động cơ của nó. Khi cô dịch lại, bà Orbán quay sang nhìn cha, vẻ khá cảnh giác.

“ ‘Tôi chỉ đang băn khoăn,’ cha nói, ‘liệu những gì tôi nghe được ở phương Tây về chủ nghĩa tự do hiện thời ở Hungary có thực hay không?’

“Lần này, thì đến gương mặt Helen cũng lộ vẻ cảnh giác, và cha nghĩ mình có thể sẽ lãnh của cô một cú đá quen thuộc ở dưới gầm bàn, nhưng bác Éva đã gật đầu ra hiệu cho cô dịch lại câu hỏi của cha. Khi đã hiểu, bà ta nở nụ cười độ lượng và nhẹ nhàng trả lời. ‘Ở Hungary này, chúng tôi luôn quý trọng lối sống, sự độc lập của mình. Đó là lý do vì sao chúng tôi đã rất khó khăn trong những giai đoạn cai trị của người Thổ và người Áo. Chính quyền đích thực của Hungary sẽ luôn phục vụ những nhu cầu của nhân dân mình, càng lúc càng tốt hơn. Khi cuộc cách mạng của chúng tôi đưa những người lao động thoát khỏi sự áp bức và nghèo khổ, chúng tôi đã khẳng định sẽ thực hiện mọi việc theo cách của riêng chúng tôi.’ Bà nở một nụ cười đằm thắm và cha ước gì có thể hiểu nhiều hơn nụ cười đó. ‘Đảng Cộng sản Hungary luôn hòa hợp với thời đại.’

“ ‘Như vậy liệu bà có cảm thấy Hungary đang phát triển thịnh vượng dưới chính quyền của Imre Nagy?’ Từ khi đến thành phố này, cha vẫn luôn tự hỏi chính quyền của vị tân thủ tướng theo khuynh hướng tự do này đã mang lại những thay đổi gì cho Hungary, từ khi ông thay thế Rákosi - vị thủ tướng theo chủ trương cộng sản cực đoan - vào năm ngoái, và liệu ông ta có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân như chúng ta đã đọc trên báo chí tại Mỹ. Cha nghĩ Helen đã dịch lại với chút ít lo lắng, nhưng trên môi bác Éva vẫn là nụ cười không thay đổi.

“ ‘Tôi thấy anh khá am hiểu tình hình thời sự đấy, anh bạn trẻ ạ.’

“ ‘Tôi luôn quan tâm đến vấn đề quan hệ quốc tế. Tôi tin rằng việc nghiên cứu lịch sử nên được coi là để chuẩn bị cho việc hiểu hiện tại, chứ không phải là để thoát ly hiện tại.’

“ ‘Rất thông minh. Chà, để đáp ứng sự hiếu kỳ của anh thì thủ tướng Nagy đang có được sự ủng hộ rất lớn của người dân và đang thực hiện những cải cách phù hợp với lịch sử vinh quang của chúng tôi.’

“Phải mất cả phút cha mới nhận thấy thực ra bác Éva đã cẩn thận để chẳng đưa ra thông tin gì cả, và một phút nữa mới nghĩ ra đó chính là sách lược ứng xử đã giúp bà giữ vững vị thế trong chính quyền suốt thời kỳ biến động chuyển từ chính sách của giới lãnh đạo thân Liên Xô sang những cải cách của những người chủ trương tinh thần dân tộc Hungary. Dù quan điểm cá nhân của bà đối với Nagy có thế nào thì hiện ông ta vẫn điều hành chính quyền mà bà đang tham gia hoạt động. Có lẽ chính sự cởi mở mà ông ta đã tạo ra ở Budapest cho phép bà - một quan chức cấp cao trong chính phủ - có thể mời một người Mỹ đi ăn tối. Ánh lấp lánh trong đôi mắt đen xinh đẹp của bà có thể đã đồng tình với những suy nghĩ trên, dù vậy cha vẫn không dám chắc, và như thực tế sau này đã chứng minh, hóa ra suy đoán của cha là chính xác.

“ ‘Và bây giờ, anh bạn, chúng tôi phải để anh ngủ chút ít trước khi đăng đàn diễn thuyết. Tôi rất mong được nghe và sau đó sẽ cho anh biết tôi nghĩ gì về bài thuyết trình đó,’ Helen tiếp tục việc thông dịch. Bác Éva gật đầu với cha, vẻ thân thiện, nên cha cũng không thể không đáp lại bằng nụ cười. Người phục vụ xuất hiện bên cạnh bà tựa như đã nghe được lời bà nói; cha khẽ đề nghị được thanh toán hóa đơn, dù chưa rõ phép xã giao thích hợp ở đây phải thế nào, thậm chí còn không biết liệu số tiền đổi ở phi trường có đủ để trả cho bữa ăn thịnh soạn này không. Tuy nhiên, nếu thực sự có một tờ hóa đơn thì nó đã được âm thầm thanh toán và biến mất trước khi cha kịp nhìn thấy. Trong phòng giữ mũ áo, cha đã giành với tay quản lý nhà hàng để lấy áo khoác cho bà, và chúng ta lại ngồi vào băng ghế sau chiếc xe chờ sẵn.

“Đến dưới chân cây cầu tráng lệ, Éva thì thầm một vài tiếng khiến người lái xe dừng lại. Chúng ta bước ra ngoài, đứng nhìn sang ánh sáng rực rỡ của khu Pest bên kia sông rồi nhìn xuống dòng sông đen thẫm lăn tăn gợn sóng. So với bầu không khí mát lành của Istanbul, gió ở đây hơi lạnh, rát buốt trên mặt cha, và cha có cảm giác như những thảo nguyên mênh mông vùng Trung Âu đang ở ngay phía chân trời. Quang cảnh phía trước chúng ta gần như là cảnh tượng mà cha muốn được nhìn thấy suốt đời; cha gần như không thể tin là mình thực sự đang đứng đó, nhìn vào ánh đèn của thành phố Budapest.

“Bác Éva lại thầm thì điều gì đó, Helen từ tốn dịch lại. ‘Thành phố chúng tôi sẽ mãi mãi là một thành phố tuyệt vời.’ Cha ghi nhớ câu nói đó. Gần hai năm sau, cha lại nhớ đến nó khi biết được lòng trung thành của Éva Orbán đối với chính phủ tân cải cách sâu sắc đến mức nào: hai người con trai đã trưởng thành của bà chết dưới xe tăng Liên Xô trên một quảng trường trong cuộc nổi dậy năm 1956 của sinh viên Hungary, bản thân bác Éva cũng phải chạy trốn lên miền Bắc Nam Tư, nơi bác đã biến mất trong những làng quê cùng với mười lăm ngàn người Hungary tị nạn khỏi chính quyền bù nhìn của người Nga. Helen đã viết thư cho bà nhiều lần, khẩn khoản năn nỉ bà cho phép chúng ta đưa bà đến Mỹ, nhưng Éva thậm chí đã từ chối không làm thủ tục di cư. Vài năm sau, cha cố gắng tìm tung tích của bà thêm một lần nữa, nhưng không thành công. Khi cha mất Helen, cha cũng mất liên lạc với bác Éva.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom